Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Cha ông ta đánh giặc => Tác giả chủ đề:: Giangtvx trong 30 Tháng Chín, 2016, 11:21:25 pm



Tiêu đề: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Chín, 2016, 11:21:25 pm

        - Tên sách: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
        - Tác giả: Nguyễn Lương Bích
        - Nhà xuất bản: Quân đội nhân dân
        - Năm xuất bản: 1996
        - Số hoá: ptlinh, chuongxedap

LỜI GIỚI THIỆU

        Hoạt động ngoại giao là một bộ phận quan trọng của đấu tranh dựng nước, giữ nước lâu dài và anh dũng của dân tộc Việt Nam. Tìm hiểu hoạt động đó trong sự phát triển phong phú qua các thời kì lịch sử để rút ra những bài học kinh nghiệm cần thiết có thể vận dụng kết quả cho hiện tại đó là một việc làm vừa có ý nghĩa khoa học, vừa có ý nghĩa thực tiễn. Tiếc rằng cho tới nay vẫn chưa có một công trình giới thiệu một cách có hệ thống và tương đối toàn diện họat động ngoại giao Việt Nam trong tiến trình lịch sử, kể cả một giáo trình về lịch sử ngoại giao nước ta để giảng dạy cho sinh viên ở Học viện Quan hệ quốc tế cũng mớỉ bắt đầu được xây dựng.

        Với “Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước”, nhà sử học Nguyễn Lương Bích đã đáp ứng nguyện vọng chính đáng của nhân dân ta muốn tìm hiểu lịch sử dân tộc nói chung, lịch sử ngoại giao của dân tộc nói riêng.

        Trên cơ sở khai thác nhiều nguồn tư liệu gốc về lịch sử cổ - trung đại Việt Nam và Trung Quốc, nhà sử học Nguyễn Lương Bích vốn là chuyên gia có nhiều công trình nghiên cứu giá trị về thời kì lịch sử này, đã giới thiệu khá cụ thể hoạt động ngoại giao của Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử, từ những ngày đầu các vua Hùng lập quốc đến khi thực dân Pháp phát động chiến tranh xâm lược và hoàn thành đánh chiếm Việt Nam vào cuối thê' kỉ XIX.

        Thông qua các câu chuyện kể sinh động về những con người và những việc làm cụ thể, người đọc ngày nay có điều kiện và cơ hội nhận rõ tâm lực, tài trí, bản lĩnh rất đáng tự hào của cha ông xưa. Cũng qua đó nhận thức sâu sắc hơn về truyền thống tốt đẹp của ngoại giao Việt Nam, một truyền thống được định hình ngay từ buổi đầu dựng nước, ngày càng củng cố và phát triển, để đến khi bắt gặp ánh sáng của cách mạng thì càng có điều kiện phát huy tất cả sức mạnh và hiệu qủa. Cơ sở vững bền của truyền thống ngoại giao Việt Nam là tình yêu đất nước, ý chí độc lập, tinh thần dân chủ, nguyện vọng hòa bình và hữu nghị, những giá trị tinh thần vĩnh hằng mà dân tộc ta luôn luôn gắn bó và phát huy.

        Công trình “Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước" được nhà sử học Nguyễn Lương Bích hoàn thành từ lâu, sau đó ông bị bệnh nặng rồi từ trần nên không có điều kiện gia công sửa chữa thêm trước khi cho ra mắt bạn đọc. Đến nay, công trình được xuất bản, nếu như bạn đọc thấy còn một số hạn chế nào đó về nội dung và hình thức, rồi góp ý xây dựng để nhà xuất bản có điều kiện biên tập tốt hơn cho lần tái bản, chắc hẳn rằng tác giả ở dưới suối vàng cũng ngậm cười hoan hỉ.

Ngày 25 tháng 5 năm 1996        
ĐINH XUÂN LÂM              
(Giáo sư sử học)              


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Chín, 2016, 11:22:53 pm
         
Chương một

BA NGHÌN NĂM TỪ ĐỐI NGOẠI HÒA BÌNH
TỚI ĐỐI NGOẠI CHỐNG XÂM LƯỢC

        I. TỪ TRUYỀN THỐNG HÒA BÌNH HỮU NGHỊ VỚI CÁC DÂN TỘC ĐẾN LIÊN MINH ĐỐI NGOẠI CHỐNG NGOẠI XÂM

        Dân tộc Việt Nam ở Đông Nam Á dựng nước sớm, từ hàng nghìn năm trước Công nguyên, nhưng đời sống của dân tộc và hoạt động của Nhà nước ta như thế nào từ thuở xa xưa ấy, ngày nay chúng ta không được rõ lắm. Vì nước ta đã có những thời kỳ bị giặc ngoài xâm lược liên tục hàng nghìn năm. Không mấy thế kỷ là không có ngoại xâm. Chiến tranh liên miên, sử sách, dấu tích, kỷ vật gần như không còn. Nghiên cứu đời sống của Tổ tiên ta trước Công nguyên và những thế kỷ đầu Công nguyên là cực khó. Tìm hiểu lịch sử ngoại giao của Tổ tiên ta ở những thời kỳ đó lại càng khó.

        Nhưng qua truyền thuyết và những tư liệu thành văn của nước ngoài, chúng ta cũng biết được đôi điều về hoạt động đối ngoại của Tổ tiên ta thời Hùng Vương và thời An Dương Vương.

        Vào thời kỳ đó người Hán cũng thành lập Nhà nước Trung Quốc đầu tiên ở vùng Sơn Tây, Cam Túc miền Bắc Á. Hai nước xa nhau hàng vạn dặm, cách nhau bởi nhiều lãnh thổ, nhiều địa bàn cư trú của nhiều tộc người khác nhau. Vậy mà người Việt Nam thời bấy giờ đã có những tiếp xúc ngoại giao đầu tiên với người Trung Quốc nơi xa xôi đó.

        Sử sách Trung Quốc ghi nhận: năm Mậu Thân (tức năm thứ 5 đời vua Đương Nghiêu ở Trung Quốc) theo dương lịch là năm 2353 trước Công nguyên, một sứ bộ ngoại giao đầu tiên của vua Hùng nước ta đã chủ động tới thăm Trung Quốc. Theo sử Trung Quốc thì sứ bộ của ta đã qua hai lần thông dịch mới tới được Trung Quốc. Điều đó cho thấy sứ bộ ta đã tiếp xúc ngoại giao với nhiều dân tộc khác trên con đường tới Trung Quốc. Trong điều kiện đường đất xa xôi, cách trở như vậy, mà sứ bộ của ta đã kỳ công đem tặng vua Nghiêu (Trung Quốc) một con rùa rất lớn. Theo sử Trung Quốc thì con rùa này đã sống một nghìn năm, trên mai rùa có khắc chữ, ghi sự việc từ khi trời đất mới mở mang. Ở phương Đông, từ thời cổ, rùa là biểu tượng của sự sống trường tồn hàng nghìn, vạn năm. Về ngoại giao, Nhà nước ta thời vua Hùng tặng Nhà nước Trung Quốc thời vua Nghiêu con rùa quý này với một ý nghĩa tốt đẹp, mong muốn cho quan hệ thân thiện giữa hai nước được bền vững, dài lâu.

        Hơn một nghìn năm sau, Việt Nam và Trung Quốc vẫn xa nhau hàng vạn dặm, nhưng một sứ bộ ngoại giao của ta lại sang thăm Trung Quốc lần thứ hai (vào năm thứ 6 đời vua Thành Vương nhà Chu) tức năm 1110 trước Công nguyên. Theo sử Trung Quốc, qua ba lần thông dịch, sứ bộ của ta mới tới kinh đô nhà Chu ở vùng Cam Túc. Sứ bộ ngoại giao ta đem tặng vua nhà Chu Trung Quốc chim trĩ trắng là loại chim quý nhất ở phương Nam thời ấy. Nhà Chu Trung Quốc trân trọng đáp lại, cho làm năm cỗ xe có kim chỉ nam để đưa sứ bộ ngoại giao ta về nước (Những tư liệu về ngoại giao này đều có ghi chép trong các sử sách của Trung Quốc thời trước, như: Sử ký Tư Mã Thiên, Thượng thư đại truyện, Hậu Hán thư, Thiếu vi thống gián, Phương dư kỉ yếu, Việt kiệu thư, Cương mục tiền biên, Ngự phê thông giám tập lãm.

        Dựa theo truyền thuyết và theo sử sách của Trung Quốc, các sử gia Việt Nam cũng đã ghi lại những sự kiện trên trong: Lĩnh nam trích quái, Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử thông giám cương mục, Việt sử thông giám khảo lược)

        Những sự tiếp xúc đối ngoại của dân tộc ta mà sử sách Trung Quốc ghi lại được chứng minh rằng dân tộc ta đã dựng nước sớm, tiến hành ngoại giao cũng sớm và rất chủ động trong ngoại giao. Với những dân tộc ở xa như Trung Quốc thời ấy, dân tộc ta cũng chủ động cho sứ tới giao thiệp, không ngoài mục đích tỏ tình thân thiện giữa hai dân tộc. Phong cách ngoại giao của ta thời Hùng Vương còn cho thấy dân tộc ta là một dân tộc sớm có văn hiến, hiểu biết được những biểu tượng cao đẹp của tình cảm con người với con người, của dân tộc này với dân tộc khác và biết sử dụng những biểu tượng đó làm quà tặng trong giao tiếp đối ngoại. Từ thời bấy giờ, dân tộc ta đã có ý thức đoàn kết, hữu nghị trong sáng, nhiệt tình và chân thành với tất cả các dân tộc, dù ở xa ta hàng vạn dặm.

        Đường lối, chính sách và phong cách ngoại giao vì hòa bình, hữu nghị giữa các dân tộc đã trở thành truyền thống đối ngoại của dân tộc ta. Trong quá trình phát triển lịch sử, mối quan hệ của dân tộc ta với các dân tộc khác không phải lúc nào cũng hòa bình, phẳng lặng, yên tĩnh; trái lại, ta cũng luôn luôn bị dân tộc này, dân tộc khác gây xung đột bằng vũ lực, nhiều khi rất quyết liệt, tàn khốc. Nhưng khi xung đột chấm dứt, ta lại chủ động giao hảo với những dân tộc thù địch để thiết lập lại quan hệ hòa bình hữu nghị, xóa bỏ những hận thù dân tộc, có hại cho cuộc sống và sự phát triển của xã hội loài người.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Chín, 2016, 11:24:00 pm

        Trong các thời đại xã hội có giai cấp, nhất là thời phong kiến, quan hệ đối ngoại giữa các nước phổ biến là một thứ quan hệ bất bình đẳng "cá lớn nuốt cá bé", nước lớn xâm lược nước nhỏ, xâm lược chưa được thì bắt nước nhỏ phải làm chư hầu, phiên thuộc, phải nộp cống, phục dịch nước lớn. Nước lớn muốn gì, nước nhỏ phải cung phụng không dám trái: vàng bạc, châu báu, những thú vật quý hiếm, kể cả bắt người làm nô lệ ... đủ thứ. Giữa các nước nhỏ với nhau, quan hệ tuy không căng thẳng lắm, nhưng cũng không tránh khỏi diễn ra cảnh khiêu khích, xung đột, lấn chiếm lẫn nhau. Quan hệ đối ngoại của nước ta đối với các nước khác cũng không sao tránh được các thông lệ đó của thời đại.

        Đối với Trung Quốc, nước ta thời Hùng Vương đặt quan hệ thân thiện trong một thời gian dài như thế là hiếm có. Nhưng rồi thời thế đổi thay, mối quan hệ giữa hai nước cũng đổi khác. Từ khi dựng nước ở vùng Cam Túc xa xôi, hẻo lánh, người Hán ngày càng mở rộng biên giới, chiếm đoạt lãnh thổ của nhiều nước, xóa bỏ nhiều quốc gia lân cận, bành trướng rất mạnh xuống phía Nam, và Trung Quốc nhanh chóng trở thành một nước rộng lớn bậc nhất ở châu Á từ mấy thế kỷ trước Công nguyên.

        Tới cuối thế kỷ thứ III trước Công nguyên, biên giới Trung Quốc đã mở rộng tới sát biên giới ta. Lúc này, dù nước ta muốn giao hảo thì các triều đại phong kiến Trung Quốc cũng không chịu dừng bước bành trướng xâm lược. Nhà Hán bắt đầu xâm lược, đánh phá nước ta liên tiếp trong nhiều thế kỷ. Cũng từ đó quan hệ đối ngoại của ta với các triều đại phong kiến Trung Quốc không còn là hòa bình hữu nghị như trước. Dân tộc ta đã phải tiến hành một cuộn đấu tranh vũ trang trường kỳ chống các đạo quân phong kiến Trung Quốc xâm lược diễn ra liên tục trong hơn mười thế kỷ.

        Cuối thế kỷ thứ III trước Công nguyên, ông vua bạo ngược Tần Thủy Hoàng của Trung Quốc đã cho 50 vạn quân chia 5 đường đánh vào vùng lãnh thổ phía Bắc nước ta. Tổ tiên chúng ta cùng các dân tộc anh em từ phía nam sông Trường Giang trở xuống đã đánh trả rất quyết liệt. Quân Tần bị thất bại liên tiếp "Thây phơi, huyết chảy hàng mấy chục vạn người" (Sử kí Tư Mã Thiên). Chủ tướng giặc là Đồ Thư bị giết tại trận. Sau đó nhà Tần nhiều lần đưa thêm quân sang, tiếp tục xâm lược nước ta cho bằng được.

        Sau hơn 10 năm đánh phá dã man, ác liệt, nhà Tần đã chiếm được một vùng đất đai rộng lớn ở phía Bắc nước ta, chia đặt thành ba quận: Nam Hải, Quế Lâm và Tượng (tức miền Quảng Đông, Quảng Tây của Trung Quốc ngày nay).

        Sang hai thế kỉ cuối trước Công nguyên, các đế chế Tần, Hán tiếp tục xâm lược và đặt ách đô hộ lên toàn bộ nước ta. Quân đô hộ chia vùng mới thôn tính thành bảy quận, gồm bốn quận ở phía bắc, là Nam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô, Hợp Phố (tức là hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây ngày nay) và ba quận ở phía nam là quận Giao Chi (tức khu vực Bắc Bộ nước ta ngày nay), quận Cửu Chân là miền Thanh - Nghệ - Tĩnh và quận Nhật Nam là từ dãy Hoành Sơn trở vào.

        Ngay từ khi quân nước ngoài bắt đầu xâm lược nước ta tới khi chúng đặt ách đô hộ, nhân dân ta đã liên tiếp nổi dậy chống lại ách đô hộ của chúng khiến quân giặc phải tổn thất nặng nề. Chúng phải luôn luôn đưa quân sang đàn áp các phong trào cứu nước của ta. Sánh của Trung Quốc thời bấy giờ phải ghi nhận rằng “Quân lính miền Kinh Sở phải mệt mỏi vì Âu Lạc” (Viên Khoan: Diêm thiết luận). Âu Lạc là tên nước ta thời An Dương Vương (từ thế kỷ thứ III trước Công nguyên). Kinh Sở là miền Hồ Bắc, Hồ Nam của Trung Quốc ngày nay.

        Từ những thế kỷ đâu Công nguyên, phong trào chống ngoại xâm, cứu nước của nhân dân ta ngày càng sôi nổi. Các hoạt động vũ trang chống ngoại xâm, cứu nước diễn ra khắp nơi. Có phong trào ở miền ngược, có phong trào ở miền xuôi, có phong trào do nam cầm đầu, có phong trào do nữ lãnh đạo.

        Những năm đầu Công nguyên, hai vị nữ anh hùng dân tộc là Hai Bà Trưng (Trưng Trắc, Trưng Nhị) đã liên kết được phong trào yêu nước của nhiều địa phương, tạo thành một phong trào cứu nước rộng lớn, đánh đuổi quân thù, giành được chủ quyền dân tộc trong một thời gian.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Chín, 2016, 11:24:38 pm

        Thế kỷ thứ II sau Công nguyên, phong trào cứu nước càng sâu rộng. Các thế lực đô hộ Trung Quốc đã xóa bỏ chế độ lại tướng ở nước ta, nhưng chúng phải thừa nhận rằng “Những thủ lĩnh người Việt vẫn hùng cứ nông thôn". Nhân dân bảy quận luôn luôn khởi nghĩa. Có những phong trào tương đối lớn: của Chu Đạt ở Cửu Chân, của Chu Bá ở Giao Chỉ. Có phong trào mở rộng ở cả bốn quận miền Bắc, quân số hàng vạn người, liên kết được với một số quan lại người Trung Quốc cùng chống lại chính quyền đô hộ. Đặc biệt là phong trào cứu nước của nhân dân ta ở vùng huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật Nam. Nước ta, từ thượng cổ đã có nhiều dân tộc. Nhân dân huyện Tượng Lâm, gồm có người Việt, người Chàm và nhiều dân tộc khác ở dọc dải Hoành Sơn, người Chàm là đông hơn cả. Huyện Tượng Lâm và cả quận Nhật Nam đều ở xa thủ phủ đô hộ của giặc đặt tại vùng lưu vực sông Hồng, do vậy lực lượng chiếm đóng của giặc ở vùng Nhật Nam, Tượng Lâm không nhiều, nhân dân Nhật Nam có điều kiện khởi nghĩa liên tục. Trong thế kỷ thứ II, nhân dân Tượng Lâm năm lần tiến hành khởi nghĩa. Từ cuộc khởi nghĩa lần thứ hai trở đi, lần nào cũng có nhân dân và binh sĩ người Việt và các dân tộc anh em ở hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân hưởng ứng. Cuộc khởi nghĩa lần cuối vào năm 190 do một thủ lĩnh người Chàm lãnh đạo đã giải phóng hoàn toàn huyện Tượng Lâm, lập thành một vương quốc nhỏ ở miền Nam nước ta, lấy tên là Lâm Ấp .

        Trong hai thế kỷ thử III, thứ IV, phong trào đánh giặc cứu nước vẫn diễn ra liên tục khắp nơi. Lớn hơn cả là phong trào ở Thanh Hóa do Bà Triệu lãnh đạo.

        Sang thế kỷ thứ V, thứ VI, phong trào chống giặc càng lớn mạnh. Giữa thế kỷ thứ V, người anh hùng cứu nước là Lý Trường Nhân đã phát động một cuộc khởi nghĩa lớn trên khắp nước. Trong vòng ba tháng, Lý Trường Nhân và nghĩa quân giết bọn quan lại, tướng sĩ đô hộ, giải phóng hoàn toàn Tổ quốc và thành lập chính quyền độc lập của dân tộc, chính quyền này tồn tại trong gần 20 năm.

        Giữa thế kỷ thứ VI, một phong trào khởi nghĩa lớn do hai vị anh hùng Lý Bí (tức Lý Nam Đế) và Triệu Quang Phục (tức Triệu Việt Vương) đã giành được quyền độc lập cho nước nhà, lập nên triều Tiền Lý tồn tại trong  hơn nửa thế kỉ.

        Sang thế kỷ thứ VII, thứ VIII, cuộc chiến đấu giữa nhân dân ta và các thế lực phong kiến Trung Quốc đô hộ càng quyết liệt hơn. Bọn đô hộ lúc ấy là tập đoàn thống trị nhà Đường - một trong những tập đoàn bành trướng hiếu chiến bậc nhất trong lịch sử Trung Quốc. Chúng phát động chiến tranh xâm lược liên miên, đánh chiếm đất đai của hầu hết các dân tộc láng giềng ở khắp bốn phía. Phía đông, chúng đánh chiếm nước Triều Tiên, gọi Triều Tiên là An Đông đô hộ phủ. Phía tây, chúng đánh chiếm Tây Tạng, gọi Tây Tạng là An Tây đô hộ phủ. Phía bắc, chúng đánh chiếm lãnh thổ của các dân tộc Mông Cổ, Đột Quyết, Uy Gua, lập thành An Bắc đô hộ phủ. Phía nam, bọn vua chúa hiếu chiến nhà Đường đánh chiếm nước ta và gọi ta là An Nam đô hộ phủ. "An" có nghĩa "dẹp yên". An Nam, An Đông, An Tây, An Bắc, có nghĩa là dẹp yên phía Nam, phía Đông, phía Tây, phía Bắc. Tên “An Nam” mà người nước ngoài trước đây dùng gọi có từ khi nhà Đường xâm lược, thôn tính nước ta.

        Chống lại một tập đoàn thống trị bành trướng, hiếu chiến cuồng bạo là rất khó khăn. Vậy mà nhân dân ta vẫn luôn luôn khởi nghĩa. Trong thế kỷ thứ VII có các phong trào khởi nghĩa do Lý Tự Tiên, Đinh Kiến lãnh đạo. Sang thế kỷ thứ VIII xuất hiện một phong trào cứu nước lớn mạnh do Mai Thúc Loan lãnh đạo. Mai Thúc Loan là người anh hùng xuất thân cùng khổ, nhưng anh dũng kiên cường và rất mực thông minh, tài trí. Đường lối, phương châm tổ chức và lãnh đạo chiến đấu của Mai Thúc Loan có nhiều điểm khác với các phong trào đã có từ trước. Nhân dân vùng Hoan - Diễn (tức vùng Nghệ - Tĩnh) là quê hương Mai Thúc Loan đã có thơ ca ngợi người anh hùng họ Mai là:

                               "Anh hùng độc đáo
                               Thiên cổ lạ kỳ
                               Ngàn năm ít thấy
                               Vạn đại vẫn còn...”


        Nhân dân đã nhận định rất đúng. Ở người anh hùng áo vải Mai Thúc Loan có rất nhiều điểm độc đáo. Trước khi phất cờ khởi nghĩa, ông tập hợp một số bạn chiến đấu, cùng họ lo xây dựng căn cứ địa, dựng thành đắp lũy và truyền hịch cứu nước đi khắp vùng Hoan - Diễn. Người yêu nước ơû khắp nơi theo về ngày càng đông. Theo sách sử Trung Quốc và truyền thuyết của ta thì mùa hè năm Quý Sửu (năm 713)  (Tân Đường thư (sách sử Trung Quốc), q.207, Dương Tư Húc truyện) Mai Thúc Loan bắt đầu ra quân đánh địch và thu phục ngay được Châu Hoan (tức vùng Nghệ - Tĩnh ngày nay). 

        Trước thắng lợi rực rỡ ban đầu, các tướng lĩnh và toàn thể nghĩa quân yêu cầu vị anh hùng trẻ tuổi Mai Thúc Loan lên ngôi Hoàng đế và họ tôn lên là Mai Đại Đế (tức ông vua lớn họ Mai). Sau này, sử sách ghi ông là Mai Hắc Đế, tức ông vua đen họ Mai (vì da ông). Khi đã lên ngôi vua, Mai Thúc Loan đề ra đường lối đối nội, đối ngoại rất rõ ràng, cụ thể và thật sáng suốt.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Chín, 2016, 11:25:03 pm

         Về đối nội, ông cho người đi các châu huyện báo tin thắng trận và kêu gọi nhân dân 32 châu trong cả nước cùng nổi dậy phối hợp chiến đấu. Tinh thần đại đoàn kết của ông được nhân dân hưởng ứng mạnh mẽ. Ông đã tập hợp được quân của cả 32 châu để cùng đánh giặc. Sử Trung Quốc ghi chép rằng: "Mai Thúc Loan đã dấy quân 32 châư” (Tân Đường thư (sách sử Trung quốc), q.207, Dương Tư Húc truyện) để đánh chúng.

        Về đối ngoại, ông tiến hành vận động liên minh quân sự với nước ngoài để cùng đánh giặc. Đây là nét độc đáo trong kế sách đối ngoại của Mai Thúc Loan. Sử Trung Quốc ghi rằng ông đã liên minh được với các nước Lâm Ấp, Chân Lạp (tức Cam-pu-chia ngày nay) và Kim Lân (tức Ma-lai-xi-a ngày nay) (Tân Đường thư (sách sử Trung quốc), q.207, Dương Tư Húc truyện). Truyền thuyết của ta kể lại cụ thể: Mai Đại Đế khởi nghĩa năm Quý Sửu (713) thì năm sau là năm Giáp Dần (714) , cử một tướng là Tiết Anh làm Lâm Ấp thông vấn sứ và một tướng là Hoắc Đam làm Chân Lạp cáo dự sứ. Hai tướng chính thức đi sứ sang hai nước Lâm Ấp, Chân Lạp để thông báo chiến thắng và đề nghị hai nước liên minh quân sự cùng đánh giặc. Với hai nước láng giềng phía nam này thì ngay từ khi chuẩn bị khởi nghĩa, Mai Thúc Loan đã cho một tướng là Ba Đội Hầu sang liên hệ. Theo truyền thuyết thì hai nước Chân Lạp và Lâm Ấp đều nhiệt liệt hưởng ứng liên minh. Vua Chân Lạp là Hồ A Khiêm cho tướng Tham Ninh Na và vua Lâm Ấp là Phạm Hồ Dĩnh cho tướng Chư Hương An thống lĩnh quân đội, mỗi nước 10 vạn người sang Việt Nam chiến đấu dưới lá cờ đại nghĩa của Đại đế Mai Thúc Loan (Chư Cát Thị: Tân đính hiệu bình Việt điện U linh tập).

        Đoàn kết với các nước láng giềng, liên minh quân sự với các nước bạn để cùng chiến đấu chống xâm lược là một sự phát triển mới trong đường lối đối ngoại và đường lối chiến tranh chống xâm lược của dân tộc ta cách đây hơn một nghìn năm. Đó cũng là điểm rất cao quý trong tài năng chỉ đạo chiến tranh của Mai Thúc Loan, người anh hùng dân tộc trẻ tuổi của dân tộc ta, tuy xuất thân từ lớp người cùng khổ, lam lũ, nhưng tầm mắt chính trị , quân sự và ngoại giao sâu rộng hơn người, biết kết hợp chặt chẽ chính trị, quân sự với ngoại giao để đánh thắng giặc.

        Do chỗ tập hợp được quân dân 32 châu và quân đội của hai nước láng giềng nên lực lượng quân sự của Mai Đại Đế rất lớn mạnh. Sử nhà Đường ghi rằng quân ta lúc ấy có tới 40 vạn người. Lực lượng nghĩa quân hùng hậu như vậy đã nhanh chóng quét sạch quân xâm lược ra khỏi đất nước. Mai Đại Đế thiết lập chính quyền độc lập của ta được trên 10 năm thì ông bị bệnh chết. Đây là một thiệt thòi lớn cho công cuộc chống ngoại xâm của đất nước ta lúc bấy giờ.

        Mặc dầu Mai Thúc Loan mất, nhưng phong trào đánh giặc cứu nước của ta không giảm sút. Quân nhà Đường lại sang đô hộ thì một tướng của Mai Đại Đế là Phùng Hạp Khanh tiếp tục sự nghiệp cứu nước của những anh hùng đi trước. Phùng Hạp Khanh về quê nhà ở Đường Lâm (thuộc ngoại thành Hà Nội ngày nay) xây dựng căn cứ, chuẩn bị lực lượng khởi nghĩa. Ông chưa kịp ra quân thì chết. Ba con trai ông, đứng đầu là Phùng Hưng cùng nối chí cha.

        Năm 769, người Côn Lôn, tức người bán đảo Mã Lai và người Chà Và, tức người đảo Ja-va thuộc In-đô-nê-xi-a ngày nay, cùng đưa quân vào đánh lực lượng đô hộ nhà Đường trên đất nước ta. Họ đánh vào tới sào huyệt của bọn đô hộ tại Tống Bình (tức Hà Nội ngày nay). Được sự giúp sức cùng chiến đấu của hai đạo quân nước ngoài, nghĩa quân Phùng Hưng phất cờ khởi nghĩa, chiếm giữ châu Đường Lâm và các châu huyện xung quanh (gồm vùng Hà Nội bây giờ), xóa bỏ chính quyền địch xây dựng chính quyền độc lập của ta, lập căn cứ tiến tới thành lập khu giải phóng, bước đầu dựng nền độc lập trên một phần đất nước. Trước tình hình chính quyền đô hộ có nguy cơ bị sụp đổ, vua chúa nhà Đường phải cho quân sang cứu viện. Lúc này quân đội của người Côn Lôn và người Chà Và đã rút về nhưng binh tướng nhà Đường không sao tiến quân vào khu giải phóng của nghĩa quân Đường Lâm.

        Tuy vậy, Phùng Hưng và các tướng lĩnh nghĩa quân cũng biết sức giặc còn mạnh, chưa thể một lúc đánh thắng ngay được. Phùng Hưng chủ trương trường kỳ chiến đấu chống giặc, đưa chiến tranh giải phóng tiến lên từng bước vững chắc. Đây là một cống hiến mới của vị anh hùng trẻ tuổi Phùng Hưng vào đường lối chiến tranh giải phóng dân tộc của ta. Đường lối đó là: bước đầu xây dựng căn cứ địa, từ căn cứ địa phát triển thành khu giải phóng ngày càng mở rộng ra nhiều vùng, tới khi so sánh lực lượng giữa ta và địch đã thay đổi, thế và lực của ta mạnh hơn địch, thì tiến hành một cuộc tổng công kích để giành thắng lợi quyết định, kết thúc chiến tranh.

        Trong 25 năm liền, nghĩa quân Phùng Hưng kiên trì đánh giặc theo đường lối đó, càng đánh càng mạnh. Vùng giải phóng ngày càng mở rộng khác trước. Tới cuối năm 791, nghĩa quân Phùng Hưng có thế mạnh hoàn toàn áp đảo địch. Mùa hè năm ấy, Phùng Hưng quyết định mở trận tổng công kích. Quân giặc thất bại hoàn toàn. Cuộc tổng công kích thành công nhanh chóng. Chính quyền độc lập trên cả nước được thành lập Phùng Hưng lên ngôi vua, giữ nước một thời gian. Nhân dân suy tôn ông làm Bố Cái Đại Vương.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Chín, 2016, 11:25:51 pm

        II- NGOẠI GIAO HÒA HOÃN THỜI HỌ KHÚC, HỌ DƯƠNG

        Tiếp theo cuộc khởi nghĩa của Bố Cái Đại Vương, trong nửa đầu thế kỷ thử IX, phong trào giải phóng ở ta lại nổ ra liên tiếp. Nhiều viên quan đô hộ nhà Đường bị giết hoặc bị đuổi về nước . Giữa thế kỷ thứ IX, nhà Đường tăng cường bộ máy đàn áp. Chúng cho một võ quan cao cấp của triều đình làm Tĩnh hải quân tiết độ sứ để cầm đầu toàn bộ binh quyền và chính quyền của chúng trên đất nước ta. Nhưng tiết độ sứ cũng không làm gì được. Thế và lực của nhà Đường sụp đổ tới nơi. Từ thế kỷ thứ VIII, phong trào nông dân Trung Quốc khởi nghĩa chống nhà Đường đã liên tiếp nổ ra, mạnh nhất là ở các vùng biên cương. Tại các nước bị nhà Đường đô hộ, không phải chỉ có nước ta chống đối lại, mà ở các nước bị đô hộ khác là An Đông, An Tây, An Bắc phong trào đấu tranh giành độc lập cũng rất quyết liệt. Cho nên từ giữa thế kỷ thứ VIII, triều đình nhà Đường đặt ra chức tiết độ sứ là một chức võ quan cao cấp có quyền tổng chỉ huy tất cả quân đội ở khu vực biên cương Trung Quốc và những nước ở gần biên cương bị nhà Đường đô hộ. Tiết độ sứ có toàn quyền về quân sự để chỉ huy dập tắt những phong trào khởi nghĩa của nông dân trong nội địa Trung Quốc và trấn áp các phong trào giải phóng ở các nước bị đô hộ bên ngoài biên cương. Do tình hình rối loạn trong nước ngày càng tăng, việc liên lạc giữa triều đình nhà Đường với miền biên cương ngày càng khó khăn, các tiết độ sứ dần dần nắm cả mọi quyền hành chính, tài chính, nghiễm nhiên trở thành những ông vua thật sự ở miền biên cương, thay mặt triều đình nhà Đường giải quyết tất cả mọi việc ở địa phương. Có những tiết độ sứ tách khỏi quyền chi phối của triều đình nhà Đường, biệt lập thành một giang sơn riêng. chỉ thỉnh thoảng mới triều cống vua Đường. Họ tự truyền chức cho nhau, cha truyền cho con hoặc anh truyền cho em, gọi là quyền "Lưu hậu”, vua Đường đành chịu. Họ tự tuyên bố quan lại văn võ, tự định đoạt mọi việc quân, việc dân ở địa phương không cần thỉnh thị triều đình, vua Đường cũng đành chịu.

        Tĩnh hải quân tiết độ sứ của nhà Đường đặt ở nước ta cũng có quyền hành lớn như vậy, nhưng hoàn toàn bất lực, vì phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của người Việt Nam ngày càng lên cao.

        Cuối thế kỷ thứ IX, những binh lính người Việt dưới quyền tiết chế của tiết độ sứ nhà Đường đã nổi lên làm một cuộc binh biến rất lớn, đánh đuổi tiết độ sứ cùng toàn bộ quan lại, quân sĩ của chúng về nước. Cả nước sạch bóng quân xâm lược. Một người anh hùng dân tộc là Khúc Thừa Dụ lên cầm quyền trị nước, chấm dứt ách thống trị của bọn xâm lược nhà Đường.

        Về đối nội, nhân dân ta từ đây tự tổ chức lấy chính quyền độc lập của mình. Về đối ngoại, Khúc Thừa Dụ thi hành một chính sách mềm dẻo nhằm ngăn chặn nhà Đường mưu đồ tái chiếm nước ta, để ta rảnh tay xây dựng đất nước. Do đấy, Khúc Thừa Dụ tự nhận mình là tiết độ sứ, thay mặt nhà Đường cầm quyền ở Việt Nam. Với phương thức đối ngoại này của Khúc Thừa Dụ, quan hệ giữa nước ta và nhà Đường tưởng như không có gì khác trước, nhưng về căn bản rất khác. Khác ở chỗ người Việt Nam tự cai trị người Việt Nam, nước Việt Nam hoàn toàn tự chủ. Tự nhận mình là tiết độ sứ, Khúc Thừa Dụ một mặt buộc triều đình nhà Đường phải chấp nhận, vì nhà Đường lúc này tổ chức được một cuộc hành quân mới để xâm lược nước ta cũng rất khó, nên ưng thuận để không mất thể diện; mặt khác ta ngăn chặn được các tiết độ sứ ở miền biên cương gần nước ta không thể lợi dụng thời cơ lấy danh nghĩa nhà Đường để đánh phá ta, vì ta vẫn nhận thần phục nhà Đường.

        Chủ trương ngoại giao hòa hoãn, mềm dẻo của Khúc Thừa Dụ tạo điều kiện cho nhân dân ta và họ Khúc giữ vững chủ quyền dân tộc trong khoảng nửa thế kỷ. Nhưng không phải vì thế mà giặc ngoài đã chịu từ bỏ dã tâm xâm lược của chúng.

        Năm 907 Khúc Thừa Dụ mất và cũng là lúc Trung Quốc bước vào thời kỳ đại loạn, gọi là thời "Ngũ đại thập quốc" tức “Năm triều đại mười quốc gia". Năm triều đại nối tiếp nhau ở triều đình trung ương và mười quốc gia lần lượt xuất hiện trong nội địa Trung Quốc. Thoạt đầu là nhà Đường bị diệt, nhà Hậu Lương cướp ngôi. Ở ta, con Khúc Thừa Dụ là Khúc Hạo lên cầm quyền thay cha, và ngay năm 907 cho người sang giao hảo với triều đại mới ở Trung Quốc là nhà Hậu Lương. Nhà Hậu Lương buộc lòng phải thừa nhận Khúc Hạo làm tiết độ sứ. Nhưng năm sau (908), Hậu Lương lại phong cho tiết độ sứ ở Quảng Châu (tức Quảng Đông) kiêm nhiệm cả chức tiết độ sứ ở nước ta. Điều này là một chứng minh lịch sử cho thấy: dù trong nước có lâm vào cảnh đại loạn, rối ren thế nào chăng nữa, các tập đoàn phong kiến Trung Quốc cũng không từ bỏ dã tâm xâm chiếm nước ta.

        Nhưng viên tiết độ sứ Quảng Châu, mặc dầu được nhà Hậu Lương phong cho kiêm nhiệm tiết độ sứ An Nam, cũng không dám sang nhận chức ở nước ta. Mười năm sau (tức năm 917), tiết độ sứ Quảng Châu là Lưu Cung chống lại triều đình trung ương, lập nước riêng ở Quảng Châu, xưng hoàng đế, đóng đô ở Phiên Ngung, sách sử gọi là nhà Nam Hán. Bọn Lưu Cung cũng có tham vọng bành trướng xuống phía Nam, đánh cướp nước ta, nhưng lúc ấy (năm 917 - 918 ) Nam Hán sức còn yếu, phạm vi thế lực chỉ mới trong khu vực Quảng Đông và một phần Quảng Tây nên vẫn phải giao hảo với ta. Lúc ấy, ở ta Khúc Hạo đã mất, con là Khúc Thừa Mỹ làm tiết độ sứ.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Chín, 2016, 11:26:10 pm

        13 năm sau, tức năm 930, nước Nam Hán có một quá trình đánh đông, cướp tây, đã mạnh hơn trước, nên Lưu Cung vua nước Nam Hán cho một đạo quân bất thần đánh sang nước ta. Khúc Thừa Mỹ không kịp đối phó, bị sa vào tay quân cướp nước. Đạo quân xâm lược tiến xuống tới châu Ái (miền Thanh Hóa bây giờ) thì bị một danh tướng của Khúc Thừa Mỹ là Dương Đình Nghệ ở châu Ái đánh bật trở lại. Quân Nam Hán phải rút ra miền đồng bằng Bắc Bộ. Nhưng chúng không thể ở yên.

        Chỉ mấy tháng sau (tháng 3 năm 931), Dương Đình Nghệ đem toàn bộ quân đội của mình tiến ra Bắc đánh giặc. Tướng giặc là Lý Tiến hoảng sợ, phải phi báo về triều đình Nam Hán xin thêm quân. Vua Nam Hán là Lưu Cung cho tướng Trần Bảo đem quân sang cứu nguy. Quân Trần Bảo chưa tới nơi, tướng giặc Lý Tiến đã bị quân ta đánh cho đại bại, phải chạy trốn về nước. Dương Đình Nghệ cùng toàn bộ đại quân tiến vào đóng trong thành Đại La (tức Hà Nội bây giờ).

        Quân địch cùng chủ tướng Trần Bảo sang tới nơi, định vây thành Đại La thì bị quân ta đánh tập kích rất mạnh. Toàn bộ quân giặc bị tiêu diệt, Trần Bảo chết tại trận. Nam Hán không dám tiến quân sang nữa.

        Đầu năm 932, Dương Đình Nghệ lên cầm quyền trị nước. ông cũng làm theo họ Khúc, vẫn xưng là tiết độ sứ. Sử sách không ghi rõ là tiết độ sứ của triều đình nào ở Trung Quốc trong thời kỳ "Ngũ đại thập quốc” đó. Đây cũng chỉ là một kế sách đối ngoại mềm dẻo của Dương Đình Nghệ, tỏ ra không cắt đứt quan hệ "phiên thần" đối với các triều đình Trung Quốc, nhưng thật ra chẳng thuộc triều đình nào trong cái "Ngũ đại thập quốc" ấy.

        Dương Đình Nghệ cầm quyền được 6 năm thì năm 937 bị một tên tướng phản bội là Kiều Công Tiễn ám hại. Tên phản bội đê hèn này, đối nội thì giết chủ để tranh quyền tiết độ sứ, nhưng lại sợ sức mạnh của người con rể Dương Đình Nghệ là Ngô Quyền, đương cai quản châu Ái lúc đó, nên về đối ngoại Kiều Công Tiễn làm một việc nhục nhã là cho người sang "xưng thần" với vua Nam Hán và xin Nam Hán cho quân sang cứu.

        Vua Nam Hán là Lưu Cung vội nắm lấy cơ hội để xâm lược nước ta, liền cho con trai là Lưu Hoằng Thao làm Giao vương (có nghĩa là làm vua Châu Giao, tức là làm vua nước ta), cầm đại quân theo đường biển tiến sang ta. Còn Lưu Cung đem quân đóng tại trấn Hải Môn, gần kề biên giới nước ta để làm hậu ứng cho con, khi cần thiết chính hắn cũng sẽ kéo quân sang nước ta.

        Nhưng tình hình diễn biến rất nhanh, vượt ra ngoài ý đồ của bọn cướp nước và tên bán nước. Quân Nam Hán chưa tới nơi thì tên phản bội Kiều Công Tiễn đã bị ngô Quyền từ châu Ái đưa quân ra bắt và giết chết.

        Sau khi trừ xong nội phản và biết quân cướp nước đang tiến tới miền ven biển nước ta, Ngô Quyền quyết định đường lối đối ngoại của nước nhà lúc này là phải nhanh chóng tiêu diệt giặc ngoại xâm. Biết rõ tình hình địch và sức địch, Ngô Quyền nói với các tướng sĩ:

        "Hoằng Thao là một đứa trẻ dại, đem quân từ xa đến, quân lính mỏi mệt, lại nghe tin Công Tiên đã chết, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi; quân ta sức còn mạnh, địch với quân mỏi mệt tất phải được. Song họ có lợi ở thuyền, nếu ta không phòng bị trước thì chuyện được thua chưa thể biết được. Nếu ta sai người đem cọc lớn đóng ngầm ở cửa biển trước, vót nhọn đầu mà bịt sắt, thuyền của họ nhân khi nước triều lên tiến vào bên trong hàng cọc, bấy giờ ta sẽ dễ bề chế ngự. Không kế gì hay hơn kế ấy” (Đại Việt sử ký toàn thư).

        Sau khi định xong kế hoạch, Ngô Quyền đưa quân ra vùng cửa Bạch Đằng. ông cùng quân và dân địa phương làm cọc “đóng ở hai bên cửa biển" (Đại Việt sử ký toàn thư). Khi quân Hoằng Thao tới gần cửa biển của ta, Ngô Quyền theo kế hoạch đã định, cho quân ra khiêu chiến, nhử quân giặc vào đúng trận địa để đánh. Khi thuyền chiến của địch vào đúng trận địa đã phục sẵn cũng là lúc nước thủy triều xuống, Ngô Quyền lệnh cho quân ta phản công. Trước sức phản công mạnh mẽ của ta địch vội vàng tháo chạy. Thuyền chiến của giặc đâm vào cọc tan vỡ gần hết. Quân Nam Hán chết đuối quá nửa. Chủ tướng giặc Hoằng Thao bị bắt sống và bị giết tại trận. Trận đánh diễn ra trong tháng 11 năm 938. Vua Nam Hán - Lưu Cung đóng quân tại Hải Môn được tin con chết tại trận, quân sĩ tan hết, chỉ còn biết khóc thương con, không dám tiếp tục gây chiến, đành đem quân trở về Phiên Ngung (Quảng Châu).

        Sử của ta ghi rằng: sau trận thua đau này, vua Nam Hán - Lưu Cung cho là tên Lưu Cung của hắn xấu và xui quá, nên đổi là Lưu Yểm. Trận thua đau ở Việt Nam thật là thấm thía đối với vị vua bại trận. Nhưng dù đổi tên hay không thì nhà Nam Hán cũng không thể tồn tại lâu và cũng không còn sức để mưu đồ xâm lược Việt Nam.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Chín, 2016, 11:27:51 pm

Chương hai

NGOẠI GIAO CỦNG CỐ ĐỘC LẬP

        I- NGOẠI GIAO THỜI NGÔ - ĐINH

        Sau khi đánh thắng quân Nam Hán, đầu năm 939, Ngô Quyền lên ngôi vua, cầm quyền trị nước, bỏ danh hiệu tiết độ sứ, dứt khoát cắt đứt quan hệ lệ thuộc các vương quyền phương Bắc. Ngô Quyền lập triều đình, đặt trăm quan (không rõ niên hiệu, tên hiệu là gì), sau này sách sử ghi là Ngô Vương. Về đối ngoại, Ngô Quyền không giao thiệp với Nam Hán mà ông vừa đánh cho đại bại và cũng không liên hệ với nước nào trong "Ngũ đại thập quốc" lúc ấy. Nhưng ông cho phép những người Trung Quốc chạy loạn được sang sinh cơ lập nghiệp ở lãnh thổ do mình cai quản. Ngô Quyền cũng tiếp nhận những tướng sĩ Trung Quốc bị thất bại trong nội chiến xin sang trú ngụ ở nước ta. Một số tướng sĩ Trung Quốc được Ngô Quyền thu dung cho làm việc tại triều hoặc tại các địa phương.

        Ngô Quyền làm vua được 6 năm thì mất. Đáng lẽ con Ngô Quyền lên nối ngôi cha. Nhưng em vợ Ngô Quyền là Dương Tam Kha cướp ngôi vua. Một số quan lại, tướng sĩ của Ngô Quyền không chịu, nổi lên chống lại Dương Tam Kha, mỗi người cầm quân chiếm giữ một địa phương, lập thành giang sơn riêng, gây nên tình trạng cát cứ, trước còn ít, sau lên tới 12 sứ quân.

        Dương Tam Kha làm vua được 6 năm. Tới năm 950, con của Ngô Quyền là Ngô Xương Văn cùng một số tướng cũ của Ngô Quyền nổi lên đánh úp, bắt được Dương Tam Kha. Năm sau (951), Ngô Xương Văn lên ngôi vua lấy hiệu là Nam Tấn Vương. Nhưng nạn sứ quân cát cứ các địa phương vẫn không xóa bỏ được mà ngày càng tăng. Trước tình hình trong nước rối ren, sợ nước ngoài xâm lược, năm 954 Ngô Xương Văn cho sứ sang giao hảo với Nam Hán . Vua Nam Hán lúc ấy là Lưu Thanh cho ngay sứ sang nhận ta là phiên thần, lại phong chức tiết độ sứ cho Ngô Xương Văn, âm mưu kiếm cớ xâm nhập tiến tới chiếm đóng nước ta. Được tin ấy, Ngô Văn Xương cho ngay người đi sang chặn sứ Nam Hán lại trước khi tới biên giới, và dọa sứ Nam Hán rằng: giặc biển đương làm loạn, đường đi rất khó, đừng sang mà chết! (Đại việt sử ký toàn thư). Sứ Nam Hán hoảng sợ quay về. Mộng bành trướng của Nam Hán tới đây thật sự chấm dứt.

        Ở ta, tình trạng sứ quân cát cứ kéo dài hơn 20 năm. Một trong thủ lĩnh 12 sứ quân là Đinh Bộ Lĩnh đánh tan các sứ quân khác, thống nhất được đất nước. Đinh Bộ Lĩnh là con của Đinh Công Trứ - một người bạn chiến đấu của Ngô Quyền, từ thời hai người còn là tướng thân cận của Dương Đình Nghệ.

        Năm 968, nạn cát cứ đã chấm dứt, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi vua. Khác với Ngô Quyền, ông lập hẳn một triều đại, lên ngôi hoàng đế, xưng là Minh Hoàng đế , đặt mình ngang hàng với các hoàng đế Trung Quốc, sử sách gọi ông là Đinh Tiên Hoàng (tức Đinh Tiên Hoàng đế) là gọi theo niên hiệu Tiên Hoàng đế mà người ta đặt cho ông khi ông đã mất.

        Về quan hệ ngoại giao với Trung Quốc thì từ thời Ngô đã không có. Khi Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi vua, quan hệ ngoại giao với Trung Quốc cũng chưa đặt ra ngay, vì Trung Quốc chưa chấm dứt được nạn “Ngũ đại thập quốc". Ở ta, trong khi Đinh Bộ Lĩnh tiến hành thống nhất đất nước thì Triệu Khuông Dận ở Trung Quốc cũng nổi lên dẹp loạn "Ngũ đại thập quốc". Năm 960, Triệu Khuông Dận diệt được nhà Hậu Chu - một triều đại cuối cùng của "Ngũ đại", nhưng còn "thập quốc". Triệu Khuông Dận lập nên triều Tống và tiếp tục thanh toán "thập quốc”.

        Đinh Tiên Hoàng lên ngôi vua được 2 năm thì năm 970 ở Trung Quốc, Tống Thái Tổ (tức Triệu Khuông Dận) tiến quân xuống phía nam đánh Nam Hán. Năm 971, Nam Hán bị diệt. Từ đấy biên giới Tống sát với nước ta. Tống đặt quan hệ giao hảo với ta, chưa có ý đồ gì khác, vì Trung Quốc chưa thống nhất, Tống còn phải lo đối phó với một số nước "thập quốc” ở phía bắc và phía đông. Cho nên quan hệ buổi đầu giữa hai nước là hòa bình hữu nghị. Có điều đặc biệt trong đường lối, phong cách ngoại giao của Đinh Tiên Hoàng là ông vẫn làm vua, vẫn cầm quyền trị nước, nhưng trong các văn bản quan hệ ngoại giao thì ông lại cho con trai là Đinh Liễn đứng tên, tức là ông cho con ông ra mặt giao thiệp với hoàng đế nhà Tống. Thái độ đó của Đinh Tiên Hoàng, có thể triều Tống không bằng lòng, nhưng nhà Tống chưa làm gì được.

        Tới năm 979, nhà Tống diệt được nước cuối cùng trong “thập quốc" là nhà Bắc Hán ở phía bắc, thống nhất được Trung Quốc rộng lớn. Do đấy, nhà Tống lúc này quân đông thế mạnh. Trong khi đó ở ta, cũng năm 979 vua Đinh Tiên Hoàng và con lớn là Đinh Liễn đều bị cận thần sát hại. Con nhỏ là Đinh Toàn mới 5 tuổi lên nối ngôi, vua Tống tính ngay chuyện xâm lược nước ta. Thế là quan hệ ngoại giao giữa ta và Tống trở thành xấu.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Chín, 2016, 11:28:12 pm

        Khoảng những tháng đầu năm 980, viên quan Tống coi Ung Châu (tức miền Quảng Tây bây giờ) báo cáo về triều đình Tống rằng:

        "An Nam quận vương và con là Liễn đều bị giết, nước đã gần mất, có thể nhân lúc này đem quân địa phương đánh lấy được, nếu bỏ lúc này không mưu sự sợ mất cơ hội...” (Đại Việt sử ký toàn thư).

        Tống triều vội nắm lấy cơ hội. Ngay tháng 7 năm 980, Tống triều quyết định "xuất kỳ bất ý đem quân đánh úp. . . như sét đánh không kịp bưng tai " (Đại Việt sử ký toàn thư). Nhà Tống bắt đầu họp quân, tuyển tướng.

        Sang tháng 8, vua Tống hạ lệnh cho các tướng Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng, Khích Thủ Tuấn (có sách viết là Hác Thủ Tuấn.), Trần Khâm Tộ, Thôi Lượng, Lưu Trừng, Giả Thực, Vương Soạn... "họp quân bốn mặt, hẹn ngày cùng sang xâm lược" (Đại Việt sử ký toàn thư). Khí thế Tống rất mạnh.

        Tháng 9, vua Tống cho đem thư sang hăm dọa ta, coi như một tối hậu thư. Đây là một văn kiện ngoại giao của kẻ xâm lược mà sử sách của ta lần đâu tiên ghi lại. Đó là một văn kiện khá dài, lời lẽ rất thô bạo, hống hách. Có những đoạn viết:

        " … Nay thành triều ta, lòng nhân trùm muôn nước; cơ nghiệp thái bình kể cũng đã thịnh, điều lễ phân phong đã sắp sửa làm, muốn ngươi đến chầu cho ta được vui khỏe, mà ngươi khỏi cái tủi áp mặt vào góc nhà để làm rầy cho ta, khiến ta phải dùng đến kế chặt xác băm xương, làm cỏ nước người, lúc ấy hối sao kịp. . .

        Người có theo về không? Chớ rước lấy tội lỗi. Ta đương chỉnh bị xe ngựa, quân lính, sắp sửu các thứ chiêng trống, nếu quy thuận thì ta tha cho, nếu trái lệnh thì ta quyết đánh. Theo hay không, lành hay dữ, tự người nghĩ lấy. . . " (Đại Việt sử ký toàn thư).

        Đe dọa ngoại giao như thế này không phải là một việc làm ngẫu nhiên mà là quốc sách của kẻ bành trướng, một bước mở đầu của chiến tranh xâm lược. Binh thư tối cổ và tối ưu của đường lối chiến tranh xâm lược rất coi trọng biện pháp "phạt giao" (Binh pháp Tôn Tử. Thiên thứ ba: Mưu công). "Phạt giao” có nghĩa là đánh bằng ngoại giao, tức là dùng ngoại giao để đe dọa, nạt nộ, lừa gạt người để bắt người phải hàng phục, phải cống nạp, phải chịu sự thống trị của mình. "Phạt giao" thành công thì khỏi phải vũ trang xâm lược. “Phạt giao" dù không hoàn toàn được như ý muốn thì cũng làm cho kẻ bị đe dọa phải e sợ, giảm sút tinh thần chiến đấu, khiến kẻ xâm lược đánh cướp nước người được dễ dàng, nhanh chóng.

        Nhưng nhà Tống đe dọa ta vô ích. Quân dân ta quyết không đầu hàng và sẵn sàng trả lời họ bằng vũ lực. Lúc này trong nước, vua Đinh tuy còn nhỏ, nhưng có Thập đạo tướng quân Lê Hoàn làm nhiếp chính, giữ chức Phó vương, trông nom mọi việc quân việc dân. Khi được tin nhà Tống chuẩn bị ra quân xâm lược nước ta, Thập đạo tướng quân Lê Hoàn cử tướng Phạm Cự Lạng (Có sách viết là Phạm Cự Lưỡng) làm Đại tướng quân để điều động quân sĩ và định kế hoạch ra quân đánh địch.

        Trước khi lên đường dẹp giặc, Đại tướng quân Phạm Cự Lạng cùng các tướng lĩnh quyết định làm một cuộc đảo chính vì lợi ích của nhà nước. Trong một buổi triều đình đương họp, Phạm Cự Lạng cùng các tướng lĩnh nhung phục oai nghiêm, đem quân tiến thẳng vào triều. Tại giữa điện đình, Phạm Cự Lạng nói với mọi người:

        "Nay chúa thượng trẻ thơ, chúng ta dù hết sức liều chết chống kẻ địch bên ngoài, mong lập được chút công thì ai biết cho. Chi bằng trước hãy tôn Thập đạo tướng quân làm Thiên tử, rồi sau sẽ đem quân đi đánh giặc thì hơn” (Đại Việt sử ký toàn thư)

        Trăm quan tại triều và Dương Thái Hậu mẹ vua nhỏ Đinh Toàn đều “vui lòng quy phục" (Đại Việt sử ký toàn thư).

        Tháng 4 năm 981, cuộc kháng chiến chống nhà Tống xâm lược bắt đầu. Quân Tống theo ba đường đánh sang ta. Một đường bộ vào Lạng Sơn (Có tài liệu viết đạo quân bộ vào theo cửa ải Thông Quốc ở Quảng Ninh ngày nay). Một đường thủy theo ven biển vào sông Bạch Đằng. Một đường thủy thứ hai vào Tây Kết. Nhưng trên cả ba đường hành quân, giặc đều bị quân ta đánh cho bại trận.

        Đạo bộ binh tiên phong của giặc đi tới Chi Lăng thì bị quân ta tiêu diệt hoàn toàn. Chủ tướng quân tiên phong là Hầu Nhân Bảo bị quân ta bắt và giết chết. Đạo bộ binh đi sau khiếp sợ, quay đầu chạy về nước. Đạo thủy quân của giặc vào sông Bạch Đằng bị quân ta đánh bật ra, tan vỡ gần hết. Tướng thủy quân của giặc phải đem tàn quân chạy về Quảng Châu. Đạo thủy quân thứ hai của Tống bị quân ta đánh cho đại bại ở Tây Kết; quân sĩ “chết đến quá nửa, thây chất đầy đồng" (Đại Việt sử ký toàn thư). Hai tướng giặc là Quách Quân Biện và Triệu Phụng Huân bị quân ta bắt sống. Với trận Tây Kết, cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất kết thúc. Quân ta đại thắng. Các tướng Tống chạy về nước đều bị vua Tống hành tội và giết chết. Chỉ có một tướng thoát tội xử tử, nhưng bị giáng chức.

        Cuộc chiến tranh xâm lược bị thất bại rất lớn là một đòn thấm thía cho nhà Tống, khiến gần 100 năm sau, nhà Tống nhiều lần muốn xâm lược nước ta mà không dám tính đến việc đem quân sang đánh. Không những thế, nhà Tống còn phải cố nén chịu đựng, nhượng bộ trước thái độ ngoại giao cứng rắn của Lê Hoàn và e dè cả trong quan hệ đối ngoại với con Lê Hoàn là Lê Long Đĩnh.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Chín, 2016, 11:30:17 pm

        II- NGOẠI GIAO CỦA NGƯỜI "VÁC NÚI, LẬT BIỂN"

        Người "vác núi lật biển" (phụ sơn đảo hải - Tống sử) là danh hiệu người Tống dùng để chỉ Lê Hoàn từ sau khi họ thua về quân sự. Về ngoại giao, Lê Hoàn cũng rất khôn khéo và cứng rắn, nên người Tống càng e ngại, dè dặt. Họ nhìn nhận Lê Hoàn như một nhân vật thật sự kiên cường, dũng mãnh, không biết sợ là gì, có thể làm những việc kinh thiên động địa. Đúng là Lê Hoàn giỏi về nhiều mặt: giỏi quân sự, giỏi nội trị, mà ngoại giao cũng rất giỏi.

        Riêng về ngoại giao, trong quan hệ với nhà Tống, Lê Hoàn thực hiện một chính sách vừa mềm dẻo vừa cứng rắn; mềm dẻo để giữ vững hòa hảo giữa hai nước, nhưng cứng rắn để hạn chế những thái độ hống hách, nước lớn của nhà Tống.

        Sau khi đánh thắng quân Tống, Lê Hoàn chủ động cho sứ sang Tống. Trong thời gian từ năm 982 đến 985, sứ thần hai nước, ta và Tống thường qua lại, nhưng Lê Hoàn không đả động gì đến việc trả tù binh cho Tống. Mãi tới năm 986, tức 5 năm sau khi chiến tranh kết thúc, Lê Hoàn mới chấp nhận giải quyết vấn đề tù binh và báo cho Tống biết.

        Cuối năm 986, vua Tống cho hai quan văn là Lý Nhược Chuyết và Lý Giác sang ta để nhận tù binh và mang sắc vua Tống phong Lê Hoàn chức "Tiết độ sứ”. Sắc phong này chỉ có ý nghĩa là nhà Tống phải chính thức thừa nhận Lê Hoàn là người cầm quyền trị nước của ta và chịu từ bỏ mưu đồ xâm lược nước ta. Trên thực tế, Lê Hoàn vẫn là hoàng đế của một nước độc lập, không phải tiết độ sứ của một địa phương nào của Tống.

        Lê Hoàn trao trả cho Tống những binh sĩ và hai tướng Tống bị bắt tại trận là Quách Quân Biện, Triệu Phụng Huân.

        Năm sau (987), vua Tống lại cho Lý Giác sang sứ nước ta, sứ không ghi rõ là sang về việc gì. Lý Giác là một văn thần, học vấn rộng, thơ văn giỏi. Lần này, muốn để cho sứ Tống thấy nước ta là một nước thi thư, có văn hiến, có nhiều nhân tài, nhiều trí thức, nên Lê Hoàn cử một nhà sư là Đỗ Thuận tham gia tiếp sứ. Thời Ngô, Đinh, Lê, Lý, các nhà sư là tầng lớp có học thức nhiều hơn cả. Sư Đỗ Thuận giả làm một người "nhà đò" chở thuyền đi theo đoàn thuyền lên đón sứ Tống tại chùa Sách, ở hạ lưu sông Thương (có sách nói là sứ nhà Tống vào cửa biển Ngãi Am (Nam Định)). Đoàn sứ nhà Tống đi đường bộ từ biên giới tới chùa Sách thì xuống thuyền đi đường thủy vào kinh thành Hoa Lư (lúc ấy chưa đặt kinh đô tại Thăng Long).

        Đoàn đón sứ của ta bố trí cho Lý Giác (trưởng đoàn sứ nhà Tống) đi trên chiếc thuyền có nhà sư Đỗ Thuận mang danh chủ thuyền, cùng một vài quan lại của ta tham dự vào việc thù tiếp Lý Giác trên dọc đường đi.

        Có một buổi "nhà đò" Đỗ Thuận cầm chèo đưa thuyền đi, sứ Tống Lý Giác đứng ở mạn thuyền, ngắm cảnh trời mây, sông nước, nhìn thấy hai con ngỗng bơi lội dưới sông liền ngâm hai câu thơ:

                                  Nga nga lưỡng nga nga
                                  Ngưỡng diện hướng thiên nha.

        Lái đò Đỗ Thuận ngâm tiếp theo ngay:

                                  Bạch mao phô lục thủy
                                  Hồng trạo bãi thanh ba.


        Bốn câu của hai người hợp thành một bài thơ hay. Sứ Tống Lý Giác rất khâm phục. Không phải chỉ khâm phục vì thấy một người lái thuyền biết làm thơ, họa thơ, ứng đối nhanh, mà còn khâm phục vì thấy mình ngâm hai câu có sẵn trong một bài thơ tứ tuyệt của một nhà thơ nổi tiếng thời Đường là Lạc Tân Vương và thay đổi một vài chữ cho hợp với cảnh vật lúc ấy, vậy mà người lái thuyền Đại Việt ngâm tiếp ngay hai câu, lại chính cũng là hai câu cuối bài thơ của Lạc Tân Vương, và cũng thay đổi vài chữ cho thích hợp.

        Bài thơ của Lạc Tân Vương là:

                                  Nga, nga, nga
                                  Khúc hạng hướng thiên ca
                                  Bạch mao phù lục thủy
                                  Hồng chúy bát thanh ba


        Dịch:

                                  (Ngỗng, ngỗng, ngỗng
                                  Nghếch cổ lên trời kêu
                                  Lông trắng phô nước biếc
                                  Chân hồng quẫy sóng xanh)


        Bốn câu thơ của Lý Giác và Đỗ Thuận hợp lại là:

                                  Nga nga lưỡng nga nga
                                  Ngường diện hướng thiên nha
                                  Bạch mao phô lục thủy
                                  Hồng trạo bãi thanh ba


        Dịch:

                                  (Ngỗng ngỗng, hai con ngỗng .
                                  Ngửa mặt nhìn chân trời
                                  Nước xanh phô lông trắng
                                  Chèo hồng đẩy sóng xanh).



Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Chín, 2016, 11:30:39 pm

        Lý Giác rất khâm phục người lái đò thông minh, uyên bác, và qua tài trí của người lái đò, Lý Giác rất khâm phục trình độ văn hiến và tài năng của nhân dân ta. Như thế là việc nhà sư Đỗ Thuận chèo thuyền tiếp sứ đã đạt được mục đích của Lê Hoàn.

        Khi tới Hoa Lư, Lý Giác làm một bài thơ gửi tặng người lái đò thi sĩ. Trong bài thơ có câu "Thiên ngoại hữu thiên ửng viễn chiêú” (Ngoài trời lại có trời soi nữa), có ý nói: ngoài vị thiên tử của nhà Tống còn có vị thiên tử nữa ở Đại Việt. Sử cũ ghi rằng "Nhà sư Đỗ Thuận đem thơ này dâng vua. Vua đưa cho nhà sư Ngô Khuông Việt xem. Khuông Việt nói: "Thơ này có ý tôn trọng bệ hạ không khác gì vua Tống " (Đại Việt sử ký toàn thư).

        Khi Lý Giác sứ Tống trở về nước, vào triều từ biệt vua ta Lê Hoàn, sử ghi "Lý Giác lạy ra về” (Đại Việt sử ký toàn thư).  

        Đây là trường hợp hiếm có. Sứ thần phương Bắc sang Việt Nam, thường cậy mình là người thay mặt thiên tử, thiên triều, coi mình như ngang hàng vua Đại Việt, nên rất ngạo nghễ, hống hách, có khi bắt bẻ cả vua Đại Việt, nói gì đến lạy. Vậy mà sứ Tống đã lạy vua Lê Hoàn khi ra về vì Lý Giác rất mực khâm phục và tôn quý Lê Hoàn, vị anh hùng dân tộc vĩ đại của Đại Việt.

        Năm 990, vua Tống lại cho một đoàn sứ giả sang ta, mang chiếu thư của vua Tống phong thêm cho Lê Hoàn hai chữ “Đác tiến". Việc chỉ có thế mà nhà Tống phái một đoàn sứ giả đi, đứng đầu là Tống Cảo chánh sứ và Vương Thế Tác phó sứ. Hai viên chánh, phó sứ này tỏ ra ngạo mạn, hống hách. Chúng báo sang là ta phải cho thuyền sang đón chúng tại Liêu Châu (thuộc Quảng Đông). Để giữ giao hảo giữa hai nước, Lê Hoàn cho một tướng đem chín thuyền to và 300 quân sang Liêu Châu đón sứ.

        Thuyền đón sứ đi khoảng một tháng mới tới trạm tiếp sứ của ta đặt ở gần kinh thành Hoa Lư. Từ trạm tiếp sứ, sứ Tống nhìn ra thấy dưới sông thuyền chiến san sát, quân sĩ ta đương chèo thuyền, đánh chiêng trống, hò reo tập trận. Bên sườn núi gần kinh thành, cờ xí, khí giới rợp trời, quân sĩ binh phục sặc sỡ, đi lại tấp nập. Đây là một cách uy hiếp tinh thần sứ Tống ngay khi chúng mới tới.

        Công việc của sứ là đem một chiếu thư của vua Tống tới vua ta. Theo lễ nghi ngoại giao phong kiến, khi nhận chiếu thư của thiên tử nước lớn, vua ta phải lạy bức chiếu thư đó. Nhưng nhận chiếu thư của vua Tống, Lê Hoàn không lạy, sứ Tống cũng đành chịu.

        Mở tiệc chiêu đãi sứ thần nhà Tống, vua Lê Hoàn cho đặt yến tiệc tại bãi biển, để chủ và khách vừa ăn yến, vừa liên hoan múa hát, lấy trò bắt cá làm vui. Tổ chức chiêu đãi như thế là rất trọng thể, nhưng lại rất bất tiện khó xử cho sứ, ăn mất ngon. Vì trong khi yến tiệc, Lê Hoàn tuy là vua, nhưng tự cởi mũ áo, bỏ giày, đi chân không lội xuống nước đâm cá. Các quan dự tiệc cũng cởi đai, mũ, đi chân không lội xuống nước tham gia trò đâm cá như Lê Hoàn. Mỗi khi có người đâm trúng cá thì mọi người hò reo nhảy múa. Sứ nhà Tống tại bàn tiệc trở nên lúng túng, không dám làm theo. Trong khi ăn uống, Lê Hoàn thường tự hát để mời rượu các sứ thần. Sứ nhà Tống đón cốc rượu mà không hát đáp lại được nên rất ngượng ngùng, không ăn uống được.

        Sau bữa tiệt ở bãi biển, một hôm nhà vua ta cho người khiêng một con trăn lớn, dài vài trượng đến sứ quán, nói với sứ nhà Tống: "Nếu ăn được, sẽ cho làm cỗ để mời". Sứ khiếp sợ, không dám nhận. Một buổi khác, Lê Hoàn cho dắt hai con hổ tới sứ quán để cho sứ thần vui chơi. Sứ càng sợ, không dám nhận (Những chuyện ta tiếp sứ Tống Cảo đều có ghi trong tờ tâu của Tống Cảo với vua Tống và chép trong Tống sử).

        Khi Tống Cảo, Vương Thổ Tác xin phép về nước, Lê Hoàn bảo thẳng vào mặt sứ: "Sau này có quốc thư thì nên để giao nhận ngay ở đầu địa giới, không phiền sứ thần đến đây nữa" (Đại Việt sử ký toàn thư).

        Khi về tới nước, bọn Tống Cảo phải tâu đúng như thế với vua Tống. Vua Tống cũng phải bằng lòng, không làm gì được hơn (Đại Việt sử ký toàn thư)


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Chín, 2016, 11:31:02 pm
        5 năm sau (tức năm 995), tại miền biên giới giữa nước ta và nước Tống, đôi khi có những cuộc xung đột vũ trang nhỏ do quân địa phương gây nên. Theo báo cáo của quan lại nhà Tống ở Quảng Tây, Liêm Châu là Trương Quan, Vệ Chiêu Tiểu gửi vua Tống thì ta đã cho hơn 100 thuyền chiến sang đánh cướp trấn Như Hồng thuộc Khâm Châu, gần biên giới nước ta, rồi lại cho hơn 5.000 hương binh đánh sang đất Ung Châu (Quảng Tây). Không rõ đó là những sự việc có thật hay quan lại nhà Tống ở vùng biên giới có ý vu cáo để gây chuyện với ta. Nhưng vua Tống bỏ qua những lời tâu ấy, không muốn có điều gì bất hòa với ta.

        Sau đó, bọn Trương Quan, vệ Chiêu Tiểu lại tâu dối vua Tống là vua Lê Hoàn đã bị mất ngôi, phải chạy ra hải đảo làm nghề cướp biển và cũng đã chết rồi. Vua Tống phải cho người đi dò xét xem hư thực thế nào thì thấy bọn này tâu láo. Vua Tống cho đem hành tội bọn Trương Quan, Vệ Chiêu Tiểu. Vệ Chiêu Tiểu bị xứ chém; Trương Quan sợ, phát bệnh mà chết. Sau khi hành tội bọn này, vua Tống cho Lý Nhược Chuyết sang sứ nước ta, mang chiếu thư và đai ngọc tặng vua Lê Hoàn "mong ta vẫn giữ quan hệ láng giềng tốt" (Đại Việt sử ký toàn thư).

        Lê Hoàn nhận chiếu thư và đai ngọc một cách bình đẳng với thiên tử nhà Tống, chứ không làm lễ phiên thần. Lê Hoàn bảo sứ Tống là Lý Nhược Chuyết rằng:

        "Việc cướp trấn Như Hồng là bọn giặc biển ở cõi ngoài, Hoàng đế có biết đó không phải là quân của Giao Châu không? Nếu Giao Châu (chỉ nước ta) chống lại thì đầu tiên đánh vào Phiên Ngung (Quảng Châu) rồi đánh đến Môn Việt (vùng Phúc Kiến) há chi đánh một trấn Như Hồng mà thôi" (Đại Việt sử ký toàn thư).

        Thời xưa, triều đình Việt Nam tiếp sứ phương Bắc ít khi nói được những điều cứng rắn như thế.

        Năm 997, theo yêu cầu của Lê Hoàn, vua mới của nhà Tống là Tống Chân Tông phải hạ lệnh không cho sứ sang Việt Nam, mỗi khi có gì đưa sang Việt Nam thì chỉ cho quan đem đến biên giới rồi báo sang ta; ta cho người lên biên giới nhận. Từ đây cho tới khi Lê Hoàn mất, đôi khi chỉ có sứ ta sang Tống mà không có sứ Tống sang ta.

        Đây là một thắng lợi ngoại giao tỏ rõ sức mạnh của dân tộc ta vào thời kỳ Lê Hoàn làm vua và ưu thế của người Việt Nam trong quan hệ đối ngoại thời đó. Đối với nhà Tống, quan hệ hòa hảo giữa hai nước vẫn giữ vững, nhưng chỉ mình sang nước người mà người không được sang nước mình, chấm dứt mọi hành động hống hách, hạch sách của sứ Tống đối với nhân dân Việt Nam.

        Những thắng lợi ngoại giao của Lê Hoàn có ảnh hưởng tốt trong nhiều năm sau khi ông đã qua đời.

        Năm 1005 Lê Hoàn mất, miếu hiệu là Đại Hành Hoàng đế, sách sử thường viết là Lê Đại Hành. Cuối năm 1005, Lê Long Đĩnh lên nối ngôi, nhưng chưa đặt quan hệ với nhà Tống ngay, vì sau khi Lê Hoàn chết bọn vua chúa nhà Tống mưu tính đánh cướp nước ta.

        Vua Tống cho viên tri châu Quảng Châu là Lăng Sách và viên an phủ sứ miền biển là Thiệu Việp tìm hiểu tình hình và chuẩn bị kế hoạch xâm lược nước ta. Sau hơn một năm liệu định phương lược, tháng 7 năm 1006, bọn Lăng Sách tâu lên vua Tống xin đem quân đánh nước ta và y quả quyết :

        "Nếu triều đình chuẩn y, xin lấy binh ở các châu Quảng Nam và cho thêm 5.000 quân tinh nhuệ ở Kinh Hồ, theo hai đường thủy bộ cùng tiến thì lập tức bình định được" (Đại Việt sử ký toàn thư).

        Nhưng vua Tống không dám quyết. Sức mạnh của dân tộc ta thời Lê Hoàn trị nước vẫn làm cho vua Tống e ngại. Cho nên Tống và ta tiếp tục giao hảo. Năm 1007 Lê Long Đĩnh cho sứ sang biếu vua Tống một tê ngưu và đề nghị mấy điều:

        1. Vua Tống cho vua ta một bộ áo giáp, mũ trụ trang sức bằng vàng.

        2. Để người Việt Nam sang buôn bán tại Ung Châu (ngày nay là Nam Ninh).

        Vua Tống nhận lời tặng áo giáp, mũ trụ cho Lê Long Đĩnh và nhận để người Việt Nam sang buôn bán tại Liêm Châu và trấn Như Hồng. Về con tê ngưu, vua Tống không muốn nhận, lấy lý do là tê ngưu từ xa đến, không hợp thủy thổ, muốn trả lại, nhưng không dám, sợ mất lòng vua Việt Nam, để sứ ta về nước rồi mới cho đem con tê ngưu thả ra bãi biển.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Chín, 2016, 11:32:37 pm

        III- ĐÁNH RỒI MỚI ĐÀM

        Năm 1010, nhà Lý thay nhà Lê lên cầm quyền nước ta. Lý Thái Tổ cho sứ sang giao hảo với nhà Tống. Bọn triều thần nhà Tống có ý muốn từ chối, không nhận quan hệ với triều Lý, tức là có ý muốn kiếm chuyện với ta. Nhưng vua Tống do dự, nên nhà Tống vẫn tiếp nhận sứ ta. Tuy vậy, nhà Tống không thật tâm giao hảo vẫn để cho quan quân vùng biên giới thường xuyên lấn chiếm, cướp đất, cướp người, cướp của của ta.

        Năm 1014, một cuộc xung đột tương đối lớn xảy ra. Hai viên tướng nhà Tống là Dương Trương Huệ và Đoàn Kính Chi đem 20 vạn quân Hạc Thác (là thổ dân vùng Tả giang, Hữu giang, Quảng Tây), tiến sang đánh cướp vùng Cao Bằng. Vua Lý Thái Tổ cho quân lên đánh. Giặc tan ngay, hơn một vạn giặc chết tại trận. Quân ta bắt sống rất nhiều quân giặc và ngựa của chúng. Sau trận đánh này, vua Lý cho đem một trăm con ngựa trong số ngựa bắt được của giặc sang biếu vua Tống, vừa cố giữ giao hảo, vừa gián tiếp cảnh cáo trìêu đình Tống về những vụ xâm lấn mà quân Tống gây ra. Vua Tống hạ lệnh cho quan lại các địa phương phải đón tiếp sứ ta thật chu đáo và chính vua Tống cũng tiếp sứ ta rất trọng hậu.

        Năm 1028, nhà Tống lại cho quân cướp phá vùng châu Lạng. Thủ lĩnh người Tày vùng châu Lạng là Thân Thừa Quí đem quân đánh đuổi giặc sang tận đất Tống, giết tướng Tống và bắt nhiều quân Tống. Viên quan Tống coi Ung Châu phải cầu hòa, khi đó Thân Thừa Quí mới rút quân về .

        Năm 1034, quan lại nhà Tống dụ dỗ bọn Trần Công Vĩnh ở vùng biên giới đem 600 dân chạy sang theo Tống. Vua Lý Thái Tổ cho hơn một nghìn quân sang đất Tống đuổi bắt. Thấy quân ta sang, vua Tống sợ chiến tranh xảy ra, phải hạ lệnh cho quan lại địa phương trả lại ta bọn Trần Công Vĩnh và hơn 600 dân.

        Năm 1050, viên quan Tống ở Ung Châu dụ dỗ bọn tù trưởng ở châu Tô Mậu của ta đem hơn ba nghìn dân sang với Tống và Tống cho đưa cả vào thành Ung Châu. Vua Lý Thái Tông cương quyết đòi lại Vua Tống buộc phải cho đem trả tất cả hơn ba nghìn người mà bọn quan lại nhà Tống đã dụ dỗ .

        Năm 1059, quan lại nhà Tống lại dụ dỗ một số dân vùng châu Lạng sang Tống. Thân Thiệu Thái là phò mã nhà Lý, cai quản vùng châu Lạng, được lệnh triều đình đưa quân lên vùng biên giới đòi nhà Tống trả lại dân. Tướng Tống ở Ung Châu là Tống Sĩ Nghiêu đem quân đánh sang châu Lạng, bị quân ta do Thân Thiệu Thái chỉ huy đánh cho đại bại. Tướng giặc Tống Sĩ Nghiêu phải đem tàn quân chạy về nước. Tướng ta đưa quân vào đất Tống giết chết Tống Sĩ Nghiêu. Triều đình Tống cho viên quan coi Quế Châu là Tiêu Cố đem quân xuống tăng viện cho vùng Ung Châu, cùng viên quan coi Ung Châu là Tiêu Chú và các tướng Tống ở Ung Châu phải quyết chiến, đánh lui kỳ được quân ta. Quân ta lại từ biên giới tiến thêm sang. Cả Ung Châu náo động. Các tướng Tống phải xin thêm 3.000 quân thiện chiến ở Kinh Hồ xuống cứu viện.

        Thân Thiệu Thái vẫn rầm rộ tiến quân lên Ung Châu, bắt sống tại trận viên chỉ huy quân Tống là Dương Bảo Tài và nhiều quân giặc, trâu, ngựa...

        Triều đình Tống hoảng sợ, Vua Tống cách chức hai viên quan coi Quế Châu và Ung Châu là Tiêu Cố và Tiêu Chú, cho một viên triều thần là Dư Tĩnh làm an phủ sứ đem thêm quân xuống Ung Châu cùng các tướng Tống tại đây lo tính việc bảo vệ Ung Châu. Vua Lý cho quân tăng viện sang đất Tống. Thanh thế quân ta trên đất Tống càng mạnh. Các tướng Tống ở Ung Châu bất lực. Triều đình Tống phải xin thương lượng với ta. Các tướng Tống ở Ung Châu là bọn Dư Tĩnh, Lý Sự Trung phải chủ động nhận lỗi với ta rằng những cuộc xung đột ở biên giới là do các tướng Tống ở biên giới gây ra, đề nghị ta cử người cùng thương lượng giải hòa.

        Thấy nhà Tống không còn hống hách, phải xin lỗi cầu hòa, triều đình nhà Lý chấp nhận thương lượng, lệnh cho Thân Thiệu Thái đem quân về, cho đại học sĩ Phí Gia Hựu sang Tống hội thương.

        Trong cuộc thương lượng, tướng Tống là Dư Tĩnh đề nghị ta trả lại tướng Dương Bảo Tài và các binh sĩ nhà Tống bị ta bắt. Dư Tĩnh được lệnh vua Tống đem nhiều tiền bạc tặng Phí Gia Hựu để mong được như ý. Nhưng đề nghị của Tống không được chấp nhận. Bên ta chỉ đồng ý không đưa quân vào đất Tống, nhưng cương quyết giam giữ trừng trị bọn Dương Bảo Tài, để trả đũa việc nhà Tống dụ dỗ, lừa bắt dân ta ở vùng biên giới. Nhà Tống đành phải chịu.

        Năm 1062, quan lại nhà Tống lại dụ dỗ người Tày là Nông Tôn Đán ở phía tây bắc Cao Bằng đem dân, nhường đất, theo về Tống. Nhà Tống lấy vùng đất ấy đặt thành châu Thuận An và bổ dụng cha con Nông Tôn Đán làm quan của nhà Tống. Không chịu mất đất mất dân, vua Lý Thánh Tông cho phò mã Lê Thuận Tôn, người dân tộc thiểu số là châu mục châu Phong đi sứ sang Tống đòi đất, đòi dân. Nhà Tống buộc lòng phải trả ta vùng đất ấy, nhưng không trả dân và giữ cha con Nông Tôn Đán làm quan cho Tống. Ta không cho sứ đi đòi nữa, nhưng cho quân đi đánh đồn, lấy lại tất cả những vùng đất ở biên giới đã bị lấn chiếm; nhà Tống đành chịu.

        Quan hệ với nhà Tống ngày càng căng thẳng. Cuối năm 1073, quan lại nhà Tống lại dụ dỗ Nông Thiện Mỹ, một thủ lĩnh vùng gần Thất Khê (Cao Bằng ngày nay) đem 700 dân chạy sang theo Tống. Đầu năm 1075, triều đình nhà Lý viết thư sang triều đình Tống đòi Tống trả lại ta Nông Thiện Mỹ và 700 dân, Tống không nghe và không trả lời. Bởi lẽ nhà Tống chuẩn bị xâm lược nước ta và Quảng Tây là trung tâm chuẩn bị chiến tranh. Triều đình Tống dồn nhiều tiền của, công sức, binh lính, quân trang, quân dụng cho Quảng Tây.

        Triều đình nhà Lý và danh tướng Lý Thường Kiệt quyết đánh trước, phá tan những căn cứ chuẩn bị chiến tranh của nhà Tống ở Quảng Tây và Quảng Đông. Chỉ có thế mới xóa bỏ được ý đồ xâm lược của Tống.

        Trong khi quan hệ với nhà Tống ở phương Bắc căng thẳng như vậy thì ở phương Nam quan hệ giữa nhà Lý với Chiêm Thành thuận lợi hơn. Nhà Lý không đánh thuế vải trắng mà thương nhân Chiêm Thành đưa vào buôn bán ở nước ta. Bởi vậy quan hệ giữa ta và Chiêm Thành ngày càng thân thiện. Vua Chiêm Thành cho sứ đem nhiều sản vật quý hiếm biếu nhà Lý.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Chín, 2016, 11:34:28 pm

        IV. ĐÁNH THẮNG RẤT OANH LIỆT, LẠI "DÙNG BIỆN SĨ BÀN HÒA" ĐỂ KẾT THÚC CHIẾN TRANH

        Trước khi tiến quân vào đất Tống, Lý Thường Kiệt cho truyền “Lệ bố" đi khắp miền Quảng Đông, Quảng Tây.

        "Lệ bố": "Lệ" là để ngỏ, “bố” là bố cáo. Lệ bố là những tờ hịch nói công khai cho dân chúng biết. Nội dung các lệ bố nhằm mấy điều:

        1. Nói rõ mục đích cuộc hành quân của ta không phải là để cướp nước hại dân.

        2. Vạch rõ những sai trái, ngang ngược của triều đình nhà Tống và quan lại Tống đối với nước ta.

        3. Kể tội tể tướng Tống là Vương An Thạch và triều đình Tống đã dùng “tân pháp” để đàn áp, bóc lột nhân dân Tống.

        4. Nêu cao ý nghĩa cuộc hành quân của ta không phải chỉ vì lợi ích của ta mà còn vì lợi ích của nhân dân Tống.

        Có lệ bố viết cụ thể:

        "… Nay bản chức vâng lệnh Quốc vương, chỉ đường Bắc tiến, muốn dẹp tan làn sóng yêu nghiệt, làm phân rõ đất đai nhưng không phân biệt dân chúng....

        … Ta nay ra binh cứu dân khỏi nơi chìm đắm. Hịch văn truyền đi để mọi người biết. . . "

        Có lệ bố nêu lý do cuộc hành quân của ta:

        "Có những dân làm phản trốn sang Tống. Các quan Tống dung nạp và giấu đi. Ta đã cho sứ sang tố giác các việc ấy, quan coi Quế Châu không chịu trả lời. Ta lại sai sứ vượt biển sang tố cáo với Quảng Châu, quan coi Quảng Châu cũng không chịu báo. Vì thế, quân ta tới đuổi bắt nhưng dân trốn ấy...”.

        Lệ bố của Lý Thường Kiệt truyền đi, được nhân dân Tống hoan nghênh. Cho nên khi quân Lý Thường Kiệt tiến vào nội địa Tống, người dân Tống không hoang mang, không sợ chạy, không chống đối cuộc hành quân của ta.

        Sau khi đã truyền lệ bố đi các nơi và biết chắc dân Tống không phản đối cuộc hành quân của ta, quân ta từ nhiều ngả tiến vào đất Tống.

        Quân ta chiến thắng liên tiếp, lần lượt tiêu diệt hơn 10 căn cứ quân sự của Tống ở Quảng Tây. Cuộc hành quân của ta trên đất Tống làm cho triều đình nhà Tống hoang mang lúng túng và quân tướng Tống ở miền nam nước Tống thua thiệt nghiêm trọng.

        Sau khi hạ thành Ung Châu và giành nhiều thắng lợi lớn trên đất Tống, Lý Thường Kiệt rút quân về nước. Mùa thu năm 1076, sau khi đem quân từ Quảng Tây về, Lý Thường Kiệt cho đắp ở bờ sông Cầu một khúc đê cao như bức thành đất, dài gần 7 vạn bước (khoảng 30 ki-lô-mét), chạy dài từ bến đò sông Như Nguyệt tới chân núi Nham Biền. Bên ngoài đê, đóng cọc tre mấy lớp để làm giậu, giữ lấy chân đê . Toàn bộ khúc đê cao này là một chiến lũy kiên cố để chặn đánh địch, không cho chúng qua sông Cầu tiến vào Thăng Long.

        Những ngày đầu năm 1077, tướng Tống là Quách Quỳ đem đại quân vượt biên giới tiến sang ta. Sau 10 ngày hành quân rất chật vật, ngày 18 tháng 1 năm 1077, quân Tống mới tới bờ bắc sông Cầu, nhưng không sang được vì không có thuyền.

        Đối diện với quân Tống bên bờ bắc là phòng tuyến kiên cố của ta ở bên bờ nam và có đại quân ta đóng ngay tại phòng tuyến.

        Quân Tống nửa đêm bắc cầu phao qua sông, liều chết đánh sang bờ nam. Quân ta kiên quyết chống lại. Giữa lúc chiến sự diễn ra quyết liệt, Lý Thường Kiệt cho đọc bài thơ khích lệ tướng sĩ:

                                    Nam quốc sơn hà, Nam đế cư
                                    Tiệt nhiên đinh phận tại thiên thư
                                    Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
                                    Nhữ đẳng hành kham thủ bại hư.


        Dịch là:

                                    Sông núi nước Nam, Nam đế ở
                                    Điều này sách trời đã ghi rõ
                                    Giặc càn sao vẫn sang xâm phạm
                                    Bay phải chịu đòn thất bại to

        Được động viên, quân ta đánh càng mạnh. Quân giặc thiệt hại rất nặng. Sau trận đánh này, quân Tống bị quân ta vây chặt ở bờ bắc sông Cầu trong 40 ngày liền. Quân Tống sang Việt Nam 10 vạn, bị chết 8 vạn, chỉ còn 2 vạn; 20 vạn phu cũng chết một nửa, 1 vạn ngựa thì còn hơn 3 nghìn. Lương ăn cũng đã cạn. Quân Tống ở cái thế, không thể tiếp tục chiến tranh được nữa.

        Biết quân Tống đã cùng đường, Lý Thường Kiệt mở đường cho giặc: "Dùng biện sĩ để bàn hòa, khiến tướng giặc phải buông vũ khí, quân ta đỡ tốn xương máu mà giữ yên xã tắc”. Ông đưa tin cho địch: "Rút quân về thì giao hảo".

        Tướng Tống là Quách Quỳ buộc phải nhận lời Lý Thường Kiệt, xin rút quân về nước. Tuy đình chiến, nhưng quân Tống vẫn sợ; mấy vạn người nửa đêm ù té chạy khỏi chiến trường, không dám để quân ta biết. Thấy thế, quân ta không truy kích, để cho chúng rút chạy an toàn.

        Nhưng giặc sợ mà vẫn chưa hết tham. Dọc đường chạy về nước, bọn chỉ huy quân Tống để một số tướng sĩ ở lại chiếm giữ mấy châu vùng biên giới của ta. Biết vậy, nhưng ta không cho quân đuổi theo đánh chiếm lại ngay. Ta chủ trương để cho đạo quân Tống xâm lược rút về nước, chấm dứt chiến tranh, sau sẽ thu hồi những vùng đất giặc còn giữ bằng đàm phán ngoại giao kết hợp với uy hiếp quân sự.

        Khi đại quân của giặc đã rút đi, Lý Thường Kiệt cho quân lên thu hồi bốn châu vùng biên giới mà chúng còn chiếm đóng. Thấy quân ta tới, quân giặc ở đây cũng rút hết. Riêng châu Quảng Nguyên (Cao Bằng) có nhiều mỏ vàng, mỏ bạc, nhà Tống không muốn trả. Lý Thường Kiệt một mặt cho quân đóng uy hiếp bên ngoài Quảng Nguyên, phao tin sẽ đánh vào Quảng Nguyên, một mặt ông cùng triều đình cho sứ sang Tống đàm phán. Đầu năm 1078, một sứ bộ của nhà Lý do Đào Tôn Nguyên dẫn đầu đem 5 con voi tặng vua Tống và đòi lại châu Quảng Nguyên. Thấy sứ bộ ta sang, đem quân, đem voi vào đất Tống, vua tôi nhà Tống e ngại nên đã chỉ thị cho các địa phương mà sứ ta đi qua: "Sứ Giao Chỉ tiến tới Kinh, vì chúng mới cướp ta, nên phải lo đề phòng. Khi còn ở dọc đường cũng như khi tới Kinh, hễ chúng ra vào phải cắt người theo dõi, xem xét".

        Tháng 10 năm 1078, sứ bộ Đào Tôn Nguyên tới Kinh đô nhà Tống, vào gặp vua Tống. Thấy cái thế không thể giữ được, vua Tống phải nhận lời trả lại châu Quảng Nguyên cho ta khi ta trả lại cho nhà Tống những tù binh ta đã bắt trên đất họ và trên chiến trường nước ta.

        Sứ ta ra về. Triều đình nhà Lý nhận lời trả tù binh cho nhà Tống. Cuối năm 1079, ta trả cho nhà Tống 221 tù binh. Vua Tống đành phải bằng lòng và chỉ thị cho quan lại của họ ở Quảng Tây phải nhận tù binh và trả Quảng Nguyên cho ta. Những kẻ tham lam, hiếu chiến nhà Tống rất tiếc. Họ chê trách, mỉa mai vua Tống:

                                    Nhân tham Giao Chỉ tượng
                                    Khước thất Quảng Nguyên kim.

        Dịch là:

                                    Vua tham voi Giao Chỉ
                                    Nên mất vàng Quảng Nguyên.


        Thật ra vua tôi triều đình Tống lúc ấy cũng tiếc lắm. Nhưng thế không lấy được, đành phải trả. Không những phải trả những đất mới chiếm giữ trong chiến tranh, mà mấy năm sau, vì ta đòi rát quá, nên nhà Tống còn phải trả cho ta tất cả vùng đất sáu huyện gần biên giới mà họ đã chiếm đoạt từ trước khi có chiến tranh.

        Nhà Tống phải nhượng bộ ta, vì do gây sự với ta mà họ đã thiệt hại rất lớn. Riêng về cuộc tiến công sang nước ta, nhà Tống chi mất 5 triệu đồng, 19 lạng vàng, chết gần 1 vạn ngựa, quân sống sót trở về chỉ còn hơn 2 vạn; như vậy là khoảng 20 vạn quân chết trận ở Đại Việt, cộng với hơn 10 vạn quân bị ta tiêu diệt trên đất Tống. Ta phá hủy hơn 10 thành trại trên đất Tống, bắt rất nhiều tù binh, thu rất nhiều chiến lợi phẩm. Từ sau những chiến thắng to lớn của ta lần này, trong suốt hai trăm năm sau, tức là cho tới khi triều Tống mất nước, họ không dám xâm lược, lấn chiếm nước ta. Quan hệ ngoại giao giữa ta và nhà Tống trở lại bình thường.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Chín, 2016, 11:36:08 pm

Chương ba

NGOẠI GIAO TRONG CHIẾN TRANH BẢO VỆ TỔ QUỐC THỜI TRẦN
(thế kỷ XIII)

         Nói đến lịch sử ngoại giao thời đại tiếp theo thời Lý, tức thời nhà Trần thì chủ yếu là nói đến những hoạt động ngoại giao của triều đình nhà Trần trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống quân Nguyên xâm lược kể từ ngày chúng mới đe dọa ngoại giao tới sau khi chiến tranh kết thúc, không phải tiến hành ngoại giao hòa bình để xin lại tù binh. Về quân sự, dân tộc ta ba lần đánh thắng quân Nguyên. Về ngoại giao, dân tộc ta cũng kiên trì dũng cảm đấu tranh với địch và đã giành nhiều thắng lợi quan trọng, góp phần không nhỏ vào những chiến thắng chống xâm lược vô cùng vĩ đại của dân tộc ta vào thời Trần.

        I. ĐE DỌA NGOẠI GIAO VÀ TRẤN ÁP NGOẠI GIAO

        Ở nước ta, đầu thế kỷ XIII, nhà Trần lên cầm quyền thay thế nhà Lý, quan hệ đối ngoại với nhà Tống vẫn tiếp tục bình thường, mặc dầu có dấu hiệu trục trặc lúc ban đầu. Nhà Trần được thiết lập đầu năm 1226. Nhà Tống (Trung Quốc) không chấp nhận quan hệ ngoại giao với nhà Trần, ý muốn kiếm chuyện với ta, nhưng còn do dự, vì sự thất bại của nhà Tống thời Lý Thường Kiệt còn ám ảnh vua tôi nhà Tống, chưa quên được.

        Năm 1229, Trần Thái Tông cho sứ sang Tống cầu phong. Nhà Tống không đáp lại. Nhà Trần không cần và cũng không có quan hệ gì thêm. Nhưng Tống cũng không yên ổn để có thái độ trịch thượng lâu dài đối với ta. Đến năm 1232, người Mông Thát đã bắt đầu xâm lược Trung Quốc, sau đó thống trị Trung Quốc, lập nên triều đại nhà Nguyên. Trước hết họ đánh phá nước Kim, lúc ấy là một nửa lãnh thổ Trung Quốc về phía bắc. Năm 1234, Mông Thát chiếm đóng cả nước Kim và bắt đầu đe dọa nước Tống, lúc ấy là nửa phía nam Trung Quốc.

        Năm 1234, Mông Thát cho hai đạo quân tiến đánh Tống, một đạo đánh xuống Tương Dương, Phàn Thành; một đạo tiến xuống Thành Đô (Tứ Xuyên). Đầu năm 1236, Mông Thát đánh Thành Đô. Cuối năm 1236, nhà Tống phải đặt quan hệ giao hảo với nhà Trần, họ cho sứ mang các thư phong vương cho vua Trần. Sự giao hảo vội vàng của nhà Tống với ta cho thấy những lo ngại của họ trước cuộc chiến tranh xâm lược ồ ạt của Mông Thát vào đất Tống và chung quanh đất Tống. Cho sứ sang gấp nước ta, nhà Tống muốn tranh thủ quan hệ hữu hảo với ta, phòng trước sự tiếp xúc của Mông Thát với ta, có thể bất lợi cho Tống.

        Hành động thân thiện của nhà Tống là một bảo đảm cho ta không có gì phải lo đối phó với Tống, mà cái chính phải lo tính lúc ấy là cuộc xâm lược của Mông Thát đang ngày càng mở rộng và tiến sâu xuống phía nam. Những biến động trên đất Tống, do sự thâm nhập của quân Mông Thát, có thể ảnh hưởng tới nền an ninh biên giới nước ta. Và cũng rất có thể Mông Thát đưa chiến tranh xâm lược của chúng vào nước ta. Cho nên về đối ngoại lúc này, ta phải lo đối phó với Mông Thát là chủ yếu.

        Từ năm 1236, sau khi đánh Thành Đô, quân Mông Thát tiến dần xuống phía nam, thường cho du binh đột nhập vùng Quảng Đông, Quảng Tây cướp phá rồi rút đi, gây tình hình rối ren cao độ ở miền nam nước Tống. Giặc cướp nổi lên khắp nơi, quan, tướng nhà Tống ở đây không sao trấn trị được.

        Cuối năm 1240, giặc cướp trên đất Tống tràn qua biên giới vào vùng Lạng Giang (tức Lạng Sơn) giết người cướp của. Viên quan trấn thủ Lạng Giang đưa tin cáo cấp triều đình. Đây chưa phải là giặc Mông Thát mà là người nước Tống, một nước còn quan hệ thân thiện với ta. Triều đình nhà Trần có thái độ và phương hướng xử trí thích đáng, cương quyết không dung thứ mọi hành động xâm lấn từ bên ngoài, bất luận kẻ xâm lấn là ai. Sử cũ ghi: "Nhà vua sai thị thần là Bùi Khâm đi trù liệu sắp xếp việc này", "đi chỉnh lý công việc biên thùy ở mặt bắc". Thực chất của sự việc là Bùi Khâm được lệnh cầm quân lên Lạng Giang dẹp giặc và củng cố biên phòng.

        Một năm sau (1241), giặc cướp bên Tống lại tràn sang cướp phá miền biên giới nước ta. Triều đình nhà Trần cho đốc tướng Phạm Kính An đem quân lên biên giới đánh giặc. Chính vua Trần lúc ấy là Trần Thái Tông cũng tự cầm đầu một đạo quân, theo đường thủy tiến ra vùng biển Quảng Ninh. Vua Trần đưa quân vượt biên thùy, sang hẳn đất Tống để đánh giặc cướp trên suốt một dải ven biển, từ trại Vĩnh Bình lên Khâm Châu, Liêm Châu rồi mới trở về. Hành động quân sự này của vua Trần vừa giúp Tống đánh dẹp giặc cướp, bảo đảm an ninh miền biên giới nước ta vừa tạo điều kiện cho vua Trần và các tướng lĩnh đi cùng hiểu sâu hơn tình hình quân dân Tống, thấy được tận mắt khả năng tiến triển của cuộc chiến tranh Mông - Tống, từ đó định ra sách lược của ta để đối phó với cả hai bên Mông và Tống, khi chiến tranh lan tới biên giới nước ta.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Chín, 2016, 11:36:35 pm

        Tình hình an ninh ở miền nam nước Tống ngày càng xấu. Quan lại nhà Tống vùng này bất lực. Quân ta rút về thì giặc cướp lại hoành hành, lại xâm phạm biên giới nước ta. Nhà Trần thấy cần phải hành động mạnh mẽ, kiên quyết hơn. Năm 1242, vua Trần cho tướng đưa quân lên đóng tại lộ Bằng Tường thuộc đất Tống, cách biên giới nước ta chừng vài chục ki-lô-mét. Khi quân của triều đình nhà Tống xuống đảm nhiệm được việc giữ gìn trật tự miền biên giới thì quân ta rút về.

        Do đấy miền biên giới nước ta và Tống tạm yên. Nhưng miền biên giới nước ta giáp Vân Nam thì dần dần biến động nghiêm trọng.

        Vân Nam thời đó chưa phải là đất Trung Quốc, mà là lãnh thổ của một số dân tộc độc lập, trong đó có nước Đại Lý ở liền sát biên giới nước ta. Giữa ta và Đại Lý trải mấy trăm năm, quan hệ biên giới được duy trì tốt. Nếu Mông Thát đánh chiếm Đại Lý thì miền biên giới nước ta giáp Đại Lý sẽ bị uy hiếp nghiêm trọng. Mà Đại Lý mất nước là điều không tránh được. Quân Mông Thát đánh Vân Nam từ năm 1253. Tới năm 1257, vùng Vân Nam về cơ bản đã nằm dưới quyền thống trị của quân xâm lược và nước ta bắt đầu chung đường biên giới với Mông Thát ở mạn tây bắc. Ngay năm đó (1257), vừa chiếm đóng được Vân Nam, tướng Mông Thát là Ngột Lương Hợp Thai vội cho sứ sang triều đình nhà Trần, lấy biện pháp đe dọa ngoại giao để mở đường xâm lược nước ta.

        Tháng 9 năm 1257, sứ của Ngột Lương Hợp Thai tới trước cửa ải nước ta. Sử cũ ghi "Tháng tám năm Đinh Tỵ (khoảng tháng 9 năm 1257), chủ trại ở Quy Hóa là Hà Khuất cho chạy trạm về triều tâu là có sứ Nguyên tới".

        Được tin báo, triều đình nhà Trần lệnh cho sứ nhập cảnh và đưa sứ vào triều. Sử cũ không ghi chi tiết gì về việc sứ Nguyên, tức sứ Mông Thát tới Thăng Long. Nhưng quân giặc vốn ỷ vào sức mạnh áp đảo của chúng, thường dùng đe dọa ngoại giao kết hợp với tiến công quân sự để lấy thành, cướp nước của người. Trải mấy chục năm đánh đông cướp tây mỗi khi quân Mông Thát cho sứ đi tới đâu thì nơi đấy thường khiếp sợ, cúi đầu dâng đất xin hàng hoặc xưng thần nộp cống. Nhưng sứ Mông Thát tới Đại Việt tình hình lại không thế. Mông Thát dùng đe đọa ngoại giao để vào Đại Việt thì Đại Việt lấy trấn áp ngoại giao đáp lại. Triều đình nhà Trần đã tống giam bọn sứ Mông Thát.

        Thấy sứ đi không về, Ngột Lương Hợp Thai không khỏi chột dạ và bực tức, nhưng cũng không dám vội vã ra quân. Viên tướng này cho sứ sang ta lần thứ hai, hy vọng có thể đe dọa dụ hàng được ta, để chúng đỡ hao binh tổn tướng. Nhưng sứ đi lần thứ hai, tới được Thăng Long, cũng bị tống giam như bọn sứ lần thứ nhất.

        Thấy thất bại về ngoại giao, Ngột Lương Hợp Thai quyết định tiến công quân sự Đại Việt. Nhưng, khi đưa quân tới biên giới, Ngột Lương Hợp Thai lại cho sứ sang ta. Lần này tập trung quân ở biên giới làm áp lực cho đe dọa ngoại giao, Ngột Lương Hợp Thai tưởng rằng dân tộc ta sẽ phải khiếp sợ, khuất phục, đầu hàng. Nhưng không, sứ giả của nhà Mông Cổ sang ta lần thứ ba cũng không gì may mắn hơn, cũng bị đưa vào giam trong ngục như những sứ giả của hai lần trước. Đe dọa ngoại giao thất bại, không có kết quả gì mà lại mất người, mất cả uy danh, Ngột Lương Hợp Thai đưa quân vượt biên giới Vân Nam đánh sang ta.

        Nhà trần chủ trương để cho giặc vào thẳng Thăng Long. Nhưng tuy vào được Thăng Long mà giặc lại khiếp sợ. Chúng không ngờ Thăng Long là Quốc đô mà lại bỏ ngỏ, không một bóng người. Lùng sục khắp - nơi, chúng chỉ thấy mấy tên sứ giả của chúng bị trói nằm trơ trong nhà ngục. Hăm hở tiến đánh Thăng Long để cướp giết, nhưng vào được Thăng Long thì lương không, người vắng. Đưa quân vào đóng trong một kinh thành trống rỗng, không người, không lương ăn, là họa lớn của các đạo quân viễn chinh xâm lược. Chúng phải đưa quân ra đóng ở ngoài thành Thăng Long. Nhưng dù ở trong thành hay ngoài thành, giặc cũng đã sa vào cái thế cô quân trong một vùng thành không, nhà trống. Lương ăn năm bảy ngày đã cạn. Lương cạn thì quân đói. Quân đói thì không còn làm gì được nữa. Ngột Lương Hợp Thai phải từ bỏ mọi mưu đồ quân sự, phải vận dụng ngoại giao cầu hòa, để được đem quân an toàn trở về nước.

        Triều đình nhà Trần không chấp nhận lời cầu hòa của giặc, cho trói sứ đuổi về trại giặc. Quân ta tổ chức một trận tập kích lớn, đánh vào toàn bộ quân giặc. Giặc không chống đỡ nổi, thiệt hại nặng, phải dồn toàn lực đem tàn quân chạy về nước.

        Nhưng không phải vì thua trận như thế mà quân Mông Cổ từ bỏ mưu đồ xâm lược nước ta. Với bản chất hung hãn, hiếu chiến, đối với các nước ngoài, quân Mông Cổ chỉ có đánh phá, xâm lược; xâm lược một lần không được thì xâm lược lần thứ hai, thứ ba; không giao hảo, hữu nghị với một nước nào, một dân tộc nào. Đối với nước ta, quân Mông Cổ tất nhiên không đi ra ngoài đường lối đối ngoại bạo ngược đó. Mục tiêu xâm lược của chúng lúc ấy là chiếm đóng toàn bộ Trung Quốc. Vân Nam hay Đại Việt chỉ là tiện đường đánh thì đánh. Đánh chưa được thì hãy để đấy nhưng không bỏ hẳn. Chúng sẽ thường xuyên tiếp xúc với ta. Tiếp xúc để dò xét tình hình, để đe dọa, uy hiếp, ép buộc ta quy phục, làm nhụt tinh thần, nhuệ khí của ta, tạo điều kiện thuận lợi cho một cuộc chiến tranh xâm lược sau. Vì vậy địch chủ động hòa hoãn và đặt quan hệ ngoại giao chặt chẽ với ta.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Chín, 2016, 11:37:24 pm

        II. NGOẠI GIAO HÒA HOÃN VỚI QUÂN XÂM LƯỢC

        Ngay sau khi đem quân từ Thăng Long chạy về tới Vân Nam, Ngột Lương Hợp Thai lập tức cho sứ sang nước ta. Triều đình nhà Trần cho sứ Mông Cổ vào Thăng Long, nhưng không thỏa thuận điều gì. Khi sứ Mông Cổ về, nhà Trần cũng cho một sứ bộ sang gặp Ngột Lương Hợp Thai ở Vân Nam . Và mặc dầu hòa hoãn với quân Mông Cổ, nhà Trần vẫn giao hảo với nhà Tống. Cùng một lúc với việc cho sứ sang gặp Ngột Lương Hợp Thai, nhà Trần cũng cho sứ sang Tống, thông báo cho Tống biết ta đánh thắng quân Mông Cổ, ngăn chặn không cho quân Mông Cổ qua Đại Việt, vào đất Tống, giúp Tống tránh được một mũi tiến công của quân Mông Cổ vào sau lưng họ.

        Quân Mông Cổ ở Vân Nam tiếp tục cho sứ sang ta. Ngột Lương Hợp Thai cho sứ đem một bức thư tới nhà Trần. Thư viết rất ngạo nghễ, đại ý như sau:

        “Trước ta sai sứ sang thông hiếu, các người giữ không cho về. Ta phải ra quân năm ngoái, Quốc chúa người phải chạy ra thảo dã. Ta lại sai sứ đi chiêu dụ trả nước cho, ngươi lại trói sứ của ta đuổi về. Nay đặc sai sứ sang dụ dỗ: như các ngươi thực tâm nội phụ thì Quốc chúa phải thân đến. Nhược bằng không sửa lỗi, hãy nói ta rõ”.

        Ngột Lương Hợp Thai muốn lấn dần, cho sứ sang đòi vua Trần vào chầu là một hình thức phiên thần lệ thuộc mà các vua Đại Việt không hề làm với bất cứ một triều đại phương Bắc nào. Cố nhiên là vua Trần bác bỏ yêu sách đó.

        Mấy tháng sau, Ngột Lương Hợp Thai lại cho sứ sang Đại Việt lần thứ hai. Vua Trần nói dứt khoát rằng vua Trần không sang chào vua Nguyên. Các tướng Nguyên ở Vân Nam đành chịu. Nhưng chúng vẫn duy trì các quan hệ ngoại giao với nước ta. Về phía ta, nhà Trần cũng cho người qua lại giao dịch với Mông Cổ ở Vân Nam, mục đích chủ yếu là để tìm hiểu tình hình nội bộ chúng và theo dõi những diễn biến chiến tranh giữa Mông Cổ và Tống.

        Đầu năm 1261, triều đình Mông Cổ chính thức quan hệ với ta. Vua Mông Cổ là Hốt Tất Liệt cho một sứ bộ ngoại giao sang ta. Sứ bộ đi sáu tháng tới Thăng Long, trao vua Trần chiếu thư của Hốt Tất Liệt, đại ý như sau:

        "…Mới đây, thứ thần ở nước Đại Lý là an phủ sứ Nhiếp Chỉ Mạch Đinh chạy trạm dâng biểu nói nước khanh có thành ý hướng phong mộ nghĩa. Nghĩ khanh trước kia, thời tiên triều, đã từng thần phục, từ xa cống phương vật, nên ban chiếu chỉ dụ các quan liêu sĩ thứ nước khanh phải áo mũ, điển lệ, phong tục, vẫn y theo cựu chế của nước mình, không phải thay đổi. Cũng như nước Cao Ly mới đây sai sứ sang hỏi, đã xuống chiếu cho hết thảy đến theo lề ấy. Ngoài ra, ta đã cấm các biên tướng ở Vân Nam không được thiện tiện đưa binh lấn cướp biên giới, quấy nhiễu nhân dân nước khanh. Các quan liêu sĩ thứ nước khanh cứ yên ổn làm ăn như trước. . . ".

        Thế của quân Mông Cổ chưa thể xâm lược ta được nên Hốt Tất Liệt phải tiếp tục quan hệ hòa hoãn với ta. Nhưng mưu đồ lợi dụng mối quan hệ hòa hoãn để thực hiện dã tâm mua chuộc, dụ dỗ nước ta làm thuộc quốc của chúng đã lộ rõ.

        Lúc này thế của nước ta là thế một nước nhỏ nhưng mạnh. Về quân sự, ta đã đánh thắng một bước quân Mông Cổ. Về ngoại giao, ta không nhượng bộ trước những hạch sách, hống hách và mọi mưu đồ của chúng. Hốt Tất Liệt muốn lừa ép nước ta làm thuộc quốc, nhưng lại sợ quân dân ta phản ứng, có thể phản ứng cả về quân sự, nên cuối chiếu thư phải lèo thêm một câu là: "đã cấm các biên tướng ở Vân Nam không được thiện tiện đưa binh lấn cướp biên giới. . . " để xoa dịu sự bất bình của quân dân ta.

        Khi sứ Mông Cổ về nước, triều đình nhà Trần về mặt ngoại giao cũng cho một sứ bộ sang thông hiếu. Nhưng về mặt quân sự, triều đình nhà Trần và quân dân ta đã ở tư thế sẵn sàng chiến đấu chống giặc xâm lược. Trong khi sứ ta sang Vân Nam thì nhà Tống cho sứ sang đem chiếu thư phong vua Trần Thánh Tông làm An Nam Quốc vương và phong Thượng hoàng Trần Thái Tông làm Đại vương. Có thể nhà Tống biết nhà Trần giao thiệp với Mông Cổ nên vội làm việc này để tỏ tình thân thiện, mong giữ được quan hệ láng giềng tốt với ta.

        Khoảng tháng 9 năm 1262, sứ bộ ta sang kinh đô Khai Bình. Lúc này, Mông Cổ chưa mở rộng được cuộn chiến tranh xâm lược của chúng vào Trung Quốc, nên còn đóng đô tại Khai Bình (thuộc khu tự trị Nội Mông ngày nay). Đây là lần đầu tiên sứ bộ ta trực tiếp giao thiệp với triều đình Mông Cổ. Buổi đầu, để mua chuộc ta, Hốt Tất Liệt gửi tặng vua Trần ba tấm gấm tây cẩm và sáu tấm gấm kim thục.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Chín, 2016, 11:37:51 pm

        Tháng 10 năm 1262, khi sứ ta trở về, Hốt Tất Liệt cũng cho một sứ bộ sang ta, đem sắc phong vua Trần làm An Nam Quốc vương và đưa chiếu thư đòi hỏi ta nhiều thứ. Nội dung chiếu thư như sau: “Khanh đã gửi đồ lễ nhận làm bề tôi, vậy bắt đầu từ năm Trung Thống thứ tư (1263), cứ ba năm một lần, chọn nho sĩ, thầy thuốc cùng người thông âm dương bói toán, các hạng thợ, mỗi loại ba người, đem đến cùng với các thứ: dầu tô hợp, quang hương, vàng bạc, chu sa, trầm hương, đàn hương, tê giác, đồi mồi, trân châu, ngà voi, vải trắng...” (Nguyên sử, q.209, An Nam truyện. tờ 3a).

        Hốt Tất Liệt phong vương cho vua Trần là có dụng ý ràng buộc vua Trần thành chư hầu, chịu sự khống chế của hắn về mọi mặt. Nhưng đối với nhà Trần, triều Tống hay triều đình Mông Cổ phong vương hầu không có ý nghĩa gì. Các vua Trần không bao giờ quan tâm đến việc cầu phong của các triều đình phương Bắc. Một nhà sử học thời trước là Phan Huy Chú trong sách Lịch triều hiến chương loại chí đã nhận định: "Các vua Trần được nhường ngôi, chưa từng cầu phong ở Trung Quốc” (Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, q.46, Bang giao chí). Và ở một đoạn khác trong sách này, Phan Huy Chú có nhận định: "Đến nay, phong vương thì Mông Cổ phong trước, nhà Tống phong sau. Đó cũng chỉ là tùy hai nước ấy tự sai sứ sang, nước ta chưa từng đưa thư trước cầu phong với hai nước ấy” (Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, q.46, Bang giao chí).

        Còn những yêu sách nhũng nhiễu của Hốt Tất Liệt ghi trong chiếu thư thì nhà Trần bác bỏ.

        Tuy vậy, Mông Cổ vẫn tiếp tục quan hệ với ta, giữ thái độ hòa hoãn, nhưng lúc thì yêu sách cái này, lúc lại yêu sách cái khác, hoặc cho sứ sang ta một cách bất thường để thúc ép, dọa dẫm, muốn gây cho ta một tâm lý hoang mang, khiếp sợ chúng. Về phía ta, yêu sách nào, sứ nào của chúng, ta cũng không quan tâm. Sứ sang rồi sứ lại về. Nhà Trần không giải quyết bất cứ việc gì theo ý muốn của chúng. Nhà Trần chỉ trích, bắt bẻ cả những hành động bất nhất của Hốt Tất Liệt. Đối với sứ Mông Cổ vị nào tỏ ra biết điều, ta tiếp đãi mềm dẻo, ân cần, tên nào vô lễ ngông nghênh, hống hách, ta thuyết phục; thuyết phục không nghe thì ta thẳng tay răn đe, làm cho chúng mất ngông nghênh, hống hách.

        Tháng 3 năm 1266, nhân có sứ Mông Cổ sang ta trở về nước, ta cũng cho một sứ bộ sang từ chối mọi yêu sách của Hốt Tất Liệt. Hốt Tất Liệt đành chịu. Nhưng chỉ ba ngày sau khi sứ ta về nước, Hốt Tất Liệt lại đưa sang ta sáu yêu sách nặng nề hơn:

             1- Vua Trần phải sang chầu.

             2- Vua Trần phải cho con hay em sang ở tại triều đình Mông Cổ làm con tin.

             3- Phải kê khai dân số nộp cho Mông Cổ.

             4- Phải chịu các quân dịch của Mông Cổ.

             5- Phải nộp phú thuế cho Mông Cổ.

             6- Phải để cho Mông Cổ đặt đạt lễ hoa xích, tức đặt quan lại người Mông Cổ để thống trị nước Đại Việt.

        Những yêu sách thật là hống hách. Hốt Tất Liệt muốn bằng uy hiếp ngoại giao biến nước ta thành thuộc quốc, hoặc hơn thế, thành một địa phương trong lãnh thổ thuộc quyền thống trị của hắn.

        Hai tháng sau, Hốt Tất Liệt lại gửi một chiếu thư khác, đòi vua Trần phải nộp những lái buôn người Hồi Hột (tức người Uy Gua) ở nước ta, lấy lý do là “muốn hỏi về tình hình Tây Vực”.

        Gần một năm sau, tức tháng 10 năm 1268, Hốt Tất Liệt cho Hốt Lung Hải Nha, người Mông Thát đi sứ sang Việt Nam, cho tên Trương Đình Trân, người Hán, làm phó sứ. Bọn Hốt Lung Hải Nha đem chiếu thư một lần nữa đòi vua Trần phải nộp lái buôn Hồi Hột, và chúng còn đòi một điều không ghi trong chiếu thư là ta phải nộp mấy con voi lớn. Khi tới Đại Việt, viên phó sứ người Hán là Trương Đình Trân ngạo nghễ đòi vua Trần phải tiếp theo lễ đối với “vương ân", tức là tiếp theo lễ như đối với người ngang hàng vua.

        Để trừng vị viên phó sứ láo xược này, vua Trần cho đưa Trương Đình Trân tới ở riêng một nơi, gần như giam lỏng, lúc nào cũng có vệ binh tuốt gươm trần vây quanh. Bấy giờ đương mùa nắng. Trương Đình Trân khát, xin nước uống. Vệ binh đem nước sông, vừa nóng vừa đục tới cho uống. Hắn xin nước giếng. Vệ binh không cho, lấy cớ nước giếng thường có thuốc độc chết người. Trương Đình Trân phải khẩn khoản xin: "Tôi tự yêu cầu, có chết cũng không dám oán hận". Bấy giờ vệ binh mới lấy nước giếng cho uống. Thái độ hống hách, láo xược của Trương Đình Trân phải nhụt hẳn.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Chín, 2016, 11:38:12 pm

        Bọn Hốt Lung Hải Nha sang ta lần này có hai yêu sách chính: một là đòi nộp lái buôn Hồi Hột, hai là đòi cống voi.

        Về yêu sách thứ nhất, triều đình nhà Trần cương quyết không trao người Hồi Hột và cũng không cho sứ Mông Cổ và người Hồi Hột đã ở nước ta được gặp nhau. Tại sao Hốt Tất Liệt nằng nặc đòi nộp lái buôn Hồi Hột như vậy? Vốn là từ thời Thành Cát Tư Hãn, các lái buôn Hồi Hột đã trở thành những tình báo đắc lực của bọn vua chúa Mông Cổ hiếu chiến. Lái buôn Hồi Hột đi khắp các nơi, tới nước nào chúng cũng dò xét tình hình nước đó để báo về cho bọn vua chúa Mông Cổ. Vai trò tình báo của lái buôn Hồi Hột đã nổi rõ trong lịch sử chiến tranh xâm lược của Mông Cổ từ hàng nửa thế kỷ trước. Chắc chắn triều đình nhà Trần biết rõ điều đó nên rất cảnh giác với những hành động của bọn lái buôn Hồi Hột, đã nghiêm cấm không cho lái buôn Hồi Hột tiếp xúc với các sứ thần, và không cho lái buôn Hồi Hột sang Mông Cổ.

        Về yêu sách thứ hai là đòi voi, tuy không có gì quan trọng lắm nhưng triều đình nhà Trần cũng bác bỏ. Bọn Hốt Lung Hải Nha, Trương Đình Trân đành về không. Triều đình nhà Trần bác bỏ những yêu sách của bọn hiếu chiến, nhưng vẫn đường hoàng giao thiệp với chúng. Khi bọn Hốt Lung Hải Nha về, vua Trần cho một phái bộ đi cùng đem thư của vua Trần gửi Hốt Tất Liệt, nói rõ là không chấp nhận những yêu sách của hắn. Hốt Tất Liệt nhận thư của vua Trần cũng đành chịu.

        Đối với nước lớn, với kẻ hiếu chiến hung hãn bậc nhất của thời đại, thái độ của Tổ tiên ta thời Trần thật hiên ngang, dũng cảm, ngoại giao thật rắn rỏi.

        Cuối năm 1270, sau khi các sứ Hốt Lung Hải Nha, Trương Đình Trân về nước, Hốt Tất Liệt đưa thư sang triều đình nhà Trần trách: nhận chiếu thư không lạy, tiếp sứ không theo lễ vương ân và đòi: nộp voi cùng các đồ uống khác. Vua Trần không trả lời. Năm 1271 nhà Nguyên (Nhà Nguyên thành lập năm 1271) lại cho sứ sang trách móc, yêu sách đòi vua Trần vào chầu. Vua Trần đưa thư cho sứ Nguyên cầm về bác bỏ mọi đòi hỏi, bắt bẻ của vua Nguyên. Từ đây cho tới hết năm 1275, quan hệ giữa ta và nhà Nguyên cũng chỉ như vậy thôi. Nhà Nguyên chưa thể dùng vũ khí đe dọa ta, vì Nguyên chưa đánh chiếm được hẳn toàn bộ Trung Quốc và còn bận tổ chức cai trị ở những vùng đất đã chiếm đóng. Tới đầu năm 1276, Nguyên đã đánh chiếm gần hết đất nước Trung Quốc, tiến xuống gần biên giới đông bắc nước ta. Do đấy, thái độ của Hốt Tất Liệt trong quan hệ ngoại giao với ta cũng đổi khác, bắt đầu gay gắt, trắng trợn hơn trước.

        Đầu năm 1276, sứ của ta là Lê Khắc Phục và Lê Túy Kim sang triều Nguyên từ chối sáu điều yêu sách của nhà Nguyên, bị vua Nguyên Hốt Tất Liệt bắt giam, không cho về. Cũng đầu năm 1276, vua Trần cho người sang Long Châu (đất Tống) gần biên giới nước ta, mượn tiếng đi mua thuốc, để tìm hiểu tình hình chiến tranh giữa Tống và Nguyên. Tống sắp mất cả nước. Năm 1277, Thượng hoàng Trần Thái Tông chết, vua Trần Thánh Tông cho hai đại phu là Chu Trọng Ngạn và Ngô Đức Thiệu sang Nguyên báo tin và cũng để thăm dò thái độ của Nguyên. Thông thường, thời xưa, trong quan hệ ngoại giao giữa các nước, khi vua nước này chết thì vua nước kia cho sứ thay mặt mình sang làm lễ viếng. Nhưng Hốt Tất Liệt ngang ngược, thô bạo, không làm thế, không chia buồn, phúng viếng mà còn giữ sứ bộ Chu Trọng Ngạn không cho về.

        Như vậy là liên tiếp hai sứ bộ của ta bị Hốt Tất Liệt giữ lại. Nhưng triều đình nhà Trần bình tĩnh, không nao núng. Sứ của ta bị giữ hàng năm, thế mà triều đình nhà Trần vẫn lặng thinh, như không có chuyện gì.

        Thấy việc giữ sứ không có kết quả, năm 1278 Hốt Tất Liệt phải để sứ bộ Lê Khắc Phục, Lê Túy Kim bị giữ từ đầu năm 1276 trở về nước, cùng đi với sứ bộ ta có một sứ bộ của Hốt Tất Liệt sang Đại Việt để thúc ép vua Trần vào chầu. Đi gần tới biên giới, sứ Nguyên đưa tin sang yêu cầu ta cho quan quân lên đón chúng từ biên giới.

        Từ biên giới, tức từ vùng Lạng Sơn bây giờ, tới kinh thành Thăng Long, đường không xa lắm và dễ đi. Nhưng đối với sứ giặc, ta thường bắt đi quanh co dài ngày, khi luồn rừng, leo núi, khi lội suối, trèo đèo rất vất vả. Sau này, một sứ nhà Nguyên là Trần Phu đã viết về con đường đi sứ ở nước ta như sau:

        "Sứ thần tới nước ấy không được dẫn đi theo những con đường đã có sẵn, mà toàn là đục núi làm đường, quanh co khuất khúc, khi trèo núi, khi lội khe, để cho thấy là đường đi rất xa xôi, nguy hiểm” (Trần Cương Trung: Giao Châu cảo)


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Chín, 2016, 11:38:30 pm

        Khi sứ nhà Nguyên về nước, ta cũng cho một sứ bộ sang Nguyên, từ chối những yêu sách của vua Nguyên và đòi vua Nguyên trả lại tự do cho những sứ thần của ta bị vua Nguyên giam giữ. Hốt Tất Liệt lại bắt giam sứ của ta và cho sứ Nguyên sang ta lần nữa, một mực đòi vua Trần phải vào chầu. Đoán trước rằng vua Trần vẫn không vào chầu, nên trong chiếu thư gửi vua Trần, Hốt Tất Liệt đưa thêm những điều kiện mới và hăm dọa: "Nếu quả không thể tự thân tới được thì phải lấy vàng thay người, hai hạt châu thay mắt và lấy thêm hiền sĩ, phương kỹ, con trai, con gái, thợ nghề, mỗi loại hai người để thay cho thổ dân. Nếu không, hãy tu sửu thành trì để đợi phán xét " (Nguyên sử, q.209, An Nam truyện)

        Trước những hăm dọa ngày càng hống hách, xấc xược của Hốt Tất Liệt, vua Trần vẫn không vào chầu; vàng thay người, ngọc thay mắt cũng không, mà hiền sĩ, phương kỹ, con trai, con gái, thợ nghề thay dân cũng không. Sứ Nguyên lại về không như mọi lần trước. Để tỏ ra vẫn giữ quan hệ bình thường với nhà Nguyên, khi sứ Nguyên về nước, triều đình nhà Trần cũng cho một sứ bộ sang Nguyên, người đứng đầu sứ bộ là Trần Di Ái, chú họ vua Trần Nhân Tông. Hốt Tất Liệt vội nắm lấy Trần Di Ái làm con bài bù nhìn, để rồi sẽ đưa đường cho chúng đánh chiếm Đại Việt.

        Cuối năm 1281, Hốt Tất Liệt phong Trần Di Ái làm An Nam quốc vương cùng bọn quan lại tùy tùng lập thành một triều đình bù nhìn tay sai của nhà Nguyên và đặt nước Đại Việt làm "An Nam tuyên úy ty", tức một bộ phận trong lãnh thổ của nhà Nguyên. Đầu năm 1282, nhà Nguyên cho quân sang chiếm đóng nước ta, đưa lệnh bắt vua Trần thoái vị và đem bọn bù nhìn Trần Di Ái về nước giúp việc.

        Hốt Tất Liệt ngạo nghễ ra lệnh cho vua Trần thôi làm vua: "Ngươi cáo bệnh không vào chầu, nay cho người được nghỉ để thuốc thang, điều dưỡng. .Ta lập chú ngươi là Di Ái thay ngươi làm quốc vương An Nam, coi quản dân chúng. . . " (An Nam chí lược, q.2). Thật là hống hách .

        Nhưng quân tướng Nguyên và bọn bù nhìn vừa vượt biên giới sang ta thì bị quân ta ở vùng biên giới đánh tan ngay. Vua Nguyên không dám ra quân phục thù, mà chỉ gửi thư trách vua Trần đã giết chú, đuổi sứ, chớ không dám trách là đã "giết An Nam quốc vương Trần Di Ái và đánh đuổi quan lại tướng sĩ sang cai trị An Nam".

        Tháng 8 năm 1283, nhà Trần cho sứ sang Nguyên đòi trả lại những sứ bộ của ta bị giữ lại ở bên Nguyên. Hốt Tất Liệt muốn dụ ta giúp binh lương cho chúng đánh Chiêm Thành nên lập tức trả lại các sứ bị giữ.

        Nhân việc trả lại sứ, Hốt Tất Liệt cho người đem thư sang dụ vua Trần giúp lương và giúp quân. Vua Trần đưa thư trả lời, bác bỏ mọi yêu cầu của hắn. Về giúp quân, thư vua Trần từ chối với lý do “Quy thuận thiên triều đã 30 năm, gươm giáo không dùng đến, quân sĩ đã cho về làm dân đinh". Về lương, vua Trần trả lời: “Nước tôi địa thế gần biển, ngũ cốc trồng không được nhiều. Từ sau khi đại quân rút đi, trăm họ lưu vong, lại thêm lụt hạn luôn, sớm no chiều đói, ăn không đủ”. Vua Trần đã từ chối khôn khéo mà còn vạch tội xâm lược trước đây của chúng.

        Ngoại giao như vậy, tưởng như giữa ta và Nguyên không có việc gì quan trọng lắm, chỉ có sứ qua lại trao đổi về việc giúp quân, giúp lương cho nhà Nguyên đánh Chiêm Thành. Nhưng sự thật thì nhà Trần đã nắm chắc chiến tranh giữa ta và Nguyên sắp nổ ra. Cho nên trong khi trao đổi sứ và thư một cách bình thường, nhà Trần vẫn khẩn trương chuẩn bị đánh giặc.

        Đối với quân Nguyên, Đại Việt như một bức tường thành đã mấy chục năm chặn đứng bước đường chinh phục của chúng xuống miền Đông Nam châu Á, cho nên bọn vua chúa nhà Nguyên lúc nào cũng coi việc đánh chiếm Đại Việt là mục tiêu xâm lược hàng đầu và đã đến lúc chúng thấy cần phải hành động, không thể trì hoãn được nữa.

        Tháng 7 năm 1284, Hốt Tất Liệt phong cho con thứ chín của y là Thoát Hoan làm Trấn Nam vương, có nghĩa là tước vương làm công việc trấn áp phương Nam; hy vọng lần này, với quân đông, tướng giỏi, con hắn sẽ thành công và mộng bá chủ của đế quốc Nguyên Mông ở miền Đông Nam châu Á sẽ thực hiện được.

        Tháng 9 năm 1284, nhà Trần vẫn cho sứ sang Nguyên. Sau đó, khi bên giặc bắt đầu cho quân lên đường tiến xuống nước ta thì bên ta cũng bắt đầu ra quân chờ đánh giặc.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Chín, 2016, 11:39:08 pm
           
        III. ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO KẾT HỢP ĐẤU TRANH QUÂN SỰ ĐỂ ĐÁNH THẮNG XÂM LƯỢC

        Bọn vua chúa, tướng lĩnh Nguyên tuy cuồng chiến, tàn bạo, nhưng vẫn phải thận trọng trước sức mạnh và ý chí kiên cường của quân dân ta. Khi được lệnh xuất phát, chủ tướng Nguyên cho ngay sứ sang ta dọa dẫm để thăm dò thái độ. Sứ Nguyên đem thư sang đòi vua Trần phải chở quân lương sang Chiêm Thành cho quân Nguyên, và khi Trấn Nam vương Thoát Hoan đưa quân tới gần biên giới nước ta thì ta phải lên đón. Nhưng hắn đã không được đáp lại như ý muốn.

        Mới đi tới Hồ Nam, tức là còn rất xa biên giới nước ta, quân Nguyên đã được tin triều đình nhà Trần cho quân lên tăng cường phòng thủ biên giới, chứ không phải vua Trần lên biên giới để chờ đón chúng. Cũng vào lúc đó, sứ bộ nhà Nguyên sang Đại Việt trở về tới Hồ Nam, có một sứ bộ của nhà Trần đi cùng. Sứ ta sang Nguyên đưa thư của vua Trần gửi tướng Nguyên, trả lời dứt khoát rằng từ nước ta tới Chiêm Thành, đường thủy, đường bộ đều không thuận tiện cho việc vận chuyển lương thực.

        Dùng ngoại giao đe dọa không có kết quả, giặt chuyển sang dò xét công cuộc chuẩn bị kháng chiến của ta. Chưa đi khỏi tỉnh Hồ Nam, chủ tướng Nguyên Thoát Hoan lại nhận được thư của vua Trần. Giặc nhiều lần đưa thư sang nói chúng đem quân xuống biên giới không phải để đánh ta, nay ta đưa thư báo chúng là ta đem quân lên biên giới cũng không phải để đánh chúng, mà vì sắp đến kỳ nộp cống vào tháng 10 tới (tức tháng 11 năm 1284) nên sửa soạn trước, “đinh lực”, có nghĩa là sửa soạn trước lực lượng để phục vụ việc cống nạp đó. Trong thư, vua Trần còn nhắt là khi nào Trấn Nam vương đem quân tới biên giới thì báo cho ta biết.

        Chủ trương, phương sách đấu tranh ngoại giao của nhà Trần vừa cứng rắn, vừa mềm dẻo, không từ chối mà là từ chối. Giặc biết ta điều quân chuẩn bị đánh chúng, mà phải chịu, không trách cứ vào đâu được. Chủ tướng giặc đành cho người đem thư đáp lại không dám nói gì đến những hoạt động của quân ta ở biên giới mà chỉ nhắc lại yêu sách cũ: mở đường cho chúng đi, chuẩn bị lương thực và đón tiếp Thoát Hoan.

        Ta không trả lời. Quân Nguyên xuống tới châu Tư Minh, gần biên giới nước ta, Thoát Hoan lại gửi thư cho vua Trần, chúng vẫn muốn dùng ngoại giao để lừa dối nhân dân ta. Triều đình nhà Trần một mặt sơ tán ra khỏi kinh thành, chuẩn bị chiến đấu, một mặt cho sứ đưa thư trả lời Thoát Hoan. Lần này vua Trần dứt khoát đòi chúng rút quân, phải làm theo chiếu văn của vua tháng năm 1261 là: “Đã cấm biên tướng không được đem quân xâm phạm bờ cõi nước khanh, làm rối loan nhân dân nước khanh”.

        Sứ bộ ta gặp bọn Thoát Hoan khi chúng đã vượt biên giới tiến sang. Nhưng tất cả các đường vào đều có quân ta chặn giũ. Quân Nguyên phải cho người đi theo sứ ta cầm thư sang nói: “Sở dĩ tiến quân thật vì Chiêm Thành, không phải vì An Nam” để yêu cầu ta lui quân, mở đường cho chúng tiến vào.

        Thấy mọi ngả đường đều có quân ta án ngữ, sứ Nguyên hoảng sợ, quay trở lại, không dám sang. Thấy quân ta bố trí phòng thủ nghiêm ngặt, tướng Nguyên không dám hành động liều lĩnh. Chúng đưa thư sang ta, yêu cầu thu quân, mở đường cho chúng đi vào nghênh tiếp chủ tướng Thoát Hoan của chúng. Thư đưa tới, bên ta không trả lời. Thoát Hoan lại đích thân hạ lệnh đưa thư sang ta lần nữa. Ta cũng không trả lời.

        Hai lần đưa thư dụ ta thu quân không được, địch dốc toàn lực tiến công. Kế hoạch của quân ta lúc này là chưa đánh lớn, chỉ dùng đoản binh giao chiến với giặc đến một chừng mực nào đó rồi rút đi. Vì vậy giặc vẫn tiến được, nhưng bị thiệt hại nhiều. Khi tới Vạn Kiếp, chủ tướng giặc viết thư trách triều đình nhà Trần để cho Hưng Đạo Vương đem quân chống lại, bắn quân chúng bị thương. Nếu thương vong, tổn thất không nhiều, thì chúng không phải kêu la, viết thư trách móc như vậy! Quân ta đã thực hiện tốt kế hoạch vừa lui quân vừa đánh tiêu hao, tiêu diệt, khiến quân Nguyên càng tiến sâu vào nội địa nước ta, lực lượng chúng càng hao mòn, sức chiến đấu chúng càng giảm sút.

        Tại gần nơi giặc đóng quân, ta cho rải "truyền đơn" phản đối hành động xâm lược của chúng, chủ yếu là nói với Thoát Hoan, đại ý là: "Chiếu trước nói rằng: lệnh riêng cho quân không vào nước người, thế mà nay lấy cớ Chiêm Thành phản phúc, phái đại quân tới nước ta, tàn hại trăm họ. Đó là việc làm sai lầm của thái tử, không phải nước ta sai lầm. Không nên làm khác với chiếu trước. Hãy rút đại quân về”. (Nguyên sử. q.209: An Nam truyện).


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Chín, 2016, 11:40:01 pm

        Chủ tướng giặc vội gửi thư sang ta, vừa phân trần, vừa trách móc, vừa dụ dỗ, vừa đe dọa. Chúng trách vua Trần: “Triều đình điều binh đánh Chiêm Thành, nhiều lần gửi thư bảo mở đường, chuẩn bị lương thực, không ngờ cố ý trái mệnh triều đình, để cho Hưng Đạo Vương đem binh nghênh chiến, bắn bị thương quân ta" (Nguyên sử. q.209: An Nam truyện). Rồi chúng lại dụ dỗ những điều cũ là lui quân, mở đường, đón tiếp chúng. Cuối thư chúng dọa: "Nếu không, đại quân sẽ đóng lại ở An Nam, mở phủ”(Nguyên sử. q.209: An Nam truyện). Mở phủ là mở phủ đô hộ, là thống trị nước ta, vì vậy bên ta không thèm trả lời.

        Giữa tháng 2 năm 1285, giặc tiến tới gần kinh thành Thăng Long. Vua Trần cho tướng Đỗ Khắc Chung đi sứ sang trại giặc giả tiếng cầu hòa, để tìm hiểu tình hình giặc. Đỗ Khắc Chung sang trại giặc mới gặp tướng giặc là Ô Mã Nhi, còn chưa gặp Thoát Hoan. Khi Đỗ Khắc Chung đã về rồi, Ô Mã Nhi tiếc không bắt giữ Đỗ Khắc Chung, nên cho quân đuổi theo, nhưng không kịp.

        Ngay sau đó vua Trần cho sứ mang thư cho Thoát Hoan, yêu cầu rút quân về nước. Tướng giặc đưa thư đáp lại trách vua Trần cự chiến. Không chờ ta trả lời chúng cho quân tiến công. Nhưng vua Trần đã cho quân rút lui. Trước khi rút, vua Trần lại cho sứ sang đòi quân Nguyên rút về nước. Trong suốt quá trình chiến tranh, triều đình nhà Trần luôn luôn cho sứ sang bên giặc vạch rõ việc chúng đưa quân xâm lược nước ta là phi nghĩa, đòi chúng phải rút quân về. Việc không ngớt vạch tội phi nghĩa của giặc chắc chắn đã tác động nhiều đến tinh thần toàn quân giặc, làm giảm sút ý chí chiến đấu vì mục đích xâm lược của chúng.

        Nhận được thư của vua Trần từ Thăng Long gửi tới chủ tướng giặc đáp lại bằng một bức thư chiêu dụ rồi điều quân tới Thăng Long. Khi vào thành, chúng đâm hoảng sợ. Kinh thành Thăng Long hoàn toàn trống rỗng, không một bóng người, không một đấu lương. Chúng chỉ nhặt được "Mấy tờ chiếu cáo, điệp văn của Trung thử (tức của triều đình nhà Nguyên) bị xé bỏ”(Nguyên sử, q.209.) mà vua Trần đã cho vứt lại để giặc thấy rằng ta coi khinh những chiếu sắc, điệp văn của vua chúa nhà Nguyên, mọi thư từ lệnh chỉ của kẻ xâm lược đối với ta đều không có giá trị. Vua Trần cũng để lại cho giặc nhặt được "một số giấy tờ do các biên tướng nam bắc báo tin tức quan quan quân và tình hình cự địch”(Nguyên sử, q.209.), để giặc thấy quyết tâm đánh giặc giữ nước của quân và dân ở khắp nước ta. Ngoài những giấy tờ trên, giặc thấy chỗ nào cũng treo bảng hiệu triệu nhân dân liều chết đánh giặc. Các tướng giặc không thể không chột dạ. Chúng thấy rõ quyết tâm kháng chiến của quân dân ta, nhưng không hiểu tại sao ta bỏ kinh thành, một việc làm ít thấy khi chúng đi xâm lược các nước khác: quốc đô bao giờ cũng được các nước bị xâm lược cố thủ đến cùng. Tướng nhà Nguyên đã đưa quân vào thành Thăng Long, nhưng không yên tâm đóng quân trong thành, sợ bị quân ta đánh úp. Giặc lại rút hết ra khỏi kinh thành, không phải để đóng ở bên ngoài thành, mà vượt sông Hồng, sang hẳn bên bờ bắc, tức bên phía Gia Lâm.

        Giặc dò biết vua Trần đưa đại quân xuống Thiên Trường (Nam Hà), Trường Yên (Nình Bình ngày nay), chúng dồn toàn quân đuổi theo. Để bảo đảm cho quân ta ở Thiên Trường, Trường Yên rút đi nơi khác an toàn, vua Trần dùng mưu cầu hòa để giặc ngừng tiến quân, tạm thời hoãn chiến. Thi hành mưu kế đó, vua Trần cho sứ sang bên quân Nguyên gặp Thoát Hoan để cầu hòa. Thoát Hoan bắt giữ sứ của ta ý muốn uy hiếp ta, ép ta phải thật sự cầu hòa. Hắn cũng cho sứ vào Thiên Trường dụ vua Trần, nếu cầu hòa thì vua Trần phải thân sang bên quân Nguyên để cùng bàn định. Tất nhiên là vua Trần không nghe.

        Trong thời gian sứ hai bên đi lại về việc cầu hòa, những cuộc giao tranh giữa hai bên không có, quân ta ở Thiên Trường lặng lẽ rút cả ra biển. Chỉ còn một bộ phận nhỏ cùng vua Trần ở lại Thiên Trường để tiếp sứ Nguyên. Khi sứ Nguyên đi khỏi thì bộ phận cuối cùng này cũng rút hết. Toàn bộ đạo quân của vua Trần ở Thiên Trường, Trường Yên rút lui không gặp trở ngại gì, khi giặc biết thì việc đã rồi. Giặc phải nhận là vua Trần đã "cử quốc hàng hải"(Diêu toại: Mục am tập (sách thời Nguyên).), đưa cả nước đi ra biển. Điều đó chứng tỏ đạo quân của vua Trần ở Thiên Trường, Trường Yên là một đạo quân lớn và đã rút lui ra biển an toàn.

        Tháng 7 năm 1285, cuộc chiến tranh xâm lược thứ hai của giặc Nguyên chấm dứt. Quân dân ta đại thắng. Quân giặc đại bại, số quân Nguyên bị giam giữ làm tù binh ở Đại Việt có tới hàng vạn người, đương chờ đợi được giải thoát. Muốn giải thoát cho họ, muốn đem được họ về, triều đình Nguyên phải điều đình, thương lượng với triều đình Đại Việt, không có cách nào khác. Bạo chúa Hốt Tất Liệt phải chủ động cho sứ sang Đại Việt về việc này. Cuối tháng 10 năm 1285, sứ Nguyên lên đường sang Đại Việt.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Chín, 2016, 11:40:21 pm

        Về phía ta, triều đình nhà Trần cũng không gây khó khăn gì trong việc trao trả tù binh cho địch, vì số tù binh nhiều quá. Việc điều đình thương lượng của địch, dù có xuất phát từ thực ý cầu hòa, từ thiện chí giao hảo, hay là không thì ta cũng sẵn sàng tha chết cho tù binh địch, thả chúng về nước. Cơm gạo đâu mà nuôi hàng vạn tù binh và nuôi để làm gì? Cho nên xuất phát từ tinh thần nhân nghĩa của dân tộc và căn cứ trên thực tế đó, tháng 2 năm 1286, chấp nhận yêu cầu của triều đình Nguyên, triều đình nhà Trần hạ lệnh tha cho tù binh về nưóc.

        Trong khi triều đình nhà Trần thả tù binh Nguyên cho chúng về nước thì trái lại, triều đình Nguyên tích cực chuẩn bị xâm lược nước ta một lần nữa.

        Nhà Nguyên cấp tốc tổ chức một đạo quân xâm lược và Hốt Tất Liệt lại gửi chiếu thư cho quan lại và nhân dân Đại Việt, ra sức đả kích vua Trần để có cớ lập một triều đình bù nhìn làm tay sai cho chúng. Trong khi giặc ráo riết chuẩn bị xâm lược nước ta thì giữa năm 1286 một sứ bộ của ta sang Nguyên bị triều đình Nguyên bắt giữ. Nhưng, bọn bành trướng chưa thể ra quân được ngay, nên chỉ giữ sứ ta được một tháng thì phải thả ra, và Hốt Tất Liệt lại cho sứ sang Đại Việt, không ngoài mục đích thăm dò thái độ của ta và hăm dọa ta về ngoại giao. Ta sẵn sàng tiếp nhận sứ giặc về mặt ngoại giao, nhưng lúc nào cũng ở tư thế sẵn sàng đánh trả giặc, nếu chúng đưa quân sang xâm lược.

        Khi sứ Nguyên về nước, nhà Trần cũng cho một đoàn sứ sang Nguyên. Trước đó sứ ta sang nhà Nguyên đã có những người bị giữ lại, đoàn sứ lần này đi cũng rất có thể bị giặc bắt giữ, nhưng triều đình nhà Trần không ngần ngại, vẫn bình thản trong quan hệ ngoại giao, không bắt giữ sứ giặc, cũng không sợ giặc bắt giữ sứ mình, và đoàn sứ của ta vẫn dũng cảm lên đường, đáp lại việc giặc cho sứ sang ta.

        Thật ra giữa ta và nhà Nguyên không còn gì để đàm phán ngoại giao. Từ giữa năm 1287, đạo quân xâm lược của chung đã tổ chức xong.

        Tháng 10 năm 1287, quân Nguyên lên đường tiến hành xâm lược nước ta lần thứ ba.

        Giặc vừa ra quân thì đoàn sứ của ta sang tới kinh đô nhà Nguyên, bị giặc bắt giữ. Trong nửa cuối tháng 12 năm 1287, 50 vạn quân Nguyên từ nhiều ngả lần lượt tiến vào nước Đại Việt . Ngày cuối cùng năm âm lịch Thoát Hoan đưa quân vào thành Thăng Long, nhưng thành trống rỗng. Ngày hôm sau là mồng một Tết Nguyên đán, giặc không dám ở trong thành, phải rút hết quân ra ngoài thành, dốc toàn lực đánh xuống phía nam, cố đẩy lùi quân ta ra xa và kiếm lương ăn. Vì quân lương của giặc chưa tới. Cũng những ngày cuối năm giáp Tết Nguyên đán, toàn bộ quân lương của giặc đi đường thủy bị quân ta đánh tan. Đoàn quân giặc tải lương, mất lương thua trận đã phải bỏ chạy về nước. Một số quân Nguyên tải lương bị ta bắt, được vua Trần thả cho về doanh trại quân Nguyên để báo cho Thoát Hoan biết là đã mất hết quân lương. Đạo quân Nguyên do Thoát Hoan chỉ huy ngày mồng một Tết hộc tốc hành quân từ Thăng Long xuống Thiên Trường, rồi lại vội vã từ Thiên Trường quay trở lại và ngày mồng bốn Tết chúng về tới Thăng Long. Về tới Thăng Long, Thoát Hoan được tin đoàn thuyền quân lương đã bị đánh tan ở Vân Đồn (Quảng Ninh). Tin này do những lính Nguyên bị bắt ở Vân Đồn được ta thả ra về báo. Thoát Hoan nửa tin nửa ngờ, vô cùng hoảng sợ vì lương ăn đã cạn. Do đấy, ngay ngày mồng bốn Tết, Thoát Hoan dồn quân đi kiếm lương ăn, vào cả miền núi để cướp lương. Nhưng nhân dân ta thực hiện vườn không nhà trống triệt để, giặc không lùng sục, vơ vét được gì.

        Lương đã cạn, giặc không còn tâm trí nào nghĩ đến đánh nhau, không dám chủ động tiến công, phải dốc sức đi tìm lương, nhưng tìm không ra, đi cướp không được, thuyền lương không còn, hậu cần tại chỗ không có, đường tiếp tế từ Trung Quốc sang không lập được, không còn trông mong vào đâu để có lương ăn cho khoảng nửa triệu quân. Rõ ràng đã đến lúc giặc không thể tiếp tục chiến tranh và không thể ở lâu trên chiến trường Đại Việt. Nếu cứ đóng quân ở Thăng Long thì nguy hiểm, quân đội Đại Việt không cần đánh, chỉ vây hãm Thăng Long một thời gian ngắn là quân giặc trong thành tất phải ra hàng. Do vậy, bọn Thoát Hoan phải vội vã quyết định rút hết quân lên Vạn Kiếp.

        Tới Vạn Kiếp, giặc vẫn lúng túng: ở lại cũng dở, mà về cũng dở. Ở lại thì không còn sức đánh, hết lương ăn. Nhưng về thì không lẽ bỏ lại đoàn thủy quân của Ô Mã Nhi đang nóng lòng chờ đón đoàn thuyền lương, mà hắn không hề biết là đoàn thuyền này đã bị quân ta đánh tan từ hàng tháng trước rồi.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Chín, 2016, 11:40:41 pm
    
        Lúng túng như thế nên bọn Thoát Hoan chưa rời khỏi Vạn Kiếp được. Mà càng ở lại Vạn Kiếp ngày nào, chúng càng hoang mang, thất vọng, lúng túng thêm ngày ấy. Quân ta không để cho chúng yên. Không mấy đêm là quân ta không tới đánh chúng. Giặc hoảng sợ, đêm đêm phải vào hết trong trại, không dám cùng quân ta giao chiến, chỉ ban ngày mới dám kéo nhau ra khỏi trại. Trong khi đó, để nắm vững tình hình giặc là chuẩn bị tốt kế hoạch phản công của ta, vua Trần cho Hưng Ninh vương Trần Tung là anh ruột Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn nhiều lần sang trại giặc, mượn tiếng là để trao đổi việc nghị hòa với giặc. Lần nào Trần Tung cũng nói là vua Trần sẽ tới trại giặc để giao hảo. Đương lúc hoang mang lo sợ, thấy ta đến bàn hòa, giặc mừng rỡ, sửa sang doanh trại để chờ đón vua Trần. Nhưng chờ đón đến bao giờ? Dần dần chúng cũng tự hiểu ra rằng việc bàn hòa với ta là không thể có được. Chúng càng mất tinh thần và ngày càng kiệt sức. Ta không bàn hòa, quân cảm tử của ta vẫn đêm đêm tiến vây doanh trại giặc mà giặc thì ngày càng thiếu ăn.

        Quân Nguyên sang Đại Việt mới ba tháng, chưa được việc gì mà quân chết, tướng mệt rất nhiều, nếu còn nấn ná ở lại Đại Việt thì sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn, kẻ chết trận, người chết đói, không có phương kế nào tự cứu được nữa. Chủ tướng Thoát Hoan và các tướng Nguyên phải tìm đường chạy trốn về nước. Chúng chia quân đi theo hai đường. Một đạo đi đường bộ chạy lên phía biên giới Lạng Sơn, có chủ tướng Thoát Hoan và các tướng lĩnh cao cấp đi cùng. Đạo đi đường thủy gồm chừng 500 - 600 thuyền chiến lớn, do hai tên tướng Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp chỉ huy. Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn và các danh tướng của ta đã nắm chắc tình hình giặc, thấy trước cái thế của giặc nhất định phải chạy trốn và biết trước những con đường và ngày giờ từng toán giặc phải qua. Cho nên giặc chạy trốn đường nào cũng không an toàn, đường nào cũng có đại quân ta chặn đánh truy kích. Bằng trận Bạch Đằng nổi tiếng trong lịch sử quân ta đại phá toàn bộ thủy quân giặc.

        Trên đường bộ lên biên giới, hơn 30 vạn quân ta truy kích rất quyết liệt đạo bộ binh của giặc. Thoát Hoan và đám tàn quân phải tìm đường tắt để chạy ra khỏi biên giới. Nhưng chạy đường nào, chúng cũng bị quân ta truy kích, đánh giết. Giặc liều chết, vừa đánh vừa chạy. Từ các sườn núi, quân ta bắn tên độc xuống như mưa. Giặc chết rất nhiều. Trận Bạch Đằng đã tiêu diệt toàn bộ thủy quân giặc. Trận biên giới bồi thêm cho chúng một đòn "trời giáng", quét sạch chúng ra khỏi bờ cõi. Đại bại tướng Thoát Hoan đem tàn quân chạy về tới triều đình Nguyên bị Hốt Tất Liệt trừng phạt về tội thua trận.

        Hoàng tử Trấn Nam vương Thoát Hoan, với tước "Trấn Nam" hai lần lĩnh ấn "chinh Nam" đem quân sang xâm lược Đại Việt, nhưng "Trấn Nam", "chinh Nam" đều thất bại và kết quả lần này là Thoát Hoan bị đày đi Dương Châu đến hết đời, không còn được gặp bố là Hốt Tất Liệt (Nguyên sử, q.117: Thiếp Mộc Nhi Bất Hoa truyện.). Cho con đi giết người, cướp nước không được thì cũng từ bỏ con, không muốn nhìn thấy mặt con nữa. Thật là nhẫn tâm, một thứ nhẫn tâm của những kẻ bành trướng mù quáng, cuồng chiến, lấy việc giết người phiếm đất làm lẽ sống. Tình nghĩa cha con, tình cảm dân tộc, tất cả đều vô nghĩa trước những tham vọng điên cuồng của những tên bạo chúa.

        Ba lần đưa quân đi cướp nước người và cả ba lần đều bị nước người đánh cho tả tơi, tan tác, mảnh giáp chẳng còn thì kẻ xâm lược nào cũng phải chùn bước nản lòng, phải một thời gian dài không dám đeo đuổi ý đồ đánh cướp nước người nữa. Chiến thắng của quân dân ta đời Trần đã vang dội ở nhiều khu vực châu Á và vang dội sang tận miền Tây Á, Trung Đông. Một nhà sử học Ba Tư ở thế kỷ XIII là Rasit-út-din làm sách Tập sử biên niên, ghi chép lịch sử đế quốc Mông Thát, bao gồm cả đế quốc Nguyên Mông, có đoạn viết về việc nước ta đánh thắng quân Thoát Hoan trong cuộc chiến tranh lần thứ ba như sau:

        "Nước đó có vua của họ. Do không thần phục hãn Thoát Hoan . . . Một lần Thoát Hoan đem quân vào nước đó đánh chiếm các thành thị ven biển, thống trị được một tuần lễ. Bỗng nhiên từ biển, từ rừng, từ núi, xuất hiện những đạo quân nước đó đánh tan đạo quân Thoát Hoan đương mải cướp bóc. Thoát Hoan trốn thoát, chạy về Lu-kin-phú” (Rasit-ut-din: Tập sử biên niên, Bản tiếng Nga, t.II, M.1960).

        Chiến thắng của quân dân ta ở thế kỷ thứ XIII, ba lần đánh bại quân Nguyên xâm lược, thật lẫy lừng, vĩ đại là một trong những võ công hiển hách bậc nhất của dân tộc ta.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Chín, 2016, 11:41:26 pm
       
        IV. NGOẠI GIAO SAU KHI ĐẠI THẮNG


        Sau khi kết thúc chiến tranh, công việc đối ngoại đầu tiên của ta là việc xử lý tù binh. Số quân giặc bị ta bắt tới hàng vạn tên. Chính sách của ta đối với tù binh, ở thời Trần cũng như các thời khác là rất nhân đạo, không giết, không hành hạ ngược đãi, trừ một số tướng giặc hiếu chiến, hung ác, tàn bạo, có nhiều nợ máu với nhân dân ta mà bị bắt sống tại trận thì phải nghiêm trị. Do đấy, sau chiến tranh, công việc đối ngoại đầu tiên của nhà Trần là trả bớt tù binh Nguyên về nước.

        Nhưng trả tù binh phải có người nhận, trả như thế nào, trả nhiều hay ít, trả ở đâu, trả làm bao nhiêu lần? Những việc đó không thể không đàm phán với bên giặc, nếu không đàm phán thì cũng phải báo để họ tiếp nhận tù binh trao trả.

        Từ tình hình đó, triều đình nhà Trần quyết định chủ động cho sứ sang Nguyên, vừa để báo cho họ biết việc ta trả tù binh, vừa thăm dò thái độ và động tĩnh của bên chúng, xem sau khi tàn quân giặc chạy về nước liệu chúng có khả năng mở một cuộc hành quân xâm lược thứ tư nữa không.

        Một sứ bộ của ta được lệnh lên đường sang Nguyên, mang biểu văn của vua Trần gửi Hốt Tất Liệt. Biểu văn gồm hai phần chính. Phần thứ nhất nghiêm khắc phê phán những hành động xâm lược, những việc làm sai trái của bọn vua chúa nhà Nguyên và kể tội bọn tướng giặc gian ác, đặc biệt là tội trạng tàn bạo của tên tướng giặc Ô Mã Nhi hiện đương ở trong tay ta. Vạch tội phi nghĩa của quân cướp nước, nêu cao chính nghĩa của dân tộc ta là một nguyên tắc ngoại giao bất di bất dịch của thời Trần. Dù trước chiến tranh, trong chiến tranh hay sau chiến tranh. Nhà Trần lúc nào cũng nhấn mạnh nguyên tắc ngoại giao đó. Nội dung chủ yếu của phần thứ nhất trong biểu văn như sau:

        "Năm Chí nguyên thứ 21 (đầu năm 1285) bình chương A Lý Hải Nha tham công biên giới (tức là hiếu chiến nơi biên giới - N.L.B), làm trái thánh chiếu khiến sinh linh nước tôi phải lầm than. Sau khi đại quân về rồi, tôi chắc tình thật bị che giấu, miệng lưỡi gièm pha vu báo, nên sai thông thị đại phu Nguyễn Nghĩa Toàn, hiệp trung đại phu Nguyễn Đức Vinh, hữu vũ đại phu Đoàn Hải Khung, trung đại phu Nguyễn Văn Ngạn đem phương vật sang biếu và nghị hòa, nghĩ rằng sẽ được chấp nhận, nào ngờ họ đều không được trở về.

        Mùa đông năm Chí nguyên thứ 24 (cuối năm 1287) lại thấy đại quân thủy bộ tiến sang, thiêu hủy chùa miếu trong nước, khai quật phần mộ tổ tiên, cướp giết dân chúng già trẻ, phá phách sản nghiệp trăm họ, không từ một sự tàn ác nào không làm... Tham chính Ô Mã Nhi nói với người trong nước truyền đến tai tôi rằng: "Ngươi chạy lên trời, ta theo lên trời; ngươi chạy xuống đất, ta theo xuống đất, ngươi lẩn lên núi, ta theo lên núi; ngươi lặn xuống nước, ta theo xuống nước". Mọi điều nhục mạ nói chẳng tiếc lời. Tham chính Ô Mã Nhi lại tự đem binh thuyền đi ra biển, bắt hết nhân dân ven biển lớn thì giết, bé thì cướp đi, làm đủ mọi cách treo trói mổ cắt, đầu vứt một nơi mình quẳng một nẻo. Trăm họ bị bức đến chỗ chết..." (Từ Minh Thiện: Thiên Nam hành ký. Từ Minh Thiện làm quan triều Nguyên, sang sứ Việt Nam năm 1288).

        Vua Trần nhấn mạnh trong biểu văn những tội ác của bọn Ô Mã Nhi, không ngần ngại cho tên bạo chúa biết rằng rất có thể bọn Ô Mã Nhi bị ta trị tội.

        Phần thứ hai trong biểu văn là báo cho nhà Nguyên biết rằng ta sẽ cho người đưa trao trả chúng một số tù binh, trong đó có một tên đại vương là Tích Lệ Cơ, một tước lớn của hoàng tộc nhà Nguyên:

       “Thấy dân chúng giải đến một người là Tích Lệ Cơ đại vương, tự xưng là bậc quý thích của đại nước. . . Nước tôi thủy thổ độc, biên chướng nhiều. Tôi ngại rằng đại vương ở lại lâu dễ sinh bệnh tật. . . Tôi đã sắm sửa đủ lễ vật đi đường, cho người lên biên giới đưa đại vương về nước. . . Ngoài ra đại quân còn rớt lại hơn một nghìn người, tôi đã ra lệnh cho về nước hết. Sau này, nếu còn thấy người nào, tôi sẽ cho về nốt...”


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Chín, 2016, 11:42:23 pm
    
        Sự thật thì số tù binh còn lớn hơn thế nhiều, nhưng ta trả dần. Về Tích Lệ Cơ, tuy là đại vương, nhưng không quan trọng, ta biết rõ. Hắn là thân thích của Hốt Tất Liệt nhưng chống lại Hốt Tất Liệt, nên bị tên bạo chúa bắt phải đi trận "tòng quân chuộc tội”! Chính vì thế mà ta cho tên tù binh này về trước, mặc dầu là tước đại vương.

        Cuối biểu văn, vua Trần nói thẳng:

       “Nước tôi vừa gặp binh lửa mà nay thì khí trời đương nóng nực, khó có ngay được cống vật và sứ thần. Đợi đền mùa đông mới có người đi được".

        Biểu văn ngoại giao thật là cứng rắn, rạch ròi, dứt khoát mặc dầu đối phương cậy thế nước lớn.

        Sau khi sứ bộ cầm biểu văn đã lên đường sang Nguyên, vua Trần lại cho một sứ bộ thứ hai đưa Tích Lệ Cơ đại vương cùng hơn một nghìn tù binh sang trả cho nhà Nguyên. Như biểu văn của vua Trần đã nói rõ: cả hai sứ bộ của ta đều không đem theo cống vật, quà cáp gì biếu xén nhà Nguyên.

        Về phía Nguyên, bị bại trận, Hốt Tất Liệt vẫn hằn học, hậm hực. Giữa tháng 7 năm 1288, Hốt Tất Liệt hạ lệnh cho các tướng Nguyên chỉ huy quân người Hán luyện tập thủy chiến, chuẩn bị chiến tranh. Nhưng đầu tháng 8 năm 1288, tù binh Nguyên do sứ Việt Nam đưa sang trả đã tới nơi. Hốt Tất Liệt đành tạm ngừng việc tổ chức chiến tranh để giải quyết vấn đề tù binh. Số tù binh này có tới hàng chục vạn người mà Đại Việt chỉ mới trả hơn một nghìn, bọn vua chúa Nguyên không thể ngoảnh mặt đi, bỏ mặc họ. Vì tù binh khác với hàng binh, tù binh rất có thể bị đối phương tùy ý trị tội. Bọn vua chúa Nguyên không thể không "cứu” họ. Mà muốn “cứư” họ thì phải điều đình thương lượng với triều đình Đại Việt. Hốt Tất Liệt buộc lòng phải cử một đoàn sứ giả sang nước ta để lo liệu việc này. Dẫn đầu đoàn sứ giả này là bọn Lưu Đình Trực, Lý Tư Diễn.

        Giữa tháng 12 năm 1288, đoàn sứ Nguyên lên đường. Hốt Tất Liệt phải để nhưng sứ giả của ta mà hắn giữ lại từ mấy năm trước như Nguyễn Nghĩa Toàn, Nguyễn Đức Vinh, tất cả 24 người, cùng đi với bọn sứ Nguyên trở về Đại Việt. Hai mươi bốn người là chỉ kể các chánh phó sứ, không kể toàn đoàn.

        Sứ Nguyên đem tờ chiếu của Hốt Tất Liệt gửi vua Trần. Mục đích của sứ Nguyên sang ta và nội dung tờ chiếu của Hốt Tất Liệt là yêu cầu ta trả nốt số tù binh còn lại cho nhà Nguyên. Nhưng với thói quen hống hách nước lớn, Hốt Tất Liệt vẫn nói giọng trịch thượng, lấy quyền người trên ra lệnh cho kẻ dưới và lại tiếp tục những thủ đoạn ngoại giao cũ. Chúng trở lại lối vừa dụ dỗ, vừa hăm dọa như chúng đã từng làm từ mấy chục năm trước, hòng ép buộc dân tộc ta phải chịu cúi mình dưới quyền bá chủ của nhà Nguyên... Nhưng hung hăng đánh phá bằng gươm giáo còn không ép buộc được nhân dân ta làm những điều đó, thì miệng lưỡi và giấy tờ ngoại giao của chúng ép buộc sao nổi!

        Mở đầu chiếu thư của Hốt Tất Liệt có đoạn viết:

       "Ngươi thử nghĩ nếu cứ sống lén lút trên núi dưới biển, ngày nào cũng lo sợ quan quân kéo đến thì sao bằng vào khuyết đình chịu mệnh để hưởng sung sướng. Trong hai chước đó, chước nào hay hơn, chước nào dở ? …

        Nếu ngươi sửa soạn đồ đạc sang ngay, sáng rõ nghĩa làm tôi, thì trẫm sẽ tha hết mọi tội lỗi trước, phục hồi các tước phong cũ. Nếu còn chần chừ không quyết thì hãy sửa sang thành quách, rèn luyện giáp binh, tùy ý ngươi muốn làm gì thì làm để chờ trẫm ra quân " (Thiên Nam hành ký).

        Nhưng dọa dẫm chỉ là để đi đến một yêu cầu khẩn thiết về vấn đề tù binh:

        “Ngươi hãy đem bọn quan quân Ô Mã Nhi bạt đô trả về, như thế mới tỏ rõ được lòng trung thuận… Nếu bọn ấy cần phải xét xử như thế nào, trẫm sẽ xét xử đâu vào đấy. Ngươi phải cho đưa họ về tất cả” (Thiên Nam hành ký).

        Hốt Tất Liệt sợ ta không trả hết tù binh, nhất là sợ ta làm tội những tên tướng hung ác như bọn Ô Mã Nhi, bởi Hốt Tất Liệt đã thấy rõ thái độ của ta trong bài biểu gửi cho hắn.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Chín, 2016, 11:42:46 pm
    
        Nhưng dọa dẫm, hống hách đều vô ích. Vấn đề tù binh là vấn đề do ta giải quyết. Đối với tù binh, chính sách của ta ở tất cả các thời là rất nhân đạo, thường trả chúng về nước. Riêng đối với những tên tướng giặc hung ác có nhiều nợ máu với nhân dân ta, mà bị bắt tại trận thì không thể không trị tội. Bọn Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp ở trong số những tên tội phạm chiến tranh đó. Phàn Tiếp bị thương nặng, đã chết sau khi bị bắt. Ô Mã Nhi còn sống thì phải xử lý theo tội trạng của nó. Ngày 21 tháng 3 năm 1289, đoàn sứ Nguyên là Lưu Đình Trực, Lý Trí Diễn... tới Thăng Long thì Ô Mã Nhi đã phải đền tội từ mấy ngày trước đó. Ta trao cho sứ Nguyên hơn tám nghìn tù binh để chúng đưa về nước. Khi sứ Nguyên ra về, vua Trần lại cử một đoàn sứ ta sang Nguyên đem thư của vua Trần trả lời vua Nguyên chủ yếu về việc giải quyết vấn đề tù binh, còn việc sang chầu cố nhiên bị bác bỏ.

        Từ sau khi sứ Nguyên sang ta đầu năm 1289 để nhận tù binh Nguyên, suốt trong 3 năm 1289, 1290, 1291 nhà Nguyên không cử một sứ bộ nào sang Đại Việt. Cuộc bang giao giữa hai nước tạm dừng. Đột nhiên, đầu năm 1292, Hốt Tất Liệt cho một sứ bộ sang ta. Người cầm đầu sứ bộ Nguyên là Trương Lập Đạo, trước đây đã hai lần sang sứ Việt Nam vào các năm 1267, 1271. Khoảng giữa tháng 4 năm 1292, bọn sứ Trương Lập Đạo tới Thăng Long, đem chiếu thư của Hốt Tất Liệt gửi vua Trần. Nội dung chiếu thư cũng vẫn là dọa dẫm, dụ dỗ vua Trần sang chầu. Vua Trần vẫn cương quyết bác bỏ những yêu sách trịch thượng nước lớn của bọn vua chúa nhà Nguyên. Sứ Nguyên sang Đại Việt, từ xưa tới bây giờ không phải tự do lúc nào muốn gặp vua quan nhà Trần cũng được, vua Trần có muốn tiếp thì sứ mới được gặp. Còn không thì sứ ở sứ quán, muốn yêu cầu gì, muốn nói gì với nhà vua, sứ Nguyên phải viết ra giấy, nhờ quan tiếp sứ đệ trình vào triều. Nhà vua cũng cho trả lời bằng giấy tờ. Thành ra sứ Nguyên ở ngay kinh thành Thăng Long mà sự tiếp xúc với triều đình Đại Việt cũng rất hạn chế, cách bức. Bọn sứ Nguyên bực tức mà không làm gì được. Cách thức tiếp sứ như thế cũng làm xẹp đi thái độ hống hách trịch thượng của các sứ Nguyên.

        Bọn sứ Trương Lập Đạo qua cung cách đón tiếp như thế, biết rằng những chiếu thư của Hốt Tất Liệt chẳng có tác dụng và ý nghĩa gì đối với triều đình nhà Trần. Trương Lập Đạo đã có lúc phải viết thư gửi vua Trần, nói rõ sự khó hiểu của hắn trước thái độ cứng cỏi của dân tộc ta đối với thế lực bành trướng lớn mạnh của nhà Nguyên thời ấy. Trong thư có đoạn Trương Lập Đạo viết:

       “Phía bắc đến khỏi Am Sơn, vốn là nơi Thánh triều dựng nghiệp, phía nam ra quá Viêm Hải, hết thảy vua các nước đều xưng thần. Tù trưởng các vùng Hồi Hột (Uy-gua), Tây Vực qua bãi Lưu Sa mà tới cống; quốc chúa các nước Cao Ly, Đông Di vượt biển Doanh Hải để vào chầu. Vua các nước Khiết Đan, Tây Hạ, Nữ Chân vì trái với trời mà nước bị diệt. Chúa các nước Côn Ngô, Thổ Phồn, Bách Thất, bởi theo mệnh mà được kết hôn. Các vua Vân Nam, Kim Sỉ, Bồ Chân đưa con trai vào triều làm con tin. Các miền Đại Hạ, Trung Nguyên và nhà Vong Tống, hết thảy đều làm tôi mọi. Nay nước Nam là nước nhỏ, ngoài mặt thì thần phục mà trong lòng không lay chuyển. . .” (An Nam chí lược, q.3)

        Trương Lập Đạo đã nói đúng một sự thật lịch sử là: dân tộc Việt Nam không sợ giặc ngoài uy hiếp quân sự, càng không sợ giặc ngoài đe dọa ngoại giao. Một văn thần của triều đình nhà Trần thường làm việc tiếp sứ là Đinh Củng Viên, có lần nghe sứ Nguyên Trương Lập Đạo ca ngợi, "lòng nhân" của thiên tử nhà Nguyên, thấy chướng tai, đã bảo thẳng Trương Lập Đạo rằng: "Thiên tử có ý tốt như thế thì đừng gây việc binh đao có hơn không" (An Nam chí lược, q.3). Sứ Nguyên cứng họng.

        Nhưng nhiệm vụ chính của bọn Trương Lập Đạo sang nước ta không phải là để đòi vua Trần vào chầu, vì vua chúa Nguyên thừa biết rằng một vài lời đe dọa suông về ngoại giao không có ý nghĩa gì. Việc chính mà vua chúa Nguyên yêu cầu triều đình nhà Trần lúc này là ngăn chặn không cho nghĩa quân Hoàng Thắng Hứa ở vùng biên giới Việt Nam đánh sang đất Nguyên. Việc đó không viết trong chiếu thư vì mất thể diện hoàng đế thiên triều. Sứ Nguyên phải nói miệng hoặc đưa thư yêu cầu của tướng Nguyên là Lưu Quốc Kiệt. Nhưng ý đồ của chúng không thành. Vua Trần từ chối là không biết và không dự vào việc này. Bọn Trương Lập Đạo đành trở về mà không được việc gì.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Chín, 2016, 11:43:09 pm
    
        Phong trào Hoàng Thắng Hứa là một phong trào khởi nghĩa lớn của người Tày ở vùng biên giới Cao Bằng có mục đích cứu giúp người Choang (tức người Tày ở Quảng Tây) nên thường xuyên tiến sang đánh bọn quan tướng nhà Nguyên ở vùng Ung Châu. Phong trào nổi lên từ năm 1291, có hàng vạn nghĩa quân tham gia. Hốt Tất Liệt cho một tướng hung hãn là Lưu Quốc Kiệt đem quân đi chống giữ. Nghĩa quân Hoàng Thắng hứa tiến công Ung Châu, lúc đánh chỗ này, khi đánh chỗ khác, và khi quân Nguyên chống cự mạnh thì lại rút về bên kia biên giới. Quân Nguyên không đám vượt biên giới đuổi theo, vì như vậy là gây chiến tranh với nước ta. Lưu Quốc Kiệt đành phải rút quân về. Nhưng quân Nguyên rút thì nghĩa quân Hoàng Thắng Hứa lại xuất hiện trên đất Quảng Tây. Bọn Lưu Quốc Kiệt đối phó rất lúng túng. Trong năm 1292, Lưu Quốc Kiệt ba lần đưa thư sang triều đình nhà Trần trách ta về những hoạt động của nghĩa quân Hoàng Thắng Hứa và yêu cầu ta bắt Hoàng Thắng Hứa giao cho chúng. Nhà Trần không trả lời, nên mới có việc Trương Lập Đạo sang sứ nước ta.

        Khi sứ Nguyên - Trương Lập Đạo trở về, triều đình nhà Trần cho hai quan văn là Nguyễn Đại Phạp, Hà Duy Nham đi sứ sang Nguyên, không có việc gì quan trọng ngoài việc tìm hiểu thực trạng bên Nguyên.

        Ngoại giao nước ta đối với nhà Nguyên lúc này là ngoại giao của người chiến thắng, đứng trên thế mạnh để giải quyết mọi mối quan hệ với đối phương. Sứ ta ra ngoài vốn dĩ đường hoàng, cứng cỏi, lịch lãm, nay tư thế lại càng ung dung, chững chạc hơn nữa. Nguyễn Đại Phạp sang sứ được người Nguyên rất trân trọng và gọi một cách tôn phục là "Lão lệnh công". Khi đi qua Ngạc Châu, Nguyễn Đại Phạp vào thăm hỏi bọn quan bình chương - tức bọn quan lại đứng đầu tỉnh Hồ Quảng, đóng tại Ngạc Châu. Trần Ích Tắc, tên hoàng thân nhà Trần đầu hàng quân Nguyên được Hốt Tất Liệt trao cho chức bình chương "bù nhìn", có chức không có quyền, cũng có mặt ở đây. Nguyễn Đại Phạp chào hỏi mọi người, nhưng không chào hỏi Trần Ích Tắc, tỏ rõ sự khinh bỉ đối với hắn. Trần Ích Tắc tức quá, hỏi:

        "Ông có phải là thư nhi nhà Chiêu Đạo vương không?” (Chiêu Đạo vương là Trần Quang Xưởng, anh cùng mẹ của Trần Ích Tắc). Nguyễn Đại Phạp đáp lại: "Thế sự thay đổi, Đại Phạp này trước là thư nhi nhà Chiêu Đạo vương, nay là sứ giả, còn như bình chương thì xưa là con vua, trái lại nay là kẻ hàng giặc" (Đại Việt sứ ký toàn thư, bản kỷ. q5). Sử ta ghi: "Ích Tắc hổ thẹn. Từ đấy về sau có sứ nước ta sang, Ích Tắc không dám ngồi ở thánh đường nữa” (Đại Việt sứ ký toàn thư, bản kỷ. q5). Thái độ và cử chỉ của sứ giả Nguyễn Đại Phạp thật đường hoàng bọn vua quan nhà Nguyên không dám phàn nàn chê trách gì.

        Khoảng giữa năm 1292, sứ Nguyên và sứ ta cùng tới Bắc Kinh. Thấy bọn Trương Lập Đạo đi sứ không được việc gì, Hốt Tất Liệt vội cho một đoàn sứ khác lại sang Việt Nam. Chánh sứ là Lương Tằng đã đi sứ sang Đại Việt năm 1280. Phó sứ là Trần Cương Trung. Không hiểu sao bọn sứ này phải đem theo một nghìn quân đi hộ vệ. Có lẽ chúng sợ những điều bất trắc xảy ra trên dọc đường qua Ung Châu là vùng có nghĩa quân Hoàng Thắng Hứa hoạt động. "Sứ mệnh" của sứ bộ Lương Tằng cũng vẫn là lặp lại các yêu cầu, yêu sách của sứ bộ Trương Lập Đạo, có khác là thêm nhiệm vụ dò xét tình hình Đại Việt để báo cáo triều đình Bắc Kinh. Có lẽ vì thế mà sứ bộ này đã ở Đại Việt tới hai tháng. Với nhiệm vụ ấy và thời gian ấy, bọn Lương Tằng, Trần Phu đã thấy tận mắt sức mạnh và khí thế hùng cường của dân tộc ta. Qua những điều mắt thấy tai nghe, bọn sứ Nguyên rất kinh ngạc trước ý chí tự lực tự cường và quyết tâm xây dựng đất nước rất cao của dân tộc ta. Chính vì những điều mắt thấy tai nghe như thế, nên suốt thời gian hai tháng ở Đại Việt, bọn sứ Nguyên lúc nào cũng lo ngại rõ rệt. Trần Phu kể lại tâm trạng sợ sệt của hắn trong mọt bài thơ dài, trong có những câu:

                       Nhìn gươm giáo, lòng son đau khổ,
                       Nghe trống đồng, tóc bạc trắng đầu,
                       May được trở về, thân được mạnh,
                       Mơ ngày đi ấy vẫn hồn kinh.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Chín, 2016, 11:44:29 pm

Chương bốn

NGOẠI GIAO THỜI CUỐI TRẦN, THỜI HỒ VÀ HẬU TRẦN

        I- TIẾP TỤC NGOẠI GIAO VỚI TRIỀU NGUYÊN Ở TRUNG QUỐC

        Đánh thắng giặc, ta lại tiến hành ngoại giao với giặc. Ngoại giao lúc này là ngoại giao hòa hoãn: vừa đấu tranh, vừa giao hảo. Nếu chưa thiết lập được những quan hệ thân thiện hữu nghị thì cũng làm giảm bớt những tiếp xúc căng thẳng giữa hai nước, xóa bỏ những mưu đồ lấn chiếm, xâm lược của những thế lực bành trướng hiếu chiến bên nước láng giềng.

        Nhà Nguyên ba lần đem quân xâm lược nước ta, cả ba lần đều thất bại. Cuộc chiến tranh lần thứ ba kết thúc vào tháng ba năm Mậu Tý (1288). Tháng 10, nhà Trần chủ động cho sứ sang Nguyên trao đổi việc trả hàng vạn tù binh cho nhà Nguyên. Từ đấy tới 5 năm sau, công việc trao trả tù binh tiến hành liên tiếp. Quan hệ giữa hai nước không có gì căng thẳng. Tới năm 1293 bạo chúa Hốt Tất Liệt trở mặt, kiếm chuyện. Đầu năm 1293, Hốt Tất Liệt cho sứ bộ Lương Tằng, Trần Phu tới Đại Việt đòi vua Trần sang chầu. Vua Trần từ chối việc sang chầu mà chỉ cho sứ bộ Đào Tử Kỳ cùng sứ Nguyên sang Trung Quốc đem sản vật địa phương biếu vua Nguyên.

        Tháng 9 năm 1293, sứ bộ Đào Tử Kỳ đưa lễ vật tới Bắc Kinh. Nhưng khát vọng của Hốt Tất Liệt không phải là quà cáp biếu xén, nên đã hạ lệnh đưa Đào Tử Kỳ tới Giang Lăng giam lại và tổ chức đạo quân xâm lược. Đạo quân được thành lập, quân số ít hơn các lần trước, gồm 56.570 quân, 1.000 thuyền, 70 vạn khí giới, 35 vạn thạch lương, 2 vạn thạch thức ăn cho ngựa, 21 vạn cân muối và cho quân lính, mỗi người 2 đĩnh tiền. Tất cả đạo quân đặt dưới quyền chỉ huy của bình chương Lưu Quốc Kiệt và chư vương Diệc Cát Lý Đãi, có một ban tham mưu giúp việc, gồm các tướng Triệt Lý Man, Trần Nham, Triệu Tu Kỷ, Vân Tòng Long, Trương Văn Hổ, Sầm Hùng.

        Nhưng lúc này không còn là lúc nhà Nguyên có thể dễ dàng gây rối. Rậm rịch ra quân từ mấy tháng cuối năm 1293, mà không sao gọi được đủ quân, mặc dầu quân số định lấy chỉ là hơn 5 vạn người. Tới đầu năm 1294, quân các nơi tới tập trung để lập đạo quân xâm lược còn quá ít. Hốt Tất Liệt hạ lệnh cho các địa phương Tư, Sá, Trấn Viễn, Hoàng Bình đưa 8.000 quân cũ của nhà Tống gia nhập đạo quân của Lưu Quốc Kiệt. Lệnh này chưa kịp thi hành thì ngày 18 tháng 2 năm 1294 Hốt Tất Liệt chết. Người nối ngôi Hốt Tất Liệt là Nguyên Thành Tôn thấy nhà Nguyên đã ba lần gây chiến với Đại Việt, huy động hàng trăm vạn quân mà còn thất bại, nay đưa 5 - 6 vạn quân đi gây chiến thì sao có thể được, nên đành tạm hoãn lệnh đó. Mà không hoãn lệnh đó không từ bỏ tham vọng xâm lược Đại Việt thì tập đoàn cuồng chiến nhà Nguyên cũng không làm gì được.

        Chiến thắng của Đại Việt đã bẻ gãy mọi nanh vuốt của bọn vua chúa nhà Nguyên hiếu chiến. Sau chiến tranh xâm lược Đại Việt, thế và lực của triều Nguyên sa sút nghiêm trọng, không sao hồi phục được. Nhưng không phải vì thế mà chúng trở thành những kẻ có thiện chí hòa bình, sống hữu hảo với các dân tộc khác. Đối với Đại Việt, vua chúa nhà Nguyên hậm hực vô cùng, nhưng thế không làm gì được đành phải chịu, nhiều khi phải nhượng bộ, có lúc còn sợ Đại Việt tiến công, đánh phá.

        Năm 1299, một sứ bộ của ta sang Nguyên do Đặng Nhữ Lâm cầm đầu đã bí mật làm một số việc: vẽ bản đồ các cung diện và vườn thượng uyển, mua các bản đồ và sách cấm của Trung Quốc, sao chép những văn thư Việt Nam có ở Trung Quốc, ghi chép tình hình quân sự và các rừng núi ở biên giới phía bắc. Triều đình nhà Nguyên phát hiện những việc làm này. Nếu như trước kia thì họ bắt ngay sứ Đại Việt giam lại, chưa biết đến bao giờ mới cho về, hoặc đem giết sứ đi, nhưng nay thì không dám. Nhà Nguyên chỉ cho sứ sang Đại Việt yêu cầu triều đình nhà Trần không để cho sứ sang Nguyên làm những việc như thế.

        Sau đó, sứ thần hai nước cứ vài năm qua lại một lần, hoặc báo cho nhau những tin tức như vua mới lên ngôi, hoặc biếu xén nhau quà cáp.

        Năm 1308, nhà văn lỗi lạc đương thời là trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi sang Nguyên. Các quan lại nhà Nguyên rất phục ông là người thông minh tài trí. Một lần ông ngồi chơi trong phủ tể tướng nhà Nguyên. Lúc ấy là khoảng tháng 5 - tháng 6, trong phủ treo một cái màn mỏng có thêu hình con chim tước vàng đậu cành trúc. Tước là con chim sẻ. Mạc Đĩnh Chi thản nhiên kéo cái màn xuống xé đi, mặc dầu cái màn thêu rất đẹp. Mọi người lấy làm lạ, hỏi tại sao. Mạc Đĩnh Chi trả lời:

       "Tôi thấy người xưu vẽ mai - tước, chưa thấy ai vẽ trúc - tước bao giờ. Nay trong trướng của tể tướng lại thêu chim tước đậu cành trúc. Trúc là quân tử, tước là tiểu nhân. Tể tướng đem trúc - tước mà thêu vào trướng, thế là để tiểu nhân lên trên quân tử. Tôi sợ rằng đạo của tiểu nhân ngày càng lớn thịnh lên, đạo của quân tử ngày mòn mỏi đi, cho nên tôi trừ bọn tiểu nhân giúp thánh hiền". Người Nguyên phục là nhanh trí.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Chín, 2016, 11:44:57 pm
    
        Khoảng những năm 1311 - 1312, bọn quan lại, tướng lĩnh nhà Nguyên ở gần biên giới lén lút lấn chiếm một số vùng đất của ta sát biên giới. Bọn cầm đầu châu Quy Thuận thuộc Quảng Tây năm lần sang cướp lộ Thái Nguyên của ta, bắt năm nghìn dân đưa sang Trung Quốc. Tri châu châu Dưỡng Lợi (Trung Quốc) là Triệu Giác bắt những người buôn bán của châu Tu Lãng nước ta, lấy một lọ vàng và chiếm hơn một nghìn khoảnh ruộng.

        Để trừng trị những kẻ lấn chiếm, tháng giêng năm Quý Sửu (tức đầu năm 1313) quân ta theo nhiều đường sang miền nam Trung Quốc. Từ biên giới tỉnh Hà Giang bây giờ, hơn 3 vạn quân ta, trong đó có hơn 3 nghìn quân kỵ, đánh sang châu Trấn Yên (thuộc Quảng Tây), đốt phá các kho tàng rồi về. Trên biên giới Cao Bằng, Lạng Sơn, quân ta chia làm 3 đạo tiến vào châu Quy Thuận (nay là huyện Tĩnh Tây, thuộc Quảng Tây), đóng quân lại, không về. Triều đình Nguyên được tin, lo ngại, lệnh cho hành tỉnh Hồ Quảng phát binh đi đánh. Hành tỉnh Hồ Quảng là cơ quan chuyên tổ chức các đạo quân đi xâm lược Việt Nam trước đây. Nhưng lần này, mặc dầu có lệnh của triều đình, không thấy hành tỉnh Hồ Quảng có hành động gì.

        Tháng tư âm lịch. để trừng trị bọn lấn chiếm, vua Trần Anh Tông thân cầm quân đánh sang châu Dưỡng Lợi thuộc Quảng Tây, bắt hơn hai nghìn quân Nguyên đem về nước.

        Tháng sáu âm lịch, triều đình Nguyên phải cho hai viên quan là A Lý Ôn Sa và Lưu Nguyên Hanh tới hành tỉnh Hồ Quảng tìm hiểu tình hình những sự việc xảy ra, rồi đưa thư sang hỏi triều đình nhà Trần. Ta trả lời là vì có kẻ quấy rối, lấn chiếm biên giới nên trừng trị, còn ai quấy rối thì không biết. Bọn Lưu Nguyên Hanh thư đi thư lại mấy lần, nhưng không giải quyết được việc gì. Chúng tâu về triều đình Nguyên xin cho người sang Đại Việt đòi đất, đòi dân và đòi ta xử trí những người đưa quân vào lãnh thổ Trung Quốc. Thấy bọn Lưu Nguyên Hanh tâu xin như vậy, Hoàng đế Nguyên vội gạt đi: “Thôi để khi sứ An Nam tới sẽ nói”. Nhưng sứ ta không tới, triều đình Nguyên phải cho sứ sang nói với triều đình Đại Việt cho lui quân. Bấy giờ vua Trần mới hạ lệnh bãi binh, rút quân về nước.

        Khi ghi chép sự việc này vào sách Bang giao chí, nhà sử học Phan Huy Chú nhận xét:

        “Đời Trần, nhà Nguyên ba lần đem quân sang xâm lược, quấy rối, nhưng không thành công. Nay tất cũng chột dạ về việc trước, chỉ mong được yên ổn, nên vua tôi khu xử, một niềm nhường nhịn để được vô sự. Đó là sự khôn ngoan phủ dụ của Nguyên, mà thế nước ta thời Trần cũng tỏ ra cường thịnh lắm”.

        Đúng là như thế! Nếu nước ta không cường thịnh thì nước lớn láng giềng ôm mộng bành trướng không bao giờ chịu để cho nhân dân ta được sống hòa bình, yên ổn, đừng nói gì tới nhượng bộ với ta điều này điều khác.

        Ta đem quân sang đất Nguyên trừng trị quân Nguyên lấn chiếm mà triều đình Nguyên không dám oán trách , hạch sách gì. Năm sau (1314), sứ Nguyên sang ta vẫn rất mực khiêm tốn, kính trọng ta. Bấy giờ vua Trần Minh Tông mới lên ngôi, cho sứ Nguyên vào tiếp kiến. Khi về nước , sứ Nguyên hết sức ca ngợi vua Trần là phong thái ung dung phơi phới như thần tiên. Sau này khi sứ Đại Việt sang Nguyên, có người Nguyên hỏi thăm có phải vua Đại Việt phong thái thanh tú ung dung như thần tiên không, sứ Đại Việt hồ hởi trả lời: "Đúng như thê. Và đó cũng là phong thái của cả nước tôi vậy”.

        Lời đáp của sứ ta nói lên niềm tự hào về dân tộc mình, một dân tộc anh hùng, đã bắt một kẻ thù cuồng chiến, hung hãn nhất của thời đại phải khuất phục, bảo đảm nền độc lập của nước nhà và nền hòa bình ở Đông Nam châu Á, tước bỏ mọi khả năng xâm lược, quấy rối của giặc Nguyên ở các vùng khác trên thế giới.

        Năm 1322, triều đình Nguyên lại muốn tranh lấn bờ cõi. Triều đình nhà Trần cho Hình bộ Thượng thư Doãn Bang Hiến sang tranh biện. Vua chúa Nguyên đành thôi.

        Lúc này, triều Nguyên đã suy yếu lắm, không thể gây đối đầu với ta được. Từ những năm 1340 trở đi, Trung Quốc đại loạn. Khởi nghĩa không nhà Nguyên liên tiếp nổ ra. Khởi nghĩa của Phương Quắc Trân, khởi nghĩa của Từ Thọ Huy, khởi nghĩa của Chu Nguyên Chương; đặc biệt có cả cuộc khởi nghĩa của Trần Hữu Lượng là một người Việt Nam sống ở Trung Quốc, con của Trần Ích Tắc, nổi lên làm chủ cả miền nam Trung Quốc, dựng nên một triều đại mới lấy quốc hiệu là Đại Hán, niên hiệu là Đại Nghĩa. Trần Hữu Lượng lên ngôi hoàng đế. Trong khi đó, nghĩa quân Chu Nguyên Chương cũng làm chủ miền bắc Trung Quốc, lập triều đại mới là triều Minh, đưa Chu Nguyên Chương lên ngôi hoàng đế.

        Năm 1354, triều đình Trần Hữu Lượng cho sứ sang cầu thân với triều đình nhà Trần. Năm 1359, triều đình Chu Nguyên Chương cũng cho sứ sang thông hiếu với nhà Trần. Trần Hữu Lượng và Chu Nguyên Chương vẫn đánh nhau kịch liệt, chưa phân được thua. Vua Trần cho Lê Kích Phu đi Trung Quốc "Để xem hư thực như thế nào". Sử không ghi rõ sứ ta sang Trung Quốc lúc ấy tiếp xúc với triều đình nào, triều Hán của Trần Hữu Lượng hay triều Minh của Chu Nguyên Chương.

        Đầu năm 1361, nhà Hán của Trần Hữu Lượng đóng ở Vũ Xương, cho sứ sang ta xin quân cứu viện. Vua Trần từ chối. Ý của nhà Trần là không muốn can thiệp vào công việc nội bộ của Trung Quốc.

        Năm 1366, nhà Hán của Trần Hữu Lượng sụp đổ.

        Năm 1367, nhà Nguyên bị diệt vong. Ngôi thống trị toàn Trung Quốc chuyển sang một triều đại mới là triều Minh. Chu Nguyên Chương lên ngôi hoàng đế, xưng hiệu là Minh Hồng Vũ, khi chết miếu hiệu là Minh Thái Tổ.

        Triều đại mới, chính sách đối nội, đối ngoại sẽ có những thay đổi. Quan hệ giữa triều Trần ở Việt Nam và triều Minh mới nổi ở Trung Quốc cũng sẽ không bình thường, phẳng lặng như cuối thời Nguyên.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Chín, 2016, 11:47:18 pm

        II- QUAN HỆ VỚI CHIÊM THÀNH

        Sau chiến tranh chống Nguyên, quan hệ giữa ta và Chiêm Thành có nhiều chuyển biến. Năm 1293, Chiêm Thành đem tặng phẩm tới triều đình Đại Việt. Tháng 2 âm lịch (1301), Chiêm Thành sang cống và tháng sau Thượng hoàng Trần Minh Tông sang thăm Chiêm Thành. Đấy là một điều rất đặc biệt. Từ thượng cổ tới bấy giờ, chưa một vua Việt Nam nào sang thăm chính thức nước khác. Điều đặc biệt nữa là không những Thượng hoàng sang thăm Chiêm Thành mà còn nhận lời gả một công chúa (con gái Thượng hoàng) cho vua Chiêm là Chế Mân. Sử của người phương Tây ghi vương hiệu Chế Mân là Jaya Simha - Varman III. Chế Mân đã lấy công chúa vua Mã Lai làm hoàng hậu, gọi là hoàng hậu Tapasi.

        Năm 1305, vua Chiêm cho một phái đoàn hơn một trăm người, đứng đầu là đại thần Chế Bồ Đài đem lễ vật gồm vàng bạc, hương quý vật hiếm sang cầu hôn công chúa vua Đại Việt. Giữa năm 1306, Thượng hoàng Trần Nhân Tông cho đưa công chúa Huyền Trân sang Chiêm. Vua Chiêm dâng hai châu Ô và Lý làm của hồi môn, tức châu Thuận, châu Hóa, sau hợp thành Thuận Hóa. Công chúa Huyền Trân lấy vua Chiêm là Chế Mân sinh được một con trai là thái tử Chế Đa Da. Giữa năm 1307, vua Chiêm Chế Mân chết. Bốn tháng sau, triều đình Chiêm nhân danh thái tử Chế Đa Da cho sứ thần là Bảo Lộc Kê đưa voi trắng sang tặng vua Trần.

        Tháng 11 năm 1307, Chiêm Thành làm lễ hỏa táng thi thể vua Chế Mân. Theo tục lệ của Chiêm Thành, khi nào làm hỏa táng một vua chết thì hoàng hậu của vua đó phải lên dàn hỏa thiêu chết theo. Vua Trần sợ công chúa Huyền Trân bị hại, cho một phái đoàn sang Chiêm lấy danh nghĩa là viếng để tìm cách cứu công chúa. Phái đoàn này do Trần Khắc Chung và Đặng Văn cầm đầu. Đúng ngày làm lễ hỏa táng, phái đoàn của vua Trần tìm cách đưa công chúa Huyền Trân và con trai Đa Da ra biển, chạy về nước.

        Khi Chế Mân chết, con Chế Mân là Chế Chí lên làm vua Chiêm và cho sứ sang cống nhà Trần.

        Nhưng lúc này vua Trần đã mưu đánh chiếm nước Chiêm. Nên khi sứ Chiêm ra về thì vua Trần tổ chức đại quân theo hai đường thủy bộ kéo sang. Vua thân đem sáu quân đi đường bộ, cho Đoàn Nhữ Hài làm Thiên tử chiêu dụ sứ đi trước. Nghe theo lời chiêu dụ, vua Chiêm là Chế Chí đem vợ con, thân thuộc, đi thuyền theo đường biển tới hàng vua Trần. Chiến tranh kết thúc. Vua Trần trở về Thăng Long đem Chế Chí cùng về. Vua Trần phong cho Chế Chí làm Hiệu Trung vương, sau đổi làm Hiệu Thuận vương. Nhà Trần cho Chế Chí ở hành cung Gia Lâm. Tháng 2 (âm lịch) năm sau (1313), Chế Chí chết, nhà Trần theo tục của Chiêm Thành, làm lễ hỏa táng.

        Khi Chế Chí sang Đại Việt, nhà Trần phong cho em Chế Chí là Chế Đà A Bà Niêm làm á hầu, coi Chiêm Thành là thuộc quốc. Nhưng Chế Đà vẫn xưng vương hiệu, sử ghi là Chế Năng.

        Năm 1318, Chế Năng chống lại triều đình Thăng Long, tiến quân đánh lên Thuận Hóa. Nhà Trần cho quân đi ứng cứu. Một tướng Trần là Lý Tất Kiến đánh thua, chết tại trận, lão tướng Phạm Ngũ Lão tiến quân đánh tan quân Chiêm, bắt tù binh rất nhiều. Vua Chiêm Chế Năng chạy sang Ja-va.

        Nhà Trần phong một tướng người Chiêm là Chế A Nan làm Hiệu Thánh á vương, nước Chiêm lệ thuộc Đại Việt. Ít lâu sau, người Chiêm từ bỏ sự lệ thuộc đó. Năm 1326 nhà Trần cho Huệ Túc vương Trần Đại Niên đem quân đi đánh, nhưng thất bại, phải quay về.

        Năm 1342, vua Chiêm Thành Chế A Nan chết, con rể là Trà Hòa Bố Để không cho con trai A Nan nối ngôi mà tự lập làm vua. Từ đó vua Chiêm mới thoát ly dần khỏi sự lệ thuộc triều đình Đại Việt.

        Năm 1346, vua Trần cho Phạm Nguyên Hằng sang sứ Chiêm Thành, trách Chiêm Thành thiếu lễ triều cống hàng năm. Chưa muốn tỏ hẳn là chống lại, cuối năm ấy vua Chiêm cho sứ sang cống nhà Trần, nhưng lễ vật rất ít.

        Năm 1352, Chế Mỗ là con trai Chế A Nan bị Trà Hòa Bố Để cướp ngôi vua, đem voi trắng và nhiều cống vật sang hiến vua Trần để xin vua Trần đem quân đánh Trà Hòa Bố Để, lập Chế Mỗ làm vua Chiêm. Giữa năm 1353, nhà Trần cho quân đưa Chế Mỗ về Chiêm. Triều đình Chiêm cho quân chống lại. Quân Trần phải quay về. Chế Mỗ ở lại Đại Việt. Ít lâu sau thì chết.

        Chiêm Thành tiến đánh Thuận Hóa (lúc ấy gọi là châu Hóa). Quân Trần thua. Vua Trần cho Trương Hán Siêu đem quân Thần Sách vào ứng cứu và trấn giữ châu Hóa.

        Từ năm 1361 trở đi, Chiêm Thành luôn luôn đánh phá miền biên giới và miền ven biển Đại Việt. Vua Chiêm Thành bấy giờ là Chế Bồng Nga, một vua giỏi của Chiêm Thành, lên ngôi từ năm 1360.Tháng ba (nhuận) năm Tân Hợi (1371), quân Chiêm Thành đánh vào cửa biển Đại An, một cửa biển thuộc Nam Hà ngày nay và tiến thẳng lên kinh thành Thăng Long. Vua Trần phải bỏ chạy, đi thuyền sang sông Đông Ngàn (tức sông Đuống) để tránh giặc. Quân Chiêm vào thành đốt phá cung điện, sách vở, cướp con gái, ngọc lụa đem về Chiêm.

        Muốn trả thù, năm 1373 vua Trần Duệ Tông cho bổ sung quân ngũ, sửa đóng thuyền chiến và xuống chiếu thân chinh đi đánh Chiêm Thành, nhưng chưa đi mà cho Hành khiển tham mưu quân sự là Đỗ Tử Bình vào trấn giữ châu Hóa. Vua Chiêm cầu hòa, đem 10 mâm vàng tới nhờ Đỗ Tử Bình chuyển dâng vua Trần. Đỗ Tử Bình lấy cả 10 mâm vàng đó và nói dối vua Trần là vua Chiêm - Chế Bồng Nga ngạo mạn, vô lễ, chống lại. Vì thế vua Trần tức giận, quyết ý thân chinh.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Chín, 2016, 11:57:39 pm

        Cuối năm Bính Thìn (đầu năm 1377) vua Trần Duệ Tông đem 12 vạn quân từ kinh thành Thăng Long ra đi, cho tham mưu quân sự Hồ Quý Ly đốc suất Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa cung cấp và chuyên chở quân lương. Quân Trần đi tới cửa biển Di Luân, nay là cửa Ròn, thuộc huyện Quảng Trạch, Quảng Bình thì chia thành hai bộ phận: một bộ phận đi đường thủy, một bộ phận tiếp tục đi đường bộ.

        Ngày 23 tháng giêng năm Đinh Tỵ (1377), quân Trần tới cửa biển Thi Nại, tức Quy Nhơn ngày nay thì đóng lại ở động Ỷ Mang. Chế Bồng Nga là người mưu trí, cho dựng trại ở ngoài thành Chà Bàn, sai một viên quan nhỏ là Thu Bà Ma giả đầu hàng, nói dối là Chế Bồng Nga đã trốn đi, chỉ còn thành không, khuyên vua Trần nhanh chóng đưa quân vào thành. Ngày 24 tháng giêng, vua Trần Duệ Tông mặc áo đen, cưỡi ngựa màu bùn (lông trắng xen lẫn lông đen) cùng Ngự Câu vương Húc là con Thượng hoàng Trần Nghệ Tông mặc áo trắng cưỡi ngựa trắng cùng đem quân tiến vào thành Chà Bàn. Đại tướng Đỗ Lễ can không nên đi như thế. Trần Duệ Tông chủ quan không nghe, nói rằng: "Ta mình mặc áo giáp, tay cầm gươm dãi gió dầm mưa, lội sông trèo núi, vào sâu trong đất giặc, không một người nào dám chống lại, đó là trời giúp. Huống chi nay vua giặc nghe tiếng bỏ trốn, không có lòng đánh lại. Cổ nhân nói: "Dụng binh quý ở nhanh chóng”. Nay lại dùng dằng không tiến nhanh, thế là trời cho mà không lấy để nó lại có mưu khác thì hối sao kịp. Ngươi là hạng đàn bà" (Đại Việt sử ký toàn thư. Bản dịch ... Tập II, tr.187), và Trần Duệ Tông lấy áo đàn bà bắt Đỗ Lễ phải mặc.

        Quân Trần tiến đánh thành Chà Bàn. Sử ghi rằng: "Quân nối gót nhau như xâu cá mà đi, trước và sau cách nhau xa. Quân giặc thừa thế xông ra đánh chặn. Độ một giờ thì quan quân tan vỡ” (Đại Việt sử ký toàn thư. Bản dịch ... Tập II, tr.187). Vua Trần Duệ Tông bị bao vây và chết tại trận. Các đại tướng Đỗ Lễ, Nguyễn Nạp Hòa, hành khiển Phạm Huyền Linh đều chết trận. Ngự Câu vương Húc bị quân Chiêm bắt sống. Tham mưu quân sự Đỗ Tử Bình lãnh hậu quân không đến cứu vua, nên thoát chết. Hồ Quý Ly đốc quân tải lương, nghe tin vua chết trận, bỏ chạy về trước. Đỗ Tử Bình, theo lệnh Trần Nghệ Tông, bị nhốt cũi đưa về Thăng Long và bị kết tội đồ làm lính.

        Giữa năm 1377, Chiêm Thành lại tiến công vào cửa biển Thần Phù (Ninh Bình) kéo lên Thăng Long, nhưng mấy ngày sau lại rút về nước.

        Triều đình nhà Trần sợ người Chiêm. Cuối năm 1379, vua Trần hai lần cho người đem tiền đi chôn giấu nơi xa, đề phòng quân Chiêm vào Thăng Long đốt phá cung điện.

        Đầu năm 1380, quân Chiêm tiến đánh Nghệ An, Diễn Châu, Thanh Hóa. Hồ Quý Ly đem thủy binh, Đỗ Tử Bình đem bộ binh đi đánh. Hồ Quý Ly thắng trận. Vua Chiêm - Chế Bồng Nga phải chạy về nước.

        Tuy thắng trận, triều đình nhà Trần vẫn lo sợ, năm 1381 rước thần tượng ở các lăng Giác Hương, Thái Đường, Long Hưng, Kiến Xương đưa về lăng lớn Yên Sinh và bắt các nhà sư khỏe mạnh đương tu ở các chùa làm lính đi đánh Chiêm Thành.

        Đầu năm 1382, quân Chiêm Thành đánh Thanh Hóa.

        Giữa năm 1383 vua Chiêm - Chế Bồng Nga cùng đại tướng La Ngai đem quân đánh lên Thăng Long. Triều đình nhà Trần phải chạy sang Tiên Du (vùng núi huyện Tiên Sơn, Hà Bắc ngày nay) dựng cung điện, tạm lập kinh đô tại đây. Đầu năm 1384, quân Chiêm rời khỏi Thăng Long, rút về nước. Triều đình nhà Trần vẫn ở lại Tiên Du, mãi năm 1387 mới về Thăng Long.

        Cuối năm 1389, Chiêm Thành đánh cướp Thanh Hóa, triều đình nhà Trần cử Hồ Quý Ly đem quân đi chống giữ. Hồ Quý Ly thua to, quân tướng chết nhiều, Hồ Quý Ly trốn về. Thượng hoàng Trần Nghệ Tông phải sai tướng khác là Trần Khát Chân đem quân đi đánh tiếp. Quân Chiêm tiến tới sông Hải Triều, tức sông Luộc ngày nay. Nhờ có hàng tướng Chiêm giúp sức, Trần Khát Chân dùng súng bắn chết vua Chiêm - Chế Bồng Nga. Đại tướng Chiêm là La Ngai trở về Chiêm, tự lập làm vua. Con của Chế Bồng Nga cùng gia đình chạy sang Đại Việt. Vua Trần phong con Chế Bồng Nga là Chế Ma Nô Đà Nan làm Hiệu Chính hầu.

        Năm 1396, Trần Nghệ Tông cho quân đi đánh Chiêm Thành, bắt được tướng Chiêm là Bố Đông đem về.

        Năm 1397, hai tướng Chiêm là Chế Đa Biệt và em là Mộ Hoa Tử Ca Diệp đem gia đình sang Đại Việt, được nhà Trần thu dùng làm tướng và đổi sang tên họ Việt Nam.

        Đầu năm 1400, Hồ Quý Ly lên ngôi vua lập nhà Hồ. Năm 1401, Hồ Quý Ly lên làm Thái Thượng hoàng, nhường ngôi vua cho con là Hồ Hán Thương.

        Năm 1402, Hồ Hán Thương đem quân đi đánh Chiêm Thành, chiếm giữ một phần đất phía bắc Chiêm Thành.

        Năm 1403, Hồ Hán Thương cho 20 vạn quân thủy bộ đi đánh Chiêm. Quân của nhà Hồ đánh phá Chiêm Thành 9 tháng, vây hãm kinh thành Chà Bàn của Chiêm, nhưng không lấy được, hết lương ăn phải rút về.

        Tới đây quan hệ giữa Đại Việt - Chiêm Thành tạm ngừng vì Đại Việt có xung đột vũ trang với Trung Quốc.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Chín, 2016, 11:58:47 pm

        III. QUAN HỆ VỚI TRIỀU MINH CỦA NGƯỜI HÁN Ở TRUNG QUỐC

        Ở Trung Quốc, năm 1367, Chu Nguyên Chương lên ngôi vua khởi lập triều Minh. Tháng tư năm Mậu Thân (1368), nhà Minh cho sứ Dịch Tế Dân sang thăm nước ta. Vua Trần cho thị lang Đào Văn Đích sang Trung Quốc đáp lễ.

        Năm 1374, nhà Trần xuống chiếu cho quân dân trong nước không được mặc áo kiểu người phương Bắc, tức không được mặc áo kiểu Trung Quốc và không được bắt chước tiếng nói của các nước Chiêm Thành, Ai Lao.

        Từ năm 1377, nhà Minh mưu đồ đánh chiếm nước ta, hạch sách đủ điều, bắt cống nộp nhiều thứ: nộp người, nộp lương thực, nộp súc vật và nộp một số quan hoạn.

        Năm 1384, nhà Minh đánh Vân Nam, đòi ta cấp lương thực, đưa lên Vân Nam cho chúng. Nhà Trần phải nhận lời. Các quan lại làm việc vận chuyển lương thực lên huyện Thủy Vĩ, giáp Vân Nam, nhiều người chết vì lam chướng.

        Năm 1385, nhà Minh đòi nhà Trần phải nộp 20 nhà sư. Yêu cầu hạch sách của chúng ngày càng tăng.

        Năm 1386, chúng đòi nhà Trần nộp cây giống các loại cây: cau, vải, mít, nhãn. Nhà Trần phải làm theo, cho người mang cây giống sang Trung Quốc. Nhưng cây không chịu được rét, đi nửa đường chết khô cả. Nhà Minh cho người sang đòi ta nộp 50 con voi và mở đường cho quân Minh đi qua vào đánh Chiêm Thành. Nhà Trần phải đặt trạm cấp lương, cỏ suốt từ Nghệ An tới Vân Nam để đưa 50 con voi cho nhà Minh.

        Năm 1395 ở Trung Quốc có cuộc khởi nghĩa của người thiểu số ở miền nam Quảng Tây. Triều đình nhà Minh mang quân đi đánh dẹp, cho người sang đòi ta cấp 5 vạn quân, 50 con voi, 50 vạn hộc lương đưa lên biên giới giáp Quảng Tây. Nhà Trần chỉ cấp một ít lương cho người tải đến Đồng Đăng (Lạng Sơn) rồi trở lại.

        Nhà Minh lại cho sứ sang đòi ta nộp sư, nộp đàn bà và đàn ông đã thiến. Nhà Trần cho một vài người.

        Ở ta, cuối tháng hai năm Canh Thìn (1400), Hồ Quý Ly lên làm vua lập nhà Hồ thay nhà Trần. Hồ Quý Ly là người rất yêu nước và rất tự hào về đất nước mình. Khi còn làm quan với nhà Trần, có người Trung Quốc hỏi ông về phong tục nước Nam. Ông làm một bài thơ chữ Hán, trả lời:

        Nguyên văn chứ Hán là:

             Đáp Bắc nhân vấn An Nam phong tục

                             Dục vấn An Nam sự
                             An Nam phong tục thuần
                             Y quan Đường chế độ
                             Lễ nhạc Hán quân thần
                             Ngọc ưng khai tân tửu
                             Kim đao nghiễn tế lân
                             Niên niên nhị tam nguyệt
                             Đào lý nhất ban xuân.


        Tạm dịch:

                             Muốn hỏi nước Nam ư
                             Nước Nam phong tục thuần
                             Áo quần như thời Đường
                             Lễ nhạc giống thời Hán
                             Bình ngọc rót rượu mới
                             Dao vàng mổ cá ngon
                             Hàng năm vài ba tháng
                             Đào mận suốt mùa xuân.


        Khi Hồ Quý Ly làm vua, "ông lo làm thế nào có được 100 vạn quân để chống giặc Bắc" (Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch đã dẫn ... ). Tuy vậy ông vẫn giữ quan hệ bình thường với nhà Minh. Đầu năm 1401, Hồ Quý Ly cho sứ sang triều Minh. Nhưng Minh hạch sách ngày càng nhiều. Sử cũ ghi rằng: "Bấy giờ sứ nước Minh đi lại liên tiếp ở đường, có người yêu sách, có người trách hỏi. Hán Thương (Hồ Hán Thương là con thứ Hồ Quý Ly) sai người tùy phương cứu giải, vất vả về việc ứng tiếp" (Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch đã dẫn ... ). Khi trước, nhà Minh bắt nhà Trần nộp một số đàn ông đã thiến để chúng dùng làm nội quan, tức quan hoạn, phục vụ chúng, nay cho bọn hoạn quan này đi sứ về Việt Nam để bọn chúng có điều kiện thăm hỏi thân thuộc họ hàng và bí mật dặn thân thuộc họ hàng rằng: khi quân Minh sang, thì thân thuộc họ hàng tập hợp lại, dựng cờ làm nội ứng, cờ ghi rõ là thân thuộc của nội quan nào. Việc tiết lộ, thân thuộc những tên nội quan này đều bị Hồ Quý Ly xử tội.

        Năm 1404, nhà Minh ngang ngược cho người sang trách Hồ Quý Ly là đã nhận hai con voi của Chiêm Thành tặng. Hồ Quý Ly cho đem hai con voi sang cho nhà Minh.

        Đáp lại nhà Minh cho một sứ giả sang ta. Tên này ngạo nghễ, hống hách, tác oai, tác quái, đánh đập các quan quân đi đón tiếp, hộ tống. Sứ phải tới Tây Kinh ở Thanh Hóa, vì nhà Hồ đóng đô ở đây. Hành trình từ Thăng Long vào Tây Kinh thường là 12 ngày. Viên sứ này tên là Lý Ỷ đòi phải đi nhanh trong 8 ngày. Khi đến nhà công giám, nơi tiếp sứ, Lý Ỷ đi xem hình thế khắp nơi. Khi hắn trở về Trung Quốc, Hồ Quý Ly thấy một số vấn đề cần giữ bí mật của nước mình có thể bị lộ, cho người đuổi theo giết đi, nhưng đuổi tới Lạng Sơn thì Lý Ỷ đã đi qua biên giới.

        Cũng năm 1404, Hồ Hán Thương cho làm thuyền gỗ đóng đinh sắt cỡ lớn, "trên có đường sàn đi thông được để tiện chiến đấu” (Đại việt sử kỳ toàn thư, bản dịch, tập II, tr.239) dưới có nhiều mái chèo, mỗi mái chèo hai người chèo.

        Năm 1405, nhà Minh cho sứ sang ép nhà Hồ cắt đất Châu Lộc ở Lạng Sơn cho Minh, Hồ Quý Ly cho Hoàng Hối Khanh làm cát địa sứ đi giải quyết vấn đề. Hoàng Hối Khanh cắt đất nhiều quá, đem tất cả 59 thôn ở Cổ Lâu nộp cho Minh, Hồ Quý Ly tức giận, trách mắng Hoàng Hối Khanh và cho người địa phương ngầm đánh thuốc độc giết những quan lại của Minh tới cai trị vùng này.

        Biết thế nào vua quan nhà Minh cũng cho quân sang đánh cướp nước ta, Hồ Hán Thương cho một sứ bộ sang Minh xin giảng hòa. Nhà Minh giam giữ chánh sứ Phạm Canh, chỉ cho phó sứ Lưu Quang Đình về nước.

        Mưu đồ xâm lược của nhà Minh đã rõ.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2016, 12:01:16 am

       IV- NHÀ HỒ VÀ NHÀ HẬU TRẦN KHÁNG CHIẾN CHỐNG QUÂN MINH XÂM LƯỢC

        Đề phòng giặc xâm lược, năm 1405, nhà Hồ cho đắp thành Đa Bang ở gần Bạch Hạc (Việt Trì), đóng cọc chặn cửa sông Bạch Hạc để ngăn giặc từ phía Tuyên Quang kéo tới, đóng cọc ở cửa biển và những nơi xung yếu trên sông Cái. Hồ Hán Thương đặt bốn kho quân khí, tìm người giỏi nghề làm vũ khí tới làm việc.

        Khoảng cuối năm 1405, Hồ Quý Ly triệu tập một hội nghị gồm các quan tại kinh đô và ngoài các lộ để bàn kế nên đánh giặc hay nên hàng. Ý kiến phân vân, người bàn đánh, kẻ bàn hàng. Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng là con cả Hồ Quý Ly, nói thẳng: “Tôi không ngại đánh, chỉ sợ lòng dân có   theo hay không theo mà thôi” (Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch, tập II, tr.222.)

        Hồ Quý Ly thấy lời Hồ Nguyên Trừng nói là phải, nhưng không biết nên làm như thế nào.

        Giữa tháng 11 năm l406, nhà Minh cho 80 vạn quân, theo hai đường Quảng Tây và Vân Nam đánh sang. Tháng 12 năm 1406, quân Minh tiến tới Bạch Hạc, đối diện với thành Đa Bang. Một tháng sau, thành Đa Bang thất thủ. Hai ngày sau khi thành Đa Bang thất thủ, giặc tiến vào chiếm đóng Thăng Long. Nhà Hồ thua giặc rất nhanh, vì không dựa vào sức dân, không động viên, tổ chức được nhân dân cùng đánh giặc. Mặc dù vậy, nhân dân vùng Kinh lộ căm thù giặc, đã tự động và tự nguyện xin ra trận đánh giặc. Sử cũ ghi: "Các quân nhân và đinh nam đều đến quân môn tự nguyện gắng sức lập công" (Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch đã dẫn, tr.250). Muốn chuyển thua thành thắng, nhưng không thể được nữa, nhà Hồ đã bất lực. Giữa năm 1407 , nhà Hồ sụp đổ. Nhà Hậu Trần tiếp tục kháng chiến và tồn tại hơn 6 năm. Nhà Hậu Trần đã đánh cho giặc Minh khốn đốn nhiều phen. Để hòa hoãn với giặc, năm 1413, vua Trung Quang nhà Hậu Trần cho Nguyễn Biểu đi sứ sang Trung Quốc cầu phong.

        Trước khi lên đường, Nguyễn Biểu mang sản vật địa phương tới Nghệ An gặp tướng giặc là Trương Phụ. Giặc bắt ông quỳ lạy, ông không chịu. Để uy hiếp tinh thần ông, Trương Phụ sai nấu chín một đầu người, mời ông ăn. Ông thản nhiên ăn và ung dung nói: "Đã mấy khi người nước Nam được vinh hạnh ăn đầu ngươi phương Bắc". Ông làm một bài thơ và đọc:  

                 Ngọc thiện, trân tu1 đã đủ mùi
                 Gia hào2 thêm có cỗ đầu người
                 Nem công, chả phượng còn thua béo
                 Thịt gấu, gan lân hẳn kém tươi
                 Ca lối lộc minh3 so cũng một
                 Vật bày thỏ thủ4 bội hơn người
                 Kìa kìa ngon ngọt tày vai lợn
                 Tráng sĩ như Phàn5 tiếng để đời.

.        Trương Phụ phục ông là người can đảm, để ông về. Có kẻ hầu cận bảo Trương Phụ rằng: Nguyễn Biểu là hào kiệt nước Nam, không nên để về. Trương Phụ cho đuổi bắt, Nguyễn Biểu mắng Trương Phụ:

        "Trong bụng thì mưu đánh lấy nước, bên ngoài giả làm quân nhân nghĩa, đã hứa lập con cháu nhà Trần, lại đặt quận, huyện, không những chỉ cướp lấy vàng bạc châu báu lại còn giết hại nhân dân. Thực là giặc tàn ngược".

        Trương phụ giết Nguyễn Biểu.

        Cuộc chiến đấu chống quân xâm lược của nhân dân ta vẫn tiếp tục và ngày càng phát triển.

---------------------
        1, 2. Ngọc thiện, trân tu, gia hào: đêu nói về những món ăn ngon, quý.

        3. Ca lối lộc minh: ca hát theo lối đọc thơ vua đãi yến tân khách.

        4. Thỏ thủ: đầu con thỏ

        5. Phàn Khoái là dũng tướng của Hán Cao Tổ - Lưu Bang, có tiếng là ăn khỏe


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2016, 12:02:31 am

Chương năm

NGOẠI GIAO THỜI LÊ LỢI - NGUYỄN TRÃI CHỐNG QUÂN MINH ĐÔ HỘ

        Trong quá trình giữ nước của dân tộc, Tổ tiên ta ở các thời đều kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao để đánh thắng giặc. Chiến tranh giải phóng hay chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, Tổ tiên ta đều làm như thế. Thời kỳ chiến tranh đánh đuổi quân Minh đô hộ, Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã kiên trì đấu tranh ngoại giao kết hợp đấu tranh quân sự để đánh thắng giặc. Lê Lợi và Nguyễn Trãi chủ trương “Ta mưu dẹp bằng đánh vào lòng, không chiến trận mà địch phải khuất" (Ngã mưu phạt như tâm công, bất chiến tự khuất - Bình Ngô đại cáo).

        Đánh vào lòng địch là một bộ phận của đấu tranh ngoại giao mà Nguyễn Trãi đã dùng với hai hình thức:

             1. Dụ hàng các tướng lĩnh, binh sĩ địch và ngụy quân ở các thành.

             2. Đấu tranh hòa đàm, khi thì để hòa hoãn tạm thời với địch, khi thì buộc địch phải chấm dứt chiến tranh, rút quân về nước.

        Trong quá trình đánh địch, Nguyễn Trãi đảm nhiệm gần như toàn bộ công việc “đánh vào lòng địch". Ông viết gửi cho địch, ngụy hàng trăm bức thư để dụ hàng, để hòa đàm. Ông trực tiếp tới một số thành để khuyên địch ra hàng. Ông năm lần thân vào thành Đông Quan đàm phán với chủ tướng địch.

        Khi có tướng địch đem quân ra hàng, Nguyễn Trãi và các lãnh tụ nghĩa quân tiếp đón, đối xử rất niềm nở, ân cần. Với thái độ, chính sách và tích cực làm công tác binh vận, Nguyễn Trãi và nghĩa quân Lam Sơn đã thu được nhiều kết quả tốt đẹp. Trong quá trình chiến đấu, đã có hàng vạn tướng sĩ, binh lính địch ra hàng; hàng vạn tướng sĩ, binh lính, quan lại ngụy trở về với dân tộc.

        Cùng với chủ trương dụ hàng, vận động quân địch phản chiến, Nguyễn Trãi kiên trì đấu tranh hòa đàm với địch. Đấu tranh hòa đàm của ông là một hình thức đấu tranh ngoại giao đi liền với đấu tranh quân sự, nhằm chấm dứt chiến tranh, đem lại hòa bình, gây lại giao hảo giữa ta và địch. Nguyễn Trãi và nghĩa quân Lam Sơn đã vận dụng rất linh hoạt, tài giỏi đấu tranh quân sự với đấu tranh hòa đàm. Đàm mà vẫn đánh, đánh mà vẫn đàm. Vừa đánh vừa đàm cho tới khi chiến tranh kết thúc. Đàm tới khi địch không thể đánh được nữa và đánh tới khi địch phải đàm phán, chấp nhận đầu hàng mới thôi.

        Từ năm 1418, nghĩa quân Lam Sơn phất cờ khởi nghĩa, chiến đấu kiên cường, càng đánh càng mạnh, nhưng vẫn khi được, khi thua, chưa giành được những chiến thắng lớn và những thắng lợi quyết định. Năm 1423, Nguyễn Trãi tới Lam Sơn, bắt đầu vận dụng kế sách đấu tranh - hòa đàm để mở đầu một giai đoạn chiến tranh mới, giai đoạn đánh mạnh vào lòng địch, kết hợp đánh mạnh bằng quân sự và bằng sức mạnh của quần chúng nổi dậy để đánh bại hẳn quân địch.

        Muốn thực hiện kế sách đó, công việc trước tiên là phải đàm phán thương lượng với địch để có một thời gian hòa hoãn, ngừng chiến với địch, tăng cường sức mạnh của mình. Nguyễn Trãi được trao trách nhiệm trực tiếp nghiên cứu, trù liệu việc đàm phán và đàm phán thành công. Ta và địch có một thời gian hòa hoãn, ngừng chiến từ đầu năm 1423 tới mùa xuân năm 1424. Nghĩa quân Lam Sơn có thời gian chuẩn bị điều kiện đánh lâu dài với địch, đi đến càng đánh càng thắng.

        Nhưng việc hòa hoãn không thể kéo dài. Những hoạt động quyên tiền, mộ lính, những cảnh tượng nông dân và những người yêu nước bốn phương tấp nập kéo tới quân doanh Lam Sơn và không khí sôi nổi luyện tập quân sĩ, chuẩn bị lương thực, chế tạo vũ khí, không thể không tới tai mắt quân địch.

        Vốn từ sau khi nghị hòa, các tướng lĩnh hai bên, ta và địch, vẫn thường đi lại, quà cáp cho nhau. Nhưng dần dần, địch thấy rõ nghĩa quân Lam Sơn đương tăng cường lực lượng, nên hòa hoãn được hơn một năm, địch cắt ngoại giao, bắt giam sứ của nghĩa quân, không cho trở về.

        Chiến tranh lại tiếp tục.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2016, 12:03:13 am

        I. ĐÁNH VÀ ĐÀM, HẠ THÀNH TRÀ LONG

        Xuất phát từ căn cứ địa Chí Linh - Lam Sơn, nghĩa quân quyết định đánh vào phía nam, tức Diễn Châu, Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa là những nơi địch có nhiều sơ hở, vì càng xa căn cứ chính của địch ở Đông Quan, Tây Đô, lực lượng địch càng mỏng càng yếu.

        Được tin nghĩa quân đang theo đường núi tiến vào Nghệ An, các tướng giặc cao cấp ở Đông Quan là Trần Trí, Phương Chính... vội đem quân tiến vào theo đường hành quân của nghĩa quân. Tướng giặc ở Nghệ An là Sư Hựu và các tướng ngụy là tri phủ Cầm Bành ở Trà Long, tri phủ Cầm Lạn ở Quỳ Châu được lệnh đem quân phối hợp, đón đánh nghĩa quân.

        Khoảng tháng 12 năm 1424, nghĩa quân Lam Sơn tới trước thành Trà Long, cho người dụ hàng Cầm Bành. Viên ngụy quan này cố thủ trong thành, cho người đi Nghệ An cầu cứu viện binh. Thấy Cầm Bành cố thủ không hàng, nghĩa quân Lam Sơn một mặt vây thành, một mặt giải phóng vùng đất đai châu Trà Long và chuẩn bị đối phó với viện binh giặc.

        Bấy giờ là đầu năm 1425, Cầm Bành bị vây khốn đã hơn một tháng. Để nhanh chóng cứu nguy cho Cầm Bành, chủ tướng giặc Trần Trí quyết định trả những sứ giả của nghĩa quân mà chúng đã giam giữ từ giữa năm 1424 và cho người của chúng mang thư cầu hòa tới đại bản doanh nghĩa quân Lam Sơn. Các lãnh tụ Lam Sơn chấp nhận nghị hòa của chủ tướng giặc, nhưng buộc chúng phải hạ lệnh cho Cầm Bành ngừng chiến, giao hảo với nghĩa quân thì việc hòa giải mới thành. Các tướng giặc ở Nghệ An vội cho người tới Trà Long hạ lệnh cho Cầm Bành ngừng chiến, không được cố thủ trong thành, phải cùng nghĩa quân hòa giải. Thấy không có viện binh, lại được lệnh ngừng chiến, Cầm Bành tuyệt vọng, mở cửa thành ra hàng.

        Nghĩa quân vào thành, tha tội cho Cầm Bành và mọi người trong thành. Với chiến thắng này, thanh thế nghĩa quân càng lớn mạnh, vang dội khắp miền Nghệ An, Diễn Châu và vùng biên giới giáp Ai Lao. Nhiều hào kiệt trong vùng tới Trà Long xin theo nghĩa quân. Nhân dân và các tù trưởng thiểu số những vùng gần Trà Long đều hoan nghênh, ủng hộ nghĩa quân. Hơn 5.000 trai tráng tình nguyện gia nhập lực lượng vũ trang. Sức mạnh của nghĩa quân Lam Sơn được nâng cao.

        Việc hạ thành Trà Long là một bằng chứng xác nhận sự kết hợp tiến công quân sự với tiến công ngoại giao và địch vận của nghĩa quân là đúng đắn. Việc hạ thành Trà Long còn đem lại cho nghĩa quân Lam Sơn một kinh nghiệm chiến đấu mới: muốn đánh lấy thành địch, không nhất thiết phải tiến công quân sự, phá thành diệt địch, mà có thể vây hãm thành kết hợp với địch vận gọi hàng, hoặc vây hãm thành kết hợp với đấu tranh ngoại giao khiến chỉ huy của địch ở cấp trên phải hạ lệnh cho tướng giữ thành bỏ vũ khí không được chiến đấu, như trường hợp hạ thành Trà Long. Đây là một kinh nghiệm quý có giá trị lớn về chiến lược, nghĩa quân Lam Sơn tiếp tục vận dụng trong nhiều trường hợp đánh thành sau này.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2016, 12:03:41 am

        II. TƯỚNG GIẶC CẦU HÒA, CÁC THÀNH CỦA GIẶC Ở PHÍA NAM ĐẦU HÀNG

        Sau khi đánh thành Trà Long, nghĩa quân Lam Sơn tiến đánh Nghệ An, và trong vòng 10 tháng giải phóng một nửa nước về phía nam, dồn địch vào các thành Nghệ An, Diễn Châu, Thanh Hóa, Tân Bình, Thuận Hóa để vây hãm chúng, tạo điều kiện và thời cơ tiến ra giải phóng miền Bắc.

        Tình hình miền Bắc lúc ấy rất thuận lợi cho những cuộc tiến công của nghĩa quân Lam Sơn. Giặc ở Đông Đô đang lúng túng vì quân số giảm nghiêm trọng. Giữa năm 1426, bọn tướng giặc Trần Trí khẩn cấp kêu xin viện binh bên nước chúng.

        Triều đình nhà Minh cho hai đạo viện binh sang cứu nguy cho quân tướng của chúng đang bị khốn ở Đại Việt; một đạo do Vương An Lão chỉ huy tiến sang theo đường Vân Nam, một đạo do Vương Thông chỉ huy tiến sang theo đường Quảng Tây.

        Được tin viện binh giặc sắp sang, các lãnh tụ nghĩa quân quyết định cho quân tiến ngay ra Bắc. Bấy giờ là mùa thu năm 1426. Đại bộ phận lực lượng giặc ở nước ta vẫn còn trong thành Nghệ An. Các lãnh tụ nghĩa quân chủ trương phần lớn nghĩa quân vẫn làm nhiệm vụ khống chế giặc trong thành Nghệ An, bước đầu chỉ cho hơn một vạn quân ra Bắc làm một số nhiệm vụ cần thiết.

        Lần đầu tiên ra Bắc, lực lượng nghĩa quân không nhiều, nhưng tinh nhuệ, chia làm ba cánh quân tiến theo ba hướng.

        Khoảng cuối tháng 8 đầu tháng 9 năm 1426, cả ba cánh quân lần lượt xuất phát.

        Ra Bắc, ba cánh quân Lam Sơn đi tới đâu cũng được nhân dân nhiệt liệt hoan nghênh, sôi nổi hưởng ứng. Khí thế tiến công của nghĩa quân rất mạnh, chính quyền giặc ở các phủ, huyện, châu không đánh mà tan. Quân giặc đóng trong các thành đều bị cô lập. Nhân dân nhiều địa phương tổ chức dân binh để hợp lực với nghĩa quân vây bức các thành giặc.

        Nghĩa quân Lam Sơn cùng nhân dân miền Bắc liên tiếp đánh thắng giặc tại các trận Cần Ninh, Cần Trạm, đánh tan viện binh Vương An Lão tại trận Cần Đồng Dọc, phá vỡ cuộc phản công của Vương Thông - chủ tướng mới của giặc, tiếp đó đánh tan đại quân Vương Thông tại trận Tốt Động - Chúc Động (Hà Tây), buộc chủ tướng giặc Vương Thông phải chạy vào thành Đông Quan cố thủ.

        Trận Tốt Động - Chúc Động vừa kết thúc thì ngày 10 tháng 11 năm 1426 đại quân Lam Sơn từ Nghệ An ra tới Đông Quan. Ngày 22 tháng 11, đại quân Lam Sơn mở cuộc tiến công lớn, quét sạch những căn cứ của giặc ở bên ngoài thành Đông Quan. Giặc trong thành Đông Quan vô cùng bối rối: không liên hệ được với quân của chúng ở các thành khác, không điều động được quân ở các thành về cứu nguy cho chúng, cũng không liên hệ, cầu viện được với bên nước chúng, bản thân chúng thì bị vây hãm ngày càng khốn quẫn. Thế của giặc lúc này là cái thế: đánh cũng chết, không đánh ngồi chờ viện binh cũng chết. Để thoát chết, chỉ còn một con đường duy nhất là đầu hàng. Do đó, tổng binh giặc Vương Thông phải chủ động thương lượng cầu hòa với nghĩa quân.

        Các lãnh tụ Lam Sơn không ngạc nhiên trước việc nghị hòa của giặc, nhưng đặt điều kiện cho giặc trước khi nghị hòa. Thay mặt các lãnh tụ Lam Sơn, Nguyễn Trãi viết thư trả lời Vương Thông, chỉ nhận nghị hòa với điều kiện Vương Thông hạ lệnh cho quân giặc ở các nơi phải trao lại thành cho nghĩa quân, rút về Đông Quan chờ ngày về nước và Vương Thông phải cho người cùng sứ của ta sang triều đình Minh giao hảo. Có như thế, nghĩa quân Lam Sơn mới nới vòng vây để cho quân Minh ở Đông Quan có thể đi lại ra khỏi thành và mới chấp nhận việc thương lượng hòa hảo, trao trả tù, hàng binh, ấn định ngày cho chúng về nước.

        Không thể không chấp nhận những điều kiện của nghĩa quân đưa ra, Vương Thông bắt buộc phải cho người đưa giấy đi các thành Thanh Hóa, Nghệ An, Diễn Châu, Tân Bình, Thuận Hóa, hạ lệnh đình chiến và rút quân về Đông Đô. Về phía ta, Nguyễn Trãi cũng nhân việc Vương Thông nghị hòa, gửi thư đi dụ hàng các thành khác của giặc.

        Vốn đã mất tinh thần chiến đấu, lại thấy cái thế không thể cầm cự được nữa, nên khi nhận được lệnh của Vương Thông và thư dụ hàng của Nguyễn Trãi là quân giặc ở các thành Nghệ An, Diễn Châu, Tân Bình, Thuận Hóa vội mở cửa ra hàng, trao lại thành trì cho nghĩa quân và chuẩn bị lên đường ra Đông Quan theo sự hướng dẫn của nghĩa quân.

        Với tinh thần cảnh giác, nghĩa quân Lam Sơn không cho hàng binh ở các thành và tù binh bắt được từ trước về ngay thành Đông Quan để tránh tập trung một lực lượng lớn quân giặc ở nơi trọng yếu này, khiến chúng không thể có mưu đồ phản trắc. Nghĩa quân giữ và kiểm soát chặt chẽ các tù hàng binh ở lại tại chỗ. Các lãnh tụ nghĩa quân có tinh thần cảnh giác cao và lường trước những sự tráo trở của đối phương có thể xảy ra; bởi lẽ họ biết rằng việc thương lượng hòa bình với bọn cướp nước để kết thúc chiến tranh không thể với mấy lời hứa hẹn đầu lưỡi của chúng mà thành, dù là vấn đề tự chúng đưa ra, tự chúng yêu cầu được thương lượng. Chỉ khi nào ý chí xâm lược và mơ tưởng chiến thắng cuối cùng của chúng hoàn toàn tiêu tan thì hòa bình mới có thể có được, và khi ấy việc thương lượng mới có thể tiến hành có kết quả.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2016, 12:04:35 am

        III. GIẶC BỘI PHẢN NGHỊ HÒA, TA HẠ THÊM BỐN THÀNH CỦA GIẶC

        Như các lãnh tụ nghĩa quân đã lường trước, bọn Vương Thông quả thật có ý muốn bội phản những lời ước hẹn khi cầu hòa. Chúng muốn nhân việc đưa sứ giả của nghĩa quân sang nhà Minh để cho người về nước xin viện binh nhanh chóng sang cứu và tăng cường lực lượng cho chúng tiếp tục chiến tranh xâm lược Đại Việt.

        Đầu năm 1427, vua Minh quyết định cử một đạo viện binh lớn sang Việt Nam do Liễu Thăng chỉ huy. Tin đó làm bừng lên trong đầu Vương Thông một tia hy vọng được cứu sống, có thể tiếp tục chiến tranh và chiến thắng trên chiến trường Việt Nam. Do đó Vương Thông bội phản nghị hòa, cho quân phá chuông Qui Điền và vạc Phổ Minh là hai công trình nghệ thuật của dân tộc ta thời xưa, để lấy đồng làm súng đạn. Giặc đắp cao thành Đông Quan, đào hào sâu, thả chông, dựng thêm hai lần lũy. Lời nghị hòa của giặc tới đây coi như xóa bỏ.

        Để cho giặc thấy rõ quyết tâm tiêu diệt viện binh - niềm hy vọng cuối cùng của giặc, các lãnh tụ Lam Sơn phái thêm quân vây đánh tất cả các thành mà quân Minh chốt giữ trên con đường từ Đông Quan lên biên giới Quảng Tây và từ Đông Quan lên biên giới Vân Nam.

        Để tăng cường uy hiếp giặc ở Đông Quan, các lãnh tụ Lam Sơn cho quân vây chặt bốn cửa thành. Người ngựa của giặc lảng vảng ra ngoài thành đều bị nghĩa quân bắt giữ, tất cả tới trên 3.000 quân và 500 ngựa bị bắt.

        Đầu tháng 2 năm 1427, các tướng Trần Lựu, Lê Bôi mở trận tiến công thật mạnh vào thành Khâu Ôn. Tướng giặc giữ thành Khâu Ôn là Tôn Tụ ngay đêm hôm ấy bỏ thành chạy trốn về Quảng Tây. Quân ta lấy lại thành Khâu Ôn.

        Tin thành Khâu Ôn thất thủ truyền đi làm cho quân Minh ở các thành khác trên con đường Đông Quan - Quảng Tây hoang mang lo sợ.

        Nhân cơ hội này, Nguyễn Trãi viết thư dụ hàng các thành, trước hết là thành Điêu Diêu ở gần Đông Quan, do tướng giặc Trương Lân và tướng ngụy Trần Vân chỉ huy. Thành này đang bị tướng Bùi Quốc Hưng và nghĩa quân vây đánh. Trong thư gửi cho tướng giặc Trương Lân, có đoạn Nguyễn Trãi viết:

        “Hiện nay vệ quân các xứ Thanh Hóa, Diễn Châu đều đã nhất tề đền đây rồi, phàm vợ con tài sản của quân nhân, mảy may không bị xâm phạm. Nay cái kế tốt cho các người không gì bằng ra ở ngoài thành, cùng Thái đốc quân (Thái đốc quân hay Thái đô đốc là chỉ Thái Phúc tướng giặc chỉ huy thành Nghệ An, đã ra hàng nghĩa quân Lam Sơn) quyết định việc về để cứu vớt mấy nghìn tính mệnh ở trong thành. Chúng ta đã xét những việc đắc thất của cổ nhân như Bạch Khởi (Bạch Khởi là tướng nước Tần thời Chiến quốc, cầm quân đánh nước Triệu, 40 vạn quân Triệu ra hàng đều bị Bạch Khởi giết chết) nước Tần, Hạng Vũ (Hạng Vũ nước Sở đem quân đánh nước Tần; Tần Vương là Tử Anh ra hàng, Hạng Vũ giết chết) nước Sở, giết kẻ đầu hàng, trái lời đã ước, chúng ta quyết không làm như thế đâu. Các người hãy cứ thư lòng, đừng nên ngờ vực mà thành hỏng việc. Các người nếu cho là thành cao hào sâu, lương thực lại nhiều, thì thử xem như ở các xứ Thanh Hóa, Nghệ, Diễn, thành không phải là không cao, hào không phải là không sâu, lương thực không phải là không nhiều, quân không phải là không mạnh, lại Thái đô đốc thì chức cũng to, binh cũng giỏi, trí cũng sáng, mà còn theo thời thông biến để bảo toàn tính mệnh cho mấy vạn con người, thế mà các người lại còn muốn cố chấp những lời bàn suông để mang tai vạ thật, há chẳng lầm lắm ư? Vả lại ta xem ở nước các người, hiện nay bên trong có họa tiên tường (Tiên tường là bức bình phong trong nhà quý tộc. Ở đây, ý nói trong nhà, trong nội bộ.), bên ngoài có giặc bắc biên (Bắc biên là biên giới phía bắc. Ở đây chỉ người Mông Cổ đánh phá ở miền bắc Trung Quốc.), mà đại thần lấn vị, người dưới chuyên quyền; hạn hán hoàng trùng, luôn năm tai họa, bốn phương đạo tặc nổi dậy như cái cơ táng loạn, há không biết trước rồi sao? Người trí giả thấy việc từ lúc việc chưa phát, sao các ngươi lại thấy sự cơ muộn thế, mà muốn tự khổ như thế? Các người nếu biết kéo quân ra thành, cùng ta hòa hảo thân tình, tình ta coi các người nghĩa như anh em ruột thịt, nào chỉ những bảo toàn tính mệnh vợ con mà thôi đâu? Nếu không thế, tùy ý các người. Trong khoảng sớm tối, sẽ khắc thấy nhau. Đến lúc bấy giờ hối cũng không kịp. Các người hãy nên nghĩ đi".

        Bức thư dụ hàng tướng ngụy thành này, lời lẽ không giống như viết cho tướng Minh. ông viết:

        "Người xưa có nói: "Quạ đi lại về quê cũ, cáo chết quay đầu về núi”. Cầm thú còn thế, huống nữa là người. Các người vốn là người dân Tây Việt (Tây Việt là tên nhóm người Bách Việt ở phía nam Quảng Tây thời cổ. Ở đây, Tây Việt chỉ nước ta), dòng dõi nhà quan. Trước nhân họ Hồ thất đức, giặc Ngô lăng loàn, các người có người thì thân bị hãm ở tặc đình (Tặc đình là triều đình giặc, tức triều đình nhà Minh), có người thì danh bị buộc ở ngụy chức, đó là thế không đứng được, nào phải do ở bản tâm đâu. Đấng Thượng đế nghĩ thương dân ta, đã mượn tay ta, Đại Thiên hành hóa, Thái sư Vệ Quốc Công (Chỉ Lê Lợi - thư viết nhân danh Lê Lợi), cứu dân đáng kể có tội để khôi phục cơ đồ. Quân đi đến đâu, nghĩa thanh vang dậy, dân chúng bốn phương, dắt díu nhau mà kéo đến theo ta. Bọn các người nếu biết rửa lòng đổi dạ, bỏ nghịch theo thuận, hoặc ở làm nội ứng, hoặc ra để đầu hàng, thì không những rửu mối hổ thẹn ngày trước, mà cũng được phần soi xét về sau. Ta không nói lời rồi lại ăn lời. Nếu các người lại còn tiếc tham ngụy chức, chống cự Vương sư, thì khi hãm thành, tội ác các người  tất nặng hơn giặc Ngô đấy".


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2016, 12:04:59 am

        Những thư trên đều cùng mục đích dụ hàng. Nhưng viết cho tướng Minh ông viết khác, viết cho tướng ngụy ông viết khác. Khác về cách viết, khác về lời văn, khác về cách phân tích các lẽ phải trái, được thua. Với tướng Minh, ông cho chúng thấy cái mạnh, cái sức sống trường tồn và cái lẽ tất thắng của dân tộc ta; đồng thời ông vạch rõ cái thế yếu, thế thua của giặc và cái thế không thể đương nổi của chính bản thân kẻ nhận thư đó. Với tướng ngụy, ông viết khác. ông nhấn mạnh vào tình quê hương Tổ quốc, vào cái thế không thể xa lìa được quê cha đất tổ: "Cáo chết còn quay đầu về núi” huống nữa con người. Ông tỏ niềm thông cảm với bọn ngụy quân, ngụy quyền, phải làm tay sai cho giặc là vì bất đắc dĩ, thế không thể đừng, chứ không phải do bản tâm muốn thế. ông cũng nêu rõ cái sức mạnh như vũ bão của nhân dân cả nước đang vùng lên để cứu nước cứu nhà; chúng cũng là dân một nước, không thể ôm mãi cái ngụy chức của giặc, chống lại chính nghĩa, đi ngược lại nguyện vọng của nhân dân cả nước. Những bức thư ấy, cách viết khác nhau mà những điều cơ bản lại rất giống nhau. Giống nhau ở chỗ thư nào cũng sáng ngời chính nghĩa của dân tộc và tràn đầy tình yêu nước nồng nàn của người viết. Từ trong thư toát lên một tinh thần tự hào dân tộc rất cao đẹp, một khí thế chiến đấu kiên cường để bảo vệ nền độc lập tự do của Tổ quốc, một sức mạnh hùng biện áp đảo địch, một tấm lòng nhân ái tuyệt vời, thu phục lòng người, lôi cuốn người đi theo lẽ phải, theo chính nghĩa. Thư nào ông cũng mở ra những lối thoát cho địch: ông nêu rõ chính sách khoan hồng, không giết kẻ đầu hàng và thái độ đối xử tử tế, ân cần của quân dân ta đối với tù hàng binh, kể cả địch lẫn ngụy. Thư của Nguyễn Trãi viết có sức mạnh đánh vào lòng người chính là ở những điểm cơ bản đó.

        Trước những bức thư dụ hàng, chính nghĩa sáng ngời, tình lý rạch ròi, ân uy đầy đủ như vậy, tướng nhà Minh là Trương Lân và tướng ngụy là Trần Vân, chỉ huy thành Điêu Diêu đem quân ra hàng, dâng thành cho ta.

        Đầu tháng 3 năm 1427, tướng giặc Đường Bảo Trinh ở Thị Cầu cũng mở cửa thành, đem quân ra hàng.

        Sau khi hạ ba thành trên đường lên Quảng Tây, cuối tháng 3 năm 1427, Nguyễn Trãi thân lên dụ hàng thành Tam Giang trên đường lên Vân Nam. Thành này do tướng Trịnh Khả vây hãm. Nguyễn Trãi đưa thư cho Lưu Thanh, tướng địch chỉ huy thành Tam Giang. Bức thư không viết với lời lẽ mềm mỏng, ngọt ngào, mà là một bức tối hậu thư gửi cho địch, lời lẽ rất quyết liệt:

            "Thư bảo cho tướng hiệu quan viên cùng quân nhân trong thành Tam Giang biết.

        Cái điều đáng quý ở người quân tử là biết thời thông biến, lượng sức xử mình. Bây giờ giá có người đem quả trúng chim chống đỡ núi Thái Sơn, lấy càng bọ ngựa ngăn cản bánh xe, mà lại tự cho là sức có thừa, thì thật là ngu quá vậy! Lũ ngươi có vài trăm quân, giữ thành trơ trọi mà lại muốn kháng cự với ta, thì có khác gì thế không? Thành trì của các người không cao sâu bằng ở Nghệ An, lương thực của các ngươi không súc tích bằng ở Diễn, An; mà quân vũ dũng cảm tử của các ngươi lại không đông bằng quân nhân ở Diễn, Nghệ, quan tước của các ngươi lại không to bằng Thái đô đốc. Thêm mà vệ quân ở các xứ Diễn, Nghệ, Thuận Hóa, Tân Bình, Thanh Hóa, Tiền Vệ (Tiền Vệ tức thành Điêu Diêu), Thị Cầu, Xương Giang, Trấn Giang (Trấn Giang tức ải Chi Lăng), đều đã mở thành ra hàng. Nay thấy dưới cây bồ đề (Cây bồ đề ở đây chi đại bản doanh Bồ Đề của nghĩa quân.), Thái đô đốc đã đinh nhật kỳ kéo quân về Kinh (Tức Kinh đô nhà Minh). Phàm quan quân cùng vợ con, tài sản không bị xâm phạm mảy may. Thế mà các người chỉ cứ theo sự giữ lầm, không biết lo xa, sao mà thấy biết sự cơ muộn thế! Tất cả những tướng sĩ của ta, không ai là không hăm hở muốn vác khí giới lên phá thành ngay. Nhưng ta còn nghĩ thương những kẻ vô tội ở trong thành đã bị các người lừa dối, một khi tiếng trống nổi lên, thì ngọc đá chẳng phân biệt gì, đều tan nát cả. Vậy viết mấy chữ gửi các ngươi hay”.

        Nhận được thư dụ hàng của Nguyễn Trãi, tướng giặc Lưu Thành lập tức mở cửa thành Tam Giang (Tam Giang là miền Việt Trì ngày nay) đem quân ra hàng.

        Đối với thành Đông Quan là nơi bọn chủ tướng giặc Vương Thông và đại bộ phận quân giặc đồn trú, các lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn chủ trương vây hãm và dụ hàng là chính. Các lãnh tụ nghĩa quân tin tưởng rằng chủ trương vây hãm và dụ hàng giặc ở thành Đông Quan nhất định sẽ thành công. Sự thành công ấy vừa không làm tổn hại nhiều xương máu quân sĩ, vừa gây lại được quan hệ hòa bình lâu dài giữa ta và nước láng giềng. Do đó các lãnh tụ nghĩa quân kiên trì chủ trương "vây thành diệt viện" - vây chặt giặc ở Đông Quan và đánh tiêu diệt các quân cứu viện của chúng.

        Về phía giặc ở Đông Quan, chúng cũng biết rõ cái thế thua của chúng, nhưng vẫn hy vọng viện bình sang cứu, cho nên chỉ khi nào viện binh bị tiêu diệt thì chúng mới chịu hàng.

        Nguyễn Trãi viết thư cho tướng giặc Vương Thông, khẳng định:

        “Viện binh đến, thế tất phải thua, viện binh thua, bọn các ông tất bị bắt".

        Và nghĩa quân Lam Sơn sẽ làm đúng như thế.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2016, 12:07:02 am

        IV. VỪA ĐÁNH VỪA ĐÀM, PHÁ TAN 15 VẠN VIỆN BINH ĐỊCH

        Để cắt đứt mọi liên lạc có thể có được giữa viện binh địch với quân đội của chúng trên các chiến trường Đại Việt, nghĩa quân Lam Sơn đã triệt hạ các thành mà quân Minh chiếm giữ trên hai con đường từ Đông Quan lên Lê Hoa phía Vân Nam và từ Đông Quan lên Pha Lũy (ải Nam Quan sau này) phía Quảng Tây. Duy còn thành Xương Giang (Bắc Giang) giặc chiếm giữ, nằm giữa con đường từ Đông Quan lên Pha Lũy là chưa hạ xong.

        Nguyễn Trãi viết cho tướng giặc ở thành Xương Giang một bức thư khuyên chúng nên hàng. Thư có đoạn:

            “Ta vâng theo mệnh trời, lấy đại nghĩa dẹp giặc. Nghĩ cơ đồ tổ tông nghiêng ngửa, thương dân chúng lầm than, đánh thành, lấy đất, không giết một người. Cho nên đánh đông dẹp tây, tới đâu thắng đấy. Thành Xương Giang nhỏ mọn dám trái mệnh, nên căm thù tiến đánh, nghĩa phải thế, việc không thể đừng. Nhưng, đem núi Thái Sơn đè lên quả trứng, "lực" không chịu nổi chốc lát, lấy lửa hồng thiêu đốt sợi lông, “thế” khó đương trong khoảnh khắc. Vả lại "dĩ thuận thảo nghịch, hà hoạn bất tòng, dĩ cường công nhược, hà ưu bất khắc" (lấy thuận đánh nghịch, lo gì không theo; lấy mạnh đánh yếu lo gì không thắng). Vậy mà còn một mực lấy lời khuyên dụ, chính vì coi mạng người trong thành làm trọng, không nỡ để thương vong...

        Bọn các ngươi, nếu trên biết thiên thời, dưới hiểu nhân sự, thì sẽ giữ được lộc vị đến vô cùng, tránh cho cả một thành khỏi bị chém giết. Các người được tiếng là người tướng tri thức mà ta không mất tiếng là người tướng nhân nghĩa. Nếu như các người cứ mê muội không hiểu gì, thì đến ngày thành bị hạ, ngọc đá không phân biệt nữa, đó không phải vì ta bạo ngược mà chính là vì các người tự làm nên tội. Giờ là lúc còn mất nguy cấp vậy. Nên suy tính kỹ, đừng để sau phải hối".

        Nhưng quân Minh ở đây ngoan cố chưa chịu hàng, chúng muốn chờ viện binh tới cứu. Nguyễn Trãi viếtthư dụ hàng lần nữa. Các lãnh tụ nghĩa quân cho Thái Phúc cùng mấy hàng tướng khác hai ba lần tới chân thành Xương Giang khuyên gọi giặc ra hàng. Quân Minh vẫn muốn chờ viện binh tới cứu.

        Các tướng Trần Nguyên Hãn, Lê Sát đang vây thành được lệnh tiến công. Thành bị hạ. Toàn bộ tướng giặc phải tự tử. Phần lớn quân Minh bị bắt sống. Chiến thắng thật giòn giã.

        Không nhận thư lui quân, chủ tướng giặc Liễu Thăng tan xác.

        Viện binh của quân Minh chia làm hai đạo, do những tướng giỏi bậc nhất của chúng cầm đầu, theo hai đường tiến sang Đại Việt. Một đạo gồm năm vạn quân và một vạn ngựa do tướng Mộc Thạnh làm tổng binh và hai tướng Từ Hanh, Đàm Trung làm tả hữu phó tổng binh, theo đường Vân Nam tiến sang. Một đạo gồm 10 vạn quân, 2 vạn ngựa do tướng Liễu Thăng làm tổng binh, tướng Lương Minh là phó tổng binh, đô đốc Thôi Tụ làm hữu tham tướng và hai thượng thư làm tham tán quân vụ là Binh bộ thượng thư Lý Khánh và Công bộ thượng thư Hoàng Phúc. Khoảng đầu tháng 10 năm 1427, hai đạo viện binh của giặc tới gần biên giới Đại Việt.

        Biết đạo quân Liễu Thăng sẽ vượt biên giới sang trước, nghĩa quân Lam Sơn chuẩn bị đánh đạo quân này. Khi 10 vạn quân của Liễu Thăng đánh vào cửa ải Pha Lũy, tướng nghĩa quân Lam Sơn trấn giữ Pha Lũy là Trần Lựu theo kế hoạch vừa chiến đấu vừa lui dần về Chi Lăng. Khi rút, Trần Lựu gửi cho Liễu Thăng một bức thư của Nguyễn Trãi. Thư viết:

            "Ta nghe nói: vương giả chi sư, hữu chinh vô chiến; nhân nghĩa chi cử, vụ tại an dân (quân của vương giả dẹp mà không đánh, làm việc nhân nghĩa cốt để yên dân)...

            Nay nghe đại nhân thốt nhiên tới biên cảnh. Vừa sợ vừa mừng. Đó là binh cứu viện chăng? Hay là binh tới để dựng lại nước đã diệt, nối lại dòng đã tuyệt chăng? Đã hơn hai mươi năm, binh họa liên miên. Quân lính Trung Quốc mười phần không còn một. Dân nước tôi cũng chết uổng nhiều. Được không bù lại mất. Thu vào chẳng bõ những cái mất đi. Nói tới những điều đó chắc các ông không thích nghe ...

            ... Nay các ông không nghĩ tới điều đó, đem quân trơ trọi đi sâu vào đất người, cầu mong lập công. Ta cho rằng các ông không thể làm nên chuyện gì. Vả nọc ong còn có độc, huống chi người cả nước ta, há lại không ai có mưu chí dũng lược sao. Các ông chớ thấy ta ít người mà coi thường. Đến lúc ấy, lòng thành của nước ta đối với nước lớn thật là thiếu, mà các ông thì hối không kịp...”

        Liễu Thăng xem thư, tức khí, hăm hở cho quân theo đường Chi Lăng thẳng tiến.

        Chi Lăng là một quan ải xung yếu nhất trên con đường từ Pha Lũy tới Đông Quan và đã là mồ chôn quân cướp nước ở nhiều thời đại trước. Với địa thế hiểm trở, ải Chi Lăng rất thuận lợi cho việc đặt mai phục của quân ta. Một vạn quân của các tướng Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Lĩnh, Đinh Liệt, Lê Thụ mai phục sẵn để chờ Liễu Thăng đến.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2016, 12:07:34 am

        Khi Liễu Thăng còn cách vài dặm đường, tướng Trần Lựu và nghĩa quân từ trong Chi Lăng tiến ra đón đánh. Trần Lựu vừa đánh vừa lui. Liễu Thăng hăm hở đem một vạn quân tiên phong đi trước mở đường, tiến thẳng vào Chi Lăng. Không thấy quân ta, hắn chủ quan tưởng quân ta bỏ chạy, vội cùng hơn 100 kỵ binh băng lên đuổi, cả vạn quân tiên phong chạy theo sau. Liễu Thăng hung hăng xông xáo như vào chỗ không người. Tới cánh đồng lầy chân núi Mã Yên, có cầu bắc qua đồng lầy, Liễu Thăng và hơn 100 kỵ binh vượt sang khỏi cầu thì cầu sập. Quân tiên phong giặc bị chia cắt đội hình. Phục binh của ta bốn bề tung ra, đánh rất quyết liệt. Toàn bộ quân tiên phong của giặc bị giết, Liễu Thăng trúng lao, chết ngay tại trận.

        Không nhận dụ hàng, tướng giặc Lương Minh bỏ mạng

        Liễu Thăng chết trận, phó tổng binh Lương Minh lên thay cầm quyền chủ tướng. Nguyễn Trãi viết thư cho chủ tướng mới của giặc, trong thư có những đoạn:

            " … Nay các ông đem quân đi sâu vào, chính là bị hãm vào thế trong miệng cọp, muốn tiến công không được, muốn lui không hay. Còn ta thì nhân thế chẻ tre, sau khi chẻ được mấy đốt, cứ lọng lưỡi dao mà chẻ đi, thực không khó gì...

            Trước đây, các thành Tân Bình, Thuận Hóa, Diễn Châu, Nghệ An và Tiền, Hậu Vệ, Thị Kiều, Xương Giang, Tam Giang đều đã mở cửa thành, cởi áo giáp cùng ta hòa giải. Phàm hết thảy quan quân, đàn ông, đàn bà, lớn bé, cộng mấy vạn người, ta sai thu nuôi tất cả, không xâm phạm một chút nào. Xin các ông lui ngay quân ra ngoài bờ cõi, ta tự dẹp mở lối về, cho các ông được thung dung đem quân về, ta sẽ đem các quan lại đàn ông, đàn bà nói trên kia trao tất cả ở ngoài bờ cõi. Như thế thì các ông có thể ngồi hưởng thành công mà Nam, Bắc từ nay vô sự, há chẳng hay ư? Nếu có thể thôi được mà không thôi, là do các ông. . . ".

        Quân giặc còn chín vạn người, vẫn là một đạo quân lớn, nên tướng giặc Lương Minh ngoan cố, vẫn cứ tiến xuống. Chúng tới Cần Trạm, quân mai phục của ta xông ra vây kín. Chủ tướng giặc Lương Minh bị giết trong vòng vây. Tham tướng giặc Thôi Tụ lên cầm quyền chủ tướng, vẫn ngoan cố tiến quân xuống Xương Giang.

        Khi quân Minh tới Xương Giang thì thành đã bị quân ta đánh lấy từ trước, chúng tiến thoái lưỡng nan. Tuy vậy, lực lượng viện binh còn bảy vạn quân nên chúng vẫn chống lại. Không vào được thành Xương Giang, chúng đóng quân ở ngoài đồng, làm gấp công sự, dựng rào, đắp lũy và ngày đêm bắn pháo hiệu để báo tin cho quân của chúng ở hai thành Đông Quan, Bình Than tới cứu.

        Nghĩa quân Lam Sơn tạm thời vây hãm chúng tại đây để đánh đạo quân Mộc Thạnh ở phía biên giới Vân Nam trước .

        Vừa đánh vừa dàm, đánh tan quân Mộc Thạnh

        Mộc Thạnh ở Vân Nam đóng quân gần biên ải Lê Hoa của ta. Tại biên ải có các tướng của nghĩa quân Lam Sơn là Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả làm nhiệm vụ chặn đánh không cho đại quân Mộc Thạnh tiến sang. Sau khi vây hãm quân Thôi Tụ ở Xương Giang, các lãnh tụ Lam Sơn cho đưa tới Lê Hoa một tên chỉ huy, ba tên thiên hộ giặc bị bắt trong các trận Chi Lăng, Cần Trạm, cùng các sắc thư, phù tín, ấn chương của Liễu Thăng và một bức thư của Nguyễn Trãi, để các tướng của ta chuyển sang cho Mộc Thạnh.

        Trong thư có những đoạn:

            “Từ bấy đến nay, binh đao liền liền, tai họa chồng chất, hơn hai mươi năm, không lúc nào yên. Cái lấy được không bù nổi cái mất đi, số người bắt được không bù lại số người chết đi. Huống chi, nếu lấy được đất … không thể đem dân ... tới ở được, bắt được dân ... không thể dùng để phục dịch... Thê' thì việc được hay hỏng, lẽ phải hay trái, há chằng rõ ràng lắm ư? …

            Ngày tháng 9 năm nay An Viễn hầu Liễu Thăng thống lĩnh đại quân tới địa phận thành Khâu Ôn. Ta hai ba lần đưa thư nói rõ thiên thời, nhân sự, nói đi nói lại không ngại nhiều lời. Nhưng Liễu công không cho lời nói của ta là đáng tin, mạo hiểm tiến quân vào sâu, chuyên việc chém giết.

        Ngày 20 tháng 9, tiến quân đến ải Chi Lăng, quân sĩ giữ ải của ta không làm thê' nào được, phải chống cự. Liễu công chết mất xác tại trận tiền. Bảo định bá, Thôi đô đốc, Lý thượng thư cũng nối nhau chết nốt. Quân lính chạy trốn, tan tác hết...

        Trước đây, các thành Tân Bình, Thuận Hóa, Diễn Châu, Nghệ An, Tiền Vệ, Xương Giang, Thị Cầu, Tam Giang, Trấn Di, đều ra thành, cởi giáp cùng ta hòa giải. Quan lại, quân nhân, cộng mấy vạn người, ta nhất nhất thu nuôi cả, không mảy may xâm phạm.

        Nay hãy đem tướng sĩ của Liễu Thăng mà ta đã bắt được, trả về quân doanh. . . ".


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2016, 12:08:49 am

        Nhận được sắc ấn cùng mấy tỳ tướng của Liễu Thăng và đọc thư của Nguyễn Trãi, Mộc Thạnh quả thật lo ngại không dám tiến nữa mà đem quân chạy trốn. Nhưng các tướng của ta đã kịp thời đánh cho đạo quân Mộc Thạnh thiệt hại nặng nề tại hai nơi: Lãnh Câu và Đan Xá, gần biên giới Hà Tuyên ngày nay, giết chết hơn một vạn giặc, bắt hơn một nghìn tên và trên một nghìn ngựa, thu được rất nhiều khí giới, của báu và xe lương. Giặc bị chết đuối ở khe suối nhiều không kể xiết. Sử cũ ghi: quân địch hoàn toàn tan vỡ "Mộc Thạnh chỉ kịp một mình một ngựa chạy thoát thân" (Đại Việt sử ký toàn thư).

        Nguyễn Trãi thuật lại chiến thắng rực rỡ này trong Bình Ngô đại cáo:

       “Binh Vân Nam bị quân ta chặn đánh ở Lê Hoa, sợ mà vỡ mật.
        Bọn Mộc Thạnh nghe quân Thăng thua to nơi Cần Trạm, bỏ chạy thoát thân. 
        Lãnh Câu, máu chảy đầy dòng, nước sông nức nở.
        Đan Xá, thây chồng khắp núi, cỏ nội đẫm hồng".


        Từ chối dụ hàng, bảy vạn viện binh giặc bị tiêu diệt hoàn toàn

        Đánh tan đạo quân Mộc Thạnh, các lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn quay sang định đoạt số phận quân địch ở Xương Giang. Bọn này đã thất bại thảm hại, lại bị vây hãm trong thành, ngày càng khốn đốn. Nguyễn Trãi và các lãnh tụ nghĩa quân có ý định cho chúng đầu hàng, tha cho chúng về nước như chủ trương đối với giặc ở Đông Quan và một vài thành khác chưa bị hạ. Vì thế, Nguyễn Trãi viết thư dụ hàng bọn Thôi Tụ. Chúng không trả lời. Nguyễn Trãi kiên trì đưa tiếp mấy thư. Có thư ông viết:

            "Trước đây, mấy lần ta gửi thư, nói về lẽ thành bại của nước, nỗi vui buồn của dân. Những việc ấy có quan hệ với nhau rất nhiều. Người có chí vỗ yên bờ cõi, há chẳng lấy đó làm lo sợ. Ta không rõ những thư trước có tới nơi hay không? …

        Nay An Viễn hầu Liễu đại nhân thống lĩnh đại quân vào nước ta, ta đã đưa thư nói rõ nên trên xét thiên thời, dưới coi nhân sự... Không may, các đại nhân cho là lời nói không đáng nghe, đem quân đi sâu vào nước ta, quân sĩ giữ bờ cõi của ta không làm thế nào khác được, cũng như chim cùng thì mổ, thú cùng thì vồ. Trong khi vội vàng, còn thì giờ đâu mà nghĩ đến lễ nghĩa. . .

        Tính việc ngày nay, không gì bằng lui quân ra ngoài bờ cõi, ta lập tức trả hết những quân nhân đã bắt được ở các thành. Rồi đem thư của ta tâu rõ về triều. May ra lời bàn của triều đình ưng thuận, thì các ông có thể không mất tiếng tốt mà Nam, Bắc từ nay vô sự . . ".

        Bọn tướng giặc Thôi Tụ vẫn lúng túng, không biết làm như thế nào, nên không trả lời. Nguyễn Trãi đưa một thư cuối cùng, như một tối hậu thư, nói rõ là mở đường về cho chúng và hẹn cho chúng trong ba ngày phải lên đường. Thư ông viết:

         “Ta nghe nói: mưu việc từ khi việc chưa xảy ra thì dễ tính, để việc xảy ra mới tính, thì tính không kịp. Ta đã hai ba lần đưa thư, không ngại nói đi nói lại nhiều lời...

        Nay ta đã răn bảo quân sĩ, rộng mở đường về, từ Cần Trạm đến Khâu Ôn, khi đại quân đi qua, sẽ không xâm phạm mảy may. Hạn trong ba ngày, các ông phải thu xếp lên đường. Trù trừ quá. hạn ấy là các ông thất tín, không phải lỗi tại ta. . .

        Các ông còn nấn ná chưa đi, chắc có ý muốn trông chờ quân ở Đông Quan lên ứng cứu hoặc quân ủy Vân Nam sang tiếp viện. Nhưng, từ Đông Quan lên đây, chỉ một ngày đường, không cần phải cầu cũng có thể tự đến cứu được. Vậy mà cam tâm làm ngơ ngồi nhìn, không thấy đau xót thay. Thế thì điều các ông trông đợi ở quân Đông Quan là tuyệt vọng.

        Còn như Kiều quốc công ở Vân Nam, trước đây cùng các ông vâng mệnh họp quân. Nhưng Kiều đại nhân, tuổi cao đức cả, sớm biết lẽ phải, hiểu rõ sự việc mới tới biên giới, lập tức cho người dò thăm hư thực, được tin trước đây thành trì các xứ Tam Giang, đều đã hòa giải, bèn lui quân về Lâm An, làm tờ tâu về triều. Ta cũng đem những quân nhân của các ông mà ta đã bắt được trao lại cho Kiều đại nhân và nói rõ việc An viễn hầu, Bảo định bá, Lý thượng thư bị chết. Kiều đại nhân hiện đã lui quân về Vân Nam. Như thế, bọn các ông trông đợi ở đạo quân Vân Nam cũng là tuyệt vọng nốt.

        Hai mặt trông đợi đều đã tuyệt vọng. Quân nhân ngày một chết thêm, lương thực lại cạn, các ông còn chờ đợi gì mà nấn ná chưa đi? … Sao mà xét việc câu chấp, mưu việc lâu muộn thế "

        Thư từ khuyên dụ như vậy, nhưng bọn Thôi Tụ vẫn ngoan cố đóng chặt trong thành, không tiến, không lui, cũng không cầu hòa. Chúng vẫn trông chờ quân cứu viện.

        Nghĩa quân ở Xương Giang được lệnh tiến công địch. Mấy vạn quân ta xung phong quyết liệt. Hàng ngũ địch tan rã nhanh chóng. Hơn năm vạn địch bị giết tại trận. Hơn một vạn tên bị bắt trong đó có chủ tướng Thôi Tụ cùng hơn 300 tướng lĩnh. Nghĩa quân thu được rất nhiều ngựa, vũ khí, vàng bạc, lụa là đoạn vóc "từng đống, từng hòm, chứa chất như núi, không kể xiết". Trong bảy vạn quân địch, chỉ có một tên quan nhỏ trốn thoát, chạy về Trung Quốc.

        Chiến thắng Xương Giang cùng với những chiến thắng Chi Lăng, Cần Trạm, Lãnh Câu, Đan Xá là những võ công to lớn. Trong vòng một tháng, ta đã tiêu diệt hoàn toàn 15 vạn viện binh và 3 vạn ngựa của địch, lần lượt giết hết các chủ tướng, bắt sống và cầm tù toàn bộ tướng lĩnh của địch. Những trận đại phá viện binh địch không những tiêu diệt gọn toàn bộ 15 vạn viện binh mà còn tiêu diệt cả ý chí cố thủ của 10 vạn quân địch trong thành Đông Quan; đúng như nhận định của Nguyễn Trãi: viện binh giặc bị diệt thì giặc trong thành phải hàng.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2016, 12:10:22 am

       V. HỘI THỀ ĐÔNG QUAN BẮT HÀNG MƯỜI VẠN GIẶC, CHẤM DỨT CHIẾN TRANH

        Đánh tan hai đạo viện binh địch, các lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn chủ trương tiếp tục dụ hàng địch trong các thành. Đối với địch ở Đông Quan, để làm chúng mất tin tưởng trông chờ ở viện binh, Lê Lợi cho giải bọn đô đốc Thôi Tụ cùng một số tù binh mang binh phù nguyên soái của Liễu Thăng, hai ấn thượng thư bằng bạc của Lý Khánh, Hoàng Phúc với một ít vũ khí, chiêng trống, sổ sách của viện binh địch tới trước thành Đông Quan, gọi địch ra xem, lại trao cho chúng một bức thư của Nguyễn Trãi nói rõ sự thất bại thảm hại của viện binh và khuyên chúng đầu hàng. Trong thư, Nguyễn Trãi viết:

            " ... Nay hãy đem những việc đã qua kể lại từng việc các đại nhân nghe, sau lấy việc ngày nay tỏ lòng tường tận để thấy nên chăng.

        Khi trước, việc ước hòa không những làm cho tôi và các đại nhân được yên lòng mà cả quân sĩ hai nước cũng thế. Ai cũng vui mừng nhảy nhót, tự bảo: Nam, Bắc từ nay vô sự. Nhưng không hiểu sao, hai ông Phương (Chính), Mã (Anh), cố chấp ý riêng, không biết thông biến, đã ngăn cản việc ước hòa. Người xưa có câu "lời nói làm hỏng việc", há chẳng phải sao? Từ đấy thân thiết hóa thành thù địch, yên chuyển thành nguy... Việc ấy lỗi tại ai? Song việc trước đã qua, không thể lấy lại được nữa.

        Nay An viễn hầu Liễu Thăng vâng mệnh đem hơn mười vạn binh tới Quảng Tây, hai lần sắc thư gọi về, Liễu Thăng đã trót cầm quân, cưỡng mệnh cứ đi .

        Trái lòng người, nghịch lệnh vua, tiến quân tới cửa ải Chi Lăng, cùng quân sĩ giữ ải của ta giao tranh một trận kịch liệt, cuối cùng bị quân ta giết tại trận. Bảo định bá thu thập tàn quân, ngày 25 tiến đến Cần Trạm, lại bị quân ta giết chết, Lý thượng thư cũng tử trận. Duy một mình Thôi đô đốc chạy thoát, nhưng vẫn tức tối không thôi, ngày 28 tiến quân đến Phố Cát, lại bị quân ta đánh bại. Quân sĩ mạnh ai nấy chạy, ẩn trốn tan tác, khí giới mất hết, chỉ còn lại hơn một vạn tàn quân. Quân ta đến nơi bao vây bốn mặt, muốn tiến không hay, muốn lui không được. Đến nay đã một tháng 14 ngày, lương thực hết cả, quân nhân chết đói xác chất thành núi. Kế cùng sức hết, bèn xông vào vòng vây mạo hiểm ra đánh, từ giờ Mão đến giờ Thân, sức không thể chống được. Quân của ông Thôi khi đó bị đánh giết gần hết, chỉ còn lại người gầy yếu ốm đau, tự mở cửa trại ra hàng. . .

        Ví bằng việc hòa giải đã xong, thì ngày nay tất không có cái họa Liễu Thăng...

        Nay đem chân tình thực ý, phúc báo để cùng biết. Nếu như các đại nhân lại theo đúng ước xưa, tôi mong được Sơn đại nhân (Sơn Thọ) qua sông cùng họp, tôi sẽ lui quân về các vùng Thanh Đàm, Ái Giang, để cho đại nhân được thung dung trở về nước.

        Nếu không thế, nhận mệnh vào đám tên đạn, để quyết sống mái, thì tôi xin quyết cùng mà làm, cần gì phải nói đi nói lại mãi làm gì?”.

        Thấy viện binh đã tan, kế đã cùng, bọn Vương Thông vừa lo sợ, vừa bối rối, không biết nên xử trí như thế nào. Chúng ở trong cảnh hoàn toàn bế tắc: quân cô, lực kiệt, viện tuyệt, thế cùng, mà hàng thì sợ bị giết, đành kéo dài cố thủ trong thành.

        Các lãnh tụ nghĩa quân ra lệnh tăng cường vây hãm. Địch hoảng sợ. Đằng nào cũng chết, địch quyết định cứ liều đánh ra, may có cơ hội vượt được vây, về được nước. Chủ tướng địch Vương Thông dốc hết quân, tự mình làm tướng, mở cửa thành ra đánh. Nghĩa quân nghênh chiến, đưa địch vào chỗ phục kích, đánh cho tan tác và truy kích đến tận cửa Nam thành Đông Quan. Địch tuyệt vọng, thấy không thể cưỡng lại được nữa, đành gửi thư cầu hòa, bày tỏ nỗi lo sợ bị đánh. Nguyễn Trãi viết thư trả lời, đưa ra vấn đề hai bên trao đổi những người thân tín làm con tin, để địch yên lòng:

            "Ngày nọ, ta đưa thư, không thấy trả lời. Cho thông sự đi, e khẩn thuyết vô bằng, song việc ngày trước đã qua, nói không lại được...

        Ta muốn phiền Sơn đại nhân là người cao tuổi qua sông cùng họp. Ta cũng cho một hai đầu mục hoặc người thân tín vào thành hầu tiếp. có như thế, hai bên mới khỏi nghi ngờ nhau: Ta lập tức lui quân, mở lại đường về. Đại nhân còn muốn bảo gì ta đều nhất nhất nghe theo. Nếu không thế thì nói muôn nghìn lời cũng là vô ích. . . ".

        Bọn Vương Thông sợ chết, muốn hàng, nhưng dùng dằng không muốn bỏ thành, nên đã ra nhiều lý lẽ để trì hoãn đầu hàng.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2016, 12:12:45 am

        Chúng viện lẽ: tướng đem quân ra cõi ngoài, không thể tự quyền, bỏ đất, cho người khác mà về, cho nên việc chúng ở hay về phải đợi lệnh triều đình của chúng. Như vậy là địch chỉ muốn đình chiến chứ chưa đầu hàng. Nguyễn Trãi đã viết thư bác bỏ lý lẽ của địch:

        "Về việc ta muốn đại nhân rút quân, trước sau không thay đổi . . . Nhưng bảo "lấy đất đem cho người khác, là bày tôi không được quyền tự chuyện", ta cho là không đúng.

        Từ xưa, đế vương trị thiên hạ, chẳng qua chỉ có chín châu. Giao Chỉ là ở ngoài chín châu. Như thế, rõ ràng từ xưa, Giao Chỉ không phải là đất Trung Quốc. Huống chi, lấy đất ở cõi xa, không dùng làm gì nếu giữ chỉ thêm tốn cho Trung Quốc, bỏ đi dân Trung Quốc có thể dễ sống hơn. Như thế, bỏ hay giữ, nên hay không nên, cho tới muôn đời sau, ta vẫn nói rõ được. . .

        Còn như nói: không có việc nước nhỏ chống lại nước lớn, làm cho Di trông vào. Ta hiểu khác thế... Thái vương nhà Chu thờ nước Huân Dục, Văn Đê' nhà Hán hòa với Hung Nô (Huân Dục, Hung Nô là nước nhỏ. Thái Vương, Văn Đế là vua nước lớn). Hai vua ấy há chẳng đáng làm khuôn phép cho muôn đời sau ư? Vả lại, nay ta... lại đem quan quân bắt được, hơn mấy vạn người, hơn mấy vạn ngựa, cùng Hoàng thượng thư, Thái đô đốc và các đô ty, chỉ huy, thiên hộ, bách hộ, hơn một vạn người, trả hết về kinh sư. Như thế sao lại là chống lại nước lớn. . .

        Ta nghe: Vương giả trị nước ngoài, không trị mà hóa ra trị. Chưa bao giờ thấy làm nhọc dân, đem quân ra đóng ở chỗ đất vô dụng mà lại là làm cho bốn rợ, muôn nước trông vào. Không rõ đại nhân thấy như thế nào.

        Ngày nay, quân của nhà vua tiến hay lùi, chính là do đại nhân, đặt quyền thông biến, quyết định mà thôi”.

        Nguyễn Trãi bác bỏ cái gọi là "giả đất", “cho đất", lời lẽ thật đanh thép. Vương Thông không thể làm cách nào khác, đành phải viết thư nói rõ chúng muốn hàng, nhưng sợ bị cầm tù, không được thả cho về nước.

        Để vạch rõ chủ trương hòa bình, nhân đạo của ta, Nguyễn Trãi viết cho Vương Thông:

        “Trước đây, ta bắt quan quân các thành, việc đó không cần nói lại. Nay ta cũng mới bắt được quan quân: binh sĩ tới trên hai vạn người, các chức thượng thư, đô đốc, đô ty, chỉ huy, thiên hộ, bách hộ có tới hơn trăm người, ngựa ba nghìn con. Như thế, há phải là ta lừa dối mà bắt được? Hay chỉ là bất đắc dĩ mà phải bắt. Nay ta giữ mấy vạn người ấy ở lại phục dịch ta thì cũng chẳng ích gì cho ta, mà triều đình mất mấy vạn người ấy thì cũng chẳng tổn hại gì. Ta liệu định số quân trong thành của các đại nhân bất quá chỉ vài vạn người. Ta có tìm cách lừa dối để bắt thì cũng chẳng ích gì cho công việc của ta. . .

        Nay đại nhân mang tiết việt, chuyên đánh dẹp việc quân ở cõi ngoài có thể tùy tiện xử trí. Vả lại, việc binh không thể ở xa mà định đoạt. Lời nói: “đại tướng ở ngoài cõi, mệnh vua có thể không tuân theo" há phải là không đáng tin. Lại bảo rằng: "chết mà ích cho nước cũng đáng; chết mà không ích gì cho nước, chỉ là chết uổng". Vậy, thế nào là có ích, thế nào là không có ích. . . Nay bọn các ông giữ một thành trơ trọi, tự bảo là để chịu chết với thành, thì có ích gì cho nước. Ví thử, giữ được thành, không để mất thành, thì cũng có ích gì cho nước. Câu nói: "Tham hư danh mà phải thực họa", thật đúng.

        Nay hãy gác việc ấy mà bàn: nếu đại nhân quả cho ta nói là phải thì nên theo lời ước trước, cho Sơn thái giám (Sơn Thọ) sang sông cùng hội họp. Ta cũng cho người thân tín vào thành hầu tiếp, để cho lời giao ước được chắc chắn, sau đó sẽ lui quân về các vùng Thanh Đàm, Lũy Giang, để đại nhân thung dung đem quân về nước. Phàm đường sá, cầu cống, lương thực cho đại quân ăn đường, cùng sản vật địa phương để tiến công và biểu tâu cung kính, các thứ ta đều sẵn sàng. Các ông Hoàng thượng thư, Thái đô đốc cũng đã vì ta, dâng lời tâu về triều. Nếu đại nhân suy lòng như lòng người, thì sao ta phụ bạc được. Trái lại, vì kéo dài năm tháng, lấy lời nói lừa dối nhau, muốn đợi quân khác cứu viện, như trước đã làm, ngoài mặt giả hòa, trong ngầm mưu khác. Rồi đại quân kéo sang, khiến ta lại phải cùng một lúc đương đầu với địch ở cả hai phía, trước mặt và sau lưng. Như thế thì kẻ ngu phu ngu phụ cũng chẳng tin, huống chi ta, dù vô mưu, cũng không sao tin được. . . " .

        Những lời khuyên dụ kiên trì của Nguyễn Trãi tác động mạnh tới tinh thần tướng địch. Chúng xin làm theo lời Nguyễn Trãi, tự định việc rút quân về.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2016, 12:14:19 am

        Vì nghĩa lớn của dân tộc, vì lợi ích của nước nhà, Nguyễn Trãi và các lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn từ lâu vẫn chủ trương dụ hàng quân địch trong thành, thả cho chúng được toàn quân, toàn mạng về nước. Chủ trương này, Nguyễn Trãi đã từng nhấn mạnh:

        Nó đã sợ chết tham sống, phải thành khẩn cầu hòa
        Ta để cho giặc toàn quân, mà dân ta được nghỉ.
        Chẳng những là mưu kế cực sâu xa
        Mà cũng thật cổ kim chưa đã thấy.


                                 (Bình Ngô đại cáo)

        Điều kiện trước tiên đề ra cho địch là chúng phải cùng các lãnh tụ nghĩa quân dự hội thề, sau đó mới ấn định kế hoạch rút quân và tiến hành những biện pháp cần thiết cho việc thực hiện kế hoạch đó. Các lãnh tụ nghĩa quân cho tổ chức hội thề tại phía nam thành Đông Quan, bên sông Hồng.

        Ngày 10 tháng 12 năm 1427, chủ tướng Vương Thông cùng toàn thể các tướng lĩnh, quan lại cao cấp của địch tới dự hội thề. Thật là những giờ phút vinh dự của những người chiến thắng. Trong buổi lễ chủ tướng Vương Thông thay mặt toàn thể quân giặc, trịnh trọng xin thề:

            " …Tổng binh quan Thành sơn hầu Vương Thông quả tự lòng thành, đúng theo lời bàn, đem quân về nước, không thể kéo dài năm tháng để đợi viện binh đến nơi. Lại phải theo đúng sự lý bản tâu, đúng lời bàn trước mà làm. . .

        …Nếu không có lòng thực, lại tự trái lời thề, người phục dịch và các thuyền đã định rồi, cầu đập đường sá đã sửa rồi, mà không làm theo lời bàn, lập tức đem quân về nước, còn kéo dài năm tháng để đợi viện binh, cùng là ngày về đến triều đình lại không theo sự lý trong bản tâu, không sợ thần linh núi sông ở nước An Nam lại bàn khác đi, hoặc cho quan quân đi qua đâu cướp bóc nhân dân đó, thì Trời Đất cùng là Danh sơn, Đại xuyên và thần kỳ các xứ tất đem bọn tổng binh quan Thành sơn hầu Vương Thông, tụ bản thân cho đến cả nhà thân thích, làm cho chết hết, và cả đến quan quân cũng không một người nào về được đến nhà...".

        Lập hội thề là một việc nhỏ, nhưng ý nghĩa chiến thắng rất lớn. Bắt hàng chục vạn tên giặc phải đầu hàng, phải xin thề không dám chiếm đóng, không dám xâm lược, phá phách, để được toàn mạng về nước, như thế quả là "cổ kim chưa đã thấy” như Nguyễn Trãi đã nói trong Bình Ngô đại cáo.

        Sau hội thề, các lãnh tụ nghĩa quân cấp đủ số lương ăn đường cho hơn mười vạn quân Minh và cấp cho chúng hơn 500 chiến thuyền để đi đường thủy, 2 vạn ngựa để đi đường bộ.

        Theo quy định của các lãnh tụ Lam Sơn tại hội thề Đông Quan, đúng ngày 19 tháng 12 năm 1427, hơn 10 vạn quân Minh bắt đầu lên đường về Trung Quốc. Trước ngày lên đường, chủ tướng Vương Thông sang đại bản doanh nghĩa quân chào từ biệt và ở lại một đêm cùng các lãnh tụ và tướng lĩnh nghĩa quân vui chơi, trò chuyện cởi mở chân thật. Khi Vương Thông lên đường, các lãnh tụ nghĩa quân tiễn tặng rất hậu trọng. Vương Thông vô cùng cảm động; không chỉ chủ tướng cảm động, tỏ tình lưu luyến khi chia tay, mà toàn quân giặc đều cảm động, vui sướng trước thái độ khoan hồng, nhân dạo và trước những cử chỉ cao đẹp của quân dân ta. Trước ngày lên đường về nước, trên 10 vạn người Minh được tha, cả quân lẫn tướng đều đến quân doanh Bồ Đề, lạy tạ Bình Định vương Lê Lợi, người lãnh tụ tối cao của nghĩa quân Lam Sơn, người đã cùng Nguyễn Trãi và các tướng lĩnh nghĩa quân kiên quyết thi hành một đường lối kết thúc chiến tranh rất sáng tạo và rất nhân nghĩa:

                         Nghĩ kế nước nhà trường cửu
                         Tha cho mười vạn hàng binh
                         Gây lại hòa hảo cho hai nước
                         Dập tắt chiến tranh cho muôn đời

                                 (Nguyễn Trãi - Phú núi Chí Linh)

        Sự nghiệp chiến đấu chống xâm lược của Lê Lợi, Nguyễn Trãi và quân dân ta thời đó còn có tác dụng quan trọng là chặn đứng và dập tắt cuồng vọng bành trướng của nhà Minh xuống Đông Nam châu Á, chấm dứt họa "Hạ Tây dương” của bọn Trịnh Hòa, một hình thức vừa uy hiếp quân sự, vừa cướp biển của triều Minh thời đó.

        Sau chiến tranh với Việt Nam, triều Minh Trung - Quốc suy yếu nghiêm trọng, mất hẳn khả năng bành trướng, xâm lược nước khác, mà khả năng tự vệ, giữ nước, cũng rất bạc nhược. Năm 1449, người Ngõa Lạt là một bộ tộc ở Mông Cổ tiến công Trung Quốc. Hoàng đế nhà Minh lúc ấy là Chu Kỳ Chấn, tức Minh Anh Tông thân cầm 10 vạn quân đi đánh, nhưng đại bại. Minh Anh Tông bị người Ngõa Lạt bắt. Một năm sau, Minh Anh Tông mới được Ngõa Lạt thả cho về nước.

        Trong sự nghiệp đánh đuổi quân Minh đô hộ, có phần đóng góp công lao rất quan trọng của Nguyễn Trãi . Ông vừa giỏi về quân sự, vừa giỏi về ngoại giao, kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao để đánh thắng địch. Nguyễn Trãi đấu tranh ngoại giao với địch rất linh hoạt, sắc bén, đúng thời cơ sát với từng tình huống cụ thể của chiến trường. Khi đã giành thắng lợi quyết định bằng quân sự thì tiến hành đàm phán hòa bình, dùng ngoại giao để phát huy thắng lợi quân sự và chấm dứt chiến tranh, đặt lại quan hệ bình thường giữa hai nước.

        Công tác ngoại giao của Nguyễn Trãi đã góp phần quan trọng vào công cuộc đánh thắng hoàn toàn quân Minh xâm lược. Đường lối và thành tích ngoại giao của Nguyễn Trãi cùng với đường lối và thành tích chính trị, quân sự của ông đã góp phần tạo nên những chiến công vô cùng rực rỡ của dân tộc ta trong chiến tranh chống xâm lược ở đầu thế kỷ XV.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2016, 12:16:36 am
        
Chương sáu

NGOẠI GIAO THỜI LÊ

        Sau khi đánh thắng quân Minh xâm lược và thả hàng chục vạn tù hàng binh cho về Trung Quốc, tháng tư năm Mậu Thân (1428), Lê Lợi đưa quân đội và quần thần vào kinh thành Thăng Long.

        Ngày 15 tháng tư năm Mậu Thân, tức 29 tháng 4 năm 1428, Lê Lợi lên ngôi vua, xưng hiệu Thuận Thiên hoàng đế, đặt tên nước là Đại Việt. Khi ông mất, triều thần đặt miếu hiệu là Lê Thái Tổ.

        Triều Lê tồn tại hơn 300 năm. Thời kỳ thịnh trị là từ Lê Thái Tổ đến hết thế kỷ XV, tức hết thời vua Lê Thánh Tông. Trong thời kỳ thịnh trị, việc bang giao với các nước láng giềng, nhà Lê có nhiều thuận lợi .

        I. NGOẠI GIAO VỚI TRUNG QUỐC

        Sau chiến thắng quân Minh, Lê Lợi chủ động cho sứ sang Trung Quốc, tiến hành ngoại giao bình thường với triều đình nhà Minh và trao trả tù binh cho nhà Minh. Nhà Minh cũng trao cho ta một số người của ta bị họ bắt giữ trong chiến tranh.

        Hai nước giao hảo từ đấy. Ta là nước nhỏ nên Lê Lợi, theo như các triều đại trước, chấp nhận để vua Minh phong vương. Sau chiến tranh, nhà Minh là kẻ chiến bại, nên đối với triều Lê, cũng e nể nhiều. Năm 1437, nhà Minh phong vương và tặng một quả ấn bằng vàng nặng một trăm lạng cho vua Lê Thái Tông.

        Hai nước cũng thường thăm hỏi, quà cáp cho nhau luôn. Tuy giao hảo, nhưng từ cuối thế kỷ XV trở đi, triều đình nhà Minh cũng đôi khi hạch sách, đe dọa. Mỗi khi sứ ta sang, vua quan nhà Minh thường nói bóng gió về sức mạnh nước lớn của chúng, tỏ ý coi thường ta. Cho nên, sứ của ta đi Trung Quốc thường phải chọn người có kiến thức, có tài năng đối đáp đấu trí với chúng, giữ vững quốc thể Đại Việt.

        Khoảng năm 1495 - 1496, một sứ thần của ta là hoàng giáp Ngô Kính Thần sang Trung Quốc. Một lần ông vua quan nhà Minh ra cho ông một vế câu đối tỏ cái thế mạnh của chúng:

                 Nhật hỏa, vân yên, bạch đán thiên tân ngọc thỏ.

                  (Mặt trời là lửa, mây là khói, ban ngày đốt cháy vầng trăng) .

        Ngô Kính Thần đối lại:

                 Nguyệt cung, tinh đạn, hoàng hôn xạ lạc kim ô.

                  (Mặt trăng là cung, sao là đạn, chiều tối bắn rơi mặt trời).


        Vua quan nhà Minh bực tức, giam giữ ông một thời gian.

        Trong thời thịnh trị của nhà Lê, tham vọng bá quyền nước lớn của nhà Minh chỉ hạn chế trong những hành động như vậy.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2016, 12:23:04 am

        II. QUAN HỆ VỚI AI LAO

        Quan hệ giữa Đại Việt với Ai Lao trong suốt thời Lê, nói chung là tốt. Hai nước thường cho sứ qua lại giao hảo.

        Đầu năm 1432, có nghịch thần là Kha Lại nổi loạn, vua Ai Lao cho sứ sang ta cầu cứu. Lê Thái Tổ cho quân sang giúp đánh tan quân phiến loạn và giết Kha Lại.

        Nhưng năm 1479, nghe theo lời xúi giục của một vài kẻ phản loạn, vua Ai Lao cho quân xâm phạm biên giới Tây Bắc nước ta. Vua Lê Thánh Tông cho các tướng Lê Thọ Vực, Trịnh Công Lộ, Lê Đình Ngạn, Lê Lộng, Lê Nhân Hiếu cầm đầu năm đạo quân đi theo các đường Nghệ An, Thanh Hóa, Hưng Hóa tiến sang Luông Pha Băng, truy kích quân Ai Lao tới biên giới Miến Điện. Sau chiến thắng, quân ta rút về.

        Từ đấy, quan hệ giữa hai nước trở lại bình thường.

        III. QUAN HỆ VỚI CHIÊM THÀNH

        Quan hệ Đại Việt - Chiêm Thành phức tạp hơn quan hệ Việt - Lào. Đại Việt và Chiêm Thành là hai vương quốc trên cùng một lãnh thổ quốc gia, cùng ở miền đồng bằng ven biển, cùng muốn thống nhất lãnh thổ quốc gia, nên quan hệ giữa hai nước luôn luôn thay đổi, khi thì giao hảo, khi lại xung đột vũ trang.

        Trong thế kỷ XV, thời Lê thịnh trị, có hai lần xung đột vũ trang với Chiêm Thành.

        Liền hai mùa hè 1444 và 1445, vua Chiêm là Bí Cai cho quân đánh ra Hóa Châu, tức vùng Huế bây giờ, nhưng đều đại bại. Để chấm dứt hành động phá rối của vua Chiêm, đầu năm 1446 nhà Lê cho quân đánh thẳng vào kinh đô Chà Bàn bắt sống vua Chiêm - Bí Cai đưa về Thăng Long. Nhà Lê không cho quan quân chiếm đóng Chiêm Thành mà lập người trong hoàng tộc Chiêm là Ma Ha Quý Lai lên làm vua, rồi rút về nước.

        Hai mươi lăm năm sau, tức mùa thu năm 1470, vua Chiêm là Trà Toàn lại đưa quân ra đánh Hóa Châu; tướng nhà Lê ở đây không chống cự nổi, vào thành cố thủ. Đầu năm 1471, triều đình Thăng Long cho quân vào cứu Hóa Châu. Tháng 3 năm 1411, quân nhà Lê đánh tới thành Chà Bàn, bắt sống vua Chiêm - Trà Toàn. Một tướng Chiêm là Bồ Trí lui quân xuống giữ Phan Lung, tức Phan Rang bây giờ. Quân nhà Lê không truy kích, đem Trà Toàn trở về Thăng Long. Tướng Chiêm - Bồ Trí lên ngôi vua, cho người ra Thăng Long cầu hòa và cầu phong. Triều đình Thăng Long phong Bồ Trí làm Chiêm Thành vương.

        Thế nước của Chiêm Thành từ đây trở đi ngày càng suy yếu, đất đai ngày càng thu hẹp, chẳng còn là bao.

        IV. QUAN HỆ VỚI CÁC NƯỚC KHÁC

        Quan hệ ngoại giao của nhà nước Đại Việt cho tới hết thế kỷ XV vẫn bó hẹp trong phạm vi tiếp xúc với mấy nước láng giềng sát cạnh mình là Trung Quốc, Ai Lao, Chiêm Thành. Đối với những nước khác ở Đông Dương như Chân Lạp, Xiêm La và các nước ở xa hơn nữa, đêu chưa có quan hệ cấp nhà nước. Mặc dầu vậy, triều đình nhà Lê vẫn cho phép người ngoại quốc tới Việt Nam buôn bán, giảng đạo. Thường vẫn có người ở các nước, nay là In-đô-nê-xi-a và Ma-lai-xi-a tới buôn bán.

        Sang đâu thế kỷ thứ XVI, người phương Tây bắt đầu vào nước ta. Năm 1523, vua Bồ Đào Nha cho sứ sang triều đình Đại Việt thượng nghị về việc buôn bán giữa hai nước.

        Năm 1525, có 21 giáo sĩ Dòng tên được phép vào Đại Việt giảng đạo Gia Tô (thờ Chúa Giê su). Như vậy là sau khi đánh thắng quân Minh xâm lược, nước Đại Việt gắng sức xây dựng thành một nước mạnh ở Đông Nam châu Á. Ngoại giao thời Lê là ngoại giao của một nhà nước cường thịnh, nên giữ được quan hệ hòa dịu với nước lớn Trung Quốc và giao hảo với các nước láng giềng khác. Đôi khi cũng có xung đột với hai nước Ai Lao và Chiêm Thành, nhưng triều đình nhà Lê dùng sức mạnh vũ trang dập tắt xung đột, gây lại hòa hảo như trước.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2016, 12:25:23 am

Chương bảy

NGOẠI GIAO THỜI LÊ MẠC

        Nhà Lê trị vì được một trăm năm thì tháng bảy năm 1527, một quan võ là Mạc Đăng Dung cướp ngôi, tự lập làm vua, mở đầu một triều đại mới: nhà Mạc.

        Năm 1529, hai cựu thần nhà Lê là Trịnh Ngang, Trịnh Ngung sang Trung Quốc yêu cầu nhà Minh cho quân sang đánh Mạc. Nhà Minh không nhận lời. "Hai người đều chết già ở đất Trung Hoa”(Lê Quý Đôn: Đại việt thông sử)

        Cũng năm này, một tướng cũ của nhà Lê là Nguyễn Kim đem gia quyến chạy sang Ai Lao, mưu đồ khôi phục vương quyền nhà Lê.

        Năm 1533, một người trong hoàng tộc nhà Lê là Lê Duy Ninh được Nguyễn Kim và một số cựu thần nhà Lê lánh nạn ở Sầm Nưa (đất Lào) đưa lên ngôi vua, tức Lê Trang Tông nhà Lê Trung hưng từ đây. Nguyễn Kim và Lê Trang Tông đưa quân về nước, chiếm lại Thanh Hóa, thu phục dần phần lãnh thổ từ Thanh Hóa trở vào Nam. Đất nước có hai triều đình kể từ đây. Nhà Lê Trung hưng cầm quyền cai trị từ Thanh Hóa trở vào. Từ Thanh Hóa trở ra vẫn thuộc quyền thống trị của nhà Mạc.

        I. NGOẠI GIAO CỦA NHÀ MẠC

        Sau khi lên ngôi vua, muốn tránh nạn nước lớn Trung Quốc mượn cớ giúp Lê đem quân xâm lược, Mạc Đăng Dung cho sứ sang Trung Quốc, nói với triều đình nhà Minh rằng: "Con cháu nhà Lê không còn ai thừa tự, nên di chúc cho đại thần họ Mạc tạm quản việc nước để yên nhân dân".(Lê Quý Đôn: Đại việt thông sử)

        Nhà Minh biết là không phải như vậy nên thường vặn hỏi, hạch sách, đe dọa. Mạc Đăng Dung đem vàng bạc cho các tướng nhà Minh ở vùng biên giới để ngăn chặn những hành động quấy rối của chúng.

        Năm 1533, nhà Lê Trung hưng chưa thu phục được Bắc Hà đã cho tả đô đốc Trịnh Duy Liệu theo đường biển đi sứ Trung Quốc cầu khẩn nhà Minh đem quân sang nước ta đánh Mạc. Nhà Minh chưa quyết. Năm 1536 nhà Lê Trung hưng lại cho sứ sang Trung Quốc, một lần nữa xin Minh ra quân đánh Mạc .

        Năm 1538, nhà Mạc cho sứ sang Trung Quốc xin quy thuận. Nhà Minh nắm lấy cơ hội, tổ chức một đạo quân giao cho Mao Bá Ôn lên đường chuẩn bị tiến sang nước ta.

        Thấy đạo quân Minh xâm lược của Mao Bá Ôn tới biên giới, Mạc Đăng Dung cử một đoàn hơn 40 người đến quân doanh Mao Bá Ôn xin dâng đất sáu động ở Vĩnh An (thuộc vùng Quảng Ninh bây giờ). Tướng Minh ra lệnh buộc Mạc Đăng Dung phải bỏ đế hiệu và đích thân đến cửa trại quân Minh nộp đất đựng mốc.

        Mạc Đăng Dung tuân theo, làm điều nhục nhã đó.

        Nhà Mạc cứ thế, ngày càng suy yếu. Nối ngôi Mạc Đăng Dung là Mạc Đăng Doanh. Tiếp theo Mạc Đăng Doanh là Mạc Phúc Hải. Khi Mạc Phúc Hải chết, nội bộ nhà Mạc chia rẽ, tách thành hai phái. Một phái ủng hộ con Phúc Hải còn nhỏ tuổi là Mạc Phúc Nguyên lên làm vua. Một phái ủng hộ Mạc Chính Trung là con thứ Mạc Đăng Dung, em ruột Mạc Phúc Hải lên ngôi (vì Mạc Chính Trung đã lớn tuổi, nhiều lần ra trận). Hai phái đánh phá lẫn nhau. Năm 1547, Mạc Chính Trung thất thế, đem gia quyến và những người thân cận, tất cả hơn 100 người chạy sang Khâm Châu xin cư trú. Nhà Minh lại có cơ hội đe dọa nhà Mạc, đưa văn thư hạch sách Mạc Phúc Nguyên không phải là dòng dõi Mạc Đăng Dung. Triều thần nhà Mạc phải đưa Mạc Phúc Nguyên lên cửa quan biên giới trình diện và làm tờ trạng cam kết không giả dối.

        Năm 1548, nhà Mạc cho sứ là Lê Quang Bí sang nộp cống nhà Minh, bị quan lại nhà Minh không cho lên Bắc Kinh, giữ lại ở Nam Ninh, đến năm 1563 mới được đưa lên Bắc Kinh. Lê Quang Bí phải ở Trung Quốc 18 năm mới trở về nước. Sử viết: "Lúc ra đi tóc mây xanh mướt, khi trở về râu tuyết bạc phơ! Người Minh ví ông như Tô Vũ đi sứ khi xưa đến lúc bạc đầu mới được trở về (Tô Vũ làm chức Trung lang tướng thời Hán Vũ đế (Trung Quốc) đi sứ sang Hung Nô, bị Hung Nô giữ lại phải đi chăn dê 19 năm mới được trở về nước.). Khi Quang Bí trở về tới Đông Kinh, Phúc Nguyên tỏ lời an ủi, thấy việc đi sứ của ông giống hệt Tô Vũ, bèn phong cho tước Tô quận công” (Lê Quý Đôn; Đại Việt thông sử.).

        Đầu năm 1581, nhà Mạc cho bốn đoàn sứ giả sang Minh "nộp bổ túc cống phẩm còn thiếu trong mấy năm qua" (Lê Quý Đôn: Đại Việt thông sử(trong Lê Quý Đôn, Toàn tập ) Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1978, tr.327)

        Năm 1582, nhà Minh đòi xét lại biên giới ở Lạng Sơn. Năm 1584, nhà Mạc cho người đi sứ nộp cống. Lúc này, nhà Mạc đã suy yếu lắm, bị quân của nhà Lê Trung hưng tiến công liên tiếp. Vua cuối cùng của nhà Mạc là Mạc Mậu Hợp bị quân Lê Trung hưng bắt ngày 13 tháng 1 năm 1593.

        Một số tướng Mạc cố đưa một vài người trong họ Mạc lên ngôi vua. Mạc Kính Chỉ được đưa lên ngôi vua ở Chí Linh (Hải Dương) nhưng chỉ hơn một tháng sau khi Mạc Mậu Hợp bị bắt thì Mạc Kính Chỉ cũng bị bắt. Một người khác là Mạc Kính Cung được một tướng giỏi của nhà Mạc là Mạc Ngọc Liễn đưa lên làm vua vào khoảng tháng 4 năm 1592. Đến tháng 6 năm 1594, quân của Mạc Kính Cung, Mạc Ngọc Liễn bị đánh tan. Mạc Ngọc Liễn chạy ra châu Vạn Ninh, vùng ven biển (khu vực Quảng Ninh ngày nay). Mạc Kính Cung chạy sang Long Châu, Trung Quốc, đưa quân Minh ở Long Châu về đánh cướp Lạng Sơn, nhưng bị quân Lê đánh đuổi, Mạc Kính Cung chạy sang Long Châu lần nữa.

        Tháng 8 năm 1594, Mạc Ngọc Liễn ốm chết ở Vạn Ninh. Trước khi chết, ông đưa thư khuyên Mạc Kính Cung:

            "Nay nhà Mạc khí vận đã hết, họ Lê phục hưng, đó là số trời vậy. Dân ta vô tội mà khiến phải chịu nạn binh đao, ai nỡ lòng nào. Chúng ta nên lánh ra ở nước khác, nuôi dưỡng uy lực, chịu khuất đợi thời; chờ khi nhờ mệnh trời trở lại mới làm được, chứ không thể lấy lực chọi với lực. Khi hai con hổ cùng tranh nhau, tất nhiên có một con bị thương, không có ích gì cho công việc. Nếu thấy quân của đối phương tới đây, chúng ta nên tránh đi, cẩn thận chớ có đánh nhau với họ, cốt phải phòng thủ cẩn thận làm chính, lại chớ nên mời người Minh vào nước ta, để cho dân phải lầm than, đó là cái tội không gì lớn hơn"(Lê Quý Đôn: Đại Việt thông sử, bản dịch, tr.368 - 369)

            Vua tôi nhà Mạc nhờ nhà Minh Trung Quốc can thiệp với nhà Lê, được tạm giữ một khu đất ở Cao Bằng làm nơi trú chân; cho tới năm 1677 thì chính quyền của nhà Mạc bị đánh đổ hẳn. Đất Cao Bằng thuộc quyền thống trị của nhà Lê Trung hưng.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2016, 12:25:55 am

       II NGOẠI GIAO CỦA NHÀ LÊ TRUNG HƯNG

        Các cựu thần nhà Lê lánh nạn tiến hành công việc khôi phục vương quyền của nhà Lê (lưu vong) trên đất Lào. Nhà Lê Trung hưng được thành lập. Khi về nước hoạt động, nhà Lê Trung hưng vẫn giữ quan hệ láng giềng thân thiện với Lào, từng đem công chúa, quận chúa gả cho vua Lào.

        Đối với Trung Quốc thì ngay từ khi mở đầu công cuộc trung hưng, vua Lê đã cho sứ sang giao thiệp và cầu phong với nhà Minh. Tới cuối thế kỷ XVI, nhà Lê Trung hưng làm chủ cả nước, lại cho sứ sang nhà Minh. Trước kia, quan lại nhà Minh ở biên giới bắt Mạc Đăng Dung phải lên biên giới, tới cửa Nam Quan trình diện; nay chúng cũng bắt vua Lê Trung hưng làm như vậy.

        Tháng 3 năm 1596 vua Lê cùng quan lại tùy tùng lên biên giới, tới cửa Nam Quan, nhưng quan lại nhà Minh ở đây dùng dằng không chịu hội kiến. Nhưng khi vua quan nhà Lê phải trở về Thăng Long, chúng lại đưa thư trách và dọa đưa quân sang đánh. Vua Lê phải cho người sang Trung Quốc giải thích và hẹn ngày hội kiến.

        Đầu năm 1597, nhà Minh hẹn đến tuần đầu tháng 4 âm lịch, vua Lê phải tới cửa Nam Quan hội khám.

        Tháng 3 âm lịch, vua Lê cùng tướng sĩ tùy tùng lên Nam Quan. Lần này vua quan nhà Lê đem năm vạn quân vừa bộ binh vừa voi chiến đi hộ tống lên biên giới.

        Ngày 10 tháng 4 âm lịch, vua quan nhà Lê cùng bọn quan lại nhà Minh ở Quảng Tây hội kiến và làm tờ kết ước. Sau đó, triều đình nhà Lê cử Phùng Khắc Khoan sang kinh đô Yên Kinh của nhà Minh, mang tặng sản vật địa phương.

        Đây là lần đầu sứ của nhà Lê Trung hưng tiếp xúc với triều đình nhà Minh, nên việc tiếp xúc không dễ dàng. Nhà Minh tỏ ra ủng hộ nhà Mạc, vặn vẹo, bắt bẻ sứ thần nhà Lê đủ điều. Triều đình nhà Lê phải chọn người có tài và ứng xử giỏi là bảng nhỡn Phùng Khắc Khoan đi sứ. Phùng Khắc Khoan đến Yên Kinh vào dịp Tết Nguyên đán. Sứ thần nhiêu nước cũng tới Yên Kinh trong dịp này. Ngày đầu năm, ông cùng sứ thần các nước vào triều chúc mừng vua Minh. Nhà vua mở cuộc vui, vịnh thơ. Mỗi sứ thần làm một bài thơ. Phùng Khắc Khoan làm một lúc 36 bài. Vua Minh khen ngợi sứ ta làm thơ nhanh, nhiều, bài nào cũng hay. Vua Minh đề vào tập thơ của Phùng Khắc Khoan mấy chữ: "Hà địa tất sinh tài" (Đất nào chàng sinh người tài) và tặng ông vinh hàm Trạng Nguyên.

        Về việc cầu phong, vua Minh phong vua Lê làm "An Nam đô thống sứ" như đã phong cho các vua nhà Mạc trước đây. Đô thống sứ chỉ là một chức quan nhị phẩm của triều Minh.

        Thấy vua Minh phong vua Lê như vậy, Phùng Khắc Khoan không đồng ý, dâng sớ nói:

            " "Đô thống sứ” là tước cũ của họ Mạc, vua nước Nam chúng tôi hiện thời là dòng dõi chính thống nhà Lê. Thiên triều phong cho tước ấy không xứng đáng. Chúng tôi không dám nhận sắc phong".

        Vua Minh phải chịu, đành phong vua Lê làm "An Nam quốc vương" .

        Phùng Khắc Khoan không chờ sứ Minh đem sắc phong sang ta mà tự ông đem sắc phong về nước.

            Tiếp xúc với người phương Tây

        Trong thời kỳ Lê - Mạc, người phương Tây bắt đầu tới Việt Nam, chủ yếu là các nhà buôn và các giáo sĩ. ở miền Bắc, năm 1533, giáo sĩ I-guatio tới giảng đạo ở Hải Hậu (thuộc Nam Hà). Tiếp theo, các giáo sĩ phương Tây tới miền Bắc nước ta ngày một nhiều. Năm 1584, nhà Mạc gửi thư đề nghị Tòa Giám mục đạo Thiên chúa ở Ma Cao cử nhiều giáo sĩ tới giảng đạo.

        Ở miền Nam, năm 1535, giáo sĩ Bồ Đào Nha Antonio da Faria tới giảng đạo tại Hội An (Đà Nẵng). Nhiều người Bồ Đào Nha cũng tới buôn bán ở miền Nam. Thời kỳ này chiến tranh liên miên giữa nhà Mạc và nhà Lê, nên cả Mạc và Lê đều sẵn sàng tiếp xúc với người phương Tây để mua các loại vũ khí như súng ống, đạn được, gươm giáo... Phương Tây bắt đầu đi sang châu Á để tìm thị trường và thuộc địa. Các giáo sĩ là đội quân mở đường rất đắc lực cho tư bản phương Tây thâm nhập châu Á và Việt Nam.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2016, 12:28:44 am

Chương tám

NGOẠI GIAO THỜI LÊ - TRỊNH NGUYỄN
( Thế kỷ XVI - XVII )

        Năm 1529 Nguyễn Kim tập hợp lực lượng tiến đánh nhà Mạc để khôi phục ngôi vua cho nhà Lê. Công cuộc chưa thành thì năm 1545, ông bị đầu độc chết. Quyền bính rơi vào tay con rể là Trịnh Kiểm.

        Sợ các con Nguyễn Kim đòi chia sẻ quyền lực với mình, Trịnh Kiểm mưu giết con cả Nguyễn Kim là Nguyễn Uông.

        Con trai thứ Nguyễn Kim là Nguyễn Hoàng sợ tai vạ tới mình, năm 1558 xin đi trấn thủ Thuận Hóa, tạo cơ sở cho sự hình thành chính quyền họ Nguyễn ở Nam Hà sau này.

        Năm 1570, Trịnh Kiểm chết. Trịnh Tùng là con thứ, giành quyền thay cha làm Tả thừa tướng, Tiết chế chư quân. Năm 1599, Trịnh Tùng tự xưng Đô nguyên soái, Tổng quốc chính, Thượng phụ, Bình An vương, định lệ cấp bổng lộc cho vua Lê: được thu thuế 1.000 xã để tiêu dùng và 5.000 lính làm quân túc vệ. Còn việc dân, việc nước, việc trong triều ngoài trấn đều trong tay họ Trịnh, cha truyền con nối cầm giữ chính quyền, lập thành một họ Chúa: Chúa Trịnh. Ở trong Nam, Nguyễn Hoàng và con cháu cũng biệt lập một chính quyền riêng, tự ý cha truyền con nối, cũng trở thành một dòng họ Chúa: Chúa Nguyễn. Hai họ Trịnh - Nguyễn chia đôi sơn hà, lấy sông Gianh (Quảng Bình) làm ranh giới Nam Bắc, có triều đình riêng, có quân đội riêng, có chính sách đối nội đối ngoại riêng. Họ đã gây nội chiến, bảy lần đem đại quân, mỗi lần hàng chục vạn người, đánh phá lẫn nhau thật ác liệt.

        Đối với bên ngoài, hai họ Trịnh - Nguyễn đều muốn tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nước này nước khác, để có lợi thế đánh phá lẫn nhau.

        I- NGOẠI GIAO CỦA LÊ - TRỊNH Ở BẮC HÀ

            1. Quan hệ với Trung Quốc

        Bắc Hà tiếp tục nền nếp giao hảo với Trung Quốc, cầu phong, nộp cống như các thời trước. Cầu phong, như chúa Trịnh Tráng đã nhận định là để "lấy văn bản có tính pháp lý”(Lê Quý Đôn: Đại Việt thông sử) của nước lớn bảo đảm an ninh an toàn của nước nhỏ.

        Năm 1637, chúa Trịnh cho sứ sang Trung Quốc cầu phong cho vua Lê, nhưng nhà Minh lúc này đã suy yếu không dám gia phong, chỉ gửi chiếu thư, “vỗ về khen ngợi". Tuy vậy thái độ nước lớn không thay đổi, vẫn ngạo nghễ, hống hách với nước nhỏ. Khoảng năm 1630, một sứ thần của ta là Giang Văn Minh tới Bắc Kinh. Trong một buổi triều kiến, vua Minh ra câu đối cho sứ ta:

                  "Đồng trụ chí kim tồn cổ lục”.
                  (Đồng trụ tới nay, rêu xanh chưa hết)

        Ý muốn nhắc lại rằng cột đồng trụ mà xưa Mã Viện (thời Hán) dựng lên khi hắn đánh chiếm Việt Nam tới nay vẫn còn đấy.

        Giang Văn Minh không chịu khuất phục đáp lại bằng vế đối:

                  “Đằng Giang tự cổ huyết do hồng"
                  (Bạch Đằng tự xưa máu đỏ vẫn còn)


        Với vế đối của mình, Giang Văn Minh cũng nhắc lại rằng: sông Bạch Đằng từ xưa vẫn còn đỏ máu giặc xâm lược, để khẳng định nhân dân ta đã nhiều lần đánh thắng ngoại xâm và cảnh cáo đừng kẻ ngoại bang nào mưu đồ xâm lược nước ta mà thất bại.

        Năm 1644, người Mãn Châu tiến vào xâm lược Trung Quốc, đánh đổ nhà Minh, lập triều Thanh. Nhưng nhà Thanh chưa tiến quân xuống tới miền nam Trung Quốc. Trước tình hình. đó, năm 1647, Trịnh Tráng cho quân ta sang chiếm giữ Quảng Tây. Nhà Thanh từ Bắc Kinh phải cho người tới giao thiệp với chúa Trịnh. Chúa Trịnh mới rút quân về.

        Đầu năm 1651, nhà Minh bị quân Thanh đánh đuổi phải chạy tản đi. Một người trong hoàng tộc nhà Minh lập triều đình ở Nam Ninh (Quảng Tây) cho người sang ta cầu cứu. Vua Lê, chúa Trịnh cho đem quân và lương sang giúp Minh chống Thanh. Cuối năm 1651, nhà Minh cho sứ sang phong Trịnh Tráng làm Phó quốc vương.

        Năm 1663, nhà Minh không còn, vua Thanh cho sứ sang Việt Nam. Chúa Trịnh cho sứ sang đáp lễ. Năm 1667, vua Thanh là Khang Hy phong vua Lê làm An Nam quốc vương. Nhưng việc giao hảo giữa ta và Thanh không được lâu. Trong vòng hai mươi năm sau, quân Thanh liên tục xâm chiếm biên giới nước ta.

        Năm 1688, quân Thanh đánh chiếm các động thuộc ba châu Vị Xuyên, Bảo Lạc, Thủy Vĩ, miền Tây Bắc nước ta, đặt tuần ty thu thuế buôn bán. Nhà Lê đưa thư yêu cầu trả lại đất, nhà Thanh không trả và không rút quân về Trung Quốc.

        Năm sau (1689) quân Thanh lại xâm phạm miền Đông Bắc nước ta, lấn chiếm châu Lộc Bình (Lạng Sơn). Nhà Lê cho người đi Thanh tranh biện đòi lại, nhưng cuối cùng đất vẫn mất.

        Tuy vậy, bên ta không ngừng đấu tranh đòi đất. Năm 1728, Trung Quốc phải trả ta khu mỏ đồng Tụ Long ở phía bắc tỉnh Tuyên Quang.

        Năm 1771, nhà Thanh lại lấn chiếm đất đai châu Lộc Bình (Lạng Sơn). Nhà Trịnh cho quân lên biên giới, nhà Thanh phải rút quân về nước.

        Năm 1780, nhà Thanh đem quân đánh chiếm một khu vực rộng lớn ở miền Tây Bắc nước ta, gồm đất đai sáu châu: Hoàng Nham, Hợp Phì, Quảng Lãng, Trung Phụ, Lễ Tuyền, Khiên Châu. Triều đình Lê - Trịnh đòi, nhưng nhà Thanh không chịu trả.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2016, 12:29:54 am

        2. Quan hệ với Lào và tiếp xúc với người phương Tây

        Trong các nước láng giềng, triều đình Lê - Trịnh có quan hệ chặt chẽ với Lào. Thời kỳ này, nước Lào có biến, một người con của vua Lào là Triều Phúc chạy sang Việt Nam lánh nạn.

        Năm 1696, chúa Trình cho đưa Triều Phúc về Lào để lên ngôi vua. Năm 1718, chúa Trịnh gả một người con gái tôn thất cho vua Lào - Triều Phúc.

        Với các nước phương Tây, triều đình Lê - Trịnh chưa đặt quan hệ ngoại giao chính thức, nhưng chấp nhận cho các giáo sĩ tới giảng đạo và các nhà buôn tới buôn bán, lập thương điếm.

        Từ năm 1613, thuyền buôn Hà Lan đem hàng tới bán ở Bắc Hà. Năm 1637, người Hà Lan được chúa Trịnh cho phép mở hiệu buôn ở Phố Hiến và Thăng Long. Phố Hiến là một khu vực trong thị xã Hưng Yên ngày nay.

        Năm 1672, người Anh cũng được chúa Trịnh cho tới mở hiệu buôn. Điều kiện cho họ tới lập thương điếm ở Bắc Hà là phải đem súng ống, đạn được phương Tây sang bán cho chúa Trịnh để chúa Trịnh tiến hành chiến tranh đánh phá chúa Nguyễn trong Nam.

        Khác với Hà Lan và Anh, người Pháp cho cố đạo đi trước, mở đường cho những mưu đô xâm lược của chủ nghĩa thực dân Pháp. Năm 1745, một cố đạo Pháp là Saint Phalles bỏ đạo đi buôn, tới mở cửa hiệu ở Bắc Hà. Tám năm sau, năm 1753, Saint

        Phalles gửi thư về nước yêu cầu chính phủ Pháp lập căn cứ Pháp ở miền Bắc Việt Nam. Saint Phalles viết:

        "Vương quốc này là một trong những nước mạnh nhất của vùng Đông Ấn Độ. . . Nó rộng bằng hai phần ba nước Pháp... Thủ đô là Kẻ Chợ rộng như Paris... Tôi đã đến đó nhiều lần. Kẻ Chợ ở trên một con sông gọi là sông Cái... Thuyền bè chen chúc dưới bến, đông đúc quá sức tưởng tượng. Dân số của nước này rất đông. Có rất nhiều thị trấn. Có những thị trấn đông dân từ 3 đến 10 vạn người. Xứ này có nhiều sông ngòi, kênh đào, thuyền tàu đi lại dễ dàng... ".

        Vì thực dân phương Tây có những mưu đồ và hành động xấu như vậy cho nên ở Bắc Hà, từ năm 1687 trở đi các chúa Trịnh luôn luôn cấm đạo. Các giáo sĩ phương Tây khó tới được. Các lái buôn phương Tây cũng dân dần ít đến.

        II- NGOẠI GIAO CỦA CHÍNH QUYỀN HỌ NGUYỄN Ở NAM HÀ

        1. Quan hệ với Trung Quốc

        Nam Hà không liền biên giới với Trung Quốc như Bắc Hà, nên quan hệ ngoại giao của họ Nguyễn ở Nam Hà với Trung Quốc không là vấn đề cấp thiết. Chính quyền họ Nguyễn thành lập ở Nam Hà đầu thế kỷ XVII, tới đầu thế kỷ XVIII mới đặt quan hệ với Trung Quốc.

        Năm 1702, nhân có thuyền của sứ thần Xiêm sang cống triều đình nhà Thanh Trung Quốc, chúa Nguyễn Phúc Chu gửi một số cống phẩm sang vua Thanh cùng một bức thư như sau:

        “Hải ngoại Việt quốc thảo mãng thần Nguyễn Phúc Chu, khấu đầu trăm lạy, kính cẩn dâng lời nói về việc ở phương xa, mến ân đức, tỏ lòng thành, hướng theo giáo hóa.

        Thần nối dõi tổ tiên, mở mang đất đai ở ngoài biển cả đã trải lâu năm, vốn không lệ thuộc vào các nước phương Nam nào cả. Đường sá xa xôi, đất đai nhỏ hẹp, chưa dám bày tỏ với thiên triều...

        Mồng 2 tháng .9 năm ngoái, thuyền đi dâng nộp lễ cống của nước Xiêm La có đi qua biên giới nước thần, nhân đó mới biết rằng nước ấy đang đem lễ cống đến dâng thiên triều, nên dốc lòng thành giúp đỡ việc đi cống, sửa chữa thuyền bè, cấp cho lương thực để họ đi đến Quảng Đông.

        Thần có bài biểu và lễ vật nhân tiện giao cho bọn Hoàng Thín đệ trước lên đốc phủ Quảng Đông khẩn khoản nhờ đề đạt cho. . .

        Ví bằng được nhà vua ưng thuận, thần sẽ sai ngay bồi thần dâng biểu sang tạ. Thần một niềm ngước trời trông thánh, bao xiết sợ hãi run rẩy chờ đợi mệnh lệnh. Xin kính giãi bày lòng thành kẻ hạ thần để tâu nhà vua nghe biết". (Bài biểu nguyên văn chữ Hán, Lê Quý Đôn: Phủ biên tạp lục)

        Tổng đốc Quảng Đông chuyển tờ biểu về triều. Vua Thanh không ưng thuận quan hệ với chúa Nguyễn.

        Chúa Nguyễn khi gửi biểu, có gửi kèm lễ vật cống nạp, gồm có:

        Vàng sống nặng 1 cân, 13 lạng, 5 đồng cân.

        Một khối kỳ nam hương thượng hạng, nặng 5 cân 4 lạng.

        Hai chiếc ngà voi nặng 350 cân, 50 dây mông hoa. . . Không rõ vua Thanh không ưng thuận quan hệ với chúa Nguyễn thì trả lại cả cống phẩm hay vẫn nhận, không thấy sử sách ghi rõ. Chắc là vẫn nhận!

        Chúa Nguyễn cũng không quan tâm đến thái độ của vua Thanh từ chối giao hảo. Năm mươi năm sau, chúa Nguyễn có việc giao thiệp với chính quyền địa phương Quảng Đông, nhưng chưa đặt lại vấn đề bang giao với triều đình nhà Thanh. Việc đó là: năm 1747 có nhóm Hoa kiều Lý Văn Quang, Hà Huy, Tạ Tú tụ tập 300 người nổi loạn, mưu đánh chiếm dinh Trấn Biên. Chúa Nguyễn cho quân đánh dẹp, bắt tên cầm đâu Lý Văn Quang và 57 đồ đảng. Năm 1756, chúa Nguyễn cho đưa nhóm Hoa kiều phản loạn này giả cho Trung Quốc và gửi cho tổng đốc Quảng Đông bức công văn như sau:

            “An Nam quốc Thuận Hóa, Quảng Nam đẳng xứ tư mục Nguyễn Bất Ninh(chúa Nguyễn xưng tên như vậy, Lê Quý Đôn: Phủ biên tạp lục) bái thư gửi thiên triều Mân Chiết tổng đốc, thái tử thiếu bảo lão hiến đài các hạ. . .

        Khoảng năm Đinh Mão (1747), bọn Lý Văn Quang, Hà Huy, Tạ Tứ, qua chơi đất hẹp của tôi, ngầm mang lòng xằng, lẩn vào trong cõi Gia Định, nhóm họp hơn trăm, càn rỡ, tự tôn tự đại, hoặc xưng đô đốc, hoặc xưng quân sư, ngoài ra đều theo thứ bậc mà đặt trộm tên, toan cướp chiếm ấp tôi, bừa giết biên thần. Nhưng rồi trời chẳng dung tha, thảy đều bị bắt, xử luật bất đạo, tội chết có thừa. Song tạm để hình chương, giam mà không giết, chính muốn tỏ lòng với thượng quốc, đưa trả bọn kia, để chịu phép thường. . .

        Lại như thiên tổng Lê Đức Huy, bả tổng Trầm Thần Lang, Hồ Đình Phượng, năm Ất Hợi (1755) mùa đông, bỗng bị sóng gió, trôi dạt vào đất chúng tôi thảy được nhờ đó, đợi đưa về Trung Quốc. Ngờ đâu cùng bệnh không biết thương nhau, cùng hoạn không biết giữ nhau, cùng nhau tranh giành, tố cáo lẫn nhau, đó đều là quan võ của Trung Quốc, không quan hệ đến chính điển ấp tôi, cho nên lời lẽ của hai bên đã phong lại trả về bẩm lên thượng hiến, để tùy xét xử. Trong bốn biển còn người tri kỷ, bầu trời xa coi tựa láng giềng. Kính biếu vật mọn địa phương: trầm hương 5 cân, quạt hoa 5 cái, lụa vàng 5 tấm, ngà voi 1 đôi, yến sào 10 cân, vây cá 30 cân, hải sâm 30 cây, hồ tiêu 30 cân, gậy lụi 20 cây, song hoa 20 cây, các hạng, để tỏ tấm lòng, tưởng mến tiếng hay biết là nhường này! Trời đất cõi xa, lòng son gắn bó. . . ".

        Quan hệ ngoại giao giữa chúa Nguyễn và Trung Quốc đã có, nhưng chỉ lỏng lẻo thế thôi, chưa có quan hệ chính thức và có gì gắn bó với nhau.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2016, 12:30:45 am

        2. Quan hệ với Chiêm Thành

        Đầu thế kỷ XVII, họ Nguyễn vào trấn thủ Thuận Hóa, Chiêm Thành cho sứ tới thông hiếu. Họ Nguyễn đương muốn mở rộng khu vực trấn thủ tạo căn cứ vững để chống họ Trịnh ở Bắc Hà nên chỉ sau mấy năm giao hiếu đã xâm lấn Chiêm Thành. Năm 1611, họ Nguyễn đánh Chiêm Thành lần thứ nhất, lấy đất lập phủ Phú Yên; năm 1653, đánh Chiêm Thành lần thứ hai, lấy đất Phan Rang; năm 1693, đánh Chiêm lần thứ ba, lấy nốt đất đai của Chiêm, bắt vua Chiêm là Bà Tranh đưa về Phú Xuân, đổi Chiêm Thành làm Thuận Phủ; năm sau đổi làm trấn Thuận Thành, năm 1697 đặt làm phủ Bình Thuận. Nước Chiêm Thành không còn. Lãnh thổ thuộc quyền trấn thủ của họ Nguyễn mở rộng từ Thuận Hóa xuống giáp biên giới nước Chân Lạp .

        3. Quan hệ với Xiêm

        Họ Nguyễn từ khi hưng khởi chưa thông hiếu với Xiêm, chỉ có mâu thuẫn, tranh chấp nhau để giành bá quyền đối với Chân Lạp.

        Tới giữa thế kỷ XVIII, vì thuyền buôn của hai nước khi qua vùng biển của nhau thường bị bắt giữ, nên hai bên có công văn và sứ thần qua lại giao dịch về những sự việc này.

        Năm 1775, triều đình Xiêm cho sứ đem thư sang triều đình Nguyễn nêu một số vụ tàu biển của nhà nước Xiêm sang mua hàng ở Trung Quốc, trên đường về tránh gió ở một số hải cảng ở miền Trung An Nam bị quan chức địa phương thu hết vật phẩm, hoặc đánh thuế quá cao. Trong khi đó thì một số người An Nam có những hành động kiểu "hải tặc" ở vùng biên Tây Nam, bị quan lại địa phương của Xiêm bắt đều được thả về... Ý vua Xiêm muốn vua An Nam biết những tàu bị bắt giữ là tàu của nhà nước Xiêm đi mua "đồ khố dụng nội vụ cho triều đình". Cũng chính vì vậy mà triều đình An Nam nên dùng luật pháp để xử lý quan lại địa phương (không báo cho triều đình biết), cho xin lại những vật phẩm đã bị thu giữ trước đây. Qua thư, triều đình Xiêm cũng xin triều đình Nguyễn cấp cho 10 chiếc thẻ bài để tiện cho tàu bè nhà nước Xiêm thuận lợi trong việc đi lại Trung Quốc mua bán. Để bày lòng hữu hảo, kèm theo thư, vua Xiêm cũng biếu chúa Nguyễn một số vật phẩm quý hiếm.

        Thư của triều đình Xiêm có đoạn:

        "… Vâng theo lòng quốc chúa nước tôi thương mền nước An Nam, tâu rõ ở Kim-loan chính điện, kính lấy lòng nhu hoài nước xa, nghĩ An Nam và Xiêm La là hai nước láng giềng rất thân, không thể nhân việc nhỏ mà bỏ mất đại nghĩa. Ba lần thuyền đi mua năm trước với các đồ thập vật khố dụng chở về nước bị thu vào nước An Nam đã bị kho quan lấy cả, chắc rằng bọn hữu ty nước An Nam chưa có tâu rõ với vua An Nam biết rằng thuyền tránh gió là thuyền nước Xiêm sai khiến đi mua đồ khố dụng nội vụ cho nên quan sai tùy lòng mặc ý trưng thu, đó cũng là vì người bề trên nước An Nam chưa được biết rõ vậy. Có lẽ nào hai nước hàng xóm với nhau, bên qua bên lại, giao thông hòa hậu, lại không nghĩ lấy nhân nghĩa đối với thiên hạ mà đánh thuế thuyền ghe quá nặng, rút thu tài vật nhỏ mọn như thế. Thực vì bọn hữu ty kia không có tài. Không phù xã tắc, chăm đem chính sách trị an thiên hạ mà giúp đỡ minh quân nước An Nam; bọn hữu ty chuyên quyền cố ý thu thuế nặng nề và che giấu không báo, không thể lòng vua An Nam là bậc nhân thánh thông minh, không nghĩ sự mềm mỏng với các chư hầu, thông hòa với nước láng giềng, mặc ý trưng thu thuế khóa, coi rẻ nước Xiêm chúng tôi, dứt đường thuyền bè qua lại trên biển mà trở thành cừu địch...". 

        "… Nay may có sứ mệnh An Nam tại đây, nên giao tiếp với Thống chánh sứ ty để cho yên việc với nước láng giềng. Quan hàn lâm viện nội các đại học sĩ soạn văn thư, đặc sai hai viên chấp sứ thần là Lãng-phi-văn-khôn và Khu-sa-lũ-thao mang sứ mệnh cùng với khâm sứ An Nam đi sang báo cho biết, xin vua nước An Nam, trông đến nước Xiêm khâm dụ cho quan đại thần phụ trách đem các đồ thập vật sở phí của các thuyền ba lần tránh gió đưa trả lại để cho sứ thần là bọn Lãng-phi-văn-khôn và Khu-sa-lũ-thao điểm rõ rồi hộ tống ra ngoài cõi để về nước, ngõ hầu không mất tình hòa hậu với nước láng giềng. Cảm ơn thực không bờ bến. Lại xin cấp cho mười cái thẻ long bài chiếu thân vào cửa biển để cho chủ thuyền sau này có phải tránh gió vào cảng thì khỏi bị sai quan trưng thu sách nhiễu, đến khi gió thuận thì cứ theo nguyên thuyền mà ra về, tức cũng sẽ khiến thuyền Xiêm La sau này qua lại không ngớt. Vâng ban thổ sản màn trắng 5 tấm, màn đỏ 3 tấm, màn đại hoa mãn thiên 2 tấm, cộng 15 tấm, phụ giao cho sứ mệnh đem đi dâng lên vua nước An Nam thiên thu nhận cho, gọi là diện mục cách xa nghìn dặm mà chút tỏ được tấm lòng nhỏ mọn. Kính dâng. Kính tuân mọi lẽ đến Nội các vâng sao làm văn thư để tư hội.

        Trên đây là tư cho quốc chúa An Nam điện tiền, hồng phúc nghìn thu mắt rồng ngự lãm Long phi năm Ất Hợi, mạnh hạ tháng tư”.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2016, 12:31:23 am

        Nhận được thư, triều đình Nguyễn có ngay thư phúc đáp. Thư của triều Nguyễn thể hiện sự chịu ơn triều đình Xiêm đã có nhiều thiện ý trong quan hệ hữu hảo giữa An Nam và Xiêm trong thời gian qua, đặc biệt là việc vua Xiêm thả một phần trong số ngư dân An Nam bị Xiêm bắt giữ. Nội dung chính của bức thư là đề cập tới ba sự kiện tàu của Xiêm bị bắt giữ, bị trưng thu vật phẩm, với những lý lẽ vừa mềm dẻo, vừa rắn rỏi mà chặt chẽ. Mặc dầu ý nguyện không thành, song triều đình Xiêm cũng khó lòng gây căng thẳng.

        Thư của triều đình Nguyễn có đoạn:

        " Trong thoảng hai năm Bính Dần (1746) và Mậu Thìn (l748), khi thuyền đỏ vào cảng, giả sử hoặc bọn sai nhân vì tham mà trưng thu quá lệ thì đương lúc đó cũng không được nghe báo gì. Vả theo lệ nước tôi cứ ba năm làm một lần xét công, năm năm làm một lần cắt bổ, đã có phép thường, có dung những bọn tham ô đâu! Khi có giấy đến, truy cứu nguyên lai thì người già đã chết, người tội đã truất, việc trải năm tháng, hai bên đều không có bằng cứ gì. Phải thế hay không phải thế? Vậy hãy để đó không bàn. Lại năm Quý Dậu (1753), thuyền của Dương Thành Chương nói từ Quảng Châu đến, cả thuyền hóa vật không có chút gì, không cho vào cảng, đó là lệ thường của bản gốc vậy. Y tự khẩn cầu theo lệ vào cảng thì hữu ty cứ trưng thu, không phải là quá lạm, nào có cớ gì khác đâu? Nếu bọn ấy làm hết cả tài vật mang theo, chẳng phải do vũ nữ ca nhi thì cũng là do điềm rượu sòng bạc, rồi khi trở về tìm cách nói dối, đó là những lời không căn cứ vào đâu, thế mà lại nghe lời một bên mà đòi trả bạc, thực đúng như câu ngạn ngữ "Trương công uống rượu, Lý công say”. Đó là điều chúng tôi chưa hiểu được … " 

        Đáp lại việc vua Xiêm biếu lễ vật, triều đình Nguyễn cũng cho người mang lễ vật sang biếu.

        Chúa Nguyễn cũng trực tiếp viết thư gửi vua Xiêm với lời lẽ vừa mềm dẻo vừa rắn rỏi, thể hiện bản cách của một đất nước, một "Quốc vương có chủ quyền, ngang hàng với các nước khác. Thư có đoạn:

        " … Lại trong thư có nói rằng trước kia nước An Nam đều chưa có người làm xằng bậy, đánh cướp miền ven biển, mà vài năm lại đây lại thường thường xâm lấn cõi biên, cướp bóc cư dân. Tôi xem tới đó bất giác ngùi ngùi mà than rằng: trong tai ta chưa từng nghe có lời ấy bao giờ! Nhà nước tự có phép độ há dung những loài quỷ quái xem thường pháp luật hay sao? Nếu giả có thật thì đó là do thú tướng ngăn cấm hãy còn sơ hớ, trời biển mênh mông tôi làm sao mà biết hết được!

        Lấy tình hai nước thân nhau hiểu nhau thì sao lại có sự ngồi trông dân nước láng giềng mắc phải cái thảm họa cướp bóc mà để ngoài bụng nghĩ được!

        Tưởng quý quốc cũng lượng xét cái lòng nghĩ cấm bạo để hòa mục với nước láng giềng của tôi đấy. Từ nay tôi nghiêm sắc cho các thú tướng ở miền ven biển đều nên cấm răn dân ngoài biển không được cướp bóc thuyền buôn các nước trên đường biển. Nếu còn giữ thói cũ thì xử vào tội nặng, quyết không nhẹ tha. Vả quý quốc còn thương người dân xiêu giạt, cho về bản quán, thì tôi há nỡ dung túng bọn vô lại ở ven biên để cho quấy rối con đỏ của nước láng giềng ư?.

        Nhưng trong thư trả lời có vài câu nói không thể không bàn lại được, xin hãy vì quốc vương mà tỏ bày: như câu nói "An Nam hướng hóa rất là đáng khen”, lại nói “An Nam lấy lòng thành mà tiến cống với hướng hóa”, cứ những câu nói như thế không biết nước Xiêm coi nước tôi vào bực nước nào? Điều đó tôi chưa hiểu rõ. Phàm trên lấy ở dưới thì gọi là phú, dưới cung lên trên thì gọi là cống, nghĩa chữ "cống" là dưới dâng lên trên. Còn hai chữ “hướng hóa" là nước ngoài mộ phong hóa của trung triều vậy. Nước Xiêm La cùng với nước An Nam cũng như các nước Tề, Sở, Yên, Triệu là những nước bằng hàng với nhau, sao lại có sự nước bằng hàng biếu nhau mà gọi là tiến cống, nước láng giềng giao hảo với nhau mà gọi là hướng hóa, sao danh thực không xứng với nhau như thế? Tôi tưởng người bầy tôi cầm bút của quý quốc thích viết lời tự tôn tự đại mà không biết nói như vậy là sai. Quốc vương là bậc thông minh anh duệ, há không biết từ xưa nước An Nam là nước văn hiến mà lại nói như thế? Ơn cho quà biếu hậu đã thu nhận rồi. Đa tạ, đa tạ!" (Những thư trao đổi giữa chúa Nguyễn và triều đình Xiêm đều chép trong sách Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn).

        Quan hệ giữa Xiêm và Việt Nam ở thế kỷ XVIII không phải chỉ hạn chế trong những chuyện bắt giữ vài ba thuyền buôn của nhau và những thư từ tranh luận như vậy, mà ngày càng căng, vì những mưu đồ bành trướng sang phía đông của Xiêm.

        Trong nửa cuối thế kỷ XVIII, Xiêm nhiều lần đánh chiếm Hà Tiên mong lấy đó làm bàn đạp đánh lên phía bắc Việt Nam và đánh sang Chân Lạp. Nhưng âm mưu không thành. Tới khi một Hoa kiều ở Xiêm là Trịnh Tân, người Triều Châu (Trung Quốc) nổi loạn cướp ngôi vua Xiêm, tự lập làm vua, thì kế hoạch đánh Việt Nam được đẩy mạnh. Năm 1771, vị vua Xiêm người Trung Quốc ấy cho hai vạn quân sang đánh cướp Hà Tiên, chiếm đóng hai năm thì bị quân dân ta đánh, phải bỏ chạy.

        Năm 1784, chúa Nguyễn lưu vong Nguyễn Ánh bị Nguyễn Huệ, lãnh tụ phong trào khởi nghĩa Tây Sơn đánh đuổi, chạy sang Xiêm cầu cứu. Vua Xiêm vội nắm lấy cơ hội, mượn cớ giúp Nguyễn Ánh để tiến hành xâm lược Việt Nam. Nhưng quân Xiêm tiến vào Gia Định thì bị Nguyễn Huệ đánh cho đại bại, quân sĩ tiêu tan, mộng xâm lược cũng tiêu tan. Kết quả là “Xiêm sợ quân Tây Sơn như cọp".


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2016, 12:32:33 am

        4. Quan hệ với người phương Tây

        Đối với các nhà buôn

        Năm 1613 , công ty Đông Ấn của Hà Lan lần đầu cho thuyền đến buôn bán với Đàng Trong, nhưng không thu được kết quả nhiều nên họ bỏ đi, không tới nữa. Thấy thế, năm 1617, chúa Nguyễn Phúc Nguyên viết thư mời công ty Đông Ấn của Hà Lan ở Ma-lac-ca đến buôn bán.

        Năm 1624, chúa Nguyễn Phúc Nguyên lại gửi thư và quà tặng cho toàn quyền Hà Lan ở Nam Dương (tức In-đô-nê-xi-a) để mời thuyền buôn Hà Lan tại đây tới buôn bán với Đàng Trong.

        Năm 1633, chúa Nguyễn Phúc Nguyên ba lần tịch thu hàng hóa của công ty Đông Ấn. Nhưng có hai lần tàu buôn Hà Lan đi từ Ba-ta-via - thủ đô Nam Dương, tới Hội An thì lại được chúa Nguyễn cho vào buôn bán và cho hai người của họ được mở cửa hàng tại Hội An. Năm sau, 1634, nhà buôn Hà Lan Duijcker cho tàu chở hàng từ Batavia đến Hội An.

        Năm 1635, ba tàu buôn Hà Lan từ Đài Loan tới cửa Hàn (Đà Nẵng). Nhà buôn Hà Lan Duijcker đi theo các tàu này đến xin lại số hàng hóa và tiền bị chúa Nguyễn tịch thu năm 1633, và xin cho người Hà Lan được tới buôn bán dễ dàng. Chúa Nguyễn Phúc Lan tiếp đãi tử tế, nhận lời cho phép họ vào buôn bán, không đánh thuế, nhưng không trả lại tiền và hàng đã tịch thu.

        Năm 1637, tàu buôn Le Grol tới Đàng Trong. Chúa Nguyễn Phúc Lan ủy nhiệm đem thư và quà tặng cho toàn quyền Hà Lan ở Batavia. Trong thư, chúa Nguyễn tỏ ý vui lòng nếu người Hà Lan tới buôn bán ở Đàng Trong. Thư của chúa Nguyễn có đoạn viết: "Tôi tha thiết mong tất cả mọi người đến buôn bán ở bến cảng nước tôi".

        Nhưng tới năm 1640, chính quyền Đàng Trong đối xử với các nhà buôn Hà Lan không tốt; chúa Nguyễn Phúc Lan tịch thu của công ty Đông Ấn hai chiếc tàu có hàng hóa, 18 đại bác và bắt giữ 82 thủy thủ.

        Năm 1641, các nhà buôn Hà Lan ở Hội An đóng cửa hiệu buôn, đi nơi khác.

        Năm 1642, chúa Nguyễn thả các thủy thủ của hai tàu Hà Lan đã bị giữ từ năm 1640. Trong số 82 thủy thủ Hà Lan trên đường về đã bị người Bồ Đào Nha trên tàu biển giết chết một số. Công ty Đông Ấn Hà Lan không biết rõ, tưởng chúa Nguyễn sai giết số thủy thủ này nên cho viên thuyền trưởng Vanh Liesvelt đem tàu đến đánh tàu chúa Nguyễn. Nhưng tàu Hà Lan thua to, viên chỉ huy Vanh Liesvelt tử trận. Để trả thù, người Hà Lan đem quân đổ bộ lên Đà Nẵng bắn giết một số dân thường, rồi xuống tàu ra Đàng Ngoài. Người Hà Lan công khai giúp Đàng Ngoài để đánh Đàng Trong.

        Năm 1643, ba tàu chiến Hà Lan giúp chúa Trịnh đánh chúa Nguyễn ở cửa sông Gianh, nhưng bị thất bại hoàn toàn, một tàu bị phá hủy, hai tàu bị hỏng nặng, phải chạy ra Đàng Ngoài. Quân của chúa Nguyễn đánh đắm một chiếc tàu nữa của Hà Lan ở cửa biển Hoàn Hải (cửa Nộn). Về sự việc này, sách Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn chép: Tháng 4 năm Quý Mùi (1643) con thứ hai chúa Nguyễn Phúc Lan là Nguyễn Phúc Tần đem thủy quân đánh phá được mười chiếc tàu của Hà Lan ở cửa Eo, tức của Thuận An, gần Huế.

        Tám năm sau, năm 1651, toàn quyền Hà Lan ở Batavia muốn tiếp tục buôn bán với Đàng Trong nên cử Vestagen đi sứ sang thương nghị với chúa Nguyễn. Khi ấy, Nguyễn Phúc Tần lên ngôi chúa, muốn giao hảo với người phương Tây, sẵn sàng ký hòa ước với Hà Lan, trong nhấn mạnh ba điều về buôn bán:

        1 Công ty Đông Ấn của Hà Lan có thể ra vào đất Đàng Trong buôn bán tự do và được miễn thuế. Sứ thần Hà Lan ở Hội An có thể chọn miếng đất thích hợp dựng một ngôi nhà cho những người ở lại thương điếm.

        2. Những tàu thuyền Hà Lan không phải khám khi đến Đàng Trong, được miễn thuế ra vào, trong khi thuế đó vẫn tiến hành thu đối với người Trung Quốc, người Bồ Đào Nha và người các nước khác.

        3. Sứ thần Hà Lan sẽ chú ý tới những hàng hóa mà chúa Nguyễn muốn được tàu Hà Lan mang đến, hàng hóa đó sẽ được trả hoặc bằng bạc, hoặc đổi lấy hàng...

        Tuy có ký kết giao thương như vậy, người Hà Lan vẫn bỏ, không tới buôn bán nữa. Gần một thế kỷ sau, công ty Đông Ấn Hà Lan mới trở lại buôn bán với Đàng Trong. Năm 1754, các nhà buôn Hà Lan mua vàng của chúa Nguyễn Phúc Khoát. Nhưng từ năm 1756, công ty Đông Ấn của Hà Lan thôi hẳn việc buôn bán với Đàng Trong.

        Các nhà buôn Anh, Bồ Đào Nha cũng đến buôn bán với Đàng Trong. Họ mở cửa hàng, chủ yếu ở Hội An. Năm 1764, tàu buôn Anh Peacock tới buôn bán trực tiếp với chúa Nguyễn Phúc Khoát. Năm 1777 tàu buôn của Rumbold của Anh ghé vào Đà Nẵng cho hai viên quan của chúa Nguyễn đi nhờ tàu vào Sài Gòn. Gặp bão, tàu không vào Sài Gòn được, phải chạy thẳng sang cảng Băng Gan (Ấn Độ).


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2016, 12:33:01 am

        Công ty Anh ở Ấn Độ cho lái buôn Chapman đi tàu đưa hai viên quan về Đàng Trong và đặt quan hệ buôn bán với chúa Nguyễn. Lúc này phong trào khởi nghĩa Tây Sơn đang phát triển mạnh, tập đoàn chúa Nguyễn lao đao chạy dài. Chapman được gặp Nguyễn Nhạc và ở lại Đà Nẵng, Hội An ít ngày. Khi về Ấn Độ, Chapman báo cáo:

        "Không có xứ nào ở châu Á sản xuất vật dụng nhiều và tốt hơn là xứ này, các thứ rất lợi cho sự buôn may bán đắt là: quế , tiêu, tơ, bông, đường, gỗ quý, ngà coi... Ở đây thì vàng từ đất moi lên đã là vàng xanh rồi... Nếu chúng ta có căn cứ trên đất Đàng Trong và có một thế lực mạnh ở đó, thì với sản vật ở Ấn Độ và châu Âu, chúng ta sẽ dễ dàng mua rất nhiều hàng hóa kể trên". 

        Tuy vậy, Anh đã có thị trường rộng lớn Ấn Độ nên không tha thiết lắm với vấn đề Việt Nam. Trái lại Pháp thì quan tâm đặc biệt. Năm 1660 nhà buôn Fermanel thành lập một công ty ngoại thương để kinh doanh ở Việt Nam và được Thủ tướng Pháp đỡ đầu. Thủ tướng Pháp là Mazarin giáo chủ đạo Gia Tô. Mục đích của công ty là vừa đi buôn, vừa truyền đạo. Cho nên trong công ty có cả nhà buôn và giáo sĩ. Nhiệm vụ của các giáo sĩ trong công ty được ghi rõ trong điều lệ của công ty: "Các giám mục được mời vào trông coi công ty là để người khác không ăn cắp được vốn của công ty và để giữ bọn nhân viên của công ty quản lý các sổ sách được tốt”.

        Năm 1664, Thủ tướng Pháp Colbert thành lập công ty Đông Ấn Độ của Pháp để cạnh tranh với Hà Lan, Anh và Bồ Đào Nha ở châu Á và châu Phi. Công ty Đông Ấn của Pháp vừa có mục đích truyền giáo, vừa có mục đích buôn bán. Những hiệu buôn của công ty đều là trụ sở của hội truyền giáo. Các giáo sĩ khi lên bộ thường mặc quần áo lái buôn và chính họ cũng buôn bán.

        Trong nửa cuối thế kỷ XVII, thế lực chính trị và kinh tế của Bồ Đào Nha giảm sút. Anh đang vươn lên chiếm gần hết nước Ấn Độ rộng lớn, Pháp cũng mưu đồ xâm lược Việt Nam.

        Năm 1675, một lái buôn Pháp là Leroux nêu ý kiến nên chiếm đảo Côn Lôn của Việt Nam.

        Năm 1686, lái buôn Véret từ công ty Đông Ấn của Pháp sang Đàng Trong tính chuyện mở hiệu buôn, khi về cũng đề nghị chính phủ Pháp nên chiếm đảo Côn Lôn, là nơi nhiều thuyền bè qua lại để mua các sản vật của Lào và Cam-pu-chia. Véret miêu tả Côn Lôn:

        “Đảo này có ba bến tốt, nhiều suối nhỏ, kinh, rạch, cây cối tốt đẹp tuyệt trần, chiếm được nơi này thì có lợi như chiếm cả hai eo biển Malacca và Sonde".

        Năm 1748, chủ nhiệm công ty Đông Ấn của Pháp là Dumond đích thân sang Việt Nam dò xét tình hình. Khi về, Dumond đề nghị chính phủ Pháp nên chiếm cù lao Chàm ở gần cửa Hội An.

        Năm 1749, hội đồng Pondichéry của Pháp ở Ấn Độ cho lái buôn Poivre, trước đã làm giáo sĩ, đi một chiếc tàu mang theo 30 khẩu đại bác và 200 lính đến Việt Nam gặp chúa Nguyễn là Võ Vương ở Phú Xuân, xin đặt căn cứ ở Đà Nẵng, Hội An và hỏi mua nô lệ.

        Sau đó, Poivre có viết một cuộn "Hồi ký về Đàng Trong" và nhận xét:

        "Đàng Trong gần như là xứ sở của vàng. Vàng ở đây tốt đẹp nhất, tinh khiết nhất thế giới . . . Vàng này đem bán ngay ở Quảng Đông cũng lãi trăm phần trăm".

        Poivre còn ghi những điều cụ thể:

        “Rất nhiều thứ không có giá trị ở bên Pháp lại được coi là rất quý ở xứ này. Tất cả các thứ đồ bằng sắt tây, thủy tinh, vải màu đẹp (ví dụ màu đỏ) sẽ bán được. Có thể bán chạy ở đây tất cả các thứ vũ khí ở châu Âu, nhất là lưỡi gươm đúc theo kiểu xứ này… Mặt đá kim cương cho tới loạì đá sông Nin sẽ bán được cao giá. . . Đồng thau, lưu hoàng. . . giá rất đắt. Các thuốc như canh-ki-na, nhân sâm Ca-na-đa, các thứ thuốc tây khác... Một vải tấm vải Lyon hoa màu vàng hoặc bạc sẽ được người Đàng Trong dùng làm thứ đựng trầu thuốc... Chớ quên vòng tay, hoa tai mạ. . . “. 

        Nhưng nuôi dưỡng mưu đồ xâm lược nhiều hơn cả vẫn là các giáo sĩ, mà đối với Việt Nam thời bấy giờ là các giáo sĩ Pháp.

        Đối với các giáo sĩ

        Năm 1621, Đàng Trong có hơn 200 tín đồ theo đạo Gia Tô.

        Năm 1624, giáo sĩ Pháp Alexandre de Rhodes và sáu giáo sĩ Dòng Tên đến Đàng Trong, ra sức học tiếng Việt và đã góp phần tích cực vào việc đặt ra chữ Quốc ngữ. Năm năm sau, Alexandre de Rhodes đi giảng đạo bằng tiếng Việt, tới Huế tiếp xúc với gia đình chúa Nguyễn, truyền đạo cho Minh Đức vương thái phi, là phi tần của chúa Nguyễn Hoàng. Bà này lấy tên đạo là Marie Madeleine. Bà bố trí hẳn một ngôi nhà trong cung điện của mình để các giáo sĩ ở và giảng đạo. Chính giáo sĩ Rhodes đã đề nghị chính phủ Pháp:

        "Đây là một vị trí cần phải chiếm lấy. Chiếm được xứ này thì các lái buôn châu Âu sẽ kiếm được một nguồn lợi nhuận và tài nguyên rất phong phú” (Al. de Rhodes: Divers voyages et missions en la Chine et autres royaumes de l'orient. Paris, 1653. (Những cuộc hành trình và truyền đạo ở Trung Quốc và các vương quốc khác ở phương Đông) pp. 109-110).


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2016, 12:33:21 am

        Nhưng các giáo sĩ chưa thể thực hiện được mưu đồ của họ. Năm 1639, chúa Nguyễn Phúc Lan cấm truyền đạo Gia Tô và trục xuất các giáo sĩ.

        Nhờ sự che giấu của đồng bào theo đạo, nhiều giáo sĩ vẫn lẩn lút trong dân chúng, ngấm ngầm truyền đạo nên người theo đạo vẫn ngày càng nhiều. Nếu năm 1621 số người theo đạo ở Đàng Trong là 200 người thì 43 năm sau, từ năm 1664, số người theo đạo đã lên tới 10 vạn.

        Trong năm 1664, chúa Nguyễn Phúc Tần lại ra lệnh cấm đạo. Năm 1699, chúa Nguyễn Phúc Chu tiếp tục ra lệnh cấm đạo, bắt giam người theo đạo, phá nhà, đốt sách của những người theo đạo. Người phương Tây trú ngụ từ Thuận Quảng trở vào Nam đều bị trục xuất, không cho ở nước ta.

        Chúa Nguyễn cấm đạo liên tục tới giữa thế kỷ XVIII. Năm 1750, Nguyễn Phúc Khoát ra lệnh trục xuất các giáo sĩ phương Tây. Nhưng chỉ hơn 20 năm sau, dòng chúa Nguyễn lại chèo kéo giáo sĩ phương Tây đến với họ, giúp đỡ họ chống lại nhân dân, chống lại phong trào nông dân Tây Sơn, níu giữ ngai vàng cho dòng họ Nguyễn. Cụ thể là năm 1777, Nguyễn Ánh trong dòng họ Nguyễn đã tìm gặp giáo sĩ Pháp Pigneau de Béhaine mang tên Việt là Bá Đa Lộc. Ông này là giám mục, đại diện giáo hội đạo Gia Tô ở Đàng Trong. Nguyễn Ánh cầu xin Bá Đa Lộc giúp đỡ

        Bá Đa Lộc nắm lấy cơ hội, dùng Nguyễn Ánh làm con bài mở đường cho đế quốc Pháp vào Việt Nam. Bá Đa Lộc lấy tiền đóng góp thờ Chúa của giáo dân để mua khí giới, chế tạo thuyền chiến, tàu chiến kiểu châu Âu, thuê mộ võ quan, thủy thủ người châu Âu cho Nguyễn Ánh.

        Bá Đa Lộc khuyên Nguyễn Ánh cầu cứu nước Pháp. Năm 1784, Bá Đa Lộc đưa con Nguyễn Ánh còn nhỏ tuổi sang Pháp làm con tin để cầu Pháp viện trợ. Ngày 28 tháng 11 năm 1787, một hiệp ước bán nước được ký kết ở điện Versailles tại Paris, một bên là bộ trưởng ngoại giao Pháp Montmorin, một bên là Bá Đa Lộc - đại diện cho Nguyễn Ánh. Với hiệp ước này, pháp hứa giúp Nguyễn Ánh 1.650 tên lính, 4 tàu chiến và một số súng đạn. Đáp lại, Nguyễn Ánh phải nhượng hẳn đảo Côn Lôn và cảng Hội An làm thuộc địa của Pháp, để cho Pháp đặc quyền và độc quyền vào buôn bán ở Việt Nam, không được để người châu Âu nào khác tới buôn bán. Khi chiến tranh kết thúc, Nguyễn Ánh phải trả cho Pháp 4 chiếc tàu chiến mới. Kèm theo một điều kiện nữa là khi nào Pháp có chiến tranh với một nước khác ở châu Á thì Nguyễn Ánh phải cung cấp cho Pháp: quân lính, tàu thuyền, lương thực và mọi thứ quân nhu khác .

        Hiệp ước đã ký kết, vua Pháp Louis XVI giao cho toàn quyền Pháp ở Pondichéry (Ấn Độ) thực hiện. Nhưng toàn quyền ở đây không có điều kiện thực hiện. Bá Đa Lộc phải tự mình quyên tiền mua tàu chiến, mua súng đạn, mộ lính và đưa thêm giáo sĩ sang Việt Nam giúp Nguyễn Ánh. Vai trò phản bội nhân dân Việt Nam của Bá Đa Lộc thực dân Pháp đã ca ngợi công lao như sau:

        “Từ 1787, một giám mục tài ba lỗi lạc, ngài Pigneau de Béhaine, giám mục Adran, đại diện Tòa thánh ở Đàng Trong đã đề nghị với vua Louis XVI thiết lập một thuộc địa ở An Nam. Sự nhận xét của ngài Pigneau thực sâu sắc, chí lý và hoàn toàn thời sự. Hơn nữa, ông ta không chỉ nói tới Đàng Trong mà còn nói tới Đàng Ngoài.

        Theo Adran (Bá Đa Lộc), nếu chiếm được nước này, sẽ có nhiều lợi thế ngăn được ảnh hưởng của người Anh trong thời bình cũng như thời chiến. Một là buôn bán tốt. Hai là ngăn chặn được những kẻ cạnh tranh buôn bán. Ba là có nhiều gỗ để đóng tàu Bốn là có cơ sở tiếp tế nguyên liệu. Năm là nguồn nhân lực, vật lực, cung cấp thủy thủ và lính. Adran nhấn rất mạnh tầm quan trọng của cảng Đà Nẵng"  .(E. Veuilld: Le Tonkin et la Cochinchine - Le pays, l'histoire et les missions.)

        Nguyễn Ánh còn ca ngợi Bá Đa Lộc hơn thế nữa. Trong một bức thư gửi vua Pháp Louis XVI vào đầu năm 1790, Nguyễn Ánh viết:

        "Mặc dù trùng dương cách trở, tôi vẫn luôn luôn được nghe các du khách nói về thanh danh và đức độ của nhà vua. Tiếc rằng tôi không có cách nào để tỏ bày bằng chính tiếng nói của mình dưới chân bệ hạ. Tôi đành phải ấp ủ tất cả những nỗi niềm đó trong trái tim mình. May mắn cho tôi đã gặp được một người đầy tài năng lỗi lạc mà tôi có thể hoàn toàn tin cậy gửi gắm vào đó. Người ấy là ông giám mục Adran, người của nhà vua.

        Tôi đã ủy cho ông giám mục Adran toàn quyền điều đình mọi công việc, và hiện nay tôi đương chờ đợi ông ta trở lại với mọi sự giúp đỡ của quý quốc" (H.Cordier: La correspondance générale de la Cochinchine.)

        Con người thực dân khoác áo giáo sĩ này không chỉ giúp quân, giúp vũ khí cho Nguyễn Ánh mà còn trực tiếp ra trận cầm vũ khí bắn giết nhân dân ta.

        Nhưng chỉ mấy năm sau. Bá Đa Lộc chết trên đường hành quân của Nguyễn Ánh.

        Mưu đồ chiếm đóng Việt Nam của hắn bị tiêu tan!

        Hành động ngoại giao phản bội dân tộc của tập đoàn Nguyễn Ánh - Bá Đa Lộc định dâng nước Việt Nam cho Pháp chưa thể thực hiện được. Người anh hùng dân tộc trẻ tuổi Nguyễn Huệ kiên quyết chặn tay chúng lại.

        Ngoại giao phản động không thể đối đầu với ý chí quyết chiến cứu nước của cả dân tộc.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2016, 12:34:36 am

Chương chín

NGOẠI GIAO THỜI QUANG TRUNG NGUYỄN HUỆ
(Thế kỷ XVIII)

        I. QUAN HỆ VỚI CHÂN LẠP

        Phong trào nông dân Tây Sơn phát động khởi nghĩa vũ trang năm 1771 tại Quy Nhơn. Năm 1782, Nguyễn Huệ, lãnh tụ phong trào đưa quân vào Gia Định, đánh đuổi Nguyễn Ánh. Bị đại bại, Nguyễn Ánh phải bỏ thành Gia Định chạy vào Hậu Giang trước khi chạy tiếp ra vùng biển, rồi cho một phái bộ gồm 150 người do Nguyễn Hữu Thụy - em rể Nguyễn Ánh cầm đầu, qua Chân Lạp sang Xiêm cầu viện.

        Một nhóm chân tay của Nguyễn Ánh là giám mục Bá Đa Lộc cùng một số giáo sĩ Pháp, Tây Ban Nha đem theo hơn 80 người Việt Nam theo đạo Thiên chúa chạy sang Chân Lạp.

        Thấy bọn phản động chạy sang Chân Lạp, Nguyễn Huệ cho người sang thông hiếu với Chân Lạp. Để tỏ tình giao hảo với nghĩa quân Tây Sơn, triều đình Chân Lạp cho quân chia làm ba đạo đi chặn bắt Nguyễn Ánh và chân tay của y.

        Đạo quân Chân Lạp thứ nhất gồm hơn 30 thuyền chiến đi theo hướng Rạch Giá đánh đuổi Nguyễn Ánh tới Sơn Chiết. Nguyễn Ánh và tùy tùng trốn thoát ra Hà Tiên, xuống thuyền chạy ra đảo Phú Quốc.

        Đạo quân Chân Lạp thứ hai đi đón bắt bọn Nguyễn Hữu Thụy. Toàn bộ phái đoàn đi cầu viện Xiêm của Nguyễn Ánh bị quân Chân Lạp bắt và tiêu diệt gọn.

        Đạo quân Chân Lạp thứ ba được lệnh đi lùng bắt bọn Bá Đa Lộc đang ẩn náu trong đất Chân Lạp. Bọn Bá Đa Lộc phải lẩn trốn vào rừng.

        Vì có quan hệ ngoại giao từ trước, Nguyễn Huệ được sự giúp đỡ tận tình của Chân Lạp về quân sự để truy kích bọn phản động Nguyễn Ánh.

        Cũng do mối quan hệ hữu nghị đó mà một năm sau nghĩa quân Tây Sơn đã giúp Chân Lạp giữ được nước. Số là trong mấy tháng cuối năm 1783, một số người Mã Lai đem quân sang đánh chiếm Chân Lạp. Nước Chân Lạp cầu viện nghĩa quân Tây Sơn. Tháng 12 năm 1783, tướng Tây Sơn Trương Văn Đa đem quân sang Chân Lạp đánh đuổi quân Mã Lai, giải phóng đất nước Chân Lạp. Quân Mã Lai chạy trốn sang Xiêm. Sau khi giúp Chân Lạp thành công, nghĩa quân Tây Sơn rút về Gia Định.

        Dưới sự lãnh đạo của anh hùng Nguyễn Huệ, quan hệ hữu nghị Nguyễn (Tây Sơn) - Chân Lạp đã giúp Chân Lạp thoát được cuộc xâm lược của người Mã Lai .


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2016, 12:35:46 am

        II. QUAN HỆ VỚI TRUNG QUỐC

        Nghĩa quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ lãnh đạo đã chiến thắng oanh liệt hơn 30 vạn quân Thanh và quân nhà Lê, bảo vệ được nền độc lập của Tổ quốc. Nhưng nạn ngoại xâm vẫn còn đe dọa nghiêm trọng. Hai mươi chín vạn quân Thanh bị tiêu diệt hoàn toàn trên đất nước Việt Nam là một thất bại nhục nhã của quân xâm lược. Chúng không thể không tính đến việc trả thù.

        Tin Tôn Sĩ Nghị thất bại thảm hại về tới Yên Kinh, vua tôi nhà Thanh vội vàng cho tổng đốc Vân Quý là Phúc Khang An thay Tôn Sĩ Nghị làm tổng đốc Lưỡng Quảng, kiêm đô đốc 9 tỉnh với trọng trách điều động quân dân 9 tỉnh, lấy 50 vạn quân tiến sang Việt Nam đánh trả thù cho trận thất bại vừa qua.

        Nhưng đánh trả thù cũng không phải là việc dễ. Muốn phục thù mà vẫn trờn trợn, vì thua đau quá. Nhất là ở những nơi có những kẻ vừa chiến bại ở Việt Nam về thì không chỉ trờn trợn mà sợ thật sự, sợ chiến tranh lại tái diễn với Việt Nam.

        Tin quân đội Tây Sơn sẽ vượt biên giới đi sâu vào nội địa Trung Quốc để truy nã bọn bán nước Lê Chiêu Thống đã làm náo động cả miền Hoa Nam. Từ cửa ải nam Quan trở lên phía bắc, già trẻ lớn bé dắt díu bồng bế nhau chạy trốn, cả một quãng dài vài trăm dặm, lặng ngắt không còn bóng người. Trước tình hình ấy, quan quân nhà Thanh ở vùng biên giới không thể không lo đối phó. Người chịu trách nhiệm về việc quân ở biên giới Quảng Tây lại chính là "Tả giang binh bị đạo Thang Hùng Nghiệp" vừa chết hụt ở Việt Nam, mới chạy trốn được về tới Quảng Tây. Thang Hùng Nghiệp tự lượng thấy không thể đương đầu với quân đội Tây Sơn, một khi Nguyễn Huệ cho quân vượt biên giới tiến sang, cho nên y tìm cách hòa hoãn với quân đội Tây Sơn.

        Sáng sớm ngày 5 tháng giêng năm Kỷ Dậu (1789, Thang Hùng Nghiệp từ bến Tây Long theo Tôn Sĩ Nghị lật đật chạy trốn lên phía ải Nam Quan qua biên giới về nước. Sau khi về được Quảng Tây, ngày 18 tháng giêng Kỷ Dậu (1789), y viết thư cho đại tướng Việt Nam là Hám Hổ Hầu (chưa rõ lai lịch của Hám Hổ Hầu. Có ý kiến cho Hám Hổ Hầu là Võ Văn Dũng (?)) đề nghị hoãn binh và yêu cầu Hám Hổ Hầu trình bày với Nguyễn Huệ những lẽ hơn thiệt về việc giảng hòa với triều đình nhà Thanh; Thang Hùng Nghiệp xin tình nguyện đứng ra làm trung gian điều đình.

        Cũng tháng giêng năm Kỷ Dậu, Phúc Khang An - người thay Tôn Sĩ Nghị làm tổng đốc Lưỡng Quảng, tới Quảng Tây thi hành nhiệm vụ điều động 50 vạn quân để tiến đánh Việt Nam, phục thù cho trận thất bại của Tôn Sĩ Nghị. Nhưng Phúc Khang An là người từng phụ trách quân lương trong đoàn quân xâm lược của Tôn Sĩ Nghị trước đây, đã chứng kiến sự thất bại nhục nhã của Tôn Sĩ Nghị, cho nên cũng thấy cái thế khó thắng của mình. Vì vậy, cũng như Thang Hùng Nghiệp, tổng đốc Phúc Khang An cũng muốn hòa hoãn với quân đội Tây Sơn, dập tắt mưu đồ phục thù của triều đình nhà Thanh. Tới Quảng Tây, Phúc Khang An cho viên phân phủ Thái Bình viết thư sang Việt Nam cho Ngô Thì Nhậm nói rõ lẽ nên cùng nhau giảng hòa và Phúc Khang An cũng tình nguyện xin làm trung gian đứng ra điều đình giữa triều đình Việt Nam và triều đình nhà Thanh.

        Thấy thời cơ ngoại giao thuận lợi, tháng giêng năm Kỷ Dậu, Nguyễn Huệ cho Nguyễn Hữu Trù, Võ Huy Phúc sang gặp Thang Hùng Nghiệp; tháng hai năm Kỷ Dậu lại cho Ngô Thì Nhậm sang Quảng Tây gặp Phúc Khang An. Biết rõ bọn tướng lĩnh nhà Thanh ở Quảng Đông, Quảng Tây còn đang trong cơn hoảng sợ sau trận thất bại thảm hại ở Việt Nam, việc điều động 50 vạn quân sang đánh Việt Nam chưa thể thực hiện được, quan hệ với nhà Thanh có thể tạm thời hòa hoãn, Nguyễn Huệ được rảnh tay ở phía Bắc để lo đối phó với tình hình ở phía Nam. Cuối tháng hai năm Kỷ Dậu (1789), Nguyễn Huệ quyết định trở về Phú Xuân, trao binh quyền ở Bắc Hà cho Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Võ Văn Dũng và trao quyền giao thiệp với nhà Thanh cho Ngô Văn Sở, Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích.

        Đối với nhà Thanh, từ sau khi Ngô Thì Nhậm gặp Phúc Khang An, việc giao thiệp giữa hai nước được tiến hành khẩn trương. Tháng ba năm Kỷ Dậu (1789), một sứ bộ Việt Nam gồm có Nguyễn Quang Hiển, Võ Huy Tấn, Ngô Vi Quý, Nguyễn Đình Cử lên đường sang Yên Kinh gặp vua Càn Long. Việt Nam trao trả cho nhà Thanh 800 tù binh. Nhà Thanhphải đem một số cựu thần nhà Lê là bọn Nguyễn Đình Bài cùng với gia đình họ, gồm khoảng ngót một trăm người, trao trả cho quân đội Tây Sơn. Càn Long mời Nguyễn Huệ - lãnh tụ Tây Sơn sang thăm triều đình Yên Kinh, nhân dịp lễ mừng thọ Càn Long 80 tuổi năm 1790. Sứ bộ Việt Nam nhận lời. Cuối thảng bảy năm Kỷ Dậu, Càn Long làm chỉ dụ phong Nguyễn Huệ làm An Nam quốc vương. Tháng mười một năm Kỷ Dậu, Càn Long cho sứ bộ mang chiếu phong vương sang Thăng Long. Ngô Thì Nhậm cho người giả làm Nguyễn Huệ đứng ra nhận chiếu phong vương.

        Cũng trong năm Kỷ Dậu (1789), Nguyễn Huệ cho viết thư gửi Phúc Khang An ở Quảng Tây yêu cầu "mở cửa ải, thông chợ búa, khiến cho hàng hóa không ngừng đọng để làm lợi cho dân dùng".  Phúc Khang An phải cho mở các cửa ải Bình Nhi, Thủy Khẩu, Du Thôn để nhân dân hai nước Việt, Trung qua lại buôn bán. Năm 1790, Phúc Khang An lại nhận lời để lập một "nhà hàng" , tức thương điếm, của nhà nước Việt Nam tại phủ Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2016, 12:36:21 am

        Trong năm 1790, có việc vua Quang Trung sang Trung Quốc gặp vua Thanh Càn Long, như sứ Việt Nam đã nhận lời mời từ trước. Cố nhiên là vua Quang Trung không đi. Phúc Khang An cũng biết như thế. Nhưng Phúc Khang An muốn lấy việc Quang Trung sang Trung Quốc để thắt chặt tình hòa hảo giữa hai nước, nên Phúc Khang An cùng Thang Hùng Nghiệp mật bàn với Ngô Văn Sở, Ngô Thì Nhậm cho người đóng giả Quốc ' vương Quang Trung sang mừng thọ Càn Long.

        Mưu này được thực hiện rất êm đẹp. Phúc Khang An được chiếu chỉ của vua Càn Long, làm nhiệm vụ đưa đón và hộ tống vua Quang Trung từ biên giới Việt Trung và trong suốt cuộc hành trình của vua Quang Trung trên đất Trung Quốc. Ở Việt Nam, phái đoàn vua Quang Trung đi Trung Quốc cũng được tổ chức trang trọng. Phái đoàn gồm 159 người, có Quốc vương giả là Phạm Công Trị, cháu gọi bà Phạm Thị Liên vợ cả vua Quang Trung là cô (Bà Liên chết sớm. Sách Đại Nam chính biên liệt truyện, sơ tập, (bản dịch) viết Phạm Công Trị gọi Nguyễn Huệ bằng cậu. Gọi chồng cô bằng cậu có lẽ không đúng cách xưng hô (?)). Tướng đi hộ vệ là đô đốc Nguyễn Duật, trọng thần hàng võ là Ngô Văn Sở, trọng thần hàng văn là Phan Huy Ích, văn thần trông coi văn thư là Võ Huy Tấn, 12 nhạc công, 16 phiên dịch, 9 quản tượng và các tướng sĩ tùy tùng.

        Sứ bộ lên đường từ Bắc Thành ngày 9 tháng tư qua ải Nam Quan ngày 15 tháng tư. Tổng đốc Phúc Khang An cùng các quan văn võ hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây tổ chức đón tiếp rất long trọng và đưa sứ bộ tới Quảng Châu nghỉ lại ở đây ít ngày. Tới ngày 11 tháng năm, sứ bộ tiếp tục lên đường. Dọc đường, sứ bộ được quan lại và nhân dân địa phương tiếp đón và hộ tống rất chu đáo.

        Ngày 11 tháng bảy, Quốc vương (giả) tới yết kiến Càn Long tại hành cung Nhiệt Hà. Càn Long yên .trí là vua Quang Trung đã tới. Hai vua ân cần trân trọng đón tiếp nhau. Yến tiệc liên miên, các cuộc vui chơi múa hát cũng liên miên. Chi tiêu cực kỳ tốn kém.

        Ngày 22 tháng tám, phái đoàn Việt Nam lên đường về nước. Nhà Thanh đã chi một số tiền rất lớn để đón tiếp phái đoàn vua Quang Trung giả. Mỗi bữa yến tiệc là 1.000 lạng bạc, chi phí đón tiếp mỗi ngày 4.000 lạng bạc. Phái đoàn Việt Nam vừa đi vừa về 200 ngày. Nhà Thanh phải chi 80 vạn lạng bạc để đón tiếp. Khi phái đoàn ta đã về nước, Càn Long tiếc của, nói: "Giá lấy số tiền ấy làm quân phí sang đánh báo thù cho Hứa Thế Hanh còn hơn" (Đại Thanh thực lục, q. 1356).

        Càn Long nói thế thôi, chứ không làm như vậy được và cũng không dám làm. Trái lại, hoạt động của phái đoàn ta đã có ảnh hưởng lớn tới thái độ chính trị và tinh thần hòa hảo của triều đình nhà Thanh.

        Ngày 29 tháng mười một năm Canh Tuất, phái đoàn vua Quang Trung (giả) về tới Thăng Long. Tháng tư năm Tân Hợi (1791), triều đình nhà Thanh cho đem đày bọn quan lại nhà Lê ở Trung Quốc đi các nơi xa xôi hẻo lánh. Lê Chiêu Thống và gia đình hắn bị giam lỏng tại "Tây An nam dinh" trong kinh thành Yên Kinh.

        Như thế là với thực lực của quân đội Tây Sơn và với tài ngoại giao của các văn quan võ tướng Tây Sơn, mưu đồ phục thù của nhà Thanh đã bị dẹp tan.

        Đầu năm 1792, sau khi đánh thắng bọn phản động ở Vạn Tượng, Nguyễn Huệ cho người đem tặng phẩm sang biếu nhà Thanh. Tặng phẩm gồm có: những chiến lợi phẩm lấy được ở Vạn Tượng, những sách binh thư Việt Nam và một quyển viết về triều đại thối nát Lê Chiêu Thống. (Ngụy Nguyên, Thánh vũ ký, q.6)

        Những tặng phẩm ấy vừa có ý nghĩa biểu dương sức mạnh của quân đội Tây Sơn, vừa nói lên lòng tự hào về nghệ thuật quân sự của dân tộc mình, vừa vạch rõ cho vua tôi nhà Thanh biết rằng những hành động theo gót bọn phản động nhà Lê, xâm lược Việt Nam là trái với nguyện vọng của nhân dân Việt Nam, không thể được nhân dân Việt Nam ủng hộ và nhất định phải thất bại.

        Tiếp theo đó, vua Quang Trung cho đại tướng Võ Văn Dũng sang cầu hôn công chúa nhà Thanh, lấy cớ bà Hoàng hậu vua Quang Trung mất đầu năm 1792, và đặt vấn đề đòi lại hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây là đất cũ của ta. Vua Thanh, Càn Long vui lòng gả công chúa cho vua Quang Trung và nhận trả tỉnh Quảng Tây cho ta, sau đó lệnh cho bộ Lễ chuẩn bị tổ chức lễ cưới và tiễn đưa công chúa sang Việt Nam.

        Mọi việc đương tiến hành tốt đẹp thì một tin sét đánh đưa tới triều đình nhà Thanh: vua Quang Trung mất đêm 29 tháng bảy nhuận (năm Nhâm Tý). Vua Càn Long và triều đình nhà Thanh rất sửng sốt, luyến tiếc. Võ Văn Dũng cùng sứ bộ đau buồn, xin trở về nước.

        Văn thần Ngô Thì Nhậm cầm đầu một phái đoàn lên đường sang Trung Quốc chính thức báo tang: ngày 2 tháng hai năm Quý Sửu (1793) , vua Càn Long phê vào biểu báo tang hai chữ "đáng tiếc" và làm một bài thơ viếng vua Quang Trung. Ngô Thì Nhậm ghi lại việc triều đình nhà Thanh làm lễ truy điệu:

            Tất cả các quan to đều cúi đầu làm lễ
            Ai ai cũng không quên đức Tiên vương ta

                                   (bài thơ Vũ hành )

        Vua Càn Long đưa gửi đoàn sứ giả Việt Nam ba nghìn lạng bạc và một tấm lụa quý để triều đình Việt Nam tổ chức lễ chay vua Quang Trung. Vua Trung Quốc sai viên án sát Quảng Tây là Thành Lâm làm khâm sai sang Việt Nam làm lễ đọc bài thơ của vua Trung Quốc trước phần mộ vua Quang Trung và phong cho con vua Quang Trung là Nguyễn Quang Toản làm An Nam quốc vương.

        Uy tín của vị anh hùng trẻ tuổi Quang Trung Nguyễn Huệ, cho tới khi đã chết vẫn làm rạng rỡ non sông đất nước và giúp cho công việc ngoại giao thời đó thành công tốt đẹp.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2016, 12:38:38 am

Chương mười

NGOẠI GIAO THỜI NGUYỄN
(Thế kỷ XIX)

        I. NGOẠI GIAO CỦA HỌ NGUYỄN Ở GIA ĐỊNH NHỮNG NĂM CUỐI THẾ KỶ XVIII

        Trong nhưng năm cuối thế kỷ XVIII, dòng chúa Nguyễn có Nguyễn Ánh nổi lên chống lại phong trào Tây Sơn. Nguyễn Ánh tích cực hoạt động ngoại giao để tìm sự giúp đỡ từ bên ngoài. Giúp đỡ về tinh thần và vật chất, về chính trị hay về quân sự, đối với Nguyễn Ánh lúc này, đều là cần thiết.

        Quan hệ ngoại giao giữa nhà nước với nhà nước tuy chưa có, nhưng Nguyễn Ánh vẫn thường xuyên liên hệ với người phương Tây để thuê mượn họ giúp việc tổ chức quân đội và nhờ họ mua sắm tàu thuyền, vũ khí châu Âu.

        Người Pháp, người Bồ Đào Nha đã tới làm việc với Nguyễn Ánh. Từ nhưng năm cuối thế kỷ XVIII, một số người Pháp đã cầm vũ khí cùng Nguyễn Ánh chống lại nhân dân Việt Nam, chống phong trào Tây Sơn.

        Năm 1790, Nguyễn Ánh nhờ võ quan Pháp củng cố quân đội và xây dựng lại thành Gia Định theo kiểu thành châu Âu.

        Bộ binh của Nguyễn Ánh có 40 võ quan Pháp.

        Thủy binh của Nguyễn Ánh có hai tàu chiến kiểu châu Âu do võ quan Pháp chỉ huy.

        Cuối năm 1790, Nguyễn Ánh cho người đi Gia-các-ta (thuộc In-đô-nê-xi-a), tìm mua binh khí châu Âu

        Năm 1791, Nguyễn Ánh viết thư gửi vua Bồ Đào Nha, nhờ một người lái buôn Bồ Đào Nha là Chu-gi-nô-nhi đưa về nước xin mua 2 vạn súng điểu thượng, 2 nghìn cỗ đại bác bằng gang, mỗi cỗ nặng 100 cân, 2 nghìn viên đạn gang, đường kích 10 tấc.

        Năm 1793, Nguyễn Ánh lại nhờ hai người Pháp sang Ma-lac-ca và Goa (thuộc Ấn Độ) mua vũ khí.

        Với Trung Quốc, tuy chưa có ngoại giao chính thức, Nguyễn Ánh cũng đã hai lần cho người sang Trung Quốc. Lần thứ nhất (1796), Nguyễn Ánh cho Chu Văn Yên sang Trung Quốc mua sách và mua hàng hóa. Lần thứ hai (1798), Nguyễn Ánh cho Ngô Nhân Tĩnh đem thư sang Quảng Đông hỏi thăm tin tức của Lê Chiêu Thống. Ngô Nhân Tĩnh đến Quảng Đông, biết vua Lê Chiêu Thống đã chết, trở về ngay báo cho Nguyễn Ánh biết. Được tin này, Nguyễn Ánh mưu đồ bỏ ngôi chúa, và chuẩn bị ngự trị ngôi vua.

        II. NGOẠI GIAO TRIỀU GIA LONG (1802-1819)

        Tháng 5 năm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn Ánh lên ngôi vua, lấy niên hiệu Gia Long và từ đây tiến hành ngoại giao với tư cách một quốc vương mở đầu triều đại mới.

        1. Ngoại giao với Trung Quốc

        Cũng như các triều đại trước, nước đầu tiên mà Gia Long Nguyễn Ánh tiến hành ngoại giao là Trung Quốc. Tháng 5 năm Nhâm Tuất, sau khi lên ngôi vua, Gia Long cho một đoàn sứ giả đem đồ uống sang Quảng Đông cầu phong triều đình Trung quốc. Dẫn đầu đoàn sứ giả là Trịnh Hoài Đức chánh sứ, Ngô Nhân Tĩnh và Hoàng Ngọc Uẩn là phó sứ. Đoàn sứ giả sang Quảng Tây, bọn quan lại nhà Thanh ở đây nhận chuyển đồ cống lên Bắc Kinh, còn giữ đoàn sứ ở lại Quảng Tây chờ lệnh triều đình có cho sứ giả lên Bắc Kinh triều yết hay không.

        Nguyễn Ánh cho đoàn sứ đem theo mấy tên tướng Tàu Ô Trung Quốc bị quân Nguyễn bắt để nộp cho nhà Thanh. Triều đình Thanh lệnh cho quan tỉnh Quảng Tây xử tử những tên tướng Tàu Ô, nhưng vẫn chưa lệnh cho sứ giả của Gia Long lên Bắc Kinh.

        Thấy sứ giả đi từ tháng 5 mà mấy tháng sau vẫn còn ở Quảng Tây, Gia Long cho người lên cửa ải Nam Quan, đưa thư sang hỏi quan tỉnh Quảng Tây và chờ tin trả lời.

        Ít lâu sau, Gia Long được triều đình Bắc Kinh báo cho biết là đoàn sứ Trịnh Hoài Đức chỉ mới là đoàn sứ đem nộp đồ cống, phải cho một đoàn sứ khác đem biểu văn cầu phong sang. Khi đoàn sứ cầu phong tới Quảng Tây sẽ cùng đoàn sứ Trịnh Hoài Đức lên Bắc Kinh.

        Gia Long phải nghe theo, lại cho một đoàn sứ nữa gồm Lê Quang Định làm chánh sứ, Lê Chính Lộ và Nguyễn Gia Cát làm phó sứ đem đồ cống và biểu văn sang cầu phong. Đoàn sứ Lê Quang Định còn làm thêm một nhiệm vụ là báo cho nhà Thanh biết Gia Long đổi tên nước ta là Nam Việt. Nước ta lấy tên nước là Đại Việt  từ lâu đời. Có lẽ Gia Long sợ Trung Quốc không bằng lòng: Trung Quốc là Đại Thanh, ta là Đại Việt, hai nước cùng "Đại" cả, tức là ngang hàng nhau, cho nên Gia Long tự ý đổi là Nam Việt.

        Mùa thu năm 1803, triều đình Bắc Kinh cho viên án sát tỉnh Quảng Tây là Tề Bố Xâm đi sứ sang Việt Nam tuyên phong cho Gia Long.

        Sứ Trung Quốc Tề Bố Xâm chỉ sang Thăng Long để làm lễ tuyên phong như các thời trước, không chịu vào Phú Xuân.

        Gia Long phải từ Phú Xuân tiến hành "ngự giá Bắc tuần" để bái yết sứ Thanh và tiếp nhận chiếu phong vương.

        Đầu năm Giáp Tý (1804), sứ Trung Quốc tới Thăng Long. Ngày 13 tháng giêng năm Giáp Tý, lễ tuyên phong tổ chức tại điện Kính Thiên.

        Vua Thanh cho sứ đem gấm, đoạn và nhiều phẩm vật sang tặng vua Việt Nam. Về tên nước ta, vuaThanh không muốn ta dùng tên Nam Việt  là tên nước đã có từ thời Triệu Đà, bao gồm cả hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây. Nên sau này tên nước được gọi là Việt Nam  như ngày nay.

        Gia Long cho một đoàn sứ giả do Lê Bá Phẩm làm chánh sứ, Trần Minh Nghĩa, Nguyễn Đăng Đệ làm phó sứ đem thư, tặng phẩm sang tạ vua Thanh. Tặng phẩm tức là lễ cống hàng năm, gồm 200 lạng vàng, 1.000 lạng bạc, 100 tấm lụa, 100 tấm the, 2 chiếc sừng tê, 100 cân ngà voi và 100 cân quế tốt. Gia Long lại xử hậu hĩ, nộp luôn cả cống phẩm năm sau (1805) và cống phẩm năm trước (1803) chưa nộp. Như vậy tổng cộng tặng phẩm do đoàn sứ Lê Bá Phẩm đưa đi là 600 lạng vàng, 3.000 lạng bạc, 300 tấm lụa, 300 tấm the, 6 cái sừng tê, 300 cân ngà voi và 300 cân quế tốt.

        Năm 1809, triều đình nhà Nguyễn cho một đoàn sứ 36 người do Nguyễn Hữu Thận làm chánh sứ đem nộp cống phẩm hai năm (1808-1809). Đoàn sứ 36 người, gồm có chánh sứ, 2 phó sứ, 9 hành nhân, 2 lục sự, 4 thư ký, 1 điền hộ, 2 thông sự và 15 người theo hầu.

        Một tháng sau, tức tháng tư âm lịch, Gia Long lại cho một đoàn sứ do Võ Trinh làm chánh sứ đem tặng vật sang mừng “Khánh tiết ngũ tuần" tức mừng vua Thanh 50 tuổi. Đồ mừng gồm có 2 đôi ngà voi, 4 bộ sừng tê, 100 tấm trừu, 100 tấm the, 100 tấm lụa và 100 tấm vải.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2016, 12:39:21 am

        2. Ngoại giao với Xiêm

        Trước khi lên ngôi vua, Gia Long đã sống lưu vong nhiều năm ở Xiêm, từng được Xiêm giúp đỡ nhiều lần, khi giúp lương, khi giúp quân để chống lại phong trào Tây Sơn. Năm 1806, Gia Long chính thức lên ngôi vua, Xiêm lại cho đem biếu Gia Long ba chiếc thuyền chiến.

        Đáp lại, năm 1808, Gia Long cho sứ sang Xiêm, tặng vua Xiêm 2 cân kỳ nam, 3 cân quế, 100 tấm lụa, 200 tấm the, 50 tấm vải đen và trắng.

        Đầu năm 1810 (tháng 12 năm Kỷ Tỵ), nhân việc tang vua Xiêm, Gia Long cho hai đoàn sứ sang Xiêm. Một đoàn sang dự lễ tang, đem đồ phúng gồm 1.000 cân đường phổi, 1.000 cân đường phèn, 1.500 cân đường cát, 500 cân sáp ong, 100 tấm lụa trắng, 100 tấm vải trắng.

        Một đoàn sang tặng vua Xiêm mới lên ngôi. Lúc ấy Xiêm có hai vua mới, Gia Long đưa quà tặng cả hai vua. Tặng vua thứ nhất: 2 cân kỳ nam, 3 cân nhục quế, 100 tấm lụa, 200 tấm the màu, 100 tấm sa màu, 100 tấm vải nhỏ. Tặng vua thứ hai: 1 cân kỳ nam, 1 cân 8 lạng nhục quế, 50 tấm lụa, 100 tấm the màu, 50 tấm sa màu, 50 tấm vải trắng.

        Năm sau, tức năm 1811, Gia Long lại cho đem quà tặng sang Xiêm. Tặng vua Xiêm thứ nhất: 120 tấm lụa trắng, 100 tấm vải trắng, 2.000 cân đường cát, 500 đường phổi, 500 cân đường phèn. Tặng vua Xiêm thứ hai: 80 tấm lụa trắng, 80 tấm vải trắng, 1.000 cân đường cát, 300 cân đường phổi, 300 cân đường phèn.

        Cuối năm 1813, Gia Long lại cho sứ đem tặng phẩm sang Xiêm. Tặng vua Xiêm thứ nhất: 2 cân quế, 50 tấm lụa vàng, 40 tấm sa, 200 tấm lụa trắng, 500 cân đường phổi, 500 cân đường phèn, 2.000 cân đường cát, 16 tảng đá xanh. Tặng vua Xiêm thứ hai: 1 cân quế, 25 tấm lụa vàng, 25 tấm sa, 100 tấm lụa trắng, 300 cân đường phổi, 300 cân đường phèn, 1.000 cân đường cát.

        Giữa năm 1814, vua Xiêm cho sứ đem tặng phẩm sang biếu Gia Long. Gia Long hậu đãi sứ và gửi tặng vua Xiêm thứ nhất: 40 lạng vàng, 500 lạng bạc; tặng vua Xiêm thứ hai: 20 lạng vàng, 100 lạng bạc.

        Cuối năm 1814, vua Xiêm cho sứ đem quà sang tặng Gia Long. Gia Long đáp lại, tặng vua Xiêm thứ nhất: 40 lạng vàng, 500 lạng bạc; tặng vua Xiêm thứ hai: 20 lạng vàng, 300 lạng bạc.

        Mùa thu năm 1816, vua Xiêm cho sứ đem quà tặng Gia Long. Gia Long đáp lại, tặng vua Xiêm thứ nhất: 40 lạng vàng, 500 lạng bạc; tặng vua Xiêm thứ hai: 20 lạng vàng, 300 lạng bạc.

        Mùa thu năm 1817, Xiêm báo tin vua Xiêm thứ hai chết. Gia Long cho sứ sang tặng vua Xiêm thứ nhất: 300 tấm lụa trắng, 300 tấm the trắng, 300 tấm vải nhỏ trắng. Phúng tang vua Xiêm thứ hai: 300 cân sáp ong, 100 tấm vải trắng, 300 cân đường phổi, 300 cân đường phèn, 2.000 cân đường cát.

        Như vậy trong suốt thời gian thời Gia Long, quan hệ giữa ta với Xiêm là tốt, hòa hảo hữu nghị.

        3. Quan hệ với Chân Lạp, Ai Lao và các nước Đông Nam Á

        Đối với Chân Lạp, mùa thu năm 1807, Chân Lạp cho sứ sang cầu phong. Gia Long phong vua Chân Lạp là Nặc Chân làm Cao Miên quốc vương và định lệ cho Chân Lạp 3 năm cống một lần. Mấy năm sau, Chân Lạp có biến, nội bộ hoàng tộc tranh giành ngôi vua, quốc vương Chân Lạp Nặc Chân phải chạy sang Việt Nam. Năm 1813 Gia Long cho tổng trấn Gia Định - Lê Văn Duyệt đem 13.000 quân đưa Nặc Chân về Chân Lạp, tiếp tục giữ ngôi vua.

        Thấy của cải của triều đình Chân Lạp không có gì Gia Long tặng vua Nặc Chân 3.500 lạng bạc, 5.000 quan tiền và 1 vạn hộc thóc. Gia Long còn cho quân giúp Chân Lạp đắp hai thành lớn.

        Tháng bảy năm Quý Dậu (1813), hai thành ở Chân Lạp đắp xong, vua Chân Lạp cho đem tặng Gia Long 88 thớt voi. Biết triều đình Chân Lạp còn túng thiếu, Gia Long không nhận biếu mà nhận mua 88 con voi theo thời giá bấy giờ. Thời giá mua bán voi khi ấy là:

        Voi cao 6 thước trở lên là hạng nhất, giá 50 lạng bạc .

        Voi cao 5 thước 3 tấc là hạng nhì, giá 40 lạng bạc.

        Voi cao 4 thước 4 tấc trở lên là hạng ba, giá 30 lạng bạc.

        Đối với nước láng giềng Ai Lao, Gia Long có thông hiếu. Sứ ta và sứ Ai Lao thường qua lại, không có vấn đề gì giữa hai nước.

        Đối với các nước khác ở Đông Nam Á, nước ta thời Gia Long, không có quan hệ ngoại giao cấp nhà nước, nhưng nhân dân các nước trong khu vực thường qua lại buôn bán với nhau.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2016, 12:40:02 am

        4. Quan hệ với người phương Tây

        Giữa năm 1803, nước Anh cho sứ tới thông hiếu, đưa quà tặng và xin cho mở cửa hiệu buôn bán ở núi Trà Sơn, cảng Đà Nẵng. Gia Long không đồng ý và không nhận quà tặng.

        Một năm sau, tức giữa năm 1804, chính phủ Anh lại cho sứ đưa thư và đưa quà tặng, xin mở hiệu buôn ở Đà Nẵng. Gia Long vẫn không chấp nhận.

        Do chính sách bế quan của Gia Long như vậy nên trong thời Gia Long, việc buôn bán với người phương Tây bị hạn chế.

        Năm 1817, Gia Long cho một số quan lại nghiên cứu đo vẽ bản đồ vùng ven biển nước ta cùng với 143 cửa biển từ Quảng Yên vào Hà Tiên. Giữa năm có thuyền buôn của người phương Tây tới Đà Nẵng, họ nhân dịp này tặng triều đình Gia Long bản đồ đảo Hoàng Sa của ta do họ vẽ. Gia Long tặng họ 20 lạng bạc.

        Cuối năm 1817, một tàu của Pháp tới Đà Nẵng xin vào kính dâng tặng phẩm, Gia Long không nhận, không để họ lên kinh đô Huế mà vẫn để các quan ở Quảng Nam, Đà Nẵng tiếp đãi họ.

        Gia Long còn truyền lệnh: nếu tàu Pháp kéo cờ và bắn 21 phát súng chào mừng thì trên đài Điện Hải của ta cũng bắn 21 phát súng đáp lại. Nhưng từ đấy về sau, tàu các nước khác đến, dù họ bắn súng chào nhiều thế nào, ta cũng chỉ bắn ba phát súng làm hiệu đáp, không bắn hơn.

        Giữa năm 1818, Gia Long chuẩn y cho các thương nhân nước ngoài, từ Ma Cao và các nước phương Tây đến buôn ở Gia Định được nộp thuế cảng và thuế hàng hóa bằng bạc ngoại quốc, hoặc bằng nửa bạc nửa tiền, hoặc toàn bằng tiền đều được cả.

        Thuế thuyền nước ngoài đến buôn bán, từ năm 1818, định ngạch ở hai nơi, Thuận An, Đà Nẵng và Gia Định khác nhau.

        Tới buôn ở Thuận An, Đà Nẵng, thuyền chiều ngang từ 25 đến 14 thước, mỗi thước đánh thuế 96 quan. Thuyền chiều ngang từ 13 đến 7 thước, mỗi thước đánh thuế 60 quan.

        Tới buôn ở Gia Định, thuyền chiều ngang từ 25 thước đến 14 thước, mỗi thước đánh thuế 160 quan. Thuyền chiều ngang từ 13 thước đến 7 thước, mỗi thước đánh thuế 100 quan.

        Ngoài những thuế trên, thuyền buôn nước ngoài còn phải nộp tiền cho ba thứ lễ, là lễ dâng vua, lễ dâng hoàng thái hậu (mẹ vua) và lễ dâng hoàng thái tử (con trưởng của vua), thêm một lễ thứ tư nữa là lễ cho quan cai tàu. Riêng tiền lễ cai tàu mỗi năm cũng thu được 8 - 9 nghìn quan.

        Còn thuyền buôn của dân ta từ Quảng Bình trở vào đi buôn ở Hạ Châu (Xanh-ga-po), phần nhiều là thuyền nhỏ, từ giữa năm 1818, đánh thuế như sau: thuyền chiều ngang 9 thước, đánh thuế mỗi thước 20 quan, thuyền chiều ngang 10 thước trở lên, mỗi thước đánh thuế 30 quan.

        Ở thời Gia Long, tuy đã là hai thập kỷ đầu thế kỷ XIX, quan hệ ngoại giao của nước ta vẫn còn bó hẹp, quan hệ ngoại thương cũng rất hạn chế. Chưa có ngoại thương song phương. Chỉ có người nước ngoài đến buôn bán ở ta là chính. Nhà nước và nhân dân ta chưa làm ngoại thương.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2016, 12:40:59 am

        III- NGOẠI GIAO TRIỀU MINH MẠNG (1820 - 1840)

        Minh Mạng làm vua từ năm 1820 đến năm 1840, nhưng không được lòng người nên trong 20 năm thời Minh Mạng có tới 40 cuộc khởi nghĩa chống triều đình, chống vua quan nhà Nguyễn, liên tiếp nổ ra từ Nam chí Bắc.

        Về ngoại giao, Minh Mạng chú ý việc đi sứ và đón sứ. Minh Mạng từng nói với triều thần: “Từ Trần, Lê về trước, không phải người tài rộng khắp thì không cho đi sứ được. Nhân đó sắc rằng: từ nay đi sứ phải chọn người tài đức" (Đại Nam thực lục. Bản dịch của Nxb Khoa học, Hà Nội, 1963, tập V, tr.290-291).

        Khi mới lên ngôi vua, năm 1820 Minh Mạng cho làm nhà tiếp sứ ở ngoài thành Thăng Long, bờ nam sông Hồng và một sứ quán ở. Gia Quất, bên bờ bắc sông Hồng.

        Minh Mạng sẵn sàng tiếp khách ngoại quốc, kể cả người phương Tây. Cho nên ngay từ năm 1820, đã có người Mỹ, người Pháp tới giao dịch. Sách sử ghi rằng: giữa năm 1820, một tàu Mỹ tới Gia Định dâng "chim hạc đen” và "lợn vàng" (Đại Nam thực lục, sđd, tr.98.). Năm 1821 một tàu buôn của Pháp đến Đà Nẵng, dâng thư xin thông thương và tặng một tấm gương to của phương Tây. Minh Mạng nhận lời, cho người Pháp đến buôn bán và gửi tặng vua Pháp nhiều sản vật Việt Nam có giá trị: 100 cân da voi, 30 cân da tê tê, 10 tấm da hổ, 100 tấm da trâu, 500 tấm da hươu, 200 tấm the nam, 200 tấm sa nam, 100 tấm lụa Cao Bộ, 1.000 cân đường phèn, 1.000 cân đường phổi, 1 vạn cân đường cát, 2 cây ngà voi, 2 cỗ sừng tê giác.

        Về quan hệ ngoại giao chính thức giữa nhà nước với nhà nước thì Minh Mạng vẫn theo đường lối của triều trước, chỉ hạn chế trong phạm vi quan hệ với mấy nước láng giềng: Xiêm, Lào, Miên và Trung Quốc. Những năm dưới thời Minh Mạng, quan hệ giữa nước ta với các nước láng giềng là hữu nghị .

        1. Quan hệ với Xiêm

        Khi mới lên ngôi, Minh Mạng cho sứ sang Xiêm báo tang vua Gia Long và đưa tặng vua Xiêm một số sản vật: 2 cân kỳ nam, 3 cân nhục quế, 1 nghìn cân đường phèn, 2 nghìn cân đường cát, 100 tấm the, 100 tấm sa và 100 tấm vải.

        Năm 1824, Xiêm cho sứ sang triều đình Huế báo tin vua Xiêm mất; Minh Mạng bãi triều ba ngày để tang vua Xiêm.

        Nhưng đến năm 1827, Xiêm xâm lược nước Vạn Tượng (Bắc Lào). Vua Vạn Tượng là A Nỗ chạy sang Việt Nam cầu cứu. Minh Mạng cho quân sang giúp Lào. Cuộc xung đột Việt - Xiêm bắt đầu. Lào lấy lại được nước.

        Năm 1829, Minh Mạng đưa thư sang hòa hoãn với Xiêm. Nhưng hòa hoãn chỉ là tạm thời và mong manh. Những xung đột, hấn khích giữa Xiêm và Việt Nam vẫn diễn ra liên tiếp trên đất Lào. Năm 1832, Xiêm cho sứ sang Việt Nam báo tin vua thứ hai nước Xiêm mất; Minh Mạng cho sứ sang điếu tang. Nhưng sang năm 1833 Việt - Xiêm lại xung đột trên đất Miên và cứ thế liên tục đến hết đời vua Minh Mạng.

        2. Quan hệ với Vạn Tượng (Lào)

        Thời Minh Mạng, quan hệ giữa nước ta và Vạn Tượng là tốt, hai bên thường có sứ qua lại, tặng quà nhau rất trọng hậu.

        Năm 1821, vua Vạn Tượng cho đem nhiều vật phẩm sang tặng triều đình Huế. Đáp lại, ngoài những quà tặng như thường lệ, Minh Mạng còn tặng vua Vạn Tượng nhiều thứ như: gấm đoạn 5 cây, lụa các màu, the nam, sa nam, là nam mỗi thứ 10 tấm, 1 bộ đồ chè (trà) bịt vàng, 1 bát bịt vàng, 1 bát bịt bạc, 10 đĩa bịt bạc và 1 cái trống lớn.

        Đối với sứ bộ Vạn Tượng, Minh Mạng tặng chánh sứ một áo chiến bằng gấm Tống đỏ, hai cây súng tây bằng kim loại; tặng phó sứ một áo chiến bằng nhung đoạn lam, một cây súng tây. Cả chánh phó sứ còn được tặng mỗi người một xiêm bằng gấm Lào, một thanh đao mạ bạc, một cỗ cáng, một cái lọng. Các nhân viên tùy tùng trong sứ bộ đều được tặng thưởng tiền bạc, xiêm áo.

        Năm 1827, Xiêm đánh chiếm Vạn Tượng, Luông Pha Băng. Thủ lĩnh vùng Trấn Ninh là Chiêu Nội chạy sang Việt Nam xin nội thuộc.

        Vua Vạn Tượng là A Nỗ bị Xiêm tiến công cũng chạy sang cầu cứu, nương nhờ nước ta. Minh Mạng cho quân sang Vạn Tượng. Quân Xiêm rút về Xiêm. Năm 1828, Minh Mạng cho quân đưa A Nỗ về Vạn Tượng. Tình hình Vạn Tượng được yên.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2016, 12:41:38 am

        3. Quan hệ với Chân Lạp

        Mùa xuân 1820, sau khi lên ngôi, Minh Mạng gửi thư sang Chân Lạp, tặng vua Chân Lạp 10 cây gấm Tống, 50 tấm lụa, 50 tấm vải và 10 tấm tườu lông (da khỉ).

        Mùa thu 1820, vua Chân Lạp là Nặc Chân sang đưa lễ tiến hương (phúng vua chết) và lễ khánh hạ (mừng vua mới). Lễ tiến hương gồm 500 cân sáp ong, 300 tấm vải trắng. Lễ khánh hạ gồm 55 cân bạch đậu khấu, 55 cân cánh kiến, 55 cân sáp ong, 2 đôi ngà voi, 2 cỗ sừng tê, 10 vò sơn.

        Đáp lại lễ vật tặng vua Chân Lạp theo lệ thường: 10 cây gấm Tống, 20 tấm tườu nam, 20 tấm sa nam, 20 tấm lụa bắc, 40 tấm vải đen, 40 tấm vải trắng. Tặng thêm ngoại lệ: 2 cây thiểm kim (vàng nhấp nhánh), 2 cây giám kim (lẫn vàng), 2 tấm đoạn lông màu đỏ, 4 tấm đoạn lông màu lam.

        Tặng hai chánh phó sứ Chân Lạp, mỗi người 30 lạng bạc, 10 quan tiền; thông ngôn 10 lạng bạc, 5 quan tiền; quân đi theo mỗi người 2 lạng bạc, 2 quan tiền.

        Tặng thêm cho chánh sứ 1 bộ đồ chè (trà) bịt vàng, 3 tấm tườu hoa, 1 tấm lụa. Tặng thêm cho phó sứ một bộ đồ chè bịt bạc, 2 tấm tườu nam hoa, 1 tấm lụa; cho thông ngôn 1 tấm tườu nam hoa, 1 tấm lĩnh nam đen. Lại gia ân thêm cho hai chánh phó sứ hai cái áo chiến hai lớp bằng tườu nam lam, 2 áo ngắn hẹp tay bằng tườu lam lót lụa, hai bức chăn tườu lam lót lụa, 2 áo tràng vạt bằng vải trắng, 3 bức khản vải trắng. Cho thông ngôn một áo chiến bằng sa tanh lót vải, 1 áo ngắn hẹp tay bằng sa xanh lót lụa. Cho 7 người đi theo mỗi người 1 áo chiến bằng vải xanh lót vải trắng.

        Mùa xuân năm sau (1821), vua Chân Lạp là Nặc Chân dâng biểu xin nhà Nguyễn sai quan quân sang bảo hộ nước mình. Biểu rằng:

        “Nước tôi nhỏ yếu, khi trước nhờ ơn đức Thái tổ Cao hoàng đế tài bồi, sai quan bảo hộ, nước tôi nhờ mà yên được, vì tôi trẻ thơ chưa biết gì, tin lời nói dèm, nên quan binh bảo hộ rút về Gia Định; trong nước lại có nghịch Kế, nghịch Tây làm loạn, nhờ quan binh tới đánh, bình được cả; vậy thời tôi giữ được nhà nước tôi, đều là ơn triều đình gây dựng lại; nay xin đặt quan bảo hộ như trước" (Quốc triều chánh tiên toát yếu..., tr.115-116. Kế và Tây là tên hai kẻ phản nghịch).

        Theo lời biểu, Minh Mạng cho tướng Nguyễn Văn Thụy đóng quân tại thành Châu Đốc, kiêm quản công việc trấn Hà Tiên và bảo hộ nước Chân Lạp.

        Cuối năm 1822, vua Chân Lạp là Nặc Chân cho người sang Gia Định đề nghị nhà Nguyễn cùng Chân Lạp đào sông Vĩnh Tế ở vùng biên giới hai nước. Sông này đào từ khi Gia Long còn sống. Gia Long chết, việc đào sông bỏ dở. Nay theo đề nghị của Chân Lạp, Minh Mạng nhận hiệp lực đào sông. Hai bên định kế hoạch đầu năm sau 1823 khởi công đào và đầu mùa hạ đào xong. Nhà Nguyễn đưa hơn 39.000 binh dân, Chân Lạp đưa hơn 16.000 binh dân cùng làm. Tới đầu mùa hạ, sông chưa đào xong, nhưng thời tiết trời oi bức quá, công việc phải tạm hoãn. Tháng hai năm Giáp Thân (1824) hai nước lại tiếp tục đào. Chỉ còn 1700 trượng phải đào, nên đến tháng 5 âm lịch (tức 3 tháng sau) sông đào xong hẳn. Một bia đá được dựng để ghi lại công trình hợp tác xây dựng giữa hai nước đã hoàn thành.

        Công việc bảo hộ Chân Lạp tiếp tục tới năm 1840, cuối đời Minh Mạng.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2016, 12:42:09 am

        4. Quan hệ với Trung Quốc

        Cũng như các triều trước, Minh Mạng giữ quan hệ chặt chẽ với Trung Quốc về cả hai mặt: chính trị và kinh tế.

        Trong năm đầu (1820) Minh Mạng hai lần cho người đi Trung Quốc mua hàng. Lần đầu vào tháng ba âm lịch. Lần sau tháng sáu âm lịch, cho hẳn một sứ bộ đông người, do bốn viên quan cầm đầu, đi mua hàng. Sử không ghi rõ mua những hàng gì mà đi đông người.

        Về mặt ngoại giao, Minh Mạng coi việc đi sứ Trung Quốc và tiếp sứ Trung Quốc là quan trọng.

        Tháng chín năm Canh Thìn (1820), một sứ bộ do Ngô Vị là hữu tham tri Lại bộ làm chánh sứ sang Trung Quốc, có hai giáp ất phó sứ đi cùng. Hai viên quan khác được cử làm chánh hậu mệnh và phó hậu mệnh đi lên cửa ải Lạng Sơn để giúp việc đi sứ. Trên đường đi sứ, Ngô Vị ốm, chết ở Nam Ninh, tạm quàn thi hài tại Nam Ninh. Phó sứ Trần Bá Kiên thay Ngô Vị tiếp tục lên đường làm việc sứ. Đến tháng tư năm Tân Tỵ (1821) sứ bộ Trần Bá Kiên tới triều đình nhà Thanh tại Yên Kinh.

        Vua Thanh cho án sát sứ Quảng Tây là Phan Cung Thìn làm khâm sứ mang sắc phong vương cho Minh Mạng.

        Theo nhu các triều trước, khâm sứ Trung Quốc chỉ đem chiếu sắc tới Thăng Long, nên Minh Mạng từ Huế phải "ngự giá Bắc Hà" ra Hà Nội đón tiếp sứ và cử người đi đón sứ từ biên giới xuống. Phó đốc trấn Thanh Hoa là Phan Văn Thúy, hữu tham tri Lại bộ là Nguyễn Văn Hưng, tham bồi Lễ bộ là Đình Phiến sung chức hậu mệnh sứ tới đón sứ tại cửa quan. Phó đô thống chế quân Thần sách là Nguyễn Văn Trí, hữu tham tri Hình bộ là Vũ Đức Thông, thự tham tri là Nguyễn Hữu Nghi sung chức hậu tiếp sứ từ địa đầu Kinh Bắc. Thống chế thị nội là Vũ Viết Bảo, hữu tham tri Hộ bộ là Nguyễn Công Tiếp sung chức hậu tiếp sứ tại công quán Gia Quất.

        Ngày làm lễ nhận sắc phong, từ sáng sớm đã đặt lỗ bộ đại giá suốt dọc đường từ sân điện Kính Thiên đến cửa Chu Tước. Từ phía ngoài cửa Chu Tước đến bến đò sông Hồng đều dàn bày các đội ngũ binh sĩ và voi. Tả thống chế Thị trung Tôn Thất Dịch làm thân thần mang mũ áo bào tía sang công quán Giá Quất. Trấn thủ Sơn Nam Hạ là Nguyễn Văn Hiếu, tả tham tri Binh bộ là Trần Minh Nghĩa, tả tham tri Hộ bộ là Đoàn Viết Nguyên đến nhà tiếp sứ ở bến sông để nghênh tiếp sứ.

        Vua Minh Mạng đội mũ cửu long, mặc hồng bào, đeo đai ngọc, đứng chờ ở cửa Chu Tước; hoàng thân và các quan mặc phẩm phục theo hầu. Tổng trấn Bắc Thành là Lê Chất và hiệp biện đại học sĩ Trịnh Hoài Đức sung chức thì vệ đại thần.

        Giờ ngọ, sứ Thanh là Phan Cung Thìn theo long đình đến điện Kính Thiên làm lễ tuyên phong. Chưởng tượng quân (quân voi) Nguyễn Đức Xuyên sung chức thụ sắc sứ. Lễ xong, vua mời sứ Phan Cung Thìn đến tiền điện mời trà. Vua cũng cho mời sứ dự yến tiệc ở công quán Gia Quất và tặng biếu phẩm vật. Phan Cung Thìn chỉ nhận lụa vải tặng, còn đều trả lại và tạ ơn

        Ngày hôm sau, sứ Thanh làm lễ dụ tế. Từ ngày trước, khi đến công quán Gia Quất, Phan Cung Thìn đã dâng lụa tế 50 tấm và đồ tế phẩm, chiết thành số bạc 100 lạng, do hậu tiếp sứ Vũ Viết Bảo đệ tiến.

        Vua sai hữu ty sắm sửa xôi, lợn, cỗ bàn và thêm lụa tế 100 tấm, đem bày ở điện Thị triều. Vua mặc lễ phục đến trước bàn thờ dâng rượu lạy cáo, rồi sai quan ra tiếp sứ. Giờ thìn, Phan Cung Thìn theo long đình đến làm lễ dụ tế. Chưởng thủy quân là Tống Phước Lương sung chức bổng tửu sứ (bưng rượu). Thượng thư Hộ bộ Nguyễn Hữu Thận sung chức điển nghi sứ. Hiệp trấn Sơn Nam Hạ là Bùi Đức Mân, hữu tham tri Công bộ Trần Văn Tính sung chức tả hữu bổng tửu sứ. Lễ xong, Phan Cung Thìn từ biệt về công quán. Vua lại đặt yến và tặng biếu như trước. Phan Cung Thìn chỉ nhận ngọc quế Thanh Hoa và xin về Trung Quốc. Minh Mạng sai hậu mệnh sứ là Phan Văn Thúy tiễn ra cửa quan, và cũng cho một sứ bộ sang Thanh. Cầm đầu sứ bộ là Hàn lâm Viện chưởng Viện học sĩ Hoàng Kim Hoán làm chánh sứ, thiên sự lễ bộ Phan Huy Thực và thiên sự Binh bộ Vũ Du làm giáp ất phó sứ.

        Hai bên giao tiếp hữu nghị như vậy, nhưng chỉ được mươi năm. Năm 1830, người Thanh đúc tiền kẽm như tiền Việt Nam để đưa sang Việt Nam tiêu dùng, làm cho giá cả hàng hóa ở Việt Nam tăng vọt lên. Triều đình nhà Nguyễn phải ra lệnh cho các vùng biên giới kiểm soát thật kỹ, không cho kẻ gian chở trộm tiền kẽm từ Trung Quốc sang. Năm sau (1831) nhà Thanh cho hơn 600 người đến chiếm đóng đồn Phong Thổ, đòi quân lính Việt Nam phải rút đi. Minh Mạng cho Đặng Văn Thiêm đem hơn 1.000 quân và 10 thớt voi tiến lên Hưng Hóa. Quân Thanh phải rút. Minh Mạng giao cho các thủ lĩnh thiểu số ở địa phương cai quản hai động Phong Thổ và Bình Lưu.

        Năm 1832, bia địa giới Việt - Trung ở sông Đỗ Chú (phía bắc Hà Giang) bị gãy. Bên bờ bắc sông Đỗ Chú là đất Trung Quốc, bên bờ nam sông Đỗ Chú là đất nước ta. Bia địa giới dựng từ thời Lê, có khắc chữ “An Nam quốc, Tuyên Quang trấn, Vi Xuyên giới chí, dĩ Đỗ Chú hà vi cứ”, nghĩa là địa giới nước Nam lấy sông Đỗ Chú ở biên giới huyện Vị Xuyên, trấn Tuyên Quang làm căn cứ. Tuyên Quang thời xưa gồm cả tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang ngày nay.

        Biết bia gãy, Minh Mạng cho dựng lại bia. Còn như tại sao bia gãy thì không rõ. Chỉ có một thực tế là người Thanh thường xâm phạm vùng biên giới.

        Người Thanh còn theo đường thủy xâm nhập nước ta. Họ thường sang mua gạo lén lút đem về bán ở Trung Quốc. Minh Mạng phải ra lệnh cấm: cấm người Trung Quốc không được mua gạo và cấm các thuyền buôn Việt Nam không được chở gạo sang bán ở Trung Quốc. Lệnh cấm bắt đầu từ năm 1832.

        Đầu năm Đinh Dậu (1837) hơn 300 quân Thanh xâm lấn động Sơn Yên, thuộc thâu Thủy Vĩ; quân dân ta ở Hưng Hóa đã đánh đuổi chúng.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2016, 12:42:50 am

        5. Quan hệ với các nước Đông Nam châu Á

        Thời Minh Mạng, triều đình nhà Nguyễn có quan hệ với nhiều nước vùng Đông Nam Á. Mấy năm đầu còn thưa thớt, về sau quan hệ thường xuyên trong hàng chục năm liền, năm nào cũng có.

        Đầu năm 1824, Miến Điện cho sứ sang thông hiếu và đưa tặng phẩm: 1 ấn vàng, 40 cái nhẫn, 1 hộp trầu sơn son, 1 chuỗi trân châu "bất nhiên", 1 bức mền tơ đỏ, 2 bức tườu đại hồng ti, 2 bức tườu tố hồng ti. Minh Mạng gửi vua Miến Điện 32 cân quế 100 cây lụa, 100 cây sa, 100 cây tườu, 1.000 cân đường cát; tặng chánh sứ Miến Điện 100 lạng bạc, tặng phó sứ 80 lạng bạc, mỗi người 1 áo bào song khai bằng đoạn thêu và 1 quần; tặng 5 viên bồi sứ, mỗi người 60 lạng bạc, 1 áo nhung trung khai và 1 quần. Cho 40 quân tùy tùng mỗi người 4 lạng bạc, 1 áo đoạn đỏ trung khai và 1 quần.

        Đầu năm 1825, triều đình nhà Nguyễn cho người sang Hạ Châu và Giang Lưu Ba công cán. Hạ Châu và Giang Lưu Ba là Xanh-ga-po và In-đô-nê-xi-a. Sử ghi là đi công cán, không rõ là làm gì, hoạt động ngoại giao hay mua bán hàng hóa. Trong thực tế lịch sử triều đình Minh Mạng vẫn chưa có quan hệ ngoại giao chính quyền các nước Đông Nam Á.

        Giữa năm 1828, Minh Mạng ra lệnh cấm thuyền buôn nước ta không được đến buôn bán ở Hạ Châu, vì thuyền buôn nước ta ở Gia Định thường đem gạo sang bán ở Hạ Châu. Nhưng từ năm 1830 trở đi cho đến hết đời Minh Mạng, trong 10 năm liền, quan hệ buôn bán giữa ta và các nước Đông Nam Á năm nào cũng có. Ta bán sang các nước này những mặt hàng như: đường cát, đồng thoi, ngà voi, cánh kiến..., và hàng ta mua thường là: kẽm, súng điển thương, vải trắng...

        6. Tiếp xúc với các nước phương Tây

        Từ cuối thế kỷ XVIII, trong đội quân mộ của Nguyễn Ánh để chống phong trào nghĩa quân Tây Sơn đã có một số người Pháp tới nhập ngũ. Khi Nguyễn Ánh lên ngôi vua, mấy người Pháp là Chaigneau và Vannier ở lại làm quan tại triều đình Huế. Họ lấy vợ Việt Nam, sinh con đẻ cái và sống ở Việt Nam. Cuối đời Gia Long, Chaigneau về Pháp nghỉ 3 năm. Sau 3 năm nghỉ, Chaigneau được triều đình Pháp cử làm lãnh sự Pháp ở Việt Nam, đồng thời làm khâm sai của vua Pháp Louis XVIII, đem phẩm vật tặng vua Việt Nam và đưa quốc thư Pháp điều đình thông thương với Việt Nam. Chaigneau sang thì Minh Mạng đã làm vua thay Gia Long. Minh Mạng cho viết thư trả lời vua Pháp là hai nước Việt Nam và Pháp không việc gì phải làm điều ước thương mại. Tới buôn bán ở Việt Nam thì cứ theo luật pháp của Việt Nam là được.

        Năm 1822, một tàu chiến của Pháp là tàu Cléopâtre đến cảng Đà Nẵng; thuyền trưởng xin vào triều yết kiến, Minh Mạng không cho. Trong năm này, người Anh đưa quốc thư và tặng vật đến xin thông thương. Tặng vật gồm 500 khẩu súng điển thương và 1 đôi đèn pha lê. Minh Mạng cũng chối từ.

        Đối với người Pháp là Chaigneau và Vannier, thái độ của Minh Mạng ngày càng lạnh nhạt. Tới đầu năm 1825, Chaigneau và Vannier xin từ chức và từ biệt triều đình Huế, đem vợ con về Pháp. Mấy người Pháp ấy đi khỏi thì cũng đầu năm 1825, một đại tá hải quân Pháp là Bougainville đưa hai tàu chiến Thétis và Espérance vào cửa Đà Nẵng, đem phẩm vật và quốc thư Pháp, xin vào Huế yết kiến. Minh Mạng từ chối không tiếp, không nhận quà tặng, lấy cớ là không có người biết tiếng Pháp làm phiên dịch.

        Mùa thu năm 1825, một tàu buôn Pháp tới buôn bán ở Đà Nẵng, đưa tặng phẩm của Chaigneau và Vannier gửi nhà vua. Minh Mạng cho đưa quà tặng vào kho, coi như hàng mua và trả tiền là 7.680 lạng bạc. Đáp lại, Minh Mạng cũng gửi thư thăm và quà tặng cho Chaigneau và Vanmer.

        Năm 1826, chính phủ Pháp cho người cháu của Chaigneau sang làm lãnh sự Pháp ở Việt Nam. Triều đình Minh Mạng không nhận lãnh sự. Người Pháp này ở lại Việt Nam một thời gian, năm 1829 trở về Pháp.

        Tháng 12 năm 1827, Lê Văn Duyệt trách vua Minh Mạng đối xử tàn nhẫn với giáo sĩ người Pháp.

        Năm 1832, Pháp lại một lần nữa cho người cháu Chaigneau sang đặt quan hệ lãnh sự, nhưng vẫn không thành.

        Cuối năm 1832, Mỹ đặt quan hệ thông thương, cho hai người đem quốc thư tới. Sử cũ ghi tên hai người này theo âm Hán - Việt là Nghĩa Đức Môn, La Bách Đại. Minh Mạng cho viết thư trả lời tổng thống Mỹ nói rõ người Mỹ có thể tới thông thương được, chỉ cần tuân theo pháp luật Việt Nam, chỉ đậu thuyền và buôn bán tại vũng Trà Sơn thuộc Đà Nẵng, không được lên bờ làm nhà, đặt cửa hiệu.

        Năm 1835, Minh Mạng ra lệnh cho các tỉnh ven biển miền Nam, khi thấy có tàu ngoại quốc ghé đậu bến nào thì quan coi bến phải đem thông ngôn tới xét hỏi tàu từ đâu tới, tàu chiến hay tàu buôn và báo về triều đình Huế ngay. Nếu là tàu chiến thì một mặt tâu về triều, một mặt cho quân cảnh giới nghiêm ngặt và tư đi các tỉnh lân cận đề phòng bất trắc. Ngày nào tàu đi, hoặc đóng lại làm gì, đều phải tâu luôn. Minh Mạng chỉ cho phép các tàu buôn phương Tây vào đậu và buôn bán ở Đà Nẵng như đã có lệnh từ trước, không được vào buôn bán ở các bến khác.

        Đầu năm 1837, một tàu buôn của Anh qua bãi Hoàng Sa bị cạn, hơn 90 người trên thuyền phải ghé vào trú ở bãi biển Bình Định. Minh Mạng cho bố trí chỗ ở và cung cấp tiền gạo cho họ. Chủ tàu và những quan chức Anh trên tàu rất cảm động và cảm ơn. Minh Mạng cho Nguyễn Tri Phương và một số người tùy tùng đem tàu đưa những người Anh này sang Hạ Châu, để từ đấy họ trở về nước.

        Nếu chỉ có quan hệ giao thương như thế thì sự tiếp xúc giữa triều đình nhà Nguyễn với người phương Tây, dù không hữu nghị cũng không có gì phiền phức xảy ra. Nhưng giao thương lại có vấn đề truyền giáo đi kèm. Minh Mạng không bằng lòng cho người phương Tây truyền đạo Gia Tô vào Việt Nam.

        Năm 1825, tàu Thétis của Pháp vào Đà Nẵng, cho tới khi đi tình hình êm đẹp. Nhưng khi tàu rời bến thì có một giáo sĩ Pháp là Rogerot lén lút ở lại Việt Nam, đi giảng đạo các nơi. Do đó, Minh Mạng ra chỉ dụ cấm đạo. Chỉ dụ nhấn mạnh "Đạo phương Tây là tả đạo, làm mê hoặc lòng người và hủy hoại phong tục cho nên phải nghiêm cấm để người ta phải theo chính đạo" .

        Đầu năm 1833, Minh Mạng ra chỉ dụ cấm đạo lần thứ hai. Các giáo sĩ bị lùng bắt, trục xuất.

        Giữa năm 1833, Lê Văn Khôi nổi loạn, chiếm giữ Sài Gòn. Trong hàng ngũ của Lê Văn Khôi có nhiều dân theo đạo, có linh mục, có cả giáo sĩ ngoại quốc. Khi cuộc nổi dậy bị dẹp tan, một giáo sĩ Pháp là Marchand cùng năm thủ lĩnh cuộc nổi dậy bị xử tử tại Huế.

        Một giáo sĩ Pháp khác là Gagelin bị bắt ở Bình Định cũng bị đưa về xứ tử tại Huế ngày 17 tháng 10 năm 1833. Trong những năm sau, khoảng mười giáo sĩ nữa bị giết.

        Năm 1836, Minh Mạng ra lệnh cấm đạo lần thứ tư. Lần này, lý do cấm đạo được nói rõ là vì các giáo sĩ nước ngoài phạm tội "do thám ngoại quốc".

        Cuối năm 1839, Minh Mạng cho các quan Trần Viết Xương, Tôn Thất Thường đem hai người thông ngôn đi tàu sang Pháp, lấy cớ đi mua đồ, để điều đình với chính phủ Pháp đặt quan hệ hữu nghị giữa hai nước. Nhưng các giáo sĩ Pháp ở Việt Nam báo về Pháp là triều đình Việt Nam tàn sát giáo sĩ, giáo dân, chính phủ không nên tiếp. Giáo hội Va-ti-căng cũng đề nghị với Pháp như vậy. Do đó, khi phái đoàn ngoại giao của triều đình Việt Nam tới Pháp, vua Louis Philippe và triều đình Pháp không tiếp. Phái đoàn này về tới Huế thì Minh Mạng không còn. Minh Mạng chết ngày 28 tháng 12 năm Canh Tý (1840). Thiệu Trị là con trưởng lên nối ngôi.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2016, 12:43:36 am
 
        IV. NGOẠI GIAO TRIỀU THIỆU TRỊ (1841 - 1847)

        Thiệu Trị làm vua 7 năm (lên ngôi năm 1841, chết năm 1847). Trong thời Thiệu Trị, công việc ngoại giao của triều đình nhà Nguyễn vẫn theo nền nếp cũ, chủ yếu là quan hệ tốt với Trung Quốc, còn đối với các nước láng giềng khác, nhất là với các nước phương Tây thì có nhiều vấn đề gay cấn, có những trường hợp xung đột vũ trang thay quan hệ ngoại giao hòa bình.

        1. Quan hệ với Trung Quốc

        Đầu năm 1841, Thiệu Trị lên ngôi vua, cho sứ sang triều đình nhà Thanh báo tin Minh Mạng chết và xin phong vương cho Thiệu Trị .

        Từ tháng tư năm Tân Sửu 1841, để chuẩn bị việc nhà vua ngự giá bắc tiến, tiếp nhận chiếu phong vương của Trung Quốc, Thiệu Trị truyền lệnh lập hành cung tại Hà Nội, dựng nhà tiếp sứ tại Bắc Ninh và Lạng Sơn. Dọc đường từ Thừa Thiên đến Hà Nội, Thiệu Trị cho lập 41 sở để vua nghỉ trưa, nghỉ tối khi đi qua.

        Tháng hai năm Nhâm Dần 1842, Thiệu Trị ra tới hành cung tại bến đò Hà Nội, sáng hôm sau vào nghỉ trong thành. Cũng ngày này, phái bộ Lý Văn Phức đi sứ Trung Quốc về tới Hà Nội, vào chầu Thiệu Trị.

        Năm 1842, sứ Trung Quốc là Bảo Thanh sang Hà Nội làm lễ sách phong cho Thiệu Trị. Lễ xong, sứ Thanh về nước. Đào Trí Phú làm hậu mệnh sứ đưa tiễn sứ Trung Quốc tới cửa ải.

        Năm 1846, các nhà buôn Trung Quốc tới dâng lễ phẩm, các quan ở phủ Thừa Thiên đưa vào triều. Thiệu Trị cho chọn lấy vài thứ đồ cổ trong những lễ phẩm đó và trả 500 quan tiền. Những thuyền buôn Trung Quốc được miễn thuế.

        Trong năm này, một sứ bộ ta sang Trung Quốc.

        2. Quan hệ với Cao Miên và Xiêm

        Từ thời Minh Mạng, triều đình nhà Nguyễn nắm quyền bảo hộ Cao Miên. Khi Thiệu Trị lên ngôi vua, trong triều có người tâu xin bãi bỏ quyền bảo hộ Cao Miên và rút quân ta ở Nam Vang về. Thiệu Trị chấp nhận lời tâu, lệnh cho tướng Trương Minh Giảng đưa quân về nước.

        Thấy quân nhà Nguyễn không còn ở Cao Miên, Xiêm đưa quân sang chiếm đóng Cao Miên, tiến đánh Nam Kỳ, nhưng bị thua phải rút về Cao Miên. Người Cao Miên chống lại, cho người sang Nam Kỳ cầu cứu. Giữa năm 1845, các tướng của triều đình Huế là Võ Văn Giải, Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn, Tôn Thất Nghị đưa quân sang Cao Miên, vào thành Nam Vang. Hơn 23.000 người Cao Miên tới theo quân nhà Nguyễn.

        Tháng chín năm Ất Tỵ (1845) tướng Xiêm là Chất Tri cầu hòa. Tháng 10 âm lịch, Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn cùng Chất Tri ký hòa ước, hai nước giải binh.

        3. Quan hệ với các nước vùng biển Đông Nam Á

        Đối với các nước vùng biển Đông Nam Á, ngoại giao của nhà Nguyễn thời Thiệu Trị vẫn chưa có, chỉ mới có quan hệ ngoại thương. Từ cuối đời Minh Mạng, năm 1839 triều đình Huế tổ chức một đội thuyền buôn và một phái đoàn thương mại do tham tri Đào Trí Phú cầm đầu theo đường biển đi giao thương với các nước vùng biển Đông Nam Á như: In-đô-nê-xi-a, Xanh-ga-po, Phi-líp-pin, Ma-lai-xi-a...

        Năm 1842, triều đình thu mua 60 vạn cân đường cát, 15 nghìn cân quế ở Quảng Nam; 80 vạn cân đường cát, 500 cân quế ở Quãng Ngãi để xuất khẩu. Giữa năm 1844 phái đoàn thương mại Đào Trí Phú mua về một tàu thủy mới, giá 28 vạn quan tiền. Thiệu Trị ra cửa Thuận An xem tàu, khen là tàu máy chạy nhanh, đi như bay và đặt tên tàu là "Điện Phi hỏa cơ đại thuyền”. Khi xem tàu, Thiệu Trị nói với các quan đi cùng rằng: "Đời xưa nói vua Hoàng đế chế ra tàu thuyền, cũng có người nói là từ thời ông Bá Ích..., lại xem trong sử Tây - tuần có chép vua Hiền Võ đời Tống qua cửa biển Lục Hợp, tàu rồng tàu phượng cả thảy 3.045 chiếc; tàu thuyền nhiều, dẫn đến Hạ, Thương, Chu xưa và Đông Kinh, Tây Kinh cũng không sánh bằng. Xưa nay lại có khen tàu nước Lương, thuyền nước Ngô đi trên mặt nước rất hay. Nay xem một bộ máy chiếc tàu hỏa này rất khéo, không cần buồm gió mà ngựa chạy thua xa, tuy người đời xưa khéo mấy cũng không bì kịp".


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2016, 12:44:28 am

        4. Quan hệ với nước Anh

        Tháng chín năm Ất Tỵ 1845, Quốc trưởng nước Anh cho sứ đưa thư và tặng phẩm tới cảm ơn vua Việt Nam về việc một tàu Anh năm 1844 bị bão ngoài biển, trôi giạt vào cảng Bình Thuận, Thiệu Trị cho quân đưa họ về.

        Tháng chín năm Đinh Mùi 1847, có hai chiến hạm của Anh tới cửa Hàn (Đà Nẵng) và muốn lên Huế đưa quốc thư. Triều đình không cho phép. Viên quan ở Đà Nẵng là Tôn Thường và người Anh chỉ huy tàu chiến đã tranh luận nhiều ngày về việc này. Triều đình Huế cho đem nhiều quà tặng cho họ. Mười ngày sau họ mới đi .

        5. Quan hệ với nước Pháp

        Pháp mưu đồ xâm lược Việt Nam từ lâu, bám chặt lấy Việt Nam từ khi các giáo sĩ và võ quan Pháp sang làm việc với Gia Long Nguyễn Ánh ở cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX. Nhưng tình hình nội trị và ngoại giao của Pháp ở phương Tây chưa cho phép họ thực hiện ngay mưu đồ này. Khi Thiệu Trị lên làm vua là lúc các nước đế quốc phương Tây đang đua nhau tràn sang đánh cướp các nước châu Á. To như Trung Quốc cũng bị mất đất, mất dân.

        Từ năm 1842, Pháp cho một hạm đội sang hoạt động thường trực ở bờ biển châu Á, lấy cớ để bảo vệ các quyền lợi chính trị, thương mại của Pháp và sự hoạt động an toàn của các giáo sĩ Pháp ở châu Á. Hạm đội này được chính phủ Pháp trao quyền can thiệp vũ trang vào Việt Nam, khi có cơ hội.

        Bấy giờ có năm giáo sĩ Pháp bị giam tại Huế từ thời Minh Mạng. Được lệnh chính phủ Pháp, ngày 25 tháng 2 năm 1843, trung tá Lévêque đưa chiến hạm Héroine vào Đà Nẵng ép triều đình Huế thả năm giáo sĩ bị giam tại Huế. Triều đình Huế thả những giáo sĩ này, đưa họ lên tàu; họ lại bí mật quay vào đất liền, lén lút hoạt động.

        Năm 1844 giám mục Pháp Lefèbvre cùng một nhóm giáo sĩ Pháp ở Gia Định, trong đó có nhiều người thông thạo tiếng Việt, mưu đồ làm đảo chính lật đổ vua Thiệu Trị. Nhưng việc bị lộ, Lefèbvre bị bắt ở Cái Mớn, đưa về giam tại Huế. Triều đình Huế kết tội tử hình. Thiệu Trị giảm xuống cho tội tù. Mùa xuân 1845, Lefèbvre biết tin có một tàu chiến phương Tây đậu ở một bến gần Đà Nẵng. Tàu ấy là tàu Mỹ (Constitution) trưởng tàu là John Percival. Lefèbvre nhờ người bí mật đưa thư tới cầu cứu chủ tàu này. Thư đến vừa lúc chủ tàu Mỹ đương tiếp mấy viên quan của triều đình Nguyễn lên thăm tàu. Trưởng tàu Mỹ John Percival liền giữ mấy viên quan ở lại trên tàu, không cho về, để làm con tin, đòi triều đình Huế thả giáo sĩ Lefèbvre. Thiệu Trị không chịu, bác bỏ yêu sách hống hách đó. Tàu Mỹ phải để mấy viên quan về và tàu nhổ neo đi. Trưởng tàu Mỹ báo cho thiếu tướng hải quân Pháp là Cécille biết.

        Tướng Pháp Cécille cho chiến hạm Alcmène vào Đà Nẵng đòi thả giám mục Lefèbvre. Tháng 7 năm 1845, giám mục được thả và giao cho tàu Pháp. Nhưng Lefèbvre vẫn lén lút hoạt động ở Việt Nam và ngày 8 tháng 7 năm 1846 lại bị bắt. Thiệu Trị biết rõ dã tâm của đế quốc Pháp muốn đánh cướp Việt Nam chờ có cớ là đưa quân xâm lược. Thiệu Trị cũng biết thế yếu của mình, không muốn để Pháp sinh sự, nên đầu năm 1847 cho thả Lefèbvre và trục xuất khỏi Việt Nam.

        Hải quân Pháp biết Lefèbvre đã được tha và ở Huế không còn giáo sĩ bị giam nhưng vẫn cho đại tá hải quân Lapierre và trung tá Genouilly đem hai chiến hạm La Gloire (Vinh Quang) và La Victorieuse (Chiến Thắng) vào Đà Nẵng đòi triều đình Huế bãi bỏ lệnh cấm đạo, để nhân dân tự do theo đạo và không được giết hại giáo sĩ.

        Khi hai tàu Pháp đậu ở cảng Đà Nẵng thì các giáo sĩ Pháp ở dưới tàu thường lên bộ, đeo dấu chứ thập của đạo Gia Tô, ngang nhiên đi lại trên bến cảng. Quân Pháp bắt giữ các thuyền của ta đậu ở bến. Chúng lên bờ, sục sạo vào các làng xóm đe dọa quan quân nhà Nguyễn. Tướng Pháp đưa cho các quan nhà Nguyễn ở Đà Nẵng một bức thư viết bằng chữ Hán để chuyển về triều đình Huế. Bấy giờ là cuối tháng 3 năm 1847. Mười tám ngày sau, thư trả lời của triều đình Huế tới Đà Nẵng. Quan coi Đà Nẵng báo cho tàu Pháp tới nhận thư. Tướng Pháp buộc quan nhà Nguyễn phải thân đem thư xuống tàu, như kiểu một kẻ đầu hàng dâng thư xin hàng. Quan lại nhà Nguyễn không chịu.

        Chớp thời cơ, Pháp ra tay hành động. 11 giờ ngày 15 tháng 4 năm 1847, Pháp nổ súng bắn phá kịch liệt tàu của nhà Nguyễn đậu ở cửa biển Đà Nẵng. Chúng bắn 70 phút liền, đánh đắm các thuyền chiến và 5 chiếc tàu đồng của nhà Nguyễn, phá hủy các pháo đài trên bến, giết chết hàng trăm dân thường. Tướng nhà Nguyễn chỉ huy cảng Đà Nẵng là lãnh binh Nguyễn Đức Chung và hương quản Lý Diên cùng nhiều quân lính ở đây đã tử trận.

        Bắn phá chán tay, quân Pháp chuẩn bị cho tàu ngày hôm sau nhổ neo đi nơi khác. Thiệu Trị được tin, tức giận vô cùng, cách chức một loạt quan lại ở Đà Nẵng, hạ lệnh cấm người ngoại quốc vào giảng đạo và trị tội những người theo đạo.

        Nửa năm sau sự kiện này, ngày 27 tháng chín Đinh Mùi (1847) Thiệu Trị chết.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2016, 12:45:27 am

        V- NGOẠI GIAO TRIỀU TỰ ĐỨC (1847 - 1883)

        Năm 1848, Tự Đức lên ngôi vua cũng là năm nước nhà bước vào thời kỳ có nhiều khó khăn nhất, cả về nội trị và ngoại giao.

        Về nội trị, đời sống cả nước gian khổ quá. Nhân dân vô cùng ta thán. Người đương thời đặt thành vè để nói lên nỗi lòng ngao ngán của mình.

        Vè rằng:

        Kể từ Tự Đức cầm quyền
        Bốn phương giặc giã chẳng yên chút nào
        Nắng khan bão lụt biết bao
        Mất mùa chết đói năm nào năm không
        Kẻ sĩ cho chí nhà nông
        Ai ai rồi cũng một lòng chán vua.

        Nội trị đã rối bời thì ngoại giao không thể tốt đẹp Nhưng người cầm quyền trì nước thời xưa đã có kinh nghiệm tự nghìn đời rằng: “Quốc phú, binh cường, nội yên, ngoại tĩnh" . Nước có giàu, quân có mạnh, trong nước có yên thì ngoài nước mới tĩnh, mới có hòa bình, hòa hảo với ngoài. Thời Tự Đức, dân đói khổ, trong nước không yên thì ngoại giao đã không thuận lợi, mà còn có nhiều khó khăn không lường trước được.

        Trên thế giới, từ thế kỷ XVII, XVIII, giao lưu quốc tế ngày càng mở rộng. Cho tới thế kỷ XIX, nhiều nước châu Á, kể cả các nước Đông Nam Á, đều đã tiếp xúc thường xuyên với các nước láng giềng và ít nhiều với các nước tư bản phương Tây. Nhưng ở Việt Nam, triều đình nhà Nguyễn vẫn khép kín cửa, không cho người Việt Nam đi ra khỏi nước và có nhiều cấm đoán đối với người phương Tây đến nước mình.

        Ngay khi mới lên ngôi vua, Tự Đức đã cho người sang triều đình nhà Thanh, xưng thần nộp cống rất trọng hậu.

        Sứ bộ đầu tiên của triều đình Huế đi sang Trung Quốc cầu phong vương hiệu cho Tự Đức vào năm 1848. Năm sau, 1849, triều đình Thanh ở Trung Quốc cho một sứ bộ do Lao Sùng Quang cầm đầu, sang làm lễ phong vương cho Tự Đức tại triều đình Huế.

        Quan hệ hữu nghị giữa hai dân tộc lúc này hạn chế bớt những hoạt động phá phách của các toán giặc cướp nhà Thanh ở miền biên giới hai nước. Đầu năm 1852, ba tướng nhà Thanh là Lý Đại Xưng (hiệu Quảng Nghĩa Đường), Hoàng Nhị Vãn (hiệu Lục Thắng Đường) và Lưu Sĩ Anh (hiệu Đức Thắng Đường) đã sang hàng triều đình Việt Nam.

        Cũng trong năm này, ta và Trung Quốc định rõ đường biên giới hai nước ở phía tỉnh Tuyên Quang, lấy núi Đại Lĩnh Can làm giới mốc.

        Nhưng vấn đề quan trọng sống còn của Việt Nam lúc này không phải là sự đe dọa hay lấn chiếm của nhà Thanh, mà là cuộc xâm lược của đế quốc Pháp đang từng bước diễn ra, ngày càng quyết liệt và xảo quyệt

        1. Pháp đánh chiếm miền Nam Việt Nam

        Pháp mưu toan chiếm đóng Việt Nam làm thuộc địa từ lâu, ít nhất là từ cuối thế kỷ XVIII. Khi ký hiệp ước Versailles, Pháp đã nắm được một phần chủ quyền Việt Nam thông qua giám mục Pháp là Bá Đa Lộc - đại diện của bọn bán nước Gia Long Nguyễn Ánh. Nhưng nội tình nước Pháp thời ấy chưa cho phép làm được việc đó. Sang giữa thế kỷ XIX, tham vọng của pháp lại bộc phát.

        Từ những năm thập kỷ 50 của thế kỷ XVIII, đại sứ pháp ở Trung Quốc là Bourboulon nhiều lần đề nghị chính phủ Pháp đưa quân xâm lược Việt Nam, trước tiên là đánh chiếm cảng Đà Nẵng. Chính phủ pháp giao cho Bourboulon nghiên cứu kế hoạch cướp nước này.

        Đầu năm 1852, Pháp cho chiến hạm Capricieuse tới thăm dò các cửa biển Cần Giờ, Phú Yên, Cam Ranh và nhiều cửa biển ở miền Bắc.

        Tới năm 1856, Pháp quyết tâm thực hiện mưu đồ đánh chiếm Việt Nam. Ngay từ đầu năm, vua Pháp Napoléon III lệnh cho Montigny, nguyên lãnh sự Pháp ở Thượng Hải, tiến hành hai nhiệm vụ: Một là thương lượng ký hòa ước với Xiêm. Hai là đưa hai tàu chiến Capricieuse và Catinat tới Việt Nam uy hiếp triều đình Tự Đức.

        Montigny đến làm việc ở Xiêm và cho hai tàu chiến đi Việt Nam đưa thư cho triều đình Huế.

        Khoảng giữa tháng 9 năm 1856, tàu Catinat tới Đà Nẵng đưa thư. Quan lại nhà Nguyễn ở đây từ chối không nhận thư. Viên sĩ quan trưởng tàu Catinat ra lệnh bắn phá các pháo đài ở cảng. Sau đó tàu Catinat đóng quân trong thành Đà Nẵng, chờ tàu Capricieuse. Tàu Capricieuse gặp bão nên tới Đà Nẵng muộn. Khi tàu Capricieuse tới, hai tàu đều cùng chờ Montigny tới. Nhưng chờ mãi không thấy Montigny, mà cả hai tàu lương ăn đều sắp cạn, cuối cùng phải nhổ neo rời Đà Nẵng đi Ma Cao.

        Sau đó ít lâu, Montigny được vua Pháp trao quyền đại diện để giải quyết công việc ở Việt Nam. Ngày 25 tháng 1 năm 1857, Montigny từ Xiêm sang Đà Nẵng yêu cầu được đưa quốc thư xin cho người Pháp tự do thông thương, đặt lãnh sự ở Huế, mở cửa hàng buôn bán ở Đà Nẵng và cho các giáo sĩ tự do đi giảng đạo. Triều đình Huế không chấp nhận điều nào.

        Vua Pháp Napoléon III nhất quyết xâm lược Việt Nam. Ngày 22 tháng 4 năm 1857, Napoléon III lập “Hội đồng Nam Kỳ", chuẩn bị đánh chiếm miền Nam Việt Nam.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2016, 12:46:25 am

        Tháng 11 năm 1857, Napoléon III lệnh cho đô đốc Rigault de Genouilly, tư lệnh hạm đội Pháp ở châu Á đem quân đánh chiếm Đà Nẵng. Tây Ban Nha cho quân phối hợp cùng xâm lược. Ngày 31 tháng 8 năm 1858, một hạm đội gồm 14 tàu chiến, 2.500 quân Pháp và 500 quân Tây Ban Nha tiến tới Đà Nẵng.

        Mờ sáng ngày 1 tháng 9 năm 1858, Pháp gửi tối hậu thư cho triều đình Huế, đòi Tự Đức trong hai giờ phải đầu hàng. Triều đình Huế lúng túng, chưa biết nên như thế nào. Không nhận được thư trả lời, Pháp cho quân bắn đại bác phá vỡ hệ thống đồn lũy của quân Nguyễn ở Đà Nẵng, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.

        Tháng giêng năm Kỷ Mùi (2-1859), quân Pháp và quân Tây Ban Nha từ Đà Nẵng đánh vào cửa Cần Giờ và từ đấy tiến đánh thành Gia Định. Lấy được thành Gia Định, quân xâm lược cướp của quân Nguyễn 200 súng đại bác, 85.000 ki-lô-gam thuốc súng, tiền và bạc ước khoảng 180.000 phờ-răng, vũ khí và thóc gạo nhiều vô kể. Nhưng tướng giặc Rigault de Genouilly không dám cho đóng quân trong thành, sợ bị quân ta bao vây tiêu diệt, nên cho đốt hết thóc gạo, san phẳng thành thị, đồn lũy; sau đó rút quân xuống đóng trên các tàu chiến đậu trên sông.

        Tình thế giặc Pháp trên chiến trường Gia Định có nhiều khó khăn buộc tướng Genouilly phải tìm cách điều đình với ta để kéo dài thời gian.

        Bấy giờ là tháng sáu năm Kỷ Mùi (1859). Nhận được thư đề nghị thương lượng của Pháp, Tự Đức cho Bộ Binh trả lời rằng Pháp muốn nghị hòa mà vẫn cho quân đốt phá Quảng Nam, Khánh Hòa thì nghị hòa sao được. Pháp trả lời: từ nay trở đi không để xảy ra như thế nữa.

        Trước thái độ cầu hòa của Pháp, triều đình Huế không thể không có ý kiến dứt khoát. Tự Đức hỏi ý kiến Viện Cơ mật. Các quan Viện Cơ mật như Trương Đăng Quế, Phan Thanh Giản thiên về giảng hòa, đưa ra ý kiến là đối với ba yêu cầu của Pháp thì điều thứ nhất là xin đất, quyết không cho; điều thứ hai xin thông thương thì từ đầu thời Nguyễn tới nay đã cho phép họ thông thương, nay cứ thế mà làm; điều thứ ba là việc giảng đạo Giê-su thì từ thời Trần, Lê đã cho phép họ được giảng đạo tự do; gần đây vì ta cấm giảng đạo ngặt quá nên họ phải xin phép được giảng đạo; vậy ta nên bỏ lệnh cấm giảng đạo, để cho trong nước được nghỉ binh, yên dân. Do đó nhận hòa với Pháp là điều rất nên.

        Ngược lại, Nguyễn Tư Giản cũng là quan Viện Cơ mật đưa sớ tấu không nên nghị hòa.

        Vì có những ý kiến trái nhau như vậy, triều đình Huế không biết trả lời thế nào. Rốt cuộc, không trả lời.

        Cuối năm 1859, thiếu tướng Page sang thay Genouilly cũng nhận thấy cần tiếp tục đưa thư bàn hòa với triều đình Huế.

        Dự thảo hòa ước của Page gồm 10 điều chính:

        1. Đại Pháp cùng Đại Nam giao hiếu muôn năm cho tỏ nghĩa lớn.

        2. Khi Pháp đưa quốc thư thì báo với cửa Hàn rồi đi đường bộ đưa lên Kinh.

        3. Nước Nam giao hiếu với nước nào thì nước Pháp cũng đối xử như nước anh em.

        4. Không bắt tội những dân làm thuê với Pháp.

        5. Không bắt tội những dân theo đạo Giê-su.

        6. Những giáo sĩ Pháp bị bắt, xin giao lại cho Pháp để đưa về Pháp.

        7. Không ngăn cản tàu Pháp vào buôn bán ở các cửa biển.

        8. Nước Nam nên lập hòa ước với nước Tây Ban Nha.

        9. Không ngăn cấm các cố đạo đi giảng đạo ở các làng xóm.

        10. Pháp được quyền đặt lãnh sự và lập phố buôn bán ở các cửa biển.

        Đại diện triều đình Huế tại Gia Định chấp nhận bảy điều khoản trên, riêng ba điều khoản cuối phải đưa về Huế để triều đình quyết định.

        Bản dự thảo nghị hòa đưa về triều. Trước một văn kiện ngoại giao xâm phạm chủ quyền dân tộc như vậy, trong triều có nhiều người không muốn chấp nhận. Do đó, triều đình do dự, chưa quyết.

        Trong khi đó, tàu chiến Pháp vẫn đỗ ở cửa Hàn (Đà Nẵng). Thấy triều đình Huế không trả lời, Pháp cho quân dưới tàu lên đốt phá mấy đồn quân Nguyễn ở Đà Nẵng rồi rút quân.

        Đầu năm 1859 Pháp tiến chiếm Gia Định. Ngày 17 tháng 2 năm 1859, thành Gia Định rơi vào tay giặt.

        Sau khi thôn tính xong Gia Định, quân Pháp tiếp tục tung quân đánh chiếm các thành Đại Đồn (Chí Hòa), Định Tường (Biên Hòa)... Lúc này Nguyễn Tri Phương được giao trọng trách trấn giữ thành Đại Đồn do chính ông đã huy động quân dân xây gấp để ngăn chặn quân Pháp đánh rộng ra.

        Trước tình hình thành Gia Định thất thủ, Pháp tung quân đánh chiếm một số tỉnh miền Tây Nam Bộ, triều đình Huế hoảng hốt cho Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp đi sứ vào Gia Định xin giảng hòa.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2016, 12:47:23 am

        Ngày 5 tháng 6 năm 1862 (âm lịch là ngày 9 tháng 5 năm Nhâm Tuất), Bonard đại diện Pháp cùng Phan Thanh Giản, Lâm Duy Hiệp đại diện triều đình Huế, ký hoà ước giữa hai nước, thường gọi là hoà ước Nhâm Tuất 1862, gồm 12 điều. Trong hoà ước có những điều khoản chủ yếu như sau:

        1. Nước Nam phải để các giáo sĩ Pháp và Tây Ban Nha tự do giảng đạo và để nhân dân tự do theo đạo.

        2. Nước Nam nhường hẳn cho Pháp ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường và Côn Đảo, để các chiến thuyền của Pháp ra vào tự do ở sông Mê Công.

        3. Nước Nam không được đem vũ khí, đạn dược đi qua những tỉnh đã nhường cho Pháp.

        4. Nước Nam giao thiệp với nước nào, phải cho chính phủ Pháp biết, muốn nhường đất cho nước nào phải được sự đồng ý của Pháp.

        5. Người Pháp và người Tây Ban Nha được ra vào buôn bán tự do ở các cửa biển Đà Nẵng, Ba Lạt và Quảng Yên.

        6. Nước Nam phải trả cho Pháp tiền binh phí 4 triệu đồng, trả làm 10 năm, mỗi năm 40 vạn đồng.

        7. Pháp trả lại cho nước Nam tỉnh Vĩnh Long (nhưng quân Pháp vẫn đóng lại ở tỉnh lỵ cho đến khi chúng gọi là "dẹp yên giặc giã" ở Gia Định và Định Tường, chúng mới rút đi).

        Hoà ước này có đại diện Tây Ban Nha là đại tá Palanca cùng ký.

        Tháng 2 năm Quý Hợi 1863, Bonard và Palanca tới Huế mượn cớ đưa quà tặng của vua nước họ để đòi triều đình Huế đưa quốc thư, tức đưa giấy dâng một phần đất nước cho chúng. Tự Đức tiếp sứ trọng hậu, trả bồi thường cho Pháp số tiền 186.111 đồng, gửi quà tặng hai vua Pháp, Tây Ban Nha và tặng quà sứ bộ Pháp.

        Trong khi triều đình Tự Đức đầu hàng, dâng đất, nộp tiền cho quân cướp nước, thì nhân dân, văn thân, sĩ phu miền Nam nổi lên đánh giặc, chống triều đình ngày càng quyết liệt.

        Khi Pháp đánh chiếm Gia Định, các sĩ phu Gia Định như Phan Văn Đạt, Lê Cao Dũng chiêu mộ nghĩa quân đánh giặc. Bị giặc bắt, hai ông tự tử.

        Nhiều sĩ phu yêu nước khác như tri huyện Toại, Thiên Hộ Dương cũng nổi lên đánh Pháp. Nguyễn Hữu Huân, người Định Tường, đỗ thủ khoa năm 1832, làm giáo thụ ở huyện Kiến Hưng, khi Pháp xâm lược Nam Bộ, đã tập hợp nghĩa sĩ, phối hợp cùng các nhóm nghĩa quân Âu Dương Lân, Võ Duy Dương (tức Thiên Hộ Dương) hoạt động suốt một dải từ Tân An đến Mỹ Tho. Một võ quan của triều đình Nguyễn ở Gia Định là Trương Định cũng dấy quân đánh Pháp.

        Ở ngoài Bắc, từ năm 1862 đã có nhiều nhóm nghĩa quân nổi lên chống triều đình bán nước. Đầu năm 1862, nghĩa quân của cai tổng Vàng (tức Nguyễn Văn Thịnh) ở Bắc Ninh tiến đánh phủ Lạng Giang, huyện Yên Dũng và vây thành Bắc Ninh. Cũng thời gian này, tay sai của Pháp là Tạ Văn Phụng đưa quân đánh chiếm phủ Hải Ninh (Quảng Ninh) và nhiều nơi khác miền duyên hải nhằm mục đích quấy rối hậu phương miền Bắc của triều Nguyễn.

        2. Sứ bộ ngoại giao Phan Thanh Giản vào Sài Gòn và đi Pháp xin chuộc lại Nam Kỳ

        Trước những phản ứng quyết liệt của nhân dân chống lại hành động bán nước của triều đình, vua tôi nhà Nguyễn không thể không suy nghĩ, không thể không làm một việc gì để xoa dịu lòng dân. Chúng tiến hành một chủ trương ngoại giao lép vế, van nài giặc, đem vàng, đem của đổ cho giặc để xin lại đất. Đầu năm 1863, sứ Pháp ra Huế nhận tiền bồi thường của triều đình Huế (186.111 đồng) có nói sẽ trả lại tỉnh Vĩnh Long cho triều đình Huế, nên khi sứ Pháp về Sài Gòn, triều đình Huế cho Phan Thanh Giản vào theo để nhận tỉnh Vĩnh Long.

        Tự Đức vẫn tiếc đất Vĩnh Long. Không lấy lại được bằng quân sự, Tự Đức định cố gắng hoạt động ngoại giao. Giữa năm 1863, Tự Đức cho một phái đoàn đi hẳn sang Pháp để cầu xin vua Pháp về việc này. Cầm đầu phái đoàn là Hiệp tá đại học sĩ Phan Thanh Giản, Tả tham tri Bộ Lại - Phạm Phú Thứ và án sát Quảng Nam - Ngụy Khắc Đản. Tự Đức và triều đình Huế cho phái đoàn Phan Thanh Giản đem nhiều vàng bạc, tiền của ra đi để xin chuộc lại đất, và cũng cho đem nhiều vàng bạc, quà tặng cho bọn cai trị Pháp, Tây Ban Nha ở Gia Định để chúng đưa phái đoàn ngoại giao của Huế đi Tây Âu.

        Phái đoàn xuống tàu "Echo” (Tiếng Vang) của Pháp ở Gia Định cho ra đón từ Huế. Vào tới Gia Định, phái đoàn sang tàu “Européen" (Người châu Âu) cùng bọn quan cai trị Pháp và Tây Ban Nha sang Pháp.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2016, 12:47:50 am

        Khoảng tháng tám âm lịch (1863), tàu biển Européen tới đất Pháp. Phái đoàn Huế theo đường bộ lên Paris xin vào triều yết kiến vua Pháp lúc đó là Napoléon III (Na-pô-lê-ông đệ tam). Napoléon đương chuẩn bị đi nghỉ mát nên không tiếp sứ. Sứ đoàn Huế phải ở lại chờ hơn một tháng, Napoléon đi nghỉ mát về mới được vào tiếp kiến. Sứ đoàn Huế trình bày ý kiến của Tự Đức muốn thương lượng với Pháp để thu hồi ba tỉnh Nam Bộ đã nhường cho Pháp, với những điều kiện sau:

        - Pháp được quyền bảo hộ cả sáu tỉnh Nam Bộ.

        - Pháp được quyền kiểm soát toàn bộ Sài Gòn với mọi đặc quyền và buôn bán.

        - Pháp được triều đình Huế hàng năm nộp cống phẩm như một thuộc quốc đối với một thượng quốc.

        Nghe những kiến nghị này của sứ bộ Phan Thanh Giản, Napoléon không trả lời ngay và hẹn ít lâu nữa sẽ trả lời.

        Mấy ngày sau, sứ bộ Phan Thanh Giản phải rời Pháp sang Tây Ban Nha, nhưng cũng không được việc gì, như khi ở Pháp. Bấy giờ đã là cuối năm 1863, sứ bộ ta phải xuống tàu Japon (Gia-pông, nghĩa là Nhật Bản, tên tàu của Pháp), đành chịu thất bại ngoại giao.

        Khoảng tháng 3 năm 1864, sứ bộ đi Tây Âu về đến Huế.

        Sau khi sứ bộ Phan Thanh Giản rời khỏi nước Pháp, vua Pháp Napoléon III xem xét lại thái độ đối với Nam Kỳ mà Pháp đã chiếm đóng. Thấy đường trường từ Pháp tới Nam Kỳ xa xôi quá, Napoléon ái ngại, không muốn chiếm đóng, nên cho viên trung tá hải quân Aubaret sang triều đình Huế bàn việc trao trả ba tỉnh Nam Bộ cho Việt Nam Sách sử chứ Hán của nhà Nguyễn viết tên Aubaret là Hạ Bá Lý.

        Tự Đức cho thượng thư Bộ Lại - Phan Thanh Giản làm toàn quyền chánh sứ cùng hai phó sứ Trần Tiễn Thành, Phan. Huy Vịnh thay mặt triều đình, hội thương với Aubaret. Sứ Pháp Aubaret đưa ra một dự thảo hoà ước, nội dung tóm tắt như sau:

        - Pháp trả lại ba tỉnh Gia Định, Biên Hòa, Định Tường cho triều đình Huế. Nhưng Huế phải để Pháp cầm quyền bảo hộ cả lục tỉnh, tức sáu tỉnh Nam Kỳ.

        - Pháp vẫn chiếm giữ ba nơi là Sài Gòn, Mỹ Tho và Thủ Dầu Một để Pháp đóng quân.

        - Triều đình Huế mỗi năm phải nộp cho Pháp hai triệu đồng tiền thuế.

        Hoà ước quá bất bình đẳng và triều đình Huế phải chịu thua thiệt nhiều. Phái bộ triều đình Huế chưa dám ký hoà ước, chỉ nhận trả tiền bồi thường quân phí năm trước cho Pháp là 40 vạn đồng.

        Trước thái độ ngang ngạnh, bức hiếp của Pháp, triều đình Huế không mong chuộc được ba tỉnh, mà còn lo mất nốt ba tỉnh còn lại, tức mất cả Nam Bộ. Hoà ước với Pháp tuy đã ký, nhưng sẽ chẳng có giá trị gì, vì Pháp còn lấn tới nữa, đòi hỏi nữa.

        Giữa năm 1863, Pháp đưa tàu chiến tới cửa biển Kampốt của Cao Miên, cho hội quân chiếm đóng và đặt Cao Miên dưới quyền bảo hộ của Pháp. Thấy những hành động xâm lược của Pháp ở phía Nam như vậy, Tự Đức cho Phan Thanh Giản làm Kinh lược đại thần đem quân vào giám sát ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên.

        Nhưng không phải vì thế mà thực dân Pháp từ bỏ tham vọng của chúng. Tháng 3 năm 1866, thực dân Pháp ở Sài Gòn cho tàu chiến tới cửa Thuận An đưa thư cho triều đình Huế, nói rằng: ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên địa thế xa cách, trộm cắp thường nổi lên; hai nhà nước, tức Pháp và triều đình Huế cùng cai trị là không tiện, xin để cho Pháp một mình cai quản mới trừ được hết giặc biển. Được như thế, Pháp sẽ xóa bỏ cho triều đình Huế mọi khoản tiền bồi thường trước đây.

        Tự Đức cho Phan Huy Vịnh và Phạm Phú Thứ tiếp đón, tặng quà sứ Pháp và tư giấy cho kinh lược Phan Thanh Giản ở Nam Bộ trực tiếp thương thuyếtvới Pháp về vấn đề này. Viên quan Pháp cầm quyền ở Sài Gòn là Vial thấy triều đình Huế không nhượng bộ, liền dọa ngay là nếu không nhượng bộ thì sẽ có chiến tranh. Phan Thanh Giản chưa kịp có ý kiến gì Pháp làm áp lực buộc Phan Thanh Giản viết thư cho quan lại triều đình ở An Giang và Hà Tiên nộp thành cho Pháp.

        Thấy mình không giữ nổi nước, Phan Thanh Giản căn dặn con cháu cày ruộng lấy mà ăn, không được làm việc với Pháp, không được nhận quan chức gì ở Nam Kỳ, rồi ông uống thuốc độc chết. Bấy giờ là giữa năm 1867 và Phan Thanh Giản đã ngoài 70 tuổi

        Pháp chiếm toàn bộ Nam Kỳ làm thuộc địa của chúng kể từ đây và cũng kể từ đây, chúng tập trung binh lực tiến quân ra Bắc.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2016, 12:48:16 am

        3. Pháp xâm lược miền Bắc Việt Nam

        Bấy giờ có mấy tên lái buôn Pháp là Jean Dupuis, Millot buôn bán ở Thượng Hải, muốn đưa binh khí, súng đạn vào Bắc Kỳ theo đường sông Hồng, đem lên bán cho bọn quân phiệt nhà Thanh ở Vân Nam. Nhưng việc làm của chúng không được quan lại nhà Nguyễn ở Bắc Kỳ cho phép. Jean Dupuis (Giăng Đuy-puy sách sử chữ Hán ghi tên là Đồ Phổ Nghĩa, có sách sử của triều đình Huế, in chữ quốc ngữ, xuất bản năm 1925 lại viết là Từ Phổ Nghĩa) vào Sài Gòn yêu cầu viên thống đốc Pháp ở Nam Kỳ can thiệp, giúp hắn thông thương.

        Viên thống đốc Pháp nắm được cơ hội, cho ngay viên trung tá hải quân Sénès đem tàu Bourayne ra Bắc Kỳ, vào Quảng Yên, theo sông Hồng nghênh ngang lên Hải Dương, Hà Nội, Bắc Ninh xem xét các nơi.

        Trong thời gian này, Jean Dupuis sang Hồng Công, cùng Millot đem ba chiếc tàu nhỏ là “Hồng Giang", “Lao Kay”, và "Sơn Tây" chở vũ khí cùng các hàng hóa khác vào Quảng Yên. Trên tàu còn có hai người ngoại quốc: một người Anh và một người Trung Quốc. Sử ta viết rằng người Anh này làm quan ở Trung Quốc, tên là Kiều Nhĩ Trì; người Trung Quốc, tên là Lý Ngọc Trì làm tri phủ. Dupuis xin được phép vào cửa Cấm theo đường Hải Dương, Đông Triều, Bắc Ninh tới Hà Nội để lên Vân Nam. Quan nhà Nguyễn ở Quảng Yên báo cáo về triều. Tự Đức cho gửi thư sang Lưỡng Quảng, nhờ Lưỡng Quảng tư tờ hỏi Vân Nam xem như thế nào. Khi có thư trả lời của Vân Nam, sẽ hay.

        Dupuis không nghe, cứ cho tàu vào Hải Dương, lên đậu ở Hà Nội. Bấy giờ là cuối năm 1872, Dupuis thuê thuyền chở hàng lên Vân Nam. Cá thuyền buôn của Dupuis và Willet có đông thủy thủ có vũ trang. Chuyến đi trót lọt. Cuối năm 1873, chúng chở hàng hóa từ Vân Nam về Hà Nội, đem theo một toán giặc Cờ vàng người Trung Quốc.

        Tới Hà Nội, Dupuis và mấy người Trung Quốc là Bành Lợi Ký, Quan Tá Đình chở gạo, muối, súng đạn lên bán ở Vân Nam.

        Quan lại nhà Nguyễn ngăn cản việc này, vì việc buôn bán, chuyên chở hàng lên bán ở Vân Nam chưa được triều đình Huế cho phép. Bọn Dupuis không nghe. Quan nhà Nguyễn ở Hà Nội cho bắt hai Hoa kiều là Bành Lợi Ký và Quan Tá Đình. Sẵn có trong tay nhiều lâu la có vũ trang, Dupuis chống lại quan nhà Nguyễn. Hắn cho người đi bắt quan lãnh binh phòng thành Hà Nội và quan huyện Thọ Xương đem xuống giam dưới thuyền của chúng. Quan nhà Nguyễn ở Hà Nội không dám phản ứng mạnh. Nhưng các sĩ phu yêu nước thì rất bất bình, tìm cách chống lại những hành động gián điệp, cướp phá của bọn Dupuis.

        Một ông nghè là Lê Đình Diên, làm đốc học Hà Nội đã về hưu, mở trường dạy học, ngày 20 tháng 6 năm 1873, ngăn cản không cho tên Dupuis vẽ cổng thành Hà Nội, bị bọn chúng hành hung.

        Các văn thân sĩ phu Hà Nội đâu chịu khoanh tay ngồi yên trước thái độ nhu nhược, yếu hèn của bọn quan lại triều đình ở Hà Nội. Cử nhân Ngô Văn Dạng dạy học ở thôn Kim Cổ (khoảng phố Hàng Bông Hà Nội bây giờ) đứng ra tổ chức một đội nghĩa quân gồm 300 người, luyện tập quân sự cấp tốc trong một tháng rồi đi trừ diệt bọn thổ phỉ do Dupuis đưa từ Vân Nam sang.

        Cùng thời gian này, cử nhân Tạ Văn Đình cũng hoạt động chống bọn gián điệp Dupuis. Cuối năm 1873, khi Pháp đem quân ra đánh Hà Nội, chúng bắt ông Tạ Văn Đình, đem giết tại bờ hồ Hoàn Kiếm.

        Trước những hành động ngang ngược, tàn sát của một nhúm mấy tên thực dân Pháp tại Hà Nội, các quan nhà Nguyễn ở ngoài Bắc và vua tôi nhà Nguyễn tại triều đình Huế cho một phái bộ gồm các ông Lê Tuấn, Nguyễn Văn Tường, Nguyễn Tăng Doãn vào Sài Gòn nhờ viên thống đốc Pháp ở Nam Kỳ cho người ra giải quyết giúp. Đây là một thứ ngoại giao khờ khạo. Trước đã để thực dân Pháp cướp mất nước ở phía Nam, nay lại tự ý dẫn đường cho chúng đưa quân ra Bắc. Thế làm sao mà không mất nước.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2016, 12:48:43 am

        4. Pháp đánh chiếm Hà Nội - chỉ huy quân Pháp Francis Garnies bị giết tại trận - Huế ký hàng ước 1874

        Thực dân Pháp từ sau khi chiếm được miền Nam, đã có mưu đồ đánh chiếm miền Bắc, chỉ chờ cơ hội thuận tiện để có thể tiến quân dễ dàng, thành công nhanh chóng. Viên thống đốc Pháp ở Nam Kỳ lúc ấy là Dupré, thiếu tướng hải quân có dã tâm xâm lược miền Bắc từ lâu. Hắn từng đánh điện về Paris cho chính phủ Pháp rằng: "Việc Jean Dupuis ở Bắc Kỳ đã thành công. Cần phải chiếm lấy Bắc Kỳ và giữ con đường thông sang Tàu. Không cần phải viện binh. Thành công rất chắc chắn".

        Nay Tự Đức và triều đình Huế lại cho người vào yêu cầu thống đốc Pháp ở Nam Kỳ cho người ra xử lý việc Jean Dupuis ở Hà Nội thì thật là dịp may ngoài mơ tưởng của Pháp. Tướng Dupré cho gọi ngay viên đại úy hải quân Francis Garnier đang ở Thượng Hải về Sài Gòn nhận lệnh và kế hoạch ra Hà Nội.

        Hối hả thực hiện mưu đồ xâm lược miền Bắc, Garnier chỉ đem mấy chiếc tàu nhỏ và 170 lính ra Đà Nẵng, rồi lên cửa Thuận An, nghỉ lại đây mấy hôm để chờ phái viên của triều đình Huế cùng đi. Ra tới Hải Dương, bọn Garnier nghỉ ở Kẻ Sặt, cho người cầm thư lên Hà Nội báo cho Jean Dupuis biết.

        Nhận được thư, Dupuis cho đem chiếc tàu "Mạn Hảo" đi đón Garnier lên Hà Nội. Ngày 5 tháng 11 năm 1873, Garnier tới Hà Nội. Các quan nhà Nguyễn là khâm mạng Nguyễn Tri Phương, bố chính Vũ Đường, lãnh binh Nguyễn Đăng Nghiễm đều có mặt nơi đón tiếp Garnier. Hắn ngang ngạnh, đòi đem quân vào đóng trong thành. Các quan nhà Nguyễn không đồng ý phải nói mãi hắn mới chịu đóng quân ở Trường Thi. Tại đây, Garnier cho người đi đón Puginier giám mục đạo Giê-su ở Kẻ Sặt (Cẩm Bình, Hải Hưng ngày nay) lên làm phiên dịch và viết thông cáo với nhân dân Hà Nội: "Bản chức - tức Garnier ra Hà Nội để dẹp yên giặc giã và mở mang việc buôn bán". Garnier đưa thư cho Nguyễn Tri Phương trách: các quan Nam triều làm ngăn trở việc buôn bán của Jean Dupuis, cho nên vì sự văn minh và quyền lợi của nước Pháp, quân Pháp ra khai thông việc buôn bán ở Bắc Kỳ, triều đình Huế và quan lại ở Bắc Kỳ không muốn cũng không được.

        Phía nhà Nguyễn lúng túng, không biết xử trí như thế nào. Nửa thảng sau khi tới Hà Nội, tới ngày 20 tháng 11 năm 1873 (âm lịch là 15 tháng 10 năm Quý Dậu), Garnier đột ngột nổ súng đánh thành. Chúng phá cửa đông nam. Nguyễn Tri Phương và con trai là phò mã Nguyễn Lâm vừa từ Trung Bộ ra thăm tha, cùng đem quân chống giữ cửa đông nam. Nhưng hai cha con không giữ được. Nguyễn Lâm bị giặc bắn chết. Nguyễn Tri Phương bị giặc bắn trọng thương. Giặc Pháp tiến vào chiếm thành, bắt Nguyễn Tri Phương và quan Khâm phái Phan Đình Bình đưa xuống tàu của chúng.

        Nguyễn Tri Phương lúc đó đã ngoài 70 tuổi, không chịu để cho giặc cứu chữa vết thương và nhịn ăn mà chết. Garnier một mặt tổ chức ngụy quyền tại Hà Nội, một mặt cho quân đánh chiếm thêm mấy tỉnh. Ngày 15 tháng 10 âm lịch, quân Garnier đánh lấy tỉnh Hải Dương, ngày 16 tháng 10 lấy tỉnh Ninh Bình, ngày 21 lấy tỉnh Nam Định. (Ba ngày âm lịch là theo sách Quốc triều chánh biên toát yếu của triều đình Huế.)

        Được tin quân Pháp đánh chiếm các tỉnh miền Bắc, triều đình Huế phải tính việc đối phó. Việc đầu tiên là cho Lê Tuấn và Nguyễn Văn Tường làm chánh và phó sứ vào Nam thương thuyết với thống đốc Pháp ở Sài Gòn về hành động của Garnier. Việc thứ hai là cho Trần Đình Túc, Nguyễn Trọng Hợp, Trương Gia Hội cùng hai cố đạo người phương Tây là giám mục Bình (Mgr Sohier), linh mục Đăng (Dangelzer) ra Hà Nội điều đình với Pháp. Việc thứ ba là lệnh cho ông Hoàng Kế Viêm ở Sơn Tây làm tiết chế quân vụ, phòng giữ các nơi ngoài Bắc. Lúc này, ông Hoàng Kế Viêm đã liên kết với đội quân Cờ đen do Lưu Vĩnh Phúc chỉ huy, hoạt động ở lưu vực sông Hồng, miền tây bắc Việt Nam. Tự Đức phong Lưu Vĩnh Phúc làm đề đốc để cùng quan quân nhà Nguyễn chống Pháp. Quân Lưu Vĩnh Phúc đã đánh tập kích quân Pháp nhiều lần. Trong khi tại Hà Nội, về mặt ngoại giao, các ông Trần Đình Túc, Nguyễn Trọng Hợp đương thương thuyết với Garnier, thì quân Nguyễn và quân Cờ đen từ phía Sơn Tây xuống đánh Hà Nội. Ngày 21 tháng 12 năm 1873, tức một tháng sau khi quân Pháp chiếm đóng Hà Nội, Garnier đem quân tiến lên phía Sơn Tây để đánh quân Cờ đen, nhưng mới đi tới Cầu Giấy thì quân Pháp đã bị quân Cờ đen đặt phục binh, đánh cho tan tác. Francis Garnier bị giết chết tại trận.

        Ở Sài Gòn, khi được tin Garnier đánh chiếm Hà Nội, thống đốc Pháp Dupré cho viên đại úy hải quân Philastre (sách sử chữ Hán của triều Nguyễn viết là Hoắc Đạo Sinh) đi cùng Nguyễn Văn Tường, phó sứ của triều đình Huế, ra giải quyết các việc ở ngoài Bắc.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2016, 12:49:18 am

        Hai người ra tới cửa Cấm (Hải Phòng) ngày 5 tháng 11 âm lịch thì được tin Francis Garnier cùng mấy tên trung úy, thiếu úy chỉ huy quân Pháp đã bị quân Nguyễn giết tại trận. Hai người lên ngay Hà Nội xem xét tình hình, rồi vào Sài Gòn để thương thuyết cùng viên thống đốc Pháp. Trước những sự việc đã xảy ra ở Hà Nội, Garnier và toán quân Pháp phải bỏ mạng, thống đốc Pháp ép triều đình Huế phải ký một hàng ước, đền bù những thiệt hại của Pháp. Ngày 27 tháng giêng năm Giáp Tuất (1874) hai ông Lê Tuấn, Nguyễn Văn Tường thay mặt triều đình Huế cùng tướng Pháp Dupré ký hoà ước mới, thường gọi là hoà ước năm Giáp Tuất gồm 22 điều khoản, trong đó có những điều khoản chính như sau (Lược theo bản ghi chép trong sách Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim.):

        Điều II - Tổng thống Pháp thừa nhận quyền độc lập của nước Nam, vua nước Nam không phải thần phục nước nào khác và khi vua nước Nam cần việc gì để đánh giặc, nước Pháp sẵn lòng giúp, không yêu cầu điều kiện gì.

        Điều III - Vua nước Nam phải cam đoan tuân thủ chính sách ngoại giao của nước Pháp. Chính sách ngoại giao ấy như thế nào phải theo như thế không được thay đổi .

        Tổng thống nước Pháp tặng vua nước Nam:

        - 5 chiếc tàu có vũ trang.

        - 100 khẩu súng đại bác, mỗi khẩu có 200 viên đạn .

        - 1 000 khẩu súng tay và 5.000 viên đạn.

        Điều IV - Tổng thống nước Pháp hứa cho võ quan sang giúp vua nước Nam luyện tập thủy binh, bộ binh, cho các kỹ sư sang dạy mọi việc và cho những người giỏi tài chính sang tổ chức các việc thuế má, thương chính...

        ĐiềuV - Vua nước Nam phải nhường đứt hẳn đất đai sáu tỉnh Nam Kỳ cho nước Pháp .

        Điều IX - Vua nước Nam phải để cho các giáo sĩ được tự do đi giảng đạo và để dân tự do theo đạo.

        Điều XI - Vua nước Nam phải mở cửa Thị Nại (Quy Nhơn), cửa Ninh Hải (Hải Phòng), thành Hà Nội và sông Hồng cho ngoại quốc vào buôn bán.

        Điều XIII - Nước Pháp được quyền đặt lãnh sự ở các cửa biển và các thành thị đã mở cho người ngoại quốc vào buôn bán.

        Điều XV - Người nước Pháp và các người nước ngoài có giấy thông hành của lãnh sự Pháp và có chữ phê chuẩn của quan Việt Nam thì được phép đi thăm các nơi trong nước.

        Điều XVI - Người nước Pháp và các người nước ngoài có điều gì kiện tụng tại Việt Nam, thì do lãnh sự Pháp xét xử.

        Điều XX - Sau khi hoà ước này đã ký, tổng thống nước Pháp sẽ đặt sứ thần ở Huế để chiếu theo những điều đã giao ước mà thi hành. Vua nước Nam cũng được quyền đặt sứ thần ở Pari và Sài Gòn.

        Hoà ước Giáp Tuất này buộc triều đình Huế phải công khai chấp nhận Sài Gòn và sáu tỉnh Nam Kỳ không còn là của Việt Nam mà là đất đai của Pháp, mặc dầu nước Pháp ở cánh xa Nam Kỳ hàng vạn dặm. Hoà ước còn trao cho Pháp một quyền rất quan trọng là Pháp được đặt lãnh sự ở các cửa biển, các thành thị và lãnh sự Pháp có quyền cấp giấy thông hành cho các người nước ngoài đi xem xét khắp nước Việt Nam. Với hoà ước này, triều đình Huế trao gần hết chủ quyền ở miền Bắc cho thực dân Pháp.

        Đầu năm 1874, ngay sau khi ký hoà ước, Tự Đức lệnh cho các quan cơ mật và các quan thương bạc (ngoại giao) vẽ hai bản đồ Việt Nam; một bản đưa nhà vua ngự lãm, một bản đưa cho "Pháp soái", tức viên thống đốc Pháp ở Nam Kỳ.

        Giữa năm 1874, triều đình Huế cho thượng thư Bộ Hình là Nguyễn Văn Trường và thị lang Bộ Lại là Nguyễn Tăng Doãn thảo luận và ký thương ước với Pháp. Nội dung chủ yếu của thương ước là cho Pháp đặt lãnh sự và mở phố buôn bán ở Hà Nội. Ngày 20 tháng 7 năm Giáp Tuất, tức 31 tháng 8 năm 1874, thương ước lập xong. Về sau, thương ước có bổ sung thêm là cho Pháp tiếp tục đặt lãnh sự và mở phố buôn bán ở một số địa phương khác trong nước, cho Pháp được có quân đóng ở lãnh sự quán, được lập sở thương chính tại Hải Dương năm 1875, tại Quy Nhơn năm 1876.

        Tại Hà Nội, từ giữa năm 1874, triều đình Huế lo tổ chức nơi ăn, nơi ở cho quân Pháp. Tháng tám âm lịch, Tự Đức cho Nguyễn Tăng Doãn ra xem xét địa thế các vùng ngoại thành Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng để lấy chỗ cho Pháp đóng quân. Tại Hà Nội, pháp lấy khu Đồn Thủy ở bờ sông Hồng làm khu nhượng địa để chúng xây dựng trại lính, các dinh thự và các nhà làm việc của bọn lãnh sự Pháp. Theo thương ước ngày 31 tháng 8 năm 1874, khu nhượng địa rộng 2 héc-ta, nhưng Pháp lấn dần, chỉ một năm sau, nhượng địa đã rộng tới 18 héc-ta, Pháp đặt tên là khu "Nhượng địa" (Concession).

        Trong năm 1876, lãnh sự Pháp tại Hà Nội hai lần xin phép triều đình Huế đi lên các miền núi đông bắc và tây bắc nước ta mục đích để thăm dò, thám thính, chuẩn bị thực hiện mưu đồ xâm lược lên các miền này.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2016, 12:50:26 am

        5. Pháp đánh Hà Nội lần thứ hai (1882), chỉ huy quân Pháp Henri Rivière bỏ mạng

        Sau khi đã có các tổ chức hành chính, giao thông liên lạc, các cơ sở thương chính, thương nghiệp, nắm được tình hình tài nguyên, tài sản miền Bắc và có sẵn một số căn cứ đóng quân, thực dân Pháp ở miền Nam khởi sự đánh ra miền Bắc.

        Tháng hai năm Nhâm Ngọ, tức tháng 3 năm 1882, thống đốc Pháp ở Nam Kỳ cho tên thiếu tá hải quân Henri Rivière đem 600 quân đi hai chiếc tàu ra Bắc. Tới Hải Phòng, quân Pháp đánh chiếm khu mỏ Hòn Gai và vùng Hải Dương. Chúng lấy cớ quân Cờ đen cản trở việc buôn bán của lái buôn Pháp ở Hà Nội, nên chúng tiến lên Hà Nội trừng trị quân Cờ đen.

        Ngày 3 tháng 4 năm 1882, Henri Rivière tới Hà Nội, đóng quân tại Đồn Thủy là nơi có lãnh sự quán và doanh trại của quân Pháp.

        5 giờ ngày 8 tháng 3 năm Nhâm Ngọ, tức ngày 25 tháng 4 năm 1882, Rivière gửi tối hậu thư cho Tổng đốc thành Hà Nội là Hoàng Diệu, đòi ông phải triệt phá các công sự phòng thủ và đến 8 giờ sáng phải hạ vũ khí đầu hàng.

        Hoàng Diệu bác bỏ yêu sách của giặc, kiên quyết chiến đấu.

        8 giờ sáng, không thấy bên ta trả lời, giặc Pháp khởi sự, bắn đại bác vào cửa Bắc thành Hà Nội mở đường tiến quân. Quân ta chống cự lại kịch liệt. Quân giặc chết nhiều. Đến 10 giờ 45 phút, giặc mở cuộc tiến công đồng loạt vào bốn cửa. Một lúc sau, kho thuốc súng trong thành bốc cháy, vì có một số tên phản bội đốt phá, làm nội ứng cho giặc. Quân ta hoang mang. Lợi dụng tình hình đó, quân Pháp bắc thang trèo lên phía cửa Tây, phá cổng, ồ ạt kéo vào thành. Hoàng Diệu thấy không thể chống cự được nữa, đi vào hành cung, viết tờ di biểu để lại cho Tự Đức, rồi đến Võ miếu trong thành, lấy khăn dài đương chít đầu buộc lên cây táo bên miếu, treo cổ tự tử.

        Quan lại trong thành đều bỏ chạy.

        Rivière đưa quân vào đóng trong thành. Triều đình Huế được tin, lệnh cho quan quân miền Bắc tổ chức chống cự. Nhưng quân Pháp xảo quyệt, dùng ngoại giao lắt léo để ngăn chặn ý đồ kháng chiến của triều đình Huế và giành thêm thắng lợi mới. Khâm sứ pháp Rheinart đưa thư cho sở Thương bạc (cơ quan ngoại giao) của triều đình Huế nói rằng: việc đánh chiếm Hà Nội không phải là chủ ý của nước Pháp nên sẽ trả lại, triều đình cho quan ra Hà Nội nhận thành.

        Nhưng khi Huế cử một tổng đốc ra Hà Nội làm việc thì Rivière vẫn đóng quân trong hành cung (tức trong nội thành) và đưa ra mấy yêu sách:

        1- Nước Nam phải đặt dưới quyền bảo hộ của nước Pháp.

        2- Nước Nam phải nhường thành phố Hà Nội làm nhượng địa của Pháp.

        3- Để người Pháp tổ chức và cai quản các cơ quan thương chính ở Bắc Kỳ.

        Triều đình Huế do dự, không muốn chấp nhận yêu sách của Pháp. Chấp nhận những yêu sách đó là đầu hàng, mà là đầu hàng vô điều kiện.

        Thấy triều đình Huế trù trừ, không trả lời, Pháp tiếp tục hành quân xâm lược. Có thêm quân tiếp viện từ Sài Gòn đưa ra, ngày 28 tháng hai năm Quý Mùi (1883) Hen ri Rivière tiến đánh thành Nam Định.

        Thấy quân Pháp ở Hà Nội nống ra cướp phá các nơi, quan quân nhà Nguyễn ở ngoài Bắc tổ chức phản công, từ hai phía tiến về Hà Nội. Từ phía đông bắc, Tổng đốc Bắc Ninh Trương Quang Đản đưa quân xuống Gia Lâm. Từ phía tây bắc, Khâm sai tiết chế Hoàng Kế Viêm đưa quân về gần Hà Nội và cho Lưu Vĩnh Phúc đi tiên phong, đóng quân ở phủ Hoài Đức. Viên đại úy, phó chỉ huy quân Pháp là Berthe de Villers đem quân từ Hà Nội sang Gia Lâm, Trương Quang Đản lui quân về Bắc Ninh.

        Sáng ngày 13 tháng tư năm Quý Mùi (tức 19 tháng 5 năm 1883) Rivière đưa 500 quân lên phía Hoài Đức, nhưng tới mạn Cầu Giấy thì bị quân của Hoàng Kế Viêm và Lưu Vĩnh Phúc đánh tan. Gần một trăm quân Pháp chết trận và bị thương. Viên thiếu tá chỉ huy Hen ri Rivière bị giết chết. Viên đại úy phó chỉ huy Berthe de Villers bị thương nặng.

        Mặc dù thất bại, Pháp không lùi bước xâm lược. Bốn ngày trước khi Rivière bị giết, tức ngày 15 tháng 5 năm 1883, Quốc hội Pháp đã bỏ phiếu chuẩn chi một khoản tiền lớn năm triệu rưởi phờ-răng làm kinh phí đánh chiếm miền Bắc nước ta và lệnh cho bọn thực dân Pháp ở Việt Nam tiếp tục hành quân xâm lược.

        Chúng điều cả lục quân và hải quân cùng tiến công lên Sơn Tây và sang Bắc Ninh. Quan quân nhà Nguyễn ở Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định và các nơi khác cố chống đỡ, nhưng đều thất bại vì quân ít, yếu kém, vũ khí thô sơ, thiếu thốn. Cuộc kháng chiến chưa đạt kết quả gì thì ngày 16 tháng sáu năm Quý Mùi 1883, Tự Đức chết. Việc nối ngôi vua rối ren.

        Tự Đức không có con. Dục Đức là con nuôi, được đưa lên làm vua, nhưng chỉ ba ngày thì bị quyền thần truất ngôi và một người em của Tự Đức, con thứ 29 .của Thiệu Trị được đưa lên thay, lấy niên hiệu là Hiệp Hòa. Triều đình Huế đương trong tình hình lộn xộn, đế quốc Pháp lợi dụng cơ hội mở rộng chiếm đóng trên cả nước ta.

        Ngày 20 tháng 8 năm 1883, một hạm đội Pháp do Courbet, thiếu tướng hải quân chỉ huy, đánh vào cửa Thuận An. Sau ba ngày cầm cự, quan quân nhàNguyễn thua trận. Các tướng lĩnh, người thì tử thương, người thì nhảy xuống sông tự tử.

        Triều đình Huế nhận thấy thế không thể chống đối được bằng quân sự, phải cho người cầm cờ trắng đề nghị hòa với quân Pháp. Người đại diện Pháp trong đạo quân xâm lược này là Harmand tới Huế để đặt các điều kiện nghị hòa của Pháp với triều đình nhà Nguyễn.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2016, 12:51:03 am

       VI. NGOẠI GIAO PHONG KIẾN BẤT LỰC NGOẠI GIAO CÁCH MẠNG XUẤT HIỆN

        Harmand với tư cách toàn quyền đại diện của Pháp và Trần Đình Túc, Nguyễn Trọng Hợp là chánh, phó khâm sai của triều đình Huế đã cùng ký hoà ước Việt - Pháp ngày 25 tháng 8 năm 1883 (âm lịch là 23 tháng bảy năm Quý Mùi).

        Hoà ước gồm 27 điều. Điều quan trọng đầu tiên của hoà ước là để cho Pháp nắm quyền ngoại giao của Việt Nam; triều đình nhà Nguyễn không được tự ý quan hệ với các nước ngoài. Với hoà ước này, Việt Nam mất cả độc lập và quyền ngoại giao. Những điều chủ yếu khác trong hoà ước có thể tóm tắt như sau:

        - Tỉnh Bình Thuận sáp nhập vào Nam Kỳ để Pháp trực tiếp cai trị.

        - Từ tỉnh Khánh Hòa, phía trên Bình Thuận ra tới Đèo Ngang, do triều đình Huế cai trị. Nhưng Pháp đóng quân tại Đèo Ngang và tại Thuận An, bên cạnh triều đình Huế. Một cơ quan hành chính của Pháp đặt tại Huế do một viên khâm sứ Pháp đứng đầu, nắm quyền giám sát triều đình Huế và công việc hành chính ở các tỉnh từ Khánh Hòa ra Đèo Ngang. Viên khâm sứ Pháp được chỉ định sẵn là Champeaux có mặt ngay lúc đó và cùng ký tên vào hoà ước.

        - Từ Đèo Ngang ra Bắc, việc cai trị ở các tỉnh, phủ, huyện, vẫn do các quan lại Việt Nam đảm nhiệm, nhưng chỉ là chính quyền bù nhìn tay sai. Mỗi tỉnh có một cơ quan của Pháp, gọi là tòa công sứ, do chánh, phó công sứ Pháp cầm đầu, kiểm soát và điều hành mọi công việc trong tỉnh.

        Ký xong hoà ước, Harmand ra Bắc chỉ huy tiếp việc đánh chiếm miền Bắc. Triều đình Huế phải cho mấy viên thượng thư, tham tri đi theo Harmand ra để hiểu dụ nhân dân và lệnh cho quan quân nhà Nguyễn ở miền Bắc rút cả về Huế.

        Nhưng lệnh của triều đình Huế không đủ sức ngăn chặn chiến tranh ở miền Bắc. Bấy giờ là giữa năm 1883, Hiệp Hòa lên ngôi vua, truyền dụ ra Bắc: "Lập tức triệt binh dõng lui, để tỏ điều tin với Đại Pháp. Còn toán quân Lưu Vĩnh Phúc và quân Tàu, không phải quyền mình sai khiến được, nên đã giao ước để mặc quân Đại Pháp làm sao thì làm, không còn thuộc gì nước mình; nên đem thực tình việt thư cho quý toàn quyền .rõ, như vậy mới hợp thời thế". Thời thế đây là thời thế của kẻ hèn nhát, chịu dể mất nước.

        Chỉ bốn tháng sau, Hiệp Hòa bị triều thần giết chết. Triều đình đưa người con nuôi thứ ba của Tự Đức là Kiến Phúc lên làm vua. Kiến Phúc mới 15 tuổi, lên ngôi được hơn sáu tháng thì chết do bệnh đậu mùa. Sau Kiến Phúc là Hàm Nghi 13 tuổi lên thay. Công việc triều đình đều trong tay hai đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết. Việc nước, việc dân, lúc ấy rối ren nghiêm trọng. Ở ngoài Bắc, chiến tranh tiếp diễn. Quân Trung Quốc của Lưu Vĩnh Phúc ở miền tây bắc và quân chính quy của nhà Thanh ở miền đông bắc nước ta vẫn giao chiến với quân Pháp. Lệnh rút quân của triều đình Huế không có hiệu lực gì với họ. Lưu Vĩnh Phúc đương có toàn quyền cai quản miền Tây Bắc nước ta, không dễ gì lại bó thân về với triều đình ở Huế. Quân chính quy Trung Quốc do triều đình Huế mời sang cứu nguy cho mình thì cũng không dễ gì bảo họ rút về Trung Quốc, vì họ cũng có ý đồ của họ. Khi Pháp đánh chiếm Hà Nội, triều đình nhà Nguyễn cho Phạm Thận Duật sang Thiên Tân cầu cứu nhà Thanh. Tổng đốc hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây là Trương Thụ Thanh làm một sớ tâu vua Thanh, đại ý nói: "Nước Nam và Trung Quốc tiếp giáp nhau, thế lực của nước Nam rất suy yếu, không thể tự chủ được nữa. Ta nên mượn tiếng sang đánh giặc, đem quân đóng giữ các tỉnh thượng du. Khi có biến, ta sẽ chiếm lấy các tỉnh ớ phía bắc sông Hồng". Do đấy, quân Thanh sang đóng ở các tỉnh từ Lạng Sơn tới Bắc Ninh, từ Lào Cai tới Sơn Tây. Hai kẻ thù tiến hành xâm lược miền Bắc nước ta đã đánh nhau một số trận. Quân Thanh thua. Nhưng không phải vì thế mà quân Pháp đẩy họ ra khỏi biên giới Việt Nam một cách dễ dàng, mặc dầu Pháp đã đánh vào miền duyên hải Trung Quốc. Pháp thay đổi chiến lược, dùng ngoại giao thay quân sự.

        Pháp nhờ một người Đức là Détring phụ trách thương chính của nhà Thanh ở Quảng Đông giúp việc thương lượng giữa hai nước Pháp và Trung Quốc. Détring có quan hệ thân mật với tổng đốc Trực Lệ Lý Hồng Chương là một đại thần có thế lực lớn của triều đình nhà Thanh. Lý Hồng Chương chấp nhận đứng ra hòa giải. Ngày 18 tháng 4 năm Giáp Thân, trung tá hải quân Fournier đại diện Pháp và Lý Hồng Chương đại diện Trung Quốc ký hoà ước tại Thiên Tân.

        Nội dung chủ yếu của hoà ước Thiên Tân năm 1884 là Trung Quốc cam kết rút hết quân Trung Quốc đóng tại Bắc Kỳ về nước, để mặc Pháp tự do hoành hành ở Việt Nam.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2016, 12:51:53 am

        Sau hoà ước Thiên Tân, quân Trung Quốc vắng bóng ở Bắc Kỳ; thực dân Pháp ra sức hoàn tất việc chiếm đóng của chúng, thẳng tay đàn áp nhân dân Việt Nam, ép buộc triều đình Huế ký giấy đầu hàng, cam chịu mất độc lập, mất ngoại giao, cúi đầu chịu sự thống trị của chúng.

        Giấy đầu hàng ký tại triều đình Huế ngày 13 tháng 5 năm Giáp Thân (tức ngày 6 tháng 6 năm 1884). Ký xong, triều đình Huế phải đem ấn phong vương của Trung Quốc khi trước ra thiêu hủy trước mặt đại điện Pháp.

        Từ đây, triều đình Huế chỉ là chính quyền bù nhìn, hoàn toàn chịu sự điều khiển, giám sát của Pháp. Quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc bị Pháp xóa bỏ. Quan hệ giữa Việt Nam và các nước khác không được Pháp cho phép. Như thế là triều đình Huế mất hẳn quyền ngoại giao. Quyền ngoại giao của triều đình Huế chấm dứt đồng thời cũng chấm dứt toàn bộ nền ngoại giao phong kiến.

        Năm 1884 tuy triều đình Huế bắt buộc phải ký giấy đầu hàng Pháp, nhưng ngọn lửa đấu tranh chống Pháp vẫn âm ỉ trong lòng vua tôi nhà Nguyễn từ đây.

        Đêm mùng 4 rạng sáng ngày 5 tháng 7 năm 1885, Tôn Thất Thuyết cùng những người yêu nước ở Huế phát động chiến tranh, bắn súng vào nhà khâm sứ Pháp và đánh trại lính Pháp ở thành Huế. Pháp phản công, Tôn Thất Thuyết thua trận, đưa vua Hàm Nghi lên miền núi Quảng Trị, rồi sang Thượng Lào.

        Ngày 2 tháng 8 năm 1885, Tôn Thất Thuyết cùng vua Hàm Nghi tới vùng Cửu Châu thuộc Savanakhét được nhân dân nước bạn Lào hết lòng giúp đỡ và tiếp sức cho phong trào chống Pháp của Việt Nam dâng cao.

        Cùng với cuộc chiến đấu chống Pháp của Tôn Thất Thuyết là phong trào khởi nghĩa của Phan Đình Phùng, có nhiều gắn bó với nhân dân Lào. Cuối năm 1895, nhân dân Lào đã đưa nghĩa quân Phan Đình Phùng tới tạm trú ở bản Kiên trên đất Lào để chuẩn bị các trận đánh Pháp. Nghĩa quân luôn luôn được nhân dân Lào tiếp sức.

        Từ những năm đầu thế kỷ XX, hoạt động ngoại giao của Việt Nam gắn chặt với phong trào cách mạng trong nước đang chuyển từ phạm trù phong kiến sang phạm trù mới. Cách mạng càng dâng cao thì quan hệ ngoại giao càng mở rộng. Ngoại giao cách mạng xuất hiện và ngày càng hưng khởi, góp phần rất lớn vào thành công của cách mạng Việt Nam.

*

*      *

        Trải mấy nghìn năm lịch sử nền ngoại giao thời phong kiến đã góp công sức lớn vào sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc, mở rộng sự giao hảo với các nước, để lại nhiều kinh nghiệm quý giá về ngoại giao cho nhân dân các đời sau.

        Về đường lối ngoại giao của dân tộc ta thời phong kiến, nhà sử học Phan Huy Chú ở thế kỷ XIX đã ghi tóm tắt:

        "Trong việc trị nước, hòa hiếu với nước láng giềng là việc lớn, mà những khi ứng thù là rất quan hệ không thể xem thường... Người có quyền trị nước phải nên cẩn thận" (Bang giao chí).

        Vua Lê Thánh Tông ở thế kỷ XV chỉ thị cho những người đi sứ, tức những người làm ngoại giao với nước ngoài:

        "Một thước núi, một tấc sông của ta, không nên vất bỏ. . . Nếu người dám lấy một thước, một tấc đất của Thái Tổ mà đút mồi cho giặc thì phải tội tru di " (Đại Việt sử ký toàn thư) .

        Đây cũng là những lời di văn, di chúc của nền ngoại giao nước ta thời phong kiến để lại cho chúng ta thời nay suy ngẫm và có thể nói theo tới muôn đời sau.


Tiêu đề: Re: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Mười, 2016, 12:52:42 am
     
TÀI LIỆU THAM KHẢO

        1- Bùi Dương Lịch

        Lê quý dật sử, bản chữ Hán, viết tay, thư viện Viện Sử học.

        2- Hà Văn Tấn, Phạm Thị Tâm

        Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1973.

        3- Lê Quý Đôn

        Kiến văn tiểu lục, bản dịch của Phạm Trọng Đàm, Nxb Sử học, Hà Nội, 1962.

        Đại Việt thông sử, bản dịch của Ngô Thế Long, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978.

        4- Lê Trọng Hàm

        Minh Đô sử, sách chữ Hán, viết tay, thư viện Viện Sử học, ký hiệu H.V.285.

        5- Lê Trắc

        An Nam chí lược, sách chữ Hán, bản in, Thượng Hải, 1884.

        6- Ngô Cao Lãng

        Lịch triều tạp kỷ, bản dịch.

        7- Ngô Gia Văn Phái

        Hoàng Lê nhất thống chí, bản dịch của Nxb Văn học, Hà Nội, 1984.

        8- Ngô Sĩ Liên

        Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch của Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1967.

        9- Ngô Thì Nhậm

        Tuyến tớp thơ văn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,

        10- Nguyễn Thu

        Lê quý kỷ sử, bản dịch của Hoa Bằng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974.

        11 - Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án

        Tạng thương ngẫu lục, bản dịch của Ngô Văn Triện, Nxb Văn học, Hà Nội, 1960.

        12- Phan Huy Chú

        Lịch triều hiến chương loại chí, bản dịch của Viện Sử học, Nxb Sử học, Hà Nội, 1961 - 1962.

        13- Phan Huy Lê, Phan Đại Doãn

        Khởi nghĩa Lơn Sơn và phong trào đấu tranh giải phóng đất nước vào đầu thế kỷ XV, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1969.

        14- Quốc sử quán triều Nguyễn

        - Quốc triều chính biên toát yếu, nhà in Đắc Lập, Huế, 1925.

        - Đại Nam thực lục, bản dịch của Viện Sử học, Nxb Sử học, Hà Nội , 1963 .

        - Việt sử thông giám cương mục, Nxb Sử học, Hà Nội, 1958 - 1960.

        15- Trần Trọng Kim

        Việt Nam sử lược, bản in lần thứ năm, Nxb Tân Việt Sài Gòn, 1954.

HẾT