Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: vnmilitaryhistory trong 22 Tháng Mười Hai, 2014, 06:03:23 pm



Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 22 Tháng Mười Hai, 2014, 06:03:23 pm
Nhà xuất bản: Quân đội Nhân dân
Năm xuất bản: 2003
Số hoá: ptlinh, vnmilitaryhistory


Những người thực hiện:
- Thiếu tướng, PGS, TS. TRỊNH VƯƠNG HỒNG (Chủ biên)
- Đại tá, TS NGUYỄN MẠNH HÀ (Đồng chủ biên)
- Thượng tá, Th.s TRẦN NGỌC LONG
- Thượng tá, Th.s CHU VĂN TÙNG
- Trung úy, cử nhân PHAN SỸ PHÚC



LỜI CỦA ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP

Xuất phát từ kinh nghiệm đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc và lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Bác Hồ và Đảng ta đã xác định: "Phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng". Chánh cương và Sách lược vắn tắt năm 1930 - cương lĩnh đầu tiên của Đảng ta do Bác Hồ khởi thảo - đã đề ra lập "Quân đội công nông”, về sau, nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (tháng 5-1941), do Bác Hồ từ nước ngoài về nước chủ trì, đã đề ra lập "Việt Nam nhân dân cách mạng quân".


Thực hiện chủ trương ấy, đi đôi với tuyên truyền, vận động phát triển lực lượng chính trị sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân, Đảng ta đã rất coi trọng từng bước xây dựng lực lượng vũ trang. Từ rất sớm, các đội Tự vệ đỏ trong Xô - viết Nghệ - Tĩnh, đội du kích Bắc Sơn, du kích Nam Kỳ, du kích Ba Tơ, các đội Cứu quốc quân... đã ra đời. Khi cách mạng đã phát triển thành cao trào, cần tích cực chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa, Bác Hồ đã nhận định đúng tình hình, sáng suốt đề ra chủ trương lập "đội quân chủ lực" - "Đội Việt Nam Giải phóng quân”. Lúc bấy giờ thời kỳ cách mạng hoà bình phát triển đã qua, nhưng thời kỳ toàn dân vũ trang khởi nghĩa chưa tới nên hoạt động của Đội lúc đầu chính trị trọng hơn quân sự, tuyên truyền trọng hơn tác chiến, vì vậy Bác thêm hai chữ "tuyên truyền" vào tên của Đội, thành "Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân". Thi hành chỉ thị của Bác, ngày 22-12-1944, Đội được thành lập. Chỉ thị thành lập Đội đã xác định rõ: Đây là "Đội quân chủ lực" có nhiệm vụ giúp đỡ, phối hợp hoạt động với lực lượng vũ trang các địa phương. Đây là "Đội quân đầu tiên", "khởi điểm của Giải phóng quân". Đội viên của Đội được chọn từ những thành viên ưu tú trong hàng ngũ các lực lượng vũ trang địa phương: các đội du kích Cao - Bắc - Lạng, đội quân Nam tiến, một số là đội viên Cứu quốc quân.


Ngay sau ngày thành lập, kế thừa truyền thống đấu tranh của dân tộc, Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân đã liên tiếp đánh thắng trận Phai Khắt và trận Nà Ngần, nhanh chóng phát triển thành đại đội. Chấp hành Nghị quyết Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ của Trung ương Đảng (tháng 4-1945), Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân đã thống nhất với Cứu Quốc quân và lực lượng vũ trang các chiến khu, các địa phương trong cả nước thành Việt Nam Giải phóng quân. Các chi đội Giải phóng quân đã tham gia Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945. Một bộ phận tinh nhuệ về Hà Nội bảo vệ chính quyền non trẻ của nước Việt Nam dẫn chủ Cộng hoà. Nhiều đơn vị hành quân Nam tiến chi viện cho các chiến trường Trung Bộ, Tây Nguyên, tham gia cuộc kháng chiến của đồng bào Nam Bộ. Đội quân chủ lực đã đi suốt từ Bắc chí Nam như Bác Hồ đã dự đoán.


Việt Nam Giải phóng quân về sau được đổi tên thành Vệ Quốc đoàn, Vệ Quốc quân, Quân đội Quốc gia Việt Nam rồi Quân đội nhân dan Việt Nam cho đến ngày nay. Như vậy, từ Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, "đội quân đàn anh”, "đội quân thứ nhất của Giải phóng quân" ấy đã phát triển thành Quân đội nhân dân Việt Nam hùng hậu.


Dưới ngọn cờ của Đảng và của Bác Hồ kính yêu, Quân đội ta đã trưởng thành vượt bậc và lập nên những chiến công kỳ diệu trong cuộc kháng chiến vĩ đại 30 năm của dân tộc chống đế quốc xâm lược và làm tròn nhiệm vụ quốc tế, tiếp đó đã có những cống hiến to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xứng đáng là “Bộ đội cụ Hồ", là Quân đội nhân dân Anh hùng của dân tộc Việt Nam Anh hùng.


Do quá trình ra đời và phát triển của Quân đội ta như vậy nên Bác Hồ và Thường vụ Trung ương Đảng đã lấy ngày thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân - ngày 22-12-1944, là ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam.. Từ đó, thường đến ngày thành lập Quân đội, Bác Hồ đều có thư động viên, giáo dục truyền thống cho Quân đội và nhân dân ta. Ngày nay, ngày 22-12, ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam đồng thời là Ngày Hội quốc phòng toàn dân.


Tôi hoan nghênh Viện Lịch sử quân sự Việt Nam đã tổ chức sưu tầm tư liệu rất công phu, gặp nhiều nhân chứng lịch sử để viết nên cuốn "Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân". Đây là một cố gắng lớn, nhưng tôi nghĩ mới là một bước, cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu tìm tòi hơn nữa, để cuốn sách phản ánh được lịch sử một cách đầy đủ hơn.


Tôi mong cuốn sách "Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân" sẽ góp phần giáo dục truyền thông cho các thế hệ cán bộ chiến sỹ, cho toàn quân và toàn dân ta trong cả nước và mong có nhiều ý kiến tham gia, bổ sung thêm nhiều tư liệu góp phần nâng cao chất lượng cho cuốn sách trong lần xuất bản sau.

                                                                                                                  Hà Nội, tháng 8 năm 2003
 

                                                                                                                 Đại tướng VÕ NGUYÊN GIÁP


Tiêu đề: Re: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 22 Tháng Mười Hai, 2014, 06:05:54 pm
LỜI NÓI ĐẦU


Tiến tới kỷ niệm lần thứ 60 ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, được sự chỉ đạo của Thủ trưởng Bộ Quốc phòng, Thủ trưởng Tổng cục Chính trị, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam tổ chức biên soạn cuốn sách khái quát về quá trình hình thành và hoạt động của ĐỘI VIỆT NAM TUYÊN TRUYỀN giải phóng quân. Cuốn sách chia làm ba phần. Phần I trình bày khái quát sự ra đời, quá trình hoạt động của Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân cho tới ngày thống nhất với Cứu quốc quân và các đội vũ trang địa phương thành Việt Nam Giải phóng quân. Phần II trình bày sơ lược tiểu sử và quá trình hoạt động của 34 cán bộ, chiến sĩ đầu tiên của Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân. Đây là phần viết thể hiện kết quả các đợt công tác khảo sát, sưu tầm, gặp gỡ từng đội viên còn sống cũng như gia đình, thân nhân các đội viên đã mất, trên địa bàn khắp cả nước. Phần III là những ghi chép của nhóm cán bộ - đồng thời là tác giả cuốn sách, về các đợt đi tìm hiểu "theo dấu chân Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân". Ngoài ra, phần phụ lục có một số ảnh, bản đồ, sơ đồ liên quan đến hoạt động của Đội.


Việc sưu tầm, biên soạn cuốn sách về Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân là rất cần thiết, mặc dù có không ít khó khăn. Do thời gian lịch sử đã lùi xa hơn nửa thế kỷ, các nhân chứng trực tiếp liên quan hiện còn rất ít, việc nhớ lại con người, các sự kiện lúc đó chắc chắn là không đầy đủ và thiếu chính xác. Bởi thế, chúng tôi xác định phạm vi nội dung cuốn sách ở mức bổ sung thêm những hiểu biết về sự thành lập và hoạt động của Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân buổi ban đầu và tập trung tìm hiểu những đội viên đầu tiên (34 người) của Đội. Những vấn đề, sự kiện, con người, tổ chức sau này của Đội... chúng tôi sẽ tiếp tục sưu tầm, bổ sung trong các lần xuất bản sau.


Nhân dịp cuốn sách ra mắt bạn đọc, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam và nhóm tác giả chân thành cám ơn sự quan tâm chỉ đạo, tạo điều kiện của Thủ trưởng Bộ Quốc phòng, Thủ trưởng Tổng cục Chính trị, của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bộ chỉ huy quân sự các tỉnh Cao Bằng, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Yên Bái, Quảng Bình, Lâm Đồng và của các cơ quan hữu quan. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự chỉ đạo và đóng góp ý kiên của các đổng chí: Trung tướng Phùng Khắc Đăng - Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị; Dương Mạc Thăng - Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tinh ủy Cao Bằng; Doanh Hằng - nguyên Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Thái; đại tá Nguyễn Huy Văn (tức Kim Sơn), Ban Liên lạc Việt Nam Giải phóng quân và nhiều đồng chí khác.


Do điều kiện thời gian, tư liệu và ảnh chân dung chắc rằng cuốn sách còn nhiều khiếm khuyết. Chúng tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của đông đảo bạn đọc.

                                                                                                                            Hà Nội, tháng 8 năm 2003
                                                                                                                      VIỆN LỊCH SỬ QUÂN SỰ VIỆT NAM


Tiêu đề: Re: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 28 Tháng Giêng, 2015, 08:21:42 pm
Phần I
SỰ RA ĐỜI VÀ QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA
ĐỘI VIỆT NAM TUYÊN TRUYỀN GIẢI PHÓNG QUÂN


Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu bước ngoặt to lớn trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Với “Chính cương vắn tắt", “Sách lược vắn tắt” trong Hội nghị hợp nhất (2-1930) và sau đó là Luận cương chính trị của Hội nghị Trung ương lần thứ nhất, tháng 10-1930. Đảng ta đã đề ra một đường lối đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. Đó là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”1 (Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, 1930, Nxb Chính trị quốc gia, H. 1998, tr. 2), về phương pháp cách mạng, Đảng ta chủ trương “phát động quần chúng đấu tranh giai cấp, lãnh đạo quần chúng đấu tranh từ kinh tế, đấu tranh chính trị tiến tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền về tay công- nông, dựng nên nền chuyên chính dân chủ nhân dân và xây dựng xã hội mới"2  (Dẫn theo Ban nghiên cứu lịch sử quân đội thuộc Tổng cục Chính trị và Viện Lịch sử quân sự Việt Nam - Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, tập 1, Nxb Quân đội nhân dân, H. 1994. tr.18).

Vừa mới ra đời, Đảng không có sẵn một đơn vị vũ trang nào làm vốn quân sự cho mình, mà phải bắt tay từ đầu xây dựng cơ sở chính trị, tổ chức lực lượng vũ trang từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao, từ chưa hoàn chỉnh đến hoàn chỉnh. Trong các văn kiện đầu tiên của Đảng, những quan điểm quân sự cơ bản đầu tiên đã hình thành:

1. Vũ trang cách mạng là một phương thức cơ bản để giành chính quyền;

2. Nhiệm vụ chính trị quyết định nhiệm vụ quân sự:

3. Đấu tranh cách mạng nói chung và đấu tranh vũ trang nói riêng là sứ mạng của quần chúng:

4. Lực lượng vũ trang phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng.


Đảng ta cũng đã chủ trương đặt vấn đề tổ chức quân đội công - nông, trước hết là các đội tự vệ công - nông, đội du kích, làm nòng cốt cho toàn dân đấu tranh giải phóng dân tộc. Đội tự vệ công - nông là cách gọi chung của các đội tự vệ công nhân và tự vệ nông dân, được xây dựng trên cơ sở chủ yếu là các thành viên của các công hội, nông hội, do Đảng tổ chức và lãnh đạo, có nhiệm vụ thị uy kẻ thù, bảo vệ các cuộc đấu tranh của công nhân và nông dân, vừa nhằm tạo vốn quân sự để chuẩn chính quyền.


Là người đã tìm ra và truyền bá tư tưởng cách mạng vô sản vào Việt Nam, từng bôn ba khắp các nước, nghiên cứu các hình thức tổ chức quân đội và lực lượng vũ trang của nhiều nước, lãnh tụ Hồ Chí Minh từ rất sớm, đã nhận thức được sự cần thiết phải tổ chức lực lượng vũ trang cách mạng của dân tộc. Người đã tìm hiểu và đưa ra các quan điểm về xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, về phương pháp tổ chức và hoạt động của các đội du kích.


Vừa mới ra đời, Đảng ta đã phát động một phong trào đấu tranh mạnh mẽ, rộng khắp cả nước, phát triển thành cao trào cách mạng trong những năm 1930-1931. Đỉnh cao nhất của phong trào đấu tranh cách mạng thời kỳ này là cuộc đấu tranh của công nhân và nông dân hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Các cuộc đấu tranh không đơn thuần là các cuộc đấu tranh kinh tế, chính trị như trước nữa, mà quần chúng đã dùng bạo lực cách mạng phá huyện đường, nhà lao, vây đồn lính, trừng trị cường hào, địa chủ... Bộ máy chính quyền địch tan rã ở nhiều vùng nông thôn trong hai tỉnh.


Để lãnh đạo phong trào đối phó với sự đàn áp điên cuồng của đế quốc Pháp, Trung ương Đảng đã kịp thời phát động phong trào cả nước đấu tranh phối hợp với Nghệ An. Hà Tĩnh chống khủng bố trắng, vừa chỉ thị cho hai tỉnh thành lập các đội tự vệ để bảo vệ quần chúng đấu tranh. Các đội này được trang bị gậy gộc, giáo mác, liềm, hái… Phong trào đấu tranh của quần chúng càng phát triển mạnh mẽ, các đoàn thể quần chúng ngày càng đông, các đội tự vệ càng phát triển. Ngoài nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ phong trào quần chúng, bảo vệ chính quyền Xô-viết, các đội tự vệ còn làm công tác vận động quần chúng. Những đội Tự vệ đỏ ấy là những mầm mống đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng của nhân dân ta do Đảng lãnh đạo.


Tiêu đề: Re: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 28 Tháng Giêng, 2015, 08:23:11 pm
Tháng 3-1935. Đại hội lần thứ nhất của Đảng họp ở Ma Cao. Ngoài các nghị quyết về đường lối cách mạng, về các mặt công tác chuẩn bị điều kiện cho phong trào bước sang một thời kỳ mới, Đại hội còn có riêng một nghị quyết về đội tự vệ nhằm tổng kết những kinh nghiệm tổ chức lãnh đạo và tổ chức các đội tự vệ. Nghị quyết đã nêu lên mục đích của đội tự vệ, các biện pháp xây dựng về chính trị, về thành phần, về tính chất, nguyên tắc kỷ luật và dân chủ nội bộ, quan hệ của đội tự vệ với quần chúng nhân dân... Đây chính là những nguyên tắc xây dựng lực lượng tự vệ về chính trị, cũng là những quan điểm cơ bản của Đảng ta trong việc xây dựng lực lượng vũ trang.


Tới cuối năm 1939 - đầu năm 1940, tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến động lớn. Khởi nghĩa Bắc Sơn đã nổ ra. Cuộc khởi nghĩa nàv đã nổ tiếng súng đầu tiên báo hiệu thời kỳ đấu tranh vũ trang mới của dân tộc Việt Nam. Từ cuộc khởi nghĩa này đã ra đời "đứa con đầu lòng của lực lượng vũ trang cách mạng" là Đội du kích Bắc Sơn.


Ở Nam Kỳ, cuối năm 1939, dù bị thực dân Pháp khủng bố gắt gao, một số cơ sở cách mạng bị vỡ, nhưng Đảng bộ Nam Kỳ vẫn được củng cố và phát triển mạnh. Từ tháng 6 đến tháng 10-1940, số đảng viên ở Nam Kỳ đã tăng 60 phần trăm. Tháng 3-1940, Ban Thường vụ Xứ ủy do đồng chí Võ Văn Tần làm Bí thư đã vạch "Đề cương chuẩn bị bạo động" để hướng tất cả các cuộc đấu tranh lẻ tẻ vào phong trào đấu tranh chống chiến tranh đế quốc và tay sai, chuẩn bị điều kiện để tiến tới khởi nghĩa vũ trang làm cách mạng giải phóng dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy, các đội tự vệ và du kích được tổ chức và phát triển nhanh chóng, chọn những thành phần hăng hái, ưu tú trong các tổ chức quần chúng. Đến tháng 7-1940, nhiều xí nghiệp lớn ở Sài Gòn và nhiều đường phố đã có các tổ chức tự vệ, tiểu đội du kích. Ở nông thôn, phần lớn các xã đã có từ 1 tiểu đội đến 1 trung đội du kích, theo biên chê 3 người thành 1 tổ, 3 tổ thành 1 tiểu đội, 3 tiểu đội thành 1 trung đội. Các chiến sỹ du kích đã tiến hành học tập quân sự với các nội dung như chiến thuật du kích, cách sử dụng giáo mác, về chính trị là các khẩu hiệu trong chương trình cách mạng của Đảng. Công việc sắm sửa và chuẩn bị vũ khí cũng được ráo riết tiến hành. Nhân dân quyên góp nguyên liệu đồng, nhôm để du kích sản xuất đạn, lưu đạn... Trong tháng 7-1940, Hội nghị Xứ ủy Nam Kỳ mở rộng có đồng chí Phan Đăng Lưu - đại diện Trung ương Đảng tham dự đã thông qua đề cương chuẩn bị khởi nghĩa, giải quyết một số vấn đề về tổ chức, thời cơ khởi nghĩa... Tiếp đó, sau một thời gian chuẩn bị, vào tháng 11-1940, Xứ ủy Nam Kỳ đã lãnh đạo nhân dân đứng dậy khởi nghĩa. Khởi nghĩa Nam Kỳ đã kết hợp lực lượng chính trị với lực lượng nửa vũ trang của quần chúng để tiến công quân địch. Cùng với quần chúng cách mạng, quân du kích Nam Kỳ đã chiến đấu vô cùng dũng cảm, nêu gương chiến đấu quên mình và sáng tạo ra nhiều cách đánh phong phú... Quân khởi nghĩa Nam Kỳ là một trong những lực lượng vũ trang cách mạng đầu tiên của nhân dân ta.


Như vậy, trước khi Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân ra đời, đã có các đội du kích, những hạt giống quân sự của Đảng, hoạt động ở một số nơi, đóng vai trò nòng cốt trong đấu tranh cách mạng tại địa phương. Đó là các đội Tự vệ đỏ trong cao trào cách mạng 1930-1931, Đội du kích Bắc Sơn rồi các đội Cứu quốc quân, Quân du kích Nam Kỳ, Đội du kích Pác Bó ở Cao Bằng... Tuy nhiên, đây là các đội du kích của từng địa phương, ảnh hưởng chưa thật lớn. Phải đến Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, với chỉ thị thành lập của lãnh tụ Hồ Chí Minh, cách mạng nước ta, Đảng ta mới có một "đội quân chủ lực đầu tiên" - "đội quân đàn anh", mà các đội viên đều được chọn từ những người ưu tú trong các đội vũ trang địa phương, với nhiệm vụ giúp đỡ, dìu dắt các đội du kích địa phương. Với chỉ thị thành lập Đội của lãnh tụ Hồ Chí Minh, lần đầu tiên. Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân đã có một cương lĩnh chính trị, quân sự định hướng cho mọi mặt công tác, cũng như phương thức tổ chức, hoạt động, chiến thuật chiến đấu... của mình. Thật vinh dự cho Cao Bằng được chọn làm nơi khai sinh ra đội quân chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam.


Cao Bằng là một tỉnh địa đầu phía Bắc Tổ quốc. Ở đây, núi rừng trùng điệp xen kẽ với những cánh đồng, thung lũng vừa và nhỏ. Toàn tỉnh nằm trên cao nguyên có độ cao trung bình trên 1.000 mét, đặc điểm địa hình thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam và từ Tây sang Đông, tạo thành một dải đất án ngữ tự nhiên với những cụm điểm cao rất có ý nghĩa cho công cuộc phòng thủ đất nước. Phía Bắc và Đông giáp tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc), phía Nam giáp Lạng Sơn và Bắc Kạn. phía Tây giáp Hà Giang, Tuyên Quang. Toàn tỉnh có 15 huyện và 1 thị xã thì 9 huyện nằm sát biên giới Việt - Trung là Thạch An, Phục Hoà, Hạ Lang, Trùng Khánh, Trà Lĩnh, Hà Quảng, Thông Nông, Bảo Lạc, Bảo Lâm. Đây cũng là tỉnh có đường biên giới với Trung Quốc dài nhất trong các tỉnh biên giới phía Bắc.


Địa hình của tỉnh chia làm 3 vùng rõ rệt: phía Tây là vùng núi đất xen núi đá, phía Đông là núi đá cao có nhiều hang động, là căn cứ của các lực lượng vũ trang trong các cuộc kháng chiến. Vùng phía Tây Nam phần lớn là núi đất, có nhiều rừng cây to rậm rạp. Cao Bằng có hệ thống sông suối có độ dốc lớn, lắm thác lắm ghềnh. Tuy nhiều đèo dốc, địa hình hiếm trở nhưng Cao Bằng có mạng lưới giao thông nội tỉnh nối liền các huyện, vừa có các con đường ra cửa khẩu Tà Lùng (Quảng Hoà), Sóc Giàng (Hà Quảng)... Quốc lộ 3 và 4 là hai con đường chính nối Cao Bằng với các tỉnh miền xuôi.


Cao Bằng cũng là tỉnh có nhiều nguồn lâm thổ sản phong phú như sa nhân, mộc nhĩ, nấm hương... Rừng có nhiều gỗ quý như: lim, sên, táu... và nhiều hương liệu quý... Lòng đất Cao Bằng có nhiều mỏ khoáng sản có giá trị như: thiếc, sắt. nhôm...


Về xã hội, Cao Bằng là một tỉnh có nhiều dân tộc anh em sinh sống. Cả tỉnh có 10 dân tộc, trong đó có hai dân tộc đông nhất là Tày (gần 43 phần trăm) và Nùng 34 phần trăm, còn lại là các dân tộc khác như Kinh, Dao, Mông, Sán Chỉ, Hoa...


Trải qua bao biến đổi thăng trầm của lịch sử, nhân dân các dân tộc Cao Bằng vừa phải đấu tranh vật lộn với thiên nhiên khắc nghiệt để sinh sống, vừa phải luôn cảnh giác chiến đấu chống lại các thế lực ngoại xâm và phong kiến tav sai, để giải phóng, bảo vệ quê hương làng bản, bảo vệ giống nòi. Do đó, cũng như bao nơi khác trên đất nước Việt Nam, người dân Cao Bằng luôn mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp như anh dũng, kiên cường, bất khuất, trung thực, thủy chung son sắt. Từ ngày có Đảng lãnh đạo, những phẩm chất tốt đẹp đó được phát huy cao độ trong phong trào đấu tranh cách mạng giành độc lập tự do cho nước nhà.


Trên cơ sở sự phát triển của phong trào công nhân, phong trào yêu nước ở Cao Bằng, sự truyền bá của tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng cách mạng của nhà yêu nước Nguyễn Ái Quốc, mà chủ yếu là qua những hạt giống đỏ - những thanh niên Cao Bằng giác ngộ cách mạng về hoạt động, ngày 1-4-1930, chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên đã được thành lập ở Nặm Lìn, xã Hoàng Tung, huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng. Chi bộ đầu tiên của tỉnh làm việc như một Ban tỉnh ủy lâm thời, do đồng chí Hoàng Văn Nọn làm Bí thư. Từ đây, giai cấp công nhân và nhân dân các dân tộc Cao Bằng bước vào một thời kỳ lịch sử mới - thời kỳ đấu tranh cách mạng dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Xam.


Từ chi bộ ban đầu, đến cuối năm 1930, một số chi bộ khác đã ra đời ở mỏ thiếc Tĩnh Túc, châu Hoà An. Ban tỉnh ủy Cao Bằng được thành lập để tăng cường sức lành đạo cho phong trào cách mạng của tỉnh. Lần lượt các chi bộ đảng được thành lập ở châu Hà Quảng (5-6-1931), chi bộ Đảng châu Quảng Uyên (2-1932), chi bộ Đảng xã Vân Trình (huyện Thạch An, năm 1933), chi bộ Đảng xã Minh Tâm, châu Nguyên Bình (1935)...


Tiêu đề: Re: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 28 Tháng Giêng, 2015, 08:25:32 pm
Nhằm chuẩn bị cho việc đấu tranh giành chính quyền. Đảng bộ Cao Bằng cũng chú trọng phát triển lực lượng vũ trang. Một mặt, Tỉnh ủy chọn 40 cán bộ cử đi học tập quân sự ở Trung Quốc. Mặt khác, thành lập binh công xưởng để chế tạo vũ khí, trang bị cho các đội viên tuyên truyền. Cuối năm 1939, tại châu Hà Quảng, đội vũ trang tuyên truyền đầu tiên được thành lập. Lúc đầu, có 3 đồng chí hoạt động tại địa bàn Lục Khu hỗ trợ cho phong trào đấu tranh của quần chúng.


Lúc này, tình hình trong nước và quốc tế có những biến chuyển nhanh chóng. Trên thế giới, Chiến tranh thế giới lần thứ 2 bùng nổ. Ở trong nước, thực dân Pháp quay lại tiến công vào Đảng Cộng sản và đàn áp các cuộc đấu tranh của quần chúng đòi dân sinh, dân chủ. Trước sự khủng bố điên cuồng của địch, tháng 11-1939, Trung ương Đảng triệu tập hội nghị tại Bà Điểm (Gia Định), do đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì. Hội nghị quyết định chỉ đạo chiến lược cách mạng tập trung vào nhiệm vụ giải phóng dân tộc. thành lập Mặt trận dân tộc phản đế Đông Dương nhằm động viên quần chúng thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Ở Cao Bằng, cuối năm 1939 - đầu năm 1940, thực dân Pháp ra sức khủng bố phong trào ở Hà Quảng, Hoà An, vây bắt Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh, mưu toan tiêu diệt cơ quan đầu não của tỉnh. Để đối phó với địch. Tỉnh ủy chủ trương rút vào hoạt động bí mật, chỉ để lại những đồng chí chưa bị lộ để bám sát quần chúng, giữ vững phong trào.


Tháng 9-1940, chiến trường Đông Dương có những thay đổi lớn. Ngày 22-9-1940 phát xít Nhật đánh vào Lạng Sơn, đổ bộ vào Hải Phòng. Thực dân Pháp buộc phải ký hiệp định chấp nhận cho Nhật chiếm một số địa bàn ở Đông Dương. Nhân dân ta, một cổ hai tròng, đã vùng lên khởi nghĩa ở nhiều nơi, ở Lạng Sơn có khởi nghĩa Bắc Sơn, ngày 27-9-1940.


Trước tình hình đó, từ ngày 6 đến ngày 9-11-1940, tại Đình Bảng (Bắc Ninh), Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị lần thứ 7, do đồng chí Trường Chinh chủ trì. Hội nghị khẳng định tiếp tục chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, tập trung vào nhiệm vụ giải phóng dân tộc, quyết định duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn và phát triển thành Đội du kích Bắc Sơn, xây dựng căn cứ vùng Bắc Sơn - Võ Nhai. Hội nghị cũng nêu rõ nhiệm vụ “Đảng phải chuẩn bị để giành lấy sứ mệnh thiêng liêng lãnh đạo các dân tộc Đông Dương vũ trang bạo động giành lấy quyển tự do độc lập”.


Tình hình quốc tế và trong nước có những diễn biến mau chóng. Lãnh tụ Hồ Chí Minh quyết định về nước để chuẩn bị cho công cuộc giải phóng dân tộc. Suốt quá trình từ ngày 20- 6-1940 đến tháng 1-1941 là giai đoạn chuẩn bị trực tiếp cho sự trở về Tổ quốc của Người. Tháng 6-1940, với sự kiện nước Pháp bị phát xít Đức xâm lược, Người đã nhận định: “Việc Pháp mất nước là một cơ hội rất thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Ta phải tìm mọi cách về nước ngay để tranh thủ thời cơ. Chậm trễ lúc này là có tội với cách mạng”1 (Vũ Anh - Những ngày gần Bác, trong sách Đầu nguồn (tập hồi ký), Nxb Văn Học, H, 1975, tr.234). Rồi Người điện cho Lâm Bá Kiệt (tức Phạm Văn Đồng), Dương Hoài Nam (tức Võ Nguyên Giáp) và Cao Hồng Lĩnh, đang trên đường đi học ở Diên An (Trung Quốc), quay lại chuẩn bị để về nước.


Việc chọn điểm về - chỗ đứng chân trong nước, là một việc quan trọng quyết định sự thành bại và sự phát triển của cách mạng về sau. Không phải ngẫu nhiên mà Cao Bằng lại được Hồ Chí Minh chọn làm điểm trở vể để lãnh đạo cách mạng. Thực ra, ý tưỏng ban đầu là chọn đột phá khẩu ở một tỉnh hay một huyện quan trọng để tuyên truyền cách mạng rồi sau đó xây dựng và mở rộng căn cứ địa cách mạng ra cả nước. Đầu tiên, Người có ý định chọn hướng Côn Minh - Lào Cai. Người đã phái Bùi Đức Minh và Hoàng Văn Lộc về Hà Khẩu để điều tra nắm tình hình trong nước và đặt cơ sở liên lạc. Nhưng cầu Hồ Kiều - chiếc cầu lớn trên trên sông Nậm Thi, trên đó có tuyến đưòng sắt Việt – Điền nối hai nước, bị phá sập vào ngày 16-9-1940. Như vậy, cửa khẩu lớn giữa hai nước Việt Nam và Trung Hoa đã bị đóng sập. Do đó, cùng với những lý do khác về cơ sở quần chúng..., ý tưởng về nước theo hướng Lào Cai không thành. Người tin cho Bùi Đức Minh và Hoàng Văn Lộc trở lại Côn Minh tìm hướng mới. Đó chính là hướng Cao Bằng.


Trong suy nghĩ của Người, Cao Bằng quy tụ được nhiều yếu tố cần thiết về địa và nhân thuận lợi cho việc xây dựng chỗ đứng chân, căn cứ địa cách mạng để từ đó phát triển phong trào ra cả nước, về yếu tố địa lý tự nhiên. Cao Bằng thông thương với Trung Quốc bằng những con đường mòn nhỏ, những con sông mà dân cư sông ở hai bên thường hay qua lại. Đây là điểm thuận lợi cho những người hoạt động bí mật nhưng lại là điểm bất lợi với chính quyển cai trị của Pháp. Trên ba con sông ở Cao Bằng (Bằng Giang, Bắc Vọng. Quây Sơn), nhân dân có thể dùng thuyền nhỏ để đi từ Mỏ sắt (Hoà An) đến Tà Lùng, sát biên giới Việt - Trung, về đường bộ, trên các huyện biên giới của Cao Bằng có rất nhiều cửa khẩu và hàng trăm lối mòn sang Trung Quốc. Những con đường này thuận lợi cho việc tiếp nhận những gì cần thiết từ vùng đất nằm ngoài sự kiểm soát của địch và đồng thời là những lối thoát ra ngoài khi gặp khó khăn, bị vây ráp. Đây là những điều kiện thuận lợi để “thoái”.


Bên cạnh đó, Cao Bằng nối với Bắc Kạn - Thái Nguyên, thông với cả nước bằng quốc lộ số 3. Đây là yếu tố đảm bảo cho việc “tiến” để nối với miền xuôi. Nối được với Thái Nguyên tức là nối được với các vùng rừng núi phía Đông Bắc và Tây Bắc cũng như phát triển về xuôi, bởi Thái Nguyên là vùng đệm giữa đồng bằng và miền núi. Từ Cao Bằng còn theo quốc lộ 4 để đến được với Lạng Sơn, một điểm nút giao thông quan trọng trên con đưòng quốc tế xuyên Việt.


Ngoài việc đảm bảo hai yếu tố thuận lợi có thể rút sang Trung Quốc và tiến về các nơi khác, về miền xuôi, địa hình Cao Bằng còn rất hiểm trở, giao thông đi lại khó khăn. Ở đây, những vùng sâu, vùng xa, bộ máy cai trị của thực dân cũng chưa vươn tới được, nhờ đó cán bộ cách mạng của ta có thể gây cơ sở để phát triển phong trào.


Ngoài yếu tố địa, Cao Bằng còn chứa yếu tố nhân, đảm bảo cho việc xây dựng một căn cứ địa cách mạng. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Hồ Chí Minh đã gặp nhiều người quê ở Cao Bàng, qua đó hiểu biết được rất nhiều về vùng đất này. Một trong những người Cao Bằng đầu tiên lãnh tụ Hồ Chí Minh gặp đó là Hoàng Văn Nọn (Tú Hưu) vào tháng 7-1935 tại Mátxcơva, sau đó là Hoàng Đình Giong. Mặt khác, Cao Bằng là nơi có phong trào cách mạng phát triển mạnh. Tháng 4-1930, chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên đã ra đời ở đáy, cũng là chi bộ đầu tiên ở Việt Bắc: chi bộ Nặm Lìn (Hoà An - Cao Bằng). Dưới ảnh hưởng của chi bộ này, lần lượt ra đời một số chi bộ khác tại Phúc Tăng, Xuân Phách (Hoà An), Tĩnh Túc (Nguyên Bình), Sóc Hà (Hà Quảng) và nhất là chi bộ Cốc Coóc (Quảng Hoà) - chi bộ giữ đường dây liên lạc từ Cao Bằng ra Long Châu - Trung Quốc, nơi có chi bộ hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương. Tới tháng 7-1933, Ban lãnh đạo Đảng hải ngoại đã công nhận Ban chấp hành tỉnh Cao Bằng do đồng chí Hoàng Văn Nọn làm Bí thư. Tiếp sau đó, các châu ủy cũng lần lượt được thành lập ở Hoà An (1933). Hà Quảng (1935). Như vậy, so với các tỉnh biên giới phía Bắc, Cao Bằng là nơi có phong trào cách mạng sớm nhất và vững chắc nhất. Đây là "hàng rào" quần chúng rất tốt bảo vệ cho các cơ sở cách mạng.


Tiêu đề: Re: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 28 Tháng Giêng, 2015, 08:26:55 pm
Tháng 10-1940, trên đường từ Quế Lâm về Nam Ninh. Hồ Chí Minh đã nhận định về vị trí Cao Bằng: “Căn cứ địa Cao Bằng sẽ mở ra triển vọng lớn cho cách mạng nước ta. Cao Bằng có phong trào tốt từ trước lại kề sát với biên giới, lấy đó làm cơ sở liên lạc với quốc tế rất thuận lợi, nhưng từ Cao Bằng còn phải phát triển về Thái Nguyên và thông xuống nữa mới có thế tiếp xúc với toàn quốc được. Có nối được với Thái Nguyên và toàn quốc thì khi phát động đấu tranh vũ trang lúc thuận lợi có thể tiến công, lúc khó khăn có thể giữ”1 (Võ Nguyên Giáp - Những chặng đường lịch sử, Nxb Chính trị quôc gia. H. 1994. tr.33).


Cũng cuối năm 1940, do thực dân Pháp khủng bố mạnh, một số thanh niên dân tộc ở Cao Bằng đã vượt biên giới sang Trung Quốc. Hồ Chí Minh đã cùng với một số đồng chí khác tập họp và mở lớp huấn luyện cho số thanh niên này. Sau đó. Người cử họ về nước với nhiệm vụ “củng cố mở rộng phong trào Cao Bằng và tổ chức đường liên lạc về nước”.


Trong quá trình chuẩn bị về nước, từ cuối 1940. Hồ Chí Minh đã cử đồng chí Vũ Anh (Trịnh Đông Hải) về trước tìm một địa điểm đảm bảo các yêu cầu: thật bí mật, có "hàng rào" quần chúng bảo vệ và có đường rút lui. Theo sự hướng dẫn của Người, đồng chí Vũ Anh đã tìm được một địa điểm đáp ứng các yêu cầu trên, đó là hang Cốc Pó, thuộc bản Pác Bó, châu Hà Quảng. Đây là một hang có địa thế hiểm trở, lại thông sang được với bên kia biên giới để khi cần có thể rút lui an toàn. Cách hang không xa là bản Pác Bó - một bản có phong trào quần chúng bảo vệ rất tốt.


Đầu tháng 1-1941, thời điểm quan trọng của việc lựa chọn địa điểm về nước, tại làng Tân Khư (Tĩnh Tây - Trung Quốc), Hồ Chí Minh đã gặp gỡ và trao đổi với đồng chí Hoàng Văn Thụ - đại diện của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, từ trong nước sang. Đồng chí Hoàng Văn Thụ đã báo cáo với Người tình hình phong trào cách mạng trong nước và ở Cao Bằng, đề nghị Người về nước theo hướng Cao Bằng, bơi ở đây trình độ giác ngộ của nhân dân tương đối cao, cán bộ lãnh đạo cách mạng khá vững vàng.


Ngày 28-1-1941, Hồ Chí Minh và một ố cán bộ cách mạng được Người huấn luyện tại Trung Quốc đã vượt qua cột mốc biên giới số 108 tại châu Hà Quảng trở về đất nước sau gần 30 năm hoạt động ở nước ngoài. Tới ngày 8-2-1940, với bí danh già Thu. Người tới ở và làm việc tại hang Cốc Bó thuộc bản Pác Bó. Từ đây, Pác Bó trở thành nơi đứng chân của Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng chỉ đạo phong trào cách mạng toàn quốc.


Người chủ trương tổ chức thí điểm Việt Minh lấy từ số cán bộ mới về nước làm nòng cốt. Đây là các đồng chí vừa là cán bộ chính trị vừa là cán bộ quân sự, để phát triển các hội cứu quốc trong quần chúng. Địa bàn chủ yếu của đợt thí điểm Việt Minh là vùng Hà Quảng, Hoà An và Nguyên Bình. Hồ Chí Minh chỉ thị Việt Minh phát triển đến đâu là tổ chức ngay tự vệ đến đó. Sau 3 tháng tổ chức thí điểm Việt Minh, số hội viên cúu quốc ở các châu này tăng lên 2.000 người với đầy đủ các thành phần già, trẻ, gái, trai... Tại các tổng, xã trong 3 châu này đã xuất hiện các đội tự vệ gồm những nam nữ hội viên hăng hái. Đây còn là lực lượng đế củng cố và phát triển hội cứu quốc, làm thành "bức tường thành" quần chúng bảo vệ cơ quan Đảng đóng ở đây, đưa đón cán bộ qua lại hoạt động, làm giao liên và khi cần có thể chiến đấu với địch. Qua phong trào, các cơ sở cách mạng chọn những cán bộ trung kiên cử ra nước ngoài học tập quân sự để phát triển lực lượng về sau.


Trước những diễn biến của tình hình trong nước và quốc tế, từ ngày 10 đến 19-5-1941, tại lán Khuổi Nậm - Pác Bó (Hà Quảng), dưới sự chủ trì của đồng chí Hồ Chí Minh. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 khai mạc. Hội nghị phân tích sâu sắc tình hình quốc tế, tình hình cách mạng trong nước sau các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ, binh biến Đô Lương và nhận định: cách mạng đã bước sang thời kỳ mới - thời kỳ đấu tranh bằng bạo lực để giành chính quyển cách mạng. Hội nghị đề ra chủ trương: "Chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân ta trong giai đoạn hiện nay". Hội nghị khẳng định: cần phải thay đổi chiến lược cách mạng bằng việc tiếp tục nêu cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, "cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện nay là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc", ”nếu không đánh đuổi được Pháp - Nhật thì vận mạng của dân tộc phải chịu kiếp ngựa trâu muôn đời, mà vấn đề ruộng đất cũng không làm sao giải quyết được". Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh gọi tắt là Việt Minh nhằm tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp, các dân tộc cho mục tiêu giải phóng dân tộc. Hội nghị nhận định: "Với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương, cũng có thế giành được sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc khởi nghĩa to lớn". Từ đó. Hội nghị đề ra chủ trương thành lập lực lượng vũ trang toàn quốc bằng nhiều hình thức, trong đó có việc "mở rộng và củng cố" các tổ chức cứu quốc sẵn có làm cho các đoàn thể có một tinh thần hy sinh tranh đấu sẵn sàng gây cuộc khởi nghĩa", "phải có những tiểu tổ du kích, du kích chính thức và tổ chức binh lính đế quốc". Hội nghị đưa ra điều lệ của "Việt Nam tiểu tổ du kích cứu quốc", tên gọi, tổ chức, biên chế và mục đích hoạt động của các đơn vị này.


Tiêu đề: Re: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 28 Tháng Giêng, 2015, 08:31:02 pm
Là trung tâm căn cứ địa của cả vùng, nơi đặt bản doanh lãnh đạo của Trung ương, Cao Bằng là nơi đi đầu thực hiện các chủ trương chính sách của Hội nghị Trung ương lần thứ 8. Sau hội nghị, phong trào cách mạng của quần chúng phát triển khắp các châu trong tỉnh: đặc biệt là 3 châu (Hà Quảng, Nguyên Bình, Hoà An) trở thành 3 châu hoàn toàn Việt Minh. Các tổ chức tự vệ ra đời ngàv một nhiều làm nhiệm vụ hỗ trọ phong trào đấu tranh của quần chúng. Mặt khác, Hồ Chí Minh rất chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang vùng căn cứ địa để vừa giữ vững địa bàn, vừa đào tạo nguồn cán bộ cung cấp cho tỉnh. Từ tháng 6-1941 đến tháng 10-1941. Hồ Chí Minh và Đảng bộ Cao Bằng đã chọn hơn 70 cán bộ gửi sang Trung Quốc học quân sự.


Theo tinh thần Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8, lãnh tụ Hồ Chí Minh chỉ thị thành lập đội vũ trang tập trung để làm hạt nhân quân sự đầu tiên cho hoạt động vũ trang của tỉnh. Theo chủ trương đó, Tỉnh ủy Cao Bằng, sau khi nghiên cứu xét chọn, đã thành lập Đội gồm các thành viên: Lê Quảng Ba (Đội trưởng), Lê Đinh - tức Lê Thiết Hùng (Chính trị viên), Trần Sơn Hùng - tức Hoàng Sâm (Đội phó) cùng các đội viên: Cường Tiến (tức Nguyễn Văn Cơ, về sau đổi tên là Bằng Giang), Thế An, Hải Tâm (tức Bế Sơn Cương), Đức Thanh, Sỹ Cương, Nông Thị Trưng, Quang Hưng (tức Dương Mạc Hiếu), Tống Dề (tức La), Nông Văn Chủng (tức Phùng). Đội có nhiệm vụ bảo vệ cơ quan, bảo vệ cán bộ, làm giao thông liên lạc đặc biệt, vũ trang tuyên truyền trong quần chúng và huấn luyện cho các đội tự vệ chiến đấu ở địa phương. Vũ khí trang bị của Đội có 6 khẩu súng săn, 6 khẩu súng trường. Chi bộ Đảng của Đội cũng được thành lập để chỉ đạo các hoạt động gồm có Lê Thiết Hùng, Hoàng Sâm, Lê Quảng Ba, Bằng Giang, Đức Thanh và Dương Mạc Hiếu. Tất cả đều là đảng viên chính thức. Chi bộ bầu ra một ban chi ủy gồm 3 người do đồng chí Lê Thiết Hùng làm Bí thư. Lê Quảng Ba và Hoàng Sâm làm chi ủy viên. Các đội viên là những người có nhiệt tình cách mạng, rất dũng cảm trong đấu tranh. Người nhiều tuổi nhất là Lê Thiết Hùng (hơn 30 tuổi), người ít tuổi nhất là Nông Thị Trưng (hơn 20 tuổi).


Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã trực tiếp giáo dục chính trị và viết tài liệu huấn luyện quân sự cho Đội. Người đã biên soạn các tài liệu quân sự như Kinh nghiệm du kích Nga, Kinh nghiệm du kích Tàu và nhất là cuốn Cách đánh du kích gồm 13 chương, rất dễ đọc, dễ hiểu. Người cũng trực tiếp viết Mười điều kỷ luật của Đội, thông qua kế hoạch tổ chức hoạt động, đặt tên và trực tiếp giao nhiệm vụ cho Đội: "Tên Đội là Đội du kích và nhiệm vụ của Đội thêm một nhiệm vụ thứ năm là làm nòng cốt cho việc xây dựng lực lượng vũ trang và nửa vũ trang sau này"1 (Lê Quảng Ba - Bác Hồ và Đội du kích Pác Bó, Nxb Văn hoá Dân tộc, H.1995. tr. 113). Trong quá trình huấn luyện quân sự, Người đã nêu một số nguyên tắc hoạt động của Đội du kích. Cũng trong quá trình này, các đồng chí trong Đội đã Việt hoá các khẩu ngữ quân sự đã từng học tập ở nước ngoài, hình thành một hệ thống các khẩu lệnh cho quân đội ta về sau như: nghiêm, quay phải, quay trái, chào... Đội cũng đã rèn luyện được những yếu lĩnh cơ bản, một số kỹ thuật như bắn súng, ném lựu đạn, đâm lê, chiến thuật chiến đấu cá nhân, tổ và tiểu đội.


Sau một thời gian huấn luyện, Đội bắt đầu triển khai công tác vũ trang tuyên truyền ở các địa phương trong các châu Hà Quảng, Hoà An, Nguyên Bình. Hoạt động của Đội gồm 2 thời kỳ: thời kỳ tập trung từ cuối năm 1941 đến tháng 3-1942 và thời kỳ phân tán từ tháng 3-1943 đến tháng 7-1943.


Trong thời kỳ hoạt động tập trung, toàn Đội cùng hoạt động tại một địa bàn. Khi tới các địa phương, Đội cùng với các cán bộ ở đây vận động quần chúng cốt cán đến nghe nói chuyện. Có nơi, Đội tổ chức mít tinh quần chúng, treo cờ đỏ sao vàng, phối hợp với tự vệ canh gác đề phòng quân Pháp hoặc thổ phỉ đến bất ngờ. Ở những nơi quần chúng bị bọn chức dịch khống chế, các đồng chí trong Đội kết hợp với cán bộ địa phương tổ chức vũ trang đột nhập vào nhà những tên phản động, hoặc dùng vũ khí để cảnh cáo, ngăn chặn những hoạt động chống phá của chúng, hoặc thuyết phục họ theo Việt Minh. Điển hình là cuộc đột nhập nhà phó tổng Làn ở bản Pá Đản, thuộc tổng Trung An ở Lục Khu (Hà Quảng) đã buộc tên này hứa không chống lại Việt Minh. Ở xóm Nà Loá (Hoà An), Đội cử cán bộ đến nhà viên xã đoàn (một chức vụ tương đương xã đội trưởng ngày nay) vận động đi theo Việt Minh và sau này ông đã cùng cả xóm trở thành một trạm giao thông phục vụ cán bộ qua lại sông Bằng an toàn.


Ngoài việc bảo vệ cơ quan đầu não của tỉnh và Trung ương, bảo vệ cơ sở cách mạng, công tác vũ trang tuyên truyền của Đội đã làm cho nhân dân hiểu và thêm tin tưởng vào Mặt trận Việt Minh, đẩy mạnh phong trào mua sắm vũ khí trong cán bộ và nhân dân để giữ gìn bản làng, chống phỉ. Hoạt động của Đội cũng đã làm cho hàng ngũ lý dịch phân hoá nhanh: số đi theo Việt Minh càng tin tưởng và hăng hái hoạt động: số lừng khừng thì dứt hẳn, ngả theo cách mạng: những tên phản động bớt hung hăng. Với danh nghĩa bộ đội Việt Minh, hoạt động của Đội ở vùng này đã làm cho bọn phỉ trong nước co lại, không dám ngang nhiên hoành hành, còn bọn phỉ bên kia biên giới không dám tràn sang khu căn cứ của Việt Minh.


Từ kết quả của những hoạt động này, cuối tháng 3 đầu tháng 4-1942, đồng chí Hồ Chí Minh chỉ thị cho Đội phân tán hoạt động, điều các đội viên đi làm nòng cốt để tổ chức các đội vũ trang ở địa phương. Các đồng chí Bằng Giang, Bế Sơn Cương và Sĩ Cường về Hoà An, xây dựng đội vũ trang châu do đồng chí Bằng Giang làm Đội trưởng. Đồng chí Dương Mạc Hiếu về Nguyên Bình xây dựng đội vũ trang của châu. Đồng chí Đức Thanh về Nà Mạ (Hà Quảng) phụ trách quần chúng và tự vệ ở đây, về sau phát triển lập Đội vũ trang tổng Phù Dúng. Đồng chí Nông Thị Trưng thoát ly đơn vị làm công tác phụ nữ nhưng cũng tham gia hoạt động huấn luyện quân sự cho các đồng chí trong Hội phụ nữ. Những đội viên khác cũng lần lượt về các nơi mở các lớp huấn luyện cho cán bộ phụ trách tự vệ và cán bộ chính trị. Đồng chí Lê Quảng Ba mở lớp huấn luyện tại Pác Bó cho cán bộ các xã Kéo Đắc, Yên Lũng; đồng chí Lê Thiết Hùng mở lớp ở Đào Ngạn, Phù Ngọc...


Từ những cán bộ cốt cán của Đội du kích Pác Bó và các đồng chí đã được huấn luyện quân sự, nhiều đội vũ trang ở các châu lần lượt được thành lập. Đội du kích Pác Bó đã đóng vai trò làm nòng cốt trong việc phát triển lực lượng nửa vũ trang ở Cao Bằng lúc bấy giờ. Tới tháng 7-1943, hầu hết các thành viên của Đội du kích Pác Bó đã nhận những nhiệm vụ khác nhau về cơ sở để thành lập các đơn vị vũ trang mới; vì vậy Đội du kích Pác Bó chấm dứt sự tồn tại của mình, hoàn thành nhiệm vụ mà lãnh tụ Hồ Chí Minh giao phó. Đội du kích Pác Bó cũng đã hỗ trợ phong trào quần chúng phát triển bằng việc xây dựng các đội vũ trang châu, tổng, các đội tự vệ chiến đấu và tự vệ xã ở các châu Hà Quảng, Hoà An và Nguyên Bình, và đặc biệt là cuộc đấu tranh chống khủng bố trong các năm 1943-1944. "Đội tồn tại được độ hai năm. Song đây là một thực tiễn sinh động để Đảng, Bác Hồ tổ chức xây dựng Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân"1 (Thượng tướng Phùng Thế Tài - Kỷ niệm sâu sắc về Bác Hồ với việc thành lập đội vũ trang của Cao Bằng, trong sách 55 năm Quân đội nhân dân Việt Nam - Miền đất khai sinh và quá trình phát triển (kỷ yếu hội thảo), Nxb Quân đội nhân dân, H, 1999, tr.234).


Tiêu đề: Re: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 28 Tháng Giêng, 2015, 08:32:23 pm
Bên cạnh đó, Tỉnh ủy Cao Bằng cũng tổ chức các lớp huấn luyện quân sự tập trung, gọi là Trường Quân chính. Tháng 2-1942, lớp huấn luyện thứ nhất được tập trung tại Khuổi Nậm (Pác Bó - Cao Bằng), có khoảng 40 học viên tham gia. Tham gia giảng dạy có các đồng chí đã từng học quân sự ở Trung Quốc như: Lê Thiết Hùng, Hoàng Sâm, Bằng Giang... Từ đó, các lớp khác tiếp tục được mở. Lớp thứ hai gồm 100 hội viên, được tổ chức tại Mỏ Sắt (Hòa An) đầu năm 1943. Lớp tiếp theo được tổ chức tại Kim Mã (Nguyên Bình), cuối năm 1943, có 30 học viên. Lớp thứ tư được tổ chức tại Tôm Đeng (Hà Quảng), cuối năm 1944, có 30 người. Kết thúc mỗi lớp học, đội viên đều được phân công về tổ chức các lớp huấn luyện tại địa phương mình. Bên cạnh đó, Đảng bộ còn mở thêm một số lớp ở Khuổi Cọ, Vạ Phá (châu Nguyên Bình), mỗi lớp có khoảng 100 học viên, nhằm đào tạo cán bộ đáp ứng yêu cầu của việc phát triển phong trào như Nam tiến, Tây tiến, Đông tiến1 (Cao Bằng - Lịch sử đấu tranh vũ trang cách mạng (1930-1954), Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Cao Bằng xuất bản năm 1990. tr.46)...


Từ đầu 1942, phong trào Việt Minh phát triển mạnh ở nhiều nơi trong tỉnh Cao Bằng, đã xuất hiện nhiều tổng, xã hoàn toàn, đặc biệt là ở châu Hoà An. Giữa năm 1942, trước sự phát triển của tình hình cách mạng ở Nguyên Bình. Hồ Chí Minh quyết định rời Pác Bó về Lam Sơn (Hoà An) làm việc với Tỉnh ủy để mở lớp huấn luyện cho cán bộ ở hang Pó Tháy. Sau đó, Người chuyển sang địa bàn Gia Bằng (Minh Tâm - Nguyên Bình) để trực tiếp chỉ đạo phong trào. Hang Kéo Quảng ở Minh Tâm, Nguyên Bình, nơi Người ở và làm việc thời kỳ này, được đặt tên là hang Lênin. Tại đây, Người mở lớp huấn luyện về lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô cho cán bộ Châu ủy lâm thời. Tháng 5-1942, Người chuyển về Lũng Tăng, Lũng Dẻ trực tiếp chỉ đạo báo Việt Nam độc lập. Tháng 11-1942, các Ban Việt Minh đã ra đời ở một số tổng như: Thế Dục, Gia Tự, Quảng Nhân... Các ban Việt Minh này đã họp, trao đổi kinh nghiệm trong việc lãnh đạo phong trào và bầu ra một ban Việt Minh lâm thời châu Nguyên Bình, do đồng chí Dương Mạc Thạch làm Chủ nhiệm. Ban đề ra nhiệm vụ tiếp tục phát triển phong trào Việt Minh xuống Bắc Kạn.


Bên cạnh việc phát triển lực lượng vũ trang khu vực Cao - Bắc - Lạng, Hồ Chí Minh còn chỉ thị mở phong trào Nam tiến để phát triển các con đường quần chúng nối liền liên lạc ra các địa phương và về với Trung ương ở miền xuôi. Ngay từ những ngày đầu mới về nước, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở: "Việc liên lạc là một việc quan trọng bậc nhất trong công tác cách mạng, vì chính nó quyết định sự thống nhất chỉ huy, sự phân phối lực lượng, do đó bảo đảm thắng lợi"1 (Võ Nguyên Giáp – Những chặn đường lịch sử, Sđd, tr80-81). Người luôn chú trọng giữ đường dây liên lạc với Trung ương ở miền xuôi. Phong trào cách mạng càng phát triển, vấn đề liên lạc giữa Cao Bằng với miền xuôi và với Trung ương Đảng trở nên đặc biệt quan trọng. Trước tình hình mới, Hồ Chí Minh đã chỉ thị cho các cán bộ ở Cao Bằng: "Ngoài lối liên lạc thường dùng bằng giao thông bí mật, phải cấp tốc tổ chức những con đường quần chúng từ Cao Bằng đi về xuôi. Có thế khi địch khủng bố mới giữ được liên lạc, những hoạt động của đội du kích mới có thể tiến hành thuận lợi và nhất là mới tranh thủ kịp khi thời cơ biến chuyển tốt, cách mạng có thể tiến lên tổng khởi nghĩa"2 (Võ Nguyên Giáp – Những chặn đường lịch sử, Sđd, tr80-81).


Tháng 2-1943, tại Lũng Hoài (Hoà An, Cao Bằng), hội nghị liên tịch giữa Tổng bộ Việt Minh, Liên tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng và đại biểu Cứu quốc quấn bàn việc mở rộng phong trào, đón thời cơ mới và trao đổi kinh nghiệm công tác. Theo chỉ thị của Hồ Chí Minh, hội nghị bàn việc mở phong trào Nam tiến để tạo con đường liên lạc giữa hai khu căn cứ và với Trung ương Đảng. Tên gọi là "Nam tiến" song lực lượng này gồm cả các hướng khác. Ngoài hướng "Nam tiến" do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy, còn có hướng "Đông tiến" đi về phía Đông, mở đường đến Lạng Sơn, hướng "Tây tiến" sang Hà Giang - tây Cao Bằng, và trong quá trình Nam tiến, đã hình thành đội "Bắc tiến" từ Bắc Sơn - Võ Nhai mở đường lên Cao Bằng. Sau hội nghị, các tuyến xung phong Nam tiến được tổ chức và bắt đầu lên đưòng thực thi nhiệm vụ:

- Tuyến thứ nhất, hướng chủ yếu do các đồng chí Võ Nguvên Giáp và Lê Thiết Hùng phụ trách, được sự chi viện của một tiểu đội Cứu quốc quân, có nhiệm vụ mở con đường từ Nguyên Bình qua Ngân Sơn, Chợ Rã (Bắc Kạn) nối liền với Chợ Chu, Đại Từ (Thái Nguvên). Tuyến này chia ra các đội toả đi các địa phương.

- Tuyến Cao Bằng - Hà Giang - Tuyên Quang do đồng chí Phạm Văn Đồng phụ trách. Nhưng vì, đồng chí Phạm Văn Đồng bị ốm nên phải ở lại Lam Sơn phụ trách báo Việt Nam độc lập. Do đó, đội xung phong Nam tiến do đồng chí Võ Nguyên Giáp phụ trách phải phái lực lượng sang chi viện cho hướng này. Nhiệm vụ của tuyến này là vượt qua Bảo Lạc sang Bắc Mê (Hà Giang) và Na Hang (Tuyên Quang) tiến đến núi Hồng. Với địa thế thuận lợi cho việc liên lạc với các nơi, núi Hồng đã được xây dựng thành một căn cứ cách mạng vững chắc, một khu vực có cơ sở quần chúng tốt.

- Một cánh do trung đội Cứu quốc quân từ biên giới về nhằm hướng Đông Nam. tiến qua châu Thạch An xuống Tràng Định, Bình Gia (Lạng Sơn) nối đến căn cứ Bắc Sơn - Võ Nhai và thông suốt đến Hiệp Hoà (Bắc Giang). Đội vừa xây dựng cơ sở ở các vùng đi qua, vừa có những hoạt động quân sự phối hợp như trừng trị bọn tay sai phản động có nhiều nợ máu, đánh đồn Bản Trại, phá kho muối chia cho nhân dân.


Phong trào xung phong tham gia các đội Nam tiến phát triển rầm rộ ở Cao - Bắc - Lạng. Hàng trăm cán bộ, nam nữ thanh niên tình nguyện thoát ly gia đình vào các đội Nam tiến. Vũ khí đều do họ tự sắm lấy. Các lớp học cấp tốc được mở tại nhiều nơi, đào tạo hàng trăm cán bộ đáp ứng yêu cầu cho riêng tuyến đường Nam tiến. Lực lượng tham gia Nam tiến lần lượt được tổ chức thành 19 đội - Mỗi đội được phân công một địa phương hoạt động. Quá trình Nam tiến cũng là quá trình xây dựng các hội quần chúng, huấn luyện chính trị tổ chức lực lượng vũ trang gồm các đội du kích địa phương, đội tự vệ. Các đồng chí Hoàng Sâm và Thế An đang công tác ở Đội du kích Pác Bó, được điều về tổ chức đội bảo vệ cho các đội xung phong Nam tiến.


Tổng Kim Mã (châu Nguyên Bình) là nơi xuất phát của Ban xung phong Nam tiến. Các đội hoạt động theo phương thức "các tổ xung phong phát triển đi trước, hoạt động theo lối vũ trang tuvên truyền, bắt mối, điều tra, tuyên truyền gây cơ sở. Các tổ xung phong củng cố đến tiếp sau, chọn cốt cán trong quần chúng, mở lớp huấn luyện ngắn kỳ, rồi dựa vào cán bộ địa phương mới được đào tạo mà phát triển phong trào"1 (Ban Nghiên cứu lịch sử quaan đội thuộc Tổng cục Chính trị và Viện Lịch sử quân sự Việt Nam - Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, tập 1, Sđd, tr.73-74). Ba xã Kim Mã, Tam Lộng, Hoa Thám thuộc châu Nguyên Bình (Cao Bằng) nằm sát với địa giới các xã Cốc Đán, Tô Khê, Thượng Ân và Bằng Đức châu Ngân Sơn (Bắc Kạn), là những địa bàn mở đầu cho kế hoạch Nam tiến, để từng bước tạo thành căn cứ ở phía nam tỉnh Cao Bằng - phía bắc tỉnh Bắc Kạn.


Tiêu đề: Re: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 28 Tháng Giêng, 2015, 08:33:22 pm
Để phát triển cơ sở quần chúng ở khắp nơi, các đội Nam tiến đã mở thông nhiều con đường. Cách phát triển Nam tiến cũng không nhất thiết phải tiến hành tuần tự mà có thể theo lối "nhảy dù", "nhảy cóc". Có nhiều đội bí mật vượt qua những chặng đương dài đến địa phương có quần chúng tốt gây cơ sở rồi sau đó kết nối các cơ sở với nhau. Chẳng hạn, ở cánh Nam tiến do đồng chí Võ Nguyên Giáp phụ trách. Đội xung phong phát triển do đồng chí Nông Văn Quang chỉ huy, đã đi xa nhất, xuống gây cơ sở ở vùng phía nam Chợ Đồn. Một đội khác, trong đó có các đồng chí Hữu, Dung... hoạt động có lúc xuống tận Phủ Thông. Cánh Nam tiến do đồng chí Võ Nguyên Giáp phụ trách đã phát triển cơ sở từ tổng Kim Mã qua tổng Hoàng Hoa Thám xuống Hà Hiệu - một địa bàn có nhiều khó khăn ở châu Ngân Sơn, xuống Phủ Thông.


Các con đường Nam tiến kéo dài qua nhiều miền núi cao, nhiều cánh đồng, qua các bản làng của đồng bào Thổ, Dao, Nùng... Những nơi có các đội Nam tiến đi qua, quần chúng được giác ngộ, hăng hái tham gia các tổ chức Cứu quốc, tinh thần cách mạng lên rất cao.


Sau hội nghị ở Lũng Hoài, Chu Văn Tấn trở lại Bắc Sơn - Võ Nhai cùng Cứu quốc quân củng cố phong trào, mở đường Bắc tiến thông với Cao Bằng và tìm cách nối liên lạc với Trung ương Đảng ở An toàn khu 2 (Hiệp Hoà - Bắc Giang). Một tổ Cứu quốc quân từ Võ Nhai được cử đi Na Rì, sau đó đến gây cơ sở ở nam Bạch Thông, bắc Phú Lương (Thái Nguyên). Một tổ khác từ Đại Từ lên Định Hoá rồi lần lượt tiến qua Chợ Đồn, dừng chân ở Nghĩa Tá để hợp với cánh Nam tiến, sau đó vào Đông Viên rồi vượt lên dãy Phia Bioóc.


Tháng 10-1943, cánh Nam tiến do đồng chí Võ Nguyên Giáp phụ trách đã gặp đơn vị Bắc tiến của Cứu quốc quân do Chu Văn Tấn chỉ huy, ở xã Nghĩa Tá (Chợ Đồn). Con đường quần chúng, con đường liên lạc giữa hai khu căn cứ Cao Bằng và Bắc Sơn - Võ Nhai đã được nối liền. Để ghi nhớ thắng lợi của sự kiện này, các đồng chí đã đổi tên xã Nghĩa Tá thành xã Thắng Lợi. Cũng thời gian đó, các cánh khác cũng đã lần lượt đến được các địa phương, các vị trí để ra lúc xuất phát.


Như vậy, sau hơn tám tháng hoạt động, con đường quần chúng cách mạng theo hướng Nam tiến trên địa bàn Việt Bắc mà Hồ Chí Minh vạch ra, từ Cao Bằng đã nối liền với khu du kích Bắc Sơn - Võ Nhai. Cuối năm 1943 nhờ cơ sở cách mạng ở Chợ Chu (Thái Nguyên). Cứu quốc quân đã bắt được liên lạc với Trung ương Đảng ở miền xuôi. Phong trào cách mạng ở Việt Bắc đã gắn với phong trào cả nước. "Hai khu căn cứ Cao Bằng và Bắc Sơn - Võ Nhai được mở rộng, dựa vào nhau tạo thành thế liên hoàn chiến đấu, tiến có thể đánh, lui có thể giữ". "Sự hình thành hai khu căn cứ có những con đường quần chúng cách mạng nối liền nhau, đã mở ra triển vọng lớn, tạo điều kiện cho việc ra đời Khu giải phóng sau này"1 (Ban nghiên cứu lịch sử quân đội thuộc Tổng cục Chính trị và Viện Lịch sử quân sự Việt Nam - Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, tập 1, Sđd, tr.130). Cuối năm 1943 - đầu năm 1944, các đội xung phong Nam tiến, sau khi hoàn thành nhiệm vụ, gây cơ sở và mở thông các đường liên lạc, đều trở về Kim Mã (Cao Bằng). Ngày 22-1-1944, Tổng bộ Việt Minh và Liên tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng tổ chức lễ tổng kết tại rừng Nà Sang, xã Hoa Thám, liên hoan mừng thắng lợi và đã tặng các đội Nam tiến lá cờ "Xung phong thắng lợi".


Kết quả của phong trào Nam tiến đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng ở các tỉnh Việt Bắc, nối liền hai căn cứ cách mạng, mặt khác nó còn góp phần quan trọng vào việc phát triển lực lượng vũ trang ở các địa phương. Cùng với sự xuất hiện ngày càng nhiều của các xã, tổng hoàn toàn, các đội tự vệ chiến đấu cũng đã được thành lập ở nhiều nơi. Một số địa phương còn tập hợp các đội tự vệ tiến hành các cuộc diễn tập lớn. Tháng 3-1944, châu Hà Quảng đã thành lập được 1 trung đội vũ trang thoát ly gồm 50 đội viên, do đồng chí Dương Đại Lâm làm đội trưởng. Châu Hoà An cũng thành lập được 1 trung đội, do đồng chí Nguyễn Thế Đô làm Trung đội trưởng. Khu Thiện Thuật của đồng bào Mông cũng có 1 trung đội, do đồng chí Cao Lý làm Trung đội trưởng. Lần lượt các xã Tam Kim, Minh Tâm, Hoa Thám, Hưng Đạo (châu Nguyên Bình), Thượng Ân, Bằng Vân, Thượng Quan (châu Ngân Sơn) cũng đã thành lập các tiểu đội vũ trang. Các đơn vị này đã tổ chức những trận đánh phục, kích bọn lính đi lùng sục, ngăn chặn các cuộc khủng bố của địch, diệt trừ những tên phản động có nhiều nợ máu, bảo vệ cơ sở cách mạng và tài sản của nhân dân.


Việc phát triển các tiểu đội, đơn vị vũ trang địa phương đặt ra yêu cầu ngày càng lớn về vũ khí để trang bị cho các đơn vị. Liên tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng một mặt thiết lập thêm và mở rộng sản xuất ở các binh công xưởng, mặt khác phát động phong trào góp tiền mua sắm vũ khí theo tinh thần chỉ thị sửa soạn tổng khởi nghĩa của Tổng bộ Việt Minh ngày 7-5-1944.


Từ cuối năm 1943 đến cuối năm 1944, thực dân Pháp liên tục mở các đợt khủng bố khốc liệt trên hầu hết các tỉnh Việt Bắc. Ngoài hệ thống đồn bốt đã có, chúng lập thêm nhiều đồn bốt mới bao quanh những tuyến đường mà chúng nghi là đầu mối liên lạc của cách mạng. Chúng huy động thêm mật thám, cảnh sát từ Hà Nội lên phối hợp truy bắt cán bộ, vừa tiến hành các thủ đoạn mua chuộc, mị dân, vừa tạo mâu thuẫn giữa các dân tộc, tuyển thêm tay sai lập các đội chống phá cách mạng. "Tại Chợ Rã, chúng bắt 14 hội viên, trong đó có các đồng chí cán bộ chủ chốt. Tại Hoà An, địch bắt một lúc 53 cán bộ, chiến sỹ. giết hại 3 đồng chí... Tại Nguyên Bình, chúng bắt 100 đồng chí, giết 10 đồng chí... Tại Quảng Uyên. chúng bắt 11 đồng chí đem giết"1 (Cao Bằng – Lịch sử đấu tranh vũ trang cách mạng (1930-1954), Sđd.tr-54). Địch còn phá các điểm cất giấu lương thực và cướp đi khoảng 40 tấn thóc dự trữ của cách mạng, đốt phá hàng trăm xóm bản, dồn dân về sống tập trung để dễ bề kiểm soát. Trên con đường Nam tiến, từ tháng 1 đến tháng 5-1944, địch đã bắn chết 7 đồng chí lãnh đạo cấp tỉnh, cấp châu2 (Cao Bằng – Lịch sử đấu tranh vũ trang cách mạng (1930-1954), Sđd.tr-54).


Tiêu đề: Re: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 28 Tháng Giêng, 2015, 08:35:09 pm
Trước tình hình địch tăng cường khủng bố, các đồng chí lãnh đạo Việt Minh và Liên tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng quyết định tổ chức thêm một số đội Nam tiến với nhiệm vụ tìm cách để nối lại các đường Nam tiến. Thành phần chủ yếu Nam tiến đợt này gồm một trung đội do đồng chí Hoàng Sâm chọn và tố chức. Cho đến cuối năm 1943, dù địch khủng bố ác liệt, cơ sở cách mạng có bị thiệt hại song phong trào vẫn được duy trì, con đường Nam tiến đã tạo được những cơ sở quần chúng trung kiên. Từ đó, các lực lượng tự vệ vẫn được tổ chức và củng cố thêm. Do sự hoạt động của các đội Nam tiến, các cơ sở và phong trào cách mạng vẫn duy trì, cuộc khủng bố của địch chỉ càng làm tăng thêm lòng càm thù và nóng lòng đứng lên khởi nghĩa của nhân dân Việt Bắc.


Địch càng điên cuồng khủng bố phong trào cách mạng, quần chúng nhân dân càng nóng lòng đứng lên khởi nghĩa. Trong bối cảnh đó, Liên tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng triệu tập hội nghị tại Lùng Sa (một địa điếm giáp giới châu Hoà An và Nguyên Bình), ngày 13-7-1944. Đầy đủ cán bộ phụ trách các vùng, cán bộ Trung ương như các đồng chí: Vũ Anh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp... dự hội nghị. Báo cáo chính trị của Hội nghị khẳng định: "Các điều kiện đã chín muồi để phát động chiến tranh du kích trong Liên tỉnh". Các đại biểu thảo luận sôi nổi và dù còn nhiều vấn đề về công tác cụ thể chưa có cách giải quyết, hội nghị nhanh chóng đi đến quyết nghị khởi nghĩa. Hội nghị nhận định: "Tình hình trong nước và phong trào cách mạng địa phương, quần chúng Cao - Bắc - Lạng đang nóng lòng chờ đợi khỏi nghĩa". Do chưa bắt được liên lạc với Trung ương Đảng ở miền xuôi, chưa nắm bắt được phong trào cách mạng toàn quốc nên hội nghị chưa định ngày giờ khởi nghĩa mà chỉ mới thống nhất được những việc cần gấp rút thực hiện như: hoàn thành công tác huấn luyện cho các đội trưởng và chính trị viên các đội vũ trang; các đơn vị tự vệ chiến đấu đều chuyển thành các đội du kích, đẩy mạnh phong trào mua sắm, tự tạo vũ khí, đạn dược; lương thực chuẩn bị cho các đội du kích phải đủ ăn trong 6 tháng.


Tới tháng 9-1944, kế hoạch chuẩn bị khởi nghĩa đã được thực hiện phần lớn. Tiếng súng vũ trang hành động đã nổ ở một số nơi. Liên tỉnh ủy đang trù tính một cuộc hội nghị cuối cùng kiểm điểm công tác chuẩn bị và quyết định ngày giờ phát động khởi nghĩa.


Cuối tháng 10-1944, lãnh tụ Hồ Chí Minh từ Trung Quốc trở về Pác Bó. Một buổi sáng tháng 10-1944, các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Vũ Anh tới gặp và xin ý kiến Người trong một lán nhỏ trên một quả đồi ở Pác Bó. Đồng chí Vũ Anh báo cáo toàn diện tình hình phong trào cách mạng ở các tỉnh Cao - Bắc - Lạng: những khó khăn lớn trong việc liên lạc với Trung ương ở miền xuôi và ngay cả với khu căn cứ Bắc Sơn - Võ Nhai, về nghị quyết vũ trang khởi nghĩa của Liên tỉnh ủy. Đồng chí Võ Nguyên Giáp báo cáo về tình hình con đường Nam tiến, sự khủng bố của thực dân Pháp và chủ trương đối phó của ta. Nghe báo cáo xong, Người nhận định "phong trào lên, địch khủng bố là chuyện đương nhiên, những có phần vì ta bộc lộ lực lượng". Người chỉ thị hoãn ngay cuộc khởi nghĩa, bởi vì "Chủ trương phát động chiến tranh du kích ở Cao - Bắc - Lạng là mới chỉ căn cứ vào tình hình địa phương mà chưa căn cứ vào tình hình cụ thể trong cả nước, mới chỉ thấy bộ phận mà chưa thấy toàn cục". "Trong điều kiện bây giờ, nếu phát động ngay nhân dân nổi lên đánh du kích theo quy mô và phương thức đã định trong Nghị quyết, thì sẽ gặp khó khăn, còn khó khăn hơn thời kỳ bị khủng bố vừa rồi". "Quân khởi nghĩa Cao - Bắc - Lạng đơn độc dấy lên nhất định đế quốc sẽ mau chóng tập trung lực lượng đàn áp. Riêng về mặt quân sự thì cũng không theo đúng nguyên tắc tập trung lực lượng; cán bộ, vũ khí đều phân tán, thiếu hẳn một lực lượng nòng cốt". Người nhận định: "Bây giờ thời kỳ cách mạng hoà bình phát triển đã qua nhưng thời kỳ toàn dân khỏi nghĩa chưa tới. Nếu bây giờ chúng ta vẫn chỉ hoạt động bằng hình thức chính trị thì không đủ để đẩy phong trào đi tới. Nhưng phát động vũ trang khởi nghĩa ngay thì quân địch sẽ tập trung đối phó. Cuộc đấu tranh bây giờ phải từ hình thức chính trị tiến lên hình thức quân sự. Song hiện nay chính trị còn trọng hơn quân sự. Phải tìm ra một hình thức đấu tranh thích hợp mới có thể đẩy phong trào tiến lên..."1 (Võ Nguyên Giáp - Những chặng đường lịch sử, Sđd, tr.121-123). Rồi Người chỉ thị: "Bây giờ nên tập hợp những cán bộ, chiến sỹ anh dũng nhất, những vũ khí tốt nhất, tổ chức thành một đội vũ trang để hoạt động. Ta sẽ dùng hình thức vũ trang để gây ảnh hưởng cách mạng sâu rộng trong quần chúng. Tác chiến phải gây được ảnh hưởng tốt về chính trị, do đó mà mở rộng cơ sở phát triển lực lượng vũ trang. Chúng ta sẽ lập đội quân giải phóng...”. Người trực tiếp giao cho đồng chí Võ Nguyên Giáp nhiệm vụ này. Sau đó, khi trao đổi với đồng chí Võ Nguyên Giáp. Ngươi phác thảo ra những nét chính về đội Việt Nam Giải phóng quân, từ tổ chức đến phương châm hành động và vấn đề cung cấp lương thực, đạn dược, quan hệ giữa đội chủ lực và các lực lượng vũ trang địa phương. Đặc biệt tổ chức phải lấy chi bộ Đảng làm hạt nhân lãnh đạo. Người nhắc nhở quán triệt phương châm: "Người trước, súng sau". Các đội viên phải là những người kiên quyết, hăng hái trong công tác, dũng cảm trong chiến đấu, có lòng yêu nước, căm thù giặc sâu sắc. Phải cân nhắc từng người một, các cán bộ chỉ huy tiểu đội, trung đội chủ yếu lấy trong số cán bộ đi học quân sự ở nước ngoài về. Đa số họ đã trải qua chiến đấu và ít nhiều đã biết về kỹ thuật và kinh nghiệm quân sự. Trong Đội phải có đủ thành phần Tày, Nùng, Mán, Kinh, người địa phương nào cũng có nhằm phục vụ cho hoạt động sau này của Đội được thuận lợi. Trước lúc đi, Người còn dặn thêm: “Phải dựa chắc vào dân. Dựa chắc vào dân thì không kẻ địch nào tiêu diệt được ta”.


Căn cứ vào chỉ dẫn của Người, đồng chí Võ Nguyên Giáp cùng các đồng chí Vũ Anh và Lê Quảng Ba họp bàn việc chọn người và tập trung vũ khí, thống nhất kế hoạch tổ chức cụ thể. Các đồng chí thống nhất lúc đầu chỉ tổ chức 1 trung đội gồm 3 tiểu đội. Lực lượng chủ yếu lấy từ các đội vũ trang châu Hà Quảng, Hoà An, Nguyên Bình, Ngân Sơn... một phần khác chọn trong số các đồng chí từng học quân sự ở nước ngoài về. Lập danh sách đội, các đồng chí trao đổi, lựa chọn cân nhắc kỹ từng đội viên, cán bộ phụ trách nhất thiết phải là người được học quân sự và đã có kinh nghiệm trong phong trào đấu tranh. Sau khi lập xong danh sách, các đồng chí cùng nhất trí chọn đồng chí Hoàng Sâm, từng là Đội phó Đội du kích Pác Bó, làm Đội trưởng; đồng chí Xích Thắng (Dương Mạc Thạch) làm Chính trị viên.

Về tên gọi của Đội, các đồng chí trao đổi kỹ và thống nhất lấy tên là Đội Việt Nam Giải phóng quân.

Về hoạt động quân sự đầu tiên, các đồng chí quyết định sẽ nhằm đánh vào một vài đồn địch, cướp súng đạn giặc, và phải thắng thật giòn giã để khuếch trương thanh thế của Đội. Về hậu cần, Đội sẽ phải dựa vào dân. Về thời gian, ba người quyết định chậm nhất là vào hạ tuần tháng 12-1944.


Tiêu đề: Re: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 28 Tháng Giêng, 2015, 08:36:36 pm
Trong khi các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Vũ Anh, Lê Quảng Ba đang trao đổi thì lãnh tụ Hồ Chí Minh đến. Đồng chí Võ Nguyên Giáp báo cáo nội dung cuộc trao đổi và được Người đồng ý. Về tên gọi Đội Việt Nam Giải phóng quân, theo Người chỉ thị thêm vào hai chữ “tuyên truyền” để mọi người ghi nhớ nhiệm vụ chính trị lúc này còn trọng hơn quân sự.


Về quan hệ giữa Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân - đội chủ lực đầu tiên của Đảng trong cả nước với các lực lượng vũ trang địa phương. Người khẳng định: Thống nhất chỉ đạo cả chủ lực và địa phương, ba lực lượng ấy đoàn kết. phối hợp chặt chẽ với nhau. Bộ đội chủ lực có nhiệm vụ dìu dắt, giúp đỡ bộ đội địa phương trưởng thành.


Người chú trọng hai điểm “Một là, cuộc chiến đấu đầu tiên phải là một cuộc thắng lợi”, bởi “cuộc chiến đấu ấy có tác dụng rất lớn lao và trong một phần lớn, sẽ quyết định tương lai của Đội. Hai là các cuộc hành động phải nhằm thời gian, phải nhằm địa điểm, tổ chức phải gọn gàng, chu đáo xuất sắc, làm cho vang dội đến khắp trong nước và vang dội cả ra nước ngoài. Sau mỗi thắng lợi phải triệt để lợi dụng để mở rộng tuyên truyền. Có thế Đội giải phóng quân mới đạt mục đích tuyên truyền của nó, mới kêu gọi toàn dân đoàn kết, vũ trang đứng dậy mới làm cho nước ngoài chú ý đến cuộc chiến đâu chống phát xít của dân tộc Việt Nam”1 (Võ Nguyên Giáp - Đội quân giải phóng 1944-1947, Bản đánh máy, lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, trang 11, ký hiệu VL23017/85).


"Bác yêu cầu thành lập nhanh, khi thành lập phải có những lời thể danh dự. Thành lập xong ra quân hành động có tính chất quần chúng. Trận đầu mặc dù đội quân mới thành lập còn non yếu nhưng phải chiến thắng. Điều đó sẽ ảnh hương tốt cho công tác tuyên truyền và tác động trong quần chúng"2 (Vũ Anh - Những ngày gần Bác - trong sách Đầu nguồn (tập hồi ký), Sđd, tr.270)... “Người cán bộ cách mạng bất kỳ làm việc gì cũng phải biết mình, biết người, phải điều tra nghiên cứu cẩn thận, biết rõ sức ta, sức địch, không được để sơ hỏ, làm lộ bí mật, hại đến phong trào"  (Vũ Anh - Những ngày gần Bác - trong sách Đầu nguồn (tập hồi ký), Sđd, tr.270). Lúc chia tay các đồng chí Vũ Anh, Võ Nguyên Giáp và Lê Quảng Ba. Người còn dặn thêm: "Nhớ bí mật: ta ở Đông, địch ở Tây. Lai vô ảnh khứ vô hình".


Về vũ khí, các đồng chí cũng quyết định tập trung phần lớn vũ khí tốt nhất lấy từ các châu, từ cơ sở lên và từ nước ngoài về để trang bị cho đội. Lúc ấy, đồng chí Tông Minh Phương và bà con Việt kiều ở Côn Minh (Trung Quốc) có gửi về một số vũ khí gồm: 1 khẩu tiểu liên Submachine Gun, 3 khẩu Cônbát Mỹ và 150 viên đạn, 6 quả bom lửa, 1 hộp bom nổ chậm. Cùng với vũ khí, Đội nhận được 50 đồng chi phí quân nhu... Cho tới trước ngày thành lập, Đội chỉ có 2 khẩu súng thập, 17 khẩu súng trường giáp năm, giáp ba, khai hậu của Tàu chế tạo: một số khẩu súng kíp, súng hoả mai, còn lại là mã tấu, giáo, mác, 150 viên đạn, 1 hộp bom nổ chậm.


Trên đường từ Pác Bó trở lại tổng Kim Mã, theo kế hoạch đã định, các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Vũ Anh, Lê Quảng Ba đã ghé vào gặp đội vũ trang châu Hà Quảng để trực tiếp điều động một số cán bộ và thành viên ưu tú của đội vũ trang này. Đó là các đồng chí Xuân Trường, La Thanh, Dương Đại Long, Lương Văn Ích. Tại đây, các đồng chí cũng đã gặp và điều động một số đồng chí, cán bộ vừa học quân sự từ Trung Quốc về cho Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân như Hoàng Văn Thái, Lâm Cẩm Như, Thu Sơn, Đàm Quốc Chủng... Số anh em này đều rất phấn khởi khi được lựa chọn vào Đội.


Sau đó, khi qua Lam Sơn (Hòa An), các đồng chí này còn vào gặp gỡ và bàn bạc với Liên tỉnh ủy, phổ biến quyết định của lãnh tụ Hồ Chí Minh hoãn kế hoạch khởi nghĩa vũ trang và thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân. Các đồng chí trong Liên tỉnh ủy rất vui mừng, nhiệt liệt hoan nghênh quyết định đó và cùng bàn bạc, trao đổi về kế hoạch điều động lực lượng, chỉ thị cho các tổng, châu chọn những cán bộ ưu tú nhất của mình lén tham gia Đội. Đồng thời lãnh đạo Liên tỉnh ủy cũng chỉ thị cho các địa phương trong Cao - Bắc - Lạng tích cực giúp đỡ mọi mặt trong việc xây dựng Đội, vừa gấp rút điều tra tình hình các đồn địch tại địa phương. Rời Liên tỉnh ủy, các đồng chí tới tổng Hoa Thám (Nguyên Bình), gặp chỉ huy đội vũ trang của tổng này, trực tiếp điều động một số đồng chí lên tham gia đội, theo danh sách đã định. Đó là các đồng chí: Hà Hưng Long, Tô Vũ Dâu, Bế Văn Sắt.


Về phía các châu, tổng trong Liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng, sau khi nhận được chỉ thị của Liên tỉnh ủy, đều đã họp bàn để cử những thành viên ưu tú trong các đội vũ trang tổng, châu của mình lên tham gia Đội. Đội vũ trang thoát ly tổng Chí Kiên (Bắc Kạn) đã cử ba người là Hoàng Văn Ninh (tức Thái Sơn), Hoàng Văn Lường (Kính Phát) và Trương Phúc Minh1 (). Đội vũ trang tổng Phan Đình Phùng (Ngân Sơn) chọn và cử hai đồng chí là Hoàng Thịnh và Bế Ích Nhân (Ích Vạn). Đồng chí Hoàng Thịnh vốn là một cán bộ từ Cứu quốc quân lên chi viện cho phong trào Nam tiến.


Bên cạnh đó, một số các đồng chí khác từ các tổng cũng được cử lên tham gia Đội như: Trương Đắc - cán bộ phụ trách vùng dân tộc Dao ở tổng Hưng Đạo, Nguyên Bình...

Ngoài ra, một số đồng chí từ Cứu quốc lên chi viện cho Cao - Bắc - Lạng tham gia phong trào Nam tiến, qua thử thách trong phong trào, cũng đã được chọn tham gia đội. Đó là đồng chí Mông Phúc Thơ và đồng chí Hoàng Thịnh. Lúc này đồng chí Mông Phúc Thơ là cán bộ Nam tiến đang phụ trách các xã vùng cao của tổng Đội Cung (bắc Ngân Sơn).


Về đảm bảo hậu cần cho Đội như ăn, mặc..., các đồng chí đều xác định cơ bản là “dựa vào dân, dựa vào dân là có tất cả” như lời dặn của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Tuy vậy, lúc này có nhiều việc trước mắt cần phải chi tiêu. Do đó, lãnh tụ Hồ Chí Minh quyết định trích 50 đồng tiền Đông Dương1 (Về số tiền này, lâu nay các tư liệu và sách đều ghi là 500 đồng. Tuy nhiên, qua xác minh của chúng tôi thì số tiền ban đầu của Đội chỉ có 50 đồng) trong quỹ Đảng và giao cho đồng chí Vũ Anh (lúc đó phụ trách tài chính của Đảng) thực hiện. Đồng chí Võ Nguyên Giáp chuyển giao số tiền đó cho đồng chí Văn Tiên (tức Lộc Văn Lùng) quản lý để lo chi tiêu cho toàn Đội. Đồng chí Văn Tiên là một cán bộ tận tụy và mẫn cán, yêu quý các đồng chí của mình như con em, coi trọng từng đồng xu, hạt gạo của công quỹ. Dù được giao nhiệm vụ làm quản lý cho Đội, song đồng chí vẫn nêu nguyện vọng chuyển việc này cho người khác để được trực tiếp cầm súng chiến đấu. Nhận số tiền này, đồng chí Vân Tiên đã cho mua ngay một chiếc chảo to để nấu ăn và gửi một ít để mua thuốc ký ninh chống sốt rét cho Đội. Như vậy, đồng chí Lộc Văn Lùng – người quản lý đầu tiên của đội, đồng thời cũng là cán bộ tài chính đầu tiên của quân đội ta sử dụng những khoản bảo đảm đời sống và sinh hoạt cho bộ đội2 (Dẫn theo Trọng Thanh-500 đồng, 3.000 đồng... nửa triệu đồng, Đặc san Sự kiện và Nhân chứng. Báo Quân đội Nhân dân, số 2-1994, tr.9).


Tiêu đề: Re: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 28 Tháng Giêng, 2015, 08:38:20 pm
Trước ngàv thành lập, đồng chí Võ Nguyên Giáp nhận được một bức thư nhỏ của lãnh tụ Hồ Chí Minh đựng trong một vỏ bao thuốc lá. Đó chính là chỉ thị về việc thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, do đích thân Người viết. Nội dung chỉ thị như sau:

“Tên Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự. Nó là đội tuyên truyền. Vì muốn hành động có kết quả thì về quân sự, nguyên tắc chính là nguyên tắc tập trung lực lượng, cho nên, theo chỉ thị mới của Đoàn thể, sẽ chọn lọc trong hàng ngủ những du kích Cao - Bắc - Lạng số cán bộ và đội viên kiên quyết, hăng hái nhất và sẽ tập trung một phần lớn vũ khí để lập ra đội chủ lực.


Vì cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến của toàn dân, cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân, cho nên trong khi tập trung lực lượng để lập một đội quân đầu tiên, cần phải duy trì lực lượng vũ trang trong các địa phương cùng phối hợp hành động và giúp đỡ về mọi phương diện. Đội quân chủ lực trái lại có nhiệm vụ dìu dắt cán bộ1 (Các sách ghi chép không thống nhất, một số sách ghi là “dìu dắt các đội”, chúng tôi sử dụng theo Hồ Chí Minh – toàn tập, tập 3 (1930-1945) Nxb Chính trị quốc gia, H.2000) vũ trang của các địa phương, giúp đỡ huấn luyện, giúp đỡ vũ khí nếu có thể được, làm cho các đội này trưởng thành mãi lên.

Đối với các đội vũ trang địa phương: đưa các cán bộ địa phương về huấn luyện, tung các cán bộ đã huấn luyện đi các địa phương, trao đổi kinh nghiệm, liên lạc thông suốt, phối hợp tác chiến.

Về chiến thuật: vận dụng lối đánh du kích, bí mật, nhanh chóng tích cực, nay Đông mai Tây, lai vô ảnh, khứ vô tung.
Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân là đội quân đàn anh, mong cho chóng có những đội đàn em khác.

Tuy lúc đầu quy mô của nó còn nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam”1 (Hồ Chí Minh - Toàn tập, tập 3, Sđd.tr.507-508).

Về địa điểm để tổ chức lễ thành lập Đội, trước đấy lãnh tụ Hồ Chí Minh đã hỏi đồng chí Võ Nguyên Giáp là có thể tìm được một căn cứ "tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ" được không? Đồng chí Võ Nguyên Giáp trả lời: “Có thể. Nhất định quân địch không thể tiêu diệt quân ta được”. Sau khi cân nhắc các yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hoà”, và cả mặt địa danh lịch sử tên gọi, địa điểm được chọn là khu rừng đại ngàn nằm giữa hai tổng Trần Hưng Đạo và Hoàng Hoa Thám, thuộc châu Nguyên Bình, Cao Bằng. Khu rừng này thuộc núi Dền Sinh, dãy Khâu Giáng; nơi có nhiều cây cổ thụ và đỉnh Slam Cao, cao nhất trong các dãy núi xung quanh, rất tiện cho việc bố trí vị trí quan sát.


Nguyên Bình là một huyện có phong trào cách mạng phát triển sớm và mạnh của tỉnh Cao Bằng. Ngay từ những năm 20, ở đây đã dấy lên phong trào đấu tranh của công nhân mỏ thiếc Tĩnh Túc. Ngày 15-4-1935, chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của Nguyên Bình đã ra đời, do đồng chí Dương Mạc Cam (Dương Mạc Thạch) làm Bí thư. Đầu năm 1941, Châu ủy Nguyên Bình vừa mới ra đời đã cử ngay cán bộ dự các lớp huấn luyện chương trình Việt Minh. Từ những hạt giống đỏ đó, số cán bộ này lại trở về các địa phương mở những lớp huấn luyện mới, đào tạo những cán bộ phong trào mới để rồi cử họ đi khắp nơi vận động cách mạng trong quần chúng. Cuối năm 1942, ở Nguyên Bình đã xuất hiện nhiều xã, lũng "hoàn toàn". Ban Việt Minh ở nhiều nơi đã được thành lập. Cùng thời gian này, Hồ Chí Minh đến Gia Bằng - nơi có phong trào phát triển mạnh của Nguyên Bình để mở lớp huấn luyện chính trị cho các đồng chí trong Tỉnh ủy và Châu ủy lâm thời. Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng ở Nguyên Bình, lòng yêu nước của nhân dân ở đây, từng được thử thách qua các đợt khủng bố trắng của địch cuối năm 1943, cùng với vị trí địa lý hiểm trở, đã làm cho Nguyên Bình có đầy đủ các yếu tổ để trở thành căn cứ địa cho cách mạng.


Ở Nguyên Bình, hai tổng có phong trào mạnh là Tam Lộng và Kim Mã. Khồng phải ngẫu nhiên mà nơi đây lại được chọn làm nơi ra đời của đội quân chủ lực đầu tiên của quân đội ta (Tam Kim là xã được thành lập sau Cách mạng tháng Tám 1945 trên cơ sở nhập hai xã Tam Lộng và Kim Mã). Nằm ở phía nam huyện Nguyên Bình, những năm 1940, dân số hai tổng có khoảng 1.000 nhân khẩu, chủ yếu là ngưòi Tày và người Dao. Ở đây diện tích rừng chiếm hơn 90 phần trăm, đâ't nông nghiệp chỉ chiếm khoảng 5 phần trăm. Do đó, cũng như nhiều địa phương khác ở Cao Bằng, nhân dân Tam Lộng và Kim Mã có cuộc sống rất khó khàn. Dưới ách cai trị của thực dân và tay sai, cũng như nhân dân nhiểu nơi khác trong cả nước, nhân dân Tam Kim luôn mang trong mình tinh thần yêu nước nồng nàn, ý chí đấu tranh quật khởi, chỉ chờ cơ hội là vùng lên.


Cuối năm 1941, các hội viên cứu quốc đã đến hai tổng này tuyên truyền vận động cách mạng. Ngày 30-1-1942, các đồng chí Tán Thuật (Nông Văn Lạc) và Đề Thám (Nông Văn Bưu) đã lên Gia Bằng (Minh Tâm) dự lớp huấn luyện cán bộ do đồng chí Võ Nguyên Giáp tổ chức. Trở lại Tam Lộng, Kim Mã, các đồng chí nàv đã nhanh chóng vận động được thêm nhiêu người vào Hội cứu quốc. Đầu năm 1942, các đồng chí Võ Nguyên Giáp và Lê Thiết Hùng đã về Tam Kim mở liên tiếp ba lớp huấn luyện cán bộ tại Roỏng Bó, hang Thẩm Cầu và rừng Nà Dư. Sau đó, số hội viên cứu quốc người địa phương đã tăng lên rất đông.


Trước sự phát triển của phong trào cách mạng ở Tam Kim, nhất là do hoạt động của các lớp huấn luyện trên có phần công khai, tháng 8-1942, thực dân Pháp đã điều quân từ châu lỵ Cao Bằng vào khủng bố ở khu vực này. Một số hội viên đã bị địch bắt. Vì vậy, các cán bộ phong trào ở đây phải rút vào rừng hoạt động bí mật. Châu ủy Nguyên Bình cũng đã cử thêm cán bộ tăng cường cho Tam Kim. Khi tình hình đã ổn định trở lại, các đồng chí được tôi luyện qua thử thách đã được kết nạp vào Đảng Cộng sản như: Nông Văn Lạc, Dương Văn Long...


Trên cơ sở đó, tháng 9-1942, chi bộ Tam Kim được thành lập (còn gọi là chi bộ Nam tiến) gồm các đồng chí: Võ Nguyên Giáp, Lê Thiết Hùng, Nông Văn Quang, Nông Văn Lạc, Dương Văn Long, do đồng chí Nông Văn Quang làm Bí thư. Chi bộ kịp thời định hướng cho việc phát triển phong trào là củng cố cơ sỏ cũ và nhanh chóng phát triển cơ sở mới vào các vùng dân tộc Dao để có thêm địa bàn hoạt động cho cán bộ bí mật. Những tháng cuối năm 1942 - đầu 1943, các cán bộ Tam Kim đã gây dựng được thêm nhiều cơ sở Hội cứu quốc ở nhiều bản vùng cao như Nà Áng, Nà Sang, Nà Thư (tổng Hưng Đạo): Khuổi Sương, Khuổi Ngoài (Cốc Đán)...


Tiêu đề: Re: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 28 Tháng Giêng, 2015, 08:39:03 pm
Tháng 2-1943, được tăng cường thêm một số cán bộ từ Cứu quốc quân lên, ba đội xung phong Nam tiến bí mật và công khai đã xuất phát từ Tam Kim phát triển phong trào xuống các xã ở Thượng Ân, Cốc Đán, Vân Tùng (Ngân Sơn).
Tại Tam Kim, thời gian này cơ sở hội viên cứu quốc cũng đã phát triển rộng khắp và lan nhanh sang các tổng lân cận như Hoa Thám, Hưng Đạo... Hội cứu quốc phát triển đến đâu là ở đó tổ chức các đội tự vệ chiến đấu trong thanh niên để làm nhiệm vụ bảo vệ các cuộc họp và tiễu trừ Việt gian phản động. Tháng 7-1943, hai tên phản động gian ác tại Tam Kim là tổng đoàn Dương Văn Luỹ và tên xã đoàn lên Cao Bằng báo cáo chánh mật thám Pháp. Khi về qua địa phận Hoa Thám đã bị đội tự vệ chiến đấu Tam Kim chặn đánh tiêu diệt tên Lũy, còn tên xã đoàn chạy thoát. Đây là chiến công đầu của tự vệ chiến đấu Tam Kim.


Tháng 11-1943, Đảng bộ và đội tự vệ chiến đấu Tam Kim được đồng chí Võ Nguyên Giáp giao nhiệm vụ tổ chức một cuộc mít tinh lớn với khoảng 500 hội viên cứu quốc và tự vệ chiến đấu của các vùng xung quanh nhân kỷ niệm Cách mạng tháng Mười Nga tại rừng Pù Mèn. Đáp ứng yêu cầu trên, Đảng bộ và nhân dân Tam Kim đã lo làm các lán nghỉ, tổ chức bảo đảm việc ăn nghỉ, lương thực thực phẩm, giữ bí mật cho các đại biểu tham dự từ các vùng như Ngân Sơn, Chợ Rã... Từ thành công trên, đến tháng 1-1944, đồng chí Võ Nguyên Giáp lại giao tiếp cho Đảng bộ và tự vệ chiến đấu Tam Kim và Hoa Thám làm lán trại, chuẩn bị lương thực, thực phẩm cho 100 cán bộ bí mật họp tổng kết công tác Nam tiến tại rừng Nà Sang (Tam Kim). Cuộc họp diễn ra 1 ngày 1 đêm và đã được bảo đảm an toàn tuyệt đối.


Cuối tháng 1-1944, chi bộ Tam Kim và đội tự vệ chiến đấu ở đây lại được giao nhiệm vụ tố chức một lớp học quân sự và chính trị (còn gọi là "Quân chính học hiệu") do đồng chí Võ Nguyên Giáp và đồng chí Lê Thiết Hùng làm giảng viên. Lớp gồm có 80 học viên từ các địa phương về dự như: Minh Tâm, Hoa Thám, Hoà An, Ngân Sơn về dự. Mục đích lớp học là đào tạo cán bộ quân sự tăng cường cho tuyến đường Nam tiến. Nhiệm vụ nặng nề khi tổ chức lớp, ngoài chuẩn bị lương thực, thực phẩm, còn phải bảo đảm trật tự an ninh. Những nhiệm vụ trên đều do các đoàn thể cứu quốc, tự vệ chiên đấu Tam Kim đảm nhiệm và đã hoàn thành xuất sắc. Lớp học kết thúc tôt đẹp.


Sau khi lớp học bế giảng một thời gian, quân Pháp nghe tin đã điều quân lên khủng bố ở một số nơi như Minh Tâm, Tam Kim, Hoa Thám... Chúng tiến hành dồn nhà lẻ, bản nhỏ vào làng lớn, bắt ép nhân dân rào làng, tăng cường canh gác nhằm cách ly quần chúng với cán bộ cách mạng. Chúng cũng lập thêm nhiều đồn bốt, nhà bang tá ở quanh vùng như: Nà Bao, Bằng Đức, Phai Khắt, Vài Khao, Nà Ngần... Riêng xã Tam Kim, ngoài việc tịch thu ngôi nhà của đồng chí Nông Văn Lạc để đóng quân, chúng còn tổ chức bao vây, truy bắt những hội viên trung kiên.


Để đối phó với âm mưu của địch, cấp trên chỉ thị cho Tam Kim chuyển các cán bộ nòng cốt tại địa bàn này vào rừng hoạt động bí mật. Đến giữa năm 1944, tại Tam Kim đã có 26 ngưòi chuyển vào rừng hoạt động bí mật. Bên cạnh đó, lãnh đạo hai tổng này đã thành lập một đội vũ trang thoát ly để nắm và chỉ đạo quần chúng đấu tranh chống cuộc khủng bố trắng của địch. Đội gồm ba tổ hoạt động tại ba khu vực là: tổ Thế Dục, tổ Đức Chính và tổ Phan Thanh. Phối hợp với lực lượng này đấu tranh chống khủng bố còn có đội "Hộ lương diệt ác" của Liên tỉnh ủy, do đồng chí Hoàng Sâm chỉ huy.

Thực hiện chỉ thị của Liên tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng về chuẩn bị khởi nghĩa cục bộ, lãnh đạo hai tổng Tam Lộng và Kim Mã với sự trợ giúp đắc lực của hơn 100 hội viên cứu quốc tích cực, đã chuẩn bị lương thực dự trữ gạo muối.

Tháng 9-1944, ba đội vũ trang tập trung của Tam Kim, Hoa Thám, Chí Kiên đã được dự lớp tập huấn 20 ngày tại rừng Khuổi Cọ (cách đèo Cao - Bắc khoảng 6km) do các đồng chí Võ Nguyên Giáp và Hoàng Sâm làm giảng viên.

Khi lãnh tụ Hồ Chí Minh chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, đội vũ trang Tam Kim vinh dự được chọn hai chiến sỹ tham gia là đồng chí Tô Văn Cắm (Tiến Lực) và Nông Văn Kiểm (tức Liên).


Trước ngày thành lập Đội, theo lời dặn của Lãnh tụ Hồ Chí Minh: “Hoạt động của Đội phải lấy chi bộ làm hạt nhân lãnh đạo”, các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy đội đã tiến hành thành lập chi bộ Đảng của Đội. Lúc các đội viên chưa về tập trung, chi bộ chỉ gồm các đồng chí: Xích Thắng, Hoàng Sâm, Võ Nguyên Giáp và Hoàng Văn Thái, do đồng chí Xích Thắng làm Thư ký chi bộ  (“Thư ký chi bộ” là sử dụng theo từ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong sách Những chặng đường lịch sử, Sđd. Đây là tên gọi của Bí thư chi bộ lúc đó). Trong số các đội viên được triệu tập, hoặc được cử đến, có nhiêu người là đảng viên. Khi tập trung tại rừng Trần Hưng Đạo, các đồng chí đảng viên này tiếp tục sinh hoạt tại chi bộ Đảng của đội, nên số đảng viên trong chi bộ của Đội tăng lên. Một số các đội viên đã là đảng viên lúc đó là: Mông Phúc Tho, Hoàng Thịnh, Trương Đắc, Dương Đại Long, La Thanh. Thu Sơn.


Trong những ngày chuẩn bị thành lập Đội, trên các ngả đường về khu rừng Trần Hưng Đạo, các đội tự vệ của các xã Tam Lộng, Kim Mã, Hoa Thám bí mật dẫn đường, bảo vệ cho các đội viên về nơi tập kết. Dưới sự chỉ đạo của các cán bộ địa phương như Nông Văn Lạc, Lý Đức Thương, các đoàn thể Cứu quốc đã đóng góp lương thực, rau, muối, giấy viết khẩu hiệu cho Đội. Công việc chuẩn bị được tiến hành rất khẩn trương. Các đội viên và cán bộ lần lượt từ các châu kéo về. Ba, bốn trạm đón tiếp được tổ chức ở những nơi giáp giới Cao Bằng - Bắc Kạn để đón tiếp, đưa đường cho các đội viên.


Tiêu đề: Re: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 28 Tháng Giêng, 2015, 08:40:47 pm
Ngay từ sáng ngày 22-12, tất cả các đồng chí được triệu tập đã tề tựu ở khu rừng Trần Hưng Đạo, tạm nghỉ ngơi trong ba cái lán do cơ sở cách mạng ở đây đã dựng sẵn. Những bà con hội viên ở dưới làng có nhiệm vụ đi lại nơi trú quân để giúp đỡ Đội, lần đầu thấy quân đội cách mạng tập trung đông đảo với súng ống như vậy, đều hết sức phấn khởi. Ban chỉ huy Đội tiếp tục thảo luận bàn bạc để hoàn thành những lời thề danh dự và những điều kỷ luật của Đội.


Chiều 22-12, đồng chí Nông Văn Lạc - một cán bộ cơ sở ở Tam Kim, đi kiểm tra lại tất cả các con đưòng dẫn tới khu rừng Trần Hưng Đạo, xem xét kỹ tình hình các vùng lân cận, đồng thời bố trí thêm vài ba chốt canh gác ở những nơi địch hay đi tuần. Đại biểu về dự lễ thành lập ngồi trong các lán, trao đổi về tình hình cách mạng, tình hình các đoàn thể ở địa phương thời gian qua. Gần 17 giờ, một hồi còi vang lên: đồng chí Xích Thắng gọi mọi người ra dự lễ.


Trời về chiều, đang tiết giữa đông, không khí nơi núi cao lạnh buốt. Trên một khoảng đất rộng giữa khu rừng đại ngàn với những cây cao thẳng tắp, các đội viên xếp hàng nghiêm trang chờ đợi giờ khai mạc. Trên một cành cây to trước mặt hàng quân, là lá cờ đỏ sao vàng đang tung bay.


Đại biểu Liên tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng, Ban khu, Ban châu, các tổng, xã và bà con các dân tộc, cùng cán bộ các đoàn thể Cứu quốc đứng thành hàng hai bên cạnh. 17 giờ, lễ thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân bắt đầu. Mở đầu là lễ chào cờ, sau tiếng hô, mấy chục cặp mắt nhìn theo lá cờ đỏ. Ban tổ chức tuyên bố lý do và giới thiệu đại biểu1 (Dẫn theo Nông Văn Lạc - Ánh sáng đây rồi (hồi ký), Nxb Văn học, H.1994, tr.34). Mỗi lần giới thiệu xong, tiếng vỗ tay lại vang lên. Đồng chí Võ Nguyên Giáp thay mặt Đoàn thể, đọc diễn từ tuyên bố thành lập Đội và nêu rõ nhiệm vụ của Đội đối với Tổ quốc:

"Các đồng chí!
Ngày hôm nay, 22 tháng 12 năm 1944, theo mệnh lệnh của Đoàn thể, chúng ta tập trung ở chốn rừng xanh núi đỏ này, giữa tổng Trần Hưng Đạo và tổng Hoàng Hoa Thám trong Liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng, để khai hội thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân.

... Giải phóng quân là một đội quân rất trọng kỷ luật, tuyệt đối phục tùng thượng lệnh, là một đội quân giàu tinh thần đoàn kết, đồng cam cộng khổ. Kinh nghiệm của chúng ta còn non nhưng có làm mới có kinh nghiệm và làm tất nhiên sẽ có kinh nghiệm. Chúng ta tin ở thắng lợi...

Theo chỉ thị của Đoàn thể, dưới lá cờ đỏ sao vàng năm cánh, tôi xin tuyên bố Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân thành lập và hạ lệnh cho các đồng chí tiến lên trên con đường vũ trang tranh đấu...”1 (Võ Nguyên Giáp - Những chặng đường lịch sử. Sđd, tr.134 và 135).


Đại diện Liên tỉnh ủy đọc lời chào mừng và tin tưởng Đội sẽ hoàn thành nhiệm vụ mà Đoàn thể giao phó. Đại diện các tổ chức thanh niên, phụ nữ, các đội vũ trang địa phương lên chúc mừng Đội bằng những lời cảm động và tin tưởng. Đội trưởng Hoàng Sâm, thay mặt cho 34 cán bộ, chiến sỹ, long trọng đọc Mười lời thề danh dự:

"Chúng tôi, đội viên Đội Giải phóng quân Việt Nam xin lấy danh dự một người chiến sỹ cứu quốc mà thề dưới lá cờ đỏ sao vàng năm cánh:

Xin thề: Hy sinh tất cả vì Tổ quốc Việt Nam, chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để chống xâm lược và bọn Việt gian phản quốc, để giải phóng cho toàn dân Việt Nam, làm cho nước Việt Nam trở thành một nước độc lập, dân chủ, tự do, ngang hàng với các nước dân chủ trên thế giới...

Xin thề: Khi tiếp xúc với dân chúng sẽ làm đúng ba điều nên: kính trọng dân, cứu giúp dân, bảo vệ dân và ba điều răn: không dọa nạt dân, không lấy của dân, không quấy nhiễu dân... "1 (Võ Nguyên Giáp - Những chặng đường lịch sử. Sđd, tr.134 và 135).

Sau những lời thề là những tiếng hô "Xin thề" đồng thanh cất lên mạnh mẽ, vang động núi rừng.

Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân có 34 người, do đồng chí Hoàng Sâm làm Đội trưởng, đồng chí Xích Thắng (tức Dương Mạc Thạch) làm Chính trị viên, đồng chí Hoàng Văn Thái phụ trách kế hoạch - tình báo. Đội biên chế thành 3 tiểu đội do các đồng chí Thu Sơn, Mậu (tức Bế Văn Sắt) và Xuân Trường làm Tiểu đội trưởng.


Sau phần nghi thức, lần lượt từng đội viên và một số đại biểu lên giới thiệu tiểu sử, bí danh của mình, cùng những cảm xúc trong giờ phút thiêng liêng này. Nhân dân và các đoàn thể đem rất nhiều quà bánh đến chúc mừng, úy lạo Đội. Dù vậy, theo yêu cầu của số đông anh em, chiều hôm đó cả Đội tổ chức một bữa cơm nhạt, không rau, không muối để nêu cao tinh thần chịu đựng gian khổ của người chiến sỹ cách mạng. Sau đó, Đội tổ chức buổi liên hoan với đồng bào địa phương để thắt chặt tình đoàn kết quân dân. Bộ đội và nhân dân cùng quây quần quanh đông lửa. Buổi liên hoan diễn ra trong bầu không khí đầm ấm, cảm động.


Các đội viên trong Đội đều tỏ rõ tinh thần quyết tâm vượt qua gian khổ thử thách, thậm chí hy sinh cả xương máu để giết giặc, lập nhiều chiến công trả thù nhà, đền nợ nước. Ba mươi tư con người đều thống nhất nguyện vọng mong sao giết được nhiều giặc, lấy được nhiều súng "Tây", mau chóng phát triển Đội thành một đội quân hùng hậu để một ngày gần nhất giành được độc lập cho nước nhà và cắm cờ chiến thắng giữa thủ đô Hà Nội. Đặc biệt, có đồng chí nêu mục tiêu từ nay đến Tết, đội sẽ lập nhiều chiến công để ăn Tết cùng nhân dân địa phương.


Trong giờ phút thiêng liêng của buổi lễ thành lập Đội, tâm tư cảm xúc của các đội viên thật khó tả. "Bao nhiêu chiến công oanh liệt của ông cha đời trước, của các chiến sỹ cách mạng, của nhân dân ta, phút chốc hiện ra rực rỡ trong ký ức. Nợ nước, thù nhà, oán hờn dân tộc, căm thù giai cấp làm cho máu nóng trong người như sắp sôi lên. Chúng tôi quên đi chúng tôi là ba mươi tư con người với những súng ống thô sơ, mà thấy đây là cả một đoàn quân gang thép, rắn chắc, không sức mạnh nào khuất phục nổi, sẵn sàng quật nát kẻ thù. Tin tưởng, náo nức, cảm động"1 (Võ Nguyên Giáp - Những chặng đường lịch sử. Sđd, tr.136).

Đêm 22-12-1944 sẽ mãi không bao giờ phai mờ trong ký ức của những người chứng kiến buổi lễ trọng đại đó.


Tiêu đề: Re: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 30 Tháng Giêng, 2015, 07:46:04 pm
Mấy ngày đầu, Đội trưởng và Chính trị viên phân công nhau tranh thủ nói chuyện với tất cả các thành viên trong Đội để tìm hiểu tâm tư, tình cảm, trình độ văn hoá, chính trị, quân sự, hoàn cảnh gia đình, sở trường, sở đoản của từng người. Trên cơ sở những hiểu biết đó mà phân công nhiệm vụ cho phù hợp cũng như vạch kế hoạch luyện tập quân sự và chính trị cho sát thực.


Trước ngày thành lập Đội, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã chỉ thị: "Trong vòng một tháng phải có hoạt động gây tin tưởng cho các chiến sỹ và gây truyền thống hành động tích cực, nhanh chóng cho bộ đội" và đặc biệt là "trận đầu ra quân phải đánh thắng". Do đó, từ tháng 11-1944, Ban chỉ huy Đội vừa được hình thành, dưới sự chủ trì của đồng chí Võ Nguyên Giáp đã bắt tay ngay vào nghiên cứu chuẩn bị cho trận đánh đầu tiên. “Hàng loạt vấn đề được đặt ra mà quan trọng nhất là: đánh vào đâu và đánh như thế nào để với một lực lượng nhỏ lại có thế giành được thắng lợi to lớn về chính trị và quân sự mà ta ít bị tổn thất về người và vũ khí”1 (Hoàng Văn Thái – Về hai chiến công đầu của Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân: Trận Phai Khắt và trận Nà Ngần. Tạp chí Lịch sử quân sự, số tháng 12 năm 1988, tr.37).


Trận đánh đầu tiên đối với Đội cực kỳ quan trọng. Thắng lợi của nó có tác động rất lớn tới tinh thần của các đội viên và thúc đẩy phong trào cách mạng trong vùng. Còn nếu thất bại, ảnh hưởng tiêu cực của nó sẽ là khôn lường về mọi mặt. Đội vừa thành lập chưa lâu, công tác huấn luyện chiến đấu chưa được nhiều, mặt khác, vũ khí của Đội còn rất thô sơ, cả Đội chỉ có mấy chục khẩu súng cũ kỹ mà cơ số đạn lại rất ít. Ngoài yêu cầu về thời gian tác chiến phải trong vòng một tháng, trận đánh đầu tiên còn phải đảm bảo yêu cầu thu được càng nhiều vũ khí của địch càng tốt và hạn chế tổn thất. Do đó, Ban chỉ huy Đội đã bàn bạc rất kỹ lưỡng.


Về địa điểm tác chiến, yêu cầu là phải đánh ở đâu để đảm bảo chắc thắng, phát huy được thanh thế, không làm tổn hại cơ sở cách mạng khi địch quay lại khủng bố. Có ý kiến đề nghị không nên đánh vào những nơi có cơ sở của ta. Thế nhưng, đánh vào nơi ta không có cơ sở sẽ gặp khó khăn vì không nắm được tình hình địch một cách chắc chắn, thiếu sự giúp đỡ hỗ trợ của nhân dân trong quá trình chuẩn bị và chiến đấu, vì vậy mà yếu tố chắc thắng sẽ không được đảm bảo. Qua thăm dò một số cán bộ phụ trách cơ sở ở các địa phương, họ đều yêu cầu cứ đánh địch ở địa bàn mình, còn chuyện địch khủng bố thì sau khi đánh ta sẽ có kế hoạch thích hợp để đề phòng. Ban chỉ huy Đội nhận định trận đánh đầu tiên muốn giành thắng lợi chỉ có thể tập kích vào đồn địch ở địa phương có cơ sở nhân dân thật tốt, họ sẽ giúp đỡ cho bộ đội chu đáo mọi mặt từ điều tra tình hình địch, bố trí lực lượng, đến quá trình chiến đấu và giải phóng trận địa sau đó.


Sau khi thống nhất về cách chọn mục tiêu, Ban chỉ huy Đội tiếp tục bàn cách đánh đồn địch. Yêu cầu của trận đánh này là phải giành cho được thắng lợi, không để bị tổn thất nặng nề về người và vũ khí. Súng trường là vũ khí chủ lực của Đội, song cơ số đạn trang bị cho mỗi khẩu cũng chỉ có trung bình khoảng 20 viên. Có người đề xuất chọn cách đánh phục kích là thích hợp, bởi đánh phục kích các đội quân lưu động của địch thì giành thắng lợi tương đối dễ mà bộ đội cũng đỡ tổn thất. Tuy nhiên, đánh phục kích như thế dù có thể thu được một số súng của địch, nhưng vấn đề quan trọng hơn là không giải quyết được vấn đề đạn, vì chỉ huy quân Pháp vốn không tin tưởng vào binh lính người Việt nên mỗi khi đi tuần chúng chỉ phát cho mỗi tên khoảng 5 đến 10 viên đạn. Bên cạnh đó, muốn đánh phục kích được cần phải có thời gian điều tra lâu dài, sau đó lại bị động chờ đợi địch, phải có thời cơ mối đánh được. Làm như vậy sẽ khó hoàn thành nhiệm vụ trong vòng một tháng như lãnh tụ Hồ Chí Minh đã giao... Sau khi bàn bạc và cân nhắc kỹ các phương án, Ban chỉ huy Đội quvết định "trong mấy trận đầu phải tập kích vào đồn trại của địch đế chiếm lấy đạn dược, mặc dầu đánh tập kích khó khăn hơn"1 (Võ Nguyên Giáp - Những chặng đường lịch sử. Sđd, tr.129).


Từ đó, công tác điều tra nắm tình hình các đồn trại địch được giao cho các đồng chí phụ trách cơ sở ở một số nơi trong vùng. Một số đồn trong vùng Kim Mã, Cẩm Lý được đưa ra để điều tra như: Nà Bao, Nà Ngần, Phai Khắt. Các đồng chí Hồng Quân, Đức Long và Nông Văn Lạc được phái đi để liên lạc với cơ sở, tìm hiểu bố trí lực lượng và quy luật hoạt động của địch ở những đồn này. Sau khi nắm chắc tình hình địch, các đồng chí về báo cáo lại với Ban chỉ huy Đội. Đồng chí Võ Nguyên Giáp phân tích: "Đồn Nà Bao chúng đóng trên đồi tương đối xa dân. Nếu đánh ở đấy, nó khủng bố chắc cũng có nhưng ít hơn. Nhưng ở đấy thì khó nắm tình hình địch. Còn đồn Nà Ngần chúng nó đóng trong nhà dân, cơ sở quần chúng tốt. Ta biết được tình hình địch ra vào, nhưng lực lượng địch ở đây mạnh về quân số, về trang bị. Đồn Phai Khắt nhiều thuận lợi hơn cả. Cơ sở quần chúng ta vững, tình hình địch ta biết rõ, tiến thoái cũng dễ"2 (Nông Văn Lạc - Ánh sáng đây rồi (hồi ký), Sđd, tr.128).


Thế nhưng, đồn Phai Khắt vốn là nhà của đồng chí Nông Văn Lạc - nơi trước đây một số cán bộ ta đã từng ở để hoạt động, nếu đánh vào đây, khi địch khủng bố, có người không giữ được, khai ra thì rất có thể chúng sẽ tàn sát cả gia đình đồng chí Lạc. Do đó, Ban chỉ huy đã hỏi ý kiến đồng chí Nông Văn Lạc về vấn đề này. Vốn là người giác ngộ cách mạng từ sớm và đã nhiều năm gắn bó vối phong trào, đồng chí Nông Văn Lạc đã quả quyết: Đây là nhiệm vụ của cách mạng giao, nên dù có tổn thất cả gia đình mà thu được thắng lợi cho cách mạng thì cũng quyết tâm thực hiện.


Sau khi cân nhắc, để đảm bảo chắc chắn giành thắng lợi, không bị tổn thất, vừa thu được vũ khí đạn dược, Ban chỉ huy quyết định chọn đồn Phai Khắt đánh trận đầu và kế đó đánh đồn Nà Ngần. Trong hai trận này, Đội đều cải trang làm lính dõng để đột nhập đồn địch.


Tiêu đề: Re: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 30 Tháng Giêng, 2015, 07:46:59 pm
Để có thêm thông tin từ thực địa, đồng chí Võ Nguyên Giáp và Ban chỉ huy Đội, được liên lạc viên dẫn đường, đã lên đỉnh Slam Cao, để trực tiếp quan sát đồn Phai Khắt.


Phai Khắt là một bản nhỏ thuộc xã Tam Lộng, tổng Kim Mã, châu Nguyên Bình (nay thuộc xã Tam Kim, huyện Nguyên Bình - Cao Bằng). Bản này nằm cạnh một con suối to - nhân dân địa phương thường gọi là sông Nhiên, phía trước là cánh đồng rộng, sau lưng là đồi lúp xúp. Trong bản chỉ có khoảng mười nóc nhà. Từ đây có ba con đường đi các ngả, về phía Nam đi Ngân Sơn, về phía Đông Bắc đi Nà Ngần và một con đưòng độc đạo ra châu lỵ Nguyên Bình.


Đây là một bản Việt Minh "hoàn toàn", nhân dân đều tham gia các hội cứu quốc. Thời kỳ này, để kiềm chê phong trào cách mạng do Việt Minh lãnh đạo đang ngày một dâng cao, quân Pháp rải quân đóng các nơi. Khi kéo quân về Tam Lộng, lúc đầu chúng định đóng đồn ở Pác Cáp, nhưng vì không có nhà ở nên chúng kéo xuống làng và chiếm nhà của đồng chí Nông Văn Lạc - một ngôi nhà có tường xây gạch to nhất làng để đóng quân. Xung quanh đồn, địch rào một hàng rào vầu cao hai mét chỉ để hai cửa ra vào, một ở sau nhà, một vào thẳng đồn, có đặt vọng gác. Vòng ngoài bản, chúng bắt nhân dân thay phiên nhau canh gác, còn vòng trong do lính của đồn trực tiếp canh gác. Từ ngày về Phai Khắt, địch ra sức khủng bố, lừa bịp nhân dân nhưng không ai bị lung lạc hay bị lôi kéo cả. Cơ sở cách mạng ở đây vẫn vận động được nhân dân tiếp tế lương thực và báo tin cho cán bộ hoạt động bí mật.


Sau khi đi trinh sát kỹ cả hai đồn Phai Khắt và Nà Ngần, các đồng chí Hồng Quân và Đức Long vẽ lại sơ đồ, rồi phái một số người khác đến đối chiếu lại. Để có thêm thông tin, Đội cử bé Hồng (tức Nông Văn Xương) mới 12 tuổi, là người làng, hàng ngày vẫn mang trứng gà và rượu vào cho tên quan Tây trong đồn, lợi dụng trò chuyện, xem kỹ các vị trí kho đạn, nơi để súng, lương thực, nơi ăn ngủ, canh gác, giờ giấc sinh hoạt học tập của tên quan Tây và bọn lính. Sau khi nắm kỹ quy luật hoạt động và bố trí của địch ở trong đồn, bé Hồng đã báo cáo tỷ mỷ cho chỉ huy Đội. Trước lúc ta đánh đồn, quân số địch có 21 tên lính dõng người Nùng và người Mán, do tên cai người Pháp là Simônô làm đồn trưởng. Bọn chúng đã gây nhiều tội ác với nhân dân quanh vùng.


Sau khi bàn bạc, kế hoạch đánh đồn được chỉ huy Đội thông qua. Để dễ dàng đột nhập đồn, quân ta cải trang thành một toán lính dõng ở châu đi tuần về, khi lọt vào đồn sẽ chiếm kho súng, buộc địch đầu hàng, tên nào ngoan cố chống lại sẽ tiêu diệt. Tiểu đội trưởng Thu Sơn cải trang giả làm cai đội; đồng chí Luận, người nhỏ nhắn, nhanh nhẹn, mang đôi gà và chai rượu đi trước. Thời gian hành động được ấn định vào 5 giờ chiều, lúc đó trời còn sáng nên việc ta cải trang lính dõng đi tuần sẽ làm cho địch ít nghi ngờ. Mặt khác, khi đánh xong đồn, trời đã tối, nếu bọn Việt gian có báo lên châu lỵ Nguyên Bình thì cũng phải tới sáng hôm sau chúng mới điều lính đến kịp, nên trong đêm hôm đó ta có thể thu dọn chiến trường, chuẩn bị cách đối phó cho đồng bào và kịp rút lui.


Đồng chí Võ Nguyên Giáp giao nhiệm vụ cho đồng chí Nông Văn Lạc phối hợp với cán bộ và tự vệ địa phương làm công tác chuẩn bị cho trận đánh, chuẩn bị thu dọn và đối phó với địch sau trận đánh; bố trí người tiếp tế cơm nước, đặt các trạm canh gác báo tin những diễn biến mới nhất cho Ban chỉ huy Đội. Sau chiến thắng phải tập hợp nhân dân giải thích ý nghĩa chiến thắng và khi địch trở lại khủng bố, các gia đình đều phải khai báo thật giống nhau. Đồng chí Lạc cũng cần phải bố trí lực lượng vũ trang và báo cho những thanh niên địa phương khi cần có thể tham gia đánh và đã đánh là thắng. Thóc gạo giấu ở nhiều chỗ, giao thông liên lạc giữa các địa phương vẫn phải được duy trì đảm bảo thông suốt bất cứ lúc nào.


Ban chỉ huy Đội chỉ thị cho các cán bộ trung kiên ở dưới bản tìm gặp các hội viên đã từng, hay đang là lính dõng, mượn mấy chục bộ quần áo, một số khác tìm thêm mấy bộ ka ki của cai đội Tây để giúp bộ đội cải trang. Cùng với quần áo, các cơ sở còn mượn thêm một số nón lĩnh: có bọc vải chàm, viền trắng và điểm một miếng tròn trắng trên chóp.


Để thuận tiện cho việc đột nhập đồn địch, đồng chí Võ Nguyên Giáp, khi đi công tác qua cơ quan in báo Việt Nam độc lập (Lam Sơn, Hòa An), đã mượn máy chữ, đánh máy tờ “Giấy đi tuần” giả. Các đồng chí ở đây còn dùng một củ khoai để trổ một con dấu rất khéo, đóng đỏ chót bên cạnh chữ ký giấy đi tuần. Thời kỳ này những giấy tờ đánh máy như thế rất có giá trị. Chiều ngày 24-12-1944, toàn đội xuất phát đi đánh Phai Khắt. Suốt ngày 25-12, toàn Đội vẫn ở trên một quả núi nhỏ phía sau bản Phai Khắt. Một số đội viên Giải phóng quân đóng giả thường dân, đứng trông chừng ở các ngả đường. Tự vệ bố trí thành một mạng lưới xung quanh vị trí trú quân của Đội để đề phòng những trường hợp bất trắc xảy ra nếu địch đưa quân lên núi sẽ báo cho Đội biết để rút lui, hay dân thường đi lên núi thì hướng họ đi sang ngả khác. Sáng 25-12, bé Hồng đến báo tên đồn trưỏng Simônô đã đi lên châu dự lễ Giáng sinh.


Chiều ngày 25-12-1944, theo kế hoạch đã định, từ nơi đóng quân, toàn Đội bắt đầu xuất phát. Trước khi xuống cánh đồng, Đội dừng lại cải trang thành lính dõng. Tham gia trận đánh này, Đội không đủ 34 người vì một số đi công tác chưa kịp về, ngoài ra còn có 50 người gồm lực lượng du kích và cán bộ Việt Minh ở địa phương làm nhiệm vụ canh gác các ngả đường.


Tiêu đề: Re: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 30 Tháng Giêng, 2015, 07:48:02 pm
17 giờ ngày 25-12, trừ một số được phân công canh gác cùng với du kích, toàn Đội chia làm hai tiểu đội tiến vào bản. Trước khi vào, đồng chí Thắng - hội viên Cứu quốc người địa phương sống hợp pháp, quen với bọn lính, đi vào đồn kiểm tra lại tình hình. Đồng chí Thu Sơn mặc bộ ka ki, đóng giả đội sếp, cầm khẩu tiểu liên Mỹ đi đầu cùng hai đồng chí Bế Văn Sắt và Thịnh Nguyên đóng giả làm lính khố xanh. Trên đường vào, đồng chí Võ Nguyên Giáp mặc bộ ka ki đóng giả cai đội, chỉ huy trận đánh, nói với đồng chí Thu Sơn - phụ trách mũi xung kích: “Cậu đã từng tay không đánh bại bọn tướng tá Tưởng, thì nay với bọn này cậu sẽ làm gọn, cứ theo đúng kế hoạch mà làm”. Đồng chí Thu Sơn trả lời: “Cốt làm sao tôi lọt được vào đồn là chắc thắng, còn nếu phải nổ súng thì các đồng chí tiến công luôn”.


Cả "toán lính dõng" đầu đội nón bọc vải, mình mặc quần áo chàm, chân quấn xà cạp, do viên đội sếp dẫn đầu tiến vào bản. Đến cổng gác cửa đồn, đồng chí Thu Sơn hỏi tên lính gác, giọng hách dịch: "Chúng tao đang đi tuần, quan đồn có nhà không?". Tên lính tỏ vẻ sợ sệt báo cáo quan Tây không có nhà. Đồng chí Thu Sơn đe: "Quan Tây đi vắng, chúng mày phải canh gác cẩn thận!". Nói rồi đồng chí chìa tờ giấy có đóng dâu đỏ cho tên lính gác, nhưng y chưa kịp xem đã bị gạt sang một bên. Đồng chí Thu Sơn đàng hoàng tiến vào đồn, tiểu đội 1 theo sau nhanh chóng tiếp cận nơi để súng. Tiểu đội 2 cũng lập tức tiến vào trong đồn và triển khai bao vây nhà bọn lính ở. Lúc đó, lính địch đứa đang ăn cơm trong nhà, đứa thu dọn quần áo, đứa thì quét dọn, sửa hàng rào. Đồng chí Thu Sơn hô lớn: Rassemblement (Rát-xăng-bờ-lơ-manh: tập hợp). Đây là khẩu hiệu ra lệnh cho bọn lính tập hợp để đón quan châu đi tuần. 16 tên lính và tên cai tập hợp giữa sân1 (Nhân lúc quan đồn đi vắng, bốn tên lính người địa phương bỏ về thăm nhà). Cả Đội súng lăm lăm chĩa vào bọn lính địch. Đồng chí Thu Sơn hô lớn: "Chúng tôi là quân cách mạng, anh em đầu hàng sẽ không giết ai hết, giơ tay lên!”. Bị bất ngờ, không kịp trở tay, cả bọn buộc phải đầu hàng.


Giữa lúc đó, người của tổ canh gác cách đồn 3km trên đường đi Nguyên Bình, phóng ngựa tới báo tin tên đồn trưởng Simônô đang đi ngựa trở về, theo sau hắn có mấy tên lính không mang súng. Theo kế hoạch, đồng chí Võ Nguyên Giáp và Ban chỉ huy Đội quyết định bắt tên đồn trưởng. Lập tức, một bộ phận nhận lệnh đưa những tên lính bị bắt ra phía sau đồn, buộc chúng phải ngồi im. Tổ cảnh giới được lệnh ẩn nấp. Số anh em còn lại nhanh chóng thu dọn vũ khí đạn dược, chiến lợi phẩm rồi vào nơi ẩn nấp kín đáo. Một tổ mai phục ngay dưới mái hiên chuồng ngựa vì tên đồn trưởng đi ngựa về ắt phải đến buộc ngựa ở tàu, đợi khi hắn vào tận nơi sẽ chĩa súng buộc hắn đầu hàng, nếu chống cự sẽ tiêu diệt. Các tổ bố trí ở ngoài được lệnh: nếu tên đồn trưởng nhận ra và bỏ chạy thì sẽ nổ súng. Nằm nấp cùng các đồng chí Hoàng Sâm, Thu Sơn, Võ Văn Luận ở dưới mái hiên, đồng chí Võ Nguyên Giáp nói nhỏ: “Khi nó vào tôi sẽ hô “Giơ tay lên”. Nếu nó giơ tay các đồng chí lập tức xông ra bắt sống. Có lệnh mới được nổ súng”. Một lát sau, tên đồn trưởng cưỡi con ngựa hồng đi thẳng vào đồn. Y vừa vào tới nơi, bắt đầu xuống ngựa, bỗng có tiếng thét: "Giơ tay lên". Chưa kịp phản ứng gì, y đã bị đồng chí Võ Văn Luận nổ súng tiêu diệt. Sau đó, đồng chí Lương Văn Ích cũng nổ súng bắn chết con ngựa. Các đồng chí này do quá căm thù, không kìm được, nên đã nổ súng ngay.


Trận đánh kết thúc, nhân dân trong bản nghe tiếng súng, chạy ra vừa ngạc nhiên vừa vui sướng, khi thấy thằng Tây gian ác từng giết bao nhiêu người, đốt phá bao nhiêu nhà bị trừng trị đích đáng. Mọi người reo lên phấn khởi, ai cũng hả lòng hả dạ bởi quân địch đã phải đền tội, bởi Giải phóng quân đã chiến thắng. Từ khi vào đồn đến khi thắng lợi, trận chiến đấu diễn ra trong 30 phút. Kết quả, ta thu được 17 khẩu súng, một ít đạn, diệt tên đồn trưởng, bắt 17 tên. Những vũ khí thu được được trang bị ngay cho Đội. Người giữ súng kíp được đổi lấy súng trường, còn súng kíp giao lại cho du kích địa phương. Số súng này đủ trang bị cho nửa trung đội. Đạn dược là thứ ta rất cần, nhưng trong các đồn lính dõng như đồn Phai Khắt này, địch chỉ trang bị cho mỗi khẩu từ 40 đến 50 viên, nên ta thu được rất ít. Toàn Đội thu dọn chiến trường, không để lại một thứ gì mà địch có thể dùng được. Lợn, gà, chăn màn, bát đĩa... Đội đem phân phát hết cho dân, xoá sạch dấu vết trên sân. Mặt khác, Đội cho người khiêng xác viên đội Tây ra chôn ở bãi cát gần sông Hoàng Bè, còn con ngựa thì lôi ra đẩy trôi theo dòng nước chôn xuống bùn sâu ở gò Hoàng Vả. Ban chỉ huy Đội giao nhiệm vụ cho đồng chí Nông Văn Lạc ở lại cùng cán bộ cơ sở và nhân dân Phai Khắt chuẩn bị đối phó với địch theo kế hoạch đã định. Trước khi rút, ta để lại trước cửa đồn một mảnh giấy viết bằng tiếng Pháp: “Chúng tôi đã cùng Việt Minh đi đánh Nhật rồi”.


Đội cử một số đồng chí đi ra phía Nguyên Bình, tới một địa điểm khá xa rồi mới quay trở lại bám theo đội hình chính của Đội để đánh lạc hướng sự theo dõi của địch. Khi toàn Đội xuống đến cánh đồng Kim Mã cũng là lúc trời vừa chập tối. Trên đường hành quân, đồng chí quản lý của Đội - Vân Tiên đã vận động cơ sở cách mạng nấu cơm nước phục vụ anh em. Tự vệ địa phương đã tổ chức một mạng lưới trạm gác, ngăn chặn những người không có nhiệm vụ đi vào con đường này để giữ tuyệt đối bí mật đường rút của Đội.


Theo kế hoạch, nửa đêm hôm đó (25-12), toàn Đội đã hành quân tới xã Cẩm Lý (cách Phai Khắt 15 km), đóng quân trên một ngọn đồi, cả Đội thay quần áo, cải trang bằng những bộ quần áo lính dõng, lính tập mới thu được ở Phai Khắt. Tại đây, Đội đã tiến hành chấn chỉnh đội ngũ, kiểm điểm rút kinh nghiệm trận đánh vừa qua, biểu dương các đồng chí đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Sau đó, Ban chỉ huy Đội tiến hành phổ biến lại kế hoạch tác chiến trận đánh Nà Ngần vào ngày hôm sau, đồng thời nghe các đồng chí cơ sở ở Nà Ngần lên báo cáo thêm những tin tức mới nhất về tình hình ở đó. Theo sự phân công của chỉ huy Đội, trừ tổ cảnh giới thay nhau canh gác, còn lại tất cả được lệnh đi ngủ. Tới 3 giờ sáng ngày 26-12, cả Đội thức dậy tiếp tục hành quân về hường Nà Ngần.


Tiêu đề: Re: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 30 Tháng Giêng, 2015, 07:50:02 pm
Đồn Nà Ngần cách đồn Phai Khắt 15 km, nằm trên một đồi cao, địa thế hiểm trở, từ ngoài vào phải qua mấy thung lũng. Địch chọn nhà của tên phó lý Pảo - một ngôi nhà sàn ba gian kiên cố nhất trong bản, có hàng rào kín mấy lớp vây xung quanh, biến thành một đồn lính. Muốn lên được đồn phải đi men theo sườn một quả đồi, sau đó vượt qua một con suối rồi lại từ bờ suối bên kia đi ngược lên đỉnh đồi mới tới cửa đồn. Qua điều tra được biết, đồn này có 22 lính khố đỏ, do 2 sỹ quan người Pháp chỉ huy. Hôm đó, 2 tên chỉ huy này đều lên tỉnh, giao quyền lại cho tên đội Đường, nổi tiếng phản động, chỉ huy.


Lực lượng đánh đồn Nà Ngần là toàn bộ đội viên đã tham gia đánh trận Phai Khắt, được tăng cường thêm một số ít súng đạn. Vì địa thế đồn Nà Ngần rất hiểm trở nên ta không dùng cách đánh cường tập mà dùng mưu kế. Để dễ dàng lọt được vào đồn địch. Ban chỉ huy Đội thông nhất kế hoạch: cải trang giả làm một toán lính dõng, lính khố đỏ, đang dẫn giải ba “Cộng sản Mán” bị bắt đến giao nộp cho quan đồn. Đồng chí Thu Sơn vẫn đóng vai đội sếp, chỉ huy tổ đi đầu. Đồng chí Bế Văn Sắt đóng vai xã đoàn, đội mũ hai vành trắng. Đồng chí Vũ Lập đóng vai bang tá. Còn các đồng chí Bế Kim Anh, Thịnh Nguyên, Đàm Quốc Chủng đóng giả lính khố đỏ. Đồng chí Toàn (người Mán, có bí danh là Phạm Ngũ Lão), đồng chí Nông Văn Bê cùng một đội viên khác đóng vai ba “Cộng sản Mán” bị trói bằng dây thừng ở khuỷu tay. Đến cách Nà Ngần 500 mét, trời hãy còn chưa sáng rõ nên Ban chỉ huy cử người đi trước theo dõi tình hình địch, số còn lại dừng lại chờ trời sáng hẳn. Lúc này, toàn Đội đã cải trang từ chiều hôm trước bằng những bộ quần áo lính dõng, lính tập.


Khoảng 7 giờ sáng, đợi sương tan, trời sáng rõ, cả "đội lính tập" do “sếp đội” Thu Sơn dẫn đầu tiến vào trong đồn. Lá cờ “tam tài” lấy được ở đồn Phai Khắt được người đi đầu hàng quân giơ cao. Khi tới quả đồi trước đồn, mọi người vừa đi vừa nói chuyện ầm ĩ để lính địch khỏi nghi ngờ. Đồng chí Thu Sơn cùng tổ xung phong dẫn theo “ba cộng sản” bị trói. Khi đến cổng đồn, tên cai và 6 lính xếp hàng hô nghiêm rồi bồng súng đứng chào. Đồng chí Thu Sơn chìa giấy cho chúng xem; cùng lúc đồng chí Trương Đắc đi sau rút thuốc lá mời và châm lửa cho bọn gác. Bốn năm tên lính trong đồn chạy ra thấy bắt được cộng sản lại có cả thuốc hút, gánh gạo, con gà và chai rượu đem nộp nên mừng tíu tít. Một tên hỏi: “Lại bắt được cộng sản người Mán à?”. Tiểu đội trưởng Thu Sơn và tiểu đội trưởng Mậu tiến thẳng vào trong đồn. Đổng chí Trương Đắc và một đồng chí khác nữa đứng lại trước cổng nói chuyện với mấy tên lính gác. Cả Đội tiến vào đồn. Đột nhập xong, cả Đội lên nhà sàn, khi đó lính địch số thì dọn chăn màn, số thì ngồi sưởi, số đi rửa mặt. Súng của chúng vẫn gác tại giá, chỉ riêng tên đội Đường là ngồi ở bàn làm việc. Theo kế hoạch đã vạch, bốn chiên sỹ tiến tới gian giữa án ngữ giá để súng. Đồng chí Thu Sơn và Bế Văn Sắt nói chuyện với tên Đường. Đang nói chuyện, Thu Sơn phát hiện thấy một tên lính mắt lấm la lấm lét nhìn mình và có ý định nói gì đó với tên đội Đường. Thì ra tên này trước đâv học cùng trường tiểu học với đồng chí Thu Sơn, cả hai người đều nhận ra nhau. Trước tình thế đó, đồng chí Thu Sơn lập tức hành động. Anh chĩa khẩu tiểu liên vào bọn địch và hô to: "Chúng tôi là quân cách mạng đến lấy súng Tây, tất cả giơ tay lên, không sẽ bị bắn". Nghe tiếng hô ở trong đồn, đồng chí Đắc ở ngoài giật khẩu súng trường của tên gác, chĩa lên chòi buộc tên đang gác trên đó thả súng xuống. Bọn lính trong đồn rất hoảng hốt. Phó lý Pảo và mấy tên lính nhảy qua sàn hòng chạy trốn. Bất ngờ, tên đội Đưòng gạt khẩu súng của đồng chí Thu Sơn, xông vào định quật ngã đồng chí. Thấy vậy, đồng chí Nông Văn Bê nhào đến vật nhau với đội Đường. Đồng chí Thịnh Nguyên loay hoay tìm cách bắn và khi bắn chết được đội Đường thì cũng đồng thời làm đồng chí Bê bị thương ở ngón tay (do đồng chí Bê trong lúc vật nhau, nằm đè lên trên đội Đường, vòng tay xuống lưng hắn. Vì vậy, khi đồng chí Thịnh Nguyên nổ súng, viên đạn đã xuyên cả vào ngón tay đồng chí Bê). Bốn tên địch liều chết chống cự đều bị tiêu diệt. Tiểu đội 2 chặn các cửa đồn rồi chia thành từng tổ bao vây bắt tù binh. Tiểu đội 3 vừa bắn chỉ thiên vừa gọi địch đầu hàng. Bọn địch trong đồn phần lớn giơ tay đầu hàng, đứa quỳ, đứa đứng. Giữa đồn, đồng chí Hoàng Văn Thái phất cao lá cờ đỏ sao vàng. Toàn bộ quân địch còn lại buộc phải đầu hàng.


Trận đánh diễn ra trong vòng 15 phút. Ta tiêu diệt 5 tên, bắt 17 tên, kể cả phó lý Pảo và bọn lính tháo chạy, thu 27 súng, khá nhiều đạn và một thanh kiếm1 (Hoàng Văn Thái – Về hai chiến công đầu... Tài liệu đã dẫn, tr.39). Phía ta, đồng chí Nông Văn Bê bị thương nhẹ ở ngón tay. Toàn Đội nhanh chóng thu gom súng đạn, tài liệu và phát truyền đơn biểu ngữ cho nhân dân. Tốp tù binh được tập hợp ở giữa sân. Hai nữ đồng chí Cầm và Thanh giải thích bằng tiếng Tày cho họ hiểu chủ trương chính sách đánh Pháp, Nhật, cứu nước của Việt Minh, kêu gọi họ quay súng giết giặc. Tù binh rất ngạc nhiên khi thấy các nữ chiến sỹ của ta vai mang súng, lưng đeo đạn, nói năng lưu loát, phân tích cho họ cặn kẽ về tình hình trong nước, nghĩa vụ cứu nước của mỗi người dân Việt Nam. Một số xin đi theo cách mạng còn đa phần tù binh xin được trở về quê, được ta trả lại tư trang. Một số hội viên Cứu quốc địa phương và gia đình một số đội viên đã ủng hộ Đội một số tiền để cấp lộ phí đi đường cho họ. Tù binh địch rất cảm kích về sự khoan hồng và thái độ đối xử tốt của bộ đội cách mạng.


Ban chỉ huy Đội nói chuyện với đồng bào tới mừng chiến thắng, rải truyền đơn tuyên truyền về chính sách Việt Minh, về bộ đội cách mạng: đồng thời căn dặn đồng bào khi địch tới khủng bố thì thông nhất nói là "Quân cách mạng đến, binh lính trong đồn đã giao súng cho họ và kéo đi đâu không rõ". Sau đó, toàn Đội rút khỏi đồn Nà Ngần, mỗi người mang hai, ba khẩu súng và khá nhiều đạn chiến lợi phẩm.


Tiêu đề: Re: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 30 Tháng Giêng, 2015, 07:53:53 pm
Cả Đội vừa hành quân vừa hát bài "Tiếng suối reo". Nhân dân Nà Ngần và số binh lính vừa được phóng thích tiễn đưa Đội, vẫy tay chào mãi cho đến khí đoàn quân đi khuất núi. Đội tiến về phía Nam, nhưng khi vừa đi khuất thì đổi hướng ngược lên phía Bắc, để nghi binh đánh lạc hướng, vừa đi vừa xoá hết các dấu vết. Các đồng chí cơ sở địa phương, được báo trước, đứng bên đường tiếp tế cho mỗi đội viên một nắm cơm và một phần thức ăn. Đồng chí quản lý của Đội đã chuẩn bị thêm cho mọi người bát nước nóng để uống.


Cả ngày 26-12, anh em chỉ ăn một bữa cơm, nhưng khí thế chiến thắng đã làm mọi người quên đi cái đói, cái mệt. Đồng chí Bàn Tài Đoàn (bí danh là Đoàn Kết) - cán bộ địa phương, nhà thơ dân tộc Dao, quê ở xã Hoa Thám, đi theo Đội, đã tổng kết thành một câu rất đỗi tự hào: "Quân cách mạng chúng tôi ăn thì mỗi ngày một bữa, đánh thì mỗi ngày hai trận".


Hai trận đánh Phai Khắt, Nà Ngần tuy quy mô không lớn nhưng có ý nghĩa rất to lớn. Đây là hai trận đánh có tổ chức, có kế hoạch, có công tác tham mưu, có công tác chính trị, công tác hậu cần. Hai trận đánh tiêu diệt nhanh gọn, diễn ra cách nhau mười mấy giờ, ở hai địa điểm cách nhau khoảng gần 20 km.


Đây là hai trận đầu ra quân của Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân - đội quân chủ lực của lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam dưới sự tổ chức, chỉ đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương. Đây cũng là trận đánh ra mắt của Đội. Nó chứng tỏ nhận định sáng suốt của Đảng: "Cách mạng lúc này đã từ hình thức chính trị tiến lên hình thức quân sự. Những thắng lợi này báo hiệu cho toàn dân tiến lên trên con đường vũ trang tranh đấu để chuẩn bị cho thời kỳ đứng lên giành lấy chính quyền, giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc”1 (Hồng Kỳ - Vài suy nghĩ về chiến thắng Phai Khắt, Nà Ngần, trong sách Việt Nam Giải phóng quân - Nhớ lại bước khởi đầu, Nxb Quân đội nhân dân, H, 1995, tr.232). Chiến thắng Phai Khắt và Nà Ngần "như ngọn roi lửa của nhân dân Cao - Bắc - Lạng quật vào mặt quân thù sau một năm bị khủng bố trắng đẫm máu, trận đánh chứng tỏ sức sống kiên cường, bất khuất của cách mạng Việt Nam... báo trước một tương lai thảm họa cho bọn thực dân xâm lược"2 (Hồng Kỳ - Vài suy nghĩ về chiến thắng Phai Khắt, Nà Ngần, trong sách Việt Nam Giải phóng quân - Nhớ lại bước khỏi đầu, Nxb Quân đội nhân dân, H, 1995, tr. 232).


Đối với Đội, thắng lợi của hai trận đánh đã tạo niềm tin tất thắng cho các chiến sỹ giải phóng, đặc biệt để lại cho toàn Đội những bài học kinh nghiệm quý báu đầu tiên cả về chính trị và quân sự. Mặt khác, số vũ khí thu được sau hai trận đánh đã giúp Đội phát triển nhanh chóng cả về lực lượng lẫn trang bị. Hai thắng lợi đó đã mở đầu cho truyền thống đánh tiêu diệt, đánh thắng trận đầu, đánh liên tục và "nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng" của Quân đội nhân dân Việt Nam.


Sự xuất hiện bất ngờ của Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân với hai chiến thắng vang dội Phai Khắt, Nà Ngần, đã tác động mạnh mẽ, gây hoang mang, lo sợ trong hàng ngũ quân địch, đồng thời cổ vũ tinh thần cách mạng của quần chúng, gấp rút chuẩn bị mọi mặt để đón thời cơ vùng dậy đạp đổ xiềng xích của thực dân, phong kiến, giành chính quyền cách mạng về tay nhân dân.


Còn đối với lịch sử quân đội ta, “hai chiến thắng Phai Khắt, Nà Ngần đã biểu hiện tinh thần “Quyết chiến, quyết thắng”, trí thông minh, sáng tạo của chỉ huy, lòng yêu nước và dũng khí chiến đấu của toàn thể đội viên Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân. Tính nhân dân của một đội quán cách mạng biểu hiện trong khi thu dọn chiến trường, đặt kế hoạch chống địch khủng bố, bảo vệ dân”1 (Viện Lịch sử quân sự Việt Nam - Lịch sử quân sự Việt Nam, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2000. tr.290). “Hai chiến thắng đã góp phần thực hiện được phương châm lấy chiến thắng để tuyên truyền vũ trang. Lấy tuyên truyền vũ trang để giành chiến thắng mới” như lãnh tụ Hồ Chí Minh đã chỉ thị'’2 (Viện Lịch sử quân sự Việt Nam - Lịch sử quân sự Việt Nam, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2000. tr.290).


Tối 26-12, toàn Đội vượt qua quốc lộ 3a Cao Bằng - Nguyên Bình về tới Lũng Dẻ - một bản của đồng bào Mông ở Gia Bằng. Mọi người trong Đội đều đã thấm mệt nhưng nét mặt ai nấy đều rạng rỡ phấn chấn trước hai trận thắng giòn giã. Lúc này, một số anh em có lệnh triệu tập cũng đã về tới nơi kịp nhận một số vũ khí vừa thu được. Ban chỉ huy Đội chủ trương rút thật nhanh về đây bởi sau hai trận đánh liên tiếp đã làm rung chuyển kẻ địch và chúng sẽ phản ứng mạnh.


Lúc này ở khu căn cứ Lam Sơn (xã Phúc Tăng, châu Hoà An - nay là xã Hồng Việt, huyện Hoà An), lãnh tụ Hồ Chí Minh nhận được tin chiến thắng Phai Khắt, Nà Ngần và biết được nơi đóng quân hiện tại của Đội ở Lũng Dẻ. Người liền triệu tập các đồng chí Vũ Anh, Phạm Văn Đồng và Lã (tức Hoàng Đức Thạc) tới họp bàn. Người phân tích và nhận định: Sau khi bị thua đau ở Phai Khắt và Nà Ngần, giặc Pháp sẽ mở cuộc càn quét truy tìm lực lượng vũ trang cách mạng, khủng bố trắng vùng Nguyên Bình và còn có thể mở rộng ra Hoà An và Hà Quảng. Rồi Người giao nhiệm vụ cho đồng chí Phạm Văn Đổng và Lã, thay mặt Tổng bộ Việt Minh và Liên tỉnh ủy, mang thư và quà của Người đến chúc mừng và úy lạo Đội. Người cũng dặn các đồng chí này nhắc đồng chí Võ Nguyên Giáp nên sớm rút quân khỏi Lũng Dẻ bởi tình hình lúc này đóng quân ở đấy lâu sẽ bất lợi, vả lại, đây là một thung lũng kín đáo, hiểm trở, chỉ có một con đường ra vào, tiện cho việc canh gác, bảo vệ nhưng nếu giặc Pháp biết và huy động quân tới bao vây thì Đội sẽ gặp khó khăn.


Lãnh tụ Hồ Chí Minh cũng chỉ thị cho đồng chí Vũ Anh đến châu Quảng Uyên bàn với các đồng chí địa phương huy động lực lượng, tạo một hoạt động để gây tiếng vang, đánh lạc hướng, thu hút sự chú ý của giặc Pháp.

Người còn dặn đồng chí Phạm Văn Đồng cho đăng tin về sự ra đòi và những trận đánh thắng lợi của Đội tại Phai Khắt, Nà Ngần trên báo Việt Nam độc lập, để khuếch trương thanh thế chiến thắng. Theo sự chỉ đạo đó, trên báo Việt Nam độc lập - cơ quan tuyên truyền Việt Minh Cao - Bắc - Lạng, số 201, ngày 5-1-1945, đã đưa tin khá chi tiết:

"... Đội tuyên truyền của Việt Nam giải phóng quân
Năm 1945 sẽ đem lại cơ hội tốt cho quân Giải phóng Việt Nam tiến lên đánh đế quốc phát xít Nhật và phát xít Tây. Muốn nắm lấy cơ hội ấy, chúng ta phải tuyên truyền cổ động một mặt cho đồng bào Việt Nam ta hăng hái chuẩn bị, một mặt cho các nước Đồng Minh chú ý đến chúng ta mà giúp sức cho chúng ta.

Đội tuyên truyền của V.N.G.P chính đương dùng vũ trang hành động để làm công việc tuyên truyền cổ động ấy.
Dưới đây nhà báo xin đăng hai bản thông cáo do Đội Tuyên truyền của V.N.G.P vừa gửi đến.

Thông cáo số 1
Ngày 11 tháng 11 ta là ngày 25-12 tây, một bộ đội lạ, ở đâu đến không rõ, bộ đội gì không rõ, kéo đến đồn Phay-Khắt, tổng Kim-Mã, châu Nguyên-Bình. Sau đó, người cai tây và tất cả 17 người lính dõng mang toàn bộ khí giới trong đồn và tuyên bố với dân làng là cùng c.m đi đánh Nhật, rồi cùng bộ đội lạ kéo đi đâu mất.
Cùng ngày ấy tên Việt-gian hoạt động nhất ở tổng Kim-Mã là xã Bồi biến đâu mất.

Thông cáo số 2
Sáng ngày 12 tháng 11 ta là ngày 26 tây, lúc 7 giờ 14 phút đội Tuyên truyền của Việt Nam Giải-Phóng-Quân kéo đến đồn Nà Ngần xã Cẩm-Lý, gần Ben-Air. Họ kéo cờ đỏ sao năm cánh lên, xưng rõ là quân cách mạng đến lấy súng đạn của tây phát xít, tuyên bố quân cách mạng Việt Nam không bắn binh lính Việt Nam. Kêu gọi anh em binh lính Việt Nam giơ tay lên đầu hàng.

Người đội và 3 người chống cự bị súng trường và súng máy c.m bắn chết ngay tại trận, một người nữa bị thương.
Đội tuyên truyền G.P.Q thu thập toàn bộ súng đạn trong đồn, rồi tập hợp anh em binh lính tất cả 15 người khố xanh (trừ 2 người chạy thoát). Khai hội nghị liên hoan giữa binh lính và c.m.

Đồng thời, đội phái người phát truyền đơn và dán biểu ngữ khắp đồn. Một số đ.c nữ vũ-trang cũng tham gia giúp dọn dẹp chiến trường và tuyên truyền cổ động nhân dân cùng binh lính.

Đến 8 giờ đội tuyên truyền rút khỏi đồn, vừa đi vừa hát bài Giải-phóng-quân ca"1 (Báo Việt Nam độc lập số 201, ngày 5-1-1945).


Tiêu đề: Re: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 06 Tháng Hai, 2015, 07:28:18 pm
Được sự dẫn đường của liên lạc viên, đồng chí Vũ Anh lập tức triển khai công việc. Đúng như dự đoán của lãnh tụ Hồ Chí Minh, giặc Pháp điên cuồng điểu binh lính của cả tỉnh Cao Bằng và Bắc Kạn mở cuộc càn quét vào tổng Kim Mã, khủng bố cả ba châu Nguyên Bình, Hoà An và Hà Quảng. Đồng thời, chúng cho quân quay lại chiếm đồn Phai Khắt, Nà Ngần với quân số đông gấp hai lần và cấp chỉ huy cao hơn, lập thêm đồn Benle trên quốc lộ số 3b từ Cao Bằng đi Bắc Kạn. Cảnh sát, mật thám Pháp khám xét tất cả những người chúng gặp và bắt bớ, giam cầm tất cả những ai chúng nghi ngờ có quan hệ với Việt Minh. Phòng giam Nguyên Bình, trại giam thị xã luôn chật ních người. Không khí khủng bố ngột ngạt khắp cả vùng.


Trung tuần tháng 1-1945, giao thông viên đưa đồng chí Vũ Anh tới xã Vô Song (nay là xã Hồng Định, huyện Quảng Uyên), là một xã Việt Minh "hoàn toàn", để triệu tập một cuộc họp cán bộ ở đây. Thay mặt Tổng bộ Việt Minh, đồng chí điểm lại tình hình cách mạng thời gian qua ở địa phương mà nhất là sau chiến thắng Phai Khắt, Nà Ngần. Tuy nhiên, lúc này địch đang khủng bố ác liệt các châu Nguyên Bình, Hoà An, Hà Quảng, do đó cần tổ chức một hoạt động vũ trang để gây tiếng vang, đồng thời đánh lạc hướng, thu hút địch, đỡ đòn cho đồng bào các châu trên đó, vừa làm cho giặc Pháp hoang mang thêm. Cuộc họp quyết định tổ chức một cuộc mít tinh của đông đảo quần chúng kéo lên huyện lỵ đâu tranh với giặc Pháp. Ngày 25-1-1945 (ngày 12-12 âm lịch), quần chúng cách mạng mang theo dao, rìu, đã tập hợp tại Lũng Tăng - một thung lũng hẻo lánh hai bề vách đá dựng đứng. Lũng Tăng hôm ấy được trang hoàng cờ đỏ sao vàng và khẩu hiệu viết trên giấy đỏ, xanh. Nghe kể về chiến thắng của Đội quân tuyên truyền giải phóng, đồng bào ai nấy nức lòng phấn khỏi. Bọn hào lý biết có cuộc mít tinh song khiếp sợ trước khí thế của quần chúng nên không dám hành động gì. Sau cuộc mít tinh, 20 đồng chí được tuyển từ những cơ sở cách mạng rút lên làng Cốc Coóc, thuộc xã Lạc Giao (nay là xã Chí Thảo, huyện Quảng Uyên), sau đó, chuyển sang làng Bó Luông ở gần đó, thành lập đơn vị vũ trang địa phương. Theo quyết định của đồng chí Vũ Anh và đồng chí Bùi Bảo Vân, đội tiến hành tập luyện chuẩn bị tập kích vào đồn Pháp ở thị trấn Quảng Uyên. Đây là chỉ huy sở của tên quan ba Bôđờnông (Beaudenons). Tên này chỉ huy quân lính ở hai châu Phục Hoà và Hạ Lang. Ngày 28-1-1945, đội vũ trang cùng một số dân địa phương (khoảng 25 tay súng) chia làm hai mũi. Mũi thứ nhất do đồng chí Bùi Bảo Vân chỉ huy, tiến về cổng đồn, vừa đi rải truyền đơn in bằng ba thứ tiếng Việt, Pháp, Trung. Đội cho người đốt pháo "dang kê" dưới lòng rãnh giả làm tiếng súng. Quân Pháp tại đây đang đi càn quét ở nơi khác, chỉ còn một số binh lính người Việt canh giữ. Chúng thổi kèn báo động, rồi vội vàng đóng cửa đồn, không dám chống cự. Mũi thứ hai, do đồng chí Đinh Hồng Binh chỉ huy, tiến vào khu trại an trí của quân Pháp, nơi chúng bắt những người có người thân thoát ly làm cách mạng, giam giữ làm con tin. Các chiến sỹ ta đốt trại, kêu gọi những người phu tại đó bỏ về, rồi nhanh chóng rút quân. Với chiến công này, ta đã đạt được ba mục tiêu: phá trại an trí của địch, làm cho quân địch hoang mang, đánh lạc hướng và thu hút sự chú ý của địch, góp phần giải toả sức ép càn quét của giặc ở Nguyên Bình.


Về hoạt động tiếp theo của Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân đến Lũng Dẻ, các đội viên được phổ biến ở lại đây khoảng mười ngày để nghỉ ngơi, kiểm điểm và tiếp tục luyện tập, đẵn gỗ làm lán, sửa soạn bãi tập và làm sạch các nơi lấy nước.


Hai ngày sau, vào lúc chập tối, sau khi ăn cơm chiều xong, toàn Đội tập hợp cùng đồng bào địa phương tổ chức mừng chiến thắng. Đồng chí Võ Nguyên Giáp thay mặt Tổng bộ Việt Minh, tuyên dương công trạng của Đội lần đầu xuất quân đã giành thắng lợi oanh liệt, tiêu diệt hai đồn địch, thực hiện được lời dạy đánh thắng trận đầu của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Đồng chí biểu dương tinh thần chiến đấu dũng cảm của cán bộ và các đội viên, đồng thời cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của đồng bào địa phương. Cũng trong buổi lễ, “đồng bào được nghe lại tường tận những câu chuyện của các chiến sỹ cách mạng đánh đồn, hạ đồn một cách dũng cảm, lại được thấy tận mắt những chiến sỹ con em của mình trước đây bị sống trong tủi nhục, nay đã dám vùng lên đánh bọn địch hung tàn và đánh thắng”1 (Võ Nguyên Giáp - Khu giải phóng, dẫn theo Trần Cư - Quân giải phóng – Khu giải phóng, mối quan hệ cá – nước trong sách Việt Nam Giải phóng quân... Sđd, tr.215). Kết thúc buổi lễ, bộ đội cùng nhân dân hô to các khẩu hiệu thể hiện quyết tâm chiến đấu vì đất nước. Cũng tại đây, Đội nhận được thư và quà của Lãnh tụ Hồ Chí Minh chúc mừng thắng trận. Thư từ và quà mừng của nhân dân và các hội Cứu quôc cũng tới tấp đến với Đội. Đồng chí Lã - Bí thư Liên tỉnh ủy, cũng đã tới thăm đem theo thư chúc mừng của Liên tỉnh ủy và quà mừng gồm những vật dụng rất quý giá với các chiến sỹ lúc đó như: mấy tấm chăn len, mấy hộp sữa cho người ốm và nhất là một số đạn của Mỹ vừa mua được. Bức thư của Liên tỉnh ủy và báo Việt Nam độc lập viết:

"Ban Việt Minh Liên tỉnh và nhà báo V.N.Đ.L đồng thanh chào mừng Đội tuyên truyền Việt Nam G.P.Q và chúc cho đội luôn thắng lợi trong công việc vũ trang tuyên truyền.

Năm 1945 nầy sẽ là năm của cuộc c.m dân tộc giải phóng chúng ta. Muốn thắng lợi chúng ta phải có toàn quốc đồng bào tham gia chiến đấu và các nước Đồng Minh giúp sức. Nhưng muốn được thế, chúng ta cần tuyên truyền cổ động, một mặt kêu gọi đồng bào toàn quốc kiên quyết đứng lên chuẩn bị cuộc tranh đấu quyết liệt sắp tới, một mặt kêu gọi các nước Đồng Minh và toàn thế giới chống phát xít để ý giúp sức cho chúng ta. Công việc tuyên truyền cổ động ấy đoàn thể giao cho các đ.c và các đ.c đã tỏ là xứng đẵng với sự tin cậy của Đoàn thể.

Thay mặt Đoàn thể, chúng tôi hoan nghênh tinh thần cứu quốc của các đ.c và hô hào mọi người trong Đoàn thể và trong nước Việt Nam noi gương các đ.c mà tiến lên.

Với năm 1945 chúng ta bắt đầu tiến lên con đường vũ trang chiến đấu chống phát xít Nhật, Tây. Trên con đường ấy, các đ.c là đội tiên phong, đội tiên phong dũng cảm và khôn khéo nhắm đúng con đường chính trị của đoàn thể mà tiến. Con đường ấy là con đường thắng lợi.

Lời chào năm mới thắng lợi"1 (Viện Bảo tàng cách mạng Việt Nam – Báo Việt Nam độc lập (1941-1945), H.2000).


Sau hai chiến thắng đầu giòn giã. Ban chỉ huy Đội quvết định dừng lại chấn chỉnh, củng cố lực lượng và huấn luyện thêm. Ban chỉ huy viết thư báo cáo với lãnh tụ Hồ Chí Minh và Liên tỉnh ủy về những thắng lợi đầu tiên và đề nghị Liên tỉnh ủy chỉ thị cho các châu tiếp tục lựa chọn những đồng chí hăng hái, dũng cảm để bổ sung phát triển Đội. Lúc này, trong các đội du kích và tự vệ các châu vùng Cao - Bắc - Lạng đang dấy lên mạnh mẽ phong trào xin "đi giải phóng". Việc chọn những người tình nguyện được tiến hành kỹ càng. Ai cũng hiểu rằng được vào Đội là một vinh dự lớn và cũng là điểu may mắn. Chỉ sau một tuần, việc bổ sung đã hoàn thành và Đội đã phát triển thành một đại đội gồm 4 trung đội. Đồng chí Hoàng Sâm được cử làm Đại đội trưởng, đồng chí Xích Thắng (Dương Mạc Thạch) làm Chính trị viên. Ban công tác chính trị đại đội cũng được thành lập gồm có các đồng chí Dương Mạc Thạch, Hoàng Văn Thái, Lâm cẩm Như và các chính trị viên trung đội do đồng chí Lâm Cẩm Như phụ trách. Đồng chí Hoàng Văn Thái phụ trách công tác tham mưu tình báo và chuẩn bị kế hoạch chiến đấu. Ban quản lý Đại đội được thành lập do đồng chí Văn Tiên (Lộc Văn Lùng) phụ trách. Ban chỉ huy 4 trung đội cũng hình thành.


Tiêu đề: Re: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 06 Tháng Hai, 2015, 07:32:18 pm
Danh sách cán bộ đại đội và trung đội
của Đội đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân đầu tiên


Cán bộ đại đội:   
Hoàng Sâm: Đại đội trưởng,
Xích Thắng: Chính trị viên,
Hoàng Văn Thái: Tình báo và kế hoạch,
Lâm Kính: Công tác chính trị,
Văn Tiên: Quản lý.

Trung đội 1:
Nam Tuấn: Trung đội trưởng,
Vũ Lập: Chính trị viên,
Bế Văn Sắt: Trung đội phó.

Trung đội 2:
Đàm Quốc Chủng: Trung đội trưởng,
Nam Long: Chính trị viên (lúc ban đầu),
Mai Trung Lâm: Chính trị viên (lúc sau này).
Bế Sơn Cương: Trung đội phó.

Trung đội 3:
Đàm Quang Trung: Trung đội trưởng,
Hoàng Thịnh: Chính trị viên,
Mông Phúc Thơ: Trung đội phó (lúc ban đầu),
Đào Mạnh Vy: Trung đội phó (lúc sau này).

Trung đội 4:
Lĩnh Thành: Trung đội trưởng,
Nam Long: Chính trị viên,
Nông Quổc Sùng: Trung đội phó.


Về vũ khí, với số súng đạn thu được sau hai trận Phai Khắt, Nà Ngần, nay Đội có đủ vũ khí trang bị cho từng người và đặc biệt là đã có hai khẩu trung liên, về đạn thì còn thiếu nhiều. Súng trường mỗi khẩu chỉ có 50-60 viên, trung liên chỉ có vài băng thu được của địch. Lựu đạn mỗi người chỉ được phát hai quả hoặc là lựu đạn chày của Trung Quốc, hoặc là lựu đạn của Pháp. Trong thời gian bổ sung phát triển, Đội đã tiến hành đợt chấn chỉnh ngắn ngày.


Sau khi biên chế thành đại đội và các trung đội, các đội viên được huấn luyện về quân sự. Chương trình luyện tập có: cảnh giới trinh sát, tập bắn súng, lợi dụng địa hình, địa vật, cách tổ chức hành quân, trú quân, chiến thuật du kích, chiến thuật tập kích, phục kích; các đội hình hành quân và chiến đấu tiểu đội, trung đội... Các học viên còn được nghiên cứu cách sử dụng các loại vũ khí mới thu được, nghe giới thiệu về kinh nghiệm đánh du kích của Hồng quân Liên Xô, Trung Quốc, du kích Nam Tư... Đồng thời, Đội tổ chức kiểm điểm rút kinh nghiệm hai trận đánh ở Phai Khắt và Nà Ngần để thiết thực chuẩn bị cho các trận đánh sau.


Với việc thành lập Ban công tác chính trị đại đội, công tác chính trị trong Đội được chú trọng hơn theo phương châm lãnh tụ Hồ Chí Minh đã nêu "Chính trị trọng hơn quân sự". Tiến hành công tác chính trị, Đội tổ chức cho các đội viên mới nghiên cứu thêm vê Chương trình, Điều lệ Việt Minh, học 10 lời thề danh dự, 12 điều kỷ luật, 5 bài huấn luyện nhiệm vụ tuyên truyền. Các bài học được dịch ra tiếng các dân tộc Nùng, Dao, Mông... để dạy cho các đồng chí chưa thạo tiếng phô thông. Các buổi sinh hoạt tổ hoặc toàn Đội được duy trì đều đặn để động viên tinh thần học tập, công tác và phát huy vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên và của các đồng chí tích cực. Đội đề cao kỷ luật, đoàn kết nội bộ, giúp đỡ các đồng chí trình độ còn thấp, coi trọng quan hệ tốt với dân.


Để phát huy hơn nữa thanh thế của Đội và mở rộng công tác tuyên truyền cách mạng trong nhân dân trong các tỉnh Cao - Bắc - Lạng, cuối tháng 12-1944 (khoảng một tuần sau khi Đội ra quân đánh thắng hai trận đầu). Đội đã cho phát hành tờ báo Tiếng súng reo. Đây chính là tờ báo tiền thân đầu tiên của lực lượng vũ trang và là tờ báo nằm trong đội ngũ báo chí cách mạng.


Do điều kiện hoạt động bí mật, lại không có máy chữ và phương tiện in ấn nên tờ báo này chỉ được viết bằng tay. Những người tổ chức tờ báo đã chọn trong Đội những đội viên viết chữ đẹp, chép thành nhiều bản, với nhiều khuôn khổ khác nhau trên các loại giấy mà Đội có thế có được lúc đó như giấy bản, giấy học sinh...


Ngoài tờ báo chính thức bằng tiếng phổ thông, báo Tiếng súng reo còn được dịch ra các thứ tiếng khác là Tày, Nùng và Dao để phát hành tới các tổ chức quần chúng khác như thanh niên, phụ nữ, nông hội... phục vụ đông đảo các thành phần dân tộc trong toàn căn cứ địa. Các bản dịch tiếng dân tộc trên nhằm mục đích tuyên truyền vận động, lôi kéo các tầng lớp nhân dân theo cách mạng.


Về nội dung, báo Tiếng súng reo có số tin, bài khá phong phú. Các bài đều ngắn gọn súc tích, phản ánh nhiều mặt hoạt động cúa Đội như: tường thuật về buổi thành lập Đội chiều ngày 22-12; đăng Chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh về nhiệm vụ và tiền đồ của Đội; 10 lời thề danh dự của Đội. Ngoài ra, báo còn có các bài, tin ngắn về tình hình trong nước và thế giới, về yêu cầu nhiệm vụ trươcs mắt của cách mạng nói chung, của Đội và các đội du kích, tự vệ nói riêng. Đặc biệt, báo còn có bài tường thuật về hai trận đầu ra quân đánh thắng của Đội tiêu diệt hai đồn địch ở Phai Khắt và Nà Ngần, đồng thời nêu lên những kinh nghiệm chiến đấu rút ra từ hai trận đánh này.


Dù được viết bằng tay chữ chưa được in ấn, xuất bản chính thức theo đúng nghĩa của báo chí, song tờ Tiếng súng reo đã kịp thời phục vụ công tác tuvên truyền giáo dục và huấn luyện bộ đội. Sự có mặt của tờ báo đã tạo tiền đề cho sự ra đời một tờ báo của lực lượng vũ trang sau này1 (Hiện nay các cơ quan lưu trữ chưa tìm lại được bản gốc của tờ Tiếng súng reo, nhưng theo một số tài liệu ghi lại thì tờ báo đến tay cán bộ, chiến sỹ trong Đội vào một buổi tối cuối tháng 12-1944, khoảng một tuần sau hai chiến thắng Phai Khắt, Nà Ngần. Trong sách "Lịch sử công tác Đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam (1944-2000), Nxb Quân đội nhân dân xuất bản năm 2000, ghi ngày 27-12-1944. Tư liệu về báo Tiếng súng reo, chúng tôi sử dụng theo cuốn Lịch sử báo Quân đội nhân dân (1950-2000), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000). Đây là một trong những tờ báo tiền thân của báo Quân đội nhân dân – tờ báo chính thức của quân đội ta sau này.


Tiêu đề: Re: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 06 Tháng Hai, 2015, 07:38:19 pm
Lúc này đã gần Tết Ất Dậu, một chương trình hoạt động "Mùa Tết chiến đấu" được đề ra. Tổ tham mưu chuẩn bị kế hoạch chiến đấu của đồng chí Hoàng Văn Thái tiếp tục điều tra, lên kế hoạch cho trận đánh tiếp theo là đồn Đồng Mu, thuộc châu Bảo Lạc, gần biên giới Việt - Trung.


Mấy ngày sau. Đội tổ chức lễ chính thức thành lập đại đội. Dưới lá cờ đỏ sao vàng, xung quanh có rất đông đại biểu của các hội Cứu quốc và nhân dân địa phương tới dự lễ, các trung đội xếp hàng ngay ngắn, súng đạn khá đầy đủ, lưỡi lê tuốt trần sáng quắc.


Trước cảnh núi rừng hùng vĩ và không khí nghiêm trang, bằng những lời lẽ đanh thép, tất cả cán bộ, chiến sỹ đều hứa với nhân dân hoàn thành nhiệm vụ. Nhớ tới công ơn của lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đoàn thể, toàn Đội đã quyết định tặng Người thanh kiếm Nà Ngần, chiến lợi phẩm thu được của địch, nói lên lời hứa quyết tâm thực hiện lời Người dạy, quyết tâm chiến đấu để giành thắng lợi.


Sau đợt chấn chỉnh ngắn ngày, toàn Đội lên đường. Nhiệm vụ lúc này là tiếp tục vũ trang tuyên truyền gây cơ sở, tổ chức lực lượng, xây dựng căn cứ cách mạng, khi có điều kiện và xét thấy cần thiết thì sẽ mở những trận đánh nhỏ để gây thanh thế. Đội chia làm hai bộ phận, đại bộ phận tiến về phía châu Bảo Lạc (Cao Bằng), chuẩn bị đánh đồn Đồng Mu. Một bộ phận nhỏ, do đồng chí Hoàng Văn Thái phụ trách, đi về Nậm Ty hoạt động tuyên truyền, mở rộng cơ sở. Sau đó, bộ phận này tiếp tục đi điều tra nắm tình hình, chuẩn bị cho trận đánh đồn Bằng Khẩu và Kéo Lẻng. Tuy nhiên, sau khi ta điều tra xong thì quân địch tại hai đồn này sợ bị ta tập kích nên đã rút quân đi nơi khác, do đó kế hoạch đánh các đồn này không thực hiện được.


Cuộc hành quân tới Bảo Lạc khá gian khổ. Đường vừa xa vừa khó đi do phải vượt qua nhiều triền núi đá tai mèo hiểm trở, nhiều bản làng có bọn phản động canh gác. Thời kỳ này, chính quyền địch tiến hành kiểm soát rất ngặt nghèo. Chúng lệnh cho dân đi đêm phải có đèn, không được tụ họp quá ba người. Mặt khác, chúng còn tung mật thám dò la tung tích của Đội. Do đó, Đội chủ trương đóng quân ở đâu cũng không được quá hai ngày. Để đảm bảo yếu tố bí mật, ban ngày Đội giấu quân trong trong rừng, ban đêm mới hành quân, tuyệt đối không để lại dấu vết nơi trú quân và dọc đường đi. Có những đêm, cả đơn vị, từ chỉ huy đến đội viên đều buộc chặt vũ khí, quân tư trang vào người, im lặng vượt qua những điểm gác của địch. Lại có đêm trời tối như bưng, người đi sau không nhìn thấy người đi trước, bé Hồng (Nông Văn Xương) có sáng kiến lấy một cái lá có chất lân tinh cài vào lưng người đi trước để người đi sau nhìn theo đó mà đi. Sáng kiến này được phổ biến cho toàn Đội và có tác dụng cho việc hành quân trong những đêm sau đó.


Hết những triền núi đá tai mèo, toàn Đội lại phải hành tiến trên những con đường đất lầy lội do trời mưa. Có lần, trời gần sáng, bộ đội hành quân tới gần một làng có nhiều tên phản động, Ban chỉ huy Đội ra lệnh đi nhanh để vượt khỏi làng sớm, song đi được một quãng, sương tan, trời sáng nhanh, cả đoàn quân lộ ra ngay trước làng. Do không thế mạo hiểm vào làng, cũng không thể đi theo lối khác nên Ban chỉ huy Đội lệnh cho bộ đội đi qua làng, làm như một đội quân địch đi tuần tiễu. Vài người vào nhà tổng đoàn giả vờ xét hỏi người lạ và hàng lậu, toàn Đội ung dung đi qua làng. Mấy ngày sau, bộ đội đến một bản người Mán. Dù rất thiếu thốn, không có ruộng nương trồng mà phải lấy đất về đổ trong các hốc đá để trồng ngô, nhưng đồng bào vẫn chia sẻ với bộ đội những bữa cơm chỉ có bột ngô đồ với canh rau. Thái độ ân cần của đồng bào làm toàn Đội rất cảm động. Cuối cùng. Đội đến Đồng Mu. Mục đích của việc đánh đồn này là nhằm đánh lạc hướng quân địch vừa để "thanh Đông kích Tây", làm cho địch phán đoán rằng ta hoạt động cả ở khu vực nam Nguyên Bình cả ở khu vực biên giới Việt - Trung. Tổ trinh sát tiến hành điều tra đồn địch lần cuối.


Đồn này thuộc thôn Pù, xã Đồng Mu, huyện Bảo Lạc, Cao Bằng. Cuối năm 1940 - đầu 1941, trước sự phát triển của phong trào cách mạng ở Cao Bằng nói chung và Bảo Lạc nói riêng, thực dân Pháp đã cho xây dựng đồn để tăng cường tuần tiễu, bắt bớ cán bộ cách mạng, kiểm soát gắt gao hơn nhân dân ở khu vực này. Đồn án ngữ một vị trí quan trọng, vì tại đây có thể kiểm soát toàn bộ con đường ngựa từ Đồng Mu sang Sóc Hà, huyện Hà Quảng và đường từ Đồng Mu xuống Pác Lung đi sang Ba Bể, xuống Bắc Kạn. Lúc đầu, đồn chỉ do lính khố xanh đóng giữ nhưng sau đó, địch lại chuyển thành đồn lính khố đỏ. Đồn nằm biệt lập trên ngọn đồi cao ở giữa một cánh đồng. Vì đồn nằm gần biên giới Việt - Trung, phải thường xuyên đối phó với bọn phỉ, nên địch xây dựng công sự rất kiên cố. Đồn có nhiều lô cốt, tường dày có lỗ châu mai, giao thông hào và dây thép gai bao bọc xung quanh. Quân địch trong đồn có khoảng hơn 40 lính khố đỏ, do 3 tên sỹ quan Pháp chỉ huy. Ngoài ra còn có một số lính dõng ở trong bản do 1 tên tổng đoàn chỉ huy.


Phía ta, trước đây các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Hoàng Sâm và Lê Quảng Ba đã có thời gian hoạt động tại đây nên cũng đã khá thông thuộc địa hình khu vực này. Sau khi trinh sát nắm tình hình, nhận định không thể sử dụng cách cải trang đột nhập đồn như hai trận đánh trước vì chắc chắn lúc này địch đã rút được kinh nghiệm nên đã để phòng cẩn mật hơn, Ban chỉ huy Đội chủ trương lợi dụng đêm tối bí mật đột nhập đồn, tiêu diệt địch. Cơ sơ của ta ở gần đồn cho biết, cách đây ít ngày có tin bọn thô phỉ ở bên kia biên giới sẽ tràn sang nên địch trong đồn tăng cường thêm lính canh gác, luôn chuẩn bị sẵn sàng đánh trả. Sau đó, cơ sỏ ta báo lại là lính trong đồn chờ một thời gian không thấy thổ phỉ tới, cho là hoang báo, nên việc canh phòng đã dần dần chểnh mảng. Ban chỉ huy Đội quyết định đánh đồn.


Theo kế hoạch đã định. Đội bí mật đột nhập chiếm nhà chỉ huy, sau đó các hướng đánh vào cùng phối hợp với nội ứng tiêu diệt địch. Đêm 4-2-1945, bộ đội xuất kích, chia làm hai mũi vượt qua các mỏm đá sắc nhọn tiến lên đỉnh đồi. Khi đi ngang qua cánh đồng, chó trong làng sủa ran. Hai tổ xung phong lặng lẽ vượt hàng rào dây thép gai đầu tiên. Tổ của các đồng chí Nam Long, Quang Trung, Xuân Trường đang đột nhập đồn thì bị địch phát hiện. Địch hỏi: "Ai?". Đồng chí Nam Long trả lời: "Im đi, chúng tôi là Việt Minh đến lấy súng của Tây, không đánh các anh em". Bọn địch trong đồn lập tức ném lựu đạn và bắn ra tới tấp. Tình huống này nằm ngoài dự kiến. Đồng chí Đàm Quang Trung hội ý với đồng chí Võ Nguyên Giáp: "Lộ rồi, đề nghị anh và anh Hoàng Sâm ở lại vị trí chỉ huy, chúng tôi vào đồn sẽ cử người bắt liên lạc sau". Được đồng ý, đồng chí Đàm Quang Trung dẫn một tổ xông vào trong đồn. Vị trí chỉ huy ban đầu đặt ở sau một bờ đất sát đồn địch. Dù địch bắn ra rất rát, song tổ xung phong cũng đột nhập được vào trong đồn, nổ súng, rồi đánh giáp lá cà. Tiểu đội trưởng Xuân Trường chỉ huy một tổ xung phong đột nhập qua cửa sổ. Anh dùng tiểu liên diệt ngay tên đốc gác và một số tên khác đang nằm trên giường. Đạn trong băng hết, không kịp thay, anh rút thanh kiếm và khẩu súng ngắn xông vào sở chỉ huy. Một số tên địch nữa bị tiêu diệt, quân địch cố thủ ở một lô cốt giữa đồn, chống cự rất quyết liệt. Xuân Trường dừng lại lắp đạn mới vào súng. Dưới ánh lửa, khi Xuân Trường đang lắp đạn thì bị một viên đạn địch xuyên qua ngực, anh ngã gục xuống. Lúc này, các tổ bên ngoài cũng đã vào tới nơi. Xuân Trường gượng dậy gọi đồng chí Thế Hậu và nói: “Tao bị đạn rồi, mày lấy ngay khẩu súng của tao đánh đi!". Nghe tiếng gọi, Thê Hậu chạy tới xốc Xuân Trường lên, nhưng anh gạt ra và giục: "Đánh đi, không lôi thôi gì với tao cả. Xung phong lên!”. Rồi Xuân Trường tắt thở giữa lúc tiếng súng còn vang dội. Cuộc chiến đấu diễn ra từ 11 giờ đêm 4-2 tới 3 giờ sáng ngày 5-2. Các chiến sỹ ta vừa chiến đấu vừa hát, tuy tiếng hát lúc này có tác dụng động viên khí thế chiến đấu của anh em và tiện cho việc liên lạc, song nó lại làm lộ các vị trí chiến đấu của ta, khiến địch phát hiện được mục tiêu, tập trung hoả lực bắn tới. Thấy kéo dài cuộc chiến đấu sẽ không có lợi, Ban chỉ huy hạ lệnh rút khỏi đồn trước lúc trời sáng, mặc dù nhiều chiến sỹ yêu cầu tiếp tục chiến đấu tiêu diệt toàn bộ quân địch.


Trận này ta tiêu diệt 20 tên, thu 5 súng trường Mútcơtông và một số đạn, bắt 3 tù binh. Riêng đồng chí Đàm Quang Trung một mình dùng súng và dao tiêu diệt 5 tên. Phía ta, Tiểu đội trưởng Xuân Trường chiến đấu anh dũng và hy sinh. Ngay sau trận đánh, do yêu cầu phải rút nhanh và bí mật nên hầu hết bộ đội tham gia trận đánh phải rút đi ngay. Ban chỉ huy Đội cử một số đồng chí ở lại cùng với cơ sở và nhân dân địa phương làm lễ an táng đồng chí Xuân Trường. Trước lúc hành quân, toàn Đội cúi đầu mặc niệm vĩnh biệt người đồng chí, đồng đội trung kiên bất khuất. Để ghi nhớ hình ảnh người đội viên Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân đã chiến đấu hy sinh anh dũng - người liệt sỹ đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, nhân dân xã Đồng Mu quyết định đổi tên xã thành xã Xuân Trường.


Trận đánh đồn Đồng Mu “tuy không phải thất bại, nhưng không tiêu diệt được toàn bộ quân địch như kế hoạch đã định”. Nguyên nhân chủ yếu nhất là do ta không bám sát diễn biến mới nhất trong đồn. Qua khai thác tù binh, Ban chỉ huy Đội được biết, buổi chiều trước lúc ta tập kích, tên đồn trưởng người Pháp nhận được lá thư của bọn phỉ đe dọa tối chúng kéo quân ra đánh đồn. Vì vậy, binh lính trong đồn đã chuẩn bị đối phó từ chiều. Đêm đó, một nửa số binh lính địch trong đồn thức đề phòng. Chúng không cho bất kỳ một ai ra vào đồn, do đó cơ sở ta ở trong đồn không báo tin ra ngoài cho Đội được. Dù vậy, trận đánh đã để lại cho toàn Đội bài học kinh nghiệm quý báu và xây dựng cho bộ đội truyền thống chiến đấu anh dũng ngay cả khi gặp khó khăn nhất. Trận đánh không hoàn thành, lần đầu tiên trong Đội có đồng chí hy sinh, anh em không khỏi có những suy nghĩ. Tuy nhiên, Ban chỉ huy Đội đã quán triệt, giải thích: "Trong cuộc chiến đấu dài lâu, tất nhiên là phải có lúc thành, lúc bại. Qua trận đánh lần này chúng ta rút được những kinh nghiệm để sau này chiến thắng lớn hơn".


Sau trận đánh, nhân lúc trời còn sương mù, ta tiến vào phố Đồng Mu, tập hợp nhân dân, giải thích mục đích, hành động của Đội. Sau đó. Đội chia làm hai bộ phận rút quân. Bộ phận thứ nhất, do đồng chí Đàm Quang Trung chỉ huy, quay về rừng Trần Hưng Đạo, Nguyên Bình. Những ngày gần Tết, đồng chí Nông Văn Lạc nhận được lệnh của đồng chí Võ Nguyên Giáp đi đón cánh quân nàv về Nguyên Bình cùng ăn Tết, nhưng mũi hành quân này không về kịp Nguyên Bình trước Tết Ất Dậu mà về muộn mất mấy ngày.


Tiêu đề: Re: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 06 Tháng Hai, 2015, 07:42:02 pm
Cánh quân thứ hai, do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy, rút về hướng Nam. Trên đường đi, tất cả được lệnh phải giữ tuyệt đối bí mật, không để lại dấu vết, nhất là khi đi qua các đồn trại địch. Ở những chỗ trú quân, do trời rét, bộ đội phải lấy lá rừng về rải nằm, do đó, trước khi đi phải xoá hết các dấu tích chỗ ngủ, ăn, nấu cơm. Qua những vùng có đồn địch, hay các làng xóm không có cơ sở, Đội phải đi vòng. Ở các làng có cơ sở, cán bộ và chiến sỹ tản ra, phối hợp với tự vệ chiến đấu tuần tra canh gác, đi tuyên truyền giáo dục để nhân dân hiểu hơn về chính sách Việt Minh, đoàn kết toàn dần, đánh đuổi Nhật - Pháp cứu nước, yêu cầu mọi người giữ bí mật, thực hiện ba không: "Không nghe, không biết, không thấy".


Lúc này, thời tiết đang độ cuối đông, trời rét như cắt da cắt thịt. Bộ đội hành quân liên tục lại vượt các núi đá tai mèo, nhiều người bị đau chân. Những lúc khó khăn như vậy càng sáng ngời tình đồng chí, đồng đội. Cán bộ yêu thương săn sóc chiến sỹ bị đau. Đồng chí Vũ Lập cởi chiếc áo ấm của mình mặc cho một chiến sỹ bị mệt. Nhiều cán bộ nhường giày lại cho những anh em bị đau chân. Có đồng chí cán bộ bị đau chân nhưng vẫn cố gắng theo kịp đội hình. Đi đến đâu, bộ đội cũng được nhân dân đón tiếp nhiệt tình, niềm nở như những con em họ. Đồng bào còn cho bộ đội nhiều lương thực, thực phẩm, quà bánh. Có nơi, khi bộ đội đến, lúc đầu đồng bào tưởng là thổ phỉ, đem của cải cất giấu trong rừng, nhưng khi biết là bộ đội cách mạng, lại không dừng chân được lâu, thì ngay trong đêm, đồng bào vào rừng làm thịt lợn, thịt gà, nấu cơm cho bộ đội ăn. Những tình cảm này làm cho tất cả mọi người đều cảm động.


Theo phương châm của lãnh tụ Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập "chính trị trọng hơn quân sự, và vũ trang tuyên truyền trọng hơn tác chiến”, Đội tiến hành vũ trang tuyên truyền trong nhân dân tại những nơi đi qua. Tới đâu, Đội phát truyền đơn, viết khẩu hiệu và tổ chức các cuộc mít tinh tuyên truyển chính sách Việt Minh, tuyên truyền chiến thắng. Nhận thức được rằng, nếu không dựa vào dân thì bộ đội giải phóng không thể tồn tại, nên Ban chỉ huy Đội luôn quán triệt anh em chấp hành nghiêm kỷ luật dân vận. Bộ đội phải tôn trọng, đối xử tốt với nhân dân, không tơ hào đến thứ gì dù là nhỏ nhất, luôn kính già, yêu trẻ, tôn trọng phụ nữ, tôn trọng phong tục tập quán của dân. Có những nơi, khi đội đến, dân chúng tưởng là thổ phỉ nên chạy trốn cả vào rừng, bỏ lại hết thảy những của cải. Bộ đội ta thu nhặt rồi đưa trả lại cho dân. Những hành động và sự đối xử ấy đã làm cho đồng bào các dân tộc vùng biên giới rất ngạc nhiên và cảm kích vì từ trước tới nay họ chưa thấy một đội quân nào có kỷ luật nghiêm và đối xử tốt với dân như vậy. Cho nên, sau đó ảnh hưởng của cách mạng lan rộng khắp vùng. Vì vậy, đi đến đâu, Đội cũng được đồng bào yêu mến và ủng hộ nhiều lương thực, thực phẩm. Tuy nhiên, để để phòng những lúc biến động, dân không tiếp tế được, hay lúc cán bộ, chiến sỹ bị đi lạc, Đội chủ trương sử dụng rất tiết kiệm, mỗi bữa ăn bớt một ít gạo, dành dụm để mỗi chiến sỹ luôn có một bao lương khô bằng gạo rang hoặc ngô rang dự phòng. Kỷ luật về lương thực cũng được đặt ra rất nghiêm, khi chưa có lệnh của người chỉ huy, không ai được đụng đến lương thực dự phòng.


Bên cạnh đó, lãnh đạo, chỉ huy Đội ra lệnh cấm các đội viên uống rượu và hút thuốc lá. Nếu hút thuốc lá, khói và đầu mẩu điếu thuốc dễ làm lộ tung tích đơn vị, đặc biệt là khi hành quân. Khi uống rượu vào sẽ mất tỉnh táo, mặt đỏ hoặc sinh thói ba hoa và không kiểm soát được các hành động của mình. Đồng chí Võ Nguyên Giáp rất nghiêm khắc với những điều cấm này. Một lần, các đồng chí Hoàng Sâm, Mai Trung Lâm, Bế Sơn Cương xuống bản công tác. Do được đồng bào yêu quý nài ép uống, cả nể, lại nghĩ uống một vài chén cũng không ai phát hiện được, nên đã uống rượu. Tuy nhiên, khi về đơn vị, bị kiểm tra và phát hiện, cả ba đã bị đồng chí Võ Nguyên Giáp phê bình là không tôn trọng kỷ luật, nhất lại là cán bộ mà không nêu gương cho anh em, cả ba đồng chí được một bài học bổ ích và rất ân hận vì đã không nghiêm khắc với chính bản thân mình1 (Mai Trung Lâm – Tiến quân vào Chợ Rã, Tạp chí Lịch sử quân sự, số tháng 12-1989).


Những ngày giáp Tết Ất Dậu, cánh quân này đã về đến Thông Nông. Nhân dân được tin đốt đuốc, bày cỗ đón bộ đội. Đêm đến, bộ đội rút lên đỉnh núi. Sáng 30 Tết, cán bộ cơ sở lên báo tin có địch kéo về làng càn quét. Chỉ huy Đội ra lệnh chuẩn bị chiến đấu. Một lúc sau dưới làng có tiếng súng nổ nhưng không thấy địch kéo lên. Song cả Đội đều lo lắng bởi vì lúc rút lên núi chiều qua, trong Đội có đồng chí Đức Cường bị đau chân nên đi tụt lại sau, đến sáng ra vẫn chưa thấy vể. Chiều hôm đó, đồng chí Chủ nhiệm Việt Minh xã lên kể lại diễn biến tình hình lúc sáng. Địch càn vào làng xong, kéo quân ra phía rừng, phát hiện trong hang có người. Chúng xông vào định bắt sống nhưng bị người trong hang bắn ra. Địch đứng ngoài bắn vào, lấy rơm chất đầy cửa hang rồi đốt. Người trong hang bắn ra rất dữ rồi bất ngò xông ra khiến cho lính địch hốt hoảng bỏ chạy tán loạn, về sau, tìm về đơn vị, kể lại câu chuyện trên, mọi người mới biết người trong hang chính là Đức Cường. Bị vây trong hang, một mình đồng chí đã chiến đấu với 12 tên địch, bắn bị thương 2 tên. Đồng chí bị chỉ huy Đội phê bình vì hành quân chậm trễ, nhưng lại được nhân dân khen ngợi và tặng quà vì tinh thần chiến đấu dũng cảm.


Tối 30 Tết Ất Dậu, tại một bản của đồng bào Dao trắng, các đội viên tổ chức ăn Tết cùng nhân dân. Ngày mồng 5 Tết, các đội viên trong cánh quân do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy về tới rừng Trần Hưng Đạo. Cả đội đang liên hoan thì đồng chí Phạm Văn Đồng, đồng chí Lã - Bí thư Liên tỉnh ủy và một số đại biểu các giới phụ lão, phụ nữ, thanh thiếu niên các dân tộc Tày, Nùng, Dao, Kinh... tới chúc Tết. Thay mặt Đoàn thể, các đồng chí hoan nghênh chiến công của Đội, biểu dương tinh thần chiến đấu dũng cảm của cán bộ và chiến sỹ, chúc Đội trong năm mới tiếp tục giành nhiều thắng lợi lớn hơn nữa. Các đồng chí thông báo về sự phát triển của phong trào cách mạng các địa phương. Anh em hết sức phấn khởi. Đồng chí Võ Nguyên Giáp thay mặt Đội, hứa quyết tâm chiến đấu đuổi Pháp - Nhật xâm lược, giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc. Đồng chí cũng cảm ơn Tổng bộ Việt Minh. Liên tỉnh ủy và nhân dân các dân tộc đã quan tâm giúp đỡ và động viên bộ đội. Sau đó, các đại biểu chia nhau đi gặp gỡ, nói chuyện thân mật với chiến sỹ.


Mấy ngày sau, các cánh quân của Đội đều về tới tổng Hoàng Hoa Thám, nơi hai tháng trước đây Đội đã làm lễ thành lập và hứa hẹn ngày về chiến thắng, Dọc theo con suối trong rừng sâu, đồng bào cất sẵn mấy ngôi nhà bằng vầu, mái lợp lá chuối, có sàn nứa cao ráo chờ bộ đội. Nhân dân còn chuẩn bị quà bánh biếu Đội; từ giày vải, khăn mặt, khăn tay do các bà, các chị dệt có thêu chữ tặng bộ đội, đến bánh chưng, xôi, chè lam, kẹo, thức ăn mặn đựng trong ống bương, gạo ngô đựng trong bao tượng... Thường ngày, Đội chỉ ăn muối với rau rừng, thỉnh thoảng mới có ít thịt trâu, thịt bò khô nấu với măng, hôm nay sáu người được chia hai bánh chưng, một ít thịt lợn luộc đặt trên lá chuối, lại có nước mắm để chấm. Như thế, đối với các chiến sỹ đã thực sự là bữa tiệc. Sức khoẻ cán bộ, đội viên có phần được cải thiện sau những ngày liên tục hành quân vất vả, thiếu thốn. Nhân dịp Tết, Đội cho in những thiếp chúc mừng trên giấy hồng, gửi tới các hội viên Cứu quốc, các trường học, thân hào, thân sỹ... chúc sang năm mới, nhân dân được hưởng nhiều điều tốt lành, chúc nước nhà được độc lập, tự do. Khắp nơi trong vùng đâu cũng thấy các khẩu hiệu, biểu ngữ của Quân giải phóng như: "Kính trọng nhân dân, giúp đỡ dân, bảo vệ dân, mỗi viên đạn một tên giặc...”. Các tờ truyền đơn kêu gọi binh lính cũng được rải khắp nơi.


Ban chỉ huy Đội và Liên tỉnh ủy đặt kế hoạch mở rộng tổ chức cơ sở chính trị và lực lượng vũ trang, để ra biện pháp phát triển công tác vũ trang tuyên truyền. Trước khi đánh, phải tính đến mực đích tuyên truyền. Sau khi đánh, phải tìm cách phát huy chiến thắng bằng công tác tuyên truyền. Ngoài tác chiến đánh địch. Đội đặt kế hoạch tiên hành công tác vũ trang tuyên truyền trong nhân dân. thực chất là dùng lực lượng vũ trang để tuyên truyền giác ngộ chính trị, làm cho nhân dân tin ở sức mạnh của cách mạng. Trước đây, nhân dân hay nhìn vào vũ khí của quân cách mạng, nay bộ đội tuyên truyền, giải thích cho đồng bào rõ: sức mạnh của vũ khí không phải là quyết định mà chính sức mạnh của tình đoàn kết toàn dân mới là quyết định. Khi nhân dân chưa hiểu, chưa giác ngộ thì coi như nhiệm vụ tuyên truyền chưa hoàn thành. Địa bàn tác chiến và vũ trang tuyên truyền sắp tới được Đội đề ra là gây dựng một khu vực rộng rãi từ các vùng rừng núi tiếp giáp Hoà An, cho đến các châu Nguyên Bình, Ngân Sơn. Chợ Rã và vùng phụ cận các núi Phia Uắc, Phia Giả, Phia Bioóc.


Tiêu đề: Re: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 06 Tháng Hai, 2015, 07:51:55 pm
Sau mấy ngày nghỉ Tết, Đội gấp rút tiến hành công tác huấn luyện nhằm nâng cao kỹ thuật, chiến thuật chiến đấu, quán triệt các nhiệm vụ Liên tỉnh ủy và Ban chỉ huy Đội để ra về tác chiến và vũ trang tuyên truyền. Sau đó, đơn vị phân tán đi hoạt động ở các nơi, vừa xây dựng cơ sở cách mạng, vừa tác chiến với địch. Một nhóm được cử đi trước để lập những cứ điểm nhỏ dọc đường, đi từ Ngân Sơn, Chợ Rã, Chợ Đồn hướng về phía Chợ Chu.


Giữa tháng 2-1945, Đội cử một đơn vị gồm các đồng chí Bế Sơn Cương, Lâm Kính, Bế Văn Sắt và Mai Trung Lâm xuống hoạt động ở khu vực tiếp giáp giữa hai châu Nguyên Bình và Ngân Sơn1 (Mai Trung Lâm - Tiến quân vào Chợ Ra, Tạp chí Lịch sử quân sự các số 11, 12-1989 và 1-1990). Đây là vùng đồng bào Dao Tiền, ngoài ra còn có một số làng Tày, Nùng thuộc thuộc châu Nguyên Bình. Phong trào cách mạng ở đây không được như các địa phương khác ở Nguyên Bình. Nhiệm vụ của đơn vị là giúp địa phương mở rộng và củng cố phong trào, tiễu trừ bọn phản động tay sai chống phá cách mạng. Các đồng chí trong đơn vị đã nghe đồng bào phản ánh về tên quản Chiểu (một chức vụ tương đương tri châu) rất gian ác. Y cậy thế trong tay có một trung đội, lại giỏi võ, nên xưng hùng, xưng bá, lùng bắt cán bộ cách mạng, thẳng tay đàn áp những ai chống lại, ra sức vơ vét của cải của dân. Vì vậy, phong trào không phát triển được. Chỉ huy đơn vị quyết định tiêu diệt tên này. Ban đầu, các đồng chí định đột nhập nhà y để tiêu diệt, nhưng qua điều tra thấy như vậy khó thành công do địch rào làng kỹ, khó vượt qua. Sau đó, chỉ huy đơn vị quyết định đánh vào lúc nhá nhem tôi, khi cổng làng chưa đóng, ta đóng giả quân đi tuần vào thẳng nhà tên quản Chiểu để tiêu diệt. Đồng chí Bế Sơn Cương mặc quân phục khố đỏ, đồng chí Mai Trung Lâm đóng vai bang tá, đồng chí Lâm Kính trong vai thông phán và mấy đồng chí khác giả làm thường dân, mang vũ khí bí mật theo người. Sau một ngày hành quân, các đồng chí tới làng vào sẩm tối. Hay tin tên quản Chiểu đang đi săn, cả nhóm đứng đợi y ở cách cổng làng độ vài chục mét. Khi tên này về, hắn tưởng là cấp trên đến kiểm tra, nên khúm núm chào hỏi. Lắng nghe với thái độ bất cần, bất ngờ đồng chí Mai Trung Lâm đá một cú như trời giáng vào bụng hắn. Không kịp chống cự, tên quan ngã qụy xuống. Đồng chí Bế Sơn Cương lập tức xông tới cướp khẩu súng và con dao của y. Rồi đồng chí Lâm Kính trói chặt, áp giải y đi ngay. Quân ta nhanh chóng rút vào rừng sau khi đã rải truyền đớn giải thích việc trừng trị tên phản động này và kêu gọi nhân dân đứng lên chống Pháp - Nhật, cứu nước, cứu nhà. Sau vụ tên quản Chiểu gian ác bị trừng trị, bọn phản động ở địa phương co lại, không dám hung hăng như trước. Nhờ đó, cán bộ tại đây có điều kiện xốc lại phong trào, mở rộng thêm các cơ sở cách mạng.


Một trung đội do đồng chí Hoàng Sâm chỉ huy, ở lại hoạt động tại vùng đèo Benle (Benlair - nay gọi là đèo Cao Bắc) - giáp giới Cao Bằng và Bắc Kạn. Một trung đội khác bố trí phục kích địch tại vùng Khâu Giáng - Ngân Sơn, do đồng chí Dương Đại Long chỉ huy.


Ngày 25-2-1945, Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân phục kích địch trên đường từ Nà Ngần đi Benle. Sau khi điều tra kỹ quy luật hoạt động của địch, lại nhận được tin chắc chắn có một đội vận tải của địch sắp đi qua, đồng chí Hoàng Sâm chỉ huy bộ đội hành quân cấp tốc suốt cả ngày đề tới địa điểm phục kích đã chọn là quãng đường một bên là thành vại, cây cối rậm rạp, một bên cỏ gianh mọc um tùm. Đồng chí Hoàng Sâm và đồng chí Võ Nguyên Giáp bố trí địa điểm chỉ huy ở trên một quả đồi có thể quan sát xa 3 km. 15 giờ ngày 25-2, toán quân địch mới về tới nơi. Chờ cho chúng lọt hẳn vào trận địa, đồng chí Hoàng Sâm nổ phát súng hiệu. Toàn Đội nổ súng rồi nhất loạt xung phong. Bị bất ngờ, quân địch không tên nào kịp chống cự, buộc phải đầu hàng. Trận này ta bắt gần 1 trung đội địch, thu 16 súng và nhiều đạn dược, lương thực.


Ta tuyên truyền chính sách với tù binh rồi thả cho chúng trở lại đồn Nà Ngần. Cũng ngay đêm ấy. Ban chỉ huy Đội quyết định đánh đồn Nà Ngần lần thứ hai. Tù binh địch từ Benle về Nà Ngần, kể lại tình hình vừa bị chặn đánh cho đồng bọn. Trong lúc quân địch đang hết sức hoang mang thì bộ đội ta, theo đường núi tiến quân, đã vận động tới bao vây đồn. Ta vừa nổ súng, vừa bắc loa gọi hàng. Quân địch số bỏ chạy, số hạ vũ khí đầu hàng. Trời tảng sáng, ta chiếm đồn và thu được 30 khẩu súng cùng đạn dược và đồ quân dụng. Số vũ khí này được chuyển về cho các đội vũ trang các châu.


Tình hình ngày càng biến chuyển khẩn trương, nhanh chóng, có lợi cho cách mạng. Đầu tháng 3-1945, đồng chí Phạm Văn Đồng và đồng chí Vũ Anh tới thăm Đội tại tổng Hoàng Hoa Thám, truyền đạt chỉ thị của cấp trên: "Đội phải tiến xuống phía Nam sớm, mở nhanh những đường liên lạc với vùng xuôi". Hai ngày sau đó, có tin báo về những biểu hiện của việc Nhật chuẩn bị đảo chính Pháp. Từ trong rừng Phan Thanh, tổng Hoa Thám, toàn Đội xuất phát theo kế hoạch Nam tiến, giương cao cơ đỏ, kéo xuống tổng Kim Mã ngay giữa ban ngày.


Trải qua bao ngày phải hoạt động bí mật, chủ yếu là về đêm, luồn rừng vượt suối, nay cả Đội được giương cao lá cờ đỏ sao vàng, hành quân đi giữa "thanh thiên bạch nhật", ai nấy đều vui sướng và cảm động. Trên đường bộ đội đi qua. bà con nghe tin bộ đội cách mạng hoạt động đã lâu, nay đều ùa ra nồng nhiệt chào đón. Tói đâu, Đội tập hợp đồng bào lại, tổ chức mít tinh, giải thích chính sách Việt Minh, kêu gọi đồng bào: Nhật, Pháp đánh nhau là thời cơ tốt để đứng dậy khởi nghĩa. Đội tiến hành tước vũ khí của lính dõng, tuyển thêm thanh niên để phát triển lực lượng.


Tiếp đó, sau khi viết thư báo cáo về Liên tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng, cả Đội theo đường cái tiến vê phía Nam. Đồng thời, Đội cử một tiểu đội, do đồng chí Bế Sơn Cương chỉ huy, ở lại tổng Hoàng Phài để bắt tên tổng đoàn phản động, tước vũ khí lính dõng, tuyên truyền giải thích chính sách Việt Minh cho nhân dân địa phương. Ngày 28-3-1945, đơn vị này tiến vào Na Rì. Tại đây, tên tri châu nghe tin, hoảng sợ bỏ chạy, lính trong đồn Yên Lạc đầu hàng. Bọn hào lý địa phương đem triện bạ, sổ sách nộp cho quân giải phóng. Ta hoàn toàn làm chủ châu lỵ Na Rì.


Tiêu đề: Re: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 06 Tháng Hai, 2015, 07:53:35 pm
Bộ phận chính của Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân do đồng chí Võ Nguyên Giáp và Hoàng Sâm chỉ huy tiếp tục tiến xuống Ngân Sơn. Ngày 14-3-1945, đồng chí Doanh Hằng - cán bộ địa phương đã mang thư viết bằng tiếng Pháp của đồng chí Võ Nguyên Giáp kêu gọi hợp tác đánh Nhật, tới chỉ huy quân địch tại đây. Tên tri châu Ngân Sơn và bang tá xem xong thư không trả lời gì mà lên ngựa chạy về hướng tỉnh lỵ. Tên đồn trưởng người Pháp là Đờ Đông, xem xong thư vẫn không tỏ ý châp thuận. Ngày 18-3, ta lại cho người đưa tiếp thư cho Đờ Đông, song tên này vẫn nấn ná không trả lời, mà có ý muốn chờ quân Nhật tới. Ngày 20-3, đơn vị Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân do đồng chí Võ Nguyên Giáp và đồng chí Hoàng Sâm chỉ huy từ rừng Khau Giang đã về đến xã Thượng Ân. Đêm 20-3, đồng chí Võ Nguyên Giáp viết tối hậu thư gửi cho Đờ Đông. Trong đó nêu rõ: “Nếu muốn cùng hợp tác với Việt Minh đánh Nhật thì phải kéo quân vào ngay khu du kích, sẽ được giúp đỡ, trái lại muôn ở lại để nộp khí giới cho Nhật thì Việt Minh sẽ đánh đồn”. Lần này, tên chỉ huy quân Pháp buộc phải đồng ý. Sáng ngày 21-3, Đờ Đông cho thổi kèn tập hợp quân lính rồi đi theo một cán bộ ta tới địa điểm hẹn trước tại xã Cốc Đán. Tại đây, chỉ huy Đội tiếp nhận sự đầu hàng của chúng. Ngay hôm đó, một cuộc mít tinh liên xã đã được tổ chức tại bản Nà Sáng (Ngân Sơn). Trước đông đảo nhân dân tới dự, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã nói chuyện về tình hình quốc tế, về phong trào cách mạng ở các tỉnh Cao - Bắc - Lạng, trong cả nước và kêu gọi mọi người ủng hộ cách mạng.


Ngày hôm sau, 22-3-1945, cả Đội tiến vào giải phóng châu lỵ Ngân Sơn trong niềm hân hoan phấn khởi của đồng bào các dân tộc tại đây. Đến đây, theo lệnh của đồng chí Võ Nguyên Giáp, Đội cử ra một số đơn vị nhỏ tỏa đi các địa phương hoạt động vũ trang tuyên truyền gây cơ sở:

Bộ phận chính, do các đồng chí Hoàng Sâm và Đàm Quang Trung chỉ huy, tiến theo quốc lộ 3 xuống Phủ Thông, đi về phía Bắc Kạn tước vũ khí của lính dõng, chiến đấu với quân Nhật, vũ trang tuyên truyền trong quần chúng và phát triển lực lượng. Ngày 27-3-1945, cánh quân này xuất phát thực hiện nhiệm vụ.


Một bộ phận khác gồm một trung đội, do đồng chí Hoàng Văn Thái phụ trách, cũng xuất phát trong ngày 27-3, có nhiệm vụ tiến qua núi Phia Bioóc về giải phóng Chợ Đồn (Bắc Kạn). Đơn vị này làm nhiệm vụ tước vũ khí của lính dõng, thành lập các đội tự vệ chiến đấu của địa phương, phá chính quyền cơ sở cũ xây dựng chính quyền cách mạng. Nhờ đó, phong trào cách mạng những nơi Đội đi qua đều phát triển mạnh. Việc thành lập chính quyền cơ sở, tổ chức thêm các tiểu đội, trung đội tự vệ củng tương đối thuận lợi.


Ngày 28-3-1945, trên đường hành quân, khi còn cách Chợ Đồn khoảng 20 km, trung đội gặp tên quan châu Chợ Đồn dẫn cả vợ con đi về quê ở Cao Bằng. Tên này trình bày về tình hình Chợ Đồn sau ngày Nhật đảo chính Pháp: các quan thầy Pháp bỏ chạy, người của Nhật chưa nắm được gì, các nhân viên chính quyền cũ lo sợ bỏ chạy cả. Tiền bạc không còn nhưng trong kho vẫn còn vài chục tấn thóc. Nghe xong tin này, đồng chí Hoàng Văn Thái lập tức lệnh cho toàn đơn vị tiến nhanh để kịp thời nắm chính quyền ở Chợ Đồn. Dù lúc này anh em trong đơn vị cũng đã mệt vì hành quân suốt mấy ngày đêm liền, nhưng vẫn động viên nhau đi thật nhanh bởi nếu chậm thì bọn tay chân của Pháp kịp gượng dậy, hoặc bọn tay sai Nhật sẽ kéo đến lập chính quyền của chúng. Xế chiều hôm đó, đơn vị đến xã Phương Viên, tối bản Nà Mòn. Tự vệ địa phương báo cáo có tên quản Tông dẫn một đại đội khố xanh chạy đến Bản Cải (cách nơi đóng quân đơn vị khoảng 1 km). Nắm được tư tưởng quân địch lúc này đang hoang mang, đồng chí Hoàng Văn Thái phân công một số đồng chí đi vận động nhân dân và thuyết phục bọn lính nộp súng cho cách mạng.


Ngày 29-3-1945, đồng chí Hoàng Văn Thái và ba người nữa đến gặp quản Tông, nói rõ là người của quân đội Việt Minh, yêu cầu chúng nộp vũ khí, còn binh lính ai muốn có thể theo cách mạng, hoặc có thể về quê. Ban đầu quản Tông không chịu, đòi ta phải đấu súng, nếu y thua thì mới chịu nộp vũ khí. Ta đấu tranh kiên quyết, thuyết phục y bằng việc phân tích tình hình quốc tế, tình hình phong trào cách mạng nước ta, tội ác của Nhật, Pháp, sự thống khố của nhân dân, binh lính... Bên cạnh đó, ta huy động quần chúng nhân dân kéo đến rất đông để gây áp lực. Trước tình thế đó, quản Tông buộc phải tập hợp quân lính và giao nộp súng cho cách mạng. Đồng chí Hoàng Vàn Thái giải thích chính sách của Việt Minh, cấp giấy và tiền đi đường cho binh lính về quê. Như vậy, không tốn một viên đạn, ta đã chiếm được châu lỵ Chợ Đồn, giải giáp 1 trung đội lính khố xanh, thu hơn 100 súng các loại. Thắng lợi này đã làm thay đổi tình thế cách mạng ở xã Phương Viên và khu vực xung quanh Chợ Đồn. Nhân dân quanh vùng nghe tin đã mang nhiều quà bánh, lương thực đến ủng hộ và chúc mừng bộ đội cách mạng.


Sau đó chỉ huy trung đội gặp đồng chí Nông Văn Quang là cán bộ Nam tiến xâv dựng cơ sở ở địa phương này, bàn việc lập danh sách cán bộ ủy ban cách mạng lâm thời huyện. Đa số các đồng chí có tên trong danh sách là những cán bộ nòng cốt trong phong trào địa phương, có cả những thân hào, thân sỹ có cảm tình với cách mạng gồm: Triệu Du Nhuận, Lý Ngọc Tuấn, Đồng Văn Đặng, Nguyễn Văn My và ông Nôi - giáo viên.


Sáng ngày 30-3-1945, đơn vị cùng với cán bộ địa phương tổ chức một cuộc mít tinh lớn ra mắt chính quyền cách mạng. Trước đông đảo nhân dân, đồng chí Hoàng Văn Thái trình bày về tình hình quốc tế đang biến chuyển thuận lợi, sự phát triển của phong trào cách mạng trong nước, ở nhiều nơi nhân dân đã vùng lên khỏi nghĩa... Đồng chí đi sâu giải thích chính sách 10 điểm của Mặt trận Việt Minh và cuối cùng bắt nhịp cho bộ đội và nhân dân cùng hát bài Phất cờ Nam tiến... Sau đó, Ủy ban cách mạng lâm thời châu chuyển về xã Bằng Lũy. Số anh em tự vệ và thanh niên xin gia nhập bộ đội rất đông. Với số súng vừa thu được của địch, ta phát triển thêm hai đại đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân mới. Bên cạnh đó, chỉ huy trung đội mở các lớp huấn luyện chính trị cấp tốc cho bộ đội và Ủy ban châu. Kết thúc lớp học, lực lượng này phân tán thành từng tổ xuống các xã tiến hành xoá bỏ chính quyền cũ, lập chính quyền cách mạng. Ban chỉ huy trung đội cử một bộ phận đến chiếm đồn lính khố xanh ở Bản Thi và một bộ phận khác xuống chiếm đồn tổng quận.


Sau khi giải phóng Ngân Sơn, đơn vị Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân do đồng chí Võ Nguyên Giáp và đồng chí Hoàng Sâm chỉ huy tiếp tục hướng về Chợ Rã. Tại đây, sau ngày Nhật đảo chính Pháp, hàng trăm tên lính do phó giám binh Bắc Kạn chỉ huy kéo tới cướp bóc, phá phách nhân dân. Ngày 19-3-1945, nhân dân và tự vệ khu Thiện Thuật đã chặn đánh một toán lính Pháp đi cướp bóc ở Pồ Mò (xã Bằng Thành), buộc chúng đầu hàng và giao nộp nhiểu vũ khí cho cách mạng. Sau đó, ta thừa thắng tiến công đồn Pắc Nặm, xoá bỏ chính quyển địch ở các xã phía bắc châu Chợ Rã. Ngày 21-3-1945, đơn vị Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy từ Cốc Đán đã về đến Chợ Rã.


Tiêu đề: Re: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 06 Tháng Hai, 2015, 07:54:23 pm
Lúc này, tại Chợ Rã, một đơn vị Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân do đồng chí Mai Trung Lâm chỉ huy cũng đã tiến tới nơi. Đơn vị này nhận lệnh của đồng chí Võ Nguyên Giáp tiến quân từ rừng Trần Hưng Đạo, tiến qua Nà Bưa, Vằng Phai, thuộc châu Ngân Sơn, đi theo đường núi hướng về châu lỵ Chợ Rã. Ngày 21-3-1945, trên đường qua xã Hà Hiệu, anh em phát hiện thấy một toán lính khố xanh, khố đỏ súng ống, ba lô đầy đủ, nhưng mặt mũi bơ phờ hốc hác, dáng đi uể oải, cả đơn vị tản ra, một đồng chí hô buộc chúng đứng lại, giơ tay đầu hàng. Đám lính địch cũng tản ra hai bên, nhường đường cho một tên người Pháp, hai tay giơ quá đầu, đi về phía ta. Y tự giới thiệu là Rasađiô, chủ mỏ Đầm Hồng - Bản Thi, được giám binh Bắc Kạn là đại úy Đờpôngtích phái đi gặp đồng chí Văn có việc khẩn cấp  (Thời kỳ này các thư từ của Đội gửi đi đều do đồng chí Võ Nguyên Giáp ký tên là Văn). Còn tên giám binh Bắc Kạn, đưa quân lính rút về đồn Ba Bể.


Đến lúc này, các đồng chí trong đơn vị mới biết là Nhật đã đảo chính Pháp nên binh lính Pháp mới ủ rũ như đám tàn quân như thế. Đồng chí Mai Trung Lâm hướng về phía binh lính kêu gọi họ đi theo cách mạng, đánh đuổi phát xít Nhật, giành độc lập cho Tổ quốc. Tiếp đó, cả tiểu đội đưa tên Pháp và binh lính địch tới gặp đồng chí Võ Nguyên Giáp.


Đồng chí Mai Trung Lâm, được đồng chí Võ Nguyên Giáp giao nhiệm vụ cùng với đồng chí Bế Văn Sắt, mang bức thư của tên Rasađiô lên gặp giám binh Đờpôngtích ở Ba Bể. Đi theo hai người còn có 4 lính khố xanh vừa để bảo vệ, vừa dẫn đường. Hai đồng chí vào Chợ Rã gặp tên tri châu Chợ Rã là Đồng Phúc Quận yêu cầu y giúp cho mấy con ngựa để đi được nhanh gặp giám binh Bắc Kạn. Khi nghe giới thiệu là đại diện của Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân và của Việt Minh, viên tri châu vội đáp ứng ngay các yêu cầu của ta. Đồng chí Mai Trung Lâm nói khái quát tình hình trong nước và quốc tế, về sự phát triển của cách mạng sau khi Nhật đảo chính Pháp, nghĩa vụ của mỗi người Việt Nam đối với đất nước lúc này, rồi giao cho Đồng Phúc Quận tạm thời quản lý châu Chợ Rã, đợi đến khi gặp Đờpôngtích xong, trở về sẽ có lệnh sau. Viên tri châu được giao nhiệm vụ một cách bất ngờ nên rất cảm động.


Ngày hôm sau, đồng chí Mai Trung Lâm và đồng chí Bế Văn Sắt cưỡi ngựa cùng bốn lính khố xanh đi về Ba Bê gặp Đờpôngtích. Trên đường đi, các đồng chí gặp toán lính khố đỏ, do một lính Pháp mang quân hàm thượng sĩ chỉ huy. Sau khi biết mục đích chuyến đi, tên chỉ huy lệnh cho cấp dưới dẫn các đồng chí ta đến hồ Ba Bể. Tới gần hồ, tên thượng sĩ Pháp gọi người đưa thuyền ra đón. Thuyền cập bờ, các đồng chí Mai Trung Lâm và Bế Văn Sắt nhanh chóng lên bờ, tiến về phía đồn. Trên đường, các đồng chí gặp một toán vừa người Pháp vừa người Việt đi tới, dẫn đầu là một sĩ quan Pháp mang quân hàm đại úy. Đó chính là Đờpôngtích. Đồng chí Mai Trung Lâm giới thiệu là đại diện của Mặt trận Việt Minh được cử đến để bàn chuyện hợp tác đánh Nhật... Sau khi hỏi một số vấn đề liên quan đến sự bố trí quân đội Việt Minh chống Nhật, trang bị vũ khí của ta, Đờpôngtích nhận lời và hẹn tới gặp chỉ huy Đội để bàn tiếp chuyện hợp tác. Ngày 23-3-1945, Đờpôngtích đến gặp đồng chí Võ Nguyên Giáp xin giao lại toàn bộ vũ khí cùng 4 trung đội lính.


Sau đó, Ban chỉ huy đội gửi thư cho tri châu Chợ Rã - Đồng Phúc Quận, một tên nổi tiếng gian ác trong vùng, tới bàn công việc. Trước đó, đồng chí Mai Trung Lâm thuyết phục, tên này đã đồng ý đi theo cách mạng và được giao quản lý châu Chợ Rã tới ngày Ban chỉ huy Đội tới nơi. Tuy nhiên, lúc này, khi nhận được thư, y chẳng những không hợp tác với cách mạng mà còn chạy đi Bắc Kạn theo Nhật. Lập tức, bộ đội cùng nhân dân đuôi theo vây bắt và theo yêu cầu của nhân dân, ta đã xử bắn tên này.


Tới đây, số sỹ quan và binh lính Pháp đầu hàng gặp chỉ huy Đội nhờ giúp đỡ đưa họ cùng vợ con sang Trung Quốc. Ban chỉ huy tiếp nhận đề đạt của họ. Đồng chí Hoàng Sâm cử đồng chí Nông Văn Bê đưa họ tới biên giới Việt - Trung. Tuy nhiên, do không được báo trước trên đường đi, cả toán lính này và đồng chí Nông Văn Bê lại bị tự vệ châu Chợ Rã phục kích bắn chết ở phía bắc huyện Ba Bê. Nguyên do là lực lượng tự vệ ở đây thấy có một đoàn lính và sỹ quan Pháp chạy về hướng Trung Quốc, tưởng là lính Pháp rút chạy nên đã nổ súng. Đồng chí Nông Văn Bê chỉ làm nhiệm vụ dẫn đường nhưng cùng đi trong đoàn, nên đã hy sinh.


Sau khi tổ chức cho binh lính, sỹ quan Pháp đi về biên giới, đồng chí Mai Trung Lâm và đồng chí Thanh Phong ở lại làm công tác tư tưởng cho số binh lính người Việt, thu xếp giải quyết theo nguyện vọng của từng người. Ai muốn theo Việt Minh thì ghi tên và làm lễ tuyên thệ. Ai muốn về quê thì được cấp giấy đi đường và tiền lộ phí. Sau đó, các đồng chí tập trung lực lượng phát triển phong trào quần chúng, tổ chức các hội cứu quốc của Mặt trận Việt Minh từ xã đến tổng, châu.


Cùng ngày 23-3-1945, toàn Đội tiến vào giải phóng Chợ Rã giữa rừng cờ sao vàng của nhân dân và các hội Cứu quốc địa phương. Nhân dân ùa ra đưòng chào đón, nhà nào cũng chuẩn bị cơm nước phục vụ bộ đội cách mạng. Tại đây, Đội tước vũ khí của lính dõng, tổ chức lực lượng vũ trang châu, tuyển mộ thêm thanh niên để phát triển Đội, vừa tạo nguồn cán bộ cho địa phương về sau. Chính quyền địch tan rã, Ban Việt Minh châu đảm nhiệm điều hành các công việc hành chính hàng ngày. Sau khi tổ chức mít tinh phổ biến, tuyên truvền chính sách, mở lớp đào tạo cán bộ và lực lượng vũ trang châu. Ban chỉ huy Đội cử đồng chí Mai Trung Lâm ở lại phụ trách địa phương rồi tiếp tục tiến xuống phía Nam1 (Đồng chí Mai Trung Lâm ở lại phụ trách châu Chợ Rã cho đến tháng 6-1945 thì được lệnh về Trường quân chính kháng Nhật ở Tân Trào nhận nhiệm vụ mới). Ngày 27-3, đơn vị do đồng chí Võ Nguyên Giáp và đồng chí Hoàng Sâm chỉ huy từ Chợ Rã xuất phát tiến về phía Nam.


Được phân công ở lại, đồng chí Mai Trung Lâm bàn với đồng chí Thanh Phong cử một bộ phận ở lại châu lỵ thường trực chỉ đạo công việc hàng ngày, đồng thời tổ chức một số nhóm đi làm công tác quần chúng ở các nơi trên địa bàn châu. Danh nghĩa là một tiểu đội nhưng số người trong đơn vị đã lên tới hơn 50 người. Vì vậy, đồng chí Mai Trung Lâm chia thành nhiều tổ, cử đến hoạt động ở những vùng dân tộc ít người thuộc khu vực Phủ Thông - nơi ta đã có cơ sở quần chúng từ sớm, rồi từ đó phát triển sang các vùng khác. Do bị cai trị lâu ngày, lại bị thực dân Pháp xuyên tạc, lừa bịp, nên lúc đầu thấy bộ đội Việt Minh, nhân dân sợ hãi bỏ chạy hoặc xa lánh. Nhưng dần dần, qua cách cư xử, nếp sống của bộ đội, họ hiểu và nhận ra bộ đội cách mạng khác với các đám lính khố xanh, khố đỏ trước kia. "Bộ đội Việt Minh kỷ luật rất nghiêm, kính già yêu trẻ, tôn trọng phụ nữ, không tơ hào cái kim sợi chỉ của dân, đi rừng lấy củi giúp dân, giúp dân làm vệ sinh thôn xóm"1 (Mai Trung Lâm - Tiến quân vào Chợ Rã, trong sách Việt Nam giải phóng quân - nhớ lại bước khởi đầu, Sđd. tr.194). Được sự tuyên truyền giác ngộ của bộ đội và cán bộ, nhân dán hiểu rõ hơn và nhiệt tình ủng hộ cách mạng, ủng hộ bộ đội. Các đơn vị vũ trang ta tiến hành trừng trị Việt gian phản động có nhiều nợ máu với nhân dân, khoan hồng với những người cải tà quy chính, nên lòng dân, từ già đến trẻ, từ những người dân bình thường đến những gia đình có con em trước đây làm tay sai cho giặc, đều phấn khởi và tin tưởng vào cách mạng.


Mấy ngày sau, đang đi cùng toàn Đội về phía Nam, xuống Ba Bể, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã nảy ra ý nghĩ phải thành lập chính quyền cách mạng tại Chợ Rã và quay trở lại đây, triệu tập cán bộ bàn việc thành lập chính quyền cách mạng địa phương. Ngày 30-3-1945, một cuộc mít tinh được tổ chức, tại thị trấn Chợ Rã, ủy ban nhân dân lâm thời cách mạng cấp huyện đầu tiên ra mắt nhân dân, tuyên bố xoá bỏ chính quyền cũ, bỏ các thứ thuế, thực hiện 10 chính sách của Việt Minh. Sau đó, ủy ban thảo luận với cán bộ địa phương kế hoạch hoạt động và xây dựng các hội cứu quốc, đội tự vệ. Cùng thời gian đó, đồng chí Võ Nguyên Giáp gửi thư cho đồng chí Bế Sơn Cương, lúc đó đang ở Hoàng Phài, nêu ý kiến nên thành lập ngay chính quyền cách mạng để điều hành các công việc sau khi xoá bỏ chính quyến cũ.


Tiêu đề: Re: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 06 Tháng Hai, 2015, 07:55:58 pm
Lúc này, sau đảo chính Nhật - Pháp, tình hình có nhiều thuận lợi cho phong trào cách mạng phát triển. Trung ương Đảng đã có chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Các địa phương, các đơn vị vũ trang ta hoạt động rất tích cực. Ở Cao - Bắc - Lạng, Liên tỉnh ủy ra nghị quyết nêu rõ nhiệm vụ: đánh đổ chế độ thống trị Pháp từ cơ sở, lập chính quyền nhân dân từ xã lên châu, phủ; phân phôi cán bộ của Đảng về cùng các đội vũ trang địa phương tổ chức những đơn vị Giải phóng quân mới, chuẩn bị trực tiếp đánh Nhật; kêu gọi binh lính Pháp hợp tác đánh Nhật. Các đơn vị Giải phóng quân được lệnh phát triển đi nhiều hướng khác nhau:

- Đồng chí Lê Thiết Hùng chỉ huy một đơn vị sang chiến đấu tại phía Bảo Lạc. Tới nơi, đơn vị cử người tới gặp và kêu gọi tàn binh người Việt trong quân đội Pháp quay lại gia nhập hàng ngũ cách mạng. Thực hiện xong nhiệm vụ trên, đơn vị được chỉ định tiếp tục tiến xuống Thất Khê, Bình Giã (Lạng Sơn), phối hợp với những đơn vị của các đồng chí Đàm Minh Viễn, Hoàng Minh Thảo đẩy mạnh mọi hoạt động chuẩn bị khởi nghĩa. Trên đường tiến quân từ Bảo Lạc về Thất Khê, đơn vị đã tước được hàng trăm súng (trong đó có cả súng cối, súng máy...) và rất nhiều lừa, ngựa của các đoàn quân Pháp đang nối tiếp nhau chạy qua biên giới. Có những bộ phận quân Pháp ngoan cố chống lại đã bị đơn vị đánh bại và tước toàn bộ vũ khí như ở Trà Lĩnh, Mã Phục (Cao Bằng). Ngày 20-4-1945, trên đường tiến quân, đơn vị này đã gặp một đơn vị Cứu quốc quân, cả hai đã cùng phối hợp đánh chiếm Văn Mịch, và tới ngày 1-5-1945, tiếp tục tiến đánh giải phóng Bằng Mạc (Lạng Sơn).

- Tại miền biên giới Cao Bằng, đồng chí Lê Quảng Ba đã chỉ huy một đơn vị hạ đồn Sóc Giang, thu toàn bộ vũ khí đạn dược của địch. Sau khi giao nhiệm vụ chiến đấu giải phóng khu vực biên giới lại cho đồng chí Bằng Giang phụ trách, đơn vị này tiếp tục tiến sang Bắc Quang (Hà Giang).

- Một đội Việt Xam tuyên truyền Giải phóng quân nữa do Bảo Ngọc chỉ huy từ Chợ Rã qua đường Chợ Xá tiến về Đầm Hồng, Đại Thí, Chiêm Hoá hợp với lực lượng Cứu quốc quân ở đây cùng tiến sang giải phóng Yên Bình (Yên Bái).

- Các đơn vị vũ trang Cao Bằng, dưới sự lãnh đạo của Liên tỉnh ủy, đã hạ một loạt đồn trại, thu súng của lính dõng, tước vũ khí của các đoàn quân Pháp vượt qua biên giới Việt - Trung từ Trùng Khánh đến Bảo Lạc. Những sỹ quan Pháp không đáp lời kêu gọi hợp tác đánh Nhật, quay súng bắn vào các đơn vị của ta, đều bị lực lượng vũ trang ta tiêu diệt hoặc buộc phải nộp vũ khí. Ta thu được nhiều súng, trong đó có cả súng máy, súng cối và đại bác.


Không đầy một tháng sau ngày 9-3, các châu Hoà An, Nguyên Bình, Hà Quảng, Thạch An và một phần các châu Bảo Lạc, Quảng Uyên, Trùng Khánh... chính quyền đã về tay nhân dân. Các ban Việt Minh xã, tổng ra hoạt động công khai; mọi thứ thuế đều được bãi bỏ. Những vũ khí đoạt của địch được trang bị cho đội vũ trang các châu, phát triển thêm lực lượng các đội này. Lúc này, Cao Bằng đã thành lập được hơn 10 đại đội Giải phóng quân. Đồng chí Vũ Anh (Trịnh Đông Hải) cùng một đơn vị tiến xuống Bắc Sơn, Đình Cả, còn các đơn vị mới thành lập được lệnh di chuyển về phía Nam đợi lệnh.

- Thái Nguyên, Tuyên Quang, Bắc Giang, Vĩnh Yên, lực lượng Cứu quốc quân 1, 2, 3 được đoàn thể điều động tăng cường một số cán bộ của Xứ ủy và số cán bộ vượt ngục ra, duy trì, đẩy mạnh công tác vũ trang tuyên truyền. Các đơn vị này đã xây dựng cơ sở cách mạng ở nhiều bản làng, lập mới nhiều đơn vị tự vệ, du kích và nhất là đã tiến hành các trận đánh trừ gian, phục kích các đồn lính bảo an và lính Nhật ở một số nơi. Sau đảo chính Nhật - Pháp, các đơn vị Cứu quốc, quân đẩy mạnh hoạt động, chặn đánh quân Pháp ở Đèo Khế, tước khí giới mà quân Đồng Minh thả dù tiếp tế cho quân Pháp, bao vây hạ một loạt đồn: La Hiên. Chợ Chu, Chiêm Hoá, Đại Từ... Đảng bộ Thái Nguyên và Ủy ban quân chính Thái Nguyên đã lãnh đạo nhân dân các xã giành chính quyền bộ phận. Tới cuối tháng 3-1945, chính quyền ở nhiều xã trong tỉnh đã về tay nhân dân.


Giữa tháng 4-1945, Ban chỉ huy Đội lệnh cho đồng chí Đàm Quang Trung chỉ huy một đơn vị xuống hoạt động trong vùng Phủ Thông, thuộc huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn. Nhiệm vụ đề ra cho đơn vị là phải lấy cho được đồn Phủ Thông và phá kho thóc của Nhật chia cho nhân dân đang bị đói. Mặt khác, đơn vị phải tìm cách gây uy thế cho cách mạng, phát triển căn cứ địa, tiêu hao lực lượng địch, tranh thủ tuyển thêm người và vũ khí. Qua điều tra, Ban chỉ huy Đội được biết, đồn do lính khố xanh canh giữ. Chỉ huy đồn là Hoàng Văn Ngọ (cai Ngọ). Là chỉ huy, nhưng cai Ngọ là người hiểu biết, hiền lành không ức hiếp ai và có thể thu phục được. Trong đồn có nhiểu binh lính tỏ ra chán nản cảnh làm tay sai cho Pháp, Nhật và muốn bỏ ngũ. Sau khi ta tiến hành tuyên truyền vận động, đã có 6 tên bỏ về quê. Trước khi chuẩn bị đánh đồn, đơn vị cử người báo cho cai Ngọ biết ý đồ đoạt đồn, tước vũ khí và lôi kéo số lính trong đồn theo Việt Minh. Tuy nhiên, sau đó mấy ngày, cai Ngọ vẫn không có động tĩnh gì phúc đáp. Đơn vị lại cho người đến hẹn để bọn lính mở cổng đồn. Ngày 17-4-1945, đồng chí Đàm Quang Trung dẫn trung đội tiến vào. Cai Ngọ mở cổng đồn, cho lính ra ngoài hàng rào đứng xếp hàng, cầm súng ngay ngắn tiếp đón. Đợi chỉ huy đơn vị ta đến nơi, cai Ngọ đứng trước hàng quân hô chào rồi bước lên báo cáo, xin đi theo quân đội cách mạng, theo Việt Minh đánh Nhật, cứu nước. Đồng chí Đàm Quang Trung phát biểu, hoan nghênh những người tình nguyện bỏ hàng ngù địch theo về với cách mạng, còn những người có hoàn cảnh không đi theo thì cho về quê. Đồng chí Đàm Quang Trung giao cho cai Ngọ làm Tiểu đội trưởng (đổi tên đơn vị này thành Tiểu đội Phủ Thông) và đóng lại ngay tại đồn, đổi tên cho cai Ngọ thành Hoàng Triệu Minh. Cai Ngọ dẫn chỉ huy đơn vị vào kho lấy thóc gạo phát cho dân và lấy súng1 (Đàm Quang Trung - Đánh Nhật và tay sai, bảo vệ chiến khu, trong sách Việt Nam giải phóng quân - Nhớ lại bước khởi đầu, Sđd, tr.254-257).


Cuối tháng 4 đầu tháng 5-1945, đơn vị Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy, về đến Chợ Chu đã gặp đơn vị Cứu quốc quân do Chu Văn Tấn chỉ huy. Hai bên thông báo cho nhau tình hình phong trào cách mạng ở những nơi đi qua. Chỉ huy Cứu quốc quân cho biết, phong trào tại Tuyên - Thái phát triển mạnh và đã bắt được liên lạc với Trung ương ở miền xuôi. Hai đơn vị cùng đóng quân tại khu vực Chợ Chu. Sau cuộc liên hoan mừng hội ngộ, các chiến sỹ Cứu quốc quân và Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân chia nhau đi làm công tác dân vận.
Đến cuối tháng 4-1945, ở một số địa phương, các đơn vị Cứu quốc quân và Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân khác cũng lần lượt gặp nhau tại: Đại Từ (Thái Nguyên), Chợ Đồn (Bắc Kạn); Đầm Hồng, Bản Thi, Chiêm Hoá, Sơn Dương (Tuyên Quang), Văn Mịch (Lạng Sơn). Ngày 10-4-1945, trung đôi Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, do đồng chí Trần Kiên làm Trung đội trưởng và các đồng chí Trần Hổ, Liên chỉ huy tiến xuống giải phóng Đài Thị (Tuyên Quang), gặp trung đội Cứu quốc quân, do đồng chí Lê Thuỳ chỉ huy, tại thị trấn Chiêm Hoá. Hai đơn vị này phối hợp cùng tiến xuống giải phóng Bạch Xa, Hàm Yên.


Ngày 15-4-1945, đơn vị Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân do đồng chí Lê Quảng Ba (Tâm) và các đồng chí Nam Long, Lĩnh Thành từ Chợ Rã (Bắc Kạn) phát triển qua Côn Lôn, Bành Hoành, Vô Điền, gặp cánh quân từ Chiêm Hoá tiến xuống.


Đi đến đâu, các cán bộ, chiến sỹ trong Đội cũng tuyên truyền đường lối chính sách Việt Minh, gây dựng cơ sở chính trị và lực lương vũ trang địa phương. Các đơn vị đã cùng Liên tỉnh ủy lên kế hoạch vừa tuyên truyền, mở rộng cơ sở, vừa đánh địch. Đội dựa vào cán bộ địa phương để tuyển chọn những thanh niên trung kiên, hăng hái, huấn luyện cấp tốc rồi giao công tác hoặc cho vào Đội một thời gian để rèn luyện có thêm kinh nghiệm sau đó cử về địa phương khi cần thiết. Để việc tổ chức cơ sở được bảo đảm, Đội tiến hành trừ gian theo nguyên tắc kiên quyết và thận trọng. Đội chỉ tiêu diệt những tên Việt gian đầu sỏ, có nhiều nợ máu với dân, hoặc tay chân đắc lực của địch, khi không thể cảm hoá được và khi nhân dân yêu cầu. Khi tiến hành công tác vũ trang tuyên truyền, nếu gặp địch, Đội cân nhắc kỹ nếu thấy có lợi cả về quân sự và chính trị, tức là vừa diệt được địch vừa làm cho cơ sở quần chúng vững chắc hơn, mở rộng hơn thì mới đánh. Nếu chỉ lợi về quân sự mà gây khó khăn cho cơ sở thì kiên quyết không đánh, ở những vùng địch kiểm soát hoặc ta chưa có cơ sở, Đội cử các tiểu đội, trung đội hoặc từng đồng chí có năng lực, dũng cảm, giỏi ứng phó, xâm nhập gây cơ sở, từ đó nâng dần quy mô hoạt động lên.


Tiến đến đâu, các đơn vị của Đội đều phối hợp với các hội cứu quốc, Mặt trận Việt Minh địa phương tước vũ khí lính dõng, thu bằng, triện của bọn tổng, lý, trừng trị Việt gian tay sai phản động, thành lập chính quyền nhân dân. Hoạt động tích cực, rộng khắp của Đội Việt Nam tuvên truyền Giải phóng quân đã thu được những kết quả đáng kể. "Bằng công tác vũ trang tuyên truyền, Đội đã tạo nên một khu vực có cơ sở cách mạng rộng lớn từ núi rừng Hoà An giáp tỉnh lỵ Cao Bằng cho đến các châu Nguyên Bình, Ngân Sơn, Chợ Rã và vùng phụ cận các triển núi Phia Uắc, Phia Giả, Phia Bioóc; khu vực này trở thành những căn cứ hoàn toàn, tiến có thể lui, đánh có thể giữ, làm bàn đạp phát triển phong trào về phía Nam"1 (Ban nghiên cứu lịch sử quân đội thuộc Tổng cục Chính trị và Viện Lịch sử quân sự Việt Nam - Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, tập 1, Sđd, tr.90).


Tiêu đề: Re: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 06 Tháng Hai, 2015, 07:57:10 pm
Trước những chuyển biến nhanh chóng của tình hình quốc tế và trong nước, sự phát triển của phong trào cách mạng, sự lớn mạnh của các đơn vị vũ trang sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), nhận định thời cơ Tổng khởi nghĩa đang tới gần, Trung ương Đảng đã triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ tại Hiệp Hoà (Bắc Giang). Tham dự hội nghị có chỉ huy các đội vũ trang và các chiến khu như đồng chí Võ Nguyên Giáp - đại diện của Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, Chu Văn Tấn - đại diện Cứu quốc quân; Văn Tiến Dũng - đại biểu của chiến khu Hoà-Ninh-Thanh (Hoà Bình, Ninh Bình, Thanh Hoá), đại biểu của chiến khu Vĩnh Bình, các chiến khu ở Bắc Trung Bộ, cùng các đồng chí Lê Thanh Nghị, Trần Đăng Ninh... Trong những ngày hội nghị (từ ngày 15 đến 20-4-]945). dưới sự chủ trì của đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh, các đại biểu đã thảo luận và quyết định nhiều vấn đề quân sự liên quan đến cả nước. Sau khi phân tích tình hình thế giới và trong nước, Hội nghị nhấn mạnh: "Tình hình đã đặt nhiệm vụ quân sự lên trên tất cả các nhiệm vụ quan trọng và cần kíp trong lúc này. Chúng ta phải tích cực phát triển chiến tranh du kích, xây dựng căn cứ địa kháng Nhật để chuẩn bị cuộc Tổng khởi nghĩa cho kịp thời cơ” .


Về chính trị. Hội nghị đề ra nhiệm vụ đoàn kết toàn dân, lôi kéo tất cả các thành phần, tầng lớp vào phong trào cứu quốc, đẩy mạnh phong trào bằng cách kêu gọi nhân dân vũ trang tuần hành trong những vùng chưa phát động chiến tranh du kích. Hội nghị đề nghị triệu tập một đại hội đại biểu gồm tất cả các giới, đảng phái trong toàn quốc để thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng, tiến tới thành lập Chính phủ lâm thời.


Về quân sự. Hội nghị quyết định chia toàn quốc ra thành 7 chiến khu, đề ra nhiệm vụ xây dựng Việt Bắc thành căn cứ địa chống Nhật kiểu mẫu để mở rộng chiến tranh du kích: sáp nhập một số tỉnh trung du và căn cứ địa Việt Bắc để làm vùng hoạt động du kích, bảo vệ căn cứ. Đặc biệt, Hội nghị quyết định thống nhất Cứu quốc quân, Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân và các tổ chức vũ trang cách mạng khác thành một lực lượng vũ trang thống nhât có tên là Việt Nam Giải phóng quân, để cùng nhân dân tiến hành khởi nghĩa từng phần, tiến tới Tổng khởi nghĩa. Hội nghị cũng vạch ra những điểm cơ bản để xây dựng Việt Nam Giải phóng quân như: thống nhất biên chế, thống nhất việc huấn luyện chính trị, quân sự; tổ chức công tác chính trị trong bộ đội, trau dồi kỷ luật...


Trong hai ngày 3 và 4-5-1945, tại nhà một cơ sở cách mạng ở xã Định Biên Thượng, huyện Định Hoá, đã diễn ra hội nghị cán bộ vùng giải phóng do đồng chí Võ Nguyên Giáp chủ trì. Dự hội nghị còn có các đồng chí: Song Hào, Chu Văn Tấn, Hoàng Văn Thái, Đàm Quang Trung, Trần Thế Môn, Hoàng Bá Sơn và một số đồng chí khác. Hội nghị tuyên bố việc sáp nhập Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân với Cứu quốc quân theo Nghị quyết của Hội nghị quân sự Bắc Kỳ. Hội nghị bàn và quyết định về tổ chức biên chế, công tác chính trị trong Việt Nam Giải phóng quân. Ngoài ra, hội nghị cũng thảo luận các vấn đề quan trọng khác như: mở rộng vùng giải phóng, củng cố và mở rộng Khu Nguyễn Huệ... Các đồng chí Hoàng Sâm, Hoàng Văn Thái, Nhị Quý, Lê Trung Đình được bầu vào Khu ủy Khu Nguyễn Huệ, do đồng chí Song Hào làm Bí thư Khu ủy1 (Song Hào - Taan Trào (hồi ký). Nxb Văn hóa - thông tin và Trung tâm UNESSCO Tân Trào xuất bản, Hà Nội, 1997, tr.80).


Chấp hành nghị quyết của Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, ngày 15-5-1945, lễ thống nhất Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân và Cứu quốc quân thành Việt Nam Giải phóng quân được tổ chức tại bãi Thàn Mát, gần cây đa đình làng Quặng, xã Định Biên Thượng, huyện Định Hoá, tỉnh Thái Nguyên. Có mặt tại lễ thông nhất gồm lực lượng của Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân từ Cao Bằng tiến xuống, lực lượng Cứu quốc quân do Chu Văn Tấn phụ trách từ Bắc Sơn - Võ Nhai, Đại Từ lên và lực lượng Cứu quốc 3, do các đồng chí Song Hào. Tạ Xuân Thu phụ trách, từ Tuyên Quang sang. Các lực lượng Việt Nam Giải phóng quân được biên chế thành 13 đại đội. Đồng chí Võ Nguyên Giáp làm Tư lệnh, Chu Văn Tấn làm Chính trị viên. Các đơn vị Việt Nam Ciiải phóng quân được tổ chức thống nhất, mỗi tiểu đội có 12 người, 3 tiểu đội thành 1 trung đội, 3 trung đội thành 1 đại đội. Trang bị vũ khí được tăng cường có cả súng máy, súng cối 60mm, lấy được của Pháp và Nhật. Việt Nam Giải phóng quân là tổ chức có chỉ huy thống nhất, hệ thống tổ chức chặt chẽ, trang bị vũ khí tốt hơn, đã ra đời để cùng với bộ đội địa phương, tự vệ và đông đảo nhân dân chiến đấu bảo vệ vùng giải phóng, bảo vệ chính quyền cách mạng ở những nơi mới thành lập, sẵn sàng tiến lên Tổng khởi nghía giành chính quyền trong cả nước khi thời cơ đến.


Như vậy là, chỉ chưa đầy nửa năm sau ngày thành lập, vừa chiến đấu vừa vũ trang tuyên truyền, Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân đã phát triển lớn mạnh nhanh chóng. Sự ra đời và hoạt động của Đội đánh dấu bước phát triển rất quan trọng của lực lượng vũ trang nhân dân ta trong quá trình hình thành và phát triển từ năm 1930, với các đội tự vệ đỏ đến quân đội nhân dân cách mạng hùng mạnh, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại ngày nay... Đó cũng là cái mốc đánh dấu một bước tiến quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Từ đây, đất nước ta có một đội quân chủ lực thống nhất, có cương lĩnh chính trị, quân sự rõ ràng, chiến đấu dũng cảm, liên hệ mật thiết với nhân dân, đã ra quân là đánh thắng.


Trong chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, ngày 22-12-1944, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã nêu lên những tư tưởng lớn về quân sự. Chỉ thị tuy ngắn nhưng rất súc tích, hàm chứa nhiều vấn đề cơ bản về đường lối quân sự của Đảng: vấn đề kháng chiến toàn dân, vấn đề động viên và vũ trang toàn dân, nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, phương châm xây dựng và hoạt động của các thứ quân (quân chủ lực, quân địa phương và lực lượng tự vệ rộng khắp), phương thức hoạt động kết hợp quân sự với chính trị của lực lượng vũ trang, nguyên tắc chiến thuật, tác chiến, cách đánh của lực lượng vũ trang bí mật, bất ngờ, tích cực, chủ động, mưu trí và linh hoạt. Đây là lần đầu tiên Người chỉ thị thành lập một đội quân chủ lực của đất nước và trực tiếp thông qua 10 lời thề danh dự của đội quân đó. Những điều Người viết trong bản chỉ thị lịch sử ấy đều đã trở thành hiện thực, chứng tỏ tầm nhìn chiến lược và dự đoán thiên tài của Người: "Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân là đội quân đàn anh, mong cho chóng có những đội quân đàn em khác.

Tuy lúc đầu quy mô nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của Giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam chúng ta".


“Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân là văn kiện lịch sử. được coi như cương lĩnh quân sự đầu tiên của Đảng ta. Chỉ thị đánh dấu bước hoàn chỉnh lý luận xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng trong thời kỳ khởi nghĩa ở Việt Nam”1 (Viện Lịch sử quân sự Việt Nam - Lịch sử quân sự Việt Nam, tập 9, Sđd. tr.285). Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân là một chủ trương sáng suốt, một cương lĩnh quân sự của Hồ Chí Minh. Hình thức hoạt động của đội quân chủ lực này đã được Người đúc rút kinh nghiệm từ hoạt động của các đội du kích trước đó, mà trực tiếp nhất là Đội du kích Pác Bó trong những năm 1942-1943. Tác giả người Nhật Singô Sibata, khi nghiên cứu về chủ trương thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, đã đánh giá cao chủ trương sáng suốt đó: "Những nguyên tắc chỉ đạo cho Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân do cụ Hồ Chí Minh và Đảng Lao dộng Việt Nam đề ra trước cách mạng 1945 tiêu biểu cho môt lý luận độc đáo phù hợp với những điều kiện riêng của Việt Nam”1 (Sigô Sibata – Hồ Chí Minh, Nhà tư tưởng trong sách Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, H.1993, tr.93).


Tiêu đề: Re: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 06 Tháng Hai, 2015, 07:59:38 pm
Đánh giá về đội quân chủ lực tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam, ngày 22-12-1947, kỷ niệm năm thứ ba thành lập Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có bài viết kể lại những ngày đầu của Đội. Người viết: "Đội thứ nhất của Giải phóng quân ngày trước là cái hạt giống bé nhỏ, do đó mà nảy nở thành cái rừng to lớn là Vệ Quốc quân ngày nay, nếu người ngoài trông thấy bước đầu của Giải phóng quân thì chắc họ sẽ cho rằng đó là một trò chơi của trẻ con, hay là công việc của mấy người “không tưởng”, chắc họ sẽ mỉa mai rằng:

"Vài chục thằng thanh niên học trò và dân cày, Thổ có, Nùng có, Trại có, Kinh có. Với vài khẩu súng quèn, mươi con dao mã tấu, mà cũng dám gọi là quân, dám gánh vác trách nhiệm giải phóng cho dân tộc".

Nhưng chúng ta đã quyết tâm làm cho kỳ được kế hoạch gây dựng Giải phóng quân, đã giao cho đồng chí Võ Nguyên Giáp thi hành.

Ban đầu lương thực, khí giới, chăn áo, thuốc men, cái gì cũng thiếu thốn. Bộ đội thường phải nhịn đói, nhưng vẫn hăng hái tươi cười.

Chẳng mấy lâu, từ vài chục người đã trưởng thành đến vài trăm người, thanh niên rầm rầm kéo đến xin vào bộ đội. Nhờ đồng bào Việt Bắc hăng hái giúp đỡ mọi mặt, có người bán cả trâu, cả ruộng để giúp, đồng bào các nơi cũng ra sức ủng hộ, bộ đội thì đánh luôn được mấy trận vẻ vang, từ đó, người càng đông, sức càng mạnh... Trông thấy tinh thần hăng hái và kỷ luật nghiêm minh của Giải phóng quân, chẳng những đồng bào cũng yêu mến, mà các người quân nhân ngoại quốc cũng đều phải khen...”1 (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5 (1947-1949), Nxb Chính trị quốc gia, H.2000, tr. 329).


Mười lời thề danh dự mà các đội viên Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân đọc trong buổi lễ thành lập ngày ấy đã trở thành mười lời thề danh dự của quân đội ta về sau1 (Ban nghiên cứu lịch sử quân đội thuộc Tổng cục Chính trị và Viện Lịch sử quân sự Việt Nam - Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, tập 1, Sđd, tr.86). Mười lời thề thể hiện lên lòng trung thành vô hạn đối với Tổ quốc, với Đảng, tinh thần hy sinh chiến đấu đến giọt máu cuối cùng vì sự nghiệp cách mạng, ý chí kiên quyết tiêu diệt quân thù cướp nước, hết lòng hết dạ phục vụ nhân dân. Nó cũng thể hiện tinh thần đoàn kết và ý thức tổ chức kỷ luật rất cao của một đội quân cảch mạng.


Sự ra đời của Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân là một tất yếu lịch sử trong sự nghiệp giải phóng dân tôc của nhân dân ta. Nó đánh dấu một bước ngoặt trên con đường đấu tranh cách mạng của dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển của cách mạng nước ta lúc đó. Cổ, kim, Đông, Tây, mọi quân đội sinh ra đều làm nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ một chế độ, một tập đoàn chính trị, một nhà nước. Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, ngoài chức năng đó, đã đảm đương và làm tốt chức năng mà không phải một đội quân nào cũng có được. Đó là chức năng vận động quần chúng theo phương châm "chính trị trọng hơn quân sự", "tuyên truyền trọng hơn tác chiến”. Tên của Đội và phương châm hoạt động đó không có nghĩa Đội là một đội tuyên truyền xung phong, chỉ giải thích đường lôi chính sách. Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân là một đội quân chủ lực, vừa đánh giặc vừa thường xuyên làm tốt nhiệm vụ vận động cách mạng trong quần chúng. Là một đội quân chủ lực, có quan hệ chặt chẽ với các lực lượng vũ trang địa phương, Đội đã đánh thắng giặc để truyền bá sự nghiệp giải phóng dân tộc, để nhân dân ta hiểu rằng: đã đến lúc cần phải đứng lên đánh đuổi thực dân, đế quốc và có khả năng đánh thắng chúng. Với phương châm hoạt động thích hợp "chính trị trọng hơn quân sự", dùng lực lượng vũ trang để tuyên truyền vận động nhân dân, đội quân chủ lực này đã dìu dắt các đội vũ trang của các châu, huyện, xã; huấn luyện, giúp đỡ vũ khí giúp các đội quân này ra đời và mau chóng phát triển. Mặt khác, Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân đã gắn hoạt động quân sự với chính trị, vũ trang với tuyên truyền, tham gia vận động quần chúng, tổ chức hội Việt Minh ở những nơi Đội đi qua. Ra đời và hoạt động tuy chỉ trong một thời gian ngắn, nhưng Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân đã đảm đương và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình. Những thắng lợi cả về quân sự và chính trị của Đội đã góp phần tích cực vào việc củng cố và mở rộng khu căn cứ Cao - Bắc - Lạng, cổ vũ nhân dân thêm tin tưởng ở con đường khởi nghĩa vũ trang, con đường cách mạng của Đảng. Đội đã góp phần to lớn trong việc thúc đẩy phong trào cách mạng tiến lên. Thực tiễn đã chứng tỏ: những hoạt động và ảnh hưởng của Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân hồi đó, cũng như sự tồn tại và phát triển của quân đội ta sau này, đã đáp ứng đúng và kịp thời những đòi hỏi của lịch sử, những yêu cầu của công cuộc chuẩn bị Tổng khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở nước ta. Mặt khác, việc tổ chức và hoạt động của Đội cũng đã làm phong phú thêm bài học kinh nghiệm về chỉ đạo hình thức đấu tranh cách mạng của Đảng ta.


Sự ra đời và hoạt động của Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân trước ngày Tổng khởi nghĩa tháng 8-1945 là một hiện tượng lịch sử độc đáo: quân đội có trước chính quyền, đã mở đầu những truyền thống tốt đẹp của Quân đội nhân dân Việt Nam sau này. Vừa ra đời, dù chưa được huấn luyện quân sự cùng nhau ngày nào, Đội đã ra quân đánh thắng giòn giã trận Phai Khắt và trận Nà Ngần, mở đầu cho truyền thống "đã ra quân là đánh thắng" và truyền thống đánh thắng trận đầu của quân đội ta. Bên cạnh đó, mổi quan hệ mật thiết, gắn bó với nhân dân mà Đội đã xây dựng trong quá trình hoạt động đã góp phần tạo dựng và phát triển tình cảm quân - dân cá nước về sau. Tiếp nối truyền thống đó, quân đội ta ngày nay đã trở thành đội quân của nhân dân, từ nhân dân mà ra, một quân đội do dân và vì dân, và đã đạt được mục tiêu phấn đấu hằng mong đợi là "đi dân nhớ, ở dân thương".


Tiêu đề: Re: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 12 Tháng Ba, 2015, 09:36:05 pm
Phần II
VÀI NÉT VỀ CUỘC ĐỜI HOẠT ĐỘNG CỦA 34 CÁN BỘ, CHIẾN SĨ
ĐỘI VIỆT NAM TUYÊN TRUYỀN GIẢI PHÓNG QUÂN

Đại tướng VÕ NGUYÊN GIÁP
(Người được lãnh tụ Hồ Chí Minh giao tổ chức thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân)

(http://quansuvn.net/wp-content/uploads/2015/03/Tuong-Giap.jpg)

Một nhà quân sự lỗi lạc, một nhà văn hoá, nhà khoa học uyên thâm; một hình mẫu lý tưởng về đạo đức và nhân cách sống... tất cả là hiện thân của một con người được suy tôn là "Anh Cả" của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, con người đó chính là Đại tướng Võ Nguyên Giáp, hay còn có một tên gọi thân mật là "Anh Văn".


Không ít người nhầm tưởng ông là Đội trưởng Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân. Thực ra, ông là người được lãnh tụ Hồ Chí Minh giao trọng trách tổ chức thành lập và trực tiếp chỉ huy Đội quân chủ lực đầu tiên này.


Đại tướng Võ Nguyên Giáp sinh ngày 25-8-1911 tại làng An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Cha ông là một "nhà giáo - nhà Nho" có uy tín trong vùng. Bên họ ngoại cũng thuộc vào hàng dòng dõi; ông ngoại vốn là một lãnh binh của phong trào cần Vương, theo vua Hàm Nghi dấy binh kháng Pháp.


Được sinh ra và lớn lên trong một gia đình như vậy nên tư chất thông minh đã sớm được hình thành và bộc lộ rõ nét ở con người này. Ngay từ thủa thiếu thời, ông đã được nghe một cách say sưa và nhập tâm những câu chuyện Phạm Công - Cúc Hoa, Thạch Sanh... qua lời kể của người mẹ. Lên 5 tuổi, Võ Nguyên Giáp đã được cha cho học chữ Nho. Được nghe những giai thoại hào hùng về Phong trào Cần Vương được nghiền ngẫm những cuốn sách mang nội dung hướng về cội nguồn dân tộc, trong con người Võ Nguyên Giáp bắt đầu hình thành ý thức dân tộc và lòng yêu nước, yêu quê hương.


Năm 1925, khi vừa bước qua tuổi 14, Võ Nguyên Giáp thi vào Trường Quốc học Huế. Từ đây, ông bắt đầu con đường hoạt động cách mạng của mình bằng việc tham gia tích cực vào phong trào đấu tranh đòi ân xá nhà chí sĩ Phan Bội Châu và truy điệu Phan Chu Trinh.


Trong thời gian ở Huế, Võ Nguyên Giáp đã cùng với một số bạn học khác như Hải Triều, Chí Điểu... tổ chức thành lập câu lạc bộ thơ văn yêu nước; vận động học sinh, sinh viên Huế tham dự các buổi đăng đàn, diễn thuyết của "Ông già bến Ngự". Câu lạc bộ này trở thành nơi trao đổi, tìm hiểu các sách báo bí mật như Le Paria (Người cùng khổ), Việt Nam hồn, Bản án chế độ thực dân Pháp... được gửi từ nước ngoài về. Lần đầu tiên trong đời, Võ Nguyên Giáp được tiếp cận với tác phẩm Chủ nghĩa Mác in bằng tiếng Pháp.


Khát khao được đi xa, được mở rộng tầm hoạt động, năm 1927, Võ Nguyên Giáp rời Huế ra Hà Nội, dạy tại trường tư thục Thăng Long. Tại đây, ông tiếp tục theo đuổi chí hướng và con đường hoạt động cách-mạng của mình. Năm 1929, Võ Nguyên Giáp là một trong nhũng thành viên tích cực tham gia cải tổ Tân Việt cách mạng đảng, thành lập Đông Dương cộng sản liên đoàn. Nhận thấy mối nguy hiểm ở con người này, giữa năm 1930, thực dân Pháp đã bắt ông bỏ tù, nhưng một thời gian sau đó, do không đủ chứng cứ, chúng buộc phải thả.


Vừa ra tù, Võ Nguyên Giáp đã lại lao ngay vào hoạt động. Trong những năm 1936-1939, ông tham gia phong trào Mặt trận dân chủ Đông Dương, làm biên tập viên cho một số tờ báo của Đảng; rồi được làm Chủ tịch ủy ban báo chí Bắc Kỳ trong phong trào "Đông Dương đại hội".


Tháng 9-1939, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Tại Đông Dương, thực dân Pháp tăng cường khủng bố và đàn áp, những sách báo công khai của Đảng đều bị cấm, các tổ chức hoạt động hợp pháp và nửa hợp pháp của Đảng đều phải rút vào bí mật. Trong bối cảnh đó, tháng 4-1940, theo sự phân công của Đảng, thông qua sự hướng dẫn và giới thiệu của đồng chí Hoàng Văn Thụ, Võ Nguyên Giáp cùng với Phạm Văn Đồng vượt biên giới sang Vân Nam tìm bắt liên lạc với Nguyễn Ái Quốc.


Cuộc gặp gõ lịch sử ở công viên Thuý Hồ (Côn Minh) đầu tháng 6-1940 đã tạo ra một bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Võ Nguyên Giáp. Tại đây, lần đầu tiên, ông được gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và được Người trực tiếp huấn thị, chỉ bảo.


Cuối tháng 11-1940, Võ Nguyên Giáp cùng một số đồng chí chuyển đến Tĩnh Tây để chuẩn bị về nước hoạt động. Tại đây, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Phùng Chí Kiên được lãnh tụ Hồ Chí Minh giao mở lớp huấn luyện cho hơn 40 cán bộ nòng cốt vừa mới vượt biên giới sang.


Đầu năm 1941, lãnh tụ Hồ Chí Minh về nước, nhưng Võ Nguyên Giáp vẫn ở lại Tĩnh Tây một thời gian. Cuối năm đó, sau khi về nước, ông được Hồ Chí Minh cử về châu Hoà An mở lớp huấn luyện Việt Minh; rồi tiếp tục được điều về châu Nguyên Bình cũng với nhiệm vụ tương tự.

Sang năm 1942, tại Cao Bằng đã có những châu Việt Minh "hoàn toàn". Thành quả đó có sự đóng góp lớn của Võ Nguyên Giáp.

Sau một thời gian gây dựng, phát triển phong trào ở các xã phía đông Nguyên Bình, Võ Nguyên Giáp cùng với Lê Thiết Hùng lại được điều xuống gây dựng phong trào ở tổng Kim Mã (nam Nguyên Bình) - nơi vừa mới có tổ chức Việt Minh.
Cuối năm 1942, theo chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh và quyết định của Liên tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng, công tác Nam tiến được đặt ra một cách rất khẩn trương. Võ Nguyên Giáp được Người trực tiếp giao phụ trách Ban xung phong Nam tiến nhằm cấp tốc tổ chức con đường quần chúng từ Cao Bằng qua Ngân Sơn, Chợ Rã đi về miền xuôi.


Sau khi đánh thông con đường Nam tiến, Võ Nguyên Giáp lại quay lên Cao Bằng cùng với Lê Thiết Hùng, Lê Quảng Ba, Bằng Giang, Đặng Văn Cáp, Hoàng Sâm... tiếp tục mở các lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ quân sự địa phương.

Giữa năm 1944, phong trào cách mạng đã lan rộng khắp cả nước, các tổ chức Việt Minh ngày càng phát triển, tuy vậy, làn sóng khủng bố trắng của địch cũng-đã lên tới đỉnh điểm. Tháng 7 năm đó, sau khi dự hội nghị cán bộ của Liên tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng, Võ Nguyên Giáp cùng Vũ Anh trở lại Pác Bó, gặp Hồ Chí Minh (lúc này vừa mới trở về từ Trung Quốc). Tại đây, sau khi báo cáo tình hình, Võ Nguyên Giáp đã được Người giao trọng trách "tập hợp những cán bộ, chiến sĩ anh dũng nhất, những vũ khí tốt nhất, tổ chức thành một đội vũ trang tập trung để hoạt động".


Chấp hành chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, ngày 22-12- 1944, tại khu rừng Trần Hưng Đạo, Võ Nguyên Giáp đã đứng ra tổ chức thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân và ngay sau đó, chỉ huy Đội làm nên chiến thắng trận đầu tiêu diệt hai đồn Phai Khắt và Nà Ngần.


Tháng 4-1945, thay mặt cho Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân. Võ Nguyên Giáp về Hiệp Hoà - Bắc Giang tham dự Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ. Hội nghị đã quyết định nhiều vấn đề quan trọng, trong đó có việc thống nhất Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, Cứu quốc quân và các tổ chức vũ trang cách mạng khác vào một tổ chức thống nhất. Ngày 15-5-1945, sau buổi lễ thống nhất tại Định Biên Thượng, Định Hoá, Thái Nguyên, Võ Nguyên Giáp trở thành Tư lệnh các lực lượng vũ trang Việt Nam thống nhất mang tên Việt Nam giải phóng quân.


Ngày 13-8-1945, tại Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản Đông Dương, Võ Nguyên Giáp được cử làm Ủy viên thường vụ Ban Chấp hành Trung ương. Trong thời kỳ Tổng khởi nghĩa, Võ Nguyên Giáp từng là Ủy viên Ủy ban quân sự cách mạng Bắc Kỳ; tham gia Ủy ban chỉ huy lâm thời Khu giải phóng Việt Bắc; tham gia Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc; Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam. Cách mạng tháng Tám thành công, Võ Nguyên Giáp được cử làm Bộ trưởng Nội vụ trong Chính phủ lâm thời; năm 1946, là Chủ tịch quân sự ủy viên Hội trong Chính phủ liên hiệp. Ngày 19-4-1946, Võ Nguyên Giáp làm Phó trưởng đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam dân chủ Cộng hoà đàm phán với Pháp tại Hội nghị trù bị Đà Lạt. Tháng 11-1946, Ông là Bộ trưởng Quốc phòng kiêm Tổng chỉ huy quân đội. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông được cử làm Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia và Dân quân tự vệ.


Ngày 20-1-1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 110/SL phong quân hàm Đại tướng cho Võ Nguyên Giáp.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Võ Nguyên Giáp đã trực tiếp chỉ huy nhiều chiến dịch lớn mang ý nghĩa chiến lược như: Biên Giới (1950), Điện Biên Phủ (1954). Đặc biệt, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, với trọng trách là Bí thư Đảng ủy, Tư lệnh chiến dịch, thấm nhuần lời ủy thác của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước lúc ra trận: "Tướng quân tại ngoại. Trao cho chú toàn quyền quyết định", ông là người đã đề xuất việc thay đổi phương châm tác chiến từ "đánh nhanh, thắng nhanh" sang "đánh chắc, tiến chắc" để bảo đảm chắc thắng. Với tài thao lược về quân sự, sự quyết đoán sáng tạo, khoa học của vị tướng Tổng tư lệnh, Tư lệnh chiến dịch, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã thực hiện xuất sắc quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị, chỉ huy cán bộ, chiến sỹ vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, lập nên một Điện Biên Phủ chân động địa cầu.


Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đại tướng Võ Nguyên Giáp với cương vị là Tổng tư lệnh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã cùng với Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương chỉ đạo cuộc kháng chiến của quân và dân ta trên cả hai miền Nam, Bắc và làm nhiệm vụ quốc tế, chỉ đạo nhiều chiến dịch lớn ở miền Nam Việt Nam, trong đó có chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử; chỉ đạo chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của Mỹ ở miển Bắc Việt Nam.


Đại tướng Võ Nguyên Giáp không chỉ là một nhà cầm quân giỏi mà còn là một nhà lý luận quân sự uyên thâm. Ông là tác giả của nhiều tác phẩm quân sự nổi tiếng được xuất bản ở trong và ngoài nước.

Võ Nguyên Giáp đã từng là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ khoá II đến khoá VI, Ủy viên Bộ Chính trị từ khoá II đến khoá V; đại biểu Quốc hội từ khoá I đến khoá VII. Ông cũng đã từng trải qua nhiều cương vị quan trọng như: Tư lệnh các lực lượng vũ trang thống nhất mang tên Việt Nam Giải phóng quân (tháng 5-1945); Bộ trưởng Bộ Nội vụ trong Chính phủ lâm thời (1946); Chủ tịch quân sự ủy viên hội trong Chính phủ Liên hiệp; Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam; Bí thư Quân ủy Trung ương; Phó Thủ tướng, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng; Chủ tịch danh dự Hội khoa học lịch sử Việt Nam...


Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã được Nhà nước tặng thưởng:
- Huân chương Sao Vàng;
- Hai Huân chương Hồ Chí Minh;
- Hai Huân chương Quản công hạng Nhất.
Ngoài ra, Đại tướng Võ Nguyên Giáp còn được tặng nhiều Huân chương, Huy chương cao quý khác của nhiều nước trên thế giới.


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 12 Tháng Tám, 2015, 08:30:04 pm
Liệt sỹ
TRẦN VĂN KỲ (1915-1968)

Họ và tên: Trần Văn Kỳ
Bí danh: Trần Sơn Hùng, Hoàng Sâm.
Ngày tháng năm sinh: 1915.
Quê quán: Lệ Sơn - Tuyên Hoá - Quảng Bình
Dân tộc: Kinh


Mùa đông năm 1944, Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập. Đây là một đội quân hoạt động theo phương châm chính trị trọng hơn quân sự; vừa xây dựng cơ sở, phát triển phong trào cách mạng, vừa tác chiến theo kiểu du kích, cơ động, bí mật, bất ngờ “lai vô ảnh, khứ vô tung”... Chỉ huy một đội quân như thế phải là một người từng lăn lộn với phong trào cách mạng của quần chúng; phải là người đã từng giỏi đánh du kích; tích luỹ được nhiều kinh nghiệm chiến đấu. Người đó chính là Hoàng Sâm.


Hoàng Sâm tên thật là Trần Vàn Kỳ, sinh ra trong một gia đình nóng dân nghèo ở xã Lệ Sơn, huvện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình. Mùa xuân 1927, cậu bé Trần Văn Kỳ, lúc này mới 12 tuổi, đã phải rời bỏ làng quê nghèo xơ xác phiêu bạt sang Xiêm (Thái Lan). Tại đây, Kỳ được tổ chức cách mạng của Việt kiều kết nạp vào Đội thiếu niên tiền phong và nhận vào học ở trường học sinh Việt kiều.


Năm 1928, cơ hội lớn đến với Trần Văn Kỳ khi Nguyễn Ái Quốc về Xiêm hoạt động với bí danh Thầu Chín. Trần Văn Kỳ được Thầu Chín giác ngộ và được chọn làm liên lạc trong suốt thời gian Người hoạt động ở Xiêm.

Cuối năm 1929, Nguyễn Ái Quốc rời Thái Lan sang Trung Quốc chuẩn bị hội nghị thống nhất các tổ chức Cộng sản ở Việt Nam để thành lập Đảng Cộng sản, Trần Văn Kỳ vẫn tiếp tục ở lại Thái Lan vừa học tập, vừa tích cực hoạt động.


Năm 1933, Trần Văn Kỳ được kết nạp vào Đoàn thanh niên Cộng sản và ngay trong năm đó được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, phụ trách in ấn phát hành truyền đơn.

Năm 1934, ông bị mật thám Thái Lan bắt và giao cho lãnh sự Pháp ở Băng Cốc tra tấn, hỏi cung.

Sau gần một năm giam giữ, vì không có bằng chứng cụ thể nên Trần Văn Kỳ được lãnh sự Pháp trả lại cho nhà cầm quyền Thái Lan. Ngay sau đó bị trục xuất, ông tìm đường sang Trung Quốc.

Sang đến Quảng Tây, Trần Văn Kỳ bắt liên lạc được với cơ sở và qua Phùng Chí Kiên, ông được tổ chức tạo điều kiện cho đi học tiếng Trung Quốc. Mùa xuân năm 1937, Trần Văn Kỳ được tổ chức phái về nước hoạt động ở Cao Bằng, nhưng vì không có thẻ thuế thân nên bị chính quyền thực dân Pháp ở đây bắt giam 6 tháng. Ra tù, ông cùng một vài đồng chí khác lại được Đảng cử sang Trung Quốc tham gia “Điền Kiềm Quê Biên khu du kích đội” - một tổ chức kháng Nhật của Đảng Cộng sản Trung Quổc, hoạt động ở vùng biên giới Việt - Trung thuộc ba tỉnh Vân Nam, Quảng Tây, Quý Châu.


Giữa năm 1940, Trần Văn Kỳ quyết định sang Tĩnh Tây để tìm bắt liên lạc với cấp trên. Tại đây, ông đã theo học quân sự ở trường Trương Bội Công - do một tên tay sai của Tưởng Giới Thạch đứng ra tổ chức nhằm chuẩn bị cho kế hoạch “Hoa quân nhập Việt”. Trong thời gian ở Tĩnh Tây, Trần Văn Kỳ đã được gặp lại Thầu Chín (Nguyễn Ái Quốc) và được Người đặt cho bí danh là Hoàng Sâm. Cũng tại đây, lần đầu tiên Hoàng Sâm được gặp, làm quen với người đồng chí - đồng hương Dương Hoài Nam (tức Võ Nguyên Giáp).


Sau lần gặp gỡ quan trọng này, Hoàng Sâm cùng với 40 cán bộ khác của Cao Bằng quyết định từ bỏ trường Trương Bội Công, trở về nước hoạt động. Cuối năm 1940, Hoàng Sâm tham dự lớp huấn luyện cán bộ về công tác tổ chức các đoàn thể quần chúng nhằm chuẩn bị thành lập một Mặt trận dân tộc, dân chủ rộng rãi. Lớp học này do chính lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cùng các đồng chí Võ Nguyên Giáp. Phùng Chí Kiên, Phạm Văn Đồng, Vũ Anh tổ chức và trực tiếp giảng dạy.


Ngày 28-1-1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về Pác Bó (Cao Bằng). Tháng 5-1941. Trung ương Đảng tổ chức Hội nghị lần thứ 8 tại Khuổi Nậm. Hoàng Sâm được Nguyễn Ái Quốc giao nhiệm vụ tổ chức đường dây qua Lạng Sơn đê đón các đại biểu về dự hội nghị quan trọng này. Cuối năm 1941, Đội du kích Pác Bó được thành lập. Đội gồm 12 người, Hoàng Sâm được cử làm Đội phó. Nhiệm vụ của Đội du kích Pác Bó là vừa làm nhiệm vụ bảo vệ khu căn cứ, bảo vệ Trung ương Đảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, vừa xây dựng cơ sở cách mạng, tiễu trừ nạn thổ phỉ ở vùng biên giới Việt - Trung thuộc địa bàn tỉnh Cao Bằng.


Từ giữa năm 1942, Hoàng Sâm được giao làm Đội trưởng đội vũ trang Cao Bằng, thay Lê Thiết Hùng.

Thời kỳ này, ở vùng biên giới Việt - Trung, nạn thổ phỉ hoành hành dữ dội. Dẹp được bọn này là một vấn đề nan giải. Chúng sống ngoài vòng pháp luật, ngang tàng theo kiểu “giang hồ, anh hùng hảo hán”; nhưng ngược lại chúng lại rất kiểng nể những người can đảm, dũng cảm và tài ba.


Trần Sơn Hùng (bí danh của Hoàng Sâm hồi ấy) là một người nổi tiếng trong vùng với sự gan dạ, biệt tài phi ngựa không cần yên cương, bắn súng ngắn cả hai tay. Bọn trùm phỉ khét tiếng như Voòng A Sáng, Voòng A Sình, Lý Xìu... nghe danh “ông Trần” đều phải kiềng nể. Để thu phục và hoà hoãn với các toán thổ phỉ, Hoàng Sâm đã không quản nguy hiểm vào tận sào huyệt của chúng thi bắn súng, cưỡi ngựa, ném lựu đạn, bắn cung; thậm chí thi cả uống rượu với các tên trùm phỉ.


Những hoạt động khôn khéo, kiên quyết, dũng cảm của Hoàng Sâm và các đồng chí khác trong đội du kích Pác Bó, cùng với tài năng quân sự và uy tín cá nhân của ông, đã hạn chế được sự phá phách, lộng hành của các toán phỉ, tạo điều kiện cho các hội Cứu quốc của Việt Minh ở vùng Lục Khu phát triển.


Tháng 7-1943, trước tình hình phong trào cách mạng phát triển rất mạnh và lan rộng xuống vùng xuôi: nhiều tổ xung phong Nam tiến ra đời. Đội du kích Cao Bằng phân tán mỗi người đi một hướng. Hoàng Sâm được giao nhiệm vụ tổ chức Đội bảo vệ các tổ xung phong Nam tiến.


Ngày 22-12-1944. Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập, Cựu đội trưởng Đội du kích Pác Bó - Hoàng Sâm được lãnh tụ Hồ Chí Minh và đồng chí Võ Nguyên Giáp chọn làm Đội trưởng, rồi Đại đội trưởng - khi Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân phát triển thành đại đội...

Hoàng Sâm đã trực tiếp chỉ huy các trận đánh Phai Khắt, Nà Ngần, Đồng Mu và Nà Ngần lần hai.

Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), Hoàng Sâm chỉ huy Đội tiến xuống giải phóng Ngân Sơn; sau đó tiếp tục tiến xuống Chợ Rã.

Cuối tháng 3-1945, Hoàng Sâm cùng với Đàm Quang Trung chỉ huy đơn vị đánh quân Nhật tại vùng Phủ Thông.
Trong thời kỳ tiền khởi nghĩa và Tổng khởi nghĩa tháng 8-1945, Hoàng Sâm tham gia xây dựng và bảo vệ Khu giải phóng Cao - Bắc - Lạng - Thái - Tuyên - Hà; chỉ huy đánh quân Nhật ở Thái Nguyên, Bắc Kạn...


Sau trận thắng quân Nhật ở Thái Nguyên, Hoàng Sâm đưa đơn vị về Vĩnh Yên tiêu diệt bọn Quốc dân đảng phản động Đỗ Đình Đạo. Dẹp được bọn này, ông tiếp tục đưa đơn vị về Sơn Tây bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ ở khu vực tây - tây bắc Hà Nội. Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, Hoàng Sâm lại được giao những trọng trách nặng nề: Chỉ huy trưởng Mặt trận Tây tiến. Khu trưởng Khu 2 rồi sau đó là Khu trưởng Khu 3. Tại chiến trường Tây Bắc xa xôi, một lần nữa tên tuổi của Hoàng Sâm lại được người ta nhắc đến nhiều bởi nghệ thuật cầm quân sắc sảo trong trận dốc Đẹt; bởi những cuộc đấu trí, đấu mưu mà Liên khu trưởng quân Tàu Tưởng phải “tâm phục, khẩu phục” biếu không 300 khẩu súng... Có rất nhiều câu chuyện sự thật một trăm phần trăm nhưng thoạt nghe tưởng như là huyền thoại về tài năng quân sự, về bản lĩnh của tướng quân Hoàng Sâm được bộ đội Tây tiến và bà con các dân tộc Tây Bắc khâm phục, truyền tụng.


Năm 1948, trong đợt phong quân hàm cấp tướng đầu tiên của Quân đội ta, Hoàng Sâm được phong Thiếu tướng.

Năm 1951, Hoàng Sâm được rút về làm phái viên của Bộ đi tham gia chiến dịch với các Đại đoàn 312, 304.

Năm 1953, Hoàng Sâm làm Đại đoàn trưởng 304, Chỉ huy trưởng Mặt trận Trung Lào.

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hoàng Sâm về chỉ huy tiếp quản Sơn Tây, Hà Đông; rồi làm Đại đoàn trưởng 320, chỉ huy tiếp quản Hải Phòng.

Cuối năm 1955, Hoàng Sâm được bổ nhiệm làm Tư lệnh Quân khu Tả Ngạn rồi sau đó tiếp tục đảm đương các cương vị: Tư lệnh Quân khu Hữu Ngạn, Tư lệnh Quân khu 3. Năm 1962, Hoàng Sâm được cử sang làm nhiệm vụ quốc tế tại Lào với bí danh là Chăn-đi. Ông đã được các đồng chí lãnh đạo nước bạn hết sức tin cậy và kính trọng. Vừa mới về nước chưa được bao lâu thì Hoàng Sâm lại được cử vào làm Tư lệnh Quân khu Trị - Thiên - Huế - một chiến trường cực kỳ nóng bỏng và ác liệt.


Tháng 12-1968, Thiếu tướng Hoàng Sâm đã hy sinh tại chiến trường Bình - Trị - Thiên. Ông ra đi ở tuổi 53 khi mà tài năng quân sự đang ở vào độ chín và tiếp tục toả sáng.

Hoàng Sâm là người học trò luôn được Bác Hồ tin cậy và quý trọng. Trước khi chia tay Hoàng Sâm lên đường vào Trị- Thiên. Bác đã dành thời gian động viên và căn dặn rất kỹ như đối với người thân trong gia đình. Hoàng Sâm là một vị tướng tài ba. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã từng ví ông như một Trapaép của Liên Xô.

Thiếu tướng Hoàng Sâm là Đại biểu Quốc hội các khoá II và III. Ông đã được tặng thưởng:
- Huân chương Hồ Chí Minh;
- Huân chương Quân công hạng Nhất;
- Huân chương Kháng chiến hạng Nhất;
- Huân chương Chiến công hạng Nhất;
- Huân chương Chiến thắng;
- Huân chương Quân kỳ Quyết thắng.


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 12 Tháng Tám, 2015, 08:32:02 pm
DƯƠNG MẠC THẠCH (1915 -1979)

Họ và tên: Dương Mạc Cam
Tên thường gọi: Dương Mạc Thạch
Bí danh: Xích Thắng
Ngày tháng năm sinh: 5-8-1915
Quê quán: Bản Thơm Phát, Gia Bằng (nay là xã Minh Tâm), Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng
Dân tộc: Tày.


Dương Mạc Thạch là người đảng viên Cộng sản đầu tiên, Bí thư chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của huyện Nguyên Bình. Có lẽ do được thừa hưởng cái “gien” của bố mẹ, nên ông đã mang trong mình hoài bão làm cách mạng từ rất sớm.


Lúc bấy giờ, gia đình Dương Mạc Thạch thuộc diện khá giả ở Gia Bằng, chính vì vậy mà mới 8 tuổi đầu, ông đã được cha mẹ cho đi học chữ Nho và học đến lớp nhất tiếng Pháp. Đây chính là nền tảng để sau này trong hành trang hoạt động cách mạng của mình. Dương Mạc Thạch đã tích luỹ được một vốn liếng kiến thức tương đối khá. Được xếp vào lớp “trí thức cách mạng”: vì thế mà khi Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân thành lập. Dương Mạc Thạch được chọn làm Chính trị viên của Đội.


Ngay từ những năm còn ngồi trên ghế nhà trường, Dương Mạc Thạch đã tích cực vận động học sinh tham gia phong trào bãi khoá chống tên chủ Pháp bớt xén quyền lợi của học sinh. Nhận thấy đây là một con người dũng cảm, nhanh nhẹn, có hoài bão và chí hướng, đồng chí Hồng Lĩnh (về sau là Bí thư huyện ủy Hoà An) đã giác ngộ Dương Mạc Thạch đi theo cách mạng.


Ngày 15-6-1934, Dương Mạc Thạch chính thức tham gia hoạt động cách mạng và chỉ hai tháng sau đó ông đã được kết nạp vào Đảng.

Trong những năm 1934-1940, Dương Mạc Thạch lăn lộn với phong trào ở Nguyên Bình. Ông trở thành người cán bộ nằm vùng dày dạn kinh nghiệm, giác ngộ được nhiều người đi theo cách mạng, tích cực vận động, tổ chức quyên góp tiền ủng hộ chính trị phạm, ủng hộ các tờ báo tiến bộ, vận động tổ chức quần chúng tham gia đấu tranh nhân dịp đoàn Mặt trận bình dân Pháp, do Gôđa dẫn đầu lên Cao Bằng; gương mẫu tuyên truyền vận động nhân dân bài trừ mê tín dị đoan, tập tục lạc hậu ở địa phương; tham gia Hội tương tế, Hội truyền bá chữ quốc ngữ. Ông cũng là một trong những hạt nhân lãnh đạo tiêu biểu trong việc thành lập hai chi bộ Đảng đầu tiên ở Nguyên Bình.


Năm 1940, Dương Mạc Thạch là Ủy viên Ban chấp hành lâm thời Tỉnh ủy Cao Bằng.

Vốn là một cán bộ am hiểu địa bàn, nắm chắc phong trào cách mạng, lại là người có uy tín ở địa phương, đặc biệt là trong đồng bào dân tộc, chính vì vậy mà trong suốt một thời gian dài kể từ sau Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (1941) cho đến trước Cách mạng tháng Tám 1945. Dương Mạc Thạch được tổ chức phân công chủ yếu bám trụ hoạt động ở vùng Nguyên Bình và vùng giáp ranh với Bắc Kạn. Tại những vùng này, ông đã kiên trì xây dựng và phát triển cơ sở, vận động được nhiều đồng bào Tày - Nùng - Mông - Dao vào Hội Cứu quốc; tổ chức Mặt trận Việt Minh ở các xã, tổng; cùng với đồng chí Võ Nguyên Giáp “Nam tiến” xuống vùng Bắc Kạn phát triển phong trào, tổ chức các đội tự vệ. Thời kỳ này. Dương Mạc Thạch là Tỉnh ủy viên Cao - Bắc - Lạng và là một đốỉ tượng săn lùng gắt gao của địch. Tháng 2- 1944, trên đường Nam tiến xuống Bắc Kạn, đến núi Phia Bioóc gặp địch khủng bố gắt gao, Dương Mạc Thạch buộc phải ở lại hoạt động tại các xã phía bắc Ngân Sơn. Tại đây, đã hai lần ông thoát chết trong gang tấc, do bọn phản động chỉ điểm và bị địch phục kích. Khi vợ ông - bà Nông Thị Yêm sinh đứa con gái đầu lòng, kẻ địch tìm mọi cách dụ dỗ, tra khảo tung tích của chồng nhưng bà vẫn một mực trả lời “đứa con đó là do đi với trai, còn chồng đi buôn muối biệt tích, không biết..”


Ngày 22-12-1944, tại buổi lễ thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, Dương Mạc Thạch được cử làm Chính trị viên của Đội. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Võ Nguyên Giáp, ông đã cùng với Đội trưởng Hoàng Sâm chỉ huy Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân làm nên chiến thắng ngay từ trận đầu và nhanh chóng phát triển lên thành nhiều trung đội rồi thành đại đội. Buổi đầu, Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân gặp khó khăn về tài chính (ngày thành lập, Đội chỉ được cấp 50 đồng bạc Đông Dương), Chính trị viên Dương Mạc Thạch đã đứng ra lo giải quyết vấn đề này. Ngoài việc vận động một số người quyên góp ủng hộ, ông đã bàn bạc và vận động gia đình mình ủng hộ Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân 500 đồng - một số tiền rất lớn trong hoàn cảnh lúc bấy giờ.


Sau hai trận Phai Khắt, Nà Ngần, Dương Mạc Thạch cùng với Bắc Hợp đã đưa Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân về đóng ở Lũng Dẻ (quê của hai ông) để củng cố, bổ sung thêm một số lực lượng mới từ Trung Quốc về, trước khi hành quân lên Bảo Lạc đánh đồn Đồng Mu.


Đầu năm 1945, khi Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân đã phát triển thành nhiều đại đội, Dương Mạc Thạch trực tiếp chỉ huy một đại đội hoạt động dọc đường 3b, vừa vũ trang tuyên truyền, vừa chặn đánh quân Nhật trong một số trận như Nà Phặc, Hà Hiệu, đèo Giàng, hỗ trợ du kích phá kho thóc ỏ Bạch Thông, Na Rì. Trong Cách mạng tháng Tám 1945, ông cùng đơn vị tham gia giải phóng thị xã Bắc Kạn; thành lập chính quyển cách mạng ở các huyện Chợ Rã, Bạch Thông... Từ năm 1945 đến 1948, Dương Mạc Thạch hoạt động chủ yếu ở Bắc Kạn và đã có thời kỳ làm Bí thư kiêm Chủ tịch Ủy ban hành chính kháng chiến Bắc Kạn. Trong thời gian này, ông đã có nhiều đóng góp quan trọng, cùng vối các cộng sự của mình triển khai tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân chống thực dân Pháp xâm lược khi chúng nhảy dù xuống Bắc Kạn và dẹp tan các nhóm Quốc dân đảng phản động, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.


Tháng 6-1948, Dương Mạc Thạch được điều về Bộ Tổng tư lệnh làm Đặc phái viên các tỉnh miền núi và đầu năm 1949 được bổ nhiệm làm Trưởng phòng quốc dân miển núi của Liên khu 1.

Năm 1950, Dương Mạc Thạch được cử sang học tập ở Trường chính trị Hà Nam - Trung Quốc. Cuối năm 1951 về nước, ông được bổ sung vào Tỉnh ủy Yên Bái phụ trách nông nghiệp; sau đó mấy tháng lại được Trung ương điều lên Hà Giang. Gần 20 năm gắn bó với vùng cao Hà Giang, Dương Mạc Thạch đã trải qua các chức vụ: Tỉnh ủy viên, Chủ tịch Ủy ban hành chính kháng chiến tỉnh, Phó bí thư Tỉnh ủy.


Năm 1970, Dương Mạc Thạch được điều về làm Bí thư Đảng ủy trường Đại học nông nghiệp 3 Bắc Thái. Cuộc đời của ông cũng trải qua nhiều bước thăng trầm. Sau hơn 40 năm hoạt động trên nhiều cương vị và ở nhiều vùng quê khác nhau, tháng 8-1978, Dương Mạc Thạch được nghỉ hưu, trở về sống những tháng ngày còn lại tại quê hương Cao Bằng. Chưa đầy một năm sau, ông vĩnh viễn ra đi sau một cơn tai biến.


Có thể nói, Dương Mạc Thạch là một trong số những người khá “trọn vẹn” về đời tư, gia đình. Vợ ông là Nông Thị Yêm, năm nay 89 tuổi, cũng là lão thành cách mạng. Ba người con ông đều nối được nghiệp bó và đều thành đạt, một trong số đó có đồng chí Dương Mạc Thăng - Bí thư Tỉnh ủy Cao Bằng hiện nay.

Dương Mạc Thạch đã được Nhà nước tặng thưởng:
- Huân chương Hồ Chí Minh;
- Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Nhất.

Thân phụ của ông là cụ Dương Mạc Tân cũng được tặng Bằng có công với nước.


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 12 Tháng Tám, 2015, 08:34:27 pm
NGÔ QUỐC BÌNH (1915 -1986)

Họ và tên: Ngô Quốc Bình
Bí danh: Hoàng Văn Xiêm, Hoàng Văn Thái
Ngày tháng năm sinh: 1915
Quê quán: Tây An, Tiền Hải, Thái Bình
Trú quán: Hà Nội
Dân tộc: Kinh


Trong quyết định thành lập đội quân chủ lực đầu tiên - Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chỉ thị cho đồng chí Võ Nguyên Giáp là "chọn lọc trong hàng ngũ những du kích Cao - Bắc - Lạng số cán bộ và đội viên kiên quyết, hăng hái nhất và sẽ tập trung một phần lớn vũ khí để lập ra đội chủ lực"1 (Hồ Chí Minh - Toàn tập. tập 3, Nxb Sự thật, H. 1983. tr. 337). Hoàng Văn Thái là một trong số những cán bộ xuất sắc của Cứu quốc quân được chọn đầu tiên. Ngay từ ngày đầu thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, Hoàng Vãn Thái đã tham gia Ban chỉ huy và Chi bộ Đảng đầu tiên của Đội. Vốn là một cán bộ dày dạn kinh nghiệm, từng lăn lộn với phong trào cách mạng ở Tiên Hải; từng được trau dồi kiến thức quân sự dưới mái trường Hoàng Phố do đó Hoàng Văn Thái đã có nhiều đề xuất hay; có nhiều sáng kiến quan trọng chuẩn bị cho buổi lễ ra mắt của Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân tại khu rừng Trần Hưng Đạo chiều ngày 22-12-1944. Vai trò của ông đặc biệt nổi bật trong việc nghiên cứu kế hoạch tác chiến, chuẩn bị và tiến hành hai trận đầu ra quân thắng lợi của Đội. Khi Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân phát triển thành đại đội, Hoàng Văn Thái được phân công phụ trách công tác tình báo và kế hoạch tác chiến.


Sinh trưởng trong một gia đình nông dân yêu nước ở vùng lúa Thái Bình, mới 13 tuổi đầu, cậu bé Bình phải bỏ nhà đi làm thuê kiếm sống. Năm 18 tuổi, Bình đã là công nhân mỏ than Hòn Gai; sau đó phiêu dạt lên mỏ thiếc Tĩnh Túc - Cao Bằng. Những năm tháng làm phu mỏ tuy không giúp được Bình thoát khỏi sự đói nghèo, nhưng bù lại, ông đã được giác ngộ cách mạng qua phong trào đấu tranh của những người thợ mỏ.


Năm 1936, trước nỗi nhớ quê hương da diết, Ngô Quốc Bình trở lại Tiền Hải hoạt động trong phong trào Mặt trận dân chủ; tham gia Hội tương tê ái hữu, tham gia các cuộc đấu tranh chống bắt phu, chống thuế; tuyên truyền, tổ chức cơ sở quần chúng cách mạng ở một sô" xã.


Tháng 5-1938, Ngô Quốc Bình được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 9-1940, ông bị đế quốc Pháp bắt giam nhưng sau đó đã trốn thoát và rút vào hoạt động bí mật ở vùng Bắc Giang với cái tên mới: Hoàng Văn Thái.


Đầu năm 1941, Hoàng Văn Thái được giao nhiệm vụ tham gia chỉ huy Đội Cứu quốc quân Bắc Sơn. Tháng 6 năm đó, khi thực dân Pháp huy động 4.000 quân bất ngờ tiến công khu căn cứ Bắc Sơn hòng chụp bắt các đồng chí lãnh đạo Đảng và tiêu diệt Cứu quốc quân, thì Hoàng Văn Thái đã chỉ huy một tiểu đội chọc thủng vòng vây, rút lên biên giới Việt - Trung an toàn.


Tháng 9-1941, Hoàng Văn Thái được Đảng cử đi học quân sự ở Trường Hoàng Phố - Trung Quốc và đến tháng 10-1944 thì về nước tham gia tổ chức Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân.

Sau hai trận Phai Khắt, Nà Ngần giành thắng lợi, Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân kéo về Lũng Dẻ để bổ sung lực lượng; sau đó lên đánh đồn Đồng Mu. Hoàng Văn Thái không đi theo Đội mà ở lại Hoa Thám theo lệnh đồng chí Võ Nguyên Giáp tổ chức trinh sát các đồn Kéo Lẻng và Bằng Khẩu, chuẩn bị kế hoạch cho Đội sau khi đánh Đồng Mu trở về, ăn Tết xong, sẽ tập kích hai đồn này.


Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), Hoàng Văn Thái cùng một bộ phận của Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân tiến xuốhg hoạt động ở vùng Chợ Đồn (Bắc Kạn). Ngày 25-6-1945, Trường Quân chính kháng Nhật khai giảng khoá đầu tiên tại Tân Trào, Hoàng Văn Thái cùng với Thanh Phong được giao nhiệm vụ tổ chức và phụ trách lớp học quan trọng này. Trong Tổng khởi nghĩa, ông chỉ huy cướp chính quyền ỏ Lục An Châu và phối hợp cướp chính quyền ở Tuyên Quang.


Cách mạng tháng Tám thành công, Hoàng Văn Thái được Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp giao nhiệm vụ tổ chức cơ quan Bộ Tông tham mưu. Tháng 10-1945, ông được cử giữ chức Tổng tham mưu trương, Ủy viên Quân ủy Hội, Ủy viên Ban quân sự của Trung ương Đảng.

Năm 1948, Hoàng Văn Thái được phong quân hàm Thiếu tướng.

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, dưới sự chỉ đạo của Bộ Chính trị Trung ương Đảng, Tổng Quân ủy và Bộ Quốc phòng, Hoàng Văn Thái đã cùng cơ quan Bộ Tổng tham mưu triển khai công tác giúp trên chỉ đạo tác chiến và xây dựng lực lượng, góp phần xứng đáng vào thắng lợi chung, xây dựng cơ quan trưởng thành về mọi mặt. Ông đã trực tiếp làm Tham mưu trưởng và là Đảng ủy viên mặt trận các chiến dịch lớn như: Biên Giới, Trung Du, Đường 18, Hà Nam Ninh, Hoà Bình, Tây Bắc, Thượng Lào và Điện Biên Phủ.


Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, trên cương vị Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục Quân huấn, Hoàng Văn Thái đã tích cực chỉ đạo huấn luyện bộ đội, góp phần thực hiện chủ trương xây dựng Quân đội nhân dân chính quy và hiện đại, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh. Ông còn được bổ nhiệm kiêm chức Chủ nhiệm Ủy ban Thể dục thể thao Trung ương.

Tháng 9-1958, Hoàng Văn Thái được phong quân hàm Trung tướng.

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tháng 2-1966, Hoàng Văn Thái nhận nhiệm vụ vào truyền đạt Nghị quyết 12 của Trung ương Đảng cho chiến trường miền Nam, sau đó được chỉ định làm quyền Bí thư Khu ủy Khu 5, Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 5.


Tháng 10-1967, ông được lệnh vào Nam Bộ giữ chức Phó Bí thư Trung ương Cục, Phó bí thư Quân ủy Miền, Tư lệnh Bộ chỉ huy Miền. Tại đây, ông đã cùng các đồng chí trong Trung ương Cục, Quân ủy Miền và Bộ chỉ huy Miền lãnh đạo cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, các chiến dịch đánh bại cuộc hành quân Chen La 1, Chen La 2, Nguyễn Huệ... giành thắng lợi to lớn.


Sau Hiệp định Pari (1973), ông trở lại cơ quan Bộ Tổng tham mưu với cương vị Phó Tổng tham mưu trưởng thứ nhất phụ trách tác chiến và chi viện chiến trường. Năm 1974, Hoàng Văn Thái được phong quân hàm Thượng tướng.


Sau khi đất nước được hoàn toàn giải phóng, trên cương vị Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Hoàng Văn Thái được phân công chỉ đạo công tác tổng kết chiến tranh, biên soạn lịch sử quân sự và tham gia chỉ đạo công tác nghiên cứu khoa học và nghệ thuật quân sự Việt Nam. Với đức độ, tài năng tổ chức và tinh thần trách nhiệm cao, ông đã được Thường vụ Quân ủy Trung ương phân công phụ trách công tác cán bộ và công tác nhà trường. Năm 1980, ông được phong quân hàm Đại tướng. Ngày 2-7-1986, Hoàng Văn Thái đã qua đời tại Hà Nội sau một cơn đau tim đột ngột.


Hoàng Văn Thái là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ khoá III đến khoá V: Ủy viên thường vụ Đảng ủy quân sự Trung ương; Đại biểu Quốc hội khoá VII.

Do những công hiến xuất sắc của mình. Hoàng Văn Thái đã được tặng thưởng:
- Huân chương Hồ Chí Minh;
- Hai Huân chương Quân công (hạng Nhất và hạng Nhì);
- Huân chương Chiến thắng hạng Nhất;
- Huân chương Kháng chiến hạng Nhất;
- Ba Huân chương Chiến sĩ vẻ vang (hạng Nhất, Nhì, Ba);
- Ba Huân chương Chiến sĩ giải phóng (hạng Nhất, Nhì, Ba);
- Huân chương Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hạng Nhất;
- Huy chương Quân kỳ quyết thắng;
- Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng.
Ông còn được quân đội một số nước anh em tặng thưởng nhiều Huân chương cao quý.


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 14 Tháng Tám, 2015, 08:50:34 pm
HOÀNG THẾ HẬU (1922 -1969)

Họ và tên: Hoàng Thế Hậu
Ngày tháng năm sinh: 1922
Quê quán: Đào Ngạn - Hà Quảng - Cao Bằng
Dân tộc: Tày.


Đầu năm 1940, Thế Hậu được giác ngộ đi làm cách mạng. Thời kỳ đó, vùng biên giới giáp với Quảng Tây (Trung Quốc) là đất hoành hành của các toán thổ phỉ; chính vì vậy mà Thế Hậu đã cùng các đồng đội của mình, bên cạnh việc lo xây dựng lực lượng, phải tập trung tiễu phỉ để bảo yệ nhân dân, bảo vệ vùng căn cứ ở Hà Quảng.


Trong những năm 1941-1943, Thế Hậu theo học tại trường quân sự Liễu Châu (Quảng Tây - Trung Quốc).
Ngày 22-12-1944, Thế Hậu được chọn dự lễ tuyên thệ thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân. Ông tham gia 2 trận đánh đầu tiên của Đội là Phai Khắt và Nà Ngần.


Tháng 4-1945, Thế Hậu được giao phụ trách một tổ giao thông quân đội làm nhiệm vụ khắc phục đường sá từ căn cứ Lam Sơn (Hoà An - Cao Bằng) qua các xã phía nam Nguyên Bình xuống Ngân Sơn, Hà Hiệu.

Năm 1958, Thế Hậu được điều về làm Chủ nhiệm chính trị Tỉnh đội Hà Giang.

Năm 1963, ông được điều về Bộ tư lệnh Công binh, phụ trách Z3, rồi làm Phó Chủ nhiệm chính trị Khu bí mật Chợ Đồn.

Năm 1964, ông được bổ nhiệm làm Chính ủy Trung đoàn 289, Bộ tư lệnh Công binh, quân hàm trung tá.

Ngày 9-9-1969, Thế Hậu qua đời do một tai nạn trong khi đi săn.

Ông đã được tặng thưởng:   
- Huân chương Chiến sỹ vẻ vang hạng Nhì;
- Huân chương Chiến sỹ vẻ vang hạng Ba;
- Bằng Có công với nước.


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 14 Tháng Tám, 2015, 08:52:22 pm
BẾ BẰNG (1920...)

Họ và tên: Bế Bằng
Bí danh: Bế Kim Anh
Ngày tháng năm sinh: 19-7-1920
Quê quán: Dẻ Đoóng - Hồng Việt - Hoà An - Cao Bằng
Trú quán: Phường Hợp Giang - thị xã Cao Bằng
Dân tộc: Tày.


Cũng giống như hai người “đồng hương” quê ở xã Hồng Việt là Thu Sơn và Kế Hoạch, Bế Bằng tham gia hoạt động cách mạng từ rất sớm. Năm 1937, ông đã là một trong những hạt nhân tích cực của phong trào chống bắt phu, sưu cao thuế nặng. Chính vì vậy mà ông đã bị thực dân Pháp bắt và bỏ tù 3 tháng. Ra tù, Bế Bằng phải rút vào bí mật với bí danh là Bế Kim Anh để tiếp tục hoạt động. Năm 1941, ông được tổ chức đưa sang học tập tại Trường quân sự Hoàng Phố (Trung Quốc). Đầu năm 1944, về nước, Bế Kim Anh được chọn vào “Tiểu đội cận vệ đặc biệt” làm nhiệm vụ bảo vệ Trung ương.


Ngày 22-12-1944, ông được tổ chức giới thiệu tham gia Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân. Sau các trận Phai Khắt, Nà Ngần và Đồng Mu, Bế Kim Anh theo nhóm “Nam tiến” xuống Bắc Giang xây dựng các đội vũ trang tuyên truyền. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông trở lại Việt Bắc hoạt động, sau đó đi “Tây tiến”. Trong kháng chiến chống Pháp, Bế Kim Anh là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 71 Trung đoàn 148, chiến đấu ở vùng Tạ Khoa, Cò Nòi... Giữa năm 1953, sau đợt chỉnh quân chính trị, do mắc phải một số khuyết điểm trong quá trình thực hiện chủ trương "tiêu thổ kháng chiến" nên Bế Kim Anh đã rời khỏi quân ngũ. Sau đó một thời gian, ông về công tác tại Phòng Lao động thị xã Cao Bằng.


Năm 1964, Bế Kim Anh về nghỉ hưu tại Nà Phặc - Ngân Sơn. Năm 1989, nhân dịp Đại tướng Võ Nguyên Giáp về thăm lại Cao Bằng, Bế Kim Anh đã gặp và đề đạt nguyện vọng muôn được trở về quê sinh sống. Sau đó, ông đã được toại nguyện và được chính quyền tỉnh Cao Bằng cấp một căn hộ tại khu tập thể Nước Giáp, phường Hợp Giang, thị xã Cao Bằng.


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 14 Tháng Tám, 2015, 08:53:15 pm
NÔNG VĂN BÁT (1923 -1990)

Họ và tên: Nông Văn Bát (tự Tịch)
Tên thường gọi: Đàm Quốc Chủng, Đàm Tịch.
Ngày tháng năm sinh: 1923
Quê quán: Bình Long - Hoà An - Cao Bằng
Trú quán: 71 ngõ Thổ Quan - phố Khâm Thiên - Đống Đa - Hà Nội
Dân tộc: Tày.


Năm 1938, Đàm Quốc Chủng bắt đầu tham gia hoạt động cách mạng trong phong trào thanh niên phản đế ở châu Hoà An. Giữa năm 1940, ông được cử đi học quân sự ở Liễu Châu - Trung Quốc. Đầu năm 1944, ông về nước tham gia vào đội vũ trang của châu Hoà An. Tại đây, ông đã có nhiều đóng góp tích cực trong việc khôi phục và duy trì hoạt động của các Hội cứu quốc địa phương.


Ngày 22-12-1944, Đàm Quốc Chủng là một trong số những đội viên Đội vũ trang châu Hoà An được chọn vào Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân. Ngày thành lập Đội, ông là Tiểu đội trưởng. Sau hai trận tập kích các đồn Phai Khắt và Nà Ngần. Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân trở về Lũng Dẻ và phát triển thành một đại đội. Lúc này, Đàm Quốc Chủng làm Trùng đội trưởng Trung đội 2 của Đại đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân.


Sau khi đánh Đồng Mu trở về, Đàm Quổc Chủng phụ trách một mũi tiến xuông Bắc Kạn. Thái Nguyên... làm công tác vũ trang tuyên truyền và tham gia Tổng khởi nghĩa tháng Tám tại đây. Trên đường tiến quân từ Thái Nguyên về Hà Nội, khi qua Từ Sơn, Đàm Quốc Chủng lại được giao chỉ huy một đại đội tiến sang Vĩnh Yên đánh Quốc dân đảng và bọn phản động Đỗ Đình Đạo. Sau đó, ông về Hà Nội hoạt động một thời gian và xây dựng gia đình với bà Nguyễn Thị Quý.


Đầu năm 1946, Đàm Quốc Chủng được kết nạp vào Đảng và tháng 4 năm đó được điều vào làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 77 (Thanh Hoá); cuối năm 1948, làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 115.

Tháng 1-1950, Đàm Quốc Chủng được bổ nhiệm làm Trưởng ban Thanh tra Khu 10.

Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (7-5-1954) Trung đoàn 148 - lực lượng chủ lực cơ động của Quân khu Tây Bắc nhận nhiệm vụ tiếp quản, giải quyết hậu quả chiến trường; tiễu phỉ để xây dựng vá bảo vệ chính quyền cách mạng ở khu vực Lai Châu - Điện Biên. Theo sự phân công của trên, Đàm Quốc Chủng về làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 148. Trong gần 4 năm (1954-1958) trên cương vị mới, Đàm Quốc Chủng đã có nhiều đóng góp quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Trung đoàn 148 ở vùng biên giới Tây Bắc xa xôi và đầy khó khăn thử thách.


Tháng 3-1958, thực hiện chương trình điều chỉnh kế hoạch xây dựng quân đội trong tình hình mới, một số đơn vị của Trung đoàn 148 chuyển sang làm kinh tế; một số cán bộ chỉ huy của Trung đoàn có sự thay đổi công tác, Đàm Quốc Chủng được điều về làm Hiệu trưởng Trường văn hoá A3 - Tây Bắc.


Năm 1974, Đàm Quốc Chủng được phong quân hàm đại tá và được bổ nhiệm làm Tham mưu phó Quân khu Tây Bắc, sau đó là Tham mưu phó Quân khu 1.

Tháng 1-1983, ông được nghỉ hưu và trước khi nghỉ là Phó trưởng Ban thanh tra Quân khu 1.

Ngày 22 tháng 11 năm 1990, Đàm Quốc Chủng qua đời tại phường Thổ Quan - quận Đống Đa - Hà Nội sau một thời gian bị bệnh phổi.


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 14 Tháng Tám, 2015, 08:54:52 pm
BẾ VĂN BỒN (1915 -1987)

Họ và tên: Bế Văn Bồn
Bí danh: Bế Văn Sắt, Hồng Quân, Mậu
Ngày tháng năm sinh: 10-10-1915
Quê quán: Đức Long - Hoà An - Cao Bằng
Trú quán: bản Mỏ sắt - Dân Chủ - Hoà An - Cao Bằng
Dân tộc: Tày.


Bế Văn Bồn sinh ra và lớn lên ở thôn Đa Sỹ, xã Đức Long nhưng sau khi lấy vợ, ông về làm rể tại bản Mỏ Sắt, xã Dân Chủ và bắt đầu con đường hoạt động cách mạng từ đây. Ông lấy đến hai người vợ nhưng đều không có con. Vợ cả đã mất từ lâu, vợ hai bỏ về quê ngoại ở Tuyên Quang; chỉ còn lại người cháu nuôi duy nhất đang thờ phụng hương khói cho ông. Vì vậy, những thông tin về quá trình hoạt động của Bế Văn Bồn để lại quá ít ỏi.


Không ai nhớ Bế Văn Bồn tham gia hoạt động cách mạng từ năm nào, nhiều nhân chứng chỉ biết đến cái tên Bế Văn Sắt bắt đầu từ khi phong trào thí điểm Việt Minh ở Hoà An phát triển rầm rộ. Khi Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập, Bế Văn sắt là một trong số những đội viên xuất sắc của đội vũ trang Hoà An được chọn vào Đội. Sau 2 trận Phai Khắt, Nà Ngần, Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân phát triển thành đại đội, lúc này Bế Văn sắt được giao làm Trung đội phó một trong bốn trung đội của Đại đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân.


Đầu năm 1945, quân địch tiến hành cuộc khủng bố trắng ác liệt, Bế Văn sắt tham gia vào đội trừng trị Việt gian phản động tại các châu Nguyên Bình, Ngân Sơn, Chợ Rã.

Trước ngày Nhật đảo chính Pháp, với bí danh là Mậu, ông chỉ huy một tổ xuống các xã phía bắc Ngân Sơn giúp các đội vũ trang thoát ly ở đây trừng trị bọn phản động và xây dựng phong trào.

Ngày 20-3-1945, Bế Văn Sắt cùng với Mai Trung Lâm được đồng chí Võ Nguyên Giáp phái đi tiền trạm xuống châu Chợ Rã. Tại đây, ông đã có nhiều buổi gặp gỡ, quan trọng với tổng lý, thông sứ, giám binh Chợ Rã.

Tháng 6-1945, Bế Văn Sắt cùng với Mông Phúc Thơ về Tân Trào dự Trường Quân chính (khoá II).

Trong Cách mạng tháng Tám 1945, Bế Văn sắt tham gia Tổng khởi nghĩa ở Vĩnh Yên. Tháng 2-1946, ông chỉ huy một đại đội Vệ quốc đoàn của tỉnh Vĩnh Yên đi "Tây tiến". Một tháng sau đó, khi Trung đoàn Sơn La được thành lập, Bế Văn Sắt làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 90. Trên đường tiến lên Lai Châu, ông đã chỉ huy xuất sắc đơn vị tiêu diệt hoàn toàn quân địch ở đồn Tuần Giáo, mở đường cho Trung đoàn 148 tiến lên Điện Biên, Lai Châu.


Cuối tháng 4-1947, do phạm phải một số khuyết điểm trong thực hiện chủ trương "tiêu thổ kháng chiến" nên Bế Văn Sắt thôi làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 90 để đi nhận nhiệm vụ mới. Năm 1958, Bế Văn Sắt được phong quân hàm đại uý, sau đó chuyên ngành về Ban Kiến thiết thủy lợi tỉnh Cao Bằng. Năm 1966, ông về hưu và mất ngày 2-7-1987 tại xã Dân Chủ - Hoà An - Cao Bằng.

Bế Văn Sắt đã được tặng thưởng:
- Huy chương Kháng chiến hạng Nhất.


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 14 Tháng Tám, 2015, 08:55:50 pm
TÔ VĂN CẮM (1922)

Họ và tên: Tô Văn Cắm
Bí danh: Tô Tiến Lực, Tô Đình Lực
Ngày tháng năm sinh: 1922;
Quê quán: bản Um - Tam Kim 3 Nguyên Bình - Cao Bằng
Trú quán: Thị trấn Đạ Tẻh - Lâm Đồng
Dân tộc: Tày.


Sau Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (5-1941), phong trào Việt Minh ở Cao Bằng phát triển rộng khắp. Đặc biệt, ba châu Hoà An, Hà Quảng, Nguyên Bình đã trở thành “châu Việt Minh hoàn toàn”. Trong bối cảnh đó, cuối năm 1941, Tô Văn cắm quyết định đi theo cách mạng. Mùa xuân năm 1942, Tô Văn Cắm cùng với Thanh Uy (một cán bộ phong trào của Đề Thám) xuống xã Thượng Ân tuyên truyền, vận động được hơn chục người tham gia vào Hội nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc.


Tháng 2-1944, Tô Văn Cắm cùng với một số cán bộ địa phương theo học một lớp quân chính (Khoá III) do đồng chí Lê Thiết Hùng phụ trách, mở tại rừng Lũng Chí thuộc xã Tam Lộng. Khi khoá học này kết thúc cũng là lúc làn sóng khủng bố trắng của quân địch dâng cao. Hàng trăm thanh niên ưu tú của Cao Bằng phải lánh vào rừng, tổ chức các đội vũ trang thoát ly chống khủng bố. Riêng bản Um-quê của Tô Tiến Lực (lúc này đã đổi thành bí danh) có tới 3 người nằm trong số này là: Tô Tiến Lực, Tô Đình Tuy và Nguyễn Văn Trần. Trong những năm từ 1941-1944, chàng thanh niên lỳ lợm và có chút ngang ngạnh này không được đi đây, đi đó như một số cán bộ Việt Minh khác mà chỉ ở lại lặn lội với phong trào địa phương. Chính vì vậy mà khi Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân ra đời ở khu rừng Trần Hưng Đạo, ngay từ đầu, ông đã được lọt vào tầm ngắm của các cấp lãnh đạo, chỉ huy khi duyệt danh sách Đội. Mặc dầu chưa được trải qua một trường quân sự bài bản nào và cũng chưa trải qua trận đánh nào, nhưng bù lại, Tô Văn cắm là người thông thạo địa hình, am hiểu địch tình, lại có kinh nghiệm vận động quần chúng. Cùng với Nông Văn Quang, Nông Văn Lạc, Đặng Tuần Quý, Nông Văn Xương (tức bé Hồng)..., Tô Văn Cắm đã tích cực vận động bà con dân bản đóng góp sức người, sức của cho thành công của buổi lễ ra mắt Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân cũng như trong 2 trận đầu ra quân đánh đồn Phai Khắt và Nà Ngần.


Sau khi cùng Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân lên đánh đồn Đồng Mu trở về, Tiến Lực hoạt động vũ trang tuyên truyền ở vùng cao hai huyện Nguyên Bình, Ngân Sơn.

Ngày 23-9-1945, tiếng súng kháng chiến chống thực dân Pháp vang lên ở Nam Bộ. Phong trào “Nam tiến” phát triển mạnh khắp các địa phương ở Bắc và Trung Bộ. Theo tiếng gọi “sơn hà nguy biến”, nhiều đoàn quân Nam tiến đã hăm hở lên đường chi viện cho Nam Bộ. Cả ba anh em Tô Tiến Lực đều có mặt trong những đoàn quân đó. Vào đến Nam Bộ mới được một thời gian ngắn thì giữa năm 1946, trong một trận chống càn. Tô Tiến Lực bị thương nặng phải quay trở ra Bắc và sau đó được giải ngũ về địa phương.


Sau sự kiện quân Pháp nhảy dù xuống Bắc Kạn (7-10- 1947), Tô Tiến Lực quay trở lại Quân đội. Trong chiến dịch Biên Giới thu đông năm 1950, trên cương vị Trung đội trưởng phòng không, ông tham gia đánh đồn Đông Khê lần thứ hai. Trong trận này, Tô Tiến Lực bị thương và chính vết thương này đã buộc ông sớm phải chia tay với binh nghiệp lúc tuổi đời còn rất trẻ và tràn đầy ước mơ, trở về với bản Um, với rừng Trần Hưng Đạo, nơi đã từng gắn bó với ông biết bao kỷ niệm.


Tháng 7-1992, đã ở cái tuổi “xưa nay hiếm”, Tô Tiến Lực vẫn quyết định bứt ra khỏi cái vòng luẩn quẩn của đói nghèo, tìm đường vào xây dựng kinh tế mới ở cao nguyên Lâm Đồng.

Hiện nay, ông đang sống cùng gia đình tại thôn 8, thị trấn Đạ Tẻh, Lâm Đồng.

Tô Tiến Lực đã được tặng thưởng:
- Huân chương Chiến thắng hạng Ba.


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 14 Tháng Tám, 2015, 08:56:56 pm
NGUYỄN VĂN CÀNG (1919 -1998)

Họ và tên: Nguyễn Văn Càng
Bí danh: Thu Sơn
Ngày tháng năm sinh: 19-11-1919
Quê quán: Hồng Việt - Hoà An Cao Bằng
Trú quán: Đức Long - Hoà An Cao Bằng
Dân tộc: Tày.


Năm 1936, Thu Sơn bắt đầu tham gia phong trào Thanh niên phản đế và làm liên lạc cho các cán bộ hoạt động cách mạng tại địa phương.

Giữa năm 1941, ông được kết nạp vào Đảng và được tổ chức cử đi học ở Trường quân sự Hoàng Phố (Trung Quốc). Tháng 10-1944, ông trở về nước và tham gia vào công tác chuẩn bị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân. Sau khi dự lễ tuyên thệ thành lập Đội (22-12-1944), Thu Sơn được giao làm Tiểu đội trưởng. Với tầm vóc cao to, dáng vẻ oai phong, có “chiếc mũi lõ” giống Tây, hơn nữa lại có vốn tiếng Pháp tương đối khá, vì vậy trong trận đánh đồn Phai Khát. Tiểu đội trưởng Thu Sơn nhập vai “đội xếp", mượn tiếng đón “quan châu” để tập hợp binh lính trong đồn, tạo điều kiện cho anh em trong Đội hạ đồn chỉ trong vòng 30 phút.

Sau đó, Thu Sơn tiếp tục tham gia cả hai trận Nà Ngần và Đồng Mu.

Tháng 4-1945, Thu Sơn chỉ huy một trung đội hoạt động trên tuyến đường Chợ Đồn - thị xã Bắc Kạn. Ngày 19-8, chính ông là người đã tiếp xúc với đại diện chỉ huy quân Nhật tại sân bay Bắc Kạn để thương lượng chuẩn bị cho cuộc đàm phán giữa bộ chỉ huy quân Nhật và lãnh đạo đoàn thế Việt Minh.

Trong Cách mạng tháng Tám, Thu Sơn là một trong những cán bộ lãnh đạo, chỉ huy đầu tiên vào giải phóng tỉnh lỵ Bắc Kạn, giành chính quyền ngày 21-8-1945.

Ngày 23-9-1945, tiếng súng kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ bùng nổ; cả nước lắng nghe lời kêu gọi “sơn hà nguy biến”. Đầu tháng 10, Thu Sơn được đồng chí Võ Nguyên Giáp giao nhiệm vụ xuống Nam Định nắm tình hình, chuẩn bị tổ chức các đội quân Nam tiến.


Một ngày chớm đông, tiết trơi bắt đầu se lạnh, trên sân ga Đồng Giao. Chi đội trưởng Thu Sơn xúc động nhận từ tay đồng chí Hoàng Sâm - Khu bộ trưởng Khu 2, người Đội trưởng Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân ngày nào, thanh kiếm và lá cờ Tổ quốc. Thay mặt Chi đội, Thu Sơn hứa với Khu bộ trưởng và đại biểu hai tỉnh Nam Định, Ninh Bình rằng Chi đội Nam tiến của ông kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ tại chiến trường.
Trên suốt chặng đường hành quân từ ga Đồng Giao vào tới Nha Trang, Thu Sơn là chồ dựa tin cậy của anh em cán bộ và chiến sỹ trong Chi đội. Vốn tiếng Tàu vào loại khá và bản lĩnh vững vàng của người chỉ huy đã giúp ông và Chi đội vượt qua được nhiều trở ngại, thậm chí cả hiểm nguy do quân Tưởng gây ra trên đường hành quân vào Nam.


Cuối tháng 10-1945, Chi đội của Thu Sơn vừa "chân ướt, chán ráo" vào đến Ninh Hoà thì lập tức được giao nhiệm vụ tăng cường cho Mặt trận Nha Trang đánh quân Pháp vừa mới nống ra ngày 22-10-1945.

Đang “lạ nước, lạ cái” nhưng Thu Sơn đã nhanh chóng nắm tình hình, chỉ huy Chi đội phân tán thành từng nhóm nhỏ, bám sát địch, tổ chức tập kích, phục kích, chia cắt, tiêu diệt được nhiều sinh lực của chúng.

Sau gần ba tháng quần nhau với quân Pháp ở Mặt trận Nha Trang, đầu năm 1946, Thu Sơn cùng Chi đội được lệnh rút ra Phú Yên để củng cố lực lượng.

Hiệp định Sơ bộ 6-3 (năm 1946) được ký kết, Chi đội của Thu Sơn giải tán, một số đi học tại Trường Lục quân Quảng Ngãi, một số làm nòng cốt tăng cường cho các đơn vị bạn. Riêng Chi đội trưởng Thu Sơn được cử làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 79 Phú Yên vừa mới thành lập.


Một thời gian sau đó, ông được điều lên làm Phân khu trưởng Bắc Tây Nguyên. Tại đây, Thu Sơn bị thương nặng, thêm vào đó là bị bệnh sốt rét hành hạ thường xuyên nên sức khoẻ giảm sút nhanh chóng.

Đầu năm 1950, Thu Sơn được trên cho ra Bắc dưỡng bệnh, sau đó trở về quê hương làm Tỉnh đội trưởng Cao Bằng.

Năm 1953, ông lại được điều sang làm Tỉnh đội trưởng Tuyên Quang, rồi năm 1958 làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh kiêm Tỉnh đội trưởng. Trong đợt phong quân hàm năm 1958, Thu Sơn được nhận cấp trung tá.

Tháng 2-1962, Thu Sơn chuyển về làm Chánh án Toà án nhân dân Khu tự trị Việt Bắc và liên tục công tác ở đây gần 10 năm.

Dù trên cương vị công tác nào thì tính khí Thu Sơn vẫn thế: bộc trực, thẳng thắn, làm việc hết mình, “dám làm, dám chịu” và biết bảo vệ cái đúng đến cùng... Có thể vì thế mà đầu năm 1971, phần do vết thương tái phát, phần vì một lý do khách quan khác, Thu Sơn kiên quyết xin nghỉ hưu, mặc dù lúc đó ông mới 52 tuổi.

Ngày 10-4-1998, do tuổi cao sức yếu, Thu Sơn qua đời tại quê nhà, xã Đức Long, huyện Hoà An, Cao Bằng.

Thu Sơn đã được Nhà nước tặng thưởng:
- Huân chương Độc lập hạng Nhỉ;
- Huân chương Chiến thắng hạng Nhất;
- Huân chương Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hạng Nhất.


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 14 Tháng Tám, 2015, 08:58:36 pm
NGUYỄN VĂN CƠ (1920 -1997)

Họ và tên: Nguyễn Văn Cơ
Bí danh: Đức Cường
Ngày tháng năm sinh: 1920
Quê quán: Đề Thám - Hoà An - Cao Bằng
Trú quán: Ninh An - Ninh Hoà – Khánh Hoà
Dân tộc: Kinh.


Cuối tháng 8-1997, chính quyền và nhân dân xã Ninh An (Ninh Hoà, Khánh Hoà) thương tiếc tiễn đưa một người Đội viên Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân về nơi yên nghỉ cuối cùng tại quê hương thứ hai của ông - xã Ninh An - huyện Ninh Hoà. Sinh ra và lớn lên ở Hoà An - Cao Bằng nhưng 50 năm có lẻ, Đức Cường đã gắn bó máu thịt với vùng đất Nam Trung Bộ này. Thật nghiệt ngã làm sao, người Đội viên Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân ấy, sau hàng chục năm sống “mai danh, ẩn tích” lại đột ngột ra đi khi vừa mới được bước chân vào ngôi nhà tình nghĩa mà Tỉnh ủy ủy ban nhân dán tỉnh Khánh Hoà xây tặng chưa được bao lâu. Nghe tin ông mất, Đại tướng Võ Nguyên Giáp từ Hà Nội đã gửi điện chia buồn và tiên vào phúng viếng hương hồn ông.


Trong những năm 1936-1939, phong trào quần chúng đòi quyền tự do dân chủ, dân sinh nổ ra khắp nơi trong tỉnh Cao Bằng, đặc biệt là tại các châu Hoà An, Hà Quảng, Nguyên Bình. Lo sợ phong trào đang có xu hướng lan rộng đó, thực dân Pháp đã thẳng tay đàn áp khủng bố. Đầu năm 1938, sau khi được giác ngộ và tôi luyện trong phong trào ở địa phương và để tránh bị địch bắt, Nguyễn Văn Cơ quyết định rời xã Đề Thám đi thoát ly hoạt động cách mạng. Năm 1940, ông được tổ chức chọn và cử sang Trung Quốc học tập.


Năm 1943, Nguyễn Văn Cơ trở về nước hoạt động với tên bí danh là Đức Cường. Tháng 12-1944, Đức Cường được chọn tham dự lễ tuyên thệ thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, sau đó ông tham gia cả 3 trận đánh đồn Phai Khắt, Nà Ngần và Đồng Mu. Ngày 23-9-1945, quân dân Nam Bộ đứng lên kháng chiến. Chỉ một tháng sau, Đức Cường đã có mặt trong đội hình Chi đội Thu Sơn lên đường Nam tiến.


Cuối tháng 10-1945, đoàn tàu chở Chi đội Thu Sơn vào đến Quảng Ngãi và dừng chân nghỉ lại 3 ngày. Tại đây, anh em trong Chi đội được tham quan, gặp gỡ thân mật và giao lưu với đại biểu các tổ chức, đoàn thể ở địa phương. Chính trong khoảng thời gian ngắn ngủi đó, Đức Cường đã kịp làm thân với một cô gái đất Quảng (về sau cô gái đó chính là người bạn đời của ông; ông cưới vợ năm 1950 và có 8 người con). Trong kháng chiến chống Pháp, ông từng giữ chức Đại đội trưởng Đại đội bảo vệ của Quân khu 5. Hòa bình lập lại, do bị bệnh thấp khớp nặng và nặng tai, không thể đi tập kết ra Bắc, Đức Cường được tổ chức cho xuất ngũ về với gia đình ở làng Thanh Sơn, xã Phổ Cường, huyện Đức Phổ, Quảng Ngãi. Một thời gian sau, cả gia đình chuyển vào Ninh An - Ninh Hoà sinh sống. Trong kháng chiến chống Mỹ, có thời gian (1963-1965) ông làm cán bộ xã đội Ninh An. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng khá lâu, khi sức khoẻ hồi phục, Đức Cường mới có dịp trở về thăm quê ở xã Đê Thám, Hoà An, Cao Bằng. Mãi tới lúc này người ta mới biết ông là một trong 34 người có mặt trong buổi lễ tuyên thệ của Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân vẫn còn sống. Đức Cường gắn bó với chiến trường Nam Trung Bộ từ ngày Nam tiến cho đến khi đất nước thống nhất. Người con trai cả của ông cũng đã anh dũng hy sinh tại mảnh đất này 4 tháng trước ngày toàn thắng (30-4-1975). Khi phát hiện ra Đức Cường là đội viên Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, thực hiện chính sách đền ơn đáp nghĩa, Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh Khánh Hoà đã xây tặng ông ngôi nhà tình nghĩa rộng 50 m2 khang trang, đẹp đẽ trên mảnh đất 100m2. Nhưng hưởng niềm vui đó chưa được bao lâu thì tháng 8 năm 1997 Đức Cường đã đột ngột ra đi sau một cơn tai biến mạch máu não.


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 14 Tháng Tám, 2015, 08:59:20 pm
TRƯƠNG VĂN CÙ (1906 -1956)

Họ và tên: Trương Văn Cù
Bí danh: Văn Trường, Đồng, Trương Đắc...
Ngày tháng năm sinh: 1906
Quê quán: Giáp Giải - Minh Tâm - Nguyên Bình - Cao Bằng
Dân tộc: Tày

Cũng giống như nhiều “đồng hương” xã Minh Tâm trong Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân (Dương Mạc Thạch, Chu Văn Đê, Ma Văn Phiêu), Trương Văn Cù bắt đầu con đường hoạt động cách mạng của mình bằng việc tham gia Hội thanh niên phản đê ở địa phương.


Vốn là một chàng trai xông xáo, dũng cảm, giỏi võ nghệ, Trương Văn Cù nhanh chóng trở thành hạt nhân tiêu biểu của Hội thanh niên phản đế Gia Bằng. Năm 1935, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 4-1941, theo chỉ thị của Tỉnh ủy, Đảng bộ châu Lam Sơn cử hai đảng viên tiêu biểu là Trương Vãn Cù và Ma Văn Chúc đi học quân sự ở Điền Đông (Trung Quốc).


Đầu năm 1942, Trương Văn Cù trở về nước với bí danh hoạt động là Trương Đắc. Giữa năm 1942, cả ba anh em nhà họ Trương: Trương Đắc, Trương Văn Lượng và Trương Thị Trưng bị địch truy lùng gắt gao, đã buộc phải rút vào hoạt động bí mật. Ông hoạt động ở Minh Tâm một thời gian, sau đó được phân công phụ trách tổ xung phong Nam tiến xuống các xã vùng cao dân tộc Dao phía nam châu Nguyên Bình. Nhiều người cho rằng Trương Đắc là người "cao số" bởi không ít lần ông đã vượt qua được cái chết chỉ trong gang tấc. Có lần đang chủ trì một cuộc họp quan trọng, bọn phản động mò đến và dí súng vào sát vách, nơi Trương Đắc đang ngồi tựa lưng, bóp cò nhưng rất may, viên đạn thối không nổ.


Trong hai năm 1943-1944, Trương Đắc được tham dự khá nhiều lớp huấn luyện; từ các lớp mở ở Gia Bằng, Tam Lộng cho đến lớp bổ túc ở Trường Quân hiệu 3 (Khau Giáng - Tam Kim). Ông cũng là người có nhiều đóng góp cho phong trào ở các xã Kim Mã, Tam Lộng, Thượng Ân, Cốc Đán trong thời kỳ này.


Giữa tháng 12-1944, đang phụ trách đội chống khủng bố ở các xã vùng cao phía nam Nguyên Bình, Trương Đắc được gọi về tham gia thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân. Ông tham gia cả 3 trận đánh Phai Khắt - Nà Ngần - Đồng Mu của Đội; sau đó trở về Hoa Thám làm công tác vận động quần chúng.


Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), Trương Đắc theo một cánh quân của Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân "Nam tiến" xuống vùng Bắc Kạn, Thái Nguyên.

Sau này, khi Trung đoàn 72 được thành lập, ông là Chính trị viên Tiểu đoàn 49 của trung đoàn này.

Đầu năm 1946, Trương Đắc được điều lên làm phái viên của Bộ Quốc phòng phụ trách 6 tỉnh Cao - Bắc - Lạng - Hà - Tuyên - Thái. Năm 1950, vì lý do sức khoẻ, Trương Đắc xin phục viên về sống ở Phấn Mễ - Phú Lương - Thái Nguyên. Năm 1953, ông trở về quê Cao Bằng, làm Chủ tịch Ủy ban hành chính xã Minh Tâm được một khoá, đến năm 1956 thì mất do bệnh hiểm nghèo


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 15 Tháng Tám, 2015, 09:52:30 pm
HOÀNG VĂN CỦN (1919 -1986)

Họ và tên: Hoàng Văn Củn
Bí danh: Hoàng Quyền, Hoàng Thịnh
Ngày tháng năm sinh: 1919
Quê quán: Đồng Danh, Tràng Xá, Võ Nhai, Thái Nguyên
Dân tộc: Tày.


Được thừa hưởng “gien” của ông bố nên chàng trai người Nùng - Hoàng Văn Củn đã giác ngộ cách mạng từ rất sớm. Cha ông cũng là một lão thành cách mạng, liệt sĩ trong kháng chiến chống Pháp và được truy tặng Bằng có công với nước. Tuy vậy, phải bước sang tuổi 18 (năm 1937) Hoàng Văn Củn mới chính thức tham gia hoạt động cách mạng và cũng từ đây người ta không gọi ông theo tên “cúng cơm” Hoàng Văn Củn nữa mà gọi theo bí danh là Hoàng Thịnh (có thời kỳ còn gọi là Hoàng Quyền). Cậu Củn ngô nghê ngày nào chỉ sau 3 nàm lăn lộn vói phong trào cách mạng địa phương đã nhanh chóng trở thành một cán bộ xông xáo, dũng cảm và dày dạn kinh nghiệm của phong trào du kích Bắc Sơn và trỏ thành Đội viên của Cứu quốc quân II. Tiếng tăm nhanh chóng lan xa. Quân Pháp nhiều lần lùng sục tìm bắt ông nhưng không được, chúng đã bắt cả gia đình đưa sang nhà tù Chợ Chu tra khảo. Tháng 10-1941, Hoàng Thịnh vinh dự được kết nạp vào Đảng. Từ một cán bộ của du kích Bắc Sơn, ông được tổ chức phân công làm cán bộ phong trào, vận động quần chúng tham gia Việt Minh ở vùng núi phía Bắc của tỉnh Bắc Kạn. Sau một thời gian bám trụ chiến đấu tại Võ Nhai, Cứu quốc quân II buộc phải rút lên vùng biên giới Việt - Trung để bảo toàn lực lượng. Tháng 4-1943, một số đội viên Cứu quốc quân, trong đó có Hoàng Thịnh, được tăng cường cho con đường cách mạng Nam tiến. Tại châu Ngân Sơn, Hoàng Quyển (bí danh của ông thời kỳ này) chỉ huy chống khủng bố ở các xã Vân Tùng, Thượng Quan, Thuần Mang...


Tháng 12-1944, Hoàng Thịnh là một trong số những đội viên Cứu quốc quân được đồng chí Võ Nguyên Giáp giới thiệu và được tổ chức chọn tham gia Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân. Sau buổi lễ ra mắt tại khu rừng Trần Hưng Đạo, Hoàng Thịnh tham gia các trận đánh đồn Phai Khắt, Nà Ngần. Sau đó, ông không đi đánh đồn Đồng Mu mà ở lại làm nhiệm vụ phát triển vũ trang tuyên truyền ở Nguyên Bình, Ngân Sơn theo lệnh của cấp trên mặc dù ông rất muốn được đi cùng với anh em trong Đội.


Đầu năm 1945, trên cương vị Trung đội phó Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân. Hoàng Thịnh là một trong những cán bộ nòng cốt của phong trào kháng Nhật và trừng trị phản động ở huyện Na Rì, tỉnh Bác Kạn. Trong Tổng khởi nghĩa tháng 8-1945, ông làm Đại đội trưởng Việt Nam Giải phóng quân tham gia cướp chính quyền ở Thái Nguyên.


Đầu năm 1946, Hoàng Thịnh được giao chỉ huy Chi đội Độc lập I lên đường “Nam tiến”, nhưng vừa mới hành quân vào tới Vĩnh Linh thì ông bị ốm nặng buộc phải chia tay với Chi đội và quay trở ra Bắc. Năm 1947, ông làm Trung đoàn phó Trung đoàn Phúc - Thái.


Năm 1952, Hoàng Thịnh được cử sang Trung Quôc học. Tháng 1-1953, về nước, do sức khoẻ yếu, ông chuyển ngành ra làm cán bộ nông hội, rồi cán bộ giao thông của tỉnh Bắc Kạn.

Đầu năm 1957, Hoàng Thịnh được Trung ương chỉ định tham gia Tỉnh ủy Bắc Kạn và được phân công làm Trưởng ty công an Bắc Kạn. Năm 1958, ông được Khu ủy Việt Bắc điều lên Khu làm Ủy viên Ban công tác nông thôn; sau đó một thời gian lại được điều về làm Phó chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch, rồi làm Viện trưởng Viện kiểm sát tỉnh Thái Nguyên.


Năm 1967, Hoàng Thịnh quay trở lại quê hương Võ Nhai làm Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện cho đến năm 1973 thì nghỉ hưu. Ông mất năm 1986 tại quê, thọ 67 tuổi.


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 15 Tháng Tám, 2015, 09:54:04 pm
VÕ VĂN DẢNH (1905-1991)

Họ và tên: Võ Văn Dảnh
Bí danh: Võ Văn Luận, Võ Văn Trung
Ngày tháng năm sinh: 15-8-1905
Quê quán: Đồng Lâm - Đức Hoá - Tuyên Hoá - Quảng Bình
Dân tộc: Kinh.


Cuối năm 1989, tại Hà Nội đã diễn ra một cuộc gặp mặt cảm động giữa đoàn cựu chiến binh Quảng Bình với người đồng chí - đồng hương của họ - Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Trong số những cựu chiến binh Quảng Bình vinh dự được ra thăm Thủ đô lần đó có một đội viên Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân. Đó là Võ Văn Luận. Đối vối ông, trong chuyến ra thăm Thủ đô lần này niềm vui còn được nhân lên gấp bội bởi sau 45 năm, kể từ buổi tuyên thệ của Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân ở khu rừng Trần Hưng Đạo, ông mới gặp lại “Anh Văn” - người đồng hương, người thủ trưởng cũ của mình. Trong chiến tranh đã đành, đằng này đất nước hoà bình đã được bao nhiêu năm, vậy mà Võ Văn Luận vẫn cứ sống ẩn dật ở một vùng quê xa xôi của huyện Tuyên Hoá - Quảng Bình, để bao nhiêu lần “Anh Văn” và cả các đồng chí, đồng đội Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân năm xưa lần tìm tung tích. Trong khu rừng Trần Hưng Đạo - nơi ra đời Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, trên tấm bia cũng chỉ có một dòng thông tin ngắn ngủi: “Đ/c Luận, quê quán Quảng Bình”.


Linh tính mách bảo thế nào mà năm 1989 - đúng dịp kỷ niệm 45 năm thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, Võ Văn Luận quyết định ra thăm Thủ đô và tìm gặp lại người chỉ huy năm xưa. Ý định của ông lại trùng hợp với lời mời của Hội Cựu chiến binh tỉnh Bình Trị Thiên.

Có lẽ Võ Văn Luận đã toại nguyện rồi chăng, bởi sau khi từ Hà Nội trở về được hơn một năm (tháng 2-1991), ông đã "ra đi" một cách thanh thản vào cõi vĩnh hằng.

Võ Văn Luận sinh ra tại một vùng quê nghèo khó của huyện Tuyên Hoá - Quảng Bình. Tên “cúng cơm” ở quê của ông là Võ Văn Dảnh. Nhà có 7 anh em thì nạn đói đã cướp đi 6, chỉ cồn lại cậu út Dảnh. Năm 1917, một người tốt bụng trong làng đã thương tình mang theo Dảnh (lúc này mới 12 tuổi) qua Lào làm thuê kiếm sống.
Ông ở Lào được 3 năm thì sang Thái Lan. Tại đây, Dảnh may mắn gặp được người đồng hương quê Quảng Trạch tên là Đoàn Hồng đón về ở trong nhà. Gia đình của ông Đoàn Hồng là một cơ sở cách mạng của ta ở Thái Lan. Hàng ngày, Dảnh được nuôi ăn học và ý thức giác ngộ cách mạng đã sớm được hình thành ở cậu học sinh này. 18 tuổi đầu, trong một lần tham gia biểu tình, rải truyền đơn, ông bị cảnh sát U Đom bắt giam. Do ở trong tù, Dảnh khai là “cha Tàu, mẹ Á Nam”, nên mãn hạn tù (1938), Võ Văn Dảnh bị trả về Trung Quốc. Dảnh đến Trung Quốc với một cái tên mới: Võ Văn Trung. Tại đây, ông được các đồng chí Lê Thiết Hùng, Nguyễn Sơn dìu dắt, giúp đỡ; được theo học các khoá huấn luyện và được vinh dự tham gia cuộc Vạn lý trường chinh của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc.


Năm 1943, Võ Văn Trung về nước hoạt động ở vùng Lục Khu (Cao Bằng) với một tên mới là Võ Văn Luận.
Ngày 22-12-1944, Võ Văn Luận được chọn vào Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân. Ông rất tự hào vì ngoài “Anh Văn”, trong Đội còn có một người đồng hương khác là Đội trưởng Hoàng Sâm. Đúng là “duyên kỳ ngộ”! Ba người con Quảng Bình ra đi bằng những con đường khác nhau lại có dịp cùng sát cánh chiến đấu trong một trong những đội quân tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam.


Trong số ba trận đánh đầu tiên của Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân: Phai Khắt, Nà Ngần, Đồng Mu mà Võ Văn Luận được tham gia thì có lẽ trận Phai Khắt để lại cho ông nhiều kỷ niệm đáng nhớ nhất. Trong trận này, Võ Văn Luận được giao nhiệm vụ chặn ở cổng đồn. Khi phát hiện tên đồn trưởng người Pháp đi ngựa từ Nguyên Bình vào, không nén nổi lòng căm thù, ông đã nổ súng “hạ” ngay, mặc dầu theo kế hoạch là không được nổ súng mà phải bắt. Chính vì vậy mà sau trận này Võ Văn Luận đã bị phê bình, kiểm điểm.


Vốn là một người ít nhiều có am hiểu về Lào, đầu năm 1947 Võ Văn Luận được chọn đi “Tây tiến”. Khí hậu khắc nghiệt vùng núi rừng Tây Bắc đã làm suy kiệt sức khoẻ vốn đã yếu sẵn của ông. Vì thế, mới lên đến Sơn La, bị bệnh tật hành hạ, Võ Văn Luận đã buộc phải quay lại Việt Bắc. Sau đó, ông được điều về Khu 4.

Được trở lại miền Trung là niềm khát khao bấy lâu của ông. 30 năm sau ngày “tha phương cầu thực”, Võ Văn Luận mới có dịp về thăm lại quê hương và xây dựng gia đình.

Ngày ra đi, ông là đứa trẻ mồ côi cả cha lẫn mẹ, sông cuộc đời của kẻ nô lệ; người dân Đức Hoá quê ông cũng “sống hôm nay không biết đến ngày mai”. Nay Đức Hoá đã có chính quyền cách mạng, nhiều người dân phiêu bạt, lưu lạc như ông cũng đã lần lượt quay về. Chỉ có điều, dân Đức Hoá không ai nghĩ là “thằng Dảnh tội nghiệp” còn sống và còn biết đường mà tìm về quê. Vậy nên sự xuất hiện đường đột của ông đã làm cho dân làng, thậm chí cả chính quyền xã, ngỡ ngàng đến độ nghi kỵ.


Võ Văn Luận ngồi trên lưng ngựa, vai khoác khẩu súng dài, lưng dắt khẩu súng ngắn và chiếc kiếm bóng loáng xuất hiện ở cổng làng. Dân Đức Hoá chưa bao giờ trông thấy một cán bộ cách mạng nào ăn vận “oai” như vậy. Chưa hết, vừa đến đầu làng, ngồi trên lưng ngựa, Võ Văn Luận rút súng bắn liền mấy phát, mà theo ông là để “chào mừng quê hương”. Đích thị là “Quốc dân đảng” rồi! Cách mạng chi lại có người như rứa?”. Dân tình bàn tán xôn xao, rồi đến chính quyển cũng sinh nghi và kết cục là Võ Văn Luận bị bắt giam. Rất may, chỉ một thời gian ngắn sau đó, nhờ sự can thiệp của trên, Võ Văn Luận được minh oan và được bố trí công tác tại địa phương. Để “tự minh oan”, ông đã một mình bắt tên Việt gian khét tiếng Võ Cảnh giữa thanh thiên bạch nhật, ngay tại chợ Ba Đồn, sau đó đem giao nộp cho đồng chí Đồng (tức Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên sau này).


Năm 1951, Võ Văn Luận được Trung ương gọi ra để chuẩn bị sang hoạt động ở Lào. Mới được hơn một năm thì bệnh tật tái phát và hành hạ buộc ông phải chia tay quân đội, trở về quê. Suốt từ đó cho đến lúc qua đời (tháng 2-1991), ông tham gia hoat động ở địa phương.

Võ Văn Luận đã được tặng thưởng:
Huy chương Kháng chiến chống Pháp (tháng 8-1952)


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 15 Tháng Tám, 2015, 09:54:56 pm
TÔ VŨ DÂU (1922 - 2001)

Họ và tên: Tô Vũ Dâu
Bí danh: Thịnh Nguyên
Ngày tháng năm sinh: 1-1-1922
Quê quán: Vinh Quang - Hoà An - Cao Bằng
Dân tộc: Tày.


Đầu năm 1937, Gôđa - đại diện Chính phủ Mặt trận Bình dân Pháp đi thị sát tình hình Cao Bằng. Trong đòàn người đi “đón” hôm đó tại ngã ba Khău Đồn (Hoà An), người ta thấy một chàng trai dáng người mảnh khảnh cố len lỏi giữa đám đông để đưa bằng được bản "dân nguyện" cho vị đại diện Chính phủ Mặt trận bình dân Pháp. Chàng trai dũng cảm đó, chính là Tô Vũ Dâu.


Tô Vũ Dâu bắt đầu được giác ngộ cách mạng thông qua việc tiếp xúc, đọc và nghiên cứu các tờ báo "Nhành lúa", "Lao động"... Ông tham gia phong trào thanh niên địa phương từ năm 1937. Tháng 7-1941, vận hội mới mở ra cho ông khi một cán bộ Việt Minh tên là Tài Nam về Vĩnh Quang bắt liên lạc với nhóm của Tô Vũ Dâu, Trọng Việt, Lưu Ngọc để tuyên truvền về Điều lệ và Cương lĩnh của Mặt trận Việt Minh.


Không giống như nhiều đội viên Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân khác, trong những năm 1941-1944. Tô Vũ Dâu không đi ra nước ngoài học mà ở lại xây dựng phát triển phong trào Việt Minh, tổ chức các đoàn thể Cứu quốc ngay tại địa phương. Bằng uy tín và năng khiếu tuyên truyền, ông đã cùng với một số cán bộ trung kiên vận động được cả lý trưởng và các chức dịch trong xã trở thành hội viên của Hội Cứu quốc. Bản thân ông được cử làm Chủ nhiệm Việt Minh xã Vệ Linh.


Cuối năm 1943, đầu năm 1944, trước làn sóng khủng bố của thực dân Pháp, các hội Cứu quốc buộc phải thu hẹp quy mô và phạm vi hoạt động; một số cán bộ cốt cán buộc phải rút vào hoạt động bí mật. Lúc này, Tô Vũ Dâu vừa phải giữ vững liễn lạc giữa cấp trên với cơ sở; vừa phải chỉ huy các tổ trung kiên duy trì sự tồn tại của phong trào.


Tháng 7-1944, do cơ sở bị khủng bố, trước sự lùng bắt ráo riết của quân Pháp. Tô Vũ Dâu phải rút vào hoạt động bí mật với một cái tên mới: Thịnh Nguyên. Sau đó, ông được bổ sung vào đội vũ trang của tổng Hồng Việt. Ngày 22-12-1944, Thịnh Nguyên vinh dự được chọn trong số những đội viên xuất sắc của đội vũ trang Hồng Việt tham gia lễ tuyên thệ của Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân.


Thịnh Nguyên tham gia hai trận đánh đồn Phai Khắt và Nà Ngần, nhưng đến trận Đồng Mu thì ông không có mặt do điều kiện sức khoẻ. Căn bệnh kiết lỵ mạn tính và những đợt sốt rét kéo dài đã buộc ông phải sớm chia tay với Đội Việt Nam tuyên truvền Giải phóng quân trước khi Đội rời Lũng Dẻ hành quân lên Bảo Lạc để đánh đồn Đồng Mu.


Thịnh Nguyên được phân công về cơ quan Liên tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng và tại đây, ngày 1-1-1945, ông được kết nạp vào Đảng. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945). Thịnh Nguyên được phái xuống Trà Lĩnh tham gia khôi phục phong trào cách mạng ở địa phương, đồng thời chỉ đạo cướp chính quyền trong Cách mạng tháng Tám. Giữa năm 1946. Thịnh Nguyên lại được tổ chức phân công về công tác tại Huyện ủy huyện Hạ Lang.

Cuối năm 1949, Thịnh Nguyên trở lại Hoà An, làm Phó Bí thư huyện ủy. Mấy tháng sau, ông lại được điều lên làm chuyên viên Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Cao Bằng.


Đầu năm 1953, do sức khoẻ yếu cộng với hoàn cảnh gia đình khó khăn, Thịnh Nguyên xin nghỉ việc ở Ban Tuyên huấn, trở về tham gia công tác tại địa phương.

Ông đã được tặng thưởng:
- Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Nhì;
- Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng.


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 15 Tháng Tám, 2015, 09:56:01 pm
DƯƠNG VĂN DẤU (1911-1971)

Họ và tên: Dương Văn Dấu
Bí danh: Dương Đại Long
Ngày tháng năm sinh: 15-1-1911
Quê quán: Pác Bó - Trường Hà - Hà Quảng - Cao Bằng
Trú quán: bản Bó - Phù Ngọc - Hà Quảng - Cao Bằng
Dân tộc: Nùng.


Những năm 1936-1939, phong trào quần chúng đòi quyền tự do dân chủ, dân sinh nổ ra khắp toàn tỉnh Cao Bằng, đặc biệt là ở các châu Hoà An. Hà Quảng... Chính trong bối cảnh đó, tháng 11-1937, chàng thanh niên người Nùng, Dương Đại Long đã được Lê Quảng Ba và Hoàng Tô giác ngộ đi theo cách mạng. Ông trở thành một hội viên trung kiên hoạt động trong phong trào phản đế ở Pác Bó - Trường Hà.


Sau ngày Bác Hồ về Pác Bó (28-1-1941), thực hiện chỉ thị của Người, châu Hà Quảng đã tổ chức thí điểm Việt Minh và xây dựng các đội tự vệ. Dương Đại Long trở thành một cán bộ nòng cốt của Đội tự vệ xã Trường Hà. Tháng 1-1942, ông đã được kết nạp vào Đảng.


Cuối năm 1943, trước những hoạt động khủng bố gắt gao của địch. Liên Tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng đã họp và quyết định thành lập các đội vũ trang thoát ly, các tổ xung phong chống khủng bố. Dương Đại Long được giao làm Đội trưởng Đội vũ trang của huyện Hà Quảng. Thời kỳ này, tại vùng Lục Khu, không mấy ai là không biết tiếng anh em nhà họ Dương, uy tín và ảnh hưởng của họ trong phong trào cách mạng ở địa phương rất lớn.


Tháng 12-1944, Dương Đại Long là một trong số những cán bộ nòng cốt của Đội vũ trang châu Hà Quảng được đồng chí Võ Nguyên Giáp và Liên tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng chọn vào Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân. Ông tham gia cả ba trận đánh Phai Khắt, Nà Ngần và Đồng Mu.


Sau trận đánh đồn Nà Ngần lần thứ hai, Dương Đại Long phụ trách một tiểu đội “Nam tiến” xuống hoạt động vũ trang tuyên truyền ở vùng Ngân Sơn, Bạch Thông, Na Rì... Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp. Dương Đại Long đã chỉ huy tước vũ khí của địch và thành lập chính quyền nhân dân ở Ngân Sơn; đồng thời tuyên truyền vận động thanh niên địa phương tham gia đánh quân Nhật.


Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Dương Đại Long được cử vào bản Ty làm Đại đội trưởng Việt Nam Giải phóng quân thay cho Thu Sơn đi “Nam tiến”. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông được điều về làm Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn độc lập của tỉnh Bắc Kạn.


Sau sự kiện quân Pháp nhảy dù xuống Cao Bằng. Dương Đại Long được điều lên làm Tiểu đoàn trưởng một tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 174. Trong những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Pháp, Dương Đại Long lần lượt làm Huyện đội trưởng các huyện Hà Quảng, Trà Lĩnh, Phục Hoà...

Đầu năm 1955, ông đi học lớp bổ túc chính trị, sau đó về làm Tỉnh đội phó tỉnh Tuyên Quang.

Năm 1958, ông được phong quân hàm đại uý. Tháng 7- 1959 ông chuyển ra làm Phó chủ tịch Ủy ban hành chính tỉnh Cao Bằng cho đến khi nghỉ hưu (tháng 12-1969).

Năm 1971, Dương Đại Long qua đời tại quê do tuổi cao, sức yếu.

Ông đã được tặng thưởng:
- Huân chương Quân công hạng Nhất;
- Huân chương Chiến sỹ vẻ vang hạng Ba;
- Bằng có công với nước.


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 15 Tháng Tám, 2015, 09:58:41 pm
Liệt sỹ CHU VĂN ĐẾ (1922 -1948)

Họ và tên: Chu Văn Đế
Bí danh: Nam, Bích Thông
Ngày tháng năm sinh: 1922
Quê quán: Gia Bằng (nay là xã Minh Tăm) - Nguyên Bình - Cao Bằng
Dân tộc: Tày.


Sinh ra và lớn lên ở một vùng quê giàu truyền thống cách mạng - nơi được lãnh tụ Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng ta chọn làm thí điểm tổ chức Mặt trận Việt Minh đầu tiên, vì vậy mà Chu Văn Đế được giác ngộ từ rất sớm. Nhà có hai anh em trai thì cả hai đều thoát ly hoạt động cách mạng từ năm 1938 và năm 1941, đều tham gia Mặt trận Việt Minh.


Đầu năm 1942, sau khi được tham dự lớp huấn luyện đầu tiên do đồng chí Võ Nguyên Giáp tổ chức tại hang Kéo Quảng (Gia Bằng), Chu Văn Đế tiếp tục ở lại hoạt động xây dựng cơ sở, phát triển phong trào tại địa phương. Vốn tính tình nhỏ nhẹ, hiền lành như con gái, Chu Văn Đê đã chiếm được cảm tình của bà con các dân tộc, vì vậy mà ông đã vận động được họ đi theo Việt Minh ngày càng nhiều.


Từ tháng 10-1943 đến tháng 1-1944, với bí danh là Bích Thông, Chu Văn Đế được tổ chức phân công xuống hoạt động tại vùng đèo Gió - Ngân Sơn.

Đầu năm 1944 là thời điểm phong trào cách mạng phát triển rất mạnh ở Nguyên Bình; đây cũng chính là lúc mà địch khủng bố rất gắt gao. Chúng tung lính ở đồn Nà Bao (Gia Bằng) vào các làng, bản lùng sục suốt ngày đêm. Tết Nguyên đán năm Giáp Thân (1944), sau khi đi dự lớp huấn luyện chính trị - quân sự ở rừng Lũng Chí về, hai anh em Chu Văn Ngoan và Chu Văn Đế bị địch phục kích. Người anh trúng đạn hy sinh, còn Chu Văn Đế may mắn chạy thoát.


Ngày 22-12-1944, Chu Văn Đế vinh dự là một trong bốn người con của quê hương Gia Bằng được gia nhập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân.

Sau khi tham gia cả ba trận Phai Khắt, Nà Ngần và Đồng Mu, Chu Văn Đế theo một mũi “Nam tiến” xuống hoạt động vũ trang tuyên truyền ở Bắc Kạn, Thái Nguyên.

Cuối năm 1945, Chu Văn Đế tham gia đoàn quân Nam tiến thuộc Chi đội Thu Sơn vào chiến đấu ở Quảng Ngãi, Bình Định, Tây Nguyên. Ngày 30-8-1948, ông đã hy sinh anh dũng tại mặt trận Kon Tum trong trận đánh sân bay Vanh Tiên thuộc khu vực Mường Hoong, huyện Đắk Lây. Lúc đó, ông giữ cương vị Trung đội trưởng.

Chu Văn Đế đã được công nhận là Liệt sĩ và được truy tặng Bằng Tổ quốc ghi công năm 1997.

Gia đình ông hiện nay không còn ai, ngoài một người cháu (con của người anh Chu Văn Ngoan) là anh Chu Nâu, công tác tại văn phòng Tỉnh ủy Cao Bằng


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 18 Tháng Tám, 2015, 06:50:05 pm
Liệt sỹ NÔNG VĂN KIẾM (1924 -1948)

Họ và tên: Nông Văn Kiếm
Bí danh: Liên
Ngày thảng năm sinh: 1924
Quê quán: An Mạ - Tam Kim - Nguyên Bình - Cao Bằng
Dân tộc: Tày.


Bước sang năm 1942, phong trào cách mạng ở châu Nguyên Bình đã phát triển sâu rộng đến nhiều làng bản ở vùng cao. Đặc biệt, trong các bản, làng Tày, Nùng, ta đã xây dựng được một số cơ sỏ cách mạng. Nhiều thanh niên Tày, Nùng, Dao... đã gia nhập phong trào Việt Minh - trong số đó có cả ba anh em nhà họ Nông là Nông Văn Quang, Nông Văn Xửng và Nông Văn Kiếm.


Thực hiện Nghị quyết của Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8, mùa xuân năm 1943, Nguyên Bình là địa phương được chọn để mở các lớp huấn luyện cho số cán bộ phong trào Việt Minh trong vùng. Đấy chính là cơ hội tốt để ba anh nhà Nông Văn Kiếm củng cố thêm nhận thức, rèn luyện thêm bản lĩnh, chuẩn bị hành trang đi làm cách mạng. Sau lớp huấn luyện này, Nông Văn Kiếm được giao phụ trách công tác tuyên truyền, giác ngộ thanh niên ở địa phương. Vốn mồ côi cả cha lẫn mẹ từ nhỏ, ba anh em Quang, Xửng, Kiếm tần tảo nuôi nhau. Nông Văn Kiếm rất được bà con dân bản, đặc biệt là lớp trẻ, gần gũi và tin yêu. Đầu năm 1944, bị quân địch truy lùng gắt gao, cả ba anh em nhà họ Nông phải chuyển vào hoạt động bí mật; vào rừng sinh sống và tổ chức đội vũ trang mang tên đội Đức Chính để chỉ đạo quần chúng chống lại làn sóng khủng bố. Những năm 1942-1944, Nông Văn Kiếm hoạt động chủ yếu ở vùng Kim Mã - Tam Lộng... Tại đây, ông đã giác ngộ và lôi cuốn được khá nhiều thanh niên địa phương, chủ yếu là con em các dân tộc ít người đi theo cách mạng.


Trước khi Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân thành lập, cả ba anh em Quang, Xửng, Kiếm đều xin được gia nhập Đội, nhưng cuối cùng chỉ một mình Nông Văn Kiếm là có vinh dự được lọt vào danh sách 34 chiến sĩ dự lễ thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân. Sau khi tham gia ba trận đánh đầu tiên của Đội (Phai Khắt, Nà Ngần, Đồng Mu), Nông Văn Kiếm quay trở về hoạt động ở Kim Mã - Tam Lộng. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp, ông "Nam tiến" xuống hoạt động ở Bắc Kạn, Thái Nguyên, rồi sau đó sang Lào Cai - Yên Bái tham gia đánh Quốc dân đảng phản động. Ông tham gia chiến dịch Sông Lô và giải phóng Tuyên Quang.


Cuối năm 1948, với chức vụ Tiểu đoàn phó, trong khi đang thực hiện nhiệm vụ “Tây tiến” lên Lào Cai thì Tiểu đoàn của ông lọt vào trận địa phục kích của quân Pháp. Nông Văn Kiếm đã anh dũng hy sinh khi vừa mới 24 tuổi.

Tháng 4-1958, Nông Văn Kiếm được truy tặng Huân chương Chiến thắng hạng Nhì và được công nhận là Liệt sĩ.


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 18 Tháng Tám, 2015, 06:50:45 pm
ĐINH VĂN KÍNH (1909 -1999)

Họ và tên: Đinh Văn Kính
Bí danh: Đinh Trung Lương
Ngày tháng năm sinh: 5-5-1909
Quê quán: Lê Lợi - Thạch An - Cao Bằng
Dân tộc: Tày.


Vốn là người ít nói và kín đáo; tính cách đó lại càng được khắc đậm khi rơi vào hoàn cảnh éo le - vợ chết sớm để lại một đứa con duy nhất bị bệnh tâm thần. Có lẽ chính vì thế mà ông không mấy khi kể về mình, thậm chí những dòng tự thuật của ông để lại cũng thật ngắn ngủi, nhất là về quãng thời gian hoạt động trước khi ông trở thành đội viên Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân.


Đinh Trung Lương tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1940. Trong những năm 1940-1944, ông hoạt động bí mật, đi tuyên truyền vận động nhân dân làm cách mạng ở vùng biên giới Việt - Trung. Tháng 12-1944, Đinh Trung Lương được Liên tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng chọn, giới thiệu vào Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân. Trên cương vị Chính trị viên tiểu đội, ông tham gia cả ba trận đánh Phai Khắt, Nà Ngần và Đồng Mu.


Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), Đinh Trung Lương chỉ huy một trung đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân tiến xuống Chợ Đồn (Bắc Kạn). Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, ông chỉ huy một đại đội Việt Nam Giải phóng quân trở lại Tân Trào.


Ngày 23-9-1945, tiếng súng kháng Pháp ở Nam Bộ bùng nổ, Đinh Trung Lương không có cái “may mắn” được Nam tiến như một số đội viên khác, mặc dù trong thâm tâm ông rất muốn và đã nhiều lần viết đơn đề đạt nguyện vọng. Tháng 11 năm đó, Đinh Trung Lương được điều về Trung đoàn Bắc Bắc và được giao chỉ huy một tiểu đoàn làm nhiệm vụ tiễu phỉ ở vùng cao Bắc Giang. Cuối năm 1946, ông được điều về làm Trung đoàn phó Trung đoàn 12 tham gia chặn đánh quân Pháp trên địa bàn Phúc Yên và Thái Nguyên.

Tháng 3-1953, Đinh Trung Lương rời quân đội, chuyển ngành về làm cán bộ thuế nông nghiệp huyện Thạch An; sau đó, được điều động làm cán bộ biệt phái của Khu tự trị Việt Bắc tại huyện Hoà An.

Gần 6 tháng sau, lấy lý do sức khoẻ yếu, ông xin về huyện nhà giúp địa phương làm công tác bình dân học vụ.
Trong những năm 1958-1959, khi phong trào hợp tác hoá nông nghiệp phát triển rầm rộ. Đinh Trung Lương lại được mời ra làm việc và giữ chức Phó chủ tịch Ủy ban hành chính huyện Thạch An.


Hơn 6 năm gánh vác trọng trách nặng nề, một phần do sức khoẻ yếu, một phần cảm thấy không thể tiếp tục đảm đương được nhiệm vụ, nên tháng 9-1965, ông làm đơn xin thôi chức Phó chủ tịch Ủy ban hành chính huyện, trở về làm cán bộ phong trào ở địa phương.

Tháng 8-1967, Đinh Trung Lương về nghỉ hưu. Ông mất ngày 18-9-1999 do tuổi cao, sức yếu.

Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Đinh Trung Lương chưa được nhận bất cứ một huân chương, huy chương nào. Năm 1998, địa phương mới làm các thủ tục đề nghị cấp trên xét tặng huân chương, huy chương cho ông. Nhưng những phần thưởng cao quý đó chưa kịp đến tay thì ông đã vĩnh viễn ra đi trong lòng tiếc thương khôn nguôi của đồng chí, đồng đội và bà con các dân tộc ở huyện Thạch An, Cao Bằng.


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 18 Tháng Tám, 2015, 06:51:55 pm
HÀ HƯNG LONG (1924...)   

Họ và tên: Hà Hưng Long
Ngày tháng năm sinh: 15-8-1924
Quê quán: Gia Tự - Nam Tuấn - Hoà An - Cao Bằng
Trú quân: An Tường - Yên Sơn - Tuyên Quang
Dân tộc: Tày.


Đầu năm 1941, thực hiện chủ trương tổ chức thí điểm Việt Minh của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Trung Ương Đảng, chỉ sau chưa đầy một tháng kể từ ngày Người đặt chân về Pác Bó, số hội viên cứu quốc của châu Hoà An đã lên tới hàng trăm người. Hà Hưng Long là người sớm có mặt trong số hội viên đó (5-3-1941). Ông nhanh chóng trở thành một đội viên tích cực của Đội tự vệ Hoà An. Trong khoảng thời gian từ sau Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 đến cuối năm 1944, Hà Hưng Long chủ yếu hoạt động ở vùng Hoà An - Hà Quảng. Ông cùng đội tự vệ làm nhiệm vụ hỗ trợ cho phong trào đấu tranh của quần chúng; bảo vệ các cuộc họp của Trung ương, của Tỉnh ủy, Châu ủy, đưa đón, bảo vệ an toàn cho các đoàn cán bộ qua lại địa phương... Khi Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân thành lập, Hà Hưng Long là một trong số những đội viên tự vệ của Hoà An được chọn tham dự buổi lễ tuyên thệ của Đội. Ông cũng đã tham gia cả ba trận đánh đầu tiên của Đội Việt Nam tuyên truyển Giải phóng quân là Phai Khắt, Nà Ngần, Đồng Mu. Đầu năm 1945, thực hiện chủ trương “Nam tiến”, Hà Hưng Long vinh dự được đi cùng tổ với các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Thái xuống vùng Chợ Rã, Chợ Đồn, Bạch Thông (Bắc Kạn); sau đó qua Chợ Chu (Thái Nguyên) rồi lên Sơn Dương (Tuyên Quang). Sau sự kiện “Nhật đảo chính Pháp”, Hà Hưng Long được điều về làm Tiểu đội trưởng tiểu đội vũ trang tuyên truyền chống Nhật ở Bắc Kạn. Khi đơn vị này phát triển lên trung đội rồi đại đội, ông đều làm chính trị viên cùng với Đại đội trưởng Thu Sơn - một đồng đội cũ ở Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân. Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, tỉnh Bắc Kạn thành lập một đại đội Việt Nam Giải phóng quân. Hà Hưng Long được giao chỉ huy đại đội này, lên đường sang Yên Bái, Tuyên Quang tước vũ khí của bọn Quốc dân đảng Đỗ Đình Đạo. Cuối tháng 10-1945, ông chỉ huy đơn vị tiếp tục tiến lên Hà Giang đánh tàn quân Quốc dân đảng. Tại đây, tháng 8-1946, ông được kết nạp Đảng. Năm 1947, Hà Hưng Long được điều về làm Chính trị viên Tiểu đoàn 3 Trung đoàn Hà Tuyên thuộc Liên khu 10. Ông đã cùng đơn vị tham gia nhiều trận đánh trên sông Lô, sông Gâm. Chiến trường Tuyên Quang đã trở thành quê hương thứ hai và ông đã quyết định ở rể luôn tại đây. Người bạn đời của ông cũng chính là người đồng chí, đồng đội chung một chiến hào. Tháng 10-1948, Hà Hưng Long về làm phái viên kiểm tra kiêm Trưởng ban cán bộ Liên khu 10. Khi ta chuẩn bị mở chiến dịch Biên Giới 1950, Hà Hưng Long được cấp trên điều quay trở lại Cao Bằng làm Chủ nhiệm vận tải Mặt trận, Phó chủ nhiệm Ban tiếp nhận hàng viện trợ tại Thủy Khẩu kiêm công tác giao tế Trung ương tại khu vực này.


Trong những năm 1951-1954, Hà Hưng Long lần lượt làm Binh trạm trưởng vận tải của các chiến dịch Hoà Bình, Tây Bắc, Thượng Lào, Điện Biên Phủ... Hoà bình lập lại, ông về làm Đội trưởng đội ca nô Hồng Hà - tiền thân của Đoàn vận tải Hồng Hà anh hùng sau này.


Năm 1958, Hà Hưng Long chia tay quân đội, chuyển ngành về Bộ Công nghiệp. Tại môi trường mỏi này, ông đã từng làm Phó giám đốc mỏ than Quán Triều, Giám đốc Nhà máy gạch chịu lửa Tuyên Quang; Phó Ban công nghiệp tỉnh, rồi làm Bí thư Đảng ủy Sở Công nghiệp tỉnh Hà Tuyên. Năm 1976, ông về nghỉ hưu tại Yên Sơn - Tuyên Quang.

Ông Hà Hưng Long đã được tặng thưởng:
Huân chương Độc lập hạng Ba;
Huân chương Kháng chiến hạng Nhất;
Huân chương Chiến công hạng Nhì;
Huân chương Chiến thắng hạng Nhỉ.
Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng cùng nhiều Huy chương khác.


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 18 Tháng Tám, 2015, 06:52:45 pm
LỘC VĂN LÙNG (1903-1969)

Họ và tên: Lộc Văn Lùng
Bí danh: Văn Tiên
Ngày tháng năm sinh: 10-1903
Quê quán: Mai Pha - Cao Lộc - Lạng Sơn
Dân tộc: Tày.


Vốn xuất thân từ một cai đội, sau khi được giác ngộ cách mạng, Lộc Văn Lùng được tổ chức gửi sang học quân sự tại Trung Quốc. Cuối năm 1943, Lộc Văn Lùng về nước hoạt động ở vùng Hà Quảng. Tháng 12 năm 1944, ông được chọn vào Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân và mang bí danh là Văn Tiên.


Trong Đội, Văn Tiên thường được anh em "suy tôn" làm "anh cả" bởi hai nhẽ: ông là người lớn tuổi nhất và là người giữ tay hòm chìa khoá, lo cơm áo gạo tiền cho cả Đội. Vốn là một con ngươi hiền lành, ít nói, thật thà và cẩn thận, do đó khi Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập, Văn Tiên được đồng chí Võ Nguyên Giáp "chọn mặt, gửi vàng" giao cho làm quản lý của Đội.


Với nguồn ngân quỹ ban đầu là 50 đồng được giao, việc đầu tiên của Vãn Tiên là mua ngay một chiếc chảo to để nấu cơm cho cả Đội và tìm mua một số thuốc ký ninh để chữa sốt rét cho anh em. Trong buổi lễ ra mắt của Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, chính Văn Tiên là người tổ chức bữa cơm nhạt đạm bạc không muối để thể hiện tinh thần chịu đựng gian khố của cán bộ. chiến sĩ trong Đội.


Có thể nói cả cuộc đời binh nghiệp của Văn Tiên gắn với ngành Hậu cần, Tài chính trong quân đội. Tuy nhiên, những dòng trích ngang về quá trình hoạt động của ông để lại quá ngắn ngủi. Các cơ quan chức năng và tập thể biên soạn cuốn sách này đã bỏ khá nhiều công sức để tìm hiểu. Sưu tầm tư liệu về nhân viên tài chính đầu tiên của Quân đội ta nhưng kết quả không được như mong muốn.


Ông có hai người con gái hiện sống ở Lạng Sơn là Lộc Thị Thị (sinh năm 1935) và Lộc Thị Dung (sinh năm 1941) nhưng cả hai đều không biết chữ và hầu như không biết gì về quá trình hoạt động của cha mình.
Không ai còn nhớ Văn Tiên tham gia hoạt động từ khi nào và ở những đâu? Mà chỉ biết rằng ông về hưu ngày 1-11-1965 với quân hàm đại úy. Chức vụ cao nhất trước lúc nghỉ hưu là Tiểu đoàn phó thuộc cơ quan Đối ngoại Bộ Quốc phòng.


Văn Tiên mất ngày 20-12-1969 tại quê nhà.

Ông đã được tặng thưởng:
Huân chương Chiến công hạng Ba;
Huân chương Chiến thắng hạng Nhì.


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 18 Tháng Tám, 2015, 06:53:47 pm
HOÀNG VĂN LƯỜNG (1922 -1996)

Họ và tên: Hoàng Văn Lường
Bí danh: Kính Phát
Ngày tháng năm sinh: 5-5-1922
Quê quán: Đức Vân - Ngân Sơn - Bắc Kạn
Trú quán: Đơn Tuấn - Huyền Tụng - thị xã Bắc Kạn
Dân tộc: Nùng.


Đầu năm 1943, Chợ Rã và Ngân Sơn được thực dân Pháp liệt vào danh sách “Trung tâm huấn luyện Việt Minh”. Con đường "Nam tiến" đi qua đây bị phong toả gắt gao và nhân dân bị khủng bố nặng nề. Gia đình Hoàng Văn Lường là một cơ sở bí mật, người anh của ông là Hoàng Thanh Bảo, là thành viên của tổ chức Việt Minh liên xã. Một ngày đầu tháng 4-1944, trong khi đồng chí Xích Thắng cùng một số cán bộ đang ẩn náu hoạt động trong nhà của Hoàng Văn Lường thì bị bọn phản bội đưa quân Pháp đến bao vây. Đồng chí Xích Thắng chạy thoát, một số đồng chí khác bị địch bắn chết. Trong bối cảnh đó, ba bố con Hoàng Văn Lường phải bỏ nhà lánh vào rừng. Hoàng Văn Lường bắt đầu đi theo cách mạng từ đó.


Sau một thời gian “mai danh, ẩn tích” bí mật hoạt động, tích cực tham gia củng cố và xây dựng cơ sở, tháng 5-1944, Hoàng Văn Lường chính thức gia nhập tổ xung phong Nam tiến của huyện Ngân Sơn.

Khi Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập, Hoàng Văn Lường là một trong ba đại diện của các tổ chức vũ trang huyện Ngân Sơn có mặt trong buổi lễ tuyên thệ của Đội chiều ngày 22-12-1944 tại khu rừng Trần Hưng Đạo.

Sau khi tham gia các trận đánh Phai Khắt, Nà Ngần và Đồng Mu, Hoàng Văn Lường trở về tiếp tục hoạt động vũ trang tuyên truyền ở Ngân Sơn. Tháng 11-1945, trong khi nhiều người   trong   các chi đội Việt Nam Giải phóng quân đi “Nam tiến”, “Tây tiến” thì Hoàng Văn Lường lại rời quân ngũ trở về quê. Thu đông nấm 1947, quân Pháp đánh lên Việt Bắc, qua sự giới thiệu của đồng chí Dương Mạc Thạch, Hoàng Văn Lường được gọi ra làm liên lạc cho Ủy ban Kháng chiến hành chính tỉnh Bắc Kạn.

Tháng 2-1951, ông về nghỉ ở xóm Đơn Tuấn, xã Huyền Tụng, thị xã Bắc Kạn.

Trong    kháng chiến chống Mỹ, Hoàng Văn Lường nhiều năm làm tiểu đội trưởng dân quân của xã và được kết nạp vào Đảng ngày 10-6-1966.

Hoàng   Văn    Lường    có    năm người con, trong đó có một con là liệt sĩ. Ông mất tại quê năm 1996 do tuổi cao sức yếu.

Hoàng Văn Lường đã được tặng thưởng:
- Bằng có công với nước;
- Huân chương Kháng chiến chống Pháp.


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 18 Tháng Tám, 2015, 06:54:24 pm
HẦU A LÝ (1912 -1952)

Họ và tên: Hầu A Lý
Bí danh: Hồng Cô
Ngày tháng năm sinh: 1912
Quê quán: Minh Tâm - Nguyên Bình - Cao Bằng
Trú quán: Bình Long - Hoà An - Cao Bằng
Dân tộc: Mông.


Trong thành phần tham dự buổi lễ tuyên thệ của Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân có một người Mông duy nhất - đó là Hồng Cô (gia đình còn gọi là Hồng Cu). Cái tên Hồng Cô dường như ai cũng biết và ai cũng nhớ - từ người “Anh cả” Võ Nguyên Giáp cho đến các đội viên và kể cả các cơ quan làm công tác chính sách sau này. Duy chỉ có một điều là từ sau trận Đồng Mu (đầu năm 1945) cho đến nay Hồng Cô làm gì? Ở đâu thì ít ai được biết. Cơ quan chính sách ở Cao Bằng và các cơ quan chức năng như Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Ban liên lạc Việt Nam Giải phóng quân đã cố gắng để nắm lại những thông tin về ông nhưng quả là ít ỏi, chưa đủ để làm cơ sở đề nghị giải quyết chính sách cho gia đình ông theo quy định hiện hành. Có lẽ vì vậy mà cho đến nay gia đình Hồng Cô vẫn chưa được thụ hưởng quyền lợi chính sách gì.


Vợ của ông hiện vẫn sông ở Bình Long, Hòa An, Cao Bằng; còn hai người con trai: Hầu Văn Thè sống ở Bảo Lạc Cao Bằng và Hầu Văn Tu sống ở Bắc Sơn - Lạng Sơn.

Theo một số đồng đội của Hồng Cô kể lại thì năm 1940, được các đồng chí Dương Mạc Thạch và Bình Dương giác ngộ, Hồng Cô bắt đầu tham gia hoạt động cách mạng. Là người dân tộc Mông, Hồng Cô luôn được cấp trên tin tưởng giao cho làm công tác bảo vệ. Năm 1942, khi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về Lũng Dẻ, chính Hồng Cô là người canh gác cho Người trong suốt thời gian Người ở đây.


Tháng 12-1944, sau khi dự lễ thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, Hồng Cô tham gia cả ba trận đánh Phai Khắt, Nà Ngần, Đồng Mu.

Năm 1952, Hồng Cô về nhà chữa bệnh ở Lũng Vầy, Hồng Việt, Hoà An, Cao Bằng; sau đó chuyển đến xã Bình Long - Hoà An và mất tại đó tháng 9-1952.


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 18 Tháng Tám, 2015, 06:55:36 pm
Liệt sỹ LONG VĂN MẦN (1928 -1949)

Họ và tên: Long Văn Mần
Bí danh: Ngọc Trình
Ngày tháng năm sinh: 1928
Quê quán: Bình Long - Hoà An - Cao Bằng
Trú quán: Na Sầm - Văn Lãng - Lạng Sơn
Dân tộc: Nùng.


Trong số 34 chiến sĩ có mặt trong buổi lễ tuyên thệ thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân thì Ngọc Trình là người trẻ nhất Đội. Là con thứ hai và là con trai duy nhất trong một gia đình nông dân nghèo có ba chị em; mới 15 tuổi đầu Long Văn Mần đã rời gia đình đi theo cách mạng. Lần ra đi đó cũng là lần cuối cùng bởi không bao giờ Long Văn Mần được trở về bản Séng quê ông nữa. Những dòng thông tin về Long Văn Mần, do đó, cũng thật ít ỏi. Bà Long Thị Nhoi - người chị gái còn sống duy nhất của ông chỉ biết rằng Long Văn Mần trốn lên rừng Lục Khu và đã đổi tên là Long Ngọc Trình, còn không nắm được gì hơn về chặng đường hoạt động của em trai mình.


Tháng 12-1944, sau khi dự lễ thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân và tham gia đánh Phai Khắt, Nà Ngần, Đồng Mu, Ngọc Trình theo Đội "Nam tiến" xuống hoạt động ở Ngân Sơn, Chợ Rã, Phủ Thông... Giữa năm 1945 Ngọc Trình lại lật cánh theo nhóm “Đông tiến” sang hoạt động ở vùng biên giới Việt - Trung thuộc huyện Văn Lãng - Lạng Sơn.


Đầu năm 1945, tại xã Hoàng Việt, khu vực gần các đồn Chè Cáy và Na Sầm, người dân ở đây thấy xuất hiện một chàng thanh niên thấp bé, da đen, dáng dấp linh hoạt, mặc bộ quần áo vải chàm cổ đứng 3 túi, 7 cúc, ông quần rộng thùng thình, lúc nào cũng giắt kè kè khẩu súng bên hông. Chàng “thanh niên lạ mặt” đó chả mấy lúc đã làm quen và chiếm được cảm tình của hầu hết đám thanh niên và bà con địa phương. Sau khi cùng với mấy người nữa đánh chiếm được đồn Chè Cáy mà không phải tốn một viên đạn, chàng thanh niên đó cưới ngay một cô gái “hoa khôi” của bản Nà Khai (Hoàng Việt) tên là Hà Thị Dìu làm vợ. Lúc này mọi người mới biết chàng trai Nùng đó tên là Long Ngọc Trình - một cán bộ Việt Minh xông xáo và gan dạ có tiếng.


Tháng 8-1945, Ngọc Trình tham gia cướp chính quyền ở Lạng Sơn. Sau đó, Ngọc Trình phụ trách đại đội độc lập huyện Văn Lãng. Đơn vị này sau đó thuộc biên chế của Trung đoàn 174.

Năm 1949, ông tham gia vào lực lượng sang giúp cách mạng Trung Quốc ở khu Thập Vạn Đại Sơn. Tháng 7 năm đó, Ngọc Trình đã anh dũng hy sinh khi chưa kịp nhìn mặt cậu con trai đầu lòng, Long Văn Đăm, khi đó vẫn còn trong bụng mẹ.


Hiện nay phần mộ của Ngọc Trình vẫn nằm trên đồi Pò Luông (Ái Khẩu - Quảng Tây - Trung Quốc).

Ngày 23-11-1956, Ngọc Trình đã được Nhà nước truy tặng Huân chương Chiến công hạng Nhì và ngày 29-4-1958 được truy tặng Huy chương Chiến thắng hạng Nhất. Gia đình ông được tặng Bằng Tổ quốc ghi công.


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 25 Tháng Tám, 2015, 09:09:50 pm
LÂM CẨM NHƯ (1920 -1979)


Họ và tên: Lâm Kính
Bí danh: Lâm Cẩm Như
Ngày tháng năm sinh: 1920
Quê quán: Đông Khê - Thạch An - Cao Bằng
Trú quán: Phòng 101, E8, Thanh Xuân Bắc, Hà Nội
Dân tộc: Kinh.


Sinh ra ở Trung Quốc, năm 1932, mới 12 tuổi đầu, Lâm Kính cùng với mẹ đã được chú Năm (tức Hoàng Văn Thụ) giao nhiệm vụ làm giao liên đón tiếp các đồng chí cán bộ cách mạng từ trong nước sang. Cha, mẹ của Lâm Kính đều người Việt Nam, họ vốn là nghĩa quân theo cụ Tán Thuật (Nguyễn Thiện Thuật) từ Hưng Yên dạt qua Trung Quốc sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy. Lâm Kính lớn lên không biết mặt cha, hai mẹ con tần tảo nuôi nhau nơi đất khách quê người.


Đầu năm 1933, hai mẹ con được đồng chí Hoàng Văn Thụ giới thiệu sang Nam Ninh làm công nhân tại nhà máy cơ khí Nam Hưng - một “trạm giao liên” cách mạng do ông Bùi Ngọc Thành tổ chức.

Tại đây, vào năm 1934, sau cuộc tiếp xúc với đồng chí Lê Hồng Phong, Lâm Kính chính thức trở thành giao liên cho Văn phòng của các đồng chí Hà Huy Tập và Phùng Chí Kiên tại Nam Ninh. Nhiệm vụ chính của ông lúc này là vận chuyển tài liệu, công văn qua lại trên tuyến Ma Cao - Hồng Công.

Mùa hè năm 1935, cả hai mẹ con Lâm Kính đều được vinh dự tham gia tổ chức Đại hội đại biểu Đảng lần thứ nhất tại Ma Cao.

Khi cơ quan chuyển về bán đảo cửu Long thì Lâm Kính được đồng chí Hà Huy Tập giới thiệu vào làm công nhân xưởng in của tờ báo Đại chúng.

Sau khi các đồng chí Hà Huy Tập và Phùng Chí Kiên về nước, Lâm Kính vẫn tích cực hoạt động và trở thành đảng viên của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Sau đó, ông được giới thiệu về Quảng Tây tham gia lãnh đạo phong trào Quảng Tây học sinh quân.


Tuy vậy, trong thời gian này Lâm Kính vẫn ngày đêm mong ngóng, trăn trở nhớ về cố hương. Cho mãi đến đầu năm 1940 ông bắt liên lạc được với đồng chí Ngô Quốc Bình (tức Hoàng Văn Thái) và hai mẹ con lại được tổ chức giao cho đặt một trạm liên lạc ở Nam Ninh.


Mùa xuân 1944, Lâm Kính cùng với một số lưu học sinh Việt Nam đang theo học tại Trung Quốc về nước và ngày 22-12-1944, qua sự giới thiệu của đồng chí Ngô Quốc Bình, ông được tham gia Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân.


Lâm Kính đã cùng với Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân tham gia các trận đánh Phai Khắt, Nà Ngần, Đồng Mu... và tích cực gây dựng cơ sở chính trị ở càn cứ địa Việt Bắc. Sau khi các tổ chức vũ trang như Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, Cứu quốc quân... thống nhất thành Việt Nam Giải phóng quân, Lâm Kính được điều về phụ trách Đội du kích Chợ Chu. Cách mạng tháng Tám bùng nổ, ông chỉ huy Chi đội 4 Việt Nam Giải phóng quân về tham gia cướp chính quyền ở Hà Nội; sau đó giữ chức Chủ tịch ủy ban Bảo vệ thành phố Hà Nội. Thời gian này, Lâm Kính còn là một nhân vật rất quan trọng luôn được ta cử đi tiếp xúc, thương thuyết và đấu tranh với quân Quốc dân đảng Trung Quốc đang gây rối nhiều nơi tại Hà Nội.


Đầu năm 1946, Lâm Kính lên đường đi Nam tiến. Vào đến Khánh Hoà, ông được bổ nhiệm làm Tham mưu trưởng miền Nam Trung Bộ. Đầu năm 1947, Lâm Kính lại được trên điều ra làm Tham mưu trưởng Khu 2.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Lâm Kính đã từng trải qua các cương vị chỉ huy ở nhiều đại đoàn chủ lực: Tham mưu trưởng Đại đoàn 308 (1949-1951), Tham mưu trưởng Đại đoàn 312 (1951-1953), Tư lệnh phó Đại đoàn 304 (1953-1955).


Cuối năm 1955, Lâm Kính được cử đi học tại Học viện Quân sự Nam Ninh - Trung Quốc. Trở về nước, ông say sưa gắn bó với sự nghiệp giáo dục, đào tạo, huấn luyện trong các nhà trường quân đội. Tháng 10-1957, ông làm Hiệu trưởng Trường Văn hoá quân đội. Cuối năm 1964, làm Hiệu phó Trường Cán bộ chính trị quân đội. Tháng 3-1966, Lâm Kính được bổ nhiệm làm Phó giám đốc kiêm Cục trưởng Cục Quân sự, Học viện Chính trị Quân sự và từ năm 1976 là Phó giám đốc học viện này.


Mùa hè năm 1979, đại tá Lâm Kính đã trút hơi thở cuối cùng ngay bên bàn làm việc do một cơn đau tim.

Ông đã được tặng thưởng:
Huân chương Độc lập hạng Nhì;
Huân chương Kháng chiến hạng Nhất;
Huân chương Quân công hạng Nhất.


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 25 Tháng Tám, 2015, 09:13:19 pm
Liệt sỹ HOÀNG VĂN NHỦNG (? -1945)


Họ và tên: Hoàng Văn Nhủng
Bí danh: Xuân Trường
Quê quán: Sóc Hà - Hà Quảng - Cao Bằng
Dân tộc: Tày.


Năm 1936, khi phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ phát triển, lan rộng đến tận vùng núi cao của châu Hà Quảng thì Hoàng Văn Nhủng cũng bắt đầu cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Suốt từ đó cho đến nàm 1940, với bí danh là Xuân Trường, từ một liên lạc viên, ông đã trở thành một cán bộ dày dạn kinh nghiệm trong phong trào thanh niên phản đế của châu Hà Quảng.


Giữa năm 1940, cùng với một số cán bộ tiêu biểu của Cao Bằng, Xuân Trường được cử đi học quân sự ở Liễu Châu, Trung Quốc. Đầu năm 1944, Xuân Trường về nước và hoạt động chủ yếu ở vùng Lục Khu - Hà Quảng.

Ngày 22-12-1944, Xuân Trường là một trong số những đội viên vũ trang xuất sắc của châu Hà Quảng được chọn vào Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân. Sau hai trận Phai Khắt, Nà Ngần giành thắng lợi giòn giã, Tiểu đội trưởng Xuân Trường cùng với anh em trong Đội hành quân về Lũng Dẻ củng cố lực lượng rồi hành quản lên đánh đồn Đồng Mu (Bảo Lạc). Tại đây, trận đánh diễn ra không như dự kiên. Do bị lộ, địch đã chuẩn bị đối phó. Tiểu đội trưởng Xuân Trường đã anh dũng hy sinh vào ngày 4-2-1945.


Xuân Trường trở thành người liệt sĩ đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông ngã xuống khi tuổi đời còn rất trẻ và chưa lập gia đình.

Tên Xuân Trường đã được đặt cho bản Đồng Mu ở huyện Bảo Lạc và đặt cho con đường dài 19.2 km từ Lũng Phán về Đồng Mu để ghi nhớ công lao của ông.


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 25 Tháng Tám, 2015, 09:15:28 pm
HOÀNG VĂN NÌNH (1919 -1996)


Họ và tên: Hoàng Văn Nình
Bí danh: Thái Sơn
Ngày   tháng năm sinh: 1919
Quê quán: Thượng An - Ngân Sơn - Bắc Kạn
Trú quán: Phường Hoàng Văn Thụ - thị xã Bắc Giang
Dân tộc: Nùng.


Hoàng Văn Nình đến với cách mạng trong một hoàn cảnh rất tình cờ. Ông nguyên là lính khố đỏ đóng ở Đồng Đăng, Lạng Sơn. Trong một lần về thăm nhà. Hoàng Văn Nình cùng người anh là Hoàng Văn An và em gái là Hoàng Thị Mỳ được đồng chí Võ Nguyên Giáp (lúc này đang ở Ngân Sơn) giác ngộ. Cả ba anh em nhà họ Hoàng bắt đầu tham gia hoạt động từ đó. Cuối tháng 10-1943, Hoàng Văn Nình được giao làm Đội trưởng tự vệ chiến đấu. Để che mắt địch, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã đặt cho Hoàng Văn Ninh bí danh là Thái Sơn.


Đầu năm 1944, bọn địch ở Ngân Sơn phát hiện ra “Việt Minh nằm vùng nguy hiểm" bèn tổ chức bao vây nhà Thái Sơn, nhưng ông đã nhanh trí chạy thoát.

Tháng 5-1944, đội vũ trang thoát ly Ngân Sòn được thành lập. Thái Sơn được cử làm Đội trưởng. Ngày 22-12-1944, ông là một trong số ba người được đội vũ trang thoát ly Ngân Sơn giới thiệu vào Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân. Sau khi tham gia 3 trận Phai Khắt - Nà Ngần và Đồng Mu, Thái Sơn đi cùng một tổ “Nam tiến” xuống vùng Bắc Kạn, Thái Nguyên.


Ngày 23-9-1945, tiếng súng kháng chiến ở Nam Bộ bùng nổ. Theo tiếng gọi "sơn hà nguy biến”, tháng 10-1945, Thái Sơn có mặt trong Chi đội Giải phóng quân đầu tiên lên đường Nam tiến. Đầu năm 1946, Chi đội của ông vào đến Tây Nguyên, ở đây chưa được bao lâu thì Mặt trận Buôn Ma Thuột bị vỡ, Đại đội của Thái Sơn được lệnh từ An Khê rút xuống Bình Định cùng một bộ phận từ Nha Trang rút ra tổ chức thành một tiểu đoàn mới mang tên Hoàng Hoa Thám. Thái Sơn được giao làm Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn này. Hoạt động ở Bình Định và Quảng Ngãi một thời gian, Thái Sơn được điều ra Bắc. Ông trở về quê nhà Ngân Sơn làm Huyện đội trưởng được vài năm thì được biệt phái sang hoạt động ở nước bạn Lào.


Năm 1963, Thái Sơn (lúc này đã là thiếu tá) được điều về làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 148. Tháng 6-1964. Quân khu Tây Bắc chuyển giao Trung đoàn bộ binh 148 cho Sư đoàn 316, ông lại được điều quay lại hoạt động trên đất bạn Lào cho đến khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Có thể nói, hầu hết thời gian trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Thái Sơn là gắn với nhiệm vụ quốc tế trên đất bạn Lào. Ngay người bạn đời của ông - bà Tông Thị Dần cũng là một chiến sĩ quân tình nguyện. Hai người gặp nhau và thành vợ chồng ngay trên đất bạn Lào.


Năm 1993, cả hai vợ chồng Thái Sơn đều vinh dự được Nhà nước Lào tặng Huân chương ítxala hạng Nhất. Ông đã từng chụp ảnh chung với đồng chí Cayxỏn Phômvihản, sau là Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào. Chủ tịch nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào.


Năm 1973, Thái Sơn về nghỉ hưu tại thị xã Bắc Giang với quân hàm thượng tá. Năm 1994. Thái Sơn còn trở lại Cao Bằng dự lễ khánh thành khu di tích lịch sử rừng Trần Hưng Đạo. Vậy mà 2 năm sau đó, năm 1996, ông đã đột ngột "ra đi" sau một cơn tai biến.

Hoàng Thái Sơn đã được, tặng thưởng:
Hai Huân chương Độc lập hạng Ba;
Bằng có công với nước;
Huân chương Quấn công hạng Nhì;
Huân chương Chiến thắng hạng Nhì;
Huân chương Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hạng Nhất;
Huân chương Chiến sỹ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba.


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 25 Tháng Tám, 2015, 09:16:40 pm
Liệt sỹ GIÁP NGỌC PÁNG (? -1945)


Họ và tên: Giáp Ngọc Páng
Bí danh: Nông Văn Bê, Thân
Quê quán: Hà Quảng - Cao Bằng
Trú quán: bản Nà Riềm - Hoàng Tung - Hoà An - Cao Bằng
Dân tộc: Nùng.


Trên tấm bia tại nghĩa trang liệt sĩ xã Hoàng Tung, huyện Hoà An có khắc dòng chữ Liệt sĩ Nông Văn Bê tức Giáp Ngọc Páng. Quê quán: Na Riềm - Hoàng Tung - Hoà An, nhưng thực ra thì Nông Văn Bê sinh ra ở vùng Lục Khu (châu Hà Quảng - Cao Bằng). Không một ai nhớ đích xác Nông Văn Bê sinh năm nào? Quê ở xã, bản nào? Thân nhân gia đình ra sao? Người ta chỉ biết rằng gia đình Nông Văn Bê quá nghèo khổ vì vậy mà phải cho ông đi ở làm thuê cho một gia đình ở bản Nà Riềm - Hoàng Tung - Hoà An. Khi đó cậu bé Giáp Ngọc Páng mới độ chừng hơn 10 tuổi.


Ở đợ, làm thuê cho đến năm 1943 thì Giáp Ngọc Páng được giác ngộ và gia nhập đội vũ trang địa phương do đồng chí Hoàng Sâm chỉ huy. Từ đây, ông mang bí danh là Nông Văn Bê.

Ngày 22-12-1944, Nông Văn Bê được chọn vào Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân. Ông đã tham gia cả ba trận đánh đầu tiên của Đội và trong các trận đó ông đều là thành viên của tổ xung kích. Trong trận tập kích đồn Nà Ngần, Nông Văn Bê được giao nhập vai một cán bộ Việt Minh bị bắt làm tù binh. Ông lê bước chân đi khập khiễng dưới họng súng của một tốp lính dõng (do ta cải trang). Nhờ sự nhập vai khôn khéo đó mà trận này ta đã tạo được thế bất ngò, giành thắng lợi nhanh chóng.


Đầu năm 1945, Nông Văn Bê cùng một số đồng chí trong Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân “Nam tiến” xuống vùng Ngân Sơn, Chợ Rã...

Sau khi Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), Nông Văn Bê được đồng chí Đàm Quang Trung giao nhiệm vụ đưa vợ chồng Đò Đông - đồn trưởng đồn Ngân Sơn, từ Chợ Rã đi Bảo Lạc để sang Côn Minh (Trung Quốc), sau khi y đã đầu hàng và giao nộp vũ khí cho ta. Mọi người trong Đội mất liên lạc với Nông Văn Bê từ đó. Chỉ đến khi Đội công tác ở Chợ Rã nhận được tin “tự vệ các xã Tây Bắc Chợ Rã đã bắn chết quan Tây và cả một người Việt đi theo...”, và nhận được 2 khẩu súng ngắn chiến lợi phẩm, trong đó có khẩu súng ta cho phép Đò Đông mang theo về Côn Minh, thì cả Đội mới biết là Nông Văn Bê đã hy sinh.   


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 25 Tháng Tám, 2015, 09:17:47 pm
NGUYỄN VĂN PHÁN (1910 -1947)


Họ và tên: Nguyễn Văn Phán
Bí danh: Kế Hoạch
Ngày tháng năm sinh: 1910
Quê quán: Hồng Việt - Hoà An - Cao Bằng
Dân tộc: Tày.


Cuối năm 1947, người dân thị xã Cao Bằng được chứng kiến một đám tang mà theo họ kể lại là “to nhất Cao Bằng” lúc bấy giờ. Một đám tang trang nghiêm, đông người dự; trong đó có cả đại diện của Trung ương, của Khu, Tỉnh. Một đám tang mà ai được chứng kiến cũng không cầm được nước mắt...


Đó là đám tang của đồng chí Nguyễn Văn Phán (tức Kế Hoạch), 1 trong số 34 chiến sĩ Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân. Người Tiểu đoàn trưởng đầy tài năng và nhiều triển vọng ấy đã đột ngột ra đi trong một tai nạn giao thông trên đường công tác.

Cuối năm 1938, Kế Hoạch trốn nhà lên vùng căn cứ Lục Khu, bắt đầu cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Năm 1941, ông được tổ chức chọn sang Trung Quôc học tập. Năm 1941 về nước, ông được phân công xuống phát triển Hội Cứu quốc tại các xã phía nam huyện Nguyên Bình. Tháng 12-1944, ông được chọn vào Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân và tham gia cùng Đội đánh các trận Phai Khắt, Nà Ngần, Đồng Mu.


Sau trận Đồng Mu (đêm 4-2-1945), Kế Hoạch không trở lại Nguyên Bình cùng Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân mà chỉ huy một nhóm “Nam tiến” lật cánh sang Tuyên Quang.

Trong Cách mạng tháng Tám 1945, Kế Hoạch tham gia Tổng khởi nghĩa ở Thái Nguyên; sau đó đi theo đoàn quân Nam tiến, nhưng do địch chặn đánh dọc đường, bị thất lạc, ông buộc phải quay trở về Thái Nguyên.

Tháng 5-1947, thực dân Pháp ném bom thị xã Cao Bằng. Nguy cơ một cuộc tiến công của quân Pháp lên vùng căn cứ địa cách mạng đang dần trở thành hiện thực. Trước tình hình đó, Kế Hoạch được cấp trên điều trở lại Cao Bằng tham gia củng cố lực lượng vũ trang của tỉnh, chuẩn bị ngăn chặn quân Pháp đánh lên. Vốn là một cán bộ tham mưu dày dạn kinh nghiệm, có bản lĩnh và khả năng tác chiến sắc sảo, ngay sau khi trở lại Cao Bằng, Kế Hoạch được giao làm Tiểu đoàn trưởng 1 trong 3 tiểu đoàn chủ lực của tỉnh lúc bấy giờ.


Kế Hoạch là một con người bộc trực, thẳng thắn nhưng cũng đầy cá tính. Với chiếc xe đạp “cọc cạch”, ông rong ruổi khắp nơi để đốc chiến phòng thủ thị xã. Chừng một tuần trước khi quân Pháp nhảy dù xuống thị xã Cao Bằng, bằng chiếc xe đạp “cà tàng” đó, Kế Hoạch xuống một địa điểm ở kilômét số 5 dự họp, mới đi được gần một kilômét thi ông bị tai nạn giao thông do đụng phải một chiếc mô tô của một đơn vị bạn và hy sinh...

Kế Hoạch chưa kịp và cũng chưa được nhận một phần thường nào. Những hiện vật của ông như túi dết, kiếm và súng hiện đang được lưu giữ tại Viện Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam.


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 25 Tháng Tám, 2015, 09:20:52 pm
Liệt sỹ MA VĂN PHIÊU  (1912 -1945)


Họ và tên: Ma Văn Phiêu
Bí danh: Bắc Hợp, Đường
Ngày tháng năm sinh: 1912
Quê quán: Minh Tâm - Nguyên Bình - Cao Bằng
Dân tộc: Tày.


Không giống như hoàn cảnh của nhiều đồng đội khi đến với cách mạng, Ma Văn Phiêu có điểm xuất phát hơi khác. Sinh ra và lớn lên tại một vùng quê có truyền thống cách mạng - nơi mà từ năm 1935 đã có chi bộ Đảng Cộng sản, vậy nhưng Ma Văn Phiêu lại xuất thân từ một cai đội. Số phận run rủi thế nào, năm 1939 anh “cai đội” này lại phiêu dạt sang Trung Quốc. Tại đây, Ma Văn Phiêu may mắn được gặp những người đồng hương đang hoạt động cách mạng ở bên đó; rồi được giác ngộ cách mạng (năm 1940), trở thành một cán bộ linh hoạt và dũng cảm.


Năm 1941, theo lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước, Ma Văn Phiêu được tổ chức phân công về hoạt động tại quê nhà (Nguyên Bình). Suốt từ đó cho đến tháng 12-1944, Ma Văn Phiêu bám các bản làng phát triển phong trào Việt Minh; tham gia tổ chức các hội Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Nông dân cứu quốc... Không chỉ trong vùng người Tày, ông còn len lỏi đến các bản làng xa xôi của người Dao, người Mông, phổ biến, giải thích và tuyên truyền chính sách của Mặt trận Việt Minh cho họ.


Tháng 8-1944, Ma Văn Phiêu được cử vào Ban Chấp hành Việt Minh Khu G (thời kỳ này địa bàn Cao - Bắc - Lạng được Liên tỉnh ủy chia làm 5 khu. Khu G bao gồm Nguyên Bình và Ngân Sơn).

Ngày 22-12-1944, Ma Văn Phiêu vào Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân và tham gia cả ba trận đánh đầu tiên của Đội.

Tháng 2-1945, sau khi cùng anh em trong Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân đánh đồn Đồng Mu trở về, Ma Văn Phiêu chỉ huy một trung đội “Nam tiến” xuống vùng Tuyên Quang, Phú Thọ. Tại đây, giữa lúc mọi công tác tổ chức để đón Bác từ Cao Bằng về Tân Trào đã hoàn tất; đường liên lạc với Trung ương Đảng ở dưới xuôi đã thông suốt; nhiều đoàn cán bộ từ khắp nơi đang hối hả đổ dồn về Tân Trào thì xuất hiện một toán thổ phỉ trang bị vũ khí mạnh, giương cờ ba sao, cũng đang tìm cách đột nhập vào "thủ phủ Tân Trào". Ngày 6- 5-1945, sau khi ta cử người ra thuyết phục và ngăn chặn thì Ma Văn Phiêu được giao nhiệm vụ dẫn đường đưa toán phỉ này qua đèo De sang Chợ Chu (thực chất là đưa vào trận địa phục kích của ta), nhưng đáng tiếc trong khi chưa kịp ra ám hiệu thì Ma Văn Phiêu đã bị tự vệ của ta bắn nhầm.

Ma Văn Phiêu hy sinh khi mối 33 tuổi, để lại người vợ trẻ và cô con gái lúc đó 14 tuổi.

Hơn nửa thế kỷ ông nằm lại với núi rừng đèo De, mãi đến năm 1996, địa phương, gia đình và anh em đồng đội mới tìm được phần mộ và đưa ông về yên nghỉ tại nghĩa trang liệt sĩ huyện Nguyên Bình - Cao Bằng. Gia đình ông được Chính phủ tặng Bằng Tổ quốc ghi công năm 1959.


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 25 Tháng Tám, 2015, 09:27:49 pm
ĐẶNG TUẦN QUÝ (1925 -1991)


Họ và tên: Đặng Tuần Quý
Tên thường gọi: Dần Quý
Ngày tháng năm sinh: 1-1-1925
Quê quán: Tam Kim - Nguyên Bình - Cao Bằng
Dân tộc: Dao.


Mọi người thường gọi ông là Dần Quý và trong tấm bia đặt tại khu rừng Trần Hưng Đạo cũng khắc ghi như vậy; nhưng thực ra tên đệm “cúng cơm” của ông là Tuần (Đặng Tuần Quý).

Đặng Tuần Quý là người dân tộc Dao Tiền duy nhất trong Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân. Vợ của ông, bà Đặng Thị Hầu, cũng là một người Dao tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1943.

Bố mất sớm, không được học hành, nên ngay từ nhỏ Quý đã theo ông nội lang thang đó đây làm nghề đan lát kiếm sống. Cuối năm 1942, tại các xã vùng cao Nguyên Bình bắt đầu hình thành các tổ chức Việt Minh. Vận hội mới mở ra cho Đặng Tuần Quý. Ông trở thành hội viên Hội Cứu quốc và bắt đầu cuộc đời hoạt động cách mạng của mình.


Những năm đầu của thập kỷ 40, cũng như bà con các dân tộc ít người khác ở Cao Bằng, đồng bào Dao Tiền phải chịu nhiều tầng áp bức bóc lột của cả đế quốc lẫn quan lại phong kiến, thổ phỉ. Nhiều người không chịu nổi tình cảnh đó đã xin gia nhập Hội Cứu quốc. Cũng giống nhiều thanh niên người Dao Tiền khác trước khi trở thành hội viên Hội Cứu quốc. Đặng Tuần Quý cũng đã ăn thề. Chính sách kỳ thị và chia rẽ của bọn đế quốc, phong kiến đã gây nên sự nghi kỵ lẫn nhau giữa các dân tộc. Đối với người Dao Tiền, cách tốt nhất để giải toả nỗi nghi kỵ đó là tổ chức ăn thề.


Một buổi sáng mùa xuân năm 1943, khi bình minh vừa chớm rạng, trên tảng đá bên cạnh một con suối nhỏ, Đặng Tuần Quý đặt một bát nước và châm một nén hương nghi ngút khói; chàng thanh niên người Dao hướng cặp mắt xa xăm về phía đỉnh núi cao nhất, hai tay chắp trước ngực, miệng lẩm bẩm: “Con là Tuần Quý xin được vào Hội Cứu quốc để cùng đồng bào đấu tranh... Dù thế nào cũng một lòng trung thành với Hội; không phản bội, không bỏ Hội. Nếu trái lời thề thì sẽ như cây hương này”. Nói đoạn, ông cầm nén hương đang cháy nhúng vào bát nước... trước sự chứng kiến của những cán bộ vận động phong trào.


Trong những năm 1943-1944, Đặng Tuần Quý chủ yếu hoạt động gây dựng phong trào ở vùng Nguyên Bình. Quanh các triền núi quê ông, cơ sở cách mạng trong đồng bào Mông và Dao được phát triển và mở rộng. Tại đây, Đặng Tuần Quý tham gia các lớp huấn luyện do Mặt trận Việt Minh mở; và làm quen với môi trường hoạt động quân sự.


Khi Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập, Đặng Tuần Quý cùng với Nông Văn Kiếm và Tô Tiến Lực là ba đại diện của đội vũ trang tuyên truyền xã Tam Lộng được chọn dự buổi lễ tuyên thệ của Đội. Là người địa phương nên Đặng Tuần Quý rất thông thuộc đường đi lối lại; nắm rõ tình hình địch trong vùng. Chính vì vậy, mà ông cùng với một số cán bộ địa phương đã có nhiều đóng góp cho 2 trận đầu ra quân thắng lợi của Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, tiêu diệt gọn các đồn Phai Khắt, Nà Ngần.


Sau trận Đồng Mu, Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân quay trở lại rừng Trần Hưng Đạo, tiếp tục xây dựng, củng cố và chuẩn bị “Nam tiến” xuống Bắc Kạn, Thái Nguyên... thì Đặng Tuần Quý chia tay với Đội ở lại địa phương. Sau đó môt thời gian, năm 1946, ông về lấy vợ quê ở thôn Khuổi Quy, xã Hoa Thám, Nguyên Bình.
Từ năm 1946, Đặng Tuần Quý làm Xã đội trưởng Hưng Đạo; năm 1959, quay về Tam Kim làm Đội trưởng sản xuất của hợp tác xã. Năm 1980, ông nghỉ công tác.


Năm 1990, khi Đại tướng Võ Nguyên Giáp về thăm lại Phai Khắt, Đặng Tuần Quý lúc này đã lớn tuổi nhưng còn rất hoạt bát, nhanh nhẹn. Trong cuộc gặp gỡ đầy cảm động đó, cả hai ông nhận ra nhau, ôm chặt lấy nhau hồi lâu và không kìm nổi những giọt nước mắt. Hôm đó, Đặng Tuần Quý còn đích thân đưa đường cho đoàn cán bộ đi cùng Đại tướng vượt đèo dốc vào tận nơi thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân tại khu rừng Trần Hưng Đạo. Có ai ngờ đâu, một năm sau Đặng Tuần Quý đột ngột ra đi ngày 9-11-1991 tại quê nhà.

Đặng Tuần Quý đã được Hội đồng Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất (do Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng ký ngày 8-8-1964).


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 26 Tháng Tám, 2015, 08:48:08 pm
LƯƠNG QUÝ SÂM (1914 -1990)


Họ và tên: Lương Qúy Sâm
Bí danh: Lương Văn Ích, Nông Văn Ích
Ngày tháng năm sinh: 1914
Quê quán: Nà Sác - Hà Quảng - Cao Bằng
Trú quán: Phường Tân Định, thành phố Yên Bái.
Dân tộc: Nùng.


Lương Quý Sâm sinh ra tại Trung Quốc. Xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo ở Quảng Tây, mới vài tuổi đầu cậu bé Sâm đã phải theo bô mẹ phiêu dạt sang vùng Hà Quảng (Việt Nam) làm ăn và sinh sống. Được lớn lên trên mảnh đất Hà Quảng giàu truyền thông cách mạng, Sâm đã sớm giác ngộ cách mạng. Năm 1940, Sâm chính thức rời gia đình đi hoạt động.


Đầu năm 1941, khi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước, Lương Quý Sâm (lúc này lấy bí danh là Lương Văn Ích) vinh dự được cùng Đội du kích Pác Bó đưa đón, nuôi dưỡng và bảo vệ an toàn cho Người và các đồng chí cán bộ Trung ương.


Thời gian này, ông được gần gũi, được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc dìu dắt và giác ngộ tinh thần cách mạng, lòng yêu nước... Cái tên bí danh Lương Văn Ích chính là do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đặt cho ông. “Ích”- theo Người - có nghĩa là “ích nước”, hết lòng công hiến cho đất nước.


Trong những năm 1940-1944, Lương Văn ích chủ yếu hoạt động ỏ vùng Lục khu (Hà Quảng). Mặc dầu gần nhà nhưng do bị mật vụ bám riết nên ông ít có điều kiện về thăm gia đình. Giữa năm 1944, nhận được tin bố mất, Lương Văn Ích về nhà, mò mẫm trong đêm tối chôn cất bố một cách vội vàng rồi phải đi ngay khi trời chưa sáng để tránh sự lùng sục của bọn mật vụ.


Ngày 22-12-1944, ông là một trong số những đội viên tiêu biểu của đội vũ trang châu Hà Quảng được chọn vào Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân. Tại buổi lễ ra mắt của Đội, theo dự định từ trước, Lương Văn ích, được vinh dự cầm cờ, nhưng khi đến nơi, do ông đeo băng đen để tang bố nên phải nhường vinh dự đó cho người khác. Trong trận Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân đánh đồn Đồng Mu, Lương Văn Ích được giao phụ trách một tiểu đội.


Giữa năm 1945, Lương Văn Ích về làm Trung đội trưởng Trung đội Giải phóng quân của tỉnh Bắc Kạn. Tháng 8-1945, Trung đội của Lương Văn Ích tổ chức một trận phục kích quân Nhật rút từ huyện lỵ Chợ Rã xuống Phủ Thông - Bắc Kạn. Trận đánh giành thắng lợi nhưng Lương Văn Ích bị thương nặng. Sau một thời gian dưỡng thương, Lương Văn Ích cùng đơn vị đi “Tây tiến”.

Ngày 10-3-1948. Lương Văn Ích được kết nạp vào Đảng.

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc, ông được điều vể làm Trưởng ban dân quân Tỉnh đội Yên Bái.
Sinh ra tại Trung Quốc, lớn lên ở Cao Bằng nhưng Lương Văn ích lại có khá nhiều duyên nợ với vùng quê Yên Bái. Chính tại đây, ông đã tìm được người bạn đời cho mình và trải qua những năm tháng hoạt động sôi nổi.
Lương Vàn Ích là con người đa cảm trong cuộc sông nhưng lại là người bộc trực, thẳng thắn và tỉ mỉ, nghiêm khắc trong công việc; nghiêm khắc với cả chính bản thân mình.


Khi Quân đội nhân dân Việt Nam ban hành chê độ quân hàm, có lần đồng chí Võ Nguyên Giáp về thăm Yên Bái, gặp lại người đồng đội cũ, đồng chí Tổng tư lệnh đã gợi ý là sẽ đề nghị trao quân hàm đại úy cho Lương Văn Ích. Nghe nói vậy, lập tức ông khóc rưng rức như một đứa trẻ và một mực từ chối “không nhận đại úy vì cảm thấy mình chưa xứng đáng và chưa đủ năng lực...”.


Đầu năm 1959, Lương Văn Ích được điều lên xây dựng lực lượng Công an vũ trang tỉnh Lào Cai. Năm 1963, được đề bạt thiếu tá, Chỉ huy trưởng Công an vũ trang tỉnh. Một năm sau đó, ông chuyển qua làm Viện phó, rồi Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lào Cai.

Năm 1979, chiến tranh bùng nổ ở biên giới phía Bắc, ông cùng gia đình về quê ngoại ở Yên Bái.

Những năm cuối đời, Lương Văn Ích sống trong sự trầm tư và mặc cảm. Tháng 2-1990, ông đã "ra đi" vì căn bệnh xuất huyết não. Tang lễ của Lương Văn ích được tổ chức trọng thể tại tỉnh Yên Bái theo nghi lễ dành cho các vị lão thành cách mạng.

Lương Văn ích đã được tặng thưởng:
- Huân chương Độc lập hạng Ba;
- Huân chương Chiến thắng hạng Nhì;
- Hai Huân chương Chiến sỹ vẻ vang hạng Nhì;
- Huân chương Chiến sỹ vẻ vang hạng Ba;
- Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng.


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 26 Tháng Tám, 2015, 08:50:03 pm
HOÀNG VĂN SÚNG (1916 -1962)


Họ và tên: Hoàng Văn Súng
Bí danh: La Thanh
Ngày tháng năm sinh: 1916
Quê quán: Pác Bó - Trường Hà - Hà Quảng - Cao Bằng
Dân tộc: Nùng.


Từ thủa xa xưa, dân bản Pác Bó đã gọi núi Phía Tảo là núi Quả Đào. Chuyện kể rằng, xưa kia mấy cô con gái Ngọc Hoàng xuống núi này dạo chơi và hái đào ăn. Mải tận hưởng vẻ đẹp huyền ảo của chốn "non xanh, nước biếc" nên mặt trời đứng bóng khi nào không hay, các cô vội vàng bay về trời để lại một quả đào bên bờ suối. Quả "đào tiên" ấy về sau đã biến thành một hòn núi to.


Đầu năm 1941, khi vừa về Pác Bó, nghe câu chuyện này, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cười và nói: "Xưa kia ở đây có tiên cô, thì nay có tiên cậu, tiên ông” và Người đã đặt tên cho ngọn núi này là núi Các Mác.

Nằm tựa lưng sát với chân núi Các Mác có một ngôi nhà mà phía trước như bao ngôi nhà sàn khác, còn bên trong và phía sau lại là một "địa đạo" có thể chứa được hàng chục người. Đó là nhà của La Thanh - một cơ sở cách mạng chí cốt, nơi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và các cán bộ của Trung ương từng làm chỗ dừng chân trong những ngày đầu vượt cột mốc 108 trên biên giới Việt - Trung trở về Tổ quốc.


La Thanh được giác ngộ cách mạng và tham gia vào Hội phản đế Pác Bó từ năm 1938. Ngay từ những năm 1938 - 1939, trong nhà La Thanh luôn luôn có mặt một nhóm cán bộ hoạt động bí mật gồm Lê Quảng Ba, Quốc Văn, Trần Sơn Hùng (tức Hoàng Sâm). Những lúc địch càn quét, lùng sục đến đây thì gia đình La Thanh lại đưa cán bộ của Đảng vào các hang đá phía sau nhà và nguỵ trang cửa hang lại. Chính trong khoảng thời gian này, từ một chàng thanh niên Nùng ít nói, chậm chạp, La Thanh đã dần dần được giác ngộ, nhanh chóng trở thành một liên lạc trung kiên, tháo vát và nhanh nhẹn.


Năm 1940, La Thanh được giao làm Tổ trưởng nông dân cứu quốc và tháng 8 năm đó được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.

Ngày 28-1-1941, ông cùng với một số đồng chí khác lên cột mốc 108 đón lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và các đồng chí Phùng Chí Kiên, Đặng Văn Cáp, Lộc, Lê Quảng Ba, Thế An về nước. Bác cùng với những người cùng đi đã ở lại nhà La Thanh ba ngày, sau đó mới chuyển lên hang Cốc Bó.


Tháng 5-1941, nhà của La Thanh lại vinh dự được chọn làm nơi đón tiếp các đại biểu về dự Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 tổ chức tại lán Khuổi Nậm - Pác Bó. Bản thân ông được tổ chức giao làm Trạm trưởng giao liên, có nhiệm vụ đưa đón, bảo đảm an toàn và lo ăn ở cho cán bộ từ nước ngoài về hoặc từ trong nước đi qua Trung Quốc - trong các năm từ 1941 đến 1943.


La Thanh còn là một trợ thủ đắc lực cho nhóm Hoàng Sâm, Lê Quảng Ba, Quốc Văn, Thế Hậu, Tống Dề... trong các chiến dịch tiễu phí ở vùng Lục khu. Đóng góp của La Thanh trong việc giải quyết nạn thổ phỉ ở vùng biên giới Việt - Trung rất lớn.


Ngày 22-12-1944, La Thanh được chọn vào Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân. Trước ngày rời bản Pác Bó về Nguyên Bình dự lễ thành lập Đội, vợ của La Thanh là bà Hoàng Thị Hoa (tức Hoàng Thị Cần) cũng tham gia cách mạng từ 1940, đã phải bán một thửa ruộng để sắm cho chồng một khẩu súng. Chính khẩu súng này đã được ông mang theo sử dụng trong các trận Phai Khắt, Nà Ngần, Đồng Mu.


Năm 1953, do điều kiện sức khoẻ, La Thanh phục viên về quê và làm Xã đội trưởng Trường Hà một thời gian. Năm 1962, ông qua đời tại quê.

Ngôi nhà của La Thanh hiện nay đã được xếp hạng di tích lịch sử, nằm trong quần thể khu di tích lịch sử Pác Bó, được Ban quản lý di tích Hồ Chí Minh tỉnh Cao Bằng quản lý và dựng bia có nội dung: Nơi đón tiếp các đại biểu về dự Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8, ba miền Bắc - Trung - Nam. Gia đình ông cũng đã được Tổng bộ Việt Minh tặng Bằng có công với nước ngày 23-9-1947.


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 26 Tháng Tám, 2015, 08:52:36 pm
BẾ ÍCH NHÂN


Họ và tên: Bế Ích Nhân
Bí danh: Bế Ích Vạn
Ngày tháng năm sinh: 1-1913
Quê quán: Văn Tùng - Ngân Sơn - Bắc Kạn
Trú quán: Bạch Thông - Bắc Kạn Dân tộc: Tày.


Bế Ích Nhân vốn là một lính dõng của xã Vân Tùng, châu Ngân Sơn. Năm 1941, ông được Hoàng Thịnh - một đội viên Cứu quốc quân hoạt động ở vùng Ngân Sơn giác ngộ. Từ đây, tuy bề ngoài khoác áo lính dõng nhưng Bế Ích Nhân lại là một cơ sở tin cậy của cách mạng trong hàng ngũ địch. Suốt một thời gian dài. Bế Ích Nhân âm thầm, lặng lẽ hoạt động cho ta.


Đầu năm 1944, Bế Ích Nhân bị địch theo dõi và phát hiện ra hành vi nội gián. Đang đứng trước nguy cơ bị lộ thì khoảng giữa nảm 1944, nhân có chuyến kinh lý của Toàn quyền Đông Dương từ Hà Nội lên Lạng Sơn qua Cao Bằng xuôi Bắc Kạn, tất cả lính dõng ở Ngân Sơn đều được huy động xuống Nà Phặc để đón... quan trên. Nhân cơ hội này, trên đường đi, Bế Ích Nhân đã lẻn vào bụi cây xé hết quần áo, nón lính và nhanh trí lấy máu chó đổ vãi tung toé để đánh lừa địch, làm chúng tưởng rằng Bế Ích Nhân đã chết nhưng sự thực thì ông đã trốn biệt đi theo Việt Minh mà không kịp chia tay vối người thân, bà con bản làng. Bọn địch ở đồn Ngân Sơn đinh ninh là Bế Ích Nhân đã bị Việt Minh thủ tiêu, còn ông rút vào hoạt động bí mật và phải chuyển địa bàn hoạt động lên vùng Nguyên Bình với cái tên mới là Bế Ích Vạn.


Sau khi dự lễ thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân và tham gia các trận Phai Khắt, Nà Ngần, Đồng Mu, Bế Ích Vạn theo Đội “Nam tiến” xuống vùng Bạch Thông và tham gia Tổng khởi nghĩa ở đó. Tháng 9 - 1945, Bế Ích Vạn được kết nạp vào Đảng.


Đầu năm 1946, với chức vụ Đại đội phó, Bế Ích Vạn có mặt trong đội hình của Chi đội 3 đi “Nam tiến”. Nhưng vừa mới hành quân vào tới miền Trung thì ông bị ốm nặng, buộc phải quay trở ra Bắc.

Sau sự kiện quân Pháp nhảy dù xuống Bắc Kạn (7-10-1947), Bế Ích Vạn được cấp trên điều về làm Trưởng ban giao liên tỉnh Bắc Kạn, rồi sau đó làm cán bộ địch hậu ở huyện Ngân Sơn.

Hoà bình lập lại, do bị nghi ngờ dính dáng đến vấn đề kinh tế, tính tự ái nổi lên, Bế Ích Vạn bất mãn bỏ về quê.
Năm 1961, sau khi được minh oan, ông lại ra làm cán bộ thương nghiệp huyện Bạch Thông cho đến năm 1971 thì nghỉ hưu và mất năm 1983 tại thị trấn Phủ Thông.

Bế Ích Vạn đã được Nhà nước tặng Bằng có công với nước.


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 26 Tháng Tám, 2015, 08:53:43 pm
Liệt sỹ MÔNG VĂN VẨY (1916 -1946)


Họ và tên: Mông Văn Vẩy
Bí danh: Mông Phúc Thơ, Lương Văn Khâm
Ngày tháng năm sinh: 1916
Quê quán: Tràng Xá - Võ Nhai - Thái Nguyên
Dân tộc: Nùng.


Mông Văn Vẩy là một trong số bốn đội viên Cứu quốc quân có mặt trong buổi lễ tuyên thệ của Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân chiều ngày 22-12-1944 tại khu rừng Trần Hưng Đạo.

Sinh ra trong một gia đình nông dân người Nùng nghèo khó, lớn lên trên mảnh đất Võ Nhai giàu truyền thông cách mạng nên Mông Văn Vẩy đã sớm có ý thức giác ngộ cách mạng. Năm 1935, ông bắt đầu tham gia phong trào cách mạng ở địa phương và chỉ chưa đầy một năm sau đó đã được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Thời kỳ này, phong trào cách mạng của quần chúng phát triển mạnh mẽ tại các xã Tràng Xá, Lâu Thượng, La Hiên. Chi bộ Đảng Cộng sản huyện Võ Nhai đã được thành lập ở Phú Thượng.


Ngày 15-9-1941, tại khu rừng Khuôn Mánh, xã Tràng Xá, châu Võ Nhai (Thái Nguyên) Trung đội Cứu quốc quân II đã được thành lập. Mông Văn Vẩy (ở Cứu quốc quân II, người ta thường gọi ông là Mông Phúc Thơ) là một trong những tiểu đội trưởng đầu tiên.


Thực hiện chủ trương bảo tồn lực lượng để giữ vững và tiếp tục gây dựng cơ sở, mở rộng căn cứ địa của Trung ương Đảng, ngày 18-11-1941, Ban chỉ huy Cứu quốc quân II đã phân chia lực lượng thành nhiều nhóm tỏa đi các hướng để mở rộng địa bàn hoạt động. Phần lớn lực lượng (trong đó có Mông Phúc Thơ) chuyển lên vùng biên giới Việt - Trung; bộ phận còn lại (có Mông Phúc Quyền, Phương Cương...) lật cánh sang Đại Từ, Sơn Dương để tiếp tục phát triển cơ sở ở đây.


Tháng 2-1943, Hội nghị liên tịch giữa các đồng chí Trung ương (Vũ Anh, Võ Nguyên Giáp) với chỉ huy Cứu quốc quân và lãnh đạo Tỉnh ủy Cao Bằng đã quyết định rút hết Cứu quốc quân về Bắc Sơn, Võ Nhai; đồng thời tách một nhóm tăng cường cho các đội xung phong Nam tiến mở con đường quần chúng cách mạng từ Cao Bằng xuống Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang.


Tháng 4-1943, Mông Phúc Thơ xuống các xã vùng cao Ngân Sơn tổ chức các Hội Cứu quốc. Đầu năm 1944, địch tiến hành khủng bố trắng ở Ngân Sơn và dọc hành lang con đường cách mạng Nam tiến, Mông Phúc Thơ vẫn kiên cường bám trụ địa bàn này.


Nhờ những hoạt động tích cực và có hiệu quả của Cứu quốc quân mà khu căn cứ Bắc Sơn - Võ Nhai được mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi để xây dựng lực lượng vũ trang địa phương, chống địch khủng bố.

Tháng 12-1944, chấp hành chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh về việc thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân và theo yêu cầu của đồng chí Võ Nguyên Giáp, Ban chỉ huy Cứu quốc quân đã chọn và giới thiệu 4 cán bộ xuất sắc tham gia vào Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân. Một trong số đó là Mông Phúc Thơ. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp, Mông Phúc Thơ đi cùng đơn vị Nam tiến xuống Bắc Kạn, Thái Nguyên rồi sang Tuyên Quang. Trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông chỉ huy đơn vị tập kích quân Nhật tại Thái Nguyên; sau đó, kéo quân vê Hà Nội dự lễ Quốc khánh 2-9. Ngày 26-9-1945, Mông Phúc Thơ được giao làm Chi đội trưởng Chi đội Giải phóng quân đầu tiên của miền Bắc lên đường Nam tiến. Cuối năm 1945, Chi đội của ông vào đến Thủ Đức. Tại đây, ông đẫ tham gia chỉ huy đánh một số mục tiêu trong nội thành Sài Gòn và được chỉ định làm ủy viên quân sự của Ủy ban kháng chiến Đông Nam Bộ. Sau ngày ký Hiệp định Sơ bộ (6-3-1946), Chi đội của Mông Phúc Thơ rút quân ra Phan Thiết. Ngày 8-5-1946, tại chiến khu Triềng, đơn vị của ông bị địch tập kích. Chi đội trưởng Mông Phúc Thơ bị địch bắt đưa về Phan Thiết. Chúng tìm mọi cách dụ dỗ, mua chuộc không được; cuối cùng đưa ông ra xử bắn tại Ngã Bảy - thị xã Phan Thiết.


Năm 1959, Mông Phúc Thơ đã được Nhà nước công nhận là Liệt sĩ (Bằng Tổ quốc ghi công, số XQ 4441b).


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 06 Tháng Chín, 2015, 07:33:31 pm
Phần III
GHI CHÉP VỀ QUÁ TRÌNH ĐI TÌM HIỂU DANH SÁCH
ĐỘI VIỆT NAM TUYÊN TRUYỀN GIẢI PHÓNG QUÂN


Xuất xứ của những đợt đi tìm hiểu một cách chi tiết và đầy đủ về Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân là bắt đầu từ cuối năm 1992. Sở dĩ chúng tôi nói như vậy là vì trong nhiều năm trước đó. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (Viện LSQSVN) và một số đơn vị khác  (Ban Sử quân đội thuộc Tổng cục Chính trị, Viện Bảo tàng Quân đội (nay là Bảo tàng Lịch sử quân sự))... đã đặt vấn đề tổ chức sưu tầm, tìm hiểu về sự ra đời, hoạt động của Đội cũng như về các thành viên trong Đội VNTTGPQ. Tuy nhiên, vì nhiều lý do, nên công việc sưu tầm, tìm hiểu này đã không đạt được kết quả mong muốn, mặc dù trong quãng thời gian đó, số đội viên của Đội còn sống khá nhiều, rất thuận lợi cho việc đối chiếu, xác minh.


Vào năm 1992, nhân chuẩn bị kỷ niệm 47 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (QĐNDVN), Ban liên lạc Việt Nam Giải phóng quân (VNGPQ) tổ chức họp mặt các đồng chí từng là cán bộ, đội viên của đơn vị. Như chúng ta đã biết, VNGPQ là đội quân được thành lập trên cơ sở thống nhất VNTTGPQ, Cứu quốc quân (CQQ) và một số tổ chức vũ trang khác, theo quyết định của Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, họp từ ngày 15 đến ngày 20-4-1945 tại Hiệp Hoà (Bắc Giang). Lễ thống nhất các đơn vị thành VNGPQ đã diễn ra ngày 15-5-1945 tại bãi Thàn Mát, cạnh đình làng Quặng, xã Định Biên Thượng, huyện Định Hoá, tỉnh Thái Nguyên. Căn cứ vào ý kiến, nguyện vọng của nhiều đồng chí trong Ban liên lạc, Thượng tướng Đàm Quang Trung thay mặt Ban liên lạc VNGPQ, đã viết thư cho đồng chí Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Đoàn Khuê và đồng chí Chủ nhiệm Tống cục Chính trị Lê Khả Phiêu, đề nghị Bộ Quốc phòng giúp đỡ, tạo điều kiện việc tìm hiểu, sưu tầm, xác minh, lập danh sách Đội VNTTGPQ và khắc tên các đội viên vào bia kỷ niệm, sẽ đặt tại khu rừng Trần Hưng Đạo, xã Tam Kim, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng - nơi Đội tổ chức thành lập. Các đồng chí lãnh đạo Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị rất hoan nghênh và cho biết sẽ tạo điều kiện để sớm xúc tiến công việc cho kịp dịp kỷ niệm lần thứ 50 ngày thành lập Quản đội (22-12-1994).


Tiếp đó, khi tham dự cuộc họp của Ban liên lạc VNGPQ tại Thái Nguyên, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nói: “Bây giờ làm là chậm nhưng vẫn còn kịp và vẫn phải làm”. Tuy nhiên, do thời gian trôi qua đã ngót nửa thế kỷ, nhiều người trong cuộc đã mất, hoặc đã già yếu, nên việc lập danh sách rất khó khăn. Vì thế, việc đầu tiên phải làm là dựa vào các đồng chí lão thành cách mạng, nhân chứng và các đội viên Đội VNTTGPQ còn sống để tìm hiểu, xác minh. Những người đó là cụ Nông Văn Lạc - người được coi là cánh tay phải của đồng chí Văn (tức Đại tướng Võ Nguyên Giáp) trong việc tổ chức, thành lập Đội, nhà cụ chính là nơi địch chiếm dụng để làm đồn Phai Khắt; là cụ Nông Văn Quang - nguyên Bí thư chi bộ của Đội xung phong Nam tiến và nhiều người khác nữa. Đại tá Nguvễn Huy Văn (tức Kim Sơn) - nguyên cán bộ Cục Tác chiến (Bộ Tổng tham mưu), nguyên là đội viên của VNGPQ, cho chúng tôi biết: Ban liên lạc VNGPQ đã đề nghị một số đồng chí có liên quan trực tiếp và một số cơ quan hữu quan lập danh sách của Đội VNTTGPQ. Kết quả, đã nhận được 8 bản danh sách của các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Dương Mạc Thạch (tức Xích Thắng - nguyên Chính trị viên của Đội), Nông Văn Lạc, Nông Văn Quang, Doanh Thắng Hỷ (tức Doanh Hằng - lão thành cách mạng, nguyên ủy viên Ban cán sự tỉnh Bắc Kạn thời kỳ kháng chiến chống Pháp, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Thái...), của đoàn cán bộ Tổng cục Chính trị, Tổng cục Hậu cần, của Viện Bảo tàng Quân đội và của Viện LSQSVN. Sau khi đối chiếu, trừ những người trùng tên, danh sách còn lại lên tới 74 người. Điều này cũng dễ hiểu bởi vì mới chỉ căn cứ vào trí nhớ của từng người, hơn nữa thời gian xảy ra đã quá lâu và thời gian các đội viên gặp nhau, trong hoàn cảnh hoạt động bí mật, hoặc cùng sống, chiến đấu với nhau trong đội hình của Đội không dài; cũng như sau này đã phân tán hoạt động ở các đơn vị khác, địa bàn khác. Chính vì số người trong danh sách được lập ra đông như vậy nên từ cuối 1992 cho đến giữa năm 1994, Ban liên lạc VNGPQ đã phải tổ chức ba cuộc họp - hội thảo tại Cao Bằng, Thái Nguyên và Hà Nội, mời các đơn vị, cá nhân có liên quan, để rà soát, thống nhất lại danh sách. Cũng xin nói rõ thêm là việc xác định ai nằm trong danh sách 34 cán bộ, chiến sĩ đầu tiên của Đội VNTTGPQ rất khó, bởi hôm thành lập, số người được triệu tập từ các địa phương (chủ yếu ở Cao Bằng) về khá đông. Bên cạnh đó còn có đại biểu và nhân dân địa phương quanh vùng. Nhiều nhân chứng mà chúng tôi có dịp hỏi chuyện đều nói hôm đó (22-12-1944) có khá đông, phải đến gần 100 người, nhưng chủ yếu là đứng xung quanh, còn 34 đội viên đứng thành hàng ở giữa và làm lễ thành lập, tuyên thệ. Khi làm lễ, lúc đó khoảng 5 giờ chiều, lại ở trong rừng, mùa đông nên trời tối, không nhìn rõ mặt hết tất cả mọi người, chưa kể nhiều người chỉ mang bí danh hoạt động là chủ yếu.


Sau khi đã bước đầu thống nhất danh sách, ngày 4-7-1994. đồng chí Đàm Quang Trung viết thư báo cáo kết quả cho các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Lê Khả Phiêu, Võ Văn Kiệt. Sau khi có bản danh sách đã được thẩm định nhiều lần, đoàn cán bộ Tỉnh ủy Cao Bằng, do đồng chí Nông Hồng Thái - Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Nông Hải Pín - Ủy viên Thường vụ, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy và một cán bộ Ban Tổ chức Tỉnh ủy Cao Bằng, đã về Hà Nội, làm việc với Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Cùng dự buổi làm việc hôm đó còn có đại diện Ban liên lạc VNGPQ.


Ngày 2-11-1994, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã ký xác nhận bản danh sách 34 cán bộ, chiến sĩ Đội VNTTGPQ để kịp đưa đi khắc tên vào bia.

Cùng với quá trình lập danh sách của Đội VNTTGPQ, được sự chỉ đạo, tạo điều kiện của Chính phủ, của Bộ Quốc phòng, của Tỉnh ủy, UBND tỉnh Cao Bằng, khu di tích ghi dấu nơi ra đời của QĐNDVN, tại khu rừng Trần Hưng Đạo, đã được khẩn trương xây dựng với ngân sách duyệt là 28 tỷ đồng. Đây là số kinh phí lớn vào lúc đó, chứng tỏ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Quân đội đối với sự kiện lịch sử đầy ý nghĩa này. Toàn bộ các hạng mục thi công do Sư đoàn 472, thuộc Binh đoàn 12 và Công ty Lũng Lô của Bộ Tư lệnh Công binh đảm nhiệm, gồm: tu sửa và làm mới 18 km đường núi (trên cơ sở đường cũ nhỏ) từ ngoài thị trấn huyện Nguyên Bình vào đến khu rừng Trần Hưng Đạo; đường vào khu Nhà bia; xây Nhà bia, khắc bia 4 mặt (gồm Chỉ thị của Bác Hồ về việc thành lập Đội VNTTGPQ: danh sách Đội; 10 lời thề danh dự; về buổi lễ thành lập Đội); xây lại đài quan sát của đồng chí Văn trước khi đánh trận Phai Khắt trên đỉnh núi Slam Cao; khu nhà nghỉ của tổ trông coi khu di tích...


Sau một thời gian khẩn trương thi công, lễ khánh thành khu di tích. Nhà bia đã được tổ chức đúng vào dịp kỷ niệm lần thứ 50 ngày thành lập QĐND Việt Nam, với sự tham dự của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, đồng chí Lê Khả Phiêu - Chủ nhiệm TCCT, cùng nhiều đại biểu của Trung ương, Quân đội, tỉnh Cao Bằng và đông đảo nhân dân địa phương. Đây là một sự kiện có ý nghĩa lớn lao sau nửa thế kỷ Quân đội ta được thành lập.


Cần khẳng định rằng, những người được giao nhiệm vụ tìm hiểu, xác minh vấn đề này, trong đó có các cấp, các ngành và địa phương tỉnh Cao Bằng, của Ban liên lạc VNGPQ và các cá nhân có liên quan cho đến trước tháng 12- 1994, về việc lập danh sách Đội VNTTGPQ và xây dựng khu di tích, đã thể hiện trách nhiệm và cố gắng ở mức cao nhất và rất đáng trân trọng, khâm phục.


Do thời gian kể từ khi bắt đầu công việc sưu tầm, lập danh sách, đến khi dựng Nhà bia trong khu di tích không dài, chỉ trong khoảng 2 năm, do sự kiện diễn ra đã lâu, nhiều người “trong cuộc” không còn, nên việc có sai sót, khiếm khuyết là điều không thể tránh khỏi.


Cuối năm 1999, tức là đúng 5 năm sau khi Nhà bia trong khu rừng Trần Hưng Đạo được khánh thành. Viện LSQSVN đã phối hợp với Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh Cao Bằng và Bộ Tư lệnh Quân khu 1 tổ chức cuộc hội thảo khoa học kỷ niệm lần thứ 55 ngày thành lập Quân đội tại thị xã Cao Bằng. Hội thảo có chủ đề: “55 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, miền đất khai sinh và quá trình phát triển. Trong dịp hội thảo, một số đại biểu đã tới thăm Nhà bia tại khu rừng Trần Hưng Đạo, cách thị xã Cao Bằng hơn 60 km về phía Tâv Nam. Sau khi xem kỹ danh sách với các yếu tố họ tên, quê quán, năm sinh, thành phần dân tộc... một số thiếu sót xung quanh danh sách đã được phát hiện.


Vào cuối tháng 3-2000, ông Doanh Hằng - lão thành cách mạng, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Thái, nguyên ủy viên Ban cán sự tỉnh Bắc Kạn (thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp)... đã gửi một bức thư dài cho các cơ quan, đơn vị như: Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam, Bộ Tư lệnh Quân khu 1, Ban liên lạc VNGPQ, Bộ chỉ huy quân sự các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, huyện Nguyên Bình về một số vấn đề liên quan đến danh sách Đội VNTTGPQ. Thư của ông Doanh Hằng có đoạn: “Tôi thấy trong bia khắc tên chưa đúng sự thật, có người sai về thành phần dân tộc, có nhiều người sai về tên bí danh và tên khai sinh. Đặc biệt, trong hai cuộc kháng chiến có 8 đồng chí đã hy sinh cho Tổ quốc, nhưng mới chỉ có 2 đồng chí được ghi liệt sĩ, còn 6/8 người chưa được khắc liệt sĩ theo tên trong Nhà bia...”. Ông Doanh Hằng đã nêu họ tên cụ thể từng trường hợp, cả về thành phần dân tộc, quê quán, hoàn cảnh hy sinh (cũng có trường hợp ông được nghe từ người khác kể lại) và đề nghị các cơ quan chức năng liên quan “thẩm tra xem xét, khắc lại cho chính xác, cho đúng với sự thật”.


Từ lá thư đề nghị nêu trên, ngày 20-4-2000, Thượng tướng Phạm Thanh Ngân - Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ nhiệm TCCT, đã chỉ thị: ‘‘Viện Lịch sử Quân sự nghiên cứu phối hợp với quân khu và các địa phương để xác minh kết luận (gặp trực tiếp đồng chí Doanh Hằng để tìm hiểu). Nếu có thiếu sót, sai thì sửa”.


Chấp hành chỉ thị của thủ trưởng TCCT, thủ trưởng Viện Lịch sử quân sự đã cử đoàn cán bộ đi tìm hiểu, xác minh những nội dung nêu trong thư. Nhận nhiệm vụ phân công, chúng tôi xác định đây là công việc không dễ dàng bởi vì những tài liệu liên quan mà chúng tôi có trong tay không nhiều và những hiểu biết cụ thể, tường tận xung quanh danh sách Đội VNTTGPQ thực sự rất ít ỏi. Ngoài một vài cán bộ, đội viên mà tên tuổi đã khá nổi tiếng như Hoàng Văn Thái, Hoàng Sâm, Thu Sơn, Dương Mạc Thạch... có thể nói hầu hết số đội viên còn lại trong danh sách, chúng tôi cũng mới chỉ biết qua một số sách báo và qua đọc trên tấm bia.


Từ thực tế đó, chúng tôi quyết định phương hướng đi sưu tầm, khảo sát như sau: dựa vào danh sách 34 cán bộ, đội viên đã khắc trong bia, sẽ lần lượt đi tìm hiểu từng người một - căn cứ vào địa chỉ, quê quán mà tìm đến. Dù có mất nhiều thời gian, công sức cũng quyết tiến hành theo hết khả năng có thê và điều kiện cho phép, bởi đã có chỗ “bấu víu” là quê quán của mỗi người. Sau khi đã xác định phương hướng, chúng tôi bàn cụ thể những địa chỉ cần phải đến trong chuyến đi đầu tiên. Một điều khá thuận lợi là theo danh sách thì có tới 28/34 người quê gốc ở Cao Bằng (trong đó có 3 người quê ở huyện Ngân Sơn, nay thuộc Bắc Kạn), 2 người quê ở Bắc Thái (cụ thể là ở Võ Nhai, Thái Nguyên hiện nay), 2 người quê ở Quảng Bình, 1 người ở Thái Bình và 1 người ở Lạng Sơn. Vì thế, đích của chuyến đi đầu tiên sẽ là Thái Nguyên, Bắc Kạn và Cao Bằng để trước hết nhằm thẩm tra, xác minh, trả lời kiến nghị của ông Doanh Hằng về một số cán bộ, đội viên đã hy sinh nhưng chưa được khắc chữ liệt sĩ ở trong bia. Cũng cần phải nói thêm một thuận lợi nữa là trong thời gian dự cuộc hội thảo ở Cao Bằng, chúng tôi có may mắn được gặp, hỏi chuyện và chụp ảnh 3 đội viên của Đội VNTTGPQ còn sống và được Ban tổ chức Hội thảo mời đến tham dự. Đó là cụ Tô Vũ Dâu (tức Thịnh Nguyên) lúc đó đã 79 tuổi, sống tại thôn Đức Chính, xã Vĩnh Quang, huyện Hoà An; cụ Bế Bằng (tức Bế Kim Anh), 80 tuổi, sống ở khu tập thể Nước Giáp, thị xã Cao Bằng và cụ Hà Hưng Long (76 tuổi), sông tại xã An Tường, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang. Qua chuyện kể của các cụ, phần nào cũng hình dung được vài nét về tổ chức hoạt động của Đội, về một số đội viên. Cùng những chỉ dẫn của bác Kim Sơn, chúng tôi lên đường đi khảo sát.


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 06 Tháng Chín, 2015, 07:34:33 pm
CHUYẾN ĐI THỨ NHẤT


Vào cuối tháng 4-2000, Đoàn chúng tôi gồm 3 người (Nguyễn Mạnh Hà, Trần Ngọc Long, Chu Văn Tùng) từ Hà Nội đi Tuyên Quang, tìm gặp cụ Hà Hưng Long. Đoàn đi bằng ô tô, lái xe là dồng chí Lê Đức Tráng. Cụ Long còn khoẻ mạnh, đã kể cho chúng: tôi về ngày thành lập Đội VNTTGPQ, về một số đội viên cụ biết và về trường hợp hy sinh của đội viên Nguyễn Văn Phán (tức Kế Hoạch) mà chúng tôi sẽ viết cụ thể ở phần sau. Rời Tuyên Quang, chúng tôi sang Thái Nguyên. Do đã có kế hoạch tìm gặp tất cả những đơn vị, cá nhân có liến quan, nên người đầu tiên chúng tôi tìm đến là ông Doanh Hằng, ở số nhà 26, phố Cách mạng tháng Tám, phường Trưng Vương, thành phố Thái Nguyên. Ông Doanh Hằng lúc đó đã 75 tuổi, nhưng còn mạnh khoẻ, trí nhớ rất tốt, đã kể cho chúng tôi lý do ông viết bức thư kiến nghị, bởi đó là những con người mà ông từng gặp, hoặc từng được nghe kể về họ. Ông muốn sự thực lịch sử được chính xác, nhất là khi đã “khắc trên bảng vàng, bia đá”. Kết thúc câu chuyện, ông cẩn thận nói thêm: “Đây là những gì tôi biết, tôi nhớ, chưa hẳn đã chính xác hoàn toàn, các đồng chí nên đi xác minh thêm”. Nói rồi, ông cung cấp cho chúng tôi địa chỉ của một số nhân chứng liên quan.


Được sự giúp đỡ của Phòng Khoa học - Công nghệ - Môi trường Quân khu 1 và Ban Lịch sử - Tổng kết Bộ CHQS tỉnh Thái Nguyên, chúng tôí đến gặp cụ Nông Văn Quang (81 tuổi), sống tại tổ khối 18, phường Quang Trung, thành phố Thái Nguyên. Cụ Quang là lão thành cách mạng, được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhất, tuy sức khoẻ yếu, nhưng vẫn rất nhiệt tình kể cho Đoàn nghe những gì cụ biết về các đội viên Đội VNTTGPQ. Những mẩu chuvện, những thông tin tuy rời rạc mà cụ cho biết, cũng giúp ích cho chúng tôi khá nhiều trong những ngày sau đó.


Do có đặt vấn đề trước, chúng tôi liên hệ được với Sở Lao động - Thương binh - Xã hội tỉnh Thái Nguyên và gia đình hai đội viên Hoàng Thịnh (tức Quyền) và Mông Phúc Thơ, đều dân tộc Tày, quê ở Tràng Xá, huyện Võ Nhai, để xác minh thêm về hai trường hợp nàv. Trong đó, đội viên Mông Phúc Thơ, theo ông Doanh Hằng cho biết, đã hy sinh nhưng chưa được khắc chữ liệt sỹ trong Bia.


Tại Bắc Kạn, chúng tôi tìm đến quê của 3 đội viên Hoàng Văn Lường (tức Kính Phát), dân tộc Nùng, ở xã Đức Vân; Hoàng Văn Ninh (tức Thái Sơn); dân tộc Nùng, ở xã Thượng Ân và Bế Văn Vạn, dân tộc Tày, xã Vân Tùng, đều thuộc huyện Ngân Sơn. Tại UBND xã Vân Tùng, các đồng chí trong UBND cho biết gia đình ông Bế Văn Vạn đã chuyển xuống thị xã Bắc Kạn từ lâu, hiện không rõ địa chỉ cụ thể. Ủy ban đã cử đồng chí xã đội trưởng dẫn chúng tôi đến nhà bà Lục Thị Ninh (75 tuổi), lão thành cách mạng, từng có thời gian hoạt động với ông Vạn từ 1943 đến trước cuối năm 1944, khi ông còn hoạt động ở địa phương, chưa thoát ly tham gia Đội VNTTGPQ.


Lúc này đã quá 12 giờ trưa, chúng tôi quay lại thị trấn huyện Ngân Sơn tìm hàng ăn. Tại đây, một sự may mắn tình cờ đã giúp chúng tôi gặp được người cháu ruột của ông Hoàng Văn Ninh (tức Thái Sơn). Qua người cháu ruột này, chúng tôi đã nhanh chóng có được địa chỉ của con trai ông Ninh đang sống ở thị xã Bắc Giang.


Tại Ngân Sơn còn có một đội viên tên là Hoàng Văn Lường, quê ở xã Đức Vân. Do lúc này đã giữa buổi chiều, không còn thời gian đến Đức Vân, vả lại được biết gia đình ông Lường đã chuyển xuống thị xã Bắc Kạn nên cũng không thể quay lại tìm (vì từ Ngân Sơn trở lại thị xã Bắc Kạn khoảng 60 km theo quốc lộ 3), nên chúng tôi đã tìm vào Ban CHQS huyện Ngân Sơn, nhờ gọi điện về Ban sử của Bộ CHQS tỉnh Bắc Kạn, nhờ đồng chí trung tá Vũ Văn Phong xác minh giúp trường hợp này. Như vậy, công việc ở Ngân Sơn tuy chưa được như mong đợi, song cũng tạm thời có kết quả. Sáng hôm sau, tại Cao Bằng, chúng tôi có cuộc làm việc với chị Dung - Trưởng Ban lịch sử Đảng thuộc Ban Tuyên giáo tỉnh ủy Cao Bằng để xác minh danh sách lão thành cách mạng của tỉnh; gặp chị Nguyễn Thục Bình - Giám đốc Sở Lao động - Thương binh - Xã hội và cán bộ của sở để xác minh hồ sơ liệt sỹ. Tiếp đó, chúng tôi tìm gặp cụ Tô Vũ Dâu (tức Thịnh Nguyên), cụ Bế Bằng (tức Kim Anh); chị Nông Thị Nghĩa - Chủ tịch UBND huyện Nguyên Bình; làm việc với Ban Lịch sử - tổng kết Bộ CHQS tỉnh Cao Bằng... Được sự giúp đỡ nhiệt tình của các cá nhân, các sở, ban, ngành của tỉnh, đặc biệt là Văn phòng, Ban Tuyên giáo tỉnh ủy Cao Bằng, nên chúng tôi đã tìm hiểu, xác minh được hầu hết những nội dung kiến nghị của ông Doanh Hằng.


Quá trình đi gặp gỡ nhân chứng xác minh, đối chiếu tư liệu xin được tóm tắt như sau: đối với tất cả các cá nhân liên quan, đặc biệt là với ông Doanh Hằng, chúng tôi đặt nhiều câu hỏi xung quanh các vấn đề cần làm rõ, bổ sung, sửa lại cụ thể từng trường hợp một. Các câu hỏi này được lặp lại với tất cả những người liên quan mà chúng tôi tìm gặp được (có ghi chép, ghi âm), để tìm ra nội dung chuẩn xác nhất. Có trường hợp câu trả lời không giống nhau, không chính xác thì chúng tôi dùng luôn các câu trả lời đó hỏi người khác nhằm xác minh thêm. Trong chuyến đi này, đối với các trường hợp đã hy sinh, được đề nghị khắc ghi vào bia liệt sỹ, chúng tôi đã đến tận gia đình hoặc các sở LĐ-TB-XH để xin xem giấy tờ, hồ sơ gốc. Bằng Tổ quốc ghi công, ghi lại cả số quyết định, ngày ký quyết định, người ký Bằng Tổ quốc ghi công, hoặc trực tiếp hỏi chuyện những người chứng kiến việc chuyển hài cốt, mai táng tại nghĩa trang (như trường hợp đội viên Ma Văn Phiêu, bí danh là Bắc Hợp, Đường, được cất bốc, mai táng tại nghĩa trang liệt sỹ huyện Nguyên Bình). Đối với các trường hợp khắc nhầm thành phần dân tộc, nhầm giữa bí danh hoạt động và tên khai sinh, chúng tôi cũng tìm gặp những người cùng hoạt động, cùng dân tộc, cùng dòng họ, hỏi cụ thể để hiểu được cách đổi tên, họ của mỗi dân tộc, từ đó tìm ra điều hợp lý nhất.


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 06 Tháng Chín, 2015, 07:35:47 pm
Trong chuyến đi đầu tiên này, có một trường hợp chúng tôi mất nhiều công sức để xác minh, đó là sự hy sinh của đội viên Nguyễn Văn Phán (Kế Hoạch). Đây là trường hợp nằm ngoài danh sách 6 người mà ông Doanh Hằng đề nghị, nhưng do tiện đường công tác khi còn ở Cao Bằng nên chúng tôi đã quyết định tìm hiểu để làm rõ, may ra có thể bổ sung vào danh sách các liệt sĩ của Đội. Cụ Hà Hưng Long cho biết đồng chí Kế Hoạch bị chết do bom của máy bay Pháp ném xuống thị xã Cao Bằng khi ta đang chuẩn bị đưa bộ đội vào thị xã mít tinh mừng chiến thắng giải phóng Cao Bằng trong chiến dịch Biên Giới thu - đông năm 1950. Lúc đó đồng chí Kê Hoạch là cán bộ tiểu đoàn. Như thế, nếu đúng đồng chí Kế Hoạch hy sinh vì bom của Pháp thì phải được công nhận liệt sĩ. Chúng tôi đã đưa trường hợp này ra hỏi nhiều người trong quá trình đi xác minh nhưng tất cả đều khẳng định đồng chí Kế Hoạch đã chết từ thu - đông năm 1947 tại một con dốc phía nam thị xã Cao Bằng, do bị tai nạn giao thông. Các thông tin mâu thuẫn nhau khiến chúng tôi quyết định phải tìm đến quê đồng chí Kế Hoạch để tìm hiểu cụ thể. Dưới trời mưa tầm tã, cả đoàn đi xe về xã Hồng Việt, huyện Hoà An. Do nước sông Bằng Giang lên to, ô tô không vượt ngầm được, chúng tôi thuê xe máy chở, vượt cầu treo, tìm vào trụ sở UBND xã, nhưng không gặp được ai vì không phải ngày làm việc theo lịch tại Ủy ban. Hỏi dân làng cũng không ai biết nhà ông Kế Hoạch ở đâu. Thật may, chính anh lái xe máy, vốn là bộ đội xuất ngũ, cũng là con của một lão thành cách mạng tại địa phương, lại nhớ ra ở xóm phía sâu trong xã, có một ông “34 chiến sỹ” đã chết từ lâu, nay chỉ còn người con trai út sông ở đó. Do đường nhỏ, lại rất gồ ghề nên chúng tôi phải đi bộ vào, vừa đi vừa hỏi, đến đúng địa chỉ cần tìm. Ông hàng xóm nhà đồng chí Kê Hoạch, tên là Nguyễn Văn Cửu, đã ngoài 70 tuổi, cho biết đồng chí Kế Hoạch mất từ năm 1947, vào khoảng cuối năm. Được mọi người nhắn, đồng chí Linh Quang Vinh - Chủ tịch UBND xã đã 11 năm, củng tìm đến gặp chúng tôi. Tiếp đó, cả anh Nguyễn Văn Cường - con trai út của đồng chí Kế Hoạch, cũng được đưa đến. Khi chúng tôi hỏi tuổi anh Cường thì anh nói sinh năm 1947, lúc bố mất thì anh vẫn còn trong bụng mẹ. Như thế, có thể khẳng định đồng chí Kê Hoạch mất vào trước thu - đông 1947. Ông Cửu khẳng định là đồng chí Kê Hoạch mất là do tai nạn giao thông. Đồng chí Chủ tịch xã cũng cho biết trong Nhà bia liệt sĩ của xã không có tên đồng chí Kế Hoạch. Đến đây, chúng tôi mới thực sự giải toả được thắc mắc của mình và các cán bộ của sở LĐ-TB-XH tỉnh Cao Bằng cũng có căn cứ xung quanh việc giải quyết chính sách cho gia đình đồng chí Kế Hoạch.


Như vậy, chuyến đi đầu tiên xác minh những nội dung trong thư đề nghị của ông Doanh Hằng đã đạt được kết quả bước đầu. Theo tìm hiểu, xác minh của chúng tôi, cho đến trước khi tấm bia được khắc, có 8/34 đội viên Đội VNTTGPQ là liệt sĩ. nhưng trên bia chỉ thể hiện có 2 trường hợp là Nông Văn Bê (tức Thân) dân tộc Nùng, quê ở xã Hoàng Tung, huyện Hoà An và Hoàng Văn Nhủng (tức Xuân Trường) dân tộc Tày, quê xã Sóc Hà, huyện Hà Quảng, Cao Bằng. Còn 6 người là liệt sĩ nhưng chưa được khắc chữ liệt sĩ vào bia, đã được làm rõ.


Đó là đồng chí Hoàng Sâm (tức Trần Văn Kỳ), dân tộc Kinh, quê ở xã Lệ Sơn, huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình - Đội trưởng Đội VNTTGPQ, hy sinh tại chiến trường Trị Thiên-Huế năm 1968. Khi đó, đồng chí Hoàng Sâm mang quân hàm Thiếu tướng.


Người thứ hai là đồng chí Nông Văn Kiếm (tức Liên), dân tộc Tày, quê ở xã Tam Kim, huyện Nguyên Bình, Cao Bằng. Người anh trai của đồng chí Nông Văn Kiếm là Nông Văn Quang, lão thành cách mạng từ tháng 1-1942, hiện hơn 80 tuổi, sống tại thị trấn huyện Nguyên Bình, cho biết đồng chí Kiếm hy sinh trong trận chiến đấu với quân Pháp năm 1948 tại mặt trận Lào Cai. Đồng chí Kiếm từng là Đội trưởng Đội Tây tiến và là người cùng đơn vị với đồng chí Đàm Quốc Chủng, cũng là đội viên trong Đội VNTTGPQ. Đồng chí Kiếm được truy tặng Huân chương Chiến thắng hạng Nhì ngày 29-4-1958.


Người thứ ba là đồng chí Ma Văn Phiêu (tức Bắc Hợp, Đường), dân tộc Tày, quê ở xã Minh Tâm, huyện Nguyên Bình, hy sinh ngày 17-5-1945 tại Chợ Rã, Bắc Kạn do bị địch phục kích. Gia đình đồng chí Mạc Văn Phiêu được cấp Bằng Tổ quốc ghi công năm 1959.


Người thứ tư là đồng chí Chu Văn Đế (tức Nam), dân tộc Tày, quê ở xã Minh Tâm, huyện Nguyên Bình. Đồng chí tham gia đoàn quân Nam tiến, là Trung đội trưởng, hy sinh ngày 30-8-1948 trong trận đánh vào sân bay Vanh Tiên (Kon Tum).


Người thứ năm là đồng chí Ngọc Trình, dân tộc Tày, quê ở xã Bình Long, huyện Hoà An, Cao Bằng. Đồng chí phụ trách đại đội độc lập huyện Văn Lãng, đơn vị này sau đó thuộc Trung đoàn 174, tham gia giúp Quân giải phóng Trung Quốc đánh quân đội Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch. Đồng chí hy sinh vào khoảng tháng 7-1949 tại khu vực thôn Cốc Lùng, gần Ái Khẩu. Hiện mộ phần vẫn còn ở trên đồi Pò Luông (Trung Quốc). Gia đình đồng chí được cấp Bằng Tổ quốc ghi công.


Người thứ 6 là đồng chí Mông Văn Vẩy (tức Mông Phúc Thơ), dân tộc Nùng, quê ở huyện Tràng Xá, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên. Đồng chí hy sinh năm 1946, tại Phan Thiết. Khi hy sinh, đồng chí là Chi đội trưởng Chi đội 3 Giải phóng quân Nam tiến. Gia đình đã được cấp bằng Tổ quốc ghi công năm 1959.


Trong số 6 người này, có đồng chí Hoàng Sâm và đồng chí Nông Văn Kiếm đã được ghi là liệt sĩ trong danh sách 34 chiến sĩ Đội VNTTGPQ có chữ ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp ngày 2-11-1994 để đưa đi khắc vào bia, nhưng có lẽ do sơ suất nên chưa được khắc vào bia.


Trước khi rời Cao Bằng, chúng tôi đã có buổi báo cáo kết quả chuyên đi với đồng chí Tiến sĩ Nông Hồng Thái - Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Cao Bằng. Đồng chí Bí thư Tỉnh ủy hoan nghênh mục đích và những kết quả bước đầu của chúng tôi đồng thời khẳng định nếu có sai sót, thiêu thì phải sửa, bố sung cho đúng với thực tế.


Sau chuyến công tác trở về, đoàn chúng tôi đã báo cáo kêt quả đợt đi xác minh, gặp gõ nhân chứng với lãnh đạo, chỉ huy iện LSQS đồng thời viết bản tường trình gửi đồng chí Chủ nhiệm TCCT, báo cáo những việc đã làm được và kiên nghị với các cơ quan chức năng về việc tạo điều kiện giúp đỡ những cựu đội viên Đội VNTTGPQ còn sống (lúc đó còn 4 - người là Tô Vũ Dâu, Tô Tiến Lực, Bế Bằng và Hà Hưng Long) cũng như gia đình, thân nhân những đội viên đã mất.


Chúng tôi nhận thức rằng kết quả xác minh mới chỉ là bước đầu. Theo danh sách 34 chiến sĩ thì còn rất nhiều việc cần phải tiếp tục làm. Ví dụ, đối với từng đội viên, cần xác minh cụ thể: ngày, tháng, năm sinh, quê quán, dân tộc, ngày tham gia cách mạng, ngày vào Đảng, quá trình công tác cho đến khi xuất ngũ về địa phương hoặc nghỉ hưu, làm gì; mất năm nào, trong hoàn cảnh nào; xác minh lại họ, tên khai sinh và bí danh hoạt động, đã được thưởng huân, huy chương gì; sưu tầm ảnh của từng người nếu có điều kiện; hoàn cảnh gia đình của từng đội viên hiện nay, đã được hưởng chế độ chính sách gì của Đảng, Nhà nước, Quân đội? Đây là công việc hệ trọng, có ý nghĩa sâu sắc, góp phần làm rõ hơn từng con người cụ thể đã tham gia vào đội quân tiền thân của Quân đội ta. Bởi nếu chỉ đọc danh sách trên bia, chúng ta chỉ biết được 4 yếu tố: họ tên, bí danh, dân tộc, quê quán, như vậy còn rất chung chung. Công việc này, theo chúng tôi, cần phải có sự quan tâm phối hợp chặt chẽ, với tinh thần trách nhiệm cao của các đồng chí lãnh đạo, thủ trưởng địa phương, cơ quan, đơn vị và các cơ quan chức năng và mỗi người chúng ta, sao cho xứng đáng với đạo lý, truyền thông “Uống nước nhớ nguồn", với danh hiệu "Bộ đội Cụ Hồ” của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, trăm trận trăm thắng.


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 06 Tháng Chín, 2015, 07:41:20 pm
CHUYẾN ĐI THỨ HAI


Trên cơ sở kết quả chuyến đi đầu tiên, theo sự chỉ đạo của thủ trưởng Viện LSQS. chúng tôi quyết định không chỉ dừng lại ở việc xác minh, trả lời kiến nghị của nhân chứng lịch sử, mà tiếp tục tìm hiểu kỹ hơn, sâu hơn về danh sách 34 cán bộ, chiến sỹ Đội VNTTGPQ, tiến tới có thể viết riêng một cuốn sách về đội quân tiền thân này.
Đây là điều rất cần thiết và có ý nghĩa bởi mấy lẽ:


Thứ nhất, đây là đội quân tiền thân của QĐND Việt Nam mà tổ chức và hoạt động của Đội đã mở đầu truyền thông tốt đẹp của Quân đội ta. Sự ra đời, thành lập của Đội đánh dấu một bước phát triển mới, quan trọng trong cuộc đấu tranh cách mạng giành chính quyền của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng.


Thứ hai, cho đến nay chưa có một công trình khoa học, một cuốn sách nào viết riêng về sự ra đời, quá trình hoạt động, phát triển của Đội cũng như viết cụ thể về từng đội viên trong Đội. Trong khi đó, những thông tin về từng người trong Đội còn khá ít ỏi, sơ lược, có chỗ thiếu và chưa chính xác, thậm chí có nhầm lẫn.


Thứ ba, xuất phát từ chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước về đền ơn đáp nghĩa, về sự tôn vinh đối với những người có công trong sự nghiệp cách mạng; kháng chiến của dân tộc, việc làm rõ quá trình tham gia hoạt động, những đóng góp, hy sinh của 34 cán bộ, chiến sĩ Đội VNTTGPQ, để từ đó có chính sách đãi ngộ thoả đáng những người còn sống, cả với những người đã khuất, là việc làm rất cần thiết, góp phần bồi dưỡng niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, góp phần xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.


Trong chuyến đi thứ hai này, vấn đề khó khăn nhất là địa bàn cần phải đi tìm hiểu rất rộng, ở hầu hết các tỉnh Việt Bắc cũ: Thái Nguyên, Bắc Kạn, Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Quảng Bình, thậm chí cả Lâm Đồng (có một đội viên tên là Tô Tiến Lực, quê ở xã Tam Kim, Nguyên Bình, đã chuyển vào sống với con gái tại thị trấn huyện Đạ Tẻh, Lâm Đồng từ năm 1992). Trong khi đó, thời gian dành cho công việc này không nhiều, vì đây không phải là nhiệm vụ đặt ra thường xuyên theo kế hoạch, vả lại, mỗi người trong đoàn còn có nhiều công việc chuyên môn, quản lý, điều kiện xe, xăng, kinh phí cũng hạn chế. Mặc dầu vậy, mọi việc như xe đã được “cài số”, giờ chỉ còn động tác “nhấn ga” lên đường.


Chuyến đi thứ hai diễn ra liên tục trong suốt 7 ngày (từ 10 đến 16-9-2001), với nhiều điều đáng kể và đã đạt được những kết quả phấn khởi.

Tại Thái Nguyên, chúng tôi lại tìm đến nhà ông Doanh Hằng để hỏi thêm một số chi tiết liên quan đến Đội và những đội viên mà ông biết trực tiếp hoặc nghe kể lại. Mặc dù các sự kiện và con người được đề cập đến đã cách đây hơn nửa thế kỷ, song ngồi nghe ông kể chúng tôi có cảm tưởng như sự việc mới xảy ra cách đây ít năm. Ai nấy đều ghi chép cẩn thận, kèm theo ghi âm và chụp ảnh.


Hôm sau, xe đến Bắc Kạn vào buổi trưa. Do đã nhờ từ trước, đồng chí trung tá Vũ Văn Phong, phụ trách công tác Lịch sử-tổng kết của Bộ CHQS tỉnh Bắc Kạn, đã cung cấp cho chúng tôi một số thông tin ít ỏi về đội viên Hoàng Văn Lường (tức Kính Phát) quê ở xã Đức Vân, huyện Ngân Sơn, mà trong lần đi trước đoàn chưa có dịp tìm hiểu.


Rời Bắc Kạn, cuối buổi chiều hôm đó, chúng tôi lên tới Cao Bằng - địa bàn có đông đội viên Đội VNTTGPQ nhất, ở Cao Bằng, Văn phòng Tỉnh ủy đã bố trí cho đoàn chúng tôi được gặp đồng chí Dương Mạc Thăng - Bí thư Tỉnh ủy (thay đồng chí Nông Hồng Thái nghỉ hưu). Điều thú vị, đồng chí Thăng là con trai của đồng chí Dương Mạc Thạch (tức Xích Thắng, còn có tên là Tân), người Chính trị viên đầu tiên của Đội VNTTGPQ. Cuộc gặp ngoài dự kiến kéo dài một tiếng rưỡi đồng hồ. Đồng chí Thăng đã cung cấp khá đầy đủ thông tin mà chúng tôi cần về người cha của mình, đồng thời cũng cho biết thêm những thông tin chi tiết về một số đội viên, cũng như góp ý cho đoàn về cách thức đi tìm hiểu sao cho có hiệu quả nhất.


Một vấn đề cần đề cập trước khi viết về những ngày đi tìm theo danh sách Đội tại Cao Bằng là chúng tôi đã đến các cơ quan có liên quan như sở LĐ-TB-XH, Ban Lịch sử Đảng Tỉnh ủy Cao Bằng, Ban sử của Bộ CHQS tỉnh, rồi sau đó xuống các huyện Nguyên Bình, Hoà An, Hà Quảng..., nhưng thông tin về những đội viên này hầu như không có, chỉ trừ những người đã được công nhận liệt sĩ hoặc đã làm hồ sơ để được hưởng số tiền hỗ trợ người có công với cách mạng theo Quyết định 20/TTg, ngày 3-2-2000 của Thủ tướng Chính phủ. Vì thế, chỉ còn cách tìm đến tận nơi quê quán của từng người trong danh sách để hỏi gia đình, họ hàng hoặc chính quyền địa phương.


Tiếp tục chuyến đi thứ hai, từ sáng sớm, xe chúng tôi nhằm hướng huyện Nguyên Bình - nơi có Nhà bia khắc danh sách 34 cán bộ, chiến sỹ Đội VNTTGPQ, đặt tại khu rừng Trần Hưng Đạo, thuộc xã Tam Kim. Trên địa bàn huyện Nguyên Bình có 8 người cần tìm hiểu, tập trung ở xã Tam Kim (3 người) và xã Minh Tâm (5 người). Đoạn đường khoảng 45 km từ thị xã Cao Bằng, cụ thể hơn là 37 km từ quốc lộ số 3, phía nam thị xã Cao Bằng, đến thị trấn huyện lỵ Nguyên Bình rất khó đi, do đường xẻ vào núi đất nên cứ mưa to là đất từ trên vách núi lại lở xuống, đường rất trơn. Chiếc xe U-oát khá tốt do anh Tráng - một "tay lái lụa" trên đường Trường Sơn năm nào, cũng phải “bò” mất hơn 2 tiếng đồng hồ mới tới. Đây là lần thứ 2 chúng tôi vào Nguyên Bình. Lần trước là cuối năm 1999, khi đó trời khô, bụi đỏ mù mịt; lần này trời mưa nhỏ, không bụi, nhưng rất trơn. Anh Tùng ngồi ghế sau luôn nhắc lái xe đi sát vào vách núi vì lo trơn trượt, lo lở đường, xe sẽ lăn xuống vực sâu.


Vào UBND huyện, chúng tôi tìm gặp chị Nông Thị Nghĩa - một người quen từ trước. Thật tiếc khi nghe chị Chủ tịch cho biết: đã yêu cầu Phòng LĐ-TB-XH và Ban Tổ chức huyện ủy tìm rác nhân vật theo đề nghị của chúng tôi, song không có kết quả gì. Lúc này đã hơn 10 giờ trưa, chúng tôi quyết định đi thẳng vào Tam Kim để tranh thủ thời gian. Đoạn đường từ thị trấn huyện vào đến trụ sở UBND xã Tam Kim chừng 20 km. Năm 1994, đoạn đường này đã được đầu tư mở mang, sửa chữa và rải nhựa, mặc dầu vậy, nhiều đoạn đã bong hết nhựa, tạo ra các ổ gà khá to. Tại UBND xã, chúng tôi may mắn gặp được tất cả các anh trong Đảng ủy, UBND, do hôm đó có cuộc họp chung. Các anh nghe chúng tôi kể sơ bộ quá trình đi tìm hiểu về Đội VNTTGPQ và yêu cầu nhờ người dẫn đường, đã cử ngay đồng chí Xã đội trưởng dẫn đoàn đi. Trước đó, trong lúc gặp gỡ, chúng tôi được biết anh Tô Đình Hải - Chủ tịch UBND xã Tam Kim, là cháu gọi ông Tô Văn cắm (tức Tô Tiến Lực) là chú ruột. Anh Hải đính chính lại tên đệm của ông Cắm là Tô Đình Cắm chứ không phải như trong bia khắc là Tô Văn Cắm.


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 06 Tháng Chín, 2015, 07:42:12 pm
Lúc này đã hơn 11 giờ trưa, trời nắng chang chang, xe ô tô chỉ đi được hơn 1 km nữa là hết đường to. Chúng tôi xuống đi bộ, vượt qua các thửa ruộng đang gặt. qua suối, đi chừng hơn 2 km thì đến được nhà ông Đặng Dần Quý. Trên đường đi, đồng chí Xã đội trưởng cho biết xã Tam Kim rất rộng, có tới 22 xóm (còn gọi là bản), nếu đi bộ đến tất cả các bản để mời đại diện ra Ủy ban xã họp cũng phải mất 2 ngày, nhà ông Quý thuộc loại gần nhất. Nhà bà Đặng Thị Hầu (sinh năm 1925) vợ của ông Quý, ở ngay dưới chân núi. Lúc đó bà còn đang đi gặt. Nghe tin có các anh bộ đội ở Hà Nội lên tìm hỏi ông Quý, bà tất tả chạy về và gọi con cái, họ hàng đến đầy chật cả nhà. Anh con rể bà Hầu, vốn là bộ đội phục viên nói đây là lần đầu tiên gia đình được đón "khách của bác Giáp" đến thăm, cứ một hai giữ chúng tôi ở lại ăn cơm. Sự chân thật, nhiệt tình của gia đình người dân tộc Dao Tiền còn quá nghèo này khiến chúng tôi cảm động và không khỏi chạnh lòng. Trong nhà không có được một chiếc bàn gọi là, ghê thì bằng các đoạn tre ghép lại. Anh Đặng Văn Tháng - con trai út của ông Quý, kể: "Em đang đi học Trường Sỹ quan Lục quân ở Sơn Tây thì buộc phải bỏ, vì nếu không về thì ở nhà mẹ và vợ con em chết đói. Từ ngày hạ sơn (xuống núi), xuống dựng nhà ở đây, gia đình em mới thoát đói được 2, 3 năm nay thôi". Chúng tôi hỏi vui: mời bộ đội Hà Nội ở lại ăn cơm thì cho ăn cái gì nào? Cả nhà bà Hầu tranh nhau nói: có rượu, thịt gà, rau, gạo mới gặt, tất cả đều do nhà nuôi, trồng làm ra, chỉ sợ bộ đội chê nghèo không ăn thôi. Khi hỏi về ông Quý, bà Hầu cho biết ông tên là Đặng Tuần Quý (bia khắc là Dần Quý), mất năm 1991, gia đình chưa được hưởng chế độ chính sách gì. Chúng tôi hỏi xin hoặc chụp lại ảnh của ông Quý, nhưng không có ảnh, trong nhà cũng không có bàn thờ. Trước khi chia tay, anh Trần Long - thành viên của đoàn, chụp cho gia đình mấy kiểu ảnh và hứa sẽ đề đạt với huyện, tỉnh về trường hợp của ông Quý, người Dao Tiền duy nhất trong số 34 cán bộ, chiến sĩ Đội VNTTGPQ. Dọc đường trở ra xe, ai cũng cảm thấy áy náy về gia cảnh nhà ông Quý, bởi được biết con cái trong gia đình cũng đã có lần lên huyện hỏi về chế độ chính sách, nhưng khi cơ quan chức năng yêu cầu phải có giấy tờ để làm cơ sở giải quyết thì họ đành chịu vì không biêt phải làm như thê nào, phải bắt đầu từ đâu.


Tạm biệt đồng chí Xã đội trưởng trẻ trung, nhiệt tình, chúng tôi phóng xe ra huyện. Xe ra đến thị trấn đã hơn 1 giờ chiều. Thật là cảm động khi thấy đồng chí Phó văn phòng UBND huyện vẫn kiên trì chờ cơm. Sau khi ăn trưa, đồng chí Phó văn phòng dẫn chúng tôi đến nhà cụ Nông Văn Quang - lão thành cách mạng, anh trai của ông Nông Văn Kiếm (tức Liên) một trong 34 chiến sĩ của Đội. Điều thú vị, theo cụ Quang kể, là cả ba anh em Quang, Kiếm và Nông Văn Xửng, đều tham gia cách mạng cùng một ngày trong tháng 1-1942, tại làng An Mã, xã Tam Kim. Đến khi chuẩn bị thành lập Đội VNTTGPQ, cả ba anh em đều muốn tham gia nhưng đồng chí Văn (tức Võ Nguyên Giáp) nói chỉ được một người thôi, nên đã nhường cho Kiếm vào. Tuy còn minh mẫn, nhưng cụ Quang cũng không giúp chúng tôi biết được thêm nhiều thông tin về người em trai của mình, bởi theo cụ, sau khi vào Đội VNTTGPQ, ông Kiếm đi hoạt động ở địa bàn khác và hy sinh. Rời nhà cụ Quang, đồng chí Phó văn phòng dẫn chúng tôi đến nhà anh Ma Văn Dực - trung tá, Phó chỉ huy trưởng công an huyện Nguyên Bình, là cháu gọi ông Ma Văn Phiêu bằng ông. Ông Phiêu (tức Bắc Hợp, còn gọi là Đội Đường) họ Ma, nhưng khi lấy vợ, theo phong tục người Tày, lấy theo họ vợ là Mạc (trên bia khắc họ Ma). Những thông tin ít ỏi về người ông ngoại hy sinh từ tháng 5-1945, mà anh Dực cung cấp, đã giúp chúng tôi tìm về xã Minh Tâm. Đã hơn 4 giờ chiều, từ đường liên huyện vào xã khoảng 3 km, rất khó đi, vừa đi vừa hỏi đường. Do đi nhiều nên chúng tôi đã rút ra kinh nghiệm là đi đến đâu hễ thấy ở trên nóc nhà nào có cắm cờ thì y như rằng đó là trụ sở UBND xã. Các phòng của ngôi nhà UBND xã Minh Tâm đều khoá. Mọi người tỏa đi hỏi thăm, người thì đi tìm nhà bia liệt sĩ của xã. Thật may, chúng tôi hỏi thăm đúng đồng chí Chủ tịch UBND xã, tên là Dương Ma Duy. Lúc đó anh Duy đang lúi húi, chằng buộc hàng trên xe máy để chuẩn bị về nhà. Sau khi biết nội dung công việc của đoàn, anh Duy cất xe máy, lên ô tô đưa chúng tôi tới các địa chi cần tìm.


Như đã viết ở phần trên, có 5 đội viên quê ở xã Minh Tâm. Ngoài trường hợp Chính trị viên Dương Mạc Thạch (Xích Thắng) đã được đồng chí Dương Mạc Thăng cung cấp, trường hợp đội viên Hồng Cô (dân tộc Mông), ở Lũng Dẻ (nay không có người ở) không hề có tin tức, chúng tôi đã gặp được bà Trương Thị Lành - con dâu của đội viên Trương Đắc (tức Đồng). Bà Lành đem ra tờ giấy có ghi vắn tắt quá trình hoạt động của ông bố chồng (chồng bà Lành đã mất), và đưa cho chúng tôi tấm ảnh đã ố (giống như ảnh tô vẽ lại, chân dung đội viên Trương Đắc), để chụp lại đồng thời cung cấp địa chỉ của hai anh Trương Nam Kháng, Trương Nam Chiến (con bà vợ hai của ông Đắc) hiện công tác tại HĐND, UBND huyện Phú Lương.


Tiếp đó, anh Duy dẫn chúng tôi đi tìm được bà Mạc Thị Diệm, năm nay đã 70 tuổi, là con gái của ông Mạc Văn Phiêu. Tuy nhiên, bà Diệm cũng không nhớ được nhiều về những điều chúng tôi cần biết. Còn trường hợp của đội viên Chu Văn Đế, các   anh   ở    xã không biết gì hơn, nên chúng tôi, theo chỉ dẫn của đồng chí Dương Mạc Thăng, đã tìm hẹn gặp anh Chu Nâu, công tác tại Phòng Tổng hợp - Văn phòng Tỉnh ủy, là cháu gọi đội viên Chu Văn Đế là chú ruột, để hỏi.


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 06 Tháng Chín, 2015, 07:43:12 pm
Sáng sớm hôm sau (13-9), đoàn tiếp tục nhằm hướng hai huyện Hoà An, Hà Quảng. Mọi người đều xác định đây là ngày sẽ rất vất vả. Các đội viên ở tại địa bàn 2 huyện này rất đông, tới 15 người, riêng Hoà An có 10 - nên phải tách đoàn làm hai: anh Long, Tùng phụ trách địa bàn Hoà An; anh Hà, anh Tráng đi Hà Quảng. Xe đến thị trấn Nước Hai, chúng tôi rẽ vào Ban CHQS huyện Hoà An. Đề nghị cử một người dẫn đường đi cùng. Đúng sáng hôm đó, Ban CHQS huyện có cuộc họp, nhưng vẫn bố trí đồng chí thiếu tá, Chủ nhiệm chính trị huyện đội và một đồng chí trợ lý dân vận, dùng 2 xe máy chở anh Long, anh Tùng đi xuống các xã của Hoà An để xác minh. Vì huyện Hà Quảng ở xa hơn nên bộ phận đi Hà Quảng được ưu tiên ô tô.


Tới trụ sở Ban CHQS Hà Quảng, do lúc đó đang có cuộc họp quan trọng nên các anh ở Ban CHQS huyện không giúp được gì cho chúng tôi. Vì thế sau khi rời Ban CHQS Hà Quảng; chúng tôi quyết định trước tiên sẽ tìm đến xã xa nhất của huyện, sau đó sẽ tính. Đó là xã Trường Hà, nơi có xóm Pác Bó, là xã thuộc diện đặc biệt khó khăn. Nhờ sự giúp đỡ nhiệt tình của thiếu úy Thi Văn Tường - Đội trưởng tổ công tác biên phòng Trường Hà, chúng tôi tìm gặp được anh Lý A Soòng - thiếu tá, nguyên Phó chỉ huy trưởng, Tham mưu trưởng Ban CHQS huyện Hà Quảng, đã về nghỉ từ năm 1995, nay là Chủ tịch UBND xã khoá thứ hai. Sau khi xem danh sách, quê quán 34 chiến sĩ của Đội VNTTGPQ, anh Soòng khẳng định ở xã Trường Hà chỉ có 2 người là Dương Đại Long và La Thanh, không có đội viên tên là Thế Hậu. Mặc dù đã trưa, anh Soòng vẫn vui vẻ lên xe dẫn chúng tôi tới nhà ông Hoàng Văn Phẳn, tham gia cách mạng từ năm 1940, ở thôn Nà Mạ. cùng quê với Kim Đồng. Ông Phẳn cũng khẳng định Thế Hậu không phải ở Trường Hà, có thể ở xã Đào Ngạn hoặc Xuân Hoà. Gác lại trường hợp đội viên Thế Hậu, anh Soòng dẫn chúng tôi đến nhà anh Dương Chí Cường - con trai đội viên Dương Đại Long. Song rất tiếc là không gặp được vì lúc đó anh Cương đang làm nhiệm vụ quản lý thị trường ở huyện lỵ Hà Quảng, cách nhà hơn 10 km. Không may, khi chúng tôi xuống thị trấn Hà Quảng tìm thì anh Cường lại đã trở về Trường Hà.


Anh Soòng, một người vui tính, dẫn chúng tôi vào nhà vợ của đội viên La Thanh, hiện đang ở tại thị trấn. Bà Hoàng Thị Hoa - vợ của đội viên La Thanh, tham gia cách mạng từ nàm 1940, còn khoẻ mạnh, minh mẫn, hiện ở cùng với con trai trong ngôi nhà mới xây, gần Huyện ủy, UBND huyện. Bà Hoa cho biết, bà dùng một phần số tiền được Thủ tướng Chính phủ hỗ trợ cho lão thành cách mạng, mà bà đã được nhận, cùng con trai xây căn nhà mới này. Bà cho biết, ngôi nhà cũ của vợ chồng bà tại xóm Pác Bó chính là nơi đã được đón Bác Hồ, sau 30 năm bôn ba hoạt động từ nước ngoài trở về Tổ quốc vào cuối tháng 1 năm 1941. Bác Hồ đã ở lại nhà bà trong 3 ngày đầu tiên sau khi về nước. Đây cũng là địa điểm đón tiếp các cán bộ đến tham dự Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (5-1941). Nhà bà và con trai mở hàng cơm nên chúng tôi đã ăn trưa luôn tại đó, vừa ăn, vừa nghe bà kể về quá trình hoạt động của chồng. Sau đó, bà dẫn chúng tôi sang ngôi nhà cũ kỹ ở bên cạnh, nơi vẫn còn treo ảnh của đội viên La Thanh chụp khi còn rất trẻ, cho phép chúng tôi dùng thang trèo lên gỡ ảnh mang xuống để chụp lại. Câu chuyện của bà kể cũng giúp thêm những hiểu biết xung quanh việc Bác Hồ về nước và thời gian Người ở và làm việc tại hang Pác Bó, vì bà là một trong ba phụ nữ của Pác Bó, có vinh dự được hàng ngày nấu cơm tiếp tế lên hang Pác Bó cho Bác Hồ và các đồng chí phục vụ. Xin dừng lại nói thêm về vấn đề này. Ba người phụ nữ dân tộc Nùng là Hoàng Thị Sấn (dân tộc Nùng) được Bác Hồ đặt tên là Nga, Hoàng Thị Cần được đặt tên là Hoa và Hoàng Thị Sáng - vợ đồng chí Lê Quảng Ba, được đặt tên là Đào. Bác giải thích: đặt tên Nga là để nhớ nước Nga, đặt tên Hoa là do Bác từ Trung Quốc về nước, còn Đào là mong muốn cuộc sống tươi sáng mãi. Hiện nay, tại ngôi nhà cũ của vợ chồng đội viên La Thanh chỉ còn lại nền đất, do Ban quản lý di tích Hồ Chí Minh tỉnh Cao Bằng quản lý và dựng tấm bia với nội dung: "Nơi đón tiếp các đại biểu về dự Hội nghị Trung ương lần thứ 8, ba miền Bắc – Trung - Nam". Đối với trường hợp đội viên Thế Hậu, bà Hoa cho biết chắc chắn ông Hậu quê ở Đào Ngạn chứ không phải ở Trường Hà như trong bia đã khắc. Còn trường hợp đội viên Nông Văn Ích, trong bia chỉ ghi quê quán là Hà Quảng, Cao Bằng, thì bà Hoa cũng không biết gì thêm.


Tạm biệt gia đình đội viên La Thanh, chúng tôi nhờ anh Soòng dẫn vào trụ sở Huyện ủy huyện Hà Quảng để hỏi tin tức về đội viên Nông Văn Ích và cả đội viên Hồng Cô (có người mách là đã chuyển về Hà Quảng từ lâu). Tuy nhiên, các anh Lý Văn Tiến - người phụ trách theo dõi số cán bộ hoạt động lâu năm của Ban Tổ chức, anh Hoàng Chí Cốt - người Mông, công tác tại Ban Dân vận Huyện ủy, con ông Vần Dùng, lão thành cách mạng, được đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười tặng ngôi nhà tình nghĩa ở ngay thị trấn huyện, sau khi lục tìm trong sổ sách, cũng lắc đầu không biết gì hơn về hai đội viên này.


Tiếp tục hành trình, "liên lạc viên" Lý A Soòng, như anh vui vẻ tụ nhận, lại dẫn chúng tôi đến xã Sóc Hà, quê hương của đội viên Hoàng Văn Nhủng (tức Xuân Trường), hy sinh trong trận đánh đồn Đồng Mu (thuộc huyện Bảo Lạc - Cao Bằng) đầu tháng 2-1945. Đây là trận đánh thứ ba của Đội VNTTGPQ (lúc này đã phát triển thành đại đội). Tại UBND xã, anh Hà Hàm, vốn là bộ đội phục viên, hiện là Chủ tịch UBND xã 5 khoá liên tiếp, tự hào cho biết Sóc Hà còn là quê hương của các vị tướng nổi danh như Lê Quảng Ba, Đàm Quang Trung, là xã quản lý 6, 7 km đường biên giáp giới Trung Quốc. Một lần nữa, lại đích thân Chủ tịch UBND xã dẫn chúng tôi đến nhà em gái của đội viên Xuân Trường. Thật không may, người em gái cũng đã trên 80 tuổi, đã phải vào viện cấp cứu vì bệnh tim 2 ngày trước đó. Con trai bà, gọi Xuân Trường bằng bác ruột, tên là Hoàng Ngọc Hỏa, 49 tuổi, cũng không cung cấp được chi tiết nào về ông bởi lúc Xuân Trường hy sinh, anh Hỏa cũng vừa mới chào đời. Ngay cả ảnh, hoặc bức truyền thần chân dung của ông cũng không có.


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 06 Tháng Chín, 2015, 07:45:29 pm
Ngồi trên xe trở về Trường Hà, chúng tôi day dứt bởi ý nghĩ thời gian cứ lạnh lùng trôi đi, cuốn theo nó cả ký ức ít ỏi về những người thân yêu, ruột thịt, mà nếu chúng ta không kịp nhận ra và tìm cách níu giữ, những con người đó dễ sẽ trở nên vô danh đối với thế hệ hôm nay và mai sau. Những thông tin quá ít ỏi về người liệt sĩ đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam khiến chúng tôi tự hỏi sẽ viết sao đây về đội viên Xuân Trường bởi chỉ riêng về trích ngang sơ lược nhất cũng còn thiếu nhiều lắm.


Lần thứ ba trở lại tìm con trai đội viên Dương Đại Long trong một ngày, chúng tôi đã gặp may. Chắc đã được người nhà kể lại nên anh Cường cứ nấn ná ở nhà chờ. Song thật tiếc là những giấy tờ liên quan đến ông Long lại để ở nhà bà chị gái, cách đó gần 20 km theo đường đi về thị xã Cao Bằng. Không còn cách nào khác và để được việc, chúng tôi đề nghị anh Cường lên xe đưa đến nhà chị gái. Chia tay Chủ tịch xã Lý A Soòng, chúng tôi cám ơn anhm nhưng anh Soòng lại nói: tôi giúp các anh tức là tự làm cho chúng tôi, cho xã Trường Hà. Các anh viết vào sử sách những con người quê tôi là chúng tôi tự hào lắm rồi. Thế là, một lần nữa, tuy chỉ cách hang Pác Bó, nơi Bác Hồ đã sống và làm việc, chưa đầy 3 km (tính từ trụ sở UBND xã), chúng tôi lại đành bỏ lỡ một chuyến đi thăm khu di tích nổi tiếng này. Trời đã xế chiều, xe mới đến được nhà con gái ông Long. Được tin, chị nhờ người trông quán hàng ở chợ, chạy về cùng cậu em trai lục tìm được bản lý lịch tự khai của ông bố cách đây đã gần 20 năm. Chị đưa luôn cho chúng tôi tất cả giấy tờ liên quan, vì ở quanh đó không có máy phôtôcopy; còn ảnh của ông Long, chúng tôi đã chụp lại từ khi ở nhà anh Cường trên xã Trường Hà lúc ban chiều.


Như vậy, tại huyện Hà Quảng còn hai trường hợp là đội viên Nông Văn Ích và Thế Hậu. Đối với trường hợp đội viên Nông Văn Ích, cho đến lúc đó, chúng tôi không hề có được chút thông tin nào, đành phải gác lại tìm sau. Còn trường hợp đội viên Thế Hậu, sau khi nghe chúng tôi kể và hỏi đường đến xã Đào Ngạn, anh Cường sốt sắng nhận lời dẫn đến tận nơi, vì anh nói hồi nhỏ đã đi học và đá bóng ở trong xã này. Quả là may mắn vì nếu không có người dẫn đường thì không biết đến lúc nào chúng tôi mới có thể tìm đến nơi, vì xã Đào Ngạn ở cách đưòng Cao Bằng - Pác Bó khá xa, toàn là đường đất và nhiều lối rẽ. Ngồi trên xe, chúng tôi thầm mong sẽ có kết quả ở Đào Ngạn. Xe đến trụ sở UBND xã lúc trời đã nhá nhem tối. Mọi ngưòi ở Ủy ban đang khoá cửa, dắt xe đạp ra về. Lại may mắn khi các anh Đàm Lập, Đàm Danh (Chủ tịch và Phó chủ tịch UBND xã Đào Ngạn) khẳng định đội viên Thế Hậu ở đây. Như vậy, trong bia khắc đội viên Thế Hậu quê ở xã Trường Hà là không chính xác. Các anh cho biết ở quê hiện còn có người em gái của ông Thế Hậu, nhà ở cách trụ sở UBND xã hơn 2 km, phải đi bộ mới tới được. Do trời đã tối, nên chúng tôi quvết định quay ra sau khi được biết ông Thế Hậu hiện còn người con trai đang sống ở khu vực kilômét số 3, đường Cao Bằng - Bắc Kạn, thuộc phường Sông Hiến, thị xã Cao Bằng. Người con trai ông Thế Hậu trước có đi bộ đội, sau về phục viên, từng công tác ở phường, chắc là nắm được nhiều thông tin về người cha của mình hơn người cô đã già yếu.


Xe về đến Huyện đội Hoà An đã hơn 7 giờ tối. Lúc này nhóm Long - Tùng vẫn chưa thấy về. Đồng chí trực ban Ban CHQS huyện cho biết các anh Long - Tùng đã nhờ xe của Huyện uỷ đi tới xã Dân Chủ lúc 17 giờ 30 phút để tìm nhân chứng. Trong danh sách, số đội viên quê ở huyện Hoà An đông nhất. Tuy nhiên có một số người như đội viên Hà Hưng Long (không phải là Hương Long như khắc trên bia), Bế Bằng, Nguyễn Văn Phán, Tô Vũ Dâu, chúng tôi đều đã đến gặp từ lần trước. Như vậy, chỉ còn 6/10 địa chỉ mà nhóm các anh Long, Tùng phải tìm đến trên địa bàn Hoà An.


Như đã viết ở phần trên, hai đồng chí ở Ban CHQS huyện Hoà An đã dùng xe máy chở chúng tôi đến địa chỉ đầu tiên là quê đội viên Đàm Quốc Chủng, ở xã Bình Long. Tìm đến nơi thì được biết gia đình ông Quốc Chủng không còn ở đây, mà hiện đang sống ở dưới Hà Nội, trong ngõ Thổ Quan, phố Khâm Thiên. Tại quê hiện chí còn người em trai, năm nay khoảng 65 tuổi, bị mù cả hai mắt. Rời quê ông Quốc Chủng, chúng tôi tìm đến bản Séng, cùng xã Bình Long, quê của đội viên Ngọc Trình. Do ông Ngọc Trình hy sinh đã lâu, vào khoảng tháng 7-1949 ở bên Trung Quốc, nên hỏi ai cũng chỉ nhận được cái lắc đầu không biết. Cuối cùng, chúng tôi cũng gặp may khi hỏi đúng một lão thành cách mạng (ở Hoà An, chúng tôi nói vui với nhau như một sự tổng kết: hễ ra ngõ là gặp lão thành cách mạng và điều này đã được kiểm chứng, xin viết ở đoạn sau). Sau khi nghe trình bày, cụ lão thành cách mạng cho biết ở bản Séng này chỉ có một người tên là Long Văn Mần, tham gia cách mạng trước Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945. không biết có phải là Ngọc Trình (bí danh hoạt động) hay không. Chúng tôi theo chỉ dẫn tìm đến thì đó chính là nhà của đội viên Ngọc Trình. Bà Long Thị Nhoi - em gái út của Ngọc Trình, cho biết anh trai mình sinh nám 1918, bỏ nhà đi ở từ năm 15 tuổi, sau đó tham gia hoạt động cách mạng, rồi vào Đội VNTTGPQ, sau đó hy sinh, chưa trở lại nhà lần nào. Gia đình có biết mộ của Ngọc Trình hiện còn ở bên Trung Quốc, muốn xin đưa về quê nhưng chưa có điều kiện. Nghe bà Nhoi kể, chúng tôi chợt có suy nghĩ, sẽ đề đạt ước nguyện của gia đình Ngọc Trình với các cơ quan có trách nhiệm trong và ngoài quân đội đê tìm cách giải quyết. Bà Nhoi cũng chỉ biết chừng ấy thông tin về người anh trai của mình. Chúng tôi từng đọc, viết sử về sự kiện quân đội ta sang giúp Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc chiến đấu chống quân đội của Tưởng Giới Thạch, theo đề nghị của phía Trung Quốc, để mở rộng căn cứ địa ở biên khu Điền Quê, Việt Quế, thường gọi là chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn. Trong cuộc phối hợp chiến đấu này, một số đồng chí bộ đội ta đã hy sinh, phần mộ còn ở bên đất Trung Quốc, trong đó có Ngọc Trình.


Tiếp đó, chúng tôi rời xã Bình Long, đi đến xã Hoàng Tung - quê hương của đội viên Nông Văn Bê. Lại là đồng chí Chủ tịch UBND của xã dẫn chúng tôi đến nhà bia liệt sỹ của xã. Trên bia khắc tên khai sinh (hay bí danh?) của đội viên Nông Vàn Bê là Giáp Ngọc Páng. Các đồng chí ở xã chỉ cho biết vẻn vẹn: Nông Văn Bê quê ở huyện Hà Quảng, đến đây làm thuê cho một gia đình ở bản Dài, sau đó tham gia cách mạng, vào Đội VNTTGPQ, hy sinh vào khoảng tháng 3-1945 tại một địa điểm ở phía bắc thị trấn Chợ Rã của huyện Ba Bể. Trên bia không có năm sinh, năm mất của ông, chỉ có hàng chữ liệt sỹ. Tuy nhiên, sau này nghe một số cán bộ lão thành cách mạng kể lại, chúng tôi cũng được biết thêm chi tiết về sự hy sinh của Nông Văn Bê.


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 06 Tháng Chín, 2015, 07:46:03 pm
Trong quá trình đi “tìm” các đội viên Đội VNTTGPQ ở huyện Hoà An, có một chuyện làm chúng tôi nhớ mãi. Đó là khi đến nhà đội viên Tô Vũ Dâu ở xã Vĩnh Quang, sau khi nghe ông kể về quá trình tham gia hoạt động từ những ngày đầu cho đến khi nghỉ hưu, chúng tôi đem trường hợp đội viên Hồng Cô ra hỏi với hy vọng mong manh là may chăng cụ Dâu có thể biết. Ngẫm nghĩ một lúc, cụ Dâu cho biết Hồng Cô có thể ở thôn Bò Bủn, xã Hoàng Tung. Mừng như bắt được của, chúng tôi phóng xe máy quay lại Hoàng Tung, hỏi đường về Bò Bủn. Sau khi đi bộ khá xa (vì đường nhỏ, không đi xe máy được), mọi người tìm được đến nhà ông Đặng Văn Soạn. Đây là người được các đồng chí cán bộ xã giới thiệu và khắng định cũng là “34 chiến sỹ”. Hỏi cặn kẽ mới biết là ông Soạn cũng có mặt tại khu rừng Trần Hưng Đạo lúc Đội thành lập, nhưng không phải là người đứng trong hàng quân làm lễ tuyên thệ. Ông là lão thành cách mạng, lúc đó do sức khoẻ yếu nên không tham gia các hoạt động của Đội, sau đó về hoạt động tại địa phương. Lúc trở ra, tuy thấm mệt những ai nấy đều không cảm thấy uổng công đi tìm. Mọi người nói vui với nhau: coi như ông Soạn là đội viên thứ 35.


Từ Hoàng Tung, chúng tôi lại quay về xã Hồng Việt, tìm tới nhà con trai út đội viên Kế Hoạch để bổ sung thêm tư liệu và xin chụp lại ảnh chân dung. Tiếc là không gặp được, hàng xóm nói anh này hiện đang bị tâm thần nặng, bỏ nhà đi đâu không rõ. Tuy nhiên, chúng tồi cũng biết thêm chi tiết là ông Kế Hoạch còn một người con trai cả nữa, hiện ở Đồi Mát, ngoại ô thị xã Cao Bằng, tên là Nguyễn Đình Huyên.


Lúc này, trời đã xế chiều, trong kế hoạch còn có một trường hợp nữa là đội viên Bế Văn Sắt (tức Hồng Quân, Mậu). Qua tìm hiểu, được biết ông Sắt quê ở xã Bình Long nhưng gia đình đã chuyển về xã Dân Chủ từ lâu. Từ thị trấn Nước Hai của huyện Hoà An đến xã Dân Chủ khoảng 18 km. Các đồng chí ở Ban CHQS huyện đã rất nhiệt tình, cùng đi suốt cả ngày, nên nhờ vả nữa cũng không tiện. Vì thế, chúng tôi quyết định trở về Ban CHQS huyện, sau đó thuê xe máy chở đi Dân Chủ, dù trời tối cũng đi, nếu không sẽ lại nhỡ kế hoạch của ngày hôm sau. về tới Nước Hai, đồng chí Long nảy ra sáng kiến vào Huyện ủy Hoà An (ở ngay bên cạnh trụ sở Ban CHQS huyện) để nhờ xe đi về Dân Chủ. Thật may, sau khi nghe chúng tôi trình bày, đồng chí Hoàng Trung Phong - Bí thư Huyện ủy, con trai đồng chí Siêu Hải, vốn là Trung đoàn trưởng Trung đoàn Thủ Đô thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp, đã cho mượn luôn ô tô của đồng chí để đi cho kịp. Anh Phong còn đưa cho chiếc đèn pin và nhắc đi nhắc lại là dù về muộn thế nào cũng chờ về cùng ăn cơm. Chúng tôi tới xã Dân Chủ, lúc đó đã hơn 18 giờ 30 phút, trời rất tối. Hai đồng chí Nông Ngọc Sơn - Phó Bí thư Đảng ủy và Lục Văn Xàu - Phó Chủ tịch UBND xã, đã đưa đoàn đến nhà đội viên Bế Văn Sắt ở xóm Mỏ Sắt. Tới nơi, được biết ông Sắt đã lấy đến đời vợ thứ hai nhưng vẫn không có con, nên ở với cháu nuôi. Người cháu nuôi cho biết: ông Sắt về làm rể ở xã Dân Chủ, sống tại đây cho đến khi mất, hiện cũng chưa có chế độ chính sách gì. Đoàn cũng đã chụp lại được ảnh chân dung của ông.


Trở lại thị trấn đã gần 20 giờ, nhóm đi Hà Quảng cũng đã về trước đó. Cả đoàn được Bí thư Huyện ủy và đồng chí Chỉ huy trưởng Ban CHQS huyện mời cơm. Tuy đói, mệt nhưng ai nấy rất phấn khởi và xúc động vì nghĩa cử này, tuy mới gặp lần đầu. Trong bữa cơm, anh Phong tâm sự: Hoà An là huyện lớn nhất của Cao Bằng, là nơi có truyền thống yêu nước, cách mạng, được coi là “cái nôi của cái nôi cách mạng” Cao Bằng, cả huyện hiện có hơn tám trăm cụ được công nhận là lão thành cách mạng. Huyện tuy còn nghèo nhưng rất cố gắng chăm lo chính sách đối với gia đình và người có công với cách mạng, kháng chiến. Mặc dầu vậy, ở vùng đất “ra ngõ gặp lão thành cách mạng” này, do khả năng tài chính, vật chất còn hạn hẹp, huyện chưa thể giải quyết ngay một lúc, chưa kể nhiều trường hợp xứng đáng được hưởng sự đãi ngộ, nhưng hiện thiếu cơ sở giấy tờ chứng nhận, nên cũng chưa làm được. Anh Phong cho biết: chỉ tính riêng số tiền Thủ tướng Chính phủ hỗ trợ người có công cải thiện điều kiện nhà ở theo Quyết định số 20, trên địa bàn huyện Hoà An, phải lên tới trên 40 tỉ đồng, một con số rất lớn, nên phải chia ra nhiều đợt. Chúng tôi thông cảm và chia sẻ tâm sự của đồng chí Bí thư Huyện ủy, vốn trưóc đây cũng từng là bộ đội và ông cụ thân sinh cũng là lão thành cách mạng.


Lúc xe của đoàn về đến thị xã Cao Bằng đã gần 22 giờ đêm. Như vậy, trong ngày thứ ba, đoàn đã tìm đến xác minh được hầu hết các đội viên quê ở Hoà An và Hà Quảng. Riêng trường hợp đội viên Nguyễn Văn Càng (tức Thu Sơn), dân tộc Tày, quê xã Hồng Việt, chúng tôi đã liên hệ và đưa ra các yêu cầu cung cấp tư liệu cho người con gái của ông là chị Nguyền Thị Ngọc, hiện là Phó chủ nhiệm ủy ban Kiểm tra Tính ủy, hẹn gặp chị vào ngày thứ tư của chuyến công tác. Ngày thứ ba là ngày đã gặt hái được khá nhiều kết quả.


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 06 Tháng Chín, 2015, 07:46:45 pm
Sang ngày làm việc thứ tư, địa bàn hoạt động gần hơn, tập trung ở quanh thị xã Cao Bằng. Đoàn lại chia làm hai hướng. Đồng chí Long thuê xe máy chở đi tìm nhà con trai đội viên Kế Hoạch ở khu Đồi Mát. Số còn lại lên ô tô hỏi đường đến nhà đội viên Đức Cường (tức Cơ), ở xã Đề Thám, huyện Hoà An, nhưng địa bàn lại ở giáp giới với thị xã Cao Bằng về phía Tây Nam và hỏi tìm nhà con trai đội viên Thế Hậu ở khu vực kilômét số 3, đường Cao Bằng - Bắc Kạn.


Tại UBND xã Đề Thám, sau khi nghe trình bày, chị Đàm Thị Luyện - cán bộ ủy ban, dẫn chúng tôi đến nhà Chủ tịch xã Đoàn Văn Em. Hỏi ra mới biết, anh Chủ tịch xã có bố đẻ tên là Đoàn Văn Vèng, tham gia cách mạng từ năm 1941, cùng là đội viên Đội VNTTGPQ nhưng không nằm trong danh sách 34 người đứng tuyên thệ. Anh sốt sắng chỉ đường cho chúng tôi đến nhà đội viên Đức Cường. Tại đây, ông Nguyễn Văn Kiên, 93 tuổi, là anh trai của đội viên Đức Cường, đã kể cho đoàn nghe về quá trình tham gia hoạt động cách mạng của em trai mình, rồi gia nhập Đội VNTTGPQ, sau đó xung phong vào đoàn quân Nam tiến của Chi đội trưởng Thu Sơn. Ông Kiên cho biết, sau khi Nam tiến, Đức Cường ở lại lấy vợ quê Đức Phổ, Quảng Ngãi. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, cả gia đình chuyển xuống Ninh Hoà, Khánh Hoà. Khi biết ông Đức Cường là đội viên Đội VNTTGPQ, lãnh đạo tỉnh Khánh Hoà rất quan tâm, dành cho 100 m2 đất, đồng thời xây cho ngôi nhà tình nghĩa. Không may, ông đã “ra đi” vào tháng 8-1997. do bị tai biến mạch máu não, chưa kịp chuyển vào ở trong ngôi nhà mới mà ông đã được giao chìa khoá, không kịp ra thăm Hà Nội cũng như trở lại quê hương Cao Bằng. Được tin ông mất, Đại tướng Võ Nguyên Giáp – người phụ trách chỉ huy Đội, đã gửi thư chia buồn và gửi cho gia đình đội viên Đức Cương 500.000 đồng. Chúng tôi xin chụp lại bức ảnh chân dung đội viên Đức Cường, sau đó tạm biệt ông Kiên, tìm tới nhà con trai đội viên Thế Hậu. Như đã viết ở phần trên, khi chúng tới hỏi được đến tận nhà, thì chỉ gặp con dâu ông Thế Hậu. Chị cho biết chồng chị đã về quê ở Đào Ngạn 10 ngày nay chưa thấy ra. Đang thất vọng thì nghe thấy có tiếng trẻ reo ngoài ngõ “A! Ông về! A! Ông về”. Thật bất ngờ, người ông ngoại của cháu bé chính là anh Cương - con trai đội viên Thế Hậu. Vừa hấp tấp bước vào nhà, nhìn thấy chúng tôi, anh nói trong hơi thở: “Tối hôm qua anh Chủ tịch xã vào nhà cô tôi báo có các anh bộ đội ở Hà Nội lên tìm hiểu về ông cụ, nên sáng sớm nay tôi vội vàng bắt xe về ngay, biết thế nào các anh cũng đến”. Cả chúng tôi và gia đình anh Cương, vợ là Đàm Thị Tuyết, đều mừng về cuộc hội ngộ bất ngờ này. Sau khi đã nắm được các thông tin cần thiết, xin chụp lại ảnh chân dung đội viên Hoàng Thế Hậu, chúng tôi vội trở lại trụ sở Tỉnh ủy vì đồng chí Bí thư Dương Mạc Thăng hẹn gặp đoàn vào lúc 10 giờ, sau đó mời cơm. Lúc đó đã hơn 10 giờ, mà vẫn còn hai trường hợp phải tìm hiểu nữa là đội viên Nguyễn Văn Càng (Thu Sơn) và Chu Văn Đế (tức Nam). Chúng tôi đành lỗi hẹn và nhủ thầm là sẽ xin lỗi đồng chí Bí thư Tỉnh ủy vào bữa cơm trưa, vì chị Ngọc - con gái đội viên Thu Sơn, đã chờ gặp đoàn từ sáng. Chị đưa cho chúng tôi những thông tin theo yêu cầu, kèm theo bức ảnh truyền thần, đồng thời kể thêm chi tiết về cuộc đời hoạt động của người cha nổi tiếng và có cá tính của mình.


Tiếp đó, do đã hẹn từ trước, chúng tôi gặp anh Chu Nâu để hỏi thêm tin tức về đội viên Chu Văn Đế (tức Nam). Anh Chu Nâu cũng không biết gì nhiều, chỉ cho chúng tôi hay ông Chu Văn Đế sinh năm 1922, sau Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, tham gia Chi đội Nam tiến của đồng chí Thu Sơn. Ông hy sinh ngày 30-8-1948 trong trận đánh sân bay Vanh Tiên, thuộc khu vực Mường Hoong, huyện Đắk Lây, tỉnh Kon Tum. Ông Chu Văn Đế cũng không có di ảnh để lại.


Khi xong việc ở chỗ anh Chu Nâu thì đồng hồ đã chỉ 11 giờ 30 phút. Chị Ngoàn - Trưởng phòng Hành chính của Văn phòng Tỉnh ủy đi tìm chúng tôi, nói: Bí thư có ý chờ các anh từ lúc 10 giờ. Biết chúng tôi rất bận, lại cố cho xong việc để buổi chiều đi Lạng Sơn nên đồng chí Dương Mạc Thăng cười thông cảm: “Thế là tốt rồi, vừa ăn cơm ta vừa nói chuyện vậy”. Chúng tôi sơ bộ báo cáo đồng chí Bí thư Tỉnh ủy kết quả ba ngày làm việc cật lực trên địa bàn Cao Bằng. Nghe xong, anh Thăng rất vui, dặn khi nào hoàn tất công việc, nhớ gửi cho tỉnh một bản kiến nghị, nếu có vấn đề gì thuộc phạm vi trách nhiệm tỉnh có thể giải quyết, thì tỉnh sẽ làm. Anh nhắc chị Ngoàn ghi lại địa chỉ người con trai cả của đội viên Kế Hoạch ở khu Đồi Mát để anh tới thăm vì biết gia đình này hiện đang rất khó khăn và người con trai út đang bị bệnh tâm thần nặng cũng đang ở đây.


Sau bữa cơm, chúng tôi cám ơn đồng chí Bí thư dành thời gian tiếp và đã chỉ thị cho các bộ phận liên quan tạo điều kiện thuận lợi nhất để chúng tôi hoàn thành phần việc trên địa bàn Cao Bằng; sau đó, đoàn lên xe đi ngay Lạng Sơn. Con đường số 4 nối Cao Bằng với Lạng Sơn tuy đã được sửa chữa liên tục, nhưng xem ra còn tồi hơn trước. Trong lần đi trước (tháng 5-2000), vì vào đúng dịp chuẩn bị kỷ niệm lần thứ 50 chiến thắng Biên Giới thu-đông năm 1950, con đường này được đầu tư sửa chữa, nâng cấp để đón đại biểu và khách tham quan các địa danh, đặc biệt là khu vực Đông Khê. Lần đó, chúng tôi cũng dừng lại ở thị trấn Đông Khê, leo lên ngọn đồi, nơi chỉ còn lại cái nền đồn Đông Khê của quân Pháp, đứng chụp ảnh trước tấm bia Chiến thắng Đông Khê và thàm nghĩa trang liệt sĩ trận đánh Đông Khê. Trong lần đi này, do đã nhờ trung tá Hoàng Minh Thèn, công tác ở Ban Lịch sử - tổng kết Bộ CHQS Cao Bằng liên hệ trước voi Ban CHQS huyện Thạch An, nhờ giúp đỡ xác minh trường hợp đội viên Đinh Trung Lương, dân tộc Tày, quê ở xã Lê Lợi, huyện Thạch An, nên khi chúng tôi đến trụ sở Ban CHQS huyện, đã thấy đầy đủ các đồng chí trong Ban CHQS huyện đón chờ sẵn. Sau khi đưa ảnh, tư liệu liên quan đến đội viên Đinh Trung Lương, các đồng chí cho biết ông Lương mới mất cárh đây 1 năm, thọ 90 tuổi, hiện còn người con trai nhưng bị tâm thần, hoàn cảnh gia đình rất khó khăn. Trường hợp này xã và huyện đã có chính sách trợ giúp giải quyết một phần khó khăn.


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 06 Tháng Chín, 2015, 07:47:38 pm
Do đường xấu, nên mãi đên 17 giờ 30 phút chiều, đoàn mới về tới thị xã Lạng Sdn. Lúc đó, trời mưa như trút nước nên mọi người đành phải tìm chỗ nghỉ để sáng hôm sau đi tìm nhà đội viên Lộc Văn Lùng. Đây là đội viên duy nhất quê ở Lạng Sơn và là người làm nhiệm vụ quản lý của Đội, được coi là nhân viên tài chính đầu tiên của Quân đội ta. Quê ông Lùng ở ngoại ô thị xã Lạng Sơn. Chúng tôi hỏi thăm đến UBND xã Mai Pha thì được nhân viên Ủy ban xã chỉ đường tới nhà ông Lùng, cách trụ sở UBND xã chừng vài trăm mét.


Bà Lộc Thị Thu, 67 tuổi, con gái đội viên Lộc Văn Lùng, cho biết ông cụ thân sinh mất từ năm 1969, trước khi nghỉ hưu (năm 1965), là đại úy, công tác ở Cục Đối ngoại Bộ Quốc phòng. Bà Thu cũng không cung cấp thêm được chi tiết nào về quá trình hoạt động cách mạng của người cha, ngoài việc đưa cho chúng tôi chụp lại bức ảnh chân dung còn khá rõ nét, được phóng to để thờ. Gia đình bà Thu cũng cho biết ông Lùng chưa có chế độ chính sách gì. Chúng tôi đã hướng dẫn tỉ mỉ cho người cháu ngoại của ông Lùng những nơi cần gặp để đề nghị giải quyết chế độ chính sách cho ông.


Rời xã Mai Pha, xe chúng tôi xuôi theo quốc lộ 1A. Về thị xã Bắc Giang, nơi có nhà người con trai cả của đội viên Hoàng Văn Ninh (tức Thái Sơn). Sau gần một giờ tìm hỏi, chúng tôi cũng đến được nhà anh Hoàng Thái Bình, hiện công tác tại Chi cục quản lý thị trường thị xã Bắc Giang. Anh Bình cho biết cha anh là người kín đáo, ít khi kể chuyện về những năm tháng hoạt động trước đây. Chúng tôi hỏi xin trích ngang cua ông Ninh mà anh kê khai trong lý lịch đang viên của mình, anh Bình cười lắc đầu không có. Anh chỉ biết là ông có đi Nam tiến một thời gian, sau đó sang Lào hoạt động rồi trở về miền Bắc công tác ở các đơn vị thuộc Quân khu Tây Bắc. Khi nghỉ hưu mang quân hàm đại tá. Về sống cùng vợ và con trai tại thị xã Bắc Giang cho đến khi mất (1996) do tai biến mạch máu não. Anh đưa cho chúng tôi xem ảnh ông Ninh chụp chung với đồng chí Cay-xỏn Phôm-vi-hản, sau này là Tổng Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Chủ tịch nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, khi ông hoạt động ở Lào thời gian những năm kháng chiến chống thực dân Pháp. Anh Bình còn lấy ra một cuốn Tạp chí Lịch sử quân sự cũ, các trang đã ngả màu vàng, in từ cuối những năm 80 của thế ký trước, trong đó có viết về kết quả bước đầu tìm hiểu về Đội VNTTGPQ của một số cán bộ của Tạp chí và Viện LSQS Việt Nam, có bút tích của ông đánh dấu những chỗ, theo ông, là chưa chính xác.


Kết thúc công việc ở Bắc Giang, đã hơn 3 giờ chiều, chúng tôi cắt đường trở lại Thái Nguyên. Có hai lý do của chuyến trở lại Thái Nguyên. Thứ nhất, do được biết đội viên Bế Văn Vạn (đã mất), cùng quê ở Ngân Sơn, Bắc Kạn như ông Ninh, hiện có con trai là Bế Ích Lằm, làm bác sĩ ở Bệnh viện đa khoa Thái Nguyên. Thứ hai, sáng ngày hôm sau, 15-9, chúng tôi có giấy mời đi Võ Nhai dự lễ kỷ niệm 60 năm ngày thành lập Đội Cứu quốc quân 2 (15-9-1941), đồng thời tìm hiểu luôn về hai đội viên quê ở Tràng Xá, huyện Võ Nhai. Xe về tới Thái Nguyên thì đã hết giờ làm việc buổi chiều. Hỏi tìm đến nhà anh Lằm, anh cho biết ông cụ thân sinh cũng tham gia đoàn quân Nam tiến, sau đó trở ra Bắc. Về công tác trên địa bàn Bắc Kạn cho đến khi nghỉ hưu năm 1971, mất năm 1983 tại Phủ Thông. Hiện gia đình cũng đã làm thủ tục giấy tờ để bố anh được hưởng chính sách của Chính phủ.


Như vậy, sau 5 ngày làm việc liên tục từ sáng sớm đến tối mịt (từ 10 đến 14-9-2001), không có điều kiện nghe đài, xem truyền hình, đọc báo (sự kiện động trời là vụ khủng bố 11-9-2001 ở Mỹ, mãi đến khuya đêm 12-9 chúng tôi mới biết qua bản tin thời sự cuối cùng trong ngày của VTV1), đoàn đã tìm hiểu, xác minh, ở các mức độ khác nhau, được phần lớn số đội viên trong danh sách 34 người của Đội VNTTGPQ.


Sáng sớm ngày thứ sáu (15-9), chúng tôi về thị trấn Đình Cả, huyện Võ Nhai. Bên cạnh việc tham dự lễ kỷ niệm 60 năm thành lập Cứu quốc quân 2, chúng tôi chia nhau đi tìm gặp thân nhân của hai đội viên Hoàng Thịnh (tức Quyền) và Mông Phúc Thơ, quê ở xã Tràng Xá, cách huyện lỵ hơn 20 km, nhưng hôm nay cũng có mặt ở đây để dự lễ kỷ niệm thành lập Cứu quốc quân. Chúng tôi đã tìm gặp được chị Hoàng Thị Loan (công tác tại Phòng Y tế huyện Võ Nhai), con đội viên Hoàng Thịnh và gia đinh của đội viên Mông Phúc Thơ để hỏi thêm các chi tiết liên quan đến hai đội viên này.


Trở về Hà Nội, chúng tôi được biết có thân nhân gia đình của 4 đội viên hiện đang sinh sống tại Thủ đô. Đó là gia đình cố Đại tướng Hoàng Văn Thái (tức đội viên Ngô Quốc Bình), quê ở xã An Khang, huyện Tiền Hải, Thái Bình. Hiện vợ của đồng chí Đại tướng Hoàng Văn Thái, tên là Đàm Thị Loan, trung tá, cũng là đội viên Đội VNTTGPQ. Bà Loan cũng có mặt tại khu rừng Trần Hưng Đạo lúc Đội thành lập, với nhiệm vụ cấp dưỡng, chuẩn bị bữa cơm nhạt đầu tiên cho toàn Đội, hiện bà đang trú tại nhà số 14, phố Lý Nam Đế, Hà Nội. Chúng tôi đã đến gặp bà Loan, nghe bà kể về quá trình hoạt động của Đội VNTTGPQ nói chung và về người chồng của mình, lúc đó giữ cương vị phụ trách tình báo, kế hoạch tác chiến trong Đội.


Đoàn cũng đã tìm được gia đình đội viên Đàm Quốc Chủng (tức Đàm Tịch), nhà số 71B, tổ 55 ngõ Thổ Quan, phố Khâm Thiên. Bà Nguyễn Thị Quý, 77 tuổi, vợ ông Chủng, cho biết ông còn có tên gọi từ nhỏ là Nông Văn Tịch (tự Bát). Ông xuống hoạt động ở Hà Nội từ sau Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 và xây dựng gia đình ở đây. Ông về hưu năm 1985 với quân hàm đại tá và mất năm 1990 do bệnh phổi. Ông bà có 5 người con, hiện gia đình cũng đã làm giấy tờ để được hưởng chính sách ưu đãi người có công của Chính phủ.


Người đội viên thứ ba ở Hà Nội là ông Lâm Cẩm Như (tức Lâm Kính), quê ở thị trấn Đông Khê, huyện Thạch An, Cao Bằng. Chúng tôi đã vào Học viện Chính trị - Quân sự, nơi ông đang công tác trước khi mất năm 1979, với cương vị Phó Giám đốc Học viện, gặp các đồng chí ở Phòng Cán bộ để tìm hiểu. May mắn là ông có người con rể, tên Việt, cấp hàm thượng tá, cũng đang công tác tại Học viện. Anh Việt đã cho địa chỉ nhà bà vợ đội viên Lâm Kính tại phòng 101, nhà E8, khu tập thể Thanh Xuân Bắc. Hôm sau, chúng tôi đến nhà, gặp cả bà Lương Thị Cẩm Hoa, vợ chồng anh Việt cùng 2 người con của đại tá Lâm Kính sống ở đó. Vì thời gian đã lâu, bà Hoa cũng không nhớ nhiều những chuyện liên quan đến quá trình hoạt động của người chồng, bà chỉ đưa ra mấy tập anbum ảnh đã cũ, trong đó có nhiều tấm ảnh ông Lâm Kính chụp chung với đồng đội khi đi học ở Liên Xô và thời kỳ công tác tại Học viện Chính trị - Quân sự. Vì thế, chúng tôi căn cứ vào lý lịch trích ngang của ông, mà Phòng Cán bộ của Học viện còn lưu giữ, để có thể viết chi tiết hơn về ông trong cuốn sách.


Còn đội viên thứ tư, đồng chí Trần Văn Kỳ (tức Hoàng Sâm), Đội trưởng đầu tiên của Đội VNTTGPQ, do đã nắm được khá nhiều thông tin về ông, nên chúng tôi tạm thời gác lại việc tìm đến gia đình ông, để một dịp khác thuận tiện.


Như vậy, sau chuyến đi thứ hai, cả đoàn đã đi đến tận quê hương hoặc gặp trực tiếp thân nhân của phần lớn số đội viên trong Đội VNTTGPQ. Chỉ còn 4 trường hợp là các đội viên Hồng Cô, Hoàng Sâm, Luận (quê ở Quảng Bình), Nông Văn Ích (quê ở Hà Quảng) là chưa tìm được hoặc chưa có điều kiện đến được gia đình thân nhân các đội viên này. Cho tới thời điểm tháng 9-2001, hiện còn 4/34 đội viên còn sống. Đó là các cụ Tô Vũ Dâu, Bế Kim Anh sống ở Cao Bằng, Hà Hưng Long sống ở Tuyên Quang và Tô Văn Cắm sống ở Lâm Đồng.


Trước chuyến đi thứ hai, vào tháng 6-2001, nhân chuyên công tác vào khu vực Đồng bằng sông Cửu Long thu thập tài liệu về căn cứ địa U Minh, đồng chí Long đã tranh thủ bắt xe lên Đà Lạt, tìm về thị trấn Đạ Tẻh, Lâm Đồng - nơi đội viên Tô Văn Cắm, vốn quê ở xã Tam Kim, huyện Nguyên Bình, đã chuyển vào đây từ năm 1992 sống cùng con gái, đang làm giáo viên cấp 2. Anh Long đã tìm gặp, trò chuyện và chụp ảnh với ông Cắm. Ông còn khoẻ, minh mẫn, đời sống kinh tế không đến nỗi khó khăn. Tuy nhiên, ông cũng không nhớ được nhiều sự kiện liên quan đến hoạt động của toàn Đội cũng như của từng đội viên. Dù sao chăng nữa, ông cũng rất mừng cho biết tuy đã vào đây gần 10 năm, nhưng vẫn được chính quyền địa phương quan tâm, được mời đi nói chuyện nhiều lần và đặc biệt là được cán bộ từ tận ngoài Hà Nội vào tìm gặp để lấy tư liệu lịch sử về Đội VNTTGPQ.


Kết quả của hai chuyến đi công tác nêu trên đầ được đăng tải trên Tạp chí Lịch sử quân sự cuối nàm 2000 và 2001. Nắm biết được thông tin về công việc này, Đài truyền hình Việt Nam đã cử phóng viên tới Viện gặp các thành viên trong đoàn, đề nghị được đi cùng đoàn một chuyến để làm phóng sự về công việc này phục vụ cho kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam cuối năm 2001. Nhận thấy đây cũng là một dịp để phổ biến, tuyên truyền lịch sử, giới thiệu với khán giả truyền hình trong nước và quốc tế một phần công việc kết quả nghiên cứu lịch sử quân sự của cán bộ Viện LSQS Việt Nam, sau khi xin ý kiến lãnh đạo, chúng tôi đồng ý với đề xuất của Đài truyền hình Việt Nam, tổ chức chuyến đi tìm hiểu những đội viên mà hai lần đi trước chưa có kết quả.


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 08 Tháng Chín, 2015, 06:50:08 pm
CHUYẾN ĐI THỨ BA VÀ CÁC CUỘC TÌM HIỂU KHÁC


Đầu tháng 12-2001, đoàn chúng tôi lại lên đường. Cùng đi là xe của Đài truyền hình Việt Nam, gồm các phóng viên và quay phim, kỹ thuật của Ban Văn hoá - Xã hội thuộc VTV1. Hướng đi lần này vẫn là các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kạn, Cao Bằng. Mục tiêu là tìm địa chỉ gia đình của hai đội viên Hồng Cô và Nông Văn Ích.


Cơ sở và mục tiêu để tiến hành chuyến đi lần này không phải chỉ để giúp Đài Truyền hình mà do chúng tôi nắm được thông tin về địa chỉ của đội viên Nông Văn Ích. Như đã kế ở trên, ông Doanh Hằng biết chúng tôi đang bỏ công sức tìm địa chỉ của đội viên Nông Vàn Ích, đã gửi thư cho biết: chừng hơn một năm trước, có người cháu của ông Ích tìm đến nhà nhờ ông xác nhận ông Ích tham gia hoạt động cách mạng trước năm 1945, để về địa phương làm thủ tục giấy tờ công nhận là lão thành cách mạng. Cháu ông Ích ở xã Hà Hiệu, huyện Ba Bể. Được tin từ ông Doanh Hằng, chúng tôi quyết định tìm đến nơi. Chiều ngày 1-12-2001, đoàn chúng tôi (gồm cả phóng viên truyền hình) đã lên tới Thái Nguyên. Chúng tôi vào Tỉnh ủy Thái Nguyên liên hệ công tác và chỗ nghỉ. Đồng chí Hà trong đoàn có quen biết đồng chí Hứa Đức Nhị - Phó Bí thư thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh từ trước (khi đồng chí Nhị còn là Bí thư Huyện ủy huyện Định Hoá hồi cuối những năm 80, đồng chí Hà và một số cán bộ Bộ môn Lịch sử kháng chiến chống Pháp thuộc Viện LSQS Việt Nam, đã nhiều lần lên Định Hoá để nghiên cứu, khảo sát về An toàn khu (ATK) Trung ương, đã được đồng chí Nhị tiếp, làm việc). Đồng chí Minh - Phó Văn phòng Tỉnh ủy, đón tiếp chúng tôi và báo cho đồng chí Phó bí thư. Biết tin, đồng chí Nhị tới ngay (xin mở ngoặc là chúng tôi đã được gặp đồng chí Nhị hơn hai tháng trước, khi đồng chí Phó Bí thư đến dự lễ kỷ niệm 60 năm thành lập Đội Cứu quốc quân 2 ở Võ Nhai).


Đồng chí hỏi thăm sức khoẻ, tình hình công việc, dặn Văn phòng bố trí chỗ ăn nghỉ chu đáo... Chúng tôi cám ơn thịnh tình của đồng chí Phó Bí thư (nay là Chủ tịch UBND tỉnh Thái Nguyên) và xin đi làm việc ngay với ông Doanh Hằng để xác định lại thông tin về địa chỉ của đội viên Nông Văn Ích. Tiếp đó. chúng tôi lại đưa ra danh sách 34 cán bộ, chiến sĩ của Đội VNTTGPQ, đề nghị ông, theo sự quen biết, trí nhớ của mình, kể về từng trường hợp trong danh sách. Chúng tôi vừa ghi chép, ghi âm, trong khi cán bộ, nhân viên Truyền hình thì ghi hình. Cuộc gặp với ông Doanh Hằng tạm dừng vì đã đến giờ đồng chí Nhị mời cơm cả đoàn. Cũng như những lần gặp trước đây, với thái độ chu đáo, chân tình và thoải mái, đồng chí Nhị hứa sẽ chỉ thị cho các cơ quan liên quan ở tỉnh phối hợp, tạo điều kiện giúp đỡ. Đồng chí nói sẽ thu xếp thời gian trực tiếp dẫn đoàn về thăm lại An toàn khu (ATK) Định Hoá, đồng thời gợi ý thảo luận để xây dựng tiêu chí như thế nào là một xã ATK... Chúng tôi cám ơn thịnh tình của đồng chí Phó Bí thư và nhận lời về Định Hoá, nơi còn biết bao nhiêu địa danh, sự kiện, con người lịch sử cần khai thác, tìm hiểu.


Tối đó, chúng tôi lại tranh thủ ra nhà ông Doanh Hằng làm việc tới gần 23 giờ khuya mới trở về nhà khách Tỉnh ủy.

Sáng sớm hôm sau, đồng chí Nhị và các anh ở Văn phòng Tỉnh ủy đã có mặt tiễn đoàn, tặng quà và chúc chúng tôi lên đường may mắn. Sự chu đáo của các đồng chí lãnh đạo tỉnh Thái Nguyên và cơ quan Văn phòng Tỉnh ủy khiến chúng tôi rất cảm động, rõ thêm trách nhiệm và thấy được khích lệ đối với công việc mình đang làm.
Đoàn xe rời Thái Nguyên đi Ba Bể. Đường vào tuy trải nhựa, khá phẳng phiu nhưng quá nhiểu đèo dốc ngoằn ngoèo khiến ai nấy một phen bị chóng mặt như được đưa lên máy quay ly tâm. Khi đoàn đến trụ sở UBND huyện Ba Bể thì đã hơn 11 giờ trưa. Sau khi nghe đoàn trình bày yêu cầu công việc, đồng chí Chánh văn phòng UBND huyện cho biết chưa nghe tên ai là Nông Văn Ích, lão thành cách mạng, sống ở xã Hà Hiệu cả. Nói vậy, nhưng đồng chí cũng quay máy điện thoại xuống UBNĐ xã Hà Hiệu để hỏi. Tuy nhiên, vào thời điểm đó không có ai có mặt ở Ủy ban xã. Đồng chí Chánh văn phòng hẹn: "Độ 13 giờ 30 phút chiều các anh quay lại đây, tôi sẽ nhờ các anh ở Phòng LĐ-TB-XH thử tìm xem sao. Bên Ban CHQS huyện chắc cũng không có tài liệu gì đâu".


Thời gian trôi qua thật nhanh. Trở lại UBND huyện nhưng cũng không thu được kết quả gì, cả đoàn lên xe đi về Hà Hiệu. Cũng may là xã này nằm ngay trên con đường đi từ thị trấn Chợ Rã ra quốc lộ số 3, thuộc địa phận huyện Ngân Sơn, thuận tiện cho kế hoạch lên thị xã Cao Bằng của đoàn vào chiều tối cùng ngày. Đường đi đến Hà Hiệu khá xấu, chủ yếu là đường rải đá, bụi mù mịt. Tại UBND xã Hà Hiệu, chúng tôi gặp được đầy đủ các đồng chí trong Đảng ủy, Ủy ban xã gồm chị Lý Thị Giang - Chủ tịch HĐND, Mã Đình Lạ - Bí thư Đảng uỷ, Phan Thanh Bình - Chủ tịch UBND. Tuy nhiên, các đồng chí cũng khẳng định không có ai là Nông Văn Ích từ Cao Bằng chuyển xuống xã. Chỉ có một lão thành cách mạng tên là Nông Văn Thiết, chuyển từ huyện Trà Lĩnh, Cao Bằng xuống hồi năm 1979. khi có chiến tranh ở biên giới. Lãnh đạo xã nhiệt tình cử anh Lưu Minh Thông - cán bộ tư pháp, dẫn chúng tôi đến nhà con trai một lão thành cách mạng khác tên là Nông Văn Tám (bí danh Đức Bảo), đã mất từ năm 1983, để hỏi thêm may ra có tin tức gì giúp được cho đoàn. Đến nhà người con trai thứ không gặp, anh Thông lại dẫn chúng tôi đến nhà người con trai cả của ông Bảo tên là Nông Ngọc Thấm. Anh này đã mất, chỉ còn vợ tên là Hoàng Thị Nê, người gốc Cao Bằng. Hỏi kỹ ra mới rõ chị Nê và gia đình ông Bảo không có liên quan đến trường hợp đội viên Nông Văn Ích. Có thể ông Doanh Hằng đã nhớ nhầm trường hợp này, vì theo chị Nê, người con trai thứ của ông Bảo vừa qua cũng có ra Thái Nguyên xin xác nhận cho người cha của mình và có thể đã gặp ông Doanh Hằng, vì thế ông Doanh Hằng mới cung cấp địa chỉ xã Hà Hiệu cho chúng tôi. Chị Nê nói cho chúng tôi một chi tiết đáng chú ý: chị có bà bác tên là Hoàng Thị Lâm, lấy chồng tên là Nông Lệ Thiên, nghe nói cũng tham gia quân của bác Giáp. Ông Thiên đã mất, còn bà Lâm hiện sống ở Bản Chung, xã Vị Quang, huyện Thông Nông, Cao Bằng.


Thế là một ngày làm việc trôi qua mà không thu được kết quả gì trên địa bàn huyện Ba Bể, chúng tôi theo quốc lộ 3 lên tới thị xã Cao Bằng đã hơn 18 giờ tới và được Văn phòng Tỉnh ủy bố trí nghỉ tại nhà khách Bằng Giang. Do có đoàn Truyền hình đi cùng nên ngoài việc đi tìm các đội viên còn lại, theo đề nghị của đoàn Truyền hình, ngay tối hôm đó, chúng tôi liên hệ xin gặp ghi hình, phỏng vấn đồng chí Bí thư tỉnh ủy; sáng hôm sau sẽ đi vào khu di tích rừng Trần Hưng Đạo; hôm sau nữa sẽ đi gặp, ghi hình các đội viên còn sống là Bế Kim Anh và Tô Vũ Dâu, đồng thời đi Thông Nông để hỏi tìm về trường hợp hai đội viên Nông Văn Ích và Hồng Cô... Mãi tới khuya, chúng tôi mới gặp được đồng chí Bí thư Tỉnh ủy qua điện thoại (do đồng chí bận dự chiêu đãi các đoàn đại biểu Quốc hội lên thăm Cao Bằng) và hẹn được cuộc phỏng vấn, ghi hình vào tối hôm sau.


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 08 Tháng Chín, 2015, 06:51:45 pm
Sáng sớm chủ nhật, cả đoàn lên xe nhằm hướng Nguyên Bình. Trời không mưa, nhưng đường vẫn xấu, nhiều đoạn đã thấy công nhân ra làm sớm để tránh nắng buổi trưa. Thỉnh thoảng xe lại phải dừng lại chờ cho máy xúc, máy ủi dọn đất đá trên mặt đường mới đi tiếp được. Đối với một số đồng chí như Hà, Long thì đây là lần thứ tư vào Nguyên Bình, còn đối với anh chị em Truyền hình thì đây là lần đầu tiên. Chị Nguyễn Nguyệt Anh - phóng viên, nhận xét: "Bọn em đi cũng khá nhiều nơi nhưng chưa thấy con đường nào vất vả như thế này, thế mà các anh lại còn bảo đã tốt hơn trước nhiều, thì không biết trước đây xấu đến thế nào". Vì là ngày nghĩ, nên chúng tôi quyết định không rẽ qua UBND huyện nữa mà đi thắng vào khu rừng Trần Hưng Đạo. Tuy nhiên, trước khi vào khu rừng, cả đoàn đã rẽ vào UBND xã Tam Kim. Một lần nữa, chúng tôi lại gặp cuộc họp của xã. Các anh lãnh đạo xã lần này lại mời ở lại ăn cơm và bắt chúng tôi phải nhận lời. Hôm đó, đúng phiên chợ của xã, người dân các dân tộc đi chợ khá đông. Chúng tôi gặp cả xe của chị Nông Thị Nghĩa - Chủ tịch UBND huyện về quê nhân ngày chủ nhật. Chị rối rít mời đoàn lúc quay ra thị trấn, rẽ vào nhà chị cho biết nhà. Bãi cỏ bìa rừng Trần Hưng Đạo khá rộng và phẳng nhưng chẳng thấy bóng dáng một ai. Chúng tôi đỗ xe ở đó và đi bộ vào khu di tích. Trên đường, gặp một vài phụ nữ người dân tộc đi ra, vai khoác những cái như cái giỏ to, đan bằng mây tre. Hỏi ra mới biết là họ đang thồ cát, gạch thuê từ ngoài bìa rừng vào khu di tích để xây, sửa chữa chuẩn bị cho ngày 22-12. Khu rừng Trần Hưng Đạo khá rộng, đẹp, cây cao thẳng và thoáng mát. Đường vào được gia cố thường xuyên nên rất tiện đi lại. Vào ngôi nhà có dựng tấm bia bốn mặt, các đồng chí Tùng, Tráng và anh chị em Truyền hình tỏ rõ sự ngạc nhiên vì sự đẹp đẽ và yên tĩnh của khu di tích nằm cách xa thị xã Cao Bằng cũng như các trục đường giao thông. Như trên đã đề cập, đây là nơi Đội VNTTGPQ đã làm lễ thành lập. Suốt một thời gian dài sau đó, theo kể lại, nơi này chỉ có một tấm biển bằng xi măng đánh dấu nơi đội quân tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam ra đời. Mãi đến năm 1994, mới được đầu tư xây dựng đẹp đẽ như ngày nay. Ngoài Nhà bia là di tích chính, tại đây còn có khu nhà của tổ trông coi di tích thuộc sở Văn hoá - Thông tin tỉnh Cao Bằng. Ngoài ra, còn có tấm bia đá lớn dựng trên đỉnh núi Siam Cao, cũng được xây mái và xung quanh, ghi lại dấu tích đài quan sát của đồng chí Văn (tức Võ Nguyên Giáp). Từ đây, sau khi thành lập Đội, đồng chí Văn đã quan sát đồn Phai Khắt để chuẩn bị cho trận đánh đầu tiên của Đội ngày 25-12-1944.


Không bỏ phí thời gian, anh chị em Truyền hình vào việc ngay. Anh Phạm Thăng Long - quay phim, loay hoay chuyển máy đến các góc của Nhà bia để ghi hình tổng thể và ghi từng mặt của tấm bia. Chị Nguyệt Ánh nhẩm lại các câu hỏi để phỏng vấn đồng chí Hà về quá trình xây dựng khu di tích và quá trình đi tìm 34 cán bộ, chiến sĩ của Đội VNTTGPQ. Rồi gặp gỡ với tổ trông coi di tích để nắm thêm thông tin về quy hoạch, về khách tham quan. Sau đó, cả đoàn quyết định trèo lên đỉnh Siam Cao. Tuy đã làm thành đường, có bậc thang, có chỗ có cả tay vịn, nhưng vượt được hơn 500 bậc để lên tận đỉnh cũng không phải là chuyện dễ dàng nếu không có quyết tâm và sự háo hức tìm tòi, mến yêu lịch sử. Tuy rất mệt nhưng ai nấy đều thích thú bởi đã không bỏ sót một chỗ nào cần đến, vi biết rằng để trở lại lần nữa là cả một vấn đề.


Trở lại trụ sở UBND xã Tam Kim, chúng tôi thấy các anh đã chuẩn bị xong bữa ăn. Cả chủ và khách ngồi quây quần quanh hai mâm cơm, vừa nhâm nhi với rượu trắng tự nấu vừa vui vẻ nói về khu di tích rừng Trần Hưng Đạo và các đội viên quê ở Tam Kim. Về lai lịch đồn Phai Khắt. Xin nói thêm là, trên đường quay ra UBND xã, cả đoàn chúng tôi đã rẽ vào Nhà truyền thống - lưu niệm của xã. Đó chính là đồn Phai Khắt năm xưa. Đây là nhà của cụ Nông Văn Lạc - người đã giúp đồng chí Văn tổ chức thành lập Đội VNTTGPQ. Ngôi nhà to nhất xóm Phai Khắt và cũng có thể to nhất xã Tam Kim hồi đó đã bị thực dân Pháp và chính quyền tay sai chiếm dụng làm đồn. Chị Dung – người được cắt cử trông coi ngôi nhà truyền thống này, nhiệt tình giới thiệu từng hiện vật còn lưu giữ và tạo điều kiện để đoàn chụp ảnh, ghi hình các bức ảnh, sơ đồ cùng hiện vật. Chị cho biết rất vui và tự hào khi có khách đến xem. Khi chúng tôi hỏi về chế độ chính sách hoặc tiền lương thế nào, chị chỉ cười và nói được các anh đến thăm thế này là quý rồi, khi nào viết xong sách, nhớ gửi cho một cuốn để trưng bày.


Các anh ở xã cho biết tình hình kinh tế tuy đã khá hơn trước nhưng vẫn còn rất khó khăn, bà con các dân tộc đều tin tưởng vào đường lối, chính sách của Đảng, chính quyển, tự hào với truyền thống cách mạng của quê hương. Bữa ăn kéo dài đến 14 giờ vẫn chưa thể kết thúc nếu chúng tôi không đưa lý do còn phải gặp, làm việc với chị Nghĩa. Quả thật, chị Nghĩa hẹn gặp chúng tôi vào lúc 15 giờ ở ngoài thị trấn.


Trong cuộc trò chuyện tại nhà chị Nghĩa, chúng tôi có nêu lại trường hợp đội viên Hồng Cô, quê ở Lũng Dẻ, xã Minh Tâm chưa có tin tức gì. Chợt như nhớ ra điều gi, chị Nghĩa cho biết nghe nói cách đây ít lâu có người nhà ông Hồng Cô đến huyện xin xác minh. Vừa nói, chị vừa cầm điện thoại gọi cho một cán bộ người Mông làm ở Ban Dân vận Huyện ủy Nguyên Bình để hỏi thêm. Một lúc sau, anh cán bộ người Mông đến. Sau khi nghe đầu đuôi câu chuyện, anh sốt sắng lấy xe máy chở đồng chí Long đi tìm gặp đồng chí Dương Dinh (A), là công an của thị trấn. Đến trụ sở công an, được biết anh Dinh (A) đã về nhà riêng cách đó hơn chục cây số vì hôm đó là chủ nhật. Tuy nhiên, một đồng chí công an cho biết cách đây ít lâu có một người cháu của ông Hồng Cô từ huyện Mường Lát (Thanh Hoá) tìm đến, đề nghị làm giấy tờ, chính sách cho ông Hồng Cô. Anh Dinh (A) là người nhận giấy tờ và làm việc với người cháu. Như vậy là manh mối về đội viên Hồng Cô đã hé mở. Mọi người trong đoàn chúng tôi đều vui mừng khôn xiết như vừa tìm được người thân.


Do thời gian đã muộn, đường về còn xa nên chúng tôi không thể đi tìm anh Dinh (A) được ngay vì đã có hẹn đi cùng với đoàn Truyền hình đến nhà riêng đồng chí Bí thư Tỉnh ủy. Xin được địa chỉ, số điện thoại của anh Dinh (A), về Hà Nội, chúng tôi đã nhiều lần liên lạc với anh Dinh (A) và được biết hồ sơ của ông Hồng Cô đã chuyển sang Ban CHQS huyện Nguyên Bình. Chúng tôi đã liên lạc với Ban CHQS và được đồng chí thượng tá Hoàng Văn Trường - Chỉ huy trưởng, gứi thư trả lời kèm theo là tóm tắt những vấn đề liên quan đến tiểu sử và gia đình ông Hồng Cô. Cho đến thời điểm đó, thông tin về đội viên Hồng Cô mà chúng tôi nắm được như sau: tên khai sinh của ông là Hầu A Lý, sinh năm 1912 tại xã Bắc Hợp, huyện Nguyên Bình. Do là người dán tộc Mông, thường hay du canh, du cư nên gia đình Hồng Cô đã rất nhiều lần chuyên địa điểm sinh sống, vì thế việc “mất dấu vết” là điểu dễ hiểu. Bức thư cho biết hiện vợ ông Hồng Cô đang sống ở xã Bình Long, huyện Hoà An. Ông có hai người con trai, một hiện đang sống tại huyện Bảo Lạc, Cao Bằng, người kia đang sống ở huyện Bắc Sơn (Lạng Sơn). Tất cả chỉ có thế, phần quan trọng là quá trình tham gia hoạt động cùng như ngày tháng năm ông mất, chúng tôi chưa nắm được. Tuy nhiên, chúng tôi coi đây là một kết quả rất lớn, rất đáng kể vì đã góp phần bù vào khoảng trống hiểu biết về danh sách 34 cán bộ, chiến sĩ Đội VNTTGPQ. Cho đến lúc này, chỉ còn đội viên Nông Văn Ích là chưa có một chút thông tin nào.


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 08 Tháng Chín, 2015, 06:54:08 pm
Trở về thị xã Cao Bằng, cả đoàn tìm đến nhà riêng đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ Dương Mạc Thăng. Lúc chúng tôi đến, đồng chí Thăng vẫn chưa về. Trong lúc chờ đợi, cả đoàn xúm vào hỏi chuyện và ghi hình mẹ đẻ đồng chí Thăng - bà Nông Thị Yêm, lúc đó đã 87 tuổi, về quá trình hoạt động của bà và những câu chuyện về người chồng - Chính trị viên Dương Mạc Thạch (Xích Thắng). Tuy nhiên, do bị nặng tai và bà nói rất khó nghe nên câu chuyện cứ bị ngắt quãng, thông tin thu được không nhiều. Lúc đồng chí Thăng về tới nhà thì đã khá muộn, anh hẹn với đoàn sẽ tiếp vào 20 giờ tôi hôm sau tại phòng làm việc ở trụ sở Tỉnh ủy.


Ngày hôm sau, cả đoàn đi về hướng hai huyện Hoà An và Hà Quảng để tìm thêm “tung tích” của đội viên Hồng Cô và Nông Văn Ích, đồng thời, gặp lại đội viên Tô Vũ Dâu ở xã Vĩnh Quang, huyện Hoà An để các anh chị Truyền hình phỏng vấn, ghi hình. Đã có những khung cánh khá đẹp khi cả đoàn đi trên 2 ô tô qua một ngầm đá của sông Bằng Giang gần thị trấn Nước Hai, để vào xã Hồng Việt: khi cả đoàn đi qua sông trên một chiếc cầu treo, rồi cảnh trập trùng núi và vực của ngày hôm trước, khi đi vào Nguyên Bình, cảnh trong khu rừng Trần Hưng Đạo... tất cả đã được tay quay phim chuyên nghiệp Phạm Thăng Long ghi lại.


Ở nhà đội viên Tô Vũ Dâu, chúng tôi mất hơn một giờ chỉ để ghi lại khuôn hình, trong vòng khoảng 5 phút, câu chuyện cụ Dâu kể về trận đánh đồn Nà Ngần sáng ngày 26-12-1944 và việc cụ bắn chết tên đội Đường, đồng thời làm bị thương ngón tay của đội viên Nông Văn Bê. Lúc đó cụ cũng đã yếu, nói sự kiện lúc nhớ lúc quên nên quá trình quay phim rất vất vả. Cũng không thể ngờ được là chỉ một tuần sau đó, khi về Hà Nội, chúng tôi đọc báo mới biết là cụ Tô Vũ Dâu đã mất. Đây quả là một tốn thất lớn không thể bù đắp không chỉ cho gia đình cụ Dâu mà còn là tổn thất lớn đối với Đảng, quân đội, chính quyển địa phương và với cả chúng tôi, những người đang bỏ công sức thực hiện cuốn sách lịch sử về Đội VNTTGPQ. Như thế, cho đến lúc đó (12-2001), chỉ còn 3/34 chiến sĩ của Đội còn sống. Từ nhà cụ Dâu, đoàn chia làm hai: các đồng chí Tùng, Long đi theo xe của anh Tráng đến huyện Thông Nông để tìm đội viên Nông Văn ích, còn đồng chí Hà theo xe của Truyền hình đi đến nhà của bà Hoa (vợ đội viên La Thanh) để phỏng vấn, ghi hình. Ở hướng Thông Nông, một huyện miền núi, giáp giới Trung Quốc, địa hình cao, nhiều núi đá tai mèo, chúng tôi đã đến trụ sở UBND huyện, gặp được chị Nông Thị Ca - Chủ tịch UBND huyện. Sau khi nghe đoàn trình bày, chị Ca quả quyết là trên địa bàn huyện, chưa nghe thấy tên hai ông Ích và Hồng Cô. mặc dù cũng có khá nhiều lão thành cách mạng là người Mông, người Nùng hiện sống ở đây. Như thế, địa chỉ mà chúng tôi có được ở Ba Bể, Bắc Kạn là không đúng. Tuy không được việc nhưng chúng tôi củng tự an ủi rằng đã không bỏ sót bất cứ thông tin nào, dù là mong manh, để có thể tìm ra “tung tích” các bậc tiền nhân.


Trên hướng Hà Quảng, ngoài việc hỏi chuyện, ghi hình nhân chứng là bà Hoàng Thị Hoa, chúng tôi xin chụp lại được ảnh chân dung đội viên La Thanh (lần trước đã chụp nhưng do máy ảnh trục trặc kỹ thuật nên không kết quả). Bà Hoa còn nhiệt tình dẫn đoàn đến nền nhà cũ của gia đình ở xóm Pác Bó - nơi có tấm bia ghi lại sự kiện đón tiếp các đại biểu toàn quốc về dự Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (5-1941), để đoàn ghi hình.


Tranh thủ thời gian, chúng tôi đến nhà đội viên Bế Bằng ở khu tập thể Nước Giáp để phỏng vấn và quay phim. Tiếp đó, cả đoàn đến nhà đội viên Đức Cường và đội viên Thế Hậu để xin chụp lại ảnh chân dung. Lại một ngày nữa trôi qua thật nhanh. Khi cả đoàn về tới nhà khách Bằng Giang thì trời đã nhá nhem tối. Ở ngay tiền sảnh nhà khách, khi chúng tôi gặp và đang nói chuyện với mấv cháu Huyền, Ngân, Chuyên ờ bộ phận lễ tân thì một người phụ nữ nước ngoài đi ngang qua. Bà niềm nở chào và nói rằng đã mấy lần thấy chúng tôi ở tại đây nhưng không biết là chúng tôi đang làm gì, chỉ nghĩ chắc là công việc hệ trọng nên mới thấy “bộ đội ở khách sạn của Tỉnh ủy”. Chúng tôi cười, trả lời rằng công việc chúng tôi đang làm rất hệ trọng và thiêng liêng, đó là đi tìm lại nguồn gốc của đội quân tiền thán của Quân đội nhân dân Việt Nam, một đội quân anh hùng, đã được sinh ra trên mảnh đất Cao Bằng tươi đẹp, giàu truyền thống và mến khách này. Nghe chúng tôi nói xong, bà Ma-ri-a Goóc-đan, người Ai-len. Đồng Giám đốc Dự án về nông nghiệp và phát triển nông thòn Cao Bằng, Bắc Kạn, của Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP), đã ở nhà khách này trong suốt 3 năm, nói: “Các bạn đang làm một công việc tuyệt vời và đẹp đẽ vì lịch sử của Việt Nam rất anh hùng, nhân dân Cao Bằng rất tốt”. Sau đó, chúng tôi đã cùng chụp chung một bức ảnh kỷ niệm với bà Goóc-đan.


Đúng 20 giờ, cả đoàn có mặt tại phòng làm việc của Bí thư tỉnh ủy. Đồng chí Thăng trả lời phỏng vấn truyền hình trên hai cương vị: Bí thư tỉnh ủy và thân nhân gia đình của đồng chí Chính trị viên Đội VNTTGPQ. Cuộc trả lời phỏng vấn diễn ra gọn ghẽ, đạt kết quả tốt.


Như vậy, trong chuyến đi này, cả đoàn đã làm được khá nhiều việc, trong đó quan trọng nhất là tìm ra được “dấu chân” của đội viên Hồng Cô, mặc dù thông tin còn ít ỏi, và giúp cho VTV1 xây dựng phóng sự về công tác sưu tầm, nghiên cứu lịch sử quân sự của Viện LSQS Việt Nam nói chung, về công việc của đoàn nói riêng, góp phần phổ biến, tuyên truyền lịch sử.


Sáng hôm sau, cả đoàn rời Cao Bằng về Hà Nội. Khi chiếc xe U-oát cọc cạch của chúng tôi về đến thị trấn Đu, huyện Phú Lương, Thái Nguyên, thì chiếc xe của Truyền hình Việt Nam đã về tới gần Hà Nội. Tại thị trấn Đu, mấy anh em tranh thủ rẽ vào trụ sở HĐND và UBND huyện Phú Lương để tìm gặp các anh Trương Nam Kháng, Trương Nam Chiến, là con trai đội viên Trương Đắc, đế hỏi thêm tin tức. Thật tiếc là không gặp được vì cả hai anh đang đi công tác xuống xã. Chúng tôi gửi lại địa chỉ, số điện thoại và nhờ hai anh cung cấp thông tin về người cha của mình.


Như vậy, kết thúc chuyến công tác thứ ba, đoàn đã có trong tay thông tin về 32/34 trường hợp. Tuy mức độ thông tin có người ít, người nhiều song đây là kết quả rất đáng khích lệ. Chỉ còn trường hợp đội viên Nông Văn Ích vẫn “bặt vô âm tín” và trường hợp đội viên Luận, quê ở Quảng Bình. Đối với đội viên Luận, chúng tôi đã liên hệ với Bộ CHQS tỉnh Quảng Bình, được các đồng chí cung cấp cho địa chỉ cụ thể để có thể tìm đến tận nơi.


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 08 Tháng Chín, 2015, 06:55:11 pm
Vào đúng dịp kỷ niệm ngày thành lập Quân đội năm đó (2001), chúng tôi có chuyến công tác vào thành phố Huế, tổ chức cuộc gặp các cộng tác viên của Tạp chí Lịch sử quân sự khu vực Huế - Đà Nẵng. Xong việc, được Bộ CHQS tỉnh Thừa Thiên – Huế tạo điều kiện giúp một chuyến xe, cả đoàn tranh thủ đi ra Quảng Bình. Đồng chí Huyến - trung tá, công tác tại Bộ CHQS tỉnh, đã dẫn chúng tôi về thôn Đồng Lâm, xã Đức Hoá, huvện Tuyên Hoá, miền Tây Quảng Bình, tìm đến nhà đội viên Luận. Trên đường từ thị xã Đồng Hới lên cửa khau Cha Lo, đồng chí Huyến đã chỉ cho biết quê hương của Đội trưởng Hoàng Sâm, ở bên kia sông, cũng thuộc huyện miền núi Tuyên Hoá. Như vậv, chỉ riêng huyện Tuyên Hoá xa xôi này đã đóng góp 2 người con tham gia vào Đội VNTTGPQ. Đó là chưa kể đến đất Quảng Bình còn là quê hương của Đại tướng Võ Nguyên Giáp - người trực tiếp được Bác Hồ giao nhiệm vụ thành lập Đội và là người đã lãnh đạo, chỉ huy Đội trong những ngày đầu sau khi thành lập.


Thật may, khi đến nơi chúng tôi gặp được đầy đủ cả vợ và con trai, con dâu, cháu của đội viên Luận. Hỏi ra mới biết anh Huyến đã điện xuông Ban CHQS huyện Tuyên Hoá báo trước, nên đồng chí thiếu tá Trần Đức Sơn - trợ lý cán bộ chính sách của Ban CHQS huyện đã đến báo cho gia đình. Qua tìm hiểu, chúng tôi được biết ông Luận có tên khai sinh là Võ Văn Dảnh, sinh năm 1905, mất năm 1991. Ông là một trong những người nhiều tuổi nhất của Đội VNTTGPQ khi thành lập. Theo hồ sơ của xã đề nghị Nhà nước tặng Huân chương bậc cao cho ông, thì ông tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1923, đã từng ở Lào, Thái Lan, từng tham gia cuộc Vạn Lý trường chinh của Giải phóng quân nhân dân Trung Quốc trước khi về nước tham gia Đội VNTTGPQ. Ông chính là người bị đồng chí Võ Nguyên Giáp phê bình sau trận đánh đồn Phai Khắt vì không kiềm chế được nên đã bắn chết tên đồn trưởng người Pháp tên là Si-mô-nô, mà đáng lẽ ra phải bắt sống. Gia đình cho biết đã nhận được số tiền 50 triệu đồng hỗ trợ cho cán bộ lão thành cách mạng cải thiện điều kiện nhà ở. Theo chúng tôi được biết, đây là trường hợp đầu tiên mà một đội viên (đã mất) của Đội VNTTGPQ được nhận tiền hỗ trợ theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.


Sau khi hỏi thêm về cuộc sống của ông từ lúc trở về địa phương cho đến khi mất, chụp ảnh chung với gia đình, chúng tôi trở về Đồng Hới, rồi về Huế ngay trong ngày hôm đó. Mặc dù vượt khoảng 500 km trong một thời gian ngắn, trời mưa, đường trơn. Xấu khủng khiếp, phải bỏ tiền túi ra mua thêm xăng để đi, tuy rất mệt mỏi nhũng ai nấy đều phấn khởi vì đã tìm thêm một trường hợp khá đặc biệt trong danh sách. Nó đặc biệt là ở chỗ thông tin ban đầu trong danh sách chỉ vỏn vẹn tên ông là Luận, quê Quảng Bình, thêm nữa, nhà đội viên Luận lại xa cả Hà Nội và xa cả địa bàn các tỉnh Việt Bắc - nơi tập trung đa số các đội viên trong Đội, nên không dễ dàng đến được.


Tiếp ngay sau sự kiện tìm được đội viên Luận, chúng tôi lại may mắn có được thông tin chính xác về đội viên Nông Văn Ích. Một sự tình cờ khá ly kỳ liên quan đến việc này, xin kể cụ thể như sau: Khi từ nhà đội viên Luận trở ra thị xã Đồng Hói ăn trưa, chúng tôi nhận được điện của chị Nguyệt Ánh - phóng viên VTV1, đi theo đoàn ở Cao Bằng, báo tin bộ phim phóng sự về công việc đi tìm danh sách 34 chiến sĩ Đội VNTTGPQ sẽ phát vào ngàv 24-12-2001. Trước đó, trong khi làm phóng sự, trả lời phỏng vân truyền hình, chúng tôi có nhấn mạnh trường hợp đội viên Nông Văn Ích, với hy vọng khán giả xem truyền hình có thể cung cấp thêm thông tin về trường hợp này. Thời gian buổi phát hình phóng sự này là vào 7 giờ 45 phút sáng 24-12. Ngay sau khi kết thúc phóng sự chừng 10 phút, chúng tôi đã nhận được một cuộc điện thoại của khán giả có tên là Lý Trung Thu. Chị Thu công tác ở Phòng Tổng kiểm soát của Công ty vàng bạc đá quý Việt Nam, cho biết sáng hôm đó do ốm mệt nên chị ở nhà không đi làm. Tình cờ xem chương trình truyền hình này được biết chúng tôi đang đi tìm ông Ích nên gọi điện đến báo tin. Chị kể hồi còn nhỏ, gia đình chị còn ở thị xã Yên Bái, trong khu tập thể có gia đình ông Ích, nhùng là Lương Văn Ích chứ không phải họ Nông. Lúc đó ông Ích đeo quân hàm đại uý màu xanh của Công an vũ trang. Ông người cao, gầy, hơi đen. Chị đã từng được ông cho xem ảnh ông chụp với một số người, theo ông nói, là “quân của bác Giáp” trong Đội VNTTGPQ. Chị Thu cho biết ông Ích đã mất, hiện nay vợ ông đang ở với ngưòi con trai thứ hai tại thị xã Yên Bái. Chúng tôi nhận được thông tin này mừng không để đâu cho hết. Ngày hôm sau, chị Thu lại gọi điện cho biết, chị đã ba lần gọi điện lên Yên Bái để hỏi thêm, đồng thời cung cấp cho một số địa chỉ để chúng tôi liên hệ. Chưa hết, khoảng 2 tuần sau khi VTV1 phát phóng sự, chúng tôi lại nhận được thư của một cựu chiến binh tên là Lê Tiến Vượng, ở tổ 3, thị trấn Yên Bình, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái. Ông Vượng cho biết tình cờ xem truyền hình, biết chúng tôi đang đi tìm ông Ích, nên viết thư ngay báo tin, khi nào đoàn lên Yên Bái, ông sẽ tình nguyện dẫn đường đến nhà ông Ích vì trước đây ông có thời kỳ đã cùng công tác với ông Ích. Thế là đã rõ. Ông Ích đã được bạn bè, hàng xóm phát hiện, giúp “đưa đến” cho chúng tôi. Qua sự việc này, càng thấm thìa một điều: sự may mắn luôn song hành nếu chúng ta có cái tâm, lòng nhiệt tình và sự say mê, lại được nhân dân giúp đỡ.


Sau khi có được thông tin vê trường hợp đội viên Ích, chúng tôi đã lên ngay Yên Bái, tìm đến nhà ông Vượng. Không quản giờ giấc, ông Vượng đã dẫn chúng tôi đến nhà ông Ích. Quả đúng như vậy, vợ và con trai ông Ích khẳng định ông Ích họ Lương, còn họ Nông khắc trên bia, mà gia đình cũng chưa có dịp đến thăm, là sau này mới đặt để tiện hoạt động. Con trai ông Ích đưa ra các giấy tờ, Huân chương, Huy chương và cả cuốn sổ tay của ông ghi lại những sự việc thời gian trước đây ông đã trải qua, các bức ảnh chụp chung với các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Đàm Quang Trung, Vũ Lập, Hà Thiết Hùng... Ông Ích tên khai sinh là Lương Quý Sâm, quê ở xã Xà Sác, Hà Quảng, Cao Bằng, sinh năm 1916, tham gia cách mạng từ năm 1935. Tên là Ích là do Bác Hồ đặt cho (có ý nghĩa là ích nước lợi nhà). Vợ ông - bà Hoàng Thị Lịch, cho biết gia đình cũng đã được nhận số tiền hỗ trợ 50 triệu của Thủ tướng Chính phủ và đã dùng để sửa sang, xây lại nhà.


Sau khi tạm biệt gia đình ông Ích và đưa ông Vượng về nhà, chúng tôi quay trở lại Tuvên Quang, vượt đèo Khế sang Thái Nguyên. Sáng hôm sau, chúng tôi tìm đến nhà cụ Nông Văn Quang, lão thành cách mạng, nguyên Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Khu tự trị Việt Bắc, là người gắn bó với Đội VNTTGPQ từ những ngày đầu thành lập Đội, hỏi thêm về hai trận đánh Phai Khắt, Nà Ngần và quá trình hoạt động của Đội sau đó, khi chia thành các hướng Nam tiến xuống Bắc Kạn, Thái Nguyên như thế nào... Mặc dù đã ngoài 80 tuổi, sức yếu, nhưng còn minh mẫn, cụ Quang đã cung cấp khá nhiều chi tiết, đặc biệt là lý do tại sao lại chọn Tam Kim, nơi có khu rừng Trần Hưng Đạo, làm nơi thành lập Đội, về đội viên Trương Đắc, cùng quê ở xã Minh Tâm với cụ.


Tiếp đó, chúng tôi trở lại huyện Phú Lương, gặp được hai anh em con đội viên Trương Đắc và cả bà vợ hai của ông để nắm thêm quá trình hoạt động của ông.

Trên cơ sở tư liệu thu thập được qua các chuyến đi, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của thủ trưởng Viện, cả nhóm xây dựng đề cương và phân công mỗi người phụ trách viết một phần trong cuốn sách về lịch sử Đội VNTTGPQ. Các đồng chí Long, Tùng viết phần trích ngang tiểu sử của từng đội viên và những mẩu chuyện đặc sắc về quá trình hoạt động của một số đội viên trong Đội. Tuy nhiên, trong quá trình sắp xếp, chọn lọc tư liệu, cả nhóm nhận thấy vẫn còn một số đội viên mà thông tin về họ rất ít, thậm chí không có. Ví dụ như các đội viên Hồng Cô, Nông Văn Bê, Xuân Trường, Lộc Văn Lùng, Chu Văn Đế, Hoàng Văn Lường, Ngọc Trình. Chúng tôi đã đem sự phân vân này báo cáo với lãnh đạo Viện, đề nghị đi một chuyến nữa để xác minh thêm, đặc biệt là hai trường hợp Hồng Cô và Ngọc Trình.


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 08 Tháng Chín, 2015, 06:56:42 pm
Đầu tháng 12-2002, đoàn lại lên đường, nhằm thị xã Cao Bằng. Trước khi đi, qua tư liệu của Ban liên lạc của VNGPQ do bác Kim Sơn cung cấp, và qua thư của đồng chí Chỉ huy trưởng Ban CHQS huyện Nguyên Bình, chúng tôi thấy có hai địa điểm cần phải đến để tìm gia đình đội viên Hồng Cô. Hai địa điểm này đều nằm ở huyện Hoà An: một ở xóm Lũng Chung, xã Hồng Việt và địa chỉ kia là xóm Lũng Phầy, xã Bình Long.


Khác với các lần trước, lần này đoàn nghỉ tại Bộ CHQS tỉnh Cao Bằng vì các đồng chí bên Tỉnh uỷ, UBND, cụ thể là nhà khách Bằng Giang, lần nào cũng đón tiếp chúng tôi rất nhiệt tình, chu đáo khiến ai nấy đều cảm thấy áy náy vì mình chưa làm được gì nhiều cho địa phương. Lý do thứ hai là trong chuvến công tác trước, khi đoàn sang thăm, chào Bộ CHQS tỉnh, đồng chí đại tá Lô Ích Giang - Chỉ huy trưởng, có lời mời chúng tôi về ăn nghỉ lại Bộ CHQS tỉnh. Thứ ba là chúng tôi muốn nhờ đồng chí trung tá Hoàng Minh Thèn dẫn đường cho đỡ mất thời gian hỏi thăm.


Khi cả đoàn đến nơi, trời đã xế chiều. Các anh trong Bộ CHQS tỉnh đã bố trí chỗ ăn nghỉ chu đáo. Chúng tôi sơ bộ báo cáo các đồng chí Giang, Hoàng Thượng - đại tá. Chỉ huy phó chính trị, Giang Văn Sâm - đại tá. Chỉ huy phó Tham mưu trưởng, về công việc của đoàn. Các đồng chí ở Bộ CHQS tỉnh hoan nghênh và hứa tạo điều kiện giúp cho đoàn hoàn thành công việc.


Sáng sớm hôm sau, chúng tôi và anh Thèn đi về Hoà An, Đồng chí Hà nêu ý kiến chọn địa chỉ Lũng Phầy đến trước, nếu không có kết quả thì sẽ tìm đến Lũng Chung. Đến hơn 9 giờ sáng, vượt qua một quãng đường tuy không dài, nhưng khó đi vì phải vượt ngầm trên sông Bằng Giang, chúng tôi đi mãi vào chân núi. Hỏi thăm, dân địa phương cho biết Lũng Phầy cách đây chừng 3 km, phải vượt ngọn núi trước mặt, sau đó đi chừng hơn 1 km nữa sẽ đến. Ngước mắt nhìn lên đỉnh núi cao mây phủ, mọi người nhìn nhau lắc đầu, nhưng đều quyẽt tâm leo núi vượt đèo. Chỉ có điều băn khoăn không ai nói ra là liệu khi tới được địa chỉ này có thu được kết quả gì không?


Trong đoàn đi lần này có thêm hai thanh niên công tác tại Tạp chí Lịch sử quân sự. Cả đoàn bắt đầu leo. Trời mùa đông khá rét. Núi đá tai mèo dựng đứng như hút hết sức lực của chúng tôi. Ai nấy chưa kịp mừng khi leo lên đến đỉnh núi thì lại thấy xuất hiện một đính núi khác phía xa. Đến nước này thì chỉ có cố mà tiến lên chứ không còn cách nào khác. Đã có ý kiến đáng lẽ nên đi đến Lũng Chung trước. Thật ra, cả hai địa chỉ này đối với chúng tôi cũng chỉ là chọn lựa ngẫu nhiên, đi cái này trước cái kia sau thôi, chứ địa danh đã có tên đầu là Lũng thì cứ phải ở trên cao và chắc chắn là phải bỏ công sức ra mà leo. Thật may, đi được chừng nửa quãng - đường, chúng tôi gặp mấy cô gái người địa phương đi lấy củi. Hỏi thăm cặn kẽ, các cô cho biết đúng là trong Lũng Phầy có một bà già, vợ của lão thành cách mạng, có người con trai hiện sống ở Bảo Lạc, bà này hiện đã mất. Các chi tiết đó giúp cả đoàn tăng thêm sức lực, rảo bước tới. Sau một tiếng rưỡi đồng hồ vừa đi vừa nghỉ, chúng tôi đến được Lũng Phầy. Đây là lần đầu tiên mọi người trong đoàn đến một bản có toàn người Mông sinh sống, nên ai nấy cảm thấy háo hức pha chút tò mò. Ngôi nhà đầu bản chúng tôi vào hỏi thăm là nhà của chị Lý Thị Thu (sau này chụp ảnh, hỏi chuyện mới biết năm nay mới 30 tuổi nhưng chị đã "kịp" có 4 đứa con, đứa lớn nhất học lớp 6). Thấy có bộ đội đến, mấy phụ nữ trong nhà đang ngồi ăn sắn luộc quanh bếp lửa liền vội vàng cất đi. Sau khi chúng tôi tự giới thiệu và nói rõ mục đích chuyến đi, không khí thăm dò e dè đã tan biến. Chúng tôi xin được cùng ăn sắn (không phải để làm dân vận mà thực ra ai nấy đều đói, mệt và bắt đầu thấy rét). Trong câu chuyện mới biết mấy chị đây là giáo viên cấp 1 thuộc Phân trường tiểu học Lũng Phầy, cả bản chỉ có 28 hộ, với 172 nhân khẩu, nằm heo hút trên núi cao, nhưng vẫn duy trì được 4 lớp tiểu học cho con em trong bản. Đây là điều khiên chúng tôi ngạc nhiên. Ngạc nhiên nữa là các chị đều là giáo viên có nhà ở dưới chân núi, hàng ngày gửi xe đạp ở dưới rồi lên đây dạy học, đến trưa hoặc chiều mới "hạ sơn". Tuy rất vất vả nhưng không thấy ai kêu ca. Mà các chị coi đó là công việc rất tự nhiên. Người có thâm niên dạy học nhiều nhất cùng đã ngót 30 nàm và được biết có tốổg thu nhập khá cao, trên một triệu đồng một tháng, không hề có dạy thêm, học thêm. Do ở đây chỉ có các lớp cấp 1, nên các cháu từ lớp 6 trở lên phải ngày ngày xuống núi đi học, mỗi cháu được nhà nước hỗ trợ 60.000 đồng một tháng nên số đi học rất đông. Cuộc sống của bà con người Mông ở đây còn rất vất vả do sông tách biệt, ít đất canh tác; lương thực, thức ăn chủ yếu là tự cung tự cấp bằng ngô, trừ muối i-ôt phải xuống núi mua. Một ông già người Mông vác cả buồng chuối xuống chợ bán được 5.000 đồng, thuê xe ôm đi ra thị trấn Nước Hai hết 3.000 đồng (lượt đi, còn về đi bộ), mua một gói muôi i-ốt hết 2.000 đồng.


Trở lại công việc, lại rất may là trong số các cô giáo có chị Hoàng Vừ Mỵ, 50 tuổi; mẹ chị Mỵ là em dâu của ông Hồng Cô (địa phương gọi là Hồng Cu). Chị Mỵ khẳng định là ông Hồng Cô và cả bà vợ Hồng Cô cũng ở đây một thời gian. Chị Mỵ không biết gì nhiều về ông bác Hồng Cô vì ông mất từ năm 1952, cùng năm sinh của chị. Chị đã cho chúng tôi địa chỉ mẹ đẻ là bà Lưu Thị Vang, hiện đang sống ở dưới xã Hồng Việt và địa chỉ của một người từng là thuộc cấp của ông Hồng Cô để hỏi thêm. Mặc dù các chị một hai giữ chúng tôi ở lại để thết một bữa "mèn mén" (món bột ngô nấu) mà chưa ai trong đoàn từng ăn, mặc dù đã quá trưa, bụng đói, song do thời gian câu thúc, chúng tôi đành lỗi hẹn dịp khác.


Chị Phạm Thị Liêm - giáo viên, tình nguyện dẫn chúng tôi xuống núi, đến thẳng nhà bà Lưu Thị Vang. Tiếc là do thời gian đã quá lâu, bà Vang lại không nói được nhiều tiếng Kinh, nên cùng không hỏi được gì thêm về ông Hồng Cô. Một lần nữa, lại phải khất lời mời về ăn cơm trưa tại nhà chị Liêm để đi ra Nước Hai cho kịp. Sau đó, cả đoàn tìm vào bệnh viện huyện hỏi chuyện ông Vừ Lia Nô, 83 tuổi, đang nằm điều trị bệnh gai cột sông. Biết chúng tôi rất vất vả về trường hợp Hồng Cô, ông Nô tỏ ra áy náy nhưng cũng thú thực là không biết gì nhiều vì thời gian ở dưới quyền, cùng sống với ông Hồng Cô không nhiều. Có điều, ông Nô nhắc đi nhắc lại rằng ông Hồng Cô không phải là người đào ngũ, mà là về thăm nhà rồi mắc bệnh và mất sau đó. Thái độ bức xúc của ông Nô - một lão thành cách mạng người Mông, khiến chúng tôi tin là ông có lý.


Như vậy, kết quả đáng kể nhất trong chuyến đi tìm hiểu về đội viên Hồng Cô là chúng tôi đã tìm được đến tận nơi mà ông đã từng sống, đã gặp được họ hàng, bạn chiến đấu của ông. Còn về quá trình tham gia hoạt động cách mạng của ông cho đến khi mất ra sao, vẫn còn là một khoảng trống.


Tiêu đề: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 08 Tháng Chín, 2015, 06:57:56 pm
Trở lại thị xã Cao Bằng, chúng tôi tranh thủ đến sở LĐ-TB-XH xác minh thêm một vài trường hợp về chế độ chính sách dành cho các đội viên. Sáng sớm hôm sau. cả đoàn lại theo đường số 4 về Lạng Sờn, tìm đến địa chỉ của đội viên Ngọc Trình. Trước lần đi này, chúng tôi có nhận được bức thư dài 5 trang viết tay của bác Bê Hồng - người từng gặp và biết khá rõ về đội viên Ngọc Trình, sau này là Giám đốc Sở y tế tỉnh Lạng Sơn, đã nghĩ hưu. Bác Bê Hồng cung cấp địa chỉ con trai của ông Ngọc Trình, hiện đang công tác tại Trường phổ thông dân tộc nội trú huyện Văn Lãng. Khi chúng tôi đến nơ,. những người có trách nhiệm của Trường cho biết do sức khoẻ yếu nên anh Long Văn Đăm - con trai Ngọc Trình, đã xin nghỉ việc, hiện còn vợ anh Đăm đang làm cấp dưỡng tại trường. Chị vợ anh Đăm dẫn chúng tôi về nhà riêng. Hỏi chuyện mới biết gia đình hiện không được hưởng chế độ chính sách gì. Mộ của ông Ngọc Trình vẫn ở Trung Quốc, gia đình đã sang thăm, thắp hương, nhưng chưa có điều kiện chuyển về quê. Anh Đăm là con trai duy nhất, khi ông Ngọc Trình hy sinh, anh vẫn còn ở trong bụng mẹ, nên không biết gì về quá trình hoạt động của bố đẻ mình. Hoàn cảnh gia đình rất khó khăn. Anh Đăm đau yếu luôn, người bé nhỏ như cái nắm tay, nặng chừng độ hơn 30 cân, do thường xuyên uống rượu. Chúng tôi đã hướng dẫn tỉ mỉ "đường đi nước bước" để cô cháu gái căn cứ vào đó đi hỏi chế độ chính sách cho ông nội.


Sau đó, vợ anh Đăm dẫn chúng tôi tới nhà bác Bế Hồng để hỏi thêm về quá trình hoạt động và hoàn cảnh hy sinh của đội viên Ngọc Trình. Bác Bê Hồng, do có mối thân quen, đã kể khá nhiều chuyện về gia đình và bản thân Ngọc Trình. Bác cho biết Ngọc Trình người nhỏ, chắc, tính tình vui vẻ, da ngăm đen, làm công tác dân vận rất tốt. Bác đề nghị chúng tôi tìm cách giúp cho gia đình con trai Ngọc Trình sớm được hưởng chế độ, chính sách của Đảng, Nhà nước.


Hai tuần sau chuyên công tác, cháu gái đội viên Ngọc Trình đã xuống Hà Nội, tìm đến cơ quan chúng tôi nhờ giúp đỡ. Chúng tôi đã thảo và đánh máy đơn xin xác nhận lão thành cách mạng cho ông Ngọc Trình, sau đó dẫn cháu sang nhà riêng Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Do biết và rất nhớ rõ trường hợp Ngọc Trình, đội viên duy nhất của Đội VNTTGPQ hy sinh bên đất Trung Quốc, nên Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã ký giấy xác nhận ngay cho đội viên Ngọc Trình. Giúp được việc cho gia đình đội viên Ngọc Trình, chúng tôi mừng như đã làm xong một công việc của chính gia đình mình. Một lần nữa, hoạt động nghiên cứu lịch sử quân sự đã gắn trực tiếp, cụ thể với đời sông của cộng đồng, đã góp phần bồi đắp, tô đậm thêm truyền thống uống nước nhớ nguồn của Đảng, Nhà nước và Quân đội và nhân dân ta.


Liên quan đến trường hợp đội viên Ngọc Trình, trong lần lên Thái Nguyên công tác mới đây, chúng tôi đã đến gặp bác Hoàng Long Xuyên - đại tá, nguyên Chi đội trưởng Chi đội 11 (tương đương cấp trung đoàn) từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, sau đổi thành Trung đoàn 28 Lạng Sơn, mà đại đội địa phương Văn Lãng của Ngọc Trình là một bộ phận trong đơn vị này. Ông đồng thời cũng là cấp trên của Ngọc Trình khi sang chiến đấu giúp bạn. Hai năm 1993-1994, ông có lên Lạng Sơn, gặp đồng chí Phó Bí thư thường trực Huyện ủy Văn Lãng lúc đó, đồng chí này là cháu ruột của đồng chí Hoàng Văn Thụ, đề nghị giải quyết, chê độ chính sách cho Ngọc Trình. Đồng chí Phó Bí thư nhận thiếu sót và hứa sẽ sớm giải quyết. Nhưng không hiểu vì lý do gì, cho đến nay, vấn đề này vẫn chưa được giải quyết. Chúng tôi còn được cô cháu gái của ông Ngọc Trình kể cho biết là các cơ quan chức năng của huyện rất lúng túng trong việc hướng dẫn cách làm hồ sơ giấy tờ liên quan, thậm chí cho đến đầu năm 2003 nhưng Phòng LĐ-TB-XH huyện còn nói chưa có Quyết định số 20 của Thủ tướng Chính phủ ký ngày 3-2-2000 về hỗ trợ tiền cho các lão thành cách mạng cải thiện điều kiện nhà ở.


Chúng tôi đã phải phô tô quyết định trên từ Công báo làm nhiều bản, đưa cho cháu gái ông Ngọc Trình đem về để trình cho huyện biết.

Qua sự việc này, và nhiều trường hợp khác mà chúng tôi đã gặp, có thể thấy nhiều cán bộ lão thành cách mạng còn thiệt thòi, chưa được hưởng chế độ, chính sách đãi ngộ của Nhà nước vả Quân đội, nhất là đối với người đã mất, gia đình họ ở vùng xa xôi hẻo lánh, người dân tộc, không có điều kiện nắm được các thông tin về vấn đề đó. Nếu có biết, có tìm đến các cơ quan chức năng để hỏi, thì có khi lại "được hỏi lại" là có các giấy tờ gì chứng minh thân nhân là lão thành cách mạng, với sự thiếu nhiệt tình hướng dẫn gia đình thân nhân làm các thủ tục cần thiết. Gia đình ông Ngọc Trình cho biết nghe nói có chính sách như thế nhưng chờ mãi chẳng thấy ai đem tiền đến cho, mà không biết hỏi ai. Trường hợp đội viên Lộc Văn Lùng ở xã Mai Pha, huyện Cao Lộc, Lạng Sơn, cũng tương tự. Gia đình ông cũng đã đi hỏi, nhưng khi bị hỏi lại là các giấy tờ chứng minh ông là lão thành cách mạng đâu, thì gia đình đành chịu vì không biết cách làm thủ tục như thế nào. Chúng tôi cũng đã hướng dẫn gia đình ông Lùng các bước đi cần thiết để làm vấn đề này. Đây là điều đáng tiếc mà chúng tôi thường gặp qua các chuyến đi công tác.


Như vậy, đến đầu năm 2003, sau gần 3 năm bắt tay vào công việc này, chúng tôi đã thu thập được khá nhiều tư liệu liên quan đến quá trình lịch sử của Đội VNTTGPQ và về những đội viên của Đội. Mặc dù đã và đang tập trung biên soạn cuốn sách lịch sử về Đội, chúng tôi vẫn áy náy về một sô trường hợp, mà qua nhiều chuyến đi, vẫn chưa thể thu thập được, đặc biệt là trường hợp đội viên Hồng Cô. Riêng về vấn đề này, ngoài việc viết thư cho con trai ông Hồng Cô, yêu cầu cung cấp thông tin, chúng tôi đã có thêm một chuyến đi nữa lên huyện Bắc Sơn (Lạng Sơn) để tìm nhà người con trai Hồng Cô. Tuy nhiên, đoàn chưa thể đến tận nơi gia đình con trai út của ông Hồng Cô, là anh Hầu Văn Tú, đang sinh sông tại xà Nhất Tiến, cách huyện lỵ Bắc Sơn hơn 40 km. Chúng tôi đành phải viết thư yêu cầu anh Tú, nhờ các đồng chí ở Ban CHQS huyện Bắc Sơn chuyển giúp, cung cấp cho những thông tin về người cha của mình. Trở về Hà Nội, chúng tôi đã nhận được thư của anh Tú. Anh Tú cho biết đã tìm xuống Hà Nội, đến nhà Đại tướng Võ Nguyên Giáp xin được xác nhận cho cha mình, nhưng khi mang về Bắc Sơn để làm thủ tục giấy tờ, thì các cơ quan chức năng của huyện trả lời không thể làm được, lý do là ông Hồng Cô sinh ra và mất ở Cao Bằng thì phải đem giấy tờ về quê ông ở Cao Bằng để làm. Anh Tú đã lên Cao Bằng, xin đội viên Bế Bằng xác nhận thêm và đi hỏi cách làm thủ tục, song vẫn chưa có kết quả. Còn về quá trình hoạt động của ông Hồng Cô, anh Tú cho biết anh không nắm được gì vì khi bố mất, anh mới lên 3 tuổi. Đến nước này, chúng tôi đành phải tạm khép lại trường hợp đội viên Hồng Cô bởi đã cố gắng hết mức có thể.


Cũng trong chuyến công tác đó, chúng tôi còn tìm đến nhà đồng chí đại tá Bế Sơn Cương ở thành phố Thái Nguyên. Đồng chí Bế Sơn Cương tuy không nằm trong danh sách 34 chiến sĩ ban đầu của Đội, nhưng là đội viên kỳ cựu của Đội VNTTGPQ. Vợ của ông Cương - bà Nguyễn Thị Minh Hán, vốn là cán bộ quân y nghỉ hưu, còn khoẻ mạnh, minh mẫn, trí nhớ rất tốt, đã cung cấp cho chúng tôi thêm những chi tiết về hoạt động của Đội, và về một đội viên như Hoàng Văn Ninh (Thái Sơn). Bà hứa sẽ tìm, sắp xếp lại giấy tờ, ghi chép của ông Cương và cung cấp cho chúng tôi với mong muốn "các anh ở cơ quan viết sử quân đội viết đúng sự thật lịch sử".


Trên đây là những ghi chép trong quá trình "đi theo dấu chân 34 chiến sĩ Đội VNTTGPQ" có mặt trong hàng ngũ tuyên thệ tại lễ thành lập Đội ngày 22-12-1944 để tìm hiểu quá trình hình thành, hoạt động của Đội cũng như số phận của từng đội viên. Chúng tôi đã sơ bộ báo cáo kết quả với thủ trưởng Viện LSQS Việt Nam, thủ trưởng Bộ Quốc phòng, thủ trưởng Tổng cục Chính trị, với lãnh đạo các tỉnh Cao Bằng, Thái Nguyên, đã được Đại tướng Võ Nguyên Giáp dành thời gian tiếp, cho ý kiến chỉ đạo và viết lời giới thiệu cho cuốn sách.


Tiêu đề: Re: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: Giangtvx trong 23 Tháng Ba, 2016, 11:51:58 am
        Kết quả cụ thể chúng tôi đưa ra ở cuối phần viết này như một bản tường trình, tuy hơi dài, nhưng cần thiết, là những bổ sung, đính chính về những thiếu khuyết trong danh sách 34 chiến sĩ Đội VNTTGPQ đã được khắc vào bia đặt tại khu rừng Trần Hưng Đạo. Chúng tôi vô cùng biết ơn các địa phương, các tổ chức, đơn vị, cá nhân, bằng công sức, tình cảm và cả vật chất, đã xây dựng nên danh sách và khắc vào bia tên tuổi, quê quán, thành phần dân tộc, chức vụ... của 34 cán bộ, chiến sĩ đầu tiên của Đội VNTTGPQ. Với sự trân trọng và tôn trọng lịch sử, với tất cả khả năng có thể có cho đến thời điểm này chúng tôi xin bổ sung, đính chính về một số điểm còn thiếu khuyết trong danh sách đã được khắc vào bia như sau:

DANH SÁCH 34 CHIẾN SĨ ĐỘI VIỆT NAM TUYÊN TRUYỀN GIẢI PHÓNG QUÂN DỰ BUỔI LỄ THÀNH LẬP ĐƯỢC KHẮC TRONG BIA
TTHọ TênBí DanhDân tộcQuê quánGhi chú
123456
1Trần Văn KỳHoàng SâmKinhLệ Sơn, Tuyên Hóa, Q.BìnhĐội trưởng
2Dương Mạc ThạchXích ThắngTàyMinh Tâm, Nguyên Bình, Cao BằngChính trị viên
3Ngô Quốc BìnhHoàng Văn TháiKinhAn Khang, Tiền Hải, Thái BìnhTình báo KH-TC
4Lâm Cẩm NhưLâm KínhKinhĐông Khê, Thạch An, Cao BằngC.tác chính trị
5Lộc Văn LùngVăn TiênTàyMai Pha, Cao Lộc, Lạng SơnQuản lý
6Hoàng ThịnhQuyềnTàyTràng Xá, Võ Nhai, Bắc Thái
7Nguyễn Văn CàngThu SơnTàyHồng Việt, Hòa An, Cao Bằng
8Đàm Quốc ChủngQuốc ChủngTàyBình Long, Hòa An, Cao Bằng
9Hoàng Văn NinhThái SơnNùngThượng Ân, Ngân Sơn, Cao Bằng
10Hà Hưng LongTàyNam Tuấn, Hòa An, Cao Bằng
11Đức Cường (Cơ)TàyĐề Thám, Hòa An, Cao Bằng
12Bế Văn SắtHồng Quân (Mậu)TàyBình Long, Hòa An, Cao Bằng
13Đinh Trung LươngTrung LươngTàyLê Lợi, Thạch An, Cao Bằng
14Tô Vũ DâuThịnh NguyênTàyVinh Quang, Hòa An, Cao Bằng
15Đức LuânKinhQuảng Bình
16Bế Kim Anh (Bằng)Kim AnhTàyHồng Việt, Hòa An, Cao Bằng
17Mông Phúc ThơNùngTràng Xá, Võ Nhai, Bắc Thái
18Nông Văn KiểmLiênTàyTam Kim, Nguyên Bình, Cao Bằng
19Ma Văn PhiêuBắc Họp (Đương)TàyMinh Tâm, Nguyên Bình, Cao Bằng
20Chu Văn ĐếNamTàyMinh Tâm, Nguyên Bình, Cao Bằng
21Bế Văn VạnVạnTàyVân Tùng, Ngân Sơn, Cao Bằng
22Nông Văn BêThânNùngHoàng Tung, Hòa An, Cao Bằng
23Hồng CôMôngLũng Giẻ, Nguyên Bình, Cao Bằng
24Nguyễn Văn PhánKế HoạchTàyHồng Việt, Hòa An, Cao Bằng
25Đặng Dần QuýQuýDaoTam Kim, Nguyên Bình, Cao Bằng
26Tô Văn CắmTô Tiến LựcTàyTam Kim, Nguyên Bình, Cao Bằng
27Hoàng Văn LườngKính PhátNùngĐức Vân, Ngân Sơn, Cao Bằng
28Hoàng Văn NhủngXuân TrườngTàySóc Hà, Hà Quảng, Cao Bằng
29Trương ĐắcĐồngTàyMinh Tâm, Nguyên Bình, Cao Bằng
30Dương Đại LongNùngPác Bó, Hà Quảng, Cao Bằng
31La ThanhNùngPác Bó, Hà Quảng, Cao Bằng
32Ngọc TrìnhNùngBình Long, Hòa An, Cao Bằng
33Nông Văn ÍchNùngHà Quảng, Cao Bằng
34Thế HậuNùngTrường Hà, Hà Quảng, Cao Bằng


Tiêu đề: Re: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: Giangtvx trong 23 Tháng Ba, 2016, 10:08:30 pm
DANH SÁCH 34 CHIẾN SỸ DỰ BUỔI LỄ THÀNH LẬP
ĐỘI VNTTGPQ NGÀY 22-12-1944
       
(Bản bổ sung, đính chính, xếp theo thứ tự A, B, C)

TTHọ TênBí DanhDân tộcQuê quánGhi chú
1Trần Văn KỳHoàng Sâm, Trần Sơn HùngKinhLệ Sơn, Tuyên Hóa, Q.BìnhĐội trưởng
2Dương Mạc Thạch (Cam)Xích ThắngTàyMinh Tâm, Nguyên Bình, Cao BằngChính trị viên
3Ngô Quốc BìnhHoàng Văn TháiKinhAn Khang, Tiền Hải, Thái BìnhTình báo KH-TC
4Hoàng Thế HậuNùngĐào Ngạn, Hà Quảng, Cao Bằng
5Bế (Bằng)Kim AnhTàyHồng Việt, Hòa An, Cao Bằng
6Nông Văn Bát, Đàm Quốc Chủng, Đàm TịchTàyBình Long, Hòa An, Cao Bằng
7Bế Văn BồnBế Văn Sắt, Hồng Quân (Mậu)TàyBình Long, Hòa An, Cao Bằng
8Tô Văn CắmTiến Lực, Đình LựcTàyTam Kim, Nguyên Bình, Cao Bằng
9Nguyễn Văn CàngThu SơnTàyHồng Việt, Hòa An, Cao Bằng
10Nguyễn Văn CơĐức Cường KinhĐề Thám, Hòa An, Cao Bằng
11Trương Văn Cù Trương Đắc (Đồng)TàyMinh Tâm, Nguyên Bình, Cao Bằng
12Hoàng Văm CủnQuyền, ThịnhTàyTràng Xá, Võ Nhai, Bắc Thái
13Võ Văn DảnhLuậnKinhĐức Hóa, Tuyên Hóa, Quảng Bình
14Tô Vũ DâuThịnh NguyênTàyVinh Quang, Hòa An, Cao Bằng
15Dương Văn DấuĐại LongNùngTrường Hà, Hà Quảng, Cao Bằng
16Chu Văn ĐếNamTàyMinh Tâm, Nguyên Bình, Cao BằngLiệt sỹ
17Nông Văn KiếmLiênTàyTam Kim, Nguyên Bình, Cao BằngLiệt sỹ
18Đinh Văn KínhĐinh Trung LươngTàyLê Lợi, Thạch An, Cao Bằng
19Hà Hưng LongTàyNam Tuấn, Hòa An, Cao Bằng
20Lộc Văn LùngVăn TiênTàyMai Pha, Cao Lộc, Lạng SơnQuản lý
21Hoàng Văn LườngKính PhátNùngĐức Vân, Ngân Sơn, Cao Bằng
22Hầu A LýHồng CôMôngMinh Tâm, Nguyên Bình, Cao Bằng
23Long Văn MầnNgọc TrinhNùngBình Long, Hòa An, Cao BằngLiệt sỹ
24Lâm Cẩm NhưLâm KínhKinhĐông Khê, Thạch An, Cao BằngC.tác chính trị
25Hoàng Văn NhủngXuân TrườngTàySóc Hà, Hà Quảng, Cao BằngLiệt sỹ
26Hoàng Văn NinhThái SơnNùngThượng Ân, Ngân Sơn, Cao Bằng
27Giáp Ngọc PángThân, Nông, Văn BêNùngHà Quảng, Cao BằngLiệt sỹ
28Nguyễn Văn PhánKế HoạchTàyHồng Việt, Hòa An, Cao Bằng
29Ma Văn PhiêuMạc Văn Phiêu, Bắc Họp, ĐườngTàyMinh Tâm, Nguyên Bình, Cao BằngLiệt sỹ
30Đặng Tuần QuýDaoTam Kim, Nguyên Bình, Cao Bằng
31Lương Quý SâmLương Văn ÍchNùngNà Sác, Hà Quảng, Cao Bằng
32Hoàng Văn SùngLa ThanhNùngTrường Hà, Hà Quảng, Cao Bằng
33Bế Ích NhânBế Ích VạnTàyVân Tùng, Ngân Sơn, Bắc Kạn
34Mông Văn VẩyMông Phúc ThơNùngTràng Xá, Võ Nhai, Bắc TháiLiệt sỹ


Tiêu đề: Re: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: Giangtvx trong 24 Tháng Ba, 2016, 12:45:41 am
        
PHỤ LỤC
       
CHỈ THỊ THÀNH LẬP ĐỘI VIỆT NAM TUYÊN TRUYÊN GIẢI PHÓNG QUÂN CỦA HỒ CHÍ MINH1

        “Tên Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự. Nó là đội tuyên truyền. Vì muốn hành động có kết quả thì về quân sự, nguyên tắc chính là nguyên tắc tập trung lực lượng, cho nên, theo chỉ thị mới của Đoàn thể, sẽ chọn lọc trong hàng ngũ những du kích Cao- Bắc-Lạng số cán bộ và đội viên kiên quyết, hăng hái nhất và sẽ tập trung một phần lớn vũ khí để lập ra đội chủ lực.

        Vì cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến của toàn dân cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân, cho nên trong khi tập trung lực lượng để lập một đội quân đầu tiên, cần phải duy trì lực lượng vũ trang trong các địa phương cùng phối hợp hành động và giúp đỡ về mọi phương diện. Đội quân chủ lực trái lại có nhiệm vụ dìu dắt cán bộ 2  vũ trang của các địa phương, giúp đỡ huấn luyện, giúp đỡ vũ khí nếu có thể được, làm cho các đội này trưởng thành mãi lên.

        Đối với các đội vũ trang địa phương: đưa cán bộ địa phương về huấn luvện, tung các cán bộ đã huấn luyện đi các địa phương, trao đổi kinh nghiệm, liên lạc thông suốt, phối hợp tác chiến.

        Về chiến thuật: vận dụng lối đánh du kích, bí mật, nhanh chóng, tích cực, nay Đông mai Tây, lai vô ảnh, khứ vô tung.

        Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân là đội quân, đàn anh, mong cho chóng có những đội đàn em khác. Tuy lúc đầu quy mô của nó còn nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của Giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam”.

-------------
1. Hồ Chí Minh-Toàn tập, tập 3 (1930-1945), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.507
2. Có sách ghi là “các đội”, chúng tôi dẫn theo bản in mới nhất trong Hồ Chí Minh-Toàn tập, xuất bản năm 2000


Tiêu đề: Re: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: Giangtvx trong 24 Tháng Ba, 2016, 09:45:19 am
      
        
DIỄN TỪ CỦA ĐỒNG CHÍ VĂN
ĐỌC TẠI LỄ THÀNH LẬP ĐỘI
VIỆT NAM TUYÊN TRUYỀN GIẢI PHÓNG QUÂN1

        Các đồng chí!

        Ngày hôm nay, 22 tháng 12 năm 1944, theo mệnh lệnh của Đoàn thể, chúng ta tập trung ở chốn rừng xanh núi đỏ này, giữa tổng Trần Hưng Đạo và tổng Hoàng Hoa Thám trong liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng, để khai hội thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân.

        Các đồng chí hẳn biết: lúc chúng ta đang nhóm họp ở đây, chính là lúc cuộc giao tranh giữa hai mặt trận phát xít và dân chủ sắp hạ lớp màn cuối cùng bên trời Âu: Chủ nghĩa phát xít Đức bị tiêu diệt đến tận nơi rồi. Còn ở Á Đông thì cuộc giao tranh ấy cũng bước vào thời kỳ quyết liệt với cuộc tấn công của Nhật vào Hoa Nam, với cuộc đô bộ của Mỹ lên Phi-luật-tân. Rồi đâv nước Việt Nam chúng ta rất có thể bị lôi cuốn trực tiếp vào vòng binh lửa, và chủ nghĩa phát xít Nhật thế nào cũng bị dẫn vào chỗ diệt vong.

        Các đồng chí hẳn biết: lúc chúng ta đang nhóm họp ở đây, chính là lúc từ Tây sang Đông, làn sóng cách mệnh tân dân chủ, cuộc vận động dân tộc giải phóng đang dâng lên sôi nổi, lôi cuốn hàng trăm triệu nhân dân các nước bị áp bức. Từ Nam-tư-lạp-phu đến Trung Quốc, biết bao nhiêu dân tộc đang phấn đấu oanh liệt để tranh thủ lấy độc lập, tự do, hạnh phúc.

        Trong lúc đó, ở nước ta, trước cảnh bị đàn áp bóc lột đến tận cùng, sự mâu thuẫn giữa Pháp - Nhật ngày càng sâu thêm, cuộc cách mệnh dân tộc giải phóng Việt Nam đi đôi với trào lưu thế giới và sắp bước vào giai đoạn trực tiếp võ trang tranh đấu. Kìa, dân chúng ta chẳng phải đâu đâu cũng sôi nổi, đợi chờ ngày tranh đấu quyết liệt hay sao? Ở Thái Nguyên, ngọn cờ vũ trang tranh đấu chẳng phải đã được nêu cao rồi hay sao?

        Để ứng phó cho kịp thời cơ và bảo đảm sự thành công cho cuộc cách mệnh giải phóng, Việt Nam độc lập đồng minh đã nêu lên một công tác mới: vũ trang tuyên truyền; và trong liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng, phó thác công việc đó cho chúng ta, cho đội tuyên truyền Việt Nam Giải phóng quân mà ngày hôm nay chúng ta khai hội để thành lập, trong một quang cảnh giản đơn, đạm bạc mà long trọng.

        Các đồng chí,

        Nhiêm vụ mà Đoàn thể ủy thác cho chúng ta là một nhiệm vụ quan trọng, nặng nề. Chính trị trọng hơn quân sự, tuyên truyền trọng hơn tác chiến, nhiệm vụ ấy có tính chất là một nhiệm vụ giao thời. Vận dụng vũ trang để tuyên truyền, để kêu gọi toàn dân đứng dậy, chuẩn bị cơ sở chính trị và quân sự cho cuộc khởi nghĩa sau này. Chúng ta cần nhận thức điều đó cho rõ ràng, để thực hành cho đúng, và nỗ lực đến cùng trong lúc thực hành. Đoàn thể ủy thác cho ta nhiệm vụ này, tức là đặt nhiều tin tưởng, hy vọng vào chúng ta. Chúng ta sẽ thực hành đúng chỉ thị để khỏi phụ lòng của Đoàn thể.

        Thế là từ giờ phút này trở đi, chúng ta cùng nhau tiến lên trên con đường vũ trang tranh đấu. Chúng ta nêu cao tinh thần anh dũng hy sinh, gian nan không ngại, khổ sở không từ, dù đầu rơi máu chảy cũng không lùi bước. Chúng ta quyết tiến tới để làm tròn nhiệm vụ. Bao nhiêu oán hờn của dân tộc, bao nhiêu sự tàn khốc thê thảm đang chờ đợi một cuộc thanh toán. Chúng ta nguvện đem xương và máu mà làm việc đó. Chúng ta sẽ vạch rõ cho toàn dân rằng con đường sống duy nhất là con đường đoàn kết để vũ trang đứng dậy. Quân giải phóng sẽ tỏ rằng mình là một đội quân của dân, của nước, đi tiên phong trên con đường giải phóng dân tộc.

        Quân giải phóng sẽ là một đội quân rất trọng kỷ luật, tuyệt đối phục tùng thượng cấp, sẽ là một đội quân giàu tinh thần đoàn kết, đồng cam cộng khổ. Chúng ta sẽ quả cảm và sẽ thận trọng, thắng không kiêu, bại không nản. Kinh nghiệm của chúng ta còn non nhưng có làm mới có kinh nghiệm, và làm thì tất nhiên sẽ có kinh nghiệm. Chúng ta tin tưởng ở thắng lợi.

        Phải, chúng ta nhất định thắng lợi. Dân Nam-tư-lạp-phu đã đem xương máu mà giành lại non sông đất nước. Dân Pháp, dân Trung Quốc cũng đang đem xương máu đổi lấy giải phóng tự do. Không lẽ gì mà những công cuộc dân Nam Tư, dân Pháp, dân Trung Quốc làm được mà dân ta lại không làm được. Là con cháu của Trần Hưng Đạo và Hoàng Hoa Thám, chúng ta sẽ giải phóng đất nước ta, sẽ xứng đáng với tổ tiên ta. Và hẳn không phải là sự ngẫu nhiên mà ngày hôm nay. Đội tuyên truyền chúng ta lại thành lập ngay ở giữa tổng Trần Hưng Đạo và tổng Hoàng Hoa Thám.

        Các đồng chí nhớ: tham gia Đội quân giải phóng đầu tiên là một vinh dự cho chúng ta, chúng ta sẽ tỏ rằng chúng ta xứng đáng với vinh dự đó. Đã bao lâu các đồng chí chờ đợi giờ vũ trang tranh đấu. Giờ ấy đã đến rồi. Theo chỉ thị của Đoàn thể, dưới lá cờ đỏ sao vàng năm cánh, tôi xin tuyên bố Đội tuyên truyền Việt - Nam Giải phóng quân thành lập và hạ lệnh cho các đồng chí tiến lên trên con đường vũ trang tranh đấu.

        Từ giờ phút này, các đồng chí sẽ noi theo ngọn cờ mà tiến trên con đường máu. Chúng ta tiến, tiến mãi cho đến ngày giải phóng của toàn dân.

        Để nêu cao tinh thần khắc khổ, hy sinh, để tỏ lòng ghi nhớ những tấm gương oanh liệt của các anh hùng dân tộc đời trước và kiên quyết noi theo, tôi xin đề nghị tối hôm nay, Đội chúng ta cùng nhau ăn một bữa cơm chay, không rau, không muối và suốt đêm nay, chia nhau từng tiểu đội mà túc trực dưới cờ và niệm những lời thể danh dự, bên cạnh những đống lửa du kích mà chúng ta sẽ đốt lên trong khu rừng này. Đêm nay là đêm du kích đầu tiên của Đội Tuyên truyền chúng ta.

        Cuối cùng, tôi xin thay mặt Đoàn thể và toàn Đội mà cảm tạ lòng sốt sắng ủng hộ của dân chúng trong Liên tỉnh, đặc biệt là các anh, các chị đã không quản ngại nguy hiểm mà đến đây uý lạo bộ đội và tham gia lễ thành lập Đội của chúng tôi Chúng tôi sẽ giết giặc, cứu nước để đền bù thịnh tình của dân chúng.

        Tôi xin hô to:

        Kiên quyết tiến lên trên con đường chiến đấu!

        Tinh thần Quân giải phóng Việt - Nam muôn năm!

        Việt - Nam độc lập đồng minh muôn năm!

        Việt - Nam độc lập muôn năm!

-------------
1. Dẫn theo Tạp chí Lịch sử quân sự, số 5 năm 1994.


Tiêu đề: Re: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: Giangtvx trong 24 Tháng Ba, 2016, 06:46:10 pm
               
MƯỜI LỜI THỂ DANH DỰ CỦA ĐỘI VIÊN
ĐỘI VIỆT NAM TUYÊN TRUYỀN GIẢI PHÓNG QUÂN1

        
        Chúng tôi, đội viên Đội giải phóng quân Việt Nam xin lấy danh dự một người chiến sỹ cứu quốc mà thề dưới lá cờ đỏ sao vàng năm cánh:

        1. Xin thề: Hy sinh tất cả vì Tổ quốc Việt Nam, chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để chống xâm lược và bọn Việt gian phản quôc, để giải phóng cho toàn dân Việt Nam, làm cho nước Việt Nam trở thành một nước độc lập, dân chủ, tự do, ngang hàng với các nước dân chủ trên thế giới.

        2. Xin thề: Tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh cấp trên, khi nhận được một nhiệm vụ gi sẽ tận tâm, tận lực thi hành cho nhanh chóng và chính xác.

        3. Xin thề: Bao giờ cũng kiên quyết phấn đấu, dù gian lao khổ sở cũng không phàn nàn, vào sống ra chết cũng không sờn chí, khi ra trận mạc quyết chí xung phong, dù đầu rơi máu chảy cũng không lùi bước.

        4. Xin thề: Lúc nào cũng khẩn trương, hoạt bát, hết sức học tập, chiến đấu để tự rèn luyện thành một quân nhân cách mạng, xứng đáng là một người chiến sỹ tiền phong giết giặc, cứu nước.

        5. Xin thề: Tuyệt đối giữ bí mật cho công việc của Đội như nội dung tổ chức, kế hoạch hành động cùng những người chỉ huy trong đội và giữ bí mật cho tất cả các đoàn thể cứu quốc.

        6. Xin thể: Nếu trong lúc chiến đấu bị quân địch bắt được, thì dù bị cực hình tàn khốc thế nào cũng quyết một lòng trung thành với sự nghiệp cứu quốc, không bao giờ phản bội xưng khai.

        7. Xin thề: Hết sức ái hộ bạn chiến đấu trong Đội cũng như ái hộ bản thân, hết lòng giúp đỡ nhau lúc thường cũng như lúc ra trận.

        8. Xin thề: Bao giờ củng chủ trương giữ gìn vũ khí của Đội, quyết không để vũ khí hư hỏng hoặc rơi vào tay quân thù.

        9. Xin thề: Khi tiếp xúc với dân chúng sẽ làm đúng ba điều nên: kính trọng dân, cứu giúp dân, bảo vệ dân và ba điều răn: không dọa nạt dân, không lấy của dân, không quấy nhiễu dân để gây lòng tin cậy của dân chúng; thực biện quân dân nhất trí, cứu nước diệt gian.

        10. Xin thề: Bao giờ cũng nêu cao tinh thần tự phê bình và sửa chữa giữ tư cách cá nhân mô phạm, không làm điều gì hại đến thanh danh đội quân Giải phóng và hại đến quốc thể Việt Nam.

-------------
1. Võ Nguyên Giáp - Nhưng chặng đường lịch sử, Nxb Chính trị quốc gia, H, 1994. tr. 135-136.


Tiêu đề: Re: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Ba, 2016, 07:44:07 am
        
ĐỘI TUYÊN TRUYỀN CỦA VIỆT NAM GIẢI PHÓNG QUÂN XUẤT HIÊN1
 
        Ngó lại năm cũ

        Năm 1944 là một năm rất quan trọng trong cuộc thế giới chiến tranh chống phát xít và giải phóng cho các dân tộc. Trong năm 1944 Hồng-Quân và quân Anh-Mỹ đã đại thắng quân Đức và giải phóng cho 12 nước bị Đức xâm lấn.

        Năm 1944, trong cuộc chiến tranh chống Nhật ở châu Á, quân Mỹ đại thắng ở Thái-bình-dương và gần đây quân Đồng-Minh tiến triển nhiều ở Miến Điện.

        Trông tới năm mới

        Nhờ sự đại thắng của quân Đồng-Minh và phong trào dân tộc giải phóng toàn thế giới, năm 1945 sẽ là năm chứng kiến sự tiêu diệt của nước Đức phát xít và sự đại bại của quân Nhật ở chiến trường châu Á.

        Năm 1945 cũng sẽ là năm thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc giải phóng chúng ta. nếu chúng ta nỗ lực chiến đấu.

        Đội tuyên truyền của Việt Nam giải phóng quân

        Năm 1945 sẽ đem lại cơ hội tốt cho quân Giải phóng Việt Nam tiến lên đánh đế quốc phát xít Nhật và phát xít Tây. Muốn nắm lấy cơ hội ấy, chúng ta phải tuyên truyền cổ động một mặt cho đồng bào Việt Nam ta hăng hái chuẩn bị, một mặt cho các nước Đồng - Minh chú ý đến chúng ta mà giúp sức cho chúng ta.

        Đội Tuyên truyền của V.N.G.P.Q chính đương dùng vũ trang hành động để làm công việc tuyên truyền cổ động ấy.

        Dưới đây nhà báo xin đăng hai bản thông cáo do Đội Tuyên truyền của V.N.G.P.Q vừa gửi đến.

        Thông cáo số 1

        Ngày 11 tháng 11 Ta là ngày 25-12 Tây, một bộ đội lạ, ở đâu đến không rõ, bộ đội gì không rõ, kéo đến đồn Phay-Khắt, tống Kim-Mã, châu Nguyên-Bình. Sau đó, người cai Tây và tất cả 17 người lính dõng mang toàn bộ khí giới trong đồn và tuyên bố với dân làng là cùng c.m đi đánh Nhật, rồi cùng bộ đội lạ kéo đi đâu mất.

        Cũng ngày ấy tên Việt-gian hoạt động nhất ở tổng Kim-Mã là xã Bồi biến đâu mất.

        Thông cáo số 2

        Sáng ngày 12 tháng 11 Ta là ngày 26 Tây, lúc 7 giờ 14 phút đội Tuyên truyền của Việt Nam Giải-Phóng-Quân kéo đến đồn Nà Ngần, xã Cẩm-Lý, gần Ben-Air. Họ kéo cờ đỏ sao năm cánh lên, xưng rõ là quân cách mạng đến lấy súng đạn của Tây phát xít, tuyên bố quân cách mạng Việt Nam không bắn binh lính Việt Nam. Kêu gọi anh em binh lính Việt Nam giơ tay lên đầu hàng.

        Người đội và 3 người chống cự bị súng trưởng và súng máy c.m bắn chết ngay tại trận, một người nữa bị thương.

        Đội Tuyên truyền G.P.Q thu thập toàn bộ súng đạn trong đồn, rồi tập hợp anh em binh lính tất cả 15 người khố xanh (trừ 2 người chạy thoát). Khai hội nghị liên hoan giữa binh lính và c.m.

        Đồng thời, Đội phái người phát truyền đơn và dán biểu ngữ khắp đồn.

        Một số đ.c nữ vũ-trang cũng tham gia giúp dọn dẹp chiến trường và tuyên truyền cổ động nhân dân cùng binh lính.

        Đến 8 giờ Đội Tuyên truyền rút khỏi đồn, vừa đi vừa hát bài ca Giải-phóng-quân

---------------
1. Bài đăng trên báo "Việt Nam độc lập" - Cơ quan tuyên truyền Việt Nam Cao - Bắc - Lạng, sô 201. ngày 5-1-1945


Tiêu đề: Re: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Ba, 2016, 06:51:58 pm
        
TÀI LIỆU THAM KHẢO

        1. Ngọc An - Vài nét về Quân giải phóng Việt Nam, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 3-1989.

        2. Lê Quảng Ba - Bác Hồ và đội du kích Pắc Bó, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 1997.

        3. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Thạch An - Lịch sử Đảng bộ huyện Thạch An (1930-1945), Ban Chấp hành Đảng bộ xuất bản, 1999.

        4. Ban liên lạc Việt Nam Giải phóng quân - Việt Nam Giải phóng quân - Nhớ lại bước khởi đầu, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995.

        5. Ban từ điển Bách khoa quân sự, Bộ Quốc phòng - Từ điển Bách khoa quân sự, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1996.

        6. Bản khảo sát các di tích: Khu rừng Trần Hưng Đạo, đồn Phai Khắt, đồn Nà Ngần, đồn Đồng Mu. Tư liệu lưu tại Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Cao Bằng.

        7. Bản tóm tắt thành tích của xã Tam Kim, huyện Nguyên Bình, bản viết tay của các đồng chí Doanh Hằng, Nông Văn Quang, Nông Văn Lạc, Tư liệu lưu tại xã Tam Kim.

        8. Bộ CHQS tỉnh Bắc Kạn Bắc Kạn - Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954). Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2001.

        9. Bộ CHQS tỉnh Bắc Thái - Bắc Thái - Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954). Bộ CHQS tỉnh Bắc Thái xuất bản, 1990.

        10. Bộ CHQS tỉnh Cao Bằng - Cao Bằng - Lịch sử đấu tranh vũ trang cách mạng (1930-1954). Bộ CHQS tỉnh Cao Bằng xuất bản, 1990.

        11. Bộ CHQS tỉnh Cao Bằng - 50 năm Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Cao Bằng. Bộ CHQS tỉnh Cao Bằng xuất bản. 1997.

        12. Bộ Tư lệnh Quân khu 1 - Việt Bắc - 30 năm chiến tranh cách mạng, tập 1 (1945-1975). Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1990.

        13. Chuyện những trận đánh hay, những người đánh giỏi, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1998.

        14. Đảng bộ Hoà An - Lịch sử Đảng bộ huyện Hoà An, tập 1 (1930-1945), Hoà An, 1995.

        15. Đảng bộ huyện Nguyên Bình - Lịch sử Đảng bộ huyện Nguyên Bình, tập 1 (1930-1945), Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Nguyên Bình xuất bản, 1994.

        16. Đầu nguồn (tập hồi ký). Nxb Văn học, Hà Nội, 1975.

        17. Võ Nguyên Giáp - Đội quân giải phóng 1944-1947, Bản đánh máy lưu tại Thư viện Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.

        18. Võ Nguyên Giáp – Suối nguồn Pắc Bó, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 1989.

        19. Võ Nguyên Giáp - Những chặng đường lịch sử, Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội, 1994.

        20. Song Hào - Tân Trào (ký sự). Nxb Văn hóa - Thông tin và Trung tâm UNESCO Tân Trào, Hà Nội, 1995.

        21.Đặng Hòa - Nà Sác hay Pắc Bó. Đặc san Sự kiện và nhân chứng, số 1-1994. tr. 8.

        22. Vũ Hoàng - Gặp lại người trinh sát đánh đồn Phai Khắt, Đặc san Sự kiện và nhân chứng, số 1-1994. tr. 9.

        23. Hồ Chí Minh - Toàn tập, tập 3 (1930-1945). Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội. 2000.

        24. Hồ Chí Minh - Toàn tập, tập 5 (1947-1949). Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội. 2000.

        25. Huyện ủy Chợ Đồn - Lịch sử Đảng bộ huyện Chợ Đồn, tập 1 (1930-1954) (sơ thảo), Huyện ủy Chợ Đồn xuất bản. 1993.

        26. Huyện ủy Hòa An - Lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Bình Long, Ban Tuyên giáo Huyện ủy Hòa An xuất bản, 1990.

        27. Huyện ủy Nguyên Bình - Lịch sử Đảng bộ xã Minh Tâm 1935-1975, Huyện ủy Nguyên Bình xuất bản. 2000.

        28. Huyện ủy Võ Nhai - Lịch sử Đảng bộ huyện Võ Nhai (1930-1954), Huyện ủy Võ Nhai xuất bản. 1993.

        29.Mai Trung Lâm - Tiến quân vào Chợ Rã, Tạp chí Lịch sử quân sự, các số 11-1989; 12-1989; 1-1990.

        30. Nông Văn Lạc - Ánh sáng đây rồi (hồi ký), Nxb Văn học, Hà Nội, 1995.

        31. Đàm Thị Loan - Từ Việt Bắc đến Tây Ninh (hồi ký), Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 1998.

        32. Tô Tiến Lực - Xuân Ất Dậu tại rừng Trần Hưng Đạo (Việt Anh ghi). Đặc san Sự kiện và nhân chứng, số xuân Qúy Mùi 2003.

        33. Bá Ngọc - Hồ Chí Minh - Những tên gọi đi cùng năm tháng, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2003.

        34. Phan Sỹ Phúc - Tim hiểu con đường Nam tiến những năm 1942-1944, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 6-1999.

        35. Nông Văn Quang - Con đường Nam tiến (hồi ký). Nxb Văn hóa dân tộc. Hà Nội. 1995.

        36. Hoàng Văn Thái - Hai chiến công đầu của Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân: Trận Phai Khắt và trận Nà Ngần, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 4-1988 (tr. 36-45).

        37. Hoàng Văn Thái - Ngày thống nhất quân đội (Nguyễn Tư Đương ghi), Tạp chí Lịch sử quân sự, các số 6- 2002; 1 và 2-2003.

        38. Trọng Thanh - 500 trăm đồng, 3.000... nửa triệu đồng, Đặc san Sự kiện và nhân chứng, số 2-1994. tr. 29.

        39. Lê Quý Thi - Người liệt sĩ đầu tiên của quân đội ta, Đặc san Sự kiện và nhân chứng, số tháng 7-2002.

        40. Lâm Ngọc Thụ - về một chiến công ít người biết đến, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 6-2002.

        41. Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh Cao Bằng, Bộ Tư lệnh Quân khu 1 và Viện Lịch sử quân sự Việt Nam - 55 năm Quân đội nhân dân Việt Nam - Miền đất khai sinh và quá trình phát triển (kỷ yếu hội thảo), Nxb Quân đội nhân dân. Hà Nội, 1999.

        42. Tổng cục Chính trị - Lịch sử báo Quân đội nhân dân (1950-2000). Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000.

        43. Tổng cục Chính trị - Lịch sử công tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam (1944-2000), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2002.

        44. Văn kiện Đảng, tập 2 (1930), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.

        45. Viện Bảo tàng cách mạng Việt Nam - Báo Việt Nam độc lập 1941-1945, xuất bản năm 2001.

        46. Viện Lịch sử quân sụ Việt Nam - Đại tướng Hoàng Văn Thái, Nxb Quân đội nhân dân. Hà Nội. 2000.

        47. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam - Chi đội 3 Giải phóng quân Nam tiến 1945-1946, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. 1995.

        48. Viện Lịch quân sự Việt Nam - Lịch sử quân sự Việt Nam, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội, 2000.

        49. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam và Ban Nghiên cứu Lịch sủ Quân đội trực thuộc Tổng cục Chính trị - Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, tập 1, Nxb Quân đội nhân dân, Hè Nội, 1994.

        50. PGS, TS. Phạm Xanh - Hồ Chí Minh - Dân tộc và thời đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.

        51. Phạm Xanh - Cao Bằng trong tầm nhìn chiến lược Hồ Chí Minh, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 5-1998.

HẾT
Chào thân ái và quyết thắng