Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Cha ông ta đánh giặc => Tác giả chủ đề:: Giangtvx trong 16 Tháng Tám, 2016, 11:55:53 pm



Tiêu đề: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 16 Tháng Tám, 2016, 11:55:53 pm
        - Tên sách: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
        - Tác giả: Phó giáo sư, Tiến sỹ Lê Đình Sỹ
        - Nhà xuất bản: Quân đội nhân dân
        - Năm xuất bản: 2006
        - Số hoá: ptlinh
        - Hiệu đính: Giangtvx

LỜI CỦA ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP

        Ông cha ta đã có truyền thống chống ngoại xâm vô cùng oanh liệt, để lại kho tàng kinh nghiệm đánh giặc, giữ nước hết sức phong phú, quý báu. Chúng ta đã có nhiều tác phẩm nghiên cứu về lịch sử chiến tranh chống xâm lược, về tư tưởng, nghệ thuật quân sự, về cách đánh giặc độc đáo, sáng tạo của dân tộc. Riêng về lĩnh vực “Binh chế” theo quan niệm của người xưa, bao gồm tất cả chế độ về việc binh của một quốc gia, từ tổ chức, tuyển binh, luyện quân, trang bị, bảo đảm hậu cần, quản lý, chỉ huy lực lượng vũ trang thời chiến, thời bình thì chưa có nhiều tác phẩm đi sâu nghiên cứu.

        Tôi hoan nghênh Viện Lịch sử quân sự đã tổ chức nghiên cứu biên soạn cuốn binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV: Đây là kết quả tốt bước đầu. Tôi mong Viện Lịch sử quân sự các nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu sâu hơn nữa, không chỉ thời đại Đại Việt mà toàn bộ binh chế suốt cả quá trình lịch sử của dân tộc ta, một bộ phận quan trọng của nền quân sự Việt Nam, của học thuyết quân sự Việt Nam, để có nhận thức sâu sắc, toàn diện hơn truyền thống quân sự của dân tộc, qua đó rút ra những kinh nghiệm bổ ích cho sự nghiệp xây dựng đất nước, xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong thời đại mới.


Hà Nội, ngày 15 tháng 9 năm 2006        
(http://i479.photobucket.com/albums/rr153/Giangtvx/Linh%20tinh/BCDV%20-%200003_zpswm4xf1uq.jpg)          
Đại tướng VÕ NGUYÊN GIÁP            


LỜI GIỚI THIỆU

        Nước Việt Nam trong kỷ nguyên Đại Việt (thế kỷ XI - XV) là một quốc gia cường thịnh nổi tiếng trong vùng với bao kỳ tích trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Bên cạnh các thành tựu lớn lao trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, nhân dân ta còn xây dựng được một nền quốc phòng vững mạnh và lập nên những chiến công hiển hách trên lĩnh vực chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc. Thành công đó chứng tỏ ông cha ta thời bấy giờ đã có những kế sách hay, những phương lược giỏi trong lãnh đạo đất nước, đồng thời đã xây dựng nên một Binh chế tiến bộ, phù hợp với hoàn cảnh của mình.

        Binh chế là chế độ quân sự của quốc gia; là chủ trương, chính sách, quy chế của Nhà nước đối với việc binh; trong đó chủ yếu là vấn đề tổ chức biên chế, trang bị, huấn luyện, chỉ huy của lực lượng vũ trang, của quân đội. Đó là những nội dung hết sức quan trọng tạo nên sức mạnh quân sự - quốc phòng của đất nước trong các thời đại. Việc xây dưng sức mạnh quân sự - quốc phòng ở nước ta thời Lý, Trần và Lê Sơ đặc biệt được coi trọng. Phép tổ chức "Thập đạo quân” và chủ trương gắn "việc binh" với "việc nông" của các triều Đinh và Tiền Lê từ thế kỷ thứ X được phát triển thành chính sách “Ngụ binh ư nông" trong các thế kỷ sau. Một mô hình tổ chức các lục lượng vũ trang độc đáo của Nhà nước Đại Việt đã sớm xuất hiện và nhanh chóng được kiện toàn gồm quân triều đình, quân địa phương ở các lộ, các đạo và hương binh trong các thôn xã. Phương thức dựa vào dân để xây dựng quân đội, dựa vào dân để động viên nhân lực, vật lực, kết hợp giữa nhà nước và nhân dân trong việc đảm bảo hậu cần, trang bị cho quân đội luôn luôn là một phương thức đúng đắn và thích hợp ở nước ta. Chế độ và hình thức tổ chức quân sự ưu việt ấy phù hợp với sự cần thiết phải dựa vào sức mạnh của cả dân tộc để bảo vệ đất nước, làng bản; nó càng phù hợp với điều kiện nước ta lúc bấy giờ mới thoát khỏi ách đô hộ hơn một ngàn năm của phong kiến phương Bắc, đang vừa phải tập trung sức xây dựng đất nước vừa phải khẩn trương chuẩn bị để sẵn sàng đối phó với mưu đồ xâm lược của ngoại bang. Những chê độ quân sự đó là cơ sở, nền tảng tạo nên một nền nghệ thuật quân sự độc đáo, sáng tạo của chiến tranh nhân dân chống xâm lược ở Việt Nam.

        Nghiên cứu Binh chế Việt Nam trong lịch sử, nhất là những thời kỳ thịnh vượng, những giai đoạn mà quân đội và nhân dân cả nước đạt được nhiều thành tựu to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước như giai đoạn từ thiên kỷ XI - XV để rút ra những bài học lịch sử là rất cần thiết đối với nhiệm vụ xây dựng quân đội, xây dựng nền quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

        Ý thức được tầm quan trọng của vấn đề Binh chê và mong muốn góp phần "nhận thức sâu sắc hơn, toàn diện hơn truyền thông quân sự dân tộc”, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam đã tổ chức nghiên cứu, biên soạn công trình Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV. Tính đền nay Viện đã công bố hàng trăm công trình sử học quân sự, góp phần quan trọng vào công tác nghiên cứu khoa học và phổ biên tri thức lịch sử quân sự. Tuy nhiên, mảng đề tài về Binh chế vẫn còn mới mẻ; số công trình thuộc lĩnh vực này chưa có nhiều, nhất là trong các giai đoạn xa xưa của lịch sử dân tộc. Một trong những nguyên nhân chủ yếu là do quá khan hiếm về sử liệu. Sắp tới bộ, Lịch sử quân sự Việt Nam (14 tập) hoàn thành sẽ góp phần bù đắp mảng trống lịch sử này.

        Nhân dịp cuốn Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV ra mắt bạn đọc Viện Lịch sử quân sự Việt Nam xin chân thành cảm ơn Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã cho ý kiến chỉ đạo và có lời mở đầu quý giá cho cuốn sách. Cảm ơn các nhà khoa học đã đọc và đóng góp ý kiến để nâng cao chất lượng công trình. Cảm ơn Nhà xuất bản Quân đội nhân dân đã cộng tác xuất bản cuốn sách này.

Hà Nội, ngày 10 tháng 10 năm 2006        
VIỆN LỊCH SỬ QUÂN SỰ VIỆT NAM        


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 16 Tháng Tám, 2016, 11:59:46 pm
         
MỞ ĐẦU

        Nước ta từ thế kỷ XI đến thế kỷ XV với tên gọi Đại Việt, trải qua các triều Lý, Trần, Hồ và Lê Sơ, là một quốc gia thịnh vượng trong vùng Đông Nam Á. Bên cạnh các thành tựu lớn lao trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội, nhân dân ta còn xây dựng được một nền quốc phòng vững mạnh và lập nên những chiến công thần kỳ trên lĩnh vực chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc. Thành công đó cũng thể hiện tính ưu việt của một Binh chế mà tổ tiên ta qua các triều đại trên đã xây dựng nên, đã kế thừa, phát triển và vận dụng có hiệu quả trong điều kiện của mình. Vì thế, nghiên cứu Binh chế của nước Đại Việt trong giai đoạn này là điều cần thiết, đáp ứng nhu cầu trước mắt và lâu dài.

        Nghiên cứu Binh chế thế kỷ XI - XV nhằm góp phần tìm hiểu sâu về chế độ quân sự các triều đại - một nội dung quan trọng của khoa học Lịch sử quân sự; làm sáng tỏ thêm một nguồn sức mạnh giữ nước của dân tộc, thấy rõ tổ tiên ta từ sớm đã rất quan tâm và có nhiều biện pháp tích cực xây dựng quân đội và các lực lượng vũ trang khác ,thực hiện tốt cả nhiệm vụ canh phòng và nhiệm vụ xây dựng đất nước; đồng thời nghiên cứu Binh chế cũng là tìm hiểu phương thức huy động lực lượng quân sự để đánh thắng các kẻ thù to lớn, có quân đội đông một khi chúng liều lĩnh gây chiến tranh xâm lược.

        Nghiên cứu Binh chế các triều đại trước, nhất là những thời kỳ thịnh vượng, những giai đoạn mà quân dân cả nước đạt được nhiều thành tựu lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước như giai đoạn từ thế kỷ XI - XV để rút ra những bài học lịch sử là rất cần thiết với nhiệm vụ xây dựng quân đội, xây đựng nền quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Nghiên cứu Binh chế còn có tác dụng góp phần vào nhiệm vụ giáo dục truyền thống quân sự tổ tiên, nâng cao lòng tự hào dân tộc và ý thức trách nhiệm tham gia đóng góp của mỗi người dân đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

        Có thể hiểu rằng: Binh chế là chế độ quân sự của một quốc gia, là quy chế của nhà nước về việc binh1. "Việc binh" theo quan niệm xưa gồm cả ý nghĩa quân đội, chiến tranh và quốc phòng. Binh chế có nội dung rộng lớn, bao gồm nhiều mặt: Cơ cấu tổ chức, biên chế lực lượng vũ trang (chủ yếu là quân đội); chế độ tuyển mộ và động viên quân đội (chế độ binh dịch); cơ chế lãnh đạo, chỉ huy; chế độ trang bị, huấn luyện; cách bố phòng về mặt quân sự; các quy chế về dụng binh, v.v...

        Trong chuyên luận này, chúng tôi chưa có điều kiện nghiên cứu tất cả các mặt của Binh chế, mới chỉ đi sâu tìm hiểu một số vấn đề chủ yếu trên các lĩnh vực: tổ chức biên chế, chế độ tuyển mộ, quản lý và chỉ huy, trang bị và huấn luyện quân đội nước ta từ thế kỷ XI đến XV, một giai đoạn mà cả dân tộc vươn lên mạnh mẽ với nhiều thành tựu, đặc biệt là những chiến công trong sự nghiệp đánh giặc giữ nước. Giai đoạn này Binh chế nước ta từng bước định hình, phát triển và thể hiện rõ tính ưu việt của nó.

        Đối với vấn đề tổ chức quân sự của Nhà nước Đại Việt từ thế kỷ XI - XV, các sử gia phong kiến Việt Nam là những người đầu tiên nghiên cứu và đề cập đến trong một số tác phẩm của họ. Sử người thời Trần viết hiện còn hai bộ: Việt sử lược của tác giả khuyết danh và An Nam chí lược của Lê Trắc. Việt sử lược là bộ sách nhỏ nhưng quý. Khi viết về lịch sử các triều vua từ đời Lý Chiêu Hoàng (1225) về trước, tác giả đã đề cập một ít về việc chế định quân ngũ các thời Đinh, Tiền Lê và Lý. Sách An Nam chí lược của Lê Trắc hoàn thành năm 1333, đã phản ánh được một số vấn đề về quan hệ Việt - Trung và lịch sử Việt Nam thuở ấy. Lê Trắc vốn là một quý tộc Trần đầu hàng quân Nguyên, mang quan điểm của sử gia phong kiến Trung Quốc đương thời. Ảnh hưởng tư tưởng này đối với Lê Trắc đã thể hiện trong tác phẩm của ông và là nguyên nhân dẫn đến những nhận định thiếu khách quan và xuyên tạc các sự kiện. Tuy vậy, An Nam chí lược có giá trị nhất định, là một nguồn sử liệu đương đại trong điều kiện tư liệu quá hiếm hoi. Qua đó, ta có thể hiểu được khá nhiều hoạt động quân sự của vương triều Trần trong giai đoạn chuẩn bị và tiến hành kháng chiến chống Mông - Nguyên hồi thế kỷ XIII; hiểu thêm một số vấn đề về tổ chức quân sự và một số chính sách của triều Trần đối với quân đội, cũng như trong quan hệ đối nội và đối ngoại.

-----------------
1. Về khái niệm, Binh chế (chữ hán) theo chữ Hán (Trung Quốc) là "binh bị chế độ" hoặc "quốc gia thiết binh nhi chế độ", có nghĩa là các chế độ binh bị, về xây dựng quân đội của một quốc gia. Theo tiếng Pháp, Statut Militaire có nghĩa là các quy chế, luật lệnh, pháp lệnh, pháp quy hay quy ước về quân sự; Organisation militaire có nghĩa là Quân chế, Binh chế.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 17 Tháng Tám, 2016, 12:00:41 am
        Sách Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu (1230- 1322) viết năm 1272 (nội dung lịch sử từ Triệu Vũ Đế đến Lý Chiêu Hoàng) và sách Đại Việt sử ký của Phan Phu Tiên biên soạn năm 1455 (từ Trần Thái Tông đến năm 1427) tuy đã thất truyền nhưng chúng ta có thể thấy hình bóng của nó qua tác phẩm Đại Việt sử ký toàn thư (viết tắt là Toàn thư) là bộ biên niên sử quý giá - và đầy đủ đầu tiên của nước ta. Tác phẩm này phản ánh lịch sử dân tộc từ triều Lê về trước. Tuy các tác giả không đi sâu nghiên cứu Binh chế, song qua những tư liệu và những nhận xét của họ, chúng tôi ít nhiều hiểu được một số khía cạnh về tổ chức quân sự, một số điển chế, luật lệ của các triều đại đối với quân đội. Đại Việt sử ký toàn thư là một bộ sử có giá trị nhiều mặt. Tuy nhiên bộ sách này hiện có hai bản dịch khác nhau. Một bản được công bố năm 1967 và một bản khác dịch theo một bản khắc năm Chính Hoà thứ 18 (1697). Về cơ bản hai bản dịch có nội dung giống nhau, nhưng về chi tiết lịch sử, kể cả lĩnh vực Binh chế có những điểm khác nhau. Do vậy, chúng tôi đã tham khảo, sử dụng tư liệu của cả hai bản và có chú thích rõ ở cuối trang để tiện theo dõi.

        Học giả Lê Quý Đôn (1726-1784) với các tác phẩm tiêu biểu của ông như Vân đài loại ngữ, Đại Việt thông sử, Phủ biên tạp lục và Kiên văn tiểu lục đã tập hợp nhiều tri thức khoa học trên nhiều lĩnh vực trong đó có cả lịch sử chiến tranh và tổ chức quân sự các thế kỷ XI - XV, đặc biệt là giai đoạn Lê Sơ ông đã có những khái quát cao trên các mặt chính trị, kinh tế, xã hội và cả những hoạt động quân sự của triều đại mà chúng tôi đề cập. Chúng tôi tham khảo những nhận xét của ông về rmh vực Binh chế, những điều ông so sánh giữa Binh chế Đại Việt và Binh chế Trung Quốc đương thời.

        Sử gia Ngô Thì Sĩ (1726 - 1790) với sách Việt sử tiêu án viết lịch sử nước ta từ thời Hồng Bàng đến hết thời thuộc Minh (1427) cũng đã đề cập đến một số nội dung về chế độ quân sự của Nhà nước Đại Việt.

        Sang thế kỷ XIX, các sử gia triều Nguyễn của Quốc sử quán đã viết hệ thống biên niên sử Việt Nam trong bộ Việt sử thông giám cương mục. Sách này đã tập hợp nhiều tư liệu, trích dẫn nhiều lời bình xét của các tác giả trước đây, đồng thời nêu lên quan điểm của mình trên một số lĩnh vực của tổ chức quân sự, của Binh chế; riêng về triều Lý, tác giả cho rằng: "Quân hiệu triều Lý chỉ thấy tản mạn trong sách, còn Binh chế ra sao thì không thể khảo xét được"1 (Việt sử thông giám cương mục, chính biên, Tập lV, Nxb Văn Sử Địa, H.1957, tr.83).Các nhà sử học phong kiến và những tác phẩm nói trên tuy mới chỉ đề cập đến vấn đề Binh chế rất hạn hẹp, ít ỏi và tản mạn, nhưng những đoạn tư liệu và những lời bình xét ngắn ngủi của họ về một số khía cạnh của tổ chức quân sự là rất quý giá.

        Có thể nói, ở nước ta, người đầu tiên nghiên cứu Binh chế với tư cách là một đối tượng nghiên cứu chuyên biệt là sử gia Phan Huy Chú (1782-1846). Tác phẩm lớn Lịch triều hiến chương loại chí của ông viết bằng chữ Hán, gồm 49 quyển, trong đó có phần Binh chế chí, đã tập hợp nhiều tư liệu về phương cách tổ chức quân đội và một số nhận định của các sử gia trước nói về quân đội từ thời Đinh đến thời Lê - Trịnh. Tác giả cũng đã nêu lên một ít lời bình xét của mình trên các vấn đề như: Ngạch quân, phép kén chọn, lệ nuôi binh và cấp tuất, cách luyện tập, các điều cấm răn, phép khảo thí và lệ chầu hầu trong quân đội thời phong kiến nước ta. Theo Phan Huy Chú, đó mới chỉ là tra cứu sử cũ và sách xưa còn lại, liệt ra từng loại, chia ra từng điều... để tra xét cho dễ" (Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương toại chí. Tập lV, Nxb Sử học, H.1961, tr.6). Ông cho rằng: "Quy chế từ các đời Lý - Trần về trước không xét rõ được. Nay chép từ đời Lê trở xuống, xếp thành điều mục, bày tỏ đại khái một đôi điều để cho đủ những điểm chủ yếu của binh chính"3 (Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương toại chí. Tập lV, Nxb Sử học, H.1961, tr.6). Vấn đề Binh chế được ông đề cập trong sách chủ yếu từ thời Lê - Trịnh hồi thế kỷ XVIII, các triều đại trước chỉ nêu đơn giản và sơ lược. Tuy nhiên, đây là công trình công phu đầu tiên; những tư liệu và nhất là những lời bình xét của sử gia Phan Huy Chú đã gợi mở cho chúng tôi nhiều điều khi nghiên cứu Binh chế.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 17 Tháng Tám, 2016, 12:13:39 am

        Vào thế kỷ XX, năm 1950, Nhà xuất bản Ngày Mai cho ra mắt cuốn Lược khảo Binh chế Việt Nam qua các triều đại của tác giả Nguyễn Tường Phượng. Trong sách này, quân đội các triều đại phong kiến nước ta được đề cập và bình xét một cách đại cương trên các mặt: Binh chế từ thời Đinh đến nhà Nguyễn, võ khí và võ nghệ, thi cử, trận đồ và tinh thần quân nhân. Tuy nhiên, tư liệu và những đánh giá của Nguyễn Tường Phượng vẫn chưa vượt hơn Phan Huy Chú; các  vấn đề được nêu lên chủ yếu trong thời Lê Trung Hưng và thời Nguyễn (thế kỷ XVI - XIX).

        Cùng thời với Nguyễn Tường Phượng có một số nhà nghiên cứu đề cập đến vấn đề tổ chức quân đội như Hoàng Xuân Hãn trong sách Lý Thường Kiệt, Hoàng Thúc Trâm trong sách Trần Hưng Đạo, Chu Thiên trong cuốn Lê Thánh Tông, cùng một số tác phẩm lịch sử của Đào Duy Anh, Trần Trọng Kim, v.v... Tuy mức độ đề cập rất ít ỏi chủ yếu về sự nghiệp, võ công và triều chính trong một số triều đại, nhưng các sử liệu mới cũng như đôi lời đánh giá và kết luận của các tác giả về việc binh cũng đã gợi mở cho chúng tôi một số vấn đề.

        Sau năm 1954, nhiều công trình nghiên cứu của giới sử học cả hai miền Nam và Bắc có liên quan đến lịch sử quân sự cổ trung đại, như các sách về lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam do Viện Sử học, ủy ban khoa học xã hội Việt Nam, Khoa Lịch sử Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và Khoa Lịch sử Trường Đại học Sư phạm Hà Nội tổ chức thực hiện; các sách Cuộc kháng chiên chông xâm lược Nguyên Mông của Hà Văn Tấn - Phạm Thị Tâm; Khởi nghĩa Lam Sơn của Phan Huy Lê - Phan Đại Doãn; Triều chính Lê Thánh Tông của Lê Kim Ngân: Quân thuỷ Việt Nam trong lịch sử của Nguyễn Việt, Vũ Minh Giang và Nguyễn Mạnh Hùng; Việt Nam ba lần đánh Nguyên toàn thắng và Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước của Nguyễn Lương Bích; Những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam chống phong kiên Trung Hoa xâm lược của Hồng Nam và Hồng Lĩnh (chủ biên); Chính sách ngụ binh ư nông các thời Lý, Trần và Lê Sơ của Nguyễn Anh Dũng, Kế sách giữ nước thời Lý, Trần của Lê Đình Sỹ và Nguyễn Danh Phiệt, v.v... Do tổ chức quân sự là một vấn đề quan trọng nên đã được các nhà nghiên cứu đề cập đến ở các góc độ khác nhau trong từng thời kỳ, với mục đích làm nổi bật nội dung khoa học của mình. Tuy vậy, riêng vấn đề Binh chế vẫn chưa có ai đi sâu tìm hiểu.

        Gần đây đã xuất hiện một số bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí khoa học như Nghiên cứu lịch sử, Lịch sử Quân sự Quốc phòng toàn dân và một số luận án, luận văn tốt nghiệp của nghiên cứu sinh và sinh viên về một số khía cạnh của tổ chức lực lượng vũ trang Đại Việt; nhưng các tác giả cũng mới phản ánh một số góc độ nhỏ hẹp của Binh chế.

        Tình hình nghiên cứu trên chứng tỏ rằng: cho đến nay, chưa có một công trình chuyên khảo vào nghiên cứu hệ thống về Binh chế Đại Việt từ thế kỷ XI đến thế kỷ XV. Những ý kiến nhận định đánh giá nói trên tuy còn ít và ở mức độ khác nhau, nhưng đó là những cơ sở rất tốt, chúng tôi trân trọng tham khảo và phần nào đã kế thừa, phát triển trong công trình chuyên khảo này.

        Nguồn sử liệu mà chúng tôi sử dụng để nghiên cứu gồm cả tư liệu thư tịch có từ các thế kỷ đó và nguồn tư liệu được biên chép trong các thế kỷ sau, trong đó phần lớn là sách sử nước ta và một phần sử sách Trung Quốc cùng một số nước khác có liên quan.

        Sử sách trong nước đề cập đến các hoạt động quân sự của tổ tiên ta không phải là ít, song lượng thông tin, nguồn tư liệu có liên quan đến đề tài lại nghèo nàn, tản mạn và thậm chí trùng lặp hoặc sai lệch nhau. Vì vậy, cần có sự công phu sưu tầm, khai thác, nghiên cứu và chắt lọc thông tin.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 17 Tháng Tám, 2016, 12:13:40 am

        Vào thế kỷ XX, năm 1950, Nhà xuất bản Ngày Mai cho ra mắt cuốn Lược khảo Binh chế Việt Nam qua các triều đại của tác giả Nguyễn Tường Phượng. Trong sách này, quân đội các triều đại phong kiến nước ta được đề cập và bình xét một cách đại cương trên các mặt: Binh chế từ thời Đinh đến nhà Nguyễn, võ khí và võ nghệ, thi cử, trận đồ và tinh thần quân nhân. Tuy nhiên, tư liệu và những đánh giá của Nguyễn Tường Phượng vẫn chưa vượt hơn Phan Huy Chú; các  vấn đề được nêu lên chủ yếu trong thời Lê Trung Hưng và thời Nguyễn (thế kỷ XVI - XIX).

        Cùng thời với Nguyễn Tường Phượng có một số nhà nghiên cứu đề cập đến vấn đề tổ chức quân đội như Hoàng Xuân Hãn trong sách Lý Thường Kiệt, Hoàng Thúc Trâm trong sách Trần Hưng Đạo, Chu Thiên trong cuốn Lê Thánh Tông, cùng một số tác phẩm lịch sử của Đào Duy Anh, Trần Trọng Kim, v.v... Tuy mức độ đề cập rất ít ỏi chủ yếu về sự nghiệp, võ công và triều chính trong một số triều đại, nhưng các sử liệu mới cũng như đôi lời đánh giá và kết luận của các tác giả về việc binh cũng đã gợi mở cho chúng tôi một số vấn đề.

        Sau năm 1954, nhiều công trình nghiên cứu của giới sử học cả hai miền Nam và Bắc có liên quan đến lịch sử quân sự cổ trung đại, như các sách về lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam do Viện Sử học, ủy ban khoa học xã hội Việt Nam, Khoa Lịch sử Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và Khoa Lịch sử Trường Đại học Sư phạm Hà Nội tổ chức thực hiện; các sách Cuộc kháng chiên chông xâm lược Nguyên Mông của Hà Văn Tấn - Phạm Thị Tâm; Khởi nghĩa Lam Sơn của Phan Huy Lê - Phan Đại Doãn; Triều chính Lê Thánh Tông của Lê Kim Ngân: Quân thuỷ Việt Nam trong lịch sử của Nguyễn Việt, Vũ Minh Giang và Nguyễn Mạnh Hùng; Việt Nam ba lần đánh Nguyên toàn thắng và Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước của Nguyễn Lương Bích; Những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam chống phong kiên Trung Hoa xâm lược của Hồng Nam và Hồng Lĩnh (chủ biên); Chính sách ngụ binh ư nông các thời Lý, Trần và Lê Sơ của Nguyễn Anh Dũng, Kế sách giữ nước thời Lý, Trần của Lê Đình Sỹ và Nguyễn Danh Phiệt, v.v... Do tổ chức quân sự là một vấn đề quan trọng nên đã được các nhà nghiên cứu đề cập đến ở các góc độ khác nhau trong từng thời kỳ, với mục đích làm nổi bật nội dung khoa học của mình. Tuy vậy, riêng vấn đề Binh chế vẫn chưa có ai đi sâu tìm hiểu.

        Gần đây đã xuất hiện một số bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí khoa học như Nghiên cứu lịch sử, Lịch sử Quân sự Quốc phòng toàn dân và một số luận án, luận văn tốt nghiệp của nghiên cứu sinh và sinh viên về một số khía cạnh của tổ chức lực lượng vũ trang Đại Việt; nhưng các tác giả cũng mới phản ánh một số góc độ nhỏ hẹp của Binh chế.

        Tình hình nghiên cứu trên chứng tỏ rằng: cho đến nay, chưa có một công trình chuyên khảo vào nghiên cứu hệ thống về Binh chế Đại Việt từ thế kỷ XI đến thế kỷ XV. Những ý kiến nhận định đánh giá nói trên tuy còn ít và ở mức độ khác nhau, nhưng đó là những cơ sở rất tốt, chúng tôi trân trọng tham khảo và phần nào đã kế thừa, phát triển trong công trình chuyên khảo này.

        Nguồn sử liệu mà chúng tôi sử dụng để nghiên cứu gồm cả tư liệu thư tịch có từ các thế kỷ đó và nguồn tư liệu được biên chép trong các thế kỷ sau, trong đó phần lớn là sách sử nước ta và một phần sử sách Trung Quốc cùng một số nước khác có liên quan.

        Sử sách trong nước đề cập đến các hoạt động quân sự của tổ tiên ta không phải là ít, song lượng thông tin, nguồn tư liệu có liên quan đến đề tài lại nghèo nàn, tản mạn và thậm chí trùng lặp hoặc sai lệch nhau. Vì vậy, cần có sự công phu sưu tầm, khai thác, nghiên cứu và chắt lọc thông tin.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 17 Tháng Tám, 2016, 12:17:44 am

        Viết về giai đoạn lịch sử từ thế kỷ XI - XV, có khá nhiều sách như Việt sử lược, Thiền uyển tập anh ngữ lục, Việt điện u linh, Binh thư yếu lược, Hồng Đức bản đồ, Hồng Đức thiện chính thư, Thiên Nam dư hạ tập, Lê triều hội điển, Quốc triều hình luật, Phương đình dư địa chí, Sử học bị khảo; cùng các Tuyển tập Văn bia Hà Nội, Văn thơ Lý Trần, v.v... Những tác phẩm lịch sử, địa lý, văn hoá - xã hội Việt Nam của các học giả nổi tiếng như Nguyễn Trãi, Lê Quý Đôn, Đào Duy Anh... và các bộ sử nêu ở phần trên đã cung cấp cho chúng tôi nhiều tư liệu quý giá.

        Để nghiên cứu mối quan hệ qua lại giữa Binh chế Việt Nam và Binh chế Trung Quốc giai đoạn thế kỷ XI - XV, chúng tôi tham khảo các mục Binh chí trong Tống sử, Nguyên sử, Minh sử, những vấn đề có liên quan chủ yếu các giai đoạn từ Tuỳ, Đường đến Minh trong các sách của Trung Quốc như: Nguỵ Tấn Nam Bắc triều sử luận (phần Phủ binh chê độ), Lịch đại binh chế, Trung Quốc quân chế, Trung Quốc cổ đại binh chế, Trung Quốc quân sự kỹ thuật, Hoả dược đích phát minh hoà Tây tuyền, Lịch đại chức quan diên cách sử, Trung Quốc lịch sử tam bách đề, Trung Quốc quân sự bách khoa toàn thư, v.v... (xem phần Tài liệu tham khảo).

        Một số sách nước ngoài với các ngôn ngữ khác nhau có liên quan đã đóng góp thêm một phần tư liệu và nhận định; như tài liệu tiếng Pháp có sách Étude D'histoire d’Annam II, La Géographie Politique de La Enpise d’Annam sous les Lý, les Trần ét les Hồ (XI - XV) của Hen ri Maspéro; tiếng Nga có Sự phục hưng của nước Đại Việt thế kỷ X - XIV của A .B.Pôliacốp, Đại cương về lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam của M.A. Sêxcốp, Chế độ phong kiến Việt Nam và vai trò của Hồ Quý Ly trong lịch sử của Maxlốp; tiếng Anh có The development of the Govrment Vietnam in fìfteenth century (Sự phát triển của chính thể Việt Nam thế kỷ XV) của tiến sĩ Giôn Kirimớc Uytmo; tiếng Nhật có Vấn đề quân sự thời Lý, Nghiên cứu lộ chế triều Trần, Thể chế quân sự thời Lê Thánh Tông của Mômôky và Yatakao, v.v...

        Ngoài nguồn tư liệu thư tịch nói trên, chúng tôi tiến hành một số đợt khảo sát thực địa ở một số địa phương nhằm tìm hiểu về một số tướng lĩnh, võ quan, các khu vực đóng quân, luyện tập quân đội, các điền trang thái ấp xưa của một số vương hầu quý tộc thời Trần; đồng thời tìm hiểu thêm các tư liệu khảo cổ học, bi ký và một số thần tích, thần phả từ các địa phương. Chúng tôi tìm hiểu thêm về các hiện vật, di tích về vũ khí, thành trì, một số ảnh tư liệu có liên ở các thư viện, bảo tàng, địa phương hay cơ quan.

        Chúng tôi đã cố gắng trong việc thu thập các nguồn tư liệu hiện có; tập hợp hệ thống, so sánh, đối chiếu các thư tịch và tư liệu điền dã... với mục đích nhằm chắt lọc thông tin để dựng lại chính xác hơn những sự kiện lịch sử các hoạt động của tổ tiên trên lĩnh vực Binh chế trong giai đoạn mà sử liệu rất hạn chế.

        Các nội dung của Binh chế trong chuyên khảo được trình bày theo thứ tự thời gian. Trên cơ sở đó, làm rõ các bước tiến triển của Binh chế, so sánh và rút ra những kết luận trên từng mặt cũng như toàn bộ vấn đề. Theo phương pháp cấu trúc hệ thống, chúng tôi nghiên cứu Binh chế với mối liên hệ cấu trúc trong một chỉnh thể của tổ chức Nhà nước Đại Việt, đồng thời dùng phương pháp biểu đồ và bản đồ khu vực quân sự để thể hiện hệ thống tổ chức quân sự của các triều đại. Chúng tôi không trình bày các nội dung trong chuyên khảo dưới dạng khái quát lý luận mà trình bày theo phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp lôgích; trên cơ sở những tư liệu để rút ra kết luận.

        Có được kết quả nghiên cứu này, chúng tôi nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của nhiều nhà khoa học. Chúng tôi xin chân thành cám ơn GS. Phan Đại Doãn là người thầy hướng dẫn khoa học và giúp đỡ nhiều tư liệu; cám ơn các giáo sư, các nhà khoa học trong và ngoài quân đội như GS. Phan Huy Lê; cố GS, TS. Trương Hữu Quýnh; PGS, Đại tá Trần Bưởi; PGS, TS. Nguyễn Danh Phiệt; PGS, TSKH . Nguyễn Hải Kế, v.v... đã góp nhiều ý kiến trong quá trình chúng tôi nghiên cứu và hoàn chỉnh bản thảo. Đặc biệt, chúng tôi xin cảm ơn Thủ trưởng cùng bạn bè đồng nghiệp ở Viện Lịch sừ quân sự Việt Nam đã động viên và tạo điều kiện tốt cho tôi trong quá trình nghiên cứu cũng như khi xuất bản công trình này.

        Nghiên cứu Binh chế trong lịch sử là một vấn đề lớn và khó đòi hỏi đầu tư nhiều thời gian và công sức, do vậy cuốn sách chắc chắn còn nhiều hạn chế. Chúng tôi mong muốn nhận được nhiều ý kiến chân thành của các nhà nghiên cứu và của bạn đọc gần xa.

TÁC GIẢ       


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Tám, 2016, 11:03:57 pm

Chương I

NƯỚC ĐẠi VIỆT THẾ KỶ XI – XV NHỮNG CƠ SỞ, ĐIỀU KIỆN CỦA BINH CHẾ

        I.LÃNH THỔ QUỐC GIA, VỊ TRÍ ĐỊA LÝ QUÂN SỰ - VÀ NHU CÂU GIỮ NƯỚC

        Lãnh thổ nước ta ngày nay trên đất liền dài khoảng 2.000 kilômét từ Lạng Sơn đến Minh Hải đã được tổ tiên dựng xây từ hàng nghìn năm trước và trải qua nhiều bước thăng trầm của lịch sử dựng nước và giữ nước.

        Không trở lên đến nước Văn Lang, Âu Lạc xưa, chúng ta hãy xem cương vực, lãnh thổ của nhà nước từ chủ ta do các nhà Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hồ và Lê Sơ từng bước xây dựng, phát triển thành lãnh thổ của một quốc gia Đại Việt thống nhất, hoàn chỉnh. Về đại thể, lãnh thổ Đại Việt trong các thế kỷ XI - XV là vùng Bắc Bộ và Trung Bộ ngày nay, có trung tâm chính trị, kinh tế và văn hoá là Hoa Lư rồi Thăng Long, ở giữa miền châu thổ của hệ thống sông Hồng. Phía Đông có các hải đảo và liền với biển cả Phía Bắc cùng biên giới với Trung Quốc vùng Lưỡng Quảng (Quảng Đông và Quảng Tây) lúc đó thuộc nhà Tống, nhà Nguyên và nhà Minh; đồng thời giáp với vương quốc Đại Lý ở Vân Nam. Phía Tây và Tây Nam giáp với Ai Lao (Lào) và Chân Lạp. Phía Nam là vương quốc Chăm Pa (Chiêm Thành).

        Sau hơn một nghìn năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ, một phần lãnh thổ rộng lớn phía Bắc nước Âu Lạc trước đây bị phong kiến Trung Hoa, bấy giờ là nhà Nam Hán chiếm giữ. Đó là vùng tây nam Quảng Tây và nam Quảng Đông ngày nay. Từ khi giành được quyền tự chủ, các triều đại Ngô, Đinh và Tiền Lê kế tiếp bảo vệ, củng cố nền độc lập và thống nhất đất nước.

        Từ thế kỷ XI, các nước nhà Lý, Trần, Hồ và Lê Sơ đều rất "coi trọng nhiệm vụ bảo vệ công vực đất nước. Trong giai đoạn này, nước láng giềng lớn mạnh ở sát liền phía Bắc do các triều đại nhà Tống, nhà Nguyên và nhà Minh trị vì, đều có tham vọng mở rộng lãnh thổ xuống phía Nam, đã năm lần gây chiến tranh xâm lược và nhiều lần cho quân xâm lấn, cướp phá vùng biên giới. Cuộc đấu tranh vì chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Đại Việt vì thế diễn ra thường xuyên, liên tục. Năm 1172, vua Lý Anh Tông đã đi kinh lý các vùng biên giới và hải đảo, ở địa giới các phiên bang Nam Bắc; vẽ bản đồ cương vực, ghi địa hình, phong cảnh, sản vật đất nước, làm sách “Nam Bắc phiên giới địa đồ”, khẳng định rõ chủ quyền quốc gia Đại Việt. Vì vậy, trừ một số vùng đất bị nhà Hồ và nhà Mạc cắt nhượng cho nhà Minh, còn lại về cơ bản biên giới giáp liền với Trung Quốc không mấy đổi thay (Theo sử cũ, năm 1405, dưới triều Hồ, Hành khiển Hoàng Hối Khanh làm cát địa cứ, đã cắt 59 thôn cho nhà Minh. Đến giữa thế kỷ XVI, Mạc Đăng Dung đem các động Tự Lẫm, Cổ Sum, Liễu Cát, La Phù, Kim Lặc thuộc hai đô Như Tích và Chiêm Lãng hiến vua Minh. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: ”Năm 1542, Mạc Đăng Dung cùng cháu là Văn Minh đem nộp các động Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, An Dương, La Phù của châu Vĩnh Yên trấn Yên Bang, xin nội thuộc vào Khâm Châu” (T.IV, tr.131). Sách Khâm Châu chí chép: Mấy châu ấy là đất của họ Hoàng người Việt. Đời Minh Tuyên Đức, đất đó thuộc triều Lê; về sau Mạc Đăng Dung hiến vua Minh để cầu phong). Đó là kết quả của cuộc đấu tranh vì chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ diễn ra thường xuyên và kiên trì của ông cha trong các triều đại.

        Phần lãnh thổ phía Nam đất nước từ thời Lý có những đổi thay đáng kể. Bấy giờ, ở vương quốc Chiêm Thành, con cháu trong hoàng tộc thường tranh giành ngôi báu; vua Chiêm cũng đã nhiều lần đem binh thuyền quấy phá vùng biên giới, ven biển và thậm chí có những lúc nhân sự bất lực của triều đình Đại Việt, đã vào cướp phá kinh đô Thăng Long. Đó chính là một nguyên nhân của các cuộc xung đột Chiêm - Việt, cũng là duyên cớ những cuộc hành quân lớn của Đại Việt tới Chiêm Thành. Để ổn định phía Nam, nhằm đề phòng nạn xâm lăng từ phía Bắc, các vương triều đã tiến hành những cuộc chinh phạt. Ví dụ, trong lần chinh phạt năm 1069, vua Chế Củ bị bắt, Chiêm Thành phải dâng ba châu Bố Chính, Địa Lý và Ma Linh để chuộc mạng. Nhà Lý đổi châu Địa Lý thành Lâm Bình, Ma Linh thành Minh Linh và chiêu mộ dân đến khai phá, lập làng. Đó là phần đất phía Bắc tỉnh Quảng Trị. Năm 1306, vua Chế Mân xin dâng hai châu Ô và Lý cho Trần Anh Tông để được cưới Huyền Trân công chúa. Đất ấy nhà Trần đổi thành Thuận Châu và Hoá Châu. Đại Việt coi đó là vùng lãnh thổ quan trọng vì không chỉ là vựa lúa phía Nam mà ở đây còn có cửa biển Tư Dung (Tư Hiền) - một nơi thuận tiện cho các hoạt động của thuỷ quân thuở ấy. Năm 1402, Hồ Quý Ly đã cho quân đánh Chiêm với mục đích rõ ràng là ổn định mặt Nam để chống giặc Bắc. Sau trận này, Chiêm Thành phải nhường cho nhà Hồ phần đất Chiêm Động và Cổ Luỹ. Nhà Hồ củng cố việc phòng thủ phía Nam bằng cách chia đất ấy thành bốn châu là: Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa và gộp làm lộ Thăng Hoa; đồng thời lập trấn Tân Ninh ở phía Tây; chiêu mộ dân Nghệ An, Thanh Hoá vào lập thành đội ngũ, đặt các đồn binh, định cư thành làng ấp và đặt chức An phủ sứ ở Thăng Hoa để cai quản. Đó là vùng thuộc Quảng Nam - Đà Nẵng ngày nay.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Tám, 2016, 11:05:40 pm

        Trong thời kỳ Đại Việt bị nhà Minh xâm lược, người Chiêm Thành chiếm lại đất cũ. Đến những năm 1470-1471, nhân vụ Trà Toàn tiến quân đánh Châu Hoá, vua Lê Thánh Tông tổ chức một cuộc hành quân quy mô vào phía Nam, bắt sống Trà Toàn, thu lại Chiêm Động và Cổ Luỹ, vượt qua kinh đô Chà Bàn đến núi Thạch Bi (Phú Yên). Năm 1475, Lê Thánh Tông tổ chức đạo thừa tuyên Quảng Nam thống lĩnh ba phủ Thăng Hoa, Tư Nghĩa và Hoài Nhơn. Như vậy, vùng lãnh thổ phía nam Đại Việt từ thế kỷ XI đến XV đã mở rộng từ Quảng Trị vào Phú Yên. Điều đáng lưu ý là mỗi lần phát triển thêm trên đây chỉ có tác dụng mở rộng và củng cố lãnh thổ, chứ không hề thu hút những yếu tố làm phức tạp hoặc ảnh hưởng đến cái tính chất ổn định và thống nhất quốc gia lúc đó. Sức mạnh đất nước vì thế càng được tăng cường.

        Cùng với quá trình ổn định biên giới phía Bắc và mở rộng lãnh thổ xuống phía Nam, Nhà nước Đại Việt còn chủ trương khai phá vùng ven biển để tăng thêm diện tích canh tác và địa bàn cư trú. Từ thời Lý, công cuộc trị thuỷ - thuỷ lợi và khẩn hoang được tiến hành ngày một quy mô. Sang đời Trần hệ thống đê điều dọc các sông lớn đã hoàn chỉnh. Nhiều vùng đất phù sa màu mỡ của sông Hồng và các sông khác ở miền Trung đã trở thành ruộng đồng, trang trại và xóm làng người Việt. Sách An Nam chí nguyên của Cao Hùng Trưng - một tác giả Trung Quốc chép: "Xứ Giao Chỉ, dân cư trù mật, đất không đủ cày, cho nên người trước đắp đê cao ở hai bên sông ngòi để phòng nước lụt. Đất làm muối ở ven biển bị nước mặn lấn vào, bọn quý tộc thế gia muốn chiếm riêng đất đó, đều tự ý đắp đê ngăn nước mặn rồi gieo trồng cày cấy bên trong, như thế là để yên dân và khai thác hết mối lợi của đất đai... Từ đó thuỷ tai không còn nữa mà đời sống dân được sung sướng, đất không bỏ sót một nguồn lợi nào" (Cao Hùng Trưng, An Nam chí nguyên, tài liệu dịch, tư liệu Viện Lịch sử quân sự, tr.87). Sách của ta, Toàn thư cho biết: “Năm 1266, vua Trần xuống chiếu cho phép các vương hầu, quý tộc chiêu tập dân nghèo khai khẩn đất hoang lập thành các trang trại lớn"2 (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 11, Nxb Khoa học xã hội, H.1993, tr.36).

        Điểm nổi bật của lãnh thổ nước ta là từ sớm đã trở thành một đơn vị địa lý hoàn chỉnh và nó được cấu tạo bởi đủ các miền rừng núi, trung du, đồng bằng và biển cả. Sự phân biệt và phối hợp giữa các miền đó tạo điều kiện rất thuận lợi cho việc thành lập một khu vực kinh tế hoàn chỉnh với những nguồn tài nguyên và những ngành sản xuất khác nhau mà bổ sung lẫn nhau, càng tạo điều kiện cho sự thống nhất chính trị, tức sự kiến lập của nhà nước thống nhất, mặc dù trong nước tồn tại nhiều cộng đồng dân tộc chung sống. Sự cấu tạo lãnh thổ với nhiều rừng núi, sông ngòi, ao hồ và biển khơi ở nước ta, cùng với sự phân bổ dân cư khắp các nẻo miền có ảnh hướng lớn đến cấu trúc quân sự cũng như hoạt động quân sự trong các triều đại.

        Địa bàn cư trú của người Việt chủ yếu vẫn trên lưu vực các sông lớn ở miền Bắc Bộ và Trung Bộ. Con người sinh sống trên lãnh thổ Đại Việt bao gồm nhiều thành phần dân tộc khác nhau. Ở đồng bằng, trung du chủ yếu là người Kinh và Mường; ở miền núi là nơi cư trú của các dân tộc ít người như Tày, Thái, Mèo, Nùng, Dao, v.v... Cùng với sự phát triển của kinh tế, dân số Đại Việt cũng tăng nhanh. Cao Hùng Trưng cho biết: “Giao chỉ có dân cư đông đúc”1 (Cao Hùng Trưng, tài liệu đã dẫn, tr.98). Theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi, đời Lý thiên hạ chia làm 24 lộ. Hành khiển dâng sổ hộ gồm 3.300.000 đinh. Đời Trần, thiên hạ (Đại Việt) chia làm 24 xứ; viên quan dâng sổ vàng, hạng đại nam và trung nam có 4.900.000 đinh, hạng hoàng nam có 2.104.300 đinh2 (Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb Khoa học xã hội, H.1969, tr.189). Sau khi chiếm nước ta, nhà Minh làm hộ khẩu, Đại Việt có 3.169.500 hộ. Đến thời Lê Sơ chia nước thành 13 đạo, gồm 50 phủ, 187 huyện, 54 châu, 534 động, 465 sách, 58 sở, 74 trại, 16 nguyên, 110 duềnh. Số đinh nam 700.900 suất (?). Do nhu cầu nắm vững dân số để tuyển quân, lấy phu và thu thuế, các triều đại từ Lý đến Lê Sơ đều quản lý chặt nhân đinh bằng phương pháp lập sổ hộ tịch. Tuy vậy, dân số của nước ta thời đó cụ thể là bao nhiêu, nay vẫn chưa biết đích xác. Có thể đoán rằng, dân số Đại Việt trong các thế kỷ XI - XV có khoảng từ 5-7 triệu người.

        Như vậy, lãnh thổ nước ta qua các thời từ Lý đến Lê Sơ là một dải thống nhất; cảnh vật đẹp và phong phú, dân cư trù mật, trải dài từ biển Khâm Châu đến núi Thạch Bi (Phú Yên). Đặt trong bối cảnh của cả châu Á nói chung, cả vùng Đông Á và Đông Nam Á nói riêng thì Đại Việt có một vị trí quan trọng trên các lĩnh vực giao lưu chính trị - quân sự, văn hoá và kinh tế. Đại Việt là nơi gặp gỡ giữa các nền văn minh trong khu vực, là giao điểm của các trục đường từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây, từ đất liền ra biển cả. Trên đất liền, nước ta có chung biên giới với nhiều nước, lại có bờ biển dài cùng nhiều cửa sông và hải đảo. Điều đó tạo ra khả năng thuận lợi trong việc giao lưu với các nước gần xa, trong đó có cả những hoạt động trên lĩnh vực quân sự.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Tám, 2016, 11:07:00 pm

        Đại Việt còn là một xứ sở đẹp và giàu có. Sách Đảo di chí lược của Trung Quốc đời Nguyên chép: “Nước Giao Chỉ đất rộng, người đông, khí hậu thường nóng, ruộng đất phần lớn phì nhiêu” và "đất Giao Chỉ sản nhiều vàng, bạc, đồng, chì, thiếc, ngà voi, lông chim trả, nhục quế, cau, v.v..."1 (Uông Đại Nguyên, Đảo di chí lược, dẫn theo Hà Văn Tấn, Phạm Thị Tâm, Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên - Mông thế kỷ XIII, Nxb Khoa học xã hội, H.1975, tr.26, 28). Sách An Nam chí nguyên chép: "Đất Giao Chỉ dựa vào núi và phụ vào biển, có rất nhiều sản vật quý...”, "ở đó có ruộng đất màu mỡ, cấy lúa, trồng dâu và chăn nuôi đều thích nghi cả... Muối thì trắng như tuyết. Cánh chim trả thì đỏ tía đẹp mắt. Vàng thì sẵn ở châu Phú Lương và Quảng Uyên. Hạt trai sáng thì sẵn ở các xứ Tĩnh An và Vân Đồn. Còn san hô và đồi mồi thì sẵn có trong biển...", "Ở đây năm có hai vụ lúa và tám lứa tằm, dâu và gai có đầy đồng nội. Lợi nguyên về cá và muối rất nhiều. Cơm áo được sung túc"1 (Cao Hùng Trưng, An Nam chí nguyên, tài liệu đã dẫn, tr.95). Sứ giả nhà Nguyên là Trần Phu đến Đại Việt, đã ghi lại: "Lúa ở Giao chỉ mỗi năm chín bốn lần, tuy vào giữa mùa Đông mà mạ vẫn mướn mượt"2 (Lời chú bài An Nam tức sự, trong Cương trung thi tập, Q.2). Nhà sử học Phan Huy Chú đã tổng kết: "Nước Đại Việt là nơi đô hội ở phương Nam, ruộng cấy lúa tốt, đất trồng dâu tốt, núi sẵn vàng, biển sẵn châu ngọc. Người ở đâu đến sống, buôn bán đều cũng làm giàu được cả"3 (Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, Tập 1, Nxb Sử học, H.1960, tr.33).

        Một đất nước giàu đẹp lại nằm ở một vị trí địa lý quan trọng thì không thể tránh khỏi con mắt nhòm ngó đầy tham vọng của những thế lực bành trướng xâm lược từ bên ngoài qua thế kỷ này đến thế kỷ khác. Kinh nghiệm lịch sử hơn một nghìn năm trước đã được Phan Huy Chú khái quát như sau: "Cái tiếng phong phú ấy đồn đi xa, nên Trung Quốc lúc nào cũng nghĩ cách chiếm đất nước mình, đặt ra quận huyện để cai trị từ lâu rồi. Lúc chưa lấy được thì nghĩ cách để lấy, lúc đã lấy được thì không chịu bỏ ra nữa"4 (Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, Tập 1, Nxb Sử học, H.1960, tr.33).

        Tham vọng xâm lược Đại Việt của các thế lực phong kiến phương Bắc không bao giờ nguôi. Triều đại này, thế kỷ này chúng bị đánh bại nhiều lần thì triều đại sau trong các thế kỷ sau lại nuôi tham vọng xâm lược lớn. Nhà Nam Hán hồi thế kỷ X đã hai lần thất bại liên tiếp trên đất ĐạiViệt năm (931 và 938). Vua Tống từng nói: “Đừng thấy Giao Chỉ nhỏ mọn mà xem thường"; và đã thể hiện chán chường sau hai lần liên tục gây chiến tranh năm 981 và 1075-1077) đều bị thất bại: "Nước Giao Chỉ nhỏ, thuỷ thổ độc dữ, dân chúng gan lì liều chết, có lấy được cũng vô ích" (Tông sử). Đến nhà Nguyên, tham vọng bành trướng lại trỗi dậy; kết cục cả ba lần xâm lăng Đại Việt đều bị thất bại, để rồi với Hốt Tất Liệt "việc Nam chinh luôn như ngứa ngáy trong tim". Qua những thất bại thảm hại của triều Tống và Nguyên, khi mới lên cầm quyền (cuối thế kỷ XIV), Minh Thái Tổ (1368-1399) đã từng răn dạy con cháu đời sau: "Đừng đánh An Nam”. Nhưng đến đời Minh Thành Tổ đầu thế kỷ XV lại sai lầm khi gây ra cuộc chiến tranh xâm lược hao binh tổn tướng, thiệt hại lớn cả về sức người, sức của và uy thế chính trị, suốt trong hơn 20 năm ròng (1406-1427). Như vậy, từ thế kỷ X đến đầu thế kỷ XV, nhân dân ta đã phải 9 lần tiến hành chiến tranh chống sự xâm lược của phong kiến phương Bắc.

        Cùng với nguy cơ xâm lăng từ phía Bắc, Đại Việt còn thường bị các thế lực phản động từ phía Tây và Nam quấy nhiễu, cướp phá ở vùng biên giới và ven biển. Sử cũ đã ghi lại những cuộc xâm lấn này. Năm 1128, Chân Lạp đem 2 vạn quân với 700 chiến thuyền vào cướp phá Nghệ An; năm 1132, Chân Lạp và Chiêm Thành cùng đánh Nghệ An. Nhân lúc triều Trần suy yếu, quân Chiêm liên tục trong những năm 1353, 1361, 1365, 1367, 1380, 1389 đã xâm lấn Hoá Châu, Lâm Bình, Nghệ An, Thanh Hoá. Đặc biệt nghiêm trọng, có ba lần vua Chiêm là Chế Bồng Nga đã dẫn quân tiến công, cướp phá kinh thành Thăng Long. Đó là các năm 1371, 1377 và 1378. Thời Lê Sơ, trong những năm 1434, 1445, 1469 và 1470, người Chiêm đã sang cướp phá Hoá Châu. Vua Lê Thánh Tông đã có lần xuống chiếu kể tội giặc trước khi mở cuộc chinh phạt phía Nam: "Chúng họp quân bầu đoàn, dám dở thói chó muông lén trộm; lừa khi sơ hở, ngầm đem quân như bầy quạ tụm nhau. Đánh Hoá Châu giết quân đồn trú... Xem khinh dân ta không bằng cỏ rác, lòng sâu độc dám nỡ hại người; tưởng lấy nước ta dễ như đánh cờ, xương Bồng Nga còn mong đến nhặt. Xem đến những lời ăn tiếng nói, đều muốn hại giòng giống người ta... Ta buông lỏng thì kéo đàn đến cướp; ta khẩn trương thì vẫy đuôi kêu van. Là kẻ thù của triều đình, là mối lo cho dân chúng”1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 11, Nxb Khoa học xã hội, H.1993, tr.442).

        Hoàn cảnh địa lý trên đây có những thuận lợi cơ bản cho công cuộc xây dựng đất nước, nhưng cũng đặt ra một trách nhiệm nặng nề trong sự nghiệp đấu tranh giữ nước. Một đất nước luôn bị kẻ thù lăm le xâm lược, quấy phá thì hai nhiệm vụ dựng nước và giữ nước luôn luôn phải gắn liền với nhau. Điều đó đòi hỏi dân tộc ta phải thường xuyên cảnh giác, phải chăm lo gắng sức xây dựng tiềm lực làm sao để có được một Binh chế phù hợp, để đất nước luôn đủ sức mạnh bảo vệ vững chắc nền độc lập của mình.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Tám, 2016, 11:09:17 pm

        II.NHỮNG ĐIỀU KIỆN CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI

        Sau chiến thắng Bạch Đằng năm 938, Ngô Quyền xưng vương và xây dựng nhà nước độc lập tự chủ. Bộ máy hành chính do ông thiết lập tuy còn non trẻ và thô phác, nhưng đã mang tính chất tập quyền. Tiếp đến, hai triều đình nhà Đinh và Tiền Lê, bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương từng bước kiện toàn. Sau khi dẹp yên "12 sứ quân", Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, từ bỏ niên hiệu của các hoàng đế phương Bắc, đặt niên hiệu riêng và xây dựng đất nước thống nhất. Kế tục sự nghiệp vua Đinh, Lê Hoàn đánh tan quân xâm lược, xây dựng nhà Tiền Lê với bộ máy hành chính và quan chế khá hoàn chỉnh, có tham khảo kiểu cách nhà Tống.

        Năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi (Lý Thái Tổ), lập vương triều Lý, chuyển kinh đô từ Hoa Lư ra Thăng Long; tiếp đến nhà Trần và Lê Sơ xây dựng kinh đô Thăng Long làm nơi đô hội, trung tâm của cả nước và tổ chức bộ máy chính quyền trung ương ngày càng quy củ.

        Nhà nước phong kiến tập quyền Đại Việt gồm một hệ thống chính quyền bốn cấp từ trung ương đến tận các làng xã bao gồm: triều đình trung ương; các lộ, trấn, đạo thừa tuyên; các phủ, huyện, châu; các hương, giáp hoặc xã (xem sơ đồ 1).

        Triều đình là cơ quan quyền lực cao nhất trên mọi mặt hoạt động của đất nước, kiểm soát các địa phương thông qua hệ thống chính quyền các cấp và luật pháp của nhà nước phong kiến. Trong bộ máy chính quyền đó, đội ngũ quan lại ngày một đông đảo gồm có cả quan trong (ở trung ương) và quan ngoài (ở địa phương), chia thành hai ban văn và võ, với đủ chức vụ, tước hiệu và phẩm hàm khác nhau.

        Triều Lý sắp đặt bộ máy nhà nước theo mô hình đã chọn từ thời Tiền Lê, nhưng quy củ hơn. Về hình thức, bộ máy đó được mô phỏng theo mô hình Đường - Tống. Vua và các đại thần văn võ trong triều gồm 9 cấp nắm các chức vụ chủ chốt. Cả nước chia thành 24 lộ; lộ gồm các phủ, huyện; ở nơi xa gọi là châu, trại.

        Sang thời Trần và thời Hồ, cơ cấu chính quyền không mấy thay đổi so với trước, song nhà nước trung ương cũng như chính quyền các cấp được hoàn thiện trên nhiều phương diện. Theo nhận xét của sử gia Phan Huy Chú thì, bộ máy quan liêu thời Trần gồm "các chức quan trong và ngoài, lớn nhỏ đều có hệ thống" (Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, Tập 11. Nxb Sử học, H.1961, tr.8 ). Nhiều cơ quan hành chính và chuyên môn mới được thiết lập, mở rộng và được quản lý chặt chẽ. Năm 1242, Trần Thái Tông chia nước thành 12 lộ, đặt các chức An phủ hoặc Trấn phủ chánh và phó để cai quản; đồng thời thiết lập hệ thống xã quan trực tiếp quản lý các làng xã, hương, giáp. Sự phân chia hành chính đó là cơ sở để phân định hệ thống tổ chức quân sự địa phương, đồng thời tạo điều kiện quản lý các cơ sở, để gần dân hơn, động viên và huy động toàn dân vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.

        Chế độ phong kiến Lý - Trần mang đậm tính dân tộc; chịu ảnh hưởng của lễ nghi phong kiến phương Bắc, nhưng tính chuyên chế chưa cao, khoảng cách giữa vua và tôi, giữa quý tộc và bình dân chưa thật lớn. Lối sống sinh hoạt chốn triều đình còn thể hiện tính dân chủ của cộng đồng. Trần Nhân Tông cho phép các vương hầu, tông thất xong buổi chầu được vào trong cung điện và lan đình, cùng nhau ăn uống, hoặc khi tối trời không về được thì đặt gối dài, chăn rộng cùng ngủ liền giường với nhau, để tỏ tình thân ái, chỉ khi có lễ lớn, tân khách hay yến tiệc mới phân biệt ngôi thứ... Hoặc như Trần Quốc Tuấn đã từng nói với tướng sĩ: "Lúc trận mạc thì cùng nhau sống chết, khi ở nhà thì cùng nhau vui cười". Nhà Lý và nhà Trần đều gắn liền quyền lợi quốc gia với dòng họ, gắn việc bảo vệ quyền lực trung ương với quyền lực địa phương, với việc bảo vệ nền thống trị của dòng họ; nghĩa là lấy tinh thần đồng tâm hiệp lực của những tông thất làm cái lõi trong quan hệ xã hội. Trần Thánh Tông nói với các vương hầu: "Thiên hạ là thiên hạ của tổ tông, người nối nghiệp tổ tông nên cùng anh em trong họ hưởng phú quý; tuy bề ngoài thì cả thiên hạ phụng sự một người tôn quý, nhưng bên trong thì ta cùng các khanh là đồng bào ruột thịt, lo thì cùng lo, vui thì cùng vui"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 11, Nxb Khoa học xã hội, H.1967. tr.37). Điều đó chứng tỏ sự đồng tâm, hoà thuận trong nội bộ chính quyền, làm tăng thêm sức mạnh của vương triều, tạo điều kiện để cố kết nhân tâm trong cả nước, nhất là trong điều kiện cần huy - động lực lượng cho chiến tranh.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Tám, 2016, 11:27:16 pm

        Từ thế kỷ XV, giai cấp phong kiến dân tộc có xu hướng tăng cường chế độ chuyên chế. Chính quyền phong kiến vì thế phát triển theo chiều hướng quân chủ chuyên chế. Về cơ bản Nhà nước Lê Sơ vẫn phỏng theo mô hình của các triều đại trước. Từ đời Lê Thánh Tông (1460-1497), bộ máy hành chính các cấp cùng với tổ chức quân đội và các hoạt động lập pháp của nhà nước đạt đến mức hoàn bị với những thiết chế, kỷ cương hết sức chặt chẽ. Các triều đại trước, ở trung ương có các cơ quan như quán, các, sảnh, cục đài viện, với sự cai quản của các đại thần văn, võ gồm ba chức thái, ba chức thiếu, thái úy, tư đồ, tư mã, tư không, v.v... Đến thời Lê Sơ, từ đời Nghi Dân và đặc biệt từ Lê Thánh Tông, nhà nước có 6 bộ do các quan Thượng thư đứng đầu, đồng thời đặt ra 6 khoa để kiểm soát công việc của 6 bộ. Ngoài ra còn có các chức quan chuyên trách như Ngự sử đài, Hàn lâm viện, Đông các viện, Quốc tử giám, Quốc sử quán, v.v... Bộ máy hành chính các cấp cũng được cải tổ theo hướng tăng cường sự chi phối của trung ương và hạn chế quyền lực địa phương. Trong nước chia thành 13 đạo thừa tuyên, đặt các quan hành khiển và ba ty (Hành ty, Hiến ty và Đô ty) cai quản việc quân, việc dân, việc hành chính và tư pháp.

        Nhà nước phong kiến Đại Việt cũng mang đặc trưng chung của nhà nước phong kiến phương Đông. Đứng đầu là vua, tiếp đó là một hệ thống quan lại chia thành hai ban văn giai và võ giai.

        Vua là người đứng đầu triều đình, có quyền lực tối thượng trên tất cả các mặt hoạt động của nhà nước, trong đó có cả lĩnh vực quân sự. Vua là "thiên tử" (con trời), là người "thế thiên hành đạo" (thay trời trị nước). Về danh nghĩa vua là đại diện thượng đế trước nhân dân, đồng thời cũng là người đại diện nhân dân trước thượng đế. So với thời Lý - Trần, thời Lê Sơ xu hướng chuyên chế phát triển mạnh và do vậy, uy quyền của vua trở nên "vô thượng" tuyệt đối hơn. Lê Thánh Tông bãi bỏ chức Tể tướng mà các triều đại trước đặt ra, ngăn cấm quý tộc quan lại tổ chức quân đội riêng, ngăn chặn khuynh hướng cát cứ phong kiến.

        Đáng chú ý là chức năng quân sự của nhà vua. Trong lĩnh vực này, các vua Đại Việt thường ở cương vị như một thủ lĩnh quân sự của cộng đồng dân tộc; là người có quyền quyết định trong việc tổ chức và động viên quân đội, điều hành các hoạt động quân sự của quân đội quốc gia. Khi có chiến tranh, vua hoặc các hoàng tử thường trực tiếp "tự làm tướng" cầm quân đánh giặc, chống ngoại xâm hoặc trừng phạt các lực lượng chống đối. Thông qua cương vị thủ lĩnh quân sự, nhà vua muốn thể hiện chức năng và quyền uy của mình, đồng thời cũng để làm gương trước các quần thần, tướng sĩ.

        Ngay trong thời bình, các nhà vua với cương vị của mình đã thường xuyên xuống chiếu nhắc nhở các tướng sĩ không được lơ là việc phòng thủ quốc gia, phải chăm rèn binh luyện tướng, đóng chiến thuyền và rèn đúc vũ khí. Lý Nhân Tông trước khi mất đã căn dặn các đại thần: "Nên sửa sang giáo mác để phòng việc không ngờ, chớ nên làm sai lệnh ta, dù nhắm mắt cũng không di hận"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 1, Nxb Khoa học xã hội, H.1967, tr.257). Vua Lý Anh Tông cũng dặn thái tử thay mình trị nước, rằng: "Nước ta non sông gấm vóc, nhân tài tuấn kiệt, đất thiêng, châu ngọc, bảo bối không cái gì không có, nước khác không thể nào ví được. Con nên giữ gìn cẩn thận"2 (Việt sử lược, bản dịch của Trần Quốc Vượng, Nxb Sử học, H.1960, tr. 158). Bảo vệ đất nước, chuẩn bị lực lượng và kế sách đánh phòng là một nhu cầu thường xuyên được những người đứng đầu triều đình hết sức lưu tâm. Trần Anh Tông biết Trần Quốc Tuấn ốm không thể qua khỏi, đã đến bên giường bệnh, lo lắng hỏi: "Chẳng may chết, giặc phương Bắc lại sang thì kế sách làm sao?"3 (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 11, Nxb Khoa học xã hội, H.1967, tr.79 và 201). Đầu thế kỷ XV, trước họa xâm lăng đến gần, Hồ Quý Ly cũng tỏ ý lo lắng của mình trước triều đình nhà Hồ: "Ta làm sao có được trăm vạn quân để chống lại giặc Bắc?"4 (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 11, Nxb Khoa học xã hội, H.1967, tr.79 và 201). Lê Thái Tổ đã cho khắc bài thơ trên vách núi đá Thác Bờ (Hoà Bình) trong một lần đi kinh lý vùng biên: “Biên phòng hảo vị trù phương lược, xã tắc ưng tu kế cửu an" (Biên phòng cần có phương lược tốt, xã tắc nên có kế lâu dài). Nhiệm vụ giữ nước nặng nề buộc nhiều nhà vua phải suy nghĩ, khiến triều đình phải chuẩn bị binh lực, vật lực, chuẩn bị cho chiến tranh và các vị minh quân thường quan tâm đến việc quân cơ như: bạt dụng lương tướng, lập Giảng võ đường, nhắc nhở các vương hầu, quý tộc, tướng lĩnh chuyên tập võ nghệ, đọc binh thư, học binh pháp... Giữa thế kỷ XV, chính lúc đất nước đang thái bình thịnh trì, vua Lê Thánh Tông cũng nhắc nhở: "Phàm có nhà nước tất có võ bị" và ra chỉ dụ khuyên các tướng sĩ, binh lính, hãy năng luyện rèn sẵn sàng đối phó với giặc ngoài.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Tám, 2016, 11:30:06 pm

        Sự quan tâm của vua, của triều đình đến việc quân, đến nhiệm vụ giữ nước là một nhân tố cơ bản để các nhà nước xây dựng và hoàn thiện Binh chế của mình.

        Trong xã hội Đại Việt, bên cạnh vua là tầng lớp quý tộc một hệ thống quan lại bao gồm cả văn và võ phục vụ chính quyền. Dưới triều Lý - Trần, các hoàng tử, thân vương, các công chúa - tầng lớp quý tộc, tông thất được phong chức tước cao và được giao những trọng trách trong bộ máy chính quyền nói chung và trong lĩnh vực quân sự nói riêng. Vương hầu, quý tộc được phân phong, trấn trị ở những vùng trọng yếu; có phủ đệ, trang trại riêng; được tổ chức đội quân của mình. Sử thần Ngô Sĩ Liên viết: "Chế độ nhà Trần, vương hầu đều ở phủ đệ riêng tại các hương, khi có triều yết thì về kinh, xong lại trở về phủ đệ. Như Quốc Tuấn ở Vạn Kiếp (Hải Dương), Thủ Độ ở Quắc Hương (Hà Nam), Quốc Chấn ở Chí Linh (Hải Dương)... Đến lúc vào triều làm Tể tướng mới thống lĩnh tất cả việc thiên hạ"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 11, Sđd, tr.32).

        Một số không ít công chúa thời Lý được gả cho thủ lĩnh các châu, lộ ở miền núi, biên viễn (như công chúa Khâm Thánh, Thiều Dung, Bình Dương, Thiên Thành, Trường Ninh...); đồng thời nhà vua còn phong tước và chức vụ cho các phò mã, các tù trưởng, động chủ, để phủ dụ, ràng buộc họ, thực hiện chính sách "nhu viễn" của mình, tạo nên một hệ thống thủ lĩnh quân sự địa phương, tăng cường sức mạnh giữ nước.

        Những điều trên chứng tỏ yếu tố phân tán trong xã hội Lý - Trần vẫn tồn tại nhưng nó luôn bị hạn chế bởi những chính sách ràng buộc của nhà nước. Tuy có quyền lực lớn ở địa phương, nơi mình trấn trị, nhưng các vương hầu quý tộc luôn chịu sự quản lý của triều đình và như thế, xu hướng tập quyền vẫn là xu hướng chủ đạo. Phương sách đó cũng được duy trì đến các thời kế tiếp.

        Sang thời Lê Sơ, tầng lớp quý tộc tông thất có nhiều đặc quyền đặc lợi, được hưởng tước cao bổng hậu, nhưng so với các triều đại trước thì họ ít tham dự triều chính hơn. Ngay sau chiến tranh giải phóng, các công thần khai quốc đều nắm giữ các cương vị chủ chốt. Dần dần, hầu hết các quan lại được tuyển chọn bằng con đường khoa cử. Chế độ tuyển bổ theo quy chế mới ngày một hoàn thiện.

        Chính sách của nhà Lê về cơ bản cũng như các triều đại trước, tìm cách tranh thủ các tù trưởng, tộc trưởng thiểu số, biến họ thành quan chức trong bộ máy của mình. Tuy nhiên, việc quản lý cụ thể trong địa phương vẫn giữ theo phong tục từng vùng.

        Nhìn chung tầng lớp quý tộc, quan lại nước ta trong các thế kỷ XI - XV là đẳng cấp thống trị có nhiều đặc quyền đặc lợi trong xã hội. Đó là một tầng lớp xã hội trẻ đang phát triển. Trong giai đoạn đầu của mỗi triều đại, sự đối lập trong nội bộ chính quyền hoặc sự đối kháng giai cấp chưa cao. Điều đó tạo nên một không khí chính trị lành mạnh trong giới cầm quyền nói riêng, trong cả nước nói chung; tạo thế mạnh cho chính quyền trung ương, cho nhà nước phong kiến trong mối quan hệ đối nội cũng như trước những thử thách ngặt nghèo của nạn ngoại xâm.

        Các công xã nông thôn, các cộng đồng làng xã nông nghiệp mà ở đó bao gồm đông đảo các hộ nông dân và thợ thủ công là nền tảng, là cơ sở của cả cấu trúc xã hội Đại Việt. Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá chưa phát triển, các đơn vị xã hội này tồn tại sau những luỹ tre làng còn đượm vẻ khép kín, tự cung tự cấp. Những cấu trúc đó tồn tại độc lập tương đối với nhà nước, đặc biệt nó không chỉ tỏ ra bền vững trước các thế lực xâm lược mà còn là những pháo đài vững chắc chống giặc, giữ làng, giữ nước. Ở đây, bên cạnh một hệ thống chính quyền cấp xã do nhà nước thiết lập quản lý, còn tồn tại song song một hệ thống quyền lực mang tính cổ truyền do dân cử, gồm các bô lão, những già làng, những động chủ, tộc trưởng giàu uy tín và có khả năng tập hợp dân bản. Làng xã là cái nôi của các đội dân binh, là kho dự trữ sức người, sức của cho quân đội Nhà nước phong kiến tiến bộ đã biết lợi dụng và dựa vào cơ sở xã hội này trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước.

        Những đinh tráng trong tầng lớp bình dân nói trên được nhà nước quản lý bằng cách ghi tên trong sổ hộ tịch, trong sổ Hoàng nam hoặc Sổ quân. Bình thường họ là dân, tham gia các nghĩa vụ đối với nhà nước như đóng thuế, lao dịch và binh dịch. Một bộ phận tham gia các đội tuần đinh, dân binh, tức lực lượng vũ trang cơ sở, tồn tại dưới hình thức "tịnh vi nông, động vi binh". Dĩ nhiên, tầng lớp bình dân là đối tượng bóc lột thống trị của giới quý tộc phong kiến, nhưng do ý thức tình làng nghĩa nước cao cả của họ, trong các giai đoạn tiến bộ, nhà nước phong kiến có thể động viên, tổ chức họ tham gia các lực lượng vũ trang phòng giữ đất nước.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Tám, 2016, 11:32:11 pm

        Có một lực lượng xã hội phát triển tương đối mạnh trong các thế kỷ XI - XIII và đã có nhiều đóng góp đáng kể trong phát triển kinh tế cũng như sự nghiệp chống ngoại xâm, đó là tầng lớp nông nô, nô tỳ. Vốn là một di sản của xã hội cổ xưa, nông nô, nô tỳ phát triển bùng lên ở giai đoạn Lý - Trần do kết quả của cơ chế kinh tế thái ấp, điền trang. Là đẳng cấp xã hội thấp nhất, bình thường họ là lực lượng phục dịch, lao động trong các trang trại, phủ đệ, nhưng khi cần thiết họ trở thành lực lượng quân sự của các vương hầu quý tộc, tham gia bảo vệ an ninh và đánh giặc giữ nước. Lực lượng xã hội này phát triển và suy tàn cùng với nhịp độ phát triển của nền kinh tế điền trang thái ấp. Từ thời Hồ và đặc biệt là thời Lê Sơ, đẳng cấp xã hội này không còn tồn tại, từng bước họ đã trở thành những người nông dân tự do trong các làng xã, khi mà kinh tế điền trang đã tan rã.

        Trên đây là những nét phác họa của cấu trúc xã hội mà bản thân nó trực tiếp hay gián tiếp đều có ảnh hưởng đến cấu trúc quân sự. Cơ cấu chính quyền nhà nước, trong đó Binh chế là một bộ phận được cấu thành và xây dựng trên cơ sở nền tảng cấu trúc đó.

        Cùng với sự phát triển của chính quyền về mặt hành chính là sự kiện toàn về chức năng lập pháp và hành pháp của nó. Các triều đại Lý - Trần với sức mạnh tỏ rõ qua cuộc kháng chiến chống Tống và ba lần chống Mông - Nguyên, nhà nước rất chú ý đến pháp luật. Năm 1042 Lý Thái Tông ban hành bộ Hình thư - Bộ luật thành văn đầu tiên của nước ta. Sang thời Trần, trên cơ sở bộ Quốc triều thống chế được ban hành, xác định các quy chế chính quyền, nhà nước đã nhiều lần tổ chức biên soạn lại và sửa đổi, bổ sung bộ hình thư này. Đến thời Lê Sơ, các chế độ và thể chế của bộ máy nhà nước được quy định thành luật lệ hoàn chỉnh. Năm 1483, Lê Thánh Tông cho sưu tập tất cả các điều luật đã ban hành rồi bổ sung, hệ thống hoá thành Quốc triều hình luật (Luật Hồng Đức), một bộ luật được đánh giá rất cao, như sách Hình luật chí ghi rằng: "Đó là cái mẫu mực để trị nước, cái khuôn phép để buộc dân"1 (Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, Hình luật chí, Tập III, Nxb Sử học, H.1961, tr.94) và được thi hành cho đến cuối thế kỷ XVIII. Các bộ luật này đã đề cập đến nhiều lĩnh vực, trong đó có những quy định về nghĩa vụ binh dịch của các đinh tráng, về nghĩa vụ đóng góp xây dựng và bảo vệ đất nước, về chức năng của các loại quân trong việc bảo vệ chính quyền và biên giới quốc gia. Các hoạt động pháp chế ngày càng quy củ đó chứng tỏ nhà nước trung ương tập quyền ở Đại Việt ngày một ổn định và hoàn bị để thực hiện tốt các chức năng của nó.

        Công cuộc xây dựng đất nước các thời kỳ Lý, Trần, Hồ và Lê Sơ tiến hành trong giai đoạn mà nạn ngoại xâm là nguy cơ trực tiếp và thường xuyên. Trong giai đoạn này diễn ra liên tục 6 cuộc chiến tranh lớn. Đó là chiến tranh chống Tống năm 1075-1077; ba lần kháng chiến chống Mông - Nguyên vào các năm 1258, 1285 và 1288; hai lần chiến tranh chống Minh các năm 1407 và 1418-1427. Kẻ thù dân tộc bấy giờ là những thế lực bành trướng xâm lược lớn mạnh nhất. Ở phía Nam và Tây Nam, thỉnh thoảng lực lượng Chiêm Thành, Chân Lạp lại liên kết với phong kiến phương Bắc để quấy phá vùng biên giới và ven biển Đại Việt. Vì thế, để củng cố nền thống trị của nhà nước phong kiến và đồng thời để tăng cường lực lượng quốc phòng sẵn sàng ứng phó với nguy cơ xâm lược của nước ngoài, chính quyền Đại Việt đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng cho mình một Binh chế tiến bộ, một lực lượng quân sự mạnh. Lực lượng vũ trang lúc đó gồm quân triều đình, quân địa phương, quân vương hầu và dân binh, hương binh làng xã. Quân triều đình trong đó nòng cốt là Cấm quân bao giờ cũng được coi trọng phát triển và thường xuyên túc trực bảo vệ kinh đô. Quân đội của Nhà nước Đại Việt là quân đội chính quy, đạt đến một trình độ tổ chức, trang bị, huấn luyện và chỉ huy tốt. Dựa trên một cơ sở Binh chế tiến bộ và tổ chức quân sự của mình, nước Đại Việt đã bảo vệ, tồn tại và đứng vững trước những hiểm hoạ thù trong, giặc ngoài.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Tám, 2016, 11:33:04 pm

        III.SỰ PHÁT TRIỂN CỦA KINH TẾ LÀ TIỀN ĐỀ CỦA SỰ PHÁT TRIỂN BINH CHẾ

        Các biến động kinh tế - xã hội có ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề Binh chế.

        Trải hơn một nghìn năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ, nền kinh tế - văn hoá dân tộc ta bị kìm hãm, thậm chí nhiều bộ phận bị xói mòn và bị huỷ hoại. Sau khi giành được độc lập đất nước trải qua một thời kỳ phục hưng. Từ thế kỷ XI, công cuộc xây dựng đất nước bắt đầu vào quy mô lớn, từng bước đặt nền tảng vững vàng cho sự phát triển quốc gia, dân tộc. Nước Đại Việt trong giai đoạn từ thế kỷ XI - XV là một quốc gia văn minh thịnh vượng với những thành tựu đáng tự hào trên các lĩnh vực kinh tế và văn hoá.

        Trong xã hội Đại Việt, nền kinh tế nông nghiệp luôn luôn giữ vai trò chủ đạo, là cơ sở của mọi sinh hoạt trong nước.

        Vào giai đoạn phát triển của các triều đại chính quyền phong kiến coi trọng nghề nông và đề ra nhiều chính sách khuyến nông, nhằm phát triển kinh tế phong kiến. Hằng năm vào dịp đầu Xuân, vua tổ chức "cày tịch điền" và tổ chức những lễ hội truyền thống để khuyến nông. Sức lao động và sức kéo nông nghiệp được nhà nước bảo vệ. Ở các làng xã, nông dân có ruộng, làng xóm ổn định. Quân lính được thay phiên về làm ruộng theo chính sách "Ngụ binh ư nông".

        Các công trình khẩn hoang và thuỷ lợi được tiến hành hằng năm, quy mô ngày một lớn. Hệ thống đê bắt đầu xuất hiện từ thời Lý và được hoàn thiện từ thời Trần. Năm 1248, triều đình ra lệnh đắp đê từ đầu nguồn đến bờ biển, đặt các chức Hà đê chánh và phó sứ trông coi. Sang thời Lê, ngoài hệ thống đê điều cũ được tu sửa, nhà nước còn tổ chức đắp thêm nhiều đoạn đê mới ở ven biển và đào thêm nhiều kênh rạch. Chức quan hà đề và khuyến nông sứ được đặt để chuyên trách bảo vệ đê điều và chăm lo phát triển nông nghiệp. Những công trình công cộng đó đòi hỏi phải có sự đóng góp của mọi lực lượng xã hội, kể cả quân đội; tạo ra điều kiện tốt cho sự phục hồi và phát triển kinh tế nông nghiệp; đồng thời làm phong phú thêm mạng lưới giao thông thuỷ bộ, đáp ứng phần nào yêu cầu cơ động lực lượng quân sự khi đất nước có chiến tranh.

        Từ thời Trần, nhà nước khuyến khích khai phá đất hoang lập thành các trang trại lớn. Các khu định cư và các vùng đất canh tác mới xuất hiện. Năm 1266, Trần Thánh Tông xuống chiếu cho phép các vương hầu, quý tộc chiêu tập dân nghèo khai hoang ven biển lập thành các điền trang. Kinh tế điền trang thái ấp giai đoạn Lý - Trần đã đóng góp một vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước nhà. Sự phát triển của loại hình kinh tế này cùng với sự hình thành các phủ đệ và các đội quân riêng của các vương hầu quý tộc vừa có ý nghĩa kinh tế vừa có ý nghĩa quân sự; nhà nước có thêm lực lượng để bảo vệ chính quyền và phòng giữ đất nước. Sử thần Ngô Sĩ Liên nhận xét: "... Điều đó cũng là có ý bảo toàn..., cũng làm cho thế nước được mạnh vậy"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 11, Sđd, tr.32).

        Từ thời Hồ và thời Lê, kinh tế điền trang thái ấp từng bước tan rã và bị xoá bỏ. Những yếu tố phân tán, cát cứ thời Lý - Trần mất đi, tạo điều kiện cho sự phát triển chế độ trung ương tập quyền. Chế độ lộc điền xuất hiện nhằm bảo vệ quyền lợi cho quý tộc, tông thất và những quan lại cao cấp, đẩy mạnh sự phát triển của giai cấp địa chủ - tầng lớp thống trị mới trong xã hội phong kiến lúc đó. Nhà Lêban hành chế độ quân điền, về hình thức là để bảo tồn công xã nông nghiệp, nhưng về thực chất là biến nông dân công xã thành những "tá điền" lệ thuộc nhà nước, thu hẹp quyền tự trị của các công xã, đẩy mạnh quá trình phong kiến hoá cơ cấu xã hội. Tuy nhiên, ở giai đoạn này chế độ quân điền còn có tác dụng tích cực nhằm phục hồi và phát triển kinh tế nông nghiệp, tạo điều kiện cho nhà nước huy động nhân lực và vật lực cho quốc phòng. Chính sách quân điền thời Lê Sơ có tác dụng làm giảm bớt bất công trong xã hội, góp phần động viên những người đã và đang có công đóng góp xây dựng quân đội, đánh giặc giữ nước, như Lê Lợi (Lê Thái Tổ) đã nói: "Người đi đánh giặc thì nghèo, người đi rong chơi thì giàu, người đi chiến đấu thì không có một thước, một tấc đất để ở, mà những kẻ du thủ du thực không có ích gì cho nước lại có ruộng đất quá nhiều... Nay sắc cho các đại thần bàn định số ruộng cấp cho quan, quân và dân, trong từ đại thần trở xuống đến các người già yếu, mồ côi, goá chồng, đàn ông, đàn bà trở lên" (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập III, Nxb Khoa học xã hội, H.1967. tr.67).


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Tám, 2016, 11:33:28 pm
        Trong giai đoạn đang lên của triều Lý, triều Trần và Lê Sơ, nền kinh tế nông nghiệp Đại Việt đạt được nhiều thành tựu đáng kể, góp phần làm tăng thêm tiềm lực của quốc gia thống nhất, cải thiện đời sống dân sinh, ổn định xã hội. Trong văn bia thời Lý có những chỗ gián tiếp phản ánh tình hình sản xuất nông nghiệp khi ấy, như mô tả về huyện Cổ Chiên (Tĩnh Gia, Thanh Hoá): "Đồng ruộng san sát, xanh tất như mây"1 (Thơ văn Lý - Trần, Tập 1, Nxb Khoa học xã hội, H.1977, tr.310); hoặc kể về gia tộc của tri châu họ Hà ở Vị Long (Tuyên Quang): "Cày cấy theo phép tịch điền, thóc lúa ùn ùn như núi". Bài bia chùa Báo Ân cho biết: "Bấy giờ nước nhà giàu thịnh" và theo bia chùa Sùng Nghiêm (Thanh Hoá) thì, khi lễ khánh thành chùa được cung cấp cơm chay bằng gạo dự trữ 9 năm. Thời Trần là giai đoạn kinh tế phát triển. Sách Kiến văn tiểu lục ghi: "Lúc bấy giờ ở các trấn, sở đều có kho tàng dự trữ"2 (Lê Quý Đôn Toàn tập, Tập II, Kiến văn tiểu lục, Nxb Khoa học xã hội. H.1977, tr.290). Thời Lê Sơ, nhất là đời Lê Thánh Tông - một giai đoạn phát triển cao của kinh tế nông nghiệp nước ta, nhà nước luôn có đủ thóc lương chứa đầy kho ở các Thừa tuyên và các phủ huyện, riêng gạo nấu chín để cung cấp cho các cuộc hành quân thì luôn luôn là thứ lương khô dự trữ sẵn sàng lúc cần kíp. Đó là kết quả của một nền nông nghiệp mà nhà vua đã từng làm thơ ca ngợi:

                                    “Vạn khoảnh thanh thanh thị hạ điền,
                                    Tề dân đương dĩ thực vi thiên
                                    Thôn đầu tam lưỡng nông phu đáo,
                                    Giai vị kim niên thắng tích niên”


        Dịch là:

                                    “Lúa chiêm muôn khoảnh tốt rườm rà,
                                    Ăn ấy là trời của dân ta,
                                    Đầu xóm nông phu dăm kẻ đến,
                                    Đồn rằng năm nay hơn năm qua

        (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập III; Nxb Khoa học xã hội. H.1967, tr. 227).

        Cùng với nông nghiệp, các nghề thủ công cũng phát triển. Đó là những nghề thủ công truyền thống như dệt, gốm, khai mỏ, luyện kim, mỹ nghệ, chạm khắc, đúc đồng, v.v... ở nông thôn Đại Việt xuất hiện những làng thủ công chuyên sản xuất những sản phẩm truyền thống của mình, trong đó có những nghề sản xuất ra các sản phẩm liên quan đến quân đội và các hoạt động quân sự, như nghề dệt lĩnh ở Trích Sài (Thăng Long - Hà Nội), nghề dệt vải lụa ở Nghi Tàm và Thuỵ Chương; nghề làm nón ở Ma Lôi (Hải Dương); các nghề luyện kim, rèn đúc, đóng thuyền, v.v... Ở kinh thành Thăng Long có 61 phố phường, nhiều phường có nghề thủ công như Hàng Đào nhuộm Điều, phường Tàng Kiếm nổi tiếng làm áo giáp, binh khí, kiệu vua và các thứ nghi trượng phục vụ cung đình.

        Từ thời Lý, nhà nước đã áp dụng những biện pháp tạo điều kiện cho các nghề thủ công trong nước phát triển. Triều đình đã tổ chức Cục Bách tác, mở lớp dạy nghề dệt cho các cung nữ và khuyến khích dùng những sản phẩm thủ công nội địa. Năm 1040, Lý Thái Tông ra lệnh phát gấm vóc trong kho để may lễ phục cho vua quan, cấm không mua gấm vóc của nhà Tống. Vì thế, nghề dệt lụa Đại Việt đã trở nên nổi tiếng với đủ thứ vải, lụa, gấm vóc, the đoạn... có nhiều màu sắc, họa tiết trang trí đẹp mắt và chiếm được vị trí xứng đáng trong đời sống xã hội cũng như trên thương trường lúc đó. Về vấn đề này học giả Ngô Thì Sĩ đã viết: "Người nước ta ưa chuộng gấm vóc, đã dùng của người Tàu (Trung Quốc). Mỗi năm có tàu buôn đến thì hao tổn tiền không biết đâu mà kể. Có biết đâu rằng trong đời Hồng Đức những đồ mâm, bát, bình chén dùng ở trong cung vua đều là của nước ta chế tạo, không thấy nói lấy đồ của Tàu làm quý. Đồ dùng của nước ta tinh xảo chả kém gì Trung Hoa. Cứ cho mẫu mà bảo thợ chế tạo thì sao lại chả tinh xảo được? Đó là cách bỏ thói xa xỉ, làm sao cho nước giàu xa nữa thì nên bắt chước vua Lý Thái Tôn"1 (Ngô Thì Sĩ, Việt sử tiêu án, Văn hoá châu xuất bản, 1960, tr. 120).

        Nghề khai khoáng và luyện kim, chủ yếu là rèn sắt, đúc đồng, đã cung cấp thoả mãn nhu cầu vật liệu cho nhà nước đúc tiền, đúc chuông, tượng, nông cụ và nhất là các đồ binh khí, chiến cụ trang bị cho quân đội. Nhà nước Trần, Hồ và Lê Sơ còn lập ra những xưởng thủ công đúc tiền, đóng thuyền chiến, các xưởng binh khí và các cơ sở sản xuất đồ dùng cho vua quan. Một số trung tâm thương nghiệp xuất hiện cùng với nhiều phố xá bán buôn ngày một sầm uất như Tư Phố (Thanh Hoá), Long Biên (Hà Nội), Luỵ Lâu (Bắc Ninh), Phố Hiến (Hưng Yên), Thăng Long - Kẻ Chợ (Hà Nội), v.v... Từ thời Lý - Trần, nhiều làng quê đã có chợ. Sang thời Hồ và Lê Sơ, việc lưu thông hàng hoá và tiền tệ mở rộng hơn trước, khắp nơi chợ mọc lên ngày một nhiều và giữ vai trò trung tâm kinh tế thị trường địa phương. Nhà nước đã ban hành những điều luật quy định thể lệ lập chợ và họp chợ, những quy định thống nhất về đo lường. Nền kinh tế hàng hoá phát triển, góp phần đẩy lùi các yếu tố phân tán trong xã hội, tạo điều kiện mở rộng giao lưu với nước ngoài.

        Quan hệ ngoại thương giữa Đại Việt và các nước như Trung Quốc, Chiêm Thành, Ja Va (Inđônêxia), Chân Lạp, Lão Qua, Xiêm, Hồi Hột, v.v... được mở rộng từ thời Lý - Trần và được thực hiện chủ yếu qua đường biển, thông qua một số thương cảng lớn như Vân Đồn và một số cửa biển miền Trung. Sứ nhà Nguyên là Trần Phu chép trong An Nam tức sự rằng: "Phủ Thanh Hoá... cách thành Giao Chỉ hơn 200 dặm, các phiên chợ ở hải ngoại tụ tập ở đấy, họp chợ ngay trên thuyền, rất đông... Thật là một thị trấn lớn"1 (Trần Phu, An Nam tức sự, cương trung thi tập, Q.2). Đường biên giới với các quốc gia láng giềng cũng được mở cửa tạo điều kiện giao lưu buôn bán thuận tiện. Trên biên giới Tống - Việt thời Lý đã xuất hiện các "Bạc dịch trường" (Chợ biên giới). Sách Trung Quốc Đảo di chí lược chép: "Đất Giao Chỉ sản nhiều vàng, bạc, đồng, chì, thiếc, ngà voi, lông chim trả, nhục quế, cau. Hàng hoá trao đổi thì dùng các thứ như the, lĩnh các màu, lụa, vải thanh bố, lược ngà, giấy, đồng, sắt... Lưu thông sử dụng tiền đồng"2 (Nông Đại Uyên, Đảo di chí lược, Dẫn theo Hà Văn Tấn - Phạm Thị Tâm: Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên - Mông, Sđd, tr.28). Nhà nước Đại Việt mở rộng ngoại thương, nhưng do yêu cầu trị an và vấn đề chủ quyền, các triều đại đều có những biện pháp quản lý chặt chẽ, đề phòng âm mưu do thám của người ngoại quốc. Nhà Lý cho phép thương gia các nước lập trang ở Vân Đồn để buôn bán với thương nhân Đại Việt, không cho phép họ tự tiện vào nội địa để do thám ta. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Năm Kỷ Ty (1149) tháng 2, thuyền buôn ba nước Trào Oa, Lô Lạc, Xiêm La vào Hải Đông, xin ở lại buôn bán, bèn cho lập trang ở nơi hải đảo gọi là Vân Đồn để mua bán hàng hoá quý, dâng tiến các sản vật địa phương"3 (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 1, Sđd, tr.281). Thời Lê Sơ chỉ cho phép thương nhân ngoại quốc buôn bán ở thương cảng Vân Đồn và một số nơi theo quy định của nhà nước. Sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi phản ánh: "Người ngoại quốc không được tự tiện vào nội trấn, tất cả đều ở Vân Đồn, Vạn Ninh, Cần Hải, Hội Thống, Hội Triều, Thống Lĩnh, Phú Lương, Tam Kỳ, Trú Hoa... có thể nói sự đề phòng trong và ngoài thời kỳ này rất nghiêm ngặt..."4 (Nguyễn Trãi, Toàn tập, Sđd, tr.224).


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Tám, 2016, 11:34:54 pm
       
        IV.NHỮNG CƠ SỞ VĂN HOÁ - TƯ TƯỞNG

        Yếu tố văn hoá tư tưởng có ảnh hưởng và tác động nhiều đến Binh chế. Ở thế kỷ X, các triều đại Ngô, Đinh và Tiền Lê đặt lên hàng đầu nhiệm vụ củng cố chính quyền, xây dựng lực lượng quân sự để đẩy lùi các thế lực ngoại xâm và đàn áp các thế lực cát cứ trong nước. Mọi hoạt động khác của đất nước tuy có đạt được những thành quả nhất định, nhưng chỉ mới là bước đầu. Các vương triều chưa có điều kiện thuận lợi để chăm lo phát triển văn hoá. Tuy nhiên, nền văn hoá dân tộc vẫn luôn được bảo tồn và phát huy, bởi như sách An Nam chí lược chép: "Giao Chỉ có tiếng là đất văn hiến. Người ở đó thích đọc sách và ưa làm điều thiện"1 (Lê Trắc, An Nam chí lược, tài liệu đã dẫn, tr.121).

        Từ thời Lý, nhà nước chăm lo mở mang việc học và thi cử để đào tạo và tuyển lựa quan lại có năng lực cho bộ máy hành chính. Sách Lĩnh ngoại đại đáp của tác giả Chu Khứ Phi đời Tống, khi chép về nước Đại Việt thời Lý, có câu: “Nước ấy (tức Đại Việt) rất trọng khoa cử" có ý đề cao chế độ thi tuyển của nước ta lúc đó. Năm 1070, nhà Lý xây dựng Văn Miếu và mở Quốc Tử Giám ở Thăng Long làm nơi học tập cho con em tầng lớp quý tộc. Năm 1075, triều đình tổ chức khoa thi đầu tiên và từ đó nhân tài đất nước từng bước được tuyển chọn qua thi cử để bổ sung vào đội ngũ quan lại, quản lý các cơ quan chuyên môn. Trong xã hội xuất hiện dần một tầng lớp nho sĩ. Tuy nhiên, chế độ giáo dục và thi cử theo tinh thần nho giáo mới chỉ bắt đầu. Phật giáo vẫn chiếm ưu thế và giữ vai trò quan trọng trong đời sống chính trị - tinh thần.

        Sang thời Trần, chế độ học tập và thi cử ngày một chính quy hơn. Quốc học viện ở Thăng Long đã mở rộng cho giới nho sĩ vào học. Ở trung ương và các địa phương có chức học quan, trường tư xuất hiện. Các thể lệ thi cử được điển chế hoá. Vì vậy, nho sĩ xuất hiện ngày một đông, đẩy lùi dần địa vị của tầng lớp tăng lữ trên lĩnh vực chính trị và tư tưởng. Tuy nhiên, trong xã hội Lý - Trần, Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo cùng với những tín ngưỡng dân gian cùng tồn tại và tất cả đều bị chi phối bởi yêu cầu của công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.

        Đầu thế kỷ XV, nhà Hồ chấn chỉnh lại chế độ thi cử vốn bị sa sút ở thời cuối Trần. Triều Hồ coi trọng chữ Nôm và chủ trương dùng chữ Nôm trong trường học. Đến thời Lê Sơ, nhất là đời Lê Thánh Tông, nhà nước mở mang công tác giáo dục, thi cử và định ra quy chế đào tạo các quan lại xuất thân từ nho học. Quốc Tử Giám hay Thái học viện là trung tâm giáo dục của cả nước. Chế độ thi cử có nền nếp, chính quy. Vì thế, thời kỳ này Nho giáo giành được địa vị thống trị và trở thành hệ tư tưởng chính thống của chế độ phong kiến Đại Việt. Tuy nhiên, trong điều kiện của một quốc gia mà tinh thần yêu nước, ý thức độc lập dân tộc từ lâu đã thấm sâu vào mọi tầng lớp nhân dân và trở thành nguồn sức mạnh của dân tộc thì Nho giáo cũng phải chịu sự chi phối của ý thức dân tộc. 

        Điều quan trọng là Nhà nước Đại Việt sớm xác lập một nền giáo dục quân sự, nhằm đào tạo nhân tài quân sự, những tướng lĩnh chỉ huy quân đội. Tại Thăng Long, thời Lý có Điện Giảng Võ, thời Trần có Giảng Võ Đường và các bãi tập quân sự. Đó là trường học quân sự cao cấp đầu tiên của nước ta, là nơi nhà vua, các vương hầu và tướng lĩnh được học tập binh thư và binh pháp. Đỉnh cao của nền văn hoá quân sự thời Lý - Trần thể hiện trong các giai đoạn có chiến tranh giữ nước. Hệ thống giáo dục quân sự đó được duy trì và mở rộng dưới triều Lê (xem chương IV, mục II). Một nền khoa học và nghệ thuật quân sự đã nảy sinh, thể hiện tính ưu việt của nó trong kháng chiến chống ngoại xâm và có ảnh hưởng rất lớn sự hoàn thiện của Binh chế nhà nước.

        Yêu cầu của công cuộc giữ nước đã thúc đẩy nền văn hoá phát triển mang màu sắc và ý thức dân tộc. Vốn ra đời trong công cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước, văn học Đại Việt các thế kỷ XI - XV đã có nhiều tác phẩm phản ánh chủ nghĩa yêu nước, niềm tự hào và khí phách anh hùng dân tộc. Đó là bài thơ Nam quốc sơn hà nổi tiếng trong kháng chiến chống Tống (1077); là Lộ bố văn của Lý Thường Kiệt; là những áng văn thơ thời Trần của Trần Quốc Tuấn, Trần Nhân Tông, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu; đó là Bình Ngô đại cáo, Quân trung từ mệnh của Nguyễn Trái; các bài phú của Lý Tử Tấn, Nguyễn Mộng Tuân, v.v...

        Văn học Đại Việt luôn thể hiện tinh thần dân tộc và ý chí tự cường quốc gia. Yếu tố văn hoá này có tác động rất nhiều đối với các tướng lĩnh, quân sĩ cũng như tinh thần yêu nước của nhiều tầng lớp nhân dân. Những lời nói đanh thép của Trần Thủ Độ, Trần Quốc Tuấn, Trần Bình Trọng, Đỗ Khắc Chung... được phản ánh trong sử sách biểu hiện chủ nghĩa yêu nước, khí phách dân tộc, có ý nghĩa khích lệ lớn lao đối với tinh thần mọi tầng lớp xã hội mỗi khi đất nước bị quân xâm lăng giày xéo.

        Bên cạnh nền văn hoá cung đình, trong xã hội còn có một nền văn hoá dân gian đa dạng và phong phú. Trong nông thôn Đại Việt, người nông dân công xã vẫn bảo lưu những phong tục tập quán cổ truyền, vẫn duy trì quan hệ cộng đồng chặt chẽ, sớm kết hợp ý thức tình làng nghĩa xóm với ý thức quốc gia dân tộc, nước gắn liền với nhà. Các lễ hội truyền thống rất thịnh hành, đượm tinh thần thượng võ như bơi thuyền, đấu vật đánh gậy, đánh đu, cướp cù, v.v... Các lễ hội thường gắn liền với việc đề cao tinh thần yêu nước, truyền thống đánh giặc giữ nước và suy tôn các anh hùng dân tộc. Điều đó tạo nên những yếu tố thuận lợi để nhà nước huy động nhân lực, vật lực cho quân đội, cho chiến tranh; đồng thời yếu tố văn hoá truyền thống đó cũng làm tăng thêm sức mạnh tinh thần cho những người lính vốn xuất thân từ các cộng đồng làng xã.

        Cũng như trên lĩnh vực kinh tế, trên phương diện văn hoá tư tưởng, Đại Việt đã đạt được những thành tựu đáng kể. Nhân dân ta đã phát huy những tinh hoa và giá trị của văn hoá cổ truyền, tiếp thu có lựa chọn những yếu tố tích cực từ bên ngoài để xây dựng nên nền văn hoá có ý thức dân tộc cao; đó là văn hoá Thăng Long, một nền văn hoá bắt đầu phục hưng từ thế kỷ X và tiếp tục phát triển đến thế kỷ XV. Nền văn hoá đó là tinh thần dân tộc, ảnh hưởng tích cực đến các mặt phát triển của Binh chế Đại Việt.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Tám, 2016, 11:36:09 pm

        V. NƯỚC ĐẠI VIỆT TRONG BỐI CẢNH KHU VỰC ẢNH HƯỞNG CỦA MỐI QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI VỚI BINH CHẾ

        So với Trung Hoa phong kiến ở phía Bắc, Đại Việt là một nước nhỏ, dân ít; nhưng so với các nước trong vùng Đông Nam Á thì Đại Việt là một nước khá lớn về lãnh thổ và dân cư, một quốc gia thịnh vượng và có uy tín.

        Sau hơn một nghìn năm Bắc thuộc và chống Bắc thuộc, phong kiến Trung Hoa buộc phải chấp nhận nền độc lập của nước ta. Trên bước đường phát triển của mình, giữa hai nước Trung Quốc (trong các triều đại Tống, Nguyên và Minh) và Đại Việt (trong các triều Lý, Trần, Hồ và Lê Sơ) đã có nhiều mối quan hệ về chính trị, kinh tế, văn hoá và quân sự. Dưới con mắt của phong kiến Trung Hoa, Đại Việt là một tiểu quốc, một nước phiên dậu. Các nhà nước phong kiến Đại Việt bề ngoài vẫn chấp nhận mối quan hệ đó, nhưng luôn luôn có đầu óc tự cường, tìm cách quan hệ giao hiếu với mong muốn giữ yên nền độc lập dân tộc.

        Nhà Lý xây dựng đất nước trong lúc nhà Tống còn gặp nhiều khó khăn về đối nội và đối ngoại. Đến đời Tống Thần Tông, nhà Tống muốn chiếm Đại Việt, mở đường tiến xuống phương Nam với mục đích giành những thắng lợi quân sự để ổn định trong nước và để gây áp lực đối với hai nước phía Bắc là Liêu và Hạ. Vì thế nhà Lý luôn có ý thức xây dựng lực lượng quốc phòng, cảnh giác mặt Bắc, thực hiện một chính sách ngoại giao quân sự mềm dẻo. Năm 1075, vua Tống Thần Tông và Tể tướng Vương An Thạch quyết chí đánh Đại Việt. Kết quả là Tống bị đại bại ở Ung - Khâm - Liêm (1075) và ở Như Nguyệt (1077). Sau hai lần gây chiến tranh xâm lược đều thất bại (năm 981 và 1075-1077), nhà Tống bề ngoài vẫn "ra oai" nhưng thực chất bên trong thì vị nể, không giám coi "Giao Chỉ là nhỏ mọn" nữa. Phía nhà Lý vẫn chủ trương hoà hiếu, cử các phái bộ sang cầu phong, xin kinh Đại Tạng và triều cống phương vật.

        Nhà Trần thay thế nhà Lý đúng vào dịp ở phương Bắc, nhà Tống bị Mông Cổ xâm lược và triều Nguyên được thiết lập (1271). Là một đế quốc hung hãn lại bị Hán hoá, nhà Nguyên tham vọng tiếp tục bành trướng xuống phía Nam. Mối quan hệ giữa triều Trần và triều Nguyên trải qua một giai đoạn căng thẳng. Sau khi thiết lập quyền thống trị ở Trung Quốc, nhà Nguyên muốn tiếp tục tiến xuống phương Nam, đã nhiều lần ngỏ ý mượn đường đánh Chiêm Thành và Chân Lạp, nhưng kỳ thực để chiếm Đại Việt.

        Nhà Trần thực hiện một chính sách ngoại giao vừa hoà hoãn vừa kiên quyết, nhưng chiến tranh lúc đó là không thể tránh khỏi, nên vua tôi nhà Trần đã thường xuyên chăm lo xây dựng lực lượng quân sự, củng cố khối đoàn kết dân tộc, đề phòng giặc ngoại xâm. Trước sức mạnh giữ nước và trước quyết tâm của quân dân Đại Việt, cả ba lần gây chiến tranh, giặc Mông - Nguyên đều thất bại. Đối với nhà Nguyên, nhà Trần tự thấy mình nhỏ bé hơn, đành phải nén nhịn làm phiên thuộc và triều cống để giữ gìn hoà hiếu và độc lập. Trên cơ sở thực lực vốn có, nhà Trần đã thành công trong đấu tranh quân sự và ngoại giao, khiến nhà Nguyên phải từ bỏ ý chí xâm lược, mặc dù "việc Nam chinh vẫn ngứa ngáy trong tim" Hốt Tất Liệt.

        Triều Hồ xây dựng chính quyền trong hoàn cảnh đất nước đang đầy rẫy khó khăn, trong lúc giặc phương Bắc đang ngấp nghé ở biên giới. Chính vì thế, Hồ Quý Ly ngày đêm lo lắng làm sao có được trăm vạn quân để chống giặc và rất khẩn trương xây dựng quân đội, lo việc phòng thủ, chủ động trong quan hệ với nhà Minh để hoà hoãn cuộc chiến. Nhưng mối quan hệ giữa nhà Hồ và nhà Minh trở nên ngắn ngủi bởi cuộc chiến tranh giữ nước của triều đình nhà Hồ nhanh chóng thất bại. Nước Đại Việt trở thành đất "thực dân" của nhà Minh trong vòng 20 năm (1407-1427).

        Nhà Lê thiết lập sau khi Lê Lợi tiến hành thành công cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Trên tư thế của người chiến thắng, nhà Lê tiến hành công cuộc nội trị và ngoại giao. Đất nước do đó đã trải qua một thời kỳ dài hoà bình xây dựng. Tuy nhiên, triều Lê vẫn quán triệt chính sách đối ngoại mềm dẻo nhưng kiên quyết trên nguyên tắc độc lập và chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ. Tư tưởng đó thể hiện rất rõ trong mệnh lệnh của vua Lê Thánh Tông với các tướng: "Một thước núi một tấc sông của ta lẽ nào tự tiện vứt bỏ được. Kẻ nào dám đem một thước núi một tấc đất của vua Thái Tổ để lại làm mồi cho giặc thì kẻ đó phải bị trừng trị nặng”1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập III, Nxb Khoa học xã hội, H.1967, tr.462). Chính vì thế, mặc dù trong cảnh thái bình, triều đình Lê Sơ vẫn luôn quan tâm xây dựng quân đội để phòng giữ đất nước.

        Nếu như trong quan hệ với các nhà nước phong kiến "Trung Hoa, Đại Việt bề ngoài phải nhún mình, thì đối với Lão Qua, Chân Lạp và Chiêm Thành, Đại Việt luôn đặt mình ở trên cương vị một nước lớn hơn và giữ thái độ kiên quyết.

        Nhà Lý, nhà Trần và Lê Sơ đều coi các nước đó là chư hầu và trên thực tế các nước ấy vẫn chấp thuận. Họ thường cho sứ sang giao hiếu với Đại Việt, cống các sản vật như sư tử, voi trắng, tê tê, ngựa bạch, v.v... Vua Đại Việt vừa vỗ về bằng đức vừa răn đe bằng quân sự. Khi hoà hiếu thì dùng sứ giả phủ dụ hoặc gả con gái cho; khi các nước tỏ ra không khâm phục hoặc đưa quân quấy nhiễu biên giới thì phát binh hỏi tội. Các hành động xâm phạm biên giới đều bị đẩy lùi một cách kiên quyết và kịp thời bằng các biện pháp ngoại giao hay quân sự.

        Sự phát triển của quốc gia phong kiến ở Đại Việt cũng như ở các nước phương Đông lúc đó luôn luôn gắn liền với quá trình chuyển hoá, phục vụ quyền lợi cho giai cấp thống trị. Vì thế khuynh hướng bành trướng phong kiến đã không thể tránh khỏi và kết quả một phần đất của Chiêm Thành ở phía Nam và của Bồn Man phía Tây đã được sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt.

        Do nền kinh tế, chính trị ở Đại Việt ổn định và phát triển thịnh vượng, nhiều nước khác trong vùng đã đến quan hệ, như Chân Lạp, Xiêm, Ja Va (Inđônêxia), Malaixia... Một số nước xa ở phương Bắc như Hồi Hột, Kim, v.v... cũng cử sứ giả đến. Sử chép rằng, tháng 6 năm 1168, cùng một lúc có sứ giả của cả nước Tống và nước Kim sang ta. Nhà Lý đã lấy lễ tiếp đãi nhưng không để họ gặp nhau, bởi lúc đó bang giao giữa Tống và Kim đang căng thẳng.

        Mối quan hệ trên đây đã có tác động trên nhiều lĩnh vực phát triển của các nước, càng thúc đẩy sự giao thoa giữa các nền văn hoá - văn minh trong vùng. Đại Việt chủ trương giữ quan hệ hoà hiếu với tất cả các nước, tạo điều kiện cho sứ giả, thương gia đi lại thuận tiện, cũng luôn luôn cảnh giác, chăm lo xây dựng quân sự để giữ vững an ninh và quốc phòng.

        Như vậy, nước Đại Việt từ thế kỷ XI-XV là một quốc gia dân tộc thống nhất, có những giai đoạn dài ổn định chính trị với nền kinh tế phát triển, văn hoá độc đáo mang bản sắc dân tộc. Những thành tựu đạt được trên các lĩnh vực xây dựng đất nước không những đã nâng cao đời sống nhân dân, tăng cường sức mạnh quốc phòng, là tiền đề tốt để Nhà nước Đại Việt xây dựng và hoàn thiện Binh chế của mình.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Tám, 2016, 11:46:20 pm

        NIÊN BIỂU CÁC ĐỜI VUA TỪ THẾ KỶ XI - XV

        Thời Lý (1009-1226)         

1. Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn) : 1009-1028         
2. Lý Thái Tông (Lý Phật Mã): 1028-1054         
3. Lý Thánh Tông (Lý Nhật Tông) : 1054-1072         
4. Lý Nhân Tông (Lý Càn Đức) : 1072-1127         
5. Lý Thần Tông (Lý Dương Hoán) : 1128-1138         
6. Lý Anh Tông (Lý Thiên Tộ) : 1138-1175         
7. Lý Cao Tông (Lý Long Trát) : 1175-1210         
8. Lý Huệ Tông (Lý Hạo Sảm) : 1210-1224         
9. Lý Chiêu Hoàng (Lý Chiêu Thánh) : 1224-1225

        Thời Trần (1226-1400)           

1. Trần Thái Tông (Trần Cảnh) : 1226-1258           
2. Trần Thánh Tông (Trần Hoảng) : 1258-1278           
3. Trần Nhân Tông (Trần Thẩm) : 1278-1293         
4. Trần Anh Tông (Trần Thuyền) : 1293-1314         
5. Trần Minh Tông (Trần Mạnh) : 1314-1329         
6. Trần Hiến Tông (Trần Vượng) : 1329-1341         
7. Trần Dụ Tông (Trần Hạo) : 1341-1369         
8. Trần Nghệ Tông (Trần Phủ) : 1370-1372         
9. Trần Duệ Tông (Trần Kính) : 1372-1377         
10. Trần Phế Đế (Trần Nghiễn) : 1377-1388         
11. Trần Thuận Tông (Trần Nhung) : 1388- 1398         
12. Trần Thiếu Đế (Trần An) : 1398-1400

        Thời Hồ (1400 - 1407)         

1. Hồ Quý Ly : 1400         
2. Hồ Hán Thương : 1400-1407

        Lê Sơ (1428-1504)       

1. Lê Thái Tổ (Lê Lợi) : 1428-1433       
2. Lê Thái Tông (Lê Nguyên Long) : 1434- 1442       
3. Lê Nhân Tông (Lê Bang Cơ) : 1443- 1459       
4. Lê Thánh Tông (Lê Tư Thành) : 1460- 1497       
5. Lê Hiến Tông (Lê Huy) : 1497-1504



Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Tám, 2016, 11:48:32 pm
      
Chương II

HỆ THỐNG TỔ CHỨC CÁC NGẠCH QUÂN

        Hệ thống ngạch quân Đại Việt gồm quân triều đình, quân địa phương (các lộ, trấn, đạo), quân vương hầu và dân binh. Trải qua các thế kỷ XI - XV, tổ chức các ngạch quân từng bước phát triển, ngày một hoàn bị hơn.

        I.QUÂN TRIỀU ĐÌNH

        Lực lượng quân đội do Nhà nước trực tiếp tổ chức, quản lý và chỉ huy gọi là quân triều đình. Đây là bộ phận chủ yếu trong hệ thống tổ chức các thứ quân của quốc gia Đại Việt bao gồm các thành phần: Cấm quân, Sương quân và quân Ngũ phủ (thời Lê Sơ).

       1.Cấm quân

        1.1. Cấm quân thời LýLà lực lượng nòng cốt của quân triều đình, trực tiếp bảo vệ Kinh đô trong đó có Hoàng đế và Hoàng tộc; do đó dưới triều Lý cũng như các triều đại sau, Cấm quân luôn luôn được coi trọng, phát triển. Lý Công Uẩn trước khi lên ngôi lập vương triều Lý đã từng là một võ quan có thế lực nhất của nhà Tiền Lê, giữ chức Điện Tiền chỉ huy sứ, quản quân Tả thân vệ. Vì thế, Lý Thái Tổ đã kế thừa gần như toàn bộ bộ máy tổ chức quân sự cuối thời Tiền Lê.

        Ngạch quân thời Đinh (968-979) và thời Tiền Lê (980-1009) gọi là Thập đạo quân: Mỗi vệ 10 quân, mỗi quân 10 lữ, mỗi lữ 10 tốt, mỗi tốt 10 ngũ, mỗi ngũ 10 người. Trong hệ thống đó có một bộ phận lính chuyên nghiệp gọi là Thân quân, một loại "gia binh của Hoàng đế” mang tính chất "thân binh" như kiểu "lính trong nhà" của Dương Đình Nghệ ngày trước. Số đó cũng được gọi là quân Điện Tiền, gồm khoảng từ 3 đến 5 nghìn người. Năm 990, sứ giả nhà Tống tên là Tống Cảo từ Hoa Lư về thuật lại với vua Tống rằng: "Trong thành không có dân, chỉ có mấy trăm khu nhà làm trại lính... Số binh sĩ độ 3 nghìn người, đều thích ba chữ “Thiên tử quân" ở trán. Lương thì phát lúa để làm ra gạo mà ăn. Vũ khí chỉ có cung nỏ, mộc gỗ, giáo, lao bằng tre..."1 (Chu Khứ Phi, Lĩnh ngoại đại đáp, bản dịch, tư liệu Viện Lịch sử quân sự, tr.35). Dù chỉ là sự mô tả của một sứ thần phương Bắc, nhưng qua đó có thể biết được phần nào tình hình quân lính bảo vệ kinh thành của nhà Tiền Lê. Quân đó chia thành tả, hữu vệ do một viên tướng tin cẩn chỉ huy gọi là Điện Tiền chỉ huy sứ; phía trong có khoảng 1.000 quân Tuỳ Long Túc Xa chuyên việc hầu hạ, bảo vệ vua. Cấm quân thời bấy giờ với các tên gọi "Thân quân", “quân Điện Tiền" hay "Thiên tử quân" chính là tổ chức quân đội quan trọng nhất với nhiệm vụ bảo vệ vua và triều đình, đồng thời là chủ lực quân trong cuộc kháng chiến chống Tống do Lê Hoàn lãnh đạo (981). Sau khi Lê Hoàn mất, Lý Công Uẩn đã chỉ huy đạo quân đó vào từ năm 1009, Cấm quân nhà Tiền Lê đã chuyển thành Cấm quân nhà Lý. Đồng thời với việc chuyển kinh đô từ Hoa Lư ra Thăng Long, Lý Thái Tổ cho mở rộng lực lượng Cấm quân, đặt cơ sở cho các đời vua nối tiếp hoàn thiện tổ chức quân sự triều Lý.

        Theo sách Toàn thư (Đại Việt sử ký toàn thư) năm 1028, Lý Thái Tông "đặt 10 vệ Điện Tiền cấm quân: 1. Quảng Thánh, 2. Quảng Vũ, 3. Ngự Long, 4. Bổng Nhật, 5.T rừng Hải. Mỗi vệ đều chia làm tả và hữu trực, đi quanh để bảo vệ bên trong cấm thành"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 1, Nxb Khoa học xã hội, H.1967, tr.205). Năm 1054, Lý Thánh Tông đổi tên các đô quân Khuông Thánh của Thần Vệ thành Củng Thánh Quảng Đức thành Trung Vũ, Quảng Vũ thành Chiêu Vũ; đồng thời đặt thêm tả và hữu Long Dực đô, mỗi đô 100 người (?). Đến năm 1059, nhà vua lại chia quân làm 8 hiệu: Ngự Long, Vũ Thắng, Long Dực, Thần Điện, Bổng Thánh, Bảo Thắng, Hùng Lược và Vạn Tiệp; mỗi hiệu quân đều chia ra bốn bộ tả, hữu, tiền và hậu; hợp thành 100 đội, trong đó có cả lính ky mã, lính cung nỏ và bắn đá; mỗi người đều thích lên trán 3 chữ "Thiên tử quân”2 (Sự kiện này sách Việt sử tiêu án cũng chép tương tự, còn sách An Nam chí lược thì chép hai hiệu quân Bộ Điện và Củng Nhật thay cho Thần Điện và Bổng Thánh).

        Đời Lý Nhân Tông, năm 1104, duyệt binh Hưng Nam, Vũ Tiệp tả và hữu, đổi làm đô Ngọc Giai, binh Ngự Long đổi làm đô Hưng Thánh và Quảng Vũ; những người thuộc họ lớn trong dân cho làm binh Vũ Thắng; đồng thời đổi Điền Nhi làm binh Thiết Lâm3 (Điền nhi: Theo Việt sử lược, điền nhi là quan nô cày ruộng quốc khố). Giáo sư Hoàng Xuân Hãn viết rằng: "Sau khi tự đem quân dẹp các loạn Lý Giác ở Diễn Châu và Chiêm Thành ở châu Bố Chính, ông (tức Lý Thường Kiệt) liền tổ chức lại quân đội. Tháng 3 năm Giáp Thân (1104), duyệt lại các đơn vị từ Cấm quân đến dân quân (hương binh). Đổi hai đội Hưng Nam, Dũng Tiệp tả và hữu làm đô Ngọc Giai. Đô Ngọc Giai là quân hầu bên "thềm ngọc", tức là gần bên ngai vua. Đội binh Ngự Long được đổi ra đô Hưng Thánh và Quảng Vũ. Đó là Cấm quân. Quân của nhà vua đổi thành lính Vũ Thắng. Điền Nhi đổi ra lính Thiết Lâm"1 (Hoàng Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt, Ban tu thư Đại Học Vạn Hạnh ấn hành, Sài Gòn 1966, tr.371). Năm 1118, vua Lý Nhân Tông cho tuyển 350 đại hoàng nam khoẻ mạnh để sung làm lính các đô Ngọc Giai, Hưng Thánh, Vũ Đô và Ngự Long. Năm sau, vua lại duyệt sáu binh Vũ Tiệp, Vũ Lâm, v.v...; hạng khoẻ giỏi cho làm Hoả đầu (đội trưởng) ở các quân Ngọc Giai, Hưng Thánh, Bỗng Nhật, Quảng Thánh, Vũ Đô..., hạng dưới cho làm lính.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 18 Tháng Tám, 2016, 11:54:04 pm
        Sách Lĩnh ngoại đại đáp của Trung Quốc thời Tống chép về Cấm quân nhà Lý như sau: "Triều Lý có 8 quân như Ngự Long quân, Vũ Thắng quân, v.v... đều chia ra làm tả và hữu; mỗi quân có 200 người, đều thích ở ngang trán ba chữ “Thiên Tử quân"2 (Chu Khứ Phi, Lĩnh ngoại đại đáp, Sđd, tr.20). Sử Của ta cho biết: buổi đầu đời Lý, cấm vệ có 10 quân, mỗi quân có 200 người. Dưới đời Lý Thánh Tông (1054-1072) số Cấm quân có 3.200 người. Sử thần Ngô Thì Sĩ có nhận xét: "Binh chế buổi đầu đời Lý lấy Thân quân làm trọng, cũng gọi là Cấm quân. Cấm vệ có 10 quân, mỗi quân có 200 người, đều có tả và hữu; phải túc trực thường xuyên"3 (Dẫn theo Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, Tập IV, Sđd, tr.5).

        Như vậy, thời Lý có khoảng vài chục đô quân và vệ quân, mỗi vệ có khoảng 200 người, đóng trong cấm thành để bảo vệ cung vua. Cấm quân được ưu đãi cấp lương và bổng lộc, được xăm mình và thích chữ "Thiên Tử quân" ở trán. Bấy giờ, nhà nước có lệnh cấm những nô bộc tư gia không được xăm lên ngực, vào chân để làm giả mạo theo hình dạng của Cấm quân.

        Trong thành phần của Cấm quân nói trên có một bộ phận gọi là quân Túc vệ, tức quân hầu cận, những binh lính bảo vệ và phục dịch nhà vua. Số quân này gọi là Tuỳ Long quân nội ngoại hay Tả hữu túc xa. Vừa lên ngôi, Lý Thái Tổ đã đem 500 quân Tuỳ Long vào làm lính túc vệ bên mình. Năm 1051, Lý Thái Tông chế xe Thái Bình, một loại "xe ngự" dùng voi kéo, được trang sức giát vàng lộng lẫy. Nhà vua còn đặt Tuỳ Long quân theo hầu xe và cử tướng Phiêu ky Trần Nẫm cai quản quân ấy. Đến năm 1054, vua Lý Thánh Tông đặt thêm tả, hữu Long Dực đô, mỗi đô 10 người. Đó là số quân hầu hạ xe báu hoặc túc trực bên vua. Mỗi lần xe loan ra hoặc vào, lính Long Dực xếp hàng hai bên, nghi vệ được bày đặt long trọng để chào đón thiên tử. Hoặc gặp ngày triều hội, quân Cấm vệ trang phục và đội mũ chỉnh tề trước sân điện, quần thần văn võ đứng chầu hai bên. Khi nhà vua đến, viên chủ sự xướng "Thánh cung vạn phúc", quân sĩ đồng thanh hô theo làm tăng thế uy nghi của buổi lễ. Năm 1150, đời Lý Thần Tông, sau vụ nổi dậy của Cấm quân, quan Thái úy Đỗ Anh Vũ đã tổ chức thêm đội quân Phụng quốc vệ đô trên 100 người và ra lệnh giữ gìn cẩn mật trong cung cấm, không cho hoạn quan được vào, không cho tụ tập bàn bạc trong cung. Quân Cấm vệ được tổ chức chặt chẽ hơn. Như vậy, trên cơ sở kế thừa tổ chức quân đội thời Tiền Lê, nhà Lý đã phát triển và chính quy hoá đội quân của mình bằng cách mở rộng và đổi tên các quân hiệu, tăng cường quân số và đặt thêm các quân hiệu mới. Tuy vẫn mang danh hiệu là "Thiên tử quân”, nhưng Cấm quân thời này phát triển hoàn chỉnh hơn trên các lĩnh vục (Bảng 1).

(http://i479.photobucket.com/albums/rr153/Giangtvx/Linh%20tinh/BCDV%20-%200061_zpsvuv2pcap.jpg)

        Về mặt biên chế, Cấm quân thời Lý đã chia thành các tướng hiệu, quân hiệu, các vệ quân, đô quân, các đội, ngũ hoặc giáp để thay nhau phụng trực và tuần tra canh gác. Chẳng hạn Lý Thái Tổ có 10 quân Cấm vệ, ngoài ra còn có 9 quân khác để sai khiến. Năm 1025, vua định binh làm giáp, mỗi giáp 15 người, dùng một người giỏi, khoẻ làm quản giáp. Lý Thái Tông đặt 10 vệ Điện Tiền cấm quân gọi là "thập vệ". Tổ chức chính quyền trung ương cũng như kinh đô Đại Việt thời Lý được xây dựng, mở rộng và hoàn thiện kéo theo sự hoàn chỉnh của Cấm quân. Cấm quân thời đó cũng làm trọn chức năng, nhiệm vụ của mình trong việc bảo vệ kinh đô mới mà tại đó có cả Hoàng đế và hoàng tộc ở. Cấm quân vẫn theo nguyên tắc Thân quân, tức đội quân của vua. Vua với tư cách là một cá nhân đại diện cho cả bộ máy nhà nước, vua cũng đồng nghĩa với nước. Vì vậy, Cấm quân thời Lý cũng như các triều đại sau, đều mang ý nghĩa Thân quân, được tuyển chọn cẩn thận và thực hiện quyền lực của Hoàng đế, bảo vệ Hoàng đế, hoàng tộc và triều đình phong kiến.

        Cấm quân là lực lượng chủ yếu để dẹp trừ bạo loạn, đặc biệt là các biến cố ở cung đình. Ví dụ, năm 1028, dưới sự chỉ huy của Vũ vệ tướng quân Lê Phụng Hiểu, Cấm quân đã dẹp được "Loạn Ba vương", bảo vệ ngôi vua Lý Thái Tông; hoặc năm 1150, quan Điện Tiền chỉ huy sứ Vũ Đái cùng với Tả hưng Thánh hoả đầu Nguyễn Đương đã đem Cấm quân xông vào cung đình bắt giam tên loạn thần Đỗ Anh Vũ. Ngoài nhiệm vụ hộ giá và bảo vệ vua, bảo vệ triều đình, Cấm quân còn tham gia các cuộc chinh phạt do vua "tự làm tướng" để dẹp các vụ chống đối địa phương, như ở châu Định Nguyên và châu Tự Nguyên năm 1033. Sách Việt sử thông giám cương mục (Cương mục) cho biết, “1-1033 người châu Định Nguyên làm phản. Vua thân chinh đi đánh dẹp yên" và "9-1033, châu Tự Nguyên làm phản, vua tự làm tướng đi đánh dẹp"1 (Việt sử thông giám cương mục, Tập III, Nxb Văn Sử Địa, H.1957, tr.60). Vai trò nòng cốt của Cấm quân nhà Lý biểu hiện rõ nét nhất trong cuộc kháng chiến chống Tống, khi Lý Thường Kiệt chỉ huy Cấm quân kết hợp với quân các châu, lộ thực hành "tiên phát chế nhân" ở Ung - Khâm - Liêm (1075) và đánh thắng giặc ở sông Như Nguyệt (1077).

        Về mặt tổ chức và chức năng, Cấm quân nhà Lý và Cấm quân nhà Tống (Trung Quốc) có nhiều điểm giống nhau; Cấm quân là chủ lực của quân đội, được tuyển chọn kỹ hơn, chủ yếu đóng ở trong Kinh, bảo vệ triều đình. Chỗ khác nhau là Cấm quân ở Bắc Tống cứ 50 người lập thành một đội, 2 đội lập thành một đô, 5 đô là một doanh, 5 doanh một quân, 10 quân là một tướng. Ngoài nhiệm vụ bảo vệ kinh đô các đơn vị Cấm quân nhà Tống cứ 1-2 năm thay nhau đồn trú một lần, vừa để rèn luyện quân sĩ, vừa để hạn chế bớt binh quyền của các tướng, làm cho "lính không quen tướng, tướng không nắm được quân"2 (Theo sách Trung Quốc đại bách khoa toàn thư - quân sự, Nxb Khoa học quân sự Trung Quốc, Bắc Kinh, 1966, tr.450). Khi đồn trú họ thường mang theo cả vợ con, nên cuộc sống khổ cực, lại thường bị bọn quan lại sỉ nhục; do vậy, dưới thời Tống thường xảy ra những vụ binh biến của Cấm quân. Còn Cấm quân nhà Lý luôn được coi trọng, đóng ở kinh đô, có đội ngũ đông nghiêm, trở thành nòng cốt của binh lực cả nước.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Tám, 2016, 12:00:15 am

        1.2. Cấm quân thời Trần

        Ngày 12 tháng Chạp năm Mậu Dần (1225), với sự kiện Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh, triều Trần thay thế triều Lý. Nhiều đại thần của triều đại mới vốn đã giữ những chức vụ quân sự quan trọng của triều Lý, như bố Trần Cảnh là Trần Thừa giữ chức Thái úy dưới đời Lý Chiêu Hoàng, Trần Thủ Độ đã từng là quan Điện Tiền chỉ huy sứ, quản Cấm quân, v.v... Cũng vì thế triều Trần đã kế thừa toàn bộ cơ cấu quân sự của triều Lý, kể cả tổ chức Cấm quân.

        Theo nguyên tắc tổ chức Thân quân, Cấm quân được coi trọng và phát triển. Vua với tư cách là một cá nhân đại diện cho cả bộ máy nhà nước, vua đồng nghĩa với nước; quân đội lúc đó cũng là quân của vua và vua trở thành thủ lĩnh quân sự tối cao. Khác với triều Lý, ở triều Trần, ngoài kinh đô Thăng Long cần được bảo vệ cẩn mật, còn có phủ Thiên Trường - nơi quê hương của họ Trần, chỗ ở của các Thượng hoàng được coi như kinh đô thứ hai cũng cần được bảo vệ. Do vậy, Cấm quân nhà Trần có trách nhiệm lớn hơn, càng phải mở rộng hơn để đảm nhận thêm nhiệm vụ bảo vệ Thượng hoàng và phủ Thiên Trường (Nam Định).

        Năm 1246, Trần Thái Tông định hiệu quân, chọn trai tráng sung làm quân Tứ Thiên, Tứ Thánh, Tứ Thần. Người ở các lộ Thiên Trường và Long Hưng cho làm quân Thiên Thuộc, Thiên Cương, Chương Thánh và Củng Thần. Người các lộ Hồng và Khoái sung làm quân Tả Thánh Dực và Hữu Thánh Dực. Người các lộ Trường Yên, Kiến Xương xung làm quân Thánh Dực và Thần Sách. Đinh tráng tuyển từ các lộ khác sung vào các vệ Cấm quân hoặc làm trạo nhi (lính chèo thuyền, khiêng kiệu) và các phong đội1 (Việt sử thông giám cương mục, Tập V. Nxb Văn Sử Địa, H.1958, tr. 13). Tứ Thiên, Tứ Thánh và Tứ Thần và quân Túc vệ, gồm 12 vệ quân. Nhà Trần nổi lên từ lộ Thiên Trường, cho nên lấy người bản lộ và những lộ phụ cận làm lính Túc vệ để bảo vệ vua và Thượng hoàng (Bảng 2).

(http://i479.photobucket.com/albums/rr153/Giangtvx/Linh%20tinh/BCDV%20-%200065_zpsxxyz2t3d.jpg)

        Năm Long Hưng thứ 16 (1298), Trần Anh Tông đặt các quân hiệu Chân Thượng đô, Thuỷ Dạ Soa đô và Chân Kim đô; thích chữ "Chân Kim" vào trán. Năm 1311, nhà vua đặt thêm quân hiệu mới gọi là Toàn Kim Cương và theo lệ trước, đều thích quân hiệu lên trán, đồng thời chia quân Thiên Thuộc ra làm hai đô: Thượng Phù đô và Hạ Phù đô. Hai năm sau, trong một đợt duyệt định lại các quân hiệu, vua đổi quân Vũ Tiệp thành quân Thiết Ngạch và cho tướng Trần Thanh Ly làm Vũ vệ đại tướng quân để quản lãnh.

        Đời Trần Minh Tông, năm 1315, đặt Phù Liễu đô gọi là Long Vệ tướng; năm 1320 lại đổi thành Khấu Mã quân1 (Việt sử thông giám cương mục, Tập VI, chép sự kiện này vào năm 1314). Năm 1374, Trần Duệ Tông đặt thêm quân Uy Tiệp, BảoTiệp, Long Dực, Thần Dực, Điện Hậu, Long Tiệp, Ý Yên, Thiên Trường và Bắc Giang, trên trán mỗi người lính đều thích tên quân hiệu của mình. Lính thị vệ lúc này có các quân: Tạc Ngạch và Hoa Ngạch, gồm Tả ban và Hữu ban. Cuối triều Trần, năm 1378, Cấm quân có các quân hiệu: Thần Dực, Thiên Uy, Thánh Dực, Hoa Ngạch, Thị Vệ, Thiên Trường, Thần Vũ; đặt các chức giám quân cai quản. Sau đó tổ chức thêm quân Thiết Thương, Thiết Giáp, Thiết Lâm, Thiết Hổ, Ô Đồ; chọn các võ tướng giỏi làm quản quân.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Tám, 2016, 12:00:50 am

        Những sử liệu trên tuy rất tản mạn và ít ỏi, song nó cũng cho chúng ta thấy các quân hiệu Cấm quân thời Trần được định lại bắt đầu từ đời vua Trần Thái Tông. Từ đó, trải qua các đời vua Trần kế tiếp, Cấm quân từng bước mở rộng, hoặc thay đổi tên gọi, hoặc tổ chức thêm với những quân hiệu mới. Về mặt biên chế, từ thời Trần Thánh Tông, năm 1267, triều đình ban bố lệnh tổ chức các đơn vị "quân" và "đô". Quân đội được chia thành nhiều "quân”, dưới "quân" là "đô" hoặc "ngũ”. Mỗi quân có 340 đô, mỗi đô có 80 người. Theo sách An Nam chí lược, quân nhà Trần "cứ 5 người 1 ngũ, 10 ngũ 1 đô"1 (Lê Trắc, An Nam chí lược, Sđd, tr.80). Như vậy đơn vị chiến thuật lúc đó lớn nhất có thể là "quân" (2.400 người), nhỏ nhất là "ngũ” (từ 5 đến 8 người). Tuy nhiên, khi cần tổ chức những cuộc hội chiến, sử dụng những lực lượng đông từ một đến vài vạn quân hoặc hơn nữa, thì số quân đó được đặt dưới sự chỉ huy của một tướng cao cấp và nhiều phó tướng khác; có thể huy động nhiều đạo quân lớn do các tướng chỉ huy dưới sự thống lĩnh của một đại tướng.

        Theo biên chế trên, đời Trần Thái Tông chỉ riêng 12 vệ quân Tứ Thiên, Tứ Thánh và Tứ Thần đã có 28.800 người. Các đời vua tiếp sau mở rộng quân Cấm vệ và quân số cũng tăng lên, nhưng không có số liệu chính xác. Sử gia Phan Huy Chú nhận xét: "Số quân buổi đầu nhà Trần mỗi quân là 2.400 người. Các quân Cấm vệ và quân các lộ đại ước không đầy 10 vạn", "quy chế về Cấm binh đời Trần Thái Tông đã định về sau lại đặt thêm mãi, số quân không xét rõ được. Đại ước là đặt thêm danh hiệu, chứ thực số vị tất đã nhiều hơn trước"1 (Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí. Tập IV, Sđd, tr.5). Nếu nói "số quân không nhiều hơn trước" có thể đúng trong thời bình chứ không đúng vào những thời điểm những đời vua phải chuẩn bị và tiến hành chiến tranh giữ nước.

        Cũng như thời Lý, trong số Cấm quân, bộ phận đóng trong cấm thành rất được coi trọng. Số binh hạng nhất được tuyển từ các lộ Thiên Trường, Long Hưng và các lộ bản bộ của nhà Trần đều được sung vào quân Thiên Thuộc, Thiên Cương, Chương Thánh và Củng Thần. Đó là lính Túc vệ túc trực và canh gác trong cấm thành, nơi vua ở và làm việc. Một số khác trong đó có đội quân Thiên Thuộc canh giữ hành cung Thiên Trường - nơi Thượng Hoàng ở. Bấy giờ nhà Trần đổi Tức Mặc là quê hương của mình thành Thiên Thuộc; do đó quân lính tuyển từ hương này cũng gọi là quân Thiên Thuộc. Phạm Ngũ Lão là một vị tướng nổi tiếng trung thành nên đã được vua Anh Tông giao cho quản quân Thiên Thuộc. Năm 1314, nhà vua cho phép tuyển con của các Cấm quân và lấy những người trong quân Thiết Ngạch có thích chữ "Kim cương" để sung làm đô Phù Liễn, gọi là Long Vệ tướng, sau đổi làm Khấu Mã quân. Bấy giờ ở sân rồng có quân Long Dực do tướng Trịnh Trọng Tử chỉ huy. Khi triều đình tổ chức rước di hài vua Trần Nhân Tông về an táng ở Đức Lăng, đội quân này được lệnh hát khúc Long Ngâm để dẹp đường, mở lối1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, chép đó là quân Hải Khẩu và Hổ Dực).

        Nhu cầu bảo vệ chính quyền trung ương và bảo vệ đất nước đã thúc đẩy triều đình không ngừng hoàn thiện bộ máy tổ chức, biên chế quân đội. Mốc đầu tiên đánh dấu bước phát triển trên lĩnh vực tổ chức, biên chế quân đội nhà Trần là năm 1246, khi vua Trần Thái Tông ban bố lệnh tuyển quân và xét định biên chế. Lúc đó Nhà nước quy định về phương thức tuyển lính và biên chế tổ chức các ngạch quân, chú trọng xây dựng Cấm quân. Đời vua Nhân Tông là quãng thời gian nhà Trần có quân đội quy củ và số quân đông nhất. Đến đời vua Anh Tông, quân đội đã trải qua nhiều lần chỉnh đốn tổ chức, sửa định quân ngũ và Cấm quân được hoàn thiện.

        Như vậy, Cấm quân thời Trần đã từng bước phát triển cả về quy mô tổ chức và trình độ chính quy. Cũng như trước, Cấm quân gồm hai bộ phận đảm nhận những chức năng khác nhau. Bộ phận Túc vệ quân gồm những người lính tin cẩn tuyển từ các lộ Thiên Trường và Long Hưng đóng ở vòng trong cấm thành, chuyên bảo vệ Hoàng đế hoặc đóng và bảo vệ hành cung Thiên Trường. Một bộ phận nữa đóng quanh thành hay các vùng phụ cận xung yếu, bảo vệ vòng ngoài; bao gồm các trai tráng tuyển từ các lộ Hồng, Khoái, Trường Yên và Kiến Xương, tức những lộ đông dân, trù phú, ở quanh bản lộ họ Trần, đã từng góp công, của vào việc xây dựng và bảo vệ sự nghiệp nhà Trần. Đó là các quân Thánh Dực và Thần Sách. Trai tráng hạng nhất tuyển từ các lộ khác cũng được sung làm Cấm quân “vòng ngoài". Sử gia Phan Huy Chú nhận xét: "Đến đời nhà Lý và nhà Trần, đặt quân hiệu có phần kỹ càng hơn... Trong thành vua có quân Túc vệ đội ngũ đông nghiêm" (Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, Tập IV, Nxb Văn Sử Địa, H.1958, tr.20).


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Tám, 2016, 12:01:53 am
        Điều đáng chú ý là Cấm quân dưới thời Lý - Trần là lực lượng quân thường trực chuyên nghiệp. Họ được coi trọng và tổ chức theo nguyên tắc “Thân quân" - quân của vua, quân thuộc dòng họ thống trị; được tuyển lựa kỹ, trang bị tốt và huấn luyện chu đáo, Cấm quân trở thành nòng cốt của quân đội triều đình, là công cụ bạo lực chủ yếu của bộ máy nhà nước; là lính chuyên nghiệp được cấp lương ăn, thậm chí còn được hưởng bổng lộc vào dịp lễ Tết. Cấm quân giai đoạn Lý - Trần không nằm trong diện thay phiên về sản xuất theo quy định của chính sách Ngụ binh ư nông.

        Để phân biệt với các loại quân khác, lính Túc vệ hay Cấm quân nói chung được khắc chữ lên trán hoặc xăm lên mình các hình rồng, phượng. Cấm quân thời Tiền Lê và Lý được thích ba chữ "Thiên Tử quân" lên trán. Cấm quân thời Trần được thích hình rồng ở bụng, ở lưng và ở hai đùi, gọi là vẽ rồng, được ghi tên quân hiệu hay được xăm hoa lên trán. Bấy giờ các vua Trần cũng vẽ hình rồng vào đùi. Có tục lệ này, bởi theo quan niệm nhà Trần khởi nghiệp từ vùng biển, quen nghề sông nước và trọng võ nghệ. Thượng hoàng Trần Nhân Tông đã nói: "Nhà ta vốn là người ở vùng hạ lưu, đời đời ưa chuộng hùng dũng, thường thích rồng vào đùi; nếp nhà theo nghề võ, nên thích hình rồng vào đùi để tỏ là không quên gốc" (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Sđd, tr.78). Tuy nhiên, đây là một phong tục của người Việt cổ xưa truyền lại. Từ thời Hùng Vương, người Việt sống ở ven rừng khi xuống nước đánh cá thường bị giao long làm hại, vì thế vua sai lấy mực xăm lên mình hình Long quân; từ đó dân không bị họa giao long nữa. Tục xăm mình của người Việt cổ bắt đầu từ đấy. Trong kháng chiến chống Mông - Nguyên lần thứ hai (1285), quân nhà Trần còn thích vào cánh tay hai chữ "Sát Thái” để tỏ rõ quyết tâm tiêu diệt giặc.

(http://i479.photobucket.com/albums/rr153/Giangtvx/Linh%20tinh/BCDV%20-%200070_zpsgburrhws.jpg)

        Người lính Cấm quân thời Lý-Trần lấy việc xăm mình làm hãnh diện. Vì thế, bấy giờ có hiện tượng trai tráng trong Kinh học theo mốt Cấm quân, buộc nhà nước phải có lệnh cấm. Ví dụ, năm 1118, vua Lý Nhân Tông ra lệnh: “Cấm những gia nô không được xăm vào ngực, vào chân làm theo dạng lính Cấm quân"1 (Việt sử thông giám cương mục, Tập IV, Sđd, tr.9). Vua Trần cũng ra lệnh cấm những người khác thích chữ và xăm lên mình để giả dạng Cấm quân. Tục xăm hình rồng lên lưng, lên vế của nhà vua và quân sĩ tồn tại cho đến đời vua Trần Anh Tông thì bỏ hẳn. Sách Toàn thư chép: "Về sau vua nối ngôi không phải thích hình rồng lên đùi nữa, là bắt đầu từ Anh Tông"2 (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Sđd, tr.78). Trong thời kỳ này, chỉ quân lính thuộc Chân Thượng đô, Chân Kim đô, Thuỷ Dạ Soa đô hay Toàn Kim cương mới được phép thích quân hiệu ở trán. Năm 1322, nhà vua ra lệnh tuyển quân Túc vệ cốt ở khoẻ mạnh, béo trắng, tuấn tú là hơn; cho nên từ đây quân sĩ không xăm hình rồng như trước nữa. Từ năm 1374, đời vua Trần Dụ Tông, các quân Túc vệ, Tứ Thiên, Tứ Thánh, Tứ Thần thì xăm hoa lên trán; số quân mới đặt như Ung Tiệp, Bảo Tiệp, Long Dực, Thần Dực và Điện Hậu đều thích tên quân hiệu mình.

        Cấm quân thời Trần luôn thể hiện vai trò nòng cốt của mình trong nhiệm vụ bảo vệ kinh thành và đánh giặc giữ nước. Suốt thời kỳ tồn tại vương quyền, về cơ bản Cấm quân đã thể hiện tốt chức năng bảo vệ kinh đô Thăng Long và phủ Thiên Trường. Thế kỷ XIII, nước ta đã tiến hành liên tục ba cuộc kháng chiến chống xâm lược Mông - Nguyên. Cả ba lần, nhà vua và triều đình đều phải rời khỏi kinh đô Thăng Long về Trường Yên, Thiên Trường hoặc châu Ái (Thanh Hoá); nhưng trong những lúc binh lửa hiểm nghèo đó, Cấm quân đã làm tốt nhiệm vụ của mình là bảo vệ vua và triều đình. Dưới sự lãnh đạo chỉ huy của các vua Trần, của Trần Quốc Tuấn và các tướng, Cấm quân còn thể hiện vai trò nòng cốt trong các đạo chủ lực quân đánh giặc giữ nước. Sử xưa không ghi cụ thể công lao của riêng một loại quân nào trong kháng chiến, song chắc chắn với cuộc kháng chiến toàn dân lúc đó, Cấm quân đã giữ vai trò chủ lực trong các trận đánh quyết định như Bình Lệ Nguyên, Đông Bộ Đầu, Tây Kết - Hàm Tử, Chương Dương - Thăng Long vào Bạch Đằng năm 1288.

        Vào cuối đời Trần, Cấm quân là lực lượng chủ yếu đi đánh dẹp các thế lực chống đối và các cuộc khởi nghĩa địa phương. Năm 1360, vua Dụ Tông ra lệnh cho Cấm quân đi tuần, bắt "giặc cướp" ở các lộ. "Giặc" lúc đó là những gia nô, những nông dân hay các nhà sư nổi dậy chống lại chính quyền. Triều Trần suy yếu thì Cấm quân cũng suy yếu và không đủ sức để làm tròn bổn phận bảo vệ kinh thành trước họa xâm lăng của người Chiêm. Điều đó thể hiện ở các năm 1371, 1377 và 1378, lúc quân đội của vua Chiêm là Chế Bồng Nga tiến công, cướp phá Thăng Long, buộc vua Trần và triều đình phải chạy trốn sang Đông Ngàn. Chính vì vậy mà sử thần Ngô Sĩ Liên đã than rằng: “Chỉ vì pháp độ xếp bỏ, việc canh giữ bờ cõi mất đi cho nên như thế. Đến nỗi giặc vào biên thành mà không giữ được, giặc đến kinh đô mà Cấm quân không chống lại được, còn gọi là nước thế nào được"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Sđd, tr.162).


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Tám, 2016, 12:02:25 am
    
        1.3.Cấm quân thời Hồ

        Năm 1400, triều Hồ thay thế triều Trần đã suy yếu: Thực tế, cuối triều Trần thế lực họ Hồ đã từng bước nắm giữ và chỉ huy triều chính. Dưới các triều vua Nghệ Tông, Duệ Tông và Thần Tông, Hồ Quý Ly đã nắm giữ binh quyền và lưu tâm xây dựng quân đội, coi đó là chỗ dựa để tiến tới thiết lập triều chính của mình. Năm 1371, dưới triều Nghệ Tông, Quý Ly giữ chức Khu mật viện đại sử. Lúc đó Khu mật viện là cơ quan quản lãnh Cấm quân. Sang triều Duệ Tông, Quý Ly lại giữ chức Tham mưu quân sự. Cho nên khi thiết lập vương triều mới, nhà Hồ đã kế thừa hệ thống tổ chức quân sự hồi cuối Trần, một cơ chế quân sự mà Hồ Quý Ly đã dày công chuẩn bị.

        Về thực chất, Cấm quân thời Hồ cũng là Cấm quân của nhà Trần giai đoạn cuối đã được Hồ Quý Ly từng bước "cải tổ” thông qua những cải cách quân sự của mình. Buổi đầu, các quân hiệu và cơ cấu tổ chức vẫn gần như cũ. Đó là các vệ quân, đô quân gồm có tả, hữu Thánh Dực, Thần Dực; các vệ quân như Thiết Lâm, Thiết Giáp, Thiết Sang, Thiên Ngưu, Phúng Thần, Chương Thánh, Thiên Cương, Củng Thần, v.v... Trong những năm cuối triều Trần, Hồ Quý Ly đã thay đổi các tướng chỉ huy trong hệ thống quân sự do ông lãnh đạo.

        Sau khi giành được ngôi báu, Hồ Quý Ly cùng hài con là Hồ Hán Thương và Hồ Nguyên Trừng khẩn trương xây dựng quân đội để đối phó với thù trong giặc ngoài. Vừa được cha nhường ngôi, Hồ Hán Thương đã ra lệnh định lại Binh chế, xét duyệt quân ngũ. Tháng 12 1402, những tráng đinh con nhà nghèo được tuyển sung vào quân Trợ Dịch rồi đổi làm quân Bồi Vệ; sau đó chia thành hai ban tả và hữu, dùng tên các loài lân, phượng đặt tên quân hiệu; cử các võ quan thuộc dòng tông thất cai quản. Quân chính quy trong triều, tức Cấm quân được chia thành các vệ hoặc đô, do các đại tướng, đô tướng, đô thống tướng chỉ huy.

        Tháng 5 năm 1405, Nhà nước ra sắc lệnh đại duyệt quân đội, quy định biên chế tổ chức. Hồ Hán Thương đặt 12 vệ quân Nam Ban và Bắc Ban; 8 vệ quân Điện Hậu Đông và Điện Hậu Tây. Quân đội phiên chế theo các quân, vệ và đội; mỗi vệ 18 đội, mỗi đội 128 người, ngoài ra còn chia theo các đơn vị như Đại quân (30 đội), Trung quân (20 đội), Dinh quân (15 đội), Đoàn quân (10 đội). Có thể coi đó là những "đơn vị chiến thuật" lớn do các đại tướng, đô tướng thống lĩnh. Theo biên chế trên thì 12 vệ quân Nam Ban và Bắc Ban có 3.888 người, Đại quân gồm 540 người, Trung quân 360 người, Dinh quân 270 người và Đoàn quân có 180 người. Quân bảo vệ trong hoàng cung Tây Đô gọi là Cấm vệ đô, gồm 15 đội, mỗi đội 18 người. Bên cạnh đó, Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương còn tổ chức đội Vệ sĩ giám quốc, những người lính thị vệ trung thành thường xuyên túc trực bảo vệ thượng hoàng và nhà vua. Cùng với những cải cách khác, trên lĩnh vực quân sự Hồ Quý Ly chủ trương tăng cường quân số, kiện toàn bộ máy tổ chức và cải tiến vũ khí trang bị. Quân đội triều đình trong đó có Cấm binh qua nhiều lần chỉnh đốn đã trở thành một đạo quân lớn, là chỗ dựa chính của vương triều mới.

        Quân chủ lực của nhà Hồ mà chủ yếu là Cấm quân đã giành được những thắng lợi lớn trong các lần đánh dẹp quân Chiêm Thành, ổn định biên giới mặt Nam và đã từng một lần đánh tan đạo quân xâm lược Minh 10 vạn do Chinh Nam tướng quân Hàn Quan và Tham tướng đô đốc Hoàng Trung chỉ huy vào tháng 4-1406 ở biên giới phía Bắc. Bấy giờ, tham gia chỉ huy chiến trận có Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng; tướng Hồ Vấn chỉ huy quân Tả Thánh Dực đánh từ Vũ Cao; Hồ Xạ chỉ huy quân Hữu Thánh Dực cùng tướng Trần Đĩnh chỉ huy quân Thánh Dực Bắc Giang chặn ở cửa Chi Lăng; hai đại tướng Phạm Nguyên Khôi và Chu Bỉnh Trung chỉ huy quân Chấn Cương; tướng Trần Nguyên Huyên chỉ huy quân Tam Phụ; Trần Thái Bộc chỉ huy quân Tả Thánh Dực, v.v... Sau khi thắng trận, Hồ Hán Thương khao thưởng quân đội, các tướng lập chiến công đầu được thưởng 3 tư; duy chỉ tướng Hồ Xạ cùng thuộc hạ của ông vì sơ suất để Hoàng Trung chạy thoát chỉ được thưởng 2 tư. Tuy nhiên, do sai lầm về đường lối chiến lược và chiến thuật, do nhân tố chính trị - tinh thần chưa tốt nên quân đội nhà Hồ đã không bảo vệ được vương triều và đất nước trước sức tiến công mạnh mẽ của quân xâm lược Minh cuối năm 1406 đầu năm 1407.

(http://i479.photobucket.com/albums/rr153/Giangtvx/Linh%20tinh/BCDV%20-%200075_zpsqjk3aq3u.jpg)


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Tám, 2016, 12:03:14 am
     
        1.4 Cấm quân thời Lê Sơ

        Cấm quân thời Lê Sơ thường được gọi chung là "quân trong Kinh" để phân biệt với "quân ngoài các đạo". Khác với các triều đại Lý, Trần và Hồ, triều Lê khi mới thiết lập không có sự kế thừa các tổ chức nhà nước trước đó, kể cả cơ cấu tổ chức quân đội. Cùng với chính quyền nhà nước của mình, quân đội nhà Hồ đã tan rã sau cuộc kháng chiến chống quân Minh thất bại năm 1407. Nhà Lê Sơ được thiết lập sau khi cuộc khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng do Lê Lợi - Nguyễn Trãi lãnh đạo thành công (1428). Vì vậy, tiền thân của quân đội Lê Sơ chính là nghĩa quân Lam Sơn, là đội quân giải phóng dân tộc. Qua mười năm xây dựng và chiến đấu, lực lượng nghĩa quân đã từng bước trưởng thành và đến năm 1427 đã có số lượng đông tới 35 vạn với đầy đủ các binh chủng như bộ binh, thuỷ binh và một bộ phận tượng binh được trang bị vũ khí ngày một tinh xảo. Tuy nhiên, trong điều kiện chưa có chính quyền trên phạm vi cả nước, quân đội chưa có khả năng tổ chức chặt chẽ và hoàn thiện. Số nghĩa binh được gọi chung là Năm quân Thiết Đột chứ chưa đặt thành quân hiệu riêng, đó là: Thiết Đột tiền quân, Thiết Đột trung quân, Thiết Đột hữu quân, Thiết Đột tả quân và Thiết Đột hậu quân. Đứng đầu mỗi quân Thiết Đột nói trên là một Hành quân tổng quản. Các quân đó chia thành các vệ. Như năm 1427, khi bao vây giặc Minh ở Đông Quan, Lê Lợi đã huy động khá đông lực lượng quân Thiết Đột, riêng các tướng Lê Triện và Lê Văn An chỉ huy 14 vệ đóng ở cửa Bắc; Lê Bí, Lê Nguyễn chỉ huy hai vệ đóng ở cửa Tây và một lực lượng khá lớn đóng ở cửa Nam. Phần lớn số quân giải phóng đó về sau trở thành đội quân của nhà nước độc lập, tự chủ thời Lê Sơ.

        Sau ngày giải phóng đất nước, Lê Lợi (Lê Thái Tổ) đã giữ lời hứa của mình, cho 25 vạn nghĩa binh trở về sản xuất, sum họp gia đình, chỉ lưu giữ 10 vạn; đồng thời kiện toàn bộ máy tổ chức quân đội theo hướng chính quy. Khi chính quyền nhà nước mới đã được thiết lập hoàn chỉnh từ trung ương đến địa phương, Lê Thái Tổ ra lệnh tuyển thêm Thân quân tức quân Thị vệ để bảo vệ Hoàng thành. Sách Toàn Thư chép: "Vua hạ lệnh cho ba quân, người nào có thể liều mình vì nước, tinh thông võ nghệ, có sức khoẻ, mạnh dạn, không đoái sống chết đều cấp cho văn bằng tuyển người làm Thị vệ ở nội phủ”1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập III, Nxb Khoa học xã hội, H.1967, tr.32). Sách Cương mục (Việt sử thông giám cương mục) cũng chép: "Bấy giờ Thị vệ thân quân chưa được bổ sung, vua sai các quan Thiếu úy tuyển trong dân gian lấy những người thân thể tráng kiện, tinh thông võ nghệ, mỗi thiếu úy tuyển 200 người để sung vào"2 (Việt sử thông giám cương mục, Tập VIII, Nxb Văn Sử Địa, H.1958, tr.49). Trong hàng ngũ võ quan lúc đó có ít nhất 10 viên thiếu úy vì thế số quân thị vệ buổi đầu thời Lê chí ít cũng 2.000 người3 (Trong sách Đại Việt sử ký toàn thư (Tập III) có nói đến các quan Thiếu úy sau đây: Lê Bí, Lê Khả, Lê Triện, Lê Vấn, Lê Sát, Lê Lý, Lê Bôi, Lê Chích, Lê Văn An và Đinh Liệt. Đinh Lễ hy sinh được truy phong "Nhập nội Thiếu úy"). Đó là lực lượng quân Thị vệ nội phủ của Cấm quân đầu thời Lê.

        Quân Thiết độtSử cũ cho biết: đời Lê Thái Tổ, năm 1429, "quân trong Kinh" gồm năm quân Thiết Đột và Ngự Tiền Thiết đột1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập III, Sđd , tr.68). Năm quân Thiết Đột gồm Trung, Tiền, Hậu, Tả và Hữu là tổ chức kế thừa của quân giải phóng; còn Ngự Tiền Thiết Đột là quân mới đặt để bảo vệ Hoàng cung. Sách Binh chế chí của Phan Huy Chú chép về quân đội giai đoạn này như sau: "Buổi Lê Sơ, Thái Tổ khởi nghĩa thì có quân Thiết Đột, sau chia làm Trung, Tiền, Hậu, Tả và Hữu, đều đặt Hành quân quản lĩnh. Lại đặt 14 vệ Thiết Đột: Kim Ngô, Ngọc Kiềm, Phùng Thần, Xa Ky, Câu Kiềm, Thiên Ngưu, Phùng Thánh, Tráng Sĩ, Thần Vũ, Du Nỗ, Thần Tý, Vũ Lâm, Thiên Uy và Ngũ Uy. Mỗi vệ có các chức Thượng tướng quân, Đại tướng quân, Tướng quân, Đô chỉ huy sứ và Hỏa đầu, Hỏa thủ. Binh số bấy giờ cộng là 25 vạn. Sau khi Bình Ngô, chỉ lưu 10 vạn tại ngũ... Lại đặt sáu quân Ngự Tiền gồm Ngự Tiền võ sĩ, Ngự Tiền trung tả tiền hậu quân, Thánh Dực quân, Phùng Thánh quân, Chấn Lôi quân và Bảo ứng quân) và Ngự Tiền võ đội...”2 (Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, Tập IV, Sđd, tr.7. Sách Việt sử thông giám cương mục (Tập IX, tr.5) nhắc lại những ghi chép của Phan Huy Chú trong Binh chế chí về vấn đề tổ chức 14 vệ quân Thiết Đột và sáu quân Ngự Tiền đời Lê Thái Tổ). Đối chiếu với những sự kiện được chép tản mạn trong các sách khác, chúng tôi hiểu rằng, buổi đầu thời Lê, Thiết Đột là tên gọi chung của quân trong Kinh, hoặc Cấm quân, là lực lượng quân thường trực chủ yếu của triều đình Lê Sơ, trong đó có Thị vệ quân đông đảo được duy trì suốt trong giai đoạn đầu thời Lê. Ví dụ, đời Lê Thái Tông, năm 1434, Lê Thừa được cử làm Thiết Đột trung quân hành quân tổng lĩnh. Cũng năm đó, Tư mã Lê Văn An được lệnh chỉ huy quân Ngự Tiền Thiết Đột và quân Bắc đạo đi đánh phản tặc Hoàng Nguyên Yự ở Lạng Sơn. Năm 1435, vua hạ lệnh cho vệ quân các đạo và năm quân Thiết Đột vét sông Đông Ngàn. Năm 1473, khi Lê Khả chỉ huy Cấm binh để phế truất Tể tướng Lê Sát vì tội chuyên quyền thì ông đang giữ chức Hành quân tổng quản tri xa kỵ chủ vệ quân sự, quản lãnh Thiết Đột hậu dực thánh quân... Dưới đời vua Lê Nhân Tông, năm 1447, có lệnh giảm bớt các tướng hiệu: các quân Ngự Tiền và năm quân Thiết Đột mỗi quân chỉ để hai người. Năm 1460, các Thái phó Nguyễn Xí, Đinh Liệt cùng nhiều tướng khác chỉ huy Ngự Tiền tả và hữu quân, Ngự Tiền Thiên Trạo và các đơn vị Cấm quân khác phế truất Nghi Dân, lập Tư Thành làm vua (tức Lê Thánh Tông). Như thế, tổ chức quân Thiết Đột có bắt đầu từ Lê Thái Tổ đã tồn tại đến đầu đời Lê Thánh Tông.

        Dưới triều vua Lê Nhân Tông có một số thay đổi về mặt tổ chức, như việc giảm biên chế tướng lĩnh, đổi tên và mở rộng các hiệu quân. Tháng 7-1449, đổi quân Hoả Đồng làm Thần Lôi và Thần Điện; quân Thiên Trạo thành Hải Đồng, Hải Mã và HàI Thu; quân Bát Nhiêu đổi thành Hải Cốt1 (Cương mục (Tập X) chép Hải Cốt thành Hải Hoạt, Binh chế chí chép Hải Thu thành Hải Điếu. Quân Thiên Trạo là quân chèo thuyền, quân Bát Nhiêu là quân cầm lái). Hoả Đồng hay Thần Lôi và Thần Điện là những đơn vị "hoả pháo" thuộc Bộ binh; các quân Thiên Trạo hay Hải Đồng, Hải Mã, Hải Thu và Hải Cốt là các đơn vị thuỷ binh thời đó.

(http://i479.photobucket.com/albums/rr153/Giangtvx/Linh%20tinh/BCDV%20-%200080_zpsnihorqv5.jpg)


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Tám, 2016, 12:17:43 am
        
        Quân Điện Tiến

        Lê Thánh Tông đã thực hiện cải cách trên nhiều lĩnh vực. Sự hoàn thiện trong hệ thống triều đình và quan lại đã kéo theo sự kiện toàn về tổ chức quân sự. Bộ máy quân sự các cấp được đổi thay theo hướng tăng cường quyền lực trung ương, hạn chế quyền lực địa phương. Lực lượng quân đội trong kinh thành thời Lê Thánh Tông đã mở rộng nhiều so với trước. Năm 1465, nhà vua tuyển những người lính thân tín đưa vào làm quân tả, hữu Vũ Lâm còn gọi là Điện Tiền Tả Hữu Vũ Lâm quân; trước đây lính khiêng kiệu dùng nam giới nay đặt ngạch Nữ đinh khiêng kiệu để tăng thêm hình thức và vẻ sang trọng. Năm 1467, nhà vua ra lệnh cho thượng thư Binh bộ Nguyễn VĨnh Tích tuyển lính trong 5 phủ để sung làm quân 5 vệ Điện Tiền; cũng năm đó tuyển con các quan viên làm lính trong vệ quân Kim Ngô mới đặt. Đến niên hiệu Hồng Đức thứ 2 (1471), Lê Thánh Tông thực hiện đổi mới cơ chế Cấm quân, đặt ra hai vệ Kim Ngô và Cẩm Y, bốn vệ Hiệu Lực, bốn vệ Thần Vũ, sáu vệ Điện Tiền, bốn vệ Tuần Tượng và bốn vệ Mã Nhàn. Các vệ Tuần Thượng và Mã Nhàn là những đơn vị tượng binh và ky binh phối thuộc. Năm 1490, triều đình đặt thêm các ti ở hai vệ Kim Ngô và Cẩm Y. Số võ sĩ ở vệ Kim Ngô chia thành 100 ti, mỗi ti 100 người. Số võ sĩ ở các vệ Cẩm Y có 20 ti. Tất cả đều chia làm 8 ban. Cũng năm đó đặt thêm các ti ở hai vệ Thần Vũ và Điện Tiền. Theo sách Cương mục, trước đây vệ Kim Ngô chỉ có 14 ti, vệ Cẩm y có 22 ti1 (Việt sử thông giám cương mục, Tập XII, Nxb Văn Sử Địa, H.1959, tr.45). Số quân trên đây cũng là Cấm quân, quân Túc vệ của triều đình Lê Thánh Tông, thuyên đóng ở kinh đô, bảo vệ Hoàng thành.

(http://i479.photobucket.com/albums/rr153/Giangtvx/Linh%20tinh/BCDV%20-%200082_zpsldpmaq3t.jpg)


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Tám, 2016, 12:41:56 am
        Tra cứu những tư liệu lịch sử hiện có, chúng tôi thấy: từ đời Hồng Đúc không thấy xuất hiện các quân hiệu của năm quân Thiết Đột nữa, chúng tôi cũng không thấy nhắc đến tên các quân Ngự Tiền Thiết Đột nữa mà lại nói đến sáu quân Điện Tiền. Như vậy, Lê Thánh Tông đã thực sự cải cách hệ thông tổ chức. Lúc này xuất hiện một loại quân hiệu mới là quân Điện Tiền, gồm sáu vệ, là quân túc trực thuộc điện vua. Có thể đây là hình thức tổ chức mới của sáu quân Ngụ Tiền Thiết Đột giai đoạn trước.

        Về biên chế, mỗi vệ quân chia thành các sở, các ti. Tháng 8-1467, Lê Thánh Tông cho đặt thêm số quân trong Kinh và ngoài các đạo, xét định lại chế độ quân ngũ: Quân trong Kinh có 66 ti, 51 vệ; quân ngoài các đạo có 26 vệ. Mỗi ti 100 người; mỗi vệ có 5-6 sở, mỗi sở 20 đội, mỗi đội 20 người. Như vậy, nếu tính riêng số quân trong Kinh lúc đó có 66 ti và 300 sở. Tổng số quân trong Kinh do triều đình trực tiếp quản lý có khoảng 12 vạn1 (Việt sử thông giám cương mục, Tập XI, Sđd, tr.27). Theo sách Hồng Đức thiên nam dư hạ tập thì quân trong Kinh có 66 ti, 97 sở, gồm khoảng 45 nghìn người. Số liệu này so với số liệu của sách Cương mục (Tập XI) có sự chênh lệch lớn. Có thể con số 12 vạn nói trên là tính cả 30 vệ quân Ngũ phủ (?).

         Cũng như trước, quân trong Kinh thời Lê Sơ gồm hai bộ phận chủ yếu, trong đó có Cấm vệ đóng ở vòng trong bảo vệ cấm thành. Giai đoạn đầu có quân Ngự Tiền và năm quân Thiết Đột. Quân Ngự Tiền thường được gọi là sáu quân Ngự Tiền và Ngự Tiền võ đội. Đó là Thị vệ nội phủ hoặc là Cấm vệ quân. Năm quân Thiết Đột gồm Trung, Tiền, Hậu, Tả và Hữu là lực lượng cơ động đóng trong thành hoặc ven đô, bảo vệ vòng ngoài. Thời Lê Thánh Tông tăng cường bảo vệ kinh thành, nhà vua cho đặt 100 ti lực sĩ túc trực ở điện Kim Quang; ngoài ra còn tổ chức 6 vệ quân Điện Tiền. Nếu theo biên chế, mỗi vệ có 5-6 sở, mỗi sở có 400 người, thì sáu quân Ngự Tiền có khoảng 12.800 người. Đến năm Hồng Đức thứ 2 (1471), 2 vệ Cẩm Y và Kim Ngô, 4 vệ Hiệu Lực, 4 vệ Thần Võ, 6 vệ Điện Tiền được gọi chung là quân Thủ vệ tam ty. Như vậy, khi chính quyền nhà nước chuyên chế càng phát triển thì lực lượng Cấm quân, trong đó có Cấm vệ quân càng được tăng cường cả về tổ chức và số lượng.

        Điều đặc biệt ở triều Lê Sơ khác với các triều đại Lý và Trần ở chỗ, Cấm quân thời Lý, Trần là loại quân chuyên nghiệp, thường xuyên túc trực bảo vệ kinh đô, còn Cấm quân thời Lê Sơ cũng theo quy chế "Ngụ binh ư nông", tức là họ được chia thành nhiều phiên, thay nhau ở lại túc trực hay trở về lao động sản xuất. Dưới triều vua Lê Thái Tổ, chỉ trừ quân Ngự Tiền võ đội là phải túc trực thường xuyên, còn lại từ sáu quân Ngự Tiền, năm quân Thiết Đột cho tới quân ở các đạo các phủ, trấn đều được chia phiên thay nhau về làm ruộng. Đến đời Lê Nhân Tông chỉ trừ một số ít quân Cấm vệ, chính sách chia phiên được áp dụng cho cả quân Ngự Tiền võ đội. Đặc biệt đến đời vua Lê Thánh Tông chính sách "Ngụ binh ư nông" mở rộng hơn cả cho các cấm vệ quân như Thần Vũ, Du Nỗ, Thần Tý, Vũ Lâm, v.v... Các quân nhân làm việc ở các sảnh, viện, cục và thợ bách tác cũng được chia phiên: một số ở lại canh phòng, luyện tập, sản xuất công nghệ hay chịu sai dịch, còn lại về nhà sản xuất tự túc theo định kỳ của từng giai đoạn. Như vậy, chính sách "Ngụ binh ư nông" thời Lê Sơ đã được áp dụng cho cả Cấm quân. Đó là một đặc điểm khác biệt trong Binh chế thời Lê Sơ so với các triều đại trước.

(http://i479.photobucket.com/albums/rr153/Giangtvx/Linh%20tinh/BCDV%20-%200085_zpsyorqjhxh.jpg)


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Tám, 2016, 12:43:46 am

(http://i479.photobucket.com/albums/rr153/Giangtvx/Linh%20tinh/BCDV%20-%200086_zpsxjxprrwu.jpg)

(http://i479.photobucket.com/albums/rr153/Giangtvx/Linh%20tinh/BCDV%20-%200087_zpsfev1k6et.jpg)
        Trên đây là tổ chức, biên chế Cấm quân các thời từ nhà Lý đến Lê Sơ. Do hạn chế về sử liệu, chúng tôi chưa thể phân định rõ chức năng riêng của từng hiệu quân, cũng chưa khẳng định được đích xác các hiệu quân đó thuộc bộ binh hay thuỷ binh. Mặc dù vậy qua một số sử liệu cùng với thực tiễn hoạt động quân sự, chúng tôi thấy quân thường trực của Đại Việt mà chủ yếu là Cấm quân đã từng bước được “chuyên hoá" thành hai lực lượng: quân bộ và quân thuỷ, trong quân bộ có bộ binh, ky binh và tượng binh. Sự chuyển hoá đó có từ thời Lý, thể hiện khá rõ nét từ thời Trần và thời Hồ. Đến thời Lê Sơ điều này đã được thể hiện rõ nét trên các lĩnh vực tổ chức, trang bị và huấn luyện. Trên thực tê, Nhà nước Đại Việt luôn chú ý phát triển cả hai lực lượng bộ binh và thuỷ binh, để kết hợp tốt cả hai phương thức chiến đấu trên bộ và thuỷ. Ở Đại Việt, Cấm quân luôn là lực lượng quân thường trực chủ yếu là tinh nhuệ nhất. Thời bình, Cấm quân bảo vệ kinh đô, thời chiến là chủ lực xuất chinh, đánh giặc. Đó là công cụ bạo lực chủ yếu, là chỗ dựa quan trọng nhất của chính quyền quân chủ, là trụ cột của lực lượng an ninh, quốc phòng và cũng là chủ lực quân trong các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm giai đoạn từ thế kỷ XI - XV.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Tám, 2016, 12:47:30 am
        
        2.Sương quân

        Trong cơ cấu tổ chức quân thường trực của Nhà nước Đại Việt có một bộ phận quân đội gọi là Sương quân hay Tứ sương quân. Sương quân là loại quân gì? Nó được tổ chức ra sao? Nó có chức năng nhiệm vụ gì và đóng vai trò như thế nào trong hệ thống tổ chức quân sự Đại Việt?

        Những sử sách xưa của ta như Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử tiêu án, Việt sử thông giám cương mục, v.v... có nói đến Sương quân, nhưng sự ghi chép đó quá ít và sơ lược. Các học giả, các sử gia của ta từ xưa đến nay không ai đề cập rõ ràng về loại quân này và cũng không nói rõ Sương quân là loại quân gì? Duy chỉ có giáo sư Hoàng Xuân Hãn trong sách Lý Thường Kiệt có nói: "Sương quân là quân của các đại tộc, tức là quân của các nhà quan có quyền thế nhưng không phải họ vua"1 (Hoàng Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt, Sđd, tr.371). Một số nhà nghiên cứu hiện đại cho rằng Sương quân là quân địa phương.

        Trở lại sử cũ, sách Toàn thư có chép: "Vua tức Lê Long Việt - TG) lên ngôi được ba ngày thì bị Long Đĩnh (tức Lê Ngọa Triều) giết, bầy tôi đều chạy trốn, duy có Điện Tiền quân Lý Công Uẩn ôm xác mà khóc. Long Đĩnh lên ngôi, truy đặt thuỵ cho vua là Trung Tông hoàng đế, cho Công Uẩn làm Tứ Sương quân phó chỉ huy sứ2 (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 1, Sđd, tr.186). Bản thân Lý Công Uẩn lúc đó chỉ huy quân Điện Tiền (Cấm quân), do hành động nói trên được vua Lê Ngọa Triều khen là người trung, cho làm Phó chỉ huy sứ quân Tứ Sương. Có thể thời bấy giờ chỉ huy quân Tứ Sương cũng do quan chỉ huy Cấm quân đảm nhiệm vì kinh thành Hoa Lư không lớn lắm và nhiệm vụ bảo vệ vòng ngoài của Sương quân cũng gần như bảo vệ cả thành Hoa Lư; chức vụ mà nhà vua ban cho Công Uẩn vì lòng trung thành khẳng định đó là một trọng chức của Cấm quân; và cũng từ chức vụ này mà Lý Công Uẩn được thăng lên làm Tả thân vệ Điện Tiền chỉ huy sứ, một chức võ quan tối cao và quan trọng nhất của ngạch Cấm quân. Đến thời Lý, tổ chức Sương quân mở rộng và độc lập tương đối với Cấm quân. Ngô Thì Sĩ nói: "Binh chế buổi đầu nhà Lý... lấy Thân quân làm trọng, cũng gọi là Cấm quân. Cấm vệ có 10 quân, mỗi quân có 200 người đều có tả hữu, phải túc trực thường xuyên. Lại có 9 quân, như sương quân để sai khiến mọi việc, mỗi tháng đến phiên một lần, gọi là đến canh, hết canh cho về nhà cày cấy hoặc làm công nghệ, tự cấp chứ không được cấp lương. Khi có chiến tranh thì gọi ra cho lệ thuộc vào các tướng. Nếu quân này không đủ thì chiếu sổ gọi dân ra tòng ngũ, xong việc lại cho về làm ruộng"1 (Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, Tập IV, Sđd, tr.5). Chu Khứ Phi - viên quan nhà Tống ở Quảng Đông - Quảng Tây có mô tả về quân đội nhà Lý như sau: "Nhà Lý có tám quân, mỗi quân có 200 người, thích ngang trên trán ba chữ "Thiên Tử quân". Ngoài ra còn chín quân khác như Hùng Lược, Dũng Kiện... để sai khiến. Binh cứ hằng tháng thay đổi một lần, lúc nhàn hạ thì cấy trồng để tự túc"2 (Chu Khứ Phi, Lĩnh ngoại đại đáp, Sđd, tr.76). Sách Toàn thư chép: “Nhà Lý cho sáu quân thay nhau về làm ruộng theo đúng chế độ xưa"3 (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 1, Sđd, tr.206). Binh chế triều Lý quy định chỉ có Cấm quân phải thường xuyên túc trực tại ngũ bảo vệ kinh thành, bảo vệ triều đình và được cấp lương, còn các quân khác như Sương quân và ngoại binh (quân các lộ) đều phải thực hiện "Ngụ binh ư nông", chia thành nhiều phiên thay nhau ở lại canh phòng và luyện tập hay về nhà cày cấy, sản xuất công nghệ, tự túc lương ăn.

        Như vậy, “chín quân" hay “sáu quân" nói trên rất có thể là Sương quân, một thứ quân cơ động của nhà Lý. Lúc thường họ làm nhiệm vụ canh gác và chịu các tạp dịch như xây dựng, vận tải, cắt cỏ... Khi có chiến tranh họ được điều động đánh giặc. Nếu theo biên chế mỗi quân có 200 người thì riêng số lượng Sương quân lúc đó ở các cửa thành đã có 1.800 người.

        Các tác giả Chu Khứ Phi và Ngô Thì Sĩ trong các tác phẩm nêu trên đều cho rằng: Binh chế đầu đời Lý phỏng theo phép Quân phủ vệ đời Đường và Cấm quân đời Tống. Binh lính hạng nhất gọi là thân quân - quân cấm vệ bảo vệ vua và triều đình ở kinh đô và chống lại các cuộc "nổi loạn” ở cung đình. Sương quân là lính hạng nhì, không có số nhất định. Đinh tráng đến tuổi đăng lính vẫn ở nhà cày cấy, mỗi tháng "đi phen" một kỳ ngắn hạn. Lúc chinh phạt thì thuộc các tướng, xong việc chinh chiến lại trở về với ruộng đồng.

        Quy chế quân sự thời Trần về cơ bản cũng giống như quy chế quân sự thời Lý. Ngoài Cấm quân là lính chuyên nghiệp phải thường xuyên túc trực ở kinh thành, còn có một lực lượng đáng kể quân thường trực thực hiện chế độ binh dịch và luân phiên tại ngũ hay về sản xuất tự túc. Trai tráng trong diện binh dịch được phân loại và tuyển chọn những người khoẻ mạnh đưa vào biên chế thành các đơn vị vệ, quân, đô và ngũ; hằng năm được luyện tập võ nghệ, sau đó chia phiên cho về làm ruộng, khi có việc mới gọi ra. Với phương thức này, nhà Trần có thể mở rộng quân thường trực, tăng cường khả năng huy động binh dịch tạo điều kiện để nhà nước hoàn thành tốt hơn sự nghiệp quân sự của mình. Như thế nếu Cấm quân bao gồm những người lấy việc binh làm nghiệp suốt đời thì Sương quân chỉ là nghĩa vụ binh dịch của những trai tráng đối với nhà nước.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Tám, 2016, 12:48:18 am

        Về nguyên tắc, lính Sương quân như là một thứ nghĩa vụ bắt buộc của mọi nam công dân từ 18 đến 60 tuổi đã được ghi tên trong Sổ quân. Họ có thể được gọi tòng quân, làm lính của triều đình hoặc của các địa phương tuỳ theo yêu cầu và tình trạng sức khoẻ. Sương quân không có số nhất định. Những đinh nam đến tuổi binh dịch phải đăng ký vào sổ và theo định kỳ được gọi nhập ngũ gọi là đi phen (phiên), với phương thức "tại gia vi nông, tại quân vi binh" ở nhà làm ruộng, ở quân đội làm lính) hoặc "tịnh vi nông, động vi binh" (khi hoà bình là nông dân, có chiến tranh là lính). Có thể coi Sương quân cũng là lính cơ động bảo vệ vòng ngoài kinh thành. Số quân canh gác ở các cửa thành Thăng Long cũng gọi là Sương quân. Trên cơ sở nền cũ do nhà Lý xây dựng, thành Thăng Long được nhà Trần xây đắp kiên cố, "phía Đông và Tây có hành lang giải vũ, bên tả là cung Thánh Từ, bên hữu là cung Quan Triều, phía ngoài gồm bốn cửa đều có bốn đội lính Sương quân thay nhau canh giữ"1 (Việt sử thông giám cương mục, Tập V, Nxb Văn Sử Địa, H.1958, tr.102). Có một thời kỳ người ta gọi lính Sương quân là Lao thành binh, vì họ là những người lính làm lao dịch như đắp thành, xây dựng các công trình, cắt cỏ nuôi ngựa, voi... Năm 1230, Nhà nước quy định: “Ai phải đi lao đày làm lao thành thì thích bốn chữ vào trán, làm việc phát cỏ rậm và cho lệ thuộc vào bốn đội Sương quân"2 (Việt sử thông giám cương mục, Tập V, Sđd, tr.9). Họ là những người dọn cỏ ở Phượng thành. Sương quân còn có nhiệm vụ canh giữ các kho (quân lương, quân nhu, khí giới); vì thế có sách đã phiên là: "Thương quân".

        Sử sách ghi chép về Sương quân quá ít ỏi. Chúng tôi chỉ được biết rằng, thời Trần cũng như thời Lý, trừ Cấm quân phải thường xuyên tại ngũ, còn Sương quân và quân địa phương đều phải thực hiện chính sách "Ngụ binh ư nông", thay nhau tại ngũ và về sản xuất. Khi tuyển chọn, Cấm quân là lính hạng nhất, Sương quân thuộc hạng hai.

        Lê Trắc ghi chép về việc điều động Sương quân thời Trần như sau: "Việc lấy quân không có số nhất định, chỉ chọn đinh nam nào khoẻ mạnh thì lấy. Cứ năm người làm một ngũ, 10 ngũ làm một đô, lại chọn hai người nhanh giỏi luyện tập võ nghệ. Khi có việc điều động thì gọi ra, không có việc thì trở về làm ruộng"1 (Lê Trắc, An Nam chí nguyên, Sđd, tr.75).

        Triều Hồ chuyển kinh đô về An Tôn (Vĩnh Lộc, Thanh Hoá) và chỉ tồn tại ngắn ngủi trong 7 năm. Với những cải cách quân sự của mình, Hồ Quý Ly đã chỉnh đốn quân đội, nhưng tổ chức Sương quân như thế nào và việc canh gác ở các cửa thành Tây Đô do quân nào đảm nhiệm, không thấy sử ghi cụ thể. Chỉ biết rằng quân thường trực nhà Hồ có số lượng đông và có tổ chức khá tốt.

        Dưới thời Lê Sơ, cơ cấu tổ chức quân đội có nhiều thay đổi so với trước. Sự chia phiên và luân phiên tại ngũ hay trở về sản xuất của chính sách "Ngụ binh ư nông" mở rộng đến cả Cấm quân. Sương quân đã ít thấy nhắc đến Sử cũ chỉ phản ánh hai sự kiện, đó là tháng 2 năm 1437, khi đến trường đua coi tập võ nghệ, Lê Thái Tông đã cho Vũ đội khách đội trưởng Lưu Bá Cung làm Tứ Sương chỉ huy sử và năm 1449 vua Lê Nhân Tông sai Tư khấu Lê Khắc Phục đem quân các cục bách tác và quân vệ Thiên Thai thuộc Tứ Sương cùng quân dân trấn Thái Nguyên đi đào sông Bình Lỗ từ Lãnh Kênh đến cầu Phù Lỗ dài 2.500 trượng, thông đến Bình Than1 (Đại Việt sử ký toàn thư Tập III , Nxb Khoa học xã hội, H.1967, tr.113, 115). Đến đời vua Lê Thánh Tông, do thực hiện cải cách quân sự dẫn đến thay đổi căn bản cả lượng và chất trong cơ cấu tổ chức quân đội. Thời kỳ này xuất hiện tổ chức quân Ngũ phủ và phát triển số quân trong Kinh. Có thể nói, đến giai đoạn này, Sương quân theo ý nghĩa như thời Lý - Trần không còn tồn tại nữa.

        Ở Trung Quốc, quân đội thời Tống có Cấm quân, Sương quân, Hương binh và Phiên binh. Trong sách Lịch đại chức quan diên cách sử, giáo sư Trần Mậu Đồng cho rằng: "Cấm quân là quân của triều đình, còn Sương quân và các quân khác là quân địa phương"2 (Trần Mậu Đồng, Lịch đại chức quan diên cách sử, Hoa Đông sư phạm đại học xuất bản, 1988). Trong mục Cấm quân và Sương quân đời Tống như thế nào? của sách Trung Quốc lịch sử tam bách đề do giáo sư Chu Cốc Thành chủ biên cũng đã xếp Sương quân vào loại quân địa phương3 (Trung Quốc lịch sử tam bách đề, Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã, 1988). Nếu như thế thì khác ở Trung Quốc, Sương quân Đại Việt lại thuộc biên chế quân của triều đình. Giống như Đại Việt, Sương quân nhà Tống cũng là lính hạng nhì sau Cấm quân; biên chế tổ chức như Cấm quân, nhưng chế độ cấp dưỡng và luyện tập lại kém hơn. Sương quân thời Lý - Trần thuộc diện "Ngụ binh ư nông", thay nhau về sản xuất tự túc, "khi có việc gọi ra, xong việc trở về làm ruộng"; còn Sương quân nhà Tống là lính chuyên nghiệp, xuất phát từ chế độ mộ binh, họ đều phải thích chữ quân hiệu làm dấu để tránh lẩn trốn khi ra trận. Đến thời Nam Tống, chính quyền trung ương suy yếu, Cấm quân không còn giữ được vị trí chủ yếu nữa, Sương quân xuất hiện nhiều và cùng với quân đồn trú ngoài mặt trận do các tướng thống lĩnh trở thành chủ lực quân. Giống ở Đại Việt, Sương quân nhà Tống cũng là lính hạng nhì sau Cấm quân; khác với Đại Việt họ là lính chuyên nghiệp đều xuất phát từ chế độ mộ binh. Họ phải thích chữ quân hiệu mình lên trán làm dấu để tránh lẩn trốn khi ra trận.

        Tóm lại, Sương quân không phải là quân của các đại tộc của những nhà quyền thế không thuộc họ vua, như ý kiến của giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã nêu ở trên. Sương quân cũng không phải là quân địa phương như trong tổ chức quân đội nhà Tống. Sương quân Đại Việt là một bộ phận quân thường trực khá đông đảo trực thuộc quản lý của triều đình, bao gồm những trai tráng tham gia nghĩa vụ binh dịch, nhập ngũ theo yêu cầu trong từng thời kỳ. Sương quân thực hiện chính sách “Ngụ binh ư nông”, chia phiên thay nhau tại ngũ canh phòng, luyện tập phục dịch hoặc trở về sản xuất tự túc lương ăn. Lực lượng quân sự bán chuyên nghiệp này đã đóng một vai trò quan trọng trong chức năng bảo vệ, lao động lúc hoà  bình cũng như chiến đấu và phục vụ chiến đấu có lúc chiến tranh.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Tám, 2016, 01:00:39 am
       
        3.Quân Ngũ phủ thời Lê Sơ

        Quân Ngũ phủ là một bộ phận quan trọng của quân đội trung ương dưới triều vua Lê Thánh Tông, là lực lượng quân thường trực của Nhà nước Lê Sơ đóng ở những địa bàn trọng yếu trong nước.

        Thời Lê Sơ, chế độ trung ương tập quyền càng đẩy mạnh khuynh hướng quân chủ chuyên chế. Trải qua nhiều lần chấn chỉnh và sửa đổi, đến thời Lê Thánh Tông (1460-1497), bộ máy nhà nước chuyên chế phát triển đến mức hoàn bị nhất với những thiết chế chặt chẽ và kéo theo đó là sự hoàn thiện của cơ chế tổ chức quân đội quốc gia và sự độc quyền về xây dựng, quản lý lực lượng vũ trang cả nước.

        Ngay sau khi đánh đuổi quân Minh, giành lại nền độc lập, Lê Thái Tổ chia nước thành 5 đạo, đó là Tây Đạo, Đông Đạo, Bắc Đạo, Nam Đạo và Hải Tây Đạo. Cùng với việc thiết lập cơ chế hành chính này, Nhà nước đặt vệ quân 5 đạo. Đứng đầu mỗi đạo là quan hành khiển, nắm giữ sổ sách và coi việc quân, dân. Mỗi đạo đặt một số vệ quân trực thuộc do các quan tổng quản chỉ huy. Bấy giờ, cả nước có 19 lộ, trấn. Một lộ trấn đặt một vệ quân. Tất cả trực thuộc 5 đạo.

        Lê Thánh Tông cải tổ bộ máy tổ chức hành chính. Nhà vua bãi bỏ thể chế 5 đạo, cả nước chia thành 12 đạo thừa tuyên năm (1490 đặt thêm thừa tuyên Quảng Nam), và tổ chức quân Ngũ phủ (năm phủ), đó là:

        - Phủ Trung Quân, gồm các vệ quân Thanh Hoá và Nghệ An;

        - Phủ Đông Quân, gồm các vệ quân An Sách và Nam Bang;

        - Phủ Tây Quân, gồm các vệ quân Quốc Oai và Hưng Hoá;

        - Phủ Nam Quân, gồm các vệ quân Thiên Trường và Thuận Hoá;

        - Phủ Bắc Quân, gồm các vệ quân Bắc Giang và Lạng Sơn.

        Riêng hai đạo thừa tuyên Thái Nguyên và Tuyên Quang thì đặt quân Phụng Trực. Mỗi phủ nói trên đều có sáu vệ quân và do một đô đốc chỉ huy; ví như Trịnh Công Lộ đã từng làm đô đốc phủ Đông quân. Tổng cộng quân Ngũ phủ gồm 30 vệ, 154 sở, 3.080 đội, với tổng số quân là 61.600 người. Với việc tổ chức quân Ngũ phủ (1466), nhà nước quân chủ thời Lê đã trực tiếp nắm giữ quân các đạo và biến phần lớn quân năm đạo trước đây thành quân thường trực của trung ương. Lực lượng quân đội do các tổng quản chỉ huy từ thời Lê Thái Tổ đã chuyển thành quân đội do các đô đốc ngũ phủ trông coi. Đó là một bước phát triển đáng kể trong cơ cấu tổ chức quân đội thời Lê Sơ.

        Tóm lại, từ thời Lê Sơ, nhất là từ đời vua Lê Thánh Tông, cùng với sự phát triển cao của chế độ quân chủ chuyên chế, các tổ chức quân đội của triều đình đã phát triển hoàn chỉnh. Với sự xuất hiện quân Ngũ phủ, quân đội thường trực do triều đình trực tiếp quản lý đã có mặt ở tất cả các đạo thừa tuyên trong cả nước. Đây là hình thức quân đội của nhà nước theo khu vực. Quân Ngũ phủ đảm nhận canh phòng trong những địa bàn trọng yếu. Do đó, phạm vi canh phòng của quân triều đình mở rộng hơn nhiều so với các triều đại trước. Quân Ngũ phủ cùng với Cấm quân trong Kinh trở thành chỗ dựa vững vàng của nhà nước quân chủ chuyên chế, đồng thời nó là một phương tiện quan trọng để chính quyền trung ương nắm và quản lý chặt chẽ các cơ sở. Bằng biện pháp tăng cường quyền lực này, Nhà nước Lê Sơ càng có khả năng khống chế các đạo, nâng cao hơn nữa sức mạnh về an ninh và quốc phòng trong cả nước.

(http://i479.photobucket.com/albums/rr153/Giangtvx/Linh%20tinh/BCDV%20-%200098_zpshgamxnq1.jpg)

(http://i479.photobucket.com/albums/rr153/Giangtvx/Linh%20tinh/BCDV%20-%200099_zpszl5d6agb.jpg)

Chỉ huy phủ: - Tả Hữu Đô đốc   
-   Phụ tá: Đô đốc Đồng tri và Đô đốc Thiêm Sự.
Chỉ huy phủ: - Tổng tri
-   Phụ tá: Đồng Tổng tri và Thiêm Tổng tri. 
Chỉ huy phủ: - Quản lãnh
-   Phụ tá: Phó quản lãnh, Chánh Võ úy và Phó Võ úy.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Tám, 2016, 01:02:42 am

        II. QUÂN ĐỊA PHƯƠNG (Quân các lộ, trấn, đạo)

        Quân địa phương là một tổ chức quân đội trong hệ thống ngạch quân Đại Việt, là số quân thường trực do các châu, lộ, trấn, đạo tổ chức, quản lý và chỉ huy theo quy chế chung của nhà nước.

        Sử chép, Đinh Tiên Hoàng chia nước làm 10 đạo, mỗi đạo 10 quân, mỗi quân 10 lữ, mỗi lữ 10 tốt, mỗi tốt 10 ngũ, mỗi ngũ 10 người. Lê Hoàn lên ngôi, đổi 10 đạo làm lộ, phủ, châu và vẫn giữ cơ cấu tổ chức quân sự 10 đạo quân như trước. Thời Đinh - Lê, mỗi đạo hành chính trở thành một đạo quân sự. Đó là cơ chế quân đội biên chế theo khung. Quân ở địa phương nào lệ thuộc vào đạo quân của địa phương ấy, khi có việc gọi ra, xong việc lại trở về làm ruộng, tự túc lương ăn.

        Sau khi lên ngôi lập triều Lý, Lý Công Uẩn chia nước thành 24 lộ, 2 trại; dưới các lộ hoặc phủ có các châu, huyện. Trong các lộ, châu của Đại Việt thời Lý đều có tổ chức quân sự do quan lại địa phương quản lý và chỉ huy. Quân đội ở các phủ, lộ, châu được chia làm hai hạng: Binh lính ở miền xuôi gọi là chính binh, binh lính miền thượng du và các châu xa gọi là phiên binh.

        Năm 1207, Lý Cao Tông xuống chiếu tuyển đinh nam, lấy những người khoẻ mạnh sung quân, đặt dưới quyền cai quản của quan các lộ để dẹp giặc1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 1, Sđd. tr.300). Sử xưa chép rải rác các hoạt động của quân địa phương thời Lý. Đó là sự kiện tháng 8 năm 1132, khi quân Chiêm Thành và Chân Lạp vào cướp phá ở Nghệ An, vua Lý Thần Tông sai Thái úy Dương Anh Nhĩ đem quân ở phủ Thanh Hoá và châu Nghệ An đánh giặc; năm 1151, vua Lý Thần Tông xuống chiếu cho Thống chế Lý Mông đem 5.000 quân Thanh Hoá và Nghệ An đưa Ung Minh Ta Diệp về nước Chiêm Thành làm vua; hoặc năm 1207, Lý Cao Tông ra lệnh tuyển nhân đinh khoẻ mạnh sung vào quân đội đặt dưới quyền cai quản của các lộ để dẹp loạn...1 (Việt sử thông giám cương mục, Tập IV, Sđd, tr.25, 40). 
        Sự xuất hiện của quân các châu trong cuộc kháng chiến chống Tống (1075-1077) chứng tỏ phần nào quy mô tổ chức và vai trò của họ trong cuộc chiến tranh giữ nước. Trong lần "Tiên phát chế nhân" (1075), Lý Thường Kiệt đã huy động đông đảo quân đội và dân binh ở các châu, lộ phía Bắc do các thủ lĩnh địa phương chỉ huy như Tông Đản, Thân Cảnh Phúc, Hoàng Kim Mãn, Lưu Kỷ, Vi Thủ An... Hai năm 1076-1077, quân các thủ lĩnh nói trên lại tham gia chiến đấu chống Tống ở ngay biên giới, chặn đánh và hạn chế bước tiến quân của giặc. Bấy giờ, theo Tông sử, tướng Lưu Kỷ có 5.000 quân đóng ở Quảng Nguyên (Cao Bằng). Dưới quyền thống lĩnh của Lưu Kỷ còn có nhiều tướng kiệt liệt như Nùng Chí Cao, các con Nùng Tồn Phúc, Hoàng Lục Phẫn... Phò mã Thân Cảnh Phúc lúc đó đóng ở động Giáp, khống chế hai cửa ải Quyết Lý và Giáp Khẩu; Hoàng Kim Mãn giữ Môn Châu; Vi Thủ An giữ châu Tô Mậu từ Tư Lăng đến Lạng Châu. Sử nhà Tống cũng cho biết, khi Quách Quỳ tiến tới huyện Quang Lang thì gặp quân Thân Cảnh Phúc đem voi chặn đường, quân Tống không thể tiến được Quỳ bèn sai quân cung thủ tiễn dùng nỏ bắn vào voi, lấy mã tấu chém vào vòi voi, voi sợ quay lại1 (Hoàng Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt, Sđd, tr.286). Sách Quế hải chí của Trung Quốc cũng chép: "Viên tri phủ Quang Lang là phò mã bị thua, bèn trốn vào trong bụi cỏ. Thấy quân Tống lẻ loi thì giết chết hoặc bắt về. Người ta cho đó là một vị thần"2 (Hoàng Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt, Sđd, tr.286). Những đạo quân của các châu động phía Bắc rất thông thạo địa hình, là nỗi e ngại lớn của địch. Tướng Tống là Triệu Tiết nói: "Lưu Kỷ ở Quảng Nguyên, Thân Cảnh Phúc ở động Giáp đều cầm cường binh”3 (Hoàng Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt, Sđd, tr.286). Những sự kiện trên không chỉ chứng minh sự đóng góp to lớn của quân các lộ trong kháng chiến mà còn cho ta biết một thực tế là lúc đó ở các châu, các lộ đều có lực lượng vũ trang của mình, ở miền núi do các thủ lĩnh vừa là quan lại địa phương vừa là quan triều đình (như phò mã Thân Cảnh Phúc) thống lĩnh.

        Như thế, triều Lý cho phép các lộ tuyển đinh tráng trong địa phương và cai quản binh trong lộ mình, đồng thời chịu sự chỉ huy chung của trung ương. Số quân giữa các lộ không giống nhau, nhiều ít tuỳ lộ lớn, bé và tuỳ nhu cầu phòng giữ trong địa hạt. Đây là lực lượng vũ trang canh phòng tác chiến chủ yếu trên địa phương, nhưng khi có chiến tranh lớn thì quân các lộ chịu sự điều động và chỉ huy của triều đình. Trong lực lượng quân thường trực của Nhà nước Đại Việt thời Lý thì "ngoại binh", gồm cả quân các lộ đều được chia phiên, thay nhau túc trực hay về nhà sản xuất tự túc. Theo Phan Huy Chú: “Thời Lý, trong thành có quân Túc vệ đội ngũ đông nghiêm, còn quân ở ngoài thì vẫn theo ý đời xưa, lúc vô sự thì làm ruộng, khi có động thì chiếu sổ gọi ra hết. Cho nên binh vẫn đủ mà không phải chi phí nhiều, càng thêm hăng hái chống giặc" (Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, Tập IV, Sđd, tr.3).


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Tám, 2016, 01:03:32 am

       Buổi đầu thời Trần, các khu vực hành chính vẫn giữ nguyên như thời Lý. Nhưng đến năm 1242, Trần Thái Tông đổi 24 lộ mà trước đây nhà Lý đặt làm 12 lộ, 2 trại; sau đó đặt thêm 5 phủ, 6 châu. Trong mỗi lộ chia thành một số phủ, châu hoặc huyện. Các lộ, phủ, châu đều có quân thường trực riêng của mình. Sử xưa của ta còn gọi đó lắ các đội tuyển phong" hay "các đô phong đoàn". Năm 1261, nhà Trần chính thức tổ chức "phong quân" ở các địa phương. Sách Toàn thư chép: "Tháng 2, chọn đinh các lộ người nào mạnh khoẻ sung làm binh quân triều đình), còn thì sung làm sắc dịch ở các cục, viện và đội tuyển phong ở lộ, phủ, huyện"2 (Đại Việt sử ký toàn thư, dịch theo bản khắc năm Chính Hoà thứ 18 (1697), Tập 11, Nxb Khoa học xã hội, H.1993, tr.32). Tháng 8- 1344, vua Trần Dụ Tông cho đặt 20 đô phong đoàn ở các lộ để trừ "giặc cướp". Tháng 2-1363, nhà vua lại xuống chiếu chọn dân đinh sung vào quân các lộ. Nếu theo cơ cấu tổ chức hành chính nói trên thì lực lượng quân các lộ, phủ thời Trần rất đông đảo. Tuy nhiên, số quân nhiều hay ít cũng tuỳ từng thời kỳ, tuỳ vị trí địa lý và điều kiện dân cư trong xứ. Như Phan Huy Chú nhận xét: "Binh các lộ buổi đầu đời Trần chỉ đặt ở mấy đạo Đông, Nam, Bắc; từ Hoan Ái (Nghệ An và Thanh Hoá) trở vào còn xem là đất xa, có việc mới gọi ra, ngày thường chưa đặt thành vệ. Từ thời Long Hưng, Đại Khánh (1293-1323) về sau, bờ cõi phía Nam khai thác rộng thêm, bấy giờ binh ở Thanh Nghệ và Thuận Hóa mới liệt vào quân hiệu”1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 11, Sđd, tr.32).

        Cũng như thời Lý, thời Trần thực hiện chính sách "nhu viễn"2 ("Nhu viễn" là chính sách mềm dẻo với các vùng xa. Cũng giống như chính sách "cơ mi", tức là ràng buộc lỏng lẻo đối với các châu, lộ ở vùng núi xa xôi. Mục đích để liên kết với cộng đồng các tộc người trên các vùng lãnh thổ, nhất là đối vớt các dân tộc ít người, dùng nhiều hình thức ràng buộc các quan lại, các thủ lĩnh địa phương, coi họ là quan lại trong hệ thống chính quyền và do triều đình quản lý. Trường hợp năm 1228, Trần Thủ Độ sai sứ đưa sắc thư gia phong Nguyễn Nộn làm Hoài đạo Hiếu vũ vương và đem công chúa Ngoạn Thiềm gả cho để ràng buộc Nộn là một ví dụ.

        Theo sách Toàn thư, tháng 2 năm 1266, thuỷ quân lộ Đông Hải đi tuần ở biên giới, đến núi Ô Lôi dò biết quân Nguyên đang chuẩn bị tiến công xâm lược đã báo về kinh thành để phòng bị (18.34). Điều đó chứng tỏ quân của lộ nào thì đảm nhận nhiệm vụ bảo vệ vùng lãnh thổ trên đất liền hay vùng biển của lộ mình, đồng thời nó có mối quan hệ chặt chẽ với triều đình. Tuy nhiên, Nhà nước có quyền điều động quân các lộ khi cần thiết. Lúc đó quân địa phương có thể đặt dưới sự chỉ huy chung của các vương hầu, quý tộc Trần và chịu sự điều hành của Quốc công tiết chế. Chẳng hạn, tháng 12 năm 1284, khi hơn nửa triệu quân Nguyên chuẩn bị tiến công xâm lược Đại Việt, Trần Quốc Tuấn ra lệnh điều động quân các lộ ở đông nam Thủng Long. Sử chép: "Hưng Đạo Vương vâng mệnh điều quân các lộ ở Hải Đông, Vân Trà, Ba Điểm; chọn những người dũng cảm làm tiên phong"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập 2, tr.51). Theo lệnh đó, quân các lộ đều phấn chấn tụ họp. Chỉ riêng Hưng Vũ vương Nghiền, Minh Hiến vương Uất, Hưng Nhượng vương Tảng và Hưng Trí vương Hiện đã chỉ huy 20 vạn quân các xứ Bàng Hà và Trà Hương thuộc Hải Phòng, Hải Dương), Na Sầm và Long Nhãn thuộc (Bắc Giang, Bắc Ninh), Yên Sinh (thuộc Quảng Ninh) đến cùng hội quân với Trần Quốc Tuấn ở Vạn Kiếp.

        Vào những thời điểm có chiến tranh lớn, vua Trần thường xuống chiếu cho phép các vương hầu, quý tộc thống lĩnh quân các lộ giúp vua đánh giặc. Sự kiện nói trên là một ví dụ. Sách Lịch triều hiên chương loại chí nói rằng: "Khi ấy quân lính do các thân vương đốc suất mới chỉ là ở mấy lộ Đông Nam thôi; còn từ Thanh Hoá trở vào vẫn chưa gọi đến. Cho nên vua (Trần Nhân Tông) có câu thơ: Cối kê cựu sự quân tu ký, Hoan Diễn do tồn thập vạn binh (thuyền cũ Cối Kê ngươi còn nhớ, Hoan Diễn hãy còn 10 vạn quân). Đủ biết binh thế thời bấy giờ rất thịnh"2 (Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, Tập IV. Sđd. tr.6). Cuộc chiến tranh nhân dân chống xâm lược Mông - Nguyên hồi thế kỷ XIII khẳng định vai trò to lớn của quân các lộ, phủ trong sự nghiệp đánh giặc giữ nước. Quân các châu, lộ phía Nam và phía Tây còn đảm nhận nhiệm vụ chống lại sự xâm phạm, quấy phá, cướp bóc của người Chiêm Thành, Ai Lao và Chân Lạp. Có khi họ độc lập chiến đấu, có khi họ được điều động chiến đấu cùng với quân chủ lực của trung ương. Năm 1335, Thượng hoàng Trần Minh Tông đã cử Đoàn Nhữ Hài làm đốc tướng chỉ huy quân Thần Vũ và quân Nghệ An đánh quân Ai Lao sang cướp. Thời cuối Trần, triều chính suy vi, Cấm quân bất lực trước sự quấy phá của thù trong giặc ngoài; vì thế Nhà nước đã nhờ cậy và huy động lực lượng "phong quân" các lộ. Tháng 8-1358, vua Dụ Tôn phải xuống chiếu cho An phủ sứ các lộ chỉ huy các đội Phong đoàn chống lại các cuộc nổi dậy chống chính quyền.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Tám, 2016, 07:09:29 pm

        Cũng như triều Lý, triều Trần thực hiện chính sách" "Ngụ binh ư nông" đối với quân địa phương. Sách Binh chế chí chép: “Nhà Trần theo phép nhà Lý, binh túc vệ được cấp bổng hàng năm..., còn binh các đạo thì được chia phiên về làm ruộng"1 (Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí. Tập IV, Sđd, tr.20).

        Triều Hồ thay triều Trần năm 1400, song hệ thống quân sự các lộ, trấn của nhà Hồ về cơ bản đã được Hồ Quý Ly cùng phe cánh xây dựng từ những năm cuối triều Trần. Năm 1397, Hồ Quý Ly cho đổi tên các lộ, phủ thành các trấn. Trước khi dời kinh đô về An Tôn (Thanh Hoá), Hồ Quý Ly đổi lộ Thanh Hoá thành trấn Thanh Đô, lộ Quốc Oai thành trấn Quốc Oai, lộ Đà Giang thành trấn Thiên Hưng, lộ Nghệ An thành trấn Lâm An... Ở các lộ đặt chức An phủ sứ chánh và phó, ở các trấn đặt các chức Trấn phủ chánh và phó. Bấy giờ các vùng Thanh Hoá, Nghệ An, Hoá Châu, Thuận Châu, Lâm Bình đều đặt quân hiệu. Đến khi giành được vương quyền, Hồ Quý Ly vẫn duy trì các tổ chức quân sự địa phương. Cùng với việc tăng cường quân đội trung ương, nhà Hồ cũng chú trọng tăng quân số của các lộ, trấn. Vì thế quân đội triều Hồ phát triển mạnh cả về số lượng và tổ chức.

        Sau khi đánh đuổi giặc Minh, giải phóng đất nước, Lê Lợi tiến hành chia lại các đơn vị hành chính địa phương. Từ tháng 4-1428, cả nước chia thành 5 đạo. Đồng thời với việc phân chia hành chính, Lê Thái Tổ thiết lập các vệ quân 5 đạo. Các vệ đó thành lập dựa trên cơ sở các lộ, trấn; mỗi lộ, trấn đặt một số vệ quân trực thuộc đạo mình. Đạo lớn đặt 5 vệ, đạo nhỏ đặt 3 vệ, tổng cộng 19 vệ; cụ thể:

(http://i479.photobucket.com/albums/rr153/Giangtvx/Linh%20tinh/BCDV%20-%200107_zpsohd3bova.jpg)

        Nhà Lê căn cứ vào các khu vực hành chính mà phân chia thành 5 đạo quân   và các vệ quân trực thuộc. Cơ chế vệ quân 5 đạo trên đây được duy trì từ đời Lê Thái Tổ đến các đời vua Lê Thái Tông và Nhân Tông. Sang đời Lê Thánh Tông, cả nước chia thành 13 đạo thừa tuyên và có các phủ, châu, huyện trực thuộc. Về mặt quân sự, phần lớn trong các đạo đều đặt đô ti. Ở những thừa tuyên xa kinh thành tuỳ theo điều kiện và yêu cầu việc bố phòng mà lập ra các vệ trực thuộc với số lượng khác nhau. Trong số 13 thừa tuyên, chỉ có 9 thừa tuyên tổ chức các vệ trực thuộc đô ti, đó là: Thanh Hoá, Nghệ An, Thuận Hoá, An Bang, Tuyên Quang, Hưng Hoá, Thái Nguyên, Lạng Sơn và Quảng Nam. Các đô ti gồm nhiều vệ, mỗi vệ có 5, 6 cơ sở. Tổng cộng 9 đô ti trong các đạo thừa tuyên có các vệ quân trực thuộc nói trên là 27 vệ, 157 sở. Nếu theo biên chế năm Quang Thuận thứ 8 (1467) mỗi vệ 5-6 sở, mỗi sở gồm 20 đội, mỗi đội 20 người thì số quân trong 9 đô ti là: 62.800 người. Đó là chưa kể quân của các đạo thừa tuyên khác không tổ chức đô ti, trực thuộc các phủ quân, như các đạo Thiên Trường, Bắc Giang, Nam Sách và Quốc Oai (Bảng 8).

(http://i479.photobucket.com/albums/rr153/Giangtvx/Linh%20tinh/BCDV%20-%200108_zpsc2xgo0bl.jpg)


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Tám, 2016, 07:18:45 pm
        
        Từ năm 1490, triều đình Lê Sơ còn đặt thêm các sở Thủ ngữ kinh lược sứ ở các vùng được gọi là "biên viễn" quan trọng như Nghệ An, Thuận Hoá, An Bang, Tuyên Quang, Hưng Hoá, Thái Nguyên, Lạng Sơn và Quảng Nam... Cả nước có 8 Thủ ngữ, gồm 87 sở. Các Thủ ngữ lệ thuộc đô ti của các đạo thừa tuyên. Số lượng sở phụ thuộc các Thủ ngữ nhiều ít không đều. Biên chế tổ chức các sở như thế nào không thể xét rõ; nhưng nếu theo biên chế như các loại quân khác thì tổng cộng số quân mới đặt là 34.800 người (xem Bảng 8 và 10).

        Như vậy, quân đội của các đạo thừa tuyên được tổ chức theo các đô ti, mỗi đô ti gồm 2 bộ phận: các Vệ quân trực thuộc và các Thủ ngữ Kinh lược sứ. Dưới các Vệ quân và Thủ ngữ là một số Sở hợp thành (xem Bảng 9). Nếu theo biên chế trên thì số quân địa phương dưới triều vua Lê Thánh Tông lên tới 97.600 người, chưa kể 4 đạo thừa tuyên không có các Vệ trực thuộc. Đó quả là một con số đáng kể trong hệ thống tổ chức quân sự của Nhà nước Lê Sơ. Theo chính sách "Ngụ binh ư nông" thì quân đội chia thành 2-3 hoặc 5 phiên thay nhau về sản xuất; do đó số lượng quân tại ngũ cũng giảm đi rất nhiều.

        Tóm lại, quá trình phát triển hoàn thiện của quân các lộ trấn, đạo phụ thuộc vào quá trình phát triển hoàn thiện của nhà nước phong kiên và cơ cấu hành chính, phụ thuộc vào điều kiện dân cư và vị trí địa lý quân sự các khu vực. Do đó, về tổ chức biên chế cùng với số lượng của nó cũng tuỳ thuộc yêu cầu của từng địa phương, trong từng giai đoạn lịch sử. Quân các lộ, trấn, đạo dưới các triều Lý, Trần, Hồ và Lê Sơ là tổ chức quân sự địa phương nằm trong hệ thống lực lượng vũ trang quốc gia Đại Việt. Đó là lực lượng quân đội chiến đấu tại chỗ, chủ yếu ngay tại địa phương, song khi cần nhà nước có thể điều động như những lực lượng cơ động của triều đình. Quân địa phương có số lượng đông đảo nhất trong hệ thống tổ chức các thứ quân. Họ vừa tham gia sản xuất vừa canh phòng và luyện tập theo chính sách “Ngụ binh ư nông” trong các triều đại. Tổ chức quân sự này đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ an ninh địa phương cũng như trong sự nghiệp chung đánh giặc, giữ nước.

(http://i479.photobucket.com/albums/rr153/Giangtvx/Linh%20tinh/BCDV%20-%200110_zpsxeldnm1e.jpg)

(http://i479.photobucket.com/albums/rr153/Giangtvx/Linh%20tinh/BCDV%20-%200111_zpsih8sy6ug.jpg)


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Tám, 2016, 07:23:53 pm
          
(http://i479.photobucket.com/albums/rr153/Giangtvx/Linh%20tinh/BCDV%20-%200112_zpsri4bpvll.jpg)

(http://i479.photobucket.com/albums/rr153/Giangtvx/Linh%20tinh/BCDV%20-%200113_zpswtpbvzzf.jpg)

(http://i479.photobucket.com/albums/rr153/Giangtvx/Linh%20tinh/BCDV%20-%200114_zpsvxahjxwz.jpg)



Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Tám, 2016, 07:29:54 pm

        III. QUÂN VƯƠNG HẦU

        Từ thế kỷ XIV về trước trong cơ cấu tổ chức các thứ quân của Nhà nước Đại Việt có một bộ phận quân đội quan trọng, đó là “quân vương hầu”. Vậy quân vương hầu là gì? Nó được tổ chức như thế nào và vai trò lịch sử của nó ra sao?

        Các ý kiến về vấn đề trên đều tập trung vào một giai đoạn lịch sử đó là thời Trần; tuy nhiên vẫn chưa thống nhất. Một số nhà nghiên cứu không công nhận có quân vương hầu. Có người cho rằng, quân vương hầu là quân địa phương. Có tác giả khẳng định vương hầu tông thất không có quyền xây dựng quân đội riêng nhưng họ thường nuôi một số gia nô, gia đồng và khi có chiến tranh họ được mộ binh ở địa phương - trong và ngoài thái ấp của mình - đồng thời chỉ huy đạo binh đó đánh giặc1 (Theo sách Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý - Trần, Nxb Khoa học xã hội, H.1970, tr.111). Ngược lại, cũng có những nhà nghiên cứu khẳng định, dưới triều Trần, ngoài quân Túc vệ ở kinh đô và quân các lộ do nhà nước tổ chức, quý tộc tôn thất họ Trần còn được phép thành lập những đội quân riêng. Thành phần chủ yếu của lực lượng này là nông nô, nô tỳ2 (Theo Hà Văn Tấn - Phạm Thị Tâm, Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên - Mông thế kỷ XIII, Sđd, tr.34). Tuy nhiên, về nguồn gốc, về hình thức tổ chức, chức năng và hoạt động quân sự của quân vương hầu ra sao vẫn chưa có tác giả nào đề cập cụ thể.

        Vương hầu là tầng lớp đại quý tộc tông thất (chủ yếu thuộc họ vua) được phong tước vương và tước hầu. Quân vương hầu là lực lượng quân sự của các quý tộc thân thuộc nhà vua. Trên thực tế, đó là một hiện tượng lịch sử, xuất hiện và tồn tại khá lâu trong xã hội Đại Việt trước thế kỷ XIV.

        Có thể coi quân vương hầu xuất hiện từ thời Tiền Lê. Binh chế thời Tiền Lê cho phép các vương hầu có quân riêng. Thời đó tổ chức quân sự này gọi là "quân vương - phủ”. Trong các phủ đệ của một số thân vương quý tộc có một bộ phận "gia khách" hay "gia binh" mang tính chất "thân binh". Các vương hay đại thần trong triều khi được phái đi trấn trị ở các vùng thường mang theo số quân này đến các địa phương và phát triển thành nòng cốt của lực lượng quân sự địa phương.

        Theo sách Đại Việt sử lược, Lê Đại Hành đã phân 11 người con của mình, mỗi người trấn trị một phương. Họ có phủ đệ và binh lính, vì thế đã xảy ra sự kiện khi nhà vua qua đời và Long Việt lên ngôi (Lê Trung Tông) thì các vương như Đông Thành Vương, Trung Quốc Vương và Khai Minh Vương đưa quân về tranh ngôi, sinh ra nội chiến trong 9 tháng1 (Đại Việt sử lược, bản dịch của Nguyễn Gia Tường, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1993, tr.104). Các con của Lê Đại Hành được phân chia trấn trị ở các địa phương như sau:

        1. Đông Thành Vương Long Tích (không rõ chỗ ở).

        2. Nam Phong Vương Long Việt, con thứ 3 (không rõ chỗ ở).

        3. Ngự Man Vương Long Đĩnh, con thứ 4, coi giừ Phong Châu (Sơn Tây, Phú Thọ).

        4. Khai Minh Vương Long Đình, con thứ 5, coi Đằng Châu (Kim Động, Hải Dương).

        5. Ngự Bắc Vương Long Cân, con thứ 6 coi Phù Lan (Văn Lân, Mỹ Thọ, Hưng Yên).

        6. Đinh Phiên Vương Long Tùng, con thứ 7, coi giữ Ngũ Huyện Giang (Thanh Oai, Hà Tây).

        7. Tư Doanh Thành Phóng Vương Long Tương, coi thành Đỗ Động (Thanh Oai, Hà Tây).

        8. Trung Quốc Vương Long Kích, coi Mật Liên (Tiên Lữ, Hưng Yên).

        9. Man Quốc Vương Long May, con thứ 10, coi Vũ Long (Thanh Hoá).

        10. Hành Quân Vương Long Đề, con thứ 11, coi giữ Cổ Lãm (Cát Lãm, Quế Dương, Tiên Sơn, Bắc Ninh).

        11. Phù Đới Vương Long Nghĩa coi Phù Đới (Vinh Bảo, Hải Phòng).

        Đội ngũ quý tộc thời Lý mà nòng cốt là bộ phận quý tộc tông thất, trong đó có các hoàng tử, thân vương được phong chức tước cao và được nhà vua giao cho nhiều trọng trách như phong chức Đại nguyên soái cầm quân đánh giặc lưu giữ kinh sư bảo vệ kinh thành, trao quyền trấn trị và thu thuế ở các địa phương, v.v... Cũng như thời Tiền Lê, vua Lý đã đưa con cháu mình đi trấn trị một số lộ, trấn để bảo đảm sự trung thành về chính trị của địa phương đối với triều đình. Quyền tổ chức lực lượng quân sự riêng của , các vương hầu tông thất thời Lý có hay không chúng tôi không thấy ghi trong sử sách. Tuy nhiên, trong thực tế các vương (con vua Lý) có lực lượng "phủ binh" riêng gọi là “quân vương phủ”. Sự biến cung đình năm 1028 cho biết điều này. Lúc đó vua Lý Thái Tổ mất, Thái tử Phật Mã (tức Lý Thái Tông) chưa lên ngôi, thì ba vương: Đông Chinh Vương, Dực Thánh Vương và Vũ Đức Vương đã đem "phủ binh" của mình vào phục sẵn trong cấm thành để giết Thái tử nhằm tranh ngôi báu. Đông Chinh Vương phục binh ở trong Long Thành, còn Dực Thánh Vương và Vũ Đức Vương ở ngoài cửa Quảng Phúc đợi Thái tử đến để đánh úp. Nhưng việc không thành vì Lê Phụng Hiểu và Lý Nhân Nghĩa đã chỉ huy quân cấm vệ đánh tan. Bấy giờ Khai Quốc Vương trấn trị ở phủ Trường Yên (Ninh Bình) cũng có một đội quân riêng và tỏ ý không chịu mệnh Thái tử. Vì thế sau khi lên ngôi, Lý Thái Tông phải thân cầm quân đến Trường Yên vừa dùng áp lực vừa dùng ân tình để chiêu dụ Khai Quốc Vương.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Tám, 2016, 07:31:40 pm

        Trong cuộc kháng chiến chống Tống năm 1077 có đội quân của hai hoàng tử Hoằng Chân và Chiêu Văn tham gia đánh trận Khao Túc trên sông Phú Lương (sông Cầu). Khi đó Hoằng Chân chỉ huy một đạo thuỷ quân mà lực lượng nòng cốt là 500 quân "nuôi riêng" của ông. Loại quân này được tổ chức, huấn luyện và trang bị theo phương thức riêng của chủ tướng họ. Khi có chiến tranh Nhà nước mới huy động để huấn luyện và chiến đấu dưới một sự chỉ huy thống nhất. Tôn Thăng, một người Tống, có viết trong sách Đàm phố rằng: "Hoằng Chân có nuôi riêng 500 quân đặc biệt, cấm mọi điều thị dục, dạy cho trận pháp. Đội quân ấy rất giỏi, hiệu lệnh rất nghiêm. Người nào cũng cầm một cái kim bài để làm hiệu riêng"1 (Hoàng Xuân Hãn. Lý Thường Kiệt. Sđd, tr.291). Như vậy quân vương phủ thời Lý thực chất cũng là một loại “thân binh", về hình thức có điểm giống như quân của nhà vua; điểm khác nhau ở chỗ, vua là đại diện của quốc gia, quân của vua là quân của triều đình, của nhà nước, còn quân của vương hầu là quân riêng của cá nhân, có nhiệm vụ bảo vệ phủ đệ và vùng ảnh hưởng của họ.

        Đến thế kỷ XIII, các vương hầu tông thất triều Trần đều được cấp thái ấp và có phủ đệ riêng. Nhà nước thừa nhận quyền trấn trị của các vương hầu quý tộc ở các địa phương trọng yếu, như1 (Theo tư liệu điền dã của Viện Lịch sử quân sự Việt Nam và tài liệu khảo sát của giáo sư Phan Đại Doãn (năm 1988), tài liệu của giáo sư, TS. Trương Hữu Quýnh và phó giáo sư, TS. Nguyễn Danh Phiệt):

        - Yên Sinh vương Trần Liễu ở Đông Triều, Yên Hưng (Quảng Ninh).

        - Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn ở Vạn Kiếp (Chí Linh, Hải Dương).

        - Trần Thủ Độ ở Quắc Hương (Vụ Bản, Bình Lục, Hà Nam).

        - Trần Quốc Chẩn ở Chí Linh (Hải Dương).

        - Trần Nhật Hạo ở Dương Xá (Hưng Hà, Thái Bình).

        - Trần Quang Khải ở Cao Đài (Bình Lục, Hà Nam).

        - Trần Quốc Tảng ở Tỉnh Bang (Vĩnh Bảo, Hải Phòng).

        - Trần Khánh Dư ở Dưỡng Hoà (Duy Tiên, Hà Nam).

        - Trần Quốc Khang ở Diễn Châu (Nghệ An).

        - Trần Nhật Duật ở Văn Rinh (Quảng Xương, Thanh Hoá - Trần Khát Chân ở Mai Động (Thanh Trì, Hà Nội).

        - Trần Quốc Triều ở Gia Lâm (Hà Nội).

        - Trưởng công chúa ở Bạch Hạc (Việt Trì, Phú Thọ).

        Hiện tượng trên là sản phẩm của chế độ kinh tế - chính trị đương thời, là kết quả của hình thức ban cấp thái ấp thuở đó. Tuy thái ấp và phủ đệ của các vương hầu tông thất không lớn lắm, chỉ độ vài ba làng, nhưng ở đó cũng khá đông dân, khoảng 100-200 hộ, có nhiều ruộng đất công và nằm ở các vị trí quan trọng. Năm 1266, vua xuống chiếu cho phép các vương hầu, phò mã, công chúa được chiêu mộ dân nghèo lưu tán khai khẩn đất hoang lập điền trang riêng. Vì thế, đời Trần đã xuất hiện nhiều điền trang lớn của quý tộc, tông thất trong một số vùng. Tại các vùng mình trấn trị, tại các điền trang và thái ấp, vương hầu quý tộc thực sự làm chủ, họ được phép khai khẩn đất hoang mở mang trang trại, bắt dân lao dịch, thu thuế và đặc biệt họ được quyền tổ chức lực lượng vũ trang riêng. Phan Huy Chú viết rằng: "Những vương hầu triều Trần được mở phủ đệ đều có trại ở hương, khi có lễ chầu thì tới kinh, xong việc lại về phủ đệ”1 (Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, Tập II, Nxb Sử học, H.1961, tr.76).

        Dưới thời Trần, bên cạnh điền trang là sở hữu riêng của vương hầu quý tộc, nhà nước còn có chế độ ban cấp thái ấp cho họ2 (- Điền trang: theo sách Từ Hải (Trung Quốc), "điền trang" là trang viên, được thành lập trên diện tích đất chiếm hữu của hoàng thất, quý tộc, quan liêu và địa chủ. Trang viên thuộc hoàng thất gọi là hoàng trang, hữu uyển, cung trang; thuộc quý tộc, quan liêu, địa chủ gọi là tư trang, hữu nghĩa trang, biệt thự hay biệt trang (Từ Hải), Thượng Hải từ thư xuất bản xã, 1989, tr.1884) - Thái ấp: Từ Hải còn gọi là "thái địa", "thực ấp" là vùng đất các bậc khanh đại phu được phong. Quý tộc được ăn (thực) tô thuế của ấp được phong). Xét về mặt sản xuất nông nghiệp, thái ấp không góp phần tăng diện tích canh tác và về mặt sở hữu vẫn là ruộng đất công. Người được ban cấp chỉ được quyền hưởng tô thuế và huy động nhân lực trong phạm vi thái ấp giới hạn trong một đời. Sau khi người được ban cấp qua đời ruộng đất thuộc quyền sở hữu của nhà nước trực tiếp quản lý hoặc trả lại cho hương ấp quản lý. Tại đây, gia binh của vương hầu làm nhiệm vụ sản xuất và phục dịch lúc thời bình, khi có chiến tranh là lực lượng quân sự của các vương hầu tham gia chiến đấu. Dường như khi phong thái ấp, Nhà nước phong kiến quý tộc Trần có ý thức giao cho vương hầu tông thất nhiệm vụ trấn giữ ở những vùng quan yếu của đất nước. Qua sự phân bổ các thái ấp, ta thấy nổi lên các vùng chiến lược trọng yếu: vùng biên cương phía bắc (Chí Linh, Đông Triều - Quảng Ninh); vùng cửa ngõ đông bắc (Hải Phòng, Thái Bình); vùng phiên dậu phía nam (Thanh Hoá, Nghệ An) và vùng bản bộ, phụ cận của quê hương nhà Trần (Hà - Nam - Ninh). Điều này hoàn toàn khác hẳn với chế độ phân phong của nhà nước phong kiến phân quyền. Rất tiếc cho đến nay chúng ta chưa có đủ tài liệu để khôi phục diện mạo đầy đủ của thái ấp thời Trần về mọi phương diện.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Tám, 2016, 07:32:27 pm

        Trong thời kỳ đất nước có chiến tranh, thường xuất hiện những đạo quân của các vương hầu quý tộc nhà Trần. Sử xưa gọi đó là các đạo quân "gia nô" hay "vương hầu gia đồng". Theo sách Toàn thư, trước cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên lần thứ hai (1285), Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toàn tuy còn ít tuổi cũng đã tổ chức được một đạo quân gia nô và thân thuộc đông đến hơn nghìn người và dựng cờ đề sáu chữ "Phá cường địch, báo hoàng ân”. Đó là một đội quân trẻ tuổi, đầy nhiệt huyết, háo hức chờ thời cơ đánh giặc, lập công. Sách An nam chí lược chép: Thời Trần có ba đô vương hầu gia đồng là Sơn Lao đô, Dược Đồng đô và Toàn Hầu đô. Các học giả Ngô Sĩ Liên, Phan Huy Chú đều chép về việc triều đình nhà Trần thường hạ lệnh cho các vương hầu, tông thất mộ binh và thống lĩnh binh của mình giúp vua đánh giặc. Thậm chí Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật còn thu nạp cả những binh sĩ người Tống quy phục, lập thành đội quân Thái Đát nổi tiếng chiến đấu giỏi, đã lập nhiều chiến công trong kháng chiến chống quân Nguyên.

        Những dấu tích xưa còn lại ở những vùng có thái ấp, điền trang của vương hầu quý tộc cho biết phần nào về quy mô các phủ đệ và một số hình thức tổ chức quân sự ở đó. Quắc Hương, tức làng Thành Thị (Bình Lục, Nam Hà) là thái ấp của Trần Thủ Độ. Nhà Trần ban cho Trần Thủ Độ vùng đất này làm thái ấp với mục đích ban đầu là dẹp loạn. Vị trí địa lý của Quắc Hương nằm ở ngã ba sông Châu, sông Sắt, trấn giữ và bảo vệ đường thuỷ phía bắc phủ Thiên Trường. Trong bối cảnh chung của vùng trũng nước, bố trí một thái ấp ở đây là khiến vị trí này trở thành một cứ điểm quân sự. Trần Thủ Độ vừa có trách nhiệm giữ vững an ninh ở khu vực vốn đã từng là "điểm nóng" chống lại triều Trần, vừa phải xây dựng nơi đây thành một trung tâm bảo vệ Tức Mặc (Thiên Trường). Tại vùng Quắc Hương hiện còn dấu vết của khu Cột Cờ, nhà Giảng Võ, gò Con Quy, gò Rẻ Quạt, chân thành nội, chân thành ngoại... Khu Cột Cờ là một khu đất cao và rộng khoảng 3 sào. Ở đây ngày trước còn tồn tại tục kéo cờ; hằng năm vào ngày 12-8 âm lịch, các thôn đem cờ của mình để treo rồi tổ chức trò đất vật đánh gậy, biểu dương lực lượng, các trai tráng đua tài võ nghệ. Tương truyền khi Trần Thủ Độ về lập phủ đệ ở Quắc Hương, ông cho quân lính khiêng một con rùa đá lên gò đất nơi ông thường dùng để làm bãi tập binh, đặt rùa quay về hướng Bắc. Từ đó có tên là gò Con Quy. Khu Rẻ Quạt gồm năm gò toả ra theo hình rẻ quạt. Dân địa phương cho đây là các điểm đóng quân. Tại làng Thành Thị còn có di tích nền nhà Cương; đó là khu nhà nuôi ngựa và để yên cương của quân lính Trần Thủ Độ. Những di tích cùng với những địa danh ở làng Thành Thị mà ngày xưa là Quắc Hương chứng tỏ nơi phủ đệ của Trần Thủ Độ đã có một lực lượng quân sự đáng kể.

        Ở Dưỡng Hoà (Duy Tiên, Nam Hà) tương truyền là thái ấp của Trần Khánh Dư, có một hệ thống hào lớn bao quanh làng, rộng khoảng 400 mẫu. Bên trong thái ấp còn có nhiều dấu vết của Dinh Phố, Dinh Tư, Trại Ngựa, Chợ Ngọc, Trại Gang, Trại Lính, Trại Voi... Khu thái ấp này có vị trí quan trọng, nằm ở phía nam thành Thăng Long, gần đường Thiên Lý.

        Thái ấp của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn tại Vạn Kiếp ở vào một địa bàn quân sự hiểm yếu của miền Đông Bắc của đất nước. Nhà Trần đặc biệt chú trọng canh giữ và bảo vệ vùng đất này nên đã cử một trong những tướng giỏi nhất của vương triều về đây trấn giữ. Vạn Kiếp với tâm điểm là thung lũng Kiếp Bạc, có sông sâu, núi cao hùng vĩ bao quanh, tiện lợi cả đường thuỷ và đường bộ. Vạn Kiếp đóng vai trò to lớn trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên lần thứ hai; 20 vạn quân của các vương đã tập hợp ở đây vào tháng Giêng năm 1285 để chuẩn bị cho cuộc phản công địch vào tháng Sáu năm đó.

        Thái ấp của Chiêu Minh Đại vương Trần Quang Khải ở Cao Đài (Bình Lục, Hà Nam) nằm trên ngã ba sông Vị Hoàng và Ninh Giang, cận kề với kinh đô thứ hai của nhà Trần là Thiên Trường. Trong kháng chiến chống Mông - Nguyên năm 1285, thái ấp này là một trong những phòng tuyến bảo vệ vùng phía Nam của nước Đại Việt, bảo vệ cung Thượng hoàng, bảo vệ cuộc rút lui chiến lược của hoàng tộc từ kinh đô Thăng Long về Thiên Trường. Thái ấp của Trần Quang Khải ở trên gò đất cao, tường đất bao quanh, có hào sâu, phía trong là phủ đệ và khu nhà ở. Những di tích: Trại lính, Lò rèn, Xưởng dệt, các đồn canh, trạm gác, v.v... là những chứng tích về hoạt động quân sự trong thái ấp này.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Tám, 2016, 07:33:27 pm

        Như vậy, trong sử cũ không nói rõ về quy chế của tổ chức quân sự của vương hầu quý tộc, nhưng qua các dấu tích còn lại, chúng ta cũng có thể hiểu rằng, dưới triều Trần, ở một chừng mực nhất định các vương hầu quý tộc được phép tổ chức lực lượng quân sự riêng. Việc mộ quân, luyện quân và điều động quân vương hầu xuất phát từ yêu cầu giữ gìn an ninh trong khu vực, từ yêu cầu chống ngoại xâm, bảo vệ quyền thống trị của dòng họ và theo lệnh điều động của nhà nước. Thời bình, lực lượng quân sự này không đáng kể, chủ yếu họ là một số gia nô, nô tỳ của các quý tộc vừa sản xuất vừa phục dịch, vừa luyện tập quân sự và được vũ trang ở mức độ nhất định để canh phòng trang trại, thái ấp và phủ đệ. Khi đất nước có chiến tranh, các vương hầu quý tộc được quyền “mộ binh và thống lĩnh binh của mình". Lúc này, quân vương hầu không chỉ có gia nô, thân thuộc mà có cả những trai tráng ở các làng xã lân cận, được tổ chức thành các đạo quân cứu nước, đặt dưới quyền chỉ huy thống nhất của triều đình. Các đạo quân cứu nước này có thể đông đến vài vạn người, như cuối năm 1284, các vương - con của Trần Quốc Tuấn đã điều động được 20 vạn quân, trong đó có một phần đáng kể các lực lượng nông nô, nô tỳ trong các điền trang thái ấp. Năm Trùng Hưng thứ nhất (1285) tình hình biên giới càng khó khăn, nhà vua truyền cho các tông thất, vương hầu mộ thêm dũng sĩ binh tráng làm quân gia thuộc. Vào thời điểm đó, quân triều đình, quân các lộ và quân vương hầu được tăng cường nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng.

        Quý tộc Trần có thái ấp, có điền trang, có phủ đệ và đội quân riêng. Điều đó chứng tỏ sự tồn tại một mức độ nhất định yếu tố phân tán trong xã hội thời Trần. Tuy nhiên, yếu tố này luôn bị hạn chế bởi tính chất xã hội cùng với những chính sách ràng buộc của nhà nước tập quyền. Về mặt tổ chức cũng như chức năng của quân vương hầu triều Trần không có biểu hiện đối lập đối với trung ương. Nhà nước cho phép tổ chức, nhưng quy mô của quân vương hầu có hạn chế, nhà vua có quyền điều động khi cần thiết. Triều đình không cho phép tồn tại những hiện tượng có khuynh hướng mở rộng quyền lực hoặc quy mô phủ đệ của các quý tộc. Ví dụ, Tĩnh Quốc Đại vương Trần Quốc Khang (anh cùng mẹ khác cha của Trần Thánh Tông) được cử trấn trị ở Diễn Châu. Ở đó Quốc Khang xây dựng phủ đệ có phần lộng lẫy quá mức thường1 (Di tích phủ đệ Trần Quốc Khang hiện còn ở xã Văn Thành, huyện Yên Thành, Nghệ An). Tin đến triều đình, lập tức vua Thánh Tông cho người dò xét khiến Quốc Khang phải biến nó thành chùa thờ phật. Đối với các phủ đệ của người khác họ thì triều đình còn nghiêm khắc hơn. Năm 1253, nhà nước phải ra sắc lệnh hạn chế người theo hầu của tông thất và các quan văn võ, nhiều thì 1.000 người, ít thì 100 người. Những điều trên chứng tỏ yếu tố phân tán vẫn còn tồn tại, nhưng nhà nước phong kiến thời Trần là một nhà nước tập quyền mạnh. Mối quan hệ tốt giữa vương hầu quý tộc và vua càng làm tăng thêm sức mạnh của vương triều. Chính sách về điền trang, thái ấp của nhà Trần bao hàm cả ý nghĩa kinh tế và ý nghĩa quốc phòng là nhờ vậy.

        Sự kết hợp giữa quốc phòng và kinh tế, giữa quân sự và ban cấp, thái ấp là nét đặc biệt trong sự tồn tại của vương triều Trần. Hai vấn đề này trở nên quan trọng trong cả thời bình và thời chiến. Thời bình hoạt động của thái ấp không chỉ nhằm phục vụ cho các vương hầu, quý tộc mà còn là nơi tích trữ lương thực, dự trữ sức người sức của cho thời chiến, vấn đề này đã được thể hiện trong các lần kháng chiến chống Mông - Nguyên. Yếu tố quân sự - quốc phòng đã trở thành mục đích quan trọng hàng đầu của thái ấp, bởi vì:

        1- Thái ấp đều nằm ở những địa bàn trọng yếu của đất nước, ở vị trí ngã ba sông, ven sông, ven đường, thuận lợi trong việc hành quân...

        2- Các vương hầu, quý tộc được ban cấp đều là những tướng giỏi, văn võ song toàn, là trụ cột của triều đình, là những tướng giỏi có thể chỉ huy những đạo quân lớn, quan trọng.

        3- Các thái ấp trở thành những căn cứ địa trong kháng chiến, hay những chốt quân sự có ý nghĩa phòng thủ đất nước, như Quắc Hương ở gần Thiên Trường, Vạn Kiếp ở vùng cửa ngõ phía Đông Bắc, v.v...


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Tám, 2016, 07:34:14 pm

        Sự xuất hiện kinh tế thái ấp, điền trang và các đội quân vương hầu quý tộc ở nước ta khác hẳn với ở phương Tây. Trong khi ở nước ta dân tộc đã hình thành sớm, chính quyền trung ương đã thống nhất được lực lượng, quản lý tốt các địa phương, thì ở Tây Âu phong kiến thời trung đại chưa có một “quốc gia dân tộc" ổn định, càng chưa có một chính quyền tập trung mạnh. Tính cát cứ lãnh chúa tồn tại phổ biến, nhiều lãnh chúa phong kiến Tây Âu chiếm hữu hàng chục thái ấp hoặc cả một vùng rộng lớn. Chiến tranh tranh giành lãnh địa đã dẫn đến việc thiết lập các đạo quân riêng của các lãnh chúa. Chính quyền trung ương không khống chế được họ và cũng không đủ sức ngăn cản các cuộc chiến tranh giữa các lãnh chúa. Trong khi đó ở Đại Việt, vương hầu quý tộc là bộ phận trong chính quyền. Về cơ bản quyền lợi của quý tộc tông thất thống nhất với quyền của nhà vua. Chính sách phong cấp thái ấp, khuyến khích thành lập điền trang ở thời Trần là một tất yếu lịch sử trước yêu cầu củng cố và tăng cường quyền lực thống trị của dòng họ và trước yêu cầu giữ nước. Quân vương hầu là một bộ phận trong tổ chức quân sự của quốc gia Đại Việt. Sự khác biệt nói trên do nhiều nguyên nhân, có thể vì quá trình hình thành chế độ phong kiến Việt Nam diễn ra theo một quy luật riêng, khác với con đường phát triển kinh tế lãnh địa với quan hệ lãnh chúa - nông nô, hay nói chung là khác quá trình nông nô hoá ở phương Tây.

        Các sử sách của ta đều ghi chép sự kiện năm 1282: "Vua sai các vương hầu tôn thất mộ binh và thống lĩnh binh của mình"1 (Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, Tập IV, Sđd, tr.5); "Mùa Thu, tháng 8 (1284), Hưng Đạo Vương điều động quân của các vương hầu để đại duyệt ở bến Đông, chia quân đến các xứ Bình Than đóng giữ chỗ hiểm yếư”2 (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Sđd, tr.50, 58) hoặc giữa năm 1286: "sai Hưng Đạo Vương tổng đốc các vương hầu tông thất điều quân và làm đô binh khí, thuyền ghe"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Sđd, tr.50, 58). Cũng năm đó, vua Nhân Tông hạ lệnh cho các vương hầu tông thất chiêu mộ binh lính, sắm sửa vũ khí đề phòng khi chiến đấu hoặc phòng thủ. Khi được tin quân Nguyên sắp sang xâm lược, các vua Trần đều thân hành chỉ huy các vương hầu điều động quân thuỷ bộ thao diễn chiến trận. Trần Quốc Tuấn điều khiển các sắc quân của vương hầu, mở cuộc duyệt binh lớn ở Đông Bộ Đầu2 (Việt sử thông giám cương mục, Tập V, Sđd, tr.60). Và, trong các lần chiến tranh, quân vương hầu đã thể hiện được vai trò “giúp vua đánh giặc” của họ. Sử chép: “Năm Nguyên Phong (đời Trần Thái Tông) giặc Nguyên sang cướp, vương hầu đem gia hầu và hương binh, thổ hào sung vào đội quân cần vương; việc biến năm Đại Định (1369), vương hầu đem quân thôn trang sắm sửa nghi trượng để đón vua mới"3 (Năm 1369, Dương Nhật Lễ cướp ngôi vua Trần, tông thất nhà Trần đem quân đón Trần Húc ở Đà Giang về giết Nhật Lễ, lập vua Trần Nghệ Tông. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Sđd, tr.32).

        Các sử gia phong kiến nước ta đều đánh giá cao vai trò của quân vương hầu, mà trong đó có những chiến binh vốn là gia nô, nô tỳ hoặc những nông nô ở các điền trang, phủ đệ Sử gia Ngô Thì Sĩ chép: "Lúc nhà Trần đương thịnh, đánh nhau với giặc Hồ (tức quân Mông - Nguyên), nhờ sức các gia nô của vương hầu nhiều lắm"4 (Ngô Thì Sĩ, Việt sử tiêu án, Sđd, tr.244). Đạo quân gia nô và thân thuộc của Trần Quốc Toàn đã chiến đấu anh dũng trong các trận đại phá quân Nguyên ở Tây Kết, Chương Dương - Thăng Long, ở Như Nguyệt. Các gia nô như Yết Kiêu, Dã Tượng, Nguyễn Địa Lô nổi tiếng về tinh thần kỷ luật, lòng trung thành và trí dũng trong chiến đấu. Sách Toàn thư phản ánh sự kiện Yết Kiêu giữ thuyền ở Bãi Tân, quyết đợi chủ tướng Trần Quốc Tuấn khi quân ta thất trận trong giai đoạn đầu cuộc kháng chiến năm 1285. Câu nói sau của Trần Quốc Tuấn đã đánh giá cao Yếu Kiêu, Dã Tượng và những gia nô trong đội ngũ của mình: "Ôi, chim Hồng hộc có thể bay cao được là nhờ có sáu chiếc lông cánh, nếu không có chiếc lông cánh thì cũng như chim thường thôi"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Sđd, tr.51). Lòng trung của Yết Kiêu và Dã Tượng còn làm Trần Quốc Tuấn rơi nước mắt khi ông đem câu chuyện của Trần Liễu hỏi ý kiến họ.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Tám, 2016, 07:34:51 pm
        Nguyễn Địa Lô cũng là một gia nô của Trần Quốc Tuấn, thường ngày rất tích cực tập luyện cung kiếm và trở thành một tay thiện xạ nổi tiếng. Chính Nguyễn Địa Lô trong trận Ma Lục vùng Chi Lăng (năm 1285) đã bắn chết tên Việt gian Trần Kiện ngay trên mình ngựa khi y cùng bọn Trần Tú Hoãn, Lê Trắc đang chạy sang đất giặc. Trong đội ngũ "gia thần, gia nô, gia đồng" thời đó có những người vì tài năng quân sự và có nhiều cống hiến lớn trong chiến tranh đã trở thành những võ quan cao cấp, như Phạm Ngũ Lão... Sách Cương mục chép: "Ngũ Lão là gia thần của Quốc Tuấn. Quốc Tuấn thấy Ngũ Lão có tài năng khí độ vượt hơn mọi người, gả con gái cho, nhân đó tiến cử lên triều đình. Ngũ Lão theo Quốc Tuấn đánh giặc có công to"... Đến năm 1300, Ngũ Lão được trao chức Thân vệ đại tướng. Sử cũ2 (Việt sử thông giám cương mục, Tập V, Sđd, tr.86) còn nhắc đến sự kiện năm 1292, những khi vua Trần Nhân Tông ngự chơi ngoài hành cung, gặp gia đồng của các vương hầu thường gọi tên và hỏi "chủ mày ở đâu?" và răn dạy các vệ sĩ không được thét đuổi họ. Vua lại nói với các quan hầu cận rằng: "Ngày thường có thị vệ hai bên, đến khi nhà nước có hoạn nạn thì chỉ thấy có bọn ấy đi theo mà thôi" (Đại việt sử ký toàn thư, Mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697), Tập II, Nxb Khoa học xã hội, H.1993, tr.68). Điều đó chứng tỏ vua Trần rất cảm mến và đánh giá rất cao sự đóng góp của những người lính vương hầu. Như vậy dưới triều Trần, lực lượng nông nô, nô tỳ đã gia nhập quân đội, tham gia chiến đấu; họ được tổ chức thành các đạo quân dưới sự chỉ huy của các vương hầu, quý tộc. Lực lượng quân sự này được nhà nước huy động và đã góp phần vào chiến thắng oanh liệt trong 3 lần kháng chiến; khi hoà bình họ lại trở về với công việc sản xuất hay phục dịch của mình trong các thái ấp, phủ đệ của quý tộc Trần.  
        Từ nửa sau thế kỷ XIV, xu hướng quan liêu hoá, tha hoá, xa dân trong đội ngũ vương hầu quý tộc phát triển. Đó cũng là một nguyên nhân làm chính quyền nhà Trần suy yếu Ngày trước, nếu thế lực của điền trang, thái ấp của vương hầu góp phần quan trọng củng cố chính quyền trung ương, giữ vững địa vị thống trị của vương triều, tăng cường cái thế "duy thành", thì đến nay, gia nô, nô tỳ ở các điền trang bị bóc lột và đối xử thậm tệ nên đã nổi dậy hay bỏ trốn, đâu còn phục vụ cho chính quyền trung ương nữa. Khi kinh tế điền trang thái ấp đã lỗi thời thì nó không còn vị trí trong xã hội như trước; Nhà nước phong kiến Đại Việt cũng không cho phép các chủ điền trang tổ chức lực lượng quân sự riêng nữa.

        Đến thời Hồ, Hồ Quý Ly tiến hành cải cách, thi hành phép hạn điền, hạn nô, đánh vào kinh tế điền trang thái ấp lúc đó đã lỗi thời. Tuy nhiên, lãnh địa của các đại vương và trưởng công chúa vẫn còn. Vì thế, tổ chức quân vương hầu giai đoạn cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV về cơ bản không tồn tại, chỉ còn rất ít, có thể đó chỉ là những bộ phận lực lượng vũ trang nhỏ bảo vệ trong các đại điền trang của các đại vương thời cuối Trần đầu Hồ. Sang thời thuộc Minh và thời Lê Sơ, cùng với sự tiêu vong của kinh tế lãnh địa nóit trên, tổ chức quân vương hầu cũng không còn nữa.

        Tóm lại, ở Đại Việt từ thời Đinh - Lê đến thời Hồ, đặc biệt là thời Trần, quân vương hầu đã xuất hiện và tồn tại nhu một nét đặc thù trong cơ cấu tổ chúc quân sự dân tộc. Từ chỗ là những đội quân “gia nô" hay "vương hầu gia đồng”, nó đã phát triển thành một bộ phận trong cơ cấu tổ chức các thứ quân của nhà nước. Thời bình đó là lực lượng canh phòng tại chỗ, thời chiến số lượng phát triển và đóng vai trò quan trọng “giúp vua đánh giặc". Khi nhà nước phong kiên tập quyền phát triển cao, khi chế độ kinh tế thái ấp điền trang mất đi thì tổ chức quân vương hầu cũng không còn tồn tại trong xã hội Đại Việt nữa.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Tám, 2016, 07:39:11 pm
       
        IV. DÂN BINH LÀNG XÃ

        Dân binh (hương binh hay thổ binh) là một bộ phận của lực lượng vũ trang dân tộc; đó là tổ chức quân sự cơ sở ở các địa phương làng xã, có nhiệm vụ chủ yếu là canh phòng, bảo vệ trị an và đánh giặc, giữ gìn làng xã, quê hương mình.

        Nếu như quân triều đình có tổ chức chính quy, tinh nhuệ, số lượng không đông, là nòng cất của lực lượng vũ trang nói chung, và nếu như quân địa phương là lực lượng quân thường trực ở các châu, lộ có số lượng vừa phải, chiến đấu chủ yếu bảo vệ các địa phương... thì dân binh là lực lượng vũ trang địa phương đông đảo nhất, là tổ chức quân sự cơ sở, dưới sự chỉ huy của các xã quan, của những thủ lĩnh quân sự địa phương hoặc những người có uy tín, giỏi võ nghệ trong vùng. Tổ chức dân binh bao gồm những đinh nam trong làng bản, những trai tráng đã được ghi tên trong “sổ quân" mà chưa nhập ngũ, những người đã làm xong nghĩa vụ binh dịch trở về địa phương. Đối với họ lúc "vô sự" là dân, lúc có giặc là binh. Thời bình, dân binh vừa là tuần đinh, vừa sản xuất vừa bảo vệ trì an trong vùng; khi có chiến tranh họ nhanh chóng được tổ chức và trở thành một lực lượng quân sự quan trọng đánh giặc, giữ nước. Trên cơ sở lòng yêu quê hương, đất nước của nhân dân và những mối quan hệ truyền thống gia đình, dòng họ, láng giềng thôn xã..., dân binh thực sự là một hình thức tổ chức để trăm họ muôn dân có thể trực tiếp tham gia vào sự nghiệp giữ nước. Tầm quan trọng của dân binh không chỉ vì có số lượng đông đảo mà còn ở chỗ nó là lực lượng chiến đấu tại chỗ, có mặt ở khắp mọi miền Tổ quốc. Khác hẳn với tên “giặc cỏ", "giặc cướp" mà bọn xâm lược và phản động thường gắn cho, "dân binh” đúng như tên gọi của nó, trước hết là những người dân bình thường được tổ chức, được trang bị và huấn luyện ở mức nhất định, vừa chiến đấu vừa sản xuất, "tịnh vi nông, động vi đông", khi có chiến tranh họ là lực lượng nòng cốt của làng xã chiến đấu. 

        Hoạt động dân binh là cơ sở của cuộc chiến tranh du kích rộng lớn, khiến quân thù tiêu hao, mệt mỏi, không cướp được lương thảo nuôi quân. Khi địch phân tán đối phó thì các đồn trại của chúng trở thành mục tiêu tiến công của các đội dân binh. Trong công cuộc đánh giặc giữ nước, dân binh là một lực lượng chiến lược. Lực lượng vũ trang "một triệu người" của thể chế "Thập đạo quân" thời Đinh - Lê mà sử gia thế kỷ XVIII đã gọi là một thể chế của "thời kỳ binh và nông chưa chia", chủ yếu là dân binh của quốc gia Đại Cồ Việt. Thời ấy đã xuất hiện một hình thức tổ chức quân sự chỉ tồn tại trên khung biên chế, còn thực số, lại gửi ở nông thôn; thời bình là dân hoặc dân binh sống và lao động sản xuất trong các làng xã, hương thôn, thời chiến có thể được huy động đi chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu. Trong giai đoạn Lý - Trần, do nhận thức đúng vai trò chiến lược của dân binh, nhà nước đã thể chế hoá tổ chức quân sự này và có những biện pháp tích cực nhằm phát huy tính ưu việt của nó.

        Thời Lý - Trần lập ra những đội dân binh tuân theo phép nước. Tuy số lượng nhiều ít không do triều đình quy định, nhưng mỗi làng, bản đều căn cứ vào sổ hộ tịch và nhu cầu để quy định số lượng dân binh đảm đương việc làng. Bình thường, họ là những đội tuần đinh có số lượng nhỏ, gặp khi giặc giã, biến loạn thì ai có tên trong danh tịch hương binh đều phải ra phục dịch, chiến đấu; xong việc họ lại về nhà làm ăn. Trước khi bước vào các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, không chỉ ở kinh đô Thăng Long mà ngay cả các phủ đệ vương hầu và đặc biệt là từ các hương ấp, bản làng đã diễn ra không khí náo nức chuẩn bị kháng chiến. Nhiều làng xã mở lò luyện võ, “toàn dân sắm sửa vũ khí, đóng thuyền ghe", tự vũ trang và tổ chức đội dân binh sẵn sàng đánh giặc giữ làng, đáp lời kêu gọi của triều đình: "Tất cả các quận huyện trong nước nếu có giặc ngoài đến đều phải liều chết mà đánh, nếu sức không địch nổi thì cho phép lẩn tránh, không được đầu hàng giặc"1 (Nguyên sử, q.209, T7b. Dẫn theo Hà Văn Tấn - Phạm Thị Tâm, Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên - Mông thế kỷ XIII, Sđd, tr.178).


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Tám, 2016, 07:39:47 pm

        Dưới triều Lý, cùng với chính sách cố kết dân tộc, nhà nước rất quan tâm phát triển lực lượng quân sự địa phương, nhất là các vùng lãnh thổ nơi biên giới phía Bắc và Đông Bắc, coi đó là một lực lượng quốc phòng quan trọng. Vì thế, cuối năm 1075 đầu năm 1076, trong đạo quân tiến sang đất Tống thực hành cuộc tập kích chiến lược “tiên phát chế nhân" phá tan các căn cứ xuất phát xâm lược của giặc, có hàng vạn các thổ binh nằm trong các đạo quân do thủ lĩnh địa phương các dân tộc miền núi chỉ huy. Đến cuối năm 1076 đầu năm 1077, dân binh, thổ binh vùng từ bắc sông Như Nguyệt đến biên giới lại một lần nữa có mặt trong đội quân chống xâm lăng, thực hành đánh chặn, tập kích, phục kích, tiêu hao địch, tạo điều kiện thuận lợi để quân chủ lực nhà Lý thực hiện thành công phòng ngự và phản công tiêu diệt quân Tống. Sử Trung Quốc (Tục tư trị thông giám trường biên) cho biết: Dân Man họp nhau chống lại. Ở bắc Quảng Nguyên có Hoàng Lục Phẫn cùng cư dân chống cự, không cho (người Tống) tiến vào động mình. Cánh quân do Yên Đạt chỉ huy cũng bị Lưu Kỷ chống lại rất hăng. Yên Đạt sai đốt phá các động để đề phòng người ở đó tập kích"1 (Theo Hoàng Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt, Sđd, tr.282, 285). Lực lượng dân binh tham gia cuộc kháng chiến chống Tống thật đông đảo. Trong một tờ trình của quan địa phương gửi lên vua Tống, có nói: "Dân Man kéo hết cả nhà theo", "cả nước Giao Chỉ, nhà có sáu người thì năm người tòng quân, còn một không đi được phải ở lại"2 (Theo Hoàng Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt, Sđd, tr.282, 285); điều đó phần nào chứng tỏ sự tham gia đông đảo của dân binh trong kháng chiến chống Tống.

        Thế kỷ XIII, dưới sự lãnh đạo của vương triều Trần, chiến tranh nhân dân đã phát triển cả bề rộng và chiều sâu. Sự phát triển của lực lượng dân binh cũng như sự tham gia chiến đấu của họ thật phong phú và đa dạng. Trần Phu, sứ giả nhà Nguyên đã viết về hoạt động của dân binh Đại Việt như sau: “Mỗi khi có biến động là trai tráng khắp mọi nơi đều kéo ra ngay, khí giới đều tự họ trang bị lấy có người còn vác cả cây gậy trơn” (Sứ Giao Châu cảo). Thực hiện mệnh lệnh của vua, nhân dân các làng xã trong nước với nhiều hình thức đều tham gia chiến đấu. Phan Huy Chú đã từng tổng kết: "Lúc vô sự thì phục binh ở nơi thuận tiện, khi có nạn thì hết sức chống cự. Thế là đời Trần nhân dân ai cũng là binh, nên mới phá được giặc dữ, làm cho thế nước được mạnh"3 (Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí. Tập IV, Sđd, tr.6).

        Tổ chức dân binh cùng với cấu trúc làng chiến đấu đã trở thành những pháo đài xanh kiên cố, những chướng ngại tai hại trên bước đường hành quân của quân xâm lược. Trong chiến tranh giữ nước của dân tộc, lực lượng dân binh đã có mặt ở khắp nơi; dưới sự chỉ huy của các xã quan, hào trưởng hay các thổ tù miền núi. Cả ba lần kháng chiến chống Mông - Nguyên, trong nước chỉ có hai hương Bàng Hà và Ba Điểm hàng giặc (trong kháng chiến lần thứ ba), còn hầu hết các hương xã nơi có giặc đến đều anh dũng chiến đấu, chặn đứng nhiều cuộc hành quân của chúng. Vua Trần Nhân Tông ra lệnh xử tội đồ quân dân hai hương đó, cho làm thang mộc binh (lính hầu trong các vùng đất phong của vương hầu), cấm họ đời đời không được làm quan và ban cho tể thần làm "sai sử hoành" (nô tỳ); những hương xã có công đánh giặc được ban thưởng và ghi vào chính sử. Tiêu biểu về tinh thần chiến đấu lúc bấy giờ là dân binh làng Cổ Sở (Yên Sở) đã đánh bại hai cuộc hành quân cướp phá của giặc vào các năm 1258 và 1288; là dân binh ở trại Quy Hoá do chủ 1 trại Hà Bổng, Hà Khuất chỉ huy đã chặn đánh ky binh Mông Cổ trên đường tháo chạy (1258); hoặc như dân binh làng Yên Duyên (Quảng Xương - Thanh Hoá) dưới sự lãnh đạo của viên đại toát (xã quan) Lê Mạnh, chặn đánh quân Toa Đô, buộc chúng phải tháo chạy khi vừa xâm phạm vào địa phận của làng (1285), v.v... Ngô Sĩ Liên viết rằng: “Giặc Nguyên vào cướp, các vương hầu đem hương binh và thổ hào sung vào đội quân Cần vương"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Sđd, tr.32). Trong các giai đoạn phản công chiến lược, dân binh đã tập hợp thành những lực lượng lớn, phối hợp với quân chủ lực tiến công quân địch. Tháng 2-1285, thổ binh người Tày mà thủ lĩnh là hào trưởng Nguyễn Thế Lộc và Nguyễn Lĩnh đã cùng quân triều đình đánh trận Ma Lục nổi tiếng, tiêu diệt bọn phản bội Trần Kiện và đoàn quân Nguyên hộ tống trên đường chạy sang Trung Quốc. Ba tháng sau, các đội dân binh do Trần Thông, Nguyễn Khả Lạp, Nguyễn Truyền hợp cùng với quân của Thượng tướng Trần Quang Khải và quân của Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toàn đánh tan giặc ở Chương Dương - Thăng Long. Lịch sử ghi nhận chiến công của dân binh các làng xã ở huyện Phù Ninh (Vĩnh Phú) do hai anh em Hà Đặc và Hà Chương chỉ huy; bằng trí thông minh và lòng dũng cảm, đã đánh tan giặc Nguyên khi chúng rút chạy qua địa phương mình... Dân binh chiến đấu độc lập giữ làng bản, họ chiến đấu trong các đạo quân do các thủ lĩnh địa phương hay các vương hầu quý tộc thống lĩnh, họ còn hợp sức cùng các đạo quân chủ lực của triều đình. Họ đánh giặc mọi nơi mọi lúc, bằng mọi vũ khí với nhiều hình thức phong phú. Sự kết hợp giữa dân binh với quân triều đình và quân các lộ, trấn là một đặc điểm nổi bật, một nguyên tắc đúng trong quá trình tổ chức và chiến đấu của lực lượng vũ trang Đại Việt.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 19 Tháng Tám, 2016, 07:46:03 pm

        Vai trò của dân binh quan trọng như vậy, song tổ chức quân sự này chỉ có tác dụng khi nhà nước nhận thúc đúng nó, biết tổ chức họ và đồng thời phải có đường lối chính trị quân sự đúng, biết dựa vào dân tiến hành các cuộc chiến tranh giữ nước. Trường hợp này diễn ra khi quyền lợi của giai cấp thống trị và quyền lợi của dân tộc gắn liền với nhau. Bài học thất bại trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược dưới triều Hồ chứng minh điều đó. Hồ Quý Ly là một người yêu nước, tích cực chuẩn bị kháng chiến; nhà Hồ có quân đông, vũ khí tốt, thành cao hào sâu..., song rốt cuộc vẫn không ngăn được giặc. Nguyên nhân chính bởi nhà Hồ không có đường lối đúng cả về chính trị và quân sự; trong quá trình xây dựng Binh chế của mình không coi trọng tổ chức và động viên dân binh chiến đấu, để tạo ra một cuộc chiến tranh nhân dân như các triều đại trước. Trong tổ chức quân sự, triều Hồ có cả quân triều đình và quân các lộ, trấn; ở một số nơi còn tổ chức "đội quân nghĩa dũng" và tổ chức "xã binh" trong đó có cả các phạm nhân để có thêm quân số chống giặc Bắc, như trường hợp Hồ Tùng đánh Chiêm Thành không thắng, bị "đồ làm xã binh" năm 14011 (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Dịch theo bản khắc năm Chính Hoà thứ 18 (1697), Sđd, tr.202). Tuy nhiên, các tổ chức đó không thể thay thế được lực lượng dân binh.

        Triều Hồ thất bại, nhưng lực lượng kháng chiến của nhân dân mà nòng cốt là các đội hương binh vẫn tồn tại, tiếp tục phát triển và trở thành những lực lượng vũ trang địa phương, chiến đấu chống xâm lược ở khắp mọi nơi. Quân Minh chiếm đóng ở nước ta, nhưng chúng không thể kiểm soát được các làng xã, ngược lại quân giặc thường xuyên bị lực lượng yêu nước của các địa phương chống lại. Cái mà người Minh hoảng sợ gọi là "giặc cướp nổi lên như ong” thực chất là những cuộc bạo động khởi nghĩa của nhân dân các làng xã Đại Việt chống lại chính quyền đô hộ. Lê Lợi và Nguyễn Trài hơn hẳn các hào kiệt khác bởi tài năng và tầm nhìn của mình; từ chỗ nhận thức được sức mạnh chống xâm lăng là lực lượng dân chúng, hai ông đã có những chính sách đúng đắn để phát động nhân dân khởi nghĩa. Lực lượng yêu nước mà trước hết là những dân binh, "manh lệ" đã nhanh chóng quy tụ dưới ngọn cờ của khởi nghĩa Lam Sơn. "Nghĩa quân đi đến đâu, người ta nghe tiếng là quy phục, cùng hợp sức vây thành diệt giặc", "nhân dân dắt díu nhau đến đông như đi chợ" "họ tranh nhau đến cửa quân xin liều chết đánh giặc"2 (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập III, Nxb Khoa học xã hội, H.1967, tr.20)... Nếu như trong chiến tranh vệ quốc, dân binh đã phát huy vai trò to lớn trong chiến đấu giữ làng giữ nước, thì trong khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh giải phóng, dân binh là lực lượng quan trọng nhất tham gia các đạo nghĩa binh. Đó là lực lượng vũ trang làng xã đánh giặc tại chỗ, chống phá âm mưu bình định và cướp bóc của quân thù. Đặc biệt trong khởi nghĩa Lam Sơn, số lượng dân binh tham gia ngày một đông đảo, họ trở thành nghĩa quân rất nhiệt tinh và anh dũng chiến đấu dưới sự chỉ huy của Bộ tham mưu tài giỏi. Đó là một nhân tố tạo nên chiến thắng huy hoàng trong chiến tranh giải phóng đầu thế kỷ XV.

        Sau khi giải phóng đất nước, triều Lê Sơ xây dựng chính quyền chuyên chế, trong đó quân đội được tổ chức chính quy. Chính quyền trung ương có khả năng tập trung quyền lực và quản lý các cơ sở. Trong nước chính trị ổn định, kinh tế và quốc phòng có điều kiện phát triển, nạn ngoại xâm không còn là mối đe dọa trực tiếp nữa. Vì thế, Nhà nước Lê Sơ không khuyến khích phát triển dân binh ở các làng xã. Tuy nhiên, là một tổ chức mang tính truyền thống, dân binh vẫn tồn tại với tính chất tự nhiên của nó dưới hình thức là những đội tuần đinh, tuần tráng, tự vệ, canh phòng, bảo vệ an ninh làng xã trong thời bình.

        Có thể nói, nét độc đáo trong lực lượng vũ trang Đại Việt là vai trò chiến lược của tổ chức dân binh trong các làng xã, thôn ấp, động bản. Đó là một tổ chức quân sự địa phương có nguồn gốc từ xa xưa, vừa mang tính tự nguyện vừa được Nhà nước thể chế hoá, để mọi người dân có thể tham gia và góp phần vào sự nghiệp đánh giặc giữ nước. Nếu chính quyền nhà nước tiến bộ, biết tổ chức và động viên thì dân binh (hương binh) làng xã sẽ là lực lượng đánh giặc tại chỗ đông đảo nhất hợp cùng với các tổ chức quân sự khác, tạo nên thế mạnh chiến tranh toàn dân, "cử quốc nghênh địch", cả nước cùng đánh giặc bảo vệ quê hương xứ sở của mình.

(http://i479.photobucket.com/albums/rr153/Giangtvx/Linh%20tinh/BCDV%20-%200140_zpsejnobsfi.jpg)


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tám, 2016, 04:22:49 am
     
Chương III

CHẾ ĐỘ TUYỂN MỘ, QUẢN LÝ VÀ CHỈ HUY QUÂN ĐỘI

        I. TUYỂN MỘ BINH LÍNH, TUYỂN DỤNG VÕ QUAN, TƯỚNG LĨNH

        1. Tuyển mộ và động viên binh lính

        Tuyển quân xưa gọi là mộ binh, tức phép kén chọn binh lính của Nhà nước Đại Việt, bao gồm hai vấn đề chủ yếu: đó là quản lý đinh tráng và các quy chế về tuyển lính sung quân trong các triều đại. Nội dung của nó bao hàm việc lập sổ hộ, quản lý và phân hạng đinh nam; việc lập sổ quân; những quy định về nghĩa vụ binh dịch, các quy chế tuyển chọn và động viên quân đội.

        1.1. Quản lý nhân đinh các địa phương - mối quan hệ giữa hộ tịch và quân tịch

        Ở Đại Việt vấn đề dân tịch và quân tịch luôn luôn gắn liền với nhau. Để xây dựng quân đội quốc gia nói riêng và lực lượng vũ trang nói chung được hùng mạnh, điều trước tiên nhà nước phải nắm vững và quản lý nhân đinh trong nước. Thế kỷ thứ X, thời Đinh - Lê có Thập đạo quân, bắt đầu chế độ binh dịch của các đinh tráng; vì thế vấn đề quản lý hộ tịch để "điểm dân làm lính" đã được đặt ra. Trên danh nghĩa tổ chức Thập đạo quân gồm một trăm vạn người, nhưng thực chất đó là "ngạch quân biên sổ, khi có việc gì thì gọi ra, xong việc lại trở về làm ruộng"; cũng vì thế, sử gia Ngô Thì Sĩ đã nhận xét: "Thời đó binh và nông chưa chia"1 (Dẫn theo Phan Huy Chú, Sđd, Tập IV, tr.4).

        Thời Lý (thế kỷ XI), vấn đề quản lý đinh tráng trở thành điển chế của nhà nước. Việc binh chính, tài chính được chính quyền chú ý, trong đó biện pháp đầu tiên là: Lập hộ tịch và kiểm kê nhân đinh trong nước. Đây là cơ sở để nhà nước tuyển quân. Thể thức được tiến hành như sau: Hằng năm, đầu mùa Xuân, các xã quan lập sổ hộ xã mình, kê khai nhân đinh xếp theo thứ hạng: Tôn thất (họ vua), quan văn võ, quan theo hầu, quân nhân, tăng đạo, hoàng nam (những người khoẻ mạnh), người già yếu, tàn tật, lưu tán... Đinh nam từ 18 đến 20 tuổi được ghi vào sổ bìa vàng, gọi là Hoàng nam, từ 20 tuổi đến 60 tuổi gọi là Đại nam. Từ đời Lý Anh Tông lại quy định, từ 16 tuổi trở xuống là Hoàng nam, từ 17 đến 19 tuổi là Đại hoàng nam. Tất cả các Hoàng nam và Đại hoàng nam đều được ghi trong sổ bìa vàng, đây là nguồn binh của Nhà nước. Thông qua các tổ chức hương xã, triều Lý quản chặt số tráng đinh trong toàn quốc. Nhà nước nghiêm cấm việc ẩn lậu hoặc trốn tránh ghi tên trong sổ. Năm 1010, vua Lý Thái Tổ có chiếu lệnh cho những kẻ trốn tránh, phiêu tán về quê cũ, mục đích là để giữ yên trật tự chung, mặt khác có điều kiện để quản lý nhân khẩu, tuyển linh và bắt sai dịch. Đặc biệt chính quyền nghiêm cấm việc ẩn giấu và mua bán các Hoàng nam và Đại hoàng nam; hạn chế các quý tộc thuê mướn, mua bán Hoàng nam làm gia nô. Có thời kỳ chỉ cho phép ba người (các quan chủ đô) nuôi chung một gia nô. Ai muốn nuôi tư nô chỉ được nuôi kẻ chưa đến tuổi Hoàng nam (tức dưới 16 tuổi). Chính quyền nghiêm trị những ai trái lệnh trên. Năm 1043, Lý Thái Tông hạ lệnh: Các quan chức cứ ba người phải bảo đảm lẫn nhau, ai chứa giấu Đại nam làm gia nô cho người khác nếu đã bán rồi thì đánh 100 trượng và thích 20 chữ vào mặt, chưa bán nhưng đã cho đến làm việc cũng đánh như thế và thích 10 chữ; người đã biết chuyện nhưng vẫn mua thì bị xử lý thấp hơn một bậc so với kẻ bán. Quy định trên chứng tỏ thời Lý quản lý nhân đinh rất chặt chẽ.

        Sang thời Trần (từ thế kỷ XIII), vấn đề định quân hạng, tuyển lính và động viên quân đội cũng căn cứ vào số đinh tráng đã được quản lý. Theo lệ, việc lập sổ hộ và khai báo nhân số được tiến hành đều đặn với định kỳ mỗi năm một lần vào mùa Xuân ở các địa phương và do các xã quan đảm nhận. Sách Toàn thư chép: "Theo lệ cũ, hằng năm đầu mùa Xuân, các xã quan khai báo hộ khẩu, gọi là đơn số, rồi sau đó theo sổ mà kê ra các hạng: Tôn thất, quan văn giai, quan võ giai, quan theo hầu, quân nhân, tăng đạo, Hoàng nam, già yếu, phụ tịch, v.v..."1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Sđd, tr.9). Năm 1242, Trần Thái Tông cho đặt các xã quan, đồng thời sai lập hộ khẩu, phân hạng đinh nam, từ 18 tuổi gọi là Hoàng nam, từ 20 tuổi gọi là Đại hoàng nam, từ 60 tuổi gọi là hạng Lão, người nhỏ tuổi gọi là Tiểu hoàng nam2 (Theo sách Việt sử tiêu án (Ngô Thì Sĩ), đinh nam từ 17 tuổi gọi là Tiểu hoàng nam, từ 20 tuổi gọi là Đại hoàng nam, từ 60 tuổi là Lão liệt). Như vậy, công tác quản lý nhân đinh của thời Trần rất cẩn thận, về hình thức cũng giống triều Lý. Sử gia Phan Huy Chú nhận xét: "Buổi đầu nhà Trần sổ hộ tịch, cứ hằng năm làm kế tiếp, phép làm rất rõ và kỹ, vì noi theo phép cũ của nhà Lý nên được như vậy. Về sau số ngạch đã định, lấy làm thành lệ, các đời vẫn có tra xét thêm, nhưng không tường tận bằng trước"1 (Phan Huy Chú, Sđd, Tập III, tr.50). Sách Cương mục viết: "Lối cũ nhà Trần cứ ba năm lại một lần làm sổ hộ tịch"2 (Quốc sử quán triều Nguyễn, Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, bản dịch, Tập VIII, Nxb Văn Sử Địa, H.1958, tr.50). Ở các vùng đất xa, Nhà nước thường phái các quan đại thần trực tiếp đến phụ trách việc làm sổ hộ. Chẳng hạn, năm 1233, Trần Thái Tông sai Phụ quốc Thái úy Phùng Tá Chu đi duyệt định các sắc mục ở Nghệ An. Năm 1238, Thượng quốc Thái sư Trần Thủ Độ đảm nhiệm việc xét định hộ khẩu ở Thanh Hoá. Năm 1316, Trần Minh Tông sai Nhân huệ vương Trần Khánh Dư đi Diễn Châu để lập sổ binh và dân. Năm 1366, Trần Dụ Tông cử Tả bộc xạ Tăng Khoan và Hữu bộc xạ Lê Quát đi xét định sổ đinh ở Thanh Hoá. Năm 1285, khi chiến tranh vừa kết thúc, vua Trần Nhân Tông đã cho làm hộ khẩu ngay để xem xét nhân đinh còn, mất bao nhiêu. Như vậy, vấn đề quản lý nhân khẩu được nhà Trần coi trọng. Nó mang nhiều ý nghĩa, như việc phân hạng đinh nam để tuyển lính, ổn định trật tự xã hội, bảo đảm nhân lực xây dựng đất nước; hoặc như Trần Nhân Tông nói: "Chỉ có lúc này mới nên sửa định hộ khẩu, đừng để cho kẻ địch dòm thấy dân ta điêu hao"3 (Đại Việt sử ký toàn thư Tập III, Sđd, tr.63). Chính vì thế vấn đề định cư cũng đã được nhà nước lưu ý.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tám, 2016, 04:23:14 am

        Cũng như triều Lý, triều Trần nghiêm phạt những ai vô tình hay cố ý làm sai trái những quy định về hộ tịch với mục đích ẩn lậu dân đinh hay trốn tránh sai dịch và binh dịch. Năm 1238, vua Thái Tông cử Thái sư Trần Thủ Độ phụ trách duyệt định hộ khẩu trong nước, nghiêm trị kẻ ẩn lậu hộ tịch để trốn lính. Bấy giờ một người quan nhờ vợ Thái sư xin cho làm chức câu đương để trở thành hạng quan, không phải chịu sai dịch và binh dịch như hạng dân. Trần Thủ Độ im lặng, nhưng khi xét đến hộ khẩu xã đó, ông cho gọi người ấy đến và nói: "Người vì công chúa xin cho được làm câu đương, không ví như người câu đương khác được, phải chặt một ngón chân để phân biệt". Người ấy sợ kêu van hồi lâu mới được tha. Từ đó không ai giám tới xin nữa. Thời vua Trần Anh Tông, quan kiểm pháp Trần Thì Kiến đã phạm tội chứa giấu nhân đinh, tuy không cố ý, vẫn bị bãi chức. Những điều trên chứng tỏ sự nghiêm ngặt của triều đình trong việc lập hộ tịch và phân hạng quản lý nhân khẩu thời Trần.

        Nhà Hồ thành lập vương triều khi giặc phía Bắc đang ngấp nghé đầu biên giới. Vì thế Hồ Quý Ly đã ước ao: “Làm thế nào có được trăm vạn quân để chống giặc Bắc?". Lúc ấy, Xu mật sứ Hoàng Hối Khanh hiến kế làm sổ hộ: từ hai tuổi trở lên đều ghi hết vào sổ. Người ở kinh kỳ đến trú ngụ nơi phiên trấn đều bắt về nguyên quán để kê tên, người họ Hồ thì biên vào hai chi phái ở Diễn Châu và Thanh Hoá; cấm người xiêu tán, cấm ẩn lậu nhân đinh. Theo kế hoạch này, tháng 4 năm 1400, Hồ Hán Thương sai làm tất cả sổ hộ trong nước, biên hết nhân đinh từ hai tuổi vào sổ lấy đó làm thực số. Sau khi lập xong hộ tịch, kiểm kê lại thì số đinh từ 15 tuổi đến 60 tuổi vào sổ tăng lên gấp bội so với trước. Vì thế, thời Hồ tuyển lính thuận lợi, không bỏ sót và nhà nước đã động viên được số quân đông đảo để chống giặc.

        Năm 1427, sau khi đuổi quân Minh, giành độc lập, Lê Thái Tổ đã hạ lệnh cho quan các lộ cùng với quan các sảnh, cục và các tướng hiệu tiến hành lập sổ hộ, căn cứ theo trú quán chứ không theo nguyên quán của dân. Từ đó nhà vua đặt lệ cứ ba năm làm lại hộ tịch một lần, gọi là phép “kế tư” (kế tiếp và tu sửa). Đầu năm 1428, Lê Thái Tổ hạ lệnh lập hộ tịch và điền bạ trong cả nước. Vấn đề khôi phục và phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng đòi hỏi nhà nước nắm vững nguồn nhân lực, vì thế triều đình lệnh cho các phủ, huyện và trấn phải gấp rút hoàn thành sổ hộ, hẹn cuối cùng là tháng 2 năm 1429 phải đệ trình kết quả. Năm 1430, vua ra lệnh gộp sổ trong cả nước. Năm 1433, sổ hộ tịch đã được hoàn tất. Từ đó cứ 2 hoặc 3 năm 1 lần Nhà nước kiểm kê nhân đinh.

        Các đời vua sau noi theo vua Lê Thái Tổ, khi mới lên 1 cầm quyền đều ra lệnh thống kê hộ khẩu, quản lý nhân lực 1 trong cả nước, lấy đó làm cơ sở để điều động nhân lực cho công cuộc dựng nước và giữ nước. Vua Lê Thánh Tông thực hiện đổi mới, quy định từ năm 1465 cứ 6 năm 1 lần các 1 quan phủ, huyện, châu triệu tập các xã quan đến họp, lập 1 sổ hộ khẩu xã mình để đưa lên kinh đô đối chiếu và viết thành chính thư của nhà nước. Trong giai đoạn mang niên hiệu Hồng Đức, triều chính Lê Thánh Tông đã có quy chế rõ ràng về phép làm sổ hộ tịch. Theo đó, từ năm 1470, cứ 3 năm kiểm kê 1 lần là tiểu điển, 6 năm hệ thống hộ tịch gọi là đại điển. Thủ tục tiến hành như sau: Đến kỳ làm lại hộ tịch, triều đình phái mỗi đạo thừa tuyên (tức mỗi tỉnh) một viên quan văn, một quan võ và một hoạn quan. Tại mỗi đạo thừa tuyên lập ra một tuyển trường. Trước hết tổ chức kỳ thi cho các nho sinh để xem ai thông minh thì xếp vào hạng học nhiêu (người được ăn học). Sau đó tra xét đến hạng chúc sắc người có quan tước, phẩm hàm), hạng nhiêu ấm (con các quan được quyền thừa ấm) để loại trừ những kẻ giả mạo trốn tránh sai dịch và binh dịch. Cuối cùng đến việc kiểm duyệt dân đinh không dự thi hoặc không trúng tuyển. Căn cứ vào sức khoẻ và tài sản, chia nhân đinh làm 6 hạng: tráng, quân, dân, lão, cô' và cùng. Trong đó tráng là những nhân đinh khoẻ mạnh có thể sung vào quân thường trực của nhà nước; quân là số nhân đinh hạng hai được ghi tên vào sổ quân để lúc cần đến thì chiếu sổ mà gọi. Trong hộ tịch từng xã ghi rõ Khách hộ (dân ngụ cư) và Chính hộ dân bản quán). Mỗi xã sao hộ tịch làm 4 bản: một gửi huyện, một gửi lên đạo thừa tuyên, một gửi lên Bộ Hộ và một gửi lên vua.

        Năm 1482, sau khi sổ hộ khắp nước đã làm xong và được chuyển tới kinh đô, vua Lê Thánh Tông lệnh cho quan 6 khoa, Bộ Lại, nho sinh Tú Lâm cục, các quan Bộ Hộ và quan Thừa ti đến chùa Báo Thiên (ở Thăng Long) và quán Hội Đồng cùng với các quan địa phương phủ, huyện khảo xét lại. Phải công nhận công việc quản lý nhân khẩu thời Lê Sơ là cẩn thận và khoa học. Sử gia Phan Huy Chú nhận xét: "Phép làm hộ tịch buổi Lê Sơ, từ Hồng Đức định rõ ràng mới thật là tươm tất. Ba năm một lần duyệt lại, kiểm xét không sót, cho nên dân đinh bấy giờ không thể ẩn lậu được mà công việc binh chính, tài chính cứ chiếu sổ là có thể biết được; không mắc các lệ quá nặng hay quá nhẹ, là do đã biết rõ được hộ khẩu rồi. Quy chế đã lấy thành nền nếp, trải các đời đều theo như thế, người trên cứ thế mà làm, không phiền nhiễu gì; người dưới cũng yên tâm, không ngờ vực gì; số người tăng lên hay hao đi không thể lọt được ra ngoài sự soi xét. Đó chẳng phải là phép hay ru!”1 (Phan Huy Chú, Sđd, tập III, tr.50).


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tám, 2016, 04:24:00 am

         Quản lý chặt đinh tráng có tác dụng để điều và tuyển binh dịch, huy động tạp dịch hoặc làm cơ sở phân cấp ruộng đất và thu tô thuế. Năm 1427, Lê Thái Tổ đã xuống chiếu: Kẻ nào lớn, khoẻ mà trốn ghi tên vào sổ quân và sổ dân, du thủ du thực, sẽ bị giải đến cửa quan chiếu tội. Ai bắt được kẻ ấy sẽ được thưởng tước. Trong 10 điều quân luật đầu đời Lê, có điều thứ 8 quy định: Tướng nào che 1 giấu cho người khác khỏi bị ghi tên vào sổ quân thì bị chém; quân và dân trong nước bắt những kẻ du thủ du thực và ham mê cờ bạc đem nộp để trị tội, ai chứa giấu bọn đó cũng bị tội nhưng nhẹ hơn một bậc. Năm 1470, Lê Thánh Tông ra chỉ dụ: Ai lậu tên trong sổ hộ tịch sẽ bị sung quân, con cháu quan viên ở diện đăng lính mà ẩn giấu, không trình lên thì kẻ ấy bị sung quân, còn người quan viên sẽ bị bãi chức. Quốc triều hình luật, bộ luật hình triều Lê thực hiện từ đời Hồng Đức, trong chương Hộ hôn có nhiều điều quy định nghiêm ngặt về việc xét định hộ khẩu, quản lý nhân đinh trong nước. Các điều 3, 4, 7, 15, 28, v.v... quy định nghiêm trị những kẻ vô tình hay hữu ý chứa chấp, che giấu, ẩn lậu dân đinh. Các quan sảnh, viện xét duyệt mà để sót hoặc cố ý bỏ qua cũng bị như kẻ tòng phạm. Các thuộc quan của các vương công tự tiện lấy dân đinh làm "thang mộc chạo tốt" thì bị phạt tiền và xử tội biếm... Điều 45 ghi rằng: "Các quan sảnh, viện trình sổ Điệu phát (sổ ghi tên người gọi ra tòng quân hay sai dịch) của các làng xã, chỉ khai tổng số xã mà không khai tên từng xã, thì xử phạt tiền 10 quan; nếu thay đổi sổ sách để ăn tiền thì phải ghép vào tội làm trái pháp luật. Thuộc lại thì xử tội đồ và bồi thường trả lại cho dân"1 (Quốc triều hình luật (Luật hình triều Lê), Nxb Pháp lý, H.1991. tr.125). Những điều quy định nói trên chứng tỏ triều Lê Sơ rất coi trọng việc quản lý nhân khẩu trong nước. Tóm lại, trong các triều đại từ Lý đến Lê Sơ, công việc lập hộ tịch, kiểm kê quản lý nhân đinh thường xuyên được tiến hành nền nếp, quy củ. Chính sách “Lập sổ hộ" bao hàm cả ý nghĩa kinh tế và quân sự, bảo đảm ổn định trật tự xã hội, đặc biệt nó luôn luôn gắn liền với vấn đề quân chê. Trên cơ sở quản lý nhân đinh, lập sổ đinh, Sổ quân hay sổ Điệu phát, chính quyền Đại Việt tiến hành tuyển lính và động viên quân đội.

        1.2. Tuyển mộ và động viên quân đội

        Trong các sách và sử cũ, hai sự kiện “Gộp làm sổ đinh" và "Tuyển đinh tráng sung vào quân ngũ” thường được chép liền nhau. Chứng tỏ một mục đích quan trọng của việc lập hộ tịch là tuyển quân. Trên cơ sở kiểm kê quản lý nhân đinh trong cả nước, các nhà nước Lý, Trần, Hồ và Lê Sơ đã tiến hành tuyển dân đinh làm lính để luyện tập, canh phòng lúc thời bình, chuẩn bị lực lượng quân sự cho thời chiến. Nhà nước Đại Việt quy định chế độ binh dịch đối với các đinh tráng. Tất cả đinh nam đến tuổi trưởng thành đều có nghĩa vụ đi lính, hoặc đã được ghi tên trong Sổ quân để lúc cần, nhà nước có thể "chiếu sổ gọi ra làm lính".

        a- Chế độ tuyển quân thời Lý - Trần - Hồ

        Theo sử cũ, mùa Xuân năm 1083, Lý Nhân Tông duyệt các Hoàng nam, định làm ba bậc, từ đó tuyển những Hoàng nam khoẻ mạnh làm lính. Năm 1118, triều đình tuyển 350 Đại hoàng nam sung vào các quân Ngọc Giai, Hưng Thánh, Vũ Đô và Ngự Long. Trong đợt tuyển Cấm quân đầu năm 1146, vua Lý Anh Tông lệnh cho các quan, các quản giáp và chủ đô chỉ được chọn nhân đinh ở hộ đông người, không được tuyển con nhà cô độc (nhà chỉ có một con trai). Năm 1160, nhà vua giao cho Tô Hiến Thành và Phí Công Tín phụ trách tuyển nhân đinh, những người khoẻ sung vào quân ngũ. Năm 1179, vua Lý Cao Tông xuống chiếu tuyển đinh nam, chọn những tráng đinh cho làm lính. Cuối triều Lý, lực lượng chống đối triều đình ngày một đông, năm 1207, Lý Cao Tông đã xuống chiếu chọn các Hoàng nam mạnh khoẻ sung quân, đặt dưới quyền cai quản của quan các lộ để "dẹp loạn". Vậy là những năm hoà bình, triều đình nhà Lý thường cho tuyển các Hoàng nam sung quân, lấy người trẻ khoẻ thay người già yếu. Số lượng tuỳ yêu cầu, để canh phòng và luyện tập võ nghệ. Số đinh tráng còn lại được ghi tên trong sổ bìa vàng - tức Sổ quân, lúc cần gọi ra tòng quân. Đó là lệ thường hằng năm của Nhà nước Đại Việt thời Lý. Phan Huy Chú viết: "Đại ước người trúng tuyển thì sung vào quân ngũ, người hạng kém thì biên vào sổ, có việc mới gọi ra, niên hạn mau chóng có lẽ không nhất định"1 (Phan Huy Chú, Sđd, Tập IV, tr.16).

        Sử sách không cho biết mỗi năm nhà Lý tuyển bao nhiêu quân và tổng số quân thường trực là bao nhiêu. Nhưng qua biên chế, thời Lý có vài chục đô quân hay vệ quân; mỗi đô có 100 người, mỗi vệ có 200 người. Ngoài số Cấm binh đó còn có Sương quân và quân các lộ, phủ. Tổng số quân thường trực thời Lý ở trung ương và ở các địa phương có khoảng từ 5 đến 7 vạn vào lúc hoà bình; thời chiến, nhà nước có thể huy động được một lực lượng lớn hơn nhiều; như trong giai đoạn kháng chiến chống Tống lần thứ hai (1075 - 1077), triều Lý có trên 10 vạn quân chủ lực tinh nhuệ. Tuy nhiên số lượng quân thường trực 5 - 7 vạn nói trên không phải thường xuyên tại ngũ. Trong đó, Cấm quân là lính chuyên nghiệp, hưởng lương và phải túc trực bảo vệ kinh đô, sử gọi họ là quân trong Kinh; còn Ngoại binh (sương quân và quân các lộ) thì được luân phiên thay nhau tại ngũ canh gác và luyện tập hoặc trở về sản xuất tự túc lương ăn. Ngô Thì Sĩ cho biết: "Chế độ binh lính nhà Lý... mỗi tháng lên cơ ngũ một lần, gọi là đi canh, hết hạn lại cho về quê làm ruộng, quan không phải cấp lương"1 (Ngô Thì Sĩ, Việt sử tiêu án, bản dịch, Văn hoá Á châu xuất bản. 1960, tr.127). Đó là chính sách đối với phần lớn số binh lính được tuyển mộ và trưng dụng dưới triều Lý.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tám, 2016, 04:24:36 am

        Quân đội nhà Lý được quản lý chặt chẽ và chịu sự quy định nghiêm ngặt của pháp luật. Quân sĩ ai bỏ trốn quá một năm thì xử 100 trượng, thích vào mặt 50 chữ, chưa đến một năm thì xử theo mức độ nhẹ hơn, kẻ nào quay lại thì cho về đơn vị cũ. Quân lính ai không theo xa giá cũng xử trượng như thế và thích vào mặt 10 chữ.

        Nhà Trần kế thừa quy chế tuyển quân hằng năm của nhà Lý. Quy chế chung của nhà nước là: "Người có quan tước, con cháu được thừa ấm mới được vào làm quan; người khoẻ mạnh kể cả nhà giàu có mà không có quan tước thì sung quân, đời đời làm lính"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập II, tr.9). Quy chế này thể hiện tính giai cấp rõ ràng, nó nhằm bảo vệ quyền lợi của giới quý tộc quan lại nhà Trần. Các cấp chính quyền khi tuyển lính và động viên quân đội đều phải thực hiện theo nguyên tắc trên. Tuy tư liệu không cho biết cụ thể về quy chế tuyển quân, nhưng chúng tôi thấy, trải các đời vua, nhà Trần đều chủ trương chọn những đinh tráng hạng nhất sung làm Cấm quân, thứ đến là Sương quân, quân phục dịch ở các sảnh, viện và quân các lộ, phủ. Những trai tráng ở Thiên Trường, Long Hưng, Kiến Xương, Trường Yên... tức những lộ là quê hương bản quán nhà Trần hoặc những lộ phụ cận đều được tuyển làm Cấm vệ quân. Đó là hạng quân tin cậy, canh giữ cấm thành hay thủ phủ Thiên Trường - nơi vua và thượng hoàng ở. Về chế độ tuyển binh thời Trần, sách An Nam chí lược viết: "Việc tuyển quân không có số nhất định, chỉ chọn dân đinh nào khoẻ mạnh thì lấy"2 (Lê Trắc, An Nam chí lược, bản dịch, tư liệu Viện Lịch sử quân sự, tr.89), sách Đại Việt Sử ký toàn thư phản ánh các đợt tuyển quân như sau:

        - Tháng 3, niên hiệu Thiên ứng Chính Bình năm thứ 8 (1239) đời vua Trần Thái Tông, chọn dân đinh người khỏe mạnh sung làm binh; định ra ba bậc: thượng, trung, hạ.

        - Mùa Xuân, tháng 2 năm Tân Sửu (1241), chọn người có sức khoẻ, am hiểu võ nghệ sung làm quân Túc vệ thượng đô.

        - Tháng 2 năm Bính Ngọ (1246) định các quân. Chọn người khoẻ mạnh sung làm quân Tứ Thiên, Tứ Thánh, Tứ Thần. Người các lộ Thiên Trường, Long Hưng sung làm quân Thiên Thuộc, Thiên Cương, Chương Thánh và Củng Thần bên trong; người hai lộ Hồng và Khoái sung làm quân tả, hữu Thánh Dực; người các lộ Trường Yên, Kiến Xương sung làm quân Thánh Dực, Thần Sách; còn các lộ khác thì sung làm Cấm quân của Cấm vệ, tam đẳng thì sung làm trạo nhi (quân chèo thuyền, khiêng võng) và các đoàn đội quân địa phương).

        - Tháng 2 năm 1281, Trần Thánh Tông cho chọn dân đinh các lộ, người nào khoẻ mạnh thì sung làm binh, còn thì sung làm sắc dịch ở các sảnh viện, cục và đội tuyển phong ở các phủ, lộ, huyện.

        - Năm 1323, vua Trần Minh Tông cho tuyển những đinh nam béo trắng cho làm binh hạng nhất, vì thế quân sĩ từ đây không thích vẽ hình lên mình nữa.

        - Năm 1342, Trần Dụ Tông sai Nội mật viện phó sứ Nguyễn Trung Ngạn lập sổ quân và dân, chọn đinh tráng ở các lộ sung vào ngạch thiếu của Cấm quân.

        - Tháng 2-1363, vua lại xuống chiếu chọn dân đinh sung vào quân các lộ.

        - Năm 1374, vua Trần Duệ Tông hạ lệnh chọn dân đinh chia thành ba hạng để sung quân ngũ. Hạng nhất làm quân Lan Đô; người thuộc hạng nhì, hạng ba tuy thấp bé nhưng khoẻ mạnh cũng sung làm quân đó. Bấy giờ quân lính ai cũng phải xăm trán để ghi dấu, như quân Túc vệ Tứ Thiên, Tứ Thánh, Tứ Thần thì trán xăm hoa; quân mới đặt như Uy Tiệp, Bảo Tiệp, Long Dực, Thần Dực và Điện Hậu thì xăm trán đồ đen...

        - Năm 1375, Khu mật đại sứ Hồ Quý Ly được cử làm tham mưu quân sự. ông chủ trương định lại quân số, thải người già yếu, lấy người khoẻ mạnh bổ sung vào. Người Thanh Hoá, Nghệ An đi làm thuê đều phải nhập ngũ.

        - Năm 1378, dưới thời Phế Đế, nhà Trần ra lệnh tuyển quân, một lần nữa tuyển các dũng sĩ cai quản các quân: Trần Tông Ngoạn quản quân Thiên Đinh, Trần Trung Hiếu giám quân Bảo Tiệp, Trần Thế Đăng giám quân Thần Dực, Bùi Bá Nang giám quân Thần Sách, Bùi Hấp giám quân Thiên Uy, Hoàng Phụng Thế giám quân Thánh Dực, Lê Mật ôn giám quân Hoa Ngạch, Đỗ Dã Kha giám quân Thị Vệ, Nguyễn Tiểu Luật giám quân Thiên Trường, Trần Na giám quân Long Tiệp, Nguyễn Kim Ngao giám quân Thần Vũ. Cuối năm đó, lại tuyển trong quân những người giỏi võ nghệ làm vệ sĩ hoàng thành và cử Nguyễn Bát Sách quản quân Thiết Sang, Nguyễn Vân Nhi quản quân Thiết Giáp, Nguyễn Hộ và Lê Lặc quản quân Thiết Lâm, Nguyễn Thánh Du quản quân Thiết Hổ, Trần Quốc Hưng quản quân Ô Đồ, v.v...1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Nxb Khoa học xã hội, H.1993, tr.18, 158).


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tám, 2016, 04:25:03 am

        Pháp luật nhà Trần rất nghiêm trong việc quân lính đào ngũ, trốn tránh. Sử chép rằng: "Pháp chế đời Trần quy định người trốn lính bị chặt một ngón chân, sau đó bắt làm gì thì làm, thậm chí còn cho voi giày chết"2 (Phan Huy Chú, Sđd, Tập IV, tr.27).

        Sử sách xưa chỉ phản ánh một phần về biên chế tổ chức và quy chế tuyển lính. Tuy nhiên số quân các đời vua Trần tuyển được bao nhiêu, ta không biết rõ. Phan Huy Chú nhận xét: "Quy chế Cấm binh đời Trần, Thái Tông đã định, về sau đặt thêm mãi, số quân không xét rõ được. Đại yếu chỉ đặt thêm danh hiệu, chứ thực số vị tất đã nhiều hơn trước"1 (Phan Huy Chú, Sđd, Tập IV, tr.12). Nhận xét đó có lẽ đúng trong hoàn cảnh nước Đại Việt không có chiến tranh. Theo ông, "số quân buổi đầu nhà Trần đại ước không đầy 10 vạn"2 (Phan Huy Chú, Sđd, Tập IV, tr.12). Đó là số quân thường trực thời bình. Số lượng quân được chia phiên về sản xuất theo chính sách Ngụ binh ư nông và lực lượng dự bị ở các làng xã là bao nhiêu cũng không biết rõ. Chính sách chia phiên cho quân lính tại ngũ hay về làm ruộng thời kỳ này được phản ảnh trong sách Lịch triều hiên chương loại chí như sau: "Nhà Trần theo phép nhà Lý, binh túc vệ được cấp bổng hằng năm, số bổng bao nhiêu không rõ. Còn binh các đạo thì đều chia phiên về làm ruộng, cho đỡ tốn lương"3 (Phan Huy Chú. Sđd. Tập IV, tr.5. 20). Các loại quân có từ thời Lý, sang thời Trần được tiếp tục phát triển cả về số lượng, cả biên chế tổ chức và trang bị. Thời bình quân số không đông lắm, một bộ phận thay nhau về sản xuất. Thời chiến quân số được động viên tăng lên theo nhu cầu. Lúc cao điểm của cuộc chiến tranh chống xâm lược Mông - Nguyên, quân số Đại Việt có thể lên tới 30 - 35 vạn hay nhiều hơn nữa.

        Sang thời Hồ, do nhu cầu chống giặc phương Bắc xâm lược, cha con Hồ Quý Ly rất quan tâm chuẩn bị lực lượng quân đội, tăng cường về quân số và tổ chức để đánh giặc. Cùng với biện pháp hạn điền và hạn nô, việc kiểm kê nhân khẩu được tiến hành ráo riết và nhân đinh được quản lý chặt để cung ứng cho quân đội; một bộ phận gia nô và công nô được chọn sung vào quân Điện Tiền. Do đó số quân thời Hồ tuyển được gấp bội so với trước. Một mặt, Hồ Quý Ly ra lệnh tuyển đinh tráng thay lính già yếu, mặt khác đặt thêm nhiều tổ chức mới như đô quân, đoàn quân... Theo sách Toàn thư, năm Thiệu Thành thứ hai (1402), nhà Hồ xét định quân ngũ, số quân mới tuyển được rất nhiều. Những đinh tráng nhà nghèo được sung làm quân Trợ dịch, sau đổi làm quân Bồi vệ, chia làm tả hữu, dùng tên cầm thú để đặt quân hiệu, cho quan võ và người tôn thất cai quản. Năm sau (1403), Hồ Hán Thương đem những người không có ruộng mà có của đến các châu ở Thăng Hoa biên làm quân ngũ, thích hai chữ tên châu vào cánh tay như Thăng Châu, Hoa Châu, Nghĩa Châu và Tư Châu (Quảng Nam - Đà Nẵng); cho phép vợ con đi theo và lệnh cho quan các châu, phủ ở đó phân đất cho họ. Hán Thương cho củng cố quân bộ, tăng cường quân thuỷ, lập xưởng rèn đúc vũ khí và tuyển chọn những người giỏi công nghệ trong cả nước cho làm lính thợ. Sau lần đánh tan đạo quân Minh sang xâm lược đợt đầu (6-1406), Hồ Hán Thương cho rằng quân giặc thua một trận tất lại kéo sang nên đã hạ lệnh tăng cường binh lực và bố phòng đất nước. Một mặt cho đóng cọc gỗ ở phía nam sông Nhị Hà nối tiếp nhau hơn 700 dặm, mặt khác cho phép ai có phẩm tước chiêu mộ những người trốn tránh phiêu lưu thành lập các "đội quân dũng hãn", đặt quan Thiên hộ và Bách hộ để cai quản, ra lệnh bổ thêm lương binh, lấy người có phẩm tước coi giữ. Nhờ những cải cách quân sự và những biện pháp tích cực trên đây, nhà Hồ đã có một đạo quân lớn cả về quân số, tổ chức và trang bị. Đó là một bước tiến đáng kể của quân đội Đại Việt thời Hồ so với giai đoạn cuối Trần.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tám, 2016, 04:25:36 am

        b- Chế độ tuyển quân thời Lê Sơ

        Sau khi đánh thắng quân Minh, giành được độc lập, Lê Thái Tổ tiến hành tổ chức chính quyền và quân đội chính quy Giữ lời hứa trước đây với nghĩa quân trong số 35 vạn quân còn lại sau chiến tranh, nhà vua chọn giữ lại 10 vạn, còn cho về với gia đình và đồng ruộng. Chế độ tuyển quân được thực hiện nhằm chọn những đinh nam trẻ khoẻ thay thế số quân cũ già yếu. Một quy chế mới về binh dịch đã được ban hành. Theo quy định: "Một nhà ba người thì lấy một làm quân, phú dịch tha cho ba năm"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập III, Nxb Khoa học xã hội, H.1967, tr.36, 66). Tháng 12 năm 1428, nhà vua chỉ huy cho các quan võ: "Người nào đã đem vợ con ẩn tránh ở núi rừng để cùng trẫm mưu lo việc nước, từ Mường Thôi, Bồ Đằng, Chí Linh, Khả Lam, thì hoặc con hoặc cháu đều được miễn dịch quân dân. Nếu đã làm quan thì không thuộc lệ này. Con cháu anh em nào không thuận đạo mà quên nghĩa, cầu an hàng giặc thì không được nhận. Ai làm trái thì xử biếm hay bãi"2 (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập III, Nxb Khoa học xã hội, H.1967, tr.36, 66).

        Kế nghiệp Thái Tổ, vua Lê Thái Tông hằng năm vẫn ra lệnh tuyển quân. Năm 1434, nhà vua sai Tư đồ Lê Sát, Tư khấu Lê Ngân, Tư mã Lê Liệt và Lê Bôi tuyển lựa đinh tráng các đạo. Các danh sắc như viên tử là con các quan văn võ, từ lục phẩm trở lên, các giám sinh Quốc Tử Giám, các sắc dịch, các công nô và tư nô có thích chữ ở trán do nhà vua ban, đều được ở diện miễn lính. Nếu là quân Ngự Tiền Võ Đội và quân Thiết Đột mà có từ một đến ba con trai thì một được miễn binh dịch, đối với các gia đình quân, dân thường có từ ba con trở lên cũng chỉ được miễn một người, còn đều phải chịu nghĩa vụ binh dịch. Trước khi đại tập quân đội, nhà vua thường ra lệnh tuyển dân đinh bổ sung quân ngũ. Vua Lê Nhân Tông cũng rất coi trọng sổ hộ tịch và tuyển quân. Mùa Xuân năm 1444, nhà vua cho tuyển đinh tráng bổ sung vào quân ngũ. Tử năm 1449, ấm trạch cho con cháu các quan được mở rộng cả trong chế độ nghĩa vụ binh dịch. Lệ cũ, quan từ lục phẩm thì con được miễn; đến đây cả cháu nội quan lục phẩm, con trai quan thất, bát phẩm đều được miễn binh dịch; các hoạn quan được phép chọn một người thân thích miễn lính.

        Từ năm 1470, trên cơ sở chế độ hộ tịch "tiểu điển" và "đại điển", Lê Thánh Tông định lệ tuyển nhân đinh làm lính. Nhà có ba người thì một bổ sung vào hạng lính (quân thường trực); một người cho vào hạng quân quan dự bị). Lúc thường có tên trong Sổ quân, ở nhà sản xuất, khi cần nhà nước chiếu sổ gọi ra làm lính. Còn một người thuộc hạng dân, được miễn binh dịch. Nhà có 5 - 8 đinh trỏ lên thì 2 người bổ vào hạng lính, 1 bổ vào hạng quân, còn lại là hạng dân. Con cháu các quan hàm thất, bát phẩm thì tuyển lính như bách tính; đối với các quan khác thì trừ số học nhiêu, còn tuyển sung quân Tuấn sĩ vệ Cẩm Y hay quân Vũ Lâm.

        Từ năm 1477, con cháu của người tước Công, Hầu, Bá; con trưởng các quan văn võ, ai chăm học thì sung vào Sùng Văn quán, ai thích võ nghệ thì cho học ở vệ Cẩm Y để thi làm võ úy. Tháng 3 năm 1486, nhân một kỳ tuyển quân, vua Lê Thánh Tông ban hành Điều lệ Hồng Đức quân vụ, gồm 27 điều, trong đó có ba điều bổ sung cho lệ tuyển binh năm 1470. Theo các điều lệ này thì đối tượng tuyển lính thời Lê Sơ chủ yếu là nông dân, địa chủ trong các dịa phương, những thợ thủ công và thương nhân, con cái quân nhân và quan lại không biết chữ. Những người được miễn tuyển là con cháu các quan lại đương chức từ lục phẩm trở lên, hoặc bản thân người đó là quan viên, chức dịch, học sinh Quốc Tử Giám, một số quan nô và tư nô do vua ban hoặc con cháu nhà cô độc (nhà chỉ có một con trai). Sách Toàn thư có ghi một trường hợp đặc biệt dưới thời Lê Sơ miễn tuyển lính cho bản thân và con cái của những người giàu có nhiều thóc dâng nộp cho nhà nước. Đó là trường hợp tháng 8 năm 1460, sau khi phế truất Nghi Dân, triều đình cần có một số lớn lương thực, đã cho phép người giàu tình nguyện dâng nộp thóc để có quan tước và được miễn tuyển lính. Người nộp 70 hộc được thưởng 1 tư và miễn tuyển; nộp từ 100 - 200 hộc thì được làm quan tòng bát phẩm đến chánh nhất phẩm, nhàn tản, con cái họ cũng được miễn tuyển lính1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập III, Sđd, tr.176).

        Thời Lê Thánh Tông, các quy chế, luật lệ về tuyển lính được bổ sung hoàn chỉnh. Do nhu cầu phát triển của nhà - nước quân chủ chuyên chế, nhu cầu quốc phòng và nâng cao chất lượng quân đội, những quy định về tuyển chọn và miễn trừ chặt chẽ hơn các đời trước. Nhà nước mở rộng diện miễn tuyển, nhất là đối với diện nho sinh giỏi. Bản thân vua Lê Thánh Tông vốn tài giỏi, yêu thích văn chương, muốn thu hút được nhiều nhân tài và những người đỗ đạt trong các địa phương; cho nên trong 7 loại nhân đinh được phân hạng thì các quan viên và các học nhiêu chưa phải là đối tượng tuyển quân. Không kể hạng lão nhiêu và những người tàn tật, trong số những đinh tráng từ 18 tuổi đã được ghi trong sổ, trước hết nhà nước tuyển những đinh tráng khoẻ mạnh nhất làm lính, số còn lại cho thuộc hạng quân đã được ghi tên vào sổ, bình thường vẫn là nông dân, lúc cần huy động thì chiếu sổ mà gọi. Khi điều kiện kinh tế và xã hội cho phép, nhà vua còn mở rộng diện miễn tuyển cả đối với nông dân - tầng lớp đông đảo và đóng góp nhiều nhất trong sự nghiệp giữ nước; đó là một số trường hợp đối với cha con, anh em trong một gia đình hoặc các nho sinh nghèo phải đi làm thuê làm mướn được các đô ti ở thừa tuyên công nhận.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tám, 2016, 04:26:08 am

        Phan Huy Chú viết về chế độ lập Sổ quân và tuyển lính đời Hồng Đức như sau: "Hạng lính thì kê riêng. Những người phiêu lưu trốn biệt thì bỏ ra ngoài sổ. Trưởng thành đến 18 tuổi thì vào sổ. Trước hết tuyển những cường tráng làm lính, rồi đến dân tráng sung vào hạng quân, ở nhà làm ruộng, khi nào thải người già yếu thì chiếu sổ theo thứ tự lấy bổ sung vào. Cứ mở sổ mà lấy binh, không cần đòi bắt mà có đủ ngay... Phép tuyển binh đời Hồng Đức rất rõ ràng chu đáo. Bấy giờ dân đinh không ai sót tên trong sổ mà số binh thường có nhiều, là vì kén lựa được đúng số. Ba năm một lần xét lại, tưởng như phiền phức, nhưng quy chế đã nhất định, dân cũng yên lòng"1 (Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, Tập IV, Sđd, tr.17). Chế độ binh dịch thời kỳ này đã minh bạch, hợp lý và công bằng nên Phan Huy Chú mới có nhận xét như vậy.

        Đối với Cấm binh, lính thị vệ bảo vệ trong cấm thành, Nhà nước Lê Sơ có chế độ tuyển chọn riêng, với những tiêu chuẩn cao hơn; ngoài sức vóc còn chú ý về phẩm chất, lòng trung thành của họ. Thường đó là lớp con em trong những gia đình giàu có, là những người đã trải qua rèn luyện, trưởng thành trong quân ngũ, là con em của các võ quan, của Cấm quân, con cháu các công thần, quan lại cao cấp được hưởng quyền tập ấm. Tóm lại, đó là những người có quyền lợi gắn liền với giai cấp thững trị, hàng ngũ quý tộc phong kiến.

        Ngoài các nguồn cung cấp binh lính kể trên, Nhà nước Đại Việt còn sử dụng một nguồn nhân lực khác làm binh, đó là những kẻ phạm tội. Tuy nhiên số đó được biên chế trong những đơn vị không quan trọng của quân đội, có thể là lính lao dịch hay sản xuất, có khi là những đơn vị đóng ở những vùng đất phía Nam mới khai phá. Năm 1474, Lê Thánh Tông ra sắc chỉ rằng: "Đối với các tù bị tội lưu, người lưu châu gần thì sung quân ở vệ Thăng Hoa, lưu châu ngoài thì sung ở vệ Tư Nghĩa, lưu châu xa thì sung ở vệ Hoài Nhân. Kẻ được tha tội chết thì lưu ở vệ Hoài Nhân"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập III, Sđd, tr.252. 253, 264, 279). Cũng trong năm đó, nhà vua lại ra sắc chỉ: "Lại viên các nha môn tự tiện về nhà thì đồ khao đinh, sung quân"2 (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập III, Sđd, tr.252. 253, 264, 279). Năm 1479, vua ra lệnh: "Các quan viên lười biếng, bỉ ổi, đê tiện, yếu hèn, nếu là con cháu công thần thì bãi chức cho về hạng dân, nếu là con cháu thường dân thì bãi chức, sung quân"3 (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập III, Sđd, tr.252. 253, 264, 279). Để buộc các nho sinh, sinh đồ phải luôn chăm chỉ học tập, cố lập thân bằng con đường khoa cử, nhà nước quy định rằng: “Học sinh tam xá (Thượng xá, Trung xá và Hạ xá) mà ở tản mát thì quan phụ trách trừng trị phạm lỗi, phạm nhiều lần thì tâu lên để sung quân”. Đến năm 1483 lại có sắc chỉ: "sinh đồ từng thi Hương mà không trúng kỳ nào thì phải sung quân; trúng một lần thì về làm dân chịu phú dịch như lệ. Sinh viên Tăng quan đường mà thi Hội không trúng thì sung quân..."4 (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập III, Sđd, tr.252. 253, 264, 279). Chỉ riêng những tướng hiệu phạm tội thì sung vào Ngự Tiền võ đội được ở trong thành Thăng Long, còn lại phải sung vào những đạo quân ở xa hay binh lính lao dịch. Trong các chương Vệ cấm, Vi chế, Quân chính, Hộ hôn, Điền sản, Đạo tặc, v.v... của Quốc triều hình luật có nhiều điều quy định những ai phạm tội nhẹ thì xử đồ làm "Tượng phường binh" hay "Chủng điền binh" tức làm lính nuôi voi hay binh lính sản xuất. Đó là những hình phạt đặc biệt hay những hình thức tuyển lính độc đáo thời Lê Sơ. Phải chăng thời đó việc tổ chức, quản lý và giáo dục trong quân đội đã chặt chẽ, đủ mạnh để có thể cải tạo những kẻ lỗi lầm, phạm pháp "cải tà quy chính", hay bấy giờ trong quân đội có một tổ chức như nhà tù hoặc một hình thức tương tự để giam giữ tội nhân?

        Nhà nước quy định những luật lệ nghiêm cấm hoặc trừng phạt tội ẩn giấu, bán thả quân nhân. Điều thứ 8 trong Mười điều quân luật buổi đầu thời Lê Sơ có quy định: Tướng hiệu nào bán thả quân nhân thì bị tội chém1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập III, Sđd, tr.37). Năm 1426, Lê Thái Tổ hạ lệnh cho các quan phủ, huyện, lộ tiến hành điều tra và tịch thu sung công ruộng đất của lính trốn. Năm 1467, Lê Thánh Tông ra chỉ dụ cho các quan trấn thủ và phó tổng binh các vệ ở Yên Bang, Lạng Sơn, Tuyên Quang rằng: "Các ngươi coi giữ chức vụ chống giừ biên cương, nên phòng bị những sự không ngờ để ngăn chặn giặc ngoài cần phải bảo các tướng hiệu, răn dạy quân nhân không được quen thói cũ trốn về bỏ phế chức vụ2 (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập lll, Sđd, tr.215). Điều 23 của Luật Quân chính thời Hồng Đức ghi rằng: “Những quân lính tại ngũ mà bỏ trốn thì bị tội đồ làm Tượng phường binh; tái phạm thì xử tội lưu; người chứa lính trốn thì bị xử tội đồ làm khao đinh; quan xã dung túng mà không bắt thì tội nhẹ hơn người lính trốn một bậc; quan lộ, quan huyện không biết thì phải biếm hay cách chức. Nếu người lính ra tự thú tội thì được giảm tội và phải nộp số tiền khoá dịch sung công ấy"1 (Quốc triều hình luật, bản dịch, Sđd, tr.107). Chính nhờ những chế độ nghiêm ngặt như trên, Nhà nước Lê Sơ đã có một đội quân thường trực hùng mạnh, đã bảo vệ được hoà bình trong một thời kỳ dài lâu.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tám, 2016, 04:26:41 am

        Thời Lê Sơ thực hiện chính sách Ngụ binh ư nông mở rộng hơn thời Lý, Trần. Chế độ luân phiên được thực hiện đến cả Cấm quân - tức loại quân đóng ở kinh thành mà dưới các thời Lý, Trần đều phải thường xuyên túc trực tại ngũ. Đời Lê Thái Tổ, từ quân Ngự Tiền đến quân các đạo, phủ và trấn đều được chia phiên. Đời Lê Nhân Tông, cả quân Ngự Tiền Võ Đội cũng được chia phiên. Đặc biệt đến đời Lê Thánh Tông mở rộng diện chia phiên cho tất cả các loại quân. Đời Lê Thái Tổ quân lính chia thành 5 phiên, 1 phiên tại ngũ, còn 4 phiên trở về sản xuất. Đời Lê Nhân Tông, quân Ngự Tiền Võ Đội chia làm 3 phiên, 1 phiên ở lại canh phòng và luyện tập, còn lại về sản xuất. Đời Lê Thánh Tông, ngoại binh vào ngày rằm hằng tháng lên điểm mục để canh phòng và luyện tập; quân ở các sảnh, viện, cục và lính thợ đến ngày mùa đều được chia làm hai, một nửa túc trực làm việc, còn một nửa cho về thu hoạch, cấy cày.

        Do chính sách chia phiên trên đây nên số quân thường trực thời Lê Sơ khoảng từ 10 - 16 vạn, tuỳ theo từng giai đoạn khác nhau. Ngoài số đó, lực lượng dự bị rất hùng hậu, cho phép nhà nước nhanh chóng huy động được một lực lượng quân đội lớn mạnh lúc cần thiết. Theo sách Toàn thư, năm 1446, Lê Thánh Tông huy động được 60 vạn quân (?) đặt dưới quyền chỉ huy của hai đô đốc Lê Thụ và Lê Khả cùng thiếu phó Lê Khắc Phục đi đánh Chiêm Thành, vì bấy giờ vua Chiêm là Bí Cai đã hai lần đem quân xâm phạm biên giới. Năm 1470, nhà vua đã huy động được 26 vạn quân đi hỏi tội vua Chiêm Trà Toàn đã đánh châu Hoá. Tháng 8 năm 1479, lấy lý do Ai Lao và Bồn Man câu kết chống Đại Việt, Lê Thánh Tông đã điều động 18 vạn quân và cử phò mã Đô úy Trịnh Công Lộ làm Chinh di tướng quân, Đô đốc đồng tri Lê Vĩnh làm phó tướng theo 5 đường tiến đánh. Tháng 12 năm ấy, nhà vua lại sai Kỳ quận công Lê Niệm chỉ huy 30 vạn quân đánh Bồn Man... Những sự kiện trên chứng tỏ tiềm lực quân sự cũng như khả năng huy động quân đội của triều chính Lê Thánh Tông vào những thời điểm đất nước có chiến tranh là rất lớn.

        Như vậy, vấn đề tuyển mộ và động viên quân đội là một nội dung quan trọng của Binh chế Đại Việt, một vấn đề được các vương triều phong kiến nước ta từ thời Lý đến Lê Sơ hết sức coi trọng. Chế độ quản lý nhân đinh có ý nghĩa trên nhiều lĩnh vực: chính trị - an ninh xã hội, kinh tế và quân sự. Trên cơ sở làm hộ tịch, phân hạng nhân đinh, lập sổ vàng nam và Sổ quân, chính quyền nhà nước có điều kiện thuận lợi để điều động nhân lực, tuyển chọn và động viên quân đội. Những quy chế về chế độ tuyển mộ và động viên binh lính trong thời bình cũng như lúc chiến tranh của các triều đại trên nói chung là tươm tất, rõ ràng, bảo đảm tận dụng được nhân đinh trong quá trình thực hiện nghĩa vụ binh dịch. Khi chính quyền nhà nước càng hoàn thiện, chế độ quân chủ chuyên chế càng chặt chẽ và chính quy. Tất nhiên đó là những chính sách, những quy định của nhà nước quân chủ chuyên chế, trước hết phục vụ cho quyền lợi của giai cấp thống trị, bảo vệ vương quyền; những chính sách ấy cũng chứa đựng những hạn chế về điều kiện lịch sử - xã hội... Nhưng khi nhà nước hoặc giai cấp cầm quyền còn đóng vai trò tích cực thì các chính sách nói trên còn chứa đựng những nội dung tiến bộ, hợp với lòng người, với nhu cầu và lợi ích dân tộc. Những quy định ngày một hoàn thiện trên lĩnh vực này vừa bảo đảm cho nước Đại Việt có quân đội đủ mạnh, có số lượng quân thường trực hợp lý, có nguồn nhân lực dự trữ dồi dào và khả năng nhanh chóng huy động đông đảo quân đội khi cần thiết, vừa bảo đảm sự công bằng, yên lòng dân, ổn định xã hội. Có thể coi đây là một phép hay của Binh chế trong giai đoạn lịch sử trung đại nước ta.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tám, 2016, 04:27:13 am
        2. Chế độ tuyển dụng võ quan, tướng lĩnh

        2.1. Quan điểm và tiêu chuẩn tuyển dụng

        Những nhà chủ trì quốc gia Đại Việt thường xuyên coi trọng vai trò của người tướng. Binh thư yếu lược viết: "Nước lấy binh làm gốc, binh lấy tướng làm gốc, quân lấy tướng làm chủ” và "cái đạo mạnh binh để chiến thắng cốt yếu có 5 điều: 1. Sửa sang binh khí, 2. Có đủ quân lính và xe cộ, 3. Súc tích nhiều, 4. Rèn luyện sĩ tốt. 5. Kén được tướng giỏi"1 (Binh thư yếu lược (Phụ Hổ trướng khu cơ), bản dịch. Nxb Khoa học xã hội, H.1977, tr.31 - 50). Lê Lợi khẳng định đằng: "Được thua quan hệ ở tướng, chứ không phải ở đông với ít". Lê Lợi và Nguyễn Trài viết trong thư gửi tướng Vương Thông rằng: "Tôi nghe, thiên hạ được yên hay phải nguy, sinh dân bị họa hay hưởng phúc, thực do ở việc binh, mà binh quyền giữ lấy hay bỏ, cho hay cướp lấy, quan hệ ở người làm tướng. Cho nên có câu nói rằng: "Tướng là người giữ vận mệnh của quân"2 (Nguyễn Trài toàn tập, Sđd, tr.183). Vua Lê Thái Tông khẳng định trong một bài chế gửi tướng thần có công rằng: "Quyền giữ việc quân là quyền lớn của nước". Lê Thánh Tông cũng nói: "Giữ việc quân quốc là một trách nhiệm quan trọng"3 (Phan Huy Chú, Sđd, Tập I, tr.254), “người tướng ở nơi biên khổn chức trách rất là trọng. Triều đình trông cậy không khác gì cái phên cái dậu bảo vệ trong nước"4 (Quốc sử quán triều Nguyễn, Việt sử thông giám cương mục. Chính biên, bản dịch, Tập XI, Nxb Văn Sử Địa, H.1959, tr.33). Những điều đó chứng tỏ, ông cha ta rất coi trọng việc quân, đánh giá cao vai trò của các võ quan, tướng lĩnh; luôn coi người tướng là trụ cột của nước nhà.

        Tiêu chuẩn quan trọng nhất để chọn tướng của ông cha ta là Đức và Tài. Đức trước hết là lòng nhân nghĩa, là sự trung thành và lòng yêu nước. Trong Hịch tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn nhấn mạnh, người tướng phải xứng đáng là một "trung thần nghĩa sĩ', "dĩ thân tuẫn quốc". Lê Lợi - Nguyễn Trài cho rằng: "Đạo làm tướng phải lấy nhân nghĩa làm gốc, trì dũng làm cành", "danh tướng cốt ở trọng nhân nghĩa", "phàm mưu việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm đầu” và phải "vì nước hết trung, tôn vua theo nghĩa"1 (Nguyễn Trãi toàn tập, in lần thứ hai, Nxb Khoa học xã hội, H.1974, tr.143). Lê Thái Tông nói: "Đạo làm tôi cốt yếu hai điều: trên thì yêu vua, dưới thì yêu dân. Yêu vua phải hết lòng trung, yêu dân phải hết lòng thành mà thôi", "các trang tướng giỏi đối với vua hết đạo làm tôi, vì nước quên nhà"2 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập III, tr.80). Vua Lê Thánh Tông khen ngợi tướng quân Nguyễn Xí: "Giúp tiên khảo lúc thủ thành một lòng phò tá; trong ngoài hết chức phận làm quan văn tướng võ, trước sau giữ trọn tiết làm tôi”3 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập I, tr.239). Cùng với Đức là Tài, một yêu cầu không thể thiếu ở người làm tướng. Đặc biệt để chống lại những kẻ thù hùng mạnh và xảo quyệt "đánh như tằm ăn, không cần của dân, không cầu được chóng” thì như Trần Quốc Tuấn nói phải chọn dùng tướng giỏi và quyền biến. Lê Lợi, Nguyễn Trái cho rằng, người tướng phải gồm đủ các phẩm chất: trung thành, nhân nghĩa, tài trí và dũng cảm. Đó là những quan điểm tiến bộ. Tuy nhiên trong điều kiện bấy giờ, quan điểm người tướng vẫn bị hạn chế bởi ý thức hệ phong kiến, bởi tính chất thời đại, đặc biệt vào buổi cuối Trần và Lê Sơ, khi mà Nho giáo được giai cấp phong kiến Đại Việt sử dụng như ý thức hệ của mình. Dẫu sao, trong thời kỳ nhà nước phong kiến đương lên, giai cấp phong kiến còn đóng vai trò tích cực thì những quan điểm của họ cũng gắn liền với lợi ích dân tộc, hợp lòng người.

        Sử liêu không phản ánh các quy chế về tuyển chọn võ quan, tướng lĩnh thời Lý. Nhưng qua hiện tượng vua Lý sử dụng Lê Phụng Hiểu, Ngô Tuấn (Lý Thường Kiệt)... làm tướng và phong đến chức Đô thống Thượng tướng quân hay Phụ quốc thái úy, chứng tỏ thời Lý rất coi trọng tài năng quân sự và những người lập công. Việc chọn các quan giữ chức Thái úy như Lý Thường Kiệt, Tô Hiến Thành, Đỗ Anh Vũ, Phùng Tá Chu, v.v... cũng phản ánh điều đó. Theo Toàn thư, năm 1077, sau cuộc chiến tranh chống Tống thắng lợi, Lý Nhân Tông ra lệnh: "Cất nhắc những người hiền lương có tài văn võ cho quản quân dân"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập I, tr.28). Năm 1160, vua Lý Anh Tông sai Tô Hiến Thành tuyển lính và chọn trong tướng hiệu người nào tinh thông binh pháp và thạo võ nghệ làm tướng2 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập I, tr.28).

        Trần Quốc Tuấn trước khi mất đã căn dặn vua Anh Tông về kế sách giừ nước là phải "dùng được người hiền lương", "phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến như đánh cờ, tuỳ thời mà làm, có thu được quân lính như cha con một nhà thì mới dùng được"3 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập II, tr.80. 51). Người tướng mà Trần Quốc Tuấn yêu cầu phải có lòng trung, công minh, chính trực, phải có tấm lòng "phụ tử" với binh sĩ. Quan điểm "bạt dụng lương tướng" của ông đã được triều đình nhà Trần vận dụng trong quá trình xây dựng quân đội đánh giặc giữ nước. Năm 1267, Trần Nhân Tông xuống chiếu, chọn trong tông thất những người giỏi võ nghệ, tinh thông binh pháp để chỉ huy các đô, các quân. Năm 1283, vua Nhân Tông ra lệnh chọn trong quân hiệu những người có tài để chia lãnh các bộ ngũ4 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập II, tr.80. 51).

        Sau khi sự nghiệp giải phóng đất nước thành công, Lê Thái Tổ (Lê Lợi) ban chiếu cầu hiền, cho tìm kiếm những người có tài văn võ, có thể trị dân coi dân, để trao chức vụ. Trong bài chiếu gửi tướng thần có công, nhà vua viết: “Sáng nghiệp là khó...; giữ cơ nghiệp sẵn có không phải dễ, cho nên phải tìm người hiền tài để bảo người saư”1 (Phan Huy Chú, Sđd, tr.260.). Lê Thái Tông cũng đã hạ lệnh cho các quan văn võ phải vì nước mà tiến cử người tài. Đến đời vua Thánh Tông, khi nhà nước bước vào thời kỳ thịnh trị, vấn đề bổ dụng nhân tài để coi quân, trị dân càng được coi trọng. Trong một tờ chiếu gửi quan Tổng binh có nói: "Chức quan Tổng binh nhận ký thác trong một địa phương, không nên ủy nhiệm người không tốt. Các quan khoa đài nên tuyển vệ quan các nha môn, người nào đượm lược, hình thức, tư cách, tài cán, liêm khiết và siêng năng thì bổ chức ấy. Ai giám tư tình bảo cử bậy người bỉ ổi, hèn kém, tham ô, lười nhác thì trị tội"2 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập III, tr.290). Nhà sử học Vũ Quỳnh đã ca ngợi triều Lê Sơ: “Người hiền tài có được nhiều hơn cả đời xưa"3 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập III, tr.290). Như vậy, các triều đại phong kiến Đại Việt mà người đại diện là nhà vua đã thường xuyên quan tâm và ban chiếu lệnh tuyển chọn những người tài đức để sung vào đội ngũ võ quan, tướng lĩnh chỉ huy quân đội.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tám, 2016, 04:28:32 am

        2.2. Đối tượng tuyển chọn

        Đối tượng tuyển chọn võ quan trước hết là những người thuộc tầng lớp quý tộc tông thất, từ lớp người có quyền lợi gắn liền với dòng họ thống trị. Thời Lý - Trần, người có quan tước con cháu được thừa ấm mới được vào làm quan. Các vương hầu quý tộc thời Trần có phủ đệ và quân đội riêng, khi có chiến tranh được làm tướng, chỉ huy quân của mình và quân các lộ phụ cận giúp vua đánh giặc, tăng thêm thế mạnh giữ nước. Cùng với chế độ phong vương hầu và cấp phủ đệ, nhà vua còn chú trọng tuyển những người trong hoàng tộc để coi giữ binh quyền. Chức Tể tưởng chỉ chọn những người trong gióng tông thất thông hiểu thi thư, binh pháp. Chức Phiêu kỵ tướng quân chỉ phong cho các hoàng tử hoặc Thiên tử nghĩa đệ. Năm 1267, triều đình Trần định quân ngũ, chọn người trong tông thất giỏi võ nghệ, tinh thông binh pháp để trông coi bộ ngũ. Trần Quốc Tuấn được phong làm Quốc công tiết chế, Trần Khánh Dư giữ chức Phiêu kỵ đại tướng quân và làm phó tướng cho Quốc Tuấn; Trần Quốc Khang làm Phiêu ky thượng tướng quân. Nhiều thân vương thuộc gióng tông thất được làm Thái úy (Trần Liễu, Trần Nhật Hao), trong đó Thái úy Trần Quang Khải làm Tướng quốc coi việc cả nước. Hồ Quý Ly khi lên ngôi đã ra lệnh chọn những người trong gióng họ cho làm tướng coi quân. Các tướng Hồ Đỗ, Hồ Vấn, Hồ Xạ, Hồ Cương, v.v... đều là những võ quan cao cấp trong triều.

        Ngoài đối tượng chính là vương hầu tông thất, Nhà nước Đại Việt còn chú trọng sung vào hàng ngũ quý tộc võ quan những tài năng thuộc gióng họ khác. Đó là trường hợp Lê Phụng Hiểu, Ngô Tuấn (Lý Thường Kiệt), Tô Hiến Thành thời Lý; Lê Tần, Nguyễn Khoái, v.v... thời Trần; Nguyễn Đa Phương, Phạm Nguyên Khôi, Đỗ Mãn thời Hồ, v.v... Đầu đời Lê, những người trong tông thất cũng như những tướng lĩnh có công trong kháng chiến đều được trao quyền tướng quân, giữ các chức vụ quan trọng như Thái úy, Thiếu úy, Đại tư mã, Thượng tướng, Đại tướng, v.v... Vua Trần đã có lệnh: "Chọn trong các quan viên, người nào có tài năng luyện tập võ nghệ, tinh thông thao lược thì không kể tông thất đều cho làm tướng coi quân".

        Trong một chừng mực nhất định, các triều đại phong kiến Đại Việt còn tuyển cả những người có đức độ, tài năng thuộc các tầng lớp bình dân cho làm quan võ. Phạm Ngũ Lão vốn là một gia thần của Trần Quốc Tuấn, do tài năng của mình mà được cử làm tướng, phong đến chức Thân vệ đại tướng quân dưới đời vua Trần Anh Tông. Thời Lê Sơ, các đời vua như Thái Tổ, Thái Tông, Thánh Tông đã chú ý chiêu mộ những người hiền tài cho giữ các chức vụ cai quản quân và dân, không câu nệ đường xuất thân. Trong tờ chiếu cầu hiền tài, Lê Thái Tổ nói: "Bất kể ai, là người hiền hoặc ở triều đình, hoặc ở nơi thôn giã, là người tài bị khuất trong hàng ngũ quan nhỏ, là người hào kiệt náu mình nơi đồng nội, lẫn ở hàng binh lính đều được trọng dụng và trao chức quyền xứng đáng"1 (Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd, tr. 194). Tất nhiên, dù xuất thân từ hàng ngũ khác, dẫu là nho sĩ, quan lại khác họ hay tầng lớp bình dân, một khi đã gia nhập đội ngũ tướng lĩnh của các triều đại, họ đều được phong chức tước, ban cấp bổng, lộc và trở thành quan lại phong kiến, phục vụ cho lợi ích của vương triều thống trị. Chính vì thế, vấn đề chọn dùng võ quan tướng lĩnh trong các triều đại luôn luôn bị chi phối bởi hệ tư tưởng của giai cấp phong kiến, bởi ý thức về quyền lợi của giòng họ thống trị.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tám, 2016, 04:29:14 am

        2.3. Các phương thức tuyển chọn

        Về phương thức tuyển dụng võ quan tướng lĩnh, ngoài biện pháp nhiệm tử, tức triều đình - mà đứng đầu là vua bổ nhiệm những nhân tài thuộc hàng ngũ quý tộc tông thất, những người thể hiện tài năng và có công trong thực tế như đã nói ở trên, các triều đại phong kiến còn sử dụng những biện pháp sau:

        a- Tiến cử và bảo cử

        Để khỏi bỏ sót nhân tài, các triều đại phong kiến Đại Việt đã vận dụng hình thức tiến cử và bảo cử. Tiến cử là hình thức giới thiệu những người có tài, có đức nổi tiếng để quan xem xét, xin vua bổ dụng làm quan. Hình thức tiến cử được thực hiện phổ biến từ đời Lý, Trần và đầu Lê. Những người tài có thể do người khác tiến cử, có thể tự mình tiến cử. Phạm Ngũ Lão là một gia thần, được Trần Quốc Tuấn phát hiện và bồi dưỡng thành tài, rồi tiến cử với triều đình, về sau trở thành Thân vệ đại tướng kiêm Điện tiền chỉ huy sứ quản Cấm quân.

        Lê Lợi chủ trương “vời đón hiền giả, thu dụng nhân tài, nhún lời hậu lễ để thu hào kiệt" nên đã kén chọn được nhiều tướng giỏi từ bốn phương. Sau giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ nhà Minh, Lê Thái Tổ đã nhiều lần hạ lệnh cho các quan văn võ phải vì nước mà tiến cử người hiền tài. Chiếu của vua nói rõ rằng: "Ta nghĩ việc thịnh trị tất do dùng được người hiền; muốn có người hiền phải có người tiến cử; cho nên người làm vua thiên hạ tất phải lấy việc ấy làm công việc trước nhất... Vậy ta hạ lệnh cho đại thần văn võ, công hầu, đại phu, từ tam phẩm trở lên mỗi người tiến cử một người, hoặc ở triều đình hoặc ở thôn quê, hoặc đã làm quan, hoặc chưa làm quan, nếu có tài văn võ trí thức, có thể cai trị quân dân, ta sẽ tuỳ tài bổ dụng1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập III, tr.80). Giai đoạn đầu Lê Sơ, việc tiến cử và tự tiến cử rất được coi trọng. Lê Lợi đã thể hiện tinh thần thiện chí, không hẹp hòi của mình trong các bài chiếu cầu hiền. Bấy giờ, ai tiến cử được người tài đức thực sự đều được thưởng công. Lê Thái Tông, khi vừa lên ngôi (1434) đã đề cập đến việc tiến cử: "Mới rồi cần người hiền tài để giúp việc trị nước, có lệnh cho mọi người tiến cử người mình biết, nay đã lâu rồi mà chưa có ai theo lệnh tiến cử một người nào để đáp lại lòng trẫm là cớ làm sao?”2 (Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd, tr.133). Tiếp đó, nhà vua đã ra lệnh tìm kiếm để tiến cử những người tài đức đang nương náu, ẩn dật ở nơi rừng núi hoặc thôn quê. Nhờ thế, một số nhân tài hoặc văn hoặc võ đã được bổ dụng làm quan.

        Từ thời Lê Thánh Tông, phương thức tiến cử đã chuyển thành bảo cử. Bảo cử cũng là tiến cử nhưng do tập thể tiến hành. Người có tài mà quan trên biết tiếng thì được đề cử lên Bộ Lại; Bộ Lại xem xét và tâu xin vua bổ dụng. Năm Hồng Đức thứ 5 (1484), nhà vua lệnh cho các nha môn trong ngoài, nếu có chức nào khuyết thì có thể tìm người tài cán, học thức, thanh liêm, làm việc giỏi, đề nghị bổ vào chức đó. Vua nói: "Trong triều đình nếu quân tử được tiến dụng là gốc rễ tiến lên đời thịnh trị; nếu tiểu nhân được tiến dụng là đường ngõ bước vào đời loạn lạc; trẫm cùng các khanh phải khuyến miễn lẫn nhau, dùng người quân tử, bỏ bọn tiểu nhân, việc này phải ngày đêm khuyến miễn nhau luôn luôn, để mong đưa nước nhà đến đời thịnh trị"1 (Quốc sử quán triều Nguyễn, Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, bản dịch, Tập I, Nxb Văn Sửa, H.1959, tr.71). Đã nhiều lần vua ra sắc chỉ xác nhận lệ bảo cử để áp dụng cho các quan văn võ ở các huyện, thừa ti và quan tổng binh. Tuy nhiên, vấn đề bảo cử cũng rất nghiêm khắc, "Ai dám thiên tư cử bậy phải người hèn kém, tham, lười, sẽ bị trị tội"2 (Phan Huy Chú, Sđd, tr.96).

        Tiến cử và bảo cử cốt để cung cấp thêm nhân tài sung vào guồng máy cai trị hoặc khi mà lệ thi cử chưa đảm nhận cung cấp đủ nhân tài giúp nước. Lệ tiến cử, bảo cử giúp cho một số người tài năng, vì lý do nào đó không ứng thí được, có thể ra thi thố ở đời. Sử gia Phan Huy Chú nhận xét: "Cử người làm quan có hai lối: một là tiến cử thì lấy người tài đức hơn hẳn mà không cứ thân phận; hai là bảo cử thì lấy người danh vọng to, mà phải chiếu theo tư cách. Hai lối ấy giống nhau mà thể thức hơi khác. Lệ bảo cử mới đặt từ đời Hồng Đức. Bấy giờ việc ấy làm thận trọng, trừng phạt lại rất nghiêm, cho nên không ai giám bảo củ thiên tư, các chức đều xứng đáng, rốt cuộc thu được hiệu quả là chọn được nhiều người hiền tài cho nước"3 (Phan Huy Chú, Sđd, tr.96). Hình thức tiến cử và bảo cử nói trên được vận dụng để tuyển dụng quan lại, trong đó có cả những tài năng trên lĩnh vực quân sự.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tám, 2016, 04:29:42 am

        b- Chế độ thi cử và khảo xét võ quan

        Thời Lý, năm 1075, triều đình mở khoa thi đầu tiên tuyển chọn nhân tài đất nước. Chế độ khoa trường thời đó còn hạn chế, chủ yếu là chọn văn quan. Tuy vậy, một số nhân vật đỗ đạt cao cũng được cử tham gia bộ máy quan lại quản lý việc binh; trường hợp Lê Văn Thịnh làm Binh bộ thị lang là một ví dụ. Tháng 12 năm 1162, triều đình khảo xét các quan văn võ, và lấy đó làm phép thường, cứ 9 năm một kỳ khảo xét. Chế độ khoa cử phát triển qua thời Trần và Hồ, nhưng sử liệu không phản ánh hình thức thi chọn võ quan. Năm 1246, vua Trần Thái Tông quy định việc khảo xét các quan văn võ: 10 năm gia tước 1 cấp, 15 năm gia chức 1 bậc. Hình thức quan trọng, chủ yếu trong phương thức tuyển dụng võ quan thời Lê Sơ là thi cử và khảo xét. Đầu thời Lê, phần lớn võ quan là những người trưởng thành và có công trong chiến tranh. Sau giải phóng, để đáp ứng với yêu cầu mới khi đất nước hoà bình phát triển, vua Lê Thái Tổ tiến hành khảo xét quan lại, thải bớt những người thiếu năng lực, bổ sung nhiều tướng trẻ, tài ba. Năm 1428, đợt đầu khảo xét, chia thành 4 bậc, bậc nhất là các quan viên văn võ có tài cán, làm việc giỏi. Năm sau, vua lại truyền lệnh các quan ôn luyện để chuẩn bị cho kỳ thi Minh Kinh. Trong đó, quan văn thi kinh sử; quan võ thi kinh, pháp lệnh và kỳ thư.

        Dưới đời Lê Thái Tông, việc thi cử và khảo xét quan lại chặt chẽ hơn. Chiếu vua nói rằng: "Muốn có nhân tài, trước hết phải chọn người có học; phép chọn người có học thì thi cử là đầu”. Nhà vua ra quy chế rằng, phép sát hạch các quan văn võ đều phải do Tổng quản nơi mình trực thuộc đứng ra sát hạch. Các tướng hiệu và võ quan ở đạo do Tổng quản bản đạo khảo xét. Kết quả chia làm ba bậc: bậc nhất thưởng tước 1 tư và 5 quan tiền; bậc hai thưởng tước 1 tư và 2 quan tiền; bậc ba được thưởng 1 tư. Từ năm 1437, việc khảo xét võ quan được tách riêng đi sâu vào chuyên môn võ nghệ. Mỗi quan phải thi ba môn quân sự: bắn cung, phóng lao, sử dụng áo giáp và lá chắn. Người trúng cách (trúng cả ba môn) thì cấp toàn bổng nếu không trúng thì lượng bổng giảm dần xuống. Quy định này trở thành quân lệnh.

        Đến đời Lê Thánh Tông, hệ thống võ quan qua thời gian được đào thải, chọn lọc, chất lượng ngày càng cao. Các đợt khảo hạch nghiêm túc mà nhẹ nhàng dưới hình thức đô thí. Nhà nước quy định cứ 3 năm mở 1 kỳ thi bắt buộc cho võ quan tướng lĩnh. Mỗi người bắn 5 mũi tên, phóng 5 phát lao và đấu khiên một đường. Kết quả chia thành 5 cấp làm tiêu chuẩn để thăng giáng võ quan. Năm 1486, nhà vua ban sắc chỉ về bổ nhiệm quan chỉ huy các ti. Theo sắc này, Bộ Lại cùng các quan ở vệ được quyền lập hội đồng, xét chọn những ai trúng trường, thân thể cường tráng, được bổ nhiệm túc trực làm việc ở các ti, vệ. Năm 1488, định rõ phép khảo xét công trạng các quan: 3 năm sơ khảo, 6 năm tái khảo, 9 năm thông khảo; nếu ai có tài năng đặc sắc khác thường sẽ có lệnh chỉ nhà vua đặc cách cân nhắc, không tính niên hạn. Đồng thời ra sắc chỉ cho các trưởng quan các nha môn ở Ngũ phủ và các vệ kén chọn tướng hiệu thuộc quyền mình cai quản, người nào có quân công, am tường lão luyện võ nghệ và tài năng kiến thức, thanh liêm, mẫn cán thì để giữ chức cũ; còn kẻ bỉ ổi, tham nhũng, làm việc một cách cầu may thì tâu lên để bãi chức. Thời Lê Sơ, khoa trường đã trở thành điển lệ trọng đại trong quan chế. "Trong nước không bỏ sót nhân tài, triều đình không dùng lầm người kém".

        Nghiên cứu hệ thống quan chức, thực tế cho thấy con đường tiến thân của những nho sinh thông kinh sử có phần dễ dàng hơn. Họ đem tài ra thi thố ở các kỳ thi Hương, thi Hội và thi Đình để gia nhập vào hàng ngũ quan lại. Những võ quan muốn vinh thân bằng con đường binh nghiệp lại gặp nhiều trắc trở. Ở nước ta, theo sử sách thì thi văn quan, thi kinh sử có trước các thời kỳ võ quan, võ nghệ. Phần lớn võ quan xuất thân và trưởng thành qua chiến trận, hoặc do tài năng của mình được nhiệm cử hay tiến cử. Tuy nhiên, việc thi cử, khảo hạch để tuyển dụng võ quan đã được tiến hành từng bước và một ngày hoàn thiện hơn.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tám, 2016, 04:30:09 am

        c. Chế độ tập ấm

        Hình thức tập ấm thực chất là lối trả công cho các công thần, các quý tộc hoặc còn sống hoặc đã mất, là một phương thức bảo vệ quyền lợi của giai cấp phong kiến thống trị. Những người có công thành lập các triều đại tức là những “khai quốc công thần" hoặc những người lập công lớn trong chiến trận đều được định công trao chức vụ, tạo ra một tầng lớp công thần. Hình thức bổ dụng này đã để lại một hệ quả truyền thống của nó là chế độ tập ấm quan lại.

        Thời Lý - Trần gọi hình thức này là ấm phong hay nhiệm tử. Dưới triều Lý có hiện tượng phong cho cha sinh ra Hoàng hậu làm tướng. Đó là tháng 11 năm 1028, Lý Thái Tổ phong cha Hoàng hậu họ Mai (Mai Hựu) làm An quốc thượng tướng, cha Hoàng hậu họ Đinh ninh Ngô Thượng) làm Thượng quốc thượng tướng. Dĩ nhiên đây là trường hợp đặc biệt, chỉ phong chức tước chứ không cho quyền. Trường hợp này đã bị sử thần Ngô Sĩ Liên kịch liệt phê phán1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập I, Nxb Khoa học xã hội, H.1993, tr.251). Tháng 6 năm 1105, Lý Thường Kiệt chết, Lý Nhân Tông thương tiếc, phong cho mỹ tự, cấp thực ấp một vạn hộ và cho em là Thường Hiến làm tướng, phong tước hầu. Hiện tượng trên có thể hiểu ở thời Trần qua sự kiện vua Trần Thái Tông có ý định phong cho anh ruột của Trần Thủ Độ là An Quốc làm tướng, mặc dầu biết An Quốc không có tài. Tuy nhiên việc này đã bị Trần Thủ Độ gạt đi và nói: "An Quốc là anh thần, nếu là người hiền thì thần xin nghỉ việc, nếu cho thần hiền hơn An Quốc thì không nên cử An Quốc. Nếu anh em cùng làm tướng thì trong triều sẽ ra sao"?

        Đầu đời Lê, con em các công thần có công lớn trong kháng chiến đều được bổ dụng, như trường hợp con Lê Lai, Lê Ngân, v. v... Công lao của cha anh được coi như “tờ giấy thông hành" cho con em trở thành quan lại. Có nhiều trường hợp bị hạn chế về tài năng, nhưng cũng có những trường hợp cha giòng con dõi, tiêu biểu là Lê Sư Hồi con Nguyễn Xí; cả hái cha con đều có công lớn, được vua ban quốc tính. Từ Lê Thánh Tông, chế độ tập ấm được phân thành nhiều loại. Đối với người già không có chí tiến thủ thì được phong chức tản quan (có chức tước, bổng lộc mà không có quyền); đối với người ham mê kinh sử thì được sung vào các trường Quốc Tử Giám, Sùng Văn quán để bồi dưỡng học hành; đối với người ham mê võ nghệ thì giao cho các quan chức trong vệ Cẩm Y dạy bảo, hằng ngày phải tới trường đua ở phía Tây kinh thành để học võ nghệ, tập bắn cung, phóng thủ tiễn... Mỗi năm cứ đến tháng Quý đông (tháng Chạp), vệ Cẩm Y phái quan đến khảo xét việc ganh đua võ nghệ của học sính, đến năm thứ 3 đưa sang Bộ Binh khảo thí, ai trúng tuyển thì bổ chức võ úy.

        Ngoài những biện pháp nói trên, dưới triều Trần và Lê Sơ, nhà nước còn cho phép người giàu nếu tình nguyện nộp thóc nuôi quân thì tuỳ theo số thóc để phong quan chức hay cho làm tướng. Trần Quốc Tuấn cho họ làm "Giả lang tướng"; Lê Thánh Tông gọi họ là "Tản quan", giữ chức nhàn tản, không có nhiệm vụ nhất định, bản thân và con cái họ được miễn tuyển lính và lao dịch.

        Nhận xét về ưu điểm của quy chế quan văn quan võ và các triều đại, sử gia Phan Huy Chú viết: “Ở triều Lý, quan đều đáng tài, không có nhũng lạm" và "thời Trần dùng người thật công bằng... việc kén dùng chỉ cần tài là được... chỉ cần người dùng được, chứ không câu nệ đường xuất thân"1 (Phan Huy Chú, Sđd, tr.98, 99). Nguyễn Trãi nói về triều chính Lê Thái Tông: "Chọn người hiền không cứ loại nào, dùng người tài xem như mình vậy Kén người thì rau phỉ rau phong đều hái, đức tài thì đồ thô đồ méo cũng không quên"2 (Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd, tr. 143). Sử thần Vũ Quỳnh ca ngợi triều Lê Thánh Tông: "Văn võ đều dùng theo sở trường của từng người”3 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập III, tr.319); hoặc như Phan Huy Chú nói: "Bấy giờ, các quan đều làm việc giỏi, gọi là đời thịnh trị"4 (Phan Huy Chú, Sđd, tr.98, 99). Các sử thần triều Lê đã không ngớt lời ca ngợi các tướng lĩnh nhà Trần: “Giao cầm quân thì cùng nhau sống chết, khi đối địch với giặc thì tự mình xông pha lên phía trước quân sĩ, giặc trông thấy phải tránh lui, không kẻ nào địch nổi”5 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập II, tr.111). Nhìn chung, việc tuyển chọn, bổ dụng, cất nhắc và thăng giáp võ quan trong các triều đại đã có quy chế rõ ràng; vì thế nhà nước đã có một đội ngũ võ quan, tướng lĩnh chỉ huy tài giỏi và trung thành. Đó là kết quả tích cực của chế độ tuyển dụng quan lại các triều đại từ Lý đến Lê Sơ.

        Tuy nhiên, vấn đề tuyển dụng võ quan ở triều đại nào cũng có những mặt hạn chế của nó. Trước hết là do hạn chế về điều kiện lịch sử, các chính thể đang trong quá trình xây dựng, hệ thống quan chế đó chủ yếu bảo vệ lợi ích cho tầng lớp trên, cho giai cấp phong kiến mà đại diện là gióng họ thống trị. Chế độ thi cử ngạch võ quan ra đời chậm và tiến hành không thường xuyên. Cho nên, hậu quả của nó đúng như nhận xét của Phan Huy Chú: "Phép khảo khoá thời Lý - Trần, niên hạn đều chậm lâu. Nhà Lý lấy 9 năm làm 1 khoá, nhà Trần lấy 15 năm 1 lần xét thì chậm trễ quá. Kỳ hạn cấp bách cố nhiên không phải là phép tốt. Nhưng sự thăng quan hay giáng chức để lâu quá thì người hiền tài không khỏi bị chìm lấp, mà kẻ vô tài thường được tạm nương thân, không phải là chính sách khuyến khích người ta đổi mới"1 (Phan Huy Chú, Sđd, tr.98, 99). Hạn chế này đã được sửa chữa từ đời Hồng Đức, năm 1471, vua Lê Thánh Tông ra lệnh: cấm để chậm niên hạn khảo khoá; định lệ 3 năm 1 lần thăng giáng, giảm thải và bổ sung quan lại. Sự chậm trễ trên cùng với chế độ nhiệm tử hay tập ấm đã đưa đến kết quả là trong hàng ngũ võ quan tướng lĩnh xuất hiện những viên quan chỉ lo hưởng thụ, không đủ tài năng và sinh ra tình trạng tham nhũng, lợi dụng chức quyền, bắt lính sai dịch... làm cho dân tình ta oán, nhà nước buộc phải đề ra những biện pháp triệt trừ tham quan ô lại. Có những thời kỳ do quá chú trọng phát triển võ quan, số lượng quan tướng dư thừa, dẫn đến tình trạng: "quan nhiều thì hại dân", quan thì túng, dân thì nghèo, số vệ sĩ tăng nhiều, lương cấp không đủ”2 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr.141). Vua Trần Anh Tông ban thưởng quá nhiều quan tước khiến Thượng hoàng Trần Nhân Tông phải kêu lên: "Có một nước nhỏ như bàn tay sao lắm quan thế"1 (Ngô Thì Sĩ, Việt sử tiêu án, Sđd, tr.230). Điều đó buộc triều đình phải ra lệnh giảm bớt số tướng hiệu ở các vệ quân để đỡ phí hại lương lộc, đỡ phần chi phí cho nhà nước.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tám, 2016, 04:31:11 am

        II QUẢN LÝ, CHỈ HUY QUÂN ĐỘI

        Trong Binh chế, quản lý, chỉ huy là một vấn đề quan trọng được các triều đại hết sức quan tâm. Hoàng đế luôn luôn đóng vai trò trung tâm của mọi hoạt động đất nước, đặc biệt trong lĩnh vực quân sự, là thủ lĩnh quân sự tối cao có quyền quyết định về mặt tổ chức, điều động và chỉ huy quân đội. Tuy nhiên, chính quyền trung ương luôn luôn có một số cơ quan hành chính quân sự và một đội ngũ võ quan, tướng lĩnh các cấp được tổ chức tuyển lựa, đào luyện cẩn thận để giúp Hoàng đế quản lý, điều hành quân đội - công cụ bạo lực chinh yếu bảo vệ vương quyền, bảo vệ đất nước.

        Dưới đây là một số nét về hệ thống quản lý, chỉ huy quân đội và những quy định của Nhà nước Đại Việt trên lĩnh vực này.

        1. Các cơ quan hành chính quân sự

        1.1. Thượng thư sảnh và Khu mật viện

        Trong cơ cấu Binh chế Đại Việt, Cấm quân là lực lượng quan trọng nhất. Về mặt tổ chức hành chính, cơ quan nào quản lý Cấm quân? Sách Toàn thư chép: "Theo lệ cũ, Cấm quân thuộc Thượng thư sảnh, đến nay (1342) đặt Khu mật viện để quản lãnh". Cũng với ý nghĩa đó, trong Quan chức chí, Phan Huy Chú viết: "Dụ Tông, năm Thiệu Phong thứ 2 (1342), sai Khu mật viện quản lĩnh Cấm quân. Phép cũ Cấm quân thuộc về Thượng thư sảnh. Đến đây đặt quan Khu mật viện để coi Cấm quân"1 (Phan Huy Chú, Sđd, tr.8).

         Tổ chức chính quyền và quan chế triều Tiền Lê có phần mô phỏng theo chế độ nhà Tống, nhưng không thấy sử sách nói đến Thượng thư sảnh. Từ đời vua Lý Thần Tông, năm Thiên Thuận thứ nhất (1128), triều đình Lý đặt chức Thượng thư sảnh ngoại lang. Bấy giờ quan coi việc quân dân trong cả nước là Tể tướng dưới các danh nghĩa như Tổng quản tri quân dân thời Tiền Lê) và Phụ quốc thái úy (thời Lý). Thượng thư sảnh ngoại lang là một chức quan lớn, nhưng lại thuộc về Văn ban.

        Thượng thư sảnh bắt đầu thành lập từ thời Trần. Bấy giờ quan đứng đầu sảnh là Hành khiển Thượng thư, tức chức Aự tướng, sau Tể tướng. Đến thời Lê Sơ, đứng đầu Thượng thư sảnh là Thượng thư lệnh, còn gọi là Mật viện tham tri. Thượng thư sảnh có nhiệm vụ giúp việc Tể tướng điều khiển bách quan, tham mưu giúp nhà vua những ý kiến, những lời khuyến dụ về các việc trọng đại của triều chính, trong đó có cả quân sự.

        Khu mật viện, còn gọi là Nội mật viện được thành lập từ thời Lý, là cơ quan trông coi cả việc dân và việc binh do quan Tả, Hữu sứ quản lãnh. Năm 1028, Lý Đạo Kỷ được cử làm Tả khu mật, Xung Tân làm Hữu khu mật. Sang thời Trần, Khu mật viện dưới sự điều khiển của quan Khu mật viện Tham nghị triều sự, chuyên xem xét những việc cơ mật trong triều, kể cả quân sự. Dưới đời vua Trần Anh Tông, Đoàn Nhữ Hài giữ chức Tri khu mật viện sự. Năm 1267, Trần Thánh Tông đặt Hành khiển ti ở hai cung: Hành khiển tả hữu ti ở cung Thánh Từ (nơi Thượng hoàng ở) và Hành khiển ti ở cung Quan Triều (nơi vua ở) gọi chung là Nội mật viện. Năm 1325, vua Trần Minh Tông đổi Hành khiển ti làm Môn hạ sảnh, Nội thư hoả cục vẫn là Nội mật viện. Đến đời Dụ Tông, năm 1342, vua ra lệnh Khu mật viện trực tiếp quản Cấm quân và cho Nguyễn Trung Ngạn giữ chức Hành khiển tri Khu mật viện sự. Chính vì thế, vừa lên nắm quyền, Nguyễn Trung Ngạn đã ra lệnh chọn đinh tráng các lộ để sung vào ngạch thiếu của Cấm quân và lập sổ Cấm quân. Năm 1372, đời vua Trần Nghệ Tông, Hồ Quý Ly từng giừ chức Khu mật viện đại sứ. Tháng 12 năm 1395, Phạm Cự Luận làm Tham mưu quân sự kiêm Khu mật viện sự.

        Dưới thời Lê Sơ, cùng với Khu mật viện, nhà nước lập thêm Chính sự viện, trong đó có các đại thần văn võ tham dự, coi xét các việc trọng đại của triều chính. Phan Huy Chú viết: "Chính sự viện để giữ then chốt, dùng cả văn võ, gồm các chức Tham tri chính sự, Tham nghị, Đồng tham nghị; về sau lại đặt Chính sự viện thượng thư". Trong Khu mật viện có các quan chỉ huy Khu mật viện sứ, Khu mật viện phó sứ, Tri viện sứ, Đồng tri viện, v.v... ở đó chỉ có những cận thần của vua tham dự, cùng bàn những điều cơ mật. Việc bảo vệ cung cấm của Cấm vệ quân cũng giao cho thuộc viên Nội mật viện quản lý.

        Sử cũ của ta ghi chép quá ít về những hoạt động trên lĩnh vực quân sự của Khu mật viện. Điều này ở Trung Quốc, sử cũ phản ánh rõ hơn. Thời Bắc Tống (960 - 1129) dưới vua, binh quyền còn thuộc quản lý của ba cơ quan: Khu mật viện, Tam Nha và Soái thần. Trong đó Khu mật viện phụ trách binh dịch và hổ phù; Tam Nha cai quản chư quân; Soái thần nắm quyền cầm quân. Sự chia sẻ đó nhằm hạn chế bớt tập trung quyền lực. Khu mật viện là cơ quan hành chính tối cao, trực tiếp nhận lệnh cửa Hoàng đế trong việc bố trì, điều động quân đội, "nắm quyền cơ mật, coi việc quản lý các công trình phòng thủ, vũ khí, xe ngựa, chiêu mộ Cấm quân, duyệt binh và thưởng phạt". Đứng đầu Khu mật viện là Khu mật chánh và phó sứ. Sang thời Nguyên (1271 - 1368), Khu mật viện cũng là cơ quan giúp việc của vua trên lĩnh vực quân chính, quản lý quân đội theo lệnh của Hoàng đế. Chẳng hạn, tháng 4 năm 1279, Khu mật viện nhà Nguyên xin Hốt Tất Liệt cho đem quân sang đánh Đại Việt, nhưng vua Nguyên còn cân nhắc lợi hại, chưa đồng ý; hoặc năm 1289, Khu mật viện lại đề nghị lập Soái phủ, lấy Lưu Đức Lộc làm Đô nguyên soái, chuẩn bị một lần nữa đánh Đại Việt, Hốt Thất Liệt đã chấp thuận, nhưng lệnh đó lại hoãn vì vua Nguyên xét thấy không còn đủ sức đánh Đại Việt nữa... Ở các địa phương, có khi nhà Nguyên còn lập Hành khu mật viện mang tên địa phương để chỉ huy hoạt động quân sự trong vùng.

        Như vậy, ở Đại Việt cũng như ở Trung Quốc các thế kỷ XI - XV trong triều đình trung ương có cơ quan Khu mật viện, một tổ chức do nhà vua quản lý, bao gồm những cận thần của vua, thường ngày cùng vua bàn việc cơ mật, trong đó có những hoạt động nhà nước trên lĩnh vực quân sự mà trực tiếp là hoạt động của Cấm quân.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tám, 2016, 05:03:39 am

        1.2. Bộ binh

        Trong triều chính từ thời Lý đến thời Lê, người đứng đầu là vua, nhưng vua thường giao quyền trực tiếp điều khiển các quan lại cho Tể tướng (Phụ quốc thái úy hoặc Tướng quốc). Đến đời Lê Thánh Tông, chính quyền quân chủ chuyên chế phát triển, vua bãi bỏ chức vụ Tể tướng, tự mình đứng ra điều khiển bá quan. Tuy nhiên để giúp vua lãnh đạo triều chính và cai trị muôn dân, bao giờ trong nước cũng có những cơ quan hành chính và chuyên môn. Trong triều có những văn phòng bên cạnh vua và thái tử, có các cơ quan chuyên môn và các bộ do các quan Thượng thư đứng đầu, trong đó có Bộ Binh chuyên lo việc binh nhung.

        Bộ Binh ở nước ta có từ bao giờ? Tổ chức và chức năng ra sao? Thời Lý đã đặt chức Thượng thư nhưng tên các bộ chưa thấy phân định rõ. Ngoài trường hợp Lại bộ thượng thư Từ Anh Nhĩ, sử sách có chép sự kiện năm 1076, vua Lý Nhân Tông cho quan Nội cập sự Lê Văn Thịnh làm Binh Bộ thị lang. Sau đó, năm 1084, sai Binh Bộ thị lang Lê Văn Thịnh đến trại Vĩnh Bình bàn nghị về việc cương giới. Đến đời Trần, ta cũng chưa biết rõ có mấy bộ. Dõi theo sử sách ta thấy có nói đến chức Thượng thư thị lang Bộ Binh, Bộ Lễ, Bộ Lại và Bộ Hình. Sách Toàn thư có phản ánh sự kiện năm 1406, Hồ Hán Thương cho Đỗ Mãn thôi giữ chức Thượng thư lệnh hữu tham tri chính sự và cử Hành khiển Binh Bộ thượng thư kiêm Thân Ngưu vệ đại tướng quân Đỗ Nhân Giám thay. Tuy vậy, cũng như triều Lý và triều Trần, việc tổ chức các bộ dưới triều Hồ như thế nào ta không thể xét được.

        Đầu đời Lê, vua Lê Thái Tổ chỉ đặt ba bộ: Bộ Lại, Bộ Lễ và Bộ Dân (tức Bộ Hộ). Trải qua các đời Thái Tông và Nhân Tông, chỉ huy quân đội trung ương chủ yếu vẫn là những cá nhân; sau vua là Tể tướng, Tả Hữu tướng quốc (Tả Hữu Đô đốc) hay Thái úy. Lúc đó Bộ Binh chưa được thiết lập, tổ chức hành chính, chuyên môn giúp vua quản lý quân đội vẫn là Khu mật viện như trước.

        Năm 1460, kế tục vua Lê Nhân Tông, Nghi Dân xây dựng triều chính với mong muốn đổi mới cơ chế chính quyền, chia đặt 6 bộ, 6 khoa và các quan phủ, huyện. Lê Thánh Tông lên ngôi, tiếp tục cải cách hành chính quốc gia theo mô hình tiến bộ lúc đó. Cũng như Nghi Dân, Lê Thánh Tông đặt 6 bộ và 6 khoa với những chức năng riêng biệt; trong đó Bộ Binh coi giữ các việc thuộc binh chính, đảm đương nhiệm vụ an ninh, quốc phòng và chiến tranh. Thế là từ đây việc binh nhung được giao cho Bộ Binh quản lý Cũng như các bộ, đứng đầu Bộ Binh là quan Thượng thư; giúp việc Thượng thư có hai phụ tá Binh bộ Tả thị lang và Hữu thị lang. Trong Bộ Binh có một cơ quan thường trực gọi là Binh Bộ tư vụ sảnh. Đứng đầu sảnh có quan Binh bộ tư vụ với nhiệm vụ trông coi và điều hành công việc thường nhật của Bộ Binh. Có thể coi đây là "văn phòng bộ". Những công việc có tính chất chuyên môn của Bộ Binh được phân công cho hai cơ quan chuyên trách là Vũ khôi Thanh lại ti và Quân vụ Thanh lại ti. Cai quản mỗi Thanh lại ti đó là một viên Lang trung và một viên Ngoại lang.

        a- Vũ khố Thanh lại ti

        Vũ khố Thanh lại ti là cơ quan chuyên trách trông coi binh nhung khí giới, việc hộ giá và nghi trượng của vua, bảo vệ an ninh trật tự cho những ngày tế lễ, tang lễ...

        - Về việc binh nhung khí giới

        + Vũ khố Thanh lại ti quản lý, giữ gìn và lo trang bị cho toàn quân về khí giới, cờ xí, trống chiêng, áo mũ, đạn dược và tất cả những đồ quân dụng.

        + Những đồ quân dụng, nếu có nhiều hay ít, đủ hay thiếu, cũ hay mới, còn bền hay đã hỏng... Vũ khố Thanh lại ti phải xem xét, đưa ra bàn định để tâu khai xin chế tạo, sửa chữa hay huỷ thải. Có thể coi đó là một phần chức năng hậu cần - kỹ thuật cho toàn quân.

        -Về việc hộ giá, nghi trượng và tế lễ

        + Vũ khố Thanh lại ti chuyên lo xem xét dân tình, cắt cử quân lính thuỷ, bộ theo hầu và bảo vệ vua. Những ngày tế lễ, Thanh lại ti căn cứ sơ đồ Bộ Lễ chuyển sang để cắt đặt quân lính dẹp đường sá, chuẩn bị cờ xí và đứng theo thứ vị đã định.

        + Khi có sứ thần ngoại bang đến yết kiến hay triều cống, Vũ khố Thanh lại ti phải cắt cử binh mã đón rước, truyền cho quân lính dẹp đường mở lối hay cho quân xếp hàng làm nghi lễ.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tám, 2016, 05:07:59 am

        b- Quân vụ Thanh lại ti

        Quân vụ Thanh lại ti có nhiệm vụ trông coi việc tuyển bổ và khảo xét trong quân, giúp việc luyện tập và hoạch định các cuộc hành quân.

        - Về việc tuyển bổ, luyện tập và khảo xét

        + Nếu trong Kinh và ngoài các xứ có lính trốn thiếu, chết hay già yếu bị sa thải thì mỗi tháng ba kỳ, các quan chỉ huy phải khai trình lên Bộ Binh; Quân vụ Thanh lại ti sẽ ra lệnh cho tuyển mộ thêm hoặc truy bắt người đào ngũ.

        Theo lệ, cứ 3 năm 1 kỳ tuyển lính sung vào quân Thị vệ. Nếu chưa đến kỳ mà thiếu Thị vệ thì Quân vụ Thanh lại ti được quyền tuyển bổ thêm.

        + Ở các hiệu quân nếu thiếu lính thì chỉ huy làm tờ khai lên bộ, Quân vụ Thanh lại ti ra lệnh tuyển bổ sung cho đủ số theo lệ định.

        + Đến kỳ luyện tập, Quân vụ Thanh lại ti phải tổ chức cho các quân thuỷ, bộ luyện tập, thao dượt.

        + Ba năm một kỳ khảo xét, Thanh lại ti tổ chức các đợt thi trong quân thuỷ, bộ, nhằm kiểm tra nâng cao trình độ kỹ thuật và chiến thuật trong quân đội.

(http://i479.photobucket.com/albums/rr153/Giangtvx/Linh%20tinh/BCDV%20-%200188_zpsrhpufdwp.jpg)

        - Về việc hoạch định các cuộc hành quân

        + Quân vụ Thanh lại ti có nhiệm vụ cử người đi khảo sát và vẽ bản đồ địa hình sông núi, đường sá, rồi chỉ định những nơi quan yếu cần lập đồn dinh trấn giừ. Các cửa ải, bến đò, cửa sông có ý nghĩa trong việc phòng thủ phải được đánh dấu trên địa đồ; làm thành 3 bản, 1 gửi lên vua, 1 nộp cho chính đường, còn 1 bản lưu tại Bộ Binh.

        + Khi có chiến sự, Quân vụ Thanh lại ti phải lo trù liệu những phương tiện, tham mưu hoạch định kế hoạch cho các cuộc hành quân tác chiến để ứng phó có hiệu quả với những việc khẩn cấp.

        Tóm lại, từ thời Lý đã xuất hiện chức Binh Bộ thị lang, thời Trần và thời Hồ có chức Binh bộ thượng thư; tuy nhiên, việc tổ chức Bộ Binh chưa thấy sử chép. Từ thời Lê Sơ đời Nghi Dân (1460), đặc biệt từ đời vua Lê Thánh Tông, Bộ Binh đã được tổ chức với tư cách là một cơ quan hành chính quân sự trông coi toàn thể các công việc thuộc binh chính, trong đó có một cơ quan thường trực và hai cơ quan chuyên môn chuyên trách đảm đương các nhiệm vụ hành chính quân sự trong Bộ Binh.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tám, 2016, 05:14:00 am

        1.3. Ngũ phủ đô đốc

        Từ đời vua Lê Thánh Tông, triều đình Lê Sơ đặt quân ngũ phủ (5 phủ). Do đó, bên cạnh Bộ Binh, nhà nước còn tổ chức Ngũ phủ đô đốc, những tổ chức trực tiếp cai quản quân các phủ. Bấy giờ, trên thực tế các quan trực tiếp điều khiển quân binh ở các phủ là Tả, Hữu đô đốc Ngũ phủ gồm: Trung quân phủ, Đông quân phủ, Tây quân phủ, Nam quân phủ và Bắc quân phủ.

        Ngũ phủ đô đốc là một con số cộng giữa 5 phủ quân. Các phủ tuy có độc lập tương đối, nhưng tất cả đều chịu sự quản lý chung của triều đình. Mỗi phủ tương đương như một "quân khu”, đảm đương một khu vực hành chính - quân sự nhất định. Mỗi phủ quân do một phủ đô đốc thống suất. Ban chỉ huy tại phủ gồm 4 vị: Tả đô đốc, Hữu đô đốc, Đô đốc đồng tri và Đô đốc thiêm sự. Mỗi phủ đô đốc cai quản 6 vệ trực thuộc. Ban chỉ huy phủ quân nắm 6 vệ thông qua bộ máy chỉ huy mỗi vệ. Đó là các Tổng tri, tiếp đến là Đồng tổng tri, Tổng tri thiêm sự. Dưới các Vệ là Sở (mỗi vệ có 5 - 6 sở), các sở có Quản lĩnh, Phó quản lĩnh, Chánh võ úy và Phó võ úy chỉ huy. Dưới Sở là Ngũ, có chức Tổng kỳ, v.v... Đó là cơ quan quản lý hành chính và hệ thống quan lại của các phủ quân thời Lê Sơ, cũng là sự kế thừa, mô phỏng của Đại Việt đối với tổ chức quân sự đầu đời Minh. Năm 1380, Minh Thái Tổ đổi Đại đô đốc phủ thành Ngũ quân đô đốc phủ - một cơ quan hành chính quân sự trong triều, gồm Trung, Tiền, Tả, Hữu và Hậu quân. Việc đặt Ngũ quân đô đốc phủ để thống suất các đạo là điểm tương đồng trong cơ cấu tổ chức quản lý quân đội của hai nước.

        Như vậy, trải qua các thời kỳ, đến đời Hồng Đức, bộ máy chỉ huy quản lý quân đội đã phát triển nhiều. Trên danh nghĩa quan Thái úy vẫn là người đứng đầu quân đội, thực tế quyền quản lý đã chuyển sang tập thể Bộ Binh và Năm phủ đô đốc. Các cơ quan này vừa có tính độc lập tương đối vừa lệ thuộc lẫn nhau. Bộ Binh đảm nhận nhiệm vụ trên phương diện hành chính như tuyển bổ, khảo xét, chăm lo trang bị, hậu cần... còn các phủ đô đốc lo việc cụ thể về chiến thuật, kỹ thuật, quản lý việc binh và động viên quân đội.

(http://i479.photobucket.com/albums/rr153/Giangtvx/Linh%20tinh/BCDV%20-%200191_zpsmnf49xpx.jpg)

        Bằng việc bãi chức Tể tướng và chức Tổng chỉ huy quân đội, chuyển quyền chỉ huy từ tay cá nhân sang tay tập thể, Lê Thánh Tông đã triệt để tập trung được quyền chỉ huy tồi cao đối với quân đội vào tay cá nhân mình. Đó cũng là một bước phát triển mới trong chính thể nhà nước quân chủ chuyên chế. Mặc dù đã đưa các đại thần tin cậy nắm giừ quân đội và đã tuyển chọn một hệ thống võ quan trung thành với những quy chế chặt chẽ, nhưng Nhà nước Lê Sơ lúc đó vẫn lập ra một số quan giám sát quân đội, không trực thuộc quân đội. Cùng với việc duy trì Ngự sử đài và lực lượng ngôn quan, Lê Thánh Tông còn đặt 6 khoa để giám sát các hoạt động của 6 bộ; trong đó Khoa Binh giám sát hoạt động của Bộ Binh và quân đội. Từ tháng 6 năm 1473, Lê Thánh Tông còn đặt ra Cai đạo giám sát ngự sử thuộc Ngự sử đài để tăng thêm lực lượng giám sát quân đội. Mỗi Cai đạo giám sát được lập ra trên khu vực hành chính của phủ quân, giữ nhiệm vụ giám sát phủ quân đó cùng một số ti, vệ thuộc Cẩm Y, Kim Ngô... Lực lượng giám sát và đối tượng giám sát đã được nhà nước quy định rõ ràng. Hệ thống quản lý đó dựa trên nguyên tắc phân quyền và liên đới trách nhiệm (Bảng 11).

(http://i479.photobucket.com/albums/rr153/Giangtvx/Linh%20tinh/BCDV%20-%200193_zpshjgwmpil.jpg)


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tám, 2016, 05:18:35 am

        2. Bộ máy võ quan, tướng lĩnh trong quân đội Đại Việt

        Hệ thống tổ chức chính quyền Nhà nước phong kiến Đại Việt chia thành hai ban văn và võ, còn gọi là Văn giai và Võ giai. Riêng về Võ giai bao gồm các quý tộc tông thất am hiểu võ nghệ, các tướng lĩnh trực tiếp cầm quân chỉ huy các đơn vị. Tất cả đều nằm trong hệ thống tướng lĩnh võ quan từ trung ương đến địa phương, chia thành hai cấp: quan trong quan trong Kinh) và quan ngoài (quan địa phương ở các lộ, trấn, đạo).

        2.1. Bộ máy võ quan, tướng lĩnh ở trung ương

        a- Võ quan, tướng lĩnh thời Lý - Trần - Hồ

        Ở nước ta từ thời Đinh bắt đầu chế định giai phẩm các quan văn võ, đặt chức tướng quân. Tướng Phạm Phòng át có một giai đoạn làm Thân vệ tướng quân và Lê Hoàn giữ chức Thập đạo tướng quân, kiêm Điện Tiền chỉ huy sứ dưới triều vua Đinh. Sau khi lên ngôi, Lê Hoàn kiểm duyệt quân ngũ và tổ chức hệ thống võ quan. Triều đình Tiền Lê chia làm hai ban văn - võ. Trong Ban Võ có Phạm Cự Lạng giữ chức Thái úy, Từ Mục làm Đại quản trị quân dân. Từ năm 1006, Khai Minh vương Long Đỉnh lên ngôi, "sửa đổi quan chế về văn võ, nhất thiết theo bên Tống"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr.181). Bấy giờ Lý Công Uẩn được giữ chức Tứ Sương quân phó chỉ huy sứ sau tăng làm Tả Thân vệ Điện Tiền chỉ huy sứ, quản Cấm quân. Lý Thái Tổ sau khi lập triều đại mới, đã phong tước cho những người thân thuộc và các tướng có công với các danh hiệu như Thái sư, Thái phó, Thái bảo, Thái úy, Tổng quản, Tướng công, Tả Kim ngô, Tả hữu vũ vệ; phong Vũ Đức vương Trương Hiển làm Thái úy, Dực Thánh vương Phó làm Tổng quản, Trần Cảo làm tướng công, Phí Xa Lỗi làm Tả Kim ngô, Vệ Trúc làm Hữu Kim ngô, Đàm Thảo và Đỗ Giản làm Tả, Hữu vũ vệ. Năm 1028, nhà vua cử Lý Đạo Kỷ làm Tả khu mật, Xung Tân làm Hữu khu mất, Nguyễn Quang Lợi làm Thái úy, Đàm Toái Trạng làm Đô thống, Vũ Ba Tư làm Ung vệ thượng tướng, v.v... Các đời vua Lý tiếp sau đều giữ cơ cấu quan lại của Thái Tổ. Năm 1128, Lý Thần Tông xét duyệt chức quan văn võ, đặt thêm chức Chỉ huy sứ, Vũ vệ tướng và Hoả đầu. Chỉ huy quân triều đình là Thái úy, rồi Điện Tiền chỉ huy sứ trực tiếp quản lãnh Cấm quân. Khi điều quân đi đánh dẹp, vua phong các chức Đô thống đại nguyên soái, Đô thống nguyên soái hoặc Chiêu thảo sứ, v.v... Năm 1182, Lý Cao Tông xuống chiếu cầu người hiền lương và đắp đàn phong tướng; cho Ngô Lý Tín làm Thượng tướng quân. Theo Phan Huy Chú, triều Lý đại lược về văn võ đều có 9 phẩm: Lấy ba chức Thái (Thái sư, Thái phó, Thái bảo), ba chức Thiếu (Thiếu sư, Thiếu phó, Thiếu bảo), cùng với Thái úy, Thiếu úy Kiểm hiệu bình chương sự làm trọng chức của văn võ đại thần. Về võ ban có các chức Đô thống, Nguyên soái, Tổng quản, Khu mật sứ, Khu mật sứ tả hữu, Tả hữu Kim Ngô, Thượng tướng, Đại tướng, Đô tướng quân các vệ, Chỉ huy sứ, Vũ vệ hoả đầu, v.v... Đó là các tướng hiệu, các cấp chỉ huy quân đội triều đình.

(http://i479.photobucket.com/albums/rr153/Giangtvx/Linh%20tinh/BCDV%20-%200197_zpsoaitbek8.jpg)

        Thời Trần, vua vẫn là thủ lĩnh quân sự tối cao. Khi đất nước có giặc, vua trao quyền chỉ huy cho người có tài năng quân sự trong Hoàng tộc, như Trần Thủ Độ được phong Thái sư, coi giữ tất cả việc hành quân đánh dẹp trong nước (năm 1226), hoặc như trường hợp phong Trần Quốc Tuấn làm Quốc công tiết chế thống lĩnh chư quân (năm 1283). Nhà Trần cũng lấy ba chức Thái, ba chức Thiếu, Thái úy, Tư đồ, Tư Mã, Tư không làm trọng chức của các đại thần văn võ. Trong hàng võ quan có các Thượng tướng, Đại tướng, có Thân vệ tướng quân, Vũ vệ đại tướng quân, Phủ quân phó đô đốc tướng, Soái điện đô áp nha, Quản quân tiết độ sứ Đô thống chế, v.v...

        Triều Hồ đặt các quan chức cũng theo chế độ nhà Trần. Tuy nhiên, do hoàn cảnh lịch sử lúc đó, Hồ Quý Ly buộc phải loại bỏ các lực lượng chống đồi. Ngay từ những năm cuối triều Trần, Hồ Quý Ly đã từng bước thực hiện cải cách quân sự, xây dựng đội ngũ võ quan, tướng lĩnh cho triều đại mới. Các tướng lĩnh trung thành với sự nghiệp nhà Trần như tướng quân Thiết Liêm Nguyễn Khoái và Nguyễn Vân Nhi, tướng chỉ huy quân Thiết Giang Nguyễn Ha và Lê Lạc, tướng quân Thiết Sang Nguyễn Bát Sách đều bị giết. Thượng tướng Trần Khát Chân, tướng quản quân Hữu Thánh Dực cùng hàng trăm người bị hành quyết sau sự kiện "hội thề Đốn Sơn" (1399). Các tướng trung thành với sự nghiệp họ Hồ được trao quyền chỉ huy, như Khả Tuân và Chương Dương được cử coi quân Thần Dực, Thần Dũng; Nguyễn Đa Phương và Hoàng Phụng Thế chỉ huy quân Thánh Dực; Phạm Lại quản lĩnh Cấm vệ đô, v.v… Bấy giờ, nhà Hồ đặt chức Tả, Hữu tướng quốc. Trong quân đội có các Đại tướng, Đô tướng thống lĩnh các Đại quân, Trung quân, Vệ quân, v.v... Một số tướng được cử quản lãnh các quân Thần Sách, Long Tiệp, Thiết Giáp, Thiết Liêm... Các chức như Đô đốc, Đô thống, Tổng quản trông coi các đơn vị... Trong đợt chinh phạt Chiêm Thành năm 1403, Phạm Nguyên Khôi làm Đại tướng thuỷ quân chỉ huy các vệ Thiên Ngưu, Phúng Thần và Long Tiệp; Đỗ Mãn làm Đô tướng bộ quân, coi quân Thiên Cương, Chương Thánh và Củng Thần. Năm 1406, Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng và tướng quân Hồ Đỗ được trao quyền tiết chế chỉ huy hai đạo quân lớn nhất của nhà Hồ chống lại cuộc xâm lược của quân Minh. 


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tám, 2016, 05:23:47 am


(http://i479.photobucket.com/albums/rr153/Giangtvx/Linh%20tinh/BCDV%20-%200198_zpstwx7i5l7.jpg)

        b- Võ quan, tướng lĩnh thời Lê Sơ

        Buổi đầu thời Lê, Thái Tổ đặt các chức Tả - Hữu tướng quốc, Kiểm hiệu bình chương quân quốc trọng sự, Đại tư đồ, Đại tư mã, Tư không, Tư khấu, Tam thái, Tam thiếu, Thái úy, Thiếu úy, v.v... Đó là trọng chức của đại thần văn võ Những người thân tín được gia thêm hai chữ "Nhập nội". Tổ chức 6 quân Ngự Tiền và 5 quân Thiết Đột đều có Đại tổng quản, Đại đô đốc, Đô tổng quản đứng đầu. Đời Lê Nhân Tông (1448) giảm số tướng hiệu trong quân Ngự Tiền, trước mỗi quân có 8 viên nay chỉ để 2 viên; quân Thiết Đột trước có 4 viên, chỉ lưu lại 2 viên. Trong kinh thành còn có các chức võ quan từ Đô đốc, Tổng quản đến Chánh - Phó võ úy. Chỉ huy các vệ sở là Tổng quản, Thượng tướng, Đại tướng, Tướng quân và Đô chỉ huy sứ. Trong các đơn vị cơ sở còn có các chức Phó võ úy, Hoả đầu, Đại đội trưởng, Chánh - Phó ngũ trưởng (Bảng 12). Nhìn chung, ở giai đoạn đầu thời Lê Sơ, trong triều đình tập hợp đông đảo võ tướng có công lớn. Vua "chuộng võ tướng hơn văn thần". Vì vậy, võ quan rất được trọng dụng. Từ nửa cuối thời Lê Sơ, Lê Thánh Tông lên ngôi Hoàng đế, mở ra con đường thênh thang cho Nho giáo; địa vị văn quan được nâng cao.

        Mùa Thu năm 1471, Lê Thánh Tông tiến hành sửa định "Hoàng triều quan chế", bãi các chức Tướng quốc Bình chương sự và Bộc xạ, trở lại quy chế Tam thái, Tam thiếu, Tam úy. Đặt thêm các chức võ quan như Đô kiểm điểm, Đề đốc, Đô đốc đồng trì, đến các Phó úy, Vệ úy, Phó vệ úy. Bấy giờ, ở trong kinh thành đặt Đô đốc phủ trong Ngũ phủ quân và đặt 2 vệ Kim Ngô và Cẩm Y, 4 vệ Hiệu Lực, 4 vệ Thần Võ, 6 vệ Điện Tiền. Hệ thống quan võ đờiLê Thánh Tông đã thực sự chính quy, đó là hệ thống quan lại của nhà nước quân chủ chuyên chế mới được xây dựng và phát triển dựa trên cơ sở quan chế thời Lý - Trần và tham khảo quan chế triều Minh.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tám, 2016, 05:30:12 am

        2.2. Hệ thống võ quan, tướng lĩnh địa phương

        Về nguyên tắc, quân địa phương không thể tách rời sự chỉ đạo, quản lý của triều đình trung ương. Nhà nước quản lý quân các lộ, trấn, đạo thông qua hệ thống võ quan, tướng lĩnh các địa phương.

        Từ thời Lý, trong các lộ, trấn và các trại đều đặt quan binh đóng giữ, nhưng sử liệu không cho ta hiểu rõ về việc phân cấp quan lại địa phương. Bấy giờ đã có các tri phủ, phán phủ, tri châu chịu trách nhiệm quản lý sổ sách quân và dân. Vua Lý vừa đặt quan cai trị các vùng, vừa tìm cách lôi kéo, ràng buộc các thủ lĩnh quân sự địa phương hợp tác, làm quan lại trong bộ máy hành chính của mình. Tác dụng của chính sách đó đã biểu hiện rõ trong cuộc kháng chiến chống Tống.

        Sang thời Trần, triều đình đặt ở các lộ chức An phủ sứ, Trấn phủ chánh và phó sứ, Thông phán, Thiêm phán; ở huyện đặt Lệnh úy và Chủ bạ. Quan coi giữ việc binh ở lộ thuộc các chức Kinh lược sứ, Phòng ngự sứ, Thủ ngự sứ, Quan sát sứ, Đô hộ phủ, Đô thống phủ và Tổng quản phủ. Đó là kết quả của chính sách đặt quan cai trị, như sách Toàn thư phản ánh: "Tháng 2-1290 (triều đình) chọn các quan văn võ đi nhậm trì ở các lộ"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập 11, tr.66). Khi trong nước có chiến tranh, vua còn hạ lệnh cho các vương hầu, quý tộc thống lĩnh binh của mình và binh các lộ giúp vua đánh giặc.

        Dưới triều Hồ, nắm binh quyền ở các địa phương có các Đô đốc Đô hộ, Đô thống, Tổng quản và Thái thú. Các quan triều đình được cử về địa phương để tổ chức và chỉ huy quân đội. Chẳng hạn, Thái bảo Trần Hàng coi phủ đô thống lộ Bắc Giang; Thiếu bảo Vương Nhứ Chu làm Tri Thiên Trường phủ lộ quân dân sự; Hành khiển Hà Đức Lân làm Tân Yên phủ lộ thái thú, v.v... Bấy giờ, nhà Hồ đặt chức Liêm phóng sứ ở các lộ để dò xét tình hình quan lại làm cơ sở cho sự giáng truất hay cất nhắc các quan.

        Đầu thời Lê, trong các đạo đặt các vệ quân trực thuộc. Đứng đầu đạo có các quan Hành khiển, Tổng binh hoặc Tổng tri. Mỗi vệ quân trực thuộc đạo có một ban chỉ huy gồm Tổng quản, Đô tổng quản, Đồng tổng quản, Đồng tổng tri, Đồng tri và Quản lãnh. ở các lộ, phủ và trấn có chức Trấn phủ; ở châu có Phòng ngự sứ, Quan sát sứ; ở các cửa biển và ven sông đặt chức Tuần kiểm; các tù trưởng nơi phiên thuộc giữ chức Thủ ngữ, Đoàn luyện. Từ đời Lê Thánh Tông, trong các thừa tuyên đặt các Thừa ti, Đô ti và Hiến ti; trong đó Đô ti là cơ quan quản lý việc binh và quân đội. Việc binh nhung trong thừa tuyên nào do Đô ti ở đó đảm nhiệm. Quan đứng đầu Đô ti là Tổng binh sứ, thứ đến là Tổng binh thiêm sự và Tổng binh đồng tri. Ba vị này đại diện chính quyền nhà nước nắm giữ toàn bộ lực lượng quân đội trong thừa tuyên. Đô tì cầm quân thông qua các vệ quân và ban chỉ huy của các vệ ấy. Buổi đầu, Tổng binh còn kiêm chức Thừa tuyên sứ, sau đó để giảm bớt quyền lực các tướng, triều đình cử các văn quan giữ chức Thừa tuyên sứ. Mỗi khi biên giới có việc, cả Tổng binh và Thừa tuyên sứ phải cùng bàn bạc.

        Nhìn chung, ở các địa phương, các Lộ - Trấn - Đạo, Phủ - Huyện - Châu, Giáp - Hương - Xã, người đứng đầu vẫn là người chịu trách nhiệm trước nhà vua về các mặt quân sự và dân sự. Vì thế, tổ chức quản lý quân đội bên cạnh hệ thống dọc của ngạch binh (như thời Lê Sơ là Bộ Binh), còn có các hệ thống ngang theo các cấp đơn vị hành chính. Đây là sự phối hợp quản lý song trùng nhưng vẫn bảo đảm nguyên tắc tập trung quyền hạn trong bộ máy nhà nước trung ương tập quyền.

        Trên đây là một số nét chủ yếu về hệ thống võ quan, tướng lĩnh Đại Việt cả ở triều đình và địa phương. Hệ thống quan lại đó ngày một hoàn thiện, có tổ chức và biểu hiện xu hướng quyền lực tập trung dần vào trung ương theo sự phát triển của nhà nước quân chủ chuyên chế.

        Thử so sánh số võ quan ở trung ương và địa phương năm Hồng Đức thứ 2 (1471), ta thấy:

(http://i479.photobucket.com/albums/rr153/Giangtvx/Linh%20tinh/BCDV%20-%200202_zpshauiqcb4.jpg)


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tám, 2016, 05:35:26 am

(http://i479.photobucket.com/albums/rr153/Giangtvx/Linh%20tinh/BCDV%20-%200204_zpswsdsh7gy.jpg)

(http://i479.photobucket.com/albums/rr153/Giangtvx/Linh%20tinh/BCDV%20-%200205_zpsg3pznwr3.jpg)

        Trong khi quan văn địa phương nhiều hơn ở trung ương thì quan võ địa phương lại rất ít so với trung ương, mặt khác tổng số quan võ vẫn nhiều hơn quan văn. Điều dó chứng tỏ lực lượng quân triều đình luôn được chú trọng phát triển và quân đội được coi là chỗ dựa quan trọng nhất của nhà nước quân chủ. Trong điều kiện nhà nước phong kiến Đại Việt luôn trọng võ thì số lượng võ quan cao cấp thường rất lớn, ngay cả trong giai đoạn mà văn quan được ưu đãi như thời Lê Thánh Tông. Về mặt phẩm hàm võ quan cao hơn văn quan; đề là Thượng trụ quốc nhưng văn quan cao nhất chỉ đến tước "bá" trong khi đó võ quan được phong tước "công"; hoặc cùng một hàm "Chánh thất phẩm" thì võ quan chỉ là "Phó võ úy" còn văn quan là "Đô cấp sự trung" (phụ trách một trong sáu khoa). Hiện tượng phẩm cao mà chức thấp chứng tỏ chính quyền coi trọng quân đội và rất chú ý đến vấn đề chỉ huy trong quân đội. Tuy nhiên khi xem xét hoàn cảnh cụ thể của từng cá nhân trong hàng ngũ quan lại thì võ quan thường bị thiệt thòi hơn; vì cùng một phẩm trật ấy, văn quan được "ăn trắng mặc trơn" và đàng hoàng sống ở nơi dinh thự, còn võ quan thì vẫn phải vất vả ở chốn biên cương, hải đảo hay nơi trận mạc xa xôi. Phải chăng vì thế mà dân gian có câu: Văn quan thất phẩm thì sang Võ quan thất phẩm còn mang gươm hầu.

        Trong các thế kỷ từ XI - XV, nhà vua luôn luôn thể hiện là thống lĩnh quân sự tối cao. Khi có chiến tranh, vua thường "tự làm tướng" tổng chỉ huy các đạo quân. Thống lãnh các đạo quân có thể do các hoàng tử, thân vương hay quý tộc có tài năng quân sự. Chỉ huy các cuộc hành quân có khi còn do các Tả tướng quốc, các Thái úy, các Đại tướng, Đại tư mã, Tổng quản, v.v... dưới các danh hiệu như Đại nguyên soái, Đô thống nguyên soái, Chinh lỗ tướng quân, Bình tây tướng quân, v.v... Những lúc đó, cả quân triều đình và quân địa phương đều được điều động và chịu sự chỉ huy thống nhất.

        Tóm lại, chế độ quản lý, chỉ huy quân đội của quốc gia Đại Việt từ thế kỷ XI - XV, đã từng bước phát triển và hoàn thiện. Nhờ chế độ đó mà nhà nước phong kiến thời bấy giờ đã có được một hệ thống quan lại, một đội ngũ võ quan, tướng lĩnh có Đức có Tài, có khả năng quản lý và chỉ huy tốt quân đội trong hoà bình cũng như khi đất nước có chiến tranh.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tám, 2016, 05:39:34 am
        
Chương IV

VŨ KHÍ TRANG BỊ VÀ HUẤN LUYỆN QUÂN ĐỘI

        Để xây dựng quân đội theo phương châm "cốt tinh không cốt nhiều”, các triều đại rất chú ý đến vấn đề trang bị và huấn luyện. Nội dung quan trọng này của Binh chế Đại Việt tuy đã có một số nhà nghiên cứu nói đến nhưng còn sơ lược và tản mạn, có lẽ do hạn chế lớn về sử liệu. Thông qua một số quy chế, chế độ của nhà nước và những biểu hiện cụ thể về trang bị và huấn luyện, chúng tôi tìm hiểu những hoạt động của các triều đại về lĩnh vực cụ thể này của Binh chế.

        I. VẤN ĐỀ TRANG BỊ QUÂN ĐỘI

        1. Chế tạo và trang bị vũ khí trong quân đội

        Thời Lý, nước Đại Việt trở nên khá cường thịnh trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế và quân sự, rất quan tâm đến võ bị. Lý Thái Tổ khi dời đô ra Thăng Long đã nghĩ ngay đến việc tăng cường Cấm quân và trang bị cho quân lính để bảo vệ kinh đô mới. Năm 1043, vua Lý Thái Tông “xuống chiếu cho chư quân sắm sửa áo giáp và binh khí". Lý Nhân Tông - con người "sáng suốt thần võ", là "vua giỏi của triều Lý", đã trị vì trong thời kỳ phạt Tống, bình Chiêm; lúc hoà bình vẫn luôn mong sao có quốc phòng tốt để "trong nước được yên hàn, ngoài biên không có giặc giã"; trước khi qua đời, ông đã không quên dặn Thái tử và các đại thần: "Phải lo sửa sang giáo mác, đề phòng việc không ngờ"1 (Quốc sử quán thế kỷ XIX, Việt sử thông giám cương mục, Sđd, Tập VI, tr.16). Đến thời Trần, với quan điểm xây dựng quân đội cốt tinh nhuệ, nên vấn đề trang bị và huấn luyện càng được coi trọng. Năm 1286, vua Trần Nhân Tông đã lệnh cho các tông thất chiêu mộ binh và lệnh cho Quốc Tuấn đốc suất các vương hầu, quý tộc cùng dân chúng sắm sửa vũ khí và đóng chiến thuyền, chuẩn bị bước vào cuộc đọ sức mới với giặc Nguyên. Năm 1364, vua Trần Dụ Tông xuống chiếu chế tạo chiến cụ và thuyền chiến đề phòng hoạn nạn từ biên giới phía Nam. Bấy giờ Chiêm Thành thường quấy phá, nhà vua ra lệnh chỉnh đốn quân đội, sửa soạn binh nhung và có ý muốn tự mình cầm quân đánh giặc. Đầu thế kỷ XV, trong khi lo lắng làm sao có quân đội mạnh để chống giặc Bắc, Hồ Quý Ly đã rất coi trọng vấn đề trang bị và giao công việc cần kíp này cho con trai là Hồ Nguyên Trừng - một người nổi tiếng có đầu óc sáng chế thời đó. Sang thời Lê Sơ, mặc dù đất nước thanh bình, nhưng các vua Lê đều cho rằng: "phàm có Nhà nước tất có võ bị" và thường xuyên quan tâm xây dựng quân đội không chỉ về mặt tổ chức mà cả trên lĩnh vực trang bị vũ khí. Năm 1467, Lê Thánh Tông ra lệnh cho các phủ quân phải nghiên cứu chế tạo vũ khí theo kiểu mới1 (Quốc sử quán thế kỷ XIX, Việt sử thông giám cương mục, Tập XI, Sđd, tr.19). Những điều đó chứng tỏ vấn đề trang bị vũ khí cho quân đội luôn được các triều đại quan tâm.

        Vũ khí trang bị thời bấy giờ rất phong phú và đa dạng. Có thể phân thành hai loại: Vũ khí bạch binh và hoả khí.

        1.1. Vũ khí bạch binh

        Thế kỷ X - XI là giai đoạn quân đội quốc gia Đại Cồ Việt - Đại Việt sản xuất và sử dụng vũ khí bạch binh, bởi lúc bấy giờ ở nước ta chưa chế được thuốc súng, hoả khí chưa xuất hiện. Sang thế kỷ XIII, trong cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên, quân đội nhà Trần bắt đầu sử dụng pháo. Tuy nhiên hoả khí còn hạn chế. Quân đội vẫn chủ yếu sử dụng vũ khí bạch binh.

        Quân đội Đại Việt trong các thế kỷ từ XI - XV được trang bị các loại bạch binh thông thường như giáo, mác, dao (đao), kiếm gươm), qua, kích, đinh ba, trượng, lao, liềm vắt, câu liêm, các loại chông, bẫy đá, máy bắn đá, cung nỏ. Bên cạnh các vũ khí đó, người chiến binh còn được trang bị kèm theo các phương tiện hộ thân như áo giáp khiên mộc, “hộ tâm phiến" (tấm che ngực), v.v...


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tám, 2016, 05:40:47 am

        Thương, trượng và nhất là gậy là những vũ khí thông thường, phổ biến của quân đội Đại Việt. Trong chiến tranh chống giặc Ngưu Hống (ở Tây Bắc), Phạm Ngũ Lão sai quân sĩ làm những gậy tre ngắn để phang vào chân voi; voi đau, phải quay đầu chạy. Sách Toàn thư có nói về đội đấu gậy của quân đội triều đình nhà Trần... Tre, gỗ chắc vót nhọn (có thể bịt sắt) trở thành cây lao, cũng là thứ vũ khí phổ biến, dễ chế tạo. Phóng lao (ném thủ tiễn) là một trong ba môn thi bắt buộc để tuyển chọn các võ úy thời Lê Sơ. Như vậy, gậy, thương, trượng và lao là những vũ khí truyền thống đơn giản và dễ trang bị cho quân đội, nhất là đối với quân địa phương và dân binh.

        Đinh ba là thứ vũ khí rất phổ biến trong dân gian, cách chế tạo đơn giản dễ sử dụng, chỉ gồm ba mũi đinh nhọn, ở giữa cao hơn. Có địa phương gọi đó là cái xỉa, có tra cán, dùng để đâm.

        Giáo, mác, kiếm hoặc gươm là những vũ khí đột kích bằng sắt, sắc và nhọn rất thông dụng trong quân đội nước ta thời xưa. Giáo thân ngắn, cứng, có gờ nổi cao ở giữa, hai lưỡi vát sắc cạnh và nhọn để đâm kẻ địch. Gươm và kiếm lưỡi dài. Thân gươm hơi cong, sống dày, lưỡi mỏng. Kiếm thân thẳng, dày ở giữa, hai lưỡi sắc. Chuôi giáo bằng gỗ hay tre; còn chuôi gươm, kiếm bằng đồng, có thể được chạm khắc. Vua Lý Nhân Tông dặn Thái tử: Phải lo sửa sang giáo, mác đề phòng khi có chiến tranh. Giáo có nhiều loại như: giáo có họng tra cán (hình búp đa, hình ngòi bút) và giáo có chuôi tra cán hình lá lúa hay có ngạnh). Đội Cấm binh của Lý Anh Tông do quan Điện Tiền Vũ Đái chỉ huy đã dùng giáo trong vụ bắt tên nội phản Đỗ Anh Vũ năm 1150. Lính thị vệ nhà Lý đã sử dụng giáo trong sự biến cung đình năm 1210. Quân sĩ khi đánh Tống, phạt Chiêm, phần lớn cầm giáo chiến đấu. Đã tìm thấy nhiều di vật vũ khí thời Lý ở Hà Nội và Thanh Hoá, trong đó có chiếc gươm dài 72cm, phần thân 59cm; chiếc kiếm dài 62,3cm, phần thân 62,3cm.

        Quân đội nhà Trần sản xuất và sử dụng giáo khá phổ biến. Di vật giáo sắt thời Trần tìm thấy ở chùa Bút Tháp (Hà Nội) và ở phủ đệ Trần Quốc Tuấn ở Kiếp Bạc. Sử sách cũng phản ánh điều này. Một bài thơ của Trần Phu trong Sử Giao Châu tập có câu: “Kim qua ảnh lý đan tâm khổ” (trông bóng giáo mác sáng loè thấy lòng đắng cay). Bài thơ Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão có câu: “Hoành sáo giang sơn cáp kỷ Thu" (Cầm ngang ngọn giáo vì núi sông đã mấy mùa Thu). Sau đó tiến sĩ Phạm Quý Thích (thời Lê) cũng đã làm hai đôi câu đối ca ngợi tài năng, công tích của Phạm Ngũ Lão, trong đó có câu: "Vạn cổ giang sơn nhất sáo hoành" (Một ngọn giáo cầm ngang đã bảo vệ vẹn toàn giang sơn). Trên một chiếc thạp bằng sứ tráng men hoa văn thời Lý - Trần, ta thấy hình các chiến bình tay trái cầm giáo, tay phải cầm khiên tròn. Những di vật giáo sắt mà khảo cổ học đã tìm thấy ở chùa Bút Tháp, ở phủ đệ Trần Quốc Tuấn, ở khu vực Hoàng thành Thăng Long và ở Ngọc Khánh (Hà Nội) cho ta hình dung được phần nào trang bị của quân đội Đại Việt. Năm 1285, tại bến Đông, Ô Mã Nhi hăm dọa Đỗ Khắc Chung rằng: “Đại quân ta ở xa đến đây, nước ngươi sao không trở giáo đến ra mắt mà lại chống cự mệnh lệnh?". Trương Hán Siêu trong bài Phú sông Bạch Đằng đã mô tả quân nhà Trần trong trận Bạch Đằng như sau: “Bấy giờ muôn dặm thuyền bè tinh kỳ phất phới, sáu quân oai hùng gươm giáo sáng chói”. Sử thần triều Lê ca ngợi tướng quân Phạm Ngũ Lão là người “có tài múa giáo, làm thơ, lập nhiều công lớn”.

        Năm 1398, Hồ Quý Ly được phong chức Đồng bình chương sự, được vua ban cho một thanh gươm, một lá cờ đề chữ "Văn võ toàn tài, quân thần đồng đức". Gươm, kiếm là vũ khí tuỳ thân, đeo bên mình của các tướng sĩ. Các tướng quân thời Trần và thời Hồ đều được trang bị gươm để bảo vệ và chiến đấu. Trong Bình Ngô đại cáo có câu: "Gươm, kiếm mài đá đá núi cũng mòn". Chứng tỏ, quân đội nhà Trần và nghĩa quân Lam Sơn có rất nhiều gươm giáo. Đến thời Lê Sơ, Cấm quân cũng được trang bị giáo. Năm 1456, vua Lê Nhân Tông sai quân Ngự Tiền dùng giáo vây và đâm chết con hổ lớn vào chùa Diên Hựu (chùa Một Cột). Như vậy, quân đội thời Lý, Trần, Hồ và Lê Sơ đều được trang bị và sử dụng giáo mác.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tám, 2016, 05:41:11 am

        Các tướng lĩnh võ quan Đại Việt phần lớn đeo kiếm trong chỉ huy và chiến đấu. Năm 1028, khi dẹp "loạn ba vương", Lê Phụng Hiểu đã dùng kiếm chém Vũ Đức Vương. Sách Nam ông mộng lục của Hồ Nguyên Trừng (thế kỷ XV) có ghi chuyện Lê Phụng Hiểu rằng: "Nghe tin giặc đến... bèn xách một con dao, chặt cây làm vũ khí, xông thẳng vào trận... Họ Lý ban thưởng. Phụng Hiểu nói: Tôi dùng thác đao để đánh giặc, nay xin ném thác đao đến đâu thì cho làm giới hạn ruộng đất tới đó. Vua cho. Ông ném được 10 dặm". Ông nổi tiếng là người "quăng dao, múa kiếm lừng danh", được Lý Thái Tông khen ngợi là "giỏi hơn cả Kiền Đức vậy". Năm 1044, nhà vua ra lệnh phát vũ khí trong kho cho quân sĩ trước khi lên đường đánh Chiêm và cuộc chiến năm đó được sử chép là: "máu nhuộm gươm giáo, xác chết đầy đồng"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập 1, tr.123), chứng tỏ một phần vũ khí trang bị của quân đội nhà Lý. Trong kháng chiến chống Mông - Nguyên, không chỉ quân ta mà quân địch cũng sử dụng giáo, điều này được biểu hiện qua bài thơ Cảm hoài: "Đoạt sáo Chương Dương độ" (Bến Chương Dương cướp giáo giặc) của Thượng tướng Trần Quang Khải.

        Lao và móc câu chùm là những vũ khí đánh xa đơn giản. Lao có hình dáng như mũi tên cánh lớn và có họng tra cán. Trong quân đội Đại Việt có môn thi phóng lao. Sách Thông giám tập lãm (đời Thanh) chép về trận Mã Yên nói Liễu Thăng bị sa bẫy và bị trúng lao mà chết. Móc câu chùm (móc vất) hình dáng như chiếc mỏ neo, có 3 móc hình lưỡi câu; cán có lỗ để buộc dây.

        Bấy giờ, vũ khí đánh xa chủ yếu là cung nỏ, loại binh cụ truyền thống của quân đội nước ta ngay từ buổi đầu dựng nước và giữ nước. Phép cưỡi ngựa bắn cung có ở nước ta từ lâu đời. Thời Lý ở kinh thành Thăng Long có Xạ Đình (bãi tập bắn). Sử chép: "Vua (Lý Anh Tông, 1170) tập bắn và cưỡi ngựa ở phía Nam thành Đại La, gọi là Xạ Đình; sai các quan văn võ hàng ngày luyện tập phép đánh giặc, phá trận"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập 1, tr.290). Thời Lý - Trần, tập cưỡi ngựa và sử dụng cung kiếm là việc bắt buộc đối với mọi vương hầu, tướng lĩnh. Bấy giờ, bên cạnh Điện Giảng Võ và Giảng Võ Đường còn có Trường bắn, Bãi tập hay Trường đua. Ngoài đua ngựa, các tướng còn đọ tài bằng thương và cung kiếm. Quan Thái úy Trần Tự Khánh nổi tiếng tài bắn cung. Trong Hịch tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn khuyên các tướng phải "huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ". Trần Cụ là người rất giỏi bắn nỏ, được vua Trần Anh Tông cho vào cung dạy Thái tử.

        Cung, nỏ, với mũi tên tẩm thuốc độc là vũ khí lợi hại của quân đội Đại Việt. Sử chép về chiến công của các đội quân cung nỏ thời Trần năm 1285 như sau: "Lý Hằng đem quân hộ tống Thoát Hoan chạy về Tư Minh. Quân ta lấy tên độc bắn trúng vào gối bên tả của Hằng, Hằng chết. Tuỳ tướng là Lý Quán thu nhặt 5 vạn quân còn lại lấy đồ đồng giấu Thoát Hoan vào trong để trốn về Bắc. Đến Tư Minh, Hưng Vũ Vương đuổi theo dùng tên thuốc bắn trúng, Lý Quán chết, quân Nguyên tan vỡ". Tên Việt gian Trần Kiện không thể thoát chết bởi mũi tên độc của gia nô Hưng Đạo Vương là Nguyễn Địa Lô ở Ma Lục. Nguyên sử nói rằng, trong trận Bạch Đằng (1288), quân Trần "bắn tên như mưa".

        Từ năm 1426, khi tiến quân ra Bắc bao vây thành Đông Quan, nghĩa quân Lam Sơn đã hùng mạnh với đủ các loại vũ khí trang bị, trong đó có rất nhiều cung nỏ. Vì thế khi viết thư dụ hàng Vương Thông, Nguyễn Trãi cũng đã nói rõ sự trưởng thành của nghĩa quân rằng: “Trước thì khí giới không trơn mà nay thì thuyền chiến ngất mây, áo giáp rực sáng, tên đạn chất đống, thuốc súng đầy kho. So trước với giờ, mạnh hay yếu thì biết được rõ"1 (Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd, tr.138). Sau giải phóng, Lê Thái Tổ đã chỉnh đốn quân đội, quy định biên chế mới, mỗi vệ quân trang bị 50 nỏ tốt. Đến vua Lê Thánh Tông, quân đội chia thành các ti vệ và sở. Trong số 66 ti ở kinh thành, có 7 ti cung nỏ; đó là các ti Kỵ Xạ, Du Nỗ, Tráng Nỗ, Kính Nỗ, Thần Tí... Trong số 51 vệ quân ở kinh đô có vệ Kỵ Xạ chia thành 5 sở. Đó là các đội cung nỏ trong quân triều đình thời Lê Sơ. Để tuyển chọn võ quan, các kỳ võ thí dưới triều Lê đều chú trọng môn bắn cung nỏ. Bộ binh, kỵ binh, thủy binh và tượng binh thời Lê Sơ đều được trang bị cung nỏ, nên các kỳ thi võ nghệ đều có quy định chế độ thi riêng về môn bắn cung nỏ cho các loại quân. Về cung thì bắn trên ngựa hoặc bắn trên bộ mỗi thứ một tao. Bắn ngựa thì dùng cái đích cách 100 bước, phóng ngựa thật nhanh và bắn 3 phát, trúng được từ 2 phát trở lên là loại ưu, trúng một tên là đạt. Bắn bộ thì dựng một cái đích cách 50 bước, bắn 5 phát, trúng tử 4 - 5 phát là hạng ưu, trúng 2 tên là đạt. Nhà vua quy định: "Phàm thi cung nỏ, chuẩn định 3 năm 1 kỳ. Cứ đến mùa Thu các năm Tí, Ngọ, Mão và Dậu, sai một viên quan võ, một viên tham tri thị nội, một viên câu kê đến thi bắn cung trong quân bộ. Mùa Thu các năm Thân, Dần, Tị, Hợi thì sai hai viên quan võ, bốn viên thị nội, hai viên câu kê thi nghề bắn nỏ của thuỷ binh"1 (Phan Huy Chú, Sđd, tr.33).


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tám, 2016, 05:42:14 am

        Khảo cổ học đã tìm thấy ở khu vực Giảng Võ (Ngọc Khánh) một số lượng mũi tên sắt lớn, với nhiều mũi tên dính thành cục, chưa mài dũa; mỗi mũi tên có chiều dài 4 - 5cm; là những mũi tên lấy ở khuôn đúc ra chưa hoàn thiện. Chứng tỏ ở đây thời Lê đã có xưởng đúc mũi tên để cung cấp cho việc thao luyện, thi cử của nhà trường; phục vụ trong trường đua, bãi tập thời đó.

        Cung nỏ là vũ khí đánh xa quan trọng nhất trong thời kỳ bạch khí. Ngoài cung nỏ, quân đội Lý - Trần còn sử dụng máy bắn đá. Năm 1075, Lý Trưởng Kiệt khi tiến công Ung Châu đã dùng máy bắn đá để ném đá và những giỏ đựng chất cháy vào thành. Sách Lý Thường Kiệt của giáo sư Hoàng Xuân Hãn có ghi: "Quân Lý dùng công cụ máy bắn đá), tứ bề trèo lên cao nhằm bắn vào trong thành, giết nhiều quân phòng thử”1 (Hoàng Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt, Ban Tu thư viện Đại học Vạn Hạnh ấn hành, Sài Gòn 1996, tr.194). Tuy nhiên, máy bắn đá không thông dụng ở nước ta.

        Quân đội Đại Việt còn được trang bị câu liêm, móc câu chùm, chông sắt và những phương tiện công thành như “Vân thê" (thang), xe đánh thành... Câu liêm vừa là vũ khí vừa là đồ quân dụng của thủy quân; có thể dùng cắt dây leo hoặc để móc thuyền. Trong trận Bạch Đằng (1288), tướng Nguyên là Phàn Tiếp bị thương nhảy xuống nước, quân ta lấy câu liêm móc lên bắt sống. Câu liêm là vũ khí lợi hại được nghĩa quân Lam Sơn sử dụng trong trận đánh thành Xương Giang. Lúc đó, quân của Trần Nguyên Hãn đã dùng thang và câu liêm trèo lên thành để phá cửa thành. Thời Lê Sơ, trong mỗi vệ quân có trang bị 40 liềm vất 50 câu liêm. Câu liêm có hai loại: đầu tròn và đầu nhọn có móc. Đời Lê Uy Mục (1505), khi chế định binh khí, đặt quân điếm Ngũ phủ, mỗi điếm canh được cấp phát 5 câu liêm đầu nhọn. Chông (bằng tre hay sắt) là vũ khí rất lợi hại của quân ta khi đánh phục kích. Trong kháng chiến chống Mông - Nguyên, trên đường rút chạy của giặc có hàng trăm dặm từ Nội Bàng đến Nhứ Nhi - Khâu Cấp, quân ta đã đào hố đặt chông để bẫy giặc. Binh thư yếu lược có nói về phương pháp sử dụng chông sắt. Quân đội nhà Hồ cũng chế tạo và sử dụng chông sắt. Tại Tây Đô, nhân dân đào được nhiều vũ khí bằng sắt, trong đó có loại chông bốn mũi, theo thế chân kiềng, một mũi luôn luôn chĩa lên trên. Để đánh thành Ung Châu (của nhà Tống, 1075) và thành Chà Bàn (của Chiêm, 1471) quân nhà Lý và Lê Sơ còn dùng thang "Vân thê" hay "Phi thê", bao cát. Phương pháp nối thang để công thành cũng được mô tả trong Binh thư yếu lược. Sách Toàn thư có nói về sự kiện năm 1426, Lê Lợi tiến quân bao vây Đông Quan và ra lệnh chế xe đánh thành1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập III, tr.41). Xe đánh thành có nhiều loại như xe Phân ôn, xe Phi mã, xe trâu gỗ, lừa gỗ... được gắn 4 bánh hoặc 2 bánh lớn bé khác nhau. Xe có khung che bằng da trâu. Binh lính ở trong đẩy xe đi, để tiếp cận thành. Ông cha ta thường cho rằng "đánh thành là hạ sách", chủ trương "vây thành diệt viện" là chính, do vậy các phương tiện, vũ khí đánh thành của quân ta không phát triển như ở Trung Quốc và các nước khác.

        Mũ che đầu, khiên mộc, áo giáp... là các phương tiện hộ thân. Năm 1002, Lê Hoàn "xuống chiếu làm mấy nghìn mũ Đầu mâu phát cho 6 quân". Mũ của ngoại binh thời Lê Sơ chế bằng da trâu, sơn đỏ. Hộ tâm phiến (tấm che ngực) hay khiên, mộc có thể được đúc băng đồng hay làm bằng da, bằng mây. Ngày xưa, vua có khi củng là tướng, do đó vua Lý sử dụng "ngự thương” và mộc. Sử chép năm 1043, cái mộc của Lý Thái Tông "tự nhiên rung động" nhà vua "nhân đó", xuống chiếu sắm sửa áo giáp và binh khí chuẩn bị đánh Chiêm. Hình ảnh người chiến binh thời Lý - Trần tay khiên tay giáo đã được khắc họa trên các thạp sứ, đĩa sứ. Sách Toàn thư có chép, thời Hồ, Hồ Hán Thương sai Hồ Tùng đi đánh Chiêm Thành, quân bộ đi đường núi cách xa quân thuỷ; gặp nước lũ, tướng sĩ giữa đường hết lương 3 ngày, phải nướng áo giáp bằng da để ăn (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập II, tr.211).

        Thời Lê Sơ, khiên được sử dụng rất phổ biến. Vua Lê Thánh Tông sai quân Ngự Tiền vẽ mẫu mặt thuẫn và nón da để đưa vào xưởng sản xuất. Binh sĩ mỗi người được trang bị một chiếc mộc. Trong các kỳ thi hay luyện tập võ nghệ đều có phép lăn khiên, sử dụng mộc, áo giáp và lá chắn. Năm 1505, số quân canh giữ ở các cửa thành được trang bị cung tên, dao và 50 tấm mộc. Áo giáp có thể bằng da, bằng mây, bằng đồng hay sắt. Năm 1214, tướng Nguyễn Nộn bị đối thủ dùng giáo đâm thủng áo giáp sắt, bị thương. Sứ Nguyên là Trần Phu cho biết: "Mới lần đầu đến trước của điện, xuống xe, thì Thái sư Trần Quang Khải và Thái úy Trần Đức Việt, mỗi người cầm một miếng ván tròn như gương màu xanh rộng 6 xích, trên vẽ mặt trời, mặt trăng, sao Bắc Đẩu và 28 vị tinh tú, có ý dùng để tự che chở cho mình" (An Nam tức sự). Phép thi võ trong quân đội Lê Sơ có môn bắn cung, ném thủ tiễn, sử dụng áo giáp và lá chắn. áo giáp được trang bị rất phổ biến trong quân đội Lê Sơ, vì thế trong bài Quan duyệt thuỷ trận, Nguyễn Trái viết rằng: “Muôn giáp khoe oai tì hổ dữ”…2 (Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd, tr.262), chứng tỏ áo giáp đã được trang bị phổ biến trong quân đội thời bấy giờ.

        Sử liệu quá hạn chế nên chỉ biết được phần nào về chế độ trang bị quân đội các thế kỷ XI - XV. Bấy giờ, trong điều kiện hoả khí chưa phát triển thì vũ khí bạch binh vẫn chiếm ưu thế về trang bị và vẫn giữ vai trò quan trọng trong chiến đấu.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tám, 2016, 05:42:48 am

        1.2. Hoả khí

        Hoả khí xuất hiện, phát triển và cược trang bị trong quân đội Đại Việt như thế nào? Đó là câu hỏi chưa được giải đáp.

        Từ cuối thế kỷ XIII và nhất là từ thế kỷ XIV, hoả khí đã xuất hiện và ngày càng được sử dụng rộng rãi ở nhiều nước. Trên thế giới, phát minh thuốc súng và sử dụng nó trong quân sự sớm nhất ở Trung Hoa và Ấn Độ. Người Ả Rập và người châu Âu đã học cách chế chất nổ và pháo từ các nước đó. Thuốc súng có thể được chế ở Trung Quốc sớm hơn, nhưng việc sử dụng thuốc súng vào mục đích quân sự người ta biết được chính xác bắt đầu từ thế kỷ XIII. Năm 1232, khi người Trung Hoa bị người Mông Cổ vây đánh, họ đã phòng ngự bằng những khẩu pháo bắn đạn tròn bằng đá đã dùng trái nổ và các loại khí tài bằng thuốc súng để chống lại. Thời Nam Tống, năm Khai Khánh nguyên niên (1255) Trung Quốc có súng "Đột hoả thượng". Súng này bắn các loại đạn đá. Theo sách Trung Quốc cổ đại hoả pháo sử của Lưu Húc thì hoả pháo của Trung Quốc thời Tống - Nguyên - Minh bắn các loại đạn bằng đá, bằng sắt, bằng đồng, bằng chì hoặc bằng đất cứng. Những năm 1274 và 1281, khi đánh Nhật Bản, quân Nguyên đều dùng Thiết hoả pháo - một loại máy bắn đá phóng đi những hòn đạn sắt chứa chất nổ. Ở Ấn Độ, người ta biết được những hoả pháo đặt trên những cỗ xe từ triều đại Đê Li, vào giữa thế kỷ XIII. Đến giữa thế kỷ XIV, thuốc súng đã giữ vai trò lớn trong quân sự và pháo cũng dùng khá phổ biến trongnhiều nước ở châu âu. Như thế, hoả khí đã sinh ra từ phương Đông và nhanh chóng được các nước phương Tây ứng dụng.

        Ở Việt Nam, yêu cầu của cuộc chiến tranh giữ nước ngày một cao, ông cha ta đã không ngừng nghiên cứu, sáng tạo các loại vũ khí và phương tiện chiến đấu. Theo truyền thuyết và dã sử thì ở nước ta thuốc súng đã xuất hiện khá sớm, được sử dụng trong hội hè, đình đám và cả trong quân sự. Thời Lý - Trần, trong dân gian Đại Việt đã có tục đốt pháo mừng Xuân. Sử chép rằng, trong trận công phá thành Ung Châu, Lý Thường Kiệt bắt được ở Côn Luân một tù binh tên là Triệu Tú, biết được cách đánh hoả công, nghĩa là bắn chất cháy vào thành. Nguyên sử, phần An Nam truyện có chép việc sử dụng pháo của quân nhà Trần. Sự kiện đó diễn ra vào tháng 2 năm 1285, khi quân Nguyên tiến đến gần Đông Bộ Đầu, đóng ở bên kia sông Hồng, chuẩn bị tiến công vào kinh thành Thăng Long, thì quân nhà Trần do vua Trần chỉ huy từ bên này sông đã "bắn pháo, hô to, thách đánh" (nguyên văn Nguyên sử là: phát pháo đại hô cầu chiến)1 (Nguyên sử, trích dịch phần Binh chế và một số sử liệu liên quan đến Việt Nam, Tư liệu Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, tr.5). Tuy nhiên, đó mới là sử liệu duy nhất phản ánh về hoả khí của quân đội Đại Việt hồi thế kỷ XIII.

        Sử sách chép rõ hơn đồi với những hoạt động của hoả khí giai đoạn cuối Trần, đầu Hồ. Năm 1382, tại cửa biển Thần Đầu (Thanh Hoá), trong một trận thuỷ chiến với quân Chiêm Thành, viên tướng dưới quyền chỉ huy của Hồ Quý Ly là Nguyễn Đa Phương đã mở hàng cọc, cho quân xông thẳng vào thuỷ quân Chiêm, "ném đồ hoả khí thiêu cháy gần hết đoàn thuyền chiến giặc”… Đặc biệt là sự kiện xảy ra trên sông Hải Triều (sông Luộc) vào tháng Giêng năm 1330, khi vua Chiêm là Chế Bồng Nga với hàng tướng Trần Nguyên Diệu chỉ huy hơn 100 chiến thuyền đi dò xét trận thế, chuẩn bị đánh quân Đại Việt. Lúc đó, Đô tướng Trần Khát Chân chỉ huy quân nhà Trần đã dàn thế trận mai phục, bố trí các khẩu pháo hai bên sông và trên thuyền chiến. Khi thuyền giặc chưa tập hợp thì một tiểu thần bị Bồng Nga trách phạt chạy sang quân ta chỉ chiếc thuyền sơn màu lục là thuyền của vua Chiêm đang đứng thị sát. Tướng Trần Khát Chân sài hoả pháo cùng bắn một loạt. Đạn bay trúng giữa thân Chế Bồng Nga xuyên suốt xuống tận ván thuyền. Bồng Nga chết ngay, quân Chiêm tan vỡ. Như vậy, có thể nói rằng tử thế kỷ XIII, ở Đại Việt đã biết chế tạo và sử dụng thuốc súng trong mục đích quân sự; và từ cuối thế kỷ XIV, quân đội Đại Việt đã được trang bị, sử dụng hoả khí phổ biến và có hiệu quả.

        Đầu thế kỷ XV, Hồ Nguyên Trừng đã kế thừa và cải tiến kỹ thuật đúc súng lúc đó, sáng tạo ra phương pháp chế súng Thần cơ (còn gọi là Thần cơ sang pháo), kiểu đại bác đầu tiên ở nước ta. Đạn đúc bằng chì, bằng gang hoặc bằng đá có sức xuyên và công phá tốt, có hiệu quả sát thương và uy hiếp tinh thần quân địch. Thần cơ sang pháo và Cổ lâu thuyền là hai phát minh lớn nhất về vũ khí và trang bị thời kỳ này. Đó là kết quả sáng tạo của nhà sáng chế tài ba Hồ Nguyên Trừng.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tám, 2016, 05:43:23 am

        Mặc dầu Trung Quốc là cái nôi sinh ra thuốc súng và đã từng chế tạo, sử dụng khá sớm các loại hoả pháo, nhưng đầu thế kỷ XV, trong cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt, quân Minh vẫn không tránh khỏi nỗi kinh sợ trước hoả lực pháo binh của quân đội nhà Hồ. Khi cướp được pháo của Đại Việt, chúng rất đỗi ngạc nhiên và khâm phục vì Thần cơ sang pháo có nhiều ưu thế hơn hẳn các hoả pháo của quân Minh. Những cỗ Thần cơ sang pháo được nhanh chóng chở về Trung Quốc. Vua Minh Thành Tổ cùng các đại thần văn võ, các tướng lĩnh trong triều hết sức thán phục tài "sáng chế của người An Nam". Vua Minh ra lệnh lập tức đưa Hồ Nguyên Trừng sang Trung Quốc tìm cách mua chuộc, cho Trừng làm quan phụ trách chế tạo binh khí, lập nên Thần cơ doanh; đồng thời ra lệnh học tập, vận dụng phương pháp chế súng Thần cơ để trang bị cho quân đội Sách Minh sử, phần Binh chế nói: "Đến đời Minh Thành Tổ (1403 - 1424) đánh nước Giao Chỉ học được phép đúc Thần cơ sang pháo. Lúc bấy giờ mới đặt ra súng Thần cơ, phép chế súng ấy, dùng đồng đỏ, một nửa còn sống, một nửa là đồng đã nấu, lẫn lộn. Cũng có thể dùng sắt mà đúc. Sắt Phúc Kiến thì tốt hơn sắt Tây Vực. Súng có nhiều cỡ lớn nhỏ không đều. Lớn thì kéo bằng xe, nhỏ thì dùng giá gỗ hay vác trên vai. Súng lớn thì lợi cho việc chiếm và giữ; súng nhỏ thì lợi việc chiến đấu. Tuỳ tiện lợi mà dùng; đó là binh khí rất cần cho việc hành quân”1 (Dẫn theo Lê Quý Đôn toàn tập, Tập IX, Vân đài loại ngữ, Nxb Khoa học xã hội, H.1978, tr.229). Theo Minh sử, thời Vĩnh Lạc (1403 - 1424) vua Minh thân chinh mặt bắc đánh (Mông Cổ). Khi giặc kéo đến, bèn đem Thần công của nước An Nam ra đánh, giặc mới rút lui. Đến năm Tuyên Đức (1428 - 1435) triều đình sắc cho quan Tổng binh ở Tuyên Phủ rằng: Thần cơ sang pháo là trọng khí của nhà nước, cấp cho đồn biên phòng để thị uy, cấm không được cấp nhảm. Năm Chính Thống (1436 - 1449), các tướng ngoài biên ải lập ra Thần sang cục, nhưng vua cho là chế hoả khí ở ngoài biên sợ tiết lộ bí mật, nên bắt phải thôi"1 (Dẫn theo Lê Quý Đôn toàn tập, Tập IX, Vân đài loại ngữ, Nxb Khoa học xã hội, H.1978, tr.230). Điều đó chứng tỏ, Thần cơ sang pháo của Hồ Nguyên Trừng được coi trọng ở Trung Quốc như thế nào.

        Như vậy, ở Việt Nam cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, hoả khí đã xuất hiện và phát huy tác dụng trong chiến đấu Đó là cái mốc lịch sử đánh dấu bước phát triển của vũ khí công nghệ quân sự nước ta từ giai đoạn bạch khí sang hoả khí. Mặt khác những ghi chép trong sử sách chứng tỏ trình độ kỹ thuật công nghệ cũng như trang bị vũ khí trong quân đội Đại Việt có những mặt vượt hẳn so với quân Minh ở Trung Quốc. Bước phát triển mới này của vũ khí kỹ thuật đã có tác động rất lớn đến các mặt khác của Binh chế như tổ chức quân sự và nghệ thuật dụng binh.

        Sau khi Hồ Nguyên Trừng bị bắt, việc chế súng của người Việt vẫn tiếp tục. Năm 1427, khi đất nước cơ bản đã được giải phóng, Lê Lợi huy động các thợ giỏi, tổ chức chế tạo nhiều loại vũ khí mới, trong đó có súng Cổn Dương.

        Thời Lê Sơ, đến triều Lê Thánh Tông, chính quyền trung ương được coi là hoàn bị nhất. Cách tổ chức quân đội việc sản xuất và trang bị vũ khí vì thế cũng được chấn chỉnh, phát triển và có quy chế chặt chẽ. Chẳng hạn, trong số 27 vệ của 9 đô ti thì 26 vệ có tổ chức sở Súng Nổ. Thời đó ngoài các loại pháo lớn nhỏ, còn có các loại súng tay, súng điểu thương, hoả mai, súng báng gỗ, súng bọc da, súng lệnh, ống phun lửa, hoả tiễn, hoả mù, đạn lửa... được chế tạo và trang bị cho quân đội. Đời Lê Thánh Tông có đặt các sở “pháo đội" mang tên: Lôi Hoả, Điện Hoả, Tiệp Hoả, Nhuệ Hoả, Xuyên Vân... Chứng tỏ sang thời Lê Sơ, hoả khí đã được chế tạo và trang bị phổ biến, đa dạng hơn so với các giai đoạn trước. Bộ Sưu tập vũ khí Ngọc Khánh - Ngọc Hà - Quần Ngựa (Hà Nội), trong đó có hơn 1.100 viên đạn đá với nhiều kích cỡ khác nhau (loại lớn nhất đường kính 5,5 cm, loại nhỏ nhất 1,7 cm) cho biết sự đa dạng và phong phú các chủng loại hoả khí thời Lê.

        Chúng tôi chưa biết rõ việc trang bị trong từng đơn vị của quân đội nước ta trước thế kỷ XV như thế nào. Từ thời Lê Sơ, quy chế về vấn đề này đã khá rõ ràng. Năm Thuận Thiên thứ nhất (1428), Lê Thái Tổ quy định phẩm vật cho các đơn vị: Trung đội cờ vàng, thượng đội cờ đỏ, hạ đội cờ trắng. Mỗi vệ chủ tướng 1 lá cờ to, mỗi quân 1 lá cờ nhỡ, cờ đội 10 lá, cờ nhỏ 40 lá; chiến thuyền 10 chiếc, thuyền nhỏ đi tuần 2 chiếc; ống phun lửa hạng đại tướng quân 1 cái, hạng lớn 10 cái, hạng nhỏ 40 cái; nỏ tốt 50 cái, câu liêm 40 cái bậc nhì thủ tiễn mỗi người 3 cái, đại đao mỗi người 1 cái… Từ đó về sau, chế độ trang bị vũ khí cho các đơn vị càng được quy định cụ thể và chặt chẽ hơn.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tám, 2016, 05:43:51 am
        Về cách tổ chức sản xuất vũ khí trong các thời Lý - Trần - Hồ, không có sử liệu phản ánh rõ. Thời bình vì lý do an ninh xã hội, các triều đại thường cấm dân chúng rèn đúc và tàng trữ vũ khí. Khi có chiến tranh, để cung cấp đủ cho quân đội, đồng thời để thực hiện chiến tranh nhân dân chống xâm lược, nhà nước phong kiến ra lệnh và cho phép cả nước sắm vũ khí. Tháng 12 năm Quý Mùi (1044), vua Lý "xuống chiếu cho quân sĩ sửa soạn giáp binh". Trước cuộc kháng chiến chống xâm lược Mông - Nguyên lần thứ nhất (1257), nhà Trần "truyền lệnh cho cả nước sắm sửa vũ khí". Năm 1262, Trần Thánh Tông "xuống chiếu cho các đạo làm đồ binh khí và chiến thuyền". Năm 1282, Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toán đã lập đội quân hơn nghìn gia nô và thân thuộc, tự sắm vũ khí, đóng thuyền chiến, chờ ngày giết giặc cứu nước. Mùa Hạ năm Bính Tuất (1286), vua Trần lệnh cho các vương hầu, tông thất mộ binh và sửa soạn đồ binh khí, thuyền ghe chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên lần thứ ba. Trong chiến tranh nhân dân chống xâm lược thời Trần, vũ khí phần lớn do nhân dân tự trang bị lấy. Hơn nữa, với phương thức tổ chức quân đội "thời bình làm nông, thời chiến làm binh” thì các vũ khí thông thường như giáo, mác, gậy, cung nỏ... do quân vương hầu, quân địa phương và dân binh tự trang bị là chuyện dễ hiểu. Và, cũng vì thế có sự kiện Linh từ quốc mẫu (vợ Trần Thủ Độ) đã quyên góp được nhiều đồ quân khí của các nhà để có thêm vũ khí cho quân đội. Hình thức tự "sắm sửa vũ khí" theo lệnh của triều đình nói trên là phổ biến trong các triều đại.

        Ở Đại Việt, hầu hết các làng xã đều có lò rèn để sản xuất các dụng cụ gia đình, các nông cụ và chiến cụ. Nhiều địa phương, khi chiến tranh xảy ra đã trở thành hậu phương kháng chiến, không chỉ cung cấp sức người, lương thực, mà cả vũ khí cho quân đội. Các làng xã theo lệnh vua, mở lò luyện võ, đóng thuyền chiến và rèn đúc khí giới. Trong các điền trang, thái ấp của quý tộc Trần có xưởng rèn - nơi sản xuất vũ khí cho quân vương hầu. Ở nhiều địa phương còn dấu tích, đền thờ phản ánh điều này. Ví như làng Cao Dương (xã Thụy Hưng, Thái Thụy, Thái Bình) nổi tiếng có nghề rèn sắt, mà theo tư liệu địa phương thì nơi đây đã có xưởng rèn do tướng Dã Tượng lập nên theo lệnh Trần Quốc Tuấn để rèn đúc vũ khí phục vụ cho cuộc kháng chiến lần thứ ba. Nhân dân đã rèn cả dây sắt, xích sắt sử dụng trong trận Bạch Đằng (1288). Tương truyền Trần Hưng Đạo luyện quân và huy động lương thực, vũ khí ở vùng này. Tại thôn A Sào, xã An Thái, huyện Quỳnh Phụ, các loại vũ khí như giáo, mác, gươm, đao được xếp vào một kho riêng gọi là Am Qua, yên ngựa được xếp thành nhiều đống lớn ở kho Đống Yên...

        Ngoài nguồn trên, nhà nước còn có những công xưởng (quan xưởng) chế tạo các đồ nghi trượng cho vua quan, các loại vũ khí trang bị cho quân đội, chủ yếu cho Cấm quân. Việc Lê Hoàn, một lúc chế hàng nghìn mũ đầu mâu cho sáu quân (1002) và Lý Thái Tông phát vũ khí trong kho cho hàng vạn quân lính (1044)...; chứng tỏ nhà nước phải có xưởng và kho quân khí. Các kho vũ khí đó được bảo vệ rất cẩn mật. Năm 1150, Lý Anh Tông ra lệnh: "Kẻ nào phạm việc qua lại ngoài địa đầu chái chứa khí giới của quân Phụng quốc vệ đô thì xử 80 trượng, tội đồ; nếu đã vào bên trong chái ấy thì xử tử. Quan Phụng quốc vệ đô ở trong chái có chiếu chỉ mới được cầm khí giới, nếu không có chiếu mà tự tiện mang khí giới đi ra ngoài địa đầu thì xử tử"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập 1, tr.284). Thời Hồ, năm 1405, "Hồ Hán Thương đặt 4 kho quân khí, không kể quân hay dân, người nào giỏi nghề sung vào làm việc". Đó là các xưởng quân giới, ngoài nhiệm vụ rèn đúc các vũ khí thông thường còn chế tạo súng Thần cơ và các loại pháo. Tháng 3 năm 1407, khi cuộc kháng chiến chống Minh ở giai đoạn gay go quyết liệt Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng vẫn tập trung thợ “đúc súng và đóng thuyền chiến để cự giặc" ở Muộn Hải. Luật Quân chính đời Hồng Đức quy định: "Những người giữ kho vũ khí, bán trộm đồ binh khí, thì phải chém; viên chánh - phó ngũ trưởng không xem xét để cho lính bán trộm mà không phát giác ra, thì bị biếm hoặc bị đồ..."1 (Quốc triều hình luật, Sđd, tr.107). Ngoài các xưởng sản xuất do cục bách công (bách tác) quản lý, nhà nước còn lập các kho (vũ khố), có quân lính coi giữ. Toàn thư chép: "Những nơi hiểm ải cần chống cự phải có nhà kho để chứa binh khí"2 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập III, tr.61). Đời Lê Thánh Tông lập các kho vũ khí và thuốc súng, cấy lúa và trồng hóp đá ở chung quanh để bảo vệ.

        Nhiệm vụ sản xuất, quản lý và trang bị vũ khí dưới thời Lê Sơ do Vũ khố Thanh lại ti trong Bộ Binh đảm nhiệm. Quốc triều hình luật (luật Hồng Đức) quy định lệnh cấm nhân dân chứa cất vũ khí trong nhà, cấm chợ búa dân gian bán đồ quân nhu. Năm 1469, Lê Thánh Tông ra quy chế về thể lệ sửa chữa và bảo quản vũ khí: “Nếu khí giới có hao mòn, khuyết mẻ đều đem đến kho vũ khí để tu tạo theo đúng quy thức, không ai được tự tiện đem đến các nơi nhà công ở ngoại thành để sửa chữa hoặc làm mới. Người nào trái lệnh sẽ luận vào tội lưư”. Năm 1483, nhà vua ra sắc chỉ cho các vệ, ti, sở làm đồ binh khí thì phải đến Vũ khố của bản vệ, ti, sở mà làm, không được tự tiện làm ở các chỗ giải vũ và điếm quân ở ngoài thành. Điều 27 Luật Quân chính nói rằng: “Người coi kho vũ khí thấy trong kho quân khí thiếu hụt mà không xin chế tạo thêm vào thì phải biếm hai tư"1 (Quốc triều hình luật, Sđd, tr.108). Thời kỳ này, đất nước bình yên, đồng thời là giai đoạn chế độ quân chủ chuyên chế đã phát triển cao độ, do đó Nhà nước Lê Sơ đã độc quyền sản xuất, trang bị, sửa chữa và quản lý các đồ quân khí. Đó cũng là những bước phát triển mới của Binh chế Đại Việt trên lĩnh vực này.

        Tóm lại, trải qua các triều đại từ Lý đến Lê Sơ, các nhà vua đứng đầu quốc gia cũng như các tướng lĩnh đến nhận biết rằng, vũ khí trang bị là cơ sở vật chất kỹ thuật của sức chiến đấu, là một trong những yếu tố tạo nên sức mạnh quân đội, do đó thời kỳ nào cũng quan tâm đến vũ khí trang bị của quân đội.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tám, 2016, 05:45:13 am
        2. Trang phục và nuôi dưỡng quân đội

        2.1. Trang phục

        Sử sách xưa nói lẻ tẻ về cách ăn mặc của các võ quan, còn trang phục của binh lính thì rất khó tìm hiểu. Nước ta nhỏ, sống chủ yếu bằng nghề nông; thủ công nghiệp tuy phát triển sớm nhưng chưa thể cung ứng đủ mọi nhu cầu về vải mặc cho cả quân đội; vả lại ở một số triều đại trong nông thôn đã có "binh điền" cấp cho gia binh và lính tại ngũ; vì thế, cả ăn và mặc quân sĩ chủ yếu phải tự túc, kinh phí của nhà nước chỉ đủ cung cấp cho đội ngũ võ quan và lính Cấm quân - những lính chuyên nghiệp phải thường xuyên túc trực bảo vệ. Sử chép: Năm 975 Đinh Tiên Hoàng quy đinh áo mũ cho các quan văn võ; quân Thập đạo đều đội mũ "Tứ phương bình đính”, mũ bằng da, phía trên phẳng, 4 góc vuông khâu giáp nhau, trên hẹp dưới rộng. Đến thời Tiền Lê, năm 1002, Lê Hoàn trang bị mũ "Đầu mâu” cho quân đội. Có thể nói, từ thời Đinh - Lê, quân thường trực đã bắt đầu có trang phục tương đối thống nhất. Sang thời Lý, cùng với việc xây dựng kinh đô mới ngày một khang trang lộng lẫy hơn, đội ngũ Cấm quân cũng được coi trọng và phát triển. Người lính bảo vệ Hoàng thành được trang bị đầy đủ cả về trang phục và vũ khí Tuy nhiên sử cũ không ghi chép về vấn đề này. Sách Toàn thư cho biết, vào mùa Đông năm 1055, vua Lý Thánh Tông thương kẻ tù tội, ra lệnh "phát chăn chiếu cho tù nhân". Như vậy, chắc Cấm quân thời ấy cũng được phát chăn chiếu. Bức vẽ các chiến binh trên đồ gốm Lý - Trần cho biết họ đều chít khăn, đóng khố, cởi trần. Thời Lý, các quan văn võ từ lục phẩm được mặc áo gấm, từ thất phẩm trở xuống mặc áo the. Điều này cũng phù hợp với mệnh lệnh của Lý Thái Tông phát gấm vóc trong kho để may lễ phục cho vua quan. Năm 1044, các võ quan lập công trong các cuộc chinh phạt Chiêm Thành đều được nhà vua ban thưởng; từ lục phẩm trở lên cho áo bào gấm, từ thất phẩm trở xuống ban áo là Quân sĩ thời đó chủ yếu mặc áo vải thô nhuộm củ nâu và lá cây Lê Quý Đôn viết rằng: "Nước Nam ta lấy lá chàm nhuộm vải và lấy củ nâu nhựa giã nhỏ, nhuộm, lấy chày đập, rồi phơi khô để may áo, gọi là thanh cát y; có ba thứ: sắc màu lửa sáng, sắc màu sáng nhạt và sắc màu hoa quỳ. Bất cứ quân dân, sang hèn đều mặc thế. Chỉ có khác ở chỗ dài ngắn mà thôi"1 (Lê Quý Đôn toàn tập, Tập IV, Sđd, tr. 155).

        Năm 1182, vua Lý ra lệnh cấm nhân dân không được mặc áo sắc vàng vì màu vàng chỉ dành riêng cho vua. Từ đời Lý Thánh Tông, các quan văn võ đều dùng "mũ phốc đầu” làm triều phục. Năm 1164, vua Tống thấy sứ giả nhà Lý "ôn hoà, văn phong, áo mũ chững chạc, đàng hoàng, rất lấy làm ưng ý"1 (Quốc sử quán thế kỷ XIX, Việt sử thông giám cương mục, Sđd, Tập IV, tr.45). Điều đó chứng tỏ, trang phục của các quan văn võ thời Lý đã hoàn chỉnh, đẹp mắt.

        Dưới triều Trần, quân sĩ Vân Đồn đội nón Ma Lôi. Lúc đó Trần Khánh Dư trấn giữ Vân Đồn, ông thấy quân dân đều ăn mặc trang phục kiểu Trung Quốc. Khánh Dư ra lệnh: "Quân đóng ở Vân Đồn là để giữ giặc Hồ (giặc Bắc), không nên đội nón phương Bắc, trong chiến tranh khi vội vàng khó phân biệt; phải đội nón Ma Lôi. Ai trái lệnh thì phạt"2 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập II, tr.60). Ma Lôi là tên một hương ở Hồng Lộ (Hải Dương) khéo nghề đan cật tre làm nón. Bấy giờ có loại khăn và mũ dành riêng cho nhà vua hoặc các tướng khi duyệt binh. Vua Anh Tông có hai chiếc mũ võ để đội khi kiểm duyệt quân đội hay khi giảng võ, đặt tên là mũ Vũ uy và Uy đức. Năm 1351, khi duyệt Cấm quân ở điện Thiên An, Nguyễn Trung Ngạn mác áo chiến bào, đội khăn quan võ, đeo "lăng kim nghiền" bằng gỗ vuông thiếp vàng 4 cạnh.

        Có thể hiểu cách ăn mặc của quân lính, võ quan thời Trần qua những quy định của nhà nước. Năm 1293, sứ nhà Nguyên sang không thấy y phục quân dân Đại Việt có màu sắc xanh, đỏ, vàng tía; bởi vì đó là những màu dành riêng cho vua. Tháng 10 năm 1300, định thể lệ áo mũ mới cho các quan văn võ. Về áo mặc, kích thước tay áo của các quan từ 1 thước 2 đến 9 tấc; không được mặc thứ "áo phủ phía trước"; các quan văn võ không được mặc áo xiêm. Quan văn võ đều đội mũ chữ "Đinh", thêm miếng lụa bọc màu tím xen màu biếc. Năm 1396, quy định cho các quan văn võ, tước từ cửu phẩm trở lên đội mũ Giác đinh, từ thất phẩm trở xuống đội mũ Thái cổ. Năm 1374, nhà nước ra lệnh cấm quân dân không được mặc áo kiểu người phương Bắc... Tháng 6 năm 1396, triều đình nhà Trần định thể thức áo mũ quan văn võ: Nhất phẩm mặc sắc tía; nhị phẩm sắc đại hồng; tam phẩm sắc đỏ hoa đào; tứ phẩm sắc lục; ngũ - lục - thất phẩm sắc biếc; bát - cửu phẩm sắc xanh... Võ quan, tước lục phẩm thì đội mũ Chiết Xung; tước cao mà không có chức được thắt đai, đội mũ Giác đinh; thất phẩm trở xuống đội mũ Thái cổ; tòng thất phẩm đội mũ Toàn hoa1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập II, tr.198).

        Dưới triều Lê Sơ, lính ngoại binh đội mũ da trâu, sơn đỏ Luật Hồng Đức quy định chế độ đeo bài, đội nón theo đúng số hiệu của quân thị vệ. Triều đình có lệnh cấm chợ búa dân gian bán nón Thuỷ ma và nón Sơn đỏ. Vua Lê Thánh Tông nói: "Những thứ áo giáp mũ trụ là để cho quân lính tăng thêm vẻ hùng tráng, như nón Thuỷ ma và nón Sơn đỏ là của Thân quân, đội để túc vệ, nay chợ búa dân gian có nhiều người bán, nên cấm đi"2 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập III, tr.226). Tháng 6 năm 1466, nhà vua quy định sắc phục và chế độ áo mặc quan văn võ khi tiến triều; "bổ tử" trước ngực của võ quan thêu hình con hổ và sư tử. Võ quan trong triều có các loại đai, mũ và quần áo riêng. Bấy giờ, có loại mũ Chiết Xung và Cao Sơn. Lê Thái Tổ quy định võ quan từ Thượng tướng trở lên đều được mặc áo phẩm phục bằng lụa màu đỏ. Năm 1437, Lê Thái Tông cho quan võ đội mũ Cao Sơn. Trước đó quan võ đội mũ Chiết Xung, đến đây cho đội mũ Cao Sơn, giống như quan văn. Năm 1471, Lê Thánh Tông có dụ rằng: "Triều đình là nơi lễ nhạc, y phục là vẻ tô điểm, danh phận khác nhau không nên lấn vượt... Nhà nước ta vỗ yên trung châu, lệ vẫn theo cổ. Triều phục trên dưới, văn dùng loại cầm, võ dùng loài thú, xưa đã có chế độ rồi. Người sang, người hèn thứ bậc khác nhau không thể lấn vượt; trước đã có lệnh cấm rồi, sao mà các quan không chịu phân biệt, xem chế độ của nhà nước làm hư văn, nhân dân thì phạm phép, đem tơ gai dệt kim tuyến làm áo thường... Trong hạn 100 ngày, người nào không theo đúng uy chế sẽ phải giáng cấp, trị tội"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập III, tr.243, 229). Năm 1489, triều đình định lệ cấp phát quân nhu gồm 92 điều, trong đó quy định rõ chế độ cung cấp trang phục và cấp dưỡng của quân đội.

        Do hạn chế nhiều về sử liệu, chúng tôi không thể khảo xét rõ được chế độ trang phục của binh lính các triều, chỉ hình dung được phần nào trang phục của họ. Nhìn chung trang phục của các võ quan tướng lĩnh đã tươm tất và uy nghi; triều phục càng về sau càng được phân biệt theo phẩm hàm, chức tước của họ.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tám, 2016, 05:46:34 am
        2.2. Nuôi dưỡng quân đội

        Dưỡng binh là một chế độ quan trọng. Ông cha ta từ xưa đã nói: "Thực túc binh cường”, “túc thực túc binh", "việc ăn là việc gốc của dân, là việc tính mệnh của binh"... Vua Lê Thánh Tông nói rằng: “Dẹp loạn chẳng gì bằng dụng võ, quân mạnh là ở đủ lương ăn"2 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập III, tr.243, 229).

        Việc nuôi binh, dưỡng binh tuỳ thuộc vào chế độ tổ chức quân đội của từng thời kỳ. Tuy nhiên, suốt từ thế kỷ XI đến XV, các triều đại từ Lý đến Lê Sơ đều thực hiện quốc sách "Ngụ binh ư nông" và vấn đề nuôi dưỡng quân đội luôn luôn gắn chặt với chính sách này.

        Thời Lý, Trần và đầu Lê, Cấm quân là lực lượng thường trực, thường xuyên phải túc trực tại ngũ để canh phòng và luyện tập. Loại quân này được Nhà nước cung cấp theo chế độ của từng giai đoạn. Họ được phát lương bằng tiền, bằng thóc hay cấp ruộng khẩu phần. Còn các quân khác như Sương quân, quân địa phương đều thực hiện phép chia phiên theo chính sách Ngụ binh ư nông. Các đơn vị được chia thành nhiều phiên (từ 3 đến 5 phiên), thay nhau theo định kỳ, một phiên ở lại túc trực, luyện tập canh giữ hay phục dịch, các phiên khác trở về gia đình tham gia sản xuất, tự túc lương ăn.

        Sách Việt sử tiêu án chép: "Chế độ binh lính nhà Lý... mỗi tháng lên cơ ngũ một lần, gọi là đi canh, hết canh lại về làm ruộng, quan không phải cấp lương"1 (Ngô Thì Sĩ, Việt sử tiêu án, Sđd, tr.127). Phan Huy Chú viết: "Đời Lý, Cấm quân mỗi năm được cấp 10 bó lúa. Mồng 7 Khai hạ, cấp cho mỗi người 3 tiền và vải 1 tấm. Ngày Nguyên đán, trong lễ đại triều hội, ban ăn có các thứ bánh tày, cá, mắm và cơm gạo nếp cái. Bấy giờ lương bổng đều cấp bằng gạo tẻ, tức gạo Chiêm. Còn ngoại binh thì không có lương, cứ luân phiên đến canh; hết canh, hết phiên canh cho về nhà cày cấy để tự cấp. Nhà Trần theo phép nhà Lý, binh túc vệ đều được cấp bổng hằng năm, số bổng bao nhiêu không rõ, còn binh các đạo thì chia phiên về làm ruộng, cho đỡ tốn lương. Khi Lê Thái Tổ bình định đất nước, chia ruộng cho các quân. Các vệ ở 5 đạo chia thành 5 phiên, 1 phiên lưu lài, 4 phiên về làm ruộng"1 (Phan Huy Chú, Sđd, Tập VI, tr.20).

        Sách Lĩnh ngoại đại đáp chép: "Binh sĩ (triều Lý) cứ một tháng một lần đổi. Hằng năm, ngày 7 tháng Giêng, mỗi người được chi tiền 300, trừu, lụa, vải đều một tấm. Hằng tháng được cấp 10 bó lúa”2 (Chu Khứ Phi, Lĩnh ngoại đại đập, bản dịch, tư liệu Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, tr.18). Sách Toàn thư cho biết: năm Giáp Thìn (1244), nhà Trần "định lương bổng của các quan làm việc trong ngoài và các quan Túc vệ"3 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập II, tr.19). Từ đời Lê Thánh Tông, quân đội tăng nhiều, do đó chính sách Ngụ binh ư nông được vận dụng cho tất cả các loại quân, kể cả Cấm vệ và thợ bách tác. Chế độ nuôi dưỡng vẫn theo phép chia phiên, nhưng so với trước mở rộng hơn. Khi tại ngũ, quân lính được nhà nước nuôi dưỡng và cấp quân nhu. Tác giả Binh chế chí có nói rằng: "Phép nuôi binh thời Lê Sơ đại để theo phép Ngụ binh ư nông của các đời Lý, Trần, không phải cấp lương. Thời Hồng Đức trở về sau cứ theo phép ấy không đổi. Đó cũng là phép hay của đời cận cổ"4 (Phan Huy Chú, Sđd, Tập VI, tr.20). Chính sách Ngụ binh ư nông xuất phát từ điều kiện nước ta, từ yêu cầu xây dựng quân đội mạnh nhưng đỡ phần chi phí cho nhà nước. “Gửi binh ở nông" là một quốc sách đúng đắn, sáng tạo khiến cho nông mạnh mà binh cũng mạnh. Thời Lê Sơ, phần lớn binh sĩ phải tự túc lương ăn, vì ngoài chính sách nói trên ở làng quê đã có “binh điền" cấp cho binh lính.

        Nguồn lương thực cung ứng cho việc quân đều do dân đóng góp, chủ yếu từ tô thuế, hay được huy động khi có nhu cầu cần kíp. Năm 1092, Lý Nhân Tông định lệ thu thuế, mỗi mẫu 3 thăng lúa, để cấp cho quân đội.

        Thời Trần, nhà nước thu tô ruộng công làng xã, mỗi mẫu 10 thăng; ruộng các vương hầu quý tộc mỗi mẫu 25 đến 100 thăng; ruộng quốc khố mỗi mẫu từ 300 đến 680 thăng. Sau khi thu hoạch xong dường như thóc không đập ngay mà phơi thật khô rồi lượm thành bó cất trữ trong kho. Quân sĩ hằng tháng được cấp theo bó, tự đập và xay giã lấy. Trong kháng chiến chống Mông - Nguyên, Trần Quốc Tuấn kêu gọi các nhà giàu tự nguyện đóng góp lương thực nuôi quân; ai có công đóng góp đều được phong làm "giả lang tướng”. Tại huyện An Hải (Hải Phòng) có đền Phú Xá, thờ bà Trần Thị Nhiên - người phụ nữ trong vùng có công lo binh lương cho đội quân của Trần Quốc Tuấn trong trận Bạch Đằng (năm 1288). Vì thế, sau đó đến ngày lễ 20 tháng 8 âm lịch hằng năm thường có lễ phẩm là món bánh đa, tượng trưng cho lương khô của dân làng đã phục vụ trận đánh. Các điền trang, thái ấp của các vương hầu, quý tộc Trần đều có các kho chứa lương thực, có thể đó cũng là nguồn cung cấp lương ăn cho quân đội lúc có chiến tranh. Di tích Hố Thóc trong thái ấp của Trần Quốc Tuấn ở Vạn Kiếp là một kho chứa nhiều lương thực, cung cấp đủ cái ăn cho đội quân đông đến vạn người. Di tích Hang Tiền ở đây cũng rất có thể là nơi cất giấu tiền, phục vụ cho nhu cầu mua sắm vũ khí, thuyền chiến và lương thực, thực phẩm cho quân đội.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tám, 2016, 05:48:08 am

        Một số địa phương tỉnh Thái Binh còn lưu dấu tích các kho lương đời Trần, như kho Nại ở phủ Long Hưng (xã Liên Hiệp, huyện Hưng Hà), kho Đại Nầm ở xã Quỳnh Thọ và kho Mễ Thương ở xã An Thái huyện Quỳnh Phụ), kho Lưu Đồn - Bát Đụn Trang ở Thụy Hồng, Thái Dũng (Thái Thụy) nằm ven sông Hóa... Trong số các kho chứa lương thực ở dọc ven sông Hồng thì Mễ Thương là kho lớn nhất. Trong trận Bạch Đằng (1288), Hưng Đạo Vương đã đưa đại quân qua đây tổ chức Hội thề sông Hóa, rồi cho chuyển số lương thực sang phục vụ cho chiến trận Bạch Đằng.

        Đời Hồng Đức, năm 1481, nhà nước còn tổ chức 43 sở đồn điền. Đó là những cơ sở kinh tế của một số đơn vị làm nhiệm vụ canh phòng ở nơi biên cương, nhằm "tích trữ lương thực ở chốn biên phòng" như lời đánh giá của một số sừ gia ngày trước. Lê Quý Đôn cho rằng: "Muốn cho quân lương được đầy đủ, quốc dụng được dồi dào thì không có gì bằng đồn điền. Lính tráng đều là người thổ dân; có công việc làm ăn thì không đào ngũ; chỗ nào cũng đóng đồn điền để cày bừa trồng trọt, đội ngũ liên lạc với nhau để bảo vệ các vùng trọng yếu, chẳng lo ngại gì"1 (Lê Quý Đôn toàn tập, Tập IV, Vân đài loại ngữ, Sđd, tr.14).

        Nhà nước tổ chức các kho chứa lương thực. Để cung cấp cho các cuộc hành quân và luyện tập, các triều đại còn dự trữ bằng lương thực chế biến như bỏng khô, chè lam, các loại bánh hay gạo nấu chín. Sử chép rằng: Năm 1037, Lý Thái Tông xuống chiếu cho xây dựng các kho Tư Thành, Lợi Nhân, Vĩnh Phong... để làm nơi cất giữ các loại tô thuế. Uy Minh vương Lý Nhật Quang làm tri châu ở Nghệ An đã sắp đặt hành doanh ở trại Bà Hoà; trong trại đất rộng có thể chứa được ba, bốn vạn quân; kho tàng tiền lương đủ dùng trong 3 năm. ông cho xây dựng 50 sở để làm kho tích trữ lương thực và tuỳ từng địa bàn quan trọng trong châu mà lập các đồn bằng đất để chứa thóc tô thuế, rồi đặt binh lính canh giữ, sẵn sàng cung ứng binh lương lúc cần. Năm 1044, trước khi xuất quân chinh phạt Chiêm Thành, vua Lý Thái Tông giao cho Lý Nhật Quang vận tải lương thực. Nhật Quang trước đó đã đặt trại Bà Hoà và thu đầy đủ tô thuế, chứa đầy kho, nên khi quân đi qua việc tiếp tế binh lương đều được chu tất. Nhà vua khen ngợi, khi thắng trận về, an ủi Nhật Quang, gia tước phong và giao quyền tiết việt vùng đất ấy1 (Quốc sứ quán thế kỷ XIX, Việt sử thông giám cương mục, Tập IV, tr.74).

        Thời Trần, trong giai đoạn phát triển của chế độ phong kiến, nền kinh tế nông nghiệp đạt được nhiều thành tựu, đồng ruộng và xóm làng được mở mang thêm nhiều nhất là ở đồng bằng ven biển và vùng biên giới phía Nam, làm tăng thêm thế mạnh của quốc gia, ổn định xã hội. Sách Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn viết về nền kinh tế thời Trần: “Lúc bấy giờ ở các trấn, sở đều có kho tàng dự trữ".

        Thời Hồ quân đông nên giải quyết lương thực cho quân đội là một vấn đề lớn. Do đó, cả Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương đều lo xây dựng kho chứa, định lại các loại thuế và tô ruộng để thu thóc của dân. Năm 1401, Hồ Hán Thương cho đặt "kho Thường Bình", phát tiền giấy cho dân các lộ, theo thời giá mà đong thóc để chứa vào các kho ấy. Năm sau, tướng quân Nguyễn Cảnh Chân cũng hiến kế mộ người nộp thóc, chứa lương thực vào các kho ở biên giới và những vùng quan yếu. Để đề phòng cuộc tiến công xâm lược của giặc Minh, triều đình nhà Hồ theo kế hoạch của Hoàng Hối Khanh lệnh cho các lộ trong nước tích trữ lương thực, đồ gạo chín để cấp cho quân đội.

        Thời Lê Sơ, đặc biệt dưới đời vua Lê Thánh Tông - một giai đoạn phát triển cao của nền kinh tế nông nghiệp, Nhà nước Đại Việt luôn có đủ thóc chứa đầy kho ở các đạo thừa tuyên và các phủ huyện. Riêng gạo nấu chín phơi khô để cung cấp cho quân đội là thứ lương khô dự trữ luôn luôn sẵn sàng lúc cần kíp. Năm 1471, Lê Thánh Tông thân chỉ huy 26 vạn quân "hỏi tội" Chiêm Thành xâm phạm biên cương phía Nam. Bấy giờ số lương của tri châu Thuận Hoá chở đến là gạo đồ chín. Vua hỏi: “Gạo đồ chín có thể để được 10 năm không?". Chất trả lời “Khoảng năm Thái Hoà (1443 - 1454) gạo đồ chín từ khi đánh Chiêm đến khi đánh Bồn Man trải qua 26 năm vẫn có thể ăn được”. Vua hỏi: "Gạo tốt thì mới được thế hẳn không mốc ư?". Văn Chất trả lời: "Đại khái để lâu vừa thì được 10 năm còn tốt nguyên"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập III, tr.238). Sách Vân đài loại ngữ cho biết: "Dân La Phù, huyện Thượng Phúc quen làm lương khô ngào mật. Xã Phụ Chánh, huyện Chương Đức cũng có nghề ấy. Họ chọn thóc loại tốt cho vào chảo, gạo nở như ong, trấu bong ra, rồi ngào đường hay mật, làm bánh lương khô rất mềm và ngọt, có thể để lâu ngày"2 (Lê Quý Đôn toàn tập, Sđd, Tập IV, tr.167). Những điều trên chứng tỏ kinh nghiệm truyền thống và khả năng dự trữ lương thực để phục vụ cho quân đội lúc đó.

        Trên đây là một số biểu hiện việc cung cấp nuôi dưỡng binh sĩ trong thời bình và thời chiến. Còn chế độ cung cấp đối với võ quan tướng lĩnh thì nhà nước đã có quy chế rõ ràng về lương bổng và ruộng đất. Khi đã là quan lại thuộc hệ thống chính quyền thì họ được hưởng những đặc ân, đặc quyền và bổng lộc theo quy định cụ thể trong Quan chế của các triều đại.

        Chế độ cung cấp cho quân đội trong các triều đại chủ yếu dựa vào dân và do dân; chính quyền đứng ra tổ chức thực hiện. "Gửi binh vào nông" để quân lính tự túc, đỡ phần chi phí quân sự, dựa vào dân để huy động lực lượng vật chất và trang bị, đồng thời tổ chức các cơ sở cung cấp của nhà nước là hai phương thức chủ yếu trong quá trình thực hiện chính sách cung cấp, nuôi dưỡng cho quân đội. Yếu tố nhân dân trong việc cung cấp vũ khí, trang bị và nuôi dưỡng cho quân đội nói trên là rất thích hợp với một cuộc chiến tranh nhân dân ở nước ta. Đó là những kế sách của các triều đại phong kiến từ Lý đến Lê Sơ.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tám, 2016, 05:48:54 am

        3. Các phương tiện cơ động quân sự

        Do điều kiện riêng, ở Việt Nam thời trung cổ không phát triển ky binh và chiến xa như ở Trung Quốc và một số quốc gia thảo nguyên khác. Phương tiện cơ động của quân đội ở Đại Việt chủ yếu là thuyền, một phần bằng voi và ngựa. Có thể hiểu một số quy chế của Nhà nước Đại Việt trên lĩnh vực này qua biểu hiện của những hoạt động quân sự có liên quan.

        Thuyền là phương tiện cơ động và chiến đấu quan trọng nhất. Ông cha ta từ sớm đã nổi tiếng thạo nghề sông nước, giỏi thuỷ chiến; mặt khác địa hình đất nước có bờ biển dài, nhiều sông ngòi, kênh rạch, đầm ao, nên phương tiện giao thông vận tải kể cả dân sự và quân sự phần lớn dùng thuyền, bè, ghe, mảng. Quân đội Đại Việt có một bộ phận quan trọng là thuỷ quân và thuỷ chiến luôn luôn được coi trọng, vì thế suốt trong các thế kỷ XI đến XV, các triều đại đều chú ý xây dựng các đội thuyền chiến và thuyền vận tải quân sự.

        Ngay từ thời Tiền Lê, Lê Hoàn đã đào sông từ Thanh Hoá đến Nghệ An để vận chuyển quân và lương đi đánh Chiêm Thành. Các trận chiến trên sông Bạch Đằng, sông Thương hoặc chặn giặc ở thành Bình Lỗ đều có phần đóng góp to lớn của thủy quân. Sang thời Lý, trong các cuộc hành quân bình Chiêm và đánh Tống, quân đội chủ yếu cơ động bằng thuyền. Năm 1069, Lý Thánh Tông thân hành dẫn quân đánh Chiêm, đã dùng toàn thuyền chiến để cơ động 5 vạn quân. Nếu tính mỗi thuyền chở được 250 quân và lương thực thì phải có chừng 200 chiếc. Năm 1075, đại quân 5 - 6 vạn do Lý Thường Kiệt chỉ huy tiến sang Khâm Châu cũng hành quân theo đường thuỷ và ít nhất cũng phải dùng 200 - 300 thuyền lớn. Đạo thuỷ quân do Thái tử Hoẵng Chân chỉ huy tham gia trận Như Nguyệt (1077) có tới hai vạn người với khoảng 400 thuyền chiến. Đạo thuỷ quân do Lý Kế Nguyên chỉ huy đánh trận Đông Kênh có khoảng trên một vạn quân và trên 100 thuyền chiến. Với số binh thuyền này, Lý Kế Nguyên đã giành thắng lợi vang dội, đánh tan đạo thuỷ quân nhà Tống do Dương Tùng Tiên chỉ huy, làm tiêu tan ý đồ của quân Tống định phối hợp thuỷ, bộ cùng tiến công phá thế trận phòng ngự ở Như Nguyệt của Lý Thường Kiệt.

        Quân đội thời Trần nổi tiếng tinh nhuệ một phần do có những đạo thuỷ quân thiện chiến dưới sự điều khiển của những đại tướng thuỷ quân lừng danh như Lê Phụ Trần, Trần Khánh Dư... Cùng với việc tăng cường quân số, số thuyền chiến phục vụ trong quân đội cũng tăng lên nhiều. Nếu thời Lý, số thuyền chiến trong các cuộc hành quân chỉ tính tới con số hàng trăm thì thời Trần con số có thể tính tới hàng nghìn. Sử chép: Năm 1284 tại đại bản doanh ải Nội Bàng (trên sông Lục Nam), Hưng Đạo Vương có một nghìn thuyền chiến. Trong trận Vạn Kiếp (2- 1285) không kể số thuyền của Trần Quốc Tuấn, các vua Trần còn dẫn quân Thánh Dực với hơn một nghìn thuyền chiến đến tăng cường. Điều đó chứng tỏ con số thuyền chiến trang bị trong quân đội nhà Trần rất lớn.

        Thời Hồ, Hồ Nguyên Trừng cho thành lập những xưởng đóng thuyền và trang bị nhiều loại lớn nhỏ cho quân đội đánh giặc Minh. Những năm chuẩn bị cho kháng chiến, nhà Hồ đã lo đóng tàu, thuyền để trang bị cho quân thuỷ. Sách Toàn thư chép: Năm 1400 "Hán Thương làm thuyền đinh sắt, có hiệu là Trung tàu tải lương, Lâu thuyền cổ tải lương. Chỉ mượn tiếng là chở lương mà thôi, nhưng trên có đường sàn đi thông được để tiện việc chiến đấu, dưới thì hai người chèo một mái chèo"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập II, tr.218). Trong chiến tranh, quân đội nhà Hồ cơ động chủ yếu bằng thuyền và đã sử dụng nhiều thuyền các cỡ. Ở trận Mộc Hoàn (1407), Hồ Nguyên Trừng sử dụng đạo quân thuỷ với 300 chiến thuyền đánh quân Mộc Thạnh. Tháng 3 năm đó, Hồ Nguyên Trừng cử các tướng Đỗ Mãn và Hồ Vấn quản lãnh thuỷ quân, tất cả có 7 vạn, nói phao là 21 vạn, từ Hoàng Giang tiến đánh Hàm Tử, thuyền chiến nối liền nhau hơn 10 dặm, chặn ngang giữa sông. Lực lượng thuỷ quân và thuyền vận tải quân sự của nhà Hồ lúc đó rất hùng hậu.

        Các cuộc hành quân cơ động lớn của nghĩa quân Lam Sơn chủ yếu bằng đường thuỷ. Năm 1425, Lê Lợi cử tướng Lê Ngân đem 70 thuyền chiến tiến từ Nghệ An vào Tân Bình hợp sức với Trần Nguyên Hãn giải phóng Tân Bình - Thuận Hoá. Cuối năm đó, Trần Nguyên Hãn chỉ huy đạo quân với hơn 100 chiến thuyền từ Ninh Giang tiến xuống Đông Bộ Đầu để vây Đông Quan... Trang bị của nghĩa quân, từ năm 1426 đã được Nguyễn Trãi mô tả là: "Thuyền chiến ngất mây, áo giáp rực sáng, tên đạn chất đống, thuốc súng đầy kho"1 (Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd, tr.138).


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tám, 2016, 05:51:33 am

        Thời Lê Sơ, quan niệm về "binh chủng" thuỷ quân độc lập đã rõ nét trong cơ cấu tổ chức quân đội, nên vấn đề trang bị và cải tiến các loại tàu, thuyền được chú ý cả về số lượng và chất lượng. Vua Lê Thánh Tông đã từng huy động được một đội thuyền chiến hùng hậu khoảng 5.000 chiếc, đảm nhiệm toàn bộ cuộc hành quân của 26 vạn binh sĩ đánh Chiêm Thành năm 1470; theo nhà vua, trong cuộc hành quân đó "tướng giỏi quân đầy, tì hổ vạn người, thuyền ghe ngàn dặm"2 (Dẫn theo Nguyễn Việt, Vũ Minh Giang, Nguyễn Mạnh Hùng, Quân thuỷ Việt Nam trong lịch sử chống ngoại xâm, Nxb Quân đội nhân dân, H.1983, tr.264).

        Sở dĩ khi có chiến tranh, các triều đại nói trên đã huy động được các đạo binh thuyền lớn như vậy bởi các nhà lãnh đạo đất nước thuở đó đều ý thức được tầm quan trọng của những hoạt động quân sự trên sông biển, hiểu được tầm quan trọng của chiến trường sông nước, coi thuỷ chiến là một ưu thế của quân đội Đại Việt và luôn chú ý phát triển quân đội trong đó có thuỷ quân cùng với các phương tiện cơ động chiến đấu của nó. Vua Lý nhiều lần ra lệnh “Sắm sửa vũ khí và đóng thuyền chiến". Năm 1043, Lý Thái Tông xuống chiếu đóng vài trăm chiến thuyền. Năm 1068, nhà vua lại ra lệnh đóng chiến hạm. Vua Lý Thần Tông (1106), sai đóng thuyền Mông Đồng để trang bị cho thuỷ quân. Năm 1119, nhà vua hạ lệnh cho chư quân đóng chiến thuyền và sắm sửa vũ khí để đánh quân phản loạn Ma Sa. Chiến thuyền thời Lý có hạng lớn, vừa và nhỏ; trong đó có loại chở được vài trăm quân cùng vũ khí lương thảo và có khả năng vượt biển xa hàng ngàn dặm. Các cuộc hành quân vượt biển đánh Chiêm Thành, đánh Tống hồi thế kỷ XI hay cuộc hành trình vượt biển của Thái tử Lý Long Tường cùng gia đình và quân bản bộ của ông hồi đầu thế kỷ XIII từ Đại Việt đến Cao Ly (triều Tiên) chứng tỏ điều đó.

        Theo sử sách ta biết được thời Lý có nhiều loại thuyền chiến như thuyền Mông Đồng (hai đáy), thuyền Lưỡng Phúc (hai lòng), thuyền Ngự (thuyền chỉ huy) và Lâu thuyền (thuyền lầu). Việt sử lược chép: "Tháng 11 (1106) vua sắp có việc lôi thôi với nhà Tống, sai đóng thuyền Vĩnh Long hai đáy và đóng chiến hạm"1 (Việt sử lược bản dịch của Trần Quốc Vượng, Nxb Văn Sử Địa, H. 1960, tr.122). Toàn thư chép: "Năm 1124, đóng thuyền Trường Quang kiểu hai lòng"2 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd. Tập 1, tr.125)... Loại thuyền chiến phổ biến thời bấy giờ là thuyền Mông Đồng và thuyền Lưỡng Phúc, có hai đáy an toàn và tiện lợi. Trên thực tế, thuyền Mông Đồng đã có từ những thế kỷ trước. Từ thế kỷ IX, ở nước ta đã đóng loại thuyền này và sau đó được sử dụng phổ biến. Quân thuỷ thời Ngô Quyền ngoài các thuyền nhỏ như thuyền độc mộc, thuyền thúng, cũng đã sử dụng loại thuyền Mông Đồng; theo sử sách mô tả, thời đó "mỗi chiếc có 25 chiến thủ, 23 tay chèo, thuyền chèo ngược xuôi, nhanh như gió"; đó là thứ thuyền hẹp và dài, dùng để xông đánh thuyền giặc"1 (Việt sử lược, Sđd, tr.122). Đến thời Lý, thuyền Mông Đồng nói trên chắc đã được cải tiến, có hiệu quả hơn trong vận tải cũng như khi chiến đấu. Thuyền chỉ huy của vua mang tên gọi Kim Phượng, Thanh Lan, Cảnh Hưng, Vĩnh Xuân...

        Vốn xuất thân từ vùng ven biển, lại ưa chuộng nghề võ nhà Trần càng chú trọng phát triển thuỷ quân, chế tạo nhiều thuyền chiến và giỏi thuỷ chiến. Trần Quốc Tuấn luôn chủ trương giữ quân số ở mức cần thiết, nhưng đối với thuyền chiến và thuyền vận tải thì vẫn "thường xuyên sắm sửa" và được tăng thêm. Mỗi lần chuẩn bị đánh quân Mông - Nguyên, vua Trần đều ra lệnh các lộ, các vương hầu đóng thuyền, ghe. Cuối thời Trần, đầu thời Hồ, nhiều loại thuyền chiến hiện đại nhất lúc đó xuất hiện như thuyền Châu Kiều, thuyền Đinh Sắt, Trung tàu tải thương hay Cổ lâu thuyền... Sứ thần nhà Tống, nhà Nguyên đều tận mắt chứng kiến sức mạnh của thuỷ quân Đại Việt. Sứ giả Trần Phu không chỉ thán phục tài bơi lội của thuỷ thủ nhà Trần mà còn khâm phục kỹ thuật đóng thuyền mông đồng, “đuôi như cánh uyên ương. Hai bên mạn thuyền cao hẳn lên, mỗi chiếc có tới 30 tay chèo, nhiều thì đến hàng trăm. Thuyền đi như bay" (An Nam tức sự). Cổ lâu thuyền thời Hồ là loại thuyền chiến lớn nhất, gồm hai tầng, tầng dưới có 100 mái chèo, tầng trên đặt súng Thần cơ và có sàn để cơ động khi chiến đấu. Điều đặc biệt là từ giai đoạn cuối Trần, pháo thuyền đã xuất hiện. Trang bị trên thuyền bên cạnh những vũ khí bạch binh thông thường còn có cả pháo lớn hoặc súng phun lửa. Tính cơ động của thuyền kết hợp với hiệu quả chiến đấu của hoả khí càng làm tăng thêm sức mạnh của thuỷ quân.

        Với quyết tâm bảo vệ "từng thước núi, tấc sông", các vùng biển và hải đảo của tổ tiên để lại, nhà Lê Sơ rất quan tâm xây dựng và trang bị thuỷ quân. Từ tháng 7 năm 1427, Lê Lợi đã ra lệnh quy định biên chế trong các vệ thuỷ quân: "mỗi thuyền dùng 50 người, giữ trại 5 người, vận lương 5 người, sai phái 5 người"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập III, tr.40). Tháng 8 năm 1428, trong khi ra quy chế về nghi trượng, chiến khí, thuyền ghe, vua Lê Thái Tổ cho biên chế mỗi "quân" có 10 chiến thuyền cỡ lớn, 2 thuyền cỡ nhỏ... Đến đời Lê Thánh Tông, điều kiện đất nước đã cho phép thuỷ quân phát triển nhanh cả về mặt tổ chức biên chế và trang bị.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tám, 2016, 05:52:11 am

        Số lượng trang bị thuyền chiến và thuyền vận tải ở các triều đại đều rất lớn, tuy nhiên việc tổ chức đóng thuyền của nhà nước như thế nào ta không biết rõ. Sử liệu phản ánh chủ yếu những lần đóng thuyền chỉ huy và một số lần nhà vua ra lệnh đóng chiến thuyền. Nhưng qua thái độ ghi chép của các sử gia, có thể nhận biết ý nghĩa quan trọng của vấn đề chế tạo và trang bị thuyền chiến trong các hoạt động có tính chất quốc gia ở các triều đại. Theo Việt sử lược, nhà Lý nắm độc quyền về việc đóng thuyền chiến và các thuyền lớn. Các triều đại kế tiếp cũng đều có các "quan xưởng" đóng thuyền thu hút rất nhiều thợ bách tác giỏi tay nghề từ khắp nơi. Ngoài số thuyền chiến được chế tạo quy mô đó, số thuyền ghe do nhân dân các lộ, phủ tự đóng và cung cấp cho quân đội cũng rất đáng kể. Sử sách ghi lại rất nhiều mệnh lệnh của triều đình, mỗi khi có chiến tranh, hô hào các địa phương, các vương hầu đóng thuyền để sẵn sàng chịu sự điều động. Chính nhờ thế, trong kháng chiến chống Mông - Nguyên, quân nhà Trần đi đến đâu cũng có đủ thuyền để cơ động và chiến đấu, mặc dù đã nhiều khi phải bỏ thuyền để nghi binh, lừa giặc.

        Ngoài thuyền chiến, quân đội Đại Việt còn trang bị ngựa và voi chiến. Từ thời Lý đến Lê Sơ, tại kinh thành Thăng Long, trong các buổi tập ở Xạ Đình, ở Bãi tập hay Trường đua, ở Điện Giảng Võ hay Giảng Võ Đường đều có môn cưỡi ngựa múa giáo, hoặc cưỡi ngựa bắn cung.

        Võ quan tướng lĩnh Đại Việt thường cưỡi ngựa, nhất là trong các cuộc duyệt quân, diễu hành, trong các kỳ tế lễ, hoặc khi đón tiếp sứ bộ ngoại bang. Thời chiến, vương hầu tướng lĩnh cưỡi ngựa chỉ huy bộ binh. Người ta còn dùng ngựa làm phương tiện truyền tin trong chiến đấu. Ở nước ta có xuất hiện ngựa kéo xe, nhưng không phổ biến như các nước khác. Nguyên sử cho biết, năm 1258, tại Bình Lệ Nguyên "quân Trần dàn trận, có voi ngựa rất nhiều ở bờ nam" do vua Trần Thái Tông thân chinh chỉ huy, chờ quân Mông Cổ sang đánh. Hình ảnh "Lê Tần cưỡi ngựa một mình ra vào trận giặc sắc mặt như thường" là biểu tượng của người lính kỵ binh lúc đó. Trong Hịch tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn nói với các tướng: "Đi bộ thì ta cấp ngựa, đi thuỷ thì ta cấp thuyền", v.v... Thời Lê Sơ, trong quân bộ có biên chế kỵ binh. Cấm quân đời Lê Thánh Tông có 4 vệ Mã Nhàn; trong vệ Cẩm Y có ti Binh Mã, trong phủ Trung quân có vệ Ky Xạ gồm 5 sở, v.v...

        Nước ta có nhiều voi và từ sớm đã sử dụng voi trong mục đích quân sự. Người Trung Quốc cho rằng: "Quân Nam đánh trận hay dùng sức voi". Voi chiến có thể vừa là phương tiện chiến đấu, vừa là vũ khí sát thương địch. Voi chuyên chở vũ khí, binh lính và lương thảo; khi cận chiến, giáp lá cà, voi có thể dùng vòi, dùng chân tiêu diệt địch, phá rào lũy, mở đường tiến cho bộ binh. Với ưu thế của nó, voi chiến luôn trở thành nỗi kinh hoàng của quân xâm lược mỗi lần gặp phải. Thời Lý, Lý Thường Kiệt đã điều voi chiến tham gia chiến đấu ở Ung Châu (1075), gây cho quân Tống nhiều khốn đốn. Tướng Thân Cảnh Phúc đã sử dụng voi trong trận chặn đánh quân Tống ở ải Quyết Lý (1077) khiến quân giặc bị tổn hao trước khi tiến đến bờ bắc sông Như Nguyệt. Tống sử cho biết, khi Quách Quỳ tiến tới huyện Quang Lang, thì tiền quân nhà Lý do Thân Cảnh Phúc chỉ huy đem voi cản đường, quân Tống không thể tiến được. Người Tống vừa sợ hãi vừa khâm phục voi chiến của ta. Vì thế sau chiến thắng Như Nguyệt, nhà Lý đã sử dụng voi làm sản vật quý dâng tặng vua Tống để đổi lại quân Tống phải rút khỏi châu Quảng Nguyên. Sứ ta, Đào Tông Nguyên mang theo năm con voi để cống. Vua Tống đã nhận voi và trả đất Quảng Nguyên cho ta. Người Tống đã làm thơ chế nhạo vua Tống rằng: “Nhân tham Giao Chỉ tượng, khước thất Quảng Nguyên kim" (Vì tham voi Giao Chỉ, nên mất vàng Quảng Nguyên). Tất nhiên, nguyên nhân chủ yếu phải trả không chỉ vì voi mà chủ yếu do quân Tống không thể giữ được vùng đất ấy nữa.

        Thế kỷ XIII, voi cũng theo Trần Hưng Đạo đã đi đánh giặc Mông - Nguyên; câu chuyện cảm động về con voi chiến của ông bị sa lầy ở sông Hóa (Thái Bình) được lưu truyền mãi mãi. Voi chiến tham gia giữ thành Đa Bang trong kháng chiến chống Minh thời Hồ (1406). Voi hiện diện trong cuộc trường chinh 10 năm khởi nghĩa của Lê Lợi. Mỗi đội quân khởi nghĩa thường có 5 - 7 thớt voi, khiến cho quân Minh hết sức lo sợ. Đến thời kỳ phát triển hùng mạnh, nghĩa quân có hàng ngàn voi chiến, vì thế trong Bình Ngô đại cáo có nói: Gươm mài đá đá núi cũng mòn, voi uống nước nước sông cũng cạn. Thời Lê Sơ, tượng binh đã phát triển nhiều nên trong quân đội có đội ngũ "tượng y" và đội quân "tượng phường binh" chuyên chăm sóc, nuôi dưỡng voi chiến; ở kinh thành có đặt năm vệ quân Tuần Tượng. Năm 1465, Lê Thánh Tông đã ban hành các trận đồ thuỷ bộ, trong đó có 22 điều tượng trận và 27 điều mã trận.

        Như vậy, ngựa và voi đã sớm được các triều đại sử dụng trong quân sự với mục đích vận tải và chiến đấu. Tuy nhiên ở nước ta, kể cả ky binh và tượng binh không trở thành một binh chủng chiến đấu độc lập mà luôn là lực lượng phối thuộc chiến đấu hiệp đồng có hiệu quả với bộ binh. Ky binh của ta không phát triển và không đóng vai trò quan trọng trong chiến đấu như ở các nước Bắc Á và châu Âu đương thời. Còn đối với tượng binh, là một lực lượng đặc biệt, nhưng mỗi đơn vị, mỗi mũi tiến công cũng chỉ có từ 2 đến 5 - 6 thớt voi dùng làm lực lượng đột kích. Chẳng hạn, trận Ninh Kiều (1426) các tướng Đinh Lễ và Nguyễn Xí chỉ huy 3.000 quân tinh nhuệ và hai thớt voi. Khi mai phục đánh Liễu Thăng ở Chi Lăng (1427), các tướng Lê Sát và Lưu Nhân Chú chỉ huy một vạn quân tinh nhuệ, 100 ngựa và 5 thớt voi. Voi vận tải quân sự và voi chiến được sử dụng rộng rãi hơn từ thời Trịnh, Nguyễn và Tây Sơn.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tám, 2016, 05:53:09 am

        II VẤN ĐỀ LUYỆN QUÂN

        1. Đào luyện võ quan cao cấp

        Trong vấn đề luyện quân, các triều đại phong kiến đặc biệt chú ý đến luyện tướng, trên cả hai lĩnh vực Đức và Tài. Hình thức rèn luyện đức độ cho các tướng có thể bằng truyền hịch, ban chiếu dụ, chỉ dụ; hoặc tổ chức các tướng họp bàn, tuyên thệ, v.v... Nội dung rèn luyện là bồi dưỡng tình cảm của tướng lĩnh đối với quê hương đất nước, với quân sĩ; đề cao lòng "trung quân ái quốc", tinh thần trách nhiệm của người chỉ huy.

        Trước khi bước vào cuộc đọ sức quyết liệt với giặc Mông - Nguyên (1285), Trần Quốc Tuấn với cương vị là Quốc công tiết chế (tổng chỉ huy quân đội) đã ra Hịch tướng sĩ, khơi dậy và khích lệ lòng trung nghĩa, tinh thần chiến đấu hy sinh "vì nước quên mình" của các tướng. Yự chí quyết chiến quyết thắng được bài hịch khích lệ đã từ các tướng sĩ truyền đến toàn quân, tạo nên một sức mạnh tinh thần hết sức to lớn. Tháng 11 năm 1282, Trần Nhân Tông triệu tập các vương hầu bách quan đến Bình Than bàn kế đánh giặc. Qua hội nghị đó, triều đình đã chung đúc trí tuệ, mưu lược của các tông thất, tướng sĩ để đi tới một phương lược giữ nước tối ưu nhất; để mọi người cùng thống nhất đường lối, kế sách kháng chiến. Mặt khác, qua hội nghị đó, triều đình đã động viên tinh thần đánh giặc của các tướng sĩ, làm cho mọi người dù được tham gia hội nghị hay không, đều nhận thấy bổn phận của người tướng trước nguy cơ giặc ngoại xâm. Hai sự kiện đối với Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư và Hoài Văn hầu Trần Quốc Toàn mà sử đã ghi liên quan đến hội nghị đều thể hiện tinh thần đó.

        "Hội thề Lũng Nhai” (1416) tại núi rừng Thanh Hoá do Lê Lợi tổ chức nhằm làm cho các anh hùng hào kiệt, các tướng lĩnh Lam Sơn đồng lòng chung sức, chiến đấu hy sinh vì dân vì nước. Tấm gương chiến đấu quên mình của chính Lê Lợi trong quá trình khởi nghĩa cũng đã là nguồn động viên, giáo dục các tướng sĩ rất lớn, khiến cho mọi người "ai nấy đều cảm kích mà liều chết với giặc". Đối với các tướng, Lê Lợi và Nguyễn Trái thường "hun đúc lòng trung nghĩa" xem đó là phẩm chất căn bản của mỗi người tướng, vì "đạo làm tướng lấy nhân nghĩa làm gốc, trí dũng giúp thêm".

        Sau khi giải phóng đất nước, đại diện cho chính quyền mới, Lê Lợi khuyên các tướng phải làm việc hết chức phận, “chớ vô tình, chớ lừa dối và chớ gian tham". Chiếu của Lê Thái Tổ nói rằng: "Ngày nay các đại thần tổng quản, cho đến đội trưởng cùng các quan viên ở viện, sảnh, cục, phàm người có chức vụ coi quân trị dân, đều phải theo phép công bằng, làm việc cần mẫn, thờ vua thì hết trung, đối với dân thì hết hoà... coi công việc của quốc gia như công việc của mình, lấy điều lo của sinh dân làm điều lo thiết kỷ. Hết lòng hết sức giúp đỡ nhà vua, khiến cho xã tắc yên như núi Thái Sơn, cơ đồ vững như bàn thạch"1 (Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd. tr.138). Lê Thái Tông trong chiếu gửi tướng Lê Ngân viết: "Cho ngôi cao, cho lộc trọng, trẫm đã ủy cho ngươi quyền làm tướng văn tướng võ trong ngoài. Trên vì vua, dưới vì dân, ngươi phải cáng đáng trách nhiệm yên nguy của xã tắc". Như vậy, các nhà nước phong kiến mà vua là người đại diện đều coi trọng nhân tố chính trị - tinh thần, chăm lo bồi dưỡng lòng trung thành, vì nước vì dân của các tướng lĩnh.

        Tuy nhiên để nâng cao chất lượng quân đội, yếu tố tài năng, thông hiểu binh pháp, giỏi võ nghệ của đội ngũ tướng lĩnh là hết sức cần thiết. Các nhà nước Đại Việt nói chung đều trọng võ; nhất là dưới thời Trần, xu hướng trọng võ trở thành phương châm sống của vua quan. Sử chép: “Bấy giờ các vương hầu phần nhiều lấy sự đánh nhau bằng tay không và một mình đi "ăn cướp” là dũng cảm". Vũ Uy Vương Duy (con Thái Tông) cũng thường trốn thành ra đấu võ ở bến Đông. Tại kinh thành, vua thường tổ chức cho quân sĩ đánh nhau với hổ (tất nhiên con vật đã được bẻ móng, rọ mõm). Do truyền thống thượng võ mà con cái các nhà quyền quý hoặc nhiều người trong dân cũng đã sớm quan tâm đến nghề võ. Khi trở thành các võ quan, họ lại tiếp tục được học tập quân sự một cách thường xuyên, có hệ thống theo quy chế của triều đình.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tám, 2016, 05:53:38 am

        Năm 1010, nhà Lý xây dựng thành Thăng Long, trong đó phía trước dựng điện Càn Nguyên làm chỗ coi chầu, phía trái dựng điện Tập Hiền, bên phải dựng điện Giảng Võ ở phía Nam thành, xây dựng một trường bắn gọi là Xạ Đình. Nơi đây, các vua Lý, các vương hầu và tướng lĩnh thường đến tập cưỡi ngựa bắn cung, học cách bày trận và phá trận. Thời Trần năm 1253, lập Giảng Võ Đường và Trường Đua để huấn luyện tướng sĩ. Điện Giảng Võ và Giảng Võ Đường là những trường quân sự cấp cao đầu tiên của nước ta. Ở đó, vua, thái tử, các vương hầu và tướng lĩnh được học binh thư, binh pháp và võ nghệ. Thời Lý huấn luyện tướng sĩ theo một binh pháp thống nhất mà người Tống gọi là An Nam hành quân pháp. Vua Tống khi được nghe nói về binh pháp nhà Lý đã khen ngợi mãi và ra lệnh phỏng theo đó mà thi hành ngay trong quân đội Tống1 (Theo Lê Quý Đôn toàn tập, Vân Đài loại ngữ, Sđd, Tập IV, tr.232). Thời Trần có Binh thư yếu lược và Vạn Kiếp tông bí truyền thư. Đó là những bộ binh thư mà Trần Quốc Tuấn đã dày công nghiên cứu biên soạn; và như lời của Trần Khánh Dư: "Đã lấy sách này dạy bảo con em làm gia truyền, không tiết lộ cho người ngoài biết"2 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập II, tr.86). Việc giảng dạy và học tập quân sự có lúc đã theo phương pháp mới, có thể gọi là khoa học, như lời dặn của Trần Quốc Tuấn: "Sau này con cháu và bồi thần của ta có theo học bí thuật này thì nên lấy lòng sáng suốt mà thi hành bày xếp, không nên lấy ngu tối mà dạy truyền; trái thế thì không chỉ mình phải chịu tai ương mà còn vạ lây đến con cháư”3 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập II, tr.86). Như vậy, theo Trần Quốc Tuấn, học binh pháp của ta hay của nước ngoài đều phải sáng tạo, linh hoạt, không rập khuôn, máy móc. Bí thuật của binh pháp Trần Quốc Tuấn có thể là phương pháp dụng binh dựa trên cơ sở tư tưởng quân sự "dĩ đoản chế trường" mà ông đã tổng kết.

        Thời Lý - Trần, học binh thư, binh pháp là điều bắt buộc đối với vua, thái tử, với các vương hầu, tướng lĩnh. Bởi vì bấy giờ vua là chỉ huy tối cao của quân đội, vua thường "tự làm tướng" cầm quân đánh giặc, thái tử là người kế vị; còn các vương hầu, tướng lĩnh là những người trực tiếp chỉ huy các đạo quân. Trần Quốc Tuấn đòi hỏi các tướng soái phải dày công nghiên cứu binh pháp, nhất là bộ Binh thư yếu lược. Ông nói: "Các ngươi biết chuyên tập sách này, theo lời ta dạy bảo thì trọn đời là tôi chủ, nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời ta dạy bảo thì trọn đời là nghịch thù”1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập II, tr.86). Tinh thông binh pháp, giỏi võ nghệ và hiểu rõ các phép tắc hành quân cũng là nguyên nhân khiến các tướng lĩnh triều Trần có được nghệ thuật dụng binh xuất sắc, góp phần quan trọng vào thắng lợi oanh liệt trong ba lần đánh giặc Mông - Nguyên.

        Có thể nói nhà Trần đã đào luyện được một đội ngũ võ quan, tướng lĩnh xuất sắc, là trụ cột của quân đội triều đình, giỏi võ nghệ, trung thành và lập nhiều chiến công. Nguyên nhân bởi vì nhà Trần đặc biệt coi trọng công tác đào luyện trên cả hai mặt Đức và Tài. Hình thức bồi dưỡng, rèn luyện đức độ có thể bằng ban chiếu dụ, truyền hịch, hoặc tổ chức cho các tướng học tập, họp bàn, tuyên thệ, v.v... Nội dung rèn luyện trước tiên là bồi dưỡng tình cảm của võ quan, tướng lĩnh đối với quê hương, đất nước, đối với quân sĩ, đề cao lòng nhân nghĩa, "trung quân ái quốc', tinh thần trách nhiệm của người cầm quân.

        Cũng như thời Lý, thời Trần đã tổ chức hội thề hằng năm ở Long Trì hay tại đền Đồng Cổ, gọi là lễ "Hội thề quốc nhân" hay lễ "Minh thệ". Sách Lịch triều hiến chương loại chí miêu tả một buổi hội thề như sau: Hằng năm, ngày 4 tháng 4, Tể tướng và trăm quan, hồi gà gáy đến trực ngoài cửa thành, mờ sáng vào triều. Vua ngự ở cửa hữu lang điện Đại Minh; trăm quan mặc nhung phục làm lễ hai lạy rồi lui ra; đều đủ đội ngũ nghi trượng theo hầu từ cửa Tây kinh thành đến gần đền thờ thần núi Đồng Cổ, họp nhau như thế rồi uống máu. Quan Trung thư kiểm chính đọc lời thề rằng: Làm tôi hết lòng, làm quan thanh bạch, không giữ lời thề thần linh tru diệt. Đọc xong, quan Tể tướng sai đóng cửa lại để kiểm điểm. Người nào thiếu thì phạt 5 quan tiền. Ngày hôm sau, con trai con gái bốn phương đứng ở cạnh đường để xem chật ních, cho là hội lớn”1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập II, tr.86). Hình thức hội thề đó đã góp phần gắn bó các triều thần văn võ với vua và hoàng tộc.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tám, 2016, 05:54:11 am

        Trong thời kỳ chống quân Minh xâm lược, việc đào tạo và huấn luyện đội ngũ tướng lĩnh Lam Sơn gắn liền với quá trình phát triển cuộc kháng chiến. Với cương vị là chủ tướng, Lê Lợi luôn tin tưởng các tướng và mạnh dạn trao cho họ chỉ huy các đạo quân và đảm nhận những mũi tiến công khác nhau, trên những hướng khác nhau, với những nhiệm vụ khác nhau. Lê Lợi thường là người trực tiếp truyền bảo binh pháp cho các tướng lĩnh và cùng các tướng vận dụng binh pháp đó vào thực tiễn chiến trận. Năm 1421, quân Minh mở cuộc vây quét khu căn cứ nghĩa quân ở sách Ba Lẫm, Lê Lợi họp các tướng nói: "Quân nó đông, quân ta ít, quân nó mệt, quân ta nhàn. Binh pháp nói rằng, được thua quan hệ ở tướng, chứ không phải ở đông với ít. Nay quân nó tuy đông, nhưng ta lấy thế nhàn mà chờ giặc mệt thì tất phá được". Theo đó, ông cùng các tướng chia binh phục sẵn, đợi khi quân giặc tới đóng quân chưa kịp chuẩn bị gì, lập tức xông ra đánh úp, thắng to1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập II, tr.85). Năm 1425, nghĩa quân ở phía Tây Nghệ An, nghe tin giặc đang rầm rộ ngược sông Lam tiến lên, Lê Lợi bàn với các tướng: "Giặc đông ta ít, lấy ít đánh đông thì phải nhờ đất hiểm mới có thể thành công được. Vả lại binh pháp nói phải chế người chứ không để người chế mình". Ngay sau đó, các tướng đem quân lên ải Khả Lưu tìm chỗ mai phục, đợi giặc tới, nhử chúng vào sâu rồi từ bốn mặt đổ ra đánh giết; giặc thiệt hại nặng, phải lui về đắp luỹ cố thủ. Lê Lợi bảo các tướng: "Giặc lương nhiều, giữ vững luỹ để làm kế lâu dài. Ta lương ít không thể cầm cự lâu với giặc được". Nói xong cho quân đốt hết doanh trại để lừa giặc, rồi cùng các tướng chọn quân tinh nhuệ lên mai phục trên đất hiểm ở Bồ Ải, chờ quân giặc đuổi tới, lọt vào trận địa, liền xông ra đánh cho đại bại. Giữa năm ấy, hầu hết đất Nghệ An được giải phóng2 (Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd, tr.45). Trước khi đánh Tân Bình - Thuận Hóa, khi vây Đông Quan hay đánh viện binh ở Chi Lăng, Lê Lợi đều họp các tướng, giảng giải binh pháp và đề xuất cách đánh hợp lý nhất dựa trên tư tưởng quân sự truyền thống “lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều”. Khi ra quân, các tướng lĩnh đã vận dụng và đều giành thắng lợi lớn. Đó là phương pháp giảng dạy và vận dụng sáng tạo binh pháp vào thực tiễn chiến đấu đang diễn ra của Lê Lợi đối với các tướng Lam Sơn thời chiến tranh giải phóng.

        Thời Lê Sơ, nhà nước tổ chức đào tạo tướng lĩnh với những quy chế chính quy trong các trường võ bị, trên bãi tập ở kinh thành và các đạo thừa tuyên. Đời Lê Thánh Tông, các võ sinh hằng ngày đến trường Giảng Võ ở phía Tây kinh thành luyện tập các môn bắn cung, phóng lao, đâm khiên, cưỡi ngựa. Sau 3 năm, Bộ Binh sát hạch để bổ làm võ úy - chức vụ khởi đầu của hệ thống võ quan. Theo chế độ tập ấm thời này, con các quan ai ham mê võ nghệ thì giao cho các quan thuộc vệ Cẩm Y dạy bảo, tập bắn cung, phóng thủ tiễn và đấu khiên. Đến tháng Chạp, Cẩm Y vệ phái quan đến khảo xét, đến năm thứ 3 đưa sang Bộ Binh khảo thí, ai trúng thì bổ chức võ úy. Năm 1481, nhà vua cho đào hồ Hải Trì ở góc Tây Nam kinh thành, giữa hồ dựng điện Thúy Ngọc, bên hồ dựng điện Giảng Võ. Các tướng lĩnh tới đây nghe binh pháp và tập võ nghệ. Các kỳ thi võ được tiến hành, việc khảo xét để thăng giáng võ quan ba năm một kỳ, vừa để kiểm tra trình độ võ nghệ các tướng, đồng thời qua đó để chọn nhân tài, bổ nhiệm các chức vụ võ quan.

        Sau khi đánh đuổi quân Minh ra khỏi bờ cõi, Lê Lợi và con cháu kế nghiệp ông thường xuyên quan tâm đến việc đào luyện đội ngũ võ quan, tướng lĩnh, đã xây dựng khu vực phía Tây Thăng Long thành một trung tâm luyện tập, khảo hạch và diễn tập quân sự lớn, đạt tới đỉnh phát triển cao. Khu di tích Giảng Võ phía Tây Thăng Long thực tế là khu di tích một trường võ bị quốc gia thời Lê, bắt đầu từ thời Lê Sơ (thế kỷ XV) đến thế kỷ XVIII. Trong đó, nửa đầu thế kỷ XV (đến 1481) khu vực Ngọc Hà - Khán Sơn được xây dựng thành trung tâm Giảng Võ, nhiều tướng lĩnh đã trải qua đào tạo tại đây, nhiều cuộc luyện quân, diễu võ quy mô lớn đã được tổ chức ở trường đấu võ này. Từ năm 1481, điện Giảng Võ được chuyển về khu vực Giảng Võ ngày nay (có thể là gò Điện Thí dưới chân núi Ngự), các hoạt động luyện tập, khảo hạch và diễn tập quân sự lớn theo định kỳ được tổ chức tại trung tâm này.

        Tóm lại, từ quan niệm "binh lấy tướng làm gốc, quân lấy tướng làm chừ' và "tướng là trụ cột của quốc gia"..., các triều đại đều hết sức coi trọng phát hiện, rèn luyện và bồi dưỡng đội ngũ võ quan. Việc đào luyện đó mỗi thời kỳ có khác nhau, nhưng nhìn chung đều chú ý trên cả hai lĩnh vực Đức và Tài, vừa phát huy phẩm chất vừa nâng cao năng lực của các tướng lĩnh, nhằm tạo ra một đội ngũ chỉ huy quân đội tài cán và trung thành với chính quyền phong kiến.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tám, 2016, 05:54:59 am

        2. Tổ chức tập trận, rèn luyện binh sĩ

        Trước cuộc kháng chiến chống Tống (1075-1077) quân đội triều Lý dưới sự điều hành của Thái úy Lý Thường Kiệt đã khẩn trương luyện tập. Điều này có thể hiểu qua lời chiếu của vua Tống bươi tướng Quách Quỳ trước khi đánh Đại Việt: "Hiện ở Giao Chỉ, Lý Thường Kiệt ngày ngày sai tụ tập binh lính, nhóm họp voi ngựa, tập dượt phép chạy và phép xung phong"1 (Dẫn theo Hoàng Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt, Sđd, tr.198). Tại làng Nam Đồng, xưa thuộc tổng Hạ, huyện Vĩnh Thuận (nay là phố Nam Đồng, Hà Nội) có đình và chùa thờ Lý Thường Kiệt. Tương truyền rằng, thời Lý, đất Nam Đồng còn rất hoang vu, Lý Thường Kiệt đã nhiều lần tổ chức luyện quân ở đây. Vì thế khi ông qua đời, dân làng đã dựng đình và chùa để tưởng nhớ công lao đánh giặc của vị tướng tài năng này. Trong đạo quân do Thái tử Hoằng Chân chỉ huy đánh trận Như Nguyệt, có 500 quân đặc biệt do ông "nuôi riêng", cấm mọi điều thị dục, được luyện tập võ nghệ và dạy cho trận pháp, có kỷ luật, người nào cũng có một cái kim bài để làm hiệu riêng. Đội quân ấy rất giỏi, hiệu lệnh rất nghiêm. Tôn Thăng trong sách Đàm phố cũng ca ngợi đạo thuỷ quân của Thái tử Hoằng Chân là hiệu lệnh nghiêm và chiến đấu rát giỏi.

        Chính nhờ luyện tập mà quân đội thời Lý có tiếng là tinh nhuệ. Vua Tống nói rằng, "quân Giao Chỉ gan lì và liều chết". Tướng nhà Tống là Tô Tử Nguyên công nhận: "Người Giao Chỉ giỏi thuỷ chiến". Sách Việt kiệu thư cho biết, người Tống có truyền tụng rằng: Giao Chỉ giỏi thuỷ chiếu, họ lặn xuống nước đội thuyền địch để lật úp. Đỗ Mục nói: họ có người đi ngầm dưới đáy biển 500 dặm mà không thở, thuyền đi biển thường bị họ lặn dưới nước đục thủng. Đạo thuỷ quân của Lý Kế Nguyên tuy không đông nhưng được tuyển chọn và huấn luyện cẩn thận, kỷ luật nghiêm, chiến đấu dũng cảm.

        Quân đội thời Trần do những người tông thất giỏi võ nghệ, tinh binh pháp chỉ huy và luyện tập chu đáo. Nhà nước rất coi trọng việc duy trì và phát huy tinh thần thượng võ cho quân sĩ, đặc biệt là những người ở hương Thiên Trường đã được sung vào hàng ngũ Cấm quân. Theo lệ cũ của họ Trần, quân sĩ Thiên Thuộc không được học văn nghệ, vì là sợ khí lực kém đi. Năm Tân Ty (1281), vua Trần cho lập nhà học ở phủ Thiên Trường nhưng lại cấm không cho trai đinh ở hương Thiên Thuộc nam Định, Thái Bình) vào học. Quy định này được duy trì khá nghiêm ngặt. Chứng cớ là năm Quý Hợi (1323), vua Trần Minh Tông ngự đến nhà Thái Học (ở Thăng Long) có người tên là Mặc vốn xuất thân trong quân Thiên Thuộc đã đỗ Thái học sinh, nhưng vẫn hạ chiếu trả về quân tịch và chỉ được làm lại tiểu trong quân Thiên Đinh. Về sau ông này đỗ bậc cao trong môn thi võ mới được dùng làm tướng võ.

        Vào các giai đoạn chuẩn bị kháng chiến chống Mông - Nguyên, không khí luyện tập võ nghệ thật sôi nổi. Trong Hịch tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn nhắc các tướng sĩ chăm lo "rèn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên" khiến cho người người đều giỏi cung kiếm. Trong quân đội binh sĩ được học cưỡi ngựa, bắn cung nỏ, múa kiếm, phóng lao, sử dụng giáo, mác, v.v... Nhà nước khuyến khích mở lò luyện võ và cho phép các vương hầu, quý tộc đôn đốc rèn tập và trang bị cho quân lính nơi mình trấn trị. Việc rèn luyện chiến thuật thường thông qua các buổi tập trận. Chính sử ghi chép nhiều về hình thức tập trận lớn, thao diễn quân đội do nhà vua hoặc Quốc công tiết chế đích thân chỉ huy.

        Năm 1263, Trần Nhân Tông hạ lệnh cho các đạo quân sắm sửa khí giới, đóng thuyền chiến và tổ chức tập trận ở bãi phù sa sông Bạch Hạc (Phú Thọ). Sau Hội nghị Bình Than, các cuộc duyệt binh và diễn tập đã được tổ chức ở Thăng Long và trên những địa bàn chiến lược như Bạch Hạc, Vạn Kiếp... Năm 1283, vua Trần Nhân Tông thân chỉ huy các vương hầu điều động các quân thuỷ, bộ thao diễn chiến trận. Năm 1284, Trần Quốc Tuấn được lệnh điều khiển các vương hầu, tướng lĩnh mở cuộc duyệt binh lớn ở Đông Bộ Đầu, rồi sau đó chia quân đi đóng giữ những nơi xung yếu ở phía Bắc và Đông Bắc Tổ quốc. Tháng Chạp năm ấy, vua ngự giá ra Hải Đông (Hải Dương), sai Hưng Đạo vương tiết chế Đại hội thuỷ bộ chư quân ở Vạn Kiếp. Bấy giờ binh đóng liên tiếp một giải Vạn Kiếp, thuyền chiến san sát trên sông Lục Đầu, cờ xí trang nghiêm, qua mâu (gươm giáo) rực sáng, ba quân thật là sung sức. Cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên lần thứ hai vừa kết thúc, năm 1286 vua Trần đã ra lệnh cho Hưng Đạo vương cùng các vương hầu và các võ quan "kiểm duyệt quân đội làm đô binh khí, đóng chiến thuyền và mở cuộc tập trận"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập II, tr.58). Năm sau, triều đình lại triệu tập toàn quân, tổ chức diễn tập và triển khai lực lượng phòng vệ, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lần thứ ba. Những sự kiện trên chứng tỏ vua Trần và Trần Quốc Tuấn rất chăm lo luyện rèn quân sĩ.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tám, 2016, 05:55:30 am

        Thông qua các kỳ tập trận và thao diễn, các tướng sĩ và quân lính quen với chiến trận và địa hình, biết hiệp đồng chiến đấu giữa các đơn vị, các loại quân; đồng thời nâng cao sĩ khí quân đội trước khi bước vào cuộc sống mái với kẻ thù. Chính nhờ thế mà chất lượng quân đội ngày một nâng cao, sự đối phó với giặc cũng được chủ động và có hiệu quả hơn. Câu nói của Quốc Tuấn rằng: “Năm nay giặc đến dễ đánh", một phần cũng do sự chuẩn bị đó. Binh lực thời bấy giờ được tổ chức tốt, luyện tập có quy chế, kỷ luật rất nghiêm; tuy số lượng ít nhưng dũng mãnh lạ thường, vì thế mới dám đương đầu và đánh thắng quân Mông - Nguyên đông và thiện chiến nổi tiếng đương thời.

        Nghĩa quân Lam Sơn vừa trưởng thành trong thực tế chiến đấu, vừa trưởng thành trong quá trình tổ chức, rèn luyện. Họ thường xuyên được "hun đúc những lời nhân nghĩa, khiến ai cũng giữ lòng thành, thân với kẻ trên, chết cho người trưởng". Sách Toàn thư viết: "Vua (Lê Lợi) rèn tập tướng sĩ sửa sang khí giới, chưa đầy 10 ngày đã đầy đủ. Bèn tập võ nghệ, dạy bảo phép ngồi đứng đánh đâm; chỉ bảo những thế kỳ, chính, phân, hợp; cho biết hiệu chiêng, hiệu trống, hiệu cờ. Kỷ luật quân đội đã nghiêm chỉnh, khí thế quân lại càng hăng"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập III, tr.20). Tại một số nơi như Vĩnh Động, Đông Đô, v.v... Lê Lợi đã tổ chức điểm duyệt quân ngũ, kiểm tra khí giới trang bị, đồng thời triển khai luyện tập thuỷ chiến, học cách đánh thành... Đặc biệt, trước khi bước vào trận quyết chiến Chi Lăng - Xương Giang, Lê Lợi đã "ngày đêm luyện tập các tướng, tuyển thêm quân sĩ, sửa đồ đánh thành, rèn uy nuôi sức, tập võ nghệ, giữ hiệu lệnh cho minh, chia các tướng chẹn giữ các đường quan ải, để dứt viện binh của giặc"2 (Nguyễn Trải toàn tập, Sđd, tr.65). Nguyễn Trải nói: "Nghĩa quân càng luyện khí giới càng tinh".

        Chính sách Ngụ binh ư nông thời Lê Sơ được vận dụng mở rộng trong quân đội, do đó quân sĩ thường xuyên thay phiên nhau ở lại canh phòng, luyện tập và trở về sản xuất; trong quân ai cũng được trải qua các thời kỳ luyện tập quân sự. Năm 1429, Lê Thái Tổ hạ lệnh cho các vệ và quân năm đạo diễn tập thuỷ bộ: "Hạn đến ngày 27 (tháng 3) thì tập thuỷ bộ, ai thiếu mặt sẽ bị trị tội. Tập xong rồi đều chia ra 5 phiên, 1 lưu lại quân ngũ, còn 4 phiên cho về làm ruộng"3 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập III. Việt sử thông giám cương mục, Tập IX, Sđd, tr.19). Năm 1434, Lê Thái Tông lệnh cho quân Ngự Tiền và quân năm đạo tập trung tại kinh đô để diễn tập, lúc đó chỉ cho phép các quân từ Thanh Hoá trở vào được điểm duyệt ở địa phương mình. Năm 1435, vua ra lệnh cho quân năm đạo đến điểm duyệt tại bản trấn, còn quân Ngự Tiền tập võ nghệ ở sân rồng nơi cung điện; sau đó đi duyệt bộ binh tập trận ở Tảo Đông (Từ Liêm - Hà Nội), duyệt thuỷ binh ở sông Nhị Hà (sông Hồng). Cuối năm, vua lại hạ lệnh cho quân Ngự Tiền và các vệ quân, quân ở năm đạo mang theo đồ dùng và lương thực một tháng, tập họp tại địa phận để điểm mục và tập võ nghệ. Triều đình Lê Sơ quy định: hằng năm vào mùa Xuân, các quân ở năm đạo đều tập trung về kinh đô điểm duyệt đội ngũ và tập trận. Bài thơ: Quan duyệt thuỷ trận của Nguyễn Trãi cho biết cảnh tượng hùng tráng của một cuộc diễn tập thuỷ quân thời đó như sau:

        Biển Bắc năm xưa đã diệt kình Yên rồi còn nghĩ chuyện binh nhung Tinh kỳ phấp phới liền mây ánh Chiêng trống om thòm động đất kinh Muôn giáp khoe oai tì hổ dữ Nghìn thuyền bày trận quán nga nhanh Lòng vua muôn để dân ngơi nghỉ Văn trị nên xây dựng thái bình1 (Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd, tr.262).

        Đến đời Lê Thánh Tông, chế độ luyện tập quân thuỷ, bộ trở nên chính quy không những đối với quân triều đình, mà cả với quân ở đô ti các đạo thừa tuyên. Biên chế kỵ binh, tượng binh, lính cung nỏ, lính hoả khí và thuỷ binh đã được xác định đến cấp sở (400 người), cấp vệ (2.000 đến 2.400 người); do đó việc huấn luyện quân sự chuyên sâu hơn để phù hợp với tính chất của từng loại quân. Năm 1460, Lê Thánh Tông ra chỉ dụ rằng: “Phàm có nhà nước tất có võ bị. Nay phải theo đúng trận đồ của nhà nước đã ban hành, ở trong địa phận của vệ mình, sửa sang đội ngũ cho nghiêm chỉnh, dạy cho phép đi đứng đánh đâm, biết rõ tiếng chuông, tiếng trống hiệu lệnh, khiến quân lính tập quen cung tên, không quên võ bị"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd , Tập III, tr.176, 195). Năm 1465, nhà vua ban hành các trận pháp mới cho quân thuỷ, bộ. Thuỷ trận có các phép Trung Hư, Thường Sơn Xà, Mãn Thiên Tinh, Nhạn Hàng, Liên Châu, Ngư Đội, Tam Tài, Thất Môn và Yến Nguyệt; bộ trận có phép Trương Cơ, Tương Kích và Kì Binh. Tiếp đó, vua lại ban bố quân lệnh, gồm 31 điều thuỷ trận, 22 điều tượng trận, 27 điều mã trận và 42 điều bộ trận. Vua lại ban lệnh rằng: "Phạm có nhà nước tất có võ bị. Nên nhân lúc rỗi việc làm ruộng, hãy đình hoãn những việc không gấp, cứ hằng tháng vào ngày rằm, thì đến những phiên để điểm mục; liệu cắt quân vào những việc giữ cửa, nhà, trại, kiếm cỏ lợp nhà, cắt cỏ nuôi voi, còn thì trước 1 - 2 ngày phải theo những trận đồ đã ban ra, ở ngay địa phận vệ mình, sửa sang đội ngũ, dạy cho những phép ngồi đứng tiến lui, tập nghe tiếng hiệu chiêng trống, để cho quân lính tập quen cung tên, không quên võ bị. Đến ngày thứ 4 trở đi mới sai làm tạp dịch. Nếu quan nào không biết để lòng răn dạy, rèn tập quân lính, dám sai làm việc tạp nhiễu thì xử biếm hay bãi"2 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd , Tập III, tr.176, 195).


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tám, 2016, 05:56:03 am
        Tháng 10 (1467), Lê Thánh Tông chuẩn định 3 năm một kỳ thi khảo các quân sĩ về võ nghệ. Cứ đến mùa Đông từng kỳ, hạ lệnh cho quan khảo xét sự giảng tập của quân thuỷ, quân bộ, quân thị hậu và quân ngoài các đạo; nhân đó định cách thức thưởng phạt: binh sĩ nào thắng luôn 4 tao được thưởng 1 chiếc áo và một quan năm tiền sử tiền (36 đồng); 3 tao thắng 1 tao bình, được thưởng 1 chiếc áo; 2 tao thắng và 2 tao bình, được thưởng 6 tiền sử tiền; 1 tao tháng 3 tao bình, được thưởng 3 sử tiền; 4 tao đều bình được cấp cho tiền cơm là 20 đồng. Ngược lại binh sĩ nào thua cũng phải phạt như thế. Nhà vua hạ sắc lệnh cho các vệ các ti Thần Võ, Du Nỗ, Thần Tí, Vũ Lâm và Ngũ Oai; mỗi khi binh sĩ đến phiên túc trực, đều thay đổi từng ban chuyên tập võ nghệ; binh sĩ ở vệ Ngũ Oai và các sở Súng Nỗ thuộc các vệ ở các đạo ngoài kinh thành đều được nghỉ việc sai phái về tạp dịch, liệu lượng định số người canh giữ, còn bao nhiêu người đều phải chuyên tập võ nghệ, ban nào tập xong, quan chuyên trách xét duyệt lại và thưởng phạt theo lệ đã định.

        Mùa Hạ năm 1469, vua ra sắc chỉ cho các vệ ti Thần Vũ Du Nỗ, Thần Tí, Vũ Lâm, mỗi khi đến phiên trực thì thay nhau luyện tập võ nghệ; còn vệ Ngũ Uy và các sở Súng Nỏ ngoại vệ được nghĩ sai việc vặt để một số người canh phòng các nơi, còn tập trung chuyên tập võ nghệ. Hết kỳ hạn phải được khảo duyệt, theo lệ mà thưởng phạt. Theo sử cũ, ngoài tại các hồ lớn ở kinh sư và sông Nhị, nhà vua còn ra lệnh tập thuỷ quân ở sông Giao Thuỷ, sông Thiên Phải, ở Lỗi Giang, sông Vi, ở ngã ba sông Bạch Hạc, v.v...

        Sách Toàn thư chép: "Tân Sửu, năm thứ 12 (Hồng Đức, 1481), tháng Mười... đào hồ Hải Trì. Hồ này quanh co trăm dặm, giữa hồ có điện Thuỷ Ngọc, bên hồ làm điện Giảng Võ để luyện tập binh và voi". Đến tháng 11 năm 1490, "Vua lấy làm răn về việc Nhân Tông bị giết nên sai quân đắp rộng thêm ra ngoài Trường Đấu Võ, dài rộng 8 dặm, trong 8 tháng làm xong"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập III, Sđd, tr.278, 307). Đó là khu vực đấu trường Giảng Võ, nơi quân đội luyện tập, đấu võ. Sử cũ chép về các địa danh có liên quan đến việc luyện tập võ nghệ của quân đội Lê Sơ ở Thăng Long như Trường Đấu Võ, Đình Giảng Võ, Điện Giảng Võ, Sân Giảng Võ, Đài Khán Sơn, v.v... Theo sách Bắc Kỳ tạp biên của Như Bá Sỹ, Lê Thánh Tông thường tổ chức duyệt võ ở núi Khán Sơn. Núi này ở phía Tây Nam thành Thăng Long.

        Trong chương Quân chính (luật Hồng Đức) có các điều 1, 17, 19, 28 và 43 quy định việc nghiêm cấm các tướng hiệu, quân nhân vi phạm nhiệm vụ luyện tập quân sự sẵn sàng chiến đấu. Chẳng hạn, điều 1 nói: "Những tướng hiệu cai quản từ 3 vạn quân trở xuống, 50 lính trở lên, nếu không chăm sóc luyện tập để hàng ngũ không chỉnh tề, quân khí không tinh nhuệ... nhẹ thì biếm hoặc cách chức, nặng thì bị đồ hay lưư'; điều 43 quy định: "Khi có kỳ đại tập (hoặc duyệt tập) quân đội, quân lính ai thiếu mặt thì xử phạt 80 trượng, biếm làm quân dịch ở bản quân, truy nộp 3 quan tiền sung công..."2 (Quốc triều hình luật, Sđd , tr.102).

        Thời Lý, Trần và Lê Sơ, thường tổ chức các kì thi võ trong quân đội. Ngoài mục đích để rèn luyện võ nghệ, nhà nước còn thông qua đó để tuyển người đào tạo võ quan và tuyển những người khoẻ, giỏi võ sung vào Cấm vệ người giỏi bơi lội và chèo thuyền sung vào "trạo nhi đoàn đội" (thủy binh). Bấy giờ chính quyền khuyến khích các lễ hội truyền thống có tinh thần thượng võ và các trò chơi thể thao quân sự như đua thuyền, đua ngựa, vật võ, đánh phết, đá cầu, bắn nỏ, đấu quyền, v.v... Có những môn đã được quy định bắt buộc trong tổ chức quân đội. Sách Cương mục cho biết, tháng 12 (1478), vua Lê Thánh Tông định thể lệ thưởng và phạt về kỳ thi "đô thí". Phàm các tước công, hầu, bá cùng các quan trong Kinh, ngoài các đạo, viên quan nào có trách nhiệm quản lĩnh quân sĩ thì hội họp ở kinh sư để thi khảo về võ nghệ, gọi là "đô thí". Phép thi: mỗi lần thi bắn 5 phát tên bằng cung, 5 phát tên bằng tay (thủ tiễn) và đấu khiên một đường. Ai trúng được từ 8 đến 10 lần là thượng cấp, trúng 6 - 7 lần là trung cấp, trúng 4 - 5 lần là hạ cấp; sẽ được ban thưởng theo cấp. Nếu trúng 2 - 3 lần sẽ không thưởng, không phạt; còn ai trúng 1 lần hoặc không trúng lần nào, sẽ bị phạt tiền.

        Tiến hành luyện quân một cách thường xuyên và có quy củ chính là một trong những nguyên nhân làm cho quân đội các triều đại từng bước chính quy, tinh nhuệ, trở thành công cụ sắc bén bảo vệ nhà nước phong kiến Đại Việt, giữ gìn lãnh thổ và chủ quyền quốc gia.

        Nhìn chung, vũ khí trang bị của quân đội Đại Việt trong các thế kỷ XI - XV đã có những bước phát triển đáng kể. Tuy rằng, giai đoạn này vũ khí bạch binh vẫn là trang bị chủ yếu, nhưng hoả khí cũng đã xuất hiện và ngày càng đóng vai trò trong huấn luyện và chiến đấu. Hoả khí ra đời trong giai đoạn này đã đánh dấu một mốc phát triển quan trọng. Đó là kết quả của những nỗ lực của nhà nước phong kiến trong quá trình xây dựng quân đội chính quy.

        Về trang phục của võ quan, tướng lĩnh và binh sĩ trong giai đoạn này ngày càng tiến bộ và khá tươm tất, thống nhất; về triều phục các võ quan, càng về sau càng được quy định phân biệt theo phẩm hàm và chức tước của họ.

        Quân đội Đại Việt thế kỷ XI - XV là quân đội chính quy có tổ chức khá quy củ, trang bị và huấn luyện khá tốt. Thời bấy giờ, về trang bị giữa quân đội quốc gia Đại Việt và quân đội của các triều đại phong kiến phương Bắc cùng thời như Tống, Nguyên và Minh là không hơn kém nhau nhiều; chỉ khác nhau chủ yếu ở số lượng nhiều ít. Điều chủ yếu đưa đến thắng lợi của quân dân Đại Việt trong kháng chiến chống Tống, chống Mông - Nguyên và chống quân Minh xâm lược là vấn đề tổ chức, huấn luyện và chỉ huy, trong đó yếu tố con người luôn là yếu tố quyết định.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tám, 2016, 05:57:38 am
KẾT LUẬN

        Trên đây là mấy nội dung chủ yếu của Binh thế Đại Việt trong các thế kỷ XI - XV. Tuy các nội dung chưa đầy đủ trọn vẹn, nhưng có thể từ đó rút ra một số kết luận bước đầu về đặc điểm, ý nghĩa tác dụng của Binh chế giai đoạn này như sau:

        1. Từ khi giành độc lập (thế kỷ X), trải qua các thế kỷ XI – XV, Binh chế Đại Việt đã từng bước phát triển hoàn thiện. Đó là kết quả của quá trình kế thừa và phát triển sáng tạo của ông cha ta từ thời Lý đến Lê Sơ.

        Từ giữa thế kỷ thứ X, Đình Bộ Lĩnh và Lê Hoàn xây dựng Nhà nước Đinh và Tiền Lê, trong đó có tổ chức ngạch binh mang tên "Thập đạo quân". Có thể coi Binh chế thời kỳ độc lập được xác lập từ thời Đinh - Lê, nhưng biên chế tổ chức quân đội cùng các chế độ quân sự thời đó còn thô phác, đơn giản. Khi triều Lý thành lập (thế kỷ XI), Nhà nước Đại Việt bước vào giai đoạn phát triển cường thịnh với kinh đô là Thăng Long. Công cuộc xây dựng đất nước từ đây bắt đầu có quy mô lớn, đặt nền tảng vững chắc, toàn diện cho sự phát triển của quốc gia phong kiến độc lập. Binh chế nước ta cũng bước vào giai đoạn xây dựng chính quy. Lực lượng quân sự thời bấy giờ đã khá hùng hậu, có cả quân thường trực tại ngũ, có lực lượng dự bị "biên sổ" và những binh lính chia phiên về sản xuất theo chính sách Ngụ binh ư nông. Chế độ nghĩa vụ binh dịch đã được quy định. Quân đội phiên chế thành các đơn vị và đạt đến trình độ tổ chức, trang bị, huấn luyện khá cao. Trải qua các thời Trần, Hồ đến Lê Sơ, Binh chế Đại Việt ngày một hoàn thiện, chính quy. Các ngạch quân được tổ chức hoàn chỉnh từ trung ương đến các địa phương, bao gồm nhiều loại quân và binh. Hệ thống tổ chức quản lý và chỉ huy quân đội từng bước hoàn hảo theo chiều hướng phát triển của nhà nước tập quyền, chuyên chế. Sự hoàn thiện của Binh chế là kết quả của một quá trình kế thừa, phát triển và đổi mới qua các triều đại.

        Binh chế nước ta từ thời Lý đến Lê Sơ và Binh chế Trung Hoa trong các triều đại cùng thời như Tống, Nguyên, Minh đã có sự ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Về mặt tổ chức Binh chế nhà Tống và Binh chế thời Lý - Trần có những nét tương đồng; chẳng hạn như hệ thống tổ chức Cấm quân, Sương quân và Dân binh hay quân các châu, lộ do các tù trưởng, tộc trưởng, các phò mã quản lãnh ở vùng rừng núi cũng giống như tổ chức "Phiên quân" nhà Tống. Tuy số lượng và quy mô tổ chức khác nhau, nhưng cũng như thời Tống, Cấm quân thời Lý - Trần là lính hạng nhất, được trọng dụng hơn; họ được coi là Thân quân, chủ yếu đóng ở kinh thành, giừ vai trò nòng cốt trong lực lượng vũ trang cả nước. Tuy nhiên so với Cấm quân nhà Tống, Cấm quân nhà Lý ổn định hơn có cuộc sống vật chất tinh thần cao hơn. Cấm quân nhà Lý và đầu thời Trần cảm thấy vinh dự khi được thích lên trán ba chừ "Thiên Tử quân" hoặc khi được xăm lên mình các hình rồng, phượng; còn Cấm binh nhà Tống buộc phải thích chữ đánh dấu ở trán để khỏi đào ngũ, trốn tránh. Về mặt chỉ huy, nhằm mục đích tập trung quyền lực ở trung ương và hạn chế binhquyền của các tướng, nhà Tống tìm cách luân chuyển các tướng và binh sĩ để "tướng không nắm được quân"; điều này khác hẳn với Đại Việt, các triều đại thường khuyến khích xây dựng mồi quan hệ "phụ tử chi binh" giữa tướng lĩnh và binh sĩ. Ở hai nước đều có tổ chức Khu mật viện là cơ quan hành chính tối cao, trực tiếp nhận lệnh Hoàng đế trong việc bố trí điều động quân đội, "nắm quyền cơ mật, coi việc quản lý công trình quân sự, vũ khí, xe, ngựa, chiêu mộ và quản lãnh Cấm quân. Trong quân đội Tống cũng như quân đội Lý - Trần đều có tổ chức Sương quân. Họ đều là lính “hạng nhì”. Với danh nghĩa là quân thường trực, nhưng trên thực tế họ là lính lao dịch. Tuy nhiên, người lính Sương quân Đại Việt được thay phiên về làm ruộng theo chính sách Ngụ binh ư nông, do đó họ vẫn giữ được mối quan hệ gắn bó với ruộng đồng, gia đình và làng quê.

        Có những nét tương đồng trong Binh chế hai nước như trên là do ảnh hưởng qua lại giữa hai nền văn hoá, văn minh, trên lĩnh vực quân sự. Điều đó đã được sử sách hai nước ghi chép lại. Sử gia Ngô Thì Sĩ trong sách Việt sử tiêu án có ghi: "Binh chế buổi đầu nhà Lý đại lược theo phép Phủ binh nhà Đường và phép Cấm Sương nhà Tống, lấy Thân quân làm trọng gọi là Cấm quân"1 (Ngô Thì Sĩ, Việt sử tiêu án, Sđd, tr.127). Còn Tống sử có ghi câu chuyện: "Thái Diêm Khánh, tri châu đất Hoạt, học được chép tổ chức quân đội của nước An Nam, xin bắt chước quy chế chia ra từng bộ phận. Chia chính binh, cung tiễn thủ, nhân mã đoàn làm 9 phủ. Hợp trăm đội, chia ra làm tả, hữu, tiền, hậu bốn bộ. Mỗi đội có trú chiến và thác chiến khác nhau. Tướng nào cũng có lính bộ, quân ky và khí giới... Vua Thần Tông (nhà Tống) khen phải và ra lệnh theo đó mà làm". Lê Quý Đôn nhân đó có lời bàn rằng: "Ấy, binh pháp của nhà Lý được nhà Tống bắt chước như thế. Nước ta, về triều Lý đánh đâu được đấy là nhờ vậy" (Lê Quý Đôn toàn tập, Tập IV, Sđd, tr.232).

        Binh chế Đại Việt thời Lê Sơ và Binh chế Trung Hoa thời Minh (thế kỷ XV) cũng có những nét tương đồng, ảnh hưởng lẫn nhau. Cũng như quân đội triều Minh, quân đội triều Lê gồm hai bộ phận lớn Kinh quân (quân triều đình) và Địa phương quân (quân các phủ, châu hay các đạo). Tổ chức quân Ngũ phủ, chế độ biên chế quân đội thành các vệ sở các đô ti cùng với việc tổ chức "Cẩm Y vệ” dưới thời Lê Sơ cũng có những nét giống như tổ chức quân đội triều Minh. Bộ Binh trong "Lục bộ" là cơ quan hành chính quân sự ở trung ương đều có ở hai nước. Đó cũng là những nét mô phỏng, học hỏi của người Việt trên lĩnh vực Binh chế. Sách Binh chế chí nói rằng: "Đời Hồng Đức đặt quân đội đại để theo quy chế buổi đầu thời Minh. Quân chế nhà Minh ở trong đặt chỉ huy sứ ti của 12 vệ Cẩm Y, gọi là Thân quân, lại đặt đô đốc phủ năm quân để thống lĩnh các đạo mà các tỉnh trong nước thì chia thành đô ti để cho các vệ sở ở ngoài lệ thuộc vào... Quân ngũ trong và ngoài có thống thuộc chặt chẽ. Ấy cũng là chế độ tốt một đời. Thánh Tông chước định quân chính đều bắt chước ở đấy"2 (Phan Huy Chú, Sđd, Tập IV, tr.8 ). Ngược lại, Binh chế Đại Việt thủa đó cũng ảnh hưởng đến Binh chế triều Minh. Điều này thể hiện rõ nhất ở việc triều Minh, sau chiến tranh xâm lược Đại Việt (1406-1407) đã bắt Hồ Nguyên Trừng về Trung Quốc, sử dụng làm quan chuyên trách việc đúc Thần cơ sang pháo và lập nên Thần cơ doanh, một trong ba đại quân doanh trong quân đội nhà Minh tại kinh thành Bắc Kinh, nhiều thợ bách tác giỏi nhất của Đại Việt cũng bị bắt về để chế tạo vũ khí. Những phát minh và sáng tạo vũ khí của người Đại Việt ở Trung Quốc đã có tác động khá lớn cả về tổ chức, trang bị, cả về kỹ thuật và chiến thuật trong quân đội nhà Minh thời đó. Tác giả sách Vân đài loại ngữ nói: "Binh khí nước ta truyền sang Trung Quốc bắt đầu từ thời Lê Trừng vậy"1 (Lê Quý Đôn toàn tập, Tập IV. Sđd, tr.230). Những biểu hiện trên thể hiện tính kế thừa và độc lập, sáng tạo của dân tộc ta trên lĩnh vực Binh chế.



Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tám, 2016, 05:58:50 am

        2. Binh chế Đại Việt là Binh chế của nhà nước phong kiến dân tộc, nó vừa mang tính giai cấp vừa mang tính nhân dân.

        Binh chế nước ta trong các thế kỷ XI - XV do Nhà nước phong kiến Đại Việt thiết lập, trước hết nó bảo vệ quyền lợi của giai cấp phong kiến thống trị mà đại diện là vua và những quý tộc thuộc dòng họ vua. Tính giai cấp thể hiện trong quá trình xây dựng các ngạch quân như tổ chức Cấm quân theo nguyên tắc Thân quân, quân của nhà vua, của triều đình; đặc biệt biểu hiện trên quan điểm tuyển chọn, đào luyện và bổ dụng võ quan, tướng lĩnh. Quy chế chung của Nhà nước Lý - Trần là: "Người có quan tước con cháu được thừa ấm mới được vào làm quan; người giàu khoẻ mạnh mà không có quan tước thì sung quân, đời đời làm lính"1 (Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd, Tập II, tr.36,37). Thời đó các hoàng tử, thân vương, các quý tộc trung thành được phong các chức tước cao, nhất là trên lĩnh vực quân sự. Vua Trần Thánh Tông cho ràng: "Thiên hạ là thiên hạ của tổ tông, người nối nghiệp của tổ tông nên cùng với anh em trong họ chung hưởng phú quý"2 (Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd, Tập II, tr.36,37). Quan điểm đó cũng thể hiện cả trong việc chọn dùng tướng lĩnh; vua ra lệnh: "Tuyển trong tông thất những người giỏi võ nghệ, am hiểu binh pháp cho làm tướng coi quân"3 (Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd, Tập II, tr.36,37). Khi nhà nước phong kiến chuyên chế phát triển như thời Hồ, nhất là thời Lê Sơ thì tính chất giai cấp của Binh chế, của quân đội càng đậm nét. Cùng với việc phát triển lực lượng võ quan, tăng cường trọng trách cho các công thần, triều đình còn tìm cách hạn chế quyền lực các võ quan địa phương, tập trung uy quyền ở vua, nhất là thống linh quân đội; nhà vua luôn luôn là thủ lĩnh quân đội tối cao. Tất cả đều nhằm mục đích quản lý và sử dụng tốt công cụ chuyên chế của mình.

        Theo Binh chế Đại Việt, trong nước có nhiều thứ quân, một hệ thống tổ chức quân sự được xác lập từ trung ương đến cơ sở làng xã. Chế độ nghĩa vụ binh dịch cũng như chính sách chia phiên trong quân cho binh lính về nhà sản xuất ngày càng có quy củ và mở rộng trong các triều đại. Vì thế, nhà nước có thể huy động được nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều đinh tráng tham gia việc quân. Trong giai đoạn đầu các triều đại, khi nhà nước phong kiến Lý, Trần và Lê Sơ còn đóng vai trò tích cực thì quyền lợi giai cấp nắm quyền còn gắn liền với quyền lợi chung của cả dân tộc. Vào thời kỳ đó, giai cấp phong kiến còn có những chính sách tiến bộ, hợp lòng dân, biết "dĩ dân vi bản", coi việc "khoan thư sức dân làm sâu rễ bền gốc là thượng sách giữ nước”, những chính sách hoặc những hoạt động quân sự cũng không đối lập với quần chúng nhân dân, nhà nước được nhân dân ủng hộ và khi có chiến tranh cả nước tham gia việc binh. Những lúc đó, Binh chế mang tính nhân dân sâu sắc nhất. Có thể nói rằng, tỉnh chất nhân dân của Binh chế Đại Việt thể hiện đậm nét nhất ở thời Trần trong quá trình xây dựng lực lượng cũng như trong ba lần kháng chiến chống Mông - Nguyên. Sử gia Phan Huy Chú viết về chế độ quân sự thời đó như sau: "Đại để lúc vô sự thì phục binh ở nơi thuận tiện; khi có nạn thì đều hết sức chống cự. Thế là đời Trần nhân dân ai cũng là binh, nên mới phá được giặc dữ, làm cho thế nước được mạnh". "Đó là chính sách tốt, là chế độ hay của người cận cổ"1 (Phan Huy Chú, Sđd, Tập VI, tr.6).

        Tuy nhiên, tính chất nhân dân của Binh chế dễ bị phai nhạt và mất đi khi giai cấp phong kiến, giới quý tộc xa rời và đi ngược lại với quyền lợi của quần chúng nhân dân. Khi nhà nước phong kiến suy yếu, không đánh giá đúng vai trò nhân dân hoặc bọn vua quan "chỉ vụ ích kỷ phì gia" thì Binh chế của họ chỉ mang tính giai cấp, đối lập với nhân dân, không có cơ sở xã hội vững chắc và tất yếu quân đội sẽ không đảm đương được tốt nhiệm vụ dân tộc của nó. Điều đó biểu hiện ở giai đoạn cuối triều Lý, cuối triều Trần và thời Hồ. Sự phát triển của Binh chế Đại Việt vì thế có những bước thăng trầm nhất định.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tám, 2016, 05:59:27 am

        3. Binh chế Đại Việt luôn coi trọng yếu tố chất lượng, chú trọng xây dựng quân đội “cốt tinh, không cốt nhiều”

        Trong các triều đại, hằng năm đều có chiếu, chỉ của nhà vua: "Tuyển những đinh nam khoẻ mạnh sung vào quân ngũ”, hoặc lệnh "thải lính già yếu, thay thế người trẻ khoẻ, nhanh nhẹn". Trên cơ sở quản lý nhân đinh, nhà nước đều động viên được trai tráng vào quân đội. Kiêng lính Cấm quân bao giờ cũng được ưu tiên, gồm những tráng đinh "hạng nhất" và thường được tuyển từ những châu, lộ bản bộ của dòng họ thống trị để bảo đảm sự trung thành đối với hoàng tộc. Quân đội biên chế thành các tướng hiệu, quân hiệu, các quân và đô, các đoàn quân, dinh quân, hay các vệ, sở... Những người khoẻ, giỏi võ nghệ và hiểu binh pháp được tuyển chọn chỉ huy các bộ ngũ, đơn vị. Giới võ quan, tướng lĩnh thường xuất thân từ hàng ngũ quý tộc, trung thành và tài cán.

        Quân chủ lực của triều Lý, Trần và Lê Sơ được tổ chức tốt và huấn luyện chính quy theo các quy chế, binh pháp và trận đồ, nhằm bảo đảm tinh thần chiến đấu cao, có sức khoẻ, giỏi võ nghệ, thành thạo chiến thuật. Từ thời Lý, quân đội đã được phiên chế và huấn luyện theo thể chế chính quy được người Tống khâm phục và gọi là An Nam hành quân pháp. Tại kinh thành Thăng Long thời Lý - Trần - Lê có Điện Giảng Võ, Giảng Võ Đường, có Xạ Đình, Trường đua hoặc Bãi tập. Đó là những trường võ bị, những cơ sở huấn luyện quân sự cao cấp đầu tiên của nước ta, đào tạo đội ngũ võ quan cho triều đình. Hoàng đế, các hoàng tử, các vương hầu quý tộc đều phải học binh thư, binh pháp, tập cưỡi ngựa và sử dụng cung kiếm. Trong số các tài liệu huấn luyện các tướng sĩ đã có những bộ binh thư nổi tiếng, đặc biệt là Binh thư yếu lược và Vạn Kiếp tông bí truyền thư mà ở đó nhà quân sự thiên tài Trần Quốc Tuấn đã dày công đúc kết những kinh nghiệm quân sự của tổ tiên, tham bác rộng rãi các binh pháp cổ truyền và hàm chứa những tư tưởng quân sự tiến bộ. Dưới thời Lê Sơ, các quy chế về tuyển lính, tổ chức và luyện quân được xây dựng hoàn chỉnh. Các điều lệnh về bộ trận, thuỷ trận, mã trận và tượng trận đều được ban hành. Dưới triều Lý, triều Trần và Lê Sơ đã có Hình thư, trong đó có những điều luật quy định về các hoạt động quân sự.

        Các triều đại đều coi việc luyện tướng là điều cốt yếu của luyện quân, đề cao nhân tố tinh thần - chính trị, tính kỷ luật và yếu tố chung sức đồng lòng trong quân ngũ. Trần Quốc Tuấn nói: "Có thu được quân lính một lòng như cha con thì mới dùng được"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, Tập II, tr.80).

        Quân đội Đại Việt được trang bi các lo vũ khí không thua kém gì quân đội các nước văn minh đương thời. Trong giai đoạn này đã xuất hiện hoả khí. Việc trang bị phổ biến các loại hoả khí trong quân đội đã có tác động tích cực đến nhiều lĩnh vực khác của Binh chế như vấn đề tổ chức, huấn luyện cũng như chỉ huy; chất lượng quân đội vì thế cũng được tăng cường.

        Thời Lý, Trần và Lê Sơ, nhìn chung quân thường trực của nhà nước chỉ trên dưới 10 vạn. Trước cuộc chiến tranh chống Mông - Nguyên năm 1288, Trần Quốc Tuấn nêu lên quan điểm: "Quân quý hồ tinh, bất quý hồ đa". Điều này cũng được Lê Lợi và Nguyễn Trài quan tâm trong quá trình xây dựng lực lượng quân sự của mình. Quan điểm đó xuất phát từ một tư tưởng quân sự nhất quán "dĩ đoản chế trường" của Trần Quốc Tuấn, hay "dĩ quả địch chúng, dĩ nhược chế cường" của Lê Lợi - Nguyễn Trài. Nghĩa quân Lam Sơn có lúc lên tới 35 vạn, nhưng sau chiến thắng quân Minh, triều Lê chỉ để lại 10 vạn quân tại ngũ. Từ thế kỷ XI, chính sách Ngụ binh ư nông đã trở thành quốc sách, bảo đảm yêu cầu quân số lúc hoà bình cũng như thời chiến, làm cho nông mạnh và binh cũng mạnh. Coi trọng yếu tố chất lượng, đảm bảo yêu cầu quân số lúc cần thiết là một đặc điểm của Binh chế các nhà nước phong kiến tiến bộ ở nước ta trong giai đoạn lịch sừ này.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tám, 2016, 05:59:55 am

        4. Binh chế Đại Việt thể hiện tính ưu việt của nó, phù hợp với điều kiện một nước nhỏ, dân ít mà thường xuyên phải thực hiện hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Binh chế đó đã để lại những kinh nghiệm hay cho quá trình xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng nền quốc phòng trong lịch sử và hiện tại.

        Lực lượng vũ trang thời Lý - Trần có quân triều đình; quân các châu, lộ; quân của các vương hầu, tông thất và dân binh các hương xã, động, bản. Triều Hồ và đặc biệt là triều Lê tăng cường quân trong Kinh, đặt thêm quân Ngũ phủ, mở rộng quân địa phương. Trong quân có nhiều loại binh, như bộ binh, thuỷ binh, ky binh và tượng binh. Một tổ chức quân sự gồm nhiều thứ quân đó đã tạo điều kiện cho nhà nước khả năng huy động quân đội và phân bố lực lượng trên các địa bàn. Quân trung ương chủ yếu là Cấm quân đóng ở kinh thành bảo vệ vua và triều đình, thời chiến là lực lượng nòng cốt chiến đấu cơ động. Các loại quân khác trấn giữ ở các vùng, chủ yếu chiến đấu bảo vệ địa phương, nhưng khi cần thiết nhà nước có thể điều động tác chiến kết hợp với quân triều đinh Tổ chức quân sự như vậy bảo đảm vừa có lực lượng cơ động vừa có lực lượng tại chỗ, vừa bảo vệ được kinh đô vừa canh giữ các địa phương, nhất là ở những vùng trọng yếu Các thành phần lực lượng vũ trang nới trên không độc lập riêng lẻ mà tạo thành một hệ thống tổ chức quân sự thống nhất, tồn tại và phát huy tác dụng trong một chỉnh thể từ trung ương đến cơ sở.

        Có thể hình dung hệ thống ngạch binh của Đại Việt như cấu trúc của một hình chóp nón. Phía trên là quân triều đình phía dưới là quân địa phương và dân binh. Quân triều đình chủ yếu là Cấm quân được tổ chức gọn nhẹ, quân thường trực tại ngũ có số lượng không đông nhưng chất lượng cao. Còn quân địa phương và đặc biệt là dân binh trong các làng bản có số lượng đông đảo đảm đương nhiệm vụ canh phòng và chiến đấu ở khắp mọi nẻo miền. Lực lượng quân vương hầu trước thế kỷ XV chủ yếu phát triển trong giai đoạn đất nước có chiến tranh để "giúp vua đánh giặc" Đó là một "ngạch quân” hoàn chỉnh, tạo nên một binh thế mạnh trong sự nghiệp quốc phòng Đại Việt.

        Chính sách chia phiên, cho quân lính thay nhau tại ngũ hay trở về sản xuất, chế độ lập "sổ Hoàng nam", "sổ Điệu phát" hoặc "Sổ quân" cùng quy chế tuyển lính thời bình, động viên thời chiến là phép hay của các thời đại. Với chế độ đó, nhà nước có thể huy động được mọi đinh tráng tham gia quân ngũ để canh phòng và tập luyện, góp phần củng cố ý thức của mỗi người đối với nhiệm vụ giữ nước. Nội dung này của Binh chế tạo điều kiện gắn liền giữa "binh" và “nông", giữa quân đội với nông dân, giữa kinh tế và quân sự, đảm bảo tốt vừa sản xuất vừa canh phòng.

        Phương thức dựa vào dân để xây dựng quân đội, dựa vào dân để động viên nhân lực, vật lực, kết hợp giữa nhà nước và nhân dân trong việc bảo đảm hậu cần, trang bị cho quân đội luôn luôn là một phương thức đúng đắn và thích hợp trong điều kiện nước ta.

        Binh chế Đại Việt phát huy hiệu quả to lớn trong các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, như kháng chiến chống Tống thế kỷ XI, ba lần kháng chiến chống Mông - Nguyên thế kỷ XIII, trong khởi nghĩa và chiến tranh chống Minh đầu thế kỷ XV. Binh chế đó cũng thể hiện vai trò trong quá trình bảo vệ nhà nước phong kiến và giữ gìn độc lập dân tộc trong các thời Lý, Trần và Lê Sơ. Học giả Phan Huy Chú nhận xét rằng: "Quân đội thời Lý - Trần nổi tiếng là hùng mạnh... Cái chiến công dẹp quân Chiêm phá quân Tống, cái oai hùng của hai lần đại phá quân Nguyên, chứng tỏ binh thế hai thời đó mạnh như thế nào"1 (Phan Huy Chú, Sđd. Tập IV, tr.6).

        Binh chế Đại Việt đã để lại nhiều bài học cho lịch sử và hiện tại. Đó là bài học kế thừa và phát triển sáng tạo những kinh nghiệm trong và ngoài nước trên lĩnh vực tổ chức, xây dựng các quân và binh; đó là bài học xây dựng lực lượng quân sự gồm nhiều thứ quân, lấy Cấm quân (quân trung ương) làm nòng cốt và luôn coi trọng yếu tố chất lượng quân đội; là bài học xây dựng lực lượng vũ trang hùng hậu, mang tính chất nhân dân, nằm trong nhân dân gắn liền với sản xuất, đáp ứng yêu cầu vừa dựng nước vừa giữ nước...

        Binh chế Việt Nam thời hiện đại được xây dựng và phát triển, đổi mới trên cơ sở những kinh nghiệm của cha ông, tiếp thu những tinh hoa của thời đại trên lĩnh vực tổ chức và xây dựng sức mạnh quân sự. Chính vì thế lực lượng vũ trang, Quân đội nhân dân Việt Nam ngày nay đã kế thừa và phát huy xứng đáng truyền thống tổ tiên, mang tính dân tộc và thời đại, phát triển thành quân đội kiểu mới: một đội quân cách mạng do Đảng lãnh đạo, mang bản chất giai cấp công nhân, có tính chất nhân dân sâu sắc, luôn luôn gắn bó với dân, bảo vệ vững chắc non sông gấm vóc Việt Nam.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tám, 2016, 06:10:46 am
       
TÀI LIỆU THAM KHẢO

        I. TÀI LIỆU TRONG NƯỚC:

        - Ăng ghen: Tuyển tập luận văn quân sự, Tập I, Nxb Quân đội nhân dân, H.1978.

        - Ăng ghen: Tuyển tập luận văn quân sự, Tập II, Nxb Quân đội nhân dân, H.1978.

        - Ăng ghen, Lênin, Stalin: Bàn về chiến tranh nhân dân, Nxb Quân đội nhân dân, H.1970.

        - Đào Duy Anh: Lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo dục, H.1960.

        - Đào Duy Anh: Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Khoa học xã hội, H.1964.

        - Đặng Xuân Bảng: Sử học bị khảo, bản dịch, tư liệu Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.

        - Nguyễn Lương Bích: Mấy vấn đề soi sáng tư liệu thời Lý, Nghiên cứu lịch sử, số 7-1976.

        - Nguyễn Lương Bích, Việt Nam ba lần đánh Nguyên toàn thắng, Nxb Quân đội nhân dân, H. 1981

        - Binh thư yếu lược (Phụ Hổ trướng khu cơ), bản dịch, Nxb Khoa học xã hội, H.1977.

        - Nguyễn Phương Chi: Chế độ điền trang thái ấp thời Trần, Nxb Khoa học xã hội, H.2003

        - Trần Bá Chí: Cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất, Nxb Quân đội nhân dân, H.1992.

        - Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Tập I, Nxb Sử học, H.1960.

        - Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Tập II, Nxb Sử học, H. 1961.

        - Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Tập III, Nxb Sử học, H.1961.

        - Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Tập IV, Nxb Sử học, H.1961.

        - Phùng Văn Cường và Phạm Văn Kỉnh: Một tấn bi đời Trần mới được phát hiện, Nghiên cứu Lịch sử, số 156, 1974.

        - Nguyễn Hồng Dương - Phan Đại Doãn: Sơ thảo lịch sử bảo vệ an ninh quốc gia và giừ gìn trật tự xã hội Việt Nam (cổ trung đại), Nxb Công an nhân dân, H.1990.

        - Phan Đại Doãn và Nguyễn Quang Ngọc (chủ biên): Kinh nghiệm tổ chức quản lý nông thôn Việt Nam trong lịch sử, Nxb Chính trị quốc gia, H.1994.

        - Nguyễn Anh Dũng: Chính sách Ngụ binh ư nông các thời Lý

        - Trần Lê Sơ, Nxb Khoa học xã hội, H.1981.

        - Đại Việt sử ký toàn thư. Tập I, Nxb Khoa học xã hội, H.1967.

        - Đại Việt sử ký toàn thư. Tập II, Nxb Khoa học xã hội, H.1967.

        - Đại Việt sử ký toàn thư. Tập III, Nxb Khoa học xã hội, H.1967.

        - Đại Việt sử ký toàn thư. Dịch theo bản khắc năm Chính Hoà thứ 18 (1697), Tập II, Nxb Khoa học xã hội, H.1993.

        - Đại việt sử lược Nguyễn Gia Tường dịch, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Bộ môn Châu Á học Đại học tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 1993.

        - Bạch Đằng: Việc nuôi quân và rèn chiến cụ, Tạp chí Quân đội nhân dân, 9-1973.

        - Hoàng Điền (chủ biên): Tìm hiểu công tác hậu cần xưa, Bộ Tham mưu Tổng cục Hậu cần xuất bản, 1977.

        - Lê Quý Đôn: Toàn tập, Tập I, Phủ biên tạp lục, Nxb Khoa học xã hội, H.1977.

        - Lê Quý Đôn: Toàn tập, Tập II, Kiến văn tiểu lục, Nxb Khoa học xã hội, H.1977.

        - Lê Quý Đôn: Toàn tập, Tập III, Đại Việt thông sử, Nxb Khoa học xã hội, H.1978.

        - Lê Quý Đôn: Toàn tập, Tập IV, Vân đài loại ngữ, Nxb Khoa học xã hội, H. 1978.

        - Võ Nguyên Giáp: Vũ trang quần chúng cách mạng xây dựng quân đội nhân dân, Nxb Quân đội nhân dân, H.1973.

        - Võ Nguyên Giáp: Bài giảng về đường lối quân sự của Đảng Viện Khoa học quân sự, H.1974.

        - Trần Văn Giàu: Giá trị tinh thần truyền thông của dân tộc Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, H. 1980.

        - Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt, trọn bộ, Ban tu thư viện Đại học Vạn Hạnh ấn hành, Sài Gòn 1966.

        - Hợp tuyển thơ văn Việt Nam từ thế kỷ X - XVIII, in lần thứ hai, Nxb Văn học, H.1976.

        - Nguyễn Đình Khoa: Các dân tộc ở miền Bắc Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, H.1972.

        - Phan Huy Lê: Tìm về cội nguồn, Tập I - II, Nxb Thế giới. H.1999. Phan Huy Lê

        - Phan Đại Doãn: Khởi nghĩa Lam Sơn, in lần thứ ba, Nxb Khoa học xã hội, H.1977.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tám, 2016, 06:11:41 am

        - Phan Huy Lê: Chế độ ruộng đất và kinh tế nông nghiệp thời Lê Sơ, Nxb Văn Sử Địa, H.1959.

        - Phan Huy Lê, Bùi Đăng Dũng, Phan Đại Doãn, Phạm Thị Tâm, Trần Bá Chí: Một số trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử dân tộc, Nxb Quân đội nhân dân, H.1970.

        - Phan Huy Lê: Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, Nxb Giáo dục, H.1960.

        - Lịch sử Việt Nam, Tập I, Nxb Khoa học xã hội, H.1976.

        - Lịch sử Việt Nam thời kỳ chế độ phong kiến dân tộc, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 1967.

        - Thăng Long: Mấy ý kiến về tổ chức quân sự dân tộc qua các thời kỳ lịch sử, Tạp chí Quân đội nhân dân, Số 10-1973.

        - Thăng Long: Tổ chức quân sự dân tộc trong cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên - Mông, Tạp chí Quân đội nhân dân, 11-1973.

        - Thăng Long: Tổ chức quân sự dân tộc trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc do Lê Lợi lãnh đạo, Tạp chí Quân đội nhân dân, 12-1973.

        - Thăng Long: Nước Đại Việt củng cố quốc phòng, Tạp chí Quân đội nhân dân, 5-1975.

        - Thăng Long: Xây dựng quân đội thường trực, Tạp chí Quân đội nhân dân, 2-1976.

        - Lã Văn Lô: Bước đầu tìm hiểu các dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, Nxb Khoa học xã hội, H.1976.

        - Lê Lợi và Thanh Hoá trong khởi nghĩa Lam Sơn, Nxb Thanh Hoá, 1988.

        - Luật Nghĩa vụ quân sự, Công báo nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, số 19, ngày 11-5-1960.

        - Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Nghĩa vụ quân sự (được nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam sửa đổi bổ sung ngày 21-12-1994), Nxb Chính trị quốc gia, H.1994.

        - Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Văn Tiến Dũng, Song Hào: Bàn về chiến tranh nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb Quân đội nhân dân, H.1966.

        - Hồng Nam và Hồng Lĩnh (chủ biên): Những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam chống phong kiến Trung Hoa xâm lược Nxb Khoa học xã hội, H.1984.

        - Lê Kim Ngân: Tổ chức chính quyền dưới triều Lê Thánh Tông (1460-1497), Bộ Quốc gia giáo dục, Sài Gòn, 1963.

        - Đỗ Văn Ninh: Thành cổ Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, H.1983.

        - Nông thôn Việt Nam trong lịch sử, Tập I, Nxb Khoa học xã hội, H.1975.

        - Nông thôn Việt Nam trong lịch sử, Tập II, Nxb Khoa học xã hôi, H.1975.

        - Nguyễn Danh Phiệt: Nhà Đinh dẹp loạn và giữ nước, Nxb Khoa học xã hội, H.1990.

        - Nguyễn Danh Phiệt: Về thăm một làng chiến đấu chông giặc Nguyên, Tạp chí Tổ quốc, số 6-1985.

        - Nguyễn Hồng Phong: Xã thôn Việt Nam, Nxb Văn Sử Địa, H.1959.

        - Hoàng Đình Phu (chủ biên): Mấy nét về sự phát triển kỹ thuật quân sự, Nxb Quân đội nhân dân, H.1976.

        - Phạm Ngọc Phụng: Tổ tiên đánh giặc, Nxb Quân giải phóng, Sài Gòn, 1975.

        - Nguyễn Tường Phượng: Lược thảo Binh chế Việt Nam qua các triều đại, Nxb Ngày Mai, H.1950.

        - Trương Hữu Quýnh (chủ biên): Đại cương Lịch sử Việt Nam, Tập I, Nxb Giáo dục, H. 1998.

        - Trương Hữu Quýnh: Chế độ ruộng đất ở Việt Nam từ thiên kỷ XIII đến XV, Nxb Khoa học xã hội, H.1982.

        - Quốc sử quán thế kỷ XIV: Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, bản dịch, Tập III, Nxb Văn Sử Địa, H.1957.

        - Quốc sử quán thế kỷ XIX: Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, Tập IV, Nxb Văn Sử Địa, H.1958.

        - Quốc sử quán thế kỷ XIX: Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, Tập VI, Nxb Văn Sử Địa, H.1958.

        - Quốc sử quán thế kỷ XIX: Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, Tập VII, Nxb Văn Sử Địa, H.1958.

        - Quốc sử quán thế kỷ XIX: Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, bản dịch, Tập VIII, Nxb Văn Sử Địa, H.1958.

        - Quốc sử quán thế kỷ XIX: Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, bản dịch, Tập IX, Nxb Văn Sử Đỉa, H. 1958.

        - Quốc sử quán thế kỷ XIX: Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, bản dịch, Tập X, Nxb Văn Sử địa, H. 1959.

        - Quốc sử quán thế kỷ XIX: Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, bản dịch, Tập XI, Nxb Văn Sử Địa, H. 1959.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tám, 2016, 06:14:20 am

        - Quốc sử quán thế kỷ XIX: Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, bản dịch, Tập XII, Nxb Văn Sử Địa, H.1959.

        - Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí, Tập I, Nxb Thuận Hoá, Huế 1992.

        - Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí, Tập II, Nxb Thuận Hoá, Huế, 1992.

        - Quốc sử quán triều nguyễn: Đại Nam nhất thống chí, Tập III, Nxb Thuận Hoá, Huế, 1992.

        - Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí, Tập IV, Nxb Thuận Hoá, Huế, 1992.

        - Quốc triều hình luật (Luật hình triều Lê), Bản dịch, Nxb Pháp lý, H.1991.

        - Lê Đình Sỹ - Nguyễn Danh Phiệt: Kế sách giữ nước thời Lý Trần, Nxb Chính trí quốc gia, H.1994.

        - Lê Đình Sỹ (chủ biên): Trần Hưng Đạo - nhà quân sự thiên tài, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2002.

        - Ngô Thì Sĩ: Việt sử tiêu án, bản dịch, Văn hoá Á châu xuất bản, 1960.

        - Nguyễn Văn Siêu: Phương Đình Dư địa chí, Nxb Tự do, Sài Gòn, 1960.

        - Phạm Hồng Sơn: Nghệ thuật đánh giặc giữ nước của dân tộc Tập III, Học viện Quân sự cấp cao, H.1990.

        - Phạm Văn Sơn: Việt sử toàn thư, Sài Gòn, 1960.

        - Văn Tân: Dụng nước đi đôi với giữ nước, một quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam, Tạp chí Quân đội nhân dân, số 9-1976.

        - Hà Văn Tấn. Mấy suy nghĩ về phương pháp sử học và lôgic, Nghiên cứu lịch sử, số 96-3/1967.

        - Hà Văn Tấn - Phạm Thị Tâm: Cuộc kháng chiến chông xâm lược Nguyên

        - Mông thế kỷ XIII, in lần thứ tư, Nxb Khoa học xã hội, H.1975.

        - Hà Văn Tấn - Phạm Thị Tâm: Bài minh trên chuông Thông Thánh quán và một số vấn đề lịch sử thời Trần, Nghiên cứu lịch sử, số 88-7/1966.

        - Phạm Thị Tâm: Tác dụng của chính sách mềm dẻo đối với biên giới phía Bắc của nhà Lý, Kỷ yếu khoa học về biên giới, Đại học Tổng hợp, H. 1979.

        - Thiên kỷ X - Những vấn đề lịch sử, Nxb Khoa học xã hội, H.1977.

        - Chu Thiên: Chống quân Nguyên - Lịch sử kháng chiến thời Trần (1257-1288), Nxb Xây dựng, H.1957.

        - Bùi Thiết: Làng xã ngoại thành Hà Nội, Nxb Hà Nội, 1985.

        - Thơ văn Lý - Trần, Tập I, Nxb Khoa học xã hội, H.1977.

        - Thơ văn Lý - Trần, Tập II, Nxb Khoa học xã hội, H.1977.

        - Thơ văn Lý - Trần, Tập III, Nxb Khoa học xã hội, H.1977.

        - Nguyễn Minh Tiến: Lý Thường Kiệt con người và sự nghiệp, Nxb Hà Nội, H.1989.

        - Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý - Trần, Nxb Khoa học xã hội, H.1970.

        - Nguyễn Trãi: Toàn tập, in lần thứ hai, Nxb Khoa học xã hội, H.1974.

        - Hoàng Trúc Trâm: Trần Hưng Đạo, Sài Gòn 1950.

        - Đỗ Trình (chủ biên): 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, những hoạt động quân sự tiêu biểu, Nxb Quân đội nhân dân, H.2000

        - Viện Lịch sừ quân sự Việt Nam, Lịch sử quân sự Việt Nam, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, H.2003.

        - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử quân sự Việt Nam, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, H.2003.

        - Viện Sử học: Lịch sử Việt Nam, thế kỷ X - đầu thế kỷ XV, Nxb Khoa học xã hội, H.2002.

        - Việt sử lược, Bản dịch của Trần Quốc Vượng, Nxb Văn Sử Địa, H. 1960.

        - Nguyễn Việt, Vũ Minh Giang, Nguyễn Mạnh Hùng: Quân thuỷ Việt Nam trong lịch sử chống ngoại xâm, Nxb Quân đội nhân dân, H.1983.

        - Trần Quốc Vượng: Tìm hiểu truyền thống thượng võ của dân tộc, Nxb Y học và Thể dục thể thao, H.1969.

        - Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn: Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, Tập I, Nxb Giáo dục, in lần thứ hai, H.1963.


Tiêu đề: Re: Binh chế Đại Việt thế kỷ XI - XV
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Tám, 2016, 06:22:38 am
     
(http://i479.photobucket.com/albums/rr153/Giangtvx/Linh%20tinh/BCDV%20-%200287_zpsgyzrylfj.jpg)

(http://i479.photobucket.com/albums/rr153/Giangtvx/Linh%20tinh/BCDV%20-%200288_zpspwqurdrw.jpg)

HẾT