Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tự dịch => Tác giả chủ đề:: qtdc trong 09 Tháng Tám, 2015, 06:16:41 pm



Tiêu đề: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 09 Tháng Tám, 2015, 06:16:41 pm
Anh hùng Liên Xô Marina Chechneva

(http://cv01.twirpx.net/1078/1078707.jpg)

Чечнева, Марина Павловна
Небо остается нашим (http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/index.html)

BẦU TRỜI VẪN LÀ CỦA CHÚNG TA (http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/index.html)

(Hồi ức)

Nhà xuất bản Quân sự. Moskva 1976

(http://nhat-nam.ru/vietnamwar/foto/Isaev-20.jpg)
Marina Chechneva tại miền Bắc Việt Nam năm 1968 (http://nhat-nam.ru/vietnamwar/oldfoto39-3.html)


Lời nhà xuất bản

Giống như nhiều đồng nghiệp của mình, Marina Pavlovna Chechneva (Марина Павловна Чечнева (15/8/1922 — 12 /1/1984)) đến với ngành hàng không theo phiếu đề cử của Đoàn Thanh niên Komsomol. Đối với bà và các bạn nữ của bà, những người say mê đôi cánh nghề bay của mình, mọi thứ trong cuộc sống gắn liền với bầu trời. Họ đã cống hiến tuổi trẻ và sự dịu dàng, tài năng và tài nghệ cho bầu trời ngoài mặt trận bị đóng đinh bởi những chùm đèn chiếu phòng không đầy hăm dọa, bị rạch thủng nhằng nhịt bởi những vệt lửa đạn. Tác giả kể về các bạn chiến đấu nữ của mình, về những người đã đến được với chiến thắng, và cả những người không trở về khi xuất kích thi hành nhiệm vụ, về số phận hậu chiến của các đồng đội. Các độc giả sẽ tiếp nhận với sự quan tâm đáng kể những trang kể về thời hậu chiến của M.Chechneva với công việc trong ngành hàng không thể thao. Cuốn sách này là một phiên bản làm mới lại của cuốn hồi ký của M.P.Chechneva "Máy bay bay vào trời đêm" («Самолеты уходят в ночь»), phát hành khoảng mười lăm năm trước đây (1961). Cuốn sách có thêm các sự kiện thú vị mới.

MỤC LỤC

Lời đầu của tác giả
Bi kịch trên đường cao tốc Khoroshev và ước mơ về bầu trời
Ngày từ đó bắt đầu tính đếm cuộc sống
Ngôi nhà trên phố Gorky
Buổi sáng ảm đạm
Thử thách
Mơ ước và chiến đấu
Trung đoàn trở thành trung đoàn cận vệ
Sống mãi trong ký ức của tôi
Ngay bên bờ Biển Đen
Xin chào Sevastopol
Phía trước là nước Đức
Dù sao chúng tôi vẫn là những người hạnh phúc
Chú thích
Danh sách ảnh minh họa


Lời đầu của tác giả

(http://airaces.narod.ru/woman/chechneva.jpg)
Một trong 23 nữ Anh hùng Liên Xô của trung đoàn nữ KQ ném bom đêm cận vệ số 46 Taman (nguyên là trung đoàn nữ KQ ném bom đêm hạng nhẹ số 588; trung đoàn KQ duy nhất toàn nữ từ phi công, nhân viên kỹ thuật, sĩ quan chỉ huy đến lính trơn): Đại úy cận vệ, Anh hùng Liên Xô (1946) M.P.Chechneva. Đến cuối Thế chiến 2 là phi đội trưởng một phi đội của trung đoàn nữ KQ ném bom đêm cận vệ số 46 Taman huân chương Cờ Đỏ Suvorov hạng III (thuộc sư đoàn KQ ném bom đêm 325, tập đoàn quân KQ 4, phương diện quân Belorussia 2). Tham gia Hồng quân tháng 2 năm 1942, tốt nghiệp trường đào tạo phi công quân sự. Tham chiến từ tháng 5 năm 1942 trên các mặt trận của Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại. Tham gia phòng thủ Kavkaz, giải phóng Kuban, Belorussia, Ba Lan. Trong thời gian chiến tranh đã thực hiện 810 phi vụ ném bom đối phương. Có chồng là Anh hùng Liên Xô, phi công cường kích Konstantin Davydov (1918-1949). Sau khi kết thúc chiến tranh, năm 1945 trung đoàn giải tán. Năm 1995 - 50 năm nữa sau khi chiến tranh chấm dứt, trung đoàn có thêm 2 nữ Anh hùng: 2 nữ Anh hùng nước Nga là các nữ hoa tiêu và hoa tiêu kiêm xạ thủ súng máy. Năm 2004 một nữ phi công nữa của trung đoàn là người Kazakh được tặng danh hiệu Anh hùng Cộng hòa Kazakhstan, đưa số Anh hùng của trung đoàn nữ không quân danh tiếng này lên con số 26.

Các ghi chép của tôi không dự định phải bao hàm đầy đủ các sự kiện, mặc dù tôi kể về thời kỳ mười tám năm của cuộc sống và đời phục vụ trong ngành hàng không, thời kỳ rất quan trọng đối với tôi. Trong những năm đó, số phận đã cho tôi một hạnh phúc hiếm có - được biết các nam phi công và nữ phi công xuất chúng.

Họ rất đông, những con người ấy, những tính cách và số phận khác nhau, nổi tiếng và không mấy ai biết, nhưng những kỷ niệm về họ đều thân thiết đối với tôi. Cũng như tôi, dẫn mỗi người vào bầu trời là giấc mơ được bay. Đồng thời cùng với nhiều người trong số họ, ba mươi sáu năm trước, tôi bước qua ngưỡng cửa thiêng liêng của câu lạc bộ hàng không, sau ngưỡng cửa ấy mở ra khoảng không vô biên, vẫy gọi và cuốn hút.

Khoảng xa xăm ấy kêu goi chúng tôi đến với nó không sao cưỡng lại được. Cùng với các bạn bè của mình, khi ấy tôi đã học làm chủ được những nguyên tắc cơ bản của nghề nghiệp không dễ dàng nhưng tuyệt đẹp của chúng tôi, chia sẻ niềm vui và nỗi buồn, lớn lên và trưởng thành, vượt qua những con đường khó khăn của chiến tranh.

Không bao giờ tôi quên được những con người này. Với tất cả những con người ấy - những con người nổi tiếng và cả những người chưa được biết tới - tôi xin dành tặng họ thành quả lao động khiêm tốn của mình.

M. Chechneva


Bi kịch trên đường cao tốc Khoroshev và ước mơ về bầu trời

Cho đến hôm nay, thứ tuyết trắng một cách không tự nhiên này vẫn đang hiển hiện trước mắt tôi. Và cái lạnh tê tái vẫn còn giữ nguyên. Cảm giác bị thiêu cháy như thể xuyên thấu vào tim.

Tôi cùng bọn trẻ đang ngỡ ngàng đứng trên một đống tuyết. Gió mùa đông thổi bốc tuyết lên thành những dòng xoáy nhỏ. Tuyết giá buốt kêu sào sạo đột ngột dưới chân những kẻ qua đường. Và tâm hồn trống rỗng buồn tẻ.
                                         
Một cậu bé, người đã nhìn thấy toàn bộ bằng đôi mắt của mình, không biết từ đâu mà biết được tất cả các chi tiết, cậu kể:
- Lúc đầu, ông ấy làm một vòng tròn trên sân bay. Giảm độ cao. Đưa máy bay vào hạ cánh. Tớ không biết chuyện gì đã xảy ra, nhưng đột nhiên yên tĩnh: động cơ im bặt. Máy bay bắt đầu rơi thẳng vào ngôi nhà. Đấy khoảng ấy đấy. - Cậu bé giơ bàn tay đi găng tay hở ngón trỏ tòa nhà gần đó. - Ừ, ngôi nhà này ... chắc chắn nhà sẽ bị thổi bay. Thật kinh hoàng nếu chuyện đó xảy ra! Sau đó, ông ấy lộn nhào máy bay bằng cánh. Một tiếng nổ vang lên. Ngay ở đây, nơi chúng ta đang đứng.

Cậu bé giận dữ phẩy tay ...
Kể từ thời điểm xảy ra thảm họa đã hai ngày trôi qua, và cánh đồng bên cạnh đường cao tốc Khoroshevskoe (thời ấy tôi sống rất gần đó) đã được dọn dẹp. Tuyết và những cơn lốc thổi tuyết bay đã hoàn thành nốt công việc của con người. Nhưng chúng tôi không thể đi khỏi nơi khủng khiếp này, và chỉ sau đó, khi đã ở nhà, tôi mới cảm thấy đôi má mình tê cóng.

Tôi máy móc nhìn lên tấm lịch - ngày 17 tháng 12 năm 1938. Nghĩa là, tai họa xảy ra vào ngày 15.

Các chi tiết sau này mới được biết. Vào ngày hôm đó, Valery Pavlovich Chkalov cất cánh lên không trung trên chiếc máy bay chiến đấu I-180. Đó là chuyến bay đầu tiên của chiếc máy bay nguyên mẫu. Và đã xảy ra một điều không thể khắc phục. Hỏng động cơ. Máy bay không còn kiểm soát được bắt đầu rơi vào một ngôi nhà. Khi đó Chkalov đã dùng cái giá của cuộc đời mình để cứu hàng trăm người đang bị sự nguy hiểm chết chóc đe dọa ...

Có cần phải nói không, Chkalov là người thế nào với chúng tôi, những cậu bé và cô bé ngày ấy! Ai mà không nhớ những lời của ông: Tất cả cuộc sống của tôi cho đến hơi thở cuối cùng tôi sẽ hiến dâng cho sự nghiệp của chủ nghĩa xã hội ... Đó là hạnh phúc của tôi. Ai trong chúng tôi, khi theo dõi chuyến bay của ông, những chuyến bay được thế giới ngưỡng mộ, mà không mơ ước dù chỉ một chút thôi, chỉ một chút nhỏ nhất được giống như ông - người đàn ông đã trở thành huyền thoại ngay từ khi còn sống.

Kể từ hồi đó, nhiều năm tháng khó khăn không thể tưởng tượng đã trôi qua, nhưng sự cay đắng của mất mát này vẫn còn được cảm thấy cho đến tận hôm nay. Và mỗi lần, khi đi qua tấm bia kỷ niệm trên đó có ghi tên của ông, tôi lại nhớ đến tháng Mười Hai tuyết phủ năm 1938, những khuôn mặt u ám của con người, những tờ báo có bức chân dung người phi công vĩ đại viền băng tang.

Hàng ngàn hàng ngàn chàng thanh niên và các cô thanh nữ, mãi mãi gắn mình với hàng không, giao ước với Chkalov bằng số phận của mình. Bản thân cuộc đời của ông đã làm cho họ cao lên, đẹp hơn, tốt hơn, là một ví dụ đầy cảm hứng của sự nghiệp phục vụ Tổ quốc.

Chkalov là một con người trong sáng tuyệt vời. Hầu như tất cả những ai tung cánh lên bầu trời những năm ba mươi (thế kỷ 20 - ghi chú) sau khi ông hy sinh, họ đều đi con đường của ông, sống trong bầu không khí của sự quả cảm quên mình, điều không thể tưởng tượng được nếu không có các chuyến bay của ông.

Dù cách này hay cách khác, nhưng những giấc mơ đầu tiên về bầu trời ở tôi và các đồng nghiệp của tôi không thể tách rời khỏi tên ông.

Ngay từ thời chớm tuổi thanh niên tên của ông đã vang lên như tiếng gọi dẫn đường ...

(https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/d/d0/Chkalov%2C_Stalin_and_Belyakov._August_10%2C_1936.jpg/800px-Chkalov%2C_Stalin_and_Belyakov._August_10%2C_1936.jpg)
Valery Chkalov cùng phi công Belyakov và các nhà lãnh đạo Liên Xô Stalin, Voroshilov, Kaganovich. Sân bay Shiolkovo ngày 10 tháng 8 năm 1936. Trích từ báo Pravda năm 1940. "Stalin. Nhân sinh nhật lần thứ 60". Các chi tiết của các sự kiện diễn ra trước vụ tai nạn hơn 2 năm sau (15/12/1938) trên mẫu thử nghiệm máy bay tiêm kích Polykarpov I-180 của Chkalov đến nay vẫn chưa thật sự rõ ràng. (https://en.wikipedia.org/wiki/Valery_Chkalov)

* * *

- Em hãy đọc cho chúng tôi nghe, em Chechneva, "Bài ca về Chim Báo Bão". Thầy giáo đứng cạnh bàn của tôi. Mà tôi hoàn toàn quên, không thuộc. Sau rồi tôi cũng nhớ lại được. Tôi vui mừng lách ra một vài khổ.
- Không, Chechneva - thầy giáo ngắt lời. - Không thể đọc như vậy được. Đó là Gorky! Em hiểu không - Gorky!..

Và thầy tự mình tiếp tục. Trang trọng, đầy cảm hứng. Lớp học - im phăng phắc.
- "Hỡi bão tố! Bão sắp nổi lên rồi! .. "
Không biết làm thế nào mà tôi cũng rống lên:
- "Hỡi bão tố! Bão sắp nổi lên rồi! .. "
Cả lớp bật cười rộ. Tôi cảm thấy giận dỗi:
- Các cậu cười gì?! Tôi cũng muốn bay ... Tôi muốn bay như Chkalov.
Trận cười lại rộ lên lần nữa.
- Các em, các em không thể cười chuyện đó. - Giọng của thầy giáo trở nên nghiêm khắc. - Ước mơ phải được tôn trọng. - Thầy đi đến bên tôi: - Em có một giấc mơ đẹp, Marina! Chỉ có điều cần phải làm rất nhiều việc để thực hiện nó. Em có đủ sức mạnh? Đủ lòng kiên trì chứ?

* * *

Hồi ấy tôi làm việc trong nhóm mô hình máy bay. Thậm chí tôi đã xây dựng được một số mô hình thành công và cùng với các bạn trẻ khác tham gia cuộc thi do Nhà Thiếu nhi Moskva tổ chức. Và tất nhiên, bấy giờ vẫn còn che giấu, bí mật mơ ước "được bay, như Chkalov".

Gia đình tôi sống bên đường cao tốc Khoroshevskoye - gần sân bay Trung tâm. Ở đây chưa bao giờ ngớt tiếng động cơ gầm rú, những chiếc máy bay thoáng qua không trung, những chiếc bóng thám không được thả lên bầu trời, tán dù màu trắng nở bùng trong sắc thanh thiên. Cùng với các bạn nữ của mình, chúng tôi nhàn tản hồi lâu bên hàng rào phi trường.
Tôi vẫn chưa đầy mười lăm tuổi, khi xảy ra một sự kiện không thể nào quên - tôi được kết nạp vào Đoàn Komsomol.

Vào mùa thu cùng năm 1937, nói một cách hình ảnh, tôi đã thực hiện nỗ lực đầu tiên tách khỏi mặt đất: tôi đến câu lạc bộ hàng không huyện.
- Còn sớm ... - họ nói với tôi. - Em còn nhỏ quá. Vẫn còn đeo khăn quàng đỏ thiếu niên tiền phong. Chờ đi. Rồi chúng tôi sẽ nghĩ lại.
Ghé vào lần thứ hai, tôi năn nỉ giám đốc câu lạc bộ hàng không.
- Em hãy lớn lên thêm một chút nữa, rồi hãy đến đây. Chúng tôi sẽ xem em học tập thế nào. Chúng tôi không lấy người điểm kém.

Một năm trôi nhanh. Bây giờ tôi đi đến câu lạc bộ HK với giấy giới thiệu của BCH Đoàn Komsomol huyện. Bây giờ tôi không xin nữa - mà khăng khăng. Dưới hình thức ngoại lệ, người ta ghi tên tôi vào lớp lý thuyết tại ban phi công.

Niềm vui của mình tôi chia sẻ cùng cha.
- Cha muốn có con trai, nhưng mà không có ... chỉ có mình con, con gái ạ, mà tính cách con, cha thấy, rất rắn rỏi.
Mẹ giữ ý kiến khác:
- Nghề này không nữ tính. Hãy chọn bất kỳ công việc nào con thích, nhưng đừng bay.
- Điều đó đã được quyết định rồi, mẹ ơi. Rút lui bây giờ quá muộn!

(http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/03.jpg)
Olga Shakhova (bên trái) và Valerya Khomyakova (1914-1942). Valerya Khomyakova (bên phải) là nữ phi công tiêm kích Soviet đầu tiên (trung đoàn nữ KQ tiêm kích 586 thuộc sư đoàn tiêm kích PK 144) sử dụng máy bay Yak-1 bắn rơi máy bay chiến đấu Đức: một chiếc Ju-88 vào đêm 24 tháng 9 năm 1942 tại Saratov. Hy sinh sau đó nửa tháng, đêm ngày 6 tháng 10 năm 1942 gần Saratov.

... Câu lạc bộ HK có biết bao con người tuyệt vời! Ví dụ, Valerya Khomyakova. Lần đầu tiên tôi gặp chị cuối tháng 12 năm 1938, trong một tòa nhà trên đường Mantulinskaya, nơi bố trí bộ phận học tập câu lạc bộ hàng không. Vào thời điểm đó chị đã được biết đến như một phi công-huấn luyện viên nổi tiếng. Tôi nhớ ánh hào quang của một ngày giá lạnh bên ngoài cửa sổ, hành lang dài bị các tia nắng mặt trời xuyên qua chia cắt, bụi phấn hoa nhảy múa. Đi dọc hành lang là một phụ nữ trẻ thân hình cao lớn và cân đối. Các vệt sáng lúc nằm trên khuôn mặt xinh đẹp của chị, lúc lại biến mất, và khi đó đôi mắt xám của người phụ nữ trở nên sâu sắc hơn, bí ẩn hơn. Ôm vai người bạn nữ phi công Olga Shakhova, Valeria say mê nói chuyện với chị ấy. Trông thấy các học viên bay, Khomyakova đi đến chỗ chúng tôi, làm quen, hỏi chuyện về việc học tập. Chị cư xủ giản dị, thân thiện, và cuộc trò chuyện của chúng tôi ngay lập tức trở nên thoải mái, thẳng thắn.

Người ta thường bố trí tại câu lạc bộ HK các cuộc gặp gỡ những phi công giàu kinh nghiệm dành cho các học viên bay. Sau khi làm quen với Khomyakova, chúng tôi mời chị ấy đến. Chị đồng ý. Buổi tối hôm đó, chúng tôi được nghe câu chuyện về cuộc đời của chị.

Valeria được sinh ra tháng Tám năm 1914. Chị trải qua thời thơ ấu ở Kolpino, gần Leningrad. Chị thừa hưởng tình yêu môn hóa học từ cha mình, một kỹ sư hóa. Chị say mê văn học. Còn mơ mộng thì ... Chị mơ ước về các chuyến bay, về bầu trời ...

Sau một khoảng thời gian bảy năm, khi đã tốt nghiệp trung cấp kỹ thuật, chị vào Viện Công nghệ hóa học Moskva mang tên Mendeleev. Đồng thời chị tham gia câu lạc bộ HK.

......


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 13 Tháng Tám, 2015, 12:53:51 am
(tiếp)

Cùng với bằng tốt nghiệp, cô gái nhận việc làm tại nhà máy Dorogomilovsky. Sau ca làm việc, cô chạy đến một CLB HK quận Leningrad của thủ đô. Valeria yêu thích như nhau cả tàu lượn và máy bay. Nhưng để làm phi công, sau rốt cần phải là một vận động viên giỏi. Nhớ điều này, cô gái đi trượt tuyết trong khu rừng phủ đầy tuyết, trượt băng trên sân băng, chơi bóng chuyền nhiều, bơi lội, thao luyện nhảy dù. Và một lần chị cảm thấy: hàng không làm cho con người có nhiều quyền độc tôn. Và chị đã lựa chọn trở thành một phi công chuyên nghiệp.

(https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/e/e5/Looping.png/220px-Looping.png) (https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/b/b6/Nesterov_marka_SSSR_1963.jpg/220px-Nesterov_marka_SSSR_1963.jpg)
Thòng lọng Nesterov. Thuật lái phức tạp lấy theo tên người sáng tạo ra nó Piotr Nikolaievich Nesterov (1887-1914), cũng là người lần đầu tiên áp dụng taran (không cố tình!) trong không chiến từ thời Thế chiến 1.

Phong cách trên bầu trời của Khomyakova đẹp đến nao lòng. Chúng tôi say mê theo dõi chị trình diễn vô cùng điêu luyện các động tác lượn vòng nghiêng, xoay thùng (thuật lái cao cấp quay đều máy bay quanh trục dọc của nó), xoắn ốc, xoắn thòng lọng Nesterov (thuật lái cao cấp bay theo đường cong khép kín trong mặt phẳng thẳng đứng) trong lễ diễu hành trên không trung nhân ngày Hàng không. Là một nữ phi công cao cấp, chị hoàn toàn làm chủ được tất cả các loại máy bay thể thao trước chiến tranh và bay trên chúng không chê vào đâu được.

Tháng 8 năm 1940 Valerya được trao huy hiệu danh dự của Osoaviakhim (Hiệp hội ủng hộ nền quốc phòng và xây dựng ngành hàng không và ngành hóa học). Vào thời đó chỉ có vài phi công có được phù hiệu như vậy.

Các giờ học lý thuyết tại câu lạc bộ kể từ những ngày đầu đã choán hết đầu óc tôi. Đâu phải bận tâm rằng không ngủ đủ giấc, rằng đôi chân đôi lúc muốn khuỵu xuống vì mỏi mệt. Thế hệ chúng tôi - xin các thế hệ khác đừng giận tôi - thực sự cuồng tín trong đức tin của mình, và luôn khát khao muốn ở trên tuyến đầu của các mặt trận quân sự cũng như hòa bình.

(https://upload.wikimedia.org/wikipedia/ru/thumb/0/0a/Kanal_imeni_Moskvy_1934.jpg/621px-Kanal_imeni_Moskvy_1934.jpg)
Kênh đào Moskva lấy nước sông Volga vào sông Moskva được chính quyền Soviet xây dựng trong thập kỷ 30 thế kỷ 20, cung cấp 60% nhu cầu nước sinh hoạt và công nghiệp cho Moskva. Bản đồ có đánh dấu các vị trí âu tàu, nhà máy thủy điện và các công trình trên sông khác. Kênh có chiều dài 128 km, mặt rộng 85 m, đáy rộng 45 m, sâu 5,5 m. Một phần lớn lao động là các trại viên GULAG. Năm 1997 đã xây dựng trên bờ kênh một cây thập tự tưởng niệm những người chết vì lao động quá sức trong quá trình xây dựng kênh đào (1932-1937) tại lối vào thành phố Dmitrov, nơi có trại cải tạo lao động cưỡng bức Dmitrov của OGPU-NKVD, được thành lập phục vụ cho việc xây dựng công trình vĩ đại này. Trong Thế chiến 2, công trình này còn dược sử dụng vào mục đích phòng thủ Moskva trong chiến dịch bảo vệ thủ đô 1941-1942. Theo kế hoạch của quân Đức, Moskva sẽ bị khép vây từ hướng bắc và nam. Tránh điều này, người ta đã xả nước từ kênh và các hồ chứa xuống đường tấn công từ hướng bắc của quân Đức.

(https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/4/4a/13-let-za-1_5-goda.jpg)
Chứng nhận trả tự do trước thời hạn vì đã lao động tích cực trên công trình kênh đào Moskva-Volga của trại viên trại Dmitrov do NKVD cấp

(https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/4/40/Yagoda_kanal_Moskva_Volga.jpg)
Các lãnh đạo OGPU-NKVD Henrik Yagoda và N.Filatov trên công trường xây dựng kênh đào Moskva-Volga, đi đằng sau Yagoda là N.Khrusev bí thư thứ nhất đảng bộ thành phố Moskva. Ngày 3 tháng 9 năm 1935.

Tính cách các đồng nghiệp của tôi được hình thành trong kế hoạch năm năm đầu tiên, tràn đầy chất lãng mạn và chủ nghĩa anh hùng. Đó cũng là lúc phủ kín đất nước là một rừng các công trình mới. Đó là lúc mọc lên các nhà máy, xí nghiệp, hầm mỏ, nhà máy điện mới, các tuyến đường sắt, các câu lạc bộ, trường học, sân vận động được xây dựng. Trước mắt tôi sông Moskva sôi sục làn sóng đầu tiên của nước sông Volga. Những năm ba mươi được đánh dấu không chỉ bằng những thành quả lao động chưa từng có. Các phi công, người lái khinh khí cầu, vận động viên nhảy dù, người lái tàu lượn của chúng tôi đã xác lập vinh quang cho Đất nước các Soviet như một cường quốc hàng không hạng nhất. Trên môi mọi người không bao giờ ngớt nhắc tên các anh hùng phi công Chkalov, Baydukov, Belyakov, Gromov, Kamanin, Lyapidevsky. Đôi khi chúng tôi thậm chí còn nghĩ rằng dường như chúng tôi đã cùng với các phi công cứu sống đoàn thám hiểm trên tàu Chelyuskin, thực hiện các chuyến bay đường dài, đặt các đường hàng không đầu tiên qua Bắc Cực.

"Những người cộng sản đang tấn công lên trời!" - Olga Bergholz đã viết về những năm tháng đó như thế.

Chúng tôi sống với tốc độ khẩn trương, vui tươi, gian khó. Buổi sáng thức dậy bằng hồi chuông báo thức. Sau đó - không một phút nghỉ ngơi: trường học, câu lạc bộ HK, công tác đoàn thanh niên Komsomol.

Cuộc sống kêu gọi ta tiến lên phía trước đầy uy lực. Đất nước tăng tốc, đua với thời gian. Không có gì ngạc nhiên khi Valentin Kataev đặt tên cho một trong những cuốn sách của ông là - "Thời gian, hãy tiến lên".

(http://img1.liveinternet.ru/images/attach/c/8/101/2/101002049_3620784_iqLcCvx4QfY_1_.jpg)
Olga Bergholz - "Tôi chưa bao giờ là anh hùng..." - "Nhật ký phong tỏa". (http://www.liveinternet.ru/users/3620784/tags/%EC%F3%E7%FB%EA%E0/)

Ai trong chúng ta ở tuổi thiếu niên, khi con người hoàn toàn chìm trong mãnh lực của sự lãng mạn cao độ, mà không cố gắng sưu tầm trong album những vần thơ yêu thích hoặc viết những vần thơ riêng của mình? Tôi, cô học sinh lớp chín cũng có album này. Tôi cũng đã làm thơ. Một trong những bài thơ đó thậm chí còn được xuất bản trong tạp chí hàng không "Máy bay" năm 1939:

Tôi ước mơ được thành phi công
Trên đất nước tôi chan hòa hạnh phúc.
Cưỡi máy bay lên tầng cao chót vót
Đuổi bắt chim trời giữa sắc thanh thiên ...


Tất nhiên, tôi không trở thành nữ thi sĩ, và tôi cũng không mong muốn trở thành như vậy. Trong tâm trí tôi có mơ ước khác. Tôi mơ ước đến thời gian tôi sẽ điều khiển máy bay. Và bây giờ, ngoảnh nhìn quá khứ và suy nghĩ về hiện tại, tôi càng bị thuyết phục rằng cảm giác tốc độ, sự cần thiết của nó có sẵn trong mỗi chúng ta. Tốc độ - một hình thức nhận biết thế giới, mặc dù điều đó nghe có vẻ hơi khác thường. Nhưng thế giới thực tại, các hiện tượng của nó được nhận thức không trong trạng thái tĩnh và mà là trong chuyển động. Để nhận thức tốt hơn và đầy đủ hơn về cuộc sống cần tốc độ trong tất cả mọi điều: trong chuyển động, trong công việc, trong tư duy. Và không phải nhân loại từng phát triển rất chậm chạp cho đến trước thế kỷ XX hay sao, bởi tình hình kỹ thuật thời đó mà không có cơ hội đạt đến tốc độ nhanh hơn? Chuyến tàu hơi nước đầu tiên, xe hơi, máy bay xuất hiện trên thế giới không chỉ vì những tính toán lợi ích. Tăng tốc độ, con người dường như muốn thôi thúc dòng đời, và khi kiến thức của nó càng trở nên hoàn thiện hơn, nó sẽ càng khao khát nhận thức những điều bí ẩn nhanh hơn. Tốc độ nâng con người lên khỏi mặt đất, mở đường vào không gian vũ trụ. Đó là - thành tựu vĩ đại nhất của con người. Nó vẫy gọi tiến lên phía trước, mở ra những chân trời mới. Có phải vì vậy mà thời thơ ấu và niên thiếu người ta rất háo hức muốn hoàn thành dự định của mình nhanh hơn?

Những năm tháng học tập của tôi diễn ra tuần tự bình thường, còn tình hình thế giới giữa lúc đó đang sôi sục. Tại châu Âu, trong sự hỗn loạn của những cuộc tàn sát, trong ánh rực hồng của những đống lửa những bài ca phát xít rền vang, những lá cờ chữ thập ngoặc phấp phới. Tất cả những ai thông minh, trọng danh dự, mà nước Đức cống hiến cho thế giới, đã tìm nơi ẩn náu bên ngoài tổ quốc quê hương mình. Người dân nín thở sợ hãi chờ đợi kết cục. Chỉ có giai cấp công nhân, do những người Cộng sản lãnh đạo, dám dũng cảm chặn đường phát xít Đức. Tây Ban Nha chảy máu, đã chiến đấu một cách anh hùng. Tiếng nói của Jose Diaz và của Pasionaria bốc lửa vang lên trên các lục địa, kêu gọi tất cả những ai coi trọng hòa bình, đứng vào hàng ngũ những người bảo vệ nền cộng hòa.

Chiến tranh đã về trên ngưỡng cửa. Tất cả chúng tôi, đặc biệt những người đã tham gia quân đội và ngành hàng không, chúng tôi cảm được, hiểu được điều này ...

Chúng tôi học tập để nắm vững những điều cơ bản của ngành hàng không với tinh thần quyết liệt.

Trong bài giảng mở đầu, chủ nhiệm bộ môn dạy bay CLBHK Aleksandr Ivanovich Martynov giới thiệu chương trình với các học viên. Ở đây, trong bài giảng của ông, lần đầu tiên tôi nghe được những lời khó hiểu, nhưng vẫn hằng mong đợi: lý thuyết bay, điều khiển máy bay, dẫn đường hàng không, khí tượng học, từ chúng phả ra mùi bầu trời, khoảng không gian bao la, những tầng trời cao.

Từ lần gặp đầu tiên Martynov đã làm chúng tôi thích thú và ấn tượng đó vẫn còn được giữ lại suốt cuộc đời. Cùng với vô số học trò của ông, ông đã ra đi bảo vệ quê hương khỏi chủ nghĩa phát xít. Và ở đây, ở mặt trận, Aleksandr Ivanovich tìm được thời gian để theo dõi một cách thân thiết những thành công của các học trò mà ông từng dìu dắt, viết cho họ những lá thư của một người cha. Ông cũng viết cho cả tôi.

Chúng tôi vẫn thường xuyên gặp nhau cho đến cả ngày nay ...
Thời gian trôi qua thật nhanh. Sau khi vượt qua các kỳ thi đào tạo lý thuyết, các tiết thực hành trên sân tập mặt đất bắt đầu. Tôi được ghi danh vào biên đội của Anatoly Sergeyevich Matsnev, trong nhóm của huấn luyện viên Mikhail Pavlovich Duzhnov.

Người đoàn viên thanh niên Komsomol Mikhail Duzhnov không già hơn quá nhiều so với những người mình dạy dỗ. Cao, thân hình cân đối, thông minh, quên mình cống hiến cho sự nghiệp mình theo đuổi, về mọi mặt anh là hình mẫu của tất cả chúng tôi.

Tôi có những kỷ niệm đặc biệt gắn với cái tên Duzhnov. Có lẽ tôi sẽ không thành nữ phi công nếu không gặp anh. Quyết đoán, dũng cảm, biết cách hỗ trợ đồng đội kịp thời, anh đã giúp tôi hồi đó rất nhiều.

Trong câu lạc bộ HK có khá nhiều cô gái theo học, nhưng thái độ với họ của nhiều giảng viên nam, nói cho nhẹ bớt, là không nhiệt tình. Các HLV miễn cưỡng lấy phụ nữ vào nhóm của họ. Điều này thật ra cũng dễ hiểu. Phụ nữ chỉ mới bắt đầu đến với ngành hàng không. Không phải ai cũng tin rằng chúng tôi sẽ có thể làm việc ở đây ngang bằng với nam giới. Ví dụ về các nữ phi công nổi tiếng cũng chẳng thể nào thuyết phục được những người hoài nghi.

"Hàng không không phải là công việc của phụ nữ", - họ khẳng định, tìm mọi cách khuyên can phụ nữ đừng tham gia câu lạc bộ HK.

(https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/b/bf/%D0%9F%D0%B0%D1%80%D0%BE%D1%85%D0%BE%D0%B4_%D0%A7%D0%B5%D0%BB%D1%8E%D1%81%D0%BA%D0%B8%D0%BD.jpg)
Tàu "Chelyutskin" do Đan Mạch đóng cho Liên Xô, đang đậu tại Leningrad năm 1933. Tàu bị kẹt băng khi thám hiểm Bắc Cực tháng 9 năm 1933, bị chìm tháng 2 năm 1934. Vị trí gặp nạn gần đảo Kolyuchin tại Biển Chukchi, trên đường tới eo biển Bering để về Vladivostok. Thủy thủ đoàn được các phi công Liên Xô và kỹ thuật viên hàng không Mỹ tìm cứu trong một chiến dịch dài ngày và rất khó khăn giữa biển băng Bắc Cực, bản thân phi công tìm cứu cũng gặp nạn. Các phi công Liên Xô tham gia tìm cứu được tặng danh hiệu AHLX, còn các kỹ thuật viên hàng không Mỹ được chính quyền Soviet tặng huân chương Lenin. (https://en.wikipedia.org/wiki/SS_Chelyuskin)

Người đầu tiên ủng hộ chúng tôi là Valerya Khomyakova. Chị kiên trì ủng hộ việc huấn luyện bay cho các cô gái, nói về sự cần thiết phải huy động phụ nữ vào ngành hàng không, rằng người phụ nữ trong đất nước xã hội chủ nghĩa của chính chúng ta, một phải có cơ hội, không phải bằng lời nói mà phải trên thực tế, khám phá tài năng thiên phú của họ. Cuộc sống đã khẳng định sự đúng đắn của Khomyakova. Trong những năm thử nghiệm khó khăn, các nữ phi công đã chứng minh rằng Tổ quốc đã không đặt niềm tin vào họ một cách vô vọng.

Từ những bước đầu tiên trong ngành hàng không, tôi luôn luôn cảm thấy bàn tay thân thiện của Lera Khomyakova, sự ủng hộ và chăm sóc của chị ấy, tôi biết rằng trong mọi trường hợp khó khăn, tôi đều được chị cho những lời khuyên và giúp đỡ. Khi tôi bắt đầu học tập ở câu lạc bộ HK, tôi mới vừa mười sáu. Tương tự như vậy là bạn gái tôi Galya Turabelidze. Chúng tôi được nhận như là một ngoại lệ, và cả hai đều rất sợ rằng đến mùa xuân, vì tuổi còn non mà chúng tôi chưa được phép thực hành bay. Tôi và Galka, tất nhiên, vội vã bổ đến Khomyakova. Chị hiểu ngay dù chỉ mới nói nửa câu, và hứa sẽ ủng hộ.

Sau đó, tôi nhận ra rằng những lo ngại của chúng tôi là không có căn cứ. Một lần chỉ huy biên đội Anatoly Sergeyevich Matsnev nói với tôi:
- Tôi biết không ít nữ phi công xuất sắc của câu lạc bộ HK chúng ta - Valerya Khomyakova, Olga Shakhova, Maria Kuznetsova. Họ không thua kém đàn ông chúng tôi trong các kỹ năng điều khiển máy bay. Thế nhưng ... không phải là việc của phụ nữ. Vậy đó...

Và ông kiên trì thuyết phục tôi lựa chọn nghề nghiệp khác. Nếu tôi nghe được những lời này từ một con người có nhiều hạn chế thì có lẽ tôi sẽ không để ý. Tuy nhiên, ông ấy, Anatoly Sergeyevich, không chỉ là một bậc thầy tài nghệ rất cao mà còn là một người chỉ huy tốt. Ông là một người thông minh, có học vấn toàn diện. Ý kiến của ông, lẽ tự nhiên, tôi không thể không lắng nghe. Và tôi nhận ra: sự nghi ngờ bắt đầu len lỏi vào tâm hồn tôi. Chuyện gì đây nếu ông ấy đúng và tôi đang lãng phí thời gian và sức lực của mình?

Một lần, không thể kìm được, tôi chia sẻ suy nghĩ với Duzhnov. Sau khi nghe xong, anh trầm ngâm một lúc rồi tự tin nói:
- Bình tĩnh nào, Marina. Tất cả những cái gì mới đều không ngay lập tức được tiếp nhận suôn sẻ trong đầu óc con người. Cần phải có thời gian. Còn Anatoly Sergeyevich thì chúng ta sẽ cố gắng thuyết phục.
Có lẽ đó chỉ là một sự tình cờ, nhưng Matsnev không còn nói chuyện với tôi về chủ đề này nữa...
.........


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 13 Tháng Tám, 2015, 07:44:39 pm
(tiếp)

Ngày mà cuộc sống được đánh dấu bắt đầu từ đó

Từ một phía đưa tới sân bay những tiếng chim líu lo đầy ắp của khu rừng. Từ phía khác - là cánh đồng cỏ phủ kín hoa cúc với những mảnh sa khoáng đỏ của cỏ ba lá. Thật quyến rũ trong vẻ đẹp không chói lóa của mình, một mảnh đất miền Trung nước Nga.

(https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/b/b1/%D0%91%D0%B0%D0%BB%D0%BA%D0%B0_%D0%9A%D0%B0%D0%BC%D0%B5%D0%BD%D0%BD%D1%8B%D0%B9_%D0%BB%D0%BE%D0%B3.jpg/1280px-%D0%91%D0%B0%D0%BB%D0%BA%D0%B0_%D0%9A%D0%B0%D0%BC%D0%B5%D0%BD%D0%BD%D1%8B%D0%B9_%D0%BB%D0%BE%D0%B3.jpg)
Phong cảnh tiêu biểu miền nam cao nguyên Trung Nga (tỉnh Belgorod)

Sân bay của câu lạc bộ HK chúng tôi nằm ở làng Naberejnoi trên tuyến đường sắt Bắc. Vào mùa xuân và mùa hè, chúng tôi đến đó bằng xe lửa điện. Từ nhà ga Sokolovskaya đến sân bay chúng tôi đi bộ qua con sông nhỏ Klyazma và làng Naberejnoi. Chúng tôi báo cáo có mặt, thay quần áo và bước vào khởi động.

Khi bắt đầu kỳ nghỉ hè tại các nhà trường, học viện, chúng tôi chuyển sang các trại dã ngoại suốt cả mùa hè. Thanh niên nhà máy đến bay sau giờ làm việc.

Cuộc sống tại sân bay bắt đầu lúc mặt trời mọc và lắng xuống khi mặt trời lặn khuất sau đường chân trời. Công việc tối mắt tối mũi, nhưng chúng tôi không rên rỉ, chúng tôi đã kịp yêu mến bầu trời mất rồi.

Trước các chuyến bay chúng tôi hỗ trợ kỹ thuật viên Vasya Nikitin chuẩn bị máy bay, còn buổi tối cùng anh cọ rửa, dọn sạch, bơm đầy nhiên liệu, cố định máy bay vào các cọc vít xoắn, phủ bạt che đậy máy bay và chỉ sau đó mới đi về lều tắm rửa và chỉnh đốn trang phục. Một lát sau, hướng dẫn viên thực hiện bình giá, phân tích công việc của từng học viên, đặt nhiệm vụ cho ngày hôm sau.

Sau đó bạn có thể đi ăn tối. Sau đó nữa - xem phim, gặp các phi công giàu kinh nghiệm, nghe các bài giảng và thảo luận. Buổi sáng ngày mai trở lại với các chuyến bay.

Mỗi tuần một lần, chúng tôi được về nhà. Nếu ngày cho nghỉ trùng với chủ nhật, tôi cùng cha đi vào thành phố. Cha rất yêu mến đồi Lenin, và chúng tôi thường xuyên ở đó. Moskva khi ấy trải ra từ đường chim bay. Phía xa ta có thể nhìn thấy điện Kremlin, nắng mạ vàng mái vòm, còn những đường phố chạy tỏa ra như những tia mặt trời...

Tôi chia tay với cha tôi vô cùng miễn cưỡng. Tôi luôn thích thú và vui vẻ khi ở bên cha ...

(http://samlib.ru/img/r/rublew_a_d/21parkgor/41.i.planparkakulxturyiotdyha.1929-1930g.g.obshij.jpg)

(http://samlib.ru/img/r/rublew_a_d/21parkgor/69.i.skulxpturadewushkasweslom.1938g.jpg)

(http://samlib.ru/img/r/rublew_a_d/21parkgor/77.i.skulxpturadewushkasweslom.1939g.jpg)
Moskva 1938-1939. Công viên Văn hóa và Giải trí mang tên Gorky. Tượng "Cô gái với mái chèo" của họa sĩ kiêm điêu khắc gia Nga-Soviet danh tiếng I.D.Shadr (1887-1941), học trò của Auguste Rodin và Emile-Antoine Bourdelle ở Paris (1910–1911), và ở Rome (1911–1912), lúc đầu sáng tác theo phong cách Art Nouveau. "Cô gái với mái chèo" (1934-1936) được coi là mẫu mực của phong cách "Hiện thực XHCN" trong kiến trúc cảnh quan ngoài trời của Liên bang Soviet. Ảnh của PV báo TIME Harrison Forman. Tuy nhiên tác phẩm cũng bị một số trong giới nghề Soviet phê là thị hiếu tầm thường, vì vậy cuối cùng phải "mặc quần áo" và chuyển đến Luhansk. Tương truyền họa sĩ đã lấy nguyên mẫu của nữ sinh viên học viện thể dục thể thao Moskva Vera Voloshina (1919-1941).
(http://samlib.ru/img/r/rublew_a_d/21parkgor/70.i.werawoloshina.predwoennyjsnimok.jpg) (http://samlib.ru/img/r/rublew_a_d/21parkgor/73.i.pamjatnikwerewoloshinojwderewnekrjukowo.jpg)
Trong Thế chiến 2, Vera Voloshina gia nhập quân đội, thuộc quân số phòng trinh sát Bộ Tham mưu PDQ Miền Tây, thuộc các nhóm hoạt động ở vùng sau lưng địch như Zoia Kosmodemianskaya. Hy sinh ngày 21 tháng 11 năm 1941 cùng nhiều đồng đội trên đường trở về tại một vùng gần Moskva, sau một đợt luồn sâu vào hậu phương quân Đức. Năm 1994 được Chính quyền LB Nga truy tặng danh hiệu AH nước Nga.
(http://samlib.ru/r/rublew_a_d/21parkgor.shtml)

* * *

Thời gian đầu tiên các giảng viên "giảng chay" cho chúng tôi toàn bộ chuyến bay trên mặt đất. Họ dạy cách ngồi đúng trong buồng lái, tiếp đến hành động phù hợp khi "cất cánh". Bài tập mỗi lần lại trở nên khó hơn.

Và rồi bắt đầu các chuyến bay làm quen. Lần đầu tiên sau khi cất cánh lên không trung, tôi rất hồi hộp vì nhìn thấy máy bay chạy đà và tách đất. Tôi hồi tâm lại khi lướt qua dưới cánh là những mái nhà màu đỏ của những ngôi làng nằm rải rác dọc theo sông. Một trạng thái sững sờ ngây ngất xâm chiếm tôi. Quên cả các hướng dẫn, tôi giơ tay lên trên tán che buồng lái. Dòng khí chặt căng từ cánh quạt hất cánh tay tôi về phía sau, đập vào rìa buồng lái. Tôi run sợ nhìn giáo viên hướng dẫn không hiểu anh ấy có nhìn thấy tất cả hay không. Có lẽ bản thân Duzhnov cũng từng cảm thấy một cái gì đó tương tự. Mỉm cười, anh đưa chiếc U-2 vào vòng ngoặt gấp, làm tôi nghẹt thở.

Những chuyến học bay và khóa huấn luyện bay đã bắt đầu như vậy. Đầu tiên là học làm chủ các bài tập đơn giản nhất, gọt giũa chuyến bay xoay quanh vòng lặp - cất cánh, triển khai, dựng tuyến, hạ cánh. Chúng tôi bay với giáo viên hướng dẫn. Anh ngồi cabin phía sau và thông qua thiết bị điều khiển kép anh sửa lỗi cho học viên. Với thời gian, các lỗi dần trở nên ít hơn.

Sau khi tin tưởng rằng tôi cũng đã học được "một hai điều" nào đó như anh nói, Duzhnov cho phép tôi tự bay. Đó là vào quãng tháng Tám năm 1939.

Chuyến bay đơn đầu tiên! Ai mà không đứng tim với một từ như thế! Khi Mikhail Pavlovich đến chỗ tôi sau khi xong một bài tập tuần tự, anh bảo tôi chuẩn bị cho lần thử sức đầu tiên, tôi chưa hiểu ngay.
- Một mình em bay, rõ không? - Anh phải nhắc lại.

* * *
Phi trường thức dậy sớm. Thông thường, vào ngày nghỉ tất cả đều đi Moskva. Trưởng nhóm Nikolai Gusev cảnh báo rằng lần này, chúng tôi phải qua đêm trong lán dã ngoại. Được biết - giáo viên hướng dẫn đã nêu tên một vài người cho phép bay đơn. Nhưng ai? Mọi người thầm hy vọng rằng sự lựa chọn sẽ rơi vào mình. Chủ nhật với tôi trôi qua như một giấc mơ. Cứ suy nghĩ mãi về ngày mai, tôi tưởng tượng Duzhnov sẽ đọc tên của tôi như thế nào, sẽ dẫn đến bên máy bay mà trên thân máy bay những giọt sương buổi sáng vẫn còn run rẩy, người phát lệnh sẽ vẫy lá cờ hiệu ra sao khi cho phép cất cánh ...

Không! Tốt hơn không nên suy nghĩ về nó nữa.
Buổi sáng trong ngày bay bỗng trở nên yên tĩnh và êm ái khác thường. Tôi thức dậy rất lâu trước khi báo thức và ra khỏi lều dã ngoại. Trên đồng cỏ dưới ánh mặt trời những giọt sương trĩu nặng tỏa sáng, báo trước một ngày ấm và khô ráo. Trên bề mặt phẳng lặng của dòng sông có những màn sương mù trải dài mỏng mảnh, và trong những khoảng sáng giữa chúng, ở phía bờ sông bên kia nhấp nhô những làn sóng cánh đồng lúa mạch đen. Tôi tưởng như nghe thấy một hồi chuông nhẹ nhõm của màu xanh cây lá...

Từ phía làng vẳng đến những giọng nói nghe không rõ như thể bị bóp nghẹt, làn khói cay cay lững lờ lan tỏa. Mặt sông vang động tiếng gậy vỗ quần áo ướt. Trên mặt đất một ngày mới đang lên.

Tôi tưởng tượng hôm nay mình sẽ vút lên khoảng không gian bao la mát mẻ của bầu trời như thế nào, khuấy động nó với tiếng gầm của động cơ và từ đỉnh trời cao sẽ nhìn xuống mặt đất trên đó ta đi, mặt đất nuôi dưỡng tôi lớn khôn và tôi sẽ vì nó, nếu cần thiết, không ngần ngại hiến dâng cả cuộc sống của mình. Tôi sẽ hiến dâng vì khoảnh khắc kỳ diệu nhất kia, hiến dâng cho buổi sáng hôm đó, vì sự tươi mát của nó, vì hồi chuông ngân đồng loạt êm ả của sóng lúa mạch xanh rì và tiếng hót của chim sơn ca, vì tất cả những điều đó hòa vào trong một từ ngắn, nhưng có sức hàm chứa lớn lao - Tổ quốc.

Ở chuyến bay đầu tiên thì Duzhnov, sau khi kiểm tra trực tiếp khí tài, đã tự mình bay trước... Chúng tôi biết anh muốn thử máy bay và đảm bảo tình trạng kỹ thuật của máy bay thật sự hoàn hảo. Anh làm vậy để cho các học viên ngay từ chuyến bay độc lập đầu tiên sẽ luôn luôn tin tưởng vào máy móc.

(http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/19.JPG)
Đây là "én" của chúng tôi: Polykarpov Po-2 hay U-2 (1928). Tác phẩm của nhà thiết kế hàng không N.N.Polykarpov (1892-1944), vốn là một sinh viên trường dòng, cộng sự dưới quyền của Tổng công trình sư nổi tiếng I.I.Sikorsky (1889-1972), người di tản sang Mỹ sau CM tháng 10 Nga 1917. N.N.Polykarpov bị OGPU bắt năm 1929 và kết án tử hình. Sau đó được ưu ái cho vào "xà lim". Làm việc tại phòng thiết kế đặc biệt số 39 của OGPU-NKVD tại nhà tù Butyr, rồi chuyển đến nhà máy chế tạo máy bay Moskva số 39 mang tên V.R.Menjinsky. Được ân xá tháng 7 năm 1931. Được phục hồi hoàn toàn năm 1956, mười hai năm sau khi chết. Anh hùng Lao động XHCN năm 1940, giải thưởng Stalin các năm 1941, 1943. Từng được gọi là "ông vua tiêm kích" trong giới hàng không Soviet. Phòng thiết kế của Polykarpov sau khi ông chết do V.Chelomey lãnh đạo và chuyển sang nhiệm vụ thiết kế tên lửa hành trình. (http://www.warheroes.ru/hero/hero.asp?Hero_id=9003)

Sau khi hạ cánh, hướng dẫn viên lăn chiếc U-2 ra vị trí xuất phát, bình tĩnh "rồ" động cơ một cách chắc chắn. Sau đó, anh trèo khỏi cabin, từ từ đi đến chỗ chúng tôi, chậm rãi đảo mắt nhìn tất cả, như thể kiểm tra sự kiên nhẫn và sức chịu đựng của chúng tôi.
- Nào, các bạn, - Mikhail Pavlovich cuối cùng cũng nói - hôm nay theo kế hoạch chúng ta có các chuyến bay đơn. Chúng ta bắt đầu với ai đây?
Duzhnov ngập ngừng, mắt chúng tôi chạm nhau.
- Chechneva, lên máy bay!

Hành động một cách thuần thục, nhưng không nhanh như trong các buổi tập, tôi leo vào buồng lái, thắt dây đai. Máy bay đã nằm trên tuyến chuẩn bị xuất phát. Duzhnov báo cáo với chỉ huy biên đội Matsnev rằng tôi đã sẵn sàng xuất phát.
- Trước chuyến bay đơn biên đội trưởng sẽ cùng cô hoàn thành hai vòng, - Mikhail Pavlovich giải thích. - Hãy bay như bay cùng tôi ... Bình tĩnh nhé, Chechneva. Mọi thứ sẽ ổn.
Tôi gật đầu.

Nói thì dễ - bình tĩnh. Khi cất cánh tất nhiên tôi xúc động, chỉ đến khi đã ở trong không trung tôi mới dần lấy lại sự tự tin của mình. Tất cả diễn ra như nó phải thế. Điều chính yếu - thực hiện tất cả các công đoạn bay sao cho đúng đắn và chính xác, như từng được dạy. Matsnev đã có thời thuyết phục tôi từ bỏ hàng không. Tôi không có quyền hạ nhục mình trước mặt ông ...

Sau khi hoàn thành hai vòng bay, tôi nín thở chờ đợi ý kiến Matsnev. Ông rời máy bay và ra hiệu để người ta đặt một bao cát vào vị trí huấn luyện viên nhằm giữ trọng tâm máy bay. Duzhnov mỉm cười, gật đầu chấp thuận với tôi. Anh chính thức tự mình cho phép tôi bay lên không trung, anh vừa đi vừa giữ vị trí sau mặt phẳng cánh dưới. Sau đó, anh đưa tay ra phía trước. Lệnh xuất phát đã ban ra.

Tăng vòng quay, động cơ chiếc U-2 gầm lên, máy bay tích lũy tốc độ rồi tách đất. Sau lưng tôi không còn ai, chỉ một mình tôi. Tôi và người bạn trung thành của tôi - một chiếc máy bay, một cựu chiến binh vinh quang, trong thế kỷ của mình đã đưa lên không trung không chỉ hàng trăm các cậu con trai và các cô con gái.

Tôi mỉm cười và thầm cầu khẩn: "Đừng chơi khăm tớ, cậu bạn của tớ ơi!" Đáp lại, động cơ gầm vang nhịp nhàng, và chiếc máy bay tuân phục ý chí của tôi đi vào vòng ngoặt.
Hai vòng - là mười bốn phút. Lăn máy bay ra khởi động, bản thân thì liên tục nhìn xuống nơi các chỉ huy và lãnh đạo đang đứng.

Họ đánh giá chuyến bay thế nào? Duzhnov vẫy tay và giơ ngón cái lên. Gánh nặng thế là được cất khỏi vai. Tôi tắt động cơ, chạy đến chỗ giảng viên và bằng một giọng nghẹn ngào báo cáo về việc thực hiện nhiệm vụ...

Trong những ngày tiếp theo chúng tôi hoàn thiện các yếu tố của chuyến bay theo vòng tròn, thao luyện trong không vực nhào lộn trên không. Đôi khi bay với tôi là Duzhnov. Vòng ngoặt nghiêng nhỏ, bay theo đường xoắn ốc, rắn bò, xoáy xuống theo hình mở nút chai, vòng lượn chiến đấu - tất cả dần dần được nắm vững.

Người ta nói rằng niềm đam mê với bầu trời - là niềm đam mê cao nhất. Có lẽ đúng là thế. Con người từng một làn trải qua niềm hạnh phúc của chuyến bay độc lập, sẽ không bao giờ thay đổi giấc mơ của mình. Tất nhiên, nếu từ trong trái tim mình - anh ta đã là phi công.

(https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/2/2a/Barrelroll.gif/250px-Barrelroll.gif) (https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/d/d3/%D0%A8%D1%82%D0%BE%D0%BF%D0%BE%D1%80_a.svg/150px-%D0%A8%D1%82%D0%BE%D0%BF%D0%BE%D1%80_a.svg.png) (https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/2/2f/%D0%A8%D1%82%D0%BE%D0%BF%D0%BE%D1%80_B.svg/150px-%D0%A8%D1%82%D0%BE%D0%BF%D0%BE%D1%80_B.svg.png)(https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/9/96/Chandelle.gif/350px-Chandelle.gif)
Xoay thùng, xoắn ốc thẳng đứng, lượn vòng nghênh chiến

Người ta đã viết nhiều về thiên bẩm và sự can đảm của các phi công. Không ai tranh cãi rằng sẽ không thể tưởng tượng được nghề này mà không có sự hy sinh quên mình và mạo hiểm. Nhưng bạn phải có tình yêu vô tận với bầu trời để vượt qua những thất bại và mất mát, nói một cách chân thành như Antoine de Saint-Exupery: "Không có gì mà hối tiếc. Tôi đã chơi - và đã thua. Nghề ngỗng của tôi là vậy. Và tôi vẫn luôn luôn hít thở làn gió tự do, gió của những khoảng không gian vô bờ".

Ông đã sử dụng từ "nghề ngỗng" này dường như có phần nào tự ty. Nhưng ông cũng có thể nói "nghề ngỗng của nhà thơ". Tất cả vấn đề nằm ở chỗ câu từ đó phát ra từ miệng ai.

Marina Raskova một lần đã nhận xét: "nghề của chúng tôi không tồi hơn cũng chẳng  tốt hơn so với bất kỳ nghề nào khác - nghề của người thợ thủ công mỹ nghệ kim hoàn, của người thợ nề, người thợ gieo giống. Chỉ có điều chúng tôi không thể sống mà không có bầu trời, và trong chuyện này có lẽ chúng tôi đã mắc bệnh nan y không sao chữa được".

Có thể thấy loài chim khao khát màu xanh thiên thanh như thế nào, và tôi hiểu Mikhail Vodopiyanov, con người đã làm rất nhiều điều cho Bắc Cực, khi ông viết trong một giây phút buồn rầu lên tấm ảnh cho một trong những người quen biết của tôi: "Thật tiếc là tôi không còn có thể bay đến Bắc Cực được nữa". `Ông không còn lái máy bay bay đến vùng lạnh giá này. Và nụ cười của ông trên bức ảnh có một gì chút tồi tội, như thể ông đang xin lỗi những người trú đông xa xôi, xin lỗi các thuyền trưởng, đang đi trên Biển Kara, xin lỗi các bạn bè, các hiệu thính viên vô tuyến điện của miền Chukotka đầy bão tuyết.

Sau khi thực hiện chuyến bay solo đầu tiên, tôi không thể tưởng tượng cuộc sống của tôi mà không có bầu trời, mà không có tầng trời cao gió hát và những đám mây bay vun vút...

Khi gần đây người ta hỏi Nikolai Kamanin: "Sự kiện nào là quan trọng nhất trong tiểu sử Komsomol của ông, sự nghiệp quan trọng nhất của ông ở Komsomol là gì" - ông ấy trả lời: "Ngày mà tôi lần đầu tiên tự mình lái máy bay. Ngày đó, theo ý kiến của bạn, có là - một sự kiện không? Đó là vào tháng 7 năm 1928. Còn trong hai mươi lăm năm, tôi đã tham gia thiên sử thi Chelyuskin".

Người phi công sẽ không bao giờ quên chuyến bay solo đầu tiên của mình. Từ ngày đó khởi đầu cuốn tiểu sử của anh ta.
........


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 14 Tháng Tám, 2015, 09:37:19 pm
(tiếp)

* * *

Rõ ràng, không phải tất cả mọi việc tôi làm đều tốt. Duzhnov có lần đã nói:
- Chương trình bay cho đến giờ em làm khá tốt. Nhưng với những động tác ngoặt nghiêng sâu thì vẫn còn gì đó chưa ngọt.

(http://www.airhorse.narod.ru/figs/virage.jpg)

Bản thân tôi cảm thấy rằng dạng thuật lái này làm cho tôi gặp khó khăn, nói cách khác, chưa thành công. Lúc thì vi phạm góc nghiêng ngang quy định, lúc thì mất độ cao và bị tăng tốc độ. Sau khi bình giá chuyến bay, tôi lại một lần nữa bước lên máy bay với Duzhnov và lặp đi lặp lại trên mặt đất tất cả các công đoạn của động tác cơ động. Mikhail Pavlovich bằng giọng nói đều đều, bình tĩnh giải thích mũi của máy bay và tấm chắn nắng buồng lái cần phải ở tư thế nào so với đường chân trời khi máy bay ra khỏi tư thế lượn vòng nghiêng sâu. Và anh ra lệnh cất cánh.

Sự tự tin và kỹ năng mỗi ngày tăng thêm một chút.

... Mùa thu năm 1939 đã đến. Cỏ đã ngả vàng, sắc thắm đỏ đầu tiên đã lan đến khu rừng lân cận, những sợi tơ nhện óng ánh bạc lơ lửng trong không trung, đêm trở lạnh hơn, những ngôi sao chói sáng hơn trên bầu trời đêm đen đặc. Mùa hè đã qua, khóa học của tôi ở câu lạc bộ HK đã kết thúc. Tôi đã vượt qua các môn thi của kỳ thi tốt nghiệp với điểm xuất sắc. Xúc động, hạnh phúc, chúng tôi đứng lịm đi trong hàng ngũ, khi nghe lệnh phong danh hiệu phi công.

Nhưng niềm vui chen lẫn nỗi buồn. Gia đình tuyệt vời của chúng tôi đã bị chia tách. Victor Lyubvin, Vitaly Grachev, Nikolay Gusev, Vladimir Chalov, Nikolai Kosov và nhiều cậu trai trẻ khác đã chuyển sang trường phi công tiêm kích. Tôi cũng muốn đi sang cùng họ. Tôi nghĩ rằng tại Osoaviakhim không còn làm gì hơn được nữa, và chỉ có trường chuyên nghiệp quân sự mới có thể mở đường vào hàng không cỡ lớn. Nhưng người ta không tiếp nhận phụ nữ vào các trường quân sự. Tôi đi mà như người mất hồn, không biết phải làm gì tiếp theo.
- Nào, em sao vậy, Marinka, sứa thế cơ à? - Duzhnov khích tôi. - Những con đường cho em vào Osoaviakhim đã đóng đâu. Hãy học tiếp, nâng cao kỹ năng. Mọi thứ với em còn ở phía trước ...

Lễ tốt nghiệp được tổ chức buổi tối tại tòa nhà của đảng bộ quận Leningrad, đoàn Komsomol quận và ủy ban Soviet quận trên quảng trường Miusskaya, và một tuần sau đó tôi được Ivan Ivanovich Shcherbakov chỉ huy phi đội, sau này là Đại tá, Anh hùng Liên Xô triệu tập tới chỗ ông. Các học viên bay vô cùng yêu mến và kính trọng ông vì tài nghệ xuất chúng và sự tinh tế với mọi người và làm hết sức mình để bắt chước ông.

Shcherbakov một lần nữa chúc mừng tôi nhân dịp kết thúc khóa học ở câu lạc bộ HK và công bố quyết định của ban chỉ huy: tôi và bạn gái của tôi Galya Turabelidze được gửi đến trường hàng không Kherson của Osoaviakhim, đào tạo thành phi công-huấn luyện viên và hoa tiêu để làm việc trong các câu lạc bộ HK của đất nước.

Tại Kherson một sự rắc rối lớn đang đợi tôi: uỷ ban thẩm tra tư cách không bỏ qua tuổi của tôi - tôi chưa đủ mười tám tuổi.

Trở về Moskva, tôi lao đến CLBHK quận Leningrad. Một lần nữa, Duzhnov và Shcherbakov lại nói chuyện với tôi. Theo lời khuyên của họ, tôi ở lại câu lạc bộ HK, và sau đó một năm đồng thời với chứng nhận trưởng thành tôi nhận được bằng tốt nghiệp phi công-huấn luyện viên. Tuy nhiên, tại thời điểm đó tương lai hoàn toàn chưa rõ ràng với tôi.


Ngôi nhà trên phố Gorky

Dù sao tôi đã trở thành nữ phi công. Cái gì đã giúp tôi đạt được điều ấy? Sự bướng bỉnh của cá nhân? Nhưng có những giây phút tôi nghi ngờ sức mình. Hay sự kiên trì? Không phải lúc nào cũng đủ.

Và càng nghĩ, khi cố gắng trả lời bản thân mình, càng cẩn thận sắp xếp lại trong thâm tâm những tháng năm xa xăm ấy, một cái tên càng bền bỉ thầm nhắc cho ký ức của tôi - Raskova.

(http://i.kinja-img.com/gawker-media/image/upload/s--qarN_OBu--/c_fit,fl_progressive,q_80,w_636/18usp5kkr9ghfjpg.jpg)
Marina Raskova, Paulina Osipenko, Valentina Grizodubova và chuyến bay "Tổ quốc" nổi tiếng năm 1938

Và bên cạnh chị là hai người khác - Grizodubova và Osipenko. Nếu không có ba người phụ nữ tuyệt vời này, có lẽ sẽ không sớm trôi vào quá khứ một số câu phương ngôn về gà mái và trí tuệ phụ nữ, sẽ không sớm biến đi những cái nhếch mép khỏi khuôn mặt những con người cứng nhắc hoài nghi, cho rằng phụ nữ và hàng không - đó là các khái niệm không tương hợp.

* * *

Tôi ngồi với Lida Maksakova trên bậu cửa sổ và nói những chuyện thân mật nhất. Tôi phàn nàn với người bạn gái về số phận.
- Thật là xấu hổ, Lida à ... Kết thúc khóa học phi công, nhưng kết thúc thế nào nào? Khasan thì không được tham gia. Khalkhin Gol tớ cũng không kịp ... Các bạn khác chiến đấu còn mình thì cứ học và học. Có vẻ như chuyện học hành sẽ chẳng bao giờ kết thúc.
- Sẽ kết thúc, Marinka à. Cậu sẽ tìm được cho cậu một công việc thú vị. Bây giờ, sau các chuyến bay của Grizodubova và Raskova, mọi thứ sẽ diễn ra dễ dàng hơn. Các cô gái gia nhập ngành hàng không mỗi ngày càng nhiều hơn. Tất cả đều mơ giấc mơ bầu trời.
- Đúng vậy ... giá tớ biết bây giờ Raskova sắp làm gì.
- Chuẩn bị cho các chuyến bay mới. Mà tại sao cậu quan tâm chuyện này?
- Tớ có thể nói, chỉ có điều tớ chỉ nói một cách nghiêm chỉnh giữa chúng mình thôi ... Tớ muốn trở thành phi công lái máy bay tiêm kích ... Tớ quyết định xin Marina Mikhaiovna giúp tớ.
- Theo tớ, đây không phải là một cuộc nói chuyện nghiêm túc. Phụ nữ mà vào trường quân sự người ta không nhận đâu. Cậu quá rõ điều ấy mà.

(https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/a/a6/Valentina_Grizodubova.jpg)
Valentina Stepanovna Grizodubova (1909-1993), đại tá KQ, con gái của nhà sáng chế máy bay và phi công Nga gốc Ukraina S.V.Grizodubov. Nữ phi công AHLX đầu tiên (1938), AH Lao động XHCN (1986). Chỉ huy trung đoàn KQ tầm xa 101 gồm đa phần là nam giới (sử dụng máy bay Li-2 tức Douglas DC-3 sản xuất tại Liên Xô dưới sự cho phép của Mỹ) trong Thế chiến 2 từ 1942-1943. Người lập rất nhiều kỷ lục thế giới của phi công nữ cùng các nữ phi công M.Raskova, P.Osipenko trong thập niên 30 thế kỷ 20. Đồng thời cũng là nữ chỉ huy có nhiều tai tiếng, từng xung đột với Tư lệnh KQ tầm xa Soviet A.E.Golovanov, bị Tư lệnh chê trách vì để đơn vị có kỷ luật quân nhân kém, xảy ra nhiều tai nạn ngoài chiến đấu. Sau chiến tranh làm việc trong các Viện nghiên cứu Hàng không. (https://ru.wikipedia.org/wiki/%D0%93%D1%80%D0%B8%D0%B7%D0%BE%D0%B4%D1%83%D0%B1%D0%BE%D0%B2%D0%B0,_%D0%92%D0%B0%D0%BB%D0%B5%D0%BD%D1%82%D0%B8%D0%BD%D0%B0_%D0%A1%D1%82%D0%B5%D0%BF%D0%B0%D0%BD%D0%BE%D0%B2%D0%BD%D0%B0)

- Tớ biết. Trước đây họ không nhận. Nhưng mọi thứ trong cuộc sống đang thay đổi. Trước đây, phụ nữ chưa hoàn thành được các chuyến bay anh hùng như vậy! Cái gì có thể đến sẽ đến - Tớ vẫn sẽ mạo hiểm.
Một vài ngày sau cuộc trò chuyện này, tôi buồn bã nhìn vào chiếc điện thoại. Và một lần thì tôi quyết định. Tôi quay ngay số điện thoại mong muốn.
- Marina Mikhailovna! Học viên câu lạc bộ HK Marina Chechneva, có làm phiền chị không. Tôi muốn ...
- Xin mời, hãy đến đây đi.
Raskova đọc địa chỉ của chị và giải thích cách làm thế nào nhanh chóng và dễ dàng đến được chỗ chị ấy.

Marina Mikhailovna sống trên phố Gorky, trong một ngôi nhà mà bây giờ có một cửa hàng bán quà tặng. Cô con gái Tatiana của chị hiện đang sống ở đây.

Như một con điên, tôi nhảy ra khỏi buồng điện thoại, phóng đến địa chỉ có tên vừa nghe. Đó là tháng mười hai, trời vô cùng giá buốt, nhưng tôi không cảm thấy lạnh. Nói chung tôi ít phản ứng với điều gì tại thời điểm đó. Những ánh đèn trên phố thoáng qua trong ánh hào quang cầu vồng, có thể nghe thấy những hồi chuông dồn của những đoàn xe điện, tiếng còi xe ô tô, tuyết lạo xạo dưới chân, người đi lại dọc theo những vỉa hè. Còn tôi chẳng quan tâm đến điều đó. Trong tai chỉ vang vang giọng nói của Raskova, trước mắt là khuôn mặt tươi cười quyến rũ của chị, đã quen thuộc qua những bức chân dung và phim thời sự.

Raskova tiếp tôi giản dị và niềm nở. Chị chăm chú lắng nghe lời nói không được khúc chiết cho lắm, vội vã và rối rắm của tôi. Và đôi khi cặp môi của chị chỉ hơi rung trong một nụ cười khó nhận ra. Tất nhiên khi ấy tôi đã không dẫn ra được bất kỳ lý do nghiêm túc nào ủng hộ cho quyết định của mình, nhưng có lẽ sự chân thành của tôi đã làm Raskova cảm động.
- Marina Mikhailovna! - tôi nồng nhiệt kết lời thú nhận của tôi. - Xin chị hãy giúp tôi trở thành phi công tiêm kích! Tôi xin thề sẽ không làm cho chị phải xấu mặt!

Chị im lặng một chút.
- Hãy nghe tôi và đừng lo lắng. Cảm giác tốc độ quen thuộc với mỗi phi công, và trước nó thật khó cưỡng lại. Con người luôn luôn phấn đấu tới những mục tiêu lớn hơn nữa. Đó là điều tốt. Ai mà không muốn, nếu anh dừng lại, không sớm thì muộn sẽ trở thành một gánh nặng vô ích ... còn giúp thì tôi, tiếc là không thể. Quy tắc xét tuyển vào các trường quân sự không thể vi phạm được. Ngoài ra, bạn đã mắc phải một nhầm lẫn rất lớn khi tin rằng bạn chỉ có thể đạt được những thành công lớn trong hàng không quân sự. Bởi lẽ bạn muốn bay không chỉ nhanh, mà còn phải tốt nữa đúng không?
- Tất nhiên ạ.
- Bạn có thể học bay tốt ngay ở CLBHK. Bây giờ chỗ của bạn là ở Osoaviakhim. - Marina Mikhailovna dừng lại, dường như suy nghĩ điều gì đó, và nói thêm: - Tình hình trên thế giới rất phức tạp. Bọn phát xít càng ngày càng láo xược. Chúng ta cần phải tăng cường quốc phòng. Hàng không đòi hỏi phải có rất nhiều biên chế bay. Bạn từng học làm phi công-huấn luyện viên. Một sự nghiệp rất quan trọng. Hãy cố gắng chuẩn bị càng nhiều càng tốt các học viên cho các trường chuyên nghiệp quân sự. Trong lúc này Osoaviakhim cần bạn hơn là quân đội. Tin tôi đi.

Tôi có thể phản đối gì chứ? Raskova đã tuyệt đối đúng. Nhưng tôi không vì thế mà trở nên dễ chịu hơn. Tôi cảm thấy rằng tất cả những giấc mơ của tôi đang sụp đổ, và tôi không thể giấu nổi sự thất vọng của mình.
- Nào-nào, ngẩng đầu lên, cô phi công tiêm kích! Ai thực sự muốn điều gì đó, người ấy sẽ nhất định đạt được điều mình muốn! - Raskova dịu dàng nhìn vào mắt tôi. - Chúc bạn thành công, Marina. - Chị siết chặt tay tôi, tiễn đến tận hành lang.

Suốt cuộc đời mình, tôi vẫn nhớ như in cuộc gặp gỡ, vẫn giữ mãi tình yêu dành cho người phụ nữ đặc biệt quyến rũ với đôi mắt buồn xuyên thấu tim này.

* * *

Năm 1939 trôi qua.
Một năm hạnh phúc đối với tôi. Hạnh phúc vì tôi còn trẻ, vì tôi đã biết đến bầu trời, bởi vì sống bên cạnh tôi trên đời còn có một con người như Marina Raskova, có nghĩa là có thể hy vọng một lần nữa, mặc dù có thể không phải sớm, được gặp lại chị ấy. Và thực sự sau một thời gian, tôi lại nhìn thấy Marina Mikhailovna.

Đó là mùa hè năm 1940. Tôi đang đi dọc theo phố Gorky, đột nhiên dòng người đi bộ đổ xô lên cầu. Mọi người vây quanh một chiếc xe hơi hạng nhẹ vừa dừng xe mở cửa. Raskova ngồi trong xe, mỉm cười bối rối.

Tôi mở to mắt nhìn chị và nghĩ "Chị ấy thật giản dị, dễ gần, thân thiện, thật tuyệt làm sao khi một người danh tiếng như vậy vẫn là chính mình!"

Tôi thuộc lòng tiểu sử của Marina Mikhailovna. Tôi biết rằng chị là một Muscovite gốc, rằng cha chị là một nhạc sĩ, và chị đã phát lộ tài năng âm nhạc từ rất sớm. Tôi còn biết thời thơ ấu Raskova đã trải qua một thảm kịch: một người lái mô tô đâm chết cha chị trên đường phố. Biết rằng chị đã học tại nhạc viện. Sau này tôi đọc được trong nhật ký của chị:

Giáo sư Strakhov - một người cực tốt. Âm nhạc đã trở thành môn học yêu thích của tôi. Tôi đã viết được chính tả âm nhạc tốt, hát xướng âm, nghiên cứu hòa âm và tiết tấu. Tôi phải nói rằng âm nhạc là một thuộc tính không thể thoát khỏi của trái tim tôi. Khi trái tim tôi thắt lại bởi thái độ không thân thiện và hình thức đối với tôi, âm nhạc đã làm giảm nó xuống mức tối thiểu ... Nhưng khi trái tim tôi được sưởi ấm bởi sự trìu mến, thì âm nhạc trong trái tim xuất hiện càng lúc càng nhiều hơn, và cuối cùng chiếm một trong những vị trí đầu tiên. Piotr Nikolaievich luôn trìu mến với tôi, khuyến khích tôi, luôn đồng cảm với tôi, thường âu yếm xoa đầu hoặc vỗ nhẹ vào vai, và tôi như sống lại.

Những người xung quanh và bạn bè dự đoán cho Marina Mikhailovna một sự nghiệp ca hát hoặc nghệ sĩ dương cầm. Chị cũng có thể trở thành một nhà sinh vật học, nhà hóa học, nhà sư phạm ... Những lĩnh vực kiến thức này chị quan tâm đến một cách nghiêm túc. Và rồi Marina Mikhailovna Raskova trở thành nữ phi công.

Ở nước ta, chưa từng có vào lúc ấy một cô gái nào mà không ngồi cả đêm đọc "Nhật ký một hoa tiêu" của Raskova.

Qua báo chí tất cả chúng tôi đã theo dõi chuyến bay của Grizodubova, Osipenko, Raskova. Nhưng có một điều - thông tin trên báo khô khan, cô đọng nhưng hoàn toàn khác - khi đó là câu chuyện của các thành viên chuyến bay. Tiện thể phải nói cho đến giờ này, tôi vẫn còn nhớ như in chuyện đó xảy ra như thế nào.

"Hôm nay phi hành đoàn gồm ba phi công - Valentina Stepanovna Grizodubova, Polina Denisovna Osipenko, Marina Mikhailovna Raskova - trên máy bay "Tổ quốc" bắt đầu chuyến bay thẳng Moskva - Viễn Đông" - chúng tôi nghe trên đài phát thanh sáng ngày 24 tháng 9 năm 1938.

Phi hành đoàn "Tổ quốc" sắp phá vỡ kỷ lục quốc tế về cự ly bay không ngừng nghỉ của nữ phi công trên đường bay thẳng. Và kỷ lục này đã bị phá vỡ.

Các nữ phi công đã hoàn thành nhiệm vụ của đảng và chính phủ. Họ đã hoàn thành mặc dù điều kiện thời tiết khắc nghiệt vô cùng đã đồng hành với "Tổ quốc" trong suốt chuyến bay.

Cả nước ngưỡng mộ lòng can đảm, sự điềm tĩnh và kỹ năng bay cao cường, mà Grizodubova, Osipenko, Raskova đã thể hiện trong những điều kiện khó khăn nhất. Họ đã chứng minh cho toàn thể thế giới thấy nữ phi công Xô viết có thể lập được những kỳ công gì, và là những người phụ nữ đầu tiên được trao tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô.

Ngày mùa thu đầy nắng tất cả Moskva dịch chuyển đến quảng trường Komsomol để đón các nữ anh hùng phi công, trở về từ vùng Viễn Đông bằng một chuyến tàu đặc biệt.

Vui mừng và hạnh phúc, tôi cũng ở trong đám đông ấy.
........


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 16 Tháng Tám, 2015, 06:41:40 pm
(tiếp)

* * *

- Vậy, cậu đã ở nhà Raskova? - những người bạn gái vây quanh, sau khi nghe tôi tự hào tuyên bố về cuộc gặp gỡ với Marina Mikhailovna.
- Đúng.
- Nói chuyện lâu không? Chị ấy thế nào?
- Rất giản dị. Và chúng tôi nói chuyện rất lâu.
- Nói những chuyện gì?
- Về cuộc sống, về chuyện tớ mơ ước trở thành phi công quân sự ...
- Thế chị ấy bảo sao?
- Chị ấy khuyên hoàn thiện tiếp tay nghề ở Osoaviakhim.
- Dễ nghe thế! Đối với một nữ phi công nổi tiếng mọi thứ đơn giản quá ...
- Này, các cô gái ... Các cậu mà biết chị ấy đã trải qua một cuộc sống khó khăn thế nào! Chị từng học ở nhạc viện, là nhà hóa học, đã làm việc trong nhà máy. Chị đã kết hôn, có một con gái Tanya. Rồi phải bỏ việc. Sau đó, chị bắt đầu làm nữ nhân viên họa đồ trong phòng thí nghiệm dẫn đường hàng không... - Tôi nói một thôi một hồi. - Các cậu từng nghe người mà chị ấy làm việc cho là ai không? Belyakov đấy! Người mà cùng với Chkalov ấy! ..

(http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/02.jpg)
Anh hùng Liên Xô M.M.Raskova (1912-1943).Gia nhập Hồng quân năm 1938, đồng thời cũng nằm trong biên chế NKVD, thượng úy ANQG. Nghề nghiệp chính hoa tiêu hàng không (tốt nghiệp Học viện HKDD Leningrad). Có công đề xuất và tổ chức thành lập 3 trung đoàn nữ KQ trong Thế chiến 2 (586, 587, 588), chiến đấu trên mặt trận Xô-Đức. Thiếu tá trung đoàn trưởng trung đoàn nữ KQ ném bom 587 sau này trở thành trung đoàn ném bom bổ nhào cận vệ số 125 mang tên Marina Raskova. Sau khi hy sinh tháng 1 năm 1943 trong một tai nạn do thời tiết xấu, được an táng theo nghi lễ quốc gia và bình tro thi hài được gắn ở chân tường điện Kremli trên Quảng trường Đỏ. (https://ru.wikipedia.org/wiki/%D0%A0%D0%B0%D1%81%D0%BA%D0%BE%D0%B2%D0%B0,_%D0%9C%D0%B0%D1%80%D0%B8%D0%BD%D0%B0_%D0%9C%D0%B8%D1%85%D0%B0%D0%B9%D0%BB%D0%BE%D0%B2%D0%BD%D0%B0)

Và đột nhiên tôi chùn lại, lạy Chúa, nhỡ người ta nghĩ rằng tôi kiêu ngạo vì cuộc gặp gỡ như vậy!

Nhưng các bạn gái chẳng cho tôi im lặng.
- Hãy kể tiếp đi một khi cậu đã bắt đầu! Và tôi tiếp tục.
Marina Mikhailovna thích các phép tính hoa tiêu. Chẳng mấy chốc chị đã bắt đầu thực hiện chúng một cách nhanh chóng và chính xác. Trưởng phòng thí nghiệm Aleksandr Belyakov tin rằng Raskova sẽ trở thành một hoa tiêu xuất sắc, và giúp chị học nghề nghiệp mới.

Sau đó, việc học tập được tiến hành tại khoa tại chức của Viện Hàng không Leningrad. Rồi tới ngày Belyakov lấy Marina Mikhailovna tham gia chuyến bay đầu tiên ...

Raskova trở thành hoa tiêu. Ngoài ra, chị còn là giáo viên tại Học viện Không quân mang tên Giáo sư N.E.Zhukovsky. Về sau chị trở thành nữ thành viên tham gia một loạt chuyến bay đường xa, thiết lập nhiều kỷ lục, nhiều lần là nữ thành viên của các cuộc diễu hành trên không trên Quảng trường Đỏ.
- Phần còn lại, các cô gái ơi, các bạn biết cả rồi...

* * *

Tôi và nhiều đồng nghiệp của tôi nhớ tới Osoaviakhim với lòng biết ơn.
... Tôi có một bộ sưu tập nhỏ các huy hiệu, phù hiệu. Chúng được phát hành bởi các tổ chức xã hội khác nhau - hoặc là các biểu tượng của họ, hoặc là để vinh danh một sự kiện quan trọng. Trong số các phù hiệu có những phù hiệu, mà tôi luôn luôn khao khát chúng không sao kềm nổi. Tôi không chỉ muốn nhìn thấy chúng, mà còn muốn giữ chúng trong tay. Đó là các phù hiệu quốc phòng. Chúng đặc biệt thân thiết với tôi, rất nhiều thứ trong cuộc sống của tôi gắn liền với chúng.

Có một biểu tượng xưa-rất xưa. Tôi có lẽ còn chưa được sinh ra khi người ta mang nó. Đó là một ngôi sao đỏ với có hai cánh quạt máy bay bắt chéo trên đó, trải rộng sang hai bên là hai chiếc cánh bạc. Dười ngôi sao, trên một dải ruy băng màu thanh thiên khắc bốn chữ vàng - ODVF.

(http://ic.pics.livejournal.com/tjfb43/14998135/27602/27602_600.jpg)

Đây là phù hiệu của Hiệp hội những người bạn của Hạm đội Hàng không (Общества друзей воздушного флота - ODVF) đầu tiên ở nước ta. Hiệp hội thành lập vào năm 1923, và dựa trên các khoản đóng góp tự nguyện của người lao động, mà nó xây dựng nên các phi đội hàng không Xô Viết đầu tiên: "Lenin", "Tối hậu thư", "Câu trả lời của chúng ta cho Chamberlain", "Câu trả lời cho Giáo Hoàng La Mã". Chỉ trong một năm 1925 riêng ODVF đã chuyển giao cho Hạm đội Hàng không Đỏ 140 máy bay quân sự, xây dựng 26 sân bay có nhà chứa máy bay.

Còn nép mình bên cạnh phù hiệu này là một phù hiệu rất đơn giản, dập bằng kim loại màu trắng. Trên đó có một chiếc phi cơ hai lớp cánh nhỏ với dòng chữ  đề "Aviakhim", dưới đó đề: "Các chuyến bay xa năm 1926". Phù hiệu này được phát hành kỷ niệm các chuyến bay xa hoành tráng thời đó theo tuyến Moskva - Bắc Kinh Xô trên các máy bay do Liên Xô thiết kế P-1, được trang bị các động cơ Liên Xô đầu tiên M-5.

Aviakhim - đó là một hiệp hội quốc phòng khác thành lập năm 1925 do sát nhập ODVF và Dobrokhim. Tôi không có phù hiệu của Dobrokhim và không biết liệu có tồn tại phù hiệu loại ấy hay không. Còn phù hiệu Aviakhim, thì đây - búa và liềm, trên đó là một chiếc cánh quạt máy bay và một bồn chứa hóa chất. Bên dưới có dòng chữ đề trên dải băng màu xanh da trời: "Aviakhim".

(http://falerist.org/images/Znak%20viakhim.jpg)

Ngày 23 tháng 1 năm 1927 ở nước ta đã thành lập Hiệp hội ủng hộ quốc phòng, xây dựng ngành hàng không và hóa học - Osoaviakhim.

Ai mà quên được chúng ta bắt đầu tấn công lên trời như thế nào trên các tàu lượn kém cỏi và các "giàn bay" cũ rích thu thập được bằng bàn tay của mình tại các xưởng của Osoaviakhim! Sau đó, khi Tổ quốc đặt vào tay thế hệ trẻ các cỗ máy tinh vi, thì bay đi trong các chuyến bay đầu tiên là các chàng trai và các cô gái với những tấm thẻ đoàn viên Komsomol trong túi áo ngực của bộ đồ bay. Họ cảm thấy rằng họ sắp có các trận chiến khốc liệt với kẻ thù tồi tệ nhất của nhân loại - chủ nghĩa phát xít. Chính vì thế mà các đường bay của V.Chkalov và M.Gromov, M.Vodopiyanov và I.Mazuruk, V.Grizodubova và Raskova vạch ngang dọc bầu trời trên hành tinh. Do đó mà chúng tôi, các cậu bé trai và các cô bé gái của ngày hôm qua, mới làm mưa làm gió các câu lạc bộ HK và các cơ sở đào tạo, nắm vững các chuyên ngành quốc phòng.

Kêu gọi chúng tôi đến với bầu trời không phải niềm khao khát vinh quang. Trong không trung đang tỏa mùi giông bão. Để đón tiếp nó xứng đáng, chúng ta muốn có những đôi cánh bay hùng mạnh và ý chí sắt đá. Và khi Victor Talalikhin thực hiện hành động taran, khi Nikolai Gastello lao chiếc máy bay bốc cháy của mình xuống đoàn xe phát xít - họ không nghĩ về sự bất tử. Trái tim ra lệnh cho họ như vậy! Vinh quang toàn dân tộc, bao trùm những cái tên A.Pokryshkin, I. Kozhedub, B.Safonov, tuyệt nhiên không phải là món quà của số phận. Nguồn gốc của nó nằm trong tuổi trẻ Komsomol của họ, trong lòng dũng cảm công dân, trong niềm tin tưởng đảng và đoàn Komsomol của họ.

(http://aviafalerist.narod.ru/ussr/Osoaviaxim/Osoavia_5_2.jpg)

Thông điệp của đại hội IX Đoàn Komsomol "các đoàn viên Komsomol, hãy lên máy bay!" vang lên với những người trẻ tuổi không chỉ như mệnh lệnh mà còn như tiếng nói của lương tâm.

Hàng ngàn đoàn viên Thanh niên Cộng Sản đã đến với CLBHK của Osoaviakhim, tới các đơn vị hàng không, các trường chuyên nghiệp hàng không, nhà máy sản xuất máy bay. Những người ban ngày đứng máy tiện máy phay, thi tối tối và các ngày nghỉ lại vội vã ra sân bay. Phù hiệu Osoaviakhim mà khi ấy chúng tôi nhìn thấy như thể tấm giấy thông hành đi vào ước mơ bay và nhân văn của chúng tôi.

Năm 1935 cả nước có 122 câu lạc bộ HK. Vào hàng không với phiếu đề cử của đoàn Komsomol, chính trên vai lớp thanh niên Komsomol được gọi nhập ngũ đó đặt gánh nặng chủ yếu của những trận không chiến của cuộc chiến tranh sắp xảy ra. Mà trước đó đã là Tây Ban Nha, Hồ Khasan, Khalkhin Gol. Ngay trong những trận chiến này, những người cộng sản và các đoàn viên Komsomol đã chứng minh lòng trung thành của họ với nghĩa vụ quốc tế, lòng can đảm và tài nghệ quân sự của mình.

Chỉ trong năm 1940 các CLBHK của Osoaviakhim đã đào tạo hàng chục ngàn phi công, nhân viên cơ giới hàng không thành các chuyên gia khác cho Không quân. Họ sắp phải đối mặt với các Ách của Goering và Richthofen. Và cả thế giới đã biết kết quả của cuộc chiến trên không chưa từng có trong lịch sử này.

Phối hợp chặt chẽ với các Đoàn thanh niên Lenin, Osoaviakhim trước chiến tranh đã làm được một công việc không nhỏ, góp phần chuẩn bị cho nhân dân đẩy lùi cuộc xâm lược phát xít. Các đoàn viên Komsomol và thanh niên ở các đơn vị quân đội, các đội du kích và các tiểu đoàn không quân tiêm kích lao vào một cao trào yêu nước chưa từng thấy. Hầu hết các chàng trai cô gái đã làm chủ vũ khí trang bị một cách xuất sắc.

Chỉ trong nửa cuối năm 1941 Osoaviakhim đã hoàn thành một cách vinh quang nhiệm vụ đào tạo trong các CLBHK 25.000 phi công và gửi 114.000 thanh niên được huấn luyện nhảy dù vào binh chủng đổ bộ đường không. Hàng trăm ngàn thành viên của hiệp hôi gia nhập quân đội, có chuyên môn xạ thủ súng máy, súng cối, lái xe ô tô, phi công, vận động viên nhảy dù, và đã chiến đấu không biết khiếp sợ trên các mặt trận. 273 thành viên của hiệp hội đã được trao tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô, hàng chục ngàn người được trao tặng các loại huân huy chương.

Lẽ nào không nên nhớ bằng một lời tốt đẹp đến một hiệp hội quốc phòng đã làm được nhiều việc như vậy cho đất nước ...

* * *

Không lâu trước chiến tranh, số phận của tôi bắt đầu được xác định. Sau khi kết thúc học tập ở trường phổ thông số 144 quận Leningrad, Moskva, tôi ở lại trường làm tổng phụ trách thiếu niên tiền phong theo quyết định của Quận đoàn Komsomol. Vừa làm việc, tôi vừa chuẩn bị vào học ở Viện Hàng không. Tôi vẫn sử dụng tất cả thời gian rảnh rỗi ở tại sân bay, như trước kia. Chỉ riêng điều này cũng gây ra sự phấn khích cho các em mà tôi bảo trợ.

Tôi đã rất hạnh phúc khi biết rằng có rất nhiều em thuộc trường chúng tôi đã quyết định  chắc chắn sẽ gắn bó cuộc sống của mình với ngành hàng không. Và các em mong muốn thực hiện điều đó. Nikolai Malinin và Piotr Arbatsky đã trở thành các phi công, Boris Ermolovich và Sergei Soldatov - các kỹ sư hàng không ...

Dù cho bao nhiêu năm tháng trôi qua, dù có những sự kiện hạnh phúc và vui vẻ như thế nào đã từng xảy ra trong cuộc sống, bạn sẽ luôn luôn nhớ lại thời tuổi trẻ Komsomol với sự xúc động và trìu mến. Nó như là - mối tình đầu. Và thậm chí còn hơn thế. Nó - chính là số phận của bạn, ước mơ có đôi cánh tung bay của bạn, và tất cả những gì tốt đẹp nhất có trong tâm hồn bạn.

Nét đặc trưng nào nổi bật nhất phân biệt những người đoàn viên thanh niên cộng sản thế hệ của tôi là gì? Nếu nói về điều chủ yếu, thì có lẽ là sự đấu tranh quên mình. Chúng tôi có chủ nghĩa lãng mạn của mình. Nhưng trong nó, như ở đâu đó nhà thơ Mikhail Svetlov đã tinh tế nhận thấy, có nhiều trách nhiệm hơn quyền hạn. Thời đại thế đấy. Không phải ngẫu nhiên chúng tôi coi họ là những người hạnh phúc, những người có cơ hội chiến đấu tại Khasan và Khalkhin Gol, những người chiến đấu trên bầu trời Tây Ban Nha, đào các đường tàu điện ngầm đầu tiên, những người giống như Chkalov hoặc Grizodubova, khai phá những con đường vô hình đầu tiên trên bầu trời. Những chiếc lán ở Magnitogorsk và Komsomolsk-na-Amur kích thích trí tưởng tượng của chúng tôi không ít hơn, so với các chuyến bay của các nhà du hành vũ trụ đối với giới trẻ ngày nay.

(http://www.warheroes.ru/content/images/heroes/GSS-before/Osipenko_P_D.jpg)
Polina Denisovna Osipenko (1907-1939), thiếu tá KQ, người Ụkraina, một trong ba nữ AHLX đầu tiên (1938), phi công thứ hai trong chuyến bay lịch sử Moskva-Viễn Đông trên máy bay "Tổ quốc" ANT-37 cùng M.M.Raskova và V.S.Grizodubova. Tự học lái U-2. Tốt nghiệp trường phi công quân sự Kachin năm 1933. Gia nhập Hồng quân năm 1932. Là phi công và chỉ huy biên đội tại các đơn vị KQ tiêm kích hiện dịch của LLKQ Hồng quân Công nông tại các QK Kharkov, Kiev và Moskva. Từng lập 4 kỷ lục thê giới về hàng không trên thủy phi cơ MP-1 vào năm 1937. Hy sinh trong tai nạn máy bay năm 1939 cùng Tổng thanh tra bay Hồng quân Công nông A.K.Serov. Bình tro thi hài được gắn ở chân tường điện Kremli trên Quảng trường Đỏ. (http://www.warheroes.ru/hero/hero.asp?Hero_id=654)

(http://www.womeninaerospacehistory.com/wp-content/uploads/wiah/2014/09/2244x834xTupolev-ANT-37-DB-2-Rodina-left-side.jpg.pagespeed.ic_.wbh9y0WQm2.jpg)
Chiếc máy bay lịch sử: Tupolev ANT-37 "Rodina" (http://www.womeninaerospacehistory.com/24-25-september-1937/)

Vâng, thế hệ của chúng tôi là thế đó. Và sau này nhà thơ Vasily Fedorov trong trường ca nổi tiếng "Tầng trời thứ bảy" đã nói về chúng tôi như sau:
Bay
Qua những năm ba mươi
Thời đại của động cơ lao vun vút.
Muốn chắp cánh bay lên
Đất nước của những chiếc xe trượt tuyết,
Đất nước của những chiếc xe ngựa kéo.
Những lời nói
"Theo gương Chkalov"
"Theo gương Gromov"
Bay ra từ đôi môi của chúng ta,
Khi cầm phiếu giới thiệu của quận đoàn thanh niên
Chúng tôi xuất hiện ở câu lạc bộ hàng không.
Người ta gõ nhịp chúng tôi,
Đo chúng tôi,
Người ta đặt chúng tôi lên cân.
Năm giác quan của chúng ta bác sĩ kiểm tra -
Kiểm tra lòng can đảm,
Sự tự chủ
Và sự sợ hãi ...

Tôi vẫn còn nhớ cho đến tận bây giờ lời tuyên bố của một trong những đồng nghiệp của tôi tại câu lạc bộ HK: "Từ chối tôi, các anh chị không có quyền. Tất cả cuộc sống của tôi, tôi đã sẵn sàng để trở thành một nữ phi công. Và thậm chí nếu các anh chị từ chối tôi, tôi vẫn sẽ trở thành như vậy". Cô bé mà cả đời mình "đã sẵn sàng trở thành nữ phi công" mới mười sáu tuổi. Cô bé ấy sau đó đã trở thành, vào năm bốn mươi mốt, không phải nữ phi công, mà là một nữ y tá. Và cô hy sinh gần Minsk. Nhưng có thể nào nói rằng cô gái ấy đã thay đổi giấc mơ của mình? Lẽ nào cuộc sống của cô ấy chưa phải đã được chắp cánh?!
Những tuyên bố như vậy có đến hàng ngàn.
.......


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 17 Tháng Tám, 2015, 11:57:38 pm
(tiếp)

Buổi sáng ảm đạm

Ngoái nhìn lại những năm xa xôi ấy bây giờ, tôi như thể nhìn thấy qua màn sương khói một buổi sáng tháng Sáu không nóng bức, và hai con người với một chiếc va li nhỏ trên đường ô tô Leningrad. Người đàn ông có một vẻ gì đó di-gan. Ông có đôi mắt sáng, mái tóc đen dày, cử động nhanh nhẹn, giọng nói ngân vang. Bên cạnh ông, một cô gái, gần như còn là một cô bé, tóc cũng đen như một con quạ nhỏ, với đôi mắt lớn màu tối sẫm.
- Cha, chúng ta đi nhanh lên chứ - cô bé vội vã.
- Đừng vội, con gái cha ơi. Chúng ta vẫn kịp, - người đàn ông an ủi, nhưng vẫn rảo bước thêm. - Và điều quan trọng nhất, đừng quên: ngay khi đến nơi, hãy đánh điện về.
- Được rồi, cha.
- Nhìn kìa, Marinka! Cha đã hoàn toàn kiệt sức một mình. Dù con bây giờ có là nữ phi công thì với cha - con vẫn còn là một đứa trẻ ...

Có cần thiết phải giải thích rằng tôi và cha đang ở trên đường quốc lộ và đó là hôm trước chiến tranh? Cha tôi tiễn tôi đi nghỉ ở Crimea theo phiếu nghỉ dưỡng của đoàn Komsomol.

Chẳng mấy mà chúng tôi đã đến cửa nhà ga phi trường Trung tâm và sau khi trình vé, đi ra sân bay. Chiếc máy bay vận tải đối với tôi trông thật khổng lồ. Tôi tò mò đi quanh cỗ máy. Tất cả ở nó làm tôi sửng sốt. Quen với chiếc máy bay huấn luyện bé nhỏ U-2, mà bản thân mình đã bay và huấn luyện bay cho những người khác, nay đứng gần chiếc máy bay vận tải to lớn, tôi cảm thấy mình nhỏ bé và bất lực.

Chào tạm biệt với cha xong, tôi vào chỗ của mình trong khoang khách ...
Từ Simferopol nóng nực xe buýt đưa chúng tôi đến khu nghỉ mát "Krasnovka" ở Yalta. Đây là khu nghỉ mát của TU Đoàn Komsomol, nơi người ta gửi đến nghỉ ngơi các đoàn viên Komsomol được tặng thưởng vì hoàn thành xuất sắc công việc của họ.

Sau vài giờ nữa là sẽ gặp biển. Tôi từng đọc những câu chuyện về biển của Stanyukovich, nhàn tản hồi lâu bên các bức tranh của Aivazovsky, nhưng tôi chưa bao giờ được nhìn thấy biển.

Cuối cùng thì chiếc xe buýt, sau khi lượn ngoằn ngoèo như phải vậy trên con đường nhựa bị nung nóng, đã đến trạm dừng "Pereval". Phía dưới lấp lánh chói mắt một cái gì đó rất rộng lớn và tươi sáng. Rộng lớn và chói sáng đến mức đôi mắt phải nheo lại.

Chúng tôi đến Yalta trễ, lúc chiều tối và gần như ngay lập tức đi ngủ. Không có bức điện tín nào gửi cho cha mình, tất nhiên là thế, nhưng khi ngủ thiếp đi, tôi thầm hứa ngay buổi sáng sẽ chạy đến phòng điện báo.

Phi công bao giờ cũng dậy sớm. Tôi dậy đầu tiên, đi ra ban công. Gần bờ biển mọc đầy cây vân sam, những cành cây rậm rạp xòe ra trông rất ngoạn mục. Và trải dài đằng sau nó là biển. Chỉ có điều biển hoàn toàn không phải màu xanh thiên thanh. Sát bờ biển nước trong suốt và màu xanh lá cây, tiếp theo màu xanh lá cây chuyển thành màu xanh lam, sau đó biển nhuốm màu xanh thiên thanh, xanh biếc, chuyển màu tối, đen sầm lại và trên đường chân trời, biển một lần nữa trở nên trong sáng, gần như không thể phân biệt với bầu trời.

(http://thumbs9.dreamstime.com/x/lever-de-soleil-au-rivage-rocheux-de-la-mer-noire-14624433.jpg)
Yalta. Mặt trời lên trên Biển Đen. (http://fr.dreamstime.com/photos-images/p2/paysage-de-mer-yalta-crim%C3%A9e-ukraine.html)

Xung quanh tất cả thật tuyệt vời. Giữa màu xanh lá cây lấp lánh là những vệt đỏ của mái ngói. Sắc xanh biếc của biển, sắc xám, đỏ, sắc xanh diệp lục, trắng - ánh sáng và bóng tối tạo ra một loạt các màu sắc, thật khó để ta rời mắt khỏi. Và quan trọng nhất, tất cả các sắc và màu ấy đang hiển hiện sống động. Bầu trời sáng tươi lên, chuyển đỏ thắm, rung rinh sắc vàng, biển đáp lại bằng vô vàn các sắc màu phản chiếu. Màu sắc ánh sáng lung linh không sao nắm bắt được, đan xen hòa trộn, bỗng chốc rực sáng hơn, một tông màu này chuyển sang tông màu khác, rồi đột nhiên chùm tia chói mắt đầu tiên của mặt trời vụt lên từ biển như một ngọn đuốc rực lửa khổng lồ. Mặt đất trở nên hân hoan ấm áp. Từ những mái nhà, từ cây, cỏ một làn hơi mỏng mảnh bốc lên. Lũ chim thức dậy. Ở đâu vẳng đến tiếng chuông. Buổi sáng đang tới.

Không, biển không lừa dối tôi! Trong cuộc sống, thậm chí nó còn đẹp hơn trong những bài thơ hay trên tấm toan của họa sĩ!

Ban đêm tôi tỉnh giấc bởi một tiếng động khủng khiếp. Bên ngoài cửa sổ, một cơn bão lốc hoành hành, mưa như thác đổ. Buổi sáng trên bãi biển hoang vắng và ngổn ngang. Biển trông lạnh lẽo, ảm đạm, nhưng dẫu sao vẫn tuyệt đẹp. Tôi không nhớ tôi ngồi bao lâu bên bờ nước. Có thể là một hoặc hai giờ đồng hồ, cho đến khi tôi nhận thấy rằng trên bãi biển không có ai ngoài tôi. Tim tôi thắt lại vì một nỗi lo lắng mơ hồ. Tôi vội vã về viện điều dưỡng.

Chẳng hiểu gì, tôi lao vào phòng mình. Giường chưa dọn, các bạn gái của tôi tại viện điều dưỡng Valya Ponomareva và Tamara Konchukhidze đang bận rộn gần những chiếc va li.
- Có chuyện gì vậy? Các cậu định đi đâu?
- Sao thế, cậu rơi từ mặt trăng xuống à? Chiến tranh rồi ...

* * *

Chiến tranh - một từ ngắn và khủng khiếp. Nó lập tức thay đổi tất cả xung quanh. Các đồng nghiệp của tôi trở nên nghiêm nghị và già dặn lên. Trong một khoảnh khắc, dường như những màu sắc tươi sáng của thành phố ven biển diễm lệ nhạt nhòa hẳn. Thậm chí cả viện điều dưỡng tuyệt đẹp của chúng tôi trông cũng khó chịu và u ám.

Đến trưa, chúng tôi được biết: trước hết người ta ưu tiên gửi các công dân nam làm nghĩa vụ quân sự đi đến nơi cư trú thường xuyên. Còn trường hợp với chúng tôi, các cô gái, chẳng có ai biết. Trong khi đó đi khỏi Yalta lại không hề dễ dàng.

Tôi được khuyên là nên liên hệ với văn phòng quân sự địa phương. Tôi đã làm ngay. Tôi đến gặp ủy viên quân sự, nói rằng tôi là nữ phi công, và tôi muốn ra mặt trận. Người ủy viên quân sự ném cho tôi một cái nhìn hoài nghi và hỏi giấy tờ bay đâu. Tôi hiện tại không thể trình chúng ra: giấy tờ đều để ở Moskva. Nghe xong, người ủy viên quân sự nhìn tôi từ đầu đến chân, và đề nghị tôi không phải không có ác ý, rằng lần sau hãy đến khi tôi đã lớn hơn...


Thử thách

Chỉ đến đầu tháng 7 tôi mới có cơ hội trở về Moskva. Cha không đón tôi tại nhà ga. Nhật ký cha để lại trên bàn cho tôi biết ông làm việc hai ca liên tiếp và sẽ về muộn. Cha hốc hác, gầy hẳn đi. Chúng tôi không thể nói chuyện gì trong đêm đó. Tôi thừa nhận tôi đã quyết định ra mặt trận.

- Được rồi, con gái, bây giờ có lẽ không thể khác - cha nói chậm rãi. - Sẽ khó khăn cho cha, nhưng cha biết - không thể khác. Con người phải sống theo lương tâm của mình. Đó - là điều chủ yếu...

Tôi biết ơn cha nhường nào vì cha đã hiểu tôi và không thuyết phục tôi điều ngược lại. Buổi tối hôm đó, tôi nhận ra một lần nữa rằng: cha đối với tôi trước hết là một người bạn lớn ...

Tôi cùng với với các bạn gái yêu cầu quận đội quận Leningrad gửi chúng tôi ra mặt trận. Nhưng ở Moskva trong những tháng đầu chiến tranh, các nữ phi công-vận động viên trẻ, trước tất cả các tuyên bố và yêu cầu ghi tên vào quân đội hiện dịch, họ chỉ nhận được lời từ chối. Tuy nhiên, chúng tôi không nản và tiếp tục viết thư lên các cấp trên khác nhau.

Chúng tôi luôn ghé vào quận đoàn Komsomol, như ghé vào ngôi nhà ruột thịt của mình, bởi vì các bí thư quận đoàn Natasha Lebedeva, Sergey Kosovsky, Nicholai Abryutin hiểu và ủng hộ chúng tôi. Họ đã giúp tôi hồi đó. Quận đoàn cử tôi đến làm phi công-huấn luyện viên tại câu lạc bộ HK Trung ương mang tên V.P.Chkalov.

Lúc đó tôi vừa bước sang tuổi mười tám. Hàng ngàn hàng ngàn đồng nghiệp của tôi đã bước vào chiến tranh trong năm bốn mươi mốt. Nhiều người đã không trở về nhà. Điều đó xảy ra đã lâu lắm rồi.

Nhưng dù có bao nhiêu năm tháng trôi qua, dù có bao nhiêu cơn bão đã làm rung chuyển hành tinh, qua bao năm đằng đẵng, giống như ánh sáng từ các ngôi sao xa xăm, tiếng nói của họ sẽ đến được với những người đang sống. Tiếng nói vang lên trước các cuộc tấn công và nổ súng, trước đợt tiến quân cuối cùng vào hư không và bất tử.

Trong những phút căng thẳng tinh thần tột độ, mới phát lộ đến tận cùng sự thật về tính cách và bản chất, sự thật bóc trần khỏi tất cả những gì bề ngoài, phô trương và xác định không thương xót giá trị của con người trong cuộc sống, mức độ can đảm, lòng trung thành với lá cờ của con người.

Còn lại một mình đối diện với lương tâm của chính mình, tôi đã phải làm một sự lựa chọn giữa cái sống và cái chết. Và sự lựa chọn đã được thực hiện một cách chính xác. Người thủy thủ trong chiếc áo sọc thủy binh đẫm máu xông lên phía xe tăng với quả lựu đạn cuối cùng. Các phi công chọn taran hơn là nhảy dù. Người lính nhận ra bên cạnh mình tất cả đã hy sinh, anh ta nghiến răng lại, một mình tiến về phía kẻ thù.

Sau lưng một người là Sevastopol, còn người kia - Stalingrad, người thứ ba - cánh rừng nhỏ mùa thu buồn bã vô danh với những cây bạch dương khoác tấm ren màu trắng. Đằng sau họ là toàn bộ nước Nga, thiếu nó với người lính sẽ không có mặt trời, không có tình yêu, không có cả bản thân cuộc sống. Mà tuổi của các đồng nghiệp của tôi vẫn còn quá nhỏ, các loài chim vẫn lảnh lót trên bầu trời, những người thân yêu vẫn chờ đợi, và rực sáng dưới những ngôi sao lạnh giá là những rạng đông màu anh đào, và họ rất khát khao muốn sống ...

Và khi bạn bắt đầu suy nghĩ về cuộc sống, những suy nghĩ đầu tiên của bạn - là suy nghĩ về mẹ. Bởi xuất phát từ mẹ là tất cả những con đường chúng ta đi dưới ánh mặt trời và số phận của chúng ta. Mẹ dạy ta đi bước đầu tiên trong đời, chúng ta tin cậy tâm sự với mẹ những giấc mơ, sự lo lắng, băn khoăn của mình. Và không có hạnh phúc nào lớn hơn với mẹ bằng sự nhận thức rằng những đứa con của mẹ đã trở thành những con người vững vàng. Những đứa con như thế không phản lại bạn bè, không lay chuyển trong giờ phút thử thách, vững vàng trong bước chuyển tiếp khó khăn.

Đoàn viên Komsomol Kazmin viết cho mẹ mình từ mặt trận tháng 10 năm 1942: "Mẹ ơi, đừng lật những tờ in các cuốn sách cổ rỏ sáp, đừng đi tới chỗ ông Arkhip Naidenov, đừng tìm với ông những phép mầu của các thánh. Nghe con nói: chúng ta sẽ chiến thắng cái chết không vì chúng ta là bất khả chiến bại, chúng ta chiến thắng nó bởi vì chúng ta đang đấu tranh không chỉ cho cuộc sống của mình. Chúng con ra chiến trường để bảo vệ điều thiêng liêng nhất trong những gì thiêng liêng - Tổ quốc. Khi con nói ra từ ấy, con muốn quỳ xuống".

Tổ quốc - đó là bản thân bạn và nhân dân, và tất cả những gì bạn sống và bạn thở, cả quá khứ, hiện tại và tương lai. Khái niệm ấy hàm chứa trong bản thân nó tất cả, bao trùm tất cả và rất thiêng liêng.

Con đường của người lính khó khăn dốc đứng và không phải lúc nào cũng đầy nắng. Ai từng trải qua Chiến tranh vệ quốc vĩ đại, đều biết rõ. Ngoài mặt trận chúng tôi không biết ai trong chúng tôi sẽ sống sót đến ngày chiến thắng. Nhưng lại biết chắc rằng nước Nga sẽ sống mãi. Và đó là điều chủ yếu. Nếu không có đức tin này mỗi chúng tôi sẽ chẳng là gì, thiếu nó không thể đứng vững.

Tình yêu đối với Đất Mẹ của người Nga vẫn liên tục chuyển từ thế hệ này sang thế hệ khác. Không ngẫu nhiên mà những lời của Piotr Đệ Nhất trước trận chiến Poltava lại vô cùng thân thiết với chúng tôi ngày hôm nay: "Về Piotr các người hãy biết - đối với ông ấy cuộc sống không đắt giá, chỉ cốt sao cho nước Nga sống mãi". Mỗi một người trong chúng ta hoàn toàn có quyền lặp lại những lời nói này trong những ngày đó.

* * *

Tại Moskva, một tin tức chờ đợi tôi - CLBHK quận Leningrad đã sáp nhập với CLBHKTU mang tên Chkalov. Các chuyến bay huấn luyện tại Moskva bị cấm, việc chuẩn bị di chuyển tới Vladimirovka, gần Stalingrad, đã bắt đầu.

Không lâu trước khi đi, tôi đã cảm thấy trên bản thân mình cú ra đòn tàn nhẫn của chiến tranh. Ngày 22 Tháng Bảy năm 1941 một vài chiếc máy bay của bọn Đức Quốc xã đã đột nhập được vào thành phố. Một trong những trái bom đã ném trúng căn nhà của chúng tôi. Nó bùng cháy ngay trước mắt tôi, còn tôi chỉ còn biết đứng và nhìn lửa xung quanh rú rít.

Tôi ở trong trạng thái đó bao lâu - tôi không nhớ. Ngọn lửa dần dần tàn, chỉ các tàn tích của ngôi nhà còn bốc khói âm ỉ. Mọi người lặng lẽ như chiếc bóng, lang thang khắp tàn tích đám cháy. Bầu trời thắm rực lên, một ngày mới bắt đầu. Lần cuối cùng tôi ngoảnh nhìn vào nơi mà chỉ vài giờ trước đây còn là nhà mình và đi bộ dọc theo phố. Đột nhiên bàn tay lớn của ai đó nhẹ nhàng đặt xuống đầu tôi.
- Không có gì đâu, con gái yêu, - tôi nghe giọng nói của cha mình - phải cứng rắn lên. Chúng sẽ phải trả giá gấp hàng trăm lần vì tất cả những tội ác này...

Ngày 25 tháng 7 năm 1941, tôi chia tay với cha. Tôi đi đến nơi gần Stalingrad.
Nhìn vào đôi mắt vô cùng yêu quý, làm sao tôi có thể nghĩ rằng tôi sẽ thấy cha lần này là cuối cùng.
- Hãy chăm sóc bản thân, Marinochka nhé. Hãy nhớ rằng - cha chỉ có một mình con.
- Cám ơn cha yêu quý!
Cha con tôi ôm hôn nhau ...

* * *

Đất nước đứng lên vào trận chiến đấu sống còn. Mặt trận ở khắp mọi nơi, không chỉ ở tuyến đầu, mà còn ở cả phía sau. Người ta sống bằng chỉ một suy nghĩ, một ham muốn - làm tất cả mọi thứ để giành chiến thắng!

Mặt trận của tôi mở trên bầu trời gần Stalingrad. Ở đây họ giao cho tôi một nhóm các học viên và nói: "Đấy hãy dạy đi!"
.......


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 19 Tháng Tám, 2015, 02:01:40 pm
(tiếp)

Trên sân bay tập trung rất nhiều phi công-vận động viên và phi công tàu lượn có tiếng cũng như chưa có tiếng. Ở đó, tôi gặp Valerya Khomyakova, Maria Kuznetsova, Olga Shakhova và các phi công-giáo viên hướng dẫn bay khác, đã quen biết tại câu lạc bộ HK Leningrad ở Moskva. Gia đình thân thiết của các phi công lại tụ hội, và điều đó giúp cho công việc. Tình bạn, sự hiểu biết, điều mà bất cứ giây phút nào ta cũng có thể tìm thấy ở bạn bè lời khuyên và sự giúp đỡ đã truyền cảm hứng, tiếp thêm sự tự tin, sức mạnh cho ta. Điều đó rất quan trọng!

Các học viên của tôi lớn tuổi hơn tôi nhiều. Điều này, tất nhiên, làm tôi lo lắng. Làm việc với các bạn bè đồng nghiệp là một chuyện, làm việc với người lớn tuổi hơn - là chuyện khác. Và tôi không thể khoe khoang kinh nghiệm huấn luyện.

(http://geroiros.narod.ru/wwsoldat/200/IMAGES/pereyaslavets.jpg) (http://www.grekovstudio.ru/_files/works/photo_429.jpg) (http://pv-gallery.ru/upload/iblock/e91/id534dd.jpg)
Họa sỹ Vladimir Ivanovich Pereyaslavets (1918 - ...) và bức tranh "Không chiến. Một chọi 20". Trong Thế chiến 2 V.I.Pereyaslavets là phi công tiêm kích phi đội 1, trung đoàn tiêm kích 119, sư đoàn KQ 104, tập đoàn quân KQ 1 đóng tại Arkhangensk. Ngoài cùng bên phải là tranh "Việt Nam. Chị Bí thư Đoàn Thanh niên", họa sĩ sáng tác trong dịp sang Việt Nam năm 1966 và nằm trong sê-ri tranh "Trên đất nước Việt Nam anh hùng". Ông là họa sĩ của xưởng họa quân đội Soviet mang tên M.B.Grekov, trung tá KQ, nghệ sĩ nhân dân CHXHCNXV LB Nga. Năm 1941 họa sĩ tình nguyện rời Viện Nghệ thuật Quốc gia Moskva khi đang học năm thứ 4, xin vào học CLBHK Moskva mang tên V.P.Chkalov dưới sự hướng dẫn trực tiếp của Marina Chechneva, sau đó còn học tiếp các khóa phi công quân sự khác nhau. Là phi công quân sự bay trình diễn diễu hành, diễu binh của quân đội Soviet cho đến 1956. (https://ru.wikipedia.org/wiki/%D0%9F%D0%B5%D1%80%D0%B5%D1%8F%D1%81%D0%BB%D0%B0%D0%B2%D0%B5%D1%86,_%D0%92%D0%BB%D0%B0%D0%B4%D0%B8%D0%BC%D0%B8%D1%80_%D0%98%D0%B2%D0%B0%D0%BD%D0%BE%D0%B2%D0%B8%D1%87)

Học viên là những người thuộc các ngành nghề khác nhau, trong số họ thậm chí có cả các họa sĩ Victor Pribylovskiy, Vladimir Pereyaslavets, Nikolai Gorlov. Thời đó lần đầu tiên tôi va chạm sát sàn sạt với dân ngành nghệ thuật, và tôi phải thú nhận lúc đầu tôi đã xử sự với họ có một chút định kiến nào đó. Tôi nghĩ rằng các phi công chỉ có thể là những người khỏe mạnh, dẻo dai, muốn vậy người ta phải có năng khiếu, phải có một nhu cầu nào đó từ bên trong. Còn ở đây, một đằng là bảng màu và cây cọ vẽ, một đằng - máy bay; ở về một cực là công việc sáng tạo ra cái đẹp, cực kia - cái chết, sự hủy diệt. Có thể đồng thời làm cả hai không? Họ có đủ sức mạnh và lòng can đảm cho điều này hay không? Nhưng cuộc sống, luôn phức tạp hơn và đa dạng hơn những hình dung ngây thơ của tôi. Chỉ sau đó tôi mới hiểu ra rằng vấn đề không nằm ở nghề nghiệp và thị hiếu: càng những con người có tính tổ chức ít hơn, họ sẽ càng thấy nhiều hơn, biết và hiểu nhiều hơn, họ sẽ càng căm thù cái chết hơn, cũng như tất cả những gì ngăn cản họ sáng tạo và trang điểm cho mảnh đất nơi mà họ đang sống.

Tôi đã trở thành quen thuộc đối với các nghệ sĩ "của mình", dần dần rồi họ cũng quen thuộc với tôi, chúng tôi kết bạn bè. Họ đều là những con người dễ mến. Và nếu tôi dạy họ lái máy bay, họ cũng đã cho tôi biết rất nhiều điều hữu ích, tuyệt vời.

Trong toàn bộ những năm tháng chiến tranh, Pribylovskiy, Pereyaslavets, Gorlov đều ở mặt trận, còn sau chiến thắng, họ đã tốt nghiệp trường mỹ thuật quân đội mang tên Grekov. Cả ba người đều được trao tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân nước CHXHCN Soviet Liên bang Nga.

... Tại địa điểm gần Stalingrad chúng tôi đào tạo phi công cho quân đội. Bầu trời ở đây vẫn còn bình yên, mọi người chưa phải hồi hộp chờ đợi tiếng còi báo động rú lên. Dẫu sao bóng tối của chiến tranh đang dần dần rơi xuống trên bầu trời Volga.

Trong những ngày này, tôi kết tình bạn đặc biệt tốt với Valerya Khomyakova. Bất cứ khi nào tôi nhìn thấy trên sân bay hình dáng quen thuộc của chị, tôi cảm giác trên vai có sự đụng chạm của một bàn tay thân thiện và tôi như được bổ sung thêm sinh lực.

Tại sân bay có rất nhiều người cộng sản. Và bây giờ, khi nhìn lại quá khứ, tôi có thể tự hào nói rằng trong những ngày tháng khó khăn, những người cộng sản đã tập hợp được xung quanh mình tất cả chúng ta. Và chúng tôi, các thành viên của đoàn Komsomol, hướng về những đồng chí lớn tuổi hơn, những người bạn trung thành và những người cố vấn.

Cuộc chiến tranh đã không lấy đi được tuổi trẻ của chúng tôi. Nó làm cho chúng tôi khôn ngoan hơn một chút, buộc chúng tôi phải trưởng thành nhanh hơn. Nhưng dù sao, chúng tôi vẫn rất cần sự giúp đỡ và tư vấn của những người lớn tuổi hơn.

Nếu các chuyến bay không ổn thỏa, nếu các học sinh "khó khăn" ngã lòng, nếu phát sinh những phức tạp không lường trước được trong đời bay vốn đã không dễ dàng của chúng tôi, trước hết tôi chạy đến xin lời khuyên của người bạn gái lớn tuổi hơn tôi là Valerya Khomyakova. Chị ấy lo mối lo của chúng tôi như thể đó là mối lo lắng của riêng chị, không tiếc thời gian, sức lực để giúp đỡ các đồng chí đồng đội, và nếu chuyện phụ thuộc vào chị, chị sẽ hoàn thành tất cả các yêu cầu của chúng tôi.

(http://content.foto.my.mail.ru/mail/minatet/_blogs/i-5187.jpg) (http://content.foto.my.mail.ru/mail/minatet/_blogs/i-5175.jpg)
Trung úy phi đội phó trung đoàn nữ KQ tiêm kích PK 586 Valerya Khomyakova (thứ hai từ phải sang) cùng các đồng đội (từ trái sang) G.Burdina, T.Pamyatnykh và V.Lysitsyna (ngoài cùng bên phải), cạnh chiếc tiêm kích Yak-1 của mình, mùa thu năm 1942.

Gần Stalingrad, tôi lại gặp Olga Sushchinskaya. Tôi cùng chị học tại câu lạc bộ HK quận Leningrad của thủ đô, đồng thời cùng được nhận danh hiệu phi công-huấn luyện viên. Olga lớn tuổi hơn tôi, nhưng điều đó không ảnh hưởng gì đến tình bạn của chúng tôi. Chị luôn luôn là một người đồng đội tốt.

Tôi yêu say đắm ngành hàng không và không ngạc nhiên khi có người hy sinh nhiều cho nó. Nhưng tại sao Olga - một nữ diễn viên chuyên nghiệp, một vũ công ba-lê giỏi của Nhà hát Thủ đô - lại từ chối nghệ thuật để hiến thân hoàn toàn cho môn thể thao hàng không, tôi không thể hiểu nổi.

Tôi không gặp chị đã lâu, có lẽ gần nửa năm, và cuộc gặp gỡ đã mang cho tôi niềm vui lớn. Trong chuyến bay chung đầu tiên (chúng tôi phải bay rất nhiều "cho bản thân mình" - trong những ngày học chỉ huy), tôi và Olga đã quyết định nô đùa một chút trong không trung và thực hiện trên chiếc U-2 hơn một chục vòng xoắn ốc stopor tại không vực thuật lái. Chủ nhiệm bay V.M.Malyugin thấy ngay sự trẻ con của chúng tôi. Khi chúng tôi hạ cánh, ông khiển trách nghiêm khắc cả hai chúng tôi và trừng phạt bằng cách đình chỉ bay tạm thời chúng tôi. Olga cụt hứng. Nhưng ngay lập tức chị trấn tĩnh lại khi nhìn thấy tôi buồn như thế nào. Chị ôm lấy vai tôi, sau đó thực hiện động tác ba-lê "entrechat" trên không, gập người xuống trước mặt tôi trong một tư thế cúi chào duyên dáng. Chị chỉ dừng đùa giỡn sau khi bắt được tôi mỉm cười.

Tiếc thay, chẳng mấy chốc chúng tôi phải chia tay. Chiến tranh ném chúng tôi đi các phương trời xa nhau. Tuy nhiên, suốt bao nhiêu tháng năm tôi vẫn không quên người bạn gái. Đi trước thời gian, tôi muốn nói rằng tôi đã trải qua một niềm vui thật sự, khi tháng 4 năm 1953, tôi đọc trong tạp chí "Đôi cánh của Tổ quốc" một tin nhỏ: "Lần nhảy thứ 500 của vận động viên nhảy dù Sushchinskaya".

* * *

Chúng tôi lo lắng nhìn lên tấm bản đồ, cắm đầy những lá cờ. Các lá cờ từ từ, nhưng vẫn tiếp tục tiến, mà là tiến về phía đông, không sao lay chuyển được.

Đất nước đang trải qua thời kỳ khó khăn. Bọn phát xít tấn công trên một tuyến mặt trận rất rộng từ biển Baltic tới Biển Đen. Kẻ thù đang tiến về Moskva và Kavkaz, liên tục ép quân đội của chúng ta về phía sông Volga. Dù sao nhân dân vẫn không mất tinh thần, không thể hiện một dấu hiệu nhỏ nào của sự hoảng loạn. Mọi người đều hiểu: chiến tranh - đó không chỉ là chiến thắng.

Trong một số cuốn sách về thời gian khó khăn này, những thất bại của chúng ta trong những tháng đầu tiên của cuộc chiến tranh được cố gắng giải thích bằng sự hỗn loạn kinh hoàng xâm chiếm mọi người. Điều này không phải sự thật. Tôi, với tư cách một nhân chứng, xin nói rằng: chẳng có gì như thế. Có những thất bại tạm thời, có nỗi đau khủng khiếp. Chúng ta biết quá rõ rằng nếu không có nước Nga, không có chính quyền Soviet, trên trái đất này sẽ không có hạnh phúc, không có không khí, không có cuộc sống cho chúng ta.

Đối với những người xung quanh tôi, không tồn tại câu hỏi: cường quốc Soviet có sống được hay không? Chúng tôi biết: khi mà chỉ một trong chúng tôi vẫn còn sống - nước Nga vẫn, đang và sẽ sống.

Chúng tôi là đoàn viên Komsomol, và điều đó nói lên rất nhiều.
Theo sự huy động của UBTU Đoàn Komsomol, trong ba ngày chiến tranh đầu tiên đã có đến 900.000 đoàn viên Komsomol gia nhập quân đội, trong đó có 50.000 đoàn viên Komsomol của Moskva.

Trong 5 tháng đầu tiên của chiến tranh Đảng bộ TP Moskva đã gửi ra mặt trận 100.000 đảng viên và 260.000 ngàn đoàn viên Komsomol. Trong quá trình diễn ra Chiến tranh Vệ quốc tổ chức đoàn Komsomol Moskva không ngừng gửi ra mặt trận những lực lượng ưu tú nhất của mình. Trong cuộc chiến chống lại chủ nghĩa phát xít đã có đến bốn phần năm đoàn viên Komsomol tham gia.

Khoảng 100.000 các chàng trai và cô gái đã làm việc trên công trường xây dựng các tuyến phòng thủ gần Moskva.

Tôi tự hào vì tổ chức Komsomol của thủ đô do sự tham gia tích cực trong chiến tranh đã được tặng thưởng Huân chương Cờ đỏ. Tôi tự hào vì 490 đoàn viên Komsomol Moskva đã nhận được danh hiệu cao quý Anh hùng Liên Xô, hàng chục ngàn người đã được trao tặng huân huy chương. Tôi tự hào vì người Moskva đã có Victor Talalikhin, Zoya Kosmodemyanskaya, Nikolai Gastello, Aleksandr Matrosov và Timur Frunze, tên tuổi họ sẽ sống mãi trong ký ức nhân dân.

Cũng như thời của Nikolai Ostrovsky, chất thép Komsomol đã được tôi luyện trong ngọn lửa chiến trận, trong lao động căng thẳng và quên mình. Các chàng trai và cô gái, các học sinh của ngày hôm qua, cho đến lúc đó chưa hề biết đến cái đói, sự thiếu thốn, nhưng trong giờ phút thử thách đã cho thấy sức chịu đựng, sự kiên cường và đức tin vững chắc vào thắng lợi.

Đoàn Komsomol đã trao cho mỗi người trong chúng ta nhiều thứ. Lấy tôi làm ví dụ, Đoàn đã trao cho tôi không chỉ đôi cánh bay. Đoàn xác định vị trí của tôi trong đội ngũ, cho tôi cảm giác rằng tôi cần cho mọi người. Và cảm giác này, theo tôi nghĩ, bản thân nó là một trong những yếu tố tạo nên hạnh phúc của con người. Và nếu phân tích nghiêm túc và sâu sắc, nó gắn liền chặt chẽ với thời thanh niên Komsomol.

Ba mươi năm trôi qua kể từ sau chiến tranh. Chúng ta đã có thời gian để suy nghĩ, soi nhìn quá khứ trong tâm tưởng, rút ra kết luận cho bản thân về tương lai, và điều quan trọng nhất - ngày càng thấy số phận của bạn gắn với vận mệnh của Tổ quốc bền chặt như thế nào.

Tôi không thích những cuốn tiểu thuyết và vở kịch, trong đó chiến tranh được miêu tả như là một thời kỳ của đau khổ, tàn bạo, sai lầm. Tôi không tin những cuốn sách như vậy, bởi vì chính tôi cũng là một người lính, đã trải qua nỗi cay đắng của sự mất mát và nỗi đau đớn vì buộc phải rút lui, nhìn thấy người Soviet lầm than điêu đứng.

Nhưng tôi đã nhìn thấy chiến thắng. Tôi nhìn thấy kỳ tích hằng giờ hằng phút, không gián đoạn theo thời gian. Tôi nhìn thấy ý thức trách nhiệm đối với số phận của nước Nga được nâng lên và thanh lọc con người.

Ở đó, dưới lửa đạn, con người bị bóc trần. Nó hoặc sẽ trở thành anh hùng hoặc là kẻ hèn nhát. Can đảm hay yếu ớt. Điều chủ yếu, ánh sáng và bóng tối đã được phác họa rõ ràng và mãnh liệt. Tôi có thể nói với trách nhiệm đầy đủ rằng chính ánh sáng tâm hồn này soi sáng con người Soviet, xác định kết quả cuộc chiến đấu với kẻ thù.

Nhân dân Nga ngày ấy đã bước lên những đỉnh cao đạo đức khổng lồ. Và họa sĩ, người không để ý thấy điều đó, sẽ không bao giờ có thể trình bày chiến tranh một cách đúng đắn.
......


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 20 Tháng Tám, 2015, 12:40:44 am
(tiếp)

Chúng tôi - những người lính!

Ngày ngày qua. Bay, phân tích, học lý thuyết. Vào buổi tối mệt quá mà ngủ thiếp đi ngay sau khi mới đặt được đầu mình lên chiếc gối. Còn buổi sáng, lúc vừa bình minh, lại trên đôi chân. Và lại bay, bay, bay và bay ...

Một ngày tháng Mười tin tức truyền đến Vladimirovka làm rung chuyển tất cả các nữ phi công: Raskova được giao phó nhiệm vụ thành lập đơn vị nữ không quân.

(http://cdn11.img22.ria.ru/images/60652/38/606523832.jpg)
M.M.Raskova. Ảnh Ria Novosti. (http://ria.ru/spravka/20120328/606520906.html)

Khao khát thiêng liêng của chúng tôi muốn tiêu diệt kẻ thù trong cùng đội hình chiến đấu với nam giới đã trở thành sự thật. Các cô gái phi công hét vang "Ura!", họ ôm chầm lấy nhau và chúc mừng nhau.

Một vài ngày sau đó, chúng tôi mới rõ tất cả mọi chuyện. Hóa ra kể từ khi bắt đầu chiến tranh, hàng ngày có hàng chục lá thư của các nữ phi công từ Osoaviakhim, hạm đội HKDD và đơn giản là từ những cô gái đang làm việc trong các xí nghiệp hàng không khác nhau, gửi về Trung ương Đảng, Ủy ban Trung ương Đoàn TNCS Lenin và các tổ chức khác, yêu cầu gửi họ ra mặt trận.

Đảng và chính phủ đã đáp ứng nguyện vọng của những người Soviet yêu nước, và trong tháng Chín, đã quyết định việc thành lập các trung đoàn nữ không quân, xương sống của chúng cần phải tập hợp và hình thành nên từ các nữ phi công-vận động viên thể thao, và các phi công HKDD.

Cùng với các trợ lý của mình - người nhiều lần lập kỷ lục nữ thế giới Vera Lomako, các nữ phi công nổi tiếng, các chị em Tamara và Militsya Kazarinova, các chính ủy Evdokia Rachkevich và Lina Eliseeva, cùng các cán bộ chính trị và các phi công nhiều kinh nghiệm khác - Raskova đã lập nên một danh sách các phi công nữ, tìm kiếm họ trong hạm đội HKDD, tại các câu lạc bộ hàng không, trong ngành công nghiệp hàng không.

Tên của Raskova bao phủ bởi huyền thoại, và hàng trăm phụ nữ từ khắp mọi miền đất nước đã đáp lời kêu gọi của chị.

Ngay sau đó, người ta gọi về Moskva một số nữ phi công của chúng tôi. Những người đầu tiên lên đường là Valerya Khomyakova, Olga Sakhova, Maria Kuznetsova, Raisa Belyaeva, những người có nhiều kinh nghiệm trong nghề bay. Chúng tôi, những nữ phi công trẻ, nhìn họ ghen tị và khi nói lời tạm biệt, van vỉ xin họ nói chỉ vài lời nho nhỏ vì chúng tôi.

Sự hình thành đơn vị nữ không quân ban đầu diễn ra tại Moskva. Liên tục đến với Raskova là các cô gái từ cơ sở sản xuất, từ các viện, các trường kỹ thuật. Đứng trong cùng hàng với những phi công giàu kinh nghiệm là những con người còn rất trẻ, nhưng có trái tim dũng cảm và tinh thần kiên cường. Hầu hết các cô gái không chỉ chưa bao giờ bay, mà thậm chí còn chưa biết máy bay. Trong những điều kiện đó rất khó thành lập được trong một thời gian ngắn các đơn vị quân đội có khả năng chiến đấu.

* * *

Hàng trăm đoàn viên Komsomol tập trung tại Trung ương Đoàn Komsomol ngày 10 tháng 10 năm 1941. Một hàng dài xếp hàng tới chỗ bộ phận nhân sự.

Ekaterina Ryabova, lúc đó là sinh viên Đại học Moskva, kể với tôi sau này:
Chúng tôi đến Trường Đoàn Komsomol. Ở đó họ bắt đầu thuyết rằng vào quân đội là rất gian khổ, thậm chí vượt quá sức chịu đựng. Sau đó họ liên tục quan tâm đến việc chúng tôi đi, bỏ lại các bậc cha mẹ ở nhà có khó khăn không. Những người lưỡng lự ngay lập tức bị xóa khỏi danh sách ... Tôi tỏ ra cương quyết và sẵn sàng chịu đựng bất kỳ gian khó nào, chỉ cần được ra mặt trận. Những người còn lại trong danh sách được mời đến Trung ương Đoàn Komsomol. Tại đây người ta cũng không khuyến khích. Tuy nhiên, những người vẫn vững vàng sẽ được giữ lại. Người ta ghi danh chúng tôi là "những quân khí viên" và nói rằng người chỉ huy sẽ là Marina Raskova. Không ai biết "những quân khí viên" là gì, nhưng ngay lập tức đồng ý ...

Điểm tập hợp đơn vị nữ không quân tân lập là Học viện Không quân mang tên Zhukovsky. TU Đoàn Komsomol gửi đến đây các cô gái gần như từ khắp nơi trên đất nước, từ hậu phương xa xôi cho đến từ các đơn vị đang ngoài mặt trận, các nữ phi công đến đây phải hình thành nên hạt nhân chiến đấu của trung đoàn nữ không quân.
* * *

Tôi vẫn đang tham gia vào việc đào tạo các phi công cho quân đội. Từ các bạn gái đầu tiên gia nhập đơn vị nữ không quân chẳng thấy có tin tức gì về. Tôi đã khá thất vọng. Duzhnov Matsnev mỗi khi gặp chỉ nhún vai, làm cho tôi hiểu rằng họ không thể giúp đỡ tôi được gì. Cuối cùng bức điện chờ đợi bấy lâu đã đến: "Chechneva được phái đến thuộc quyền Raskova".

Tôi đi đến Engels.
Thành phố Engels. Tại đây bắt đầu tình bạn của tôi với rất nhiều cô gái, với những người mà sau đó chúng tôi cùng đi với nhau một chặng đường dài trong chiến tranh. Hầu hết các cô gái (ở đây chỉ nói đến những người sau này trở thành quân nhân trung đoàn của chúng tôi) đã quen biết nhau - hoặc gặp nhau từ trước, hoặc cùng học với nhau. Nadia Popova, Larisa Rozanova, Sonia Burzaeva, Katya Piskareva trước chiến tranh đã tốt nghiệp trường hàng không Kherson của Osoaviakhim và làm phi công-giáo viên hướng dẫn. Sima Amosova, Dina Nikulina, Olga Sanfirova, Vera Tikhomirova đã bay trên các tuyến đường bay thời bình của HKDD. Nhiều nhất là nhóm dân Moskva. Irina Rakobolskaya, Anya Elenina, Katya Ryabova, Zhenya Rudneva, Dusya Pasko, Rufa Gasheva, Polina Gelman, Lelia Radchikova là các sinh viên Đại học Tổng hợp Moskva. Galia Dokutovich, Natasha Meklin và Raia Aronova đã học tại học viện hàng không. Còn Tanya Sumarokova và Katya Dospanova chuẩn bị trở thành bác sĩ.

Vừa mới đến đơn vị nữ không quân tân lập, trong tôi lại thức dậy giấc mơ cũ trở thành một phi công tiêm kích. Tôi cảm thấy cần có được một cuộc hẹn với Raskova - và tôi sẽ có thể xin chị ấy ủng hộ yêu cầu của tôi.

Cuộc gặp với Raskova diễn ra sớm hơn tôi tính. Một lần, đi bộ dọc hành lang, tôi nghe những lời nói với tôi:
- Bạn cũng ở đây à? Nào, xin chào, cô bạn phi công tiêm kích!

Tôi quay lại. Khuôn mặt dễ thương và cởi mở quen thuộc, cặp mắt dịu dàng và sáng rỡ sthông minh, nét kẻ lông mày dứt khoát cương quyết, vầng trán cao đẹp đẽ, tóc chải phẳng lật ra sau, và búi lại thành một búi tóc căng phồng.
- Marina Mikhailovna! Đồng chí thiếu tá, - tôi lập tức sửa ngay - phi công-huấn luyện viên Chechneva có mặt thuộc quyền điều động của đồng chí.
Raskova mỉm cười và chìa tay cho tôi.
- Rất vui được gặp bạn. Bạn đã lớn lên, đã trưởng thành. Tốt. Nào, hãy vào chỗ tôi - chị nói, mở cửa phòng làm việc.

Marina Mikhailovna hỏi tôi hồi lâu về công việc trong quá khứ. Biết tôi đã bay đêm, chị nhướng mày ngạc nhiên:
- Thế cơ à? Thật tuyệt, chúng tôi đang thực sự cần những phi công như vậy.
- Để cho LLPK ư? - tôi vui mừng hỏi, nghĩ ngay đến không quân tiêm kích.
- Không chỉ cho LLPK. - Raskova dừng lại và đột nhiên đề nghị: - Bạn có muốn bay đêm trên những chiếc máy bay ném bom tầm ngắn không?
Tôi chưa lập tức hiểu lời chị.
- Thế có loại máy bay như vậy sao?
- Chắc chắn rồi. Và bạn biết rõ chúng đấy, chỉ là chưa đoán ra thôi. Nó chính là chiếc U-2 của bạn.

Khuôn mặt tôi nghệt ra.
- Sao nào, thật đáng thất vọng. Một công việc rất thú vị. Sẽ thành lập một trung đoàn đánh đêm, trang bị U-2. Mục đích của nó - yểm trợ trực tiếp cho bộ đội mặt đất trên tiền duyên. Khả năng cơ động tốt của loại máy bay này, tính đơn giản trong sử dụng, dễ điều khiển sẽ cho phép nó thực hiện các hoạt động như vậy, mà các máy bay tốc độ cao hoặc máy bay hạng nặng nói chung không phù hợp. Ví dụ, ném bom ở độ cao thấp các hỏa điểm của kẻ thù, ném bom hậu phương gần của chúng và liên lạc, trinh sát. Rất nguy hiểm, nhưng thú vị! Tôi không vội cần bạn trả lời. Hãy suy nghĩ kỹ, và sau đó hãy đến với tôi.

Tôi đồng ý không chút do dự, vì bị lôi cuốn bởi câu chuyện của chị. Và chỉ khi tôi ra ngoài cửa, tôi mới buồn bã nhớ lại những chiếc máy bay tiêm kích. Nhưng tôi không khó chịu. Trước mặt tiền tuyến đang chờ tôi. Và đó nói cho cùng là điều quan trọng nhất ...

* * *

Nhóm hình thành các đơn vị không quân nữ ở thành phố Engels được liệt kê với tư cách là đơn vị hàng không № 122. Người bổ sung tiếp tục tới đơn vị. Thông qua hội đồng tuyển chọn có đến hơn một ngàn cô gái.

Tới Engels toàn bộ nhân viên được chia thành các nhóm. Nhóm bay gồm các nữ phi công đến từ các câu lạc bộ HK và hãng HKDD, nhóm hoa tiêu - các hoa tiêu đã có bằng tại trường HK của Osoaviakhim và các sinh viên đại học. Những người có học vấn về kỹ thuật, được ấn định vào các nhóm cơ khí HK về vũ khí HK, máy móc HK và khai thác sử dụng.

Theo mệnh lệnh của Tư lệnh Không quân đất nước, tướng A.A.Novikov, trong thời hạn sớm nhất cần thành lập không phải một, như dự tính ban đầu, mà là ba trung đoàn KQ: trung đoàn tiêm kích 586, trung đoàn ném bom 587 và trung đoàn ném bom đêm 588. Số hiệu trung đoàn đã tồn tại, nhưng cho đến tháng 2 năm 1942 bản thân các trung đoàn trên mới được liệt kê trong mệnh lệnh. Sẽ phải chọn người theo kiến thức, kinh nghiệm, khả năng của họ, đào tạo họ, giúp họ làm chủ khí tài quân sự, và quan trọng nhất - giáo dục lại họ, để chấm dứt các tâm trạng kiểu thời bình, thiết lập trật tự quân sự, thấm nhuần kỷ luật nghiêm ngặt. Đáng chú ý về vấn đề này là mệnh lệnh đầu tiên kể từ khi lưu trú tại Engels "Mệnh lệnh của ban tham mưu các trung đoàn đặc biệt ngày 25 Tháng 10 năm 1941", nói thế này:

Tôi ra lệnh cho tất cả các quân nhân: trước khi tắm hãy đi cắt tóc.
Tôi quy định cho tất cả quân nhân một kiểu tóc duy nhất: phía trước - ngang tai, và phía sau cắt kiểu polka - ngang gáy.

Chỉ được để các kiểu tóc khác khi có sự cho phép của cá nhân tôi trong từng trường hợp riêng.
Chủ trì tập trung các trung đoàn đặc biệt, Anh hùng Liên Xô thiếu tá Raskova.


Marina Mikhailovna Raskova đã phải bắt đầu từ những điều nhỏ nhặt như thế đấy.

* * *

Các khóa học các chuyên ngành kỹ thuật-bay trong thời bình dự kiến diễn ra ba năm, bây giờ phải hoàn thành trong một khoảng thời gian bị ép lại cực ngắn. Nếu xét đến việc không ai trong số chúng tôi từng quen thuộc với bất kỳ chiến thuật, công tác hoa tiêu nào, không biết gì về trang bị ném bom và bắn súng, cũng không quen với các kỷ luật khác, mà thiếu kiến thức về chúng không thể xoay sở được trong tình huống chiến đấu, ta có thể tưởng tượng gánh nặng lớn đến nhường nào đã được đặt trên vai của các cô gái-tình nguyện viên.

(http://funkyimg.com/i/21gXF.jpg)
Mệnh lệnh của I.V.Stalin về thành lập các đơn vị nữ KQ (http://allaces.ru/cgi-bin/s2.cgi/sssr/docs/nko/0099.dat#top)

Đặc biệt khó khăn là đối với các hoa tiêu. Trước chiến tranh, các nữ hoa tiêu trong hàng không rất ít. Mà khi đó, trong năm bốn mươi mốt, các cô gái, phần lớn hôm qua còn là học sinh nữ và công nhân nữ, trong một thời gian ngắn sẽ phải làm chủ các công việc về dẫn đường hàng không và ném bom. Nhóm hoa tiêu đông quân nhất, sự quan tâm của tổ chức Đảng và Đoàn Komsomol cũng như các cán bộ chính trị là nhằm vào đây.

Thời gian làm việc là 13 giờ một ngày, và thêm vào đó, sau bữa ăn trưa phải học mã Morse - Polina Gelman nhớ lại. - Nhưng chúng tôi ở không có gì mà không vượt qua, vì tất cả chúng tôi đến đây một cách tình nguyện, không ai bắt phải ra mặt trận, do đó tất cả các nỗ lực giành cho học tập, mong muốn càng nhanh càng tốt để được ra tiền tuyến.

Làm việc nhiều, nhưng không ai phàn nàn. Mặc dù chúng tôi chưa tuyên thệ quân sự, mỗi người vẫn thầm coi mình là một người lính từ giờ đầu tiên của chiến tranh. Cảm giác này được các đồng chí lớn tuổi - các chỉ huy và cán bộ chính trị, duy trì cẩn thận.

Người tổ chức huấn luyện chiến đấu, cố vấn tinh thần của các phi công nữ là thiếu tá M.M. Raskova. Chị dành rất nhiều thời gian kiểm tra học tập, tham gia các kỳ thi, kiểm tra trong nhiều môn học, không chỉ dạy, mà còn thường xuyên tự mình nghiên cứu.

* * *

... Ngày và đêm máy bay gầm rú trên phi trường. Mặt trận đang cần các phi công. Do đó, chúng tôi không tiếc sức, thao luyện đi thao luyện lại các chuyến bay chiến đấu.
Chúng tôi không dễ dàng và không ngay lập tức lấy được các đường bay xác định, các đường tiếp cận mục tiêu trong bóng tối dày đặc, khi bầu trời phủ đầy mây, và không thể nhìn thấy cả các ngôi sao, cả kính ngắm, các cuộc ném bom có ngắm ném trên thao trường, chỉ được rọi sáng vài phần giây bởi các trái bom pháo sáng.

Một lần tôi trở về từ một chuyến bay đêm trong tâm trạng chán nản - hạ cánh rất không thành công, suýt nữa làm hỏng máy bay.
Sau khi nhảy xuống đất, tôi tức giận bảo người bạn gái:
- Đừng tắt đèn đêm của tớ! Cậu thấy đấy, hạ cánh kém thế nào ...
- Cần phải làm thế để đi ra, Chechneva! - Tôi nghe thấy một giọng nói lanh lảnh của Raskova vang lên trong bóng tối.
- Dẫu sao tôi cũng không đi ra! - Tôi bướng bỉnh đứng tại chỗ của mình. Marina Mikhailovna nhìn tôi chăm chú.
Tôi cụp mắt xuống.
- Chuyện cô ấy sẽ qua thôi, thưa đồng chí thiếu tá, - Nadia Popova đỡ cho tôi.
- Vậy, Chechneva, hãy bình tĩnh đi, đừng bực bội ... Ngẩng cao đầu lên! Sau chiến tranh, tôi muốn xem cậu có bao nhiêu huân chương. Sẽ không ít hơn hai!
- Chắc vậy, và sẽ là hai!
Raskova phá lên cười:
- Ba cũng có thể chứ. Còn nếu ít hơn hai đừng có đến!...

Marina Mikhailovna quay đi và bước sang chỗ máy bay khác. Tôi nhìn thấy chị với một sự nhẹ nhàng đáng ghen tị nhảy lên trên cánh máy bay và bắt đầu giải thích một điều gì đó cho cô phi công.

Raskova luôn như vậy. Tại bất kỳ thời gian nào trong ngày chị luôn ở bên cạnh các cô gái của mình: phân tích chuyến bay, bay, nói chuyện với mọi người, ra các hướng dẫn, chăm chú quan sát cấp dưới, dạy họ. Chị dường như không bao giờ nghỉ ngơi, trong mọi trường hợp chỉ luôn luôn thấy chị đang làm việc. Chúng tôi không nhận thấy ở Marina Mikhailovna bất cứ dấu hiệu nào của sự mệt mỏi. Chị biết cách kiểm soát bản thân. Chúng tôi tất cả đều nghĩ rằng người phụ nữ này sở hữu một nguồn năng lượng chưa từng có.
........


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 21 Tháng Tám, 2015, 12:28:13 am
(tiếp)

* * *
Khó khăn không phải chỉ riêng tôi. Zhenya Rudneva thú nhận trong nhật ký:
Tôi ngồi ở máy điện báo mã Morse và buồn bã. Không có gì hay với tôi cả: với các con số vẫn thế nào đó, còn với các chữ cái tôi không thể xử lý được, chúng tôi đang nhận qua radio, chỉ bằng tai. Bây giờ chúng tôi học các ký hiệu liên lạc vô tuyến, vì vậy tôi có thể sẽ luôn luôn báo cáo rằng tôi nghe rất kém, không hiểu và phát còn chậm hơn. Và đã xảy ra chuyện thật thú vị: những âm thanh ấy ngay lập tức tôi đã làm chủ được. Ôi tốt rồi, tôi đã xử lý được.

Các giờ học hàng ngày đòi hỏi sự dồn sức tối đa. Và ở đây còn có những lo lắng thường xuyên, trực xuất kích trong đêm mưa tuyết, sưởi ấm động cơ trước khi cất cánh, những cuộc tiễn đưa ngắn và sự chờ đợi hồi lâu những người bạn gái từ các chuyến bay huấn luyện trở về...

(http://img-fotki.yandex.ru/get/6109/121447594.e4/0_873f8_d38a4185_XL.jpg)
Đội ngũ kỹ thuật viên của trung đoàn nữ KQ ném bom đêm 588 (trung đoàn cận vê 46 Taman), năm 1943. (http://www.liveinternet.ru/users/alla-rikova/post219662853/)

Mùa đông năm đó khắc nghiệt bất thường. Sương giá bốn mươi độ âm. Tất cả đều nếm trải - cả chúng tôi, các nữ phi công và hoa tiêu. Nhưng đặc biệt kiên cường là các nhân viên kỹ thuật và quân khí. Trong thời gian bay huấn luyện suốt từ bình minh đến hoàng hôn, các cô gái đều ở tại sân bay. Họ chuẩn bị máy bay trong mưa tuyết và bão tuyết. Những khuôn mặt đông cứng trước gió, những đôi tay cứng đờ vì kim loại ngay cả trong đôi găng tay ấm, nhưng những người trợ giúp trung thành của chúng tôi chưa đi khi nào họ chưa kiểm tra xong mỗi con ốc, vít. Và tôi không nhớ có trường hợp nào vào thời đó, động cơ không làm việc do lỗi kỹ thuật ở máy bay. Chính ở đây, trong thử thách khắc nghiệt, đã nảy sinh tình bạn thắm thiết giữa chúng tôi với các chuyên gia phục vụ mặt đất và niềm tin tưởng vững chắc vào họ.

Đến đầu tháng 2 năm 1942 trình độ đào tạo của các thành viên đơn vị hàng không nữ cho phép chuyển sang điểm mấu chốt - hình thành, đào tạo và thành lập các trung đoàn nữ không quân.

Do tính chất của công tác huấn luyện chiến đấu mà sự hình thành các trung đoàn đã diễn ra trong các thời hạn khác nhau. Việc đầu tiên là người ta thànhị  lập trung đoàn nữ KQ tiêm kích 586, người chỉ huy được bổ nhiệm làm trung đoàn trưởng là một trong những phi công giàu kinh nghiệm nhất của nước ta thiếu tá Tamara Aleksandrovna Kazarinova. Trung đoàn được biên chế trang bị loại máy bay tiêm kích mới nhất vào thời điểm đó do A.S.Yakovlev thiết kế - tiêm kích Yak-1. Trung đoàn tiêm kích được kiện toàn và huấn luyện trước các trung đoàn khác, và nó nhập vào biên chế sư đoàn 144 của LL Phòng không thành phố Saratov. Ở đó, nó được một thử lửa, ở đó bắt đầu con đường chiến đấu của nó.

Trung đoàn thứ hai được thành lập là trung đoàn không quân ném bom đêm 588, tất cả các vị trí đều do phụ nữ đảm nhiệm. Nó gồm hai phi đội. Được giao nhiệm vụ chỉ huy trung đoàn là Evdokia Davydovna Bershanskaya.

(http://airaces.narod.ru/woman/bershansk.jpg)
Trung tá trung đoàn trưởng trung đoàn nữ KQ ném bom đêm cận vệ Taman 46, Evdokya (Bershanskaya) Botcharova (1913-1982)

Là một phi công xuất sắc, chị đã làm việc nhiều năm ở trường hàng không Bataisk, biết cách nhanh chóng có tiếng nói chung với mọi người. Ngay trong năm 1937, do công tác giảng dạy thành công mà Bershanskaya được trao tặng Huân chương "Danh dự".

Trước chiến tranh, Evdokia Davydovna làm việc trong đơn vị ứng dụng đặc biệt. Đơn vị này phục vụ các nông trang tập thể, bay trên các tuyến chở khách và thư tín, đồng thời là đại biểu Hội đồng thành phố Krasnodar và là đảng ủy viên thành phố, chị đã tiến hành công tác chính trị-xã hội rộng lớn.

Thiếu tá M.M.Raskova và thượng úy E.D.Bershanskaya gắn bó với nhau bằng một tình bạn mạnh mẽ và chân thành. Ngay từ đầu, Marina Mikhailovna đã tiếp Evdokia Davydovna một cách giản dị và đầm ấm, như thể họ là những người quen cũ. Hai người nữ đảng viên cộng sản đó là một ví dụ mẫu mực cho tất cả các cô gái trẻ chúng tôi.

Tham mưu trưởng trung đoàn là cựu sinh viên năm thứ tư khoa Toán Cơ Đại học Tổng hợp Quốc gia Moskva Irina Rakobolskaya.

(http://bg.ru/media/upload/images/uold/08/42/0842b921a41a2a6583fac74308876dff.jpg)
Tham mưu trưởng trung đoàn nữ KQ ném bom đêm hạng nhẹ 588 (trung đoàn cận vê 46 Taman) Irina Viatcheslavovna Rakobolskaya (1919-...). Sau này là tiến sĩ toán lý bộ môn tia vũ trụ và vật lý vũ trụ khoa Vật lý MGU. (http://bg.ru/society/irina_rakobolskaya-11522/)

Tôi được bổ nhiệm tham mưu trưởng, - chị nhớ lại sau đó. - Chỉ huy trung đoàn E.D. Bershanskaya đi đến với huân chương trên ngực và cấp bậc thượng úy - và tôi đến với chị để làm tham mưu trưởng của chị! Lúc đó tôi chưa phong quân hàm, thậm chí không hình dung được mình phải làm gì. Tôi nhớ, là cần làm giấy nhận xét phong quân hàm, nhưng do lần đầu tiên mới làm, cho nên tôi đã phải viết lại chúng đến năm lần. Trong mệnh lệnh số 1 đã xác định rằng chúng tôi đã bắt tay vào thực hiện nhiệm vụ. Mệnh lệnh thứ hai phê chuẩn việc phân phối quân nhân về các kíp bay và bổ nhiệm các cán bộ phụ trách. Lúc đầu chúng tôi cảm thấy lúng túng: mới đây tất cả còn trên cùng một vị trí như nhau, nay đột nhiên tôi - là cán bộ chỉ huy. Tôi đi vào phòng - tất cả phải đứng lên, phải xin phép, và v.v. Không phải ngay một lúc mà tôi làm quen được với hoàn cảnh mới, và đã làm chủ được tình thế một cách hoàn toàn không dễ dàng.

Cựu kỹ sư trường bay Irkutsk Sophia Ozerkova, một chuyên gia có tài năng, hiểu biết công việc của mình, được bổ nhiệm làm kỹ sư của trung đoàn. Chị đã trực tiếp đào tạo các kỹ thuật viên ngay bên máy bay, là người rất công bằng và đòi hỏi cao, không cho phép nhượng bộ. Bởi vì độ tin cậy của máy bay trong chuyến bay phụ thuộc vào việc kỹ thuật viên làm việc trên mặt đất như thế nào. Dưới quyền Sophia Ozerkova có các chuyên gia giàu kinh nghiệm như kỹ sư của trung đoàn phụ trách vũ khí trang bị Nadezhda Strelkova và kỹ sư phu trách thiết bị điện chuyên ngành Klavdya Ilyushina. Hoa tiêu của trung đoàn là Sophia Burzaeva. Họ, tất cả, đều là các chuyên gia xuất sắc trong lĩnh vực của họ và là những người chỉ huy có uy tín.

Đặc biệt chúng tôi rất vui mừng khi biết rằng chính ủy được bổ nhiệm là Evdokia Yakovlevna Rachkevich. Từ rất sớm, giữa chúng tôi với nhau đã bắt đầu gọi bà là "mẹ chúng ta". Nghe thì có vẻ mùi mẫn, nhưng Rachkevich thực sự đối với chúng tôi không chỉ là một người chỉ huy, một đồng đội lớn tuổi, mà còn là một con người thân yêu, gần gũi như ruột thịt. Với bà, chúng tôi có thể chia sẻ bất kỳ suy nghĩ nào dù sâu kín nhất, cũng như bất kỳ cảm xúc nào của mình. Chúng tôi tin tưởng thổ lộ với bà, thậm chí cả những bí mật của mình.

(https://upload.wikimedia.org/wikipedia/ru/thumb/e/e6/Rachkevich_IJ.jpg/200px-Rachkevich_IJ.jpg)
Chính ủy trung đoàn ném bom đêm cận vệ 46 Taman trung tá E.Ya.Rachkevich (1907-1975)

Evdokia Yakovlevna có kinh nghiệm sống tuyệt vời. Là con gái của một gia đình nghèo, bà sớm trải qua những khó khăn và đau buồn. Ngay từ thời thơ ấu, Dusya đã nổi bật bởi tính cách mạnh mẽ một cách đáng kinh ngạc đối với một đứa trẻ. Cô gái mười một tuổi được các chiến sĩ du kích tin cậy, giao cho một số nhiệm vụ. Cha bà, vì sợ bị trả thù, đã la mắng con gái. Nhưng Dusya không từ bỏ công việc của mình. Có một kẻ phản bội đã tố cáo với quân Petliura về đứa trẻ. Một lần những tên cướp đột nhập vào nhà cha mẹ cô, đập phá tanh bành, và bắt cô bé mang đi. Trong khi thẩm vấn, cô bé bị đánh đập, họ cố gắng tìm hiểu cô bé biết gì về quân du kích. Dusya im lặng.

Hai tuần sau đó, quân du kích giải thoát được cô bé phụ tá trẻ của mình. Dusya trở về nhà. Cha mẹ cấm cô giao tiếp với quân du kích. Nhưng cô gái lần này cũng không nghe. Chẳng bao lâu sau, cô bé đã giúp đỡ du kích theo dõi và tiêu diệt băng đảng phỉ.

Năm 1920 Dusya mãi mãi rời khỏi mái nhà ruột thịt và trở thành con nuôi của một chi đội biên phòng. Ở đây cô bé vào đoàn TN Cộng sản, sau đó vào Đảng, từ đó đến Kiev học khoa pháp lý. Sau khi tốt nghiệp, cô bắt đầu làm thẩm phán tại khu Kamenetz-Podolsk, nơi trong nhiều năm cô được bầu làm ủy viên Văn phòng Khu ủy.

Kể từ thời điểm đó, Evdokia Yakovlevna liên tục ở trong dòng chảy sôi động của cuộc sống. Năm 1932, chị vào phục vụ trong quân đội tại lực lượng kỵ binh. Sau đó, nhận được lệnh đi học tại Học viện Chính trị quân sự mang tên V.I.Lenin, tốt nghiệp xuất sắc và trở thành nữ giáo viên của trường thông tin quân sự tại Leningrad. Chiến tranh bùng nổ khi bà đang học dự bị Học viện. Đảng gửi người cộng sản Rachkevich đi làm chính ủy đoàn chuẩn bị thành lập đơn vị nữ không quân. Sau đó, bà trở thành chính ủy trung đoàn máy bay ném bom đêm.

Từ những ngày đầu tiên làm việc ở trung đoàn Evdokia Yakovlevna đã cố gắng đưa vào tập thể của chúng tôi một bầu không khí thân mật và thật sự chân thành. Và bà đã thành công.

(http://tamanskipolk46.narod.ru/images/cbe86a4298f8.jpg)
Seraphima Tarasovna (Taranenko) Amosova (1914-1992), người Siberia. Thợ tiện bậc 4, phi công HKDD chuyên bay tuyến Moskva-Irkutsk trước khi gia nhập quân đội. Thiếu tá cận vệ trung đoàn phó trung đoàn nữ KQ ném bom đêm cận vệ 46 Taman, phụ trách huấn luyện bay. (http://tamanskipolk46.narod.ru/p77aa1.html)

Ngay sau đó, chúng tôi được phân về các kíp phi hành đoàn. Cùng với hoa tiêu Olga Kliueva tôi nhập vào phi đội của cựu nữ phi công hạm đội HK dân dụng Seraphima Amosova. Trong con người Amosova tất cả đều tràn đấy sự khoan hậu. Ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên người ta đã đoán ra sức mạnh nội tâm tuyệt vời trong chị. Không nhiều lời, điềm đạm, Amosova không bao giờ cao giọng, không bị chọc giận, làm việc không hấp tấp. Đôi mắt xám đẹp tuyệt của chị luôn luôn bình thản và chăm chú, nhưng đôi khi cặp mắt ấy trở nên lạnh lùng, sắc sảo. Chỉ có đôi mắt phát lộ tâm trạng của chị, còn bản thân chị vẫn tiếp tục điềm đạm, chín chắn như cũ. Và tất cả chúng tôi, các cấp dưới của chị biết rõ: bạn mắc lỗi đi - chớ có chờ đợi lòng thương xót của người chỉ huy.

(http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/10.jpg)
Hoa tiêu Olga Kliueva (http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/ill.html)

Chính ủy phi đội là Karpunina Ksenia, con gái của một người vô sản có truyền thống. Cha cô chiến đấu trong sư đoàn của sư trưởng Schors và hy sinh ngoài mặt trận, khi Kxenia chỉ mới bắt đầu lẫm chẫm. Vì vậy, cuộc sống đã sớm dạy cho cô những bài học khắc nghiệt của nó. Đến khi tới với chúng tôi, Karpunina, mặc dù tuổi đời còn trẻ, đã có kinh nghiệm sống dày dặn và vững chắc của người đoàn viên Komsomol và đảng viên.
.......


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 21 Tháng Tám, 2015, 09:45:21 pm
(tiếp)

* * *

Vậy là tổ chức trung đoàn đã hình thành. Một lần nữa lại bắt đầu quá trình học tập căng thẳng. Chúng tôi được học cách bay trong chùm tia các đèn chiếu PK, nắm vững nghệ thuật cơ động chống hỏa lực pháo phòng không, ném bom từ các độ cao thấp.

Trung đoàn chúng tôi được trang bị các máy bay nhỏ, khiêm tốn U-2, quen thuộc với nhiều phi công tại các câu lạc bộ HK. Chiếc máy bay này được sáng tạo bởi nhà thiết kế máy bay xuất sắc của Liên Xô Nikolai Polikarpov vào năm 1927, đi vào khai thác năm 1928. Trải qua thời gian từ đó, ngành công nghiệp hàng không Liên Xô đã sản xuất nhiều loại máy bay có các mục đích đủ loại khác nhau, được cải tiến hoàn thiện từ năm này sang năm khác. Còn U-2 tiếp tục sự phục vụ của nó, đạt được sự phổ biến ngày càng lớn hơn. Nó được thiết kế cho các chuyến bay huấn luyện tại các câu lạc bộ hàng không, nhưng lại có ứng dụng rộng rãi trong nền kinh tế quốc dân, và trong thời gian chiến tranh là máy bay tải thương, liên lạc và chiến đấu - máy bay ném bom ban đêm hạng nhẹ. Tốc độ bay của U-2 nhỏ, tải trọng cũng nhỏ. Nhưng đặc biệt dễ điều khiển, và quan trọng nhất, không đòi hỏi sân cất cánh và hạ cánh kích thước lớn.

(http://www.airpages.ru/img/ru/polikarpov.jpg)
Nikolai Nikolayevich Polykarpov (1892-1944)

Trong thời gian chiến tranh, dưới các mặt phẳng cánh và thân máy bay người ta gắn sáu đến tám giá bom, còn dây cáp từ khóa được dẫn vào buồng lái của phi công và hoa tiêu. Máy ngắm để ném bom thậm chí còn đơn giản hơn - ở phía thân bên phải của buồng lái hoa tiêu người ta đặt hai thanh kim loại phủ hợp chất phát sáng, còn tại mặt phẳng bên cánh phải máy bay người ta đặt một cửa sổ nhỏ để quan sát mặt đất trong lúc ném bom. Tuy nhiên, tốc độ thấp, không có vỏ giáp, trần bay thấp chỉ cho phép sử dụng máy bay vào ban đêm.

Người ta đặt tên cho kẻ lao công chiến tranh này như thế nào: các phi công của các trung đoàn U-2 - gọi là vua trên không, bộ binh - chuẩn úy tiền tuyến, các du kích - người trồng rau hay lõi ngô, còn bọn Hitler sợ U-2 không ít hơn so với các loại máy bay khác, mặc dù chúng gọi nó là "gỗ dán Nga".

Thật khó để liệt kê tất cả những gì mà con ốc sên trên trời này làm được trong những tháng ngày chiến tranh - phi công cấp 1 đại tá B.Stepanov nhớ lại. - Để vận chuyển thương binh, bay trinh sát, kiểm tra ngụy trang pháo binh của ta, liên lạc điện thoại và điện báo, còn khi cần thiết thì nhổ dây "mèo", thả truyền đơn và luôn luôn sẵn sàng số 1 để cất cánh ném bom. Với chức năng vận chuyển hành khách, nó đã chở trên mình cả binh lính và các nguyên soái, các ủy viên hội đồng quân sự, các tư lệnh tập đoàn quân và phương diện quân, các phóng viên, các y tá và bác sĩ, nhà văn, nghệ sĩ, sĩ quan liên lạc và sĩ quan tùy tùng.

Chiếc máy bay khiêm tốn và không đỏng đảnh này, các quân nhân trung đoàn chúng tôi sẽ phải làm chủ. Làm chủ không phải chỉ phần vật chất của nó, mà còn cả chiến thuật đa dạng trong sử dụng. Ở đây mới phát hiện ra hầu hết các nữ phi công chưa bao giờ bay đêm, còn những người đã bay đêm có số giờ bay rất ít. Rất cần có được kinh nghiệm bay đêm.

Nhằm mục đích này, các nữ phi công đã học lái máy bay ban ngày, trong khi không nhìn mặt đất, trong kabin đóng kín, chỉ tuân theo khẩu lệnh của các phi công giàu kinh nghiệm và chỉ thị trên thiết bị đảm bảo bay. Trung đoàn trưởng, thượng uý E.D.Bershanskaya bay cả ngày và đêm với mỗi người chúng tôi. Sau đó người ta đưa vào tham gia trong các chuyến bay các hoa tiêu trẻ mới được đào tạo, những người đã biết lý thuyết, nhưng chưa có kinh nghiệm bay. Trung đoàn trưởng quan tâm nhiều đến các hoa tiêu, chị đã mang tất cả các hiểu biết và kỹ năng của mình vào công việc đào tạo họ.

* * *

Ngày 8 tháng 2 năm 1942, diễn ra cuộc họp tổ chức đảng đầu tiên tại trung đoàn. Đến thời điểm này trung đoàn đã có 17 đảng viên chính thức và dự bị. Tại cuộc họp đã tổ chức bầu đảng ủy, bí thư đảng ủy là chính trị viên Maria Ivanovna Runt. Ngày hôm sau có cuộc họp tổ chức đoàn Komsomol đầu tiên. 82 nữ đoàn viên Komsomol nhất trí bầu bí thư tổ chức đoàn TNCS của trung đoàn là Olga Fetisova, người đã từng làm việc tại Ủy ban Trung ương Đoàn Komsomol Liên Xô.

Những nữ đảng viên cộng sản và nữ đoàn viên Komsomol chiếm phần lớn số quân nhân trung đoàn, và không phải ngẫu nhiên, trung đoàn của chúng tôi đã được coi từ ngày đầu là trung đoàn đảng viên và đoàn viên Komsomol.

Các tổ chức Đảng và đoàn Komsomol dưới sự lãnh đạo của chính ủy trung đoàn Rachkevich, đã giúp ban chỉ huy thực hiện nhiệm vụ chính: dạy các quân nhân kỹ thuật lái trong điều kiện đêm tối và khai thác sử dụng phần vật chất máy bay một cách thành thạo, liên kết chúng tôi trong một tập thể thân thiện, với một kỷ luật quân sự mạnh mẽ và thái độ có ý thức đối với công việc. Và chúng tôi đã đạt được những kết quả tuyệt vời.

* * *

Cuối tháng hai, diễn ra một sự kiện quan trọng trong cuộc sống của trung đoàn: những người trong số chúng tôi chưa làm lễ tuyên thệ quân sự, ngày hôm đó đã tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, với nhân dân mình. Buổi lễ trọng thể này được tổ chức tại hội trường lớn. Chúng tôi xếp thành những hàng quân đều đặn thẳng như kẻ chỉ. Có đội cầm cờ. Phút im lặng đã tới, sau đó là một tiếng vang mạnh mẽ lan khắp ngôi nhà bởi hàng trăm tiếng nói lặp lại những lời tuyên thệ.
Cùng với tất cả mọi người tôi cất lên lời:
... Khi đứng vào hàng ngũ Hồng quân công nông, tôi tuyên thệ và long trọng thề ...

Vậy là bây giờ chúng tôi đã trở thành các chiến sĩ thực sự. Bây giờ chúng tôi đã gắn bó bằng nghĩa vụ quân sự và danh dự không thể phá hủy với những người đã đổ máu mình trên chiến trường. Và nếu chúng tôi vi phạm lời thề, hãy để sự khinh bỉ của toàn xã hội và cái chết trừng phạt mỗi người chúng tôi.

Một lần sau một chuyến bay theo hành trình khó khăn trong thời tiết xấu Sima Amosova đến gần tôi.
- Em cần nghỉ ngơi cho tốt, - chị nói trìu mến, nhưng chắc nịch. - Ngày mai sẽ phải tập ném bom trên thao trường... Nhân thể chị hỏi, nhiệm vụ ngày hôm nay em thực hiện thế nào? - Phi đội trưởng tỏ ra quan tâm.

Tôi không hài lòng với mình và thật thà thú nhận điều này.
- Dũng cảm không nằm ở chỗ từ lần đầu tiên đã đánh trúng mục tiêu, - Amosova nhận xét sau một lúc tạm dừng. - Người có ý chí dũng cảm ngay cả trong thất bại. Anh ta không nản chí mà trở nên dữ tợn hơn, cứng cỏi hơn. Anh ta học ngay từ những sai lầm. Và do đó có khả năng thực hiện bất kỳ nhiệm vụ nào.

(http://25.media.tumblr.com/tumblr_mejiceY4Fv1rg5m9yo1_500.jpg)
Trung đoàn phó Seraphima Amosova (ngoài cùng bên phải) giao nhiệm vụ chiến đấu cho các nữ phi công trung đoàn cận vệ 46 Taman trước một phi vụ. Năm 1943. (http://www.worldofwars.cz/topic/3328-no%C4%8Dn%C3%AD-%C4%8Darod%C4%9Bjnice-nachthexen-wt/)

Cần nói rằng tôi rất biết ơn người nữ chỉ huy của mình Sima Amosova vì những gì tôi được nghe, - nghĩa là không nói gì. Lúc đó, tôi chỉ cần những lời nói như vậy. Và nó gây nên chuyển động đáp trả của trái tim. Thật khó để truyền đạt những gì tôi đã trải qua. Nhưng kể từ thời điểm đó, mệnh lệnh của người chỉ huy đối với tôi không chỉ còn là công thức điều lệnh không thể bàn cãi. Toàn bộ ý nghĩa cuộc sống của tôi từ hôm nay trở đi nằm ở chỗ không phụ lòng người đã tin tưởng tôi trong những ngày chiến thắng cũng như những ngày thất bại.

Về mặt tâm lý, tất cả những điều đó rất phức tạp, nhưng đồng thời có thể dễ dàng giải thích. Thời thanh niên, luôn luôn có vẻ như bất kỳ thử thách nào cũng ở trên vai bạn. Cho đến tận khi bạn còn chưa chắc chắn rằng: chỉ mong muốn thôi không đủ! Cần ý chí, cần sự kiên trì, và lòng can đảm. Cuối cùng, là kinh nghiệm chiến đấu cơ bản nhất, cho phép những con chim con còn non trẻ trở thành những con đại bàng theo thời gian.

Tôi ghét những cuốn sách nhỏ làm ra vẻ hùng tráng giả tạo, trong đó chiến công không được thực thi, mà được rập theo một khuôn mẫu văn học giản đơn. Bao nhiêu bạn gái của chúng tôi đã mất, bao nhiêu lần chúng tôi đã ở trên bờ vực của cái chết, trước khi có được kỹ năng quân sự, kỹ năng mà cùng với các sửa đổi nhân các tai nạn không thể tránh khỏi của chiến tranh, đã xác định trước chiến thắng, mà không phải là chiến bại trong trận đánh.

Lao vào lưới lửa pháo phòng không, lưới lửa sẽ xé bạn ra từng mảnh khi bạn chưa đạt tới mục tiêu là một sự việc "anh hùng" giản đơn. Anh hùng đúng nghĩa là phải khéo léo đưa máy bay vượt qua lửa đạn, đánh trúng địch và bay trở về với quân mình, dù bị sứt mẻ: mỗi chiếc máy bay hồi ấy đều phải tính đếm. Còn nếu quả thực phải chết, nếu tình hình là tuyệt vọng, thì những người lính thực sự thậm chí bằng cái chết của mình cũng gây thiệt hại cho kẻ thù.

* * *

Mùa xuân năm bốn mươi hai đã đến. Tuyết sẫm lại và lún xuống trên những quả đồi. Ban ngày dưới mặt trời những giọt tuyết tan trong như pha lê rớt xuống gõ vang như trống. Gió ném rải bề bộn những đám mây dày đặc nặng trịch, giữa các đám mây ấy những ô cửa sổ màu thiên thanh ngày càng lấp lánh. Từ đó, ánh sáng và sự ấm ấp đổ xuống mặt đất đông lạnh. Nhưng mùa đông chưa chịu đầu hàng, nó rút lui từ từ, chậm chạp. Do thời tiết thường xuyên thay đổi, các nữ phi công và hoa tiêu cần phải cảnh giác. Tuy vậy rồi họ cũng không thoát khỏi sự xảo quyệt của nó.

Trung đoàn đã được chuẩn bị để gửi ra mặt trận. Đêm 09 tháng 3, toàn bộ các phi đội bay chuyến bay huấn luyện cuối cùng theo tuyến và tập ném bom. Trời đêm ấm áp. Sương treo lơ lửng trên mặt đất, quan sát chân trời rất kém. Nhưng có nhiều khó khăn đặc biệt không  tiên liệu được. Các nhà khí tượng dự báo thời tiết tốt, và chúng tôi an tâm cất cánh lên không trung.

Lúc đầu, mọi thứ diễn ra ổn thỏa. Nhưng khi chúng tôi bay được gần hết hành trình và chuyển sang giai đoạn thực hiện nhiệm vụ cuối cùng, thời tiết bỗng thay đổi đột ngột. Tầm nhìn hoàn toàn mất. Trong tình huống này, hai phi hành đoàn bị mất định hướng không gian và đã bị rơi.

(https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/f/f6/Vladimir_Putin_with_Anastasia_Popova-1.jpg) (https://upload.wikimedia.org/wikipedia/uk/3/3f/%D0%9D%D0%B0%D0%B4%D1%96%D1%8F_%D0%9F%D0%BE%D0%BF%D0%BE%D0%B2%D0%B0.jpg)
Anh hùng Liên Xô (1945), đại úy cận vệ (1945), công dân danh dự thành phố Donetsk Ukraina, trong 4 năm chiến tranh đã thực hiện 852 phi vụ xuất kích đánh địch, đại tá cận vệ dự bị Nadejda Popova (1921-2013) và TT Nga Putin trong buổi tiếp khách chính thức nhân lễ kỷ niệm 50 năm chiến thắng phát xít ngày 9 tháng 5 năm 2000 ở điện Kremli. Phục vụ quân đội đến 1952, sau đó chuyển ngạch dự bị với quân hàm thiếu tá, chuyển sang hoạt động xã hội trong các tổ chức CCB Soviet và LB Nga. Giải thưởng quốc gia Liên bang Nga "Olympia" về sự công nhận của xã hội với các thành tựu của phụ nữ năm 2005. (http://www.warheroes.ru/hero/hero.asp?Hero_id=1053)

Hy sinh đêm đó là bốn người bạn gái của chúng tôi: Lilya Tarmosina, Nadia Komogortseva, Anya Malakhova và Masha Vinogradova. Tất cả chúng tôi đều bị sốc bởi sự cố xảy ra, nhưng buồn nhất là Nadia Popova: ngay từ những ngày đầu tiên cô ấy đã kết bạn thân thiết với Lilya. Các cô gái đã ở cùng nhau cả trong lớp học, cả trong các chuyến bay, cũng như tại ký túc xá. Trong những giây phút rảnh rỗi, họ cũng ở bên nhau: Lilya thường ngồi bên cây đàn piano và Nadia Popova thì hát. Và Tarmosina cùng hoa tiêu của cô Nadia Komogortseva một người nổi bật bởi đức tính vô cùng khiêm tốn. Komogortseva là một vận động viên tuyệt vời, và đang chuẩn bị để trở thành một nhà toán học ...

Ngay sau chiến tranh, tôi đến thăm mẹ của người bạn gái đã hy sinh Anna Malakhova. Elena Ivanovna nói chuyện hồi lâu với tôi về thời thơ ấu của con gái, về quá trình học tập của cô ấy, về những bước đi đầu tiên trong ngành hàng không ...
Hai ngày sau, chúng tôi chôn cất các bạn gái hy sinh.

(http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/08.jpg) (http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/07.jpg)
Từ trái sang phải: Anhia Malakhova, Nadya Komogortseva (http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/ill.html)

(http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/17.JPG) (http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/09.jpg)
Từ trái sang phải: Lilya Tarmoshina, Masha Vinogradova (http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/ill.html)

Những mất mát đầu tiên ... Cái chết đi ngang qua ngay bên cạnh và tàn nhẫn nhắc nhở về sự hiện diện của chính nó. Nó xảy ra quá đột ngột đến nỗi nhiều cô gái hoảng loạn và nhiều ngày sau còn bị ức chế, câm lặng.

Sau thảm họa, mọi người thấy rõ rằng tất cả cần học hỏi nhiều hơn nữa, tích lũy kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng, nếu chúng tôi muốn trở thành những phi công thực sự.

Cái chết của các bạn gái đã làm u ám niềm vui khi biết sắp được ra tiền tuyến. Và hơn bao giờ hết luôn là như vậy - niềm vui và nỗi buồn sánh bước với nhau. Cả hai đều để lại dấu ấn. Nhưng cuộc sống vẫn tiếp tục tiến về phía trước không thể lay chuyển, luật đời vẫn độc tôn. Băng chặt vết thương, con người một lần nữa cố gắng nhìn về tương lai.

... Cuộc sống của nhiều người trong số chúng tôi, những người có liên quan đến sự tham gia, tư vấn, ủng hộ của Marina Raskova, được sắp đặt khác, so với cách mà nó có thể diễn ra. Người phụ nữ tuyệt vời này hào phóng truyền cho chúng tôi trí tuệ, tài năng, lòng can đảm, kỹ năng của chị. Chúng tôi, các học trò của chị chịu ơn chị rất nhiều.
.......


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 22 Tháng Tám, 2015, 01:57:10 pm
(tiếp)

Marina Mikhailovna là con người đáng yêu tuyệt vời. Tôi thật may mắn được biết chị ấy như một người bạn tốt lớn tuổi, một người chỉ huy đòi hỏi cao, một người hướng dẫn tận tình. Đối với tôi suốt đời chị vẫn là một ví dụ hiếm hoi cho sự kết hợp giữa nữ tính đáng yêu và tinh thần vì công việc nghiêm túc.

Một vài năm trước, tôi tình cờ đọc được lá thư của chị gửi mẹ. Những bức thư ấy ít còn giữ lại được, khi mà ít những lá thư như vậy được gửi đi. Với một cảm xúc tôn kính tôi đã đọc những bức thư này: bởi chúng được viết ra ở thời kỳ chúng tôi đang được huấn luyện để gửi ra chiến đấu ngoài mặt trận.
Ngày 02 tháng Tư năm 1942.

(https://upload.wikimedia.org/wikipedia/ru/c/c3/Nosal_EI.jpg)
AHLX đầu tiên là nữ phi công trong thời gian Thế chiến 2: Evdokya Ivanovna Nosal (1918-1943), dân tộc Ukraina. Khi hy sinh (23/4/1943) tại phía tây bắc Novorossisk đang là thiếu úy phi đội phó trung đoàn nữ KQ ném bom đêm cận vệ 46 Taman thuộc sư đoàn KQ ném bom đêm 218, tập đoàn quân KQ 4, PDQ Bắc Kavkaz. Nguyên là nữ giáo viên tại thành phố Nikolayev, Ukraina. Tốt nghiệp trường hàng không Kherson năm 1940. Nữ giáo viên bay tại CLBHK thành phố Nikolayev Ukraina. Gia nhập quân đội năm 1941. Được truy tặng danh hiệu AHLX ngày 24 tháng 5 năm 1943. Trong thời gian ngắn ngủi khoảng một năm tham chiến từ tháng 5 năm 1942 đến tháng 4 năm 1943 đã thực hiện 354 phi vụ ném bom ban đêm trên máy bay Po-2 xuống các vị trí của đối phương. (http://www.warheroes.ru/hero/hero.asp?Hero_id=1631)

... Thời tiết ở chỗ chúng tôi trở xấu. Trong suốt hai ngày bão tuyết hoành hành đến nỗi trong vòng 5 mét người không thể nhìn thấy nhau. Đồng thời sức gió lên tới 20 mét mỗi giây. Đó là một cơn bão thực sự! Bão đập vỡ mái nhà, đập vỡ cửa vào nhà chứa máy bay của tôi. Rất nhiều rắc rối. Cần phải giữ được tất cả các máy bay của mình - cả trong các nhà chứa máy bay, cả trên sân đậu. Vô cùng khó khăn, nhưng rồi mọi việc đều êm thấm: toàn bộ những chiếc máy bay tuyệt vời của chúng tôi vẫn nguyên vẹn.

Tuy nhiên, khi bão tuyết lắng xuống, chúng tôi trở nên giống như thú nhồi bông, vì quần áo của chúng tôi bị bao phủ bởi một lớp vỏ băng, và khi băng tan chảy, mọi thứ đều ướt, mặc dù ta có vắt đi nữa. Hầu như chúng tôi không có thời gian để sấy khô và lại lần nữa chạy đi thay thế cho những người đã đóng băng khi bảo vệ cho máy bay trước tự nhiên. Sau khi ngừng ngắn, bão tuyết lại quét qua một lần nữa. Nhưng lần này, chúng tôi đã kịp củng cố một chút rồi và trận bão tuyết mới mang lại cho chúng tôi ít rắc rối hơn.

Người của chúng ta đã chứng tỏ mình một cách xuất sắc. Họ xuyên qua bão tuyết lao tới các nơi máy bay đậu theo đội hình san sát nhau, trong khi giữ hướng theo la bàn, bởi vì chẳng có gì có thể nhìn thấy được. Đó là một kỳ sát hạch tốt cho tôi ...

15 tháng 5 năm 1942.

... Cuộc sống của chúng ta thật tuyệt đẹp bởi những sự kiện lịch sử anh hùng lớn lao. Nhân dân của chúng ta đã có thể thực hiện được những chiến công kỳ vĩ như thế nào, Liên bang vĩ đại của chúng ta đã cố kết bởi một ý chí thống nhất tuyệt vời biết bao trong cuộc đấu tranh cho hạnh phúc và tự do của mình! Con người bây giờ đang phát triển rõ rệt trong tất cả sự hùng vĩ của mình ...

Chương trình bổ sung tính toán cho tháng 3, tháng 4 và nửa tháng 5, mà bộ tham mưu LLKQ QK Privolgie gửi xuống sau cái chết của bốn bạn gái của chúng tôi, đã được trung đoàn máy bay ném bom đêm thực hiện thành công.

Bây giờ tiền tuyến là nơi xa mà gần của chúng tôi. Ở đó, cuộc chiến tranh đau khổ giày xéo đang trải ra trên khắp đất nước, từ biển Bắc băng giá lạnh buốt đến những đỉnh núi lấp lóa vùng Caucasus, thấm đẫm mùi cháy khét và máu của dải đất, nơi cuộc sống ngang bằng với cái chết. Vùng đất này kêu gọi chúng tôi không sao cưỡng lại được. Tôi muốn đến đó với tư cách người cộng sản... tôi đã là cảm tình viên của Đảng Cộng sản Liên Xô từ trước. Bây giờ, trong tháng 5, ngay trước chuyến bay tôi gửi đơn xin được chấp nhận là đảng viên của đảng.

(http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/12.JPG)
Maria Runt (1912-1992) đại úy cận vệ, bí thư đảng ủy trung đoàn ném bom đêm cận vệ 46 Taman (1942-1945). Gia nhập quân đội tháng 10 năm 1941. Nguyên giáo viên PTTH môn văn và cán bộ lãnh đạo công tác đoàn TNCS. Sau chiến tranh trở về ngành sư phạm. Phó tiến sĩ triết học. Phó giáo sư văn học Nga và văn học nước ngoài. (http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/ill.html)

Bí thư đảng ủy trung đoàn Maria Runt cùng chúng tôi tham gia cuộc họp đảng. Tất nhiên, tôi rất lo lắng. Runt nhìn thấy điều đó. Chị cố gắng trấn an tôi.
- Em nhát thế đấy! - Chị nhận xét một cách trêu chọc. - Em vốn hăng hái thế cơ mà. Chị chẳng bao giờ nghĩ em lại như vậy!
- Maria Ivanovna, nếu đột nhiên người ta không chấp nhận thì sao...
Tất cả những người cộng sản đã tập hợp trong một căn phòng nhỏ. Dưới ánh mắt của họ, tôi thực sự bối rối. Hạnh phúc của tôi là có phi đội trưởng Sima Amosova bên cạnh: người ta cũng kết nạp chị vào Đảng Cộng sản Liên Xô. Amosova hiểu ngay tình trạng của tôi. Chị khẽ chạm vào vai tôi. Chị cũng lo lắng. không ít hơn tôi, nhưng vẻ bề ngoài chị hoàn toàn bình tĩnh. Như thể trong mơ, tôi nghe bí thư đảng ủy đọc hồ sơ của tôi, các khuyến nghị, đơn. Bằng một giọng khàn khàn kỳ lạ, tôi bắt đầu kể tiểu sử của mình.
Trước sự ngạc nhiên của tôi, chẳng ai đặt cho tôi câu hỏi nào.
- Chúng tôi biết cô ấy! - giọng nói vang lên từ các chỗ ngồi.
- Ai là người ủng hộ kết nạp Chechneva Marina Pavlovna vào đảng, tôi đề nghị biểu quyết - chủ tọa nói.
Tôi đã được nhất trí kết nạp. Ngay tại cuộc họp mọi người chúc mừng, bắt tay tôi. Và khi trở về ký túc xá, Maria Runt lớn tiếng tuyên bố:
- Các đồng chí, trung sĩ Chechneva đã được kết nạp vào hàng ngũ Đảng Cộng sản!..
Tháng 5 năm 1942, rất nhiều các cô gái chúng tôi đã gia nhập đảng.
Cũng trong tháng này, một ủy ban của BTM LLKQ Quân khu PriVolgie đã công nhận trong trung đoàn máy bay ném bom đêm của chúng tôi, tất cả đã được chuẩn bị sẵn sàng để di chuyển căn cứ ra tiền tuyến. Thiếu tá M.M.Raskova bay về báo cáo Moskva. Trong khi chờ đợi chị trở lại, chúng tôi nghiên cứu kỹ lưỡng tuyến đường bay dài nhiều khó khăn sắp tới.

Cuối cùng mệnh lệnh chờ đợi từ lâu đã tới.
Trước khi bay ra mặt trận Marina Mikhailovna Raskova nói với chúng tôi:
- Sự tận tụy với Tổ quốc của mình, các bạn đã chứng minh trong học tập. Bây giờ hãy thể hiện trong trận chiến. Điều đó sẽ khó khăn hơn. Nhưng tôi tin vào các bạn. Tôi tin rằng qua thời gian các bạn sẽ trở thành các chiến sĩ cận vệ...

Vào một ngày nắng ngày 23 tháng 5 các máy bay lăn ra khởi động, xếp hàng theo phi đội, cất cánh biên đội này tiếp biên đội kia. Dẫn đầu trong không trung là trung đoàn trưởng Bershanskaya và thiếu tá Raskova. Sau khi lượn một vòng tròn trên sân bay, chúng tôi lấy hướng bay quy định.

Tạm biệt, mái trường! Chúng tôi sẽ nhớ đến bạn rất lâu. Ở đây, tại Engels, chúng tôi đã trở thành những người lính. Ở đây người ta đã giao phó máy bay cho chúng tôi, từ đây chúng tôi đi vào trận chiến. Học tập đã kết thúc, bắt đầu những thử thách ác liệt của cuộc chiến. Chúng tôi đã bước qua ngưỡng cửa của chiến tranh.

Trong tiểu sử bay của tôi cũng bắt đầu một giai đoạn khác, giai đoạn chiến đấu, giai đoạn khó khăn nhất - giai đoạn thử thách lòng can đảm trong khói lửa chiến trận.
.........


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 23 Tháng Tám, 2015, 12:12:31 am
(tiếp)

Nhân danh cuộc sống

Chúng tôi bay tới PDQ Nam. Nhưng Marina Mikhailovna Raskova còn chưa để chúng tôi lại. Chị bay cùng đến Donbass, để làm quen với tập đoàn quân không quân, mà trung đoàn của chúng tôi được chỉ định gia nhập.

Khi nhận được mệnh lệnh ghi tên trung đoàn Komsomol của chúng tôi vào thành phần sư đoàn ném bom đêm 218, Raskova, tập hợp đội ngũ quân nhân, đi dọc hàng quân, nhìn vào các khuôn mặt của chúng tôi.
- Chúc bầu trời hạnh phúc, các cô gái! Chúc bầu trời hạnh phúc!.. - Chị vừa đi vừa nói không to lắm.
Đây là những lời cuối cùng của Marina Mikhailovna mà tôi được nghe. Chị bay về Engels, ở đó trung đoàn nữ KQ ném bom bổ nhào, mà thiếu tá Raskova được bổ nhiệm làm trung đoàn trưởng, chờ đợi chị.

Vậy là, lần đầu tiên trong lịch sử một đơn vị không quân toàn nữ đã có mặt tại tiền tuyến, để gánh gánh nặng khó khăn của chiến tranh một cách bình đẳng với nam giới.

(https://upload.wikimedia.org/wikipedia/ru/f/f5/%D0%A1%D0%B5%D0%B1%D1%80%D0%BE%D0%B2%D0%B0%2C_%D0%98%D1%80%D0%B8%D0%BD%D0%B0_%D0%A4%D1%91%D0%B4%D0%BE%D1%80%D0%BE%D0%B2%D0%BD%D0%B0.jpg)
AHLX (1945) Sebrova, Irina Fyodorovna (1914-2000). Người có số phi vụ chiến đấu nhiều nhất trung đoàn ném bom đêm cận vệ 46 Taman: 1004 phi vụ ném bom ban đêm trong 4 năm tham gia chiến tranh (khi được tuyên dương AHLX ngày 23 tháng 2 năm 1945 thống kê là 825 phi vụ). Thượng úy cận vệ, biên đội trưởng. Sau chiến tranh chuyển ngạch dự bị (1948), làm việc tại Học viện HK Moskva. (http://www.warheroes.ru/hero/hero.asp?Hero_id=1662)

Trong đơn vị hợp thành mới, người ta có thái độ thận trọng với chúng tôi, đôi khi thậm chí sự mỉa mai không che dấu. Thời gian đầu bộ chỉ huy và ngay cả các phi công sợ "sự đỏng đảnh nữ giới", họ không thực sự tin tưởng vào sức mạnh của chúng tôi. Và trên thực tế, bay trên máy bay dân sự trong bầu trời hòa bình là một chuyện, còn là người lính hàng ngày đi tới trước cái chết, biết rằng điều đó xảy ra ngày hôm nay là như vậy, thì cũng sẽ là như thế ngày mai, ngày kia, trong tuần, tháng, năm, cho đến khi miễn là ở một nơi nào đó, ở phía tây, ở một đất nước xa lạ, còn chưa vang lên phát súng cuối cùng - đó là chuyện khác.

Công bằng mà nói, bản thân chúng tôi ở một mức độ nào đó, đã tạo ra lý do để tồn tại cách xử sự với chúng tôi đầy sự ngờ vực và mỉa mai. Điều đó xảy ra khi mà trung đoàn chúng tôi thực hiện chuyến bay đường dài từ Engels ra mặt trận của phương diện quân Nam.

Đó là một ngày nắng nóng. Tuy nhiên, bầu trời chưa bị sức nóng thiêu đốt trong xanh một cách đáng kinh ngạc. Phía dưới chúng tôi thảo nguyên vô tận không đầu không cuối trải dài: một đại dương màu lục lắc lư. Mặt đất còn chưa bị sưởi ấm, sự tròng trành chưa hành hạ chúng tôi, bay trên máy bay là một niềm vui.

Tuân thủ những gián cách đều đặn trong đội hình chiến đấu, chúng tôi đã tiến gần đến stanitsa Morozov. Chuyến bay tiến hành bình thường, đang đi đúng tiến độ. Tôi quay trở về sau nói với hoa tiêu Olya Kliueva:
- Này, chúng mình bay thế nào? Có đúng là tuyệt vời không?
Olga cười đáp lại và giơ ngón tay cái của mình lên. Lắc đầu, cô nhìn quanh vùng trời, và bỗng nụ cười như thế biến mất khỏi khuôn mặt cô.
- Marinka! - Trong giọng nói của Kliueva vang lên tiếng báo động. - Nhìn kìa!
Từ phía tây lao nhanh về phía chúng tôi là những chấm đen. Lóe lên trong óc: "Bọn phát xít!"

Làm gì? Tôi nhìn lên người bay đầu. Máy bay của chỉ huy phi đội Seraphima Amosova tiếp tục bay bình thản. Chị không nhìn thấy?
- Marina! - Klyuyeva hét lên trong máy đàm thoại. - Nhìn xem: biên đội bay kế đang tản ra!
Nghi ngờ chấm dứt - bay phía trước là tiêm kích của đối phương. Tôi lắc cánh, thu hút sự chú ý của số bay sau của biên đội chúng tôi là Nadia Troparevskaya. "Tôi thấy rồi" - cô ấy cũng lắc cánh đáp lại. Đồng thời, chúng tôi thực hiện thao tác cơ động. Biên đội vi phạm khoảng cách và giãn cách quy định. Máy bay bị mất độ cao đột ngột và gần như chuyển sang bay độ cao cực thấp. Bây giờ, trên nền thảo nguyên màu xanh lục pha vàng, thật khó để nhận thấy những chiếc máy bay sơn ngụy trang của chúng tôi.

Những chiếc tiêm kích gào hú lướt qua trên đầu chúng tôi, làm vòng lượn chiến đấu và một lần nữa lao vun vút tới những chiếc U-2 không có khả năng tự vệ. Tôi thầm nhận xét không hiểu tại sao không nghe thấy tiếng súng máy kêu tành tạch. Bọn đểu! Chúng còn bắt nạt mình đã! Do xúc động mà thậm chí tôi không nhìn thấy dấu hiệu nhận dạng.

Sau khoảng năm phút trong không trung xuất hiện một nhóm tiêm kích khác. Đó là - máy bay của ta, như tôi thấy thế. Cảm ơn các bạn đến cứu! Và chỉ có ở sân bay tôi mới biết rằng làm gì có máy bay địch. Tại stanitsa Morozovskaya gần Stalingrad những chiếc tiêm kích yểm hộ đã đi đón chúng tôi. Các phi công, khi biết những cánh "chim non" chưa qua lửa đạn đang bay, đã quyết định kiểm tra sự bình tĩnh của chúng tôi và đã tiến hành "tấn công" chúng tôi. Hơn nữa không phải tất cả các cô gái biết đó là máy bay của ta. Tin tức về sự kiện này nhanh chóng lan rộng khắp tập đoàn quân không quân của tướng K.A.Vershinin. Những kẻ hóm hỉnh có chủ đề mới để tán. Nhưng chúng tôi, dù cay đắng ý thức được sai lầm của mình, không vì thế mà chán nản. Từ khá sớm các phi công của chúng tôi đã chứng minh rằng các nữ chiến sĩ tiền tuyến Soviet biết cách đánh bại kẻ thù không kém hơn so với cánh nam giới bảo vệ Tổ quốc đang làm...

Ngay sau đó sư đoàn trưởng Dmitry Popov đến trung đoàn. Ông xuất hiện trước hàng quân vẻ cau có, nghiêm trang. Không nói một lời, ông đi từ chiếc máy bay này sang máy bay khác và cùng ban chỉ huy trung đoàn đi về ban tham mưu. Mọi người đều thấy: Popov tiếp nhận chúng tôi vào sư đoàn của mình không thích thú gì. Các cô gái thất vọng. Chính ủy tiểu đoàn Rachkevich ngay lập tức nhận thấy sự ức chế của chúng tôi:
- Thôi nào, đừng buồn! Với tôi đây cũng còn thấy vậy, các cô chiêu còn trẻ quá. Cay đắng, tất nhiên, nhưng không nên nản lòng. Hãy học ngay từ những sai lầm, phía trước còn đủ thời gian để làm bối rối những người hoài nghi và chứng minh rằng họ đi đến kết luận hơi vội vã.

* * *

Hoạt động chiến đấu của trung đoàn bắt đầu gần Voroshilovgrad trong thời gian chúng tôi triển khai tại làng Lao động Thợ mỏ. Do thiếu kinh nghiệm, chúng tôi tưởng rằng người ta sẽ cử ngay chúng tôi đi thi hành nhiệm vụ chiến đấu. Nhưng bộ chỉ huy quyết định khác.

(http://militera.lib.ru/h/kozhevnikov_mn/19.jpg)
Nguyên soái trưởng KQ K.A.Vershinin (1900-1973). Năm 1941 là thiếu tướng tư lệnh KQ PDQ Nam, năm 1942 là thiếu tướng tư lệnh TDQ KQ 4.

Người ta đưa chúng tôi vào tham chiến dần dần. Giai đoạn đầu chúng tôi chỉ thực hiện các chuyến bay làm quen với tiền tuyến, nghiên cứu khu vực hoạt động chiến đấu, lại một lần nữa thao luyện trong các chuyến bay khi có đèn chiếu phòng không, nói ngắn gọn, để làm quen với tình hình mặt trận. Và mặc dù tất cả chúng tôi mơ ước được nhanh chóng bắt tay vào việc, tôi đã phải thể hiện sự kiềm chế và kiên nhẫn.

Ngay khi đến sân bay, chúng tôi cảm thấy mặt trận đã cận kề, cảm được hơi thở khủng khiếp của nó. Từ phía Tây, giống như tiếng ầm ầm không ngừng của những con sóng dội bờ, ta có thể nghe thấy liên tục tiếng những tràng pháo kích rền vang, hằng đêm trên vòm trời sao tối sẫm trên cao căng đầy tiếng hú của động cơ những đàn máy bay địch đang bay về phía đông. Bom của bọn phát xít ném xuống nổ tung ở Kamensk, Voroshilovgrad, Millerovo.

Trên đường chân trời cứ lúc lúc lại lóe lên ánh phản quang ngọn lửa các đám cháy. Trong những lúc như vậy, tôi không thể không nhớ đến đêm 22 tháng 7, vụ ném bom đầu tiên xuống Moskva và ngọn lửa trùm kín ngôi nhà ruột thịt của mình.

Trung đoàn được ném vào lò lửa nóng bỏng nhất - gần các stanitsa Konstantinovskaya, Melekhovskaya và Razdorskaya. Lúc đó, đang diễn ra các trận đánh khốc liệt ở phần phía nam Donbass, trên sông Mius, ở Taganrog: bọn Đức quốc xã đang lao tới sông Don.
Và mệnh lệnh chờ đợi từ lâu đã tới.

Những người đầu tiên bay khai màn thành tích chiến đấu của trung đoàn là Evdokia Davydovna Bershanskaya với hoa tiêu của trung đoàn Sophia Burzaeva cùng các kíp bay của các phi đội trưởng Sima Amosova với hoa tiêu Larissa Rozanova, Liuba Olkhovskaya với hoa tiêu Vera Tarasova.

Hôm trước tại trung đoàn đã tổ chức một cuộc họp đảng. Có sự tham dự của sư đoàn trưởng, đại tá Dmitri Popov và các đại diện ban chính trị sư đoàn. Cuộc họp thông qua nghị quyết kêu gọi tất cả các quân nhân làm việc sao cho trung đoàn trở thành một trong những đơn vị ưu tú nhất tại PDQ Nam.
- Ô hô! - đại tá Popov không kìm được kêu lên. - Người ta quẳng ngay các bạn đi đâu cho rảnh thôi!
- Đồng chí hiểu biết các cô gái chúng tôi còn ít quá, đồng chí đại tá, - Rachkevich nhận xét.
- Rồi, chúng tôi sẽ ráng tìm hiểu. Chưa hết, tôi ủng hộ. Mục đích rất cụ thể. Điều này bản thân nó không phải là xấu. Hãy làm việc còn về phần mình ban chỉ huy sẽ giúp đỡ các bạn.

Toàn bộ mọi người đi tiễn các đồng đội. Đó là ngày 08 tháng Sáu năm 1942. Trên sân xuất phát ban chỉ huy sư đoàn cũng có mặt. Sự quan tâm này làm nức lòng các cô gái và ở một mức độ nào đó, làm giảm bớt sự cay đắng của những ngày đầu tiên chúng tôi ở trong đội hình sư đoàn.
.......


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 23 Tháng Tám, 2015, 06:47:31 pm
(tiếp)

Ngay trên sân bay đã diễn ra một cuộc mít tinh ngắn. Chính ủy trung đoàn Rachkevich khai mạc. Evdokia Yakovlevna theo cách của mình, phát biểu giản dị nhưng sinh động, nói lên được cảm xúc và suy nghĩ của chúng tôi. Bà nói rằng hôm nay chúng tôi có một sự kiện vui - trung đoàn khởi đầu hoạt động chiến đấu. Việc học tập đã kết thúc, đã đến lúc thể hiện khả năng và lòng dũng cảm của mình trong các trận đánh.
- Mỗi quả bom các bạn thả xuống phải đánh trúng mục tiêu. Mỗi kíp bay, trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào đi nữa, cũng phải chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, cho đến khi mắt còn thấy, tai còn nghe, các ngón tay còn cảm giác được cần lái ...
- Sẽ như vậy, Marinka! - Olga Klyuyeva thì thầm.

(http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/31.JPG) (http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/32.JPG)
Trái sang phải: Lyuba Olkhovskaya và Vera Tarasova: tổn thất đầu tiên trong chiến đấu của trung đoàn nữ KQ ném bom đêm hạng nhẹ 588. (http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/ill.html)

Tôi siết nhẹ tay cô bạn gái đáp lại. Ý nghĩa bài phát biểu của chính ủy của chúng tôi tất cả mọi người đều đã rõ. Vâng, những người yêu nước chân chính chỉ có thể chiến đấu chống lại kẻ thù như thế, đến hơi thở cuối cùng! Thử thách nặng nề đang ập xuống đất nước chúng ta, người ta đã phải nói đến vấn đề sự sống hay cái chết của nhà nước Xô viết non trẻ. Chúng tôi chẳng thể trông cậy vào ai. Vì vậy, mỗi người trong chúng tôi có nghĩa vụ phải đánh bại kẻ thù gấp hai, gấp ba.

Tôi và các bạn gái của tôi trong đêm ấy muốn cất cánh lên không trung biết bao! Chúng tôi vô cùng ghen tị với các vị chỉ huy của mình! Các kíp bay ưu tú nhất đã bay đi thực hiện sứ mệnh đầu tiên. Nhưng chúng tôi không có quyền tức giận. Phải như vậy - những người đi trước chỉ đường, dẫn dắt mọi người theo mình. Những quả bom đầu tiên với dòng chữ "Vì Tổ quốc!" đã được treo vào dưới các cánh bay. Thời gian trôi qua hoàn toàn không lâu, và họ đang cắt qua đêm tối với riếng rít, bay tới trên đầu những kẻ mang chiến tranh lại cho chúng tôi...

Động cơ gầm lên. Máy bay đã bay vào màn đêm. Tôi nhanh chóng đoán ra hơn là nhìn thấy, những hình bóng tối sẫm của chúng tách khỏi mặt đất. Sau đó, tiếng gầm rú của động cơ trở nên khó nghe dần. Sự im lặng đột nhiên phủ xuống sân bay đến nỗi tôi có thể nghe thấy dưới chân tiếng cỏ non xào xạc trong gió nhẹ.

"Đi đường may mắn, các đồng chí!" - mỗi chúng tôi thầm nói. Tư lệnh sư đoàn đại tá Popov đứng lặng ở tuyến xuất phát. Sân bay dường như đóng băng trong sự đợi chờ hồi hộp. Các cô gái, tách thành các nhóm, ban đầu thì im lặng, sau đó có ai lỡ lời, có người đáp lời, dần dần cuộc trò chuyện nổi lên. Chúng tôi nói chuyện về những điều bình thường nhất, nhưng với tất cả đều cảm thấy: suy nghĩ của họ bây giờ đang ở bên những đồng đội trong không trung.

Tiếp theo, như mọi khi, lại là Evdokia Yakovlevna Rachkevich. Bà lặng lẽ tiếp cận lúc nhóm này, lúc nhóm kia. Bà đứng lại, lắng nghe, nói một vài lời rồi đi tiếp. Người lính trung thành của đảng, từ lần đầu tiên xuất hiện ở trung đoàn, bà đã chuẩn bị cho chúng tôi bước vào cuộc chiến, thấm nhuần những phẩm chất cần thiết cho người lính Xô Viết, biết cách bằng những lời nói giản dị, dễ hiểu thể hiện tình yêu đối với Tổ quốc và lòng căm thù đối với kẻ địch. Bà, chính ủy của chúng tôi, trong suốt cuộc chiến tranh, tượng trưng cho lương tâm và danh dự của chúng tôi, đã và vẫn luôn là một hình mẫu người cộng sản đối với chúng tôi, một con người chân chính.
- Marina, buồn gì vậy? - bỗng tôi nghe thấy bên cạnh tôi giọng nói khẽ và đều của Rachkevich. - Ghen tị à?
- Không ... ý tôi là, có - Tôi vội sửa lời. - Nhưng tôi sẽ nhanh chóng đến lượt chứ?
- Chắc chắn rồi.
Thời gian trôi chậm chạp khủng khiếp, nhưng không ai bỏ đi. Cuối cùng cũng nghe thấy tiếng gầm rú đặc trưng của động cơ. Cuộc trò chuyện dừng ngay lập tức, tất cả dõi mắt vào bầu trời đêm. Phân biệt gì đó thì không thể, nhưng tiếng ồn ngày càng lớn hơn, gần hơn và đột nhiên như bị bóp nghẹt.
- Đã hạ cánh rồi - ai đó cạnh tôi thốt lên.

Càng máy bay gõ bộp xuống nền đất khô của phi trường. Vòng quay cánh quạt giảm hẳn. Chiếc máy bay đầu tiên vừa xì ra dòng khí thải, vừa từ từ lăn bánh đến tuyến xuất phát sơ bộ.

Chúng tôi im lặng chờ đợi. Tay chắp sau lưng, nhìn chằm chằm vào bóng tối cũng như những người khác, sư đoàn trưởng Popov chờ đợi. Cuối cùng, vang lên tiếng bước chân. Từ trong bóng đêm dày đặc và đen kịt như mực một nữ phi công xuất hiện. Theo dáng đi tôi nhận ra Bershanskaya. Đi cạnh chị là Sonia Burzaeva. Sau khi đến ngang Popov, Evdokia Davydovna báo cáo về việc thực hiện nhiệm vụ không vội vã, dường như chị muốn từng lời từng chữ chị nói đến được tai chúng tôi, chị bắt đầu kể chuyến bay diễn ra thế nào.

Các pháo thủ cao xạ phát xít đã bắn vào máy bay. Cơ động hướng, Bershanskaya đưa chiếc U-2 tới mục tiêu đã định và ném bom ở độ cao khoảng 600 mét. Kíp bay Amosova đã dội bom tiếp theo chị.

Đúng vào lúc đó, lưới lửa cao xạ dữ dội hẳn lên. Một số mảnh đạn rơi trúng máy bay của Bershanskaya, nhưng, may mắn thay, không mảnh nào trúng động cơ.

Sau khi biết được Amosova đã hạ cánh an toàn, chúng tôi nóng lòng mong chờ sự trở lại của kíp bay cuối cùng. Kết thúc thời gian dự kiến, mà máy bay của Lyuba Olkhovskaya mãi chưa xuất hiện. Chúng tôi căng tai trong vô vọng, cố gắng nắm bắt tiếng ồn xa xăm của động cơ. Bầu trời trên đầu chúng tôi câm lặng. Chỉ có trong độ sâu không đáy của nó, những ngôi sao lấp lánh lạnh lùng, rồi thỉnh thoảng trên đường chân trời lóe lên ánh phản quang không phải của cơn dông phương xa, cũng không phải của các vụ nổ.

Đêm qua trong lo âu. Bình minh đã hừng đỏ, sương mù bắt đầu cuộn xoáy trên cánh đồng, mà chúng tôi chưa giải tán, vẫn chờ đợi, hy vọng.

Buổi sáng ban chỉ huy liên lạc với ban tham mưu sư đoàn, nhưng người ta không thông báo được tin tức gì an ủi.

Vài ngày nữa trôi qua. Hy vọng không còn. Chiến tranh đã cướp đi hai người bạn gái của chúng tôi. Phải chăng cứ mỗi chuyến bay đều sẽ có cái chết đi kèm?..

Rất lâu chúng tôi không có thông tin gì về Lyuba và Vera, không biết các chi tiết cái chết của họ. Chỉ sau chiến tranh, theo lời người dân địa phương mới khôi phục lại một bức tranh còn xa mới hoàn chỉnh về những gì đã xảy ra trong cái đêm nặng nề ấy.
........


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 23 Tháng Tám, 2015, 10:00:12 pm
(tiếp)

Và đây là những gì đã xảy ra. Lyuba Olkhovskaya và Vera Tarasova đã hoàn thành nhiệm vụ, nhưng rơi vào lưới lửa PK dày đặc. Họ không thoát khỏi. Các mảnh đạn đã làm hai cô gái bị thương nặng. Người chảy đẫm máu, Lyuba Olkhovskaya hạ cánh chiếc U-2, nhưng cả chị và Vera Tarasova không thể ra khỏi cabin. Buổi sáng các cư dân của ngôi làng gần đó tìm thấy những người bạn gái của chúng tôi đã chết. Chuyện xảy ra gần làng Krasny Luch. Các bạn gái của chúng tôi đượ chôn cất ở đó. Những người dân tốt bụng đã dựng lên tại khu vực này bia kỷ niệm những người lính Soviet hy sinh.

(https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/a/ad/Snezhnoe_080.jpg/360px-Snezhnoe_080.jpg)
Đài kỷ niệm các nữ phi công Soviet hy sinh tại thành phố Sneznoie, Ukraina. Đài kỷ niệm được dựng lên sau khi có bức thư của dân làng Sophino-Brodskoie tỉnh Donets, những người đã chôn cất hai nữ phi công hy sinh tháng 6 năm 1942, gửi báo "Pravda" năm 1965, góp phần làm sáng tỏ tình huống các nữ phi công đầu tiên hy sinh trong chiến đấu của trung đoàn Taman. (https://ru.wikipedia.org/wiki/%D0%9E%D0%BB%D1%8C%D1%85%D0%BE%D0%B2%D1%81%D0%BA%D0%B0%D1%8F,_%D0%9B%D1%8E%D0%B1%D0%BE%D0%B2%D1%8C_%D0%98%D0%B2%D0%B0%D0%BD%D0%BE%D0%B2%D0%BD%D0%B0)

Cách đây không lâu, tôi đọc được trong cuốn nhật ký của chính ủy phi đội Irina Dryaghina những dòng thế này:
Hôm qua tôi đã viết thư cho mẹ, rằng những ngày của chúng ta, những người trẻ tuổi của chúng ta đối với tôi dường như là những trang sống từ cuốn sách "Thép đã tôi thế đấy!". Bạn đang sống và bạn đang thấy có xung quanh bạn có biết bao nhiêu những con người giản dị và tốt đẹp, bao nhiêu người anh hùng khiêm tốn thực sự, mà tên tuổi có thể không được ai biết đến.

Hình ảnh của Lyuba Olkhovskaya, người con gái mắt xanh Ukraine, người chỉ huy chiến đấu vinh quang của tôi chưa bao giờ bị xóa khỏi trí nhớ. Tôi đã gặp Lyuba vào tháng 12 năm 1941 tại Engels, khi lần đầu tiên chị đến đơn vị với chúng tôi ...

Lyuba Olkhovskaya không ngại khó khăn, ở khắp mọi nơi, ở bất cứ lúc nào chị cũng đi đầu. Toàn thể phi đội của chúng tôi rất yêu mến người chỉ huy của mình. Và điều đó có lý do của nó. Không ai quan tâm đến mọi người, không ai đối xử với họ một cách tế nhị như Lyuba.

Và chị ấy là con người đòi hỏi rất cao! Khi nhận thấy sự thiếu ngăn nắp trong phòng, chị ra lệnh tập hợp, và thường là trước cửa nhà tập thể, và chị nói:
- Các bạn là phụ nữ hay không phải là phụ nữ! Các bạn có biết hay không mình đang ở trong quân đội? Tại sao tôi không nhìn thấy sự ngăn nắp?..

Chiến sĩ các đơn vị mặt đất thường kể một trường hợp thế này. Khi chúng tôi đang phòng ngự trên sông Mius, một chiếc máy bay U-2 bay thấp-rất thấp qua tiền duyên. Ngay trên đầu chiến hào phi công giảm ga, và từ buồng lái phi công vẳng ra một giọng nữ tức giận:
- Các anh ngồi ở đấy làm gì?! Chúng tôi đã ném bom bọn fritz, sao các anh chưa tấn công?!

Vào đúng đêm ấy phân đội bộ binh chuyển sang tấn công, kết quả là đã chiếm được một số hầm và lô cốt của kẻ thù ... đôi khi tôi nghĩ rằng người nữ phi công đó là của đơn vị chúng tôi, là Lyuba, mặc dù không có bằng chứng về việc này ...


Được bổ nhiệm thế vị trí phi đội trưởng của Lyuba Olkhovskaya là phi công xuất sắc Dina Nikulina. Thay thế Vera Tarasova là cựu sinh viên khoa Toán Cơ của Đại học Tổng hợp quốc gia Moskva Zhenya Rudneva. Đó là một sự thay thế xứng đáng. Người ta dự đoán Rudneva có một tương lai tuyệt vời. Cô ấy có những khả năng phi thường, và theo thời gian sẽ là một nhà khoa học lớn. Nhưng chiến tranh bắt đầu, và Zhenya nghe theo tiếng gọi của đoàn Komsomol đã ra mặt trận.

(http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/46.JPG)
Anh hùng Liên Xô, thượng úy cận vệ, hoa tiêu trung đoàn nữ KQ ném bom đêm cận vệ 46 Taman: Evghenya Rudneva (1920-1944). Đã thực hiện 645 phi vụ chiến đấu cho đến lúc hy sinh trong trận đánh giải phóng bán đảo Kerch tháng 4 năm 1944. (http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/ill.html)

- Bây giờ không phải là lúc học tập - cô nói khi tạm biệt cha mẹ mình. - Còn sống trở về, con sẽ làm lại tất cả...

Hôm trước cuộc xuất kích chiến đấu đầu tiên, nhiều cô gái của chúng tôi đã nộp đơn xin gia nhập đảng. Dina Nikulina và Zhenya Rudneva là một trong số họ.

Tối hôm sau cái chết của Lyuba Olkhovskaya và Vera Tarasova toàn trung đoàn cất cánh lên không trung - Hai mươi phi hành đoàn. Cuộc tập kích ồ ạt đầu tiên xuống đầu kẻ thù, dành tưởng nhớ các bạn gái đã hy sinh.

Đó là lần xuất kích chiến đấu đầu tiên của chúng tôi. Chúng tôi cất cánh với gián cách thời gian ba phút. Tôi kiên nhẫn chờ đến lượt mình. Người hoa tiêu của tôi Olga Klyuyeva đã chất nhiều bom chiếu sáng trong cabin của cô ấy - bom SAB, đến mức cô không có chỗ để quay người. Olga bận rộn hồi lâu sau lưng tôi, sắp xếp sao cho tiện nghi hơn, đồng thời khẽ lẩm bẩm điều gì đó.
- Cậu làm việc thế nào rồi, xong sớm không? - Tôi hỏi cô ấy.
- Xong ngay đây. Không thì cậu sẽ không xoay trở được.
- Thế nữa cơ! Có thể nghĩ rằng cậu chuẩn bị để chiếu sáng toàn bộ mặt trận...
Cuối cùng rồi cũng được phép cất cánh. Chiếc máy bay đang tăng tốc, chạy trên mặt đất ẩm ướt, phủ đầy sương. Một vài giây nữa, rung xóc sẽ chấm dứt - chuyến bay sẽ bắt đầu. Tôi lấy độ cao. Phía dưới lờ mờ hiện ra các mốc định hướng quen thuộc. Trong không trung không tối như trên mặt đất. Ngay cả khi có mây che vẫn có thể bay vo.

Động cơ gầm rú nhịp nhàng. Tôi cố gắng không để nó quá tải, tôi chuyển sang chế độ tiết kiệm vừa phải. Dưới cánh bay là 180 kg bom. Đó không phải là gì nhiều, nhưng cũng không ít. Trong mọi trường hợp, nếu tất cả được đổ vào mục tiêu, thì chúng sẽ đủ để xóa sổ một đại đội pháo của địch, làm trật ray một đoàn xe lửa hoặc mãi mãi chôn vùi xuống mặt đất vài chục tên lính phát xít.

Động cơ hoạt động vẫn đều đặn. Những dòng không khí căng đầy đập vào kính chắn, và nó hơi rung động. Trên các bảng điều khiển những con số phản quang phát sáng trong cabin tối. Tôi chăm chú theo dõi các chỉ số của thiết bị, lúc lúc lại nhìn vào đồng hồ. Bằng giác quan thứ sáu, tôi cảm thấy rằng sắp tới mặt trận. Thêm một chút nữa thôi - móng vuốt của những chùm đèn chiếu phòng không sẽ cắm vào bầu trời, từ phía dưới những cỗ súng phòng không của kẻ thù sẽ sủa ầm ĩ.
- Chuẩn bị - hoa tiêu nói - chúng ta đang trên đường tiếp cận. Hãy duy trì chế độ bay quy định. Tôi sẽ xác định các hỏa điểm.

Nhưng điều này là không cần thiết. Khi băng qua tiền duyên, bọn Hiitler không bắn một phát súng nào. Chúng tôi đang tiếp cận mục tiêu, chờ đợi cơn bão lửa, nhưng nó vẫn không và không có. Độ cao 900 mét. Cùng hướng phía trước, kíp bay của biên đội trưởng của chúng tôi Tanya Makarova đã ném pháo sáng, và ngay một chút sau đó là một loạt  vụ nổ. Nhưng có một điều đáng kinh ngạc - kẻ thù, một lần nữa, không hiểu tại sao vẫn im lặng. Tôi hỏi hoa tiêu xem chúng tôi có bay lạc hướng hay không.
- Không, hướng bay vẫn tuyệt đối chính xác.
- Thế tại sao không thấy chúng bắn?
- Không biết - ngập ngừng rồi Olga đáp - Nhưng chúng ta vẫn đang đi đúng.
- Hay là chúng ta chưa đến mục tiêu?
- Tuyệt đối không - Klyuyeva đảm bảo. - Mục tiêu đang ngay dưới máy bay chúng ta. Thời gian dự kiến đã hết. Hãy nhìn kĩ các mốc định hướng.

Tôi lái máy bay bay tiếp, đăm đắm nhìn xuống mặt đất. Tuy nhiên, địa hình phía dưới không quen. Tôi làm một vòng lượn và quay trở lại. Olga đã đúng. Cô ấy đang ném bom phát sáng SAB. Trong ánh sáng của chúng, mục tiêu bị giật ra khỏi bóng tối, hiện lên rõ ràng.
- Tớ đã nói với cậu là bay đúng mà! - Klyueva đắc thắng hét lên. - Tôi sẽ ngắm mục tiêu và quăng những quả bom đầu tiên.

Chiếc máy bay hơi rùng lên một chút. Lập tức phía dưới bùng lên các vụ nổ. Nhưng kẻ thù ngoan cố một lần nữa im lặng. Một cú giật nữa: những quả bom cuối cùng ném ra.

Bây giờ thì có thể về nhà. Một sự khởi đầu đã xong, mặc dù không như cách ta vẫn suy nghĩ. Cuộc thử lửa đã không diễn ra, nhưng nhiệm vụ đã được hoàn thành.
- Hãy lấy hướng ngược lại - hoa tiêu nói.
- Xin chúc mừng, Olya, nhân lần ném bom đầu tiên của chúng ta! - Tôi hét lên trong máy đàm thoại.
- Cảm ơn, tớ cũng chúc mừng cậu như vậy.

* * *

Các bạn gái của tôi trên mặt trận không ngay lập tức trở thành những phi công xuất sắc. Đường vào bầu trời - đó là một con đường gập ghềnh. Không phải ai cũng đủ sức chịu đựng để vượt qua nó đến cùng.
.......


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 24 Tháng Tám, 2015, 12:26:00 am
(tiếp)

Trung đoàn dần dần bắt nhịp với nhịp điệu chiến trận. Các cuộc xuất kích nối tiếp nhau, nhưng đối phương vẫn ngoan cố giữ im lặng. Chỉ thỉnh thoảng một tiếng súng hộc lên ngẫu nhiên, rồi một lần nữa im lặng. Nó không muốn phản ứng lại các máy bay của chúng tôi. Chúng tôi bắt đầu suy nghĩ, rằng ban chỉ huy sư đoàn cố ý giao cho chúng tôi xử lý các đối tượng cố thủ nhỏ, để dần dần tạo cho các phi công những cơ hội làm quen không tổn thất với các tình huống chiến trường. Nhưng sau đó mới biết rằng quân phát xít đang kéo đến khu vực chúng tôi hoạt động một lực lượng lớn, để ra một đòn đánh quyết định vào Stalingrad, Grozny, Baku, và do đó chúng cố gắng không để lộ mình.

(http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/28.JPG)
Các nữ quân khí viên trung đoàn đang làm việc (http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/ill.html)

Tuy nhiên, sự im lặng kéo dài không lâu. Một lần chúng tôi bay đi ném bom tiêu diệt sinh lực và trang thiết bị của đối phương tại nhà ga Pokrovskaya gần Taganrog. Thay vì Olga trong buồng lái phía sau của chiếc U-2 là hoa tiêu của phi đội Larisa Rozanova.

Rozanova thường xuyên bay với mỗi phi hành đoàn trong phi đội, kiểm tra kỹ năng phi công. Biết mình bị bỏ lại trên mặt đất, Klyueva cau mày và bước ra khỏi máy bay.
- Cậu sao thế? - Tôi dừng người bạn gái lại.
- Khéo tìm lúc để kiểm tra! Bây giờ có phải lúc học đâu, mà là chiến tranh!
- Rozanova sẽ cố gắng cho cậu. Cô ấy nhiều kinh nghiệm lắm, và cô ấy sẽ phát hiện lỗi của tớ một cách nhanh chóng. Vậy cậu tức giận vô ích thôi.
- Tớ không giận, - Olya dịu lại. - Tớ chỉ muốn tự bay.
- Cậu sẽ có thời gian, cậu sẽ còn bay nữa mà. Cậu sẽ vui mừng khi một ai đó sẽ thế cậu vào buồng lái.

- Có lẽ cậu nói đúng ... Nhưng bây giờ tớ không muốn ngồi lại tại sân bay.
- Chờ tớ. Hai giờ, hoặc sớm hơn tớ sẽ ở đây. Trên chuyến bay thứ hai chúng ta sẽ lại bay cùng nhau.
Olga nhún vai và biến mất vào bóng tối. Rozanova trong cabin đang xem xét bảng tính toán hoa tiêu. Có lẽ cô ấy đã nghe được những lời cuối cùng mà Klyueva nói và hỏi chuyện gì xảy ra giữa chúng tôi.
- Thường thôi, không có gì đặc biệt - tôi tránh câu trả lời trực tiếp.

Và đây chúng tôi đang ở trên không trung. Tôi cố gắng điều khiển máy bay thuận buồm xuôi gió. Chúng tôi băng qua tuyến mặt trận chạy dọc theo sông Mius. Hoa tiêu lấy hướng tác chiến quy định. Pháo sáng đã lơ lửng trên không. Tôi chờ đợi phía dưới mặt đất vang lên tiếng nổ. Và đột nhiên ... máy bay rơi vào giữa giao điểm của các luồng đèn chiếu. Súng PK nổ ầm ầm. Không lập tức hiểu chuyện gì xảy ra, tôi muốn nhìn xem đạn bắn từ đâu tới. Đúng lúc đó, chùm tia đèn chiếu sắc lẻm như lưỡi dao cạo, rạch ngang qua mắt. Tôi bối rối trong một khoảnh khắc và máy móc ép cần lái. Máy bay bắt đầu bổ nhào.

Trời, thật vô cùng bất cẩn! Ngay tức khắc phải sửa lỗi, nếu không chúng tôi sẽ đâm sầm xuống mặt đất. Tôi cải bằng máy bay và chỉ điều khiển theo thiết bị trợ lái. Rozanova lúc lúc lại ra lệnh: "Sang trái! Sang phải!" Nhưng vẫn chưa thoát khỏi điểm giao hội của các chùm đèn chiếu PK. Đạn pháo cao xạ nổ ngày càng gần. Trong ánh sáng chùm tia quét của các đèn chiếu, tôi thoáng nhận ra vài lỗ rách lớn vì mảnh đạn trên cánh.

(http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/74.JPG)
Larisa Rozanova (1918-1997), AHLX. Đại úy cận vệ, hoa tiêu phi đội, biên đội trưởng, hoa tiêu trung đoàn (sau khi AHLX Zhenya Rudneva hy sinh), trung đoàn ném bom đêm cận vệ 46 Taman. Đã thực hiện 795 phi vụ trong chiến tranh, bay cùng phi đội trưởng Seraphima Amosova trong lần xuất kích chiến đấu đầu tiên của trung đoàn (trên thảo nguyên Salsk), ngày 12 tháng 6 năm 1942. (http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/ill.html)

- Giữ tốc độ! Tốc độ! - Larisa hét. - Sang phải nữa! Cơ động nhanh lên!
Tôi hành động như cái máy. Trong lồng ngực chẳng mảy may thấy chút xúc động hay sợ hãi nào. Nghiến chặt răng đến phát đau vì căng thẳng. Tôi chẳng có bất kỳ cơ hội nào để theo dõi tình hình: mọi sự chú ý tập trung vào thiết bị trợ lái và các khẩu lệnh của hoa tiêu, đang không ngừng vang lên trong máy đàm thoại. Động cơ gào rú. Qua tiếng gầm của động cơ, tôi dường như đang nghe thấy tiếng pháo cao xạ từ phía dưới nổ điên cuồng. Xung quanh tối tăm, còn ở trung tâm của màn đêm, chiếc U-2 bé nhỏ của chúng tôi bị đánh dấu tại giao điểm của quầng đèn chiếu hình đĩa. Không thể tiếp tục lâu như thế. Năm phút trôi qua các chùm tia đèn chiếu tóm chặt chúng tôi trong vòng tay của chúng như muốn bóp chết. Phải thoát ra khỏi địa ngục này bằng bất cứ giá nào. Đẩy cần lái ra xa thân mình, phóng máy bay vào vòng ngoặt nghiêng thật gấp và bất ngờ - tôi như thể rơi vào vực thẳm không đáy. Trước mắt vỡ òa những sắc cầu vồng bồng bềnh.
- Cừ lắm, Marinka! - tôi nghe thấy giọng nói xúc động của Rozanova.
- Chị cũng cừ lắm, chị Lesya! - Tôi trả lời cô hoa tiêu phi đội.

Đường bay về không hề dễ dàng. Chiếc máy bay bị thương không hoàn toàn tuân theo cần lái. Thời tiết trở xấu làm trầm trọng thêm sự việc, tầm nhìn giảm đi rất nhanh, trong khi tới sân bay còn xa. Chúng tôi về được tới nơi không? Tôi nhìn vào bảng điều khiển. Cho đến giờ moi việc vẫn tốt. Nhiên liệu trong thùng dầu còn đủ, động cơ đang hoạt động bình thường.
- Tất cả đều ổn, - Larisa khích lệ tôi - chúng ta đang đi như trên dây đàn.

Tôi cười gằn, nhưng vẫn giữ im lặng. Larisa cũng như tôi thấy rất rõ tình trạng máy bay. Tôi thật ơn chị ấy biết bao vì đã hỗ trợ tôi! Vâng, khi mà bên ta có người bạn trung thành đồng hành. Khi đó, những điều không thể cũng trở thành có thể, nó tăng thêm cho ta sức mạnh và sự tự tin. Đây rồi, cuối cùng thì cũng đã thấy phi trường.

Trước khi vào vòng lượn thứ ba tôi nháy các đèn thân máy bay, xin phép được hạ cánh. Phía dưới bật dãy đèn "chuột bay", đánh dấu hạ cánh. Đèn mỗi lúc một gần. Hơi ẩm ướt ban đêm phả vào mặt, bánh xe càng máy bay gõ lộp bộp trên mặt đất. Tôi lăn máy bay vào tuyến tiếp dầu, tắt động cơ và ngồi yên hai phút không động đậy trong buồng lái. Áp lực lớn đến mức không còn đủ sức để cử động ngón tay. Cuối cùng, tôi hồi tỉnh, trèo ra khỏi máy bay. Tôi ôm Larisa, và chúng tôi im lặng đi đến SCH. Mọi người đang chờ đợi chúng tôi.
- Đồng chí trung đoàn trưởng - tôi báo cáo Bershanskaya - nhiệm vụ chiến đấu đã hoàn thành!
Evdokia Davydovna ôm chúng tôi như người mẹ và hôn.
- Chúc mừng lễ thử lửa chiến trận của em.
Khi bình giá phi vụ, ban chỉ huy trung đoàn nhận xét hoạt động của kíp bay là thành công và chúc mừng chúng tôi đã đạt kết quả tốt.
- Chúng tôi phục vụ Liên bang Xô Viết! - dàn đồng ca nhiều giọng đáp vang rền.

* * *

Tôi với Olga Kliueva mặt mày u ám: máy bay của chúng tôi vẫn đang phải sửa chữa.
- Công việc sao rồi? - Cứ lúc lúc chúng tôi lại quấy rầy kỹ thuật viên Katya Titova. - Xong sớm được không?
- Ôi, các cô gái - cô vẫy đôi tay dính đầy dầu. - Đừng can thiệp! Tốt nhất các cô đi nghỉ đi!
- Chúng tôi có phải đi nghỉ mát đâu ... Tốt nhất nói xem chúng tớ giúp gì được cậu?
- Không cần đâu, cứ để tớ yên một mình đi, năn nỉ đấy! - Titova cầu khẩn không có gì ác ý.

(http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/23.JPG)
Katya Titova (http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/ill.html)

Quả thực chúng tôi nên đi là tốt hơn. Chúng tôi hiểu rõ rằng không cần thiết làm phiền cô ấy. Katya Titova là một kỹ thuật viên tuyệt vời. Trước chiến tranh, cô đã tốt nghiệp trường kỹ thuật Kharkov, và rất thành thạo về máy bay. Người hơi gầy nhưng đầy sức sống, xinh đẹp, không bao giờ nản lòng, đó là người bạn và người đồng đội trung thành với tôi và Olga. Và không chỉ với chúng tôi. Thường thường, sau khi hoàn thành công việc của mình, cô lập tức quay sang giúp đỡ các kỹ thuật viên của các biên đội khác, và không phải vì người ta yêu cầu cô giúp họ. Chỉ đơn giản là cô ấy có tính không chịu ngồi yên. Katya không thể không động tay động chân khi các đồng đội đang ngập đầu ngập cổ vì công việc và cần sự giúp đỡ.

Katya yêu thơ. Chúng tôi thường thấy cô thì thầm đọc thơ sau khi làm việc. Bạn mà đến gần thì thường là:
- Cậu đang lẩm bẩm cái gì đấy?
Cô ấy nhìn bằng ánh mắt xa vắng, thở dài và thú nhận:
- Thơ ... Những câu thơ tuyệt vời. Giá mà tôi viết được như vậy ... Mà có lẽ các cậu chưa hề đọc chúng.
- Ở đâu đây hả trời! Không đọc là đương nhiên. Nào chúng tớ có biết chữ đâu - Olga đùa.
......


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 25 Tháng Tám, 2015, 12:01:44 am
(tiếp)

* * *

Trên máy bay đã sửa xong chúng tôi bay lên không trung đêm 20 tháng 7. Hướng - tới ga đường sắt lớn đã quen thuộc Pokrovskaya. Ở đây đối phương tập trung rất nhiều khí tài và sinh lực, tăng cường lối tiếp cận vào ga, còn hệ thống phòng không của chúng đã được củng cố thích ứng để đối phó với không quân hạng nặng của chúng ta. Chống lại U-2 thì hệ thống như vậy lại không thể có hiệu quả, và đó là lý do tại sao bộ chỉ huy nhắm trung đoàn chúng tôi vào ga Pokrovskaya. Trong giai đoạn đầu, không biết loại máy bay cũng như chiến thuật của chúng tôi, bọn Hitler không thể hiểu được nguyên nhân hiệu quả thấp của lưới lửa của chúng. Nhưng ngay cả trong những điều kiện như vậy, chúng tôi vẫn phải cẩn trọng. Bởi vậy, chúng tôi đã hành động như thế. Trước khi tới ga, chúng tôi lấy độ cao lớn hơn một chút so với độ cao ném bom cần thiết, còn khi áp sát mục tiêu thì với những chiếc động cơ tắt tiếng để không làm lộ mình sớm. Trong chuyến bay, chúng tôi liên tục lúc bay lệch về bên phải, lúc bay lệch về bên trái, rồi thay đổi độ cao. Tính toán của chúng tôi dựa trên sự bất ngờ. Và chúng tôi đã đạt được điều này. Kẻ thù không thể dự đoán khi nào bom sẽ rơi trên đầu chúng.

(http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/14.JPG)
Musya Shchelkanova và Vera Dmitrienko chuẩn bị máy bay để phục vụ xuất kích chiến đấu (http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/ill.html)

Các chuyến bay đêm đã vắt kiệt sức chúng tôi. Chúng tôi thảy đều gầy đi, nhưng vì vậy mà với mỗi phi vụ, kỹ năng bay, độ bền, ý chí lại tăng lên.

Các kíp bay của trung đoàn ném bom ban đêm xuống binh lính và khí tài quân địch tập trung trong khu vực Matveev Kurgan, xuống các bến phà của bọn Hitler bắc qua sông Mius, sông Bắc Donets, sông Don, cũng như xuống các con đường mà quân đội Đức theo đó tấn công vào thảo nguyên Salsk và trong khu vực Stavropol. Mùa hè năm bốn mươi hai tại PDQ Nam nổi bật bởi các trận đánh đặc biệt khốc liệt. Kẻ thù điên cuồng lao tới Stalingrad và Caucasus. Quân đội của chúng ta vừa rút lui, vừa tiến hành các trận đánh đẫm máu, kiên cường bám trụ từng tuyến, từng cao điểm. Trong những điều kiện như vậy, các tuyến mặt trận liên tục thay đổi, ngày càng khó xác định đường tiền duyên hơn, khó định hướng từ trên không hơn, để không vô tình đánh vào các đơn vị mặt đất quân ta. Mà trung đoàn thì được giao nhiều nhiệm vụ quan trọng hơn, đòi hỏi một sự căng thẳng tinh thần và thể chất rất lớn từ mỗi phi công, hoa tiêu, kỹ thuật viên, quân khí viên, cán bộ chính trị, cán bộ tham mưu.

Trung đoàn vừa rút lui cùng với bộ đội của chúng ta, vừa giúp đỡ các đơn vị mặt đất của phương diện quân Nam kìm giữ quân thù. Về sự căng thẳng của các trận đánh có thể đánh giá qua các đoạn trích từ các báo cáo tác chiến bảo quản trong kho lưu trữ. Mới đây thôi tôi đã rất xúc động khi đọc một tài liệu như thế này:

Kể từ khi bắt đầu hoạt động chiến đấu, trung đoàn đã hủy diệt các khí tài cơ giới hóa và sinh lực của kẻ địch, các công trình hầm hào, công sự, các kho đạn dược và nhiên liệu, các ga đường sắt và đoàn tàu hỏa, các bến phà vượt sông Don, trong khu vực nhà ga Uspenskaya và các điểm định cư Marienheym, Kalinovo, Pokrovskoye, Aleksandrovka, Novo Bahmutskiy; hầm hào và công sự trên cao điểm 115, các bến phà vượt sông Don trong các khu vực Constantinovsky, Razdorskaya, Bagaevka.

Ngày 11 tháng 7 năm 1942 khi ném bom đoàn tàu hỏa tại nhà ga Uspenskaya đã phá hủy nhiều toa xe, kết quả là gây ra những vụ nổ cực mạnh và những đám cháy dữ dội. Cùng đêm đó, trên cao điểm 115 bom thả trúng trực tiếp mục tiêu làm một kho đạn nổ tung. Vào đêm sang ngày 25 tháng 7 năm 1942, ba lần xuất kích toàn lực, trung đoàn đã phá hủy phà qua sông Don trong khu vực Konstantinovskaya, ngày 26 tháng 7, trong đêm đã thực hiện 47 phi vụ xuất kích tiêu diệt các cụm cơ giới hóa và sinh lực kẻ địch tại bến phà qua sông Don trong các khu vực Bagaevka, Razdorskaya. Ngày 27 tháng 7 năm 1942 trong đêm ba lần xuất kích thành công toàn trung đoàn để hủy diệt bến phà qua sông Don tại khu vực Razdorskaya. Kết quả của các trận ném bom bến phà là đã phá hủy và gây thiệt hại lớn cho khí tài và sinh lực đối phương, đang vượt sông trên các tàu bè.


* * *

Chúng tôi chỉ có thể ngủ từng cơn và ngủ ngay dưới những chiếc máy bay ngụy trang. Thường xuyên thiếu lương thực và dinh dưỡng. Nhưng người dân đã chia sẻ với các nữ phi công đến mẩu bánh vụn cuối cùng.

Mà công việc liên tục tăng lên. Ngoài các chuyến bay đi ném bom thường lệ, còn phải thực hiện các chuyến bay trinh sát ban ngày, mang đến cho chúng tôi những rắc rối lớn hơn và trải nghiệm căng thẳng hơn rất nhiều so với ban đêm. Vào ban đêm, bạn chỉ phải đối phó với bọn pháo thủ cao xạ, nhưng bọn chúng cũng rất khó duy trì hỏa lực có ngắm bắn chính xác trong đêm tối. Ban ngày ngoài bọn pháo thủ cao xạ còn phải canh chừng bọn máy bay tiêm kích mà để chống lại chúng, chúng tôi không có bất kỳ loại vũ khí nào cả.

Và nói chung, U-2 là thế nào? Nói một cách hình ảnh, nó là một miếng gỗ dán và vải chúc bâu, gần như là một mục tiêu đứng tại chỗ. Phương tiện bảo vệ duy nhất khi gặp kẻ địch - là khả năng cơ động của máy bay và sự bình tĩnh của phi hành đoàn. Vì vậy, bạn bay và phải liên tục quan sát không trung. Xuất hiện trên đường chân trời một chấm đen, bạn phải phán đoán ngay đó là máy bay ta hay địch. Và sau đó, trong trường hợp nào bạn cũng phải nhìn ra một một khe sâu hay hẻm núi, để kịp thời lẩn vào khi bị tấn công.

Rất ổn định khi bay, rất dễ khi lái, U-2 không yêu cầu phải có các sân bay chuyên dụng và có thể bay trong mọi thời tiết, ở các độ cao rất thấp. Việc ném bom đêm của loại máy bay cỡ nhỏ đặc biệt thành công, không chỉ trên tiền duyên, mà còn trên các tuyến đường giao thông khác nhau của bọn Hitler - ném bom các đoàn tàu hỏa của chúng, các đầu mối đường sắt, các bến phà, các sân bay, các điểm tập trung sinh lực và xe máy khí tài của địch.

Khi đêm đến và cho đến trước bình minh, những chiếc U-2 liên tục bay treo trên mục tiêu, cứ mỗi khoảng 3-5 phút một lần, thả bom xuống đầu kẻ thù một cách có phương pháp. Và bọn phát xít cũng khiếp sợ các "cánh én" của chúng tôi. Ngay trong năm 1942, với mỗi chiếc U-2 bị bắn rơi, các phi công và xạ thủ của Hitler được trao tặng một huân chương Thập tự Sắt.

Cho đến mùa hè năm 1944, chúng tôi vẫn bay mà không mang dù. Đó là sự chủ ý tất nhiên. Chúng tôi chọn thay vì nhảy dù thì mang thêm hai chục kg bom. Thực tế là máy bay có thể bị bắn rơi, điều đó không phải chúng tôi không suy nghĩ, nhưng không cho nó là chuyện quan trọng lắm. Chúng tôi cho rằng, một khi thực sự đã là chiến tranh, thì điều đó nói lên tất cả. Nhưng lần khác trái tim lại đau nhói: việc chúng tôi bỏ qua dù có vô ích hay không? Tuy nhiên, vào ban ngày dẫu sao mang nó cũng không lợi gì mấy, vì chúng tôi bay ở độ cao rất thấp, bay ngang đầu ngọn cây. Nhưng tất nhiên đến tối, mang dù có thể có ích.

* * *

Mỗi đêm, chúng tôi ném bom các đơn vị đang tấn công của địch, và khi bọn Đức quốc xã tiến gần đến các sân bay hoặc các sân đậu mà từ đó chúng tôi bay đi chiến đấu, các phi hành đoàn lại phải bay chuyển sân về phía đông.

Một lần, trong thời gian cất cánh bay đi chiến đấu, trên máy bay của Nina Raspopova xảy ra chuyện văng mất nửa cánh quạt, mà phi hành đoàn cần phải chuyển cứ ngay lập tức. Biết làm gì đây? Bỏ lại máy bay là không thể. Phá nổ ư? Kỹ thuật viên của kíp bay Tonya Rudakova bật khóc. Chúng tôi quyết định thử khởi động động cơ. Máy bay bắt đầu rung lên. Khi đó, Nina Raspopova đề nghị Tonya cắt cánh quạt thứ hai.
- Chỉ cần bay được đến Elkhotovo ...

Khó khăn nhất lúc ấy đối với các phi công là không có máy bay. Chúng tôi cố gắng khởi động động cơ. Phải bay được đi - bọn Hitler đã tiến rất gần.

Ngồi trong buồng lái phía sau Raspopova là kỹ thuật viên của biên đội Maria Shchelkanova. Đó trước hết là bước đi tâm lý hơn là thiết thực. Thực sự là như vậy, vì kỹ thuật viên có thể giúp phi công trong không trung bằng cách gì?!

(http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/62.JPG)
Nina Raspopova (1913-2009), người Nga, nguyên là nhà địa chất. Gia nhập quân đội 1941. AHLX, thượng úy cận vệ, biên đội trưởng, trung đoàn ném bom đêm cận vệ 46 Taman. Cho đến hết chiến tranh đã đích thân thực hiện 805 phi vụ. Sau chiến tranh giải ngũ, chuyển ngạch dự bị và chuyển sang hoạt động XH. (http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/ill.html)

Máy bay của Raspopova bay giữa các máy bay khác. Trong khi bay sự rung lắc tăng lên. Shchelkanova, đứng lên trong buồng lái đến ngang thắt lưng, thận trọng nhìn các thanh giằng và các nút. Máy bay không ngừng rung lắc. Và dù sao cũng vẫn bay tới nơi. Các kíp bay các máy bay khác nhường đường cho Raspopova. Chị ấy đã hạ cánh an toàn. Sau một vài giờ người ta mang cánh quạt mới đến và máy bay lại bước vào đội hình hoạt động. Buổi tối, phi công Nina Raspopova cùng với hoa tiêu Lelya Radchikova cất cánh đi làm nhiệm vụ, và lần đầu tiên trong đời rơi vào lưới lửa PK dữ dội như cuồng phong. Nhưng may mắn vẫn đồng hành cùng cô gái kể cả lần này...

Tôi đã nói rằng hình thái tuyến mặt trận bị thay đổi liên tục, hầu như hằng ngày. Đã xảy ra chuyện qua một đêm, trong khi chúng tôi bay đi làm nhiệm vụ, các đơn vị tiên phong của đối phương đã tiến rất gần tới khu vực trung đoàn đóng căn cứ. Ví dụ sự việc như vậy đã diễn ra gần làng Selina. Ngay khi tôi vừa tiếp đất sau một chuyến bay tuần tự, và lăn máy bay đến nơi tiếp nhiên liệu, trung đoàn trưởng Bershanskaya đi lại và ra lệnh ngay lập tức bay đến một khu vực khác.

- Tại sao? - Tôi ngạc nhiên.
- Bọn phát xít đang đến, - Evdokia Davydovna nói. - Em có nghe thấy tiếng đạn pháo nổ rất gần không?
........


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 25 Tháng Tám, 2015, 09:44:26 pm
(tiếp)

Chúng tôi ước mơ và chiến đấu

Stanitsa Olghinskaya chìm trong những khu vườn cây trái tươi tốt. Các máy bay phân tán ngay dưới các tán cây ăn quả. Trong bóng tối của một cây táo, lúc lỉu những trái táo chín lớn, tôi ngồi với Olga Kliueva và suy nghĩ về những đêm sắp tới. Trời nóng. Bầu trời không gợn mây.
- Thật là trù phú, Olga ơi! - Tôi nói với hoa tiêu của mình.
- Phải... Giá mà bọn mình ở lại đây được lâu hơn một chút và nếu như không có chiến tranh ...

(https://upload.wikimedia.org/wikipedia/ru/a/a6/Ryabova_EV.jpg)
Katya Ryabova (1921-1974), AHLX. Thượng úy cận vệ, hoa tiêu phi đội, trung đoàn ném bom đêm cận vệ 46 Taman. Nguyên sinh viên toán-cơ MGU. Tình nguyện nhập ngũ 1941. Đã thực hiện 890 phi vụ trong chiến tranh. Năm 1945 giải ngũ, trở về học tiếp MGU. Tốt nghiệp khoa Toán-Cơ ĐHTH Quốc gia Moskva năm 1948, PTS Toán-Lý năm 1951. Giảng dạy tại ĐH Ấn loát và xuất bản Moskva. Phó GS bộ môn Cơ học lý thuyết Học viện KTQS mang tên F.E.Dzerzhinsky (Học viện KTQS của lực lượng tên lửa chiến lược Liên Xô và Nga ngày nay). (http://www.warheroes.ru/hero/hero.asp?Hero_id=1658)

Chúng tôi đặc biệt nhớ Olghinskaya. Chúng tôi đóng quân ở đó một cách tự do, thoải mái. Nhưng có một bất tiện lớn: dưới các ngôi nhà ở là các chuồng bò cũ. Dù chúng tôi đã dọn sạch, dù cố gắng thế nào, trong phòng vẫn luôn có một mùi rất nặng. Các cô gái gọi đùa nhà tập thể của chúng tôi là khách sạn "Bò cái bay".
- Các cô gái khéo nghĩ ra thật - "Bò cái bay" - Klyueva lại nói, nhưng đột nhiên dừng lại giữa chừng. - Nghe này, Marina, ai đang hát đấy nhỉ?
Nadia Popova, Evghenya Rudneva, Katya Ryabova đã đến gần chúng tôi. Nadia hát, còn các cô gái hát theo. Giọng hát ngọt ngào của cô ấy không thể nhầm lẫn với bất cứ ai khác.
- Nadia! Hát "Chiếc khăn xanh" đi! - Olga đề nghị.
- Đơn đặt hàng chỉ được tiếp nhận ở hội khuyến nhạc "Bò cái bay" thôi nhé ...

Các cô gái đã đi rồi, nhưng âm điệu của bài hát còn bay đến chỗ chúng tôi một lúc lâu.
- Các cô gái hát hay quá ... Cậu biết không, Olga, đôi khi tớ nghĩ rằng chẳng có cuộc chiến tranh nào cả, mà chỉ là mình mơ thấy một cơn ác mộng.
- Tớ cũng cảm giác như vậy, - Olga nói. - Tớ chỉ thấy có những giấc mơ đẹp, như là tớ lạc vào một câu chuyện cổ tích, và xung quanh là những chú lùn rừng xanh vây quanh đông đảo ... những ông già nhỏ bé râu ria ...
- Tớ cũng vậy, đã tìm thấy cái để ngắm nghía! Thật ra sẽ tốt hơn nếu cậu mơ thấy một chàng hoàng tử đẹp trai ...
- Không, Marinka, các chàng hoàng tử thì tớ chưa từng nhìn thấy trong thực tế hay trong mơ. Mà tớ thường mơ thấy đồng cỏ, nhưng không hiểu sao không có màu xanh lục mà đầy các loại màu sắc khác nhau ... Còn trên trời thì én bay, và tớ bay - cùng với chúng. Chỉ có điều không phải trên máy bay, mà bay thẳng như thế này - không có cánh.
- Thế pháo PK không bắn à?
- Vâng, cậu chế giễu đủ rồi đấy! Tớ nói nghiêm túc hẳn hoi! Mà cậu biết rồi, âm nhạc - rất buồn và trang trọng ...

Cuộc trò chuyện của chúng tôi bị gián đoạn bởi trực ban tham mưu. Tôi được triệu tập đến chỗ trung đoàn trưởng.

Evdokia Davydovna đăm đăm nhìn tôi. Tôi đứng ở tư thế "nghỉ" chăm chú lắng nghe nhiệm vụ. Cần khẩn trương đưa ngay một sĩ quan liên lạc đến vị trí của bộ đội mặt đất gần tiền duyên. Đứng cạnh Bershanskaya tôi thấy một người đàn ông bụi bặm mệt mỏi. Chiếc máy bay chở ông bị tiêm kích phát xít tấn công, phi công trọng thương, nhưng còn kịp hạ cánh. Sĩ quan liên lạc được cứu thoát một cách thần kỳ.

Không lâu trước khi màn đêm buông, chúng tôi bay đi ở độ cao sát sạt đầu ngọn cây hướng tới đường tiền duyên. Vị khách của tôi ngồi vào vị trí của hoa tiêu. Chưa kịp bay một vài cây số thì một chiếc tiêm kích lăn xả vào chúng tôi. May thay, nó công kích trượt lần đầu tiên. Tôi không do dự, hạ cánh ngay con "én" xuống con đường đất và hét lên với viên sĩ quan, để ông ta chạy ra xa, còn tôi nằm xuống phía bên kia máy bay, thật may, tiêm kích quân ta vừa đi chiến đầu trở về xuất hiện. Nhìn thấy họ, tên phát xít Đức ngay lập tức từ bỏ mưu toan tiêu diệt chiếc U-2 không có phương tiện bảo vệ của tôi. Tiếp tục chuyến bay, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ chính xác.

(http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/73.JPG)
Ban tham mưu trung đoàn. Hàng thứ nhất (trái sang phải): Nina Volkova, Irina Rakobolskaya, Anhya Elenina; hàng thứ hai: Masha Marina, Olya Fetisova, Katya Dospanova (http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/ill.html)

Tôi còn giữ được một cách kỳ diệu số báo quân đội ngày 23 tháng 7 năm 1942. Báo chạy tít - và đột nhiên tôi thấy: chữ ký quen thuộc - I. Rakobolskaya. Và, giống như một tiếng vọng của ngày xưa, những ngày và đêm ấy tại Olghinskaya sống lại trong dòng tin trên báo, các chuyến bay đêm ném bom bọn phát xít Đức, đang xông tới Rostov-na-Donu.
Dưới đây là những gì viết trong mẩu tin:

Đội ngũ quân nhân tập hợp trong một khu vườn nhỏ ngồi trên cỏ. Trung đoàn trưởng E.Bershanskaya đặt nhiệm vụ chiến đấu cho các kíp bay, chị nêu nhiệm vụ ngắn gọn và rõ ràng:
"Nhiệm vụ của chúng ta - tiêu diệt quân địch co cụm và bến phà tại điểm P.". Tiếp theo đến các chỉ dẫn về độ cao bay, cỡ bom, hướng tiếp cận mục tiêu và thoát ly khỏi nó, các tín hiệu và v.v.

Mở bản đồ, tổ bay một lần nữa kiểm tra sự đúng đắn của hành trình bay đặt ra, những mốc định hướng cụ thể.
Tất cả đã rõ.
- Về máy bay! - đại úy ra lệnh.
... Đúng thời gian dự kiến, cứ mỗi ba phút, những chiếc máy bay ném bom ban đêm xuất phát.

Gần bến phà, trên cả hai bờ ranh giới nước và trong điểm dân cư kề cận, đối phương tập trung nhiều ô tô, xe tăng, xe vận tải, binh lính. Mục tiêu nhanh chóng được tìm ra. Ba kíp bay đầu tiên nối đuôi nhau thả bom phá và bom cháy.

Trở về sau khi hoàn thành nhiệm vụ, chuẩn úy Nadezhda Popova báo cáo:
- Bom SAB gây ra tại chỗ những vụ cháy kéo dài. Kíp bay của thiếu úy Maria Smirnova quan sát thấy tại nơi tập trung xe ô tô có các vụ nổ dữ dội.

Các máy bay ném bom của chúng ta liên tục "làm việc" trên mục tiêu. Họ đổ thứ hàng hóa chết người của mình xuống hang ổ của kẻ thù.

Trung sĩ Ekaterina Piskareva, chuẩn úy Raisa Aronova và Nadezhda Popova, trở về từ phi vụ thứ hai, báo cáo các kết quả ném bom tốt. Sau khi các quả bom của họ phát nổ, một đám khói đen dày đặc bốc cao cuồn cuộn lên không trung: các kho xăng bị đốt cháy.

Động cơ của các máy bay ném bom ban đêm liên tục kêu ầm ầm cho đến tận buổi sáng. Công tác chiến đấu diễn ra căng thẳng.

Vào đêm này, phần lớn các kíp bay thực hiện ba phi vụ.


Từ Olghinskaya chúng tôi nhanh chóng phải bay chuyển sang Stavropol, tới Petrovskoye.

Kẻ thù mạnh hơn chúng ta, và chúng ta đang phải rút lui. Chúng tôi rút lui nhưng tin rằng sẽ đến thời gian mà quân đội Liên Xô đuổi bọn Đức quốc xã về phía tây, đến tận Berlin.

Tại khu vực Stavropol đã cảm thấy sự gần gụi của Caucasus, và thậm chí có thể nhìn thấy qua mây khói những đường nét thấp thoáng của các đỉnh núi phủ tuyết hùng vĩ. Các sườn núi Kavkaz giá buốt và hiểm trở dường như với chúng tôi là trở ngại lớn nhất mà ở đó chúng tôi sẽ chặn đứng kẻ thù lại và đập chúng tan tành. Trong khi đó, bọn phát xít ném bom dữ dội Pyatigorsk, Mineralnye Vody. Nơi đó, trước đây những người nghỉ dưỡng đi bách bộ nhàn tản bình yên, bây giờ mảnh bom đạn đang bay tứ tung rú rít, các bức tường của các nhà điều trị và nghỉ dưỡng rung chuyển vì các vụ nổ.

(https://upload.wikimedia.org/wikipedia/ru/thumb/a/a3/%D0%98%D0%B7_%D0%B4%D0%B8%D1%80%D0%B5%D0%BA%D1%82%D0%B8%D0%B2%D1%8B_%D0%A1%D1%82%D0%B0%D0%B2%D0%BA%D0%B8_%D0%92%D0%93%D0%9A_%E2%84%96_994172%2C_27_%D0%B0%D0%B2%D0%B3%D1%83%D1%81%D1%82%D0%B0_1942_%D0%B3.jpg/800px-%D0%98%D0%B7_%D0%B4%D0%B8%D1%80%D0%B5%D0%BA%D1%82%D0%B8%D0%B2%D1%8B_%D0%A1%D1%82%D0%B0%D0%B2%D0%BA%D0%B8_%D0%92%D0%93%D0%9A_%E2%84%96_994172%2C_27_%D0%B0%D0%B2%D0%B3%D1%83%D1%81%D1%82%D0%B0_1942_%D0%B3.jpg)
Chị thị ngày 27 tháng 8 năm 1942 của Đại bản doanh gửi Tư lệnh PDQ Zakavkaz đại tướng Iu.V.Tyulenev thông báo việc thay đổi, bổ sung nhân sự chỉ huy nhằm tăng cường phòng thủ Kavkaz. (https://ru.wikipedia.org/wiki/%D0%91%D0%B8%D1%82%D0%B2%D0%B0_%D0%B7%D0%B0_%D0%9A%D0%B0%D0%B2%D0%BA%D0%B0%D0%B7_(1942%E2%80%941943))

Tại ga Elkhotovo nơi trung đoàn của chúng tôi chuyển căn cứ đến, vào ngày đầu tiên tập trung rất nhiều loại máy bay khác nhau. Từ đây chúng tôi bay đi ném bom quân đội phát xít trong đêm, còn ban ngày đi trinh sát tuyến mặt trận.

Phi đội trưởng Sima Amosova giao nhiệm vụ cho tôi và Olya Kliueva vào gần chiều tối, khi trời còn sáng, bay trinh sát tiền tuyến và sự di chuyển của quân đội Đức trong khu vực Mineralnye Vody, Pyatigorsk, Georghievsk. Nhiệm vụ khó khăn và nguy hiểm, nhưng không phải là mới đối với chúng tôi. Sau khi thảo luận với Olga mọi chi tiết, chúng tôi tiến về chỗ máy bay ...

Cách không xa các máy bay của chúng tôi là một trung đoàn máy bay của nam giới. Một trung úy mắt xanh, dáng tầm thước, mái tóc vàng xoăn đến gần chúng tôi. Anh nhìn thấy chúng tôi sắp khởi hành, anh hỏi nhiệm vụ gì, và vô cùng ngạc nhiên về chuyện làm thế nào có thể đi làm một công việc nguy hiểm như vậy trên một chiếc máy bay không có khả năng tự vệ. Vào thời điểm đó tôi đang là trung sĩ. Trung úy lần lượt nhìn tôi và Olga, sau đó nói:
- Chúng sẽ giết bạn mất thôi, cô trung sĩ ơi!
Đáp lại, tôi chỉ nhún vai nói: tôi biết, mặt trận thì cái gì cũng có thể. Và tôi bắt đầu chuẩn bị cất cánh. Khởi động động cơ, cho chạy thử tất cả các chế độ, lăn bánh ra xuất phát. Anh trung úy giơ tay lên vẫy chúng tôi ...

Khi hoàn thành xong nhiệm vụ, chúng tôi an toàn trở về Elkhotovo, đêm tháng Tám phương nam đã buông xuống mặt đất. Người đầu tiên tôi nhìn thấy, sau khi lăn máy bay đến vị trí ban đầu của nó, vẫn là anh trung úy mắt xanh. Dường như anh đang chờ đợi chúng tôi trở về. Cuộc gặp gỡ với một người đàn ông, sau chiến tranh trở thành người gần gũi và thân thiết của tôi diễn ra như thế đấy ...

Sáng hôm sau, chúng tôi bay đến một sân bay ở khu vực Grozny.
Trong những ngày khó khăn năm 1942, trong khi thi hành một nhiệm vụ đặc biệt, một chiếc tiêm kích phát xít đã bắn vào máy bay của chuẩn úy Nadezhda Popova và trong đợt công kích sau cùng, đã bắn cháy nó. Nadia còn kịp cho máy bay tiếp đất, trèo được ra khỏi ca bin. Chiếc máy bay bốc cháy ngay trước mắt cô ấy.

Mười bảy ngày người nữ phi công mới về được tới trung đoàn của cô. Trong thời gian phiêu bạt khó khăn tìm đường về, cô ấy gặp một nam phi công-tiêm kích Semion Kharlamov, người sau khi bắn rơi một máy bay của đối phương, cũng bị tấn công bởi một máy bay tiêm kích địch. Sau khi hạ cánh khẩn cấp Kharlamov bị thương, cũng giống như Popova, anh tìm đường về đơn vị của mình.

(http://cdn.theatlantic.com/static/mt/assets/science/assets_c/2013/07/Screen%20Shot%202013-07-15%20at%204.16.42%20PM-thumb-570x400-127218.png)
Nadya Popova bên chiếc Po-2 của mình, năm 1943. (http://www.theatlantic.com/technology/archive/2013/07/night-witches-the-female-fighter-pilots-of-world-war-ii/277779/)

Vậy là trên các con đường mặt trận, hai phi công xuất sắc đã gặp nhau. Và họ đã mang tình cảm tốt đẹp đối với nhau đi qua suốt cuộc chiến tranh.

Trước kia chúng tôi từng đi tới đây nghỉ mát. Phía trên nhà ga, vẫn như mọi khi, mặt trời lên nhuộm các đỉnh núi phủ tuyết bằng ánh bình minh đỏ thắm. Nhưng bây giờ, khách du lịch lúc trời chạng vạng không lên đường đến các đèo Sunzha và Terek nữa.

Trong các hẻm núi vang rền những tràng súng tự động. Bom rơi trên các sướn núi đá. Những buổi hoàng hôn đẫm máu cháy rực không yên ở vùng chân núi.

Các thành phố và làng mạc thanh bình xưa kia - Mozdok, Ischerskaya, Prokhladnaya, Digora, Ardon, Elkhotovo - được liệt kê trong các bản tin như là các địa danh trên tuyến phòng thủ.

Kể từ khi bắt đầu cuộc tấn công mùa hè năm 1942 xuống miền Nam, bọn Hitler hy vọng bằng một đòn đánh thời gian ngắn sẽ chiếm gọn Bắc Caucasus, làm chủ phần phía nam đất nước và sau khi nắm chắc nguồn dầu mỏ, sẽ khiến quân đội của chúng ta không còn nhiên liệu. Bỏ qua mọi tổn thất, chúng ném các sư đoàn xung kích của mình vào khu vực mặt trận này. Tại phương nam đã mở đầu một đầu mối các sự kiện thắt nút chặt chẽ ...

Một đạo quân lớn những con thú dữ bọc thép điên cuồng đổ xô đến các trung tâm sống còn của đất nước chúng ta, chà đạp các cánh đồng hoa sông Don Soviet, - báo tiền tuyến của chúng tôi "Những cánh đại bàng chiến trận" viết. - Mối nguy hiểm nghiêm trọng lơ lửng treo trên Tổ quốc yêu dấu của chúng ta, trên vùng đất miền Nam Liên Xô. Để ngăn chặn nguy cơ này, phá vỡ ý đồ của đối phương, chặn đứng, tiêu hao, sau đó đập tan quân chiếm đóng phát xít Đức - đây là nghĩa vụ thiêng liêng của những người lính Xô Viết.
Các chiến binh của chúng ta, các vị chỉ huy và cán bộ chính trị đã bảo vệ một cách anh hùng và can đảm từng tấc đất quê hương Xô Viết.

Nhưng để chặn đứng và đánh bại quân xâm lược, chúng ta còn phải phát huy mọi lực lượng của mình, nhân lên nhiều lần sức mạnh đòn đánh của chúng ta ...

Lợi ích quốc phòng của Tổ quốc yêu quý đồi hỏi chúng tôi phải chiến đấu căng thẳng đến tột cùng, tăng đến tối đa các phi vụ-xuất kích, ném bom đạt chất lượng cao, trinh sát. Các phi công, hoa tiêu, kỹ thuật viên, cơ khí viên! Tổ quốc chờ đợi ở các bạn những kỳ công mới! Hãy đánh mạnh hơn nữa vào những tên cướp phát xít Đức! Hãy để thảo nguyên vùng cận Donets trở thành mồ chôn bầy dã thú phát xít điên khùng.


... Thời gian này chúng tôi định cư tại một stanitsa đẹp như tranh vẽ Assinovskaya. Máy bay phân tán giữa các cây ăn quả. Để cất cánh người ta sử dụng một sân nhỏ bao bọc ba phía bởi các mương sâu. Để có thể lăn máy bay ra sân cất cánh, phải bắc các cầu qua mương.
.......


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 26 Tháng Tám, 2015, 12:37:11 pm
(tiếp)

Sau những cánh thảo nguyên Stavropol, phải thừa nhận rằng những dãy núi cao làm chúng tôi e sợ. Mọi thứ ở đây có vẻ không bình thường. Chúng tôi không hình dung ra sẽ bay trên núi như thế nào, nơi không có những mốc định hướng quen thuộc, nơi các khoảng trống bằng phẳng lấy làm sân bay giống như những "bãi chăn heo", bao quanh bởi những chướng ngại vật.

(https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/d/d4/Bundesarchiv_Bild_101I-031-2417-09%2C_Russland%2C_Kaukasus%2C_Gebirgsj%C3%A4ger.jpg)
Lính sơn cước Đức Quốc xã nghỉ chân trên dãy Kavkaz, ngày 22 tháng 12 năm 1942 (https://ru.wikipedia.org/wiki/%D0%91%D0%B8%D1%82%D0%B2%D0%B0_%D0%B7%D0%B0_%D0%9A%D0%B0%D0%B2%D0%BA%D0%B0%D0%B7_(1942%E2%80%941943))

Không ngạc nhiên khi để chuẩn bị cho các trận đánh trong môi trường mới, chúng tôi đã phải làm việc đặc biệt kiên trì. Tại Assinovskaya trung đoàn đóng quân đến tháng 1 năm 1943. Ở đây, các cô gái của chúng ta đã kết bạn với cư dân địa phương, nói đùa về mình rằng sẽ cho phép bén rễ sâu. Mặc dù tất cả đều ở nhà tập thể, mỗi người chúng tôi đều có "chị chủ" của mình. Đến nhà chị chủ, chúng tôi thư giãn, tắm rửa, và đôi khi chỉ để nói chuyện, giúp đỡ việc nhà. Các bà chủ, chủ yếu là phụ nữ lớn tuổi đã có chồng, có thái độ đối xử với chúng tôi rất ấm áp, háo hức chờ đợi chúng tôi trở về từ các chuyến bay, hồi hộp và lo lắng về chúng tôi, như đối với thân nhân của họ. Họ không ngừng ngạc nhiên tự hỏi, làm sao mà chúng tôi, những người còn rất trẻ, gần như là các cô gái mới lớn, lại có thể chiến đấu bình đẳng bên cạnh nam giới.

Một lần khi đang chăm chú làm việc, tôi cảm thấy chị chủ nhà đăm đăm nhìn tôi.
- Thế em không sợ phải bay tới chỗ bọn phát xít à? - Đột nhiên, chị phụ nữ hỏi.
- Tất nhiên, sợ chứ - Tôi nói một cách thành thực. - Chẳng qua là em quen với tất cả mọi thứ rồi.
- Hôm qua, chị đã gửi một bức thư cho chồng chị. Có kể về em đấy. Cứ để anh ấy đọc, có lẽ anh ấy sẽ cảm thấy dễ chịu hơn khi biết chúng ta có những cô gái dũng cảm như thế nào.

* * *

Mùa hè đang tàn. Mây ngày càng che phủ bầu trời, và những lúc như vậy thật khó định hướng trong không trung. Và cho đến lúc này, chúng tôi cũng không dễ dàng gì - bởi chưa ai từng bay ở vùng núi - bây giờ công việc của chúng tôi đã trở nên phức tạp hơn. Đặc biệt khó chịu là những luồng không lưu hay biến đổi và sương mù rất dày.

Thời tiết thay đổi nhanh đến mức không có cách nào theo kịp những biến đổi ấy, và đã có lần đường trở về nhà còn khó khăn hơn là ném bom các mục tiêu của địch. Thường thì lúc bạn cất cánh - đêm trong trẻo, dễ dàng định hướng, còn trên đường trở về bạn rơi vào một màn sương mà bạn bay như thể trong một biển sữa, và bạn sẽ phải tiếp đất trong ánh sáng của hỏa tiễn. Còn với sân đậu nhỏ của chúng tôi điều đó thực sự là xấu, chỉ lỡ chút thôi - hoặc đâm xuống mương hoặc chúi mũi, chúi nắp ca bô xuống đất.

Chúng tôi làm việc ở thời điểm này cả từ sân nhảy cóc, từ mà ta gọi sân cất cánh, nằm không xa phi trường - gần với tiền tuyến hơn. Khi đêm xuống, chúng tôi chuyển máy bay của mình về đấy, còn lúc bình minh, sau một đêm chiến đấu, chúng tôi bay trở lại, bay về Assinovskaya.

Bọn phát xít kéo vào khu vực Mozdok nhiều pháo phòng không đến mức mỗi kíp bay không thể tránh khỏi lưới lửa cao xạ. Kẻ thù đã bắt đầu thích nghi với chiến thuật của chúng tôi. Chúng tôi cần khẩn trương áp dụng một số hình thức và phương pháp chiến đấu mới.

Cho đến bây giờ, chúng tôi đã hành động đơn lẻ. Với những chiếc máy bay đơn lẻ bọn Hitler dễ dàng đối phó hơn. Do đó, phương pháp mới - bay theo cặp, - được quyết định áp dụng. Bản chất của phương pháp này là như sau. Phi hành đoàn đầu tiên mở hết ga bay qua mục tiêu, khêu ngòi hỏa lực bắn vào mình và đánh lạc hướng kẻ thù, còn phi hành đoàn thứ hai, theo sau với gián cách thời gian một phút rưỡi đến hai phút, liệng tới mục tiêu quy định với động cơ nghẹt tiếng và đúng lúc đó thì thả bom. Nếu đối phương chuyển làn hỏa lực sang chiếc bay sau, khi đó chiếc bay đầu sẽ quay lại tấn công mục tiêu.

Việc thử nghiệm phương pháp này người ta giao phó cho Nadia Popova cùng hoa tiêu Katya Ryabova và tôi cùng Olya Klyueva. Đến lúc ấy chúng tôi đã bay cặp hoàn hảo với Popova, chúng tôi đã thiết lập được một sự hiểu biết lẫn nhau hoàn toàn trong không trung. Điều này rất quan trọng cho sự thành công trong bất kỳ công việc nào. Trước chuyến bay, chúng tôi suy nghĩ cẩn thận tất cả các phương án tiếp cận mục tiêu và hành động của cả hai kíp bay. Đối tượng để ném bom cũng không dễ - bến phà qua sông Terek ở Mozdok. Bến phà này rất quan trọng đối với bọn phát xít Đức, vì vậy chúng bảo vệ nó rất chắc chắn bằng các phương tiện phòng không. Đột phá tới bến phà là vô cùng khó khăn, không chỉ ban ngày, mà còn cả ban đêm.

(http://img-fotki.yandex.ru/get/6301/121447594.e3/0_873ea_d40cf7e6_XL.jpg)
Các kíp bay của trung đoàn. Assinovskaya 1942. (http://www.liveinternet.ru/users/alla-rikova/post219662853/)

Theo kế hoạch kíp bay chúng tôi bay đầu tiên và khêu ngòi hỏa lực địch về mình. Việc bắt đầu ném bom được ủy thác cho Popova. Khoảng gián cách thời gian giữa các máy bay phải giữ rất nghiêm ngặt.

So đồng hồ xong, chúng tôi tản về các máy bay. Bershanskaya đích thân cho phép chúng tôi cất cánh lên không trung. Chúng tôi lập tức nhận ra rằng: ban chỉ huy cũng lo lắng cùng với chúng tôi. Vâng, điều đó có thể hiểu được: các kíp bay của chúng tôi xử lý được nhiệm vụ, - nghĩa là, một chiến thuật mới chịu được thử thách. Trong mọi trường hợp, sự thất bại đầu tiên có thể làm tiêu tan niềm tin của các phi công và hoa tiêu vào chiến thuật mới. Nghĩa là, chuyến bay cần phải diễn ra thắng lợi. Nói cách khác, cần phải đặt để, như các vận động viên nói.

Đây rồi các mốc định hướng quen thuộc. Dòng sông lấp loáng như một dải băng mờ bạc. Chúng tôi vượt qua đường tiền duyên ở độ cao 1200 mét. Chúng tôi cần phải ở trên mục tiêu đúng giờ. Đã đến lúc! Tôi đẩy cần lái xa mình, thêm cửa gaz, và chúng tôi lao vút tới mục tiêu ẩn trong bóng tối. Tuyến phòng vệ của kẻ địch im lặng đáng ngờ. Hãy bắt đầu nhanh lên đi nào! Tất nhiên, không dễ chịu gì khi các đèn chiếu PK làm lóa mắt mình, còn pháo cao xạ bắn về phía mình từ tất cả các hướng. Nhưng sự không biết còn tệ hơn, khi mà ta chẳng biết kẻ thù ở đâu và hắn nghĩ gì.

Bạn có thể làm quen với tất cả mọi thứ: hỏa lực pháo bắn ác liệt, tiếng rít của mảnh đạn, các lỗ rách trong hai tầng cánh, vũ điệu điên dại của bóng tối và ánh sáng, các cuộc hạ cánh ban đêm, khi mặt đất được đoán ra qua giác quan thứ sáu đặc biệt. Bạn quen với tất cả những gì giấu trong mình mối nguy hiểm rõ ràng: bản thân sự nguy hiểm không quá khủng khiếp nếu bạn nhiều lần đối mặt, rồi vượt qua nó. Đồng thời, người ta không thể cưỡng lại được cảm giác ngột ngạt của sự chờ đợi mối hiểm nguy. Dù tôi đã bay bao nhiêu đi nữa và đã từng lâm vào những tình huống khó khăn thế nào, thì đối với tôi sự linh cảm về mối nguy hiểm luôn luôn khủng khiếp hơn so với bản thân sự nguy hiểm.

Đột nhiên một cơn bảo lửa bủa vây con sên bay của chúng tôi. Bầu trời bắt đầu giằng xé hỗn loạn bởi những luồng đèn chiếu. Tôi lái máy bay bay ngoằn ngoèo hình rắn lượn, tránh bên trái rồi tránh bên phải. Không thể để cho kẻ thù tóm được chiếc U-2 trong một thời gian dài tại điểm giao cắt của các chùm đèn chiếu và vào đúng lúc khi mà điều này rất mạo hiểm, đòi hỏi phải "dắt mũi" các vận hành viên đèn chiếu lâu hơn nữa. Bởi nhiệm vụ chính của tôi khi đó là đảm bảo cho máy bay của Popova tiếp cận mục tiêu.

(http://ic.pics.livejournal.com/tipolog/9755416/405404/405404_original.jpg)
Các cô gái thuộc tổ chức Hiệp hội các cô gái Đức, một hình thức của Đoàn Thanh niên Hitler vận hành đèn chiếu phòng không. Ngoại ô Berlin năm 1944. (http://costarostov.livejournal.com/191837.html)

Đạn trái phá ngày càng giăng dày đặc. Mảnh đạn cao xạ xé rách cánh máy bay, và thật không hiểu được cho đến giờ nó chưa chạm vào chúng tôi, rơi trúng vào động cơ. Nhưng đằng sau chúng tôi ánh chớp các vụ nổ đã bùng lên. Máy bay của chúng tôi bỗng chốc bị bóng tối bao phủ, đạn cao xạ ngừng bắn.
- Popova và Ryabova đã làm việc rồi! - Olga hét lên. - Bây giờ đến lượt chúng ta. Gặt nhanh lên!

Và tôi "gặt". Tôi lấy độ cao và liệng tới mục tiêu từ phía sau. Bom rơi chính xác. Một lần nữa súng cao xạ nổ giòn, lưỡi dao sắc lẻm của chùm đèn chiếu xé toang bầu trời đêm. Nhưng quá muộn rồi. Nhiệm vụ đã hoàn thành, chúng tôi lấy hướng bay về phi trường của mình.

Vào cùng đêm ấy, còn vài cặp phi hành đoàn nữa bay thành biên đội hai chiếc đi ném bom. Một phương pháp mới đã hoàn toàn tự chứng tỏ được bản thân.

* * *
........


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 26 Tháng Tám, 2015, 10:56:33 pm
(tiếp)

Bất kỳ hành động nào của chúng tôi, đặc biệt là hành động theo cặp, nhất thiết ngụ ý đến sự hiệp đồng chiến đấu chắc chắn giữa các kíp bay, đến kỹ năng hỗ trợ lẫn nhau. Và trong thực tế, chúng tôi phải có một sự gắn kết rất mạnh. Không có trường hợp nào hay có ai trong số nữ phi công bỏ bạn gái trong cơn nguy hiểm. Phương châm hoạt động "hãy hy sinh bản thân, và giúp đỡ đồng đội" đối với chúng tôi đã trở nên một đạo luật bất biến. Đôi khi nó giúp các phi hành đoàn ra khỏi những tình huống khó khăn nhất một cách an toàn.

(http://img-fotki.yandex.ru/get/6109/121447594.e3/0_873e9_af380f1d_XL.jpg)
Trung đoàn trưởng E.D.Bershanskaya giao nhiệm vụ cho các nữ phi công của mình (http://www.liveinternet.ru/users/alla-rikova/post219662853/)

Nhiều người trong chúng tôi đã trở thành những chiến sĩ được tôi luyện. Trong những đêm mùa thu dài dằng dặc, đôi khi phải thi hành 8-10 phi vụ. Các nữ phi công theo nghĩa đen còn không leo được ra khỏi cabin, đặc biệt là khi người ta giao cho chúng tôi "các đêm tối đa" - với số lượng tối đa các phi vụ chiến đấu cho mỗi kíp bay. Hoa tiêu báo cáo về việc thi hành nhiệm vụ tại đây, ngay tại máy bay. Các kỹ thuật viên và quân khí viên tiếp nhiên liệu cho máy bay và treo bom.

Một trong những đêm như thế chúng tôi phải ném bom Mozdok. Máy bay của chỉ huy phó phi đội Olga Sanfirova với hoa tiêu Rufa Gasheva đã gần kề mục tiêu thì bị tóm bởi các luồng đèn chiếu và rơi vào một lưới lửa PK chéo cánh xẻ. Nhưng dù nữ phi công cơ động thế nào, chị cũng không thể thoát khỏi không gian được chiếu sáng bởi các đèn chiếu. Tình trạng của "cánh én" dường như vô vọng. Rồi thì một trong những viên đạn pháo sẽ phải rơi trúng nó. Sanfirova giảm mạnh độ cao. Đúng thời điểm này, trên lối tiếp cận cùng một mục tiêu là chỉ huy biên đội Nina Raspopova với hoa tiêu Larisa Radchikova. Thấy Sanfirova và Gasheva gặp nguy hiểm, các bạn gái lao đến giúp đỡ. Raspopova quyết định thu hút hỏa lực của kẻ thù về mình. Hạ độ cao xuống đến mức giới hạn, chị hướng chiếc U-2 của mình tới các dàn đèn chiếu Đức. Trên mặt đất bùng lên một tiếng nổ lớn. Lợi dụng sự nhầm lẫn của kẻ thù, Olga Sanfirova đưa chiếc máy bay của mình ra khỏi khu vực hỏa lực. Các vận hành viên đèn chiếu chuyển làn chiếu sang máy bay của Raspopova. Các khẩu pháo tăng cường nhả đạn. Ra khỏi lưới lửa, Sanfirova và Gasheva từ độ cao 700 mét bắt đầu ném bom các khẩu đội pháo cao xạ của bọn phát xít Quốc xã. Một trong những khẩu đội im bặt ...

(https://upload.wikimedia.org/wikipedia/ru/b/bf/SanfirovaOlgaAldr.jpg)
Olga Aleksandrovna Sanfirova (1917-1944), AHLX, dân tộc Tatar, tốt nghiệp trường phi công quân sự Bataisk. Đại úy cận vệ, phi đội trưởng trung đoàn nữ KQ ném bom đêm cận vệ 46 Taman, đã thực hiện 630 phi vụ chiến đấu. Hy sinh tại Ba Lan tháng 12 năm 1944. (https://ru.wikipedia.org/wiki/%D0%A1%D0%B0%D0%BD%D1%84%D0%B8%D1%80%D0%BE%D0%B2%D0%B0,_%D0%9E%D0%BB%D1%8C%D0%B3%D0%B0_%D0%90%D0%BB%D0%B5%D0%BA%D1%81%D0%B0%D0%BD%D0%B4%D1%80%D0%BE%D0%B2%D0%BD%D0%B0)

Trong khi diễn ra cuộc giao tranh bất bình đẳng giữa hai chiếc máy bay gần như không có vũ trang bảo vệ với các pháo thủ cao xạ, thì các kíp bay khác của chúng tôi xuất hiện. Tất cả vội vã đến trợ giúp các đồng đội. Tanya Makarova với hoa tiêu Vera Belik, khi thấy máy bay của Raspopova đang bị bắn dữ dội, bị bóp nghẹt bởi các chùm đèn chiếu, cố gắng chế áp hỏa lực phòng không bằng bom. Nhưng đột nhiên, chiếc U-2 của Raspopova bắt đầu giảm độ cao mạnh, và lượn về phía lãnh thổ của mình. Để hiểu chuyện gì đã xảy ra là không thể: hoặc là bọn Hitler đã bắn trúng máy bay, hoặc là các cô gái bị thương. Một lần nữa, các kíp bay đang tiếp cận lại nối đuôi nhau tiếp tục tấn công các hỏa điểm cao xạ và đèn chiếu PK, các vị trí tập trung sinh lực và khí tài của kẻ thù.

Cắt bom xong, các cô gái của chúng ta quay trở lại sân bay. Nina Raspopova cùng với Larisa Radchikova không bay về sân bay căn cứ. Phải chăng vì cuộc sống của bạn gái mà phải trả giá bằng cuộc sống của mình? Nỗi sợ hãi của chúng tôi tỏ ra vô căn cứ. Ngay sau đó ban tham mưu sư đoàn thông báo rằng đã tìm thấy các nữ phi công. Và sau một thời gian thì Nina và Larisa về đến trung đoàn.

(https://upload.wikimedia.org/wikipedia/ru/a/a9/Gasheva_rufina.jpg)
Rufina Sergheevna Gasheva (1921-2012), AHLX. Hoa tiêu U-2, tốt nghiệp hoa tiêu trường phi công quân sự Engels, thượng úy cận vệ trung đoàn nữ KQ ném bom đêm cận vệ 46 Taman, trong chiến tranh đã thực hiện 845 phi vụ chiến đấu. Hai lần bị bắn rơi nhưng đều sống sót, là người mang thi hài Olga Sanfirova về khi máy bay của hai người bị bắn rơi trên đất Ba Lan tháng 12 năm 1944. Khi nhập ngũ tháng 10 năm 1941 đang là sinh viên năm thứ 3 khoa Toán-Cơ ĐHTH Quốc gia Moskva. Sau chiến tranh về học trường Ngoại ngữ Quân sự, là giảng viên chính tiếng Anh Học viện Binh chủng Tăng Thiết giáp Quân đội Soviet, chuyển ngạch dự bị với quân hàm thiếu tá và chuyển sang công tác biên tập cho NXB BQP Liên Xô. (https://ru.wikipedia.org/wiki/%D0%93%D0%B0%D1%88%D0%B5%D0%B2%D0%B0,_%D0%A0%D1%83%D1%84%D0%B8%D0%BD%D0%B0_%D0%A1%D0%B5%D1%80%D0%B3%D0%B5%D0%B5%D0%B2%D0%BD%D0%B0)

Báo cáo Bershanskaya của các cô gái rất ngắn gọn. Trong trận đánh mảnh đạn cao xạ làm họ bị thương. Thùng xăng thủng một lỗ. Do thiếu nguồn nuôi mà động cơ ngừng làm việc. Chiếc máy bay nhanh chóng mất độ cao. Raspopova quyết định không điều khiển máy bay về đến chỗ các đơn vị tiền phương quân ta mà bay về phía Terek.
- Tại sao? - Bershanskaya ngạc nhiên.
- Tôi muốn đánh chìm phà ...
May mắn thay, xảy ra một chuyện gần như không thể tin được: một luồng không lưu đã giải cứu các cô gái. Khi cách mặt đất còn không quá mười mét, luồng không khí này đã nâng cánh "chim én" và đưa nó vút qua vị trí của đối phương. Người nữ phi công tiếp đất ở vùng đất trung lập.
- Đó là tất cả ... - Raspopova kết thúc câu chuyện. Ngày hôm sau, chúng tôi phát hiện ra rằng vì tính khiêm tốn Nina im lặng không nói nhiều chuyện khác. Khi máy bay hạ cánh, phát xít Đức nã súng dữ dội vào nó. Các cô bạn gái bò sang một bên để chờ ngớt đạn, nhưng đi hẳn thì họ không đi. Các cô gái hy vọng rằng sớm hay muộn các chiến sĩ bộ binh cũng bò đến chỗ máy bay và nhờ họ giúp sức, chiếc U-2 có thể kéo ra xa kẻ thù hơn. Nhưng không ai đến giúp, mà sức phi công cứ giảm xuống mãi - cho chị biết mình đã mất máu nhiều. Khi không thể chịu nổi, các cô gái đã mất sức cố bò về phía quân mình. Lính bộ binh đã lượm được các cô gái ở tiền duyên Họ muốn gửi ngay các cô đến bệnh viện, nhưng các cô bạn gái thẳng thừng từ chối và yêu cầu được đưa về trung đoàn.

(http://cdn.topwar.ru/uploads/posts/2012-12/1356637424_1307438015_1281343496-2.jpg) (http://cdn.topwar.ru/uploads/posts/2012-12/1356637335_32f4764311.jpg)
Ngày 21 tháng 8 năm 1942 lính sơn cước Đức thuộc chi đội do đại úy Grot cầm đầu cắm cờ Chữ Thập Ngoặc trên đỉnh Elbrus thuộc dãy Kavkaz. (http://topwar.ru/22589-k-70-letiyu-bitvy-za-kavkaz-oboronitelnyy-etap-s-25-iyulya-po-31-dekabrya-1942-g-chast-2.html)

... Trong tháng 8 tôi được bổ nhiệm biên đội trưởng và Klyueva - hoa tiêu biên đội. Trong biên đội của tôi có kíp bay của Nadia Troparevskaya và Nina Khudyakova với các hoa tiêu Lida Svistunova và Katya Timchenko. Lúc đầu, tôi cảm thấy rất bối rối vì nhiệm vụ mới. Khudyakova và Troparevskaya đều lớn tuổi và có kinh nghiệm hơn tôi. Tôi chia sẻ những băn khoăn của tôi với Bershanskaya.

- Chechneva, em biết tự phê bình là không tồi, - Evdokia Davydovna nói. - Phẩm chất này sẽ giúp em trở thành một chỉ huy tốt. Tuy nhiên, mệnh lệnh đã ban hành, và cần phải thực hiện nó. Đi tiếp quản biên đội đi em.

Evdokia Davydovna cả lần này cũng đã đúng. Nina Khudyakova và Nadia Troparevskaya không hề tỏ ra có một chút bóng dáng nào không hài lòng với sự bổ nhiệm tôi. Họ là những người đầu tiên chân thành chúc mừng tôi. Không chỉ có vậy. Tôi chìm ngập trong vai trò mới, và Troparevskaya cùng Khudyakova đã giúp bảo trợ ngầm cho tôi. Điều ấy các chị làm rất tế nhị, nhưng dẫu sao tôi vẫn nhận ra và rất biết ơn những người bạn gái đã giúp đỡ mình.

* * *

Vào giai đoạn đó, địch không còn tiến hành các chiến dịch tấn công quy mô lớn, nhưng các trận đánh vẫn không ngừng lặng. Trung đoàn của chúng tôi lúc đó hiệp đồng với Quân đoàn bộ binh 11, đang bảo vệ các đường tiếp cận tới Ordzhonikidze và Grozny. Chúng tôi cũng đã quen với những dãy núi và trong một đêm bay đi ném bom năm hoặc sáu lần vào thời điểm tháng Tám - Tháng Chín. Sau khi hạ cánh, các phi công không rời máy bay mà thông tin về kết quả tác chiến cho cán bộ tham mưu ngay tại sân bay, trong khi đó các kỹ thuật viên kiểm tra các máy bay và nạp bổ sung nhiên liệu cho chúng, còn các quân khí viên thì treo bom.

(http://img-fotki.yandex.ru/get/6208/121447594.e4/0_873f0_c31eb1cf_XL.jpg)
Những người bạn gái chung thủy Т.Makarova và V.Belik. Assinovskaya năm 1942. (http://www.liveinternet.ru/users/alla-rikova/post219662853/)

Công việc căng thẳng đã bắt đầu ảnh hưởng đến khí tài, động cơ ngày càng ọc ạch, mặc dù chúng tôi đã cố gắng hết sức để kéo dài đời phục vụ của chúng. Hầu như tất cả các loại sửa chữa, kể cả trung tu, các chuyên gia của chúng tôi đều tự mình thực thi. Tuy nhiên, vào tháng Chín một số máy bay đã phải bay đến các xưởng dã chiến để "chỉnh sửa". Ira Sebrova và Olga Sanfirova là những người đầu tiên trong số chúng tôi lâm vào cảnh kỵ sĩ không có ngựa. Sau các chị, tôi và Katya Titova bay đến Khachmaz, nơi đặt các xưởng sửa chữa. Nhưng sự chán nản của chúng tôi không kéo dài lâu. Tập thể xưởng sửa chữa máy bay dã chiến 44 (PAM), do Fedor Stepanovich Babutskin lãnh đạo, rất quan tâm đến các đơn đặt hàng của trung đoàn nữ không quân. Máy bay xuất khỏi xưởng sửa chữa thường là trước thời hạn ấn định.

Kể từ đó, tin vào những kỹ năng và sự nhiệt tình của tập thể các xưởng sửa chữa, khi gửi máy bay đến Khachmas chúng tôi không còn sợ cảnh trong một thời gian dài không có việc làm: máy bay của chúng tôi được sửa chữa rất nhanh chóng. Vào hôm trước dịp kỷ niệm lần thứ 25 ngày thành lập Đoàn Komsomol, tập thể lao động PAM đã chuẩn bị và trao tặng trung đoàn một chiếc U-2 mới. Người ta trao nó cho một trong những kíp bay xuất sắc nhất - Tanya Makarova và Vera Belik.

Qua chiến trận, kỹ năng của các nữ phi công chúng tôi đã phát triển lên. Bây giờ phi công của các trung đoàn kế bên, khi gặp các cô gái, họ tán dương các cô là những con chim nhà trời. Giữa trung đoàn nữ của E.D. Bershanskaya và trung đoàn nam của K.D. Bocharov, cũng bay trên U-2, đã nảy sinh một tình bạn tiền tuyến vững bền. Nhưng tình bạn trên mặt đất này không ngăn cản chúng tôi là các đối thủ cạnh tranh quyết liệt trên không trung. Giữa hai trung đoàn của chúng tôi đã diễn ra cuộc ganh đua bền bỉ giành ngôi vị quán quân trong sư đoàn.

(http://vov.bio.msu.ru/res/DICTIONARY_PAGE141/93.pre.jpeg)
Irina Viktorovna Dryaghina (1921-...). Đại úy cận vệ, phi công và chính ủy phi đội trung đoàn nữ KQ ném bom đêm cận vệ 46 Taman, năm 1943 do bỏ chức danh chính ủy phi đội, chuyển sang sư đoàn KQ tiêm kích 9 (do AHLX A.I.Pokryshkin chỉ huy) làm trợ lý chủ nhiệm chính trị về công tác đoàn thanh niên. Đã thực hiện 105 phi vụ chiến đấu. Sau chiến tranh công tác trong ngành nông nghiệp (chuyên ngành di truyền học), tiên sĩ nông học, là người lai tạo được nhiều giống hoa đẹp ở LX trước đây. (https://ru.wikipedia.org/wiki/%D0%94%D1%80%D1%8F%D0%B3%D0%B8%D0%BD%D0%B0,_%D0%98%D1%80%D0%B8%D0%BD%D0%B0_%D0%92%D0%B8%D0%BA%D1%82%D0%BE%D1%80%D0%BE%D0%B2%D0%BD%D0%B0)

Vào tháng Chín, chúng tôi đã tổng kết những kết quả chiến đấu đầu tiên. Từ 2 tháng 7 - 5 tháng 8 phi công trung đoàn bay 711 phi vụ ban đêm, kết quả gây ra 58 vụ cháy, 16 vụ nổ mạnh, phá hủy hai bến phà lớn qua sông và tiêu diệt nhiều hỏa điểm cao xạ và đèn chiếu PK. Tuy nhiên, những số liệu này còn xa mới đầy đủ. Xác minh chúng thường phải nhờ trinh sát mặt đất giúp.

Vào tháng Chín năm 1942, trong những hẻm núi Caucasus tiếng gầm của súng đại bác không ngừng nghỉ: ném toàn bộ các đội dự bị mới vào trận, bọn Hitler điên cuồng lao đến Grozny và Baku.

Trung đoàn nữ không quân lúc đó đóng căn cứ trong khu vực dãy núi Sunzha. Từ đây, chúng tôi xuất kích thường xuyên tấn công điểm tập trung sinh lực và khí tài của kẻ thù trong các khu vực Mozdok, Kizlyar, Prokhladnyi.

Mỗi đêm, những chiếc U-2 của chúng tôi bay đi tiền duyên ném bom xuống nơi tập kết khí tài và sinh lực kẻ thù. Nhưng đôi khi bạn phải quay về mang theo lượng bom chưa dùng. Điều đó xảy ra khi mục tiêu bị sương mù hoặc những đám mây thấp phủ kín. Trong tình hình này, chúng tôi được liên tục khuyến cáo hãy trở về căn cứ của mình. Nhưng vẫn ...

(http://img-fotki.yandex.ru/get/4614/78420.31/0_6ec3e_26d2a2d6_orig)
Dãy núi Tersky bên bờ phải sông Terek, nằm trong hệ thống các đỉnh cao Tersky-Sunzhen ở vùng phu cận Kavkaz

Tôi đã chứng kiến trung đoàn trưởng E.D.Bershanskaya nghiêm khắc trừng phạt chính ủy phi đội Irina Dryaghina như thế nào vì chị ấy đã cố gắng vượt qua dãy núi Tersky đến mục tiêu khi trên sườn yên ngựa của dãy núi có mây mù dày nhiều lớp. Ý tưởng này đặc biệt nguy hiểm bởi vì sự việc diễn ra trong tháng mười hai, chiếc máy bay có thể bị đóng băng trong phút chốc và trở nên không thể điều khiển nổi.

Cũng phải nói thêm, những tình huống như vậy Ira rơi vào không phải chỉ một lần, nhưng lần nào cũng kết thúc may mắn, thậm chí cả chuyện hạ cánh tại một sân bay lạ ...
........


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 27 Tháng Tám, 2015, 10:04:05 pm
(tiếp)

* * *

(http://tamanskipolk46.narod.ru/images/131.jpg)
Polina Aleksandrovna Makagon (1919-1943), người Ukraina, trung úy phi đội trưởng phi đội 3 (bên trái) và Lidya Svistunova (1920-1943), người Nga, nguyên sinh viên Học viện Kinh tế Quốc dân Plekhanov Moskva, thiếu úy, hoa tiêu phi đội. Cả hai hy sinh trong tai nạn máy bay khi thực hiện xong nhiệm vụ, quay về hạ cánh tại sân bay căn cứ (va phải máy bay của Yulya Pashkova và Katya Dospanova) đêm 1 tháng 4 năm 1943 tại stanitsa Pashkovskaya. (https://ru.wikipedia.org/wiki/%D0%A1%D0%B2%D0%B8%D1%81%D1%82%D1%83%D0%BD%D0%BE%D0%B2%D0%B0,_%D0%9B%D0%B8%D0%B4%D0%B8%D1%8F_%D0%90%D0%BB%D0%B5%D0%BA%D1%81%D0%B0%D0%BD%D0%B4%D1%80%D0%BE%D0%B2%D0%BD%D0%B0)

Chúng tôi đã trở thành những người lính, những người lính mạnh mẽ và dũng cảm. Thậm chí trong các biên niên sử báo chí có viết về nhiều người một cách trang trọng:

Trong cánh rừng nhỏ phía nam địa điểm V. kẻ thù tập trung nhiều lực lượng bộ đội mô tô cơ giới hóa của chúng. Đồng thời tại ga N. trinh sát của chúng ta đã phát hiện một số đoàn tàu chở binh lính và hàng hóa. Các đội dự bị của quân thù di chuyển gần nhà ga này, dọc theo các con đường và qua bến phà.

Bộ chỉ huy đặt ra cho các kíp bay thuộc phân đội của đại úy T. Bershanskaya nhiệm vụ: tiêu diệt cụm sinh lực và khí tài địch tại các địa điểm kể trên.

Suốt đêm các kíp bay chiến đấu làm việc căng thẳng. Hầu như tất cả họ đều thực hiện hai phi vụ chiến đấu với bán kính hoạt động tới hạn.

Chịu cuộc ném bom đặc biệt trúng đích là khu rừng - nơi tập kết các xe tăng và bộ binh cơ giới địch. Phi hành đoàn của phi công Polina Makagon cùng hoa tiêu Vera Belik sau khi ném bom đã quan sát thấy một vụ nổ lớn và đám cháy với khói trắng đặc trưng cho trường hợp xe tăng cháy. Sức nổ lớn và đám cháy phát sinh do trận ném bom của các kíp bay Tatyana Makarova, Olga Sanfirova và những kíp bay khác.

Đồng thời với sự kiện trên, một loạt kíp bay giáng liên tiếp nhiều đòn công kích xuống kẻ thù tại các địa điểm N. và bến phà qua sông K.

Các kíp bay của các phi công Nina Khudyakova với hoa tiêu Ekaterina Timchenko, Marina Chechneva với hoa tiêu Olga Klyueva, khi thoát ly mục tiêu, đã nhìn thấy các trái nổ của họ lao vút xuống nơi kẻ thù tập trung thế nào, các đám cháy bùng lên với sức mạnh ra sao...


Và cứ như vậy hằng đêm. Ban ngày, từ phi trường "nhảy cóc" của chúng ta, các cánh chim ó xuất phát liên tục tấn công kẻ thù. Vào lúc chạng vạng thay thế họ là các máy bay ném bom-săn đêm. Và khi đó phi trường sống dậy, lóe lên các ánh đèn màu đa sắc.

* * *

(https://upload.wikimedia.org/wikipedia/ru/b/b0/%D0%9C%D0%B0%D0%BB%D0%B3%D0%BE%D0%B1%D0%B5%D0%BA%D1%81%D0%BA%D0%B0%D1%8F_%D0%BE%D0%BF%D0%B5%D1%80%D0%B0%D1%86%D0%B8%D1%8F_%D0%92%D0%9E%D0%92.jpeg)
Hải quân đánh bộ Soviet trên cạn tại Malgobek trong chiến dịch phòng thủ Mozdok-Malgobek (Trận chiến Kavkaz 1942-1943) tháng 8 năm 1942. (https://ru.wikipedia.org/wiki/%D0%9C%D0%B0%D0%BB%D0%B3%D0%BE%D0%B1%D0%B5%D0%BA)

Ngày 27 Tháng Chín năm 1942, chúng tôi nhận được những phần thưởng tiền tuyến đầu tiên. Tôi được trao Huân chương Cờ đỏ. Hoa tiêu của tôi Olya Klyueva - Huân chương Sao Đỏ. Nhiều người khi đó cũng được nhận huân chương. Nhưng tôi đặc biệt vui mừng cho kỹ thuật viên của chúng tôi Katya Titova. Chúng tôi mang ơn về nhiều mặt những người như cô, những người lao động khiêm tốn, không dễ nhận ra, đảm bảo cho chúng tôi đạt được những thành công của mình. Như các bác sĩ, họ liên tục cầm tay đo mạch đập trái tim thứ hai của chúng tôi. Và trái có sức mạnh hơn một trăm mã lực đó không bao giờ chơi khăm chúng tôi, dù chúng ta thường không thương xót nó. Cuộc chiến đấu càng căng thẳng quyết liệt, các cơ bắp hùng mạnh bằng thép của nó càng khỏe.

Trong những ngày tháng chín, tôi được nếm trải không chỉ có niềm vui, mà còn cả một nỗi đau lớn, chúng tôi nghe được tin về cái chết của Valerya Khomyakova. Chúng tôi chia tay với Lera tháng 5 năm 1942. Con đường phục vụ quân đội của chúng tôi đã rẽ về các ngả khác nhau: tôi bay cùng trung đoàn của mình ra mặt trận của PDQ Nam, còn chị được bổ nhiệm làm phó chỉ huy phi đội của trung đoàn nữ không quân tiêm kích.

Ngày và đêm, cùng với các bạn gái của mình, Valeria canh giữ Saratov từ trên không. Do thực hiện mẫu mực các nhiệm vụ chiến đấu, ban chỉ huy đã nhiều lần tuyên bố cảm ơn chị.

Tôi tự hào rằng người bạn gái của tôi trung úy Valerya Khomyakova là người phụ nữ đầu tiên trên thế giới, bắn hạ một máy bay địch trong không chiến ban đêm. Chuyện xảy ra vào đêm sang ngày 25 Tháng Chín năm 1942, khi một tốp máy bay ném bom Ju-88 của địch đột phá vào Saratov. Thế mà vài ngày sau đã không còn Valeria. Chị hy sinh khi đang thực hiện nhiệm vụ chiến đấu của ban chỉ huy.

Vậy là vẫn chưa xong bức thư viết cho mẹ, bắt đầu trước khi xuất kích. Đã gián đoạn giữa chừng cuộc trò chuyện thân mật của chị với Olga Shakhova về hạnh phúc, về tương lai ...

Đối với tất cả những ai biết và yêu Valerya - mà không thể không yêu chị, - chị mãi mãi không chỉ là một nữ phi công tuyệt vời. Đối với tôi và các bạn đồng đội của tôi, trong hình ảnh của chị có sự hòa quyện hữu cơ những phẩm chất công việc và phẩm chất con người tuyệt đẹp, chất nữ tính đáng yêu, lòng quyết tâm, sự tận tụy với nhiệm vụ, lòng dũng cảm không biết ranh giới. Valeria là một con người có tâm hồn lớn và một trái tim rộng mở, vị tha và biết hy sinh quên mình trong tất cả mọi việc: trong sự nghiệp phục vụ ngành hàng không, trong tình bạn, tình yêu ...

Ký ức về Valeria còn sống mãi. Tôi đã có cơ hội thêm một lần khẳng định điều này khi cách đây không lâu, tôi đến thăm Viện Công nghệ hóa học Moskva, nơi chị học tập và tại đây, theo yêu cầu của sinh viên và giảng viên, tôi đã kể khá lâu về cuộc đời ngắn ngủi nhưng vinh quang của chị.

Đồng đội tại CLBHK vẫn nhớ Valerya, câu lạc bộ mà chị từng làm việc trước chiến tranh. Các bạn gái trong chiến đấu vẫn nhớ. Và tôi tin - các thế hệ thanh niên mới sẽ biết về chị.

* * *

Mùa thu đến. Trời mưa không ngớt. Nhưng chúng tôi vẫn làm việc không ngơi nghỉ. Đó là những chuyến bay khó khăn. Mục tiêu đôi khi hoàn toàn bị bao phủ bởi mây hay sương mù. Chúng tôi tìm thấy một cửa sổ và cố gắng bằng mọi cách để hoàn thành nhiệm vụ. Tuy nhiên mỗi lần xuất kích trong những hoàn cảnh khó khăn như vậy, chúng tôi lại có thêm kinh nghiệm, giúp phát triển chiến thuật chiến đấu chống lại kẻ thù.

Hoạt động rất thành công trong những ngày đó là kíp bay Nadezhda Popova và Yekaterina Ryabova. Không phải ngẫu nhiên báo tiền tuyến nhiều lần viết về họ, không ngẫu nhiên mà người ta lấy họ làm ví dụ cho các nữ phi công và hoa tiêu khác.

Nadia Popova - một cô gái mắt xanh xinh đẹp, giàu nữ tính và tinh tế - tất cả chúng tôi đều yêu mến. Tôi đã kết bạn với cô ấy kể từ những ngày đầu tiên có mặt ở trung đoàn. Chúng tôi đã nhiều lần giải cứu cho nhau, điều đó đưa chúng tôi đến gần nhau hơn ...

Trong ô cửa sổ mở rộng của nhà tập thể của chúng tôi có thể nhìn thấy vầng trăng có khuôn mặt rỗ hoa đang bị vướng trong đám cành cây, trong khi phía dưới, dưới mặt trăng hiện ra những đường nét các dãy núi, và trong bầu trời đêm xanh thẫm lấp lánh những ngôi sao vui tươi.

Trong ngày hôm đó không hiểu sao có một thời gian dài không có nhiệm vụ tác chiến từ ban tham mưu sư đoàn đưa xuống. Trong lúc nhàn rỗi, như thường lệ, chúng tôi mơ mộng về tương lai.

Tựa khuỷu tay lên bệ cửa, Evghenya Rudneva trầm ngâm nhìn vào khoảng xa xăm. Tôi và Nadia Popova ở bên cạnh cô.
- Tuyệt làm sao, các cô gái ơi! - Evghenya say mê nói. - Các bạn thấy không - Vũ trụ đấy. Và Mặt Trăng, và Trái Đất của chúng ta, còn chúng ta - là những sinh thể nhỏ nhoi chiến đấu để sinh tồn - toàn thể Vũ trụ này ... - Zhenya dừng lại, khuôn mặt nhợt nhạt của cô bỗng chốc tràn ngập một nụ cười rạng rỡ. - Hôm nay, chúng ta bay trên máy bay U-2 giữa những chùm đạn cao xạ nổ ran của bọn phát xít. Còn khi chúng ta đập tan kẻ thù, sẽ đến lúc chúng ta nhất định sẽ phóng lên những con tàu không gian. Chúng sẽ bay xung quanh Trái Đất, Mặt Trăng, Sao Hỏa .. Các cô gái, tại sao các bạn lại im lặng? Mặt Trăng đã làm các bạn mê mẩn rồi, hay làm sao? ..
- Không, Zhenechka ơi, không phải mặt trăng ... Chẳng qua khi ta thấy bên cạnh có một điều tuyệt vời, ta chỉ muốn im lặng mà thôi ...
Rudneva rời khỏi cửa sổ.
- Tuyệt vời nhất, theo ý tớ, là thi ca chân chính ... Bây giờ đang là mùa thu. Pushkin rất yêu mùa thu. Tớ cũng rất thích. Biết bao ý nghĩ xâm chiếm tâm trí con người vào mùa này trong năm! Vây quanh ta là một nỗi sầu nhớ mơ màng và một nỗi buồn êm dịu biết bao ... - Zhenya ngừng lại, suy nghĩ về một điều gì đó riêng tư.
- Thế còn chúng ta, trên thực tế, chúng ta chán nản ư, các cô gái? Các cô buồn chuyện gì? Về chuyện quá khứ sao? Bởi lẽ chúng ta còn trẻ, vẫn còn cả một tương lai phía trước chờ ta. - Nadia Popova khẽ khàng nói nhưng rất thấm thía. - Ngẩng đầu lên, các bạn gái ơi! Tốt nhất hãy nhớ lại những bài hát nào mà ta hằng hát vào mùa thu. Tiếc thật, không có guitar ... Thật ra, có thể không cần có nó. Hãy nhớ:
Tôi đã nếm trải những mong muốn của mình, tôi đã thôi yêu những giấc mơ của tôi. Chỉ còn lại với tôi niềm đau, trái quả của con tim trống vắng ...

Tuy nhiên, hát mà không có guitar không hát được nhiều. Một lần nữa, sự im lặng lại ngự trị trong phòng. Một lần nữa lại vang lên giọng nói nhẹ nhàng và bí ẩn của Zhenya Rudneva. Cô ấy tiếp tục dòng ngẫu hứng đẹp đẽ của mình:
- Rừng bừng lên trong màu đỏ thắm đầu tiên, và lặng lẽ trôi trong không gian đi về đâu đó những sợi tơ bạc...  Những ngôi sao huyền bí lấp lánh quyến rũ và rực sáng hơn trên nền trời ...
- Mà không hiểu sao bỗng nhiên lại muốn khóc - Olga Klyueva buồn bã thêm vào. - Tớ  muốn hát nữa không thôi những bài hát khác, nhất là - những bài hát u sầu ...
- Tại sao về mùa thu tất cả xung quanh lại nhuộm vàng - ý nghĩ của các bạn gái Zhenya Rudneva vẫn tiếp tục. - Cả thảm lá vàng rơi như cơn mưa chầm chậm trong Vườn Mùa Hè, cả ánh sáng nhợt nhạt của ráng chiều trên sông Neva, cả đôi cánh của loài chim trong ánh mặt trời lặn, cả những đỉnh núi xa xôi kia... Và cả bản thân mùa thu dường như cũng là một con chim vàng khổng lồ nằm xòe cánh trên mặt đất...

(https://upload.wikimedia.org/wikipedia/ru/thumb/0/08/TulenevIV.jpg/260px-TulenevIV.jpg)
Ivan Vladimirovich Tyulenev (1892-1978), đại tướng (1940), AHLX (1978), Tư lệnh PDQ ZaKavkaz trong giai đoạn 1942-1945. (http://www.warheroes.ru/hero/hero.asp?Hero_id=671)

Những ngày lễ tháng Mười sắp đến lúc nào mà không hay. Không lâu trước dịp lễ, Tư lệnh PDQ đại tướng I.V.Tyulenev và Tư lệnh TĐQ KQ 4 thiếu tướng KQ K.A.Vershinin đến thăm trung đoàn. Ivan Vladimirovich không thích chúng tôi vận quần dài. Ông nói rằng không cần thiết phải để phụ nữ mặc quần dài quân phục của nam giới, và ngay lập tức ra lệnh may cho toàn bộ quân nhân bộ váy len, áo va-rơi và ủng bôc-can.
- Một khi trung đoàn của các cô là trung đoàn nữ, vậy thì các cô phải là phụ nữ về tất cả mọi mặt - vị tướng nói với chúng tôi. - Nếu không, chính các cô sẽ quên rằng mình thuộc phái đẹp.
Sau khi trao tặng thưởng cho các cô gái, các vị khách ra đi.

Chẳng mấy chốc chúng tôi đã nhận được quân phục mới. Thời gian đến dịp lễ chỉ còn vừa đủ, và chúng tôi tích cực chuẩn bị cho nó. Bác sĩ trung đoàn Olga Zhukovskaya chỉ biết kêu giời và đưa tay lên vò đầu, khi chị nhìn thấy các nghệ sĩ của chúng ta tiêu tốn một số lượng lớn gạc và quinacrine như thế nào.
- Hãy thương xót, các cô gái ơi! - Chị năn nỉ. - Chớ có may cho mình những chiếc saraphan lộng lẫy như thế chứ.

Cuối cùng tất cả mọi thứ đã sẵn sàng. Buổi tối, các vị khách đến - các người anh em của chúng tôi từ trung đoàn của K.D.Botcharov và toàn thể ban chỉ huy sư đoàn 218 đứng đầu là D.D.Popov nay đã mang quân hàm thiếu tướng. Trong hội trường nhỏ của câu lạc bộ tạm thời của chúng tôi như nêm cối, đến nỗi táo có chín cũng chẳng có chỗ mà rơi. Nhưng như người ta nói, dù chật thì chật nhưng chớ tức điên!

Mọi thứ diễn ra đúng như sắp đặt. Chiến tranh không loại trừ được sự nghỉ ngơi ra khỏi cuộc sống của chúng tôi. Nó dứt chúng ta ra khỏi gia đình và những người thân, ném chúng ta đi các hầm hào, công sự, sân bay tiền tuyến, các vùng hậu phương xa và gần, nhưng không thể tước đoạt điều quan trọng nhất của tâm hồn chúng ta - lòng khao khát sống, tình yêu với cuộc sống. Ngược lại, nó còn làm cho cảm giác ấy sắc bén hơn, bắt mỗi người hiểu đầy đủ hơn một sự thật đơn giản nhưng tuyệt vời - rằng anh (chị) ta là một con người, và không có gì thuộc về con người lại xa lạ với mình.

(https://upload.wikimedia.org/wikipedia/ru/b/b8/Stupina_V_S.jpg)
Valentina Sergheevna Stupina (1920-1943), nguyên nữ sinh viên Học viện Hàng không Moskva, thiếu úy cận vệ, chủ nhiệm thông tin trung đoàn ném bom đêm cận vệ 46 Taman. Chết tại quân y viện do mắc bệnh hiểm nghèo (https://ru.wikipedia.org/wiki/%D0%A1%D1%82%D1%83%D0%BF%D0%B8%D0%BD%D0%B0,_%D0%92%D0%B0%D0%BB%D0%B5%D0%BD%D1%82%D0%B8%D0%BD%D0%B0_%D0%A1%D0%B5%D1%80%D0%B3%D0%B5%D0%B5%D0%B2%D0%BD%D0%B0)

Và khi Valya Stupina, sau khi khai mạc buổi tối lễ hội, kết thúc bài phát biểu của mình bằng bài hát "Trong hầm trú ẩn", hội trường lặng đi trong khoảnh khắc. Trong những ca từ giản dị, không trau chuốt của bài hát này, chúng tôi nhận ra số phận của mình. Giống như người anh hùng không tên tuổi của bài hát, mỗi người bất chấp cơn bão tuyết khốc liệt của cuộc chiến, vẫn nhớ về bầu trời xanh thẳm và ánh nắng mặt trời, về hạnh phúc, về tình yêu, về tất cả mọi thứ mà vì nó anh ta không ngủ đủ giấc, đóng băng trong các chiến hào, xông lên tấn công và, nếu cần thiết, lấy ngực mình lấp lỗ châu mai lô cốt kẻ thù.

Cô gái mặc quân phục đã hát về điều gì, những ý nghĩ và tình cảm nào mà bài hát làm nảy sinh nơi khán giả. Trên thực tế các bài hát ở mặt trận là người bạn đồng hành không thay đổi của chúng tôi, một người bạn trung thành, nó vẫy gọi và dẫn dắt ta, giúp ta sống và chiến đấu. Thông thường, trước các chuyến bay, khi hoàng hôn dày đặc của đêm phương nam buông xuống trên trái đất, chúng tôi tập hợp bên máy bay và hát. Thông thường, mở màn đầu tiên là Bershanskaya. Evdokia Davydovna biết nhiều bài hát dân gian và giọng hát  mềm mại ngọt ngào của chị hòa hợp kỳ lạ với những điệp khúc trữ tình tự do của chúng.
......


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 30 Tháng Tám, 2015, 12:14:33 am
(tiếp)

Những đêm ấy vẫn như đang hiển hiện trước mặt tôi. Những vì sao lấp lánh vẫy gọi trên đỉnh cao không đáy, hơi se lạnh từ núi phả xuống, tiếng động mơ hồ từ tiền tuyến vọng về xa xa. Những bóng đen di chuyển trên sân bay. Bài ca vẫn dào dạt, dào dạt mà không thấy hết. Bài nọ vội vã thay phiên bài kia ... Và tiếng đồng vọng nảy sinh trong tâm tưởng của mỗi con người. Bài ca thứ nhất ủ dột âu sầu, bài ca thứ hai hạnh phúc hân hoan, bài ca thứ ba mang nỗi buồn nhẹ nhàng man mác như gợi niềm nuối tiếc một cái gì đó nhòa nhạt xa xăm. Bao nhiêu bài ca, bấy nhiêu cảm xúc. Nhưng trong các bài ca có một điểm chung làm cho chúng thảy đều thân thương gần gũi, - với những bài ca ấy ta không thể thờ ơ. Tôi cảm thấy điều đó đặc biệt sâu sắc ở mặt trận, và nhiều khi thường tự hỏi mình tại sao. Có lẽ không chỉ bởi những giai điệu ngọt ngào, gợi những cảm xúc nhất định, sinh ra sự liên tưởng. Giai điệu tập hợp một cách hữu cơ vào một hệ thống thống nhất vô vàn suy nghĩ và tình cảm tản mạn, hướng chúng vào chung một dòng sông, và bằng cách đó, liên kết những sợi tơ thánh thót vô hình, giúp người ta hiểu rõ hơn, đầy đủ hơn về nhau, và vì thế mà gắn kết con người cùng những nỗ lực của họ trong chiến đấu, lao động, học tập, trong cái vốn được gọi bằng một từ đa diện - cuộc sống.

(http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/48.JPG)
Ira Kashirina hay Glafira Alekseevna Kashirina (1925-1943). Kỹ thuật viên cơ khí hàng không thuộc phi đội của Seraphima Amosova, hoa tiêu, thiếu úy cận vệ trung đoàn ném bom đêm cận vệ 46 Taman. Hy sinh đêm 31 sang ngày 1 tháng 8 năm 1943 khi làm nhiệm vụ đánh phá tuyến phòng thủ "Tuyến Xanh" của quân Đức trên bán đảo Taman do trúng đạn cao xạ của đối phương, cùng hy sinh đêm đó có 3 kíp bay khác của trung đoàn ném bom đêm cận vệ 46 Taman. Là một trong ba người mang cờ cận vệ khi trung đoàn được trao danh hiệu cận vệ ngày 9 tháng 6 năm 1943. (http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/ill.html)

Tuy nhiên, tôi đã lạc ra khỏi câu chuyện về buổi tối lễ hội. Phải nói rằng, bài hát chiếm ưu thế vượt trội trong kịch mục của buổi lễ. Gần như tất cả các nghệ sĩ solist chủ chốt của chúng tôi đã trình diễn: Dina Nikulina, Raia Aronova, Lyuba Varakina, Raia Mazdrina. Thành công vang dội thuộc về Anya Sherstneva và Asya Pinchuk, những người trình tấu các bài dân ca Nga miền Saratov. Kết thúc buổi trình diễn ca nhạc này là màn đọc trường ca về trung đoàn của chúng tôi, mà người viết là Ira Kashirina.

... Và chúng tôi đang chiến đấu như thế đấy, cả các anh-các phi công anh em
Vẫn gọi các cô gái của chúng tôi là các cô em gái.
Chúng ta như những thành viên bình đẳng cùng một gia đình chiến đấu,
Chúng ta sẽ chiến đấu vì Tổ quốc, vì quê hương, vì lao động vui tươi.
Cho đến khi dẫu chỉ còn một tên phát xít đáng căm hờn
Vẫn còn làm ô uế không trung trên đất nước chúng ta,
Chúng ta sẽ không thay ca phiên trực danh dự này hỡi chị em,
Sau chúng ta là nhân dân, chúng ta phải chiến thắng!


Hai khổ 4 câu cuối cùng này tôi đặc biệt thích thú, bởi sự lạc quan tuyệt vời, niềm tin tưởng sâu sắc vào chiến thắng chung cuộc của chúng ta.
Chúng tôi đã trải qua một kỳ lễ vui tươi, thú vị. Còn sau đó những ngày thường chiến đấu lại đến với chúng tôi.

* * *

Thời tiết mưa dầm mùa thu làm việc thực hiện nhiệm vụ rất khó khăn. Nhưng người chỉ huy phi đội của chúng tôi Seraphima Amosova tự tin bay đi đánh trận đầu tiên, và tất cả các kíp bay tiếp theo chị ấy. Có lẽ chúng tôi có thiên vị, nhưng chúng tôi cho rằng phi đội trưởng Amosova là phi đội trưởng xuất sắc nhất trong trung đoàn. Chiến đấu bên cạnh chị ấy, tôi học được rất nhiều, tiếp nhận được nhiều điều từ chị. Các nữ phi công, hoa tiêu, kỹ thuật viên, quân khí viên cũng trải qua một trường học tốt nhờ chị. Amosova được người ta yêu thương và tôn trọng không chỉ vì chị là một thủ trưởng đòi hỏi cao, mà còn là người đồng hành tuyệt vời, trung thành, một người bạn giàu lòng trắc ẩn.

So với chúng tôi Seraphima đã có nhiều năm kinh nghiệm vững chắc. Là người sinh ra ở Siberia, chị là một trong những phụ nữ đầu tiên ở Krasnoyarsk trở thành thợ tiện kim loại. Chị đã thực hiện rất nhiều nhiệm vụ công tác của đoàn Komsomol và rất thành công. Đoàn Komsomol trao cho chị phiếu đề cử vào hàng không. Amosova tốt nghiệp Trường tàu lượn và Trường bay Tambov. Những khả năng xuất sắc của cô gái đã được người ta ghi nhận. Chị bắt đầu phục vụ trong ngành hàng không dân dụng và bay trên một tuyến đường bay phức tạp là tuyến Irkutsk - Moskva.

Sima Amosova biết tin chiến tranh tại Yanaul. Ở đó, vào một ngày người ta giao cho chị bức điện gọi của M.M.Raskova.

Từ các phi vụ chiến đấu đầu tiên, tôi đã thấm đậm niềm tin với Amosova: tôi biết trong giây phút khó khăn nhất người chỉ huy của chúng tôi sẽ luôn luôn tới giúp đỡ. Đã nhiều là như vậy. Trong khi vực Mozdok Tanya Makarova và Vera Belik sa vào lưới lửa phòng không như bão lốc của kẻ thù. Nhận thấy Makarova lâm vào tình trạng rất khó khăn, phi đội trưởng cùng với hoa tiêu phi đội Rozanova bắt đầu ném bom các vị trí đèn chiếu PK của người Đức. Thu bớt cửa ga, Amosova liệng tới đèn chiếu PK gần nhất. Sau khi ngắm cẩn thận, Larissa Rozanova thả bom. Sóng nổ đẩy mạnh máy bay của họ. Amosova suýt mất kiểm soát máy bay. Nhưng ánh sáng trên mặt đất lụi tắt, và điều đó đã cứu Makarova và Belik.

Vì thế các nữ phi công chúng tôi không tiếc sức mình, nếu cần phải giúp người chỉ huy.

Cũng trong cùng trận đánh đó, khi Amosova giải cứu các cô gái, bản thân chị đã rơi vào luồng đèn chiếu PK. Các xạ thủ cao xạ tăng cường hỏa lực, độ cao đường bay không lớn. Seraphima cơ động máy bay lúc sang bên phải và lúc sang bên trái. Nhưng các vận hành viên đèn chiếu vẫn bám chắc chị không rời. Cái chết của phi đội trưởng có vẻ không tránh khỏi. Và đột nhiên đúng lúc cuối cùng, từ phía trên một quả bom phát sáng SAB cứu tinh bùng nổ - một trong các nữ phi côngthu hút sự chú ý của kẻ thù về phía mình. Sau này mới biết rằng, đó là phi hành đoàn của Nadia Troparevskaya và Lida Svistunova. Chùm ánh sáng đèn chiếu PK lụi tắt. Svistunova ném bom, còn Amosova chuyển máy bay vào vòng lượn gấp. Bóng tối che giấu một cách đáng tin cậy chiếc U-2 của chị.

* * *

Trong thời tiết mùa thu mưa dầm chúng tôi được lệnh ném bom làng Digora, kề bên chân núi Kazbek, nơi bọn phát xít tập trung nhiều xe tăng và một số lượng lớn các khí tài quân sự khác nhau.

Nhiệm vụ không dễ dàng. Không chỉ vậy, kẻ thù giăng màn đạn tất cả các lối tiếp cận vào thôn, vị trí của nó cực kỳ không thuận tiện. Hãy tưởng tượng một chiếc bình khổng lồ có đáy hẹp và các biên rộng, ở dưới đáy của nó có một hạt cát, cái hạt cát đó là Digora còn vỏ bình - là các dãy núi bao quanh từ mọi hướng. Ở đây ngay cả ban ngày triển khai cũng rất phức tạp, bạn quan sát cẩn thận đi nào, đâm vào sườn núi đá như chơi. Về độ khó khăn của các cuộc ném bom ban đêm thậm chí chẳng có gì mà nói. Thêm vào đó thời tiết hoàn toàn không phải thời tiết để bay. Bọn phát xít tính đến tất cả các hoàn cảnh ấy và chúng cảm thấy ở trong thôn rất bình an, Còn chúng tôi cũng tính đến điều đó, vì thế mà xây dựng tính toán của mình dựa trên sự bất ngờ. Suvorov còn nói: ở đâu con hươu đi lọt qua, người lính cũng lọt qua, mà người lính lọt qua thì một tập đoàn quân cũng lọt qua. Ban chỉ huy trung đoàn quyết định hoạt động theo nguyên tắc như vậy. Nơi nào một kíp bay bay qua được, về lý một biên đội cũng sẽ bay qua, nơi nào một biên đội bay lọt - ở đó cả phi đội cũng lọt, mà điều đó có nghĩa là cả trung đoàn cũng có thể lọt, nếu bầu trời chỉ cần hơi sáng lên. Nhưng thời tiết, như thể có chủ đích, cứ càng ngày càng tồi tệ.

Chúng tôi đã mất hy vọng, nhưng bỗng chốc bước ngoặt xảy đến. Tới nửa đêm mây mù bắt đầu tan, các ngôi sao hiện ra, gió giật lặng đi trông thấy. Ngay lập tức các động cơ rống ầm ầm, máy bay cứ chiếc này nối chiếc khác bay lên không trung. Seraphima Amosova cùng hoa tiêu Larisa Rozanova bay lên đầu tiên. Cất cánh sau họ là tôi và Klyueva.

Như chúng tôi mong đợi, sự xuất hiện của chúng tôi trên không phận làng Digora làm bọn phát xít rất bất ngờ. Súng cao xạ im hơi lặng tiếng. Trong khi đó, chúng tôi lại phát hiện ra các đoàn mô tô cơ giới của kẻ thù di chuyển dọc theo con đường duy nhất đi qua hẻm núi hẹp. Ngay khi đang tiếp cận thôn trong đầu tôi thoáng lên ý nghĩ hãy công kích thật mạnh trước hết vào đoàn mô tô đang di chuyển khỏi làng ra hẻm núi. Như vậy, có thể ghìm nó trong một thời gian dài, đồng thời trong khi đó các kíp bay khác sẽ đến kịp đây. Nhưng để đạt điều đó thì cần phải tiếp cận mục tiêu ở độ cao thấp, mà núi ở đây không cho phép làm như vậy mà không có rủi ro.

- Cậu nghĩ sao, đáng mạo hiểm không? - Tôi hỏi Klyueva, sau khi nêu ngắn gọn kế hoạch của mình.
- Ta thử xem - Olga đồng ý không ngần ngại. - Trò chơi đáng giá trị cây nến.
Nhưng chúng tôi đã không phải cố gắng. Trong ánh sáng của bom SAB tôi thấy ở điểm hẹp nhất của hẻm núi bom bắt đầu nổ. Xét theo thời gian, phi hành đoàn của chỉ huy phi đội của chúng tôi Amosova đã làm việc. Rozanova ném bom chính xác: chúng tôi nhìn thấy trên mặt đất những vụ nổ sức mạnh rất lớn.

Tôi chỉ vừa ngoặt sang hẻm núi, những trái bom phát sáng lại nổ bùng trên đầu hẻm núi này, và một chút sau những tiếng nổ từ đó vọng lại: ai đó trong phi đội đã đi trước chúng tôi. Ngày hôm sau, trinh sát mặt đất báo cáo về sự hủy diệt hoàn toàn đoàn mô tô cơ giới hóa của bọn phát xít Hitler.

(https://upload.wikimedia.org/wikipedia/ru/a/a1/KhudjakovaAF.jpg)
Thượng úy cận vệ AHLX Antonina Fyodorovna Khudyakova (1917-1998), phi đội phó phi đội 3 trung đoàn cận vệ ném bom đêm 46 Taman. Người Nga, nguyên trung cấp kỹ thuật chế tạo máy. Một trong những phi công có trình độ tác chiến rất điêu luyện, kỹ thuật bay giỏi bậc nhất, có nhiều sáng kiến cải tiến kỹ thuật hợp lý hóa trong công việc. Đã thực hiện 926 phi vụ ném bom kẻ thù trong 4 năm chiến tranh trong đó có trận ném bom chính xác vào bộ tham mưu tướng Von Kleist gần Mozdok trong Trận chiến Kavkaz 1942-1943. Trận cuối cùng bị bắn trúng nhưng hạ cánh được. Tỉnh dậy trong quân y viện và biết tin chiến thắng phát xít từ đó. Sau chiến tranh chuyển đến sống tại Ukraina. (https://ru.wikipedia.org/wiki/%D0%A5%D1%83%D0%B4%D1%8F%D0%BA%D0%BE%D0%B2%D0%B0,_%D0%90%D0%BD%D1%82%D0%BE%D0%BD%D0%B8%D0%BD%D0%B0_%D0%A4%D1%91%D0%B4%D0%BE%D1%80%D0%BE%D0%B2%D0%BD%D0%B0)

Hiệu quả của các vụ ném bom của chúng tôi được thực hiện trong các điều kiện khó khăn nhất, cuối cùng đã thuyết phục được bộ tư lệnh TDQ rằng trung đoàn đảm đương tốt nhiệm vụ của mình và có đủ cơ sở để tăng cường khả năng chiến đấu của trung đoàn. Trong tháng mười hai, biên chế trung đoàn tăng thêm phi đội thứ ba. Được bổ nhiệm chỉ huy phi đội mới là Paulina Makagon, hoa tiêu - Lydia Svistunova, phi đội phó về các vấn đề chính trị - Marya Runt, kỹ thuật viên trưởng - Dusya Korotchenko, kỹ thuật viên về vũ khí - Maria Marina, các biên đội trưởng - Olga Sanfirova, Zoya Parfenova, Nina Khudyakova, và các hoa tiêu - Rufa Gasheva, Dusia Pasko và Katya Timchenko.

Đồng thời khi đó, người ta đưa vào chức danh trung đoàn phó phụ trách huấn luyện bay. Người phi đội trưởng giỏi nhất, Seraphima Amosova được bổ nhiệm vào vị trí này. Phi đội của chúng tôi thay vì Amosova nay do Tatiana Makarova chỉ huy và hoa tiêu - Vera Belik.

* * *
........


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 31 Tháng Tám, 2015, 10:34:14 pm
(tiếp)

Ngày 23 tháng 11 năm 1942 quân đội phát xít Đức tại Stalingrad đã ở trong vòng vây dày đặc khép chặt. Cụm tập đoàn quân "Don", dưới sự chỉ huy của Thống chế Von Manstein, người được coi là chuyên gia về tiến hành các chiến dịch bao vây đến giúp đỡ các đơn vị bị bao vây của Paulus. Tuy nhiên, việc giải vây cho quân bị vây của kẻ thù đã thất bại.

Vào cuối tháng mười hai, bộ đội của phương diện quân Stalingrad đã tiêu diệt cụm quân Hitler bị vây trong nồi hầm. Chuyển sang tấn công có cả các phương diện quân khác. Kẻ thù lúng túng. Không biết chờ các đòn tiếp theo từ đâu đến, chúng ném đội dự bị của mình từ chỗ này sang chỗ kia. Các PDQ Voronezh và Leningrad bắt đầu gặm nhấm tuyến phòng thủ của người Đức. PDQ Tây-Nam hiện đang phát triển tấn công bằng các lực lượng chủ yếu ở khu vực Trung lưu Sông Đông.

Còn trung đoàn máy bay ném bom đêm hạng nhẹ 588 của chúng tôi tiếp tục ném bom kẻ thù ở vùng Caucasus.

* * *

(http://cdn.topwar.ru/uploads/images/2012/849/nedc903.jpeg)
Lính sơn cước Soviet bảo vệ các con đèo ở Kavkaz (http://topwar.ru/military-archive/history/)

Ngày 24 tháng 12 năm 1942 Zhenya Rudneva tròn hai mươi hai tuổi. Các đồng đội cùng trung đoàn chân thành chúc mừng chị. Tại phi đội phát hành riêng một tờ báo liếp dành cho sự kiện này. Chính ủy trung đoàn Evdokia Yakovlevna Rachkevich đã viết trong đó:

Hãy cứ sống như thế và xin chúc mừng nữ thành viên thân yêu tham gia cuộc Chiến tranh Vệ quốc. Hãy đập tan không thương tiếc bọn côn đồ Hitler. Hãy lái máy bay của mình dũng cảm bay lên phía trước - và không một bước lùi. Chiến thắng cần phải giành lấy với vũ khí trong tay chứ nó không tự đến. Còn sau khi đánh bại quân đội của Hitler ... ngồi sau bàn trong gia đình thân thương bạn sẽ nhớ đến chúng tôi.

Chính ủy rất am hiểu mọi người. Và khi bà viết lời chúc này, bà tin không chỉ vào ngôi sao may mắn của Rudneva, tin vào tính cách của chị ấy, lòng dũng cảm, trái tim của chị.

"... Bạn sẽ nhớ chúng tôi" - những lời này không phải một lời nhắc tầm thường. Tình cảm chung thủy với đồng đội của Zhenya đã được chứng tỏ nhiều lần trong các thử thách khó khăn nhất. Chúng tôi biết - những người như chị sẽ không bao giờ phụ lòng, không bỏ bạn trong hoạn nạn, trung thành với tình đồng đội tiền tuyến cho đến cùng.

Chẳng có đêm nào mà Rudneva không bay đi làm nhiệm vụ. Nhưng về công việc tác chiến của mình, chị rất kiệm lời. Bộ chỉ huy cho rằng chị là hoa tiêu xuất sắc nhất ở Caucasus - một bậc thầy ném bom, còn phi hành đoàn Nikulina - Rudneva - phi hành đoàn giỏi nhất trong trung đoàn. Tất cả chúng tôi hoàn toàn chia sẻ quan điểm này.

Các cô gái chúng tôi đón Năm Mới 1943 tại làng Assinovskaya. Cùng Valya Stupina và Katia Dospanova, Zhenya Rudneva trong buổi tối ấy là người bưu tá chuyển phát những lời chúc mừng. Các cô gái với vẻ hài hước châm chọc về niềm đam mê của chị với thiên văn học và bác sĩ trung đoàn của chúng tôi Olya Zhukovskaya chúc Olga Rudneva khi nào đó sẽ viết được công trình khoa học "Nhật thực trên bầu trời nước Đức" ...

(https://upload.wikimedia.org/wikipedia/ru/1/14/Nikulina_EA.jpg)
Evdokya Andreevna Nikulina (1917-1993): AHLX, đại uý cận vệ, phi đội trưởng trung đoàn nữ KQ ném bom đêm cận vệ 46 Taman. Trong chiến tranh đã thực hiện 760 phi vụ chiến đấu. Trước chiến tranh đã tốt nghiệp trường trung cấp kỹ thuật hàng không và trường hàng không Balashov, làm phi công dân dụng ở Smolensk. Gia nhập Hồng quân năm 1941, Có mặt ở tiền tuyến từ tháng 6 năm 1941. Sau chiến tranh giải ngũ với quân hàm thiếu tá và chuyển sang công tác đảng. (https://ru.wikipedia.org/wiki/%D0%9D%D0%B8%D0%BA%D1%83%D0%BB%D0%B8%D0%BD%D0%B0,_%D0%95%D0%B2%D0%B4%D0%BE%D0%BA%D0%B8%D1%8F_%D0%90%D0%BD%D0%B4%D1%80%D0%B5%D0%B5%D0%B2%D0%BD%D0%B0)

Ngày 02 tháng 1 đến lượt phương diện quân Bắc Kavkaz của chúng tôi cũng bắt đầu rục rịch dịch chuyển vị trí. Các nữ phi công và hoa tiêu, kỹ thuật viên và quân khí viên chuẩn bị kỹ lưỡng cho các trận đánh sắp tới. Thời tiết xấu bất thường. Tuyết, sương mù và mây thấp loại trừ hoạt động của không quân. Nhưng không có điều đó thì kẻ thù kiệt máu cũng hầu như không chống cự. Trong bốn ngày, quân đội Liên Xô tiến được đến 100 km. Trung đoàn của chúng tôi chuẩn bị di chuyển căn cứ.

- Nào, con gái ơi - bà chủ của tôi nói lời tạm biệt - Chúc con may mắn. Hết chiến tranh, con hãy nhớ về Assinovskaya của chúng ta và đến thăm gia đình nhé.
- Cảm ơn bác. Cảm ơn vì tất cả.
Chúng tôi nồng nhiệt chào tạm biệt, tôi xách chiếc vali nhỏ của tôi với những đồ vặt vãnh giản đơn và rảo bước đến sân bay. Tại khúc ngoặt của con đường tôi quay đầu nhìn lại - người phụ nữ vẫn còn đứng trên hiên nhà và dõi theo tôi.
.......


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 01 Tháng Chín, 2015, 11:08:01 pm
(tiếp)

Trung đoàn trở thành trung đoàn cận vệ

Từ Ekaterinodarskaya nơi chúng tôi chuyển đến, chỉ bay được rất ít: mùa nhiều sương mù và đường xá lầy lội đã đến. Ở đây, Ekaterinodarskaya, chúng tôi gặp phải một nỗi đau buồn lớn. Sáng ngày 07 tháng 1 khi tập hợp toàn thể đội ngũ, Tham mưu trưởng trung đoàn Irina Rakobolskaya thông báo về cái chết của thiếu tá Raskova. Một vài ngày sau báo chí trung ương tới. Tôi nhìn qua hàng lệ của mình bức chân dung Marina Mikhailovna viền khung tang. Từ trên trang báo nhìn tôi vẫn là đôi mắt đẹp ấy, vẫn khuôn mặt thân thương, quen thuộc đến những chi tiết nhỏ nhất.

(https://upload.wikimedia.org/wikipedia/ru/thumb/f/ff/%D0%A0%D0%B0%D1%81%D0%BA%D0%BE%D0%B2%D0%B0_%D0%9C%D0%B0%D1%80%D0%B8%D0%BD%D0%B0_%D0%9C%D0%B8%D1%85%D0%B0%D0%B9%D0%BB%D0%BE%D0%B2%D0%BD%D0%B0.jpg/375px-%D0%A0%D0%B0%D1%81%D0%BA%D0%BE%D0%B2%D0%B0_%D0%9C%D0%B0%D1%80%D0%B8%D0%BD%D0%B0_%D0%9C%D0%B8%D1%85%D0%B0%D0%B9%D0%BB%D0%BE%D0%B2%D0%BD%D0%B0.jpg)
Marina Mikhailovna Raskova (1912-1943)

Tôi nhìn tấm ảnh chị hồi lâu... Những cảnh tượng liên quan tới cái tên Raskova diễu qua trong tâm tưởng. Đây các cô bạn khuyên can tôi đừng đi gặp chị ấy, nhưng tôi vẫn quyết định đi, và buổi tối đêm giao thừa băng giá tôi bay trên phố Gorky với tốc độ chóng mặt. Đây tôi đang trò chuyện ở nhà chị. Đây bức điện tín gọi tôi tới Engels và cuộc gặp với Marina Mikhailovna tại ban tham mưu đơn vị nữ không quân...

Ngày hôm đó chúng tôi đã viết lên những quả bom treo vào các máy bay của chúng tôi dòng chữ: "Vì thiếu tá Raskova!"

Các cô gái trung đoàn chúng tôi thề trả thù cho cái chết của Marina Mikhailovna. Trên khắp cả nước bắt đầu công tác quyên góp tài chính để xây dựng một phi đội mang tên chị.

* * *

Kẻ thù rút nhanh chóng, và chúng tôi phải thường xuyên thay đổi sân bay. Điều này làm mọi người rất mệt mỏi. Đặc biệt là các kỹ thuật viên và quân khí viên, vì gánh nặng chủ yếu được đặt lên đôi vai của họ. Quân đội của chúng ta, bẻ gãy sự kháng cự của bọn phát xít quốc xã, giải phóng Blagodarnoye, Petrovskoye, Spitsevskoe. Các trận đánh chuyển dần sang phía tây. Chúng tôi tấn công cùng bộ đội mặt đất. Mặc dù mỗi chuyến bay đòi hỏi một nỗ lực rất lớn của cả ý chí và sức lực, chúng tôi đã làm tất cả những gì có thể.

Mỗi đêm chúng tôi thực hiện các nhiệm vụ chiến đấu, còn ban ngày thì chuyển sân đến địa điểm mới. Các đội thành lập từ các kỹ thuật viên và quân khí viên thường đi trước đến tiền tuyến để tìm các khu vực phù hợp và trang bị cho chúng để tiếp nhận các "cánh én" của chúng tôi. Nhưng những chiếc máy bay nhiều khi thường đi trước các kỹ thuật viên và quân khí viên. Chuyện đã xảy ra như vậy, ví dụ, gần Georghievsk: chúng tôi hạ cánh ở vùng ngoại ô thị trấn, trong khi trên các đường phố của nó trận chiến nóng bỏng vẫn sôi sục.

(http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/34.JPG)
Kỹ sư trưởng của trung đoàn Sophia Ozerkova (ngoài cùng bên phải) đang trò chuyện với các kỹ thuật viên cơ giới hàng không (http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/ill.html)

Nhưng các bạn gái của chúng tôi làm thế nào khi vận chuyển tài sản! Những chiếc xe nạp tải đầy đến nóc lúc lúc lại chìm trong bùn.
- Nào, lại ngồi, - Maria Runt cau mày vì đau răng trong một dịp như vậy. - Thôi nào, các cô gái, chúng ta đẩy đi nào.

Chị là người đầu tiên trèo ra khỏi buồng lái và cùng với những người khác, lăn lộn trong bùn sâu đến đầu gối, tì vai vào thùng xe.
- Một, hai - nào! - ai đó chỉ huy.
- Thêm tí nữa! Thêm lần nữa! - tiếng đáp lại. Dần dần, chậm chạp, như thể miễn cưỡng, động cơ trượt và gầm gừ lạc giọng, chiếc xe tải cố bò về nơi đất cứng.

- Về xe! - lệnh truyền đi dọc đường. Đoàn xe chuyển động, nhưng sau một thời gian tất cả lặp lại lần nữa.

Những người lính thủy quân lục chiến đi ngang qua trêu chọc vui các cô gái:
- Các chiến binh mặc váy ơi, đừng bôi bẩn ủng bôc-can chứ!
- Giúp một tay thì giúp đi, đứng đó mà nhe răng chế giễu ...
- Nào các cậu trai, thôi ta giúp các người đẹp một chút nào!
Những người lính thủy quân lục chiến leo vào vũng bùn, bám đầy quanh chiếc ô tô từ mọi hướng.
- Ghé vai vào, các chàng trai! - Một giọng trầm của ai đó cất lên vang như sấm. - Nào, tập trung nữa lên!
Bỗng một khẩu lệnh sắc nhọn như một phát súng quét qua đường trên đầu mọi người:
- Máy bay!
Mọi người như bị gió thổi bay. Các chiến sĩ và các cô gái ngay lập tức chạy tản ra và nằm xuống đất, hai tay theo bản năng ôm chặt lấy đầu. Tiếng gầm của động cơ, với tiếng rít đe dọa cắt ngang không trung, những trái bom của địch rơi trúng đoàn xe. Chúng văng đầy cả tấn bùn lỏng, rắc mảnh bom lỗ chỗ vào thân xe.

(http://mtdata.ru/u13/photo72C0/20516641534-0/big.jpeg)
Đi bay. Đường xuân lầy lội, năm 1943. Trung đoàn bay từ các sân bay "nhảy cóc" rất gần tiền duyên. Đến đó các nữ phi công di chuyển bằng xe tải. (http://www.stena.ee/blog/film_online/nochnye-vedmy-istoriya-v-fotografiyah-v-nebe-nochnye-vedmy-hud-film)

Trong một trận bị ném bom như thế, nhân viên cơ giới máy bay Lyudmila Maslennikova hy sinh. Cái chết của cô ấy làm tôi rất đau đớn. Chúng tôi chưa phải là bạn thật thân. Tôi biết cô ấy còn ít - Maslennikov mới có mặt tại trung đoàn ngay trước cuộc tấn công này.

Hoàn toàn còn là một cô bé, Lyudmila nhìn các cựu binh bằng ánh mắt ngưỡng mộ, tỏ thái độ vô cùng kính trọng đối với các nữ phi công và hoa tiêu. Trong một lần chuyển căn cứ tuần tự nào đó, sau khi chất đầy đồ lên máy bay, chúng tôi đã cùng nhau trò chuyện. Biết tôi từng học tại câu lạc bộ hàng không và đã bay bốn năm, Maslennikova rụt rè, giống như cho phép mình một cái gì đó táo gan, thiếu tế nhị, cô nói rằng, cô từng cũng ước mơ trở thành một nữ phi công.
- Chỉ tiếc là bây giờ chuyện đó đã thành không thể ... - cô gái thất vọng nói.
- Nghĩ thế làm gì cho vô ích, - tôi ngắt lời. - Cậu có thể dần dần tìm hiểu những điều cơ bản. Hãy chú ý xem các phi công làm gì, khi ngồi trong ca-bin, hãy hỏi các cô bạn gái. Mà cậu có muốn tớ dạy cậu không?
- Trời ơi, chị! Chị làm gi có thời gian. Thời gian ngủ chị còn chẳng có.
- Thì ta cứ thử xem đã nào. Đồng ý không?

Lyudmila gật đầu, và tôi tin chắc mình sẽ dạy cho cô ấy bay. Tôi rất hài lòng vì cô gái Nga xinh đẹp, giản dị này, giữa khói lửa chiến tranh, đột nhiên bị quyến rũ không sao cưỡng lại được với bầu trời tiền tuyến ảm đạm, cháy sém bởi các vụ nổ hỗn độn.

(http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/91.JPG)
Các nữ quân khí viên của trung đoàn. Hàng thứ nhất: Zina Romanova, Olya Erokhina, Zina Vishneva; hàng hai: Sasha Kondratieva và Masha Fedotova (http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/ill.html)

Và bây giờ cô ấy đã bỏ chúng ta. Khi chôn cô tại Novo-Dzherelievskaya, tôi có cảm giác, như thể người ta đã hạ cùng với Lyudmila xuống lòng đất một phần những hy vọng của riêng tôi...

* * *

Từ Ekaterinodarskaya trung đoàn bay đến Aleksandrovskaya. Ở đây chúng tôi nói lời tạm biệt với chính ủy lữ đoàn Gorbunov. Ông chuyển khỏi sư đoàn sang đơn vị khác. Chúng tôi rất tiếc phải chia tay với người đàn ông này, ông đã trở thành người cha thực sự và người bạn của chúng tôi.

Sau cuộc gặp đầu tiên vào mùa thu năm ngoái, chúng tôi cảm thấy mối thiện cảm sâu sắc đối với ông. Gorbunov thời đó có mặt tại các cuộc họp toàn thể trung đoàn. Ông chăm chú lắng nghe các lời phát biểu, điều gì quan tâm ông ghi vào sổ, đôi khi còn đặt câu hỏi. Và điều này được thực hiện một cách giản dị, không có chút giọng hách dịch nào, như các cuộc trò chuyện diễn ra trong một nhóm nhỏ bạn bè thân thiết. Sau đó, bản thân ông phát biểu. Ông nói dễ hiểu, rõ ràng, ấm áp và chân thành.

Sau đó Gorbunov trở thành khách thường xuyên tại trung đoàn. Ông luôn luôn xuất hiện lặng lẽ, không ồn ào, có mặt tại sân bay, nói chuyện với mọi người, đi xem nhà tập thể, phòng ăn. Gorbunov cố gắng đi sâu vào từng chi tiết của cuộc sống và hoạt động chiến đấu của chúng tôi, nhưng làm điều đó lặng lẽ, không phiền hà. Sự hiện diện của ông không làm phiền bất cứ ai và không làm ai cáu kỉnh, như thường xảy ra khi tại đơn vị có mặt thủ trưởng cấp cao.

(http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/20.JPG)
Cuộc họp đảng đầu tiên tại trung đoàn (năm 1942), trái sang phải: Е. Ya. Rachkevich, Е. D. Bershanskaya, Nadya Troparevskaya, Klavdia Ilyushina, Olya Fetisova, Мaria Runt. (http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/ill.html)

Trước khi đi, chính ủy lữ đoàn Gorbunov tới tham dự sinh hoạt Đảng tại trung đoàn. Sau cuộc họp diễn ra một cuộc trò chuyện sôi nổi, rồi ông hé mở cho chúng tôi một bí mật. Hóa ra lúc đầu sư đoàn không muốn tiếp nhận chúng tôi vào thành phần đơn vị.
- Đồng chí, tất nhiên, không tham gia vào phe đối lập này rồi - có ai đó nhận xét một cách chắc chắn.
- Đoán vậy mà không phải vậy - Gorbunov nói. - Tôi cũng là một trong số phản đối. Các đồng chí biết đấy, sự xuất hiện của các đồng chí ở mặt trận là rất không bình thường. Nếu là trong các đơn vị phía sau - chuyện chẳng có gì. Còn ở đây - nơi đang chiến đấu, lại công việc về ban đêm, ném bom quân địch và các mục tiêu khác trong mọi thời tiết. Cái gì cần giải thích ở chỗ này - các đồng chí đều biết ... Để cho cả một đơn vị chiến đấu của quân đội có biên chế toàn phụ nữ, sánh vai bình đẳng cùng với nam giới đánh lại kẻ thù ... Bây giờ, tôi thấy, chúng tôi đã nhầm to khi đánh giá thấp khả năng của phụ nữ Liên Xô.
- Đây không phải là điều mới - tôi nói. - Trước chiến tranh, nhiều phi công-hướng dẫn viên cũng không muốn dạy bay cho các cô gái.
- Thật sao?
- Đồng chí hãy hỏi bất cứ một cựu học viên câu lạc bộ hàng không nào.
- Vậy là không chỉ một mình chúng tôi sai - Chính ủy lữ đoàn mỉm cười. - Mặc dù đây chỉ là chuyện nhỏ, nhưng chúng tôi vẫn còn một niềm an ủi.

(http://img-fotki.yandex.ru/get/6109/121447594.e4/0_873f2_40e26896_XL.jpg)
Các hoa tiêu. Assinovskaya. Mùa thu 1942. Hàng ngồi R.Gasheva, N.Merklin. Hàng đứng N.Ulyanenko, Kh.Dospanova, Е.Ryabova, Т.Sumarokova. (http://www.amyat.narod.ru/memo/rakobolskaya_kravtsova/index.htm)

Khi chia tay, Gorbunov chúc chúng tôi trở thành những chiến sĩ cận vệ đầu tiên tại sư đoàn.
- Đây sẽ là đòn cuối cùng, và là một đòn quyết định đánh vào những người hoài nghi - ông nói đùa.

Lúc đó chúng tôi không chú trọng đến những lời nói của chính ủy lữ đoàn, trong mọi trường hợp chúng tôi không thể nào nghĩ được rằng điều đó có thể trở thành sự thật sớm như vậy. Bởi mới chỉ có tám tháng trôi qua, tính từ khi trung đoàn chúng tôi ra mặt trận. Tuy nhiên, trong thời gian này, chúng tôi đã làm việc không tồi, không tiếc chính bản thân mình, không nhận được bất kỳ sự cám ơn nào từ ban chỉ huy. Nhưng các đơn vi khác cũng làm việc như thế cả. Cuộc chiến diễn ra không phải là cuộc chiến với cuộc sống mà là với cái chết, và tất cả mọi người đặt vào đó tất cả sức lực của mình.
..........


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 02 Tháng Chín, 2015, 11:53:36 am
(tiếp)

Chúng tôi nghĩ như vậy. Vì thế, khi trên báo chí nói đến chúng tôi, khi các cô gái bắt đầu nhận được các bức thư của người thân, trong đó bạn bè và người thân coi chúng tôi như những người anh hùng, ban đầu tất cả đều cười đùa, sau đó chuyển sang hoài nghi.

(http://airaces.narod.ru/woman/rudneva2.jpg)
Evghenya Maksimovna Rudneva (1920-1944), người Ukraina. Sinh tại Berdiansk tỉnh Zaporozhie, Ukraina. Hy sinh ngày 9 tháng 4 năm 1944 ở phía bắc thành phố Kerch, bán đảo Crym. Được truy tặng danh hiệu AHLX ngày 26 tháng 10 năm 1944. (http://www.warheroes.ru/hero/hero.asp?Hero_id=1652)

- Chà, cái gì thế này! - Zhenya Rudneva có chút cay đắng nói với tôi. - Có vẻ mẹ tớ và cha tớ hoàn toàn quên mất cách suy nghĩ và viết sao cho giản dị bằng tiếng Nga.
- Chuyện gì Zhenya?
- Đây này - chị chìa cho tôi bức thư của cha và mẹ - thư không gửi từ những người thân của mình mà từ nữ biên tập của tờ báo.
Tôi nhanh chóng lướt nhìn vài câu.
- Em có thấy điều gì đặc biệt đâu.
- Cậu đọc chỗ này này. - Zhenya chỉ ngón tay vào giữa tờ giấy xé vở. - Nữ anh hùng, hành động anh hùng! Tớ có thực hiện hành động anh hùng nào đâu, nói cho đúng tớ chỉ đánh bọn phát xít giống như mọi người chúng ta cùng làm thôi mà. Chúng mò vào thì tớ đánh. Có điều gì đặc biệt ở đây cơ chứ!

Natasha Meklin, Dina Nikulina, Katya Ryabova, Nadia Popova, Olga Klyueva kéo đến.
- Tranh luận chuyện gì thế Zhenya?
- Người ta không muốn là anh hùng - tôi đùa. - Bị xúc phạm vì tại sao lại phóng đại chị ấy lên thế.
- Có lẽ Rudneva có quan niệm của mình trong vấn đề này, - Natasha mỉm cười. - Bây giờ, nếu ai là người đầu tiên bay lên sao Hỏa hoặc tới một hành tinh khác, cô ấy sẽ không do dự, gọi một người như vậy là một cá nhân anh hùng.
(https://upload.wikimedia.org/wikipedia/ru/f/f1/Kravcova_nataliya.jpg)
Anh hùng Liên Xô, cơ trưởng, thượng úy cận vệ biên đội trưởng Natalya Fyodorovna Merklin (Kratsova) (1922-2005), người Nga sinh tại Poltava, Ukraina. Trong 4 năm chiến tranh đã thực hiện 980 phi vụ chiến đấu. Khi nhập ngũ năm 1941 đang là sinh viên năm thứ nhất Học viện Hàng không Moskva. Sau chiến tranh khi trung đoàn nữ KQ cận vệ ném bom đêm 46 Taman giải tán, về học ĐH Ngoại ngữ Quân sự. Làm phiên dịch viên-chuyên viên tại ban thông tin văn phòng BTTM các LLVT Soviet. Hội viên Hội Nhà văn Liên Xô. (https://ru.wikipedia.org/wiki/%D0%9C%D0%B5%D0%BA%D0%BB%D0%B8%D0%BD,_%D0%9D%D0%B0%D1%82%D0%B0%D0%BB%D1%8C%D1%8F_%D0%A4%D1%91%D0%B4%D0%BE%D1%80%D0%BE%D0%B2%D0%BD%D0%B0)

- Và điều đó là đúng! Cậu chẳng hiểu gì cậu Natusya - Zhenya phản đối mạnh mẽ. - Cậu không thể dễ dàng ném ra những từ như "anh hùng", "chủ nghĩa anh hùng".
- Sao mà ném?! Thế cậu cho rằng rằng người anh hùng nhất thiết phải có những phẩm chất siêu nhiên nào đó ư? Nhưng bản thân cậu, ai là người mà cậu có thể gọi là anh hùng?
- Ít nhất là ... - Zhenya ngập ngừng và nhìn sang Dina Nikulina ướm hỏi.
- Người như thế nào? - Natasha cố gắng tìm hiểu.
- Dù sao, đó cũng không phải là người tầm thường, một người như thế, anh ta không do dự, có thể ôm lựu đạn lao vào chiếc xe tăng, lấy thân mình lấp lỗ châu mai lô cốt, hoặc như Nikolai Gastello, lao máy bay vào đoàn xe kẻ thù, cùng nổ tung với kíp bay trên những trái bom của mình.

Cuộc tranh luận thật cuốn hút, những cô gái khác kéo đến. Chủ đề cuộc trò chuyện gây hứng thú cho mọi người. Ý kiến rất khác nhau, một cuộc thảo luận nóng bỏng thực sự bùng lên. Cuối cùng, như thường lệ, khi người ta cãi cọ, mà còn chưa xác định được thái độ đối với vấn đề, tất cả đều bối rối. Nhiều người ban đầu phản đối Rudneva, đột nhiên chuyển sang ủng hộ chị, và những người đồng ý với chị, đứng về phía Meklin.

(http://mtdata.ru/u13/photo822D/20748429284-0/big.jpeg)
Kíp bay N.Ulyanenko và E.Nosal nhận nhiệm vụ chiến đấu từ trung đoàn trưởng E.Bershanskaya (http://www.stena.ee/blog/film_online/nochnye-vedmy-istoriya-v-fotografiyah-v-nebe-nochnye-vedmy-hud-film)

Mải chuyện, chúng tôi không nhận ra sự xuất hiện của chính ủy. Evdokia Yakovlevna, có lẽ đã lắng nghe lập luận của chúng tôi hồi lâu trước khi can thiệp.
- Thực chất vấn đề không nằm ở danh hiệu - chúng tôi bỗng nghe thấy giọng nói bình thản của bà như mọi khi. - Điều chủ yếu - trong công việc, trước hết là thái độ với các nghĩa vụ và trách nhiệm của mình. Rõ ràng hơn hết là thái độ với nghĩa vụ được thể hiện trong những giây phút gay cấn, nguy hiểm, khi được đòi hỏi, có thể mạo hiểm cuộc sống của mình. Thể hiện ý thức cao về nghĩa vụ, ví dụ, như Aleksandr Matrosov. Nhưng tinh thần hy sinh quên mình, cũng như các biểu hiện mãnh liệt khác của tinh thần con người, không phát sinh bất ngờ, không tuân theo ma thuật của chiếc đũa thần. Nó nảy sinh ngay từ các công việc hàng ngày, thường ngày, chẳng hạn như đặt gạch xây một tòa nhà.
Có ý thức đối với công việc được giao, không ngừng, ngày qua ngày, đặt vào nó tất cả sức lực của mình, hiến dâng cho nó tất cả nhiệt huyết của trái tim mình - điều đó không khó khăn ít hơn việc thực hiện một cái gì đó không bình thường, chói sáng, rực rỡ, giống như một tia chớp. Vậy thì, các cô đang làm đúng như vậy, bằng cách mỗi đêm nhiều lần bay lên đối mặt với cái chết. Và người ta gọi các cô là những nữ anh hùng là rất công bằng. Các cô hãy hiểu điều này. Mà chuyện quan trọng nhất - các cô hãy khiêm tốn, hãy nhớ rằng danh dự, vinh quang của các cô với tư cách người lính Xô Viết và công dân Xô Viết được thể hiện trong công việc của các cô ...

Cuộc nói chuyện phát sinh ngẫu nhiên này để lại trong trái tim chúng tôi một ấn tượng sâu sắc.

* * *

Vào đầu tháng Hai năm 43, trung đoàn chuyển đến stanitsa Chelbasskaya. Thời tiết vẫn không buông tha cho chúng tôi như trước. Các nữ phi công và hoa tiêu tiếp tục trực ngay cạnh máy bay, chờ đợi tin sáng sủa.

Thời tiết đặc biệt xấu vào ngày 08 tháng Hai. Những đám mây xám đen dày đặc lơ lửng trên mặt đất chua loét vì ẩm ướt, gió lồng như điên dại trên sân bay, thổi các tấm bạt che động cơ máy bay căng lên như cánh buồm. Tụ tập thành các nhóm nhỏ, chúng tôi giết thời gian bằng các câu chuyện, khẽ hát những bài hát yêu thích. Đột nhiên đại úy tham mưu trưởng Rakobolskaya xuất hiện, với vẻ xúc động khác thường. Giọng khản đặc, chị tuyên bố tập hợp toàn trung đoàn. Mọi người lo lắng - lại phạm tội gì đây? Hơn nữa, chúng tôi nhìn thấy từ ban tham mưu đi ra khoảng một tá sĩ quan.
- Marinka - Olya Klyueva đẩy tôi - có vẻ chính Popov kìa.
Sau khi nhìn kỹ, tôi quả thực nhận ra sư đoàn trưởng.
Sau khi Irina Rakobolskaya báo cáo, tướng Popov bước lên phía trước. Gió giật tờ giấy khỏi tay ông.

Cách ba bước sau Dmitri Dmitrievich là trung đoàn trưởng Bershanskaya, bên cạnh chị là chính ủy Rachkevich. Vẻ mặt cả hai rất tập trung, trang nghiêm. Theo cách họ nhìn hàng quân, thỉnh thoảng trao đổi với nhau vài câu, ta cảm thấy có tin gì đó quan trọng, đáng mừng xảy ra cho chúng tôi.

(http://mtdata.ru/u9/photoB323/20213810251-0/original.jpg#20213810251)
Trao cờ cận vệ ngày 10 tháng 6 năm 1943. Ivanovskaya. Người đi đầu là trung đoàn trưởng E.Bershanskaya. (http://myhistori.ru/blog/43376942849/Dunkin-polk.-ZHenskaya-voennaya-aviatsiya-v-godyi-VOV)

Nhìn bao quát toàn bộ hàng quân, tướng Popov đọc to Sắc lệnh của Đoàn Chủ tịch Xô Viết tối cao Liên Xô về việc trao cho trung đoàn 588 của chúng tôi danh hiệu cận vệ, và đổi tên nó thành trung đoàn cận vệ số 46. Ngay lập tức cuộc mít tinh diễn ra trên cánh đồng. Rất nhiều người phát biểu. Họ nói giản dị nhưng với cả trái tim. Còn nữa! Bởi lẽ chúng tôi là những người đầu tiên được mang vinh dự ấy trong sư đoàn. Và không chỉ ở sư đoàn. Trung đoàn của chúng tôi trở thành đơn vị nữ cận vệ đầu tiên của toàn quân!

Buổi tối tại nhà tập thể không khí đặc biệt sống động. Mọi người đều vui mừng, không muốn làm việc gì nghiêm túc. Quên các bài giảng và hội họp, thường được tổ chức khi thời tiết xấu, các cô gái từng đàn di chuyển từ phòng này sang phòng khác, trao đổi nhau các câu đối đáp, cười nói đùa giỡn. Ngoại lệ duy nhất là Natasha Meklin. Tách hẳn ra một góc hẻo lánh, cô chăm chú viết một cái gì đó, thỉnh thoảng liếc nhìn giận dữ những người cố gắng làm phiền cô. Dường như những gì đang xảy ra không làm cô quan tâm.
- Gì vậy Natusya - Zhenya Rudneva nói đùa, - đang sáng tác một trường ca về các cô gái-cận vệ à?
- Bí mật cái đã, - Natasha khẽ đáp, sau khi nghiêm nghị nhìn Zhenya bằng cặp mắt đẹp phản chiếu ánh màu xanh lục. - Bây giờ chưa nói được!
Dina Nikulina, người bay trong cùng kíp bay của Zhenya, kéo tay áo va rơi của người bạn gái:
- Thôi ta đi đi. Cậu không thấy cô hoa tiêu của chúng ta hôm nay có tâm trạng thơ mộng thế nào hay sao?
- Thế đấy ... Các chị lấy đâu ra vậy? - lúng túng, Meklin chống chế ...
Ngày hôm sau, khi tôi cùng Olya Kliueva trực chiến tại sân bay, Katya Titova thở gấp, vội vã chạy ra sân xuất phát.
- Ôi các cô gái! - từ xa cô hét toáng lên. - Chúng ta chạy nhanh lên để nghe hành khúc!
- Còn hành khúc nào nữa? - Olya hỏi lại.
- Hành khúc thực sự, hành khúc cận vệ. Hành khúc của chúng ta, cậu biết không - của chúng ta!
Có lẽ hành khúc Natasha viết ngày hôm qua, tôi đoán vậy và nhìn lên bầu trời. Trời vẫn u ám. Không có hy vọng có được chút cải thiện nào về thời tiết.
- Đi nào, - tôi đề nghị Klyueva. - Các chiến binh cận vệ đã đặt được hành khúc của mình.
- Chúng ta cũng sẽ có hành khúc, nếu bất ngờ người ta thông báo bay trinh sát khí tượng, - Olya nhận xét, miễn cưỡng bước ra khỏi buồng lái.
- Không thông báo bay đâu. Mà nói chung, trong dịp này không nên tiếc dịp kiếm được lời khiển trách.
- Nhanh nào các bạn, các cô sên bò! - Katya thúc giục chúng tôi.
Nhà tập thể chật cứng. Một người nào đó, không nhìn thấy sau các mái đầu cúi xuống trên bàn, đang chậm rãi đọc một cách đầy cảm xúc:
Chiến đấu ngoài mặt trận, đứng trong hàng ngũ tiên phong
Không phải là nhiệm vụ dễ dàng đối với chúng ta.
Hỡi các cô gái, các bạn chiến đấu của nhau,
Các bạn chiến đấu cho vinh quang của trung đoàn nữ cận vệ.

- Chà thật không tồi chút nào, - Ira Kashirina nhận xét. - Nào, các cô gái, tất cả cùng đồng thanh nào:
Hãy bay lên phía trước
Với ngọn lửa trong tim ...
Mấy chục giọng hòa theo Ira:
Hãy mang Ngọn cờ cận vệ thắm đỏ xông lên.
Tìm kẻ thù,
Đưa chúng vào đích ngắm,
Bầy phát xít không thoát khỏi sự phán xét.
Chúng ta sẽ không ai mỏi mệt,
Chúng ta đánh kẻ thù từ hoàng hôn đến bình minh,
Các cô gái-cận vệ trong chiến đấu không nao núng,
Những cánh đại bàng hãy xông lên! Tiến lên, các anh hùng!

Một số đã kịp chép lại bài hành khúc. Bản sao của bài hát ngay lập tức được truyền tay khắp lượt. Trong vòng chưa đầy năm phút, dàn hợp xướng thực sự của các cô gái rền vang như bùng nổ:
Chúng ta sẽ tìm ra kẻ thù trong bão tố và mù sương,
Không có trở ngại nào cản được chúng tôi trên con đường chiến đấu.
Hãy đập tan kẻ thù bằng bão táp tấn công
Hãy mang cho chúng nếm "món quà" từ quân cận vệ.
Các nữ binh cận vệ sẽ hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang,
Lùng sục kẻ thù, theo dõi, trinh sát,
Sẽ không một ai thương xót đối phương,
Rơi vào nanh vuốt chúng ta, bay hãy biết: thế là bay chấm hết.
Chúng ta mang danh từ "cận vệ", danh hiệu vinh quang
Trên những đôi cánh chim ưng, những cánh bay can đảm,
Vì mảnh đất Nga, vì đảng thân yêu,
Trung đoàn nữ binh cận vệ vì Tổ quốc hãy xông lên!

Ban đầu các cô gái hát theo mô típ phóng khoáng tùy ý. Sau đó, người ta mới chọn ra giai điệu thích hợp. Bài ca của Natasha Meklin khiến tất cả thích thú, từ ngày đó nó trở thành hành khúc của trung đoàn cận vệ.
......


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 04 Tháng Chín, 2015, 04:53:37 pm
(tiếp)

* * *

Không có gì tồi tệ hơn cái cảnh bó buộc không có việc làm. Chúng tôi chờ đợi dù chỉ một biểu hiện tốt lên nhỏ nhất của thời tiết. Cuối cùng trời cũng sáng. Chưa đầy một tuần đã có đến vài chục phi vụ chiến đấu được thực hiện. Chúng tôi chưa bao giờ làm việc với sự quyết liệt và khát khao như vậy. Chúng tôi đã trở thành các chiến binh cận vệ và cố gắng để chứng minh điều đó trong thực tế.

(http://www.wehrmacht-awards.com/german_cross/recipients/D5.jpg) (https://upload.wikimedia.org/wikipedia/uk/thumb/7/71/Ruoff_Richard.jpg/260px-Ruoff_Richard.jpg)
Trái: Generaloberst Erwin Jaenecke (1890-1960), xuất thân là một sĩ quan công binh công trình. Tháng 1 năm 1943 do bị thương nên được sơ tán khỏi Stalingrad khi đang là tư lệnh quân đoàn lục quân 4 (IV. Armeekorps) với quân hàm General der Pioniere, vì vậy tránh được cảnh bị bắt sống cùng bộ tư lệnh tập đoàn quân 6 của thống chế Paulus. Từ tháng 6 năm 1943 đến tháng 4 năm 1944 là tư lệnh tập đoàn quân 17 Quốc xã, một trong những tác giả "Tuyến Xanh", đứng vững trước cuộc tấn công mùa xuân năm 1943 của các LLVT Soviet. "Tuyến Xanh" chỉ bị chọc thủng vào tháng 10 năm 1943 trong chiến dịch Novorossisk-Taman của quân đội Soviet.
Phải: Generaloberst Richard Ruoff (1883-1967), tư lệnh tập đoàn quân 17 Quốc Xã (cụm TĐQ "A") từ tháng 6 năm 1942 đến tháng 6 năm 1943, tiến hành những trận đánh phòng thủ ác liệt trên tuyến Kavkaz và Kuban.
(http://www.feldgrau.net/forum/viewtopic.php?t=9057)

Mặc dù mây thấp, thời tiết không ổn định, tầm nhìn xấu đến mức kinh hoàng, các nữ phi công của chúng tôi vẫn luôn tìm ra kẻ thù. Timashevskaya, Popovicheskaya, Krasnoarmeyskaya, Novo-Nikolaevskaya... Các stanitsa lướt qua dưới cánh bay đưa chúng tôi tiến xa hơn nữa về phía tây.

Vào giữa tháng hai, trung đoàn chuyển căn cứ đến stanitsa Novo-Dzherelievskaya. Trên mảnh đất Kuban mùa xuân chỉ vừa mới tới với cảnh tan băng lầy lội, bùn dày khủng khiếp. Bùn đất bám theo chúng tôi trên các đường phố, tại sân bay, trong các khu vườn, kéo theo chúng tôi vào tận trong nhà và trong buồng lái. Thật đau lòng phải nhìn chiếc U-2 dính đầy bùn. Bùn thậm chí ngăn cản cả công việc. Sát xi máy bay khi lăn bánh trên đường lăn ngập trong bùn đến mức phải kéo máy bay trên đôi vai của mình.

Thời tiết cực kỳ khó chịu. Ngày thì vẫn có tuyết rơi, đêm đêm đất đai cóng lạnh. Phi công và hoa tiêu không biết đi giày làm sao. Đi bộ trên bùn trong các đôi bốt thật nặng nề, những chiếc ủng thấm nước trong phút chốc và đông cứng trong không khí, xích đôi chân lại và làm nó đóng băng.

(http://www.zorich.ru/games/bb/pics/c4_novorossiisk/101_jag_div.jpg)
Cảnh lầy lội ngoài mặt trận của sư đoàn sơn cước 101 Quốc Xã tại khu vực Tuapse. Kavkaz tháng 11 năm 1942 (http://www.zorich.ru/games/bb/campaign4.htm)

Cảnh lầy lội cản trở việc cung cấp nhiên liệu và thực phẩm. Chúng tôi ăn chủ yếu là ngô. Trời ơi ngán làm sao! Hai tuần chỉ có ngô - ăn khô, ăn luộc và ăn rán. Không muối, không bánh mì, không thịt, không bơ. Ngô là món thứ nhất, thứ hai và thứ ba. Ngô cho bữa sáng, bữa trưa và bữa tối. Thậm chí chúng tôi ngủ cũng trên ngô.

Trong giai đoạn này chúng tôi hoạt động chủ yếu bằng các kíp bay đơn, khi tấn công các nguồn sinh lực và khí tài của đối phương tại các điểm dân cư và trên những tuyến đường. Đôi khi chúng tôi bay trinh sát. Trong một phi vụ như vậy Paulina Makagon và Lida Svistunova bằng một đòn trúng đích đã phá hủy bến phà gần làng Krasny Oktyabr và Olga Sanfirova cùng Rufa Gasheva cũng trong khu vực đó đã xử lý một đoàn xe cơ giới của kẻ thù, gây ra ba vụ nổ dữ dội.

Trong tháng ba, chúng tôi rời Novo-Dzherelievskaya bẩn thỉu, mà mọi người đã chán ngán, chuyển căn cứ đến stanitsa Pashkovskaya, gần Krasnodar. Tại đây đã chấm dứt giai đoạn huấn luyện đội phi công, hoa tiêu, kỹ thuật viên và quân khí viên nữ được bổ sung đến trung đoàn hồi tháng Mười Hai năm ngoái. Họ bắt đầu bay lên tiến hành các phi vụ chiến đấu, và toàn trung đoàn cùng với các lực lượng mới bắt đầu các hoạt động chiến đấu trên Tuyến Xanh.

(http://www.hrono.ru/img/karty/1943golub.gif)
Tuyến Xanh (Gotenkopf; Kuban-Brückenkopf) vào tháng 9 năm 1943 (http://www.hrono.ru/)

Tuyến Xanh là tên kẻ thù gọi dải phòng thủ kiên cố cực mạnh, trải dài từ Novorossiysk đến biển Azov. Bọn phát xít bố trí đến mức bão hòa các phương tiện phòng không trên tuyến, chúng kéo về đây các đơn vị không quân chọn lọc. Bằng mọi giá chúng giữ cho bằng được cửa ngõ vào Crimea - bán đảo Taman, bọn Hitler chống cự lại với sự quyết liệt chưa từng có. Các trận không chiến tàn khốc nhanh chóng bùng lên.

Tại Pashkovskaya trung đoàn của chúng tôi triển khai trên một sân bay lớn. Sự tàn phá ngự trị nơi đây. Dọc theo rìa sân bay chỉ còn giữ lại được các hầm chứa sâu nơi chúng tôi giấu các máy bay của mình trước cặp mắt của máy bay trinh sát đối phương.

(http://www.kuzmolovo.ru/Img12/his1g.jpg)
Một hầm chứa máy bay của quân đội Soviet thời Thế chiến 2 (http://www.kuzmolovo.ru)

Ký ức của tôi gắn với stanitsa Pashkovskaya bằng một trường đoạn thoạt nhìn có vẻ không quan trọng. Chúng tôi khá lâu không bay thực hiện nhiệm vụ. Bóng đêm đổ tới, và tôi cùng Larisa Rozanova, Olya Kliueva và Zhenya Rudneva ngồi trên băng ghế dự bị, đang nói về một chuyện gì đó. Đi ngang qua rất gần chúng tôi là một nhóm thanh niên với các túi dù lớn. Họ đi về phía chiếc máy bay vận tải "Douglas", đang đậu gần những chiếc U-2 của chúng tôi. Trong nhóm này có một số cô gái.

- Đó là những người mà tớ ghen tị - Evghenya Rudneva nói. - Những cô gái ấy - là những nữ anh hùng thực sự. Nhảy dù ban đêm trong bóng tối, ở giữa bầy phát xít và hoạt động bên cạnh chúng ... Cần phải có rất nhiều can đảm. Có lẽ là tớ thì sẽ không thể ...
- Thế không dũng cảm hay sao khi mỗi đêm bay đi ném bom xuống đầu kẻ thù trên chiếc "cánh én" nhỏ bé của cậu? - Rozanova hỏi thẳng.
- Hoàn toàn không như vậy, Lara. Tớ ngồi trên máy bay, còn các cô gái ấy phải nhảy dù xuống vùng đất kẻ thù chiếm đóng...
Bây giờ tôi vẫn như nhìn thấy khuôn mặt của Zhenya, đôi mắt của chị, ánh lên sự ngưỡng mộ với điều chị ấy nhìn thấy ...

* * *

Công việc của chúng tôi trở nên rất phức tạp. Không chỉ vì thời tiết khó chịu. Phải bay trong điều kiện hỏa lực ngăn cản cực mạnh của hệ thống phòng không có tổ chức tốt của đối phương và trong phạm vi hoạt động của các máy bay tiêm kích của nó. Không thể không tính đến thực tế là chúng tôi đã phải bay trong ánh sáng các đèn chiếu của bản thân hệ thống phòng không của quân mình, trên những họng pháo hếch lên của nó. Trong cảnh hỗn độn và nóng bỏng của trận chiến - chúng tôi biết rất rõ điều đó - tất cả đều có thể xảy ra. Hãy thử phân biệt ngay lập tức, cái này với cái kia, trong mớ hỗn loạn diễn ra trên không, khi trên bầu trời cùng một lúc có đến hàng chục máy bay của quân ta và quân địch hoạt động. Chẳng có gì lạ khi trúng đạn cao xạ quân mình, nhất là vào ban đêm.

(http://www.zorich.ru/games/bb/pics/c4_novorossiisk/sd_kfz_10.jpg)
Pháo cao xạ tự hành Đức 20 mm SdKfz 10/4 trong vùng núi Crimea (http://www.zorich.ru/games/bb/campaign4.htm)

Trong khu vực sân bay cần phải tuân thủ sự cảnh giác tối đa, vì máy bay của bọn Đức Quốc xã thường để mắt đến chúng tôi. Vì vậy, thường chúng tôi vào hạ cánh mà không bật đèn trên thân, chỉ tập trung định hướng theo các đèn tín hiệu mặt đất được ngụy trang cẩn thận. Thần kinh trong tình huống như vậy bị căng ra đến mức giới hạn. Bạn tắt động cơ, vào hạ cánh, mà xung quanh toàn bóng tối, bóng tối dày đặc, chỉ những chiếc kim đồng hồ trên bảng điều khiển ở buồng lái phát ra ánh sáng lân tinh. Mặt đất bạn không nhìn thấy, bạn chỉ đoán được sắp tới mặt đất khi bắt đầu ập vào mũi mùi hơi ẩm ướt và mùi đất đen.

Nhưng độ cao phía dưới bạn là bao nhiêu? Có lẽ, ba mươi mét, và có lẽ chỉ một mét? Gần như những ngọn đèn tín hiệu hạ cánh chỉ thị hướng dễ nhận ra chỉ gây hiểu nhầm, khi chúng tăng cường ấn tượng về vực tối dưới các cánh máy bay.

Mỗi cơ bắp trên người bạn đều căng thẳng. Phải đặc biệt chú ý nắm bắt âm thanh: thật đáng sợ khi nghe thấy gần đó tiếng rít đặc trưng của không khí, bị cắt bởi các đôi cánh của một chiếc U-2 khác. Không thể nhìn thấy nó, bởi vì chúng tôi không bật đèn thân máy bay. Và trên đầu, tiếng hú khàn khàn của động cơ, bọn phát xít đang bay quần chờ con mồi ngon.

Nguy hiểm có ở khắp mọi nơi: trên đầu bạn, dưới máy bay của bạn, phía trước và cả phía sau. Nó ép đến từ mọi phía, giống như những gọng kìm. Có đáng ngạc nhiên không, khi sau hạ cánh, chúng tôi mất một lúc lâu mới hoàn hồn. Khi vừa mới cảm thấy rằng mình đã thoát khỏi sự căng thẳng thái quá thần kinh và hệ thần kinh đã trở lại bình thường, một lần nữa lại phải ném cỗ máy của mình vào trận chiến, trong tiếng nổ ầm ầm, trong tiếng hú điên đảo của hỏa lực pháo cao xạ và đèn chiếu. Và cứ như thế, hằng đêm. Không phải ai, thậm chí cả phi công có kinh nghiệm, đã từng ở trong các tình huống cực hạn, đều chịu đựng được một áp lực giống như vậy trong một thời gian dài.

Và bây giờ, khi tất cả đã lùi vào quá khứ từ lâu, tôi không thể quên được những đêm ấy. Ôi, chúng tôi nhớ những đêm như vậy làm sao! Trong một đêm như thế ở Ivanovskaya, tại sân bay "nhảy cóc", nơi chúng tôi bay đến từ Pashkovskaya trước trời tối, trung đoàn lập tức mất ngay hai phi hành đoàn. Điều đó xảy ra khi chúng tôi có một đêm-tối đa - các phi vụ xuất kích nối nhau liên tiếp cho đến khi rạng đông.

Chúng tôi chỉ vừa hạ cánh và còn đang ngồi trong buồng lái, chờ các quân khí viên treo các trái bom mới vào dưới cánh. Tôi nghỉ ngơi, thưởng thức màn đêm im lặng, không suy nghĩ về bất cứ điều gì, tắt mạch ý thức. Olya Klyueva phá vỡ sự im lặng:
- Cậu nghe không, Marinka, có vẻ bọn phát xít đang tiến về phía sân bay của chúng ta.
- Lại thế nữa! - tôi buột miệng giận dỗi; - Một vài phút sau các cô gái khác cũng hạ cánh.
- Không có gì, chưa quen được.
- Cậu cũng biết đấy, Olya, khó khăn khi hạ cánh không chỉ là chúng tôi - các phi công, mà còn cả các cậu - các hoa tiêu ...
- Rất khó khăn, Marinka. Điều này tớ hoàn toàn đồng ý. Mà cậu có thể làm gì được? ..
Chúng tôi đều im lặng.
- Marinka!
- Có.
- Cậu đang nghĩ gì lúc này?
- Về dưa chuột muối.
- Tớ nói nghiêm túc đấy.
- Thì tớ có đùa đâu. Tại Moskva, cậu biết không, một người hàng xóm muối dưa chuột rất tuyệt! Giá mà bây giờ được thử!
- Xin nghỉ phép đi. Bay luôn trên máy bay cho tiện rồi trở lại - rất nhanh.
- Cậu cứ nói quá! Nhưng nói chung, giờ mà được lướt trên các đường phố tối tăm của Moskva, đến thăm nhà hát thì thật không tồi - tôi nói một cách mơ màng. - Tớ rất quan tâm bây giờ Moskva như thế nào? Còn cậu, Olya, cậu cũng đã ở Moskva rồi chứ?

(https://upload.wikimedia.org/wikipedia/ru/8/8f/Pashkova_YF.jpg) (http://www.airaces.ru/images/woman/dospanv1.jpg)
Trái: Yulya Fyodorovna Pashkova (1923-1943), phi công, trung sĩ cận vệ. Phải: Katya (Khiuaz) Dospanova (1922-2008), hoa tiêu, trung úy cận vệ, AH Kazakhstan, sau tai nạn trở thành chủ nhiệm thông tin trung đoàn ném bom đêm cận vệ 46 Taman, 300 phi vụ chiến đấu. (http://www.airaces.ru/zhenshhiny-aviatory/dospanova-khyjjuaz-kairovna.html)

- Cứ chuẩn bị đi mãi, bỗng rồi chiến tranh. Khi đang học trong học viện và trong câu lạc bộ hàng không Saratov, tớ hy vọng được bay đến Moskva trong đội hình trình diễn hàng không. Nhất định tớ sẽ ghé thăm nơi đó sau chiến tranh. Cậu sẽ mời tớ đến chơi chứ. Phải không nào?
- Được chứ, Olechka. Nhưng, có vẻ như, các "bà già" của chúng ta đang kêu phành phạch kìa.
Một nơi nào đó xa, rất xa trong bóng tối động cơ những chiếc U-2 kêu ầm ầm đều đặn. Mà bọn phát xít vẫn lượn vòng mãi trên không vực sân bay.
- Sẵn sàng nào, Marinka! - Tôi nghe thấy một giọng nói vẳng ra từ trong bóng tối của Katya Titova. - Hãy cất cánh đi. Chúc cậu bay mà không suy suyển gì nhé.
Tôi chỉ vừa mới chuẩn bị bật đèn, không trung bỗng rung động vì một vụ nổ dữ dội. Bọn phát xít thả bom gần sân bay.
Còn những cánh "chim én" của chúng tôi vẫn đang bay quanh quẩn, chờ thời điểm có thể thực hiện hạ cánh.
- Titova, chuẩn bị khởi động máy!
- Rõ, chuẩn bị khởi động máy!
- Tiếp xúc!
- Rõ, tiếp xúc!
Tôi nhấn ga. Hắt hơi vài lần, rồi động cơ gầm lên. Sau khi tách đất và đạt được độ cao, tôi lấy hướng bay đi chiến đấu. Đó là chuyến bay cuối cùng của chúng tôi vào cái đêm khủng khiếp này.
Buổi sáng, chúng tôi mới biết rằng khi vào hạ cánh các máy bay của cặp Paulina Makagon - Lida Svistunova và cặp Yulia Pashkova - Katya Dospanova va chạm nhau trong không trung.
.......


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 05 Tháng Chín, 2015, 01:29:54 am
(tiếp)

Katya Dospanova vẫn bay với nữ phi công Yulia Pashkova. Phi hành đoàn của họ vừa ném hết bom thành công và trở về căn cứ của mình. Theo tính toán của hoa tiêu thì họ đã bỏ lại chiến tuyến ở phía sau và máy bay đang trên đường tiếp cận sân bay. Thật vậy, Pashkova và Dospanova chẳng mấy chốc nhìn thấy tia sáng đèn dẫn đường và ánh sáng mờ tối của dãy đèn tín hiệu hạ cánh. Phi hành đoàn đã vào tuyến hạ cánh. Các cô gái tin tưởng rằng họ đang ở trên căn cứ của mình ...

(http://cs406229.vk.me/v406229410/aa65/lSzKxYaEZ-I.jpg)
Dospanova Khyuaz Kairovna (http://womantory.livejournal.com/263496.html)

Katya tỉnh dậy giữa đống xác máy bay và điều đầu tiên cô cố gắng nhớ lại chuyện gì đã xảy ra. Cô nhớ rất rõ: máy bay đang vào hạ cánh. Còn những gì tiếp theo? Bộ nhớ của cô không lưu lại được. Lắng nghe, Katya nhận ra tiếng của Yulia không xa.

Trao đổi vài lời với cô bạn gái, Dospanova hiểu ra: tình trạng của Pashkova rất xấu. Yulia giải thích rằng cô đang ngồi trong máy bay, nhưng thậm chí không thể cử động. Các cô gái đồng ý rằng Dospanova sẽ bắn vài phát súng lục: nếu quân ta đến, họ sẽ giúp đỡ, còn nếu là bọn phát xít ...

Katya cố gắng với khẩu súng lục của mình, nhưng do cử động đột ngột mà ngất đi. Tỉnh dậy trong một khoảnh khắc nào đó, cô nghe thấy những giọng nói quen thuộc của các cô gái - các bạn gái đã phát hiện ra họ.

http://www.youtube.com/watch?v=hN7HFOW2IBE (https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/e/ef/Vertinsky.jpg)
A.Vertinsky (1889-1957) - "Hãy an ủi em, hãy nói chỉ là trò đùa
"Ты успокой меня,
Скажи, что это шутка,
Что ты по-прежнему,
По-старому моя! Не покидай меня!
Мне бесконечно жутко,
Мне так мучительно,
Так страшно без тебя!.. Но ты уйдешь, холодной и далекой,
Укутав сердце в шелк и шаншилла.
Не презирай меня! Не будь такой жестокой!
Пусть мне покажется,
Что ты еще моя!..
(https://ru.wikipedia.org/wiki/%D0%92%D0%B5%D1%80%D1%82%D0%B8%D0%BD%D1%81%D0%BA%D0%B8%D0%B9,_%D0%90%D0%BB%D0%B5%D0%BA%D1%81%D0%B0%D0%BD%D0%B4%D1%80_%D0%9D%D0%B8%D0%BA%D0%BE%D0%BB%D0%B0%D0%B5%D0%B2%D0%B8%D1%87)

Phi đội trưởng Polina Makagon và hoa tiêu phi đội Lida Svistunova chết ngay sau khi va chạm, và một thời gian sau Yulia Pashkova cũng chết. Chỉ Katya Dospanova sống sót. Một sự tình cờ không định trước đã cứu sống cô. Cô có thói quen khi bay không thắt dây đai bảo hiểm ngang thắt lưng và vai vào ghế bay. Cô cho rằng đai bảo hiểm kiềm chế sự di chuyển. Tuy nhiên, nhiều lần hoa tiêu Dospanova đã nhận được lời khiển trách từ các chỉ huy cấp trên vì hành vi vi phạm quy tắc bay, và ngay khi chiếc máy bay cất mình lên không trung, cô thường tháo dây đai ra. Lần này cũng như vậy. Và điều đó đã cứu sống cô gái. Do đập mạnh xuống mặt đất sau khi các máy bay va chạm, cô bị ném ra khỏi cabin hoa tiêu. Katya trong tình trạng nghiêm trọng được chuyển đến bệnh viện.

Ngày hôm sau chúng tôi vĩnh biệt những người hy sinh. Họ được chôn ở giữa stanitsa Pashkovskaya. Ba nấm đất, và trên đầu là ba chiếc cánh quạt, những tràng súng trường gửi lời chào chiến binh vĩnh biệt, những mái đầu trần của các bạn gái. Và lời tưởng nhớ cuối cùng - báo tường viền trong khung tang. Nó được treo trên giá cho đến khi chúng tôi bay đi khỏi Pashkovskaya. Mỗi lần đi ngang qua tờ báo, tôi nhìn vào bức chân dung một Yulia Pashkova đang mỉm cười và nhớ đến bài thơ dành riêng cho cô ấy của Natasha Meklin. Những dòng như thế này:

Bạn đứng đó, vuốt ve bởi làn gió,
Khuôn mặt tươi cười ửng đỏ,
Như vẫn đang sống, nhìn vào bức chân dung,
Viền quanh vòng tròn đen tang tóc.
Mỗi phút giây qua chúng tôi như vẫn nghe
Giọng hát trẻ trung, ngân vang, tinh khiết:
"Anh hãy an ủi em, hãy nói chỉ là trò đùa ..."


"Anh hãy an ủi em, hãy nói chỉ là trò đùa"- những dòng ca này trích từ một bài ca yêu thích của Yulia, cô luôn hát mỗi khi buồn bã. Tôi rất thích nghe Yulia. Giọng cô ấy thật dễ chịu, đầy cảm xúc của tâm hồn, nó xoa dịu, tạo cảm giác như có ai đó thì thầm vào tai những lời trìu mến, ấm áp.

Natasha đã tặng một bài thơ hay cho Yulia Pashkova. Nói chung trong giới chúng tôi Meklin có uy tín của một nữ thi sĩ được công nhận. Tôi không định đánh giá giá trị nghệ thuật thực sự các bài thơ của cô ấy. Tuy nhiên, thời đó điều này có ý nghĩa gì? Cái chính là ở cô, cũng như các cô gái khác, có một khát khao muốn viết. Họ đã viết, và đã làm tốt. Nghĩa là trong chiến tranh trái tim của họ không xơ cứng, cặp mắt và đôi tai vẫn nhạy cảm như xưa và hưởng ứng với tất cả mọi thứ tô điểm cho con người và cuộc sống của nó.

Chỉ đến cuối mùa thu, Katya Dospanova mới trở lại trung đoàn. Cô quay lại và lại bắt đầu bay các phi vụ chiến đấu ...

(https://upload.wikimedia.org/wikipedia/ru/e/e7/Smirnova_mariya.jpg) (http://tamanskipolk46.narod.ru/images/pasko.jpg)
Trái: AHLX, thiếu tá cận vệ Maria Vasilevna Smirnova (1920-2002), phi đội trưởng phi đội 3 trung đoàn nữ KQ cận vệ ném bom đêm 46 Taman. Trong 4 năm chiến tranh đã thực hiện 950 phi vụ chiến đấu. Tháng 9 năm 1943 là nữ phi công đầu tiên thực hiện 500 phi vụ chiến đấu của trung đoàn. Khi được phong tặng danh hiệu AHLX vào tháng 10 năm 1944, đại úy cận vệ M.V.Smirnova đã thực hiện 805 phi vụ chiến đấu. Sau chiến tranh giải ngũ làm công tác đảng.
Phải: AHLX (10/1944) Evdokya Borisovna Pasko (1919-...), thượng úy cận vệ hoa tiêu phi đội 3 trung đoàn nữ KQ cận vệ ném bom đêm 46 Taman. Nguyên sinh viên khoa Toán Cơ MGU. Trong chiến tranh đã thực hiện 790 phi vụ chiến đấu. Sau chiến tranh về học tiếp và tốt nghiệp khoa Toán Cơ MGU. Phó tiến sĩ KH, giảng viên chính Trường Kỹ thuật Moskva mang tên N.E.Bauman.
(https://ru.wikipedia.org/wiki/%D0%A1%D0%BC%D0%B8%D1%80%D0%BD%D0%BE%D0%B2%D0%B0,_%D0%9C%D0%B0%D1%80%D0%B8%D1%8F_%D0%92%D0%B0%D1%81%D0%B8%D0%BB%D1%8C%D0%B5%D0%B2%D0%BD%D0%B0)

Được bổ nhiệm chỉ huy phi đội 3 là Maria Smirnova, người trước chiến tranh làm huấn luyện viên-phi công ở Kalinin còn hoa tiêu phi đội - cựu sinh viên Trường Đại học Tổng hợp Quốc gia Moskva (MGU) Dusya Pasko.

* * *

Trên bàn làm việc của tôi luôn có một chồng thư từ các bạn gái cùng trung đoàn. Tôi thích đọc đi đọc lại chúng: mỗi lần trong ký ức lại sống dậy những hình ảnh quá khứ. Trong mười tám năm phục vụ trong ngành hàng không, tôi đã gặp gỡ nhiều người. Đã kết bạn bè suốt đời với một số người trong số họ.

Đây, từ một phong bì rơi ra tấm ảnh một cô gái đang cười. Khuôn mặt hạnh phúc ngập tràn ánh nắng. Mái tóc vàng xoăn. Đôi mắt tuyệt vời. Tôi biết chúng, màu đôi mắt ấy xanh biếc trong trẻo như bầu trời mùa xuân. Khi cô ấy cười, đôi mắt của cô khép lại thành một khe hẹp, dường như từ những khe mắt hẹp ấy trào ra những tia hạnh phúc, sống động. Tôi nhớ đôi mắt ấy. Tôi biết cô gái này. Tôi muốn nói với cô ấy biết bao: "Này, Glafirka, bạn thân yêu ơi, chúng mình bay chứ, hay phải làm sao ..?"

(http://www.peoples.ru/military/aviation/glafira_kashirina/kashirina_11.jpg)
Glafira Alekseevna Kashirina (1925-1943) (https://ru.wikipedia.org/wiki/%D0%9A%D0%B0%D1%88%D0%B8%D1%80%D0%B8%D0%BD%D0%B0,_%D0%93%D0%BB%D0%B0%D1%84%D0%B8%D1%80%D0%B0_%D0%90%D0%BB%D0%B5%D0%BA%D1%81%D0%B5%D0%B5%D0%B2%D0%BD%D0%B0)

Kỹ thuật viên máy bay Glafira Kashirina (chúng tôi gọi cô là Ira) từ những ngày đầu tiên hoạt động chiến đấu đã giành được sự tôn trọng lớn của tất cả các nữ phi công và hoa tiêu. Cô chuẩn bị cho máy bay của chúng tôi xuất kích thi hành nhiệm vụ chiến đấu đặc biệt kỹ lưỡng, với cả tình yêu thương, như thể nó chẳng tạo nên cho cô một khó khăn nào.

Tôi đã gặp cô gái tuyệt vời này tại trường phi công quân sự tại Engels. Ira Kashirina có sức cuốn hút bởi sự nhạy cảm kỳ diệu. Vì thế mọi người xung quanh rất yêu mến cô. Nỗi buồn len lỏi vào trái tim chăng, ai đó gặp khó khăn chăng, ai đó thất bại chăng - Ira luôn là một trong những người đầu tiên nhận thấy. Bằng bước đi êm ái, như không nghe thấy, cô đi đến bên người bạn gái của mình, mỉm cười trìu mến - ngay lập tức ta cảm thấy lòng mình trở nên nhẹ nhõm hơn.

Đồng thời, Ira mềm mại, nữ tính của chúng tôi cũng là một con người dũng cảm tuyệt vời. Từ thời năm 1942, một lần điểm dân cư gần nơi chúng tôi đóng quân có nguy cơ bị kẻ thù đánh chiếm. Tất cả các phi hành đoàn đã bay đến sân bay dự bị. Tại địa điểm cũ chỉ còn Ira Kashirina và kỹ sư trưởng trung đoàn Sofia Ozerkova. Cả hai cô gái nhận ra quá muộn tính chất bi đát của tình hình. Không còn thời gian để suy ngẫm. Bằng một phát hỏa tiễn, họ đã đốt chiếc máy bay mà không để kẻ thù chiếm được, rồi bắt đầu rút lui.

Hơn một tháng trôi qua. Đã có vài bức thư gửi đến cho Sophia Ozerkova và Ira Kashirina năm tại ban tham mưu. Chúng chưa được bàn giao, nhưng cũng chưa bị gửi trở lại, mặc dù thời hạn giữ thư đã hết. Tất cả hy vọng rằng Ozerkova và Kashirina sẽ trở lại. Và họ đã trở lại khi trung đoàn của chúng tôi đang tiến hành các trận đánh ở vùng Caucasus, gần Grozny ...

Kỹ thuật viên Ira Kashirina sống với một giấc mơ - bay. Trong thời gian rảnh rỗi của mình, cô ấy ngồi rất lâu trong buồng lái và tự nghiên cứu lý thuyết điều khiển máy bay. Cô được hỗ trợ bởi hoa tiêu trung đoàn Sofia Burzaeva và các hoa tiêu phi đội Zhenya Rudneva và Larisa Rozanova.

Cuối cùng người ta ghi danh Kashirina vào nhóm hoa tiêu của trung đoàn. Cô đã trả bài thi rất xuất sắc.

(http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/66.JPG)
Kỹ sư quân khí Nadezhda Strelkova đang lên lớp (http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/ill.html)

Các chuyến bay huấn luyện theo tuyến, ban đầu bay ban ngày, sau đó bay ban đêm, được Kashirina thực hiện cùng với Serafima Amosova và Olga Sanfirova. Trong nhật ký bay của hoa tiêu Kashirina có một điểm mốc tuyệt vời. Cô đã được phép bay thực hiện nhiệm vụ chiến đấu.
Ira mở sổ thành tích chiến đấu của mình khá nhanh. Kỹ năng của cô chín dần từ chuyến bay này sang chuyến bay kia.

... Đêm ngày 22 Tháng Tư năm 1943, trung đoàn được lệnh ném bom một điểm tập trung khí tài và sinh lực kẻ địch trong khu vực Novorossiysk.

Đó là một đêm trăng, đêm rất sáng. Hoa tiêu Ira Kashirina xuất kích thực hiện nhiệm vụ cùng phó chỉ huy phi đội Dusya Nosal, một nữ phi công xuất sắc và dũng cảm.

Phi hành đoàn của tôi đêm đó chuẩn bị cho đợt xuất kích chiến đấu thứ ba. Đúng thời gian quy định tôi lăn máy bay ra tuyến thực hành xuất phát. Tôi xin phép cất cánh. Đèn tín hiệu màu đỏ nhấp nháy trả lời: cấm cất cánh. Một phút sau, vang lên khẩu lệnh của người chỉ huy bay Serafima Amosova: "Tất cả tắt động cơ!" Và sau đó, chúng tôi được biết: có một tai nạn xảy ra với phi hành đoàn đang vào hạ cánh.
........


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 05 Tháng Chín, 2015, 11:46:44 pm
(tiếp)

Nhìn chăm chú vào bầu trời trên sân bay, tôi với Olga Kliueva phân biệt ra trong ánh trăng một trong những "cánh én"của chúng tôi. Thực sự có một cái gì đó không ổn xảy ra với nó. Chiếc máy bay bay vòng trên khu vực như một con chim đêm khổng lồ. Nữ phi công nhiều lần vào tuyến hạ cánh, rồi lại vọt lên và một lần nữa lại bay vòng tròn trên sân bay. Cuối cùng cô cũng tiếp đất thành công. Tất cả mọi người có mặt tại vị trí xuất phát vội vã lao đến chỗ máy bay. Chạy phía trước tất cả là bác sĩ trung đoàn của chúng tôi Olga Zhukovskaya. Khi những người khác đến, Zhukovskaya đã đứng trên cánh máy bay. Còn trên mặt đất, không xa chiếc U-2, tôi nhìn thấy Ira Kashirina được vây quanh bởi các cô gái. Được các bạn gái dìu, cô lặng lẽ đi về phía trung đoàn phó Serafima Amosova.
- Chúng đã giết Dusya Nosal rồi, - Kashirina thốt lên giọng run run. - Chúng tôi đã quay về nhà sau khi ném bom ...

(http://www.warheroes.ru/content/images/heroes/1hero/nosal_ei.jpg)
Phi đội phó, thiếu úy cận vệ, AHLX (truy tặng) đầu tiên của trung đoàn nữ KQ cận vệ ném bom đêm 46 Taman: Evdokya Ivanovna Nosal (1918-1943), có chồng cũng là một phi công quân sự, có con trai nhỏ chết trong một trận quân Đức ném bom trúng ngôi nhà riêng. (https://ru.wikipedia.org/wiki/%D0%9D%D0%BE%D1%81%D0%B0%D0%BB%D1%8C,_%D0%95%D0%B2%D0%B4%D0%BE%D0%BA%D0%B8%D1%8F_%D0%98%D0%B2%D0%B0%D0%BD%D0%BE%D0%B2%D0%BD%D0%B0)

Sau đó một chút tại trung đoàn mọi người đã biết chuyện xảy ra.
Máy bay tiếp cận mục tiêu chính xác. Bom bay xuống, và sau vài giây những viên đạn vạch đường thẳng căng như sợi dây phát sáng vút lên. Chiếc U-2 đã bay theo hướng ngược lại. Cuộc chiến diễn ra như mọi cuộc chiến. Những trận đánh như vậy phi hành đoàn đã có không ít. Đôi khi nó còn mãnh liệt hơn.
- Tớ đang nghĩ thế này, Ira à - Dusya Nosal quay sang cô em hoa tiêu, khi máy bay đã thoát khỏi màn đạn. - Chúng ta đã đến tận Novorossiysk. Và phía trước là Crimea. Một nơi tuyệt đẹp! Sau chiến tranh, chúng ta sẽ đi nghỉ ngơi trên bãi cát vàng của nó. Đồng ý không?

- Lẽ nào sau chiến tranh chị còn nhớ em? - Kashirina nói đùa. - Chị sẽ cùng với anh chồng đi đến Crimea chứ. Khi đó đối với chị, sẽ chẳng có ai tồn tại ngoài anh ấy nữa. Không có gì lạ khi mà thay vì đồng hồ trên bảng điều khiển trong buồng lái thì chị treo ảnh của anh ấy. Mà này, anh ấy là người thế nào?
- Anh ấy cũng đang chiến đấu. Anh viết rằng mọi thứ vẫn ổn. Anh ấy phóng đại tớ là nữ anh hùng. Tớ vẫn thường viết thư cho anh ấy.
- Vâng, có lẽ khi ta có, dù là ở xa, một ai đó thân thương gần gũi , thường xuyên nghĩ về ta, viết cho ta những bức thư trìu mến, ấm áp thì rất tốt. Em thường ghen yêu với chị đấy, chị Dusya nhé.
- Mà em hãy lấy chồng đi là sẽ hết ghen tỵ ngay thôi. Rồi cũng treo ảnh của chồng trong buồng lái. Khi nào gặp khó khăn, hãy nhìn vào ảnh chồng, em sẽ thấy dễ chịu hơn...
Chiếc máy bay lảo đảo, nó lao xuống như rơi vào vực thẳm. Tuy nhiên, Dusya nhanh chóng cân bằng được máy bay. Nhưng những luồng khí thấp mạnh mẽ không thể lay chuyển có xu hướng ép chiếc U-2 xuống đất. Rõ ràng trong tình huống này, leo qua dãy núi sẽ không nổi.
- Phải quay trở lại, - Nosal nói - nếu không sẽ không đạt được cao độ cần thiết.

(http://tamanskipolk46.narod.ru/images/p56_107.jpg)
Kíp bay Nosal-Kashirina tại một nơi đóng quân (http://tamanskipolk46.narod.ru/p56aa1.html)

Bất ngờ một bóng máy bay xuất hiện trên vịnh Novorossiysk bên mạn phải. Chiếc tiêm kích phát xít tấn công họ khi họ đang trên vòng lượn. Một bụm lửa thoáng qua. Ira chưa kịp báo cho phi công thì một quả cầu lửa nổ bùng trong buồng lái của Nosal. Trong khoảnh khắc Kashirin lóa mắt, sau một giây cô nhìn thấy đầu của Dusya ngoẹo xuống vai mất hết sự sống. Máy bay bị nghiêng, mất độ cao nhanh chóng và lao nhanh xuống mặt đất. Bằng một nỗ lực cực kỳ lớn Ira đã đưa được máy bay về tư thế thăng bằng ngang. Cô lái chiếc U-2 ngoặt về hướng sân bay của mình. Thân thể Dusya rũ xuống đè vào cần điều khiển. Việc lái máy bay trở nên khó khăn hơn. Nhưng Kashirina không mất tinh thần. Bằng một tay (chỉ có điều không biết lấy sức lực từ đâu ra), cô đẩy cơ thể của người bạn gái đã chết dịch ra, làm cho việc điều khiển máy bay dễ hơn.

Bỗng như trêu gan, pháo cao xạ từ mặt đất bắn lên dữ dội. Đã có những lỗ thủng ở thân máy bay, trên đuôi đứng, trên cánh máy bay. Nhưng rồi tất cả cũng trôi qua trót lọt. Hỏa lực pháo phòng không vừa ngừng thì bắt đầu có hiện tượng máy bay rung lắc trong không khí. Nó lấy đi những sức lực cuối cùng. Mà còn sắp phải hạ cánh nữa. Cuộc hạ cánh độc lập đầu tiên ban đêm. Kashirina bay vòng hồi lâu trên khu vực, cho đến khi tiếp đất thành công. Ngay trước khi hạ cánh, khi máy bay đang treo trong không khí, Ira không kìm nổi, và để cánh tay tê cứng nghỉ ngơi chốc lát, đã ngừng giữ cơ thể Dusya. Chuyện ấy suýt gây ra thảm hoạ. Người nữ phi công đã chết gần như trượt khỏi ghế bay và bàn chân của cô trong một thoáng đạp vào pê-đan lái. May mắn thay, bánh xe càng đã gõ bộp xuống mặt đất. Ngay sau đó, động cơ hộc lên vài lần rồi ngừng hẳn - hết nhiên liệu.

(http://www.warheroes.ru/content/images/heroes/monuments/Nosal_EI_mogila.jpg)
Bia tưởng niệm tại một ngôi mộ tập thể các phi công trung đoàn ở làng Paskovsky khu hành chính thành phố Krasnodar trong đó chôn nữ AHLX đầu tiên của trung đoàn cận vệ 46 Taman - Evdokya Ivanovna Nosal (http://www.warheroes.ru/hero/hero.asp?Hero_id=1631)

Một trong những phi công xuất sắc nhất Dusya Nosal đã rời bỏ chúng tôi ra đi như vậy đấy. Chị hy sinh trong phi vụ chiến đấu thứ 354 của mình. Evdokia Nosal là người đầu tiên trong trung đoàn chúng tôi được truy tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô. Ira Kashirina vì lòng dũng cảm thể hiện trong chuyến bay được tặng thưởng Huân chương Cờ đỏ.

Chúng tôi chôn Dusya tại stanitsa Pashkovskaya, nơi đây yên nghỉ di hài của Paulina Makagon, Lida Svistunova, Yulia Pashkova. Đó là một ngày tháng tư ấm áp, những khu vườn xanh mướt màu ngọc bích, được mưa tắm gội, lung linh chan hòa trong ánh mặt trời. Và trên các gò mộ là những bông hoa mà chị từng yêu thích ...

* * *

Ngày cuối cùng của tháng tư đã đến. Buổi sáng, trước hàng quân tập hợp đội ngũ toàn trung đoàn, thiếu tá Bershanskaya đọc lệnh chúc mừng lễ Mùng Một tháng Năm, sau đó chị thông báo rằng, sư đoàn trưởng, thiếu tướng D.D.Popov sẽ đến trao huy hiệu cận vệ và huân chương. Trước khi ông đến, hồi lâu các cô gái tập trung chải sạch và là ủi quân phục, đính các cổ áo sạch, đánh ủng bóng lộn.

Một ngày lễ hội thực sự, trời nắng, ấm áp. Trải ra phía trên những vòm cây rực rỡ lóa mắt của các khu vườn đang nở hoa là một làn hơi sương sớm mỏng manh màu xanh phơn phớt. Thiên nhiên miền Nam phì nhiêu tươi tốt hào hiệp ban tặng chúng ta tất cả những gì mà chúng ta đã bị tước đoạt trong các tháng mùa mưa: hơi ấm thừa thãi, màu sắc lộng lẫy, tươi sáng, mùi thơm ngát của đất đai thức dậy.

Thật dễ hiểu khi vào ngày đó không ai ngồi yên trong phòng. Khi vừa chỉnh đốn bản thân xong, tất cả đổ ra vườn, mừng rỡ, hạnh phúc, tản bộ giữa các lùm cây, vui vẻ nói chuyện, cười đùa trêu chọc nhau.

(http://tamanskipolk46.narod.ru/images/p29_p29_i8_1499_b.jpg)
Marina Chechneva và Ira Kashirina năm 1943 (http://tamanskipolk46.narod.ru/p29aa1.html)

Tuổi trẻ vô tư là như vậy đấy. Ngay mới đây thôi, nhiều cô gái đã thực hiện những chuyến bay cực kỳ nguy hiểm, và khi đêm xuống họ lại phải đi vào vùng nguy hiểm. Nhưng giờ này không ai nhớ đến điều đó.

Cuối cùng tư lệnh sư đoàn đã tới. Irina Rakobolskaya phát lệnh tập hợp trung đoàn. Tướng Popov làm một bài phát biểu ngắn rồi bắt đầu trao phù hiệu "cận vệ". Những người đầu tiên được nhận là Bershanskaya và bí thư đảng ủy trung đoàn Maria Runt. Sau đó, Dmitri đi dọc hàng quân. Bắt tay mỗi chiến sĩ, ông nói "Chúc mừng" - và nở một nụ cười thân thiện. Với nhiều người cùng với phù hiệu Popov còn gắn huân chương. Được trao tấm huân chương thứ hai có Sima Amosova, Nadia Popova, Dina Nikulina và nhiều nữ phi công, hoa tiêu, kỹ thuật viên, quân khí viên, cán bộ chính trị. Hoa tiêu của tôi Olga Kliueva được trao tặng phần thưởng cao quý - Huân chương Cờ đỏ.
........


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 06 Tháng Chín, 2015, 02:54:48 pm
(tiếp)

Người ta quyết định kỷ niệm ngày Một tháng Năm bằng hoạt động chiến đấu: vào đêm trước ngày lễ sẽ thực hiện xuất kích tối đa. Chúng tôi sẽ hành động đối với điểm tập trung quân đội của kẻ địch về phía đông bắc Thượng Adagun. Trên đường đi, sẽ thả truyền đơn xuống các làng đang bị kẻ thù chiếm đóng.

Bọn phát xít Đức quốc xã cố gắng phá vỡ cuộc ném bom của chúng tôi. Đêm ấy, chúng không tiếc đạn cao xạ và đã thiết lập một bức tường lửa vững chắc của hỏa lực phòng không trước các máy bay chúng tôi. Thêm vào đó chúng còn cho máy bay tiêm kích cất cánh chống lại chúng tôi.

(http://img-fotki.yandex.ru/get/6302/121447594.e4/0_873f1_a40fee56_XL.jpg)
Một nhóm nữ phi công trung đoàn cận vệ 46. Kuban, năm 1943. (http://www.liveinternet.ru/users/lviza_neo/post219176307/)

Nhưng, bất chấp mọi thứ, những chiếc U-2, mặc dù rất khó khăn, vẫn đột phá qua các lớp rào cản, gây thiệt hại đáng kể cho bọn Hitler.

Trong một chuyến bay, máy bay của tôi và Kliueva cũng bị một máy bay tiêm kích của đối phương tấn công.

Thông thường, trên không trung, trong khi tất cả còn bình yên, tôi hay nói chuyện với hoa tiêu. Tôi không biết, liệu điều đó có làm ta tránh khỏi những suy nghĩ ảm đạm hay không, hoặc đơn giản chỉ là giúp ta giết thời gian. Lần này Klyueva cất giọng hát hành khúc cận vệ của chúng tôi, tôi hát hòa theo. Chúng tôi bay đi như vậy, vô tư ca hát. Đột nhiên tiếng kêu vội vã của Olga cắt ngang tai tôi:
- Marinka! Ép xuống nhanh lên! Một tên phát xít đang đuổi đến.

Theo bản năng tôi tăng ga, đẩy cần lái ra xa thân mình, và sau khi động cơ gầm lên, chiếc U-2 lao vút xuống phía mặt đất. Tiếng hú của một chiếc "Messer" thù địch rít vang trên đầu chúng tôi, còn đạn pháo xé gió ngay sát cánh phải. Trong khi tên phi công của Hitler vòng lại để công kích tiếp, tôi đã đổi hướng và giảm độ cao. Tên phát xít mất hút chúng tôi và sau khi lượn vài vòng, hắn bổ đi tìm kiếm nạn nhân khác.
- Hát nốt đi nào, "các nữ nghệ sĩ"! - Tôi giận dữ thốt lên trong máy đàm thoại.
- Không có gì, - Olga đáp bình tĩnh - chúng ta sẽ còn tức nữa.

Chúng tôi đã cắt bom thực sự thành công: đánh trúng giữa đoàn xe cơ giới. Trong ánh sáng của pháo sáng treo lơ lửng ta thấy rất rõ con đường trên đó các đơn vị cơ giới Đức di chuyển. Những chiếc xe cháy ở phía dưới tạo ra một vụ ách tắc giao thông, sự hoảng loạn bắt đầu.

Bay sau chúng tôi là phi hành đoàn của Olga Sanfirova và Rufa Gasheva. Klyueva ném thêm một trái bom chiếu sáng nữa, định hướng giúp các bạn gái. Chúng tôi đã bay theo hướng ngược lại trong khi các vụ nổ ầm ầm đang ở phía sau.

Sanfirova và Gasheva đã gặp khó khăn. Khi họ vừa tới được mục tiêu, động cơ máy bay của họ trúng một viên đạn. Nhưng các cô bạn gái không hoảng loạn. Chỉ sau khi thả tất cả các quả bom xuống đầu kẻ thù xong, họ mới quay trở lại.

(http://tamanskipolk46.narod.ru/images/p29_0037.jpg)
U-2 trên bầu trời chiến tranh (http://tamanskipolk46.narod.ru/p29aa1.html)

Chiếc máy bay nhanh chóng mất độ cao và không bay đến được tiền duyên, Olya và Rufa hạ cánh trong hậu phương kẻ thù. Hai ngày đêm họ mới về tới chỗ quân mình. Rufina Gasheva sau đó đã viết về cảnh phiêu bạt của mình:

Ngày mai, ngày Một tháng Năm, ngày của mùa xuân. Ban ngày người ta trao phù hiệu cận vệ. Lelia (Sanfirova) được tặng thưởng Huân chương Cờ đỏ. Chúng tôi quyết định bất cứ trường hợp nào cũng phải làm tiếp các phi vụ xuất kích toàn thể. Chúng tôi đã bay phi vụ thứ ba, mà phía trước vẫn còn cả một đêm dài. Hôm nay chúng tôi ném bom nơi tập kết xe máy khí tài và sinh lực quân thù tại Thượng Adagun. Chúng tôi bay qua Kuban. Còn một chút nữa thì tới mục tiêu. Đây là điểm uốn của con đường, mục tiêu của chúng tôi. Vòng lại để lấy hướng vào công kích, bỗng một vệt lửa lao thẳng vào động cơ của chúng tôi. Ngoặt gấp, nhưng động cơ đã ngừng làm việc. Mục tiêu ngay dưới chúng tôi, tôi ném bom, máy bay rùng lên, rồi một lần nữa lặng yên. Độ cao giảm với tốc độ đáng kinh ngạc. Stanitsa Krymskaya bốc cháy phía sau, xa hơn một chút - đường tiền duyên. Nhưng mặt đất đây rồi.

Chiếc máy bay ở trên lãnh thổ bị kẻ thù chiếm đóng. Một phát súng điên cuồng bắn lên. Nghĩa là chúng tôi đã bị phát hiện. Thu lấy bản đồ, nhanh chóng lao ra khỏi máy bay, và - bò trên bãi cỏ sang một bên, chúng tôi bắt đầu bò sâu về phía đông theo hướng các ngôi sao. Ai đó treo bom phát sáng trên stanitsa Krymskaya, mọi vật trở nên sáng rõ. Phải chờ đợi cho đến khi bom sáng tắt. Chúng tôi bò đến sát đường sắt. Ở đây, cứ mỗi đoạn 30-50 mét một đều có các đội tuần tra của quân Đức. Thỉnh thoảng chúng lại bắn pháo sáng thắp sáng con đường. Chọn một thời điểm thuận lợi, chúng tôi nhanh chóng băng qua đường. Cánh đồng sau con đường bị đạn pháo đào xới hỗn độn. Chúng tôi không thể ngẩng đầu lên - một tràng súng tự động sẽ nổ ngay lập tức. Rạng đông đến nhanh, và chúng tôi đang ở ngoài đồng trống. Bỗng - thật là vui! Ếch kêu oàm oạp. Nghĩa là gần đó có một đầm lầy, nghĩa là có nơi để ẩn nấp.

Chúng tôi tin chắc sẽ về được chỗ quân mình. Mệt mỏi thì không cảm thấy, nhưng phải cẩn thận. Muốn trú tại một bụi cây lan, nhưng một tràng súng tự động bắt buộc chúng tôi phải tìm nơi trú ẩn khác. Chúng tôi tìm được một chỗ khiêm tốn, thắt chặt dây đai lại và ngồi chờ. Trời dần dần sáng. Hôm nay - ngày Một tháng Năm. Tôi muốn sống. Tất cả xung quanh thật tươi đẹp! Các cô gái của chúng tôi đang làm gì? Có lẽ họ đang lo lắng về chúng tôi. Đột nhiên, một tiếng gầm khủng khiếp làm rung chuyển không khí. Đó là những chiếc cường kích của chúng tôi đang bay. Đằng sau những khẩu cao xạ bắn tới tấp. Mảnh đạn rơi gần chỗ chúng tôi. Chúng tôi xích lại sát nhau hơn. Đã đến buổi trưa. Máy bay của chúng tôi liên tục ném bom và không kích các vị trí địch. Ngay trên đầu chúng tôi bùng lên một cuộc không chiến. Chúng tôi quan sát và mừng rỡ theo dõi chiến thắng của quân mình. Bầu trời đầy mây bao phủ. Mưa rây, cái lạnh thấm qua áo va rơi. Xung quanh đã hoàn toàn yên tĩnh. Trời tối, đã đến lúc đi. Chúng tôi vòng qua những khẩu đội pháo phòng không. Trên đầu, chúng tôi nghe thấy tiếng gầm rú của những chiếc máy bay bé nhỏ của chúng tôi. Cảm giác vui sướng và tự hào tràn đầy trái tim - đó là các bạn gái của chúng tôi đang bay.

Chúng tôi vạch khẽ các đám lau sậy và đi gần như thẳng người, trượt dọc theo đáy. Đầm lầy đã hết, trước mặt chúng tôi là rừng. Có một cái gì đó đáng sợ trong sự uy nghi trầm lặng của nó. Chúng tôi lần theo những bụi cây. Một tiếng động không rõ ràng phát ra. Bạn lặng người một lúc, bạn lắng nghe, và tiếp tục đi về phía đông. Nước lạnh mùa xuân, nơi chúng tôi đã qua đêm, cho tôi biết Lelya bị cảm lạnh, chị muốn ho đến nghẹn thở. Chị cố ho khẽ, rồi đột nhiên từ phía sau, sát gần, vang lên một tiếng ho đáp trả dồn nén và tiếp đó là tiếng cành cây gẫy. Chúng tôi chết lặng. Khi tiếng những bước chân đã lặng đi, chúng tôi nhanh chóng đi khỏi nơi này. Đêm thứ hai trôi qua như vậy. Chúng tôi ngồi trong bụi cây thêm một ngày nữa. Ngày hôm nay, ngày mùng Hai tháng Năm, là ngày sinh của chị. Tôi chúc mừng chị, tặng chị bốn hạt hướng dương, vô tình tìm thấy trong túi quần.

Đêm ấy, chúng tôi phải trèo qua một đống cây bị đốn ngã, hào chống tăng, hai dòng suối nhỏ. Ngày mùng Ba tháng Năm, vào lúc bình minh, chúng tôi đến được một trận địa pháo binh của quân ta. Chúng tôi đã được tiếp đón rất tốt, được cho ăn ngon và giúp đỡ để về đến trung đoàn. Chúng tôi lại ở giữa những người bạn gái thân thiết như ruột thịt!


Về đến trung đoàn, Olya Sanfirova và Rufa Gasheva từ chối nghỉ ngơi và ngay đêm đầu tiên lại bay đi ném bom. Các trận đánh mỗi ngày một trở nên khốc liệt hơn, không còn thời gian để nghĩ đến nghỉ ngơi nữa.
........


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 06 Tháng Chín, 2015, 05:01:03 pm
(tiếp)

Sống mãi trong ký ức của tôi

http://www.youtube.com/watch?v=bVbEF5xfvuc

Vào đầu tháng sáu, chúng tôi chuyển căn cứ từ stanitsa Pashkovskaya đến stanitsa Ivanovskaya. Hoạt động từ sân bay "nhảy cóc" gần stanitsa Slavianskaya. Đóng quân ở đây, trên một sân bay lớn cùng với chúng tôi còn có các máy bay tiêm kích. Ban ngày họ làm việc, ban đêm - đến lượt chúng tôi. Trong thời gian này, trung đoàn chúng tôi, ngoài các phi vụ ném bom, còn tiến hành trinh sát lực lượng đối phương trong khu vực Gostogaevskaya, Moldavskaya, Vườn Phương Bắc, các nông trang tập thể "Con đường sáng" mang tên Lenin, "Tháng Mười Đỏ" và stanitsa Kurchanskaya và Varenikovskaya. Thường bay trinh sát là các phi hành đoàn của Amosova, Khudyakova, Popova, Tikhomirova, Piskareva, và tôi cùng với Klyueva.

Tại Ivanovskaya ngày 10 tháng Sáu năm 1943, trung đoàn được trao Cờ Cận vệ. Buổi lễ có sự tham dự của tư lệnh tập đoàn quân không quân 4, tướng K.A.Vershinin.

... Các nữ phi công, kỹ thuật viên, hoa tiêu, quân khí viên, các chỉ huy và các cán bộ chính trị tập hợp đội ngũ trên cánh đồng xanh.

Hôm nay chúng tôi có một ngày lễ. Đất nước trao cho chúng tôi Lá Cờ Cận vệ vinh quang qua các trận đánh và các chiến trường.

Hầu như trên ngực mọi người ai cũng thấy những tấm huân huy chương tỏa sáng - biểu tượng của lòng dũng cảm và can đảm của quân nhân. Nhiều đồng đội cùng trung đoàn được tuyên dương toàn mặt trận.

Trước đội hình trung đoàn người ta đọc Sắc lệnh của Đoàn Chủ tịch Xô Viết tối cao Liên Xô về việc chuyển trung đoàn của chúng tôi thành trung đoàn cận vệ.
- Hỡi các chiến sĩ cận vệ dũng cảm! - Trung tướng A.I. Fominykh Ủy viên Hội đồng Quân sự PDQ hướng tới các quân nhân. - Các bạn đã quên mình bảo vệ Tổ quốc chống quân xâm lược phát xít. Các bạn đã chứng tỏ là những mẫu mực của chủ nghĩa anh hùng và lòng tận tụy không giới hạn đối với Quê hương yêu dấu của mình. Nhưng bây giờ, mỗi chiến sĩ được đòi hỏi phải nhân lên gấp mười lần đòn đánh của chúng ta xuống đầu kẻ thù. Các bạn phải rèn luyện nâng cao kỹ năng chiến đấu của mình, dùng mọi biện pháp để tăng cường tính kỷ luật và tính tổ chức, tăng cường các cuộc ném bom xuống đầu quân địch, bảo vệ Tổ quốc của chúng ta một cách dũng cảm và khéo léo. Hội đồng Quân sự tin rằng các bạn sẽ mang Lá Cờ cận vệ vẻ vang qua các chiến trường, nhân lên gấp bội vinh quang của lực lượng cận vệ Nga anh dũng. Tiến lên, đánh bại kẻ thù!

(http://tamanskipolk46.narod.ru/images/p29_p29_049.jpg)
Trung đoàn trưởng tiếp nhận Cờ Cận vệ (http://tamanskipolk46.narod.ru/p29aa1.html)

Tiếng "Ura" của quân cận vệ vang rền như sấm.
Rồi tướng Fominykh trao Cờ cho thiếu tá Bershanskaya. Evdokia Davydovna hơi nghiêng cán xuống, để chúng tôi có thể nhìn thấy trên nền vải nhung đỏ thắm có thêu những từ "Trung đoàn không quân cận vệ 46". Sau đó, chị quỳ xuống, chạm môi vào mép Lá Cờ. Một phút im lặng trang nghiêm. Và rồi bên Lá Cờ giương cao vang lên những lời thề cận vệ với Tổ quốc, đảng, nhân dân Liên Xô:
- Các đồng chí chiến sĩ cận vệ! Tiếp nhận Cờ Cận vệ, chúng ta xin thề trước nhân dân Liên Xô, Đảng Cộng sản và chính phủ Liên Xô, chúng ta sẽ chứng minh danh hiệu cao quý một cách vẻ vang trong các trận chiến khốc liệt với kẻ thù. Chúng tôi, những nữ chiến binh tự hào được mang Cờ Cận vệ qua các mặt trận của cuộc Chiến tranh Vệ quốc cho đến khi hoàn toàn đánh bại kẻ thù. Chúng tôi sẽ trung thành phục vụ Tổ quốc, bảo vệ Tổ quốc một cách dũng cảm và khéo léo, không tiếc sức lực, xương máu và cả cuộc sống của bản thân.
- Xin thề! - hàng trăm giọng đáp lời người chỉ huy.
- ... Chúng tôi sẽ gìn giữ thiêng liêng và nhân lên truyền thống vẻ vang của quân cận vệ Nga, quân cận vệ Xô Viết ...
- Xin thề!
- ... Chúng tôi sẽ không tiếc cuộc sống để trả thù bọn quái vật phát xít vì đã hủy diệt các thị trấn và làng mạc của chúng ta, vì sự giết hại người Xô Viết ...
- Xin thề!
- ... Chúng tôi thề trước danh hiệu cận vệ của mình, danh dự cận vệ của mình, rằng khi nào cặp mắt chúng tôi còn nhìn thấy, trái tim của chúng tôi còn đập, cánh tay của chúng tôi còn cử động, chúng tôi sẽ tiêu diệt không thương tiếc những tên kẻ cướp phát xít. Chúng tôi sẽ không nghỉ ngơi cho đến khi nào còn chưa tước đoạt được hơi thở cuối cùng của quân thù.
- Xin thề!
- ... Sự nguyền rủa và cái chết giành cho bọn xâm lược phát xít! Xin lắng nghe chúng tôi, Đất Mẹ yêu dấu! Với Lá cờ Cận vệ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản chúng ta sẽ đi đến chiến thắng đánh đuổi hoàn toàn kẻ thù ra khỏi các đường biên giới Tổ quốc yêu dấu của chúng ta!
- Xin thề!

(http://mtdata.ru/u13/photo9BC0/20377251106-0/big.jpeg)
Trao cờ cận vệ (http://www.stena.ee/blog/film_online/nochnye-vedmy-istoriya-v-fotografiyah-v-nebe-nochnye-vedmy-hud-film)

Lá Cờ từ bàn tay trung đoàn trưởng được chuyển sang cho người cầm cờ Natasha Meklin. Bên cạnh cô, bên phải và trái, là các trợ thủ Ira Kashirina và Katya Titova. Bershanskaya tiến lên phía trước, tiếp theo là Rachkevich và tham mưu trưởng Rakobolskaya. Tấm vải đỏ thắm bồng bềnh trôi dọc hàng quân. Tiếng "U ra" đồng thanh vang rền theo sau Lá Cờ.  Từ trên Lá Cờ Vladimir Ilyich Lenin như đang sống, nhìn xuống các cô gái-chiến binh cận vệ.

Lá Cờ Cận vệ! Bề ngoài, tất cả mọi thứ rất đơn giản - một mảnh nhung màu đỏ thẫm, rìa và chữ mạ vàng. Nhưng đối với chúng tôi đó là - biểu tượng của lòng dũng cảm quân sự tối cao. Trong nó là cuộc sống, vinh quang, danh dự, niềm tự hào của chúng tôi. Trước hết trên tấm vải này dệt tên vàng trung đoàn của chúng tôi, chúng tôi đã trải qua biết bao nhiêu đêm chiến đấu căng thẳng, đi qua bao cuộc pháo kích dữ dội, qua máu và qua cái chết.

(http://militera.lib.ru/bio/chechneva_mp2/20.jpg)
Rước Cờ Cận vệ (http://militera.lib.ru/bio/chechneva_mp2/ill.html)

Cái chết ... Mỗi đêm nó vô hình lơ lửng trên đầu chúng tôi. Đôi khi một trong những người bạn gái rứt ra khỏi hàng ngũ chúng tôi. Nhưng đó không phải là một thất bại. Dù sao chúng tôi cũng sẽ chiến thắng. Bởi lẽ sau khi trao thi thể của người đồng đội cho Đất Mẹ, chúng tôi vẫn gìn giữ trong mình những suy nghĩ và cảm xúc của đồng đội. Những suy nghĩ và cảm xúc đó chiến thắng cái chết. Và Lá Cờ Cận vệ kiêu hãnh bay phấp phới trên đầu chúng tôi, cũng là bằng chứng cho sự chối bỏ cái chết của chúng tôi và tình yêu vô biên đối với Đất Mẹ của mình, với nhân dân của mình.

* * *
.......


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 06 Tháng Chín, 2015, 10:11:35 pm
(tiếp)

Một vài ngày sau khi chúng tôi được trao Lá cờ Cận vệ, tư lệnh phương diện quân thượng tướng I.E.Petrov đến thăm trung đoàn. Đêm chiến đấu trước chuyến thăm của ông đã diễn ra thành công. Các phi công và hoa tiêu được nghỉ ngơi, tại máy bay chỉ còn lại các kỹ thuật viên và quân khí viên. Tất cả đều bình yên, đột nhiên từ đài chỉ huy truyền đến lệnh "Báo động chiến đấu". Các cô gái, dù buồn ngủ, nhưng trong trang bị đầy đủ, vội vã lao đến những chiếc máy bay. Trong vòng vài phút, những chiếc U-2 của chúng tôi đã bay lên không trung.

Sự không biết tin tức luôn luôn đè nặng. Tôi cùng hoa tiêu không biết phải nghĩ gì.
- Nhìn xem, Olya, - tôi đề nghị Klyueva, - bọn phát xít có đổ quân đổ bộ xuống gần sân bay không nhé.

Nhưng trong tầm nhìn của chúng tôi, trên mặt đất tất cả đều yên tĩnh. Chẳng mấy chốc pháo hiệu báo "Hạ cánh" bay vút lên bầu trời. Chỉ khi đó sự hoang mang của chúng tôi mới tiêu tan. Hóa ra, tướng Petrov, khi đi ngang qua sân bay của chúng tôi, nhận thấy những chiếc U-2 đang đậu mà không có sự giám sát của đội cảnh vệ. Ông đi đến chỗ một chiếc máy bay, lấy khẩu súng bắn pháo hiệu ra khỏi máy bay, mà không ai để ý. Điên tiết, ông tướng đến ngay sở chỉ huy và tuyên bố lệnh báo động chiến đấu.

(http://cs619929.vk.me/v619929965/1f220/xrWXBu56a3w.jpg)
Tư lệnh phương diện quân Bắc Kavkaz từ tháng 5 đến tháng 11 năm 1943, sau đó là tư lệnh tập đoàn quân độc lập Duyên hải - đại tướng Ivan Ephimovich Petrov (1896-1958), AHLX (1945). I.E.Petrov là một trong những người lãnh đạo chiến dịch phòng thủ Sevastopol năm 1941 cùng lực lượng Hạm đội Biển Đen do phó đô đốc F.S.Oktyabrsky chỉ huy. Là người tốt nghiệp trường hạ sĩ quan bộ binh Alekseev nổi tiếng của nước Nga Sa hoàng trước CM Tháng Mười, tình nguyện gia nhập Hồng quân năm 1918, có quá trình phục vụ lâu dài tại Trung Á, trong chiến tranh Xô-Đức từng bị Stalin giáng chức rồi phục chức nhiều lần. Chức vụ sau cùng trong chiến tranh là Tham mưu trưởng PDQ Ukraina 1 do nguyên soái I.S.Konev làm tư lệnh. Sau chiến tranh là tư lệnh QK Turkestan và phó tổng tư lệnh lục quân Soviet. (http://www.warheroes.ru/hero/hero.asp?Hero_id=1825)

Mọi chuyện chúng tôi sau này mới được biết. Còn khi đó tất cả trung đoàn tập hợp đội ngũ ngay trên cánh đồng. Tư lệnh đi dọc hàng quân, chăm chú kiểm tra từng người chúng tôi. Đôi khi, ông cau mày, dường như khó chịu, nhưng vẫn im lặng. Sau đó ông gọi riêng thiếu tá Bershanskaya ra, nói gì đó với chị. Chúng tôi ngay lập tức được chia thành các nhóm, người ta dựng bia và ra lệnh bắn bia bằng vũ khí cá nhân. Kết quả, như có thể mong đợi, còn xa mới được gọi là xuất sắc. Ông tướng còn sa sầm mặt mày nhiều hơn nữa.

Sau đó, trung đoàn tập hợp lại, và ngay tại chỗ tư lệnh phương diện quân xạc chúng tôi một trận nên thân làm chúng tôi nhớ ông đến suốt đời. Chỉ còn các tội chết là ông chưa buộc tội chúng tôi mà thôi! Người ta vạch ra cho chúng tôi thấy sự tổn thất do mất cảnh giác, và sự yếu kém phải uốn nắn về điều lệnh, sự sai khác kích cỡ tiêu chuẩn trong quân phục, và việc không có khả năng sử dụng vũ khí cá nhân.
- Công tác chiến đấu tốt không cho các cô bất kỳ quyền nào được cẩu thả, bỏ qua các quy tắc mà quân đội quy định. Hãy biết xấu hổ, các chiến sĩ cận vệ! - thượng tướng Petrov nói khi chào tạm biệt.

Sau khi tư lệnh phương diện quân đi khỏi, tại trung đoàn đã tổ chức một cuộc họp đảng. Sự phê bình rất gay gắt. Bị cuốn theo công tác chiến đấu, chúng tôi về cơ bản đã bỏ qua việc học tập. Bây giờ là lúc siết lại các sơ xuất, hơn nữa thời hạn để sửa chữa những thiếu sót mà ông tướng đưa ra rất khắc nghiệt - chỉ một tháng. May là giai đoạn này tương đối yên tĩnh và số lượng các chuyến bay đã giảm.

Bây giờ, toàn bộ thời gian rảnh chúng tôi giành cho huấn luyện chiến đấu: học bắn súng lục, hoàn thiện kiến thức về dẫn đường hàng không, lý thuyết bay, và mặc dù chúng tôi không muốn, một ngày hai giờ phải tập điều lệnh đội ngũ dưới sự chỉ huy của kỹ sư trung đoàn Sofia Ozerkova. Về chuyện này, Natasha Meklin có sáng tác một bài thơ nghịch ngợm năm câu, mà chúng tôi gọi là "Lời cầu nguyện của người phi công". Trong đó, hướng lên Thiên Chúa, chúng tôi xin được giải thoát khỏi các giờ học và giờ kiểm tra, chúng tôi cầu nguyện sao cho nhanh chóng nối lại các hoạt động quân sự. Tôi nhớ rằng trong đó có những dòng thế này:

Hãy mang chúng con từ địa ngục lên thiên đường,
Hãy cho chúng con đi ném bom ngoài tiền tuyến,
Hãy để chúng con thay vì đi đều bước
Cho chúng con mục tiêu cần công kích ở tiền duyên.


Địa ngục ngầm ám chỉ việc học tập. Thiên đường, tất nhiên là biểu tượng của các chuyến bay.

Nhưng dù thế nào, chúng tôi hiểu rằng một khi cần, có nghĩa là thực sự cần. Các tiết học vẫn trôi chảy, bất chấp những tiếng rên và tiếng thở dài, đối với việc học tập chúng tôi có thái độ thiện tâm. Một tháng sau, tại trung đoàn diễn ra một cuộc thanh tra. Lần này, mọi thứ đều đâu vào đấy, và danh tiếng của chúng tôi đã được khôi phục.

Trong tháng sáu đối với không quân, một lần nữa lại đến thời kỳ nóng bỏng. Quân đội của chúng ta đã điều các lực lượng dự bị đến, phiên chế lại các cụm quân. Kẻ thù, cũng vậy, không lãng phí thời gian - từ hậu phương, chúng ném đến bán đảo Taman các đơn vị mới, các khí tài mới, tăng cường Tuyến Xanh.

Tới lúc này sự vượt trội của không quân chúng ta trong không trung ngày càng trở nên rõ ràng. Không hy vọng vào không quân tiêm kích của chúng nữa, bộ tư lệnh của Hítler kéo đến đây một số lượng phương tiện phòng không cực mạnh.

Về sự bão hòa tuyến phòng thủ của kẻ thù bằng các khí tài đèn chiếu PK và pháo cao xạ, ta có thể đánh giá từ thực tế rằng chỉ tính riêng trong khu vực stanitsa Lao động, chúng tôi đã giao hội được đến 50 cỗ đèn chiếu và 40 hỏa điểm.

Trong những ngày đó, trung đoàn bị thiệt hại đáng kể. Ba máy bay hư hỏng, nhưng phi hành đoàn đã kịp lết về đến phi trường. Phi đội trưởng Dina Nikulina và hoa tiêu của chị Larisa Radchikova bị thương. Máy bay của họ rơi đúng vào điểm giao nhau của sáu luồng đèn chiếu. Nikulina dùng động tác trượt để dập tắt ngọn lửa, nhưng về được sân bay thi chị không thể. Máy bay phải hạ cánh trên lề một con đường gần tiền duyên, định hướng theo ánh nhấp nháy của đèn pha xe tải.

(http://tamanskipolk46.narod.ru/images/35.jpg) (http://tamanskipolk46.narod.ru/images/p28_s20-41-.jpg)
Polina Belkina (trái) và Tamara Frolova (http://tamanskipolk46.narod.ru/p28aa1.html)

Paulina Belkina và Tamara Frolova hy sinh vào tháng 7. Cuộc đời và chiến công anh hùng hàng ngày của họ tôi đã mô tả trong một cuốn sách, được xuất bản vài năm trước đây.

Chỉ mười tám năm sau mọi người mới biết chuyện gì xảy ra với những người bạn gái thân yêu của chúng tôi.

Đó là vào đêm khuya ngày 18 tháng 7 năm 1943 giữa stanitsa Hy Lạp và ấp Hy Lạp-Mới. Ở đây, ngay Tuyến Xanh, do bắn nhau trong không trung mà máy bay của Belkina và Frolova bị trúng đạn. Các cô gái đã điều khiển máy bay lượn được, nhưng khi hạ cánh "chim én" bị mắc vào một cây lê dại lớn và bốc cháy cách một hầm trú ẩn của địch vài mét, đó là nơi ở của các sĩ quan Đức, chỉ huy các tù binh làm công việc sửa chữa đường bộ. Chiếc máy bay bốc cháy có thể là một điểm mốc định hướng tốt cho các máy bay Liên Xô. Sợ điều này, bọn phát xít Đức quốc xã dựng các tù binh dậy và ra lệnh lấy cát dập lửa cháy máy bay.

Tất cả những điều đó được biết đến qua lá thư từ một người đàn ông, người cùng với các tù binh Xô Viết khác đã chôn Polina và Tamara. Dưới đây là một đoạn trích từ bức thư của anh:

... Ngày hôm sau, vào sáng sớm, bọn Đức ra lệnh cho các tù binh dọn sạch chiếc máy bay bị cháy ra xa hầm trú ẩn của chúng. Hãy tưởng tượng sự ngạc nhiên của chúng khi chúng thấy nằm trên động cơ (mũi máy bay khi rơi đâm xuống đất) là một xác chết nhỏ cháy đen. Thậm chí chúng còn ngạc nhiên nhiều hơn, khi phát hiện ra rằng chiếc máy bay này do một Frau điều khiển, nghĩa là một người phụ nữ. Đã xác định được rằng phi hành đoàn gồm hai người phụ nữ. Khi máy bay rơi, một trong hai người bị ép chặt trong cabin, người đó rõ ràng là đã bị thương hoặc đã chết, và đã bị đốt cháy trong máy bay, còn người thứ hai bằng cách nào đó đã thoát được ra ngoài, nhưng cô ấy có lẽ đã nghe thấy tiếng kêu của người Đức và không muốn rơi vào tay kẻ thù mà còn sống nên tự lao mình vào chiếc động cơ đang cháy. Điều này có thể kết luận được từ thực tế là cô ấy nằm trên động cơ với cánh tay duỗi ra, như thể ôm lấy động cơ vĩnh biệt. Khi xem xét các mảnh xác, thì bên cạnh cô gái, tìm thấy một bảng nhỏ phủ đầy cát mà vì thế còn lành lặn một phần, trên đó là những bức thư và một số tài liệu chưa cháy hết. Theo các tài liệu đó đã xác định được chiếc máy bay do Paulina Grigorievna Belkina lái.

Tất cả những tù binh có mặt tại đó, mà cũng như bọn Đức Quốc xã, trong một mức độ có thể hiểu được, đã đi đến kết luận rằng phi hành đoàn của chiếc máy bay U-2, khi hoàn thành nhiệm vụ trở về, gặp phải một máy bay ném bom của Đức. Rõ ràng, cả hai máy bay đã ở trên cùng độ cao, đồng thời rơi trúng lưới lửa PK mặt đất. Đạn cao xạ bắn trúng máy bay của bọn Đức Quốc xã, vì thế nó rơi và bốc khói trước. Chiếc máy bay của Liên Xô bị trúng đạn và đã giảm độ cao bằng cách chuyển sang chế độ tàu lượn. Như ta thấy, phi hành đoàn trên chiếc máy bay của chúng ta đã thực hiện một chiến công anh hùng.

Thứ nhất, phi hành đoàn đã hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu; thứ hai, bọn Hitler cho rằng máy bay của chúng bị hạ bởi phi hành đoàn Liên Xô (*); thứ ba, phi hành đoàn chọn cái chết hơn là bị bắt làm tù binh ...

Sau đó, theo lệnh, đống xác máy bay được dọn xuống hố, còn thi thể những người hy sinh, được chúng tôi, các tù binh, chôn xuống đất, sau khi đã đào một huyệt mộ tại rìa khoảng trống trong rừng, cởi mũ bay ra khỏi đầu và làm cho họ nghĩa vụ cuối cùng của con người. Trong cuốn nhật ký nhỏ của mình tôi ghi lại sự việc, nhưng sau chiến tranh cuốn nhật ký thất lạc, và chỉ đến năm 1960 tôi mới tìm thấy nó một cách tình cờ.

Phi hành đoàn chiếc máy bay này là những ai? Sự tìm kiếm tên tuổi thành viên thứ hai của phi hành đoàn của tôi không kết quả.

Tôi đã hỏi cơ quan cán bộ Bộ Quốc phòng Liên Xô, và tháng Sáu năm 1960 tôi nhận được một lá thư có chữ ký của đại tá Pastor, trong thư nói rằng vào ngày đó trong khu vực này của mặt trận có một máy bay U-2 không trở về khi đi làm nhiệm vụ, chiếc máy bay đó thuộc trung đoàn cận vệ ném bom hạng nhẹ. Phi công thứ nhất của máy bay - thiếu úy Paulina Grigoryevna Belkina, hoa tiêu - Tamara Frolova.

Các đồng đội cùng trung đoàn của chị, thưa chị Marina Pavlovna, đã hoàn thành nghĩa vụ của họ trước Tổ quốc, họ đã hiến dâng cuộc sống của mình. Chúng tôi cùng với Các Bạn chưa hoàn thành trách nhiệm của mình trước họ - chưa công bố cho mọi người biết được hành động anh hùng của họ, chưa gỡ bỏ được con dấu đau đớn "mất tích" cho họ.

Lịch sử và cả lương tâm của chúng ta sẽ không tha thứ cho chúng ta nếu chúng ta không sửa chữa được sai lầm của mình.


Những dòng này, được viết bởi Pyotr Stepanovich Karnaukhov từ Krasnoarmeisk, đang nằm ngay trước mắt tôi, khi tôi lấy bút để kể câu chuyện về Polina và Tamara ...

* * *

Trong khi thực hiện các nhiệm vụ chiến đấu, ném bom cùng các mục tiêu tương tự như lực lượng không quân đánh đêm hạng nặng, chúng tôi không cho đối phương có một giây phút nào ngơi nghỉ. Từ hoàng hôn cho đến tận bình minh, những chiếc máy bay nhỏ bé của chúng tôi gần như treo trên các vị trí của bọn Đức quốc xã, trên các tuyến giao thông của chúng. Máy bay tấn công không chỉ vào các đội viện binh và xe máy khí tài, nó còn tác động vào tâm trí của kẻ thù. Trong vòng một vài tuần, tuyến phòng ngự của bọn Đức liên tục bị bắn phá. Ban đêm, những chiếc U-2 của chúng tôi tấn công chúng từ độ cao tối thiểu. Các vụ nổ tiếp nối vụ này đến vụ kia, ba hoặc bốn phút một trận, và bọn Hitler, tất nhiên, không tài nào có thể ngủ nổi. Ban ngày hỏa lực pháo binh và súng máy, các trận không kích thường xuyên của máy bay ném bom hạng nặng không cho chúng yên. Đó là thời kỳ vô cùng nóng bỏng!

Tôi đặc biệt nhớ ngày 1 tháng Tám năm 1943. Ngày này được khắc vào tâm trí của tôi bằng những con số màu đỏ-bốc lửa như ráng hồng rực của đám cháy trong đêm đen. Và những sự kiện của cái đêm khủng khiếp được nhớ lại, là những sự kiện có thể làm người ta còng lưng vì đau xót ưu phiền, làm người ta bạc tóc, mãi mãi để lại một vết thương không bao giờ hàn miệng trong tâm hồn.

(*): Thời điểm đó trên máy bay U-2 chưa trang bị súng máy, điều đó bọn Hitler không biết (chú thích của M.P.Chechneva)
........


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 08 Tháng Chín, 2015, 12:13:01 am
(tiếp)

Sau khi quan sát chặt chẽ các hành động của đội đánh đêm chúng tôi, bọn Hitler xây dựng lại hệ thống phòng không. Chúng bố trí đèn chiếu PK theo nhóm: các đèn công suất mạnh hơn - bố trí hai hoặc ba cụm, các đèn công suất yếu - bốn hoặc năm cụm. Hơn nữa, các nhóm bố trí ở các khoảng cách sao cho chúng có thể chuyển cho nhau chiếc máy bay bị chiếu tại điểm giao hội. Ngoài ra, để đối phó cụ thể với các chiến sĩ ném bom đêm, một phi đội aces phát xít đã đến bán đảo Taman. Đối với mỗi chiếc U-2 bị bắn rơi, tên phi công sẽ được Hitler trao huân chương Thập Tự Sắt. Các bạn có thể tự hình dung chúng săn chúng tôi sốt sắng như thế nào.

(https://upload.wikimedia.org/wikipedia/en/7/76/Dietrich_Hrabak.jpg) (https://upload.wikimedia.org/wikipedia/en/5/56/Erich_Hartmann.jpg)
Trái: Dietrich Adolf Hrabak (1914-1995) không đoàn trưởng không đoàn tiêm kích 52 tập đoàn quân KQ 4 Quốc Xã (Jagdgeschwader 52 - JG 52), hoạt động của không đoàn trong năm 1943 một phần quan trọng diễn ra trên bán đảo Taman, hỗ trợ tập đoàn quân 17 Quốc Xã bảo vệ Tuyến Xanh.
Phải: Ace của JG 52 và Luftwaffe (Wehrmacht): Erich Alfred Hartmann (1922 – 1993).


Trong cái đêm xấu số sang ngày 01 tháng 8, đối phương lần đầu tiên áp dụng chiến thuật mới. Chúng tôi không biết gì về chuyện này, và các kíp bay cất cánh làm nhiệm vụ chiến đấu với gián cách thời gian thông thường 3-5 phút. Phi đội của trung úy Tatiana Makarova cất cánh đầu tiên. Máy bay của tôi đi thứ tám. Có lẽ điều đó đã cứu tôi và hoa tiêu Olya Klyueva. Ttrên đường tiếp cận mục tiêu, đập vào mắt tôi là cách làm việc kỳ lạ của các đèn chiếu PK của kẻ thù: chúng lúc bật, lúc tắt, còn lưới lửa cao xạ hình như không thấy. Sự im lặng trở nên vô cùng đáng ngại. Dường như sự im lặng đang ngưng tụ giống như bóng tối của màn đêm bất khả xâm phạm.

"Có lẽ các kíp bay đầu tiên vẫn chưa tới mục tiêu?" - tôi nghĩ. Nhưng ngay phía trước, thẳng hướng bay, trong ánh các luồng đèn chiếu hiện ra một chiếc U-2. Dựa trên thời gian: đó là máy bay của biên đội trưởng Evghenya Krutova. Phi hành đoàn của chị ấy cất cánh thứ ba. Hoa tiêu Lena Salikova ném bom chiếu sáng SAB. Ngọn đuốc sáng rực treo trong không khí trên một chiếc dù nhỏ và chiếu sáng khu vực. Trời đêm sáng hẳn. Ngay lập tức nối tiếp nhau những chiếc đèn chiếu bật sáng và bắt đầu lục lọi trên bầu trời. Một trong số chúng, chiếc đèn chiếu PK sáng nhất và rộng nhất, tóm được chiếc máy bay của Evghenya Krutova, những chiếc đèn chiếu PK còn lại cũng tham gia cùng nó. Chúng tôi chờ đợi, đâu đây, như thường lệ, pháo phòng không lên tiếng. Nhưng chúng ngoan cố im lặng. Chiếc máy bay nhỏ bé giãy giụa trong các luồng đèn chiếu PK. Evghenya Krutova là một phi công xuất sắc, chị cố gắng thoát ra khỏi các vòi xúc tu đang bám chặt, nhưng các luồng đèn chiếu vẫn giữ chặt chị một cách dai dẳng. Đột nhiên sự im lặng ngột ngạt vỡ ra bởi một tràng pháo cực nhanh đặt trên máy bay. Từ một nơi nào đó trong bóng tối những tràng đạn pháo sáng rực lao vào máy bay Krutova vẽ thành một vệt lửa dài. Một chiếc tiêm kích phát xít vừa bay sát tới nơi đã lạnh lùng bắn nhiều loạt đạn ngắn trực diện vào chiếc U-2 bất lực.

Đây là một chiến thuật mới của quân thù. Các nạn nhân của nó là những người bạn gái của chúng tôi, cất cánh bay lên đi thi hành nhiệm vụ chiến đấu đợt đầu tiên. Bằng cái giá mạng sống của họ, họ đã tạo cơ hội cho những người bay phía sau có được vài phút quý giá để áp dụng các biện pháp đối phó khẩn cấp.

Cánh phải máy bay của Zhenya Krutova bốc cháy - máy bay bắt đầu rơi nhanh. Nhưng ngay cả khi đang rơi, Zhenya vẫn chiến đấu. Chị đã dập ngọn lửa và đưa máy bay vào tư thế trượt. Tuy nhiên, ngọn lửa len lỏi ngày càng gần đến động cơ hơn. Trước khi chạm đất từ buồng lái hoa tiêu một phát pháo hiệu màu đỏ bay vút lên. Đúng giây phút ấy, chiếc U-2 bùng lên như một ngọn đuốc khổng lồ rực lửa lao cắm xuống đất.

(http://www.amyat.ru/memo/chechneva_mp1/39.jpg) (http://tamanskipolk46.narod.ru/images/24.jpg)
Trái: Elena Konstantinovna Salikova (1922-1943), hoa tiêu U-2, trung sĩ cận vệ.
Phải: Evghenya Maksimovna Krutova (1920-1943), phi công, thiếu úy cận vệ biên đội trưởng
(http://tamanskipolk46.narod.ru/p144aa1.html)

Tôi như thể tê dại. Mọi thứ chúng tôi đã trải nghiệm và nhìn thấy qua năm tháng chiến tranh. Nhưng cảnh tượng thế này, khi những người bạn gái chết ngay trước đôi mắt của tôi, tôi mới thấy lần đầu tiên ...

Các dàn đèn chiếu PK của quân thù đã tắt. Chỉ có chiếc máy bay của Evghenya Krutova và Lena Salikova cháy sáng rực mặt đất ...

Tôi muốn nhắm mắt không phải nhìn thấy điều gì cả. Tôi muốn hét lên thật to, muốn rên rỉ, khóc lóc với nỗi đau đớn này ... Sau đó, tôi định thần lại. Mục tiêu mà chúng tôi phải đánh, nằm ngay gần nơi các bạn gái của tôi vừa bị giết. Đó là nơi mà tôi với Olga Klyueva phải nhắm đến, mặc dù hiểu rõ rằng: đây chính là nơi kẻ thù đang đón đợi một nạn nhân mới. Nhưng chúng tôi không thể quay lui, cần phải thực hiện nhiệm vụ với bất kỳ giá nào.

Trong khi tôi đang bối rối tìm cách thoát khỏi tình trạng này, các dàn đèn chiếu lại sáng lên. Ai là người mà chúng bắt được lần này? Những tràng đạn lửa cắt ngang màn đêm đen tối một lần nữa. Chiếc U-2 thứ hai bốc cháy và bắt đầu rơi. Đó là máy bay của nữ phi công trẻ Ania Vysotskaya và hoa tiêu Galya Dokutovich. Lần này nữa, các dàn pháo phòng không vẫn im lặng. Chiếc máy bay bị bắn cháy bởi đạn pháo hàng không của một phi công phát xít. Phi hành đoàn của "cánh én" thứ hai cũng rơi xuống đất giống như chiếc đầu tiên. Các dàn đèn lại tắt. Trái tim thắt lại, như thể bị gọng kìm kẹp chặt.

- Marinka, - Olya hét lên với tôi, - chúng nó dẫn tiêm kích của chúng tấn công chúng ta! Do đó, các khẩu pháo phòng không của bọn Đức im lặng sợ bắn nhầm quân nó!

Tôi hiểu điều đó ngay lập tức, nhưng không nói gì với hoa tiêu. Chỉ yêu cầu Klyueva quan sát phía sau chăm chú và thường xuyên hơn.

Bọn Đức quốc xã trước đây đã sử dụng máy bay tiêm kích chống lại U-2. Nhưng lúc đó các phi công kẻ thù chỉ tính đến các cuộc chạm trán ngẫu nhiên với các máy bay của chúng tôi. Bây giờ, rõ ràng, bọn Hitler đã phát triển được một hệ thống tương tác đáng tin cậy giữa  máy bay tiêm kích với các kíp trắc thủ vận hành dàn đèn chiếu của chúng.

Trong khi đó, máy bay của chúng tôi mỗi phút lại đến gần mục tiêu hơn. Làm thế nào đây? Nếu tránh hỏa lực cao xạ có thể bay xa ra, bằng cách sử dụng động tác cơ động, nhưng tránh tiêm kích thì chẳng có cách gì. Toàn bộ chiếc U-2 ở trước mặt chúng như trên lòng bàn tay. Nhắm bắn những chiếc máy bay của chúng tôi còn dễ hơn cả bia bay, bạn có thể không tưởng tượng được. Các máy bay tiêm kích có thể xông tới công kích từ bất kỳ hướng nào và tưới đạn từ các cỗ pháo của chúng một cách chắc chắn vào "cánh én" chậm chạp của chúng tôi. Lấy độ cao và liệng? Không thể. Bọn phát xít biết rõ độ cao từ đó chúng ta cắt bom, và đương nhiên sẽ đón đợi chúng tôi.

(http://tamanskipolk46.narod.ru/images/p29_makarova_belik.jpg)
Hai nữ AHLX: bên trái - Tatyana Petrovna Makarova (1920-1944) - 628 phi vụ đánh đêm, và bên phải - Marina Pavlovna Chechneva (1922-1984) - 810 phi vụ chiến đấu. Năm 1942. (http://tamanskipolk46.narod.ru/p29aa1.html)

Trong khi tôi vẫn đang bối rối chưa biết làm thế nào thoát khỏi tình trạng này, dàn đèn chiếu lại bật sáng. Trên mặt đất, chiếc U-2 thứ ba cháy ngùn ngụt. Chợt tôi thoáng nghĩ ra.

- Chỉ có một lối thoát - Tôi nói Olga - tiếp cận mục tiêu ở độ cao thấp nhất. Khi đó, máy bay tiêm kích sẽ không dám tấn công, sợ đâm đầu xuống đất.
Klyueva đồng ý.

Kim chỉ thị trên đồng hồ đo độ cao từ từ len lỏi xuống: 1000, 800, 700, 600 mét. Không, còn quá sớm! 500 mét ... Tôi đẩy cần lái xa thân lần nữa. Cuối cùng xuống 400... tiếp tục giảm nữa thì không thể. Thậm chí lòng bàn tay tôi ướt đẫm mồ hôi vì căng thẳng. Olga cũng không dễ dàng gì. Bom của chúng tôi là loại nổ tức thời, và chúng tôi hiểu rằng sẽ không kịp ra khỏi khu vực lan truyền sóng nổ. Nhưng nhiệm vụ dẫu sao vẫn phải được thực hiện, và dù cách gì - cũng không thể tránh. Olya ngắm mục tiêu, các trái bom rứt khỏi  máy bay. Chiếc máy bay bị quăng lên rất mạnh. Sau đó, tiếng nổ rền như sấm.

Tôi vẫn tiếp tục giảm độ cao. Chỉ cần vượt ra xa tiếp, tôi tăng hết cửa ga, lượn vòng và bẻ hướng về phi trường của mình. Nhưng kẻ thù quyết định không buông tha chúng tôi: từ mặt đất, những vệt đạn lửa như kẻ chỉ lao vút lên máy bay của chúng tôi. Mặc dù các kíp trắc thủ đèn chiếu không phát hiện ra chúng tôi, pháo cao xạ đã khai hỏa bắn theo các đốm lửa thoát ra ở miệng ống xả động cơ.

Tôi và Kliueva an toàn về đến sân bay của mình. Nhiệm vụ đã được hoàn thành. Nhưng tôi không cảm thấy niềm vui, tôi không hài lòng: đêm nay là đêm quá nặng nề đối với tất cả chúng tôi.

Chúng tôi đã phải chịu thiệt hại lớn. Zhenya Krutova, Lena Salikova, Ania Vysotskaya, Galia Dokutovich, Sonia Rogovaya, Zhenya Sukhorukova, Valia Polunina và Ira Kashirina, tất cả không còn nữa ...

Vài năm trước đây, trong cuốn sách "Các bạn gái cùng chiến đấu của tôi", tôi đã viết:

Máy bay rơi. Zhenya vẫn chiến đấu: chị cố gắng dập tắt ngọn lửa và đưa máy bay trượt xuống, nhưng ngọn lửa càng lúc càng lan gần tới động cơ. Trước khi chạm đất từ buồng lái của hoa tiêu một phát pháo hiệu đỏ bay vút lên, cùng lúc đó chiếc U-2 đang cháy rừng rực đâm đầu xuống mặt đất ...

Nhiều độc giả gửi thư cho tôi hỏi: phải chăng đó là chính những gì đã xảy ra với Zhenya Krutova và Lena Salikova trong cái đêm bi thảm kia? Phát pháo hiệu đỏ có ý nghĩa gì? Các cô gái hy sinh khi máy bay nổ hay đã kịp nhảy ra khỏi chiếc máy bay đang bốc cháy?

Bức màn che phủ bí mật này chỉ được hé mở nhiều năm sau cái chết của các bạn gái cùng trung đoàn vinh quang của chúng ta. Công lao trong việc đó thuộc về con người có một tâm hồn lớn, cựu chính ủy trung đoàn, trung tá cận vệ Evdokia Yakovlevna Rachkevich.

Người phụ nữ lớn tuổi này, đóng vai trò người mẹ đối với chúng tôi trong những năm tháng chiến tranh khó khăn, bà đã làm một chuyến hành trình dài, đến những nơi trung đoàn từng chiến đấu. Tại Crimea, bà tập hợp các cư dân địa phương, các học sinh phổ thông, các thủy thủ từng chiến đấu ở Kerch. Tại Kuban bà bền bỉ tìm kiếm dấu vết của những người mà vào đêm ngày 01 tháng Tám năm 1943, không trở về sân bay của mình.

Sau một thời gian tìm kiếm lâu dài, bà gặp được Nadezhda Gerasimovna Kuznetsova tại Novorossiysk. Thời thơ ấu cô bé Kuznetsova sống ở làng Russkoye, cách không xa nơi các máy bay Liên Xô rơi ngày 01 tháng 8. Ngôi làng vào thời điểm đó đang bị bọn Đức quốc xã chiếm đóng, nhưng hai cô gái nhỏ - Nadia và em gái út của cô là Tanya - đã tới hiện trường vụ tai nạn. Chiếc máy bay bị gãy nát. Nằm gần đó là xác hai cô gái mặc bộ đồ combinezon đã chết. Một cô cao lớn, vai rộng, tóc đen. Cô kia - tầm thước, gầy, tóc vàng. Mũ bay, đai bảo hiểm và súng ngắn đã bị lấy mất, có lẽ bởi bọn Hitler.

Nadia len lỏi vào ngôi làng đang cháy dở. Cô trở lại với một cái xẻng và một mảnh vải. Các cô gái chuyển các nữ phi công xuống một con hào nông, ở gần đó, phủ mặt họ rồi nhanh chóng lấp đất ...

Khi Evdokia Yakovlevna đặt lên bàn ảnh các nữ phi công và hoa tiêu hy sinh đêm ấy, Nadezhda Gerasimovna Kuznetsova không ngần ngại chỉ ngay vào bức ảnh của Zhenya Krutova và nói đó là một trong hai cô gái, được cô cùng với em gái mình chôn trong cánh đồng bên ngoài làng.

(http://tamanskipolk46.narod.ru/images/13.jpg) (http://tamanskipolk46.narod.ru/images/038.jpg)
Trái: Thiếu úy cận vệ, phi công Anna Grigorievna Vysotskaya (1923-1943), người Ukraina - 19 phi vụ. Phải: Thiếu úy cận vệ, hoa tiêu Galina Ivanovna Dokutovich (1921-1943), người Belarus - 120 phi vụ. (http://tamanskipolk46.narod.ru/p58aa1.html)

Tiếp tục tìm kiếm, người nữ chính ủy không biết mệt mỏi của chúng tôi đã xác định chính xác nơi hy sinh của Anya Vysotskaya và Galia Dokutovich, Sonya Rogovaya và Zhenya Sukhorukova, Valia Polunina và Ira Kashirina.

Di thể của những người bạn gái thân yêu của chúng tôi bây giờ được chôn trong một ngôi mộ tập thể trên quảng trường tại làng Russkoye, gần stanitsa Krymskaya.

Tôi hy vọng người ta không trách cứ tôi về việc nói nhiều về các liệt sĩ. Nếu khác đi, theo quan điểm của tôi, là không thể. Những người đã chết ta không được lãng quên. Con cái chúng ta cần phải biết cái giá phải trả cho chiến thắng và hạnh phúc to lớn dường nào.
........


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 08 Tháng Chín, 2015, 04:47:35 pm
(tiếp)

* * *

(http://pazitiff.info/uploads/posts/2014-05/thumbs/1399986097_5.55.jpg)
A.I.Pokryshkin và chiếc P.39 đã chiến đấu trên bầu trời Kuban 1943 (http://pazitiff.info/interesnosti/25345-vozdushnye-asy-velikoy-otechestvennoy-voyny.html)

Vào mùa hè năm 43, Kuban là đấu trường của những trận không chiến lớn. Sau chiến tranh, người ta biết rằng bộ chỉ huy Đức đã ra lệnh bằng mọi giá phải giữ cho được vùng hạ lưu của Kuban và bán đảo Taman như  một bàn đạp xuất phát cho các hoạt động tấn công trong tương lai. Với mục đích này, đối phương đã thành lập ở đây một cụm không quân rất mạnh.

Các hoạt động tích cực của không quân cả hai phía ngay từ đầu đã có hình thái của một cuộc đấu tranh dữ dội giành quyền thống trị trên không, trong đó có sự tham dự hàng ngày của hàng trăm máy bay. Trên một khu vực hẹp của mặt trận, không vượt quá 40-50 km, trong một số ngày tiêu biểu đã diễn ra đến 100 trận không chiến.

Bất chấp tổn thất, bọn Hitler đã đưa vào xung trận toàn bộ lực lượng mới. Nhưng các phi công Liên Xô kiên quyết giữ thế chủ động trong tay họ và cuối cùng đã trở thành những ông chủ hoàn toàn của bầu trời.

Các trận chiến trên không tại Kuban kéo dài liên tục trong khoảng hai tháng. Mặc dù các aces Đức có trong thành phần các không đoàn tiêm kích tuyển chọn, hầu hết các phi công này đều đã trải qua thảm họa tại Stalingrad. Thực tế này không thể không ảnh hưởng đến sự quyết liệt của họ trong trận chiến.

(http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/166.jpg)
Báo "Smena" năm 1943 có bài "Bầu trời Kuban" của PV mặt trận B.Tseidlin. (http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/ill.html)

Các phi công Liên Xô sau chiến thắng tại Stalingrad đã lớn lên, trưởng thành, tích lũy được kinh nghiệm chiến đấu vững vàng. Khí thế tấn công của họ cực kỳ cao so với của người Đức. Không phải ngẫu nhiên các trận không chiến tại Kuban giống như một bước ngoặt làm thay đổi tình hình trên không trong quá trình diễn ra toàn bộ cuộc Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại. Bắt đầu từ những trận chiến này, và cho đến khi thắng lợi, quyền thống trị trên không vẫn được không quân Liên Xô giữ vững.

* * *

Thiệt hại của trung đoàn trên Phòng tuyến Xanh khá đáng kể. Cần khẩn trương bổ sung lực lượng. Và khi chúng tôi đóng quân ở Ivanovskaya, các phi công trẻ Lusya Gorbacheva, Katya Oleinik, Pasha Prasolova, Lera Rylskaya đã có mặt. Ở vị trí hoa tiêu đã có các quân khí viên Lena Nikitina, Tosya Pavlova, Nadya Studilina và những người khác sẵn sàng.

Lợi dụng một đoạn nghỉ ngắn vừa có được, ban chỉ huy trung đoàn khẩn trương chuẩn bị đưa vào đội hình chiến đấu lực lượng bổ sung mới. Nhằm mục đích này phi đội 4 được thành lập. Tôi được bổ nhiệm làm phi đội trưởng và hoa tiêu phi đội là Katya Ryabova. Trong tương lai tiếp theo, phi đội của chúng tôi được gọi là phi đội tác chiến-huấn luyện: cho đến cuối chiến tranh phi đội vẫn kết hợp cả hai công tác chiến đấu và đào tạo-huấn luyện.

(http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/155.jpg)
Gần Novorossisk. Sẵn sàng yểm hộ quân đổ bộ. Trung đoàn phó Seraphima Amosova (http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/ill.html)

Trong tháng Chín, quân đội Liên Xô trong khu vực Novorossiysk bắt đầu đợt công phá quyết định Tuyến Xanh. Mùa thu sớm của miền duyên hải đã đến cùng với mưa, những cơn gió ẩm ướt ...Trung đoàn chiến đấu ở Bắc Kavkaz đã hơn sáu tháng. Tám phi hành đoàn dưới sự chỉ huy của trung đoàn phó Serafima Amosova bay đi phối thuộc LLKQ Hạm đội Biển Đen.  Chính ủy Rachkevich cũng đi cùng một nhóm kỹ thuật viên và quân khí viên. Các lực lượng chủ chốt của trung đoàn tiếp tục hoạt động trên bán đảo Taman.

Toàn bộ các phi hành đoàn của đại úy Amosova đến nơi nhận nhiệm vụ an toàn và chiếm góc của mình trên sân bay ngay cạnh trung đoàn của K.D.Bocharov. Các cô gái nhìn quanh - trong các điều kiện thế này họ chưa có dịp làm việc: trên biên giới đông-nam của sân bay là các sườn núi dâng cao, còn ở phía tây thì gần sát biển. Đóng căn cứ tại sân bay còn có các phi công hải quân. Các đường băng cho phép cất cánh và hạ cánh chỉ theo hai hướng. Xét về mọi mặt rõ ràng công việc ở đây sẽ không dễ dàng.

Bay trên Novorossiysk và vùng lân cận đòi hỏi không ít nghệ thuật, lòng can đảm và sức chịu đựng. Đường bay trải ra với một bên là trên mặt biển, một bên - trên các ngọn núi và hẻm núi. Các dòng không lưu ở những nơi này rất hay thay đổi. Sa vào lớp không khí lạnh trên mặt nước, máy bay sẽ chúi xuống không thể cưỡng lại. Mà trong núi thậm chí còn tồi tệ hơn: các dòng không khí đi lên quăng máy bay như ném vỏ bào. Có một niềm an ủi - các mốc định hướng rất đáng tin cậy: tiến ra biển - Novorossiysk phía trước bạn như trên lòng bàn tay, hãy chọn mục tiêu - bạn sẽ không bao giờ trượt ...

(http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/130.jpg)
Chiếc U-2 có kẻ dòng chữ "Chúng tôi báo thù cho Dusya Nosal" (http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/ill.html)

Hai đêm đầu tiên bọn phát xít sợ bộc lộ mình và không bắn lên mạnh, nhưng sau đó hỏa lực lại rất dày đặc. Chúng bắn từ tàu chiến, từ các khẩu đội pháo bờ biển, từ trong thành phố. Dường như bản thân bầu trời bị nghiền vỡ ra và nuốt chửng những chiếc U-2 nhỏ bé. Tuy nhiên, nhóm của Amosova đã tiến hành hoạt động chiến đấu thành công.

Mỗi chuyến bay kéo dài một giờ 20-một giờ 40 phút. Ngay sau khi máy bay quay về, các kỹ thuật viên, đã chạy đi lấy bữa ăn tối từ trước, họ trao nó cho phi hành đoàn, trong khi chính họ bắt tay vào kiểm tra máy bay. Các quân khí viên ngay lập tức treo bom. Sự phối hợp làm việc của các kíp bay và các chuyên gia mặt đất rất xuất sắc. Ba hoặc bốn phút tiếp nhiên liệu và "chim én" một lần nữa lấy hướng bay về Novorossiysk.

Nhìn thấy các cô gái của chúng tôi làm việc, thái độ của các vị chủ phi trường, các phi công Hạm đội Biển Đen đối với họ có thay đổi đáng kể. Các cô gái bắt đầu nhận được những bó hoa, còn có trường hợp các chiến binh Hạm đội Biển Đen hào phóng tặng bom cho các phi hành đoàn nữ chưa có đạn dược.

(http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/042.jpg)
E.Rudneva lên lớp về công tác hoa tiêu (http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/ill.html)

Evdokia Yakovlevna Rachkevich, sau khi nhận được những bài học đầu tiên về công tác hoa tiêu của Zhenya Rudneva và Sima Amosova, đã sống một giấc mơ trong những ngày đó - bay đến Novorossiysk làm nhiệm vụ chiến đấu. Và giấc mơ của bà đã thành hiện thực.

Cuộc tấn công quân đội chúng ta tại khu vực Novorossiysk bắt đầu vào đêm sang ngày 10 tháng 9 năm 1943 bằng việc đổ quân đổ bộ lên cảng. Ngay khi quân đổ bộ xung trận, bộ đội hoạt động ở phía đông và phía nam thành phố chuyển sang tấn công. Bọn phát xít Đức quốc xã nhận thức rõ rằng, việc mất Novorossiysk sẽ dẫn đến sự sụp đổ toàn bộ tuyến phòng thủ của chúng trên Tuyến Xanh. Kẻ thù chống cự quyết liệt. Và không chỉ trên mặt đất.

Một ngày trong những ngày diễn ra trận chiến giành Novorossiysk, vào buổi sáng, khi các máy bay ném bom ban đêm đã hoàn thành công việc, đột nhiên có lệnh truyền đến: "Ném bom bộ tham mưu quân đội Đức quốc xã ở khu vực quảng trường trung tâm Novorossiysk". Ngay sau đó, trên nền các ngọn núi mạ ánh vàng những tia nắng đầu tiên của mặt trời, đã xuất hiện "cánh én" của Amosova. Theo sau chị các chiếc còn lại lần lượt bay lên. Các cô gái không nghĩ rằng trời đã sáng, các máy bay tiêm kích phát xít có thể tấn công họ, rằng cần phải bay xuyên qua hỏa lực giao cắt chéo cánh xẻ của các cỗ pháo cao xạ.

Nhiệm vụ đã hoàn thành. Tất cả các phi hành đoàn đều trở về sân bay của họ.
Trong thời gian tấn công Novorossisk, nhóm Amosova đã thực hiện 233 phi vụ chiến đấu. Bộ chỉ huy đã tặng thưởng nhiều huân huy chương cho các nữ phi công, hoa tiêu, kỹ thuật viên và quân khí viên.

(http://tamanskipolk46.narod.ru/images/p29_p29_056.jpg)
Novorossisk đã giải phóng! Katya Ryabova và Nina Danilova nhảy múa. Gelendzic năm 1943. (http://tamanskipolk46.narod.ru/p29aa1.html)

Ngày 16 tháng 9 Novorossiysk được giải phóng, Phòng tuyến Xanh bị chọc thủng tại khu vực Novorossiysk, Moldavanskaya. Bắt đầu quá trình đánh đuổi nhanh chóng bọn phát xít Đức quốc xã ra khỏi bán đảo Taman.

Trung đoàn chuyển cứ đến một sân bay rất bụi bặm, vừa được gỡ mìn vội vàng, gần stanitsa Kurchanskaya. Bây giờ chúng tôi bay về doi đất Chushka tiêu diệt nốt kẻ thù đang vội vã sơ tán các đơn vị xơ xác của chúng về Crimea.

Trong giai đọan này, các phi hành đoàn làm việc căng hết sức lực. Trong một đêm thường phải thực hiện từ 6-8 phi vụ. Bây giờ không thể nói về bất kỳ sự tương tác nào của các dàn đèn chiếu phòng không với các máy bay tiêm kích Đức. Kiệt sức trong các trận đánh ác liệt bọn Hitler chỉ còn nghĩ làm thế nào để cứu thoát khỏi thất bại cuối cùng những tên lính còn sống sót và thiết bị còn nguyên vẹn, tái triển khai chúng trên bán đảo Crimean, và tăng cường phòng thủ tại đó. Và dẫu sao, chúng tôi vẫn chạm trán với các xạ thủ cao xạ của chúng! Mặc dù than ôi, gió mùa thu điên dại còn làm phiền chúng tôi nhiều hơn cả pháo phòng không. Nó thổi cát bụi từ cánh đồng bay lên cao thành màn sương mù vàng bao phủ bầu trời. Cát, những hạt cát sạn li ti của vùng Priazovie có thể phát hiện mọi nơi mọi chỗ: trong đồ ăn, trên răng, dưới quần áo, trong ca-bin. Chẳng có đâu tránh được nó. Nhưng điều tồi tệ nhất không nằm ở đó. Mối nguy hiểm là ở chỗ cát chui vào động cơ, làm sự hoạt động của nó trở nên tồi tệ, tăng độ hao mòn.

Trong ngày các kỹ thuật viên nhiều lần phải kiểm tra và làm sạch động cơ một cách cẩn thận.

Cuối cùng ngày chờ đợi từ lâu đã tới. Vào đêm ngày 09 tháng 10, khi bay đi ném bom chúng tôi không tìm thấy mục tiêu nào. Mũi Chushka chẳng khác nào bãi hoang tàn; những con đường dẫn tới eo biển Kerch trống trải. Tất cả xung quanh trơ trụi. Chỉ có đâu đó xe cộ khí tài bị kẻ thù bỏ lại trông như những vệt tối sẫm trên mặt đất phủ đầy cát. Cảnh trống trơn còn thấy ở cả những cầu tàu được vội vàng ghép lại với nhau.

(http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/089.jpg)
Đài kỷ niệm tại Peresyp ghi công các cô gái trung đoàn nữ KQ cận vệ ném bom đêm Taman 46 (http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/ill.html)

Ngày 09 tháng 10 có thông cáo: bán đảo Taman đã hoàn toàn sạch bóng quân đội của bọn Hitler. Đó là một bước đi tới chiến thắng.

Chúng tôi đã chiến đấu không phải vì khiếp sợ mà vì lương tâm. Để ghi nhận công lao của các cô gái của trung đoàn, tên của trung đoàn được thêm vào từ "Taman". Từ bây giờ trở đi, trung đoàn được gọi là trung đoàn không quân cận vệ Taman 46.

Thêm một giai đoạn nữa trong cuộc sống của chúng tôi đã kết thúc như vậy.
Trong sương mù trước bình minh trung đoàn rời sân bay ở Kurchanskaya theo đội hình từng phi đội. Một chặng bay ngắn - chúng tôi đã ở bên biển Azov, biển mà chúng tôi chia tay với nó cách đây một năm. Những con sóng sủi bọt với tiếng rì rào nhẹ nhàng lan tới chân chúng tôi. Từng đợt sóng đều đặn liên tiếp lăn lên bờ và gió sinh ra trong vùng núi Crimea thổi sóng lan đi mãi.

Crimea! Vùng đất này đã chờ đợi chúng tôi và gửi những con sóng ấy đến từ khoảng xa xăm mù sương như một lời chào của mình.
.......


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 09 Tháng Chín, 2015, 11:32:06 am
(tiếp)

Ngay sát bờ Biển Đen

Hãy tự hào, hỡi người đồng đội,
Vì bạn đã tham gia vào cuộc chiến này!
Hãy tự hào vì trong ngày chiến tranh đẫm máu,
Bạn đã giáng cho kẻ thù không kịp trở tay,
Và bạn có quyền tuyên ngôn dõng dạc:
 - Tôi đứng vững ở đây, tôi chiến đấu ở đây.
Trong vinh quang chung của ngày chiến thắng
Có phần của bạn, cùng bạn mãi vẻ vang.

Trích từ báo in tiền tuyến nhiều bản

(http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/159.jpg)
Mọi con đường đều dẫn đến Peresyp (http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/ill.html)

Làng Peresyp, một làng chài điển hình nằm trong cảnh hoang tàn đổ nát. Ban tham mưu trung đoàn bố trí trong một ngôi nhà nhỏ bằng đá duy nhất còn nguyên vẹn một cách kỳ diệu. Để làm nơi ở người ta dành ra các căn nhà mới bị phá hủy một nửa, một số nhà âm nửa nổi nửa chìm rộng rãi. Tôi được bố trí ở với Ryabova, Amosova, Nikulina và Rudneva. Xắn tay áo lên, làm cho túp lều đi vào trật tự tương đối, thế là cuộc sống lại trôi chảy bình thường.

Quân đội Liên Xô đang chuẩn bị vượt eo biển Kerch. Còn kẻ thù thì vội vàng xây dựng tuyến phòng ngự. Rõ ràng nếu không có một trận chiến khốc liệt, chúng sẽ không chịu nhả Crimea. Tới lúc này, các đơn vị của PDQ Ukraine 4 đã phá vỡ tuyến phòng thủ của đối phương tại dải Zaporoje, Melitopol, hồ Molochnoye, tiến lên phía trước và tới ngày 01 tháng 11 đã tiến ra Perekop. Cụm quân Crimea của bọn Hitler đã bị chia cắt, nó chỉ có thể rút lui theo đường biển.

Cuối cùng sau khi mất đi ưu thế trên không, kẻ thù tìm cách bù đắp cho sự mất mát này bằng cách tăng cường lực lượng phòng không. Tất cả các tuyến giao thông quan trọng và những nơi tập trung quân đội của mình, địch đều bảo vệ bằng một số lượng lớn các dàn đèn chiếu và các cỗ pháo PK. Sơ đồ phòng không của bọn phát xít nhìn như thế này: súng máy phòng không và PPK cỡ nòng nhỏ bố trí ở trung tâm và bao quanh chu vi các đầu mối phòng thủ và các điểm dân cư, còn pháo PK cỡ nòng lớn và các cụm đèn chiếu - ở khoảng cách 1-2 km. Đặc biệt chúng tạo ra một hành lang bảo vệ rất mạnh theo tuyến Kerch, Katerlez, Bulganak, Tarkhan, Kezy, Bagerovo.

Trong những ngày chuẩn bị chiến dịch, trung đoàn tiến hành trinh sát vùng bờ biển, cũng như ném bom các nơi co cụm lớn quân đội của kẻ thù, hậu phương của bọn Đức, các đường ô tô, nút giao thông đường sắt.

(http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/012.jpg)
Po-2 của chúng tôi (http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/ill.html)

Một dải hẹp bờ biển được chúng tôi sử dụng làm sân bay. Chiều rộng đường băng khoảng 300 mét kéo dài từ tây sang đông. Trải dọc mặt phía nam sân bay là một con đường ô tô có tuyến đường dây truyền tải điện cao thế. Hoàn cảnh này đòi hỏi các phi công phải đạt độ chính xác và sự tập trung cao độ trong quá trình cất cánh và hạ cánh trong giai đoạn những đêm mùa thu tối tăm.

Sân bay còn một điểm bất lợi đáng kể - nó không được bảo vệ trước gió. Đột ngột theo cơn, sức gió rất mạnh, có lúc lên đến 30 mét mỗi giây, gió tung hoành ở đây một cách tự do. Và bởi vì gió luôn thổi tạt sườn - hoặc từ phía bắc, từ biển Azov, hoặc từ phía nam, từ Biển Đen, - thật dễ hiểu khi chúng gây ra bao nhiêu khó khăn cho công việc của chúng tôi. Khi cất cánh và hạ cánh gió luôn luôn đảo lắc cánh máy bay, khi đó tai nạn là không thể tránh khỏi. Khi bay cũng chẳng dễ dàng hơn. Tất cả hiểu rõ rằng trong trường hợp động cơ ngưng làm việc, gió có thể tự do cuốn chiếc U-2 nhẹ bỗng ra giữa trùng khơi.

Phải nói rằng làm cho chúng tôi bực tức không kém gì gió, là thời gian có những trận mưa rào và sương mù. Tôi nhớ một lần tôi cùng Ryabova trở về từ chuyến bay, người ướt đầm, run rẩy. Katya không thể kìm lòng, tức giận nói:
- Thà bay trong cảnh băng giá buốt thịt buốt xương còn hơn bay trong cảnh ẩm ướt thế này. Đây không phải là sương mù nữa, mà chỉ có Chúa biết được nó là cái gì. Chẳng có gì lạ khi người mốc đỏ mốc xanh vì mưa và sương mù.

(http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/007.jpg)
Katya Ryabova thời còn là sinh viên MGU (http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/ill.html)

- Cậu hãy làm bảo dưỡng phòng ngừa đi, - Zhenya Rudneva đang đi gần đến nói đùa - ban đêm hãy bôi dầu thải vào. Kiểu gì nó cũng hết.
- Không sao đâu, Katya, - tôi nhận xét theo kiểu Zhenya. - Tuy thế bây giờ cậu đã nung qua lửa và tẩm hơi ẩm rồi, cậu sẽ đương đầu được trước bất cứ bệnh tật nào.

Katia ném cho tôi một cái nhìn giận dữ, muốn nói điều gì đó, nhưng chỉ thở dài và bỏ đi. Cô ấy vẫn còn buồn phiền vì việc mình phải chuyển qua phi đội chiến đấu- huấn luyện và không hiểu sao giận dỗi tôi như thể tôi có lỗi trong chuyện này.

Lúc đó, khi bổ nhiệm chúng tôi vào phi đội mới, Ryabova đã có một cuộc nói chuyện gay gắt với trung đoàn trưởng. Chúng tôi được triệu tập đến ban tham mưu, và Evdokia Davydovna thông báo với chúng tôi quyết định của ban chỉ huy.
- Tôi tin tưởng - chị nói - các đồng chí sẽ đảm đương được công việc, sẽ khẳng định được lòng tin mà mọi người đặt vào các đồng chí. - Sau đó, chuyển từ giọng trịnh trọng sang cách nói bình thường, thân thiện, chị nói thêm: - Và bây giờ, các cô gái, với tư cách cá nhân tôi, không phải trên cương vị một người chỉ huy, mà như một người bạn, Chúc mừng sự thăng tiến của các bạn. Nếu có khó khăn, hãy vui lòng liên hệ mà đừng ngần ngại - chúng tôi sẵn sàng giúp đỡ bất cứ lúc nào.

Cả tôi lẫn Ryabova chẳng thích thú gì công việc mới. Chúng tôi không ngại khó khăn trong nhiệm vụ mới. Chuyện nằm ở chỗ khác. Tôi đã bay lâu với biên đội của mình, đã tỏ tường các nữ phi công và hoa tiêu, tôi biết mỗi người trong số họ có những khả năng gì. Họ đã quen với tôi, tôi đã quen với họ, biên đội của chúng tôi đã làm việc trơn tru như một cơ chế có điều tiết. Còn ở đây mọi thứ phải bắt đầu lại từ đầu. Nhưng mệnh lệnh là mệnh lệnh, tôi thậm chí không có ý định phản đối. Katya đột nhiên bướng bỉnh và tuyên bố chống lệnh.
- Lý do? - Thiếu tá Bershanskaya hỏi ngắn gọn.
Tất nhiên, Ryabova không tìm được lý lẽ nào đủ mạnh.

Cô ấy không muốn chia tay với người nữ cơ trưởng phi hành đoàn của mình là Nadia Popova - một người bạn đồng hành xinh đẹp, một nữ phi công giàu kinh nghiệm. Mặc dù tất cả chúng tôi, các cô gái, đều kết bạn thân thiết với nhau, yêu thương và tôn trọng nhau, mỗi phi hành đoàn đều thống nhất như một, là một thực thể toàn vẹn không tách rời trong một tập thể lớn đoàn kết và thân thiện. Bất kỳ hoa tiêu nào đều coi phi công của mình là phi công tốt nhất trong trung đoàn, còn các phi công chỉ công nhận hoa tiêu của mình là tốt nhất. Điều này hoàn toàn tự nhiên. Chính hoàn cảnh mặt trận đã dẫn đến sự ghép cặp như vậy, buộc các cô gái yêu quý nhau, vì chẳng có sự kiểm tra con người nào tốt hơn khi thử lửa trong trận chiến, nơi cuộc sống của tất cả mọi người phụ thuộc vào tài nghệ và sức chịu đựng của người đồng đội chung vũ khí.

Tôi hiểu rõ Katya vì vậy khi cô tranh cãi với Bershanskaya (không thể gọi cuộc trò chuyện của cô ấy với người chỉ huy bằng cách khác), tôi giữ im lặng, thậm chí còn đồng cảm với cô ấy. Nhưng khi Evdokia Davydovna cho chúng tôi đi, tôi vẫn nói Ryabova, rằng cô đã cư xử không đúng, đã tỏ ra ích kỷ.
- Cậu biết không, cậu trông giống như một thợ thủ công-đơn độc - tôi không che giấu, tôi đặt cảm xúc của mình vào lời nói. - Có lẽ cậu không quan tâm đến lợi ích của trung đoàn, mà chỉ quan tâm đến những thành công cá nhân. Lẽ nào cậu nghĩ rằng tôi muốn chia tay với Olya Kliueva?
- Cậu chớ kích động tôi! - Ryabova bốp chát. - Cậu cứ giảng đạo đức cho các cô mới ấy, còn hãy để tôi yên.
- Cậu thật không biết xấu hổ!

Nhưng Katya quay ngoắt người và rảo bước bỏ đi nhanh. Kể từ đó, mối quan hệ của tôi với Ryabova, thực sự có thời cũng phần nào căng thẳng. Tuy nhiên, điều này không làm phiền chúng tôi trong công việc kể cả tại Ivanovskaya, hay tại Peresyp.

(https://upload.wikimedia.org/wikipedia/ru/6/6e/Sumarokova_TN.jpg) (https://upload.wikimedia.org/wikipedia/ru/f/f2/Sirtlanova_makuba.jpg)
Trái: Tatyana Nikolayevna Sumarokova (1922-1997), trung úy cận vệ, hoa tiêu phi đội 4 trung đoàn nữ KQ cận vệ 46 Taman. Nguyên sinh viên Học viện Y khoa Moskva số 2 mang tên N.I.Pirogov. Trong chiến tranh đã thực hiện 809 phi vụ, hơn nửa trong số đó là bay cặp với Maria Vasilevna Smirtnova. Năm 1945 được đề cử AHLX nhưng do tài liệu thất lạc, nên nửa thế kỷ sau bà mới được phong tặng danh hiệu AH nước Nga. Sau chiến tranh về học Học viện In ấn Moskva cùng bạn gái cùng trung đoàn AHLX Raisa Ermolaevna Aronova, hoạt động trong ngành báo chí.
Phải: AHLX Maguba Guseinovna Syrtlanova (1912-1971), người dân tộc Tatar, thượ̣ng úy cận vệ, phi đội phó trung đoàn nữ không quân cận vệ 46 Taman. Tốt nghiệp trường bay Balashov từ năm 1932, tốt nghiệp CLBHK và trường tàu lượn tại Tbilisi. Trong chiến tranh đã thực hiện 780 phi vụ chiến đấu.
(https://ru.wikipedia.org/wiki/%D0%A1%D1%83%D0%BC%D0%B0%D1%80%D0%BE%D0%BA%D0%BE%D0%B2%D0%B0,_%D0%A2%D0%B0%D1%82%D1%8C%D1%8F%D0%BD%D0%B0_%D0%9D%D0%B8%D0%BA%D0%BE%D0%BB%D0%B0%D0%B5%D0%B2%D0%BD%D0%B0)

Trong giai đoạn đầu tiên đóng quân trên bờ eo biển Kerch, phi đội của chúng tôi không thường xuyên bay đi làm nhiệm vụ chiến đấu. Mặt trận tương đối yên tĩnh, và chúng tôi sử dụng thời gian này để huấn luyện - làm chủ chuyến bay trong các điều kiện mới, đưa người mới bổ sung vào đội ngũ. Để nâng cao công tác huấn luyện, người ta bổ nhiệm vào phi đội các phi công và hoa tiêu giàu kinh nghiệm: Vera Tikhomirova, Nina Khudyakova, Klava Serebryakova, Marta Syrtlanova, Olga Klyueva và Tanya Sumarokova. Chỉ đạo toàn bộ công tác bay huấn luyện là Seraphima Amosova. Công tác huấn luyện diễn ra cả trong các phi đội khác, nhưng gánh nặng chính vẫn nằm trên vai phi đội của chúng tôi.

Thời gian đầu, tôi cảm thấy rất khó xử khi ở vị trí phi đội trưởng. Tôi vừa qua tuổi hai mươi, mà các biên đội trưởng cấp dưới đều lớn tuổi hơn và có kinh nghiệm hơn tôi. Họ đã phục vụ không chỉ một năm trong ngành hàng không, mỗi người đều có kinh nghiệm bay đáng kể. Nhưng các bạn gái tiếp nhận tin này như nó phải thế. Từ những ngày đầu tiên, họ đều thực hiện tất cả các mệnh lệnh của tôi, thường xuyên hỗ trợ tôi trong công tác giảng dạy và huấn luyện.

Chẳng bao lâu phi đội trở thành một tập thể thân thiện, thực hiện thành công bất kỳ nhiệm vụ nào.

* * *

Hoa tiêu trung đoàn Zhenya Rudneva định kỳ thường được phái đi trong các chuyến bay  kiểm tra với các chỉ huy biên đội và phi đội. Trong tháng 10 năm 1943, một đêm tôi bay đi làm nhiệm vụ cùng với Zhenya.
- Chúng ta hãy xem xem nào, đồng chí Chechneva, đồng chí chưa quên cách chơi cờ nhảy đấy chứ? Còn thuốc súng trong túi thuốc súng không đây? - Chị vừa nói đùa, vừa leo lên buồng lái phía sau tôi.
- Vâng, thì ta cùng xem xem, đồng chí hoa tiêu trưởng - tôi đáp đùa theo - thế thuốc súng của đồng chí không ướt đấy chứ?..

(http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/060.jpg)
Peresyp, 1943. Báo cáo tình hình khí tượng. (http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/ill.html)

Tôi rất thích bay với Zhenya, mặc dù hiếm khi có dịp. Bình tĩnh, dày dạn, chị không bị mất tự chủ trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Phi công luôn luôn cảm thấy tự tin với chị, vì biết - với một hoa tiêu như vậy sẽ không bao giờ chệch hướng và trong trận chiến hoa tiêu sẽ không bao giờ phụ lòng bạn.

Rudneva có một cảm giác đặc biệt mạnh mẽ về bổn phận và trách nhiệm. Khi đã tin vào điều gì, chị sẽ vững bước đi tới mục tiêu, không chấp nhận bất kỳ thỏa hiệp nào. Đòi hỏi cao đối với chính bản thân mình, chị cũng không nhượng bộ người khác, không ngần ngại nói ra sự thật cay đắng nhất, luôn hành động một cách công khai và thẳng thắn. Và đồng thời chị cũng là người đồng chí nhạy cảm và chu đáo.

Với tất cả những người khác, Zhenya là một con người có các mối quan tâm đa dạng, một người nói chuyện dễ chịu. Chị thành thạo không chỉ trong lĩnh vực chuyên môn của mình. Zhenya quan tâm đến văn học, nghệ thuật, triết học. Có trí nhớ phi thường, chị nhớ hàng ngàn ngày tháng, sự kiện, tên tuổi. "Ạnh chồng bác học" của chúng tôi, chúng tôi gọi đùa chị ấy với nhau. Nhưng say mê đặc biệt của Zhenya là thiên văn học. Dẫu Rudneva nói chuyện với ai hay nói về vấn đề gì, chúng tôi biết: rồi thì cuộc trò chuyện cũng sẽ hướng về thiên văn học ...

Và bây giờ tôi với Zhenya - đang trong không trung.

- Chuẩn bị, - tôi nói - bọn phát xít giờ đây điên dại hơn bao giờ hết. Chỉ cần phát hiện, chúng bắn ngay, không cả ngắm mục tiêu.
- Với chúng thế thì chỉ càng tồi tệ hơn thôi, thần kinh của chúng suy yếu rồi. Chúng ta dù gì cũng đã đẩy chúng đến bước đường cùng. Mà nhớ không, Marinka, chúng đã đuổi chúng ta vào mùa hè vừa qua thế nào? Chúng ta hầu như không có thời gian để thay đổi sân bay ...
- Đúng, và bây giờ chúng ta cũng không nán lại lâu ở một nơi.
- Nào, những đợt di chuyển căn cứ như thế sẽ nhiều hơn và thường xuyên hơn cho mà xem. Sẽ đến tận Berlin ... Sang trái, hãy sang trái đi! - Đột nhiên, Zhenya kêu lên. - Đèn chiếu!

Trượt sang phải và lên trên, một chùm sáng mạnh đập thẳng vào mắt. Lập tức chùm thứ hai xuất hiện nhập vào nó. Từ các phía khác nhau gần như đồng thời các tràng đạn pháo vạch đường bay tới tấp lên phía chúng tôi căng như sợi chỉ phát sáng. Nhìn từ một phía, khi trong bóng tối treo lơ lửng những vòng cung sáng, điều đó trông rất đẹp, giống như một dải ruy băng lửa trong đêm lễ hội. Đối với chúng tôi gặp phải với một "sợi chỉ" như thế có nghĩa là chấm hết.

- Chị Zhenya, chị cảm thấy thế nào? - tôi hỏi. - Chúng giội nước sôi dữ thật. Mà chúng ta thậm chí chưa vượt qua eo biển. Liệu trên đất liền sẽ thế nào đây... Chúng ta bây giờ đi thẳng hay quay trở lại, lên cao hơn một chút và liệng?
- Lên cao sẽ mất nhiều thời gian. Hãy ngoặt ra khơi. Làm ra vẻ như chúng ta đã có chuyện gì xảy ra, chúng sẽ bị bỏ lại đằng sau. Sau đó chúng ta sẽ quyết định làm gì tiếp ...
- Chúng ta thử xem.

Tôi nghiêng trái mạnh bắt đầu liệng, giả như đang rơi. Chùm sáng bám theo chúng tôi một vài giây, sau đó dịch qua phải. Xuất hiện một phi hành đoàn khác, và các trắc thủ đèn chiếu của địch bắt đầu tóm lấy nó, định hướng theo tiếng ồn của động cơ.
- Bây giờ hãy lấy độ cao và hãy liệng đến đúng mục tiêu, - Rudneva nói và chỉ hướng quy định trên thước đo độ. - Thế và giữ đúng vào. Chúng ta sẽ xông tới trên vùng ngoại ô phía nam Kerch.

Một vài phút sau, Zhenya thả bom chiếu sáng. Chúng tôi gặp may - ở vùng ngoại ô thành phố trong một con hẻm hẹp nhìn thấy rất rõ một đoàn xe tăng đang di chuyển chậm chạp. Khóa giá giữ bom được mở, và một trăm kg thuốc nổ đã đánh trúng vào giữa đoàn xe. Ngay lập tức súng PK nhả đạn ầm ầm, các chùm sáng rạch những dải ngang dọc màn đêm tối thẫm. Đột ngột vòng lại, tôi đưa máy bay về phía eo biển Kerch.
- Đi đâu? - Zhenya kêu lên. - Hãy vào công kích một lần nữa. Trong khi chúng đang hoảng loạn ta vẫn còn kịp đánh vào đuôi đoàn xe. Bom tớ vẫn còn.
Nhưng các trắc thủ đèn chiếu siết chặt luồng sáng vào chiếc máy bay chúng tôi. Tôi lao máy bay sang trái, phải, lên, xuống, làm một loạt động tác cơ động - tất cả đều vô vọng. Phải chăng tốc độ của một con ốc sên như thế này có thể ngay lập tức thoát khỏi bọn Hitler?
- Không được đâu, Zhenya. Chúng chỉ thả chúng ta cho đến khi tới Chushka mà thôi, đã không chỉ một lần xảy ra như vậy. Mà tới lúc ấy bọn xe tăng đi mất rồi. Tuy nhiên, nếu chị nhất định muốn, em sẽ thử thoát ra.

Chỉ vừa định bổ nhào máy bay, dịch về bên trái và từ trên cao một trái bom chiếu sáng nổ bùng. Ai đó trong số các bạn gái đã kịp thời đến cứu.

(https://upload.wikimedia.org/wikipedia/ru/9/9e/BelikVeraLukjan.jpg) (http://www.warheroes.ru/content/images/heroes/1hero/MakarovaTatPetr.jpg)
Trái: AHLX Vera Lukyanovna Belik (1921-1944), người Ukraina, trung úy cận vệ, hoa tiêu biên đội trung đoàn nữ KQ ném bom đêm cận vệ 46 Taman, 805 phi vụ chiến đấu.
Phải: AHLX Tatyana Petrovna Makarova (1920-1944), người Nga, phi công biên đội trưởng, trung úy cận vệ, 628 phi vụ chiến đấu.
(http://www.warheroes.ru/hero/hero.asp?Hero_id=1650)

Các dàn đèn chiếu bỏ qua chiếc máy bay của chúng tôi đang bay về phía biển, và bắt đầu tóm lấy chiếc U-2 đang bay theo hướng tác chiến. Rõ ràng, đó là Tanya Makarova và Vera Belik. Theo thống kê kíp bay của họ trong đêm ấy đã bay đến phiên thứ ba. "Cảm ơn, các cô gái - tôi thầm cảm ơn các bạn gái. - Cảm ơn cậu, Vera Belik, vì tình bạn chân thật, vì lòng dũng cảm của người lính".

Tôi nhớ lại cuộc trò chuyện của chúng tôi vào hôm trước khi xuất kích.
- Cậu biết không, Marinka, Kerch là quê hương của tớ, - Vera thú nhận. - Cậu sẽ bay trên vùng ngoại ô phía nam, cậu hãy nhìn kỹ, ở đó có bị tàn phá lớn hay không. - Vera dừng lại một chút, sau đó như xấu hổ, lặng lẽ giải thích: - Mẹ tớ trong thư luôn hỏi, ngôi nhà nhỏ của mình ra sao. Hy vọng, ngôi nhà đáng thương nhỏ bé của tôi ơi, hy vọng là nó còn nguyên vẹn...

- Nhất định là tớ sẽ cố nhìn xem, - tôi hứa. - Và nói chung, không có gì đáng ngạc nhiên khi mẹ cậu lo lắng chuyện ấy.

- Mẹ tớ gàn dở lắm. Mẹ viết: "Con hãy thương ngôi nhà nhỏ của mình và hãy trừng phạt các bạn gái". Cứ như chúng ta đang ném bom ngôi nhà ... Chỉ cần nghĩ, có cô bé chạy chân trần trên đường phố bụi bặm, rồi sau đó phải phá hủy chính đường phố này... Mà tớ vẫn mơ nhất định sẽ từ Moskva trở lại đây với tấm bằng tốt nghiệp, mơ sẽ dạy trẻ em ở Kerch...
- Không cần, Vera.
- Không, cần, Marinka, - cô nói kiên quyết. - Không phải để cậu đồng cảm về chuyện này mà tớ nói, mà để quyết liệt hơn.

Dưới những cánh máy bay của chúng tôi còn một trăm kg bom. Dù sao, Vera, chúng tôi sẽ ném chúng xuống đầu kẻ thù vì quê hương Kerch của bạn. Có thể những quả bom này phát nổ gần ngôi nhà của bạn. Nhưng bạn sẽ không phán xét chúng tôi, và cả mẹ bạn nữa. Tôi tin chắc điều đó. Bạn nói đúng, Vera, phải quyết liệt. Nếu không, sẽ không sớm giành được chiến thắng trước kẻ thù...
..........


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 09 Tháng Chín, 2015, 09:08:32 pm
(tiếp)

* * *

Một ngày nọ thượng tướng I.E.Petrov ghé thăm. Ông xuất hiện đột ngột, như mọi khi, đến thẳng đài chỉ huy và lập tức tuyên bố báo động chiến đấu.

Ông tướng thích thứ trật tự quân sự mẫu mực, mà theo kinh nghiệm dạy bảo, chúng tôi thường xuyên duy trì ở sân bay và đài chỉ huy.
- Xuất sắc! - Ông nói với đại úy Amosova, thay thế Bershanskaya ngày hôm ấy vắng mặt. - Nghĩa là các cô không quên chuyến đến thăm đầu tiên của tôi.

Sau đó, Ivan Yefimovich kiểm tra công tác huấn luyện điều lệnh đội ngũ của chúng tôi. Quân phong của chúng tôi thì ông hài lòng, nhưng bề ngoài của chúng tôi thì ông không hoàn toàn vừa ý. Quân phục của các cô gái gọn gàng, là ủi phẳng, nhưng cũ. Quân phục may theo lệnh I.V.Tyulenev, chúng tôi mặc trong ngày nghỉ, mặc nó vào những dịp trọng thể. Trong những khoảng thời gian còn lại chúng tôi mặc quân phục nam giới. Khiếm khuyết trong quân trang ngay lập tức đập vào mắt tư lệnh.

(http://waralbum.ru/wp-content/uploads/yapb_cache/ui3.c8qvxgrfwq0og08s48c80ow80.ejcuplo1l0oo0sk8c40s8osc4.th.jpeg)
Tư lệnh tập đoàn quân độc lập miền Duyên hải thiếu tướng I.E.Petrov (thứ hai phải sang) và sư đoàn trưởng sư đoàn BB 345 đại tá N.O.Guz (thứ ba phải sang) trên trận địa tiền tiêu của một tuyến phòng ngự thuộc khu phòng thủ Sevastopol năm 1941 (http://waralbum.ru/53916/)

Tướng Petrov bước chầm chậm dọc hàng quân, và đôi khi cau mày, như thể ông bị đau răng. Đột nhiên ông dừng lại trước nhân viên ban tham mưu Raisa Mazdrina, và nheo mắt.
- Thế đâ-ấy, - ông dài giọng, - thế đâ-ấy ... - Và bất ngờ ra lệnh: - Thượng úy, tiến ba bước về phía trước - đi đều, bước!
Mazdrina khuôn mặt đỏ bừng quay về hàng.
- Nào, chấn chỉnh thế các cô thấy sao? Cần phải như thế. Tư lệnh chỉnh chiếc áo va rơi trên người Mazdrina và thắt chặt đai lưng trên áo đến mức Raia của chúng ta suýt thon gọn đi gần nửa.
- Thế nào các chiến binh cận vệ - hướng về chúng tôi Petrov lớn tiếng nói, - không phải tốt hơn sao? Cân đối hơn và đẹp hơn.

Khi ông tướng đi khỏi, Mazdrina nới lỏng đai lưng áo và thở phào nhẹ nhõm.
- Ông ấy thắt chặt đến mức chẳng thở được, - nén cười cô nói.
- Bây giờ cậu biết thế nào là chấn chỉnh kiểu Petrov rồi chứ - một ai đó nói đùa.

Vậy là kể từ đó, chúng tôi gọi việc thắt chặt thắt lưng là "chấn chỉnh kiểu Petrov". Và cũng cần phải tán thưởng ông tướng. Bài học mà ông dạy, đã tỏ ra hữu dụng: các cô gái bắt đầu chăm sóc ngoại hình của mình nhiều hơn.

Không giới hạn ở những lời răn bảo, Petrov ra lệnh làm đơn xin quân phục có kích cỡ phù hợp và lệnh phải báo cáo với ông, nếu phòng ban hữu quan không đáp ứng.
- Nhưng tôi đòi hỏi ở các cô sự ngăn nắp trật tự - ông cảnh báo. - Các cô hãy lưu ý, đường ra mặt trận đi qua bên cạnh sân bay, tôi vẫn thường xuyên ra mặt trận, và nếu lần tới tôi bắt gặp cảnh "exotic" như vậy, cuộc nói chuyện sẽ không dễ chịu đâu. Nào, bây giờ báo cáo tôi tình hình công việc ra sao.

Serafima Amosova báo cáo chi tiết về công tác chiến đấu, học tập và cuộc sống của chúng tôi. Tư lệnh hài lòng và mong muốn chúng tôi đạt nhiều thành công hơn nữa.

Vượt trước thời gian một chút, tôi muốn nói rằng chúng tôi rất yêu quý Ivan Yefimovich, nhưng che giấu những tình cảm ấy trước ông. Ông còn đến trung đoàn thêm hai lần nữa, và khi ông được điều chuyển đến mặt trận khác, ông đã gửi lời chào tạm biệt. Chúng tôi ghi nhớ suốt đời nhà chỉ huy quân sự nghiêm khắc, công bằng, tinh tế và quan tâm chu đáo này...

Trong tháng mười, tôi đánh dấu lễ kỷ niệm đầu tiên của mình tại trung đoàn - phi vụ xuất kích lần thứ năm trăm. Sự kiện trọng đại này trùng hợp với việc đổ bộ lính thủy đánh bộ Liên Xô lên bờ biển Crimean. Chiến dịch diễn ra trong khu vực làng Eltigen. Tại nơi đổ bộ trung đoàn liên tục ném bom các dàn đèn chiếu của kẻ địch quấy nhiễu quân đổ bộ. Máy bay nối tiếp nhau xuất kích với gián cách thời gian không lớn. Tất nhiên, không phải mỗi quả bom của chúng tôi đều trúng mục tiêu. Điều quan trọng là trong thời gian ném bom kẻ thù hoặc phải tắt các cụm đèn chiếu hoàn toàn, hoặc phải lia chúng sang máy bay. Trong khi đó, lính thủy đánh bộ dưới sự che chở của bóng tối có thể đổ bộ được lên bờ.

(http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/065.jpg) (http://www.warheroes.ru/content/images/heroes/1hero/RiabovaEkaterVas.jpg)
Marina Chechneva và Katya Ryabova (http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/ill.html)

Tuy nhiên, một cơn bão nổ ra trên biển; gió mạnh và sóng lớn đã ghìm các tàu cao tốc đổ bộ. Chiến dịch bị kéo dài và chúng tôi phải làm việc với cường độ tối đa.

Tôi đã tính toán rằng chuyến xuất kích thứ năm của tôi đêm nay trong bảng tổng kết sẽ là phi vụ thứ năm trăm. Tôi muốn kỷ niệm nó một cách tốt hơn, hay nói cách khác - gây thiệt hại lớn hơn nữa cho kẻ thù.

Chúng tôi vẫn đóng quân ở làng chài Peresyp của ngư dân, cách eo biển Kerch hai mươi cây số.

Nhiệm vụ của tôi là phải bay chính xác đến chỗ các dàn đèn chiếu Đức đã quấy nhiễu công tác đổ bộ thủy quân lục chiến, định hướng bay chiến đấu, và không quan tâm đến hỏa lực PK, bay thẳng tới trên đầu mục tiêu. Hoa tiêu Katya Ryabova phải đồng thời tính toán đường bay, thả bom, và chỉ dẫn đường bay trở về nơi chúng tôi đang được mong chờ. Đêm đó, chúng tôi chuẩn bị bay cẩn thận hơn bình thường, kiểm tra nghiêm ngặt hệ thống treo tải trọng làm quà "kỷ niệm" và trang bị của mình. Trong thực tế chiến đấu mọi thứ đều đã từng xảy ra. Những người được kỷ niệm kiểu như tôi nhiều lần đã bị giữ ở một nơi nào đó trên cánh đồng giữa các vị trí của quân ta và quân địch. Do đó, chúng tôi có thái độ đặc biệt xét nét đối với các trang thiết bị của phi hành đoàn.

Thời tiết xấu suýt hủy hoại ngày lễ của tôi. Ngày lễ được bắt đầu với việc gió ném không thương tiếc chiếc máy bay U-2 bằng ván ép nhẹ cân từ bên này sang bên kia. Sau đó từ phía bắc các đám mây dày đặc nặng nề trườn xuống. Nó ép không thương tiếc máy bay xuống mặt đất, và kim trỏ độ cao liên tục run rẩy trong khoảng từ 350 đến 400 mét. Nhưng ngay cả từ độ cao như vậy việc quan sát mặt đất cũng rất tồi: lơ lửng treo trong không khí là một màn bụi nước li ti, làm xấu thêm tầm nhìn vốn đã tồi tệ. Tôi phải hạ xuống thêm vài chục mét.

Khi xử lý mục tiêu từ độ cao như vậy sẽ rất dễ bị thương bởi bom của chính mình, và sẽ không ai kết tội chúng tôi, khi chúng tôi quay trở lại sân bay. Nhưng khi đó tôi nghĩ rằng nếu người Soviet luôn luôn hành động chỉ xuất phát từ điều gì có thể, trước hết nghĩ đến các lợi ích cá nhân, may mắn cá nhân, chúng tôi sẽ không xây dựng được nhà máy thủy điện Dnepro, nhà máy sản xuất máy kéo Stalingrad và hàng chục người khổng lồ khác của các ngành công nghiệp, không mở được hàng nghìn km đường sắt, không thể bảo vệ các thành quả của mình trước kẻ thù.

- Dưới cánh là Eltigen - bằng tiếng nói của một phát thanh viên nhà ga Katya Ryabova thông báo.
Cô không thích nói những câu chuyện không cần thiết khi đang ở trên không trung, và chúng tôi có thể bay trong im lặng một thời gian dài mà không nói chuyện. Vừa nghe trên máy liên lạc những lời trên của hoa tiêu, thì trong bóng tối như bưng những chùm sáng đèn chiếu đã trượt trên những con sóng đen ngòm. Quẹt đi quẹt lại một cách điên cuồng trên mặt nước, đột nhiên các chùm sáng đóng băng tại một chỗ.
- Xuồng đổ bộ bị túm rồi! - Katyusha bật kêu lên.

Tôi nhìn về phía bờ. Trong cự ly khoảng một cây số rưỡi cách bờ, một con tàu nhỏ nhấp nhô trên các đỉnh sóng sủi bọt, bị chiếu sáng bởi cột sáng màu xanh lam rực rỡ. Bọn phát xít hiểu rất rõ tình thế của những người trên tàu, có lẽ thế nên chúng không vội vã đối phó với họ. Trong chùm sáng bám dai như chão, như thể không biết gì về nó, con tàu vẫn kiên định lao nhanh vào bờ.

Một loạt súng vang lên, loạt thứ hai, thứ ba. Con tàu cao tốc nhỏ tròng trành, nhưng lập tức một con sóng dựng đứng ập đến và nâng nó lên. Trong một khoảnh khắc, con tàu lao ra khỏi dải ánh sáng đèn chiếu, tuy nhiên những chiếc vòi bạch tuộc của các cụm đèn chiếu lại một lần nữa túm được thân tàu.

Không thể chậm trễ. Tôi nghiêng máy bay sang trái và tăng hết ga. Tất cả phải giải quyết trong vài giây. Tiếng gầm rú của động cơ làm bọn Hitler giật mình, hai luồng sáng bắt chéo nhau, lục lọi bầu trời. Nhưng một dàn đèn rọi vẫn tiếp tục kiên trì theo đuổi con tàu chở quân đổ bộ.

Cũng rùng mình, nghẹt thở vì tức giận, động cơ của máy bay - cánh tay đòn đẩy gaz hết nấc về phía trước.
- Chúng ta đang tiến vào mục tiêu, - Katya cảnh báo - Ta sẽ ném bom từ độ cao thấp.
- Đành vậy thôi, - Tôi đồng ý.

Luồng ánh sáng cao thế của dàn đèn chiếu tới gần máy bay, vẽ lên một vòng tròn. Vừa chạm vào cánh, nó chạy ngay sang thân, làm tôi chói mắt trong chốc lát rồi bỗng giật lại đằng sau. Chùm sáng rung rung, khẩn trương dừng lại, rồi hóa đông trên chiếc máy bay. Nhìn xuống là vô ích. dường như có một vật nặng nào đó đập mạnh vào gốc mũi của tôi, trước mắt tôi bồng bềnh những vòng tròn. Dầu sao chúng vẫn tóm được mình! Rụt đầu vào vai, tôi hơi nghiêng người về phía trước. Bây giờ chùm sáng lướt qua kính chắn gió, tì vào cánh giữa máy bay. Đẩy cần lái ra xa người một chút, lập tức tôi cảm thấy một cú đẩy nhẹ - các trái bom đã rời khỏi cánh.

(https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/0/07/Bundesarchiv_Bild_101I-641-4544-29A%2C_Krim%2C_Josef_Kociok%2C_Nachtj%C3%A4ger.jpg) (https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/4/46/Bundesarchiv_Bild_101I-382-0211-011%2C_Flugzeug_Messerschmitt_Me_110.jpg/300px-Bundesarchiv_Bild_101I-382-0211-011%2C_Flugzeug_Messerschmitt_Me_110.jpg)
Josef Kociok (1918 – 1943) phi công Ace Quốc Xã và chiếc Bf.110 đã hạ 3 chiếc Po-2 của trung đoàn cận vệ Ta-man 46 đêm 31 sang ngày 1 tháng 8 năm 1943. (https://en.wikipedia.org/wiki/Josef_Kociok)

Sóng nổ đập vào phần dưới thân máy bay, máy bay chúi mũi suýt lật sang cánh phải. Không có gì lạ nếu máy bay bị cuốn xuống vòng xoáy ốc. Mà ở độ cao này nếu bạn rơi xuống vòng xoáy ốc - nhất định bạn sẽ cắm đầu xuống mặt đất. Để tránh hiện tượng rơi, tôi đặt bánh lái về tư thế trung lập và bắt đầu thoát ly về một bên. Các ngọn đèn chiếu tắt lịm, bóng tối như hũ nút lại nuốt chửng mọi thứ.
- Sao, cắt bom thế nào? - Tôi hỏi hoa tiêu.
- Tất cả đều ổn. Cậu thấy đấy, đèn chiếu tắt rồi. Có thể chúng ta chưa phá hủy được chúng, mà các chiến hữu đã giúp đỡ. Xin chúc mừng, cô bạn năm trăm, nhân chuyến bay kỷ niệm kỷ lục!
- Cảm ơn cậu, Katya.
Và buổi sáng trong phòng ăn, một quả dưa hấu lớn chờ đợi tôi. Trên vỏ của nó sáng lên một con số cắt bằng dao - "500".

- Đây là quà của Bershanskaya và Rachkevich - bí thư chi bộ đảng Maria Runt giải thích. - Phải sắm riêng đấy nhé.
Trong phòng ăn tập hợp toàn thể phi đội chúng tôi, và các cô gái không phải bay cũng đến. Các nữ kỷ lục gia năm trăm đầu tiên Maria Smirnova, Katya Ryabova, Natasha Meklin nâng trái dưa hấu và long trọng trao nó cho tôi.
- Hãy tiếp nhận "vương miện" - Maria Smirnova tuyên bố. - Chúng tôi chúc cậu đến khi kết thúc chiến tranh sẽ kiếm thêm được một chiếc nữa.
Trái dưa hấu ngay lập tức được mọi người bổ ra chung hưởng. Vừa thèm thuồng ngấu nghiến những lát dưa mát rượi và ngọt ngào, các cô gái vừa đùa: "Thường xuyên có những ngày kỷ niệm như thế này thì hay nhỉ".

* * *
.......


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 10 Tháng Chín, 2015, 10:00:58 pm
(tiếp)

Một vài ngày sau đêm đó, các thủy thủ hàng này tiếp hàng kia đi ngang qua sân bay chúng tôi về phía eo biển Kerch. Họ đi qua, sải những bước chân lớn của hải quân. Những tia sáng xiên của mặt trời mùa thu làm lóe lên ánh thép mờ của những khẩu tiểu liên. Những khuôn mặt khắc khổ, dạn dầy sương gió, những chiếc áo khoác ngắn màu đen, hai dải mũ hải quân không lưỡi trai vẫy vẫy. Tụ tập thành các nhóm, chúng tôi vẫy chào các thủy thủ.

(http://tamanskipolk46.narod.ru/images/p29_20081943.jpg)
Bên một ngôi nhà âm nửa nổi nửa chìm: Vera Belik, Ira Sebrova và Nadia Popova. Gelendzic 1943. (http://tamanskipolk46.narod.ru/p29aa1.html)

Một trung sĩ cao gầy sải bước trong một đoàn quân. Cặp mắt di-gan đen lấp lánh vui vẻ lóe lên từ bên dưới hàng lông mày rậm. Thay vì chiếc mũ thủy thủ không lưỡi trai, trên đầu chàng trai là một chiếc mũ sắt lính.

- Này, anh lính thủy! - một giọng nữ lanh lảnh vang lên. Hoa tiêu của trung đoàn chúng tôi Anya Bondareva mắt sáng chạy tới bên người đang đi. Cô mang theo trong tay một chiếc mũ sắt mới màu xám. - Hãy cầm lấy nó, tôi chân thành tặng cho anh. Chiếc mũ của anh tồi quá. Tôi không cần đến nó, tôi đã có chiếc mũ bảo hiểm rồi. Tôi sẽ đưa nó cho anh, nhưng tôi không thể - đêm nào chúng tôi cũng bay.
Người lính thủy bối rối và nói nhẹ nhàng:
- Cảm ơn. Nếu tôi trở về - tôi sẽ tìm, sẽ trả lại cô...

Cẩn thận đặt món quà lên mái tóc đen, anh vẫy tay chào Anya ...
Từ "Eltigen" đã trở nên thiêng liêng đối với chúng tôi kể từ khi thê đội đầu tiên lính thủy đánh bộ bằng một đòn tấn công bất ngờ đã đột phá vào ngôi làng Eltigen và cố thủ ở đó. Một cơn bão nổ ra đã trì hoãn đợt đổ bộ tiếp theo. Trên bờ phía kẻ thù, các phân đội nhỏ lính thủy và lính bộ gần như đã bị bao vây kín.

Kẻ thù nhiều lần nỗ lực hất các chiến sĩ đổ bộ xuống biển, nhưng vô ích. Eltigen, thị trấn xây bằng đá nhỏ màu trắng, đứng chắn trên con đường của bọn phát xít như một pháo đài bất khả chiến bại.

Quân đổ bộ đã cạn lương thực và đạn dược, không có gì để băng bó các thương binh. Liên lạc với quân ta cũng đã bị cắt đứt vì mảnh đạn pháo đã chém văng điện đài, giết chết hiệu thính viên. Mà những làn sóng chì vẫn không ngừng nổ. Hết lần này đến lần khác tàu cao tốc của chúng ta chở người, vũ khí, đạn dược, lương thực lao đến Eltigen, và lại buộc phải quay về bến đậu của mình.

Tháng 11 năm 1943 thời tiết ở Crimea lạnh và nhiều gió. Dự báo thời tiết ngày qua ngày kết thúc bằng hai từ ngắn gọn: "thời tiết không bay được". Một lần vào buổi tối, các chỉ huy hải quân đến trung đoàn chúng tôi. Trong căn nhà nhỏ của làng chài diễn ra một cuộc trò chuyện như sau.
- Đồng chí Bershanskaya, - một trong những người khách vừa đến hướng vào trung đoàn trưởng. -. Quân đổ bộ đang trong tình thế khó khăn. Họ đã bị cắt rời khỏi tất cả các hướng. Các chiến sĩ đỏ bộ không còn thức ăn, không còn đạn dược và thuốc men. Phát xít Đức tấn công ngày và đêm. Phi công của các đồng chí có thể giúp đỡ cánh thủy thủ.
- Nhưng tôi không có quyền cho các kíp bay xuất kích trong thời tiết thế này, - thiếu tá cận vệ Bershanskaya nói chậm rãi.

(http://www.zorich.ru/games/bb/pics/c0_navy/db_20.jpg)
Xuồng đổ bộ đề án 165, loại trang bị được sử dụng với tần suất lớn trong chiến dịch đổ bộ Kerch-Eltingen 1943 (http://www.zorich.ru/games/bb/soviet_sea_infantry.htm)

Chị bước từ tốn quanh phòng, rồi đứng lại gần cửa sổ. Trên sân bay cuộc sống đang sôi sục: các kỹ thuật viên và quân khí viên làm thành từng cặp cạnh máy bay, đâu đó đang kiểm tra động cơ, từ xa vẳng lại tiếng cười lanh lảnh của con gái, còn từ biển mây dày như tuyết lở đang tiến lại.
Bershanskaya quay sang các thủy thủ:
- Các anh hãy xem thời tiết như thế nào.
Một sĩ quan đứng tuổi với hai thái dương bạc xám và đôi mắt màu đỏ ngầu vì thiếu ngủ đi đến bên người chỉ huy của chúng tôi:
- Chúng tôi yêu cầu tập hợp toàn thể quân nhân trung đoàn.

Sau một vài phút, các phi công, hoa tiêu, kỹ thuật viên và quân khí viên xếp hàng ngay tại sân bay. Người thủy thủ tóc hoa râm lên tiếng đầu tiên. Ông kể lại chi tiết tình thế của quân đổ bộ, về những người mà việc giải phóng Crimea phụ thuộc nhiều mặt vào kỳ công của họ. Sau đó, thiếu tá Bershanskaya bước lên phía trước. Trong sự im lặng đang tới giọng nói của chị vang lên to một cách đặc biệt:

- Kẻ thù phong tỏa quân đổ bộ tại Eltigen. Tình thế của các chiến sĩ đổ bộ cực kỳ nặng nề. Đường tiếp cận bàn đạp rất khó khăn. Từ đất liền các lối tiếp cận đều bị pháo phòng không và các dàn đèn chiếu Đức ngăn chặn. Từ biển - là bức màn lửa của các tàu thuyền của quân thù. Bên cạnh đó thời tiết ... Các chiến sĩ cận vệ! Chúng ta sẽ giúp đỡ những thủy thủ- anh hùng. Ai tình nguyện bay đến Eltigen, bước về phía trước một bước!
Các nữ phi công và hoa tiêu siết chặt đội ngũ bước về phía trước.

Và sáng ngày 08 tháng Mười Một, tư lệnh tập đoàn quân độc lập miền Duyên hải đại tướng I.E.Petrov đã ký mệnh lệnh chính thức: "Trung đoàn nữ không quân ném bom đêm cận vệ đột phá tới chỗ quân đổ bộ và cung cấp cho họ thực phẩm, đạn dược và thuốc men y tế".

Người lớn tuổi nhất trong chúng tôi hai mươi lăm tuổi, người trẻ nhất - mười chín tuổi. Chúng tôi sắp phải thực hiện một chiến dịch phức tạp, đòi hỏi lòng can đảm lớn và kỹ năng thuần thục.

Thủy quân lục chiến ở trên một dải đất rất hẹp của bờ biển Crimean. Để thả các bao chứa hàng xuống mục tiêu, chúng tôi cần đạt độ chính xác đặc biệt. Sai số một-hai mét, và thế là hàng hóa quý giá có thể rơi vào tay bọn phát xít Đức quốc xã.

Các bao hàng treo trên giá đỡ bom. Bao lớn, cồng kềnh, chúng gây ra nhiều sức cản, làm giảm đáng kể tốc độ của U-2.

Đêm đó gió hoành hành với sức mạnh đặc biệt. Nó mang lại tiếng súng vng rền và mùi cháy: tại Eltigen đang diễn ra những trận đánh không ngừng.

Cất cánh đầu tiên là phi hành đoàn của nữ phi công giàu kinh nghiệm bay nhất trung đoàn - trung đoàn phó phu trách công tác bay Seraphima Amosova và hoa tiêu trung đoàn Zhenya Rudneva. Sau hai-ba phút đến lượt tôi xuất kích. Mặt đất gần như không thể nhìn thấy, chỉ có âm thanh của biển, át đi tiếng gầm rú của động cơ, chứng nhận rằng chúng tôi đang bay trên eo biển Kerch. Chúng tôi đã bay ở độ cao tối thiểu, gần như chạm bánh xe vào mặt nước. Sóng dữ tợn sập vào nhau lớp này lớp khác, định áp đảo chiếc U-2. Hoa tiêu Tanya Sumarokova cho hướng. Tôi giữ hướng chính xác, và chẳng bao lâu xuất hiện ở phía trước các đường viền của bờ biển đầy ghềnh đá...

(http://map-site.narod.ru/kercheltigenskdesantoperac-1.jpg)
Chiến dịch đổ bộ Kerch-Eltingen 11-12/1943 (http://map-site.narod.ru)

Ngay khi tôi thực hiện một vòng ngoặt, những chùm sáng của các đèn chiếu lại quét lên lục lọi bầu trời, phía trước các viên đạn cao xạ nổ bùng. Trong cabin sáng đến lóa mắt: chúng tôi đang ở trong luồng sáng đèn chếu PK. Điều chủ yếu là không đi lạc khỏi tuyến đường. Nghiêng người trên máy đàm thoại, tôi xác định hướng. Tatiana điềm tĩnh trả lời: "Ta vẫn đi đúng".

Cuối cùng các cụm đèn chiếu PK và pháo cao xạ đã bị bỏ lại phía sau. Bây giờ sắp đến chuyện khó nhất: tìm kiếm tín hiệu của các chiến sĩ đổ bộ và thả hàng chính xác.

Chúng tôi một lần nữa được đón tiếp bằng các chùm đạn pháo cao xạ. Tôi bắt đầu liệng. Hầu như trên độ cao ngọn cây chúng tôi lướt qua đầu bọn phát xít Đức quốc xã, và cuối cùng cũng nhìn thấy tín hiệu trên mặt đất ... Bây giờ đến hoa tiêu hành động. Chiếc máy bay bị dâng lên một cách nhẹ nhàng: bao thứ nhất đã thả... sau nó là bao thứ hai... Khi chắc chắn các bao đã rơi vào đúng nơi cần, tôi ngoặt chiếc U-2, và chúng tôi bay đi lấy chuyến hàng mới.

Còn ở đó, tại Peresyp, gió vẫn thổi giật ngang giật ngửa như trước, mà hình như không ai để ý. Trung đoàn trưởng Evdokia Bershanskaya và tất cả ở trên tuyến xuất phát, chăm chú lắng nghe tiếng gầm của động cơ, xúc động ra đón mỗi kíp bay.

Hai mươi sáu đêm, chúng tôi bay đến chỗ các chiến sĩ đổ bộ. Mỗi chuyến bay như thế mang đến cho họ cứu cánh, củng cố lòng tin vào chiến thắng.

Một lần tôi bay sau biên đội trưởng Yevgenia Zhigulenko. Tôi rất yêu quý Zhenya. Rất nữ tính và mềm mại, cô ấy biến đổi không còn nhận ra trong không trung. Bay với Zhigulenko là hoa tiêu Polina Ulyanova. Khi tiếp cận mục tiêu máy bay của họ bị các dàn đèn chiếu và súng PK tóm lấy trong một vòng vây dày đặc. Tôi nhìn thấy máy bay Zhigulenko lao từ bên này sang bên kia thế nào. Tôi đã thấy người nữ phi công khéo léo thoát ra khỏi lưới lửa ra sao và một lần nữa lại bay về đúng hướng mục tiêu.

Thời điểm đó tôi chưa biết rằng máy bay của cô ấy đã bị thương nặng vì đạn cao xạ. Chỉ khi ở sân bay, chúng tôi mới nhận ra cô nàng Zhenya khiêm tốn của chúng tôi có khả năng lập kỳ tích như thế nào. Chiếc máy bay bị hàng chục lỗ đạn thủng, từng mảnh vải chúc bâu rách rủ xuống, động cơ bị thương, viên đạn đi qua buồng lái của phi công và hoa tiêu... Kỹ sư trưởng của trung đoàn Sofia Ozerkova và kỹ thuật viên trưởng phi đội Dusya Korotchenko chưa từng nhìn thấy bất cứ điều gì tương tự...

Hàng cho quân đổ bộ được thả vào trong sân trường học, nơi mỗi đêm người ta đốt một đống lửa nhỏ cho chúng tôi và đặt một dấu nhận dạng.

Kiểu "ném bom" này đòi hỏi các phi hành đoàn phải đạt độ chính xác rất cao. Do đó, chúng tôi bay đến địa điểm thả hàng ở độ cao 50-70 mét, và khi thả hàng cố gắng hạ độ cao thêm một chút.

(https://upload.wikimedia.org/wikipedia/ru/2/25/Zhigulenko_ea.jpg) (https://upload.wikimedia.org/wikipedia/ru/thumb/f/fc/%D0%92_%D0%BD%D0%B5%D0%B1%D0%B5_%C2%AB%D0%BD%D0%BE%D1%87%D0%BD%D1%8B%D0%B5_%D0%B2%D0%B5%D0%B4%D1%8C%D0%BC%D1%8B%C2%BB.jpg/200px-%D0%92_%D0%BD%D0%B5%D0%B1%D0%B5_%C2%AB%D0%BD%D0%BE%D1%87%D0%BD%D1%8B%D0%B5_%D0%B2%D0%B5%D0%B4%D1%8C%D0%BC%D1%8B%C2%BB.jpg)
AHLX Evgenya Andreevna Zhigulenko (1920-1994); Thiếu tá cận vệ biên đội trưởng trung đoàn nữ KQ cận vệ 46 Taman, phục vụ quân đội cho đến năm 1955. Sau đó giải ngũ làm công tác xã hội tại Sochi, năm 1970 chuyển lên làm việc tại Bộ Văn hóa CHXVLB Nga, năm 1976 tốt nghiệp Trường Điện ảnh VGIK, làm đạo diễn ở xưởng phim thanh thiếu niên Gorky. Năm 1981 bà là đạo diễn bộ phim "Những nữ phù thủy đêm" trên bầu trời" kể về chiến công của các đồng đội trung đoàn cận vệ ném bom đêm Ta-man 46 trong chiến tranh. Trong suốt cuộc Chiến tranh Vệ quốc thượng úy cận vệ E.A.Zhigulenko đã thực hiện 960 phi vụ chiến đấu. Được trao tặng danh hiệu AHLX ngày 23 tháng 2 năm 1945. (http://www.warheroes.ru/hero/hero.asp?Hero_id=1654)

Nhiều khi, từ giữa eo biển bạn đã phải thu cửa gaz và liệng cho đến tận bờ biển Crimean. Bọn phát xít Đức bắn tiểu liên và súng máy cỡ nòng lớn, đôi khi bạn đếm được đến hàng chục lỗ thủng trên vỏ cánh. Còn chiếc máy bay cứ kéo và kéo mãi. Và đây rồi dưới cánh bay là ngọn lửa nhỏ thiêng liêng. Bạn khom mình qua mạn cabin và bạn hét lên điều gì đó có thể:
- Tiếp nữ khách đến thăm đi, bộ binh! Chúng tôi có khoai tây và thuốc chữa bệnh, chuyến sau sẽ thả đạn.
Và hoa tiêu nói thêm:
- Gửi lời chào từ trung đoàn nữ cận vệ 46!
Đáp lại, dưới mặt đất cũng hét lên một cái gì đó, nhưng vì tiếng rít của gió và tiếng ồn của sóng biển xô bờ mà ta không thể phân biệt được các từ. Ít nhất chúng tôi đã nghe thấy tiếng nói: có nghĩa là quân ta đang còn sống.

Thả hàng xong, chúng tôi rẽ ngoặt ngay trên đầu bọn Hitler. Đôi khi chúng tôi tưởng như nhìn thấy hàng chục nòng súng trường và tiểu liên chĩa lên trời như thế nào, nghe thấy tiếng súng bắn pằng pằng. Nhưng chiếc máy bay U-2 bé nhỏ cần cù với hai cánh đầy các lỗ thủng vẫn đứng trong đội ngũ.
Về những chuyến bay của các cô gái cận vệ đến Eltigen, Arkady Perventsev trong "Mảnh đất rực lửa" đã viết một cách nồng nhiệt:

Từ đất liền phía Taman một chiếc máy bay động cơ công suất nhỏ với tiếng kêu pành pành bay đến. Nó hướng đến ngôi làng, nhanh chóng hiện ra rất to và dường như xòe đôi cánh phủ lấy toàn bộ Đất Nhỏ. Đâu đó bên trái một khẩu súng máy PK húng hắng, và những loạt đạn pháo vạch đường đủ mọi màu sắc xiên chéo trong bóng đêm - đỏ, xanh lục, trắng. Tắt động cơ, máy bay hạ độ cao thấp hơn nữa: đầu tóc đen của một người nào đó, đội mũ bay, nghiêng khỏi mạn cabin, và từ bên trên vẳng xuống một giọng con gái lanh lảnh giận dữ:
- Đứng dưới tránh ra! Bắt cá vobla nhanh!
Từ máy bay tách ra những vật gì đó tối sẫm và đập xuống đất nặng trịch. Động cơ ậm ừ như buồn ngủ, nhấp nháy ánh xanh của bộ tiêu âm, chiếc máy bay gần như bay sát trên mặt biển.
- Các cô gái trung đoàn của thiếu tá Bershanskaya - Manzhula cho biết. - Các cô gái cận vệ. Họ đứng chân ở vũng sông Akhtanizovskaya ...


Bây giờ - đó là ký ức. Còn khi đó cuộc đổ bộ Eltigen là một phần máu thịt của mỗi chúng tôi.
Nhiều năm trôi qua. Nhưng không có gì bị lãng quên, không có gì biến mất khỏi ký ức.
Cách đây chưa lâu, tôi được mời tham dự một cuộc gặp gỡ thanh niên tại Bảo tàng Bách khoa. Hội trường lớn, hàng trăm con mắt chăm chú ... tôi kể về những hoạt động của trung đoàn chúng tôi ở Crimea, và dĩ nhiên, các chuyến bay đến Eltigen. Một cơn bão hoan hô vang rền như sấm lay chuyển gian phòng, khi mọi người nghe thông báo cựu chỉ huy đội quân đổ bộ huyền thoại, Anh hùng Liên Xô, thiếu tướng Vasily Fyodorovich Gladkov đang sống ở Moskva. Và trong giờ nghỉ, một người đàn ông đứng tuổi không quen đến gần tôi ở sảnh.
- Thưa người bạn thân thương, yêu quý ... - ông ngập ngừng nói. - Thời gian đó tôi đang ở Eltigen ... Hãy cho phép tôi ôm chị thay mặt cho những người còn sống sót.
Chúng tôi lặng lẽ nhìn nhau rất lâu. Cả hai không thể dùng từ nào diễn tả được những gì đang diễn ra trong các con tim của chúng tôi ...
Các anh hùng Eltigen! Họ chỉ còn lại một ít những thủy thủ-quân đổ bộ dũng cảm. Và anh trung sĩ mắt đen không còn đến được để trả chiếc mũ sắt cho Anya Bondareva. Và rồi chẳng bao lâu sau, không trở về từ chuyến bay là bản thân Anya...
Sau chiến tranh, tôi đã có dịp thăm lại Peresyp. Tại nơi từng là sân bay của chúng tôi, bây giờ chỉ có tiếng ồn của sóng biển vỗ bờ. Không có gì ở đây gợi nhớ đến cuộc chiến. Cầu cho nó được mãi mãi như vậy!

* * *

Một lần sau khi vượt qua cơn bão, nhưng bị mất lái, một vài tàu đổ bộ bị trôi dạt trên biển. Bay đi làm nhiệm vụ tìm kiếm các con tàu bị nạn có các kíp bay của Olga Sanfirova, Maria Smirnova, Vera Tikhomirova, Nadezhda Popova, Nina Khudyakova và tôi. Thời tiết không thuận lợi cho chúng tôi. Gió thổi rất lạnh. Thân và cánh máy bay nhanh chóng đóng băng. Động cơ làm việc không ổn định thỉnh thoảng gián đoạn, đương đầu với sức cản của gió và tải trọng băng phụ trội thật khó khăn. Khi mô tơ bắt đầu khục khặc thường xuyên, trái tim thắt lại. Mô tơ ngừng làm việc hoặc tắt lịm - chúng tôi sẽ không còn nhìn thấy những ngôi nhà xây đá vôi bé nhỏ của Peresyp.

Katya Ryabova lúc này đang huấn luyện phi công, và tôi phải bay tìm kiếm các xuồng đổ bộ với một hoa tiêu trẻ. Đó là lúc tôi cảm thấy đặc biệt sâu sắc sự cần thiết như thế nào các kỹ năng bay phối hợp, lòng tự tin trong công việc của chúng tôi. Các hoa tiêu trẻ dường như nắm vững nghề nghiệp của mình, làm việc siêng năng trong không trung, nhưng tôi luôn luôn phải cảnh giác, tự mình theo dõi chặt chẽ tình huống, hướng bay. Trong sương mù dày đặc treo trên mặt biển một thời gian dài, không có gì lạ nếu ta đâm phải các máy bay của quân mình đang quần thảo ngang dọc cùng một ô vuông đã cho. Thường xuyên còn cả mối đe dọa nguy hiểm bị máy bay tiêm kích kẻ thù tấn công, bởi vì việc tìm kiếm diễn ra ban ngày.

Một lần điều đó đã xảy ra. Mê mải tìm kiếm, tôi không nhận thấy trời đã quang đãng hơn một chút. Nhiên liệu trong thùng dầu còn ít, và tôi quyết định lấy độ cao, để trong trường hợp cần thiết sẽ đến được bờ bằng cách liệng. Sau khi nghếch mũi, chiếc U-2 bắt đầu leo cao theo đường xoắn ốc. Ngay lúc đó trên đầu chúng tôi những đám mây khẽ tản ra, và bầu trời xanh phơn phớt hiện ra qua lỗ thủng trong màn mây.

Ô cửa sổ này mở rộng mãi, trời quang lên, một rìa của nó đã nhuốm màu vàng rực trong ánh mặt trời. Thật hay nếu bay lên đó dẫu chỉ trong một giây, nhìn những gì đang xảy ra trên ấy, đằng sau lớp lớp mây dày. Chỉ đáng tiếc là không đủ trần bay.
- Đồng chí chỉ huy! - Luồng suy nghĩ của tôi bị gián đoạn bởi giọng nói sợ hãi của hoa tiêu. - Nhìn kìa. Có lẽ máy bay phát xít.
Bản thân tôi đã nhận thấy thoáng vụt qua chỗ hở của trần mây một chiếc thân kép của "khung tranh" (các cựu chiến binh mặt trận thường gọi chiếc máy bay trinh sát của kẻ thù có tốc độ cao và hình dạng bất thường như vậy). Vậy tên gián điệp Hitler kia có phát hiện ra chúng tôi hay không? Dù sao, tôi lập tức đưa máy bay chuyển tư thế và trượt nó xuống phía dưới. Chỉ cần đi khuất vào biển "sữa"! Nếu kịp thời - chúng tôi sẽ thoát: tên phát xít sợ màn sương mù treo thấp trên biển và sẽ để cho chúng tôi yên.
Mà cũng có thể hắn không phát hiện ra chúng tôi, và nỗi sợ hãi của tôi là vô ích? Không, không vô ích. Một vệt đạn vạch theo rìa sẫm tối của đám mây. Tôi nhìn lên, và sởn hết gai ốc trên sống lưng: chiếc “khung tranh” phát xít đang nghiêng cánh lao xuống phía chúng tôi cùng với những luồng đạn súng máy nhả ra liên tục. Khoảng cách nhanh chóng giảm xuống.
"Có vẻ như, ta không kịp rồi - một ý nghĩ lóe lên trong đầu tôi. - Mà cái gì không đến sẽ không đến!"
Khoảng cách đến tên phát xít còn khá nhỏ, khi tôi trong cơn tuyệt vọng chuyển máy bay sang tư thế bổ nhào. Điều đó rất nguy hiểm: đến mặt nước chỉ có thể tính bằng con số mét và tiếp đó là cái chết không thể tránh khỏi. Nhưng không có cách nào khác!

"Ta-ta-ta" - những tràng súng máy gõ trên đầu. Và mọi việc cũng qua. Đây rồi sương mù. Một bức màn dày bao phủ thật chặt chúng tôi. Tôi lập tức ghì cần lái về phía mình, và chiếc U-2, như con ngựa nóng tiết, sau khi cảm thấy chiếc hàm thiếc cứng như thép, bắt đầu chạy chậm lại. Vẽ một hình vòng cung trơn tru, máy bay chuyển sang tư thế bay bằng. Vừa kịp - dưới cánh xuất hiện những đỉnh sóng sủi bọt.

Trong tai nghe mũ bay có một tiếng thở dài nhẹ nhõm - đối với cô bé hoa tiêu trẻ, đó là một thử thách khó khăn.

* * *
........


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 11 Tháng Chín, 2015, 04:54:43 pm
(tiếp)

Trận đánh giành bàn đạp trên bờ biển Crimea vẫn đang tiếp tục. Cuối cùng bộ chỉ huy Soviet cũng ném được quân tiếp viện lên Eltigen. Vượt qua sức đề kháng ác liệt của kẻ thù, các chiến sĩ đổ bộ chậm nhưng chắc chắn gặm nhấm tuyến phòng thủ của bọn Đức và dần dần mở rộng đầu cầu. Chúng tôi đã hỗ trợ các chiến sĩ bộ binh và thủy thủ hết sức có thể, khi đêm này sang đêm khác công kích các trận địa của kẻ thù.

Giai đoạn ấy chúng tôi bay rất nhiều. Một lần, sau một phi vụ đặc biệt thành công Katya Ryabova nói:
- Cậu biết không, Marina, chúng mình ban đầu không hình dung được mình sẽ làm gì trên mặt trận - bắn súng tự động, nấu súp cho các chiến sĩ hay băng bó các thương binh. Với chúng mình, các nữ sinh viên, dù gì cũng như nhau. Chỉ cần được chiến đấu để đánh bại kẻ thù đáng căm ghét. Cuộc chiến tranh trên bầu trời đã thành số phận của chúng mình. Tớ nghĩ chúng mình đã may mắn. Mặc dù không chắc cậu từng nghe được từ tôi những lời nói khác, nếu như người ta đào tạo chúng mình thành các xạ thủ pháo binh, xạ thủ bắn tỉa hoặc y tá...

(http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/79.JPG)
Các nữ phi công và hoa tiêu trung đoàn xác định nhiệm vụ chiến đấu. Trái sang phải: Vera Khurtina, Тanya Оsоkina, Lena Nikitina, Тonya Rozova, Sasha Popova và Masha Rukavitsyna (http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/ill.html)

Trong suốt cuộc chiến, chúng tôi mơ ước về một cuộc sống hòa bình.
- Các cô có thể tưởng tượng được không, hỡi các cô gái - Katya kêu lên, - con người chúng ta sẽ hạnh phúc như thế nào sau chiến tranh! Đây tôi nhìn vào các đồng đội cùng trung đoàn của mình, các cựu sinh viên: đối với nhiều người sau chiến thắng, cuộc sống bắt đầu từ điểm mà chiến tranh đã dừng nó lại, nhưng theo một cách khác, họ sẽ đánh giá mãnh liệt hơn và sâu sắc hơn tất cả những gì đất nước của chúng ta, tuổi trẻ của chúng ta mang lại cho chúng ta...

Một lần, trước khi bay đi làm nhiệm vụ chiến đấu, ngồi trong buồng lái máy bay, tôi quan sát Katya. Đây này, cô ấy ngồi và bình thản nhìn các cô gái-quân khí viên treo bo. Cô sắp bay với tôi. Chiếc máy bay có thể sa vào lưới lửa của súng PK, có thể bị những chùm đèn chiếu PK bắt được, máy bay tiêm kích của đối phương đánh chặn nó... Tóm lại, chuyến bay có thể là chuyến bay cuối cùng. Nhưng Ryabova rất bình thản. Và tôi nghĩ, "Đây có phải là chính Katya, người đứng nửa giờ trước cánh cửa, không dám vào phòng, nơi giáo sư nhận bài kiểm tra? Katya, người một điểm bốn hiếm hoi thay vì điểm năm là sự thất vọng lớn nhất trong cuộc đời tôi?"

Đêm Tháng Mười Một năm 43, chúng tôi bay đi ném bom nơi tập trung các đơn vị và khí tài quân sự của bọn Đức tại ga Bagerovo nằm ở phía tây thành phố Kerch. Từ trên không, nhà ga được bảo vệ bởi một lực lượng phòng không lớn. Chỉ riêng đèn chiếu đã hơn hai mươi dàn. Để đánh lạc hướng bọn Hitler, sau khi lấy độ cao, chúng tôi bay tới Bagerovo từ phía sau, và sau đó, giảm nhỏ động cơ, liệng tới mục tiêu. Nhưng chính thời điểm này các dàn đèn chiếu làm việc. Chùm sáng nhanh chóng bắt được chúng tôi. Pháo cao xạ khai hỏa. Katya ra lệnh giữ nguyên hướng. Tôi liên tục cơ động theo cao độ. Ryabova "treo" trên đầu nhà ga hai trái bom sáng. Trên đường xe lửa thấy rõ các đoàn tàu. Màn đạn PK ngày càng dày đặc hơn. Nhưng Katya đã đưa tôi đến mục tiêu, và một loạt bom bay xuống.
Nhiệm vụ đã được hoàn thành.

* * *

Thời tiết trong tháng mười một xấu đi nhanh. Thường xuyên có tuyết rơi xen kẽ với mưa, sương mù, mây thấp - tất cả điều này gây cản trở rất nhiều cho các chuyến bay.

Giai đoạn tạm lắng trên mặt trận đã đến. Mất hy vọng đẩy quân đổ bộ Liên Xô xuống biển, kẻ thù tăng cường củng cố tuyến phòng thủ của chúng. Các đơn vị của chúng tôi trên bán đảo Kerch cũng đào công sự và chờ quân tiếp viện.

Ban chỉ huy trung đoàn quyết định sử dụng thời gian nghỉ ngắn để các đội bay nghỉ ngơi. Katya Ryabova và tôi được gửi đi nghỉ hai tuần tại Kislovodsk.
- Xem ra các cô chưa yêu, - thiếu tá Bershanskaya dặn dò chúng tôi một cách đùa bỡn. - Trong khu nghỉ mát có rất nhiều nam sĩ quan, họ đã biết chúng ta, và mỗi người sẽ lấy làm thích thú được làm quen với các cô. Vì vậy, hãy giữ mình theo phong cách cận vệ.
- Không có gì, - Katya đáp - cho đến khi kết thúc chiến tranh chúng tôi chỉ có duy nhất một tình yêu, không thay đổi - tình yêu đối với các vụ ném bom.
- Ôi vậy ư các bạn? - Irina Rakobolskaya mỉm cười. - Đã có một thời tôi cũng nghĩ vậy. Và đến khi một cậu trai bắt đầu nhìn ngắm tôi một cách ngưỡng mộ trong trường đại học, và suýt nữa thì tôi mất đi sự tự do của mình.
- Đấy là trong thời bình.
- Trong chiến tranh chúng ta càng buồn nhớ hơn những nụ cười ấm áp và lời âu yếm. Và chuyện đó có gì xấu đâu? Bản thân tôi từ lâu đã yêu một anh chàng bocharov (*), nhưng Evdokia Davydovna không cho phép. Chị ấy nói, này tham mưu trưởng, ở mặt trận - tình yêu là không được phép đâu.
- Đừng có gạ gẫm các cô gái, đại úy nhé, - Bershanskaya cười mát, - nếu không đơn vị chúng ta sẽ trở thành trung đoàn của những người yêu nhau. Nào, các nữ cận vệ, tôi chúc các bạn nghỉ ngơi tốt.

Chúng tôi giơ tay chào và đi thu xếp hành lý đi đường. Trước khi khởi hành đi Kislovodsk, theo công việc chúng tôi phải có mặt ở stanitsa Akhtanizovskaya, nơi tiểu đoàn đảm bảo sân bay đóng quân và nơi đặt căn cứ của trung đoàn máy bay cường kích. Thật trùng hợp, các phi công đang có một ngày nghỉ - người ta trao tặng họ các phần thưởng của chính phủ. Nhân dịp này, sau phần nghi lễ chính thức, người ta tổ chức nhảy múa. Vâng, tất nhiên họ cũng kéo chúng tôi đến đó. Chúng tôi thoái thác, viện cớ công việc, rồi cũng phải nhường bước trước các lời mời khẩn khoản. Đặc biệt cố gắng thuyết phục chúng tôi là một thượng úy đeo rất nhiều huân chương trên chiếc áo va rơi mới tinh.

Thực ra, tôi không phải là không thích nhảy, và cũng không phải thuyết phục tôi điều gì quá đặc biệt, nhưng Katya tỏ ra rất bướng bỉnh. Tuy nhiên, hiện tại cô ấy có lý do cho điều đó. Katya bị tắc tuyến lệ và cô ấy đi lại với một cái đầu đang bị băng bó. Và bộ dạng chúng tôi không hề có vẻ là đi nghỉ lễ. Chúng tôi vận quần dài công tác, áo va rơi, và bên ngoài là áo choàng.
- Dù sao, chúng tôi cũng sẽ không để các cô đi, - anh phi công khăng khăng và sau đó lớn tiếng tuyên bố: - Các đồng chí, các chiến sĩ cận vệ của Bershanskaya đến thăm chúng ta. Chúng tôi cần sự giúp đỡ khẩn cấp, nếu không những con chim lửa này sẽ bay đi.
Và chúng tôi còn không kịp nhìn quanh thì đã ở giữa một đám đông dày đặc các nam phi công cường kích tươi cười.
- Và bây giờ chúng ta làm quen nhé. Grigory Sivkov.
- Cậu biết không, Marinka, - Katya thì thầm và cởi chiếc áo khoác của mình - anh này có vẻ là một chàng trai chiến binh đây.
- Sao mà thích nhanh thế?
- Ý cậu là gì? - Katya cảnh giác.
- Thế cậu quên cuộc trò chuyện với Bershanskaya rồi à?
- Lại còn thế đấy! Bây giờ sao nào, cậu sẽ ra lệnh nhìn đàn ông như nhìn con sói à? Mà sau đó phải nói rằng tớ có muốn ở lại đâu. Việc này là lỗi của cậu.
- Vậy nếu cậu yêu, cậu cũng sẽ đổ lỗi cho tớ à?
- Không phải cậu, mà Sivkov cơ - Katya nhanh nhẹn trả lời và cuốn vào một điệu nhảy xoay vòng với Grigory.
Chúng tôi trở về nhà vào lúc hoàng hôn. Chiếc "gát" cũ, nhuộm bùn đầy cả hai bên thành xe, vật qua vật lại không thương tiếc trên con đường bị phá hỏng bởi những ổ gà. Nhưng Katya không nhận thấy có gì bất ổn. Ngồi trên hòm đạn, cô im lặng, thỉnh thoảng trên khuôn mặt của cô thoáng qua một nụ cười hạnh phúc.
- Cậu nghĩ gì Marinka - cô ấy đột nhiên hỏi - đó là một trùng hợp ngẫu nhiên hay anh ấy cố ý làm điều đó?
- Anh ta là ai và đã làm gì? Cậu có thể giải thích dễ hiểu hơn chứ?
- Cậu biết đấy... - Katya lưỡng lự một chút. - Anh ấy ... nào, một câu thôi, Sivkov cũng sẽ nghỉ tại Kislovodsk. Và trong cùng một nhà điều dưỡng với chúng ta.
- Hừm ... - Tôi muốn, mà cũng không thể ghìm được mình bật cười, đôi môi giãn ra trong một nụ cười lớn.
- Tại sao cậu lại im lặng! Vâng, thì tớ thích anh ấy! Thế thì sao nào?! Lẽ nào tớ có trái tim bằng đá!
Katya dừng lại, quay ngoắt đi chỗ khác, có lẽ là giận dỗi.

... Tôi không thể nghỉ ngơi được ở Kislovodsk. Ngày hôm sau, sau khi tôi đến khu nghỉ mát, đột nhiên tôi lên cơn sốt. Sivkov và Katya đưa tôi đến bệnh viện của tập đoàn quân ở Yessentuki. Nhiệt độ cao duy trì suốt mười ngày. Katia đến với tôi hằng ngày, nhưng cô không được phép vào buồng bệnh: tôi bị nghi ngờ mắc bệnh bạch hầu.

May mắn thay, đang điều trị trong bệnh viện có kỹ sư của một trong các phi đội của trung đoàn chúng tôi Tatiana Alekseeva. Chị được phép của bác sĩ trưởng cho trực gần tôi. Và chị đã làm điều đó rất tận tâm. Bất cứ khi nào tôi mở mắt ra, Tanya đã ở ngay bên cạnh. Tôi chẳng có thể ăn được gì, chỉ nuốt được những ngụm sô cô la sữa một cách khó khăn, mà chị ấy cho tôi uống bằng thìa. Tôi gầy rộc và thở hổn hển theo đúng nghĩa đen. Các bác sĩ không thể chẩn đoán và nhún vai bất lực. Một số người nói tôi mắc bệnh bạch hầu, những người khác phản đối, nhưng không thể xác định được bệnh.

Tình cờ, tôi nghe được cuộc trò chuyện với một y tá của Tanya Alekseyeva. Qua đó tôi hiểu rằng các bác sĩ lo sợ cho mạng sống của tôi. Tôi đã kiệt sức đến mức thậm chí phản ứng một cách bình tĩnh. Chỉ tức giận và cay đắng vì sẽ phải chết khi nằm trên giường sắt bệnh viện. Trong trận chiến có chỗ nào mà còn chưa tới, ở đó chúng tôi đã quen với việc nhìn cái chết tận mắt. Nhưng chia tay với cuộc sống thế này thì quá vô lý...

Tôi nguệch ngoạc trên một mẩu giấy yêu cầu báo tin về nhà cho cha tôi biết về tình trạng của tôi. Tanya tức giận, vẫy tay và nhanh chóng ra khỏi phòng. Và buổi tối, chị dẫn một người đàn ông cao lớn không quen, có mái tóc màu đen huyền tới.
- Virabob - Tanya khẽ nói với tôi, trong khi ông đang rửa tay dưới vòi nước, - một nhà tai mũi họng giàu kinh nghiệm, tiến sĩ y khoa.
Học vị của Virabov chẳng nói lên với tôi điều gì, chỉ là một từ dài hấp dẫn và không thể hiểu nổi "otolaringolog". Con người sở hữu một tước vị như vậy, sau khi kiểm tra cổ họng của tôi, giận dữ lẩm bẩm:
- Viêm amiđan song phương thể nặng...
Và sau đó ông nói thêm cái gì đó mà tôi đã không nghe được. Nhiều khả năng nhất là những lời không dễ nghe về các đồng nghiệp của ông, bởi vì vị bác sĩ bệnh viện đang đứng cạnh ông đỏ mặt tía tai. Virabob mở miệng tôi ra, đút vào đó một cái thìa nhỏ, ép vào một chỗ nào đó, tôi cảm thấy dường như ở tiểu não có một cái gì động vào, và lập tức thấy dễ thở hơn.
- Cô gái cận vệ - vị cứu tinh của tôi nói. - Bây giờ tất cả là chuyện calo. Y học không còn cần cho cô nữa.

Một vài ngày sau, tôi đã đứng dậy được trên đôi chân của mình. Và kịp thời. Vào đầu tháng mười hai, quân đội Liên Xô đóng quân ở Eltigen, đột ngột giáng một đòn chớp nhoáng, chọc thủng tuyến phòng thủ của đối phương, tiến ra khu vực phía nam thành phố Kerch. Trung đoàn, một lần nữa, bắt đầu hoạt động hết công suất. Bây giờ, hoạt động của chúng tôi chuyển sâu vào bên trong bán đảo. Chúng tôi ném bom đường giao thông của kẻ thù ở phía tây Kerch, đường sắt Kerch - Vladislavovna, các địa điểm cố thủ Katerlez, Tarkhan, Bagerovo, Bulganak, nơi có các kho chứa nhiên liệu lớn và đạn dược của kẻ thù.

Sau khi khỏi bệnh, tôi cảm thấy không khỏe, rất nhanh mệt, do suy nhược mà thường xuyên chóng mặt. Trung đoàn trưởng luôn chăm sóc các cấp dưới của mình và thể hiện sự cực kỳ nhạy cảm. Vì vậy, trong những ngày đầu tiên sau khi về đơn vị, người ta cố gắng không để tôi làm việc. Nhưng mỗi phi công đều phải tính đếm, và tôi cố gắng để bay thường xuyên nhất theo khả năng có thể. Cuối cùng, tuổi trẻ đã lấy lại thứ vốn có của mình. Một tuần sau tôi đã làm việc hết công suất.

Trong thời gian ở bệnh viện, tôi đã quên về tình bạn của Katya Ryabova với Grigory Sivkov. Và khi tôi quay trở lại trung đoàn, lập tức công việc đổ dồn dập xuống đầu phi đội, sau đó bắt đầu các chuyến bay, và tất nhiên, tôi đâu còn thời gian nghĩ đến nó. Katya dường như đã có những suy nghĩ rất khác, đã trải nghiệm. Dù sao, cô ấy cũng không hé ra một lời nào về mối quan hệ của mình với Grigory.

Một lần sau khi ném bom các đoàn xe lửa tại ga đường sắt Bagerovo nơi chúng tôi suýt bị bắn hạ, trên đường trở về tôi nhớ đến chàng phi công cường kích hiên ngang và nói với Ryabova:
- Điều gì, Katyusha, "sự lừa dối an ủi chúng ta một thời gian ngắn bằng tình yêu, hy vọng, vinh quang lặng lẽ"?
- Ý cậu nói cái gì?
- Giả vờ à? Không phải cái gì, mà là ai.
- Oh, vậy á ... Hãy rẽ tới Akhtanizovskaya, khi đó cậu sẽ biết.
- Tại sao lại là Akhtanizovskaya?
- Nào, tớ cầu xin cậu đấy. Anh ấy đang chờ đợi tớ ở đó.
- Cậu có điên không! Cậu nghĩ rằng chúng ta có quyền hạ cánh ở đó cơ đấy! Không, Katya, tình bạn là tình bạn, còn công việc là công việc.
- Hạ cánh thì không cần. Chúng ta chỉ bay qua trên đầu anh ấy, và anh ấy sẽ hiểu.
- Được, vậy thì có thể.
Khi tiếp cận Peresyp tôi cố kéo dài "quả nang" - hành trình khi vào tuyến hạ cánh - và gần như bay sát ngọn cây qua Akhtanizovskaya.
- Nháy đèn thân đi! Nhanh lên! - Katya giục.
Tôi thực hiện mong ước của cô ấy.
- Đúng chỗ rồi - Ryabova thốt ra một tiếng thở nhẹ nhõm.
- Cậu sao vậy, giống chim cú thế, trong đêm tối vẫn nhìn thấy cơ à?
Katya cười phá lên.
- Nhìn sang bên trái, tự cô sẽ thấy cô nhé.
Tôi nhìn qua một bên. Trên mặt đất, một người nào đó nhấp nháy đèn pin.
- Grisha đấy. Chúng tớ đã thỏa thuận từ trước và thỉnh thoảng "gặp nhau" như vậy.
- Thế chuyện về tình yêu duy nhất và không thay đổi với các vụ ném bom đâu rồi? Có nên báo cáo Evdokia Yakovlevna không nhỉ?
- Cậu cứ cười tớ đi!
- Chuyện gì đây, suốt chiến tranh cứ thế, cứ nháy đèn thôi à cô? Hay là đôi khi anh ả cũng có gặp nhau?
- Bây giờ thì gặp gỡ kiểu gì? Chúng tớ trao đổi thư từ qua hòm thư dã chiến. Khoảng cách năm cây số, một bức thư chờ đợi cả tuần. Khủng khiếp!
- Mà cậu ném thư xuống cánh đồng đi. Cứ để chàng cầm đèn pin đi và tìm.
- Cái cậu này! - Katya tức giận. - Cậu thì cái gì cũng thành chuyện cười. Uổng công tớ đã lộ bí mật của mình cho cậu. Lại còn nhạy mồm nhạy miệng nữa chứ, khi đó người ta sẽ không để cho các cô gái yên thân.
- Bình tĩnh nào, sẽ không ai biết hết. Còn cậu thì tôi sẽ thường xuyên chở tới chỗ người yêu cho đến khi bản thân cậu cũng nhạy mồm nhạy miệng cho mà xem. Chỉ có điều nếu Bershanskaya biết về những chuyến đi đêm của chúng ta, thì này, cô sẽ nhận được một lời khiển trách đấy cô nàng nhé.

Một tình yêu lớn, tình yêu đích thực đến với Katya Ryabova như thế đấy. Katyusha xứng đáng với nó, và tôi vui mừng cho người bạn gái của mình. Nhưng đôi khi không hiểu sao tôi cảm thấy buồn. Không phải vì ghen tị, không! Đó là một nỗi buồn lành mạnh, nhẹ nhàng, mặc dù được khêu gợi bởi hạnh phúc của một người khác, nhưng gần gũi với tôi, nỗi buồn tràn đầy những hy vọng con gái và sự mong đợi rằng hạnh phúc của bạn đang lang thang đâu đó, có thể rất gần đây mà thôi.

(http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/53.JPG)
Meri Avidzba, Klava Serebryakova, AHLX Dusya Pasko, Аnya Bоndareva, Vera Tikhomirova (http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/ill.html)

Các kíp bay tiếp tục bay trong các điều kiện thời tiết bất lợi. Đây là giai đoạn căng thẳng tối đa của tất cả sức mạnh về tinh thần và thể chất của chúng tôi. Những ngày này, các bạn gái của chúng tôi, Tasia Volodina và Anna Bondareva đã hy sinh. Nhiều máy bay bị hư hỏng. Nhưng nhiệm vụ vẫn được thực hiện đến cùng.

Một đêm tại khu vực Kerch, bay sau phi hành đoàn của tôi với Ryabova là kíp bay Pasha Prasolova cùng hoa tiêu Clava Startseva. Điều kiện thực hiện nhiệm vụ rất khó khăn. Katya và tôi rất lo lắng cho các đồng đội trẻ cùng trung đoàn. Tất cả các phi hành đoàn đêm đó đều trở về sân bay của mình. Chỉ không có máy bay của Prasolova và Startseva.

Như sau này được biết, một mảnh đạn cao xạ đã rơi trúng động cơ máy bay của họ. Áp dụng tất cả các kỹ năng của mình, Pasha và Clava đã hạ cánh khẩn cấp xuống vùng trung lập. Khi quân ta chạy đến máy bay, họ tìm thấy hai cô gái trong tình trạng rất nghiêm trọng: Pasha khi kiểm tra y tế phát hiện gãy bảy xương sườn, Clara là hai. Máy bay cứu thương đưa họ tới Krasnodar buổi sáng. Tại bệnh viện đã bắt đầu cuộc đấu tranh giành cuộc sống cho những người bạn gái của chúng tôi.

Clava Startseva phục hồi khá nhanh chóng và trở về trung đoàn ruột thịt của mình. Còn Pasha không còn được bay nữa. Trong gần hai năm, cô chuyển qua các bệnh viện khác nhau. Các bác sĩ rất khó khăn mới giữ lại được tay và chân cho cô, nhưng cô đã trở thành người tàn tật vĩnh viễn...

Một thời gian ngắn sau bất hạnh của Prasolova và Startseva, tôi phải chịu đựng một nỗi đau cá nhân lớn lao. Nó làm tôi mất nề nếp một thời gian dài, làm trái tim tôi đau đớn rất nhiều. Chuyện xảy ra vào tháng mười hai. Đêm ấy không bay - bão đang hoành hành trên biển, mây đen dày đặc trườn trên mặt đất trần trụi. Tuyết lớn không ngừng rơi xen lẫn với mưa. Chúng tôi bơ phờ ngồi trong hầm trú ẩn tại sân bay và chìm đắm trong những suy nghĩ không vui.

Thông qua tiếng gió gào thét vẳng đến tiếng bánh xe tải. Sau một vài phút bên ngoài có tiếng hét lên sung sướng: "xe lưu động!" Người ta mang đến trung đoàn bộ phim mới "Hai người lính".

(*): một câu nói đùa của Irina Rakobolskaya, nhắc đến trung đoàn nam KQ ném bom cùng sư đoàn, cũng sử dụng máy bay Po-2 do K.D.Bocharov chỉ huy đóng bên cạnh trung đoàn nữ KQ ném bom do E.D.Bershanskaya chỉ huy.
........


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 12 Tháng Chín, 2015, 01:52:34 am
(tiếp)

Trong căn nhà âm lớn nhất người ta căng trên tường một tấm vải lớn, lắp đặt máy chiếu phim. Ai cũng muốn có mặt trong buổi chiếu đầu tiên, vì vậy mọi người chen chúc nhau chật như nêm, chật đến nỗi táo có chín cũng chẳng có chỗ mà rơi xuống. Những hàng trước gần như áp sát màn ảnh, các hàng sau ép tất cả về phía trước.
- Hầm kiểu gì thế này, phải gọi là cao su mới đúng! - những người may mắn càu nhàu.
- Không sao cả, giãn ra nào! - người ta hét toáng lên ở cửa. - Một, hai - uỵch!
Sau mỗi tiếng kêu như thế lại thêm hai hoặc ba người chen chúc vào hầm. Chật chội khủng khiếp. Nhưng khi bộ phim bắt đầu, lập tức căn hầm trở nên như rộng hơn.

Điều kỳ diệu là bản thân bạn cũng tựa hồ như không còn chú ý đến chiến tranh. Còn từ một phía, tất cả đều trông có vẻ khác hẳn, có ý nghĩa hơn, và bạn ngạc nhiên, bạn vui sướng, xuýt xoa, trái tim đau nhói vì những gì mà thường bạn thậm chí không để ý. Nghệ thuật dường như gột rửa, soi sáng những suy nghĩ và cảm xúc của bạn, đưa chúng đi qua lăng kính thần kỳ của mình.

(http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/54.JPG)
Trong lúc nghỉ ngơi: Ksenya Karpunina, Natasha Merklin và Zhenya Rudneva (http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/ill.html)

Giữ hơi thở, tôi nhìn trên màn ảnh những hình ảnh quen thuộc của cuộc sống ở tiền tuyến lướt qua, trái tim tràn đầy lòng biết ơn đối với những người dân bình thường, bằng ý chí của số phận mà họ đã trở thành chiến sĩ.
- Chechneva ra ngoài! - Một giọng nói to vang lên ở cửa.

Bất đắc dĩ, tôi đứng dậy khỏi chỗ ngồi, chen lách tới lối ra. Nam diễn viên Mark Bernes vừa cầm cây đàn guitar lên và bắt đầu hát:

Những chiếc sà-lan chở đầy cá đối,
Kostya dẫn vào Odessa...


Khuôn mặt của Bernes tôi còn chưa nhìn thấy - cây xà ngang che mất mặt ông. Tôi chỉ phân biệt được các ngón tay gảy dây đàn, và nghe được giọng hát ngân vang tha thiết.

Nén tiếng thở dài, tôi bước ra khỏi căn hầm âm đi vào trong bóng đêm ẩm ướt. Tôi đứng lại một chút. Trong tai vẫn còn vang giọng ca của người nghệ sĩ, và hình dung ra biển lặng, lấp lánh dưới ánh mặt trời, biển mà hiện giờ tôi vẫn bay trên đó, gần như hằng đêm, và lúc này đang quyết liệt đập vào bờ dốc đứng sau rìa sân bay.

Tôi biết ơn Mark Bernes biết dường nào vì bài hát mộc mạc này. Bài hát nâng đỡ tôi trong những giây phút khó khăn nhất của cuộc đời, khi tôi đọc, trong căn phòng nhỏ chiếu sáng lờ mờ của ban tham mưu trung đoàn, bức thư thông báo về cái chết của cha tôi.

Tôi đứng bao lâu trong bàng hoàng tê tái, tôi không biết nữa. Nhưng tôi nhớ rất rõ tính hai mặt của những cảm xúc trải qua khi ấy. Giống như một ảo ảnh xa xôi, tôi tưởng thấy như trong một màn khói "biển hiện hình xanh xanh phía sau đại lộ". Và ngay cạnh đó xuất hiện một vực sâu tăm tối, buốt lạnh tâm hồn. Bên kia vực sâu ấy không có gì ngoài cái chết của con người thân thiết nhất, gần gũi nhất trên thế gian, người không chỉ là cha mà còn là một người đồng chí, một người bạn lớn, người bạn chân chính.

Cha thấy và biết rất nhiều, mặc dù ông mãi mãi chỉ là một công nhân giản dị. Ông từng còng lưng vì những người giàu, tham gia Cách mạng tháng Mười, đánh bại bọn phản cách mạng trong nội chiến. Sau đó, cánh tay của ông góp phần xây dựng và củng cố chính quyền Soviet. "Chính quyền của chúng ta luôn đứng cùng con, Marinka," - ông thường nói với tôi.

Chúng tôi sống không dễ dàng, nhưng tôi chưa bao giờ nghe những lời bất mãn từ cha. Tôi nhớ, ông tức giận khủng khiếp, khi ai đó phàn nàn, than phiền về khó khăn.
- Tại sao cha lại đối xử với ông ấy như thế? - một lần khác tôi đứng về phía một người mà cha tức giận với ông ấy. - Ông ấy thực sự khó khăn mà.

- Có thể là ông ta khó khăn. Nhưng con phải hiểu, con gái của cha ạ, những cuộc trò chuyện đó không phải là vì khó khăn, mà là vì nhiều người vẫn sống theo cách cũ. Phải chịu đựng cảnh nghèo đói vào thời của mình, và bây giờ, vì chính quyền là của ta, họ muốn nhận được nhiều hơn thứ mà chính quyền có thể cho. Điều đó giống như bắt một đứa trẻ mới đầy tháng phải biết đi. Phải hiểu rằng, có nấu cơm chín rồi mới có ăn. Mà khó khăn của ông ta là gì? Cha đang sống tốt hơn trước, con sẽ sống còn tốt hơn, và các cháu của con nữa, tất cả sẽ sống vui vẻ hơn nhiều so với chúng ta. Thế đấy, sẽ không ai phải sống như cha đã sống nữa đâu. Hãy nhớ kỹ điều này, con gái ạ!

Vâng, con nhớ rất rõ lời nói của cha, cha tôi, người bạn và người đồng chí. Vì vậy mà tôi làm việc và học tập, vì vậy mà tôi bắt đầu bay, vì vậy mà tôi ra mặt trận. Luôn luôn và ở khắp mọi nơi, con đều nghĩ về cha. Cha và hàng triệu người như cha đã dẫn dắt con vững vàng đi trên mặt đất, cha là tình yêu và niềm vui lớn nhất của con. Và bây giờ cha không còn nữa. Và chúng ta sẽ không bao giờ chia tay nhau. Những người như vậy, như cha, kể cả khi đã chết vẫn như đang còn sống!

... Ở mặt trận, tôi nghĩ rất nhiều về Moskva, nhớ lại những chi tiết năm tháng trước chiến tranh. "Bây giờ nó thế nào, Moskva? Sống thế nào? Trông thế nào?" Câu hỏi này, theo ý kiến của tôi, mỗi người trong chúng ta hồi ấy đều đặt ra cho mình.

Thư ra mặt trận đi rất lâu. Vào cuối tháng 12, tôi nhận được một cánh thư từ người bạn gái Lida Maksakova của mình.

Tôi với Lida cùng học với nhau tại câu lạc bộ HK quận Leningrad của thủ đô, cùng tốt nghiệp ban phi công và huấn luyện viên, trước khi chiến tranh nổ ra, cả hai trong thời gian rảnh đều làm công tác của các phi công-huấn luyện viên. Maksakova lớn tuổi hơn tôi và chị ấy học tại Khoa Lịch sử MGU, còn tôi vẫn đang học phổ thông. Nhưng CLBHK đã kết bạn cho chúng tôi. Lida thường xuyên viết thư ra mặt trận cho tôi, thông báo cho tôi biết tất cả tin tức về Moskva, về những người quen chung của chúng tôi, về cuộc sống tại hậu phương.

Lúc bắt đầu chiến tranh, chị là một phi công-huấn luyện viên. Chị khao khát ra mặt trận, nhưng không được. Chị được cử đến làm việc tại Ủy ban Trung ương Đoàn Komsomol.

Marina thân yêu của tôi! - tôi hồi hộp đọc, - bạn có hình dung được bây giờ Moskva như thế nào không? Đường phố phủ đầy tuyết. Tháng 12 năm 1943. Hoàng hôn đang xuống trên thành phố. Trên đường phố đông người, nhưng ít xe ô tô, và con đường như dải ruy băng trắng hiện lên từ xa. Do có tuyết mà trên phố sáng hơn, và người Moskva, những người đã quen với việc che bớt ánh đèn trong nhà, với các con phố không được chiếu sáng, nay tự do định hướng thậm chí không cần có điện. Thành phố sống cuộc sống công việc của thủ đô lớn đang chiến đấu và tin tưởng vào chiến thắng của đất nước. Các nhà máy và xí nghiệp, các công sở và cửa hàng, phương tiện giao thông công cộng và các đoàn xe lửa ngoại ô hoạt động một cách rõ ràng chính xác. Có rất nhiều quân nhân trong thành phố... Ở đây là Đại bản doanh của tất cả các mặt trận, ở đây có chính phủ, Ủy ban Trung ương, ở đây trái tim lớn của đất nước đang đập từng giờ từng phút.

Moskva cũng đang chiến đấu. Tại thủ đô diễn ra những cuộc họp quan trọng nhất và các  cuộc biểu tình quốc tế chống phát xít, in ấn tất cả các loại báo chí phổ biến toàn Liên bang, xuất bản các loại sách. Các nhà máy cung cấp cho tiền tuyến xe tăng, máy bay, bom, súng, đạn! ..

Không phải ngẫu nhiên mà các lối tiếp cận đường không đến Moskva được canh phòng chặt chẽ. Rất hiếm các cuộc không kích và kết quả của chúng rất nghèo nàn, các mặt trận ở xa, nhưng tuyến chiến tranh vẫn đi qua đây.

Tuy nhiên, hằng tối người dân Moskva vẫn xem việc đi đến nhà hát, rạp chiếu phim, phòng hòa nhạc là thích hợp. Đây cũng là một dấu ấn của cuộc sống thành phố, và không kém phần quan trọng...


Khi đọc xong lá thư của người bạn gái, tôi bất giác cảm thấy buồn bã: muốn được dẫu chỉ trong khoảnh khắc, nhìn thấy Moskva thân thương. Đã hai năm rưỡi trôi qua kể từ khi tôi từ biệt nó. Biết bao sự kiện xảy ra trong khoảng thời gian không lớn và đồng thời lại nặng nề và dài đằng đẵng này!
Rốt cuộc khi nào chúng ta mới được gặp lại, hỡi thành phố thân yêu của tôi?!

... Năm mới 1944 đến lúc nào không hay. Vào đêm sang ngày 1 tháng 1, chúng tôi chỉ thực hiện ba chuyến xuất kích và chấm dứt hoạt động chiến đấu trước mười hai giờ đêm. Ném bom lần thứ ba xong, tôi lái chiếc máy bay bay về Peresyp. Trong dự trữ của chúng tôi có hơn bốn mươi phút, nhưng Katya vội vã thúc giục tôi.
- Cậu biết đấy, - cô hào hứng nói trong ống đàm thoại - Hôm nay Grigory sẽ tới. Cần phải sửa sang bản thân mình chứ. Vậy thì cậu, Marinka, hãy cố gắng vắt hết của ông già yêu quý của chúng ta mọi thứ có thể.

Và tôi đã vắt. Dù sao thì tất cả nguồn dự trữ hành trình của động cơ đã cạn kiệt, máy bay sắp phải đi đại tu. Sau khi hạ cánh, chúng tôi nhanh chóng phủ bạt che máy bay. Chúng tôi đi tới SCH. Trên cánh đồng tuyết trộn lẫn với bùn dày. Và khi Katya bỗng trượt chân ngã, toàn thân cô bị lấm bùn.
- Đấy, đấy! - Cô bực bội nói. - Toàn là lỗi của cậu. Bây giờ, một tuần cậu sẽ không tắm rửa được.
- Được rồi, sẽ càu nhàu sau, nếu không tớ sẽ nói cho Grigory biết tính khí gắt gỏng của cậu.

Trong nhà tập thể chúng tôi tuyên bố còn 5 phút nữa đến 12 giờ đêm, khi mọi người đã quây quần sau bàn. Ngồi tại các vị trí trang trọng nhất là vài sĩ quan hải quân không quen do một Chuẩn Đô đốc dẫn đầu. Căn phòng được trang trí bằng ba cây thông Giáng sinh nhỏ, không biết Zhenya Zhigulenko kiếm được ở đâu. Mùi của lá thông, thân thuộc từ thời thơ ấu, nhắc nhớ đến sự ấm cũng tiện nghi trong ngôi nhà thân thương của gia đình mà ta đã lãng quên.

Katya Ryabova ngồi cạnh Grigory Sivkov và mỉm cười hạnh phúc. Trong cái đêm giao thừa này, từ "chiến tranh" không được đề cập trong các cuộc trò chuyện của chúng tôi. Người ta nói chuyện về quê hương, gia đình, về những người thân, về những điều nhỏ nhặt nhưng thân thương gần gũi với trái tim. Ai đó thở dài nhớ đến những đôi giày cao gót và nhớ lại điệu waltz học trò đầu tiên, cuộc hẹn hò đầu tiên. Còn ngoài cửa sổ cơn gió giá băng cứ buốt lạnh thêm, tiếng đại bác ục ục, không xa nhà tập thể có tiếng đạn pháo nổ bùng.

Những người không có cốc, uống rượu vang trong lon thiếc vỏ đồ hộp. Trong cuộc nói chuyện vui vẻ đủ chuyện không đầu không cuối, chúng tôi đồng loạt nâng những chiếc "ly" của chúng tôi, cụng "ly", uống cạn, và ngày lễ năm mới bắt đầu có hiệu lực.

Và đêm hôm sau, chúng tôi phải làm việc gấp đôi. Kẻ thù bất ngờ thực hiện một số cuộc phản công. Vậy là chúng tôi bay đi ném bom quân đội và các hỏa điểm của chúng trên tuyến đầu. Trong bóng tối, qua lửa đầu nòng có thể dễ dàng xác định vị trí của các khẩu pháo và súng máy của đối phương. Ném bom có ngắm từ tầm thấp rất hiệu quả và chế áp bọn phát xít Đức mạnh mẽ hơn. Sự việc dẫn đến chỗ ngay sau khi nghe thấy tiếng gầm rú của các máy bay chúng tôi trong không trung, kẻ thù lập tức ngừng bắn. Và bởi vì chúng tôi hành động với gián cách thời gian tối thiểu, nên trong thực tế, chúng tôi đã bắt chúng gần như phải luôn luôn im lặng.

* * *
........


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 13 Tháng Chín, 2015, 09:05:27 pm
(tiếp)

Một lần, sau chiến tranh, tôi có gặp cựu Ủy viên Hội đồng quân sự phân hạm đội Azov Chuẩn Đô đốc Aleksei Alekseievich Matushkin.
Tôi quan tâm tìm hiểu xem các thủy thủ đánh giá các hoạt động của trung đoàn chúng tôi như thế nào.
- Tôi gặp gỡ lần đầu tiên với các nữ phi công trung đoàn nữ KQ ném bom đêm nổi tiếng vào đêm trước năm mới, năm 1944 - chuẩn đô đốc bắt đầu. - Trước đó, thực ra tôi cũng đã nghe nói nhiều về họ ... Và cuộc gặp này diễn ra tại làng chài Peresyp. Tôi nhớ tôi đã đi cùng với một số sĩ quan tới "Kordon Ilich". Các con tàu đổ bộ cần phải bắt đầu di chuyển từ đó. Các thủy thủ chuẩn bị cho một chiến dịch đổ bộ lớn trên bán đảo Kerch để mở rộng đầu cầu, mà tập đoàn quân độc lập miền Duyên hải đánh chiếm vào đầu tháng 11 năm 1943.

(https://img-fotki.yandex.ru/get/15552/128731516.69/0_e4c82_7c1cdeda_L.jpg)

(https://upload.wikimedia.org/wikipedia/ru/thumb/c/c2/%D0%93%D0%B5%D0%BE%D1%80%D0%B3%D0%B8%D0%B9_%D0%9D%D0%B8%D0%BA%D0%B8%D1%82%D0%B8%D1%87_%D0%A5%D0%BE%D0%BB%D0%BE%D1%81%D1%82%D1%8F%D0%BA%D0%BE%D0%B2.jpg/541px-%D0%93%D0%B5%D0%BE%D1%80%D0%B3%D0%B8%D0%B9_%D0%9D%D0%B8%D0%BA%D0%B8%D1%82%D0%B8%D1%87_%D0%A5%D0%BE%D0%BB%D0%BE%D1%81%D1%82%D1%8F%D0%BA%D0%BE%D0%B2.jpg)
Chuẩn đô đốc Gheorgi Nikitich Kholostyakov tư lệnh phân hạm Azov tại vịnh Tsemesskaya năm 1943. Chiến dịch đổ bộ lên mũi Tarkhan bán đảo Kerch tháng 1 năm 1944 do ông lãnh đạo không thành công, một trong các nguyên nhân là sự phối hợp không tốt của các quân binh chủng, đặc biệt là không quân và pháo binh. Cùng với chiến dịch đổ bộ vào cảng Kerch tháng 1 năm 1944, đây là 2 chiến dịch đổ bộ tổn thất lớn mà chỉ có thành công hạn chế khiến Stalin giáng cấp tư lệnh Hạm đội Biển Đen L.A.Vladimirsky từ phó đô đốc xuống chuẩn đô đốc và thay bằng N.E.Basistyi, sau đó là F.S.Oktyabrsky, giáng cấp từ đại tướng xuống thượng tướng tư lệnh tập đoàn quân độc lập miền Duyên hải I.E.Petrov và thay bằng đại tướng A.I.Eryomenko cho đến khi giải phóng hoàn toàn bán đảo Crimea. (https://ru.wikipedia.org/wiki/%D0%94%D0%B5%D1%81%D0%B0%D0%BD%D1%82_%D0%BD%D0%B0_%D0%BC%D1%8B%D1%81_%D0%A2%D0%B0%D1%80%D1%85%D0%B0%D0%BD)

Do đó, tối ngày 31 tháng 12, tôi có mặt ở Peresyp. Trước đó, dĩ nhiên tôi đã nghe nhiều điều tốt đẹp về các phi công nữ của trung đoàn. Bây giờ tôi có cơ hội để quan sát hoạt động chiến đấu của họ, sau đó hiệp đồng với họ trong các chiến dịch giải phóng Crimea.
Aleksei dừng lại một thời gian ngắn, tập hợp suy nghĩ của mình.
- Thời tiết tối hôm ấy, tôi phải nói với chị, quả thật là khủng khiếp: tuyết xen lẫn với mưa, gió giật từng cơn. Và cuộc sống vẫn sôi sục tại sân bay. Một số chiếc hạ cánh, những chiếc khác cất cánh. Cứ thế trong vài giờ ... Tôi rất thích cách làm việc của các cô gái, vì vậy khi được mời tới đón năm mới ở trung đoàn, tôi đã rất vui sướng nhận lời...

Tôi nhận thấy khuôn mặt của Aleksei bỗng trở nên sống động hơn. Ông nhớ lại tuổi trẻ của mình và trông như trẻ hẳn lên.
- Sự hiệp đồng chiến đấu của phân hạm đội chúng tôi với các nữ phi công trung đoàn Taman là một sự hiệp đồng lâu dài và thành công, - ông nói tiếp. - Tôi đặc biệt nhớ chiến dịch đổ bộ vào đêm 21 tháng 1 năm 1944, khi chúng tôi đổ bộ vào cảng Kerch. Không dễ tiếp cận bí mật đến địa điểm đổ bộ. Các con tàu của chúng tôi có tiếng ồn kinh khủng. Vấn đề nằm ở chố người ta lắp cho chúng các động cơ máy bay.
Cần phải tạo ra âm thanh ngụy trang. Chúng tôi đề nghị tư lệnh tập đoàn quân không quân 4, thượng tướng Vershinin cho máy bay cất cánh lên không trung để làm át tiếng ồn của động cơ các con tàu.
Vershinin phân công việc thực hiện nhiệm vụ này cho các máy bay của trung đoàn không quân cận vệ ném bom đêm Taman.
Bộ tham mưu phân hạm đội cùng với ban tham mưu trung đoàn lập tức soạn thảo trình tự di chuyển của các con tàu và các chuyến xuất kích của máy bay. Đêm khuya đội đổ bộ bắt đầu lên đường. Một vài giờ trước đó các nữ phi công của các bạn bắt đầu xuất kích chiến đấu. Họ ném bom bọn Hitler cho đến tận sáng, ngoài ra tiếng gầm của các động cơ của họ đã ngụy trang tiếng ồn của các con tàu chuyển động. Điều này cho phép đội tàu tiền tiêu bất ngờ xông vào Kerch. Bọn Đức phát hiện ra chúng tôi, khi chúng tôi đã đến tận bức tường neo tàu trong khu vực nhà máy chế biến cá.
Các nhóm đột kích đổ bộ từ tàu, chiếm giữ đầu cầu và bảo vệ cho cuộc đổ bộ của các lực lượng chính, đã bắt đầu đột phá nhanh chóng vào tung thâm thành phố.
Các trận ném bom của các máy bay trung đoàn Taman đã xua bọn phát xít xuống hầm trú ẩn. Kẻ thù chỉ bắt đầu kháng cự có tổ chức vào lúc bình minh.
Các bạn đã trợ giúp chúng tôi đắc lực lúc đó. Các thủy thủ từ chiến dịch trở về bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với các cô gái-nữ phi công ...

* * *

Mùa đông trôi qua trong hoạt động căng thẳng. Cảnh lầy lội gây khó khăn cho cuộc sống và các đội bay, đặc biệt là các kỹ thuật viên, quân khí viên. Các cô gái mệt mỏi đến mức đứng chân không vững. Để bằng cách nào đó giảm nhẹ khó khăn trong công việc của họ, kỹ sư trưởng trung đoàn Sofia Ozerkova đề xuất phương pháp bảo dưỡng máy bay theo đội công tác. Bây giờ, trong khi một nhóm các kỹ thuật viên và quân khí viên làm việc, nhóm khác - nghỉ ngơi. Phương pháp "Ozerkovskaya" đã tự chứng minh được mình, và từ đó trở đi nó thường xuyên được sử dụng.

Vào mùa xuân quân đội Liên Xô tăng cường hoạt động. Các cuộc không kích của không quân chúng ta cũng tăng lên. Ban ngày bay qua eo biển Kerch là một dòng dày đặc vô tận các máy bay tiêm kích, cường kích, ném bom, và khi đêm tối đến những chiếc U-2 của chúng tôi cất cánh lên không trung. Tất cả các điểm cố thủ tăng cường của kẻ thù trong khu vực Kerch đều phải hứng chịu những trận ném bom ác liệt.

Tháng Tư đến lúc nào không hay, cùng với nó là thời tiết sáng sủa ấm áp. Bay dễ hơn, nhưng công việc tăng thêm: đêm nào cũng xuất kích. Bán kính hoạt động của chúng tôi tăng lên. Chúng tôi ngày càng tiến sâu vào hậu phương kẻ thù. Chúng tôi phá hoại sự di chuyển của địch trên tuyến đường sắt Kerch-Vladislavovka.

Một đêm toàn trung đoàn tham gia ném bom nhà ga Bagerovo phía tây Kerch, nơi trinh sát cho biết bọn Hitler đang dồn quân tiếp viện đến. Khi đặt nhiệm vụ, thiếu tá Bershanskaya thông báo rằng mỗi kíp bay có thể hoạt động tự do tùy theo tình hình. Mây thấp và đêm trăng tạo thuận lợi cho các chuyến bay. Ngoài ra, trên nền mây sáng các máy bay hiện khá rõ, như trên màn ảnh, trong trường hợp như vậy bọn Hitler dựng lên lưới lửa PK rất mạnh mà không cần đèn chiếu.

Lần này tôi bay với hoa tiêu biên đội Tanya Sumarokova. Để vượt qua lưới lửa ngăn chặn từ phía mặt trận, như thường lệ, tôi lái máy bay dọc theo bờ biển phía bắc bán đảo Kerch. Trên biển tôi vòng về phía tây. Chẳng có có lý do nào hợp lý cho việc ném bomb Bagerovo trực diện. Tất cả các đường không tiếp cận nó, đặc biệt là từ phía Đông, đã được bảo vệ tăng cường rất mạnh. Và độ cao không cho phép băng qua trở ngại - kim máy đo cao luôn luôn dao động quanh con số "600".

Hầu hết hành trình chúng tôi bay trong mây, chỉ thi thoảng nhào xuống để xác định lại hướng. Trên đường tiếp cận nhà ga có các cụm đèn chiếu của quân địch hoạt động. Những chùm sáng mạnh xuyên qua một lớp mây mỏng, tạo ra một trò chơi kỳ ảo của ánh sáng và bóng tối. Và mặt trăng trên đầu chúng tôi, trông giống như một đĩa bạc khổng lồ, trải ngập tràn một thứ ánh sáng nhợt nhạt lên những đám mây, bị gió xuân tinh nghịch thổi rối bời, đang chầm chậm trôi phía dưới.

Xa xa, trong vực sâu không đáy màu xanh-đen, nnhững vì sao lấp lánh mời gọi. Những ngôi sao lớn và sáng một cách dị thường, thu hút sự chú ý đến mình, còn ánh sáng huyền bí của chúng vô tình tạo nên một tâm trạng bàng bạc màu triết học. Tôi nghĩ rằng, có thể qua nhiều năm tháng, lịch sử nhân loại với những cuộc chiến tranh bất tận của nó, có vẻ đối với mọi người sẽ là một tương lai xa xôi vô lý và kỳ quặc, tôi nghĩ về việc thế giới sẽ tươi đẹp thế nào khi không chiến tranh, con người khi đó sẽ hạnh phúc biết bao.

Đạn pháo cao xạ nổ gần phá vỡ dòng suy tưởng của tôi. Máy bay rung giật. Hỏa lực PK đã được tăng cường, - nghĩa là, mục tiêu đã ở gần, đến lúc tiến ra hướng chiến đấu. Tôi đẩy cần lái xa người, giảm nhỏ động cơ, và chúng tôi nhào ra khỏi những đám mây treo trực tiếp trên nhà ga. Phía dưới hiện ra lờ mờ những vệt dài tối sẫm - các đoàn xe lửa. Sumarokova ném bom chiếu sáng. Đúng như vậy - tất cả đường sắt trong ga chật cứng các đoàn tàu. Ở đó có các toa tàu chở người được sưởi ấm, các sân ga lộ thiên, chất lộn xộn đủ loại xe ô tô, các cỗ pháo, xe tăng, các thùng đạn. Hàng trăm tên phát xít đang tất bật phía dưới, đang vội vàng dỡ hàng từ tàu xuống.

Hoa tiêu ném các trái bom xuống giữa nơi dày đặc các đầu mối đường sắt nhất. Tôi rất muốn nhìn thấy những trái bom đó phủ hợp với đoàn tàu nào nhất - nơi nhiều khí tài xe máy quân sự hơn, hay nơi mà dưới các tấm bạt căng phủ trùm là tua tủa những hòm chứa đạn bộ binh và hòm chứa đạn pháo? Sẽ rất tốt nếu các quả bom làm nổ tung một đoàn xe lửa chở đạn dược: khi đó, các khí tài trang thiết bị bay lên không, và các đường ray sẽ bị quăng tứ tung, và các đội bốc dỡ hàng sẽ có nhiều việc mà làm.

Nhưng tôi vừa mới nghiêng người xuống qua mép ca-bin, những chùm sáng đèn chiếu đã đập ngay vào mắt. Tôi lập tức phải ẩn tránh ngay. Tiếng nổ ầm ầm khủng khiếp rung động không trung, sau đó lại những tiếng nổ khác và khác nữa. Chen với tiếng nổ nặng nề trầm đục của đạn pháo là tiếng nổ khô đanh của đạn bộ binh.
Cừ lắm Tanya! Không ngẫu nhiên sau lưng cô ấy đã có đến năm trăm phi vụ. Còn Sumarokova tiếp tục ra lệnh:
- Sang phải! Sang trái! Sang trái nữa!

Những chiếc đèn chiếu tóm chặt chiếc máy bay của chúng tôi, tôi không ngay lập tức thoát ra khỏi điểm giao hội của chúng. Cơ động thật khó khăn: cách mặt đất toàn bộ chỉ năm trăm mét. Mà đạn cao xạ ngày càng nổ gần hơn. Mùi khét rất nồng. Tôi ép của động cơ trăm mã lực cuối cùng. "Thôi nào, cậu chàng ơi, chớ làm tớ thất vọng! - Tôi muốn cầu xin nó. - Hãy giúp đỡ, như cậu đã làm điều đó không phải chỉ một lần. Tôi biết thật khó cho cậu. Các cơ bắp thép của cậu cũng không phải vĩnh cửu, chúng đã mòn mỏi, ốm yếu. Và tiếng ồn ủa của cậu tương tự như tiếng ồn của các trái tim đau. Nhưng không có gì, kiên nhẫn một chút, ở đó Babutsky sẽ điều trị cho cậu trong các xưởng của mình. Họ sẽ đặt van mới, thay thế các vòng găng piston, và mạch đập của cậu sẽ lại trở nên nhịp nhàng, chính xác".

Hỏa lực PK yếu dần. Và cũng đến lúc - thực tế "cánh én" đã ra đến ngoài khơi. Nhưng những chùm đèn chiếu  vẫn đuổi theo chúng tôi. Bọn phát xít giận dữ, chúng không thể tin rằng bạn có thể thoát ra khỏi một địa ngục trần gian như vậy. Chúng hy vọng rằng chiếc máy bay bất cứ lúc nào cũng sẽ có thể rơi xuống biển.

Và đây rồi sân bay. Nó có thể nhìn thấy rất rõ trong ánh trăng. Tiếp đất xong, tôi lăn máy bay vào tuyến chuẩn bị xuất phát.
- Chà hôm nay chúng nó cào cấu các cậu ghê thật! - Đón chúng tôi là kỹ thuật viên trưởng của phi đội Maria Shchelkanova.
- Sao vậy?
- Các cậu tự nhìn đi - không phải là cánh nữa, mà hoàn toàn là một chiếc rây. Và các cậu ngắm xem, bọn chúng làm gì với máy bay của Meklin. Cô ấy đang chuyển sang chiếc máy bay khác.

(http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/006.jpg) (http://coollib.com/i/6/178606/cover.jpg)
Natasha Meklin (Kraptsova), sinh viên năm thứ nhất Học viện Hàng không Moskva (MAI) năm 1941 và hồi ức xuất bản sau chiến tranh "Từ hoàng hôn đến bình minh (1974) (http://)

Natasha Meklin và hoa tiêu của cô Nina Reutskaya, bàng hoàng nhìn chiếc U-2 bị giằng xé tan hoang của họ. Một xà dọc gãy, trên một chiếc khác treo lủng lẳng những túm vải chúc bâu. Cánh phải rách thủng ánh sáng xuyên qua, một lỗ thủng lớn tại bầu khí động trên thân máy bay. Có lẽ không thể nào tin nổi sau những biến đổi như vậy mà máy bay vẫn về được đến sân bay của mình.
- Vâ-âng, - Meklin trầm ngâm dài giọng và mệt mỏi thoa lòng bàn tay vào mắt. Sau đó, cô đột ngột lắc đầu nhanh và nói: - dẫu sao hai ca tử vong cũng không xảy ra. Nào, Nina!
Reutskay, cô hoa tiêu còn rất trẻ, chưa có dịp gặp cảnh hiểm nghèo như vậy, và cô ấy đứng lặng, như thể bị trói chặt. Và khi nói, giọng cô hơi run rẩy một chút. Một tâm trạng rất quen thuộc! Khi mà tôi không cảm thấy mình khá hơn. Tuy nhiên, nay tâm trạng ấy lại thường xảy ra. Chỉ là bây giờ tôi đã học được cách kiểm soát bản thân; dù sao, tôi cũng không để lộ tâm trạng của bản thân. Với thời gian rồi Reutskaya sẽ học được điều đó. Tất cả là ở thói quen. Bốn hoặc năm phi vụ như thế, và các lỗ hổng trong cánh máy bay sẽ chẳng làm cô ấy quan tâm đến nó hơn tuyết rơi năm ngoái.

(http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/162.jpg)
Nina Reutstkaya (http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/ill.html)

Meklin với sự nhẹ nhàng quen thuộc trèo vào buồng lái và ra lệnh:
- Bật tiếp xúc!
- Rõ, tiếp xúc! - kỹ thuật viên đáp.
- Chúc may mắn! - Tôi hét lên với Natasha.
- Quỷ tha ma bắt chúng đi! -qua tiếng sình sịch của động cơ vẳng đến giọng nói của cô.
Sau khi làm bốc lên sau nó một đám mây bụi, máy bay vòng ngoặt và bắt đầu bay đi xa khuất. Một kíp bay khác vội vã hạ cánh, đâu đó trên biển nghe thấy tiếng gầm rú của động cơ. Một đêm chiến đấu thông thường đã kết thúc.

* * *
..........


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 14 Tháng Chín, 2015, 09:54:25 pm
(tiếp)

Mãi mãi khắc ghi trong tâm trí của tôi một ngày đắng cay, ngày mà Zhenya Rudneva hy sinh. Và hôm nay, vết thương ấy vẫn còn nguyên, và tôi không thể nói chuyện một cách bình tĩnh về sự mất mát này. Zhenya đối với mỗi người chúng tôi không chỉ là một người bạn tuyệt vời, một cố vấn thông minh, mẫu mực của tất cả những gì tốt đẹp. Tất cả chúng tôi đều coi chị ấy là con người ưu tú nhất trên thế gian. Đó là lý do tại sao, khi chết đi, chị mang theo mình một phần tươi sáng trong tâm hồn mỗi người, những người biết chị và có được may mắn tiếp xúc với chị ấy.

Hãy tha thứ cho tôi, bạn đọc yêu quý, nhưng tôi không muốn và không thể viết chi tiết về cái chết bi thảm của chị ấy. Tốt hơn là tôi sẽ cố gắng kể cho các bạn biết về Zhenya khi còn sống, để bạn, người đọc những dòng này, cũng sẽ yêu mến chị. Mà không yêu Zhenya Rudneva đơn giản là không thể.

(http://tamanskipolk46.narod.ru/images/053.jpg) (http://www.libex.ru/dimg/13eeb.jpg)
Zhenya Rudneva, thượng úy hoa tiêu trưởng trung đoàn cận vệ Ta-man 46, người Ukraina. Đã tốt nghiệp năm thứ 3 khoa Toán Cơ Đại học Tổng hợp Quốc gia Moskva (MGU) năm 1941 trước khi nhập ngũ. (http://tamanskipolk46.narod.ru/p4aa1.html)

Tôi đã từng nói rằng trời phú cho Zhenya biết bao khả năng. Những đam mê của chị rất rộng lớn và đa dạng. Chị quan tâm đến hóa học, vật lý, sinh học. Nhưng tình cảm nồng nàn nhất chị dành cho thiên văn học. Tất cả những giấc mơ của chị về tương lai chính là gắn liền với ngành khoa học tuyệt vời và hơi bí ẩn này.

Niềm say mê vô bờ bến đối với các ngành khoa học không làm Zhenya thành con người không thuộc về thế giới này. Đam mê, tràn đầy nghị lực, kiên quyết, chị yêu Tổ quốc nồng nhiệt, đặt quyền lợi của Tổ quốc lên trên tất cả.

Và phải nói rằng, đời sống chính trị của đất nước, các sự kiện lay động hành tinh vào đêm trước cuộc Chiến tranh Thế giới thứ Hai đối với Rudneva không kém phần quan trọng hơn, như ta thường nói, việc phát hiện ra một ngôi sao mới bởi các nhà thiên văn học. Khi vẫn còn là một cô bé, chị thường lập luận về tất cả mọi thứ chị nhìn thấy, với tầm nhìn xa của người đã trưởng thành, đã được cuộc sống dạy cho khôn ngoan. Với sự cao thượng dũng cảm, chị hiểu được trách nhiệm cá nhân của mình trước tất cả mọi sự xảy ra trên thế giới.

Nhật ký của chị trong những năm ấy lúc thì phản ánh chiều sâu suy tưởng, lúc lại thỉnh thoảng vang lên như một linh cảm.

Tôi biết rất rõ - Zhenya viết - sẽ tới giờ phút - tôi có thể chết vì sự nghiệp của nhân dân tôi như những người anh hùng vô danh của bộ phim tuyệt vời "Lenin trong Tháng Mười" ...

Tuổi trẻ vốn có những tư tưởng về trách nhiệm trước thời đại và nhân loại. Saint-Just hai mươi bảy tuổi khi con đường sống mãnh liệt của ông kết thúc. Robespierre - ba mươi sáu. Arkady Gaidar năm mười sáu tuổi chỉ huy một trung đoàn đặc nhiệm và kể rằng Mikhail Frunze nói với ông: "Hãy nhớ rằng, cậu bé, những chuyện như vậy chỉ xảy ra trong cách mạng mà thôi".

Cuộc sống cho thấy - ở đất nước ta một khởi đầu anh hùng như thế, tình cảm sâu sắc nhất về trách nhiệm với thời đại, như chiếc gậy tiếp sức, luôn được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Năm 1938, Zhenya tốt nghiệp xuất sắc trường trung học số 311 Moskva và trở thành sinh viên Khoa Toán Cơ Đại học Tổng hợp QG Moskva. Người bạn gái của chị tại trường đại học, Ira Rakobolskaya, sau này là tham mưu trưởng trung đoàn nữ không quân, nhớ lại:

Ban đầu việc học tập trong trường đại học đối với Zhenya không phải dễ dàng, nhưng ngay từ những lời đầu tiên của giảng viên, cô ấy đã nắm bắt được bản chất của lời giảng đọc trên lớp của môn toán học. Cô luôn cố gắng để hiểu tất cả mọi thứ đến cùng, không ngần ngại đặt cho giảng viên bất kỳ câu hỏi nào, và các sinh viên đã quen với việc trong giờ giảng, Zhenya luôn hỏi một cái gì đó. Với một số người, điều này có vẻ kỳ lạ. Nhưng tất cả mọi người sớm bị thuyết phục rằng kiến thức của Zhenya lớn hơn, sâu hơn nhiều so với những bạn khác, và khi đó các câu hỏi của cô ấy không còn gây ra sự ngạc nhiên nữa.

Do sự siêng năng lạ thường và lòng ham hiểu biết, Zhenya, ngay từ khi ở trong trường đại học, đã nhanh chóng trở thành một trong những sinh viên ưu tú nhất. Cũng như trong trường phổ thông, cô luôn sẵn sàng để giúp đỡ các bạn đồng học.

Người ta dự đoán Rudneva có một tương lai lớn trong khoa học. Trong chị có một sự kết hợp hiếm hoi của những khả năng phi thường, sự kiên trì, bền bỉ, dẻo dai.

Năm 1939, trong Bản tin số 3 của Hiệp hội Đo đạc-Thiên văn đã xuất bản bài báo khoa học đầu tiên của Evgenia Rudneva: "Quan sát sinh học trong quá trình nhật thực ngày 19 tháng 6 năm 1936".

... Tôi muốn cống hiến cuộc đời mình cho khoa học, và tôi sẽ làm điều đó, - Zhenya viết trong nhật ký của mình. - Tất cả các điều kiện mà chính quyền Soviet tạo nên nhằm để mọi người có thể thực hiện ước mơ của mình, dù nó táo bạo đến đâu. Nhưng tôi là nữ đoàn viên Komsomol, và sự nghiệp chung đối với tôi cao quý hơn sự nghiệp bản thân (tôi xem nghề nghiệp của mình cũng như vậy), và nếu đảng, giai cấp công nhân đòi hỏi điều đó, tôi sẽ quên thiên văn học một thời gian dài, để làm một chiến sĩ, một y tá, một chiến sĩ phòng hóa.

Chị dường như thấy trước số phận của mình. Và khi đọc về sự phát triển tràn lan của chủ nghĩa phát xít ở Đức, cô gái mỏng mảnh này đột nhiên rút ra những kết luận thực tiễn nghiêm túc: "Trong bất cứ trường hợp nào cũng phải bắt đầu nghiên cứu súng máy".

(http://tamanskipolk46.narod.ru/images/p29_0048.jpg)
Zhenya Rudneva và Dina Nikulina (http://retro-ladies.livejournal.com/531852.html?thread=5465740)

Ngày 22 tháng 6 năm 1941 nữ sinh viên Rudneva quyết định: sẽ không học khi nào chiến tranh chưa kết thúc...

Trong trung đoàn nữ không quân, Rudneva trở thành hoa tiêu và là một hoa tiêu như thế nào! Không phải ngẫu nhiên mà chúng tôi bắt đầu coi chị là người ưu tú nhất trong những người ưu tú từ lúc nào không hay.

... Bây giờ là chiến tranh, xung quanh biết bao nhiêu cảnh kinh hoàng và máu chảy. Còn với tôi có lẽ đây là thời gian hạnh phúc nhất trong cuộc đời. Trong mọi trường hợp, đoạn đời ở trung đoàn đối với tôi sẽ là hồi ức tươi sáng nhất.

Những lời này của Zhenya không phải là những lời phô trương. Thật khó có thể hình dung được con người nào tự nhiên hơn chị. Con người chị luôn cởi mở với mọi người. Cả lúc vui. Cũng như cả khi đau buồn.

Thông thường cuộc sống nội tâm của con người nhỏ bé hơn so với những hành vi mà qua đó mọi người đánh giá con người đó. Với Zhenya điều này không tồn tại. Nếu xem kỹ các lá thư của chị, vốn không định phổ biến, nghĩa là, phơi bày những xao động thâm sâu của trái tim chị, ẩn giấu kỹ trước những người bên cạnh, thì mỗi dòng thư tiết lộ một đời sống tinh thần mạnh mẽ. Điều này, có lẽ, được gọi là sự toàn vẹn của tính cách.

Tôi may mắn được đọc nhiều lá thư của chị - gửi cha mẹ, các bạn gái, gửi giáo sư hướng dẫn nghiên cứu khoa học hồi xưa của chị. Đó là những bức thư tuyệt vời, tác giả của những lá thư trên chỉ có thể là một con người xuất chúng.

Trái tim Rudneva rộng mở với các bạn bè. Và sự tận tụy, tình yêu, sự dịu dàng chúng tôi luôn tìm thấy ở đó, khi cần đến một lời tốt đẹp hoặc sự hỗ trợ.
Galya Dokutovich từ quân y viện trở về. "Mỗi trung đoàn như trung đoàn chúng ta đáng quý biết bao! Hạnh phúc biết bao khi được ở trong một đơn vị như vậy! "- Những lời nói đó là của Zhenya Rudneva. Nhưng khi đó mỗi người chúng ta đều có thể nói.

Vào thời kỳ đó, không có đêm nào mà Rudneva không xuất kích làm nhiệm vụ chiến đấu. Lần nào cũng thế, các cỗ pháo cao xạ tấn công máy bay chị, các vòi bạch tuộc của đèn chiếu PK quăng bắt nó. Chị rất ít nói về công việc của mình, tuy nhiên các bạn gái và ban chỉ huy từ hồi ở vùng Caucasus vẫn coi Rudneva là hoa tiêu tốt nhất - một bậc thấy về ném bom.

Chúng tôi không ít lần phải giúp đỡ lẫn nhau. Zhenya, bất chấp nguy hiểm, luôn vội vã lao đến giúp đỡ.

Trong khi chờ đợi thời tiết tốt, khi phi trường gần như bị sương mù buông đầy mặt đất hoặc những đám mây thấp bao phủ bầu trời, chúng tôi thường ngồi dưới những đôi cánh máy bay và khi đó nhất định sẽ đề nghị Zhenya nhớ lại điều gì đó... Chị là một người kể chuyện tuyệt vời. Bài ballad của Zhukovsky được thay phiên bằng những câu chuyện cổ tích về kỳ công của các tráng sĩ, thay phiên Pushkin - là đến Lermontov. Trí nhớ của chị ấy thật đáng kinh ngạc. Khi lắng nghe, chúng tôi vô tình quên rằng, đang tồn tại trên thế gian này những cơn mưa, những màn sương mù, giá lạnh, và những điều khó chịu còn nghiêm trọng hơn nhiều, liên quan đến chiến tranh.

Và chị còn dạy chúng tôi yêu mến các ngôi sao, tìm kiếm không nhầm lẫn các chòm sao trên bầu trời.
- Chúng có thể hữu ích không chỉ để làm các mốc định hướng - Rudneva nói đùa. - Các bạn lạc đường - chúng sẽ đưa các bạn về nhà mà không cần ai hộ tống. Nói chung, không có các vì sao thì cuộc sống trên trái đất này rất nhàm chán. Và nếu các ngôi sao đột nhiên biến mất thì thế nào? Đó là một điều khủng khiếp. Như thể có ai đó đã cướp mất linh hồn ta...
Người ta nói rằng sự dịu dàng và tính mơ mộng mâu thuẫn với tính nghiêm túc và lòng can đảm. Ở Zhenya tất cả các thái cực này của thiên tính được kết hợp một cách bền vững và hài hòa.

Chị yêu trung đoàn của mình và đã làm được nhiều điều cho vinh quang chiến đấu của trung đoàn. Chị luôn được bầu là đảng ủy viên, được phân công chấp bút các báo cáo quan trọng tại các hội nghị về đảng.

Mùa hè năm 1943, Rudneva được bổ nhiệm làm hoa tiêu trưởng của trung đoàn. Chị chắc chắn là hoa tiêu tốt nhất. Nắm rất vững cách làm chủ máy bay. Hành xử trong không trung ở bất kỳ hoàn cảnh khó khăn nào cũng bình tĩnh và tự tin một cách kỳ lạ. Ban chỉ huy chỉ hơi ngại một điều: bản tính tự nhiên mềm mỏng của chị. Người ta không chắc chắn, liệu chị có thể trở thành một người chỉ huy chân chính có tính đòi hỏi cao được không.

Nhưng từ lâu người ta đã biết, để giành uy tín - không cần phải cao giọng. Sự thừa nhận đúng đắn - luôn tự nhiên và có tính hữu cơ. Sự quyến rũ của cá nhân Zhenya, kinh nghiệm của chị, lòng dũng cảm của bản thân chị đã tự làm công việc của nó. Tất cả các hướng dẫn của chị đều được thực hiện vô điều kiện.

Hoa tiêu của trung đoàn không có nghĩa vụ phải bay nhiều. Hằng đêm, chị phải trực ở tuyến xuất phát, kiểm soát hoạt động của đội hoa tiêu-bay. Nhưng Zhenya không thể không bay. Chị nói rằng cần phải biết từng phi công trung đoàn, phẩm chất cá nhân của người đó, và dưới cái cớ này, chị thường thay thế một hoa tiêu nào đó và tự mình bay đi làm nhiệm vụ.

Nguồn bổ sung cho trung đoàn nữ không quân không được người ta chuẩn bị ở hậu phương, và chúng tôi buộc phải tự làm điều đó. Ngay từ năm 1942, chúng tôi đã thành lập một nhóm hoa tiêu mới từ số quân khí viên. Lãnh đạo nhóm, xây dựng chương trình cho nó, tiến hành các khóa học cơ bản là Zhenya Rudneva. Các "bé hoa tiêu" trẻ như chị gọi họ, có thái độ rất ngưỡng mộ với giáo viên của mình: vì chẳng có ai, trừ Rudneva, biết giải thích rõ ràng và đơn giản, phân tích các bài tập khó giỏi đến thế. Hơn hai mươi hoa tiêu đã được Rudneva huấn luyện. Và nhiều nữ phi công trẻ cũng thực hiện phi vụ chiến đấu đầu tiên của họ cùng với chị...

Galya Dokutovich, một trong những người bạn gái thân nhất của Rudneva, đã dành tặng riêng cho chị một bài thơ, trong đó truyền đạt chính xác thái độ của chúng tôi với Zhenya:

Bạn kể chúng tôi nghe chuyện cổ tích thần kỳ,
Và bạn cũng diệu kỳ như câu chuyện cổ!
Trong cuộc sống chúng tôi, gian nan và giản dị
Bạn giống như tia nắng ấm mùa xuân.

Đây bạn nhìn, bạn mỉm cười trìu mến,
Đôi mắt cũng cười, chan chứa yêu thương,
Như bầu trời tháng năm, trong veo không chút gợn
Những ánh biếc xanh lấp lánh rạng ngời!..


Thật bất ngờ ngay cả với chính mình, Rudneva đã trở thành một nhà biên niên sử của trung đoàn, và ngày hôm nay, không thể khôi phục từng chút không khí cuộc sống mặt trận của chúng tôi nếu bỏ qua những ghi chép của chị.

(http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/071.jpg)
Zhenya Rudneva và cha mẹ, cuộc gặp gỡ cuối cùng năm 1943 (http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/ill.html)

Nhiều năm sau cái chết của Zhenya, tôi đọc được một số dòng ghi chép của chị cho đến giờ vẫn chưa công bố. Nó dành cho hoạt động chiến đấu hàng ngày của chị và đồng thời cũng là một tài liệu đầy cảm xúc, làm chứng cho đời sống tâm lý và tinh thần của trung đoàn.

Tháng 11 năm 1943, Zhenya và Natasha Meklin bay về Moskva nghỉ phép thăm cha mẹ. Trên đường đi đã đã xảy ra chuyện gì đó với động cơ, phi công phải hạ cánh khẩn cấp. Thời gian để khắc phục sự cố và chờ thời tiết có thể bay mất đến tám ngày. Khi đó xảy ra một sự kiện, mà khi quay trở lại trung đoàn, Zhenya tin cậy nói với Evdokia Yakovlevna Rachkevich.

- Thôi con phải xin sám hối với mẹ rồi. Con đã trót yêu một anh chàng đại úy, người mà con còn chưa biết mấy về anh ấy. Mẹ xem mẹ có những cô "con gái" như thế nào đây. Mẹ không nên để một đứa con xa mẹ quá như thế chứ...

Những lời ấy được nói ra một cách đùa nghịch, nhưng Rachkevich hiểu - mối tình đầu đã đến với Rudneva. Tình yêu, tinh khiết, tươi sáng và sâu sắc như bất cứ điều gì liên quan đến Zhenya, đột nhiên ập vào cuộc sống của chị...

Bất hạnh không thể nào khắc phục đã xảy ra vào đêm sang ngày 9 tháng 4 năm 1944.
Chúng tôi ném bom Bagerovo và Tarkhan. Đêm tràn ngập ánh trăng. Gió bắc mạnh gây  khó khăn cho máy bay khi bay thoát khỏi vùng hỏa lực PK, do đó BCH thay đổi hướng tiếp cận mục tiêu từ vòng phải sang trái. Rudneva bay kiểm tra nữ phi công trẻ Pasha Prokofieva.

Với Zhenya đó là phi vụ xuất kích chiến đấu thứ 645. Chiếc máy bay ngay lập tức bị một số đèn chiếu PK soi trúng. Có lẽ đạn cao xạ đã rơi trúng bồn xăng, vì máy bay rơi lửa cháy phủ kín. Do lửa lan quá nhanh mà những chiếc pháo hiệu trong máy bay bốc cháy, và từ buồng lái những vệt lửa đủ mọi màu sắc bay ra theo tất cả các hướng. Bất cứ ai bay trong đêm ấy, đều nhìn thấy cảnh tượng khủng khiếp này...

Rudneva qua đời khi chị chỉ mới hai mươi ba tuổi. Ban chỉ huy trung đoàn đề nghị truy tặng chị danh hiệu Anh hùng Liên Xô.

Ngày 26 tháng 10 năm 1944 Yevgenya Rudneva đã được trao tặng danh hiệu đó...

* * *

Ngày 11 Tháng Tư năm 1944, hai ngày sau cái chết của Zhenya và Pasha, bộ đội Tập đoàn quân Độc lập miền Duyên hải, sau khi chọc thủng tuyến phòng thủ của đối phương trong khu vực Kerch, đã xốc tới hội quân với các đơn vị của Phương diện quân Ukraine 4. Ban đêm, trung đoàn giáng những đòn không kích ồ ạt vào các đoàn xe đang rút lui của bọn Hitler. Chúng tôi đã thực hiện một số lượng kỷ lục các phi vụ xuất kích - 194, và ném xuống đầu kẻ thù khoảng 25.000 kg bom.

Ngày hôm sau chúng tôi nhận được lệnh chuyển căn cứ vào Crimea. Trung đoàn trưởng Bershanskaya cho phép một số kíp bay tiến hành tìm kiếm Zhenya Rudneva và Pasha Prokofieva đã hy sinh. Tôi bay với Katya Ryabova. Nhưng trên mảnh đất Kerch lúc đó có biết bao trang bị khí tài bị phá hủy, cả của kẻ thù và của chúng ta, và chúng tôi đã không thể tìm thấy.

Nhiều năm sau chiến tranh, trung đoàn trưởng và chính ủy trung đoàn chúng tôi đã có mặt ở Kerch. Họ đã xác định được rằng, Zhenya Rudneva và Pasha Prokofieva được chôn trong một ngôi mộ tập thể trong thành phố...
........


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 15 Tháng Chín, 2015, 11:52:55 pm
(tiếp)

Xin chào, Sevastopol!

(http://img-fotki.yandex.ru/get/6716/141128800.1a0/0_9974f_df798c6_orig.jpg)
Tàu ngầm phóng ngư lôi cỡ trung diesel-điện Sh-209 sê-ri X kiểu "Shuka" ("Cá măng") của Hạm đội Biển Đen với thuyền trưởng thiếu tá hải quân V.I.Ivanov, đã sơ tán Phó Tư lệnh khu phòng thủ Sevastopol và Tư lệnh TĐQ Độc lập miền Duyên hải thiếu tướng I.E.Petrov cùng Hội đồng QS và ban tham mưu TĐQ khỏi Sevastopol đêm ngày 30 tháng 6 năm 1942, bỏ lại thành phố cảng cùng khoảng 80 ngàn bộ đội của TĐQ và khu phòng thủ Sevastopol, phần lớn đã bị thương, rơi vào tay quân Đức. Riêng bằng tàu ngầm, Hạm đội Biển Đen đã sơ tán được 700 người thuộc đội ngũ sĩ quan chỉ huy TĐQ độc lâọ miền Duyên hải và cán bộ chủ chốt các ban ngành đảng chính quyền Sevastopol. (http://investigator.org.ua/articles/126674/)

Sau khi nhận lệnh chuyển căn cứ đến Crimea, đầu tiên chúng tôi định căn cứ ở làng Churbash đã bị bọn Đức đốt cháy. Nhưng tuyến mặt trận dịch chuyển nhanh chóng và trung đoàn triển khai đến địa điểm gần Karagez.

Đó là một thời kỳ tuyệt vời. Quân đội Liên Xô ghi được hết chiến thắng này đến chiến thắng khác, và chúng tôi làm việc với một khí thế lớn. Từ sân bay ở Karagez, trung đoàn  chúng tôi thường hoạt động đánh phá các mục tiêu trong khu vực Yalta. Phải bay xa, và quan trọng nhất - bay qua các dãy núi. Với các nữ phi công trẻ vừa được bổ sung vào đội ngũ chiến đấu, những chuyến bay như vậy vẫn còn quá sức. Vì vậy, ban chỉ huy phái đi làm nhiệm vụ các kíp bay giàu kinh nghiệm nhất.

Không trụ được trên các trận địa Ak-Monay, quân thù nhanh chóng rút về Sevastopol. Để thường xuyên ở trong trạng thái có đụng độ quân sự với bọn Hitler, chúng tôi bay đến sát Simferopol, tới làng Karlovka.

Đó là một góc nhỏ đẹp đẽ và yên tĩnh. Các ngôi nhà nhỏ bé bị bỏ lại nằm dọc đường, làng trải dài xa dọc theo đáy một thung lũng đẹp như tranh có núi xung quanh bao bọc. Các khu vườn đã nở hoa, và toàn thể Karlovka chìm trong những chiếc mũ lộng lẫy trắng như tuyết.

Chúng tôi ở lại đây cho đến cuối tháng Tư. Karlovka khiến mọi người đều thích thú. Nó là điểm dân cư duy nhất còn nguyên vẹn trước bọn côn đồ hủy diệt của Hitler, mà chúng tôi gặp được ở Crimea. Tất nhiên, không phải vì bọn Hitler thương tiếc gì khu vực tuyệt đẹp này. Khu vực do quân du kích làm chủ. Họ không cho quân thù đốt phá xóm làng. Người dân  chào đón chúng tôi rất nồng nhiệt, hiếu khách, như ta vẫn nói, theo kiểu Nga - họ đón tiếp chúng tôi bằng bánh mì và muối. Ngay khi chúng tôi vừa xuất hiện ở Karlovna, phụ nữ đã đón đưa chúng tôi về các căn phòng. Chúng tôi chỉ biết kinh ngạc, khi nhìn thấy những món họ thết đãi. Phô mai, sữa, thịt, thậm chí gan lợn - tất cả có mặt mỗi ngày trên bàn ăn của chúng tôi.

- Có phải ở mỗi nhà các cô bác đều có một chiếc khăn thần trải bàn ăn như trong chuyện cổ tích phải không? - Các cô gái nói đùa.
Nhưng để giải thích thì thực ra mọi thứ rất đơn giản. Hóa ra du kích đã phá hủy một đoàn xe cơ giới rất lớn của bọn phát xít, và trong số chiến lợi phẩm họ thu được, có một đoàn xe vận tải lớn chở thực phẩm.

Tóm lại, giai đoạn này chúng tôi sống tốt. Và làm việc cũng dễ dàng hơn. Không quân Xô viết hoàn toàn chiếm ưu thế trong không trung. Điều đó làm chúng tôi lơ là cảnh giác, chúng tôi đã không còn ngụy trang tại sân bay, thậm chí không có cả đội bảo vệ mặt đất. Nhưng nếu chúng tôi quên nghĩ đến kẻ thù, chính kẻ thù lại quyết định nhắc nhở chúng tôi nhớ về chúng.

(http://img-fotki.yandex.ru/get/9364/141128800.1a0/0_99730_fa5ee4fc_orig.jpg)
Tiêm kích Soviet "Chaika" I-153 trên bầu trời Sevastopol trong những ngày phòng thủ thành phố năm 1942 (http://photochronograph.ru/2013/07/16/oborona-kryma-i-sevastopolya/)

Một lần sau đêm chiến đấu, khi các đội bay đã nghỉ ngơi, còn các kỹ thuật viên và quân khí viên đang chuẩn bị máy bay phục vụ các chuyến bay mới, trên bầu trời không mây vang lên tiếng động cơ gầm rú. Các cô gái còn chưa tưởng tượng ra chuyện gì thì những tràng súng máy hạng nặng đã nổ đùng đùng, và lập tức một chiếc máy bay bùng cháy. Galya Korsun và một số kỹ thuật viên nữa bị thương nhẹ. Sau khi vãi đạn và làm hư hại một số máy bay, chiếc tiêm kích phát xít bay thoát về căn cứ. Thiếu tá Bershanskaya không chậm trễ báo cáo ngay sự việc lên bộ tham mưu tập đoàn quân. Từ đó có lệnh truyền khẩn trương chuyển căn cứ đến Izyumovka. Nhưng chúng tôi chưa kịp chuẩn bị xong máy bay thì trên không một lần nữa xuất hiện các máy bay địch. Bây giờ, chúng có bốn chiếc. Không đổi hướng, chúng bắt đầu lao vào sân bay.

Cuộc đột kích xảy ra khi tôi đang ở trong cabi: tôi đang chờ lệnh cất cánh. Đột nhiên, trung đoàn trưởng ra lệnh bằng tín hiệu cho tôi phải tắt động cơ.
- Có chuyện gì vậy, cậu biết không? - Tôi quay sang hỏi Maria Shchelkanova, đang ở tại vị trí hoa tiêu.

Thay vì trả lời cô ấy chỉ tay về bên trái. Tôi quay lại nhìn và đờ người ra - một chiếc tiêm kích phát xít đang bổ nhào thẳng xuống chúng tôi. Nhanh chóng tháo đai bảo hiểm, chúng tôi nhảy ra khỏi buồng lái và chạy xa máy bay ba mươi mét, ép mình xuống mặt đất. Bên cạnh có một vật gì đó thúc mạnh xuống đất. Súng máy nổ đùng đùng. Nhiều cục đất rơi vào lưng tôi. "Dẫu sao, - thoáng một ý nghĩ. - Bây giờ sẽ là một vụ nổ". Nhưng, may mắn thay, quả bom cassette chứa nhiều trái bom con, tên phát xít thả, đã không nổ.

Tấn công xong bon phát xít bỏ đi. Một số máy bay của chúng tôi bị hư hại nặng. Kỹ thuật viên ngay lập tức bắt tay sửa chữa chúng, những chiếc máy bay còn lại cất cánh và bay về hướng Izyumovka. Ngay lúc ấy, từ phía sau núi, chín chiếc "Focke-Wulf" ở độ cao thấp xông ra. Phải làm gì? Tình huống thực sự gay cấn. Bầu trời không có một đám mây có thể để cho ta ẩn nấp, gần đó không có khe hẻm nào ta có thể nhào xuống, đến rặng núi còn xa. Còn trên đất bằng mà tiếp đất thì vô ích: dù gì cũng bị thiêu cháy, hoặc khi hạ cánh hoặc lúc đậu. Nhưng đột nhiên Masha kêu lên trong máy đàm thoại:
- Hãy nhìn xem, chúng cắt đường chúng ta!

Tôi ngoái đầu nhìn: vài chiếc máy bay đang lao tắt đến rất nhanh, do khoảng cách còn đáng kể nên chưa phân biệt được. Chúng tôi không có gì để mất. Đẩy cần lái xa thân mình và suýt nữa đụng bánh xe vào đất đá, tôi lái chiếc U-2 bay tới dãy núi. Trong tâm trí nhen nhóm hy vọng: "Chỉ cần tới được rặng núi, ở đó mình sẽ ẩn trong hẻm núi".

Nhưng chuyện gì thế này? Gần đến chỗ chúng tôi những chiếc máy bay đột ngột bay vút lên cao theo một đường dốc đứng, bỏ qua chúng tôi, chúng bổ nhào xuống đầu bọn quốc xã.

- Ôi quân ta! - Shchelkanova vui sướng kêu lên. - Những chiếc "Lavochkin"!
Cuộc không chiến không kéo dài. Sau khi mất ba "Focke-Wulf", bọn Hitler vòng lại và tháo chạy thục mạng.

Tại Izyumovka chúng tôi biết được rằng các phi công của Anh hùng Liên Xô V.I.Maksimenko đã giải cứu chúng tôi thoát khỏi thảm họa. Họ chỉ chậm một chút thôi, rất khó nói chuyện gì sẽ xảy đến với chúng tôi. Có lẽ, đối với nhiều người trong chúng tôi, ngày nắng đẹp tuyệt trần này sẽ là ngày cuối cùng.

Dù sao, bài học mà bọn Đức giảng cho chúng tôi, đã dạy chúng tôi phải cảnh giác. Các chiến sĩ cao xạ khẩn trương chuyển đến Karlovka.

(http://airaces.narod.ru/all3/maksimen4.jpg)
Thượng úy phi công AHLX, biên đội trưởng, trung đoàn tiêm kích 88, sư đoàn KQ 216, TĐQ KQ 4 V.I.Maksimenko trong buồng lái một chiếc tiêm kích Lavochkine LAGG-3 (http://airaces.narod.ru/all3/maksimen.htm)

Tới lúc này bộ đội Tập đoàn quân Độc lập miền Duyên hải và Phương diện quân Ukraina 4 đã bao vây Sevastopol và đang chuẩn bị trận công phá quyết định vào thành trì cuối cùng của kẻ thù trên đất Crimean. Không quân Đức Quốc xã thực tế đã hầu như chấm dứt hoạt động có tổ chức. Sự thống trị của chúng ta trong không trung là không giới hạn. Vì vậy, chẳng bao lâu sau TĐQ Không quân 4 được điều chuyển đến Belarus, tại Crimea chỉ còn TĐQ KQ 8.

Bọn phát xít Quốc xã làm mọi thứ để ngăn chặn cuộc tấn công của quân đội Liên Xô. Chúng xây dựng các lô cốt và hầm hào, chằng dây thép gai bao quanh núi, gài mìn nhiều km đường, chỉnh tọa độ xạ kích từng khu vực. Trên các đường tiếp cận thành phố diễn ra một cuộc chiến đấu mà nhiều người gọi là cuộc chiến tranh giành từng mét đất. Chúng tôi, các phi công, cố gắng bằng tất cả khả năng có thể, giúp sức những người lính mặt đất.

Chúng tôi đã thực hiện không chỉ một phi vụ, trong khu vực Sevastopol, Balaklava, trên núi Sapun, mũi Khersones.

Bầu trời Sevastopol ù đặc tiếng gầm của động cơ. Chúng tôi xuất kích vào lúc hoàng hôn bắt đầu tắt và kết thúc đêm chiến đấu vào lúc trời đã sáng bạch, khi mà lực lượng không quân hoạt động ban ngày cất cánh đi làm nhiệm vụ. Chúng tôi phong tỏa các sân bay quân thù, tấn công các mục tiêu trong vịnh, nơi các tàu vận tải Đức ghé vào sơ tán sinh lực và trang bị khí tài của quân đội chúng.

Nằm phía dưới, dưới cánh bay của chúng tôi, Sevastopol hiện ra thê thảm trong những vết thương chí mạng và bất tử trong sự anh hùng của mình...

Còn bầu trời chiến tranh Sevastopol! Ngày và đêm đó là nỗi khủng khiếp đối với quân thù. Ban ngày thống trị trên bầu trời ấy là các máy bay cường kích, tiêm kích, máy bay ném bom ban ngày Soviet. Ban đêm những chiếc U-2 của chúng tôi không cho bọn Đức được yên. Kể từ khi vượt eo biển Kerch và kết thúc bằng thất bại hoàn toàn của quân đội phát xít Đức Quốc xã tại mũi Khersones, tất cả chúng tôi sống với một suy nghĩ - giải phóng mảnh đất Crimean thật nhanh.

Trung đoàn của chúng tôi được rút khỏi sư đoàn KQ ném bom 132 và tạm thời chuyển thuộc sư đoàn KQ cận vệ ném bom đêm Cờ Đỏ Stalingrad số 2. Sự kiện này trùng hợp với việc trao tặng huân chương Cờ đỏ cho trung đoàn vì đã hoạt động thành công trong quá trình giải phóng Feodosya.
- Nào, chúng ta hãy xem các cấp dưới mới của tôi, vừa được tặng huân chương làm ăn như thế nào - sư đoàn trưởng, thiếu tướng Kuznetsov khi đến Karlovka có nói.

(http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/073.jpg)
K.A.Vershinin gắn huân chương Cờ Đỏ lên lá cờ cận vệ của trung đoàn. Năm 1944 (http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/ill.html)

Thành thật mà nói, chúng tôi không vui vẻ với người chủ mới cho lắm. Tôi nghĩ rằng ở đây sẽ lại diễn ra những gì đã có ban đầu tại sư đoàn 132: sự mỉa mai, những nụ cười hạ cố, sự tò mò có tính xúc phạm. Khi chúng tôi gia nhập sư đoàn 132, sau lưng chúng tôi người ta đã đặt cho chúng tôi những biệt danh không tốt - "không quân không nghiêm túc". Mặc dù các cô gái ngay lập tức chứng minh rằng họ biết chiến đấu không hề tệ hơn các đại diện của "không quân nghiêm túc", mặc dù bằng công việc của mình chúng tôi đã bắt những kẻ pha trò cười câm lặng, biệt danh xúc phạm này vẫn còn với chúng tôi.

Tại sư đoàn 2, trái với nỗi lo ngại, người ta chào đón chúng tôi như những người ngang vai, tất cả theo công việc. Các trung đoàn của sư đoàn này có cùng một loại trang bị cơ bản như chúng tôi - các máy bay U-2, và các nam phi công của họ, theo kinh nghiệm của riêng mình, biết loại máy bay này như thế nào và bay trên máy bay đó dưới lưới lửa phòng không, giữa các luồng đèn chiếu sẽ ra sao.

Sư đoàn rất giàu kinh nghiệm chiến đấu: nó tham gia đánh bại bọn phát xít Đức gần Moskva, tham gia các trận chiến trên sông Don, phòng thủ Stalingrad. Chúng tôi bước vào đội hình sư đoàn như vào một gia đình thân thiện với tư cách một thành viên bình đẳng của nó.

Tại đây chúng tôi làm quen với một phương pháp lãnh đạo hoàn toàn mới. Trong sư đoàn cũ, cơ quan thanh tra khi xuống trung đoàn, họ tìm hiểu công việc, kiểm tra và chỉ sau khi đi rồi, mới gửi mệnh lệnh có các kết luận và các yêu cầu sửa chữa việc này-việc nọ, loại bỏ cái này-cái kia, quan tâm chú ý điều kia-điều nọ.

Các đại diện của sư đoàn 2 xây dựng công việc của mình theo kiểu khác. Họ cũng có mặt ở tuyến xuất phát, theo dõi các hành động của chúng tôi, nhưng không gửi các mệnh lệnh và hướng dẫn từ trên xuống, mà ngay lập tức giúp sửa chữa tại chỗ các thiếu sót, họ cố vấn, mách bảo, và nếu cần thiết, họ yêu cầu.

(http://loveread.ws/img/photo_books/47714/i_086.jpg)
Bàn đạp Kerch, tháng 12 năm 1943. Tư lệnh TĐQ độc lập miền Duyên hải I.E.Petrov báo cáo đại diện Đại bản doanh Tổng tư lệnh tối cao, K.E.Voroshilov, và Cục trưởng Tác chiến BTTM Hồng quân S.M.Shtemenko. (http://loveread.ws/read_book.php?id=47714&p=55)

Kinh nghiệm của các phi công tiên tiến sư đoàn này giúp chúng tôi tăng tải trọng bom trên máy bay lên gần gấp đôi. Cho đến lúc đó, chúng tôi vẫn cho rằng 150-180 kg bom - đó là tải trọng tối đa mà máy bay của chúng tôi có thể mang theo. Tất nhiên, chúng tôi biết rằng U-2 có khả năng mang tải thêm nữa, nhưng để hoạt động thành công trên mục tiêu, có lẽ tải trọng này với chúng tôi là giới hạn. Dù sao mang ít bom bay lên không trung, cần phải từng phút từng giây nhớ tới tài nguyên của động cơ, giữ gìn tính cơ động của máy bay. Vì vậy, chúng tôi cho rằng tải trọng lớn sẽ làm giảm đáng kể khả năng điều khiển máy bay khi bị bắn từ mặt đất. Chúng tôi đã rất ngạc nhiên khi biết tải trọng bom 250-300 kg tại sư đoàn 2 được coi là bình thường.

Giữa chúng tôi nổ ra một cuộc tranh cãi. Nadia Popova nói rằng chúng ta cũng có thể mang trên máy bay của mình tải trọng tương tự, và thậm chí còn nhiều hơn nữa.
- Khung sườn máy bay chúng ta cũng như họ. Dù sao đi nữa, tôi chắc chắn ba trăm kg phù hợp với mỗi kíp bay.

Tôi và Dina Nikulina ủng hộ Popova. Chúng tôi lập tức mời các cán bộ kỹ thuật và quân khí viên. Họ thực hiện các tính toán tương ứng và xác nhận kết luận của chúng tôi.
- Nếu vận hành động cơ đúng cách, - kỹ sư trung đoàn Sofia Ozerkova cho biết - ba trăm kg không phải là giới hạn. Thậm chí có thể đem thêm bảy mươi kg. Motor vẫn kéo tốt.
- Sao, Nadia, chúng ta mạo hiểm chứ? - Tôi hỏi Popova.
- Mạo hiểm à, xin mời!

Không trì hoãn công việc, chúng tôi đến ngay chỗ Bershanskaya. Evdokia Davydovna đồng ý lập tức. Một lần nữa người ta triệu tập các chuyên gia, kiểm tra các phép tính toán. Và chỉ khi tất cả các khả năng đã được cân nhắc, chúng tôi mới nhận được sự cho phép.

Thành thật mà nói, tôi, Nadia và Dina Nikulina rất lo lắng trong đêm đó. Chúng tôi không nghi ngờ rằng máy bay sẽ nâng được 300 kg. Nhưng vấn đề không phải chỉ là việc nâng được một tải trọng như thế, điều chính yếu - phải cắt bom chính xác. Và điều đó có nghĩa là - đừng để những chùm sáng của đèn chiếu tóm được mình hoặc phải biết cách thoát đi nếu chúng vẫn còn bắt được bạn. Mà 300 kg - không phải là 150 kg. Những chiếc máy bay của chúng tôi có cơ động được với tải trọng này không?

Chúng tôi lo lắng không phải vì sợ thất bại của cá nhân. Mà sợ cái khác. Mọi người đều nhìn vào chúng tôi. Nhiều việc phụ thuộc vào sự thành công hay thất bại của chúng tôi. Hoàn thành nhiệm vụ - những người khác sẽ theo sau chúng tôi, và khả năng chiến đấu của trung đoàn sẽ tăng gần như gấp đôi. Không hoàn thành - sẽ phải đỏ mặt trước các đồng chí, trước ban chỉ huy trung đoàn, sư đoàn và, quan trọng nhất, làm xói mòn niềm tin của các nữ phi công vào khả năng của mình. Ở đây có nhiều điều để suy ngẫm.
...........


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 16 Tháng Chín, 2015, 10:38:30 pm
(tiếp)

Trong khi các quân khí viên treo bom, tôi với Nadia và các hoa tiêu của chúng tôi một lần nữa xác định rõ trình tự hoạt động trên mục tiêu, thống nhất về chế độ bay, quy định gián cách giữa các máy bay lớn hơn thông thường khi tiến vào ném bom. Bằng gián cách lớn, chúng tôi dự kiến đánh lạc hướng kẻ thù và bảo vệ mình tránh tai nạn. Bạn không bao giờ biết chuyện gì có thể xảy ra trên tuyến đường bay. Do đó, với chiếc máy bay đầu tiên, và thứ hai, thứ ba, việc có thêm một phút rưỡi đến hai phút sẽ không thừa, để nếu cần thiết, sẽ quan sát được tốt hơn, đánh giá tình hình hiện tại và đưa ra quyết định đúng đắn.

Chúng tôi sẽ phải ném bom phi trường của kẻ thù ở khu vực Balaklava. Chúng tôi cất cánh lên không trung trước khi màn đêm buông xuống. Tuy nhiên, lần đầu tiên cất cánh với một tải trọng như vậy từ một khu vực núi đá không bằng phẳng trong ánh sáng ban ngày sẽ thuận tiện hơn và an toàn hơn. Do đó, chúng tôi dự kiến sẽ bay với tốc độ thấp hơn để băng qua tiền duyên trước khi đêm đến thay cho hoàng hôn.

(http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/079.jpg)
Các hoa tiêu tính toán đường bay (http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/ill.html)

Tôi và Katya xuất phát đầu tiên. Động cơ gầm lên và máy bay từ từ di chuyển ra khỏi vị trí. Để đề phòng, tôi hơi kéo dài quãng đường chạy đà và chỉ khi đạt được tốc độ đáng kể mới khẽ kéo cần lái về phía mình. Chiếc U-2 ngoan ngoãn và nhẹ nhàng tách khỏi mặt đất.

Tôi thở phào nhẹ nhõm: không quá tải. Nhưng máy bay phản ứng thế nào khi leo cao? Cần lên cao ít nhất 800 mét. Tôi chăm chú lắng nghe động cơ làm việc. Trong lúc này, tất cả mọi thứ bình thường, kim đồng hồ đo độ cao dịch chuyển đều đặn trên vòng tròn.

Khối núi tối sẫm từ từ trôi về phía máy bay. Chẳng mấy đến đường tiền duyên. Tôi cúi xuống qua mép buồng lái, nhìn đăm đăm vào những đường nét lờ mờ của mặt đất, và chỉ bất giác nhận thấy rằng trời còn khá sáng. Có chuyện gì vậy? Có phải chúng tôi tính nhầm? Nhìn vào đồng hồ, tôi hiểu ra mọi thứ. Mải suy nghĩ, tôi quên mất chế độ vận tốc bay quy định đã được chúng tôi thông qua, và thế là tôi đã vi phạm biểu đồ bay. Kết quả, cạnh trước biểu đồ sẽ cắt qua vào lúc hoàng hôn, như thế, chúng tôi phải đến mục tiêu ngay trước khi bóng đêm hoàn toàn ập xuống. Đây là điều xấu - máy bay có thể bị phát hiện trước thời hạn. Nhưng bây giờ không còn làm thế nào khác được.

Giảm nhỏ động cơ, tôi đưa máy bay hạ độ cao. Một suy nghĩ lóe lên trong óc: "Chỉ mong đưa được máy bay đến ranh giới của sân bay Balaklava!» Ryabova, như thể đoán được tâm trạng của tôi, không hiểu sao thì thầm rằng còn năm phút nữa mới đến giờ ném bom!.
Những giây phút ấy kéo dài lâu một cách đáng ngạc nhiên. Đường băng CHC đã hiện ra. Chưa thấy sự di chuyển trên đó. Hay chúng đã phát hiện ra chúng tôi và bây giờ ẩn nấp và chờ đợi cho đến khi chúng tôi ở trên các họng pháo của chúng? Cố gắng giữ bình tĩnh, tôi hỏi hoa tiêu xem có thấy rõ mục tiêu không.

(http://cs623119.vk.me/v623119428/2b8bf/O3A1jwFGBBc.jpg)
Giải phóng Sevastopol (http://vk.com/wall-18181383?q=%D0%9A%D1%80%D1%8B%D0%BC%D1%81%D0%BA%D0%B0%D1%8F%20%D0%BE%D0%BF%D0%B5%D1%80%D0%B0%D1%86%D0%B8%D1%8F&z=photo-18181383_359790096%2Falbum-18181383_00%2Frev)

- Sang phải một chút! - Katya chỉ huy. - Ở rìa cánh đồng có gì đó lấp loáng. Trông giống như máy bay tiêm kích.
Vài giây khổ sở trôi qua. Đột nhiên, các đèn chiếu bật sáng, một màn hỏa lực như bão táp bủa vây chúng tôi.
Có lẽ do bất ngờ, bản thân tôi làm lắc máy bay, nhưng không hiểu sao tôi có cảm giác Ryabova đã ném bom. Tôi lập tức lượn vòng và giảm độ cao.
- Cậu điên à?! - Katya kêu lên. - Quay lại!
- Để làm gì? - Tôi hỏi. - Cậu cắt bom rồi cơ mà.
- Không phải thế. Toàn bộ bom vẫn dưới cánh máy bay.
Sau khi lượn đủ một vòng tròn, tôi tiến vào mục tiêu một lần nữa. Đạn cao xạ tiếp tục nổ ran. Tôi cố gắng thực hiện thao tác chống pháo phòng không và cơ động máy bay theo hình rắn lượn, ngoặt phải rồi ngoặt trái. Máy bay vẫn vâng lời, mặc dù khi tác động, bánh lái phản ứng không nhanh như trước. Thì chúng đây, những 300 kg cơ mà... Có vẻ như chúng không đoạt của chiếc máy bay nhiều như vậy - tất cả chỉ một phần nhỏ của một giây, nhưng những khoảnh khắc ấy quý giá làm sao!
Dây thần kinh của tôi căng thẳng đến mức giới hạn. Và tôi muốn hét lên với hoa tiêu: "Nhanh lên! Sao cậu cứ trì hoãn mãi!" Nhưng Katya không vội vàng. Tôi biết cô ấy sẽ không ném một quả bom nào khi chưa ngắm kỹ.

Những vệt đạn lửa đủ màu sắc ngày càng tiến gần hơn. Một trong những vệt đạn đó sượt qua ngay trước cánh quạt. Theo bản năng tôi bóp cần lái đến phát đau. Nhưng tiếng bom nổ vẫn chưa vang lên. Và sau một lúc nữa máy bay rung mạnh. Trong máy đàm thoại vang lên giọng Ryabova:
- Đã ném xong toàn bộ bom. Thoát ly được rồi.
Câu cuối cùng tôi hiểu ngay ý nghĩa trước khi nghe hết: vụ nổ trên mặt đất đã át tiếng nói. Theo sức nổ có thể đoán được rằng, Katya cắt bom đồng loạt tất cả một lần. Tôi như cất được trái núi đè nặng trên vai mình: cuộc thí nghiệm đã thành công.

(http://www.turgurzuf.ru/images/aaaaaa/555.jpg)
Balaklava hòa bình...

Bây giờ là việc Popova: xét theo thời gian cô đã phải có mặt trên tuyến tiếp cận. Tôi ngoái lại, chờ đợi ánh lửa vụ nổ bùng lên. Mãi vẫn không thấy. Xuyên vào bóng tối bằng ánh sáng màu xanh nhạt, một vài dàn đèn chiếu mò mẫm khoảng không trên đầu sân bay. Sau đó đèn tắt, còn Nadia vẫn chưa xuất đầu lộ diện.
- Liệu có gì xảy ra với họ không? Cậu nghĩ sao, Katya?
- Chúng ta đừng vội kết luận - Ryabova trả lời tôi. - Chúng ta đi đến mục tiêu trước thời hạn, còn họ có thể bị chậm.
Và như để khẳng định lời nói của cô, đằng sau chúng tôi, bóng đêm đen một lần nữa bị xé toạc bởi các chùm đèn chiếu PK, súng cao xạ nổ vang rền. Và tiếp sau chúng, vòm trời bỗng sáng rực bởi ánh chớp của các vụ nổ.

Popova tiếp đất mười phút sau chúng tôi.
- Cừ lắm, các cô gái, - thiếu tá Rachkevich đón chúng tôi. - Tôi chân thành chúc mừng. Các cô hãy tính rằng, sau chuyến bay của các cô, thay vì một chúng ta có hai trung đoàn nữ KQ U-2.

Cùng đêm ấy, nhiều kíp bay đã bay đi ném bom với tải trọng bom tăng cường. Kể từ đó cho đến khi chiến tranh kết thúc, chúng tôi treo dưới cánh máy bay không dưới 300 kg bom, và có những trường hợp đã mang đến 400 kg. Và không có chuyện gì xảy ra, động cơ vẫn kéo tốt. Tất nhiên, máy bay sẽ hao mòn vì chuyện đó nhanh hơn một chút. Nhưng các cú đánh của chúng tôi xuống đầu kẻ thù sẽ mạnh hơn hẳn. Và điều đó mới là điều chủ yếu trong bảng thống kê cuối cùng.

* * *

Tháng Năm năm Bốn mươi Tư...
Tháng Năm - tháng mùa xuân của tình yêu và hoa, thời gian mà thiên nhiên tỉnh giấc sau một mùa đông dài. Tại Crimea, tất cả đang phủ màu xanh mướt và đặc biệt đơm hoa mãnh liệt. Trong những đêm mùa xuân thơm nồng nàn chúng tôi bay đến Sevastopol để ném bom xuống đầu kẻ thù.

(http://www.blackseanews.net/files/image/(10-99-99-99)/29.jpg)
(http://www.blackseanews.net/files/image/(10-99-99-99)/32.jpg)
Mũi Khersones mùa hè năm 1942. Thương binh Soviet tập đoàn quân độc lập miền Duyên hải bị bỏ lại trong chiến dịch di tản khỏi Sevastopol... (http://investigator.org.ua/articles/126674/)

Bọn Hitler kéo về mảnh đất Sevastopol nhiều thiết bị quân sự, bao gồm cả pháo PK. Chúng có công sự cố thủ vững chắc, nằm sâu trong các hầm bê tông. Nhổ chúng ra khỏi chỗ rất khó khăn: kẻ thù bị ép về phía biển, bám chặt từng mét đất Crimean, đặc biệt tại mũi Khersones. Nhưng bọn phát xít Quốc xã không thể cứu vãn dù trên đất liền hoặc trên biển. Sevastopol đã trả giá với chúng bằng nỗi đau lâu dài của mình.

Tại mũi Khersones, nơi năm xưa những người bảo vệ cuối cùng của thành phố từng chiến đấu, quân Đức dồn về rất nhiều. Chúng không có nơi nào để rút lui. Đằng sau là biển ...

* * *

Trận chiến Crimea sắp kết thúc. Kể từ cuối tháng Tư, trung đoàn đóng quân tại Chebotarka nằm cách hai cây số về phía đông thành phố Saki. Từ đó chúng tôi bay đi kết liễu kẻ thù tại Sevastopol, trong khu vực Balaklava và cổng Bajdar, mũi Khersones. Ở đây, bọn Hitler vẫn còn ba sân bay được sử dụng để sơ tán khẩn cấp qua đường biển các trang thiết bị và sinh lực. Để tăng sức mạnh các đòn đánh của mình, lực lượng không quân của chúng ta bắt đầu áp dụng trong khu vực này của mặt trận một hệ thống mới xử lý các mục tiêu của kẻ thù - bay thành nhiều tầng. Điều này cho phép giáng đòn tập trung hơn và nặng nề hơn cho kẻ địch.

Nhưng bay thành nhiều tầng cao đòi hỏi các hoa tiêu và nữ phi công phải có sự chăm chú đặc biệt, các tính toán chính xác. Để ngăn ngừa va chạm trên không, chúng tôi bay với các đèn thân bật sáng, và chỉ tắt chúng khi vào tiếp cận mục tiêu. Và bất chấp sự phức tạp ngày càng tăng của công việc, trên đoạn phòng thủ của kẻ thù, đang bão hòa các phương tiện phòng không dày đặc, trong quá trình chiến đấu giải phóng Sevastopol, toàn trung đoàn không bị mất bất kỳ phi hành đoàn nào.

Về tải trọng, các cô gái duy trì trong thời kỳ đó, thuyết phục nhất là nói bằng ngôn ngữ cô đọng của những con số: trong thời gian chiến đấu ở thành phố-anh hùng trung đoàn đã thực hiện 1.147 phi vụ chiến đấu, trung bình 150 chuyến bay trong một đêm.

Trong những ngày khó quên ấy, số phận đã cho tôi một cuộc gặp bất ngờ thú vị. Tôi thường nhớ về các bạn bè tại câu lạc bộ HK, đôi khi có được từ họ một số tin tức ít ỏi, biết rằng có ai đó đang ở mặt trận của chúng tôi, ngay bên cạnh tôi. Nhưng cho đến bây giờ tôi chưa từng gặp được một ai trên ngã ba đường của những con đường mặt trận. Và tôi mong làm sao, dù chỉ một thoáng, nhìn thấy một khuôn mặt quen thuộc, cảm nhận được cái bắt tay siết chặt của một người bạn cũ, nghe từ người ấy một vài lời!

Một lần, khi trở về sau một phi vụ chiến đấu thường lệ, và nhân tiện các quân khí viên đang khắc phục một số trục trặc, tôi trèo ra khỏi buồng lái để duỗi đôi chân tê cứng của tôi một chút.

Ui chao, thật khỏe khoắn biết bao khi dưới chân bạn là mặt đất rắn chắc! Đặc biệt là nếu trước đó trong suốt ba giờ bạn chỉ làm độc một việc là cất cánh, cơ động dưới lưới lửa của các xạ thủ cao xạ kẻ thù, hạ cánh rồi lại cất cánh. Tôi khoan khoái duỗi tay duỗi chân, làm một vài bước và đột nhiên nghe thấy giọng trực ban:
- Chechneva - về SCH, gặp trung đoàn trưởng!
Thông thường trong đêm chiến đấu không bao giờ người ta làm các nữ phi công lo ngại bởi những lệnh gọi như vậy. Lòng lo sợ, tôi chạy đến sở chỉ huy.
- Không cần, thoải mái đi, thoải mái đi - Thiếu tá Bershanskaya chặn tôi lại, khi thấy tôi đứng nghiêm theo tư thế "nghiêm" và muốn báo cáo. - Chuyện hoàn toàn cá nhân. Cô có khách đến thăm đây.

Mỉm cười bí ẩn, chị ấy bước sang một bên, và xuất hiện trước mặt tôi - ôi làm sao tôi có thể nghĩ ra được! - Huấn luyện viên đầu tiên của tôi. Tôi choáng váng trong niềm vui bất ngờ, và có lẽ đã đứng yên đến một phút miệng há ra, không thốt lên nổi một lời.
- Nào, xin chào - tôi nghe giọng anh nói - Xin chào, đồng chí thượng úy cận vệ!
- Anh Misha! - bất giác tôi buột miệng kêu lên. - Mikhail Pavlovich!
Duzhnov bước về phía tôi, và chúng tôi hồi lâu im lặng và mỉm cười bắt tay nhau. Thế là điều tôi mơ ước đã xảy ra. Tạo hóa tỏ ra hào phóng với tôi hơn là tôi có thể mong đợi, nó mang lại cho tôi không chỉ một người đồng chí, mà còn là một người bạn, một giáo viên được yêu quý và một nhà giáo dục.

Duzhnov vẫn như vậy, cân đối, dáng người thẳng, quần áo chỉnh tề và thậm chí cạo râu ria nhẵn nhụi. Chiến tranh và sự bất tiện của tiền tuyến không làm thay đổi thói quen của anh. Tôi đã nhìn thấy anh lần đầu tiên như thế cách đây sáu năm trên sân bay của Osoaviakhim, nay lại gặp anh hệt như vậy trên tiền tuyến, nơi mà không có chỗ để tắm rửa cho đúng cách.
- Làm sao mà anh có mặt được ở đây? - Cuối cùng tôi đã tìm lại được tiếng nói của mình.
- Thế còn cô?   
- Em ở trung đoàn của Bershanskaya.
- Thế đấy, chúng ta là hàng xóm. Trung đoàn của chúng tôi cũng thuộc quân số sư đoàn không quân cận vệ 2. Thật không ngờ lại được gặp học trò của mình ở ngay bên tường thành Sevastopol, và trong một đêm chiến trận nóng bỏng thế này.
- Nghĩa là anh cũng bay trên máy bay U-2? Nhưng thế đấy, chiến đấu bên cạnh nhau mà không biết về nhau.
Duzhnov giang hai tay:
- Chuyện gì cũng có thể xảy ra. Và thú thật, tôi vẫn cứ tin chắc rằng cô đang ở bên không quân tiêm kích. Cô còn nhớ các kế hoạch của mình không?
- Không kết quả, Mikhail Pavlovich. Raskova thuyết phục, khuyên em sang với các phi công ném bom đêm.
- Cô có hối hận không?
- Có lẽ cũng có chút hối tiếc. Thế còn anh?
- Cũng có một chút.
Và cả hai chúng tôi bật cười, hoàn toàn hiểu nhau. Cuộc gặp gỡ của chúng tôi kéo dài không quá năm phút. Tôi vội vã ra bay chuyến tiếp theo. Duzhnov cũng đang chờ máy bay.

Mikhail Pavlovich đột nhiên xuất hiện tại nơi đóng quân của chúng tôi - anh bay với phi đội của mình đi bổ sung dự trữ bom mà trung đoàn của anh thời gian đó vừa hết.
- Chechneva, ra máy bay! - một ai đó hét lên. Chúng tôi ra khỏi SCH.
- Nào, Marina - lần đầu tiên bỗng Duzhnov gọi tôi bằng tên - Chúc em thành công. Có thể chúng ta sẽ gặp lại nhau trong một hoàn cảnh khác.
- Tại sao lại là "có thể"?
Duzhnov dừng lại và nói khẽ:
- Chiến tranh vẫn tiếp diễn... Em còn nhớ Matznev không?
- Anatoly Sergeyevich? - Trái tim tôi thắt lại vì một linh tính.
- Đúng. Bọn anh đã chiến đấu cùng nhau. Anh còn sống sót, nhưng anh ấy đã hy sinh ở Stalingrad. Thế đấy, chuyện ấy biết lúc nào sẽ xảy ra!
Duzhnov lần nữa siết chặt tay tôi, quay đi và bước nhanh vào đêm tối. Tôi đứng lại một lúc, lắng nghe âm thanh những bước chân sải rộng của anh dần xa và chậm rãi đi ra máy bay.

Cuộc gặp gỡ bất ngờ này mang lại cho tôi cả niềm vui và nỗi buồn. Tin về cái chết của Matznev làm mờ niềm vui của tôi, nhưng không thể hoàn toàn lấy khỏi trái tim tôi một niềm xúc cảm lớn lao, không diễn tả được bằng lời, đó là lòng biết ơn đối với số phận đã cho tôi cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng dễ chịu này.

Một tuần nữa trôi qua, và cuối cùng điều chờ đợi từ lâu đã thành sự thật. Quân đội Liên Xô hoàn toàn giải phóng Crimea khỏi bọn cặn bã phát xít.

(http://politikus.ru/uploads/posts/2014-03/thumbs/1394998928_1966.jpg)
...Và hai năm sau: mũi Khersones tháng Năm năm 1944, nơi chấm hết với tàn quân Đức tập đoàn quân dã chiến 17 trong Chiến dịch giải phóng Crimea. (http://politikus.ru/articles/14840-osvobozhdenie-kryma-1944-god-.html)

Bọn Hitler điên rồ đã mất phương hướng hoàn toàn. Một trong những chiếc máy bay của chúng bay sát đầu ngọn cây trên đầu tuyến xuất phát của chúng tôi tại Chebotarka, lao từ bên này sang bên kia và hạ cánh trên sân bay của trung đoàn nam không quân hàng xóm với chúng tôi. Tàn quân của các sư đoàn địch, trong cơn co giật trước cái chết, bám chặt vào mũi Khersones, đã bị tiêu diệt hoàn toàn tại đây. Bầu trời thanh bình lại xanh biếc trên bán đảo Crimea, những tràng đại bác và những loạt bom nổ không còn át tiếng sóng vỗ bờ.
Nhà thơ đại tá Aleksandr Kudryashov nói một cách tuyệt vời về những ngày tháng ấy:

Lại mùa xuân. Cây dương Crimea
Đập nhịp bồi hồi trong từng thớ lá.
Sevastopol đón chào quân ta,
Nhận nhau qua đôi cánh ngôi sao.
Trong phút thiêng liêng, đất trời ngây ngất,
Tháng Năm trên mặt đất, tháng Năm trong tim.
Đây bờ Nam Crimea êm ả!
Phiếu nghỉ hãy phát cho tất cả chúng ta.


Buổi sáng ngày 12 tháng Năm là một buổi sáng đẹp trời đầy nắng. Chúng tôi đưa máy bay về sân đậu, còn bản thân thì tắm rửa sạch sẽ, chỉnh đốn lại mình. Mọi người hy vọng trung đoàn sẽ được nghỉ ít nhất một tuần. Hầu hết chúng tôi lần đầu tiên đến Crimea, và các cô gái mơ ước được đi tắm biển, tham quan các địa điểm đẹp như tranh vẽ trên bờ biển phía nam. Cùng với các bạn gái tôi đi ra bãi biển. Chim hải âu kêu thấu tâm can. Không trung và nước biển hòa cùng màu xanh, giống như một bức tranh màu nước. Không thể tin được rằng ở đâu đó chiến tranh đang tiếp tục.

Nhưng chúng tôi chưa được nghỉ ngơi. Ước mơ của chúng tôi chưa được thỏa mãn. Hai ngày sau chúng tôi nhận được lệnh: bay ngay tới Phương diện quân Bêlarút 2, tới tập đoàn quân không quân 4.

Sáng ngày 15 tháng 5 trung đoàn cất cánh từ sân bay Chebotarka, tập hợp đội hình theo từng phi đội, lấy hướng phương bắc. Trong khi lượn vòng, tôi nhìn ra biển, biển đang được sưởi ấm dưới ánh mặt trời. Biển đang tiếp tục cuộc trò chuyện bất tận với bờ và không mệt mỏi lướt những làn sóng thêu ren lộng lẫy vào bờ.

Nào, xin chào tạm biệt. Không, hẹn gặp lại, Biển Đen! Cho đến khi gặp lại nhau lần này, dẫu bị dày vò, nhưng Crimea vẫn tuyệt đẹp như xưa! Tôi tin - chúng ta sẽ gặp lại nhau. Chúng tôi sẽ trở lại với bờ biển xanh như ngọc của người, nhưng không phải như những người lính. Và tôi nghĩ rằng những bờ bãi của người sẽ không bao giờ còn bị khuấy động bởi tiếng gầm rú của một cuộc chiến tranh mới.
.........


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 17 Tháng Chín, 2015, 04:58:30 pm
(tiếp)

Phía trước là nước Đức

Những chiếc U-2 của chúng tôi bay xa và xa hơn nữa về phương bắc. Bầu trời trên đầu chúng tôi đã sạch bóng máy bay phát xít. Phía dưới là mảnh đất quê hương đầy thương tích.

Những cánh đồng vô tận của Ukraine dần dần được thay thế bằng những cánh rừng thấp và nhỏ, ngày càng mở rộng ra, trở nên dày đặc hơn, cây cối cao hơn và cuối cùng chuyển thành những cánh rừng thực sự, hùng vĩ, bạt ngàn không có hồi kết.

Belorussia! Từ đây đến Moskva thật xa - hàng trăm cây số, nhưng thiên nhiên Belarus có gì đó nhắc nhớ đến Moskva ruột thịt của tôi. Cũng những hàng bạch dương lá xoăn tươi tắn, những cây phong như được chạm trổ tinh vi, những cây sồi hùng tráng, giống như ở vùng ngoại ô Moskva, yên tĩnh, lấp lánh vẻ đẹp tươi vui thân thiện.

(http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/100.jpg)
Chiều tối Po-2 bay đến sân bay "nhảy cóc" (http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/ill.html)

Mảnh đất Belarus thời điểm đó vẫn còn đang nằm dưới ách phát xít.
Các bạn đồng đội cùng trung đoàn quê gốc Belarus đặc biệt lo lắng: hoa tiêu và bí thư chi bộ đảng phi đội Polina Gelman, hoa tiêu Asya Pinchuk, kỹ thuật viên hàng không Anna Kirilenko. Khép mình, ủ rũ là đại úy cận vệ Zinaida Gorman: bọn chiếm đóng Đức bắn chết cha mẹ chị, còn bé trai sáu tuổi bị chúng chôn sống trong lòng đất.

Chúng tôi tiếp đất tại Sesche. Chúng tôi nhìn quanh mà không thấy một ngôi nhà nhỏ hoặc một lều chứa cỏ cho gia súc nào. Chỉ có những khóm rừng bạch dương thân ái lắc cành, như thể vui mừng đón chúng tôi. Xung quanh những khóm rừng đó cảnh tượng với chúng tôi thật không bình thường. Chúng tôi đã quen với những ngọn núi, với biển, ở đây bao quanh chúng tôi là những cánh đồng bằng phẳng và rừng rậm.

Trung đoàn của chúng tôi nằm trong đội hình sư đoàn KQ ném bom đêm 325.
Chúng tôi nhanh chóng xây dựng nơi ăn nghỉ tại một khu rừng bạch dương, xung quanh sân bay mọc lên cả một thị trấn những căn nhà âm.

Tuy nhiên, chúng tôi không kịp thích nghi được với Sesche - phải bay tới một địa điểm khác, tới làng Pustynka, ngôi làng có cái tên phản ánh cực kỳ chính xác thực tế. Sau cuộc chạy trốn của bọn phát xít Hitler, xung quanh nó trông giống như một sa mạc.

Toàn bộ trung đoàn chúng tôi không thể bố trí đủ ở Pustynka. Hai phi đội (của Dina Nikulina và của tôi) được triển khai tại khu rừng gần đó. Tất cả sẽ chẳng có chuyện gì, nếu lũ muỗi không gây rắc rối cho chúng tôi sống yên. Để tìm kiếm sự trốn tránh khỏi chúng, chúng tôi chuyển đến ở trong một tu viện cũ.

Ba tuần đầu tiên, trung đoàn chỉ làm công tác chuẩn bị thật kỹ lưỡng cho các trận chiến trong điều kiện mới. Sau Kuban và Crimea, ở đây có nhiều điều bất thường đối với các tổ bay. Tại đó  chúng tôi quen với các điểm tham chiếu chính xác và rõ ràng: núi, biển, các điểm dân cư lớn. Ở đây mọi thứ rất đơn điệu, mặc dù địa hình vẫn đủ loại: bãi cát, rừng, đầm lầy. Định hướng vào ban đêm trở nên khó khăn hơn nhiều. Và khó khăn này cần phải được khắc phục.

Đội ngũ nhân viên kỹ thuật dưới sự lãnh đạo của kỹ sư trung đoàn Sofia Ozerkova, các kỹ sư Nadezhda Strelkova và Clavdia Ilyushina chuẩn bị sơn sửa lại những chiếc máy bay, đã bị quần tơi tả tại Crimea.

Tổ chức đảng và đoàn Komsomol của trung đoàn, dẫn đầu là bí thư đảng ủy Maria Runt và bí thư đoàn Komsomol Aleksandra Khoroshilova, tiến hành một khối lượng công tác giáo dục lớn lao về việc chuẩn bị tinh thần cho đội ngũ quân nhân bước vào các trận chiến sắp tới.

Trong khi đó các sự kiện quan trọng đang chín muồi. Đêm 23 tháng 6 năm 1944 bộ đội PDQ Belorussia 2 chuyển sang tấn công. Sau khi vượt sông Pronya, họ đã phá vỡ tuyến phòng thủ được tổ chức kiên cố của quân thù, dựng lên nhằm bảo vệ hướng Mogilev. Nhiệm vụ của trung đoàn chúng tôi là tham gia màn hỏa lực chuẩn bị của không quân, chế áp các hỏa điểm trên dải phòng ngự chính của kẻ thù, và liên tục ném bom bó chặt các hành động của kẻ thù, tạo điều kiện cho bộ đội PDQ đột phá thành công.

(http://airaces.narod.ru/woman/bershans3.jpg)
E.D.Bershanskaya trong cabin trước Po-2 (http://airaces.narod.ru/woman/46gnbap.htm)

Ban đêm, tại tuyến xuất phát chúng tôi giương Lá Cờ Cận vệ. Một cuộc mít tinh diễn ra. Trung đoàn trưởng thiếu tá cận vệ E.D.Bershanskaya cổ vũ các quân nhân hãy mang Lá Cờ chiến đấu của chúng tôi một cách vẻ vang đi qua mảnh đất Belarus, đánh bại kẻ thù theo phong cách Cận vệ, cũng như chúng tôi từng đánh bại chúng ở Terek, Kuban, trên bán đảo Taman và Crimea.

Theo kế hoạch sử dụng lực lượng chiến đấu, trung đoàn của chúng tôi tiêu diệt quân đội Hitler trong khu vực Pereloga. Theo quyết định của trung đoàn trưởng, các kíp bay hoạt động đơn chiếc từ độ cao 700-750 mét với vòng ngoặt bên phải phía trên mục tiêu. Đòn tấn công đầu tiên bằng các máy bay của cả trung đoàn diễn ra vào đêm 23 tháng 6. Các phi vụ tiếp theo được sắp xếp với tính toán tác động liên tục lên mục tiêu với gián cách thời gian xuất kích máy bay không hơn hai-ba phút. Tuyến đường bay sẽ là ngắn nhất: điểm xuất phát - mục tiêu. Đêm đó, theo số liệu của các kíp bay trung đoàn chúng tôi, tại Pereloga xảy ra 9 ổ phát cháy và 13 vụ nổ lớn.

Và khi quân đội Liên Xô mở rộng đột phá, tiến nhanh về phía trước, chúng tôi ném bom các đoàn xe rút lui của bọn phát xít trên các con đường, tại các bến phà và các nhà ga đường sắt.

Tại Belarus chúng tôi phải hoạt động trong các điều kiện mới. Chúng tôi chờ đợi sẽ gặp ở đây, như ở Crimea, sức chống trả mạnh mẽ của không quân tiêm kích của kẻ thù và pháo phòng không của chúng. Nhưng hóa ra không có cả hai. Không phải vì bọn Đức quốc xã thiếu khí tài trang bị. Đơn giản chỉ vì tốc độ tấn công của quân đội Liên Xô rất nhanh chóng và bọn Đức rút lui vội vã đến múc chúng không có cơ hội xây dựng hệ thống phòng không có tổ chức. Dù sao, trong vòng một tháng chiến đấu, những chiếc U-2 của chúng tôi chưa lần nào rơi vào lưới lửa pháo phòng không thực sự. Trong ý nghĩa này, tình hình hiện nay không làm ta rút ra được bất cứ sự so sánh nào với tình hình mà chúng tôi phải hành động trước kia.

Nhưng ở Belarus có những khó khăn của nó. Bắt đầu từ chuyện, vào ban đêm, những khu rừng rậm và thiếu những mốc định hướng dễ nhìn ra nào đó đã gây khó khăn lớn cho việc quan sát trực quan và tìm kiếm các mục tiêu. Còn các bãi trống để bay! Các bãi ít nhiều phù hợp hầu như không có, phải tìm kiếm chúng rất khó khăn. Và khi tính rằng chúng tôi không ở lại đâu lâu hơn ba ngày, thì thậm chí một người không biết gì cũng thấy rõ rằng sự bất tiện này là một yếu tố rất quan trọng.

Nhưng dù thế nào, chúng tôi vẫn bay, tìm kiếm kẻ thù và ném quà của mình xuống đầu chúng. Chúng tôi làm việc căng thẳng, thực hiện nhiều phi vụ mỗi đêm. Khi ở gần Minsk, quân đội của chúng ta lùa vào nồi hầm 30 sư đoàn phát xít, các chuyến bay ban ngày bổ sung thêm cho các chuyến bay hằng đêm. Bây giờ chúng tôi tiến hành bay trinh sát, tìm kiếm các nhóm quân của bọn Đức quốc xã rải rác trong rừng rậm, còn sau đó thường tự mình tham gia vào việc tiêu diệt chúng.

Tốc độ tấn công của quân đội Xô Viết rất cao. Từ 23 Tháng Sáu đến 30 tháng 7 năm 1944, quân ta tiến về phía tây khoảng vài trăm km với những trận đánh liên tục.

Trong quá trình chiến dịch tấn công, trung đoàn chúng tôi phải di chuyển nơi đóng quân mười lần. Để đảm bảo sự không ngừng nghỉ của các hoạt động chiến đấu của trung đoàn, các đội tiền tiêu của nó phải đi trước đến các điểm đóng quân mới. Các nữ phi công giàu kinh nghiệm và các hoa tiêu đã bay tìm kiếm và xác định các khu vực thích hợp. Trong thời gian này, có bốn trường hợp khi ban ngày bay tìm kiếm các địa điểm đặt căn cứ, các phi hành đoàn đã phát hiện các nhóm lính phát xít Đức Quốc xã, tàn quân của những đơn vị bị đánh tan. Các hoa tiêu dùng pháo hiệu hoặc hướng bay chỉ dẫn cho các đơn vị mặt đất biết vị trí các nhóm đó và giúp đỡ bắt chúng làm tù binh.

Ngày 10 tháng 7, chúng tôi được giao nhiệm vụ: tiêu diệt trong thời gian ban ngày một nhóm Hitler trong khu rừng phía đông điểm dân cư Borki. Cho đến lúc bấy giờ, chúng tôi chưa bao giờ phải ném bom kẻ thù giữa ban ngày từ chiếc máy bay bằng gỗ dán Po-2 (*) bé nhỏ của chúng tôi. Nhưng phi hành đoàn đã đương đầu thành công với thử thách mới này đối với chúng tôi. Nhóm quân phát xít lớn lang thang trong rừng đã hoàn toàn bị các đơn vị mặt đất tiêu diệt với sự giúp đỡ của các máy bay của chúng tôi.

Vào thời điểm đó, trung đoàn nữ KQ nói chung thường thực hiện các nhiệm vụ chiến đấu khác nhau: phá hủy cầu phà của kẻ thù, tiêu diệt sinh lực của chúng ở những nơi chúng tập trung, ném bom các con đường giao thông, không cho các đoàn xe của bọn Đức đang rút lui di chuyển, tiến hành trinh sát phát hiện các toán quân địch ẩn náu rải rác trong rừng.

Trung đoàn phó Serafima Amosova cùng với hoa tiêu của trung đoàn Larissa Rozanova một lần đã thiết lập kỷ lục độc đáo: trong một chuyến bay phát hiện bảy đội quân phát xít. Phi hành đoàn Nadezhda Popova cùng hoa tiêu Evgenia Glamazdina bất ngờ phát hiện một nhóm quân Hitler quân số lên đến một trăm người. Hoa tiêu đã dùng pháo hiệu hướng dẫn các đơn vị mặt đất tiến tới chỗ kẻ địch và giúp bắt chúng làm tù binh. Những chuyến bay tương tự được gần như tất cả các phi công và hoa tiêu giàu kinh nghiệm thực hiện.

Phải nói rằng, trong thời kỳ các trận đánh ở Belarus, chúng tôi có nhiều bận bịu không phải ở trên không mà là trên mặt đất. Chẳn hạn, chúng tôi không thành công trong việc thu xếp sinh hoạt của mình dẫu chỉ ở dạng sơ khai. Trong một vùng đất bị hủy hoại, bị bọn phát xít thiêu cháy thành tro bụi, không thể nói đến, thậm chí chỉ là về những tiện nghi tối thiểu. Do thường xuyên di chuyển, việc xây dựng cơ bản không thể đủ thời gian. Mái nhà đối với chúng tôi thường chính là cánh máy bay của chính chúng tôi. Dưới những đôi cánh chúng tôi trú mưa, ngủ, nghỉ ngơi. Ngay cả ban tham mưu trung đoàn cũng đặt giữa trời. Chỉ trong trường hợp trời mưa liên tục, người ta mới dựng lên một căn lều lớn. Và không có gì, chúng tôi vẫn vững vàng chịu đựng. Bất chấp mọi điều, tâm trạng chúng tôi luôn luôn tốt.

(*): Từ 1944, để vinh danh nhà thiết kế máy bay N.N.Polykarpov, máy bay U-2 được đổi tên thành Po-2.
.........


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 18 Tháng Chín, 2015, 12:00:30 am
(tiếp)

Điều duy nhất làm chúng tôi chán nản và tra tấn các dây thần kinh - đó là sân bãi cất cánh. Chúng thường quá nhỏ đến mức cất cánh và hạ cánh phải tiến hành trên cùng một đường băng. Nhưng điều đó sẽ vẫn ổn, hãy kiếm một sân đủ chiều dài. Và trong thực tế, việc tìm được một điều như thế quả là một sự hành hạ đúng nghĩa đen. Bạn bay, thường là vậy, và xung quanh chỉ toàn rừng rậm, đầm lầy, sông ngòi. Thoáng thấy một khoảng trống đâu đây, và những chỗ ấy, như ta thường nói, đếm trên đầu ngón tay.

Đây là một chỗ như thế gần làng Novoelnya mà chúng tôi sục sạo-tìm kiếm mãi. Tốt hơn nữa thì không có, chúng tôi chọn chỗ lớn nhất cả đám, và nó suýt nữa trở thành một cái bẫy đối với chúng tôi. Hạ cánh rồi mà không thể cất cánh - quá ít chỗ để chạy đà và khu trống đó thực sự bị rừng bóp nghẹt. Bay lên rồi lại bay lên, nhưng chạm vào cây. Phải làm gì? Bứt đầu bứt tóc hồi lâu, cho đến khi ai đó đề nghị sử dụng các nguyên tắc của súng cao su. Chúng tôi quyết định thử. Lăn máy bay ra tuyến xuất phát, nữ phi công khởi động máy, một vài người tóm chặt cánh dưới máy bay. Khi động cơ đã chạy hết công suất, theo khẩu lệnh mọi người chạy tản sang hai bên. Được giải thoát khỏi lực ghìm giữ nó, chiếc Po-2 lao về phía trước và gần như tách đất mà không chạy đà. Nhưng rừng ngay bên cạnh. có vướng cây hay không? Chúng tôi nín thở đứng tim theo dõi, xem chiếc máy bay động cơ đang hú lồng lên, từ từ bay lên trời thế nào, và khi cuối cùng giữa các bánh xe và tán rừng xuất hiện một khoảng trời màu xanh, các cô gái mới thở phào nhẹ nhõm. Tất nhiên, sau đó chúng tôi phải đi tìm một sân bay mới.

(http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/103.jpg)
Quân khí viên M.Yurodieva lắp ngòi cho bom (http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/ill.html)

Chúng tôi đứng chân lâu hơn một chút trong ngôi làng lớn Novosady, ngôi làng chìm sâu trong các khu vườn. Giữa hai dãy nhà là một con đường rộng trải dài. Chúng tôi sử dụng ngay nó làm đường băng, mà không có phải làm gì quá phức tạp. Máy bay nổ máy khởi động dưới những tán cây, cọ đuôi vào dãy bờ rào.

Đó là một thời gian không yên ổn. Bọn Hitler, còn sống sót sau khi bị đánh tan, ẩn nấp trong các khu rừng xung quanh. Một số nhóm ngoan ngoãn đầu hàng, trong khi những nhóm khác, gồm những tên Đức quốc xã cứng đầu, cố gắng bằng mọi giá luồn lách tìm về phía quân của chúng. Đây là những tên rất nguy hiểm, và chúng tôi luôn phải cảnh giác. Súng máy và tiểu liên luôn được giữ ở tư thế sẵn sàng. Vào ban đêm, chúng tôi đặt các đội cảnh vệ tăng cường canh gác. Chúng tôi ngủ ở cạnh máy bay, sẵn sàng cất cánh lên không từ lần báo động đầu tiên.

Không phải không có cảnh khôi hài xảy ra. Một lần, vào đêm khuya tất cả những người không phải bay giật mình vì một tiếng rống kinh hoàng của chú heo. Đơn giản là ban đêm những chú heo thường không la hét. Nghĩa là chúng bị kinh động, và nhiều khả năng - bọn Hiler đói.
Các cô gái đứng bật dậy, nắm lấy vũ khí.
- Chạy nhanh giúp lũ heo đi! - Một người nào đó hét lên trong bóng tối. - Nếu không chúng ta sẽ không có thức ăn!

Một trận bắn nhau bùng lên. Đâu đó ở bìa làng súng máy nổ tành tạch, pháo hiệu vút lên bầu trời. Bọn phát xít Đức quốc xã - đúng là chúng - bị buộc phải cuốn gói về chỗ chúng mà không kiếm chác được gì.

Chẳng mấy chốc tất cả lắng xuống, và các cô gái không phải trực nằm xuống nghỉ ngơi. Tôi cũng ngồi ghé tạm xuống. Chỉ vừa mới bắt đầu thiếp đi, sự yên lặng đã bị phá vỡ bởi một phát súng. Một lần nữa, tất cả lại nhốn nháo, nắm lấy vũ khí. Nhưng lần này là báo động giả. Hóa ra bị tiếng ồn và cuộc bắn nhau làm cho lo sợ, con bê non của ai đó lồng lên chạy khỏi chuồng của nó trong vườn và lang thang ở đó cho đến khi tới gần người gác. Người đó hoảng sợ và đã bắn.

Sáng hôm sau, mười lăm chiến sĩ thuộc tiểu đoàn phục vụ phi trường, trang bị tiểu liên và lựu đạn ra bờ sông trinh sát. Qua khoảng nửa giờ từ phía sông vẳng lại tiếng chạm súng bắn nhau rất rõ. Chiến sĩ liên lạc chạy lại báo cáo rằng đã tìm thấy một nhóm quân Đức lớn, và do đó cần sự giúp đỡ của chúng tôi.

(http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/44.JPG)
Katya Piskareva, huấn luyện viên CLBHK Kalinin trước chiến tranh. Tốt nghiệp lớp HLV bay Trường Hàng không Kherson năm 19 tuổi, là một trong những phi công xuất sắc nhất trung đoàn, có thể bay mà không cần hoa tiêu. Biên đội trưởng, đã thực hiện hơn 800 phi vụ chiến đấu thành công trong chiến tranh nhưng không được phong tặng danh hiệu AHLX. (http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/ill.html)

Sáu máy bay lập tức cất cánh lên không trung. Nạp đầy bom, chúng lượn một vòng tròn trên đầu làng Novosady và bay về hướng một khu rừng lớn, nơi nghe thấy tiếng súng bắn nhau. Chỉ huy nhóm này là Serafima Amosova, bay sau chị là Dina Nikulina, Katya Piskareva, Raia Aronova, Tanya Makarova và Ira Sebrova. Các kíp bay còn lại ở trên sân bay trong tư thế sẵn sàng chiến đấu hoàn toàn. Từ một ngọn đồi nhỏ ở bìa làng, chúng tôi nhìn thấy rất rõ những trái bom tách khỏi máy bay, lao xuống đầu bọn Đức quốc xã, đang cố thủ trong cánh rừng.

Chuyến bay thứ hai không còn cần thiết. Nửa giờ sau tất cả chấm dứt - kẻ thù đã giương cờ trắng. Những chiếc máy bay nhỏ của chúng tôi thích ứng tuyệt vời với những nhiệm vụ của các máy bay ném bom ban ngày. Hơn hai trăm tên phát xít Đức quốc xã đầu hàng. Chúng đi thành một hàng lộn xộn qua làng, ngạc nhiên nhìn các cô gái trong bộ quân phục.

Lại có một trường hợp thế này. Chuyện xảy ra gần Krasnyi Bor. Máy bay do kỹ thuật viên trung úy Galya Pilipenko bảo dưỡng, khi thực hiện nhiệm vụ đã bị trúng đạn và hư hại nghiêm trọng, các nhân viên PARM (xưởng sửa chữa máy bay lưu động) phải khôi phục lại nó. Trung đoàn đã đi về phía tây. Trên bìa rừng chỉ còn lại "bảy người dũng cảm" với duy nhất một khẩu súng trường. Công việc tiến triển một cách nhanh chóng. Nhưng trong rừng quanh nơi đậu máy bay, kẻ thù lảng vảng. Vào ban đêm Galya dùng khẩu súng trường bắn để xua đuổi bọn phát xít Đức. Ba ngày trôi qua lặng lẽ, nhưng đến ngày thứ tư trên một con đường rừng hiện ra một nhóm quân Đức. Tên đi trước cầm một cây gậy trên đó có miếng vải trắng.

Để đề phòng, Pilipenko đã ra lệnh cho bọn Đức không được đến gần và cử đại diện ra để đàm phán. Kẻ đại diện này hóa ra lại là một người phiên dịch. Xưng tên mình, anh ta giải thích rằng trong nhóm của họ có tàn quân của một bộ tham mưu cầm đầu là một viên tướng.

Bọn Hitler bị tước khí giới và gửi tới điểm thu gom tù binh. Còn kỹ thuật viên trung úy Galya Pilipenko được đề nghị khen thưởng vì đã thể hiện lòng can đảm và sự bình tĩnh...

Một sự cố tương tự xảy ra ở điểm dân cư Mir, nơi một thời gian trung đoàn của chúng tôi đứng chân.

Một lần ban ngày tôi bay cặp với Serafima Amosova đi trinh sát tìm địa điểm sân bay mới. Chúng tôi giữ đội hình chặt chẽ và quan sát địa hình từ chiều cao bay là sát ngọn cây. Trong khu vực ga Negoreloye, phía tây nam Minsk, nơi mà bọn Đức quốc xã đã bị đánh đuổi, máy bay đã bị bắn.

(http://www.warheroes.ru/content/images/heroes/1hero/AronovaRaisErmol.jpg)
Trung úy cận vệ AHLX Raisa Yermolayevna Aronova (1920-1982), hoa tiêu, cơ trưởng, trung đoàn nữ KQ cận vệ ném bom đêm 46 Taman. Nguyên sinh viên năm nhất Học viện Hàng không Moskva, 941 phi vụ chiến đấu. (http://www.warheroes.ru/hero/hero.asp?Hero_id=11)

"Ai bắn?" - Chúng tôi hoài nghi. Cẩn thận nhìn kỹ hơn chúng tôi thấy một nhóm quân Đức. Chúng bắn súng máy. Máy bay của Amosova bị bắn thủng cánh. Máy bay của tôi cũng bị thương. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, chúng tôi trở về căn cứ.

Sau sự cố này, trung đoàn phó đại úy Amosova khăng khăng đặt vấn đề với ban chỉ huy sư đoàn, cần trang bị súng máy cho tất cả các máy bay Po-2 của chúng tôi. Tình hình đòi hỏi như vậy. Và súng máy đã nhanh chóng được lắp trên tất cả các máy bay. Ngoài việc ném bom các mục tiêu, bây giờ chúng tôi cũng có thể bắn súng máy xuống mục tiêu nữa. Ban ngày súng máy có thể phục vụ tốt khi phát hiện các nhóm phát xít Đức  tản mát, còn lang thang trên đất chúng ta, cũng như khi gặp các máy bay tiêm kích của đối phương trên không.

Trong các trận chiến, trong cảnh phiêu bạt từ sân bay này sang sân bay kia, ngày tháng trôi đi nhanh chóng lúc nào không hay. Cuộc tấn công của quân đội Liên Xô phát triển ngày càng rộng. Ngày 16 tháng 7 bọn Đức quốc xã bị đánh bật khỏi Grodno, và ngay sau đó các đơn vị tiên phong của chúng ta đã đột phá tới vùng ngoại ô phía nam Bielostok, các trận đánh trên đường phố diễn ra trong phạm vi thành phố. Trung đoàn chuyển cứ đến sân bay ở Glavacha. Từ đó chúng tôi tiếp tục bay đi ném bom các bến phà của quân Đức qua sông Suprasl, con sông chảy cách vài km về phía bắc Belostok.

(http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/86.JPG)
Năm 1944. Trung đoàn được trang bị súng máy. (http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/ill.html)

Tại Belarus, có một thời gian dài chúng tôi đóng quân gần trung đoàn "Normandy - Neman" nổi tiếng. Chúng tôi thực sự ngưỡng mộ các phi công dũng cảm đã chiến đấu trên bầu trời nước Nga cho sự tự do của nước Pháp quê hương mình.

Sau chiến tranh, tôi thường hay gặp các phi công nổi tiếng người Pháp đã có những đóng góp xứng đáng vào việc đánh bại kẻ thù chung của chúng tôi. Với nhiều người trong số họ, tôi thực sự đã trở thành bạn bè. Và tôi thật thú vị khi đọc được trong cuốn sách "Normandy - Neman" của phi công người Pháp Francois de Joffre, người đã chiến đấu một thời gian bên cạnh chúng tôi, những dòng viết về trung đoàn của chúng tôi như sau:

... Trong lúc này mặt trận tương đối yên tĩnh. Vào các buổi tối, chúng tôi đọc, chúng tôi viết thư hoặc chơi bài. Trong một bầu trời không sao đen đặc hết lúc này đến lúc khác những chiếc máy bay đơn chiếc vô hình liên tục bay qua, tiếng gầm của chúng có thể nghe thấy rất lâu trong sự im lặng của trời đêm. Đó là những chiếc máy bay ném bom ban đêm hoặc những chiếc máy bay đi thực hiện các nhiệm vụ đặc biệt.

Các nữ phi công Nga, hay "các nữ phù thủy đêm" như người Đức vẫn gọi họ, hằng đêm bay đi làm nhiệm vụ và không ngừng nhắc người ta nhớ về họ. Thiếu tá cận vệ Bershanskaya một phụ nữ tuổi ba mươi, chỉ huy trung đoàn của những "nữ phù thủy" quyến rũ này, những người bay trên những chiếc máy bay ném bom hạng nhẹ, được thiết kế để hoạt động ban đêm. Tại Sevastopol, Minsk, Warsaw, Gdansk - ở khắp mọi nơi, bất cứ đâu họ xuất hiện, sự can đảm của họ luôn làm tất cả các phi công nam khâm phục.

Người Pháp thường được biết đến là những người thích đùa và yêu phái đẹp. Khi tôi muốn trêu chọc đại úy Matras, tôi xin phép anh gửi lên cấp trên một báo cáo về việc xin bổ nhiệm tôi làm kỹ thuật viên cơ giới tại trung đoàn của các "nữ phù thủy đêm". Nhưng một lần sau câu chuyện tếu này khi trò đùa đó đã trở thành gần như một câu chuyện đùa cổ điển, anh điềm tĩnh trả lời:
- Để tôi yên, ngài nam tước. Ngày mai anh sẽ không có thời gian nghĩ đến các "nữ phù thủy" nữa đâu. Có lệnh sẵn sàng chiến đấu hoàn toàn, và tôi nghĩ rằng sẽ rất nóng bỏng...


* * *

Trong thời kỳ các trận đánh giải phóng Belarus, trung đoàn của chúng tôi đã thực hiện 1735 phi vụ và đã nhiều lần nhận được lời cảm ơn của Tổng tư lệnh tối cao. Các nhật lệnh của Tổng tư lệnh tối cao luôn được đọc trước hàng quân. Lần tập hợp đội ngũ cuối cùng của trung đoàn trên lãnh thổ Belarus được ấn định tại sân đậu ở Novoelnya. Chúng tôi tất cả đều đến với quân phục gọn gàng, là ủi thẳng nếp, những cổ áo trắng tinh, đeo đủ các loại huân, huy chương.

(http://normandieniemen.free.fr/Marcel_Lefevre_sur_son_Yak.jpg) (https://upload.wikimedia.org/wikipedia/ru/9/97/Lefevr_marcel.jpg)
Marcel Lefèvre (1918-1944), một trong 4 AHLX của trung đoàn "Normandie_Niemen" trên chiếc Yak 9 của mình. Thượng úy phi đội trưởng, hy sinh ngày 5 tháng 6 năm 1944 tại quân y viện. Được truy tặng AHLX ngày 4 tháng 6 năm 1945. Thành tích: 105 phi vụ chiến đấu, 30 trận không chiến, bắn hạ 11 máy bay đối phương. (http://normandieniemen.free.fr/Les_photos_du_Normandie_Niemen.htm)

Cuộc chiến ở Belarus kết thúc. Bắt đầu công cuộc giải phóng Ba Lan. Bây giờ chúng ta đã ở trên ngưỡng cửa vào hang ổ của kẻ thù.

Trong tháng Tám năm Bốn mươi Tư, chúng tôi đóng quân tại khu vực Belostok. Ở đây một lần nữa diễn ra một cuộc gặp gỡ tình cờ với người phi công của trung đoàn cường kích, đã gặp tôi trong năm 42 khó khăn ở vùng Caucasus, khi tôi bay ban ngày với Olga Kliueva đi trinh sát tiền duyên. Tôi đã quên mất cuộc gặp gỡ xa xôi với chàng trung úy mắt xanh trong năm Bốn mươi Hai: bởi đã hai năm trôi qua. Nhưng khi chúng tôi nhìn thấy nhau tình cờ tại sân bay, chuyến bay kia và cuộc gặp gỡ lại hiển hiện trong tâm trí tôi rõ từng chi tiết.
- Cô biết đấy, - anh nói - Tôi đã vô cùng lo lắng về cô... Mà chúng ta thậm chí còn chưa thực sự làm quen. Hãy để tôi tự giới thiệu - Konstantin Davydov, phi đội trưởng thuộc trung đoàn cường kích.
- Nghĩa là chúng ta là đồng nghiệp!
- Đúng. Các đồng chí của tôi vẫn chăm chú theo dõi công việc của cô. Xin lỗi, chúng ta lại phải chia tay rồi. Tôi phải nhanh chóng đi làm nhiệm vụ. Mà có thể chúng ta sẽ còn gặp lại nhau.
- Trong cuộc sống bất cứ điều gì cũng có thể xảy ra. Tôi chúc anh may mắn hạnh phúc, đồng chí thượng uý!

* * *
..........


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 18 Tháng Chín, 2015, 04:36:02 pm
(tiếp)

Đánh bại bọn xâm lược Đức Quốc xã, quân đội Liên Xô tiến vào lãnh thổ Ba Lan. Dưới cánh máy bay hiện ra những tàn tích của các thành phố Ba Lan, các làng mạc và thôn ấp bị đốt cháy. Từ đống tro tàn và gạch vụn bóng đen của các ống khói lò thiêu vươn dài lên bầu trời. Trên các tuyến đường từ đông sang tây những đoàn người kiệt sức lê bước. Nhiều người dắt những chiếc xe kéo tay. Người thì kéo lê va li đồ đạc sơ sài của họ trên lưng. Đó là người dân các làng thôn Ba Lan, bị bọn Đức quốc xã đuổi ra khỏi nhà đi làm nô lệ, nay trở về nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Mọi người vội vã về nhà để bắt đầu xây dựng một cuộc sống mới.

Trong tháng Tám, cuộc tiến công vũ bão của quân đội Liên Xô được thay thế bởi một thời gian tạm lắng tạm thời trước khi bắt đầu các trận chiến mới. Các đon vị của chúng ta nỗ lực chuẩn bị cho nó. Kẻ thù không ngồi yên nhàn rỗi: chúng điên cuồng tạo ra một tuyến phòng thủ dọc theo các con sông Visla, Bober, Bug, Narev.

(http://tamanskipolk46.narod.ru/images/p141_32.jpg)
Bia đề trên mộ tại Ba Lan của T.Makarova và V.Belik (http://tamanskipolk46.narod.ru/p141aa1.html)

Tại PDQ Belorussia 2 chỉ diễn ra các trận đánh cục bộ. Còn đối với chúng tôi, các pilot-bay đêm, đó là một giai đoạn làm việc căng thẳng. Mỗi đêm chúng tôi tấn công bọn Đức quốc xã trên tuyến đầu, ngăn chúng làm các công tác phòng thủ, quấy rối quân đội của chúng, làm gián đoạn giấc ngủ và thời gian nghỉ ngơi của chúng.

Điều kiện hoạt động của chúng tôi đến lúc đó đã trở nên phức tạp hơn. Sau khi ổn định mặt trận, bọn Đức xây dựng một hệ thống phòng không quan trọng. Các địa điểm đầu mối như Ostroleka, Makuw, bến phà qua sông phía đông bắc Łomża, Ciechanow, Noselsk, được bảo vệ bởi ít nhất năm dàn đèn chiếu PK, còn tổng thể thì dọc theo toàn bộ đường chiến tuyến tiếp xúc trải dài cả một chuỗi các cụm đèn chiếu và phương tiện PK. Ngoài ra, kẻ thù bắt đầu sử dụng KQTK chống lại chúng tôi.

Chúng tôi gặp tiêm kích phát xít nhiều hơn cả là trong các khu vực Łomża, Ostrolenka. Po-2 của chúng tôi không có pháo cũng chẳng có lưng bọc thép bảo vệ phi hành đoàn tránh đạn. Tuy nhiên, các "cánh én" vẫn liên tục gây nhiều thiệt hại cho kẻ thù. Bọn Hitler vẫn săn lùng từng chiếc máy bay bé nhỏ làm bằng ván ép của chúng tôi như trước.

Trong một đêm đen tối tháng Tám, chúng tôi nhận nhiệm vụ ném bom nơi tập trung khí tài trang thiết bị và quân lính của bọn Hitler trong khu vực Łomża và Ostrolenka. Sẽ phải bay xa sân bay chính, tới khu vực được tăng cường phòng thủ rất mạnh, nơi như chúng tôi biết, bọn Đức đã tập trung một số lượng lớn các khẩu đội cao xạ.

Tanya Makarova và Vera Belik bay tới mục tiêu đầu tiên. Năm phút sau là Nadezhda Popova với hoa tiêu Zhenya Glamazdina. Nadia Popova đã kể lại sự việc Tanya Makarova và Vera Belik hy sinh thế nào. Máy bay tiêm kích phát xít đã đuổi kịp họ khi các cô gái đang trở về căn cứ của mình. Có vẻ đạn bắn trúng thùng dầu: ngay sau khi đạn pháo nổ, chiếc máy bay bốc cháy của Tanya Makarova lao vút lên cao. Tanya dũng cảm chiến đấu với ngọn lửa, cố gắng dập tắt nó, nhưng vô ích. Sau đó, chiếc máy bay bị lửa bao phủ lao xuống đất như hòn đá.

Cái chết của Tanya Makarova và Vera Belik là tổn thất lớn với tất cả chúng tôi. Chúng tôi đã mất đi những đồng nghiệp tuyệt vời và một trong những kíp bay ưu tú nhất.

Chúng tôi chôn các bạn gái trong khu vườn thuộc điền trang một địa chủ. Một lần nữa, lại một huyệt mộ trong đất đen, một gò đất nhỏ trên huyệt mộ, một tràng súng nổ gửi lời chào vĩnh biệt. Lần đầu tiên mảnh đất nước ngoài xa lạ tiếp nhận di thể của các nữ phi công chúng tôi.

Một vài ngày sau, tiêm kích kẻ thù lại bắn trúng máy bay của Katya Olejnik. Phi công và hoa tiêu Olga Yakovleva bị thương. Chiếc máy bay mà cánh đuôi đứng chỉ còn lại khung xương, được người nữ phi công đã bị thương lái về sân bay của mình với một nỗ lực khủng khiếp.

Tôi cũng đã bị tiêm kích địch thử thách bằng cuộc tấn công ban đêm. Thời gian này người ta bổ nhiệm Sasha Akimova làm hoa tiêu phi đội tôi thay cho Ekaterina Ryabova. Là người Moskva, nữ sinh viên ĐH Sư phạm, cô đến trung đoàn ngay thời kỳ hình thành ban đầu của nó. Một năm là kỹ thuật viên trưởng về vũ khí của phi đội, sau đó vừa chiến đấu vừa học chuyển loại sang hoa tiêu. Là người ham đọc, tính tình kiên nghị, rất dày dạn trong chiến đấu, Sasha làm tôi thích ngay lập tức. Đáng tiếc là phải chia tay với Ryabova giàu kinh nghiệm, nhưng tôi quen với cô hoa tiêu mới rất nhanh.

(https://upload.wikimedia.org/wikipedia/ru/thumb/2/2a/Akimova%2C_Aleksandra_Fyodorovna.jpg/200px-Akimova%2C_Aleksandra_Fyodorovna.jpg)
Aleksandra Fyodorovna Akimova (1922-2012), đại úy cận vệ, phi công quân sự, hoa tiêu trung đoàn nữ KQ cận vệ ném bom đêm 46 Ta-man, đã thực hiện 715 phi vụ chiến đấu. Sau chiến tranh giải ngũ. PTS Khoa học Lịch sử, giảng dạy tại Học viện Hàng không Moskva. Do giấy tờ đề nghị phong AHLX thất lạc tại Moskva, năm mươi năm sau Thế chiến 2, bà và đồng đội cùng trung đoàn Tanya Sumarokova mới được phong tặng danh hiệu AH nước Nga.
 (http://www.warheroes.ru/hero/hero.asp?Hero_id=4566)
Đêm đó chúng tôi đi ném bom các vị trí của bọn Đức Quốc xã ở khu vực Ostrolenka. Như mọi khi, sau khi những quả bom đầu tiên ném xuống, đèn chiếu làm việc ngay, pháo cao xạ lên tiếng, hỏa lực của chúng rất mạnh. Chùm sáng của các dàn đèn chiếu hồi lâu không buông tha chiếc Po-2 của chúng tôi, nhưng chúng tôi vẫn thoát ra thành công.

Kim đồng hồ đo độ cao chỉ con số "600". Tôi tăng thêm vòng quay. Thông qua những đám mây hiếm hoi, mặt trăng tỏa sáng. Tầm nhìn tốt, và tôi nghĩ rằng cảnh giác không phải là thừa. Cái chết của Tanya Makarova và Vera Belik vẫn còn mới nguyên trong trí nhớ. Tôi yêu cầu Akimova, thường xuyên quan sát phía sau.

Chúng tôi bay năm phút yên ổn. Chiến tuyến đã nằm sau khá xa, và có vẻ chuyến bay sẽ kết thúc một cách an toàn. Đột nhiên xung quanh chúng tôi lóe lên một vệt đạn lửa, và cao hơn một chút, lệch một chút bên sườn thoáng qua bóng một máy bay tiêm kích của đối phương. Tôi nhìn thấy nó đang vòng trở lại để một lần nữa lao vào công kích.

Phải làm gì? Độ cao hiện không lớn, giảm nữa sẽ nguy hiểm. Nhưng đó là cách duy nhất. Tôi đột ngột đổi hướng và siết chặt cần lái. Khi cách mặt đất còn hai trăm năm mươi mét, tên Hitler lại vượt qua chúng tôi và một tràng đạn dài chẻ vào cánh và thân máy bay. Vào giây cuối cùng tôi kịp tránh được, và tràng đạn tiếp theo bay sượt qua. Chỉ khi đến mặt đất còn khoảng một trăm mét, tôi mới cải bằng máy bay. Bây giờ thì không nguy hiểm nữa - màu sơn xanh lục đậm của chiếc Po-2 hòa nhập với màu nền chung của mặt đất.

Các cuộc tấn công ngày càng tăng của tiêm kích quân thù đối với những chiếc máy bay di chuyển chậm chạp của chúng tôi làm ban chỉ huy lo ngại. Và để bằng cách nào đó bảo vệ phi công và hoa tiêu trong trường hợp xảy ra tai nạn, người ta cấm chúng tôi bay không mang dù. Bất đắc dĩ, chúng tôi phải đồng ý với cải tiến này. Tuy nhiên, đó là sự kiện hợp lý và rất kịp thời, chúng ta sẽ hiểu được điều này rất sớm.

Từ Kurovo trung đoàn chuyển đến ấp Daleko. Chúng tôi thiết lập một sân cất-hạ cánh gần đó, lấy một dinh thự lớn của một địa chủ chạy trốn làm nơi ở. Chúng tôi ở đây một thời gian khá dài.

Tới lúc này thời tiết chuyển xấu cùng cực, bắt đầu một thời kỳ mưa lớn và sương mù. Mây đen màu chì không ngớt bò từ phía tây tới thành từng đoàn từng lũ, đổ tràn làn xuống những dòng nước lạnh mà không có nó mặt đất cũng đã đủ chua loét. Mây thấp, thường trải ra trên mặt đất chỉ 50-70 mét. Trong điều kiện bình thường, các chuyến bay phải được dừng lại ngay lập tức. Nhưng chiến tranh là chiến tranh, và mặc dù hầu như không có tầm nhìn, chúng tôi vẫn tiếp tục làm việc.

Tại Ba Lan, lần đầu tiên chúng tôi phải ném bom mù sau mây. Đó là vào giữa tháng 10 năm 1944. Chúng tôi đang hoạt đọng trong khu vực Makow và Modlin.

Run lên vì ẩm ướt và lạnh, tôi và Sasha Akimova ngồi trong buồng lái chờ tín hiệu cất cánh. Chúi mũi vào cổ áo bộ đồ bay ấm áp và co chân lại, tôi ngủ gà ngủ gật. Thỉnh thoảng, để không thiếp đi, tôi cố mở mắt, nhìn chằm chằm một phút vào bóng đêm tối mịt, tìm kiếm những đường nét mơ hồ của các máy bay bên cạnh, và một lần nữa rơi vào sự ru ngủ ngọt ngào.

Gió của Đại Tây Dương, giận dữ và cắn xé, quét qua toàn thể châu Âu, tiêu tán sự ấm áp của đại dương trên đường đi, rú rít trên các thanh giằng và dây cáp, đu đưa cánh máy bay, thỉnh thoảng rỏ xuống lớp vải chúc bâu kéo căng những giọt lớn. "Boom-boom ..!" - vang lên trong tai tôi trong cơn mơ ngủ, và lập tức át tất cả các âm thanh ấy là một tiếng huýt chói tai, một tiếng tru. "U-uu! Xâ-ấu cho nha-à ngư-ươi, xâ-ấu lắ-ăm!"- dường như gió đang khiển trách. "Thây kệ, - tôi nghĩ. - Nó cứ dọa chúng ta. Mình đã thấy khối chuyện tồi tệ hơn rồi".

Đột nhiên, ai đó đẩy vai tôi. Tôi giật mình và uể oải quay lại.
- Chuyện gì?
- Người ta kêu cậu lên gặp thiếu tá cận vệ Bershanskaya - tôi nghe giọng Akimova. - Cậu sao vậy, ngủ à?
- Ôi trời.

Run lên vì lạnh, tôi leo lên cánh và cùng với Sasha đi đến sở chỉ huy.
Trong một căn hầm nửa nổi nửa chìm có trần cao, thắp sáng bởi một bóng đèn lờ mờ, một vài người đã tụ tập. Ngoài ban chỉ huy trung đoàn, ở đây toàn các cựu chiến binh Dina Nikulina, Maria Smirnova, Nadezhda Popova, Seraphima Amosova, Irina Sebrova, Olga Sanfirova nhiều hoa tiêu.

Bershanskaya báo cáo tóm tắt tình hình, cho chúng tôi biết nhiệm vụ. Sau một lúc dừng ngắn, chị nói thêm:
- Điều kiện thời tiết cực kỳ khó khăn. Mây thấp. Hạ xuống dưới mây để ném bom từ độ cao đó rất nguy hiểm - mảnh bom có thể làm hỏng ngay máy bay của mình. Còn nếu bay cao hơn mây - sẽ không nhìn thấy mục tiêu. Vì vậy, chúng tôi quyết định tham vấn với các đồng chí. Làm thế nào đây, các đồng chí sĩ quan?

Một khoảng lặng dài. Tất cả suy nghĩ. Trong thực tế, đâu là lối thoát? Đối với các chuyến bay mù, và đặc biệt là đối với các vụ ném bom mù, máy bay của chúng tôi không thích hợp. Đúng, chúng ta phải hành động trong sương mù, nhưng hồi đó, thậm chí khi tầm nhìn cực kỳ khủng khiếp, nhưng bằng cách nào đó ta vẫn nhìn được mốc định hướng, điều đó cho ta khả năng đưa máy bay đến được mục tiêu. Còn bây giờ ta phải làm gì?

Chúng tôi nhìn nhau chờ đợi.
- Sao đây, các cựu chiến binh, hay là thuốc súng trong túi thuốc cạn rồi? - Rachkevich nói đùa. - Phải chăng chúng ta không thể thực hiện mệnh lệnh?
Đáp lại là một tiếng xì xào kìm nén vẻ bất mãn.
- Thế thì các cô tìm một lối thoát đi chứ. Các cô đều là các chỉ huy, ai cũng dạn dày kinh nghiệm, chiến đấu không phải năm đầu tiên nữa rồi, khả năng của bản thân mình và máy bay của mình đều đã biết rõ cả. Hãy đề xuất và chúng ta sẽ thảo luận, sẽ cân nhắc, - cứ xem kỹ đi, rồi sẽ tìm ra giải pháp đúng.
- Vâng, nhưng tìm gì mới được chứ? - bối rối Akimova nói. - Xưa nay nó vẫn thế mà. Phải làm việc từ dưới mây thôi.
- Để chết cả máy bay lẫn con người à? - trung đoàn trưởng hỏi.
- Tại sao cứ nhất định phải chết? - tất cả ồ lên nói cùng một lúc.
- Thế chúng ta chưa từng ném bom ở độ cao thấp sao? Taman này, Crimea này?
- Ở đó lại là chuyện khác, - tham mưu trưởng trung đoàn Irina Rakobolskaya nhận xét.
- Tại sao? Bom khác à, hay gì nữa?
- Bom vẫn thế, người, máy bay vẫn thế, nhưng những trường hợp như vậy có thể tính trên đầu ngón tay. Và độ cao, theo như tôi nhớ, lớn hơn đấy, mảnh bom không văng tới được. Sóng nổ tới được máy bay, còn với mảnh thì góc nâng lại lớn. Ở độ cao của trần mây như hiện giờ, tác động của mảnh bom không tránh được đâu.
Cuộc tranh cãi bùng lên. Cuối cùng, chúng tôi quyết định phải hành động thế này: bay tiếp cận mục tiêu dưới trần mây thấp, sau đó chui lên vào trong mây và ném bom từ đó với định hướng tính theo thời gian.

Và đây chúng tôi đã cất cánh lên không trung. Tôi hơi khó ở trong người. Sasha Akimova xác định được tình trạng của tôi theo giọng nói khi tôi nói với cô ấy qua máy đàm thoại.
- Đừng lo lắng - cô trấn an. - Điểm chuẩn kiểm tra của chúng ta đáng tin cậy, không trượt đâu. Mục tiêu thì quen rồi, đường tới đó đã được các hoa tiêu kiểm tra tính đến từng giây, vậy nên trong các tính toán chúng ta không thể sai được. Mà nếu có điều gì, chúng ta sẽ lộn xuống dưới mây quan sát một lần nữa.
- Được thôi, - tôi nói.
- Chỉ cần giữ đúng tốc độ. Tớ sẽ ráng thả bom trúng đích, - hoa tiêu nói với tôi.
Khoảng mười lăm phút trôi qua, ở dưới dòng sông Narew lờ mờ phản chiếu, dòng sông chia trận tuyến giữa quân đội Liên Xô và bọn phát xít Đức Quốc xã. Đây là điểm chuẩn của chúng tôi: mục tiêu đã rất gần. Tôi lái máy bay chui vào trong mây và bắt đầu lấy độ cao. Hơi lạnh và ẩm ướt vỗ ngay vào mặt, như thể từ một hầm sâu.
- Công việc thế nào Sasha?
- Hãy sẵn sàng, còn chưa đến một phút nữa.
Động cơ nổ ầm ầm đều đặn, tiếng nổ hơi khàn hơn bình thường. Bóng tối nhớp nháp trườn tới chúng tôi một cách vô hình, rỏ xuống mặt những giọt lạnh. Những giọt nước ấy từ từ lăn trên má, chui xuống cổ áo và xua nhưng cơn sởn da gà chạy khắp cơ thể, làm ta run rẩy và rùng mình. Tôi càu nhàu bực bội, rủa thầm thời tiết xấu. Akimova dường như nghe được tôi đang lẩm bẩm.
- Cậu sao thế?
- Ôi trời. Nước rỏ giọt rơi vào trong cổ áo. Nào, mục tiêu còn xa chúng ta không?
- Ta đang tiếp cận rồi. Tớ sẽ quăng những trái bom đầu tiên ngay đây.
Vài giây sau, máy bay lắc nhẹ. Vô tình tôi nghiêng người qua một bên và cảnh giác đề phòng. Những âm thanh bị bóp nghẹt của vụ nổ xuyên qua những đám mây dày vẳng đến tai chúng tôi.
- Cần phải nhìn xuống dưới xem sao. Nếu đèn chiếu phòng không bật sáng lên, nghĩa là bom đã rơi trúng, có thể ném nốt số bom còn lại, - hoa tiêu truyền đạt.
- Thế nếu không?
- Khi đó, phải lộn xuống dưới rìa mây thấp và lặp lại thao tác cơ động một lần nữa.
Nhưng không cần thiết lặp lại sự cơ động nữa. Quét phía dưới chúng tôi là ánh phản xạ của các chùm đèn chiếu PK, súng cao xạ thi nhau nổ đùng đùng. Tuyệt! Như vậy, bom của chúng tôi đã đánh trúng mục tiêu. Nếu không, kẻ thù không khai hỏa một lưới lửa dày đặc như vậy, mà sẽ chờ đợi thời gian thích hợp hơn. Chiếc máy bay lại đảo nhẹ - những quả bom còn lại tách khỏi cánh bay lao xuống.
Vụ ném bom mù đầu tiên từ trong mây đã thành công, và từ đó chúng tôi bắt đầu áp dụng phương pháp này thường xuyên.

* * *
...........


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 20 Tháng Chín, 2015, 06:42:41 pm
(tiếp)

Chiếc Po-2 nhỏ bé không cho bọn quốc xã được yên. Trong bất kỳ thời tiết nào, ngay cả khi không thích hợp nhất, chúng tôi luôn xuất hiện trên đầu quân địch ở các độ cao thấp và ném bom chúng.

(http://tamanskipolk46.narod.ru/images/p29_0045.jpg)
Các nữ phi công và hoa tiêu của trung đoàn. Kuban, tháng 7 năm 1943. Từ trái sang phải, hàng ngồi: phi công Anya Vysotskaya, PV ảnh tạp chí "Ngọn lửa nhỏ" Boris Tseitlin, hoa tiêu Irina Kashirina, phi đội trưởng Marina Chechneva; hàng đứng: hoa tiêu và sĩ quan tùy tùng phi đội Maria Olkhovskaya và hoa tiêu biên đội Olga Klyueva. Vài ngày trước cái chết của Anya và Irina. (http://tamanskipolk46.narod.ru/p22aa1.html)

Mỗi lần xuất kích chiến đấu đòi hỏi các cô gái phải nỗ lực rất lớn, chuẩn bị chu đáo và sau đó bình giá các phi vụ đã thực hiện, thể hiển sáng kiến hợp lý, sự cẩn trọng không ngừng và lòng dũng cảm quên mình. Đôi khi một phi hành đoàn này hoặc phi hành đoàn kia lâm vào một tình huống vô vọng, nhưng ý chí chiến thắng, lòng can đảm và kỹ năng của phi công và hoa tiêu giúp chúng tôi trở thành người chiến thắng.

Suốt cả Tháng Mười trôi đi trong những trận giao tranh ác liệt diễn ra ở phía tây bắc Warsaw, và công việc làm chúng tôi tối mày tối mặt. Còn trong tháng Mười Một, chúng tôi bay ít và nói thẳng thắn thì chúng tôi rất vui, vì cuối cùng, lần đầu tiên chúng tôi có cơ hội nghỉ ngơi chút ít, chỉnh đốn bản thân, hoàn toàn quên mình trong những thú vui nhỏ bé hàng ngày, mà đã bị tước mất ở mặt trận. Trung đoàn vẫn đóng quân ở ấp Daleko. Trong một thái ấp lớn của địa chủ, không gian đủ cho tất cả, và chúng tôi thậm chí còn sắp xếp cuộc sống một cách thoải mái tiện nghi. Các cô gái với tính cần kiệm vốn có của họ đã cố gắng làm những điều tốt nhất có thể để tổ chức cuộc sống của mình.

Nhưng, tất nhiên, chúng tôi không thiếu việc để ăn chơi ngồi rồi. Trong tháng Mười, chúng tôi thường xuyên tổ chức các hội nghị, tiến hành bồi dưỡng cho đội ngũ chỉ huy, khôi phục hoạt động nhóm của mình. Nói chung, đó là một khoảng thời gian dành cho học tập-kiểu gia đình, như các cô gái hóm hỉnh của trung đoàn thường gọi.

(http://tamanskipolk46.narod.ru/images/033.jpg) (http://monument.ucoz.ru/_pu/0/78777.jpg)
Trái: phi đội trưởng phi đội 2 Olga Sanfirova (1917-1944), dân tộc Tatar, đại úy cận vệ, trung đoàn nữ KQ ném bom đêm 46 Ta-man. Nhập ngũ tháng 12 năm 1941, trước khi nhập ngũ đã có 1500 giờ bay. Tốt nghiệp lớp 9 và CLB Hàng không Kolomna Moskva. Là huấn luyện viên phi đội huấn luyện 78 thuộc Cục HKDD Tây Sibir. Tốt nghiệp Trường phi công quân sự Bataisk. Theo lệnh động viên của TU Đoàn Komsomol toàn Liên bang, 5 phi công nữ của phi đội 78 trong đó có Olga Sanfirova đã được phái đến thuộc quyền thiếu tá Marina Raskova, khi đó đang là người chịu trách nhiệm tổ chức thành lập các đơn vị nữ không quân. Tại Trường HKQS Engels, trong một lần huấn luyện bay theo hành trình, Sanfirova kèm phi công Zoya Parfenova, máy bay bay dưới lưới điện cao thế, vướng dây bị cháy. Tòa án tại Engels kết án Olga Sanfirova 10 năm tù. Trung đoàn bay đi chiến đấu mà không có Sanfirova. BCH trung đoàn viết thư cho Hiệu trưởng Trường HKQS Engels đề nghị giúp đỡ đưa Olga Sanfirova trở lại trung đoàn và sẽ chuộc tội trong chiến đấu. Đề nghị được chấp nhận, vì vậy Olga Sanfirova chỉ bay trở lại trung đoàn khi trung đoàn đang đóng quân tại Olghinskaya vào mùa hè năm 1942. Olga Sanfirova hy sinh ngày 13 tháng 12 năm 1944, cho đến khi hy sinh đã hoàn thành 630 phi vụ chiến đấu. Được truy tặng danh hiệu AHLX ngày 23 tháng 2 năm 1945.
Phải: tượng đài kỷ niệm nữ phi công Olga Aleksandrovna Sanfirova tại Samara.
(http://tamanskipolk46.narod.ru/p3aa1.html)

Một tháng sau, quân đội Liên Xô tái triển khai các hoạt động quân sự tích cực. Kẻ thù chống lại quyết liệt, cố gắng trụ lại trên tuyến sông Narew và không cho chúng ta tiến vào đất Phổ. Nhưng làm sao ngăn chặn nổi một trận tuyết lở từ sườn núi dốc đổ xuống? ..

Mọi người đều thấy: nước Đức phát xít đang trong cơn hấp hối cuối cùng, nỗ lực thêm ít nữa - chủ nghĩa phát xít sẽ chấm hết. Và mặc dù đối với nhiều người trong chúng tôi, trận đánh này sẽ là trận chiến cuối cùng, không phải ai cũng sống được đến giây phút hạnh phúc khi phát súng cuối cùng thôi gầm thét, nhưng những người lính Xô Viết sẽ mang lại hòa bình cho vùng đất bị chiến tranh tàn phá...

Đêm 13 tháng 12, chúng tôi làm việc trong khu vực Noselsk. Tôi cất cánh tiếp sau phi hành đoàn của Olga Sanfirova, tôi gặp chị tại tuyến xuất phát, khi các quân khí viên đang treo bom. Olga vội vã tới chỗ máy bay, vừa đi vừa nhai một chiếc bánh sandwich.
- Công việc thế nào, Marinka? - chị gọi tôi. - Sasha Akimova thế nào? Hài lòng với hoa tiêu mới không?
- Tất nhiên. Sao chị hỏi thế?
- Hỏi thế thôi. Hôm nay tâm trạng tớ đang vui.
- Chị vui chuyện gì đấy?
- Đoán xem nào.
- Để em tìm thời gian giải đố đã.
- Nào, thế để tớ nói cho cậu biết nhé. Chúng mình ở mặt trận đã bao lâu? Hai năm, thậm chí hơn một chút. Bao nhiêu trận đánh đã trải qua? Nhiều lắm. Và trận này là trận cuối cùng và trận chiến quyết định của chúng ta. Tớ đã suy nghĩ biết bao nhiêu về nó, và bây giờ đã sống được đến khi nó diễn ra. Cậu biết đấy, đã sống sót! Đó là tất cả. Cũng là lý do tại sao tớ vui. Bây giờ cậu hiểu rồi chứ, Marinka?

http://www.youtube.com/watch?v=cdMjWdriiBk
Trích đoạn phim "Những nữ phù thủy đêm trên bầu trời" (1981) của nữ đạo diễn Anh hùng Liên Xô, cựu phi công trung đoàn nữ KQ cận vệ ném bom đêm Ta-man 46 Evgenya Zhigulenko. Bài hát trong phim của nhạc sĩ Evgeny Krylatov dựa trên lời của Evgeny Evtushenko:
Когда вы песни на земле поете
Тихонечко вам небо подпоет
Погибшие за Родину в полете
Мы вечно продолжаем наш полет

Мы вовсе не тени безмолвные
Мы ветер и крик журавлей..
Погибшие в небе за Родину
Становятся небом над ней

Мы дышим согревая птичьи гнезда
Баюкаем детей в полночный час
Вам кажется, что с неба светят звезды
А это мы с небес глядим на вас..

Мы вовсе не тени безмолвные
Мы ветер и крик журавлей..
Погибшие в небе за Родину
Становятся небом над ней

Мы стали небом стали облаками
И видя сверху наш двадцатый век
К вам тихо прикасаемся руками
И думаете вы что это снег..

Мы дышим согревая птичьи гнезда
Баюкаем детей в полночный час
Вам кажется, что с неба светят звезды
А это мы с небес глядим на вас..

Мы вовсе не тени безмолвные
Мы ветер и крик журавлей..
Погибшие в небе за Родину
Становятся небом над ней
(https://ru.wikipedia.org/wiki/%D0%92_%D0%BD%D0%B5%D0%B1%D0%B5_%C2%AB%D0%BD%D0%BE%D1%87%D0%BD%D1%8B%D0%B5_%D0%B2%D0%B5%D0%B4%D1%8C%D0%BC%D1%8B%C2%BB)

Olga đẩy nhẹ vai tôi và chạy đến máy bay. Tôi nhìn theo mỉm cười với chị ấy, và bản thân tôi cũng bắt đầu cảm thấy niềm vui vì nhận thức được rằng chiến tranh đang thực sự đi đến hồi kết thúc, chẳng bao lâu cuộc sống sẽ chiến thắng cái chết.
Nhưng cái chết còn đến thăm chúng tôi, và ngay trong đêm ấy.

Cắt bom xong, phi đội trưởng đại úy Sanfirova bay về sân bay. Trên đường tiền duyên máy bay rơi vào lưới lửa cao xạ một lần nữa. Đạn pháo bắn trúng thùng nhiên liệu, và máy bay bùng cháy. Nhưng Olga ngoan cường lái chiếc Po-2 về lãnh địa quân mình. Ngọn lửa đã trùm lên cánh, len đến cabin. Khi còn đang trên đường chiến tuyến phía gần quân mình hơn, Sanfirova ra lệnh cho hoa tiêu Rufa Gasheva phải rời máy bay. Các cô gái nhảy ra và tiếp đất an toàn bằng dù, nhưng trên mặt đất Olya Sanfirova đã vấp phải mìn chống bộ binh của quân ta. Mìn nổ xé đứt chân chị, phá toang sườn phải. Đưa được về trung đoàn thì Olga đã chết.

Theo yêu cầu của các bạn gái người ta quyết định chôn Olya ở Grodno. Khi vĩnh biệt người quá cố, lần đầu tiên tôi đã bật khóc nức nở, không sao kìm nén được nước mắt của mình. Tôi không thể nào quên cuộc gặp gỡ cuối cùng của chúng tôi, khuôn mặt vui tươi của Olya, niềm tin của chị vào hạnh phúc của mình mà chị ấy bày tỏ một cách đầy tình người như vậy...

(https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/1/1d/%D0%91%D1%80%D0%B0%D1%82%D1%81%D0%BA%D0%B0%D1%8F_%D0%BC%D0%BE%D0%B3%D0%B8%D0%BB%D0%B0_%D0%93%D1%80%D0%BE%D0%B4%D0%BD%D0%BE_01.JPG/320px-%D0%91%D1%80%D0%B0%D1%82%D1%81%D0%BA%D0%B0%D1%8F_%D0%BC%D0%BE%D0%B3%D0%B8%D0%BB%D0%B0_%D0%93%D1%80%D0%BE%D0%B4%D0%BD%D0%BE_01.JPG?uselang=ru) (https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/a/a3/%D0%91%D1%80%D0%B0%D1%82%D1%81%D0%BA%D0%B0%D1%8F_%D0%BC%D0%BE%D0%B3%D0%B8%D0%BB%D0%B0_%D0%93%D1%80%D0%BE%D0%B4%D0%BD%D0%BE_05.JPG/330px-%D0%91%D1%80%D0%B0%D1%82%D1%81%D0%BA%D0%B0%D1%8F_%D0%BC%D0%BE%D0%B3%D0%B8%D0%BB%D0%B0_%D0%93%D1%80%D0%BE%D0%B4%D0%BD%D0%BE_05.JPG)
Mộ tập thể tại Grodno, Belarus và tấm biển đề có tên Olga Sanfirova. (https://ru.wikipedia.org/wiki/%D0%A1%D0%B0%D0%BD%D1%84%D0%B8%D1%80%D0%BE%D0%B2%D0%B0,_%D0%9E%D0%BB%D1%8C%D0%B3%D0%B0_%D0%90%D0%BB%D0%B5%D0%BA%D1%81%D0%B0%D0%BD%D0%B4%D1%80%D0%BE%D0%B2%D0%BD%D0%B0)

* * *

Đêm sang ngày 21 tháng 12 các binh đoàn của phương diện quân đã chọc thủng tuyến phòng thủ của đối phương và vượt sông Narev. Trung đoàn thời gian này làm việc với một cường độ cao chưa từng thấy. Thời gian đó chúng tôi cất cánh bay lên từ sân bay chính và sân bay "nhảy cóc" nằm trong cự ly bắn phá của pháo binh từ các trận địa của quân Đức. Một sự mất cảnh giác dù nhỏ nhất - chúng tôi có thể bị lộ ngay. Nhưng kẻ thù vẫn không phát hiện được sân bay, thậm chí từ trên không - chúng tôi đã ngụy trang như vậy đấy.

Đường băng được chiếu sáng chỉ bằng ba đèn "con dơi". Các kỹ thuật viên và quân khí viên khi tiếp nhiên liệu cho máy bay phải làm mù, hoàn toàn không thắp đèn. Hai hoặc ba phút, và chiếc máy bay đã trở lại bầu trời. Thiếu tá Bershanskaya chỉ huy các chuyến bay từ sân bay cơ bản, còn Seraphima Amosova tổ chức công việc chính xác một cách tuyệt với từ sân bay "nhảy cóc". Trong suốt thời gian ở đây, không xảy ra bất kỳ một vụ tai nạn hoặc sự cố nào, cũng không có trường hợp khẩn cấp nào. Các kíp bay thực hiện đến 16-17 phi vụ.

Các phi đội trưởng Nadia Popova, Maria Smirnova, Dina Nikulina và tôi đã cất cánh đi làm nhiệm vụ đến 18 lần.

Liên quan đến tất cả những chuyện ấy tôi muốn nói một lời tốt đẹp về "các nữ chủ nhân của số phận chúng tôi", về các cô gái đã chuẩn bị cho chiến thắng của chúng tôi, về các trợ lý trung thành của chúng tôi, mà mọi việc về chung cuộc đều phụ thuộc vào sự cống hiến quên mình của họ.

Nói các kỹ sư, các kỹ thuật viên trưởng, các cơ giới viên, các quân khí viên, các thợ điện, kỹ thuật viên dụng cụ hàng không của chúng tôi đã không tiếc công sức - nghĩa là hầu như chẳng nói gì. Tất cả mọi thứ phụ thuộc vào công việc của họ: cả hành vi của máy bay trong không trung, cả việc chiếc máy bay bị thương và hư hỏng sẽ có thể trở lại đội ngũ nhanh hay chậm, cả số lượng các phi vụ của mỗi kíp bay một đêm, có nghĩa là hiệu quả của các cuộc tấn công của chúng tôi xuống đầu kẻ thù.

(http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/165.jpg)
Các kỹ thuật viên trưởng các phi đội: M.Schelkanova, Z.Radina, V.Dmitrienko (http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/ill.html)

Kỹ sư trưởng của trung đoàn Sofia Ivanovna Ozerkova khi hình thành đơn vị nữ không quân là một trong những người có mặt đầu tiên.

Và từ khi khởi đầu chiến sự, "học viện" của chúng tôi đã làm việc ngay. Thông qua khóa học của "học viện", các cô gái quân khí viên đã trở thành các kỹ thuật viên và cơ khí viên, họ được đào tạo lại thành hoa tiêu, còn hoa tiêu - thành phi công. Các giáo viên của "học viện" - các nhà chỉ huy, các hoa tiêu, các kỹ thuật viên trưởng các phi đội, và lẽ dĩ nhiên, kỹ sư trưởng Sophia Ozerkova - họ dạy những người mới mà không tách rời khỏi hoạt động chiến đấu.

Và còn biết bao nhiêu điều quan tâm, lo lắng của chính bản thân Ozerkova!
Chị chịu trách nhiệm đối với mỗi máy bay, chịu trách nhiệm về độ tin cậy trong hoạt động của nó ở mỗi chuyến bay, về việc các máy bay hư hại trong chiến đấu quay về đội ngũ nhanh nhất, chịu trách nhiệm về mỗi cơ khí viên và kỹ thuật viên, về sự đúng đắn trong tổ chức công việc của toàn bộ đội ngũ nhân viên kỹ thuật. Trong quá khứ, người sĩ quan chỉ huy chuyên nghiệp của Hồng quân, Sofia Ivanovna, tại thời điểm thành lập trung đoàn, đã có sau lưng mười năm phục vụ tại Trường Hàng không Irkutsk. Là con người nghiêm khắc và có đòi hỏi cao, chị yêu cầu cấp dưới của mình phải có trách nhiệm cao đối với công việc được giao.

(http://tamanskipolk46.narod.ru/images/p24_i8_1499-.jpg)
Các nữ kỹ thuật viên và quân khí viên (http://tamanskipolk46.narod.ru/p52aa1.html)

Mà gánh nặng của chị thì ngày càng lớn lên.
Các phi công, hoa tiêu, kỹ thuật viên, quân khí viên kinh ngạc trước lòng can đảm, tính kiên nghị, ý thức cao về nhiệm vụ vốn có của kỹ sư trưởng của chúng tôi. Ban ngày Ozerkova tiến hành kiểm tra kỹ thuật, phúc tra công việc đã thực hiện, dạy những người mới đến. Còn vào ban đêm - cho máy bay đi làm nhiệm vụ chiến đấu và nhất thiết đón chúng về. Chị là một nữ vận động viên xuất sắc, không chỉ là một thành viên không thể thiếu của tất cả các cuộc tranh tài thể thao, mà còn phụ trách huấn luyện điều lệnh đội ngũ...
Năm 1943, kỹ sư trưởng của trung đoàn Sofia Ozerkova nhận được huân chương đầu tiên.
Và chị đã dạy dỗ được những chuyên gia tuyệt vời!

Lấy ví dụ các nhân viên quân giới. Công việc của họ khó khăn và tỉ mỉ, đặc biệt là vào ban đêm, ở điều kiện một sân bay tối, khi thực hiện các thao tác nguy hiểm nhất bằng cách mò mẫm. Và ở đây các cô gái của chúng tôi đạt đến đỉnh cao. Lydia Gogina, Tatiana Maslennikova, Maria Marina, Zinaida Vishneva, Anna Sherstneva và nhiều người khác trong bóng tối, dựa theo kíp nổ xác định loại ngòi nổ. Và để xác định khóa giá treo bom mở hay đóng, họ chỉ cần chạm vào nó là đủ.

Một trong những điều kiện quan trọng nhất trong công việc của các thợ quân giới - tốc độ. Chiếc máy bay không được đậu ở vạch xuất phát thừa bất cứ một phút nào. Điều này các cô gái cũng tự hiểu rất rõ. Nếu trước đây nạp các loại vật chất trang bị cho máy bay mất 30 phút, thì sau này phục vụ một chiếc máy bay chỉ mất khoảng 6-7 phút. Còn với các bậc thầy về các loại vũ khí trang bị là Maria Logacheva và Zinaida Vishneva, họ xử lý công việc quan trọng này trong 3 phút.

Với sự vô cùng biết ơn, tôi nhớ đến người bạn tuyệt vời của tôi Vera Mamepko. Trong suốt cuộc chiến tranh, cô mơ ước trở thành một hoa tiêu. Mamepko không trở thành hoa tiêu, nhưng cô ấy lại là một kỹ thuật viên máy bay tuyệt vời.

Hoặc lấy ví dụ, kỹ sư trung đoàn chuyên về thiết bị chuyên dụng Clavdia Ilyushina. Được bổ nhiệm thuộc quyền của chị có các kỹ thuật viên Polya Ulyanova, Vera Bondarenko, Olga Golubeva và Tonya Pavlova. Hai cô gái đầu tiên được chuẩn bị tốt và ngay lập tức trở thành các kỹ thuật viên dụng cụ hàng không chuyên dụng. Olya Golubeva và Tonya Pavlova phải chuyển sang làm thợ điện, mặc dù việc giới thiệu công việc tương lai cho họ chỉ áng chừng.

(http://tamanskipolk46.narod.ru/images/clip_image008.jpg)
Các nữ quân khí viên làm việc (http://tamanskipolk46.narod.ru/p52aa1.html)

Việc dạy và học với các cô gái phải bắt đầu từ đầu. Ilyushina đã không tiếc chút nào dù đó là nỗ lực hay thời gian, và lao động không trôi qua vô ích - các cấp dưới của chị đã trở thành các chuyên gia trong lĩnh vực của họ. Chiếc máy bay của chúng tôi rất bé nhỏ, và tất cả chúng tôi thực sự muốn đối xử với nó với thái độ tôn trọng tuyệt đối. Có lẽ đó chính là lý do các thợ điện và thợ dụng cụ của Ilyushina cố gắng trang bị cho các "cánh én" tất cả các cải tiến kỹ thuật của thời đó. Trước hết họ đi hệ thống dây điện trên máy bay. Sau đó trên một số chiếc họ lắp đặt các thiết bị chụp ảnh. Sau nữa, họ bắt đầu áp dụng các điện đài cỡ nhỏ gọn phục vụ thông tin liên lạc ở các cự ly ngắn và trinh sát thời tiết. Để Po-2 hạ cánh đêm, trong các chuyến bay huấn luyện kỹ sư Ilyushina đã trang bị các đèn dưới cánh thay vì dùng đèn pha một cách rất thích hợp.

Trong một bức thư tôi nhận được những năm sau chiến tranh, Clavdia Ilyushina gợi nhớ lại một trong những đêm tháng Mười Hai năm 1944, khi trung đoàn thực hiện đến 324 phi vụ chiến đấu. Ca ngợi các nữ phi công và hoa tiêu, Ilyushina chỉ đề cập rất khiêm tốn đến công việc của các cấp dưới của mình. Tuy nhiên, mỗi cô gái-quân khí viên chỉ trong một đêm đã treo cho mỗi máy bay không ít hơn ba tấn bom! Hãy suy nghĩ về con số này, hỡi bạn đọc, nó đã hùng hồn nói lên rất nhiều vấn đề.

Công việc của các chuyên gia phục vụ mặt đất của chúng tôi nếu chỉ nhìn lần đầu tiên và thoáng qua thì không có vẻ gì quá quan trọng. Song chúng tôi, các nữ phi công, luôn luôn đánh giá cao công việc của họ và rất trân quý tình bạn với họ. Sau hết, chính là nhờ có họ, những con người làm việc vất vả, khiêm tốn và không biết mệt mỏi, mà chúng tôi mới có được tất cả những thành công của mình.

* * *
...........


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 22 Tháng Chín, 2015, 10:26:47 pm
(tiếp)

Sau khi đánh chiếm được bàn đạp và củng cố chỗ đứng trên bờ phía tây sông Narew, quân ta bắt đầu chuẩn bị cho cuộc công phá cuối cùng và quyết định các thành trì Đông Phổ.

Lần này thời gian nghỉ giữa chừng rất ngắn. Cuộc tấn công bất ngờ của quân đội Đức quốc xã tại Ardennes đã làm cho quân đội Mỹ và quân đội Anh bàng hoàng. Các đồng minh của chúng ta khi đó đã cầu khẩn giúp đỡ, và ngày 12 tháng 1 năm 1945, các cỗ đại bác của Liên Xô lại một lần nữa lên tiếng trên toàn bộ các mặt trận từ Baltic đến Carpath. Bộ tư lệnh phát xít buộc phải tạm ngừng hoạt động tấn công trên mặt trận phía Tây và ném quân của chúng về phía đông.

(http://tamanskipolk46.narod.ru/images/p29_p29_163.jpg)
Sư đoàn trưởng trao huân chương cho hoa tiêu N.Reutskaya. Năm 1944 (http://tamanskipolk46.narod.ru/p29aa1.html)

Các binh đoàn của PDQ Belorussia 2 đã bắt đầu các hoạt động tích cực một ngày sau các mặt trận khác. Đêm ngày 14 tháng 1, trung đoàn của chúng tôi làm việc trong khu vực Zhabichina. Trần mây thấp và sương mù làm cho việc ngắm và ném bom các mục tiêu trở nên rất khó khăn, nhưng chúng tôi vẫn biết cách chế áp thành công nhiều hỏa điểm của kẻ thù và gây ra những vụ nổ rất lớn.

Các cuộc ném bom ban ngày nhanh chóng được bổ sung thêm cho các cuộc ném bom đêm. Chúng không bắt buộc. Đơn giản là từ sư đoàn người ta gửi điện xuống yêu cầu cho một danh sách các phi công muốn bay ban ngày. Tất nhiên, tất cả các kíp bay lập tức đồng ý ngay. Chúng tôi bắt đầu bay cả ngày lẫn đêm, chuyển đạn dược cho các đơn vị mặt đất đã đột phá quá xa về phía trước.

Đó là khi những kinh nghiệm của trận chiến giải phóng Kerch tỏ ra hữu ích biết bao! Chỉ có điều là bây giờ, nhiệm vụ của chúng tôi không giống như trước, nghĩa là chuyển hàng đến những nơi được cho biết trước, mà phải tìm kiếm các đơn vị của mình trước đã. Bay làm nhiệm vụ này phải bay khá thấp, dưới hỏa lực súng máy-súng bộ binh cá nhân dữ dội của kẻ thù. Việc hạ cánh thường phải thực hiện trong các điều kiện bất ngờ nhất, và đôi khi không thể tin được.

(https://upload.wikimedia.org/wikipedia/ru/a/a5/Parfenova_ZI.jpg)
Thượng úy cận vệ, AHLX, nữ phi công Zoya Ivanovna Parfyonova (1920-1993), phi đội phó trung đoàn nữ KQ ném bom đêm cận vệ 46 Ta-man: 739 phi vụ chiến đấu. Nữ AHLX duy nhất của CH tự trị Chuvash. Học hết lớp 7, tốt nghiệp nữ y tá và CLBHK. Trước chiến tranh làm huấn luyện viên bay tại CLBHK Alatyr, CH tự trị Chuvash thuộc CHXVLB Nga. Nhập ngũ tháng 10/1941. Tốt nghiệp trường HKQS Engels. Sau chiến tranh giải ngũ năm 1945, làm quản lý một rạp chiếu phim. (http://www.warheroes.ru/hero/hero.asp?Hero_id=1660)

Người đầu tiên gặp nạn khi đó là chỉ huy phó phi đội Zoya Parfenova. Ngày 29 Tháng 1 năm 1945, trung đoàn được lệnh bốc chuyển đạn dược đến Kresin cho bộ đội mặt đất bằng cách hạ cánh tại địa điểm này trong một khu vực sân đáp rất hạn chế.

Thời tiết thậm chí chỉ còn nước khóc: mây 10 độ, còn trần mây từ 100-150 mét. Thêm vào đó là tuyết rơi dữ dội. Tầm nhìn xấu đến mức mặt đất hầu như không nhìn thấy được.

Zoya Parfenova bay thực hiện sứ mệnh này đầu tiên. Công việc sẽ không phải dễ dàng: chiến tuyến mặt trận trong khu vực này không rõ ràng, có nguy cơ bất ngờ ở trên đầu của bọn Đức quốc xã.

Khi bay gần đường chiến tuyến giả định, Zoya phát hiện ra một điểm tập trung quân đang bắt đầu bắn lên chiếc Po-2 của cô. Tuyết rơi không ngừng đóng băng trên nắp che buồng lái. Việc định hướng trở nên phức tạp. Mà Zoya thì bay một mình không có hoa tiêu. Vừa lái máy bay vừa đồng thời theo dõi các mốc định hướng trong các điều kiện thời tiết bất lợi như thế là rất khó khăn. Nhưng chuyến bay vẫn tiếp tục.

Điểm dân cư Basskenhof hiện ra. Zoya nhìn thấy những chiếc xe tăng và bộ binh di chuyển trên mặt đất, và giảm độ cao, tìm một nơi hạ cánh cho thuận tiện. Xuống thêm một chút, người nữ phi công, vô cùng kinh hoàng khi phân biệt được những đường sọc thập tự sơn đen trên các xe tăng. Đó là xe tăng của bọn phát xít quốc xã. Như có một luồng điện chạy qua cơ thể cô. "Giá mà mình mang bom tới đây, nhưng phải nhiều hơn!" - Parfenova nghĩ mà phát sốt. Nhưng dưới cánh máy bay và trong buồng lái phía sau máy bay chỉ toàn các hòm đạn. Cho máy bay vòng gấp, Zoya lái nó về phía đông. Nhưng bọn Đức quốc xã nhận ra những ngôi sao màu đỏ trên đôi cánh của chiếc Po-2. Những tràng súng máy vãi đạn vào cánh và thân máy bay. Đạn nổ như đám mây bao phủ buồng lái phi công. Zoya cảm thấy đau nhói ở đùi phải. Cần phải thoát ly nhanh hơn nữa.

Người nữ phi công bị thương đã tìm được sức mạnh để tiếp tục tìm kiếm. Đạn pháo mà cô giao đến nơi đã giúp ích rất nhiều cho các pháo thủ của chúng ta.

Thời gian này trung đoàn của chúng tôi đang xử lý các vị trí của quân thù ở Nasielsk, Nowy Dwor, Plonsk-Góra, Vorovitsami, Plotsk cũng như đánh phá các bến phà ở Graudenz và Nozenburg. Trong mười ngày chúng tôi hoạt động ở đó, những chiếc Po-2 đã chế áp 16 trận địa pháo binh, phá hủy nhiều hỏa điểm súng máy và súng cối, nhiều kho đạn, gây ra 10 vụ cháy và hơn 30 vụ nổ lớn.

Cuộc tấn công của quân đội Liên Xô đã diễn ra thành công. Vào mười ngày cuối tháng, họ đã tiến đến biên giới Đông Phổ. Trung đoàn dời căn cứ đến Bursch, gần Mlawa, và từ đó vào đầu tháng hai - chuyển đến Sharlottenverder ngay trên lãnh thổ nước Đức.

(http://photocdn4.itar-tass.com/fit/816x458_7de8e174/tass/m2/uploads/i/20150112/3933295.jpg)
Đông Phổ: sân bay Đức sau khi bị máy bay Soviet ném bom (http://tass.ru/obschestvo/1681665)

Đã thành sự thật những gì mà chúng tôi từng nghĩ về nó suốt những năm tháng ấy, vì nó mà chúng tôi chịu đựng gánh nặng của cuộc chiến tranh, không tiếc mạng sống. Đằng sau là mảnh đất quê hương bị giày xéo - những ngôi làng, những thành phố bị kẻ thù tàn phá và đốt cháy, ngôi mộ của những người đã ngã xuống trong trận chiến. Trái tim của chúng tôi tràn đầy tức giận. Nhưng trong ngực những người lính sôi sục hận thù với bọn phát xít Đức quốc xã, mà không phải với những người dân bình thường của nước Đức. Bước chân vào lãnh thổ của kẻ thù, chúng tôi không nuôi dưỡng sự ác ý đối với người dân Đức. Chúng tôi, những người Soviet, rất xa lạ với những bản năng của loài cầm thú.

Chúng tôi háo hức sớm kết thúc chiến tranh và vì vậy mà đánh kẻ thù còn quyết liệt hơn nữa. Nếu đôi khi thường dân cũng vướng tên rơi đạn lạc, nếu các ngôi làng bốc cháy và các ngôi nhà bị sụp đổ, thì chúng tôi không có lỗi về chuyện đó. Chúng tôi không phải là người đầu tiên giương kiếm lên, nhưng chúng tôi sẽ là những người cuối cùng hạ kiếm xuống. Và điều ấy càng xảy ra sớm hơn thì càng tốt: sẽ ít nạn nhân hơn, sẽ ít tàn phá hơn.

Chúng tôi không định làm gì xấu cho người dân Đức. Nhưng cũng không dễ dàng khi phải tự đấu tranh với những cảm xúc không hay liên quan đến những năm tháng đau thương thử thách.

(https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/1/14/Bundesarchiv_Bild_146-1989-033-33%2C_Pillau%2C_Hafen%2C_Fl%C3%BCchtlinge.jpg)
Dân Đức di tản khỏi Đông Phổ tại cảng Pillau ngày 26 tháng Giêng năm 1944. (https://ru.wikipedia.org/wiki/%D0%9E%D0%BF%D0%B5%D1%80%D0%B0%D1%86%D0%B8%D1%8F_%C2%AB%D0%93%D0%B0%D0%BD%D0%BD%D0%B8%D0%B1%D0%B0%D0%BB%C2%BB)

Bản thân tôi đã trải qua điều tương tự. Điều đó xảy ra gần Graudenz. Ngôi làng mà chúng tôi đóng gần đó trống rỗng, cũng giống như nhiều ngôi làng khác chúng tôi gặp trên đường. Vào làng chỉ vì tò mò, tôi tạt vào sân ngôi nhà đầu tiên mình gặp. Cho rằng cửa đóng, tôi kéo cánh cửa về phía mình một cách hoàn toàn máy móc. Chúng tôi đã được cảnh báo rằng việc đi một mình là nguy hiểm, vì đã có các cuộc tấn công vào sĩ quan và binh sĩ Liên Xô. Tuy nhiên luôn mạnh hơn bản năng tự bảo vệ là sự xấu hổ vì sự hèn nhát và bạc nhược bất ngờ. Tôi kiên quyết bước qua ngưỡng cửa vào nhà.

Điều đầu tiên tôi nhìn thấy là một chiếc bàn phủ khăn trải bàn giản dị nhưng sạch sẽ có  những lời chúc thêu theo truyền thống kiểu Đức. Không dừng lâu ở đó, tôi nhìn quanh căn phòng. Tính ngăn nắp của nó thật hoàn hảo. Tôi cảm giác như thể người chủ nhà vừa dọn dẹp xong, và bây giờ đang đi đâu đó ra ngoài một thời gian ngắn mà thôi. Đột nhiên trong góc có tiếng sột soạt. Theo bản năng tôi đặt tay lên bao súng lục, quay ngoắt lại.

Một người phụ nữ trung niên nép vào tường, choàng tay ôm một cậu bé và một cô bé. Nhận thấy cử chỉ của tôi, bà ta ghì chặt lấy những đứa trẻ và mặt tái bệch như xác chết. Sau đó, bà ta ối lên một tiếng khẽ và sửng sốt:
- Oh, mein Goth! Madam!
Bọn trẻ gầy gò, mặt trắng bệch, sợ hãi nhìn chằm chằm vào tôi bằng những cặp mắt bé nhỏ. Đứa này cố gắng trốn vào sau đứa kia, chúng nép chặt vào người mẹ. Khi nhìn vào cùng người phụ nữ và những đứa trẻ của bà ta, nhìn cảnh tượng sạch sẽ, nhưng tội nghiệp mà không cần nói cũng thấy rõ rằng tôi đang ở trong ngôi nhà của một người nghèo. Tôi đột nhiên cảm thấy thương cảm theo kiểu tình người cho một người phụ nữ nước ngoài không có lỗi trong chuyện gì, đang nhẫn nhục cam chịu về mình những cú đánh ập xuống đầu bà ta vì những năm dài đằng đẵng, từ lúc chữ thập ngoặc màu đen trở thành biểu tượng của quê hương mình.

Tôi muốn bằng cách nào đó trấn an người nữ chủ nhân của ngôi nhà, làm điều gì đó dễ chịu cho bà ta và những đứa trẻ. Không phải tôi chiến đấu với họ, không phải họ đốt nhà tôi hồi tháng 7 năm bốn mươi mốt. Tôi thò tay vào túi, nơi có một thanh sô cô la nhỏ, và ... không rút nó ra. Đúng giây phút ấy tôi như bị điện giật: Zina Gorman! Trươc tâm tưởng tôi hiện lên khuôn mặt buồn đau của người bạn gái. Làm sao có thể quên bi kịch của cô ấy: cái chết của cha mẹ cô bị bọn phát xít xử bắn, số phận bi thảm của đứa con trai cô ấy, bị chôn sống trong lòng đất ... Ai biết được, có thể trong số những tên súc vật đã làm cái việc ác ôn này có ông chủ của ngôi nhà, đang mặc quân phục lính Hitler, và là cha của những đứa trẻ kia. Có lẽ ông ta không bấm cò súng, nhưng bản chất sự việc không thay đổi. Chúng dùng đạn chì với chúng ta, còn tôi... Quay ngoắt ra, tôi chạy trên đường phố mà không thể bình tĩnh lại trên suốt quãng đường về sân bay. Những cảm xúc trái ngược, mâu thuẫn nhất tràn ngập lòng tôi. Mọi thứ phức tạp hơn nhiều so với những suy tính một vài tháng trước, khi chúng tôi chiến đấu với kẻ thù ngay trên mảnh đất của mình ... Từ đâu mà tôi sinh ra tính hai mặt này - sự căm thù, lòng thương hại? Hay vì tôi đã mệt mỏi vì cuộc chiến và con người phụ nữ trong tôi đã cất tiếng? Hay vì không thể chỉ có căm thù, căm thù đến vô cùng vô tận? Có lẽ điều thứ hai đúng hơn. Con người được tạo ra để yêu cuộc sống, để tô điểm cho trái đất, tạo dựng cái đẹp trên đó. Và dù con người có bị chiến tranh làm cho cay đắng và đau buồn như thế nào, người ta không bao giờ quên sứ mệnh của mình. Chúng ta lại càng như thế - chúng ta là những con người Soviet, con người của đạo đức mới và quan điểm mới. Nỗi đau đớn bi thảm xảy ra với chúng ta, có lẽ tàn khốc hơn với bất cứ ai khác, và chúng tôi biết căm thù sự tệ hại này cho đến khi qua đời. Nhưng chúng tôi vẫn sẵn sàng hơn với việc lắng nghe các xung động trong sáng của trái tim mình, vì chúng tôi yêu mến con người và tin vào nó.

* * *
........


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 24 Tháng Chín, 2015, 10:43:20 pm
(tiếp)

Nửa sau tháng Hai tới đúng lúc chúng tôi đóng ở thị trấn nhỏ Slupa. Mùa xuân chỉ vừa bén gót từ các bờ biển xa xôi của Đại Tây Dương. Hơi thở mùa xuân đã có thể cảm nhận được ở đây.

Băng tan đột ngột. Sân bay lầy lội đến mức sát xi máy bay mắc kẹt trong nền đất và các động cơ không đủ lực để đưa máy bay tách đất. Chúng tôi phải dùng đôi tay của mình kéo chúng. Thường thì bạn kéo được máy bay một lúc, nhưng chỉ phút sau nó lại ngập xuống bùn lầy.

(http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/158.jpg)
Klavdia Ilyushina, kỹ sư phụ trách trang bị hàng không chuyên dụng của trung đoàn (http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/ill.html)

Cần phải áp dụng một biện pháp nào đó. Theo đề nghị của thiếu tá Bershanskaya và đại úy kỹ sư Ozerkova người ta quyết định xây dựng đường băng lát gỗ. Cường độ của các phi vụ tất nhiên đã giảm, nhưng điều tốt đẹp là trung đoàn lại hoạt động được.

Cùng với băng tan là thời tiết xấu. Lúc thì hàng ngày và đêm liền mưa phùn gieo hạt không biết chán, lúc thì tuyết mỏng và nhớp nháp rắc mãi. Chúng tôi phải bay ngay dưới rìa mây trên độ cao 400-500 mét. Mà trong hoàn cảnh như vậy, những chiếc Po-2 tốc độ thấp có bị súng máy cỡ nòng lớn bắn hạ cũng không có gì không xứng đáng. Dù sao thì chúng tôi cũng đã bị chúng quần bám một cách triệt để. Những chiếc máy bay khá thường xuyên thực hiện phi vụ quay về với những đôi cánh thủng tơi tả. Các kỹ thuật viên vá víu chúng một cách vội vàng; kết quả là đôi cánh của nhiều chiếc máy bay chẳng mấy mà trông giống như tấm mền cũ mòn.

Nhưng đó là điểm đặc trưng. Dù cho khó khăn đến đâu, các cô gái của chúng tôi vẫn lạc quan, và không mất đi cảm giác hài hước. Tôi nhớ khi tôi và Sasha Akimova trở về sau một phi vụ nguy hiểm. Mà có thể chúng tôi đã không quay về được - cánh của máy bay dày đặc lỗ đạn đến nỗi chúng tôi lấy làm lạ, tại sao không có viên đạn nào rơi trúng động cơ, hoặc trúng hoa tiêu hay nữ phi công. Phải tưởng tượng xem trạng thái của phi hành đoàn ra sao sau một cú đảo lộn như vậy! Trong khi đó, Sasha vẫn còn đủ bình tĩnh để đùa cợt sau khi cô xem xét kỹ lưỡng "cánh én" của chúng tôi và thăm khám từng lỗ thủng trên đôi cánh của nó. Cuối cùng, cả hai chúng tôi đi đến kết luận rằng thoát ra khỏi hoàn cảnh khó khăn là may mắn lắm rồi, một khi không phải căng kéo lại cánh máy bay. Ở chiến dịch này trong trung đoàn chúng tôi, điều đáng sợ hơn bất cứ điều gì trên thế giới đó là: phi công và hoa tiêu lâm vào cảnh "kỵ sĩ không có ngựa", buộc phải ăn không ngồi rồi.

(http://stuffo.hswstatic.com/missedinhistory/wp-content/uploads/sites/98/2015/03/night-witches-600x350.jpg)
Năm nữ phù thủy đêm tại miền Đông Pomeranie năm 1945. Trái sang phải: hoa tiêu phi đội Katya Ryabova, biên đội trưởng Raisa Yushchina, hoa tiêu Mira Paromova, và các phi đội trưởng Nadezhda (Nadya) Popova và Marina Chechneva. (http://www.missedinhistory.com/blog/missed-in-history-night-witches/)

Chẳng bao lâu sau, một lần tôi và Akimova gần như rơi vào một hoàn cảnh khó chịu. Lần đó chúng tôi ném bom các vị trí quân Đức trong khu vực Neuenburg. Mây dày đặc không cho phép lên cao trên 400 mét. Gió từng cơn giật rất mạnh, tuyết đóng tảng lớn và dính trên nắp chắn gió buồng lái. Mặt đất rất khó quan sát.
- Thời tiết ơi là thời tiết, không hiểu nó là cái kiểu gì! - suốt dọc đường Sasha càu nhàu. - Bây giờ ra lệnh định hướng thế nào đây?
- Không hề gì, - tôi an ủi - bọn phát xít sẽ giúp đỡ. Chúng không bỏ qua chúng ta đâu. Chỉ cần chúng bắt đầu bắn súng máy - thế là cậu có điểm tham chiếu ngay.

Thực tế thì kẻ thù đã đón chúng tôi từ khi chúng tôi còn đang trên đường tiếp cận mục tiêu bằng màn hỏa lực của súng máy hạng nặng.
- Toàn những mốc định hướng tốt nhỉ - Akimova giận dữ rủa. - Tớ thà tự mình tìm mục tiêu còn hơn phải dùng đến cái thứ gậy chỉ đường thế này.

(http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/161.jpg)
Hoa tiêu phi đội A.Akimova, người nhận danh hiệu Anh hùng 50 năm sau chiến tranh, khi Liên Xô đã sụp đổ. (http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/ill.html)

Cuộc bắn phá thật sự mạnh mẽ. Trong tiếng ồn của động cơ, tất nhiên tôi không thể nghe thấy tiếng khô đanh của những tràng súng máy đang xé vải chúc bâu cánh máy bay tanh tách, nhưng linh cảm nhạy bén qua năm tháng chiến tranh cho phép xác định không nhầm lẫn những khoảnh khắc này. Một vài viên đạn sượt qua trúng nắp chắn gió buồng lái hoa tiêu, và trên đó xuất hiện vết nứt. Rồi trong máy đàm thoại, tôi nghe tiếng Sasha.
- Ôi, chết tiệt - cô nguyền rủa ai đó.
- Cậu sao thế? - tôi hỏi.
- Máy đo cao hỏng rồi, hoàn toàn tê liệt!

Để thoát khỏi màn đạn, tôi lái chiếc máy bay vào trong mây, và một phút sau lại chui ra. Và thật đúng lúc. Ngay bên dưới chúng tôi, hiện ra rõ mồn một trên nền tuyết sẫm, một dãy chiến hào trải ra quanh co như một dải băng đen.

Akimova cắt bom rồi cho hướng về sân bay của mình. Lần đó chúng tôi trở về an toàn. Nhưng tại sân bay, sau khi kiểm tra máy bay của chúng tôi, kỹ thuật viên trưởng của phi đội Masha Shchelkanova lắc đầu:
- Xem chúng làm gì các bạn này... cả hai cánh máy bay không có lần này cũng đã vá chằng vá đụp, bây giờ thì còn chỗ sống nào nữa đây.
- Thế không căng kéo lại được à? - Sasha Akimova hoảng sợ.
- Xem nào ... Có thể, lần này còn được.
Và lần này thì trót lọt...

* * *

Ngày tháng bay đi trong các trận đánh nóng bỏng mà không ai hay. Đến cuối tháng Hai, PDQ Belorussia 2 đã tiến xa đến mức chẳng còn mấy mà tới bờ biển Baltic.

(http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/176.jpg)
Tướng K.A.Vershinin và các Anh hùng Liên Xô của trung đoàn. Năm 1945. (http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/ill.html)

Đúng thời điểm này có tin vui đến với trung đoàn. Chín nữ phi công và hoa tiêu ưu tú nhất của chúng tôi - Nadezhda Popova, Rufina Gasheva, Ekaterina Ryabova, Irina Sebrova, Natalia Meklin và Evgenya Zhigulenko - được trao tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô. Olga Sanfirova, Vera Belik và Tatiana Makarova đã được truy tặng danh hiệu quân sự cao quý này. Bây giờ trung đoàn đã có mười bốn Anh hùng. Ngoài ra, một nhóm đông các cô gái được tặng thưởng nhiều loại huân huy chương. Sasha Akimova và tôi được trao tặng Huân chương Cờ Đỏ...

Tôi rất yêu thơ ca và nhiều năm trước đây từng chép lại cho mình những câu thơ của Vladimir Karpeko "Con đường dưới bầu trời" (*). Chúng làm tôi rung động:

... Chúng tôi đi qua mười lăm, hai mươi,
Hàng trăm rồi hàng ngàn bước.
Và bầu trời đu đưa mệt mỏi
Trên những đầu lưỡi lê của chúng tôi...
Theo các ngôi sao, theo các mặt trời,
Chúng tôi đi gót giẫm trong mây...
Ngôi sao của ai kia ngôi sao chợt rụng,
Trong đại đội bỗng thiếu một tay lê...
"Thế là hết - con đường kết thúc ...", -
Thoáng qua đầu người lính đang cơn mê.
Anh im bặt khi anh còn chưa hiểu
Con đường này nào có kết thúc đâu.
Anh im bặt, anh còn chưa kịp biết
Người người đi hối hả bước theo nhau,
Bước đi, bước đi, bầu trời sa hấp hối
Kịp xốc lên trên đầu những ngọn lê...


(http://www.xn--80aqfnfv8g.xn--p1ai/index.php?option=com_joomgallery&view=image&format=raw&id=6453&type=img)
V.K.Karpeko. Năm 1945. (http://www.xn--80aqfnfv8g.xn--p1ai/index.php?option=com_content&view=article&id=971%3A2015-04-29-14-33-37&catid=153%3A2015-04-29-14-15-15&Itemid=186)

Mỗi người chúng tôi trong những ngày đó đã trải qua điều tương tự như vậy. Mệt mỏi muốn chết vì những đêm mất ngủ, mất đi những người bạn gái trong các trận đánh, bất chấp mọi thứ, ngày và đêm chúng tôi vẫn ném bom kẻ thù. Cái chết rình rập chúng tôi trong mỗi chuyến bay. Nhưng chúng tôi biết: chẳng bao lâu sẽ chiến thắng và không muốn nghĩ về cái chết...

Trung đoàn bay vào Đông Phổ.
Thường dân đã được chính quyền Đức sơ tán vào sâu nội địa nước Đức. Điều đó được thực hiện một cách vội vàng đến mức những người chủ bỏ lại ngôi nhà của họ mà không kịp mang theo ngay cả những vật dụng cần thiết nhất.

(http://konevodstvo.su/books/item/f00/s00/z0000003/pic/000112.jpg)
Nguyên soái K.K.Rokossovsky trong lễ duyệt binh Chiến thắng (http://konevodstvo.su/books/item/f00/s00/z0000003/st027.shtml)

Buổi tối ngày 08 tháng 3, chúng tôi tập trung tại nhà hát của thị trấn Phổ Tuchola. Đích thân tư lệnh phương diện quân, Nguyên soái Rokossovsky đến trao các tặng thưởng của chính phủ. Chúng tôi vô cùng hồi hộp chờ đợi gặp mặt vị chỉ huy quân sự danh tiếng, hồi hộp đến nỗi không biết làm sao kiềm chế được mình. Nhưng hóa ra nguyên soái là một người đàn ông rất quyến rũ. Ông cư xử với các quân nhân của trung đoàn rất chân tình và giản dị, làm mọi người thấy ấm áp và hạnh phúc tuyệt vời. Buổi tối là một thành công vang dội, nó còn lưu lại trong ký ức rất lâu.

Ghế bành được thu dọn ra khỏi gian hội trường, thay vào đó người ta bày bàn đặt các món ăn nhẹ. Chúng tôi hồi hộp chờ đợi các vị khách cấp cao. Khi cuối cùng nguyên soái xuất hiện trong hội trường, đi kèm có một số tướng lĩnh, trong số đó có tư lệnh tập đoàn quân KQ 4 K.A.Vershinin, các cô gái cuống quýt cả lên. Có vẻ như ngay cả Konstantin Konstantinovich cũng bối rối, đặc biệt là khi sự im lặng đột ngột nổ tung bởi những tràng pháo tay như sấm rền bão giật. Ông quay sang Bershanskaya và nói điều gì đó. Evdokia Davydovna dang hai tay ra để phân trần cho nguyên soái biết rằng, điều ấy không phụ thuộc vào chị. Chúng tôi vỗ tay còn to hơn nữa, để nhấn mạnh sự kính trọng của mình đối với vị chỉ huy lừng lẫy.
Nguyên soái mỉm cười, chọn thời cơ thích hợp, cất giọng nói thật lớn:
- Ô hô! Các cô đều đeo đầy huân chương cả rồi.

(http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/18.JPG)
Shura Khoroshilova bí thư đoàn TNCS trung đoàn

Konstantin Konstantinovich đích thân trao các tặng thưởng. Ông bắt tay tất cả mọi người, chúc đạt được những chiến công tiếp theo. Sau đó, bí thư Đoàn Komsomol trung đoàn Aleksandra Khoroshilova lên bục. Nguyên soái trao cho cô ấy Bằng Khen của Trung ương Đoàn Komsomol toàn Liên bang trao tặng chi đoàn Komsomol trung đoàn. Có lẽ đó là sự ngạc nhiên bất ngờ nhất và dễ chịu nhất đối với chúng ta. Chúng tôi lại vỗ tay hồi lâu mà không để cho Khoroshilova nói xong lời cảm ơn. Mặc dù vào thời điểm này hầu hết chúng tôi đã trở thành những người cộng sản, nhưng theo độ tuổi, chúng tôi chưa hết tuổi đoàn viên. Nhiều thứ gắn chúng tôi với đoàn Komsomol. Trong hàng ngũ của Đoàn, chúng tôi đã qua lần đầu thử lửa, đã trưởng thành, trở thành những người lính thực thụ. Vì vậy Bằng Khen của TU Đoàn Komsomol được chúng tôi tiếp nhận như một phần thưởng cho tất cả chúng tôi, những người Cộng sản trẻ tuổi. Vì thế chúng tôi vỗ tay hoan hô Khoroshilova nồng nhiệt khi cô ấy, sau khi nói lời cảm ơn Ủy ban Trung ương Đoàn TNCS toàn Liên bang, đã tuyên bố rằng chúng tôi sẽ trân trọng mang giải thưởng cao quý này đến tận Berlin.

* * *

(*): Vladimir Kirilovich Karpeko (1922-1993), nhà thơ Nga Soviet, sinh tại Ukraina trong một gia đình nhân viên đường sắt. Có bố bị đàn áp năm 1937. Mẹ đưa cả gia đình sang Belarus sinh sống. Học tại Học viện Giao thông đường sắt Leningrad. Kỹ sư vận tải đường sắt chưa tốt nghiệp, lính trinh sát trong Chiến tranh Vệ quốc 1941-1945, hội viên Hội Nhà văn Liên Xô. Sau chiến tranh đã làm nhiều nghề. Tốt nghiệp Trường Gorky. Giải thưởng A.Fadeyev (1981).
(http://kkre-49.narod.ru/p/karpeko.jpg)

Дорога под небом

Короткой казалась дорога
Её ограничила мгла.
Тревога, тревога, тревога
В щербатых воронках жила.

Казалось, дорога кончалась
В пятнадцати с чем-то шагах...
А низкое нёбо качалось,
Качалось на наших штыках.

В тумане, от зарева рыжем,
Прожекторов меркли мечи,
И, к черепу череп, булыжник
Мерцал перед нами в ночи.

Прошли мы пятнадцать и двадцать,
И сотни, и тыщи шагов,
И нёбо устало качаться
На лезвиях наших штыков.

Не надо ни водки, ни хлеба -
Упасть и лежать на спине...
Привал. Но качается нёбо -
По нёбу идём на войне.

По звёздам идём и по солнцам,
Топча каблуком облака...
А чья-то звезда оборвётся,
И роте не хватит штыка.

И чья-то дорога короче,
Чем та, что осталась живым,
Чем та, что, быть может, пророчит
Такую ж судьбу остальным.

Такие же вихри косые
Могилы других заметут...
Но все Ярославны России
Надеются, плачут и ждут.

Надейтесь ... (О пулю споткнётся!)
И плачьте ... (Он рухнет ничком,
И горестно нёбо качнётся
Над этим последним штыком!)

"Дороге - конец... " - замирая,
Мелькнёт в голове у бойца.
Он так и затихнет, не зная,
Что нет у дороги конца.

Затихнет, не зная, что следом
Торопятся маршевики,
Шагают, упавшее нёбо
Успев подхватить на штыки. (http://artbgu.narod.ru/CTUX.htm#2)

.........


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 25 Tháng Chín, 2015, 10:04:02 am
(tiếp)

Vào đầu tháng Ba, bọn Đức quốc xã rút lui về Danzig, sau khi dâng cho chúng ta các thành phố Preussisch, Stargard, Dirshau. Ngày 10 tháng 3, quân đội Liên Xô đã kéo đến sát Danzig và Gdynia, chiếm Tsopot, Olivts, Kolitken, qua đó cắt làm đôi một cụm quân lớn của kẻ thù.

Thời tiết vào lúc này đang trở xấu đột ngột. Gió ẩm mang theo mình sương mù và tuyết rơi nhiều. Nhưng các chuyến bay vẫn tiếp tục. Xuyên qua tuyết và gió những chiếc Po-2 nhỏ nhẹ của chúng tôi bay tới các mục tiêu của kẻ thù, và không có trường hợp nào các kíp bay quay trở lại sân bay mà không hoàn thành nhiệm vụ. Trong suốt giai đoạn, mặc dù điều kiện thời tiết bất lợi và bị bắn phá dữ dội từ mặt đất, trung đoàn không có tổn thất nào.

Chỉ có một lần Klavdia Serebryakova và Tosia Pavlova không quay trở lại sân bay. Họ bay cùng chúng tôi đi ném bom các mục tiêu quân sự trong khu vực Danzig. Thời tiết xấu khủng khiếp. Từ phi vụ đầu tiên đã thấy rõ ràng rằng, nhiệm vụ sẽ phải thực hiện trong các điều kiện vô cùng khó khăn. Hơn hai mươi điểm hỏa lực cùng chừng ấy dàn đèn chiếu nghênh đón mỗi máy bay Liên Xô. Cần phải vượt qua lưới lửa dày đặc và ánh sáng chói mắt người này, sau đó bẻ hướng sang khu vực phía tây bắc của thành phố. Người biên đội trưởng có ý chí mạnh mẽ tuyệt vời Klavdia Serebryakova cũng là nữ phi công xuất sắc đã cùng với hoa tiêu Tosia Pavlova lái máy bay đến đó một cách chính xác. Nhưng các cô gái đã không trở về sân bay. Tại trung đoàn mọi người chờ đợi họ đã nhiều ngày.

Trong khi còn tìm hiểu, dò hỏi, thời gian cứ thế trôi qua. Chúng tôi vẫn không ngừng lo lắng. Có lẽ chưa bao giờ chúng tôi đau đớn ưu phiền về những người bạn gái mất tích như thế. Và điều đó hoàn toàn dễ hiểu. Dù bất cứ lúc nào để mất các bạn đồng hành đều không dễ chịu gì, nhưng đặc biệt sẽ rất nặng nề khi ta đã thấy rõ những gánh nặng chủ yếu và khó khăn của chiến tranh đã được bỏ lại đằng sau và đâu đây đã nghe vang lên một từ thiêng liêng "hòa bình".

(http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/177.jpg)
Thăm Klavdia Serebryakova trong quân y viện (http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/ill.html)

Hai tuần dài trôi qua. Và chúng tôi không ngừng chờ đợi. Chờ đợi âm thầm, bướng bỉnh, mặc dù nhận thức rằng trên thực tế không có gì để hy vọng. Bỗng từ bộ tham mưu tập đoàn quân người ta thông báo xuống rằng các chiến sĩ bộ binh của chúng ta đã tìm thấy Pavlova và Serebryakova trên bờ đông sông Vistula, dưới đống mảnh xác máy bay, và các cô gái bị thương đang nằm trong quân y viện.
- Họ còn sống! - các đồng đội cùng trung đoàn hoan hỉ. - May mắn quá! Họ vẫn còn sống!
Mười bốn giờ đồng hồ, các cô gái mất máu, bị thương, nằm dưới đống mảnh xác máy bay và tuyết! Các bác sĩ đã đấu tranh rất, rất lâu để cứu lấy mạng sống của những người bạn gái chúng tôi. Họ quay trở lại đội ngũ sau nhiều tháng, khi chiến tranh đã kết thúc...

* * *

Ngày 12 tháng 3 năm 1945, tôi và Sasha Akimova được trao nhiệm vụ tìm địa điểm để chuyển căn cứ cho trung đoàn.

Trước khi màn đêm xuống còn khoảng hai giờ, trong thời gian đó có thể hoàn thành nhiệm vụ. Do đó, chúng tôi không chậm trễ, mặc dù thời tiết không thuận lợi cho chuyến bay. Trong khu vực Torun, khi đằng sau là một phần đường đáng kể đã đi qua, chúng tôi rơi vào lưới lửa cao xạ. Nhưng chúng tôi tiếp tục bay theo hướng Danzig. Và một lần nữa lại rơi vào lưới lửa phòng không.

Tuyết rơi ngày càng nhiều, và đột nhiên động cơ bắt đầu bị ngắt quãng. Xung quanh toàn rừng và đầm lầy, nhưng chúng tôi vẫn quyết định hạ cánh.
May thay, phía dưới lóe lên các đường viền của một ngôi nhà nhỏ. Tiếp đến là bức thành lũy của một khu rừng. Chúng tôi đáp xuống cách ngôi nhà không xa, và rút súng lục ra trước.

Chưa hết vài phút, đã nhìn thấy các em nhỏ chạy tới chỗ máy bay. Tôi và Sasha ngồi trong các buồng lái và hình dung ráo riết: chúng tôi đang ở vùng quân ta hay quân địch? Một người đàn ông trẻ sải bước vội vã sau đám trẻ em.
- Người mình, người mình! Đừng sợ - anh ta hét lên từ xa.
Chỉ khi đó chúng tôi mới nhìn ra trên tay áo người đàn ông tấm băng màu đỏ-trắng, mà thời đó những người yêu nước Ba Lan thường đeo.

Hoàng hôn thẫm đặc lại. Cả hai chúng tôi thấy khá lạnh. Người cứu chúng tôi tên là Stefan Zhonda. Chúng tôi lần lượt ở lại bên máy bay, mặc dù người ta đã cắt đặt một đội bảo vệ, đứng đầu là Stefan. "Cánh én" của chúng tôi, như ta vẫn gọi, đậu trong một vườn rau gần làng. Tại nhà của Stephan chúng tôi được nghe lời chào thân thiện với chúng tôi, được ăn ngon và được dành cho một góc ấm áp. Mẹ của anh ấy chăm sóc chúng tôi như chăm sóc những đứa con ruột thịt. Chúng tôi không thể hình dung rằng người Đức đang đóng quân cách làng này chỉ một vài cây số.

Sáng sớm tôi, Sasha, Stefan và đám trẻ con trong làng đã dùng những bó rơm để lát đường. Khi tất cả đã xong xuôi và sẵn sàng, tôi cùng Sasha, sau khi cảm ơn các trợ thủ tình nguyện của chúng tôi, leo lên cabin, tôi lấy ra một mảnh giấy và viết cho người bạn mới của chúng tôi một lá thư cảm ơn. Đưa cho anh ấy mảnh giấy, tôi hứa, nếu sống sót qua chiến tranh, tôi sẽ gửi cho Stefan thứ thuốc lá Nga tốt nhất...

Sasha Akimova nhớ rất rõ sự kiện ấy, còn tôi đã quên chi tiết chuyến bay này. Sau đó nhiều năm, tôi nhận được một lá thư từ Minsk:

Chị Marina Pavlovna kính mến! ..
Trung tá quân đội Ba Lan Stanislav Pilotinsky đã đến thăm chúng tôi. Đại úy phi công F.A. Levandyuk đã tiếp xúc với anh ấy để hỏi thăm những người Ba Lan, năm 1945 đã giúp đỡ cho anh khi anh bị bắn rơi trên lãnh thổ Ba Lan. Đồng chí Pilotinsky thực hiện lời yêu cầu, đồng chí đã nỗ lực rất lớn và tìm thấy những con người này. Tháng 8 năm 1963 tôi ở Ba Lan, và anh ấy cho tôi xem các tờ giấy ghi lời cảm ơn mà các phi công của chúng ta viết để tỏ lòng biết ơn các công dân Ba Lan đã giúp đỡ họ.
Trong số những giấy tờ này tôi nhìn thấy tờ giấy mà Chị viết hồi tháng 3 năm 1945...


Lá thư này của Boris Aleksandrovich Litsinsky gửi đến, tôi nhận được năm 1964, và ngay lập tức tôi đến gặp Aleksandra Akimova.

Người bạn gái của tôi còn nhớ Stephan rất rõ, cũng như cả lời hứa của chúng tôi.
Mảnh giấy của của chúng tôi làm cho các phóng viên Ba Lan quan tâm. Tôi được mời đến ban biên tập báo "Sao Đỏ" để gặp một phóng viên báo không quân Ba Lan, đại úy Karol Sheleng. Tôi kể cho anh nghe mọi điều tôi còn nhớ, và năn nỉ anh giúp tìm Stephan của chúng tôi. Sheleng hứa sẽ làm, và anh đã thực hiện lời hứa của mình. Trong hai bài báo xuất bản tại quê hương anh, người phóng viên mô tả chi tiết chuyến bay của chúng tôi. Còn ngày 11 tháng Mười Một năm 1965 trên tờ "Sao Đỏ" xuất hiện bài ký của anh có tựa đề "Người bạn của bạn đang sống ở Kościerzyna".

... Stephan là ai? Tôi quan tâm đến số phận của anh và xúc động với câu chuyện của phi hành đoàn của Marina Chechneva...
Cuối xuân năm nay, tôi đến Kościerzyna. Việc đầu tiên tôi làm là tiếp xúc với Edward Tomashevsky Chủ tịch Ban chấp hành Hội Hữu nghị Ba Lan- Liên Xô của huyện này. Người tiếp chuyện tôi, tiếc là chưa hề nghe được chuyện gì về Stefan Zhonda, nhưng toàn bộ câu chuyện này làm anh ấy quan tâm sâu sắc, và chúng tôi đồng hành cùng nhau trên con đường đi tiếp.
May mắn làm sao, chiếc xe hơi mắc kẹt trên đường, trước khi đi được hết năm km đến đích. Không biết bằng cách nào mà chúng tôi cũng đến được hồ nước, và cuối cùng chúng tôi đã tìm thấy ngôi nhà của Zhonda.
Cả gia đình anh ấy tiếp chúng tôi - vợ anh, sáu đứa trẻ con anh và các bậc cha mẹ già. Bản thân Stefan đang ở trong thành phố. Các trang chủ tò mò ngắm chúng tôi khi họ quan tâm đến mục đích chuyến thăm.
Họ, những người trong gia đình, có nghe nói về những nữ phi công đã hạ cánh ở đây vào năm 1945 hay không?
Còn phải nói! Đó là những ngày tự do đầu tiên. Ngày 08 tháng 3, quân đội Liên Xô chiếm lại Kościerzyna, ba ngày sau đó Stephan đeo lên cánh tay chiếc băng màu đỏ và trắng và đến trực tại đồn công an nhân dân. Đúng lúc đó, chiếc máy bay sơn ngôi sao đỏ tiếp đất trên cánh đồng.
Trong khi chúng tôi đang nói chuyện thì vợ của Stephan bận rộn trong căn phòng bên cạnh, và sau đó trao cho tôi hai mảnh giấy. Chúng được viết bằng tiếng Nga:
"Chúng tôi, các phi công, thượng úy Chechneva và trung úy Akimova, phải hạ cánh bắt buộc. Stefan Zhonda đã giúp đỡ cho chúng tôi rất nhiều, anh đã chân thành chăm sóc chúng tôi và tính toán trước tất cả những thứ cần thiết. Chúng tôi rất biết ơn Stephan Zhonda, một người Ba Lan trung thực.
Thượng uý Chechneva.
Trung úy Akimova".
Trên tấm bìa này còn dán một trang giấy khác.
"... cám ơn Stefan Zhonda vì anh và em trai của anh đã giúp che giấu chúng tôi trước mắt bọn Đức và bọn cảnh binh. Anh mang cho chúng tôi thức ăn, mặc dù luôn có nguy cơ bị quân Đức xử bắn..." Câu văn chưa được hoàn thành. Mảnh giấy đã bị xé. Tuy nhiên còn giữ được hai chữ ký, một trong số đó khá cầu kỳ - Dyachenko. Những chữ tiếp theo nói lên rằng người viết những dòng này là các phi công Xô viết...
Và gia đình của Stephan biết gì về họ?
...Trong một đêm tháng 11 năm 1944, có tiếng người gõ vào cửa sổ. Ðó là hai phi công Liên Xô bị bắn hạ trong một cuộc không chiến gần Tczew. Stefan đón họ như những người thân. Bởi vì bọn Đức sống bên cạnh, nên anh quyết định giấu các sĩ quan Xô Viết đi xa hơn và ở nơi đáng tin cậy hơn. Cùng với em trai của mình, anh giấu họ trong một hầm trú ẩn nằm ở phía bên kia hồ. Gia đình Zhonda chăm sóc các phi công Nga cho đến khi quân đội Xô Viết tới. Gia đình đã tiếp tế cho họ bánh mì, sữa và mọi thứ có ở trong nhà...
Hai trang giấy xé ra từ sổ tay. Chúng nói về các sự kiện khác nhau, và đồng thời nói lên cùng một điều: về những tình cảm con người lớn lao của các đồng bào của tôi đối với những người anh em-giải phóng của họ - những con người Xô Viết.


Nhiều năm qua, tôi đã gặp lại Stephan Zhonda. Nhận lời mời của các bạn Ba Lan, tôi đã đến thăm vài ngày ở Gdansk. Từ những phút đầu tiên khi tôi đến, chúng tôi không hề rời Stefan. Anh vẫn sống tại ngôi làng nơi mà năm bốn mươi lăm xa xôi anh đã giúp đỡ tôi với Sasha Akimova. Chúng tôi lang thang hồi lâu qua khắp nơi, đi cùng với gần như toàn thể dân làng, bồi hồi nhớ lại quá khứ. Hai mươi hai năm, tôi đã hoàn thành lời hứa được đưa ra trong những ngày tháng 3 năm 1945. Từ bản thân mình và từ Aleksandra Akimova, tôi không chỉ mang đến thứ thuốc lá Nga đã hứa, mà còn quà tặng cho sáu người con của Stephan, cho gia đình và bạn bè của anh, và quan trọng nhất là chuyển đến con người yêu nước Ba Lan này lòng biết ơn lớn lao. Cùng với các món quà lưu niệm, tôi đã trao cho Stephan Zhonda bằng chứng nhận của Ủy ban Cựu chiến binh Liên Xô.

* * *
.......


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 27 Tháng Chín, 2015, 12:05:20 am
(tiếp)

Từ cuối tháng Ba đến giữa tháng Tư trung đoàn chủ yếu hoạt động ở nồi hầm Danzig và hướng Stettin. Sự đóng góp tích cực của trung đoàn vào các trận đánh giành thành phố Kezlin được ghi nhận bằng tấm Huân chương Suvorov hạng III. Tin vui đến với chúng tôi, khi trung đoàn đã chuyển quân đến Buchholz, nằm ở phía tây bắc Berlin. Chúng tôi chào mừng sự kiện này ở đây, và kết thúc chiến tranh.

(http://cont.ws/uploads/pic/2015/5/original.jpg)
Quân Đức tại Kurlandia tung cờ trắng (http://cont.ws/post/85442)

Những chiếc kim đồng hồ đếm ngược thời gian đế chế của Hitler, đã nhích gần đến vạch cuối cùng không sao lay chuyển được. Lá Cờ Chiến Thắng đã vút cao trên Reichstag. Berlin đã sụp đổ, các đơn vị bảo vệ nó đã hạ vũ khí. Mặt trận của lực lượng vũ trang Hitler đã bị cắt đứt.

Trong những ngày này chúng tôi phải tiêu diệt nốt cụm quân đội phát xít trên bờ biển Baltic tại cảng Swinemünde.

Kẻ thù tập trung tại đây một số lượng lớn binh sĩ và trang thiết bị. Những tên lính Hitler còn sống sót chưa bị tiêu diệt được vội vã dồn lên những con tàu vận tải để thoát bằng đường biển đến phía các đồng minh của chúng ta.

Ngày và đêm, máy bay Liên Xô liên tục ném bom cảng. Trên đầu thành phố không phút nào ngớt những loạt đại bác, tiếng nổ khô đanh như điên cuồng của súng máy phòng không cỡ nòng lớn. Những trái bom, ném từ máy bay, ngày và đêm lao xuống vun vút, làm bốc lên những cột nước màu chì của biển Baltic, xay thành bột các công trình bê tông cốt thép của cảng.

(http://www.nordlichtverlag.de/resources/userdata/images/image/fotos/golm-flugzeuge.jpg)
Năm 1945 trên bầu trời Swinemünde, nơi tập trung người tị nạn Đức đến từ Đông Phổ trong chiến dịch di tản "Hannibal" tránh Hồng quân LX của chính quyền Đức Quốc xã. Ngày 12 tháng 3 năm 1945, vào buổi trưa, 671 pháo đài bay của Tập đoàn KQ 8 thuộc LLKQ chiến lược Hoa Kỳ, xuất phát từ đất Anh, đã không kích thành phố, thả xuống 1436 tấn bom, giết chết khoảng 10 ngàn người. Hồng quân chiếm thành phố vào đêm ngày 4 sang ngày 5 tháng 5 năm 1945. Tại đây còn tàu sân bay "Bá tước Zeppelin" chưa hoàn thành của Hải quân Đức Quốc xã neo đậu và đã bị quân Đức phá hỏng để không cho LX sử dụng. (http://www.nordlichtverlag.de/217/buecher-nordlicht-verlag/der-golm.html)

Trận ném bom Swinemunde là phi vụ chiến đấu thứ 810 của tôi. Trong suốt chuyến bay không xảy ra bất cứ điều gì đặc biệt, nhưng tôi nhớ nó đến suốt đời.

Tôi bay đến mục tiêu cùng với hoa tiêu phi đội Tanya Sumarokova một cách yên ổn. Phía dưới hiện ra lờ mờ những hình khối lớn tối sẫm của những con tàu đậu tại bến. Triều xuống nước ánh lên mờ đục. Đâu đó ở phía đông bầu trời lúc lúc lại bùng cháy bởi các vụ nổ: đó là bộ đội của phương diện quân Pribantic 1 đang tiêu diệt tàn quân của cụm quân Đông Phổ trên bán đảo Kurlandia. Ở đó những trái bom đang phát nổ, chỉ có điều chúng mạnh hơn bom của chúng tôi. Đó là công việc của các đồng đội cùng vũ khí của chúng tôi - các nữ phi công của trung đoàn máy bay ném bom bổ nhào cận vệ Borisov số 125 huân chương Suvorov và huân chương Kutuzov, mang tên tuổi vinh quang của M.M.Raskova.

(http://tamanskipolk46.narod.ru/images/22.jpg)
Tanya Sumarokova trong thời gian chiến tranh. Phi vụ cuối cùng của T.Sumarokova và M.Chechneva ném bom cảng Swinemunde diễn ra ngày 5 tháng 5 năm 1945. (http://)

Chiếc máy bay, như mọi khi, hơi chao đảo khi những "món quà" 50 kg, nhồi đầy chất nổ tách khỏi cánh máy bay. Và đột nhiên tôi nghĩ rằng những trái bom mà Tanya và tôi vừa ném xuống có thể là những trái bom cuối cùng.

Có một sự trùng hợp ngẫu nhiên đã xảy ra. Các chuyến bay đêm tiếp theo không có. Đêm thứ hai và thứ ba chúng tôi cũng ở trên mặt đất. Nhưng đêm thứ ba, chao ôi, có lẽ đó lại là đêm bão táp nhất trong số hàng trăm đêm chúng tôi đã trải qua ở mặt trận.

Trong dinh thự của một địa chủ, nơi trung đoàn đóng quân, mọi người đã ngủ từ lâu. Đột nhiên gian phòng bắt đầu bị khuấy động. Tôi chưa kịp tỉnh giấc, thì người trực ban trung đoàn, kỹ thuật viên trưởng của phi đội Rimma Prudnikova lao vào phòng ngủ.
- Các cô gái! - Cô gào lên hết cỡ. - Chiến thắng! Hòa bình! Dậy ngay! Dậy!

Rima chạy từ giường này sang giường khác, giật phắt chăn khỏi những người đang còn ngủ, quấy rối các cô gái, và như thể say sưa vì hạnh phúc, cô hét lên phấn khích:
- Hòa bình! Hòa bình! Chiến thắng! Chi-i-ế-n th-ắ-ắng!

(http://mtdata.ru/u15/photoCF15/20325491330-0/big.jpeg)
Các chỉ huy trung đoàn nhận nhiệm vụ chiến đấu ngày 20 tháng 4 năm 1945 (http://mikle1.livejournal.com/1756783.html?thread=116391535)

Lúc đầu chúng tôi sửng sốt vì bất ngờ. Trong một vài giây, sự im lặng chết người bao trùm tất cả, rồi sau đó mọi thứ vỡ òa, từ mọi phía mọi nơi có thể, có vẻ như trong điền trang này mọi người đã hóa điên. Để hoàn tất sự kiện, trong sân dinh thự bỗng có tiếng đạn bắn lên trời nổ ran, ai đó đã bắn pháo hiệu, và bầu trời tháng Năm đầy sao nổ tung trong những chùm lửa đỏ, xanh lục và trắng. Không phải trong giấc mơ nữa rồi, đó là điều chắc chắn.

Chỉ đến buổi sáng các cô gái mới bình tĩnh lại một chút, giải tán về các phòng. Nhưng không ai ngủ. Mọi người quá xúc động, nằm mở to đôi mắt hoặc trao đổi khẽ khàng hoặc lặng im đắm chìm vào những suy nghĩ của mình.

Cả tôi nữa cũng không thể ngủ. Tôi vùng dậy, khoác lên vai chiếc áo ca-pot và đi ra ngoài. Trời đất vô cùng tĩnh lặng, như chỉ xảy ra vào lúc sớm mai. Và sau cảnh nhộn nhạo, tiếng ồn ào, la hét cách đây chưa lâu, sự im lặng dường như còn dày dặn hơn.

(http://tamanskipolk46.narod.ru/images/p29_berlin250.jpg)
Con sên trời trên đầu Reichstag (http://tamanskipolk46.narod.ru/p29aa1.html)

Cách đó không xa, phía sau một bờ rào bị hỏng, khu vườn bao bọc trong màn sương mù phơn phớt ánh xanh lơ đang ngủ. Bên phải khu vườn, lấp lánh ánh nhựa asphalt ướt nước phủ mặt đường ô tô, nhưng ở lề đường, một chiếc xe ngựa vận tải bị lật đổ ngược, hếch càng lên trời giống như những nòng pháo.

Bầu trời đã nhạt dần, những ngôi sao không còn quá lấp lánh. Hừng đông đã đến. Hừng đông của ngày hòa bình đầu tiên. Theo lẽ thường, rạng đông đến từ nơi đó, nơi đất mẹ ruột thịt của tôi.

Tôi nhìn ngắm hồi lâu, nhìn phương đông đang ửng hồng, xem bình minh ngày càng tươi sáng hơn. Cuối cùng, mặt trời tròn đầy như chiếc đĩa lóe lên sau đồng cỏ, trải những tia sáng của nó về mọi hướng. Chúng xuyên qua sương mù dày đặc, gieo những hạt kim cương lên lá cỏ phủ sương tháng Năm long lanh. Ngày hòa bình đầu tiên đã đến, và mặt trời vồn vã chào đón nó.

(http://mtdata.ru/u15/photo7455/20125385404-0/big.jpeg)
Trung đoàn trưởng E.D.Bershanskaya tháng 5 năm 1945 tại Berlin. Cổng Brandenburg. (http://mikle1.livejournal.com/1756783.html?thread=116391535)

Tuyệt vời biết bao - hòa bình, tĩnh lặng! Chúng đang hiển hiện xung quanh tôi. Tôi dường như cảm nhận được chúng qua xúc giác, cảm thấy chúng bằng từng sợi tơ của tâm hồn. Tôi say sưa quan sát trong buổi sáng không thể quên này, lắng tai thật khẽ trong sự im lặng của nó, sợ khuấy động, ngắm xem rạng đông đang từ phía đông lan tới. Và nó đang lan xa hơn, xa mãi, quét sạch bóng đêm khỏi bộ mặt châu Âu, mang vào ngôi nhà và trái tim của mọi người sự tĩnh lặng được chờ đợi từ lâu. Bị bọn phát xít Đức quốc xã xua đuổi, nay sự tĩnh lặng dẫu sao cũng đã trở lại khu vực này. Nó đã trở lại ngay khi những người lính Liên Xô bắt những cỗ đại bác từng lên tiếng ở phương Tây câm bặt.

Vậy là, đã chấm dứt thời chiến tranh gian khổ, cuộc sống yên bình thường ngày đã đến. Chẳng bao lâu sau trung đoàn được chuyển tới Alt-Reza - một thị trấn nghỉ mát gần Neubrandenburg. Hồ nước tuyệt đẹp, bến thuyền, khu vườn lớn rợp bóng mát - tất cả mọi thứ ở đây phục vụ cho việc nghỉ ngơi. Hơn một tháng chúng tôi chỉ ăn, ngủ, dạo chơi bách bộ, tổ chức các sự kiện thể thao, tham gia các buổi biểu diễn văn nghệ nghiệp dư.

(http://tamanskipolk46.narod.ru/images/sxemaboevogoputi.gif)
Chặng đường chiến đấu của trung đoàn. Sơ đồ của cựu TMT trung đoàn Irina Rakobolskaya. (http://tamanskipolk46.narod.ru/p362aa1.html)

Tại đây Nguyên soái Liên Xô Rokossovsky một lần nữa đến thăm chúng tôi. Ông có mặt dự  buổi lễ kỷ niệm ba năm trung đoàn chúng tôi ra mặt trận.

Vài ngày sau chúng tôi bay về Moskva để chuẩn bị cho cuộc diễu hành trên không đầu tiên sau chiến tranh. Sự kiện này có thể coi là hoàn tất trang cuối cùng biên niên sử của trung đoàn nữ không quân cận vệ 46 Taman huân chương Cờ Đỏ và huân chương Suvorov hạng III.

Ngày 9 tháng 10 năm 1945, trung đoàn tổ chức cuộc họp đảng sau cùng. Thời điểm để chia tay với các bạn gái sắp đến. Chúng tôi đã tổng kết hoạt động chiến đấu của mình. Trong ba năm trên tiền tuyến, các nữ phi công trung đoàn đã bay 23.672 phi vụ chiến đấu, ném xuống đầu kẻ thù gần 3 triệu kg bom. Kết quả, theo số liệu chưa đầy đủ, đã phá hủy và làm hư hỏng 17 phà lớn, 9 đoàn tàu hỏa, 26 kho đạn dược và nhiên liệu, 176 xe ô tô, 86 hỏa điểm, gây ra 811 đám cháy, ghi nhận 1092 vụ nổ lớn.

Nhưng đó không phải là tất cả. Bắt đầu cuộc chiến tranh khi còn rất trẻ, khi ra khỏi cuộc chiến chúng tôi đã lớn lên, đã là những con người trưởng thành. Cuộc chiến tranh tôi luyện chúng tôi không chỉ về thể chất mà còn cả tinh thần. Đến cuối thời gian ở mặt trận, hầu như tất cả các cô gái đã trở thành những người Cộng sản. Trong ba năm chiến đấu, có 180 người đã gia nhập đảng. Toàn bộ quân nhân của trung đoàn được tặng thưởng các loại huân huy chương, 23 người trở thành các Anh hùng Liên Xô.

(http://tamanskipolk46.narod.ru/images/p29_088.jpg)
Trước Lễ Duyệt binh Chiến thắng năm 1945. Phải sang trái: Е.Zhigulenko, М.Smirnova, Е.D.Bershanskaya,  Е.Nikulina, S.Аmosova, N.Popova, М.Chechneva, N.Meklin, I.Sebrova, R.Gasheva (http://tamanskipolk46.narod.ru/p29aa1.html)

Một tháng sau, với một cuộc họp mặt nhỏ sau cuộc họp đảng bộ, trung đoàn được lệnh giải tán. Chúng tôi buồn bã chia tay nhau. Chiến tranh gắn bó chúng tôi bằng những sợi dây tình bạn bền chặt. Suốt những năm tháng qua chúng tôi đã sống như một gia đình, chia sẻ cả niềm vui và nỗi đau. Và vì thế trong tâm trí chúng tôi không thể tin rằng, từ giờ trở đi con đường của chúng tôi, số phận của chúng tôi sẽ mỗi người mỗi ngả.

Nhưng biết làm sao, thực tế là thế và cần phải là như thế. Chính chúng tôi bước vào chiến tranh là để hòa bình toàn thắng trên mặt đất, để con người trở lại với lao động sáng tạo, lấy lưỡi cày thay cho thanh kiếm. Dẫu sao trái tim vẫn thắt lại khi nghĩ đến sự gần gụi vừa mới đây sẽ trở thành quá khứ xa xôi, rằng không còn nữa trung đoàn ném bom cận vệ số 46, không còn nữa những đêm cháy sém bởi đạn thù bắn xối xả điên cuồng, bị cắt vụn bởi những chùm đèn chiếu phòng không.

Trong lồng ngực bỗng quặn lên một cảm giác nghẹn ngào buồn bã vì biết rằng không còn nữa các phi công, hoa tiêu, kỹ thuật viên, quân khí viên, không còn nữa một tập thể chiến đấu, được thống nhất bởi kỷ luật quân sự và nhiệm vụ, có hơn hai trăm cô gái khác nhau, và mỗi người trong số họ - có cuộc sống riêng, mối quan tâm riêng của mình. Chúng tôi hiểu rõ: số phận sẽ phân tán chúng tôi đi khắp đất nước, thời gian sẽ mang lại những mối lo toan mới, năm tháng ngoài mặt trận sẽ chỉ còn lại những kỷ niệm. Nhưng được bao lâu? Chúng tôi muốn nó là mãi mãi. Và do đó, khi chia tay, chúng tôi thề không quên quá khứ, và cùng với nó, tình đồng đội tiền tuyến của chúng tôi, hẹn tất cả sẽ gặp gỡ nhau trong những ngày nhất định. Và chúng tôi đã giữ lời hứa.

* * *
.........


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 28 Tháng Chín, 2015, 12:43:59 am
(tiếp)

Dẫu sao chúng tôi vẫn là những người hạnh phúc!

Mỗi người có lẽ đều quen thuộc với cảm giác khi bạn mong đợi mãi một sự kiện lớn, đáng vui mừng và rồi cuối cùng nó cũng đã đến. Nhưng hóa ra ở đây, các qui luật của tồn tại cũng tác động một cách nghiệt ngã: sau hạnh phúc sự đau đớn trong phiền muộn lại đến.

Chiến tranh đã qua. Trung đoàn của chúng tôi giải tán tháng 11 năm 1945.
Chia tay tại thành phố Ba Lan Schweidnitz, tất cả chúng tôi ôm nhau khóc, không ngượng ngùng vì những dòng lệ. Bởi đã tan rã cái thậm chí còn hơn cả một gia đình - tình đồng đội tiền tuyến thiêng liêng đối với mỗi con người.

Các bạn gái của tôi bắt đầu dành nhiều thời gian hơn cho cuộc sống cá nhân của mình: đi lấy chồng, trở lại với các lớp học đang dang dở, đi vào các nhà máy, xí nghiệp, đến với các công trình xây dựng.

(http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/094.jpg)
Lại về với giảng đường MGU, các cựu sinh viên khoa Toán-Cơ ĐH Tổng hợp Quốc gia Moskva, trái sang phải: А.Zubkova, Е.Pasko, I.Rakobolskaya, Е.Ryabova (http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/ill.html)

Tôi có ước mơ được bay trên bầu trời hòa bình, trở lại với các hoạt động thể thao.

Vào lúc đó, tình yêu lớn đã đến với tôi. Tháng Mười Một tôi kết hôn với Konstantin Davydov - phi đội trưởng cường kích, Anh hùng Liên Xô.

Cùng với trung đoàn của mình, anh đã trải qua một con đường chiến đấu khó khăn. Anh tham gia bảo vệ Leningrad và Stalingrad. Người phi công cường kích Davydov xuất hiện trên những tàn tích của Smolensk chịu nhiều đau khổ, trên các thành phố vùng Caucasus, Belarus, Ba Lan và Đức. Vào Ngày Chiến thắng trong sổ bay của Kostya Davydov đã có 170 phi vụ cường kích chiến đấu.

Tôi đã kể rằng cuộc gặp gỡ đầu tiên của tôi với Kostya diễn ra vào tháng Tám năm 1942. Sau đó, chúng tôi gặp lại nhau một lần nữa tại sân bay tiền tuyến năm 1944. Sau này, khi trung đoàn của chúng tôi được chuyển đến nghỉ ngơi một thời gian ngắn ở Alt-Reza, trung đoàn của Davydov đóng quân cách đó chỉ 50 km. Kostya với bạn bè của anh thường đến chơi chỗ chúng tôi, và chúng tôi đã kết bạn thân thiết. Sau đó, tôi cùng các cô gái bay về Moskva tham gia cuộc duyệt binh đầu tiên sau chiến tranh. Trong vòng hai tháng ở Moskva, tôi nhận được từ đại úy Konstantin Davydov sáu mươi bức thư. Ở đây, như ta vẫn nói, có cái đáng để mà suy nghĩ.

Từ Moskva, chúng tôi trở lại trên những chiếc máy bay vận tải và hạ cánh xuống thành phố Ba Lan Liegnitz, nơi trung đoàn mà Kostya phục vụ vừa chuyển quân đến.

Chẳng bao lâu sau, tôi được triệu lên gặp trung đoàn trưởng của chúng tôi, và ở đây, ở chỗ Bershanskaya, tôi nhìn thấy người bạn trai của tôi. Kostya đề nghị Evdokia Davydovna đồng ý cho cuộc hôn nhân của chúng tôi...

(http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/94.JPG)
Kostya Davydov và con gái bé bỏng Valya (http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/ill.html)

Cuối tháng, chúng tôi kết hôn. Tôi ở lại phục vụ trong trung đoàn cường kích tại Cụm quân Bắc quân đội Soviet tại Ba Lan. Kostya tiếp tục chỉ huy một phi đội, còn tôi thực hiện các chuyến bay khác nhau theo nhiệm vụ mà ban chỉ huy giao.

Tôi không thể tưởng tượng cuộc sống bên ngoài ngành hàng không ngay cả khi chuẩn bị làm người mẹ. Tháng 8 năm 1946, con gái chúng tôi ra đời. Nhưng bốn tháng sau, tôi đã trở lại với hoạt động bay.

Sau chiến tranh, tôi đã có cơ hội bay ba năm trên bầu trời Ba Lan hòa bình. Năm 1948, tôi và Kostya trở về Tổ quốc và được phân công làm việc tại DOSAAF. Chúng tôi mơ ước tiếp tục hoạt động bay luôn luôn bên nhau, cùng nhau.

Tôi còn nhớ mãi ngày chúng tôi đến Tushino. Tiếp cả hai chúng tôi là một trong những Anh hùng Liên Xô đầu tiên trung tướng Nikolai Petrovich Kamanin. Chúng tôi trước đấy đã từng được nghe về con người tuyệt vời này, được đọc rất nhiều về ông, nhưng chưa được nhìn thấy đích danh ông ấy.

Cuộc nói chuyện với N.P.Kamanin đã quyết định vận mệnh tương lai của chúng tôi: ông đề nghị chúng tôi làm việc ở Câu lạc bộ hàng không Trung ương mang tên V.P.Chkalov. Cuộc gặp gỡ này tạo một ấn tượng không thể phai mờ cho tôi và chồng tôi. Sau đó tôi còn may mắn được trò chuyện nhiều với Nikolai Petrovich, người đối với tôi vẫn là một con người bước ra từ huyền thoại.

(http://waralbum.ru/wp-content/uploads/yapb_cache/0_568aa_20ba4812_orig.3plfyvriecysg084o8sk8ogss.ejcuplo1l0oo0sk8c40s8osc4.th.jpeg)
AHLX, thiếu tướng KQ N.P.Kamanin (1909-1982) tư lệnh quân đoàn KQ cường kích 5 PDQ Ukraina 1 và con trai là binh nhất Arkady Nikolayevich Kamanin (1928-1947) phi công phi đội liên lạc độc lập 423 thuộc BTM quân đoàn, trong buồng lái một chiếc U-2. Năm 1943. Sau chiến tranh thượng tướng KQ N.P.Kamanin là Tham mưu phó KQLX phụ trách huấn luyện chiến đấu. Là người tổ chức và huấn luyện các nhà du hành vũ trụ đầu tiên của Liên Xô. (http://waralbum.ru/205247/)

Tuổi trẻ của Nikolai Kamanin thật kỳ diệu. Khi còn là đoàn viên Komsomol, ông đã tham gia với tư cách biên đội trưởng biên đội máy bay đi giải cứu đoàn thám hiểm của Otto Yulyevich Schmidt. Trả lời phỏng vấn các phóng viên trong những ngày đó, người phi công trẻ ngượng ngùng nhún vai: "Tôi không có tiểu sử. Tiểu sử của tôi chỉ mới bắt đầu..." Và anh đã trở thành nhà tiên tri. Bây giờ chúng ta đã biết tướng Kamanin có những đóng góp đáng kể thế nào vào chiến thắng của chúng ta trong những năm chiến tranh, ông đã đào tạo biết bao nhiêu phi công xuất sắc trong những ngày tháng hòa bình, ngay cả ngày hôm nay ông cũng vẫn là một ví dụ vô cùng cao cả về tinh thần phụng sự Tổ quốc - là người thầy, người giáo dục "những công dân đầu tiên của Vũ trụ".

Không có gì ngạc nhiên khi Nikolai Petrovich được tất cả mọi người yêu mến, dẫu người ta chỉ một lần may mắn được tiếp xúc với ông...

Và tôi lại ngồi đây trong CLBHK Trung ương, từ mái nhà này tôi đã ra mặt trận. Nhiều nước đã chảy qua dưới cầu kể từ dạo đó. Hầu hết các đồng nghiệp lớn tuổi hơn của tôi, những người mà tôi đã cùng làm việc ở đây, đã kết tình thân với họ, đã bị cuộc chiến tranh này mang đi mãi mãi.

Trong một ngày tháng Bảy năm 48, khi tôi cùng Konstantin đang làm quen với sân bay của câu lạc bộ, ở đây diễn ra một cuộc huấn luyện diễu hành trên không. Tại sân bay từ sáng đến tối các phi công, vận động viên tàu lượn, vận động viên nhảy dù chau chuốt kỹ năng của họ. Năm chiếc máy bay thể thao do các nữ phi công điều khiển lập tức cất cánh lên bầu trời. Họ thực hiện các bài biểu diễn thuật lái cao cấp đặc biệt chính xác và đẹp mắt. Tôi sẽ phải học, học nữa, học hỏi những người đã làm chủ được các máy bay kiểu mới và thuật lái biểu diễn nhóm. Và tôi rất vui lòng sẵn sàng để được làm điều đó, chỉ cần được tiếp tục bay.

Các cô gái hạ cánh và lăn bánh đến bãi đậu. Tôi không thể kìm được mình, đi đến chỗ họ bày tỏ sự ngưỡng mộ của mình. Hóa ra đó là Anna Bodryagina, Zoya Postnikova, Maria Drigo, Anna Shmelkova, Vera Dubrovina. Bộ năm này trong những năm chiến tranh là các phi công-huấn luyện viên trong trường phi công hải quân. Mọi người chào hỏi tôi rất nồng nhiệt.
- Nào, - Anya Bodryagina nói - trung đoàn của chúng ta đã có mặt. Chúng ta hãy bay cùng với nhau.

(http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/93.JPG) (http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/92.JPG)
Các kiện tường thể thao công huân Liên Xô Anya Bodryagina (1918-1999) và Yakov Forostenko (1911-) (http://militera.lib.ru/memo/russian/chechneva_mp1/ill.html)

Tại câu lạc bộ HK tôi gặp được các bậc thầy xuất sắc của nghề bay Yakov Forostenko, Nikolai Golovanov, Piotr Zakhudalin và nhiều người khác. Sự quan tâm của họ, sự ủng hộ và tư vấn  của họ giúp tôi vững tin vào bản thân. Tôi lao vào việc, không tiếc sức lực, và công việc trôi chảy: một năm sau, tôi được giao nhiệm vụ đứng đầu đội bay biểu diễn thuật lái cao cấp nữ tại cuộc diễu hành trên không ở Tushino.

Năm 1949 bắt đầu một cách may mắn cho tôi và Kostya. Cả hai được làm những điều mình yêu thích, sống trong sự hòa hợp hoàn hảo, Valya bé bỏng của chúng tôi lớn lên khỏe mạnh, ngoan ngoãn. Dường như không có gì báo hiệu tai họa. Thế mà nó vẫn cứ len lỏi vào gia đình tôi.

Cuộc diễu hành trên không năm 1949 diễn ra xuất sắc. Nó cho thấy rằng sau khi được khôi phục hoạt động trở lại, một lần nữa các CLBHK lại trở thành các trung tâm thể thao hàng không của đông đảo quần chúng, như thời kỳ trước chiến tranh. Có lẽ ở đây, đóng một vai trò tương đối quan trọng là việc những người đang làm công tác huấn luyện các vận động viên ngành hàng không bây giờ là những người mà sau vai họ có kinh nghiệm của cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại...

Chẳng bao lâu sau chúng tôi bắt đầu nhào lộn trên không trong đội hình các cặp đôi, thao luyện tiết mục tiếp theo cho chương trình kỷ niệm Ngày Hạm đội Hàng không. Konstantin Davydov giai đoạn này được bổ nhiệm làm đội phó đội nhào lộn trên không gồm 25 chiếc Yak-18. Tiết mục này luôn nhận được sự đánh giá cao nhất của các chuyên gia và được khán giả đón nhận rất hân hoan. 25 máy bay được chia thành ba nhóm, tám chiếc mỗi nhóm. Một Yak-18 dùng làm dự bị. Từ sân bay chúng cất cánh bay lên tám chiếc một, nhóm này sau nhóm kia. Trên không các nhóm chuyển đội hình thành hàng dọc.

Họ bay bám dính đuôi nhau trên độ cao 1100-1200 m với chênh cao chiếc nọ so với chiếc kế khoảng một-một mét rưỡi. Đội hình 24 máy bay này sẽ thực hiện thuật lái: ba vòng thòng lọng xiên (thòng lọng Shoviar), đảo cánh lật máy bay, lượn vòng nghiêng và xoắn ốc đến 50 mét. Sau khi hoàn thành bài biểu diễn, các máy bay thoát ly ở độ cao sát ngọn cây. Trong quá trình biểu diễn thuật lái cần phải duy trì đội hình một cách chính xác. Chúng tôi đã tập luyện rất nhiều và thậm chí đã đi dã ngoại cắm trại tại một trong những sân bay ở ngoại ô. Ở đây, trong giai đoạn đầu hình thành nhóm, Kostya bay rất nhiều, trau chuốt kỹ thuật lái của từng phi công. Kostya đã rất bền bỉ dẻo dai. Sau khi hoàn thành 12-15 lần nhào lộn, anh không bao giờ phàn nàn về sự mệt mỏi.

(http://wio.ru/yak3/yak3i2.jpg)
Virazh (Turn) trên Yak-3 (http://wio.ru/yak3/yak-pilot.htm)

Konstantin Davydov đã làm việc nhiều để mài giũa thuật lái nhào lộn nhóm 24 máy bay. Đội trưởng chỉ huy nhóm này là phi công-vận động viên nổi tiếng Yakov Danilovich Forostenko. Kostya đã kết bạn thân thiết với anh ấy, kiên nhẫn học được từ Forostenko kỹ năng nhào lộn. Vào ngày diễu hành, tiết mục này nhận được sự đánh giá cao nhất.
Kostya đã làm việc như vậy. Tôi cố gắng để không tụt hậu xa anh. Mỗi chuyến bay dường như cho tôi thêm sức mạnh.

Thể thao sẽ không còn là thể thao, nếu bạn không phấn đấu đạt những thành tích mới. Ngay sau cuộc diễu hành Yakov Danilovich Forostenko bắt đầu chuẩn bị cho tôi và Anna Bodryagina luyện tập nhằm thiết lập các kỷ lục trên máy bay Yak-18.

Ngày 06 tháng 9 năm 1949 công tác chuẩn bị cho chuyến bay cuối cùng cũng đã hoàn tất. Chính Forostenko quyết định bản thân anh sẽ là người bay đầu tiên để thiết lập kỷ lục. Sau 1.000 km theo vòng tròn kín (Moskva - Smolensk - Oriol - Moskva), Yakov Danilovich không chỉ phá kỷ lục toàn Liên bang, mà còn cả kỷ lục thế giới. Tốc độ trung bình của chiếc Yak-18 của anh đã vượt trên 223 km mỗi giờ.

Tôi sẽ phải thiết lập kỷ lục tốc độ trên hình tam giác kín 500 km: Moskva - Vyazma - Serpukhov - Moskva.

Chuyến bay diễn ra suôn sẻ, không có sự cố. Trong số những người ra đón tôi tại sân bay Moskva, trước hết tôi nhìn thấy Kostya, Anya Bodryagina và huấn luyện viên tuyệt vời của tôi Yakov Forostenko. Chồng tôi và người bạn gái mỉm cười hân hoan chào đón tôi. Theo nét mặt của huấn luyện viên, tôi hiểu ra rằng mọi việc đều diễn ra tốt đẹp, và đã báo cáo chi tiết về chuyến bay với một tâm hồn thanh thản.

Một vài ngày sau đó, một ủy ban thể thao, sau khi xử lý dữ liệu của các khí áp ký, ước tính tốc độ trung bình của chuyến bay của tôi tương đương với 244 km mỗi giờ. Trong bảng kê các kỷ lục lần đầu tiên xuất hiện một kỷ lục theo kiểu mới của các máy bay thể thao. Đó là thắng lợi chung của chúng tôi, chiến thắng của CLBHK Trung ương mang tên V.P.Chkalov.

Sau chuyến bay kỷ lục thì cuối cùng chúng tôi đã chứng tỏ chắc chắn rằng Yak-18 thiết kế của Yakovlev - là một chiếc máy bay tuyệt vời, hoàn toàn thích hợp cho công tác lập kỷ lục thể thao. Chúng tôi tin tưởng rằng trên chiếc máy bay này các vận động viên thể thao hàng không sẽ làm Tổ quốc vui mừng với những thành tựu mới...

Bây giờ, khi tôi viết những dòng này, tôi cũng biết rõ những thành tựu của các vận động viên của chúng ta trong tất cả các dạng thể thao hàng không trong năm 1969. Chúng, tất nhiên, rất khó mang ra so sánh với các kết quả mà chúng tôi đạt được hai mươi năm trước. Tuy nhiên, một số thành tựu của chúng tôi những ngày đó là các kỷ lục đầu tiên sau chiến tranh, và vẫn xuất hiện trong bảng ghi các kỷ lục...

Vài ngày sau chuyến bay của tôi, chúng tôi tiễn Anna Bodryagina đi lập kỷ lục mới. Trên chiếc máy bay thể thao hạng nhẹ Yak-18, chị đã tăng tốc độ thành công lên 264 km mỗi giờ, đó là một thành tích mới đối với loại máy bay thể thao này.

Ngay sau khi thiết lập các kỷ lục trên, các nhân viên và vận động viên của câu lạc bộ hàng không của chúng tôi đã được gặp gỡ nhà thiết kế danh tiếng Aleksandr Sergeyevich Yakovlev. Theo yêu cầu của ông, chúng tôi đã bày tỏ quan điểm của mình về sự cải tiến hơn nữa thiết kế của các máy bay Yak-18 và Yak-11. Aleksandr Sergeyevich đã tính đến các mong muốn của chúng tôi. Sau này một chút trên các máy bay của ông, các kỷ lục mới được thiết lập gắn với tên tuổi của các phi công Nikolai Golovanov, Marya Drigo, Piotr Zakhudalin, Vladimir Markov. Một số kỷ lục thế giới do chính Yacov Forostenko thiết lập.

Theo sự hướng dẫn của huấn luyện viên, tôi bắt đầu chuẩn bị cho việc thiết lập kỷ lục độ cao chuyến bay trên máy bay thể thao Yak-11.

Các phi công Liên Xô đã có kinh nghiệm phong phú về các chuyến bay ở độ cao lớn. Họ là những người đầu tiên trên thế giới bắt đầu tấn công các tầng cao chóng mặt ngay sau khi đảng và chính phủ đặt ra mục tiêu bay xa hơn, nhanh hơn và cao hơn tất cả. Lời đầu tiên ở đây thuộc về phi công Liên Xô V.Kokkinaki, người từ tháng 11 năm 1935 đã đạt đến độ cao chưa từng có vào thời gian ấy - 14 575 mét.

Sau một thời gian, ông lên đến độ cao 12.816 mét trên chiếc máy bay mang tải trọng thương mại 500 kg. Các chuyến bay xuất sắc ở độ cao lớn với tải trọng lớn được thực hiện trong cùng thời gian này bởi các phi công nổi tiếng của chúng ta M.Alekseev, A.Yumashev, M.Nyuhtikov, M.Lipkin. Cho đến bây giờ người ta vẫn chưa vượt qua được kỷ lục thế giới về độ cao trên thủy phi cơ - 8864 mét, do Anh hùng Liên Xô Polina Osipenko thiết lập vào năm 1937.

Các chuyến bay ở độ cao lớn trên máy bay thể thao được quan tâm không ít. Nhờ Ya.D. Forostenko, sau khi chuẩn bị cẩn thận tôi đã thực hiện thành công chuyến bay ở độ cao lớn trên Yak-11 và vượt thêm được 1.000 mét so với kỷ lục thiết lập vào năm 1937 cũng trên loại máy bay thể thao này.

... Kostya, tôi và Anya Bodryagina không thể tách rời. Chúng tôi cùng nhau bay đi công tác, thường xuyên chia sẻ kinh nghiệm, xây dựng kế hoạch cho tương lai. Cả tôi và Kostya đều gắn bó nhiệt thành với cô gái khiêm tốn quyến rũ này. Anya thường ở nhà chúng tôi, chơi với con gái nhỏ của chúng tôi, cùng chúng tôi đi đến nhà hát, rạp chiếu phim, triển lãm, bảo tàng.

Anna Bodryagina trước đây làm việc tại công trường xây dựng đường tàu điện ngầm Moskva và cùng lúc học tập tại CLBHK của công trình xây dựng Metro. Năm 1938, sau khi kết thúc khóa học tại CLBHK một cách xuất sắc, chị được giữ lại làm phi công-huấn luyện viên. Trong chiến tranh, Anna đã đào tạo được hơn 70 phi công cho mặt trận. Xuất ngũ, chị đến CLBHK Trung ương và bắt đầu đào tạo các phi công-vận động viên.

Ngay trong tháng 9 năm 1949 tại cuộc tranh tài đầu tiên của các phi công DOSAAF toàn Liên bang, Anna Bodryagina đã đạt những kết quả tốt nhất trong tất cả các bài thi và chiếm ngôi đầu. Chị được trao danh hiệu vô địch về kỹ thuật lái trên các máy bay thể thao. Tại cuộc tranh tài lần thứ hai của các phi công DOSAAF toàn Liên bang, một lần nữa chị vượt lên trên tất cả các phi công nam giới tham gia và trở thành nhà vô địch quốc gia tuyệt đối trên máy bay thể thao năm 1950.
Năm 1949, tôi cùng Bodryagina đã làm chủ một cách thuần thục máy bay Yak-11 và thuật lái cao cấp trên máy bay này. Ngay sau đó chúng tôi cùng nhau tới trung tâm bay DOSAAF gần Kiev để học cách điều khiển các loại máy bay tiêm kích khác. Trong một thời gian ngắn, chúng tôi đã hoàn thành tốt đẹp toàn bộ chương trình học lái các máy bay Yak-3 và Yak-9 và làm chủ thuật lái cao cấp trên các máy bay đó. Hạnh phúc và vui vẻ, tôi cùng bạn gái trở lại Moskva. Các kỷ lục mới và công việc bay thú vị đang chờ đợi chúng tôi.

Tháng 10 năm 1949, một số phi công câu lạc bộ HK tới Leningrad để bay chuyển một nhóm lớn máy bay từ đó về. Trong số các phi công có ba chúng tôi: Kostya, Anna và tôi. Chúng tôi sống một vài ngày ở thành phố trên sông Neva. Chuyến bay về Moskva được lên kế hoạch vào ngày 28 tháng 10, mặc dù thời tiết rất tồi tệ. Bodryagina, tôi và ba phi công khác bay chuyển các máy bay Yak-11, còn Kostya được bổ nhiệm phó chỉ huy phụ trách công tác bay chuyển một nhóm máy bay thể thao khác. Với những khoảng gián cách thời gian xác định, các nhóm lấy hướng bay về Kalinin, nơi họ phải hạ cánh và nạp thêm nhiên liệu cho máy bay.

Lúc đầu, mọi thứ diễn ra tốt đẹp. Các máy bay Yak-11 của chúng tôi có tốc độ lớn hơn những chiếc máy bay thể thao và là những chiếc đầu tiên hạ cánh tại sân bay ở Kalinin.

Sau một thời gian các máy bay khác phải xuất hiện. Trong nhóm của Ya.D.Forostenko, mà Konstantin bay,  lúc đầu tất cả đều tốt đẹp. Tuy nhiên, tại khu vực ga Malaya Vishera, Kostya, đang ở độ cao 400-500 mét, phát tín hiệu rút khỏi đội hình để hạ cánh bắt buộc, và sau khi lượn vòng bẻ hướng ngược lại. Động cơ làm việc gián đoạn, máy bay mất tốc độ nhanh chóng. Kostya quyết định hạ cánh khẩn cấp gần ga đường sắt Cầu Mstinsky. Gần đó là một cánh đồng mà anh có thể hạ cánh, nhưng tại đó người ta đang chăn thả gia súc. Davydov lượn hai vòng, ra hiệu cho người chăn biết để dồn gia súc lại. Anh có thể sử dụng dù, nhưng không làm: anh muốn cứu máy bay. Trong vòng lượn thứ ba động cơ hoàn toàn ngừng làm việc. Chiếc máy bay không tới được bãi đáp mà đâm vào nền đường sắt.

Kostya vẫn còn sống khi người ta dừng chuyến tàu hỏa Leningrad - Moskva lại để đưa người phi công tới bệnh viện Malovisherskaya. Ba mươi phút sau, anh qua đời.
..........


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 29 Tháng Chín, 2015, 11:02:17 am
(tiếp)

... Tôi không hề biết điều gì. Hai ngày liền người ta giấu tôi chuyện xảy ra. Sau đó người ta thông báo rằng thiếu tá Davydov bị thương, đã được đưa về Moskva. Chúng tôi lên xe lửa. Máy bay được lệnh để lại Kalinin cho đến khi có lệnh mới đặc biệt. Chỉ trước khi về tới Moskva người ta mới nói với tôi rằng Kostya đã chết.

Anya và các đồng đội đưa tôi về nhà. Chuyện sau đó, tôi không còn nhớ...

(http://www.warheroes.ru/content/images/heroes/1hero/Davydov_Konst_Ivan.jpg)
Konstantin Ivanovich Davydov (1918-1949), thiếu tá cận vệ, AHLX, phi đội trưởng trung đoàn cường kích 657, sư đoàn cường kích 196, quân đoàn cường kích 4, tập đoàn quân KQ 4, PDQ Belorussia 2 (http://www.warheroes.ru/hero/hero.asp?Hero_id=4748)

Ngày 02 tháng 11 quan tài chứa thi hài của chồng tôi được đặt tại hội trường của CLBHK Trung ương. Chúng tôi chôn Kostya tại nghĩa trang Novodevichy. Bên cạnh tôi trong những ngày khủng khiếp này là người bạn trung thành và tận tụy của anh, Anh hùng Liên Xô đại tá Piotr Kolesnikov. Ông từ Belarus đến, để thực hiện nghĩa vụ cuối cùng với chồng tôi.

Hạnh phúc cá nhân của tôi quá ngắn ngủi. Tôi trở thành góa phụ ở tuổi 26. Còn lại một mình với con gái ba tuổi Valechka. Suốt ba tháng Anya Bodryagina không ngày nào rời tôi. Sự chia sẻ và tình yêu của chị đã giúp tôi vượt qua sự mất mát ghê gớm này.

* * *

Và bây giờ, dù sao tôi vẫn muốn một lần nữa tìm thấy hạnh phúc. Tôi hình dung hạnh phúc ấy như là sự trung thành với chính mình, có nghĩa là trung thành với cả bạn. Tôi kêu gọi  phép màu: một ngày thức dậy thấy hạnh phúc, không còn cảm giác nặng nề trong tâm hồn. Tôi biết, trái đất rung động, cơ thể của nó xuất hiện một vết thương, nó đã đưa địa lý mới của tôi lên bản đồ, tôi cam chịu nó, nhưng tôi muốn nó ngừng chảy máu...

Những dòng này tôi đọc cách đây hoàn toàn chưa lâu là của Ani Philip, trong một cuốn sách bà viết sau cái chết của người bạn, người chồng yêu quý Gerard Philip.

Cảm giác chảy máu, vết thương khó lành quen thuộc đến đau đớn đối với tôi vào thời điểm đó. Chỉ là tôi không biết làm thế nào có thể sống được nếu không có các đồng nghiệp và công việc yêu thích. Những người mà tôi giao tiếp đã không để tôi lại một mình với nỗi đau của tôi. Trên bàn viết của tôi xuất hiện những bài báo chưa viết xong cho các tạp chí hàng không, tôi liên tiếp nhận được điện thoại gọi đến từ câu lạc bộ hàng không và trường học. Cần phải vượt qua sự trống trải bên trong, gây ra bởi nỗi đau đã đổ ập xuống đầu tôi.

Tôi đã gặp rất nhiều khó khăn. Ngay cả bầu trời cũng dường như thù địch. Màu sắc thế giới xung quanh tôi đã nhòa nhạt. Nỗi u sầu vô vọng đè nặng tâm hồn. Tôi không muốn chấp nhận ý nghĩ rằng Kostya đã không còn, rằng tôi không bao giờ còn nghe thấy giọng nói của anh, không còn nhìn thấy khuôn mặt của anh...

Ngay cả bây giờ cũng rất khó khăn để nhớ lại những nỗ lực phi thường như thế nào mà tôi phải có để trấn tĩnh bản thân mình. Cần phải sống, phải làm việc, học tập, nuôi dưỡng con gái lớn lên. Bởi lẽ tôi chịu trách nhiệm về số phận của cháu và trước vong linh Kostya...

Bây giờ Valya đã tốt nghiệp Học viện và giảng dạy ở chính cơ sở giáo dục nơi cháu học. Hai mươi lăm năm đã trôi qua kể từ ngày Kostya mất, nhưng ký ức về anh vẫn sống trong gia đình chúng tôi, trong trái tim chúng tôi.

Những đồng hương Sormovo không lãng quên anh. Tại nhà máy nơi Konstantin từng làm việc, người ta đặt một tấm bia kỷ niệm trên ghi dòng chữ: "Người phi công xuất sắc của thời đại chúng ta, Anh hùng Liên Xô, thiếu tá cận vệ Konstantin Ivanovich Davydov đã làm thợ tiện tại phân xưởng này cho đến năm 1938".

Tôi thường nhận được thư từ thành phố Gorky gửi đến - lúc từ thủ lĩnh Komsomol Sormovo Volodya Kashichkin, lúc từ học sinh Trường nghề Gorky số 26 (nay gọi là trường nghề nhà máy-xí nghiệp, mà trước chiến tranh Kostya đã tốt nghiệp).

... Lúc đầu chúng tôi nghĩ chuyện tổ chức kỷ niệm K.I.Davydov trong một phòng trưng bày của bảo tàng, nhưng vì thu thập được nhiều tài liệu quá nên chúng tôi quyết định dành toàn bộ tầng ba cho Konstantin, - các chàng trai thông báo với tôi.

Các cơ sở làm mô hình máy bay của chúng tôi hiện đang làm mô hình các máy bay P-5 và IL, mà ông đã từng bay.

Hội đồng sư phạm đã quyết định ghi danh K.I.Davydov mãi mãi trong danh sách các học sinh nhóm số 1. Con số này sẽ được trao cho nhóm học tập có các kết quả của năm học đầu tiên đạt các điểm số tốt nhất. K.I.Davydov được tính là người thứ nhất trong nhóm này.

Các vận động viên của trường dạy nghề quyết định tổ chức vào các ngày 05 và 06 tháng 11 hàng năm (ngày sinh nhật của Konstantin Ivanovich) giải bóng rổ nhanh giành giải thưởng mang tên Anh hùng Liên Xô K.I.Davydov...

Trong ngày Chiến thắng hàng năm, chúng tôi sẽ gửi một nhóm các học sinh ưu tú nhất đến đặt vòng hoa tại ngôi mộ của thiếu tá K.I.Davydov ở nghĩa trang Novodevichy...


Trên tường căn hộ của tôi treo bức chân dung của Kostya. Tôi và Valya cả hai mẹ con đều thích ngồi ở đây. Chúng tôi ngồi, yên lặng - và như thể chúng tôi đang nói chuyện với người thân yêu của mình.

* * *

Số phận của tôi nói chung phải đi một con đường không dễ dàng. Tuy nhiên, phải thừa nhận trong cuộc sống của tôi cũng có may mắn.

May mắn có những người bạn thủy chung và tình đồng đội cao cả của người lính. May mắn gặp gỡ và làm việc bên cạnh những con người can đảm tuyệt vời, đầy tài năng, có tâm hồn cực kỳ trong sáng.

Thật khó để nói về những người đối với bạn vừa là người bạn, vừa là huyền thoại, được thể hiện bằng một tình yêu chân thực sống động trong hình ảnh trước mắt bạn bằng tượng đồng của vô số đài kỷ niệm.

Tôi bắt gặp bản thân mình ở đâu đó, ở chỗ chúng ta không luôn luôn hiểu được đến tận cùng sự vĩ đại và ý nghĩa của một từ hàm chứa sâu xa như từ "lịch sử". Hoàn toàn còn cách đây chưa lâu, tôi tưởng như tôi nói chuyện với Yuri Gagarin, chúng tôi cùng cười vui, và trong giây phút ấy, tôi ít nghĩ nhất về việc người tiếp chuyện quyến rũ của tôi ngay khi còn sống đã trở thành một phần của lịch sử. Và không chỉ lịch sử của nước Nga mà là của toàn thể nhân loại. Nhưng anh đã không còn nữa - và lập tức tôi dùng một thước đo khác để đo lường cuộc trò chuyện này, và các cuộc gặp gỡ khác với anh, và tất cả mọi thứ mà người con dũng cảm này của Trái Đất đã thực hiện.

(http://visualrian.ru/ru/images/zooms/RIAN_616616.jpg)
AHLX Yuri Gagarin và phi công Marina Chechneva, ngày 5 tháng 5 năm 1961 (http://visualrian.ru/ru/site/gallery/index/id/616616/context/%7B%22history%22%3A%7B%22category%22%3A%22wars%22%2C%22period%22%3A%221960%22%7D%7D/)

Với những con người chân chính thường là như vậy. Trong cuộc sống họ ít nghĩ nhất về những ranh giới mà họ đã vượt qua. Ý nghĩ của họ hướng đến các công việc hiện tại và tương lai, mà chúng ta biết, hàng ngày hàng giờ chúng có biết bao nhiêu. Con người dường như biến mất trong các công việc ấy.

Tôi nói "dường như" bởi một nhân cách lớn, nhân cách chân chính vẫn là chính nó dù trong việc lớn hay việc nhỏ. Bản chất thực sự không bị phân chia, không bị nghiền nát trong trạng thái loại trừ lẫn nhau, và bởi thế mà tượng đồng Marina Mikhailovna Raskova không bao giờ rời khỏi trái tim tôi, và cả ký ức về người phụ nữ sống động, tươi cười, nghiêm trang, bình thản và đáng yêu mà tôi biết cũng vậy.

Khi chúng ta nói "lịch sử", nhận thức của chúng ta bất giác bị liên tưởng đến một cái gì đó bao phủ bởi màn sương khói thời gian đã lùi sâu vào năm tháng.

Mà chúng ta đang đi bên cạnh lịch sử này, tiếp xúc từng phút với nó, thậm chí không tính trước được rằng, sau đó chúng ta sẽ khôi phục lại một cách đau đớn trong ký ức mỗi ngày đã trải qua với những con người như vậy. Bởi vì cái ngày như thế cũng là một kỳ công, không gián đoạn trong thời gian, nghĩa là, nó còn ý nghĩa hơn, quan trọng hơn...

Trong chiến tranh, chúng ta đã nghe nói về kỳ tích của Aleksei Maresiev, người bị bắn rơi trong một trận đánh khó khăn, bị thương nặng ở chân. Chúng ta biết ông phải hạ cánh trên lãnh địa quân thù, bò gần mười ngày đêm để về với quân mình. Người phi công lạnh cóng được tìm thấy trong rừng và được cứu thoát khỏi cái chết bởi các em bé nông dân Seriozha Malin và Sasha Vikhrov.

Sau đó, trong khi vẫn còn ở mặt trận, chúng ta được biết về ý chí không thể khuất phục của Aleksei Maresiev. Mất bàn chân, người phi công vẫn tìm được cách quay trở lại đội hình chiến đấu và cùng với các đồng đội chung vũ khí tiếp tục đập tan bọn Hitler trên chiếc máy bay tiêm kích của mình.

Sau chiến tranh, nhiều lần tôi đã đọc đi đọc lại cuốn sách tuyệt vời của Boris Polevoy "Chuyện một người chân chính". Còn sau đó đích thân tôi đã làm quen với Aleksei Petrovich. Điều ấy diễn ra vào năm 1948, trong viện điều dưỡng quân đội Marfino gần Moskva. Tôi và Kostya đã phải thu hết can đảm trong lần đầu tiên đi đến bên Maresiev.

Aleksei Petrovich có lẽ nhận ra tâm trạng của chúng tôi. Ông không nói một lời, chỉ mỉm cười và siết chặt tay chúng tôi. Hành động của ông tự nhiên và thân thiện đến mức tôi và Kostya lập tức sảng khoái hẳn lên. Một cuộc trò chuyện cởi mở nhen lên. Sau đó mới biết rằng phòng ở của chúng tôi tại khu nghỉ mát ngay gần nhau. Chúng tôi bắt đầu gặp nhau thường xuyên...

(https://s-media-cache-ak0.pinimg.com/736x/7a/28/72/7a2872aa5c0ef40357d0019a0aaad230.jpg)
Phi đội phó, thượng úy cận vệ, AHLX A.P.Maresiev (1916-2001) và chiếc La-5, trung đoàn tiêm kích cận vệ 63, sư đoàn tiêm kích cận vệ 3, quân đoàn tiêm kích cận vệ 1, tập đoàn quân KQ 15. Năm 1943. Bị bắn rơi năm 1942 trong khu vực "nồi hầm Demiansk". Trở lại chiến đấu tháng 6 năm 1943 tại vòng cung Kursk. Cho đến khi quay về Trường Phi công năm 1944 đã thực hiện 89 phi vụ không chiến, ghi được 11 chiến công: trước khi bị cưa bàn chân - 4, sau khi cưa bàn chân - 7. (http://www.warheroes.ru/hero/hero.asp?Hero_id=353)

Năm 1956, khi ở đất nước chúng ta thành lập Ủy ban Cựu chiến binh Xô Viết, A.P.Maresiev được nhất trí bầu làm thư ký điều hành chuyên trách. Kể từ thời điểm đó, tôi, trên tư cách một thành viên của ủy ban và thành viên Đoàn Chủ tịch, thường xuyên gặp gỡ với người đàn ông hiếm có này. Và càng biết ông gần gũi hơn, tôi càng cảm thấy một tình cảm kính trọng lớn lao không giới hạn và một tình bạn chân thành đối với con người này.

Toàn bộ những năm sau chiến tranh A.P.Maresiev hiến dâng cho cuộc đấu tranh không mệt mỏi vì hòa bình. Ông - là ủy viên Hội đồng Hòa bình Thế giới, thành viên Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các hội quan hệ văn hóa với nước ngoài của Liên Xô. Tiếng nói của Maresiev, tố cáo những kẻ châm ngòi cuộc chiến tranh mới, vang lên từ trên khán đài của nhiều đại hội quốc tế. Và người dân trên khắp thế giới chăm chú lắng nghe anh.

Aleksei Petrovich, ngay cả bây giờ vẫn luôn giản dị trong giao tiếp với những người xung quanh. Không thể không khâm phục sự bình tĩnh, khiêm tốn, quan tâm của ông đối với mọi người. Và tôi vui mừng vì tôi đang được làm việc dưới sự lãnh đạo của ông, vì tôi là một người cùng thời đại của ông...

Khi nghĩ về các đồng nghiệp của mình, tôi bất giác so sánh họ và những người trẻ tuổi mà tôi gặp ngày hôm nay. Và tôi cũng thấy rõ họ có nhiều điểm chung. Tôi nhớ đến con người yêu quý của chúng tôi là Yuri Gagarin. Anh là người đầu tiên, và toàn bộ vinh quang trần thế ập xuống đầu anh. Anh chịu đựng được. Cho đến ngày cuối cùng anh vẫn là chính mình: khiêm tốn, thông minh, quyến rũ. Đồng thời, anh không còn và không thể còn là con người cũ trên một phương diện nào đó. Khi Gagarin thực hiện chuyến bay huyền thoại của mình vòng quanh hành tinh, anh chưa phải là chuyên gia vũ trụ theo nghĩa đen của từ này. Anh đã trở thành chuyên gia. Và có lẽ, ít ai trong số những học viên tốt nghiệp Học viện Zhukovsky phải học tập trong điều kiện không dễ dàng như anh. Luôn vô cùng tử tế với mọi người, Gagarin không chịu sự chiếu cố cho bản thân mình. Tất cả những thành tựu của anh, anh đã đạt được bằng lao động và nghị lực của riêng mình.
Chiếc gậy tiếp sức thế hệ được chuyển giao như thế đấy.

* * *
........


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 30 Tháng Chín, 2015, 11:09:24 pm
(tiếp)

Khi đã trấn tĩnh và hồi phục lại sau cái chết của Kostya, tôi quay về với môn thể thao hàng không, nó hoàn toàn chiếm lĩnh và quyến rũ tôi. Như trong thời kỳ tuổi trẻ đã qua, tôi thường không có đủ thời gian để ngủ và nghỉ ngơi. Nhưng có điều gì đó không ổn đang xảy ra với sức khỏe. Càng ngày tôi càng bị ủy ban y tế-hàng không giữ lại lâu hơn. Và sau cùng, cuối năm 1956, bản án được tuyên - cấm bay.

Mười tám năm tháng đẹp nhất của cuộc đời đã hiến dâng cho ngành hàng không, muốn được bay mãi mà không thể...

(http://img-fotki.yandex.ru/get/4007/babs71.df/0_1e77f_a35aed32_L.jpg)
Tại một hội nghị của các CCB chiến tranh: Nguyên soái LX А. М. Vasilevsky cùng một nhóm đại biểu dự hội nghị. Hàng thứ nhất (trái qua phải): А. F. Fedorov, А. I. Еremenko, S. А. Kovpak, М. P. Chechneva. Моskva. Tháng 9 năm 1956 (http://babs71.livejournal.com/329562.html?thread=5171546)

Bây giờ tôi đã có nhiều thời gian hơn để hiểu thấu những gì đã trải qua và kể về nó cho mọi người. Trước kia, vốn rất bận rộn, tôi luôn tìm cách kiếm ra thời gian để gặp gỡ các bạn trẻ. Trong những năm gần đây, các cuộc gặp như thế trở thành nhu cầu bên trong của tôi. Bởi lẽ mỗi cuộc gặp gỡ không chỉ mang đến niềm vui được giao tiếp với những người sẽ đến thay chúng ta. Mỗi cuộc gặp đó dường như một cuộc gặp gỡ xúc động với tuổi trẻ ngoài tiền tuyến của tôi...

Không phải một lần tôi vô cùng hài lòng khi phát biểu tại Trường Đại học Tổng hợp trên đồi Lenin. Và mỗi lần đến đây, tôi rưng rưng ngắm nhìn trên giá bày ở sảnh lớn các bức ảnh những cựu sinh viên - những anh hùng trong chiến tranh. Trong số đó có chị, Zhenya Rudneva yêu dấu và thân thương của chúng tôi. Tất cả các đường nét dẫu nhỏ nhất trên khuôn mặt không thể nào quên của chị đều quen thuộc với tôi. Mỗi người trong chúng tôi đều có nhiều điều gắn bó với chị, với tuổi trẻ của chị ấy.

Tôi luôn luôn nhớ đến Zhenya trong những ngày đất nước ta giành chiến thắng trong vũ trụ. Chị ấy đã mơ ước biết bao đến việc phóng vệ tinh nhân tạo của Trái Đất, về sự xuất phát của các con tàu vũ trụ hướng đến các hành tinh khác. Chị ấy đã vô cùng tin tưởng tất cả những điều đó sẽ tới.

Vậy nên tôi bắt đầu bài nói chuyện bằng việc kể về Zhenya, về cuộc đời ngắn ngủi và vô song của chị...

Nhiều năm tôi thu thập tư liệu, tài liệu về chị, gặp gỡ với những người quen biết chị trong những năm tháng khác nhau của cuộc đời chị.

(http://www.litmir.co/BookBinary/259673/1439101783/img_22.jpeg)
Dina Nikulina và Zhenya Rudneva. Kuban, năm 1943. (http://www.litmir.co/br/?b=259673&p=65)

Cha mẹ của Zhenya sống cho đến khi qua đời tại thành phố Babushkino, ngoại ô Moskva. Tôi cùng với các đồng đội cùng trung đoàn thường đến thăm ông bà. Tất cả mọi thứ trong căn hộ của ông bà đều gợi nhớ đến người bạn gái của chúng tôi.

Lần cuối cùng đến thăm Anna Mikhailovna và Maxim Yevdokimovich Rudnev có cả ba chúng tôi - Ira Rakobolskaya, Katya Ryabova và tôi. Khi đó, lật giở những trang nhật ký của Zhenya, tôi đọc lại các ghi chép mà chị đã viết khi làm quen với cuốn tiểu thuyết "Thép đã tôi thế đấy". Từ các ghi chép ấy có thể thấy rõ rằng Zhenya đặt cao hơn tất cả là những con người mà đối với họ cái riêng không thể so được với cái chung.

Thật dễ chịu khi nhận thức được rằng, các bạn gái cùng chiến đấu của tôi đang tiếp tục sống trong những ngày hòa bình với tư cách là những con người như vậy. Số phận của họ sau chiến tranh ra sao? Họ đang ở đâu? Điều gì xảy ra với họ? Tất cả chúng tôi vẫn như trước kia, trung thành với tình bạn tiền tuyến và vẫn gặp gỡ nhau trong nhiều năm qua. Chúng tôi gặp mặt nhau hai lần một năm - ngày 2 tháng 5 và ngày 8 tháng 11 tại Moskva. Moskva mùa xuân cũng hay thay đổi như mùa thu. Đôi khi giữa tháng Năm lại có những ngày ấm áp. Khi đó, làn gió nhẹ sẽ rong ruổi trên vườn hoa nhỏ gần Nhà hát Bolshoi, trước mắt ta những chiếc lá nhỏ xíu, xinh xinh, dính dấp, rơi khẽ khàng lả tả, nụ hoa chồi lên trên những bụi tử đinh hương. Mà cũng thỉnh thoảng ngày 02 tháng 5 lại giống như ngày 8 tháng 11. Trong vườn hoa - gió thấu xương, bầu trời bao phủ những đám mây, mưa đổ lạnh. Nhưng thời tiết không làm phiền được chúng tôi. Những người không thể đến gặp mặt trong những ngày ấy bằng phương tiện này hay phương tiện khác, bao giờ cũng gửi điện báo tin và chuyển lời chúc mừng đến các bạn gái. Mặc dù địa chỉ liên lạc là hơi khác thường: "Moskva, vườn hoa Nhà hát Bolshoi, gửi các cựu đồng đội cùng trung đoàn ném bom đêm cận vệ 46 Taman huân chương Cờ Đỏ và huân chương Suvorov hạng III", bức điện bao giờ cũng đến đích của nó. Các cuộc gặp mặt truyền thống của chúng tôi luôn luôn xúc động, mang tới nhiều niềm vui. Mỗi lần chúng tôi lại biết được một điều gì mới về nhau, và cũng như những năm trước kia, chúng tôi xúc động và lo lắng về các đồng đội của mình. Những sợi dây tình bạn gắn bó chúng tôi trong thời gian khắc nghiệt của chiến tranh, ngày càng bền chặt hơn.

(http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/180.jpg)
Năm 1949. Gặp mặt tại Nhà hát Lớn. (http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/ill.html)

Lời đầu tiên của tôi, tất nhiên, là nói về người trung đoàn trưởng thân yêu của chúng tôi. Trung tá cận vệ Evdokia Davydovna Bershanskaya-Bocharova đang làm rất nhiều việc tại Ủy ban Phụ nữ Liên Xô. Chị - là ủy viên Ủy ban Cựu chiến binh Xô Viết và là một tuyên truyền viên không biết mệt mỏi về truyền thống yêu nước. Tôi thường nhìn thấy Evdokia Davydovna. Năm tháng không làm chị già đi. Vẫn ngọn lửa bất khuất trong đôi mắt, nghị lực tràn trề, tình người vô song. Chị là mẹ của ba đứa con, chị hạnh phúc khi nhận thức được rằng những đứa con của chính mình và các đồng đội cùng trung đoàn của mình đang hăng say làm một công việc yêu thích vì lợi ích của Tổ quốc.

Vài năm trước, vì lý do sức khỏe mà trung tá cận vệ Evdokia Yakovlevna Rachkevich đã chuyển ngạch dự bị. Chúng tôi vẫn gọi bà là "mẹ yêu của chúng con" như xưa. Và đôi khi bà nói đùa: "Tôi là bà mẹ nhiều con nhất trên trái đất".

Nhưng không phải là vô lý khi người ta nói rằng, trong mỗi câu chuyện đùa có một phần sự thật. Đối với chúng tôi Evdokia Yakovlevna không chỉ là một người bạn và người đồng đội thân thiết, mà còn là một người họ hàng gần gũi, và cảm giác đó theo năm tháng không hề mất đi sức mạnh ban đầu của nó. Đúng, với mỗi người trong chúng tôi - bà là mẹ trong ý nghĩa bao quát toàn diện và cao quý của từ này. Chúng tôi tự hào về bà và yêu quý bà như một người mẹ thực sự.

(http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/183.jpg)
E.Bershanskaya và con gái (http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/ill.html)

Evdokia Yakovlevna sống trong một căn hộ khiêm tốn trên phố Malaya Pirogovka. Từ nơi đó chúng tôi đã tiễn bà đi nốt quãng đường cuối cùng của bà vào tháng 1 năm 1975.

Trung đoàn phó phụ trách đội bay Seraphima Tarasovna Amosova-Taranenko hiện là biên tập viên của tạp chí truyền thanh "Bạn chiến đấu nữ" tại CLB Trung ương Quân đội Liên Xô. Chị dành nhiều nỗ lực hoạt động giáo dục quân sự-yêu nước cho giới trẻ. Là một phi công xuất sắc, từng thực hiện 555 lần xuất kích chiến đấu trong những năm chiến tranh và đào tạo được hơn bốn mươi phi công và hoa tiêu, chị đã nuôi dạy trưởng thành ba người con trai. Andrey tốt nghiệp đạt kết quả cao Trường quân sự Suvorov và Trường hàng không Balashov, Konstantin - tốt nghiệp học viện, Sergei trở thành một quân nhân chuyên nghiệp.

Tham mưu trưởng trung đoàn Irina Vyacheslavovna Rakobolskaya - Phó Giáo sư bộ môn tia vũ trụ Khoa Vật lý MGU và là tác giả của nhiều bài báo khoa học, đảng ủy viên thường trực Đảng bộ Trường Đại học Tổng hợp Quốc gia Moskva.

(http://tamanskipolk46.narod.ru/images/p300_059.jpg)
Tham mưu trưởng trung đoàn Ira Rakobolskaya đang làm việc (http://tamanskipolk46.narod.ru/p40aa1.html)

Kỹ thuật viên trưởng phi đội Tatiana Alekseyeva, người đã quên mình chăm sóc cho tôi trong thời gian tôi bị bệnh nặng, đã về Kherson làm việc tại sân bay.
Năm 1955, chị được trao tặng Huân chương Lao động Cờ Đỏ.

May mắn thay số phận của Nina Maksimovna Raspopova. Sau chiến thắng, chị trở về Mytishchi, nơi diễn ra tuổi trẻ ngành hàng không của chị, nơi trước chiến tranh chị làm phi công-huấn luyện viên. Nina xây dựng một trường âm nhạc ở Mytishchi, nơi có hơn 500 trẻ em học tập. Ở thành phố mọi người đều biết Nina Maximovna Raspopova. Họ biết chị đã chiến đấu anh dũng trong chiến tranh, chị đã được trao danh hiệu Anh hùng Liên Xô. Bây giờ Nina Maksimovna - Phó Chủ tịch chi nhánh Mytishchi của hội "Kiến thức" và là ủy viên đoàn chủ tịch Ủy ban Trung ương DOSAAF. Chị có hai con trai lớn, Volodya và Valery.

Nadezhda Popova sau chiến tranh đã kết hôn với phi công tiêm kích Semyon Ilyich Kharlamov, người mà cô đã gặp năm 42, khi máy bay của họ bị bọn Đức quốc xã bắn hạ. Thật thú vị, danh hiệu Anh hùng Liên Xô anh được trao bởi cùng một sắc lệnh ngày 23 tháng Hai năm 1945.

(http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/124.jpg)
Kỹ thuật viên trưởng phi đội Tatyana Alekseyeva và phi đội trưởng Seraphima Amosova (phải) (http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/ill.html)

Đại úy cận vệ Popova xuất ngũ năm 1948, trên cương vị phi đội trưởng. Tuy nhiên, chị không chia tay với hàng không. Cùng với chồng, chị phục vụ trong các doanh trại đồn trú khác nhau và ở đâu cũng tìm được công việc theo sở thích. Trung tướng KQ S.I. Kharlamov cho đến ngày nay vẫn tiếp tục phục vụ trong các lực lượng vũ trang. Và Nadezhda là ủy viên Uỷ ban Cựu chiến binh Liên Xô và Phó Chủ tịch Ủy ban Cựu chiến binh nước CHXV Belarus. Là một nhà hoạt động cho hòa bình, chị đã viếng thăm nhiều quốc gia. Và gần đây chị đã tới thăm nước Anh. Ban Chỉ huy Trường Cao đẳng Không quân đã mời chị dự ngày lễ tốt nghiệp của các sĩ quan trẻ, và đề nghị chị trao cho các học viên bằng tốt nghiệp trong khung cảnh trọng thể.

Bí thư Đảng ủy trung đoàn Maria Ivanovna Runt sống tại Kuibyshev. Sau chiến tranh, chị tốt nghiệp Học viện Khoa học Xã hội thuộc Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, được trao tặng danh hiệu Phó Tiến sĩ Triết học và hiện đang giảng dạy tại học viện. Thủ lĩnh Komsomol của chúng tôi Aleksandra Khoroshilova-Archangelskaya sống ở Odessa. Bây giờ chị là Tiến sĩ Khoa học Kinh tế, giáo sư, mẹ của ba đứa con. AHLX Evdokia Borisovna Pasko đang giảng dạy Toán Cao cấp tại Trường Kỹ thuật Moskva mang tên Bauman.

(http://tamanskipolk46.narod.ru/images/087.jpg)
Biên đội trưởng thuộc phi đội 4 Klavdia Serebryakova (http://tamanskipolk46.narod.ru/p83aa1.html)

Hoa tiêu Katya Dospanova sau khi tốt nghiệp Trường Đảng cao cấp ở Kazakhstan, trong nhiều năm làm bí thư thứ nhất Đoàn Komsomol của nước cộng hòa và là ủy viên BCHTU Đoàn Komsomol toàn Liên bang. Nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đoàn Komsomol cô được trao tặng Huân chương Lao động Cờ Đỏ, được bầu làm đại biểu Xô Viết tối cao CHXV Kazakhstan, một thời gian cô là thư ký Đoàn Chủ tịch Xô Viết tối cao CHXV Kazakhstan.

Tin tức về nữ phi công Clavdia Serebryakova vẫn thường xuyên tới. Cô gặp rất nhiều khó khăn sau khi bị tai nạn máy bay. Clavdia phải nằm bó bột khoảng hai năm. Cô ra viện trên đôi nạng, đôi tay gần như không tuân theo cô, nhưng Clavdia không mất tinh thần. Cô đã chăm chỉ điều trị vật lý trị liệu và đã quay trở lại làm việc được. Cuối năm 1946 Katya Ryabova nhận được một lá thư của Clava: "Tớ học tốt. Tớ quyết định trở thành một người độc lập". Clavdia Fedorovna Serebryakova không chỉ học xong đại học sư phạm, cô ấy còn bảo vệ thành công luận án phó tiến sĩ khoa học sư phạm. Bây giờ cô đang giảng dạy tại một trường trung học ở thành phố xinh đẹp Oktyabrsk. Gần đây chúng tôi mới gặp nhau ở Moskva.
- Cuộc sống thật lạ lùng - Klavdia từng nói. - Càng sống, càng có vẻ con đường vẫn đang ở phía trước. Đó có lẽ là bởi vì, Marina, chúng ta không đủ thời gian để làm nhiều việc...
Tôi bất giác mỉm cười. Một con người không biết mệt mỏi - đó là Clavdia của chúng tôi. Cô ấy đã, đang và vẫn sẽ như vậy. Không phải ngẫu nhiên hai cô con gái rất tự hào về người mẹ của mình, muốn giống mẹ về mọi mặt.

Hoa tiêu Antonina Pavlova, người cùng với Clavdia Serebryakova bị chôn vùi dưới đống xác máy bay, cũng đã trở lại làm việc. Cô - là bà mẹ có ba con, sống ở Tambov, dạy tại một trường trung học.

(http://tamanskipolk46.narod.ru/images/092.jpg)
Nadezhda Troparevskaya (http://tamanskipolk46.narod.ru/p75aa1.html)

Sau chiến tranh, người tôi hay gặp nhất vẫn là Nadezhda Troparevskaya. Nadia, cũng như tôi, đã hoạt động tại DOSAAF từ lâu, dạy thanh niên nghệ thuật nhảy dù. Chị liên tục giành được nhiều giải thưởng tại các cuộc thi toàn Liên bang về nhảy dù chạm đất chính xác, thiết lập nhiều kỷ lục thế giới. Trong thời kỳ mười năm sau chiến tranh Troparevskaya là thành viên tham gia các cuộc diễu hành trên không. Từ 1949-1956 chị là nhà vô địch Liên Xô về nhảy dù tiếp đất chính xác và nhảy dù mở chậm. Vì những thành tích thể thao đạt được, năm 1952 Nadezhda Troparevskaya-Esionova được trao tặng danh hiệu kiện tướng thể thao công huân Liên Xô. Chị đã 13 lần nhảy dù.

Bây giờ Nadezhda Troparevskaya-Esionova là kỹ sư cao cấp-thử nghiệm hệ thống dù hàng. Tất cả nhiệt huyết của trái tim mình chị vẫn đang giành cho công việc mình yêu thích và huấn luyện các vận động viên nhảy dù-thử nghiệm.
Chồng Nadezhda Evgenievna cũng là một phi công. Vasily Mikhailovich Esionov từ lâu đã là phó chủ nhiệm một trong những câu lạc bộ hàng không Moskva. Các con trai của họ, Vladimir và Mikhail, đều là phi công.

Sophia Ivanovna Ozerkova kỹ sư trưởng trung đoàn làm việc ở Odessa. Chị có ba con và khá nhiều mối lo toan gia đình. Nhưng chị đang tham gia rất nhiều công tác đảng và công tác xã hội. Kỹ thuật viên trưởng phi đội Maria Shchelkanova sống và làm việc với tư cách một kỹ sư ở Angarsk.

Kỹ thuật viên đầu tiên của tôi Katya Titova đang ở Kharkiv. Gần đây, tôi đã gặp được chị lần đầu tiên sau chiến tranh.

Vâng, thế còn các hoa tiêu của tôi bây giờ ra sao? Ngoài Klyueva, ba người còn lại đang sống và làm việc ở Moskva.

Cuộc sống của Ekaterina Ryabova, như cô ấy mơ ước, bắt đầu từ khi nó bị gián đoạn bởi chiến tranh. Năm 1948, cô tốt nghiệp xuất sắc khoa Toán-Cơ Đại học Tổng hợp Quốc gia Moskva, và năm 1951 bảo vệ thành công luận án của mình, nhận được học vị PTS khoa học Toán Lý.

(http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/186.jpg)
Katya Ryabova cùng chồng và con gái (http://militera.lib.ru/memo/russian/rakobolskaya_kravtsova/ill.html)

Sau chiến tranh, Katya Ryabova và Grigory Sivkov kết hôn. Cả đều học tập quên mình và bền bỉ. Khao khát của họ là khoa học. Học viên cũ câu lạc bộ HK Perm, hai lần Anh hùng Liên Xô Grigory Flegontovich Sivkov đã 243 lần tấn công bọn Đức quốc xã trên máy bay Il-2. Sau chiến tranh, anh đã học xong đại học và bảo vệ luận án của mình. Bây giờ Gregory Flegontovich - thiếu tướng-kỹ sư, PTS khoa học kỹ thuật.

Trong một gia đình gắn bó với nhau chặt chẽ như gia đình Ryabova-Sivkov, cả hai cô con gái đều trưởng thành - Natasha và Irina. Cả hai cháu đều đã tốt nghiệp đại học.
.......


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 01 Tháng Mười, 2015, 11:08:34 pm
(tiếp theo và hết)

Trong cuốn sách này đã kể lại chuyện Grigory và Katya gặp nhau trong chiến tranh như thế nào. Sau khi gặp gỡ, cả hai hiểu rằng họ sẽ không bao giờ chia lìa với nhau. "Không, đây còn lâu mới là chuyện ngẫu nhiên, - Grigory Sivkov khi ấy đã viết sau cuộc gặp gỡ. - Luôn luôn cùng nhau suy nghĩ, sống cùng những niềm say mê, học tập, phấn đấu, táo bạo hành động, và tất cả - cả hai đều cùng nhau. Phải chăng đó không là hạnh phúc?"

(http://tamanskipolk46.narod.ru/img/p29_p29_3549.jpg)
Katya Rybova và Marina Chechneva năm 1945 (http://tamanskipolk46.narod.ru/p29aa1.html)

Katya đã nghĩ như vậy. Trong những năm chiến tranh, họ mơ ước về sự yên tĩnh, về sự phát triển các vấn đề khoa học thú vị, họ nói về vật lý, họ tìm lời giải các vấn đề của toán học cao cấp. Cả hai đều khao khát học tập. "Một người bạn, một người bạn chân chính! Con rất thích làm việc với anh ấy, bao nhiêu điều con học được từ anh ấy"- Ryabova viết trong một lá thư cho mẹ mình.

Yekaterina Ryabova và Grigory Flegontovich Sivkov đã thực sự hạnh phúc cho đến khi một nỗi đau vô cùng lớn ập xuống gia đình họ: tháng 9 năm 1974 Katya Ryabova qua đời giữa lúc tài năng sáng tạo đang chín muồi.

Sasha Akimova trở thành PTS khoa học. Cô dạy tại Học viện Hàng không Moskva mang tên Ordzhonikidze. Tatiana Sumarokova chọn nghề báo chí và đứng đầu ban biên tập nhà xuất bản "Kiến thức". Hoa tiêu đầu tiên của tôi Olga Klyueva định cư ở Saratov. Cô đã tốt nghiệp đại học và trở thành một kỹ sư-kinh tế.

(http://img-fotki.yandex.ru/get/9323/39067198.ef/0_7c2f2_d8520f02_XL.jpg)
Natalya Meklin và Rufina Gasheva

Các cựu phi đội trưởng, các Anh hùng Liên Xô Maria Smirnova và Dina Nikulina - làm công tác đảng. Người thứ nhất ở Kalinin, người thứ hai - ở Rostov-na-Donu.

Các AH Liên Xô Rufina Gasheva và Natalia Meklin-Kravtsova, tốt nghiệp Học viện Ngoại ngữ Quân sự và sống ở Moskva. Người đầu tiên - biên tập viên của một nhà xuất bản, còn người thứ hai trở thành nhà báo.

Anh hùng Liên Xô Larisa Rozanova-Litvinova, thay thế Evgenya Rudneva trên cương vị hoa tiêu trung đoàn, làm việc và sống tại Moskva. Khi tôi biết rằng một trong những đội thiếu niên tiền phong được mang tên chị ấy, tôi nhớ lại cái đêm bay giữa những cụm đạn cao xạ nổ bùng đỏ thẫm, tiếng mảnh đạn đập tanh tách xé rách vải dệt cánh máy bay và giọng nói bình tĩnh của Larissa:
- Marinka, mình đang đi đúng. Giữ vững hướng!
Những đội viên của đội thiếu niên tiên phong mang tên chị không lầm. Đi theo những người như Larisa Nikolayevna Litvinova, có thể kiểm tra hướng đi của mình. Hướng đi ấy sẽ dẫn đến mục tiêu.

(http://img-fotki.yandex.ru/get/9309/39067198.ef/0_7c2ed_1677a144_XL.jpg)
Nadezha Popova (trái) và Larisa Rozanova (phải) năm 1945 (http://www.liveinternet.ru/users/2764591/tags/%E2%EE%E2/page2.html)

Và cho đến bây giờ Ekaterina Timchenko-Oksentyuk vẫn đang phục vụ trong quân đội Liên Xô. Chị là trung tá-kỹ sư, phó tiến sĩ khoa học-kỹ thuật, giảng viên học viện quân sự. Anh hùng Liên Xô Yevgenya Zhigulenko nhiều năm là Vụ trưởng Vụ Văn hóa thành phố Sochi, và cách đây không lâu đã chuyển đến Moskva. Anh hùng Liên Xô Antonina Khudyakova sống và làm việc tại thành phố Aleksandria, tỉnh Kirovograd. Anh hùng Liên Xô Zoya Parfyonova đang ở Ryazan. Các trung tá-kỹ sư Nadezhda Strelkova và Clavdia Ilyushina làm việc tại Moskva. Huấn luyện viên đầu tiên của tôi Mikhail Pavlovich Duzhnov định cư ở Borisoglebsk và chúng tôi thỉnh thoảng vẫn gặp nhau, cùng hồi tưởng lại câu lạc bộ hàng không ruột thịt của chúng tôi, nhớ lại các đồng nghiệp.

(http://img-fotki.yandex.ru/get/33/39067198.7d/0_5b084_6325c933_XL.jpg) (http://img-fotki.yandex.ru/get/4103/nat66956259.33/0_2f055_452f2c52_XL.jpg)
 Evgenya Zhigulenko và Sasha Lebedev trong phim "Không có quyền sụp đổ" do bà đạo diễn, xưởng phim thanh thiếu niên Gorky năm 1984. Sổ huân chương của Evgenya Zhigulenko trong thời gian tại ngũ. (http://www.liveinternet.ru/users/2764591/tags/%E2%EE%E2/page2.html)

Còn nhiều lời ấm áp nữa tôi muốn gửi đến tất cả các đồng đội cùng trung đoàn. Về một số người tôi đã nói trong những cuốn sách trước đã xuất bản, hy vọng trong tương lai tôi sẽ  kể về những người khác. Trong cuốn sách này, tôi cố gắng miêu tả chỉ những gì tôi đích thân nhìn thấy, những gì mà tôi và các bạn gái của tôi đã trải qua. Tôi muốn tin rằng lao động khiêm tốn của tôi sẽ giúp người độc giả trẻ tuổi hiểu rõ hơn và biết nhiều thêm về chuyện những người nữ yêu nước trẻ tuổi Soviet đã chiến đấu vì Tổ quốc như thế nào trong những năm tháng thử thách khó khăn.

* * *

Mỗi dịp lễ tôi cảm giác dường như điện thoại đang đổ chuông, và tôi nhất định sẽ nghe thấy tiếng nói thân thương của Zhenya Rudneva hoặc giọng một đồng đội vinh quang khác cùng trung đoàn của tôi - Glafira Kashirina.

(http://img-fotki.yandex.ru/get/9118/39067198.f0/0_7c2f8_caeb1f3e_L.jpg) (http://tamanskipolk46.narod.ru/img/p29_p29_rudneva.jpg)
Ngôi mộ trong công viên Lenin tại thành phố Kerch trong đó có Zhenya Rudneva, được E.Rachkevich xác định năm 1966. (http://www.liveinternet.ru/users/2764591/tags/%E2%EE%E2/page2.html)

Bằng lý trí tôi hiểu - họ không gọi. Zhenya Rudneva, Evdokia Nosal, Tatyana Makarova, Olga Sanfirova, Vera Belik, Glasha Kashirina đã chết, mà những người đã chết sẽ không trở về với người còn sống.

Nhưng tôi biết cả những điều khác nữa. Tên lửa đang được phóng lên không gian, dòng điện Bratsk đang cháy sáng, các nhà khoa học miệt mài trên những kính hiển vi - cuộc sống đang tiếp tục. Chính cuộc sống ấy, một phần của nó là những người bạn gái đã sớm rời bỏ chúng ta và đáng ra đã có thể trở thành tuyệt đẹp, hàng ngàn và hàng ngàn người như họ không còn đứng dậy được trong trận chiến đấu đến cùng chống lại chủ nghĩa phát xít.

Đối với chúng tôi, những người mà tuổi trẻ bị chiến tranh đốt cháy, những gì trải qua sẽ không bao giờ trở thành lịch sử. Nó - là quá khứ và hiện tại của chúng tôi, là niềm vui và nỗi đau, là cuộc sống và hạnh phúc của những con đường khó khăn.

http://www.youtube.com/watch?v=lCWFwwczAS4
Bài hát trong phim của Evgenya Zhigulenko kể về các đồng đội trung đoàn mình (năm 1984): "Những nữ phù thủy đêm đang ở trên trời"

HẾT (PHẦN 1)


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 01 Tháng Mười, 2015, 11:54:14 pm
Irina Rakobolskaya (http://bg.ru/society/irina_rakobolskaya-11522/)

Irina Kaliteevskaya
Aleksei Lukin

Chuyên gia vật lý tia vũ trụ — kể về các trung đoàn nữ không quân, các trận ném bom đêm, các nữ nghệ sĩ, bức thư gửi Stalin viết bằng máu trên vải áo sơ mi, các thí nghiệm khoa học trong đường tàu điện ngầm và về việc, tại sao chiến tranh — không phải là điều chủ yếu trong tiểu sử.

(http://bg.ru/media/upload/images/uold/89/99/8999bd6a72a6c663b5974bb045ef6ca0.jpg)

Ngày 22 tháng 12 năm 1919 - sinh tại thành phố Dankov tỉnh Ryazan (nay thuộc vùng Lipetsk)
Những năm 1920 - gia đình chuyển đến Smolensk, sau đó tới Egorevsk
Mùa hè 1931 - sau cái chết của cha, cùng mẹ chuyển đến Nicholo-Pogoreloye
1932 - chuyển đến Moskva
1938 - tốt nghiệp trường phổ thông thực nghiệm mang tên Radishchev và nhập học khoa Vật lý MGU
Tháng 10 năm 1941 - tự nguyện nhập ngũ; gia nhập nhóm phi công nữ dưới sự chỉ huy của Marina Raskova
Tháng 2 năm 1942 - được bổ nhiệm tham mưu trưởng trung đoàn KQ ném bom đêm 588 sử dụng máy bay U-2 (năm 1943 trung đoàn được nhận danh hiệu cận vệ, và được đổi tên thành trung đoàn máy bay ném bom cận vệ 46)
27 tháng 5 năm 1942 - ra mặt trận trong đội hình trung đoàn
Tháng 10 năm 1945 - được xuất ngũ và trở về với khoa Vật lý MGU
1946 - kết hôn với Dmitry Pavlovich Linde
02 tháng 5 năm 1948 - sinh con trai Andrey
1949 - tốt nghiệp Đại học Tổng hợp quốc gia Moskva
1950 - bắt đầu làm việc tại bộ môn tia vũ trụ và vật lý vũ trụ Khoa Vật lý MGU
21 tháng 5 năm 1951 - sinh con trai Nikolai
1962 - bảo vệ luận án phó tiến sĩ
1976 - bảo vệ luận án tiến sĩ
2005 - người chồng qua đời

Bố tôi được sinh ra ở Smolensk. Cha ông là một trong những người làm công, nhưng làm việc tận tụy và được phong đến danh hiệu quý tộc. Ông qua đời khi cha mới chỉ một năm tuổi, và để lại cho bà tôi, người ngồi bán hàng trong một quầy rượu vang, bảy đứa con - hai cậu con trai và năm cô con gái, - ngoài ra bà còn nuôi dạy ba đứa con của em gái mình. Họ sống thế nào - tôi không biết, nhưng chắc chắn chật vật. Tuy nhiên, cha tôi đã vào học khoa Vật lý MGU, tốt nghiệp vào năm 1910 hoặc 1911, và ông đã được cử đến làm việc tại một thị trấn nhỏ ở tỉnh Ryazan, mà sự tồn tại của nó trước đó ông không hề biết. Tại Dankov cha dạy vật lý ở trường trung học phổ thông, và đã gặp mẹ tôi ở đó - bà là nữ giáo viên tiếng Nga.

Ông ngoại thuộc dòng họ Lomonosov. Ông không biết chữ, sống trong một ngôi làng gần Dankov nơi xung quanh không ai biết đọc, biết viết, cũng chẳng ai cần. Còn ông muốn, và bắt đầu học một cách lặng lẽ. Sau đó, ông lấy trộm tiền mẹ và đi đến một ngôi trường gần Ryazan, nơi người ta nhận dạy các trẻ em nghèo. Học xong ông về nhà và trên đường đi ông gặp bà ngoại. Mà bà thì rất xinh đẹp nên ông lập tức phải lòng bà, kết hôn với bà rồi trở lại Dankov. Họ đã có tám mặt con - ba người con trai và năm cô con gái. Lo kinh tế và chăm sóc con là bà, còn ông thì chỉ say mê vẽ, làm thơ, nuôi ong, làm đàn violin, dàn dựng các vở diễn trong nhà hát, chỉ huy dàn đồng ca nhà thờ, và thậm chí mở trường học tại Dankov mang tên ông - trường Shevlyakovskaya. Cả ba người con trai của ông đều nhận được một nền giáo dục rất tốt. Mẹ tôi tốt nghiệp trung học và trường dòng giáo phận, trở thành một giáo viên.

Bố mẹ tôi kết hôn, và năm 1913, chị gái của tôi Zhenya ra đời, năm 1919 - là tôi. Sau đó, bố mẹ tôi chuyển đến Smolensk. Bố dạy học, nhưng gia đình không sống ở đó - không có căn hộ, chỉ một tầng hầm, mẹ và bà ngoại quan hệ lục đục. Lúc đó, có thông báo trên báo chí rằng tại Yegorievsk người ta mở trường đại học, tuyển giáo viên đến làm việc ở đó. Bố mẹ đến Egorievsk - nhưng chưa thấy họ khai trương gì cả, và cha bắt đầu tới làm việc trở lại ở trường trung học, mặc dù cha thực sự muốn làm việc ở trường đại học. Vì vậy, khi quãng những năm 1931-1932 có thông báo rằng trên đoạn đường giữa Moskva và Smolensk, mang tên Nicholo-Pogoreloye, người ta mở một trường đại học (Viện cây kéo sợi vùng lãnh thổ phía Tây, mở vào năm 1930; từ năm 1933 - Trường Kỹ thuật Nông nghiệp cơ bản vùng lãnh thổ phía Tây thuộc Bộ Dân ủy Nông nghiệp và Ruộng đất Liên Xô - BBT), cha đã viết đơn gửi đến đó, và ông được tuyển dụng.

Người ta tiếp nhận chị gái của tôi vào viện đại học này, thời điểm đó chị đã hoàn thành chương trình học phổ thông mười năm - điều đó rất quan trọng, bởi vì con cái giới trí thức thời đó không được nhận vào học đại học, và ở đây chị được nhận với tư cách là con gái của một giảng viên.

Zhenya và cha đến Nikolo-Pogoreloye, mẹ tôi và tôi ở lại Yegorievsk một thời gian, chúng tôi cần phải đến sau. Vào mùa đông, mẹ tôi đến đó kiểm tra xem hai bố con sắp xếp nơi ăn chốn ở thế nào, mẹ bị cảm lạnh nặng, khi trở lại Egorievsk thì ốm liệt giường. Tôi chỉ mới 11 tuổi lúc đó. Tôi đi chợ, chuẩn bị, làm đỡ việc mẹ, phục vụ mẹ, còn mẹ dạy tôi cách làm sạch gà, cách nấu món ăn thịt gà, tóm lại là cách làm việc nội trợ thế nào. Chuyện đó thậm chí còn làm tôi cảm thấy thú vị - nó giống như một trò chơi. Khi cuối cùng mẹ tôi dậy được, anh trai của mẹ, một bác sĩ tiết niệu ở Leningrad, gọi mẹ tới Zheleznovodsk, tới một phòng khám tiết niệu lớn. Và chúng tôi đã đến Caucasus. Nhưng chúng tôi ở lại đó không lâu: qua 13 ngày, chúng tôi nhận được một bức điện chị gái tôi đánh đến, nói rằng cha tôi đã qua đời.

Bố bị một khuyết tật ở tim mà một lần ông bác, sau khi nghe tim, đã nói với mẹ tôi: "Những người bị bệnh này chỉ sống đến 22-23 năm, không hơn đâu". Nhưng nhờ mẹ chăm sóc mà cha tôi sống được đến 41 năm. Mẹ tự mình quán xuyến việc nhà, không yêu cầu cha làm việc gì - và cha tôi chỉ dạy học, còn khi ở nhà thì làm một số máy phát, máy thu... Cha chết trên bờ sông Dniepr, ông rất thích câu cá, nhưng chưa bao giờ câu được con cá nào, thế mà bỗng dưng cha câu được một con cá măng. Tôi nghĩ rằng đó là một trải nghiệm gây xúc động mạnh đến nỗi, cha đã chết ngay bên cạnh con cá măng này.

(http://bg.ru/media/upload/images/uold/ba/77/ba77073b65e4162ab5b8146465b4e7fd.jpg)
Cha mẹ của Irina Rakobolskaya: Varvara Fedorovna (họ con gái là Shevlyakova) và Vyatcheslav Afinogenovich Rakobolsky (http://bg.ru/society/irina_rakobolskaya-11522/)

Chúng tôi lập tức đáp tàu hỏa và đi về làm tang lễ. Và sau khi tổ chức tang lễ xong, chúng tôi chuyển đến Nikolo-Pogoreloye: chị gái học ở đó, còn việc trở lại Egorevsk đối với chúng tôi hiện không còn bất kỳ ý nghĩa nào nữa. Mẹ tôi đi làm nhân viên thí nghiệm tại một phòng thí nghiệm vật lý, còn tôi bắt đầu đi học lớp 4 tại trường phổ thông của thanh niên nông thôn. Trường không có thiết bị sưởi: tất cả chúng tôi ngồi học phải mặc áo khoác ấm, tay áo kéo dài trùm lòng bàn tay - chỉ ngọ nguậy các ngón tay, - để viết gì đó. Sau khi học được bốn hoặc năm tháng, tôi mắc bệnh lao phổi, và bị cấm đến trường. Lúc đó mẹ tôi đan cho tôi một số chiếc quần dài bằng len thô, bắt đầu cho mỗi ngày một quả táo - và cho tôi tự do làm theo ý thích. Tôi cảm thấy mình sức khỏe không tồi, và hầu như suốt cả mùa đông tôi chỉ đi xe trượt tuyết. Chúng tôi bện những chiếc lẵng tròn và nhúng chúng vào nước, sao cho chúng được phủ băng từ mọi phía. Bạn ngồi bệt vào trong lẵng, thả từ núi xuống, và nó lăn đi đâu thì lăn - không điều khiển được. Đó là một niềm vui lạ thường.

Và rồi đây - năm 1932 - năm bắt đầu nạn đói. Ngoài ra, trường đại học nơi chị tôi học tập được chuyển về Leningrad, chị tôi đi, còn mẹ và tôi ở lại Nikoko-Pogoreloye cùng nhau. Và chúng tôi quyết định đáp tàu về Moskva. Mẹ tôi có một người bạn, tên hình như là Aleksandr Petrovich Kuznetsov, ở Yegorievsk ông là hàng xóm của chúng tôi trong khu nhà tập thể. Trước cách mạng, ông làm người dọn rác, và ông cùng vợ tích cực tham gia cách mạng. Ông ấy rất đẹp trai, là người đàn ông tràn đầy năng lượng. Khi giai cấp công nhân giành chiến thắng, ông được cử làm Chủ tịch Ban chấp hành huyện Yegorievsk, sau đó ông lên ở Moskva làm bộ trưởng hay thứ trưởng gì đó. Và ông nói với mẹ tôi: "Varvara Fedorovna, hãy chuyển đến Moskva, tôi sẽ giúp cô". Nhờ ông, chúng tôi nhận một phòng trong thị trấn sinh viên, mẹ tôi được bố trí làm giáo viên mẫu giáo tại nhà trẻ. Sau đó, chúng tôi bị đuổi ra khỏi khu ký túc xá, khi ấy Aleksandr Petrovich đã cho chúng tôi mượn một phòng trong căn hộ của mình - ông với tư cách một nhà lãnh đạo trẻ có nhiều kinh nghiệm hoạt động bí mật, đã nhận được một căn hộ sáu phòng ở Moskva trên đại lộ Pokrovsky, mà ông chỉ có vợ và một con trai - và ông không biết làm gì với những sáu căn phòng.

Aleksandr Petrovich sau đó được phái đi làm việc ở Siberia, và ở đó cuối năm 1937 ông bị bắt giam. Nhưng đó là một nhóm người tinh tú, những người đã quen hoạt động bí mật. Vợ ông đã gửi vào trong tù cho ông một chiếc áo sơ mi trắng, ông lấy máu viết lên trên chiếc áo này một bức thư gửi cho Stalin và đã chuyển được cho vợ chiếc áo, còn bà vợ đã mang chiếc áo ấy lên tàu hỏa về Moskva. Và ở đây, tại Moskva, cũng theo một kênh bí mật nào đó, bà vợ chuyển chiếc áo đến được Stalin. Và Aleksandr Petrovich đã được trả tự do. Ông về đến Moskva, đã là một con người bị làm nhục, bị đánh đập, mất hết tất cả ngọn lửa nhiệt huyết. Tôi khi ấy còn nhỏ, nhưng tôi nhớ ông ấy kể cho mẹ tôi nghe mọi chuyện, giơ ra cho mẹ tôi thấy cặp chân bị đánh thành thương tật. Số phận sau này của ông ấy tôi không biết - chiến tranh đã tới, và đường đời của chúng tôi mỗi bên một ngả.

Thời ấy anh trai của mẹ tôi, Vanya, đang sống tại Moskva, ông giảng dạy tại trường phổ thông thực nghiệm mang tên Radishchev và đưa tôi vào đó học. Tại trường có các giáo viên cũ, rất giỏi, giảng dạy. Ở đây tôi chỉ gặp vấn đề với môn tiếng Đức: khi tôi đến, mọi người đã biết được ít nhiều những kiến thức nhất định, còn tôi không biết các chữ cái tiếng Latin, không biết đọc, không biết viết, không hiểu. Tôi đau khổ đến phát khóc! Nhưng cô giáo của chúng tôi có quan hệ rất tốt với bác Vanya và đã giúp tôi. Tôi có trí nhớ rất tốt vê thơ ca - tôi đến bây giờ vẫn còn nhớ rất nhiều thơ. Khi chúng tôi đề cập đến một nhà thơ hay một bài thơ nào đó, cô giáo chắc chắn sẽ gọi tôi lên bảng. Tôi đi lên và đọc thuộc lòng một cách diễn cảm. Đấy đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ: «Wer reitet so spät durch Nacht und Wind? » - «Ai phi nước đại, ai đang lao vội vã dưới màn sương băng giá?". Và cô giáo vì bài thơ này mà cho điểm Năm vào sổ học tập của tôi và không còn hỏi tôi thêm một lần nào trong học kỳ nữa. Vậy là, tôi học xong trung học với điểm Năm môn tiếng Đức, trong khi thật sự không biết gì đến nơi đến chốn về tiếng Đức.

(https://upload.wikimedia.org/wikipedia/ru/thumb/1/1b/WorkerAndKolkhozWoman_20100322.jpg/640px-WorkerAndKolkhozWoman_20100322.jpg)
"Anh công nhân và chị nông trang viên" một bức tượng nổi tiếng quen thuộc từng được trưng bày ở Hôi chợ Thế giới Paris năm 1937. Tác giả là nữ điêu khắc gia Soviet bậc thầy thế kỷ XX Vera Mukhina (1889-1937), học trò của Emile Antoine Bourdelle tại Académie de la Grande Chaumière ở Paris thời kỳ 1912-1914. Nhờ sự can thiệp của bà mà giữ được tượng đài Tự do tại thủ đô Riga Latvia, sau khi Latvia bị sáp nhập vào Liên Xô năm 1940. (https://ru.wikipedia.org/wiki/%D0%9C%D1%83%D1%85%D0%B8%D0%BD%D0%B0,_%D0%92%D0%B5%D1%80%D0%B0_%D0%98%D0%B3%D0%BD%D0%B0%D1%82%D1%8C%D0%B5%D0%B2%D0%BD%D0%B0)

Ở trường trung học, tôi tham gia nhóm kịch - tôi sắm vai Donna Anna và cô chủ quán trọ trong vở "Boris Godunov" của Pushkin. Tôi rất thích nó! Một lần Vera Mukhina, có con trai học cùng chúng tôi, nhìn thấy tôi ở đâu đó và nói: "Hãy để cô giới thiệu cháu cho Androvskaya (Olga Nikolayevna Androvskaya - nữ diễn viên Xô Viết nổi tiếng, giảng viên GITIS -.Trường Đại học Nghệ thuật Sân khấu Nga - BBT), cháu phải lên sân khấu mới được". Nhưng tôi nói, "Cháu không đi". Bạn thấy đấy, thời đó là như vậy, và chúng tôi cũng là những người như vậy - tất cả những nữ diễn viên kia với những kiểu tóc xoăn, với móng tay sơn và môi bôi son dường như với chúng tôi là vô cùng phù phiếm, tất cả những điều ấy đối với chúng tôi là nhảm nhí.
...........


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 03 Tháng Mười, 2015, 11:47:13 am
(tiếp)

Tôi rất muốn trở thành bác sĩ. Nhưng mẹ tôi không hề muốn tôi vào ngành y tế: anh trai và em gái của mẹ đều là bác sĩ, và bà đã thấy họ phải chịu đựng thế nào. Khi đó, tôi muốn làm đạo diễn điện ảnh, nhưng thời điểm đó VGIK không nhận người. Đi đâu? Tôi nghĩ: được rồi, cha đã tốt nghiệp khoa Vật lý, mình sẽ cũng vào đó - có lẽ đó sẽ là điều hay.

(http://bg.ru/media/upload/images/uold/f3/9f/f39f43c16725d38c3b8c670c48f24ee2.jpg)
Irina Rakobolskaya và chị gái Evgenya (http://bg.ru/society/irina_rakobolskaya-11522/)

Thời học phổ thông tôi không yêu môn vật lý. Môn toán tôi được học khá tốt, còn môn vật lý giáo viên hay nhầm lẫn... Do tôi tốt nghiệp phổ thông xuất sắc, không phải thi - tôi đã nộp hồ sơ và được mời đến phỏng vấn. Tôi nhớ, Phó hiệu trưởng hỏi tôi: "Tại sao cô vào khoa Vật lý?" - "Bởi vì cha tôi đã tốt nghiệp khoa này". - "Được". Và tôi đã được chấp thuận.

Tôi nhớ rất rõ lần đầu tiên khóa tôi tập trung - và tôi kinh hoàng. Tất cả mọi người đều nghiêm túc thế kia cơ mà, họ nói chuyện về các chủ đề khoa học, còn tôi không hiểu những gì họ nói và tại sao họ nói những chuyện đó... Tôi bắt đầu học - không muốn bất cứ điều gì, tôi không thích bất cứ cái gì, tất cả mọi người đều thông minh, còn tôi là một kẻ ngốc, tôi chẳng cần điều gì. Và tôi đi trầm mình ở Yauza. Tôi từ trên bờ nhảy xuống sông, lập tức hụp đầu xuống, có lẽ đã hít vào một chút nước, vì vậy tôi có cảm giác rằng thế là hết, tôi đã chết đuối. Nhưng tôi ngẩng đầu lên, đứng dậy - nước sâu đến đầu gối. Tôi lao như tên bay ra khỏi mặt nước lên trên - và lúc đó tôi mới nhận ra một cách chính xác rằng, tôi vừa trải qua cái chết và không bao giờ trong cuộc sống của tôi, tôi có thể chấm hết cuộc sống bằng cách tự tử. Ở nhà tôi kể cho mẹ rằng các cậu bé đẩy tôi xuống sông Yauza. Rồi mọi chuyên cũng qua đi.

Tôi không thích Vật lý, nhưng tôi đã rất tích cực và bắt đầu tham gia vào công tác xã hội - tôi trở thành bí thư ban chấp hành đoàn Komsomol trường đại học. Tôi gia nhập nhóm nhảy dù. Nhảy dù - đó là một trải nghiệm không thể nào quên! Sau đó, tôi tham gia tiếp trường dạy bắn súng máy. Đó là năm 1939: chiến tranh thì chưa, nhưng sự căng thẳng đã cảm thấy, có cảm giác sắp có chuyện xảy ra, vì vậy nhiều người tin rằng cần phải học một chuyên ngành quân sự nào đó.

Ngày 22 tháng Sáu, chúng tôi có một kỳ thi của năm học thứ ba. Đúng hôm đó khi tôi đang ngồi ở chỗ bạn gái Lena, một anh bạn của chúng tôi gọi điện tới và nói, "Các cô gái, bật radio lên mà nghe, Molotov sẽ phát biểu. Có lẽ là chiến tranh với nước Đức". Không hiểu sao lập tức tôi bật khóc - tôi là cô gái rất giàu cảm xúc. Sau khi nghe bài phát biểu của Molotov, chúng tôi đến ngay Mokhovaya, vào trường đại học. Trong giảng đường Cộng sản lớn có một đám đông đoàn viên Komsomol từ tất cả các khoa, mọi người đều phát biểu vài câu, và sau đó quyết định rằng tổ chức đoàn Komsomol của MGU tự tuyên bố tổng động viên và sẽ đi đến bất cứ nơi nào mà chính phủ phái chúng tôi tới. Đầu tiên chúng tôi được cử đi thu dọn cỏ khô tại vùng Ryazan, bởi vì tất cả những nông trang viên nam ở đây là quân nhân xuất ngũ đã được động viên. Chúng tôi suốt cả mùa hè sống trong lều, thu hoạch cỏ, thu mua khoai tây...

Hồi đó tôi có hai bạn trai - Misha Levin và Dima Linde, chồng tương lai của tôi. Khi chúng tôi đến nông trang tập thể, Mishka nói với tôi: "Dima nói với tớ rằng trong khoa vật lí của chúng ta chẳng có cô gái nào ra dáng, có lẽ chỉ trừ Ira Rakobolskaya, nhưng dẫu sao vẫn không thể yêu cô ấy". Tôi cảm thấy bị tổn thương - tại sao lại không thể yêu tôi? Vâng, có lẽ tôi còn đang đỏng đảnh với anh. Sau đó, cả ba chúng tôi bắt đầu kết bạn, cùng nhau đi dạo - tôi đi ở giữa, hai người họ đi ở hai bên. Và tôi không biết tôi thích ai hơn trong hai người đó.

Mùa Thu, Trường Tổng hợp bắt đầu làm việc. Moskva thời điểm đó đang chờ quân Đức đến. Thành phố tối om, các xí nghiệp lớn đã sơ tán, Trường Tổng hợp cũng phải sơ tán. Chúng tôi hằng đêm trực trên mái nhà, bắt các "mồi lửa", mà người Đức ném từ trên xuống. Khi ấy họ chưa lấy các cô gái ra mặt trận - họ chỉ lấy bác sĩ, y tá và các điện đài viên, vì vậy chúng tôi bắt đầu học y tá. Bỗng ngày 9 tháng 10 năm 1941 từ Trung ương Đoàn Komsomol có tin điện gửi xuống Khu Đoàn qua đường điện thoại, trong đó thông báo gọi 12 cô gái tình nguyện viên vào quân đội. Đi đâu - họ chưa nói. Tôi gọi điện xuống các khoa và nói, tất cả những ai muốn tham gia, lúc 10 giờ sáng ngày hôm sau hãy đến Ủy ban Trung ương Đoàn Komsomol toàn Liên bang.

Người đến nhiều hơn số mười hai người rất nhiều. Và bạn biết không, trong số các bạn gái của tôi không có ai không đến theo lời kêu gọi tình nguyện của tôi - họ đã đến rất nhiều, nhưng không phải là những người mà tôi tin tưởng. Người ta hỏi chuyện chúng tôi: tại sao chúng tôi muốn tình nguyện nhập ngũ, cha và mẹ chúng tôi ở đâu, họ có phản đối không, chúng tôi biết làm gì và đại loại như vậy. Họ sàng lọc loại ra nhiều - Lạy Chúa, cha mẹ bị bắt hay bị gì khác nữa. Tôi nhớ học ở khoa sinh học trường chúng tôi có con gái của Evgeny Samuilovich Vargas, nhà kinh tế lớn, Viện sĩ, Viện trưởng Viện kinh tế thế giới và chính trị thế giới. Người ta không lấy cô ấy vì cô ấy là Varga - có nghĩa là cô ấy không phải người Nga. Nhưng tôi chắc chắn người ta sẽ lấy tôi, - thứ nhất, tôi rất muốn, và thứ hai, tôi là xạ thủ súng máy, thậm chí còn từng nhảy dù, bên cạnh đó còn là cán bộ đoàn Komsomol. Nào, sao lại không lấy tôi? Và người ta lấy tôi ngay, đúng là vậy.

(http://bg.ru/media/upload/images/uold/79/b1/79b18ff52360187504cf57637f37355c.jpg)
Ngôi nhà của Irina Rakobolskaya, Fyodor Pavlovich Shevlyakov tại Dankov. Cháy năm 1936. (http://bg.ru/society/irina_rakobolskaya-11522/)

Sau đó mới biết rằng, hôm trước, ngày 8 tháng 10, Stalin đã ký lệnh, theo đó Marina Mikhailovna Raskova (phi công-hoa tiêu, thiếu tá, Anh hùng Liên Xô -. BBT) được giao nhiệm vụ thành lập ba trung đoàn nữ không quân. Trước đó, nhiều phụ nữ đã viết thư cho chính phủ yêu cầu lấy họ ra mặt trận - và cuối cùng Raskova đạt được điều ấy. Phi công trong số các nữ thanh niên thì rất nhiều và những phi công xuất sắc nhất - họ đang bay trong ngành hàng không dân dụng, tại các CLB hàng không, - còn hoa tiêu thì chưa có. Và Ủy ban Trung ương đoàn Komsomol tuyên bố gọi các cô gái muốn vào quân đội, để đào tạo họ thành hoa tiêu.

Lúc này, Zhenya đã đi sơ tán, còn mẹ tôi cùng với cháu trai, con trai Slava của Zhenya, đi về Dankov, và tôi ở lại Moskva một mình. Tôi nói với bác Vanya rằng, tôi sẽ vào quân đội dạy vật lý trong các trường đào tạo các chuyên gia sơ cấp. Và ông nói, "Lạy Chúa, sao vậy, họ không tìm được ai thông minh hơn cháu, mà phải lấy các sinh viên năm thứ ba cơ à?"

Ngày hôm sau chúng tôi tới tòa nhà Ủy ban Trung ương đoàn Komsomol lấy đồ. Người ta giao quân trang cho chúng tôi - áo ca-pot, ủng, mặt nạ phòng độc, mũ sắt. Đó quả là một cơn ác mộng - chẳng có thứ đồ nào dành riêng cho phụ nữ, vì vậy người ta phát cho chúng tôi quần dài nam, quần lót nam, áo ca-pot nam cỡ lớn; ủng số nhỏ nhất cũng cỡ 43.

Chúng tôi cứ nghĩ sẽ đi chiến đấu ngay, nhưng người ta đưa chúng tôi lên toa xe có sưởi ấm và chở đến thành phố Engels, tới trường phi công không quân Engels. Chúng tôi đi mất hơn một tuần. Lúc ấy cả nước đều đang trên đường đi: người ta chở các công nhân ra mặt trận, từ mặt trận người ta chở trang bị kỹ thuật về hậu phương, công tác sơ tán diễn ra khẩn trương, còn ở đây - cả một đoàn tàu chở các cô con gái nào đó. Trong toa sưởi có các dãy giường hai tầng có nệm, trong góc giữa các dãy giường - một chiếc thùng tròn có nắp đậy chứa các đồ thiết yếu và bình nước. Không hiểu sao chúng tôi gọi chiếc thùng ấy là Seriozha, chúng tôi hay nói: "Tôi tới chỗ Seriozha".

Cuối cùng người ta cũng chở chúng tôi tới được Engels. Chúng tôi ra khỏi xe lửa vào lúc sáng sớm, người ta tập hợp đội hình chúng tôi, các cô gái đầu tóc rối bời phủ đầy bùn đất, mặc những chiếc áo ca-pot thùng thình, đi những đôi ủng thô kệch, và đọc mệnh lệnh №1: tất cả các cô gái cắt tóc theo kiểu con trai - "Tóc ngang tai từ trước ra sau". Bím tóc chỉ có thể để với sự cho phép của đích thân Raskova. Nhưng ai lại đi xin xỏ Raskova chỉ vì chuyện ấy? Đến bây giờ tôi vẫn để tóc như vậy - tóc để ngang tai từ phía trước.

Chúng tôi, các sinh viên, tất cả được phân công vào nhóm hoa tiêu. Chúng tôi học điều lệnh, học bay trên máy bay ... tất nhiên, một lần nữa tôi lại làm bí thư Komsomol - tôi là một cô gái rất tích cực.

Khi chúng tôi còn học, những tiếng cười rộ, những lời bông đùa luôn đồng hành cùng chúng tôi. Ba cô gái tổ chức thành một nhóm biên tập và bắt đầu cho ra tờ báo tường "Cá Sấu" - chúng tôi vẽ và viết trên trang báo tường những bài thơ vui nhộn. Và xuất bản những tờ "Cá sấu" ấy suốt chiến tranh - các bạn gái của chúng tôi ở bên cạnh đỏ mặt tía tai vì cười, còn chúng tôi cứ tiếp tục trò đùa. Ví dụ, tôi viết một bức thư cho Dima, chồng tương lai của tôi, rồi chúng tôi gửi nó cho người yêu của một cô gái khác, còn bức thư của cô ấy thì gửi cho Dima. Rồi sau đó nhận được trả lời: "tôi đã nhận được lá thư của bạn - có lẽ bạn nhầm rồi". Và chúng tôi cười ngặt nghẽo vì những chuyện ấy! Ôi, các cô gái, thật là nghiêm túc quá đi thôi.

(http://bg.ru/media/upload/images/uold/90/25/90253f50a5cb44a0e044820ae0ef66a7.jpg)
Irina Rakobolskaya tại Dankov (http://bg.ru/society/irina_rakobolskaya-11522/)

Từ số các cô gái chúng tôi, người ta chọn ra thành lập một trung đoàn máy bay tiêm kích là trung đoàn đầu tiên, còn trung đoàn của chúng tôi - trung đoàn thứ hai - và mang số hiệu 588 (tổng cộng đã thành lập ba trung đoàn nữ không quân - №586 (máy bay tiêm kích), №587 (máy bay ném bom bổ nhào) và №588 (máy bay ném bom ban đêm)); trung đoàn chỉ bao gồm toàn nữ, trong đó có I.V.Rakobolskaya - BBT). Mọi người đều được phân công theo chức trách và hình thành một ban tham mưu. Tôi hoạt động tích cực đến nỗi người ta ngay lập tức bổ nhiệm tôi làm tham mưu trưởng. Tôi đến gặp Raskova và nói : "Tôi muốn bay!". Còn Raskova trả lời: "Tôi không thích nói chuyện kiểu dân sự".

Tất cả là thế. Tôi hoàn toàn choáng váng vì chuyện này. Phải hiểu: toàn bộ những người bạn gái của tôi đều ở trong nhóm hoa tiêu còn tôi - tham mưu trưởng, trung đoàn phó. Nghĩa là tôi nói - tất cả phải làm theo; bạn gái của tôi phải đứng dậy khi tôi đi vào. Và họ thì không muốn. Katya Ryabova thời đó đã nói: "Cậu biết đấy, tôi không thể nghe lọt tai khi cậu hét:"Ryabova lên gặp tôi!" Tôi muốn tôi có thể đùa bỡn với họ, nói chuyện với họ, và đồng thời ra mệnh lệnh mà họ phải thực hiện. Và như thế là không thể. Rất khó khăn! Những ngày đầu tiên tối nào tôi cũng khóc. Cứ như vậy khá lâu, cho đến khi những người mới đến trung đoàn chúng tôi, với họ tôi đã là một tham mưu trưởng thực thụ. Sau đó, tôi đã học được cách đi dạo với Katya Ryabova trên sân bay giữa các chuyến bay, và hỏi cô yêu ai ở đằng ấy, rồi sau đó hét: "Ryabova lên gặp tôi!" - và cô ấy lên ngay, đúng như phải vậy.

Một lần, khi chúng tôi đang chuẩn bị bay ra mặt trận, có một đêm rất khó khăn, tuyết rơi khủng khiếp, gió, và trong một chuyến bay huấn luyện phi hành đoàn của hai máy bay (bốn nữ) đã chết. Và tôi với tư cách tham mưu trưởng, phải làm báo cáo tại sao lại xảy ra chuyện đó, phải làm các biên bản. Tôi vẫn còn chưa biết làm thế nào, khi đó Raskova đích thân hướng dẫn tôi. Đối với tôi cuộc chiến tranh bắt đầu như vậy đấy.

Cuối cùng, trung đoàn của chúng tôi được gửi đến Phương diện quân Nam. Bộ đội đang rút lui. Bộ binh của chúng ta chạy tán loạn như đám đông vô tổ chức. Chính tôi tận mắt thấy, một người lính đi như thế nào, còn một phụ nữ chạy bên cạnh và túm lấy vai anh, anh gạt chị ta ra, sau đó từ trong ngực áo anh ta một con gà mái bay ra. Nghĩa là anh ta bắt con gà mái ở trong một làng đi qua rồi chạy. Cần phải sống bằng cách nào đó. Quân Đức ném các toán đổ bộ xuống các địa điểm nhỏ: 10 người một toán đổ bộ - và thế là địa điểm đã  bị chiếm. Còn chúng tôi thường không biết nơi nào của quân ta, nơi nào của quân Đức.

Ngoài mặt trận người ta đón chúng tôi rất bực tức. Tôi còn nhớ vị sư đoàn trưởng, khi tiếp nhận chúng tôi ông nói: "Ôi Chúa ơi, sao lại trừng phạt tôi thế này? Phương diện quân Nam thì đang rút lui, đang hoảng loạn - vậy mà đưa cả một trung đoàn toàn con gái đến đây, những cô gái chưa bao giờ bay ra khỏi những dàn đèn chiếu, chưa biết chở hai người trong cabin thứ hai. Nói chung, họ có thể là những phi công tốt, nhưng vẫn còn là các cô bé..."

Lúc đầu chúng tôi nghĩ rằng người ta cung cấp cho các cô gái chúng tôi những mục tiêu giả để chúng tôi làm thử. Nhưng một trong những phi hành đoàn của chúng tôi đã không trở về ngay từ lần xuất kích đầu tiên. Vì không có bắn nhau, chúng tôi cứ tưởng rằng các cô gái đã cãi cọ nhau hoặc làm sai một điều gì đó và tự làm máy bay mình rơi, chứ không ai bắn hạ họ. Khi chiến tranh đã kết thúc, một bức thư từ làng này được gửi đến báo "Sự thật" trong đó viết: "Trong thời kỳ chiến tranh, vào một ngày nào đó, một chiếc máy bay bị bắn rơi tại làng chúng tôi. Khi bọn Đức bỏ đi, chúng tôi lén đến chỗ máy bay và thấy hai người phụ nữ đã chết - một có mái tóc thế này, người kia cũng như vậy. Chúng tôi chôn cất họ, nhưng không biết họ là ai. Xin hãy công bố trên cả nước để xác định nhân thân của họ và để các bà mẹ của họ biết rằng họ đã hy sinh, mà không phải bị bọn Đức bắt làm tù binh, và có thể đến thăm mộ của họ". Bức thư này được tờ "Sự thật" gửi ngay cho chúng tôi. Chúng tôi đã gửi người tới làng này - và phát hiện ra rằng quả thực đó là hai cô gái của chúng tôi.

(http://bg.ru/media/upload/images/uold/d1/12/d1121bc7d0f3b3b84b3a4f5d00bce5f0.jpg)
Máy bay Po-2 có ghi dòng chữ: "Chúng ta báo thù cho Dusya Nosal". Biên đội trưởng Dusya Nosal hy sinh ngày 23 tháng 4 năm 1943 (http://bg.ru/society/irina_rakobolskaya-11522/)

Các chàng trai của các trung đoàn khác xử sự với chúng tôi lúc đầu rất cảnh giác, họ gọi chúng tôi là "trung đoàn Dunka" (trung đoàn trưởng của chúng tôi là Evdokia Bershanskaya) và chỉ độc cười nhạo chúng tôi. Chúng tôi tức lắm - họ phải phục vụ quân đội theo nghĩa vụ, còn chúng tôi đi theo tiếng gọi của trái tim. Và chúng tôi luôn cố gắng bay nhiều hơn cánh con trai. Ví dụ, ở stanitsa của dân Chechnya tại Assinovskaya có sân bay và gần đó - là một khu vườn lớn. Chúng tôi kéo đuôi máy bay giấu vào vườn, để các cành táo phủ kín sao cho chúng tôi không bị phát hiện từ trên không, còn mỗi buổi tối tất cả các kíp bay đều đến ngồi sẵn vào máy bay của họ. Trên cánh đồng đậu sẵn chiếc máy bay trinh sát thời tiết, cứ nửa giờ hoặc một giờ một lần phi công cất cánh lên không bay thám sát thời tiết, xem có sương mù hay không. Khi sương mù tan, cô ấy nói: "Ổn cả, các bạn có thể bay". Và chúng tôi bắt đầu công tác chiến đấu. Còn nam giới chẳng bao giờ ngồi trên máy bay: khi thời tiết không bay được thì họ ngủ. Khi có thể bay, họ được đánh thức bằng báo động - và trong khi họ xỏ chân vào quần dài, trong khi người ta chuẩn bị máy bay cho họ, trong khi họ phóng xe đến sân bay, chúng tôi toàn trung đoàn đã kịp xuất kích và quay về được một lần. Bởi vì họ luôn làm mọi thứ theo điều lệnh, còn chúng tôi muốn làm tốt hơn, chúng tôi muốn chứng minh rằng chúng tôi không phải các cô bé của Dunka, rằng chúng tôi muốn chiến đấu thực sự.

Chúng tôi bay trên những chiếc bắp ngô U-2, mà sau này được mang tên nhà thiết kế ra nó, Polikarpov, - và nó trở thành Po-2. Đó là chiếc máy bay hai tầng cánh đơn giản nhất, mà người ta dùng dạy bay tại tất cả các câu lạc bộ hàng không. Những chiếc máy bay này, kể từ khi chiến tranh bắt đầu, được sử dụng như máy bay liên lạc, chuyển người bị thương, liên lạc với các du kích, bởi vì nó bay chậm và êm. Nếu tắt hết đèn dẫn đường trên thân, sẽ không thể nhìn thấy nó. Nếu nó bị bắn rơi, nó sẽ hạ cánh, như một chiếc dù - xuống khoảng trống trong rừng, xuống đường làng, xuống bất cứ nơi nào, bởi vì cự ly xả đà của nó ngắn, tốc độ thấp. Và bắn hạ nó không phải chuyện đơn giản: nếu bắn vào cánh - sẽ gây ra lỗ thủng, còn chẳng được gì hơn. Để nó bốc cháy, cần phải có mồi lửa bắn trúng nó - quả thật, máy bay sẽ cháy ngay, vì nó làm bằng gỗ.

Năm phút một lần chúng tôi cho một chiếc máy bay xuất kích - không thể bật hệ thống đèn dẫn đường trên thân để bay theo đội hình. Khi tất cả các kíp bay đã cất cánh, chiếc máy bay đầu tiên quay về, chúng tôi tiếp xăng và treo các trái bom mới cho nó. Ban tham mưu luôn trực chiến trên sân bay: trung đoàn trưởng Bershanskaya và tôi hoặc cấp phó của tôi. Chúng tôi nhận báo cáo từ các kíp bay vừa về - họ nói với chúng tôi: "Tôi đã ném bom xuống điểm này, ở đây có các bồn chứa lớn, rõ ràng là chứa xăng, từ chỗ ấy cao xạ bắn lên như thế, đây các đống lửa cháy, đây quân đổ bộ đổ quân, đây các tàu cao tốc đang vào gần..." Chúng tôi điều chỉnh mục tiêu cho các phi hành đoàn tiếp theo. Và cứ như vậy suốt đêm. Trong một đêm chúng tôi kịp thực hiện nhiều phi vụ hơn so với cánh nam giới. Rồi suốt buổi sáng chúng tôi tổng hợp và viết báo cáo tác chiến tóm tắt - đã bay đến đâu, ném bom chỗ nào - sau đó nằm ngủ, nếu có thời gian.
.......


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 04 Tháng Mười, 2015, 09:42:07 pm
(tiếp)

Tổng cộng, trung đoàn của chúng tôi ban đầu có 115 người, biên chế hai phi đội. Đến cuối chiến tranh, 32 cô gái của chúng tôi đã hy sinh, thêm hai người chết bệnh. Tuy nhiên, khi kết thúc chiến tranh, chúng tôi có 230 người. Nhìn chung, trong không quân thường có chuyện như sau: trung đoàn ra mặt trận, sau một tháng gần như họ bị tiêu diệt hết, khi đó một hoặc hai phi hành đoàn còn lại được gửi về hậu phương, họ được trang bị các máy bay mới, đào tạo lại phi công , tuyển người mới - và quay trở lại mặt trận. Nhưng chúng tôi không muốn như vậy - ai ở hậu phương sẽ tuyển các cô gái cho chúng tôi? Chúng tôi tự làm tất cả mọi thứ, ngay ở mặt trận. Đồng thời với hoạt động chiến đấu, chúng tôi cũng có một trường đào tạo. Chúng tôi đã đào tạo chuyển loại các hoa tiêu của mình thành phi công, kỹ thuật viên - thành hoa tiêu, còn kỹ thuật viên thì lấy các cô gái ở trong làng.

Một lần Vershinin, tư lệnh tập đoàn quân KQ 4, có mặt trong một cuộc họp đảng ở trung đoàn chúng tôi và nói: "Các cô gái, các cô là những người phụ nữ đẹp nhất thế giới. Bởi vì vẻ đẹp thực sự không nằm ở các đôi môi tô son và đôi mắt kẻ màu, mà nằm trong sức mạnh tinh thần to lớn các cô mang vào cuộc đấu tranh của các cô cho hạnh phúc của Tổ quốc chúng ta". Điều đó đến giờ tôi vẫn còn nhớ. Điều đó làm chúng tôi ngày ấy thực sự xúc động. Và nó bắt đầu tạo nên vinh quang cho trung đoàn chúng tôi. Các tư lệnh phương diện quân muốn thấy phép lạ ấy là gì - một trung đoàn toàn những cô gái, bay tốt hơn so với nam giới, thực hiện nhiều phi vụ hơn và họ đã bắt đầu đề nghị tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô. Mà để đề cử danh hiệu Anh hùng Liên Xô cho các phi vụ trên máy bay Po-2 chỉ có thể giới thiệu người phi công hay hoa tiêu đã thực hiện từ 500 phi vụ thành công trở lên. Phải là các phi vụ thành công!

(http://bg.ru/media/upload/images/uold/3a/16/3a16ffdb626d3f744e5fdf3d7df49837.jpg)
Trái sang phải: Hoa tiêu trung đoàn Sofia Burzaeva, trưởng tiểu ban tác chiến ban tham mưu trung đoàn Anna Elenina, tham mưu trưởng trung đoàn Irina Rakobolskaya (http://bg.ru/society/irina_rakobolskaya-11522/)

Khi giai đoạn tấn công bắt đầu, và chúng tôi đi từ Vladikavkaz đến Kuban, đôi khi chúng tôi ghé vào các ngôi làng chúng tôi từng dừng chân khi rút lui.

Và người dân nói với chúng tôi, người Đức đã nói với họ rằng các cô gái đang bay và ném bom - là những tên tội phạm và họ ra mặt trận bởi vì người ta hứa sẽ xóa bỏ tội trạng hình sự cho họ. Người Đức gọi chúng tôi là những phù thủy đêm. Đến lúc ấy những người anh em đã thôi gọi chúng tôi là "trung đoàn Dunka" mà nói "các cô em gái". Còn cánh bộ binh viết cho chúng tôi là "các nàng Marusya của chúng tôi".

Một lần chúng tôi ở Terek. Ở đó phòng tuyến của chúng ta không nhúc nhích một thời gian rất dài, và một nữ phi công (chúng tôi không biết ai, dù chúng tôi có thể đoán được) đã hạ độ cao sát sạt trên khu vực Terek và hét lên với các chiến sĩ của chúng ta: "Các anh ngồi đấy làm cái quỷ quái gì vậy mà không tấn công?! Chúng tôi bay, ném bom cho các anh ở đây, còn các anh cứ ngồi lì một chỗ!" Mà nói từ trên xuống khi bạn thu hết cửa ga, tất cả sẽ nghe rất rõ. Vào buổi sáng, tiểu đoàn này đã đứng lên, bước vào trận đánh. Chúng tôi không biết gì về chuyện này, nhưng sau đó nhận được một lá thư từ người chỉ huy bộ binh: "Hãy tìm người phụ nữ đã từ trên hét xuống đầu chúng tôi" - ông ấy muốn cảm ơn cô đã thông báo. Trong một dịp khác, khi chúng tôi ở Kerch, quân đổ bộ chúng ta đã đổ bộ xuống Eltigen, và người Đức bao vây cắt lìa họ khỏi quân ta. Chúng tôi bay, chở đến đó thực phẩm, mìn, thư từ, báo chí, khoai tây. Khi đội đổ bộ ấy thoát khỏi vòng vây và đi qua Taman, họ luôn miệng nói: "Các cô gái, cảm ơn các bạn!" Nhưng nam giới cũng bay đến đấy thế thì tại sao họ biết được ở đây có các cô gái? Hóa ra các chàng trai bay đến, thả hàng và bay đi, còn các cô gái hạ độ cao và kêu lên với họ: "Ở dưới cẩn thận! Bắt khoai tây!", hoặc: "Xin chào! Mìn để đâu đây?", hoặc:" Chúng tôi xin chào các bạn" Và người sư đoàn trưởng sư đoàn đó sau này viết rằng những giọng nữ vui vẻ từ trên không kia đối với họ còn quý hơn các quả bom mà họ mang! Họ chỉ phiền lòng ở chỗ chúng tôi thả cho họ khoai tây sống - ở đó họ không thể nấu chín được khoai, không thể đốt lửa.

Sau khi trở về Moskva từ nơi sơ tán, mẹ tôi làm quen với cha mẹ các đồng đội cùng trung đoàn chúng tôi. Họ đến thăm nhau: nhận được thư từ ai - họ đi nói chuyện cho những người khác biết. Khi ở trung đoàn chúng tôi xảy ra chuyện Zhenya Rudneva bị bắn cháy trên bầu trời Kerch, tôi đã viết tin này báo cho mẹ tôi. Nhưng mẹ cô ấy không nhận được bất cứ lá thư nào - người ta sợ báo tin cho bà biết việc Zhenya đã chết. Và mẹ của Zhenya đến chỗ mẹ tôi: "Bà không biết chuyện gì sao?" Mẹ tôi sau này kể: "Mẹ nhìn vào mắt bà ấy mà không thể nói. Mẹ biết Zhenya đã chết, và mẹ cô ấy chưa biết".

Sau chiến tranh một phóng viên Tây Ban Nha đến chỗ chúng tôi và hỏi: "Tại sao các bạn lại ra mặt trận? Bởi các bạn không bắt buộc phải làm điều đó. Các bạn đi bảo vệ ai? Stalin ư?" Nhưng chúng tôi không chiến đấu vì Stalin. Chúng tôi không mang ảnh của ông đi theo trước mình và chưa bao giờ viết dù trên các máy bay, hay dù ở đâu dòng chữ "Xung trận vì Stalin!" Chúng tôi hiểu hết. Chúng tôi biết ông ấy đã giết chết toàn bộ giới lãnh đạo quân sự tinh hoa của chúng ta, đã xử bắn những tổng tư lệnh ưu tú nhất. Chúng tôi là những cô gái biết suy nghĩ. Chúng tôi chiến đấu vì những con người của chúng tôi, đã hy sinh gần Moskva và xa hơn nữa trên khắp nước Nga, những người mà người Đức đã thủ tiêu trong các phòng hơi ngạt. Chúng tôi đã thấy các phòng hơi ngạt này ở Krasnodar - nó là chiếc xe cứu thương, ngoài sơn chữ thập đỏ. Người Đức cho những người bị thương của chúng ta lên đó và xả hơi ngạt vào. Còn tử thi sau đó bị họ ném xuống con hào đâu đấy. Chúng tôi biết người Đức đã hãm hiếp các cô gái của chúng tôi như thế nào khi họ ở trong các ngôi nhà gỗ, chúng tôi đã thấy những gì họ đã làm với người dân.

Còn khi chúng tôi vào Đông Phổ, chúng tôi đã thấy những binh sĩ của chúng ta, những người mang trong túi áo của mình một mảnh giấy ghi địa chỉ của một người Đức đã từng ở trong nhà anh, hãm hiếp con gái anh, giết chết vợ anh. Chúng tôi tiến vào nước Đức với khẩu hiệu "Chúng ta tới như những người báo thù!". Nghĩa là, người ta kêu gọi chúng ta trả thù. Nhưng thời gian đầu tiên, nói chung, chúng tôi không gặp ai - tất cả họ đã ra đi. Tại Đông Phổ có những ngôi làng nhỏ với những ngôi nhà đầy đủ tiện nghi; ở đó, lần đầu tiên trong đời tôi nhìn thấy tủ lạnh, đó là năm 1945. Phía trên mỗi chiếc giường treo một phiên bản lớn bức tranh Madonna và chúa hài đồng. Chúng tôi nhìn thấy dấu hiệu của một cuộc sống khác. Và tất cả đều trống rỗng hoang vắng. Trên con đường mà chúng tôi đi, vung vãi những chiếc xe đẩy trẻ em và bay đầy lông chim - rõ ràng, họ mang theo những chiếc đệm lông chim. Trên núi có những đàn bò đen-trắng khá lớn, chúng đã chết vì không ai vắt sữa cho chúng. Chỉ có một lần trong một ngôi làng, tôi nhìn thấy một người phụ nữ Đức, cô ta nằm và đã chết. Quang cảnh là như vậy, khi chúng ta chưa tiến tới phòng tuyến Danzig (sau năm 1945 - Gdansk - BBT). Ở đó có hàng ngàn người Đức.

Sau đó, khi chúng tôi vào một điểm dân cư lớn, nơi có rất nhiều người Đức, và người ta bắt đầu giết họ và hãm hiếp phụ nữ, lập tức có lệnh khẩn từ trên đưa xuống - không được trả thù. Nhưng các cậu trai đội đèn chiếu phòng không đã kể với tôi rằng, có, người ta tìm phụ nữ và hãm hiếp họ lần lượt, một, hai, ba - một, hai, ba. Còn tôi đã nhìn thấy một cảnh tượng không thể nào quên: chúng tôi lái xe đi trên đường, ở đoạn cua có một chiếc xe công vụ cỡ lớn, bên cạnh chiếc xe - một bà già, trên người bà có đôi hài mũi cong ngược lên ... và những người lính của chúng ta leo xuống từ chiếc xe ấy - họ bắn tất cả những người trong xe một cách lần lượt. Và bà ấy vẫn đứng, không ngã mà không hiểu tại sao. Không một tiếng kêu, không một tiếng ồn. Họ đã giết cả bà già như vậy đấy. Trong các ngôi làng nhiều lần người ta tìm thấy trên gác xép những trẻ em bị treo cổ và bà già đã tự tử - bà treo cổ các cháu của mình, để chúng không rơi vào tay những binh sĩ Xô Viết. Nhưng nếu như, khi chúng tôi ngồi vào bàn ăn trưa, có một người Đức đi đến bên bàn chúng tôi, chúng tôi sẽ cho họ ăn. Và họ đối xử với chúng tôi rất thiện ý. Tôi chưa bao giờ thấy người Đức có bất kỳ kiểu chiến tranh du kích nào. Người ta vẫn nói rằng có, nhưng tôi không nhìn thấy. Vậy là những người khác nhau có thái độ ứng xử khác nhau và chịu đựng theo cách khác nhau.

(http://bg.ru/media/upload/images/uold/08/42/0842b921a41a2a6583fac74308876dff.jpg)
Tham mưu trưởng trung đoàn KQ 588 Irina Viacheslavovna Rakobolskaya (http://bg.ru/society/irina_rakobolskaya-11522/)

Khi chúng tôi ở Đông Phổ, một lần Rokossovsky đến trung đoàn chúng tôi để trao các ngôi sao Anh hùng Liên Xô. Ông tò mò ngắm - một trung đoàn cận vệ, rất nhiều anh hùng, nhưng toàn các cô gái. Trung đoàn tập trung tại một hội trường lớn, trung đoàn trưởng Bershanskaya, Rokossovsky và năm tướng lĩnh ở trong một căn phòng riêng, chờ đợi. Tôi đi vào căn phòng đó để báo cáo Bershanskaya biết hội trường đã sẵn sàng - đột nhiên Rokossovsky đứng dậy, và tất cả các vị tướng làm theo ông. Tôi nói với ông: "Đồng chí cho phép tôi báo cáo trung đoàn trưởng chứ?" - "Báo cáo đi". Tôi báo cáo. Họ vẫn đứng. Sau đó, ông nói với tôi: "Đồng chí ngồi xuống". Tôi ngồi xuống. Khi đó tất cả bọn họ mới ngồi xuống. Chao ôi, tôi nghĩ rằng tôi sẽ chết mất. Họ đứng trước mặt tôi như đứng trước một người phụ nữ. Tôi vẫn là một người phụ nữ, hóa ra là vậy! Để tham mưu trưởng sư đoàn hoặc sư đoàn trưởng đứng dậy trước tôi, - đừng có mơ bạn nhé! Còn Rokossovsky là nguyên soái, - ông ấy vẫn đứng dậy.

Khi chiến tranh kết thúc, chúng tôi được chuyển về phía nam, tới Shveybnits, một thành phố của Đức, sau này bàn giao cho Ba Lan. Tôi sống trong một căn nhà trống rỗng, chủ nhân của nó đã bỏ chạy: tên của ông ta là Von Multke, được viết trên cánh cửa ra vào. Tại Shveybnitse người Đức thực sự đã giúp chúng tôi - họ sưởi ấm phòng cho chúng tôi, họ mang đồ cần thiết tới cho chúng tôi, làm cho chúng tôi nhiều việc. Thật là điều kinh ngạc cho mọi người, khi họ thấy rằng họ không bị hiếp dâm, không bị đánh, không bị giết, không bị đốt nhà, mọi thứ diễn ra theo cách hoàn toàn khác và tốt đẹp.

Vào thời điểm đó, ở Moskva đang chuẩn bị lễ duyệt binh Chiến thắng. Tất cả các phi công cùng với máy bay của họ đã tham gia vào cuộc duyệt binh này và các lực lượng mặt đất của trung đoàn chúng tôi - các quân khí viên, các thợ cơ khí, các kỹ thuật viên - vẫn ở lại Shveybnitse. Và tôi được giao đứng đầu bộ phận này. Lúc đó, tôi đến gặp Vershinin và nói: "Vì chúng ta ở đây một thời gian dài, đồng chí đã giải quyết cho đưa vợ chồng tới. Tôi chưa có chồng, hãy cho phép tôi đưa mẹ tôi đến". Ông nói: "Cô cứ đưa cụ tới. Chúng ta vừa có một máy bay bay về Moskva, cô hãy nhờ cô gái nào đó trong số các cô gái trung đoàn đưa giúp bà cụ đến đây". Lần đó mẹ tôi lần đầu tiên trong đời được đi máy bay: "Irina, đẹp lắm, mẹ và mọi người đã bay dọc theo sông Vistula!" Và bay cùng bà trong chiếc máy bay này là kỹ thuật viên trưởng của chúng tôi, cô ấy nói với tôi: "Cậu biết không, tôi nghĩ tôi sợ đến chết khiếp. Các phi công uống quá nhiều và quậy dữ dằn - họ bay theo cái cách mà tôi nghĩ sẽ đâm ngay xuống bờ sông, sẽ chấm hết mọi chuyện ngay bây giờ". Cô ấy ngồi run lập cập, còn mẹ tôi thì xuýt xoa ngưỡng mộ.

(http://bg.ru/media/upload/images/uold/d8/86/d88660430d14db31c410afd768a1674e.jpg)
Chính ủy Evdokya Rachkevich tiếp nhận từ Irina Rakobolskaya lá cờ của trung đoàn, để chuyển giao nó vào Bảo tàng Quân đội Xô Viết, Sveydnits, năm 1945 (http://bg.ru/society/irina_rakobolskaya-11522/)

Năm 1945, trung đoàn bị giải tán và tôi trở về Moskva. Chúng tôi đều rất lo lắng, chúng tôi sẽ làm gì ở hậu phương, ở đấy ai cần đến chúng tôi - không tiền, không học vấn. Chúng tôi không biết chúng tôi sẽ làm việc ở đâu, chúng tôi sẽ sống như thế nào... Và lúc đó tôi đề nghị giữ tôi lại phục vụ quân đội và gửi tôi đến Học viện Kỹ thuật Không quân mang tên N.E.Zhukovsky, học năm thứ nhất. Thực tế là tôi không muốn trở lại khoa Vật lý; Dima Linde, người bạn của tôi, đang làm việc tại học viện, - anh ấy, cũng như tất cả các nhà vật lý học khóa chúng tôi, được gọi nhập ngũ khi bắt đầu chiến tranh, được gửi đến học viện để đào tạo - quân đội không có đủ kỹ sư quân sự. Dima đã tốt nghiệp học viện này, làm xong nghiên cứu sinh và đang là giáo viên giản dạy tại học viện - tôi nghĩ rằng nếu tôi học tập ở đó, anh sẽ giúp được tôi. Nhưng người ta trả lời tôi rằng không có việc gì cho phụ nữ làm trong quân đội, và cho tôi quay trở lại khoa Vật lý của mình. Tôi vẫn còn giữ được bức thư đó - vậy là trong chiến tranh tôi có thể chiến đấu, nhưng khi trở về thế giới dân sự việc ở lại quân đội là không thể.

Dima sau này kể với tôi rằng, khi ở trường phổ thông anh rất muốn trở thành diễn viên. Nhưng vì thời ấy tất cả chúng tôi cho là những diễn viên - là những người không xứng đáng, họ chỉ nghĩ đến bản thân, nên anh quyết định đầu tiên hãy tốt nghiệp một trường đại học dân sự, sau đó mới vào Nhà hát Malyi. Và khi chiến tranh kết thúc, anh đã tới đó. Tại nhà hát, họ ngắm nhìn anh và nói: "Chúng tôi sẽ nhận anh ngay lập tức, không cần bất kỳ cuộc thi tuyển nào". Anh ấy có chất giọng rất đẹp - mặc dù tôi chưa bao giờ nghe, khi có mặt tôi anh không hát, anh ấy xấu hổ. Nhưng Học viện không cho anh đi. Anh làm việc ở đó đến năm 60 tuổi hơn, rồi giải ngũ và đến một trường đại học dân sự.

(https://upload.wikimedia.org/wikipedia/ru/f/f9/Skobeltsin_skobeltsyn_s.jpg)
Dmitri Vladimirovich Skobeltsyn (1892-1990), nhà vật lý học Nga Soviet, Viện sĩ VHLKH LX. Hoạt động trong lĩnh vực vật lý năng lượng cao. Một trong những người đầu tiên phát hiện ra positron năm 1923. (https://ru.wikipedia.org/wiki/%D0%A1%D0%BA%D0%BE%D0%B1%D0%B5%D0%BB%D1%8C%D1%86%D1%8B%D0%BD,_%D0%94%D0%BC%D0%B8%D1%82%D1%80%D0%B8%D0%B9_%D0%92%D0%BB%D0%B0%D0%B4%D0%B8%D0%BC%D0%B8%D1%80%D0%BE%D0%B2%D0%B8%D1%87)

Trở về Khoa Vật lý, tôi hoàn toàn không muốn. Nhưng lúc bấy giờ ở Mỹ, bom nguyên tử bắt đầu được sản xuất, và tại Khoa Vật lý để nhanh chóng cho ra lò các nhà khoa học hạt nhân của mình, họ lập tức tổ chức một nhóm chuyên ngành về hạt nhân và lấy về đó tất cả các nhà vật lý đã học xong những năm đầu tiên và từng ở mặt trận. Họ ra lệnh cho tôi: giải ngũ và chuyển về dưới quyền điều động của Viện sĩ Skobeltsyn (Dmitry Skobeltsyn - người sáng lập Viện Nghiên cứu Vật lý hạt nhân, Moscow State University - BBT). Tôi phải quay lại trường đại học. Tôi vào nhóm hạt nhân này, ngồi nghe, mà chẳng hiểu gì - bởi vì kiến thức tôi đã quên sạch, dù xét theo điểm thì tôi học khá xuất sắc, nhưng luôn luôn chểnh mảng, quay cóp bài, phải gà bài. Và rất buồn ngủ: ở mặt trận chúng tôi đêm làm việc ngày ngủ. Còn bây giờ ban ngày thì nghe bài giảng, căn phòng ấm áp, ghế bọc da êm ái, giảng viên nói - bu-bu-bu, thầy viết một cái gì đó, và tôi thậm chí không thể, dù đã lấy tay giữ mắt, tôi vẫn ngủ thiếp đi. Sau đó tôi đi gặp bí thư đảng bộ Sergeyev và nói" "Evgeny Mikhailovich, xin hãy giúp tôi. Tôi không biết phải làm gì. Tôi không hiểu gì hết". Ông nói: "Bây giờ tôi sẽ cứu cô". Sau hai-ba ngày có một cuộc họp lớn của tổ chức đoàn Komsomol MGU, và tôi đã một lần nữa được bầu làm thư ký đoàn Komsomol trường đại học - được miễn tất cả các giờ học. Viện sĩ Ilya Mikhailovich Frank người chịu trách nhiệm về tiểu ban của chúng tôi, chạy đến gặp bí thư Đảng bộ và nói: "Anh làm gì đấy? Họ theo mệnh lệnh của Tổng tư lệnh được phái đến chỗ chúng ta!" Và Evgeny Mikhailovich cho biết: "Tôi không làm gì cả, các cô các cậu ấy đã chọn. Tôi không thể làm bất cứ điều gì chống lại các cô cậu ấy". Dẫu sao tôi đã thoát được khỏi tiểu ban hạt nhân này.

Ngay sau đó, tôi lập gia đình với Dima. Mishka, người bạn thứ hai của tôi, bị người ta bắt giam trong thời gian chiến tranh. Anh không được lấy vào quân đội, vì thị lực rất kém. Và họ cùng các chàng trai khác không thể ra mặt trận, tụ tập ở phố Arbat, làm thơ, rồi làm cả chuyện gì khác nữa - và người ta tống giam tất cả bởi vì cho rằng họ đang chuẩn bị giết những người qua đường tại Arbat. Sau chiến tranh, anh được ân xá (trong khuôn khổ cái gọi là ân xá nhân dịp chiến thắng - BBT), nhưng không được phép sống ở Moskva - anh bị đày đến Gorky. Khi tôi trở về Moskva, tôi và Dima, khi vắng mặt người thứ hai, nhanh chóng nhận ra rằng chúng tôi sẽ lấy nhau. Mishka sau này thỉnh thoảng ghé qua Moskva, đến thăm chúng tôi - chúng tôi vẫn là những người bạn của nhau.

(http://nuclphys.sinp.msu.ru/persons/images/zatsepin_georgy_t.jpg)
Georgy Timofeyevich Zatsepin (1917-2010), nhà vật lý học người Nga, Viện sĩ VHLKH LX, VHLKH Nga. Hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực vật lý tia vũ trụ, các hạt muy và hạt nơ-tri-nô, vật lý thiên văn neutrino. Từ năm 1945 G.T.Zatsepin làm việc tại bộ môn của Viện sĩ D.V.Skobeltsyn (1892-1990) thuộc Khoa Vật lý MGU (sau này trở thành bộ môn tia vũ trụ và vật lý vũ trụ Khoa Vật lý MGU). (https://ru.wikipedia.org/wiki/%D0%97%D0%B0%D1%86%D0%B5%D0%BF%D0%B8%D0%BD,_%D0%93%D0%B5%D0%BE%D1%80%D0%B3%D0%B8%D0%B9_%D0%A2%D0%B8%D0%BC%D0%BE%D1%84%D0%B5%D0%B5%D0%B2%D0%B8%D1%87)

Một năm sau tôi mang thai. Tiếp theo tôi có thêm thời hạn một năm vì sinh con, kéo dài một năm vì làm công tác ban chấp hành đoàn trường đại học và lặng lẽ kết thúc hai năm học cuối đại học ấy trong bốn năm. Tôi trả bài thi khi tất cả phải học lại hết. Tôi cảm thấy rất khó hiểu, tôi đã quên tất cả mọi thứ. Người đã giúp tôi là Georgy Timopheyevich Zatsepin, Yura, viện sĩ tương lai, người học trước chúng tôi hai năm thời ấy. Chúng tôi kết bạn với anh, và khi tôi tốt nghiệp đại học, anh đang làm việc bán thời gian tại Khoa Vật lý. Và tôi thấy Yura làm việc thế nào, - khi tôi tới chỗ anh trả bài. Một hôm anh hỏi tôi làm đồ án tốt nghiệp ra sao. Và tôi được phái đi đếm các electron trong một cỗ máy đặt dưới lòng đất tại ga tàu điện ngầm "Kirov" và tôi đã ngồi ở đó ôm bụng mà ngủ: tôi bật máy, nó đếm - và tôi ngủ. Sau đó, tôi ghi lại kết quả, tắt máy và đi về. Cứ thế, tôi thu thập được một lượng tài liệu lớn và không biết phải làm gì với nó. Yura nói: "Cậu phải xem bài viết này này". Tôi xem rồi lại đến gặp anh, anh lại khuyên: "Cậu phải kiểm tra thêm xem nó thế nào". Tôi đọc, rồi lại tới gặp anh... Anh bắt tôi tìm hiểu bản chất vật lý của những gì tôi đang làm. Kết quả là, tôi đã viết được một đồ án tốt nghiệp khá tốt. Nhưng nếu không có Yura, bản thân tôi sẽ không bao giờ làm được.
.........


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 05 Tháng Mười, 2015, 07:14:15 pm
(tiếp)

Trong thực tế, làm nên cuộc đời của tôi có hai người: đó là Zatsepin, người tìm cách làm cho tôi hiểu được bản chất của sự vật và Raskova, người nói với chúng tôi: "Các cô gái, phụ nữ có thể làm được tất cả mọi thứ! Các bạn sợ gì chứ? Tại sao? Nếu các bạn cho rằng các bạn đúng, hãy đi và làm bằng được điều đó".

Khi tôi tốt nghiệp đại học, tôi được đề nghị làm nghiên cứu sinh. Tôi từ chối - tôi đã có hai cậu con trai nhỏ, và tôi cho rằng bây giờ là lúc phải dồn cho chúng tất cả tình yêu của tôi, sự quan tâm của tôi. Nhưng người giảng viên cần phải làm cả công tác nghiên cứu khoa học. Và một bạn gái thân của tôi khuyên tôi nên đi làm nhân viên trực thiết bị mới tại Viện Hàn lâm khoa học. Tôi đã đi. Vào mùa hè, thiết bị này cần phải di chuyển đến Pamir. Người ta đề nghị tôi đi cùng với chúng, và tôi đã làm việc suốt cả mùa hè tại Pamir (lũ trẻ và chồng tôi đã trải qua mùa hè với mẹ tôi ở Dankov). Sau đó tôi trở về Moskva, cần xử lý các kết quả, và một lần nữa Yura nói với tôi: "Ira, hãy cho tôi biết cậu thu được những gì ở đó". Tôi cho anh xem kết quả. "Những cái này, cậu có biết từ đâu ra không?" - "Không". - "Cậu hãy xem xét công việc này". Hoặc: "Cậu cần phải tìm hiểu kỹ càng kỹ thuật này". Cuối cùng tôi cũng đã viết thành một bản luận án. Và người lãnh đạo thứ hai của tôi, người đã đưa tôi đến Pamir, nói: "Tôi không bao giờ nghĩ một việc vô nghĩa như vậy lại có thể dẫn đến một công việc tốt đẹp như thế".

(http://bg.ru/media/upload/images/uold/de/98/de98aabc958a6ff4484116391c575712.jpg)
Các phi công Natalya Meklin và Raisa Aronova và hoa tiêu Ekaterina Ryabova,
cả ba — Anh hùng Liên Xô, Ba Lan, năm 1944
(http://bg.ru/society/irina_rakobolskaya-11522/)

Thời gian trôi qua. Các con tôi lớn lên, lấy vợ, và tôi bắt đầu tập trung nghiên cứu khoa học. Tại thời điểm này ở Mỹ, một nhà khoa học thu được một kết quả bất thường. Chúng tôi nghĩ rằng kết quả này là sai, và tôi quyết định bác bỏ nó. Nhưng để làm điều này cần có một thiết bị thí nghiệm cần thiết, mà chúng tôi không có gì trong tay để làm. Khi đó, tôi ngồi viết một bức thư gửi lên chính phủ, rằng như thế như thế, rằng tôi có thể xây dựng một thiết bị thí nghiệm và sử dụng nó để chứng minh kết quả là sai, nhưng để làm điều này tôi cần 500 tấn chì, các tấm thép cán, 5000 mét vuông phim tia X, một không gian ngầm dưới lòng đất ở Moskva và một trung tâm hiển thị... Tôi gửi bức thư cho chính phủ, không cho ai xem trước trừ Bí thư Đảng bộ Sergeyev. Rồi bỗng tôi nhận được hồi âm rằng sẽ dành riêng cho chúng tôi tất cả những thứ chúng tôi cần. Khi đó tôi nhớ đến Raskova - tại sao phải sợ? Cần phải phấn đấu. Tuy nhiên, không gian thì họ không thể cho chúng tôi. Nhưng tôi biết một người phụ nữ lúc đó đang là người đứng đầu mạng Metro của Moskva. Tôi gọi điện cho cô ấy và nói, "Xin hãy giúp đỡ, chúng tôi cần một không gian ở độ sâu đúng 10 mét, để tôi có thể đặt 40 buồng máy, mỗi cái 0,5 mét vuông". Và cô ấy tìm được cho tôi một hầm trú bom cũ tại nhà ga "Công viên Văn hóa". Vào đó chỉ có thể từ đường ray - và chúng tôi đến đó hằng đêm khi chiếc đầu máy hơi nước cuối cùng đã đi qua. Kết quả là chúng tôi đã chứng minh được tất cả mọi thứ chúng tôi muốn - và hơn thế nữa, nhà khoa học Mỹ kia đã đến hội nghị về tia vũ trụ và nói: "Tôi đã sai. Chúng tôi tính toán nền đất chưa đúng. Đó là sai lầm của tôi". Chưa có một ai trong số các nhà khoa học của chúng ta trong cuộc sống từng nói được câu: "Tôi đã lầm".

Rem Viktorovich Khokhlov, một nhà vật lý, thời điểm đó là Hiệu trưởng MGU, khăng khăng rằng tôi phải bảo vệ luận án tiến sĩ dựa trên kết quả này. Còn tôi thì không muốn - cả trường đại học tổng hợp đều biết tôi như thế, tôi từ mặt trận trở về, là chủ tịch hội phụ nữ, thành viên hội cựu chiến binh, chủ nhiệm khoa đào tạo nâng cao nghiệp vụ, thành viên hội đồng học thuật lớn, đã xây dựng phòng thí nghiệm của mình. Tôi cần cái bằng tiến sĩ ấy làm quái gì? Và tôi nói với anh ta: "Rem, tôi sẽ không bảo vệ đâu. Tôi còn sức nào nữa. Tôi vẫn đang phải làm việc. Khi nào tôi sẽ làm luận án này chứ?" Và anh ta đã xin được sự cho phép để tôi bảo vệ bằng chính công trình đã công bố mà không cần viết luận án tiến sĩ. Và sau khi nhận được danh hiệu tiến sĩ, tôi thấy chẳng có gì lạ khi cảm giác có điều gì đó đã thay đổi. Người ta bắt đầu xử sự với tôi theo một kiểu cách khang khác nào đó - mặc dù trước đây họ vẫn tôn trọng tôi.

Sau đó, tôi được trao danh hiệu nhà khoa học công huân Liên bang Nga và giáo sư công huân Đại học Tổng hợp Quốc gia Moskva. Tôi làm thí nghiệm, dự tất cả các hội nghị về tia vũ trụ; làm chức trách Phó trưởng bộ môn. Sau đó chồng tôi bị bệnh nặng. Anh bị mù, đi lại khó khăn. Tôi vừa chăm sóc anh vừa đi giảng bài, đi mua đồ ở cửa hàng, nấu ăn - sắp xếp thời gian để kịp làm tất cả. Khi anh đã nằm liệt và tôi không thể nâng anh dậy, cũng không đặt được anh sang giường khác, bác sĩ khi thấy tình hình thực sự rất nghiêm trọng, đã đưa anh vào bệnh viện, vào phòng hồi sức cấp cứu. Và anh nằm tại đó 12 ngày rồi qua đời. Tôi đã thuyết phục giám đốc bệnh viện cho tôi được phép đến thăm anh tại phòng hồi sức cấp cứu, và tôi đã ba lần ở bên cạnh anh trong phòng hồi sức. Lần cuối cùng anh không còn nói được gì, nhưng nhận ra tôi - anh nắm lấy tay tôi và hôn lên bàn tay.

(http://bg.ru/media/upload/images/uold/70/37/7037852eb8e0776be421094d05c07243.jpg)
Các con trai của Irina Rakobolskaya và Dmitri Linde: Andrey (trái, giáo sư vật lý đại học Stanford, Mỹ) và Nikolai (phải, giáo sư tâm lý học Đại học Nhân văn Moskva). (http://bg.ru/society/irina_rakobolskaya-11522/)

Cả anh và tôi đều đã 86 tuổi. Tôi có cảm giác rằng tôi không cần cho bất cứ ai nữa, và bây giờ tôi có thể chết. Vừa làm tang lễ cho anh xong, tôi lập tức liệt giường - tôi không muốn đi lại, tôi phải dùng thuốc an thần. Vì những viên thuốc này mà tôi quên mất cả tên của tôi và tôi là ai trên đời này, nói chung tôi đã phát điên. Sau đó, người con trai út của tôi, Kolya, lấy đi hết tất cả các loại thuốc, và không được sự đồng ý của nó, tôi không thể dùng  bất cứ loại thuốc gì. Sau đó, bộ não của tôi bằng cách nào đó cũng đã hồi tỉnh, tôi bắt đầu hình dung được một điều gì đó và thấy rằng tôi đang nằm. Sao vậy, tôi thực sự không thể đứng lên ư? Khi đó, tôi bắt đầu nắm tóc mình mà kéo. Tôi bắt đầu ngồi dậy, đi lại trong căn hộ, thậm chí ra phố khi trời ấm, ngồi trên ghế băng. Và tôi đã kéo được bản thân mình lên.

Nói chung, tôi đã sống như vậy năm năm - lúc thì không nhận ra bất cứ điều gì xung quanh mình, lúc thì tự mình đứng lên. Trong thời gian này tâm lý tôi đã thay đổi - tôi không còn nghe những tin tức mới nhất, tôi không quan tâm những gì đang xảy ra. Cần gì phải lo lắng rằng bạn có thể đảm đương được hay không. Mà nếu bạn không thể thay đổi thời tiết - mặc xác nó đi, bạn sẽ làm sao, chẳng nhẽ buồn phiền vì thời tiết ư? Rất nhiều điều trong cuộc sống cũng như vậy: bạn không thể thay đổi, nào thế thì ngồi xuống và khỏi ngó nghiêng. Bởi vậy tôi đặt chiếc TV của mình sang chương trình "Văn hóa" và chỉ xem chương trình này mà thôi.

Một trong những giáo sư của chúng tôi, một chàng trai tốt thực hành chức trách Phó trưởng bộ môn của tôi. Mỗi tối cậu ta gọi điện cho tôi và nói: "Irina Vyatscheslavovna, ngày hôm nay bộ môn chúng ta không có tin tức gì mới, tất cả vẫn bình thường", hoặc: "Galya ốm, cô ấy bị sao sao đó", hoặc: "Giáo sư nghĩ thế nào, ta làm việc này hay không làm?" Tôi cùng anh ta bàn bạc công việc, và tôi cảm thấy - dường như mình đã làm một công việc hữu ích.

Một trong những con trai của tôi, Andrey, sống ở Mỹ, nó là một nhà vật lý nổi tiếng. Và đứa thứ hai, Kolya, làm công tác tâm lý học ở đây, ở trong nước, nó đã phát minh ra một phương pháp điều trị mới. Andryusha có hai con trai, còn Kolya - hai con gái và một con trai. Con gái cả của nó kết hôn với một người Ý và hiện đang sống tại Ý, cháu có hai con - hai đứa chắt của tôi.

Con các đồng đội cùng trung đoàn của tôi đã thành lập hội con cái của trung đoàn. Chúng cũng như chúng tôi trước kia, tập hợp vào ngày 02 tháng 5 trong khu vườn của Nhà hát Bolshoi, và sau đó đi đến chỗ bức tường điện Kremlin nơi chôn tro di hài Raskova, đặt hoa tưởng nhớ chị. Người ta vẫn phát các buổi truyền thanh truyền hình về chúng tôi, người ta viết sách, các phóng viên vẫn đến tường thuật đưa tin về các buổi gặp mặt ấy. Sau đó, họ thuê quán cà phê, đến đó ăn, uống, hồi tưởng, chụp ảnh. Cựu binh trung đoàn chúng tôi có năm người vẫn còn sống đến giờ, chúng tôi vẫn nói chuyện qua điện thoại. Và trong số chúng tôi chỉ hai người còn đi đến dự các cuộc gặp mặt này. Mà trước đó là 50.

Năm 2002, ra đời cuốn sách "Người ta gọi chúng tôi là những phù thủy đêm", trong đó tôi và Natasha Meklin (theo họ chồng là Kravtsova), phi công cơ trưởng, nhớ lại lịch sử của trung đoàn chúng tôi. Sau đó, tôi nghĩ đến việc làm một bộ sưu tập các bài thơ được viết bởi các đồng đội của chúng tôi - thu thập chúng, và tại bộ môn của chúng tôi sẽ cho ra mắt cuốn sách. Đó là tất cả - một phần của tâm hồn tôi. Tôi tin rằng chiến tranh cần được ghi nhớ. Nhưng bạn không thể chỉ sống bằng nó. Nó đã trôi qua lâu rồi. Không thể chỉ nói: "Ồ, tôi đã chiến đấu." Thế sau đó bạn làm gì? Nằm dài trên sàn nhà à? Hay cắm mặt vào chậu xà phòng? Hoặc bạn có làm việc không? Tôi luôn cho rằng một cá nhân được sắp đặt từ hai phần - chiến tranh và cuộc sống dân sự.

Ngày 22 tháng 8 năm 2012
..........


Tiêu đề: Re: Bầu trời vẫn là của chúng ta. Marina Chechneva.
Gửi bởi: qtdc trong 11 Tháng Mười, 2015, 11:55:38 pm
(tiếp)

Ra đi từ mái trường đại học

Từ Đại học Tổng hợp Quốc gia Moskva, theo sự động viên của Ủy ban Trung ương Đoàn Komsomol toàn Liên bang tháng Mười năm 1941, gia nhập quân đội và ghi danh vào nhóm không quân 122, nhóm sau này chia thành ba trung đoàn, là 17 cô gái từ các khoa khác nhau như sau:
Khoa Toán-Cơ
1. Rufina Gasheva
2. Antonina Zubkova
3. Praskovja Zueva
4. Inna Kalynovskaya
5. Nadezhda Komogortseva
6. Evdokia Pasko
7. Olga Radchikova
8. Evgenya Rudneva
9. Ekaterina Ryabova

Khoa Vật lý
10. Irina Minakova
11. Irina Rakobolskaya

Khoa Hóa học
12. Anna Elenina
13. Nina Slovokhotova

Khoa Lịch sử
14. Polina Gelman
15. Valentina Endakova
16. Galina Komkova

Khoa Địa lý
17. Aleksandra Makunina

Họ được phân về các trung đoàn và giữ các cương vị như sau:

Trung đoàn không quân ném bom đêm cận vệ 46:
1. Rakobolskaya Irina - tham mưu trưởng trung đoàn; trở về MGU, Tiến sĩ khoa học Toán lý, giáo sư, nhà hoạt động khoa học công huân Liên bang Nga. Còn tiếp tục làm việc.
2. Anna Elenina - trưởng tiểu ban tác chiến ban tham mưu trung đoàn; sau chiến tranh, hoạt động trong lĩnh vực sản xuất phim đèn chiếu.
3. Evgenya Rudneva - hoa tiêu trung đoàn, Anh hùng Liên Xô; hy sinh tháng 4 năm 1944
4. Ekaterina Ryabova - hoa tiêu phi đội, Anh hùng Liên Xô; tốt nghiệp khoa Toán-Cơ, nghiên cứu sinh, phó tiến sĩ, làm việc tại trường đại học.
5. Gasheva Rufina - hoa tiêu phi đội, Anh hùng Liên Xô; tốt nghiệp Học viện Ngoại ngữ quân sự.
6. Evdokia Pasko - hoa tiêu phi đội, Anh hùng Liên Xô; tốt nghiệp khoa Toán-Cơ, nghiên cứu sinh, phó tiến sĩ, làm việc tại trường đại học.
7. Polina Gelman - hoa tiêu biên đội, Anh hùng Liên Xô; tốt nghiệp Học viện Ngoại ngữ quân sự, đã bảo vệ luận án phó tiến sĩ, giảng viên đại học.
8. Komogortseva Nadezhda - hoa tiêu, hy sinh khi bay huấn luyện năm 1942
9. Radchikova Olga - hoa tiêu biên đội; không trở về MGU.
10 Komkova Galina - đội trưởng vũ khí, sau đó là cán bộ Cục Chính trị Tập đoàn quân Không quân 4; tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Voronezh, làm công tác giảng dạy.

Trung đoàn không quân cận vệ 125 bay máy bay Pe-2:
1. Zubkova Antonina - hoa tiêu phi đội, Anh hùng Liên Xô; tốt nghiệp khoa Toán-Cơ, nghiên cứu sinh. Thiệt mạng trong một vụ tai nạn.
2. Zueva Praskovya - hoa tiêu, tốt nghiệp khoa Toán-Cơ.
3. Minakova Irina - đội trưởng vũ khí; trở về MGU, tiến sĩ khoa học Toán lý, giáo sư, làm việc tại khoa Vật lý.

Trung đoàn không quân tiêm kích 586:
1. Makunina Aleksandra - tham mưu trưởng trung đoàn; trở về MGU, tiến sĩ khoa học địa lý, giáo sư.
2. Kalynovska Inna - sĩ quan tùy tùng phi đội; làm việc tại Viện Hóa lý mang tên Karpov.
3. Endakova Valentina - sĩ quan tùy tùng phi đội, sau đó làm hoa tiêu máy bay liên lạc; trở về MGU, tốt nghiệp khoa Lịch Sử.
4. Slovokhotova Nina - chủ nhiệm hóa học trung đoàn; trở về MGU, tiến sĩ khoa học hóa học, giáo sư Hóa-Lý tại Viện Hoá Lý mang tên Karpov.

Trong số 17 cô gái, có hai người hy sinh.
Sáu cô gái được trao tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô. Tất cả đã nhiều lần được trao tặng huân chương.
Sau chiến tranh 10 trên 15 người còn sống đã trở lại Đại học Tổng hợp quốc gia Moskva. Bốn người trở thành giáo sư, tiến sĩ khoa học, hai người - phó tiến sĩ. Hầu hết là các giảng viên đại học.
..........