Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: chuongxedap trong 06 Tháng Mười Một, 2016, 06:56:11 am



Tiêu đề: Trường Sơn miền ký ức - Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Mười Một, 2016, 06:56:11 am
Tên sách: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Nhà xuất bản: Quân đội Nhân dân
Năm xuất bản: 2009
Số hoá: ptlinh, chuongxedap






Tổ chức bản thảo:
BAN LIÊN LẠC CỰU CHIẾN BINH BỘ ĐỘI TRƯỜNG SƠN

- Thiếu tướng VÕ SỞ
- Đại tá BÙI THẾ TÂM
- Thiếu tướng HOÀNG ANH TUẤN
- Đại tá NGUYỄN DUY TƯỜNG



LỜI NHÀ XUẤT BẢN

Tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một kỳ tích của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại trong thế kỷ XX.

Từ những Con đường mòn men theo dải Trường Sơn hừng vĩ; từ những đội quân
"đi không dấu, nấu không khói", trong 16 năm (1959-1975) tuyến Trường Sơn đã phát triển đồng bộ, vượt bậc với hệ thống đường giao liên, đường cơ giới, đường sông, đường ống xăng dầu, hệ thống thông tin tải ba, hệ thống đảm bảo kỹ thuật, kho tàng, bệnh viện quân y... Lịch sử tuyến chi viện Trường Sơn phản ánh những bước tiến lên theo quy luật chung của chiến tranh giải phóng dân tộc - quy luật phát triển từ thấp đến cao, từ yếu đến mạnh, từ thô sơ đến hiện đại; đáp ứng yêu cầu tác chiến lớn hiệp đồng quân binh chủng của Quân đội ta.

Trong 16 năm ấy, với mưu đồ cô lập cách mạng miền Nam nhằm chia cắt, xâm lược lâu dài đất nước ta, đường Trường Sơn luôn là trọng điểm đánh phá với mức độ hủy diệt, là chiến trường thực nghiệm các loại hình chiến tranh của đế quốc Mỹ như "chiến tranh ngăn chặn", "chiến tranh điện tử", "chiến tranh hóa học”, v.v.

Vượt lên mưa bom, bão đạn của quân thù; vượt lên muôn vàn gian khổ hy sinh, với ý chí sắt đá
"Không có gì quý hơn độc lập - tự do" - quán triệt sâu sắc đường lối cách mạng của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; bằng nhiều chủ trương, biện pháp sáng tạo, Bộ Tư lệnh 559 - Bộ đội Trường Sơn đã tổ chức và thực hiện thắng lợi sự chi viện của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn, đối với chiến trường miền Nam và chiến trường nước bạn. Cũng với những hy sinh cao cả của bộ đội Trường Sơn là những cống hiến lớn lao của biết bao thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến gái trai, văn nghệ sĩ và nhân dân nơi tuyến đường đi qua cùng nhân dân Lào, Cam-pu-chia... Họ đã cống hiến tâm sức, máu xương và tuổi xuân của mình để viết nên "huyền thoại một con đường"!

Gần nửa thế kỷ đã qua đi, đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh đã trở thành đề tài lớn cho nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật... giàu ý nghĩa nhân văn. Bản anh hùng ca Trường Sơn còn mãi mãi ngân vang trong tâm tưởng của biết bao thế hệ.

Thiết thực hướng tới kỷ niệm 50 năm Bộ đội Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân đã cùng Ban liên lạc Bộ đội Trường Sơn tổ chức và giới thiệu đến bạn đọc hai tập hồi ký:
“Trường Sơn - miền ký ức”. Đây là công trình tập hợp những trang viết của các cán bộ, chiến sĩ, văn nghệ sĩ... đã từng sống, chiến đấu ở Trường Sơn những năm đánh Mỹ. Bởi vậy, những trang sách của họ như còn thấm đẫm hơi thở và nhịp sống của chiến trường.

Mặc dù đã rất cố gắng, song do thời gian qua đi, có điều nhớ, điều quên nên có những chi tiết, những tên đất, tên người có thể chưa thật chính xác... Ban biên soạn rất mong được bạn đọc lượng thứ và bổ khuyết.

Hai tập sách
“Trường Sơn - miền ký ức" cũng là số ít trong bộ sách viết về Trường Sơn được chúng tôi xuất bản, phát hành dịp này để mong góp phần mãi mãi tri ân và tôn vinh hàng vạn người con đất Việt đã nằm lại nơi những cánh rừng Trường Sơn đại ngàn cùng những thế hệ cha anh đã cống hiến trí tuệ, máu xương cho con đường Trường Sơn - con đường thống nhất Bắc - Nam!

Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc!


NHÀ XUẤT BẢN
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Mười Một, 2016, 07:42:01 am

MỞ ĐƯỜNG TRƯỜNG SƠN - ĐƯỜNG MANG TÊN BÁC1
Thiếu tướng VÕ BẨM
Nguyên Đoàn trưởng - Tư lệnh Đoàn 559
Bộ đội Trường Sơn

Hai năm, rồi ba năm qua đi kể từ ngày Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết. Tổng tuyển cử thống nhất đất nước không những không được thực thi mà tình hình ngày càng tồi tệ. Tập đoàn cầm quyền nước Mỹ ngang nhiên chà đạp lên công ước quốc tế, xé bỏ Hiệp định Giơ-ne-vơ, mà họ là một thành viên của hội nghị đó. Mỹ dựng lên ở miền Nam chính quyền Ngô Đình Diệm - tay sai thân Mỹ, từng bước hất cẳng Pháp, nuôi mưu đồ độc chiếm miền Nam Việt Nam và nhiều cuồng vọng khác.

Dưới ách thống trị của Mỹ - Diệm, miền Nam nước ta trở thành một trại giam khổng lồ, thành địa ngục của trần gian. Với "Luật 10-59", Mỹ - Diệm đã lê máy chém đi khắp miền Nam. Biết bao chiến sĩ Cộng sản, bao đồng bào yêu nước đã ngã xuống bởi bàn tay tàn bạo của kẻ thù.

Cũng như những người con miền Nam tập kết ra Bắc, dù được sống trong thanh bình và sự cưu mang đùm bọc của đồng bào, đồng chí miền Bắc, nhưng cũng đã mấy năm, chúng tôi luôn sống trong cảnh "ngày Bắc đêm Nam", luôn hướng về quê hương, chờ ngày trở về. Là Cục phó Cục Nông trường, những lần đi cơ sở tôi đã bị anh chị em miền Nam tập kết cật vấn rất gay gắt: Tại sao kẻ thù chà đạp lên tất cả mà ta ngồi yên, chịu bó tay? Tại sao không cho chúng tôi trở về chiến đấu cứu cha mẹ, vợ con?...

Thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng của anh em như chính lòng mình, nhưng phỏng tôi có thể làm được gì hơn, ngoài những lời động viên anh em yên tâm công tác, sẽ có ngày chúng ta đạt được ý nguyện đó. Bác Hồ đã từng nói: miền Nam là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam...

Thực tiễn thấm đẫm máu và nước mắt của cách mạng miền Nam những năm 1954-1959 đòi hỏi Đảng ta phải tìm ra con đường để đưa cách mạng miền Nam qua vòng nguy biến và phát triển đi lên.

Đầu tháng 1 năm 1959, Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì đã xác định con đường cách mạng miền Nam là dùng bạo lực cách mạng, từ đấu tranh chính trị tiến lên kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang đánh đổ ách thống trị của đế quốc, phong kiến - trước mắt là đánh đổ tập đoàn Ngô Đình Diệm tay sai của đế quốc Mỹ, thiết lập chính quyền cách mạng. Nghị quyết 15 cũng xác định nhiệm vụ của miền Bắc trong mối quan hệ với cách mạng miền Nam.

Thực hiện Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng, cùng với việc đẩy mạnh công cuộc xây dựng quân đội chính quy trên miền Bắc, Bộ Chính trị, Tổng Quân ủy - Bộ Tổng Tư lệnh tích cực chuẩn bị lực lượng, vật chất để chi viện cho chiến trường và tôi là một trong những người đầu tiên vinh dự được giao nhiệm vụ tổ chức tuyến giao liên vận tải quân sự chi viện cho miền Nam.
_______________________________________
1. Trích Hồi ký: Những nẻo đường kháng chiến, (Duy Tường thể hiện), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2001.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Mười Một, 2016, 07:42:39 am

Ngày 5 tháng 5 năm 1959, theo điện triệu tập, buổi sáng, tôi vào cơ quan trực tiếp gặp anh Nguyễn Văn Vịnh - Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Trưởng ban thống nhất Trung ương. Anh Vịnh đưa tôi vào phòng làm việc, tự tay pha nước mời. Từng cử chỉ, ánh mắt của anh muốn nói một điều gì đó rất hệ trọng. Rồi như để tránh một sự đường đột không cần thiết, anh nhỏ nhẹ hỏi tôi về tình hình bên Cục Nông trường, về tinh thần, tư tưởng của số cán bộ, chiến sĩ miền Nam tập kết, có đề đạt nguyện vọng về Nam chiến đấu như thời gian vừa rồi nữa không?

Tôi trả lời để anh nắm được tình hình. Anh phấn khởi nói:

- Tôi có nhiệm vụ truyền đạt lại với anh chỉ thị của Bộ Chính trị trực tiếp giao cho anh mở một con đường đặc biệt trên dãy Trường Sơn và tổ chức lực lượng vận chuyển vật chất, súng đạn chi viện cho miền Nam tiến hành chiến tranh giải phóng theo tinh thần của Nghị quyết 15. Lực lượng này được gọi là Đoàn công tác quân sự đặc biệt.

Dường như sợ tôi không ý thức hết tầm quan trọng của nhiệm vụ, anh Vịnh nhắc đi nhắc lại:

- Đây không phải là lệnh của Bộ Quốc phòng mà là quyết định của Bộ Chính trị. Là một công việc lớn, rất khó và tuyệt mật. Bởi vậy, anh làm việc gì và quan hệ với ai đều phải lập danh sách để báo cáo xin ý kiến của Bộ Chính trị.

Tôi hiểu điều anh Vịnh lưu ý, vì lúc này Tổng Quân ủy - Bộ Quốc phòng cũng chưa trực tiếp chỉ đạo công tác quân sự ở miền Nam. Các cơ quan của Đảng và Chính phủ hiện thời cũng chưa có cơ quan nào triển khai nhiệm vụ chi viện chiến trường. Với tôi, nhiệm vụ được giao là vô cùng hệ trọng. Điều tôi lo lắng trước tiên là vấn đề bảo mật. Tôi trình bày với anh Vịnh:

- Báo cáo anh, việc hệ trọng như vậy, lực lượng tập trung hàng trăm, hàng nghìn người và chắc chắn sẽ đông hơn nữa, liệu có bảo đảm thuyệt đối bí mật được không?

Anh Vịnh nói:

- Đây là vấn đề hệ trọng bậc nhất trong công việc trên giao cho các anh lúc này. Anh em ta phải cùng nhau thực hiện cho bằng được. Anh Vịnh cũng dự kiến về lực lượng ban đầu của chúng tôi, kể cả Ban chỉ huy đoàn và lực lượng mở đường, vận chuyển... Rồi anh hỏi:

- Số lượng dự kiến là vậy, nhưng cụ thể, theo anh nên lấy ở đâu?

Tôi nhẩm tính một lúc rồi trả lời: để đảm bảo bí mật, cán bộ, chiến sĩ nên lấy ở những đơn vị bộ đội miền Nam tập kết và những người từng hoạt động ở miền Nam thời kháng chiến chín năm. Tiền nong, lúc đầu nên lấy từ quỹ bí mật của Tổng Quân ủy. Vũ khí, quân dụng, chắc chắn phải là loại chiến lợi phẩm...

- Bộ Chính trị cũng đã dự kiến như vậy, nhất là người và vũ khí. Vậy là trên dưới cùng thống nhất. Sau đây chúng tôi sẽ thống nhất với Tổng Quân ủy - Bộ Quốc phòng nữa để triển khai - Anh Vịnh nói.

Anh Vịnh còn nhắc: Bộ Chính trị chỉ cho phép các anh chuyển hàng và đưa người đến bờ bắc sông Bến Hải. Còn từ bờ nam trở vào chỉ tập trung xoi đường; những việc còn lại sẽ do các đơn vị, địa phương trong đó đảm trách. Vì thế, công việc hợp đồng với các đơn vị bên kia giới tuyến quân sự hết sức quan trọng. Riêng vấn đề này, anh nên gặp gỡ bàn bạc kỹ với anh Trần Lương.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Mười Một, 2016, 07:43:39 am

Hơn hai giờ đã trôi qua, mọi việc tuy mới chỉ là những nét chấm phá, nhưng về cơ bản cũng đã định hình về nhiệm vụ, phương thức hoạt động... Chia tay anh Vịnh, tôi nói:

- Báo cáo anh, chúng tôi sẽ gắng sức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ được giao. Nhưng vì nhiệm vụ, nếu như có việc gì đó phải vượt quá giới hạn cho phép, tôi xin chịu kỷ luật. Chỉ xin các anh ghi nhận là bị kỷ luật do phải thực hiện nhiệm vụ, chi viện chiến trường.

Anh Vịnh vỗ vai tôi, cười và nói:

- Nếu như anh nói, thì chúng tôi cũng sẽ bị kỷ luật cả. Thôi, giao cho anh "một mình một ngựa" làm sao cho nên sự nghiệp thì làm. Nhưng cũng đừng quên, sau các anh là cả hậu phương miền Bắc.

Mặt trời gần đứng bóng. Tôi rời cơ quan Bộ với bao suy nghĩ. Tự hỏi, rồi tự trả lời: phải chăng những năm tháng lặn lội trên chiến trường Khu 5, Tây Nguyên, những lần vào Nam, ra Bắc lo cơm áo, gạo tiền cho bộ đội... là những điều để cấp trên tin tưởng giao cho mình nhiệm vụ đặc biệt này? Vậy, lẽ nào tôi lại phụ niềm tin đó. Vả lại, đây cũng là dịp để tôi có thể làm được một chút gì đó cho miền Nam và Quãng Ngãi quê tôi.

Ngay chiều hôm đó, tôi đến gặp anh Trần Lương. Lúc này anh Lương đang là Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, nhưng qua anh Vịnh, tôi được biết anh Lương đã có quyết định trở về làm Bí thư Khu ủy Khu 5, với bí danh là Trần Nam Trung. Thân tình như người nhà, mạch chuyện giữa tôi và anh Lương cứ trôi thật thoải mái, không cần rào đón.

Tôi báo cáo với anh nhiệm vụ Bộ Chính trị giao và những điều anh Nguyễn Văn Vịnh gợi ý. Nghe xong, anh Lương hỏi:

- Vậy ý cậu thế nào?

- Báo cáo anh - Tôi mạnh bạo nói, anh cũng đã từng cầm quân đánh giặc. Với tôi bây giờ tổ chức chi viện cho nửa nước mà chỉ có ngót gần 500 quân với hai bàn tay trắng, lại hoạt động trong điều kiện rừng núi như vậy, thật không đơn giản, lại còn phải bí mật với cả đằng mình nữa.

Đợi tôi nói xong, anh Lương cười hiền lành, rồi nói:

- Thôi, trên đã giao cả cho cậu, làm sao cho miền Nam có quân, có súng thì làm. Nếu dễ thì chẳng phải bàn bạc làm gì. Riêng việc liên hệ, hiệp đồng với Liên khu 5, mình sẽ có kế hoạch báo trước với các anh ở trỏng (trong đó).

Vậy là ngay ngày đầu tiên vào cuộc, chúng tôi đã được những cán bộ thay mặt Trung ương Đảng, Tổng Quân ủy - Bộ Quốc phòng quan tâm, ủng hộ hết lòng. Cũng vì vậy, dù chỉ một mình nhận trọng trách trên giao, nhưng tôi không cảm thấy đơn độc.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Mười Một, 2016, 07:44:28 am

Về lại cơ quan, tôi báo cáo công việc với anh Lê Nam Thắng - Cục trưởng và anh Kim Ngọc - Chính ủy. Một cuộc liên hoan chia tay đơn giản, nhẹ nhàng. Anh em trong cơ quan Cục Nông trường cũng chỉ biết loáng thoáng là tôi chuyển sang công tác ở cơ quan Bộ Quốc phòng.

Mấy hôm sau, Ban chỉ huy đoàn có thêm anh Nguyễn Thạnh, anh Nguyễn Chương và một số cán bộ trợ lý.

Tôi quen biết anh Nguyễn Thạnh từ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Anh Thạnh quê ở Đức Phổ - Quảng Ngãi, là đội viên Đội du kích Ba Tơ. Cách mạng tháng Tám thành công, anh là một trong những đảng viên có mặt đầu tiên xây dựng Chi bộ 4 vệ quốc đoàn Phú Yên, sau là Trung đoàn 79, mà tôi là Chính ủy trung đoàn. Sau khi tập kết ra Bắc, anh từng là Chính ủy Công trường 50, Hiệu trưởng Trường Kiến Trúc thuộc Cục Doanh trại. Anh Nguyễn Chương quê Đà Nẵng, vốn là công nhân, tham gia khởi nghĩa cướp chính quyền ở Đà Nẵng, sau đó gia nhập Vệ quốc đoàn. Về đội ngũ cán bộ cơ quan có các anh Lê Trọng Tâm - Thư ký đoàn trưởng, Huỳnh Chuân - Trợ lý quân nhu, Phạm Tề - Trợ lý tổ chức, Huỳnh Thường - Trợ lý tài vụ, Phạm Ngọc Anh - Trợ lý quân giới, Nguyễn Biên - Trợ lý bảo vệ, Phạm Công Chuyên - Trợ lý doanh trại... Các đồng chí được điều về đoàn đều đã từng chiến đấu, trên chiến trường Khu 5, Trị - Thiên trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

Trụ sở làm việc của đoàn khi mới thành lập là các nhà 63, 83 phố Lý Nam Đế - Hà Nội. Những căn nhà này náu mình trong khu dân cư, nhưng gần cơ quan Bộ Quốc phòng, tiện cho quan hệ công tác, cũng như bình thường hóa việc đi lại của cán bộ trong đoàn. Những ngày đầu thành lập, mấy anh em quây quần như một gia đình nhỏ, công việc hối hả nhưng không vì thế mà ồn ào. Khi cần, căn hộ của gia đình tôi ở 25A Phan Đình Phùng cũng là nơi làm việc và chứa hàng.

Sau chừng nửa tháng chuẩn bị về tổ chức, ổn định về công việc, sinh hoạt, ngày 19 tháng 5 năm 1959, tôi, anh Thạnh, anh Chương có buổi làm việc với anh Nguyễn Văn Vịnh. Anh Vịnh chính thức phổ biến nhiệm vụ của đoàn chúng tôi là mở đường Trường Sơn, tổ chức chi viện cho chiến trường miền Nam. Trong năm 1959, tổ chức thiết lập tuyến hành lang, nối thông liên lạc, vận chuyển gấp một số hàng quân sự thiết yếu theo yêu cầu của chiến trường Khu 5: khoảng 7.000 súng bộ binh và bảo đảm cho 500 cán bộ trung - sơ cấp hành quân qua tuyến vào tăng cường cho chiến trường.

Biên chế ban đầu của đoàn có Ban chỉ huy đoàn, Đoàn vận tải bộ 301 và các bộ phận xây dựng kho, bao gói, sửa chữa vũ khí trang bị... cả cơ quan và đơn vị gồm 500 cán bộ, chiến sĩ. Cơ quan lãnh đạo của đoàn là Ban Cán sự Đảng. Theo sự chỉ định của trên, tôi là Đoàn trưởng kiêm Bí thư Ban Cán sự.

Một sự trùng lặp ngẫu nhiên nhưng đầy ý nghĩa: ngày đoàn chúng tôi chính thức nhận nhiệm vụ cũng là kỷ niệm ngày sinh lần thứ 69 của Bác Hồ. Với tất cả lòng kính yêu Bác và bằng sự nhạy cảm đặc biệt chúng tôi thống nhất đề nghị được lấy ngày 19 tháng 5 năm 1959 làm ngày truyền thống của đoàn và Đoàn công tác quân sự đặc biệt được lấy tên là Đoàn 559. Và rồi như một sự thống nhất biện chứng - con đường Trường Sơn được Đoàn 559 khai phá sau này cũng được chiến sĩ và đồng bào cả nước và bạn bè quốc tế gọi là Đường Hồ Chí Minh.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Mười Một, 2016, 07:45:11 am

Nhận nhiệm vụ ở chỗ anh Vịnh về, Ban Cán sự họp phiên đầu tiên quán triệt, bàn cách tổ chức thực hiện chỉ thị của Bộ Chính trị, Tổng Quân ủy - Bộ Quốc phòng. Nhiều nội dung tuy rằng khó khăn, nhưng cơ bản anh em thông suốt và nhất trí, không có gì bàn cãi thêm. Duy yêu cầu có tính nguyên tắc là chỉ đưa người, hàng đến bờ bắc sông Bến Hải, không để kẻ thù biết có sự chi viện từ miền Bắc vào miền Nam, là điều gây nhiều trăn trở trong anh em. Mọi người cho rằng: bí mật là yêu cầu bất di bất dịch. Nhưng sao lại nhất thiết phải dừng ở bờ bắc sông Bến Hải?

Dần dà, qua tìm hiểu, chúng tôi mới hiểu được Bộ Chính trị, Trung ương Đảng cũng đã cân nhắc kỹ mọi yếu tố thời thế lúc đó. Nguyên cớ sâu xa là các nước trên thế giới và ngay trong cộng đồng các nước xã hội chủ nghĩa anh em cũng nhìn nhận cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta với những quan điểm khác nhau.

Thế rồi, công việc cuốn chúng tôi đi. Một kế hoạch tổng thể về tuyển quân, tổ chức các lực lượng vận tải, mở đường; nguồn vũ khí, trang bị khai thác ở đâu... nhanh chóng được chúng tôi thống nhất trình Bộ Chính trị. Toàn bộ kế hoạch trên được phê duyệt ngay. Đồng thời, anh Nguyễn Văn Vịnh cũng thông báo là Bộ Chính trị đã chỉ thị Tổng Quân ủy - Bộ Quốc phòng phân công một số cán bộ chủ trì các cơ quan: quân lực, quân giới, tài vụ... trực tiếp giúp chúng tôi trong việc tuyển quân, chuẩn bị vũ khí, trang bị, tài chính.

Những ngày cuối tháng 5 năm 1959, tôi một mình đi xe Commăngca đến các công trường, nông trường có bộ đội miền Nam tập kết; tập đoàn sản xuất miền Nam, Sư đoàn 305, Sư đoàn 324... để tuyển người. Lực lượng mở đường và vận chuyển để thành lập Đoàn 301, chủ yếu lấy ở Sư đoàn 305 - bộ đội Liên khu 5 tập kết. Lúc bấy giờ, Sư đoàn 305 đóng quân ở Thậm Thình - Phong Châu - Phú Thọ, gần đền thờ các Vua Hùng. Địa danh Thậm Thình gợi trong tôi truyền thuyết về một đạo binh của Vua Hùng từng đóng quân ở đây, và cũng từ nơi đây đêm đêm vang lên tiếng giã gạo nuôi quân.

Tư lệnh Sư đoàn 305 là anh Năm Ngà (Nguyễn Minh Châu), Chính ủy là anh Nguyễn Đường. Sau khi tôi đặt vấn đề yêu cầu xin một số chiến sĩ mở đường Trường Sơn, làm nhiệm vụ chi viện chiến trường, anh Năm và anh Đường chân tình trao đổi: phần đông cán bộ, chiến sĩ của sư đoàn sau một thời gian chuyển ngành ra xây dựng khu công nghiệp Việt Trì, Nhà máy Supe phốt phát Lâm Thao, Nông trường Việt Lâm, Nông trường Đồn Vàng ở Phú Thọ... Vừa được động viên trở lại, nên tình hình tư tưởng của anh em diễn biến khá phức tạp. Dường như đọc được sự lo lắng của chúng tôi, anh Năm trấn an:

- Nói vậy thôi, bây giờ đặt vấn đề để anh em hiểu thấu đáo nhiệm vụ chi viện chiến trường, bảo đảm anh em sẽ giơ cả hai tay. Nhưng giá mà đi chiến đấu thì chắc ăn hơn!

Được sự giúp đỡ nhiệt tình của Bộ Tư lệnh sư đoàn, tới cuối tháng 5, chúng tôi đã tuyển được 440 cán bộ, chiến sĩ, biên chế hoàn chỉnh Đoàn 301 (tương đương tiểu đoàn). Cán bộ Đoàn 301 được Bộ Tổng Tư lệnh điều về từ nhiều đơn vị trong toàn quân. Trong điều kiện miền Bắc hòa bình, quân đội đang trong quá trình chính quy hóa, nhiều anh em quê miền Nam đã xây dựng gia đình ở miền Bắc, một số đã qua đào tạo ở các trường trong và ngoài quân đội, nhưng theo tiếng gọi của quê hương, của cách mạng, hết thảy đều gạt sang một bên mọi toan tính đời thường để lên đường chiến đấu. Ở đây, nghĩa tình quê hương, gia đình và tình cảm cách mạng đã hòa quyện để hình thành nên bản lĩnh, nhân cách của người lính Cụ Hồ.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Mười Một, 2016, 11:12:41 pm

Hầu hết cán bộ, chiến sĩ Đoàn 301 là con em các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi; trong số đó gần 60 cán bộ. Tuyệt đại đa số là đảng viên, số còn lại là đoàn viên.

Đoàn 301 được biên chế thành 11 đội, 9 đội có nhiệm vụ vừa mở đường, làm giao liên và vận chuyển, 1 đội trinh sát, bảo vệ và 1 đội xây dựng hậu cứ. Mỗi đội tổ chức một chi bộ Đảng. Cơ quan của đoàn có các bộ phận: tham mưu, chính trị, hậu cần. Đoàn trưởng là đại úy Chu Đăng Chữ; đại úy Nguyễn Danh (tức Minh Chính) là Chính ủy và đại úy Ngô Văn Diệm là Đoàn phó - Tham mưu trưởng. Anh Chu Đăng Chữ quê Nghệ An, là bộ đội Nam tiến, hoạt động ở Liên khu 5 suốt thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Anh lấy vợ người Quảng Ngãi. Trước khi về đoàn, anh Chữ là Chủ nhiệm công binh Sư đoàn 324. Anh Nguyễn Danh người Phổ Thuận - Đức Phổ - Quảng Ngãi, nguyên là cán bộ Trung đoàn 108 - Liên khu 5. Anh Ngô Văn Diệm quê Triệu Phong - Quảng Trị, nguyên là cán bộ Sư đoàn 325.

Ổn định xong biên chế bước đầu, toàn đoàn bước vào huấn luyện. Tôi đặc biệt lưu ý Ban chỉ huy Đoàn 301 cần tập trung quán triệt tình hình nhiệm vụ, khơi gợi lòng tự hào, tinh thần hy sinh của anh em. Đồng thời cũng nói rõ để mọi người xác định sắp tới họ không chỉ phải đối mặt với kẻ thù bằng xương bằng thịt, mà trước tiên là với sự khắc nghiệt của địa hình, khí hậu núi rừng Trường Sơn.

Cùng với học tập chính trị, bộ đội được rèn luyện thể lực, tập mang vác nặng, hành quân xa, vượt đồi, leo dốc trong đêm tối. Vào hè, trưa nắng như đổ lửa, chiều và tối đã sầm sập mưa rào. Mặc nắng hay mưa, ngày hay đêm, cả đoàn quân vẫn lầm lũi hành quân. Trên vai từng người mang không dưới 30 cân, leo đồi, vượt dốc từ bốn đến năm giờ... Gian lao vất vả của những ngày luyện rèn ngắn ngủi ở Phong Châu đã giúp người lính tăng thêm sức lực chịu đựng, làm quen dần với những gì đang đến với họ.

Sau khi ổn định việc học tập, huấn luyện của Đoàn 301, Ban Cán Sự 559 xúc tiến việc hiệp đồng với Khu 5 và Trị - Thiên chuẩn bị mở tuyến.

Được anh Trần Lương liên lạc hiệp đồng từ trước, đầu tháng 6 năm 1959, tôi trực tiếp vào Hồ Xá - Vĩnh Linh gặp gỡ đại diện Khu 5 và Trị - Thiên. Dọc đường từ Hà Nội vào Vĩnh Linh, tôi như đắm mình trong không khí dựng xây thanh bình. Các địa phương trên miền Bắc đã nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh, đang thay da đổi thịt từng ngày.

Đại diện Khu 5 ra họp là anh Nguyễn Quyết (ông Giáo Dụng) - Ủy viên Khu ủy, phụ trách công tác liên hệ với miền Bắc; Quảng Trị có anh Trương Chí Công - Bí thư Tỉnh ủy, anh Lê Hành - Tỉnh ủy viên; Vĩnh Linh có anh Hồ Sĩ Thản - Bí thư đặc khu. Kẻ Bắc, người Nam gặp nhau tại nơi nước nhà bị chia cắt, bùi ngùi xúc động như gặp lại người thân sau bao ngày xa cách.

Mở đầu cuộc họp, tôi phổ biến chủ trương của Bộ Chính trị, nhiệm vụ của Đoàn công tác quân sự đặc biệt, đồng thời đề nghị các đại biểu miền Nam cung cấp tình hình chiến trường, đặc biệt là địch tình ở địa bàn chúng tôi dự kiến thiết lập hành lang vận chuyển.

Các đại biểu chiến trường vô cùng xúc động trước quyết định mở tuyến chi viện từ Bắc vào Nam. Vì theo các anh, công việc đặc biệt hệ trọng này đáng ra phải làm từ lâu. Đồng bào chiến sĩ ta ở trong đó mong miền Bắc quá cả gặp hạn mong mưa.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Mười Một, 2016, 11:13:36 pm

Theo đại diện Trị - Thiên và Khu 5, thì thời gian gần đây Mỹ - Diệm đã tăng cường lực lượng, thiết lập một hệ thống phòng thủ được chúng gọi là "phòng tuyến chống xâm nhập" phía nam giới tuyến quân sự tạm thời, dọc theo đường số 9. Đặc biệt, chúng lùa dân vào các trại tập trung, tăng cường cho thám báo, biệt kích lùng sục đánh phá các cơ sở cách mạng. Vì thế, mặc dù anh Phan Du (ủy viên thường vụ đặc khu - phụ trách tuyến giao liên qua Vĩnh Linh), anh Lê Hành (Tỉnh ủy viên Quảng Trị, phụ trách đường dây qua miền Tây Trị - Thiên) đã hết sức cố gắng, tìm cách chắp nối, nhưng đường dây Thống nhất từ Tây Nguyên ra Bắc thường xuyên bị đứt.

Từ thực tế nêu trên, chúng tôi chủ trương thời gian đầu, tuyến giao liên vận tải quân sự cơ bản sẽ được mở dựa theo tuyến giao liên "Thống nhất", với nguyên tắc là mở đường mới nhưng vẫn giữ được cơ sở cách mạng những nơi tuyến đường đi qua. Hướng tuyến, vị trí đặt trạm và quy ước thông tin liên lạc cũng cơ bản được thống nhất.

Không khí cuộc họp có phần căng thẳng khi tôi phổ biến chủ trương của trên chỉ cho phép chúng tôi đưa người và chuyển hàng đến bờ bắc sông Bến Hải; Trị - Thiên và Khu 5 có nhiệm vụ tiếp nhận và chuyển tiếp vào các hướng chiến trường. Hầu hết đại biểu Khu 5 và Trị - Thiên không nhất trí.

Yêu cầu của các anh ở Khu 5 và Trị - Thiên là đoàn chúng tôi sẽ đưa người, đưa hàng vào sâu hơn, vì hiện thời địch đang đánh phá quyết liệt, các địa phương phía nam giới tuyến lại thiếu người để vận chuyển và thiếu cả lực lượng bảo vệ tuyến hành lang.

Thấu hiểu điều kiện của chiến trường và nguyện vọng của các anh trong đó, tôi xin lĩnh hội ý kiến để báo cáo lên Bộ Chính trị. Rồi chợt nhớ một tình tiết trong buổi làm việc đầu tiên với anh Nguyễn Văn Vịnh, tôi mạnh dạn nhận đưa người và hàng vượt đường số 9 vào phía nam chừng ba ngày đường. Nếu như trên kỷ luật, tôi vui lòng chấp nhận.

Phút chia tay bồi hồi, người vào Nam, kẻ ra Bắc; anh Quyết và anh Hành còn nói: Các đồng chí ngoài đó có tạo điều kiện hỗ trợ thì trong này chúng tôi mới trụ vững được qua kỳ khó khăn khốc liệt này... Ai cũng biết lúc này Mỹ - Diệm đang áp dụng luật phát xít 10-59, lê máy chém đi khắp miền Nam.

Ngày hôm sau trở ra tới Hà Nội, bật chiếc rađiô theo dõi tình hình, tôi giật mình khi nghe đài Sài Gòn đưa tin: có một đại biểu Hà Nội vừa vào Vĩnh Linh... Mặc dù vấn đề cơ bản là vào để làm gì thì chúng không nắm được. Nhưng, điều không thể phủ nhận là dù cho mọi việc chúng tôi tiến hành hết sức bí mật cũng đã bị địch đánh hơi được. Vấn đề bảo mật vì thế cần được lưu ý hơn.

Vì sự tồn tại và hoạt động lâu dài của tuyến chi viện chiến lược, tôi trình bày sự việc vừa rồi với anh Phạm Kiệt - lúc đó là Cục trưởng Cục Bảo vệ - An ninh quân đội. Anh Kiệt ân cần nói:

- Việc này đâu phải là chuyện của anh em, bạn bè thân quen, mà là cả một vấn đề hệ trọng.

Liền đó, anh kéo tôi cùng đến gặp anh Trần Quốc Hoàn - Bộ trưởng Bộ Công an. Những đề nghị của tôi được anh Hoàn và anh Kiệt chấp thuận và hứa sẽ có giải pháp đối phó với hoạt động tình báo, gián điệp của địch đối với hoạt động của chúng tôi.

Sau buổi gặp anh Hoàn và anh Kiệt, tôi tổng hợp tình hình làm việc ở Hồ Xá báo cáo anh Nguyễn Văn Vịnh. Không ngờ những điều mà tôi cho là "vượt rào" - hứa với các đồng chí Khu 5 và Trị - Thiên là đưa người và hàng vào phía nam theo đường số 9 ba ngày đường, đã được cấp trên chấp thuận. Vậy là đã hội đủ cơ bản những yếu tố để chúng tôi tiến hành khảo sát mở tuyến.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Mười Một, 2016, 11:14:22 pm

Tôi dẫn đầu một nhóm cán bộ, nhân viên vào miền Tây Vĩnh Linh, len lỏi giữa rừng Trường Sơn tìm đường về Nam. Tỉnh ủy Quảng Trị đã cử đồng chí Pả Cương - Thường vụ Huyện ủy Hướng Hóa và một số cán bộ địa phương thông thuộc đường đi lối lại trong khu vực, giúp chúng tôi xoi đường.

Qua tìm hiểu địa hình tây nam Quảng Bình, miền Tây Vĩnh Linh và Trị - Thiên, để bảo đảm được bí mật lại tránh được những nơi núi non quá hiểm trở, kết hợp nghiên cứu con đường do Lữ đoàn 270 của Quân khu 4 mở để cơ động lực lượng phòng thủ khu vực giới tuyến, chúng tôi quyết định chọn Khe Hó làm điểm xuất phát cho tuyến giao liên vận tải quân sự Trường Sơn.

Khe Hó là một lạch nước sâu, nhỏ, ở dưới chân dãy núi Động Nóc, gần thượng nguồn rào Thanh, tây nam Vĩnh Linh; cách Nông trường Bãi Hà non một cây số về phía tây nam; cách giới tuyến quân sự tạm thời không xa. Từ Khe Hó, theo bước chân của mấy đồng chí người Vân Kiều, chúng tôi phát triển theo hướng tây nam, qua làng Mít, vượt đỉnh một nghìn lẻ một (1001), đỉnh một nghìn sáu trăm (1600), vượt sông Bến Hải, qua đỉnh một nghìn bảy lẻ một (1701) còn gọi là động Voi Mẹp - động Hàm Nghi. Địa danh này là chứng tích của một thời đất nước đang cơn bĩ cực. Vào cuối thế kỷ XIX, trước sức tiến công xâm lược của thực dân Pháp, sau khi kinh thành Huế thất thủ, vua Hàm Nghi đã cùng một số quan quân thuộc hạ rút lên miền rừng núi phía tây Quảng Trị lập căn cứ Sơn Phòng, tập họp lực lượng để chống Pháp. Phải chăng tại hang động cao chất ngất giữa lưng chừng trời này, vua Hàm Nghi đã xuống chiếu "Cần Vương", kêu gọi các sĩ phu văn thân và muôn dân cứu nước?

Leo được lên tới động Hàm Nghi, chúng tôi còn bắt gặp nơi đây những cây chè, gốc cam của quan quân Nhà Nguyễn trồng thuở ấy. Sau này có những lúc trong những tháng ngày trụ bám trên tuyến, bị sốt rét, tôi cũng được anh em cho ăn những quả cam hiếm hoi, uống những bát nước chè xanh tươi mát của những bậc tiền nhân để lại.

Nhấm nháp những búp chè, quả cam đã gần như cây trái hoang dại, trong tôi trào lên cảm giác chua chát về những tháng ngày nước nhà tối tăm trong đêm trường nô lệ. Lẽ nào giờ đây, với một chính Đảng anh minh, Nhà nước công - nông, một quân đội bách chiến bách thắng, chúng ta lại phải chịu cảnh nước nhà bị chia cắt?...

Đã qua mấy năm sống ở hậu phương, nay luồn rừng, lội suối, chúng tôi mệt muốn đứt hơi. Mỗi lần leo dốc hai lỗ mũi tranh nhau thở; nhưng không ai bảo ai, người nọ bám chân người kia không rời. Nhất là Lê Trọng Tâm, người nhỏ nhắn, lời ăn tiếng nói thỏ thẻ như con gái, nhưng leo núi vào loại cừ khôi. Trở lại với rừng, ngay từ những bước xoi đường đầu tiên, ai nấy đều bị vắt đốt một trận nên thân. Gỡ vắt bám đầy chân, máu chảy ròng ròng, tôi nói đùa với anh em rằng: thế là chúng ta đã "lưu huyết” từ những bước đi đầu tiên trên đường Trường Sơn.

Từ động Hàm Nghi, chúng tôi chủ trương vạch một lối sang Chăng Hin, động Cà Lư, Cát Sứ, Rào Quán, vượt đường số 9, qua Đá Bàn, vào Tà Riệp, Pa Lin (tây nam Thừa Thiên).

Qua khảo sát, cũng như nghiên cứu tài liệu, bước đầu, tuyến giao liên quân sự sẽ phải đi qua nhiều dãy núi cao hiểm trở, nhiều sông suối và hệ thống đồn bốt của địch.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Mười Một, 2016, 11:15:04 pm

Về hệ thống ngăn chặn của địch, điều trớ trêu đến phi lý ở chỗ là đúng vào ngày các bên dự hòa đàm Giơ-ne-vơ ký Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (21-7-1954) thì Mỹ - một thành viên của Hội nghị đã tự cho mình cái quyền không ký vào văn bản Hiệp định. Hơn nữa, Uyn-sơn - Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đã ngạo mạn tuyên bố: "Sẵn sàng phòng thủ đường ranh giới quân sự ở Việt Nam (vĩ tuyến 17) cũng như giới tuyến quân sự ở Triều Tiên". Kế đó, ngày 6 tháng 8 năm 1954, Đa-lét - ngoại trưởng Mỹ đã khẳng định lại điều đó: "Tôi mong rằng một phòng tuyến phòng thủ chung sẽ được vạch ra. Phòng tuyến đó sẽ qua phía bắc thành phố Huế và sẽ bảo vệ Cam-pu-chia và cả Việt Nam ở vĩ tuyến 17".

Để thực hiện cuồng vọng đó, Mỹ - Diệm đã từng bước xây dựng ở phía nam giới tuyến quân sự tạm thời, dọc theo đường số 9 cái gọi là "phòng tuyến chống xâm nhập", gồm nhiều đồn bốt, đồng thời tăng cường các cuộc hành quân càn quét.

Về điều kiện tự nhiên, địa hình Trường Sơn nói chung và khu vực nam - bắc sông Bến Hải nói riêng đa phần hiểm trở; rừng nguyên sinh che phủ hoạt động vận chuyển trên mặt đất, giúp ta giành thế chủ động đối phó với kiểu chiến tranh ngăn chặn của địch. Nhưng địa hình nơi đây chia cắt mạnh, gây nhiều khó khăn cho hoạt động vận chuyển của ta.

Địa hình bắc - nam sông Bến Hải sông suối dày đặc. Đỉnh Trường Sơn như nóc nhà. Sông suối phát nguồn từ đỉnh núi hoặc đổ về phía đông, chảy ra biển: hoặc trườn qua triền tây, đổ vào sông Mê Công. Từ thượng nguồn, sông suối ở đây có độ chênh rất lớn, lắm thác ghềnh. Mùa khô, đa phần sông suối cạn kiệt, nhưng vào mùa mưa, chỉ cần vài trận mưa rào, bỗng chốc chúng trở lên hung hãn, có thể cuốn phăng mọi thứ. Dưới chân các dãy núi, thường là những thung lũng hẹp. Vào mùa mưa, gặp cơn mưa to rất dễ biến thành những "túi nước" khổng lồ, chia cắt núi đồi thành những khu biệt lập. Túi nước là hiểm họa, nỗi kinh hoàng của những ai qua đây. Cộng vào đó, là sự nghiệt ngã của khí hậu vùng rừng nhiệt đới gió mùa hoang sơ, là môi trường lý tưởng cho các loại ký sinh trùng gây bệnh, đặc biệt là bệnh sốt rét. Rồi muông thú, cọp beo rình rập... Mới đến đây, nghe trong dân lưu truyền nỗi sợ hãi về "cọp Thụy Ba”,... ai yếu bóng vía cũng phải rùng mình.

Đi theo Đảng từ những ngày Đảng ta mới ra đời, rồi trải qua những năm dài kháng chiến, chúng tôi hiểu chẳng có con đường cách mạng nào lại không bám chắc vào dân. Thế nhưng, cái khó của chúng tôi lúc này là không chỉ tránh giặc mà còn phải tạm thời "lánh dân". Vì nguyên tắc tuyệt mật, tuyến giao liên ban đầu phải tránh xa các bản làng. Đứng ở những lèn đá, bìa rừng, thấy thấp thoáng mái tranh của bà con Vân Kiều, Pô Cô, lòng tôi nôn nao khó tả. Mong chóng đến ngày, chúng tôi được nhân dân chỉ cho từng đường đi nước bước, những người lính chiến đấu trên con đường đó phải được sống trong sự cưu mang, chở che của những người dân nơi đây. Vì yêu cầu bảo đảm bí mật thuyệt đối, khi khảo sát xoi đường, chúng tôi không đi theo những lối mòn, mặc dù điều đó là rất thuận lợi; mà tìm lối đi mới ở bình độ cao hơn. Điều mà mỗi chúng tôi đúc kết thành một nguyên tắc cho mọi hành động lúc này là: "Đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng".

Sau mấy ngày luồn rừng, lội suối, vừa xoi đường vừa nghiên cứu địa hình, tôi phân công anh Ngô Văn Diệm tổ chức tìm tiếp phần đường còn lại. Tôi trở ra Hà Nội giải quyết tiếp công việc, trong khi anh Thạnh đang ở Thậm Thình cùng với Đoàn 301.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Mười Một, 2016, 11:15:47 pm

Một công việc không kém phần phức tạp là chuẩn bị vũ khí trang bị để đưa vào chiến trường. Thừa lệnh Bộ Quốc phòng, Tổng cục Hậu cần đã chỉ đạo cho Cục Quân giới chuyển chừng 20 tấn vũ khí chiến lợi phẩm ta thu được của quân Pháp thời kỳ kháng chiến chín năm về trạm kho của đoàn chúng tôi ở bốt Kim Lũ, Thanh Trì, Hà Nội. Địa điểm này gần sông Tô Lịch, phía sau khu công nghiệp "Cao Xà Lá" của Hà Nội. Anh Nguyễn Văn Nam - Cục trưởng Cục Quân giới rất tận tình giúp chúng tôi trong việc này.

Dưới sự điều hành của anh Nguyễn Ngọc Anh, số súng trường Mát, tiểu liên Tuyn được chọn để sửa chữa, hiệu chỉnh. Súng của Pháp hoặc Mỹ sản xuất chỉ cần sửa chữa hiệu chỉnh tốt là được. Riêng súng do Liên Xô, Trung Quốc, Hunggari... sản xuất còn phải tẩy xóa hết nhãn mác, ký hiệu; thuyệt đối không để lại một dấu hiệu gì chứng tỏ đây là vũ khí của phe xã hội chủ nghĩa. Súng sửa chữa, hiệu chỉnh xong được bó thành từng bó hai hoặc ba khẩu, vừa sức người mang hành quân đường dài. Đề phòng trong quá trình vận chuyển gặp mưa gió, thậm chí gặp địch phục kích phải giấu xuống nước mà không bị hỏng, chúng tôi dùng vải có nhúng pharaphin bọc kín súng sau khi đã được bôi mỡ khắp lượt; ngoài cùng quấn ba lớp vải chống ẩm; sau đó vùi xuống sông Tô Lịch mấy ngày đêm. Khi vớt lên, tháo bọc vải, súng vẫn khô nguyên. Cùng với súng đạn, một số quân dụng thiết yếu, như: ống nhòm, địa bàn, dao găm... chiến lợi phẩm cũng được chọn sửa, bao gói cẩn thận.

Công việc chuẩn bị tạm ổn, đầu tháng 6, tôi báo cáo cụ thể với anh Vịnh và xin chỉ thị của Bộ Chính trị. Liền đó, chúng tôi nhận được lệnh nhập tuyến. Anh Vịnh còn dặn chúng tôi: Bác Hồ cũng nắm được kế hoạch xuất quân của đoàn. Bác dặn các anh phải tuyệt đối giữ bí mật. Lúc này mà giữ được bí mật sẽ cầm chắc thắng lợi.

Ngay sau khi nhận lệnh nhập tuyến, ngày 9 tháng 6, Ban Cán sự 559 họp chớp nhoáng, hạ quyết tâm lãnh đạo đơn vị giành thắng lợi trận đầu. Cuộc họp kết thúc, tôi điện ngay cho Ban Chỉ huy Đoàn 301, phát lệnh "cấm trại", tổ chức cấp phát bổ sung quân trang, vũ khí trang bị, chuẩn bị nhận nhiệm vụ.

Trưa hôm sau (ngày 10 tháng 6) tôi cùng anh Nguyễn Thạnh lên Đoàn 301. Chiếc Commăngca ngược quốc lộ số 2, qua Phù Lỗ, vừa dừng bánh trước barie vào cổng doanh trại đã thấy anh Chữ, anh Danh đợi sẵn. Vào phòng làm việc, tôi đi ngay vào công việc:

- Toàn đoàn đã được lệnh xuất quân; ngày mai tôi muốn gặp toàn đơn vị truyền đạt lệnh của Bộ Chính trị và lời dặn dò của Bác Hồ.

Anh Danh vui vẻ nói:

- Từ lúc nhận điện, chúng tôi đã triển khai công tác chuẩn bị. Hiện nay bộ đội đã sẵn sàng.

Sáng hôm sau, tại hội trường của Đoàn 301, trong bầu không khí vừa nghiêm túc, thân tình và phấn chấn cao độ, tôi thân tình hỏi anh em:

- Chúng ta đã được lệnh lên đường. Còn ai vương vấn gì nữa không?

Cả hội trường ào lên: Đi thôi, đi thôi. Không vướng mắc gì cả.

Tôi cảm ơn anh em, rồi đọc lệnh hành quân của cấp trên và xúc động truyền đạt lại lời dặn dò của Bác Hồ: Các chú đi làm nhiệm vụ đặc biệt này phải đảm bảo tuyệt mật; luôn luôn nhớ là "sống để dạ, chết mang theo".


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Mười Một, 2016, 11:16:46 pm

Chạng vạng chiều hôm sau, bộ đội lục tục hành quân từ Nông trường Vân Lĩnh ra ga Tiên Kiên, sau khi đã để lại mọi giấy tờ, kỷ vật tùy thân.

Dường như muốn kéo dài thời gian quý giá lưu lại ở đất Tổ, nên chuyến tàu chiều hôm đó chậm ba giờ so với giờ tàu quy định. Cả đoàn quân gần 500 con người nóng lòng chờ đợi.

22 giờ, tàu rời ga Tiên Kiên, rúc lên những hồi còi vang xa như lời chào của những người lính trước giờ ra trận.

Tạm biệt trung du với những rừng cọ, đồi chè, tạm biệt bà con, cô bác, tàu về Hà Nội, xuôi Nam Định rồi dừng ở Hàm Rồng - Thanh Hóa. Từ đây, Đoàn 301 được đoàn xe Lam Sơn - ô tô vận tải của Tổng cục Hậu cần đưa vào tập kết tại doanh trại của Sư đoàn 325 ở tây nam thị xã Đồng Hới - Quảng Bình. Riêng Đội 12 xây dựng rẽ về huyện Lệ Thủy và ngược lên hướng Bang Rợn, chuẩn bị xây dựng khu hậu cứ của đoàn. Để bảo đảm bí mật, Đội 12 đóng vai là bộ đội biên phòng Quảng Bình.

Trong khi bộ đội nghỉ tạm tại doanh trại Sư đoàn 325, Ban Cán sự họp mở rộng tại nhà khách Tỉnh ủy Quảng Bình, bàn kế hoạch rải tuyến. Hội nghị tập trung nghe anh Ngô Văn Diệm trực tiếp báo cáo tình hình khảo sát xoi đường qua những điểm vượt xung yếu, như sông Ra Gã (thượng nguồn sông Cam Lộ), thượng nguồn sông Ba Trăng, là những điểm địch thường tổ chức lực lượng bảo an tuần tra từ Ba Trăng đến Miệt Xá (bắc Làng Vây). Khó khăn nhất là đội khảo sát phải tìm lối vượt đường 9, sông Đắc Rông (một nhánh của sông Thạch Hãn)... Anh Diệm cho hay, Tỉnh ủy Quảng Trị và Huyện ủy Hướng Hóa đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho đoàn khảo sát. Tỉnh ủy cũng đã cử các anh Hồ Ổi, Hồ Nuồn, Hồ Tèo là những thanh niên người Vân Kiều thông thạo rừng núi, sông suối, làm liên lạc, trinh sát những điểm xung yếu nhất.

Vào tuyến, chúng tôi quy định bộ đội phải cải dạng thành nhân dân, đúng hơn là "địa phương hóa" triệt để từ trang phục đến cách thức sinh hoạt. Nếu chẳng may bị địch bắt chỉ nhận là cán bộ nằm vùng để giữ bí mật tuyến giao liên.

Sau cuộc họp này, tôi trực tiếp gặp anh Hồ Sĩ Thản trình bày yêu cầu thay đổi trang phục cho bộ đội. Không phải đợi lâu, chỉ sau vài ngày, Đặc khu ủy và chính quyền Đặc khu Vĩnh Linh đã cung cấp cho chúng tôi hơn một nghìn bộ quần áo bà ba và hơn sáu trăm đôi dép cao su. Liền đó, anh Chữ, anh Danh cho anh em khẩn trương tìm kiếm mây rừng đan gùi như bà con Vân Kiều vẫn dùng để thay ba lô. Nhìn anh em trong bộ bà ba, đeo gùi mây, khó mà đọc được một nét nào của bộ đội miền Bắc.

Hoàn tất các khâu chuẩn bị, ngày 26 tháng 6 năm 1959, Đoàn 301 hành quân vào tập kết tại Khe Hó, lấy danh nghĩa là công nhân khai thác gỗ (thợ sơn tràng) và công nhân nông trường.

Với kết quả khảo sát, chia cung chặng từ trước, chúng tôi khẩn trương rải quân. Toàn tuyến từ Khe Hó vào Tà Rụt, bắc A Lưới (tây Thừa Thiên) được chia thành chín cung. Mỗi đội phụ trách một cung.

Để trực tiếp chỉ huy toàn tuyến, giải quyết kịp thời những vấn đề phát sinh, chúng tôi bố trí sở chỉ huy Tiền phương Đoàn 301 ở khu vực tiếp giáp Đội 5 và Đội 6. Tại đây có bố trí một máy thông tin vô tuyến điện và hai tổ trinh sát kiêm bảo vệ.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Mười Một, 2016, 11:17:49 pm

Chúng tôi cũng liên hệ và được chỉ huy Lữ đoàn 341 Quân khu 4 tích cực hỗ trợ, tăng cường cho ba đội trinh sát thông thuộc tình hình trong vùng, có kinh nghiệm nắm địch. Với tinh thần trách nhiệm cao, nhận khó khăn về mình, nhường thuận lợi cho bạn, ba trung đội này đều nhận phụ trách những cung đoạn trọng yếu nhất. Thiếu úy Nguyễn Minh Thông phụ trách một trung đội trinh sát khu vực vượt đường 9. Chuẩn úy Võ Sĩ Bơi phụ trách trung đội đứng ở khu vực Đắc Rông - Đá Bàn. Trung đội thứ ba lùi ra ngoài một chút, phụ trách khu vực trạm 3 và 4 (hai bên bờ sông Ra Gã).

Mọi hoạt động của tuyến chủ yếu tiến hành vào ban đêm. Vì vậy, việc thống nhất ký hiệu, tín hiệu, mật khẩu liên lạc giữa các trạm, giữa Đoàn 301 với đại diện Trị - Thiên, Khu 5 được hiệp đồng hết sức chặt chẽ. Vượt đường 9 và việc giao hàng giữa Trạm 5 với Trạm 6 đều phải tiến hành vào ban đêm. Lối vượt đường 9 phải dự kiến nhiều phương án, sẵn sàng thay đổi ngay. Dĩ nhiên những lối vượt này cũng chỉ giới hạn trong khu vực có "hệ số an toàn" cao là từ cây số 14 đến cây số 61 trên đường 9 - đoạn từ cầu Đắc Rông đến Khe Sanh. Cán bộ, chiến sĩ trên tuyến giao liên không ở cố định một chỗ; từng tổ lấy mái đá, tán cây rừng làm nhà nương náu dăm ba ngày lại chuyển sang chỗ khác. Bộ đội chỉ nấu ăn vào ban ngày, Về đêm, chỉ những trường hợp đặc biệt mới được sử dụng đèn pin, nhưng ánh sáng cũng chỉ bóp lại bằng hạt đỗ.

Tới đầu tháng 7, việc rải quân trên tuyến đường được triển khai xong. Quân số ở những trạm đầu thường đông hơn khoảng chừng 50 đến 60 người. Bình quân mỗi cung đi bộ mất gần một đêm; toàn tuyến mất gần tám đêm (tám ngày) ở cung cuối cùng, do đất bạn Lào có khu vực Xa Moi ăn sâu sang phía đất ta, tôi đã bàn với Ban Chỉ huy Đoàn 301 nắn cho tuyến giao liên vận chuyển lượn vòng theo đường biên, tuyệt đối không đi trên đất bạn khi chưa được phép.

Trong khi chúng tôi rải quân cắm tuyến, Ty Giao thông Quảng Bình cũng đã hoàn thành việc tu sửa cải tạo đường ô tô dã chiến từ Long Đại vào Bến Quang, dài chừng 70 cây số. Đoạn từ Bến Quang vào Khe Hó cũng được Sư đoàn 325 khẩn trương khai thông, dài khoảng 80 cây số. Theo trục đường này, xe ô tô của Tổng cục Hậu cần với danh nghĩa vào lấy gỗ, đã bí mật chuyển vũ khí, trang bị vào tập kết tại một cánh rừng già cạnh Khe Hó.

Được sự hỗ trợ, phối hợp nhịp nhàng của các đơn vị, cơ quan trong quân đội, của các địa phương trực tiếp quan hệ với tuyến giao liên, vận chuyển, niềm tin vào sức mạnh tổng hợp càng giúp chúng tôi quyết giành thắng lợi trong chuyến ra quân đầu tiên. Nhưng, đúng vào lúc chuẩn bị phát lệnh chuyển hàng, tôi nhận được báo cáo của anh Chu Đăng Chữ: trinh sát cho biết địch cho một lực lượng lớn xe quân sự chở lính quần đảo dọc theo đường 9 từ Khe Sanh lên Lao Bảo.

Được tin, Ban Cán sự xuống trực tiếp làm việc với Ban Chỉ huy Đoàn 301. Chúng tôi phân tích tình hình, cố giải thích vì sao địch biết được kế hoạch ra quân của ta. Không khí lo lắng, căng thẳng bao trùm.

Vài ngày sau, lực lượng trinh sát cho hay, do bị tra tấn quá dữ, một cán bộ trong huyện Hướng Hóa bị địch bắt đã làm lộ bí mật tuyến đường. Ta đã chủ động đối phó. Không phát hiện được gì, sau ba tuần, mọi hoạt động của địch trở lại như trước. Chớp thời cơ, tôi phát lệnh ra quân vận chuyển.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Mười Một, 2016, 11:18:36 pm

Ngày 13 tháng 8 năm 1959, chuyến hàng đầu tiên của Đoàn 301, Đoàn 559 chính thức vượt Trường Sơn. Một sự trùng hợp ngẫu nhiên, nhưng với tôi, ngày 13 tháng 8 là ngày đáng ghi nhớ (ngày 13 tháng 8 năm 1956 - ngày các con tôi vĩnh viễn mất mẹ). Vào dịp này, tôi thường viết thư cho các cháu đang ở các trường học sinh miền Nam, động viên chị em bảo ban nhau gắng sức học hành, nhưng không thể nói rằng cha của chúng và đồng đội đang làm gì giữa rừng Trường Sơn.

Vậy là từ ngày 13 tháng 8 năm 1959, đối mặt với những người lính Trường Sơn, là núi cao, vách đá cheo leo, suối sâu, thác dữ; là cọp beo, rắn rết... Và nguy hiểm hơn cả là hệ thống đồn bốt chốt chặn của kẻ thù.

Anh em vượt đường 9 trong đêm tối, vừa gùi vác hàng, vừa dò dẫm bước đúng hai mảnh gỗ mang theo. Người cuối cùng qua đường sẽ nhặt theo các mảnh gỗ đó, để sáng hôm sau, lính tuần tra trên đường 9 không mảy may phát hiện được một dấu chân người lính chúng tôi. Khi vượt thượng nguồn sông Bến Hải, sông Ra Gã, hoặc sông Đắc Rông… bộ đội phải dùng dây mây rừng buộc nối hai gốc cây chăng ngang sông, kết thân chuối rừng làm bè. Người vượt sông ngâm mình trong nước, kéo theo bè chuối chở súng đạn, men theo dây để sang sông. Hết sông sâu là núi cao, dốc đứng. Có những dốc cao, để qua được, lúc đó bộ đội phải leo nhích dần từng bước. Sau này, anh em đã ghép ba hoặc bốn chiếc thang... nên mới có tên là dốc Ba Thang, dốc Sáu Thang...

Đúng như dự đoán ban đầu, sau tám ngày đêm, cán bộ, chiến sĩ Đoàn 301 đã đưa chuyến hàng đầu tiên vào tới Tà Riệp - phía bắc A Lưới. Hàng gồm bốn chục khẩu súng trường, tiểu liên, mười thùng đạn, một số ít quân dụng cần thiết. Anh Nguyễn Vạn (Tư Vạn) - Thường vụ Khu ủy, đại diện Khu ủy Khu 5 trực tiếp nhận số hàng đầu tiên này.

Nghe Ban Chỉ huy Đoàn 301 báo về, mấy anh em chúng tôi mừng vui khôn xiết. Sau này, tôi đã được anh Tư Vạn kể lại sự xúc động nghẹn ngào, sung sướng của anh lúc đó.

Chuyến đi đầu tiên thắng lợi, hàng vào tới đích an toàn. Nhân đà thắng lợi, cán bộ, chiến sĩ Đoàn 301 đẩy nhanh tốc độ vận chuyển. Đến hết tháng 8, đoàn đã chuyển giao cho Khu 5 và Trị - Thiên được 100 khẩu tiểu liên và súng trường, hơn năm chục khẩu trung liên cùng một số lượng lớn đạn con, quân dụng...

Ngày 3 tháng 9 năm 1959, hội nghị Ban Cán sự mở rộng họp ở Sở chỉ huy Tiền phương của Đoàn 559 tại Khe Hó, đánh giá kết quả sau hơn nửa tháng thực hành vận chuyển. Tại hội nghị này, tôi đặc biệt nhấn mạnh toàn tuyến phải tuân thủ nghiêm ngặt quy định bảo mật, cần chủ động thay đổi quy luật hoạt động - nhất là khâu vượt đường 9.

Đến đầu tháng 9 năm 1959, Đoàn công tác quân sự đặc biệt đã hoạt động được gần 5 tháng, với những thắng lợi bước đầu. Tuy vậy, trên thực tế mọi quyết định về việc thành lập đoàn, giao nhiệm vụ cho chúng tôi cũng chỉ được anh Nguyễn Văn Vịnh phổ biến trực tiếp. Căn cứ tình hình thực tế, ngày 21 tháng 9 năm 1959, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 46/QĐ-QP chính thức thành lập Đoàn 559 trực thuộc Bộ Quốc phòng; về Đảng, trực thuộc Tổng Quân ủy (sau là Quân ủy Trung ương). Nhiệm vụ của Đoàn 559 là: mở đường; vận chuyển vật chất; đưa đón cán bộ, bộ đội từ miền Bắc vào miền Nam và từ Nam ra Bắc; vận chuyển bảo đảm vật chất cho Đoàn 559 (chuyên gia quân sự Việt Nam ở Trung - Hạ Lào).

Cùng với quyết định trên, tôi có quyết định được bổ nhiệm giữ chức Đoàn trưởng kiêm Chính ủy, Bí thư Đảng ủy Đoàn 559. Anh Nguyễn Thạnh là Đoàn phó, Đảng ủy viên; anh Nguyễn Chương là Đảng ủy viên, phụ trách công tác bảo vệ.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Mười Một, 2016, 11:19:35 pm

Trường Sơn lúc này đã chớm vào mùa khô. Những trận mưa rừng thưa dần. Tranh thủ điều kiện thời tiết thuận lợi; chúng tôi động viên các đơn vị dồn sức vận chuyển. Nhưng điều mà trước đây chúng tôi lo lắng, thì nay càng thấy bức xúc hơn. Ban Chỉ huy Đoàn 301 đang cùng Trạm 5, Trạm 6 tìm cách tổ chức vượt đường 9 sao cho an toàn hơn.

Sau những chuyến dùng những mảnh ván nhỏ để theo đó mà vượt đường 9, anh em dùng một tấm vải ni lông rải qua đường; người mang vác hàng chạy qua trên tấm vải đó. Ai đi sau cùng có nhiệm vụ cuộn vải mang theo. Tuy vậy, lối vượt trên mặt đất cạnh đồn Rào Quán không đảm bảo an toàn. Chúng tôi tin sớm muộn kẻ địch sẽ phát hiện được.

Có dịp được làm việc với anh Lê Duẩn, tôi đã nêu điều mà chúng tôi băn khoăn, lo lắng. Thời gian này, anh Ba vừa ở chiến trường Nam Bộ ra Hà Nội. Thoạt nghe, anh Ba nói: đúng là hoạt động theo kiểu du kích.

Rồi với kinh nghiệm hoạt động bí mật ở chiến trường Nam Bộ trong thời kỳ tối tăm, bi đát nhất (1956-1959), anh Ba gợi ý:

- Các đồng chí vào đó nghiên cứu xem có thể đào đường hầm xuyên qua đường số 9 được không?

Theo gợi ý của anh Ba, khi trở vào tuyến, tôi đã cùng anh em trinh sát Đoàn 301 trực tiếp nghiên cứu kỹ trên thực địa. Điều kiện địa hình cũng như địch tình cho thấy: việc đào đường hầm là sẽ gây tiếng động lớn và đất đá không biết giấu vào đâu.

Tạm thời chưa thực hiện được giải pháp đào đường hầm; nhưng gợi ý của anh Ba đã giúp chúng tôi tìm được hướng "vượt khẩu" mới. Trước khi trở ra Hà Nội, tôi lưu ý anh em gắng tìm cho được một cống ngầm qua đường 9 ở khu vực này. Tôi nói với anh Thạnh: địa hình ở đây lắm khe, nhiều suối, khi thi công đường số 9 trước đây, chắc chắn người Pháp phải làm không ít cống ngầm; có điều chúng ta chưa tìm thấy mà thôi.

Chỉ mấy ngày sau, tôi được tin anh em đã tìm được một chiếc cống ở khu vực Rào Quán, không xa lối vượt chúng tôi vẫn đi. Sau này, tôi đã nhiều lần chui qua cống ngầm này. Đường kính cống chừng một mét, người chui qua khá vất vả. Hai bên miệng cống cây cối um tùm. Thật là một điểm vượt lý tưởng. Chiếc cống này được chúng tôi sử dụng làm lối vượt đường số 9 cạnh đồn Rào Quán trong một thời gian khá dài mà kẻ địch không hay biết.

Tới cuối tháng 10, đầu tháng 11 năm 1959, từng đợt gió bấc đầu tiên thổi vào vùng giới tuyến, đem theo những trận mưa dầm. Hành quân mang nặng đường rừng, đường đèo những ngày mưa thật gian nan. Những ai từng trải cảnh đêm mưa, đường rừng, trên vai mang vác nặng... mới hiểu được những người lính Trường Sơn ngày ấy vất vả như thế nào!


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Mười Một, 2016, 11:20:07 pm

Cuối năm - cao điểm mùa khô, địch tập trung đánh phá tuyến giao liên vận tải quân sự. Hệ thống chốt chặn của địch dọc đường số 9 từ làng Vây đi Lao Bảo lúc này được tăng cường, gồm bảy đồn. Địch còn cho bảo an, thám báo lùng sục suốt ngày đêm; cải trang thành người đi tìm trầm, phu đồn điền cao su, cà phê để phục bắt bộ đội. Cũng vì thế, điều phải xảy ra đã xảy ra với Đoàn 301. Một hôm, vào cuối tháng 10, vì mấy hôm liền trời mù đặc, chừng ba – bốn giờ chiều mà rừng đã nhuốm đen, mờ mịt. Ban Chỉ huy Trạm 6 và Trạm 7 giao hàng sớm hơn thường lệ. Việc giao hàng nhanh gọn, trót lọt. Nhưng bất ngờ trung đội trinh sát của đồng chí Nguyễn Minh Thông đã đụng phải thám báo của địch tại một vị trí cách đường số 9 chừng 500 mét về phía bắc. Các chiến sĩ trinh sát buộc phải nổ súng chặn địch, bảo vệ cho anh em Đội 7 rút nhanh qua bờ nam sông Đắc Rông, Đội 6 lùi ra phía ngoài an toàn. Thiếu úy Nguyễn Minh Thông - quê Nghi Lộc - Nghệ An, hy sinh anh dũng sau khi đã cùng đồng đội tiêu diệt bốn tên địch. Thượng sĩ Huỳnh Tương - quê Đại Lộc - Quảng Nam, bị thương và bị địch bắt.

Anh em Đội 6 và dân làng Cà Lư - một làng nằm dọc theo đường số 9, gần Rào Quán kể lại: Huỳnh Tương bị thương vào chân. Mấy tên lính ngụy xông vào bắt trói, đưa anh về Đông Hà - Quảng Trị. Vết thương và đòn roi của kẻ thù đã cướp đi vĩnh viễn người chiến sĩ trinh sát kiên cường của Đoàn 559.

Tổn thất đầu tiên của đoàn là khá nghiêm trọng. Chỉ vì một chút bị động, Đoàn 301 đã mất đi hai cán bộ trinh sát. Tuy vậy, gương chiến đấu hy sinh anh dũng của các anh - những người lính đầu tiên trên tuyến đường mang tên Bác là một dấu ấn không phai mờ trong tâm khảm của mỗi chúng tôi. Anh em Đội 7 đã tìm cách đưa được thi hài của đồng chí Nguyễn Minh Thông về chôn cất chu đáo.

Trong giao nhận hàng hóa giữa các đội với nhau, vì phải tiến hành ban đêm, chúng tôi quy định phải thực hiện "vai sang vai" để tránh bỏ quên. Nhưng trong một lần giao hàng giữa Đội 6 và Đội 7 đã bỏ quên một bó súng (hai khẩu) tại đồn điền cà phê Rô Mơ (Bà Rôm). Đồn điền này nằm giữa Rào Quán và Khe Sanh. Chủ đồn điền là một tư sản người Pháp, có vợ là người Việt. Tuy vậy, trong cái rủi cũng có cái may. Cai đồn điền là Cha Mồm - một cơ sở của ta, người Vân Kiều. Sau đêm bộ đội ta bỏ quên súng, tình cờ Cha Mồm cùng bà vợ chủ đồn điền đi thăm cà phê phát hiện được. Cha Mồm nhanh trí khuyên vợ chủ đồn điền không nên khai báo với lính đồn Rào Quán để chúng khỏi gây khó dễ. Vợ chủ đồn điền nghe theo. Sau đó, Cha Mồm bí mật báo cho Đội 7 tới lấy súng. Vụ việc trên được giải quyết êm thấm. Địch không có phản ứng gì. Tuy vậy, điều làm cho chúng tôi băn khoăn là sau gần một tháng sự việc trên xảy ra, anh Cha Mồm cũng không còn ở đồn điền Bà Rôm. Phải chăng vợ chồng chủ đồn điền sợ liên lụy đã thủ tiêu người thanh niên người Vân Kiều mưu trí, khôn khéo này?

Tháng 10 năm 1959, chúng tôi quyết định chuyển Sở chỉ huy Tiền phương và kho tàng từ Khe Hó lùi ra Quảng Bình. Vị trí mới do Đội 12 xây dựng tại làng Mít, nằm ở hữu ngạn sông Kiên Giang, cách Bang Rợn (tây Lệ Thủy) chừng mười cây số về phía nam và cách sông Bến Hải một cung đường bộ, cả đi lẫn về mất khoảng mười giờ.

Địa điểm mới khá lý tưởng, thuận cho việc cơ động, chỉ đạo cả hai tuyến Đông và Tây Trường Sơn sau này.

Cho đến hết năm 1959, chỉ với phương thức mang vác, cán bộ, chiến sĩ Đoàn 559 đã chuyển giao cho Khu 5 và Trị - Thiên gần 2 nghìn khẩu súng bộ binh, hàng trăm nghìn viên đạn con, hàng nghìn quân cụ thiết yếu. Đến thời điểm này, đã có hơn 500 cán bộ, chiến sĩ, chủ yếu là cán bộ đại đội, trung đội đã qua tuyến giao liên Trường Sơn vào chiến trường. Qua làm việc với anh Nguyễn Chánh, tôi được biết lực lượng cán bộ này được tăng cường để xây dựng các tiểu đoàn, đại đội vũ trang tập trung của Khu 5, Khu 6 và Nam Bộ.

Kết quả chưa đáng là bao, nhưng tôi cũng ý thức được, mỗi một cán bộ, chiến sĩ được những người lính Trường Sơn tổ chức đưa đón vào chiến trường; mỗi khẩu súng, viên đạn mà những người lính Trường Sơn và bao người trên đất Bắc đánh đổi bằng mồ hôi, tâm sức và cả xương máu để đưa vào chiến trường, đã góp phần cùng đồng bào và chiến sĩ miền Nam chuẩn bị lực lượng cho cuộc chiến đấu lâu dài với Mỹ - ngụy...


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Mười Một, 2016, 08:42:36 am

NHỮNG NGƯỜI "KHAI SƠN PHÁ THẠCH"
Đại tá PHẠM TỀ
Nguyên Phó cục trưởng Cục Chính trị
kiêm Trưởng phòng Tổ chức Đoàn 559

Tiếng chuông nhà thờ vang lên, điểm 4 giờ sáng ngày 20 tháng 6 năm 1961. Tôi bắt tay nhà tôi rồi khoác ba lô lên vai.

- Hôm nay ông đi đâu đó?

- Thưa đồng chí, tôi đi công tác xa.

- Đi xa đến tận đâu?

- Quân đội cấm nói nơi đến và nội dung công tác với người nhà.

- Sao mà nghiêm ngặt quá thế, đến nỗi không tin vợ người ra đi là Đảng viên nữa sao - bà vừa nói vừa cười - Ông giấu làm sao được tôi? Trước đây bao nhiêu lần ông đi, ông làm gì tôi cũng đoán biết được cả!

Tôi khẽ tát vào má bà - Đã biết xin đừng hỏi nữa. Rồi tôi nói nghiêm chỉnh: Đừng đùa để anh đi.

Nhà tôi đưa tôi ra đến tận cổng nhà số 5 đường Lý Thường Kiệt, giọng nói run run: "Anh đi mạnh khỏe”.

Tôi nắm chặt tay nhà tôi như không muốn rời... Đi được mươi bước tôi ngoái cổ nhìn lại, thấy nhà tôi còn đứng, nhìn theo bóng người ra đi. Hình ảnh thân thương của người bạn đời, tôi luôn ghi nhớ qua những năm tháng dài ở Trường Sơn.

Khi tôi đi khuất vườn hoa trường Đại học Y khoa, lòng mới nguôi ngoai. Tôi bước nhanh, 20 phút sau đến nhà số 25 đường Phan Đình Phùng, vừa lúc đài tiếng nói Việt Nam nổi nhạc hiệu.

Anh Bẩm đứng ở cửa nhìn ra, thấy bóng tôi, anh nói lớn:

- Cậu Trường Sơn đã đến rồi. Vậy là đủ (Trường Sơn là biệt hiệu của tôi).

Tôi bước vào nhà. Anh Bẩm bắt tay vỗ vai tôi cười nói:

- Cậu chấp hành giờ giấc nghiêm túc đấy. Con người lực lưỡng và to béo như cậu và cô Hường dược sĩ, không biết chịu đựng với Trường Sơn được bao lâu. Đã ăn sáng chưa?

- Thưa anh, tôi ăn sáng xong, mới đến đây.

- Vậy thì lại kia uống nước chè, mình đã pha sẵn.

Đến đó tôi gặp cô Hường.

- Xin chào thủ trưởng. Thủ trưởng mang gì mà có vẻ nặng thế.

- Mọi thứ cần cho cuộc hành trình ở trong ấy đấy. Cô đến bao giờ?

- Đến trước anh 30 phút...

Câu chuyện chúng tôi đang dở dang thì anh Bẩm bước ra và nói:

- Các cô cậu mang hết hành lý ra xe đi. Tung ra nổ máy thử xe. Đã hơn 5 giờ rồi. Ta đi sớm cho mát. Các đồng chí phải kiểm tra kỹ xem còn thiếu thứ gì không, nhất là xăng dầu. Hôm nay tôi lái. Cậu Trường Sơn ngồi ghế trước. Còn lại ngồi phía sau.

Anh Bẩm đề pa cho máy nổ, xe từ từ ra cổng, rẽ trái chạy hướng đường Nam Bộ, đi vào Nam.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Mười Một, 2016, 08:43:26 am

Anh Bẩm sinh năm 1913, tôi sinh năm 1918, anh ấy lớn hơn tôi 5 tuổi, anh là bạn tù lâu ngày với người anh họ tôi ở Buôn Ma Thuột. Trong kháng chiến chống Pháp anh công tác ở cơ quan Bộ Tư lệnh Quân khu 5 về công tác ở Tỉnh đội Quảng Ngãi, mấy lần gặp tôi tự nhiên trở thành quen thân nhau. Ngày 19 tháng 6 năm 1960 tôi đang công tác ở Cục Cán bộ Tổng cục Chính trị thì nhận được quyết định làm trưởng ban tổ chức Đoàn 559, hôm nay được theo đồng chí tư lệnh vào hành lang công tác.

Chiếc xe bon bon qua ga Hàng Cỏ vào Văn Điển. Hừng đông ửng dần. Nhìn đằng trước, đằng sau có những chiếc xe tải phủ vải bạt kín bưng, các xe chở hàng và người đang chạy cùng chiều.

- Quân ta, hàng của ta cùng đi vào hành lang đấy!

Hường đang ngái ngủ, nghe thế, mở mắt, thò đầu ra ngoài nhìn đoàn xe, gương mặt rạng rỡ hẳn ra.

- Hôm nay mấy xe cùng đi với ta vậy anh?

- Cô phạm quy rồi đấy!

- Xin lỗi anh, em quên.

- Từ đây chúng ta nhắc nhở nhau phải luôn luôn giữ bí mật. Một việc đơn giản, nhưng khó thực hiện đấy. Trong lịch sử có lắm nhà vương bá, nhiều vị tướng lĩnh có tầm cỡ, chỉ vì làm lộ bí mật, mà sự nghiệp tan tành.

Anh Bẩm tăng ga, xe lướt nhanh qua cánh đồng lúa Phủ Lý, Hà Nam. Trong xe trừ anh Bẩm vẫn tỉnh táo, còn chúng tôi, gió lùa mát rượi, đã ngủ gật. Hường ngủ rất say, chắc đêm qua cô bị mất ngủ do chuẩn bị một chuyến đi xa.

Xe chạy vào thị xã Phủ Lý, dừng trước quán giải khát, tất cả vào quán uống nước ăn kẹo lạc. Tôi hỏi anh Bẩm:

- Thông tri của Bộ Quốc phòng cấm cán bộ cao cấp tự lái xe ô tô đi công tác, sao anh lại lái xe đi đường dài, lỡ xảy ra tai nạn như ông Đức ở Tổng cục Địa chất, nhà nước khó xử lắm.

- Mình đôi mắt còn tinh, đôi tay còn vững, sợ gì - Ngẫm nghĩ một lát, anh ấy nói: Cậu Trường Sơn ra ghế sau ngồi. Từ đây trở đi cậu Tung lái xe, "Chiêm bao không sợ, sợ thầy bàn".

Xe tiếp tục chạy. Tôi khêu gợi anh Bẩm: Từ lâu nay chờ có lúc được anh nói chuyện triển khai hành lang những ngày đầu. Vậy dịp này được anh kể cho nghe thì quý giá.

Cô Hường cũng nói xen vào - Nếu được nghe, chúng em hình dung trước, phấn đấu để làm tròn nhiệm vụ.

- Lo gì, đường còn xa, nhiệm vụ còn lâu dài, thong thả mình sẽ kể cho mà nghe. Cứ lao vào thực tế công tác, dần dần sẽ hiểu rõ hơn. Sức người chịu đựng được đến đâu, sẽ hiểu đến đó. Có việc nói trước người ta sinh ra ngán ngại đấy.

- Đã dám nhảy vào lửa, có ngại gì bị bỏng đâu thủ trưởng.

- Chưa biết sẽ ra sao, nghe cô nói có vẻ anh hùng đấy.

Cả xe đều cười.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Mười Một, 2016, 08:45:24 am

Chiếc xe thẳng đến Đồng Giao, dãy núi Tam Điệp dựng sừng sững trước mặt. Nhớ chuyện Quang Trung xưa đốc đại quân tiến ra Bắc Hà tiêu diệt quân Mãn Thanh trong mùa Xuân Kỷ Dậu. Dưới chân núi là những lô cà phê xanh mượt, nở đầy hoa. Gió hây hây đưa lại mùi thơm dịu ngọt. Anh Bẩm bắt đầu kể chuyện, hòa theo tiếng rù rù của xe chạy.

"Khoảng đầu năm 1959, tôi gặp anh Trần Lương, nguyên là Bí thư Khu ủy Khu 5 ở Hà Nội, hai anh em trò chuyện tâm tình, anh ấy nói nhỏ với tôi: "Chúng tôi ở trong ấy có đề nghị với Quân ủy Trung ương giao cho ông nhiệm vụ đặc biệt". Tôi hỏi việc gì, anh ấy không nói. Tôi biết anh ấy là người có ý thức chặt chẽ, dù thân tình đến đâu cũng không tiết lộ bí mật. Tôi chỉ nói: "Tùy các cụ, liệu việc gì mà sức của tôi kham nổi thì giao, đừng giao việc quá khả năng, làm không được, các anh mang tiếng đấy". Nói thế, chứ các anh có lạ gì mình đâu.

Anh Lương vỗ vai tôi - Cùng ở lao tù với nhau thời còn rất trẻ, nên chúng ta tin nhau, ông ở ngoài này, xoay xở giúp Trung ương lo cho trong Nam, chúng tôi mới yên tâm được.

- Các anh đã tin giao việc, tôi sẽ ráng hết sức làm, làm chết bỏ - tôi đáp lại anh ấy.

Chỉ qua mấy chục phút tâm sự như thế, rồi việc của ai, người ấy phải lo mà làm.

Từ đó, tuy còn làm ở Cục Nông trường, nhưng đêm đêm tâm trí tôi vẫn hướng về Nam, chuẩn bị đón chờ nhiệm vụ mới. Quê hương chúng ta đang sống trong cảnh dầu sôi lửa bỏng, làm sao mình lại tính chuyện sống êm ấm ở đất Thủ đô được.

Một buổi sáng đầu tháng 5 năm 1959, tôi nhận được giấy mời của anh Nguyễn Văn Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Tôi có cảm giác hễ các cụ đã gọi là có chuyện không bình thường. Đúng giờ, tôi đến nhà anh Vịnh. Cửa mở sẵn, tôi bước vào, anh ấy ra bắt tay chào, dắt tôi vào phòng khách. Bình trà đã pha sẵn, anh mời tôi uống nước, hút thuốc lá, rồi gọi công vụ pha cà phê.

- Xin anh, tôi không uống cà phê, vì dễ bị mất ngủ.

Nghe tôi nói thế, anh ấy thôi, nói tiếp:

- Tình hình sức khỏe của anh độ này thế nào?

- Thưa anh, sức khỏe của tôi bình thường, thỉnh thoảng huyết áp bị tăng, một hai hôm lại hết.

Anh Vịnh suy nghĩ giây lát, nói:

- Nếu gánh vác công việc nặng nhọc, sức anh có chịu nổi không?

Anh Vịnh vốn là người từ tốn, cách hỏi của anh vừa ân cần, vừa tin cẩn. Tôi đoán chắc là việc anh Lương đã trao đổi với tôi hôm nọ, tôi hỏi lại:

- Việc gì vậy anh?

Anh Vịnh điềm tĩnh nói:

- Quân ủy Trung ương quyết định giao cho anh làm công tác giao thông quân sự đặc biệt là mở đường tiếp tế cho cách mạng miền Nam.

Tôi nghe vừa mừng, vừa lo.

- Địch nó kiểm soát giới tuyến quân sự tạm thời chặt lắm, liệu tôi có kham nổi không?

- Các anh trong Quân ủy biết anh nhiều, anh không làm được, còn ai hơn.

- Nói vậy, chứ các anh đã giao phải ra sức mà làm, nhưng xin anh chỉ vẽ cho đường đi, nước bước, lúc đầu ta nên làm bằng cách nào, cho đầu xuôi, đuôi lọt.

Nghe tôi nói thế, nét mặt anh ấy sáng lên, anh vào tủ lấy tấm bản đồ ra, trải rộng trên chiếc bàn bên cạnh. Anh ấy chỉ cho tôi biết tình hình địch trên chiến trường, chỉ các tuyến hành lang Thống nhất của các đảng bộ địa phương. Cách tổ chức chỉ huy của lực lượng giao liên ở Trị - Thiên và Khu 5. Còn chiến trường Nam Bộ chưa nắm được đầy đủ. Anh nói rõ yêu cầu của mỗi chiến trường hiện nay.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Mười Một, 2016, 08:45:58 am

Sau đó anh nói rõ phương châm hoạt động là phải khôn khéo tránh địch, che mắt địch để làm nhiệm vụ. Bác Hồ và Bộ Chính trị Trung ương Đảng luôn nhắc nhở chúng ta phải giữ bí mật của nhiệm vụ. Ta chưa làm được gì, nếu để bị lộ ra sớm, kẻ thù sẽ kêu lên ầm ĩ là miền Bắc xâm nhập vào miền Nam. Từ đó, chúng lấy cớ để lừa bịp dư luận, đổ vấy trách nhiệm cho ta và chủ động ngăn chặn ta trước, thì hậu quả sẽ không lường được. Trong lúc đó phong trào cách mạng miền Nam còn yếu, đang ở tình thế khó khăn, các trục hành lang của ta ở miền Nam còn mỏng manh. Ta phấn đấu phục vụ được nhiều, được lớn hơn cho miền Nam càng tốt. Song điều quan trọng là chúng ta phải giữ bí mật. Bởi trong hoạt động cách mạng cũng như trong đấu tranh quân sự, giữ được bí mật mới tạo được yếu tố bất ngờ, giữ quyền chủ động, sẽ nắm chắc phần thắng.

Bởi thế, khi tôi bàn việc với anh lần này, cũng như những lần khác, anh nên nhớ nhập tâm là hơn. Có ghi vào sổ sách phải dùng mật danh, hoặc tiếng lóng để nhớ. Tránh ghi vào sổ, khi sơ hở sẽ lộ bí mật. Phải giữ bí mật ngay trong đơn vị. Ai làm việc gì chỉ cho biết việc đó. Ở miền Bắc, kể cả tại Thủ đô cũng phải giữ bí mật. Đã là cuộc đối đầu sinh tử giữa ta và địch, đôi bên đều tìm mọi cách, với mọi giá để xâm nhập vào đối phương, nắm bắt mọi âm mưu, ý đồ chiến lược, chiến thuật của nhau. Có lẽ tôi và anh không đến nỗi không nhận thức được vấn đề này. Song trong đội ngũ của ta, còn có người hời hợt, ba hoa dễ lộ liễu lắm.

Do đó, trong các cơ quan của Bộ, Quân ủy Trung ương, chỉ cho một số ít đồng chí biết việc này, như ở Bộ Tổng Tham mưu, anh Trần Văn Trà - Tổng Tham mưu phó trực tiếp chỉ đạo các anh. Về trang bị, điều động lực lượng có anh Trần Quý Hai - Tổng Tham mưu phó, anh Lê Đức Anh ở Cục Quân lực; ở Tổng cục Chính trị có các anh: Song Hào, Lê Quang Đạo, Phạm Ngọc Mậu, Phạm Kiệt, Trần Hoài Ân và anh Huỳnh Đắc Hương; ở Tổng cục Hậu cần có anh Trần Sâm - Phó chủ nhiệm, anh Nam - Cục trưởng Cục Quân khí, anh Sỹ - Cục phó Cục Tài vụ.

Chức vụ các anh ấy anh đã rõ rồi, khi cần việc gì thuộc phần của ai, thì anh liên hệ trực tiếp làm việc với người ấy mà thôi.

Còn đối với các cơ quan nhà nước, càng phải thận trọng hơn. Bởi có nhiều việc đối với miền Nam ta chưa đưa ra công khai về mặt nhà nước. Công việc của anh sẽ thường quan hệ với Bộ Giao thông vận tải thì gặp anh Phan Trọng Tuệ - Bộ trưởng, anh Mai - Thứ trưởng. Đối với Bộ Tài chính, anh gặp anh Hoàng Anh. Đối với Ban Thống nhất Trung ương thì gặp anh Trương Quang Giao. Nếu anh cần gặp ai khác, phải xin phép Thường trực Quân ủy Trung ương. Anh Nguyễn Chí Thanh căn dặn chúng ta điều này kỹ lắm.

Hôm nay, riêng tôi gặp anh, chỉ bàn với anh vậy thôi. Thật ra tôi cũng chưa hình dung đầy đủ, ta nên làm như thế nào cho tốt. Tôi giới thiệu anh đi vào Vĩnh Linh, để gặp anh Trần Lương và anh Quyết của Khu ủy Khu 5, anh Thản - Bí thư Vĩnh Linh, anh Hành - Tỉnh ủy viên Quảng Trị kiêm Bí thư Huyện ủy Hướng Hóa, là những cán bộ từng trải, có kinh nghiệm nhiều về công tác hành lang. Anh khéo khai thác được kinh nghiệm phong phú của các anh ấy. Khi anh đã nắm được tình hình ở phía nam giới tuyến, tiếp thu được các bài học của các vị ấy, anh về sẽ lên phương án kế hoạch triển khai xây dựng hành lang được sát thực tiễn hơn. Lúc ấy sẽ trình cho Thường trực Quân ủy phê chuẩn.

Theo ý tôi, về hành lang của Trung ương lúc đầu có thể quy mô còn nhỏ; chiều sâu vươn tới còn ngắn, phương thức hoạt động còn thô sơ, đơn giản. Nhưng nó sẽ phát triển theo quy luật của chiến tranh nhân dân, từ chiến tranh du kích, đến vận động chiến và chính quy chiến, ta mới giành được thắng lợi cuối cùng. Muốn chiến thắng một đạo quân ngụy được Mỹ trang bị khá hiện đại, mà mọi thứ của ta chỉ để đánh du kích thì làm sao ta đánh bại hoàn toàn đạo quân ấy. Vận tải quân sự của ta phải tiến lên cơ giới hóa mới tăng nhanh khả năng chi viện sức người và mọi nhu cầu vật chất cho cuộc đấu tranh vũ trang ở miền Nam. Phương hướng tiến lên của ta là như vậy. Song trước mắt ta thực hiện phương thức vận tải bằng phương tiện thô sơ. Khi nào cơ giới hóa hành lang, thì chúng ta sẽ bàn kỹ hơn"...

Anh Bẩm kể chuyện đến đây, thì xe cũng vào đến thị xã Thanh Hóa. Đã gần trưa, trời nắng hanh, chúng tôi vào quán ăn cơm, rồi đi vào cơ quan Tỉnh ủy Thanh Hóa nghỉ trưa.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Mười Một, 2016, 08:46:49 am

Đến 13 giờ chúng tôi lên xe đi, xe chạy qua thị xã, anh Bẩm kể tiếp câu chuyện:

"Sau khi gặp anh Vịnh về, suốt 3 đêm liền tôi trăn trở khó ngủ. Vì tôi hình dung công việc vừa có tầm quan trọng, lại khó khăn phức tạp, mà trong tay tôi chưa có gì cả. Mình là ngươi đầu trò, song tình hình chưa nắm được gì, kinh nghiệm chẳng bao nhiêu. Trong kháng chiến chống Pháp, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 giao cho tôi đi đường biển ra Trung ương xin vũ khí, song công việc cũng không thành. Trong những ngày ấy tôi tranh thủ gặp anh Nam Thắng, Cục trưởng Cục Nông trường, là bạn tù ở Buôn Ma Thuột, tôi nói thật nhiệm vụ mới được giao, để anh ấy thông cảm. Và từ đây tôi xin chấm dứt công việc ở Nông trường, để tập trung lo việc mới.

Sáng ngày 12 tháng 5 năm 1959, tôi lên xe vào Vĩnh Linh, tôi và Tung tài xế thay nhau lái xe, 22 giờ thì đến nơi.

Tôi vào nhà khách của Đảng ủy Vĩnh Linh thì gặp anh Lương, anh Quyết, anh Hành và anh Thản đều có mặt ở đó. Một cuộc hội ngộ thú vị, vừa là bạn đồng hương, vừa là bạn tù trong nhà lao của đế quốc, nên chúng tôi tay bắt mặt mừng, rộn lên niềm vui. Anh Thản lớn tuổi nhất, cười khà khà nói: "Chúng ta đều là những tay "hảo hớn", đều có tên trong sổ đen của các ty liêm phóng của thực dân Pháp, đều có "nợ máu" với giặc. Nay lại được giao việc gần giống nhau. Nếu chúng ta không làm được thì nên căng ra mà đánh thôi". "Lão già" nói thế, rồi đập đập vào lưng tôi nói:

- Thằng cha này trong nhà tù nó mạnh như voi, không ai vật tay lại lão đâu, bây giờ sẽ vật nhau với Mỹ - ngụy, tính sao đây mày. Bọn tao nghe anh Lương nói mày được giao trọng trách rồi. Phải ráng sức mà làm. Mày gánh bớt, chứ bọn này vất vả lắm rồi - thôi cởi áo ngoài ra, rửa ráy cho mát, rồi đi ăn cơm. Bọn mình chờ cậu vào, đã ăn đâu - Thật là một ông già bộc trực, chân thành hết chỗ nói - Tôi đã thầm nghĩ.

Bữa cơm hôm ấy, có nhiều món được chế biến từ hải sản Vĩnh Linh, nấu ngon, đang đói, với tình đồng chí đầm ấm, có chút rượu nồng nên chúng tôi vừa ăn, vừa tán chuyện kéo dài đến quá khuya. Anh Thản phải giục chúng tôi đi ngủ để ngày mai cùng nhau bàn công việc.

Bảy giờ sáng hôm sau, chúng tôi cùng nhau trao đổi công việc. Mở đầu anh Lương vỗ vai tôi cười khì khi, tính anh ấy là như thế, gặp nhau lúc nào cũng thân ái, chan hòa, anh ấy hỏi tôi - Cờ đã đến tay, ông định phất thế nào? Anh em ở đây nghe ông được giao nhiệm vụ, ai cũng hoan nghênh cả đấy.

- Tôi đã tính gì được đâu anh, bởi chưa nắm được tình hình. Trong tay chưa có lực lượng, phương tiện. Tôi xin phép đi vào đây, để được gặp các anh, giúp cho tôi nắm tình hình khu vực giới tuyến và đường dây Thống nhất phía trong. Mong các anh truyền cho một số kinh nghiệm. Còn là một tân binh, làm sao tôi phát ra dự kiến gì.

- Khỏi lo, bọn mình đã chuẩn bị cả rồi, ông cần gì bọn mình dốc túi hết, trao cho ông, làm không được sẽ tính sổ với nhau. Thôi, anh Hành là người có kinh nghiệm về công tác hành lang và nắm tình hình địch ta chắc nhất nói trước với lão đi - Anh Thản đáp lại tôi.

Anh Hành bắt đầu nói về tình hình địch ở phía nam, tổ chức hành lang của ta, cơ sở và phong trào nhân dân trên các trục đường. Sự hoạt động đánh phá của địch và sự đối phó của ta để bảo vệ đường dây, anh ấy nói khá tỉ mỉ, giúp tôi hiểu tường tận mọi việc.

Tiếp theo anh Quyết - người phụ trách hành lang của Khu ủy Khu 5, nói về các trục đường thuộc Quân khu, đề ra những yêu cầu của địa phương đối với Trung ương.

Rồi anh Thản bổ sung tỉ mỉ về đường giao liên của Quảng Trị, anh ấy nói hết những việc làm thành công và những thất bại, tổn thất, phân tích rõ những thiếu sót, khuyết điểm trong việc chỉ đạo, xây dựng, bảo vệ hành lang.

Nghe các anh nói, tôi tiếp thu một cách chăm chú, đúng là những đồng chí cán bộ đầy tâm huyết, chỉ một lòng một dạ lo cho dân, cho Đảng. Nhờ đó làm cho tôi càng sáng tỏ nhiều điều, thấy rõ khả năng có thể làm. Nhưng tôi cũng nghĩ thầm, trong tình hình mới, ta không nên lặp lại cách làm cũ. Kết quả nhỏ giọt không thể đáp ứng được yêu cầu của phong trào cách mạng. Tuy vậy, chính tôi cũng chưa tính được phải làm cách nào để đạt hiệu quả cao hơn. Dù sao những kinh nghiệm cụ thể của các anh cũng giúp cho mình thấy được hướng đi và cách làm. Tôi tự bảo mình: học người là điều quý, nhưng cái chính là mình phải lăn vào cuộc, từ thực tiễn sẽ giúp mình khôn hơn, dám lao vào lửa, tự khắc sẽ tìm ra đường sống.

Sau khi tiếp xúc với các anh ấy, suốt đêm tối không tài nào nhắm mắt được. Đầu óc luôn tính toán các phương án để triển khai nhiệm vụ, sự tính toán của người chỉ huy trong tay chưa có gì hết.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Mười Một, 2016, 08:49:41 am

Bốn giờ sáng hôm sau tôi đã dậy, đánh thức anh em cùng đi chuẩn bị hành lý để trở về. Ông già Thản tinh ý lắm, cảm ứng được nỗi lo của đồng chí, đã giao cho nhà bếp chuẩn bị một bữa sáng khá tươm tất. Năm giờ rưỡi mâm cơm đã dọn sẵn, qác anh cũng đã thức dậy từ lâu, rửa mặt, cùng ăn sáng. Thức ăn đã ngon, câu chuyện tâm tình khi tạm biệt bộc lộ sự gởi gắm vào tôi một niềm tin, khiến cho tôi bồn chồn, rạo rực. Khi chúng tôi chia tay giữa ánh mắt và nụ cười là sức mạnh tình cảm chân thành của các đồng chí, tăng thêm nghị lực cho tôi để lao vào nhiệm vụ.

Suốt ngày hôm ấy, tôi và Tung thay nhau lái, có cơm nắm sẵn trong xe, đến bữa thì dừng xe lại dưới bóng cây bên đường, ăn rồi tiếp tục đi, đến 20 giờ chúng tôi về đến Hà Nội.

Ngày hôm sau, chủ nhật, tôi đóng cửa lại, tập trung suy nghĩ vạch các phương án để triển khai hành lang. Tôi tính đi tính lại, lập ba phương án, chọn phương án tối ưu. Phá đi lập lại, đến 16 giờ mới xong, đầu óc thư thái, tôi đạp xe vào cơ quan tâm sự với anh Nam Thắng và gọi điện thoại báo cáo với anh Vịnh - "Tôi đã về, xin anh thu xếp cho để sáng thứ hai trực tiếp báo cáo với anh về phương án triển khai nhiệm vụ".

Đúng 21 giờ tối hôm ấy, tôi tự lái xe đến nhà riêng anh Vịnh, thấy trước nhà đèn sáng, anh đứng ngoài hiên, tôi bước vào, anh ấy ôm tôi:

- Qua 50 tiếng đồng hồ của cuộc hành trình, gặp lại nhau, tình cảm càng đậm đà phải không anh. Sáng nay anh Lương đã gặp tôi trong điện thoại rồi - Anh dắt tôi vào nhà khách - Mời anh ngồi, uống nước, hút thuốc rồi chúng ta sẽ bàn việc.

Qua mấy câu hỏi han việc đi đường, anh đưa tôi vào phòng làm việc, đóng cửa cẩn thận, không cho người nhà đến gần.

- Tình hình nắm được thế nào, phương án chuẩn bị ra sao, xin anh cứ phát đi.

Anh Vịnh mở đầu vui vẻ như thế khiến cho tôi càng hồ hởi. Tôi báo cáo kỹ tình hình địch ở phía nam giới tuyến, tình hình đường dây Thống nhất của Trị Thiên, Khu 5 và Tây Nguyên, kể cả yêu cầu của các chiến trường. Trên cơ sở đó tôi trình bày ba phương án triển khai xây dựng hành lang... Anh Vịnh điềm tĩnh ngồi nghe, ghi những điểm cần thiết, thỉnh thoảng anh hỏi thêm một số chi tiết. Tấm bản đồ trải rộng trên chiếc bàn lớn, anh dán mắt nhìn vào bản đồ để tiếp nhận ý kiến báo cáo của tôi một cách chăm chú. Sau khi nghe tôi trình bày xong, anh thư thả nói:

- Qua báo cáo của anh, tôi thấy vấn đề nổi lên là khâu tổ chức chỉ huy vượt giới tuyến, vượt sông Cam Lộ và đường 9, nơi địch đang ra sức tạo lập hàng rào điện tử Mắc-na-ma-ra. Nếu đi qua 1-2 lần rồi ngừng thì dễ, nhưng thành tuyến hành lang lưu thông thường xuyên là một vấn đề hết sức khó khăn phức tạp. Bộ Chính trị và Bác Hồ luôn suy nghĩ điều đó, bởi pháp lý Hiệp định Giơ-ne-vơ ràng buộc ta dữ lắm. Nó là chỗ dựa cho kẻ thù ngăn phá và tố cáo ta trước dư luận quốc tế.

Khi đã khai thông được giới tuyến thì việc hoạt động, ăn ở, bảo vệ thế nào, để đảm bảo mạch máu được thông suốt thường xuyên, tránh được những trục trặc là điều ta phải bàn rất kỹ. Vì địch không bao giờ để cho chúng ta yên đâu. Tôi nêu ra điều đó để anh suy nghĩ chọn cách làm tốt nhất của ta. Còn văn bản về các phương án anh đưa hết cho tôi, tôi nghiên cứu thêm, sẽ trình bày với Thường trực Quân ủy phê chuẩn. Là vấn đề lớn, dù khẩn trương đến mức nào cũng phải mất 2 - 3 ngày mới thông qua được.

Ngoài ra tôi thấy việc cấp thiết là anh phải có lực lượng, phương tiện tối thiểu trong tay, mới có thể múa may được. Tôi đã định giao cho anh nhà số 63 đường Lý Nam Đế, rộng khoảng 1.500m2 để làm trụ sở cơ quan đơn vị ban đầu. Trang bị cho đơn vị anh 3 tổ vô tuyến điện 15W, 3 tổ cơ yếu, 4 chiếc máy bộ đàm liên lạc cự ly ngắn, để chỉ huy khâu vượt giới tuyến. Việc trang bị phương tiện công tác, trang bị nội thất, tôi đã bàn với các anh bên Bộ Tổng Tham mưu và Tổng cục Hậu cần, anh trực tiếp làm việc cụ thể với các anh ấy.

Ngừng một chút, anh Vịnh nói tiếp:

- Về điều động cán bộ giúp việc cho anh, tôi đã bàn với anh Lê Quang Đạo, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị và anh Thìn, anh Trần Hoài Ân ở Cục Cán bộ, sẽ điều cho anh 5-7 cán bộ giúp việc. Không cầu toàn cấp bậc, miễn anh em đó còn trẻ, có khả năng làm được việc, anh đào tạo họ sau này trở thành những cán bộ chủ chốt trong các cơ quan Tham mưu, Chính trị, Hậu cần của đơn vị. Còn điều động lực lượng, lúc đầu ta dùng lực lượng giao liên cỡ khoảng 1 tiểu đoàn. Tôi đã bàn với anh Lê Đức Anh sẽ chọn ở các đơn vị của Quân khu 5 ở Sư đoàn 305. Anh Lê Đức Anh đã bàn với anh Châu - Sư đoàn trưởng và anh Đường - Chính ủy 305 rồi. Họ là quân của địa phương các anh cũ. Chắc anh và họ biết nhau cả. Anh phải lên đó cùng với sư đoàn mà chọn quân, chọn cán cho thích hợp với yêu cầu sử dụng của mình.

Ở đây tôi nhắc lại là mọi trang bị vũ khí, khí tài, phương tiện nên lấy chiến lợi phẩm thời chống Pháp còn lại, tránh sử dụng các loại nhãn hiệu sản xuất từ miền Bắc và phe xã hội chủ nghĩa. Các anh bên Tổng cục Hậu cần có kinh nghiệm về việc này, anh nên bàn kỹ với các anh ấy. Mọi việc cụ thể, để sơ xuất, kẻ thù lấy được gây nên chuyện phức tạp đấy.

Khi anh đã có quân, có cán, có phương tiện thì vần đề bức thiết là phải hình thành tổ chức, về cơ quan phân công mỗi cơ quan 3-4 đồng chí, có người phụ trách, về tổ chức Đảng, chưa có Đảng ủy, nên thành lập Ban Cán sự Đảng, tổ chức 3 chi bộ trong 3 cơ quan. Về cơ quan hành chính nên rất nhẹ nhàng. Mọi việc ấy chỗ anh Song Hào - Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, anh Huỳnh Đắc Hương - Cục trưởng Cục Tổ chức, anh Thìn - Cục trưởng Cục Cán bộ, đã chuẩn bị cho anh cả rồi, anh trực tiếp làm việc với các anh ấy. Ở đây, tôi xin lưu ý với anh: một đơn vị, cơ quan làm nhiệm vụ tuyệt mật hết sức cẩn thận trong việc chọn người giao việc. Lãnh đạo, chỉ huy phải quản lý chặt chẽ ngay từ đầu. Các anh trong Thường trực Quân ủy luôn căn dặn, nhắc nhở chúng ta việc quản lý nội bộ, bảo đảm bí mật quân sự. Tuyệt đối không để lộ liễu tùa lua ra tại Thủ đô, là nguy hại lắm đó...


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Mười Một, 2016, 08:50:43 am

Tôi ngồi nghe anh Vịnh sắp đặt mọi việc mà mừng thầm, cấp trên đã tính trước cho mình mọi việc. Có việc chính mình chưa nghĩ đến. Nhân đó tôi đề nghị Bộ cho tôi một cán bộ, cấp phó.

Anh Vịnh chấp thuận ngay và nói:

- Anh xem ai có khả năng giúp anh được, anh phát hiện, Bộ sẽ điều cho anh.

- Xin anh cho tôi anh Nguyễn Thạnh, một đồng chí lão thành trung thực, chín chắn, tận tụy. Anh ấy đã chuyển ngành công tác ở Nông trường Đồng Giao - Ninh Bình.

- Tôi biết anh ấy đấy, lúc này dùng đồng chí như vậy tin cậy lắm.

Anh Vịnh vừa đáp lại tôi, vừa gọi điện thoại trao đổi ý kiến với anh Song Hào - Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Khi đặt máy xuống với vẻ mặt tươi cười, anh nói: Anh Song Hào biết anh Thạnh nhiều, anh ấy nhất trí ngay, sẽ điều gấp về giúp anh. Anh còn vấn đề gì cần đề xuất thêm nữa không?

- Các anh định mọi việc cho tôi như vậy quý quá rồi. Khi bắt tay vào công việc, thấy cần gì sẽ xin. Khi nào Quân ủy thông qua các phương án anh báo cho sớm, để thực hiện.

Tôi đứng dậy, xin phép ra về, để lo công việc.

Anh Vịnh cầm tay tôi, cùng đi ra trước hiên nhà và nói:

- Chúng ta già đời làm cách mạng, chưa thấy lúc nào kẻ thù ép ta vào thế khó như lúc này. Cách mạng thế giới đang phát sinh những vấn đề phức tạp. Kẻ thù lợi dụng phản kích lại ta quyết liệt. Chính Bác Hồ và Bộ Chính trị Đảng ta rất đau đầu về điều đó. Chúng ta phải ráng sức mà chống chèo, góp sức với dân, với Đảng chiến thắng trong cuộc đối đầu lịch sử này.

- Anh yên tâm, tù ngục của đế quốc đã khắc sâu vào gan óc của chúng ta, thề muôn đời muôn kiếp không đội trời chung với chúng.

Tự nhiên hai chúng tôi ôm nhau, bắt tay tạm biệt.

Những ngày sau, tôi tự lái xe đến từng cơ quan bàn riêng với các đồng chí có trách nhiệm. Đi đến đâu các đồng chí cũng giúp đỡ một cách cởi mở, ủng hộ một cách nhiệt tình, giúp cho tôi được nhiều việc thuận lợi.

Đến ngày thứ ba, Cục Cán bộ đã điều về chỗ tôi đồng chí thượng úy Tâm, quê ở Nghệ Tĩnh. Người thứ hai là đồng chí Thường, quê ở Quảng Ngãi làm trợ lý tài vụ. Người thứ ba là thượng úy Chuân quê ở Thừa Thiên làm trợ lý quân nhu. Người thứ tư là đồng chí đại úy Nguyễn Chương, quê ở Đà Nẵng làm trợ lý bảo vệ. Người thứ sáu là trung úy Đoàn, cán bộ kỹ thuật ô tô. Người thứ bảy là đồng chí Linh quê ở Quảng Nam làm trợ lý quân khí và hai trợ lý đóng gói bao bì vũ khí, khí tài.

Được chừng ấy, tuy ít song tôi mừng quá, bởi có thêm tay chân giúp tôi để xoay xở công việc đang phôi thai.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Mười Một, 2016, 08:51:52 am

Tối hôm ấy anh Vịnh gọi tôi đến nhà riêng của anh để bàn việc. Thấy bóng tôi đến, anh đi nhanh ra, mừng rỡ bắt tay tôi, dắt vào nhà khách. Sau tuần trà thuốc, anh vào đề ngay:

- Đây, phương án của anh đã được Thường trực Quân ủy duyệt rồi. Anh Nguyễn Chí Thanh ghi rất kỹ ý kiến dặn dò của lãnh đạo.

Tôi nhìn vào thấy những dòng chữ bằng bút bi đỏ, sửa chữa, cắt bỏ, bổ sung phương án thứ nhất. Còn hai phương án khác có ghi: ta chuẩn bị khi có điều kiện sẽ tiến lên theo phương án ấy. Còn có ghi lời căn dặn của Thường trực Quân ủy: Hành lang của Trung ương làm từng bước vững chắc, từ nhỏ đến lớn, từ vươn tới một đoạn ngắn đến phát triển càng sâu vào các chiến trường. Lúc đầu vận tải bằng phương thức thô sơ, ráo riết chuẩn bị về đường và phương tiện để tiến lên cơ giới hóa, khi tình thế đến. Hành động với nỗ lực cao, song không được vội vàng, phải giữ bí mật từ hậu phương cho tới phía trước. Những ý đồ ấy, có lẽ là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của Trung ương Đảng từ nay về sau.

Sau khi trao phương án được duyệt, anh Vịnh nói: bây giờ ta làm đến mức đó, tùy tình hình chúng ta sẽ cố vươn xa hơn. Lúc đường của các anh đã đến Nam Bộ, may ra tôi được Trung ương điều vào Nam chiến đấu thì thích thú lắm.

Tâm tình giũa chúng tôi không muốn dứt, nhưng vì công việc cấp bách, tôi đành đứng dậy bắt tay anh Vịnh xin phép về để chuẩn bị đi Sư đoàn 305 lấy quân.

- Ấn kiếm đã trao cho anh rồi, mặc sức mà tung hoành nhưng phải chú ý giữ gìn sức khoẻ nghe - anh Vịnh dặn dò.

Ngày hôm sau tôi cùng đồng chí Tâm đi lên Sư đoàn 305, được sự giúp đỡ tận tình của anh Châu và anh Đường, sau 3 ngày đã chọn được 440 cán bộ, chiến sĩ. Việc chọn người vào Nam chiến đấu, thực sự là một cuộc chọn mặt gửi vàng. Có anh em vốn người miền Nam, còn trẻ chưa có gia đình lại khéo léo từ chối, có người có gia đình, có đến 3 đứa con lại xung phong tình nguyện. Có khá đông đồng chí trên 30-40 tuổi lại hăng hái xung phong. Nhưng có đồng chí trong kháng chiến chống Pháp chiến đấu dũng cảm được thưởng huân chương, bây giờ lại tỏ ra do dự, v.v. Qua công tác này đã giúp cho chúng ta một bài học là lúc dầu sôi lửa bỏng mới tỏ rõ được chí khí của mỗi người.

Tôi và Tâm phải trực tiếp gặp từng người như đi coi mắt vậy. Người hăng hái nhiệt tình bắt tay, nhìn mặt là đã hiện rõ những điểm son tốt lành. Khi chọn xong, chúng tôi tổ chức thành một tiểu đoàn, lấy phiên hiệu là Tiểu đoàn 301 do đại úy Chu Đăng Chữ quê Nghệ An, trong chống Pháp chiến đấu ở Khu 5 làm tiểu đoàn trưởng. Đây là một đồng chí thật thà, cương quyết trong nhiệm vụ, có thể lực mạnh khỏe, lại rất dễ mến. Đồng chí đại úy Nguyễn Danh ở Quảng Ngãi là chính trị viên huyện đội trong chống Pháp, điềm đạm, trầm tĩnh làm chính trị viên. Tôi gặp hai đồng chí động viên: các đồng chí là hai người con của hai tỉnh kết nghĩa, đều mang truyền thống chiến đấu vẻ vang của cha ông, phải gắn bó với nhau, dẫn đầu đơn vị mở đường về Nam đánh giặc Mỹ.

Những ngày tập hợp trên 400 anh em lại, chúng tôi cùng sống với họ, cảm thấy trong họ sự hồ hởi khó tả. Nhiều anh em có gia đình trong khu trú quân, ở các địa phương gần vẫn vui vẻ chấp hành ý định giữ bí mật, không gặp người nhà trước khi đi chiến trường.

Khi hành quân về Hà Nội vào Quảng Bình, lúc xe chạy qua các địa phương, trên đường số 1 nhiều anh em thấy vợ con, cha mẹ, anh em ruột thịt mà kiềm chế tình cảm, không vẫy gọi, theo tôi nghĩ đó là một bước thử thách lớn đầu tiên đối với con người.

Tôi họp anh em lại, bốn ngày chuẩn bị và giải quyết mọi việc là tổ chức hành quân ngay vào Quảng Bình trên 15 xe vận tải bịt kín mui...".

Anh Bẩm kể đến đây là lúc xe vào thành phố Vinh, câu chuyện tạm dừng. Xe vào trạm giao liên ở Vinh do anh Ngọc người Quảng Ngãi phụ trách.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Mười Một, 2016, 08:52:43 am

Đến đây, tắm giặt và nghỉ ngơi một lúc, anh Bẩm dẫn chúng tôi đi thăm khách trong Nam mới ra.

Chúng tôi đến thăm từng phòng khách. Hôm ấy khách không đông lắm, chưa quá 40 người, phần lớn là người Trị Thiên và các tỉnh Khu 5. Anh Bẩm và tôi đến thăm các ông cụ, anh em thương binh. Hường thăm chị em, các cháu thiếu niên. Họ biết chúng tôi là người miền Nam, tự nhiên trở thành thân ái cởi mở ngay. Anh Bẩm biếu thuốc lá cho các cụ và anh em, Hường biếu kẹo cho chị em và các cháu. Tôi tưởng như được sống với đồng bào ở quê hương. Qua câu chuyện của từng người, không có người nào là không có nợ máu với Mỹ - ngụy. Nhiều người đã bị địch bắt, bị tù đày tra tấn, có một số cụ già và các cháu nhỏ mà trên cơ thể còn mang những vết thương do kẻ thù gây ra. Họ kể tội ác của Mỹ - ngụy trong các cuộc "tố Cộng'’, trong các vụ càn quét, tàn sát. Chúng tôi nghe, tuy lòng hận thù sôi lên nhưng vẫn cố giữ bình tĩnh. Riêng Hường đôi mắt đỏ hoe, thường theo các chị, các cháu để nghe chuyện, động viên an ủi chị em và các cháu bị thương tật. Nhìn vẻ mặt và phong thái của Hường hiện lên hình ảnh một trí thức yêu nước ít có, khiến cho tôi rất mến phục.

Ngày sau chúng tôi ra đi tiếp. Xe qua thành phố Vinh, tôi xin anh Bẩm tiếp tục câu chuyện. Anh kể tiếp:

"Tôi đi từ Sư đoàn 305 về đã gặp anh Thạnh được điều về giúp tôi. Anh em vừa gặp nhau mừng rỡ thì có công văn đưa đến. Tôi mở ra xem thì đó là quyết định của Thường trực Quân ủy, về việc tổ chức một Đảng bộ làm nhiệm vụ đặc biệt, chỉ định Ban cán sự Đảng lâm thời, do tôi làm bí thư, anh Thạnh và anh Chương - trợ lý bảo vệ làm ủy viên. Tôi đọc lớn cho anh Thạnh cùng nghe. Đọc xong tôi nói nhỏ: Đảng đã trao cờ thì chúng ta ra sức làm nghe "anh già" - Tôi vỗ vai anh Thạnh, hai anh em đều cười.

Ngày hôm ấy tôi bàn công việc ngay với anh Thạnh, để anh ấy ở nhà trực chỉ huy. Sáng hôm sau, tôi, Tâm, Chuẩn lên xe đi vào Đồng Hới ngay để nhờ Sư đoàn 325 và Tỉnh đội Quảng Bình giúp cho lán trại trú quân tạm thời của Tiểu đoàn 301 để học tập tình hình nhiệm vụ, xây dựng quyết tâm và trang bị mọi nhu cầu, bắt đầu công việc xoi đường, vượt giới tuyến, triển khai hành lang.

Đến 5 giờ sáng tôi đến cơ quan Tỉnh đội 2B. Có anh Sự, chỉ huy trưởng yà anh Quách Sĩ Kha, Chính ủy Sư đoàn 325 ở đó. Tôi trình bày các yêu cầu, xin các anh giúp đỡ. Các anh rất nhiệt tình hứa sẽ huy động đơn vị giúp.

- Việc chuẩn bị lán trại cho 500 quân ở trong vòng hai tuần không khó, việc cấp phát lương thực thực phẩm cho chừng ấy quân chúng tôi sẽ sẵn sàng giúp anh. Nhưng anh phải chốt lại đây một cán bộ, liên hệ chặt chẽ với cơ quan của tỉnh đội, để giúp anh cho đạt được yêu cầu. - Anh Sự nói.

Anh Kha nói thêm: Việc bảo đảm bí mật chúng tôi sẽ bàn với bên công an có kế hoạch giúp các anh và chúng tôi cũng giáo dục quân của chúng tôi thực hiện. Nhưng trước hết đơn vị các anh phải quản lý, giữ gìn chặt chẽ nghiêm ngặt, có khi từ đơn vị các anh làm lộ trước.

- Vâng, tất nhiên chúng tôi phải lo, song trong tay tôi chỉ có không quá 10 cán bộ khung, trăm sự nhờ các anh buổi đầu - tôi đáp lời các anh ấy.

Rồi tôi và Tâm lên đường ngay đi vào Vĩnh Linh gặp anh Thản và anh Hành. Gặp các anh ấy, tôi trao đổi với các anh chọn điểm làm căn cứ, làm bàn đạp để triển khai hành lang. Các anh nhất trí chọn Khe Hó ở Hướng Hóa. Anh Hành cùng tôi đến đó ngay. Để giữ bí mật, đến đây, đối với các cấp ủy, chính quyền các cấp ở địa phương đến công tác chúng tôi nói là đến xem địa hình, địa thế để xây dựng nông trường của Quân đội. Vì chính tôi là Cục phó sản xuất của Tổng cục Hậu cần.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Mười Một, 2016, 11:37:40 pm

Suốt ngày 26 - 27 tháng 5 năm ấy, nhờ các đồng chí địa phương giúp đỡ dẫn dắt, chúng tôi lội xem khắp vùng, đến tuyên truyền vùng này sẽ xây dựng nông trường để nghi trang đánh lạc hướng theo dõi của địch.

Sau khi xem, chúng tôi vẽ sơ đồ, thấy khu vực này có thế tốt, có đường cho xe ô tô có thể tải hàng đến, có đồi núi thoai thoải và thung lũng trú quân, tăng gia sản xuất, có nông trường, lâm trường của Tỉnh, quân ta ở chen lẫn vào đây, với danh nghĩa nói trên chắc không ai ngờ.

Ngày 28 tháng 5 chúng tôi trở về ngay Bang ở tây nam thị trấn Đồng Hới để tiếp đón Đoàn 301 vào, tổ chức học tập tình hình nhiệm vụ, chuẩn bị triển khai tuyến giao liên vượt giới tuyến. Việc làm này không có gì đáng kể.

Tôi chỉ kể cho các đồng chí nghe chuyện Đoàn 301 xoi đường qua giới tuyến là chuyện mò mẫm gian nan nhất.

Tại sao ở mặt trận Trị Thiên các đồng chí tổ chức vận tải và hành quân qua lại giới tuyến từ trước đến nay được. Bây giờ ta làm lại khó.

Vì các đồng chí làm nhỏ lẻ, mỗi ngày đi qua 5-3 người, ít gùi hàng, có khi cả tháng, đi qua lại mấy lần rồi ngưng nghỉ, xóa sạch dấu vết, thế mà có lúc bị lộ, bị địch đánh phá, gây tổn thất cho ta, năm nào cũng có. Khi cần đánh ở đâu, các đồng chí cho quân ém địch, để ta vận tải và hành quân vượt giới tuyến. Bởi Hiệp định Giơ-ne-vơ đã quy định ở hai bên giới tuyến có khu phi quân sự. Ai vượt qua khu vực ấy xem như vi phạm hiệp định. Giống như vòng Kim Cô buộc trên đầu Tôn Ngộ Không vậy.

Còn yêu cầu tuyến vận tải quân sự chiến lược lúc này, phải làm với quy mô lớn hơn, bảo đảm thường xuyên liên tục, đòi hỏi của cách mạng miền Nam phải có sự chi viện của miền Bắc như suối nước không thể để cạn nguồn.

Tôi nói các đồng chí rõ việc địch bố trí lực lượng bảo vệ, ngăn chặn ở giới tuyến: từ Đông Hà đến Lao Bảo - Huội San ở Lào, nơi biên giới Việt - Lào, là một hệ thống đồn bốt dày đặc. Chúng đóng 1 trung đoàn ngụy cơ động Sa Mưu. Quân đồn trú thường xuyên sục sạo dọc giới tuyến. Trên không, các loại máy bay trinh sát ngày nào cũng bay thấp quần thảo khắp vùng, để phát hiện dấu vết xâm nhập giới tuyến. Chúng còn có lực lượng mật vụ, thám báo nằm vùng, âm thầm theo dõi chặt chẽ sự thâm nhập của ta. Phát hiện nghi ngờ chỗ nào là chúng cho hành quân truy lùng ráo riết, chỉ một tàn thuốc lá, mảnh giấy rơi hay là dấu chân người là chúng sục sạo ngay. Việc xâm nhập của quân ta ở mặt trận Trị - Thiên có nơi, có lúc đã phải trả một giá khá đắt.

Tôi và các đồng chí chỉ huy Đoàn 301 bám ở giới tuyến vùng nam Khe Hó hàng chục ngày trời. Đồng chí Chu Đăng Chữ, tiểu đoàn trưởng. Đồng chí Diệm - tiểu đoàn phó; đồng chí Nhỏ Nhận, Hồ Sĩ Bơi, ở đội trinh sát; Hà Kỳ Thự, Trần Cảnh trợ lý xoi đường, mặc quần áo cộc phơi mình dưới nắng hanh, hay sương gió về đêm, dò dẫm qua núi đá, qua đường 9, ngâm mình dưới sông hàng chục ngày đêm, để tìm hướng vượt giới tuyến an toàn nhất. Các đồng chí đột vào chỗ này thấy không bảo đảm, lại đột vào hướng khác. Với chiếc ba lô, thực phẩm khô, bi đông nước, các đồng chí kiên trì làm việc đó ngày này sang ngày khác. Trông ai cũng gầy còm hốc hác hẳn đi. Khi lặn lội như thế chỉ một sơ xuất nhỏ, có khi "có đi không có về", hoặc bị rơi ngay vào tay địch. Chỉ nhìn anh em, tôi tin sớm muộn gì họ cũng thành công. Đến ngày thứ 15 anh em trở về, nhìn thấy anh em lúc này mà tôi cảm thương đến rơi nước mắt. Anh em báo cáo 4 điểm được chọn, tôi đưa ra cho anh em thảo luận, để tập thể xác định. Cuối cùng nhất trí chọn điểm vượt qua trước đồn Rào Quán của địch cách 500 mét là tốt hơn cả. Bởi ở đó phía bắc có địa hình che khuất, có những khe nhỏ, chạy sát đường 9, ta dễ ẩn, để luồn cống qua đường 9. Ta đi qua mũi kẻ thù, mới nghe thấy nguy hiểm, song là điểm bất ngờ đối với địch, nơi đó địch chủ quan dễ sơ hở nhất, bảo đảm an toàn cho ta.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Mười Một, 2016, 11:38:28 pm

Khi đã chọn, càng nghĩ, càng thấy anh em ta gan dạ thật, dám mò đến tận sào huyệt của kẻ thù, tìm ra chỗ hở, chỗ yếu mà tìm hướng hành động, vừa táo bạo, vừa chính xác, bảo đảm chắc thắng.

Sau mấy ngày, nhiều đồng chí trong số đi xoi đường bị ngã sốt rét nằm liệt, phải lo cứu chữa, nuôi dưỡng.

Khi chọn được điểm vượt rồi, hai ngày sau Quân khu 4 cho 2 xe chở một số trinh sát vào ngay cho Đoàn 559 theo lệnh của Bộ Tổng Tham mưu. Phần lớn anh em quê ở miền Nam đặt dưới quyền chỉ huy của đồng chí Nhỏ Nhận, đội trưởng. Đồng chí Xu, đội phó đã vào trước.

Tôi cho bố trí chốt đội trinh sát ở điểm vượt giới tuyến ngay ở phía nam 1 tiểu đội, phía bắc 1 tiểu đội, còn 1 tiểu đội đi cùng để bảo vệ các chuyến vận tải và hành quân qua giới tuyến. Mỗi ngày 24/24 giờ họ phải bám chặt mọi hoạt động ở mặt đất và trên không của địch.

Về ban đêm, chốt trinh sát phải phát hiện cho được các tổ chức phục kích, sục sạo của địch, nhất là các máy bay trinh sát, để phán đoán âm mưu của chúng. Chập choạng tối là bám hai bến đường bờ Nam, bờ Bắc, báo hiệu an toàn cho lực lượng ta vận tải và hành quân vượt qua giới tuyến, qua sông, qua đường 9. Cách báo hiệu bằng tiếng chim kêu. Mỗi đêm quân ta đi qua và đi về xong là các tiểu đội trinh sát xóa hết vết chân, những tang vật khác đào cát chôn dấu thuyền thúng dùng để vượt sông. Ta qua giới tuyến không hút thuốc, không gây tiếng ồn, là những việc làm tưởng như rất đơn giản, song anh em phải làm với tinh thần trách nhiệm rất cao, cẩn thận, tỉ mỉ, kiên trì hết ngày nọ sang ngày kia. Để một sơ xuất nhỏ, phải đổi bằng xương máu. Đồng chí Xu là đội phó trinh sát vì một sơ xuất nhỏ đã trúng đạn của địch và hy sinh tại đó. Mấy ngày sau, thượng sĩ Trần Văn Tương bị địch bắt, chúng tra tấn anh đến chết mà anh vẫn không khai báo. Danh bia các liệt sĩ anh hùng ấy còn lưu lại mãi mãi nơi điểm mốc lịch sử này.

Trong công cuộc vận tải hành quân vượt giới tuyến ấy, chúng tôi coi đội trinh sát là những đôi mắt thần, nhạy hơn điện tử. Nhờ đó, mấy trăm ngày qua, quân ta vượt qua "cửa ải" an toàn mà không để xảy ra tổn thất gì lớn.

Đến nay tình hình đã đổi khác rồi. Còn trước đây mỗi lần qua sông bằng chiếc thuyền thúng, mỗi chiếc đưa được 3 người cả hành lý, mỗi lần qua lại trên sông mất 15 phút, mỗi đêm qua sông 100 người phải đưa 10 chuyến, anh em giao liên phải dầm mình dưới nước ở rừng lạnh buốt xương, muỗi đốt hút máu, vẫn phải mò mẫm, thức trắng đêm thì các đồng chí hình dung sự khó nhọc, gian khổ đến mức nào".

Nghe anh Bẩm kể, tôi và Hường là tân binh chưa quen cửa ngõ của tuyến đường nên xem đây là lời chỉ dẫn trực tiếp sâu sắc đối với chúng tôi.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Mười Một, 2016, 11:39:29 pm

Xe chạy trên đường 18, đến Vít Thù Lù đã hơn 10 giờ. Nắng hanh quá phải dừng xe bên suối để tắm và nấu cơm ăn.

- Suối này cá nhiều lắm! Các đồng chí, ta lấy lưới trong xe ra, tranh thủ đánh bắt cá để cải thiện bữa ăn – anh Bẩm nói thế.

Tôi và Hường chạy xuống suối xem, suối cạn nên nhìn rõ từng đàn cá tung tăng bơi lượn. Khi có ánh nắng loé sáng trông lấp lánh thật đẹp.

Chúng tôi phân công nhau, Tung lái xe, tôi và Hường đi đánh cá, cũng là tập cách kiếm sống trên con đường sau này.

Tôi mang lưới ra, anh Bẩm chỉ vẽ cụ thể cho chúng tôi cách bủa lưới, cách bắt cá trong lưới dưới nước, bảo đảm khỏi rách lưới, cách cuốn và xâu lưới, rửa lưới. Càng nghe càng thích thú, thấy trong cuộc sống mình nhiều việc còn bỡ ngỡ.

Sau đó, tôi và Hường đi bủa lưới, chì vừa chấm đất, chưa kịp chằn chân chì, từng đàn cá lao ngược nước, mắc lưới quậy dẫy trông sáng nước thích quá. Bỗng có một con cá trâu to cỡ hàng ký lao ngược nước, phóng vào lưới, bị lưới quấn, đang quậy dẫy. Tôi chạy vào xe lấy khẩu tiểu liên ra nhắm vào con cá nổ mấy viên, con cá hoảng hốt, xé lưới chạy. Nghe súng nổ anh Bẩm ở phía dưới nguồn nước, đang đập nước cho cá chạy, vội gọi hỏi. Anh chạy đến, tôi báo cáo sự việc.

- Dốt ơi là dốt, vừa hỏng ăn, lại phạm kỷ luật nữa chứ, súng tiểu liên bắn tà âm 15 độ xuống nước làm sao giết được cá. Về sau đừng làm dại thế nữa cậu em nhé - Anh phê bình.

Chúng tôi đứng nhìn lưới. Lại có một con cá bọp nặng khoảng 2 ký, chạy ngược nước phóng vào lưới. Cô Hường thấy, lao xuống suối nhanh như chớp, ôm con cá đang quậy trong lưới - lần này em không thoát khỏi tay chị đâu. Tôi nghe Hường nói rất buồn cười. Tôi chạy đến bóp vào đầu con cá, để nó khỏi quẫy tuột đi. Hường gỡ nó khỏi lưới giơ cao con cá reo mừng.

Tranh thủ lúc dừng chân, chúng tôi vừa nấu cơm, vừa tắm, vừa săn bắt được nhiều cá. Thật là thú vị!

Sau bữa cơm, cá còn lại trên 4 - 5 ký (không kể con cá bọp) cho vào thau đưa lên xe. Xe chạy qua ngầm suối Ho thấy cá bơi lượn dưới suối nhiều quá ai cũng trầm trồ.

- Không biết suối này có chảy ra suối Vít Thù Lù không?

- Hai suối chảy ra sông Long Đại ở huyện Lệ Thủy. Cũng giống như sông Cam Lộ và sông Bến Hải xuôi về sông Thạch Hãn chảy về Cửa Việt của quê cô vậy - Anh Bẩm đáp lại Hường.

Xe chạy vào lòng chảo làng Ho, - anh Bẩm nói - các đồng chí hãy quan sát kỹ và nghĩ xem nơi đây đang diễn ra điều gì trong cuộc đối đầu giữa ta và bọn xâm lược Mỹ.

Tiện đây tôi nói cho các đồng chí biết thêm về làng Ho. Trước kia, có lẽ là một bản của đồng bào dân tộc ít người. Không biết vì sao họ chạy đi đâu hết, vùng này trở nên hoang vu. Ở đây là một thung lũng rộng khoảng 10 kilômét vuông. Có đường mòn đi thông vào đường 9, có đường vào sông Cam Lộ, hay đi sang Huội San đất Nam Lào. Con suối nhỏ ta vừa đi qua là suối Bo, suối nhỏ nhưng thông qua các con sông lớn. Suối này tuy cạn nhưng khoảng cách chừng 100 - 200 mét có những hục nước sâu 5 - 7 mét, có hang đá ăn sâu vào núi là nơi hội tụ, sinh sản cá nước ngọt.

Mùa khô nước cạn, chỉ còn trên dưới 1 mét chiều sâu, đã trông thấy cá vờn đặc nước. Dường như tạo hóa đã sắp sẵn nơi đây là cửa khẩu đường Hồ Chí Minh cho cả nước ra quân đánh giặc Mỹ.

Anh Bẩm nói đến đó, xe đã chạy đến sân của cơ quan Trung đoàn 70: Anh Chữ, anh Danh chạy ra ôm anh Bẩm, vui mừng và bắt tay chào hỏi chúng tôi.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Mười Một, 2016, 11:40:14 pm

Các anh đưa chúng tôi vào nhà khách. Anh Bẩm ra hiệu cho cô Hường ra xe lấy quà vào tặng cơ quan trung đoàn.

Hường mang chiếc xô vào, các anh giở ra xem toàn là cá tươi trắng tinh.

- Các anh đánh cá ở đâu được nhiều thế? - Anh Danh hỏi.

- Chúng tôi đanh ở suối Vít Thù Lù đấy. Suối Ho các đồng chí nhiều cá lắm, các đồng chí có bắt được để ăn không? - Bị anh Bẩm gõ vào chỗ yếu, các anh nhìn nhau cười - Chúng tôi chưa bắt được cá đâu anh, anh Chữ trả lời thật thà như thế.

- Vậy thì chúng tôi xin biếu các đồng chí cá tươi, ăn để nhớ, ráng làm mà cải thiện đời sống. - Anh Bẩm nói đùa với các đồng chí.

Rồi anh Bẩm nghiêm nghị nói:

- Chúng tôi vào đây trao đổi tình hình với các đồng chí ngày 22 - 23, sáng ngày 24 tháng 6 sẽ đi vào kiểm tra các trạm trên tuyến. Trung đoàn nên có người đi để cùng nhau làm việc đó.

Chiều ngày 23 rảnh việc, tôi và Hường đi theo anh em đơn vị học đánh lưới bắt cá, rúc rừng tìm rau, bắn chim, để quen dần với cuộc sống trên Trường Sơn và chuẩn bị thực phẩm để đi vào hành lang.

Ba giờ sáng ngày 24 Hường được phân công chăm lo đời sống và sức khỏe cho đoàn đi công tác. Cô nấu cho mỗi người một bát phở bằng mì khô Trung Quốc với thịt nai phơi khô, chiên cá để ăn với bánh tráng nước. Nấu nước sôi để nguội rót vào bi đông cho mỗi người. Công phu nhất là cô nấu xôi đậu, chiên 20 con cu đất chuẩn bị bữa ăn trưa cho mỗi người trên đường.

Anh Bẩm đi kiểm tra việc xếp ba lô của từng người, anh thấy tôi và Hường chưa biết xếp ba lô (chúng tôi xếp thành hình khối tròn), anh nói xếp cách này mang đi tức lưng, anh chỉ vẽ cách xếp thành hình vuông thẳng đứng để mang chiếc ba lô ôm chặt vào lưng êm ái mới đi xa được. Chúng tôi bắt đầu học từng chi tiết cuộc sống trên chiến trường.

Hường vừa xếp ba lô vừa đưa mắt nhìn tôi xếp, chúm chím cười.

Anh Bẩm đi xem việc chuẩn bị nước, thức ăn sáng, ăn trưa. Anh rất khen Hường, vì thịt nai phơi khô, cô chế biến mềm như thịt tươi, cô vắt xôi, chiên cu đất thơm phức, bỏ vào các túi ni lông gọn gàng tươm tất, bảo đảm vệ sinh. - "Cô em dễ thích nghi với cuộc sống trên đường đấy", - anh Bẩm nói thế.

Sau bữa ăn sáng, chúng tôi nhận bi đông nước, xôi, thức ăn trưa, chuẩn bị lên đường. Sáu giờ, chúng tôi đi chào, chia tay các đồng chí thủ trưởng, cán bộ của cơ quan Trung đoàn. Anh Danh, thủ trưởng Trung đoàn, đồng chí Liễu trợ lý tổ chức cùng đi.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Mười Một, 2016, 11:41:01 pm

Cuộc hành trình vượt Trường Sơn bắt đầu. Tôi và Hường rất lo, cả cuộc đời chưa lần nào mang nặng vượt đèo, dốc trên rừng núi hàng chục cây số đâu. Đi 1 tiếng đồng hồ là đến trạm 1, trạm đầu cầu, đồng chí Hiền quê ở tỉnh Phú Yên làm đội trưởng. Đồng chí Tứ quê ở Quảng Nam làm chính trị viên, mới 40 tuổi, đã có nhiều râu, nên thường gọi là "Tứ râu". Đoàn dừng lại, kiểm tra ở trạm 1, thế là chúng tôi cụt hứng, tưởng đi xa nên chuẩn bị lo lắng, ai dè chỉ đi một tiếng đồng hồ thôi mà phải chuẩn bị cả một ngày trước.

Theo chương trình, mỗi trạm kiểm tra trong 2 ngày, ngày đầu thâm nhập cuộc sống, gặp gỡ các cán bộ, đảng viên, đoàn viên. Ngày thứ hai tìm hiểu thêm, chuẩn bị nhận xét buổi sáng, buổi chiều họp chi ủy và cán bộ trạm để đoàn kết luận cuộc kiểm tra.

Qua mấy tiếng đồng hồ tìm hiểu, chúng tôi thấy đồng chí Hiền và Tứ là hai cán bộ gương mẫu, nhiệt tình công tác. Hai đồng chí cùng đi gùi hàng với đơn vị, lại gùi nặng đến 50 - 60 ký, hay thồ xe đạp đến 200 ký một chuyến hàng. Nhưng cả hai lại có khuyết điểm gần giống nhau: tính nóng nảy, đôi khi quát tháo chiến sĩ. Đơn vị làm nhiệm vụ vận tải đạt được hiệu suất cao, song đời sống bộ đội kham khổ quá, 6 tháng chi bộ không kết nạp được Đảng viên nào cả.

Chiều ngày 25 anh Bẩm nhận xét, phê bình nghiêm khắc đồng chí Hiền và Tứ, nhất là đối với hành động quân phiệt. Sau khi nhận xét, anh Bẩm đề ra phương hướng và biện pháp khắc phục. Nhận thấy hai đồng chí ấy tỏ ra thấm thía và ân hận với khuyết điểm của mình, nhân đó anh Bẩm quyết định, tối nay họp đại hội quân nhân, để cán bộ đứng ra tự phê bình, lấy ý kiến quần chúng xây dựng cho mình. Cuộc họp có anh Danh, chính ủy trung đoàn cùng dự.

Đến 22 giờ, họp đại hội quân nhân xong, anh Bẩm hỏi đồng chí Hiền và Tứ: "Anh em họ góp ý cho các đồng chí thế nào?". Anh Danh phát biểu thay cho hai đồng chí: "Có tiếp xúc với quần chúng, chúng ta mới hiểu thêm nhiều điều. Cán bộ, chiến sĩ của đơn vị tốt vô vàn trong khi ăn uống kham khổ, mà mỗi ngày ai cũng ráng gùi thồ bảo đảm được chỉ tiêu, một số người mới cắt cơn sốt rét hôm trước, hôm sau đã đi gùi thồ hàng. Trong khi các loại hạt giống rau, lưới đánh cá, lưỡi câu, súng thể thao để trong kho, muối ăn để trong kho cả tấn, thế mà chăn nuôi không làm được gì, rau không có ăn, cá suối Ho nhiều vô kể, chim thú không ít thế mà chẳng làm gì được để cải thiện bữa ăn. Anh em ốm đau ăn cháo trắng, ăn cơm với thịt hộp kho nước lõng bõng, làm sao nuốt được cơm! Hoạt động thể thao, thể dục, thời sự, văn hóa văn nghệ nguội lạnh.

Quần chúng quên mình vì nhiệm vụ mà không chọn đưa được người nào vào Đảng. Nếu lãnh đạo, chỉ huy không sửa đổi nhanh thì đời sống đơn vị sẽ bị tàn lụi, còn sức đâu mà phấn đấu. Tôi yêu cầu các đồng chí lấy muối đi vào vùng sâu, đổi ngay lấy con giống, heo, gà, vịt để nuôi, mỗi ngày phải cử 3 anh nuôi đi sản xuất, chủ yếu là trồng các loại rau quả, đánh cá, săn bắn, làm các việc ấy có hiệu quả nhanh để nâng cao chất lượng từng bữa ăn, đối với người đau ốm phải được chăm sóc nuôi dưỡng chu đáo. Chính trị yiên phải làm hết chức trách của mình, không được buông lỏng các hoạt động về công tác chính trị. Đời sống tinh thần nghèo nàn sẽ dẫn đến việc tiêu cực đối với nhiệm vụ.”

Hai đồng chí nghe anh Danh nói đều xin hứa sửa chữa.

- Vậy là tốt, đã khuya rồi, chúng ta đi nghỉ để mai lên đường - anh Bẩm kết luận.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Mười Một, 2016, 11:36:20 pm

Sáng ngày 16 tháng 6 chúng tôi đi cùng đội gùi thồ hàng vào trạm 2, ai cũng mang nặng trên 40 ký, có chiến sĩ gùi hàng nặng 60-70 ký, gùi hàng cao quá đầu 3 tấc. Còn chở hàng trung bình mỗi xe từ 120 đến 150 ký. Hiền - đội trưởng thồ 200 ký. Chúng tôi cùng đẩy trợ sức xe đạp thồ, tôi đẩy xe giúp Hiền. Khi gùi hàng, đẩy xe thồ qua dốc, qua đèo dưới nắng hanh, mồ hôi tháo ra như tắm. Khi đẩy xe lên dốc ráng hết sức để vượt qua, khi xuống dốc phải ghì thật chặt cho xe lao xuống dốc từ từ, không ghìm xe được xe sẽ lao xuống hố sâu ngay, có khi xảy ra tai nạn. Mỗi ngày như vậy, trên 10 tiếng đồng hồ. Có đến 1/3 quân số xung phong mỗi ngày vận tải 2 chuyến hàng, phải đổ sức ra 14 - 15 tiếng đồng hồ. Có đến tận đây, chứng kiến công việc mới thông cảm hết nỗi khó nhọc của chiến sĩ.

Tôi cùng Hiền đẩy xe, Hiền tâm sự:

- Ngày nào cũng đẩy xe như thế này mệt lắm anh ơi! Song mình có làm mới động viên được anh em. Ta nghe đài, nghe báo, nghe đồng chí trong Nam đi ra kể chuyện địch đàn áp, khủng bố đồng bào ở quê hương, càng nghe lòng mình càng nhức nhối, nên mỗi đêm nằm xuống là mơ thấy quê hương, nên mệt mỏi nó tan biến ngay. Trong mùa khô anh thấy khổ sở thế này. Đến mùa mưa bộ đội gùi thồ càng khốn khổ hơn. Lúc đó bệnh sốt rét tái phát, quần áo luôn đẫm ướt, vắt đất, vắt lá phát triển bám vào bộ đội mà hút máu tươi. Đường trơn như mỡ, quân ta bị ngã, bị trượt, quần áo lấm lem. Có khi còn xảy ra tai nạn. Mỗi năm đến mùa mưa phải chịu đựng như vậy 200 ngày, anh thấy có ngán không.

Khi nào anh đi vào mùa mưa, anh sẽ thấy quân bị sốt rét, vừa cắt cơn sốt là phải lao vào gùi hàng ngay không chờ đến lúc cắt cơn vì có 80 - 90% bị sốt, nếu không làm thì tắt vận tải còn nguy hiểm hơn. Lúc đó, ai cũng bụng ban, da vàng, bị hắc lào, ghẻ lở, trông hình hài anh em thảm thương lắm, song không một ai lùi bước cả. Có yếu cũng mang theo chiếc gậy để vịn vào mà đi gùi thồ. Yếu không tải được nặng thì tải nhẹ. Không ai chịu ngừng nghỉ để quân ta trên chiến trường gặp khó khăn.

Nghe Hiền nói, tôi nghĩ con người được rèn luyện có tâm hồn và ý chí khác thường. Đồng thời lời của Hiền cũng là bài học sâu sắc đối với chính mình, một chiến sĩ mới. Càng nghĩ càng thương các đồng chí mình. Đang mải suy nghĩ thì chiếc xe vừa xuống dốc, tôi và Hiền sơ ý để chiếc xe lao quá đà đổ ngay xuống chiếc cầu cao trên 1m. Cả tôi và Hiền đều ngã theo xe xuống suối cạn, Hiền bị va đá trầy gối chảy máu, tôi bị va đầu vào đá đau nhức nhối. Chúng tôi gượng dậy, vác hàng, vác xe lên đường, buộc lại hàng, chỉnh lại xe, nghỉ một lát rồi lại tiếp tục đẩy xe thồ.

Khi chúng tôi đến điểm trực giao hàng, giao quân cho trạm 2, anh Bẩm thấy tôi và Hiền đến nói:

- Hai cậu bị đổ xe có sao không?

- Bị va nhẹ thôi anh.

Anh Bẩm nói đùa:

- Voi mới bị va chạm sơ, ăn nhằm gì, có bị ngã mới thông cảm hết nỗi cực nhọc của anh em.

Hường lấy thuốc, lấy dầu ra băng bó vết thương cho Hiền, xoa dầu vào vết thương trên đầu của tôi. "Bị thương ở đầu nhớ dai lắm đấy", lời nói của Hường rất thâm thúy.

Hường lấy xuất cơm trưa để phân phát cho từng người. Mấy tiếng đồng hồ leo dốc, rảo người, bụng đói ăn cơm vắt, với mắm cô và thịt chim rán thật ngon lành. Mỗi người lại còn được uống 4 viên tăng lực nên càng tỉnh táo hơn.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Mười Một, 2016, 11:37:33 pm

Chúng tôi đi tiếp 2 đồng hồ nữa thì đến trạm 2. Việc kiểm tra ở đây cũng theo trình tự như trạm 1.

Thấy các bữa ăn ở đây khá tươi, anh Bẩm bảo chúng tôi đi xem anh em làm thế nào được như thế, có phải là nếp sống thường xuyên không, nếu được vậy là điển hình tốt, phải nắm kỹ để viết thành bài học phổ biến cho cả tuyến.

Tôi và Hường tìm đến cơ sở sản xuất của trạm, đi ra sau nhà bếp có một dãy chuồng heo, có nuôi hai heo nái, một nái đã đẻ được 9 con, đã 60 ngày tuổi mập tròn, trông rất đẹp. Ba chuồng nuôi 7 con heo thịt mỗi con ước nặng 70-80 ký. Cách chuồng heo 50 mét là dãy chuồng gà, đàn gà đang ăn ngoài sân ước được trên 80 con lớn nhỏ, có nhiều gà mái đẻ, có 5 ổ gà đang ấp trứng. Đi vào khe cách doanh trại 2 kilômét, thì thấy có bãi trồng rau cạnh khe nước chảy. Có 5 luống cà chua quả chín đỏ ối, phơi đầy giàn trông thật thích mắt. Một vạt rau muống xanh mượt rộng khoảng 300 mét vuông, đến bãi cải trắng, cải xanh sum xuê. Lối sang vườn đồi bên kia có nhiều giàn bầu, giàn bí xanh, bí đỏ có quả dày đặc, thõng xuống dưới giàn. Hường reo lên "Làm được thế này có bữa ăn tươi là đúng rồi". Đẹp nhất là nương khoai mì, nương bắp xanh tươi cao quá đầu người, khiến chúng tôi càng hào hứng.

Xem hết mọi nơi, trên đường về chúng tôi gặp cô Thìn, cô Thủy mang 2 tay lưới và 1 bao cá, xách chim về. Hường hỏi:

- Các đồng chí đánh bắt ở đâu mà được nhiều thế?

- Chị tính xem đơn vị chúng em có 118 người, hằng ngày có thêm khách ngoài Bắc vào, trong Nam ra mấy chục người. Quân đội chỉ cấp một người một ngày 700 gam gạo, 50 gam thịt hộp, một ít muối và bột ngọt thì làm sao có được bữa ăn, bù lại nhiệt lượng đã bị tiêu hao quá lớn. Bởi thế mỗi ngày chúng em phải đi chợ bằng kiểu này, không mất tiền, lại ăn ngon hơn chị ở Hà Nội đấy!

Hai cô ôm lấy Hường mà cười: "Chúng em nghe các anh nói chị 35 tuổi, có hai con, chồng đi chiến đấu xa, chị lại xung phong ra chiến trường mà trông thấy chị vẫn trẻ trung. Chúng em đến tuổi như chị, chắc không ai thèm ngó tới nữa!".

- Không ế đâu. Nếu chị là đàn ông thì chỉ lấy những cô gái đảm đang, biết sống vì mọi người như các em. Thôi trưa rồi, chúng ta về nhanh, để có thức ăn cho bữa trưa chứ các em.

Sáng ngày hôm sau, sau khi tôi và Huyền - chính trị viên của trạm, quê ở Quảng Nam trao đổi tình hình công tác chính trị, công tác xong, dẫn nhau đi xem nhà bếp, nhà ăn. Hường bước vào. Mới nhìn gương mặt cô em rạng rỡ hẳn ra. Bởi thấy nhà bếp, nhà ăn sạch sẽ ngăn nắp quá. Cơm nấu bằng chảo gang cho trên 100 người ăn mà không nhão, không khô, canh ngọt, thức ăn thơm phức. Nhà ăn có bếp đun nước sôi để tráng chén, bát trước khi ăn.

Lúc chúng tôi vào thăm nhà khách trong Nam ra, anh em y tá đang băng bó lại những vết thương chưa lành cho thương binh. Số anh em này bị cụt chân, cụt tay, hay mù mắt, bị sẹo ở mặt, ở hàm hay ở đầu. Có cụ già, chị em và cháu nhỏ cũng bị như vậy. Vết thương tái phát, máu mủ bục ra, bốc mùi hôi thối nồng nặc, mà anh em phục vụ vẫn ân cần, tươi vui với bàn tay dịu dàng, cử chỉ thân ái, rửa ráy, làm thuốc cho từng vết thương đau. Tuy còn bị nhức nhối trên thân thể, thân hình gầy còm mà mắt họ ngời lên niềm tin, mỉm cười chào chúng tôi. Chúng tôi rất xúc động. Các anh em bị tâm thần, đang la hét chửi bới, đánh đập anh em đang phục vụ. Nhưng anh em không có một cử chỉ nào phản ứng lại. Anh chị em vẫn tươi cười, ngọt ngào làm dịu lòng những anh bị bệnh hiểm nghèo. Càng nhìn càng thấy tình con người hiện lên đậm nét tại đây. Tôi thấy mắt Hường đã ngân ngấn nước... Chúng tôi bận bịu với cảnh đau lòng ấy gần 1 tiếng đồng hồ mới cùng nhau lên đồi, ngồi hóng gió, nhìn cảnh vật.

- Trạm chúng tôi nằm dưới chân đèo 1001, đèo này cao 1.001 mét, vừa cao lại vừa dài, từ chân đèo đi lên đỉnh mất bốn tiếng đồng hồ, khi đi xuống đèo cũng mất thời gian tương ứng. Người yếu, đi chậm đi suốt ngày mới đến trạm 3, bên kia đèo. - Anh Huyền nói.

Bất kỳ ai vào chiến trường, đều phải qua cái đèo cao chọc trời, nổi tiếng này. Trên đường vào Khu 5, Nam Bộ còn phải qua hàng chục đèo cao, dốc sải như thế. Tạo hóa khéo sinh ra đèo này ở cửa ngõ con đường đi vào chiến trường, nó là điểm mốc để kiểm tra lại ý chí, quyết tâm của những người con của đất nước vào Nam đánh giặc Mỹ. Dù đèo cao thăm thẳm, vẫn không làm nhụt được ý chí của tuyệt đại đa số con người, từ các cháu còn thơ bé đến các cụ già, từ các bạn trẻ đến các chị phụ nữ tay yếu chân mềm. Nhưng cũng có một số ít non gan, ngao ngán, dao động khi qua đèo này, quay lưng trở lại với chiến trường. Bởi thế khách hành quân đã đặt cho nó cái tên là "đèo thử thách". Ngày mai các anh chị đi qua càng thấm thía hơn".

Bởi biết rõ như vậy tôi và Hường càng lo lắng cho trận thử thách ngày mai sẽ đến.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Mười Một, 2016, 11:39:06 pm

Sau khi tìm hiểu tình hình, chúng tôi tổng hợp lại để anh Bẩm nhận xét đơn vị. Thực ra đơn vị này có nhiều mặt tốt. Đồng chí Trí quê ở Quảng Ngãi làm đội trưởng, là một đồng chí gương mẫu, xông xáo, linh hoạt, có trình độ toàn diện. Huyền - chính trị viên là một cán bộ mẫu mực, điềm tĩnh có phong thái làm việc dân chủ, được quần chúng tín nhiệm cao.

Vì thế anh Bẩm giao cho tôi viết thành tài liệu "Một trạm vận tải, giao liên mẫu mực" để thông báo cho cả tuyến.

Tối hôm đó, anh Bẩm cho chúng tôi đi theo anh em đơn vị đánh cá chuẩn bị thực phẩm để hôm sau lên đường.

Sáng ngày 29 tháng 6 năm 1960 chúng tôi thức dậy sớm chuẩn bị hành lý, ăn sáng để lên đường.

Chúng tôi ra đi lúc 5 giờ 30 phút, từ trạm 2 qua trạm 3 chỉ vượt đèo 1001, chưa qua giới tuyến quân sự tạm thời. Đi một lúc, anh Bẩm, anh Danh đã bỏ xa tôi và Hường. Mới đi một đoạn ngắn trên đèo, tôi và Hường tháo mồ hôi như tắm, đã uống hết 1/3 bi đông nước. Chiếc ba lô sau lưng nặng không quá 10 ký, tưởng như một tảng đá nặng trĩu, chân đã chùn, mu bàn chân bị đau nhừ, dưới bàn chân thì rát, sa mỡ hai bên hông thấy đau điếng người. Hường lúc thường hồng hào, rất xinh gái, bây giờ mặt tái nhợt lê từng bước chân nặng trịch, vừa bước vừa thở hổn hển.

- Ráng bước theo kịp anh em chứ.

- Ông có hơn gì lại động viên tôi. Họ khỏe, họ đi đâu thì đi. Ta yếu chậm rãi bước. Họ đến trước, ta đến sau, cũng đến đích cả. Mấy ngày nữa ta quen dần, quyết không chịu thua ai hết.

Tôi và Hường nương chiếc gậy, lê từng bước khó nhọc như vậy, trong 3 tiếng đồng hồ mới lên 2/3 đèo, gặp trên 100 anh em gùi hàng nặng nhọc, kìn kịt trên lưng 40 - 50 ký, đã giao hàng xong trên đỉnh đèo cho trạm 3, đang hăm hở quay trở về để chuyển tiếp chuyến thứ hai.

Với thân hình to béo hơn cả, lúc này hai chúng tôi đâm ra ngượng ngùng. Mọi người thì vẫn đang hăm hở bước còn chúng tôi thì mình đẫm mồ hôi, còn ngồi ở gốc cây thở hổn hển uống nước. Nhìn về hướng đỉnh đèo thấy đồng chí Tính, công vụ đi nhanh ngược ra đến gần chúng tôi nói: "Thủ trưởng Bẩm cho em ra mang giúp hành lý cho anh chị".

Trong cơn đuối sức, chúng tôi nghe như được trút đi gánh nặng trên người.

- Cám ơn Thủ trưởng, cám ơn em, - Hường nói và trao ba lô cho Tính.

Tôi đưa cho Tính điếu thuốc lá và cũng trao ba lô cho em.

Tính mang hai chiếc ba lô khoảng 20 ký đi trước sải bước rất nhanh. Tôi và Hường chống gậy theo sau, cảm thấy trên người nhẹ nhàng thoải mái hơn, gắng sức bước theo Tính.

Đến đỉnh đèo, vắng bóng không còn ai nữa. Anh Bẩm, anh Danh đều đi trước vào trạm 3. Chúng tôi ngồi nghỉ lấy cơm trưa ra ăn. Tính đã ăn cơm, Hường đưa thuốc lá và kẹo cho Tính dùng.

Ăn xong, tôi châm thuốc hút, nhìn ra bốn hướng, phía bắc thấy mờ mờ Đồng Hới - Lũy Thầy, cái hận phân ly đất nước xa xưa còn đó. Nhìn về phía đông thấy cồn cát Quảng Bình trắng xóa, dọc theo quốc lộ số 1 khúc ruột miền Trung nối liền Nam - Bắc. Nhìn về phía nam thấy rõ dòng sông Bến Hải, nơi còn chứa đựng nỗi đau chia cắt đất nước ngày nay. Đang mải mê suy nghĩ, bỗng Hường nắm tay tôi chỉ:

- Ông thấy không, thành Huế quê tôi ở hướng đấy, sông Thạch Hãn ở hướng này, đường 9 đã hiện ra kia rồi - Vừa nói gương mặt Hường tươi hẳn ra, đôi mắt lượn như sao chớp - Ôi quê hương có sức mạnh diệu kỳ!

Chúng tôi đứng dậy đi một quãng đã gặp đoàn khách từ trong Nam ra, phần lớn là người Trị Thiên.

- Các đồng chí có thuốc lá cho chúng tôi mấy điếu! - Có mấy anh em thương binh hỏi chúng tôi.

Hường lên tiếng ngay:

- Có đây các đồng chí.

- Các chú giao liên cho dừng nghỉ một tí! - Một cụ già yêu cầu.

Nghe tiếng nói của quê hương, Hường mừng quýnh, lục ba lô lấy bánh kẹo, giục tôi lấy mấy bao thuốc lá ra biếu mọi người.

Hường cùng họ quấn quýt, hỏi han tình hình làng xã, bà con. Trời đã xế chiều, cuộc gặp gỡ giữa Hường và họ như đôi tình nhân cứ dùng dằng mãi, khó lòng dứt ra được. Tôi và Tính phải làm động tác xem đồng hồ nhiều lần như có ý nhắc Hường. Vậy mà gần một tiếng đồng hồ sau, Hường mới chia tay được với đoàn khách.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Mười Một, 2016, 11:40:33 pm

Trong hai ngày, chúng tôi kiểm tra trạm 3. Tình hình cũng tương đối tốt. Năm giờ sáng ngày 2 tháng 7 đoàn chúng tôi đi vào trạm 4, vượt sông giới tuyến, vượt qua đường 9. Đoạn đường này đèo dốc ít, chúng tôi bây giờ đã quen, đi theo kịp đoàn, khêu gợi anh Bẩm tiếp tục kể chuyện triển khai hành lang lúc đầu.

- Đi mệt thở không ra hơi, còn muốn nghe chuyện - Muốn thì tớ kể.

Vượt qua ba trạm rồi, anh nói:

- Các đồng chí thấy quân ta vận tải vất vả như thế đấy, Trung đoàn 70 Tiểu đoàn 301 làm từ tháng 7 năm 1959 đến hết năm 1960 chỉ đưa vào cho B4, B1, B3 được 21.000 khẩu súng các loại. Trong đó có cối 80 - 82 trung liên và đại liên, mấy chục tấn thuốc nổ, 300 tấn gạo và đưa vào 1.000 cán bộ quân sự. Ta ráng hết sức, kết quả như vậy, như hạt muối bỏ bể, có thấm vào đâu. Nhưng dù sao cũng giúp cho các chiến trường bớt khó khăn.

Dạo đó, tuần nào cũng có điện của các chiến trường yêu cầu Bộ tăng cường lực lượng, vũ khí, khí tài, lương thực, thuốc men. Mỗi lần các anh trên nhận điện là gọi tôi vào giao cho tôi phấn đấu đáp ứng, trong tay chỉ có 1.500 quân, chia làm 12 cung trạm vận tải, mỗi ngày chỉ giao cho phía trước được 500 ký hàng, biết làm sao hơn được.

Vì lẽ đó, tôi đề nghị Bộ tăng cường lực lượng cho Đoàn 559. Cuối năm 1960 Bộ tăng cường thành một trung đoàn là Trung đoàn 70, các đồng chí biết rồi, trung đoàn này lấy Tiểu đoàn 301 làm nòng cốt.

Hiện nay Quân ủy cho thành lập thêm Trung đoàn 71, quân số như Trung đoàn 70 (1500), để thay đường dây Thống nhất, trực tiếp phục vụ cho Mặt trận Trị Thiên. Anh Thạnh ở nhà đang đi lấy quân. Bộ đang tăng cường cho đoàn xe đạp thồ, đã cấp cho Trung đoàn 70 số lượng 700 chiếc. Bởi không phải xe đạp nào cũng thồ hàng được ở Trường Sơn, ta phải đặt mua của Trung Quốc, xe của Trung Quốc vững chắc mới chịu nổi. Hiệu suất thồ hàng tăng gấp ba gùi hàng.

Nhân đây tôi nói một chuyện khó khăn để các đồng chí rõ. Khoảng đầu năm nay đường dây bị lộ. Địch càn liên tục. Trong lúc đó tại Hà Nội, hai cơ quan của hai Bộ Tư lệnh Liên khu 5 và Nam Bộ đã tập trung học tập, bồi dưỡng trang bị xong bị kẹt không đi vào được, tình thế đòi hỏi cấp bách.

Các anh trong Bộ gọi tôi vào, có mặt anh Trần Văn Trà, Trần Văn Quang, Nguyễn Đôn. Các anh hỏi tôi: "Có cách nào đưa cơ quan của 2 Bộ Tư lệnh đi vào được an toàn không". Câu hỏi khá bất ngờ làm tôi lúng túng.

Anh Trà nói luôn: nếu bạn Lào đồng ý, ta chuyển hành lang sang Trường Sơn Tây, liệu anh có làm được nhanh không?

- Nếu Quân ủy quyết định, phải mất 2 - 3 tháng mới chuyển đường sang Trường Sơn Tây được.

- Chậm lắm, không được đâu ông bạn ơi! - Anh Quang nói thế.

Tôi nói:

- Nếu muốn nhanh chỉ còn một cách mượn máy bay Liên Xô tiếp tế bằng đường không. Còn đơn vị tôi hành quân cấp tốc, rải quân cắm trạm. Sau đó cơ quan 2 Bộ Tư lệnh đi vào sau mấy ngày, chúng tôi đưa các đồng chí vừa hành quân, vừa nhận hàng tiếp tế bằng máy bay ở vùng Sê Pôn, chúng tôi vận tải bằng gùi hàng cấp cho quân ta đi, dần dần về sau chúng tôi sẽ củng cố hoàn chỉnh hành lang.

- Vừa qua khi quân Quân khu 4 đánh ở Lào, lúc bí chúng tôi đã thực hiện tiếp tế như vậy, - anh Đôn họa thêm vào.

Anh Trần Văn Trà nói:

- Anh Bẩm về suy nghĩ thêm và chuẩn bị theo phương án đó. Nhưng phải tính toán kỹ: xác định điểm thả hàng, ngày giờ xuất phát của giao liên, ngày giờ của cơ quan hai Bộ Tư lệnh hành quân, việc bố trí quân đón nhận hàng, quy ước mật mã liên lạc của thông tin v.v. Phải tính toán kế hoạch thật ăn khớp, để trục trặc một khâu nào là hỏng việc, mất công, mất của đấy. Nhưng phải lưu ý giữ tuyệt đối bí mật. Khi Quân ủy quyết định các anh phải trực tiếp chỉ huy thực hiện. Còn việc bàn với bạn Lào, Liên Xô, Bộ sẽ đảm nhiệm. Bàn với Quân khu 4, anh Đôn sẽ bay vào làm việc ấy. Khi nào Quân ủy quyết định sẽ mời anh vào ngay bàn việc thực hiện.

Nghe anh Trà nói, tôi đứng dậy xin phép ra về để xoay xở cho kịp.

Về đến cơ quan tôi điện ngay cho đồng chí Chữ và Danh về Hà Nội gặp tôi khẩn cấp trong ngày mai.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Mười Một, 2016, 09:56:32 pm

Mấy tiếng đồng hồ chờ đợi lòng tôi bồn chồn lắm. Việc quá gấp, cơ quan giúp việc còn quá yếu, để xảy ra việc gì là bị "đứt đầu" như chơi. Nhưng "các cụ" quyết định nhanh lắm. Sáng hôm sau anh Trà gọi tôi vào ngay.

Tôi vào cơ quan, anh Trà gặp tôi, tươi cười nói:

- Mời anh ngồi, uống nước, hút thuốc, nhận nhiệm vụ của Quân ủy giao. Quân ủy đồng ý theo phương án ta đã bàn, song các anh dặn: Đây là một việc làm chớp nhoáng trong mấy ngày, thực hiện thật nhanh gọn, bảo đảm bí mật, hợp đồng chặt chẽ từng khâu. Bữa qua tôi trực tiếp nói chuyện bằng điện thoại với Quân khu 4, anh Trần Lương đã đi vào trước bàn hợp đồng chặt chẽ với các tỉnh bạn Lào, để họ giúp ta chuyển hành lang.

Anh Trà đưa bản đồ trải rộng trên bàn, bài với tôi kỹ điểm thả hàng, khu vực bố trí quân nhận hàng, vạch tuyến đường giao liên, quy ước giữ liên lạc và mật mã liên lạc, giờ hành quân của giao liên, của cơ quan 2 Bộ Tư lệnh, v.v.

Bàn xong chúng tôi bắt tay tạm biệt nhau, tôi xin về lo thực hiện. Bốn giờ sáng ngày hôm sau anh Chữ, anh Danh ở Trung đoàn 70 đã về đến Hà Nội. Tôi bàn việc ngay với các anh ấy, làm xong việc đã 9 giờ, không được ăn uống gì cả, tôi giục các anh lên xe, trở về đơn vị ngay.

Các anh về, tôi bàn ngay công việc với anh Thạnh - đoàn phó và cơ quan. Tôi giao cho anh Thạnh ở nhà trực chỉ huy, còn đại bộ phận cơ quan, cả cơ yếu với đài vô tuyến điện dự bị lên 1 xe con, 1 xe tải đi cùng tôi vào ngay Quân khu 4. Suốt ngày hôm đó chúng tôi ăn bánh mì trên xe đến 18 giờ mới đến nơi. Tôi xin vào làm việc ngay trong đêm ấy với anh Đoàn Khuê - Quân khu 4.

Sáng ngày sau tôi đáp chiếc máy bay trực thăng lên Sê Pôn. Xe ô tô chở đồ đạc trở về Hà Nội. Phải đến nơi sớm để trực tiếp chỉ huy.

Trong cuộc tiếp tế đột xuất bằng không vận này có những chuyện lý thú:

Con gái vùng Sê Pôn phần lớn là người Lào Lum, da trắng, một số lai Tàu, lai Việt trông xinh lắm. Có bộ đội ta đến, chị em ăn diện ra phết, mặc váy hoa, đi giày cao gót, che dù đầm, son phấn, điểm nước hoa. Vì việc quá gấp, quân ta đến phải ở nhờ nhà dân. Tôi đến, các cô mời bộ đội ta ngủ chung đoàn kết từng đôi một trong nhà, là việc rất gay go. Ta không thực hiện, dân cho ta không tin họ. Ta không thể nào ngăn cản, phải giáo dục anh em giữ gìn thể diện quốc gia, uy tín quân đội, đừng để xảy ra điều gì. Kẻ thù lợi dụng sẽ chia rẽ ta và bạn và vi phạm kỷ luật nghiêm ngặt của quân đội. Nhờ đó qua 4 - 5 đêm, tìm hiểu lại, không xảy ra việc gì.

Nhưng ta phải suy xét một cách biện chứng. Chị em sẵn có thiện cảm với bộ đội, họ làm như vậy không phải với dụng ý xấu, mà tập quán của họ khi bộ đội đến được ngủ chung là diễm phúc. Và nếu "lỡ" có bầu là họ bắt phải nuôi con và lấy làm vợ, không chịu phải đâm trâu cúng trời phật, sinh ra rắc rối to.

Vì vậy tôi cho cậu Thắng và Rừng trợ lý dân vận đi nói chuyện với các già làng, để các cụ vận động các cô gái đừng mời bộ đội ngủ đoàn kết. Vì trai gái trẻ ngủ chung khó mà giữ được. Phương pháp này có hiệu quả, những đêm sau không tái diễn việc ấy nữa.

Nhưng tình cảm của con người không biên giới. Không ngủ trong nhà, thì họ rủ bộ đội đi sim ngoài rừng. Vì thế tôi lệnh cho bộ đội ra rừng căng vải bạt làm nhà, treo võng nằm, thoát ngay việc thử lửa nguy hiểm đó.

Một việc khác là vùng này dân đang thiếu ăn, máy bay thả hàng xuống, trên địa hình rừng núi, quân ta chỉ có 200 người ở dưới đất đón nhận hàng. Khi thả những chiếc dù hàng bay tản mạn trên một khu vực rộng, khó mà gom được hết.

Nhưng nhân dân Lào, khi thấy máy bay ta hạ độ cao, họ đổ ra đồi núi chào mừng, đứng nhìn từng kiện hàng ta rơi, không thấy bộ đội ta đến, họ nhặt gom lại, đưa vào nhà giữ, cho người đến báo để bộ đội ta đến nhận. Đói, họ chịu đói, không lấy của ta để dùng. Một việc như vậy đủ thấy dân bạn thật tốt. Vì thế tôi phải xuất 5 tấn gạo, giao cho cán bộ của bạn, cứu tế ngay cho những gia đình bị thiếu ăn.

Cuộc không vận một tuần thì chấm dứt. Các cơ quan của 2 Bộ Tư lệnh đã đi qua vùng Mường Noong, 10 ngày tuyến hành lang đã rải quân cắm trạm hết về Tây Trường Sơn. Hơn 1 tháng tôi nhận được tin cơ quan Bộ Tư lệnh Khu 5 đã đến nơi. Sau 4 tháng nhận tiếp tin cơ quan Bộ Tư lệnh Nam Bộ vào đến nơi an toàn đầy đủ.

Các đồng chí thấy ta đưa được ngần ấy cán bộ trung cao cấp của 2 Bộ Tư lệnh vào chiến trường lúc hành lang trong nước bị vỡ, phong trào Đồng khởi của nhân dân miền Nam đang rộ lên, ta sẽ thấy tác dụng việc ấy không nhỏ đâu.

Những việc lớn khởi đầu tôi kể như vậy đã hết, từ đây về sau các đồng chí đã nhập cuộc càng rõ hơn".


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Mười Một, 2016, 09:57:10 pm

Vừa đi vừa kể chuyện, quên hết mệt nhọc, 16 giờ đoàn kiểm tra đến trạm 4. Anh Bẩm nhìn tôi và Hường: "Hai tân binh này đã quen dần rồi đây". Anh vừa nói vừa cười.

Qua một ngày tìm hiểu ở trạm 4, chúng tôi thấy tình hình có mấy vấn đề: Đồng chí Mãn, đội trưởng quê ở Quảng Nam là một cán bộ năng nổ, hăng say với nhiệm vụ. Đồng chí Tôn chính trị viên, quê ở Bình Định là một đồng chí gương mẫu, có trách nhiệm cao, ngày nào các đồng chí cũng đi gùi, thồ hàng với chiến sĩ. Đồng chí Phạm Mãn rất khỏe, đẩy xe thồ trên 200kg hết ngày nọ sang ngày kia, có tác dụng thu hút chiến sĩ phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ. Mọi chiến thắng công tác chính trị làm được tốt, 6 tháng đã kết nạp được 5 đảng viên mới.

Nhưng có một khuyết điểm lớn là việc chăm lo đời sống quần chúng kém, cũng may mà đơn vị ở vùng khí hậu tốt, nên ít người bị bệnh sốt rét.

Đến chiều ngày hôm sau anh Bẩm nhận xét, phê phán nghiêm khắc khuyết điểm ấy. Cán bộ, chiến sĩ của các đồng chí rất tốt, ngày nào họ cũng đổ sức ra, mà ăn uống quá kém, chỗ ở còn chui rúc, phòng bệnh giữ vệ sinh không được coi trọng. Các đồng chí trú ở các vùng khí hậu khá tốt, đất đai rộng và màu mỡ có thể sản xuất được, lại gần nhiều sông, suối lớn, rừng có nhiều thú nhiều chim, dân cư vùng này đông đúc. Thế mà các đồng chí không khai thác được gì cả, chỉ ỷ lại vào nguồn cung cấp, nếu để bộ đội sống quá kham khổ như vậy, sức khỏe sẽ suy sụp, khó mà hoàn thành nhiệm vụ. Tôi biết các đồng chí là những cán bộ gương mẫu, rất nhiệt tình, song trong lãnh đạo, chỉ huy phạm lệch lạc, chỉ động viên bộ đội dồn sức cho vận tải, không quan tâm đến đời sống của họ. Rồi anh ấy đề ra những yêu cầu và biện pháp khắc phục. Giao cho anh Danh, anh Liễu phải ở lại đây, đôn đốc đơn vị sửa nhanh những việc yếu kém.

Sau khi nhận xét, hai đồng chí tiếp thu một cách thoải mái và hứa quyết tâm sửa chữa.

Đến 18 giờ ngày 3 tháng 7 năm 1960, anh Bẩm nhận được điện của anh Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng gọi về ngay Hà Nội có việc cần. Như vậy mơ ước của tôi và Hường mong được đi suốt cả tuyến không đạt được. Đêm ấy nghỉ việc, chúng tôi ngồi ở nhà khách tán chuyện đến khuya rồi đi nghỉ.

Sáng ngày sau anh Bẩm, tôi và Hường đi quay ra ngay, đi 4 ngày cả đi xe thì về đến Hà Nội. Anh Bẩm đã quen vẫn khỏe. Tôi và Hường đều mệt mỏi rã rời, mỗi người hao 4 ký, song lại rắn chắc, cứng cáp hơn.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Mười Một, 2016, 10:02:36 pm

GÁNH CẢ HAI VAI MỘT CON ĐƯỜNG
Thiếu tướng PHAN TRỌNG TUỆ
Nguyên Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải,
kiêm Tư lệnh - Chính ủy Bộ Tư lệnh 559

Tôi dành một nửa ngày để lo giải quyết công việc ở Bộ Giao thông, phân công lại các thứ trưởng ra các chỉ thị mệnh lệnh cần thiết để điều động lực lượng cơ giới mạnh trong ngành và cán bộ kỹ thuật cho Đoàn 559 để có thể vào tuyến sớm. Nửa ngày còn lại, tôi làm việc với Bộ Tư lệnh 559 lúc bấy giờ tạm đóng ở Lý Nam Đế. Tôi cùng đồng chí Võ Bẩm, đồng chí Vũ Xuân Chiêm làm việc tỉ mỉ với các bộ phận công binh, vận tải, hậu cần, vạch phương án tổ chức mới, các trạm giao liên gùi thồ được chấn chỉnh tổ chức thành binh trạm. Chia toàn bộ hệ thống đường Trường Sơn thành ba tuyến. Từng bước mở đường vận tải cơ giới bằng xe ô tô quân sự, phá thế độc đạo, bắt đầu từ tuyến thứ nhất. Mỗi tuyến tổ chức một Bộ Tư lệnh có lực lượng tương đương sư đoàn với các lực lượng làm đường, công binh, vận tải, giao liên, kho, bộ đội chiến đấu bảo vệ, bộ đội phòng không đánh địch...

Trên đường phía tây Trường Sơn, để tiếp tục vận chuyển trong mùa mưa lũ, chúng tôi nhất trí việc đầu tiên có tính quyết định là phải thông được xe trên tuyến I từ R đến Đường 9 - Nam Lào. Đó là nhiệm vụ trọng tâm số một của đường Hồ Chí Minh vì đầu tuyến là nơi tập kết chân hàng chở từ hậu phương chi viện cho miền Nam qua các tuyến II và III, là các tuyến Đường 9 - Nam Lào tới giáp Tây Nguyên và các đầu đường đi B. Nếu tuyến I thông thì các tuyến sau mới có hàng. Còn hành khách thì tuyến I có hai cửa khẩu phía bắc và phía cực nam của tuyến nên không đáng lo mấy. Trọng điểm khó khăn của tuyến I là phải tránh "túi nước" Xiêng Phan, trên đường 12 Bắc Trung Lào và tận dụng nó; đồng thời phải thi công một con đường cho xe cơ giới chạy, coi như nhiệm vụ cấp bách số một để thay thế cho đường 129 từ Bắc Trung Lào tới đường 9 nhỏ hẹp lại bị sạt lở nặng, thậm chí mặt đường phải qua nhiều suối lớn. Đường 129 này nối qua đường 12 chạy qua đất bạn tới đường 9, do công binh Khu 4 làm dã chiến khi giúp lực lượng bạn tấn công địch ở Sê Pôn - Nam Lào. Túi nước Xiêng Phan dài hơn 30 kilômét, cắt đứt đầu con đường 129. Trước mắt để tránh túi nước này, tôi điện ngay cho Ty Giao thông Quảng Bình đưa cán bộ, công nhân và dân công hỏa tuyến lên làm con đường gùi thồ, gọi là đường 050. Đồng chí Nựu, Phó ty giao thông, đi trước vượt Trường Sơn dẫn quân đi mở con đường xế này. Ở Bộ Giao thông tôi phân công hai nhiệm vụ điều hành và trực chiến. Anh Nguyễn Tường Lân là Thứ trưởng vốn làm đại diện của Bộ tại Khu 4, được giao nhiệm vụ tổ chức tăng cường cho Ban bảo đảm giao thông Khu IV. Lúc đầu nhiều việc chưa vào nền nếp, chúng tôi gọi đùa là "bê bối". Nhiệm vụ B4 đảm bảo giao thông vận tải ở tuyến lửa trong mọi tình huống, phải giành chủ động quyết thắng địch trong âm mưu chiến lược đánh phá giao thông để ngăn chặn ta chi viện cho miền Nam. Trước mắt chúng ta phải đảm bảo chân hàng cho 559, là hậu phương trực tiếp của 559 trung tuyến Trường Sơn. Ở Bộ, đồng chí Nguyễn Hữu Mai, nguyên là Thứ trưởng từ Ban Công nghiệp trở về lo việc phụ trách chung và trực ở Bộ khi tôi đi vào 559. Đồng chí Dương Bạch Liên phụ trách vận tải, đồng chí Hồng Xích Tâm đảm bảo giao thông, đồng thời lo việc huy động sức người, sức của để bổ sung xây dựng cho tuyến trước.

Sau một thời gian tích cực và khẩn trương chuẩn bị, chúng tôi đã lên được kế hoạch, báo cáo với Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng xin tăng cường cho lực lượng. Các anh đồng ý với những ý kiến của chúng tôi là phải coi tuyến I là trọng tâm, tận dụng túi nước Xiêng Phan đi được chừng nào hay chừng ấy. Nhưng trước mắt phải có đường khác thay thế đường 129 cũ và sau đó cả đường 12 phải phá thế độc đạo, phải mở rộng ngay con đường mòn 16 nối với đường 9 và nối các đường cơ giới chạy từng đoạn với nhau thành các tuyến dài tuyến II, tuyến III và tận dụng đường thủy.

Được phép của Hội đồng Chính phủ, ngành giao thông đã sử dụng một lực lượng thanh niên xung phong rất lớn, hình thành một số tổng đội do Trung ương Đoàn tổ chức làm nhiệm vụ bảo đảm giao thông trên các tuyến đường. Đồng chí Nguyễn Văn Đệ bên Trung ương Đoàn được biệt phái sang Bộ Giao thông vận tải để phụ trách. Lực lượng này tuy chưa có tay nghề kỹ thuật cao, nhưng rất dũng cảm, có trình độ văn hóa khá và nhiệt tình hăng hái. Có lệnh là lên đường ngay, xứng đáng với danh hiệu thanh niên "Ba sẵn sàng”. Bộ cũng tăng cường cho Đoàn 559 một số đơn vị cao xạ phòng không để bảo vệ cầu đường và các công trường làm đường. Lực lượng ô tô vận tải cũng được tăng cường. Sau này được đồng chí Đinh Đức Thiện phụ trách xây dựng khu gang thép Thái Nguyên về làm Tổng cục trưởng Tổng cục Hậu cần đã chỉ thị cho chọn các xe đảm bảo nhất.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Mười Một, 2016, 10:05:32 pm

Để giữ bí mật mọi lệnh điều động, tôi đều ký với bí danh là Thiếu tướng Phan Thanh Xuân. Lệnh điều động cấp bách và không khí lên đường của anh em kỹ sư, công nhân, thanh niên xung phong... hết sức hào hứng sôi nổi. Lúc bấy giờ anh em giao thông thường nói đùa: Tướng Phan Thanh Xuân đang vét quân của Bộ trưởng Phan Trọng Tuệ...

Tôi xin phép đưa cả Bộ Tư lệnh mới được hình thành đi sâu vào trong núi rừng Trường Sơn. Trước khi đi, Bác Hồ cho gọi tôi lên gặp. Sau khi nghe tôi báo cáo về kế hoạch xây dựng lực lượng vận tải và mở hệ thống đường cơ giới xuyên Trường Sơn, Bác ôn tồn căn dặn: "Việc mở đường chi viện cho cách mạng miền Nam là nhiệm vụ cấp bách và có nhiều khó khăn. Nhưng vì miền Nam ruột thịt đang chờ đợi hậu phương tiếp tế, do đó phải hết lòng, hết sức khắc phục khó khăn để phục vụ cho tiền tuyến. Đoàn kết một lòng, mưu trí sáng tạo thì khắc phục được. Phải chăm lo cho các cháu thanh niên xung phong như của quân đội. Phải chăm sóc cải thiện sinh hoạt, văn hóa, giải trí cho các cháu. Phải hết lòng giúp đỡ nhân dân bạn. Bạn đang gặp nhiều khó khăn, không được làm mất lòng dân. Bác gửi lời thăm các chiến sĩ công nhân, thanh niên xung phong và dân quân ở các tuyến đường...".

Sau này mỗi lần đến các đơn vị tôi đều truyền đạt lời của Bác tới cáo anh chị em.

Tôi được gặp, báo cáo với Thủ tướng Phạm Văn Đồng về các việc đã làm, đã chuẩn bị cho đường mòn, cũng như ở Bộ về kế hoạch đảm bảo giao thông địa phương và sự phân công lại trong lãnh đạo Bộ khi tôi đi vào chiến trường. Đồng chí Thủ tướng, sau khi nêu lên những chiến thắng lớn của tiền tuyến miền Nam, nhiệm vụ của hậu phương lớn miền Bắc, đã khẳng định trách nhiệm nặng nề của hệ thống đường Hồ Chí Minh nói riêng và toàn ngành giao thông vận tải nói chung. Địch đánh phá đã ác liệt, nhưng chưa phải là ác liệt nhất. Giao thông vận tải và chi viện tiền tuyến của ta đã cố gắng, nhưng phải cố gắng hơn nữa. Phải kết hợp chặt chẽ giữa hậu phương và Đoàn 559, hỗ trợ cho nhau, hướng về phía trước chi viện cho cách mạng miền Nam. Mùa mưa tới, sẽ gặp nhiều khó khăn, nhưng phải cố gắng, cố gắng nhiều hơn nữa, phải thắng địch trên mặt trận giao thông vận tải chi viện cho chiến trường.

Bộ Tư lệnh hành quân gấp rút vào Trường Sơn. Lần này vào chiến trường chắc chắn sẽ đi lâu: trước khi đi tôi dành chút thì giờ giải quyết việc nhà. Vợ chồng tôi nhất trí cho hai cháu gái vừa tốt nghiệp lớp 10 và lớp 8 đi làm nghĩa vụ quân sự và công an, thế là yên tâm. Tôi gặp các đồng chí Văn Tiến Dũng và Trần Quốc Hoàn, hai đồng chí đồng ý chấp nhận. Còn nhà tôi sẽ sơ tán theo xí nghiệp, thế là cũng tạm ổn.

Từ giữa tháng 4, chúng tôi đã có hai bộ phận đi trước để kiểm tra tình hình tổ chức và triển khai lực lượng cụ thể.

Tới Binh trạm 12 đóng trong hang dưới chân đèo Mụ Giạ, nơi Bộ Tư lệnh tạm thời đóng quân, đã thấy các đoàn về báo cáo. Các lực lượng giao thông, công binh, thanh niên xung phong đã rải quân và triển khai công tác trên toàn bộ tuyến đường mới như vùng Ho phía tây nam Quảng Bình. "Túi nước" Xiêng Phan đã dâng sớm hơn mọi năm. Ở công trường mở đường mới thay thế cho đường 129 chúng tôi đặt tên là đường 128 đã có Trung đoàn công binh 98.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Mười Một, 2016, 10:41:02 pm

Lực lượng cơ giới của Bộ Giao thông từ Tây Bắc đến do các đồng chí Lam Chi và đồng chí Nguyễn Lang phụ trách đã hành quân với đầy đủ xe máy đến chiếm lĩnh trận địa trên tuyến đường. Đoàn thi công cơ giới này đã tháo tất cả xe máy cho lên xe vận tải, hành quân cấp tốc vào trước khi "túi nước" dâng. Anh em làm bất kể ngày đêm và cuối tháng 4 đã có đủ máy móc thi công. Đây là lực lượng cơ giới rất hiếm hoi của ngành giao thông vận tải của nước ta lúc đó. Lực lượng này gồm có 21 máy húc, 2 máy khoan, 2 máy ép hơi, 2 xe công trình xa và 1 cần cẩu. Những phương tiện máy móc cơ giới làm đường này lần đầu tiên xuất hiện trên đường mòn và đã phát huy được tác dụng rất lớn. Sau này có nhiều ngày trong tháng 5 làm được 5 - 6 kilômét/ngày, một kỷ lục từ trước đến nay. Đội cầu 4 của Bộ Giao thông do đồng chí Hiển phụ trách với 10 kỹ sư và cán bộ kỹ thuật cùng 156 công nhân đã chiếm lĩnh các trọng điểm vượt sông trên tuyến đường tương lai. Trước mắt, chủ yếu làm phà, cầu nhỏ cho đường 050 và 12 vì do trời mưa, phát triển thêm ngoài dự kiến. Anh em báo cáo cho biết đã có đơn vị bộ đội cơ giới vừa vào túc trực sẵn ở đầu đường 128 chờ thông xe. Tin ấy càng động viên nhắc nhở chúng tôi nỗ lực để sớm hoàn thành trọng điểm 128.

Để có lực lượng phát huy sức mạnh hợp đồng giữa quân đội và Ngành Giao thông vận tải, Bộ Tư lệnh 559 tăng cường 700 thanh niên xung phong lấy ở Hà Tĩnh, 800 thanh niên xung phong lấy ở Ninh Bình, cùng với công nhân, cán bộ giao thông vận tải hình thành một công trường bộ. Tất cả các lực lượng trên với khí thế ra quân vì miền Nam thân yêu, đạp lên bom đạn địch ở tuyến lửa Khu 4 đến với Trường Sơn đúng kế hoạch.

Anh em lính cũ Trường Sơn hồ hởi phấn khởi đón lực lượng tăng cường từ hậu phương, cùng kề vai sát cánh - nhanh chóng hòa hợp thành một khối thống nhất với ý chí mở đường Quyết thắng.

Mùa mưa năm 1965 đến sớm. Mùa mưa ở phía tây Trường Sơn có lượng nước rất lớn và kéo dài, thường làm đình trệ mọi hoạt động vận chuyển và đi lại trên toàn tuyến. Mưa lũ ở Trường Sơn thường tạo ra những cơn lũ khủng khiếp có thể bất ngờ cuốn trôi đi cả những đoạn đường, những cây cầu, những phương tiện vận chuyển, cả người và cả những kho hàng, nếu không được tính toán bảo vệ chu đáo. Mưa Trường Sơn thường dồn nước xuống thung lũng tạo nên những túi nước phá các con đường làm cho đường sụt lở, sình lầy trong một thời gian dài, có khi suốt cả mùa mưa, cắt đứt toàn bộ hoạt động vận chuyển đi lại. Trên các sông suối, nước dâng cao chảy xiết gây khó khăn cho vận chuyển. Như chúng tôi dự đoán, khó khăn nhất vẫn là "túi nước" Xiêng Phan ở đầu tuyến - một tuyến trọng tâm. Nước dâng ở hai bờ sông Sê Băng Hiêng phải gần phía thượng nguồn. Đạn dược vũ khí, lương thực, thuốc men bị ứ đọng ở bờ bắc túi nước. Trong khi đó thì phía bờ nam túi nước, giao liên và lính vận tải còn thiếu lương ăn chứ chưa nói những tuyến sâu ở phía trong có hàng tới được đâu mà chở.

Nhưng để thi hành chủ trương, quyết tâm vận chuyển của Trung ương, của hậu phương cho miền Nam thì bằng mọi cách Bộ Tư lệnh phải chỉ đạo việc khắc phục và triển khai vận chuyển gùi thồ ngay trong mùa mưa. Đồng thời mở đường tiêu chuẩn cho xe cơ giới tới đâu, chống lầy đến đó để hành quân và vận chuyển. Theo những lính cũ ở Trường Sơn thì mọi năm mùa mưa đến, ta thường nghỉ để chấn chỉnh tổ chức và thay quân... Nhưng năm nay, yêu cầu của chiến trường ngày một lớn. Nếu những năm trước vận tải để chi viện cho sự phát triển trước và sau Đồng khởi, nhằm đánh bại chiến lược "chiến tranh đặc biệt" thì năm nay trở đi vận chuyển để phá cuộc "chiến tranh cục bộ" của Mỹ đổ quân vào. Do vậy hàng hóa vận chuyển vào sẽ tăng lên rất lớn, cả chất lượng lẫn số lượng, hành khách đi B cũng với nhịp độ khẩn trương hơn, số lượng đông hơn. Một con đường cơ giới đầu tiên của hệ thống đường mòn được thiết kế và làm mới theo tiêu chuẩn, tuy dã chiến nhưng đòi hỏi đảm bảo cho xe pháo đi và xuyên suốt Trường Sơn. Phải thi công ngay trong mùa mưa và hoàn thành trong thời hạn hơn một trăm ngày con đường dài hơn một trăm kilômét quả là khó khăn, đồng thời phải bằng mọi cách tận dụng "túi nước".


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Mười Một, 2016, 10:42:20 pm

Bộ Tư lệnh mau chóng tổ chức lại lực lượng trên toàn tuyến. Toàn bộ hệ thống đường xuyên Trường Sơn theo kế hoạch sẽ trải rộng hai bên sườn Đông và Tây Trường Sơn, xuyên rừng rậm, dài hàng trăm kilômét. Chúng tôi phải vừa lo củng cố đường giao liên, đường gùi thồ, tận dụng từng đoạn đường sông suối ít thác ghềnh, vừa từng bước nhanh chóng mở hệ thống đường vận tải cơ giới, bắc cầu, làm bến phà, bạt núi mở đường. Mặt khác còn phải lo tổ chức vận tải cơ giới thô sơ; lo bố trí kho bãi và bảo vệ hàng hóa; lo đánh địch trên không, biệt kích dưới đất, chống chiến tranh điện tử đã bắt đầu xuất hiện vì địch đã "đánh hơi" thấy ta vận chuyển trong mùa mưa, nhưng vì mây âm u, mưa tầm tã cả ngày nên chúng phải dùng điện tử để trinh sát; rồi phải lo tổ chức hệ thống đường dây giao liên, bãi khách để đảm bảo sức khỏe chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ vượt Trường Sơn vào Nam và thương binh ra Bắc điều trị, v.v.

Đường Tây Trường Sơn có nhiều đoạn đi trên đất bạn Lào. Ta được Đảng và nhân dân bạn giúp đỡ hết sức nhiệt tình, vì khi đồng ý ủng hộ ta, bạn coi đây là con đường chiến đấu chung của cả ba nước Đông Dương đánh Mỹ, con đường là tượng trưng cho tình đoàn kết chiến đấu của ba nước Đông Dương. Các chiến sĩ của 559 đã làm tốt công tác dân vận trên đất bạn. Về công tác này, chúng tôi phối hợp với các đồng chí chuyên gia cố vấn của ta lúc đó phục vụ cách mạng của nước bạn. Các chuyên gia Việt Nam sang giúp bạn đã đến làm việc với Bộ Tư lệnh 559 về công tác dân vận và bảo vệ sườn phía tây của hệ thống đường mòn.

Như trên đã nói, toàn bộ hệ thống đường Hồ Chí Minh chia làm ba tuyến. Tuyến I từ R trên đường 12 rẽ xuống đường 9, có chiều dài bảo đảm giao thông là 241 kilômét. Đoạn này khi hoàn chỉnh xong đường 128, mở rộng đường 129 và tận dụng đường thủy sông Noọng Cà Deng thì có ba đường chuyển hàng vào tuyến trong. Thế độc tuyến đã bắt đầu bị phá. Trên tuyến này, lực lượng mở đường có Trung đoàn công binh 98, lực lượng này sẽ chuyển sang tuyến III khi hoàn thành nhiệm vụ. Một đơn vị cơ giới của Bộ Giao thông vận tải gồm trên 1.000 cán bộ, công nhân với gần 30 xe và máy thi công cơ giới, 1.500 thanh niên xung phong làm đường. Theo kế hoạch thì các lực lượng này quyết tâm thông xe con đường mới 128 vào cuối tháng 7. Để hỗ trợ và đẩy mạnh vận chuyển cho tuyến thứ nhất, nhất là đẩy mạnh việc nâng cao lực lượng hành khách trên hành lang trong mùa mưa, con đường 16 làng Ho - Vít Thù Lù phía đông Trường Sơn dưới chân núi Tróc A, tây nam Quảng Bình, xuyên sang Tây Trường Sơn nối với Đường 9 - Nam Lào đã có trước đây và chỉ đi được vào mùa khô, được khởi công mở rộng vào tháng 7 và kiên quyết thông đường vào tháng 9. Lực lượng thi công và chống lầy là gần 2.000 thanh niên xung phong yà gần 3.000 công binh. Đường mở rộng trước hết để gùi thồ đồng thời nâng cấp cho xe vận tải có thể đi được bằng phương pháp "rông đanh", chống lầy bằng những thân cây nhỏ. Với việc thi công hai mũi từ hai đầu đường, lực lượng vận tải là gần 2.000 thanh niên xung phong lấy từ Hà Tĩnh (số nữ đến 40%) vừa tham gia mở đường, vừa chống lầy, vừa tổ chức vận chuyển hàng gùi thồ và xe vận tải nhựa, ta còn nghiên cứu mở một đường vượt Trường Sơn nữa. Thế trận đó làm cho hệ thống đường cơ giới trở nên cơ động nhiều tuyến nhằm phân tán sự phá hoại của địch; anh em coi đó là chiến thuật căng địch ra mà đánh trên mặt trận giao thông vận tải. Ở tuyến một này lực lượng vận chuyển chủ yếu là ô tô. Tại đây, ta tập trung một trung đoàn vận tải tăng cường gồm 245 xe, cộng thêm một đại đội vận tải độc lập có 95 xe. Tổng cộng có 340 xe hoạt động toàn tuyến chia thành 3 binh trạm, lấy ký hiệu là Rb, Rb1, Rb2. Bộ đội có gần 800 cán bộ, chiến sĩ, dân quân kể cả dân công hỏa tuyến có trên 1.000 người gùi thồ và một tiểu đoàn cao xạ 37 ly.

Tuyến II từ S1 gần Sê Pôn đến S5 bao gồm cả nhánh B45 đi Quảng Trị - Huế, cung đường dài 170 kilômét... Trong thời gian này, tuyến II chỉ có phương tiện vận tải chủ yếu là gùi thồ, còn xe cơ giới không hoạt động được vì những đoạn đường cơ giới mùa khô đi được thì nay lầy lội, nước suối dâng cao, cầu phà thiếu. Cán bộ, kỹ sư thiết kế và công binh vào nghiên cứu mở tuyến làm một hệ thống đường vận tải và cơ giới toàn tuyến đã có mặt; ngoài ra còn có một tiểu đoàn công binh thuộc Trung đoàn 279, hai đại đội cơ giới khai hoang của Bộ Nông trường gần 300 người. Hiện tại đã có Trung đoàn vận tải 265 với gần 200 đầu xe. Hai binh trạm vận chuyển bốc vác có gần 800 cán bộ, chiến sĩ. Một tiểu đoàn bảo vệ và một đại đội độc lập phối thuộc, một tiểu đoàn cao xạ pháo 37 ly, một đội giao liên, một tiểu đoàn bảo vệ làm thêm nhiệm vụ chống lầy. Bộ Tư lệnh sẽ điều thêm lực lượng thanh niên xung phong làm đường.

Tuyến III từ S5 Bản Bạc trên thượng lưu sông Sê Công đến S9 Tây Nguyên có nhánh đường B46 đến địa phận Quảng Ngãi, Khu 5, dài 256 kilômét chia làm bốn binh trạm. Trong đó có ba binh trạm thồ gồm gần 3.000 cán bộ, chiến sĩ với 1.500 xe đạp; một binh trạm thuyền với 140 thuyền các loại; hai trung đoàn công binh chuẩn bị mở rộng đường, một đại đội bảo vệ, một đại đội giao liên.



Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Mười Một, 2016, 10:43:06 pm

Quân số của Đoàn 559 lúc này đã lên tới gần 20.000, gồm nhiều lực lượng hợp thành, rải ra trên gần 2.000 kilômét ở nhiều tuyến ngang dọc, hoạt động trên những địa hình hết sức phức tạp, rừng, suối chằng chịt. Trong đó lực lượng quân đội là chủ yếu. Ngành giao thông các địa phương đóng góp gần 8.000 người, gồm gần 5.000 thanh niên xung phong và hơn 1.500 kỹ sư, cán bộ kỹ thuật và một số đông công nhân giao thông, dân công hỏa tuyến và dân quân. Phân bổ lực lượng cho các tuyến như sau: ở tuyến I có gần 10.500 người, kể cả công trường 16, tuyến II hơn 3.000 người, tuyến III gần 6.000 người vì tuyến này gùi thồ và vận tải thuyền là chủ yếu. Lực lượng làm đường là chủ yếu chiếm hơn 11.000 người. Phương tiện vận tải cơ giới có tổng cộng trên 600 đầu xe. Xe đạp thồ có trên 4.000 chiếc. Phương tiện vận tải phát triển quá nhanh, nên có tình trạng thiếu lái xe trầm trọng. Thiếu cả những tay lái điều khiển xe thồ thành thạo.

Xe ô tô vận tải được các nước anh em viện trợ đã về nhưng thiếu lái xe. Lúc bấy giờ cả bên kinh tế lẫn bên quân sự lái xe ô tô chỉ được đào tạo cấp tốc có 3 tháng. Vì thế mới có chuyện lái xe Trường Sơn chỉ biết tiến chứ không biết lùi. Anh em vào số tiến thì thành thạo, nhưng cài số lùi còn vụng về. Nhưng anh em nói vui, lính lái Trường Sơn chỉ tiến chứ đâu cần học lùi. Quả thật vì đường quá gấp, cua hẹp nên lính lái mới ngại lùi, sợ tuột dốc, rơi xuống vực. Còn lực lượng xe đạp thồ phát triển quá nhanh, lại lấy từ anh chị em thanh niên xung phong vốn gốc nông dân Nghệ An, Hà Tĩnh. Khi nhập ngũ không phải anh chị em ai cũng biết đi xe đạp cả. Vì thế khi phát triển xe thồ có nhiều đồi dốc dựng đứng biết đi xe đạp cũng đã nguy hiểm mà tập đi xe đạp có khi xảy ra tai nạn chết người. Sau này có người kể lại rằng: Có những anh em phục viên, đã hàng năm đánh bạn với cái xe đạp, là kiện tướng gùi thồ thế mà về làng lại phải tập đi xe đạp từ đầu...

Vào cuối tháng 9, Đoàn phải thay quân vì đã quá hạn nhiều, chủ yếu là thay thế số dân quân và dân công hỏa tuyến hết hạn phục vụ và quân số ốm đau. Bộ Tư lệnh 559 nhận thêm từ Ninh Bình trên 1.000 và từ Nghệ An 1.000 thanh niên xung phong.

Đoàn 559 còn sử dụng một lực lượng thuyền đáng kể để tận dụng nhiều suối về phía tây nam làm đường vận chuyển ra chiến trường, ở tuyến I có 48 tấn phương tiện vận tải thủy gồm gần 100 chiếc thuyền gỗ trọng tải dưới 1 tấn và thuyền gỗ trọng tải dưới 400kg. Tuyến II có 20 tấn phương tiện vận tải thủy với 20 thuyền gỗ. Tuyến III, lợi dụng được dòng sông Sê Băng Hiêng, sông Sê Công, nên ta có 120 tấn phương tiện vận tải với 140 thuyền gỗ... Như vậy ta có toàn bộ 180 tấn phương tiện vận tải thủy trên đường Trường Sơn lúc đó.

Bộ Tư lệnh 559 phân công như sau: Tôi - Tư lệnh, kiêm Chính ủy, chịu trách nhiệm chung, trực tiếp chỉ đạo xây dựng đường 128 và chiến dịch vượt túi nước Xiêng Phan ở tuyến I. Anh Võ Bẩm, Phó tư lệnh đi kiểm tra và tổ chức lại tuyến III Hạ Lào, tuyến tận cùng của đường Trường Sơn, chỉ đạo làm đường C4 và giải quyết số xe sa lầy ở vùng Khăm Muộn. Anh Vũ Xuân Chiêm chịu trách nhiệm tuyến II, lo việc tổ chức và thành lập các đảng ủy của các tuyến, chấn chỉnh và tổ chức các tham mưu vận tải công binh và tác chiến.

Như vậy, cho đến lúc này, Đoàn 559 đã nhanh chóng triển khai được trên toàn tuyến và toàn hệ thống đường xuyên Trường Sơn dài gần 2.000 kilômét. Kể từ ngày 19 tháng 5 năm 1959, ngày mà đồng chí Võ Bẩm được vinh dự nhận nhiệm vụ mở đường chi viện 7.000 cây súng cho chiến trường miền Nam để thành lập những đơn vị vũ trang đầu tiên cấp trung đội độc lập, hỗ trợ cho phong trào Đồng khởi của nhân dân miền Nam và thi hành Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng, đến năm 1965 là đã sáu mùa mưa ở Trường Sơn. Trong sáu năm các anh đã làm được biết bao nhiêu công việc. Và điều quan trọng nhất là các anh đã xây dựng được một lực lượng giao thông vận tải Trường Sơn với một hệ thống đường có tính chiến lược (tuy nhỏ bé và chủ yếu là gùi thồ về mùa khô) và lực lượng cán bộ, chiến sĩ trung kiên có tổ chức chặt chẽ, có kinh nghiệm hoạt động ở núi rừng. Với quân số tới ngày thành lập Bộ Tư lệnh mới đã xây dựng được trên 5.000 người. Tổ chức Đảng toàn tuyến đã có 67 chi bộ, với gần 2.000 đảng viên. Phương tiện vận tải đã có 140 ô tô, 1.400 xe đạp thồ, 100 chiếc thuyền. Đã có lúc lưu lượng vận tải tới S1 là 16 tấn mỗi ngày, tới B46 là 2 tấn mỗi ngày. Nếu không có lực lượng trung kiên đó bám trụ và làm chủ trên toàn tuyến đường thì khó có thể vừa xây dựng, vừa bổ sung quân, vừa nhanh chóng chiếm lĩnh trận địa mở đường cơ giới đi đôi với việc nâng nhanh khối lượng vận chuyển ngay trong mùa mưa năm 1965 trên dải Trường Sơn hùng vĩ.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Mười Một, 2016, 10:43:47 pm

Trước đòi hỏi của các chiến trường, cấp trên đặt ra yêu cầu cho Đoàn 559 từ tháng 6 năm 1965 này, có nghĩa là ngay trong cao điểm của mùa mưa lũ, phải vận chuyển đến tận S8 số lượng hàng là 1.200 tấn, đến B46 là 390 tấn, đến B45 là 650 tấn, đến T634 (tức C3) là 150 tấn, đến Ho là 650 tấn. Tổng cộng hàng chi viện miền Nam là gần 3.000 tấn. Ngoài ra còn phải vận chuyển một khối lượng hàng rất lớn để xây dựng lực lượng và nuôi quân của mình, đảm bảo bám trụ trên ba tuyến. Khối lượng hàng này rải từ S1 đến S3 là 700 tấn, đưa vào S4 là 500 tấn, rải từ S5 đến S8 (địa phận Quảng Ngãi) là gần 2.000 tấn... Tổng cộng khối lượng hàng của riêng Đoàn 559 cũng lên đến gần 4.000 tấn...

Muốn thực hiện được khối lượng trên thì trọng tâm là tuyến I phải vượt được túi nước, thông được đường mới 128, đường 16 Ho, thì chân hàng mới tới các tuyến phục vụ cho xe cơ giới. Lúc này số lượng khách qua các binh trạm chưa phải là cao điểm. Theo yêu cầu của trên, Bộ Tư lệnh 559 đang chấn chỉnh lại hệ thống trạm giao liên để có thể đón nhận một khối lượng khách lớn hơn, đông hơn; đón các quân đoàn cỡ trung đoàn, sư đoàn đi vào mặt trận. Hệ thống trạm giao liên toàn tuyến có 24 trạm. Tuyến I có 8 trạm, tuyến II có 7 trạm, tuyến III có 9 trạm...

Phải chấn chỉnh kế hoạch giao liên đưa đón khách, lo đủ lương ăn, thuốc men cho khách để có thể đi từ trạm đầu của tuyến từ Ho, Tây Quảng Bình, tới đầu mút B45 Quảng Trị, Huế mất 17 ngày; từ Ho đến đầu mút của B46 Khu 5 đến 30 ngày; từ Ho đến S9 Tây Nguyên mất 45 ngày... kể cả nghỉ ngơi.

Việc đưa đón khách từ Nam ra Bắc, cán bộ, chiến sĩ đi B chiến đấu, thương bệnh binh ở B ra điều trị, được tổ chức chu đáo, với các trạm giao liên, các bãi khách có nơi nghỉ ngơi an toàn, có y tế chăm sóc sức khỏe, có kho bãi tiếp tế lương thực, thực phẩm, lại còn tổ chức đội cáng vai và căng trên xe đạp để cáng thương binh và những đồng chí già yếu, cần giữ gìn sức khỏe... Nhớ lại những ngày kháng chiến chống Pháp, cũng đi xuyên Trường Sơn, do chưa được tổ chức như ngày nay, các cán bộ vào Nam ra Bắc phải vượt đèo, lội suối, băng rừng ròng rã 250 ngày, tính ra đến hơn 8 tháng trời.

Để đạt được mức phấn đấu vận chuyển và đưa khách lần đầu tiên vào mùa mưa như thế, công việc của Bộ Tư lệnh 559 hết sức nặng nề. Phải lo mở đường mới, sửa đường cũ, mở rộng đường gùi thồ, chống lầy, hạ thấp đèo dốc. Tận dụng tất cả các đoạn có thể vận chuyển cơ giới để tung lực lượng, cơ giới vào hoạt động. Tận dụng các dòng sông, suối để tung thuyền ra vận chuyển như sông Noọng Cà Deng, sông Sê Băng Hiêng, sông Sê Công... Trời mưa, nước lớn cũng có lợi cho thả trôi vận chuyển, nhưng nước chảy xiết, thác ghềnh nhiều nên cũng tốn sức người và khá nguy hiểm. Tăng cường sức vận chuyển của lực lượng gùi thồ. Khi tập trung hơn hai vạn con người trên tuyến đường thì vấn đề tiếp tế lương thực cho chính lực lượng vận tải làm đường này trở nên một vấn đề cốt tử, còn phải đảm bảo an toàn cho lực lượng của mình nữa. Biệt kích, thám báo, máy bay địch đã bắt đầu phát hiện những chuyển biến mới trong chiến lược vận tải chi viện của ta. Chúng tung máy bay do thám, trinh sát suốt ngày đêm và đã bắt đầu bắn phá tọa độ và bắn thăm dò. Chúng chụp ảnh từng đoạn đường mới mở, bằng loại máy bay trinh sát điện tử đặc biệt. Nhưng nhờ trời mưa, mây thấp, núi cao và ta biết lợi dụng các quãng đường có cây cao che nên sự đánh phá của địch gây thiệt hại rất ít. Lo chống địch không bằng lo chống đói, lại không bằng lo chống bệnh tật, bảo đảm sức khỏe và an toàn cho anh em. Nhất là cho các anh chị em thanh niên xung phong, mới lớn lên, chưa quen đời sống gian khổ trong rừng rậm. Bệnh sốt rét rừng hoành hành dữ dội. Mới vào Trường Sơn trên công trường 128 quân số bị sốt rét đến hơn 20%, có đơn vị sốt rét tới 80%... Có lúc phải lệnh cho cả một đơn vị rút ra điều trị, thay thế quân số mới. Các đơn vị thanh niên xung phong, số nữ rất đông, có đơn vị nữ chiếm đến hơn 40%, có những tiểu đội toàn nữ. Vấn đề vệ sinh phụ nữ giữa mùa mưa tầm tã, ướt át, ẩm mốc, thật là một vấn đề hết sức phức tạp. Đầu tóc, quần áo không bao giờ khô, chấy rận hành hạ, mưa liên miên không lúc nào tạnh để phơi phóng. Quần áo, đồ vệ sinh được cấp phát đều ẩm ướt hết. Nhưng cũng may là trước khi vào tuyến chúng tôi đã cho một số xe Commăngca lên chợ Đồng Xuân, các phố Hàng Ngang, Hàng Đào mua một số lớn vải màn, đồ lót, lược bí để làm quà cho các cháu, thì nay đã đến lúc những món quà của Bộ Tư lệnh gửi tặng các cháu nữ thanh niên xung phong đến kịp thời, các cháu mừng hơn là được bánh kẹo. Các đồng chí trong Bộ Tư lệnh thường gọi đùa tôi là tướng của "lính quần thâm" có khác. Đã đoán trước được tình hình... tôi chỉ cười và không trả lời. Vì đây là một việc làm để thực hiện lời Bác căn dặn, khi được Bác gọi lên gặp, trước ngày tôi vào tuyến là phải chăm sóc các cháu thanh niên xung phong, nhất là nữ; hơn nữa lực lượng trong Bộ Giao thông nằm ở trên tuyến có tới 40% là nữ, thì cũng dễ thông cảm thôi.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Mười Một, 2016, 10:44:50 pm

Do ẩm ướt, thiếu vệ sinh và ở tuổi dậy thì, lại sống tập thể nên đã phát sinh một bệnh gọi là bệnh lây cười - theo y tế nhận xét - bệnh cười lây lan rất nhanh trong các đơn vị nữ thanh niên xung phong. Cả tiểu đội cùng cười, cười rũ rượi, cười như điên, như dại, cười phát ho, phát hen, cười chảy cả nước mắt. Nhưng, khi ra mặt đường làm việc thì lại cần cù, dũng cảm hơn ai hết. Bộ phận y tế đã tăng cường cho tiền tuyến rất nhiều y sĩ, bác sĩ của quân y, của dân sự và nhiều sinh viên vừa tốt nghiệp Đại học Y khoa. Viện Sốt rét đã cử từng đoàn bác sĩ vào chiến trường 559. Tiếp những năm sau đó, giáo sư bác sĩ Đặng Văn Ngữ đã vào tận tuyến đường này để nghiên cứu tìm ra thứ kháng sinh trị bệnh sốt rét. Thời gian sau nhà khoa học Đặng Văn Ngữ đã hy sinh trên tuyến đường mòn. Rồi những năm sau này, Anh hùng lao động - giáo sư bác sĩ Bộ trưởng Phạm Ngọc Thạch cũng vượt Trường Sơn... Và cũng hy sinh khi làm nhiệm vụ nghiên cứu chống mọi thứ bệnh tật bảo vệ sức khỏe cho chiến sĩ nói chung, trong đó có các chiến sĩ của Đoàn 559. Đường Trường Sơn và các chiến sĩ Trường Sơn không bao giờ quên tấm gương hy sinh cao cả của hai nhà khoa học trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước trên tuyến đường này.

Công tác hậu cần rất căng thẳng. Ưu tiên cho tiền tuyến, nhiều khi các đơn vị của 559 phải ăn thiếu để chuyển lương thực ra phía trước. Anh em ta thường xuyên thiếu lương thực, thực phẩm. Trong khi đó, những làng bản của đồng bào nước bạn, đồng bào dân tộc lại có rất nhiều lợn, gà, trâu, bò... Phải giáo dục cán bộ, chiến sĩ và quản lý nghiêm ngặt việc mua bán, đổi chác... Bộ máy chỉ huy các tuyến nhanh chóng kiện toàn ngay từ đầu tuyến đến từng binh trạm, do đó đã kịp thời lãnh đạo chặt chẽ. Tuyến I do trung tá Vũ Toàn làm Tư lệnh, trung tá Hồ Thăng làm Chính ủy. Tuyến II do trung tá Nguyễn Lang làm Tư lệnh, trung tá Đặng Ba làm Chính ủy. Tuyến III do trung tá Nguyễn An làm Tư lệnh và thiếu tá Phạm Hương làm Chính ủy... Các đồng chí này đều đã từng nhiều năm chiến đấu trên đường Hồ Chí Minh và cả chiến trường nước bạn, nên có rất nhiều kinh nghiệm. Việc kiện toàn tổ chức các tuyến, các binh trạm, các đơn vị ngay từ đầu đã thực sự tăng thêm sức mạnh chiến đấu, bám trụ của Bộ Tư lệnh 559 là cán bộ, chiến sĩ trên hệ thống đường Trường Sơn.

Tình hình "túi nước" Xiêng Phan trên tuyến I trọng tâm, trọng điểm ngày càng trở nên nghiêm trọng. Mưa kéo dài, nước lũ từ các sườn dốc như mái nhà mỗi ngày một dồn nhiều hơn vào khu vực thung lũng làm túi nước cứ phình to mãi ra. Con đường giao thông 129 hoàn toàn tê liệt, không còn cách gì đi lại được nữa. Đường 128 trọng điểm thì đang thi công, đường 16 mở rộng qua Ho nối đường 9 chủ yếu cho hành khách đi, không thể hỗ trợ được, nhưng cũng còn trong giai đoạn đang thi công. Túi nước dài hơn 30 kilômét, nước cứ mỗi ngày một dâng cao thành một hồ rộng mênh mông không dòng chảy. Đường 050 của Ty Giao thông Quảng Bình do đồng chí Vọng chỉ huy đã làm xong nhưng phải đi vòng quá dài, mà cũng chỉ là đường gùi thồ, lại phải vượt những dốc đá tai mèo cheo leo nguy hiểm. Hàng hóa qua đèo Mụ Giạ, chất đống ở bờ bắc túi nước, sông Sê Băng Phai nhiều thác, đá, vận chuyển không được bao nhiêu, hàng đi bằng đường gùi thồ 050 không đủ nuôi quân ở tuyến phía nam, phải bằng mọi cách khắc phục túi nước này. Tôi đã cùng đồng chí Đôn đến bờ bắc túi nước, phải tận dụng tối đa túi nước để chở hàng. Thuyền bè của toàn tuyến I đã được anh em thực hiện bằng mọi cách và đưa ngay đến nơi tập kết. Có lúc ta phải vác thuyền vượt đèo, vượt núi băng rừng mới tới đây được. Thuyền đến nơi được tung ngay vào chiến dịch vận chuyển hàng qua 30 cây số túi nước xuống phía nam. Hơn 80 chiếc thuyền đặc biệt vận chuyển ngày đêm chỉ mới đáp ứng được một phần nhu cầu của tuyến phía nam. Anh em tìm mọi cách để đẩy mạnh việc vận chuyển trên túi nước quái ác này. Biện pháp thả trôi đã được mang ra áp dụng. Nhưng nước ở túi cứ lình sình không chảy thành dòng cố định như các dòng sông Sê Băng Hiêng, Sê Công ở tuyến dưới, nên phải tốn người và thuyền đẩy các túi ni lông đóng lương thực, thuốc men...

Cách thả trôi ở đây cũng chỉ giải quyết được một phần nhỏ yêu cầu vận chuyển.

Cần phải đóng thêm thuyền, số thợ từ Nam Hà do đồng chí Nguyễn Văn Thuần từ Bộ Giao Thông đưa vào cũng đã triển khai hạ cây xẻ gỗ đóng thuyền nhưng tiến độ chậm. Chúng tôi đã cho lập một "xí nghiệp'' đóng loại thuyền độc đáo mà trong từ điển vận tải thế giới chưa có tên.

Hồi ở Hà Nội, khi nghiên cứu, khắc phục túi nước tôi đã giao cho đồng chí Đặng Văn Thông, Viện trưởng Viện Nghiên cứu kỹ thuật của Bộ Nghiên cứu và áp dụng cái mũ nan bọc vải của lính Cụ Hồ để làm thuyền chở và đã thử ở sông Hồng thành công (chở được 3 tạ) sau đó giao cho hậu cần sản xuất hàng loạt, nhưng chưa đưa vào kịp. Thế là vải bạt dự trữ trong kho đã được đưa ra khâu. Tre bạt ngàn của núi rừng đã được hạ xuống. Một số thuyền nan bọc vải bạt đã được hạ thủy. Đúng lúc đó thì xe chở vỏ thuyền ở Hà Nội cũng vừa vào. Thế là "xí nghiệp" ngày đêm ra sức lắp ráp hàng trăm thuyền, kịp thời đưa xuống nước một lực lượng vận tải đáng kể cùng với một số thuyền gỗ, nan để gỡ thế bí lúc bấy giờ.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Mười Một, 2016, 09:49:58 pm

Hàng nườm nượp vượt túi nước Xiêng Phan tạo chân hàng cho phía nam vận chuyển tiếp vào chiến trường. Thuyền chở hàng xong, anh em thủy thủ tháo dây, gỡ lấy áo thuyền đeo lên vai như cái ba lô, còn xương thuyền thì vứt lại ven rừng. Anh em đeo áo thuyền đi bộ theo đường gùi thồ 050 về bờ bắc túi nước. Ở đây đã có sẵn cốt xương do xí nghiệp sản xuất hàng loạt. Lại căng vải bọc cốt, thả xuống nước và chất hàng lên, chở xuôi... Cứ thế mà vận chuyển, vừa gọn nhẹ, vừa nhanh chóng đơn giản... Thuyền vải, thuyền gỗ, thuyền nan thả trôi, đường tránh 050... Tất cả sức lực, trí tuệ thông minh, quyết tâm đã tập trung và tận dụng được túi nước ác liệt nhất trên tuyến giao thông lúc bấy giờ: túi nước Xiêng Phan.

Trong chiến, dịch khắc phục túi nước Xiêng Phan đảm bảo giữ vững và đẩy mạnh vận chuyển trong mùa mưa, ngoài công lao của các anh em bộ đội, công binh, thanh niên xung phong, công nhân giao thông, công nhân làm thuyền Nam Hà, phải kể đến sự đóng góp từ đầu của anh chị em công nhân giao thông, dân công hỏa tuyến Quảng Bình lên mở đường 050 vòng túi nước. Đoàn này do anh Vọng nguyên trưởng Ty Giao thông phụ trách.

Vượt túi nước chỉ là một biện pháp khắc phục tạm thời trong mùa mưa năm 1965, dù con đường 128 hoàn thành mùa mưa đến vẫn bị túi nước ấy cắt đứt, chân hàng dù có dự trữ bao nhiêu cũng không thể đẩy vào tuyến II để đưa đi sâu được. Vì thế phải tập trung giải quyết cơ bản tuyến trọng tâm là tuyến I. Điều mà chúng tôi quan tâm nhất (khi còn ở Hà Nội chúng tôi đã nêu lên) là làm thế nào phá thế độc đạo ở hậu phương, ở tuyến lửa, ở khắp các tuyến Đông và Tây Trường Sơn để chống chiến tranh phá hoại của kẻ địch. Theo chiến thuật lấy yếu đánh mạnh, giành chủ động trong bị động. Bản thân đường 12 từ phía bắc Quảng Bình đến bến phà Xuân Sơn vượt qua đèo Mụ Giạ tới nước bạn Lào đã trở thành đường độc đạo. Mất nó coi như tê liệt vì nó là một cửa khẩu, đầu mối duy nhất để tiếp nhận hàng từ hậu phương đến và từ đó tiếp tục gùi thồ hay cho xe cơ giới vận chuyển tới tuyến sau. Điều đặt ra là phải có một con đường vượt từ Đông sang Tây Trường Sơn ở một cửa khẩu khác thuận lợi hơn. Đường này phải nối thẳng đến đường 9 với cung độ ngắn nhất bằng đường 128 đang làm mới. Khi kiểm tra tim đường trên bản đồ, ta gặp toàn những cao điểm khó vượt, chưa biết tìm điểm vượt ở đâu. Lần này gặp đồng chí Vọng, kỹ sư công chính lại là "thổ công" của vùng này thì thật là một dịp may. Anh Vọng rất tâm đắc với tôi về việc phá thế độc tuyến và mở con đường mới vượt Trường Sơn, tạo nên hệ thống đường cơ giới ngay từ tuyến I. Thời gian rất cấp bách, bản đồ chi tiết địa chất không có, tung quân đi thị sát thì cũng mất vài tháng. Tôi hỏi anh Vọng: Muốn phá thế độc đạo tránh túi nước Xiêng Phan phải mở một con đường mới nối từ Đông Trường Sơn sang Tây Trường Sơn thì chọn điểm vượt là tọa độ nào thuận lợi nhất, nhưng phải chệch về phía nam cho gần.

Thực ra đây là bài toán kỹ thuật hóc búa, nhưng là người thông thạo địa hình miền núi Bình Trị Thiên và vùng núi Hạ Lào, nên anh Vọng chỉ cần nghiên cứu lại những ghi chép. Anh mạnh dạn đề xuất mở tuyến từ động Phong Nha Đông Trường Sơn vượt qua Trường Sơn thọc sâu vào cánh đồng Lùm Bùm phía tây Trường Sơn nằm trên tả ngạn sông Noọng Cà Deng, nối với quãng giữa đường 128 đang làm, kéo xuống đường 9 là gần nhất nhưng phải qua dốc Ba Thang. Khó khăn nhất là dốc Ba Thang. Đó là một ngọn dốc đá dựng đứng, cheo leo nguy hiểm. Ngày xưa đi chân không, tay chống gậy mà trèo dốc Ba Thang còn sợ, nay ta tính mở đường ô tô chắc hẳn khó khăn rất nhiều. Nhưng xét cho cùng tuyến đường này mở là thuận tiện hơn cả.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Mười Một, 2016, 09:50:40 pm

Bộ Tư lệnh mời đồng chí Võ Bẩm đang ở tuyến III Hạ Lào về bàn gấp. Đồng chí Võ Bẩm cũng nhất trí và đóng góp nhiều ý kiến. Cái khó ở dốc Ba Thang thời Pháp đã không làm được, không khắc phục được, chứ đánh Mỹ với tài phá đá của công binh và giao thông thì việc bạt núi không phải là trở ngại chính. Ngày 21 tháng 6 năm 1965 họp Bộ Tư lệnh quyết định làm đường xuyên Trường Sơn dịch về phía nam. Đường mới ước dài trên 150 kilômét. Chúng tôi giao cho đồng chí Võ Bẩm cùng các đồng chí công binh và giao thông chỉ đạo khảo sát thiết kế đường này, tổ chức làm hai mũi. Một mũi từ phía đông sang tây do đồng chí Nam Hải phụ trách cùng với đồng chí Sơn công binh và một điện đài. Mũi phía tây sang đông do đồng chí Trầm phụ trách, cùng đồng chí Tiêu công binh và một điện đài. Hai mũi gặp nhau ở dốc Ba Thang.

Con đường được nhanh chóng hình thành trên kế hoạch thiết kế. Chỉ riêng đoạn dốc Ba Thang, theo tính toán của anh em, nếu không sử dụng sức mạnh tập trung của bộc phá định hướng thì thi công ít nhất mất hai năm, chưa chắc đã thông đường. Mà con đường này chúng ta kiên quyết phải thông trước mùa mưa năm 1966, để tranh thủ vận chuyển ồ ạt mùa khô, "chạy đua" về thời gian với địch. Như thế là thời gian thi công cũng chỉ còn có khoảng bốn năm tháng thế thôi, nên chúng tôi chủ trương vừa khảo sát, vừa thiết kế, vừa thi công cho nhanh. Vì con đường được mở với ý chí quyết tâm cao, nên anh em gọi con đường với nhiều tên khác nhau: đường Thắng Lợi, đường Quyết Thắng, đường Thắng Mỹ... Nhiều tên khác nhau nhưng biểu lộ một ý chí chung. Ngay khi anh em công binh và kỹ sư thiết kế còn vạch tuyến trên bản đồ, Bộ Tư lệnh Đoàn 559 đã rút dần quân của giao thông và thanh niên xung phong vừa hoàn thành nhiệm vụ ở đường 128 chuyển sang làm đường công vụ trước. Đồng chí Lam Chi và đồng chí Lang mang theo một bộ phận cơ giới chiếm lĩnh trận địa để đánh thông đường từ phía tây sang phía đông, bắt đầu từ khoảng giữa đường 128 chệch về phía nam trên cánh đồng Lùm Bùm, đánh lên dốc Ba Thang một mũi ở phía đông Trường Sơn tiến lên. Lực lượng để mở con đường vượt núi rừng Trường Sơn này đòi hỏi rất lớn, phải lấy thêm thanh niên xung phong từ các tỉnh Thái Bình, Hà Nam Ninh, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình... Tuổi trung bình của anh em là 20, vì lẽ ấy chúng tôi đặt tên đường là đường 20, để kỷ niệm tuổi trẻ Việt Nam một thời đánh Mỹ và quyết thắng Mỹ.

Sau đường 20, những năm sau, ngành giao thông mở những đường tạo chân hàng cho Đoàn 559, như đường 22 tránh Đèo Ngang, đường 21 từ Thạch Hà lên Tân Âp nối vào các cửa khẩu của Trường Sơn. Tên 21, 22 giống như tên đường 20, cũng lấy tuổi trung bình của anh chị em thanh niên xung phong mà đặt để kỷ niệm chiến công của anh chị em...


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Mười Một, 2016, 09:51:29 pm

Đó là những ngày khẩn trương sôi nổi và không kém phần căng thẳng... May mắn tôi còn giữ được những cuốn nhật ký chiến trường của những ngày tháng ấy. Tôi xin trích ra đây một đoạn ghi chép về một buổi giao ban trong một ngày bình thường, để chúng ta dễ dàng nhận thấy nhịp sống hàng ngày của Trường Sơn trên hệ thống đường mòn trong những năm tháng ấy:

Giao ban ngày 8 tháng 9 năm 1965

Trinh sát từ đường 9 báo cáo cho biết đã có 300 lính Mỹ đổ bộ lên Đông Hà. Có hiện tượng chuẩn bị doanh trại ở Quảng Trị. Đề phòng khả năng Mỹ trực tiếp tăng quân nhanh chóng lên đóng ở thung lũng A Sầu, A Lưới đánh vào đường 9 của ta. Trinh sát cũng đã phát hiện 5 toán biệt kích hoạt động xung quanh đường 9, cả phía đông lẫn phía tây, phải chỉ thị cho tuyến I lo đề phòng địch quấy phá, đánh nống ra trên dọc đường 9.

Tình hình vận chuyển như sau: Hàng đến R5 Cha Lo 104 tấn, đến R1a là 11,4 tấn, đến R1b là 83 tấn, đến Lằng Khằng là 14 tấn, đến R2 là 109 tấn. Tổng cộng hàng đã đến tuyến I là 3.616 tấn. Tuyến II và tuyến III hàng vào tổng cộng 808 tấn, phân ra như sau: hàng đến S1 là 307 tấn, hàng đến 9D là 121 tấn, hàng đến S4 là 259 tấn, hàng đến T3 là 121 tấn, gồm: gạo, muối, vũ khí và các mặt hàng khác.

Mưa liên tục kéo dài.

T3 mưa rất dữ, phà bị trôi, đường lầy lội, mức độ vận tải xuống tuyến là 8 tấn mỗi ngày, chỉ đủ ăn cho khách và nuôi được 2 tiểu đoàn. Đội quân gùi thồ và gánh bộ có trên 1.000 người, lương thực ăn mất 5 tấn chỉ còn lại 3 tấn giao cho tuyến sau.

Lực lượng dự trữ lương thực tại các binh trạm: Binh trạm 5 ở S8 còn 169 tấn, binh trạm đầu mối và tuyến B46 chỉ còn 15 tấn. Kho dự trữ cho các binh trạm còn 205 tấn. Trong khi đó số khách hiện đi trên các tuyến đường là 552 tiểu đội (trên dưới 5.000 người). Số gạo cung cấp cho khách mỗi ngày hết hơn 2 tấn. Không tính khách còn tiếp tục bổ sung. Với số khách hiện có, trong một tháng hành quân qua hệ thống đường mòn này, các binh trạm phải cung cấp 75 tấn gạo.

Địch bỏ bom tọa độ và bắn phá liên tục để thăm dò, hành khách ban ngày đi vùng Tà Ôi bị thương 2 người, nước lũ, thuyền đắm, 2 chiến sĩ hy sinh.

Lực lượng gùi thồ đường vòng 050 mới mở tránh túi nước Xiêng Phan chỉ đảm bảo được 4 tấn/ngày. Đoạn đường gùi thồ và gánh 19 kilômét, xuất phát từ Ho. Chỉ bảo đảm vận chuyển được 3,2 tấn mỗi ngày... Vượt túi nước Xiêng Phan bằng các loại thuyền là mũi tiến công chính trong mùa mưa trên mặt trận vận tải.


Đó là một ngày giao ban bình thường trên hệ thống đường Trường Sơn giữa mùa mưa năm 1965.

Sau khi tập trung giải quyết về cơ bản vấn đề vượt túi nước Xiêng Phan, thông xe đường 128, hàng từ phía bắc túi nước đã được vận chuyển xuống tuyến I qua đường 128, một phần tiếp chuyến theo sông Noọng Cà Deng thông đường 16. Hàng hóa nhẹ và hành khách đã đi lại tấp nập. Đường 20 đã được rải quân làm từng đoạn vừa thiết kế vừa thi công, đường này làm xong sẽ phá thế độc đạo của đường 12 và bỏ hẳn túi nước ác liệt, về cơ bản, tuyến I đã được giải quyết và tận dụng được đường thủy. Các tuyến khác tiếp tục mở rộng và nối liền các đoạn đường cơ giới.

Khối lượng hàng vượt túi nước đã khá nhiều, các kho chứa đã có hàng, nhiều xe tải chở hàng đi vào phía trong. Địch đưa tin ngày 30 tháng 10 năm 1965: "Lần đầu tiên bộ đội cơ giới của Quân đội nhân dân Việt Nam đã theo đường Hồ Chí Minh vào Nam". Chúng không gọi là đường mòn nữa...


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Mười Một, 2016, 10:45:33 pm

MỞ ĐƯỜNG 20 QUYẾT THẮNG
Kỹ sư PHAN TRẦM
Nguyên Chỉ huy trưởng Công trường 20
Nguyên Trưởng ban Xây dựng 67 Bộ Giao thông vận tải

CHIẾN TRƯỜNG THÔI THÚC

Cuối tháng 3 năm 1965 tôi thay mặt Ban chỉ đạo miền Tây đi kiểm tra 5 công trường biên giới phía Bắc, đề phòng Mỹ tiến hành chiến tranh xâm lược ra miền Bắc. Xong công việc, về đến Hà Nội, thấy không khí ở Bộ Giao thông vận tải thật nhộn nhịp sôi nổi. Thực hiện Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng, đồng chí Phan Trọng Tuệ được cử làm Tư lệnh kiêm chính ủy Đoàn 559, mở đường vận chuyển cơ giới tăng cường chi viện cho miền Nam đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Đồng chí Nam Hải cùng một số kỹ sư thiết kế đang chuẩn bị tư trang lên đường làm nhiệm vụ. Trước khí thế khẩn trương đó, tôi náo nức muốn làm một việc có ích để đóng góp công sức nhỏ bé vào cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Và đây chính là thời cơ giúp tôi thực hiện nguyện vọng. Từ ý nghĩ đó, tôi gặp đồng chí Hồng Xích Tâm, Thứ trưởng, Trưởng ban chỉ đạo miền Tây, người trực tiếp chuẩn bị cán bộ và lực lượng tăng cường cho Đoàn 559, đề đạt nguyện vọng. Ngày hôm sau, tôi được Bộ trưởng chấp nhận, bổ sung vào đoàn tiền trạm của đồng chí Nam Hải. Hết sức phấn khởi, tôi tích cực cùng anh em chuẩn bị hành trang vào tuyến lửa.

Ngày 5 tháng 4 năm 1965, vào một buổi chiều nắng đẹp, chúng tôi tập kết ở Bộ. Ba chiếc xe Gát 69 chở chúng tôi lên đường vào chiến trường. Trên đường đi vào Khu 4 tuyến lửa, mỗi người chúng tôi đều có một tâm trạng bồn chồn, rạo rực.

Chúng tôi đến Nghi Xuân thì trời bắt đầu hoàng hôn, các xe đều phải đi đèn gầm, qua Ngã ba Đồng Lộc vào đường 15, đến khuya thì đến R - bản doanh của Đoàn. Sáng hôm sau, đồng chí Nguyễn Văn Nhạn, thượng tá, Tham mưu trưởng công binh Đoàn 559 truyền đạt nhiệm vụ: đồng chí Nam Hải được cử làm Tham mưu phó cầu đường phụ trách khảo sát thiết kế. Tôi có nhiệm vụ đi khảo sát và chuẩn bị thi công tuyến đường 128 từ Ngã ba Lằng Khằng qua Tha Pa Chôn đến Thà Khống, nối liền với đường 9 và đường 129.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Mười Một, 2016, 10:46:04 pm

TÚI NƯỚC XIÊNG PHAN VÀ SỰ RA ĐỜI PHƯƠNG ÁN MỞ ĐƯỜNG 20

Sau khi khảo sát xong, tôi được cử làm Phó ban chỉ huy Công trường 128 do đồng chí Nguyễn Lang, Cục phó Cục Công trình I làm Trưởng ban. Bố trí xong lực lượng thi công, cuối tháng 4 năm 1965, tôi ra Hà Nội báo cáo với đồng chí Bộ trưởng. Đầu tháng 5 năm 1965, khi tôi trở vào thì mùa mưa trên Trường Sơn đã bắt đầu và đầu đường 128 hình thành túi nước Xiêng Phan chắn hết lối vào công trường. Lực lượng thi công bị đói, phải kéo nhau lội nước vượt Xiêng Phan để tiếp tế lương thực vào tuyến. Tuy bị đói nhưng anh em vẫn phải mở đường trong những cơn mưa tầm tã liên tục suốt cả tháng 5. Đường đi lầy lội phải lát toàn bộ bằng rông đanh. Vậy là tuyến 128 không đáp ứng được nhiệm vụ vận chuyển chi viện liên tục bốn mùa như quyết tâm của Trung ương. Vấn đề đặt ra là phải tìm một tuyến đường mới để có thể đáp ứng nhu cầu vận tải chiến lược. Trong một buổi nghe đồng chí Bộ trưởng trao đổi, chúng tôi đã nghĩ đến tuyến đường 16 vượt Khỉ Ho qua biên giới, nhưng cũng khó thực hiện. Cuối cùng chỉ còn một hướng vào Phong Nha lên U Bò, nối với đường 128 tại Ngã ba Lùm Bùm là có thể nghiên cứu, mặc dù tính khả thi không nhiều lắm. Do địa thế hiểm trở, nhiều đá tai mèo, nên việc xác định được tuyến rất khó khăn, hơn nữa lúc đó chúng ta chưa có kinh nghiệm mở đường đá. Vấn đề cũng chỉ nằm trong suy nghĩ của lãnh đạo và một số kỹ sư. Tôi vẫn tiếp tục ở lại Công trường 128 chỉ đạo kỹ thuật thi công...

Cuối tháng 5 năm 1965, tôi đang chỉ đạo thi công đoạn cuối đường 128 nối với Lùm Bùm thì nhận được điện của đồng chí Phan Trọng Tuệ giao tổ chức khảo sát định tuyến đường 20 từ Lùm Bùm - U Bò (biên giới Việt - Lào) phối hợp với một mũi từ Phong Nha - U Bò, do đồng chí Nam Hải phụ trách. Mệnh lệnh của trên là ngày 13 tháng 6 hai mũi phải gặp nhau ở đỉnh U Bò và hàng ngày phải điện mật mã báo cáo tiến độ về Bộ, đồng thời giao cho tôi đảm nhiệm chức vụ Trưởng ban chỉ huy Công trường 20.

Tôi trở về trụ sở Ban chỉ huy Công trường 128 gặp thượng tá Nguyễn Văn Nhạn, trực tiếp nhận nhiệm vụ.

Sau khi truyền đạt mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh, đồng chí Nhạn vỗ vai tôi: "Tôi chẳng có gì để giúp các đồng chí; chỉ cấp một số đá lửa để đổi thực phẩm dọc đường". Tôi cảm ơn và cùng công trường chọn một tổ khảo sát do đồng chí Dung làm tổ trưởng, một tổ cơ yếu 15W lên đường, dựa vào dân ở các bản Lào hướng dẫn tìm tuyến, lên bản đồ thiết kế tuyến đường.

Theo đúng kế hoạch, ngày 13 tháng 6 năm 1965, chúng tôi lên đến U Bò thì đoàn đồng chí Nam Hải đã hoàn thành nhiệm vụ và trở về bản doanh của Bộ Tư lệnh ở R (ngã ba Khe Ve). Chúng tôi lại trèo đèo vượt dốc về R.

Sau khi tôi và đồng chí Nam Hải khớp nối toàn tuyến, thấy đoạn tuyến Phong Nha - U Bò có nhiều khó khăn nên phải xem xét hai phương án:

1. Từ Phong Nha đi vòng khu núi đá, qua Đoòng về Khe Tum lên U Bò, tuyến dài thêm 30 kilômét, nhưng là đường đất, ta có thể thi công được.

2. Từ Phong Nha vượt dốc Ba Thang lên U Bò (phía Việt Nam) đi Khe Tum - Biên Giới. Tuyến này phải vượt qua khu núi đá Phong Nha dốc đá tai mèo, ta chưa có kinh nghiệm thi công.

Qua trao đổi, tôi tạm nhất trí với đồng chí Nam Hải chọn tuyến Phong Nha - Đoòng - Khe Tum - Biên Giới và chúng tôi lên gặp đại tá Vũ Xuân Chiêm, Phó bí thư Đảng ủy kiêm Phó tư lệnh thường trực của Đoàn xin ý kiến và được đồng chí Chiêm chấp thuận.

Tôi trở lại Phong Nha, lòng vẫn băn khoăn về tuyến đường với thời gian 3 tháng phải hoàn thành.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Mười Một, 2016, 11:13:47 pm

TRĂN TRỞ, ĐẤU TRANH SỬA ĐỔI PHƯƠNG ÁN TUYẾN

Lần này trở về với cương vị là Trưởng ban chỉ huy Công trường 20 và nhiệm vụ của tôi là bằng bất cứ giá nào cũng phải hoàn thành nhiệm vụ mở đường đúng quy định - đó là tâm niệm của tôi khi bước chân vào Trường Sơn.

Nhưng làm thế nào để hoàn thành? Tôi xác định phải xem xét lại từ phương án tuyến đến biện pháp tổ chức thi công, lực lượng thi công và đào tạo kỹ thuật thi công cho cán bộ, thanh niên xung phong. Tôi gặp bộ phận tiền trạm của Công trường từ Hà Nội vào gồm đồng chí Cao Xuân Can, phụ trách kế hoạch, đồng chí Hoàng Hiếu, Phó ban nắm tình hình chuẩn bị mọi mặt của công trường, sau đó đồng chí Phạm Văn Thọ họp với các đồng chí khảo sát thiết kế gồm đồng chí Phí Đình Tuấn, Tổ trưởng khảo sát Đoàn 8, đồng chí Nho, Đội trưởng khảo sát Quảng Bình, đồng chí Mai Sơn, đại úy nắm tình hình chọn tuyến đoạn Phong Nha - Biên Giới. Thực ra, khi chọn tuyến phía đông, anh em cán bộ khảo sát vẫn chủ trương đi tuyến đá. Sau khi tham khảo ý kiến chung, tôi cùng anh em đi thị sát lại một số điểm khống chế khó thi công như đỉnh Trà Ang (Km 12), dốc Ba Thang, Khe Diêm - U Bò, thấy khả năng tuyến có thể đi được. Với khối lượng ước tính 1.000.000 mét khối đá mở đường, làm thế nào để hoàn thành nhiệm vụ trong thời gian quy định. Anh em cán bộ thì rất hăng hái, nhưng không thể có sự tính toán khoa học về biện pháp tổ chức thi công và giải pháp kỹ thuật.

Tôi thường xuyên trao đổi ý kiến với anh em và suy nghĩ để làm sao hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt nhất.

- Phương án đi vòng qua Đoòng thì dài hơn 30 kilômét, khối lượng không nhỏ, còn có đá hay không thì ta chưa lường được, nếu bóc lớp phủ bằng đất, ở dưới là đá thì đường này còn khó khăn hơn. Đường đất lầy lội, nhiều sông suối, số cầu ngầm sẽ nhiều, tiến độ không dễ đạt, mà bảo đảm giao thông cũng khó khăn.

- Phương án vượt Ba Thang đi qua 41 kilômét núi đá, khó khăn đã rõ. Nếu dùng giải pháp kỹ thuật phá đá mở đường được nhanh thì có khả năng bảo đảm tiến độ, hơn nữa bảo đảm giao thông sau này lại nhiều thuận lợi hơn, đường đá địch khó đánh, ít cầu ngầm.

Sau nhiều đêm trăn trở suy nghĩ, tôi quyết tâm theo phương án đường đá. Mặc dù ta chưa có kinh nghiệm, nhưng nước bạn Trung Quốc đã từng thi công, có tổng kết.

Nếu mở đường thắng lợi thì đây là một bất ngờ đối với địch vì từ thời Pháp đã xác định tại khu vực này không có đường nào vượt Trường Sơn.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Mười Một, 2016, 11:15:49 pm

GIÀNH THẮNG LỢl BẰNG QUYẾT TÂM, SÁNG TẠO VÀ KHOA HỌC KỸ THUẬT

Sau khi xác định quyết tâm, tôi họp anh em Ban chỉ huy Công trường, cán bộ khảo sát và cán bộ thi công. Anh em đều nhất trí chọn phương án Phong Nha - Ba Thang - U Bò - Cà Roòng - Biên Giới làm tuyến thi công với biện pháp kỹ thuật là dùng bộc phá mở đường. Tôi đề nghị anh em lên phương án về khối lượng cụ thể để báo cáo Bộ Tư lệnh.

Tháng 7 năm 1965, Bộ trưởng Phan Trọng Tuệ, Tư lệnh kiêm Chính ủy Đoàn 559 về R, điện gọi tôi ra để báo cáo phương án và quyết tâm của Công trường. Tôi đã báo cáo tình hình và kế hoạch thi công. Ngày hôm sau, đồng chí triệu tập Đảng ủy Đoàn 559. Sau khi tuyên bố lý do, đồng chí giới thiệu tôi trực tiếp báo cáo kế hoạch mở đường và quyết tâm của Công trường.

Tôi trình bày phương án mở đường theo tuyến mà chúng tôi đã chọn, nêu hết khó khăn về địch, thời tiết và khối lượng phải thi công, đặc biệt là nêu bật khó khăn nếu phá 1.000.000 mét khối đá (dài 40 kilômét). Để đảm bảo thời gian quy định (vẻn vẹn gần 4 tháng), chúng tôi đề nghị giải pháp kỹ thuật duy nhất là dùng mìn phá nổ.

Đồng chí Tuệ đề nghị hội nghị thảo luận, cả hội trường im lặng, một lúc sau đồng chí Vũ Xuân Chiêm phát biểu tán thành phương án do Công trường đề xuất.

Cuối cùng đồng chí Tuệ kết luận: Phê chuẩn kế hoạch và quyết tâm của Công trường, cấp cho Công trường 270 tấn TNT để hoàn thành nhiệm vụ (tôi xin là 150 tấn).

Không giải quyết khâu phá nổ tốt thì không thể hoàn thành nhiệm vụ, và nếu không có phương pháp bộc phá tốt thì địch phát hiện đánh phá ngăn chặn cũng không thể hoàn thành được việc mở đường. Tôi quyết định ra Hà Nội tìm tài liệu và xin chuyên gia mở lớp huấn luyện cho toàn thể cán bộ kỹ thuật, sau đó đào tạo cho mỗi đại đội một tổ bộc phá để từng đại đội làm chủ kỹ thuật.

Tôi gặp anh Bùi Văn Các, Ủy viên Ủy ban Kiến thiết ở Bộ. Anh Các thông cảm với khó khăn của chúng tôi, kéo tôi lên Thư viện Ủy ban mượn cho tôi cuốn tổng kết bộc phá lớn của Đường sắt Trung Quốc. Mừng quá, tôi liền dịch và đồng chí Can ghi lại. Sau đó, tôi gặp Thứ trưởng Nguyễn Tường Lân (mới được cử làm Phó tư lệnh Đoàn 559) để nghị giao cho Văn phòng kiểm tra, chỉnh lý và in Rônêô gửi vào công trường làm tài liệu học tập.

Về cán bộ giảng dạy, Bộ Tư lệnh tăng cường cho hai chuyên gia bộc phá là đại úy Thọ và thượng úy Quảng. Bộ Giao thông điều cho một tổ bộc phá từ Công trường 6 là các đồng chí Thu, Cát, Thẩm.

Trở về công trường, một mặt tôi giao nhiệm vụ cho các đồng chí khác trong Ban chỉ huy triển khai nhận quân, nhận tiếp tế, mặt khác tôi mở ngay một lớp huấn luyện "cấp tốc" về bộc phá cho toàn thể cán bộ kỹ thuật thi công từ phòng kỹ thuật đến cán bộ kỹ thuật đại đội. Sau một lớp huấn luyện 15 ngày, tôi tổ chức cho công trường thí điểm. Đồng chí Phùng, Phó ban chỉ huy công trường phụ trách, đồng chí Phạm Thọ làm phó kỹ thuật. Địa điểm thí nghiệm là dốc Đồng Tiền, dùng 1 quả 1,5 tấn thuốc nổ. Sau khi nổ, hiệu quả công phá đạt yêu cầu, nhưng cây cối bị phá tan hoang, làm lộ mục tiêu. Chúng tôi bàn bạc, điều chỉnh lại phương pháp trên nguyên tắc chỉ phá đất đá và cây nhỏ, còn cây có đường kính trên 20cm phải giữ lại để ngụy trang. Từ đó, ra đời phương pháp "bộc phá nhỏ liên tục", một sáng tạo của Công trường 20, vừa đạt tốc độ thi công, vừa giữ được bí mật tuyến đường và lực lượng cho đến ngày thông chuyến xe đầu tiên, tạo ra truyền thống mở đường và bảo đảm giao thông không những cho riêng đường 20 mà sau này cho các tuyến đường Trường Sơn, đồng thời mở ra tiền lệ mở đường đá của Việt Nam.

Công trường được Bộ Giao thông vận tải điều cho 4 đội (thiếu) thanh niên xung phong, tổng cộng 4.000 quân gồm: Đội 23 Hà Tĩnh, Đội 25 Nam Hà, Đội 3 Nghệ An và Quảng Bình, Đội 4 Ninh Bình.

Bộ Tư lệnh Đoàn 559 bổ sung cho Trung đoàn 10 công binh, 2 trung đoàn bộ binh đi B dừng lại.

Căn cứ vào đặc điểm, tính chất của từng loại binh chủng, chúng tôi đã bố trí các trung đoàn vào các trọng điểm thi công, đồng thời có khả năng đối phó khi địch đánh phá. Trung đoàn 10 là đơn vị công binh, mạnh về khả năng bộc phá thì bố trí phá đá đoạn dốc Ba Thang với trung điểm đỉnh dốc phải phá một vạn mét khối đá hạ dốc trong một tháng, Trung đoàn 4 và Trung đoàn 5 bố trí mở đường đất từ Ka Roòng lên biên giới.

Các đội thanh niên xung phong được bố trí như sau:

- Đội 4 Ninh Bình mở đường từ cửa rừng (Km 4).
- Đội 25 Nam Hà từ Trà Ang lên Ba Thang.
- Đội 3 từ Cù Mẹ lên U Bò.
- Đội 23 từ Khe Tum lên Ka Roòng.

Để đánh lừa địch, Công trường quyết định: Các đơn vị thi công phải tuân theo nguyên tắc mở đường đến đâu ngụy trang đến đó, riêng 4 kilômét (0-4) từ Phong Nha vào, vì trống trải nên chỉ lát rông đanh đi tạm, khi mở xong toàn tuyến mới làm đường. Do đó, suốt thời gian thi công, địch không hề phát hiện được. Vấn đề tiếp tế hậu cần và vật tư dụng cụ thi công cho các đơn vị được coi là khâu quan trọng của toàn công trường.

Với tốc độ thi công có thể gọi là thần tốc, Ban chỉ huy Công trường đã đặt nhiệm vụ tiếp tế là trọng tâm để bộ đội và thanh niên xung phong luôn có đủ lương thực, thực phẩm, vật tư dụng cụ thi công.

Ngoài việc bố trí các kho thuốc nổ, dụng cụ thi công dọc tuyến, Công trường đã điều động 2 đại đội thanh niên xung phong chuyên làm nhiệm vụ tiếp tế đến các kho dọc đường. Các đội thanh niên xung phong và Trung đoàn tiếp nhận hậu cần tại các kho của Công trường.

Để đảm bảo hoạt động của Công trường được liên tục Ban chỉ huy công trường phân công:

Một đồng chí Phó ban phụ trách hậu cần, chỉ huy lực lượng tiếp tế.

Một đồng chí Phó ban kỹ thuật luôn có mặt dọc tuyến để chỉ đạo thi công.

Đồng chí Chính ủy Công trường phụ trách Chỉ huy sở tiền phương, còn đồng chí Trưởng ban chỉ huy đóng tại Chỉ huy sở nắm tình hình chung, điều độ phối hợp hoạt động của Công trường, làm cho mọi mặt hoạt động từ hậu phương đến tiền phương phối hợp nhịp nhàng cho đến khi hoàn thành nhiệm vụ.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Mười Một, 2016, 11:16:54 pm

CHIẾN DỊCH "CHỌC THỦNG TRƯỜNG SƠN MỞ ĐƯỜNG THẮNG LỢI”

Vào những tháng cuối năm 1965, sau khi kiểm tra mọi mặt chuẩn bị của Công trường, Bộ Tư lệnh quyết định: Tổ chức Công trường 20 thành Công trường Quốc phòng.

- Tăng cường hệ thống chính trị từ Công trường xuống các đơn vị, đồng chí Vũ Quang Bình được điều về làm Chính ủy, Bí thư Đảng ủy Công trường.

Điều động một số sĩ quan của Đoàn 559 bổ sung làm chính trị viên, đội trưởng các đội và đại đội thanh niên xung phong.

- Tổ chức phòng hậu cần của Công trường do đồng chí Khánh làm Chủ nhiệm để đảm bảo hậu cần cho các lực lượng.

Vào những ngày giáp Tết Bính Ngọ, thay mặt Bộ Tư lệnh, đồng chí Nguyễn Tường Lân, Phó tư lệnh vào kiểm tra lần cuối phương án kỹ thuật thi công và mọi mặt chuẩn bị của Công trường.

Đúng 17 giờ ngày 30 Tết, thay mặt đồng chí Bộ trưởng kiêm Tư lệnh Đoàn, đồng chí Lân ra lệnh nổ đợt bộc phá đầu tiên để đón Xuân và hưởng ứng chiến dịch "Chọc thủng Trường Sơn mở đường thắng lợi" do Bộ Tư lệnh Đoàn 559 phát động. Tiếng bộc phá nổ ran trên toàn tuyến. Mọi người hân hoan đón một cái Tết chiến dịch trên toàn công trường và nguyện sẵn sàng đem hết tinh thần trách nhiệm và sức lực, trí tuệ để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ mở đường.

Ăn Tết xong, mọi đơn vị, mọi ngành của Công trường tiến ra mặt đường. Các đơn vị bộ đội, thanh niên xung phong dốc sức lao động ngày đêm không nghỉ, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ.

Hệ thống Đảng và chính trị phối hợp chặt chẽ với thủ trưởng Công trường và các đơn vị chấp hành đầy đủ các mệnh lệnh, luôn bám sát hiện trường, động viên chính trị, tư tưởng, phát động thi đua.

Toàn công trường hừng hực khí thế lao động, tốc độ mở đường luôn luôn giữ vững, bảo đảm thông đường 15 - 20 kilômét mỗi tháng, một tốc độ chưa từng có đối với thi công mở đường đá. Bên phía bạn Lào, Công trường 128 do đồng chí Nguyễn Lang chỉ huy cũng phối hợp nhịp nhàng.

Sau 77 ngày đêm không nghỉ, ngày 27 tháng 4 năm 1966, hai công trường gặp nhau trên đỉnh Trường Sơn tại Km 65 biên giới Việt - Lào.

Sau khi thông đường, 3 trung đoàn bộ đội rút ra tuyến trước. Đồng chí Vũ Quang Bình được điều đi công tác khác, còn lại đồng chí Khuê, Chủ nhiệm Chính trị cùng với Phòng Chính trị và Phòng Hậu cần.

Công trường còn 4 đội thanh niên xung phong được bố trí lại trên toàn tuyến, hoàn thiện nền đường, lát mặt đường, bảo đảm giao thông cho các đơn vị vận tải Binh trạm 14. Đến tháng 9 năm 1966 theo lệnh của Bộ Giao thông vận tải và Đoàn 559, Công trường tổ chức lại hai đội thanh niên xung phong là Đội 23 và Đội 25 gồm những thanh niên xung phong khỏe mạnh bàn giao cùng tuyến đường 20 sang Binh trạm 14 quản lý.

Văn phòng Công trường chỉ còn nhiệm vụ tổng kết, quyết toán và giải quyết việc thực hiện chính sách cho thanh niên xung phong, công nhân còn lại được bàn giao về hậu phương.

Ngày 23 tháng 4 năm 1967, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải ra quyết định thành lập Ban Xây dựng 67 bên cạnh Tổng cục Tiền phương do đồng chí Đồng Sỹ Nguyên làm Tư lệnh kiêm Chính ủy. Với nhiệm vụ tiếp nhận toàn bộ các lực lượng công nhân, thanh niên xung phong trên các tuyến 12A, 15A, 16, toàn bộ Văn phòng Công trường 20 trở thành bộ máy của Ban Xây dựng 67.

Đồng chí Hoàng Đạc làm Trưởng ban Xây dựng 67, các đồng chí: Hoàng Ngọc Phiên, Phan Tương, Đặng Thanh Cao, Lam Chí, Lê Như Cảnh làm Phó ban, đồng chí Trần Cát làm Bí thư Đảng ủy.

Còn tôi được Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên giao làm Tham mưu trưởng cầu đường Tổng cục Tiền phương. Cơ quan Ban 67 trở thành Ban Tham mưu cầu đường và từ đó chịu sự lãnh đạo song trùng của Bộ Giao thông và Tổng cục Tiền phương rồi Bộ Tư lệnh 500, tiếp tục phối hợp với các binh trạm 12, 14, 16 trong cuộc chiến đấu vô cùng ác liệt gian khổ, chống lại mọi âm mưu thủ đoạn ác hiểm của địch, giữ vững mạch máu giao thông trên các tuyến đường Đông Trường Sơn nối Tây Trường Sơn, phục vụ công cuộc giải phóng miền Nam cho đến ngày đại thắng.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Mười Một, 2016, 11:17:27 pm

Mấy lời kết thúc

Suốt thời gian vào Trường Sơn làm công tác mở đường bảo đảm giao thông trên một địa bàn ác liệt, tôi vinh dự được cùng anh em đóng góp một phần nhỏ công sức, trí tuệ trên mặt trận cầu đường tiền phương, bảo đảm cho bộ đội vận tải chi viện đắc lực cho chiến trường miền Nam giành thắng lợi.

Suốt chặng đường 8 năm chiến đấu trên các tuyến đầu Đông Trường Sơn, chiến dịch mở đường 20 Quyết thắng luôn luôn là kỷ niệm sâu sắc của đời tôi.

Đường 20 Quyết thắng là một công trình chiến lược đầy kỳ tích, không những trong chiến dịch mở đường mà còn trong suốt quá trình bảo đảm giao thông cho bộ đội vận tải hoàn thành nhiệm vụ chi viện cho miền Nam giành thắng lợi cuối cùng.

Về mặt khoa học kỹ thuật, nó mở ra tiền lệ mở đường đá và bảo đảm giao thông trên các tuyến đường khác của ta.

Xin cảm ơn sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Giao thông vận tải và Bộ Tư lệnh Đoàn 559 đã chi viện mọi mặt, cả về vật chất và tinh thần, luôn động viên cổ vũ cán bộ, chiến sĩ quên mình lao động, chiến đấu để hoàn thành nhiệm vụ.

Cảm ơn nhân dân bạn Lào và nhân dân Quảng Bình đã giúp đỡ chúng tôi trong vấn đề ăn ở tiếp tế, hướng dẫn tìm tuyến.

Vinh quang thuộc về cán bộ, chiến sĩ thanh niên xung phong, công nhân và bộ đội vận tải anh hùng trên đường 20 Quyết thắng.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Mười Một, 2016, 11:16:54 pm

BỘ ĐỘI CAO XẠ - PHÒNG KHÔNG TRÊN TRƯỜNG SƠN
Đại tá PHAN VĂN NHẬT
Nguyên Chính trị viên Tiểu đoàn pháo cao xạ Đoàn 559

XÂY DỰNG QUYẾT TÂM ĐÁNH THẮNG TRẬN ĐẦU

Đầu mùa khô năm 1966 để thực hiện quyết tâm chiến lược của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng về việc tiếp tục chi viện lực lượng và cơ sở vật chất kỹ thuật cho miền Nam đánh thắng chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ và giúp cách mạng Lào; đồng thời để khắc phục việc ách tắc giao thông do địch đánh phá rất ác liệt phía tây nam Quảng Bình, hạn chế tổn thất, Chính phủ mở thêm hai tuyến đường mới do hai Bộ Quốc phòng - Giao thông chỉ đạo và Bộ Tư lệnh Đoàn 559 tổ chức triển khai, mở rộng đoạn Cổ Chai tây nam Khu 4. Vào thời điểm trên, lực lượng phòng không tầm cao của Bộ, Quân khu chưa vào triển khai mà hai tuyến đường 20A và 128 (đoạn từ phà Xuân Sơn và đèo Mụ Giạ đi ngã ba Lùm Bùm) mở sắp xong, địch tập trung trinh sát phát hiện được tuyến mới nên đánh phá ác liệt. Đại đội 4 súng máy cao xạ là đơn vị trực thuộc Bộ Tư lệnh được vinh dự giao nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ trọng điểm cửa ngõ đường 20A - phà Xuân Sơn (Bố Trạch - Quảng Bình). Nhận nhiệm vụ trên giao, chi bộ đã thường xuyên quán triệt ý đồ chiến lược của trên, nhiệm vụ của đơn vị, khẩn trương triển khai nhiệm vụ huấn luyện cả chiến đấu ban ngày và ban đêm mà trọng tâm là huấn luyện chiến đấu ban đêm để bảo vệ lực lượng vận tải ô tô và các đơn vị hành quân vào. Huấn luyện cả kỹ thuật và chiến thuật, huấn luyện trong mọi lúc mọi nơi, kể cả lúc trực chiến. Đồng thời, đại đội cũng triển khai các phương án phối hợp với xã đội, lực lượng công binh, thanh niên xung phong trong chiến đấu, đào công sự, cứu tải thương, bắt giặc lái trên trận địa giả và tổ chức tập duyệt. Bên cạnh đó, công tác hậu cần cũng được triển khai cùng một thời điểm, tổ chức lực lượng đảm bảo thực phẩm về thị trấn Hòn Láo - Lý Hòa liên hệ nguồn thực phẩm biển và triển khai chăn nuôi gà, trồng rau ở khẩu đội, nuôi lợn ở đại đội nên chất lượng bữa ăn luôn được cải thiện. Hoạt động thể thao được duy trì đều và phối hợp với xã thôn chặt chẽ, đạt hiệu quả tốt và thiết thực trong việc xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng và sĩ khí chiến đấu cao.

Tuy vậy, trước đó một ngày từ chỉ huy, trinh sát đến các khẩu đội do thiếu từng trải, do cấu trúc địa hình hiểm trở, máy bay địch đã triệt để lợi dụng yếu tố bí mật, bất ngờ, lợi dụng biển, sông núi, bay thấp với tốc độ cao nên đã bỏ lỡ một cơ hội tiêu diệt địch rất đáng tiếc. Qua việc sơ suất trên, chi bộ, chi đoàn và hội đồng quân nhân của Đại đội 4 đã nghiêm khắc kiểm điểm, rút kinh nghiệm.

Chiều hôm sau vào lúc 14 giờ ngày 26 tháng 1 năm 1966, một chiếc RF 101 của địch lợi dụng tốc độ cao bay vào bến phà, cửa ngõ của đường 20A đánh phá. Với kinh nghiệm sẵn có và sớm nhận biết được âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, ngay từ loạt đạn đầu cả đơn vị đã bắn rơi tại chỗ chiếc RF 101. Ngay sau khi thấy giặc lái nhảy dù, một tố 3 người do đồng chí Đinh Xuân Ngô chỉ huy và một tổ dân quân nữ do đồng chí Thủy, xã đội phó chỉ huy đã vây bắt gọn. Chúng cho các loại máy bay đến đánh phá dữ dội vòng ngoài để cứu nhưng không kịp đối phó.

Từ chiến thắng trận đầu đã tạo khí thế chiến đấu, thi đua bắn rơi máy bay Mỹ sôi nổi trong đơn vị. Kết quả, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đơn vị đã bắn rơi 156 máy bay các loại, trong đó nhiều chiếc rơi tại chỗ, bảo toàn lực lượng (thương vong do chiến đấu rất thấp = 5% trong 10 năm). Đại đội 4 pháo cao xạ Đoàn 559 đã vinh dự hai lần được Nhà nước tuyên dương danh hiệu Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Mười Một, 2016, 11:17:33 pm

THAM GIA GÙI HÀNG CỨU ĐÓI VÀ ĐẢM BẢO GIAO THÔNG

Bước vào năm 1965, không quân Mỹ tiếp tục đánh phá ác liệt các tuyến đường ở tây nam Khu 4 để ngăn chặn sự chi viện sức người, sức của của nhân dân miền Bắc, hậu phương lớn của cả nước. Trong khi đó, yêu cầu đảm bảo vật chất hậu cần và bổ sung lực lượng cho chiến trường miền Nam đặt ra hết sức cấp thiết. Thực hiện chủ trương của trên, đầu năm 1965 Bộ Tư lệnh đã thành lập Công trường 128 và khởi công xây dựng đường 128 tuyến từ đèo Mụ Giạ đến ngã ba Lùm Bùm. Do thời tiết trên đất bạn Lào quá khắc nghiệt, mưa tầm tã kéo dài, thời gian thi công và đời sống sinh hoạt tối thiểu, nhất là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, v.v. đã cạn kiệt. Quân số ốm đau, nhất là bệnh sốt rét phát triển nhanh, nhiều, khẩu phần ăn hàng ngày từ 7 lạng/người/ngày xuống đến 2 - 3 lạng/người. Lực lượng vận tải cơ giới bị địch đánh ngăn chặn từ xa không vào được, v.v. Trước tình hình trên, Bộ Tư lệnh quyết định cho 4 đại đội súng máy cao xạ tạm niêm cất pháo, đi gùi hàng hậu cần để cấp cứu cho các lực lượng đang thi công ở đường 128. Cán bộ, chiến sĩ Đại đội 4 là một trong 4 đại đội vinh dự được nhận nhiệm vụ đó với khối lượng phải gùi là 3,5 tấn gồm các mặt hàng: gạo, muối, đường, sữa, thuốc chữa bệnh, thịt hộp, cá khô, quần áo lao động, quần áo phụ nữ, kim chỉ, bồ kết... Bình quân mỗi đồng chí phải gùi khoảng 45 - 50kg (kể cả vật chất phục vụ cho từng người và đơn vị), hành quân vượt hàng chục suối sâu, đèo cao đi hàng chục ngày đường, tự mở đường rừng mà đi liên tục cả ngày lẫn đêm tối để kịp cứu đói, cứu khó khăn, thiếu thốn cho các lực lượng đang mở tuyến.

Lúc đến nơi, chúng tôi được đến thăm một vài đơn vị thấy đồng chí đồng đội mình quá khó khăn, thiếu thốn và ốm đau, rụng hết tóc, quần áo chỉ còn một vài chiếc vá nhiều mảnh. Thương nhất là chị em phụ nữ, có người chỉ còn một hai chiếc quần, áo đã rách không đủ che thân để đi làm, suốt ngày nằm trong màn hay trong lán che bằng ni lông bốn phía, ai cần giao dịch, trao đổi công việc chỉ được nghe tiếng nói vọng ra mà không nhìn thấy người. Thấy vậy, chúng tôi đã tình nguyện tự giác chia sẻ với anh chị em trên tuyến các tiêu chuẩn về quần áo, thuốc men, riêng gạo anh em Đại đội 4 chỉ còn dùng 4 - 7 lạng/người/ngày.

Sau khi hoàn thành nhiệm vụ gùi thồ, chi viện cho các lực lượng mở đường 128, đơn vị Đại đội 4 được Bộ Tư lệnh điện biểu dương, khen thưởng xếp thứ nhất, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong 4 đại đội.

Trước yêu cầu bức bách về khai thông tuyến vận tải bằng cơ giới trên tuyến đường 128 Bộ Tư lệnh điện giao tiếp nhiệm vụ cho Đại đội 4 ở lại chặt cây, rải rông đanh làm mặt đường để chống lầy. Đơn vị chúng tôi thi công liên tục đến gần 1 tháng mới hoàn thành khối lượng và quay về làm nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ các trọng điểm. Các nhiệm vụ, kế hoạch đảm bảo vận tải hậu cần phục vụ các đơn vị phía trước chiến đấu trong mùa khô 1966 và đánh thắng "chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ ở miền Nam.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Mười Một, 2016, 11:18:21 pm

HÀNH QUÂN BỘ MANG VÁC NẶNG ĐI XUYÊN VIỆT

Do tình hình và yêu cầu của cách mạng miền Nam phát triển, thực hiện chủ trương của cấp trên về việc chuẩn bị cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, đơn vị chúng tôi đang chiến đấu ở khu vực Cốc Mạc (Binh trạm 31 - Lào) thì có quyết định của Bộ Tư lệnh 559 điều vào chiến đấu trên tuyến đường do Binh trạm 42 quản lý (tây Thừa Thiên - Huế). Đây là một trong những khu vực khó khăn gian khổ và ác liệt nhất trên tuyến Trường Sơn lúc đó.

Theo chỉ lệnh, đơn vị phải khênh vác pháo hành quân bộ và mang theo đủ hai cơ số đạn, ngoài ra còn phải mang theo quân tư trang sinh hoạt thường xuyên, lương thực, thực phẩm, thuốc quân y, tăng bạt, v.v. đảm bảo chiến đấu 1 tháng. Do tình hình khó khăn trên, đơn vị còn chủ động mang theo lợn con, gà và các loại hạt giống rau như: hạt cải, hạt rau muống, lưới đánh bắt cá ở suối, sông, v.v. Tính bình quân mỗi người phải mang vác khoảng 50kg (riêng bệ pháo 43kg - nòng pháo 38kg một người vác; mỗi hòm đạn 13kg mỗi người gánh 4 hòm). Trước khi lên đường hành quân vào Binh trạm 42 nhận nhiệm vụ chiến đấu, chúng tôi được đồng chí Vũ Xuân Chiêm - Bí thư Đảng ủy, Chính ủy thay mặt Bộ Tư lệnh xuống đơn vị phổ biến giao nhiệm vụ và đoàn văn công xuống phục vụ, cổ vũ, động viên đơn vị.

Sau một ngày khẩn trương chuẩn bị, sáng hôm sau bắt đầu hành quân và liên tục hành quân bộ gần một tháng, qua hàng chục trạm giao liên, tối nghỉ lại trạm. Chúng tôi còn phối hợp với cán bộ, chiến sĩ các trạm giao liên tổ chức giao lưu văn nghệ rất sôi nổi để cổ vũ, động viên và học tập lẫn nhau.

Gần một tháng hành quân liên tục và không một ngày ngơi nghỉ, phải vượt qua trăm suối sâu đèo cao như dốc Bà Định, đèo Nguyễn Chí Thanh, sau một ngày hành quân vẫn chưa vượt qua đèo phải nghỉ lại lưng chừng dốc.

Dọc đường hành quân, nhất là những khi bụng đói, mệt mỏi, tổ văn nghệ vẫn hoạt động như kể chuyện tiếu lâm xưa và nay, ca hò vè. Có đồng chí lúc lên dốc mệt mỏi còn nói tếu. Đúng là "12 ly vác". Quá trình hành quân có hôm quân số ốm do sốt rét lên đến hàng chục người, có đồng chí sốt cao đến trên 40°c. Mặc dù Chính trị viên đại đội góp ý nằm lại trạm xá rồi vào sau nhưng không một ai chịu rớt hay nằm lại. Tiêu biểu như đồng chí Nguyễn Ngọc Đăn, đồng chí Ngang, đồng chí Xồm nuôi quân. Thời gian hành quân xa, mang vác nặng, thời tiết khắc nghiệt, thú rừng, vắt xanh, ruồi vàng luôn rình rập; bệnh sốt rét luôn tấn công; bom đạn địch, kể cả B52 luôn bắn phá khốc liệt, v.v. Song quá trình hành quân và lúc đến đích vẫn thường xuyên đảm bảo quân số 100% để triển khai nhiệm vụ chiến đấu tiêu diệt địch, bảo vệ hành lang và các trọng điểm để vận chuyển hàng và người vào chiến trường đánh to, thắng lớn trên các hướng và các chiến dịch.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Mười Một, 2016, 11:18:56 pm

BẮN RƠI TẠI CHỖ CHIẾC MÁY BAY AC 130 ĐẦU TIÊN TẠI CỐC MẠC

Sau tổng kết hoạt động vận chuyển mùa khô 1966, Bộ Tư lệnh Đoàn 559 đã rút ra một trong những nguyên nhân chủ yếu của việc tổn thất, thương vong về xe ô tô vận tải và người lái là do máy bay AC 130 dùng đạn 20 ly bay thấp, lùng sục bắn phá xe ta chạy đêm dai dẳng liên tục từ tối đến sáng, gây nhiều khó khăn trở ngại cho các đơn vị vận tải của ta. Một số đồng chí lái xe tỏ ra lo ngại và thiếu tin tưởng vào khả năng đánh trả, khống chế của lực lượng phòng không.

Đầu năm 1967, một số đơn vị, cá nhân của Đoàn 559 - Bộ đội Trường Sơn, trong đó có Đại đội 4 được Đảng, Nhà nước tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang.

Nhân dịp trên, Bộ Tư lệnh họp hội nghị quân chính để quán triệt, triển khai nhiệm vụ kế hoạch mùa khô và phát động thi đua; riêng ở các đơn vị phòng không Bộ Tư lệnh phát động bắn rơi, bắn cháy nhiều máy bay AC 130. Tiếp đó, Cục Chính trị, cơ quan tuyên huấn còn gọi điện riêng để gợi ý, động viên Đại đội 4 quyết tâm bắn rơi máy bay AC 130 đầu tiên, xứng đáng với danh hiệu Đơn vị Anh hùng vừa mới được tuyên dương.

Một ngày tháng 2 năm 1967 đồng chí Vũ Xuân Chiêm, Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Đoàn 559, thay mặt Đảng ủy - Bộ Tư lệnh xuống thăm động viên đơn vị, đọc quyết định tuyên dương Đơn vị Anh hùng của Nhà nước và trao phần thưởng cao quý. Cùng đi với Chính ủy có đồng chí Trọng - Bí thư Đảng ủy Nhà hát giao hưởng hợp xướng nhạc vũ kịch Việt Nam và đội xung kích của Nhà hát đi vượt cung về thăm và biểu diễn phục vụ đơn vị với các nghệ sĩ như Quý Dương, Bích Liên, Kim Chung, Hoàng My...

Sau khi đơn vị được Đảng, Nhà nước, Bộ Tư lệnh và đội xung kích của Nhà hát về thăm, cổ vũ, động viên, các cơ quan, đơn vị điện tới tấp chúc mừng... cán bộ, chiến sĩ như được tiếp thêm sức mạnh mới, quyết tâm mới, liên tục cả ngày lẫn đêm vừa nghiên cứu quy luật, thủ đoạn hoạt động, bắn phá của loại máy bay AC 130; vừa huấn luyện kỹ chiến thuật, vừa nghiên cứu thực địa; vừa xây dựng các phương án chiến đấu và hợp đồng tác chiến với các đơn vị trên các trọng điểm thuộc tuyến do Đại đội 4 phụ trách.

Khoảng trung tuần tháng 2 năm 1967 vào khoảng 7 giờ tối (19 giờ), một chiếc máy bay AC 130 bay từ phía tây sang đông, dọc đường tuyến với độ cao khoảng 700 - 1.000 mét; đi hộ tổng còn có một tốp máy bay phản lực đang đánh phá, oanh tạc vào đội hình xe chở hàng đi vào của ta. Không chần chừ do dự, tôi động viên cán bộ, chiến sĩ hãy thật bình tĩnh, thời cơ, vận hội lập công lớn đã đến, hãy nhằm thẳng quân thù mà bắn. Tiếp đến đồng chí Nguyễn Phú Thọ, đại đội trưởng hô khẩu lệnh đanh, rắn chắc "Mục tiêu máy bay AC 130, hướng... tốc độ... cự ly... điểm xạ... Bắn!". Ngay loạt điểm xạ đầu, chiếc máy bay AC 130 đã trúng đạn và bốc cháy như toa tàu hỏa bị cháy, sáng cả một vùng rộng lớn, máy bay rơi theo quán tính cách đơn vị khoảng 7 - 10 kilômét. Cả tổ lái và lính chiến đấu trong máy bay bị thiêu hủy. Nhiều đơn vị và nhân dân địa phương điện hoặc đến chúc mừng, tặng quà cổ vũ, động viên cán bộ, chiến sĩ đơn vị tại trận địa, có đơn vị như Tiểu đoàn 51 đang chở hàng vào, lúc qua trận địa anh em lái xe dừng lại mang gạo, lương khô, đường, sữa, thuốc lào vào tận trận địa tặng chiến sĩ Đại đội 4.

Sau trận thắng trên, máy bay AC 130 của địch im bặt ba đêm tiếp theo không thấy hoạt động. Sau 4 - 5 đêm, loại máy bay trên có quay lại hoạt động song với cự ly xa, độ cao lớn, mật độ bắn phá suy giảm hẳn. Các đơn vị vận tải như được ung dung, tự tin phấn đấu vượt nhiều cung tuyến. Hai đơn vị vận tải và Đại đội 4 đã góp phần quan trọng trong việc thực hiện kế hoạch vận tải phục vụ chiến trường mùa khô 1967 và tập kết hàng, lực lượng chuẩn bị cho Mậu Thân 1968.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Mười Một, 2016, 10:49:59 pm

TRƯỜNG SƠN VỚI TẾT MẬU THÂN, NHỮNG NGÀY VƯỢT LŨ,
THẾ CỜ ĐẢO NGƯỢC
1
Trung tướng ĐỒNG SỸ NGUYÊN
Nguyên tư lệnh Đoàn 559 Bộ đội Trường Sơn

VI

Tới mùa hè 1967, sau hai cuộc phản công chiến lược bị thất bại nặng, chiến lược "chiến tranh cục bộ” của Mỹ đã không diễn ra suôn sẻ theo tính toán ban đầu trước "canh bạc Việt Nam" của giới cầm quyền Mỹ. Các bước leo thang đánh phá miền Bắc bằng không quân, hải quân của Mỹ cũng chung kết cục như vậy. Cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam đã đặt Mỹ trước tình thế bế tắc, chịu sự tác động mạnh mẽ về chính trị, xã hội; chịu những phí tổn nặng nề về tiền của và sinh mạng người Mỹ. Dư luận tiến bộ Mỹ lên tiếng phản đối chiến tranh xâm lược. Nội bộ chính phủ Mỹ bị phân hóa. Một số giới chức của Nhà Trắng đòi tìm giải pháp nhằm sớm đưa nước Mỹ thoát khỏi cuộc chiến này.

Trên bình diện quốc tế, sự nghiệp kháng chiến của nhân dân ta ngày càng được dư luận thế giới và chính phủ nhiều nước đồng tình ủng hộ, giúp đỡ.

Về phía ta, qua hai năm đương đầu với "chiến tranh cục bộ", quân và dân ta ở miền Nam vẫn giữ vững và phát huy mạnh mẽ chiến lược tiến công, làm phá sản một bước quan trọng kế hoạch chiến lược của địch, giữ vững quyền chủ động ở rừng núi, lực lượng ba thứ quân phát triển mạnh...

Từ thực tế đó, ngay từ đầu năm 1967, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương đã sớm thấy một tình thế mới xuất hiện, cho phép chúng ta có thể và phải tìm phương cách khai thác triệt để, nhằm xoay chuyển và tạo bước ngoặt quyết định của cuộc chiến tranh. Từ nhận định đó, một kế hoạch chiến lược Đông Xuân 1967-1968 lập tức được khởi thảo và tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện, bắt nhịp từng "hơi thở" của chiến trường và cục diện chiến tranh.

Tháng 1 năm 1968, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 11 thông qua nghị quyết Bộ Chính trị, chỉ rõ: Cuộc kháng chiến của ta lúc này cần phải và có thể tạo một chuyển biến lớn giữa lúc đế quốc Mỹ đang ở thế ngập ngừng về chiến lược, giới cầm quyền Mỹ đang dao động. Để chuyển cách mạng và chiến tranh cách mạng miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ giành thắng lợi quyết định, phải tạo được một bước ngoặt lớn của cuộc chiến tranh. Muốn vậy, không thể tiến từng bước tuần tự như những năm trước đây; không đánh theo kiểu cũ như đông xuân trước. Phải tạo một bước nhảy vọt bằng chọn hướng chiến lược hiểm và dùng cách đánh mới, giáng một đòn bất ngờ thật mạnh vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Đó là một cách đánh chưa từng diễn ra trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và cũng hiếm có trong lịch sử chiến tranh cách mạng, khiến cho Mỹ - ngụy không hề nghĩ tới và cũng không thể nghĩ tới.
____________________________________
1. Trích Hồi ký: Đường xuyên Trường Sơn, (Duy Tường và Kỳ Vân thể hiện), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Mười Một, 2016, 10:50:24 pm

Cùng với cả nước, bộ đội Trường Sơn tích cực chuẩn bị phục vụ cho chủ trương chiến lược mới. Nắm bắt ý định chiến lược của Trung ương, đồng thời với việc Bộ Quốc phòng tăng cường chỉ đạo, bổ sung lực lượng, trang bị cho Đoàn 559, anh em chúng tôi đều thống nhất nhận định: Mùa khô 1967-1968 sẽ có chuyển biến lớn, bất ngờ trên chiến trường. Với nhận định đó, kể từ sau khi kết thúc cuộc diễn tập “chiến dịch vận tải” tháng 8 năm 1967, chúng tôi tiếp tục xốc lại đội hình, chuẩn bị chu đáo, khẩn trương cho chiến dịch vượt khẩu - nhập tuyến.

Bước vào mùa khô 1967-1968, toàn tuyến bố trí thành 10 binh trạm, gồm 8 binh trạm trục dọc (1, 2, 3, 4, 5, 6, 8, 53) và 2 binh trạm trục ngang (7, 21). Ngay sau đó, theo ý của Bộ Tổng Tham mưu, phiên hiệu các binh trạm trục dọc có thêm số 3 đứng trước, thành 8 binh trạm: 31, 32, 33, 34, 35, 36 và Binh trạm 8 thành Binh trạm 37, Binh trạm 53. Đối với hệ thống trục ngang Binh trạm 7 thành Binh trạm 42, Binh trạm 21 thành Binh trạm 44.

Cùng thời gian này cơ quan tham mưu Bộ Tư lệnh được tăng cường một số cán bộ có năng lực. Đồng chí Nguyễn Lang được điều về làm Tham mưu trưởng tác chiến. Đồng chí Nguyễn An làm Tham mưu trưởng vận tải. Đồng chí Phạm Diêu làm Tham mưu trưởng công binh...

Tháng 10 năm 1967, chúng tôi tiến hành hội nghị quân chính lần cuối trước khi bước vào mùa khô 1967-1968 sớm hơn dự định. Nội dung chủ yếu của hội nghị là quán triệt tình hình nhiệm vụ, các chỉ tiêu chính của kế hoạch, xây dựng quyết tâm, vận dụng sáng tạo nghệ thuật quân sự vào mọi hoạt động của tuyến, nắm vững tư tưởng tiến công, đưa vận chuyển cơ giới vào đội hình chiến thuật trong thế trận hiệp đồng binh chủng. Điều cuối cùng mà chúng tôi yêu cầu các binh trạm, các đơn vị cần lưu tâm là: Phải chuẩn bị quyết tâm theo hướng khối lượng tăng hơn, thời gian khẩn trương hơn, đối phó với địch đánh mạnh hơn, sẵn sàng đáp ứng mọi yêu cầu đột xuất của chiến trường.

Ngày 12 tháng 10, anh Chiêm theo đường 12 và tôi cùng một số cán bộ chủ trì cơ quan theo đường 20 tiến hành một đợt tổng kiểm tra lần cuối công tác chuẩn bị của các binh trạm bắc đường số 9, đôn đốc triển khai công tác tổ chức chỉ huy các lực lượng nhập tuyến, kết hợp kiểm tra việc xây dựng sở chỉ huy mới của Bộ Tư lệnh.

Sở chỉ huy mới được xây dựng gần ngã ba đường 9 và tập đoàn trọng điểm Văng Mu - Tha Mé - Na Bo, kẹp giữa đường 128 và đường 129. Chon đặt sở chỉ huy ở đây vừa bí mật, bất ngờ, vừa là trung tâm của nhiều tuyến đường quan trọng. Sau một mùa mưa lao động khẩn trương, cật lực, anh em công binh đã hoàn thành một công trình quân sự bề thế, với yêu cầu kỹ thuật cao là một địa đạo dài gần 200 mét xuyên sâu vào lòng núi. Chỗ dày nhất phía trên tính từ đỉnh núi là 170 mét. Trong gần 200 mét tuy-nen khổng lồ này được cấu trúc đầy đủ "phòng” trực chỉ huy, "phòng" giao ban Bộ Tư lệnh, "phòng" trực ban của các cơ quan tham mưu binh chủng, cơ quan chính trị, hậu cần. Hệ thống điện thoại được lắp đặt khá đồng bộ, trực tiếp với từng binh trạm và đơn vị trực thuộc. Máy phát điện bảo đảm ánh sáng liên tục suốt ngày đêm. Thật khó có thể tưởng tượng được trong điều kiện muôn vàn khó khăn, thiếu thốn giữa đại ngàn Trường Sơn, ngay kề tuyến giao thông huyết mạch đường số 9 mà đối phương đang kiểm soát, kề cận những trọng điểm địch đánh phá vô cùng quyết liệt, công binh Trường Sơn đã xây dựng được một trung tâm chỉ huy bề thế, chính quy đến như vậy. Tôi tin chắc, được làm việc trong "cơ ngơi" này, mỗi người sẽ tự tin hơn và cũng tự mình phải thay đổi tác phong công tác, nghiêm túc, khẩn trương hơn.

Sau khi nắm tình hình lần cuối, chúng tôi chọn đường 20 làm hướng vượt khẩu chủ yếu, vì đường khá tốt và vào tới đường 9 gần hơn.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Mười Một, 2016, 10:51:45 pm

Trung tuần tháng 10, các khâu chuẩn bị hoàn tất. Mưa trên Trường Sơn giảm. Đường se khô. Mực nước các sông, suối xuống dần. Các lực lượng đã tiếp cận khu vực cửa khẩu sẵn sàng chờ lệnh.

Để sớm chủ động trong chỉ huy điều hành, Bộ Tư lệnh vào tuyến sớm hơn các đơn vị. Do Chủ nhiệm thông tin và cơ quan thông tin vào trước chúng tôi một tuần, nên khi Bộ Tư lệnh và sở chỉ huy mới, hệ thống thông tin đã được lắp đặt, triển khai đồng bộ. Với mạng thông tin này, chúng tôi có thể làm việc cùng một lúc với nhiều binh trạm từ Bạc trở ra. Đây thật sự là một thuận lợi lớn cho công tác chỉ huy trước một mùa ra quân mới.

Cuối tháng 10, khi chúng tôi phát lệnh mở màn chiến dịch "vượt khẩu", cũng là thời điểm không quân địch tăng cường đánh phá ngăn chặn các cửa ngõ vào tuyến. Máy bay các loại thi nhau trút bom vào các trọng điểm Pha Nốp, Xiêng Phan (đường 12); cua chữ A, ngầm Ta Lê (đường 20), Lùm Bùm, Văng Mu, Tha Mé (đường 128)... Máy bay B52 còn ném bom rải thảm khu vực tổng kho 050, gây cho ta một số tổn thất.

Do chủ động có phương án đối phó với các thủ đoạn đánh phá của địch, đặc biệt lợi dụng yếu tố bất ngờ, mật tập, chiến dịch "vượt khẩu" diễn ra cấp tập, dứt điểm, không dây dưa như những năm trước. Chỉ sau 8 ngày, toàn bộ lực lượng xe - máy trang bị đã vào vị trí tập kết an toàn. Đặc biệt, có 12 tiểu đoàn xe chở hàng chạy thẳng vào giao cho các binh trạm phía nam; trong đó có 8 tiểu đoàn xe chở vũ khí, đạn pháo vào giao cho B2 tại khu vực ngã ba biên giới.

Thắng lợi trận đầu của mùa khô 1967-1968 là kết quả cố gắng nỗ lực của hết thảy các lực lượng, binh chủng trên toàn tuyến; trước tiên là bộ đội công binh, vận tải và phòng không. Các lực lượng phòng không, điển hình là Tiểu đoàn 14 - Binh trạm 31, Tiểu đoàn 18 - Binh trạm 32 là những đơn vị cao xạ triển khai đánh địch sớm nhất, chiến đấu dũng cảm, hất máy bay địch lên cao, hạn chế tới mức thấp nhất xác suất bom đạn trúng đường, trúng xe, bảo vệ tốt đường, cầu và đội hình xe ở hai cửa ngõ trọng yếu này.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Mười Một, 2016, 10:52:08 pm

Sau khi toàn bộ lực lựợng "vượt khẩu" trót lọt, Bộ Tư lệnh điện cho các binh trạm và đơn vị dành 5 ngày ổn định mọi mặt. Tiếp đó, chúng tôi quyết định ba binh trạm phía bắc đường 9 mở đợt "đột kích" 10 ngày nhằm thực hiện thắng lợi chỉ tiêu vận chuyển tháng 11, đồng thời rèn luyện một bước về tổ chức chỉ huy hiệp đồng binh chủng trong vận chuyển tập trung quy mô tiểu đoàn. Tham gia đợt đột kích này có 8 tiểu đoàn công binh, 5 tiểu đoàn cao xạ, 7 tiểu đoàn ô tô gồm 752 xe. Binh trạm 32 đảm nhiệm cung xung yếu nhất, là "yết hầu" hút hàng từ hai cửa khẩu đường 12 và đường 20 vào rồi đẩy tiếp vào nam đường 9. Đồng thời, trên cơ sở đánh giá Binh trạm 32 là đơn vị có mạng đường khá hoàn chỉnh, có khả năng tổ chức vận chuyển đội hình tập trung quy mô lớn, chúng tôi quyết định chọn binh trạm này xây dựng điển hình về chỉ huy vận tải tập trung quy mô tiểu đoàn trong thế trận hiệp đồng binh chủng. Thực tế, đợt vận chuyển "đột kích rà trơn" này, Binh trạm 32 đã thể hiện được thế mạnh vốn có; một ngày đêm chuyển gần 350 tấn hàng vào khu vực đường số 9.

Nhân đà thắng lợi trận đầu và thời tiết khá thuận lợi, chúng tôi chủ trương đồng loạt ra quân toàn tuyến. Các lực lượng binh chủng: phòng không, công binh, vận tải phối hợp nhịp nhàng. Đặc biệt, sự phát triển có tính đột biến của mạng thông tin liên lạc, kết hợp hỗ trợ giữa vô tuyến điện và hữu tuyến điện, triển khai thông suốt giữa sở chỉ huy Bộ Tư lệnh tới các binh trạm, đơn vị binh chủng; nối từ trục chính tới trục phụ và các trạm chỉ huy giao thông trên đường... đã tạo thuận lợi lớn cho công tác tổ chức chỉ huy chiến đấu.

Kết thúc tháng đầu ra quân, Tuyến 559 đã thực hiện được cơ bản chỉ tiêu trên giao: vận chuyển đi các hướng 7.500 tấn, gấp rút triển khai kho tàng và rải được gần 15.000 tấn hàng ở các cụm kho bắc đường số 9 để chuẩn bị cho chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh.

Kết quả vận chuyển tháng 11 năm 1967 đánh dấu một bước phát triển mới trong chỉ đạo, chỉ huy và tổ chức tác chiến của tuyến vận tải quân sự Trường Sơn. Trận đầu ra quân mùa khô này, Binh trạm 32 là lá cờ đầu, đạt kỷ lục vận tải 10.000 tấn hàng vượt đường 9 trong một tháng. Bộ Tư lệnh quyết định tặng Binh trạm 32 danh hiệu "Binh trạm vạn tấn". Tiểu đoàn 102 ô tô vận tải thiện chiến, chạy trên cung đường "lửa" từ Lùm Bùm vào Tha Mé, đơn vị có Anh hùng liệt sĩ Lê Quang Biện, được tặng danh hiệu "Tuấn mã Trường Sơn". Một tiểu đoàn vận tải thiện chiến khác - Tiểu đoàn 52, đơn vị có Anh hùng Kim Ngọc Quản được phong danh hiệu "Đại bàng Trường Sơn”.

Hôm gọi điện thoại cho Binh trạm trưởng 32 Hoàng Anh Vũ và Chính ủy binh trạm Phan Hữu Đại, thông báo quyết định của Bộ Tư lệnh, tôi lưu ý các anh rằng: Chiến công của Binh trạm 32 là rất lớn, rất xứng đáng với danh hiệu mà Bộ Tư lệnh và cũng chính là đồng đội khen tặng. Nhưng đối với những người chỉ huy giỏi, vấn đề chủ yếu không chỉ là say sưa với "tấn, tạ", mà phải có tầm nhìn xa hơn, phải thấy được nguyên nhân thắng lợi để phát huy tốt, giành thắng lợi lớn hơn. Từ kinh nghiệm của mình góp phần nhân rộng ra toàn tuyến, trước hết là yếu tố con người.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Mười Một, 2016, 08:27:42 pm

*

Bước khởi động của những binh trạm tuyến ngoài như vậy là tạm ổn. Đầu tháng 12, tôi tranh thủ cùng một số cán bộ cơ quan Bộ Tư lệnh vào kiểm tra các binh trạm phía nam - từ Bạc vào tuyến C4. Chúng tôi đảo khắp lượt từ Binh trạm 35 do anh Nguyễn Tất Giới làm Binh trạm trưởng, Nguyễn Tuấn - Chính ủy, sang Binh trạm 37 do anh Đỗ Hữu Đào làm Binh trạm trưởng, Vũ Quang Bình - Chính ủy và tới Binh trạm 44 do anh Bùi Quốc Ủy - Binh trạm trưởng, Võ Phúc Kiến - Chính ủy. Cơ bản các binh trạm này đã triển khai xong lực lượng, sẵn sàng nhận hàng từ các binh trạm tuyến ngoài vào và chuyển tiếp theo yêu cầu các chiến trường.

Để tạo được sự phát triển đồng đều toàn tuyến, tôi nhắc nhở chỉ huy các binh trạm lưu ý xây dựng hệ thống tổ chức chỉ huy, nền nếp tác phong chỉ huy hiệp đồng binh chủng; xác định rõ tư tưởng chiến thuật tiến công trong thực hành vận chuyển, bảo đảm cầu đường và lực lượng tác chiến phòng không ở từng khu vực, chỉnh đốn mạng thông tin...

Kết thúc tám ngày thị sát tuyến cuối, tôi trở về cùng các anh trong Bộ Tư lệnh phát lệnh vận chuyển tháng 12.

Tình hình lúc này khó khăn hơn. Đã vào cao điểm mùa khô, địch huy động máy bay đánh mạnh dọc tuyến hành lang. Qua kiểm tra thực địa và báo cáo từng giờ của các binh trạm, tất cả các trọng điểm từ đầu tới cuối tuyến suốt ngày đêm không ngớt tiếng bom đạn. Chỉ nửa đầu tháng 12, lượng bom đạn địch rải xuống toàn tuyến hành lang tăng gấp rưỡi tháng 11. Số phi vụ oanh kích của B52 tăng 66%. Khu vực từ cửa khẩu đường 12 và đường 20 vào đường 9 trở thành tâm điểm đánh phá, chặn cắt của không quân Mỹ. Tập đoàn trọng điểm Văng Mu - Tha Mé - Cốc Mạc luôn như "chảo lửa", cầu Na Tông, cầu nổi Ta Lê, cầu Tha Mé, và sâu hơn là cầu phao Bạc đều "trúng thương”. Xe chạy "lấn sáng", chúng đánh sớm hơn; ta chạy "lấn chiều" chúng đánh chặn chiều... Nhưng chúng chặn sao nổi. Khoét sâu vào tính "máy móc", cứng nhắc của địch, chúng tôi chuyển các thời điểm đó sang tổ chức chạy nghi binh, hút địch, giữ địch ở những nơi, vào những thời điểm ta muốn, đồng thời chủ động đánh địch. Với tư tưởng chỉ đạo "Đổi đầu đạn giữ đầu xe", các lực lượng phòng không bám đường, bám trọng điểm, chiến đấu vô cùng dũng cảm. Bầu trời Trường Sơn quyết không thể là "bầu trời riêng" của không quân Mỹ. Chỉ trong 20 ngày đầu tháng 12, lực lượng phòng không 559 đã bắn rơi 33 máy bay. Công binh luôn túc trực trọng điểm, đường cầu, kịp thời mật tập ứng cứu. Cầu Ta Lê, phà Tha Mé, cầu phao Bạc trúng bom không dưới ba lần; công binh đã có sẵn cầu dự bị, ngầm dự bị để xe qua... Địch đánh - ta đánh trả. "Đánh địch, mở đường mà vận chuyển" không còn là khẩu hiệu mà là thực tiễn sống động, hào hùng trên từng cung đường, từng trọng điểm.

Do nắm bắt kịp thời và sâu sát tình hình, đánh giá đúng chỗ mạnh, chỗ yếu, của địch, của ta, để phù hợp với đội hình vận tải cơ giới quy mô lớn, sau một tháng ra quân, chúng tôi quyết định điều chỉnh một số cung chặng giữa các binh trạm, nhằm phát huy hết công suất của xe. Đặc biệt công tác bảo đảm giao liên hành quân cũng có bước thay đổi đáng kể.

Vì sức khỏe của bộ đội, vì yêu cầu của chiến đấu, chủ trương của Bộ Tư lệnh là: Triệt để tận dụng điều kiện và thời cơ cho phép, tổ chức cho bộ đội hành quân bằng cơ giới; dùng cơ giới chở vũ khí trang bị nặng cho các đơn vị đến các mút chiến trường. Phòng Giao liên tăng thêm một số trạm cấp phát hậu cần để giảm lượng mang vác của bộ đội. Cơ quan Hậu cần nghiên cứu cải tiến một số chế độ để cải thiện điều kiện sinh hoạt vật chất cho bộ đội vào chiến trường, phòng chống dịch bệnh... Công binh, thanh niên xung phong cải tạo mặt đường, bạt bớt dốc, làm thêm cầu qua suối. Phòng Giao liên hành quân còn nghiên cứu, bố trí lại cung trạm hợp lý hơn để bộ đội có chút thời gian nghỉ ngơi, ít nhất là một đêm sau bốn năm ngày liền bươn bả đường rừng...

Sau một tháng tung toàn bộ lực lượng lên tuyến trong thế trận hiệp đồng binh chủng, hơn một nghìn đầu xe được huy động vào trận (chiếm 94 phần trăm số xe có trong biên chế), toàn tuyến đã thực hiện được cơ bản các chỉ tiêu kế hoạch vận chuyển tháng 12; chuyển giao chiến trường hơn một vạn tấn, có 8.000 tấn được đưa vào tạo chân hàng tại Sa Đi, La Hạp, Bạc, Chà Vằn, Phi Hà, Hà Tia; bảo đảm cho các đơn vị hành quân 1.000 tấn. Đặc biệt trong số 12 tiểu đoàn xe nhập tuyến, có tới 4 tiểu đoàn chở súng, đạn B40, B41, súng 12,7 ly tới khu vực ngã ba biên giới. Từ đó chúng tôi điện cho binh trạm tuyến cuối sử dụng tiểu đoàn vận tải đường sông dùng thuyền máy theo dòng Sê Công, Mê Công chuyển hàng tới Kra Chiê để giao cho Nam Bộ. Một trong những "đột biến" về tổ chức giao liên hành quân là chúng tôi đã dành một số chuyến xe cơ động 6 đoàn, gồm 1.977 cán bộ, chiến sĩ vào chiến trường kịp "đón Tết Mậu Thân".

Cũng như các hướng chiến trường, tháng 1 năm 1968 ở Tuyến 559 thật sự sôi động không khí "đêm trước" của "Tết". Lúc này, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã có nghị quyết "Chuyển cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam sang một thời kỳ mới - thời kỳ giành thắng lợi quyết định". Ngày giờ mở màn Tổng tiến công và nổi dậy đối với chúng tôi lúc này còn là vấn đề tuyệt mật. Song từ những phán đoán thông qua sự chỉ đạo của trên và bằng "linh cảm trận mạc", chúng tôi thấy bão lửa đang đến gần.

Tuy vậy, chiến trường vẫn im ắng - một sự im lặng đáng sợ đối với phía Mỹ. Bộ chỉ huy quân sự Mỹ tại Sài Gòn (MACV) phán đoán trong năm 1968 trọng tâm hoạt động của ta ở miền Nam sẽ là chống phá "bình định", mở một số trận đánh dọc biên giới Việt - Lào và Cam-pu-chia, tiến công các mục tiêu thuộc hai tỉnh Trị - Thiên, tìm cách bảo tồn lực lượng, cố gắng duy trì mức độ giao tranh của năm 1967. Đài báo phương Tây lại cho rằng: Việt cộng sẽ mở những cuộc tiến công lớn trong mùa khô; rằng Việt cộng sẽ bị tiêu diệt nếu liều mạng tiến công...

Mặc "người" cứ đoán già đoán non, hàng chục vạn khối óc, con tim của những người lính Trường Sơn vẫn ngày đêm hướng về chiến trường, hết mình vì chiến trường.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Mười Một, 2016, 08:28:09 pm

*

Ở địa bàn Tây Trường Sơn, chủ trương của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng trong mùa khô này ta và bạn phối hợp mở một số chiến dịch ở Trung - Hạ Lào; tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng vùng giải phóng và củng cố tuyến hàng lang chi viện chiến lược Bắc - Nam.

Nắm được ý định của trên, ngày 4 tháng 1 năm 1968, tôi sang làm việc với Bộ Tư lệnh Mặt trận 565. Thoáng chốc đã hơn hai năm kể từ ngày tôi bị thương ở Trung Lào, phải rời chiến trường có biết bao kỷ niệm này. Anh Hà Tuấn Khanh - Phó tư lệnh khi đó, nay là Tư lệnh. Anh Nguyễn Sinh là Chính ủy. Anh em quen thân, việc hiệp đồng tác chiến nhẹ nhàng, suôn sẻ. Hai bên thống nhất, Đoàn 559 tăng cường cho Mặt trận 565 một tiểu đoàn cao xạ 37 ly, một đại đội pháo mặt đất và một số súng máy phòng không 12,7 ly. Còn 565 và bạn sẽ mở cuộc tiến công căn cứ Lào Ngăm vào ngày 12 tháng 1 năm 1968 để phối hợp với chiến dịch vận tải của 559.

Chiến sự đã diễn ra như dự kiến. Liên quân Lào - Việt đã giải phóng được Lào Ngăm và đẩy được địch ra khỏi các khu vực quanh thị xã Sa Ra Van, A Tô Pơ...; giải phóng 47 xã, 10.450 dân, phá vỡ hệ thống đồn bốt của địch dọc tuyến Sê Đôn - A Tô Pơ. Hành lang Tây Trường Sơn từ nam đường số 9 đến Sa Ra Van được mở rộng thêm.

Ngày 27 tháng 1, khi liên quân Việt - Lào kết thúc chiến dịch đánh địch ở Sa Ra Van, về cơ bản Đoàn 559 cũng hoàn tất kế hoạch vận chuyển chi viện cho các chiến trường tháng 1 năm 1968, với khối lượng hàng chuyển giao tăng gấp đôi tháng 12 năm 1967; đáp ứng được yêu cầu của Trị - Thiên, Tây Nguyên, Nam Bộ. Đặc biệt, đêm 20 tháng 1 năm 1968, khi Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị mở màn chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh, theo lệnh của Bộ, chúng tôi đã huy động ngay một lực lượng lớn công binh mở gấp con đường dã chiến nối từ trục chính tới Binh trạm 8 của Trị - Thiên (đường B5-T8) và xây dựng kho dã chiến ở Bản Đông, mở một mũi vận chuyển trực tiếp phục vụ chiến dịch.

Tháng 1 này quân qua tuyến vào chiến trường lên tới 45.000 người, đông gấp đôi tháng trước; có hai trung đoàn và hai tiểu đoàn với gần 6.000 quân được tổ chức hành quân bằng cơ giới. Pháo 122 ly, pháo 85 ly và cả xe tăng cơ động theo đội hình tiểu đoàn vào chiến trường an toàn. Trường Sơn thật sự sôi động không khí đêm trước của mùa xuân quật khởi.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Mười Một, 2016, 08:29:17 pm

*

Các hoạt động nghi binh chiến lược của ta, đặc biệt chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh mở màn đêm 21 tháng 1, trước "Tết Mậu Thân" 10 ngày, đã làm cho Bộ chỉ huy quân sự Mỹ tại Sài Gòn và những kẻ cầm đầu Nhà trắng bị lạc hướng. Trong khi chúng dồn cả tâm trí và huy động lực lượng ra đường 9 - Khe Sanh, hòng giữ bằng được Khe Sanh, đừng để nơi này biến thành một "Điện Biên Phủ mới" thì cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của ta lại đồng loạt nổ ra trên khắp chiến trường miền Nam vào thời điểm bất ngờ nhất là đêm giao thừa Tết Mậu Thân (lịch miền Nam) và hướng chính cũng hết sức bất ngờ là đánh thẳng vào các đô thị, trung tâm quân sự chính trị, kinh tế của Mỹ - ngụy. Như vậy, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta đã tạo được một bất ngờ lớn về chiến lược chiến tranh. Điều này có ý nghĩa và tác dụng vô cùng to lớn. Bởi chính yếu tố bí mật bất ngờ trong chiến tranh cũng là một lực lượng vật chất vô cùng to lớn.

Tin Quân giải phóng tiến công 4 thành phố, 37 tỉnh lỵ, hàng trăm huyện lỵ trên khắp miền Nam; đặc biệt ta làm chủ thành phố Huế, tiến công tòa đại sứ Mỹ ở Sài Gòn... tới tấp truyền về làm nức lòng những người lính Trường Sơn.

Cũng như những Tết trước, giao thừa đến, chúng tôi vây lại bên chiếc rađiô, hồi hộp đón nghe Bác Hồ chúc Tết và đọc thơ xuân.

      "Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua
      Thắng trận tin vui khắp nước nhà
      Nam - Bắc thi đua đánh giặc Mỹ,
      Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta!”.


Lời thơ chúc Tết của Bác Hồ như tiếng kèn xung trận vang vọng tới các chiến trường, tới từng cánh rừng, nẻo đường mang tên Bác.

Từ cơ quan Bộ Tư lệnh đến từng binh trạm như sôi lên, bung ra vì tin vui thắng trận và vì công việc.

Các trung tâm quân sự, chính trị, kinh tế của Mỹ - ngụy bị tiến công đã tạo cho tuyến vận tải quân sự chiến lược 559 thời cơ thuận lợi hiếm có. Gần một tháng, núi rừng Trường Sơn thưa vắng tiếng gầm thét của máy bay Mỹ, vì đã bị hút bởi các cuộc tiến công của Quân giải phóng vào "sân nhà" của chúng. Chớp thời cơ, chúng tôi tung hết đầu xe có thể sử dụng, tổ chức chạy cả ban ngày; rút ngắn cung độ, đi về gọn, bảo đảm kịp thời binh lực và vật chất cho chiến trường.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Mười Một, 2016, 08:29:47 pm

Trên tuyến giao liên, quân vào nhộn nhịp như ngày hội. Dù gấp gáp, chúng tôi vẫn chỉ đạo các đơn vị lo cho bộ đội có được một cái Tết trên đường ra trận. Mỗi người được nửa ký gạo nếp, đỗ xanh, một chút chè "Thái", thuốc lá, bánh kẹo. Nhiều trạm còn tổ chức gói bánh chưng cho bộ đội. Một chút hương vị Tết cổ truyền hòa quyện với thiên nhiên, đất trời Trường Sơn lúc sang xuân và tin vui thắng trận làm ngây ngất lòng người.

Trong thời khắc này, tôi nghe anh em kể, có chiến sĩ trên đường vào chiến trường đã hối thúc lái xe tăng hết ga hết số, sợ vào chậm không được góp sức cho ngày toàn thắng. Có chiến sĩ vừa dứt cơn sốt đã nằng nặc đòi đuổi theo đơn vị...

Tình hình chiến trường đang diễn biến hết sức mau lẹ. Với sự cố gắng cao độ, bộ đội thông tin 559 đã khẩn trương lắp đặt hoàn chỉnh 100 kilômét cáp trục từ đường 20 vào đường 9, tăng dung lượng của đường tải ba, phủ suốt toàn tuyến. Bộ Tư lệnh 559 trở thành trung tâm thông tin vững chắc. Đặc biệt, thông tin tải ba từ Bộ Tư lệnh 559 đã nhanh chóng được nối với trạm thông tin của Bộ ở Lệ Thủy, Quảng Bình và từ đó về Tổng hành dinh Bộ Quốc phòng, với Bộ Tư lệnh Quân khu Trị - Thiên.

Vào những ngày Quân giải phóng chiếm giữ, làm chủ thành phố Huế, tôi đã điện mời Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói chuyện trực tiếp với Bộ Tư lệnh Quân khu Trị - Thiên. Anh Văn vô cùng phấn khởi và xúc động. Anh biểu dương bộ đội thông tin 559 đã thực hiện xuất sắc một công việc ngoài "tầm với", biểu dương toàn tuyến trong hoạt động chi viện bảo đảm cho Tổng tiến công và thông báo cho chúng tôi diễn biến chung của chiến trường, đồng thời dự kiến một số tình huống tiếp theo. Anh động viên chúng tôi hãy đưa "tinh thần tổng tiến công" lên Trường Sơn - Trường Sơn cũng phải Tổng tiến công...

Qua hệ thống thông tin tải ba, các anh trong Bộ Tư lệnh Quân khu Trị - Thiên làm việc thường xuyên với Bộ Tư lệnh 559.

Ngay sau khi có lệnh Tổng tiến công, anh Trần Văn Quang - Tư lệnh và anh Lê Chưởng - Chính ủy Quân khu Trị - Thiên gọi điện hỏi tôi:

- Nếu chủ lực ta cố thủ Huế, liệu 559 có bảo đảm hậu cần được không? Có cao xạ và công binh để chi viện không?

Tôi trả lời:

- Đủ sức. Nhưng, theo tôi, lực lượng của địch ở Đà Nẵng, Quảng Trị còn nguyên. Chúng dễ dàng cơ động bằng đường biển và đường không ứng cứu Huế. Ta cố thủ sao được, trừ phi chọc thủng Quảng Trị.

Nghe tôi trả lời xong, anh Lê Chưởng đáp:

- Cảm ơn, chúng tôi sẽ tính và xin ý kiến Bộ. Riêng 559 cố gắng tiếp sức nhé, cấp tập đấy!

Liền đó, theo lệnh của Bộ và đề nghị của Quân khu Trị - Thiên, chúng tôi điều gấp 4 tiểu đoàn công binh và 7 máy húc cấp tập ngày đêm thi công kéo dài đường dã chiến từ Làng Ngòi đi Tà Lương, kịp thời bảo đảm cho pháo binh đưa pháo tầm xa vào cấu trúc trận địa tại phía đông Tà Lương, chi viện hỏa lực cho Mặt trận Huế.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Mười Một, 2016, 08:30:20 pm

Suốt gần một tháng ta làm chủ và cố thủ thành phố Huế, chúng tôi cho Binh trạm 42 tập trung xe chuyển giao vũ khí, lương thực, thuốc chiến thương cho Trị - Thiên, Huế tại Tà Lương, bảo đảm kịp thời yêu cầu vật chất cho mặt trận. Một mũi của Binh trạm 33 sau khi phục vụ lực lượng của ta giải phóng Huội San, Lao Bảo, đã "lật cánh" về phía đông phục vụ cho các đơn vị đang vây hãm địch ở Khe Sanh - Hướng Hóa...

Diễn biến chiến sự cũng như yêu cầu của chiến trường lúc này đòi hỏi Tuyến 559 phải có bước điều chỉnh tổ chức cho phù hợp.

Đầu tháng 2 năm 1968, chúng tôi quyết định bố trí lại các binh trạm, về số lượng không thay đổi, vấn đề cơ bản là lấy binh trạm làm cấp chỉ huy chiến thuật bộ đội hợp thành. Mỗi binh trạm tùy theo quy mô mà bố trí từ một đến hai tiểu đoàn vận tải, từ một tới hai tiểu đoàn công binh, từ một đến hai tiểu đoàn cao xạ. Bộ binh chỉ để lại một bộ phận làm nhiệm vụ cảnh vệ, bảo vệ sở chỉ huy và kho; bộ phận chủ yếu tập trung thành đơn vị cơ động chiến đấu. Mỗi binh trạm có một đại đội thông tin, một đội điều trị, một trạm bảo dưỡng kỹ thuật xe, một trạm kích kéo... Về tổ chức điều hành cũng phải hết sức cơ động. Khi thuận lợi sẽ cho xe chạy vượt cung. Địa bàn từng binh trạm đảm trách có thể dao động từ 100 tới 150 cây số chiều dài.

Tại hội nghị cán bộ toàn tuyến quán triệt chủ trương điều chỉnh về tổ chức, anh em thảo luận khá sôi nổi. Dĩ nhiên là có một số ý kiến chưa hoàn toàn thống nhất với quyết định của Bộ Tư lệnh. Tôi đặc biệt quan tâm ý kiến của anh Võ Sở - Chính ủy Binh trạm 31. Anh đồng tình với chủ trương của chúng tôi và phân tích, lý giải rất khúc triết. Anh Võ Sở là một cán bộ chính trị vững vàng, trung thực, nhiệt tình. Về sau, có thời gian anh là Chính ủy Sư đoàn khu vực 471.

Sau bước điều chỉnh lần này toàn tuyến có 10 binh trạm bố trí trên trục dọc và 5 binh trạm bố trí trên trục ngang tỏa đi 6 hướng chiến trường. Trước khi Tổng tiến công Tết Mậu Thân nổ ra, tuyến giao liên cũng được tổ chức khá hoàn chỉnh; chất lượng cầu đường được cải thiện một bước tạo thành đường đôi song song.

Với cố gắng nỗ lực của công binh và thanh niên xung phong, tình hình đường - cầu vào cao điểm mùa khô này có bước cải thiện đáng kể. Ở hành lang Tây Trường Sơn, hai trục dọc đường ô tô đã được kéo dài từ đường 12 đến Tà Xẻng - giáp giới Cam-pu-chia và tới Plây Cần (Công Tum) với chiều dài gần 1.200 cây số, nhân đôi là 2.400 cây số. Nhiều trục ngang và đường vòng tránh cũng lần lượt được mở mới hoặc vươn dài thêm. Ở đông Trường Sơn, đường ô tô được hoàn chỉnh từ làng Ho đi Bản Đông (Lào); đường B45 kéo dài từ A Lưới vào Xưởng Giấy. Hai trục ngang là đường 12 và 20 nối đông và tây Trường Sơn được củng cố và rải đá cục bộ; đường 16 bắt đầu được khởi công.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Mười Một, 2016, 08:30:44 pm

Về cơ bản, các trục vận chuyển của Tuyến 559 đã nối thông từ chiến trường Đường 9 - Bắc Quảng Trị vào Thừa Thiên, Tây Nguyên, sang Trung - Hạ Lào, tới Đông Bắc Cam-pu-chia. Riêng vào B2 (Nam Bộ) còn phải đi theo đường 13 và theo đường sông Sê Công, Mê Công trên đất bạn Cam-pu-chia.

Tổ chức chỉ huy ngày càng quy củ, đồng bộ; cơ sở hạ tầng có bước cải thiện đáng kể; không lực Mỹ bị "hút" bởi các đòn tiến công của chủ lực ta vào thành phố, đô thị, và "chất men" của Tổng tiến công "Tết"... là động cơ, là lực đẩy cho những chàng "Tuấn mã Trường Sơn" tung nước kiệu, và những cánh "Đại bàng Trường Sơn" bay xa.

Tuy vậy, do "Tổng công kích", rồi "đột kích" liên tục, nên "chiến mã" nào rồi cũng có lúc "chồn chân mỏi gối". Tình trạng kỹ thụật xe xuống cấp khá nhanh. Thời tiết đầu xuân nay cũng có biểu hiện bất thường. Mới chớm tháng ba đã có những cơn dông kéo dài. Đường trơn. Những lúc đó, xe hoạt động khó khăn; đặc biệt là số Din 130 một cầu.

Để bảo đảm nhịp độ vận chuyển, tôi điện báo anh Đinh Đức Thiện liên tục, thông tin kịp thời tình hình, cốt yếu là xin bổ sung xe. Và khi nào cũng vậy, Tổng cục Hậu cần cũng như Bộ không eo hẹp gì đối với 559.

Sang tháng 4, xe bổ sung đủ. Liền đó, anh Thiện tăng cường cho ba tiểu đoàn xe của Binh trạm 12 và Binh trạm 14 thuộc tuyến Tổng cục Hậu cần tiền phương (lúc này Tổng cục Hậu cần tiền phương đã chuyển thuộc Tổng cục Hậu cần) vào chạy cung Mụ Giạ và bắc Ta Lê vào Lùm Bùm. Có xe, chúng tôi xốc lại đội hình, ra quân ào ạt hơn. Người và hàng vào chiến trường lại rôm rả.

Cuối tháng 4, tây Trường Sơn mưa rào dày cơn hơn. Trời đầy mây xám xịt, trĩu nước, lúc ào cũng như muốn ập xuống. Từng đàn mối cánh bung ra đen kịt những nẻo đường rừng. Mùa mưa "hạ cánh", cũng là lúc chúng tôi kết thúc trọn vẹn kế hoạch vận chuyển chi viện mùa khô 1967-1968.

Mùa khô này - mùa của Tổng tiến công Tết Mậu Thân, khối lượng súng đạn, lương thực, vật tư kỹ thuật... mà Đoàn 559 chuyển giao cho các chiến trường miền Nam và bạn đều vượt chỉ tiêu trên giao (đạt 141%). Đặc biệt có hai tiểu đoàn pháo lớn, xe tăng, gần 124.000 quân được bảo đảm hành quân vào chiến trường và một số lượng khá lớn thương binh được chuyển ra Bắc kịp thời, an toàn. Chuyển thương bằng cơ giới đạt hiệu quả tốt là một nét mới, một cố gắng lớn của bộ đội vận tải và quân y Trường Sơn.

Cố gắng của chúng ta là rất lớn. Đặc biệt tuyến vận tải quân sự chiến lược Trường Sơn đã dồn hết sức lực, trí tuệ và mọi khả năng của mình, thực hiện vượt chỉ tiêu trên giao. Song tôi biết tình hình chiến trường đang diễn biến phức tạp. Ta gặp không ít khó khăn. Mùa khô - mùa thuận lợi đã qua, trách nhiệm của chúng tôi đối với chiến trường lại nặng nề hơn.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Mười Một, 2016, 10:45:12 pm

*

Với "Tết Mậu Thân" quân và dân ta trên chiến trường đã giành được những kết quả to lớn về quân sự, chính trị. Đặc biệt "Tết Mậu Thân" đã như một thứ thuốc thử nhiệm màu, làm phơi bày toàn bộ sự thất bại của Mỹ trong chiến lược "chiến tranh cục bộ", giáng một đòn chí mạng vào uy thế của Mỹ trên chiến trường miền Nam, khiến cho những kẻ cầm đầu "Tòa Bạch ốc" bàng hoàng sửng sốt. Với "Mậu Thân - 1968" tại miền Nam Việt Nam, lần đầu tiên trong lịch sử 200 năm kể từ khi lập nước, khả năng Mỹ có thể bị bại trận - mà là bại trận ở một quốc gia nhỏ bé, yếu kém về kinh tế và vũ khí trang bị như Việt Nam, đang thành sự thật.

"Tết Mậu Thân" đã đặt Chính phủ Mỹ "Trước một bước rẽ trên đường đi", và "Các giải pháp để lựa chọn đã bày ra trong một thực tế tàn nhẫn”1

Cái gì đến đã đến dẫu Mỹ không muốn. Đêm 31 tháng 3 năm 1968, sự lựa chọn của Chính phủ Mỹ đã khá dứt khoát. Trong cái đêm "Lịch sử" ấy, với dáng vẻ đắn đo và trang trọng, Tổng thống Mỹ Giôn-xơn xuất hiện trên vô tuyến truyền hình toàn Liên bang, đọc bài diễn văn quan trọng nhất trong cuộc đời chính trị của ông ta - một "bài diễn văn bi thảm nhất"2 mà suốt 21 năm dính líu vào Việt Nam, chưa có một vị Tổng thống nào của nước Mỹ phải thực thi.

Giôn-xơn tuyên bố: Mỹ đơn phương chấm dứt việc ném bom nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa từ vĩ tuyến 20 trở ra; sẵn sàng cử đại diện đàm phán với Việt Nam Dân chủ cộng hòa; chấm dứt thời kỳ trong đó Mỹ tăng cường đưa quân viễn chinh Mỹ vào cuộc chiến tranh trên bộ; và cuối cùng ông tuyên bố không ra tranh cử Tổng thống Mỹ nhiệm kỳ tới.

Bài diễn văn của Giôn-xơn lập tức gây nên "tác động mãnh liệt ở Hoa Kỳ và khắp thế giới". Nó mặc nhiên là sự thừa nhận đầu tiên, nhưng đầy đủ nhất về sự phá sản tất yếu của "chiến tranh cục bộ" - một cuộc chiến tranh được Mỹ dày công tạo dựng và được đánh giá cao trong chiến lược toàn cầu "phản ứng linh hoạt" của tên sen đầm quốc tế vào thập kỷ 60 - thế kỷ XX.

Với tác động mạnh mẽ của sự kiện Tết Mậu Thân, tôi cứ suy nghĩ về câu nói của anh Lê Duẩn vào dịp hè năm 1967: Quyết giáng một cú "bombarder" làm lung lay ý chí của đế quốc Mỹ, mà cảm phục tầm nhìn chiến lược của Trung ương Đảng và Bác Hồ.

Thất bại của Mỹ ở miền Nam trong Mậu Thân 1968 là rõ ràng. Tuy vậy, thực tế trên chiến trường sau Tết, khi yếu tố bí mật bất ngờ không còn, lực lượng tổn thất của ta chưa được phục hồi, địch đã tăng cường phòng thủ đô thị và tung quân chiếm lại một số vùng vừa mất.
_______________________________________
1. Tài liệu mật của Bộ Quốc phòng Mỹ, tập II, Việt Nam thông tấn xã ấn hành, tr.247
2. Tài liệu mật của Bộ Quốc phòng Mỹ, tập II, Việt Nam thông tấn xã ấn hành, tr.568


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Mười Một, 2016, 10:45:46 pm

Trên địa bàn Trị - Thiên, ngày 19 tháng 4 năm 1968, địch cho máy bay trực thăng đổ tám tiểu đoàn, gồm sáu tiểu đoàn thuộc sư đoàn "Kỵ binh bay" và hai tiểu đoàn quân ngụy xuống thung lũng A Sầu - địa bàn thuộc Binh trạm 42, căn cứ hậu cần khu vực của Đoàn 559 đảm bảo cho Thừa Thiên và bắc Khu 5. Năm ngày sau, một tiểu đoàn khác của địch được tung xuống khu vực Đru Đôc - thuộc địa bàn Binh trạm 44. Với một lực lượng lớn quân được coi là "tinh nhuệ" nhất, Mỹ - ngụy hòng chụp diệt được chủ lực của ta và đứng chân dài ngày tại đây để triệt phá căn cứ hậu cần, chốt chặn tuyến vận chuyển chi viện cho Trị - Thiên, bắc Khu 5.

Được tin địch đổ quân xuống A Sầu, chúng tôi lệnh khẩn cấp cho Binh trạm 42 phối hợp lực lượng của Quân khu Trị - Thiên chủ động đánh địch, bảo vệ kho tàng, hàng hóa; đồng thời cho đưa quân tới tăng cường.

Tại A Sầu, khi lính Mỹ chạm đất, các lực lượng tại chỗ của Binh trạm 42 đã cùng chủ lực của Trị - Thiên chiến đấu diệt địch, bảo vệ cơ sở kho tàng. Ngay ngày đầu, lực lượng phòng không và bộ binh của Binh trạm đã "vít cổ" 14 trực thăng, tiêu diệt hàng trăm tên địch. Nhưng quân địch đổ xuống ngày càng đông. Lực lượng Binh trạm 42 và quân do Bộ Tư lệnh tăng cường xuống không đủ sức chống trả, phải chiến đấu giằng co, nên địch tràn vào phá của Binh trạm gần 200 tấn hàng; gây thiệt hại một số xe, pháo của Tiểu đoàn 55 vận tải ô tô đang trên đường vận chuyển chi viện cho Trị - Thiên, Huế bị nghẽn lại tại Tà Lương.

Thung lũng A Sầu, A Lưới lúc này là điểm nóng, là thử thách vô cùng ác liệt đối với Quân khu Trị - Thiên và Đoàn 559.

Liền sau đó, chủ lực của Trị - Thiên được tung vào, cộng với hỏa lực cao xạ tăng cường của Đoàn 559, và "thế cờ" đã đảo ngược. Đồi A Bia đã trở thành "cối xay thịt” quân dù Mỹ, như báo chí phương Tây ví von một cách cay nghiệt. Chưa tròn một tháng kể từ ngày "hạ thổ", ngày 16 tháng 5, địch phải rút chạy khỏi A Sầu, A Lưới.

Trong trận đọ sức với "át chủ bài" của Mỹ - ngụy tại A Sầu, A Lưới, các lực lương của Đoàn 559 đã bắn rơi 86 máy bay, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 800 tên địch. Tuy chịu một số tổn thất trong thế tương quan lực lượng quá chênh lệch, bất lợi, nhưng chiến công kể trên là một minh chứng sinh động: không chỉ tổ chức vận chuyển giỏi, bộ đội 559 cũng chiến đấu "bằng anh bằng em"...

Ở hướng Đường 9 - Khe Sanh, khi ta phát lệnh tiến công, thì ngay lập tức Khe Sanh đã làm "điên đầu" bộ chỉ huy quân sự Mỹ ở Sài Gòn và những kẻ cầm đầu Nhà Trắng.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Mười Một, 2016, 10:47:34 pm

Dưới con mắt của các tướng lĩnh Mỹ từng tới miền Nam Việt Nam, Khe Sanh "là cái mỏ neo ở phía tây cho hệ thống phòng thủ phía nam khu phi quân sự; và là bàn đạp cho các cuộc hành quân trên bộ để cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh1.

Theo vị tổng chỉ huy quân viễn chinh Mỹ ở miền Nam, Oét-mo-len, thì bỏ Khe Sanh là từ bỏ tất cả những lợi thế đó. Bởi thế, Giôn-xơn đã đích thân theo dõi diễn biến chiến sự ở Khe Sanh từng ngày từng giờ và lệnh cho các tham mưu trưởng liên quân Mỹ phải giữ Khe Sanh bằng mọi giá. Nhưng kết cục, như bình luận của Mai-Cơn Mác-lia, một học giả người Mỹ, thì đạn pháo của chủ lực miền Bắc giội xuống Khe Sanh đã "rơi ngay vào thủ đô Oa-sinh-tơn"2.

Suốt 170 ngày đêm ta tiến công vây hãm Khe Sanh, Đoàn 559 đã huy động cao xạ phối hợp chiến đấu và bảo đảm đủ vật chất cho các lực lượng tham gia chiến dịch. Lực lượng hậu cần chiến lược trực tiếp làm nhiệm vụ hậu cần chiến dịch.

Mặc dầu đã dồn hết "tâm, sức" cho Khe Sanh, đặc biệt đã tung vào đây vốn liếng khổng lồ - thời điểm cao nhất là 40% số tiểu đoàn bộ binh, thiết giáp thuộc lực lượng viễn chinh mà MACV có trong tay, Mỹ - ngụy vẫn không tránh khỏi một "Điện Biên Phủ mới". Trung tuần tháng 7 năm 1968, Mỹ đã "không kèn, không trống" rút khỏi Khe Sanh - thung lũng của "tử thần”, là nỗi kinh hoàng của lính Mỹ.

Chiến thắng Đường 9 - Khe Sanh có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với tuyến vận tải quân sự chiến lược 559. Giải phóng Khe Sanh - Hướng Hóa, ta đã nhổ được "mỏ neo" - một vị trí chiến lược của địch trong hệ thống chốt chặn Đường Hồ Chí Minh; qua đó mở một chính diện mới để phát triển tuyến vận tải Đông Trường Sơn. Đồng thời, liên quân Lào - Việt đã giải phóng một vùng rộng lớn thuộc tỉnh Sa Ra Van, mở rộng chính diện tuyến hành lang tây Trường Sơn.

Một trang sử mới của tuyến vận tải quân sự chiến lược 559 đang mở ra, một căn cứ hậu cần trọng yếu được phát triển.

______________________________________
1. Oét-mo-len, Một quân nhân tường trình, tập III, Thư viện Quân đội dịch, 1982, tr. 166.
2. Mai-cơn Mác-lia, Việt Nam – Cuộc chiến tranh mười nghìn ngày, Nxb  Sự thật, Hà Nội, 1990, tr.148.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 28 Tháng Mười Một, 2016, 08:57:50 pm

VII

Mùa mưa tới, những khó khăn sau Tết Mậu Thân của ta đã bộc lộ trên nhiều hướng chiến trường với nhiều chiều cạnh khác nhau. Sau những đòn điểm huyệt chí mạng của ta vào các đô thị lớn, địch đã hoàn hồn, dần dần củng cố lực lượng, vừa tăng cường phòng thủ đô thị, vừa tung quân chiếm lại các vùng nông thôn đã mất trong dịp Tết.

Mất dần bàn đạp đứng chân ở vùng ven, vùng nông thôn đồng bằng, một số đơn vị vũ trang của ta phải lùi lên vùng rừng núi; thậm chí một bộ phận chủ lực ta ở Nam Bộ phải sang đứng chân ở Đông Bắc Cam-pu-chia. Một bộ phận chủ lực của Khu 5 và Trị - Thiên phải vượt sang tây Trường Sơn đứng chân trên địa bàn 559.

Tuyến vận tải quân sự 559 lúc này ngoài nhiệm vụ vận chuyển chi viện chiến lược, còn là hậu cứ trực tiếp của các chiến trường Trị - Thiên, Tây Nguyên, Khu 5. Các khu vực Tà Xẻng, Chà Vằn, La Hạp, Động Con Tiên, đường số 9... trở thành địa bàn tập kết củng cố lực lượng, tăng cường trang bị, điều trị, nuôi dưỡng thương binh của các chiến trường.

Trước yêu cầu tình hình mới, Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh 559 quyết định để phần lớn lực lượng ở lại trong tuyến tiếp tục hoạt động. Chỉ đưa về tuyến sau thương bệnh binh, những người quá yếu cần được điều dưỡng phục hồi thể lực; một số ít cán bộ, lái xe, thợ kỹ thuật ra nhận quân, trang bị kỹ thuật bổ sung và một số lái xe, thợ đưa xe ra Bắc sửa chữa.

Theo điện triệu tập của Quân ủy Trung ương, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh 559 cử các anh Vũ Xuân Chiêm, Lê Đình Sum về Bộ báo cáo hoạt động mùa khô 1967-1968 của Đoàn và nhận kế hoạch mùa khô tới. Đồng chí Nguyễn Trọng Bách - Bí thư của tôi, được cử giúp việc anh Chiêm, anh Sum trong qưá trình làm việc với Bộ Quốc phòng. Quà tôi dành gửi vợ con chỉ vẻn vẹn mấy dòng thư. Cầm thư tôi nhờ chuyển giúp, Bách cười ngượng nghịu. Tôi đọc trong ánh mắt và nụ cười của anh câu hỏi: Chỉ thế này thôi ư thủ trưởng?...

Không ngờ đó là lần chia tay cuối cùng giữa tôi và Bách. Bởi sau khi xong việc ở Hà Nội, trên đường trở vào, xe của anh vướng bom nổ chậm và anh đã vĩnh viễn ra đi.

Bách hy sinh, với tôi ngoài niềm thương cảm còn có sự nuối tiếc một cộng sự đắc lực, một cán bộ trẻ đầy hứa hẹn.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 28 Tháng Mười Một, 2016, 08:58:55 pm

Để phần lớn lực lượng thiện chiến, sung sức ở lại tuyến, Bộ Tư lệnh chủ trương thử nghiệm vận tải cơ giới trong mùa mưa ở một số cung, gỡ một phần khó khăn cho chiến trường; qua đó kết luận một số vấn đề về khả năng vận chuyển cơ giới, sử dụng cầu đường trong mùa mưa, chuẩn bị cho năm 1969.

Lo xong việc tập kết lực lượng ra Bắc; chúng tôi triệu tập ngay hội nghị, gồm số cán bộ chủ trì cơ quan, đơn vị trực thuộc ở lại tuyến. Nhìn khắp lượt anh em - những cán bộ nhiệt tình, trách nhiệm và kinh nghiệm có thừa... Về dự họp, tôi như vơi đi những trăn trở trước một quyết định mới. Về chủ trương thực nghiệm tổ chức vận tải cơ giới mùa mưa, đa phần anh em nhất trí; số ít không tỏ rõ chính kiến. Riêng Nguyễn Lạn - Chính ủy Binh trạm 41 không tán thành...

Hội nghị kết thúc, chia tay anh em xong, tôi nói với Tham mưu phó vận tải Nguyễn Chúc về ý kiến của anh Lạn:

- Ông "đồ Nghệ" này đã không đồng ý, phải dè chừng. Đây là một người ở trên tuyến nhiều năm, có cách tiếp nhận thực tế rất nhạy, thẳng thắn. Chúng ta cần lưu ý thêm về ý kiến đó.

Anh Nguyễn Chúc nói: - Chúng ta chủ trương làm thí điểm để nghiên cứu. Với kinh nghiệm thực tiễn, anh em chưa nhất trí là lẽ thường. Vấn đề cơ bản là trong quá trình thực hiện phải nắm vững diễn biến tình hình, nếu quá khó, kém hiệu quả, phải cho dừng ngay.

Chúng tôi nhất trí theo hướng đó.

Thực hiện chủ trương nói trên, mùa mưa này lực lượng vận tải cơ giới hoạt động trên hai hướng chủ yếu là Trị - Thiên và Khu 5. Những hướng khác kết hợp vận chuyển cơ giới và thô sơ. Chỉ tiêu vận chuyển từ tháng 4 đến tháng 10 suýt soát 3 vạn tấn. Đồng thời duy trì tốt hoạt động của tuyến giao liên hành quân, dự tính bảo đảm 34 nghìn quân qua tuyến.

Dự tính là vậy, nhưng mọi tác động khách quan có những lúc diễn biến khôn lường.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 28 Tháng Mười Một, 2016, 08:59:20 pm

Về địch, từ đầu tháng 4 năm 1968, sau khi Giôn-xơn "xuống thang", ngừng đánh phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, gần như mọi cố gắng và đạn bom của hải lực, không lực Mỹ dồn "ưu tiên" cho vùng "cán xoong" nam phần Khu 4 và Tuyến 559. Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương (Mỹ) cho dồn tàu của lực lượng "Rồng biển" (Sea Dragon) trước đây vẫn rải ra bắn pháo dọc bờ biển miền Bắc, xuống phía nam, tăng cường pháo kích ngăn chặn tuyến chi viện chiến lược Bắc - Nam qua vùng Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình. Tiếp đó, không lực Mỹ triển khai các chiến dịch "Sấm rền 57", "Hổ thép" (Steel Tiger)... huy động tối đa đạn bom hòng "làm mưa làm gió" ở khoảnh đất eo thắt nam vĩ tuyến 20 của ta và đất Lào, hy vọng chẹt các yết hầu hút hàng từ hậu phương vào chiến trường. Vật chất do tuyến tiền phương Tổng cục Hậu cần (nay đã chuyển thuộc Tổng cục Hậu cần) tạo lập cho Tuyến 559 chẳng được bao nhiêu, đặc biệt là xăng dầu. Xe đợi xăng như một cơ thể cạn kiệt sự sống cần từng giọt máu.

Khó khăn do địch ngăn chặn quyết liệt là rất lớn, nhưng nỗi kinh hoàng đối với những người lính Trường Sơn lúc này không phải là bom, là đạn mà là "giặc trời".

Tháng 5, trời vào hạ. Suốt một dải Thanh - Nghệ - Tĩnh giờ đây nắng nhuốm đỏ đồng, chớm vào vụ gặt mà trời nóng như nung. Nhưng Tây Trường Sơn thời tiết thật dữ dội. Đêm đêm sương xuống như mưa, lạnh buốt. Ban ngày, trời đang nắng chói chang bỗng chốc mây đen ập đến. Bầu trời như chiếc vung khổng lồ, đen sịt úp chụp lấy núi rừng. Rồi cả bầu trời trĩu nước bị "buông tuột". Mưa trắng rừng, xối xả, dữ dội. Nước từ các triền núi dồn xuống lòng đường, sông, suối... tạo nên những cơn lũ cuốn hung hãn. Ngay những khi đã ngừng mưa, thì những con đường tội nghiệp dài hàng trăm cây số như đường B45 từ ngã ba La Hạp đi Trị - Thiên, đường từ Lùm Bùm vào bắc Bạc... cũng biến thành những suối bùn. Se hơn một chút, đất ba zan ngậm no nước tạo thành chất keo thượng hạng, trơn nhẫy, ở những điểm mà lính Trường Sơn gọi là "túi nước", tình hình còn tồi tệ hơn.

Dẫu đã lường khó khăn do thời tiết, chúng tôi chỉ tổ chức đội hình vận chuyển nhỏ lẻ, dễ bề cơ động, và chỉ sử dụng xe ba cầu, nhưng kết cục cũng rất xấu. Do mặt đường không rải đá, ngấm nước dài ngày nên nền yếu vô cùng. Xe chạy được mười ngày, hai vệt bánh xe đã là hai hào giao thông. Lái xe cay cú, gọi là "hai sông ba núi". Công binh dồn sức chặt cây, đẵn cành chống lầy bằng cách rải rông đanh, nhưng cùng không khắc phục nổi. Các loại xe đều bị lún lầy nằm la liệt, phải tổ chức kích kéo liên tục.

Trước tình hình đó, chỉ nửa tháng sau khi phát lệnh mở màn vận tải mùa mưa, chúng tôi quyết định tạm dừng vận tải cơ giới, tập trung giải quyết khâu cầu đường; đồng thời từng binh trạm căn cứ tình hình cụ thể tổ chức vận tải bộ để bảo đảm nội bộ và gỡ một phần khó khăn về gạo cho chiến trường. Lệnh được truyền đi, lòng dạ tôi như có ai xát muối. Không khí sở chỉ huy im ắng khác thường. Cũng chính sự im ắng đó, mà tôi có cơ nghĩ lại ý kiến của anh Nguyễn Lạn hôm nào...!.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 28 Tháng Mười Một, 2016, 09:00:44 pm

Cuối năm, tình trạng đói gạo, "khát xăng” trên tuyến ngày càng trầm trọng do ta chưa giải tỏa được ách tắc giao thông từ sông Lam vào khu vực cửa khẩu đường 12 và đường 20. "Gạo, có khi là tư lệnh", điều mà không ít tướng lĩnh từng trải trận mạc tâm đắc, giờ đây thật thấm thía đối với những người lính Trường Sơn và cả chiến trường.

Tình hình căng như dây đàn. Buộc chúng tôi phải bớt khẩu phần ăn của bộ đội, dành dụm gạo cho phía trước. Vốn dĩ tiêu chuẩn mỗi ngày của anh em không quá ba lạng gạo, lại phải “đào đất cất gỗ", nay bớt nữa, quả là thế cùng. Từ cơ quan Bộ Tư lệnh xuống binh trạm, bộ đội bươn bả ra bìa rừng, bờ suối, vơ đất trồng rau, sắn, tìm kiếm rau rừng, đào củ mài, củ chụp... cứu đói.

Thời gian như ngừng trôi. Tôi luôn sống trong sự day dứt, dằn vặt bởi cái đói của bộ đội. Một sáng, tại sở chỉ huy, tôi nhận được thư của anh Nguyễn An - Tham mưu trưởng vận chuyển đang đi công tác ở các binh trạm 35, 36 gửi về.

Trong thư, anh An kể: Bộ đội các binh trạm trong đó đã hàng mấy tháng rồi ăn hai lạng gạo mỗi ngày. Nhưng công tác và chiến đấu không vì thế mà kém hiệu quả. Bí quyết là trồng lấy rau, sắn mà ăn; đặc biệt là sắn rất sẵn, nhờ chủ trương "Ăn củ trả cây"1 mà tuyến III thực hiện từ khi anh làm tuyến trưởng. "Thực đơn" của bộ đội là: Sáng sắn, trưa măng, chiều cháo loãng, sắn là "sâm Trường Sơn". Mà "sâm Trường Sơn" không bao giờ thiếu, kể từ khi bộ đội lật cánh sang phía tây.

Một lá thư, vài con chữ trau chuốt, dí dỏm, nhưng anh đã khái quát được hoàn cảnh, hoạt động của bộ đội Trường Sơn trong đó. Anh An là một cán bộ chỉ huy vận tải cơ giới dày dạn kinh nghiệm, bất luận cả khi hoàn cảnh cam go, éo le, đều lạc quan - một phẩm chất quý, có sức thuyết phục đồng đội.

Vào những tháng ngày cùng đồng cam cộng khổ với cán bộ, chiến sĩ của mình, tôi từng chứng kiến biết bao việc làm bình dị mà trong sáng, cao thượng của những người lính Trường Sơn, của những dân nghèo người Việt, người Lào. Giờ đây, khi cuộc chiến đã lùi xa, nhân dân mình, đất nước mình đã bớt nhọc nhằn vì "đồng tiền bát gạo" nhưng mỗi lần nhớ lại, trong tôi lại trào dâng sự mến phục thương cảm đến nao lòng...

Trước những khó khăn rất lớn của chiến trường, của tuyến phía sau, và đoán biết mưu mô xảo quyệt của Mỹ, Quân ủy Trung ương kịp thời có Nghị quyết 71/QUTW, khẳng định: "Khi địch xuống thang ở miền Bắc, thì những cửa khẩu từ tuyến hậu phương sang Tuyến 559 sẽ là những trọng điểm địch tập trung đánh phá ác liệt".

Từ nhận định đó, Quân ủy Trung ương cũng đã tính tới một số giải pháp để tạo chân hàng sâu hơn cho Bộ Tư lệnh Trường Sơn.
________________________________________
1. Ngay từ khi Tuyến 559 lật cánh sang Tây Trường Sơn, cán bộ, chiến sĩ Trường Sơn có kế sách rất hay là "Ăn củ trả cây". Bộ đội hành quân qua nương sắn của bất cứ đơn vị nào có thể lấy củ để ăn, song phải chặt mấy "hom" trồng lại.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 28 Tháng Mười Một, 2016, 09:01:20 pm

Từ cái thế khó khăn chồng chất khó khăn, nghe anh Đinh Đức Thiện điện vào trao đổi tinh thần chỉ đạo của Quân ủy Trung ương về việc phối hợp giữa Tuyến 559 và Tuyến 500 để giải tỏa vượt khẩu, tôi xúc động nói: Thật là ý Đảng hợp lòng quân!

Anh Thiện cũng nói thêm:

- Nghe các cậu điện hối thúc gạo và xăng, bọn mình đứng ngồi không yên. Riêng tình hình xăng thì Bộ đã chỉ đạo Tổng cục Hậu cần đưa đường ống vượt sông Lam vào Hà Tĩnh. Chắc tình hình sẽ được cải thiện nay mai thôi...

Nghe anh Thiền "giãi bày", tôi càng thấm thía: Nỗi lo này đâu của riêng ai! Không chỉ tuyến Tiền phương Tổng cục Hậu cần mà cả hậu phương lo giải tỏa ách tắc khu vực vào cửa khẩu.

Cán bộ, chiến sĩ các binh trạm 12, 14 tiếp giáp Tuyến 559 trần mình cùng chúng tôi gách vác khó khăn.

Nan giải quá - Chúng tôi đang tìm cách! Là câu trả lời mà tôi nhận được mỗi khi gọi điện hỏi Binh trạm trưởng Binh trạm 12 - Nguyễn Đàm và Binh trạm trưởng Binh trạm 14 - Hoàng Trá về xăng, về gạo. Quả thật, binh trạm nào cũng chạy đôn đáo lo tìm phương cách chuyển xăng, gạo vào tuyến. Sau này các anh gọi là "Chiến dịch đưa xăng vượt đỉnh lầy".

Binh trạm 12 có sáng kiến "cõng" xăng bằng ba lô ni lông. Lập tức, Tổng cục Hậu cần chuyển ngay vào 20.000 ba lô "cóc" kèm 4.000 mét ni lông. Một tiểu đoàn gần 500 con người cõng từng ba lô xăng vượt đèo La Trọng, đường 12... như đàn kiến khổng lồ tha mồi về tổ. Những con người suốt một mùa khô, tiếp một mùa mưa bám trụ kiên cường trên những nẻo đường, trọng điểm, giờ đây đang oằn lưng bởi những ba lô xăng. Những đôi chân dẻo dai, những con người tưởng như chai lỳ trước bệnh tật, vẫn không thoát được những cơn sốt rét rừng. Những tấm lưng bỏng rộp bởi sức nóng mặt trời miền nhiệt đới ngày hè và bởi bịch xăng đang như sôi lên bởi cái nắng đó... Sau một vài chuyến, ba lô bị mủn ra, lưng áo của người lính cũng mủn ra bởi nắng núi mưa ngàn, bởi đạn chặn, bom vùi. Và không biết có bao nhiêu tấm lưng bỏng rộp lên vì nhiễm độc xăng...

Những ba lô xăng được Binh trạm 12 chuyển vào cộng với sự dự trữ ở khu vực Mụ Giạ cũng đã có chừng 50 tấn. Tôi lệnh cho Binh trạm 31 tìm cách đưa ngay số xăng này vào Lùm Bùm. Cán bộ, chiến sĩ binh trạm đã lập được một chiến tích đặc biệt. Từ Mụ Giạ, công binh khéo léo ghép các phuy xăng lại thành mảng; cử các "tay sào" lão luyện đưa mảng xuôi theo dòng Nậm Hơ và Nậm Ngo, tới Xiêng Phan.

Từ đây, các phuy xăng được vần bộ vượt ba chục cây số vào Pác Pha Năng, chuyển qua sông Sê Băng Phai, lăn bộ hơn hai chục cây số nữa vào Tha Pa Chôn; Binh trạm 32 tiếp nhận, đưa về Lùm Bùm.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 28 Tháng Mười Một, 2016, 09:01:51 pm

"Một miếng khi đói bằng một gói khi no", kỳ tích chuyển xăng vượt lũ là vậy. Một giọt xăng, hạt gạo vào chiến trường trộn lẫn, thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và máu của bao người. Một tấn xăng qua trọng điểm phải đổi tới hàng chục sinh mạng. Không thắng lợi nào mà không phải trả giá!

Thực tiễn hoạt động của tuyến trong mùa mưa năm 1968, đặc biệt là kết quả thực nghiệm vận chuyển cơ giới mùa mưa Tây Trường Sơn cho chúng tôi biết cái giá phải trả của việc nắm không chắc quy luật thời tiết ở địa bàn Trường Sơn - một dạng thời tiết đặc thù, nghiệt ngã đối với người làm công tác vận tải trong điều kiện chiến tranh ác liệt.

Từ thực tế nghiệt ngã này, tôi rút ra kết luận: Vận tải trong mùa mưa ở Trường Sơn, nếu đường không được rải đá tốt thì xe không thể chạy được, dù là xe ba cầu. Và thêm một lần nữa khẳng định lại điều chúng tôi đã nghiệm: Địch đánh chỉ tắc từng đoạn, còn trời "đánh” thì tắc toàn tuyến.

Để khắc phục thời tiết nghiệt ngã trên Trường Sơn, từ đó có thể tổ chức vận tải cơ giới trong mùa mưa, vấn đề cơ bản đối với chúng tôi lúc này là xây dựng đường cơ bản.

Ngay sau khi quyết định cho ngừng vận tải cơ giới, tôi trực tiếp giao cho đồng chí Phạm Diêu cùng cơ quan công binh khẩn trương hoàn thành phương án cầu đường chuẩn bị cho năm 1969. Là một tham mưu trưởng công binh có trình độ đại học chuyên ngành cầu đường và là người có trách nhiệm cao, nên chỉ một thời gian ngắn, Phạm Diêu đã trình Bộ Tư lệnh đề án với nội dung cơ bản là: rải đá trục dọc hiện có, hoàn thành trục dọc thứ hai từ tây Bạc đến đông A Tô Pơ, mở nhiều đường tránh trọng điểm; chuẩn bị các yếu tố để đầu năm 1969 mở tuyến vận tải cơ giới Đông Trường Sơn từ cầu Khỉ đi Bản Đông. Đối với các trục dọc đã có, chỗ nào mặt đường yếu, thì rải đá cục bộ. Sử dụng hai trung đoàn công binh cơ động hợp sức với công binh binh trạm thí điểm rải đá mặt đường 20 từ Ta Lê đến Đường 9 và từ Bản Đông đến La Hạp với tổng chiều dài 260 cây số, mặt đường rộng 3,5 mét. Nếu thực hiện được chỉ tiêu này cộng với khoảng 40 cây số đường 9 ta làm chủ sẽ tạo được mạng đường cơ bản bảo đảm mùa khô tới nâng thời gian vận chuyển lên vài tháng.

Nghe anh trình bày xong dự án, tôi kết luận: Cái khó nhất của ta lúc này là gạo. Nhưng hiện tại gạo dự trữ vẫn còn. Dứt khoát đủ "nuôi" tăng cường hai trung đoàn công binh cho mặt trận cầu đường để có đường rải đá.

Thực nghiệm vận tải cơ giới mùa mưa không thành ngoài nguyên nhân không nắm vững quy luật thời tiết, còn là hệ quả của cả một thời gian khá dài ta chưa kết hợp chống lầy một cách cơ bản. Bởi vậy mỗi mùa khô, ta chỉ tận dụng được 5 tháng để vận chuyển.

Có được bài học thấm thía này, nên khi mở đường 16 từ Thạch Bàn (Quảng Bình) đi Bản Đông (Lào) chúng tôi cho rải đá ngay những quãng nền đường yếu để đầu mùa khô 1969-1970 có thể sử dụng được ngay, tạo nên "gọng kìm" lợi hại giữa đường 16 và đường 20.

Công việc trì trệ. Mấy tháng mùa mưa với chúng tôi dài tựa hàng năm.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 28 Tháng Mười Một, 2016, 09:02:09 pm

Ngày 13 tháng 9 năm 1968, hội nghị tổng kết hoạt động năm 1968 được tiến hành ở Na Bo, bắc đường số 9.

Hội nghị thống nhất đánh giá của Bộ Tư lệnh là mùa khô vừa rồi, trong nhiều cái "được", nổi trội nhất là toàn tuyến đã chuyển nhanh sang thế trận hiệp đồng binh chủng, lấy bộ đội vận tải làm chủ công, lấy binh trạm làm cấp chỉ huy bộ đội hợp thành. Mạng thông tin có bước phát triển nhảy vọt...

Các đại biểu cho rằng tồn tại cơ bản là do chưa quán triệt tư tưởng trường kỳ, chưa tích cực đầu tư cho xây dựng cơ bản cầu đường... Đặc biệt về đối phó với Mỹ - ngụy nống ra A Sầu, A Lưới, do thiếu chủ động, ỷ lại Quân khu Trị - Thiên nên đã tổn thất cả về người và vật chất.

Về tình hình tới có liên quan trực tiếp đến Đoàn 559, chúng tôi cho rằng: địch có thể tiếp tục "xuống thang" chiến tranh phá hoại miền Bắc, nhưng bất luận khả năng nào diễn ra thì chúng cũng sẽ đánh tuyến chi viện Trường Sơn ác liệt hơn. Trọng điểm đánh phá của không quân địch là các binh trạm cửa khẩu; ngoài ra cũng có khả năng bộ binh địch nống ra chặn cắt, chốt giữ một số nơi trọng yếu. Vì vậy, cùng với đánh địch đường không, cần chú trọng tác chiến mặt đất. Phải xây dựng thế trận vận chuyển vững chắc, trước tiên là thế trận cầu đường. Nhanh chóng khôi phục đường cũ bị địch và mưa lũ phá hoại, mở thêm nhiều đường vòng tránh trọng điểm, làm thêm đường mới, đặc biệt là đường rải đá; phá thế độc đạo ở trục chính.

Suốt tuần trời mưa tầm tã. Công sự, giao thông hào khu vực sở chỉ huy ngập nước. Lính Trường Sơn "sống chung" với mưa ngàn, suối lũ là chuyện thường. Chỉ ái ngại cho anh chị em đoàn chèo Hà Nam lặn lội vượt hàng nghìn cây số đường trường, "đội bom đạn" vào phục vụ. Thật vô cùng cảm động! Trong nhà hầm, dưới ánh đèn điện sáng choang, làn điệu chầu văn vẫn vang lên réo rắt. Tà áo "mớ ba mớ bảy" của những nữ diễn viên quê đất đồng chiêm hiện diện nơi đây có sức gợi cảm lạ thường... Tất cả như đều hướng tâm tưởng của những người lính chúng tôi trở về với những miền quê xa có cây đa, bến nước, sân đình; có mẹ già thời gian nhuốm bạc mái đầu, có người vợ tần tảo "hai sương một nắng"...

Cảm ơn nhà văn Chu Văn, nhà thơ Chính Hữu... Và những nghệ sĩ của đồng quê đã tiếp thêm cho chúng tôi sức lực của hậu phương, của quê nhà...

Hội nghị kết thúc. Mưa chưa tạnh. Nhưng không cán bộ cơ sở nào ở lại. Chia tay, nhìn anh nào anh nấy ngồi xe ba cầu vượt lũ, trong tôi trào dâng cảm xúc vừa bùi ngùi vừa phấn chấn khó tả.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 28 Tháng Mười Một, 2016, 09:03:08 pm

VIII

Tháng 10, tháng kết thúc mọi việc chuẩn bị cho kế hoạch chi viện năm 1969. Tuy chưa thắng được “giặc trời”, được lũ, nhưng nhờ ở lại tuyến mùa mưa, nên chúng tôi nắm chắc tình hình. Đây là một lợi thế chưa có tiền lệ. Khó khăn lớn nhất lúc này là địch đánh phá, ngăn chặn ngày càng thêm quyết liệt.

Từ tháng 4 năm 1968, sau bước xuống thang, thu hẹp phạm vi đánh phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở vào, không quân, hải quân Mỹ đã tạo nên ở vùng "cán xoong" Khu 4 nhiều "tam giác lửa". Tạp chí "Không quân" của Mỹ lúc đó đã đưa ra những con số khá cụ thể: "Trên một diện tích hẹp bằng một phần tư toàn miền Bắc, số trận ném bom tăng 2,6 lần, mật độ bom đạn tăng lên 20 lần".

Tháng 8 - tháng 9, cao điểm mùa mưa. Địch đánh, trời đánh làm cho giao thông vận tải Khu 4 trở thành mặt trận vô cùng nóng bỏng.

Tháng 7 năm 1968, Bộ Tư lệnh bảo đảm giao thông vận tải Khu 4 được thành lập do anh Phan Trọng Tuệ làm Tư lệnh. Ba tháng sau, ngày 28 tháng 10, Bộ Tư lệnh 500 - tương đương Đoàn 559, ra đời thay tiền phương Tổng cục Hậu cần. Các anh Nguyễn Đôn, Lê Quang Đạo, Hồng Kỳ, Đoàn La được giao trọng trách tổ chức khai thông "nút cổ chai" Khu 4.

Như vậy, Bộ Tổng hành dinh quyết định tung vào "tuyến lửa" những tướng lĩnh đã từng dạn dày lửa đạn.

Về địch, để thực hiện mục tiêu bóp nghẹt, đưa chiến tranh cách mạng miền Nam "tới chỗ lụi tàn", có biết bao chiến lược gia, biết bao "bộ óc điện tử" của Nhà Trắng ồn ào tranh cãi và cuối cùng đi tới quyết sách "bỏ diện, chọn điểm", chọn và chặn bằng được "yết hầu" của tuyến đường Hồ Chí Minh.

Ngày 1 tháng 11 năm 1968, Tổng thống Mỹ Giôn-xơn buộc phải tuyên bố chấm dứt mọi hành động chiến tranh đối với miền Bắc và chấp nhận hội đàm bốn bên tại Pari để bàn về chiến tranh ở Việt Nam.

Việc Mỹ ngừng đánh phá miền Bắc là cơ hội để miền Bắc, đặc biệt là Khu 4 khẩn trương khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế và dồn sức chi viện cho chiến trường.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 28 Tháng Mười Một, 2016, 09:03:47 pm

Từ Trường Sơn, hướng về đất Bắc, tôi hình dung cuộc sống của người dân tuyến lửa Khu 4 từ lâu chuyển vào hầm, xuống chiến hào, địa đạo để giữ mình và đánh địch, nay ùa cả lên, ngân vang giai điệu "Trời của ta, đất của ta...”.

Quả đúng vậy, qua điện thoại, tôi được anh Đôn, anh Đạo cho hay: Chỉ một tuần sau khi địch ngừng đánh phá, hàng vạn bộ đội, thanh niên xung phong, dân công... Ở Khu 4 đã khai thông những trục đường trọng yếu. Các phương tiện vận tải của Nhà nước và Bộ Quốc phòng đều được huy động đưa hàng ra phía trước. Bộ Tư lệnh 500 chỉ đạo các binh trạm hối thúc quân tiến vào khu vực cửa khẩu đường 12 và 20 để lập chân hàng cho chúng tôi.

Nhưng, đúng như phán đoán của ta. Ngừng ném bom miền Bắc, kẻ địch đã dồn bom đạn tiến hành một chiến dịch đánh phá có tính chất hủy diệt khu vực cửa khẩu.

Những ngày có gió mùa đông bắc, đường, rừng... một màu trắng đục. Đi thị sát thực địa vào ban ngày, qua một vài đỉnh dốc, xe tôi phải bật đèn vàng mới lần ra đường, để dò dẫm vượt dốc. Tuy vậy, cũng có nhiều giờ, nhiều ngày trời hửng nắng: không quân Mỹ chớp thời cơ đó để trút bom xuống tuyến đường.

Ba ngày sau khi Giôn-xơn tuyên bố ngừng đánh phá miền Bắc, địch đã huy động một lực lượng lớn máy bay chiến lược B52 và các loại cường kích ồ ạt tập kích cửa khẩu đường 12 và đường 20. Mục tiêu chính là trọng điểm Xiêng Phan (đường 12) và tập đoàn trọng điểm cua chữ A - Ta Lê - Phu La Nhích (ATP) trên đường 20. Chọn Xiêng Phan và ATP làm tâm điểm đánh phá, kẻ địch đã điểm đúng hai trong số những "huyệt" xung yếu nhất của đường Hồ Chí Minh. Bởi mọi nguồn hàng từ hậu phương phải lọt qua hai trọng điểm này mới vào được Tuyến 559. Vả lại đây thật sự là hai yếu điểm, nếu địch đánh tắc và khống chế mạnh, nếu ta khắc phục theo kiểu bị động, "cay cú" - bị đánh ở đâu, khắc phục ở đó, không chủ động mở đường vòng, đường tránh thì sẽ biến thành công "dã tràng".

Suốt một tuần địch cho máy bay B52 ném bom rải thảm và các loại cường kích đánh phá, thung lũng Xiêng Phan luôn như vạc lửa. Hơn một vạn quả bom trút xuống gần như xóa sổ con đường duyên dáng men theo sông Pha Nốp, kẹp giữa hai dãy núi đá. Còn lại chỉ là những cồn đống lồi lõm và những túi nước khổng lồ. Tổn thất về người cũng không nhỏ. Không ít sự mất mát vô cùng thương tâm mà đơn vị báo về làm chúng tôi không ai cầm lòng được. Điển hình là vụ 12 chiến sĩ chốt giữ trọng điểm, tránh bom trong hang đá, bị bom đánh sập. Núi đá đã thành nấm mồ vĩnh hằng của những con người quả cảm vô song này...

Ở hướng đường 20, tập đoàn trọng điểm ATP suốt một tuần cũng không khác gì một sa mạc lửa. Đèo Phu La Nhích, cua chữ A, ngầm Ta Lê hứng chịu gần 5 vạn quả bom. Thử hỏi có thứ đường nào, ngầm gì tồn tại được bởi sức công phá của lượng nổ khổng lồ đó?


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 28 Tháng Mười Một, 2016, 09:04:13 pm

Sau chiến dịch sử dụng máy bay B52 ném bom rải thảm, địch cho máy bay trinh sát và cường kích đánh cầm canh; khống chế, không cho ta khắc phục, cả hai trục gần như tê liệt. Tháng mở đầu mùa khô gần như qua đi trong bế tắc. Biết bao đợt "đột kích", "tổng công kích" rầm rập người và xe đã diễn ra vào thời gian này năm trước mà giờ đây im ắng đến lạnh lùng, cả nghìn chiếc xe đã vào tuyến nằm chết lặng đợi hàng, chờ xăng. Bộ đội lại tiếp tục bớt khẩu phần ăn... Bộ Tư lệnh 559 như đứng, ngồi trên lửa. Liên tục suốt ngày đêm tôi điện liên lạc với Bộ Tư lệnh 500, hỏi tình hình giải tỏa cửa khẩu. Anh Đôn và anh Đạo đều trả lời đã dồn mọi khả năng cho Binh trạm 12 và Binh trạm 14.

Giải tỏa trọng điểm là yêu cầu sống còn đối với Tuyến 559 lúc này. Bằng kinh nghiệm thực tế, ngay từ đầu, chúng tôi quyết định chọn giải pháp kết hợp mở đường tránh với khôi phục đường chính bằng sức mạnh tổng hợp. Sau khi hạ quyết tâm, tôi phái ngay Tham mưu phó công binh Nguyễn Văn Kỷ xuống giúp Binh trạm 31 giải tỏa Xiêng Phan; tăng cường cho Binh trạm hai tiểu đoàn công binh trang bị bốn máy húc, 200 tấn thuốc nổ, với quyết tâm thông đường trong vòng 7 ngày.

Việc giải tỏa tập đoàn trọng điểm ATP, ngoài cái khó là phạm vi oanh tạc của địch rộng, địch khống chế gắt gao, còn do sự xáo trộn về tổ chức của ta.

Để san sẻ gánh nặng cho Đoàn 559, từ tháng 11 năm 1968, trên giao cho Binh trạm 14 quản lý cung đường từ bờ bắc sông Ta Lê ra hết cua chữ A, trước đây thuộc Binh trạm 32. Chính quyết định đầy tính thiện chí này đối với 559, đã biến sông Ta Lê thành một nhát cắt, phá vỡ thế liên hoàn của ATP.

Trong thế nước sôi lửa bỏng này, Bộ Tư lệnh 500 vừa chân ướt, chân ráo vào, làm sao đủ thời gian tìm hiểu, đánh giá đúng tình hình để có quyết sách phù hợp! Thực tế gần đúng như vậy.

Một cuộc họp khẩn cấp được triệu tập dưới sự chủ trì của Bộ Tư lệnh 500, gồm cán bộ chủ chốt các cơ quan tham mưu, công binh, Binh trạm 12, Binh trạm 14 và Ban 67 thuộc Bộ Giao thông bàn tìm cách giải tỏa trọng điểm. Nói là hội nghị của Bộ Tư lệnh 500, nhưng Bộ Tư lệnh 559 thấp thỏm, nóng lòng, hy vọng. Từ trong tuyến, tôi được tin, trong hội nghị có hai loại ý kiến, cuối cùng Bộ Tư lệnh 500 nghiêng về số đông quyết định làm đường tránh để sớm giải tỏa cửa khẩu.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 28 Tháng Mười Một, 2016, 09:04:55 pm

Mùa khô thoáng đã qua mất hơn một tháng. Giải pháp trên là đúng. Phải vừa mở đường tránh, vừa khôi phục đường chính, ngầm chính, vừa tổ chức nghi binh giỏi. Công binh, cao xạ, xe - máy của hai Bộ Tư lệnh phải tập trung cao độ, chỉ huy chặt chẽ, đồng loạt đột kích khôi phục đường cũ, mở mới hai đường tránh. Dù chỉ vận chuyển bằng cơ giới mười ngày cũng hơn gùi thồ cả năm.

Sau đó, anh Nguyễn An - Tham mưu trưởng vận tải thay mặt Bộ Tư lệnh 559 trực tiếp ra làm việc với Bộ Tư lệnh 500. Cùng lúc, tôi gọi điện báo cáo Quân ủy Trung ương và Thủ trưởng Bộ đề nghị tổ chức giải tỏa nhanh trọng điểm theo phương án nói trên. Bộ nhất trí hoàn toàn. Việc khẩn trương mở toang cửa khẩu, chi viện cho chiến trường là yêu cầu cấp bách.

Hai ngày sau, Bộ điện vào giao cho Đoàn 559 phụ trách giải tỏa toàn bộ tập đoàn trọng điểm ATP, từ cây số 68 đường 20 trở vào. Liền đó, anh Đinh Đức Thiện cấp tốc vào truyền đạt quyết định này cho Bộ Tư lệnh 500. Sau khi làm việc với anh Thiện, anh Lê Quang Đạo gọi điện cho tôi, thông nhất một số việc cần tiến hành ngay để đồng bộ khớp nối giữa hai tuyến. Trước khi đặt máy, anh Đạo còn nói thêm, hết sức chân tình: Diện địch đánh hủy diệt quá rộng, thời gian lại gấp, do chưa nắm chắc địa bàn và mọi diễn biến địch tình, Đoàn 500 chưa với sâu vào phía trong được. Có lẽ, kinh nghiệm chống chiến tranh ngăn chặn ở Trường Sơn khó ai vượt được Bộ Tư lệnh 559.

Tôi trả lời anh:

- Kinh nghiệm là quan trọng, nhưng phải có sức mạnh của cả Tuyến 559 và Bộ Tư lệnh 500 mới giải quyết được.

Chủ trương và biện pháp giải tỏa trọng điểm đã thống nhất. Đảng ủy 559 họp phiên bất thường bàn cụ thể một số nhiệm vụ với quyết tâm ngày 5 tháng 12 giải tỏa xong Xiêng Phan và mười ngày sau giải tỏa ATP.

Trong khi chưa giải tỏa xong cửa khẩu phía bắc, chúng tôi quyết định mở ngay một đợt đột kích vận tải nhỏ, gom số hàng dự trữ còn lại, kết hợp với nguồn hàng do anh Đức Phương tổ chức khai thác hướng "Xê tư" chuyển ngay cho Khu 5 và Tây Nguyên.

Trên tinh thần đó, mấy anh em trong Bộ Tư lệnh chia nhau đi "đốc chiến" các hướng.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 28 Tháng Mười Một, 2016, 09:05:24 pm

Ngày 15 tháng 11, sau khi cử anh Nguyễn Lang vào trực tiếp chỉ đạo các binh trạm 36, 37, 44 ở tuyến cuối, tôi cùng Tham mưu trưởng công binh Phạm Diêu, Phó phòng bảo đảm giao thông Đình Hào xuống Binh trạm 32.

5 giờ sáng, đường rừng chưa tỏ mặt người, chúng tôi đã có mặt ở sở chỉ huy binh trạm và kéo chỉ huy binh trạm ra luôn tập đoàn trọng điểm ATP. Vượt đèo Phu La Nhích, qua ngầm Ta Lê, mấy anh em leo lên đỉnh một ngọn đồi khá cao gần dãy Cu Xê Bao để quan sát cua chữ A. Toàn cảnh khu vực rộng 16 cây số vuông là một vùng "tử địa". Một bãi hố bom khổng lồ. Những quả đồi bị bóc hết cây cối, trơ từng mảng lớn đất ba zan đỏ như tiết... Hàng chục cặp mắt cố dõi xa, mong tìm lấy một mảnh rừng hiếm hoi còn sót lại, có thể mở một lối đi kín, nhưng vô vọng. Đồi, rừng chỉ còn vài gốc cây bị chém phạt toác ra từng mảng, tưa tướp, gãy gục... Chục mái đầu chụm ngay lại trên chính "tử địa" này, bàn tìm một giải pháp tối ưu.

Sau một lúc trao đi, đổi lại, tôi kết luận: cần tập trung lực lượng, phương tiện, vừa khôi phục đường chính, vừa mở nhiều đường tránh, ngầm phụ; hiệp đồng chặt chẽ bộ đội hợp thành bảo đảm các công trình hoàn thành cùng lúc, quyết mở toang cửa khẩu. Bộ đội vận tải cơ giới phân tán trú quân kín đáo, bí mật tiếp cận trọng điểm, sẵn sàng chờ lệnh.

Liền đó, tôi quyết định thành lập ban chỉ huy giải tỏa trọng điểm và cử Chính ủy Binh trạm 32 Phan Hữu Đại làm chỉ huy trưởng. Tham mưu trưởng công binh Phạm Diêu thay mặt Bộ Tư lệnh ở lại trực tiếp đốc chiến.

Trước lúc rời trọng điểm tôi nói với Đỗ Xuân Diễn - nay đã là tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 33 công binh đảm trách cua chữ A:

- Đồng chí hãy trải ni lông tại công sự - đường "cua", ngủ, nghỉ và chỉ huy bộ đội; bằng mọi giá phải thông đường theo kế hoạch.

Diễn cười - vẫn nụ cười xởi lởi, chắc nịch và nói: Thủ trưởng yên tâm, chúng tôi sẽ cố gắng. Nhưng cũng phải có thêm máy húc, ít nhất là bốn - năm chiếc.

- Được thôi! Tối nay, hoặc chậm là ngày mai, các đồng chí sẽ có thêm máy húc và hai tiểu đoàn công binh tăng cường, Bộ Tư lệnh đã tính cả rồi - Tôi trả lời.

Phương hướng, biện pháp giải tỏa ATP tạm ổn, tôi không quay về Bộ Tư lệnh vội, mà đi tiếp theo đường 20. Ngược ra phía ngoài, cơ man là xe nặng hàng vào, ngụy trang, ẩn nấp chờ đường. Không giải tỏa được trọng điểm kịp thời, thật có tội với đồng chí, đồng đội; có tội với chiến trường. Đến A Ky, Cà Roòng, nhìn cảnh tượng xe ùn tắc, lòng tôi như lửa đốt. Tôi gọi điện ngay cho các anh Vân, An... cho Binh trạm 32; giục, dồn sức giải tỏa bằng được ATP, sớm được giờ nào quý giờ đó.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 28 Tháng Mười Một, 2016, 09:05:43 pm

Ở hướng đường 12, việc giải tỏa Xiêng Phan cũng không kém phần khốc liệt như ATP. Hàng nghìn cán bộ, chiến sĩ kiên cường trụ bám trọng điểm, bất chấp mưa bom, bão đạn, quyết giành giật với địch từng mét đường.

Để chia lửa với các binh trạm tuyến ngoài, chúng tôi chỉ đạo lực lượng phòng không trên tuyến triệt để tranh thủ mọi nơi, mọi lúc đánh địch, căng kéo địch ra, giảm mật độ bom đạn chúng trút xuống Xiêng Phan và ATP.

Ngày 5 tháng 12, trọng điểm Xiêng Phan được giải tỏa. Ta khôi phục xong trục chính và mở được đường tránh từ bắc trọng điểm vào tới Xóm Péng, dài 10 cây số.  Và nửa tháng sau, ngày 20 tháng 12, ta giải tỏa nốt tập đoàn trọng điểm ATP với ba trục vượt khẩu dài 48 cây số. Ngầm vượt sông Ta Lê được mở thành ba ngầm, tôn cao bởi khoảng 3.000 mét khối đá. Ban chỉ huy bộ đội hợp thành: bộ đội cao xạ, công binh, vận tải, thông tin, trạm cấp cứu quân y... được xây dựng đồng bộ trên mỗi trọng điểm.

Giây phút lịch sử mà chúng tôi phấn đấu, đợi chờ cháy lòng đã đến. Tôi quyết định phát lệnh vượt khẩu. Mấy trăm chiếc xe chất đầy hàng, dồn dập vượt trọng điểm. Mưu đồ bịt cửa khẩu của địch, hòng chẹn "yết hầu" đường Hồ Chí Minh đã hoàn toàn bị phá sản. Dĩ nhiên, để giải tỏa trọng điểm, gần hai trăm cán bộ, chiến sĩ đã vĩnh viễn nằm lại chính nơi này. Máu xương của các anh, các chị đã hòa vào đất đá, cỏ cây, sông suối, mây trời Trường Sơn, nâng bước những đoàn quân tiến ra phía trước.

Với việc giải tỏa thành công hai trọng điểm ác liệt Xiêng Phan và ATP, đầu năm 1969, bộ đội Trường Sơn có thêm bài học quý giá về đánh giá địch - ta, về tổ chức bộ đội hợp thành, tổ chức chiến đấu, xây dựng, bảo vệ trọng điểm.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Mười Một, 2016, 09:48:05 pm

CỬA THÉP XIÊNG PHAN1
Thiếu tướng VÕ SỞ
Nguyên Chính ủy Binh đoàn 12
Nguyên Phó chủ nhiệm chính trị Bộ Tư lệnh 559

Sau một mùa hè vô cùng khó khăn, ác liệt trên Tuyến 559, một mùa hè mà nhiều người trong chúng tôi gọi là "đội bom vượt lũ”, vào đầu mùa khô 1968-1969 tôi được Bộ Tư lệnh bổ nhiệm làm Chính ủy Binh trạm 31 - là một trong hai binh trạm cửa khẩu phía bắc tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh.

Hôm tiễn tôi xuống binh trạm nhận nhiệm vụ, anh Nguyên, anh Chiêm vừa như nhắc lại những việc cần giải quyết ngay ở dưới đó, vừa như thân tình dặn dò: Mùa khô này, Binh trạm 31 và Binh trạm 32 phải chuẩn bị thật chu đáo để đối phó với âm mưu "bịt cửa khẩu" của địch. Mỹ đã xuống thang, ngừng đánh phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra; suốt mấy tháng nay, chúng tập trung "cắt" vùng "cán xoong" Khu 4. Chỉ chờ ta nhập tuyến là chúng lại hủy diệt cửa khẩu phía bắc. Hai binh trạm ở khu vực vượt khẩu sẽ là trọng tâm đánh phá của chúng...

Tôi trả lời khá tự tin: Các anh yên tâm, là cán bộ cơ quan chính trị, nhưng tôi cũng trưởng thành từ đơn vị chiến đấu, lại gần 4 năm ở Trường Sơn; những kinh nghiệm mà Bộ Tư lệnh 559 đúc kết bước đầu từ mấy mùa khô triển khai nhiệm vụ - cả thành công và chưa thành... là cẩm nang đối với tôi. Vả lại, lãnh đạo, chỉ huy Binh trạm 31 dưới đó là một tập thể mạnh, nhiều kinh nghiệm thực tiễn.

Vào thời điểm này toàn tuyến mới có hai binh trạm cửa khẩu phía bắc tổ chức vận tải cơ giới là Binh trạm 31 và Binh trạm 32. Đến cuối năm 1969, có thêm Binh trạm 9 phụ trách khu vực Pha Băng Nưa, và sang năm 1970, ta mở thêm trục vượt khẩu đường 16 do Binh trạm 27 đảm trách.

Đón tôi tại sở chỉ huy binh trạm (khu vực Mụ Giạ-050) có anh Nguyễn Thăng Phúc - Binh trạm trưởng, anh Vũ Văn Trịnh - Binh trạm phó phụ trách tác chiến, anh Nguyễn Đức Lợi - Binh trạm phó phụ trách cầu đường, anh Trương Hữu Thanh - Binh trạm phó phụ trách vận chuyển. Hai anh Phan Biên, Nguyễn Văn Mịch là Phó chính ủy, anh Lê Văn Tưởng là Chủ nhiệm chính trị. Sau khi tôi xuống chừng một tháng, anh Đặng Ba được điều về thay anh Nguyễn Thăng Phúc; và kế đó, anh Hải Trinh được tăng cường làm Binh trạm phó phụ trách tác chiến.

Địa bàn từ cửa khẩu vào đường số 9, sau khi Bộ Tư lệnh 559 thay hình thức tổ chức theo tuyến bằng các binh trạm, do Binh trạm 1 phụ trách. Nhưng rồi, do tính chất trọng yếu và khốc liệt của địa bàn vượt khẩu, nên từ mùa khô 1967-1968 do hai binh trạm (1 và 2) phụ trách. Khi chuyển đổi phiên hiệu là Binh trạm 31 và Binh trạm 32.
____________________________________
1. Trích Hồi ký: "Đường về đất Mẹ" (Duy Tường thể hiện), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000.
    - Xiêng Phan cũng là một cách gọi của địa danh Seng Phan. Trong tập sách này chúng tôi thống nhất cách gọi là Xiêng Phan.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Mười Một, 2016, 09:48:50 pm

Binh trạm 31 phụ trách từ Mụ Giạ - Cổng Trời (cửa khẩu đường 12) vào tới Lùm Bùm (đường 128) và đường 12 từ Lằng Khằng vào Xóm Péng, đường 129 từ Ca Vát đi Na Phi Lăng. Trên các trục đường đó có biết bao địa danh đã trở thành "tọa độ lửa", "cửa tử", như Cổng Trời, Mụ Giạ, ngầm Na Tông, ngầm Tha Pa Chôn trên sông Pác Pha Năng, ngã ba Xóm Péng... và đặc biệt là Xiêng Phan.

Binh trạm 31 thành lập đã được 2 năm. Qua hai mùa vận chuyển, phục vụ vận chuyển, Binh trạm đã bước đầu xây dựng được thế trận và cơ sở của một binh trạm vận tải cơ giới. Tuy vậy, lường định trước những khó khăn, khốc liệt của mùa khô tới, ngay sau khi "nhập cuộc", tôi cùng các anh trong Ban chỉ huy binh trạm rảo một vòng từ đầu đến cuối địa bàn đơn vị phụ trách, nghiên cứu thực địa, hoàn chỉnh thế trận mới, bao gồm: dự đoán các trọng điểm ác liệt nhất, xác định khu kho, bãi trú đậu xe, bãi khách, trận địa pháo phòng không, súng máy cao xạ, trận địa của công binh, bộ binh, địa điểm đặt trạm chỉ huy giao thông, trạm cấp cứu và dự kiến sở chỉ huy của binh trạm cho từng phương án tác chiến.

Chuyến thị sát này đã để lại trong tôi một kỷ niệm nhỏ nhưng đặc biệt thú vị. Vốn tính không ưa ồn ào và cũng để kiểm tra thật sự hoạt động chiến đấu của bộ đội, tôi đề nghị Ban chỉ huy binh trạm không báo trước cho các đơn vị. Đến một đơn vị của Tiểu đoàn xe 101, sau một chặng đường rừng khá dài, lại sục vào kiểm tra một vài đơn vị, nên mấy anh em thấm mệt và đói! Vừa xuống xe, một đồng chí trong đoàn thân tình nói với chỉ huy đơn vị: Có gì cho chúng tớ lót dạ chút đỉnh, làm việc sau. Thật thà, bỗ bã như lính xế - quả đúng vậy, "chủ nhà" vui vẻ: Quá bữa rồi, còn cơm nguội đâu đó, các ông bảo cấp dưỡng lấy ăn tạm! Khi biết đây là đoàn do Chính ủy mới của binh trạm dẫn đầu, kiểm tra thực địa, chỉ huy đơn vị cứ lúng túng, xuýt xoa, xin lỗi mãi. Với tôi thì ngược lại: Không sao cả, mình vui vì lính xế còn cơm nguội, có nghĩa là lính ta "dư dật", không đói, vả lại, tướng sĩ ngày xưa - cái ngày phong kiến - mọi chuẩn mực quan hệ "khuôn vàng thước ngọc", còn "Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào" - huống chi nay là Bộ đội Cụ Hồ.

Thời gian trôi, kỷ niệm luôn sống trong hồi niệm. Sau này không dưới mấy lần, anh em Binh trạm 31, Tiểu đoàn xe 101 thuở ấy, gặp lại tôi, thường nhắc chuyện này. Chỉ có những người lính từng lăn lộn nơi "mũi tên, hòn đạn”, từng sẻ chia cái chết, nhường nhau sự sống, mới nâng niu những kỷ niệm thấm đẫm tình người như vậy.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Mười Một, 2016, 09:49:12 pm

Lực lượng công binh của Binh trạm 31 vào đầu mùa khô này gồm hai tiểu đoàn. Tiểu đoàn 25 công binh thiện chiến, vào tuyến từ năm 1963 - đơn vị Anh hùng (anh Nguyễn Bửu Ký làm Tiểu đoàn trưởng, anh Nguyễn Văn Phiên làm Chính trị viên, các anh Tô Duy Toan và Nguyễn Ngọc Trữ là Tiểu đoàn phó), được "chọn mặt gửi vàng" bảo đảm giao thông từ Cổng Trời vào ngã ba Xóm Péng. Tiểu đoàn 27 công binh thiện chiến (anh Chu Thế Kỳ làm Tiểu đoàn trưởng, anh Tống Duy Sự làm Chính trị viên) đảm bảo giao thông một nhánh đường 128 từ ngã ba Xóm Péng vào Lùm Bùm và đường 129 vào kho K3 thuộc Binh trạm 32. Vào cao điểm mùa khô, khi địch tập trung đánh phá ác liệt nhất, Binh trạm 31 được tăng cường Trung đoàn 83 công binh và Tiểu đoẩn 2 công binh từ Binh trạm 12 vào.

Lực lượng phòng không thuộc binh trạm có Tiểu đoàn 14 pháo cao xạ 37 ly, chiến đấu bảo vệ giao thông từ ngầm Tha Pa Chôn vào Xóm Péng và hết địa phận Binh trạm 31. Phía bắc, ra đến Cổng Trời, do Tiểu đoàn 6 pháo 37 ly đảm trách. Từ tháng 11 năm 1968, Trung đoàn 84 pháo cao xạ thuộc Quân chủng Phòng không - Không quân vào tuyến, chiến đấu trên đường 12 từ Cổng Trời vào tới bắc Xiêng Phan. Để bảo vệ đội hình xe cơ động trên đường 12b, chúng tôi bố trí một tiểu đoàn pháo cơ động, thực hiện "quay nòng pháo theo bánh xe lăn". Ngoài ra, mỗi tiểu đoàn công binh có ba tiểu đội súng máy 12,7 ly và 14,5 ly. Các tiểu đội này được bố trí tại địa bàn công binh tác nghiệp. Riêng tiểu đội súng máy của Tiểu đoàn 25 được bố trí ngay trên đỉnh núi đá trọng điểm Xiêng Phan. Một phần lực lượng súng máy phòng không của các tiểu đoàn còn cơ động theo đội hình xe, sẵn sàng đánh máy bay địch dọc đường vận chuyển.

Lực lượng vận tải trong biên chế của binh trạm có hai tiểu đoàn ô tô - Tiểu đoàn 101 và Tiểu đoàn 53. Đầu mùa khô, do tuyến trong chưa có hàng, chúng tôi được tăng cường tạm thời Tiểu đoàn ô tô 55 của Binh trạm 42, tập trung tạo chân hàng cho Binh trạm 32. Tiếp đó, vào trung tuần tháng 11, được tăng cường Tiểu đoàn ô tô 990.

Trong điều kiện địch đánh phá ngăn chặn quyết liệt, không thể tổ chức vận chuyển cung dài, chúng tôi bố trí thành ba cụm kho: một ở 050, một ở nam Xiêng Phan (K49) và một ở ngã ba Xóm Péng, mỗi cụm tương đương một tiểu đoàn. Đường giao liên bộ qua binh trạm do một tiểu đoàn phụ trách, rải thành năm trạm, có nhiệm vụ tổ chức đưa đón bộ đội, cán bộ qua tuyến và thương binh từ chiến trường ra.

Vào cuối năm 1968 - đầu năm 1969, Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh quyết định kéo dài tuyến đường ống dẫn xăng dầu quốc gia từ hậu phương miền Bắc vào chiến trường dọc theo Tuyến 559. Binh trạm 31 được giao nhiệm vụ xây dựng đường ống từ Cổng Trời vào Xóm Péng. Tiểu đoàn 668 bộ đội xăng dầu, do đồng chí Nguyễn Văn Sỏi làm Tiểu đoàn trưởng được tăng cường cho Binh trạm 31 là lực lượng chủ công thực thi nhiệm vụ này. Đây cũng là tiểu đoàn bộ đội xăng dầu đầu tiên thuộc Cục Xăng dầu - Tổng cục Hậu cần, vào Trường Sơn.

Như vậy, lực lượng lúc cao nhất – kể cả biên chế và tăng cường, của Binh trạm 31 vào mùa khô 1968-1969 lên tới hàng chục nghìn quân, gồm bốn tiểu đoàn ô tô vận tải; một trung đoàn, bốn tiểu đoàn công binh, một trung đoàn và hai tiểu đoàn pháo phòng không, ba tiểu đoàn kho, một tiểu đoàn giao liên, một tiểu đoàn bộ đội xăng dầu, hai đại đội thông tin, một đại đội bộ binh, bốn trạm phẫu thuật, bốn đội công tác giúp bạn Lào. Quả là một lực lượng hùng hậu với đầy đủ binh chủng, mà trước đó mô hình một binh trạm chưa bao giờ có được!


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Mười Một, 2016, 09:49:47 pm

Để chuẩn bị cho mùa khô này, từ đầu tháng 9 đến cuối tháng 10, theo kế hoạch chung Ban chỉ huy binh trạm tập trung chỉ đạo bộ phận ở lại tuyến và lực lượng công binh, kho, giao liên, thông tin... Vào sớm, dồn sức khắc phục hậu quả đánh phá của không quân địch và sự hủy hoại của mưa lũ suốt mấy tháng hè; mở thêm đường mới, ưu tiên phương tiện, lực lượng giải quyết những trục có tầm quan trọng đặc biệt đối với chiến thuật vận tải. Điển hình là hệ thống đường vượt khẩu 12A, 12B dài gần một trăm cây số, đường tránh Pác Pha Năng dài gần 40 cây số.

Thế trận cầu đường được chuẩn bị khá chu đáo sẵn sàng đón lực lượng vận tải cơ giới nhập tuyến, thì giữa tháng 10, cơn bão số 8 bất thần ập vào. Gió lớn, mưa to gây ngập úng khu kho 050. Hàng nghìn tấn hàng dự trữ ngập nước. Binh trạm phải huy động khẩn cấp lực lượng công binh, cao xạ, cán bộ và nhân viên cơ quan tập trung chống lũ, cứu hàng.

Bão tan, mưa tạnh, đường khô. Lực lượng vận tải nhập tuyến, mở màn chiến dịch vận chuyển mùa khô 1968-1969.

Triệt để tận dụng yếu tố bất ngờ, những chuyến hàng đầu tiên, chúng tôi tổ chức cho Tiểu đoàn 101 và Tiểu đoàn ô tô 53 chạy đội hình tập trung từ 50 đến 100 xe; lấy hàng từ tổng kho 050 chuyển thẳng vào các kho thuộc Binh trạm 32. Tuy nhiên, thời gian đầu mùa khô, mức nước trên các sông suối còn cao. Xe vượt sông phải dùng phà, nên xe vào phía trong còn chậm; lượng xe vào cũng chưa được nhiều, không liên tục. Trong khi ùn tắc ở các bến vượt do thời tiết chưa khắc phục được, thì hoạt động đánh phá của không quân địch ngày càng ráo riết, cường độ đánh phá của chúng ngày một ác liệt hơn.

Ngày 1 tháng 11 năm 1968, tổng thống Mỹ Giôn-xơn tuyên bố chấm dứt ném bom, bắn phá miền Bắc, chấp nhận hòa đàm bốn bên ở Pari, thủ đô nước Cộng hòa Pháp. Quyết định này mặc nhiên công khai thừa nhận sự phá sản của chiến lược "chiến tranh cục bộ" và chiến tranh phá hoại miền Bắc. Tiếp tục theo đuổi mục đích xâm lược, thôn tính nước ta, ở miền Nam, Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" - một chiến lược mới mà nhiều chiến lược gia Tây phương cho rằng chỉ là "Thay đổi màu da trên xác chết". Còn giới chức cầm đầu Nhà Trắng lại cho rằng: điều kiện tiên quyết bảo đảm cho chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" thành công là chặn cắt bằng được tuyến chi viện hậu cần chiến lược của ta - vô hiệu hóa hoạt động vận chuyển tiếp tế trên đường Hồ Chí Minh.

Để đạt được ảo vọng đó, ngay sau khi ngừng ném bom miền Bắc, Mỹ đã huy động tổng lực không quân đánh phá Tuyến 559. Cửa khẩu Xiêng Phan (đường 128) và cửa khẩu tập đoàn trọng điểm ATP (đường 20) lại là nơi "thử lửa" ác liệt nhất.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Mười Một, 2016, 09:50:16 pm

Đánh vào ATP và Xiêng Phan, địch đã chọn đúng "huyệt" của Tuyến 559. Bởi vì lúc này, mọi nguồn hàng từ hậu phương miền Bắc, nếu theo đường bộ phải qua hai cửa khẩu này mới vào được chiến trường. Mặt khác, với địa hình phức tạp, hiểm trở như Xiêng Phan và ATP, nếu địch tập trung đánh mạnh, liên tục thì đường tắc là không tránh khỏi, việc khắc phục cũng vô cùng khó khăn.

Xiêng Phan thuộc địa phận tỉnh Khăm Muộn, cách biên giới Việt - Lào khoảng 15 cây số. Toàn bộ trọng điểm nằm trên trục đường men theo sông Pha Nốp, kẹp giữa hai dãy núi đá. Địa thế nơi đây khá hiểm trở, bất lợi cho việc tập kết quân và sử dụng máy húc để khắc phục kịp thời hậu quả địch đánh phá. Do vậy, kẻ địch đánh trúng đường, thường gây ách tắc kéo dài.

Trước đây Xiêng Phan chưa là trọng điểm đánh phá của địch. Nhưng ý thức được địa thế của nó, Bộ Tư lệnh 559 và Ban chỉ huy Binh trạm 31 đều cho rằng sớm muộn, Xiêng Phan sẽ nằm trong "tầm ngắm” của không quân Mỹ. Theo đó, để chuẩn bị cho hoạt động mùa khô 1968-1969, từ Na Tông đến Pác Pha Năng, Binh trạm 31 đã cho mở hai đường ô tô bám theo sông Pha Nôp.

Ngày 4 tháng 11 năm 1968, Mỹ tập trung máy bay cường kích và hàng chục lần chiếc B52 ném bom hòng hủy diệt Xiêng Phan trên một địa bàn dài 2 cây số, rộng chừng 200 mét. Cường độ đánh phá ngày càng tăng và duy trì liên tục trong bảy ngày sau đó. Ban ngày, máy bay L19 bay trinh sát phát hiện mục tiêu, chỉ điểm cho cường kích và B52 oanh kích. Mỗi lần đánh trọng điểm, máy bay B52 rải thảm ba đợt. Xen kẽ giữa các lần B52 hoạt động là các loại máy bay cường kích ném bom theo tọa độ được chúng tính trước. Đêm đến, địch dùng máy bay AC 130 trang bị nhiều loại khí tài hiện đại để phát hiện mục tiêu, săn diệt...

Bảy ngày, trên một vạn quả bom vừa là bom phá, vừa là bom sát thương, bom khai quang trút xuống một khoảnh đất hẹp, gần như xóa sổ con đường. Tất cả chỉ còn là những cồn đống ngổn ngang. Mặt đất, núi đồi bị biến dạng. Sườn núi bị bóc từng mảng lớn, hàng nghìn mét khối đất đá sụt lở gây ách tắc nghiêm trọng.

Để khắc phục ách tắc, chúng tôi bố trí tại trọng điểm một lực lượng công binh thiện chiến kịp thời ứng cứu, giải phóng xe. Cứ khoảng 100 mét đến 200 mét có một tổ 5 người làm nhiệm vụ ứng cứu và ở ngay ven đường cách quãng 20 mét có một hầm chữ A bằng gỗ, khá kiên cố, đủ chỗ cho chừng 5 người ẩn nấp. Theo chỉ dẫn của các đài quan sát máy bay địch, cứ dứt từng đợt bom, bất kể ngày hay đêm, công binh đội đất chui lên dùng bộc phá, cuốc xẻng san lấp, sửa chữa kịp thời. Do máy ủi cơ động kém, dễ bị đánh cháy, vả lại đường hẹp, nên lúc này ở Xiêng Phan, chúng tôi không thể sử dụng máy ủi. Sức người chọi với bom đạn như núi. Ngày nào cũng có hoặc công binh hoặc lái xe hy sinh. Vì quá căng thẳng nên cứ 10 ngày, chúng tôi lại cho đại đội công binh chốt giữ Xiêng Phan thay phiên một lần. Các anh Tô Duy Toan, Nguyễn Ngọc Trữ... cán bộ Tiểu đoàn 25 công binh thay nhau trực chỉ huy đại đội ứng cứu trọng điểm. Nhưng dù cố gắng đến mấy, đường vẫn tắc.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Mười Một, 2016, 09:50:55 pm

Trong khi khó khăn, tổn thất đang bám riết Binh trạm 31 ở Xiêng Phan, thì ở Binh trạm 32 tập đoàn trọng điểm ATP, tình hình còn căng thẳng, ác liệt hơn. Kẻ địch tập trung B52 và các loại máy bay cường kích đánh liên tục trọng điểm này trong 15 ngày liền. Qua liên lạc điện thoại với Bộ Tư lệnh, tôi được biết 3 khẩu pháo 37 ly bị đánh hỏng và gần năm chục cán bộ, chiến sĩ Binh trạm 32 hy sinh ở ATP. Tiểu đoàn 33 công binh do anh Đỗ Xuân Diễn làm Tiểu đoàn trưởng, anh Cào Xuân Hùng làm Chính trị viên, trụ bám ngay trọng điểm, vật lộn với đất đá, bom đạn, song cũng chưa giải tỏa được.

Giải tỏa Xiêng Phan, ATP, giải tỏa hai trục vượt khẩu trọng yếu là yêu cầu nóng bỏng không chỉ đối với Bộ Tư lệnh 559 mà còn là vấn đề thu hút sự quan tâm lo lắng của Tổng hành dinh - Bộ Quốc phòng, của Tổng cục Hậu cần. Bộ kịp thời có những giải pháp tình thế điều hành tạo sự phối hợp gắn kết hơn giữa Tuyến 500 với Tuyến 559, và anh Đinh Đức Thiện đã kịp thời vào truyền đạt mệnh lệnh của Bộ.

Liền sau khi nhận chủ trương của trên, ngày 14 tháng 11 năm 1968, Đảng ủy 559 họp bất thường, quyết định chậm nhất ngày 25 tháng 11 phải giải tỏa Xiêng Phan và 10 ngày sau phải giải tỏa nốt ATP. Trong khi chưa giải tỏa được ATP và Xiêng Phan, phải tận dụng triệt để nguồn lương thực do anh Đức Phương - "ông chủ lớn" tổ chức khai thác ở Cam-pu-chia; ở phía bắc, giải pháp tình thế là tận dụng số xăng tồn kho, tổ chức vận tải cơ giới đội hình nhỏ lẻ qua đường số 9 rồi tổ chức gùi thồ cung cấp cho Mặt trận Trị - Thiên.

Hội nghị Đảng ủy kết thúc ngày 14 thì ngày 15 anh Đồng Sỹ Nguyên, anh Phạm Diêu - Tham mưu trưởng công binh và anh Đinh Hào – Trưởng phòng bảo đảm giao thông xuống trực tiếp chỉ đạo Binh trạm 32 giải tỏa ATP. Với Binh trạm 31, Bộ Tư lệnh phái anh Nguyễn Văn Kỷ - Tham mưu phó công binh xuống cùng chúng tôi tháo gỡ ách tắc ở Xiêng Phan. Những ngày sau đó tôi cùng anh Kỷ, anh Lợi đến từng tổ công binh chốt giữ trọng điểm; nghiên cứu kỹ địa hình, quy luật đánh phá của địch, tìm bằng được giải pháp khắc phục.

Hết ngày qua đêm, mấy anh em trụ lại trọng điểm cùng cán bộ, chiến sĩ công binh. Địch đánh, tất cả chui xuống hầm chữ A. Ngớt tiếng bom, lại cùng anh em san sửa. Nhưng rồi, sức người không chọi lại được với bom tấn, bom tạ.

Phải mấy ngày đêm liền trụ ở chính nơi mà đạn bom biến núi đồi thành bình địa, chúng tôi mới thống nhất quyết định tạm thời mở đường từ Lằng Khằng xuống phía tây trọng điểm. Nhưng với lối tránh này cũng chỉ có thể tổ chức chạy đội hình từ ba đến năm xe, chớp thời cơ giữa hai đợt bắn phá của máy bay địch. Vì vậy, tổ chức vận chuyển ở đường tránh này cũng không an toàn, hằng ngày vẫn xảy ra thương vong. Chính vào lúc tình hình đang căng như dây đàn ấy, một mất mát lớn, rất thương tâm đã xảy ra tại chính nơi chúng tôi mở đường tránh. Một tiểu đội công binh gồm 12 cán bộ, chiến sĩ tránh máy bay trong hang núi, đã bị địch ném bom sập hang. Từ cán chí quân bàng hoàng đau xót, cắn răng nuốt nước mắt nhìn đồng đội thân yêu của mình vĩnh viễn bị chôn vùi trong núi đá. Dùng thuốc nổ phá đá, lấy xác đồng đội ư? Chúng tôi cũng đã cân nhắc hết mọi giải pháp. Có thể mất mấy tấn thuốc nổ. Nhưng điều thiêng liêng nhất là liệu thi thể anh em có còn nguyên vẹn?...


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Mười Một, 2016, 09:51:49 pm

Xiêng Phan, ATP tắc - hai trục vượt khẩu đường 20 và 128 tắc gần một tháng đã dồn Bộ Tư lệnh 559 đến chân tường. Một ngày không dưới năm lần anh Nguyên, anh Chiêm, anh Nguyễn Lang gọi điện xuống nắm tình hình, hối thúc chúng tôi. Rồi dường như không thể chờ đợi hơn được nữa, có lần anh Nguyên nói rất gay gắt qua điện thoại:

- Các anh có làm được không, để tôi cho người khác thay. Nguy kịch lắm! Tôi vừa từ đường 20 về. Xe vào chờ đường đỗ la liệt ở Ka Roòng, dễ làm mồi cho máy bay lắm. Lúc này không giải tỏa Xiêng Phan và ATP là có tội lớn với bộ đội, với chiến trường...

Tôi nghẹn ngào nhưng cũng tỏ ra rắn rỏi trả lời:

- Báo cáo anh, thay ai là quyền của anh. Với chúng tôi, tư tưởng, quyết tâm chiến đấu bất di bất dịch là đánh địch, mở đường mà đi, mở đường mà vận chuyển chi viện chiến trường. Nhưng anh cho phép chúng tôi gắng tìm giải pháp tối ưu, giải tỏa được trọng điểm mà mình đỡ thương vong. Địch đánh dữ quá, không ngày nào tại trọng điểm không có người hy sinh. Vừa rồi thôi, địch đánh sập hang núi, 12 đồng chí của chúng tôi hy sinh, không lấy được xác. Khó khăn thật, nhưng đảm bảo với anh chúng tôi sẽ khắc phục được.

Dường như thấu được khó khăn cũng như thấu được "ruột gan" của cấp dưới, anh Nguyên nói khẽ hơn, trầm hẳn xuống như để chúng tôi hiểu mà thông cảm:

- Cả hai trục vượt khẩu tắc gần tháng rồi. Bộ Tư lệnh rất lo lắng. Có ý kiến đề xuất nên tìm đường tránh, tạm quay về với phương thức gùi thồ để đưa hàng vượt trọng điểm. Thủ trưởng Bộ Quốc phòng cũng đã tính tới khả năng đó.

- Vậy ý anh thế nào? - Tôi hỏi.

- Tôi chưa đồng ý - Anh Nguyên nói, làm như vậy là thua địch, cũng như trước đây tôi đã có lần khẳng định nếu chỉ gùi thồ thì hàng chuyển vào không đủ nuôi mình, chứ đừng nói tới chi viện chiến trường. Tôi tin Binh trạm 31 và Binh trạm 32 nhanh chóng khắc phục được khó khăn.

Rồi bằng giọng trầm hẳn lại, anh nói: “Đồng chí Nguyễn Trọng Bách (thư ký của anh Nguyên), một cán bộ trẻ có năng lực đi công tác, vướng bom nổ chậm, hy sinh ở Chà Là, trên đường 20”.

Lại những ngày, tôi cùng anh Nguyễn Văn Kỷ và anh em công binh "đội bom đạn", trèo đèo, lội sông tìm đường tránh để vượt Xiêng Phan. Lúc này đã gần giữa mùa khô, mực nước con sông chảy qua đây rất thấp. Bom đạn địch lại bưng cả nghìn khối đất đá lấp cạn nhiều quãng sông. Sau khi nghiên cứu kỹ địa hình, chúng tôi quyết định mở hai đường chéo vượt sông, tránh các đoạn đường sát chân núi đá, để xe vượt nhanh chóng, khi địch đánh trúng, cũng dễ khắc phục.

Dọc đường từ sở chỉ huy về binh trạm, tôi nói vui với anh Kỷ: "Cái khó ló cái khôn", địch đánh làm tắc đường, nhưng cũng giúp ta lấp sông mở đường tránh. Khi chúng tôi trình bày phương án mở đường tránh vượt sông, anh Đặng Ba rất phấn khởi và quyết định triển khai ngay.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Mười Hai, 2016, 03:31:40 pm

Để mở đường tránh trong tình hình vô cùng khẩn trương, không thể chỉ có sức người với vài thứ dụng cụ thô sơ, mà phải huy động cả máy ủi, cho dù địa hình hẹp, phức tạp, địch lại đánh dữ. Bởi vậy, ngoài hầm cho người tránh bom, chúng tôi còn chỉ đạo công binh làm gấp mấy hầm chữ A cho xe ủi. Liền đó, chúng tôi tập trung lực lượng thiện chiến nhất, phương tiện thi công tốt nhất để làm đường. Trung đội công binh do Hoàng Hữu Thanh1 phụ trách đã vật lộn đêm ngày với đất đá, san lấp hố bom, lấp sông, giành giật với địch từng thước đường. Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 25 công binh Nguyễn Bửu Ký, Chính trị viên tiểu đoàn Nguyễn Văn Phiên ngày đêm bám trọng điểm cùng anh em tìm mọi phương cách thi công dưới tầm bom đạn địch, đạt hiệu quả cao, tránh được thương vong.

Dù lực lượng ít, nhưng thiện chiến và tổ chức thi công hợp lý, nên chỉ sau hơn hai ngày đêm, đường tránh từ bắc Xiêng Phan đến Xóm Péng dài 10 cây số đã hoàn thành. Rồi giây phút mà chúng tôi nóng lòng chờ đợi, giây phút đánh đổi bởi bao máu xương, mồ hôi, nước mắt của những người lính đã đến. Chiều ngày 25 tháng 11 năm 1968 trọng điểm Xiêng Phan được giải tỏa.

Đúng 5 giờ chiều - đúng hơn là chỉ chờ cho mặt trời khuất sau mấy ngọn núi phía tây, ba phát súng lệnh nổ vang. Lệnh "Vượt trọng điểm!" của binh trạm trưởng vang lên, đội hình gồm 100 xe của Tiểu đoàn 101 chất nặng hàng nhanh chóng lao qua trọng điểm an toàn.

Nhìn những chiếc xe lao đi, nhòa dần trong ánh chiều đỏ lựng, anh Đặng Ba ôm chầm lấy tôi và anh Kỷ. Nước mắt anh rơi ấm vai tôi.

Tin Xiêng Phan giải tỏa xong, gần một trăm chiếc xe vượt trọng điểm an toàn được báo ngay về Bộ Tư lệnh. Các anh trong Bộ Tư lệnh mừng tột độ. Anh Nguyên biểu dương Ban chỉ huy binh trạm cùng toàn thể cán bộ, chiến sĩ đã cố gắng hết mình vì mạch máu giao thông thông suốt, vì sự sống của tuyến đường.

Vừa từ cơ quan xuống đơn vị, nhưng thực tiễn giải tỏa trọng điểm Xiêng Phan, giúp tôi ý thức được rằng: Tổ chức vận chuyển, bảo đảm giao thông trong điều kiện địch đánh phá ác liệt, đòi hỏi việc tổ chức thế trận cầu đường, bố trí lực lượng đánh địch; tổ chức bốc xếp hàng hóa, chuẩn bị mọi mặt cho xe phải thật tỉ mỉ, chu đáo. Quan hệ điều hành chỉ huy từ Bộ Tư lệnh 559 đến chỉ huy binh trạm, xuống tới các đơn vị phải bảo đảm chặt chẽ; hệ thống thông tin đa phương tiện. Hữu tuyến, vô tuyến điện, đặc biệt là thông tin tải ba phải luôn thông suốt đến từng trận địa pháo phòng không, từng trạm chỉ huy giao thông, các trạm quan sát máy bay địch. Binh trạm chỉ huy trực tiếp hoạt động vận tải. Từ kế hoạch trong ngày đến bốc xếp hàng, tập kết xe, vận chuyển trên đường, vượt trọng điểm, đổ hàng (giao hàng)... đều được chỉ huy binh trạm nắm rất chắc, cụ thể qua báo cáo của cán bộ chỉ huy đơn vị bằng bộ đàm, hoặc qua trạm chỉ huy giao thông. Việc tổ chức cấp cứu xe hoặc do địch đánh, hoặc sa rệ, giải quyết tắc đường, cấp cứu người bị thương... luôn được bố trí chu đáo, nên những tình huống xảy ra đều được xử trí kịp thời.

Chừng 10 ngày sau khi Binh trạm 31 giải tỏa Xiêng Phan, Binh trạm 32 cũng giải tỏa được tập đoàn trọng điểm ATP. Vậy là âm mưu của địch tập trung đánh phá hòng hủy diệt khu vực cửa khẩu đã thất bại hoàn toàn.
_____________________________________
1. Năm 1971, đồng chí Hoàng Hữu Thanh được Nhà nước tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Mười Hai, 2016, 03:32:22 pm

Từ khi khai thông trọng điểm Xiêng Phan, dù địch vẫn tiếp tục đánh phá với cường độ không giảm - không chỉ đánh tập trung vào 2 cây số men theo chân núi đá mà còn đánh suốt 10 cây số chiều dài trọng điểm; nhưng không còn thế độc đạo nên vận chuyển không bị ngưng, địch đánh đường chính ta đi đường tránh và ngược lại. Công binh túc trực khắc phục kịp thời. Đêm đêm xe vẫn vào ra đều đều. Có những ngày địch đánh suốt chiều dài trọng điểm, sườn núi sụt lở một khối lượng đất đá rất lớn. Anh em công binh có khẩu hiệu: "Hạn chế tắc giờ, không để tắc đêm". Tuy vậy có đêm phải gần bốn giờ sáng mới thông đường. Có mặt tại hiện trường lúc đó, anh em chúng tôi như đứng ngồi trên lửa. Trời gần sáng, trong khi gần một trăm chiếc xe nặng hàng của Tiểu đoàn 101 do anh Phạm Văn Thi - Tiểu đoàn trưởng và anh Hoàng Hồ làm chính trị viên chỉ huy dàn đội hình ở bắc trọng điểm, chờ lệnh thông đường. Quả là "tiến thoái lưỡng nan". Quay về thì trời sáng, mà xe chẳng kịp về tới bãi tập kết giấu xe, sẽ làm mồi cho máy bay Mỹ. Chỉ có vượt nhanh, họa chăng xe, hàng mới tới kho an toàn. Năm ba cái đầu chụm lại bên ngọn đèn hạt đỗ trong căn hầm chữ A trên trọng điểm, bàn đi, tính lại cuối cùng chúng tôi quyết định, bằng mọi giá phải cho xe vượt trọng điểm. Liền đó, Ban chỉ huy binh trạm lệnh cho công binh bám đường, túc trực cứu kéo kịp thời, các trạm chỉ huy giao thông phối hợp nhịp nhàng, lực lượng kho chủ động đón xe, bốc dỡ hàng nhanh gọn và đặc biệt pháo phòng không tập trung hỏa lực đánh máy bay địch, bảo vệ đội hình xe. Toàn binh trạm hiệp đồng chặt chẽ, như một guồng máy, một dây chuyền mang tính công nghiệp. Đường thông, trời tảng sáng; cả đoàn xe vượt trọng điểm an toàn. Nhìn đoàn xe như lùm cây di động dần xa trọng điểm, anh Đặng Ba nhìn anh Kỷ và tôi, thở phào nhẹ nhõm.

Cũng để tăng cường lực lượng đánh địch, bảo vệ vận chuyển, tháng 11 năm 1968, Bộ Tư lệnh bổ sung cho Binh trạm 31 Trung đoàn phòng không 84, trang bị pháo 37 và 57 ly. Trung đoàn trưởng là anh Nguyễn Văn Thành, Chính ủy là anh Phạm Trang. Anh Phạm Trang cùng quê với tôi. Trong Cách mạng tháng Tám, anh Phạm Trang là Chủ tịch huyện Đức Phổ; kháng chiến bùng nổ, anh tham gia quân đội và những ngày đầu kháng chiến đã là Chính trị viên tiểu đoàn. Bạn bè cùng quê, lại gặp nhau ở "tọa độ lửa", tình càng đậm.

Chỉ huy sở Trung đoàn 84 đóng gần sở chỉ huy Binh trạm. Một phần lực lượng được bố trí bảo vệ khu kho 050 và trục đường bắc Xiêng Phan; một tiểu đoàn cơ động đánh địch, bảo vệ vận chuyển trên đường 12B. Cũng trên tuyến đường này, chúng tôi bố trí Trung đoàn 83 công binh do đồng chí Cường làm Trung đoàn trưởng, có nhiệm vụ bảo đảm giao thông, mở đường, chuẩn bị lắp đường ống xăng dầu vào bắc Xóm Péng.

Từ tháng 12, hoạt động vận chuyển nhịp nhàng, hiệu quả hơn. Ban chỉ huy binh trạm quyết định đưa Tiểu đoàn 2 công binh vào thay một phần vị trí đảm trách của Tiểu đoàn 25 - quãng từ 050 vào bắc Xiêng Phan; để Tiểu đoàn 25 tập trung cho quãng từ Xiêng Phan vào nam Pác Pha Năng. Về lực lượng vận tải, chúng tôi sử dụng cả hai tiểu đoàn ô tô 101 và 990 chạy theo đường 128 qua Xiêng Phan vào giao hàng cho Tiểu đoàn 53 tại Xóm Péng, còn Tiểu đoàn 53 chuyển hàng từ đó vào giao cho Binh trạm 32 ở Lùm Bùm - bắc đường 9.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Mười Hai, 2016, 03:32:43 pm

Trong chiến đấu trên Tuyến 559, tư tưởng tiến công được quán triệt vận dụng vào từng binh chủng với những nội dung cụ thể khác nhau. Với nguyên tắc lấy bộ đội vận tải cơ giới làm trung tâm, các binh chủng khác, có nhiệm vụ chiến đấu bảo đảm cho xe chuyển hàng ra phía trước, nên tư tưởng tiến công của bộ đội phòng không là "quay nòng pháo theo bánh xe lăn, bảo vệ xe, bảo vệ hàng, bảo vệ trọng điểm, đánh tiêu diệt, bám trụ trọng điểm". Nhưng với Trung đoàn phòng không 84, do mới vào tuyến, anh em vẫn trung thành với tư tưởng chỉ đạo đánh tiêu diệt của Quân chủng Phòng không - Không quân. Do đó, khi giao nhiệm vụ cơ động pháo theo đội hình xe vận chuyển để đánh địch, thì một số anh em phần vì chưa thật thông suốt, phần vì chưa quen, nên hiệu suất chiến đấu thấp. Chỉ khi chứng kiến Tiểu đoàn 14 và Tiểu đoàn 6 phòng không của Binh trạm đánh tốt, bắn rơi nhiều máy bay địch, bảo vệ trọng điểm, kho tàng và đội hình xe vận chuyển, chỉ huy Trung đoàn 84 mới chịu.

Kết thúc thắng lợi nhiệm vụ mùa khô 1968-1969, trong buổi họp mặt để chia tay Trung đoàn 84, Ban chỉ huy Trung đoàn 84 hoàn toàn nhất trí với chúng tôi về tư tưởng tiến công và cách đánh tiêu diệt địch, mỗi chiến trường có nhiệm vụ và cách đánh riêng, phù hợp với đặc điểm chiến trường đó. Đối với hai tiểu đoàn cao xạ trực thuộc, trước khi về Binh trạm 31, Tiểu đoàn 14 chiến đấu hiệu suất chưa cao. Nhưng do nhanh chóng rút kinh nghiệm, đơn vị đã đánh tốt, thắng giờn giã, bắn rơi 15 máy bay trong một mùa khô, bảo vệ được xe, kho tàng. Tiểu đoàn 6 cao xạ cũng nhanh chóng "nhập cuộc" và từng bước làm chủ tình hình.

Vào một ngày đầu tháng 12 năm 1968, tôi cùng một vài cán bộ tham mưu của Binh trạm xuống nắm tình hình chiến đấu của Tiểu đoàn 6. Sở chỉ huy tiểu đoàn đóng trên một đỉnh đồi ở giữa đội hình ba đại đội đang bảo vệ đội hình vận tải, kho 49, cung đường phía nam Xiêng Phan và Sở chỉ huy binh trạm (lúc này Sở chỉ huy Binh trạm đã chuyển vào một dãy núi có nhiều hang động, cách kho K49 chừng 2 cây số, gần trục đường 128). Chúng tôi xuống tới Sở chỉ huy tiểu đoàn đúng vào lúc máy bay trinh sát của địch phát hiện được trận "địa của Đại đội 1, đang chỉ điểm cho bọn cường kích tiến công, hòng "hót sạch" trận địa pháo. Mặc dù trận địa pháo Đại đội 2 và Đại đội 3 chưa bị lộ nhưng nếu cứ "án binh bất động" để bảo toàn lực lượng, chắc chắn địch sẽ "xơi" gọn Đại đội 1. Không chần chừ, qua trao đổi chớp nhoáng, tôi chỉ thị cho đồng chí Nguyễn Văn Tú - Tiểu đoàn trưởng lệnh cho Đại đội 2 và Đại đội 3 tập trung hỏa lực phối hợp đánh địch. Đồng thời, tôi điện ngay về Sở chỉ huy binh trạm đề nghị anh Đặng Ba cho khẩu cao xạ 100 ly chốt ở khu vực Na Tông đánh hỗ trợ. Gặp hỏa lực pháo 57 ly, 100 ly đánh khá dữ, từng tốp F4, F5 không dám bổ nhào thấp, phải dãn ra, ném bom ở tầm cao, xác suất trúng mục tiêu rất thấp. Có đợt, bom rơi trúng trận địa pháo, khói bụi trùm kín một vùng. Từ trên đài chỉ huy tôi không khỏi lo ngại. Hỏng rồi. Nhưng, khi máy bay địch bỗ nhào tiếp, thì từ trong đám khói đen đặc đó, từng chùm đạn pháo vọt lên loang loáng, tiếng nổ gọn, đanh. Thật cảm phục tinh thần chiến đấu quả cảm của những người lính phòng không. Với trận đánh đó, Tiểu đoàn 6 bắn rơi hai máy bay. Ta hy sinh hai, bị thương ba đồng chí, hỏng hai khẩu pháo 37 ly. Nhưng cũng tại trận địa này, trong một trận chiến ác liệt sau đó, đồng chí Tú - Tiểu đoàn trương Tiểu đoàn 6 đã anh dũng hy sinh trên đài chỉ huy. Được tin Tiểu đoàn báo về, anh Đặng Ba và tôi lặng người, tiếc thương vô hạn một cán bộ tiểu đoàn dũng cảm, năng động và sống rất mực tình cảm, trách nhiệm với đồng chí, đồng đội.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Mười Hai, 2016, 03:33:21 pm

*

Thực tiễn chiến trường từ cuối năm 1968 đúng với những nhận định của Bộ Tư lệnh 559, từ đầu mùa khô, địch gần như dồn hết đạn bom để hòng hủy diệt, chặn các tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn. Mọi thành tựu của nền khoa học công nghệ quân sự phi nhân tính của Hoa Kỳ đã được thực nghiệm ở Trường Sơn - Việt Nam lúc này. Không chỉ bom tấn, bom tạ, chất độc khai quang, mà cả hàng tá kiểu loại mìn để sát thương con người hiệu quả nhất đã được địch rải dày trên từng trọng điểm, từng lối mòn. Có lần địch thả mìn vướng dày đặc, vây chặt cả đại đội cao xạ trên đỉnh đồi. Là loại mìn mới, anh em chưa hề tháo gỡ, hễ đụng tới là thương vong. Chỉ khi Ban chỉ huy binh trạm phái công binh tới "giải tỏa", bộ đội mới có đường xuống suối lấy nước.

Hoạt động trinh sát của địch bằng máy bay cũng vô cùng lợi hại. Máy bay OV10, OV2, C130 của địch thay nhau quần lượn vè vè suốt ngày, giương những cặp mắt cú vọ, xoi mới, lùng sục các khu vực tác nghiệp, kho tàng, trạm bãi giao liên của ta. Chỉ mấy tháng mùa khô này mà Sở chỉ huy binh trạm đã không ít lần trúng bom. Khi sở chỉ huy ở trong hang Na Tông đã mấy lần dính bom ở bên cạnh, thậm chí có lần bom nổ trên nóc hang, nhưng may không sập; sau khi chuyển vào gần khu kho K49 cũng bị đánh mấy lần, song thương vong rất ít. Duy nhất một lần, thượng úy Nguyễn Văn Bé vừa đi công tác về bị bom phạt đứt hai chân. Toàn bộ y, bác sĩ của binh trạm tập trung cứu chữa, giành giật với tử thần mạng sống của đồng đội. Sau ba lần phẫu thuật, phải cắt gần hết cả hai chân mới cứu sống được Bé. Cán bộ, chiến sĩ cơ quan binh trạm góp nhóp từng con gà, chim rừng, nấu lấy nước để nuôi anh. Hôm chuyển anh về tuyến sau, không ai trong chúng tôi cầm lòng nổi khi nghe Bé nói: Anh quyết sống một phần vì anh và một phần vì nghĩa tình đồng đội.

Địa phận thuộc Tiểu đoàn 27 công binh phụ trách (trục đường 128 từ ngã ba Xóm Péng vào Lùm Bùm và đường 129 vào kho K3 - Binh trạm 32), mặc dầu cường độ đánh phá của địch không dữ như khu vực 050, Xiêng Phan, Pác Pha Năng - nơi Tiểu đoàn 25 công binh và Tiểu đoàn 2 công binh phụ trách; nhưng cũng vô cùng ác liệt. Bom từ trường, bom nổ chậm, mìn vướng, mìn lá nhan nhản dọc các trục đường, trong rừng; dày đặc ở những cao điểm, bến vượt sông suối, những nơi mà chúng nghi ta trú quân hoặc có kho tàng. Vì bom mìn dày đặc và kẻ địch thường xuyên cải tiến, "nâng cấp" các sản phẩm giết người này, nên chúng ta gặp không ít khó khăn, thương vong. Sau khi tìm được nguyên lý gây nổ, anh Chu Thế Kỳ - Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 27 đã trực tiếp cùng một tổ công binh dùng gậy, sào chọc cho mìn vướng nổ và nhặt mìn lá tập trung lại đốt.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Mười Hai, 2016, 03:33:51 pm

Qua nghiên cứu, tìm hiểu các thủ đoạn đánh phá, ngăn chặn của không quân Mỹ, chúng tôi thấy: Nếu như mùa khô trước, địch chủ yếu đánh bằng bom phá, bom sát thương, bom bi, thì mùa khô này, địch sử dụng phổ biến các loại bom nổ chậm, bom từ trường, mìn vướng nổ, mìn lá, mìn "răng rồng". Thủ đoạn đánh phá của chúng là ném bom phá, hủy hoại đường trước; tiếp đó thả bom bi, bom từ trường và cuối cùng là mìn vướng, mìn lá... nhằm cản trở ta khắc phục hậu quả đánh phá, ngăn cản đội hình xe, gây sát thương lớn cho ta. Đặc biệt nguy hiểm lúc này là địch rải dọc các trục đường, khắp các triền rừng hàng vạn khí tài trinh sát điện tử, gồm các loại cảm ứng âm thanh có dù với tên gọi là Spike bouy; máy cảm ứng địa chấn có bộ ăng ten râu giống như cây thông, được gọi là "cây nhiệt đới", thả cắm xuống đất lẫn với cây rừng để thu chấn động của đất và máy cảm ứng hỗn hợp cả âm thanh và chấn động có tên là Acousid, khi rơi xuống thường vướng vào cành cây. Các loại khí tài này khi bắt được mục tiêu, lập tức phát tín hiệu báo cho máy bay đến đánh.

Theo hướng dẫn của cơ quan kỹ thuật công binh, chúng tôi đã chỉ đạo, tổ chức cho anh em dò tìm và áp dụng mọi phương cách để phá bom mìn, ví như dùng khung dây phá bom từ trường, chọc nổ mìn vướng, gom đốt mìn lá...

Giúp bộ đội Trường Sơn khắc phục - phá các loại khí tài giết người tối tân của địch, Nhà nước, Bộ Quốc phòng đã tung vào tuyến một lực lượng khá đông đảo các nhà khoa học kỹ thuật quân sự, chủ yếu là cán bộ Viện Kỹ thuật quân sự - các anh Hoàng Đình Phu, Hoàng Đức Dụ, Chử Ngọc Bích, Thái Quang Sa, Nhâm Xuân Coóng... Đầu năm 1969, Bộ còn đưa vào tuyến một loại khí tài phá bom từ trường do ta mới nghiên cứu chế tạo là xe phóng từ. Binh trạm 31 cũng được trang bị loại khí tài này. Khi xe phóng từ hoạt động ở những quãng đường thẳng, diện tiếp xúc rộng, xa thì hiệu quả phá nổ tốt. Nhưng ở trường hợp xe đi qua cua hẹp, từ bị cản, sự kích thích nổ hạn chế, bom có thể nổ gần, xe dễ bị hỏng và người dễ bị thương vong.

Có lần tôi xuống Xiêng Phan kiểm tra tổ xe phóng từ phá bom từ trường ở trọng điểm này. Do địa hình phức tạp, anh em không cho tôi đi cùng xe mà chỉ đứng quan sát từ xa. Ở quãng đường thẳng, xe gây nổ liên tiếp mấy quả rất gọn ghẽ; nhưng vào cua hẹp, bất ngờ một tiếng nổ dữ dội, rất gần, hất xe văng ra xa chừng 5 mét. Tổ ứng cứu có mặt kịp thời, chúng tôi cùng lao đến. Rất may, người trong xe bị sây sát chút ít. Còn xe thì bị hất nghiêng, nắp buồng lái và đầu xe móp méo, dúm dó. Khi máy húc đến lật lại, xe từ lại hoạt động bình thường. Mấy anh em trong tổ lái mặt mũi nhom nhem, nhìn chiếc xe, cười "thả phanh" và nói với tôi: Với bọn em, chuyện này như cơm bữa Chính ủy ạ. Chỉ buồn cười là xe của chúng em bây giờ giống hệt con lợn bị cắt tai... Ôi, cái hồn nhiên, nghịch ngợm của những người lính trẻ Trường Sơn lúc đó mới quý làm sao!


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Mười Hai, 2016, 03:34:26 pm

Tổ chức bảo đảm giao thông, tổ chức cho đội hình vận tải cơ giới vượt trọng điểm đèo dốc đã khó, nhưng đối với các ngầm, bến phà, nhiệm vụ đó càng khó khăn hơn. Bởi lẽ cùng một lượng bom đạn nhưng nếu trúng ngầm, sự hủy hoại sẽ gấp nhiều lần ở địa hình đèo dốc, và dĩ nhiên để khắc phục được đòi hỏi nhiều công sức hơn. Ở Binh trạm 31 có hai ngầm ở thượng và hạ lưu sông Pác Pha Năng là hai trọng điểm đánh phá của địch. Anh Nguyễn Bửu Ký - Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 25 đã có sáng kiến làm cầu chìm dưới mặt nước chừng hơn nửa mét ở quãng sông tương đối rộng, mớn nước không lớn và tổ chức ngụy trang kỹ đường hai đầu cầu. Bởi vậy suốt mùa khô này, xe vẫn vượt sông bình thường mà máy bay trinh sát của địch không thấy cầu phà, bến vượt.

Không thực hiện được âm mưu hủy diệt khu vực vượt khẩu, từ đầu năm 1969 địch chuyển sang đánh rộng ra toàn tuyến. Cường độ đánh phá của không quân địch ở địa bàn Binh trạm 31 có giảm so với trước, nhưng ở Xiêng Phan, khu vực 050, Pác Pha Năng... không ngày nào không có tiếng bom. Với Xiêng Phan, chỉ trong vòng hơn 100 ngày đêm đầu mùa khô này, máy bay địch đã đánh 1.972 trận, ném 125 nghìn quả bom. Cao điểm, trong một ngày, địch đã sử dụng 50 lần máy bay B52 ném bom rải thảm - không kể cường kích đánh xen kẽ. Nếu chia đều cho lực lượng chốt giữ trọng điểm này, thì mỗi người lính phải hứng chịu trên 1.000 quả. Núi đồi có thể thành bình địa, sông Sê Băng Phai chảy qua đây có thể bị đất đá lấp đầy; cỏ cây bị khai quang..., nhưng những người lính Binh trạm 31 vẫn trụ bám kiên cường. Để rồi, đêm đêm những đoàn xe lại vượt trọng điểm tiến về Nam - tiến về phía trước theo ánh lửa được thắp lên từ trái tim những người lính Trường Sơn.

Ở địa bàn trọng yếu của tuyến, ở những "cửa tử” này, không chỉ tập kích bằng đường không, kẻ địch còn cho biệt kích, thám báo, bộ binh đánh phá. Có lần địch đổ một lực lượng khá lớn biệt kích xuống dãy Phu Át có độ cao 1.000 mét, nằm ở tây bắc huyện Lằng Khằng, trinh sát hoạt động của ta, vừa chỉ điểm cho máy bay, vừa phối hợp đánh phá ta. Phát hiện hoạt động của địch, chúng tôi kịp thời lệnh cho Đại đội 1 bộ binh trực thuộc Binh trạm phối hợp với lực lượng vũ trang bạn Lào truy lùng diệt gọn.

Cùng với hoạt động trinh sát đường không, lực lượng biệt kích, thám báo của địch săn tìm vị trí đặt sở chỉ huy, kho tàng, bãi giấu xe, trận địa cao xạ... cũng gây cho ta vô vàn khó khăn. Địa bàn từ Cổng Trời (khu vực 050) đến ngầm Na Tông dài chừng 25 cây số, rộng từ 7 đến 8 cây số là khu rừng rậm, xen kẽ núi đá có nhiều hang động, đã được Bộ Tư lệnh 559 cho xây dựng thành khu kho cơ bản có sức chứa từ 5.000 đến 10.000 tấn hàng và là nơi trú đậu từ một đến hai tiểu đoàn xe. Vì vậy địch tập trung mọi lực lượng, phương tiện soi mới, săn lùng, đánh phá. Có lần địch đánh vào giữa cánh rừng già. Lại có lần, phát hiện xe của Binh trạm 12 từ 050 vào trả hàng muộn, chúng tập trung máy bay đuổi đánh, xe cháy, hàng cháy. Sau lần đó, chúng đánh khu kho 050 hàng tuần liền, đánh sập một hang núi chứa 1.000 tấn vũ khí, đạn. Binh trạm tập trung lực lượng đào bới gần nửa tháng mới lấy hết số súng đạn đó. Được tin, Bộ Tư lệnh 559 cử Tham mưu trưởng Nguyễn Lang trực tiếp chỉ đạo củng cố kho tàng. Và cũng chính những ngày lưu lại khu kho 050, anh Nguyễn Lang dính B52 rải thảm. May mắn là bom nổ gần hầm anh trú, lấp cửa hầm, nhưng anh em moi, đưa anh lên kịp.

Trong chiến đấu, đặc biệt là chiến đấu với kẻ thù là đế quốc Mỹ, chuyện thắng và tổn thất là chuyện thường; cũng như trong lãnh đạo, chỉ huy có đúng, có sai là điều không tránh khỏi. Tuy nhiên, nếu thiếu sự hiệp đồng giữa các lực lượng, các đơn vị - đặc biệt là sự phối hợp, hiệp đồng giữa các cấp lãnh đạo, chỉ huy từ cấp binh trạm (trung đoàn) trở lên để cùng hoàn thành nhiệm vụ chung, thì vô tình sẽ gây khó khăn cho nhau, thậm chí gây thiệt hại về người và vật chất.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Mười Hai, 2016, 03:35:01 pm


Mùa khô này, Binh trạm 12 thuộc Bộ Tư lệnh 500 có nhiệm vụ chuyển hàng giao cho Binh trạm 31 chúng tôi ở cung độ sâu hơn. Đây là quyết định đầy tính thiện chí của Tổng cục Hậu cần và Bộ Tổng Tư lệnh, nhằm "chia lửa", vơi đỡ một phần cho Bộ Tư lệnh 559. Nhưng lúc này Binh trạm 31 đang bị địch đánh vô cùng ác liệt. Hầu như các trục đường, kho tàng, sở chỉ huy, bãi giấu xe... đều bị máy bay địch oanh tạc. Người cũng như xe bị tổn thất, việc vận chuyển hàng lên phía trước cho Binh trạm 32 bị ngưng trệ. Toàn Binh trạm 31 đang dồn sức tháo gỡ ách tắc, đặc biệt là giải tỏa trọng điểm Xiêng Phan.

Nhận thông báo của trên, chúng tôi báo cáo ngay lên Bộ Tư lệnh đề nghị Binh trạm 12 tạm ngừng chuyển hàng vào. Khi nào đường thông, tình hình khá hơn, chúng tôi sẽ tiếp nhận khôug hạn chế. Nhưng rồi có thể đề đạt của chúng tôi không thấu tới đơn vị bạn, hoặc do ở tuyến ngoài, Binh trạm 12 không bị địch đánh dữ, nên vẫn tới tấp chuyển hàng vào. Thường thì thấy hàng vào nhiều, cán binh đều vui, nhưng lúc này anh em chúng tôi như đứng ngồi trên than, trên lửa. Do không đủ kho, hang để nhập, anh em lái xe cứ đổ hàng xuống hai bên đường... Hậu quả là bị địch đánh cháy khá nhiều. Việc anh Nguyễn Lang xuống trực tiếp kiểm tra Binh trạm 31, một phần cũng vì chuyện đó. Kết thúc mùa khô 1968-1969, Binh trạm 12 vẫn được biểu dương là hoàn thành tốt nhiệm vụ, đẩy nhiều hàng lên phía trước. Được tin đó, tôi cảm thấy xót xa. Trách nhiệm để tổn thất hàng, một phần thuộc về mình, đơn vị mình. Một hạt gạo, viên đạn vào tới cửa khẩu cũng đã đánh đổi bao mồ hôi xương máu của người hậu phương, của những chiến sĩ trên tuyến vận tải; để rồi lại thành tro, thành lửa. Nhưng, trong tổn thất, nguyên do chính là "tự ta làm khó cho mình". Một dây chuyền cần sự vận hành thống nhất, chúng ta lại tạo nên những nhát cắt không cần thiết. Kéo dài sự tồn tại Tuyến 559 độc lập với Tuyến 500, dĩ nhiên là nguyên cớ sâu xa cho việc thiếu đồng bộ, gây tổn thất đáng kể này. Cũng vì lý do đó, chỉ một thời gian sau, Tuyến 500 được sáp nhập vào Tuyến 559, và những trục trặc như trên được khắc phục cơ bản.

Một chiến công đáng kể của Binh trạm 31 trong mùa khô này là đã hoàn thành mạng đường ống xăng dầu từ Minh Hóa (Quảng Bình) vào tới Xóm Péng, nối dài tuyến đường ống chiến lược từ hậu phương miền Bắc vào địa bàn Tuyến 559, bảo đảm cung cấp xăng dầu cho Binh trạm và chuyển tiếp cho các binh trạm tuyến trong. Đây là tuyến đường ống đầu tiên trên địa bàn 559. Cuối năm 1969, Bộ Tư lệnh 559 lắp đặt tuyến đường ống thứ hai theo trục đường 18 từ Ra Mai, Pha Băng Nưa vào Bản Cọ, Sê Pôn (bắc đường 9). Ngày 22 tháng 12 năm 1969, đúng vào lễ kỷ niệm lần thứ 25 ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên đã chủ trì lễ khánh thành tuyến đường ống thứ hai này. Từ thành công của hai tuyến ống ban đầu này, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Hậu cần, Bộ Tư lệnh 559 quyết tâm hoàn chỉnh tuyến đường ống xăng dầu suốt tuyến trong những năm sau. Đưa đường ống xăng dầu vào tuyến, Bộ đội Trường Sơn có thêm một phương thức vận chuyển xăng dầu mới, hiện đại, thêm một binh chủng mới, khắc phục được tổn thất lớn về xăng dầu do phải sử dụng ô tô vận chuyển bằng phuy hoặc xi-téc. Đây là bước ngoặt vô cùng quan trọng trong việc bảo đảm cho vận tải hàng hóa bằng cơ giới và cơ động binh chủng kỹ thuật quy mô lớn.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Mười Hai, 2016, 03:35:23 pm

Cùng với lực lượng công binh, vận tải, phòng không..., góp phần làm nên thành tích của Binh trạm trong mùa khô này, còn phải kể đến những người lính giao liên. Bất chấp bom đạn, các trạm giao liên vẫn tổ chức đưa đón, đảm bảo cho bộ đội hành quân qua tuyến an toàn. Bộ đội đói, giao liên chưa được nghỉ. Bộ đội chưa có chỗ nghỉ, giao liên còn phải lo. Nhường thuận lợi cho bộ đội hành quân, nhận khó khăn, thiếu thốn về mình... là nét đẹp thầm lặng, sự hy sinh vô bờ bến của những cán bộ, chiến sĩ hậu cần, giao liên.

Trên lĩnh vực phối hợp chiến đấu, giúp bạn, Binh trạm 31 có nhiệm vụ giúp huyện Lằng Khằng, tỉnh Khăm Muộn và các xã có đường ô tô đi qua. Binh trạm tổ chức bốn đội công tác và một đại đội bộ binh phối hợp cùng bạn đánh địch, đồng thời giúp bạn xây dựng cơ sở, xây dựng lực lượng vũ trang.

Có thể nói, từ cuối năm 1964 - đầu năm 1965, khi ta chủ trương "lật cánh" sang Tây Trường Sơn, phát triển vận tải cơ giới quy mô lớn, đường ô tô "xẻ dọc, dọc ngang" đã có không ít bản Lào dành nương vườn cho bộ đội Việt Nam mở đường, lập tuyến. Dân bạn lại bồng bế, dắt díu nhau tìm lập bản mới. "Lửa thử vàng” - càng trong khó khăn mới thấy sáng lên tình nghĩa thủy chung son sắt Việt - Lào. Để đáp lại nghĩa tình của bạn, ngoài phối hợp với cán bộ huyện giúp bạn xây dựng lực lượng, xây dựng cơ sở, đánh địch, chúng tôi còn giúp bạn tổ chức sản xuất, cung cấp hạt giống, đỡ đần một phần gạo, muối... khi bạn gặp khó khăn; chữa bệnh cho dân... Chính nhờ sự phối hợp chặt chẽ này mà bạn đã giúp chúng tôi kịp thời phát hiện, tiêu diệt lực lượng biệt kích, thám báo của địch đổ xuống dãy Phu Át.

Trong giúp bạn xây dựng cơ sở, mùa khô này, một tổ công tác của Binh trạm đã phát hiện Sao Đi - một thiếu nữ Lào bị bệnh phong. Trước sức ép của tập tục ác nghiệt, nặng nề của bản làng, của địa phương, gia đình buộc phải đưa Sao Đi vào sống biệt lập ở trong rừng. Khi hai chiến sĩ của ta bắt gặp, Sao Đi đã như người rừng, mình vấn lá cây, thịt da lở loét.

Mặc dù bị cô phản ứng quyết liệt, nhưng anh em gắng sức thuyết phục, báo cho quân y sĩ của binh trạm, của Tiểu đoàn 25 công binh gắng sức nuôi dưỡng, chạy chữa. Và từ cõi chết, Sao Đi đã trở về với tuổi xuân tràn trề sức sống. Cô được học chữ, được học nghề y. Khi Sao Đi trở về bản, người thân trong gia đình không tin là sự thật, ngỡ là “bóng ma - hồn thiêng" của cô hiện về. Sau này Sao Đi trở thành một cán bộ cấp huyện giỏi của huyện Lằng Khằng. Báo Trường Sơn, cùng với một vài phương tiện thông tin đại chúng của ta hồi đó cũng có đề cập đến câu chuyện Sao Đi.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Mười Hai, 2016, 03:36:36 pm

Với mùa khô này - mùa khô khốc liệt nhất ở cửa khẩu, biết bao công việc phải lo, phải làm, để những trăm, nghìn... quân vào chiến trường, để hàng nghìn tấn hàng ra phía trước, nhưng chúng tôi vẫn tổ chức đội văn nghệ biểu diễn phục vụ cán bộ, chiến sĩ binh trạm; động viên các đơn vị chăm lo đời sống tinh thần cho bộ đội. Chỉ có thể sống trọn, sống cùng những người lính một thời lửa đạn, bi hùng ngày ấy, nơi ấy, mới hiểu được phần nào mấy chữ "tiếng hát át tiếng bom". Thời gian tôi ở Binh trạm 31, có một số đoàn văn công Trung ương và của tỉnh Quảng Bình vào phục vụ bộ đội, thanh niên xung phong. Nhiều nhà báo, nhà văn từ hậu phương vào đưa tin, lấy chất liệu thực tiễn để sáng tác; Tổng cục Chính trị cử một tổ làm phim do đồng chí Xuân phụ trách vào công tác. Tôi đã trực tiếp dẫn tổ làm phim xuống Xiêng Phan, ghi được một trận địch đánh trọng điểm với bom rơi, lửa đạn ngùn ngụt, cây cối ngổn ngang tưa tướp, sườn núi sụt lở... Và sau đó là cảnh công binh phá bom nổ chậm, khắc phục hậu quả...

Hoạt động văn hóa, văn nghệ không thể nói là phong phú, đa dạng, nhưng cũng lắm kiểu. Tuy vậy xúc động nhất vẫn là những buổi "diễn" của đội văn nghệ binh trạm. Diễn viên là những người lính công binh, những nam nữ thanh niên xung phong gạt vội bùn đất trên đầu, trên mặt, không son phấn; trang phục chỉ là bộ quân phục tươm tất, lành lặn mà thôi. Sàn diễn là bãi trú quân. Diễn viên, khán giả không ranh giới. Từ những "sàn diễn" đó, biết bao ,khúc ca, bài thơ vừa bốc lửa, vừa đượm tình đã gây xúc động cho người nghe, như: Trên đỉnh Trường Sơn ta hát, Bài ca Trường Sơn... "Diễn viên" cùng khán giả rất mê những bài hát, bài thơ của chính người lính Trường Sơn; ví như: Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây, Tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật, Niềm vui bám trụ của Trọng Khoát... Đặc biệt bài thơ "Nghe tiếng bom ở Seng Phan" của anh Phạm Tiến Duật, thực sự gây xúc động mạnh, bởi anh đã nói hộ tâm trạng, ý chí, cốt cách... của những chủ nhân Seng Phan, của những người lính Trường Sơn trong mấy vần thơ ngắn ngủi:

      “…
      Tôi đến gần Seng Phan
      Nghe cây ào ào đổ
      Cốc chén chẳng nằm yên
      Lung lay cả ngọn đèn
      Tiếng bom như tiếng thú.

      Tôi đứng giữa Seng Phan
      Cao hơn tiếng bom là khe suối, tiếng đàn
      Tiếng mìn công binh phá đá,
      Tiếng điếu cày rít lên thong thả
      Tiếng oai phong, xe rú máy trên đường.
      Thế đấy giữa chiến trường,
      Tiếng bom nghe rất nhỏ...".



Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Mười Hai, 2016, 03:37:07 pm

*

Vậy là từ tháng Giêng năm 1969, hệ thống đường sá thuộc Binh trạm 31 quản lý thông suốt, bảo đảm xe vận tải chạy liên tục, giao hàng cho Binh trạm 32 và các hướng chiến trường vượt chỉ tiêu kế hoạch. Đặc biệt trong hai tháng 3 và 4, thực hiện chiến dịch vận chuyển đột kích do Bộ Tư lệnh 559 phát động, các lực lượng đều hoạt động đạt hiệu quả cao. Bộ đội kho, công binh trong gần sáu chục ngày đêm của chiến dịch, bám hàng, bám đường; không khí như ngày hội, lập công cao, bù lại những lúc tắc đường. Anh em lái xe, những "chiến mã Trường Sơn", không chờ lệnh trên, chủ động đăng ký tăng cung, vượt chuyến. Lính lái yêu cầu Ban chỉ huy binh trạm lệnh cho các lực lượng khác, đặc biệt là bộ phận kho bốc dỡ hàng nhanh để anh em có đủ thời gian vượt cung, tăng chuyến.

Trong chiến đấu, công tác vô cùng khẩn trương, ác liệt, thường xảy ra những chuyện khúc mắc thuộc quan hệ nội bộ, quan hệ cán bộ, chiến sĩ. Nhưng cũng qua những "sự cố" rất đời thường, đã xuất hiện những việc làm, những gương sáng tạo được cảm tình, uy tín lớn đối với đồng chí, đồng đội.

Ở binh trạm bộ lúc đó, có nữ nhân viên tài vụ Hoàng Thị Vân, quê Hà Tĩnh. Với vốn kiến thức tốt nghiệp cấp II, tác phong nhanh nhẹn, tháo vát, Vân được giao phụ trách tài vụ cơ quan binh trạm, được bầu là tổ trưởng phụ nữ cơ quan. Do công tác ở địa bàn chiến sự thường xuyên diễn ra hết sức ác liệt; nam nữ thanh niên xung phong đều được tổ chức và sinh hoạt như quân đội. Tuy vậy, với đặc thù có đông nữ thanh niên xung phong, chúng tôi tổ chức thành các tổ phụ nữ, tạo điều kiện thuận lợi cho chị em trong sinh hoạt, công tác và giúp đỡ lẫn nhau, đề xuất với cấp chỉ huy những khó khăn của chị em... Là người phụ trách tài vụ, cô Vân thực hiện nghiêm túc chặt chẽ yêu cầu chuyên môn, không thâm hụt, nhưng vẫn bảo đảm được chế độ tiêu chuẩn của bộ đội. Sau vài năm công tác, Vân đã được kết nạp vào Đảng.

Sống giữa chiến trường khốc liệt, con gái "chân yếu tay mềm" là đối tượng để anh em yêu quý, chiều chuộng. Nhưng có một số anh em đôi khi trêu chọc quá đà, dẫn tới có biểu hiện thái quá! Những trường hợp đó thường được phản ánh với tổ trưởng phụ nữ, để tổ trưởng có ý kiến với lãnh đạo, chỉ huy. Nhiều lần, cô Vân gặp tôi báo cáo những chuyện như vậy, và đề nghị chấn chỉnh số anh em có biểu hiện thái quá trong ứng xử với chị em. Để ý, thấy cô chỉ báo cáo tôi, chứ không là ai khác, tôi thân mật hỏi: Tại sao đồng chí chỉ trình bày những chuyện này với tôi? Tại sao không báo Binh trạm trưởng, Tham mưu trưởng?

Không một chút ngần ngại, Vân trả lời: Vì chú là Chính ủy!

Ôi! Thật giản đơn mà cũng chí lý. Với chị em, Chính ủy luôn là người mẫu mực, khuôn thước nhất. Chỉ một vài chuyện nhỏ vậy thôi, nhưng cũng gợi nhắc tôi rằng cán bộ, chiến sĩ nói chung và chiến sĩ gái luôn tin tưởng người cán bộ làm công tác đảng, công tác chính trị. Cũng vì thế, mỗi lần chị em phản ảnh, tôi thường nhắc nhở anh em, kể cả gặp trực tiếp những người cần gặp, góp ý chân tình để đồng chí mình sửa chữa. Và dĩ nhiên, quan hệ giữa anh chị em ngày càng "yên ấm" hơn.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Mười Hai, 2016, 10:39:42 pm

MỞ ĐƯỜNG XUYÊN ĐÔNG DƯƠNG
TÔ ĐA MẠN
Ghi theo lời kể của Thiếu tướng PHAN QUANG TIỆP
Nguyên Trung đoàn trưởng Trung đoàn 98
Nguyên Cục trưởng Cục Tham mưu công binh Đoàn 559

"Đúng ra là tôi không được đi cùng Trung đoàn. Lúc đầu Bộ đã giao cho đồng chí Quốc Tuyển, trung đoàn trưởng Trung đoàn 229 nhiệm vụ này, nhưng cấp trên thay đổi, do đồng chí Quốc Tuyển phụ trách công trình quốc phòng, với tính chất bảo mật, không được phép vào Nam, nên tôi được thay thế.

Hẳn ai cũng còn nhớ, năm 1963, chính quyền Ngô Đình Diệm sụp đổ, kéo theo sự phá sản của chiến lược "chiến tranh đặc biệt". Năm 1965, Mỹ ồ ạt kéo quân vào, chúng ta phải đương đầu với một thế lực mạnh hơn rất nhiều, đòi hỏi miền Bắc hậu phương lớn phải chi viện sức của, sức người gấp nhiều lần. Đoàn 559 chúng ta, từ năm 1959 đến năm 1964 chỉ dùng biện pháp thô sơ gùi, thồ để vận chuyển chi viện, đến bây giờ không thể kéo dài được nữa.

Với quyết tâm của trên là phải vận chuyển bằng cơ giới; con đường cho ô tô đương nhiên đã đến lúc phải xuất hiện, và không ai khác, làm con đường đó đúng là nhiệm vụ của lực lượng công binh. Từ năm 1961 ở nam - bắc giới tuyến, đã có một số đoạn đường ô tô và công trình quốc phòng do một số đơn vị công binh Quân khu 4 trong đó có Tiểu đoàn 1 của Trung đoàn 98 thực hiện, nhưng chủ yếu là để phục vụ chiến dịch, cần nói đầy đủ là khi Trung đoàn 98 công binh công trình, lực lượng dự bị của Bộ vào, mới chính thức mở đường ô tô Trường Sơn thuộc Đoàn 559".

Anh Tiệp tâm sự tiếp: "Cũng là duyên số! Mình ở miền Nam từ đơn vị bộ binh của Quân khu 5, tập kết ra Bắc năm 1954, do biết ít nhiều về công tác trắc địa, xây dựng, nên được chuyển sang Binh chủng Công binh. Tháng 4 năm 1964, khi đang làm Trưởng ban huấn luyện Cục Công binh Bộ Quốc phòng do đồng chí Phạm Hoàng làm Cục trưởng. Thời đó, bộ đội ta đang ở trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao, đề phòng địch đánh ra miền Bắc trước hết bằng không quân. Các binh chủng toàn quân, trong đó công binh rất sẵn sàng, đã luyện tập mọi hình thức để đối phó chống trả. Ban huấn luyện cũng bận rất nhiều công việc.

Một ngày cuối tháng 5 năm 1964, mình nhận được chỉ thị của Cục chuẩn bị bàn giao công việc huấn luyện cho đồng chí khác, rồi lên Cục Tác chiến nhận nhiệm vụ mới. Khi vào đến Cục Tác chiến gặp ngay anh Phan Hàm - Cục phó, người đã cùng chiến đấu thời chống Pháp ở Khu 5. Anh mời ngồi, hỏi thăm sức khỏe, gia đình rồi vào việc ngay.

Anh Hàm nói: Thực hiện nghị quyết Bộ Chính trị, Bộ Quốc phòng giao cho công binh cấp tốc vào mở đường cơ giới ở Trường Sơn để hướng tới vận chuyển ngày càng nhiều hơn, nhanh hơn, tạo điều kiện thời cơ để nhanh chóng giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Trên tấm bản đồ đã trải rộng trên bàn, anh Hàm chỉ cho mình hướng đường Trường Sơn phải mở, các điểm cần phải đi qua, từ miền Bắc, Quảng Ninh, qua đất bạn Lào, đến miền Đông Nam Bộ, một trục dọc đầu tiên của tuyến đường. Nhưng trước mắt phải mở nhanh vào tới Bắc Tây Nguyên, một địa khu chiến lược cực kỳ quan trọng. Công việc khá khó khăn và gấp, anh về chuẩn bị. Sắp tới Bộ sẽ trực tiếp giao nhiệm vụ cho anh, anh trực tiếp dẫn một trung đoàn công binh vào trước, đó là Trung đoàn 98.

Anh Phan Hàm còn nói vui: Vinh dự cho bạn được trở lại miền Nam trước mình nhé! Rồi chúng tôi tạm chia tay, hẹn ngày gặp lại trên miền Nam khi hoàn toàn giải phóng.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Mười Hai, 2016, 10:40:35 pm

NHẬN NHIỆM VỤ MỞ ĐƯỜNG THỐNG NHẤT

Sáng ngày 8 tháng 6 năm 1964, tôi và anh Nguyễn Phú Hồng được Cục Công binh Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ Trung đoàn trưởng và Chính ủy đến sở chỉ huy Trung đoàn 229 ở Trung Hà để nhận lệnh. Cùng dự có một số cán bộ các cơ quan Tham mưu, Chính trị, Hậu cần mà Cục Công binh đã mời. Khi tôi đến, thấy một số anh em đã có mặt tại đây như anh Vinh, anh Bảy...

Đồng chí Thiếu tướng Lê Quang Hòa, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, thay mặt Bộ Quốc phòng trực tiếp giao nhiệm vụ. Đồng chí nói: Hôm nay, được ủy nhiệm của Bộ, tôi giao nhiệm vụ cho Trung đoàn 98 công binh đi làm nhiệm vụ mở đường cơ giới trên Trường Sơn. Hướng tuyến, tiêu chuẩn kỹ thuật thế nào, chắc đồng chí Tiệp đã nhận trực tiếp tại Cục Tác chiến Bộ Tổng Tham mưu. Tôi nói thêm một số ý:

Trước hết, Trung đoàn cần nhận thức đây là một nhiệm vụ hết sức quan trọng và cấp bách. Con đường cơ giới mở trên Trường Sơn, dẫn từ miền Bắc vào tận miền Nam, khó khăn gian khổ lắm, nhưng tác dụng của con đường thì vô cùng to lớn. Rồi đây khi chiến tranh phát triển, thông qua con đường này trang bị kỹ thuật, phương tiện, vũ khí cùng các binh chủng của ta sẽ được tăng nhanh và ngày càng nhiều vào chiến trường miền Nam. Quân ta sẽ đánh lớn và chắc chắn sẽ nhanh chóng giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Trung đoàn 98 là đơn vị đầu tiên của Binh chủng Công binh được nhận nhiệm vụ này. Đây là vinh dự, nhưng trách nhiệm thật lớn lao. Đảng ủy, thủ trưởng cần lãnh đạo đơn vị chấp hành nghiêm mệnh lệnh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Đồng chí Lê Quang Hòa còn nói thêm một số nét cơ bản về công tác đảng, công tác chính trị. Đồng chí nói về truyền thống Trung đoàn 98 xuất xứ là một trung đoàn bộ binh thành lập ở Quảng Ninh năm 1946. Trong kháng chiến chống Pháp, trung đoàn đã chiến đấu lừng danh ở khu Đông Bắc, đặc biệt là ở chiến trường đường 18 suốt từ Bắc Ninh, Bắc Giang, đến Quảng Ninh, Móng Cái. Đến năm 1951, Trung đoàn 98 về trực thuộc Sư đoàn 316 và chiến đấu ở Tây Bắc, nổi nhất là trong chiến dịch Điện Biên Phủ, trực tiếp đánh C1, mở cửa vào A1 dẫn đến chiến thắng hoàn toàn ở Điện Biên Phủ. Sau hòa bình, trung đoàn chuyển nhiệm vụ thành trung đoàn công binh mở đường ở Tây Bắc và cũng lập được nhiều thành tích. Như vậy truyền thống của trung đoàn thật sáng chói, vừa mang truyền thống chiến đấu bộ binh, vừa mang truyền thống mở đường thắng lợi của công binh. Các đồng chí hãy phát huy truyền thống đó trên chiến trường mở đường Trường Sơn.

Đồng chí Lê Quang Hòa dặn dò và nhấn mạnh rất nhiều điều về công tác chính trị, công tác chính sách, công tác dân vận. Các đồng chí hãy mang lá cờ "mở đường thắng lợi" của binh chủng công binh để "mở đường thống nhất".

Sau khi nhận nhiệm vụ xong, chúng tôi đi làm thêm một số việc ở cơ quan, và rồi cũng cho anh em mỗi người 7 ngày phép để về thăm nhà và tạm biệt gia đình. Bản thân tôi cũng được phép tranh thủ về Hải Phòng mấy ngày để dặn dò, tạm biệt "bà xã" và 2 cháu: Nhân và Hải còn tuổi thơ ngây đang đi học. Phút chia tay, không khỏi bịn rịn, nhưng cả nhà đều hiểu rõ chuyến đi xa để rồi có ngày được sum họp trở lại khi nước nhà thống nhất.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Mười Hai, 2016, 10:41:15 pm

Ngày 19 tháng 7 năm 1964, ban chỉ huy cùng cơ quan Trung đoàn bộ lên tàu hỏa vào Vinh, rồi tiếp tục lên xe phủ bạt kín vào tới Ho thuộc đất Quảng Bình là nơi chuẩn bị nhập tuyến. Tại đây tôi đã trực tiếp gặp anh Võ Bẩm, Tư lệnh Đoàn 559 nhận nhiệm vụ phối thuộc, được anh Bẩm dặn dò chỉ dẫn nào là tình hình giao liên gùi thồ, tình hình ta, tình hình bạn, âm mưu và hoạt động của địch, về tuyến đường sẽ mở. Anh Lê Đức Bảo, Chủ nhiệm hậu cần Trung đoàn hỏi rõ về tình hình tiếp tế lương thực thực phẩm cho bộ đội và được trả lời, là sẽ rất vất vả vì phụ thuộc vào gùi thồ phía sau.

Mọi việc chuẩn bị khá nhanh chóng. Cơ quan tham mưu đã bố trí một đồng chí ở lại Ho để nhận và bàn giao toàn bộ những vật không được mang theo như sổ sách, ảnh, thư từ cùng các tư trang của bộ đội.

Và cũng tại đây từ nay trở đi - anh Bẩm vừa nói vừa cười thân mật - Đơn vị được mang mật danh là "Chi hội Bình Minh" thuộc "Hội Lao động Giải phóng, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam".

Về quân trang, Quân Giải phóng được trang bị các loại súng nhẹ chiến lợi phẩm đánh Pháp như Sten, Brenô, 7,9 ly. Cuộc hành quân nhập tuyến bắt đầu!

Những thử thách ban đầu đã tới. Đơn vị chúng tôi đã âm thầm vượt từ ngọn đồi này qua ngọn đồi khác vượt núi rừng âm u rậm rạp. Đèo 1001, đỉnh của dãy Trường Sơn sừng sững hiện ra trước mặt nhưng không cản nổi bước chân của anh lính giải phóng. Một vài ngày đầu, vì còn được hơi hướng của miền Bắc, bộ đội ít nhiều đã được rèn luyện hành quân mang nặng còn khỏe, nhưng chỉ sau 1 tuần sức lực cơ bắp cũng sút giảm dần. Một số anh em đã bắt đầu ốm. Cuộc hành quân đi bộ cũng không vì thế mà sụt hẳn, gần 1 tháng trời chúng tôi đã từ Đông Trường Sơn qua Tây Trường Sơn đến đường số 9, qua Sê Pôn, tới dốc Thơm, về nơi tập kết. Đó là La Hạp, một vùng đồi thấp, cây cối thưa thớt, cỏ tranh xanh rờn bạt ngàn, một địa điểm trên đất Lào anh em. Cơ quan Trung đoàn bộ hạ trại ở đó.

Những ngày đầu tháng 8 năm 1964, trên đất bạn Lào thuộc tỉnh Xa Ra Van vừa được giải phóng là cảnh đồi nương bỏ hoang, cỏ mọc um tùm, thoảng đâu đây vẫn còn khét mùi thuốc súng. Những mái nhà lá ọp ẹp, chỉ còn trơ khung gỗ cháy đen. Nhân dân các bộ tộc Lào anh em, lác đác đã có đoàn trở về bản làng để khôi phục, làm lại nương rẫy.

Thấy bộ đội Việt Nam sang, bà con vô cùng phấn khởi, chắc không còn phải sơ tán liên tục như những thời kỳ trước. Bà con vẫn còn rất nghèo và đói, nhưng tinh thần giúp đỡ bộ đội thì vô cùng quý giá. Tôi nhớ có lần đoàn của cơ quan Trung đoàn bộ gặp một tốp dân bạn, có già, trẻ, trai, gái, quần áo rách mướp, đang gồng mình trèo dốc, gùi những kiện hàng nặng nề, với những bước đi khó nhọc, chắc là đói lắm.

Đồng chí Trần Bá, Chủ nhiệm chính trị thấy vậy hỏi: Đồng bào gùi gì thế, nặng lắm hay sao mà đi khó khăn vậy, hãy nghỉ và lấy một ít trong gùi để ăn rồi hãy đi. Một cụ già nói, mình đói khổ nhưng không bằng bộ đội Việt Nam và Pa-thét Lào đâu, các con còn đói khổ hơn nhiều còn hy sinh nữa chứ! Mình gùi thuốc cho bộ đội để chữa bệnh đấy, bộ đội ốm nhiều lắm mà! Mình không được ăn, bộ đội ốm yếu lấy gì chữa bệnh để đánh Mỹ.

Đồng chí Chuẩn, trợ lý chính trị đề nghị: chúng ta hãy dành mỗi người một phần cơm nắm cho bạn. Thế rồi anh em hưởng ứng ngay; các gói cơm nắm ăn trưa đều được bẻ đôi, chúng ta cùng chia sẻ với đồng bào. Những hình ảnh đầu tiên đó đã làm cán bộ, chiến sĩ cảm động, một bài học về tình nghĩa anh em sâu đậm Việt - Lào.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Mười Hai, 2016, 10:41:47 pm

Ngày 2 tháng 8 năm 1964, anh Nguyễn Phú Hồng, Bí thư Đảng ủy triệu tập họp đảng ủy, cuộc họp đầu tiên thông qua kế hoạch quyết tâm. Mình báo cáo nhiệm vụ của trung đoàn mà Bộ Quốc phòng giao, các kế hoạch lãnh đạo và đảm bảo, một kế hoạch dài 2 năm đến cuối năm 1965, đường phải thông đến bắc Tây Nguyên, trước mắt đến cuối năm 1964 phải thông đến Bạc (sông Sê Công).

Tiếp sau đó, trong hội nghị quân chính có mặt đầy đủ đại diện các cơ quan tham mưu. Đồng chí Hoàng Tiến Vinh, Tham mưu phó báo cáo tình hình tuyến đường, sử dụng lực lượng kế hoạch khởi công. Đồng chí Lê Đức Bảo, Chủ nhiệm hậu cần báo cáo kế hoạch đảm bảo hậu cần. Anh Bảo rất hăng hái, nhấn mạnh gạo thực phẩm đảm bảo rất ít, sẽ thiếu, nhưng sẽ cấp mỗi tháng mỗi người một cân muối. Anh em ngầm hiểu, có muối sẽ có thêm thực phẩm, rau, đậu, thịt bằng cách đổi cho đồng bào. Đồng chí Nẵng, Phường ở cơ quan khí tài hứa sẽ tìm đủ mọi cách có đủ cuốc xẻng, dao, choòng và nhấn mạnh không có thuốc nổ. Anh Bá, chủ nhiệm chính trị trung đoàn, lấy ngay hình ảnh vừa gặp nhân dân Lào đi trên đường để giáo dục giữ vững mối quan hệ Việt - Lào, giữ vững sinh hoạt Đảng, công tác chính trị, động viên khen thưởng kịp thời v.v.

Buổi họp quân chính trên đất bạn Lào đầu tiên, đã có quyết tâm cao như thế!

Ngày 3 tháng 8, các cán bộ ra về triển khai tích cực để kịp ngày khởi công: Ngày 7 tháng 8 năm 1964.

Chắc các đồng chí chúng ta ngồi đây còn nhớ: Ngày 5 tháng 8 năm 1964, đế quốc Mỹ gây ra sự kiện vịnh Bắc Bộ, đưa hàng chục máy bay bắn phá Quảng Ninh, Hải Phòng, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình... Quân dân ta đã chiến đấu rất dũng cảm, bắn rơi nhiều máy bay, bắt sống giặc lái. Dã tâm xâm lược của đế quốc Mỹ đã quá rõ ràng. Nhạy bén với tình hình, đồng chí Chính ủy Nguyễn Phú Hồng nhanh chóng hội ý Thường vụ Đảng ủy: chúc mừng chiến công đầu của quân dân miền Bắc, Trung đoàn 98 phải tỏ rõ quyết tâm bằng ngày ra quân đầu tiên trên Trường Sơn phải là ngày thắng lợi đầu tiên trả thù cho đồng bào miền Bắc.

Và một ý nghĩ mới vụt đến. Chúng ta sẽ tích cực chuẩn bị thêm, sẽ ra quân lùi lại 2 ngày và lấy đúng ngày 9 tháng 8, ngày trùng với tên Trung đoàn 98 để ghi nhớ được lâu. Tất cả chúng tôi hoan nghênh sáng kiến và triển khai theo phương án này. Đồng chí trung đoàn phó Chu Minh Đông nói: ngày đó chỉ huy và cơ quan chúng ta phân chia xuống các tiểu đoàn để đốc chiến và đề nghị trung đoàn trưởng và chính ủy trực tiếp xuống một đại đội để dự cùng anh em. Chúng tôi đã chọn Đại đội 4, Tiểu đoàn 2 là đơn vị được bố trí tốt nhất về nhân sự, vật chất, tinh thần.

Chỉ huy Đại đội 4 là đại diện cho hai miền Nam Bắc. Đại đội trưởng Nguyễn Văn Bộp, quê Bắc Giang, chính trị viên Đặng Đức Thông quê Quảng Nam. Trong các cán bộ trung đội có Đoàn Ngọc Lập, Vương Thanh Cầm, Nguyễn Tấn Đăng đều là cán bộ trẻ, hăng hái, nhiệt tình, được đào tạo cơ bản tại Trường Sĩ quan công binh. Gần 100 chiến sĩ đều là lính nghĩa vụ trẻ, khỏe.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Mười Hai, 2016, 10:42:16 pm

Đúng 5 giờ 30 phút sáng ngày 9 tháng 8 năm 1964, cán bộ, chiến sĩ Đại đội 4 vừa ra tới hiện trường thì một cơn mưa rào ập tới, cơn mưa kéo dài gần 30 phút. Anh em phải tạm trú mưa, thử thách đầu tiên phải vượt qua. Có tiếng xôn xao ông trời không ủng hộ 98, mưa thế này vỡ kế hoạch ngay từ ngày đầu ra quân!

Đồng chí Nguyễn Văn Bộp vụt đứng dậy: Các đồng chí nhầm rồi. Ở quê ta, mỗi khi đào móng làm nhà mà được trận mưa to đó là điềm lành đấy. Đây mình sắp "động thổ" phải là "hên" lắm chứ. Mọi người cười to đồng tình hưởng ứng.

Và đúng như vậy, sau 30 phút mưa nặng hạt, trời bỗng tạnh hẳn. Đại đội 4 đã về đúng vị trí của mình, như bài học đội hình vừa làm đường vừa sẵn sàng chiến đấu, có cảnh giới, phòng không, phòng địch mặt đất.

Lễ động thổ khởi công tuyến ô tô Trường Sơn bắt đầu!

Nghi lễ thật là đơn giản vì điều kiện chiến trường và vì bảo mật. Không có băng rôn lớn, chỉ có khẩu hiệu viết tay cài trên mũ hoặc viết trên ống tre nứa. Cơm nước không bày biện nhưng được ăn nóng ngay trên mặt đường.

Chẳng có bộc phá nổ mở màn mà chỉ có mệnh lệnh đơn giản: "Vì miền Nam ruột thịt, vì đất nước thống nhất! Tất cả bắt đầu!". Tôi vừa ra lệnh, hàng trăm cánh tay giơ cao vung xuống, tiếng cuốc, tiếng xẻng, tiếng dao búa ầm ầm làm mất đi sự tĩnh mịch của không gian buổi sáng sớm.

Tất cả lao động liên tục cho đến hết ngày. Buổi đầu năng suất rất cao, toàn trung đoàn hoàn thành gần 10 kilômét đường ô tô. Chúng ta đã đánh thắng trận đầu giòn giã, hưởng ứng ngày chiến thắng của miền Bắc bắn rơi máy bay Mỹ".

Nói đến đây, anh Tiệp quay sang phía bên phải hỏi: Các đồng chí ngồi đây có đồng chí nào tham gia mở đường ngày đó không? Hơn chục cánh tay giơ lên tự hào: "Có đấy ạ!".

Cuộc họp mặt hôm nay, một số đồng chí Đại đội 4 ngày đó cũng có mặt.

Đồng chí Đỗ Phương Tâm lần lượt giới thiệu từng đồng chí một và nói: Anh em Đại đội 4 hiện ở Cổ Loa, Đông Anh còn hơn 20 đồng chí, thời đó đều là chiến sĩ, chỉ có 2 đồng chí là A trưởng. Đồng chí Ngát, đồng chí Năm, đồng chí Lưu, lần lượt phát biểu đều tỏ ra rất vui mừng, không ngờ được vinh dự được sống trong ngày lịch sử động thổ bổ nhát cuốc đầu tiên trên tuyến Trường Sơn năm ấy. Ngày 9 tháng 8 năm 1964 là như vậy!


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Mười Hai, 2016, 10:43:15 pm

HƯỚNG VỀ PHÍA NAM, NHANH CHÓNG MỞ ĐƯỜNG ĐẾN NGÃ BA BIÊN GIỚI

"Ngày 9 tháng 8 đó cũng là mở đầu cho một đợt thi đua "Vì miền Nam ruột thịt". Tiếp theo, dựa vào tài liệu khảo sát thiết kế của Cục Công binh đã chuẩn bị từ năm 1963, Trung đoàn theo đội hình lúc cuốn chiếu, lúc nhảy cóc, trong hơn 4 tháng vượt qua mọi địa hình phức tạp, thời  tiết khắc nghiệt, thiếu thốn vật chất, đến giữa tháng 12 năm 1964, Trung đoàn đã đến dốc Bạc trên dòng sông Sê Công.

Đúng dịp kỷ niệm 20 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân, tham mưu phó Công binh Nguyễn Văn Nhạn dẫn 7 chiếc xe Gat thông đường trong niềm vui tin tưởng.

Đúng là dốc Bạc!... Một đoạn đường ngắn có độ dốc quá lớn, lớn vượt quá tiêu chuẩn cho phép, lại phải qua 12 vòng cua ngược chiều nhau liên tiếp. Cán bộ, chiến sĩ chúng tôi, vừa mưu trí, vừa lao động vất vả, vật lộn gian khổ với 12 cua dốc trong nhiều ngày đêm mới hoàn thành.

Đây là một kỷ niệm không bao giờ quên, còn đọng lại mãi trong tâm trí chúng tôi, những ai đã một thời mở đường từ Bản Đông đến Bạc. Những năm sau, dốc 12 cua trở thành trọng điểm, máy bay địch đánh phá thường xuyên, nhiều xe bị đổ, bị hỏng trên đoạn dốc này.

Cũng phải nói là thời kỳ đầu chúng ta chưa triển khai được cầu, phà, nên phải vượt sông bằng ngầm, mà ngầm có yêu cầu riêng, đường xuống ngầm bị khống chế nên khó tránh dốc. Sau này chúng ta có nhiều biện pháp để khắc phục các ngầm bằng bến phà, cầu nổi.

Vượt qua sông Bạc, chúng tôi có thêm người bạn đồng hành. Đó là Trung đoàn 279 có mật danh "Rạng Đông", do anh Hoàng Đình Luyến làm trung đoàn trưởng và anh Hoàng Thược là Chính ủy. Hai trung đoàn Bình Minh và Rạng Đông, hai cái tên của hai anh em sinh đôi cùng một binh chủng, cùng bắt tay nhau, đưa tuyến đường qua hết đoạn này qua đoạn khác. Đường càng vào trong càng khó khăn thêm. Việc đưa lương thực đến phía sau càng gian nan, Trung đoàn Rạng Đông qua 3 tháng liên tục không đưa được nổi 4 máy ủi vượt sông Bạc. Thuốc nổ lại càng khó hơn, Đèo Long vừa dốc vừa lắm đá, phải dẫm chân tại chỗ khá lâu mới thông xe được. Vượt qua Chà Vằn, dốc Bô Phiên, đèo Sê Ca Mán lại hiện ra trước mặt, quanh co, đá tảng xếp tầng.

Chúng ta đã khéo bố trí đội hình, sử dụng hợp lý số thuốc nổ ít ỏi để có hiệu suất cao, đã có sáng kiến làm bừa đất bằng gỗ và dây rừng tại chỗ của các đồng chí Đại đội 4, năng suất nâng lên gấp nhiều lần. Toàn đơn vị đã tận dụng mọi thời gian, bất kể mưa nắng, không có ngày nghỉ, một ngày liên tục ở mặt đường từ 6 giờ sáng đến 7 giờ tối. Với lao động như vậy ăn uống lại thiếu thốn. Do gạo và lương thực không vận chuyển vào kịp, tiêu chuẩn chiến sĩ bình quân mỗi ngày không quá 3 lạng gạo, có ngày chỉ đủ gạo nấu cháo.

Tuy vậy, với tinh thần vì miền Nam, trung đoàn vẫn quyết tâm lao động để đưa nhanh đường về tới đích. Thiếu gạo thì kiếm củ mài, củ rừng, hạt dẻ, hạt gắm bổ sung. Thiếu rau thì có rau tàu bay, rau lá sắn, măng tre thay thế. Thiếu thịt, thỉnh thoảng có chú lợn rừng sa bẫy cung cấp. Đủ các thứ khắc phục nhưng cũng không thể giữ được sức khỏe cho bộ đội.

Thời tiết, muỗi rừng, vắt rừng đua nhau bóc xé da thịt chiến sĩ. Nhiều chiến sĩ bị sốt rét hành hạ. Một loại dịch sốt rét ác tính rất nguy hiểm, dẫn đến tử vong rất nhanh. Đại đội 7 thuộc Tiểu đoàn 2 chỉ trong 3 ngày đã tiễn đưa 10 đồng chí. Thuốc chống sốt rét rất thiếu. Anh em quân y cũng đã cố gắng khắc phục, học tập kinh nghiệm địa phương lấy phôi ổ mối sắc với rễ cây ớt, sao vàng, uống nước đỡ được phần nào. Đã có nhiều hôm, đơn vị chỉ có 50% chiến sĩ ra mặt đường. Chính ủy Phú Hồng, đã có buổi sáng nhường lại bát cháo cho đồng chí trợ lý ăn để có sức ra mặt đường. Chiến sĩ khỏe nhường phần cháo của mình cho chiến sĩ ốm là chuyện bình thường.

Kẻ địch trên không, dưới mặt đất luôn gây cho ta nhiều khó khăn. Nhận thấy nguy cơ con đường mòn ngày càng vào sâu, chúng đã dùng mọi phương tiện hiện đại chụp ảnh liên tục cả ngày lẫn đêm hòng phát hiện để bắn phá, ngăn chặn.

Tại Pắc Huội, máy bay AD6 đã oanh tạc vào đúng đội hình của Đại đội 7, Tiểu đoàn 3, hai đồng chí hy sinh, 10 đồng chí bị thương. Tiểu đoàn 1 đang trên đường hành quân di chuyển cũng bị máy bay địch phát hiện và bắn phá. Đã có nhiều lần, chúng ta bắt được các toán biệt kích giả dân trà trộn vào nơi trú quân và thi công của ta.

Khó khăn như vậy, nhưng ngày ngày đường vẫn cứ dài ra. "Bình Minh" vượt qua "Rạng Đông", rồi "Rạng Đông" lại vượt qua "Bình Minh", "hai anh em sinh đôi" đang cùng nhau chơi tiếp sức, tiếp tục chinh phục con đường phía trong. Suối To, Sê Sụ, Phi Hà, rồi Pa Kha và đúng đến ngày 18 tháng 1 năm 1966, Trung đoàn Bình Minh đã tới Tà Xẻng bắc Tây Nguyên. Đây là ngã ba Đông Dương, nơi có câu nói: "Một con gà gáy cả ba nước cùng nghe!". Kết thúc giai đoạn đầu tiên hai trung đoàn Bình Minh và Rạng Đông đã hoàn thành đoạn đường dài 256 kilômét.

Và tại đây, chúng ta đã tổ chức cho chiến sĩ ăn cái Tết thứ hai ở Trường Sơn, trong niềm vui chung cùng các chiến thắng trên chiến trường miền Nam".


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Mười Hai, 2016, 10:47:32 pm

ĐƯỜNG 49, TRUNG ĐOÀN THẦN TỐC

Sáng 24 tháng 1 năm 1966 tức mồng 2 Tết Bính Ngọ, trong một khu rừng tre tương đối kín đáo ở Tây Nguyên, trung đoàn bộ chúng tôi đang đi chúc Tết vui vẻ. Chính ủy Nguyễn Xuân Kim đang tâm sự ở cơ quan chính trị, trung đoàn phó Chu Minh Đông đang khề khà hơi men với cơ quan hậu cần. Trung đoàn trưởng Phan Quang Tiệp cùng cơ quan tham mưu đang ngồi bên chén nước trà còn bốc hơi ấm.

- Báo cáo thủ trưởng, có điện khẩn ở ngoài đoàn, chiến sĩ cơ yếu Đoàn Văn Tập vội vã bước vào và trình điện. Tham mưu phó Hoàng Tiến Vinh đón bức điện nói: Chắc là điện chúc Tết, động viên anh em mình vừa hoàn thành nhiệm vụ, hẳn lại có thưởng to rồi.

Với dáng mặt ung dung, thư thái, anh Tiệp mở bức điện ra xem. Ngay đầu điện đã có chữ "Thượng khẩn". Anh căng mắt đọc từng dòng một:

"Mệnh lệnh gửi Trung đoàn 98. Chuyển ngay trung đoàn sang làm đường 49. Điểm đầu ngã ba Phi Hà, qua các điểm Chín Suối, bãi đá Lâm Phu, Lanh Tanh, đèo 200, vượt Nậm Kông, rồi qua suối Tà Ngâu, điểm nối sang đất bạn Cam-pu-chia, điểm cuối K20 Xiêm Pạng.

Đường dài khoảng 200km. Yêu cầu thi công thật khẩn trương để chuyển hàng ngàn tấn hàng đang bị ứ đọng. Thời gian không quá 4 tháng. Liên hệ chặt chẽ với đồng chí Đức Phương, mật danh là "Ông Chủ". Triển khai ngay và báo cáo về Đoàn".


Điện còn nói rõ thêm "vì ở phía ngoài, địch đánh phá mạnh, nhiều điểm bị tắc, xe hàng không vào được. Đường C4 được mở là một cứu cánh lớn để đưa hàng từ K ra nhanh tới các chiến trường nhất là Tây Nguyên và Khu 5".

Chúng tôi rất hiểu điều đó. Từ khi quân Mỹ ồ ạt đổ quân vào, chúng mở liên tiếp các cuộc tiến công hòng bình định nhanh, tiêu diệt quân giải phóng, mà muốn thắng chúng phải đánh mạnh tuyến chi viện đường Hồ Chí Minh. Các cửa khẩu và các trọng điểm phía bắc đường Trường Sơn bị đánh phá rất mạnh như Pha Nốp, Xiêng Phan, Văng Mu, Thà Khống, Dốc Thơm... có nơi tắc 7 ngày, 10 ngày, vận chuyển gặp rất nhiều khó khăn.

Với tình hình đó, mệnh lệnh mở đường C4 nhanh chóng trở nên rất có ý nghĩa và trung đoàn đã triển khai khẩn trương. Cơ quan tham mưu, đồng chí Tô Đa Mạn và đồng chí Nguyễn Văn Bảy đã mở bản đồ, nghiên cứu nhanh địa hình, xác định các điểm khống chế, và báo cáo ngay, đường dài khoảng 200 kilômét, thi công nhanh cũng mất 5 tháng, có thể chia là 2 đoạn:

Đoạn 1: Từ Phi Hà đến Tà Ngâu dài khoảng 120 kilômét, đường đi dưới rừng cà bông tương đối kín, có một số điểm khó như khu vực Chín Suối dễ lầy lội. Bãi đá Lâm Phu dài khoảng 2 kilômét đi sát bờ sông Sê Sụ, đèo 200 dài khoảng 5 kilômét tương đối trống trải, dốc, đất pha đá, gần địch, địch còn chốt ở Mường Mày.

Đoạn 2: Từ Tà Ngâu đi K20 đường dài khoảng 80 kilômét, chủ yếu qua rừng khộp, dễ thi công. Cần chú ý điểm vượt sông Tà Ngâu. Cơ quan cũng đã sơ bộ đề xuất cách sử dụng lực lượng và biện pháp tác nghiệp. Các cuộc họp Đảng ủy, họp quân chính khẩn trương và được khái quát như sau:

Tinh thần là phải triển khai như một chiến dịch, thật nhanh trong mọi công việc, từ họp hành đến mọi công tác chuẩn bị. Đội hình chiến dịch là trung đoàn thành một tuyến, mỗi tiểu đoàn một đoạn, mỗi đại đội một phân đoạn, vừa nhảy cóc vừa cuốn chiếu trong từng phân đội.

Phương pháp tác nghiệp là thi công trong hành tiến. Trinh sát định tuyến đi trước, đội hình tác nghiệp theo ngay. Thi công liên tục, nhiều giờ trong ngày, kể cả đêm. Công tác bảo đảm đặc biệt là hậu cần, cần đảm bảo ăn no, uống đủ. Khẩu hiệu là thần tốc, thần tốc mở đường. Tuyệt đối giữ bí mật. Quyết tâm hoàn thành trong vòng 3 tháng vượt trước kế hoạch 2 tháng.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Mười Hai, 2016, 10:48:16 pm

Đúng ngày mùng 2 Tết, chấp hành mệnh lệnh, các tiểu đoàn đã lên đường ngay, thứ tự từ ngoài vào lần lượt là tiểu đoàn 1, 2, 3. Có một thuận lợi là đã có tuyến đường thồ đi dọc tuyến nên các phân đội triển khai khá nhanh. Lợi dụng đường sông Sê Sụ, chúng ta đã mượn được một số thuyền máy, các thuyền này làm nhiệm vụ rải bộ phận trinh sát và chỉ huy tiểu đoàn ở phía trong. Riêng trung đoàn bộ, bộ phận đi thuyền máy gồm trung đoàn phó Chu Minh Đông, đồng chí Tô Đa Mạn, đồng chí Nguyễn Văn Bảy ở cơ quan tham mưu, đồng chí Bảo - Chủ nhiệm Hậu cần, đồng chí Bá - Chủ nhiệm Chính trị cùng một số trợ lý đi thẳng vào phía tuyến trong, sau đó đi ngày vào K20 gặp "ông chủ" để quan hệ, báo cáo tình hình triển khai, đặc biệt là công tác đảm bảo lương thực, thực phẩm cho bộ đội.

Ngày mùng 3 Tết, 8 giờ sáng, chúng tôi đã có mặt ở K20 trên bờ sông Sê Công nắng gió. Đã từ 2 năm nay, giờ này chúng tôi mới được hưởng một không khí tương đối thanh bình.

Cơ quan "ông chủ" thật đơn giản, dưới rặng cây cà bông, trông nền nếp nhưng cũng không quên sẵn sàng chiến đấu, phòng không, phòng địch mặt đất. Những dãy kho liên tiếp đầy ắp hàng, phân tán trong khu rừng gần nơi "ông chủ" ở. Thuyền máy chạy trên sông liên tục chở đầy hàng cập bến nhanh chóng rồi lại rời bến khẩn trương. Chúng tôi hình dung khá nhiều hàng hóa như đang đòi hỏi tính chất khẩn trương của con đường phải nhanh chóng hoàn thành. Chúng tôi cũng thầm nghĩ, ngành hậu cần quân đội ta thật tài giỏi đã thiết lập được con đường vận tải này.

Rồi đây các vũ khí, binh khí kỹ thuật từ miền Bắc vào B2 đi qua con đường này cũng rất thuận lợi. Những tâm tư, ý nghĩ trên thoảng qua cũng không làm chúng tôi sao nhãng nhiệm vụ trước mắt.

Trong gian phòng nhỏ thông thoáng, trên chiếc bàn dài có bộ ấm chén màu nâu, hai bộ ghế mây trang nhã, chúng tôi được ông chủ Đức Phương tiếp. Thật bất ngờ, ông chủ không phải dáng nhà tư sản béo mập trắng trẻo như chúng tôi nghĩ. Ông là một người cao to, có làn da bánh mật, hai con mắt luôn nhấp nháy, nhưng giọng nói lại có sức thu hút. Ông vào đề nhanh: Chúng tôi K20 đã nhận được điện của Tổng cục Hậu cần, Đoàn 559 cho biết Trung đoàn 98 nhận được lệnh vào làm đường ô tô để chở hàng từ đây. Rất mong các đồng chí vào để hợp đồng công việc, yêu cầu làm thật nhanh để rút hàng.

Ông khoát tay nhìn vào các bãi hàng xung quanh rồi nói: Đấy, các anh nhìn, hàng chất đống, toàn hàng cho chiến trường, nào gạo, thực phẩm, nhu yếu phẩm và cả xăng dầu nữa, có hàng vạn tấn, phải có đường ô tô thì mới chuyển nhanh được. Trong này rất mong con đường ô tô của các anh, không phải 5 tháng mới xong, mà cần phải nhanh hơn, nếu không mùa mưa ập đến không vận chuyển được. Để chiến trường đói thiếu, không mở chiến dịch được, để các anh Đoàn 559 đói thiếu trên đống hàng, thử nghĩ sao đành.

Những lời nói của "ông chủ” là lời động viên thiết thực, lời kêu gọi của chiến trường, làm đoàn chúng tôi ai nấy như đều bừng lên một khí thế, một niềm tin, một quyết tâm, con đường nhất định sẽ chóng hoàn thành. Chúng tôi phát biểu đề nghị một vài việc nhất là công tác đảm bảo sức khỏe, đảm bảo thi công cho bộ đội. "Ông chủ" lại khoát tay một cái dài và nói: Các cậu cứ cho bộ đội ăn no để lấy lại sức vì đã 500 ngày liên tục chịu đói chịu khổ trên Trường Sơn.

Cần thuốc chống sốt rét, không thiếu, cần dụng cụ cuốc xẻng để làm đường, sẽ có đủ. Thế rồi anh Đông, anh Bảo nhìn nhau và nói nhỏ điều gì. Ông chủ Đức Phương liền nói: Thôi, cho mấy trợ lý quân nhu đến gặp ngay anh Huỳnh Tấn Đại để nhận hàng cho bộ đội. Chúng tôi nghĩ, chỉ cần có gạo ăn no thôi, nhưng ông chủ lại nói, cấp cho một ít xà phòng, một ít thuốc lá sợi, một số bịch đường. "Ông chủ" cũng không quên nhắc: nếu gặp người dân Cam-pu-chia hỏi hoặc lính K hỏi thì các cậu cứ nói là "cu ly" của ông chủ, hiểu không, không được nói là bộ đội nhá. Ra về anh Chu Minh Đông còn nhắc đồng chí trợ lý quân nhu xin "ông chủ" cho ít chè khô để bộ đội uống, đã rất lâu thèm hương vị miền Bắc.

Kể đến đây anh Tiệp nói, tôi còn nhớ mãi, khi đoàn hậu cần về, tôi rất phấn khởi nhưng vẫn phê bình ông Đông cần lương thực thuốc men là chính, sao nhận chè làm gì. Tôi nhớ lúc đó anh Đông cứ phàn nàn với chúng tôi mãi, đúng là làm công nên tội.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Mười Hai, 2016, 10:48:51 pm

"Ngay sau đó, các đơn vị đã vào vị trí của mình. Những chiếc ba lô được xếp hàng ngay ngắn ở một góc đường, anh em chiến sĩ, người chặt cây, đào rễ, người kéo đất san nền. Đấy một tốp ba người đang cùng nhau đào phạt những ổ mối to hàng chục mét khối. Chỗ khác một tốp lại cùng nhau đào những tảng đá hộc chắn ngang đường. Không một tiếng bộc phá, không một tiếng reo hò, chỉ nghe thấy những tiếng dao chắc nịch đẽo cây đánh dấu đường, tiếng cuốc bùng bục, tiếng kéo lá rào rào. Trong những ngày này, lao động kéo dài một ngày từ 15 giờ đến 16 giờ, có ít ngày làm thông đêm, bộ đội chỉ được phép có một giấc ngủ ngắn ngủi tại chỗ, hoặc tại chiếc võng treo trên hai gốc cây. Tất cả mọi người từ chỉ huy trung đoàn, văn thư đánh máy, liên lạc, y tá, ai cũng cầm cuốc, xẻng, dao cùng tham gia mở tuyến. Ai cũng muốn góp phần nhỏ bé vào nhiệm vụ thần tốc đặc biệt này.

Khó nhất vẫn là mở dốc đá Lâm Phu, đá liền khối, mở sao đủ rộng đường và giữ được bí mật. Anh em đã có sáng kiến, đục nhiều lỗ bộc phá nhỏ, tra thuốc, tranh thủ lúc không có máy bay trinh sát cho nổ rồi lại ngụy trang ngay.

Đèo 200 dài, dốc lớn, cua hẹp, có những đoạn lại hướng về phía địch; Mường Mày, A Tô Pơ, đã chỉnh lại từng đoạn tuyến tránh che khuất mắt địch, chọn giờ làm, đặt đài quan sát, đồng thời cử cán bộ dân vận biết tiếng Lào như đồng chí Phong, Lùng, Tê đi vào bản trước, vận động bà con giữ bí mật và khống chế những tên địch còn sót lại.

Vượt qua sông Tà Ngâu là vào đất Cam-pu-chia. Vấn đề đặt ra là làm sao để mở con đường qua đó được. Đại đội 7 do đồng chí Nguyễn Đình Tùng làm đại đội trưởng với quần áo bà ba đen và mũ lá do ông chủ cấp phát, với danh nghĩa là "cu ly" làm công cho ông chủ. Nguyễn Đình Tùng là cai đôn đốc do "ông chủ thuê”. Với cách che mắt như vậy, nhiều người dân cũng chẳng để ý, nhưng cũng có người biết chút ít, tò mò hỏi. Có một lần, một ông già người Cam-pu-chia đi qua, thấy đoàn "cu ly" đang cặm cụi lao động, thỉnh thoảng nhìn lên phía trước, nhưng không thấy "ông cai" đứng đấy nói gì. Ông già thắc mắc tại sao "cu ly" làm chểnh mảng, mà "ông cai" không cho mấy ba toong. "Ông cai" Tùng nói nhăng nhít vài câu cố tình đánh trống lảng. Ổng già nói: Thôi, tôi biết "ông cai” và "cu ly" của ông chủ rồi. Các ông là "cu ly" Điện Biên Phủ, ý nói là lính Điện Biên Việt Nam. Anh em nghĩ, ai biết cứ biết, ta giấu cứ giấu, miễn là không nói, người dân không biết, thế là được. Với lính Cam-pu-chia cũng vậy, một lần đồng chí Mạn, trưởng ban tác chiến cùng tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2 Hoàng Viết Cúc khi đi trinh sát bến phà Nhăng Sum bên hữu ngạn sông Sê Công, chúng tôi phải qua đồn Xiêm Pạng, ở đây có lính gác. Làm thế nào để vượt qua trạm gác? Đành phải dở "kịch bản", chúng tôi nói là "cu ly". Họ chẳng hiểu, và sau đó nói là người của "ông chủ". Họ cười và viết vào một tờ giấy nhỏ cho chúng tôi vào khảo sát! Thế mới biết uy tín "ông chủ" lớn biết chừng nào. Thật vậy, trong cuộc chiến đấu, chúng ta đã có nhiều mưu sâu, kế sắc.

Nhiệm vụ từng phân đội và toàn trung đoàn diễn biến liên tục ngày này qua ngày khác. Các phân đội vượt qua các phân đội, toàn tuyến của trung đoàn được nối liền.

Đó là ngày 4 tháng 3 năm 1966, một ngày đáng ghi nhớ.

Qua 38 ngày đêm lao động miệt mài liên tục, Trung đoàn đã hoàn thành xong con đường trước thời hạn 4 tháng 22 ngày. Thật là một kỷ lục thần tốc mở đường nói lên một ý chí quyết tâm cao, một tổ chức điều hành giỏi và những kinh nghiệm kỹ thuật tích lũy trong nhiều năm tháng của cán bộ và chiến sĩ.

Hoàn thành nhiệm vụ, chúng tôi điện báo cáo ngay ra Đoàn và về Cục Công binh. Được tin này, Bộ Tư lệnh Đoàn 559 cử đồng chí Hồng Kỳ, Chủ nhiệm Chính trị đến thăm và tặng Trung đoàn lá cờ "Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược" cùng tấm Huân chương Quân công hạng ba. Tư lệnh Hoàng Văn Thái đến thăm động viên chiến công Trung đoàn vừa lập, tặng Trung đoàn lá cờ "Mở đường thần tốc". Và cũng từ ngày đó, Trung đoàn 98 - Chi hội Bình Minh vinh dự mang tên "Trung đoàn mở đường thần tốc".

Nhưng niêm vui còn được nhân lên gấp nhiều lần khi đường 49 vừa mở xong, nhiều đoàn xe nối đuôi nhau vào, tranh thủ hai tháng mùa khô còn lại ta gấp rút vận chuyển lương thực, thực phẩm, thuốc men, xăng dầu, hàng vạn tấn còn tồn đọng, kịp bổ sung cho chiến trường Tây Nguyên, Khu 5 đánh thắng. Từ đường C4 này, Binh trạm 37 được hình thành, địch đã phát hiện, đánh rất ác liệt, hình thành các trọng điểm, nhưng vẫn đứng vững mãi mãi trong suốt cuộc chiến như một trong các mũi tấn công chủ yếu để vận chuyển vào chiến trường B2 Nam Bộ.

Sau khi hoàn thành đường C4, anh Phan Quang Tiệp quay ra miền Bắc chữa bệnh. Ba năm sau, năm 1972, anh lại quay vào Trường Sơn với nhiệm vụ Cục phó. Năm 1973 anh là Cục trưởng Tham mưu Công binh Bộ Tư lệnh Trường Sơn gắn với tuyến Trường Sơn cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng.

Anh là Tư lệnh Binh đoàn Trường Sơn với quân hàm Thiếu tướng cho đến ngày anh nghỉ hưu năm 1989.

Anh Phan Quang Tiệp đã vĩnh biệt cuộc đời ngày 30 tháng 7 năm 2000 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Các thế hệ lực lượng công binh Trường Sơn nói chung trong đó có Trung đoàn 98 không bao giờ quên hình ảnh người chỉ huy đã từng gắn bó một thời, đầy nhiệt huyết, có dũng khí, quyết tâm cao, mẫn cán, nghiêm túc, có tư duy sắc sảo trong lãnh đạo chỉ huy, hòa đồng trong mối quan hệ cán binh.



Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Mười Hai, 2016, 07:15:52 am

ĐƯỜNG 20 QUYẾT THẮNG NHẬN LẴNG HOA BÁC HỒ
Đại tá HOÀNG TRÁ
Nguyên quyền Sư đoàn trưởng
Sư đoàn ô tô 571 Đoàn 559

Mùa mưa, tranh thủ những ngày tạnh ráo, lực lượng vận chuyển bổ sung, tiếp nhận tạo lập chân hàng; khôi phục sửa chữa xe máy; nâng cấp đường để nâng bánh xe lăn; hồi phục sức khỏe, chấn chỉnh tổ chức, rèn cán chỉnh quân...

Địch vẫn đánh rải rác, ta vận chuyển nhỏ.

Đại hội tổng kết thi đua, liên hoan mừng công binh trạm lần thứ nhất, trong một hang động lớn. Hai trăm chiến sĩ thi đua, quyết thắng và cán bộ về dự. Chính ủy Nguyễn Dân đọc báo cáo tổng kết thi đua, biểu dương các đơn vị, cá nhân lập thành tích xuất sắc... Các chiến sĩ quyết thắng báo cáo thành tích, kinh nghiệm cá nhân và phân đội xe, kho, công binh, cao xạ, giao liên... Chúng tôi nghe được nhiều bài học cụ thể về thông đường, đánh máy bay, vượt cung tăng chuyến (...), do chiến sĩ và thanh niên xung phong sáng tạo nên. Ngày thứ hai dành cho thanh niên liên hoan văn nghệ "cây nhà lá vườn", tự biên tự diễn. Máy phát điện sáng rực trong hang động lớn. Trên sân khấu từ phông màn, trang phục diễn viên đủ màu sắc, làm bằng dù pháo sáng của Mỹ thu được trên trọng điểm. Có nhiều gương mặt hôm qua lên sân khấu báo cáo thành tích, hôm nay là diễn viên như: Nguyễn Thị Liệu, Vũ Tiến Đề, Phương Thảo, Hồng Tâm, Hồng Liên v.v... Lời ca, điệu chèo, kịch ngắn, độc tấu, ngâm thơ... diễn tả những gì đã diễn ra trên tuyến 20 Quyết thắng. Trình độ nghệ thuật có chừng mực, song mọi người vẫn say sưa ngắm nhìn hành động, tâm tư, tình cảm của chính mình và đồng đội đang diễn ra trên sân khấu... Những trận cười thoải mái, những tràng vỗ tay, hoan hô sôi nổi hòa nhập khán giả với diễn viên không chuyên.

Giờ giải lao, tôi ra cửa hang hóng mát, bỗng thấy bốn nữ thanh niên xung phong quần xắn cao, chân dép lốp, tay cầm võng, bạt, đòn khiêng. Mấy cô chạy đến hỏi tíu tít:

- Đi từ đâu đến đây vậy?

- Chúng em vừa cáng cái Chắt và Lân vào bệnh xá binh trạm.

- Sao vậy?

- Bị thương lúc sáng, địch đánh ngầm Khe Tum.

Tôi hỏi:

- Bị thương vào đâu? Nặng hay nhẹ?

- Vào chân và vai, phần mềm, nhẹ thôi.

- Thôi được, lát nữa tôi sẽ sang bệnh xá, các cô vào đây tham gia văn nghệ, đến chiều theo xe anh chị em đơn vị cùng về. Có cô nào biết hát không?

Một cô nhanh nhẩu trả lời:

- Cô Mậu ngâm thơ giọng Hà Tĩnh rất hay và cô Khiêm giọng Quảng Bình hát hay lắm thủ trưởng ạ.

Điều bất ngờ đến với tôi: cô giới thiệu tiết mục ngâm thơ và Bích Mậu vẫn trong bộ quần áo ướt sũng bước ra sân khấu.

Em xin ngâm bài thơ vừa sáng tác: "Cáng bạn"; Tiếng thơ dứt... có tiếng sụt sùi, người lau nước mắt vì xúc động mạnh, bởi nhân vật, sự kiện, sáng tác và biểu diễn chỉ một cô Bích Mậu.

Đến tiết mục đơn ca nữ: Hồng Khiêm quần xắn ống thấp ống cao, bước ra sân khấu hát bài: "Nổi lửa lên em", chất giọng nữ cao, trong trẻo, cả hội trường vỗ tay không dứt và yêu cầu hát lại. Tôi nhìn kỹ hóa ra cô Khiêm cáng bạn vào bệnh xá lúc sáng.

Chính ủy trao đổi với tôi, nhất trí thành lập đội tuyên truyền văn nghệ không chuyên của binh trạm và chọn "diễn viên" là những người đã thể hiện xuất sắc các tiết mục. Đồng chí Phạm Bá Chức, giáo viên văn hóa Đội 25 làm đội trưởng và 17 anh chị em thanh niên xung phong làm chiến sĩ. Chúng tôi đã cải biên nâng cao các tiết mục xuất sắc và cho đi đến các đại đội, tiểu đoàn biểu diễn phục vụ cán bộ, chiến sĩ.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Mười Hai, 2016, 07:16:25 am

Hội nghị tập huấn cán bộ quân chính binh trạm lần thứ nhất, cán bộ lãnh đạo, chỉ huy từ đại đội trở lên thay nhau về dự. Tại Hội nghị, Thường vụ đề ra hai yêu cầu:

- Một là: Thống nhất tư tưởng hợp đồng binh chủng vận tải quân sự nhằm đảm bảo đội hình tiểu đoàn xe vận tải tập trung, tăng cung, vượt chuyến.

- Hai là: Hồi phục sức khỏe mỗi cán bộ sau 10 ngày đến tập huấn, lúc về tăng 1-2kg; thư giãn, vui chơi thoải mái, chuẩn bị tinh thần đấu trí, đấu lực mùa khô năm 1967-1968.

Sau 9 ngày nghe báo cáo và thảo luận dân chủ quân sự, đi đến nhất trí: Lấy bộ đội xe làm chuẩn để tổ chức hợp đồng binh chủng vận tải quân sự.

Coi một ngày đêm là một trận chiến đấu vận chuyển để chia ba giai đoạn:

- Giai đoạn chuẩn bị (từ 9-17 giờ).

- Giai đoạn thực hành vận chuyển (từ 17-6 giờ).

- Giai đoạn kết thúc một trận chiến đấu vận chuyển (từ 6-8 giờ).

Quy định những việc phải làm trong từng giai đoạn của bộ đội xe, kho, công binh, cao xạ... Có những bài tập mẫu về xử lý tình huống diễn ra lúc địch đánh, đường tắc, vượt qua trọng điểm,v.v...

Ngày cuối cùng chúng tôi thảo luận hai câu hỏi:

- Mùa khô 1967-1968 địch sẽ dùng thủ đoạn gì? Quyết chiến điểm ở đâu?

- Ta chuẩn bị đối phó và hành động thế nào?

Có nhiều ý kiến tranh luận và đi đến nhất trí các phương án chuẩn bị (...) đối phó. Cuối cùng binh trạm trưởng kết luận ngắn gọn để nhớ:

- Địch đánh ngầm, ta đá (đổ đá); địch phá đường, ta nổ ủi (thuốc nổ và máy ủi); mở đường vòng tránh và nâng cấp đường, nâng bánh xe lăn.

- Cao xạ "nhằm thẳng quân thù mà bắn", không cho chúng đặt bom giữa tim đường và sát hại xe hàng. Vận tải - xe tốt lái giỏi, vượt cung, tăng chuyến...

- Chỉ huy thông suốt liên tục; ba trực tiếp (trực tiếp động viên giao nhiệm vụ, trực tiếp kiểm tra đôn đốc, trực tiếp đánh giá công việc và con người).

- Tất cả hành động dũng cảm, nhanh như sóc, mạnh như hổ, theo lệnh chỉ huy hợp đồng binh chủng của binh trạm, thông qua hệ thống trạm chỉ huy của giao thông vận tải trên đường (3-5 kilômét có một trạm).


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Mười Hai, 2016, 07:17:08 am

Đầu tháng 10, thanh niên xung phong, công binh ra quân khôi phục đường, ngầm toàn tuyến, tập trung vào những cung đường mà ta phán đoán địch sẽ đánh để chủ động chuẩn bị đối phó:

- Ở Ta Lê ta bí mật mở thêm ngầm 20B (cách ngầm 20A hai cây số về phía thượng lưu); mở đoạn đường 4 kilômét từ đoạn ngầm 20B nối liền Km 86 đường 20A dưới chân đèo Phu La Nhíc.

- Ở dốc cua Km 68, khảo sát chuẩn bị mở đường vòng tránh 13 kilômét, từ Km 66 đến Km 70.

- Ở các ngầm A Ki, Ka Roòng, Khe Tum địa hình núi cao, cua gấp; B52, cường kích rất khó đánh trúng; thanh niên xung phong vẫn dự trữ đá để tôn cao mở rộng ngầm và chống địch phá hoại.

- Ở Xuân Sơn hai bên đường, bốn bến mở rộng rải đá và giữ bí mật bến phà B, sẵn sàng phương tiện cho xe qua sông, nhập tuyến đường Hồ Chí Minh.

Giữa tháng 10, cơn bão số 9 đổ bộ xuống Quảng Bình gây trận mưa rất lớn. Từ A Ki ra cửa rừng hai bên đường sụt lở, đường trôi, xóa sạch thành quả 15 ngày khôi phục giao thông, thậm chí còn tồi tệ hơn trước khi khôi phục (1/10), giặc trời phá đường Trường Sơn mạnh hơn giặc Mỹ; thanh niên xung phong, công binh phải làm lại từ đầu. Giữa lúc đó, chúng tôi nhận được điện Tổng cục Hậu cần tiền phương gửi:

"BT14, BT12: 1.500 xe của Đoàn 559, trong đó có 200 xe chở hàng cho Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, 600 xe hàng cho Tây Nguyên, 500 xe hàng cho chiến trường Trị - Thiên và xe binh khí kỹ thuật của Đoàn 559 đang tập kết từ đèo Đá Đẽo trở ra, chuẩn bị nhập tuyến Trường Sơn. Cửa khẩu đường 20 là hướng tiến công chính (khoảng 1.200 xe), đường 12 là hướng bổ trợ (khoảng ± 300 xe), nếu đường 20 phát triển thuận lợi thì đón nhận tất cả. Binh trạm báo cáo quyết tâm. Ký điện: Đồng Sỹ Nguyên".

Tôi điện mời hai binh trạm phó cầu đường về hội ý với thường vụ, thảo luận kỹ, hạ quyết tâm (...). Sau đó, tôi điện báo cáo Bộ Tư lệnh Trường Sơn: "Mặc dù cơn bão số 7 tàn phá đường, ngầm nặng nề, nước lũ sông, suối còn cao, Binh trạm quyết tâm ngày 1 tháng 11 cho xe nhập tuyến. Nếu địch không mở trọng điểm lớn, thì nhận tất cả 1.500 xe... Đề nghị Tổng cục cho mượn bộ cầu phao chở trên xe nhập tuyến, bắc qua sông Son ba đêm". Ký điện: Trá.

Cơ quan binh trạm bộ, các phân trạm, tiểu đoàn giao liên, đề nghị gửi quân đến chi viện thanh niên xung phong khôi phục giao thông...


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Mười Hai, 2016, 07:17:44 am

Ngày 25 tháng 10, đường thông lần thứ hai; cơn bão số 10 ập đến, đất đá lại sụt lở, đường lại trôi, nước sông Son lên cao, chảy xiết.

Binh trạm nhận điện:

"Anh Nguyên đồng ý cho mượn bộ cầu phao, sau 3 đêm phải bốc lên xe hành quân gấp, kịp bắc qua sông Sê Băng Hiêng và hỏi quyết tâm của binh trạm sau cơn bão số 10".

Binh trạm trưởng trả lời:

"Vẫn giữ quyết tâm, ngày 1 tháng 11 cho xe nhập tuyến".

Năm ngày cuối tháng, toàn tuyến thi đua nước rút khôi phục đường, ngầm. Đại đội 16 cùng tiểu đoàn cầu Đoàn 559 chuẩn bị cho 1.500 xe vượt sông Son bằng hai phương tiện cầu phao và phà, trên hai bến Xuân Sơn A và B.

Lúc này, máy bay trinh sát của Mỹ tiếp tục hoạt động theo các tuyến đường 15, 12, 20, săn xe Đoàn 559 nhập tuyến vào.

Tranh thủ thời cơ địch sơ hở, trời còn mưa mù, lưu lượng nước trên sông Son giảm. Binh trạm trưởng hạ lệnh cho bắc cầu phao ở bến B, đồng thời cho hai phà chạy bến A để nghi binh hút địch.

17 giờ ngày 29 tháng 10, lợi dụng trời mưa, công binh cho xe ra bến hạ phao, bắc cầu. 19 giờ, các đoàn xe nối đuôi nhau, dồn dập, đều đều vượt cầu; máy bay đến đánh bến phà A, xe vẫn qua... Bỗng có ba phát súng báo hiệu tắc đường. Tôi ngồi quan sát ở vị trí đầu cầu, bắt đầu lo lắng... Chiếc xe thứ 500 qua khỏi cầu thì dừng lại; đồng chí chỉ huy giao thông bờ Bắc xuống xe báo cáo binh trạm trưởng: "Xe đi mật tập, dồn dập, đất không kịp thở, bị lún, tắc đường, xin lệnh tạm dừng để thanh niên xung phong chở đá, sửa đường...".

Binh trạm trưởng ra lệnh: "Dỡ cầu phao, đưa vào động Phong Nha giấu; phà A vẫn tiếp tục chở xe sang. Lệnh chi viện 3 xe chở đá cho thanh niên xung phong khôi phục đường B, đêm sau qua tiếp".

17 giờ ngày 30 trời vẫn mưa mù, đồng chí Sở, đại đội trưởng Đại đội 16 đứng trên phà ra bến A, cánh tay phải bị thương băng bó treo quàng qua cổ.

Tôi hỏi:

- Sao vậy?

Đồng chí nói:

- Báo cáo: động Phong Nha, phía trong nhường cho cầu phao, phà ở ngoài gần cửa hang. Sáng nay, máy bay ném bom cửa hang, cột nước văng qua đỉnh hang, tôi đứng trên phà, bị nhũ đá văng vào tay (...).

Hai đêm 29 và 30 tháng 10, hơn 1.200 xe vượt sông Son an toàn, tập kết từ Km 6 đến Km 39 đường 20. Cầu phao cho bốc lên xe, hành quân vào tuyến để kịp bắc qua Sê Băng Hiêng.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Mười Hai, 2016, 07:18:24 am

Địch bắt đầu đánh mạnh trên toàn tuyến 20. Ngầm Ta Lê và cua dốc 68 chúng sử dụng B52 và cường kích mở trọng điểm lớn, đồng thời cho máy bay cường kích thả bom tọa độ và bổ nhào đánh ngầm A Ki, Ka Roòng, Khe Tum, Xuân Sơn... quyết chặn đứng và tiêu hao Đoàn xe 559 nhập tuyến. Tình hình trở nên căng thẳng hơn. Đường 20 đã thông, nhưng còn lầy lội, nước ngầm còn cao, địch chặn đánh nhiều đoạn, nhất là Ta Lê và cua dốc 68. Giành giật quyết liệt với địch mỗi đêm, ta chỉ vượt được hơn một trăm xe. Lúc này ở Ta Lê ngầm và đường 20B sắp thông, tạo thành mũi vu hồi tránh trọng điểm ngầm 20A. Trên đường 20E lực lượng ta cũng quyết thông xe trước 10 tháng 11, làm mũi vu hồi trọng điểm cua 68; những điểm khác địch đánh, sau một giờ thanh niên xung phong đã thông xe.

Sau khi hai đoạn đường tránh đã thông, binh trạm cho xe Đoàn 559 mật tập vượt qua, dồn dập vào tuyến trong; Tiểu đoàn xe 781 thiện chiến vượt qua trọng điểm 68 và Ta Lê nghi binh hút địch.

Năm nào cũng vậy, khó khăn nhất vẫn là những tháng cuối mùa mưa, đầu mùa khô - Trời phá, địch đánh, cửa khẩu vẫn phải thông đường, đảm bảo cho xe Đoàn 559 qua sông, vượt núi Đông - Tây Trường Sơn an toàn và binh trạm vào mùa vận chuyển lớn.

Để phục vụ chiến dịch Mặt trận Đường 9 - Khe Sanh nổ súng đúng kế hoạch của Bộ Tổng Tư lệnh, Tổng cục Tiền phương quyết định điều chỉnh cung độ vận chuyển sang Lùm Bùm để từ Lùm Bùm, Binh trạm 32 vận chuyển tiếp theo đường 128 xuống Tha Mé, Thà Khống, Bản Đông...

Bộ Tư lệnh Sư đoàn phòng không 367 cho Trung đoàn 224 cao xạ phối hợp với Binh trạm 14 đánh địch từ khu vực Xuân Sơn đến Ta Lê; Tiểu đoàn 14 cao xạ bố trí đánh địch từ Lùm Bùm đến đèo Phu La Nhích. Chỉ huy sở tiền phương Trung đoàn 224 đóng bên cạnh Chỉ huy sở Binh trạm 14 ở phân trạm C.

Thế trận phòng ngự giữ đường, đánh địch đủ mạnh. Binh trạm mở nhiều đợt vận chuyển tăng cung, vượt chuyến, đẩy hàng sang Lùm Bùm và sẵn sàng vận chuyển thọc sâu xuống đường 9 phục vụ chiến dịch. Chiến sĩ lái xe Khúc Văn Lượng - Tiểu đoàn 781 lập kỷ lục thực hiện 1 đêm/chuyến trên cung lên 2 đêm/chuyến, 4 lần vượt trọng điểm bị B52 ngăn chặn ở cua 68 và ngầm Ta Lê trong đêm. Từ đó, phong trào thi đua giành danh hiệu "Dũng sĩ vận tải" ngày càng được nhiều chiến sĩ lái xe Tiểu đoàn 781 ghi tên.

Một ngày cuối tháng 12 năm 1967, tôi nhận được điện từ Bộ Tư lệnh Đoàn:

"Gửi Binh trạm trưởng 14: Đường 20 có thể hành quân cơ giới lớn được không? Trả lời gấp. Ký điện: Đồng Sỹ Nguyên".

Tôi trả lời:

"Binh trạm đã sẵn sàng, cho cán bộ đến hợp đồng cụ thể. Ký điện: Hoàng Trá".

Ngay sáng hôm ấy tôi làm việc với hai đồng chí tham mưu trưởng sư đoàn bộ binh 308 và 304 tại chỉ huy sở cơ bản Binh trạm 14 ở Cổ Giang. Chúng tôi thống nhất: Mỗi sư đoàn chia thành hai khối; mỗi đêm xe Tiểu đoàn 781 chở một khối, đi từ phân trạm A đến phân trạm C; đêm sau xe Tiểu đoạn 52 chở từ C đi Lùm Bùm; các đơn vị pháo mặt đất, cao xạ, binh khí kỹ thuật, hậu cần của sư đoàn tự hành quân, dưới sự chỉ huy của binh trạm. Việc bảo đảm bãi trú quân, ăn uống... do tiểu đoàn giao liên, phân trạm và cơ quan hậu cần binh trạm lo liệu. Quá trình hành quân, các cấp chỉ huy đơn vị bộ binh phải phục tùng sự chỉ huy của cán bộ xe, trạm chỉ huy giao thông và sở chỉ huy binh trạm. Cơ quan tham mưu hành quân của binh trạm phải có bản hợp đồng chi tiết, thời gian, địa điểm, số thứ tự từng xe chở v.v...


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Mười Hai, 2016, 07:19:00 am

17 giờ ngày 1 tháng 1 năm 1968, Sư đoàn trưởng Thái Dũng cùng ngồi trên xe con với tôi dẫn đầu đội hình khối I Sư đoàn 308, hành quân từ Km 4 đường 20 đến đỉnh U Bò. Pháo sáng treo lơ lửng vùng trời Khe Tum, tôi cho xe dừng lại trạm chỉ huy giao thông Km 39; pháo sáng vừa tắt, lưới lửa phòng không Trung đoàn 224 tung lên, đồng thời tiếng rít của máy bay bổ nhào, tiếng bom phá nổ vọng đến; lưới lửa phòng không đợt hai tung lên, lại nghe tiếng rít của máy bay bổ nhào, tiếng bom bi nổ lụp bụp kéo dài 45 phút. Trạm chỉ huy K39 điện thoại hỏi trạm chỉ huy K42, đường dây đứt; tôi giục đồng chí mang máy bộ đàm 2W đi cùng lên máy liên lạc... Đồng chí Sáu, chính trị viên Tiểu đoàn 23 thanh niên xung phong báo cáo: đợt bom phá trượt lên đồi, đường ngầm vẫn thông; trong đợt bom bi thì có một thanh niên xung phong và chiến sĩ cao xạ bị thương, đang sơ cứu, cáng về bệnh xá phẫu thuật... Đài quan sát báo cáo: Địch chuyển sang trinh sát ngầm Ka Roòng (Km 52) và A Ki (Km 61); Binh trạm trạm trưởng ra lệnh cho xe tiếp tục hành quân vượt ngầm Khe Tum tiếp cận Ka Roòng.

Sư đoàn trưởng Thái Dũng ngồi bên tôi tỏ ra lo lắng - Tôi bảo: Anh cứ yên tâm, quân binh trạm biết đánh, tránh, tiến... như thế nào cho thắng lợi, an toàn.

Xe tôi đến trạm chỉ huy giao thông Km 50 thì dừng lại, đợi đợt giao chiến giữa cao xạ và máy bay Mỹ ở Ka Roòng và A Ki dứt. Đồng chí Huyền, thủ trưởng Tiểu đoàn 25 báo cáo: "Sau hai đợt bom phá, bom bi ở Ka Roòng, A Ki, quân ta an toàn, đường hỏng nhẹ. Quyết tâm 30 phút thông xe".

Tôi nói với anh Thái Dũng: "Anh hút thuốc đi cho thoải mái, đợi hiệu lệnh thông đường, chúng ta sẽ đi đến đích".

Đúng 24 giờ, tôi và Thái Dũng ngồi ở trạm chỉ huy Km 66, nhìn đoàn quân ngồi trên xe tải, xanh lá ngụy trang, dưới đèn rùa le lói ánh sáng xanh, từng chiếc một cự ly khoảng 100m, từ từ rẽ vào đường tránh 20E...

Đi đầu là xe Đại đội 1 rồi tiếp đến là đoàn xe các đại đội 6, 10 và 15. Đại úy Lê Hồng Khang, tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 781 ngồi xe đầu xuống báo cáo binh trạm trưởng...

Thượng úy Ma Doãn Thanh, chính trị viên phó Tiểu đoàn 781 ngồi xe đi cuối đội hình xuống xe báo cáo binh trạm trưởng: đội hình Tiểu đoàn 781 hôm nay có 180 xe, chở hai trung đoàn bộ binh khối I Sư đoàn 308 đã đến đủ, an toàn tuyệt đối.

Anh Thái Dũng bắt tay Hồng Khang và Ma Doãn Thanh mừng vui khó tả... Anh nói:

- Cảm ơn, cảm ơn, chiến thắng trận đầu, quân các anh tất cả là dũng sĩ vận tải!...

Tôi nói:

- Mới một trận, chớ chủ quan, phải chiến thắng ba trận nữa mới dám nhận lời khen của sư trưởng, phải không đồng chí Khang?

Tôi giục lên xe cho đơn vị quay về A trọn vẹn 100% để tối mai chở khối II.

Hồng Khang nói:

- Binh trạm trưởng yên tâm, Tiểu đoàn 781 sẽ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đặc biệt này - Rồi anh lên xe và hạ lệnh xuất phát.

Tôi đưa anh Thái Dũng về chỉ huy sở tiền phương binh trạm ở phân trạm C.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Mười Hai, 2016, 07:19:29 am

Chiều mùng 2 tháng 1 năm 1968, sau khi kiểm tra khối I, chúng tôi lên xe Tiểu đoàn 52 hành quân tiếp chặng Bản San đi Lùm Bùm. Đến 19 giờ, tôi và anh Thái Dũng đến trạm chỉ huy K66 để theo dõi khối II hành quân.

20 giờ pháo sáng, bom nổ hướng Khe Tum, Ka Roòng. Chuông điện thoại reo, tôi cầm máy; trạm K42 báo cáo: địch vừa đánh ngầm Khe Tum. Không trúng đường, quân ta an toàn.

- Đội hình xe Tiểu đoàn 781 hiện ở đâu?

- Đang lên đỉnh U Bò.

- Cho đi tiếp - Tôi nói.

21 giờ lại pháo sáng, bom bi nổ hướng Ka Roòng, Khe Tum. Tôi và anh Thái Dũng lo lắng, hồi hộp... gọi điện hỏi trạm K50.

- Nó đánh ở đâu?

- Vừa đánh ở ngầm Ka Roòng (Km 52).

- Xe Tiểu đoàn 781 đến đấy chưa? - Tôi hỏi.

- Đại đội 15 đi đầu đã qua khỏi, còn Đại đội 10 đi thứ hai mới đến Km 50, an toàn.

22 giờ 10 phút lại pháo sáng, bom bi nổ phía Khe Tum.

Tôi nói với anh Thái Dũng: Địch thay đổi quy luật đánh, tôi sợ dính đuôi đội hình hành quân.

Một lúc sau, trạm chỉ huy K42 báo cáo: Địch lại ném bom bi Khe Tum, đội hình Tiểu đoàn 781 đã đi qua an toàn. Chúng tôi thở phào nhẹ nhõm...

- Anh hút thuốc đi cho khoái... - Thái Dũng mỉm cười.

23 giờ, xe đi đầu đã đến trạm chỉ huy K66. Đại úy Cấp - chính trị viên Tiểu đoàn 781 và sư phó Sư đoàn 308 xuống xe vội vã hỏi trạm trưởng chỉ huy giao thông:

- Nó đánh bom bi giữa và cuối đội hình hành quân, có ai bị thương vong không?

Tôi từ trong hầm chữ A bước ra:

- Sư phó yên tâm: trận thứ hai nó đánh chặn đầu, thì đầu đã qua xong; đại đội thứ hai chưa tới. Trận thứ ba đánh cắt đuôi thì xe cuối cùng của Đại đội 1 đã qua khỏi...

24 giờ, thượng úy Võ Quốc Khánh, tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 781 đi xe cuối cùng đến báo cáo:

- Đội hình hành quân Tiểu đoàn 781 hôm nay có 178 xe chở 1 trung đoàn và cơ quan, phân đội trực thuộc sư đoàn đã đến đủ, an toàn.

Sáng ngày 3 tháng 1, giao ban ở chỉ huy sở tiền phương, Binh trạm trưởng chỉ thị:

... "Các cán bộ chỉ huy tiểu đoàn, đại đội thanh niên xung phong chốt chỉ huy trên đường không được thay thế, cùng trạm trưởng chỉ huy giao thông rút kinh nghiệm, bổ khuyết kịp thời những thiếu sót, để cơ động tiếp Sư đoàn 304. Địch hay thay đổi thời gian, địa điểm đánh chặn; cần giữ cự ly hành quân xe cách xe 100 mét và giãn cách giữa các đại đội lên 2.000 mét đến 3.000 mét, yêu cầu Trung đoàn 224 cho cao xạ đánh mạnh, không tiếc đạn, áp đảo địch, bảo vệ an toàn đội hình hành quân cơ giới"...


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Mười Hai, 2016, 07:20:23 am

19 giờ 30 phút ngày 30 tháng 1 địch thả pháo sáng đánh dốc Khe Diêm (Km 30). Ở trạm chỉ huy Km 39, tôi đứng ngồi không yên, bởi xe Đại đội 15 đi đầu, trong đó có đại tá Vũ Yên - Sư trưởng Sư đoàn 304.

Núi rừng tĩnh mịch im lặng, tôi nghe rõ tiếng súng hiệu lệnh: Hai phát súng... (đường vẫn thông), nín thở chờ đợi... (vẫn im lặng; không có 5 phát cấp cứu); có tiếng rì rầm, ánh đèn rùa lấp ló, chiếc xe con đi đầu đến, sư trưởng Vũ Yên và Hồng Khang, tiểu đoàn trưởng xuống xe lo lắng hỏi tôi:

- Có sao không anh?...

Cùng lúc đó trạm chỉ huy 32 báo cáo:

- Địch đánh dốc Khe Diêm, xe cuối cùng Đại đội 15 vừa qua khỏi; xe đi đầu của Đại đội 10 mới đến Km 30, đơn vị an toàn.

Tôi lệnh cho 35 xe của Đại đội 15 tạm dừng ở K39 đợi xem địch đánh tiếp ở đâu?

20 giờ 15 phút chúng thả pháo sáng đánh bom sát thương và bom bi đoạn Khe Tum, pháo 37 ly của ta bắn lên dữ dội. Trạm chỉ huy K42 báo cáo đường vẫn thông. Tôi lệnh cho Đại đội 15 và Đại đội 10 vượt Khe Tum, tiếp cận Ka Roòng, Đại đội 1 tiếp cận Khe Tum và Đại đội 6 dừng ở đỉnh U Bò, hành quân theo kiểu sâu đo, từng đại đội vẫn giữ giãn cách 2.000-3.000 mét.

21 giờ 20 phút địch đánh ngầm Ka Roòng, sau đó chuyển vào đánh A Ki.

23 giờ 30 phút, xe đi đầu đến Km 66 rẽ vào đường 20E, lần lượt 4 đại đội xe đến đích đủ, trả quân quay về A, xe cuối cùng đến lúc 2 giờ sáng ngày 4 tháng 1.

Ngồi cùng xe con về chỉ huy sở tiền phương binh trạm, anh Vũ Yên khen binh trạm tổ chức tốt việc chỉ huy hợp đồng binh chủng hành quân cơ giới; trong đêm địch chặn đánh 4 lần ở 4 điểm, 185 xe chở 2 trung đoàn bộ binh chạy 70 kilômét trong 7 tiếng đến đích an toàn; xe quay vòng 100%, đêm sau chở tiếp khối II Sư đoàn 304.

Đêm 4 tháng 1, địch vẫn đánh 4 điểm theo quy luật thời gian, không gian, 182 xe chở nốt 1 trung đoàn và cơ quan, phân đội trực thuộc Sư đoàn 304 đến đích an toàn. Trong 5 đêm, hai tiểu đoàn xe 781 và 52 đã cơ động hai sư đoàn bộ binh vượt cửa khẩu đường 20 đến Lùm Bùm, bàn giao cho Binh trạm 32. Từ đó, theo đường 128 chở vào tiếp cận Đường 9 - Khe Sanh, chuẩn bị mở chiến dịch...

Tổng cục tiền phương chỉ thị binh trạm rút kinh nghiệm những năm sau chở hàng vào, chở thương binh và cán bộ ở miền Nam ra Bắc. Lúc đó tôi chưa nghĩ tới, đó là tiền đề, tập dượt để 7 năm sau (mùa Xuân 1975), Sư đoàn xe ô tô 571 Đoàn 559 cơ động hai quân đoàn 1 và 2 hành quân thần tốc hàng nghìn kilômét, tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn.

Tổng cục tiền phương chỉ thị: Các binh trạm phía nam mở các đợt thi đua tổng công kích, dứt điểm kế hoạch vận tải mùa khô 1967-1968, phục vụ chiến dịch phản công chiến lược miền Nam; Binh trạm 14 được tăng cường Tiểu đoàn xe 990.

Lúc này trên tuyến đường 20, thủ đoạn chủ yếu của địch vẫn là sử dụng B52 và cường kích ném bom nhằm phá đường, gây tắc và sát thương trên hai trọng điểm chính: cua 68 và ngầm Ta Lê, đồng thời sử dụng máy bay AD6 thả pháo sáng, đánh bom bi, bom sát thương đội hình xe vận tải, ở các đèo, dốc, lên xuống ngầm A Ki, Ka Roòng, Khe Tum và khu vực Xuân Sơn, Phong Nha, Cù Lạc, Khương Hà, v.v. Theo quy luật thời gian xe vận hành, từ 18 giờ đến 24 giờ, chúng đánh ngăn chặn từ đông sang Tây Trường Sơn và từ 1 giờ đến 6 giờ sáng đánh ngược lại.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Mười Hai, 2016, 07:20:44 am

Lực lượng ta bố trí như sau: chốt một trung đội thanh niên xung phong, một máy ủi, ba xe Ben chở đá... phòng ngự, cơ động khôi phục ngầm và đường 20A, 20B. Chốt một trung đội và một máy ủi phòng ngự cua dốc 68, ở đây đèo đất, địch phá đường, ta san lấp, đường càng rộng, hạ dốc và bớt cua.

Hai tiểu đoàn xe 781 và 990 được Trung đoàn 224 cao xạ đánh yểm trợ; chỉ huy sở binh trạm, trạm chỉ huy giao thông vận tải (3-5 kilômét một trạm), nắm vững quy luật địch đánh, chọn thời gian, không gian thích hợp, cho xe vượt trước, hoặc chờ địch đánh xong chuyển làn thì vượt qua các điểm địch đánh ngăn chặn. Tiểu đoàn 781 hiểu địch, thuộc đường, chạy cung dài từ A đến Lùm Bùm (110 kilômét). Tiểu đoàn 990, chưa quen đường, hiểu địch nên cho chạy cung ngắn từ A đến C (70 kilômét), không phải vượt trọng điểm 68 và Ta Lê.

Với khí thế vượt lên đầu thù, vượt cung tăng chuyến, ai cũng muốn lập công; đến trọng điểm 68 - Ta Lê, ai cũng muốn chạy đường vòng, tránh (20E và 20B) để tăng chuyến vượt cung và ít thương vong hơn; binh trạm bắt buộc mỗi đêm Tiểu đoàn 781 để một đại đội vượt qua trọng điểm chính 68 - Ta Lê để nghi binh hút địch; tiểu đội xe đi cuối bật đèn pha lúc qua trọng điểm, địch đến đánh, chuyển qua đèn gầm chạy tiếp... cố ý làm cho địch thấy đêm nào cũng có xe qua trọng điểm, bằng ánh đèn pha và vết bánh xe lăn. Tất nhiên có thương vong, anh em xác định qua trọng điểm là: "Qua cửa tử để giữ cửa sống cho đơn vị". Từ người chỉ huy đến từng chiến sĩ đều nêu cao tinh thần dũng cảm mưu trí, dám chấp nhận hy sinh nhỏ để giành lấy thắng lợi lớn.

Ngày 20 tháng 1 năm 1968, bộ đội ta nổ súng mở màn chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh. Đêm 30 rạng ngày 31 tháng 1 năm 1968 (đêm giao thừa Tết Mậu Thân), cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt trên khắp các thành phố, thị xã miền Nam. Trước sức tiến công ồ ạt của quân dân ta, Mỹ - ngụy tập trung máy bay đối phó, mật độ đánh phá trên đường 20 giảm. Binh trạm mở đợt công kích nước rút, dứt điểm sớm kế hoạch vận tải mùa khô 1967-1968.

Ngày 19 tháng 5 mừng sinh nhật Bác. Chính ủy Nguyễn Việt Phương tổ chức cho đội tuyên truyền văn nghệ binh trạm chăng khẩu hiệu, kết lá trên chiếc xe con, chở lẵng hoa Bác Hồ tặng thưởng tuyến 20 cửa khẩu đường Hồ Chí Minh. Từ cửa rừng đến Ta Lê, các đơn vị đón mừng hai bên đường, ở các điểm quy định.

Xe dừng lại, trợ lý tuyên huấn Nguyễn Kim Truyền (trưởng ban tuyên huấn binh trạm) vác loa 25W đi trước; Phạm Bá Chức, đội trưởng tuyên truyền văn nghệ cầm đài bán dẫn Li-đô thay micro đi sau, đọc bản tuyên dương thành tích:

"Cán bộ, chiến sĩ thanh niên xung phong tuyến đường 20 Quyết thắng - cửa khẩu đường Hồ Chí Minh. Mùa khô 1967-1968, mặc dù địch đánh tăng hơn hai lần mùa khô 1966-1967, binh trạm vận tải khối lượng gấp hơn hai lần mùa khô trước, chưa kể hơn một nghìn xe Đoàn 559 chở hàng đi thẳng qua tuyến và cơ động hai sư đoàn bộ binh vào mở chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh...".

Tiếp theo nam nữ diễn viên đội văn nghệ cất lên tiếng hát lời ca vang dội giữa núi rừng Trường Sơn, cổ vũ cán bộ, chiến sĩ thanh niên xung phong chuẩn bị tinh thần, bước vào cuộc thử thách mới... Lúc đó, tôi không ngờ đó là phần thưởng cuối cùng của Bác Hồ đối với tuyến đường 20 trước lúc Bác đi xa...


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Mười Hai, 2016, 10:29:55 pm

MỞ ĐƯỜNG VÀO B4
Đại tá ĐẶNG VĂN NGỮ
Nguyên Trưởng phòng Bảo đảm giao thông Đoàn 559
Nguyên Binh trạm trưởng Binh trạm 32

Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, thành phố Huế vẫn kiên cường giành dân, giữ đất. Địch đánh nống ra A Sầu, A Lưới, đổ bộ trực thăng nhằm chiếm giữ dốc Con Mèo với bất kỳ giá nào. Đây là vị trí có ý nghĩa quan trọng, án ngữ con đường đi nam Khe Tre, vào A Sầu, A Lưới. Tại đây, lực lượng ta đã chiến đấu dũng cảm, bắn rơi hàng chục trực thăng, không cho quân Mỹ đổ bộ và chiếm giữ. Thế trận giằng co giữa ta và địch diễn ra quyết liệt.

Tranh thủ thời gian không quân, bộ binh địch bị hút vào các chiến trường để đối phó với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân dân ta, trên tuyến chi viện Trường Sơn, các đơn vị được lệnh đẩy nhanh việc vận chuyển vào tuyến trong. Lúc này, Binh trạm 42 nhận nhiệm vụ: phải bằng mọi cách nối thông, đưa hàng vào chiến trường B4. Sau buổi giao ban căng thẳng, một đoàn đốc chiến của Bộ Tư lệnh 559 được thành lập khẩn trương vào giúp Binh trạm 42. Đoàn gồm Phó tư lệnh Lê Đình Sum và sĩ quan các ngành tác chiến, pháo binh, hậu cần, vận tải, công binh trên hai xe Gát 69, đi lấn sáng lấn chiều không dừng lại Binh trạm 42 ở Động Con Tiên. Binh trạm trưởng Hoàng Huyềnh đã có mặt đón đoàn tại địa đạo trung tâm và dẫn khách về nhà nghỉ ăn cơm sáng.

Nhà khách của Binh trạm là những nhà hầm nửa chìm nửa nổi đào dựa vào sườn đồi, ngụy trang rất khéo, mái lợp cỏ tranh, có hầm chữ A liền kề, mỗi nhà có 2 hoặc 3 giường nằm chân thấp, giát giường bện nứa bằng phẳng, có chăn đơn, màn đơn, sạch sẽ gọn gàng, trên bàn có chiếc đèn dầu ma dút, có bìa che ánh sáng đề phòng máy bay địch phát hiện. Bước chân vào trạm khách khó có thể nghĩ rằng nơi đây đang là một chiến trường ác liệt và gian khổ, trận chiến giữa địch và ta đang xen kẽ. Địa đạo chỉ huy sở binh trạm không xa tuyến đường nên càng cảm thấy gần khi OV10, trực thăng quần thảo trên đầu.

Trong phiên làm việc đầu tiên với Binh trạm, đồng chí Lê Đình Sum nói rõ nhiệm vụ và phân công từng nội dung công việc. Đặc biệt, có một việc hết sức cấp bách là cần phải nối thông đoạn đường tránh dốc Con Mèo tới A Sầu - A Lưới đến Sông Bồ gặp đường 12, tận dụng đường 12 sẵn có để chi viện đưa hàng vào Huế. Thời gian để hoàn thành là 10 ngày, nếu tính số kilômét, như vậy mỗi ngày phải hoàn tất 1 kilômét mới bảo đảm cho xe cơ giới cơ động được.

Để mở con đường này, lực lượng nòng cốt là công binh Binh trạm 1. Lực lượng do cấp trên tăng cường gồm Trung đoàn công binh 7 do đồng chí Lê Văn Xương chỉ huy, Trung đoàn công binh 4 do đồng chí Tạ Viết Quý chỉ huy; lực lượng cơ giới có 2 máy ủi đã bố trí ở nam A Sầu, A Lưới. Ngoài ra Binh trạm còn huy động thêm 4 tiểu đoàn quân đi B dừng lại. Tại cuộc họp, đồng chí Sum nói: "Toàn bộ công việc này anh Ngữ, trưởng phòng bảo đảm giao thông chịu trách nhiệm trước Tư lệnh như anh Nguyên đã giao trực tiếp trước khi đi; riêng anh Tạm - Phó chủ nhiệm chính trị giúp anh Ngữ về công tác chính trị trong đợt ra quân này. Anh Tạm còn có nhiệm vụ vào họp với Mặt trận giải phóng tại địa đạo trên đường 12 nên anh Tạm có thể cùng đi hoặc đi trước đoàn công binh".

Để chỉ huy các lực lượng mở đường, chúng tôi phân công nhau đi làm hai nhóm: anh Tạm đi trước có anh Tho - phó chính ủy Binh trạm cùng đi, khi đi phải bố trí thêm một cáng vì vết thương ở đùi anh Tạm bị sưng lên không đi bộ được. Còn anh Kim - Chính ủy Binh trạm cùng đi với tôi.

Trên đoạn đường tránh Con Mèo chúng tôi vẫn đi chung với nhau vì đoạn này chỉ cần cải tạo ít, xe cơ giới có thể đi được. Còn từ A Sầu, A Lưới vào sông Bồ đoàn anh Tạm tách ra đi trước để kịp họp còn chúng tôi phải đi chậm lại để vừa tính toán khối lượng thi công vừa giao nhiệm vụ cho từng đơn vị, riêng với các tiểu đoàn quân đi B dừng lại phải phân công cán bộ công binh làm nòng cốt và giúp cán bộ bộ binh cách tổ chức thi công.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Mười Hai, 2016, 10:30:32 pm

Sau một ngày nhận nhiệm vụ, mọi công việc chuẩn bị đã hoàn tất để hôm sau các lực lượng bắt đầu thi công; riêng 2 máy húc chúng tôi thống nhất cho hoạt động liên tục, thay lái và chỉ ngừng để bảo dưỡng, sửa chữa. Các đơn vị dốc toàn sức, dồn toàn lực để sớm thông đường nối tuyến chi viện chiến lược với tuyến chiến dịch của chiến trường bằng một con đường mới tránh đoạn qua dốc Con Mèo, nơi đang giao tranh ác liệt giữa quân ta với quân Mỹ.

Đúng ngày thứ 10 từ sở chỉ huy cơ bản, anh Chiêm - Chính ủy gọi điện thoại cho tôi "Sống chết đồng chí cũng phải cho xe vào ngày hôm nay". Nhận chỉ thị, ngay lập tức dù đường chưa thông hoàn toàn, tôi vẫn lệnh cho một đoàn xe Gát 69 đầu tiên chở hàng vào sông Bồ, huy động cả người cả máy húc kéo từng xe vào những dốc chưa đạt tiêu chuẩn và nhưng rồi chuyến hàng đầu tiên đã được giao cho chiến trường Trị - Thiên. Thành công của tuyến đường này phải kể đến công sức của một đại đội dân công người Vân Kiều được Mặt trận huy động ra giúp chúng tôi, chủ yếu là dẫn đường và huy động thêm sắn, bột búng báng bổ sung vào khẩu phần ăn của bộ đội vì lương thực không đưa vào kịp. Bộ đội tập trung hạ các đèo, dốc đạt tiêu chuẩn đường quân sự làm gấp, công việc chi viện cho mặt trận Thừa Thiên - Huế được khai thông trong sự hân hoan của mọi người. Khi công việc đã tạm ổn thì anh Thế - Binh trạm phó tác chiến truyền đạt chỉ thị của Tư lệnh là đảm bảo an toàn cho đoàn thân sĩ yêu nước của Mặt trận giải phóng ra hậu phương. Đoàn của mặt trận gồm Phó chủ tịch liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hòa bình miền Nam Việt Nam - Thượng tọa Thích Đôn Hậu; Phó chủ tịch Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, cụ Nguyễn Văn Đóa; giáo sư trường Đồng Khánh, bà Tuần Chi vạ chú tiểu là lái xe cho Thượng tọa khi còn ở Huế.

Chúng tôi xem lại tọa độ nơi đón đoàn, nghiên cứu kỹ điện của Bộ Tư lệnh và tổ chức hiện nay. Hoàng hôn miền Tây Huế, một đêm mới sang xuân, trời mưa phùn nhẹ hạt, se lạnh, trong thời điểm cuộc chiến đang trong thế giằng co ác liệt, không gian cứ trầm trầm ẩn ẩn, chúng tôi đã gặp đoàn của mặt trận, trao đổi mật hiệu, tay bắt mặt mừng.

Một tập thể tổ chức quân đội miền Bắc ở chiến trường có sĩ quan, có chiến sĩ, có quân y đi theo đón một đoàn nhân sĩ, các phật tử sống trong vùng địch gần suốt cả cuộc đời, khác nhau cả về cuộc sống vật chất đến phong cách tập quán, nhưng lại đồng nhất một nguyện vọng độc lập dân tộc, thống nhất đất nước - mới lần đầu gặp nhau trong ánh sáng mờ ảo, sau như quen nhau đã lâu, đã thân quý nhau thật tình.

Thượng tọa Thích Đôn Hậu có dáng người tầm thước, dáng đi đạo mạo, vẻ mặt hơi tư lự đăm chiêu, hai tay chắp vào nhau có chút gì vừa cung kính vừa thân tình gọi mọi người bằng đồng chí, giới thiệu cụ Đốc Đóa, bà Tuần Chi... Binh trạm Phó Thế cũng giới thiệu một số cán bộ chủ chốt và tổ chức tranh thủ lên đường ngay, tránh mọi trở ngại có thể xảy ra.

Vì biết trước có bà Tuần Chi nên chúng tôi bố trí hai nữ quân nhân của Binh trạm đi phục vụ. Bằng giọng Huế ngọt ngào, bà trìu mến nắm tay, vỗ vai, xoa đầu các cô gái trẻ, khen các cô gái dịu hiền, khỏe khoắn và rắn rỏi... Ánh mắt bà đăm chiêu nhìn xa xăm, có lẽ bà đang liên tưởng nghĩ đến các cô con gái của bà?

Cụ Đốc Đóa, một nhà giáo nổi tiếng ở nội đô Huế, đã lớn tuổi, dù không được khỏe nhưng anh Thế đề nghị thế nào cụ cũng nhất quyết không chịu ngồi võng. Cứ một tay cầm gậy, một tay cầm chiếc đèn pin đã bọc mùi xoa che mờ ánh sáng, cụ đi giữa anh Thế và tôi, vừa đi vừa trao đổi chuyện trò. Cụ Đốc Đóa hoạt động cách mạng đã khá lâu, am hiểu tình hình nhiều mặt, từ vùng giải phóng đến miền Bắc. Là nhà trí thức, cụ lại vui tính cởi mở, nói chuyện râm ran dọc đường với anh chị em như đã thành những người bạn đường thân thiết.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Mười Hai, 2016, 07:54:59 am

Đến trạm tiền phương Binh trạm 42, trăng đã lên quá đỉnh đầu, sương đêm về sáng nhỏ giọt rừng khuya trải dài bàng bạc. Giá như không có tiếng máy bay OV10 rè rè rền rĩ, tiếng bom tọa độ xa xa, tiếng pháo cầm canh điểm đều đều quay vòng một bán kính mà tâm của nó đâu đó từ thành phố Huế nổ vu vơ đáng ghét, thì cảnh quan đất trời với núi non Trường Sơn trùng điệp nơi đây cũng gợi nên vẻ đẹp u tịch thần tiên hiếm có.

Đến chặng nghỉ chân, gọi là trạm tiền phương dã chiến, nhưng đoàn cũng được tiếp đón khá chu đáo, có nước ấm rửa chân tay, có bát cháo khuya mắm muối đậm đà, không quên có đĩa ớt cay tê lưỡi. Trong căn hầm chữ A tiền phương nhường cho các vị khách, ánh pháo sáng lập lòe khi vơi khi đầy, anh chị em đã chuẩn bị một chỗ ngả lưng tạm thời; còn lại thì tỏa ra các vị trí dự bị xung quanh lo sắp xếp giải quyết công việc cho buổi sáng mai. Và chỉ ít phút sau, cả đoàn khách đã im lặng, một giấc ngủ ngon lành hiếm có ngay tại chiến trường mà có lẽ cả cuộc đời đã xế bóng của ba vị khách cao niên chắc chắn chưa được một lần như thế.

Trưa ngày hôm sau, đoàn đến Binh trạm bộ 42. Thượng tọa, bà Tuần Chi, cụ Đốc Đóa nắm chặt tay binh trạm trưởng Hoàng Huyềnh và chính ủy Binh trạm xúc động khen ngợi, thán phục việc tổ chức tiếp đón nhiệt tình, thắng lợi ở chặng đường đầu tiên.

Binh trạm trưởng, chính ủy, đồng chí Thế và tôi ăn cơm trưa chiêu đãi khách.

Các vị khách không khỏi ngạc nhiên với bữa cơm chiêu đãi này. Giữa rừng núi âm u xung quanh đầy bom đạn, đoàn Phật tử từ Cố đô Huế lên lại có một bữa cơm chay thật sự. Giữa bàn, hai đĩa đậu phụ được anh nuôi bày rất khéo nhưng không hoa lá, hai bát tương, đĩa rau cải tăng gia, đĩa nộm hoa chuối trộn vừng, đĩa rau thơm với khá nhiều loại rau bày gọn trên hai lá dong rừng xếp ngược đầu nhau được cắt ghép thành hình bầu dục đặt ở hai đầu bàn, mặt bàn trải tấm ni lông vuông vắn màu cánh gián.

Bà Tuần Chi, đời thường chắc hẳn là một "nữ tướng" nội trợ nhìn chăm chú khắp bàn ăn: "Chà! Anh em giỏi quá, các cháu gái nấu ăn giỏi quá, lãnh đạo cũng quá chu đáo, bộ đội đánh giặc giỏi, ngoại giao giỏi, nội trợ cũng tài".

Thượng tọa Thích Đôn Hậu đăm chiêu suy nghĩ, chậm rãi tán thành ý bà Tuần Chi: "Thiệt tình bộ đội miền Bắc là rất giỏi, đồng bào miền Nam, bà con Huế nói không sai, Bác Hồ là ông Thánh. Đây là sự giáo dục dạy dỗ của Bác Hồ phải không các đồng chí!".

Bữa cơm chay đơn sơ, có bình phẩm có ngợi khen thật tình, người dùng bữa thấy thật sự ngon miệng, người phục vụ lấy thêm thức ăn, mang thêm bát canh chua rau rừng, xới thêm bát cơm cho khách, được tiếp thêm sự hào hứng phấn khởi.

Vị khách "nội bộ" là tôi Đặng Văn Ngữ cũng không khỏi ngạc nhiên, rỉ tai binh trạm trưởng được biết Chính ủy Bộ Tư lệnh có thông báo và chỉ đạo nên cũng đã có sự chuẩn bị từ trước. Anh Huyềnh còn cho biết thêm, Binh trạm cũng đã cử nữ y tá của Binh trạm đến thăm hỏi, chăm sóc, xoa bóp cho bà Tuần Chi. Bà đã thật sự xúc động, khẳng định việc đi theo kháng chiến, theo cách mạng - bước ngoặt cuộc đời của bà là hoàn toàn đúng đắn.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Mười Hai, 2016, 07:56:22 am

Bỗng cụ Đốc Đóa cởi mở nói sau một chút ngập ngừng: "Chúng tôi biết là với đôi dép hạ, giày ba ta chúng tôi đang dùng đây, đi đường mòn Hồ Chí Minh này là không phù hợp, muốn xin các đồng chí cho chúng tôi mỗi người một đôi dép cao su Bác Hồ được không?".

Yêu cầu đó được đáp ứng ngay - các vị khách hồ hởi, phấn khởi biểu lộ rõ qua nét mặt - trên chặng đường đầu tiên từ lăng Minh Mạng phía Tây thành phố Huế lên dốc Con Mèo khu vực Binh trạm 42, cụ Đốc Đóa đã hiểu ra yêu cầu này, nói thêm:

"Đôi dép Bác Hồ, tôi đã được nghe nói đến từ hồi chống Pháp, đôi dép Bình Trị Thiên, lợi hại lắm, dùng vừa bền, vừa rất thuận tiện".

- À, còn phải dự bị vài quai dép thay thế - anh Thế rút sau túi quần dụng cụ dùng để xâu quai và làm động tác thay quai.

Không biết có phải mới được thấy lần đầu không mà Thượng tọa và bà Tuần quan sát rất chăm chú. Trong tâm tư của họ dường như hết nỗi lo âu là lấy gì để bảo vệ đôi chân sẽ còn phải bước chắc là rất nhiều ngày trên đường mòn Hồ Chí Minh vạn dặm này.

Ba chiếc xe Gát 69 đã sẵn sàng. Xe được ngụy trang cẩn thận, đầu quay về hướng tây.

Cụ Đốc Đóa, bà Tuần Chi đi xe đầu, Thượng tọa Thích Đôn Hậu và chú tiểu ngồi xe thứ hai, tôi cùng hai đồng chí cán bộ của binh trạm ngồi xe thứ ba, có nhiệm vụ hộ tống. Tất nhiên, mỗi xe của các vị khách đều có quân y binh trạm đi theo đề phòng bất trắc về sức khỏe.

Xe đi theo đường B45, về ngã ba La Hạp, một ngã ba trọng điểm bom đạn nổi tiếng ác liệt, đến Binh trạm bộ 33 nghỉ một ngày theo kế hoạch, hôm sau mới về đoàn bộ ở K1.

Đến binh trạm, mới phát hiện chiếc ví đầm bằng da màu đen, bà Tuần Chi luôn cầm tay bị rơi lúc nào không hay biết. Bà Tuần Chi băn khoăn trao đổi với Thượng tọa, rồi cho Binh trạm biết là trong ví còn có giấy tờ của mặt trận, từ lúc ra đi bà xem là vật tùy thân của cả cuộc đời còn lại, cùng một số kỷ vật quý bà mang theo ra Bắc.

Trong tình huống đặc biệt nàv, thật khó tìm ra giải pháp xử lý. Suốt gần trăm kilômét đường đi, xe không có sự cố, không phải dừng lại dọc đường, đường đất đá gồ ghề đi có xóc, nhưng xe vẫn chạy đều đều, máy bay địch không phát hiện được, xe không bị săn đuổi. Người nữ quân y đi theo, ngồi cạnh bà cho biết bà rất tỉnh táo, không say xe, vẫn trò chuyện trao đổi...

Đã có phương án của Binh trạm 33 phải thông báo cho các đơn vị bảo đảm giao thông, sáng sớm mai tổ chức đi tìm lại, hy vọng ban ngày dễ phát hiện hơn.

Tôi bình tĩnh nhớ lại chặng đường đã đi qua, dường như khi đi qua dốc Ông Đời, ánh pháo sáng đã cho tôi nhìn thấy 2 đốm tròn xoe, long lanh sáng chói ngờ ngợ đôi mắt của thú rừng, lúc đó tôi đã nghĩ chắc là con thú nhỏ bị chẹt xe hoặc bị bộ đội bắn chết về phía phải đường.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Mười Hai, 2016, 07:57:06 am

Nghe bà Tuần kể sự việc, liên tưởng đến đó là hai khuy cài tròn bằng đồng của chiếc ví.

Binh trạm tán thành ngay ý kiến của tôi, điện thoại hướng dẫn cho kíp trực barie ở dốc Ông Đời xuống dốc về phía bắc khoảng 50m tìm chiếc ví. Nếu tìm thấy thì theo xe đi ra, mang về Binh trạm bộ. Cán bộ binh trạm không quên dặn không được mở ví, phải giữ nguyên dạng.

Chỉ hơn 30 phút sau, đoàn chúng tôi vừa mới kịp lau rửa chân tay, nhấm nháp miếng lương khô cùng chén trà hồng đào ấm áp, thì một chiến sĩ công binh trực trạm barie dốc Ông Đời đã mang chiếc ví giao trả.

Chiếc ví màu đen dính đất đỏ đã bị biến dạng, vẹt đi một phía. Nét mặt bà Tuần Chi hiện rõ sự vui mừng, nhưng lại thoáng nghĩ chắc gì đã là chiếc ví của mình, sợ ngộ nhận nên chưa dám cầm lại.

Chính ủy Binh trạm hiểu được tâm lý đó nên khẳng định với bà Tuần Chi mấy hôm nay chỉ có đoàn này ở phía nam đi ra thôi, còn bộ đội Trường Sơn kể cả các cháu gái cũng không ai có ví này.

Tay run run, bà Tuần Chi mở ví! Chiếc đèn pin hiệu con cọp bị bật vỡ kính, bà cười vui và cho biết giấy tờ, vàng bạc mang theo không hề suy xuyển.

Mừng vui khôn tả, bà Tuần Chi chỉ kịp thăm hỏi, nói lời cảm ơn với chiến sĩ đã tìm trả lại bà chiếc ví trước khi anh phải tranh thủ trở lại vị trí chiến đấu của mình!

Bà nói hôm qua người nữ y tá cũng đã tốt nghiệp lớp 10, nay anh bộ đội trẻ này vào chiến trường đã 2 năm, cũng đã học xong lớp 10, họ có bằng tú tài cả rồi đó.

Bà xúc động nói: Bộ đội Cụ Hồ có trình độ, có hiểu biết, trẻ khỏe hăng hái ai cũng rất dễ thương. Từ "dễ thương" giọng Huế của bà Tuần Chi, cụm từ địa phương độc đáo của người dân xứ Huế là lời biểu dương thân mật, ngọt ngào, tình cảm.

Bà còn nói: Nếu mất ví này là tôi mất hết cả cơ nghiệp, mất luôn cả tương lai, xin cho phép tôi được cảm ơn các bạn!

Chủ nhà, bộ đội Trường Sơn, không biết rõ trong ví có những gì, quan trọng đến như thế nào, nhưng hiểu được rằng trong đó gửi gắm cả tình cảm, cả cuộc sống về chính trị, về vật chất của bà, cả dĩ vãng và tương lai.

Chiều tối hôm sau, đoàn rời Binh trạm 33 để về chỉ huy sở Bộ Tư lệnh, đội hình vẫn giữ nguyên, thêm một cán bộ Tiểu đoàn 35 công binh dẫn xe theo con đường mới mở vượt ngầm Tha Mé, địch chưa phát hiện, bảo đảm an toàn hơn. Nhưng đến phía nam ngầm Tha Mé thì mới hay nước ngầm còn sâu, xe con không qua được, phải quay lại theo đường xuống hạ lưu sông Sê Băng Hiêng qua cầu nổi Bản Khộp.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Mười Hai, 2016, 07:57:31 am

Đại đội cầu thuyền đã ghép cầu nổi sắp xong, đơn vị đang loay hoay lắp phà hàn khẩu. Do mới tác nghiệp lần đầu, chưa có kinh nghiệm, tính toán không khớp nên mảng phà hàn khẩu hơi lớn lắp không vừa. Đại đội trưởng Đồng Thế Quá xin lùi thời gian thông xe đến 2 giờ sáng để chỉnh lý nửa cầu phía nam. Anh còn cử đại đội phó bố trí lùi 3 xe chở đoàn khách về phía sau 500m để bảo đảm an toàn.

Tôi nhảy lên cầu, quan sát cụ thể, nêu giải pháp tháo rời phà hàn khẩu, cho từng thuyền một vào tạm neo giữ, sau đó mới lắp dầm và ván mặt cầu. Sau 15 phút, chiếc cầu nổi đã lắp xong nối thông hai bờ Nam Bắc. Đây là chiếc cầu nổi tự tạo bằng gỗ đầu tiên trên dòng sông Sê Băng Hiêng.

Bà Tuần lại không hết ngạc nhiên khi tôi cho biết ba kỹ sư trẻ Phạm Thái Chi, Nguyễn Huy Bảo, Đỗ Đức Dương tốt nghiệp Đại học Bách khoa Hà Nội đã thiết kế và suốt cả mùa mưa này cùng đại đội của Đồng Thế Quá tổ chức công trường thi công bộ cầu nổi này. Bà ôn tồn nói: "Cầu nổi của các anh tự chế tạo có vinh dự được đoàn xe cán bộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng lăn bánh khánh thành".

Tư lệnh Bộ đội Trường Sơn Đồng Sỹ Nguyên tiếp đoàn khách tại chỉ huy sở của Bộ Tư lệnh tại K1, sau buổi giao ban thường ngày điều hành công việc của mấy chục đơn vị đầu mối cấp dưới và sau khi đã giải quyết các quan hệ nóng bỏng với các chiến trường.

Tư lệnh nói những lời chân tình thăm hỏi đoàn qua ba chặng đường vừa qua. Thoáng nhìn đôi dép cao su, chiếc mũ tai bèo của Giải phóng quân trang bị cho các vị khách và sáng nay ở giao ban Tư lệnh cũng đã nghe việc bảo đảm cho đoàn khách qua hai binh trạm; về câu chuyện chiếc ví đầm và bây giờ là gương mặt vui vẻ, phấn chấn của các vị khách, ông cũng đã thầm hiểu và đánh giá được trình độ "công tác ngoại giao" mà thấy tăng thêm tin tưởng ở khả năng của cán bộ cấp dưới.

Trưởng đoàn —Thượng tọa Thích Đôn Hậu lên tiếng nhỏ nhẹ tế nhị hỏi: "Xin đồng chí Tư lệnh cho chúng tôi rõ thêm bao giờ chúng tôi được đến đường mòn Hồ Chí Minh và từ đó ra Bắc bao xa?".

Tư lệnh cười hiền dịu, cởi mở nói đường mòn Hồ Chí Minh khi mới hình thành là con đường mòn giao liên, gùi thồ nay là trục đường vận tải cơ giới, đang dần dần hình thành mạng đường có nhiều trục ngang dọc nối từ hậu phương vào đến chiến trường Khu 5, Nam Bộ, chính là con đường các vị vừa đi ba đêm qua và còn đi tiếp năm đêm nữa thì mới ra đến hậu phương.

Các vị khách đã hiểu, cùng cười vui sung sướng vì đã được đi trên con đường Hồ Chí Minh gập ghềnh mà vĩ đại, đầy hiểm nguy nhưng lại bao vinh quang!

Trên ba chặng đường đi vừa qua họ đã thấy hàng trăm chuyến xe đầy ắp hàng vào chiến trường vượt qua mọi trở ngại, OV10 trinh sát canh giữ, cường kích đánh phá, gài mìn lá, bom bi, dùng phản lực trút bom xuống trọng điểm, bay cao thả bom tọa độ khi bị pháo phòng không ta bắn trả, dùng B52 rải thảm hết đợt này đến đợt khác.

Chú tiểu, người thanh niên Phật tử lái xe cho Thượng tọa, cảm phục chiến sĩ lái xe Trường Sơn tài giỏi, lái xe hết đêm này sang đêm khác với ánh sáng đèn gầm, tranh thủ pháo sáng dẫn đường, mưu trí lái xe tránh bom đạn, đưa hàng tới đích. Chú tự hỏi họ được đào tạo từ đâu, ở trường nào, bao nhiêu năm?

Đêm nay, cũng trong phòng nhỏ của căn hầm nửa chìm nửa nổi như vậy, khác một chút là xung quanh có phên nứa đan tre tránh đất đổ, mái nứa băm lợp kéo sát xuống một rãnh nhỏ được khơi xung quanh thoát nước mưa, cụ Đốc Đóa ngồi trầm ngâm ghi chép gì đó bên ngọn đèn điện, quanh đèn quây tròn một miếng vải xanh khâu tay, ánh sáng chụm lại vừa vặn trên trang giấy. Thượng tọa Thích Đôn Hậu đứng ngoài sân một mảnh đất nhỏ, tương đối bằng phẳng trước nhà, tay chắp sau lưng ngắm nhìn những vì sao len lỏi qua tán lá cây rừng. Hình ảnh một nhà sư, với bộ thiền phục rộng rãi thoải mái đang nghĩ về thế sự, đang cầu mong trời Phật phù hộ cho những điều tâm đắc đoạn tuyệt được nỗi khổ của chiến tranh, đem lại cho phía chính nghĩa dân tộc Việt Nam được hòa bình, độc lập, tự do, thống nhất.

Đêm tối mênh mông. Xa xa phía đường số 9, pháo sáng địch vẫn tỏa chiếu dẫn đường cho các đoàn xe hối hả vận chuyển hàng hóa đến các chiến trường. Trên đường mòn Hồ Chí Minh, chiến sĩ lái xe Trường Sơn đang xung trận.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Mười Hai, 2016, 02:14:11 pm

VƯỢT TA LÊ - SÊ BĂNG HIÊNG
Đại tá BÙI THẾ TÂM
Nguyên Chính ủy Sư đoàn công binh 473

Bước vào mùa khô 1970-1971, biết ta chuẩn bị nhập tuyến, đẩy hàng vào phía nam, Mỹ - ngụy tăng cường các hoạt động đánh phá với mức độ ác liệt hơn. Cuối mùa mưa và đầu mùa khô địch trinh sát liên tục để phát hiện hoạt động của ta và vào đầu mùa khô chúng tập trung thực hiện chiến thuật "tìm diệt" nhất là tìm diệt lực lượng xe, pháo nhập tuyến trên đường 20. Từ giữa tháng 11 đến tháng 12 chúng thực hiện đánh B52 rải thảm kết hợp với cường kích đánh phá khu vực cửa khẩu. Ở khu vực phía Nam máy bay AC130 trang bị thiết bị khuếch đại ánh sáng mờ dùng pháo 20 ly, 40 ly đánh vào đội hình xe hoạt động ban đêm trên đường. Từ tháng 1 đến tháng 3 năm 1971 chúng tập trung bom đạn, tạo nên trọng điểm lớn ở Chà Là, sau đó là trọng điểm cực lớn: Chà Là - Phu La Nhích - Tam Đảo. Chúng bắt đầu sử dụng tia la de đánh mục tiêu ngầm và trận địa pháo, dùng tia la de điều khiển đánh bom vào căn cứ hang đá của ta. Ngay trong mùa mưa, Bộ Tư lệnh Trường Sơn dự kiến Mỹ có thể gây trọng điểm ở khu vực ngoài cửa khẩu nên đã cho Trung đoàn 8 công binh của Bộ tăng cường mở đường 20E vượt Ta Lê vào Lùm Bùm.

Mùa khô này, tuyến đường 20 Quyết thắng được Bộ Tư lệnh xác định là cửa khẩu nhập tuyến chủ yếu. Tư lệnh chiến trường trực tiếp giao nhiệm vụ cho Binh trạm 14 và Trung đoàn pháo cao xạ 224 phải bảo đảm cho xe pháo nhập tuyến với số lượng lớn, đi nhanh gọn và an toàn.

Để triển khai thực hiện nhiệm vụ, chỉ huy Binh trạm chủ trương ngụy trang triệt để tuyến vượt khẩu 20C và 20Đ. Sau khi khắc phục sụt lở xong cho Tiểu đoàn công binh 335 ngụy trang toàn bộ hai tuyến đường này bằng cây khô rải kín mặt đường, chuẩn bị sẵn rọ đá tập kết ở ngầm 20C và cho xe ben chở sẵn đá trên lưng xe sẵn sàng, cầu phao 20Đ sau khi lắp xong, tháo ra đưa vào hang sẵn sàng, hiện trạng ngầm 20C và ngầm 20Đ giữ nguyên như cũ.

Đối với đường 20A và đường 20B chúng tôi điều Tiểu đoàn công binh 33 và Tiểu đoàn công binh 24 hàng ngày mở rộng mặt đường, là nhẵn, rải đá cục bộ nhằm tăng tốc độ xe vượt vùng trọng điểm ATP và Ka Tốc.

Chúng tôi cũng bố trí trạm quan sát theo dõi hàng ngày và phát hiện quy luật hoạt động của máy bay Mỹ, thấy rằng địch rà soát liên tục đường vượt khẩu 20A và đường vượt khẩu 20B, ý chừng địch xác định hướng chính đánh ngăn chặn xe nhập tuyến là ở đây.

Trước khi chưa có lệnh nhập tuyến của Bộ Tư lệnh, binh trạm cho xe Tiểu đoàn 781, Tiểu đoàn 52 chạy trên đường 20A, 20B thu hút địch vào tuyến đường này. Khi có dấu vết xe chạy trên tuyến A và B địch lao vào đánh phá ngăn chặn. Ta tranh thủ thời cơ cho các đoàn xe, pháo nhập tuyến đi vào trên đường 20C và 20Đ. Lúc này, tôi cũng có mặt trên ngầm 20C chỉ huy xe vượt ngầm, có một số lái xe đầu tiên vào chiến trường thấy một bãi bom từ trường vàng chóe, ngần ngừ chưa muốn vượt ngầm. Tôi lệnh cho đồng chí lái xe nhanh chóng cho xe vượt qua. Thấy vậy, các xe khác cũng lần lượt "cưỡi" lên bom từ trường. Sau đó tôi lên ngầm 20Đ chỉ huy xe vượt cầu phao 20Đ. Còn Binh trạm trưởng tổ chức cho các đoàn xe, pháo nối đuôi nhau hành tiến trên đường 20C, 20Đ. Trong lúc đó, các đại đội xe của các tiểu đoàn 781, 52 vẫn tiếp tục vận chuyển hàng trên đường 20A.

Đến khi địch phát hiện xe pháo ta hành quân chủ yếu trên đường 20C, 20Đ thì quay lại đánh phá ác liệt. Chúng tôi lại cho số xe nhập tuyến còn lại vượt qua đường 20A và 20B vào phía nam.

Cuộc nhập tuyến giành thắng lợi hoàn toàn.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Mười Hai, 2016, 02:18:18 pm

Sau đợt nhập tuyến, Bộ Tư lệnh phát động chiến dịch vận tải công kích. Ban đầu địch tập trung đánh phá vận tải bằng thủ đoạn tìm diệt xe hoạt động trên đường. Binh trạm cho xe đi phân tán trên các tuyến vượt khẩu bằng tốp nhỏ, giãn cách nhau, luồn qua những nơi, những lúc địch tạm ngừng đánh phá! Khi tiến công cũng như khi quay về đều hoạt động phân tán, phân đội của đồng chí anh hùng Kim Ngọc Quản hoạt động rất tốt, phổ biến nhiều kinh nghiệm chạy xe cho toàn Binh trạm học tập.

Đánh theo kiểu tìm diệt trên đường không đạt kết quả, địch thay đổi cách đánh khác.

Chúng chia tuyến vận chuyển đường 20 thành hai khu vực đánh phá khác nhau: vùng cửa khẩu chúng kết hợp B52 rải thảm với cường kích oanh tạc, khu vực phía nam chúng đánh phá bằng máy bay AC130.

Binh trạm tách ra thành hai cung ngắn: Cung phía bắc do chỉ huy sở cơ bản và tôi là Chính ủy Binh trạm trực tiếp chỉ huy; cung phía nam do sở chỉ huy tiền phương và Binh trạm trưởng trực tiếp chỉ huy. Binh trạm cũng thành lập một cụm kho và căn cứ xe trung gian, cung ngoài do tiểu đoàn xe 781 đổ hàng vào; cung trong do Tiểu đoàn xe 52 đẩy hàng vào Binh trạm 32. Cả hai cung ngắn 100% xe đi quay vòng một đêm/chuyến.

Nhờ sự phối hợp tác chiến hiệp đồng binh chủng giữa xe, công binh, pháo cao xạ và bước đầu nắm được quy luật hoạt động của địch nên đã đẩy một khối lượng hàng lớn vào kho trung gian. Phía nam địch bắt đầu hoạt động đánh phá bằng máy bay AC130 có trang bị thiết bị khuếch đại ánh sáng mờ, sử dụng pháo 20 ly và 40 ly nã vào đoàn xe đang vận chuyển trong đêm, sức hút của Tiểu đoàn xe 52 giảm rõ rệt.

Binh trạm trưởng yêu cầu tôi vào chỉ huy cung phía nam, để Binh trạm trưởng ra chỉ huy cung phía bắc đồng thời kết hợp giải quyết một số việc cần thiết khác.

Sau khi bàn bạc thống nhất, chúng tôi quyết định thử nghiệm cho tổ chức 12 xe do đồng chí đại đội trưởng Lập chỉ huy đi công khai dưới sự đánh phá của máy bay AC130. Kết quả, xe của tôi đi đầu vào trả được hàng cho Binh trạm 32, xe của Đại đội trưởng Lập bị đánh ở cửa kho, 10 xe khác phải nằm rải rác dọc đường vì bị đạn bắn xịt lốp.

Trước tình hình đó, tôi quyết định phải thay đổi chiến thuật vận chuyển: cho bộ đội kho làm đường xương cá bí mật tiếp cận đường tuyến, tranh thủ thời điểm máy bay AC130 chưa ra hoạt động, máy bay cường kích đã rút lui, cho xe tăng tốc lực bôn tập đến khu nhận hàng của Binh trạm phía trước. Khi quân ta trả hàng xong thì máy bay AC130 ra đánh phá, ta tập kết xe vào một khu vực chờ khi máy bay AC130 kết thúc đợt hoạt động, rút về, cho xe chạy hết tốc lực, trở về căn cứ trước 6 giờ sáng.

Chiến thuật vận tải này thực hiện được trên nửa tháng, chân hàng kho trung gian tồn lại trước đó và hàng của Tiểu đoàn xe 781 tiếp tục đưa vào đã được chuyển vào Binh trạm 32 trót lọt.

Binh trạm quyết định giải thể hai cung ngắn, trở lại đi cung toàn tuyến, cùng thời gian ấy địch cũng thay đổi cách đánh trên tuyến.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Mười Hai, 2016, 02:18:56 pm

Trong chiến dịch Lam Sơn 719 đánh ra khu vực Đường 9 - Nam Lào nhằm cắt đứt hoàn toàn tuyến vận chuyển chi viện chiến lược Trường Sơn, phá hủy tối đa các kho hậu cần chiến lược của ta, Mỹ tập trung đánh phá khu vực Chà Là với cường độ rất cao. Nơi đây là một con suối nhỏ chảy qua một thung lũng, có cây rừng đại ngàn, là nơi tiếp nối, gặp nhau của ba tuyến đường: 20A, 20C và 20Đ.

Nhận biết được vị trí quan trọng của Chà Là, địch huy động một lực lượng không quân lớn kết hợp B52 rải thảm và cường kích oanh tạc. Chỉ trong 10 ngày, khu vực Chà Là trở thành một bãi sa mạc, chiều rộng 3 kilômét, chiều dài 7 kilômét. Tuyến vận chuyển của ta lên phía trước bị tắc hàng nghìn xe pháo đang hành quân.

Lực lượng của binh trạm được huy động để mở một đoạn tránh dài 6 kilômét gọi là đường tránh QA4 nhưng không phát huy được bởi trên tuyến có một cái dốc quá cao.

Sau khi thị sát thực địa, chúng tôi quyết định mở con đường tránh khác bên trái đường 20A có điểm xuất phát từ lưng đèo Phu La Nhích đi qua một hẻm đá. Để mở đường với thời gian nhanh nhất, chúng tôi đã huy động lực lượng toàn binh trạm, kể cả các cơ quan và Bộ Tư lệnh Trường Sơn chi viện Tiểu đoàn công binh 87 làm nhiệm vụ xây dựng đường goòng.

Trong khi đang mở đường kín QZ25, Chỉ huy Binh trạm và Tiểu đoàn công binh 24 tổ chức một cuộc khảo sát tình hình địch đánh phá trọng điểm Chà Là. Chính ủy, tham mưu phó cầu đường, tiểu đoàn trưởng và chính trị viên Tiểu đoàn công binh 24, một số trợ lý trèo lên một núi đá độc lập giữa trọng điểm để nghiên cứu các đường bay ném bom của địch. Sau một đêm xem xét sự oanh tạc của địch thấy rằng địch đã oanh tạc tới mức cao nhất, các đường bay bổ nhào ném bom đan xen nhau gần như đã khít trên không gian. Từ đó, Binh trạm quyết định căn cứ chỗ nào chưa có hố bom, hoặc hố bom rải rác, đưa máy húc và bộc phá mở một con đường đi giữa trọng điểm Chà Là gọi là: "đường tránh túi bom" chuyển toàn bộ công binh, pháo cao xạ, trạm quân y, bếp, hậu cần bám trụ tại chỗ, tổ chức chỉ huy xe ôtô vượt qua trọng điểm Chà Là, thực hiện địch cứ đánh phá, ta cứ vận chuyển. Con đường tránh túi bom không tiếp nhận thêm hố bom mới, xe vào và xe ra an toàn, ngoài ra pháo cao xạ trụ giữa trọng điểm đánh máy bay địch "trị" được thủ đoạn ném bom bằng tia la de, tức là pháo ta cứ bám riết chiếc máy bay chiếu tia la de mà đánh, chúng bị đạn pháo bao vây nên không giữ được đường bay ổn định, bom ném xuống không chính xác.

Đường xuyên qua trọng điểm Chà Là duy trì được công việc vận chuyển nhưng không bảo đảm được lưu lượng xe lớn, Binh trạm khẩn trương đẩy nhanh việc mở đường kín QZ25 để có thêm một đường vòng tránh mới đẩy tốc độ vận chuyển hàng lên phía trước nhiều hơn.

Được thêm một tuyến đường kín QZ25 Binh trạm thực hiện chiến thuật vận chuyển kết hợp đường hở và đường kín, tranh thủ tăng thêm thời gian chạy ngày, chạy lấn sáng lấn chiều, quay vòng tăng chuyến. Đến 5 giờ chiều xe lấy hàng xong, tập kết sát đường tuyến. Sau đợt đánh phá cuối ngày của máy bay Mỹ ta cho đội hình xe lớn bôn tập đoạn đường hở từ cửa khẩu đến Nam sông Ta Lê, nếu địch chưa đến đánh thì cho một bộ phận xe đi thẳng vượt qua trọng điểm Chà Là, còn đại bộ phận chui vào tuyến đường kín, bộ phận nghi binh làm nhiệm vụ thu hút máy bay địch vào đánh phá, bảo đảm cho đoàn xe đến đích an toàn. Khi xe trả hàng xong, chỉ huy sở tiền phương đôn đốc xe quay vòng, trời sáng cho xe chạy ngày trên đường kín QZ25 tập kết ra phía bắc nghỉ ngơi, chuẩn bị kỹ thuật, ăn uống chu đáo. Đến 5 giờ chiều, dưới sự bảo vệ của pháo cao xạ yà tên lửa bôn tập về căn cứ lấy hàng và tiến hành chuyến vận tải tiếp theo. Nhờ tổ chức được quay vòng tăng chuyến nên 50% xe của Binh trạm thực hiện một ngày đêm một chuyến khép kín trên cung 2 đêm chuyến, số lượng tham gia vận chuyển tăng lên 150%, khối lượng hàng cũng được tăng theo.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Mười Hai, 2016, 02:19:32 pm

Thấy không thể ngăn chặn được tuyến vận tải của ta trên đường 20 Quyết thắng, địch chuyển sang thực hiện một số thủ đoạn đánh phá mới. Chúng tiến hành ném bom có điều khiển vào hang đá nhằm phá hủy hàng hóa của ta cất giấu trong hang. Chúng còn cho thả bom phá có điều khiển bằng tia la de vào ngầm vượt sông. Nhưng ngầm vượt sông Ta Le là ngầm đá liền bờ Bắc và bờ Nam nên cũng không thể phá được. Chúng tăng cường máy bay bổ nhào ném bom phá đường thì bị trận địa pháo phục kích của ta bắn trực tiếp vào hướng bổ nhào của chúng, máy bay địch rơi tại chỗ. Hoảng sợ trước làn đạn pháo cao xạ của ta bủa vây, máy bay địch thường bay cao ném bom nên xác suất bom trúng mặt đường thấp.

Chúng xoay sang thủ đoạn tập kích khu vực xuất phát tiến công của ta, chặn đầu, khóa đuôi diệt gọn đoàn xe. Trong trận này có đoàn cán bộ vận tải quân sự của giải phóng quân Trung Quốc đến tham quan cửa khẩu đường 20, có ba đồng chí trong Ban chỉ huy Binh trạm (1 chính ủy và 2 binh trạm phó, nhiều lái xe) bị địch vây đánh dữ dội. Binh trạm trưởng lệnh cho khẩu đội pháo 57 ly và pháo 100 ly đánh giải vây, hất máy bay địch lên cao, hạn chế tối đa bom trúng đường, trúng xe, trúng hầm. Giữa hai đợt công kích suốt đêm ấy của máy bay địch, Binh trạm cho xe tăng tốc, đưa các đồng chí Trung Quốc ra ngoài vòng địch oanh tạc.

Qua một mùa khô đầy căng thẳng, các lực lượng trên tuyến phải đối phó với nhiều phương thức đánh phá ngăn chặn dã man, ác liệt của kẻ thù. Binh trạm 14 chúng tôi đã rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm, cũng từ thực tế các hoạt động bảo đảm giao thông và vận tải hàng hóa trên tuyến với nhiều cam go, thử thách, hy sinh, hoàn thiện thêm phương cách đối phó của ta, từng bước chuyển đổi tương quan lực lượng địch ta trên tuyến, chủ động làm chủ chiến trường, đẩy mạnh công cuộc chi viện chiến lược. Đó là:

- Đối với thủ đoạn gây trọng điểm: Bộ đội công binh tổ chức trận địa chốt tại trọng điểm, sử dụng nhân lực, thuốc nổ, xe máy khắc phục nhanh hậu quả đánh phá của địch; dùng xe phóng từ phá bom từ trường. Mở đường vòng tránh giải tỏa trọng điểm. Mở nhiều trục vận chuyển khác nhau bảo đảm cầu đường liên tục thông suốt, vô hiệu hóa hoàn toàn thủ đoạn đánh phá tạo ra trọng điểm của địch. Bộ đội phòng không xây dựng trận địa tại vùng trọng điểm, nghiên cứu các thủ đoạn đánh phá của địch và cách đánh địch của ta để bắn rơi máy bay Mỹ tại chỗ hoặc máy bay Mỹ sợ bắn rơi nên ném bom không trúng đường, trúng xe. Đánh chế áp đội hình máy bay địch bằng các loại cao pháo, tên lửa, đẩy máy bay địch lên cao, ra xa ném bom không trúng đường, trúng xe. Cơ động trên đường phục kích máy bay địch bay thấp. Bộ đội thông tin xây dựng mạng lưới thông tin khép kín, khi địch oanh tạc mất liên lạc ta kịp thời xuất kích nối lại, bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt. Các trạm điều chỉnh giao thông điều độ xe chặt chẽ, kịp thời báo cáo thường xuyên về sở chỉ huy, chuyển lệnh của sở chỉ huy nhanh chóng, chính xác. Bộ đội xe sử dụng đội hình hành tiến tập trung, đi gọn, đường thông dùng chiến thuật bôn tập, khi đường tắc dùng chiến thuật mật tập qua trọng điểm nhanh gọn nhất.

- Đối với thủ đoạn địch đánh theo kiểu: "săn tìm, đuổi diệt" xe dọc đường: Bộ đội công binh tổ chức những mũi nhọn được trang bị bộc phá, địch đánh phá gây tắc ở đâu xung kích khắc phục hậu quả ngay ở đó. Bộ đội phòng không cơ động lực lượng theo đội hình xe đánh trả máy bay địch, bố trí rải lực lượng phòng không trên dọc đường đánh địch bảo vệ đội hình xe tiến công; bộ đội xe thực hiện chiến thuật đi phân tán từng tốp nhỏ, đi trên nhiều tuyến, nhiều trục khác nhau, tránh địch oanh tạc, luồn lách vượt qua các vùng đánh phá của địch.

- Đối với thủ đoạn địch tập kích đoàn xe, chặn đầu khóa đuôi, oanh kích diệt gọn: Phướng thức đối phó của ta là khi xe hành tiến trên đường có hình dạng thùng đấu, hoặc bên ta luy dương, bên ta luy âm thì phải dãn đội hình, khi có máy bay địch nhanh chóng cho xe chui vào các khe cạn, lái xe vào ẩn nấp trong các hầm dọc đường, tổ chức pháo 57 ly, pháo 100 ly đánh cứu vây, hất máy bay địch lên cao, hạn chế tối đa bom trúng đường, trúng xe, trúng hầm. Có một phương thức đặc biệt quan trọng là thường xuyên đăng ký tổng hợp phân tích cách đánh của địch, phán đoán được bài bản đánh phá của địch trong từng ngày/đêm để tổ chức chỉ huy xe đi nơi địch chưa đánh, tránh nơi địch sắp đánh, cho xe đi giờ địch không đánh, tránh cho xe đi giờ địch sắp đánh, vô hiệu hóa sự đánh phá của địch và thực hành chiến đấu binh chủng hợp thành "lấy vận tải làm trung tâm". Thông qua sức mạnh của tổ chức chiến đấu hiệp đồng binh chủng để phát huy sức mạnh tổng hợp, từng bước chuyển đổi tương quan lực lượng địch - ta thực hiện làm chủ tuyến đường trong mọi tình huống, giành thắng lợi ngày càng lớn trên mặt trận chi viện chiến lược.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Mười Hai, 2016, 02:20:11 pm

Ngoài việc đúc kết được "nghệ thuật chiến đấu binh chủng hợp thành lấy vận tải làm trung tâm", Binh trạm đã tổng kết được luận điểm "kết hợp tư tưởng và tổ chức". Xác định công tác lãnh đạo chính trị tư tưởng là công tác hàng đầu, xây dựng quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược trên cơ sở quán triệt sâu sắc đặc điểm, vị trí, vai trò to lớn của tuyến chi viện chiến lược đối với sự nghiệp giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, trên cơ sở quán triệt nhiệm vụ chính trị mà phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, phát huy phong trào thi đua lập công, dám xả thân vì thắng lợi của cách mạng, vì độc lập tự do của Tổ quốc.

Ở đây công tác tư tưởng phải được kết hợp, gắn liền với công tác tổ chức bao gồm cả việc xây dựng Đảng bộ, xây dựng chi bộ vững mạnh toàn diện, xây dựng đơn vị quyết thắng, đơn vị anh hùng. Xây dựng thế trận chiến đấu hiệp đồng binh chủng trên tuyến vận tải, đủ sức đánh bại các âm mưu, thủ đoạn đánh phá ngăn chặn của địch, thông qua thực tiễn chiến đấu đế rèn luyện chiến thuật, kỹ thuật, nghiệp vụ chuyên môn, coi trọng công tác chăm sóc đời sống tinh thần, vật chất, bộ đội chủ động khai thác nguồn hậu cần tại chỗ để nuôi dưỡng tốt bộ đội, thương bệnh binh, tổ chức công tác đảm bảo kỹ thuật xe máy súng pháo tốt.

Binh trạm 14 đã thực hiện khá tốt luận điểm kết hợp "tư tưởng và tổ chức" nên được đoàn cán bộ cao cấp của Tổng cục Chính trị do đồng chí Hoàng Phương làm trưởng đoàn vào nghiên cứu.

Bước vào mùa khô 1971-1972, Binh trạm 14 đường 20 Quyết thắng đã là một Binh trạm mạnh toàn diện, nói lên sự trưởng thành trên nhiều mặt cả thực lực và trí tuệ.

Bộ tư lệnh Trường Sơn rút lực lượng của Binh trạm để thành lập một số đơn vị: Binh trạm 15 của anh Lê Thanh; Trung đoàn 6 công binh của anh Đỗ Xuân Diễn; thành lập Trung đoàn 8 công binh của anh Phạm Thọ và Trung đoàn cao xạ 573 của anh Đặng Tuấn Phong. Bốn đồng chí nói trên và các đồng chí cán bộ tiểu đoàn, đại đội phần lớn là cán bộ của Binh trạm 14 chuyển sang.

Trước sự điều động khá lớn của trên, nhiều đồng chí trong Binh trạm lo Binh trạm sẽ yếu đi, khó có thể hoàn thành nhiệm vụ trong mùa khô tới.

Mặc dầu sự điều động của cấp trên nhiều như thế nhưng thế và lực của Binh trạm vẫn còn mạnh, đó là 2 tiểu đoàn xe 781 và 52, 3 tiểu đoàn công binh 33, 335, 24, Tiểu đoàn cao xạ 42 (trực thuộc) và Trung đoàn cao pháo 224, Trung đoàn tên lửa 275 phối hợp, ngoài ra còn có không quân hỗ trợ lúc cần thiết; Tiểu đoàn 9 giao liên, Tiểu đoàn kho hàng, Đội điều trị 52, Trạm trung tu xe máy, Đại đội Thông tin...

Ở tuyến đường 20 này vẫn là trọng điểm đánh phá ngăn chặn của không quân Mỹ, thủ đoạn chủ yếu là gây trọng điểm từ trọng điểm đơn đến trọng điểm kép, trọng điểm liên hoàn và trọng điểm liên hoàn cực lớn. Chúng đánh theo kiểu "săn - đuổi - tìm - diệt" xe hoạt động dọc đường, giăng bẫy bom mìn hỗn hợp bằng bom nổ chậm, bom hẹn giờ, bom từ trường, bom nhiệt đới. Máy bay địch chặn đầu chặn đuôi oanh kích diệt gọn đoàn xe bằng các loại bom phá, bom cháy, bom bi. Năm 1971 không quân Mỹ thực hiện chiến thuật rải bom từ trường ở khu vực ATP và khu vực dốc Tam Đảo đường 20Đ, mỗi nơi như thế có gần 100 quả từ trường nhằm ngăn chặn vận chuyển của ta, binh trạm phải cho xe phá bom từ trường mới giải phóng được đường.

Số phi vụ, số trận oanh tạc từ cường kích đến B52, hủy diệt bao giờ cũng nhiều hơn các tuyến vận chuyển khác và do đó cũng chịu nhiều tốn thất hơn về người và phương tiện.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Mười Hai, 2016, 11:14:18 pm

Từ ngày tôi nhận nhiệm vụ chính ủy, bí thư Đảng ủy Binh trạm 14 cho đến chuẩn bị bước vào mùa khô 1971-1972 thì ngoài các thủ đoạn đánh phá ngăn chặn nói trên, mùa khô này Mỹ có thêm cách đánh mới là dùng máy bay AC 130 trang bị thiết bị khuếch đại ánh sáng mờ dùng pháo 20 ly, 40 ly đánh vào đội hình xe vận hành trong đêm, dùng tia la de đánh vào các ngầm, đánh vào trận địa pháo của ta với xác xuất cao hơn các cách đánh trước đây. Chúng còn dùng bom gây sức ép đánh vào cửa hang đá, bị sức ép quần áo mặc trên người cũng bị vụn thành các miếng nhỏ, nên sự tổn thất của ta, sự khó khăn của ta sẽ cao hơn trước.

Điều suy tư, trăn trở day dứt của tôi lúc này là làm sao giảm được tổn thất về người, về phương tiện đến mức thấp nhất và lại hoàn thành nhiệm vụ tới mức cao nhất.

Là một chính ủy đã cùng đồng chí, đồng đội xông pha nơi bom đạn, đã từng nếm trải trực tiếp các thủ đoạn oanh tạc của địch; sự hy sinh tổn thất là cái giá phải trả để giành chiến thắng, nhưng ta hoàn toàn có khả năng giành được chiến thắng với sự hy sinh, tổn thất thấp nhất, ít nhất.

Có một vấn đề mang tính chỉ đạo tư tưởng xuyên suốt của nhiệm vụ vận chuyển chi viện chiến lược là phải biết kết hợp nhuần nhuyễn tư tưởng "chủ động tấn công và chủ động phòng tránh"; phải hiểu một cách đầy đủ nhất mối quan hệ biện chứng giữa chủ động tấn công và chủ động phòng tránh, có nghĩa là trong chủ động tấn công có bao hàm sự chủ động phòng tránh, trong chủ động phòng tránh cũng biểu hiện chủ động tấn công. Tấn công đơn thuần là hành động mù quáng, là mạo hiểm húc đầu vào đá, là mắc mưu của địch.

Chủ động phòng tránh tức là làm sao để vô hiệu hóa sự đánh phá ác liệt của không quân Mỹ, tức là không để Mỹ đánh trúng xe, đánh trúng người, đánh trúng hàng mà đánh vào nơi không có xe, không có người, không có hàng. Muốn làm được như thế thì trước hết phải dốc tâm nghiên cứu, tổng kết cho được quy luật đánh phá của địch trên tuyến vận chuyển của Binh trạm. Nắm được âm mưu, thủ đoạn đánh phá của địch để chủ động đối phó với chúng là tốt nhưng chỉ dừng lại đó thì không đủ, không được mà phải tìm cho ra được quy luật đánh phá của địch, nghĩa là trong quá trình đánh phá ngăn chặn vận chuyển của ta không quân Mỹ đã tung ra những "bài bản" gì và chúng đã dùng những bài bản ấy để ngăn chặn vận chuyển chi viện của ta. Nói một cách cụ thể hơn là trong một ngày/đêm chúng đã chỉ định đánh vào đoạn nào và vào thời khắc nào trong ngày/đêm nhất là trong đêm. Khi ta nắm được quy luật đánh phá ngăn chặn của địch thì ta có thể tránh nơi địch đánh, tránh thời điểm địch đánh và như thế thì tình huống xảy ra là địch cứ đánh không đúng mục tiêu, còn ta thì cứ đi ở nơi và ở lúc không có sự đánh phá ngăn chặn của địch.

Các đơn vị cử người theo dõi chính xác sự đánh phá của địch trong khu vực mình phụ trách và báo cáo, cơ quan tác chiến tổng hợp đầy đủ, nghiêm túc trong ngày, trong tuần, trong tháng, từ đó rút ra được quy luật đánh phá ngăn chặn của không quân Mỹ, bao gồm trận đánh đầu tiên ở địa đoạn nào, vào thời gian nào cho đến các trận đánh diễn ra tiếp theo của địch trong đêm đó. Khi ta thấy trận đánh đầu tiên thì ta có thể phán đoán được các trận đánh tiếp theo vào địa đoạn nào, vào thời gian nào để ta chủ động tấn công và chủ động phòng tránh. Việc tìm ra quy luật đánh phá, tìm ra các bài bản đánh phá của địch phải trải qua mấy năm vật lộn với chúng mới có thể đưa ra kết luận chính xác. Vào ban đêm tôi thường xuyên có mặt ở sở chỉ huy cơ bản, hoặc sở chỉ huy tiền phương, dự đoán hôm nay địch sẽ oanh tạc ở đâu vào khoảng thời gian nào để dự kiến phương án vận chuyển, chỉ huy đoàn xe tiến công. Chờ lúc địch mở màn trận đánh đầu tiên thì chuyển từ phương án dự đoán thành phương án chính thức để chỉ huy chuyến vận chuyển. Sự việc lặp đi lặp lại nhiều lần như thế, trùng hợp đến mức tối đa mới kết luận thành quy luật.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Mười Hai, 2016, 11:15:33 pm

Mùa khô 1971-1972 Binh trạm đã đi sâu về vấn đề này rồi, về cơ bản chúng tôi đã dựa vào việc nắm quy luật đánh phá thực tế của địch để điều hành vận chuyển và giảm được rất nhiều tổn thất xe và người trên đường vận chuyển (chỉ bị bất ngờ khi địch gây trọng điểm Chà Là và địch ném bom điều khiển vào hang Ka Tốc).

Trong buổi gặp đồng chí Nguyễn Quang Bích - Phó tư lệnh phụ trách tác chiến phòng không đến làm việc với ban chỉ huy Binh trạm 14 trên đường 20 và trong Hội nghị tổng kết mùa khô 1970-1971, tôi đã báo cáo về quy luật đánh phá của không quân Mỹ trên đường 20.

Về bố trí thế trận cầu đường: Trong mùa khô này Binh trạm bố trí một thế trận cầu đường mới: Ngoài các tuyến 20A, 20B, 20C, 20Đ, đường kín QZ25 chúng tôi mở thêm tuyến 20K phía trái tuyến 20E, vượt sông Ta Lê kéo dài vào Lùm Bùm. Mở thêm một tuyến đường kín QA7 phía phải đường 20A nối với đường 129B, rào đường 129B thành đường kín nối liền với đường kín 128C của Binh trạm 32. Khôi phục lại đường tránh túi bom nằm trong lòng trọng điểm Chà Là, đường này tuy có dài hơn nhưng xe đi an toàn tuyệt đối.

Thế trận cầu đường này nhằm mục đích nếu địch gây trọng điểm ở nút cửa khẩu Km 68 - Km 69 thì có đường vòng tránh 20K, 20E, đường 20K đầu nút ở Km 54 đường 20A, cách Km 69-15 kilômét, đó là một đường vòng tránh tốt.

Địch gây lại trọng điểm ở khu vực Ka Tốc thì có đường 20E. Tuyến này đi bên trái đường 20B, cũng là một đường vòng tránh tốt.

Nếu địch gây lại trọng điểm Chà Là - Phu La Nhích - Tam Đảo thì có đường kín QZ25 và đường tránh túi bom đi an toàn trong lòng trọng điểm Chà Là. Nếu địch đánh theo kiểu "săn đuổi" tìm diệt xe hoạt động trên đường vận chuyển thì thực hiện chiến thuật cho xe đi phân tán từng tốp nhỏ trên nhiều tuyến khác nhau, tránh nơi và giờ địch tập kích.

Địch thực hiện thủ đoạn tập kích đoàn xe theo kiểu chặn đầu, chặn đuôi oanh kích diệt gọn thì khi xe đi trên các đoạn đường có hình dáng thùng đấu, bên ta luy dương bên ta luy âm thì ta dãn đội hình ra, gặp địch oanh tạc thì nhanh chóng cho xe chui vào các khe cạn, lái xe vào trú các hầm, chỉ huy pháo 57 ly và 100 ly phối hợp với tên lửa đánh cứu vây, hất máy bay địch lên cao, ra xa ném bom không trúng mục tiêu.

Nếu địch đánh phá theo kiểu ngăn chặn từng đoạn trên đường theo quy luật từ ngoài đánh vào trong đánh ra thì ta cho xe chủ động tránh nơi địch oanh tạc và giờ địch ngăn chặn.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Mười Hai, 2016, 11:15:58 pm

Về bố trí lại thế trận tác chiến phòng không:

Chúng tôi chủ trương dồn đội hình Trung đoàn cao pháo 224 chốt bảo vệ những địa điểm xung yếu: một tiểu đoàn chốt khu vực Lùm Bùm - Ka Tốc, một tiểu đoàn chốt khu vực Chà Là, 2 tiểu đoàn chốt khu vực cửa khẩu. Tiểu đoàn cao xạ 42 trực thuộc chốt bảo vệ khu vực Ta Lê.

Trung đoàn tên lửa 275 dồn lên tiếp cận cửa khẩu. Tổ chức cụm bảo vệ khu vực cửa khẩu vào Ta Lê rất mạnh, đủ khả năng chế áp máy bay B52 rải thảm, đánh máy bay AC 130 đánh lấn ra vùng cửa khẩu.

Về bố trí lại thế trận vận chuyển:

Chúng tôi dồn Binh trạm 26 Cục Vận tải Tổng cục Hậu cần vươn cung trả hàng ở Km 54 và cụm C Km 71 Tiểu đoàn xe 781 lên trụ ở Km 54; đường ra, vào căn cứ xe và căn cứ kho là đường ra vào theo con suối, địch không thể phát hiện ra và điều một lực lượng của Tiểu đoàn xe 52 lên trụ ở cụm C trong cửa khẩu.

Trên cơ sở thế trận bố trí binh hỏa lực theo phương thức chiến đấu binh chủng hợp thành, Binh trạm vận dụng chiến thuật: vận chuyển tập trung, tác chiến tập trung, kết hợp đường hở và đường kín chủ động tấn công địch, chủ động phòng tránh, chủ động nghi binh thu hút địch.

Tên lửa và cao pháo, có khi có cả không quân phối hợp khống chế áp đảo địch ở khu vực cửa khẩu, đẩy máy bay địch lên cao và ra xa vòng ngoài, ném bom không trúng đường để đội hình xe lớn vượt sông Ta Lê bí mật luồn vào tuyến đường kín đưa hàng tới đích, hoặc đi thẳng vượt qua trọng điểm Chà Là, Ka Tốc đến Nậm Khừng. Đồng thời tổ chức nghi binh thu hút địch đánh vào, ngầm 20C đường 20Đ, vô hiệu hóa sự đánh phá của địch.

Sau khi các tiểu đoàn xe giao hàng xong cho Binh trạm 32 tại Nậm Khừng, chỉ huy sở tiền phương của Binh trạm tổ chức cho xe quay vòng trên "đường hở" về đến Ka Tốc thì trời sáng. Đoàn xe chui vào "đường kín" QZ25 đi tiếp rồi trụ lại, hậu cần bảo đảm ăn, nghỉ cho lái xe, kiểm tra kỹ thuật xe, sức khỏe lái xe, bảo dưỡng kỹ thuật xe đến 4 giờ chiều chỉ huy đội hình xe bôn tập vọt tiến về căn cứ nhận hàng chuẩn bị xuất kích chuyến hàng tiếp theo.

Lợi thế của tổ chức chiến thuật vận chuyển của Binh trạm 14 trong mùa khô này là kết hợp đường hở và đường kín, kết hợp chạy cả ban ngày và ban đêm, chạy đội hình tập trung trên đường hở chỉ thu gọn lại trên 36 kilômét từ cửa khẩu đến nam sông Ta Lê, đường 20B và 20A được mở rộng, dưới sự khống chế áp đảo của pháo cao xạ, tên lửa và cả không quân, chỉ trong vòng 60 phút là đến đầu mút tuyến đường kín QZ25, vượt qua một đoạn đường hở ở Ka Tốc, rồi lại chui vào đường nửa kín, nửa hở QA7 đến đường kín 129B và đến đích trả hàng.

Mùa khô này địch vẫn đánh vào khu vực ATP thường xuyên theo bài bản của chúng và đánh vào tuyến 20C, 20Đ do ta nghi binh thu hút địch vào đó. Cường độ đánh phá của chúng vẫn không giảm so với các năm trước, sử dụng cả cường kích và B52, rải bom ngăn chặn vận chuyển của ta.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Mười Hai, 2016, 11:16:38 pm

Đầu tháng 10 năm 1971, binh trạm đã bảo đảm cho gần 5.000 xe, pháo nhập tuyến an toàn. Từ tháng 10, tháng 11, tháng 12 tháng nào binh trạm cũng đạt vạn tấn/tháng, thỏa mãn chân hàng cho binh trạm phía trước. Lần đầu tiên binh trạm đã thực hiện phương án vận chuyển vô hiệu hóa sự đánh phá ngăn chặn của địch, tuyệt đối bảo toàn lực lượng vận chuyển chiến đấu. Trong ba tháng đầu mùa khô ta không mất một xe, không hy sinh một người, đồng thời đã làm sáng tỏ hơn sự vận dụng nghệ thuật quân sự trên chiến trường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống Mỹ.

Khi tôi cùng chỉ huy Binh trạm đang chuẩn bị cho đợt Tổng công kích thì nhận được điện thoại của Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên - Thường vụ Đảng ủy và Bộ Tư lệnh đã quyết định điều anh vào làm Binh trạm trưởng Binh trạm 32 thay đồng chí Đặng Văn Ngữ bị thương về tuyến sau. Tối nay anh bàn giao mọi công việc cho Binh trạm 14, ngày mai vào Binh trạm 32, anh đi xe con vào cho nhanh, có người đón anh ở Lùm Bùm.

Điều này chẳng làm tôi bất ngờ vì tôi đã dự đoán mùa khô này chắc hẳn phải chia tay Binh trạm 14 sau khi đã chiến đấu ở đây tròn 4 năm.

Tôi truyền đạt quyết định của cấp trên cho tập thể Ban chỉ huy, bàn giao công việc và chia tay anh em để hôm sau lên đường.


*

Xe con của tôi chạy ban ngày từ cửa khẩu đường 20 vào Sư đoàn 472 theo lệnh của Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên.

Trên đường, đồng chí Nguyễn Thuận Quảng - Binh trạm phó Binh trạm 32 cho tôi biết tình hình Sư đoàn khu vực 472 như sau:

Theo nhận định của trên, đế quốc Mỹ đã chuyển tuyến ngăn chặn từ khu vực các cửa khẩu vào khu vực đường số 9 và sông Sê Băng Hiêng kéo dài từ Bản Đông đến Thác Hài, chủ yếu là dùng máy bay AC 130 không chế các điểm vượt, đồng thời dùng AC 130 bám riết, đánh phá các đội hình xe trên đường. Hơn nữa vào đầu mùa khô này thời tiết cũng diễn biến thất thường, đã xuất hiện 2 trận mưa cục bộ đầu nguồn trên các sông Sê Băng Hiêng, Sê Pôn làm cho nước các ngầm vượt sông đột ngột dâng cao.

Tuyến vận chuyển khu vực thuộc Sư đoàn 472 bị tắc nghẽn nhiều ngày. Bộ Tư lệnh Trường Sơn phải cử Phó tư lệnh Phan Khắc Hy, Phó chính ủy Lê Xy xuống làm Sư đoàn trưởng và Chính ủy Sư đoàn 472 để tìm biện pháp giải quyết. Các đồng chí: Ngô Huy Biên - Sư đoàn trưởng, Lê Đình Truy - Chính ủy sư đoàn xuống làm cấp phó, các đồng chí khác trong Bộ Tư lệnh Sư đoàn 472 xuống trực tiếp chỉ huy các binh trạm: đồng chí Nguyễn Việt Phương xuống Binh trạm 34, đồng chí Phan Hữu Đại xuống Binh trạm 33, đồng chí Hoàng Trá - Tham mưu trưởng vận chuyển xuống Binh trạm 39. Tôi từ Binh trạm 14 vào Binh trạm 32.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Mười Hai, 2016, 11:17:33 pm

Con đường vào đường 9, sông Sê Băng Hiêng, đoạn ngoài vẫn là cung đường quen thuộc, bởi nhiều lần tôi đã qua lại để hoạch định và tổ chức thực hiện tuyến đường kín của Binh trạm 14 từ đèo Phu La Nhích đến Nậm Khừng. Tôi muốn đi đường hở để thị sát lại cua chữ A, ngầm Ta Lê, đèo Phu La Nhích, Chà Là, Ka Tốc nên mới bị máy bay địch đuổi đánh. Từ Lùm Bùm đi vào tôi đi theo đường kín anh em công binh đã ken dày, xe đi êm ả như đi trong một đường hầm tối dài hun hút, mái cây che khuất, mặc cho máy bay Mỹ gầm rú trên bầu trời.

Sau khi nhập tuyến, tôi nhận thấy: Binh trạm 32 có nhiều thuận lợi về địa hình, địa vật, thời tiết so với Binh trạm 14. Còn lực lượng thì hai bên xấp xỉ như nhau. Rồi tôi lan man nhớ lại quá trình vận chuyển chi viện chiến lược từ thuở mang vác gùi thồ đến vận tải cơ giới; từ vận tải cơ giới dân sự đến vận tải quân sự theo đoàn xe 3 của anh Phan Tây; từ vận tải quân sự đến vận tải quân sự thời chiến bằng đoàn xe 1 của anh Vũ Toàn đến vận chuyển theo đội hình hiệp đồng binh chủng: xe - công - pháo - kho của Binh trạm 14 đường 20 Quyết thắng. Đến bây giờ vận chuyển cơ giới trên tuyến Trường Sơn đã bước một bước khá dài, đã trở thành nghệ thuật quân sự độc đáo của quân đội ta. Dẫu đế quốc Mỹ có mở hành lang ngăn chặn gì đi nữa thì ta cũng nhất định thắng.

Trong chiến dịch Đồng Xoài, các binh trạm cửa khẩu đã bảo đảm đủ chân hàng, đủ cơ số trực tiếp, cơ số dự bị và cơ số dự phòng, nên sau hội nghị ngày 27 tháng 12 năm 1971, Bộ Tư lệnh 559 phát động chiến dịch Bình Giã, lấy Sư đoàn 472 làm lực lượng đột phá đẩy chân hàng vào tung thâm. Theo đồng chí Thuận Quảng cho biết thì Binh trạm 32 nhận hàng của Binh trạm 14 và Binh trạm 15 rồi đẩy hàng đi theo ba hướng: Binh trạm 33, Binh trạm 34, Binh trạm 39. Nếu như cuộc chiến tranh ngăn chặn và chống ngăn chặn giữa ta và Mỹ đã chuyển làn vào khu vực vượt đường 9 và Sê Băng Hiêng rồi thì Binh trạm 32 sẽ là nơi tranh chấp quyết liệt nhất trên tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn.

Tư tưởng chỉ đạo vận chuyển của Bộ Tư lệnh 559 là chớp thời cơ đẩy được một khối lượng lớn hàng vượt các cửa khẩu, đó là nghệ thuật tranh thủ thời tiết phía ngoài khi mùa khô đến sớm. Có thể bọn Mỹ bị một cú bị động bất ngờ nên chúng buộc phải chuyển làn ngăn chặn dọc tuyến sông Sê Băng Hiêng và đường số 9. Từ Bản Đông đến tây Mường Phin, trong đó đánh quyết liệt ngầm Tha Mé và ngầm Thác Hài. Hơn nữa, như đồng chí Thuận Quảng nói thì đồng thời một đợt mưa cục bộ đầu nguồn sông Sê Băng Hiêng làm cho nước sông dâng cao rất khác với mọi năm. Đêm đêm máy bay AC130 khống chế các điểm vượt. Toàn bộ xe đều bị trời và địch chặn lại bờ bắc kéo dài đến hàng chục kilômét, nằm la liệt dọc đường.

Với kinh nghiệm vận chuyển chiến lược dây chuyền từ ngoài vào trong diễn ra như một cơn lũ, một cơn lũ cuốn liên tục, từ hậu phương vào tận các chiến trường, tôi nghĩ đến phương án phải khai thông sớm. Sự đình trệ ở tuyến chi viện chiến lược sẽ ảnh hưởng lớn đến kế hoạch tấn công địch trên các chiến trường, ảnh hưởng đến tư tưởng chiến lược của ta: "Giành thắng lợi từng bước, đánh đổ địch từng bộ phận, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn".


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Mười Hai, 2016, 11:17:59 pm

Tôi quyết định không vào sở chỉ huy Binh trạm 32, mà đến thẳng Sở chỉ huy Sư đoàn 472 ở Na Lai. Ở đây, tôi chỉ gặp được đồng chí Lê Đình Truy - Chính ủy sư đoàn, đồng chí Nguyễn Bích Ngọc - Chủ nhiệm chính trị, còn các đồng chí trong Bộ Tư lệnh sư đoàn đều xuống các binh trạm. Sau khi nộp giấy sinh hoạt Đảng, tôi xin phép đi thẳng xuống ngầm N1, lúc đó vào khoảng 4 giờ chiều; gặp đồng chí Đặng Tính - Chính ủy Bộ Tư lệnh 559 và anh Phạm Văn Diêu - Tham mưu trưởng công binh. Lúc này, Chính ủy Đặng Tính và Tham mưu trưởng Phạm Văn Diêu vào thay cho đồng chí Phan Khắc Hy và đồng chí Lê Xy, (anh Hy đến trực tiếp làm Tư lệnh Sư đoàn 473, anh Lê Xy thì trở về Sở chỉ huy Bộ Tư lệnh 559).

Chính ủy vừa bắt tay tôi, vừa vui vẻ nói - Cơ quan Bộ Tư lệnh 559 và cơ quan Bộ Tư lệnh Sư đoàn 472 có mặt ở đây trên chín mươi người, thế mà "bắt cóc" thêm đồng chí nữa đó, đồng chí là con số 99 đó. Anh cười sảng khoái nói tiếp: Làm Binh trạm trưởng tạm thời thôi, nghề của cậu là nghề chính ủy, nghề của mình cũng là nghề chính ủy thế mà có nhiều lúc cấp trên giao làm quân sự. Anh đã đoán trúng suy nghĩ của tôi... Còn anh Phạm Văn Diêu, người đồng hương miền Nam thì nói thẳng: Tớ và Tâm quê ở miền Nam, chúng ta phải “làm việc bằng ba vì miền Nam ruột thịt chứ không phải bằng hai đâu nhé". Lời nói chân thành và bức xúc của Chính ủy Đặng Tính, của Tham mưu trưởng Phạm Văn Diêu làm tôi thêm lo lắng về bài toán đang hết sức gay go. Tôi xin phép hai anh được xuống ngầm N1 xem xét. Tôi ghé vào Ban chỉ huy Tiểu đoàn công binh 31, gọi Tiểu đoàn trưởng Quyết cùng đi.

Trước mắt tôi hiện ra một cái ngầm to và rộng, đường xuống ngầm thoai thoải khác với ngầm Ta Lê, nó được công binh ngụy trang rất kín đáo. Nước thượng lưu đổ xuống mạnh, vươn qua ngầm làm nhô lên một gân nước võng lên một đường thẳng, nước sông đục ngàu, hiền hòa trôi, không gian nghe như yên tĩnh.

Tôi và Quyết chui vào hầm chỉ huy giao thông. Vừa ngồi xuống sạp, tôi hỏi: "Các đồng chí có ghi chép lại ngày giờ địch đánh ngầm không?". Đồng chí trợ lý tác chiến Binh trạm báo cáo: Thưa Thủ trưởng có ạ, rồi anh đưa sổ đăng ký cho đồng chí Quyết.

Tôi lấy trong xắc cốt một tờ giấy đã kẻ sẵn cột ngày, cột giờ còn sót lại, Quyết đọc, tôi ghi. Giờ có đánh thì gạch chéo, giờ không đánh thì bỏ trống, đến hàng thứ 20 thì xuất hiện một vệt trắng dài, đó là từ 17 giờ đến 20 giờ, từ 4 giờ sáng cho đến 7 giờ sáng. Tôi mừng quá, không nói năng gì, lật đật quay trở về sở chỉ huy Binh trạm, chỉ kịp quay lại dặn đồng chí trợ lý tác chiến một câu: "Khi máy bay AC 130 đến đánh, đồng chí gọi điện thoại về số máy Binh trạm trưởng cho tôi nhé!".


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Mười Hai, 2016, 09:34:53 pm

Tối hôm đó, chúng tôi họp Thường vụ Đảng ủy và Ban chỉ huy Binh trạm, không kịp triệu tập các đồng chí công tác ở các đơn vị về. Thành phần dự họp gồm Chính ủy Nguyễn Văn Hiểu, Phó chính ủy Lê Hợp, Binh trạm phó Thuận Quảng, Tham mưu phó Nguyễn Dũng và đồng chí Quyết - Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn công binh 31.

Tôi nói: Theo dõi hai mươi ngày qua thấy có hai thời điểm địch không sử dụng AC 130 ở một thời điểm có khoảng 3 giờ. Ta phải tổ chức chỉ huy thật chặt chẽ để khai thác tối đa hai thời điểm đó. Muốn vậy cần làm các điểm sau đây:

- Một là, đại đội thông tin rải một mạng dây bọc nối liền nam - bắc ngầm N1, phải mở vòng thật rộng để địch đánh không đứt dây.

- Hai là, tăng cường ngụy trang che phủ tuyến đường từ phía sau đến bắc ngầm, từ phía nam ngầm đến Binh trạm 33 để cho xe ban ngày tiếp cận ngầm và chạy ngay vào Kho 33.

- Ba là, bố trí phục kích bên bờ bắc một máy húc, bờ nam một máy húc, có làm công sự bằng nứa, tre bảo vệ đầu máy để kéo xe sa rệ hoặc chết máy khi qua ngầm.

- Bốn là, gia cố hầm chỉ huy giao thông bờ bắc, bờ nam, hầm chỉ huy chưa đạt yêu cầu an toàn.

- Năm là, kiểm tra kỹ thuật thật kỹ các xe vượt ngầm, xe nào chưa bảo đảm kỹ thuật thì tạm dừng lại.

Các đồng chí dự họp đều nhất trí phương án vượt ngầm của tôi, đồng chí Hiểu phân công từng đồng chí đi triển khai các công việc.

Vừa họp xong, chuông điện thoại reo. Tôi cầm máy nghe, thì bên kia đầu dây đồng chí trợ lý tác chiến báo cáo địch đã đến đánh.

Tôi hỏi: - Có đúng 20 giờ không? Đồng chí ấy báo cáo. - Đúng 20 giờ Thủ trưởng ạ - Như thế việc đăng ký của anh em là chính xác, không sợ chệch thời gian nữa.

Hôm sau, tôi và Dũng đi kiểm tra việc triển khai các công việc, trên đường chúng tôi ghé vào sở chỉ huy Trung đoàn 591 cao xạ thăm anh Lê Lẫm - Trung đoàn trưởng và yêu cầu đơn vị anh tập trung đánh máy bay địch, bảo vệ ngầm. Thấy chúng tôi bước vào, Lê Lẫm chạy ra đón chúng tôi.

Anh nói: - Nghe tin anh mới vào đấây, chưa sang thăm anh được, lại được anh đến thăm, thật là hân hạnh. - Tôi thầm nghĩ anh chàng người Khu 4 này, bây giờ lại nói hay đáo để, rồi nói: Không đâu, tôi đến nhờ cậy anh đấy, đã đi nhờ phải đến tận nơi. Ba người cười vui vẻ.

Anh hỏi: - Chúng em phải bắn rơi hay bắn bảo vệ ngầm?

Tôi trả lời: - Cả hai mục tiêu, nhưng mục tiêu bảo vệ ngầm là số một.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Mười Hai, 2016, 09:35:31 pm

Đi một vòng trong suốt một ngày, thấy mọi công việc được triển khai khá tốt, phải công nhận cán bộ, chiến sĩ Binh trạm 32 thiện chiến, mới một ngày thôi mà bộ phận nào công việc chuẩn bị cũng đã hòm hòm. Trong chiến tranh làm một người chỉ huy, công việc đầu tiên có ý nghĩa quyết định nhất là xây dựng lực lượng, xây dựng đội ngũ cán bộ, có cái đó là có tất thảy, dẫu gặp khó khăn, ác liệt mấy cũng có thể vượt qua một cách dễ dàng, tôi thầm cảm ơn Đảng ủy và Thủ trưởng Binh trạm 32 qua các thời kỳ đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ, chiến sĩ giỏi giang như thế.

Trước giờ "G" tôi và Dũng, Quyết đã có mặt tại hầm chỉ huy giao thông bắc ngầm N1. Những giây phút sắp thực hiện một quyết đoán quan trọng của người chỉ huy sao mà thiêng liêng vậy, thần kinh căng thẳng, vừa lo lắng, vừa tự tin, hai thái cực ấy nó quyện vào nhau làm cho tâm can mình xao xuyến. Ngoài hầm chỉ huy ánh sáng hoàng hôn của xứ Lào tỏa một màu vàng rực rỡ, hoàng hôn xứ Lào gần giống như rạng đông miền Trung Việt Nam. Một tốp máy bay trong đó có máy bay AC 130 lượn vòng trên bầu trời, một loạt đạn pháo 40 ly rồi 20 ly bắn xuống, nổ lộp bộp rồi chúng rút về phía tây. Không gian im ắng hẳn, chỉ còn lại tiếng nước sông Sê Băng Hiêng chảy mạnh vang lên tiếng reo lóc róc, lóc róc.

Tôi hạ lệnh cho xe xuất phát vượt ngầm rồi đứng đầu ngầm trực tiếp chỉ huy. Sau khi cho đi thử hai tốp để kiểm tra ngầm thấy ổn tôi cho xe vượt ngầm liên tục. Đoàn xe nối đuôi nhau lăn bánh, mặt ngầm rung chuyển, tiếng động cơ ô tô ầm ầm, tiếng còi xe gấp gáp, tiếng người gọi nhau loạn xạ, tiếng bánh xe lăn trên các cây lồ ô ngụy trang nổ lộp bộp...

Ầm ào quá! Không thể nghe tiếng máy bay địch, đồng chí Quyết gọi điện thoại lên đài quan sát nhắc nhở theo dõi chặt máy bay Mỹ.

Đến 20 giờ, chưa thấy máy bay địch tới, nhưng tôi hạ lệnh nhanh chóng cho một đợt nữa vượt ngầm. Chờ đến 20 giờ 30 phút máy bay Mỹ chưa tới, tôi thấy tiếc, tự trách mình nguyên tắc quá, lẽ ra dấn thêm chút nữa có tốt hơn không!

Theo kế hoạch cả tốp chỉ huy chúng tôi rút về sở chỉ huy, nhưng tôi cho Quyết và Dũng về trước, tôi ở lại để quan sát cách đánh của AC 130 ở đây như thế nào. Quyết và Dũng xin ở lại, tôi không đồng ý, ở nhà còn bao nhiêu việc, các đồng chí về nghỉ, ngày mai còn làm việc.

Quyết và Dũng đi chừng một lát thì một chiếc AC 130 lững thững bay ra, nó lượn một vòng ra ngoài đường 9 rồi quay lại, nghiêng cánh và bắn vào ngầm bờ bắc cách hầm chỉ huy giao thông chừng 30 mét, mảnh đạn bay rào rào xung quanh. Nó lại lượn vòng vào phía nam rồi quay lại bờ nam ngầm, bắn vài loạt vu vơ. Nó đang tìm mục tiêu. Đồng chí trợ lý tác chiến báo cáo: Báo cáo Thủ trưởng cho phép em thực hiện kế hoạch nghi binh lừa địch, ở đây ban tác chiến binh trạm có một trận địa nghi binh ở bờ nam. Tôi đồng ý. Đồng chí bấm vào một nút điện, thấy ở bờ nam có ánh sáng lập lòe, vừa sáng lên rồi lại tắt, thế là thằng AC 130 lao vào mục tiêu ngay, nó bắn đạn 40 ly và 20 ly loạn xạ vào "đội hình xe giả".


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Mười Hai, 2016, 09:36:12 pm

Sau hai giờ đồng hồ, nó rút về phía tây, thì đã có một thằng AC 130 khác đến thay phiên, cùng đi một bài như thằng trước và bị Ban tác chiến Binh trạm 32 lừa vào mục tiêu giả. Thằng Mỹ đang say sưa, đắc thắng với ván bài AC 130. Tôi thầm nghĩ: chúng tao đang khơi sâu cái đắc thắng của chúng mày đây! Đắc thắng nữa đi để rồi đại suy sụp. Việc khống chế máy bay địch đánh phá trên ngầm N1 vẫn diễn ra như thế cho đến 4 giờ sáng thì kết thúc.

Như vậy địch vẫn giữ quy luật đánh phá như trước.

Cầm chắc phần thắng trong tay, tôi ra lệnh cho xe vượt ngầm liên tục. Bỗng dưng một xe bị sa rệ xuống ngầm, tôi lệnh hãy để đó kéo sau, cho xe vượt ngầm. Những chiếc xe cắn đuôi nhau vượt sông trông như một đoàn tàu dài. Đến 7 giờ sáng thì không còn xe nào ở bờ bắc nữa. Tôi cho máy húc kéo chiếc xe sa rệ lên bờ nam và cho công binh xóa dấu vết xe trên bờ ngầm, trên đường, ngụy trang che phủ hai bên bờ ngầm. Lúc này, xe của Binh trạm đã đến đón tôi trở về chỉ huy sở. Cuộc giải tỏa đã kết thúc tốt đẹp.

Tôi gọi điện thoại báo cáo Chính ủy Bộ Tư lệnh Đặng Tính, Chính ủy Sư đoàn Lê Đình Truy và Tham mưu trưởng công binh Phạm Văn Diêu báo việc giải tỏa ngầm N1 đã xong. Chính ủy Đặng Tính hỏi tôi: Liệu tiếp tục như thế được bao nhiêu ngày? Tôi báo cáo khoảng từ 10 ngày đến 15 ngày thì địch phát hiện ra, cho nên xin phép anh cho tôi đi tìm một nơi vượt sông khác. Mở một điểm mới vượt sông nhanh nhất cũng mất 10 ngày, tôi sẽ báo kết quả sau. Trong máy điện thoại nghe tiếng cười của anh và tiếng nói của anh với Phạm Văn Diêu: "Cậu Tâm nói đúng đấy, thế nào địch cũng thay đổi quy luật đánh".

Ban Tham mưu công binh đi theo tôi xuống sông. Tôi hỏi: - Ông Ngữ binh trạm trưởng là "vua vượt sông", chắc ông ấy có "phép" để lại cho các cậu chứ gì. Tớ biết ông này lắm phép lắm. Anh em có vẻ bí mật rằng: Ông Ngữ có chuẩn bị một điểm vượt sông lý tưởng, chúng tôi đưa thủ trưởng đến đó xem.

Xe con dừng lại ngoài đường tuyến, cả bọn rúc vào bờ sông, cây cối chằng chịt, mỗi người đi theo một hướng riêng nên anh nào cũng bị dây leo cản trở. Đến sát bờ sông thì hiện ra trước mắt mọi người một lạch rất đẹp, cực kỳ hẹp, nước chảy xiết, phía bờ nam là một doi đá không có cây cối gì. Bờ bắc thoai thoải, gần mép nước có hai cây cổ thụ tán lá xòe ra che phủ. Thực tình tôi mừng hết chỗ nói. Tôi hỏi chỗ này Đoàn 559 đã biết chưa? Anh em nói Thủ trưởng Ngữ chưa cho phép báo cáo vì đây là phương án dự phòng, gỡ bí của Binh trạm 32. Tôi thầm cảm ơn ông Ngữ, người chỉ huy Binh trạm láng giềng của Binh trạm 14 trong nhiều năm, vẫn biết ông ấy là "vua vượt sông" và cũng là con người lắm "phép", dám thách đố với Đoàn nhiều bận. Bao giờ ông ấy cũng được cuộc.

Tôi nói: Thôi nhé, chúng ta làm theo phương án của Binh trạm trưởng Đặng Văn Ngữ và đặt tên cầu phao này là cầu phao Đặng Văn Ngữ cũng được lắm chứ sao?

Một bất ngờ hơn nữa là ông Ngữ đã chuẩn bị ván, dầm và một xà lan kéo từ Bản Đông về đây trong mùa mưa. Chúng tôi chỉ lắp đặt là xong một cái cầu phao vượt sông tử tế. Việc của chúng tôi bây giờ là làm đường vào, đường ra ở bờ bắc và bờ nam. Tôi cho đường thọc sâu xuống phía nam 3 kilômét, rồi quay ngược lại đến một lùm cây cao, rộng, từ đó thọc vào đầu cầu phao, phía nam cũng làm như thế. Anh em đặt ngay một cái tên "đường chữ Z".

Tôi thầm nghĩ: Ông Đặng Văn Ngữ, một Binh trạm trưởng dũng cảm, tài ba đã chuẩn bị và để lại cho ta một phép màu hiệu nghiệm; bây giờ ông ấy đang điều trị ở đâu, nếu biết được địa chỉ ông ấy tôi sẽ viết thư báo tin mừng cho ông ấy khi chiếc cầu phao này đi vào sử dụng.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Mười Hai, 2016, 09:37:16 pm

Một sự may mắn thật kỳ lạ! Vừa bắc được cầu xong thì xuất hiện một đợt mưa đầu nguồn, nước trên sông Sê Băng Hiêng cuồn cuộn chảy xuôi. Trên tuyến Tây Trường Sơn, cung đường của Binh trạm 32 và Binh trạm 27 nước sông dâng cao làm ngập con đường ô tô đi theo con suối Chà Lỳ, Binh trạm lập tức chuyển hướng cho xe chạy về phía cầu phao. Hậu cần Binh trạm dùng súc vải trắng kéo dọc hai bên cầu phao làm tiêu cho xe đi; xe vào cầu phải tắt đèn gầm. Bốn góc cầu để bốn ngọn đèn bão, chỉ để hai lỗ nhỏ cho ánh sáng ló ra, xe lên xuống cầu giữa hai chấm đèn ấy. Đến sáng, ta dỡ cầu đẩy theo dòng nước chảy về giấu ở hạ lưu, dưới một tán cây rừng rậm rạp ven sông. Chiều đến, bộ đội ta lại cho xe tời gá vào thân cây kéo ngược lên, lắp cầu vào vị trí. Mọi động tác phải rất nhanh và thật chính, xác. Công việc này cũng được tổ chức huấn luyện cẩn thận thành quy trình trước khi đưa cầu vào sử dụng.

Binh trạm chỉ thị cho ngầm N1 tiếp tục công việc nghi binh lừa địch, kéo địch về phía ấy. cầu phao không thể cho xe chạy ban ngày được nên chưa thực hiện được chủ trương của Bộ Tư lệnh 559 là kết hợp đường hở và đường kín, chạy ngày kết hợp với chạy đêm. Yếu tố hệ thống đường kín bảo đảm cho xe chạy ngày đang xuất hiện trên toàn khu vực Sư đoàn 472, các binh trạm 33, 39, 34 đang ra sức cải tạo đường hở thành đường kín để chuyển mọi hoạt động sang ban ngày, ban đêm chỉ chạy nghi binh thu hút địch. Việc làm một cái ngầm kín vượt sông Sê Băng Hiêng thôi thúc chúng tôi phải hoàn thành sớm bằng mọi giá.

Trở về Binh trạm bộ tôi như người mất trọng lượng, mắt hoa, chân run. Đêm đó, khi ra ngoài đi tiểu tôi bị ngất nằm lăn trên hố tiểu. Đồng chí công vụ thức dậy không thấy tôi, đi tìm mới thấy tôi nằm xoài, anh cõng tôi vào nhà.

Anh Hiểu - Chính ủy Binh trạm 32, anh Thuận Quảng Binh trạm phó và anh Lê Hợp - Phó chính ủy người đồng hương Quảng Trị đến thăm, khẩn khoản yêu cầu tôi không ra đường trực tiếp chỉ huy nữa...

Đến lúc này hệ thống đường kín đã hoàn chỉnh và khô ráo, cho phép các Trung đoàn xe 11, Trung đoàn xe 13 của Bộ Tư lệnh Đoàn 559 và ba tiểu đoàn xe của Binh trạm 32 đi đội hình tập trung, rất cần có ngay một cái ngầm kín chạy ngày để khai thác thời gian trong 24/24.

Thêm một lần nữa cùng Ban Tham mưu công binh lên đường đi làm ngầm kín. Từ cầu phao xuôi về hạ lưu, thấy một thác nước thấp và rất đẹp, hai bên bờ có cây to, bóng mát, giữa thác lô nhô những mỏm đá ken dày, nếu có đá tảng đưa vào xung quanh các mỏm đá tự nhiên ấy có thể tạo ra một cái ngầm kín tốt. Tôi đi ngược lên thượng lưu, cởi quần áo bơi ra giữa dòng sông nhìn bầu trời trong sáng, lơ lửng có những đám mây trắng toát, dòng sông trong trẻo và mát lạnh, bất ngờ gặp một dòng nước rất mạnh cuốn tôi xuống hạ lưu. Tôi hoảng quá, chồm người ra phía trước đón một mỏm đá, lấy hai tay ôm vít mỏm đá, hai chân kẹp hai bên mỏm đá, như đang cưỡi ngựa, rêu xanh rất trơn nên người tôi tụt xuống, tôi bấu chặt vào cái tai mỏm đá. Anh em vội vàng kiếm dây rừng buộc vào cái mũ cối rồi ném về phía tôi. Tôi với tay nắm được đầu dây, anh em kéo vào bờ. Thật là hút chết...


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Mười Hai, 2016, 09:37:40 pm

Đi thêm 5 kilômét nữa, thì ông trời cho gặp một điểm tuyệt vời. Hai bên bờ bắc và nam đều thoai thoải giống như bến sông quê hương tôi. Men bờ là những tán lá cây rừng cao to, rậm rạp, dòng sông cạn nước chảy lững lờ. Tôi mừng vui quá đỗi và nói với anh em cùng đi: Đây sẽ là một cái ngầm kín lý tưởng. Thằng địch cho rằng đây là một đoạn sông sâu, chúng không chú ý. Ta đổ vào đây khoảng 500 mét khối đá thì sẽ có một cái ngầm kín có một không hai trên tuyến đường Trường Sơn này!

Làm sao để có 500 mét khối đá làm ngầm? Anh em cho biết Binh trạm 32 có máy khoan đá, có xe ben huy động ra làm thì chỉ một tuần là xong. Binh trạm 32 là Binh trạm chủ lực của Đoàn 559 nên được trang bị nhiều loại: máy húc, xe ben, xe téc, máy khoan đá loại nào cũng có. Tổ thông tin đi cùng mắc một đường dây bọc thông tin ra đường dây trần xuyên tuyến, gọi điện thoại về Binh trạm bộ. Tôi nói chuyện với đồng chí Nguyễn Hiểu - Chính ủy đề nghị họp ngay Thường vụ Đảng ủy bằng điện thoại. Đại đội trưởng thông tin liền nối dây vào ba máy: máy của tôi tại hiện trường, máy của Chính ủy và máy của Phó chính ủy Lê Hợp. Binh trạm phó Thuận Quảng ở máy trực ban. Tôi báo cáo việc tìm được địa điểm rất lý tưởng để làm ngầm kín, công việc phải làm, thời gian hoàn thành, triển vọng sử dụng công trình. Anh Thuận Quảng ở máy trực ban nói: Anh Tâm ơi, gần cầu phao phía phải theo hướng Bắc - Nam có một vỉa đá vôi rất tốt, có thể rất gần chỗ của anh. Anh Hiểu nói: Tôi sẽ trực tiếp huy động tất cả máy khoan đá, xe ben, các thứ gì trong kho có thể dùng được và đưa xuống. Một binh trạm có truyền thống tổ chức hành động, có truyền thống đoàn kết nhất trí là cái lý giải cho ngày hôm sau tất cả đã có mặt ở hiện trường. Tôi ôm lấy anh Hiểu vì cảm động và sung sướng quá! Anh Hiểu là một người chính ủy trông bên ngoài rất hiển lành, nhưng trong công việc lại rất xông xáo và sáng suốt, đối với anh tất cả là vì tập thể, vì chiến thắng, hơn thế nữa vì truyền thống của Binh trạm 32 - truyền thống mà biết bao cán bộ, chiến sĩ của Binh trạm đã lấy xương máu của mình để hun đúc nên.

Một công trường khai thác đá bằng cơ giới giữa núi rừng Trường Sơn xa xôi hẻo lánh được khai trương; máy nổ, máy khoan đá chạy đều đều, lưỡi khoan thọc sâu vào lòng các tảng đá, bột đá bay tỏa trong không gian; những tiếng mìn nổ đùng đoàng, khói bốc cao rồi lan tỏa vào rừng cây, có từng sợi, từng sợi bay vắt vẻo trong tán cây. Những khối đá vỡ ra màu trắng ngà nhiều cỡ khác nhau lăn lóc. Xe ben áp sát, lực lượng công binh liên tục chuyển đá lên xe. Xe nổ máy tiến về hiện trường đổ xuống lòng sông, công binh xếp những khối đá tảng ở dưới, để chừa những lỗ trống để thoát nước, các cục đá ba ở các lớp trên, cứ thế cao dần từ bờ bắc vào bờ nam. Hai tốp công binh khác mở đường ra, vào ngầm theo công thức đường ra, vào lắt léo của cầu phao.

Cả công trường làm việc quên ăn, quên ngủ. Chỉ sau 10 ngày, ngầm kín N3 chạy ngày được hoàn thành. Từ đó hai trung đoàn xe: Trung đoàn 11 và 13, ba tiểu đoàn 60, 990, 102 đi cung dài vượt ngầm ban ngày chở hàng ra phía trước. Binh trạm vẫn để một đội hình xe nhỏ chạy đường hở, nửa kín nửa hở đi vào các binh trạm 33, 34 theo trục đường 22, nếu địch dùng AC 130 đánh phá thì chạy ngày, nếu địch dùng phản lực đánh phá thì chạy đêm để thu hút địch.

Ai đi qua các ngầm kín N3 ấy đều muốn dừng lại ngắm nghía chốc lát nhưng rồi phải đi ngay, bởi Binh trạm đã gắn một dòng chữ hai bên ra, vào ngầm: "Dừng lại lâu ở đây, ngầm sẽ bị lộ".


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Mười Hai, 2016, 09:38:34 pm

Anh Đồng Sỹ Nguyên - Tư lệnh Bộ Tư lệnh 559, dạo ấy dù công việc bận rộn đến thế mà vẫn mấy hôm lại phóng xe vào thăm chiếc ngầm kín ấy. Anh Đặng Tính - Chính ủy Bộ Tư lệnh 559, từ Sư đoàn 471 ra, cũng dừng xe lại. Anh ôm hôn tôi, và cười hài lòng. Anh tặng chúng tôi một tút thuốc lá Điện Biên và một gói ớt Hạ Lào. Tôi báo cáo anh: Ngầm này thi công bằng cơ giới hóa, đồ sộ thế mà chỉ trong 10 ngày, đêm là xong. Đề nghị anh từ nay trở đi việc thi công đường sá nên phát triển theo hướng cơ giới hóa. Tôi nghe tin anh Đinh Đức Thiện đem phương tiện cơ giới đổi nhân lực đưa vào chiến trường, trước đây hoàn toàn đúng, bây giờ nên đưa cơ giới hóa vào chiến trường thay nhân lực có lợi hơn. Anh nói: Ý kiến của cậu đúng đấy, Binh trạm 32 giỏi, giỏi thiệt. Một cái ngầm bình thường thôi, nhưng khi nó đáp ứng cho một chiến cuộc phát triển quy mô mới thì trở thành một cái ngầm mang tính huyền thoại. Cũng như con đường Trường Sơn chỉ là con đường đất bình thường phi tiêu chuẩn nhưng khi nó trở thành "trận đồ bát quái xuyên rừng rậm” đáp ứng cho một cuộc chiến tranh quy mô lớn kéo dài trong nhiều năm, chịu gần 4 triệu quả bom các loại và hơn 400.000 loạt rốc-két, đưa hàng triệu tấn hàng quân sự, hàng triệu quân vào chiến trường thì con đường Trường Sơn trở thành con đường huyền thoại sống mãi trong lương tri của mọi người Việt Nam và loài người tiến bộ! Song con đường Trường Sơn hoàn thành nhiệm vụ lịch sử là vì nó được tựa vào sức mạnh đoàn kết, đại đoàn kết của toàn dân tộc Việt Nam, đoàn kết đặc biệt giữa nhân dân ba nước Đông Dương; đoàn kết của phe xã hội chủ nghĩa và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.

Hình thái vận chuyển trên tuyến chi viện chiến lược đã phát triển đến một cục diện hoàn toàn mới: kết hợp chạy ngày và chạy đêm, kết hợp đường kín và đường hở, từ sự xuất hiện cục bộ năm trước nay đã xuất hiện đại trà trên tuyến Trường, Sơn - đường Hồ Chí Minh. Nhận biết cục diện mới xuất hiện, Đảng ủy Binh trạm 32 đã họp một cuộc họp bất thường. Đảng ủy nhận định rằng: Nghệ thuật vận chuyển chi viện chiến lược phát triển tới một đỉnh cao, đang ở xu thế tiến lên xây dựng một thế trận vận tải chi viện chiến lược đồng bộ từ cấp chiến lược, chiến dịch đến chiến đấu. Xây dựng ngày càng hoàn chỉnh tổ chức và lực lượng, sáng tạo hình thái nghệ thuật vận tải quân sự kết hợp tiến công và phòng ngự. Nghệ thuật vận chuyển chi viện chiến lược này khẳng định sự chiến thắng cuối cùng của ta và trong cuộc chiến đấu chống ngăn chặn. Lực lượng ta nhất định đánh sập hoàn toàn cuộc chiến tranh ngăn chặn quy mô lớn, hiện đại nhất của Mỹ. Nhiệm vụ lịch sử của Binh trạm 32 và Sư đoàn 472 lúc này là phải dốc toàn sức, dồn toàn lực, tổng công kích toàn diện với mục tiêu vượt đường 9 - Sê Băng Hiêng. Riêng Binh trạm 32 phải đạt mức 2 vạn tấn/tháng. Để đạt được mục tiêu này ta phải tập trung làm tốt ba công việc sau:

Một là: Tất cả bảo vệ đường kín và chạy ngày, kiên trì chạy đường hở thu hút địch, đẩy mạnh nghi binh thu hút địch.

Hai là: Tất cả cho công tác đảm bảo kỹ thuật xe đạt hệ số kỹ thuật, hệ số sử dụng cao nhất.

Ba là: Tất cả cho sức khỏe bộ đội nhất là lái xe và công binh có sức khỏe dẻo dai chiến đấu liên tục ngày đêm.

Đảng ủy phân công anh Nguyễn Hiểu, anh Lê Hợp cùng cơ quan chính trị, hậu cần lo khâu sức khỏe cho bộ đội, động viên tinh thần bộ đội; tổ chức các quán ăn, các trạm truyền tin, đội văn nghệ biểu diễn phục vụ bảo đảm cho lái xe và công binh được ăn đủ, ngủ tốt, giải trí trên đường. Đồng chí Nguyễn Thuận Quảng và Ban Tham mưu vận tải tổ chức nâng cao đầu xe hoạt động. Tôi được giao phụ trách chung, trực tiếp là khâu cầu đường và đánh địch; có nhiệm vụ phối hợp với Trung đoàn cao xạ 591, kéo địch ra đường hở để đánh địch nhằm bảo vệ đường kín, phối hợp với Binh trạm 30 tu chỉnh đường trên toàn tuyến 24.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Mười Hai, 2016, 09:38:55 pm

Nghị quyết của Đảng ủy vừa phổ biến đến toàn thể các đơn vị trong Binh trạm thì đúng vào lúc Bộ Tư lệnh 559 phát động đợt Tổng công kích. Theo lệnh của Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên: Binh trạm trưởng Binh trạm 32 dẫn đầu đoàn xe của Binh trạm xuất phát tiến công.

Đêm đó, tôi ngồi trên một chiếc xe Zil 130 đi đầu đội hình, xe đã vỡ kính, đoàn xe vượt ngầm N1 lao vào hướng Binh trạm 33, xe chạy hết tốc lực đến đoạn đường Binh trạm 33 rào bằng tre lồ ô, một loại tre để già vót nhọn sắc như dao. Đột nhiên, một cây tre lồ ô nhọn từ trên dàn ngụy trang lao vào chính trước mũi xe tôi, tôi nhanh tay hất nó sang bên phải, nó đâm vào nệm tựa, phát ra một tiếng "rạo", cây tre gãy đôi trước mắt tôi. Nếu không nhanh mắt, nhanh tay có lẽ tôi đã cầm chắc cái chết!

Cuộc mở màn Tổng công kích thành công tốt đẹp, 100% xe đến đích trên tuyến đường nửa hở, nửa kín. Lúc này trên chiến trường miền Nam, Mỹ - ngụy đang bị quân giải phóng tấn công tới tấp khắp nơi. Chúng phải tập trung đối phó, tạo điều kiện thuận lợi cho tuyến chi viện Trường Sơn đẩy mạnh hoạt động vận tải.

Lâu lắm tôi mới được gặp lại anh Hoàng Xuân Điền, Đỗ Mạnh Chu, chuyện trò tâm sự vui vẻ. Đoàn xe chạy lấn sáng lấn chiều rồi quay trở về binh trạm ngay trong ngày.

Vấn đề cầu đường coi như đã giải quyết xong, còn vấn đề tác chiến bắn rơi máy bay AC 130 tại chỗ được đặt ra cấp bách. Tôi đến gặp anh Lê Lẫm - Trung đoàn trưởng Trung đoàn cao xạ 591 trực thuộc Bộ Tư lệnh 559. Tôi nói với anh: "Chưa có nơi nào mà lực lượng phòng không mạnh như ở khu vực này: Toàn bộ Trung đoàn 591 cao xạ, Trung đoàn 238 tên lửa và lực lượng cao xạ của Binh trạm 32 bằng một sư đoàn nhé. Vị chi ở đây ta có một sư đoàn phòng không kết hợp cao xạ và tên lửa. Thật là không thể tìm đâu ra một sư đoàn phòng không tổng hợp rất mạnh này! Chính ủy Sư đoàn khu vực 472 anh Lê Đình Trung vốn là Chính ủy sư đoàn phòng không; Tư lệnh Sư đoàn 472 nguyên làm Tham mưu trưởng phòng không Đoàn 559. Với "đội hình'' này, phải bắn rơi AC130 tại chỗ, B52 mò ra cũng phải bắn rơi. Ở đường 20 Quyết thắng chúng tôi đã lên quy mô tác chiến nhiều trung đoàn phòng không rồi. Cao xạ là Trung đoàn 224, tên lửa là Trung đoàn 275, ngoài ra còn mấy tiểu đoàn cao xạ của Binh trạm, ở đó quân ta làm chủ cả mặt đất, cả trên không; bọn Mỹ hoảng sợ không dám làm mưa làm gió như trước”.

Lê Lẫm không tự ái, trái lại anh cười nói - Anh giao các tiểu đoàn cao xạ của anh cho em chỉ huy, em sẽ hợp đồng tác chiến với Trung đoàn tên lửa 238, nhất định em sẽ làm được lời anh nói. Thấy tôi cười xòa, anh nói tiếp: Anh nghĩ tôi không giao các tiểu đoàn cao xạ cho anh, thời đó Binh trạm nào cũng cố giữ lực lượng của mình, cứ giữ lấy, giữ để thôi. Đoàn 559 điều đi là khiếu nại cố xin giữ lại.

- Tôi giao ngay lập tức cho anh và tôi tin anh làm được. - Để chứng minh lời nói của mình là sự thật, tôi gọi điện thoại về sở chỉ huy Binh trạm trao đổi với anh Hiểu - chính ủy, anh Hợp - phó chính ủy. Thường vụ Đảng ủy Binh trạm cũng thống nhất, tôi tuyên bố chính thức: Từ hôm nay chúng tôi giao các tiểu đoàn cao xạ cho Trung đoàn 591 chỉ huy, Chính ủy Binh trạm đã thông báo quyết định của Thường vụ Đảng ủy Binh trạm 32 cho các đơn vị rồi, anh triệu tập tiểu đoàn trưởng, chính trị viên lên giao nhiệm vụ. Lê Lẫm vui sướng quá, anh ôm chồm lấy tôi, hôn vào má tôi chùn chụt.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Mười Hai, 2016, 09:39:14 pm

Ngày hôm sau, Lê Lẫm mời các đơn vị thuộc Binh trạm 32 và thuộc Trung đoàn 591 họp bàn phương án bắn rơi tại chỗ AC 130. Trước khi đi họp, Tham mưu phó tác chiến Binh trạm hỏi tôi: Ý Binh trạm trưởng thế nào? Tôi nói: - Phải bắt thằng AC 130 đi vào cái trận địa mà ta phục kích sẵn ta mới bắn rơi tại chỗ. Muốn thế, các tiểu đoàn cao xạ Binh trạm 32 đánh máy bay một phía, các tiểu đoàn cao xạ Trung đoàn 591 chặn đánh một phía, buộc chúng đi vào hướng phục kích của ta, tên lửa bắt được mục tiêu đang bị bao vây, chắc chắn bắn rơi tại chỗ.

Hôm ấy, trời quang mây tạnh, trăng sáng vời vợi. Quân ta đã sẵn sàng thì trên bầu trời một thằng AC 130 nghênh ngang từ phía nam bay ra. Dọc đường bay nó nhả đạn 20 ly, 40 ly tới tấp. Từ mặt đất từng làn đạn cao xạ của các tiểu đoàn chặn đánh quyết liệt. Nó vội vã nâng tầm cao rồi ngoặt sang phải thì gặp ngay lưới lửa của Trung đoàn 591; nó chỉnh hướng để đi vào phía giữa, ở đây tên lửa đã phục kích sẵn.

Hai quả tên lửa phóng lên, trúng ngay mục tiêu, lập tức máy bay rơi tại chỗ, chín thằng giặc lái cháy thui. Lệnh của Bộ Tổng Tham mưu cho 6 xe tải chuyển thẳng ra Hà Nội để nghiên cứu gấp.

Tiếp sau đó một tuần, quân ta cũng theo phương án đánh bao vây tứ phía, lại bắn rơi thêm một máy bay AC130 ở khu vực Na Bo. Bị một đòn chí mạng, AC130 của Mỹ không còn dám hoành hành đánh phá khu vực vượt đường 9 - sông Sê Băng Hiêng như trước nữa. Bộ đội ta cho xe chạy ngày kết hợp chạy đêm, chạy đường kín kết hợp đường hở với đội hình tấn công tập trung, cấp tập.

Mùa khô 1971-1972 trên thực tế đã xuất hiện quy mô tác chiến tập trung của một sư đoàn phòng không trên một khu vực trọng điểm, cũng xuất hiện quy mô một sư đoàn vận tải ô tô đi đội hình tập trung cung dài vận chuyển hàng lên phía trước. Đó là tiền đề để sau đó ít lâu bộ đội Trường Sơn phát triển thành các sư đoàn binh chủng cho theo kịp với sự phát triển vô cùng nhanh chóng của cách mạng miền Nam.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Mười Hai, 2016, 03:58:51 pm

CON ĐƯỜNG CỦA NHỮNG KÝ ỨC KHÔNG PHAI...
Thiếu tướng HOÀNG ANH TUẤN
- Nguyên Bí thư Đảng ủy Tổng cục Kỹ thuật
- Nguyên Chính trị viên phó Tiểu đoàn 52 ô tô vận tải
- Nguyên Chính trị viên Tiểu đoàn vận tải thủy 166
- Nguyên Chính ủy Trung đoàn công binh 551 Bộ Tư lệnh 559

Chúng tôi, những chiến sĩ lái xe thuộc Đoàn 3 ô tô vận tải (tiền thân của Tiểu đoàn 52), làm nhiệm vụ vận chuyển trên tuyến Trường Sơn từ mùa khô 1961-1962. Hồi đó, ở tuyến Đông Trường Sơn, từ một căn cứ phía tây bắc thị xã Đồng Hới, cứ một giờ đêm, những chiếc xe được tháo biển số, phủ kín bạt chở quân vào Nam. Xe qua phà Long Đại (phà kéo bằng tay), chạy tiếp trên nền đường sắt cũ, rồi qua Mỹ Đức, tới Bang; xe vượt hai mươi cây số nữa qua Vít Thù Lù vào tới Làng Ho. Đến đây, hết đường ô tô, bộ đội xuống xe đi bộ vượt Trường Sơn.

Trên tuyến Tây Trường Sơn, đơn vị chúng tôi làm nhiệm vụ vận chuyển hàng theo đường 12; vượt đèo Mụ Giạ, Cổng Trời, qua Cha Lo sang nước bạn Lào, tới Lằng Khằng rẽ trái theo đường quân sự làm gấp (đường 129), qua Pác Pha Năng, Xóm Péng, Na Phi Lăng... ra đường 9, rẽ hướng Đông qua Mường Phin, đến tập kết hàng ở khu vực Thà Khống. Tại đây, tiểu đội chúng tôi do đồng chí Trần Minh Khâm là tiểu đội trưởng1, cùng Vương Hữu Hạnh lái một xe; tôi và Phùng Văn Tiếp lái một xe, được giao "chốt" lại làm nhiệm vụ vận chuyển tiếp từ Thà Khống đi Bản Đông. Chúng tôi mặc quân phục bộ đội Pa-thét Lào, lái xe "không số", hàng ngày mỗi xe chỉ được giao chở 2 chuyến. Hàng hóa được đưa tới bờ sông Sê Pôn, từ đó bộ đội chuyển qua sông, rồi gùi, thồ vào phía nam...

Những năm tháng tiếp theo, yêu cầu chi viện cho chiến trường ngày càng lớn; những tuyến đường ngày càng được mở rộng, vươn xa. Lực lượng vận chuyển cơ giới cũng được phát triển không ngừng. Ngày 19 tháng 8 năm 1965 Tiểu đoàn 52 ô tô vận tải được thành lập.

Từ năm 1966, Tiểu đoàn 52 đã làm nhiệm vụ vận chuyển trên đường 20 Quyết thắng - con đường đã đi vào lịch sử Đoàn 559 với những chiến công thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và máu của đồng chí, đồng đội.

Khi đó Tiểu đoàn 52 trực thuộc Binh trạm 32, đóng quân ở Lùm Bùm. Đứng chân trên đất bạn Lào, cung đường vận chuyển của Tiểu đoàn 52 theo con đường chiến lược 128 vượt đường 9 đến Binh trạm 33 ở nam Tha Mé, vượt qua Sê Pôn đến Binh trạm 41 ở gần Bản Đông. Để tiếp nhận hàng vận chuyển, Tiểu đoàn 52 lùi cung về lấy hàng ở cụm kho C thuộc Binh trạm 14 ở Km 70-71 đường 20. Có thể nói, con đường 20 đã đi vào lịch sử Tiểu đoàn 52 từ ngày ấy.

Đó là một con đường mới mở, trơn lầy không sao kể xiết; cường độ đánh phá của địch ngày một ác liệt. Nhưng vượt lên bom đạn, mưa nắng, lượng hàng vận chuyển của Tiểu đoàn 52 ngày một tăng lên.

Cũng như tuổi trẻ cả nước, tuổi trẻ Tiểu đoàn 52 căng đầy nhiệt huyết, "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước" sẵn sàng đương đầu với mọi gian khổ, hy sinh, ngày đêm bám đường, bám cung vận chuyển. Kết thúc mùa khô 1965-1966, Tiểu đoàn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, vinh dự được Bác Hồ kính yêu tặng cờ thi đua "Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược".
______________________________________
1. Đồng chí Trần Minh Khâm được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 1967.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Mười Hai, 2016, 03:59:22 pm



Những ai đã từng là người lính vận tải trên con đường 20 trong những năm tháng đánh Mỹ đều quen thuộc với 3 chữ A-T-P - một tập đoàn trọng điểm bao gồm cua chữ A, hệ thống ngầm Ta Lê và đèo Phu La Nhích.

Trước khi ta tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, trên toàn tuyến, các binh trạm của Đoàn 559 đều phải "lùi cung" để "móc hàng" đưa sâu vào phía trong.

Bước vào mùa khô 1967-1968, Tiểu đoàn 52 được lệnh tiếp cận Chà Là, một đoạn đường độc đạo vắt qua dãy núi cheo leo ở phía tây đèo Phu La Nhích. Cung vận chuyển của Tiểu đoàn là vượt qua đèo Phu La Nhích, sông Ta Lê, các "cua" A lớn, A nhỏ, lấy hàng ở Binh trạm 14.

Nhanh chóng "đánh hơi" có đoàn xe qua đây, địch bắt đầu tập trung đánh hủy diệt, ngăn chặn với mật độ bom đạn rất cao. Hố bom cắt nát mặt đường. Ngầm bến bị bật lên, đứt đoạn. Những bụi le um tùm, những rừng săng lẻ, rừng khộp cho xe trú đậu bị san phẳng. Không ít lần bãi đỗ xe, đội hình hành quân vận tải của Tiểu đoàn 52 bị địch ném bom, bắn rốc-két, đạn 20 ly... Có thể coi tập đoàn trọng điểm ATP hình thành là một chiến trận mặt đối mặt với kẻ thù của các chiến sĩ công binh, cao xạ, tên lửa, vận tải và các đơn vị thanh niên xung phong. Tất cả vì sự sống của con đường, cho những đoàn quân ra trận, cho những chuyến hàng ra tiền tuyến...

Mùa khô 1967-1968, trong đội hình chiến đấu của Binh trạm 32 "Binh trạm vạn tấn", đánh dấu một bước trưởng thành mới của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các cấp Tiểu đoàn 52. Việc tổ chức bộ đội hành quân vận tải trong điều kiện đường xấu, địch đánh phá với cường độ cao; đó là sự lớn lên về bản lĩnh, kinh nghiệm, sức sáng tạo cũng như độ chín, đức tính dũng cảm hy sinh hoàn thành nhiệm vụ trong mọi điều kiện hoàn cảnh của các chiến sĩ lái xe toàn tiểu đoàn. Đêm 23 tháng 3 năm 1968 đoàn xe 48 chiếc của tiểu đoàn đang trên đường vận chuyển, vừa đến trọng điểm Văng Mu thì máy bay địch giăng pháo sáng trên toàn tuyến rồi đánh chặn đầu. Trong tình thế hiểm nghèo đó, Tiểu đoàn quyết định cho một chiếc xe trong đội hình bật đèn chạy sang hướng khác để thu hút, đánh lừa máy bay địch bám theo, bắn phá. Nhờ đó, đoàn xe vượt qua trọng điểm an toàn.

Kết thúc mùa khô này, Tiểu đoàn 52 được biểu dương là một trong những lá cờ đầu vượt cung tăng chuyến của toàn tuyến. Ngày 15 tháng 6 năm 1969, Đại đội 1 vinh dự được tuyên dương Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Mười Hai, 2016, 04:00:24 pm



Đến mùa khô 1969-1970, Tiểu đoàn 52 được trang bị mới các loại xe Zil 157 (của Liên Xô), Hồng Hà (của Trung Quốc) và chuyển về trực thuộc Binh trạm 14. Tháng 9 năm 1969, khi bắt đầu vào chiến dịch vận chuyển thì được tin Bác Hồ qua đời. Giữa Trường Sơn mênh mông, trong nỗi đau thương vô hạn, toàn tiểu đoàn như dâng đầy một sức mạnh quyết tâm, nghị lực mới sao cho xứng với công lao trời biển của Bác kính yêu.

Càng vào chiến dịch, hiệu quả vận chuyển của Tiểu đoàn 52 càng cao. Ngày đêm nối tiếp nhau, các chiến sĩ lái xe Tiểu đoàn 52 sát cánh cùng các chiến sĩ lái xe Tiểu đoàn 781, liên tục cho xe lăn bánh trên đường 20, qua tập đoàn trọng điểm ATP - điểm ngăn chặn quyết liệt của không quân Mỹ. Biết bao lần bị chụp trúng xe, trúng đội hình mà Tiểu đoàn 52 vẫn không hề nao núng. Xe vẫn quay vòng nhanh, tăng chuyến, tăng hàng. Trong mùa vận chuyển, trung bình mỗi xe chạy 28 đêm, có tháng chạy 30 đêm; rất nhiều xe vượt cung, vượt chuyến. Trong mùa vận chuyển 1969-1970, có 65% số xe chạy 1 đêm/chuyến trên cung độ 2 đêm/chuyến. Tiểu đoàn hoàn thành vượt mức kế hoạch 17%, sớm trước 65 ngày.

Giờ đây, đọc lại trang sử của các đơn vị Anh hùng ngành xe quân đội, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 52 rất tự hào về những chiến công được tuyên dương: "222 lần máy bay địch bắn phá vào đội hình của tiểu đoàn, nhưng cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn đã anh dũng cứu xe, cứu hàng vượt qua khu vực hiểm nguy. Nhiều cán bộ, chiến sĩ đã anh dũng hy sinh. Trong mọi trường hợp tiểu đoàn luôn kiên quyết hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ".

... Còn nhớ đêm 30 Tết Tân Hợi năm 1971...

Chiều hôm đó, Tiểu đoàn tổ chức xuất phát từ Khe Tum. Khí thế "Mừng Xuân dâng Đảng" rạo rực khắp cánh rừng trú quân ngay bên trọng điểm. Tiếng còi, tiếng người hô, tiếng máy nổ râm ran. Trên 100 xe của 4 đại đội hàng đã chất đầy, ngụy trang chu đáo. Lái chính, lái phụ, thợ máy, cán bộ chỉ huy... ai nấy đều náo nức ý chí lập công. Không khí tưng bừng như mở hội.

Tư lệnh Bộ đội Trường Sơn Đồng Sỹ Nguyên cùng có mặt, kiểm tra, hỏi han khích lệ anh em. Các đồng chí chỉ huy Binh trạm đến từng đầu xe cổ vũ bộ đội. Đội văn nghệ xung kích Binh trạm đến biểu diễn động viên; Ban Hậu cần cử chị nuôi mang lương khô, bánh ăn đêm phát cho từng tổ lái, đầu xe; Ban Quân y còn có các loại xi-rô tăng lực, "kẹo chống ngủ" đưa đến trao tận tay các anh lái xe; những túi thuốc cấp cứu... cũng được phân phát không xe nào thiếu.

Lễ xuất phát tiến công cũng là dịp gặp gỡ nhau chúc Tết, mừng Xuân. Anh em được nhận nhiều món quà đậm đà hương vị quê hương như bánh nếp, chè, thuốc lá...

Thông thường, anh em lái xe, thợ máy có thói quen: ngại "gặp gái" lúc lên đường. Nhưng hôm nay, tiếp chị nuôi, văn công, y tá... đều là nữ mà anh em lại thấy như được nhân lên niềm phấn khởi, tin tưởng vào thành công. Có đồng chí lái xe lúc bắt tay đồng chí Tư lệnh Trường Sơn đã tự tin hứa: "Cứ khí thế này chắc chắn chúng em sẽ thắng to".


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Mười Hai, 2016, 04:00:50 pm

Tôi là Chính trị viên phó tiểu đoàn, được giao nhiệm vụ chỉ huy đội hình đêm nay. Đại đội phó Đại đội 1, Anh hùng lực lượng vũ trang Kim Ngọc Quản được giao đi sau "chỉnh ngũ".

5 giờ chiều, rừng Trường Sơn đã sâm sẩm tối. Tiểu đoàn đồng loạt xuất quân. Trời đất yên ắng lạ thường. Kinh nghiệm sống như mách bảo rằng đằng sau cái tĩnh lặng đó là một tình huống dữ dội sắp xảy ra... Nhưng kinh nghiệm cũng mách bảo người chiến sĩ lái xe Tiểu đoàn 52 rằng, phút tĩnh lặng trên chiến trường chính là phút tiến công. Tranh thủ xuất phát sớm, "lấn sáng, lấn chiều", đánh vào từng giây phút lơi lỏng của địch trên bầu trời rừng núi Trường Sơn là chiến thuật đã được mọi anh em quán triệt, vận dụng sáng tạo.

Đoàn xe băng qua cột mốc biên giới, thần tốc vượt cua chữ A. Từ điểm cao Phu La Nhích, qua màn bụi đường đỏ au, vần vũ, thấy đội hình hàng trăm xe rải đều trên hai sườn dốc mà lòng bừng bừng vui sướng. Đến trạm chỉ huy mang tên "Tam Đảo" của Tiểu đoàn 33 công binh. Lúc này, Vũ Tiến Đề, Anh hùng lực lượng vũ trang đang chỉ huy đảm bảo giao thông trên đèo. Hình ảnh Vũ Tiến Đề với chiếc xe ủi, luôn túc trực, sẵn sàng cấp cứu các trường hợp xe ách tắc, hay bị địch đánh phá thật khó phai mờ trong ký ức mọi người. Chỉ huy đoàn xe đến bắt tay anh: "Chào người Anh hùng trên tập đoàn trọng điểm ATP. Xin chúc mừng năm mới!". Cùng cười vui chúc mừng năm mới nhưng Vũ Tiến Đề không giấu nổi lo âu: "Nghe chừng yên ắng thế này, thằng B52 sắp giở trò đấy!". Biết vậy và người chiến sĩ lái xe chiến trận Trường Sơn lúc này là xốc lại xe, hàng thật gọn gàng ngay ngắn, dự kiến các tình huống có thể xảy ra, rồi căng mắt nhằm phía trước nhấn ga, lao tới. Anh em lái xe bình tĩnh, quyết tâm bởi niềm tin: mọi việc của con đường thì đã có công binh và thanh niên xung phong, bầu trời thì đã có các chiến sĩ phòng không, tên lửa.

Xe chỉ huy đã vượt qua đèo Phu La Nhích. Phần lớn đội hình đã xuống sườn dốc phía nam. Bỗng chình ình một chiếc xe đỗ trước mặt người chỉ huy. Anh gào to: "Sao đứng lại? Cố vượt lên ngay!". Từ trong buồng lái một cái đầu thò ra: "Báo cáo. Trước em, chúng nó phanh dồn cục hết. Chắc có tình hình...". Người chỉ huy nhảy xuống, chạy theo triền dốc đến đoạn đầu ách tắc. Đang thúc giục nhau cùng mau lẹ xử lý tình huống thì bỗng đất trời vần vũ, không kịp nghe thấy tiếng nổ; người nhoài xuống mặt đường, thấy tức như bị phang vào lưng, vào ngực. Tai ù đặc. Ruột gan như đảo lộn. Biết là bom đã dội trúng đội hình. Cây, đất đá đổ tung tóe, mù mịt. Tiếng bom vừa ngớt, vẫn còn tiếng nổ rải rác của các loại bom mìn khác. Rồi tiếng bọn "phản lực đi ăn hôi", tiếng đạn rốc-két từ trên cao trút xuống. Những chùm đạn xanh lè của súng phòng không ta vút lên. Không gian cứ lồng lộn như cuồng bão. Trên mặt đường, cán bộ chỉ huy và các chiến sĩ lái xe đã kịp thời xốc lại, kiểm tra ngay toàn đội hình. Từ các phía các chiến sĩ công binh cũng lao ra hỗ trợ... Rồi một kết cục kỳ lạ. Thằng Mỹ tốn mấy trăm tấn bom không rõ, nhưng xe của Tiểu đoàn 52 chỉ 7 chiếc (trong tổng số hơn 100 chiếc) bị hỏng nhẹ. Cái thì bẹp nắp ca-pô, cái thì bẹp két nước, cái thủng lốp. Người, không ai việc gì. Ngẫm lại, đây cũng là tất yếu, vì cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 52 đã bao phen dày dạn, hứng chịu những trận mưa bom trút xuống đội hình, có cả những mất mát thương vong đã không dễ gì tránh được. Rồi cứ vậy, kinh nghiệm xử lý xe, hàng, người khi B52 oanh kích đã thành "kỹ xảo" của anh em... Chúng tôi đang xử lý gấp thì từ trong một ngách núi, xe hộ tống của Tiểu đoàn 33 đã nổ máy lao ra hỗ trợ cho mấy cái bị bẹp. Những chiếc khác đã được anh em nhanh chóng co kéo nhau đâu vào đấy. Đội hình phía trước đã ầm ì xuống hết chân đèo. Có chiếc sắp vào khu trả hàng. Phía sau vẫn lục tục lao lên. Chỉ huy chiếc xe chỉnh ngũ, Đại đội phó Kim Ngọc Quản phút chốc đã nhảy khỏi buồng lái, giọng rành rọt: "Báo cáo anh, xe đã qua đèo hết". Có tiếng máy bay phản lực lao xèn xẹt phía sau. Pháo cao xạ ta tới tấp bắn trả. Đoàn xe đã được công binh hướng dẫn đi theo đường tránh QZ 25 vào khu kho Lùm Bùm.

Mặc dù bị máy bay B52 địch chặn đánh, song đoàn xe vẫn giao hàng đầy đủ, xe không bị bỏ lại chiếc nào trên đường. Đã thành nếp, khi vào khu kho trú đậu, lái xe, thợ máy lại ai làm việc nấy, lao vào khắc phục. Ngay đêm đó, nhiều xe đã quay về trước khi trời rạng sáng. Đó là thời điểm ít máy bay địch oanh tạc trên đường.

Về sau, trận này được đánh giá là một trận thắng điển hình của Tiểu đoàn xe 52 trên đường 20 Quyết thắng.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Mười Hai, 2016, 04:02:25 pm

ĐÓN TƯ LỆNH "601"
NGÀY 19-5-1973
Thiếu tướng, AHLLVT NGUYỄN BÁ TÒNG
Nguyên Đại đội phó công binh
Trưởng đoàn 98 Đoàn 559

Giữa tháng 5 ở Trường Sơn mưa rào đã bắt đầu dày lên, những trận mưa rào như đổ nước đã làm nước sông Bung đục ngàu, cuồn cuộn từng đợt sóng, cuốn cả đất đá, cây cổ thụ đầu nguồn đổ về rất hung dữ. Thác sông Bung réo sôi ùng ục, tung những đám bọt trắng đục lên cao, rồi đổ xuống vực sâu phát ra những âm thanh ầm ầm, ào ào ghê rợn. Mặc dù mưa nguồn, suối lũ, đơn vị Đại đội 6 Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 98 mà tôi làm chính trị viên vẫn đảm bảo cho đường và phà Bung thông suốt cho xe ra vào ngày đêm an toàn.

Vào những ngày thi đua thực hiện: "Làm đường hạ dốc cho xe tăng tốc độ, giải phóng nhanh cho xe qua phà sông Bung" toàn đơn vị hầu như cả ngày lẫn đêm đều có mặt trên đoạn đường 12 kilômét và phà Bung. Chiều ngày 18 tháng 5, khi đang đi kiểm tra đường và phà thì công vụ gọi về nhận điện của Trung đoàn. Tôi nhấc máy nghe đầu dây bên kia Trung đoàn trưởng Đoàn Ngọc Lập thông báo: "Đúng 10 giờ 30 phút ngày 19 tháng 5 Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên đến đơn vị đồng chí, chú ý báo cáo công việc đầy đủ và tổ chức cơm trưa cho Tư lệnh”.

Nhận được điện của Trung đoàn, tôi sung sướng như muốn reo to lên, bởi chưa bao giờ được gặp một cấp trên - một vị Tư lệnh nổi tiếng của Bộ đội Trường Sơn anh hùng. Nhưng rồi tôi lại băn khoăn: sẽ báo cáo công việc thế nào đây? Tổ chức ăn trưa cho Tư lệnh ra sao? Tôi nhớ lại thời kỳ ở miền Bắc huấn luyện đi B, được thông báo tiểu đoàn trưởng xuống kiểm tra, là đại đội đôn đốc các trung đội dọn vệ sinh, xếp ba lô ngăn nắp. Khi tiểu đoàn trưởng đến cả đại đội tập hợp. Đại đội trưởng hô nghiêm, bước từ đoàn quân ra đứng cách tiểu đoàn trưởng năm bước báo cáo to, rõ, trông cả hai đều rất oai phong. Tác phong quân sự ấy làm tôi liên tưởng tới, thấy lo lắng cho buổi gặp Tư lệnh ngày mai. Chính vì lẽ đó dù trời chưa tối, chưa đến giờ họp bàn giao, tôi đã hội ý với đại đội trưởng và cho triệu tập cuộc họp từ cán bộ trung đội trưởng để phân công công việc và yêu cầu các trung đội ăn cơm tối xong tổ chức quán triệt nhiệm vụ cho toàn thể cán bộ, chiến sĩ, tuyệt đối không được bàn tán và giữ bí mật.

Bữa cơm tối của đại đội bộ xong, tôi nhìn đồng hồ đã chỉ 21 giờ kém 15 phút tôi nói với đại đội trưởng cho tiểu đội trưởng và chiến sĩ nuôi quân lên giao nhiệm vụ tổ chức bữa ăn trưa ngày mai. Sau đó, tôi đi kiểm tra các đơn vị trực đêm bảo đảm cho xe ra vào đêm nay. Tôi theo một xe ben của đơn vị đi một vòng đoạn đường đơn vị đảm nhiệm, về đến doanh trại xem đồng hồ thì đã 24 giờ đêm. Ngồi vào chiếc bàn làm việc kết bằng nứa và gỗ, đốt ngọn đèn dầu làm bằng ống thịt hộp 1kg, tôi mở cuốn sổ ghi chép nội dung báo cáo tư lệnh. Ý định ban đầu của tôi là sẽ viết một bản báo cáo thật hay để miêu tả khó khăn, thuận lợi và kết quả, rồi cứ thế mà đọc như báo cáo thành tích trước đại hội. Viết xong đọc lại thì thấy không nên, vì Tư lệnh đến chỉ làm việc và ăn trưa có một giờ thì đọc báo cáo như đã viết không ổn. Tôi suy nghĩ và quyết định sẽ báo cáo trực tiếp, ngắn gọn những công việc và kết quả đã làm. Mải suy nghĩ miên man, tôi nhìn lên đồng hồ đã chỉ 4 giờ sáng, nằm xuống giường đắp miếng dù chiến lợi phẩm, nhắm mắt lại nhưng vẫn không sao ngủ được. Niềm vui, nỗi lo cứ trải dài trong suy tưởng... Trời mới mờ sáng, tôi liền nhẹ nhàng xỏ chân vào đôi dép cao su Trung Quốc, theo lối nhỏ đi xuống bếp, ánh lửa bập bùng từ xa đã thấy ba bóng người, đó là tiểu đội trưởng Đức Tụ và hai chiến sĩ nuôi quân đang nhặt rau, mổ cá, gần tới bếp thấy cả y tá Thanh theo sau, tôi hỏi! "Các cậu dậy sớm thế?". Mấy anh em đều nói: "Không ngủ được thủ trưởng ạ". Tôi nghĩ cái tin vui ấy không chỉ riêng mình tôi mà tất cả đại đội đều có chung cảm xúc, chắc ai cũng nghĩ ngày mai mình sẽ được ngắm nhìn Tư lệnh - hình ảnh một con người được cả tuyến 559 kính yêu, mến mộ bởi sự sáng tạo, gan dạ, quyết đoán, thân tình. Một vị tướng đã góp phần quyết định tạo nên một thế trận từ không thành có, từ có đến mạnh và rất mạnh, tạo được niềm tin đối với Đảng, nhân dân hai miền Nam - Bắc, với quân đội và cả hai nước bạn Lào, Cam-pu-chia về bộ đội Trường Sơn bất khuất kiên cường. Tôi rời bếp lửa hồng qua các trung đội xuống bến phà rửa mặt đánh răng đều đã thấy các trung đội thức giấc, vừa trò chuyện vui vẻ, vừa chuẩn bị công việc cho một ngày đặc biệt. Đúng là một đêm cả đại đội không ngủ mà tinh thần hoạt động tăng lên gấp bội.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Mười Hai, 2016, 04:03:11 pm

Ăn sáng xong, tôi và đại đội trưởng Minh Đức phân công nhau đi triển khai công việc cho các trung đội và hẹn 9 giờ gặp nhau tại đầu đường đơn vị đảm nhiệm để đón tư lệnh. Đúng 10 giờ 20 phút chúng tôi thấy một chiếc Gát 69 còn khá mới bon bon lao tới mà không thấy xe nào hộ tống, đến gần chúng tôi và mấy chiến sĩ đại đội bộ, xe dừng lại, từ trong xe Tư lệnh cùng hai cán bộ bước ra. Chúng tôi chào tư lệnh theo nghi lễ quân sự. Xong chưa kịp mời Tư lệnh về đơn vị thì Tư lệnh nói ngay: "Hai đồng chí lên xe cùng đi", xe đi được trên 2 kilômét thì đột ngột dừng lại, thấy Tư lệnh ra khỏi xe cùng 2 cán bộ. Tôi và Minh Đức cũng ra theo, Tư lệnh ngắm lại phía sau và nhìn đoạn đường phía trước rồi hỏi: "Đường các đồng chí đảm bảo tốt như hai cây số vừa rồi cả chứ?". Chúng tôi đồng thanh trả lời "Vâng ạ", rồi Tư lệnh nói tiếp: "Ta ra chỗ tán cây và hòn đá to kia ngồi nghe đơn vị báo cáo". Tôi liền mời Tư lệnh về đơn vị uống nước và nghe báo cáo. Tư lệnh nói: "Ngồi ở đây mát, có nước đây". Rồi anh cán bộ cùng đi đưa ra một bi đông nước to để uống. Đại đội trưởng Minh Đức báo cáo về công việc của đại đội, tôi bổ sung và nói thêm về tư tưởng, quyết tâm của đơn vị. Nghe xong, Tư lệnh cười và nói: "Các đồng chí làm và bảo đảm đường cho xe chạv được như thế này là rất tốt, cần tiếp tục mở rộng cua, hạ độ dồc là mặt đường êm chút nữa thì tốc độ xe sẽ tăng. Đây là nhiệm vụ hết sức quan trọng, khi vũ khí, khí tài và lương thực, thực phẩm vào được chiến trường càng nhiều thì chiến trường càng mở rộng để tạo một đòn quyết định cho nhiệm vụ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Thời cơ đang đến rất gần với chúng ta". Tư lệnh còn nhắc nhở thêm: "Riêng phà Bung, cần lát đá tốt hai đầu bến, túc trực ngày đêm không để ùn tắc xe. Tôi còn nghe dân nói đồng chí đã dũng cảm cứu phà hôm lũ lớn, như vậy là tốt, nhưng phải đảm bảo an toàn người và cơ sở vật chất". Chúng tôi rất vui khi được ngồi cùng xe với Tư lệnh và được Tư lệnh khen ngợi, căn dặn những điều rất đúng, rất mới cả khi báo cáo và trên đường đưa Tư lệnh đi kiểm tra tuyến đường và trên đường về đại đội bộ. Riêng tôi từ lúc gặp Tư lệnh cảm nhận được sức cảm hóa lan tỏa của Tư lệnh rất hấp dẫn; từ phong cách đến lời nói, việc làm. Với dáng người cao to, vị Tư lệnh của chúng tôi đi đôi ủng, áo để trong quần, đầu đội mũ mềm theo nghi thức quân sự, dáng đi khoan thai chắc chắn, tự tin, gương mặt tươi sáng, gặp anh em các trung đội của tôi thi công trên đường, Tư lệnh đều dừng xe thăm hỏi, động viên, dặn dò giữ gìn sức khỏe, nắm bắt thông tin, biểu dương những kết quả việc làm tốt, ngay như việc cứu phà của tôi chưa ai báo cáo mà Tư lệnh đã biết. Đó là sự việc diễn ra vào sáng ngày 15 tháng 5, lúc 7 giờ 30 phút từ đầu bắc phà, anh em đưa tôi qua sông cùng 2 xe tải hàng Z130, sang đến bờ Nam anh em cột phà vào một gốc cây to cạnh bến phà, rồi ngồi dưới gốc cây nghỉ, lúc này nước sông trên đầu nguồn đang tràn về, dâng cao dần nhưng với tốc độ bình thường. Nhưng chỉ 5 phút sau tôi đã thấy các bè cây, cùng với màu đỏ ngầu của đất lao về nhanh hơn, tôi đứng dậy ngắm nhìn dòng nước và nhắc nhở anh em chú ý nước nguồn về mạnh phải để ý kéo phà lên theo mực nước dâng, chưa dứt lời thì thấy một mảng lớn gồm một cây cổ thụ cả cành lá, rễ cây cùng các loại rác ầm ầm lao tới, tôi hô: "Xuống phà", cả tốp người đứng bật dậy cùng chạy xuống phà, tôi chỉ còn cách khoang phà gần bờ năm, bảy bước chân thì nghe tiếng phựt, hai khoang phà phía ngoài bị bè cây cán làm đứt phăng dây néo trôi theo dòng nước lũ. Tôi chỉ kịp hô "Cứu phà" rồi để nguyên quần áo lao vụt theo phà. Do nước chảy xiết tôi chỉ bơi hai sải là bám được mép phà rồi lên trên phà, phà và người cứ trôi băng băng theo dòng nước, anh em đơn vị và dân bản chạy theo trên bờ gọi ầm ĩ, "Bỏ phà bơi vào bờ, sắp đến thác rồi". Một suy nghĩ vụt qua rất nhanh là làm sao cứu được phà. Tôi trở lại bình tĩnh tìm phương án cứu phà. Trước hết cởi hết quần áo dài, chỉ mặc quần lót cho nhẹ, xem lại đoạn dây neo còn lại, tính toán cự ly khi gặp vật cản neo phà. Phà và người cứ trôi theo dòng lũ, đó là những phút giây căng thẳng đứng một mình trên hai khoang phà mà không có cách gì cứu được, anh em chạy theo hai bờ sông cứ gào thét, có người đã bật khóc, vì phà chỉ còn cách Thác Bung vài chục mét, đúng lúc đó một dòng nước xoáy cuốn phà lệch vào bờ phải. Một cành cây to từ một cây cổ thụ xòe ra mặt sông, do nước lũ dâng cao chỉ còn cách mặt nước chưa đầy nửa mét. Tôi nhẩm đoán cự ly phà và cành cây cách nhau độ 5 mét. Xác định đây chính là thời cơ, tôi lao xuống nước, một tay cầm đầu dây phà bơi vài sải tay túm ngay được cành cây, cột dây phà vào cành cây, thì cũng là lúc xoáy nước đẩy phà ra giữa dòng thác, nhưng bị vướng dây neo, chiếc phà khựng lại. Sau giây phút giằng co giữa dòng nước xiết với dây néo và cành cây, nước không đẩy được phà, tôi tin chắc đã giữ được liền gọi anh em trên bờ hỗ trợ. Cùng một lúc thấy ba, bốn chiến sĩ lao xuống sông và đem theo dây cáp. Tôi nói với anh em buộc cáp vào phà rồi bơi vào bờ cùng anh em trên bờ kéo phà vào sát bờ, rồi lợi dụng nước dâng kéo phà về bến. Tôi lên bờ mặc quần áo, anh em đơn vị, cả một số cán bộ tiểu đoàn bộ, dân bản biết tin đều đến vây quanh tôi. Một số anh em cán bộ nói: "Anh liều thế". Một già bản nói: "Tao bảo với mọi người mày bị Hà bá, tức Thủy thần bắt rồi. Giỏi! Giỏi!". Tôi nói với anh em: "Phà cũng là vũ khí, để mất vũ khí là vi phạm điều lệnh quân đội; hơn nữa trước mắt không có phà đảm bảo cho ô tô hàng vào chiến trường, trong khi chiến trường đang rất cần vũ khí và lương thực thực phẩm để dự trữ mùa mưa là có tội, nên phải bảo vệ và cứu bằng được phà".


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Mười Hai, 2016, 04:03:32 pm

Rồi bữa cơm trưa tiếp Tư lệnh cũng rất đáng nhớ. Sau khi đưa Tư lệnh đi kiểm tra tuyến về, anh em đưa nước để Tư lệnh rửa mặt, chân, tay. Tôi dẫn Tư lệnh vào nhà chỉ huy, mâm cơm đã được bày sẵn, các món ăn có thể nói rất Trường Sơn, món nộm được chế biến từ ngọn cây sắn ăn củ, măng luộc chấm nước mắm chế từ gạo rang, đầu cá nấu canh chua bằng lá me rừng, cá kho riềng đào trên rừng, rau giớn suối xào nước thịt hộp. Thời gian này đơn vị được lệnh triệt để tiết kiệm thực phẩm, các hộp thịt được cấp phát, đơn vị chỉ đạo đun nóng cho mỡ chảy ra ép lấy nước để xào nấu dần, còn thịt cho thêm muối, mì chính rang khô ăn dè từng bữa; còn tất cả rau, thực phẩm phải khai thác tại chỗ. Nhìn mâm cơm đơn giản nhưng cũng thật hấp dẫn. Bởi ở Trường Sơn cũng rất ít bữa được chuẩn bị như thế này. Tôi mời Tư lệnh dùng cơm! Tư lệnh bước vào nhà, đứng nhìn xung quanh rồi bước tới chiếc bàn làm bằng nứa để giao ban của đại đội, phía trên tường tôi treo ảnh Bác, bên dưới là đĩa quả lòn bon, dân cho tối qua, tôi đặt đó để tiếp Tư lệnh. Tôi thấy Tư lệnh bỏ mũ, đầu hơi cúi hai tay duỗi thẳng, không thấy nói gì, nhưng tôi nghĩ ngay là Tư lệnh đang khấn Bác, vì hôm nay đúng ngày 19 tháng 5. Những động tác của Tư lệnh khiến tôi thấy mình có lỗi, tuy không được lập bàn thờ nhưng làm như Tư lệnh không khó, không phải mê tín. Cũng từ đó mà thành lệ, cứ đến ngày sinh nhật Bác là chúng tôi tìm hoa, quả để dưới ảnh Bác lễ ba vái và cũng nghiệm thấy Bác phù hộ, nhiều việc khó đơn vị đều vượt qua khá tốt. Làm xong việc lễ Bác, Tư lệnh quay lại ngồi vào mâm cơm, lời đầu tiên Tư lệnh nói: "Các đồng chí làm gì mà sang thế, cá kiếm ở đâu? Không được dùng bộc phá đấy nhá". Tôi nói: "Không đâu ạ, ở đây nhiều cá anh em chỉ dùng lưới và câu thôi ạ". Tư lệnh khen: "Thế là tốt, cần cải thiện bữa ăn cho anh em, thiên nhiên ưu đãi chúng ta đấy". Trong bữa cơm, Tư lệnh hỏi thêm một số vấn đề về đơn vị như quê quán, anh em ở lâu, mới bổ sung, số đã có vợ, con, tâm tư anh em thế nào? Chúng tôi trả lời Tư lệnh, anh em rất quyết tâm, chỉ mong chóng hòa bình thống nhất đất nước để được ra Bắc về quê. Tư lệnh suy nghĩ giây phút rồi nói: "Các đồng chí thấy đấy, Trung ương quyết định mở cơ bản và mở rộng đường Đông Trường Sơn là có mục tiêu lớn vừa có tầm chiến lược, chiến thuật. Cứ động viên anh em làm tốt nhiệm vụ, còn mong muốn của anh em chắc không xa. Đường ta mở hướng này là xuyên vào yết hầu địch rồi. Mỹ lúng túng đối phó. Ngụy lo lắng, tinh thần sa sút, chỉ cần ta gắng sức là giành được thắng lợi". Những lời Tư lệnh phân tích làm cho chúng tôi rất phấn khởi và tin tưởng.

Thế rồi bữa cơm đơn giản tiếp Tư lệnh cũng nhanh chóng kết thúc. Tiễn chân Tư lệnh qua phà sông Bung vào huyện Giàng của tỉnh Quảng Đà, quay lại ngồi dưới tán cây Kơ nia bên Nam bến phà Bung, được cơn gió trưa hè thoảng qua, lòng tôi man mát xốn xang một niềm tin tất thắng. Những ước mơ của tuổi trẻ lại bùng lên, nếu sau này được ra Bắc sẽ tiếp tục học lên đại học, được về quê hương nơi mảnh đất yêu thương đầy hơi ấm của mẹ, lòng nhân ái của cha, tình yêu quý của các chị, các em, được tận hưởng mùi hương dịu mát của cánh đồng lúa, ngô, chạy dọc đôi bờ sông Thương với làn nước xanh trong ngọt ngào. Ngày đó đã đến rất gần như dự đoán của Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên.

Tối hôm đó, trong buổi sinh hoạt đại đội, tôi đã nhắc lại những vấn đề Tư lệnh phân tích và động viên anh em. Đại đội phấn chấn hẳn lên. Quân số đi làm hàng ngày đều đạt 100%, một số anh em sốt vẫn không nghỉ, có anh em ra đường sốt thì nằm nghỉ, cắt sốt lại tham gia lao động, năng suất chất lượng những ngày này rất cao, ai cũng nỗ lực phấn đấu lập thành tích kỷ niệm ngày sinh và ngày mất của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chào mừng Cách mạng tháng Tám - ngày độc lập của dân tộc. Cả đơn vị như bừng lên một khí thế mới, sôi nổi, hào hứng, quyết tâm cùng toàn tuyến Trường Sơn đẩy nhanh lực lượng, hàng hóa vào phía nam, góp phần đưa sự nghiệp giải phóng miền Nam mau tới ngày toàn thắng.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn miền ký ức-Tập 1
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Mười Hai, 2016, 04:04:21 pm



Hôm nay sau gần 30 năm tôi có dịp trở lại đường 14 cũ đoạn Đắc Rông đi huyện Giàng tỉnh Quảng Nam, nay là đường Đông Trường Sơn; nhìn qua ô cửa máy bay thấy vùng đất A Lưới, một địa danh lịch sử chiến đấu mang dấu ấn người Anh hùng Hồ Vai và Kan Lịch. Cũng ở nơi đây, trong căn hầm ngay giữa lòng sân bay A Lưới, tôi và đồng đội đã từng cùng nằm dưới hầm nghe đài tiếng nói Việt Nam phát đi bản tin tuyên dương các anh hùng lực lượng vũ trang, trong đó có tên tôi, rồi một buổi liên hoan của đồng đội đón chào danh hiệu Anh hùng của tôi, bằng ba bánh lương khô và bi đông nước suối. Qua sông A Vương, thị trấn Trao nơi đại bản doanh của Trung đoàn bộ 98 và nơi đây đã diễn ra lễ đón danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang của cả trung đoàn - một trong những đơn vị đầu tiên của bộ đội Trường Sơn được tặng thưởng danh hiệu cao quý. Qua sông Bung - một địa danh mang dấu ấn cuộc đời tôi, nơi đây tôi đã nhiều lần vượt qua tử thần và cũng là nơi chúng tôi được gặp người Tư lệnh có vốn sống và kinh nghiệm cách mạng dày dạn, có phong cách sâu sát công việc, có tình thương yêu cán bộ, chiến sĩ dưới quyền như người anh, người chú, người cha, để lại sâu nặng trong tôi hình ảnh người Tư lệnh bộ đội Trường Sơn bất khuất. Các địa danh tôi trở lại hôm nay đã biến đổi rất nhiều. Với sông A Vương, sông Bung đã mọc lên những nhà máy thủy điện có công suất lớn, sẽ góp phần hòa vào lưới điện quốc gia thắp sáng các khu công nghiệp và những bản làng xa xôi. Trên đất Quảng Nam, Đà Nẵng, Thừa Thiên - Huế, cũng như vùng Tây Nguyên rộng lớn giàu đẹp. Sân bay A Lưới, Trao đã trở thành những thị trấn của người dân Pô Cô, một dân tộc kiên cường sống bằng sắn, ngô, thịt thú rừng nhưng rất mực thủy chung với cách mạng, với Bác Hồ để đánh Pháp, đuổi Mỹ. Người dân Pô Cô chính thức mang họ Bác Hồ, họ nâng niu gìn giữ họ "Hồ" như cội nguồn sinh trưởng của 54 dân tộc trên đất nước Việt Nam. Thị trấn A Lưới, thị trấn Trao, nhà cửa được xây mới, người, xe đông vui lên rất nhiều, xóa dần đi một vùng chết không người, cây cối chết trắng cả vạt rừng rộng lớn do chất độc màu da cam - đioxin qủa Mỹ - ngụy tàn phá hủy diệt thời chiến tranh.

Trở lại địa danh đã qua một thời chinh chiến, gợi lại cho tôi nhớ lại kỷ niệm lần đầu gặp Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên, cùng những sự kiện - dấu ấn cuộc đời chiến đấu của bản thân và đồng đội, giống như những bài ca Trường Sơn mãi mãi ngân vang.

Hết