Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: chuongxedap trong 02 Tháng Chín, 2016, 03:42:18 pm



Tiêu đề: Chiến thắng Điện Biên Phủ - Sự kiện - Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Chín, 2016, 03:42:18 pm
Tên sách: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Nhà xuất bản: Chính trị Quốc gia
Năm xuất bản: 2003
Số hoá: ptlinh, chuongxedap



Chỉ đạo nội dung.
Thượng tướng, GS. Hoàng Minh Thảo - Trịnh Thúc Huỳnh

Biên soạn
TS. Hoàng Phong Hà - Phạm Vũ Quỳnh
ThS. Nguyễn Khánh Hoà - Bùi Hồng Thuý - Nguyễn Kiều Anh
Nguyễn Kim Thoa - Lê Thanh Huyền
Đinh Mỹ Vân - ThS. Nguyễn Kim Nga

Với Sự cộng tác của:
TS. Nguyễn Đình Thực - Nguyễn Hải Bình
Đoàn Phương Như - Phạm Ngọc Khang




LỜI NHÀ XUẤT BẢN

Nửa thế kỷ đã trôi qua kể từ ngày lá cờ "Quyết chiến Quyết thắng" của Quân đội nhân dân Việt Nam tung bay trên nóc hầm Sở chỉ huy của tướng Đờ Cát, chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị của thực dân Pháp ở Đông Dương. Đó là một chiến thắng vĩ đại, là thành quả của cuộc đấu tranh anh dũng, kiên cường và bền bỉ của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Bác Hồ. "Tiếng sấm Điện Biên Phủ" đã làm "chấn động địa cầu", làm lung lay tận gốc rễ nền móng của chủ nghĩa thực dân cũ. Đó là sự cống hiến vô giá mà nhân dân ta, bằng cuộc đấu tranh anh dũng vô song của mình, đã đem lại cho sự nghiệp giải phóng dân tộc trên toàn thế giới. Điện Biên Phủ đã trở thành biểu tượng cho tinh thần và trí tuệ Việt Nam, trở thành niềm tự hào của người dân Việt Nam cũng như toàn thể nhân loại tiến bộ. Về ý nghĩa của sự kiện trọng đại này, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Đó là thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta, mà cũng là thắng lợi chung của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Chiến thắng Điện Biên Phủ càng làm sáng ngời chân lý của chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay: chiến tranh xâm lược của bọn đế quốc nhất định thất bại, cách mạng giải phóng của các dân tộc nhất định thành công"1.

Trong không khí tưng bừng kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (1954 - 2004), nhằm góp phần ôn lại truyển thống đấu tranh oanh liệt, hào hùng của dân tộc ta, đồng thời đáp ứng yêu cầu của đồng đảo bạn đọc tìm hiểu về chiến cục Đông Xuân 1953-1954 và chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản cuốn sách Chiến thắng Điện Biên Phủ - Sự kiện - Hỏi và Đáp, do tập thể các tác giả biên soạn dưới sự chỉ đạo của Thượng tướng, Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Hoàng Minh Thảo và Giám đốc - Tổng biên tập Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Trịnh Thúc Huỳnh.

Nội dung cuốn sách được trình bày dưới dạng các câu hỏi và trả lời ngắn gọn, súc tích và cô đọng về toàn bộ diễn biến của chiến cục Đông Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ cho tới khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết.

Nhân dịp này, Nhà xuất bản xin trân trọng cảm ơn Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đóng góp ý kiến và viết đề tựa cho cuốn sách.

Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc.

Tháng 3 năm 2004
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
__________________________________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.11. tr. 220.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Chín, 2016, 03:42:48 pm
(http://i255.photobucket.com/albums/hh125/chuongxedap/Qsu/2_zpsew75n8wo.jpg) (http://s255.photobucket.com/user/chuongxedap/media/Qsu/2_zpsew75n8wo.jpg.html)


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Chín, 2016, 03:45:18 pm

I
TÌNH HÌNH TA VÀ PHÁP TRƯỚC KHI BƯỚC VÀO ĐÔNG XUÂN 1953-1954

1. Tình hình về phía Pháp?

Cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương và Việt Nam lần thứ hai của Pháp đã bước sang năm thứ tám. Thực dân Pháp lâm vào tình thế hết sức khó khăn cả về kinh tế, chính trị và quân sự. Về kinh tế, chi phí chiến tranh quá lớn đã làm cho nền kinh tế Pháp bị lạm phát hơn 2.000 tỷ frăng, thâm hụt ngân sách lên đến 730 triệu frăng, hơn ba triệu người trong nước không có việc làm. Về chính trị, phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân Pháp đòi chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương diễn ra mạnh mẽ. Nội bộ chính quyền Pháp lục đục, mâu thuẫn và chia rẽ sâu sắc. Chỉ trong vòng tám năm, nước Pháp đã trải qua 19 đời thủ tướng. Về quân sự, Pháp thất bại liên tiếp trên các chiến trường Đông Dương. Tổng số quân Pháp trên toàn Đông Dương lên đến 450.000 tên, trong đó có 120.000 lính Âu-Phi. Tuy quân số tăng nhưng tinh thần chiến đấu giảm sút. Quân Pháp gặp phải rất nhiều khó khăn: không thích hợp với điều kiện sống và khí hậu ở chiến trường Đông Dương, không có đủ lực lượng cơ động mạnh để đối phó với lực lượng chủ lực đang không ngừng phát triển của ta. Đặc biệt, Pháp rất lúng túng và bị động trong việc giải quyết vấn đề giữa tập trung và phân tán lực lượng, giữa tiến công ra vùng tự do và phòng ngự ở vùng chúng kiểm soát, giữa tập trung binh lực ở miền Bắc và phân tán chiếm đóng ở miền Nam, giữa bảo vệ đồng bằng Bắc Bộ và bảo vệ Thượng Lào.

Mặc dù vậy, giới cầm quyền hiếu chiến ở Pháp vẫn hết sức ngoan cố. Để cứu vãn tình thế, chúng chủ trương tranh thủ thêm viện trợ của Mỹ, tập trung mọi cố gắng đẩy mạnh chiến tranh hòng tìm ra một lối thoát “danh dự” cho nước Pháp, nghĩa là “lối thoát trong thắng lợi”. Chính tình hình này đã dẫn tới việc tháng 5 năm 1953, với sự thoả thuận của Mỹ, Chính phủ Pháp cử Đại tướng Nava giữ chức Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương và tháng 7 năm 1953, Kế hoạch Nava đã được Hội đồng chính phủ và Hội đồng quốc phòng Pháp thông qua sau khi có sự nhất trí của Mỹ.

2. Tình hình về phía ta?

Sau tám năm tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ, lực lượng vũ trang nhân dân ta, nòng cốt của cuộc kháng chiến, không ngừng được tăng cường cả về số lượng và chất lượng. Lực lượng vũ trang ba thứ quân gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích lớn mạnh và trưởng thành về mọi mặt. Chiến thắng Biên giới năm 1950 và các chiến dịch quân sự của ta trên khắp các mặt trận trong cả nước giành được những thắng lợi to lớn, đưa cuộc kháng chiến của nhân dân ta phát triển lên một thời kỳ mới. Ta có thể tập trung được ưu thế binh lực với các đại đoàn và trung đoàn chủ lực mạnh, giữ vững thế chủ động chiến lược. Các khu căn cứ địa, vùng giải phóng của ta ngày càng được mở rộng và củng cố, tạo chỗ dựa vững chắc cho bộ đội ta tác chiến đánh địch. Việc thực hiện triệt để giảm tô và cải cách ruộng đất không chỉ mang lại ruộng đất và quyền lợi cho nông dân, mà còn nâng cao tinh thần phấn khởi, tin tưởng, ý chí quyết chiến quyết thắng của bộ đội ta, những người nông dân mặc áo lính, tăng cường củng cố khối đoàn kết liên minh công nông và khối đại đoàn kết toàn dân. Cùng với những thắng lợi to lớn ở trong nước, cuộc kháng chiến chính nghĩa của ta ngày càng giành được sự đồng tình và ủng hộ rộng rãi của nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa, nhân dân Pháp và nhân dân các nước thuộc địa của Pháp cũng như nhân dân yêu chuộng hoà bình trên toàn thế giới.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Chín, 2016, 03:48:53 pm

II
KẾ HOẠCH NAVA

3. Người đề xuất Kế hoạch Nava là ai?

Đó là Hăngri Nava, lúc đó là Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Nava sinh ngày 31 tháng 7 năm 1898 tại Aveyron, mẹ thuộc dòng dõi của Thống chế Muyara nổi tiếng dưới thời Napôlêông, bố là giáo sư chủ nhiệm khoa Văn trường Đại học Toulouse. Nava là một viên tướng được giới quân sự Pháp đánh giá là “đặc biệt tài ba”, “rất thông minh và sáng suốt”, người được coi là có “nhãn quan chiến lược”, “khả năng chịu đựng những đòn dữ dội và bất ngờ” và có “những đức tính riêng biệt của người chỉ huy quân sự và sự nhạy bén về chính trị”. Nava còn có một ưu thế đặc biệt quan trọng là ông ta đã quen làm việc với người Mỹ và được người Mỹ ưa chuộng.

4. Trước khi sang Việt Nam, Nava đã từng giữ những cương vị gì? Khi sang Việt Nam, ông ta có nhiệm vụ gì?

Năm 18 tuổi, Nava được vào học tại Trường quân sự Xanh Xia nổi tiếng thế giới. Năm 19 tuổi là sĩ quan tham gia chiến đấu trên mặt trận Pháp từ tháng 5 năm 1917 đến khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1918). Sau đó, Nava phục vụ ở Xyri (lúc đó đang là thuộc địa của Pháp) trong hai năm, chiến đấu chống lại cuộc nổi dậy của người Arập. Từ năm 1930 đến năm 1934, Nava tham gia bình định tại Marốc (thuộc địa của Pháp vào thời gian đó). Năm 1937, Nava làm việc ở Phòng quân báo và từ năm 1938 tới năm 1940 lãnh đạo phân ban Đức ở phòng này. Trong thời gian nước Pháp bị phátxít Đức chiếm đóng, Nava làm công tác tình báo cho lực lượng kháng chiến. Tháng 11 năm 1944, Nava là chỉ huy trưởng trung đoàn cơ giới trinh sát - trung đoàn Xpahi số 5, chỉ huy một khu vực ở Angiêri rồi làm việc tại Bộ tham mưu Pháp ở Đức và được đề bạt làm sư trưởng sư đoàn thiết giáp số 5 tại đây. Sau đó, Nava được phong chức Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh lục quân Trung Âu thuộc Khối quân sự Bắc Đại Tây Dương.

Ngày 18 tháng 5 năm 1953, Hăngri Nava rời Paris sang Việt Nam. Nhiệm vụ của ông ta là nghiên cứu tình hình Đông Dương trong vòng một tháng, sau đó quay về Paris đệ trình với Chính phủ Pháp một chương trình hành động cụ thể nhằm thay đổi tình hình ở Đông Dương, buộc đối phương phải chấp nhận giải pháp thương lượng theo những điều kiện mà phía Pháp có thể chấp nhận được.

5. Khi cử Nava sang Đông Dương, người Pháp hy vọng điều gì?

Khi bổ nhiệm Nava làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp tại Đông Dương, Chính phủ Pháp hy vọng Nava có thể làm thay đổi tình tình ở Đông Dương để chấm dứt cuộc chiến tranh trên thế mạnh, khi “tình hình quân sự cho phép một cuộc thương lượng có thể chấp nhận được” và “kết thúc chiến tranh bằng một lối thoát danh dự”, như tuyên bố của Thủ tướng Pháp Rơnê Mayê đưa ra vào ngày 7 tháng 5 năm 1953, ngày mà Nava được chỉ định là Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương.

6. Nava đã thể hiện sự lạc quan khi đảm nhận nhiệm vụ này như thế nào?

Chưa lường hết được những khó khăn mà mình sẽ phải đối mặt, Nava đã vui vẻ đảm nhận chức Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương với tâm trạng tràn đầy tin tưởng. Ông ta đã phát biểu: “Tôi có một vinh dự khủng khiếp khi được giao nhiệm vụ chỉ huy xứ Đông Dương. Tôi cam đoan sẽ tạo ra ở đó một khung cảnh mới”.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Chín, 2016, 03:51:28 pm

7. Khi sang khảo sát tình hình Đông Dương, Nava đã nói gì với các tư lệnh địa phương?

Ngày 16 tháng 6 năm 1953, phát biểu với các tư lệnh địa phương, Nava đã phác thảo những đường hướng cơ bản của chiến lược sắp tới để đối phó với Việt Minh. Ông ta cho rằng cần nhanh chóng củng cố lại quân đội viễn chinh; phải nâng cao được tinh thần chiến đấu của binh lính Pháp; cố gắng tránh đụng độ với các đơn vị chủ lực của đối phương; tiếp tục tiến hành “bình định” tại những vùng đất quân Pháp đang kiểm soát ở miền Bắc Việt Nam. Quân Pháp sẽ mở những đợt tiến công với quy mô vừa phải xuống vĩ tuyến 18 để loại trừ các đơn vị của đối phương ở Liên khu 5; tiến công vào các vựa lúa gạo, vào các kho dự trữ, và cuối cùng đánh vào các đơn vị chính quy chủ yếu của Việt Minh.

8. Kế hoạch Nava được trình bày khi nào và ở đâu?

Ngày 24 tháng 7 năm 1953, Nava đã trình bày kế hoạch của mình tại Hội đồng Quốc phòng Pháp do Tổng thống Pháp đứng đầu, gồm có: Thủ tướng Lanien, Phó Thủ tướng Râynô, Bộ trưởng Quốc phòng Plêven, Ngoại trưởng Biđôn, Quốc vụ khanh phụ trách vấn đề thuộc địa Giắckê và các Bộ trưởng Tài chính, Tư pháp, Lục quân, Hải quân, Không quân cùng tham mưu trưởng các quân chủng. Trong cuộc họp này, Hội đồng quốc phòng Pháp đã nhất trí phê chuẩn Kế hoạch Nava với tinh thần hết sức lạc quan. Phát biểu tại Quốc hội vào ngày 22 tháng 10 năm 1953, Thủ tướng Lanien tuyên bố: “Kế hoạch Nava chẳng những được Chính phủ Pháp mà cả những ngưòi bạn Mỹ cũng tán thành. Nó cho phép hy vọng đủ mọi điều.”

9. Nội dung chính của Kế hoạch Nava là gì?

Kế hoạch chiến lược của Nava1 dự kiến chia làm hai bước và hoàn thành trong 18 tháng. Hai bước đó là:
Bước 1 (trong chiến cục 1953-1954):

a. Phòng ngự chiến lược ở bắc vĩ tuyến 18, tránh tổng giao chiến với chủ lực đối phương.

b. Ngăn chặn đối phương tiến công vào đồng bằng Bắc Bộ, đồng thòi đẩy mạnh càn quét, bình định, giữ vững vùng đồng bằng có ích (delta utile), ngăn chặn đối phương tiến công Thượng Lào (Luông Phabăng, Cánh đồng Chum).

c. Tiến công chiến lược ở miền Nam, đánh vào các căn cứ đối phương, đánh chiếm vùng đồng bằng khu V và khu IX.

d. Xây dựng khối dự bị chiến lược lớn mạnh, chuẩn bị cho bước 2.

Bước 2 (từ mùa khô 1954 trở đi, tức là khi đã đạt được ưu thế về lực lượng cơ động chiến lược): Tiến công chiến lược ở phía bắc Đèo Ngang, tạo nên một hình thái quân sự cho phép đi đến một giải pháp chính trị có danh dự.

Biện pháp:

a. Tăng cường phát triển quân ngụy quy mô lớn, đủ sức đảm nhiệm chiếm đóng một số khu vực quân Pháp giao cho.

b. Rút lực lượng Âu - Phi, xây dựng lực lượng tổng dự bị chiến lược có chất lượng cao, mạnh hơn khối chủ lực đối phương.

c. Xin thêm viện binh từ Pháp sang (rút từ lực lượng Pháp trong khối NATO) để tăng cường cho khối dự bị chiến lược (lúc đầu dự định xin hai sư đoàn, sau giảm xuống 12 tiểu đoàn, vì chính quốc không đủ khả năng).

d. Xây dựng lực lượng biệt kích để quấy rối và phá hoại hậu phương đối phương và hoàn thành những nhiệm vụ đặc biệt mà các lực lượng khác không thể làm được.

e. Nới rộng quyền hành cho nguỵ quyền ba nước Đông Dương, vừa để dễ cầu viện Mỹ, vừa động viên người bản xứ dốc thêm sức vào chiến tranh.
_________________________________
1. Ban chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị, Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp: Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.445.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Chín, 2016, 03:54:30 pm

10. Nava đã đánh giá đối phương như thế nào?

Nava tỏ ra là một người khá đúng mực khi đánh giá đối phương. Nava cho rằng Việt Nam là một quốc gia rõ rệt, có chính quyền và ảnh hưởng lan vào cả vùng kiểm soát của quân đội viễn chinh; tại những vùng này, Việt Minh tuyển được người, thu được thuế, thực hiện được các chính sách của mình; từ năm 1945 đến nay, Việt Nam chỉ có một Chính phủ Hồ Chí Minh, chỉ có một tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, trong khi nước Pháp đã 19 lần thay chính phủ và bảy lần thay tổng chỉ huy.

Tuy nhiên, dù nhận thức rõ về sự khó khăn của quân đội viễn chinh cùng những thế mạnh của Việt Minh, cả Nava lẫn giới tướng lĩnh và nhà cầm quyền Pháp vẫn không tránh khỏi cách đánh giá thấp đối phương mà chính Nava đã từng phê phán. Trong thư gửi binh sĩ Pháp vào tháng 6 năm 1953, Nava viết: “Trong chiến tranh, đánh giá thấp đối phương là một sai lầm nặng, nhưng cũng thật ngờ nghệch nếu đánh giá quá cao đối phương. Tình hình thuận lợi cho chúng ta, chiến thắng là chắc chắn nhưng nó chỉ đến với ai biết nắm lấy nó.”

11. Thực hiện kế hoạch Nava, quân đội Pháp ở Đông Dương đã được tăng viện như thế nào?

Chỉ trong thời gian ngắn nửa cuối năm 1953, Pháp đã huy động được hàng chục vạn quân (480.000 người), trong đó có 12 tiểu đoàn được tăng cường từ Pháp, Bắc Phi và Triều Tiên, 7 tiểu đoàn rút từ Nà Sản về, cộng thêm 54 tiểu đoàn lính bản xứ được huy động trong các vùng tạm chiếm. Tổng số các đơn vị bộ binh lên đến 267 tiểu đoàn, trong đó có 84 tiểu đoàn cơ động chiến lược, 44 tiểu đoàn được ưu tiên cho chiến trường Bắc Bộ, trong đó phần lớn là những binh đoàn tinh nhuệ nhất. Với sự chi viện của Mỹ, trong tay Nava lúc này có tới 300 máy bay chiến đấu và máy bay vận tải quân sự.

12. Vai trò của Mỹ trong Kế hoạch Nava?

Mỹ là quốc gia viện trợ rất lớn cho Pháp trong cuộc chiến tranh Đông Dương. Như người Pháp nhận định, muốn giành được sự viện trợ của Mỹ thì không thể không để cho Mỹ kiểm soát công việc của mình. Kế hoạch Nava trên thực tế đã có sự “góp ý” kỹ càng của Mỹ. Ngay từ tháng 3 năm 1953, một phái đoàn Pháp do Thủ tướng Rơnê Mayê dẫn đầu đã sang Washington để họp bàn với Chính phủ Mỹ về chiến tranh Đông Dương. Chính phủ Mỹ được nghiên cứu rất kỹ lưỡng các kế hoạch quân sự do bộ chỉ huy tối cao quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương chuẩn bị. Bản thân Nava là một viên tướng thân Mỹ và Kế hoạch Nava đã được phê chuẩn chính thức sau khi có sự thăm dò ý kiến của Mỹ. Đánh giá kế hoạch này Ngoại trưởng Mỹ Đalét đã nói: “Kế hoạch Nava trong hai năm tới, nếu không phải là một thắng lợi hoàn toàn thì ít nhất cũng thu được kết quả nhất định về quân sự”.

13. Kết quả bước đầu triển khai thực hiện Kế hoạch Nava?

Triển khai Kế hoạch Nava, quân Pháp vừa khẩn trương xây dựng lực lượng, vừa tranh thủ tiến hành một loạt các cuộc hành quân càn quét lớn tại nhiều nơi, nhằm tiêu hao lực lượng ta, đồng thời cố gắng thăm dò ý định của quân ta, buộc ta phải bộc lộ ý đồ quân sự trong mùa khô 1953-1954. Các cuộc hành binh của Nava trong giai đoạn này bao gồm:

Cuộc hành binh “Chim nhạn” (Hirondelle) ngày 17 tháng 7 năm 1953, cho quân nhảy dù xuống Lạng Sơn, tập kích sâu vào hậu phương ta ở phía bắc.

Cuộc hành binh “Camácgơ” (Camargue), từ ngày 26 tháng 7 đến ngày 5 tháng 8 năm 1953, đánh vào Trị Thiên nhằm tiêu diệt Trung đoàn chủ lực 95 thuộc Sư đoàn 325.

Cuộc rút quân khỏi tập đoàn cứ điểm Nà Sản, từ ngày 8 đến ngày 12 tháng 8 năm 1953, để bổ sung lực lượng cho đồng bằng Bắc Bộ.

Cuộc hành binh “Hải Âu” (Mouette), từ ngày 15 tháng 10 đến ngày 6 tháng 11 năm 1953, đánh ra tây nam tỉnh Ninh Bình.

Cuộc hành binh “Con bồ nông” (Pélican), ngày 16 tháng 10 năm 1953, đổ bộ vào vùng biển Thanh Hóa.

Đầu tháng 11 năm 1953, Nava và Bộ chỉ huy Pháp còn rất chủ quan, cho rằng việc triển khai kế hoạch Nava đang trên đà tiến triển thuận lợi và kế hoạch tác chiến thu đông của Việt Minh bước đầu bị phá vỡ. Vì thế, một ngày sau khi chấm dứt cuộc hành binh Hải Âu (ngày 7 tháng 11 năm 1953), Nava đã gửi thư tới sĩ quan và binh lính Pháp, trong đó có đoạn viết: “Tôi có nói với các bạn rằng tôi sẽ nắm quyền chủ động bằng các cuộc hành quân lớn mà tôi sẽ phóng vào lúc và vào nơi mà tôi sẽ lựa chọn. Cuộc hành quân Hải Âu là đòn đầu tiên trong những đòn mà tôi có ý định đánh vào đối phương. Trong cuộc tấn công đó, chúng ta đã đạt được mục tiêu của chúng ta: lợi thời gian, chúng ta đã buộc Bộ Tư lệnh Việt Minh phải xét lại kế hoạch tiến công và sẽ phải sửa đổi lại tới một ngày mà họ mong có thể hoạt động mạnh mẽ. Chúng ta đã nắm quyền chủ động và chúng ta muốn giữ vững quyền đó...”1

Tuy nhiên, trừ cuộc nhảy dù chớp nhoáng xuống Lạng Sơn có gây cho ta một số thiệt hại nhất định về kho tàng, các cuộc hành binh còn lại đều không đạt được mục tiêu đề ra và bị tổn thất nặng về binh lực. Báo Le Monde của Pháp số ra ngày 27 tháng 10 năm 1953 nhận xét: “Cứ theo đà này thì số quân tăng viện (12 tiểu đoàn từ Pháp, Bắc Phi và Triều Tiên sang) chỉ đủ bù vào số quân bị tổn thất trong các cuộc hành binh”.

14. Vì sao ý tưởng về “quả đấm chiến lược” của Nava lại thất bại?

“Quả đấm chiến lược” là ý tưởng của Nava về việc tăng cường lực lượng cơ động để có thể nghiền nát quân ta. Chỉ trong vòng 10 tháng (từ tháng 5 năm 1953 tới tháng 3 năm 1954), số quân địch tăng gấp ba lần so với năm 1952 và bằng cả ba năm trước đó gộp lại, lực lượng cơ động chiến lược tăng lên đến 84 tiểu đoàn, gấp ba lần thời kỳ Đờ Lát đờ Tatxinhi.

Bị dồn vào thế bị động đối phó với quân ta, Nava đã phải điều lực lượng cơ động đi khắp nơi để chống lại các cuộc tiến công của ta. Kết quả là “quả đấm chiến lược” của Nava đã bị tách ra thành từng mảng, thành bàn tay xòe gồm những ngón tay riêng lẻ, buộc phải phân tán lực lượng và cuối cùng đã thất bại thảm hại.
_________________________________
1. Trích theo: Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (Bộ Quốc phòng), Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945- 1954, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t. 2, tr. 300.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Chín, 2016, 03:59:02 pm

III
KẾ HOẠCH ĐÔNG XUÂN 1953-1954

15. Bản đồ "bệnh sởi” là gì?

Đây là tên gọi một tấm bản đồ của quân Pháp, trên đó có đánh dấu những vùng mà Pháp hoặc Việt Minh đang kiểm soát và những vùng hai bên đang tranh chấp. Bước sang Đông Xuân 1953-1954, một hình thái chiến trường mới đã được xác lập tại Việt Nam. Ở Bắc Bộ, vùng tự do của ta bao gồm hầu hết các tỉnh miền núi rộng lớn ở Việt Bắc, Tây Bắc (trừ thị xã Lai Châu và Nà Sản vẫn do quân Pháp chiếm đóng) và tỉnh Hòa Bình; vùng bị tạm chiếm thu hẹp lại trong phạm vi các tỉnh trung du, đồng bằng và duyên hải Đông Bắc. Ngay trong vùng bị tạm chiếm cũng tồn tại các vùng tự do, khu và căn cứ du kích hoặc vùng tranh chấp. Thực trạng này được phản ánh trên bản đồ của quân Pháp, trong đó vùng trắng (do Pháp kiểm soát) chỉ chiếm gần một phần tư diện tích, vùng hồng (hai bên tranh chấp) chiếm khoảng một phần tư tới một phần ba diện tích, vùng đỏ (do ta làm chủ) chiếm một phần hai diện tích. Chính vì thế, quân Pháp đã gọi tấm bản đồ này là “bản đồ bệnh sởi”.

16. Kế hoạch Đông - Xuân 1953-1954 được đề ra ở đâu?

Cuối tháng 9 năm 1953, tại bản Tỉn Keo thôn Lục Giã nằm dưới chân núi Hồng, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên thuộc căn cứ địa Việt Bắc, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp bàn về nhiệm vụ quân sự Đông - Xuân 1953-1954. Hội nghị này do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì, với sự có mặt của các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp. Hội nghị triệu tập thêm đồng chí Hoàng Văn Thái tham dự.1

17. Phương án tác chiến của ta trong Kế hoạch Đông-Xuân là gì?

Trong cuộc họp bàn Kế hoạch Đông - Xuân, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã thay mặt Tổng quân ủy trình bày phương án tác chiến do Bộ Tổng tham mưu chuẩn bị. Trên cơ sở nắm rõ ý đồ và chiến lược của Kế hoạch Nava, để giữ vững và phát huy quyền chủ động, ta sẽ dùng một bộ phận quân chủ lực, kết hợp với lực lượng địa phương, mở các cuộc tiến công vào những hướng chiến lược hiểm yếu mà địch tương đối yếu, nhằm tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng đất đai, buộc địch phân tán quân cơ động để đối phó; tiếp tục khoét sâu mâu thuẫn cơ bản giữa tập trung và phân tán binh lực của địch, tạo nên thế trận mới, thời cơ mới; theo dõi sát tình hình để khi thời cơ xuất hiện, sẽ nhanh chóng tập trung lực lượng, tập trung chủ lực, tiêu diệt bộ phận quan trọng sinh lực của địch, làm chuyển biến cục diện chiến tranh.

Ta dự kiến sẽ đưa một số đơn vị chủ lực lên hoạt động ở Tây Bắc, đề nghị các bạn Lào phối hợp với bộ đội tình nguyện Việt Nam tăng cường hoạt động tại những chiến trường địch sơ hở để buộc chúng phải phân tán lực lượng đối phó. Trong khi đó, ta sẽ đẩy mạnh chiến tranh du kích trên các chiến trường địch hậu Bắc - Trung - Nam, đặc biệt là đồng bằng Bắc Bộ, đồng thời có kế hoạch bảo vệ vùng tự đo, giấu một số đơn vị chủ lực mạnh tại những địa bàn cơ động để sẵn sàng tiêu diệt địch khi chúng đánh ra. Tuy nhiên, vì còn phải tiếp tục nghiên cứu để nắm chắc âm mưu mới của địch nên phương châm chỉ đạo chiến lược là phải cơ động, linh hoạt.

Sau khi nghe Tổng quân ủy trình bày phương án tác chiến, Bộ Chính trị đã góp nhiều ý kiến quan trọng thông qua đề án và nêu rõ những nguyên tắc về chỉ đạo chiến lược và chỉ đạo tác chiến là:

Tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta.
Đánh ăn chắc, đánh chắc thắng, đánh tiêu diệt.
Chọn nơi địch sơ hở mà đánh, chọn nơi địch tương đối yếu mà đánh
Giữ vững chủ động, kiên quyết buộc địch phải phân tán.
Bộ Chính trị đặc biệt nhấn mạnh phương châm “tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt”.

Khái quát Kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953- 1954 của ta, Bác Hồ đã diễn tả bằng cử chỉ hết sức đơn giản và dễ hiểu: “Bàn tay Bác đặt trên bàn, bỗng giơ lên và nắm lại. Người nói: “Địch tập trung quân cơ động để tạo nên sức mạnh... Không sợ! Ta buộc chúng phải phân tán binh lực thì sức mạnh đó không còn”. Bàn tay Bác mở ra, mỗi ngón trỏ về một hướng.”2
___________________________________
1. Nguyên là Tổng tham mưu phó Quân đội nhân dân Việt Nam, Tham mưu trưởng Chiến dịch Điện Biên Phủ.
2. Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Điện Biên Phủ, điểm hẹn lịch sử, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000, tr.26.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Chín, 2016, 04:03:16 pm

18. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉ đạo kháng chiến và chính sách quân sự của ta?

Ngày 25 tháng 1 năm 1953, trong báo cáo trước Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa II, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ những việc ta cần phải làm để chỉ đạo kháng chiến và chính sách quân sự.

“1. Tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu để phân tán lực lượng địch và tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng vùng tự do.

Đó là phương hướng chiến lược của ta hiện nay.

2. Bộ đội chủ lực ở chiến trường Bắc Bộ thì phải dùng vận động chiến linh hoạt để tiêu diệt từng mảng sinh lực địch, làm cho địch yếu đi, phối hợp với công kiên chiến từng bộ phận, để tranh lấy những cứ điểm và thị trấn nhỏ ở đó địch sơ hở, yếu ớt. Làm như vậy để đạt mục đích đánh chắc, ăn chắc, mở rộng vùng tự do. Đồng thời có thể dùng công kiên chiến hút lực lượng của địch đến mà đánh, phân tán lực lượng địch, làm rối loạn kế hoạch của địch và tạo điều kiện cho vận động chiến.

3. Chiến trường sau lưng địch phải mở rộng du kích chiến để tiêu diệt và tiêu hao những bộ phận nhỏ của địch; để chống địch càn quét, bảo vệ tính mạng, tài sản cho dân; để khuấy rối, phá hoại, kiềm chế địch, tuyên truyền và giáo dục quần chúng những vùng đó, thu hẹp nguồn ngụy binh của địch, mở rộng vùng du kích và căn cứ du kích của ta, đặng thành lập và củng cố những căn cứ kháng chiến sau lưng địch.

4. Ngoài việc tăng cường bộ đội chủ lực và xây dựng bộ đội địa phương, vùng tự do và những căn cứ du kích khá to cần phải xây dựng những tổ chức dân quân, du kích không thoát ly sản xuất. Những tổ chức dân quân, du kích ấy chẳng những có thể phụ trách việc đàn áp bọn phản cách mạng, giữ gìn trị an trong làng xã, bảo vệ lợi ích của quần chúng, đấu tranh với địch và phối hợp tác chiến với bộ đội chủ lực, mà lại có thể dùng để bổ sung bộ đội chủ lực.

5. Về việc chỉ đạo quân sự cần phải kết hợp những hình thức đấu tranh nói trên một cách linh hoạt, khôn khéo. Như thế, một mặt lợi cho bộ đội chủ lực có thể tìm nhiều cơ hội để tiêu diệt địch; một mặt khác có thể giúp bộ đội, du kích hoạt động và giúp căn cứ du kích của ta sau lưng địch phát triển và củng cố.

6. Trong sự chỉ đạo các hình thức đấu tranh nói trên, cần phải thiết thực nhận rõ tính chất trường kỳ của kháng chiến. Cho nên, phải rất chú ý giữ gìn sức chiến đấu nhất định của bộ đội, không nên làm cho bộ đội hao mòn, mệt mỏi quá. Đồng thời, cần phải yêu cầu bộ đội chịu khó, chịu khổ, kiên quyết, gan dạ thi đua diệt địch lập công. Hai điều đó không trái nhau, mà kết hợp với nhau.

7. Tăng cường công tác chính trị, luôn nâng cao trình độ chính tri và giác ngộ giai cấp của bộ đội ta; phải bảo đảm sự chấp hành chính sách của Đảng và Chính phủ; phải triệt để giữ gìn kỷ luật tự giác về mặt quân sự và về mặt chính trị. Vì vậy, cần phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong quân đội và thực hiện dân chủ trong bộ đội.

8. Phải tăng cường công tác quân sự, trước hết là phải luôn luôn xem trọng việc huấn luyện bộ đội. Phải ra sức bồi dưỡng cán bộ, phải rèn luyện tư tưởng, nâng cao trình độ giác ngộ chính trị, cũng như trình độ chiến thuật và kỹ thuật của cán bộ. Đó là khâu chính trong các thứ công tác.

Phải tăng cường công tác của Bộ Tổng tham mưu và của Tổng cục cung cấp. Công tác Bộ Tổng tham mưu phải tăng cường mới có thể nâng cao chiến thuật và kỹ thuật của bộ đội. Công tác của Tổng cục cung cấp phải tăng cường thì mới có thể bảo đảm được sự cung cấp đầy đủ cho chiến tranh và nâng cao sức chiến đấu của bộ đội.

Nhưng phải kiên quyết phản đối xu hướng sai lầm làm cho các cơ quan phình lên.

9. Phải có kế hoạch chung về việc xây dựng và bổ sung bộ đội. Ngoài việc động viên thanh niên ở vùng tự do tòng quân, cần phải rất chú ý tranh thủ và cải tạo ngụy binh đã đầu hàng ta để bổ sung cho bộ đội ta. Tổ chức bộ đội mới thì không nên hoàn toàn dùng cán bộ mới và binh sĩ mới, mà nên dùng cách lấy bộ đội cũ làm nền tảng để mở rộng bộ đội mới. Đồng thời, cũng không nên vét sạch bộ đội du kích để bổ sung cho bộ đội chủ lực.

10. Cần phải tăng cường và cải thiện dần dần việc trang bị cho bộ đội, nhất là xây dựng pháo binh"1
_______________________________________
1. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.7, tr. 13 - 14.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Chín, 2016, 04:05:02 pm

19 Nội dung kế hoạch tác chiến cụ thể của ta trên các chiến trường?

Trên chiến trường miền Bắc:

Sử dụng một bộ phận chủ lực mở cuộc tiến công lên hướng Tây Bắc, tiêu diệt địch chiếm đóng ở Lai Châu, giải phóng hoàn toàn khu Tây Bắc. Ta sẽ bố trí một bộ phận quan trọng quân chủ lực để sẵn sàng tăng viện trong trường hợp địch đưa quân thêm lên Tây Bắc nhằm đối phó với cuộc tiến công của ta.

Đề nghị các bạn Lào phối hợp với các đơn vị tình nguyện Việt Nam tiến công vào Trung Lào, tiêu diệt sinh lực địch và mở rộng vùng giải phóng.

Tại đồng bằng, đẩy mạnh chiến tranh du kích sau lưng địch, củng cố và phát triển các căn cứ du kích, tích cực phối hợp với các cuộc tiến công trên. Nếu địch đánh ra vùng tự do thì đánh tiêu hao và tranh thủ tiêu diệt một bộ phận sinh lực của chúng.

Trên chiến trường miền Nam:

Tập trung phần lớn chủ lực của Liên khu 5 mở cuộc tiến công vào vùng rừng núi bắc Tây Nguyên để vừa tiêu diệt sinh lực địch, vừa bảo vệ vùng tự do Liên khu 5 một cách hiệu quả.

Đối với chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, nhiệm vụ là đẩy manh chiến tranh du kích, vừa kìm chân địch vừa tranh thủ tiêu diệt sinh lực địch, trong khi chúng đang phải điều quân cơ động đi nơi khác.

Sau khi đề ra kế hoạch tác chiến trên các chiến trường, ta còn dự kiến tình huống có thể xảy ra khi địch tăng viện lên Tây Bắc để đối phó với cuộc tấn công của ta. Trong trường hợp đó, sẽ xảy ra một trận công kiên lớn. Nếu địch đánh sâu vào một hướng nào đó ở căn cứ địa Việt Bắc nhằm buộc chủ lực của ta ở Tây Bắc phải rút về thì ta sẽ tìm cách dụ địch vào sâu và sử dụng một bộ phận bộ đội chủ lực để tiêu diệt chúng. Tại Liên khu 5, trong khi đánh lên Tây Nguyên, có thể chúng ta cũng sẽ phải đối mặt với vấn đề tương tự như ở Bắc Bộ: địch có thể đánh vào vùng tự do. Trong trường hợp đó, nhiệm vụ phát triển lên Tây Nguyên vẫn là nhiệm vụ hàng đầu, việc bảo vệ và củng cố vùng tự do chủ yếu giao cho lực lượng vũ trang địa phương cùng nhân dân đảm nhiệm.

20. Trước khi bước vào Đông-Xuân 1953- 1954, để nâng cao chất lượng của lực lượng vũ trang, chúng ta đã thực hiện biện pháp gì?

Mở lớp chỉnh quân chính trị cho cán bộ trung, cao cấp khai mạc vào ngày 23 tháng 6 năm 1953 tại Việt Bắc do Tổng quân ủy trực tiếp phụ trách. Phương châm chung của đợt học tập này là nghiêm túc, thận trọng, lấy giáo dục làm chính, kết hợp với việc kiểm tra, điều chỉnh có trọng điểm. Mục đích của đợt học tập này là nâng cao lên một bước mới tinh thần quyết chiến quyết thắng và trình độ giác ngộ giai cấp của bộ đội, củng cố quân đội ta thêm vững vàng về chính trị, tư tưởng, chặt chẽ về tổ chức để hoàn thành nhiệm vụ quân sự mới.

Trên cơ sở thắng lợi của chỉnh quân chính trị, tháng 9 năm 1953, phong trào học tập quân sự cũng được phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng lẫn chiều sâu Các đơn vị bộ đội chủ lực được huấn luyện đánh vận động, đánh các công sự vững chắc, đặc biệt chú trọng cách đánh tập đoàn cứ điểm.

21. Thành công bước đầu trong Kế hoạch Đông-Xuân của ta là gì?

Ta đã làm cho kế hoạch quân sự của địch bị đảo lộn. Trong kế hoạch của mình, Nava dự định tránh quyết chiến ở miền Bắc, thực hiện tiến công chiến lược ở miền Nam nhằm chiếm đóng các vùng tự do còn lại, sau đó mới tập trung toàn bộ lực lượng để quyết chiến với chủ lực của ta trên chiến trường miền Bắc. Tuy nhiên, ta mới tiến quân, chưa đánh mà kế hoạch của địch đã phải thay đổi. Nava tiếp nhận quyết chiến với ta ở Điện Biên Phủ, ngoài dự kiến ban đầu trong kế hoạch.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Chín, 2016, 04:06:32 pm

IV
CHIẾN THẮNG ĐÔNG XUÂN 1953-1954

22. Những đơn vị nào ra quân đầu tiên trong cuộc tiến công Đông Xuân 1953-1954?

Theo hướng chiến lược đã lựa chọn: phía Tây, Đại đoàn 316 tiến lên Tây Bắc; Trung đoàn 101 (Đại đoàn 325) được tăng cường Tiểu đoàn 274 (Trung đoàn 18 Đại đoàn 325) và Trung đoàn 66 (Đại đoàn 304) tiến sang Trung Lào và Hạ Lào.

23. Để đối phó với các cuộc tiến công của ta, địch đã mở những chiến dịch nào?

a. Cuộc hành quân Caxtô, diễn ra trong ba ngày: 20, 21 và 22 tháng 11 năm 1953. Tham gia cuộc hành quân này có 6 tiểu đoàn (4.500 quân) do Tướng Gilles chỉ huy. Đội quân này đã nhảy dù xuống chiếm đóng Điện Biên Phủ nhằm ngăn chặn đường tiến quân của ta.

b. Chiến dịch Ácđétsơ được mở vào ngày 25 tháng 11 năm 1953, địch huy động 6 tiểu đoàn tham gia đánh chiếm Mường Ngòi, Mường Khoa, xây dựng phòng tuyến sông Nậm Hu để nối liền Thượng Lào với Điện Biên Phủ.

24. Trước việc địch nhảy dù chiếm đóng Điện Biên Phủ, kế hoạch tiến công của ta đã có thay đổi gì?

Trước diễn biến mới của tình hình, ta nhận định rằng địch đang bị động để đối phó, phải phân tán một bộ phận lực lượng cơ động lên Điện Biên Phủ. Trong trường hợp bị ta uy hiếp mạnh, chúng có thể sẽ co về Lai Châu hoặc Điện Biên Phủ và tăng viện nhiều để xây dựng thành một tập đoàn cứ điểm (nếu xảy ra điều này thì có khả năng chúng sẽ chọn Điện Biên Phủ làm nơi thiết lập trận địa) hoặc rút lui. Tuy nhiên, cho dù tình hình địch có thay đổi như thế nào, việc chúng nhảy dù xuống Điện Biên Phủ cơ bản là có lợi cho ta. Nó bộc lộ mâu thuẫn của địch giữa chiếm đóng đất đai với tập trung lực lượng, giữa chiếm đóng chiến trường rừng núi với củng cố chiến trường đồng bằng.

Từ nhận định trên, ta lệnh cho các đơn vị chủ lực đang tiến quân lên Tây Bắc gấp rút tiến công tiêu diệt địch ở Lai Châu, đồng thời cho một cánh quân tiến hành cắt đường rút lui của địch ở Lai Châu về phía Điện Biên Phủ, kiên quyết không cho lực lượng địch ở Điện Biên Phủ tiến lên đón chúng; đồng thời tiến hành bao vây chặt Điện Biên Phủ.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Chín, 2016, 04:07:51 pm

25. Cuộc tiến công mở màn chiến cục Đông Xuân diễn ra như thế nào?

Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân mở màn bằng việc ta đánh địch ở Lai Châu ngày 10 tháng 12 năm 1953.

Ngày 7 tháng 12 năm 1953, địch bắt đầu rút khỏi Lai Châu để về Điện Biên Phủ. Ta lập tức điều một bộ phận của Đại đoàn 316 nhanh chóng theo đường 41 đánh thẳng vào thị xã Lai Châu, đại bộ phận lực lượng còn lại của đại đoàn tập trung cắt đứt con đường Lai Châu - Điện Biên Phủ, không cho địch rút về Điện Biên Phủ, đồng thời không cho quân địch ở Điện Biên Phủ rút chạy.

Ngày 10 tháng 12 năm 1953, ta tiêu diệt đồn Pa Ham, một vị trí tiền tiêu của địch cách Lai Châu khoảng 30 km. Ngày 12 tháng 12 năm 1953, quân ta tiến vào giải phóng thị xã Lai Châu.

Sau hơn mười ngày đêm chiến đấu, truy kích, bao vây và tiêu diệt địch, quân ta đã tiêu diệt và bức hàng 24 đại đội địch, giải phóng toàn bộ Lai Châu, đập tan kế hoạch lấy quân ở Lai Châu để tăng cường cho Điện Biên Phủ của địch, đồng thời uy hiếp Điện Biên Phủ từ phía bắc. Để tránh nguy cơ bị tiêu diệt, Nava buộc phải điều thêm 6 tiểu đoàn quân cơ động từ đồng bằng Bắc Bộ lên tăng cường cho Điện Biên Phủ. Tới thời điểm này, sau đồng bằng Bắc Bộ, Điện Biên Phủ đã trở thành nơi tập trung binh lực thứ hai của địch.

26. Cuộc tiến công ở Trung Lào diễn ra như thế nào?

Đêm 21 tháng 12 năm 1953, Tiểu đoàn 274 và 328 (Đại đoàn 325) bất ngờ tập kích đồn Khăm He, nhanh chóng tiêu diệt toàn bộ tiểu đoàn lính Âu - Phi và một đại đội pháo binh địch. Ngày 22 tháng 12 năm 1953, Trung đoàn 66 (Đại đoàn 304) tấn công Mụ Giạ, Ba Na Phào. Quân địch rút chạy bằng cơ giới. Tiểu đoàn 782 của ta đuổi theo, vượt qua sông Sê Bang Phai đón đánh địch và tiêu diệt gọn Tiểu đoàn số 2 bộ binh của địch, bắt sống 460 tên ở Pa Cuội. Trong ba ngày, ba tiểu đoàn lính Âu - Phi cơ động và một tiểu đoàn pháo binh gồm 2.200 tên đã bị tiêu diệt.

Ngày 25 tháng 12 năm 1953, Liên quân Lào - Việt đã tiến đến sông Mê Công, giải phóng thị xã Thà Khẹt.

Sau đó, Trung đoàn 66 tiếp tục tiến công tiêu diệt địch ở Hìn Xìu, Đồng Hến, Pha Lan, Mường Phìn, cắt đường số 9 và giải phóng miền Đông Xavanakhet, đồng thời phối hợp với Trung đoàn 101 và Quân giải phóng Pathet Lào giải phóng phần lớn vùng Trung Lào.

Để đối phó, địch đã phải gấp rút điều động nhiều đơn vị cơ động từ đồng bằng Bắc Bộ và các chiến trường khác lên cứu nguy, tổ chức Xavanakhet thành một tập đoàn cứ điểm mới.

27. Cuộc tiến công ở Hạ Lào và Campuchia diễn ra như thế nào?

Phát huy thắng lợi ở Trung Lào, Tiểu đoàn 436 (Trung đoàn 101) cấp tốc tiến quân xuống Hạ Lào. Ngày 31 tháng 1 năm 1954, Tiểu đoàn 436 cùng các bạn Lào bất ngờ tập kích thị xã Atôpơ, tiêu diệt một tiểu đoàn địch. Sau đó, tiểu đoàn tiến sang Xaravan, giải phóng toàn bộ cao nguyên Bôlôven.

Quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với lực lượng cách mạng Campuchia giải phóng phần lớn tỉnh Công Pông Chàm, tiến sát xuống sông Sơ Lông. Miền Đông và Đông Bắc Campuchia đã được nối liền với vùng giải phóng Hạ Lào và Trung Lào.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Chín, 2016, 10:48:23 pm

28. Cuộc tiến công ở Tây Nguyên diễn ra như thế nào?

Trên mặt trận Tây Nguyên, ta chọn hướng chính là ở đông bắc Kon Tum, hướng phụ trên đường số 19. Chiến dịch mở màn vào lúc 23 giờ 30 ngày 26 tháng 1 năm 1954, quân ta cùng một lúc tiến đánh ba cứ điểm Măng Đen, Công Bray, Măng Bút. Ta đã tiêu diệt hoàn toàn tiểu khu Măng Đen, Đắc Tô, tiến tới giải phóng hoàn toàn Kon Tum vào ngày 5 tháng 2 năm 1954, quét sạch quân địch ở bắc Tây Nguyên, tiến xuống phía nam, sát đường số 19. Cũng trong thời gian đó, ta tập kích vào thị xã Plâyku. Địch lúng túng, phải dừng cuộc tiến công của chúng ở đồng bằng Liên khu 5, điều động nhiều đơn vị ở các nơi khác lên tăng cường cho thị xã Plâyku và một số cứ điểm nam Tây Nguyên.

Chiến thắng Kon Tum là một thắng lợi lớn của ta trong Đông Xuân 1953-1954, phá vỡ thế uy hiếp của địch đối với phía sau lưng Quảng Nam, Quảng Ngãi, giải phóng một địa bàn chiến lược quan trọng ở bắc Tây Nguyên, bảo vệ được vùng tự do Phú Yên - Bình Định. Vùng tự do của ta từ ven biển Quảng Nam, Quảng Ngãi tới biên giới Việt - Lào đã được nối liền với vùng giải phóng tây nam Bôlôven của nước bạn.

29. Cuộc tiến công ở Thượng Lào diễn ra như thế nào?

Để đánh lạc hướng phán đoán của địch, cô lập tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tiêu diệt thêm sinh lực địch, quân ta và các bạn Lào mở cuộc tấn công vào phòng tuyến sông Nậm Hu, Thượng Lào.

Ngày 26 tháng 1 năm 1954, quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với các lực lượng của Lào tiến công vào Mường Khoa, tiêu diệt một tiểu đoàn lính Âu - Phi ở đó, sau đó thừa thắng tiến công, quét sạch quân địch ở lưu vực sông Nậm Hu, tiến đến sát Luông Phabăng. Phòng tuyến Nậm Hu - con đường liên lạc chiến lược của Pháp đã bị phá vỡ, Luông Phabăng bị uy hiếp.

Trong khi đó, một bộ phận liên quân Lào - Việt đã tiến lên phía Bắc, giải phóng hoàn toàn tỉnh Phong Xa Lỳ, mở rộng thêm căn cứ kháng chiến, nối liền khu giải phóng Sầm Nưa với khu Tây Bắc của ta.

30. Hoạt động của ta ở chiến trường sau lưng địch được đẩy mạnh như thế nào?

Phối hợp với chiến trường chính, ở các mặt trận sau lưng địch, quân ta đã liên tục tiến công, làm tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, mở rộng thêm nhiều căn cứ du kích, khiến quân địch phải căng mỏng lực lượng ra khắp nơi, phân tán khối chủ lực cơ động của chúng, tạo điều kiện cho chiến trường chính hoàn thành mọi công tác chuẩn bị, tiến tới tiêu diệt toàn bộ quân địch trong trận quyết chiến ở Điện Biên Phủ.

a. Tại đồng bằng Bắc Bộ

Bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương của ta đã tiêu diệt một loạt các vị trí quan trọng của địch như Hoàng Đan (Hà Nam), La Tiến (Thái Bình), Dị Sử, Nghĩa Lộ (Hưng Yên), quận Từ Sơn (Bắc Ninh). Địch buộc phải rút khỏi nhiều vị trí quan trọng ở các tỉnh Bắc Giang, Thái Bình, Hải Dương, Hà Đông và Sơn Tây. Quân ta tiến hành nhiều trận tập kích, phục kích, tiêu diệt từng đại đội, có khi từng tiểu đoàn địch. Đường số 5 - con đường chiến lược huyết mạch của địch - bị uy hiếp nghiêm trọng, có khi bị cắt đứt hàng tuần. Trong hai ngày 7 và 8 tháng 3 năm 1954, quân ta tập kích sân bay Cát Bi (Hải Phòng) và Gia Lâm (Hà Nội), phá huỷ 78 máy bay địch. Chiến tranh du kích phát triển mạnh, các vùng căn cứ du kích và khu du kích được mở rộng thêm rất nhiều, chiếm ba phần tư đất đai của vùng địch tạm kiểm soát.

b. Chiến trường Bình - Trị - Thiên

Quân ta tổ chức nhiều cuộc tiến công trên các tuyến đường giao thông, đánh đổ nhiều đoàn tàu của địch, phá các cuộc càn quét của địch, mở rộng các căn cứ du kích. Từ ngày 20 tháng 1 đến ngày 20 tháng 2 năm 1954, quân ta đã phá huỷ 17 cầu, 18 cống trên đường số 9 từ Đông Hà lên Rào Quán, tiêu diệt và bức rút sáu vị trí, giải phóng hoàn toàn huyện Hướng Hoá. Tại Triệu Quang, du kích và bộ đội địa phương đã chống càn thắng lợi, giữ vững và mở rộng được vùng căn cứ ở Thừa Thiên, tập kích vào vị trí An Hoá, tiêu diệt nhiều lực lượng địch...

c. Cực Nam Trung Bộ

Đây là nơi hoạt động du kích phát triển mạnh. Quân ta tiến hành bao vây tiêu diệt nhiều vị trí của địch, giải phóng từng vùng rộng lớn như Điện Bàn (Quảng Nam), vùng Hòn Khói và Tây Bắc Khánh Hoà, huyện Tánh Linh và Lương Sơn (Bình Thuận)...

d. Nam Bộ

Do địch gặp nhiều khó khăn, phải điều quân đi nhiều nơi để đối phó với ta, nên chiến tranh du kích ở Nam Bộ có đà phát triển mạnh mẽ, thu được nhiều thắng lợi. Ta đã tiêu diệt hoặc bức rút trên 1.000 đồn bốt, tháp canh của địch. Vùng tự do Khu 9 được giữ vững và mở rộng. Các căn cứ du kích của ta cũng được mở rộng rất nhiều.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Chín, 2016, 10:52:15 pm

V
DIỄN BIẾN CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ

31. Vì sao Điện Biên Phủ lại trở thành điểm quyết chiến chiến lược giữa ta và Pháp?

Cuối tháng 9 năm 1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta đã họp bàn chủ trương tác chiến Đông Xuân 1953-1954. Sau khi phân tích tình hình, ta chủ trương chưa tập trung đánh địch ở đồng bằng, mà trước hết cần phá được âm mưu tập trung lực lượng của địch bằng cách đưa quân chủ lực lên Tây Bắc, buộc địch phải phân tán lực lượng để đối phó.

Tháng 11 năm 1953, Đại đoàn 316 của ta gấp rút hành quân lên Tây Bắc, mở chiến dịch giải phóng Lai Châu. Nhận được tin này, Nava cho rằng hướng tấn công chủ yếu của Việt Minh không phải là đồng bằng Bắc Bộ như ông ta phán đoán mà có thể chính là Tây Bắc, như vậy cả Thượng Lào và Luông Phabăng đều bị uy hiếp. Do đó, Nava đã quyết định đánh chiếm Điện Biên Phủ để ngăn Việt Minh đánh Lai Châu, từ đó có thể bảo vệ Thượng Lào và Luông Phabăng.

Ngày 20 tháng 11 năm 1953, địch đã mở cuộc hành binh Caxtô, cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ. Lúc này, Nava vẫn coi đây chỉ là “cuộc hành binh thứ yếu có tính chất phòng vệ chiến lược và tính chất chính trị địa phương”, chứ chưa có ý định lấy Điện Biên Phủ làm điểm quyết chiến chiến lược.

Đến khi Đại đoàn 316 tiêu diệt và bức hàng 24 đại đội địch, giải phóng toàn bộ khu vực Lai Châu, uy hiếp Điện Biên Phủ từ phía Bắc, Nava mới chợt nghĩ đến một kiểu phòng ngự kinh điển quân sự: Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, thành phố Vécđông (Verdun) bên bờ sông Mơ (Meuse) đã trở thành nổi tiếng khi quân đội Pháp, bằng hệ thống phòng ngự vững chắc, trong 10 tháng trời kiên cường chiến đấu đã tiêu diệt nhiều đạo quân và đẩy lùi tất cả các đợt tấn công của quân Đức. Tại Điện Biên Phủ, Nava muốn đặt một “cái bẫy” bằng một “con nhím khổng lồ” như một cái “máy nghiền” để nghiền nát quân chủ lực Việt Minh.

Đầu tháng 12 năm 1953, Nava đã quyết định giao chiến với ta ở Điện Biên Phủ vì cho rằng quân ta chưa đủ khả năng đánh một tập đoàn cứ điểm, hơn nữa do đường sá và phương tiện giao thông kém nên không thể chuyên chở vũ khí hạng nặng ra chiến trường cũng như khó bảo đảm việc tiếp tế. Nava đã quyết tâm xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm lớn với hy vọng nghiền nát bộ đội chủ lực của ta.

Ngày 6 tháng 12 năm 1953, sau khi nghe báo cáo của Tổng quân uỷ về phương án tác chiến tại Điện Biên Phủ, trên cơ sở những nhận định: “...trước sự uy hiếp của ta (ở Tây Bắc), địch đã phải bị động đối phó, phân tán một bộ phận lực lượng cơ động lên Điện Biên Phủ để yểm hộ cho Tây Bắc, để che chở cho Thượng Lào, để phá kế hoạch tiến công của ta”... “Vô luận rồi đây địch thay đổi thế nào, địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ căn bản là có lợi cho ta”1, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta đã nhất trí mở chiến dịch Điện Biên Phủ và thông qua phương án tác chiến của Tổng quân uỷ.

Như vậy, việc Điện Biên Phủ trở thành điểm quyết chiến chiến lược hoàn toàn nằm ngoài Kế hoạch Nava.

32. Phía Pháp đánh giá tầm quan trọng của Điện Biên Phủ như thế nào?

Theo Nava và nhiều nhà quân sự Pháp, Mỹ, Điện Biên Phủ  có một vị trí chiến lược hết sức quan trọng đối với Đông Dương nói riêng và Đông Nam Á nói chung. Điện Biên Phủ là một “ngã tư chiến lược”, là một “chiếc bàn xoay” có thể xoay tứ phía Việt Nam - Lào - Đông Bắc Thái Lan - Đông Mianma và cả đến Vân Nam Trung Quốc. Điện Biên Phủ được coi là một chiếc “chìa khoá” quan trọng để bảo vệ Thượng Lào và tạo ra bàn đạp để đánh chiếm các vùng đã mất ở Tây Bắc. Nava và các nhà quân sự Pháp, Mỹ còn hy vọng Điện Biên Phủ sẽ được xây dựng thành một tập đoàn cứ điểm hùng mạnh, là nơi đọ sức và có thể tiêu diệt chủ lực của Việt Minh.
________________________________
1. Báo cáo kết luận của Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong “Hội nghị cán bộ chiến dịch Đông Xuân” ngày 23 tháng 11 năm 1953.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Chín, 2016, 10:53:28 pm

33. Nava đã nhận định về khó khăn mà quân Pháp và Việt Minh sẽ gặp phải ở Điện Biên Phủ như thế nào?

Về phía Pháp, Nava cho rằng khó khăn lớn nhất là việc tiếp tế. Nhưng ông ta hoàn toàn tin rằng khó khăn này có thể dễ dàng khắc phục được bằng cách tiếp tế theo đường hàng không. Ở Điện Biên Phủ đã có sẵn một sân bay cũ còn tốt, máy bay có thể hạ cánh bốn mùa, khả năng hạ cánh 100 lần và thả dù từ 100 đến 200 tấn/ngày, do vậy, có thể tiếp tế đầy đủ cho một đội quân vài vạn người để chiến đấu lâu dài.

Về phía Việt Minh, Nava tính toán rằng ta không thể mở được đường vận chuyển cơ giới qua vùng Tây Bắc, do vậy, sẽ không thể cung cấp đủ lương thực cho hàng vạn người chiến đấu lâu dài ở Tây Bắc. Đồng thời, Việt Minh cũng sẽ không thể chịu đựng được thời tiết khí hậu khắc nghiệt ở Tây Bắc. Vào mùa mưa, họ sẽ thiếu thốn lương thực và phải đối phó với nạn dịch, sẽ không còn đủ sức chiến đấu.

Nava cũng cho rằng với phương tiện vận chuyển có hạn, ta không thể nào kéo pháo hạng nặng lên núi để đáp trả những trận oanh tạc dữ dội của quân Pháp. Hơn nữa, theo ý kiến của các pháo thủ quân Pháp, Việt Minh đặt pháo ở sườn núi phía lòng chảo thì sẽ bị phát hiện dễ dàng, còn nếu đặt pháo ở các chỏm núi thì sẽ không bắn tới các tập đoàn cứ điểm được bố trí trong lòng chảo.

Chính vì vậy, Nava và bộ chỉ huy Pháp đã khẳng định Việt Minh không có đủ sức tấn công vào Điện Biên Phủ.

34. Chúng ta đã nhận định về những khó khăn trong chiến dịch Điện Biên Phủ như thế nào?

Vấn đề cung cấp, tiếp tế được coi là vấn đề khó khăn nhất. Trong điều kiện tiền tuyến cách xa hậu phương đến 400-500km, thời tiết khắc nghiệt, địa hình hiểm trở, đường sá hư hỏng, ta phải bảo đảm cung cấp một khối lượng lớn vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm, đồ dùng và thuốc men một cách nhanh chóng, liên tục, dài ngày. Đặc biệt, việc tiếp tế cần được giữ bí mật ở mức cao nhất nhằm tránh địch phát hiện và đánh phá.

Việc đánh lớn và dài ngày cũng là một thách thức không nhỏ. Phải chiến đấu dưới chiến hào, địch lại mạnh hơn về phi pháo, bộ đội ta chắc chắn sẽ gặp nhiều khó khăn, sức khoẻ giảm sút và khó tránh khỏi thương vong. Công tác tổ chức hậu cần, nuôi dưỡng bộ đội, chăm sóc thương bệnh binh vì thế sẽ gian khổ hơn.

35. Ai được giao nhiệm vụ Chỉ huy trưởng mặt trận Điện Biên Phủ?

Đại tướng Võ Nguyên Giáp, uỷ viên Bộ Chính trị - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh quân đội, được giao nhiệm vụ trực tiếp làm Bí thư Đảng uỷ kiêm Chỉ huy trưởng mặt trận.

36. Công tác bảo đảm hậu cần cho mặt trận Điện Biên Phủ do ai phụ trách?
Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng được giao nhiệm vụ làm Chủ tịch Hội đồng cung cấp mặt trận. Ngoài ra, đồng chí Trần Đăng Ninh, Chủ nhiệm Tổng cục cung cấp, được giao phụ trách công tác đường sá, tiếp tế cho chiến dịch.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Chín, 2016, 10:54:34 pm

37. Công tác chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ của ta được tiến hành như thế nào?

Do thời gian rất gấp nên việc chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ được tiến hành hết sức khẩn trương. Trọng tâm của công tác này là làm đường và vận chuyển lương thực, đạn dược.

Về công tác làm đường, ta đã hoàn thành việc sửa chữa và mở rộng đường từ Tạ Khoa đi Cò Nòi, khai thông tuyến đường từ Tuần Giáo đi Điện Biên Phủ, bảo đảm đường sá từ Ba Khe qua Việt Bắc và Suối Rút về vùng tự do Liên khu 3, Liên khu 4, gấp rút mở thêm tuyến đường Mường Luân - Nà Sang...

Về công tác vận chuyển, ta sử dụng sức người là chính. Hàng vạn dân công đã được huy động để vận chuyển lương thực và đạn dược ra tiền tuyến. Họ chủ yếu sử dụng gồng gánh và xe đạp thồ. Trong khi dân công đang đưa gạo và đạn ra mặt trận thì bộ đội cũng tiến hành kéo pháo vào trận địa. Ta phải tính toán rất kỹ về giờ giấc cũng như lộ trình để bảo đảm khi bộ đội và pháo vào đến trận địa thì gạo và đạn cũng đã có đủ.

38. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, chúng ta đã hoàn thành công tác mở đường với khối lượng như thế nào?

Các lực lượng công binh, dân công, thanh niên xung phong và bộ đội đã sửa chữa lại trên 200 km đường 41 từ Hòa Bình lên Suối Rút, từ Suối Rút đến Sơn La, gần 300 km đường từ Yên Bái tới Sơn La (theo trục đường 13), làm mới hoàn toàn 89 km đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ. Ta cũng đã hoàn thành hàng ngàn km đường kéo pháo, đường cơ giới vào sở chỉ huy, vào kho, vào các trận địa, các đường phụ từ Thanh Hóa lên Điện Biên Phủ, các tuyến đường cho xe trâu, xe đạp thồ, đường gánh bộ cho dân công.

39. Tinh thần “Tất cả cho tiền tuyến ” của đội ngũ xe đạp thồ được thể hiện như thế nào?

Tính trung bình mỗi xe đạp thồ được từ 150 đến 200kg. Khi đi trên những con đường vượt qua các mỏm núi có đá sắc nhọn, anh em lấy quần dài, áo ngoài quấn vòng quanh săm lốp để tăng sức chịu đựng cho xe. Kỷ lục thồ liên tục tăng từ 160 đến 195, rồi 250 kg. Hai người có kỷ lục thồ cao nhất là anh Ma Văn Thắng: 352kg, anh Cao Văn Ty: 320kg.

Nói về lực lượng vận tải thô sơ của ta, trong cuốn “Trận Điện Biên Phủ”, ký giả G. Roa đã viết: “Đã có hàng trăm tấn bom được ném xuống các tuyến giao thông và những con đường tiếp vận của Quân đội nhân dân Việt Nam nhưng chẳng bao giờ cắt đứt nổi những con đường ấy... Tướng Nava bị thua chính là những chiếc xe đạp thồ những kiện hàng từ 200 đến 300kg, được điều khiển bởi những con người ăn không thật no và ngủ thì nằm ngay trên những mảnh nilông trải trên đất.

Không phải là phương tiện này khác đã đánh bại Tướng Nava mà chính là trí thông minh, cái ý chí quyết thắng của đối phương đã quật ngã ông ta”.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Chín, 2016, 10:55:39 pm

40. Ta đã tiến hành kéo pháo vào trận địa như thế nào?

Ta kéo pháo vào trận địa hai lần. Lần thứ nhất bắt đầu vào ngày 15 tháng 1 năm 1954. Theo kế hoạch tác chiến ban đầu, Đại đoàn 351 đã dùng xe kéo pháo vào trận địa theo đường Tuần Giáo - Điện Biên Phủ. Đến cây số 69 thì việc kéo pháo hoàn toàn dùng sức người. Bộ binh và công binh ta đã phối hợp kéo pháo trên chặng đường gian khổ hơn 15km đường núi khúc khuỷu và nhiều dốc cao. Phải mất bảy ngày pháo mới vào được đến trận địa. Đến chiều ngày 25 tháng 1 năm 1954 thì có lệnh kéo pháo ra do lúc này phương châm tác chiến đã thay đổi. Các chiến sĩ của ta lại dùng tay kéo pháo ra, đến ngày 5 tháng 2 thì hoàn thành. Việc kéo pháo ra cũng gian khổ và nguy hiểm không kém khi kéo pháo vào.

Lần kéo pháo thứ hai diễn ra vào đầu tháng 3 năm 1954. Lần này, các đơn vị bộ binh và công binh đã kịp thời mở được 63 km đường cho ôtô kéo pháo nên chỉ trong vòng hai ngày, đến đêm 11 tháng 3, pháo ta đã vào chiếm lĩnh trận địa an toàn và bí mật.

41. Khi làm đường kéo pháo, để tránh bị địch phát hiện, bộ đội ta đã ngụy trang đường bằng cách nào?

Bộ đội ta đã chặt tre, nứa luồn xuống dưới lớp cỏ rồi chống lên như giàn mướp. Lá cỏ tuy khô nhưng thân dài và rất dai, không bị đứt gãy, tạo thành giàn nguỵ trang vô cùng kín đáo. Máy bay địch bay ở trên không thể nào phát hiện ra được dưới lớp cỏ khô ấy là một con đường kéo pháo.

42. Trận địa pháo ta được tiến hành xây dựng như thế nào?

Trận địa pháo ta được xây dựng ngay trên những sườn núi. Hầm pháo được khoét sâu vào thành núi, ngoài ra còn có hầm đạn, hầm trực chiến, hầm chỉ huy và hầm làm nơi hội họp, nghỉ ngơi, hầm thương binh, hầm nấu ăn... Để nối liền các khẩu đội pháo, công binh ta đã đào một đường hào giao thông khá rộng và sâu, có rãnh thoát nước và hố tránh pháo. Ta cũng bố trí những trận địa giả để phân tán hoả lực đich. Trận địa pháo ta được ngụy trang cẩn thận, dù là địch từ dưới lòng chảo Điện Biện nhìn lên hay máy bay địch bay bên trên đều khó có thể phát hiện ra. Trong khi đó, từ trận địa pháo, quân ta có thể quan sát rõ toàn bộ lòng chảo Điện Biên - sân bay Mường Thanh, khu hầm Đờ Cát, đồi A1, C1, đồn Bản Kéo, đồi Độc Lập.

Chỉ tính riêng pháo 105 ly, ta đã đưa 24 khẩu vào Điện Biên Phủ. Trong suốt chiến dịch, cả 24 khẩu pháo đều an toàn. Để làm được điều kỳ diệu này, chúng ta đã xây những hầm pháo rất kiên cố, nắp hầm dày đến 3m, có thể chịu được một phát đạn 155 ly nổ chậm hoặc nhiều quả nổ ngay trên nắp hầm. Những hầm này được mật danh là hầm “Đại Thọ”, bảo đảm an toàn cho cả khẩu pháo lẫn các pháo thủ.

43. Quân Pháp đánh giá về lực lượng pháo binh của ta như thế nào?

Họ cho rằng nếu có pháo lớn, ta cũng khó lòng đưa lên được núi rừng trùng điệp Tây Bắc. Hoặc có đưa lên được thì họ cũng sẽ làm cho pháo của ta phải im tiếng sau những phút đầu. Họ còn cho rằng nếu có giao chiến thì ta cũng không có khả năng tiếp tế đạn đầy đủ cho các khẩu pháo. Có lần, khi được hỏi về cái thế ở thấp dưới lòng chảo Điện Biên, Đờ Cát đã từng nhún vai trả lời: “Được lắm! Họ từ trên cao bắn xuống chúng tôi ư? Tôi sẽ đội cái mũ calô đỏ của tôi lên cho họ trông tôi rõ hơn”.

Và khi biết quân ta kéo pháo vào trận địa, Đờ Cát đã cho rải truyền đơn thách thức Tướng Giáp. Truyền đơn viết: “Hãy tấn công Điện Biên Phủ đi”, dưới ký tên: Đại tá Đờ Cát.

Sự chủ quan của Pháp đối với lực lượng pháo binh của ta còn thể hiện rõ trong tính toán của Bộ Tham mưu Pháp. Ngày 9 tháng 3 năm 1954 (bốn ngày trước khi quân ta nổ súng tấn công Điện Biên Phủ), Bộ Tham mưu Pháp dự tính rằng: “trong trường hợp họ (chỉ Quân đội nhân dân Việt Nam) tổng áp chế tập đoàn cứ điểm từ 5 giờ đến 7 giờ đồng hồ, thì họ chỉ có thể tiến hành giao chiến nhiều nhất là 5, 6 ngày, kể cả công kích bằng sức mạnh vào hai hoặc ba trung tâm đề kháng”.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Chín, 2016, 10:58:24 pm

44. Ta xây dựng trận địa tiến công và bao vây địch như thế nào?

Cùng với việc xây dựng trận địa pháo, quân ta đã xây dựng trận địa bao vây địch từ cả bốn hướng đông, tây, nam, bắc. Những căn hầm lớn được khoét sâu vào lòng núi làm sở chỉ huy, chỗ sinh hoạt cho bộ đội. Các chiến sĩ có thể hoạt động và sinh hoạt bình thường ngay cả khi địch bắn phá. Hệ thống giao thông hào được xây dựng rất công phu, có đầy đủ bệ bắn, ụ súng máy, đài quan sát, ổ chiến đấu của cá nhân và tiểu đội. Giữa trận địa của các đơn vị chiến đấu ở phía trước với sở chỉ huy và các đơn vị dự bị là những đường hào sâu hơn 1,3m, rộng 1,2m, bờ hào được bồi đất cao thêm 0,4m, ở mỗi đoạn lại có chỗ để tránh cho cáng thương nên giao thông hai chiều thông suốt. Hệ thống này bảo đảm cho các chiến sĩ có thể tiến công địch rất nhanh chóng và thuận lợi, đồng thời rất an toàn. Kể cả sau khi nổ súng tiến công rồi, quân ta vẫn tiếp tục đưa những đường hào tiến sâu vào lòng núi, sát sau lưng địch, từ đó xông lên tấn công bất ngờ khiến chúng không kịp trở tay.

45. Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ được phân chia và tổ chức như thế nào?

Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ có tổng cộng 49 cứ điểm và mỗi cứ điểm đều có khả năng phòng ngự. Nhiều cứ điểm nằm sát cạnh nhau tạo thành 8 cụm cứ điểm có lực lượng cơ động và hoả lực riêng, có hệ thống công sự vững chắc, xung quanh có hàng rào dây thép gai dày đặc và có khả năng phòng ngự độc lập.

Mỗi cụm cứ điểm mang tên một thiếu nữ:

1. Gabrien (Gabrielle) - tức đồi Độc Lập
2. Bêatrixơ (Béatrice) - tức đồi Him Lam
3. Annơ Mari (Anne Marie) - gồm các cứ điểm ở phía tây bắc sân bay Mường Thanh, là Bản Kéo, Căng Na...
4. Huyghet (Huguette) - gồm các cứ điểm ở phía tây sân bay Mường Thanh, hữu ngạn sông Nậm Rốm.
5. Clôđin (Claudine) - gồm các cứ điểm phía nam sân bay Mường Thanh, hữu ngạn sông Nậm Rốm.
6. Êlian (Éliane) - gồm các cứ điểm phía đông nam sân bay Mường Thanh, tả ngạn sông Nậm Rốm, là khu vực sở chỉ huy của Đờ Cát.
7. Đôminich (Dominique) - gồm các cứ điểm phía đông sân bay Mường Thanh, tả ngạn sông Nậm Rốm.
8. Idaben (Isabelle) - gồm các cứ điểm phía nam sân bay Hồng Cúm.

Mỗi cụm cứ điểm là một hệ thống hoả lực nhiều tầng, có chiến hào ngang dọc. Một số cứ điểm còn có hầm ngầm. Hàng rào dây thép gai bao quanh các cứ điểm dày từ 50 đến 200m. Ngoài ra còn có các bãi mìn dày đặc và hàng rào điện sát mặt đất.

Tám cụm cứ điểm này được tổ chức thành ba bộ phận lớn:

- Phân khu Trung tâm: là phân khu quan trọng nhất, bao gồm bốn cụm cứ điểm: Huyghet, Clôđin, Êlian và Đôminich (theo tài liệu cũ của địch thu được tại Điện Biên Phủ thì còn có cả Bêatrixơ - Him Lam), lấy trận địa trung tâm nằm giữa thung lũng Mường Thanh (châu lỵ Điện Biên Phủ), có cơ quan chỉ huy tập đoàn cứ điểm GONO, trận địa pháo, kho hậu cần, sân bay phía đông có các cụm đồi A, C, D, E đã trở thành một bộ phận phòng ngự quan trọng nhất của phân khu này.

- Phân khu Bắc: nằm cách trận địa trung tâm từ 2 - 3 km về phía bắc và đông bắc gồm các cụm cứ điểm: Rêatrixơ (Him Lam), Gabrien (Độc Lập), có nhiệm vụ án ngữ phía đông bắc, ngăn chặn hướng tiến công của ta từ Tuần Giáo vào; Annơ Mari (Bản Kéo) có nhiệm vụ bảo vệ trận địa trung tâm và mở rộng vùng trời an toàn cho sân bay Mường Thanh.

- Phân khu Nam: nằm cách phân khu trung tâm 7 km về phía nam, bao gồm: cụm cứ điểm Idaben (Hồng Cúm), sân bay dự bị, trận địa pháo, có nhiệm vụ ngăn chặn hướng tiến công của quân ta từ phía nam và giữ đường thông với Thượng Lào.

Ngoài ra, ở đây còn có một đội dự bị mạnh gồm ba tiểu đoàn bộ binh và một đại đội xe tăng làm nhiệm vụ cơ động tác chiến giữa phân khu trung tâm và phân khu Nam1.
__________________________________________
1. Nguồn: Viện Lịch sử quân sự (Bộ Quốc phòng), Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945- 1954, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.2, tr. 335. Còn theo cuốn Điện Biên Phủ, điểm hẹn lịch sử của Đại tướng Võ Nguyên Giáp thì có thêm hai cụm cứ điểm là Epervier và Junon.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Chín, 2016, 11:01:18 pm

46. Tên gọi các cứ điểm theo tiếng Việt và tiếng Pháp1?

Phân khu Bắc (theo quan niệm của ta lúc đó gồm ba trung tâm đề kháng: Gabrielle, Beatrice và Anne Marie được gọi như sau):

Đồi Độc lập    Gabrielle
Him Lam   Béatrice
Bản Kéo gồm Anne Marie 1 và Anne Marie 2 nằm tại Bản Kéo

Phân khu Trung tâm
Những cứ điểm ở phía đông
A1   Eliane 2
C1   Eliane 1
C2   Eliane 4
A3   Eliane 3
E1   Dominique 1
D1   Dominique 2
D2 và vị trí pháo binh 210   Dominique 6
D3   Dominique 5
505, 505A   Dominique 3
506, 507   Eliane 10
508, 508A, 509   Eliane 12


Những cứ điểm ở phía tây:
105   Huguette 6, vốn trước đây là Anne Marie 3
106   Huguette 7, vốn trước đây là Anne Marie 4.
206   Huguette 1
208   Huguette 2
310   Claudine 4 còn gọi là Nà Noọng
311   Huguette F, còn gọi là Françoise
311A   Huguette 5
311B   Huguette 4

Phân khu Nam
Hồng Cúm   Isabelle

47. Trong số các cứ điểm của Pháp ở Điện Biên Phủ, cứ điểm nào được tổ chức phòng ngự tốt nhất?

Gabrien (Độc Lập) - với chiều dài 500 mét, chiều rộng 200 mét, do Tiểu đoàn 5 Trung đoàn 7 Angiêri - một đơn vị được coi là rất thiện chiến - chống giữ.
__________________________________
1. Nguồn: Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Điện Biên Phủ, điểm hẹn lịch sử, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000, tr. 470, 471.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Chín, 2016, 11:05:03 pm

48. Các tướng Pháp và Mỹ nhận xét gì về tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ?

Họ đều tin rằng Điện Biên Phủ là một cứ điểm bất khả xâm phạm, một hệ thống phòng ngự dã chiến lớn mạnh nhất mà quân đội Pháp xây dựng kể từ Chiến tranh thế giới thứ hai, một cái bẫy khổng lồ sẵn sàng nghiền nát Việt Minh.

49. Nava đã cử ai làm tư lệnh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ?

Đại tá Crixchian Mari Phecđinăng đờ la Croa Đờ Cát (Christian Marie Ferdinand de la Croix de Castries) đã được chọn làm tư lệnh tập đoàn Điện Biên Phủ. Đờ Cát thuộc dòng dõi quý tộc, trong dòng họ của ông ta có khá nhiều người giữ những chức vụ cao trong quân đội. Ông ta là một nhà thể thao có tài, một kỵ sĩ cừ khôi và có bằng lái máy bay dân dụng.

Năm 1939, Đờ Cát tình nguyện tham gia đội xung kích chống phát xít Đức và chiến đấu ở Đức, Bắc Phi, Italia. Năm 1946, Đờ Cát được cử sang Đông Dương chỉ huy một số đơn vị cơ giới nhẹ và được đánh giá là người giỏi sục sạo. Năm 1951, ông ta sang Đông Dương lần thứ hai với chức vụ chỉ huy trưởng khu Nam đồng bằng Bắc Bộ. Và ngày 8 tháng 12 năm 1953, Đờ Cát chính thức nhậm chức tư lệnh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

Nava tin rằng Đờ Cát có đầy đủ phẩm chất và tài năng để đảm nhiệm chức vụ này. Khi có người hỏi tại sao lại trao quyền chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ cho một viên đại tá mà không trao cho một viên tướng, Nava trả lời: “Cả tôi và Cônhi đều không trông lon mà xét người nên cũng chẳng sùng bái gì lắm mấy ngôi sao cấp tướng. Tôi khẳng định: trong số các chỉ huy được lựa chọn, không ai có thể làm giỏi hơn Đờ Cát!”1 Người Mỹ cũng tỏ ra hoàn toàn hài lòng với sự lựa chọn của Nava.

50. Lực lượng của Pháp tại Điện Biên Phủ trước khi quân ta nổ súng gồm những đơn vị nào?

Tiểu đoàn 5 thuộc trung đoàn Angiêri thứ 7 (5/7 RTA)
Tiểu đoàn 3 thuộc trung đoàn Angiêri thứ 3 (3/3 RTA)
Tiểu đoàn 2 thuộc trung đoàn Angiêri thứ 1 (2/1 RTA)
Tiểu đoàn 1 thuộc trung đoàn Marốc thứ 4 (1/4 RTM)
Tiểu đoàn 1 thuộc bán lữ đoàn lê dương thứ 13 (1/13 DBLE)
Tiểu đoàn 3 thuộc bán lữ đoàn lê đương thứ 13 (3/13 DBLE)
Tiểu đoàn 1 thuộc trung đoàn lê dương thứ 2 (1/2 REI)
Tiểu đoàn 3 thuộc trung đoàn lê dương thứ 3 (3/3 REI)
Tiểu đoàn 1 dù thuộc địa (1è BPC)
Tiểu đoàn 8 dù thuộc địa (8è BPC)
Tiểu đoàn Thái thứ 2 (2è BAT)
Tiểu đoàn Thái thứ 3 (3è BAT)
Tiểu đoàn 2 pháo 105 ly Trung đoàn 4 pháo thuộc địa (2/4 RAC)
Tiểu đoàn 3 pháo 105 ly Trung đoàn 10 pháo thuộc địa (3/10 RAC)
Một đại đội pháo 155 ly thuộc Tiểu đoàn 4 Trung đoàn 4 pháo thuộc địa (4/4 RAQ và 2 đại đội pháo cối 120 ly2.
______________________________
1. Henri Navarre, Agonie de l ‘Indochine (Đông Dương hấp hối), trích theo Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Điện Biên Phủ, điểm hẹn lịch sử, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000, tr.164.
2. Nguồn: Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (Bộ Quốc phòng), Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.2, tr. 334-335.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Chín, 2016, 11:08:55 pm

51. Mỹ đã giúp Pháp ở Điện Biên Phủ như thế nào?

Đến năm 1953, mỗi tháng hàng viện trợ quân sự của Mỹ cho Pháp lên đến trên vạn tấn, có tháng lên đến bốn vạn tấn. Chính phủ Mỹ phái sang Đông Dương hàng trăm nhân viên quân sự, cử tướng O. Đanien cầm đầu phái đoàn viện trợ quân sự để đốc thúc và giám sát việc thực hiện viện trợ cho Pháp.

Tính đến tháng 1 năm 1954, Mỹ đã chi viện cho cuộc chiến tranh ở Đông Dương 360 máy bay, 1.400 xe tăng, 390 tàu chiến, 16.000 ôtô, 75.000 súng các loại, cộng thêm tiền để xây sân bay Cát Bi, căn cứ Cam Ranh, Phú Quốc.

Để cứu vãn sự thất bại khó tránh khỏi của quân đội viễn chinh Pháp ở Điện Biên Phủ, Mỹ đã thông qua một kế hoạch hành binh mang tên Vôtua (Diều hâu), dự kiến sẽ sử dụng 80-90 máy bay B.29 và 150 máy bay chiến đấu của Hạm đội 7 ném bom nghiền nát quân ta đang bao vây ở Điện Biên Phủ.

52. Có những đơn vị nào của ta tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ? Mật danh của những đơn vị này là gì?

Năm đại đoàn trực tiếp tham chiến ở Điện Biên Phủ:

1. Đại đoàn 308: tức Sư đoàn "Quân Tiên Phong", đơn vị "anh cả" của toàn quân, được đối phương ca ngợi là "sư đoàn thép lừng danh, niềm tự hào của Việt Minh", trong chiến dịch Điện Biên Phủ mang mật danh "Việt Bắc", có ba trung đoàn, gồm:

- Trung đoàn 102: tức "Trung đoàn Thủ đô" nổi tiếng, mang mật danh "Ba Vì".
- Trung đoàn 88: mật danh "Tam Đảo".
- Trung đoàn 36: mật danh "Sa Pa".

2. Đại đoàn 312: tức Sư đoàn “Chiến thắng", được đối phương gọi là "sư đoàn xung kích, sư đoàn thiện chiến đánh đồng bằng”, trong chiến dịch Điện Biên Phủ mang mật danh "Bến Tre", có ba trung đoàn, gồm:

- Trung đoàn 209: tức Trung đoàn Sông Lô nổi tiếng, mật danh "Hồng Gai".
- Trung đoàn 165: tức Trung đoàn Lao Hà, mật danh "Đông Triều".
- Trung đoàn 141: tức Trung đoàn Phủ Thông, mật danh "Đầm Hà".

3. Đại đoàn 316: được gọi là "sư đoàn sơn chiến, đơn vị ưu tú của Việt Minh chuyên đánh rừng núi", mang mật danh "Biên Hòa", có ba trung đoàn gồm:

- Trung đoàn 98: tức Trung đoàn Tây Bắc, mật danh "Ba Đồn".
- Trung đoàn 174 : tức Trung đoàn Cao - Bắc - Lạng, mật danh "Sóc Trăng".
- Trung đoàn 176: mật danh "Lạng Sơn" (chỉ có một tiểu đoàn tham gia chiến dịch).

4. Đại đoàn 304: tức Sư đoàn "Vinh quang", mật danh "Nam Định", có ba trung đoàn, gồm:

- Trung đoàn 57: mật danh "Nho Quan".
- Trung đoàn 9: mật danh "Ninh Bình".
- Trung đoàn 66: không tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ mà phối thuộc Đại đoàn 325 đi chiến đấu ở chiến trường Lào, được Đại tướng Võ Nguyên Giáp khen ngợi là "một mình Trung đoàn 66 ở Trung Lào chiến đấu như một đại đoàn"1.

5. Đại đoàn 351: tức Sư đoàn Công - Pháo, được đối phương gọi là "sư đoàn nặng", mật danh Long Châu, có bốn trung đoàn, gồm:

- Trung đoàn 151: công binh.
- Trung đoàn 45: lựu pháo, mật danh "Tất thắng".
- Trung đoàn 675: sơn pháo.
- Trung đoàn 367: pháo cao xạ, mật danh "Hương Thủy"2.

Ngoài ra còn có: 3 tiểu đoàn pháo cối và 1 tiểu đoàn hỏa tiễn 6 nòng (loại Kachiusa nổi tiếng của Hồng quân Liên Xô, từng làm khiếp đảm quân phát xít Đức).

Hai đại đoàn tác chiến ở các hướng phối hợp:

1. Đại đoàn 320: tức Sư đoàn "Đồng bằng", trong thời gian chiến dịch Điện Biên Phủ hoạt động ở đồng bằng Bắc Bộ, mang mật danh "Thẩm Dương", có ba trung đoàn gồm:

- Trung đoàn 64: mật danh "Quyết thắng".
- Trung đoàn 48: mật danh "Thăng Long".
- Trung đoàn 52.

2. Đại đoàn 325: tức Sư đoàn Hương Giang, đứa con của Bình - Trị - Thiên khói lửa, trong thời gian chiến dịch Điện Biên Phủ mang mật danh "Hoành Sơn", có ba trung đoàn gồm:

- Trung đoàn 101: hoạt động hướng Trung, Hạ Lào.
- Trung đoàn 18: hoạt động tại chiến trường Bình - Trị - Thiên.
- Trung đoàn 95: làm lực lượng dự bị của Bộ, đứng chân ở địa bàn Liên khu 4.

Ngoài các đại đoàn kể trên, còn có một trung đoàn bộ binh thiện chiến trực thuộc Bộ là Trung đoàn 148.
__________________________________
1. Trích thư của Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi cán bộ chiến sĩ trong Trung đoàn 66.
2. Trung đoàn 367 có 6 tiểu đoàn thì 3 tiểu đoàn (tức Trung đoàn 367 tiền phương) phối thuộc Đại đoàn 351 chiến đấu tại mặt trận, còn 3 tiểu đoàn khác do Ban Chỉ huy trung đoàn cơ bản trực tiếp chỉ huy bảo vệ giao thông.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Chín, 2016, 11:17:19 pm

53. Ta đã có sự thay đổi phương châm tác chiến như thế nào?

Trong tờ trình của Tổng quân uỷ gửi lên Bộ Chính trị ngày 6 tháng 12 năm 1953 dự kiến: "Thời gian để tác chiến ở Điện Biên Phủ ước độ 45 ngày" và "đây sẽ là một trận công kiên lớn nhất từ trước tới nay". Ta sẽ phải sử dụng 3 đại đoàn bộ binh, toàn bộ pháo binh, công binh, phòng không và "quân số tổng quát của chiến dịch sẽ là 42.000 người". Dự kiến đánh Điện Biên Phủ trình Bộ Chính trị theo tinh thần "đánh chắc, tiến chắc".

Khi triển khai kế hoạch tiến công Điện Biên Phủ, bộ phận tham mưu của ta đi trước để chuẩn bị chiến dịch đã đề nghị phương án "đánh nhanh giải quyết nhanh" trong khi bộ đội ta đang sung sức, tinh thần chiến đấu rất cao, còn địch chưa củng cố xong trận địa, chưa đứng vững chân tại Điện Biên Phủ. Phương án "đánh nhanh giải quyết nhanh” dự định tập trung toàn lực tiến công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ trong hai ngày ba đêm.

Tuy nhiên, sau khi thận trọng cân nhắc và theo dõi chặt chẽ diễn biến của tình hình mặt trận, Đảng uỷ và Bộ Chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ đã đi đến quyết định chuyển sang phương châm "đánh chắc, tiến chắc”. Quyết định này đã được Bác Hồ và Bộ Chính trị hoàn toàn nhất trí.

Hồi tưởng về quyết định quan trọng này, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, vị Chỉ huy trưởng của chiến dịch Điện Biên Phủ năm xưa, đã nhấn mạnh: "Thay đổi cách đánh trong tình thế toàn mặt trận từ trên xuống dưới quyết tâm chiến đấu theo phương án đánh nhanh giải quyết nhanh, các đơn vị đã vào vị trí chiến đấu, chờ giờ nổ súng là quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời chỉ huy của tôi”1.

54. Toàn văn bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi cán bộ và chiến sĩ ở mặt trận Điện Biên Phủ trước giờ nổ súng và mở màn chiến dịch?

"Thân ái gửi toàn thể cán bộ và chiến sĩ ở mặt trận,

Các chú sắp ra mặt trận. Nhiệm vụ các chú lần này rất to lớn, khó khăn, nhưng rất vinh quang.

Các chú vừa được chỉnh quân chính trị và chỉnh huấn quân sự và đã thu được nhiều thắng lợi về tư tưởng và chiến thuật, kỹ thuật. Nhiều đơn vị đã đánh thắng trên các mặt trận. Bác tin chắc rằng các chú sẽ phát huy thắng lợi vừa qua, quyết tâm vượt mọi khó khăn gian khổ để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang sắp tới.

Bác chờ các chú báo cáo thành tích để thưởng những đơn vị và cá nhân xuất sắc nhất.
Chúc các chú thắng to.
Bác hôn các chú.

Chào thân ái và quyết thắng.
Tháng 3 năm 1954
HỒ CHÍ MINH”2
_________________________________
1. Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Tinh thần Điện Biên Phủ sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta”, báo Nhân dân, ngày 8-3-2004.
2. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.7, tr.265.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Chín, 2016, 11:18:55 pm

55. Pháo của ta đã khai hoả lần đầu tiên tại Điện Biên Phủ vào ngày nào?

Trưa 13 tháng 3 năm 1954, lần đầu tiên pháo 105 ly của ta đã khai hoả ở Điện Biên. Quân Pháp bàng hoàng khi thấy sự xuất hiện của pháo 105 ly, nhưng cho đến lúc này, Đờ Cát vẫn nửa tin nửa ngờ, cho rằng làm sao ta có thể kéo pháo hạng nặng lên Điên Biên Phủ được, mà nếu có chắc cũng không đáng kể. Các cứ điểm của địch cũng dùng pháo bắn trả dữ dội nhưng không có kết quả. 6 chiếc Moran, 1 trực thăng và 6 khu trục đành nằm im trong sân bay, không dám cất cánh.

56. Trong đợt tiến công thứ nhất, ta tiêu diệt những cứ điểm nào?

Đó là: Him Lam, Độc Lập, Bản Kéo. Sở dĩ ta chọn tấn công ba cứ điểm này trong trận mở màn vì chúng cách xa Mường Thanh, ở vào vị thế tương đối cô lập, quân ta sẽ có lợi thế khi bao vây và triển khai lực lượng tấn công. Tiêu diệt được các cứ điểm này, ta sẽ mở được đường để tiến sâu vào trung tâm Mường Thanh và đánh đòn phủ đầu khiến binh lính Pháp kinh hoàng.

57. Trận tấn công Him Lam diễn ra như thế nào?

Him Lam là một trong số những vị trí phòng thủ kiên cố nhất của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Cứ điểm này được gọi là “Quả đấm sắt”, nằm trên đường đi Tuần Giáo để ngăn chặn hướng tấn công chính của ta vào vòng ngoài Điện Biên Phủ. Nếu mất Him Lam thì Mường Thanh sẽ nguy to. Chính vì vậy Pháp đã dốc sức xây dựng Him Lam. Pháo đài Him Lam do một viên cố vấn Mỹ ở chiến trường Triều Tiên thiết kế và trực tiếp giám sát xây dựng. Tướng Mỹ O. Đanien, Nava cùng nhiều quan chức cấp cao khác của Pháp đã đến tận nơi để tham gia ý kiến và kiểm tra.

Đúng 17 giờ ngày 13 tháng 3 năm 1954, quân ta bắn dồn dập hàng loạt phát đại bác vào các vị trí cứ điểm ở Điện Biên Phủ, nhất là Him Lam, gây chấn động toàn bộ cứ điểm. Ngay từ đầu, quân địch ở Him Lam đã bị tổn thất nặng nề. Đại đoàn 312 của ta đồng loạt tiến công trên ba hướng và đến khoảng 23 giờ, ta tiêu diệt được khu trung tâm và chiếm hoàn toàn cứ điểm Him Lam. Trong trận đánh mở màn chiến dịch này, quân ta đã tiêu diệt gần 300 tên, bắt sống hơn 200 tên.

58. Phản ứng của quân Pháp trước cuộc tấn công mãnh liệt của ta?

Quân Pháp đã bắn hết 6.000 viên đạn đại bác 105 ly để chống trả cuộc tấn công của ta nhưng không tránh nổi thất bại. Ngay trong trận mở màn, cả trung tâm đề kháng Him Lam đã bị quân đội Việt Nam tiêu diệt gọn, 750 lính Pháp bị tiêu diệt và bắt sống. Đơn vị Pháp trấn giữ Him Lam là đơn vị thuộc Lữ đoàn 13, lữ đoàn chưa hề biết đến thất bại, kể cả trong những trận đánh khó khăn nhất thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ hai, vậy mà chỉ sau một đêm đã bại trận dưới tay Việt Minh. Điều đó làm cho Pháp hết sức hoang mang. Nhưng điều khiến cho Pháp kinh hoàng nhất vẫn là sự xuất hiện rầm rộ pháo hạng nặng của ta. Thủ tướng Pháp Lanien than thở: “Sự dữ dội bất ngờ của hoả lực đối phương làm cho các đơn vị của chúng ta kinh hãi”. Tướng Cônhi thì tỏ ra cực kỳ bi quan và nói với các sĩ quan phụ tá và các nhà báo rằng: “Điện Biên Phủ quả là một cái bẫy, không phải là đối với Việt Minh mà là đối với chúng ta rồi”. Còn thiếu uý Giắckê, bị ta bắt làm tù binh trước khi trận mở màn bắt đầu, đã nói với các chiến sĩ của ta: “Các ông đã tiêu diệt được Him Lam thì các ông có thể đánh được bất cứ chỗ nào ở Điện Biên Phủ.”


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Chín, 2016, 11:19:46 pm

59. Trận đánh đồi Độc Lập diễn ra như thế nào?

Đơn vị được giao nhiệm vụ tiến công đồi Độc Lập là Trung đoàn 165 thuộc Đại đoàn 312 và Trung đoàn 88 thuộc Đại đoàn 308. 17 giờ ngày 14 tháng 3, pháo binh ta bắt đầu bắn vào các cứ điểm địch. Khoảng 20 giờ, các hầm súng máy hạng nặng của Đại uý Morô bị phá tan. Đến 22 giờ, hầm chỉ huy của Morô bị tiêu diệt. Địch bắn trả dữ dội bằng pháo 105 và 155 ly. 3 giờ 30 phút sáng, bộ binh ta bắt đầu tiến công. Trung đoàn 165 từ hướng chính đông nam đột phá thành công vào cứ điểm địch, nhanh chóng chiếm được khu thông tin, tiêu diệt trận địa cối và bao vây sở chỉ huy. Trung đoàn 88 tấn công từ hướng đông bắc ít phút sau cũng tiến vào phối hợp với Trung đoàn 165 đánh địch. Tiểu đoàn Angiêri số 5 của địch chống cự quyết liệt. Các chiến sĩ ta giành giật với địch từng ụ súng, căn hầm và giao thông hào. Khoảng 6 giờ 30 phút sáng 15 tháng 3, đồi Độc Lập hoàn toàn thuộc về ta. Ta bắt sống 200 tù binh, trong đó có hai tiểu đoàn trưởng là Meccơnen và Cac, tiêu diệt 483 tên.

60. Tại sao Trung tá chỉ huy pháo binh Pirốt phải tự sát?

Pirốt là viên sĩ quan được Nava giao trọng trách chỉ huy pháo binh của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Khi Nava và Cônhi lên thị sát tình hình, Pirốt đã huênh hoang nói rằng không một khẩu pháo nào của Việt Minh bắn nổi đến ba phát mà không bị pháo của hắn phá huỷ. Sau thất bại nhanh chóng của Him Lam và Độc Lập, Pirốt cảm thấy quá bất lực nên đã tự sát bằng lựu đạn ngay trong hầm chỉ huy của mình vào đêm 15 tháng 3. Đờ Cát sợ nếu lộ chuyện thì binh lính mất tinh thần nên chỉ dám điện cho Cônhi thông báo: “Pirốt đã hy sinh trên trường danh dự”. Có nhiều báo chí đã viết về cái chết của Pirốt, nhưng tất cả đều thống nhất ở một điểm: Pirốt tự sát vì cay cú và hổ thẹn.

61. Bản Kéo bị thất thủ như thế nào?

Sau khi mất Him Lam và Độc Lập, tinh thần tiểu đoàn nguỵ Thái đóng ở Bản Kéo suy sụp nhanh chóng. Sáng 15 tháng 3, bộ đội ta gửi thư cho phép lính ở Bản Kéo đến đồi Độc Lập nhận thương binh, đồng thời khuyên chúng ra hàng. Lính Thái biết ta sắp tiến công Bản Kéo nên hết sức hoang mang. Đờ Cát thấy khó mà giữ được Bản Kéo nên ra lệnh cho Tiểu đoàn nguỵ Thái BT3 rút về Mường Thanh. Tiểu đoàn này vừa ra khỏi đồn đã chạy sang hàng quân ta. Địch cho xe tăng đuổi theo và bắn pháo ngăn chặn. Ta cũng cho pháo bắn yểm hộ, khiến xe tăng địch phải rút chạy. Quân ta thừa thắng xông lên tiến vào chiếm Bản Kéo và bao vây các ngọn đồi phía bắc sân bay. Chiến thắng Bản Kéo đã kết thúc đợt tấn công thứ nhất của quân ta tại Điện Biên Phủ.

62. Kết quả của đợt tiến công lần thứ nhất?

Sau hai trận đánh lớn then chốt, ta đã tiêu diệt hai cứ điểm được tổ chức phòng ngự tốt nhất của địch là Him Lam và Độc Lập, hai “quả đấm sắt” theo cách gọi của các tướng Pháp. Hệ thống phòng ngự phía bắc và đông bắc của địch bị đập tan, mở toang cánh cửa cho quân ta tiến xuống vùng lòng chảo và khu trung tâm. Hai tiểu đoàn tinh nhuệ vào bậc nhất của địch bị tiêu diệt gọn, một tiểu đoàn khác tan rã. Một số lượng lớn pháo 105 ly và pháo cối 120 ly của địch bị ta phá huỷ hoàn toàn, hầu hết máy bay chiến đấu trong vùng lòng chảo đều bị pháo binh ta tiêu diệt, nhiều kho tàng bốc cháy. Trong vòng từ ngày 13 đến ngày 17 tháng 3, Pháp đã sử dụng hết 12.600 viên đạn pháo 105 ly trong số 27.000 viên, 11.000 viên cối 120 ly trong số 28.000 viên, 3.000 viên đạn pháo 155 ly. Bên cạnh việc gây thiệt hại lớn về người và phương tiện chiến tranh cho địch, chiến thắng trong trận mở màn của ta đã khiến cho tinh thần chiến đấu của binh sĩ Pháp sa sút nghiêm trọng, đồng thời chứng tỏ cho quân Pháp thấy hệ thống tập đoàn cứ điểm của chúng ở Điện Biên Phủ không phải là bất khả xâm phạm.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Chín, 2016, 11:21:51 pm

63. Nhiệm vụ cụ thể của các đơn vị tham gia đợt tiến công thứ hai?

Trong đợt thứ hai, ta chủ trương đánh chiếm các cao điểm phòng ngự của địch ở phía đông thuộc các cụm cứ điểm Đôminíc, Êlian với các cao điểm A1, C1, C2, D1, D2, E và uy hiếp quân địch tại Mường Thanh, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch trong đó có một số đơn vị cơ động ở cụm cứ điểm Huyghét với các điểm cao 105, 106, 206, nhằm tạo điều kiện để chuyển sang tổng công kích.

Các đơn vị được giao nhiệm yụ cụ thể như sau:

- Đại đoàn 312 được phối thuộc 2 đại đội sơn pháo 75, 2 đại đội cối 120, 1 đại đội cối 82, có nhiệm vụ tiêu diệt các điểm cao E, D1, D2 (thuộc Trung tâm đề kháng Đôminích) và dùng một đơn vị thọc sâu đánh vào vị trí của pháo binh địch cùng quân cơ động tiểu đoàn dù nguỵ số 5 ở phía trong.

- Đại đoàn 316 (thiếu một trung đoàn) được phối thuộc 2 đại đội sơn pháo 75, 2 đại đội cối 120, 2 trung đội cối 82, có nhiệm vụ tiêu diệt các điểm cao A1, C1, C (thuộc Trung tâm đề kháng Êlian).

- Đại đoàn 308 có nhiệm vụ thọc sâu đánh vào Tiểu đoàn dù nguỵ số 3 và vị trí pháo binh, đồng thời tích cực quấy rối các cứ điểm 106, 311, bố trí đánh quân địch nhảy dù xuống phía Tây, chặn quân tiếp viện từ Hồng Cúm lên.

- Trung đoàn 57 (Đại đoàn 304) được phối thuộc tiểu đoàn 888 (Đại đoàn 316), 1 đại đội lựu pháo 105, một đại đội cối 120 ly, 4 khẩu 82, 12 khẩu 12,8 ly có nhiệm vụ kiềm chế các trận địa pháo địch ở Hồng Cúm, hạn chế những hoạt động của chúng, chặn viện binh địch từ Hồng Cúm lên Mường Thanh và đánh địch nhảy dù ở phía nam Hồng Cúm.

- Đại đoàn 351 dùng toàn bộ hoả lực yểm hộ bộ binh tiến công các cứ điểm E, D1, D2, C1, C2, A1; đồng thời kiềm chế, phá huỷ một phần pháo binh địch, tiêu hao quân cơ động của chúng ở trung tâm Mường Thanh. Riêng Trung đoàn pháo cao xạ 367 (Đại đoàn 351) được tăng cường lực lượng mới từ hậu phương, phải yểm hộ đắc lực cho bộ binh và pháo binh chiến đấu cả ngày lẫn đêm1.
______________________________
1. Xem: Viện lịch sử quân sự Việt Nam (Bộ Quốc phòng), Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t. 2, tr. 409-410.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Chín, 2016, 11:22:30 pm

64. Diễn biến chính của đợt tiến công thứ hai?

Chiều 30 tháng 3 năm 1954, quân ta nổ súng bắt đầu đợt tiến công thứ hai. Lợi dụng thời tiết xấu, máy bay địch ít hoạt động, các đơn vị hoả lực của ta đã triển khai chiếm lĩnh trận địa ngay từ buổi sáng.

Đúng 17 giờ ngày 30 tháng 3, sau khi pháo binh ta bắn dồn dập vào sở chỉ huy của Đờ Cát, các trận địa pháo và khu vực quân cơ động ở Mường Thanh, Hồng Cúm, v.v.., quân ta tổ chức tiến công vào 5 điểm cao phòng ngự quan trọng ở phía đông: đồi C1, A1, E1, D1, D2. Tại đồi E1, Trung đoàn 141 (Đại đoàn 312) đã tiêu diệt gọn một bộ phận tiểu đoàn dù nguỵ, làm chủ đồi E1 sau hơn một giờ nổ súng. Cũng sau hai giờ chiến đấu, Trung đoàn 209 (Đại đoàn 312) đã hoàn thành việc đánh chiếm các đồi D, D1 và D2.

Các đợt phản kích của địch trong đêm 30 tháng 3 và ngày hôm sau ở các cứ điểm này đều bị ta đẩy lùi. Các trận đánh ở đồi C1 và A1 diễn ra rất ác liệt và kéo dài. Tại đồi C1, chỉ sau 45 phút tiến công, Trung đoàn 98 (Đại đoàn 316) đã tiêu diệt gọn 1 đại đội chiếm lĩnh toàn bộ cứ điểm C1. Ngày 8 tháng 4 năm 1954, Pháp cho tiểu đoàn dự bị thứ tư nhảy dù xuống Điện Biên Phủ. Được tăng viện, sáng 9 tháng 4, địch phản kích đánh chiếm lại đồi C1. Sau bốn ngày đêm giao tranh, ta và địch mỗi bên chiếm một nửa quả đồi.

Riêng ở đồi A1, cuộc chiến đấu diễn ra trong thế giằng co, hết sức quyết liệt. Trong đêm 30 tháng 3, quân ta chiếm được hai phần ba đồi A1. Ý thức rõ vị trí cực kỳ quan trọng của đồi A1, là “chìa khoá”, “cổ họng” của toàn bộ tập đoàn Điện Biên Phủ, cho nên địch chống trả rất quyết liệt. Sáng 31 tháng 3, Đờ Cát tung nhiều lực lượng có xe tăng, máy bay và pháo binh yểm trợ, hòng chiếm lại A1. Ta và địch giành giật nhau từng ngách hào, từng lôcốt. Đến ngày 4 tháng 4, ta và địch mỗi bên giữ một nửa điểm cao. Ta giữ nửa phần phía đông, địch giữ nửa phần phía tây. Cùng thời điểm với cuộc tiến công vào các cụm cứ điểm phía đông, một tiểu đoàn thuộc Đại đoàn 312 và một tiểu đoàn thuộc Đại đoàn 308 đã đánh thọc sâu vào quân địch ở vòng trong, làm rối loạn trận địa phòng ngự của địch, tạo điều kiện thuận lợi cho quân ta tiến công các cụm cứ điểm ở phía đông. Sau khi đánh thẳng vào Tiểu đoàn dù nguỵ số 5, quân ta đã bao vây và tiêu diệt trận địa pháo địch ở cứ điểm 210, truy đuổi Tiểu đoàn dù số 6 của địch tới tận bờ sông Nậm Rốm. Ở phía bắc, Trung đoàn 165 (Đại đoàn 312) tiến công cứ điểm 105 vào chiều 3 tháng 4 và đã chiếm được hai phần ba cứ điểm. Đến sáng 4 tháng 4, Đờ Cát đã tập trung lực lượng phản kích giành lại toàn bộ cứ điểm này.

Mặc dù chưa hoàn thành được toàn bộ kế hoạch đề ra, nhưng quân ta cũng đã giành được nhiều thắng lợi quan trọng trong đợt tiến công thứ hai. Ta đã tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch. Sau hơn hai mươi ngày chiến đấu, ta đã tiêu diệt khoảng 5.000 tên địch, trong đó gồm có 4 tiểu đoàn và 9 đại đội. Số địch bị diệt chiếm khoảng một phần hai tổng số quân địch ở phân khu Bắc và phân khu Trung tâm. Nếu tính toàn bộ lực lượng của địch ở Điện Biên Phủ thì chúng mất khoảng hai phần năm. Quân ta đã khống chế được phần lớn các điểm cao ở phía đông. Sau đợt tiến công thứ hai, ta đã rút ra được nhiều kinh nghiệm về cách đánh địch, đồng thời phát triển được trận địa tiến công tới sát sân bay, thắt chặt vòng vây, chia cắt, khống chế các khu vực còn lại trong tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Chín, 2016, 11:24:33 pm

65. Diễn biến chính của đợt tiến công thứ ba?

17 giờ chiều ngày 1 tháng 5 năm 19541, pháo binh ta, với sự góp mặt lần đầu tiên của hoả tiễn 122 bắt đầu bắn mãnh liệt vào khu vực trận địa địch, pháo ta đã làm tê liệt hoàn toàn ngay từ đầu cụm pháo của địch ở Hồng Cúm. Sau đợt pháo kích, các đơn vị quân ta đồng loạt tiến công vào các vị trí phòng thủ của địch. Tại phía đông, Trung đoàn 98 (Đại đoàn 316) nhanh chóng tiêu diệt toàn bộ quân địch ở một nửa ngọn đồi C1 mà chúng đang chiếm giữ. Trên bờ phía đông sông Nậm Rốm, Trung đoàn 209 (Đại đoàn 312) tiến công đánh chiếm cứ điểm 505, 505A và tiêu diệt toàn bộ quân địch ở hai cứ điểm này. Tại phía tây, Trung đoàn 88 (Đại đoàn 308) tiến công tiêu diệt cứ điểm 311 A. Đêm mùng 3 tháng 5 năm 1954, Trung đoàn 36 (Đại đoàn 308) tiêu diệt vị trí 311B. Quân ta đã mở các tuyến đường hào tiến thẳng hướng sở chỉ huy của Đờ Cát. Trước tình thế nguy cấp của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, để tránh khỏi bị tiêu diệt hoàn toàn, hoặc phải đầu hàng nhục nhã, Nava buộc phải đưa ra một quyết định cay đắng là cho phép quân lính của Đờ Cát phá vòng vây, tháo chạy sang Lào. Nhưng kế hoạch rút chạy của địch chưa kịp triển khai thì ngày 5 tháng 5 năm 1954, quân ta lại đã tiến công tiếp. Đại đoàn 316 đánh các cứ điểm C2, A1. Đại đoàn 312 đánh các cứ điểm 506, 507, quét sạch quân địch ở tả ngạn sông Nậm Rốm. Đại đoàn 308 đánh cứ điểm 310 (Nà Noọng) nhanh chóng mở một mũi tiến công hướng vào sở chỉ huy của Đờ Cát. Đại đoàn 304 dùng một đơn vị chốt chặn ở Nà Tu bịt đường sang Lào đề phòng địch rút chạy. Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định hoàn thành nhanh chóng nhiệm vụ của đợt tiến công thứ ba, chuẩn bị mọi điều kiện chuyển sớm sang tổng công kích dự kiến sẽ vào tối mùng 7 tháng 5 năm 1954.

18 giờ ngày 6 tháng 5 năm 1954, pháo binh và hoả tiễn của ta bắn dữ dội vào các cứ điểm địch, mở đường cho bộ binh tiến công. Tại khu đồi A1, sau khi cho nổ 1 tấn bộc phá tiêu diệt hầm ngầm địch, bộ đội ta chia làm nhiều mũi, theo các đường hào đánh lên đỉnh đồi. Đến 4 giờ sáng ngày 7 tháng 5 năm 1954, quân ta đã tiêu diệt toàn bộ quân địch ở đồi A1. Cùng trong thời gian A1 bị tiêu diệt, quân ta tiến công đánh chiếm cứ điểm C2, bắt sống 600 tên địch, đồng thời tiến công xoá sổ cứ điểm 506 ở phía bắc Mường Thanh. Ở phía tây, Đại đoàn 308 giải quyết xong cứ điểm 310 đưa trận địa tiến công của đơn vị áp vào cách sở chỉ huy của Đờ Cát khoảng 300 mét. Các đơn vị hoàn thành nhiệm vụ được giao và sẵn sàng chuyển sang tổng công kích vào tối ngày 7 tháng 5 như Bộ chỉ huy chiến dịch đã dự kiến. 14 giờ ngày 7 tháng 5 năm 1954, Trung đoàn 209 (Đại đoàn 312) mở cuộc tiến công cứ điểm 507 ở gần cầu Mường Thanh. Địch ở 507 kéo cờ trắng ra hàng. Đại đoàn 312 tiếp tục tiến công tiêu diệt hai cứ điểm 508 và 509 ở tả ngạn sông Nậm Rốm.

Trước tình hình rối loạn và hoang mang đến cực điểm của quân địch, Bộ chỉ huy chiến dịch ra lệnh cho các đơn vị không chờ đến tối, mở ngay cuộc tổng công kích vào tập đoàn cứ điểm địch. Chấp hành mệnh lệnh đó, từ tất cả các hướng, quân ta tiến công ào ạt vào khu trung tâm tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Bộ đội ta đánh tới đâu, cờ trắng của địch xuất hiện tới đó. 16 giờ 30 phút, một cánh quân của Đại đoàn 312 tiến tới sát sở chỉ huy địch. Trung đội trưởng Chu Bá Thệ phát hiện trên nóc hầm của Đờ Cát có một lá cờ trắng đang phất. Đại đội trưởng Tạ Quốc Luật cùng bốn chiến sĩ Vinh, Nhỏ, Hiếu, Lam xông vào sở chỉ huy của địch. 17 giờ 30 phút, Thiếu tướng Đờ Cát và bộ tham mưu tập đoàn cứ điểm bị bắt sống.

Lá cờ Quyết chiến Quyết thắng của quân đội ta đã tung bay trên nóc hầm sở chỉ huy địch. Ở các cứ điểm còn lại xung quanh hầm Đờ Cát, binh lính địch lũ lượt kéo cờ trắng ra hàng. Ở khu vực Hồng Cúm, Đại đoàn 304 dùng loa kêu gọi địch đầu hàng. Địch lợi dụng trời tối tháo chạy. Ta truy kích, đến 24 giờ cùng ngày, toàn bộ quân địch đã bị bắt. Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng.
_________________________________
1. Trong cuốn sách Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954, tập 2, Nxb. Quân đội nhân dân. Hà Nội, 1994, trang 438 viết thời gian pháo binh ta nổ súng là vào "Trưa ngày 1 tháng 5 năm 1954".


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Chín, 2016, 11:26:23 pm

66. Trước tình thế bế tắc ở Điện Biên Phủ, nội bộ Pháp đã phản ứng ra sao?

Ở Hà Nội, các tướng Pháp lục đục cãi cọ, đổ lỗi cho nhau. Mâu thuẫn gay gắt nhất là giữa Cônhi và Nava. Cônhi chê Nava không hiểu biết về chiến trường. Nava lại chê Cônhi không biết nhìn xa, chỉ huy tồi.

Ở nước Pháp, Chính phủ Pháp từ chỗ hết lời khen ngợi Nava đã quay sang chỉ trích ông ta gay gắt. Lanien lên án quyết định của Nava tiếp nhận chiến đấu tại Điện Biên Phủ là thiếu thận trọng, hành động đáng tiếc, sai lầm lớn...

67. Đờ Cát được thăng cấp tướng vào thời gian nào? Trong ngày chúc mừng Đờ Cát được thăng cấp, có điều gì trớ trêu xảy ra?

Vào thời điểm quân Pháp đang trong tình thế hết sức nguy ngập, ngày 15 tháng 4 năm 1954, Chính phủ Pháp đã thăng cấp thiếu tướng cho Đại tá Đờ Cát.

Theo kế hoạch, lon tướng của Đờ Cát cùng 200 chai rượu Cônhắc sẽ được thả dù xuống Điện Biên Phủ. Nhưng khi những chiếc dù sặc sỡ được thả xuống Mường Thanh, quân lính đã không tìm thấy lon tướng và rượu Cônhắc. Chúng đành lấy những mảnh thiếc trắng làm thành mấy ngôi sao cho quân hàm tướng của Đờ Cát và lấy rượu vang thay cho rượu Cônhắc để chúc mừng.

68. Tổ chiến đấu 5 người vào hầm bắt sống Đờ Cát gồm những ai?

Tạ Quốc Luật, Đại đội trưởng Đại đội 360, thuộc Trung đoàn 209, Đại đoàn 312; Bùi Văn Nhỏ; Hoàng Đăng Vinh; Đào Văn Hiếu; và đồng chí Lam.

69. Các bước chiến thuật bao vây đánh lấn của ta được nêu trong sáu chữ gì?

Vây - Lấn - Tấn - Phá - Triệt - Diệt.

70. Hoạt động của các chiến trường trên toàn quốc phối hợp với mặt trận Điện Biên Phủ ra sao?

Ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ: Quân ta liên tục tiến công các đường giao thông số 1, 5, 21, 22. Nhiều đồn bốt của địch bị tiêu diệt hoặc bị bức rút, bức hàng. Ta đã giải phóng được phần lớn đồng bằng Bắc Bộ.

Ở Bình - Trị - Thiên: Quân ta đã giành thắng lợi trong các trận đánh tập kích, phục kích lớn ở An Hoà, Võ Xá, Ưu Điềm, Phò Trạch.

Ở Liên khu 5 và Tây Nguyên: Quân ta đã đánh bại đợt tiến công Átlăng 2 của địch, tổ chức tiến công vào thị xã Plâyku, phục kích đánh địch rút quân từ An Khê về co cụm lại ở Plâyku, diệt và làm bị thương hàng ngàn tên, thu nhiều vũ khí và phương tiện chiến tranh của địch.

Ở Nam Bộ: Bộ đội địa phương ta đã tổ chức nhiều đợt tấn công tiêu diệt các đồn bốt của địch. Trận đánh tiêu biểu ở Gò Công, chỉ trong một đêm, quân ta đã hạ được 132 đồn bốt và tháp canh của địch.

Trước sức tấn công mạnh mẽ của quân ta, kết hợp với làm tốt công tác địch vận, hàng vạn binh lính ngụy bỏ ngũ, chính quyền ngụy ở nhiều nơi bị tan rã. Có thể nói rằng hoạt động của các chiến trường phối hợp đã giam chân một bộ phận quan trọng sinh lực địch, không cho chúng điều được binh lực tiếp viện cho Điện Biên Phủ.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Chín, 2016, 11:28:46 pm

71. Thành tích của quân ta trong chiến thắng Đông Xuân 1953-1954?1

Mặt trận Điện Biên Phủ:

Tiêu diệt: 16.200 tên, gồm: 17 tiểu đoàn bộ binh và quân nhảy dù, 3 tiểu đoàn trọng pháo và súng cối nặng, 10 đại đội bổ sung người Thái và các đơn vị cơ giới, vận tải, phòng không, không quân, các cơ quan chỉ huy và trực thuộc..., 1 thiếu tướng, 16 quan năm, 353 sĩ quan từ quan một đến quan tư và 1.396 hạ sĩ quan.

Hạ: 62 máy bay các loại.

Thu: Toàn bộ vũ khí, kho tàng trong tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ gồm:

28 cỗ đại bác 105 và 155 ly
10 súng phun lửa
64 xe các loại, trong đó có 3 xe tăng 18 tấn
542 máy vô tuyến điện
51 máy các loại, trong đó có 5 máy xúc đất
5.915 súng các loại
20.000 lít xăng dầu
21.000 chiếc dù
20 tấn thuốc và dụng cụ quân y

Và rất nhiều các thứ: đạn dược, quân trang, quân dụng. Giải phóng: hoàn toàn khu Tây Bắc.

Các mặt trận khác trong toàn quốc (đồng bằng Bắc Bộ, Lai Châu, Bình - Trị - Thiên, Liên khu 5, Nam Bộ) tính từ ngày mùng 1 tháng 12 năm 1953 đến ngày 10 tháng 5 năm 1954.

Tiêu diệt: 112.000 tên, trong đó có nhiều sĩ quan từ quan một đến quan năm.

Thu: 19.000 súng các loại
34 xe các loại
260 tấn bom đạn
3 vạn lít xăng dầu
Phá: 81 cỗ đại bác
100 máy bay
93 tàu thuỷ, ca nô
40 đầu máy xe lửa
250 toa xe lửa
1462 xe các loại (trong đó có 102 xe tăng)
88 tấn bom đạn
12 triệu lít xăng dầu

Giải phóng: toàn tỉnh Công Tum (Liên khu 5), tỉnh Lai Châu (khu Tây Bắc); mở rộng nhiều khu căn cứ và khu du kích ở khắp các nơi vùng sau lưng địch đồng bằng Bắc Bộ, Bình - Trị - Thiên, miền cực nam Liên khu 5, Nam Bộ, phối hợp rất ăn khớp với mặt trận chính Điện Biên Phủ, góp phần giành toàn thắng cho chiến dịch. Đầu tháng 7 năm 1954, địch bí thế buộc phải rút bốn tỉnh miền nam đồng bằng Bắc Bộ: Nam Định, Ninh Bình, Hà Nam và Thái Bình.
_____________________________________
1. Nguồn: Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Điện Biên Phủ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 327-328.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Chín, 2016, 11:33:05 pm

72. Ý nghĩa của chiến thắng Đông Xuân 1953- 1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ?

Chiến thắng Đông Xuân 1953 mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ là một mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc Việt Nam, là bản anh hùng ca bất hủ về cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ và vô cùng quả cảm của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo sáng suốt và tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đánh dấu bước phát triển cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong thời đại mới. Với chiến thắng to lớn này:

- Quân và dân ta đã làm phá sản hoàn toàn Kế hoạch Nava, đánh bại ý chí xâm lược và cố gắng chiến tranh cao nhất của thực dân Pháp với sự giúp đỡ của Mỹ.

- Chúng ta đã tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch thuộc các đơn vị thiện chiến nhất của thực dân Pháp ở Đông Dương, phá huỷ nhiều vũ khí và phương tiện chiến tranh1, giải phóng được nhiều vùng đất đai rộng lớn, có ý nghĩa về mặt chiến lược2.

- Mở ra một cục diện chính trị mới, góp phần quyết định vào thắng lợi của Hội nghị Giơnevơ 1954 bàn về việc lập lại hòa bình ở Đông Dương. Âm mưu kéo dài và mở rộng chiến tranh của thực dân Pháp và sự can thiệp của Mỹ muốn phá hoại Hội nghị Giơnevơ hoàn toàn bị phá sản. Ngày 21 tháng 7 năm 1954, Hiệp định Giơnevơ đã được ký kết, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, trở thành căn cứ địa vững chắc của cách mạng cả nước, trở thành hậu phương lớn của tiền tuyến lớn miền Nam. Đây là “"nhân tố quyết định nhất" trong khi phong trào cách mạng của nhân dân miền Nam thành đồng Tổ quốc là "nhân tố quyết định trực tiếp" của sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc"3.

- Đây không chỉ là chiến thắng của dân tộc Việt Nam, mà còn là thắng lợi của các dân tộc nhỏ trên thế giới đang đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân. Nó đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi, Mỹ Latinh, động viên các dân tộc đứng lên đấu tranh để tự giải phóng mình, thúc đẩy quá trình sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới.

Nói về ý nghĩa của thắng lợi to lớn này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Chiến thắng Điện Biên Phủ đã kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến lâu dài gian khổ và anh dũng của nhân dân cả nước ta, chống thực dân Pháp xâm lược và sự can thiệp của đế quốc Mỹ. Đó là thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta, mà cũng là thắng lợi chung của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới... Chiến thắng Điện Biên Phủ đưa đến thắng lợi của Hội nghị Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương. Hiệp định Giơnevơ đã trịnh trọng công nhận chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân Việt Nam cũng như của nhân dân anh em Lào và Campuchia. Các nước phương Tây, Mỹ, Anh, Pháp tham gia hội nghị ấy đều cam kết tôn trọng những quyền dân tộc bất khả xâm phạm đó” 4.
____________________________________________
1. Tính chung trên cả nước, trong chiến dịch Đông Xuân 1953 - 1954, chúng ta đã tiêu diệt 112.000 tên địch, trong đó có 25 tiểu đoàn bị tiêu diệt gọn, bắn rơi và phá hủy 177 máy bay, chiếm khoảng 40% lực lượng không quân của địch. Tính riêng trong chiến dịch Điện Biên Phủ, quân ta đã tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên địch. Lực lượng của địch bị tiêu diệt gồm 17 tiểu đoàn bộ binh tinh nhuệ, 3 tiểu đoàn pháo binh, một tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng, 62 máy bay bị bắn rơi và phá hỏng, v.v…
2. Sau khi giải phóng được khu Tây Bắc, căn cứ địa của kháng chiến đã mở rộng bao gồm toàn bộ miền rừng núi Bắc Bộ, kéo dài suốt từ Việt Bắc đến Tây Bắc, Hoà Bình. Căn cứ kháng chiến của ta được nối liền với khu giải phóng rộng lớn ở Thượng Lào của nước bạn. Trước sức ép của ta, quân Pháp buộc phải tiếp tục rút khỏi vùng nam đồng bằng Bắc Bộ, bao gồm các tỉnh Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình. Ở miền Bắc Trung Bộ, quân ta đã làm chủ một phần đường số 9 tỉnh Quảng Trị. Ở miền Nam Trung Bộ, ta giải phóng được miền Bắc Tây Nguyên. Ở Nam Bộ và các vùng sau lưng địch, các khu căn cứ của lực lượng cách mạng ngày càng mở rộng. Ba phần tư đất đai sau lưng địch được giải phóng.
3. Đại tướng Võ Nguyên Giáp, "Tinh thần Điện Biên Phủ sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta", báo Nhân Dân, ngày 8 tháng 3 năm 2004.
4. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002,1.11, tr. 220.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Chín, 2016, 11:22:48 pm

VI
HIỆP ĐỊNH GIƠNEVƠ

73. Ngày 26 tháng 11 năm 1953, khi trả lời phỏng vấn của một nhà báo Thuỵ Điển về việc giải quyết cuộc chiến tranh, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định điều gì?

"... Cuộc chiến tranh ở Việt Nam là do Chính phủ Pháp gây ra. Nhân dân Việt Nam phải cầm vũ khí anh dũng chiến đấu bảy, tám năm nay chống kẻ xâm lược chính để bảo vệ nền độc lập và quyền tự do được sống hoà bình. Hiện nay nếu thực dân Pháp tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược thì nhân dân Việt Nam quyết tâm tiếp tục cuộc chiến tranh ái quốc đến thắng lợi cuối cùng. Nhưng nếu Chính phủ Pháp đã rút được bài học trong cuộc chiến tranh mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hòa bình thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa sẵn sàng tiếp ý muốn đó.

... Cơ sở của việc đình chiến ở Việt Nam là Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thật sự của nước Việt Nam.

... Nếu có những nước trung lập nào muốn cố gắng để xúc tiến việc chấm dứt cuộc chiến tranh ở Việt Nam bằng cách thương lượng, thì sẽ được hoan nghênh, nhưng việc thương lượng đình chiến chủ yếu là một việc giữa Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa với Chính phủ Pháp”1.

74. Tác động của bài phát biểu này đối với dư luận quốc tế?

Tuyên bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh với báo Expressen Thuỵ Điển đã gây tiếng vang lớn tại Pháp và trên thế giới. Các đoàn thể nhân dân và nhiều nhà chính trị Pháp đòi Chính phủ Lanien tiến hành đàm phán với Chính phủ Hồ Chí Minh. Dưới sức ép của dư luận, ngày 3 tháng 12, Chính phủ Pháp phải tuyên bố muốn biết lập trường của Việt Minh bằng con đường chính thức và tỏ ý sẵn sàng xem xét việc lập lại hòa bình, bảo đảm độc lập cho các quốc gia liên kết.

75. Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương diễn ra vào thời gian nào, có bao nhiêu phiên họp, bao nhiêu đoàn đại biểu tham gia?

Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương bắt đầu từ ngày 8 tháng 5 năm 1954 và kết thúc vào ngày 21 tháng 7 năm 1954. Hai đồng Chủ tịch Hội nghị là Ngoại trưởng Anh Eden và Ngoại trưởng Liên Xô Molotov. Hội nghị đã trải qua 75 ngày thương lượng với 31 phiên họp, trong đó có 7 phiên toàn thể và 24 phiên họp hẹp cấp trưởng đoàn.

Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương có 9 đoàn đại biểu tham gia, gồm có đại diện của 5 nước lớn Liên Xô (Molotov), Trung Quốc (Chu Ân Lai), Anh (Eden), Mỹ (J. Dulles), Pháp (Georges Bidault) và các cố vấn của họ. Đoàn của Việt Nam Dân chủ cộng hòa do Phạm Văn Đồng dẫn đầu, đoàn của Quốc gia Việt Nam do Nguyễn Quốc Định dẫn đầu, đoàn của Vương quốc Campuchia do Nhiếp Tiêu Long dẫn đầu, và đoàn của Vương quốc Lào do Phoui Sananikone dẫn đầu. Đại diện lực lượng kháng chiến Pathet Lào và Khơme Itsarak cũng có mặt tại Giơnevơ, nhưng không được các đoàn phương Tây chấp nhận tham gia hội nghị.

(Riêng đoàn của Pháp, lúc đầu do Georges Bidault làm trưởng đoàn, nhưng bước sang giai đoạn đàm phán thứ hai trở đi, trưởng đoàn là Thủ tướng Pháp Mendès France).
_______________________________
1. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.7, tr. 168, 169.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Chín, 2016, 11:24:28 pm

76. Sự kiện nào đã tác động rất mạnh mẽ đến hội nghị Giơnevơ theo hướng có lợi cho ta?

Đó là chiến thắng giòn giã của quân và dân ta trên chiến trường Điện Biên Phủ. Tin chiến thắng Điện Biên Phủ tới Giơnevơ đúng vào lúc hội nghị bắt đầu thảo luận vấn đề Đông Dương. Chiến thắng Điện Biên Phủ thực sự là một đòn choáng váng đối với Chính phủ Pháp ngay trước ngày khai mạc hội nghị. Phái đoàn Việt Nam đã bước vào bàn đàm phán trong tư thế người chiến thắng.

77. Hội nghị Giơnevơ trải qua mấy giai đoạn?

Hội nghị Giơnevơ trải qua ba giai đoạn:

Giai đoạn thứ nhất, từ ngày 8 tháng 5 năm 1954 tới ngày 19 tháng 6 năm 1954, với 6 phiên toàn thể và 17 phiên họp hẹp cấp trưởng đoàn.

Giai đoạn thứ hai, từ ngày 20 tháng 6 năm 1954 đến ngày 9 tháng 7 năm 1954, là thời gian các trưởng đoàn về nước báo cáo; tại Giơnevơ các chuyên viên tiếp tục làm việc, diễn ra 6 phiên họp hẹp.

Giai đoạn thứ ba, từ ngày 10 tháng 7 năm 1954 đến ngày 21 tháng 7 năm 1954, diễn ra các cuộc gặp gỡ tay đôi, tay ba hoặc nhiều bên giữa các trưởng đoàn, một phiên họp hẹp cấp trưởng đoàn và một phiên họp toàn thể, bế mạc hội nghị.

78. Nội dung lập trường đàm phán của Việt Nam tại hội nghị Giơnevơ là gì?

Lập trường đàm phán của Việt Nam trong việc giải quyết chiến tranh ở Đông Dương gồm tám điểm:

* Pháp công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Campuchia và Lào;

* Ký hiệp định về việc rút quân đội nước ngoài ra khỏi Việt Nam, Campuchia và Lào trong thời hạn do các bên tham chiến ấn định;

* Tổ chức tổng tuyển cử tự do ở Việt Nam, Campuchia và Lào để thành lập chính phủ thống nhất trong mỗi nước;

* Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hoà, Chính phủ Campuchia và Chính phủ Lào sẽ xem xét việc tự nguyện gia nhập Liên hiệp Pháp cùng với những điều kiện gia nhập;

* Việt Nam Dân chủ cộng hoà, Campuchia và Lào công nhận các quyền lợi kinh tế và văn hoá của Pháp tại ba nước. Sau khi các chính phủ duy nhất ở từng nước được thành lập sẽ cùng nước Pháp quy định các quyền này theo nguyên tắc bình đẳng và tôn trọng quyền lợi của nhau;

* Hai bên cam kết sẽ không truy tố những người hợp tác với đối phương trong thời gian chiến tranh;

* Trao đổi tù binh;

* Ngừng bắn trên toàn Đông Dương; điều chỉnh các khu vực mà hai bên chiếm giữ; đình chỉ đưa quân đội và thiết bị quân sự mới vào Đông Dương; thành lập uỷ ban gồm đại diện của các bên tham chiến để kiểm tra bảo đảm thực hiện hiệp định đình chiến.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Chín, 2016, 11:26:37 pm

79. Nội dung lập trường đàm phán của Pháp tại hội nghị Giơnevơ?

Pháp chỉ đề cập giải quyết các vấn đề quân sự, lẩn tránh những vấn đề chính trị. Về vấn đề Việt Nam, gồm 5 điểm:

* Tập kết quân đội hai bên vào vùng quy định;
* Giải giáp lực lượng dân quân du kích;
* Trao trả tù binh dân sự và quân sự;
* Kiểm soát quốc tế;
* Đình chỉ chiến sự

Về phía Lào và Campuchia, có 4 điểm:

* Rút quân đội của Việt Nam Dân chủ cộng hoà khỏi hai nước này;
* Giải giáp lực lượng dân quân du kích;
* Trao trả tù binh quân sự và dân sự;
* Kiểm soát quốc tế.

80. Các hiệp định đình chiến được ký vào lúc nào?

Các hiệp định đình chỉ chiến sự tại Việt Nam và Lào được ký lúc 2 giờ 45 phút ngày 21 tháng 7 năm 1954; Hiệp định đình chỉ chiến sự tại Campuchia được ký vào lúc 11 giờ ngày 21 tháng 7 năm 1954. Nhưng để giúp Thủ tướng Mendès France giữ được lời hứa với Quốc hội và nhân dân Pháp sẽ giải quyết vấn đề Đông Dương trong vòng một tháng, nên thời gian được ghi ở cuối các hiệp định là ký lúc 24 giờ ngày 20 tháng 7 năm 1954.

81. Những văn kiện chính của Hiệp định Giơnevơ?

Ba hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, Lào và Campuchia

Bản tuyên bố cuối cùng của Hội nghị

Bản tuyên bố riêng của Mỹ ngày 21 tháng 7 năm 1954

Bản tuyên bố của Chính phủ Pháp ngày 21 tháng 7 năm 1954 khẳng định nguyên tắc tôn trọng độc lập và chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào, Campuchia trong việc giải quyết tất cả các vấn đề có liên quan tới việc tái lập và củng cố hòa bình ở ba nước.

Các công hàm trao đổi giữa Thủ tướng Việt Nam Dân chủ cộng hòa Phạm Văn Đồng và Thủ tướng Pháp Mendès France.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Chín, 2016, 11:32:40 pm
82. Nội dung chính của Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam?

Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam có sáu loại điều khoản, với 47 điều:

I. Giới tuyến quân sự tạm thời1 và khu phi quân sự, gồm chín điều khoản, trong đó quy định việc Quân đội nhân dân Việt Nam tập kết ở phía bắc, quân đội Liên hiệp Pháp ở phía nam giới tuyến, với một khu phi quân sự; thời hạn di chuyển hoàn toàn lực lượng hai bên không vượt quá 300 ngày.

II. Nguyên tắc và cách thức thi hành hiệp định, gồm sáu điều khoản, trong đó theo nguyên tắc ngừng bắn trên toàn cõi Đông Dương, sự đình chỉ chiến sự phải đồng thời trên toàn cõi Việt Nam.

III. Cấm đưa thêm quân đội, nhân viên quân sự, vũ khí đạn dược mới, căn cứ quân sự, gồm năm điều khoản, trong đó cấm không được đưa thêm vào Việt Nam bộ đội và nhân viên quân sự, vũ khí, dụng cụ chiến tranh, tuy nhiên cho phép thay thế ngang cấp, một thay một; cấm không được thành lập căn cứ quân sự mới, cấm không được lập căn cứ quân sự ngoại quốc, không gia nhập liên minh quân sự, không bị sử dụng để gây lại chiến tranh hoặc phục vụ cho một chính sách xâm lược.

IV. Tù binh và thường dân bị giam giữ, gồm một điều khoản, quy định tất cả tù binh và thường nhân Việt, Pháp hoặc quốc tịch khác bị giam giữ từ đầu chiến tranh sẽ được tha trong vòng 30 ngày.

V. Điều khoản linh tinh, gồm sáu điều khoản, trong đó quy định tư lệnh hai bên trừng phạt những người thuộc quyền mình làm trái điều khoản hiệp định; cho phép các chuyên viên liên quan vào trong vùng của phía bên kia lấy thi hài của quân nhân hoặc tù binh chết.

VI. Ban liên hợp và Ban quốc tế ở Việt Nam, gồm 17 điều khoản, trong đó quy định thành lập một ban liên hợp, với số đại biểu bằng nhau của Bộ tổng tư lệnh hai bên; thành lập một Ban quốc tế giám sát và kiểm soát thực hiện hiệp định gồm các nước Ấn Độ, Ba Lan, Canađa, với số đại biểu bằng nhau, do Ấn Độ làm chủ tịch2.
_____________________________________
1. Giới tuyến quân sự tạm thời ở Việt Nam là ở vĩ tuyến 17 (B.T).
2. Xem: Ngoại giao Việt Nam 1945-2000, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 157-158.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Chín, 2016, 11:36:22 pm

83. Nội dung chính của Bản Tuyên bố cuối cùng?

Lúc 15 giờ ngày 21 tháng 7 năm 1954, diễn ra phiên họp toàn thể cuối cùng của hội nghị. Trong phiên họp này, Lời tuyên bố của Hội nghị Gicmevơ được công bố. Thay cho việc các bên ký vào văn kiện này, phần đầu bản Tuyên bố đưa tên các nước tham gia Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương: Cao Miên, Quốc gia Việt Nam, Hoa Kỳ, Pháp, Lào, Việt Nam Dân chủ cộng hoà, Trung Quốc, Anh và Liên Xô.

Bản Tuyên bố cuối cùng gồm 13 điều:

1. Hội nghị chứng nhận các bản Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Cao Miên, Lào và Việt Nam;

2. Hội nghị tin tưởng việc thi hành bản Tuyên bố và các Hiệp định đình chỉ chiến sự làm cho Cao Miên, Lào, Việt Nam từ nay có thể đảm nhận độc lập, chủ quyền hoàn toàn;

3. Hội nghị chứng nhận tuyên bố của hai chính phủ Cao Miên và Lào về việc để tất cả mọi công dân tham gia tổng tuyển cử tiến hành trong năm 1955;

4. Hội nghị chứng nhận những điều khoản cấm đưa vào Việt Nam quân đội và nhân viên quân sự ngoại quốc, cũng như vũ khí đạn dược; chứng nhận những tuyên bố của Chính phủ Cao Miên và Lào chỉ yêu cầu viện trợ quân sự, nhân viên, huấn luyện viên trong phạm vi cần thiết để bảo vệ lãnh thổ hiệu quả;

5. Hội nghị chứng nhận Hiệp định về Việt Nam định rằng không được thành lập căn cứ quân sự nước ngoài, không tham gia liên minh quân sự; chứng nhận những tuyên bố của hai chính phủ Cao Miên và Lào nói rằng sẽ không ký kết bất cứ hiệp định nào với nước khác buộc họ phải tham gia một khối liên minh quân sự không phù hợp với nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc, hoặc nếu hiệp định đó buộc họ phải lập những căn cứ quân sự nước ngoài khi mà an ninh hai nước đó không bị đe doạ;

6. Hội nghị chứng nhận rằng mục đích căn bản của Hiệp định về Việt Nam là giải quyết các vấn đề quân sự để đình chỉ chiến sự và giới tuyến quân sự chỉ có tính chất tạm thời, không thể coi là một ranh giới về chính trị hay về lãnh thổ;

7. Hội nghị tuyên bố đối với Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề chính trị thực hiện trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; cuộc tổng tuyển cử sẽ được tổ chức vào tháng 7 năm 1956; kể từ ngày 20 tháng 7 năm 1955, hai bên sẽ gặp gỡ để thương lượng về vấn đề đó;

8. Phải để cho tất cả mọi người Việt Nam tự do lựa chọn vùng họ muốn sinh sống;

9. Ở Bắc và Nam Việt Nam, Lào và Cao Miên không được báo thù những người đã hợp tác với một trong hai bên trong chiến tranh;

10. Hội nghị chứng nhận tuyên bố của Chính phủ Pháp nói rằng sẵn sàng rút quân đội Pháp khỏi Cao Miên, Lào và Việt Nam, trừ trường hợp do thoả thuận hai bên, một số có thể ở lại những điểm nhất định, trong thời gian nhất định;

11. Hội nghị chứng nhận tuyên bố của Chính phủ Pháp sẽ tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Cao Miên, Lào, Việt Nam;

12. Trong quan hệ với Cao Miên, Lào, Việt Nam, mỗi nước tham gia hội nghị cam kết tôn trọng chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước và không can thiệp vào nội trị của các nước đó;

13. Các nước tham gia hội nghị sẽ hỏi ý kiến nhau về mọi vấn đề mà Ban giám sát và kiểm soát quốc tế chuyển tới, nhằm nghiên cứu những biện pháp cần thiết bảo đảm tôn trọng các hiệp định đình chỉ chiến sự.


84. Thủ tướng Pháp Mendès France đã nhận xét như thế nào về lời văn của hiệp định?

Mendès France đã thừa nhận: “Lời văn hiệp định đôi khi tàn nhẫn bởi vì nó xác nhận những sự kiện tàn nhẫn”1.

85. Ý nghĩa của việc ký kết Hiệp định Gỉơnevơ?

Ghi nhận thắng lợi to lớn của của nhân dân Việt Nam sau chín năm kháng chiến đầy hy sinh gian khổ chống thực dân Pháp xâm lược.

Chấm dứt ách thống trị của thực dân Pháp ở Việt Nam cũng như trên toàn cõi Đông Dương.

Các nước lớn tham gia Hội nghị đã công nhận và cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam là độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, tạo cơ sở chính trị và pháp lý quan trọng cho cuộc đấu tranh để giải phóng hoàn toàn đất nước ta.

Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, trở thành căn cứ địa vững chắc cho cuộc đấu tranh hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ ở miền Nam.
__________________________________________
1. Trích theo cuốn Ngoại giao Việt Nam 1945-2000, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.162.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Chín, 2016, 11:41:46 pm

VI
BÁC HỒ VỚI ĐIỆN BIÊN PHỦ

86. Toàn văn bức thư của Bác gửi cán bộ và chiến sĩ ở mặt trận Điện Biên Phủ?1

Thân ái gửi cán bộ và chiến sĩ mặt trận Điện Biên Phủ

Thu - Đông năm nay, các chú lại có nhiệm vụ tiến quân vào Điện Biên Phủ để tiêu diệt thêm sinh lực địch, mở rộng thêm căn cứ kháng chiến, giải phóng thêm đồng bào còn bị giặc đè nén.

Năm ngoái, các chú đã anh dũng chiến đấu, tiêu diệt nhiều địch, đã thắng lợi to. Bác rất vui lòng.

Năm nay, sau những cuộc chỉnh huấn chính trị và quân sự, các chú đã tiến bộ hơn. Các chú phải chiến đấu anh dũng hơn, chịu đựng gian khổ hơn, phải giữ vững quyết tâm trong mọi hoàn cảnh:

Quyết tâm tiêu diệt địch,
Quyết tâm giữ vững chính sách,
Quyết tâm tranh nhiều thắng lợi.

Bác và Chính phủ chờ tin tháng lợi để khen thưởng các chú.
Chào thân ái và quyết thắng
Tháng 12 năm 1953
HỒ CHÍ MINH”

87. Ngày 22 tháng 12 năm 1953, Bác Hồ đã trao lá cờ cho Quân đội nhân dân Việt Nam nhằm động viên các đơn vị thi đua giết giặc lập công trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Trên lá cờ đó viết dòng chữ gì?

Lá cờ của Bác mang dòng chữ: “Quyết chiến Quyết thắng”. Lá cờ này được trao luân lưu cho các đơn vị lập thành tích đặc biệt. Bộ đội pháo cao xạ đã được nhận cờ sau đợt sơ kết thứ nhất của chiến dịch. Ngày 7 tháng 5 năm 1954, lá cờ Quyết chiến Quyết thắng đã tung bay trên nóc sở chỉ huy của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

88. Toàn văn bức thư của Bác khen ngợi bộ đội, dân công, thanh niên xung phong và đồng bào Tây Bắc đã chiến thắng vẻ vang ở Điện Biên Phủ? 2

“Quân ta đã giải phóng Điện Biên Phủ. Bác và Chính phủ thân ái gửi lời khen ngợi cán bộ, chiến sĩ dân công, thanh niên xung phong và đồng bào địa phương đã làm tròn nhiệm vụ một cách vẻ vang.

Thắng lợi tuy lớn nhưng mới là bắt đầu. Chúng ta không nên vì thắng mà kiêu, không nên chủ quan khinh địch. Chúng ta kiên quyết kháng chiến để tranh lại độc lập, thống nhất, dân chủ, hoà bình. Bất kỳ đấu tranh về quân sự hay ngoại giao cũng đều phải đấu tranh trường kỳ gian khổ mới đi đến thắng lợi hoàn toàn.

Bác và Chính phủ sẽ khen thưởng những cán bộ, chiến sĩ, dân công, thanh niên xung phong và đồng bào địa phương có công trạng đặc biệt.
Chào thân ái và quyết thắng
Ngày 8 tháng 5 năm 1954
HỒ CHÍ MINH”
___________________________________________________
1. Nguồn: Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, 2002, t.7, tr. 198.
2. Hồ Chí Minh, Sđd, tr.272.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Chín, 2016, 11:46:02 pm

89. Toàn văn thư chúc mừng chiến thắng và quyết định khao quân khi chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc của Bác Hồ?1

Thư gửi toàn thể cán bộ và chiến sĩ ở mặt trận Điện Biên Phủ

Trước hết Bác gửi lời thân ái thăm các chú thương binh.

Toàn thể các chú cũng như cán bộ và chiến sĩ ở toàn quốc đã quyết tâm tranh được thắng lợi lớn để chúc thọ Bác.

Bác quyết định khao các chú. Khao thế nào tuỳ theo điều kiện, nhưng nhất định khao.

Thế là Bác cháu ta cùng vui. Vui để cố gắng mới, để khắc phục khó khăn mới và để tranh thắng lợi mới.

Bác và Chính phủ định thưởng cho tất cả các chú huy hiệu “Chiến sĩ Điện Biên Phủ”. Các chú tán thành không?

Bác dặn các chú một lần nữa:

Chớ vì thắng mà kiêu, chớ chủ quan khinh địch, phải luôn luôn sẵn sàng làm trọn nhiệm vụ Đảng và Chính phủ giao cho các chú.
Bác hôn các chú
Bác
HỒ CHÍ MINH”

90. Ngay sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Bác Hồ đã làm một bài thơ ca ngợi tinh thần chiến đấu anh dũng, quả cảm của bộ đội, dân công ta. Nội dung bài thơ đó như thế nào?2

QUÂN TA TOÀN THẮNG Ở ĐIỆN BIÊN PHỦ

20 tháng 11 năm cũ,
Giặc Pháp nhảy dù Điện Biên Phủ.
Hăm mốt tiểu đoàn tinh nhuệ nhất,
Xe tăng, súng lớn đầy chồng chất.
Chúng khoe rằng: “kế hoạch Nava
Thật là mạnh dạn và tài hoa.
Phen này Việt Minh phải biết tay,
Quan thầy Mỹ thì vui lòng thay!”
Các báo phản động khắp thế giới
Inh ỏi tâng bốc Nava tới.

Bên ta thì:
Bộ đội, dân công quyết một lòng,
Xẻ non, đắp suối, vượt qua sông,
Khắc phục khó khăn và hiểm trở:
Đánh cho giặc tan mới hả dạ;
Lặng lẽ chuẩn bị suốt tháng ngày,
Không quản gian khổ và đắng cay;
Quyết tâm làm cho tròn nhiệm vụ,
Đã hứa với Bác, Đảng, Chính phủ.

13 tháng 3 ta tấn công,
Giặc còn ở trong giấc mơ nồng:
“Mình có thầy Mỹ lo cung cấp;
Máy bay cao cao, xe tăng thấp,
Lại có Nava cùng Cônhi,
Những tay tướng giỏi nắm chỉ huy.
Chúng mình chuyến này nhất định thắng,
Việt Minh ắt thua chạy quýnh cẳng”.
Hơn 50 ngày, ta đánh đồn,
Ta chiếm một đồn lại một đồn,
Quân giặc chống cự tuy rất hăng,
Quân ta anh dũng ít ai bằng.
Nava, Cônhi đều méo mặt,
Quân giặc tan hoang ta vây chặt.
Giặc kéo từng loạt ra hàng ta.
Quân ta vui hát “khải hoàn ca”.
Mười ba quan năm đều hàng nốt,
Tên tướng chỉ huy cũng bị nhốt.
Một vạn sáu ngàn tên giặc Tây,
Đều là tù binh hoặc bỏ thây.

Thế là quân ta đã toàn thắng
Toàn thắng là vì rất cố gắng.
Chiến sĩ viết thư dâng Cụ Hồ:
“Xin Bác vui lòng mà nhận cho
Món quà chúc thọ sinh nhật Bác,
Chúng cháu cố gắng đã sắm được.”
___________________________________________
1. Hồ Chí Minh, Sđd, tr.276.
2. Nguồn: Hổ Chí Minh, Sđd, t.7, tr.277-279.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Chín, 2016, 11:10:23 am

VIII
MỘT SỐ VĂN KIỆN ĐẢNG VỀ ĐIỆN BIÊN PHỦ

91. Đề án Tổng Quân uỷ trình Bộ Chính trị về chủ trương tác chiến của ta trong Thu Đông 1953?1

Tình hình và âm mưu của địch ở đồng bằng Bắc Bộ sau khi địch rút khỏi Nà Sản

1- Địch rút khỏi Nà Sản là để tập trung lực lượng giữ vững đồng bằng. Việc địch rút Nà Sản là một sự thay đổi lớn trong tình hình quân sự Bắc Bộ. Trước đây, ở Bắc Bộ có hai chiến trường; từ nay chỉ có một (trừ Lai Châu). Vùng Tây Bắc phần lớn đã trở nên một căn cứ địa giải phóng, tiếp giáp với vùng giải phóng rộng lớn của Thượng Lào. Trước đây, chủ lực địch phân tán trên hai chiến trường: đồng bằng và rừng núi Tây Bắc; từ nay lực lượng địch tập trung lại để làm nhiệm vụ chiến lược chính của chúng ở Việt Nam: giữ vững đồng bằng Bắc Bộ.



4- Âm mưu của địch hiện nay là tăng cường binh lưc tập trung thêm bộ đội cơ động, để “bình định ” và giữ vững đồng bằng và tiến tới giành lại chủ động. Đó là nội dung chính của kế hoạch quân sự Nava.



Nhiệm vụ đề ra trước mắt cho chúng ta là phải phá âm mưu tập trung binh lực và “bình định ” đồng bằng của địch, để tạo điều kiện tác chiến tương đối lớn.

92. Nội dung chính báo cáo của Tổng Quân uỷ trình Bộ Chính trị ngày 6 tháng 12 năm 1953 về phương án tác chiến mùa Xuân 1954?2

I- Tình hình địch và phương hướng chiến dịch

1. Trước sự uy hiếp của ta, địch đã phân tán lực lượng cơ động, ngày 20 tháng 11 nhảy dù chiếm đóng Điện Biên Phủ, mục đích là yểm hộ cho Lai Châu và bảo vệ cho Thượng Lào. Hiện nay, ở Điện Biên Phủ, lực lượng địch có chừng sáu tiểu đoàn (chắc chắn là bốn tiểu đoàn), chúng đã sửa sân bay và đang kiến trúc công sự.

Trong lúc đó, thì ở Thượng Lào, địch mở một cuộc hành binh với binh lực chừng năm tiểu đoàn đánh chiếm vùng sông Nậm Hu từ Pác Seng đi Mường Khoa và Điện Biên Phủ.

2. Rồi đây tình hình địch còn thay đổi:

a) Chúng có thể giữ cả Lai Châu và Điện Biên Phủ, một nơi chính, một nơi phụ.

b) Chúng có thể rút Điện Biên Phủ.

c) Khi chủ lực ta uy hiếp thật mạnh thì ở Điện Biên Phủ, địch có thể tăng cường đến khoảng trên dưới 10 tiểu đoàn, biến thành một tập đoàn cứ điểm lớn; và cũng có thể rút.

3. Hiện ta chưa thể phán đoán khẳng định địch nhất định rút hay nhất định tăng, vì hiện nay địch có triệu chứng củng cố, nhưng rồi đây chủ lực ta tập trung lên nhiều, địch bị đánh ở Trung và Hạ Lào, khi đó địch sẽ phải cân nhắc.

Tuy hiện nay chưa thể khẳng định nhưng muốn bảo đảm thực hiện được quyết tâm của Trung ương là tiêu diệt địch và giải phóng vùng Lai Châu - Phong Xalỳ cho đến Luông Phabăng trong đông xuân thì phải nhằm trường hợp tăng cường thành tập đoàn cứ điểm mà chuẩn bị.

Trong trường hợp này, trận Điện Biên Phủ sẽ là một trận công kiên lớn nhất từ trước tới nay, không kém Nà Sản, và đường sá còn xa hơn. Vì vậy, sự chuẩn bị có nhiều khó khăn, cần ráo riết tập trung lực lượng mới làm kịp, nhưng nếu kiên quyết khắc phục khó khăn, hoàn thành được chiến dịch thì thắng lợi này sẽ là một thắng lợi rất lớn.

III - Nhu cầu nhân lực, vật lực

1. Dân công
Số dân công phải huy động từ trung tuyến trở lên khoảng chừng 14.500, gồm cả dân công theo đơn vị, vận tải xe đạp và khuân vác, chưa kể số dân công của Hội đồng cung cấp mặt trận.
Thời gian phục vụ ở mặt trận ước trên dưới ba tháng (so với kế hoạch đánh Nà Sản số dân công dự trữ lên đến 30.000 người).

2. Lương thực
Gạo: từ trung tuyến trở ra: 4.200 tấn, chưa kể số gạo phải huy động cho dân công của Hội đồng cung cấp mặt trận.

Trong số 4.200 tấn gạo trên đây, sẽ tận dụng khả năng ở địa phương Tây Bắc, còn lại sẽ lấy ở Phú Thọ và ở Thanh Hoá, và đề nghị Trung Quốc giúp một số, từ phía bắc Lai Châu đưa xuống. Con số hiện chưa tính cụ thể.
- Lương thực: cần 100 tấn rau khô, 100 tấn thịt, 80 tấn muối, 12 tấn đường, tất cả các thứ này chủ yếu sẽ đưa từ Thanh Hoá lên.

- Đạn dược: nhu cầu độ 300 tấn, nhưng chỉ cần vận chuyển ra hoả tuyến trên 170 tấn. Số này có thể rút xuống vì có thể dùng một phần đạn dược lấy của địch trong đợt I và một phần của ta còn lại.

Những con số về nhu cầu trên đây đã được tính toán tương đối kỹ nhưng còn đang tiếp tục tính lại nữa.

IV - Kế hoạch đường sá và vận chuyển

1. Đường sá

Vấn đề làm đường và sửa đường là vấn đề quan trọng nhất trong các công tác chuẩn bị cho chiến dịch, nhưng hiện nay tình hình các con đường cần thiết cho kế hoạch còn nghiêm trọng:

a) Đường số 13 từ Yên Bái đi Tạ Khoa tuy nói là hoàn thành từ đầu tháng 11 và sau đó chỉ tu bổ nhưng thực tế thì đường chưa đúng tiêu chuẩn cho xe kéo pháo chạy như nhiều quãng đường cong còn dưới 15 mét, xe kéo pháo không thể đi được, hoặc từ kilômet 50 đến kilômet 70 còn nhiều đoạn lầy, có đoạn dài đến 1 kilômet, xe đi một giờ chỉ có hơn 5 kilômet. Số dân công để tu bổ cho đường đến cuối tháng 11 số lượng chỉ được bảy phần trăm số nhu cầu.

b) Đường số 41: Từ Mộc Châu đi Lai Châu nguyên là đường làm cho xe vận tải chạy, lại có nhiều đoạn hiểm trở, hiện nay muốn cho xe kéo pháo đi được thì phải sửa chữa lại rất nhiều, nhưng số dân công hiện nay cần thiết để tu bổ thường xuyên thì rất thiếu.

c) Theo sự phân công giữa Bộ Công chính và công binh thì đến đầu tháng 12, Bộ Công chính phụ trách hẳn đường số 13 đến Cò Nòi và đường 41 thì phụ trách đến Sơn La. Công binh phụ trách đường 41 từ Sơn La trở lên, sau khi đã sửa chữa xong đoạn đường từ Cò Nòi đi Sơn La.

Nhưng đến nay, sự phân công đó vẫn chưa thực hiện, công binh vẫn phải còn để lại một tiểu đoàn để tiếp tục tu bổ đường Tạ Khoa đi Cò Nòi để bảo đảm cho kế hoạch vận chuyển cho chiến dịch.

d) Đoạn đường từ Tuần Giáo đi Điện Biên Phủ đã lâu năm khống dùng đến, hiện hư hỏng rất nhiều, công binh bắt đầu sửa chữa nhưng cũng phải mất thời gian lâu vì đường dài và xấu (84 kilômét) có nhiều đoạn lở lâu ngày, mặt đường chỉ còn một thước.

Muốn bảo đảm sự thực hiện quyết tâm của Trung ương là giải phóng Lai Châu - Phong Xalỳ, vấn đề mấu chốt hiện nay trong công tác chuẩn bị là vấn đề đường sá. Cần phải tập trung khả năng và có kế hoạch cụ thể để tích cực giải quyết ngay từ bây giờ, chậm lắm là đến cuối tháng giêng năm 1954, cần phải bảo đảm cho xe kéo pháo chạy được. Nếu những đường nói trên không gấp rút sửa chữa thì việc chuẩn bị cung cấp không thể làm đúng theo kế hoạch đã định, và xe kéo pháo không chạy được thì kế hoạch tác chiến cũng không thể thực hiện được.

2. Phương tiện vận chuyển

Để bảo đảm việc chuẩn bị cung cấp kịp thời chủ yếu là phải dùng xe để vận chuyển gạo và đạn dược từ Yên Bái và từ Mộc Châu ra đến hoả tuyến.

Tổng số xe cần có 176 chiếc. Số xăng cần dùng là 2.250 phuy, chưa kể xăng cho pháo và cao xạ phải vận chuyển đi và về khoảng 1.000 kilômét cần đến 510 phuy.

Ngoài ra còn phải huy động thêm độ 3.000 xe đạp.

Như trên đã nói, căn cứ vào tình hình địch và binh lực sử dụng, và nhu cầu nhân, vật lực và giao thông vận chuyển, chiến dịch này là một chiến dịch rất lớn từ trước đến nay, ta có nhiều điều kiện thuận lợi để thực hiện chủ trương của Trung ương, nhưng đồng thời cũng có nhiều khó khăn, khó khăn lớn nhất vẫn là vấn đề cung cấp, mà chủ yếu là vấn đề đường sá. Chúng ta cần phải tập trung lực lượng, tích cực chuẩn bị thì mới bảo đảm được thắng lợi cho chiến dịch.

Để công việc chuẩn bị có thể tiến hành kịp thời, chúng tôi đề nghị Bộ Chính trị:

1. Thông qua mấy vấn đề trên về nguyên tắc.

2. Chỉ thị cho Hội đồng cung cấp tiền phương và các khu phải tập trung lực lượng vào việc chuẩn bị, phải xúc tiến ráo riết kế hoạch đường sá và kế hoạch động viên nhân, vật lực.

3. Về đường sá thì theo như đã phân công giữa Bộ Giao thông công chính và công binh, Bộ Giao thông công chính cần phụ trách bảo đảm đường sá đến Sơn La, để công binh có thể tập trung sửa chữa từ Sơn La trở lên và con đường từ Tuần Giáo đi Điện Biên.
____________________________________
1. Nguồn: Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1984, tr. 29-30.
2. Nguồn: Sđd, tr. 73-78.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Chín, 2016, 11:13:11 am

93. Nội dung chính Nghị quyết của Bộ Chính trị ngày 19 tháng 4 năm 1954 về tiếp tục thấu triệt phương châm đánh chắc, tiến chắc, đề cao quyết tâm tích cực giành toàn thắng cho Chiến dịch Điện Biên Phủ?1

1. Hai đợt tấn công của quân ta ở Mặt trận Điện Biên Phủ đều thắng lợi, tiêu diệt hơn 2/5 sinh lực địch, chiếm lĩnh những cao điểm ở phía bắc và hầu hết những cao điểm ở phía đông khu Mường Thanh, đánh chiếm sân bay và bắt đầu hạn chế tiếp tế của địch, tạo những điều kiện căn bản cho quân ta hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ.

Những thắng lợi đó chứng tỏ sự chỉ đạo đúng của Trung ương và sự trưởng thành của quân đội. Trung ương rất vui mừng nhận thấy các cấp ủy, các đảng viên, các cán bộ của chúng ta đã cố gắng và tiến bộ nhiều...

Nhưng vì cán bộ ta mắc nhiều khuyết điểm: chủ quan khinh địch, chủ quan tự mãn, còn ngại thương vong mỏi mệt, tinh thần trách nhiệm không đầy đủ, tác phong quan liêu đại khái còn phổ biến; nguyên nhân chủ yếu là vì tư tưởng hữu khuynh còn nghiêm trọng. Vì vậy cho nên đã gây nên ít nhiều tổn thất không cần thiết và hạn chế thắng lợi của ta một phần.

2. Chiến dịch Điện Biên Phủ đối với tình hình quân sự và chính trị ở Đông Dương, đối với sự trưởng thành của quân đội ta, cũng như đối với công cuộc bảo vệ hòa bình thế giới có một ý nghĩa rất quan trọng, nhất là trong lúc Hội nghị Giơnevơ sắp họp. Bởi vậy ta phải kiên quyết giành toàn thắng cho chiến dịch này. Các cấp ủy, các đảng viên và toàn thể cán bộ phải:

a. Nhận rõ những thắng lợi của hai đợt tấn công của quân ta vừa qua, nhận rõ những khả năng của quân đội và nhân dân ta hiện nay có đủ điều kiện tiêu diệt toàn bộ quân địch, đồng thời nhận rõ những khó khăn của ta về tư tưởng, về tác chiến, về cung cấp.

Những khó khăn đó một phần do địch gây nên vì địch nhận rõ chiến dịch này có quan hệ đối với toàn bộ cục diện chiến tranh xâm lược của chúng và được Mỹ giúp đỡ, chúng còn cố sống, cố chết chống giữ. Nhưng đó là những khó khăn ta hoàn toàn có khả năng khắc phục được.

b. Ra sức khắc phục tư tưởng hữu khuynh, củng cố và đề cao quyết tâm, đề cao tinh thần trách nhiệm trước nhân dân, quân đội và Đảng, kiên quyết sửa chữa những khuyết điểm vừa qua, tiếp tục thấu triệt phương châm đánh chắc, tiến chắc, đồng thời tích cực tranh thủ thời gian, triệt để chấp hành mệnh lệnh vượt qua mọi khó khăn gian khổ, hoàn thành nhiệm vụ, giành toàn thắng cho chiến dịch này.

3. Toàn dân, toàn Đảng và Chính phủ nhất định đem toàn lực chi viện Chiến dịch Điện Biên Phủ và nhất định làm mọi việc cần thiết để giành toàn thắng cho chiến dịch này.

Toàn thể cán bộ và đảng viên ở các đơn vị và cơ quan, ở Mặt trận Điện Biên Phủ phải nhận rõ vinh dự và trách nhiệm nặng nề trong Chiến dịch lịch sử này, đồng thời làm cho toàn thể chiến sĩ thấu triệt quyết tâm của Trung ương, tích cực phát huy tinh thần chiến đấu anh dũng và chịu đựng gian khổ, giành toàn thắng cho Chiến dịch.

94. Nghị quyết của Bộ Chính trị ngày 19 tháng 4 năm 1954 về việc tiếp tục quán triệt phương châm “đánh nhỏ ăn chắc” và phối hợp chặt chẽ với mặt trận Điện Biên Phủ?2

Các chiến trường toàn quốc phải tiếp tục quán triệt phương châm "đánh nhỏ ăn chắc" và liên tục hoạt động trong một thời gian dài để phối hợp chặt chẽ với Mặt trận Điện Biên Phủ.

1. Ở Mặt trận Điện Biên Phủ quân ta đã mở hai đợt tấn công thắng lợi, đã tiêu diệt hơn 5.000 quân địch, chiếm hầu hết những vị trí ở xung quanh và ở sát khu trung tâm tập đoàn cứ điểm của địch. Quân ta hiện đang chuẩn bị hoàn thành nhiệm vụ của Chiến dịch. Để thu được toàn thắng, quân ta phải thực hiện phương châm "đánh chắc, tiến chắc". Bởi vậy để kết thúc Chiến dịch thắng lợi, còn phải một thời gian.

2. Để tranh thủ tiêu diệt và tiêu hao thêm nhiều sinh lực địch hơn nữa ở các chiến trường và phối hợp chặt chẽ với Mặt trận Điện Biên Phủ, các chiến trường toàn quốc phải ra sức đẩy mạnh hoạt động một cách liên tục trong một thời gian dài, và phải quán triệt phương châm "đánh nhỏ ăn chắc". Phải triệt để lợi dụng sơ hở và khó khăn của địch mà mở rộng chiến tranh du kích, triệt phá những đường giao thông vận tải quan trọng và những kho tàng của địch.

3. Các cấp ủy phải có kế hoạch hoạt động cụ thể và phải kiểm tra đôn đốc chặt chẽ để thi hành Nghị quyết này.
___________________________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t. 15, tr. 87-89.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd, t. 15, tr. 90-91.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Chín, 2016, 11:17:02 am

95. Nội dung chính thư của Ban Bí thư gửi Đại tướng Võ Nguyên Giáp ngày 21 tháng 4 năm 1954?1

1. Ngày 19-4-1954, Bộ Chính trị đã họp nghe anh Hoàng Tùng báo cáo về đợt tấn công thứ hai và kế hoạch chuẩn bị tác chiến hiện nay. Bộ Chính trị đồng ý với nhận định của anh về kết quả hai đợt tấn công của quân ta vừa qua và kế hoạch chuẩn bị hiện nay. Bộ Chính trị nhắc anh chú ý mấy điểm: vì địch cũng nhận rõ sự quan trọng của trận này, nhất là bọn can thiệp Mỹ ra sức thúc đẩy, nên chúng tiếp tục cố gắng đối phó. Chúng có thể:

- Rút kinh nghiệm chống giữ đồi A mà tổ chức chống giữ ở khu trung tâm;

- Tập trung hơn nữa máy bay và trọng pháo phá trận địa ta;

- Ra sức phá hoại đường tiếp tế của ta một cách có trọng điểm.

Mục đích của chúng là cố giữ đến mùa mưa, cho rằng lúc đó quân ta phải rút vì không khắc phục được những khó khăn về cung cấp.

Và nếu chúng tập trung được đủ máy bay và quân nhảy dù thì khi cần, chúng có thể nhảy dù ở sau trận địa ta hoặc ở một điểm nào có thể giữ trên tuyến cung cấp của ta hòng cứu nguy cho chúng.

Nhiệm vụ trước mắt của ta là một mặt củng cố quyết tâm giành toàn thắng của quân đội, nhất là của cán bộ các cấp, nắm vững phương châm "đánh chắc, tiến chắc"; mặt khác đảm bảo cung cấp cho tiền tuyến.

Bộ Chính trị đã đôn đốc Hội đồng cung cấp và các khu, các tỉnh thực hiện cho được việc động viên nhân lực, vật lực phục vụ chiến dịch. Đã phái anh Trân đi mặt trận, anh Dũng đi khu IV, anh Thao (tức Thanh) đi Việt Bắc để kiểm tra, đôn đốc. Ở nhà anh Lương lo đôn đốc chung. Anh nhớ báo cáo hàng ngày về Trung ương kết quả việc vận chuyển lương thực và đạn dược lên hỏa tuyến.

2. Bộ Chính trị cũng đồng ý với kế hoạch xây dựng quân đội theo ý kiến bạn và ý kiến các anh. Đã giao anh Thanh, anh Dũng thi hành ngay những việc cần thiết, đồng thời cùng nghiên cứu thêm một vài vấn đề có liên quan.

3. Bộ Chính trị có Nghị quyết vắn tắt kèm theo đây2 để anh phổ biến cho toàn thể cán bộ và đảng viên nhận rõ quyết tâm của Trung ương Đảng ra sức hoàn thành nhiệm vụ. Trước khi phổ biến, anh em cần thêm bớt gì thì cứ sửa rồi phổ biến, và điện về cho biết.
___________________________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd, t. 15, tr. 92-93.
2. Nghị quyết của Bộ Chính trị ngày 19 tháng 4 năm 1954.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Chín, 2016, 11:18:34 am

96. Nội dung chính Thông báo đặc biệt của Bộ Tổng Tư lệnh ngày 8 tháng 5 năm 19541

Đúng 22 giờ ngày 7 tháng 5, quân ta đã tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ. Chiến dịch Điện Biên Phủ vĩ đại đã thu được toàn thắng.

Bộ Tổng tư lệnh báo tin chính thức cho toàn thể cán bộ và chiến sĩ, toàn thể các đơn vị, toàn thể các binh chủng, toàn thể các cơ quan và các ngành, toàn thể các anh chị em dân công và thanh niên xung phong đang phục vụ trên mặt trận Điện Biên Phủ, toàn thể đồng bào Tây Bắc:

Đêm mồng 6 tháng 5, lúc 21 giờ, quân ta đã chia làm nhiều cánh, mở cuộc đại tấn công vào Điện Biên Phủ. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng anh dũng và dữ dội suốt đêm mồng 6. Đến trước sáng ngày mồng 7 tháng 5 thì quân ta đã hoàn toàn làm chủ ngọn đồi số 5 (tức là đồi A1) là ngọn đồi kiên cố và xung yếu nhất của địch ở đông nam Mường Thanh trực tiếp án ngữ cho khu chỉ huy của chúng ở phía tây nam, ta đã đánh chiếm vị trí Nà - noọng cách cơ quan chỉ huy của địch không đầy 300 thước.

Cuộc tấn công của quân ta tiếp tục suốt ngày mồng 7. Đến 9 giờ 30 thì quân ta tiêu diệt trên một tiểu đoàn quân dù ở trên ngọn đồi Yên Ngựa, tức là đồi Châu Ún, đồng thời đánh chiếm một vị trí ở chân đồi về phía sông Mường Thanh.

Cuộc tấn công của ta luôn luôn có trọng pháo và cao xạ pháo yểm hộ rất đắc lực, tiếp tục suốt buổi chiều ngày mồng 7. Một cánh quân của ta từ phía đông bắc đánh vào những vị trí còn lại của địch ở giáp cầu Mường Thanh, trong khi các hướng khác quân ta tiếp tục công kích địch.

Vào khoảng 15 giờ 30 thì những vị trí cuối cùng của địch án ngữ cầu Mường Thanh bị tiêu diệt. Số còn lại kéo cờ trắng ra hàng. Trong khi đó, trọng pháo của ta không ngớt bắn phá các lôcốt và công sự của địch, không ngớt bắn chặn bọn địch ở bên này sông bỏ chạy trốn về Mường Thanh. Đến 16 giờ, quân ta thừa thắng mãnh liệt vượt qua sông Mường Thanh phát triển ngay vào giữa các vị trí còn lại của địch, đánh thẳng vào cơ quan tư lệnh của địch, trong khi cánh quân ở phía tây của ta tấn công vào khu trọng pháo.

Đúng 16 giờ 20 ngày 7 tháng 5, quân ta bắt sống toàn bộ cơ quan tư lệnh của địch trong đó có tên Thiếu tướng Đờ Cát (De Castries). Ngay lúc đó quân ta từ các mặt tiến thẳng vào Mường Thanh; sự chống cự của địch hoàn toàn bị tê liệt. Hàng nghìn quân địch ở 27 cứ điểm còn lại hoảng loạn kéo cờ trắng ra hàng. 17 giờ ngày mồng 7 tháng 5, bộ đội ta đã được lệnh chiếm đóng khu Mường Thanh.

Ở phân khu miền Nam (Hồng Cúm), lúc 19 giờ, gần hai nghìn quân địch hoảng hốt tìm cách chạy trốn. Bộ đội ta lập tức truy kích. Đến 22 giờ thì tiêu diệt toàn bộ quân địch, kể cả tên quan năm chỉ huy Hồng Cúm.

Bộ Tổng tư lệnh chính thức công bố tin chiến thắng vĩ đại của quân ta. Sau 5 tháng bao vây và gần 2 tháng tấn công vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, quân đội nhân dân anh dũng của chúng ta đã tiêu diệt 17 tiểu đoàn bộ binh tinh nhuệ của địch, tổng cộng trên dưới 1 vạn 5 nghìn tên, phá huỷ và bắn rơi 57 máy bay địch, thu được một thắng lợi vĩ đại xưa nay chưa từng có trong lịch sử kháng chiến của quân dân ta.

Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ ngày nay đã toàn thắng, thực hiện được quyết tâm của Trung ương, Chính phủ và Hồ Chủ tịch.

Bộ Tổng tư lệnh nêu cao công trạng của bộ đội, dân công, nhân dân ta trong chiến dịch lịch sử này và kêu gọi toàn thể các cán bộ và chiến sĩ, các anh chị em dân công trong khi vui mừng phấn khởi, phải tiếp tục và tích cực tiến hành nhiệm vụ của mình để củng cố thắng lợi to lớn của chúng ta.

Ngày 8 tháng 5 năm 1954
BỘ TỔNG TƯ LỆNH
_______________________________________
1. Nguồn: Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1984, tr. 133-135.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Chín, 2016, 11:23:54 am

97. Nội dung chính thư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam gửi các cấp uỷ và cán bộ, chiến sĩ tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ ngày 11 tháng 5 năm 1954?1

1. Chiến thắng Điện Biên Phủ là một chiến thắng rất lớn của quân và dân ta từ trưóc đến nay:

- Nó là một thắng lợi lớn về tiêu diệt sinh lực địch, tiêu diệt một tập đoàn cứ điểm mạnh của địch.

- Nó là một thắng lợi lớn của ta trong việc hoàn thành nhiệm vụ giải phóng vùng chiến lược Tây Bắc.

- Nó có tác dụng lớn trong việc góp phần đảm bảo thắng lợi cho một bước quan trọng của cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ của ta và tạo điều kiện cho ta giành nhiều thắng lợi lớn hơn nữa.

Chiến thắng Điện Biên Phủ là một đòn mạnh đánh vào đầu bọn thực dân hiếu chiến Pháp và can thiệp Mỹ hiện đang âm mưu kéo dài và mở rộng chiến tranh Đông Dương, phá hoại Hội nghị Giơnevơ hòng làm cho Hội nghị này không đạt được kết quả tốt.

Chiến thắng Điện Biên Phủ của ta cũng là một thất bại không thể cứu vãn của kế hoạch Nava, đồng thời là một thất bại không thể cứu vãn của mưu mô lập xứ Thái tự trị giả dối của bọn đế quốc xâm lược.

Ý nghĩa thắng lợi Điện Biên Phủ rất to lớn.

2. Chúng ta đã thắng lợi lớn là vì:

a. Có sự lãnh đạo sáng suốt của Trung ương Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ tịch, Tổng Quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh đã chỉ huy kiên quyết vững vàng và chính xác.

b. Bộ đội trên Mặt trận Điện Biên Phủ đã quyết tâm tiêu diệt địch, chịu đựng gian khổ, anh dũng chiến đấu. Bộ đội và dân quân du kích trên chiến trường toàn quốc đã tích cực, liên tục hoạt động phối hợp. Cán bộ và chiến sĩ trong và ngoài Đảng đã trên dưới một lòng hoàn thành nhiệm vụ.

c. Nhân dân đã tích cực tham gia kháng chiến, hăng hái phục vụ tiền tuyến, đi dân công.

d. Ta được nhân dân Miên - Lào và nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới tích cực ủng hộ.

98. Nội dung chính Chỉ thị của Ban Bí thư ngày 11 tháng 5 năm 1954 về việc tổ chức cuộc tuyên truyền động viên mở rộng thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ?2

I. Thành tích và ý nghĩa thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ

1. Từ cuối năm ngoái đến nay, quân dân ta đã thu được những thắng lợi chưa từng có từ ngày bắt đầu kháng chiến đến nay. Ở các chiến trường toàn quốc và chiến trường Lào - Miên, Đông - Xuân này đã tiêu diệt trên 60.000 quân địch, giải phóng nhiều khu vực rộng lớn và quan trọng. Nhiều chiến trường mọi năm hoạt động bình thường, năm nay đã tiến bộ như Khu V, Nam Bộ, cũng như Trung - Hạ Lào. Đồng bằng Bắc Bộ tiến nhiều về mở rộng chiến tranh du kích liên tục. Những trận đánh vào trường bay Cát Bi, Gia Lâm và những trận đánh vào Nha Trang, Đồ Sơn, thị xã Nam Định cũng là những chiến công có giá trị. Nhưng thắng lợi lớn nhất, vang dội nhất là chiến thắng vĩ đại của ta ở Mặt trận Điện Biên Phủ, tiêu diệt toàn bộ quân địch, gồm hơn 16.000 quân tinh nhuệ, tiêu diệt hoàn toàn một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của địch ở Đông Dương.

2. Thất bại thảm hại của địch ở Điện Biên Phủ cũng như ở các chiến trường khác là một thất bại chiến lược, vì giữa lúc đế quốc Pháp - Mỹ đẩy mạnh chiến tranh mưu giành lại thế chủ động thì kế hoạch của chúng đã bị ta phá tan. Kế hoạch Nava bị thất bại về căn bản.

3. Đại thắng của ta ở Điện Biên Phủ và Đông - Xuân năm nay là một thắng lợi lịch sử của quân dân ta, vì:

1- Thắng lợi này chứng tỏ quân ta tiến một bước vượt bậc về mặt chiến thuật, kỹ thuật, chỉ huy tác chiến và xây dựng quân đội vì trận Điện Biên Phủ là một trận công kiên lớn chưa từng có trong lịch sử kháng chiến từ trước đến nay đã kết thúc bằng sự toàn thắng của ta.

2- Thắng lợi này cũng chứng tỏ sức cố gắng phi thường của nhân dân ta và Đảng ta về phục vụ tiền tuyến. Nó cũng chứng tỏ tổ chức phục vụ tiền tuyến của ta đã tiến bộ nhiều để đáp ứng với cuộc chiến tranh quy mô lớn và đang bắt đầu hiện đại hóa.

3- Chiến thắng ở Điện Biên Phủ cũng như ở các chiến trường toàn quốc năm nay chứng tỏ không những bộ đội chủ lực của ta tiến bộ lớn, mà bộ đội địa phương, dân quân du kích trên các chiến trường cũng tiến bộ nhiều. Từ trước đến nay chưa lúc nào, quân ta phối hợp tác chiến rộng khắp và liên tục và thu nhiều thắng lợi như hiện nay, không những ở Việt Nam mà ở cả Lào - Miên.

4- Thắng lợi ở Điện Biên Phủ và ở chiến trường toàn quốc chứng tỏ quân ta có một tinh thần anh dũng chịu đựng gian khổ phi thường, dân ta có sự cố gắng vượt bậc.

Chiến thắng ở Điện Biên Phủ và ở các chiến trường toàn quốc có tác dụng rất lớn trong công cuộc đấu tranh giành độc lập, thống nhất, dân chủ, hòa bình của nhân dân Việt Nam, cũng như của nhân dân Miên - Lào, đồng thời góp phần đắc lực vào việc bảo vệ hòa bình thế giới. Thắng lợi lớn này sẽ gây đà phấn khởi và tạo nhiều điều kiện cho ta thu nhiều thắng lợi mới.
__________________________________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t. 15, tr. 96-97.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd, t. 15, tr. 99-101.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Chín, 2016, 11:30:11 am

IX
NHỮNG CON SỐ VÀ SỰ KIỆN CÓ LIÊN QUAN

NƯỚC PHÁP TRONG THỜI GIAN DIỄN RA CHIẾN TRANH ĐÔNG DƯƠNG1


99. Trong thời gian tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam và Đông Dương (1945-1954), nước Pháp đã trải qua bao nhiêu đời thủ tướng?

1. Charles De Gaulle (Từ tháng 8-1944 tới tháng 1-1946)
2. Felix Gouin (Từ tháng 1-1946 tới tháng 6-1946)
3. Georges Bidault (Từ tháng 6-1946 tới tháng 11-1946)
4. Léon Blum (Từ tháng 12-1946 tới tháng 1-1947)
5. Paul Ramadier (Từ tháng 1-1947 tới tháng 11-1947)
6. Maurice Schuman (Từ tháng 11-1947 tới tháng 7-1948)
7. André Marie (Từ tháng 7-1948 tới tháng 8-1948)
8. Maurice Schuman (Từ tháng 8-1948 tới tháng 1-1949)
9. Henri Queuille (Từ tháng 1-1949 tới đầu tháng 10-1949)
10. Jules Moch (Từ ngày 5-10-1949 tới ngày 17-10-1949)
11. René Mayer (Từ ngày 17-10-1949 tới ngày 24-10-1949)
12. Georges Bidault (Từ tháng 10-1949 tới tháng 6-1950)
13. Réne Pleven (Từ tháng 6-1950 tới tháng 2-1951)
14. Henri Queuille (Từ tháng 2-1951 tới tháng 7-1951)
15. René Pleven (Từ tháng 8-1951 tới đầu tháng 2-1952)
16. Felix Faure (Từ ngày 7-2-1952 tới ngày 27-2-1952)
17. Antoine Pinay (Từ tháng 3-1952 tới tháng 5-1953)
18. René Mayer (Từ tháng 5-1953 tới tháng 6-1953)
19. Joseph Laniel (Từ tháng 6-1953 tới tháng 6-1954)
20. Mendès France (Từ tháng 6-1954 tới tháng 2-1955)

100. Những thủ tướng nào cầm quyền trong thời gian ngắn nhất?

René Mayer, lần thứ nhất vào năm 1949: 7 ngày
Jules Moch: 12 ngày (1949)

101. Những ai giữ chức vụ thủ tướng hai lần trong những năm 1945-1954?

- Maurice Schuman (nhậm chức vào tháng 11 năm 1947 và tháng 8 năm 1948)
- René Mayer (nhậm chức vào tháng 10 năm 1949 và tháng 5 năm 1953)
- Georges Bidault (nhậm chức vào tháng 6 năm 1946 và tháng 10 năm 1949)
- Henri Queuille (nhậm chức vào tháng 1 năm 1949 và tháng 2 năm 1951)
- René Pleven (nhậm chức vào tháng 6 năm 1950 và tháng 8 năm 1951)

102. Những năm nào có số lần thay đổi thủ tướng nhiều nhất?

- Năm 1946: ba lần
- Năm 1949: bốn lần

103. Trong thời gian 1945-1954, Pháp đã thay bao nhiêu Cao ủy Pháp ở Đông Dương? Đó là những ai?

Chính phủ Pháp đã thay đổi bảy Cao ủy ở Đông Dương trong những năm 1945-1954.
- Th. D'Argenlieu, nhậm chức tháng 8 năm 1945.
- E. Bollaert (nhậm chức tháng 3 năm 1947)
- L. Pignon (nhậm chức tháng 9 năm 1948)
- J. Delattre De Tassigny (nhậm chức tháng 12 năm 1950)
- J. Letourneau (nhậm ọhức tháng 12 năm 1951)
- M. De Jean (nhậm chức tháng 6 năm 1953)
- Paul Ély (nhậm chức tháng 6 năm 1954).

104. Từ năm 1945 đến năm 1954, Pháp đã thay bao nhiêu Tổng chỉ huy đội quân viễn chinh ở Đông Dương? Đó là những ai?

Chính phủ Pháp đã thay 8 Tổng chỉ huy đội quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương trong những năm 1945-1954.
- Ph. Leclerc (nhậm chức tháng 8 năm 1945)
- E. Valluy (nhậm chức tháng 7 năm 1946)
- H. Blaizot (nhậm chức tháng 5 năm 1948)
- M. Carpentier (nhậm chức tháng 9 năm 1949)
- J. Delattre De Tassigny (nhậm chức tháng 12 năm 1950)
- R. Salan (nhậm chức tháng 12 năm 1951)
- H. Navarre (nhậm chức tháng 5 năm 1953)
- Paul Ély (nhậm chức tháng 6 năm 1954).

105. Những ai là Cao ủy Pháp kiêm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương?

Jean Delattre De Tassigny: 1950
Paul Ély: 1954
_______________________________________
1. Nguồn: Ban chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bô Chính trị, Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp: Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Chín, 2016, 12:45:53 pm

MỘT VÀI CON SỐ...

106. Tổng số quân của Pháp trên chiến trường Đông Dương trong các năm từ 1945 đến 1954 là bao nhiêu?1

Năm  Tổng số Trong đó
  Lính Âu PhiLính ngụy
1945  32.000 27.0005.000
1946  90.000 65.00025.000
1947  128.000 85.00043.000
1948  160.000 85.00075.000
1949  210.000 114.00096.000
1950  239.000 117.000122.000
1951  338.000 128.000210.000
1952  378.000 130.000319.000
1953  465.000 146.000319.000
1954  444.000 124.600320.300
   

107. Tổng chi phí hàng năm của Pháp trên chiến trường Đông Dương là bao nhiêu?2

   Năm    Tổng số chi phí
   1945   3,2 tỷ frăng
   1946   27 tỷ frăng
   1947   53,3 tỷ frăng
   1948   89,7 tỷ frăng
   1949   138,2 tỷ frăng
   1950   266,5 tỷ frăng
   1951   384,8 tỷ frăng
   1952   565 tỷ frăng
   1953   650 tỷ frăng
   1954   751 tỷ frăng
   Tổng cộng:   2.928,7 tỷ frăng

108. Có bao nhiêu dân công tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ? Họ đã thực hiện bao nhiêu ngày công? Cung cấp được bao nhiêu lương thực, thực phẩm?

Ta đã huy động được 261.451 dân công miền ngược, miền xuôi với 18.301.570 ngày công tham gia phục vụ chiến dịch, cung cấp 25.056 tấn gạo, 907 tấn thịt và hàng nghìn tấn thực phẩm khác cho mặt trận Điện Biên Phủ.

109. Có bao nhiêu ôtô vận tải, bao nhiêu thuyền, xe đạp thồ, ngựa thồ được đưa ra mặt trận?

Có 628 ôtô vận tải, 11.800 thuyền (gồm canô, thuyền buồm, thuyền độc mộc đến bè mảng), 20.991 xe đạp thồ, 500 ngựa thồ và hàng nghìn xe trâu bò thồ được huy động phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ.
_________________________________________
1, 2. Nguồn: Ban chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị, Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp - Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Chín, 2016, 12:54:13 pm

MỘT SỐ NHÂN VẬT...

110. Khi dây tời kéo pháo bị đứt, ai đã dũng cảm hy sinh thân mình chèn pháo bảo vệ pháo an toàn đêm mùng 1 tháng 2 năm 1954?

Đó là đồng chí Tô Vĩnh Diện. Với sự hy sinh dũng cảm này, đồng chí đã được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

111. Ai đã lấy thân mình lấp lỗ châu mai tạo điều kiện cho đồng đội tiến sâu vào sào huyệt của địch?

Đó là chiến sĩ Phan Đình Giót. Anh đã hy sinh anh dũng tại cứ điểm Him Lam, ngày 13 tháng 3 năm 1954, khi quân ta mở đợt tấn công thứ nhất vào các căn cứ điểm vòng ngoài của địch ở phía bắc và đông bắc.

112. “Những đồng chí thân chôn làm giá súng” trong bài thơ “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên” của Tố Hữu và sau này còn có một bài hát của Huy Du ca ngợi tấm gương hy sinh anh dũng của anh? Đó là ai? Và bài hát đó có tựa đề là gì?

Chiến sĩ liên lạc Bế Văn Đàn. Bài hát đó có tên là Bế Văn Đàn sống mãi.

113. Hoạ sĩ nào đã hy sinh trên đường ra mặt trận Điện Biên Phủ?

Hoạ sĩ Tô Ngọc Vân.

114. Trong trận Tà Lèng (phía đông Điện Biên Phủ), ai đã dùng lưỡi lê diệt năm tên địch và được truy tặng danh hiệu “Dũng sĩ đâm lê”?

Chiến sĩ Hoàng Văn Nô, Đại đoàn 316.

115. Khi phá thác trên dòng suối Nậm Na để khơi thông dòng chảy cho thuyền chở gạo, có một cán bộ tiểu đội công binh đã dũng cảm ôm những gói bộc phá nặng mấy kg có đầu dây cháy chậm đã được điểm hoả, lặn xuống sông đặt vào hộc đá để phá đá. Người cán bộ đó là ai?

Đó là đồng chí Phan Tư, thuộc Đại đội 555, Cục Công binh. Với thành tích này, đồng chí Phan Tư đã được phong danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

116. Chiến sĩ điện thanh nào đã được tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân?

Đó là chiến sĩ điện thanh Chu Văn Mùi. Khi được tuyên dương Anh hùng, Chu Văn Mùi là trung đội trưởng thông tin vô tuyến điện thuộc Trung đoàn 102, Đại đoàn 308. Trong trận chiến đấu ác liệt trên đồi A1, khi bị lọt vào giữa vòng vây địch, bị đói nhiều ngày, Chu Văn Mùi vẫn bình tĩnh, dũng cảm, dùng máy liên lạc, hướng dẫn các trận địa pháo ta bắn vào quân địch, bảo vệ thương binh.

117. Chiến sĩ anh nuôi nào được phong danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân trong chiến dịch Điện Biên Phủ?

Anh nuôi Đinh Văn Mẫu. Khi được tuyên dương Anh hùng, Đinh Văn Mẫu đang là tiểu đội trưởng nuôi quân thuộc Trung đoàn 209, Đại đoàn 312. Thành tích của anh trong chiến dịch là khắc phục khó khăn, mưu trí, dũng cảm, vượt qua bom đạn, bảo đảm ăn uống cho bộ đội phòng ngự trên đồi C1, D1, D2.

118. Những cán bộ, chiến sĩ nào được phong tặng và truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân trong chiến dịch Điện Biên Phủ?

Liệt sĩ Phan Đình Giót
Liệt sĩ Tô Vĩnh Diện
Liệt sĩ Trần Can
Nguyễn Văn Ty
Lê Văn Trọng
Chu Văn Mùi
Phan Tư
Phùng Văn Khầu
Bùi Đình Cự
Đặng Đình Hồ
Trần Đình Hùng
Đinh Văn Mẫu
Đặng Đức Song
Lưu Viết Thoảng
Dương Quảng Châu (tức Dương Ngọc Chiến)
Nguyễn Văn Thuần.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Chín, 2016, 12:54:48 pm

119. Năm chiến sĩ Điện Biên về báo công lên Trung ương Đảng và Chính phủ là những ai?

1. Lê Thế Nhận - Đại đội trưởng 397, Tiểu đoàn 89, Trung đoàn 36, Đại đoàn 308;
2. Bạch Ngọc Giáp - Trung đội trưởng Đại đội 806, Đại đoàn công pháo 351;
3. Hoàng Đăng Vinh - thành viên trong tổ chiến đấu vào hầm bắt sống Đờ Cát;
4. Nguyễn Quang Thuận - pháo thủ số 2 Trung đoàn pháo cao xạ;
5. Nguyễn Dũng - đại diện cho cán bộ chiến sĩ Trung đoàn 57, Đại đoàn 304.

120. Đám cưới của ai đã được tổ chức tại hầm Đờ Cát sau chiến thắng Điện Biên Phủ?

Đó là đám cưới đồng chí Cao Văn Khánh, lúc đó là Đại đoàn phó Đại đoàn quân Tiên Phong (Sư đoàn 308) và đồng chí Nguyễn Phúc Ngọc Toản, lúc đó là nữ quân y thuộc Đội điều trị số 2 thuộc Cục Quân y. Đám cưới được diễn ra vào chiều ngày 22 tháng 5 năm 1954.

121. Người sĩ quan Pháp cuối cùng rời khỏi Điện Biên Phủ là ai? Lúc đó ông ta đang làm nhiệm vụ gì?

Grôvanh. Lúc đó ông ta là thiếu tá quân y của quân đội Pháp tại chiến trường Điện Biên Phủ. Sau khi ra hàng, ông được lệnh của Bộ chỉ huy mặt trận ở lại để chăm sóc các thương, bệnh binh Pháp.

122. Người thuỷ thủ nào đã cùng các đồng chí của mình vận động một phong trào phản chiến dữ dội trong lính hải quân Pháp và trong công nhân bốc dỡ hàng quân sự ở cảng Mác xây, sau đó trở thành người lãnh đạo có uy tín của phong trào công đoàn, được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Pháp?

Đó là Hăngri Máctanh. Sau này ông trở thành người phụ trách cơ quan phát hành báo L ’ Humanité.

123. Người nữ thanh niên Pháp nào đã nằm trên đường ray để ngăn chặn những chuyến tàu chở lính và vũ khí sang Việt Nam để phản đối cuộc chiến tranh Đông Dương của nhà cầm quyền Pháp?

Đó là Ray mông Điêng. Chị đã sang thăm Việt Nam nhiều lần.

124. Một nhà điện ảnh nổi tiếng của Liên Xô trước đây và thế giới, khi sang quay phim ở Điện Biên Phủ đã nói: “Cả thế giới đang chú ý đến Điện Biên Phủ. Trong phim của chúng tôi không thể thiếu hình ảnh Điện Biên Phủ được. Nếu chúng tôi có hy sinh, chúng tôi cũng rất vinh dự là những người Xôviết đầu tiên hy sinh cho cách mạng Việt Nam... Ông là ai và bộ phim về Điện Biên Phủ của ông có tựa đề gì?

Đó là Rôman Cácmen (1906-1978). Bộ phim tài liệu của ông về Điện Biên Phủ có tựa đề "Việt Nam trên đường thắng lợi”. Sau tám tháng ở Việt Nam, ông đã viết cuốn sách “Ánh sáng trong rừng sâu”.

125. Ai đã đến Việt Nam và viết những bài báo “nảy lửa ” từ chiến khu Việt Bắc về đăng trên các báo Pháp, góp phần làm cho nhân dân Pháp hiểu rõ thêm về cuộc chiến tranh phi nghĩa, về những thất bại và những chính sách sai lầm của thực dân Pháp ở Đông Dương?

Đó là Lêo Phighe (Léo Figuerre), Uỷ viên Trung ương Đảng Cộng sản Pháp, đại biểu Quốc hội, Tổng Thư ký Tổ chức thanh niên cộng sản Pháp, đồng thời là Phó Chủ tịch Liên đoàn thanh niên dân chủ thế giới. Ông đã đến Việt Nam từ giữa năm 1950 và từng được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh. Để góp phần thúc đẩy phong trào chống chiến tranh của Pháp, Chính phủ Việt Nam đã quyết định trao trả cho Pháp 228 tù binh và nhân viên dân sự Pháp; nhân dịp này Chính phủ ta đã đưa danh sách cho Lêo Phighe về Pháp công bố.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Chín, 2016, 12:56:13 pm

MỘT SỐ KỶ LỤC...

126. Ai lập kỷ lục vác hàng trong chiến dịch Điện Biên Phủ?

Trong một lần chuyển hàng đột xuất, Nguyễn Văn Thành (Vĩnh Phúc) vác được 100kg.

127. Ai lập kỷ lục thồ nhiều nhất trong chiến dịch Điện Biên Phủ?

Đó là anh Ma Văn Thắng (Phú Thọ) đã lập kỷ lục thồ bằng xe đạp được 352 kg, anh Cao Văn Ty (Thanh Hoá) thồ 320 kg một chuyến.

128. Chiến sĩ nào lập được kỷ lục quai búa khi đục đá núi mở đường?

Đó là chiến sĩ Tào Tư thuộc D555. Khi làm nhiệm vụ mở đường Tuần Giáo - Điện Biên, anh đã quai được liên tục 2.800 búa (loại 5kg), trong khi thông thường một người khoẻ chỉ có thể quai được 20 búa đã phải nghỉ lấy sức.

129. Trung đội của anh hùng Phan Tư đã phá được bao nhiêu thác trong chiến dịch Điện Biên Phủ?

99 thác, riêng Phan Tư phá được 9 thác hung dữ nhất.

130. Chiến sĩ nào lập kỷ lục về thành tích đào hầm hào đánh địch?

Đó là chiến sĩ Phạm Viết Nghĩ. Trong cuộc thi đua đào trận địa, trong 18 đêm liền, một mình anh đào được 18 hầm và 110 mét hào dưới làn bom đạn địch.

131. Kỷ lục bắn tỉa trong chiến dịch Điện Biên Phủ thuộc về ai?

Đồng chí Lục Văn Thông ở Trung đoàn 98 đã lập kỷ lục bắn tỉa: một ngày diệt 30 tên địch. Sau đó, phong trào “bắn tỉa” từ bộ binh đã lan sang các binh chủng khác. Phùng Văn Khầu với khẩu sơn pháo 75 trên đồi D1, nhân lúc địch di chuyển trận địa, đã dùng cách bắn tỉa lần lượt diệt bốn khẩu pháo 105 ly của địch.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Chín, 2016, 01:02:51 pm

TẢN MẠN VỀ ĐIỆN BIÊN PHỦ...

132. Về tên gọi Điện Biên Phủ?

Theo các tài liệu còn lưu giữ được từ thời nhà Lý, Mường Thanh là tên gọi đầu tiên của Điện Biên ngày nay.
Đến thời nhà Lê, Mường Thanh được đổi thành Ninh Biên. Ninh Biên có nghĩa là vùng đất biên giới bình yên. Đến năm Thiệu Trị thứ nhất (1841), Ninh Biên được đổi thành Điện Biên. Vua Thiệu Trị còn ra sắc chỉ thay đổi tên gọi ở các địa phương, trong đó có Điện Biên. Các địa danh ông đặt đều theo nghĩa tiếng Hán: Điện Biên Phủ tức là huyện vững vàng ở miền biên ải (Điện = vững vàng; Biên = biên giới; Phủ = huyện hoặc tương đương)1.

133. Trong chiến dịch Thượng Lào, khi đóng quân ở đèo Pa Háng, bộ đội ta đã tìm được một loại rau rất đặc biệt. Đó là rau gì?

Đó là rau cải người Mông trồng để che cho cây thuốc phiện, lá dài đến 70-80 cm, một cây nặng tới gần 1kg. Loại cải này to nên ăn rất nhạt, người Mông không ăn, chỉ dùng để đổi cho bộ đội lấy muối. Nửa kg muối đổi được một gánh rau cải. Còn 1kg muối có thể đổi được số rau cải đủ cho một con ngựa thồ.

134. Các chiến sĩ Điện Biên ngâm giá đỗ bằng cách nào?

Các chiến sĩ Điện Biên “ngâm giá trên vai”, đan sọt, lót lá, cho đỗ vào ngâm nước, gánh theo dọc đường hành quân, tới nơi tập kết là có rau tươi ăn ngay.

135. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, loại vũ khí nào tuy rất thô sơ nhưng đã góp phần quan trọng tạo nên chiến thắng?

Đó là cuốc, xẻng. Các chiến sĩ Điện Biên anh hùng đã dùng cuốc và xẻng âm thầm thâu đêm suốt sáng, liên tục cả tháng trời lao động dưới hoả lực ác liệt của máy bay và pháo binh địch để đào giao thông hào. Các hệ thống giao thông hào trục được đào kiểu “râu tôm” vòng trong vòng ngoài, lớp lớp bủa vây, vừa là trận địa tiến công vừa là trận địa phòng ngự của ta đã đẩy quân địch vào tình thế tuyệt vọng.

136. Bí danh của Trung đoàn pháo cao xạ 37 ly, xe chở đạn và xe kéo pháo là gì?

Trung đoàn pháo cao xạ được gọi là đoàn “Nữ học sinh”. Xe chở đạn được gọi là “nữ học sinh”, còn xe có kéo pháo 37 ly ở phía sau được gọi là “nữ học sinh có đuôi”.

137. Tại sao có những con dốc được gọi là “dốc bảy tời”?

Trong quá trình kéo pháo vàọ Điện Biên Phủ, ta phải đưa pháo vượt qua những con dốc rất cao, nơi đó công binh phải làm đến bảy chiếc tời kế tiếp nhau mới có thể kéo pháo lên. Chính vì vậy, những con dốc đó có tên gọi là “dốc bảy tời”.

138. Tên gọi cuộc vận động bảo vệ sức khỏe bộ đội trong thời gian hành quân?

Cuộc vận động này có tên là “Ba tốt”: ăn tốt - đi tốt - nghỉ tốt nhằm bảo vệ sức khỏe bộ đội trong hành quân, giữ vững quân số tham gia chiến đấu. Nội dung cụ thể bao gồm:

Ăn tốt: Bảo đảm ăn nóng, đủ chất, thực hiện đầy đủ các quy định về vệ sinh ăn uống.

Đi tốt: Đi đúng cung chặng, đúng thời gian, đủ quân số tới đích. Bộ đội hành quân phải bảo đảm được ngâm chân bằng nước ấm hàng đêm, phải xoa bóp bắp thịt hàng ngày, nghỉ giữa chặng hành quân phải khởi động trước khi đi tiếp.

Nghỉ tốt: Bảo đảm giấc ngủ êm ấm, đúng chế độ vệ sinh, phòng bệnh.

Công tác bảo đảm sức khỏe chiến sĩ của chúng ta đã khiến cho kẻ địch bị bất ngờ. Trong hội nghị của Ủy ban liên hiệp đình chiến ở Trung Giã, một viên quan tư thầy thuốc Pháp đã nói với một bác sĩ quân y của ta như sau: “Tôi rất lấy làm lạ là tại sao sống kham khổ hàng mấy tháng ròng như thế mà các ngài vẫn giữ vững được quân số. Trong những ngày chúng tôi bị bao vây, chúng tôi vẫn nuôi một hy vọng sẽ có một trận dịch lớn lan ra trong các đơn vị của ông Võ Nguyên Giáp. Và như thế thì sẽ cứu chúng tôi...”
_______________________________________
1. Xem thêm: Báo Lao động ngày 9 tháng 3 năm 2004. Có nguồn tài liệu khác giải thích Điện là cái hồ cạn. Điện Biên là hồ cạn bình yên. Phủ là đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh, trên cấp huyện (BT).


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Chín, 2016, 01:03:32 pm

139. Công tác chăm sóc thương binh của chúng ta đã được tổ chức hiệu quả như thế nào?

Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, ngành quân y đã cố gắng rất lớn để cứu chữa thương binh kịp thời và hiệu quả. Các đơn vị quân y phấn đấu thực hiện khẩu hiệu “Ba không”: “không để thương binh đau, không để thương binh đói, không để thương binh rét” và “mỗi cáng thương là một gia đình”. Để cứu chữa thương binh kịp thời, tại chiến trường Điện Biên Phủ, bộ đội ta đã xây dựng những bệnh viện trong lòng đất ngay sát chiến tuyến với đầy đủ phòng mổ, hầm chứa thuốc, bông băng và hàng trăm hầm nhỏ cho thương binh ở. Phòng mổ trong lòng đất tối, không có đủ ánh sáng, các chiến sĩ quân y của ta đã có sáng kiến dùng đèn đinamô xe đạp để tạo ra ánh sáng phục vụ cho các ca mổ. Xe đạp được kê lên, một người ngồi trên yên đạp liên tục tạo ra nguồn sáng 6V cho các thầy thuốc làm việc.

140. Điểm nổi bật nhất của liên lạc vô tuyến điện trong chiến dịch Điện Biên Phủ là gì?

Đó là lần đầu tiên có sự tham gia rộng rãi của các điện đài sóng cực ngắn, gọi là điện thanh. Những tổ điện thanh này thường gồm hai chiến sĩ đi theo những mũi xung kích tiến công vào các vị trí chốt của địch, bám chặt các cán bộ chỉ huy chiến đấu khi thọc sâu, luồn vào sau lưng địch chỉ điểm cho pháo bắn.

141. Đồi A1 được coi là “cổ họng của Điện Biên Phủ ” nên Pháp đã xây dựng một hệ thống hầm ngầm rất kiên cố với hàng loạt lô cốt, công sự, giao thông hào để tổ chức phòng ngự. Cứ điểm này có hai tiểu đoàn lính lê dương tinh nhuệ đóng. Vậy ai đã mang được khối bộc phá một nghìn cân đánh vào đồi A1?

Sau khi đơn vị công binh đặc biệt dưới hoả lực địch bền bỉ moi ruột đồi A1 để đào đường ngầm vào cạnh lô cốt cố thủ của tên quan tư chỉ huy đồi A1, tổ công binh của Tiểu đội trưởng Nguyễn Văn Bạch được phái sang phía Bắc Mường Thanh tháo kíp những quả bom chưa nổ của địch, lấy ra 5 tạ thuốc bom đem về gói với 5 tạ thuốc nổ TNC rồi đặt vào cuối đường hầm đã đào giữa lòng đồi A1. Việc vận chuyển và xếp thuốc mất hai ngày một đêm và trong điều kiện hết sức khó khăn, các chiến sĩ đã phải lội qua những quãng hào ngập nước đến tận cổ, phải lấy ni lông bọc các kíp nổ và nụ xoè, trong khi càng vào sâu trong đường ngầm thì càng buốt óc, choáng váng và ngạt thở vì thiếu không khí. Việc phát hoả khối thuốc nổ được giao cho đồng chí Nguyễn Văn Bạch. Tuy bị thương nhưng anh đã cố gắng chịu đựng, hoàn thành phát hoả đúng thời gian quy định của cấp trên.

142. Đại đội pháo binh nào được giao nhiệm vụ bắn mở màn trong chiến dịch Điện Biên Phủ?

Đại đội 806 - đại đội pháo cơ giới đầu tiên của quân đội ta.

143. 17h30 ngày 7 tháng 5 năm 1954, quân ta đã đánh chiếm sở chỉ huy của địch, bắt sống Tướng Đờ Cát và toàn bộ Bộ Tham mưu của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Đơn vị nào tiến vào sở chỉ huy địch đầu tiên?

Đại đội 360 thuộc Tiểu đoàn 130, Trung đoàn 209 (Sông Lô), Đại đoàn 312 (Đại đoàn Chiến thắng). Đại đội trưởng Tạ Quốc Luật cùng bốn đồng chí là: Vinh, Nhỏ, Hiếu, Lam là những người đầu tiên đã xông vào Sở chỉ huy tập đoàn cứ điểm.

144. Chiếc máy bay đầu tiên bị pháo cao xạ Việt Nam bắn rơi tại Điện Biên Phủ vào thời gian nào?

Đó là chiếc máy bay trinh sát “Bà già” của Pháp, còn gọi là máy bay “Mật vụ”, bị Đại đội 815 (Tiểu đoàn 383) bắn rơi tại chỗ lúc 7 giờ sáng ngày 14 tháng 3 năm 1954.

145. Hai chiếc máy bay cuối cùng bị bắn rơi tại Điện Biên Phủ vào lúc nào?

Đó là hai chiếc máy bay “Cướp biển” F4U mà Mỹ mới trang bị cho không quân Pháp. Hai chiếc máy bay này bị Đại đội 817 (Tiểu đoàn 383) bắn rơi vào sáng ngày 7 tháng 5 năm 1954, trong vòng 25 phút (từ 9 giờ tới 9 giờ 25).

146. Viên sĩ quan Pháp, người đã từng chỉ huy đoàn máy bay cường kích trên tàu chở máy bay Arô Măngsơ, năm lần được khen thưởng, hai lần được gắn “mề đay” chữ thập, nhưng ngày 31 tháng 3 năm 1954 lại bị Tiểu đoàn pháo cao xạ 394 bắn nổ tung khi lái chiếc máy bay Hencat dẫn đầu biên đội 12 chiếc. Viên sĩ quan đó là ai?

Đó là Đại uý Ăngđriơ.

147. Đại tướng Catơru, trưởng phái đoàn điều tra của Chính phủ Pháp, sau khi hoàn thành nhiệm vụ điều tra về “vụ thất thủ Điện Biên Phủ”đã viết cuốn sách nào?

Ông ta đã viết cuốn sách: Hai màn của tấn bi kịch Đông Dương. Hà Nội - Điện Biên Phủ (Deux actes du drame Indochinois. Hanoi - DienBienPhu) do Nhà xuất bản Plông (Plon), Paris ấn hành năm 1959.

148. Tên cuốn sách Nava đã viết về Đông Dương và Điện Biên Phủ?

Đó là cuốn sách Đông Dương hấp hối (Agonie d’Indochine), do Nhà xuất bản Plông (Plon) của Pháp ấn hành năm 1958.

149. Những phần thưởng cao quý nào mà bộ đội pháo cao xạ đã được trao trong chiến dịch Điện Biên Phủ?

Cờ Quyết chiến Quyết thắng, giải thưởng luân lưu của Chủ tịch Hồ Chí Minh (sơ kết đợt thứ nhất của chiến dịch).

Một Huân chương Quân công hạng nhì, 36 huân chương Quân công hạng ba và 27 Huân chương Chiến công các loại cho các tập thể.

200 Huân chương Chiến công các loại cho cán bộ chiến sĩ có thành tích xuất sắc.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Chín, 2016, 01:05:44 pm

MỘT SỐ SỰ TRÙNG HỢP...

150. Ngày 7 tháng 5 có ý nghĩa gì đối với Đại tướng Nava?

Ngày 7 tháng 5 năm 1953, Nava được Thủ tướng Rơnê Mayê đặc cách giao cho chức vụ Tổng tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Một năm sau, đúng vào ngày 7 tháng 5 năm 1954, quân Pháp thất bại ở Điện Biên Phủ, dẫn đến sự kết thúc cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương và kết thúc luôn cả sự nghiệp huy hoàng của Đại tướng Nava.

151. Có phải ngày chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc trùng với ngày chiến thắng phát xít Đức?

Đúng. Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc vào hồi 2 giờ sáng 8 tháng 5 năm 1954. Đây cũng là ngày kỷ niệm 9 năm chiến thắng phát xít Đức.

152. Cả Tướng Nava và Cao uỷ Đờgiăng đều bị cách chức cùng một ngày, đó là ngày nào?

Ngày 3 tháng 6 năm 1954 (chưa đầy một tháng sau khi quân Pháp đại bại tại Điện Biên Phủ).



ĐIỆN BIÊN PHỦ NHÌN TỪ PHÍA BÊN KIA...

153. Nhận thức của Nava về thất bại của quân Pháp?

"Quân đội viễn chinh Pháp không những phải chống chọi với một đội quân chính quy mà còn phải đương đầu với cả một dân tộc".

154. Lời than thở “nổi tiếng” của Tướng Êly, Tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp khi diễn ra sự kiện Điện Biên Phủ?

“Một lần nữa, kỹ thuật lại bị thua cuộc bởi những con người có tâm hồn và một lòng tin”.

155. Tin Điện Biên Phủ thất bại đã được Lanien thông báo như thế nào?

Ngày 7 tháng 5 năm 1954, lúc 16 giờ 45 phút (theo giờ Pháp), trong bộ y phục màu đen, với nét mặt co rúm vì xúc động, Lanien nặng nề bước lên từng bậc của diễn đàn Buốcbông. Ông ta bắt đầu bằng giọng đứt quãng: “Chính phủ vừa được tin tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đã thất thủ sau 20 giờ chiến đấu gay go liên tục”. (Theo báo Rạng Đông ngày 8 tháng 5 năm 1954).

156. Ký giả J. Roa đã nói gì về chiến thắng Điện Biên Phủ của ta?

“Trên toàn thế giới, trận Oateclô cũng ít có tiếng vang hơn. Điện Biên Phủ thất thủ đang gây ra một sự kinh hoàng ghê gớm. Đó là một trong những thất bại lớn của phương Tây, báo hiệu sự tan rã của các thuộc địa và sự cáo chung của một nền cộng hoà”.

157. Ký giả Mỹ Becna Phôn đã viết gì về cuộc chiến tranh Đông Dương?

“Chúng ta không có quyền được quên cuộc chiến tranh này. Dù ta muốn hay không muốn, cuộc chiến tranh đó còn ảnh hưởng đến chúng ta nhiều chục năm nữa”.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Chín, 2016, 05:31:20 pm

ĐIỆN BIÊN PHỦ QUA CÁC TÁC PHẨM...

158. Chiến dịch Điện Biên Phủ đã được tái hiện qua bài thơ nào?

Đó là bài thơ “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên” của Tố Hữu, lúc đó là Trưởng ban tuyên truyền Trung ương. Ông viết bài thơ này vào ngày 7 tháng 5 năm 1954, ngay trong đêm đầu được tin chiến thắng từ mặt trận báo về. Toàn bộ bài thơ như sau:

HOAN HÔ CHIẾN SĨ ĐIỆN BIÊN1

Tin về nửa đêm
Hoả tốc hoả tốc
Ngựa bay lên dốc
Đuốc chạy sáng rừng
Chuông reo tin mừng
Loa kêu từng cửa
Làng bản đỏ đèn đỏ lửa...

Hoan hô chiến sĩ Điện Biên
Hoan hô đồng chí Võ Nguyên Giáp
Sét đánh ngày đêm xuống đầu giặc Pháp!
Vinh quang Tổ quốc chúng ta
Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà!
Vinh quang Hồ Chí Minh, cha của chúng ta ngàn năm sống mãi
Quyết chiến quyết thắng, cờ đỏ sao vàng vĩ đại!
Kháng chiến ba ngàn ngày
Không đêm nào vui bằng đêm nay...
Đêm lịch sử, Điện Biên sáng rực
Trên đất nước, như huân chương trên ngực
Dân tộc ta, dân tộc anh hùng!

Điện Biên vời vợi nghìn trùng
Mà lòng bốn biển nhịp cùng lòng ta
Đêm nay bè bạn gần xa
Tin về chắc cũng chan hoà vui chung

Hoan hô chiến sĩ Điện Biên
Chiến sĩ anh hùng
Đầu nung lửa sắt
Năm mươi sáu ngày đêm, khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt.
Máu trộn bùn non
Gan không núng
Chí không mòn!
Những đồng chí thân chôn làm giá súng
Đầu bịt lỗ châu mai
Băng mình qua núi thép gai
Ào ào vũ bão,
Những đồng chí chèn lưng cứu pháo
Nát thân, nhắm mắt, còn ôm.
Những bàn tay xẻ núi, lăn bom
Nhất định mở đường cho xe ta lên chiến trường tiếp viện.
Và những chị, những anh ngày đêm ra tiền tuyến
Mấy tầng mây, gió lớn mưa to
Dốc Pha Đin, chị gánh anh thồ
Đèo Lũng Lô, anh hò chị hát
Dù bom đạn, xương tan thịt nát
Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh
Hỡi các chị, các anh
Trên chiến trường ngã xuống!
Máu của anh, chị, của chúng ta, không uổng
Sẽ xanh tươi đồng ruộng Việt Nam
Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam
Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng.

Lũ chúng nó phải hàng, phải chết,
Quyết trận này quét sạch Điện Biên
Quân giặc điên!
Chúng bay chui xuống đất
Chúng bay chạy đằng trời?
Trời không của chúng bay
Đạn ta rào lưới sắt!
Đất không của chúng bay
Đai thép ta thắt chặt!

Của ta, trời đất, đêm ngày
Núi kia, đồi nọ, sông này của ta!
Chúng bay chỉ một đường ra:
Một là tử địa hai là tù binh.
Hạ súng xuống, rùng mình run rẩy
Nghe pháo ta lừng lẫy thét gầm!

Nghe trưa nay, tháng năm mồng bảy
Trên đầu bay, thác lửa hờn căm!
Trông: bốn mặt, luỹ hầm sập đổ
Tướng quân bay lố nhố cờ hàng
Trông: chúng ta cờ đỏ sao vàng
Rực trời đất Điện Biên toàn thắng!
Hoan hô chiến sĩ Điện Biên!
Tiếng reo núi vọng sông rền
Đêm nay chắc cũng về bên Bác Hồ
Bác đang cúi xuống bản đồ
Chắc là nghe tiếng quân hò quân reo...
Từ khi vượt núi băng đèo
Ta đi, Bác vẫn nhìn theo từng ngày
Tin về mừng thọ đêm nay
Chắc vui lòng Bác, giờ này đợi trông.
Đồng chí Phạm Văn Đồng
Ở bên đó, chắc đêm nay không ngủ
Tin đây anh, Điện Biên Phủ hoàn thành.
Ngày mai, vào cuộc đấu tranh
Nhìn xuống mặt bọn Biđôn, Smit2 
Anh sẽ nói: “Thực dân, phát xít
Đã tàn rồi!
Tổ quốc chúng tôi
Muốn độc lập, hoà bình trở lại
Không muốn lửa bom đổ xuống đầu con cái
Nước chúng tôi và nước các anh
Nếu còn say máu chiến tranh
Ở Việt Nam, các anh nên nhớ
Tre đã thành chông, sông là sông lửa
Và trận thắng Điện Biên
Cũng mới là bài học đầu tiên!”

Tháng 5 – 1954
_________________________________________
1. Tuyển tập Tố Hữu, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1990, tr. 117-120.
2. Biđôn (Georges Bidault): Ngoại trưởng Pháp, Trưởng phái đoàn đại diện của Pháp tại Hội nghị Giơnevơ vào thời điểm đó; Smit (Bedell Smith): Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ, Trưởng phái đoàn đại diện của Mỹ tại Hội nghị Giơnevơ.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Chín, 2016, 05:33:26 pm

159. Bài hát ”Chiến thắng Điện Biên ” ra đời trong hoàn cảnh nào?

Bài hát Chiến thắng Điện Biên do nhạc sĩ Đỗ Nhuận sáng tác. Chiều 7 tháng 5 năm 1954, nhận được tin chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, ngay đêm đó, tác giả đã ngồi bên bếp nhà sàn sáng tác sáng ngày 8 tháng 5 năm 1954 hoàn thành lời một, chiều hôm sau hoàn thành lời hai.

160. Có một bài hát động viên và ca ngợi tinh thần chịu đựng gian khổ hy sinh cùng quyết tâm chiến thắng của các chiến sĩ pháo binh trong chiến dịch Điện Biên Phủ được bộ đội ta rất thích? Đó là bài hát nào?

Đó là bài hát Hò kéo pháo. Nhạc sĩ Hoàng Vân đã sáng tác bài hát này ngay tại mặt trận Điện Biên Phủ.

161. Điện Biên Phủ đã trở thành đề tài của rất nhiều tác phẩm thơ văn, sân khấu và điện ảnh. Hãy nêu một số tác phẩm tiêu biểu?

Về sân khấu: Có vở chèo Mối tình Điện Biên của Lưu Quang Thuận, kịch nói Bài ca Điện Biên của Tất Đạt; nhạc kịch Cô Sao của Đỗ Nhuận...

Điện ảnh: Phim truyện Hoa ban đỏ, kịch bản của Hữu Mai; phim tài liệu Hồi ức Điện Biên của Hãng phim tài liệu và khoa học Trung ương sản xuất năm 1994...

Văn học: Cao điểm cuối cùngĐánh lấn của Hữu Mai; Cánh đồng phía Tây của Hồ Phương...


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Chín, 2016, 08:36:34 pm

X
NHỮNG SỰ KIỆN CHÍNH TRONG CHIẾN CỤC ĐÔNG XUÂN 1953-1954 VÀ CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ1


Từ tháng 1 năm 1953 đến tháng 5 năm 1954

Tháng 1 năm 1953

Từ 23 đến 27

Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam họp bàn về các nhiệm vụ cơ bản của Đảng năm 1953, nhất là công tác phát động quần chúng giảm tô và cải cách ruộng đất. Về phương diện quân sự, Trung ương đã chỉ thị:

... Phương hướng chiến lược của ta là tìm chỗ yếu của địch mà đánh, bắt địch phải phân tán lực lượng. Đánh ăn chắc, tiến ăn chắc. Chắc thắng thì đánh cho kỳ thắng, không chắc thắng thì kiên quyết không đánh... Chiến trường của ta hẹp, người của ta không nhiều, chúng ta chỉ được thắng không được bại.

Tháng 5 năm 1953

8 tháng 5
Tướng Nava được bổ nhiệm làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương.

19 tháng 5
Nava sang Đông Dương.

Tháng 6 năm 1953

20 tháng 6
Tướng Mỹ Ô. Đanien đến Sài Gòn để kiểm tra.

22 tháng 6
Nhật lệnh số 1 của Nava hô hào quân đội viễn chinh Pháp cố mà giành chủ động.

Tháng 7 năm 1953

3 tháng 7
Chính phủ Pháp tuyên bố cho các "quốc gia liên kết" độc lập giả hiệu.

15 tháng 7
Bù nhìn Bảo Đại ký sắc lệnh tổng động viên.

17 tháng 7
Địch nhảy dù xuống Lạng Sơn để gây thanh thế, nhưng bị thất bại nặng.

24 tháng 7
Hội đồng Quốc phòng Pháp họp thông qua Kế hoạch Nava.
Theo kế hoạch đó, Tướng Nava chủ trương phòng ngự chiến lược ở miền Bắc, tránh giao chiến với chủ lực ta ở miền Bắc, tập trung lực lượng bình định miền Nam, đến mùa thu năm 1954 sẽ tập trung quân ra Bắc, tiêu diệt chủ lực ta, hoàn thành thôn tính nước ta trong 18 tháng vào khoảng giữa năm 1955.
_____________________________________
1. Nguồn: Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Điện Biên Phủ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 330-360.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Chín, 2016, 08:42:49 pm

Tháng 8 năm 1953

Từ ngày 8 đến 12
Địch rút chạy khỏi Nà Sản.

Tháng 9 năm 1953

5 tháng 9
Mỹ cho Pháp mượn hàng không mẫu hạm Boa Benlô (Bois Belleau).

10 tháng 9
Pháp xin thêm của Mỹ một khoản viện trợ đặc biệt 385 triệu đôla để thực hiện Kế hoạch Nava.

Cuối tháng 9
Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp xác định phương châm tác chiến của ta là: tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt. Hướng chính của chiến cục Đông Xuân 1953-1954 là Tây Bắc.

Tháng 10 năm 1953

15 tháng 10
Địch mở chiến dịch Hải Âu sử dụng 22 tiểu đoàn đánh ra Rịa - Nho Quan (tây nam tỉnh Ninh Bình). Chiến dịch này đến ngày 6 tháng 11 mới kết thúc.

Trong chiến dịch này, Đại đoàn 320 đã đánh 23 trận. Bộ đội địa phương đã đánh 64 trận. Có những trận đánh lớn: trận tập kích điểm cao 94 (tây bắc Rịa) ta tiêu diệt một đại đội lính Bắc Phi và gần 2 đại đội ngụy (ngày 18 tháng 10), trận phục kích ở Trại Ngọc, ta diệt 3 xe tăng (ngày 18 tháng 10), trận Dốc Giang ta tiêu diệt hoàn toàn tiểu đoàn Thái của địch. Tại Yên Mô (Ninh Bình), ta phục kích 2 đại đội của Tiểu đoàn 1 lê dương (ngày 3 tháng 11). Tại vùng sau lưng địch, ta tiêu diệt 2 tiểu đoàn khinh quân 703, 707. Tổng cộng địch bị tiêu diệt hơn 4.000 tên.

Tháng 11 năm 1953

Thượng tuần tháng 11
Bộ phận chuẩn bị chiến trường của Đại đoàn 316 lên Tây Bắc.

2 tháng 11
Tướng Nava gửi chỉ lệnh đặc biệt cho tướng Cônhi, chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Bắc Bộ, chuẩn bị chiếm đóng Điện Biên Phủ.

4 tháng 11
- Ta tiến công vị trí Xanh Tômát (Saint Thomas) giữa thành phố Nam Định tiêu diệt 22 sĩ quan địch.
- Tướng Cônhi xui bộ tham mưu Hà Nội phản đối Nava chiếm đóng Điện Biên Phủ tuy trước đây y khẩn thiết đề nghị chiếm đóng Điện Biên Phủ. Y sợ Nava lấy quân của y ở đồng bằng. Đại tá Bátxtiani (Bastiani) Tham mưu trưởng Lục quân Bắc Việt viết thư phản đối.

6 tháng 11
Địch kết thúc thất bại chiến dịch Hải Âu (bị tiêu diệt hơn 4.000 tên).

12 tháng 11
- Ta tiến công Phả Lại tiêu diệt 1 đại đội địch, bắn chìm 3 ca nô.
- Tướng Cônhi viết thư cho Tướng Nava phản đối việc chiếm đóng Điện Biên Phủ. Trong thư có đoạn viết: "Những vấn đề chiến lược của ngài đề ra không quan hệ gì đến mảnh đất mà ngài đã giao phó cho tôi..."
- Đại đoàn 316 được lệnh tiến quân lên Tây Bắc.

15 tháng 11
Đại đoàn 316 bắt đầu tiến quân lên Tây Bắc.

Từ 19 đến 23 tháng 11
Bộ Tổng tư lệnh mở Hội nghị cán bộ từ trung đoàn trở lên để phổ biến Kế hoạch Đông Xuân 1953-1954.

20 tháng 11
- Quân tình nguyện của Đại đoàn 304 sang Trung Lào, và quân tình nguyện của Đại đoàn 325 sang Hạ Lào theo kế hoạch phối hợp thống nhất giữa Bộ Tổng tư lệnh của ta và Bộ Tổng tư lệnh Pathét Lào.
- Đại đoàn 304 tiến quân lên Tây Bắc để đánh lạc hướng địch, sau đó bí mật ngoặt về phục kích địch ở Phú Thọ.
- Địch nhảy dù chiếm đóng Điện Biên Phủ. Tiểu đoàn 910 (trung đoàn Sơn La) đánh địch suốt ngày, tiêu diệt 300 tên.

Từ ngày 21 đến ngày 22 tháng 11
Địch tiếp tục nhảy dù xuống Điện Biên Phủ.

25 tháng 11
Địch cho 6 tiểu đoàn mở chiến dịch Ácđesơ (Ardèche) chiếm đóng phòng tuyến sông Nậm Hu (Thượng Lào) để nối liền Điện Biên Phủ với Thượng Lào.

28 tháng 11
- Tướng Nava ra Hà Nội được Tướng Cônhi báo cáo cho biết 3 sư đoàn Việt Minh trong đó có sư đoàn pháo binh đã tiến lên Tây Bắc1.
- Cônhi đề nghị đánh lên Thái Nguyên để kìm chân các đại đoàn của ta lại. Nhưng Nava cho rằng tin tức của Cônhi có thể chỉ là những hoạt động nghi binh của đối phương. Y cho rằng ta không thể cung cấp cho 4 sư đoàn tác chiến ở những nơi rừng núi xa xôi như Điện Biên Phủ được. Vì thế Nava bác kế hoạch của Cônhi vì sợ bị phân tán lực lượng.

29 tháng 11
- Đại đoàn 308 tiến quân lên Tây Bắc.
- Nava và Cônhi lên Điện Biên Phủ. Ngồi trên máy bay, hai viên tướng thực dân thảo luận cử Đờ Cát thay Gin chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

30 tháng 11
Đờ Cát được bổ nhiệm làm chỉ huy "quân đồn trú Điện Biên Phủ".
________________________________________
1. Sự thật thì chỉ có 2 đại đoàn bộ binh lên Tây Bắc mà thôi.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Chín, 2016, 08:44:25 pm

Tháng 12 năm 1953

3 tháng 12
Nava "tiếp nhận chiến đấu" với quân ta ở Điện Biên Phủ và chỉ thị phải "bảo vệ bằng bất cứ giá nào".

5 tháng 12
- Ta tiến công vị trí Phương Điếm (Hải Dương) tiêu diệt 2 đại đội địch trong đồn và 2 đại đội quân tiếp viện.
- Địch rút khỏi Lai Châu co về Điện Biên Phủ.

6 tháng 12
Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi thư kêu gọi cán bộ và chiến sĩ quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng đồng bào Tây Bắc.

7 tháng 12
- Đại đoàn 316 được lệnh nhanh chóng tiêu diệt địch ở Lai Châu, Đại đoàn 308 bao vây địch ở Điện Biên Phủ không cho chúng sang Lào.
- Nava chỉ thị mở chiến dịch Átlăng chiếm đóng Liên khu 5.

10 tháng 12
Đại đoàn 312 được lệnh bí mật giấu quân ở Phú Thọ, chuẩn bị đánh địch khi chúng đánh ra vùng tự do của ta.

12 tháng 12
Ta giải phóng Lai Châu sau đó truy kích tiêu diệt 24 đại đội địch.

16 tháng 12
Ta tiến công Dị Sử (Hưng Yên) tiêu diệt 90 tên, bắt 186 tên.

18 tháng 12
- Ta tiến công Quỹ Nhất (Nam Định) tiêu diệt 275 tên.
- Địch chở xe tăng tháo rời lên Điện Biên Phủ.

20 tháng 12
Ta phục kích trên đường số 10 (Thái Bình) tiêu diệt 192 tên và phá hủy 5 xe.

24 tháng 12
- Đại đoàn 312 tiến quân lên Tây Bắc.
- Nava lên dự lễ Nôen với quân lính ở Điện Biên Phủ. Y nói với binh sĩ là quân ta đang gặp khó khăn rất lớn về cung cấp, quân đội viễn chinh Pháp nhất định thắng lớn...

25 tháng 12
Liên quân Lào - Việt giải phóng thị xã Thà Khẹt, cắt đường số 13, uy hiếp đường số 9. Nava phải vội điều quân lên đây thiết lập một tập đoàn cứ điểm mới.

31 tháng 12
Nava chỉ thị cho Cônhi và Đờ Crevơcơ nghiên cứu kế hoạch rút lui của Điện Biên Phủ (kế hoạch Xênôphông).


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Chín, 2016, 08:46:38 pm

Tháng 1 năm 1954

5 tháng 1
- Bộ Tổng tư lệnh ra lệnh cho các đơn vị dự bị tiến quân lên Tây Bắc.
- Tại Nam Định, ta phục ở sông Đào, tiêu diệt 1 tiểu đoàn địch, bắn đắm và cháy 3 LCT và 7 canô.

7 tháng 1
Du kích ta lọt vào Đà Nẵng, đánh đắm 1 tàu chiến và 1 canô.

9 tháng 1
Ta phục kích địch trên đường số 9, tiêu diệt 50 tên, bắt 4 tên.

11 tháng 1
Du kích đột nhập Nha Trang, đốt cháy 3.700.000 lít xăng của địch.

14 tháng 1
Bộ chỉ huy mặt trận Điện Biên Phủ triệu tập hội nghị bàn kế hoạch tiến công vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ theo phương châm “đánh nhanh giải quyết nhanh".

15 tháng 11
- Tại Điện Biên Phủ, quân ta kéo pháo lên núi.
- Tại đồng bằng Bắc Bộ, ta tiêu diệt một bộ phận của Tiểu đoàn 4 lê dương ở Thái Bình.

17 tháng 1
Ta tiêu diệt đại bộ phận tiểu đoàn ngụy số 73 ở Hải Yến (Hưng Yên).

20 tháng 1
Địch cho 22 tiểu đoàn đổ bộ lên Tuy Hòa bắt đầu thực hiện bước 1 của chiến dịch Átlăng chiếm đóng Liên khu 5.

21 tháng 1
Ta tiến công vị trí Hoàng Đan, phục kích ở Bồng Xuyên (Hà Nam), tiêu diệt đại bộ phận Tiểu đoàn 6 ngụy, 2 đại đội ngụy của Tiểu đoàn 31 GMVN, bắn rơi 2 máy bay.

26 tháng 1
Hồ Chủ tịch trả lời nhà báo Thuỵ Điển trong đó có đoạn nói: “Cuộc chiến tranh ở Việt Nam là do Chính phủ Pháp gây ra. Nhân dân Việt Nam phải cầm vũ khí anh dũng chiến đấu 7, 8 năm nay chống kẻ xâm lược... Nếu Chính phủ Pháp đã rút được bài học trong cuộc chiến tranh mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hòa bình thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa sẵn sàng tiếp ý muốn đó.”

27 tháng 1
Ta đánh mạnh ở bắc Tây Nguyên, tiêu diệt các tiểu khu Măng Đen, Măng Bút.

31 tháng 1
- Tại Hạ Lào, Liên quân Lào - Việt giải phóng tỉnh Atôpơ, nối liền vùng giải phóng của Hạ Lào và bắc Tây Nguyên.
- Nava lại cho thành lập một tập đoàn cứ điểm ở cao nguyên Bôlôven.
- Tại đồng bằng Bắc Bộ, ta tiêu diệt vị trí La Tiến, uy hiếp phòng tuyến sông Luộc, đánh mìn trên đường xe lửa ở ga Phạm Xá (Hải Dương), tiến công Đồ Sơn, đốt cháy 5 máy bay và 1 kho xăng.
- Tại Nam Bộ từ 1 đến 24 tháng 1: quân và dân ta đã tiêu diệt và bức rút 259 đồn bốt, tháp canh, nhiều nhất ở Mỹ Tho.
- Quân ta đẩy mạnh giao thông chiến, uy hiếp các đường số 13, 14 (Sài Gòn - Phan Thiết, Sài Gòn - Lộc Ninh) và đường số 12. Kết quả ta diệt và phá: 3 thiết giáp, 1 xe tăng, 12 xe vận tải, 2 xe “gíp”, 1 đầu máy xe lửa, 15 toa xe lửa; địch chết 1.900 tên trong đó có 1 quan ba, 1 quan hai. Ta thu 4 súng cối, 1 đại liên, 18 trung liên, 61 tiểu liên, 656 súng trường...
___________________________________________
1. Theo cuốn Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954, t. 2, thì trưa 16 tháng 1, quân ta bắt đầu kéo pháo.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Chín, 2016, 08:48:32 pm

Tháng 2 năm 1954

2 tháng 2
Tướng Mỹ Ô. Đanien lên kiểm tra Điện Biên Phủ tỏ ý “rất hài lòng” về tổ chức phòng ngự ở đây.

3 tháng 2
- Tết Nguyên đán
- Tại Thượng Lào, Liên quân Lào -Việt tiến cách kinh đô Lào Luông Phabăng 60 km.
- Tại Hạ Lào, Liên quân Lào -Việt bao vây Pắcxế và Saravan.
- Địch thả truyền đơn ở Điện Biên Phủ thách thức ta tiến công.
- Sơn pháo 75 bắt đầu bắn vào sân bay Mường Thanh.

9 tháng 2
- Ta đánh mìn một đoàn tàu ở ga Thừa Lưu (Thừa Thiên) phá huỷ 1 đầu máy và 6 toa xe.
- Ta phục kích trên sông Hồng đánh một đoàn tàu thuỷ và ca nô từ Nam Định đi tiếp viện cho Kim Sơn, tiêu diệt một tiểu đoàn địch, đánh đắm 1 tàu chiến và 4 ca nô, bắn cháy 4 LCT và 2 ca nô.

10 tháng 2
Ta tiến công vị trí Hà Thanh (Ninh Bình) tiêu diệt 189 tên.

14 tháng 2
Tại đồng bằng Bắc Bộ, ta phục kích đánh địch trên sông Hồng, bắn đắm 3 ca nô và 1 xuồng.

15 tháng 2
Plêven, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Pháp cùng một phái đoàn tướng lĩnh cấp cao Pháp đến Hà Nội.

16 tháng 2
Nava tiếp tục chiến dịch Átlăng, tung ra 3 GM 10, 41, 42 đánh chiếm và nối liền đường Vạn Hoa, Phú Lợi, La Trai.

17 tháng 2
- Ta giải phóng tỉnh Công Tum, Nava vội vã điều quân lên chống đỡ và lại tổ chức một tập đoàn cứ điểm ở Plâycu.
- Tại Điện Biên Phủ, Bộ Chỉ huy Mặt trận triệu tập hội nghị bàn kế hoạch tiến công vào Điện Biên Phủ theo phương châm “đánh chắc tiến chắc”.

18 tháng 2
- Nava và Cônhi lên thăm Điện Biên Phủ.
- Tại mặt trận Tây Nguyên, quân ta tiêu diệt vị trí Đắc Đoa ở đông bắc Plâycu. 150 lính Âu - Phi của GM100 bị loại khỏi vòng chiến đấu. Cùng ngày quân ta tiến công thị xã Plâycu.
Sau 20 ngày liên tục hoạt động ở phía bắc Tây Nguyên, quân ta đã san bằng 8 bốt, 23 tháp canh, loại khỏi vòng chiến đấu 2.600 tên địch, thu một số lớn vũ khí, quân trang, quân dụng đủ trang bị cho một trung đoàn và hoàn toàn giải phóng tỉnh Công Tum rộng 14.000 km2 với 20.000 dân.
Nava phải tạm đình chỉ chiến dịch Átlăng, rút vội 2 GM 41, 42 cho đi đánh chiếm cao nguyên Trà Khê, đồng thời điều 3 GM 11, 21, 100 tăng cường lên chiếm giữ Plâycu, An Khê và Đắc Đoa.
- Tại Thượng Lào, liên quân Lào - Việt tiến đến gần Luông Phabăng. Nava vội vàng tổ chức ngay một “Con nhím” ở Mường Sai và tăng cường quân lên Luông Phabăng với lực lượng 9 tiểu đoàn.
- Hội nghị bốn Ngoại trưởng Liên Xô, Anh, Mỹ và Pháp ở Bá Linh ra thông báo sẽ họp bàn về vấn đề “lập lại hoà bình ở Đông Dương” tại Giơnevơ vào tháng 4 tới.

19 tháng 2
- Plêven đi thăm Điện Biên Phủ. Cùng đi có cả Thứ trưởng Bộ Chiến tranh Pháp Đờ Sơvinhê và các tướng Êly, Fay, Bôđê, Blăng, v.v...
- Nava nhận định “ngọn trào tiến công của Việt Minh đã đến lúc xuống” và ra lệnh phản công trên khắp các chiến trường Đông Dương.

22 tháng 2
Tại mặt trận Điện Biên Phủ, Bộ Chỉ huy Mặt trận triệu tập hội nghị cán bộ chiến dịch để kiểm điểm công tác chuẩn bị tiến công đợt một.

24 tháng 2
Liên quân Lào - Việt giải phóng thị trấn Phongsalỳ, Bun Tai và Bun Nưa, mở rộng vùng giải phóng ở lưu vực sông Nậm Hu.

26 tháng 2
Tại đồng bằng Bắc Bộ, quân ta tiến công tiêu diệt vị trí Lạc Đạo trên đường số 5. Cônhi yêu cầu Nava điều cho y 1 trong 3 GM cùng với 5 tiểu đoàn dù mà Nava đang sử dụng vào chiến dịch Átlăng.

27 tháng 2
- Chính phủ Pháp tính số thiệt hại về cuộc chiến tranh Đông Dương từ năm 1945 đến mùa xuân năm 1953: Chiến tranh đã tiêu tốn đến 2.000 tỷ phrăng. Từ năm 1952, Mỹ đã viện trợ cho Pháp hơn 1.000 tỷ.
- Tại đồng bằng Bắc Bộ, quân ta tiêu diệt 1 tiểu đoàn địch ở vị trí Vạn Bảo (Nam Định), phá huỷ 8 xe vận tải.

28 tháng 2
- Tại mặt trận Điện Biên Phủ, Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đến thăm hội nghị động viên chiến dịch của cán bộ pháo binh.
- Quân địch đánh ra thăm dò ở phía đông nam Điện Biên Phủ.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Chín, 2016, 08:50:36 pm

Tháng 3 năm 1954

1 tháng 3
- Plêven về Pari tuyên bố một cách bịp bợm: “Ở Đông Dương không có vấn đề quân sự, chỉ có vấn đề chính trị mà thôi”.
- Tại Điện Biên Phủ, địch lại đánh ra thăm dò ta ở phía tây.

4 tháng 3
- Tướng Nava lại cùng với Cônhi đi kiểm tra Điện Biên Phủ. Đờ Cát thấy không cần tăng thêm lực lượng cho đồn trú khi Nava gợi ý muốn đưa thêm lên 3 tiểu đoàn.
- Tại đồng bằng Bắc Bộ, quân ta bí mật đột nhập sân bay Gia Lâm, đốt cháy 18 máy bay, 2 máy phát điện, 1 kho xăng.

6 tháng 3
Bộ đội địa phương Kiến An đột nhập sân bay Cát Bi (Hải Phòng), phá huỷ hơn 50 máy bay địch.

8 tháng 3
- Tại Điện Biên Phủ, trọng pháo 105 và pháo cao xạ của ta bắt đầu vào chiếm lĩnh trận địa.
- Phòng nhì của Cônhi báo cáo những triệu chứng tỏ ra quân ta sẽ tiến công Điện Biên Phủ vào ngày 15 tháng 3. Nava xác nhận điều đó có thể xảy ra nhưng lại cho rằng quân ta khó mà vượt qua được rất nhiều khó khăn để đưa pháo đến gần lòng chảo.

9 tháng 3
Nhận được tin ngày 15 tháng 3 quân ta sẽ tiến công vào hệ thống đường số 5, vào các sân bay và có thể cả Điện Biên Phủ, Cônhi vội xin gấp 3 tiểu đoàn khinh quân để bổ sung cho các đơn vị dù và xe tăng đã bị xộc xệch, chuẩn bị đối phó ở mật trận đồng bằng Bắc Bộ.

10 tháng 3
- Hồ Chủ tịch gửi thư động viên tới toàn thể cán bộ, chiến sĩ và dân công ở Điện Biên Phủ sắp bước vào chiến đấu.
- Đại tướng Võ Nguyên Giáp ra nhật lệnh động viên tất cả cán bộ, chiến sĩ, tất cả các đơn vị kiên quyết tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ.
- Sơn pháo 75 của ta bắn hỏng 2 máy bay vận tải ở sân bay Mường Thanh.
- Nava một lần nữa báo cho Cônhi biết không có một lực lượng nào bổ sung cho đồng bằng Bắc Bộ và giao trách nhiệm cho Cônhi phải tự tổ chức bảo vệ các căn cứ không quân bằng những phương tiện hiện có, 2 tiểu đoàn dù đã sẵn sàng rời Xênô về Hà Nội, nhưng chỉ khởi hành khi nào tình hình đồng bằng thật nghiêm trọng.

11 tháng 3
- Tại Điện Biên Phủ, những khẩu trọng pháo cuối cùng của ta đã vào chiếm lĩnh trận địa.
- Quân ta bắt đầu đào trận địa xuất phát tiến công vào Him Lam.
- Tại đồng bằng Bắc Bộ, trong một đêm quân ta cắt đứt đường số 5, san bằng 13 bốt và tháp canh.



Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Chín, 2016, 08:52:39 pm

12 tháng 3
Tại Điện Biên Phủ:
- 10 giờ 30 phút, sơn pháo và cối ta bắn mạnh vào sân bay, phá huỷ 3 máy bay trinh sát.
- Một tiểu đoàn địch với 5 xe tăng đánh ra định phá trận địa tiến công Him Lam của quân ta, bị hỏa lực cối ta bắn mạnh phải rút lui. Một đoạn chiến hào ta bị địch phá huỷ. Ban đêm, quân ta đến khôi phục lại.
- Cônhi lên Điện Biên Phủ. Y đến trung tâm đề kháng Him Lam ra những chỉ thị cần thiết một khi bị ta tiến công.
- Nava cho quân đổ bộ lên Quy Nhơn thực hiện bước 2 của chiến dịch Átlăng.
- Tại đồng bằng, ta phục kích trên đường số 5, đoạn từ Bần Yên Nhân đến Như Quỳnh, tiêu diệt một đoàn xe quân sự, phá huỷ 17 xe, trong đó có 4 thiết giáp, 13 xe vận tải và 60 tên lính thuộc GM3.
- Tại Liên khu 4, bộ đội Thừa Thiên đánh lật nhào một đoàn xe lửa quân sự ở Văn Xá.

13 tháng 3: Đợt tiến công thứ nhất bắt đầu:
- 9 giờ sáng, sơn pháo ta bắn cháy 1 Đacôta ở sân bay Mường Thanh.
- 12 giờ trưa: lại bắn cháy 1 Hencát, 1 Đacôta.
- 13 giờ: 1 đại đội địch và 2 xe tăng lại ra đánh phá trận địa xuất phát tiến công của quân ta ở Him Lam. Đại đội lựu pháo 806 được lệnh nổ 20 phát đạn đầu tiên vào Him Lam và Mường Thanh. 18 phát trúng mục tiêu, phá 7 ụ súng... Bọn địch đang đánh phá trận địa ta lập tức rút chạy.
- 14 giờ 30 phút: sơn pháo ta bắn cháy 1 Đacôta ở sân bay Hồng Cúm.
- 15 giờ: 2 trung đoàn của Đại đoàn 312 ra chiếm lĩnh trận địa xuất phát tiến công.
- 17 giờ: pháo ta tập kích dồn dập vào khu trung tâm, sân bay Mường Thanh và vào cả 3 cứ điểm của trung tâm đề kháng Him Lam. 5 máy bay địch bị phá huỷ. 1 kho xăng và nhiều kho tàng bốc cháy, 12 khẩu đại bác và cối các loại bị phá huỷ. Khoảng 150 tên sĩ quan và lính địch bị thương vong bởi trận tập kích của pháo ta. Đợt tiến công thứ nhất của quân ta bắt đầu.
- 18 giờ 30 phút: xung kích bắt đầu lên bộc phá.
- 22 giờ 30 phút: quân ta hoàn toàn tiêu diệt xong cụm cứ điểm Him Lam gồm 3 cứ điểm do Tiểu đoàn 3, Trung đoàn lê dương số 13 chiếm đóng.
- Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam ra chỉ thị cho các chiến trường toàn quốc tích cực hoạt động đánh địch để phối hợp với chiến trường chính.
- Ở đồng bằng Bắc Bộ, đêm 12 rạng 13 tháng 3 ta tiêu diệt vị trí Nghĩa Lộ trên đường số 5, một vị trí công sự kiểu mới. 2 đại đội địch bị diệt gọn, 7 xe vận tải và xe “gíp” bị phá.
- Tại Nam Định, 139 lính bù nhìn chạy sang hàng ngũ ta đem theo cả vũ khí.
- Tại Phủ Lý, ta bao vây vị trí Phương Khê, địch phải đưa 2 GM đến phá vây. Khi quân chiếm đóng đồn Phương Khê rút chạy, ta truy kích diệt và bắt sống 150 tên.

14 tháng 3
- 7 giờ: tại Điện Biên Phủ, cao xạ ta hạ chiếc máy bay đầu tiên.
- 9 giờ: 1 tiểu đoàn và 5 xe tăng địch thọc đánh ra định phản kích chiếm lại Him Lam, nhưng bị pháo ta bắn chặn ác liệt phải rút lui.
- 12 giờ: được ta cho phép, địch cho xe hồng thập tự ra Him Lam lấy thương binh về.
- Địch tăng viện cho Điện Biên Phủ Tiểu đoàn dù nguỵ số 5 (5è BPVN) và 4 khẩu 105 ly để bù vào số pháo đã bị phá huỷ đêm 13 tháng 3. 2 chiếc máy bay lên thẳng vừa đỗ xuống Điện Biên Phủ bị pháo ta bắn cháy ngay.
- 17 giờ: pháo ta bắn chuẩn bị vào cứ điểm đồi Độc Lập, sau đó, thỉnh thoảng lại bắn một đợt mãnh liệt cho đến khi bộ binh ta xung phong tiêu diệt cứ điểm này.
- Tại Liên khu 4, ta tiêu diệt vị trí Võ Xá.
- Tại Liên khu 5, GM 100 đang vận chuyển trên đường số 13 (Quy Nhơn - Plâycu) thì bị quân ta phục kích, diệt gần 100 tên.

15 tháng 3
- 2 giờ: quân ta bắt đầu tiến công bằng lựu pháo 105 ly vào cứ điểm đồi Độc Lập. 3 giờ 30 phút, chính thức tiến công bằng sơn pháo 75 và bộ binh, đến 6 giờ 30 phút thì tiêu diệt hoàn toàn cứ điểm.
- 6 giờ: Đờ Cát tung 2 tiểu đoàn và 6 xe tăng theo đường Điện Biên - Lai Châu định phản kích lên đồi Độc Lập, nhưng bị ta đánh lui.
- 12 giờ 45 phút: Pirốt, chỉ huy pháo binh tập đoàn cứ điểm dùng lựu đạn tự sát. 6 khẩu pháo 105 ly của địch bị phá hủy. Trong 3 ngày 13, 14, 15, pháo binh của địch đã bắn về tuyến quân ta tới 30.000 viên đạn.
- Tại đồng bằng Bắc Bộ, ta phục kích bắn cháy và đắm 2 xuồng, 1 ca nô, tiêu diệt 1 đại đội thủy quân lục chiến ở Yên Lệnh, sông Hồng.

16 tháng 3
- Bộ chỉ huy Mặt trận Điện Biên Phủ triệu tập hội nghị cán bộ chiến dịch để sơ kết thắng lợi đợt 1 và trao nhiệm vụ đợt 2. Trong đợt này, ta phải tiếp tục xây dựng trận địa bao vây cho thật vững chắc tiếp tục tiến công các cứ điểm vòng ngoài, phải kiềm chế pháo binh địch ráo riết hơn nữa, phải khống chế sân bay...
- Tiểu đoàn dù thuộc địa số 6 (6è BPC) nhảy dù xuống tăng viện cho Điện Biên Phủ.
- Nava chỉ thị cho Tướng Gămbiê, Tổng tham mưu trưởng quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương phải thực hiện gấp kế hoạch làm mưa nhân tạo trên đường giao thông từ hậu phương ta ra mặt trận Điện Biên Phủ để ngăn cản việc tiếp tế của ta.
- Tại đồng bằng Bắc Bộ, một đoàn tàu quân sự địch bị trúng mìn của du kích Văn Lâm, Hưng Yên.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Chín, 2016, 08:54:00 pm

17 tháng 3
- Tại Điện Biên Phủ, hồi 15 giờ, pháo ta bắn 20 phát vào đồn Bản Kéo. 2 đại đội lính Thái chạy ra hàng với toàn bộ vũ khí.
- Đợt tiến công thứ nhất của quân ta kết thúc. Quân ta đã tiêu diệt gọn 2 trung tâm đề kháng mạnh nhất của địch. Pháo ta đã phá hủy tất cả số máy bay đậu trên sân bay Mường Thanh. Pháo cao xạ ta đã hạ 12 máy bay các loại.
Tổng số thiệt hại của địch khoảng 2.000 tên.
- Tại Liên khu 5, quân ta tiến công Quan Cầu: 150 tên địch bị loại khỏi vòng chiến đấu.

18 tháng 3
Không quân của địch bối rối trước hoạt động khống chế sân bay và kiềm chế không phận của pháo ta. Lôdanh (Lauzin), Tư lệnh Không quân Pháp ở Đông Dương báo cáo với Nava việc tiếp tế bằng đường không hàng tháng từ 4.000 tấn đã tăng lên tới 10.000 tấn. Dù thả xuống không có cách gì lấy lại. Nava đã phải tính đến chuyện cầu cứu Mỹ, đặt mua lụa, phụ tùng của Nhật Bản và Philippin để may dù. Lôdanh chỉ thị cho những tên phi công lái máy bay Đacôta phải thả dù ở độ cao 2.000-3.000 mét để tránh đạn cao xạ của ta, đồng thời chỉ thị nghiên cứu cách thả dù mở chậm.

19 tháng 3
Dự trữ đạn 105 ly và lương thực của địch bắt đầu khó khăn. Đờ Cát gọi điện cho Cônhi: “Việc mất Điện Biên Phủ, mất Idaben (Hồng Cúm), tôi cho là không thể tránh được trong một thời gian ngắn. Phải tính đến chuyện cử Lalăng cố gắng đi tìm con đường sang Lào để rút lui.”

20 tháng 3
- Tại Điện Biên Phủ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi thư cho bộ đội động viên tiếp tục xây dựng trận địa tiến công và bao vây sát địch hơn nữa.
- Tại Liên Khu 4, quân ta phục kích tiến công một đoàn xe lửa trên đường Huế - Tuaran. Một đầu máy và 5 toa xe bị phá hủy. Một đại đội địch bị tiêu diệt.

22 tháng 3
- Tại Toà nhà trắng, Aixenhao tiếp Tướng Êly (đến Washington từ ngày 20 tháng 3) có cả Đô đốc Mỹ Rátpho tham dự, bàn cách cứu vãn “con nhím” Điện Biên Phủ.
- Tại đồng bằng Bắc Bộ, quân và dân đường số 5 vẫn hoạt động mạnh, làm ngừng hẳn việc vận chuyển của địch trên 70 km đường sắt.
- Tại Hưng Yên, ta phục kích diệt gọn một đoàn xe 88 chiếc ở cách Dị Sử 2 km.
- Tại Liên khu 5, ta tiến công GM100 ở Plây Ring, diệt 500 tên, phá hủy 1 xe thiết giáp và 22 xe vận tải; tập kích vị trí La Hay (Phú Yên) địch mới chiếm đóng, diệt 670 tên. Tại Quảng Nam, ta tập kích thị xã Hội An, diệt một lúc 3 vị trí, thu toàn bộ vũ khí.

23 tháng 3
- Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi điện nhiệt liệt khen ngợi quân và dân đường số 5 đã thắng lớn trong những trận giao thông chiến vừa qua.
- Tại Thái Bình, quân ta tập kích tiêu diệt 2 đại đội địch ở vị trí Đức Hậu.

24 tháng 3
- Cônhi chỉ thị cho Đờ Cát cố mà chống đỡ với quân ta đến mùa mưa. Y nói rằng quân ta đã bị thiệt hại nặng, khó mà có thể bổ sung ngay. Mưa xuống thì đường tiếp tế của ta từ hậu phương ra sẽ không dùng được, trận địa chiến hào bao vây của ta ở Điện Biên Phủ cũng ngập trong bùn lầy và nước đọng. Do đó mà ta không thể nào đánh kéo dài, không thể nào thu được thắng lợi. Ngược lại, quân đội đồn trú đã được bổ sung lực lượng mạnh mẽ, vấn đề tiếp tế vũ khí, lương thực vẫn có thể tiến hành thường xuyên. Cuộc thí nghiệm thả dù ở độ cao 1.500 mét đã đem lại kết quả tốt.
- Tại Liên khu 5, quân địch đánh chiếm Bình Định. Quân và dân Liên khu 5 đã căng bẫy chờ chúng. Bằng mọi biện pháp, với tất cả các thứ vũ khí, quân và dân Liên khu 5 đã diệt và bắt 800 tên địch.
- Tại Mỹ, Đô đốc Rátpho đưa ra cho Êly một kế hoạch cứu vãn Điện Biên Phủ: dùng từ 70 đến 80 máy bay oanh tạc hạng nặng B29 với sự yểm hộ của 150 khu trục thuộc Hạm đội 7 Mỹ đến oanh tạc xung quanh Điện Biên Phủ.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Chín, 2016, 08:55:00 pm

Từ 25 đến 27 tháng 3
- Tại Điện Biên Phủ, trong hội nghị cán bộ, Bộ Chỉ huy mặt trận đề ra nhiệm vụ cho đợt 2 là tiêu diệt các điểm cao tại khu đông, uy hiếp trực tiếp khu trung tâm Mường Thanh.
- Cônhi viết thư cho Nava: “Mỗi ngày phải chuyên chở gần 2.000 tấn theo đường sắt từ Hải Phòng lên Hà Nội, nhưng Việt Minh liên tiếp đánh đổ các đoàn tàu”. Cônhi yêu cầu tăng cường lực lượng cơ động và công binh bởi vì không giải quyết được vận chuyển tiếp tế thì sẽ dẫn đến phải rút lui cả Hà Nội.
- Từ ngày 13 tháng 3 đến nay, quân địch đã dùng 750 máy bay chiến đấu thả 1.100 tấn bom vào tuyến quân ta. Trận địa chiến hào quân ta vẫn tiếp tục bò vào khu trung tâm và các điểm cao khu đông.
- Tại đồng bằng Bắc Bộ, ta chống càn tiêu diệt 511 tên của GM 4 ở Hạ Bằng, Sơn Tây.
- Trên đường số 5, quân ta phục kích đánh 2 đại đội thuộc GM 3, một trung đội công binh đang đi mở đường. Kết quả: 85 tên bị bỏ mạng, 65 tên bị bắt, phá hủy 2 xe tăng, 3 thiết giáp, 13 xe vận tải, giải thoát 108 chị em phụ nữ bị bắt giam ở Nhà tiền Hà Nội mà chúng giong theo.

27 tháng 3
- Tại Ngọc Chiến (Sơn La), quân ta diệt thổ phỉ, bắt 307 tù binh, thu 531 súng các loại.
- Trong thời gian chuẩn bị đợt 2, quân ta đã đẩy mạnh hoạt động nhỏ và đã đẩy lùi tất cả các cuộc phản công của địch từ Mường Thanh ra. Quân địch bị thiệt hại: 450 tên chết và bị thương, 6 xe bị phá hủy, 3 máy bay khu trục, 2 máy bay vận tải bị hạ, 2 chiếc khác bị bắn cháy trên đường băng. Kể từ ngày 27 tháng 3 trở đi, sân bay không dùng được nữa. Quân địch chỉ có thể tiếp tế bằng thả dù.

28 tháng 3
Tại Điện Biên Phủ, chiếc máy bay thứ 43 bị bắn hạ.

29 tháng 3
- Tại Điện Biên Phủ, trong 10 ngày tích cực chuẩn bị tiến công đợt 2, quân ta đã đào hơn 100 km hào giao thông, trong đó có đường hào trục bao quanh Mường Thanh và rất nhiều chiến hào nối liền trận địa xuất phát xung phong giữa trung đoàn này với trung đoàn khác.
- Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi thư động viên quân ta bước vào chiến đấu đợt 2.
- Đường liên lạc giữa Mường Thanh và Hồng Cúm hoàn toàn bị cắt đứt.
- Tại Paris, Bộ Quốc phòng Pháp họp nghiên cứu thực hiện kế hoạch “Diều hâu” của Mỹ và cử Brôhông (Brohon) sang Đông Dương gặp Nava để cùng nghiên cứu những điều kiện, khả năng thực hiện kế hoạch đó.
- Nava gửi thư cho Cônhi: “Về vấn đề này (tức là vấn đề kêu thiếu mọi phương tiện của Cônhi), tôi chỉ có thể nhắc lại điều mà tôi đã nói với ngài khá nhiều lần là: chúng ta đang bị cuốn vào một cuộc tổng giao chiến.
... Trong việc phân phối binh lực, rõ ràng ngài là người được chiếu cố hơn các vị chỉ huy ở địa phương khác. Lúc nào ngài cũng nằng nặc đòi tăng viện chỉ có nghĩa là ngài đòi hỏi tôi điều mà chính bản thân ngài cũng biết là tôi không thể nào thêm được cho ngài, hoặc nếu tôi có thêm cho ngài thì tức là tôi đã làm thiệt hại cho các bạn chiến đấu của ngài”.
- Tại Liên khu 5, quân ta phục kích trên đường số 19 và tiến công đèo Thượng An: Tiểu đoàn 17 của GM 11 hoàn toàn bị tiêu diệt, 4 đại bác 105, 18 xe vận tải GMC bị phá hủy.

30 tháng 3: Đợt tiến công thứ hai bắt đầu:
- 17 giờ, pháo ta tập kích dữ dội vào khu trung tâm và các điểm cao khu đông.
18 giờ, bộ binh bắt đầu nổ súng tiến công.
Sau 45 phút, ta tiêu diệt xong C1. Sau 1 giờ rưỡi, ta tiêu diệt xong đồi E. Sau 2 giờ, ta hoàn toàn làm chủ điểm cao D1. Tiêu diệt xong các điểm cao trên, các đơn vị đều bắt đầu phát triển đánh sang các điểm cao C2, D2. Một đơn vị của ta thọc hẳn vào tiểu đoàn dù ngụy số 5 và trận địa pháo binh địch đặt ở cứ điểm 210 sau các đồi E, D. Phía đồi A1, 18 giờ 30 phút ta mở hai mũi xung phong vào phía đông bắc cứ điểm.
- Tại Liên khu 5, quân ta lại phục kích đánh địch ở Đèo Mang, phía đông An Khê, tiêu diệt 1 đại đội địch.

31 tháng 3
- 3 giờ, tiểu đoàn 11 tiêu diệt xong trận địa pháo địch ở cứ điểm 210.
Tại đồi A1, 4 giờ sáng, ta đã chiếm hai phần ba cứ điểm, quân địch dựa vào một phần còn lại và hầm ngầm kiên cố tiếp tục chống cự kịch liệt với ta. Đến sáng sớm, địch thúc Tiểu đoàn dù thuộc địa số 6 lên phản kích. Cuộc chiến đấu ở đây đã diễn ra giằng co quyết liệt. Đến chiều địch chiếm lại được hai phần ba cứ điểm, ta chỉ còn giữ được một phần ba ở phía đông bắc.
Bộ Chỉ huy mặt trận quyết định thay lực lượng tiếp tục tiến công A1, đồng thời chỉ thị cho cả mặt đông và tây cùng hoạt động để phân tán binh lực của địch.
- Tại Liên khu 4, ta đánh lật nhào một đoàn tàu gồm 1 đầu máy, 5 toa và tiêu diệt 1 đại đội địch.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Chín, 2016, 08:56:30 pm

Tháng 4 năm 1954

1 tháng 4
- Cuộc chiến đấu ở đồi A1 vẫn diễn ra ác liệt. Nhiều trận xung phong và phản xung phong diễn ra liên tiếp.
- Ở phía tây, ta tiêu diệt hoàn toàn cứ điểm 106.
- Chỉ thị của Nava cho Cônhi: Quân đội đồn trú phải kéo dài cuộc chống giữ đến mùa nước thì Việt Minh buộc phải cởi vòng vây.

2 tháng 4
- Tại Điện Biên Phủ:
Cứ điểm 311 (tức Căng Na) ở phía tây Điện Biên Phủ bị uy hiếp mạnh, 120 tên thuộc 2 đại đội của Tiểu đoàn Thái số 3 chạy ra hàng quân ta.
2 đội dũng sĩ của ta thâm nhập vào sân bay, bắt 10 tù binh.
11 giờ, quân địch từ Mường Thanh ra phản kích định chiếm lại mỏm thìa lìa trên đồi A1, nhưng bị quân ta đánh lui. Nửa đêm, ta lại tổ chức một đợt tiến công mới nhưng vẫn không kết quả.
- Tại đồng bằng Bắc Bộ:
Ta tiêu diệt 2 đại đội của Tiểu đoàn khinh quân 709 ở vị trí Đông Tạ (Kiến An).

3 tháng 4
Địch tăng viện tiểu đoàn dù thuộc địa lên Điện Biên Phủ.

4 tháng 4
- 4 giờ, Trung đoàn 102 được lệnh ngừng chiến đấu và bàn giao nhiệm vụ phòng ngự cho đơn vị bạn. Đợt tiến công A1 tạm ngừng. Quân địch vẫn chiếm được hai phần ba cứ điểm, quân ta giữ mỏm thìa lìa.
- Tại đồng bằng Bắc Bộ, trên đường số 5 ta lại đánh đổ một đoàn tàu quân sự chở đầy binh lính và vũ khí của địch.
- Tại Liên khu 5, ta phục kích diệt 6 xe và một số lính địch.
- Tại Hạ Lào, liên quân Lào - Việt phục kích đánh một tiểu đoàn địch ở kilômét 59 đường số 13, diệt 1 đại đội địch, phá hủy 30 xe cơ giới và 4 đại bác 105 ly.

5 tháng 4
- Đêm 4 tháng 4 ta tiến công cứ điểm 105, quân ta đã tiêu diệt ba phần tư cứ điểm, đến sáng địch cho 1 tiểu đoàn, 5 xe tăng phản kích từ Mường Thanh ra. Ta tiêu diệt được một số. Nhưng đến 8 giờ, địch chiếm lại được cứ điểm 105.
Đợt tiến công thứ hai của quân ta vào khu đông chấm dứt. Trong đợt này, quân ta đã tiêu diệt được khoảng 2.300 tên địch gồm 1 tiểu đoàn và 9 đại đội. Pháo cao xạ ta đã hạ 4 máy bay địch.
- Tại đồng bằng Bắc Bộ, ta tiêu diệt vị trí Hòa Đình (Bắc Ninh), diệt 155 tên.

7 tháng 4
- Tại đồng bằng Bắc Bộ, ta tiến công vị trí Thượng Tó gần Hà Nam, tiêu diệt 230 tên địch thuộc Tiểu đoàn 3 Trung đoàn lê dương số 5 (3/5 REI).
- Tại Liên khu 4, ta tập kích vị trí Sơn Tùng, diệt 90 tên.
- Tại Điện Biên Phủ, địch thả dù tăng viện Tiểu đoàn dù thuộc địa số 2 (2è BEP).
- Máy bay trinh sát của Mỹ bay trên bầu trời Điện Biên Phủ để nghiên cứu điều kiện thực hiện kế hoạch “Diều hâu”.
- Trong hội nghị cán bộ, Bộ Chỉ huy mặt trận Điện Biên Phủ nhận định thắng lợi đợt 2, biểu dương những tiến bộ, đồng thời phê phán những hiện tượng sai lầm trong đợt chiến đấu vừa qua.
- Bộ Chỉ huy mặt trận Điện Biên Phủ đề ra nhiệm vụ mới:
+ Tiêu diệt thêm một bộ phận những lực lượng mới của địch.
+ Đánh chiếm thêm một số cứ điểm.
+ Tăng cường và tiếp tục đào trận địa tiến công bao vây thọc hẳn vào khu trung tâm để cắt đứt tiếp tế, tiếp viện của địch, chuẩn bị mọi điều kiện có lợi để chuyển sang tổng công kích.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Chín, 2016, 08:58:41 pm

9 tháng 4
- Quân địch dồn lực lượng phản kích định chiếm lại C1. Cuộc chiến đấu đã diễn ra quyết liệt. Mỗi bên chiếm một nửa cứ điểm.
- Súng phòng không 12,7 ly của ta hạ chiếc máy bay vận tải hai thân (C.119) đầu tiên.

10 tháng 4
- Địch tiếp tục thả Tiểu đoàn dù thuộc địa số 2 xuống Điện Biên Phủ.
- Quân địch dã man thả bom vào bản Long Nhai, nơi mà chúng đã tập trung dân làm chết một lúc 444 đồng bào ta.
- Tại đồng bằng Bắc Bộ, ta tập kích vị trí Đan Nhiễm (Hưng Yên), diệt 125 tên địch.

12 tháng 4
- Pháo cao xạ ta hạ một B.24. Đó là chiếc máy bay thứ 50 bị ta bắn rơi ở Điện Biên Phủ.
- Nava nghiên cứu định thực hiện kế hoạch Côngđo, một kế hoạch đánh tháo cho quân đội đồn trú Điện Biên Phủ chạy sang Lào.
- Tại Liên khu 5, ta lại phục kích đánh địch trên đường số 19 từ Plâycu đi An Khê, diệt 22 xe địch.

13 tháng 4
Hồi 15 giờ, một máy bay oanh tạc B.26 của địch thả    bom nhầm vào quân lính chúng chiếm đóng ở bắc khu trung tâm Mường Thanh.

14 tháng 4
Cônhi báo cho Đờ Cát biết kế hoạch Côngđo sẽ được thực hiện với 4 tiểu đoàn đặt dưới quyền chỉ huy của Trung tá Gôđa (Godard). Đến 20 tháng 4 lực lượng này sẽ tiến đến vùng Mường Khoa - Pắc Luông thuộc lưu vực sông Nậm Hu.

15 tháng 4
- Tại Hà Nội, Cônhi tiếp Tư lệnh Không quân Mỹ Patơrítgiơ đến để nghiên cứu lại kế hoạch “Diều hâu”. Kế hoạch đó giờ được dự kiến như sau: 90 máy bay oanh tạc hạng nặng B.29 sẽ xuất phát từ căn cứ Mani (Philíppin) đến đánh Điện Biên Phủ.
- Đờ Cát được thăng tướng.

16 tháng 4
Tại đồng bằng Bắc Bộ, bộ đội ta chặn đánh diệt 300 tên địch đi càn ở vùng Duyên Hà (Thái Bình).

18 tháng 4
- Tại Điện Biên Phủ, ta tiêu diệt cứ điểm 105 (bắc sân bay).
- Tại đồng bằng Bắc Bộ, ta phục kích 1 tiểu đoàn địch ở vùng Đông Biên (Nam Định), diệt 250, bắt sống 254 tên thuộc GMVN, thu rất nhiều vũ khí, đạn dược.
- Tướng Mỹ Canđêra (Caldera) cầm đầu một phái đoàn đến Sài Gòn trực tiếp kiểm tra việc chuẩn bị thực hiện kế hoạch “Diều hâu”.

19 tháng 4
Tại Điện Biên Phủ, ta bẻ gãy các đợt phản kích của địch ra cứ điểm 105.

20 tháng 4
- Tại đồng bằng Bắc Bộ, ta phục kích trên đường số 5, gần Như Quỳnh (Hưng Yên), diệt một tiểu đoàn địch thuộc GM3, thu 85 súng trường, 25 trung tiểu liên, phá hủy 3 xe tăng.
- Nava gửi về Pháp bản báo cáo tình hình quân sự ở Đông Dương. Theo y, cuộc tổng phản công của ta đã diễn ra sớm 8 tháng trước thời hạn mà y đã dự kiến. Y đề nghị với Chính phủ Pháp hoặc ngừng bắn trước khi thương lượng, hoặc thương lượng mà không ngừng bắn, trong lúc đó thì tích cực chuẩn bị một quân đoàn tác chiến mới, người của Pháp, trang bị và tiền của Mỹ, để tiến hành một cuộc chiến tranh mới bằng những phương tiện khổng lồ.

22 tháng 4
- Ta tiêu diệt cứ điểm 206 bằng chiến thuật đánh lấn, cứ điểm cuối cùng của địch nằm sát sân bay ở về phía tây. Mãi đến sáng hôm sau Đờ Cát mới biết việc này.
Quân ta hoàn toàn làm chủ sân bay.
- Bộ Chỉ huy mặt trận kêu gọi các chiến sĩ Điện Biên Phủ hãy đẩy mạnh phong trào “săn tây, bắn tỉa” và chuẩn bị tiến công đợt 3: tiếp tục tiêu diệt sinh lực địch, đánh chiếm cho hết các điểm cao phía đông và các cứ điểm đột xuất phía tây, đưa tất cả hỏa lực các cỡ của ta vào gần để khống chế không phận, uy hiếp khu trung tâm, tăng cường hoạt động tiêu hao địch và tranh đoạt tiếp tế, tiến tới tổng công kích tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ.

23 tháng 4
- 2 tiểu đoàn địch với 5 xe tăng phản kích đánh ra cứ điểm 206 nhưng hoàn toàn thất bại. Hơn 2 đại đội lính dù bị tiêu diệt.
- Một khẩu đội sơn pháo 75 ly của ta bố trí trên đồi E diệt 4 khẩu 105 ly địch giữa lúc chúng vừa kéo ra khỏi công sự.
- Bộ tham mưu của Nava báo cho Cônhi biết là 150 bao than hoạt tính và 150 túi bột hóa học sẽ rời Paris ngày 24 tháng 4 bằng máy bay để dùng vào việc làm mưa nhân tạo trên các tuyến đường giao thông của ta.
- Tại Điện Biên Phủ, trận địa chiến hào quân ta từ hai mũi phía đông và tây cắt ngang sân bay đã gặp nhau.
- Tại Paris, Ngoại trưởng Pháp và Anh gặp nhau bàn về kế hoạch “Diều hâu”.

26 tháng 4
Hội nghị Giơnevơ bàn về Triều Tiên và Đông Dương khai mạc.

27 tháng 4
Tại Điện Biên Phủ, Đảng ủy mặt trận triệu tập hội nghị bí thư đảng ủy các đại đoàn phê phán các hiện tượng “hữu khuynh tiêu cực”.

28 tháng 4
- Tại Liên khu 4, ta tiến công vào Ưu Điềm, Phò Trạch tiêu diệt hơn 200 địch, 1 kho xăng bị đốt cháy.
- Địch bắt đầu thực hiện kế hoạch tháo chạy (Côngđo) nhưng thất bại.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Chín, 2016, 08:59:51 pm

Tháng 5 năm 1954

1 tháng 5: Đợt tiến công thứ ba bắt đầu:
- Ở phía đông: Trung đoàn 98 tiêu diệt hoàn toàn cứ điểm C1 sau 20 ngày tranh chấp ác liệt với địch. Trung đoàn 209 tiêu diệt các cứ điểm 505, 505A (dưới chân dãy điểm cao khu đông).
Ở phía tây: Trung đoàn 88 đánh lấn tiêu diệt cứ điểm 311A.
Ở phía nam (Hồng Cúm): Trung đoàn 57 đánh vào khu C, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch.
- Lương thực của quân đội đồn trú chỉ còn lại có 3 ngày, 275 viên đạn 155 ly, 14.000 viên 105 ly và 5.000 viên cối 120 ly.

3 tháng 5
Đêm 3 tháng 5, Trung đoàn 36 tiêu diệt cứ điểm 311B ở phía tây Mường Thanh.
Trận địa quân ta bao vây sát trung tâm chỉ còn cách sở chỉ huy Đờ Cát trên dưới 300m.
Một đại đội ta được lệnh đóng chốt ở bản Nà Ti, không cho địch tháo chạy sang Lào.
- Cônhi chỉ thị cho Đờ Cát một kế hoạch tháo chạy khác gọi là kế hoạch “Chim biển” (Albatros), nhưng tất cả bọn sĩ quan chỉ huy Điện Biên Phủ đều mất tin tưởng. Đờ Cát quyết định ở lại với thương binh.

4 tháng 5
Quân địch phản kích định chiếm lại cứ điểm 311B nhưng thất bại.

5 tháng 5
Địch thả tiếp tiểu đoàn dù thuộc địa số 1 xuống Điện Biên Phủ.

6 tháng 5
- Quân ta đã đào xong một đường ngầm đưa 1.000kg bộc phá vào đặt dưới hầm ngầm của địch và một hào giao thông cắt đồi A1 với A3, cô lập cứ điểm A1 với khu trung tâm.
- 20 giờ 30 phút: toàn mặt trận lấy tiếng nổ của khối bộc phá 1.000kg làm hiệu lệnh.
- 23 giờ: Trung đoàn 165 tiến công vào cứ điểm 506 bên bờ sông Nậm Rốm, tiêu diệt 2 đại đội của Tiểu đoàn dù số 6.
- Trung đoàn 209 tiến công cứ điểm 507, nhưng không thành công.
- Trung đoàn 102 đánh vào cứ điểm 310, tiêu diệt Đại đội 1 thuộc Tiểu đoàn dù số 1 ở phía tây.

7 tháng 5
- 2 giờ 30 phút: cờ “Quyết chiến Quyết thắng” của quân ta đã tung bay trên điểm cao A1. Tên quan tư chỉ huy ở đây bị ta bắt sống.
- 5 giờ 30 phút: 2 đại đội và 1 xe tăng phản kích đánh lên A1, nhưng bị hỏa lực pháo của ta bắn cho tơi bời phải rút chạy. Đó là trận phản kích cuối cùng của địch lên điểm cao A1.
- 9 giờ: dưới hỏa lực yểm trợ của Trung đoàn 174 trên A1 và hỏa lực mạnh mẽ của pháo binh ta, Trung đoàn 98 tiêu diệt hoàn toàn C2, bắt sống trên 600 tên địch.
- Trung đoàn 165 đánh chiếm 506.
- Trung đoàn 209 tiến công 507 và tiếp tục lấn đất.
- Tình hình lúc này: sau khi quân ta đã tiến công thắng lợi các điểm cao A1, C1, C2, 506, 310, khu vực chiếm đóng của địch chỉ còn lại mỗi chiều trên dưới 1.000m. Tinh thần binh lính địch hoàn toàn tan rã.
- 10 giờ: Cônhi nói chuyện với Đờ Cát qua vô tuyến điện thoại.
- 14 giờ: thấy quân địch có nhiều triệu chứng tan rã, lợi dụng thời cơ có lợi, Đại đoàn 312 ra lệnh cho Trung đoàn 209 tiếp tục tiến công cứ điểm 507 ở gần cầu Mường Thanh. Hầu như trong tất cả các trận địa của địch đều xuất hiện cờ trắng, vải trắng. Trung đoàn 209 tiến công tiêu diệt các cứ điểm 508, 509, tiến sát bờ sông Nậm Rốm. Trong khu trung tâm bắt đầu có triệu chứng địch phá hủy vũ khí và quẳng vũ khí xuống sông. Ngay trong lòng Mường Thanh cũng xuất hiện cờ trắng. Trước tình hình đó, Bộ Chỉ huy Mặt trận ra lệnh: Tổng công kích tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ.
- 15 giờ 30 phút: các sĩ quan đều đến quây quần bên cạnh Đờ Cát: Lănggle, Bigia, Lơmơniê, Vađô... Đờ Cát điện về Cônhi báo cáo tiếng súng chống cự sẽ ngừng vào 7 giờ sáng mai.
- 16 giờ: đơn vị đầu tiên của Đại đoàn 312 vượt qua cầu Mường Thanh.
- 16 giờ: Pagít, tham mưu trưởng tập đoàn cứ điểm gọi điện cho Lalăng ở Hồng Cúm thúc phải gấp rút thực hiện kế hoạch tháo chạy.
- 16 giờ 30 phút: quân ta tiến sát đến sở chỉ huy Đờ Cát.
- 17 giờ 55 phút: Đại đoàn 312 báo cáo lên Bộ chỉ huy Mặt trận: “Tất cả quân địch trong khu trung tâm đã đầu hàng. Đờ Cát và cả ban tham mưu của hắn đã bị bắt”.
- 17 giờ 55 phút: Cônhi điện báo cho Lalăng tìm mọi cách tháo chạy.
- 18 giờ 30 phút: Lalăng ra lệnh cho quân lính rời khỏi Hồng Cúm.
- 19 giờ: Trung đoàn 57 truy kích sát địch về phía Lào.
- 24 giờ: toàn bộ quân địch ở Hồng Cúm gồm 2.000 tên rút chạy đã đầu hàng quân ta.
Thế là sau 55 ngày đêm chiến đấu ác liệt, chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã kết thúc đại thắng lợi.


Tiêu đề: Re: Chiến thắng Điện Biên Phủ-Sự kiện-Hỏi và Đáp
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Chín, 2016, 09:05:14 pm

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị, Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945- 1975, thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
2. Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị, Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp: Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
3. Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.2.
4. Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Việt Nam thế kỷ XX - Những sự kiện quân sự, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2001.
5. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1984.
6. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (9.1945-7.1954), Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1986.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.4, t.5.
8. Đại sứ Nguyễn Đình Bin (chủ biên), Ngoại giao Việt Nam 1945-2000, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
9. Đại tá Ung Răng, Đường lên Điện Biên (hồi ký), Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 1996.
10. Đỗ Thiện, Đỗ Kim Khánh, Tiếng sấm Điện Biên Phủ, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1984.
11. Hoàng Văn Thái, Điện Biên Phủ, chiến dịch lịch sử, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994.
12. Học viện Quan hệ quốc tế, Bộ Ngoại giao, Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác ngoại giao, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1990.
13. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
14. Hội đồng chỉ đạo biên soạn công trình lịch sử kháng chiến chống Pháp khu tả ngạn sông Hồng, Lịch sử kháng chiến chống Pháp khu tả ngạn sông Hồng 1945-1954, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
15. Jean - Baptiste Duroselle, Lịch sử ngoại giao từ 1919 đến nay, Học viện Quan hệ quốc tế, Hà Nội, 1994.
16. GS. Lương Ninh (chủ biên), PGS. Nguyễn Cảnh Minh, PGS. Nguyễn Ngọc Cơ, PGS. Trịnh Vương Hồng, PGS. Trương Thâu, Lịch sử Việt Nam giản yếu, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
17. Lưu Quang Hà (chủ biên), Trận tuyến hậu cần Điện Biên Phủ, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1975.
18. Phạm Kiệt cùng tập thể tác giả, Vài hồi ức về Điện Biên Phủ, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1973, t.2.
19. GS. Phan Ngọc Liên, PGS.PTS Nghiêm Đình Vỳ, PTS Mạc Văn Trọng, PTS. Nguyễn Văn Khoan, PTS. Nguyễn Đình Lễ tuyển chọn và biên soạn, Điện Biên Phủ mốc vàng lịch sử, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1984.
20. Sức mạnh chiến thắng Điện Biên Phủ, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1984.
21. Tố Hữu, Tuyển tập Tố Hữu, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1990.
22. Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng, Lịch sử Cách mạng tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
23. Võ Nguyên Giáp, Những chặng đường lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994.
24. Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Văn Thái, Lê Quang Đạo, Bài học thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1969.
25. Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Điện Biên Phủ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994.
26. Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Điện Biên Phủ, điểm hẹn lịch sử, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000.
27. Viện Lịch sử Đảng, Giáo trình lịch sử Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
28. Báo Nhân dân.
29. Báo Quân đội nhân dân.


Hết