Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: SaoVang trong 22 Tháng Tám, 2008, 10:20:10 pm



Tiêu đề: Giải phẫu một cuộc chiến tranh
Gửi bởi: SaoVang trong 22 Tháng Tám, 2008, 10:20:10 pm
Tên sách: Giải phẫu một cuộc chiến tranh
Tác giả: Gabriel Kolko
Người dịch: Nguyễn Tấn Cưu
Nhà xuất bản: Quân đội Nhân dân
Năm xuất bản: 2003
Số hoá: Mytam44, Sao Vang


ĐÔI LỜI VỚI BẠN ĐỌC

Giáo Sư Sử học người Mỹ Ga-bri-en Côn-cô bắt đầu nghiên cứu, viết quyển Giải phẫu một cuộc chiến tranh từ năm 1964 và cuốn sách đã được xuất bản năm 1985 tại Niu Yoóc.

Tư tưởng chủ đề của quyển sách làm nổi lên một số vấn đề rất cơ bản. Một là, sự giới hạn của quyền lực Mỹ, nghĩa là Mỹ không đủ khả năng áp đặt ý muốn của mình lên nước khác. Những khả năng hạn chế của Mỹ không thể đáp ứng được những tham vọng không bờ bến của họ. Hai là. "Cách mạng rất đoàn kết, được lòng nhân dân và có sức mạnh. Họ tiến hành cuộc chiến tranh bằng chính trị và rất kiên trì trong khi người Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh một cách máy móc và vội vã". Cách mạng lấy dân làm gốc, huy động được quần chúng nhân dân và lấy chiến tranh nhân dân làm nền tảng. Ba là, con người ở hai bên rất khác nhau. Một bên thì cách mạng, liêm khiết, vì dân, dốc lòng vì sự nghiệp, sẵn sàng hy sinh tất cả kể cả tính mạng của mình, còn một bên thì tham nhũng, hèn nhát, nghiện ngập, không có lý tưởng, quấy nhiễu, áp bức nhân dân. Quân đội Mỹ không phải chiến đấu cho nền độc lập của nước Mỹ, không có cam kết gì về mặt chính trị nên không dốc lòng chiến đấu mà thực hiện khẩu hiệu "tìm và tránh" và "giữ lấy thân để về nước". Họ thiếu kỷ luật, mất tinh thần, nghiện ma túy và chống lệnh.

Dựa vào những tài liệu mới và sự khai thác những năm quan sát tại chỗ ở Oa-sinh-tơn, Pa-ri và những chuyến thăm Việt Nam, Ga-bri-en Côn-cô đã phân tích chi tiết, sâu sắc các đối tượng trong cuộc chiến tranh; đồng thời trình bày triển vọng của chiến lược chiến tranh hạn chế của Mỹ trong thời đại của chúng ta và lập luận rằng mọi sự can thiệp của Mỹ trong tương lai chắc chắn sẽ phải chịu kết quả tai hại như ở Việt Nam.

Theo dư luận chung của nước ngoài, quyển sách của Côn-cô là một "công trình hợp thời, thiết tha, thúc giục và gợi cảm mà một người quan tâm đến vai trò quá tự cao tự đại của Mỹ trên thế giới cần phải đọc" (Tuần báo Man-sét-tơ Ga-đi-an). Nó cũng là "công trình phong phú về tư liệu có thể trở thành một điểm then chốt để bắt đầu tất cả các cuộc thảo luận tương lai về chiến tranh Việt Nam" (Điểm sách Cơ-cốt, Niu Yoóc). Nó là "một quyển sách rất sinh động và hấp dẫn về một cuộc chiến tranh có tác động sâu sắc đến toàn thế giới. Bất cứ nhà nghiên cứu nghiêm túc nào về cuộc chiến tranh Đông Dương cũng cần phải đọc nó..." (Tạp chí cuối tuần Ô-xtrây-lia).

Quyển "Giải phẫu một cuộc chiến tranh" được Nhà xuất bản Quân đội nhân dân xuất bản thành hai tập:

Tập I gồm các phần:

- Phần một: Những nguồn gốc của chiến tranh cho đến nam 1960.

- Phần hai: Cuộc khủng hoảng ở Việt Nam và sự can thiệp của Mỹ, 1961 - 1965.

- Phần ba: Chiến tranh tổng lực, 1955 - 1967 và sự biến đổi của Nam Việt Nam.

- Phần bốn: Cuộc tiến công Tết và các sự kiện năm 1968.

Tập II gồm các phần:

- Phần năm: Chiến tranh và ngoại giao, 1969 - 1972

- Phần sáu: Cuộc khủng hoảng của Việt Nam cộng hòa và sự kết thúc chiến tranh, 1973-1975.

- Kết luận.

Trong việc xuất bản cuốn sách này, do một số khó khăn về các mặt kỹ thuật và phát hành, chúng tôi đã bàn bạc với tác giả lược bớt một số đoạn và đã được tác giả chấp thuận. Chúng tôi chân thành cảm ơn tác giả đã có tình cảm chân tình quý báu đối với nhân dân Việt Nam, đầu tư nhiều công sức viết quyển sách này cung cấp cho chúng ta một tài liệu tham khảo quý và cần thiết. Trong nội dung sách còn có những hạn chế nhất định, nhất là phần nói về lực lượng cách mạng còn nhiều vấn đề chưa thật đúng với thực tiễn và quan điểm của Đảng ta. Nhưng do đây là một cuốn sách tham khảo, chúng tôi tôn trọng chính kiến của tác giả. Chắc chắn rằng bạn đọc có thể thông cảm với hoàn cảnh của một tác giả nước ngoài khi nghiên cứu, viết về chiến tranh ở Việt Nam.

Rất cảm ơn bạn đọc và mong bạn đọc góp ý kiến, phê bình.
Hà Nội, ngày 15 tháng 1 năm 1991
Người dịch NGUYỄN TẤN CƯU



Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 22 Tháng Tám, 2008, 10:21:46 pm
Tặng tất cả những ai mà tôi cùng làm việc, cùng chung một sự nghiệp và đã làm cho quyển sách này vừa hoàn thành được vừa trở nên cần thiết.
Ga-bri-en Côn-cô



LỜI MỞ ĐẦU

Thơ ca và tiểu thuyết đã nở rộ chính bởi vì chuyện kể lịch sử không đủ sức để diễn đạt nội dung tinh tế và phong phú của hoạt động loài người: các phong trào rộng lớn của nhân dân, những lo âu và chịu đựng, những nguyện vọng và vui mừng của họ. Nhưng chiến tranh Việt Nam cho đến nay đã vượt quá các nhà thơ và các nhà tiểu thuyết Cả ở Việt Nam lẫn ở Mỹ. Chỉ phạm vi của cuộc đấu tranh cách mạng và của cuộc chiến tranh đó, dài nhất trong hai thế kỷ vừa qua, đã vượt quá sức tưởng tượng văn học. Độc giả nào đã tự bản thân mình cảm thấy gánh nặng của chiến tranh và sự tàn phá kinh khủng của nó, sẽ tức khắc hiểu được những giới hạn của những từ ngữ đơn thuần. Còn những ai trong số hàng triệu người mà chiến tranh đã trở thành một bộ phận của cuộc sống, nguyên nhân của những lo âu, của suy tính và của hành động gay go thì sẽ nhanh chóng thấy được những khó khăn trong việc nắm bắt ý nghĩa linh hoạt của thực tế.

Tôi đã cố gắng trong quyển sách này xử trí với thách thức đó và tạo ra một sự mạch lạc hợp lý của bốn thập kỷ đầy rẫy những sự kiện không sao kể xiết, bằng cách tập trung vào những sự kiện còn bị xem là mập mờ như những lực lượng thể chế về quân sự, kinh tế và chính trị đã từng hoạt động vừa ở Việt Nam vừa ở Mỹ để hình thành cơ cấu mà dựa trên đó, các chuyện kể lịch sử cổ truyền đã được viết ra. Những tường thuật như vậy thường tập trung vào cách cư xử thông thường của các tướng lĩnh, các tổng thống và các nhà lãnh dạo là những người không làm gì hơn là đối phó với những thúc ép mà bên trên và bên dưới gán ép cho họ. Độc giả sẽ thấy những phân tích sâu rộng về các vấn đề ruộng đất và nông dân, về sự phát triển của các giai cấp xã hội, về vấn đề đô thị hóa, về những khó khăn của con người trong một cuộc xung đột kéo dài, về những giá trị mục tiêu và cách quan hệ luôn luôn thay đổi của những con người đó đối với cộng đồng của họ.

Tôi muốn giới thiệu ở đây một sự giải thích về nhân quả của cuộc chiến tranh Việt Nam và thăm dò ý nghĩa của nó cho kinh nghiệm lịch sử hiện đại. Tôi sẽ nghiên cứu khá sâu Đảng Cộng sản, Việt Nam cộng hòa và Mỹ. Bằng cách tập trung vào việc xem mỗi bên chịu ảnh hưởng như thế nào bởi những xu hướng cơ cấu rộng lớn hơn về quân sự, kinh tế, xã hội, quốc tế và chính trị tư tưởng, tôi có thể đối chiếu với nhau những lực lượng và nhân tố ảnh hưởng đến kết quả của cuộc chiến tranh và có thể làm nổi bật những nhân tố quyết định trong đó. Ba nhận thức về cùng một thực tế và ba tác động qua lại trong thực tế đó, đòi hỏi phải có những sự phân tích có tính chất so sánh, và tất nhiên làm cho có thể nắm được toàn bộ quang cảnh của các sự kiện và của thực tế lịch sử. Cách đề cập như vậy làm cho người ta dễ hiểu hơn nhiều, tại sao khả năng về tổ chức, về tư tưởng và về con người đã đưa một bên đến thắng lợi trong khi những điều kiện của bên đó thua kém hơn nhiều về mặt vật chất. Và điều này chiếu rọi ánh sáng vào chính tính chất của sự thay đổi trong thế giới đương thời.

Tin tức sẵn có về Mỹ và về Đảng Cộng sản giữa năm 1950 và năm 1975 là rất phong phú, nhiệm vụ chính bây giờ là tập hợp lại và làm cho chúng trở thành mạch lạc ở mỗi bên. Cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên là không có bên nào trong hai kẻ thù đó có chuyên gia hiểu nhiều về bên kia, do đó không có sự tồng hợp của cuộc chiến tranh với tư cách là một tổng thể. Những người chống chiến tranh ở Mỹ viết rất ít về chiến tranh, còn những người tán thành hoặc tự xưng là trung lập có viết nhiều hơn, nhưng cũng chẳng đưa lại được nội dung gì mới, tuy họ có đặc quyền tiếp xúc với các nguồn tin. Họ bị ám ảnh chủ yếu vì những vấn đề cổ truyền về tại sao Mỹ thua hoặc làm thế nào thì đáng ra Mỹ phải thắng, và vì những bài học phải rút ra từ cuộc chiến tranh. Nếu các công trình nghiên cứu về Mỹ bị kém giá trị về mặt phân tích thì các công trình nghiên cứu về Đảng Cộng sản cũng chỉ loanh quanh ở một vài học thuyết trừu tượng khi chiến tranh chấm dứt.

Trở ngại lớn nhất cho việc nắm chắc tính chất của cuộc chiến tranh là cả hai bên đều không biết rõ Việt Nam cộng hòa và chế độ xã hội ở Nam Việt Nam. Do tính chất tế nhị trong việc đánh giá một chế độ mà nước Mỹ tìm cách duy trì để nắm quyền lực, cho nên các cơ quan chính thức của Mỹ có đủ điều kiện nghiên cứu một cách nghiêm chỉnh Việt Nam cộng hòa trong cuộc chiến tranh, đã không làm gì bao nhiêu và nếu có làm chút nào thì cũng chỉ là để sử dụng nội bộ. Khoảng trống to lớn đó tỏ ra là một thách thức ghê gớm đối với tôi. Hiểu Việt Nam cộng hòa và trật tự xã hội ở miền Nam trong suốt thời kỳ đau khổ của cuộc chiến tranh có nghĩa là hiểu những xu hướng cơ bản và điều thực sự khác biệt của mỗi bên đối kháng. Một sự đương đầu với những thực tế xã hội ở miền Nam Việt Nam đòi hỏi phải nghiên cứu những người ở đó, những chỗ mạnh cũng như những chỗ yếu của họ.

Một sự giải phẫu của cuộc chiến tranh đòi hỏi phải rất nhạy cảm với việc quần chúng nhân dân và các tổ chức cơ cấu đã hình thành kinh nghiệm lịch sử phức tạp như thế nào trong khi các nhà lãnh đạo và các đảng phái phải dàn xếp với nhau trong phạm vi mà nhân dân và các thể chế áp đặt cho cuộc đấu tranh vì vận mệnh của Việt Nam.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 22 Tháng Tám, 2008, 10:22:41 pm
Tôi cố gắng giải quyết vấn đề tên gọi một cách thực tiễn bằng cách chấp nhận tên mà mỗi bên tự đưa ra. Riêng đối với Đảng Cộng sản tôi cũng dùng từ "Cách mạng”. Tôi dùng từ "Việt Nam cộng hòa" nhưng không dùng từ "chính phủ của Việt Nam" như họ cố gắng nêu ra vì nó không có cơ sở pháp lý hoặc lịch sử. Tôi dùng "Nam Việt Nam" như một từ có tính chất địa lý, bởi vì phần Việt Nam ở phía nam vĩ tuyến 17, về mặt pháp lý theo Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, chỉ là một bộ phận của một quốc gia tạm thời bị chia cắt và đang chờ đợi để được thống nhất trở lại.

Về số liệu mà các bên đưa ra cũng vậy, tôi cũng áp dụng một quan điểm thực tiễn trong việc sử dụng. Bất cứ ở đâu số liệu cũng chỉ nói lên cái xấp xỉ của những xu hướng. Tôi rất ghét việc chuyển những thảm kịch to lớn về xã hội và về con người vào các máy tính điện tử bởi vì đây là một cuộc chiến tranh mà quy mô đau khổ và tàn phá vượt quá mọi lời lẽ. Do đó việc sử dụng con số phải rất nhạy cảm, chỉ ở mức tối thiểu cấn thiết.

Chiến tranh Việt Nam là một sự kiện chính trị được tranh luận nhiều nhất trong đời sống trường thành của mỗi một người Mỹ từ tuổi 35 trở lên. Không có con người biết suy nghĩ nào bây giờ dám thừa nhận rằng mình đã sống qua sự kiện đó mà không có một ý kiến dứt khoát về nó. Về phần tôi, ngay từ đầu, tôi hoàn toàn chống lại tất cả sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam. Với tư cách là một người thuộc phái mà người ta có thể gọi một cách chung chung là phái tả tôi đã tán thành sự phát triển kinh tế tự trị trong Thế giới thứ ba, kể cả Việt Nam, và tôi hoàn toàn hoan nghênh thắng lợi của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với người Pháp và đối với người Mỹ thay cho Pháp. Trong những quyển sách và bài báo khác nhau của tôi về Mỹ và về các quan hệ đối ngoại, từ năm 1968, tôi đã xác định một lập trường độc lập và phê phán đối với công việc thế giới, lập luận rằng sẽ không thể làm được, sẽ không được ai mong muốn và sẽ nguy hiểm cho Mỹ, Liên Xô hay bất cứ nước nào khác nếu muốn tìm cách hướng dẫn sự phát triển của một nước khác hoặc một khu vực khác.

Việc nghiên cứu cho quyển sách này đã bắt đầu từ năm 1964 khi tôi ngày càng tham gia vào hoạt động chống chiến tranh. Từ lúc ban đầu có một mạng lưới không chính thức của nhiều nhà nghiên cứu "phong trào" Mỹ mà trong nhiều năm đã trao đổi với nhau những số lượng lớn tài liệu và tin tức, và sau năm 1968 tôi cũng có những quan hệ vô giá với các chuyên gia chống chiến tranh khác trên khắp thế giới. Phần nào quyển sách của tôi đã dựa vào cố gắng chung lớn lao đó.
Thêm vào đó, tôi đã khai thác các thư viện thông thường và các nguồn tin khác ở các thành phố khác nhau của Bắc Mỹ, thảo luận cuộc chiến tranh với vô số những người Mỹ ủng hộ cuộc chiến tranh, tham gia cuộc chiến tranh đó hoặc vừa ủng hộ vừa tham gia. Ý thức của tôi về những thực tế Mỹ và Việt Nam cũng được làm sáng tỏ thêm bằng kinh nghiệm trực tiếp của tôi, trước tiên với tư cách là một sinh viên tốt nghiệp tại trường đại học Ha-vớt, nơi mà sự thích thú chính sách đối ngoại của tôi đã làm cho tôi quan hệ với một số hiệu trưởng được nhắc đến trong quyển sách này, tuy chỉ quan hệ trên bề mặt, và về sau, năm 1967-1968, trong một năm ở Oa-sinh-tơn, nơi mà tôi trở lại sau đó trong những thời gian ngắn.

Một số năm ở Pa-ri và những nơi khác ở pháp sau năm 1971 đã mở rộng sự hiểu biết của tôi về các sự kiện. Năm 1973 tôi thăm Việt Nam dân chủ cộng hòa và một khu vực do Mặt trận Dân tộc giải phóng kiểm soát ở Nam Việt Nam. Chuyến thăm đầu tiên trong số sáu chuyến thăm trong thập kỷ tiếp theo, đưa tôi đến tất cả các nơi của đất nước và làm cho tôi có thể trên thực tế nói chuyện với hàng trăm người đóng một vai trò có thể có được trong cuộc chiến tranh. Những cuộc thảo luận rất rộng rãi đó với những người Việt Nam trước năm 1981 không phải vì có ý lúc ban đầu để đóng góp cho một quyển sách nhưng cuối cùng đã làm nhiệm vụ đó. Tôi có mặt ở Huế và Đà Nẵng trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh trong tháng 4 năm 1975, và ở Hà Nội trong phần lớn những ngày còn lại của tháng đó.

Tất nhiên tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về mọi điều nói trong quyển sách này và tuyệt đối không có điều gì trong đó có thể bị gán, ngay dù cho là gián tiếp, cho bất cứ ai tôi nói đến hoặc không nói đến sau đây. Tôi biết ơn sâu sắc Chương trình Ki-lam của Hội đồng Ca-na-đa đã cho tôi thời gian để viết quyển sách này. Tôi biết ơn Hội đồng nghiên cứu Khoa học xã hội và nhân loại của Ca-na-đa, trường đại học Yoóc Tô-rông-tô, đã giúp đỡ rất nhiều trong công việc của tôi. Một tháng ở Trung tâm nghiên cứu Ben-la-gi-ô tỏ ra là vô giá đối với tôi.

Tôi xin nhắc ra đây chỉ một số ít người đã giúp đỡ tôi vì tôi biết rất sâu sắc rằng tôi không có cách nào đủ sức để cảm ơn đúng mức những người đã cùng tôi chia sẻ kinh nghiệm và sự nghiệp chung này, ngay dù cho tôi đề tặng quyển sách này cho họ. Ở Mỹ thì có Lê Anh Tư, Phây Knốp và Xti-oát Mi-sam (đã mất) của ủy ban người bạn Mỹ, có Et-oát Hec-man, Xtan-lây Vích-to-dơ, Mi-ca-en Cle-rơ, Gim Mơ-ren, Nom Som-xki, Ki-nét, Mác Nâu, Rô-bớt Giê Líp-tôn và Gian Pluy-vi-ô. Ngoài Bắc Mỹ có Xa-bu-rô Kin-gai, Pi-tơ Lim-qui-cơ, Rơ-na-tô Công-xtan-ti-nô, Pơ-ghi Đớp (đã mất) và Giắc-cơ Dơ-coóc-noa.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 22 Tháng Tám, 2008, 10:23:41 pm
Ở Việt Nam, tôi đặc biệt cảm ơn Nguyễn Cơ Thạch, Nguyễn Văn Sao và Linh Quy, Huỳnh Hữu Nghiệp, Bình Thanh, Hoàng Tùng, Võ Văn Sung, Phạm Văn Ba, Dương Đình Thảo, Phạm Thị Minh, Phan Thanh Nam, Phan Tứ, Thu Bồn, Đinh Đức Thiện, Võ Đông Giang, Nguyễn Thị Định, Vũ Văn Minh, Hoàng Minh Thảo và Trần Văn Giàu cũng như nhiều người khác ở tỉnh Quảng Trị, Sông Bé, Mỹ Tho, Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.

Ngô Vĩnh Long và Huỳnh Kim Khánh mỗi người đã dành ra một năm để làm cho tôi tiếp xúc với những tài liệu tiếng Việt Nam tìm được ở các thư viện khác nhau ở Pa-ri, ở trường đại học Ha-vớt và Coóc-nen. Khôi Huynh đã cho tôi những tài liệu ở phút chót. Bộ phận phục vụ ở trường đại học Yoóc đã giúp tôi một cách vô giá trong việc đánh máy bản thảo.

Tôi không đủ lời lẽ để đánh giá đúng về Gioa-xơ, vợ tôi, người đã cùng tôi chia sẻ mọi cố gắng và thử thách của hai thập kỷ viết nên quyển sách này. Cô đã góp phần to lớn vào những vốn quý và những sự hiểu biết sâu sắc trong quyển sách này, do việc cô vừa nghiên cứu vừa sống trong những sự kiện lớn dẫn đến việc ra đời quyển sách này. Vì vậy tôi rất được khuyến khích và trở nên rất vững vàng nhờ tình đồng chí của Gioa-xơ và nhờ nhiệt tình và trách nhiệm chung của chúng tôi.

Giống như toàn bộ quy mô của lịch sử Việt Nam kể từ năm 1940, cuộc chiến tranh Việt Nam là một sự kiện có tính chất anh hùng ca, một cố gắng cách mạng bến bỉ nhất và dài nhất trong lịch sử hiện đại. Dựng lên một cuộc giải phẫu của chiến tranh Việt Nam không những cho phép chúng ta mổ xẻ những nguyên nhân đầu tiên và những tình tiết cơ bản của sự kiện chính trị chính trong đời sống của hàng chục triệu người đó; mà sự kéo dài và tính phức tạp của cuộc chiến tranh cũng còn đưa lại cho chúng ta một khung cảnh rộng lớn để xác định quyền tự do và những hạn chế của nhân dân trong việc quyết định tương lai của chính mình. Một sự tập trung như vậy làm cho cả người viết lẫn người đọc rất tha thiết tìm cho được những nguyên nhân chính xác và những giải thích đấy đủ của những sự kiện to lớn cũng như những nhân tố con người đã từng hướng dẫn lịch sử của Việt Nam trong hơn 45 năm qua. Lịch sử đó đã trải qua một quá trình ngày càng không thể cưỡng lại được dẫn đến một kết luận mà trên thực tế không phải là luôn luôn không tránh được nhưng ngày nay nhìn một cách thoáng qua dường như không có thật. Đó chính là bởi vì người ta rất ít hiểu vế các lực lượng, các con người và các sự kiện đã hình thành nên sự phát triển đặc biệt đó của lịch sử hiện đại. Nói một cách thẳng thắn chúng ta cần biết như thế nào và tại sao Đảng Cộng sản đã thắng ở Việt Nam và Mỹ lại đã thua. Một lịch sử của cuộc chiến tranh đó đi vào nghiên cứu việc các nhân tố khác nhau ở Việt Nam, Mỹ và trên thế giới đóng vai trò khác nhau như thế nào cho mỗi bên, ảnh hưởng đến các lực lượng và các thể chế quan trọng, nhất thiết sẽ đụng chạm đến bản chất của chính những nhân tố đó, những nhân tố hình thành sự kiện lịch sử hiện đại ở Việt Nam và ở cả các nơi khác, tuy ít hấp dẫn hơn nhưng vẫn rất căn bản.

Chính đặc điểm đó của lịch sử Việt Nam và sự can thiệp của Mỹ vào đó, buộc chúng ta phải xem xét tại sao và làm thế nào một ít thanh niên, năm 1930 mới bắt đầu tìm được đến một cuộc cách mạng chống thực dân, cuối cùng đã thành công trong quá trình bị buộc phải chiến đấu trước tiên với nước Pháp và sau cùng với một nước giàu nhất và mạnh nhất về quân sự trên thế giới. Những người đứng ra tìm phương hướng cho Việt Nam sau năm 1940 phải có những lựa chọn gì? Những sự kiện và những diễn biến của thời thế, mà con người không thể kiểm soát được, đã ảnh hưởng ra làm sao và đến mức độ nào dối với những kẻ thù? Có những hạn chế và những ép buộc gì đối với mỗi bên và qua các thời gian? Liệu các lực lượng lịch sử và các nhân tố xã hội và kinh tế trong cuộc chiến tranh kéo dài đó có hợp lại với nhau vào lúc nào đó để sản sinh ra những cản trở mới, những vấn đề mới và những thách thức đối với những người cộng sản và đối với những kẻ chống lại họ không?

Sự phát triển của Việt Nam qua cuộc chiến tranh duy nhất mà dài nhất của thời hiện đại đòi hỏi chúng ta không được để cho diễn biến của các sự kiện, cũng như những vấn đề kém quan trọng hơn che lấp nội dung rộng lớn, bao quát làm nền cho lịch sử của Việt Nam trong mọi giai đoạn. Chiến tranh là lĩnh vực trong đó những người thực hiện cố sức kiểm soát các sự kiện, nhưng cũng bị các sự kiện kiểm soát. Nó là khung cảnh trong đó sự tự phát, những hình dáng mới, những hạn chế mới và những lựa chọn mới luôn luôn xuất hiện, xác định ý thức của con người và tính chất của các hiện tượng xã hội. Tất cả các chế độ thừa kế, dù thuộc hệ tư tưởng hữu hoặc tả, thường bị thay đổi một cách sâu sắc trong chiến tranh, bất chấp những nhận thức và ý muốn của những người muốn áp đặt những ý đồ của họ lên các chế độ đó. Hiểu thấu sự phức tạp cũng như những khả năng của thực tế đó và hiểu thấu cả những hy vọng lẫn những nguy cơ của nó, đưa lại một cơ sở rõ ràng và vô giá cho hành động, bởi vì đó là con đường hợp lý duy nhất để đố chiếu hành động có ý thức với quá trình lịch sử. Kiến thức không nhất thiết là sức mạnh, nhưng ngu dốt thì chắc chắn là sự yếu kém. Việc không có quyền hoàn toàn lựa chọn và quyền tự do trong lịch sử vào những lúc thiết yếu, không thể làm lu mờ thực tế rằng khi những thể chế làm nên lịch sử thay đổi thì vai trò của kiến thức và ý nghĩa tiềm tàng của các quyết định cũng thay đổi như vậy.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 22 Tháng Tám, 2008, 10:24:20 pm
Chiến tranh không phải chỉ là một cuộc xung đột giữa các đội quân; nó càng ngày càng trở nên một cuộc đấu tranh giữa các chế độ xã hội cạnh tranh nhau bao gồm các thể chế chính trị, kinh tế và văn hóa của tất cả các đối thủ. Chiến tranh càng kéo dài, nó càng có nhiều khả năng được quyết định ngoài lĩnh vực vũ khí và các cuộc chiến đấu. Muốn hiểu được các sự kiện ở Việt Nam trong hơn bốn thập kỷ, điều thiết yếu là phải thấy rõ các bộ máy của chiến tranh như là một quá trình xã hội và một cuộc xung đột về hệ tư tưởng.

Ảnh hưởng của xung đột quốc tế đối với các động lực xã hội bên trong của các quốc gia thường thay đổi theo thời gian và không gian, nhưng ở Việt Nam thì ảnh hưởng đó đã đụng chạm một cách sâu sắc đến tất cả các mặt của đất nước ngay từ đầu, đồng thời cũng dần dần thấm sâu vào đời sống của Mỹ. Các hậu quả kinh tế, xã hội và dân cư của Chiến tranh thế giới thứ hai, việc Pháp quay trở lại và sự can thiệp của Mỹ ở Việt Nam là những sự kiện rất to lớn. Chế độ ruộng đất và cơ cấu giai cấp là những nỗi thương tổn kéo dài trong hàng thập kỷ, làm thay đổi cả điều kiện xã hội lẫn ý thức của cả một đất nước.

Sự biến đổi của chiến tranh đối với cơ cấu giai cấp hiện có ở Việt Nam cũng như ở các nơi khác, dẫn đến một sự tăng cường mạnh mẽ ý thức giác ngộ chính trị của quần chúng và đến nhu cầu của quần chúng có những khả năng lựa chọn thích hợp trong xã hội. Tất cả các bên đều đưa lại cho họ các loại hệ tư tưởng. Nhưng hiệu quả tương đối của họ trong việc huy động nhân tài, vật lực và khả năng phân tích thực tế xã hội và đưa lại cho nhân dân một sự lãnh đạo đáng tin cậy trong hành động tương lai sẽ là điều rất quan trọng trong việc phát triển những mục tiêu và tư tưởng có ý thức khi những mục tiêu và tư tưởng đó xuất hiện và ảnh hưởng đến những giai đoạn thay đổi về thể chế trong một xã hội đang bị khủng hoảng.

Những tư tưởng trở thành trọng yếu trong việc xác định kết quả của cuộc đấu tranh về mặt cả nhân lẫn quả. Vấn đề thực chất là mỗi đối thủ có thể làm được gì và tin ở điều gì? Và cách đối xử cá nhân và thái độ xử sự của mỗi quân đội đối với binh sĩ và đối với những ai mà quân đội có trách nhiệm, có thể phù hợp như thế nào với nhiệm vụ của quân đội? Trong khi chiến tranh có mặt vật chất mà ai cũng biết, bao gồm mọi tổn phí và khả năng của mỗi bên thỏa mãn được nhu cầu của mình, thì nhân tố con người ít rõ ràng hơn nhưng không kém phần trọng yếu. Hệ tư tưởng và ý thức bao trùm nhiều vấn đề trong cuộc chiến tranh kéo dài, từ quan niệm về cư xử cá nhân có tính chất cạnh tranh với nhau và từ mối quan hệ đối với cộng đồng và xã hội cho đến tầm nhìn về sự quan trọng của kỹ thuật trong việc giải quyết chiến tranh và khủng hoảng xã hội. Nó vừa là rõ ràng vừa là mập mờ, vừa phát triển vừa phôi thai.

Những sự kiện lịch sử lớn, rất rõ ràng, bao gồm nhiều nhân tố và lực lượng có tác động lẫn nhau và có tầm quan trọng khác nhau. Cũng khó khăn như nhận thức các sự kiện nhiều mặt như vậy để hiểu chiến tranh Việt Nam, chúng ta luôn luôn cần phải xem xét và nhớ lại những xu hướng rộng lớn hơn và những tác động qua lại, xem chúng như những nhân tố trọn vẹn của toàn cảnh rộng lớn nhưng thống nhất. Nhưng chúng ta cũng phải thấy rõ tính chất độc đáo của những phát triển chính trị, quân sự, kinh tế và tư tưởng riêng biệt ngay dù cho những phát triển đó trộn lẫn với nhau thành một hiện tượng toàn cầu duy nhất. Dù phản ứng của họ khác nhau như thế nào, Đảng Cộng sản, kẻ thù của họ trong nước và Mỹ, mỗi bên đều đối phó với những xu hướng và những vấn đề có liên quan đến họ bằng nhiều cách khác nhau, và trong suốt quyển sách này tôi sẽ đối chiếu các phản ứng đó của họ.

Vì Việt Nam là một nước nông dân, nên điểm xuất phát để phân tích ảnh hưởng của cơ cấu xã hội đối với nền chính trị và đối với xã hội là ruộng đất và người cày ruộng. Những người cộng sản và những đối thủ của họ luôn luôn tìm cách liên hệ với những vấn đề đó, hết thập kỷ này đến thập kỷ khác, khi mà chiến tranh và nổi dậy biến đổi nội dung kinh tế của các vấn đế ruộng đất. Đối với Đảng thì sự phức tạp của tính cấp tiến nông dân mà lúc đầu rất quan tâm đến cải cách ruộng đất, đã để lại cho Đảng một vấn đề đặc biệt tế nhị là làm thế nào hòa hợp được những sức ép từ quần chúng với chiến lược liên minh giai cấp trong phạm vi các vấn đề chính trị.

Cơ cấu giai cấp là một nhân tố thể chế cơ bản trong chiến tranh và cơ cấu đó thay đổi với thời gian bằng nhiều cách rất thiết yếu cho tất cả các bên. Mọi thay đổi trong quyền kiểm soát của Việt Nam cộng hòa sau năm 1954 kéo theo với nó những tác động quan trọng trong việc phân phối tài sản và quyền lực. Và sự mở rộng sức mạnh quân sự của Việt Nam cộng hòa ở miền Nam sau năm 1954 và sự xuất hiện của những hoạt động kinh tế mới sau cuộc can thiệp ào ạt của Mỹ trong năm 1965, đã làm cho tính chất giai cấp và quyền lực trở thành một vấn đề cơ bản trong việc tìm hiểu sự phát triển về sau của Việt Nam, khi mà các chiều hướng trong hệ thống xã hội đã được biến thành những chính sách và sự kiện chính trị và xã hội có tầm quan trọng sống còn. Cũng giống như vậy, sự phát triển của số dân đô thị và của các thành phố mà tất cả các bên đều phải ra sức đối phó một cách tích cực cũng đặt ra những vấn đề cơ bản về huy động và về nhất thể hóa xã hội và kinh tế. Xã hội Việt Nam thay đổi như thế nào và những người cộng sản, Việt Nam cộng hòa và những người Mỹ hiểu các xu hướng đó và đối phó với chúng như thế nào là những nhân tố cốt yếu trong kết quả của chiến tranh.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 22 Tháng Tám, 2008, 10:25:08 pm
Chiến tranh kéo dài ở Việt Nam gây ra những vấn đề kinh tế và xã hội to lớn. Cơ cấu của xã hội Việt Nam có thể chấp nhận cái gì? Những hình thức cơ chế mới nào sẽ xuất hiện? Loại quân đội nào Mỹ có thể xây dựng nên ở Nam Việt Nam, quy mô quân đội đó như thế nào và nó sẽ quan hệ với nhân dân như thế nào so với những người Cộng sản? Hai kẻ thù có thể vượt qua quân đội của họ để tham gia đấu tranh chính trị không, và mỗi bên nhận thức mặt đó của chiến tranh và hành động như thế nào? Và mỗi bên theo đuổi loại chiến lược quân sự nào để chịu được những tổn phí về nhân lực và về kinh tế của một cuộc chiến tranh dường như không kết thúc, và phản ứng quân sự của mỗi đối thủ có tác dụng đến bên kia như thế nào?

Thế khó xử của Mỹ sau năm 1969 là làm sao biến kho vũ khí khổng lồ của mình thành một phương tiện có hiệu quả để chiến đấu và thắng một cuộc chiến tranh cục bộ, đặc biệt là một cuộc chiến tranh chống những lực lượng cách mạng không quy ước. Những phản ứng và kỹ thuật của Mỹ có thể thành công không và có thể được chuyển cho các lực lượng quân sự của Việt Nam cộng hòa không" Những thế lợi về kỹ thuật và hỏa lực có thề biến thành thắng lợi không? Còn đối với Cách mạng, Cách mạng có thể tìm được những biện pháp vô hiệu hóa sức mạnh to lớn và cuối cùng đánh bại sức mạnh đó không? Và đánh bại như thế nào?

Những xu hướng và thách thức xã hội to lớn trên đây luôn luôn gắn liền với tính chất của những con người, nam cũng như nữ, ủng hộ hoặc chống lại Cách mạng. Quan điểm về hạnh phúc của chính họ và của gia đình họ có liên quan đến quân đội trong cuộc chiến đấu để sống còn, đến các nền kinh tế và đến vấn đề mục tiêu chính trị và xã hội chung của con người.
Bên nào có thể hy sinh nhiều nhất, và bên nào có thể đáp ứng tốt nhất với những lo âu và những nhu cầu của những người tham gia quân đội, của dân làng và người đô thị? Cơ sở nào làm cho con người gắn bó với bên này hay bên kia?
Những tư tưởng và những thể chế nào đưa đến thắng lợi hoặc thất bại trong cuộc chiến tranh kéo dài? Chiến tranh phải được xem như một cuộc đấu tranh không phải chỉ giữa các đội quân, các xã hội cạnh tranh nhau và các quan điểm về sự thay đổi mà là còn giữa những con người, nam cũng như nữ, chấp nhận những chiến lược khác nhau và có những cách nhìn rất khác nhau về sự tồn tại của con người và về vai trò của con người trong việc làm nên lịch sử. Vấn đề chí khí và động cơ quan trọng như thế nào và cả những người Cộng sản lẫn những người muốn tạo ra một xã hội ăn cánh với Mỹ, đã giải quyết vấn đề đó như thế nào?

Sự dính líu của Mỹ vào Việt Nam trước tiên là nhằm nhanh chóng uốn nắn lại nhiều thế khó xử và thất vọng toàn cầu sau chiến tranh của quyền lực quân sự Mỹ, khẳng định lại lòng tin và hiệu lực kỹ thuật của vũ khí Mỹ. Mục tiêu là vô hiệu hóa tiềm lực đang lên trong khắp thế giới thứ ba của các chế độ dân tộc cách mạng. Ít có ai tưởng tượng rằng chiến tranh Việt Nam có thể trở thành một trong những chấn thương nội bộ lớn nhất và dài nhất trong lịch sử nước Mỹ, kém về tính chất chia rẽ và cay đắng chỉ với cuộc cách mạng Mỹ và cuộc nội chiến. Về mặt nào đó, nó còn đặc biệt hơn bất kỳ cuộc chiến tranh ngoài nước nào mà Mỹ đã chiến đấu từ trước đến nay.

Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai, Mỹ chủ yếu là một bên tham gia phụ vào những cuộc chiến tranh do châu Âu khởi xướng để đóng một vai trò quyết định nhưng chắc chắn không hề bao giờ là duy nhất trong sự kết thúc chiến tranh. Cả hai cuộc chiến tranh đều tương đối ngắn và Mỹ bước ra cuộc chiến tranh với tư thế mạnh hơn nhiều về kinh tế và chính trị so với khi nó vào chiến tranh. Chiến tranh Việt Nam khi thất vọng và thời gian kéo dài thì sự cay đắng và tình trạng chia rẽ trong nước cũng tăng lên, làm suy yếu nền kinh tế và cơ cấu quân sự và đập tan sự nhất trí về chính sách đối ngoại và sự thanh bình của đất nước. Những tổn phí kinh tế của một cuộc chiến tranh như vậy sẽ như thế nào đối với Mỹ, không những ở Việt Nam mà còn trong khả năng lãnh đạo nền kinh tế thế giới và duy trì sức mạnh quân sự ở những nơi khác và Mỹ còn có thể làm được gì? Nhu cầu đối phó với những hiệu quả toàn bộ của cuộc chiến tranh đã gây ra những vấn đề đặc biệt cho nước Mỹ trong suốt những năm tháng, và những sự kiện kinh tế và chính trị ở Mỹ đã có những tác động quyết định đối với những sự kiện ở Việt Nam.

Trong việc quyết định cố gắng tượng trưng của mình ở Việt Nam, Mỹ phải đương đầu với những vấn đề đặc biệt, một mặt với sự quá thừa vũ khí và đạn dược và mặt khác với sự bất đồng giữa các sĩ quan cấp cao về việc sử dụng số vũ khí đạn dược đó như thế nào, ở đâu và thông qua ai. Việc biến sức mạnh chưa từng thấy đó thành chiến thuật và chiến lược cụ thể đã chia rẽ những người có quyền lực ngay từ lúc khởi đầu. Trùm lên trên những quyết định đó là khung cảnh chính trị của Mỹ mà ý nghĩa cả ở Oa-sinh- tợn lẫn trên đường phố của vô số thị xã và thành phố sẽ tăng lên hàng năm.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 22 Tháng Tám, 2008, 10:25:54 pm
Nguồn gốc sơ khai của chiến tranh Việt Nam là sự can thiệp và cố gắng của Mỹ nhằm thiết lập và duy trì một cơ chế thay thế cho Đảng cộng sản, và Oa-sinh-tơn cho rằng có một cơ sở bản xứ đủ để đưa lại cho họ những hy vọng thành công ngày càng tăng. Với những mức độ khác nhau, Việt Nam là một thế giới vi mô của nhiều nước trên thế giới với những hoạt động xã hội năng động tương tự mà Mỹ từ năm 1946 đã tìm cách gạt ra khỏi tay của các phong trào dân tộc và cấp tiến khác nhau. Một vấn đề trọng yếu, cũng có thể áp dụng ở nơi khác, là Mỹ có thể can thiệp ào ạt như thế nào và với những hậu quả gì vào đời sống của một đất nước nghèo. Trên loại chế độ xã hội nào Mỹ có thể xây dựng một bộ máy chống cộng và có thể có một cơ sở chính trị, kinh tế và con người cho cố gắng đó không? Trên một mức độ cơ bản, toàn bộ công cuộc của Mỹ phụ thuộc vào con người và trật tự xã hội mà Mỹ tìm cách thiết lập và duy trì.

Hiểu thấu được tính chất của chế độ đó đã trở thành một khó khăn lớn cho người Mỹ trong chiến tranh. Đặc điểm của giới thống trị và của quyền lực ở Việt Nam cộng hòa là gì, giới trí thức về kinh tế hiện có tồn tại được bao lâu và có được sức bật như thế nào và vai trò chính trị và kinh tế của các nhà lãnh đạo quân sự của Việt Nam cộng hòa như thế nào so với chức năng quân sự của họ? Một cơ cấu do Mỹ xác định có thể được áp đặt vào những điều kiện kinh tế, xã hội và con người đặc biệt ở Nam Việt Nam và trong các đội quân Việt Nam cộng hòa không? Và gánh nặng chiến tranh có thể chuyển cho cơ cấu đó không? Và cơ sở của nền kinh tế Việt Nam cộng hòa là gì? Nền kinh tế đó có giữ vững được sự phát triển đất nước và đối phó với những thách thức của phái tả và có thể sống còn nếu không có viện trợ Mỹ không? Trên thực tế, Việt Nam cộng hòa có phải là một thực tế tồn tại được, chứ không phải chỉ là một sản phẩm của tiền của và sự có mặt của Pháp và Mỹ không? Và có tồn tại một sự nhất trí xã hội nghiêm chỉnh và một cơ sở thể chế cho việc duy trì Việt Nam cộng hòa không? Về thực chất chiến tranh Việt Nam có thể đi xa hơn một sự can thiệp của nước ngoài vì những lý do quốc tế tượng trưng để trở thành một cuộc xung đột nội bộ không?

Đảng Cộng sản cũng vậy, cũng có những thách thức đặc biệt của mình. Do bị một hệ thống liên lạc nghèo nàn và ở trong một đất nước vốn bị phân tán, Đảng phải điều chỉnh cơ cấu và chính sách của mình theo những đòi hỏi của chiến tranh, mặc dù Đảng muốn lãnh đạo một cuộc đấu tranh phức tạp, sử dụng càng nhiều càng tốt những quan niệm mác-xít lê-nin-nít của một tổ chức tập quyền. Thích nghi với thực tế là một thách thức trọng yếu, đòi hỏi Đảng phải cân đối vai trò mong muốn của mình như một nhà lãnh đạo và nhà tổ chức quần chúng với nhu cầu phải luôn luôn đáp ứng những sức ép và những nguyện vọng độc lập của quần chúng. Đảng buộc phải vừa lãnh đạo vừa đi theo các phong trào cơ sở đến mức độ nào? Vấn đề đó đã trở thành một đề tài thường xuyên sau năm 1945. Và một mặt sống còn của cố gắng chiến tranh là việc đòi hỏi đảng viên và những người theo Đảng phải có những hy sinh to lớn, kéo dài trong một khoảng thời gian nhiều năm. Đó là một vấn đề Đảng phải xem xét có hệ thống, xây dựng một quan niệm về thái độ cách mạng và về thủ tục để liên lạc và thực hiện đòi hỏi đó. Vai trò của hệ tư tưởng và chức năng của lợi ích vật chất là gì trong cuộc đấu tranh kéo dài đó? Đảng có thể dung hòa như thế nào việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc sau năm 1954 với những xu hướng và những cuộc đấu tranh liên tục ở miền Nam? Những câu trả lời cho những câu hỏi như vậy đã trở thành một bộ phận của những cố gắng chiến tranh đặc biệt của Cách mạng.

Đảng Cộng sản cũng phải luôn luôn giải quyết chiến lược chính trị của mình đối với những người ngoài hàng ngũ của Đảng. Đảng có thể xây dựng một mặt trận thống nhất rộng rãi gồm nhiều giai cấp như thế nào, đặc biệt khi ý thức giai cấp của bần nông luôn luôn cản trở khả năng của Đảng thực hiện một khái niệm chính trị rất cơ bản cho sự phát triển của Đảng. Khó khăn trong việc thực hiện liên minh giai cấp bên cạnh đấu tranh giai cấp luôn luôn đứng trước Đảng trong hàng thập kỷ, trở thành một đề tài cho toàn bộ lịch sử của Đảng.

Cuộc chiến tranh Việt Nam bao gồm một phạm vi rộng lớn các lực lượng và các vấn đề. Một số vấn đề tất nhiên là phức tạp có liên quan đến tính tượng trưng toàn cầu của chiến tranh và ảnh hưởng đến chiều hướng của lịch sử hiện đại. Nhưng những vấn đề khác lại quá sức đơn giản từ việc một binh sĩ trốn về với gia đình đến chiếc cầu ao của một nông dân bị hư hại trong một thế giới đầy tàn phá. Chiến tranh bao gồm những vấn đề cổ điển của triết lý xã hội, những vấn đề to lớn của quyền lực thế giới, những thảm kịch của vô số cuộc sống bị mất mát và tan nát, mối nhục của đồi trụy và hèn nhát, vinh dự của chủ nghĩa anh hùng, sự an ủi của nam và nữ sẵn sàng hy sinh, tóm lại toàn bộ tính đa dạng những đáp ứng của con người và của những xu hướng xã hội trong thế kỷ này, mà phần lớn có tính chất lâu dài, vĩnh viễn.

Đương đấu với tất cả các vấn đề đó, từ vinh quang đến vô lý, từ đơn giản đến phức tạp, có nghĩa là hiểu được sự giải phẫu của một cuộc chiến tranh đã từng là một sự kiện quan trọng nhất trong đời sống của hàng triệu triệu người và, nhận thức được sự kiện lịch sử hiện đại đó, nghĩa là rọi vào quá khứ chúng ta và vào chính chúng ta, có lẽ cả vào tương lai chúng ta nữa, và vào hoàn cảnh con người trong nửa cuối của thế kỷ hai mươi.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 22 Tháng Tám, 2008, 10:32:02 pm
PHẦN MỘT
NHỮNG NGUỒN GỐC CỦA CHIẾN TRANH CHO ĐẾN NĂM 19
60


Chương một
CON ĐƯỜNG ĐI ĐẾN KHỦNG HOẢNG CỦA VIỆT NAM

Lịch Sử của Việt Nam từ giữa thế kỷ XIX cho đến Cách mạng tháng Tám 1945 bao gồm một loạt các biến đổi chính trị, kinh tế và xã hội đau xót một cách sâu sắc mà những người Việt Nam không cộng sản tỏ ra hoàn toàn bất lực để đối phó. Họ không bao giờ thoát khỏi sự thống trị của nước ngoài, một sự thống trị vừa là nguyên nhân vừa là hậu quả của những vấn đề rộng lớn và chồng chất của đất nước. Mô hình cơ bản trong lịch sử Việt Nam hiện đại là sự bất lực cố hữu của những người không cộng sản để đối phó với những sôi động của thời đại họ. Chỉ Đảng Cộng sản mới có thể lấp một khoảng trống như vậy. Thắng lợi của Đảng không phải chỉ đơn thuần nhờ vào khả năng của chính họ mà còn do trên thực tế không có bên chống đối quan trọng nào chống lại chế độ thực dân Pháp và chống lại tác động sâu sắc của Chiến tranh thế giới thứ hai đối với chế độ đó.

Năm 1858 người Pháp tiến hành cuộc chinh phục triều đình nhà Nguyễn suy tàn và kết thúc năm 1884 với việc chia Việt Nam thành ba đơn vị hành chính: Bắc Kỳ ở phía bắc, Nam Kỳ ở phía nam và Trung Kỳ ở giữa. Việc Pháp thay đổi trật tự cổ truyền đã đẩy nhanh những biến đổi tư tưởng và văn hóa sâu sắc của những thành phần tinh túy và có học thức của xã hội Việt Nam. Trong nửa đầu của thế kỷ XIX triều đình nhà Nguyễn đã tìm cách Trung Hoa hóa những luật pháp và thể chế của Việt Nam để củng cố quyền lực của mình, mở rộng hố ngăn cách giữa bản thân họ với nhân dân. Đồng thời họ cũng bị lôi kéo vào hàng hóa và kỹ thuật phương Tây, tuy họ chống lại cố gắng được Pháp ủng hộ và ngày càng có hiệu lực nhằm truyền bá đạo Thiên chúa. Kết quả là hệ tư tưởng Khổng giáo của nhà vua càng thêm yếu đi khi một loạt các quan niệm mới tràn vào toàn bộ đất nước qua nhiều cảng dọc theo bờ biển.

Sự cộng tác của triều đình với người Pháp đã giảm nhiều tính chính thống cổ truyền, tuy một số các học giả tầng lớp quý tộc rải rác ở các thôn xã trong cả nước vẫn tiếp tục sử dụng những biến thể của đạo Khổng. Cùng với số lớn những quan chức có khả năng nhưng không được sử dụng, họ trở thành một lực lượng chống đối thực sự tuy khá dễ bị điều khiển và mang một tâm lý hoài cổ làm cho nền văn hóa cổ truyền vốn đã mong manh càng trở nên mong manh dưới tác động của nền văn hóa phương Tây mà chủ yếu là văn hóa Pháp.

Sự cộng tác của tầng lớp trên với chủ nghĩa thực dân cũng xác định trước nội dung thiết yếu của nền chính trị cũng như của sự phát triển kinh tế của Việt Nam trong tương lai. Cộng tác với người nước ngoài hay chống lại họ và những đồng minh địa phương của họ, cuối cùng cũng sẽ là một quá trình gạt bỏ những cơ sở chính trị và kinh tế của tầng lớp trên. Người Pháp tự mình không thể phá hủy được trật tự cổ truyền của Việt Nam. Chính chủ nghĩa cơ hội và tính hám lợi của giới thượng lưu đã làm việc đó cho Pháp và tạo thành một khoảng trống chính trị và làm cho cách mạng Việt Nam trở nên tất yếu.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 22 Tháng Tám, 2008, 10:32:51 pm
RUỘNG ĐẤT VÀ CUỘC KHỦNG HOẢNG NÔNG THÔN

Tác động kinh tế chủ yếu của người Pháp là đối với chế độ ruộng đất, một vấn đề xuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt Nam hiện đại như một sợi chỉ chính. Những hoạt động không liên quan đến ruộng đất của họ, tuy quan trọng, nhưng chỉ ảnh hưởng đến một số nhỏ lực lượng lao động sau năm 1918. Người Pháp đã làm tăng thêm và đẩy nhanh cuộc khủng hoảng ruộng đất, làm tổn thương bất kỳ một sự liên kết đã có nào trong một xã hội ruộng đất, và tạo nên những điều kiện tiên quyết khách quan cho kế hoạch động viên triệt để và hiệu lực về sau.

Ruộng đất là tài sản quan trọng nhất người Pháp dùng để nuôi dưỡng chính quyền thuộc địa và để bóc lột đất nước, nhưng vì đồng bằng sông Cửu Long ở Nam Kỳ ít dân, với những đầm lầy nước mặn cần tiêu nước quy mô lớn, cho nên đầu tiên họ tìm cách sử dụng ruộng đất tốt hơn và thuần thục hơn nhiều của đồng bằng sông Hồng đông dân ở Bắc Kỳ. Bất chấp sự chống đối địa phương, người Pháp cấp số lớn ruộng đất cho một số ít thực dân Pháp và thậm chí cho số đông những người cộng tác Việt Nam của họ như những quan chức nhỏ, những người đày tớ, những người thân tín và những người có ích cho bộ máy nhà nước mà người Pháp áp đặt lên khu vực.

Ruộng đất trở thành cốt yếu cho việc củng cố quyền lực thực dân của Pháp, và sau năm 1900 đồng bằng sông Cửu Long ở Nam Kỳ, và với một mức độ thấp hơn, đồng bằng ở Trung Kỳ, đã trở thành nguồn cung cấp mới. Những vùng đất nhượng lớn của những khu vực biên giới chủ yếu thưa người, được cấp cho người Pháp và người Việt Nam để họ cải tạo và huy động nhân lực, hoặc với tư cách là tá điền hoặc với tư cách là lao động được thuê để canh tác. Mặc dù những số liệu không hoàn toàn nhất quán, nhưng tất cả các cách làm trên đây đã đưa đến một chế độ sở hữu ruộng đất cực kỳ không bình đẳng ở Việt Nam, một sự biến đổi sâu sắc chế độ ruộng đất hiện có, và một sự thay đổi trật tự cổ truyền nặng về hoạt động trong nước bằng một trật tự mới hướng vào xuất khẩu gạo và chịu ảnh hưởng của giá cả thế giới, của những địa chủ mới hám lợi và của một loạt các vấn đề kinh tế và xã hội nghiêm trọng.

Vào khoảng năm 1931 số dân của Nam Kỳ đã đến 4 triệu rưởi, gần ba lần con số năm 1880; hai phần ba đất nhượng cho Pháp nằm ở đó và gần một phần năm nữa ở Trung Kỳ. Không kể một số những người Việt Nam tầng lớp trên lấy quốc tịch Pháp, vào năm 1940 địa chủ Việt Nam chiếm hai phần ba đất nhượng ở Nam Kỳ và một tỷ lệ có phần nhỏ hơn trên khắp Đông Dương. Trên thực tế, người Pháp đã tạo ra một giai cấp địa chủ địa phương ngày càng "Gô-loa" hóa, được hưởng đặc quyền nhưng hoàn toàn phụ thuộc vào chế độ cai trị thuộc địa.

Vào cuối những năm 1930, 6.200 địa chủ ở Nam Kỳ với trên 50 héc-ta ruộng đất mỗi tên, đã sở hữu 45 phần trăm diện tích trồng lúa và con số đó đã được giữ vững như vậy trong hai mươi năm tiếp sau. Khoảng 60.000 địa chủ khác chiếm 37 phần trăm nữa, và ít nhất là ba phần năm đồng bằng là do tá điền cày cấy trong khi gần ba phần năm nhân dân nông thôn không có ruộng đất.

Ở xứ Bắc Kỳ hiếm đất, vào cuối những năm 1930, 20 phần trăm đất trồng lúa thuộc những địa chủ với 50 héc-ta trở lên, 20 phần trăm khác thuộc những địa chủ từ 5 đến 50 héc-ta. Số địa chủ trên chiếm 2 phần trăm số địa chủ trong vùng. Nếu đất ở miền Bắc được phân phối có phần bình đẳng hơn, thì cũng có nhiều người có ruộng hơn nhưng phần ruộng của họ quá ít nên đời sống của họ nói chung là mong manh hơn những nông dân ở dọc sông Cửu Long.

Những con số trên đây khó mà giải thích nỗi khổ cực tràn lan của những nông dân trên khắp Việt Nam. Người Pháp và những người cộng tác địa phương của họ làm khổ quần chúng bằng những cố gắng buôn bán của họ nhằm sản xuất ra gạo để xuất khẩu cho một thị trường thế giới luôn luôn thay đổi. Những bộ máy bóc lột rất nhiều mặt, nhưng nổi bật hơn cả là tô, tiền lãi và thuế.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 22 Tháng Tám, 2008, 10:33:53 pm
Tùy theo thời gian và không gian, những tá điền nộp tô cho địa chủ 40 đến 60 phần trăm thu hoạch. Ở đồng bằng sông Cửu Long, tô không tính theo phần trăm mà định sẵn một số lượng nhất định cho một năm "bình thường". Trong những năm mất mùa, tô có thể lên đến 80 phần trăm thu hoạch thực tế. Thêm vào đó, nông dân thường phải làm công không cho địa chủ (hai ngày một tháng ở đồng bằng sông Cửu Long là mức trước 1945) và phải lễ lạt hoặc biếu lương thực, thực phẩm. Nhưng lợi lộc chính của địa chủ thường là cho tá điền vay với lợi tức hàng năm là 50 đến 70 phần trăm, thường là cao hơn. Lợi tức đối với những số tiền nhỏ có thể lên đến 3.600 phần trăm năm. Cho vay nặng lãi với hình thức cực đoan của nó, đã làm hại cho tất cả các tầng lớp của trật tự kinh tế và ngay những địa chủ đầu cơ ruộng đất và vay nhiều tiền cũng trở thành nạn nhân của chế độ đó.

Không kém phiền hà cho nông dân là việc người Pháp tiền tệ hóa nền kinh tế nông thôn bằng cách đánh thuế ruộng đất, giữ độc quyền về muối và bằng những bắt buộc và đòi hỏi khác, làm cho nông dân phải trả tiền mặt do đó mà rơi vào tay những người cho vay nặng lãi. Và vì thuế không được giảm khi giá cả hạ xuống, nên tác động đối với nông dân thường là tai hại. Thảm họa từ các nhân tố đó đã xảy ra khi giá gạo ở Sài Gòn hạ xuống hai phần ba từ năm 1930 đến năm 1933, theo sau cuộc đại khủng hoảng thế giới. Từ năm 1920 đến cuộc suy sụp, những địa chủ ở đồng bằng sông Cửu Long đã mở rộng sản lượng và đầu cơ tích trữ nặng nề. Vào năm 1933, một nhóm các địa chủ lớn, nắm trong tay ít nhất một phần sáu đất canh tác, bị rơi vào tình trạng khốn đốn nghiêm trọng về tài chính. Những xu hướng như vậy nói lên sự biến đổi liên tục trong giới địa chủ và tình cảnh khổ cực ngày càng tăng của nông dân.

Vào lúc Chiến tranh thế giới thứ hai bắt đầu, tình hình ruộng đất ở Việt Nam biến chuyển nhanh chóng, bần cùng hóa đại bộ phận nông dân và tạo ra sự thiếu thốn và không an toàn trong cuộc sống của họ. Và ngay một bộ phận của giai cấp trên mới của Việt Nam, đã từng hưởng lợi nhất trong chế độ mong manh của Pháp, cũng tỏ ra thứ yếu và dễ bị tổn thương.

SỰ XUẤT HIỆN MỘT GIAI CẤP NỬA CÔNG NHÂN

Nền kinh tế nông nghiệp trở nên thứ yếu khi người Pháp lần đầu tiên đến Việt Nam nhưng đặc biệt là sau năm 1918 khi các lĩnh vực đô thị và chế độ ăn lương của Việt Nam phát triển. Các hoạt động kinh tế nông nghiệp và phi nông nghiệp không bao giờ được tách bạch ra một cách rõ ràng, nhất là về mặt cung cấp lao động và về mặt nông phẩm xuất khẩu. Thực chất chương trình kinh tế của Pháp là kết hợp một số tư bản và kỹ thuật tương đối nhỏ với việc bóc lột chiến lược một nhân lực lớn dư thừa và rẻ của Bắc Kỳ cho việc phát triển các khu vực xuất khẩu đòi hỏi nhiều lao động.

Người Pháp đã đầu tư 14,2 tỷ phăng cho các quỹ công cộng ở Đông Dương cho đến năm 1939 và 11,6 tỷ đầu tư tư nhân, hầu hết đầu tư tư nhân đã vào sau năm 1918. Tác động xã hội của sự công nghiệp hóa tương đối nhỏ đó đã vượt quá rất nhiều vai trò kinh tế, bởi vì nó cấp tiến hóa một bộ phận có ý nghĩa của quần chúng nhân dân. Thủ tục và thực tiễn đầu tư của Pháp ở Việt Nam là quyết liệt và bóc lột nhất trong thế kỷ thứ XX. Một nửa đầu tư công cộng đi vào đường sắt và trong số 80.000 người lao động thuê để xây dựng con đường từ Hà Nội đến biên giới Trung Quốc, được khai thông năm 1910, gần 30 phần trăm đã chết khi làm việc.

Giai cấp công nhân của Việt Nam rất nhỏ, năm 1931 chỉ có 221.000 trong một nước có 17 triệu dân. Hơn một phần ba số công nhân đó làm việc trong các đồn điền, chủ yếu là cao su, với tư cách là công nhân hợp đồng bị tuyển mộ, đôi khi bằng vũ lực, chủ yếu từ các xã miền Bắc. Gần như tất cả đều phải chịu đựng gian khổ một cách kinh khủng khi làm việc. Thêm vào đó, 44.000 nông dân được tuyển mộ để làm việc ở Pháp những năm 1916 - 1918; khi họ trở về, các điều kiện hợp đồng lao động đã được "cải thiện" đến mức một công nhân ở Nam Kỳ nghỉ việc không có phép chưa được 48 giờ đã bị tù không quá 60 ngày? Cơ quan lao động quốc tế thông báo năm 1938 rằng lương "thấp một cách bất thường" trong suốt thời gian giữa hai cuộc chiến tranh. Trong bối cảnh như vậy, một giai cấp công nhân nhỏ nhưng với tinh thần chiến đấu cao đã xuất hiện, và những cuộc đình công chủ yếu là tự phát và những hoạt động của công nhân đã ngày càng trở nên thường xuyên trong suốt thập kỷ sau chiến tranh.

Những nông dân Bắc Kỳ làm ở các đồn điền hoặc hầm mỏ và xí nghiệp không thể thích nghi với chế độ làm việc nặng nhọc và phiền hà. Trước mỗi lễ Tết, nhiều người bỏ việc vĩnh viễn và các hầm mỏ thường phải thay phần lớn lực lượng lao động của mình sau ngày lễ. Số lao động được thay thường là tương xứng với điều kiện làm việc tồi tệ và điều này có ý nghĩa là số nông dân được tạm tuyển dụng làm công nhân nhiều hơn nhiều so với số công nhân được tuyển dụng thẳng. Tuy nhiên giai cấp công nhân chủ yếu là quá độ, rất chưa ổn định đó đã hấp thụ một cái gì đó từ đô thị và hầm mỏ, kể cả những tư tưởng ở những nơi dó, và những nông dân đi Pháp thì hoàn toàn tiếp xúc với những đường nét của một thế giới mới và những học thuyết của nó. Tri thức của họ được truyền cho nông dân, nhất là ở Bắc Kỳ, nơi sản sinh ra đại đa số công nhân. Ảnh hưởng của chủ nghĩa tư bản đối với Việt Nam do đó có tầm quan trọng lớn, tuy khó đánh giá bằng những tiêu chuẩn thông thường, đưa lại một sự tổng hợp ghép giữa nông dân và vô sản làm cho những quan niệm chính trị của nhiều bộ phận quần chúng nông thôn trở nên cấp tiến.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 24 Tháng Tám, 2008, 08:51:34 am
SỰ CHẬM PHÁT TRIỂN CỦA TƯ TƯỞNG VÀ SỰ CHỐNG ĐỐI

Về mặt ý thức hệ và văn hóa, khi chuyển sang thế kỷ này, Việt Nam đã trở thành nơi tập trung nhiều tư tưởng và triết lý của thế giới, kể cả những tư tưởng và triết lý thịnh hành ở Trung Quốc và Nhật Bản. Người Pháp du nhập vào Việt Nam tư tưởng bảo thủ của họ thông qua các hệ thống trường cơ sở mà họ bắt đầu thiết lập và một số sinh viên tuy nhỏ nhưng có ý nghĩa của những gia đình Việt Nam giàu có du học ở Pháp cũng mang về nước tư tưởng dân chủ hơn. Nhiều thứ lý thuyết như vậy tạo ra một mớ lộn xộn về khái niệm.

Đối với những nhà trí thức, việc đi tìm kiếm tư tưởng vừa là một sự tìm kiếm khách quan những biện pháp cho việc thúc đẩy lợi ích của Việt Nam chống lại những thất bại trước đó và những thách thức của chủ nghĩa thực dân, vừa là một phương tiện để thực hiện những tham vọng của họ. Bởi vì những nhà trí thức đều gắn liền với tầng lớp có học tương đối có đặc quyền và liên hệ cá nhân với địa chủ, tư sản thành thị, và giới quan liêu thuộc địa ngày càng đông, cho nên ý kiến và quan điểm của họ được hình thành theo lợi ích và khả năng giai cấp của họ. Tình trạng đó hạn chế sâu sắc sức lôi cuốn quần chúng của họ và đưa họ đến việc luôn luôn chấp nhận những thỏa hiệp tai hại, tạo điều kiện thuận lợi ngày càng nhiều cho Đảng Cộng sản.

Một lực lượng kỳ lạ nhất và chắc chắn là thành công nhất mà tình hình trên đây tạo ra là giáo phái Cao Đài. Thành lập năm 1925, Cao Đài hòa lẫn đạo Thiên chúa, đạo Phật, đạo Lão, đạo Khổng, thuyết duy linh, bói toán và thuyết thần bí với nhau và thu hút một phần mười đến một phần năm số dân của Nam Kỳ vào năm 1930. Các nhà lãnh đạo Cao Đài xuất thân từ tầng lớp trên của xã hội địa phương. Nhiều người chiếm những vị trí tương đối quan trọng trong bộ máy thuộc địa hoặc trong các tổ chức tư nhân của Pháp, hoặc họ cũng là những địa chủ và họ trùm lên trên giới lãnh đạo của đảng Lập hiến, một tổ chức thân Pháp một cách trung thành nhưng cũng ra sức giành những quyền kinh tế và hợp pháp cho tầng lớp trên có học của Việt Nam. Cơ sở quần chúng của Cao Đài là những bần nông sống ở những vùng ít chịu ảnh hưởng của chế độ ruộng đất Pháp và sẵn sàng chịu sự lãnh đạo tôn giáo gia trưởng của Cao Đài. Người Pháp cũng tỏ ra dễ dãi và đôi khi lợi dụng sự có mặt của Cao Đài, và trên bốn thập kỷ, Cao Đài là một lực lượng môi giới lớn nhưng rất địa phương hóa ở Nam Kỳ, biến tư tưởng, chính trị, nhu cầu xã hội của quần chúng, các cơ sở kinh doanh và tài sản của những người sáng lập thành một thứ pha trộn độc đáo nhưng thành công.

Không có phong trào trí thức không mác-xít nào khác có được ảnh hưởng như Cao Đài chỉ vì nó không có một cơ sở xã hội tương đương. Những cuộc nổi dậy địa phương của nông dân mà một ít nhà quý tộc có học lãnh đạo trong cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX hoặc ngay cả cuộc nổi dậy ngắn ngủi tháng 2 năm 1930 của Quốc dân đảng Việt Nam, chứng tỏ rằng Việt Nam có những phần tử trí thức yêu nước một cách dũng cảm. Nhưng họ thiếu một ý thức về kỷ luật và về thời cơ rất thiết yếu cho sự tồn tại và thắng lợi và do những sai lầm của họ mà người Pháp có thể đàn áp và gạt bỏ làm cho họ không còn là một nhân tố có ý nghĩa nữa.

Cuối cùng, bước đường tất yếu của những tư tưởng cổ truyền, thừa hưởng của Việt Nam, tư tưởng văn hóa, tôn giáo và trí thức, trở nên mòn mỏi và thụ động trước những biến đổi xã hội và chính trị của đất nước. Không có học thuyết không mác-xít nào xuất hiện mà có thể khắc phục những chiều hướng ly tâm của tư tưởng Việt Nam bằng một sự tổng hợp những quan niệm cổ truyền và hiện đại phù hợp với những biến đổi kinh tế và xã hội to lớn mà chủ nghĩa thực dân gây ra.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 24 Tháng Tám, 2008, 08:52:53 am
GIAI CẤP TƯ SẢN CHẬM PHÁT TRIỂN

Bên cạnh một giai cấp công nhân năng động chậm phát triển, một giới trí thức mơ hồ, manh mún và một giới nông dân ngày càng bị bần cùng hóa và thất thế dưới ách bóc lột của những địa chủ hoàn toàn không ổn định, xuất hiện một giai cấp tư sản Việt Nam nhỏ, mong manh và chậm phát triển một cách khác thường. Cách dễ nhất và chắc chắn nhất làm cho một người Việt Nam tham lam để thành công về mặt kinh tế là làm việc với bộ máy quan liêu thuộc địa.

Việc xây dựng một giai cấp tư sản dân tộc đã bị ngăn trở ở Việt Nam, cũng như ở toàn Đông Nam Á bởi vai trò lấn át của người Trung Quốc trong cơ cấu kinh tế. Được tổ chức một cách hợp pháp thành những bang tự trị, tự quản trên cơ sở năm khu vực chính mà từ đó người Trung Quốc di cư, vào năm 1930 họ đã hưởng quy chế nước được ưu đãi nhất và sau năm 1946 thì hưởng sự bình đẳng thực tiễn với người Pháp trong các vấn đề kinh tế. Các bang điều hòa tất cả các vấn đề về pháp lý và thuế khóa và là cơ sở chức năng cho hoạt động kinh tế của Trung Quốc, trong đó các tập đoàn gia đình Trung Quốc khác nhau kinh doanh. Các bang thường chia các ngành hoạt động kinh tế thành những độc quyền, giúp các thành viên của bang bằng một hệ thống tín dụng không chính thức nhưng rất hiệu quả. Các bang nắm phần lớn nền kinh tế thông qua vị trí lấn át của họ với tư cách là những nhà cho vay nặng lãi và họ hoạt động ở nông thôn với một phương thức mà giới quan liêu Pháp không thể làm được. Xay thóc, trồng thuốc phiện và tiêu, buôn gạo, bông và đường, xuất nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán, tất cả những hoạt động này đều rơi vào tay người Trung Quốc mà đến năm 1954 đã kiểm soát khoảng ba phần tư tất cả ngành buôn bán.

Người Pháp vừa phục vừa sợ người Trung Quốc, nhưng lại dựa mạnh vào họ để giải quyết các nhu cầu của mình, giảm bớt một phần thuế và nới rộng một phần việc quản lý tài chính. Bởi vì người Trung Quốc làm trung gian giữa bọn thực dân và những người thuộc địa và giúp cho chế độ của Pháp hoạt động có hiệu quả với tư cách là tư sản mại bản và như một giai cấp tư bản chủng tộc khác. Những nhà kinh doanh và cho vay nặng lãi Việt Nam hoạt động trong những kẽ hở của nến kinh tế nếu họ không trực tiếp gắn bó với các tập đoàn Trung Quốc. Còn những người Chà-và cho vay nặng lãi từ Ấn Độ cũng chỉ thu hẹp mảnh đất bị bóc lột mà thôi.

Mạng lưới của Trung Quốc hoạt động trên khắp Đông Dương, nhưng Sài Gòn (với khu vực Chợ Lớn toàn người Trung Quốc), Phnôm Pênh, Hải Phòng và Hà Nội là những cộng đồng chính của họ. Do đó Việt Nam đô thị chịu ảnh hưởng Trung Quốc rất mạnh về văn hóa và chủ yếu về kinh tế. Thỏa hiệp duy nhất của người Trung Quốc với xã hội địa phương là cưới, nếu cần, những phụ nữ bản xứ, và phần đông bọn họ duy trì quy chế hợp pháp của quốc tịch Trung Quốc, tuy đã trải qua nhiều thế hệ ở Việt Nam. Vì việc buôn bán với nước ngoài của họ đòi hỏi tiếp xúc với trong nước và với các bang và gia đình ở Hồng Công hoặc Xinh- ga-po, cho nên họ thấy cần thiết không được làm giảm nhẹ tính chất chủng tộc của họ.

Thực ra, Đông Dương, cũng như toàn bộ Đông Nam Á, là một địa bàn lớn cho những người nhập cư từ Trung Quốc để làm giàu và phần đông bọn họ không quan tâm cũng như không có xu hướng đồng hóa với địa phương. Số dân Trung Quốc ở Nam Kỳ tăng sáu lần từ 1879 đến năm 1928, khi tổng số người Trung Quốc ở toàn Đông Dương lên đến 402.000. Tuy nhiên, với sự xảy ra của cuộc đại khủng hoảng, 76.000 đã rời thuộc địa này trong 8 năm tiếp theo. Như vậy là thành phấn duy nhất có lợi nhất trong trật tự hiện có lại là thành phần dễ biến động và không trung thành bảo vệ trật tự đó.

Kết quả là không có một giới tinh túy kinh tế bản xứ và thống nhất đủ khả năng và sẵn sàng thiết lập một trật tự thể chế và một cơ cấu chính trị nhằm củng cố mình một cách độc lập với chế độ thực dân. Không có giai cấp tư sản dân tộc như kiểu giai cấp lãnh đạo phong trào độc lập ở Ấn Độ có thể xuất hiện ở Việt Nam. Giai cấp tiểu tư sản Việt Nam to lớn vừa là thứ yếu vừa là không ổn định, không có lợi ích gì trong chế độ và chỉ đủ thu nhập để nuôi dưỡng con cái.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 24 Tháng Tám, 2008, 08:53:31 am
Sự có mặt của Trung Quốc không còn để lại bao nhiêu chỗ cho một giai cấp tư sản Việt Nam mạnh. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, việc Pháp đưa tư bản vào đã mở ra những cơ hội cho những nhà kinh doanh, và người Trung Quốc không thể hoàn toàn loại trừ người Việt Nam. Nhưng người Pháp vẫn giữ thị trường địa phương cho lợi ích của chính mình và hạn chế phạm vi hoạt động kinh tế của giai cấp tư sản tại chỗ. Khi nhiều địa chủ Việt Nam đã làm giàu nhờ đầu cơ ruộng đất và cho vay nặng lãi, chuyển vào các đô thị thì họ thấy khó tham gia nền kinh tế phi nông nghiệp. Họ đưa con họ vào thành phố hoặc ngay cả sang Pháp để học tập. Họ là những người tiêu thụ ngày càng nhiều hàng hóa phương Tây và là những người làm theo những suy nghĩ của phương Tây. Gia sản của họ được xây dựng bằng khai thác ruộng đất, bằng một số dịch vụ và bằng nghề xây dựng và trên hết là bằng bộ máy quan liêu thực dân của Pháp mà họ phục vụ như những người cộng tác. Đến năm 1951, người Trung Quốc kiểm soát trên một nửa các xí nghiệp ở phía nam vĩ tuyến 17 và trên một nửa vốn đấu tư phi nông nghiệp, kể cả đầu tư của Pháp. Người Việt Nam chỉ chiếm đa số trong các xí nghiệp nhỏ nhất.

Giai cấp tư sản Việt Nam, cuối cùng không tìm được một vai trò rõ ràng hoặc một tính cách trong chế độ thực dân. Trong cuộc đại khủng hoảng, do thiếu vai trò quan trọng nên các hoạt động kinh tế của giai cấp đó đã bị thất bại. Trong tình hình như vậy, đại bộ phận giới trí thức Việt Nam thấy rằng sự cộng tác với Pháp, không nghi ngờ gì là con đường chắc chắn nhất để giành được nhiều của cải hơn. Tuy vậy một nhóm nhỏ hơn đòi hỏi một vị trí lớn hơn trong chế độ. Cố gắng quan trọng nhất trong nhiều cố gắng theo hướng đó là cố gắng của đảng Lập hiến trong suốt những năm 1920 đòi người Pháp để cho giới trí thức Việt Nam tham gia điều khiển bộ máy quan liêu và nền kinh tế. Gồm những nhà chuyên nghiệp có học thức, những địa chủ, những nhà buôn giàu có và những quan chức cấp cao, giai cấp tư sản hết lòng thân Pháp và công khai chống Trung Quốc đó được giao một số chức vụ danh nghĩa nhưng chưa bao giờ giành được những thời cơ kinh doanh quan trọng như họ đòi hỏi. Kết quả là một số tham gia đạo Cao Đài trong khi bản thân đảng của họ trở thành một lực lượng nhỏ bé, luôn luôn cộng tác với Pháp trong suốt những năm 1930.

Cuối cùng, Cao Đài, đảng Lập hiến và nhiều tổ chức tương tự chỉ còn là những phản chiếu của tình trạng lo âu day dứt của một nhóm tương đối nhỏ trong tầng lớp trên tham lam gồm những địa chủ, công chức, nhà chuyên nghiệp và những người đô thị giàu có cùng chung quan điểm chính trị, văn hóa và xã hội. Phần đông thành viên của tầng lớp đó, tuy vậy, không có xu hướng vận động quần chúng, ngay dù cho với danh nghĩa của chính họ, bởi vì quan tâm của họ chỉ quanh quẩn việc làm ra tiền và tiêu tiền mà thôi. Lóa mắt trước hàng hóa tiêu dùng của Pháp và những giá trị vật chất mà họ xem là gắn liền với nền văn hóa Gô-loa, những thành viên thực dụng của nhóm chóp bu Việt Nam đó không quan tâm gì đến việc thách thức nghiêm chỉnh bất kỳ nhà cầm quyền nào. Cộng tác với địch trong suốt lịch sử của Việt Nam là đặc điểm của vị trí xã hội và kinh tế không ổn định và không quan trọng của tầng lớp trên Việt Nam. Bị kẹt giữa những ông chủ thực dân và bọn mại bản Trung Quốc, họ không bao giờ có đủ quyền lực, sự cố kết, tính hợp pháp để lấp lỗ trống mà người Pháp đã tạo ra trên khắp Việt Nam. Cuộc đại khủng hoảng chỉ làm yếu thêm các cơ sở đã lung lay của họ cũng như đã làm yếu thêm toàn bộ trật tự xã hội mà Chiến tranh thế giới thứ hai sẽ hoàn toàn phá hủy.

Một sự khác biệt chủ yếu giữa cách mạng Trung Quốc và cách mạng Việt Nam là các người cộng sản Trung Quốc đương đấu với một kẻ thù khá đoàn kết tuyên bố có đủ tính hợp pháp quốc gia trong khi Việt Nam chẳng có gì có thể so sánh được với Quốc dân đảng (Trung Quốc) trên khắp đất nước. Giới thượng lưu đô thị và giới sở hữu ruộng đất Việt Nam kém đoàn kết và kém phát triển hơn Trung Quốc và sự khác biệt đó được biểu hiện trong việc không có một lực lượng chính trị quan trọng chống lại Đảng Cộng sản trong phần còn lại của thế kỷ.

Bế tắc của giới thượng lưu Việt Nam chỉ là một bộ phận của cuộc khủng hoảng phổ biến của trật tự thực dân, nó ảnh hưởng nghiêm trọng nhất đối với nông dân nhưng cũng gây tổn thương cho giai cấp công nhân có vị trí chiến lược và cho những nhà trí thức rất nổi tiếng nhưng bất lực. Do thiếu cơ sở chính trị và giai cấp của giới thượng lưu, nên cuộc khủng hoảng kéo dài tạo điều kiện cho sự xuất hiện của Đảng Cộng sản, bởi vì chính trong hàng nghìn thôn xã của những nông dân nghèo, trong các hầm mỏ và đồn điền cao su của những công nhân thiếu ăn và trong hàng ngũ những sinh viên và trí thức lo âu, say sưa thảo luận tương lai của Việt Nam mà bắt đầu cuộc đấu tranh dài nhất, có tính chất anh hùng ca của con người trong thế kỷ thứ XX.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 24 Tháng Tám, 2008, 08:54:31 am
Chương hai
ĐẢNG CỘNG SẢN CHO ĐẾN NĂM 1945:
TỪ ĐẠI KHỦNG HOẢNG CHO ĐẾN CHIẾN TRANH

Cho đến năm 1945, Đảng Cộng sản có một lịch sử với quá ít thắng lợi để biện hộ cho tinh thần lạc quan của gần bốn nghìn đảng viên trong năm 1944. Nhiệm vụ quan trọng đặt ra cho Đảng trong hai thập kỷ đầu là phát triển một chiến lược để tồn tại trước một chế độ đàn áp nhằm vào các lực lượng và các tiềm năng xã hội. Khả năng kiên trì của Đảng, trong khi thời gian và hoàn cảnh gây tổn thương cho kẻ thù, đã trở thành một mặt quan trọng trong lý thuyết và thực tiễn của Đảng. Thường vai trò của Đảng không phải là lãnh đạo các sự kiện nhưng đáp ứng và thích nghi để rồi hướng dẫn các sự kiện. Đảng trở thành vừa là người lãnh đạo vừa là người theo quá trình của lịch sử.

Tài năng độc đáo nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự nhận thức về mặt quốc tế trong sự phân tích và hành động của mình. Đảng tin rằng sức mạnh của Đảng và số phận kẻ thù sẽ phụ thuộc ở một mức độ trọng yếu vào các sự kiện và các lực lượng nằm ngoài phạm vi trực tiếp của Việt Nam, phản ánh những mâu thuẫn nội bộ ở Pháp và sau đó ở Mỹ cũng như cán cân lực lượng thế giới. Ý thức quốc tế của Đảng là sợi chỉ trung tâm trong suốt quá trình rèn luyện của mình.

NHỮNG CƠ SỞ TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG

Những ảnh hưởng đối với sự phát triển hệ tư tưởng của Đảng rõ ràng là khá phức tạp nên không thể đánh giá một cách đơn giản. Cuộc khủng hoảng văn hóa sâu sắc trong thời kỳ giữa hai cuộc chiến tranh đã tầm thường hóa những tư tưởng xã hội cũ và đưa vào một số lớn các tư tưởng mới. Rất khó nếu muốn tách ra một cách rành mạch tác động của chủ nghĩa mác-xít lê-nin-nít, của những tư tưởng xã hội Việt Nam biểu hiện trong đạo Khổng và trong chủ nghĩa dân tộc hay là của những truyền thống cấp tiến Pháp, bởi vì Đảng chưa nhất thể hóa các loại ảnh hưởng khác nhau trong một hệ thống thống nhất. Thiên tài của Đảng là đã sản sinh ra những nhà chiến lược lỗi lạc, trước hết là Hồ Chí Minh (Chú thích: Để tránh nhầm lẫn, tôi xin dùng tên sau năm 1940 của Người: Hồ Chí Minh hoặc đơn giản hơn là “Hồ"-TG.), phản ánh một cơ cấu lãnh đạo ổn định và hợp tác của Đảng và Đảng cũng đã tạo ra một quan niệm độc đáo và chi tiết cho hành động cách mạng của mình. Hồ Chí Minh là hiện thân cho các dòng tư tưởng hình thành tư tưởng của Đảng và khả năng của Người khuyến khích những tư tưởng và chiến lược linh hoạt đã tạo ra một khả năng tiếp thu rộng rãi nhiều di sản. Chính thái độ tiếp thu rộng rãi đó của các nhà lãnh đạo đã đưa đến một đảng quần chúng ngày càng rộng rãi của cánh tả tương đối ít bị chia rẽ về mặt lý luận. Hồ Chí Minh luôn luôn lập luận rằng vai trò của Người và vai trò của tất cả các nhà lãnh đạo phải phụ thuộc vào vai trò của Đảng, bảo đảm rằng không nhân vật kém khiêm tốn nào có thể làm nguy hại đến tính chất độc lập của Đảng. Có lẽ đóng góp lớn nhất của Người chính là khả năng của Người thấy rõ những giới hạn của các nhân vật và các cá nhân, và xác định rõ cơ cấu làm ra quyết định của Đảng là tập thể các nhà lãnh đạo và các đảng viên cấp thấp hơn. Phong cách giấu mình đó đã làm cho Người càng được quần chúng tín nhiệm hơn bởi vì đó là phong cách vừa quá hiếm có vừa rất đáng tin. Thực vậy phong cách đó làm cho Người xứng đáng là một nhà tổ chức lê-nin-nít duy nhất, chân chính và quan trọng, xuất hiện từ phong trào cộng sản quốc tế.

Không đánh giá thấp vai trò của các tư tưởng khác, những tư tưởng quốc tế của Đảng đã ảnh hưởng sâu sắc đến giai đoạn phát triển đầu tiên và quyết định của Đảng cho đến năm 1940, khi mà những sự kiện của thế giới đã tác động đến số phận của Việt Nam. Hồ Chí Minh rời Việt Nam năm 1911 và ba thập kỷ tiếp theo đã liên hệ với Việt Nam từ bên ngoài biên giới; Người đi vào chủ nghĩa mác-xít lê-nin-nít ở Pháp. Tác động qua lại của Người với thế giới, tuy khá khác với Xta-lin hoặc Mao chỉ hoạt động trong nước, đã kết hợp chủ nghĩa quốc tế và chủ nghĩa yêu nước mà về sau trở thành tiêu biểu của Đảng. Sự sụp đổ của trí thức Việt Nam cổ truyền đã từng tồn tại lâu đời và ảnh hưởng tiến bộ của Pháp đối với nhiều sinh viên hoặc sang Pháp học hoặc đọc trong nước những nhà văn tiến bộ Pháp đã củng cố những ảnh hưởng quốc tế. Vì nhóm thanh niên đầu tiên của Đảng chủ yếu là những nhà trí thức nên lúc đầu để thu hút những người cùng chí hướng, lý thuyết đóng một vai trò quan trọng hơn nhiều so với giai đoạn sau, khi mà những yêu sách cụ thể của Đảng bắt đầu lôi cuốn quần chúng.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 24 Tháng Tám, 2008, 08:55:07 am
Trong suốt lịch sử của Đảng, Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo khác lập luận rằng chủ nghĩa yêu nước phù hợp với chủ nghĩa quốc tế vô sản và với công cuộc chống thực dân, do đó phù hợp với lợi ích của những người cộng sản ở tất cả các nước, nhưng chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi là phản động. Đảng Việt Nam làm mọi điều có thể làm được để tránh bất kỳ dính dáng nào đến chủ nghĩa sô-vanh.

Chủ nghĩa Mác, đã ảnh hưởng lớn đến Đảng, nhưng chính vì phải cùng tồn tại với nhiều ảnh hưởng trong nền văn hóa nên chủ nghĩa Mác trở thành một phương pháp luận hơn là một học thuyết chính xác trong mọi vấn đề. Ảnh hưởng lớn nhất của chủ nghĩa Mác là đối với những người trong nhà tù là nơi mà việc nghiên cứu chủ nghĩa Mác đã trở thành điều mà về sau Hồ Chí Minh gọi là "biến điều xấu thành điều tốt" Vì Ban Chấp hành Trung ương của Đảng được bầu trong Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lấn thứ ba năm 1960 đã chịu tổng cộng 222 năm tù hoặc đày, nên ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác, mỉa mai thay, có thể được xem như một trong những đóng góp của Pháp vào việc xây dựng hệ tư tưởng.

Chỉ có Đảng Việt Nam mới luôn luôn nhấn mạnh một cách sâu sắc những tiêu chuẩn của tư cách đạo đức con người và trách nhiệm của cá nhân và của Đảng đối với nhau. Tuy những năm sau đó, Đảng phải đối phó với những đảng viên thuộc những lý thuyết đáng phê phán hơn như những người Tờ-rốt-kít và những người tôn giáo ở đồng bằng sông Cửu Long, những khả năng phát triển Đảng càng nhiều càng tốt chung quanh một chương trình khiêm tốn đã phản ánh ngay từ đầu tình trạng không bè phái trong Đảng. 

Sức mạnh thực sự của Đảng, cuối cùng, là khả năng của Đảng giải quyết nhu cầu giai cấp của đa số đất nước. Và tính độc đáo của Đảng đã xuất hiện không phải từ học thuyết mác-xít trừu tượng mà từ sự phát triển của học thuyết đó sau năm 1945 thành những quan niệm mới, thành những hình thức tổ chức để thực hiện học thuyết, thành một Đảng mác-xít lê-nin-nít với mối quan hệ của cá nhân với nhau, với Đảng và với quá trình chuyển biến lịch sử to lớn hơn.

Hệ tư tưởng cách mạng và nền văn hóa ở Việt Nam biểu hiện bằng nhiều mặt khác nhau bên cạnh chủ nghĩa mác-xít lê-nin-nít: thơ ca, kinh nghiệm nhà tù, ý nghĩa của ruộng đất và những sắc thái của nó và tính liên tục của những truyền thống quan trọng. Những người cộng sản tránh chủ nghĩa sô-vanh và do đó sớm xác định mối quan hệ của Việt Nam với phong trào và tư tưởng thế giới. Những người cộng sản sẵn sàng bảo vệ một số mặt của nền văn hóa hiện có nhưng cũng rất thiết tha thay đổi phần lớn nó. Tuy vậy, khi bắt đầu, chủ nghĩa Mác ở Việt Nam thừa kế một gia sản trí thức chuyển tiếp để sản sinh ra một phong trào cách mạng còn bé nhỏ. Trước sự thay đổi kinh tế và xã hội nhanh chóng của xã hội Việt Nam, những người cộng sản cần phải đủ sức để tổng hợp càng nhiều dòng tư tưởng cũ, cấp tiến và có ích càng tốt và để xử lý với tác động của những phát triển không thể kiềm chế đó.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 24 Tháng Tám, 2008, 08:55:59 am
NHỮNG NĂM l930 VÀ SỰ XUẤT HIỆN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN ĐÔNG DƯƠNG

Trước Chiến tranh thế giới thứ hai, những người cộng sản chịu đựng một thời gian dài, khó nhọc của sự rèn luyện và thử thách. Hồ Chí Minh ở Trung Quốc và Liên Xô cũng gián tiếp chịu phần thử thách đó, và các thất bại của những người khác khẳng định sự nhìn xa thấy rộng và sự khôn ngoan của Người khi Người tự tách mình ra và có lúc vì những mục tiêu thực tiễn, làm cho không ai chú ý đến.

Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Lê-nin qua vấn đề thuộc địa mà Lê-nin là người đầu tiên cho đó là vấn đế trọng yếu của cách mạng thế giới. Hồ Chí Minh công khai chỉ trích các Đảng Cộng sản Tây âu vì đã bàng quan với vấn đề đó, đặc biệt là với chủ nghĩa đế quốc của chính đất nước họ. Và sự nhấn mạnh như vậy đối với chủ nghĩa thực dân có nghĩa là phải thích nghi với thực tế rằng quần chúng thuộc địa là một lực lượng mà tối đa là nông dân cho nên sự nhấn mạnh của Quốc tế cộng sản đối với vai trò thiết yếu của giai cấp vô sản vừa không thích đáng vừa không phù hợp với tương lai của phong trào cộng sản châu Á.

Những vấn đề thuộc địa và nông dân trên thực tế không thể tách rời nhau. Trong một tiểu luận xuất sắc và độc đáo năm 1927, Hồ Chí Minh đã đi thẳng vào thế khó xử cơ bản của Đảng của giai cấp vô sản trong một nước nông dân, tức là làm thế nào cho nông dân đi được với chiến lược của Đảng, Hồ Chí Minh lập luận rằng không thể không làm như thế được. Ngay cách mạng tư sản dân tộc cũng không thể một mình thành công được. Đảng của giai cấp vô sản phải uốn nắn những hành động tự phát, riêng rẽ và phôi thai về chính trị lúc ban đầu của nông dân cho phù hợp với các chương trình đặc biệt và để phối hợp chúng với công việc của Đảng ở các trung tâm công nghiệp. Hồ Chí Minh đã dự kiến trước tất cả các vấn đề chiến lược tương lai thiết yếu của Cách mạng Việt Nam từ cơ sở chính trị của tình trạng chiến tranh đến mối liên hệ của thành thị với nông thôn.

Nhờ sự đánh giá lê-nin-nít đúng đắn về mặt tổ chức, Hồ Chí Minh đã hiểu ngay tính chất rộng lớn và sự phân tán bên trong của Việt Nam và do đó mà cần thiết phải rất linh động. Kết quả là sự đa dạng của chiến thuật chống chủ nghĩa thực dân. Tuy nhiên phải mất đến một thập kỷ Đảng mới hoàn toàn tán thành quan điểm của Người, tính độc lập của Người đã biểu hiện rõ ngay vào cuối những năm 1920. Hồ Chí Minh đã trở thành một trong những nhân vật xuất sắc nhất của thời hiện đại.

Trong thời gian ở Trung Quốc từ năm 1925 đến năm 1927 với tư cách là đại diện của Quốc tế cộng sản, Hồ Chí Minh đã tìm cách thành lập tổ chức Thanh niên trong số những người Việt Nam lưu vong, nhưng ngay ở Việt Nam cũng xuất hiện nhiều nhóm độc lập tự xưng là Cộng sản của một nhóm những sinh viên ở đô thị thuộc nguồn gốc tư sản, và cũng giống như những tổ chức riêng lẻ khác, các nhóm đó sớm tranh giành với nhau vì những vấn đề bè phái. Chương trình của Thanh niên không có những yêu sách gì quá to lớn: nó chỉ muốn một mặt trận thống nhất rộng rãi chống thực dân do công nhân và nông dân lãnh đạo. Trong khi còn cần phải khắc phục thực tế về tính chất chưa quan trọng và còn là quá độ của giai cấp công nhân, rõ ràng từ năm 1927 Hồ Chí Minh đã đặt hy vọng nhiều vào giai cấp công nhân. Nhưng nhóm Thanh niên đã bị tiêu diệt hoàn toàn ở Trung Quốc sau năm 1927, còn ở Việt Nam, những người còn lại tiếp tục hoạt động trong phạm vi giai cấp công nhân nhỏ bé. Một số các thành viên Thanh niên trước kia của Người, được học tập ở Mát-xcơ-va đã tán thành đường lối sau năm 1928 của Quốc tế cộng sản nhằm nhấn mạnh tính chất thuần túy của giai cấp vô sản và hạn chế cơ sở hợp tác với các giai cấp khác, đã sớm nắm quyền lãnh đạo.

Hồ Chí Minh tổ chức cuộc họp thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 2 năm 1930 ở Hồng Công, đưa ba phái riêng rẽ lại với nhau, viết ra tuyên ngôn và lời kêu gọi đầu tiên của Đảng. Tuyên ngôn làm rõ giai cấp vô sản là giai cấp lãnh đạo trọng yếu, nhưng cũng nhấn mạnh một cách rõ ràng sự cần thiết phải liên minh với nông dân bằng một cuộc cách mạng ruộng đất chống lại địa chủ lớn, phong kiến và đế quốc, nhưng miễn trừ phú nông, trung nông và bần nông và cả giai cấp tư sản dân tộc. Tiếp xúc với những giai cấp như vậy để rồi vô hiệu hóa họ là chiến thuật rõ ràng và cơ bản nhất của Đảng, tức là chiến thuật thành lập các mặt trận thống nhất. Độc lập dân tộc và các vấn đề ruộng đất như vậy là được gắn với nhau như phương tiện và mục đích. Về thực chất, cương lĩnh tương lai của Đảng đã được công bố, nhưng sau một số tháng, Quốc tế cộng sản tố cáo cương lĩnh đó là không nguyên tắc và đến tháng 10, cương lĩnh đã được sửa đổi nhiều nhưng chưa phải là hoàn toàn khi một cương lĩnh được Quốc tế cộng sản tán thành đã được đưa ra cùng với một số nhà lãnh đạo đã được lựa chọn và buộc phải đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Ít nhất là trong ba năm tiếp theo nữa, Hồ Chí Minh đã bị chỉ trích vì bị cho là theo chủ nghĩa cải lương và đã đi vào bóng tối hầu như hoàn toàn cho đến năm 1939. Về sau Hồ Chí Minh và Đảng đưa ra công khai nhiều lời phê bình các chính sách thời kỳ 1931-1939 của Đảng.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 24 Tháng Tám, 2008, 08:56:46 am
Ở Trung Kỳ có một thành phố công nghiệp quan trọng bị ảnh hưởng nặng nề vì cuộc đại khủng hoảng, đó là Vinh. Những hoạt động của Đảng trong giai cấp công nhân ở đó chỉ bắt đầu trong tháng 3 năm 1930, khi hai nhà tổ chức được phái đến. Họ nhanh chóng tìm cách thành lập một chi bộ và chi bộ đã vạch kế hoạch cho các cuộc biểu tình ngày 1 tháng 5. Vì nhiều công nhân thực sự là những nông dân mới chuyển sang, nên gia đình và bạn bè của họ nhanh chóng bị lôi kéo vào. Mùa màng thiệt hại nặng năm 1929-1930 đã làm cho họ không sao chịu nổi nợ nần và thuế khóa. Ba cuộc tuấn hành ngày 1 tháng 5 đã trở thành những cuộc tập hợp của quần chúng và cuộc đàn áp ngay tức khắc của Pháp đã sát hại 12 người. Cả khu vực rực cháy trong nhiều tháng khi những cuộc biểu tình lớn dẫn đến những cuộc đàn áp tàn bạo và đồng thời cũng kéo theo sự phản đối tăng lên. Các cơ quan thuế và hành chính cùng với các hồ sơ đã bị phá hủy, những rừng cờ đỏ xuất hiện khắp nơi cùng với những khẩu hiệu của Đảng. Khi bộ máy của Pháp rút lui ra khỏi khu vực tàn sát, quần chúng mà đa số là nông dân, do các nho sĩ và sinh viên tham gia Đảng lãnh đạo đã nhanh chóng thành lập các Xô-viết để nắm quyền. Vào tháng 10, khi người Pháp bắt đầu đàn áp mạnh mẽ cuộc nổi dậy thì nhiều tổng và xã đã nằm trong tay các Xô viết. Bị kẹp giữa đàn áp và nạn đói, chính quyền cách mạng bị tan vỡ vào mùa đông và mùa xuân tiếp theo. Cuối cùng ít nhất 1.300 người đã bị Pháp giết và, số người bị tù và bị đày gấp nhiều lần con số đó. Trong những tháng cuối cùng của chính quyền Xô-viết, các đảng viên mới và những người cảm tình của Đảng chống lại nhau và bần cố nông thì trả thù những láng giềng giàu hơn của mình, chia rẽ thôn xóm đã từng rất đoàn kết trước đó. Cuối cùng, hầu như Đảng không còn gì lại trong khu vực.

Các lực lượng của Đảng nằm ngoài khu vực thì bị bất ngờ và tuy Đảng cho rằng việc thành lập các Xô-viết là quá sớm và không khôn ngoan, nhưng Đảng không thể chỉ trích. Công khai thì Đảng Cộng sản Đông Dương ủng hộ các người nổi dậy Nghệ Tĩnh. Có chứng cớ đầy đủ rằng nhiều đảng viên địa phương cũng như các đảng ủy địa phương không biết đến đường lối mặt trận thống nhất chung của Trung ương Đảng đối với phú nông và trung nông và đối với trí thức mà các đảng ủy địa phương đuổi ra ngoài. Quan trọng hơn là không có dấu hiệu nào cho thấy rằng những lệnh trực tiếp của Ban Chấp hành Trung ương đã đến địa phương trước khi các sự kiện tiến triển đến mức không thể đảo ngược được nữa và cũng không có dấu hiệu nào cho thấy các người nổi dậy đã tuân theo chỉ thị sau đó.

Không nghi ngờ gì, Ban Chấp hành Trung ương Đảng không còn kiểm soát được cuộc nổi dậy lớn nhất của nông dân trong thời gian giữa hai cuộc chiến tranh. Trong mùa xuân năm 1931, toàn bộ Ban Chấp hành Trung ương bị bắt cùng với hầu như tất cả các ủy viên của ba xứ ủy. Nhiều người đã bị giết. Hồ Chí Minh bị bắt ở Hồng Công và phải ngồi tù hai năm. Khoảng 10.000 tù chính trị bị giam trong các nhà tù của Pháp năm 1932. Với Ban Chấp hành Trung ương lâm thời bị dày, Đảng Cộng sản Đông Dương trên thực tế đã ngừng hoạt động. Bài học của Nghệ Tĩnh là đơn giản, nhưng văn học về sau viết về Nghệ Tĩnh không phải đơn giản như vậy. Tuy về sau Hồ Chí Minh gọi sự kiện đó là một giai đoạn tập dượt cho Cách mạng tháng Tám 1945, nhưng lúc đó cả Người lẫn những nhà lãnh đạo Đảng có óc bè phái hơn đều cho là không còn hy vọng và nguy hiểm cho chiến lược mặt trận đoàn kết rộng rãi hơn. Trên thực tế Nghệ Tĩnh cho thấy tính tất yếu và những nguy hiểm to lớn của những hành động quần chúng tự phát đối với tương lai của Đảng và làm rõ rằng Đảng phải lãnh đạo các sự kiện như vậy đi vào những mục tiêu có ý thức để tránh những hậu quả không lường được, thậm chí rất tai hại.

Cho đến khi những bài học đắng cay của những năm 1930, kể cả bài học về những nguy hiểm của sự tuân theo quá triệt để những chính sách của Quốc tế cộng sản được nhận thức và tiếp thu đầy đủ và cho đến khi nổ ra cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai thì không thể có một hệ thống tổ chức chặt chẽ, một chiến lược động viên, một cơ quan lãnh đạo, thậm chí một hệ tư tưởng sâu sắc được. Trên một mức độ lý thuyết nào đó cuộc đấu tranh để sống sót đã làm cho các đảng viên không còn thì giờ để có những phân tích cơ bản, và sự áp dụng máy móc của những thanh niên Việt Nam được Liên Xô huấn luyện và được đưa vào lấp chỗ trống trong cơ cấu tổ chức, cũng chẳng đưa lại lợi ích gì. Hoạt động thường là từ những khu vực an toàn ở Thái Lan hoặc Trung Quốc, các nhà lãnh đạo mới của Đảng bắt đầu xây dựng một hệ thống mặt trận hợp pháp khác và một cơ cấu bí mật ở Việt Nam.

Sự cần thiết phải có một tổ chức ưu việt hơn là rất rõ, nhưng cấp bách hơn vẫn là sự cân đối đầy sắc thái giữa ngọn cờ độc lập dân tộc với ngọn cờ chống phong kiến, và sự nhấn mạnh của Quốc tế cộng sản vào các hoạt động mặt trận đoàn kết chống phát xít sau tháng 7 năm 1935 là nhằm đáp ứng nhu cầu đó, tuy rằng trên thực tế nó có những hậu quả vừa chia rẽ vừa tích cực. Cuộc bầu cử tháng 5 năm 1936 của Mặt trận bình dân ở Pháp với những chính sách cai trị thực dân dễ dãi hơn đã giúp cho quá trình đó và cho Đảng phát triển. Trên khắp đất nước Việt Nam, Đảng đã thành lập một mạng lưới mặt trận rộng lớn nhưng đồng thời cũng duy trì một hệ thống chi bộ bí mật của Đảng nhằm chống lại sự đàn áp mà Đảng tin rằng chắc chắn sẽ xảy ra. Đảng cũng xây dựng những tổ chức và chi bộ của giai cấp công nhân và nông dân và Đảng đã đóng vai trò quan trọng trong các cuộc bãi công và biểu tình trong suốt thời kỳ nửa hợp pháp từ giữa năm 1936 đến khi nổ ra cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai tháng 9 năm 1939. Vào lúc đó Đảng đã tự xây dựng lại và lớn hơn khi được thành lập. Mặc dù có những thất bại và những vấn đề của giai đoạn 1936 - 1939 như việc Đảng tạm thời hạ thấp những yêu sách ban đầu để tránh làm tổn thương đến sự đoàn kết với giai cấp tư sản dân tộc, Đảng đã đi vào một tổ chức và phong cách thành công, nhất là đối với các nhóm mặt trận. Quan trọng nhất là đã có một ban lãnh đạo mới và sáng tạo hơn nắm quyền trong Đảng. Tóm lại, Đảng đã trở nên khôn ngoan, linh động và trưởng thành hơn nhiều sau một thời gian dài và tổn thất của những sai lầm ấu trĩ.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 24 Tháng Tám, 2008, 08:57:35 am
ĐẢNG VÀ CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI
VẤN ĐỀ ĐỘNG VIÊN

Chiến tranh thế giới thứ hai đã ngay tức khắc phá hoại cơ cấu thực dân Pháp ở Đông Dương, và sự cộng tác của Vi-si với Đức bắt đầu từ tháng 6 năm 1940 và với Nhật Bản sau khi đồng ý trong tháng 9 năm 1940 cho Nhật đóng quân, đã làm mất một cách rất tai hại tính hợp pháp của chế độ cũ, khi chống chủ nghĩa thực dân trở nên đồng nghĩa với chống phát xít. Trước và sau khi Hồ Chí Minh trở về Việt Nam tháng 2 năm 1941 và Mặt trận Việt Minh được thành lập tháng 5 năm 1941, quyết định chiến lược cơ bản đứng trước Đảng là mối quan hệ của vấn đề nông dân và ruộng đất với vấn đề mặt trận đoàn kết, độc lập dân tộc và cơ cấu giai cấp hiện có, nhất là vị trí của các địa chủ lớn hơn và của cái gọi là giai cấp tư sản dân tộc. Đảng quyết tâm tránh bị cô lập về chính trị và làm cho mặt trận đoàn kết trở thành một mục tiêu tối cao trong chiến lược của mình. Đảng cho rằng càng thu hút được nhiều thành phần vào mặt trận đoàn kết bao nhiêu thì càng giảm bớt được kẻ thù tiềm tàng thách thức Đảng bấy nhiêu. Các vấn đề này tiếp tục tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau trong 35 năm nữa.

Khi chiến tranh nổ ra, Đảng chỉ thị cho các đảng viên rút vào bí mật, nhưng trên hai nghìn người vẫn bị bắt, kể cả nhiều nhà lãnh đạo chủ chốt đã từng trung thành với các chính sách của Quốc tế cộng sản. Tất cả các nhóm chống thực dân nhỏ khác đã bị bắt vào nhà tù hoặc bị đày hoặc trở thành những người cộng tác với Nhật - Pháp, vì thế mà Đảng không còn đối thủ. Đảng sớm bắt đầu phát triển, động viên những người đã không bị trói buộc bởi sự mơ hồ về học thuyết trong thập kỷ trước. Điều quan trọng hơn là các nhà lãnh đạo mới của Đảng là những người không bè phái phù hợp về mặt chính trị cũng như về mặt cá nhân với lòng tin của Hồ Chí Minh là người đã thấy những đặc tính của các điều kiện ở Việt Nam. Trường Chinh, Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp ở trong số những nhà lãnh đạo mới đó. Từ thời gian này trở đi, đã xuất hiện một giới lãnh đạo có học, hợp tác và sáng tạo, không bị vướng tính ích kỷ, và được kéo dài liên tục trong bốn thập kỷ tiếp theo. Sự hòa hợp giữa các nhà lãnh đạo đó trở thành một nguồn cơ bản cho sức mạnh của Đảng và là một lý do chính tại sao Đảng tránh được những rắc rối về lãnh đạo đã từng gây tai họa cho các Đảng mác-xít lê-nin-nít khác.

Để tìm cách xác định một chương trình và những chiến thuật nhằm làm chủ các thay đổi đang giày vò Việt Nam sau năm 1941, Đảng cố gắng hướng dẫn lịch sử và thường là không để bị xóa bỏ bởi các lực lượng không thể kiểm soát nổi và bởi chính sự yếu kém ban đầu của mình. Tuy nhiên, những sai lầm vẫn tiếp tục gây tổn thất to lớn và không sự kiện nào khác minh họa tình hình đó tất hơn là cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ ở đồng bằng sông Cửu Long mà Xứ ủy Nam Kỳ đã bắt đầu vạch kế hoạch tháng 7 năm 1940. Những sự kiện trong sáu tháng tiếp theo bộc lộ những nguy hiểm vốn có trong một tình hình mà sự phối hợp giữa những ban chấp hành cao hơn của Đảng với các khu vực nông thôn xa xôi rất tế nhị và Đảng thì không thể kiềm chế các tổ chức địa phương của mình.

Cả Xứ ủy và Ban Chấp hành Trung ương đều cố gắng hoãn cuộc nổi dậy lại, nhưng do Xứ ủy chia rẽ và dao động, nên cuộc nổi dậy bắt đầu cuối tháng 1 và kéo dài gần hai tháng trong một khu vực rộng của đồng bằng. Các ủy ban cách mạng nắm quyển và chia lại ruộng đất ở một số vùng. Nếu tính chất cuộc nổi dậy đó không kém tự phát hơn cuộc nổi dậy Nghệ Tĩnh một thập kỷ trước đó, điều rất rõ ở cả hai trường hợp là một khi quá trình đấu tranh đã bắt đầu thì những cấp cao nhất của Đảng không thể lãnh đạo được. Sự cản trở và tình hình giao thông liên lạc nghèo nàn làm cho không thể có sự kiểm soát tập trung, nhất là đối với Đảng bộ khá độc lập ở miền Nam. Khi Pháp bắt gần sáu nghìn người và giết hàng trăm người, kể cả nhiều nhà lãnh đạo chủ chốt của Đảng, thì điều rõ ràng là toàn Đảng phải trả giá rất cao cho những hành động mà Đảng cho là không đúng lúc và không đúng đắn. Đảng bộ Nam Kỳ đã từng là mạnh nhất ở Việt Nam, bây giờ bị tan nát và phải nhiều năm mới xây dựng lại được.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 24 Tháng Tám, 2008, 08:58:36 am
Thách thức lớn nhất đối với một đảng cách mạng muốn quyết định kết quả của những quá trình lịch sử là sự căng thẳng giữa ý muốn làm chủ tình hình với tính tự phát của những thay đổi. Dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, Đảng còn phải đương đầu trong bốn năm nữa với thế khó xử đó bằng cách theo đuổi một chiến lược thận trọng để sử dụng tốt nhất tổ chức đã bị suy yếu của mình.

Trong một thời kỳ đầy rẫy những thay đổi đột ngột và mọi thứ khả năng, khía cạnh đáng chú ý nhất của chiến thuật Việt Minh là mặc dù họ không thể duy trì Đảng trong những khu vực rộng lớn nhất là trong các đô thị, nhưng cuối cùng thời gian và cán cân lực lượng quốc tế trở thành có lợi cho chiến lược cơ bản của Đảng.

Chính ý thức sâu sắc của Đảng về những tác động của bối cảnh toàn cầu và của vị trí địa lý chính trị đối với Việt Nam, dựa trên sự phân tích vế ý nghĩa chiến tranh đối với Pháp và về trật tự thế giới trước năm 1939 đã xác định những chiến thuật và chiến lược của Đảng. Những sự kiện từ lúc Đảng bị khủng bố phải rút vào vùng dân tộc thiểu số dọc theo biên giới Trung Quốc hoặc hoạt động bí mật trong vùng đông dân do Pháp và Nhật chiếm đóng cho đến lúc Đảng giành lại được Việt Nam tháng 8 năm 1945 là những sự kiện đáng chú ý nhất của toàn bộ cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Những sự kiện đó bộc lộ rằng vai trò của những người có ý thức về mình cũng như những tổ chức sẽ hoặc là có tính chất quyết định hoặc là chẳng có tác dụng gì như thế nào từ một hoàn cảnh này sang một hoàn cảnh khác.

Cương lĩnh của Việt Minh giảm nhẹ vấn đề ruộng đất để lôi kéo càng nhiều thành phần khác nhau càng tốt, kể cả những địa chủ, vào các tổ chức mặt trận của họ. Cương lĩnh đó đề nghị chia lại chỉ ruộng đất của người Pháp và bọn tay sai, nhưng việc Việt Minh không kiểm soát được chặt chẽ vùng đồng bằng đã làm cho ngay những mục tiêu khiêm tốn đó cũng khó mà thực hiện được. Quan trọng hơn nhưng cũng dễ thực hiện hơn là vấn đề giảm tô và giảm tức những vấn đề sống còn của nông dân. Vì vậy khi Đảng giảm nhẹ cương lĩnh nông dân để xúc tiến liên minh yêu nước, Đảng không hề bỏ cương lĩnh đó. Dù có những thất bại ở một số vùng nhưng Việt Minh đã trở thành đồng nghĩa với sự chống lại trên phạm vi toàn quốc một trật tự thực dân đã mất tín nhiệm đang liên minh với chủ nghĩa đế quốc Nhật Bản. Sự cộng tác của Cao Đài và Hòa Hảo với Nhật Bản và Pháp đã làm cho hai lực lượng duy nhất có cơ sở trong giai cấp nông dân đó mất tính hợp pháp của họ và những đảng nhỏ thuộc tầng lớp trên cũng như thuộc hoàng tộc đều theo con đường tương tự, hòa hợp với bọn cầm quyến nên cuối cùng tự tiêu diệt mình.

Thắng lợi của Đảng vào thời điểm quyết định này trong lịch sử của mình là do kết quả của khả năng tồn tại của Đảng về phương diện vật chất cũng như chính trị trong một khoảng trống chính trị. Nhưng, những thành tựu của Đảng là tương đối và gắn liền với khả năng của Đảng hiểu và đáp ứng cán sự kiện rộng lớn quanh Đảng, dù là đáp ứng một cách thận trọng. Số lượng đảng viên vẫn còn rất nhỏ, có lẽ hai hoặc ba nghìn vào năm 1944. Khu vực căn cứ của Đảng bị tách rời và quân đội thì còn nhỏ bé. Tổ chức đô thị của Đảng bị tổn thất và thất thường mặc dù Đảng có quan hệ tốt với sinh viên và trí thức.

Và tháng 8 năm 1942 Hồ Chí Minh đi Trung Quốc để tìm kiếm sự ủng hộ của Đồng minh, nhưng bị bắt và sau 14 tháng trong các nhà tù Trung Quốc, thường là trong tình cảnh không sao tả xiết, và một năm nữa bị hạn chế đi lại. Người đã trở về Việt Nam tháng 9 năm 1944. Trong khi đó thì sức mạnh tập thể của Đảng, và ý thức về những hạn chế và những thuận lợi của mình đã làm cho Đảng tồn tại và phát triển.

Chiến tranh thế giới thứ hai gây ra cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa thực dân ở Đông Dương và những thay đổi rộng lớn trong khắp châu Á và những thắng lợi của Đảng sau năm 1942 là hậu quả của biến đổi đó. Cho đến năm 1945, khi Đảng lần đầu tiên trở thành một nhân tố sáng tạo hình thành các sự kiện, thì Đảng đã hiểu một cách thực tế mối quan hệ phụ thuộc của mình với các lực lượng làm ra những thay đổi và sự cần thiết của mình phải trở nên vừa sẵn sàng vừa đủ mạnh để tiến công khi người Pháp không còn đủ sức cai trị nữa.

Sau khi thành lập một mặt trận và xây dựng một hệ tư tưởng yêu nước bao quát, Đảng liên hệ với các phần tử đô thị và có học chưa tham gia Đảng. Tiếp xúc của Đảng với nông dân còn chặt chẽ hơn nhiều mặc dù chương trình cải cách ruộng đất có bị giảm bớt và tỏ ra quan trọng hơn nhiều so với đánh giá ban đầu của Đảng. Lúc đó Đảng chưa thấy rằng trí thức thành thị quá không ổn định hoặc giai cấp công nhân quá mới mẻ nên không thể hợp tác lâu dài với Đảng, càng ít thấy rằng sự ủng hộ lâu bền nhất đối với Đảng sẽ là từ giai cấp nông dân.

Đảng có một loạt các vấn đề có thể quan hệ trước mắt với giai cấp nông dân, tuy rằng ý nghĩa cơ bản của vấn đề ruộng đất là vai trò của nông dân sẽ trở nên thiết yếu cho bất kỳ sự huy động rộng lớn và kéo dài nào của đất nước. Tô và tức là những vấn đề sống còn trước mắt, ít gây chia rẽ cho chiến lược mặt trận đoàn kết hơn là vấn đề chia lại ruộng đất nhưng vấn đề truyền thống và chủ nghĩa yêu nước lại là những vấn đề khác. Tất cả sớm trở thành đồng nghĩa với nhau bởi vì chiến tranh và những đòi hỏi ngày càng tăng của Pháp và Nhật bắt đầu thách thức sự tồn tại của nông dân hơn là chế độ ruộng đất. Bởi vì, mặc dù những mâu thuẫn nội bộ to lớn và những căng thẳng của trật tự cổ truyền, nó vẫn còn ổn định hơn là tình trạng hỗn loạn của thời chiến tranh. Nạn đói. và thảm họa chiến tranh sớm đẩy một giai cấp nông dân tuyệt vọng đi vào thế phải tập thể đối phó với những vấn đề của mình. Những trạng thái mà chủ nghĩa thực dân Pháp đã tạo ra ở Việt Nam, cùng với sức ép của sự rối loạn tai họa của chiến tranh đưa lại cho Đảng cơ hội to lớn, hiếm có để nắm quyền, nếu đủ khả năng.

Sự sa sút không tránh được của chủ nghĩa đế quốc châu Âu ở châu Á, và cố gắng chủ yếu là mong manh của Nhật Bản để đi vào khoảng trống, nói lên rằng Đảng Cộng sản có thể hy vọng giành được thắng lợi mặc dù tổ chức nhỏ bé của mình trước năm 1945, bởi vì Đảng không có đối thủ khi Đảng thách thức chủ nghĩa đế quốc Pháp. Tính chất kém phát triển và dễ mua chuộc của các đảng và giai cấp khác làm cho Đảng dễ giữ độc quyền một cách kỳ lạ trong công cuộc chống Pháp. Sự nắm quyền tháng Tám năm 1945 của Đảng không phải là dựa vào sức mạnh quân sự mà là vào khả năng chính trị và tổ chức của Đảng nhằm đối phó với tác động vô cùng tai hại của bộ máy chiến tranh Nhật - Pháp đối với xã hội và nền kinh tế Việt Nam. Tạm thời, quyền lực của Đảng lúc này là một quyền lực bị động: Đảng tránh những ảo tưởng, và hiểu rõ những lý lẽ phải hành động khiêm tốn bằng cách chỉ tập trung vào việc hoàn chỉnh tổ chức để có đủ khả năng đưa ra quyết định thích hợp có thể thực hiện được. Các quá trình khách quan thời chiến, lúc đầu nằm ngoài sự kiểm soát của Đảng, về sau hòa vào những cố gắng có ý thức của Đảng nhằm làm chủ các sự kiện, khi mà sự đàn áp và sự chống lại chồng lên nhau và từ đó một hành động chính trị tiềm tàng cấp tiến xuất hiện. 



Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 25 Tháng Tám, 2008, 08:20:12 pm
Chương ba
VIỆT NAM: TỪ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945 ĐẾN CHIẾN TRANH KÉO DÀI
[/b]

CÁCH MẠNG THÁNG TÁM

Cách mạng tháng Tám chuẩn bị vũ đài cho Đảng Cộng sản lên nắm quyền. Tháng 12 năm 1944, Việt Minh thành lập các đơn vị vũ trang đầu tiên của mình, chủ yếu với những mục tiêu vận động chính trị. Và khi đã kiểm soát được sáu trong các tỉnh hẻo lánh biên giới phía bắc vào tháng 6 năm 1945 và khi các lực lượng vũ trang tiếp tục mở rộng thì sức mạnh quân sự của Việt Minh vẫn còn không đáng kể. Bản thân Cách mạng tháng Tám chỉ ngẫu nhiên mới là công việc của những người vũ trang. Nói chính xác hơn, đó là một cuộc tổng khởi nghĩa của nhân dân trong suốt đất nước do Cộng sản lãnh đạo, trong đó quần chúng đóng vai trò của một tập thể không vũ trang bước vào một khoảng trống chính trị do thất bại của Nhật Bản để lại.

Hồ Chí Minh can ngăn bất cứ hành động quân sự nào có khả năng làm nguy hại đến công việc tổ chức và an toàn của những đảng viên. Người và những người cộng tác đã đánh giá kỹ lưỡng cán cân lực lượng thế giới và vị trí của Pháp, của Nhật, đồng thời hoàn toàn đánh giá đúng những căng thẳng giữa chúng với nhau và những tác động do thất bại của phe
Trục đối với chủ nghĩa thực dân. Họ đã chịu tổn thất quá nhiều ở Nghệ Tĩnh và Nam Kỳ nên không thể mạo hiểm thêm những phiêu lưu hấp tấp nữa. Vào lúc người Nhật chính thức gạt Pháp tháng 3 năm 1945 ra khỏi sự kiểm soát danh nghĩa ở Đông Dương, vì trên thực tế người Pháp từ năm 1940 đã đáp ứng mọi yêu sách của Nhật, những sự kiện trọng yếu hơn đang xác định tương lai của Việt Nam.

Huy động quần chúng là chìa khóa nắm quyền của những người mác-xít. Vì chính sách mặt trận đoàn kết không cho phép có hành động triệt để về vấn đề ruộng đất, Đảng đã do dự cho đến khi chính quyền thuộc địa gây ra vấn đề kích động đụng chạm đến đa số nhân dân. Trước đó tuy có một số thắng lợi tương đối, Việt Minh chỉ có thể củng cố và vạch kế hoạch để sử dụng khoảng trống quyền lực có thể xảy ra vào cuối chiến tranh. Việt Minh làm việc đó bằng cách cho phép các nhóm Việt Minh địa phương xác định nên hành động như thế nào vào lúc quyết định, nhưng không ngờ được rằng hàng triệu người sẽ hành động theo mình và trên thực tế bảo đảm những thắng lợi và sự độc quyền trong việc chiếm chính quyền. Thực vậy, Việt Minh thậm chí còn cho rằng một cuộc đổ bộ của Đồng minh là thiết yếu cho chiến lược của họ, vì họ không dự đoán được khi nào thì chiến tranh kết thúc và không ngờ rằng Nhật Bản lại giao quyền một cách dễ dàng như vậy.

Vấn đề có tính chất quyết định về mặt tổ chức lúc bấy giờ là khẩu hiệu "phá kho thóc để cứu đói", và vì độc lập dân tộc phải đi đôi với chống đói nên không thể chỉ lấy lòng yêu nước không thôi để huy động quần chúng. Đối với nông dân nền độc lập chủ yếu là một điều kiện tiên quyết để giải quyết các vấn đề xã hội. Và mặc dù năm 1943 Đảng chưa dự tính hết tầm quan trọng của nạn đói, nhưng Đảng là lực lượng duy nhất trong tất cả các lực lượng lúc bấy giờ, có khả năng đối phó với tình trạng khẩn cấp đó.

Cuộc khủng hoảng lương thực là kết quả của việc Pháp thỏa thuận cung cấp cho Nhật gạo của Việt Nam và đồng thời cung cấp cả những nguyên liệu như bông, đay và hạt dầu, là những thứ đòi hỏi phải lấy ruộng lúa để trồng. Bắc Kỳ là nơi chịu ảnh hưởng đầu tiên của những thỏa thuận đó vì Bắc Kỳ phải nhập gạo của đồng bằng sông Cửu Long. Những nông dân và địa chủ không chịu chuyển ruộng lúa đều bị đánh và bị bắt, thậm chí bị giết nữa. Những ai không thể nộp phần lương thực phải nộp của mình thì phải mua tại thị trường tự do và như vậy là phá sản. Năm 1943 tuy được mùa ở Bắc Kỳ, nhưng vẫn thiếu thóc để nộp; năm 1944 là năm tai họa ở Bắc Kỳ, và do không chuyên chở được từ miền Nam ra, người ta đã dùng gạo và ngô ở đó làm chất đốt cho các động cơ. Những người đầu tiên chịu nạn đói là bần cố nông và năm 1944 số người chết vì nạn đói lan rộng ra khắp miền Bắc và đến tháng 3 năm 1945 lên đến con số tối thiểu là một triệu, và có lẽ đến hai triệu, tức là một phần năm số dân Bắc Kỳ, rất đông người đói di chuyển từ nông thôn lên thành thị để kiếm lương thực.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 25 Tháng Tám, 2008, 08:21:13 pm
Trong hoàn cảnh của sự đau khổ không bờ bến đó của con người, tháng 3 năm 1945 Việt Minh đã quyết định lấp lỗ trống chính quyền mà việc Nhật gạt Pháp đã gây ra và kêu gọi quần chúng chiếm các kho thóc. Quần chúng đã đáp ứng một cách nhanh chóng và quyết liệt. Vào một lúc nhất định, Mặt trận đoàn kết của Việt Minh đã trở thành tổ chức của hành động và của đất nước. Điều rõ ràng cho phần đông người Việt Nam là phong trào vừa xây dựng lại kinh tế và thậm chí để giành sự sống còn về thể chất, vừa giành độc lập phải do Việt Minh lãnh đạo chứ không phải do ai khác. Những đối thủ của Việt Minh đều rối loạn, thỏa hiệp, chia rẽ, không quyết tâm, hoặc nhỏ bé. Trong mùa xuân năm 1945, Việt Minh động viên đông đảo nông dân trên suốt Bắc Kỳ và đối phó với nạn đói, trong khi vẫn chuẩn bị cho những người ủng hộ mới đó của mình sẵn sàng đấu tranh kiểm soát Việt Nam vào lúc người Nhật sụp đổ. Ngay những phần tử đô thị mà trước đây luôn luôn dao động bây giờ cũng thấy rằng Việt Minh là lực lượng duy nhất đủ khả năng đối phó với những vấn đề của đất nước, và vấn đề lương thực kích động và đoàn kết đất nước hơn bất cứ điều gì khác trước đó.

Vài ngày sau khi người Nhật tuyên bố đầu hàng, ngày 12 tháng 8, Việt Minh kêu gọi một cuộc tổng khởi nghĩa, thì hàng triệu nhân dân phấn khởi xuống đường ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn và hàng chục các thành phố khác tạo điều kiện cho việt Minh chiếm các thôn xã và đô thị khắp nơi, biến một dân tộc bị tê liệt thành một lực lượng khởi nghĩa trên thực tế không được vũ trang.

Lực lượng mà lúc ban đầu mới chỉ là một phong trào quần chúng của nông dân, nay đã kết hợp với nhân dân đô thị để đánh vào các cơ quan trọng yếu của chế độ thực dân trong các thành phố. Đó là một lực lượng tổng hợp đưa lại một mô hình lâu dài cho chiến lược tương lai của Đảng. Sự nhiệt tình và sức mạnh của quần chúng đưa lên nắm chính quyền một Đảng đã tự xem vừa là một tác nhân của lịch sử vừa là một người sáng tạo ra biến đổi lịch sử. Nỗi đau khổ của chiến tranh đã giúp Đảng biến một dân tộc thành một lực lượng có ý thức và đưa đến sự biến đổi của lịch sử Việt Nam.

Cao trào phát triển của cuộc khởi nghĩa đó tỏ ra không thể nào cưỡng lại được trong nhiều thập kỷ, bởi vì tuy có những khía cạnh ngẫu nhiên của sự kiện to lớn đó nhưng rõ ràng có nhân tố trọng yếu của sự lãnh đạo và sự kiểm soát tình hình của Đảng. Một Đảng đã từng luôn luôn bị đàn áp, gồm chỉ năm nghìn đảng viên tháng 8 năm 1945, đã phạm nhiều sai lầm nhưng cũng đã học được nhiều bài học. Đảng hiểu rõ được những hạn chế của tình hình lịch sử đến mức Đảng hiểu thấu những khả năng của mình, bởi vì hoạt động của con người bao gồm những giới hạn và những khả năng cùng một lúc.

Ngày 2 tháng 9 năm 1945, khi Việt Minh tuyên bố sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, thì Đảng Cộng sản đã đạt được một mức độ trưởng thành cao về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đảng sẽ cần tất cả các đức tính đó và cần nhiều hơn nữa, khi Đảng bước từ giai đoạn tổ chức bí mật sang sự bắt đầu một cuộc chiến tranh sẽ trở thành dài nhất trong thế kỷ XX.

TẠO THÀNH MỘT LIÊN HIỆP DÂN TỘC

Mười lăm năm tiếp theo là một thời kỳ phát triển và thử thách trọng yếu của Đảng về mặt tri thức, tư tưởng và tài lãnh đạo chính quyền, nhưng trên một trình độ quyền lực quốc gia rộng lớn hơn nhiều và ngày càng có quan hệ với các lực lượng thế giới. Vào cuối thời kỳ đó, khoảng năm 1961, Cách mạng phải đối đầu với Mỹ trong một hoàn cảnh mới, vừa ở trong nước vừa trên thế giới.

Thực chất của chiến lược cách mạng là huy động quần chúng mà nghị lực và những cam kết trong một nước nghèo có thể là những tài sản vật chất và là tổ chức lâu dài duy nhất cho sự tiến bộ trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Cuộc Cách mạng tháng Tám chống lại sự kiểm soát của nước ngoài có thể sẽ không xảy ra, nếu không có hành động của quần chúng vì nhu cầu của quần chúng, bất kể tình hình quốc tế như thế nào, và bất kỳ chiến lược chính trị nào cũng phải kết hợp như trong quá khứ, những lực lượng và sức ép bên ngoài với những hoạt động xã hội bên trong. Với một ý nghĩa cơ bản, Đảng vẫn còn cân nhắc chương trình xã hội của mình, đặc biệt là vấn đề cải cách ruộng đất vì Đảng rất muốn duy trì một mặt trận đoàn kết dân tộc bao gồm tất cả các giai cấp chừng nào vẫn còn nguy cơ can thiệp của nước ngoài. Đảng đã thành công trong cách giải quyết vốn là bấp bênh đó cho đến năm 1953.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 25 Tháng Tám, 2008, 08:21:50 pm
Chiến lược mặt trận đoàn kết đã đưa Đảng đến việc tuyên bố tháng 11 năm 1945 rằng Đảng đã tự giải tán để chỉ còn là một hội nghiên cứu, một hành động hư cấu mà Đảng đã xóa bỏ năm 1950 khi Đảng xuất hiện trở lại thành Đảng Lao động.

Sự có mặt của 150.000 quân Trung Quốc (Tưởng Giới Thạch) ở bắc vĩ tuyến 16 và các đội quân Anh và Pháp ở nam vĩ tuyến 16 không nghi ngờ gì đã thúc đẩy cử chỉ đó. Trước tính chất còn rất mong manh của vị trí quân sự của mình và trước khả năng sắp xảy ra chiến tranh với Pháp, mặc dù hiệp định Pháp - Việt Nam dân chủ cộng hòa tháng 3 năm 1946 đã đưa lại 9 tháng trì hoãn, Đảng xem sự tranh thủ thời gian để củng cố sức mạnh quân sự và chính trị của mình là ưu tiên cao nhất. Sự thận trọng trong quá khứ đã được đền bù bằng những thắng lợi trong hiện tại, và lòng tin của Đảng rằng thời gian luôn luôn đứng về phía những người cách mạng biết cân nhắc như thế nào những hành động của mình và biết đánh giá những chỗ yếu của kẻ thù, lòng tin đó càng củng cố cách tính toán vô cùng chính xác nói trên.

Năm 1946 một sự nhất trí trong toàn quốc ủng hộ Việt Minh, và như Nguyễn Cao Kỳ nhắc lại 30 năm sau: "Hồ Chí Minh trở thành anh hùng dân tộc". Sự nhất trí ở thời điểm đó là vốn quý nhất trong chương trình của Việt Minh được hướng vào bảo vệ nó. Nhiệm vụ cấp bách nhất của Việt Minh, do đó là giải quyết nạn đói và thành lập một cơ cấu chính quyền có hiệu quả trên cơ sở sự động viên rộng lớn đã từng đưa mình lên nắm quyền. Bởi vì chừng nào Đảng còn chấp nhận lựa chọn đó thì Đảng còn hoạt động một cách thành công thông qua mặt trận đoàn kết, dựa chiến lược của mình vào một sự phân tích giai cấp của xã hội Việt Nam và nhận thức rõ chỗ yếu tạm thời và chỗ mạnh tiềm tàng của những đảng viên mới được kết nạp. Vì vậy Đảng làm cho vấn đề ruộng đất trở nên thứ yếu, hy vọng tránh việc bỏ chạy của những phần tử giàu có, đang ủng hộ Chính phủ lâm thời do Đảng kiểm soát và tài sản kinh tế của họ còn quan trọng cho nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ. Thời gian là rất thiết yếu để chuẩn bị các lực lượng quân sự của Việt Minh nhằm đối phó với cuộc xung đột của người Pháp và để biến những đảng viên mới từ những người yêu nước đơn giản thành những người cộng sản sẵn sàng tham gia cuộc kháng chiến lâu dài mà Đảng thấy là đang tới gần.

Cố gắng diệt nạn đói sau tháng tám năm 1945 được đi đôi với cuộc vận động diệt dốt rộng lớn với 95 phần trăm nông dân còn mù chữ. Cứu sống và làm cho chục triệu người biết chữ và gắn liền hai cố gắng này với cuộc đấu tranh chống Pháp, đã gây ra một biến chuyển kinh tế và văn hóa to lớn trực tiếp và gián tiếp củng cố thêm vị trí của Đảng. Những cuộc vận động diệt đói và diệt dốt thành công đã làm cho những cơ cấu tổ chức và con người có tính chất hợp tác có thể xuất hiện trong những tháng căng thẳng cho đến tháng 12 năm 1946, khi mà người Pháp và Cách mạng tìm cách kiểm soát các cơ quan chính quyền, tượng trưng cho quyền lực và tiến hành thương lượng với nhau, trong khi vẫn chuẩn bị để chiến đấu nếu cần thiết. Động viên quần chúng thông qua các mặt trận, kết nạp đảng viên và tiến hành một cuộc cách mạng văn hóa sơ bộ, đã trở thành những cơ sở của chiến lược đầu tiên của Đảng khi nắm quyền. Vào tháng 12 năm 1946, sau khi người Pháp bắn phá Hải Phòng ngày 23 tháng 11, và sau khi chính phủ mới rút vào khu vực căn cứ được chuẩn bị kỹ lưỡng, Đảng đã củng cố một cách vừng chắc quyền lực của mình.

Hiến pháp năm 1946 của Việt Nam dân chủ cộng hòa bảo đảm quyền sở hữu cá nhân và các xí nghiệp tư nhân song song tồn tại với khu vực nhà nước trong những vùng giải phóng sau khi cuộc chiến tranh với người Pháp bắt đầu tháng 12 năm 1946. Đảng phải luôn luôn đối phó, tránh hoặc giải quyết vô số các thách thức nội bộ, các cạm bẫy tiềm tàng và những vấn đề phức tạp. Thách thức đầu tiên là từ Cao Đài mà trong những năm 1945-1946 đã chuyển từ ủng hộ Nhật Bản sang ủng hộ Việt Minh, nhưng khi sức mạnh quân sự Pháp tăng lên thì Cao Đài lại đưa lực lượng bán quân sự của mình theo Pháp từ năm 1947 làm cho chính quyền thực dân trực tiếp kiểm soát Cao Đài. Một khó khăn khác là các đảng nhỏ được Trung Quốc ủng hộ muốn đánh Pháp ngay để kéo dài sự chiếm đóng quân sự của Trung Quốc. Đảng cũng phải thành lập một đội quân và xác định một chiến lược quân sự, một vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu. Bất kỳ một cách giải quyết không đúng nào đối với các khó khăn đó sẽ đưa lại những mạo hiểm nghiêm trọng. Nhưng vấn đề gai góc nhất là cuộc đấu tranh giai cấp về ruộng đất.

Mặc dù những khó khăn ngày càng tăng, cố gắng của Đảng cho đến năm 1950 nhằm huy động nhân dân và vô hiệu hóa sự chống đối bằng một mặt trận đoàn kết đã đánh dấu một giai đoạn đầy tài tình, khéo léo. Cục tình báo trung ương Mỹ (CIA) năm 1949 đã báo cáo rằng "Những người Cộng sản đang thắng" trong chiến lược đối nội của họ. "Đa số rộng rãi" nhân dân kể cả một đa số của những người Thiên chúa giáo nói chung là chống cộng, đã ủng hộ Hồ Chí Minh trong cuộc đấu tranh chống người Pháp.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 25 Tháng Tám, 2008, 08:22:50 pm
ĐẢNG VÀ THẾ TIẾN LUI ĐỀU KHÓ CỦA CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT

Đảng tìm cách trì hoãn vấn đề ruộng đất chừng nào Đảng cảm thấy không an toàn về mặt quân sự và chừng nào còn có thể làm được như vậy. Nhưng cơ sở xã hội tối hậu của Đảng là nông dân, nhất là một khi Pháp đã kiểm soát tất cả các đô thị sau năm 1947. Sớm hay muộn, những hậu quả của vấn đề ruộng đất và nông dân phải đụng đến các chính sách cơ bản về chính trị, quân sự và kinh tế và đó chắc chắn là một trong những vấn đề tế nhị nhất Đảng phải đương đầu trong tám năm tới. Nói một cách đơn giản thì vấn đề là liệu Cách mạng có thể theo đuổi một cuộc chiến tranh kéo dài bằng cách khêu gợi quần chúng với lòng yêu nước mà không nói đến giai cấp được không.

Tháng 11 năm 1945 Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa bắt buộc giảm tô 25 phần trăm, và chia lại ruộng đất của người Pháp và của những địa chủ đã cộng tác với Pháp hoặc đã bỏ lại ruộng đất. Nhưng quyết định này đã được áp dụng một cách không đồng đều hoặc không được áp dụng gì cả trong nhiều vùng và trong năm 1946, Đảng bộ Nam Kỳ đã phải khuyên bần nông không nên tìm cách chia ruộng của những địa chủ còn thờ ơ với chính trị. Trong cả năm 1946 và 1947, Đảng chống lại mọi chính sách ruộng đất có thể đẩy các địa chủ vào phe Pháp, nói rõ rằng không có chỗ cho những cuộc thí nghiệm của "cánh tả". Cách mạng tháng Tám là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ. Trường Chinh, Tổng bí thư Đảng công bố như vậy và không ủng hộ một cuộc "cách mạng ruộng đất". Sau tháng tám năm 1945 địa chủ còn nắm quyền ở nhiều xã, thậm chí một số tham gia Đảng và đóng vai trò có ý nghĩa trong việc thực hiện những chính sách có liên quan đến chính lợi ích vật chất của họ. Tháng giêng năm 1948, Đảng buộc phải giải quyết vấn đề đó càng ôn hòa càng tốt, đòi áp dụng luật năm 1945 về giảm tô và tạm thời chia lại đất công điền (chỉ có ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ) cho bần cố nông và những người trong quân đội. Ưu tiên là cho những người đang chiến đấu, và ruộng đất bắt đầu được sử dụng với quy mô tương đối nhỏ nhằm khuyến khích những người sẵn sàng hy sinh trong chiến đấu. Đồng thời, tiền công cho lao động nông nghiệp, lúc đó rất hiếm và có thể đòi những điều kiện tốt hơn, đã bị kiểm soát để cho địa chủ khỏi bị thiệt thòi quá nhiều. Cho đến tháng 7 năm 1949 chiến lược của Đảng trên thực tế là cố gắng tranh thủ nông dân và địa chủ hết lòng hoạt động trong mặt trận đoàn kết rộng rãi.

Chỗ yếu của cách làm đó bộc lộ rõ trong năm 1948 khi người Pháp bắt đầu chiếm lại các vùng nông thôn của Bắc Kỳ và khi nhiều địa chủ, kể cả một số đã từng ủng hộ Cách mạng, trở thành những kẻ cộng tác với Pháp. Sự thờ ơ và xa lánh đó càng ngày càng đe dọa thuế nông nghiệp mà đã trở nên quan trọng cho quỹ tiền của Cách mạng. Quan trọng hơn là nông dân cũng cần một sự đền bù lớn hơn cho mạo hiểm mà họ phải gánh chịu.

Chủ nghĩa cơ hội của Cao Đài ở miền Nam và của địa chủ ở miền Bắc cho thấy rằng Đảng không thể tin vào sự ủng hộ của họ đối với Việt Minh một cách lâu dài và Đảng không thể tách riêng mặt chính trị với mặt kinh tế của việc động viên quần chúng. Càng không kém quan trọng là thái độ chờ đợi của nhiều người muốn để mình tùy tiện trôi theo trào lưu chính trị và quân sự để được chắc chắn là đứng vào phía đang thắng. Thái độ đó trở thành một trở ngại nghiêm trọng, kéo dài cho đến năm 1975, cho việc đánh giá sự ủng hộ thực sự mà Đảng giành được và cho việc xác định ai là người Đảng có thể dựa vào. Có lẽ điều gay cấn nhất là một chính sách hòa giải không giành được sự ủng hộ nhiệt tình của giai cấp đông đảo hơn.

Nghiên cứu tình hình một cách chặt chẽ, Đảng thấy rằng trên hai phần ba số địa chủ không tôn trọng các luật cải cách. Tháng 7 năm 1949 Đảng đưa ra một đường lối kiên quyết hơn để thực hiện các đạo luật trước đó, quy định bần và cố nông được ưu tiên trong việc chia ruộng đất. Tuy nhiên, trong hai tầng lớp đó thì ai làm việc cho Cách mạng hoặc tham gia chiến đấu, hoặc gia đình của họ nếu họ đã hy sinh, sẽ được ưu tiên hơn. Tháng 5 tiếp đó, Đảng tiến công vào tệ cho vay nặng lãi và xóa tất cả các món nợ trước tháng Tám năm 1945. Mặc dù ruộng đất của các địa chủ ủng hộ Cách mạng hoặc đứng trung lập không bị đụng chạm đến, nhưng do số người cộng tác với Pháp tăng lên nên số ruộng đất có thể chia cũng tăng lên, tuy rằng sự có mặt của Pháp làm cho việc chia lại ruộng đất trở nên khó khăn hơn. Vì sợ mặt trận đoàn kết bị tan rã, nên Đảng còn do dự trong việc dùng ruộng đất làm vũ khí động viên chủ yếu. Nhưng bây giờ Đảng cũng đã bắt đầu sử dụng vấn đề ruộng đất bên cạnh những lời kêu gọi lòng yêu nước một cách trừu tượng và Đảng đã hiểu tất hơn tầm quan trọng và tiềm lực của vấn đề đó.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 29 Tháng Tám, 2008, 06:00:30 pm
Tuy các con số thống kê còn nhiều chuyện phải nói, nhưng hình như 254.000 héc-ta ruộng đất của người Pháp và tay sai đã được phân chia lại trong năm 1949-1950 cho khoảng nửa triệu nông dân. Phần lớn ruộng đất đó là ở Nam Kỳ. Ở Bắc Kỳ rất ít ruộng đất không phải là công điền đã được chia trước tháng 7 năm 1949 nhưng giữa năm 1949 và năm 1953 một số đất tư cũng bị lấy để chia, tuy rằng địa chủ và phú nông đến năm 1953 còn chiếm 59 phần trăm số ruộng đất thuộc quyền sở hữu trước kia của họ. 

Diễn biến của lập trường ruộng đất của Đảng, phân tích đến cùng, nói lên chỗ yếu của Đảng trong việc tính toán về mặt trận đoàn kết và về các động cơ của những giai cấp khá giả. Ngay khi Đảng không còn có thể bỏ qua những mặt bất lợi của chiến lược mặt trận, Đảng cũng chỉ tạm thời trì hoãn để rồi lại trở lại với chiến lược đó về sau. Căng thẳng giữa đấu tranh giai cấp và mặt trận đoàn kết vẫn luôn luôn là thế tiến lui đều khó của Đảng, một thế mà chính quần chúng tạo ra.

Giữa năm 1948, Trường Chinh lập luận rằng cuộc xâm lược của Pháp đã sản sinh ra "nhiều giai cấp cách mạng" ở Việt Nam, dù cho giai cấp công nhân là giai cấp cách mạng nhất. Đến năm 1951, ông ta ít dứt khoát hơn, khi mà một số đáng kể các thành viên không cộng sản của mặt trận đoàn kết chuyển sang cộng tác với Pháp hoặc rút ra khỏi chính trị. Giai cấp tư sản dân tộc chủ yếu là có tinh thần dân tộc và dân chủ; tuy có những bộ phận lập lờ, nước đôi và tuy là một đồng minh "có điều kiện", "giai cấp tư sản dân tộc nói chung là có cảm tình với kháng chiến". Giai cấp tiểu tư sản của những người buôn bán nhỏ, thợ thủ công và trí thức là phần tử ít chống đối nhất của mặt trận và là một đồng minh "đáng tin cậy".

Trên thực tế, Đảng có biết chủ nghĩa cơ hội của những đồng minh trước kia của mình nhưng chưa bao giờ phân tích sâu sắc và đầy đủ, bởi vì trong một đất nước không có nền công nghiệp quan trọng, và có rất ít hoạt động kinh tế phi nông nghiệp quy mô lớn nằm trong tay những người không phải là Trung Quốc, cho nên khái niệm về một giai cấp tư sản dân tộc là một di sản tư tưởng của thời kỳ 1920 - 1940 của Đảng, một khái niệm nó trở đi trở lại để ảnh hưởng và làm khó khăn cho chiến lược của Đảng. Tuy nhiên, về mặt chiến thuật trong thời gian huy động quần chúng cho cuộc đấu tranh vũ trang thì việc nói suông tỏ ra rất tai hại. Đảng đã nhấn mạnh đến giai cấp nông dân, "đồng minh trung thành nhất và hùng mạnh nhất" của giai cấp công nhân bởi vì "không có sự tham gia của giai cấp nông dân, cách mạng Việt Nam chắc chắn không có thể thành công". Trong nông dân, bần và cố nông là quan trọng nhất. Mặc dù giai cấp vô sản còn nhỏ, chỉ chiếm bốn phần trăm số dân nhưng lại là giai cấp duy nhất có đủ khả năng lãnh đạo cách mạng và mặt trận đoàn kết. Tuy nhiên do những thành viên của giai cấp đó vẫn có quan hệ với ruộng đất cho nên làm cho nó "chưa được thuần túy vô sản".

TIẾN TỚI MỘT CHIẾN LƯỢC QUÂN SỰ CÁCH MẠNG

Cùng với lúc mà vũ khí ruộng đất trở nên sắc bén và những rắc rối của chiến lược mặt trận đoàn kết đã được giải quyết, Đảng cũng phải xây dựng một cơ cấu và một học thuyết quân sự. Với một ý nghĩa cơ bản nhất, các vấn đề huy động quần chúng và huy động quân sự là một và giống nhau. Cũng quan trọng như vậy là việc xây dựng một số sức mạnh quân sự trong khoảng thời gian sau tháng 9 năm 1945, khi Đảng đã từ một nhóm nhỏ biến thành một tổ chức quy mô.

Lý thuyết và thực hành của lực lượng quân sự, Đảng đã được biết rõ. Những đơn vị vũ trang đầu tiên mà Võ Nguyên Giáp lãnh đạo năm 1941 là những nhóm chính trị làm nhiệm vụ tổ chức với con số lên đến năm nghìn người được vũ trang chỉ một phần, vào mùa xuân năm 1945. Những quy tắc quân sự chủ yếu đã được xác định ngay từ đầu theo sự nhấn mạnh của Hồ Chí Minh là không được hành động hấp tấp. Nếu nói một cách đơn giản thì học thuyết quân sự của Đảng là dựa vào quần chúng để có nhân lực và sự ủng hộ và chỉ đánh khi có khả năng đạt được mục tiêu. Kỹ thuật quân sự mà một tiền đề chính trị hóa cao như vậy đưa lại, tất nhiên là phải phát triển và thay đổi theo sự thay đổi của khả năng và mục tiêu của Đảng qua các thập kỷ. Nhưng nhìn chung lại sự thay đổi chỉ có tính chất là số lượng mà thôi. Cái khung chính trị từ ban đầu trở thành quyết định cho các hoạt động, các mục tiêu và thực chất của quân sự. Quan trọng hơn nữa, vai trò trọng yếu nhất của sức mạnh quân sự từ 1945 cho đến 1975 là nhằm tạo ra một tấm chắn an ninh để bảo vệ những hoạt động chính trị và không quân sự của những đảng viên.

Trong giai đoạn 1946 - 1948, việc đó đặc biệt quan trọng. Những sức mạnh tối hậu của quân sự là sự ủng hộ và những hy sinh của nhân dân, mà nhờ có họ, quân đội mới đi lại được và nếu không có họ thì quân đội sẽ không có nhân lực, vật lực, sự che chở và tin tức tình báo. Trong bối cảnh có liên quan với con người như vậy, không có quân đội nào không gắn liền sâu sắc với chính trị, không trước tiên là chính trị rồi mới đến quân sự, mà có thể hy vọng đạt được những mục tiêu của mình. Và để chống lại kẻ thù mà quân đội phải đương đầu, một cuộc chiến tranh nhân dân có tính chất chính trị là loại chiến tranh duy nhất đưa lại hy vọng thắng lợi. 



Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 29 Tháng Tám, 2008, 06:05:55 pm
Chương bốn
THẾ GIỚI BÊN TRONG CỦA CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN VIỆT NAM:
LÝ THUYẾT VÀ THỰC HÀNH

Khả năng đối phó với tất cả các thách thức phi thường của cuộc chiến tranh với Mỹ của Đảng Cộng sản là kết quả, ở một mức độ trọng yếu, của sự phát triển một tổ chức và một phương pháp phân tích trong thập kỷ đầu nắm quyền của Đảng. Hiểu rõ lý thuyết và thực hành của Đảng trong giai đoạn đó là cần thiết để hiểu những lý do của sự cứng rắn, của tính bền bỉ và của thắng lợi sau năm 1960.

SỰ PHÁT TRIỂN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN

Năm nghìn đảng viên vào lúc xảy ra Cách mạng tháng Tám là những nhà chính trị sâu sắc mà tri thức, đức tính và sự liên tục vẫn còn là một vốn quý cho Đảng. Nhận thức chính trị cách mạng, với hình thức thuần túy nhất của nó, là vấn đề nhận thức cá nhân đối với cuộc sống và cam kết của mình. Chỉ những người từ bỏ sung sướng cá nhân, luôn luôn chịu nguy hiểm của tù đày và thậm chí chết chóc và sẵn sàng chấp nhận khổ cực triền miên và thiếu thốn mọi điều mới có thể xây dựng được một nhiệt tình và một lòng tin vào động cơ của nhau.

Cho đến Cách mạng tháng Tám những đảng viên là những người thuộc nguồn gốc hiếm có và đặc biệt như vậy của những nhà cách mạng chân chính. Họ rất ít về số lượng vì không có nước nào, không có thời đại nào, có nhiều người sẵn sàng cống hiến cuộc sống của mình cho những sự nghiệp có ít khả năng thành công như vậy trong khi chắc chắn phải chịu đựng hy sinh về nhiều mặt trong cuộc đời. Nhiều người thuộc những gia đình khá giả và đáng ra có thể dễ dàng chọn những con đường ít vất vả hơn cho cuộc sống của mình. Một tỷ lệ lớn trong số họ là những người có học thức cao và tất cả đều là những nhà mác-xít rất tận tụy, bởi vì những năm trong tù đã cho họ cơ hội để rèn luyện ý chí và cũng để học tập nghiên cứu và thảo luận. Tất cả đều hiểu tầm quan trọng của khung cảnh quốc tế mà trong đó tương lai của Việt Nam sẽ được hình thành.

Nhiều người tham gia Đảng sau tháng 8 năm 1945 cũng có những đức tính cá nhân tương tự. Đa số thuộc các gia đình tiểu tư sản. Nhưng trong một nước mà giai cấp vô sản quá nhỏ nên việc Đảng đề ra cho giai cấp vô sản vai trò lãnh đạo tất cả các giai cấp khác đã gặp một thế rất khó xử. Vì vậy cho đến năm 1961, ai tham gia Đảng đều được xem như "tham gia hàng ngũ giai cấp công nhân". Tuy nhiên không thể che giấu được thực tế rằng Đảng bây giờ đã có một mức độ quyền lực nhất định và có tiềm năng để giành hoàn toàn quyền lực đó, cho nên đối với một số người, tham gia Đảng là một phương tiện để thăng quan tiến chức. Và bất kể những động cơ của các đảng viên mới nhiều màu nhiều vẻ như thế nào, tất cả đều được giao những trách nhiệm hành chính và quân sự trọng yếu. Họ có ít thì giờ để nghiên cứu điều mà các nhà lãnh đạo đã dày công tiếp thụ trong một thời gian dài hơn nhiều. Vai trò và quan niệm lê-nin-nít của Đảng trên thực tế, đã thay đổi nhiều, tính chất tinh hoa đã giảm dần do việc phải huy động quần chúng và việc thành lập một bộ máy nhà nước.

Số lượng đảng viên đã tăng từ 5.000 tháng Tám năm 1945 lên 20.000 cuối năm 1946, 50.000 cuối năm 1947 và 180.000 cuối năm 1948 trong đó có 66.000 ở miền Nam. Cuối năm 1949, Đảng có 700.000 đảng viên. Nguồn gốc giai cấp của những thành viên mới phần lớn là không được chú ý đến, học thức cũng bị bỏ qua, và sức ép phải kết nạp đảng viên, nhất là ở miền Nam và trong các đô thị lớn, trở nên lớn hơn nhiều so với ý muốn duy trì những tiêu chuẩn cao.

Ban lãnh đạo của Đảng nhanh chóng nhận thức được những nguy hiểm trong đa số công chức ngày càng tăng của mình và vào tháng 10 năm 1945, Hồ Chí Minh đã khiển trách một số thành viên trong các ủy ban nhân dân, kể cả những người trong Đảng vì lạm dụng quyền hành, thiên vị và đồi trụy.

Tháng 9 năm 1946, Trường Chinh phàn nàn rằng quá nhiều người đã được lấy từ những công chức trước đây của chế độ cũ. Năm 1948, Hồ Chí Minh công khai thừa nhận rằng nhiều cán bộ đã được tuyển nhọn quá nhanh và không được rèn luyện tốt. Đó là một vấn đề mà Người thường nhắc lại luôn. Nhưng năm 1951, khi Đảng đã được xem là vững chắc, Đảng dùng cơ hội khó khăn về tài chính để bắt đầu cho thôi việc ít nhất một phần ba nhân viên chính quyền không quân sự của đất nước trong khoảng thời gian hai năm. Vào năm 1960, số đảng viên cũng được giảm theo tỷ lệ tương tự.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 29 Tháng Tám, 2008, 06:07:07 pm
Chính trong hoàn cảnh như vậy mà ban lãnh đạo Đảng buộc phải xác định tính chất và ý nghĩa của Đảng. Từ năm 1946 cho đến suốt mười lăm năm tiếp theo Đảng đã công khai và một cách có phương pháp xây dựng hệ thống lý luận độc đáo của chính mình. Cuộc chiến tranh với Pháp cũng đã ảnh hưởng đến hình thức và nội dung của quan niệm của Đảng, nhất là đối với vấn đề phát triển Đảng.

Thực vậy, sự kế thừa hệ tư tưởng lê-nin-nít của Đảng phải được kết hợp với những đòi hỏi của cuộc đấu tranh lâu dài để giành chính quyền, với những trách nhiệm để lãnh đạo cuộc đấu tranh đó và với sự hiểu biết đã giành được qua kinh nghiệm. Sự tổng hợp đó đã được giải thích cho nhiều đảng viên, một cách kiên trì và liên tục, với hy vọng rằng họ có thể nắm được và áp dụng những công cụ phân tích mác-xít đặc biệt vào những điều kiện của Việt Nam và lãnh đạo cuộc sống để có thể sản sinh ra một nền văn hóa cách mạng và những con người xã hội chủ nghĩa. Vào khoảng năm 1960, khi mọi đường nét đã được vạch ra một cách đầy đủ thì những giá trị và lý tưởng đó đã trở thành thiết yếu cho chiến lược và chiến thuật trong cuộc chiến tranh vĩ đại chống Mỹ.

QUAN ĐIỂM VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG

Hồ Chí Minh có nhiều hoài bão trong cuộc vận động cho đạo đức cách mạng. Người khẳng định "muốn làm cách mạng, người ta trước nhất phải tự rèn luyện mình". Tư cách đạo đức cá nhân nghiêm túc và kỷ luật xuất phát từ một đức tin là một thành phần tiêu chuẩn của nhiều nền văn hóa trong các giai đoạn khác nhau của lịch sử văn hóa. Sự tồn tại của những giáo huấn Khổng Tử về nhiều vấn đề tương tự là một mối tương quan chứ không phải là một nguyên nhân, tuy Hồ Chí Minh khai thác di sản của học thuyết Khổng Từ còn rơi rớt lại trong các nhà trí thức để ủng hộ những ý kiến của Người.

Đạo đức cá nhân Đối với một cán bộ Đảng không phải là điều ngẫu nhiên cho việc thực hiện chức năng của anh ta mà là một tiền đề cho thắng lợi, và anh ta khó thành công trong việc kêu gọi kẻ khác mạo hiểm và hy sinh, trừ phi anh ta đi trước bằng chính gương của mình. Công việc của Đảng, trước hết, là dựa vào những hy sinh, nhường nhịn cá nhân, không phải chỉ nhất thời mà là lâu dài, và vào sự sẵn sàng đặt "lợi ích của Đảng lên trên tất cả". Ngoài những nguy hiểm cho cuộc sống, còn phải xa cách lâu gia đình và thiếu tiền của và phương tiện để làm việc. Lạc quan cách mạng mà không có đạo đức cách mạng sẽ nhanh chóng dẫn đến tiêu cực và mệt mỏi trừ phi Đảng chỉ rõ rằng không thể bảo đảm cho tính lạc quan nếu không có những hy sinh cá nhân. Những đạo đức như vậy là rất thiết yếu để động viên quần chúng; nhưng ngay đối với những người phụ trách chính quyền của một nước rất nghèo, chỉ tồn tại cho đến năm 1954 với một thâm hụt to lớn về tài chính, một ý thức về tiết kiệm và khiêm tốn là tiền đề tuyệt đối cho sự sống còn về mặt tổ chức. Một Đảng trong cuộc đấu tranh cách mạng có liên quan đến những vấn đề sống và chết, không thể chấp nhận nhiều người vô tích sự, đó là thực tế cơ bản đưa đến cuộc vận động cho đạo đức cách mạng.

THÀNH LẬP MỘT TỔ CHỨC

Nhận thức của Đảng về phương pháp và tổ chức đã diễn biến và thay đổi trong 15 năm qua sau năm 1945, đôi khi tự đảo ngược lại, linh động và thích nghi với những nhu cầu lớn hơn của cuộc đấu tranh chống người Pháp và về sau, chống người Mỹ. Những thúc bách từ bên ngoài đó cũng như lòng ao ước, đã được kết hợp với kiến thức giành được sau năm 1945 để sản sinh ra một Đảng mà vào năm 1961 đã đủ sức thích nghi với những thách thức còn lớn hơn nhiều.

Sự sẵn sàng đáp ứng của Đảng Cộng sản đối với thực tế ý muốn của Đảng tranh thủ sự ủng hộ của quần chúng và định nghĩa riêng của Đảng và chủ nghĩa Bôn-sê-vích đã buộc Đảng phải đối phó với những vấn đề khác nhau về tổ chức. Đảng phải tìm con đường để vượt qua những nguy hiểm của chế độ tập quyền quan liêu và của quyền chủ động địa phương nhưng Đảng lại phải duy trì những vốn quý của cả hai chế độ đó; Đảng phải ủng hộ một vai trò sáng tạo của nhân dân, ngay cả khi Đảng đang hoàn hảo vị trí của mình. Đảng đề ra phê bình và tự phê bình trong Đảng và trong quần chúng, nhưng phạm vi và mức độ thì không thể xác định trước một cách chính xác được. Về lâu dài, Đảng đã khá thành công trong việc cân đối những căng thẳng vốn có trong những mục tiêu của mình và tuy sau năm 1960, Đảng vẫn tiếp tục làm việc đó nhưng đến lúc này thì Đảng đã tỏ ra rất thành thạo.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 29 Tháng Tám, 2008, 06:09:52 pm
Đảng cho rằng kỷ luật mà Đảng đòi hỏi ở các đảng viên không phải để nhằm hạn chế tự do của họ mà nhằm phục vụ lợi ích của một giai cấp hoặc thậm chí của đất nước, Đảng cũng cho rằng thực tế chính trị đòi hỏi hành động tập thể, coi đó là một điều kiện tiên quyết cho tự do và tiến bộ xã hội và cá nhân. Vấn đề thực sự của Đảng sau năm 1945 không phải là bảo vệ tính chính đáng của nền chính trị đúng đắn trong một thế giới nghiêm chỉnh mà là đối phó với thực tế rằng chỉ tổ chức và kỷ luật đơn thuần là không đủ. Một vấn đề thiết yếu nữa là phát minh và sáng kiến có tính chất sáng tạo nhưng không được vượt qua các chính sách của Đảng, bởi vì sáng tạo trong các tình huống đặc biệt ở địa phương là rất cần thiết để đưa lại hành động có hiệu quả và đó là hiện tượng thường xuyên xảy ra. Giải quyết các mối căng thẳng một cách thực tiễn là thành công quan trọng nhất về mặt tổ chức của Đảng, nó cũng là điều sống còn để đạt tất cả các mục tiêu chính trị và kinh tế của Đảng.

Đảng có học thuyết về tổ chức của chủ nghĩa Bôn-sê-vích và có thể là thuần nhất từ trên xuống dưới, nhưng một khi Bộ Chính trị xác định mục tiêu và chính sách chung, thì cũng thường phải đáp ứng, thích nghi với những điều mà quần chúng mong muốn. Hiểu được những mong muốn đó của quần chúng cũng là điều quan tâm lớn của các nhà lãnh đạo Đảng. Tóm lại, một đảng có ý thức về sức mạnh và về hạn chế của bản thân mình, mới có thể có khả năng đối phó với tình hình một cách tốt hơn. Nhận thức đó thấm sâu vào cách tự nhìn mình của ban lãnh đạo Đảng và làm cho ban lãnh đạo đó quan tâm một cách sâu sắc đến trạng thái của quần chúng, trạng thái mà các đảng viên có thể không phản ánh đầy đủ và do đó mà các nhà lãnh đạo không biết được rõ.

Chìa khóa của nhiệm vụ tế nhị nhằm khắc phục các hạn chế về mặt tổ chức đó là cố gắng liên tục trau dồi đảng viên, nhất là cán bộ. Cán bộ là sợi dây liên lạc của Đảng với quần chúng, với đa số đảng viên, binh sĩ và chính quyền. Dù cho sức mạnh và sự yếu kém của đảng viên như thế nào, cán bộ với tỷ lệ chiếm từ một phần mười cho đến một phần năm của tổng số, phải là những người xuất sắc bởi vì họ là lớp tinh túy của Đảng và có trách nhiệm chính thức với Đảng. Về phía mình số cán bộ đó gồm một thiểu số nhỏ những cán bộ cấp cao và một thiểu số những cán bộ cấp giữa. Phần đông cán bộ được giao những vai trò tổ chức hoặc nghề nghiệp, nhưng cấp càng cao thì cán bộ càng trở nên chung chung, có thể nhận nhiều nhiệm vụ cùng một lúc.

Người cán bộ được coi như là tượng trưng cho những đức tính của đạo đức cách mạng tức là chủ nghĩa lạc quan và chủ nghĩa anh hùng. Năm 1957, đại tướng Nguyễn Chí Thanh thừa nhận rằng đảng viên và cán bộ không nên cho rằng họ không có quyền có "lo lắng nhỏ nào đó cho công việc riêng của mình", kể cả gia đình của họ, và chính sự thiếu đời sống gia đình là một chỗ yếu của chính sách cán bộ. Cán bộ làm cho Cách mạng hoạt động, nhưng những nhân tố chính làm cho họ có thái độ đúng đắn là quần chúng nhân dân và, thường xuyên hơn, là chế độ tự phê bình.

Cuộc vận động tự phê bình bắt đầu không lâu sau Cách mạng tháng Tám, chủ yếu là để đáp ứng lại việc kết nạp rộng rãi các đảng viên. Quá nhiều cán bộ đã được giao trách nhiệm quá nhanh chóng, tháng 4 năm 1948 Hồ Chí Minh đã phàn nàn như vậy, và khuyến khích các cán bộ chính trị trong quân đội làm những nhiệm vụ đặc biệt phải cư xử như "một người anh và một người bạn thân thiết của chiến sĩ". Những lời khuyên răn như vậy đã được tiếp tục đưa ra khá thường xuyên như là một bộ phận của quá trình liên tục rèn luyện cán bộ và Đảng thông qua tự phê bình và tiến công vào tệ quan liêu.

Tự phê bình luôn luôn là một mặt của phong cách giao lưu và quan hệ giữa con người và con người ở các cấp trong Đảng và khả năng thực hiện tốt tự phê bình đi đôi với làm việc tốt và học tập tốt là đặc tính của người cán bộ tốt. Nhận thức về Đảng như là một cộng đồng của con người là rất thiết yếu cho thành công của Đảng và chính thành tựu của Đảng đã duy trì tinh thần cá nhân để vượt qua một số giai đoạn khó khăn và có tính chất thử thách. Đảng, từ chi bộ trở lên, đã trở thành gia đình và cái nôi của mỗi đảng viên.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 29 Tháng Tám, 2008, 06:15:07 pm
Sự giao tiếp giữa tất cả các cấp của Đảng, và giữa Đảng với quần chúng, là rất sống còn cho vai trò của Đảng, với tư cách vừa là một nhà lãnh đạo am hiểu tình hình vừa là một người phản chiếu nguyện vọng và tình cảm của quần chúng. Tự phê bình và phê bình là nhằm duy trì quá trình giao tiếp đó tiếp tục tồn tại và do đó cũng làm giảm bớt những nguy cơ của "tệ mệnh lệnh", tham nhũng, lãng phí, tự phụ và tệ quan liêu các kiểu. Trách nhiệm của những cán bộ là "duy trì quan hệ chặt chẽ với nhân dân và học tập ở họ".

Những phiên họp thường kỳ, những công việc hàng ngày trở thành những đề tài phân tích, trao đổi trong các nhóm nhỏ, đều được nhằm vừa cải tiến công việc và trao đổi giữa đảng viên và cán bộ các cấp, vừa giáo dục và tranh thủ lòng tin của quần chúng để được họ phát biểu ý kiến và công khai phê bình cán bộ.

Sai lầm của cán bộ cũng như sai lầm của những người khác là "rất dễ hiểu và thậm chí là đương nhiên" bởi vì không có siêu nhân. Điều quyết định trong việc thừa nhận những giới hạn bình thường của con người là một cách tốt hơn. Khả năng thừa nhận và đưa ra sự phê bình vô tư trước những người khác là thước đo cá nhân và thường đụng đến những mặt thầm kín của nhân loại: cái tôi và lòng tự trọng, lòng tự hào, động cơ kín đáo, tham vọng cũng như cam kết xã hội tích cực.

Với tình trạng không tự thỏa mãn, day dứt và dai dẳng đó, đôi khi nghiêng ngả, Đảng tìm một giải pháp để bù lại những thiếu sót không thể tránh khỏi của con người và của các cơ chế. Bất kể lý thuyết và thực tiễn tổ chức của Đảng như thế nào, Đảng luôn luôn lấy cuộc vận động chống quan liêu làm vấn đề bao trùm. Đảng lo nghĩ về việc số lượng và chất lượng đảng viên đã đưa lại những biểu hiện quan liêu như thế nào và về tổn thất kinh tế và chính trị của những biểu hiện đó. Đảng luôn luôn tìm cách khắc phục những hạn chế của các cơ cấu chính thức và đưa vào đó sáng kiến và tính năng động của sự phát minh sáng tạo. Phê bình trong hàng ngũ cán bộ và đảng viên được trực tiếp gắn vào vấn đề đó. Như Hồ Chí Minh đã phàn nàn năm 1951: "Dân chủ trong nội bộ Đảng chưa được thực hiện rộng rãi". Để khắc phục những thiếu sót dó, đại tướng Nguyễn Chí Thanh cảnh cáo năm 1957: "Khi Đảng phạm một sai lầm, Đảng phải chịu trách nhiệm và chấp nhận những ý kiến phê bình".

Tất nhiên vấn dề quan liêu là phổ biến, có trước Cách mạng Bôn-sê-vích. Mối đe dọa của nó đối với các đảng xã hội chủ nghĩa lại càng lớn hơn bởi vì các mục tiêu xã hội của các đảng đó rất lớn và nó là một cái bẫy mà vô số nhà nước xã hội dân chủ và lê-nin-nít bị rơi vào. Nhưng do tính chất cố kết hơn và tập trung hơn của các đảng lê-nin-nít, cho nên nguy cơ của tệ quan liêu càng lớn hơn nếu không có một bộ máy để đối phó với nó. Một đảng bị tê liệt chắc chắn là thất bại trong một cuộc đấu tranh lâu dài và các nhà lãnh đạo Đảng nhận thức thực tế đó nên đã lấy cuộc vận động chống quan liêu làm một đề tài thường xuyên. Đối với những nhà cách mạng hoạt động độc lập, khả năng hành động theo sáng kiến riêng của mình là thiết yếu cho sự sống còn của họ, và thực tế này đã rõ ràng kể từ 1945. Nhưng tiêu chuẩn và động cơ của họ như vậy phải trở thành tự quản và chủ quan hóa lấy đạo đức cách mạng làm cơ sở. Kỷ luật là như sắt, nhưng cũng là "tự nguyện”, "tự lực" làm tiêu chuẩn bên trong và bên ngoài của cuộc kháng chiến trường kỳ, Hồ Chí Minh đã nhận xét như vậy tháng 7 năm 1952.

Với một ý nghĩa nhất định, các nhà lãnh đạo Đảng phải đối phó với sự căng thẳng cổ điển giữa kỷ luật và sáng tạo và Đảng đã cố tìm ra một giải pháp ướm thử bằng cách chấp nhận cả hai, với những mức độ khác nhau và tùy nơi, tùy lúc. Chừng nào Đảng còn là một đảng cách mạng trong một tình hình luôn luôn biến chuyển thì Đảng phải chấp nhận, để mà đấu tranh, "tính khu vực và phân tán vốn có trong cuộc kháng chiến" và đạo lý chống quan liêu là đặc trưng thiết yếu của cuộc kháng chiến và của sự xa cách và thiếu phương tiện liên lạc giữa các cơ quan trung ương và các đảng bộ địa phương. Các nhà lãnh đạo Đảng chưa bao giờ cân bằng được mối lo về "chế độ tập trung quan liêu” với ý muốn phân quyền lãnh đạo cho địa phương. Cuộc kháng chiến và hoạt động bí mật có phong cách hoạt động riêng của nó bởi vì những người quan liêu vừa vô ích vừa nguy hiểm trong một thế giới mà sự thích nghi sáng tạo và sự phản ứng nhanh chóng là những điều kiện tiên quyết của thắng lợi. Nhưng tệ quan liêu chắc chắn trở thành một vấn đề trong khu vực giải phóng rộng lớn của Việt Nam trước năm 1954, rồi trong nước Việt Nam dân chủ cộng hòa sau đó, và Đảng đã công khai thừa nhận điều đó.

Khó khăn của Đảng là nhiều kẻ quan liêu không muốn và không chịu thừa nhận họ đóng vai trò đó với một ý nghĩa xấu xa. Tự phê bình là nhằm sửa chữa vấn đề đó, nhưng năm 1958 Hồ Chí Minh đã buồn rầu nhận xét rằng nhiều đảng viên sẵn sàng phê bình người khác nhưng "không muốn bị phê bình". Cuối cùng Đảng không giải quyết được ngay vấn đề quan liêu nhưng thừa nhận nó như một thách thức không bao giờ chấm dứt đối với đạo đức cách mạng và lợi ích của tổ chức Đảng. Mặc dù Đảng bắt đầu gạt bớt những đảng viên thoái hóa sau năm 1950, Đảng vẫn lấy quá trình phê bình và dư luận quần chúng làm gốc đồng thời đề cao đạo đức cách mạng để kiểm soát tệ quan liêu. Phân tích đến cùng, chính ý thức của đảng viên được xem như là chìa khóa không phải chỉ để chống tệ quan liêu mà còn để thực hiện chính các mục tiêu của Cách mạng.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 29 Tháng Tám, 2008, 06:16:49 pm
VAI TRÒ CỦA BỘ CHÍNH TRỊ

Tính chất nhiều mặt của Đảng trong thực tiễn, trong sự linh động về lý thuyết và về tổ chức và trong tính sáng tạo trước những khó khăn mới, là do thực tế hệ thống lãnh đạo của Đảng hoàn toàn khác với hệ thống của cả người Xô viết lẫn người Trung Quốc. Quan trọng hơn, đó là một ban lãnh đạo tương đối đoàn kết và có hiệu quả, đối phó êm thấm với vô số những thách thức bên ngoài mà Đảng gặp phải.

Nhờ có đóng góp tối hậu của Hồ Chí Minh mà không xảy ra sự lộn xộn ngay khi có bất đồng có ý nghĩa giữa các nhà lãnh đạo chính của Đảng. So sánh với những nhà lãnh đạo mác-xít lê-nin-nít quan trọng khác của thế giới sau Lê-nin, Hồ Chí Minh là người hiếm có về tất cả các mặt, không phải chỉ vì Người không mắc phải chủ nghĩa vị kỷ mà còn do khả năng thực tiễn phi thường của Người trong việc xác định các vấn đề và cách giải quyết các vấn đề đó. Những người Xô-viết kiên quyết lên án tệ sùng bái cá nhân năm 1956, và Hồ Chí Minh ủng hộ mạnh mẽ quyết định phi thần thánh hóa Xta-lin, và Người tiến công mọi triệu chứng thực hành tệ đó ở Việt Nam.

Tháng 5 năm 1967, vào đỉnh cao điên loạn của Mao và của Cách mạng văn hóa, Đảng đã nhân dịp kỷ niệm ngày sinh lần thứ 77 của Hồ Chí Minh để tự tách xa các sự kiện của Trung Quốc và để xác định vai trò của "các nhà lãnh đạo và của quần chúng", đặc biệt là của Hồ Chí Minh, bằng cách phản ánh chính quan điểm của Hồ Chí Minh. Lịch sử được quần chúng làm ra và việc Đảng thực hành sự lãnh đạo tập thể và tự phê bình là chính do sự tôn trọng của Đảng đối với quy luật mác-xít của lịch sử và do sự cần thiết phải hành động giống như Hồ Chí Minh, như "một đầy tớ của nhân dân". Làm điều gì khác đi sẽ phá hủy lòng tin Đảng của quần chúng.

Phong cách công tác quen thuộc của giới lãnh đạo Đảng là dựa vào lẽ phải. Nhiều nhà lãnh đạo cấp cao đã ở tù nhiều năm và tất cả đều sống trong rừng núi và cùng chịu nguy hiểm với nhau. Không kể bản chất tập thể và đặc biệt của Bộ Chính trị, hai mặt quan trọng khác của phương pháp làm việc nhanh chóng xuất hiện. Mặt có ý nghĩa nhất, như mọi người đều biết là mối quan hệ tế nhị của các nhà lãnh đạo Đảng với những nguyện vọng và nhu cầu của quần chúng và với những phát triển cơ cấu độc lập ở trong nước và ở ngoài nước mà khi cần thiết thì các nhà lãnh đạo đó thích nghi với cả hai. Vì Đảng vừa lãnh đạo vừa phải theo đuôi lịch sử nên các nhà lãnh đạo thường nhận thức rõ những giới hạn về quyền lực của mình và do đó mà thấy rõ nhu cầu phải đợi thời cơ.

Những thúc ép đối với Hồ Chí Minh cũng áp dụng cho họ. Trừ một vài ngoại lệ còn nhìn chung, họ là những người hết sức khiêm tốn, nhiều người rất tự hào với tình trạng không tên không tuổi của mình; và không có ai hưởng đặc quyền đặc lợi như những người tương đương của họ ở Liên Xô và Trung Quốc thường hưởng. Đặc điểm nổi bật thứ hai của họ là xu hướng mạnh mẽ sau năm 1941 sẵn sàng dàn xếp càng lâu dài càng tốt những bất đồng của họ về những chính sách mà thường là có tính chất chiết trung và đôi khi còn chưa thật ăn khớp giữa họ với nhau.

Các nhà lãnh đạo Đảng hành động thận trọng, luôn luôn nghiên cứu, thảo luận và phân tích các vấn đề, vừa học vừa làm, và nói chung tránh những biện pháp quá quyết định. Họ có thể dành ra một số lớn thời gian và cố gắng để đánh giá các vấn đề cơ bản như trong trường hợp đối với tình hình miền Nam sau năm 1955. Họ thường đưa ra những lựa chọn dễ tin để làm thử sau khi đã thảo luận kỹ và họ tìm cách không bao giờ đóng sập cửa lại sau lưng mình. Tại các cấp cao nhất họ ít khi tự phê bình công khai. Nhưng những tranh luận riêng của họ thì cũng quyết liệt như giữa những người nghiêm chỉnh với nhau. Về những vấn đề chính sách lớn họ tham khảo ý kiến với các cấp thấp hơn của Đảng, kể cả những đảng viên thường. Việc thảo luận những vấn đề như vậy thường được đưa ra trên những báo của Đảng và tin tức mà họ xem xét thường đến từ nhiều thành phần khác nhau của Đảng. 

Cơ cấu lãnh đạo chủ yếu là thận trọng đó phản ánh không phải chỉ tư cách của những nhân vật liên quan mà còn nhận thức tư tưởng cơ bản của Đảng và của việc Đảng hạ thấp đến mức tối thiểu những mặt cá nhân của con người. Mục tiêu của Bộ Chính trị cũng là duy trì bản chất của chính mình và sự đoàn kết. Một cách làm quyết liệt và nổi bật hơn sẽ gây nguy hại cho tính chất thực sự nhiều mặt của giới lãnh đạo, và nó có thể gây ra những sai lầm không sao sửa chữa được. Một chế độ như vậy là thống nhất nhưng tương đối chậm chạp. Không bị ràng buộc bởi những nhược điểm của bất kỳ một con người đơn lẻ nào, và giữ vững được tính ổn định, và rất hợp lý về phương diện thể chế, chế độ đó tỏ ra rất tích cực và thành công trong những thập kỷ tiếp theo.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 29 Tháng Tám, 2008, 06:21:23 pm
SỰ TÌM KIẾM MỘT CHẾ ĐỘ VIỆT NAM

Vào cuối những năm 1950, Đảng bắt đầu hình thành một phương pháp tiếp xúc bao quát đối với các vấn đề trọng yếu nhằm động viên một xã hội và huy động những phương tiện cách mạng để đối phó với vô số những khó khăn về tổ chức và về con người. Có nhiều điều phải thực hiện về mặt phát triển chính trị và kinh tế trong nước và có quá nhiều thách thức từ nước ngoài nên một sự tổng hợp là rất cấp bách. Sự phê bình, những đảng viên tiến bộ, sự lãnh đạo tập thể, việc chống quan liêu và sự chuyển biến đạo đức của cá nhân là những bộ phận quan trọng của cố gắng chung.

Muốn giải quyết những khó khăn vật chất thì những vấn đề tổ chức thực tiễn và những nhiệm vụ đang thực hiện phải biến lý thuyết thành thực tiễn và kinh nghiệm. Hồ Chí Minh thừa nhận sự cần thiết của lý luận nhưng một lý luận gắn liền với thực tiễn và sát với thực tế. Hồ Chí Minh biết rằng việc thiếu sách lý luận Việt Nam sẽ dẫn đến sự phụ thuộc vào sách các nước khác như Liên Xô và nhất là Trung Quốc và lý luận mà không gắn với những điều kiện Việt Nam có thể không những vô ích nhưng còn tai hại. Sẵn sàng tôn trọng đúng mức những đồng minh lớn của mình một cách công khai, Hồ Chí Minh tha thiết muốn có một nhận thức đặc biệt Việt Nam. "Chúng ta không học thuộc lòng mỗi câu, mỗi chữ và áp dụng kinh nghiệm của các nước anh em một cách máy móc".

Chủ nghĩa mác-xít lê- nin-nít chỉ có thể áp dụng vào "những hoàn cảnh của một thời gian nhất định và một không gian nhất định". Tuy nhiên, Hồ Chí Minh nói tiếp, quá nhấn mạnh sự khác biệt của Việt Nam là phạm sai lầm xét lại và Hồ Chí Minh nhắc nhở chiều hướng quốc tế trong nguồn gốc trí thức của Đảng. "Tuy chúng ta có nhiều kinh nghiệm phong phú của các nước anh em, chúng ta không thể áp dụng một cách máy móc bởi vì nước chúng ta có những tính riêng biệt. Không quan tâm đến những tính riêng biệt của đất nước mình trong khi học tập những kinh nghiệm của những nước anh em là một sai lầm nghiêm trọng, là giáo điều". Trong khi cố tìm một sự tổng hợp riêng biệt của chính mình, người Việt Nam, bằng một cách rất có ý thức, đã xây dựng nên kiểu mẫu riêng của mình.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 29 Tháng Tám, 2008, 06:22:38 pm
chương năm
SỰ CỦNG CỐ QUYỀN LỰC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN

HỘI NGHỊ GIƠ-NE-VƠ VÀ CUỘC THẮNG PHÁP

Chiến tranh cách mạng không phải là một hoạt động quân sự đơn thuần mà là một bộ phận không thể tách rời của chính trị và mối quan hệ của nó với nhân dân. Chiến lược quân sự luôn luôn phản ánh nhận định căn bản đó. Khả năng của Đảng đóng vai trò lãnh đạo của mình một cách lâu dài do đó phụ thuộc vào việc, liệu về chiến thuật, Đảng có thể nắm được quần chúng vào những lúc nhất định và hiểu rõ những hạn chế vật chất của mình cũng như hiểu rõ cán cân lực lượng ở mỗi giai đoạn của cuộc đấu tranh kéo dài hay không. Sau năm 1953, quyền chủ động về vấn đề ruộng đất đã được chuyển cho nông dân nghèo, Đảng đưa ra một chính sách mà đa số nông dân đó tán thành nhưng lại có những hậu quả lớn không lường trước được. Các nhà lãnh đạo Đảng ở trong tình trạng bị động và sự bất động của họ quá lớn nên kết quả là không đạt được sự nhất trí để có bất kỳ hành động quyết định nào.

Năm 1954, bắt đầu một giai đoạn quá độ, kéo dài cho đến năm 1959. Trong sự lãnh đạo và trong chính sách của Đảng ở giai đoạn này các nhu cầu kinh tế buộc Đảng phải có những điều chỉnh về ngoại giao và chính trị và sức ép của thực tế đã thắng thế hơn so với những mong muốn. Các chính sách ít khi thật triệt để, trái lại ngày càng trở nên có nhiều sắc thái và đôi khi có tính chất thử nghiệm, vì Đảng sẵn sàng sửa chữa mọi sai lầm có thể có. Nhìn chung thời kỳ 1954-1959 là thời kỳ trưởng thành của lý thuyết và thực tiễn của chủ nghĩa cộng sản Việt Nam và của phương pháp khắc phục những giới hạn và khai thác những khả năng.

Thêm vào những hậu quả chính trị, tổ chức và xã hội của cải cách ruộng đất, Việt Nam dân chủ cộng hòa phải giải quyết những khó khăn chồng chất của nền kinh tế chiến tranh trong các vùng giải phóng ngày càng thêm rộng lớn. Từ năm 1946 cho đến cuối năm 1951, Việt Nam dân chủ cộng hòa đã giải quyết ba phần tư chi tiêu ngày càng tăng của mình bằng in tiền, gây ra một sự lạm phát choáng váng trong khu vực của mình, mà về lâu về dài có thể đe dọa chính sự sống còn của đất nước. Trong năm 1951, Việt Nam dân chủ cộng hòa bắt đầu tìm cách cân đối ngân sách và kết quả là năm 1953 đã trở thành năm đầu tiên Cách mạng không bị thâm hụt. Nhưng Cách mạng cần thời gian củng cố và giải quyết nhiều vấn đề nội bộ của mình, sau một thập kỷ đấu tranh khốc liệt, và để rồi gánh vác với những nhiệm vụ còn lại. Chính trong hoàn cảnh của những sức ép vật chất như vậy mà Cách mạng đến Hội nghị Giơ-ne-vơ.

Trung Quốc cũng đến Giơ-ne-vơ với những khó khăn nội bộ tương tự, bị xâu xé giữa những ưu tiên quốc gia và những ưu tiên quốc tế nói là ít vụ lợi hơn mà những người Trung Quốc rêu rao theo đuổi. Và, vì cả Trung Quốc lẫn Việt Nam dân chủ cộng hòa đều chịu những ép buộc tương tự cho nên, phân tích đến cùng, chính lợi ích quốc gia sẽ quyết định mục tiêu của mỗi bên. Về phần Trung Quốc những hậu quả của chính sách chỉ vì mình như vậy của Trung Quốc đã có những tác động to lớn hơn nhiều đối với những láng giềng và khu vực của họ.

Lịch sử bi thảm của các quan hệ Trung - Việt sau năm 1975 không thể che lấp được thực tế rằng, mặc dù chính sách của Trung Quốc luôn luôn được triển khai vì những nhu cầu và quyền lực của họ, các quan hệ giữa hai nước suốt cả thập kỷ vừa qua là hết sức thân thiện. Trong khi món nợ tư tưởng của Đảng đối với Trung Quốc là to lớn, người Việt Nam, tuy vậy, vẫn xây dựng học thuyết riêng biệt của chính mình, mặc dù một số kinh nghiệm và thực tiễn trùng lặp nhau và không thể tránh khỏi ở hai quốc gia chủ yếu là nông dân. Về mặt vật chất và ngoại giao, quan hệ của họ rất gần gũi.

Trung Quốc bắt đầu cung cấp vũ khí cho Việt Nam dân chủ cộng hòa đầu năm 1950, ngay sau khi họ có thể làm như vậy; năm 1953, khi họ tăng gấp đôi viện trợ vũ khí so với năm trước, họ bắt đầu cung cấp trang bị nặng. Phần lớn số đạn dược dùng ở Điện Biên Phủ, kể cả việc huấn luyện để sử dụng, đều đến từ Trung Quốc. Đồng thời, trước năm 1954, Trung Quốc không hề bao giờ cung cấp đủ viện trợ cho Việt Nam để có thể gây ra một sự đe dọa các lực lượng của Pháp đến mức kéo Mỹ vào cuộc chiến tranh và thắng lợi tháng 5 năm 1954 tại Điện Biên Phủ cuối cùng là hậu quả của sự ngớ ngẩn của Pháp và sự động viên quần chúng của Việt Nam dân chủ cộng hòa. Chính sách của Trung Quốc chủ yếu là kết quả của kinh nghiệm trong chiến tranh Triều Tiên tróng đó họ mất khoảng nửa triệu người. Mục tiêu chính của họ là khuyến khích hòa bình trong khu vực, để cho họ có thể tập trung chú ý vào sự phát triển kinh tế trong nước và trên hết để tránh một sự can thiệp có thể có của Mỹ vào chiến tranh Đông Dương.

Hội nghị Giơ-ne-vơ là bài học lớn đầu tiên của chủ nghĩa cộng sản Việt Nam về tính chất và những giới hạn của chủ nghĩa quốc tế vô sản, và tác động của bài học đó đã ảnh hưởng sâu sắc đến thế giới quan của Đảng... Sự hòa giải nhanh chóng với Trung Quốc chỉ là một giai đoạn của cố gắng chung của Việt Nam dân chủ cộng hòa nhằm củng cố quyền lực của mình bắc vĩ tuyến 17 trước khi đi vào giải quyết các vấn đề của sự thống nhất quốc gia. Bởi vì, suy đến cùng, không phải người Trung Quốc hoặc người Xô-viết ép buộc những điều khoản tại Giơ-ne-vơ cho Đảng mà chính là sự đánh giá của Đảng về những hạn chế của chính mình, về những nhu cầu cấp bách nhất và những triển vọng và khả năng tiềm tàng trong tương lai.

Nếu Việt Nam dân chủ cộng hòa cảm thấy hùng mạnh hơn, họ có thể chống lại đòi hỏi của Trung Quốc và Liên Xô. Thành công của những đồng minh không phải là nguyên nhân của những điểm yếu của Việt Nam mà phản ánh những điểm yếu đó. Đứng trước vô vàn khó khăn về kinh tế, chính quyền và ruộng đất, các nhà lãnh đạo Đảng kết luận rằng sự củng cố quyền lực ở miền Bắc là thiết yếu, và sự khôn ngoan của họ và thời gian sẽ chuyển cán cân lực lượng có lợi cho Đảng. Họ cho rằng sau này họ sẽ có khả năng đương đầu với vấn đề của miền Nam trên một thế mạnh hơn nhiều, một nhận định mà cuối cùng đã tỏ ra là đúng.

Cuộc bầu cử tháng 7 năm 1956 được hứa của Hiệp định Giơ-ne-vơ để hòa bình thống nhất Việt Nam, đối với họ, là một liều thuốc giải độc có thể có được cho tình trạng chia cắt nhưng chẳng có tý nào chắc chắn cả. Nhưng bản thân cuộc bầu cử chỉ có giá trị khi họ hy vọng có một lỗ trống về quyền lực ở miền Nam và không có thách thức nào nghiêm trọng cho Đảng ở đó. Tất cả các yếu tố của sự lạc quan của Đảng đều có một cơ sở hợp lý, nhưng sự phân tích đã hóa ra là không đúng.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 31 Tháng Tám, 2008, 09:57:57 am
Chương sáu
SỰ ĐỐI ĐẦU CỦA MỸ VỚI NHỮNG GIỚI HẠN CỦA QUYỀN LỰC THẾ GIỚI
1946 – 1960

Chiến tranh Việt Nam là chiến tranh dài nhất và chia rẽ nhất của Mỹ trong thời kỳ sau năm 1945, và về nhiều mặt, là cuộc xung đột quan trọng nhất của Mỹ trong thế kỷ thứ XX. Rõ ràng sức bật của Đảng Cộng sản Việt Nam đã làm cho Việt Nam trở nên đặc biệt sau năm 1946, nhưng việc Mỹ đối đầu với những kẻ thù đáng gờm như vậy là kết quả tự nhiên hợp với lô-gích và với những mục tiêu thể hiện vai trò của Mỹ trong thời hiện đại. Nhìn ngược lại rõ ràng có hai lực lượng bất di bất dịch. Trong hai lực lượng đó không có lựa chọn nào khác ngoài việc theo đuổi chính sách mà Mỹ đã từng lao vào, và như vậy là Mỹ đã đi theo dấu chân của Pháp chứ không học hỏi được gì từ thất bại của họ. Mỹ đưa ra quyết định lớn lao đó như thế nào và Mỹ tự thấy có thể làm gì, điều đó nói lên tính chất thời đại của chúng ta và khung cảnh chính trị, xã hội trong đó hình thành lịch sử hiện đại. Bởi vì Việt Nam cuối cùng là một tình tiết chính trong một quá trình can thiệp lớn hơn đã từng xảy ra trước Việt Nam và còn tiếp tục sau Việt Nam. Tất cả những thất vọng và khó khăn nổi lên ở Việt Nam đã từng xảy ra cho Oa-sinh-tơn trước năm 1960 và chúng còn tiếp tục cho đến ngày nay. Điều duy nhất làm cho chiến tranh Việt Nam trở nên độc đáo đối với Mỹ là nó đã bị thất bại hoàn toàn.

Đặc điểm chính sách đối ngoại của Mỹ sau 1945 là việc Mỹ cam kết tạo ra từ sự hỗn loạn của Chiến tranh thế giới thứ hai và từ di sản của những hệ thống thuộc địa, một cơ cấu thế giới nhất thể hóa mà chủ yếu là tư bản chủ nghĩa. Mỹ là người thừa hưởng chính áo cẩm bào của chủ nghĩa đế quốc trong lịch sử hiện đại; Mỹ hành động không phải vì ý muốn bảo vệ đất nước chống lại bất cứ mối đe dọa cụ thể nào mà vì Mỹ muốn tạo ra ở nơi khác một trật tự có thể kiểm soát được sẵn sàng đáp ứng một cách có lợi các mục tiêu và lợi ích của Mỹ, vượt xa những nhu cầu xã hội trong nước. Mỹ tin rằng sức mạnh của Mỹ đủ sức điều chỉnh thế giới và chịu đựng những tổn phí như các cường quốc đế quốc trước đây đã làm để hoàn thành nghĩa vụ và trách nhiệm quốc tế. Vấn đề này trên thực tế đã vượt xa vấn đề quan hệ với Liên Xô. Mối quan hệ với Liên Xô không gây ra biến cố nào trên thế giới nhưng bản thân nó là kết quả của cuộc khủng hoảng kéo dài của chế độ thực dân châu Âu bắt đầu từ năm 1914, tuy rằng Mỹ luôn luôn đổ cho Mát-xcơ-va chịu trách nhiệm về nhiều trở ngại mà Mỹ phải đương đầu. Lịch sử của thời kỳ sau chiến tranh, chủ yếu là lịch sử của những cố gắng to lớn của Mỹ - mà cũng là những thất bại của Mỹ - trong việc tạo ra một trật tự toàn cầu và cũng là lịch sử của những lực lượng xã hội hùng mạnh và sinh động xuất hiện trên khắp thế giới để làm thất bại những tham vọng của Mỹ.

Những tham vọng đó ngay tức khắc đưa Mỹ mặt đối mặt với điều mà ngày nay vẫn còn là một vấn đề chính của Mỹ: đó là mâu thuẫn giữa những khát vọng quá mức với khả năng hạn chế của Mỹ và với sự xác định những ưu tiên thực tế. Mặc dù phải mất nhiều năm những hạn chế đó mới trở nên rõ đối với các nhà lãnh đạo Mỹ mà phần đông cũng mới chỉ thấy được một phần, chính vấn đề chọn ưu tiên và biện pháp thực hiện, nó chia rẽ các nhà lãnh đạo Mỹ chứ không phải vì những mục tiêu trừu tượng. Điều quan trọng nhất cho phần lớn thời kỳ sau năm 1945 là sự tin tưởng quá vênh váo của các nhà lãnh đạo Mỹ rằng sắp xếp và điều chỉnh tất cả các vấn đề chính trị và kinh tế của thế giới không những là điều rất được mong muốn mà còn có thể làm được do có tài và có sức. Họ không muốn và không thể thừa nhận rằng những biến chuyển kinh tế và chính trị của xã hội trên phần lớn thế giới đã vượt quá khả năng kiểm soát của bất kỳ nước nào và thậm chí một nhóm nước nào. Điều đang lâm nguy là những lợi ích chiến lược và kinh tế to lớn và ngày càng tăng trong các quốc gia không ổn định và đang trải qua những biến động lớn lao đó.

Những tác động qua lại trong một thế giới phức tạp, những hạn chế đối với sức mạnh Mỹ và những nhận thức của Oa-sinh-tơn, kể cả những ảo tưởng và những điều không biết của họ, là chủ đề cho phần lớn lịch sử của chính sách đối ngoại Mỹ đương thời. Tính chất "ngẫu nhiên" của chính sách đó sau năm 1946 là hậu quả của những thế tiến lui đều khó bên trong của tính tham lam đó chứ không phải là nguyên nhân. Việc xác định những ưu tiên của Mỹ là điều khá đơn giản. Châu Âu đã, và vẫn còn đứng đầu bản kê lợi ích chính trị, kinh tế và chiến lược đã được công nhận chính thức của Mỹ. Tình trạng khó xử của các ưu tiên là không có ưu tiên nào hoàn toàn loại trừ các ưu tiên khác, do đó các nhà lãnh đạo Mỹ không hề bao giờ loại trừ sự can thiệp vào bất cứ bộ phận quan trọng nào khác của thế giới. Phân tích đến cùng thì chính phạm vi các mục tiêu Mỹ và những khủng hoảng, những vấn đề không thể tránh khỏi, nổi lên khi quá trình can thiệp bắt đầu, đã làm cho Mỹ mất chủ động trong việc xác định những ưu tiên và hành động của mình.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 31 Tháng Tám, 2008, 09:58:32 am
Vào cuối những năm 1940, Mỹ đã bắt đầu đương đầu với những thế tiến lui đều khó mà Mỹ sẽ phải gặp trong phần còn lại của thế kỷ này. Xác định ưu tiên là một bộ phận không thể tách rời khỏi lập luận của Mỹ, và việc chống chủ nghĩa cộng sản cũng là một ưu tiên dù biểu hiện dưới bất kỳ hình thức nào và bất kỳ ở đâu trên thế giới. Những lợi ích của chính Mỹ đã được công bố hoàn toàn rõ ràng hoặc bằng những tuyên bố về mục tiêu hoặc bằng việc hình thành các tổ chức và liên minh chính trị, quân sự và kinh tế mà Mỹ khống chế một cách có hiệu quả, trong đó Mỹ lấy danh hiệu "chủ nghĩa quốc tế" do Mỹ lãnh đạo làm một tiêu chuẩn cho những cố gắng sau chiến tranh của Mỹ.

Sự ngăn ngừa mở rộng chủ nghĩa cộng sản, chính sách "ngăn chặn" đã trở thành chính thức trong năm 1947 và năm 1950 thì chính sách "đẩy lùi" chủ nghĩa cộng sản đã được bí mật đưa vào chính sách 68 nổi tiếng của Hội đồng an ninh quốc gia. Năm 1947, học thuyết gọi là đô-mi-nô xuất hiện đầu tiên dưới hình thức học thuyết Tru-man về Hy Lạp. Tháng 2 cùng năm ngoại trưởng Gioóc-giơ Mác-san lập luận rằng nếu Hy Lạp mất thì Thổ Nhĩ Kỳ có thể mất theo và "sự thống trị Xô-viết có thể do đó mà mở rộng ra toàn Trung Đông và châu Á". Cuối năm đó cũng do lô-gích như vậy mà phải xây dựng lại Tây Đức vì sợ rằng yếu kém của Tây Đức sẽ tạo ra một lỗ hổng quyền lực mà chủ nghĩa cộng sản có thể tràn vào và nhân đó mà mở rộng ra toàn châu Âu.

Giữa năm 1949, khi cộng sản thành công ở Trung Quốc, Mỹ đưa ra quyết định chính thức vạch ra một đường ranh giới không cho xuất hiện bất kỳ quốc gia cộng sản mới nào nữa ở châu Á, tuy rằng lúc đó Mỹ còn rất bận với các vấn đề châu Âu. Nhưng ở Đông Dương, tác động qua lại của các vấn đề châu Âu với các vấn đề châu Á luôn luôn tỏ ra quan trọng với các nhà lãnh đạo Mỹ bởi vì việc Pháp càng ngày càng bị thu hút vào Đông Dương sẽ làm cho Pháp phủ quyết việc tái vũ trang Tây Đức, và Pháp càng thắng và đưa quân trở về nước nhanh bao nhiêu để cân đối lại với sức mạnh dự định của Đức, thì việc tái vũ trang Tây Đức sẽ được thực hiện nhanh bấy nhiêu. Không kém phần cốt yếu là địa vị tương lai của Nhật Bản ở châu Á và trong nền kinh tế thế giới, nếu Nhật Bản mất con đường tiếp xúc với nguyên liệu và thị trường Đông Nam châu Á.

Tóm lại, những thế tiến lui đều khó ban đầu của Mỹ về mặt chính trị quốc tế không hề do sự can thiệp vào Việt Nam gây ra. Các nhà lãnh đạo Mỹ đã nói rõ những ý kiến của họ về thuyết đô-mi-nô, về lòng tin vào sức mạnh của họ, về hệ thống nguyên liệu trong thế giới từ rất lâu trước khi có hành động ở Đông Dương. Và chính chính sách ngăn chặn, thuyết đô-mi-nô, vấn đề can thiệp và sự kết hợp các vấn đề riêng biệt của chính sách đối ngoại Mỹ ở các nơi khác trên thế giới đã làm cho Mỹ có quyết định không đảo ngược được nhằm đưa cuộc chiến tranh Việt Nam đi đến cùng. Ngay nhiều thế tiến lui đều khó thuần túy quân sự xảy ra ở Việt Nam đã từng xảy ra trước kia ở Triều Tiên.

Cho đến tận những năm 1960, Việt Nam chỉ là một trong nhiều nước mà Mỹ vừa dính líu vào vừa cam kết để giữ cho được nằm trong phạm vi hữu nghị với Mỹ. Và từ năm 1953 cho đến cuối năm 1962, Mỹ đã cung cấp viện trợ kinh tế và quân sự nhiều hơn cho Thổ Nhĩ Kỳ, Nam Triều Tiên và Đài Loan, gần bằng như vậy cho Pa-ki-xtan và chỉ có phần ít hơn cho Hy Lạp và Tây Ban Nha. Do sự giàu có và những mục tiêu của mình, Mỹ đã dính líu sâu trên khắp thế giới, xem đó như một vấn đề bình thường. Sự việc đó đã khuyến khích một sự can thiệp mới đến mức đã duy trì được các chế độ khách hàng nhưng đồng thời cũng có thể trở thành một trở ngại khi đòi hỏi của một nước trở nên quá lớn đến mức đe dọa vị trí của Mỹ ở các nơi khác.



Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 31 Tháng Tám, 2008, 09:59:27 am
ĐÔNG NAM CHÂU Á VÀ THUYẾT ĐÔ-MI-NÔ

Thuyết đô-mi-nô đã được nhắc lại nhiều nhất ở Đông Nam Á và khái niệm đó bao gồm cả mặt chiến lược lẫn mặt kinh tế mà các nhà lãnh đạo Mỹ không hề bao giờ tách ra. Bộ tham mưu liên quân Mỹ lập luận tháng 4 năm 1950 rằng "việc mất Đông Dương chắc chắn đưa đến việc mất các quốc gia lục địa Đông Nam Á" và với việc đó, Nga sẽ kiểm soát "tiềm lực chiến tranh của châu Á... ảnh hưởng đến cán cân lực lượng". Không những "các nguồn chính của một số nguyên liệu chiến lược" sẽ bị mất mà còn mất cả các đường giao thông nữa. Bộ Ngoại giao Mỹ cũng theo một đường lối tương tự vào lúc đó, cho rằng Thái Lan và Miến Điện sẽ mất nếu Đông Dương mất. Điều này đã trở thành học thuyết chính thức của Mỹ khá lâu trước cuộc xung đột Triều Tiên, và cuộc chiến tranh ở đó càng củng cố cam kết này. Oa-sinh-tơn chính thức nói rõ tháng 6 năm 1952 rằng việc mất Đông Dương "sẽ có những hậu quả tâm lý, chính trị và kinh tế trọng yếu . . . việc mất bất kỳ một nước riêng lẻ nào sẽ đưa đến một sự khuất phục tương đối nhanh chóng hoặc một sự liên kết với chủ nghĩa cộng sản của các nước còn lại của nhóm đó.

Hơn nữa, một sự liên kết với chủ nghĩa cộng sản của phần còn lại của Đông Nam Á, Ấn Độ, và lâu dài hơn, cả Trung Đông (với sự loại trừ ít nhất là Pa-ki-xtan và Thổ Nhĩ Kỳ) chắc chắn sẽ diễn ra tiếp theo. Một sự liên kết rộng lớn như vậy sẽ gây nguy hại cho sự ổn định và an ninh của châu Âu". Nó sẽ "làm cho địa vị của Mỹ trên dãy đảo ngoài khơi Thái Bình Dương trở nên bấp bênh và sẽ gây nguy hại nghiêm trọng cho lợi ích an ninh căn bản của Mỹ ở Viễn Đông". "Nguồn cao su và thiếc chính của thế giới cùng nơi sản xuất dầu và các hàng chiến lược quan trọng khác" sẽ bị mất ở Ma-lai-xi-a và In-đô-nê- xi-a. Những việc xuất cảng gạo của Miến Điện và Thái Lan sẽ gây khó khăn cho Ma-lai-xi-a, Xây Lan, Nhật Bản và Ấn Độ.

Cuối cùng, sẽ có "những sức ép chính trị và kinh tế như vậy ở Nhật Bản làm cho khó mà có thể giữ cho Nhật Bản cuối cùng không đi với cộng sản". Đó là sự hợp nhất hoàn hảo các nhân tố của học thuyết đô-mi-nô, bao gồm cả nguyên liệu, căn cứ quân sự lẫn cam kết của Mỹ bảo vệ khu vực ảnh hưởng của mình. Về nguyên tắc mà nói, trong khi giúp đỡ Pháp chiến đấu cho một sự nghiệp lớn hơn mà Mỹ coi như của chính mình, các nhà lãnh đạo Oa-sinh-tơn vẫn chuẩn bị cho sự can thiệp sâu hơn khi họ thấy là cần thiết để ủng hộ con đô-mi-nô hàng đầu là Đông Dương.

Về lợi ích và mục tiêu cho quyền lực Mỹ, rõ ràng không có ảo tưởng hoặc công cộng hoặc riêng tư nào. Ngay đầu năm 1953 Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ đã nhắc đi nhắc lại: “Các nước phương Tây và Nhật Bản ngày càng cần nhiều nguyên liệu và lương thực cũng như thị trường cho sản xuất công nghiệp của họ. Những khó khăn về cán cân thanh toán của họ, một phần rất lớn là do kết quả của việc sản xuất nguyên liệu và lương thực ở các khu vực không thuộc đồng đô-la không tăng nhanh bằng sản xuất công nghiệp". "Tại sao Mỹ tiêu hàng trăm triệu đô-la ủng hộ các lực lượng của Liên hiệp Pháp trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cộng sản?".

Tháng 12 năm 1953 phó tổng thống Ri-sớt Ních-xơn giải thích công khai "nếu Đông Dương đổ, Thái Lan sẽ bị đặt vào một vị trí hầu như rất khó khăn. Đối với Ma-lai-xi-a giàu cao su và thiếc thì cũng vậy. In-đô-nê-xi-a cũng không khác gì. Nếu toàn bộ vùng đó của Đông Nam Á rơi vào sự thống trị hoặc ảnh hưởng của cộng sản, thì Nhật Bản, nước buôn bán và phải buôn bán với khu vực đó để tồn tại, sẽ không tránh khỏi phải hướng vào chế độ cộng sản". Việc nhắc đến thiếc, cao su, gạo, cùi dừa khô, .. quặng sắt, tung-xten và dầu, khi Mỹ xem xét chính sách ngay từ đầu là vừa tự nhiên vừa lô-gích.

Chừng nào còn là tổng thống, Ai-xen-hao không hề bao giờ quên sự phụ thuộc của đất nước ông ta vào việc nhập khẩu nguyên liệu và sự cần thiết phải kiểm soát những nguồn đó. Tháng 4 năm 1954 khi lần đầu tiên ông ta đưa ra công khai hình tượng "con đô-mi-nô” bị đổ ông ta cũng thảo luận những nguy cơ mất thiếc, tung-xten và cao su của khu vực và những mạo hiểm đẩy Nhật Bản phụ thuộc vào các nước cộng sản về đời sống công nghiệp của họ. Điều có thể hiểu ngầm trong thuyết đô-mi-nô là những tài nguyên kinh tế của những nước láng giềng của con đô-mi-nô đầu tiên, dù là Hy Lạp hoặc Đông Dương, đều rất thiết yếu cho nên khi Mỹ can thiệp vào những nước bất hạnh và tương đối nghèo đó Mỹ luôn luôn đặt vòng chung quanh trong mọi tính toán của mình. Sự sẵn sàng chấp nhận tổn phí to lớn của cả khu vực luôn luôn là điều nằm trong đầu óc của những ai quyết định sự can thiệp.

Sự tác động qua lại phức tạp của các mục tiêu quá lớn của Mỹ, của nhận thức về tính chất sức mạnh của mình, của cách nhìn những chống đối theo khái niệm đô-mi-nô và của nhận thức về ưu tiên, từ năm 1953 đã bắt đầu quy tụ lại thành cuộc thảo luận triền miên và thành cuộc khủng hoảng trong học thuyết chiến lược và ngoại giao Mỹ.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 31 Tháng Tám, 2008, 10:00:28 am
SỰ TÌM KIẾM MỘT CHIẾN LƯỢC NHẤT QUÁN

Vào khoảng năm 1947, Oa-sinh-tơn hoàn toàn tin rằng Liên Xô đã lãnh đạo nhiều cuộc nổi dậy chính trị và xã hội trên thế giới do có những hậu quả của sự nghèo đói, của chủ nghĩa thực dân, của các tập đoàn chính trị đầu sỏ, và Liên Xô do đó đã phá hoại nghiêm trọng việc Mỹ muốn đạt một trật tự thế giới tư bản được cải tổ do Mỹ lãnh đạo. Vào cuối cuộc chiến tranh Triều Tiên, những xung đột còn phôi thai do một nhận thức như vậy về thế giới hình thành nên đã bị làm trầm trọng thêm bởi một cuộc khủng hoảng về kỹ thuật quân sự và về học thuyết quân sự của Mỹ. Hai sợi chỉ đó tất nhiên dệt lại với nhau vào cuối năm 1953 trong cuộc thảo luận "cách nhìn mới" và trong sự bắt đầu tìm kiếm lâu dài một chiến lược toàn cầu có thể tổng hợp những mục tiêu và khả năng của Mỹ.

Chiến tranh Triều Tiên thí nghiệm sự hơn hẳn về quân sự, về hỏa lực và kỹ thuật của Mỹ, cùng khả năng gánh chịu những tổn thất về kinh tế và chính trị của một cuộc chiến tranh kéo dài. Với sự kết thúc chiến tranh mà không đưa lại kết quả gì, vẫn trở lại vĩ tuyến 38 sau ba năm chiến đấu, với thất bại hoàn toàn của mục tiêu tháng 9 năm 1950 của Oa-sinh-tơn nhằm thống nhất đất nước bằng vũ lực, cuộc chiến tranh đã hoàn toàn bộc lộ những hạn chế của quyền lực Mỹ. Cuộc tranh cãi chính trị trong nước do chiến tranh Triều Tiên gây ra ít quyết định hơn nhưng nó cũng cho thấy những món nợ chính trị to lớn mà các cuộc đấu tranh đau khổ đó đưa lại cho đảng cầm quyền. Và trong năm tài chính 1953, với chi tiêu quân sự chiếm 13,8 phần trăm tổng sản phẩm quốc dân, gấp ba lần tỷ lệ của năm 1950, lạm phát và thâm hụt ngân sách cho thấy những hạn chế của khả năng kinh tế Mỹ. Tóm lại, Mỹ đã tiến hành một cố gắng đồ sộ và đạt những kết quả không đi đến đâu; thực tế đó làm nổi lên vấn đề lòng tin đối với sức mạnh Mỹ. Không kém phần quan trọng là thực tế rằng Mỹ đã bị sa lầy ở châu Á đúng vào lúc những ưu tiên chính và mối quan tâm của Mỹ lại tập trung ở châu Âu và Trung Đông. Giải quyết những thế tiến lui đều khó đó đã trở thành một ám ảnh ở Oa-sinh-tơn, một ám ảnh tác động đến mỗi một khu vực của thế giới và ảnh hường đến việc thảo luận chiến lược của Mỹ cho phần còn lại của thế kỷ.

Cố gắng xác định một "cái nhìn mới" cho chính sách đối ngoại Mỹ mà đỉnh cao là diễn văn ngày 12 tháng 1 năm 1954 nổi tiếng của Đa-lét, đã chết yểu, bởi vì cuộc thử bom khinh khí tháng 8 năm 1953 của Liên Xô đã phá một cách quyết định độc quyền vũ khí hạt nhân chiến lược của Mỹ. Đa-lét tuyên bố rằng chiến tranh trên bộ có thể do các lực lượng của các đồng minh Mỹ tiến hành nhưng bản thân Mỹ sẽ dựa vào "sức mạnh trả đũa ào ạt của mình... bằng biện pháp và địa điểm do chúng ta tự chọn". Đó là "con đường hiện đại duy nhất để đạt sự bảo vệ tối đa với những tổn phí có thể chịu được", bởi vì chiến tranh thông thường hạn chế ở Triều Tiên đã gây ra những tổn thất không giới hạn. Việc bắn tin đen tối rằng Mỹ có thể phá hủy Bắc Kinh hoặc Mát-xcơ-va vì đã để xảy ra những sự kiện ở một nơi xa xôi nào khác là nhằm bắt đầu tìm kiếm một chiến lược mới, nhưng những máu thuẫn nội bộ của quan điểm đó đã bị chỉ trích ngay tức khắc ở Oa-sinh-tơn.

Sự tìm kiếm đó không loại trừ những phản ứng tương đối nhỏ đối với những chống đối nhỏ, và vì tỷ lệ chi tiêu quân sự so với nền kinh tế quốc dân đã được giảm nhiều trong phần còn lại của thập kỷ và vì các vũ khí chiến lược trở nên nổi bật hơn, nên Nhà Trắng dựa nhiều hơn vào chiến tranh bí mật của CIA mà thắng lợi ở I-ran và Goa-tê-ma-la đã khuyến khích nhiều hình thức can thiệp tương đối rẻ tiền, thường là không lộ liễu. Chẳng kể lý thuyết là như thế nào, trên thực tế, Mỹ tiếp tục dính sâu vào nhiều tình hình chính trị rất khác nhau trong mọi nơi của thế giới. Trong suốt những năm 1950, tuy Mỹ có thể làm chủ được quân sự, nhưng Mỹ khỏng thể nào hạ thấp mức xác định phạm vi và địa điểm của lợi ích Mỹ trên thế giới.

Các nhà lãnh đạo Mỹ nhận thức được tính chất của mâu thuẫn đó. Nhưng họ bao giờ cũng tin là có thể tìm ra một giải pháp. Những cuộc thảo luận quốc phòng sôi nổi ở giữa và cuối những năm 1950, đã từng làm nổi tiếng những nhà trí thức quân sự như Hăng-ri Kít-xin-giơ, Mác-xoen Tay-lơ và W. W. Rô-xtốp, nhưng cuối cùng đã đối lập họ với nhau. Nhưng có một điếu bất di bất dịch trong tất cả các lý thuyết là phải giữ thế chủ động chứ không được thụ động trong việc đối phó với các vấn đề và thách thức mới. Phát triển một ý thức làm chủ vấn đề là mục tiêu, nhưng những kỹ thuật và chiến lược để đạt mục tiêu đó lại luôn luôn đưa lại những khó khăn ít có khả năng giải quyết.

Chính trong bối cảnh tìm kiếm một chiến lược và học thuyết toàn cầu quyết định trong suốt những năm 1950 mà vấn đề Việt Nam gắn liền với bao nhiêu vấn đề quốc tế khác. Oa-sinh-tơn luôn luôn coi thách thức của Đông Dương như một bộ phận của một vấn đề lớn hơn nhiều mà nó phải đương đầu trên khắp thế giới: hiệu quả của chiến tranh hạn chế, nguy cơ của những đô-mi-nô, lòng tin vào quyền lực Mỹ, vai trò của Pháp ở châu Âu, và nhiều vấn đề khác. Việt Nam trở thành điểm tiếp nối của cuộc khủng hoảng sau chiến tranh của chủ nghĩa đế quốc Mỹ, đúng vào lúc Mỹ phải cố gắng lớn hơn nhiều để giải quyết những nghi ngờ của chính Mỹ về khả năng bảo vệ môi trường kinh tế quốc tế rộng lớn trong đó lợi ích của Mỹ có thể sống còn và phát triển. Vào khoảng năm 1960, tình hình đòi hỏi rằng lòng tin vào sức mạnh Mỹ phải được thử thách, nếu không tất cả những thất bại và khó xử từ năm 1916 sẽ làm phương hại đến chính cơ sở của hệ thống mà Mỹ tìm cách xây dựng trên toàn thế giới. Chính vì tình cờ mà Việt Nam trở thành nơi thử thách chủ yếu bởi vì Mỹ đã dự định từ trước tìm một nơi nào đó để đạt thắng lợi, không phải chỉ một thắng lợi mà nhiều thắng lợi nhằm đảo ngược tình thế ngày càng lún sâu vào lịch sử sau chiến tranh. 



Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 01 Tháng Chín, 2008, 02:08:06 pm
Chương bảy
NAM VIỆT NAM CHO ĐẾN NĂM 1959
NHỮNG NGUỒN GỐC CỦA CUỘC XUNG ĐỘT

CHÍNH SÁCH MỸ: TỪ BẢO ĐẠI CHO ĐẾN HỘI NGHỊ GIƠ-NE-VƠ

Từ cuối Chiến tranh thế giới thứ hai cho đến Hội nghị Giơ-ne-vơ, lập trường cơ bản của Mỹ về Việt Nam là hết sức ủng hộ cố gắng của Pháp nhằm kiểm soát thuộc địa của họ. Oa-sinh-tơn luôn luôn nhìn tác động chính sách của mình đối với châu Âu bằng con mắt vừa để ý đến vai trò của Việt Nam trong việc gây ảnh hưởng đến tình hình chính trị nội bộ Pháp, vừa để ý đến quan hệ toàn bộ của Pháp đối với các vấn đề châu Âu. Khi chính sách ngăn chặn của Mỹ nổi lên hàng đầu, nhất là sau sự sụp đổ của Quốc dân đảng ở Trung Quốc trong năm 1949, vấn đề ngăn cản không để cho một quốc gia cộng sản khác xuất hiện ở châu Á bắt đấu có sức nặng lớn hơn, cả hai cách suy xét đó đã đưa đến việc Mỹ ủng hộ các cố gắng của Pháp nhằm quét sạch Cách mạng, và cuối năm 1949, Oa-sinh-tơn đã dự đoán trước về một cuộc khủng hoảng ở Đông Dương.

Mỹ luôn luôn thúc Pháp thành lập một cơ cấu quốc gia chống cộng và tiến tới thành lập một nhà nước Việt Nam tự trị, một lập trường mà Pháp cho là một đòi hỏi của Oa-sinh-tơn muốn mở rộng ảnh hưởng của mình ở khu vực. Việc Pháp lựa chọn vua Bảo Đại tháng 6 năm 1948 đứng đầu "quốc gia Việt Nam" mà không có quyền lực gì không được Mỹ xem là một bước đi đúng hướng, và cũng là bước đi chắc chắn cũng không hấp dẫn gì đối với nhân dân. Lịch sử cộng tác của Bảo Đại với Pháp từ năm 1932, rồi với Nhật và thậm chí cả với Việt Minh trong thời gian rất ngắn, đã được mọi người biết rõ, cũng như đã biết rõ những yếu kém của ông ta về thể xác và về tâm hồn. Và trong khi những nhượng bộ của Pháp có vẻ như một trò cười trước con mắt của phần lớn thế giới, thì Giôn Phô-xtơ Đa-lét tổng hợp lập trường của Mỹ cuối năm 1950 khi ông ta nói "giữa hai cái xấu thì cách thực tiễn là chọn cái ít xấu hơn bởi vì giải pháp lý tưởng về mặt lý thuyết không thể thực hiện được rồi vì nhiều lý do mà chính sách của Pháp mới chỉ là một".

Trên thực tế, ủng hộ của Mỹ đối với Pháp là không có gì úp mở cả. Đầu năm 1950, Oa-sinh-tơn thừa nhận các quốc gia độc lập về danh nghĩa ở Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia mà Pháp đã thành lập trên giấy tờ, và bắt đầu viện trợ kinh tế trực tiếp cho các quốc gia đó, tuy Oa-sinh-tơn sẵn sàng tăng nhiều việc ủng hộ Pháp. Mỹ tán thành thêm cải cách, nhưng không quá nhiều, sợ rằng Pháp mất động cơ chiến đấu nhưng việc Mỹ bị bận tâm vào Triều Tiên và việc Mỹ ngày càng quan tâm đến việc tranh thủ sự ủng hộ của Pháp đối với việc tái vũ trang châu Âu làm cho Pháp rảnh tay hơn trong các vấn đề chính trị.

Trong thời gian 1950 - 1954, Pháp nhận 3,6 tỷ đô-la viện trợ quân sự mà phần lớn là đã được đổ vào Đông Dương cho nên đa số chi tiêu chiến tranh đã được trang trải. Nhưng dù Pháp nghĩ gì về việc họ đang làm, trên thực tế Pháp ngày càng trở nên một con tốt đen trong chiến.lược toàn cầu của Mỹ. Để đóng vai trò này một cách đầy đủ, Pháp phải giành cho được một chiến thắng quân sự. Nhưng khi đã chắc chắn là không thắng, Oa-sinh-tơn vẫn chống lại một sự kết thúc chiến tranh bằng thương lượng.

Khi Hội nghị Giơ-ne-vơ khai mạc ngày 8 tháng 5 năm 1954, lập trường công khai của Mỹ tỏ ra rất hiếu chiến, nhưng chính quyền Ai-xen-hao vẫn chờ đợi cho đến khi có thể làm rõ chính sách của mình. Cuộc thảo luận "cách nhìn mới" kèm theo lời cảnh cáo đáng ngại rằng Mỹ có thể dựa vào vũ khí hạt nhân, đã được đưa ra từ lâu trước khi trận chiến đấu Điện Biên Phủ bắt đầu và nhằm để làm cho Oa-sinh-tơn có vẻ dữ tợn. Tuy vậy, bên dưới lời tuyên bố, có thể thấy một sự thiếu kiên định rõ rệt.

Sự thù địch của Mỹ đối với bất kỳ cuộc thương lượng nào với Trung Quốc và Việt Nam dân chủ cộng hòa vào lúc mà những cuộc thương lượng đó không thể nào tránh khỏi được, phản ánh sự bất lực của Oa-sinh-tơn trong việc kiểm soát các sáng kiến ngoại giao quan trọng của các đồng minh Anh và Pháp, một thách thức đối với bá quyền của Mỹ, vượt xa vấn đề Đông Dương. Do đó có thể thấy trước rằng một chính phủ Mỹ ngày càng chia rẽ sẽ phải xem xét các khả năng lựa chọn trước khi tán thành một sự kết thúc chiến tranh thông qua thương lượng và chính quá trình xem xét đó làm cho sự ủng hộ về sau của Mỹ đối với Hiệp định Giơ-ne-vơ là không thể tránh khỏi.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 01 Tháng Chín, 2008, 02:08:58 pm
Vì sự can thiệp quân sự của Mỹ vào cuộc chiến tranh luôn luôn bị đặt dưới điều kiện là phải có sự đồng tình của Anh và những nhượng bộ lớn của Pháp về các vấn đế chính trị ở Việt Nam, và vì các điều kiện đó không thể xảy ra, cho nên tất cả những gì Oa-sinh-tơn cuối cùng có thể có được là một biện pháp gỡ thể diện tức là sự thỏa thuận thành lập Tổ chức hiệp ước Đông Nam Á (SEATO) để đối phó với những cuộc khủng hoảng tương lai có thể xảy ra trong khu vực.

Những tin đồn cố tình đưa ra đầu tháng 4 năm 1954 rằng Mỹ có thể dùng không lực để cứu Điện Biên Phủ có vẻ đáng tin trong một thời gian, chỉ vì Đa-lét nhai đi nhai lại một cách mập mờ trong những tháng trước đó. Nhưng cả Đa-lét lẫn Ai-xen-hao chưa bao giờ ủng hộ việc sử dụng không quân hoặc hải quân, đừng nói gì đến vũ khí hạt nhân. Điều mà họ rõ ràng tán thành là gây nên những hồ nghi và lo sợ về một phiêu lưu Mỹ có thể có, bởi vì ngay dù cho Mỹ tự thấy không đủ sức hành động về mặt chính trị cũng như quân sự nhưng nếu Mỹ làm ra vẻ càng nguy hiểm bao nhiêu thì càng thực hiện được mục tiêu của mình bấy nhiêu.

Đô đốc Ác-tơ Rát-pho, chủ tịch bộ tham mưu liên quân gợi ý nhiều lựa chọn khác nhau, kể cả việc dùng bom nguyên tử gần Điện Biên Phủ nhưng Tổng thống, Đa-lét và các thành viên khác của bộ tham mưu liên quân đã bác bỏ tất cả các đề nghị như vậy. Trên thực tế Mỹ không tán thành cả chiến tranh lẫn hòa bình, bởi vì Mỹ bị buộc phải đương đầu với những hạn chế chính trị và quân sự của học thuyết chiến lược "cách nhìn mới" trong khung cảnh của chiến tranh Việt Nam. Chính nhận thức khổ sở đó cũng như những sự kiện ở Việt Nam đã giải thích cách cư xử của chính quyền Mỹ trong mùa xuân năm 1954.

Mỹ không chịu bỏ phiếu cho quyết định ngày 21 tháng 7 của hội nghị và tuyên bố không bị ràng buộc vào các quyết định của hội nghị, nhưng khi nói chuyện riêng, Mỹ tin là đã đạt được một thời gian nghỉ ngơi quý giá và một cách giải quyết tốt nhất có thể có, nếu xét những thực tế chính trị và quân sự lúc bấy giờ và những yêu sách của phía Việt Nam "tương đối khiêm tốn nếu so với những khả năng thực tế của họ".

Câu hỏi đầu tiên của Đa-lét là "liệu chúng ta có thể cứu vãn được cái mà những người cộng sản đã bỏ ra ngoài tầm chiếm giữ của họ ở Đông Dương không?". Hoạt động cứu vãn của Mỹ, ngay tức khắc, phải đương đầu với một số vấn đề. Vấn đề quan trọng nhất là củng cố những người chống cộng ở Việt Nam, một việc làm mà Mỹ xem như là đồng nghĩa với việc gạt ảnh hường của Pháp.

Tiếp theo là vấn đề biến sự chia cắt tạm thời của Việt Nam dọc theo vĩ tuyến 17 thành một sự chia cắt vĩnh viễn bằng cách phá hoại điều khoản của hiệp định về cuộc bầu cử giữa năm 1956 nhằm thống nhất đất nước, bởi vì vào giữa tháng 5 Đa-lét đã tuyên bố công khai rằng ông ta sẽ chống mọi cuộc bầu cử trong một tương lai vô hạn định.

Ngay trước khi hiệp định được ký, Mỹ đã tiến hành một bước đi lớn vào chiều hướng đó khi Mỹ thuyết phục người Pháp để cho Bảo Đại cử Ngô Đình Diệm làm thủ tướng và vận động cho nhà vua đồng ý ở lại châu Âu trong khi Diệm trở về Sài Gòn để lãnh đạo miền Nam. Vào ngày 7 tháng 7 năm 1954, Diệm đã thành lập được một nội các hoàn toàn có tổ chức.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 01 Tháng Chín, 2008, 02:09:54 pm
NGÔ ĐÌNH DIỆM, MỸ VÀ SỰ BẤT ỔN CỦA TRẬT TỰ MỚI

Ngô Đình Diệm đã làm việc trong bộ máy cai trị của Pháp trong một thập kỷ cho đến năm 1933 khi ông ta trở thành thượng thư Bộ Lại của Bảo Đại. Ông ta rút lui khỏi chính trị sau một cuộc tranh cãi gay gắt với người Pháp về quyền hành của ông ta và trong chiến tranh, ông ta đặt quan hệ với người Nhật và được họ bảo vệ. Tháng 3 năm 1945, ông ta thương lượng với họ để trở thành thủ tướng nhưng họ không dàn xếp được với nhau một cách kịp thời. Vào năm 1954 Diệm là một trong rất ít những nhà chính trị tích cực chống Pháp và chống Cộng sản mà Mỹ có thể tranh thủ.

Năm 1954, Mỹ ít thấy tầm quan trọng to lớn của quyết định mà họ đưa ra khi tán thành ủng hộ Ngô Đình Diệm. Thật là không thể tưởng tượng được rằng Mỹ sẽ đưa lại một giai đoạn quan trọng trong lịch sử nước mình, một giai đoạn được hình thành chủ yếu bởi những chỗ mạnh, những tham vọng và những chỗ yếu của một con người. Và sự phụ thuộc của việc thực hiện các mục tiêu và lợi ích của Mỹ vào bộ mặt ngoại lai đó nói lên không phải lần đầu và cũng không phải lần cuối mức độ của tính thất thường trong việc tiến hành chính sách đối ngoại của Mỹ.

Một phần khá lớn cuộc đời của Diệm là sống như một người ẩn dật, không vợ con và trong những thời gian dài đó ông ta đi vào triết học, đưa lại một hổ lốn về chủ nghĩa nhân vị trong đó có đức tin đạo Thiên Chúa, những tư tưởng Khổng giáo và Ấn Độ giáo và nhiều khái niệm về cá nhân có lúc rất thịnh hành ở Pa-ri và nhiều thứ khái nữa. Kết quả là một sự hổ lốn không thể nào hiểu được, có thể bị gạt bỏ ngay nếu Diệm không nắm quyền và nếu triết học của ông ta không phải là hệ tư tưởng của một chính phủ được Mỹ ủng hộ. Cái lợi duy nhất của những tư tưởng của ông ta là ảnh hưởng của chúng đối với mối quan hệ của ông ta với nhân dân, đối với xu thế chính trị và đối với người Mỹ đang ủng hộ ông ta.

Những kỳ vọng tư tưởng của Diệm trở nên viển vông và làm cho ông ta càng xa cách và khó hiểu với nhân dân. Nhưng vì có quyền lực, Diệm cũng tập hợp được người theo chủ nghĩa nhân vị nhanh chóng biến thành một hệ tư tưởng trong việc sử dụng quyền lực cho mục đích riêng tư của gia đình và bạn bè quanh một nhà thống trị tự cho là đại diện cho lợi ích quốc gia cũng như cho các giá trị của con người. Bên cạnh việc làm cho nhà nước phục vụ lợi ích gia đình và giai cấp, lại có một xu hướng chống lại mọi kỹ thuật có thể gây nhiều tác động cho chính sách xã hội. Người Mỹ phải mất nhiều năm mới nắm được vấn đề mà triết lý của Diệm có thể gây ra, nhưng cuối cùng họ cũng không thể tránh những vấn đề đó.

Trong khi đó các quan chức Mỹ tìm cách lợi dụng thời gian nghỉ ngơi mà những điều khoản của Hiệp định Giơ-ne-vơ về chia cắt và bầu cử đưa lại cũng như tìm cách gạt nốt sự kiểm soát còn lại của Pháp đối với đời sống chính trị và kinh tế của Việt Nam, mà Oa-sinh-tơn không làm được tháng 8 trước đó. CIA kết luận một tháng sau Hội nghị Giơ-ne-vơ rằng: "Nếu cuộc tổng tuyển cử được tổ chức tháng 7 năm 1956 và nếu Việt Minh không tự phá hoại triển vọng chính trị của mình, thì họ chắc chắn sẽ thắng". Như vậy là chủ nghĩa cộng sản sẽ tìm cách chiếm nguồn ở miền Nam bằng phương pháp hòa bình và hợp pháp và sẽ thấy rằng sự mất đoàn kết chính trị kinh niên ở miền Nam sẽ làm cho nhiệm vụ đã dễ dàng của họ càng dễ dàng hơn. Do đó Mỹ và Diệm đưa ra nhiều lý do để từ chối tổng tuyển cử. Tuy nhiên, suốt năm 1954 các chuyên gia Mỹ ở khu vực không thấy gì khác hơn là thất bại ở phía trước.

Diệm rơi vào một tình trạng hỗn loạn của sự chống đối và âm mưu chính trị nói chung, của sự chống đối công khai của Pháp và của khả năng một cuộc đảo chính quân sự do Pháp ủng hộ. Vấn đề Bảo Đại cũng không kém gì. Cùng trong tháng cử Diệm làm thủ tướng, ông ta bán chức vụ cảnh sát trưởng Sài Gòn cho Bình Xuyên với giá một triệu đô la và bắt đầu tiếc về việc đã cử Diệm. Rồi đến vấn đề những người di tản chủ yếu là theo đạo Thiên chúa từ miền Bắc, lên đến con số 850.000. Tuy có những báo cáo hầu như nhất trí là bi quan gửi đến Oa-sinh-tơn nhưng triển vọng của Diệm không xấu hơn các độc tài của Mỹ ủng hộ ở các nơi khác.

Tháng 11, tướng J. Lo-tơn Cô-lin được cử làm đại sứ ở Sài Gòn để xem xét tình hình và kiến nghị chính sách tương lai. Mặc dù những nghi ngờ về khả năng của Diệm trong việc tranh thủ sự ủng hộ của quần chúng và mặc dù những ý kiến gay gắt của mình về khả năng của Diệm trong việc tổ chức quân đội và giải quyết vấn đề ruộng đất, nhưng Cô-lin cuối cùng vẫn đề nghị giúp đỡ Diệm. Chính sự giúp đỡ đó đã giúp Diệm thoát khỏi thảm họa. Năm đầu sau Hội nghị Giơ-ne-vơ chế độ Diệm nhận 322 triệu đô-la viện trợ từ Oa-sinh-tơn và về sau còn nhiều hơn. Bây giờ Diệm có thể tiến hành củng cố quyền lực.

Mối quan hệ ban đầu giữa Diệm và Mỹ là rất lộn xộn và trong tháng 4 năm 1955, Oa-sinh-tơn hầu như sắp thay ông ta. Tuy có những lời phàn nàn thường xuyên và đôi khi gay gắt của người Mỹ, Diệm vẫn thấy rằng ông ta có thể dựa vào họ. Về cơ bản, Mỹ ủng hộ Diệm vì ông ta thực hiện tất cả các mục tiêu của họ tốt hơn bất kỳ ai khác. Ông ta cũng hăng hái như Mỹ trong việc phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ và sẵn sàng tiêu diệt cộng sản và xóa sạch di sản của Pháp. Đối với người Mỹ, Diệm là một nhân tố quan trọng trong việc xây dựng đất nước và trong việc tạo ra một sự hợp pháp chính trị và một sự mở rộng khu vực ảnh hưởng của họ. Vì Diệm là người cứng rắn trên vũ đài chính trị của Sài Gòn, và quyết tâm cũng như sự gan lì của ông ta đã giành được sự khâm phục của ngay những người Mỹ chỉ trích ông ta.

Những người Việt Nam thân Pháp và được Pháp ủng hộ đặt ra cho sự củng cố quyền lực của Diệm một mối đe dọa trước mắt hơn đe dọa của những người cộng sản. Khả năng của Diệm trong việc xóa sạch ảnh hưởng của Pháp tùy thuộc vào số lượng viện trợ kinh tế và quân sự của Mỹ. Vào giữa năm 1955, các lực lượng của Diệm tìm cách tiến công và kiềm chế các đội quân riêng của Bình Xuyên, Cao Đài và Hòa Hảo mà Pháp còn cung cấp tài chính cho đến đầu năm đó. Tháng 10 năm 1955 Diệm truất ngôi Bảo Đại; cuối năm đó ông ta cắt đứt quan hệ kinh tế với Pháp và bỏ Liên hiệp Pháp, tuyên bố thành lập "Việt Nam cộng hòa". Những di tích chính thức của chế độ thuộc địa Pháp đã bị xóa sạch cùng với mọi hy vọng thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ. Sau năm 1955, những mục tiêu chung của Mỹ và Diệm trùng hợp với nhau và Diệm trở thành cần thiết cho các mục tiêu chung của Oa-sinh-tơn.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 01 Tháng Chín, 2008, 02:10:37 pm
DIỆM CỦNG CỐ QUYỀN LỰC

Với sự ủng hộ của Oa-sinh-tơn được bảo đảm và ngày càng vững chắc, Diệm tiến hành củng cố một trật tự chính trị theo kiểu riêng của mình. Bước đầu tiên của ông ta sau khi lên nắm quyền tháng 7 năm 1954 là làm cho gia đình ông ta trở thành hạt nhân của cơ cấu chính trị. Trong 9 bộ trưởng nội các của chính phủ đầu tiên, Diệm nắm ba bộ quan trọng nhất, bố vợ của em ông ta là Ngô Đình Nhu, nắm một bộ khác, và cậu vợ của Nhu là ngoại trưởng. Một người bà con khác nắm bộ giáo dục. Ngô Đình Cẩn, em của Diệm thống trị các tỉnh phía bắc quanh Huế mà không giữ một chức vụ cụ thể nào, và một người anh khác, giám mục Ngô Đình Thục điều khiển Nhà thờ Thiên chúa ở Việt Nam. Ngô Đình Nhu và vợ, người đứng đầu phong trào phụ nữ, ngay từ đầu là những người tâm phúc của chế độ, với ảnh hưởng rất lớn đối với Diệm. Việc Diệm tập trung các quyết định then chốt của nhà nước vào tay gia đình ông ta đã ngay tức khắc làm cho chính quyền trở nên bất lực. Những người nhà ông ta cũng đều đồi bại và sớm bắt đầu cóp nhặt tiền của vào ngân hàng nước ngoài.

Sau khi đặt gia đình vào trung tâm của quyền lực, Diệm dành những chức vụ cao sang và quan trọng nhất cho những người ủng hộ trung thành chung quanh Huế. Những người đó chủ yếu là những địa chủ tham lam và thuộc tầng lớp quý tộc của xã hội. Chủ nghĩa địa phương mà đạo Thiên chúa tăng thêm sức mạnh là con đường quan trọng đi vào chính trị và quyền lực cho những người di cư từ miền Bắc Việt Nam. Chính những người di cư này đã đưa lại cho chế độ cái vẻ bề ngoài duy nhất của sự ủng hộ của quần chúng trong một lãnh thổ mà 90 phần trăm không phải theo đạo Thiên chúa. Mảnh uy quyền cuối cùng nhằm đưa lại cho chế độ một cơ sở về mặt tổ chức là đảng Cần lao nhân vị được thành lập năm 1956 và là đảng hợp pháp duy nhất.

Đảng Cần lao gồm khoảng mười sáu nghìn đảng viên bí mật năm 1959, do Nhu và Diệm điều khiển. Với hệ tư tưởng nhân vị về danh nghĩa, đảng Cần lao là một sự kết hợp của bộ máy chính trị cá nhân với một kiểu hội kín mang tính chất trả thù và hăm dọa kiểu ma-phi-a. Sự tham gia đảng này là một tiền đề để tiến lên chức vụ cao hơn trong chính phủ và quân đội.

Bằng cách kiểm soát sự kết nạp đảng viên, Diệm và gia đình ông ta có thể nắm chắc lòng trung thành của những người chủ chốt trong bộ máy nhà nước và quân đội và có thể gạt bỏ tất cả những ai do Pháp để lại hoặc thuộc các nhóm chống đối khác. Các đảng viên Cần lao trong quân đội đôi khi có quyền ra lệnh cho cấp trên danh nghĩa của mình và, dưới quyền của Nhu, Cần lao đã gây ra phần lớn những tội ác ở miền Nam để xây dựng quỹ cho mình. Cần lao cũng hoạt động như cảnh sát bí mật, theo kiểu mà người Nhật Bản đã sử dụng ở Việt Nam trong Chiến tranh thế giới thứ hai và đã được Diệm nghiên cứu một cách chi tiết.

Việc thành lập đảng Cần lao đã buộc Mỹ phải để cho Diệm được tự do cai trị miền Nam theo ý ông ta, và cho mãi đến năm 1963, Mỹ mới hủy bỏ được sự ủy nhiệm đó. Tổ chức của đảng, đứng đầu chế độ gia đình trị và đế chế không chính thức của Diệm, cũng nói lên rằng quyền hợp pháp chính trị và quyền thừa kế là những đặc quyền của Diệm và chỉ có thể đưa đến sự mất ổn định. Đại tá Et-oát Lên-xđên, người đã từng là một trong những người ủng hộ Diệm kiên quyết nhất đang hoạt động ở Việt Nam, đã tiên đoán rằng nhà nước cảnh sát đang xuất hiện đó sẽ gây ra những biến động và khủng hoảng chính trị đẩy tất cả các chính đảng khác vào sự chống đối ngấm. CIA lập luận rằng trừ những người Cộng sản ra, những đối thủ chính trị tiềm tàng của Diệm "chủ yếu là những người cơ hội tìm kiếm quyền lực". Nhiều người trong bọn họ là thân Pháp.

Mỹ ít quan tâm đến việc chống lại sự đàn áp của Diệm chừng nào Diệm còn ngăn cản sự thực hiện các cuộc tuyển cử đã được tán thành tại Giơ-ne-vơ, cả hai đều tuyên bố không ký hiệp định. Mục tiêu đầu tiên của Mỹ là giúp Diệm xây dựng quân đội và cảnh sát, một việc làm vi phạm các điều khoản của hiệp định. Những đối thủ Mỹ chống lại một cuộc bầu cử để thống nhất đất nước, bao gồm, Thời báo Niu Yoóc, thượng nghị sĩ Giôn F.Ken-nơ-đi và nhiều người khác, và cả Diệm lẫn Mỹ không thể đáp ứng yêu cầu của Việt Nam dân chủ cộng hòa và những đồng chủ tịch của Hội nghị Giơ-ne-vơ, nhằm gặp nhau để thảo luận những thể thức của bầu cử. Chính quyền Mỹ tin rằng Cộng sản sẽ thắng nên đã ủng hộ sự ngoan cố của Diệm, và trong khi đó thì Diệm củng cố quyền lực của mình.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 01 Tháng Chín, 2008, 02:11:37 pm
DIỆM GẠT BỎ NHỮNG NGƯỜI CHỐNG ĐỐI CÓ THỂ CÓ

Nhiệm vụ cấp bách nhất trước mắt Diệm là củng cố quyền lực của ông ta đối với trên 200.000 người Việt Nam mà người Pháp sau năm 1950 đã xây dựng thành một đội quân để chiến đấu với Việt Minh. Bởi vì trong chế độ một đảng thì quân sự là nhóm không cộng sản duy nhất có khả năng tiềm tàng thách thức chế độ độc tài của ông ta. Tính chất cá nhân hóa cao độ của nhà nước, với việc không có một cơ sở giai cấp hoặc thể chế nào đã làm cho đảo chính trở thành biện pháp duy nhất để thừa kế, và trong năm đầu của chế độ ông ta, sự mong muốn không che giấu của Pháp nhằm gạt ông ta ra khỏi chức vụ, đã đẩy ông ta đến việc phải đánh vào lực lượng duy nhất mà người Pháp có thể dựa vào để có kết quả nhanh chóng. Trong quá trình làm nhiệm vụ đó, Diệm hoàn toàn phá hủy hệ thống quan liêu và thể chế hàng thế kỷ nay của Pháp và thay nó bằng một bộ máy chính trị rõ ràng là chuyên chế của ông ta.

Tháng 6 năm 1954, Mỹ và Pháp đồng ý với nhau rằng người Mỹ sẽ chịu trách nhiệm huấn luyện và trang bị cho đội quân của Bảo Đại; mặc dù ý nghĩ đầu tiên của Mỹ là chuẩn bị để Diệm đối phó được với nổi dậy, nhưng ông ta đã dễ dàng chuyển cam kết đầu tiên của Mỹ thành việc tạo ra một đội quân chính quy có thể ngăn chặn một cuộc xâm lược từ miền Bắc. Trên thực tế, mục tiêu chính của Diệm là thành lập một đội quân mà nhiệm vụ thực sự là bảo vệ bộ máy chính trị của ông ta chống lại những người chống cộng địch thủ, những đội quân đó không thể nào chống lại ông ta được. Trong khi nhiều nhân tố khác cũng giải thích những yếu kém của quân đội Việt Nam cộng hòa, tính chất chính trị bên trong của nó nói lên rằng cuối cùng đội quân đó không thể chiến đấu thắng lợi trong một cuộc chiến tranh không quy ước hoặc một cuộc chiến tranh chính quy.

Bước đầu tiên của Diệm trong năm 1955 sau khi tiêu diệt các đội quân giáo phái độc lập, là đuổi mà không đền bù trên sáu nghìn hạ sĩ quan có kinh nghiệm chiến đấu nhưng là những người trung thành với Pháp trước kia. Diệm thành lập những trường sĩ quan mới mà chủ yếu là những trung tâm nhồi sọ chính trị và từ đó xuất thân phần lớn những sĩ quan cấp cao của quân đội Việt Nam cộng hòa. Những sĩ quan mà người của Diệm tín nhiệm, được đưa vào đảng Cần lao. Họ làm như vậy cho đến khi tất cả sĩ quan cấp cao đều được hoàn toàn tổ chức vào đảng. Vào đảng thì được thăng quan tiến chức cho nên những người tham lam sẵn sàng tham gia đảng. Nhưng đánh giá của tập đoàn Diệm về lòng trung thành cá nhân mới là quyết định hơn nhiều vì, chỉ tập đoàn đó mới được quyền kiểm soát sự đề bạt của sĩ quan cấp cao.

Những sĩ quan mà lòng trung thành đã trở thành tuyệt đối rồi thì nhanh chóng trở thành những nhà cai trị dân sự của Diệm. Năm 1956 cảnh sát là do các sĩ quan phụ trách và đến năm 1962 thì hầu như tất cả những tỉnh trưởng là quân nhân. Tình hình này đưa đến quân sự hóa trật tự dân sự. Trong quân đội thì Diệm tổ chức một cơ cấu chỉ huy xoắn lại nhau và trùng lặp lên nhau mà mục đích là làm cho không có nhóm sĩ quan nào có đủ sự kiểm soát để chống lại được với quyền lực của ông ta. Mỹ cố tìm cách nhưng không bao giờ chấm dứt được hệ thống song song đó và nó tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau cho đến năm 1975. Nhiều mặt pháp lý quân sự mâu thuẫn với nhau, nhiều quân khu, nhiều ngành quân sự không thể hợp tác với nhau, thậm chí không thể liên lạc với nhau, nói lên rằng quyền lực cuối cùng thuộc vào một con người ở chóp bu. Đó là mục tiêu của toàn bộ cơ cấu phiền toái và Diệm thì luôn luôn sử dụng quyền lực của ông ta. Vì tất cả những lý do chính trị đó mà quân đội Việt Nam cộng hòa chưa bao giờ hoạt động như là một lực lượng quân sự phối hợp và thống nhất trong những cuộc hành quân lớn.

Sau khi bắt đầu củng cố sự kiểm soát của mình đối với các giáo phái và quân đội, năm 1956 Diệm quyết định đương đầu với những đặc quyền dựa vào thực dân của cộng đồng người Trung Quốc. Vào đầu những năm 1950, người Trung Quốc chiếm khoảng một phần mười số dân Nam Việt Nam nhưng chiếm trên một nửa tư bản công cộng đầu tư vào thương mại, công nghiệp và các xưởng thủ công, cộng với hầu như tất cả số tư bản lớn hơn nhưng được che giấu. Họ kiểm soát trên bốn phần năm bán lẻ và khống chế ngành dệt, nhập xuất, vận tải, nghề kim khí và nhiều nghề khác. Thực tế rằng về mặt pháp lý họ chỉ phụ thuộc vào các bang của họ, không những đụng chạm đến chỉ vấn đề tự hào dân tộc đối với Diệm mà còn đụng chạm đến vấn đề kiểm soát thuế và nền kinh tế nữa.

Tháng 8 năm 1956, Diệm yêu cầu tất cả các người Trung Quốc sinh ở Việt Nam lấy quốc tịch Việt Nam và lấy tên Việt Nam. Các bang bị giải tán và phần lớn tài sản của họ bị tịch thu. Trong tháng tiếp theo, ông ta cấm những người nước ngoài tham gia mười một loại hoạt động kinh tế, đã từng là những hoạt động làm cho người Trung Quốc chiếm lĩnh nền kinh tế. Họ được một thời gian đến một năm để thanh toán công việc của họ và chuyển lại cho người Việt Nam. Việc này có nghĩa một cách đơn giản là họ phải lấy quốc tịch Việt Nam.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 01 Tháng Chín, 2008, 02:12:42 pm
Tác động đối với cộng đồng người Trung Quốc là rất náo động, gây ra một sự sợ hãi và một cảm giác mất an toàn. Nhưng hầu như tất cả người Trung Quốc không chịu lấy thẻ quốc tịch Việt Nam và chính phủ Tưởng Giới Thạch ở Đài Loan nhảy ngay vào cuộc, bởi vì năm 1948 chính phủ đó đã được giao quyền giúp chọn những nhà lãnh đạo các bang. Người Trung Quốc quyết định đương đầu với Diệm bằng cách mở ra nhiều mặt trận, trước tiên là tiến công đồng bạc Việt Nam và đóng cửa thị trường xuất gạo. Họ cũng ngừng cho nông dân vay tiền và ngừng vận tải đường thủy cho đồng bằng. Sự chống đối của họ khá có hiệu quả nhưng Diệm vẫn kiên quyết, và trong khi người Trung Quốc tìm cách tiếp tục nắm ngành kinh tế như trước bằng cách dùng nhiều hình thức khác nhau, nhưng họ không đầu tư quá mức cần thiết. Mặc dù gia đình của Diệm buộc phải liên minh với nhiều người Trung Quốc khác nhau để thực hiện những kinh doanh của nó, người Trung Quốc không hề lấy lại được lòng tin ở Diệm. Diệm chỉ huy động một lực lượng xã hội quan trọng chống lại chính ông ta. Còn người Trung Quốc thì yên lặng mà chờ đợi.

Một khi hệ thống quyền lực của ông ta được củng cố thành một bộ máy chính trị cá nhân toàn diện, Diệm áp đặt nó vào tất cả các lĩnh vực của xã hội. Đàn áp đô thị là việc dễ làm nhất. Tuy con số chính xác không biết được, một ước tính dè dặt đưa ra con số có 40.000 tù chính trị vào cuối năm 1958 và 12.000 bị giết trong những năm 1955-1957. Các báo chí đều bị đóng cửa và coi đó như việc bình thường.

Một lớp sơn hợp pháp cho việc đàn áp đã được sắc lệnh 47 tháng 8 năm 1956 đưa ra và được củng cố trong luật 10/59 tháng 5 năm 1959 lên án rằng một "người cộng sản" hoặc làm việc với một người cộng sản là phạm tội vô cùng tai hại. Cả hai đều bị đưa ra xử ở tòa án quân sự mà không được chống án và việc đưa ra các đạo luật đó là một lời cảnh cáo mạnh mẽ để nhân dân thấy rằng chế độ sẽ không tha thứ bất kỳ đối thủ nào.

Quyền lực càng tăng thì bắt bớ càng nhiều, và ước tính khoảng 150.000 tù chính trị vào cuối năm 1961 có vẻ hợp lý, tuy con số của Việt Nam dân chủ cộng hòa còn cao hơn nhiều con số mà Việt Nam cộng hòa thừa nhận là 50.000 bị bắt năm 1960. Diệm vây bắt đối thủ mà không cần tính toán gì đến hệ tư tưởng, và những người Việt Nam thân Pháp là đặc biệt dễ bị bắt nhất. Tháng 11 năm 1960, 18 trong số những người cộng tác với Pháp quan trọng nhất, cái gọi là nhóm Ca-ra-ven, ra một tuyên bố chống lại sự đàn áp và nền chính trị của Diệm: "Những cuộc bắt bớ liên tục làm cho nhà giam và nhà tù đầy đến nóc... công luận và báo chí buộc phải im hơi lặng tiếng”. Phần đông những người đó bị quẳng vào tù.

Chế độ chuyên chế và cá nhân hóa của Diệm ngày càng làm cho các quan chức Mỹ có nhiều thắc mắc, nhất là sau khi được biết rõ rằng chức năng tối hậu của quân đội Diệm không phải là tiến hành chiến tranh quy ước hoặc chiến tranh du kích mà là giữ cho Diệm nắm quyền lực. Tuy nhiên Diệm "thân Mỹ", ngay dù cho khi ông ta không chấp nhận lời khuyên của Mỹ. Nếu ông ta rời chức vụ, Oa-sinh-tơn cho rằng Nam Việt Nam có lẽ không thể sống sót được. Mỹ sẵn sàng thừa nhận tính chất độc tài của chế độ Diệm.

Năm 1959, nó còn được xem là ổn định, và tin tức về Diệm trên báo chí Mỹ vẫn còn rất thuận lợi. Vì 85 phần trăm ngân sách quân sự của Việt Nam cộng hòa và hai phần ba ngân sách quân dân sự kết hợp những năm 1955 - 1958 là do Mỹ cung cấp, nên ủy thác của Oa-sinh-tơn cho Diệm là hoàn toàn. Ủy thác đó được duy trì cho đến năm 1963, bất chấp lời cảnh cáo của người đứng đầu nhóm cố vấn viện trợ quân sự Mỹ (MAAG) vào cuối năm 1960 rằng Diệm rồi sẽ phải đương đầu với những vấn đề ngày càng tăng về chính trị và do đó mà cả về quân sự nữa.

Trong khi Diệm kiểm soát mọi mặt của quân đội Việt Nam cộng hòa liên quan đến chính trị, ông ta tuy vậy vẫn sẵn sàng chấp nhận ý muốn của Mỹ tổ chức và huấn luyện đội quân đó. Toàn bộ ngân sách quân sự của Việt Nam cộng hòa đã được soạn thảo theo hướng dẫn của Lầu Năm Góc; chính Lầu Năm Góc quyết định loại trang bị và mức độ xây dựng quân đội. Một thỏa hiệp về quy mô của quân đội đã đạt được sau khi đã thảo luận khá gay go. Nhưng Diệm không cho Mỹ làm gì nhiều hơn cho nền kinh tế ngoài việc cung cấp viện trợ chủ yếu là không hạn chế. Trong năm năm đầu sau giải pháp Giơ-ne-vơ, viện trợ quân sự và kinh tế của Mỹ đã tạo ra những tiền đề và bước đi cho cả hai thập kỷ tiếp theo.

Những suy nghĩ về kinh tế của Diệm là một sự pha trộn ngoại lai của việc chống tư bản theo lối quan lại và những ý kiến phong kiến theo đạo Thiên chúa với nguyện vọng muốn có quyền lực và lợi nhuận cá nhân. Diệm không để cho các nhà kinh tế Mỹ làm cố vấn cho ông ta và ông ta đi vào những chính sách kinh tế mà Mỹ cho là có tính chất báo động. Ngoài việc tiến công vào người Trung Quốc, ông ta cắt giảm sức mạnh kinh tế của Pháp ở miền Nam. Ông ta đồng ý hoàn toàn bảo vệ đầu tư của Mỹ, mà hiện chưa có bao nhiêu. Ông ta quyết định xây dựng một khu vực kinh tế nhà nước với một số xí nghiệp quốc gia về lọc đường, giấy, xi-măng, hàng dệt và nhiều thứ khác. Như vậy là ông ta bác bỏ một nguyên tắc cốt yếu của Mỹ về vai trò của đầu tư tư nhân trong phát triển.

Diệm cũng học cách điều khiển chương trình nhập khẩu và tỷ giá hối đoái bằng một phương pháp mà các quan chức Mỹ lên án nhưng phải chấp nhận trong hai thập kỷ. Nhưng khi hàng xa xỉ bắt đầu được đổ vào một nền kinh tế giẫm chân tại chỗ thì xảy ra một tình trạng mà một quan chức Mỹ năm 1961 nghĩ là một chênh lệch cực độ giữa thành thị và nông thôn và là một trong "những nguyên nhân bất bình chính đưa đến cuộc nổi dậy hiện nay". Chính sách của Mỹ là một chính sách mà mỗi một quan chức Mỹ đều xem là lãng phí đối với Mỹ và đầy nguy hiểm đối với Sài Gòn, nhưng vì những ép buộc về chính trị mà việc trợ cấp cho Việt Nam cộng hòa càng ngày càng tăng. Kết quả là một nền kinh tế hoàn toàn phụ thuộc và không cân đối ngay từ lúc Oa-sinh-tơn bắt đầu bảo trợ cho sự tồn tại của Việt Nam cộng hòa.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 01 Tháng Chín, 2008, 02:13:25 pm
DIỆM VÀ SỰ TẠO RA MỘT KHOẢNG TRỐNG QUYỀN LỰC

Chế độ của Diệm đã tìm được cách biến đổi mọi tầng lớp cổ truyền, bảo thủ của một đất nước bị chia rẽ sâu sắc về mọi mặt đang trong quá trình thay đổi trật tự thuộc địa mà Pháp đã xây dựng trên hơn một thế kỷ. Chế độ gia đình mà ông ta thay vào là một sự kết hợp giữa những nhân tố phong kiến và găng-xtơ (kẻ cướp) nhưng không đưa lại được một phương pháp chia lợi có trật tự. Những sĩ quan trẻ, tham lam mà Diệm thăng chức nhanh hơn những sĩ quan của Pháp trước kia là nhóm duy nhất trong các lực lượng không cộng sản có thể gây ra những biến đổi nhanh chóng, nhưng chỉ có hại cho Diệm và bằng cách dựng lên một kiểu cơ cấu chính trị quân sự. Rất rõ ràng là tháng 11 năm 1960, các sĩ quan đã từng gần gũi với Diệm, tổ chức một cuộc đảo chính hụt để tìm cách thay thế Diệm.

Không có một cơ sở giai cấp hoặc tư tưởng nhất quán nào cho chế độ của Diệm, mà chỉ những công chức gắn liến với một bộ máy chính trị mà bản chất gia đình rất riêng tư làm cho không thể thể chế hóa được. Vì lẽ sống của Diệm và của bất kỳ kẻ kế vị nào có thể có, là quyền lực, cho nên những ai làm việc cho Diệm, muốn hưởng được lợi thì phải là một bộ phận của quyền lực. Phần đông những tư sản mại bản Trung Quốc đáng ra có thể đóng vai trò lớn hơn trong việc ủng hộ Diệm nếu được làm như vậy, thì lại bị Diệm tiến công về quốc tịch. Cuối cùng chẳng phải là một nhà nước mà cũng không hơn gì một gia đình được nước ngoài ủng hộ.

Việc Diệm phá hủy địa vị của những người đã được trật tự thuộc địa Pháp gây dựng nên đã làm cho xã hội đô thị Nam Việt Nam không ổn định, đưa đến việc lật đổ ông ta năm 1963 và phần lớn tình trạng lộn xộn tiếp theo ở miền Nam. Kinh nghiệm thực dân của Pháp không phải là một vấn đề ngẫu nhiêu đối với đa số những người Việt Nam có học thức ở đô thị. Nền giáo dục và những đạo đức của Pháp ảnh hưởng sâu sắc đến trật tự xã hội đô thị trước năm 1954 ở miền Nam và cách làm kém thông minh của Diệm tuyệt đối không ảnh hưởng gì đến xã hội đó.

Diệm có thể tiến công gia sản của Pháp, nhưng không thể thay vào đó một gia sản lâu dài được. Ông ta chỉ có thể gây ra sự không ổn định và một khoảng trống trong quyền lực chính trị và xã hội, đồng thời có thể gây ra một cuộc khủng hoảng. Ông ta cũng chắc chắn rằng nhiều người miền Nam thù địch với Diệm rồi cũng sẽ chống Mỹ, trụ cột vững chắc duy nhất mà chế độ ông ta dựa vào, bởi vì sự can thiệp của Mỹ đã thay thế sự thống trị của Pháp. Trong một cuộc chiến tranh mà bề ngoài có vẻ là một cuộc nội chiến, đằng sau lớp sơn mong manh của một bên, là một nước ngoài mà một mình sự ủng hộ của nó đã làm cho Diệm có thể tồn tại và tiến hành sự đàn áp của mình.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 01 Tháng Chín, 2008, 02:49:14 pm
DIỆM VÀ CUỘC CHỐNG CÁCH MẠNG Ở NÔNG THÔN 1954 - 1960

Sự kiểm soát ruộng đất và tình hình của giới nông dân vẫn còn là những vấn đề sôi nổi nhất ở miền Nam sau năm 1954. Chế độ Diệm chưa có chút suy nghĩ gì về việc chính sách ruộng đất của họ sẽ tạo ra đe dọa như thế nào cho họ.

Trước Hiệp định Giơ-ne-vơ, những người Cộng sản kiểm soát 60 đến 90 phần trăm lãnh thổ ở miền Nam. Từ năm 1951 trở đi chính sách ruộng đất của Việt Minh ở miền Nam đã tìm được cách giảm mạnh số bần nông ở một số khu vực đẩy nhiều địa chủ lên thành phố. Nông dân ở đồng bằng sông Cửu Long hăng hái hơn ở miền Bắc, một phần vì họ chỉ là những người lao động. Cách mạng đã chia lại 600.000 héc-ta ruộng đất cho cố nông và những người ủng hộ kháng chiến. Số ruộng đất đó là của người Pháp hoặc những địa chủ Việt Nam lớn nhất, cho nên không ảnh hưởng đến mặt trận đoàn kết với phú nông và đa số địa chủ khác. Những người khai khẩn chỉ chiếm những đất bỏ hóa.

Số lượng cố nông nhiều hơn rất nhiều số lượng nông dân có đất làm cho vấn đề ruộng đất trở nên phức tạp hơn nhiều và không còn đơn thuần là vấn đề chia ruộng đất nữa. Vào lúc ký Hiệp định Giơ-ne-vơ, mười phần trăm giàu nhất của tầng lớp địa chủ chiếm, ít nhất là trên giấy tờ, 65 phần trăm ruộng đất. Vấn đề tô là một vấn đề phổ biến và cấp bách hơn nhưng ít đe dọa hơn đối với liên minh chính trị của Đảng. Tô giảm xuống còn tối đa là 25 phần trăm, và việc lạm dụng cho vay nặng lãi bị đặt ra ngoài vòng pháp luật và các món nợ trước năm 1945 đều bị hủy bỏ.

Ở một số khu vực, vì địa chủ vắng mặt nên nông dân không phải nộp tô. Vấn đề số phận của con trai nông dân cũng rất quan trọng bởi vì trong đời sống của một nông dân, con trai là chỗ dựa an ninh, là trụ cột của kinh tế gia đình. Quân đội bù nhìn của Pháp vào khoảng tháng 4 năm 1953 đã động viên 112.000 lính ở Nam Kỳ, trong khi Cộng sản chỉ lấy 45.000.

Gia đình những người phục vụ cho Pháp chẳng được gì, trừ việc mất con trong khi những gia đình có con đi với Cách mạng thì được ưu tiên trong việc chia ruộng đất để bù lại những hy sinh của họ. Tất cả những nhân tố đó đóng một vai trò quan trọng trong vấn đề ruộng đất, cho nên vào năm 1954 Cộng sản bắt đầu đưa lại một biến đổi lớn trong chế độ ruộng đất miền Nam, ảnh hưởng đến bốn phần năm nhân dân ở đó.

Cái gọi là cải cách ruộng đất của Diệm bắt đầu năm 1955 và được đẩy mạnh tháng 10 năm 1956, là một cố gắng vô cùng phức tạp nhằm thiết lập lại sự kiểm soát chính trị ở các vùng Việt Minh, tại đồng bằng sông Cửu Long là nơi có ảnh hưởng mạnh của Việt Minh. Vì đây là một bộ phận của một cố gắng củng cố quyền lực lớn hơn cho nên nó đụng chạm bằng cách này hay cách khác đến nhiều địa chủ, thậm chí gây tổn thương cho một nhóm lớn bọn họ nữa. Và nhờ việc đẩy hoàn toàn Pháp ra khỏi Việt Nam, Diệm tịch thu được một phần tư triệu héc-ta ruộng đất cho nên có thể làm ra vẻ là một nhà cải cách.

Đối với một bộ phận lớn nông dân đã có quyền lợi trong đợt cải cách của Việt Minh, những biện pháp của Diệm là phản cách mạng và sự lo sợ của họ về việc mất quyền lợi và trở lại chế độ địa chủ trước kia đã tạo ra một cuộc khủng hoảng ở nông thôn. Bởi vì chính chương trình ruộng đất của Diệm, chứ không phải Đảng, đã tất nhiên đưa đến cuộc xung đột được nối lại ở Nam Việt Nam. Lúc đó ông ta hủy bỏ cơ sở hợp pháp của những cải cách ruộng đất của Việt Minh cũng chính là lúc ông ta gây ra sự bất bình xã hội và tạo ra những kẻ thù tiềm tàng và thực tế. Điều này càng rõ ở những nơi mà những cải cách của Cách mạng đã đi sâu nhất vào dân.

Diệm định mức tô tối đa là 25 phần trăm và tịch thu ruộng đất của Pháp trong khi hạn chế mức đất sở hữu của người Việt Nam là 115 héc-ta. Ngoài những nông dân bây giờ bị buộc phải trả tô trở lại, nếu không bị truy thu, đối với ruộng đất mà Việt Minh đã chia cho họ, thì tô ở khắp nơi bây giờ trên thực tế lên đến 40 phần trăm. Và trong khi 115 héc-ta là một số lượng quá lớn, địa chủ được phép giữ lại đất tốt nhất và bán số thừa, chủ yếu bằng công trái. Những địa chủ muốn giữ ruộng lại có thể bán cho gia đình họ hoặc dùng để lung lạc các quan chức có trách nhiệm. Cơ quan quản lý chương trình ruộng đất này bị khắp nơi xem là tham nhũng.

Vào năm 1961, khi chương trình này trên thực tế đã chấm dứt. Diệm đã thu thập được 422.000 héc-ta cộng với ruộng đất của Pháp, thành ra vào khoảng 650.000 héc-ta. Trong số này chỉ 244.000 héc-ta được chia lại sau cuối năm 1958, chủ yếu cho những người di cư Thiên chúa giáo hoặc cho những binh lính cũ hoặc những người mới tới đã từng gây căng thẳng xã hội. Ruộng đất của Pháp là thứ ruộng đất tốt nhất vẫn còn nằm trong tay Việt Nam cộng hòa và không được chia lại. Chỉ 12 phần trăm tá điền được nhận đất mới nhưng phải mua, trong khi chính sách của Việt Minh là phát không. Một phần mười địa chủ năm 1956 còn chiếm hữu 55 phần trăm ruộng lúa so với 65 phần trăm khi bắt đầu cải cách. Rất nhiều nông dân mất đất dưới luật của Việt Nam cộng hòa trong khi rất ít người được chia thêm đôi chút. Không những cải cách về tô và tức của Việt Minh không được thực hiện mà Việt Nam cộng hòa còn trở thành một địa chủ lớn nhất của đất nước. Như một cố vấn Mỹ về sau đưa tin: "Các quan chức tỉnh và địa phương được phép giữ và phát canh ruộng đất tốt nhất mà họ chiếm được”.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 01 Tháng Chín, 2008, 02:49:47 pm
Trước năm 1955, địa chủ là đối tượng chủ yếu của sự cay đắng của nông dân; bây giờ còn thêm những quan chức hung hăng của Diệm. Thật vậy, nơi nào địa chủ không thể trở về vì còn làm theo luật cải cách của Việt Minh, thì họ thuê các nhà chức trách dân sự và quân sự địa phương làm việc đó và được trả 30 phần trăm thành quả. Do đó, ai ai cũng tin rằng gia đình Diệm đã làm giàu với cải cách ruộng đất cho nên mọi người đều rất căm ghét những quan chức và quân đội của Diệm. 

Thay đổi chính trong mối quan hệ địa chủ - tá điền sẽ không lớn nếu phục hồi trật tự trước Việt Minh bằng trong tình trạng quan liêu thống trị mà Diệm đã tạo ra. Nhưng sự thay đổi trong mối quan hệ của địa chủ với nhà nước là lớn hơn, ngay dù cho các hậu quả chính trị của nó không sâu rộng lắm. Bởi vì, trong khi phần đông các địa chủ muốn trở lại chế độ ruộng đất trước Việt Minh, họ không hoan nghênh cách làm của Diệm. Điều loại trừ duy nhất là các địa chủ vắng mặt rất sung sướng vì tìm được một thị trường cho phần lớn ruộng đất của họ và rút vào các đô thị tương đối an toàn để đầu tư vào nhiều mặt hơn. Đa số thì không vui mừng gì với sự bồi thường thấp, với việc phải giao thiệp với những quan chức lừa đảo và, có lẽ trên tất cả, phải chịu mất quyền lực chính trị ở các xã.

Vào đầu thế kỷ này người Pháp thành lập những hội đồng ở mỗi xã hoạt động như nhà chức trách địa phương, thu thuế, làm những chức năng dân sự, và làm trung gian giữa nhà nước và quần chúng. Những hội đồng là những công cụ tham nhũng của sự đàn áp chính trị và kinh tế và Việt Minh đã hủy bỏ chúng năm 1945. Pháp và Bảo Đại tìm cách khôi phục chúng lại. Tuy nhiên đối với Diệm thì những hội đồng xã không chỉ là di sản Pháp đáng ghét mà còn là một thách thức từ cơ sở đối với quyền lực ông ta. Tháng 6 năm 1956, bất chấp sự lo ngại của Mỹ, Diệm xóa bỏ các hội đồng và giao cho các tỉnh trưởng và huyện trưởng do ông ta cử ra, chọn những quan chức để thay các hội đồng đó. Những người được chọn phần lớn là những người theo đạo Thiên chúa, và những người thân cận của Diệm thuộc khu vực Huế. Tất cả đều nhằm mục đích làm giàu. Họ và cảnh sát của họ hiện thân cho sự đàn áp và tham nhũng hằng ngày của Việt Nam cộng hòa đối với nông dân.

Hoạt động cưỡng chế của Diệm ở nông thôn gồm hai giai đoạn. Trước tiên, ông ta vây bắt và gạt bỏ phe chống đối kể cả các hội đồng xã. Năm 1955, bắt bớ toàn bộ và hăm dọa bắt đầu, nhằm chủ yếu vào các giáo phái trong suốt năm đầu. Các cuộc họp ở xã được triệu tập ở khắp nơi để công khai tố "cộng". Bốn mươi nghìn người bị cầm tù trong chỉ một tỉnh ở nam đồng bằng sông Cửu Long.

Sự kiểm soát nhân dân về vật chất đã đi theo sau sự khủng bế của Việt Nam cộng hòa. Diệm tiến hành di chuyển một số lớn nhân dân, một chương trình mà Mỹ cung cấp tiền và được tiếp tục mãi sau khi Diệm bị bắn. Cuối cùng Diệm đặt tất cả các vấn đề, kể cả vấn đề ruộng đất phụ thuộc vào mong muốn có một nền an ninh quân sự Do có nhiều người theo đạo Thiên chúa di cư từ miền Bắc vào lên có thể tìm được người cho những bế trí mới và việc này đã được làm một cách bình thường sau năm 1956. Nhưng việc tập trung những nông dân địa phương có thề chống lại Việt Nam cộng hòa, vào những vùng eo thể làm cho họ mất hiệu lực, lại là một việc hoàn toàn khác và đòi hỏi phải có những cưỡng bức nhất định. Những cố gắng vào hướng đó đã được bắt đầu từ năm 1959 mà đỉnh cao là chương trình dinh điền tháng 7 năm 1959. Nhưng nông dân không hợp tác, chế độ Diệm mất tiền và thì giờ, và cuối năm 1960, chương trình mất hiệu lực nhưng lại tạo ra vô số nông dân thù địch. Vào thời "ấp chiến lược" ra đời năm 1962, những sự kiện ở nông thôn theo sau Hiệp định Giơ-ne-vơ như sự thay đổi quyền sở hữu ruộng đất, hệ thống chính quyền mới, bắt bớ và ám sát ào ạt và cuối cùng vấn đề di dân, đã làm cho nông dân vô cùng phẫn uất. Chính sách của Diệm đã làm cho một bộ phận lớn nông dân bình thường tại đồng bằng sông Cửu Long nổi dậy một cách không cản trở được.

Xem xét tình hình ở miền Nam tháng 5 năm 1959, Bộ Ngoại giao Mỹ báo cáo, "không có bằng chứng của bất kỳ thái độ ương ngạnh nào trong nhân dân nói chung", nhưng cũng không có "sự ủng hộ nào từ cơ sở" đối với Diệm. Rõ ràng là Diệm không thể tồn tại nếu không có sự ủng hộ của Mỹ và các mục tiêu của Mỹ ở khu vực sẽ không thể giải quyết được nếu không có Diệm. Chính tình trạng khó xử đó làm cho Diệm có thể tiếp tục chính sách của mình mà không bị cản trở. Những người Mỹ tại chỗ thừa nhận những ràng buộc không cho họ tự do chuyền sang hướng khác tuy họ ngày càng có những bảo lưu về chính sách của Diệm. Trên thực tế, Mỹ chỉ có sự chỉ trích nhỏ đối với các chương trình của Diệm. Diệm không làm gì nhiều hơn các nhà độc tài khác mà Oa- sinh-tơn trả tiền vào cùng lúc và còn làm ít hơn một số. Tất cả điều không đoán trước được trong tình hình đó là phản ứng của những kẻ thù tiềm tàng của Diệm đối với những điều kiện xuất hiện ở miền Nam. 


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 02 Tháng Chín, 2008, 10:24:50 pm
Chương tám
THẾ TIẾN LUI ĐỀU KHÓ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN Ở MIỀN NAM 1954 – 1959

LẬP TRƯỜNG CỦA ĐẢNG Ở MIỀN NAM SAU HIỆP ĐỊNH GIƠ-NE-VƠ

Đảng tính toán gì cho giai đoạn sau tháng 7 năm 1954 thì không rõ, nhưng dấu hiệu bên ngoài thì không thấy Đảng đã tính toán được những sự kiện sẽ gây đau khổ cho miền Nam. Đảng có thấy trước việc Pháp không thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ và xem cố gắng được Mỹ ủng hộ nhằm quét sạch Việt Minh và Đảng là một khả năng chứ không phải một điều chắc hẳn. Nhưng Đảng không biết trước những chính sách chính trị và ruộng đất của Diệm là những chính sách đã gây sự bất bình quần chúng đến mức như vậy và đưa lại một tình thế tiền cách mạng, chủ yếu là tự phát, cho cuộc đấu tranh vũ trang và cho sự phát triển của Đảng. Vì một tính toán sai lấm của Đảng ở lĩnh vực này được tính toán sai lầm của Diệm ở lĩnh vực khác bù lại, nên mọi tính toán của Đảng không giống bất kỳ giai đoạn nào trong toàn bộ lịch sử của Đảng.

Phần đông những người tập kết ra Việt Nam dân chủ cộng hòa là nhân viên quân sự, và chỉ một tối đa 15.000 cán bộ chính trị của Đảng và của Việt Minh còn ở lại miền Nam vào năm 1957. Trong số này, số đông hơn nhiều là Việt Minh. Một tỷ lệ lớn trong số họ, không làm chính trị nữa mà hy vọng có thể lo cho việc cá nhân của mình. Một thiểu số còn lo việc huy động quần chúng đòi thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ. Sự nhấn mạnh bao trùm của Đảng là đấu tranh chính trị. Khi chế độ Diệm củng cố sự kiểm soát ở vùng nông thôn, đa số lớn những người hoạt động bị bắt hoặc bị giết, có nơi tỷ lệ này lên đến 90 phần trăm hoặc hơn. Chính hành động khủng bố dã man đã nhanh chóng xác định số phận và hành động của những người còn ở lại miền Nam, buộc họ không thể sống yên tĩnh mà phải trở lại đấu tranh.

Không thể còn hoạt động chính trị được nữa, những người thoát khỏi bị bắt hoặc không chịu đầu hàng, trốn vào thành phố hoặc ra một vài căn cứ bí mật còn lại hoặc tự tạo ra những căn cứ của riêng mình. Số ra căn cứ lên đến hàng nghìn. Một số khác không chịu ra đi, tổ chức tự vệ kể cả việc ám sát. Đảng cũng yêu cầu một số thâm nhập vào các cơ quan của Việt Nam cộng hòa, một chiến thuật rất gian khổ cho ai làm việc đó nhưng cũng rất nguy hiểm cho Diệm và cho các chế độ tiếp theo. Những chi bộ bí mật của Đảng tiếp tục xây dựng tổ chức ở nông thôn và phần lớn là bị bắt.

Mặc dù những khó khăn và nguy hiểm không thể tưởng tượng nổi, Đảng vẫn duy trì được một bộ khung tổ chức, có thể được nhanh chóng mở rộng, và một kỷ luật đủ sức bảo đảm một sự đoàn kết nhất trí trong Đảng, tuy có một số bất đồng về chiến lược của Đảng.

Khi Lê Duẩn đến phía nam đồng bằng sông Cửu Long mùa xuân năm 1956, nhiệm vụ của ông ta là giữ vững chính sách của Đảng (dù ông ta thu thập được những ấn tượng sẽ giúp ông ta thay đổi chính sách sau này) và trước hết giữ cho được một Đảng bộ nhất trí ở miền Nam. Ông ta lập luận rằng nhiệm vụ chính là xây dựng lại Đảng, tham gia hành động chính trị và vận động cho các cuộc bầu cử của Giơ-ne-vơ. Vũ lực hạn chế và lực lượng quân sự chỉ được dùng như một lá chắn cho hoạt động chính trị. Chừng nào tổng tuyển cử còn có thể có thì phải giảm xuống tối thiếu việc sử dụng vũ khí. "Chiến đấu chống tư tưởng đấu tranh vũ trang quá khích, liều lĩnh và nguy hiểm" đã được tuyên bố là một mặt của xây dựng Đảng.

Trở lại miền Bắc giữa năm 1957, Lê Duẩn sẵn sàng ủng hộ lập trường của một số đảng viên miền Nam. Bấy giờ ông ta tin rằng không những điều kiện đã chín muồi hơn cho hành động mà nếu không có hành động thì Đảng bộ miền Nam có thể bị tiêu diệt. Tuy vậy đường lối của Đảng ở miền Nam từ cuối năm 1957 qua suốt năm 1958 vẫn còn nhấn mạnh hoạt động chính trị trong nhân dân và tránh vũ lực càng nhiều càng tốt. Tuy số liệu chỉ là ước lượng, nhưng có thể Đảng đã mất ít nhất là hai phần ba đảng viên ở miền Nam hoặc bị bắt hoặc bị giết trong giai đoạn đó, và còn nhiều hơn nữa năm 1959.
Các nhà lãnh đạo Đảng chưa muốn có hành động quyết định nhưng đã bị chính sách của Diệm và phản ứng của quần chúng đối với các chính sách đó, đẩy đến việc phải làm như vậy.

Đảng có để lại ở miền Nam một tổ chức quân sự nhỏ, đề phòng trường hợp Hiệp định Giơ-ne-vơ không được thi hành.
Nhóm đó ban đầu không có tiềm lực thực sự trừ khi những người Việt Minh trở về cung cấp nhân lực cho họ. Họ có trang bị cho khoảng 6000 người và cộng tác với những người còn lại của các giáo phái mà Diệm tìm cách tiêu diệt năm 1955.

Tình hình cơ bản ở miền Nam là một mâu thuẫn lớn đối với Đảng. Mọi việc Diệm làm, làm cho chính phủ Sài Gòn trở nên mất lòng dân và quần chúng thì trông chờ ở những người Việt Minh cũ với cảm tình ngày càng tăng. Đàn áp đã buộc nhiều người theo Việt Minh chạy ra vùng du kích và việc Diệm bắt lính tràn lan tháng 5 năm 1957 làm cho nhiều người chạy trốn và hoạt động bất hợp pháp. Đến mùa hè năm 1958 Đảng bất đắc dĩ đáp ứng lại cuộc khủng hoảng đó và đồng ý xây dựng các vùng căn cứ, chủ yếu trên cao nguyên Trung Bộ hẻo lánh. Các khu vực này, chủ yếu là nhằm để bảo đảm sự sống còn. Trong khi đó thì nông dân muốn đòi lại ruộng đất, nhiều đảng viên phải hoạt động riêng rẽ hoặc từng nhóm nhỏ. Chính lòng trung thành, kỷ luật và những hành động của Diệm nữa, làm cho nhiều người tiếp tục đấu tranh, tuy phải chịu muôn vàn nguy hiểm, nhưng tính đoàn kết dấu tranh đó không thể kéo dài mãi mãi. Để tồn tại, Đảng phải khai thác các điều kiện xã hội khách quan đó để xây dựng lực lượng và muốn làm như vậy, cần phải dựa nhiều hơn vào vũ khí.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 02 Tháng Chín, 2008, 10:26:34 pm
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA VÀ THẾ TIẾN LUI ĐỀU KHÓ Ở MIỀN NAM

Sự thay đổi của chính sách Đảng ở miền Nam đã được thực hiện từng bước. Trước tiên là sự cần thiết phải quan tâm đến nguyện vọng của quần chúng ở miền Nam nếu không, họ sẽ mất quan hệ với Đảng. Chính sách ruộng đất và các chính sách khác của Diệm đã làm cho cuộc khủng hoảng đó xảy ra sớm hơn nhiều so với dự kiến. Trong khi Đảng có thấy trước rằng Hiệp định Giơ-ne-vơ sẽ không được thực hiện, nhưng Đảng không tưởng tượng được rằng một quyền lực thô bạo, xúc tác có thể xuất hiện ở miền Nam để đẩy nhanh cuộc chống đối mà tất nhiên là do đàn áp gây ra. Thứ hai là Đảng bộ miền Nam muốn có một đường lối có tính chất chiến đấu hơn, và để duy trì hàng ngũ về mặt tổ chức cũng như về mặt chính trị và để đề phòng những sáng kiến địa phương quá hăng hái, cần phải có những nhượng bộ. Mặt khác việc củng cố miền Bắc của Đảng cũng bắt đầu có kết quả, miền Bắc năm 1959 mạnh hơn nhiều so với năm 1954 hoặc thậm chí năm 1945.

Lê Duẩn trở lại Hà Nội cuối năm 1958 sau một chuyến đi miền Nam khác và trong tháng giêng năm 1959. Ban Chấp hành Trung ương xác định một chính sách mới. Cuộc đàn áp ở miền Nam đạt đỉnh cao về cường độ và sự tiêu diệt những nhà hoạt động chính trị còn lại của Đảng có vẻ như sắp xảy ra. Ý muốn thay đổi chính sách của Lê Duẩn đã được tăng cường bằng sức ép mạnh của một số lớn các nhà lãnh đao cấp cao miền Nam tập kết ở Hà Nội. Họ công khai tuyên bố rằng tình hình ở miền Nam đã chín muồi cho hành động và họ hăng hái vận động cho việc đó. Những người tập kết ở cấp thấp hơn sẵn sàng trở về để chiến đấu. Tháng 1 năm 1959, Ban Chấp hành Trung ương xem xét lại chính sách lấy tên là Nghị quyết 15 tán thành đấu tranh vũ trang, chủ yếu để bảo vệ những cố gắng chính trị. Đồng thời nghị quyết nhắc lại sự cần thiết củng cố quyền lực ở Việt Nam dân chủ cộng hòa. Tầm quan trọng hơn hẳn của hoạt động chính trị cũng được nhấn mạnh hơn nữa. Bộ Chính trị thấy rằng mình đã có phần chần chừ ở miền Nam, cho nên bây giờ phải tăng cường lãnh đạo ở đó mới kiểm soát được tình hình, đồng thời cũng tìm cách tiếp tục phát triển miền Bắc. Sự căng thẳng này tiếp tục thêm bốn năm nữa. ..

Cuối năm 1960 Việt Nam dân chủ cộng hòa cho 4.500 người tập kết trở về miền Nam. Vào cuối năm 1959, các đảng viên và những người ủng hộ Đảng trở về chiếm nhiều xã, triệt phá các khu dinh điền, thực hiện sự có mặt của họ ở nhiều khu vực rộng lớn. Khẩu hiệu động viên quần chúng là rất đơn giản: ruộng đất cho nông dân. Cuộc đồng khởi Bến Tre nổi tiếng tháng giêng năm 1960 được xem như là một thử nghiệm để xem có nên cho phép các cuộc đồng khởi khác không. Trên thực tế quần chúng không vũ trang, nhanh chóng chiếm phần lớn lãnh thổ của tỉnh; ruộng đất được chia ngay trong cuộc đồng khởi. Đảng thực hiện được sự có mặt rộng rãi của mình tuy quân đội Việt Nam cộng hòa có khả năng chiếm lại các nhà công cộng. Trong vòng vài tháng, một sự thay đổi lực lượng lớn đã xảy ra ở Nam Việt Nam.

Tuy Nghị quyết 15 nhấn mạnh đấu tranh chính trị, nhưng các sự kiện xảy ra đã tạo thành một tình hình mới cho những ưu tiên của Bộ Chính trị và của ban lãnh đạo Đảng ở miền Nam. Tháng 2 năm 1960, trước quy mô những sự kiện ở miền Nam và những nguy hiểm tiềm tàng chúng có thể gây ra, tạp chí lý luận của Đảng nói rõ rằng cả chiến tranh du kích, cả đấu tranh kéo dài để xây dựng một vùng giải phóng đều không thể thực hiện được vào lúc này. Nhưng chuẩn bị lâu dài cho một cuộc tổng khởi nghĩa là cần thiết và trước khi việc đó xảy ra, có thể có những lựa chọn khác. Một là, có thể có khả năng một giải pháp "hòa bình" tuy còn nhỏ. Một lựa chọn khác "rất hạn chế hiện nay" là một sự can thiệp trực tiếp của Mỹ. Một khả năng thứ ba là một cuộc đấu tranh vũ trang lâu dài nhưng không được sự ủng hộ chính trị của công nhân các thành phần đô thị và các giai cấp khác. Một cuộc đấu tranh như vậy nhất định thất bại. Trước những khả năng đầy mạo hiểm đó, Đảng đưa một lựa chọn là giới hạn đấu tranh vũ trang vào mục đích tự vệ nhằm động viên chính trị trên cơ sở rộng rãi và chỉ chiến đấu khi không còn cách nào khác. Các nhà lãnh đạo rất sợ mất sự kiểm soát các sự kiện ở miền Nam...

Vào cuối năm 1960, khi Đảng công bố thành lập quân đội giải phóng thay cho mặt trận quân sự mong manh, cồng kềnh với các giáo phái, Đảng có một lực lượng chính quy 5.500 và khoảng 30.000 du kích so với khoảng 2.000 hai năm trước đó. Trung tướng Li-ô-nên C. Mác-ga, người đứng đầu nhóm cố vấn quân sự Mỹ đã báo cáo tháng 11 rằng một "bộ phận có ý nghĩa" nhân dân ủng hộ những người Cộng sản. Những sự kiện của cuối năm 1959 và đầu năm 1960 là không đảo ngược được và chỉ bộc lộ những điểm yếu cơ bản của trật tự do Mỹ ủng hộ.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ ba tháng 9 năm 1960 được triệu tập để vạch ra những mục tiêu tương lai của đất nước. Đảng tìm cách kiểm soát chặt chẽ hơn những phát triển ở miền Nam vì sợ rằng những sự kiện ở đó có thể làm lạc hướng những ưu tiên của Đảng. Nguyện vọng công nghiệp hóa hơn nữa có quan hệ chặt chẽ với việc hạn chế chi tiêu quá lớn cho cuộc xung đột ở miền Nam, trong khi của cải thì có hạn.

Tháng 12 tiếp theo, Đảng tuyên bố công khai việc thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng, công cụ để thực hiện chiến lược miền Nam của Đảng. Cơ cấu giai cấp bị chia cắt từng mảnh của Việt Nam cộng hòa là thuận lợi hơn nhiều cho một chiến lược mặt trận của Đảng. . . Mặt trận Dân tộc Giải phóng là một cơ cấu linh động hơn và bao quát hơn, có thể làm nhiệm vụ một chính phủ trong bóng tối. Mặt trận Dân tộc Giải phóng cũng đưa lại một cơ cấu lô gích để thu hút một số lớn nông dân mới và các nhà hoạt động chính trị vào một cơ cấu chính trị và Mặt trận cũng là nơi hoạt động của những đảng viên có khả năng nhưng chưa được thử thách. Mặt trận còn là một phương thuốc giải độc cho thái độ quá hăng hái và triệt để của Đảng bộ và quần chúng miền Nam mà có thể cũng không kiểm soát được như cải cách ruộng đất ở miền Bắc sau năm 1954. Các nhà lãnh đạo Đảng tin vào hiệu quả của Mặt trận, và thời gian và những sự kiện sau đó chứng minh rằng lòng tin đó là đúng đắn.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 02 Tháng Chín, 2008, 10:27:36 pm
PHẦN HAI
CUỘC KHỦNG HOẢNG Ở NAM VIỆT NAM VÀ SỰ CAN THIỆP CỦA MỸ 1961- 1965

Chương chín
SỰ DÍNH LÍU CỦA MỸ Ở VIỆT NAM: TỪ TRÁCH NHIỆM ĐỠ ĐẦU CHO ĐẾN CHIẾN TRANH KHÔNG QUÂN

Năm 1961, chính phủ Mỹ phải quyết định liệu sẽ là chiến tranh hay là hòa bình ở Việt Nam. Một mình Mỹ mới có thể hy vọng làm đảo ngược các lực lượng xã hội và chính trị ở miền Nam đang làm cho nửa phía nam của đất nước lại trở thành một bộ phận không thể tách rời của một nước Việt Nam duy nhất. Sự xác định của Oa-sinh-tơn về lợi ích quốc gia của mình sẽ quyết định sự phản ứng của họ đối với những rối loạn chính trị của Việt Nam cộng hòa và của tình hình sôi nổi ở Nam Việt Nam. Vũ khí và chiến tranh có thể là biện pháp cuối cùng để đạt cái mà chính trị và những di sản của trật tự thực dân không thể đạt được.

OA-SINH-TƠN XÁC ĐỊNH LỢI ÍCH Ở VIỆT NAM

Lòng tin vào sức mạnh của Mỹ từ năm 1945 đụng đến vấn đề vô cùng trọng yếu của mối quan hệ giữa khả năng của Mỹ đối với các vấn đề Mỹ phải giải quyết với những lợi ích và với mục tiêu của Mỹ. Trước hết, đó là vấn đề của lòng tự tin và của khả năng đạt mục đích. Những mục tiêu và lợi ích của chính sách đối ngoại Mỹ đôi khi được xác định trong mối quan hệ với vấn đề lòng tin, nhưng thường xuyên hơn là độc lập với lòng tin đó. Chính vì các mục tiêu thường vượt quá khả năng thực hiện và vì chúng là kết quả đòi hỏi của những quyền lợi cho nên khoảng cách giữa ý muốn và thực tế tạo ra một bế tắc trong các chính sách của Oa-sinh-tơn. Việc Mỹ luôn luôn bị ám ảnh là có thể sử dụng thành công sức mạnh của mình, đã tất yếu trở thành điều cơ bản trong chính sách đối ngoại của Mỹ với tham vọng nhất thể hóa một trật tự chính trị và kinh tế quốc tế do Mỹ lãnh đạo.

Vào năm 1960, vấn đề sức mạnh của Mỹ ám ảnh Oa-sinh-tơn. Mỗi một thách thức mới hoặc mỗi một cảm giác về thất bại, dù cho thuộc cuộc chạy đua vũ trụ hoặc thuộc một cuộc nổi dậy địa phương, đều làm tăng thêm tâm trạng thất vọng của họ. Vì trật tự thế giới luôn luôn có những thay đổi nên chắc chắn là luôn luôn có những thử thách. Và mỗi lần đạt được một kết quả nào đó, trong việc áp đặt bá quyền về mặt quân sự hay về mặt tổ chức, Mỹ luôn luôn muốn chứng minh hiệu quả của nó trong thực tế. Chính cái lô-gích về vũ khí và sức mạnh đã che lấp thực tế nhỏ hẹp hơn của nền kinh tế và địa lý chính trị của chủ nghĩa đế quốc.

Vì họ cho rằng vấn đề sử dụng sức mạnh là một vấn đề ít có tính chất nguyên tắc hơn là thuộc về chiến thuật và ưu tiên, ngay dù cho họ bất đồng với nhau trong việc chọn Việt Nam làm nơi thí nghiệm vai trò chống cách mạng của Mỹ, các nhân vật chủ chốt trong các quan hệ đối ngoại của Mỹ không bao giờ nghi ngờ gì về việc những mục tiêu toàn cầu của chính sách đối ngoại có thể đạt được với việc sử dụng khả năng một cách thích hợp và với những phương tiện thực hiện vừa thích hợp vừa đầy đủ. Sự nhất trí sâu sắc đó việc sử dụng sức mạnh của Mỹ là di sản của toàn bộ lòng tham lam sau 1945 của Mỹ và sự tác động qua lại của một thế giới không ổn định và đang thay đổi. Vì vậy mà sức mạnh và uy tín của Mỹ đã được đầu tư rất sâu vào Việt Nam trước khi có người đưa ra những nghi ngờ thực tiễn về việc đó.

Việt Nam là một cơ hội trùng hợp không những chỉ vì học thuyết đô-mi-nô đã làm cho mỗi nước trở nên cốt yếu cho một khu vực, và có tác động luôn luôn có ý nghĩa đến vị trí của Mỹ trong toàn thế giới, mà còn vì cuộc thảo luận về chiến tranh cục bộ, đến năm 1960, đã đạt đỉnh cao và tác động đến cuộc vận động bầu cứ tổng thống năm 1960. Các thuyết đô-mi-nô và lòng tin kết hợp lại thành một khái niệm thống nhất, lòng tin ngày càng trở nên lấn át hơn. Vấn đề càng thiết yếu hơn trong những năm 1960-1962 là ảnh hưởng đặc biệt của cách mạng Cu-ba đối với lòng tự tin của Oa-sinh-tơn. Thất bại của cuộc xâm lược Vịnh Con Lợn tháng 4 năm 1961 là một thất bại nhục nhã của khái niệm chống nổi dậy và khái niệm chiến tranh cục bộ đang trở nên rất thịnh hành. Cuộc đối đầu Béc-lin tháng giêng năm 1961 cũng thúc đẩy Mỹ tìm cách phô trương sức mạnh của mình ở nơi khác.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 02 Tháng Chín, 2008, 10:28:52 pm
Do đó năm 1961 là một năm chồng chất những thất vọng sau chiến tranh trong việc điều hành những công việc của quá nhiều nước nhỏ ngoài Việt Nam ra và đã thúc đẩy các nhà lãnh đạo Mỹ có hành động mạnh hơn ở Đông Dương. Lào là một vấn đề đặc biệt nguy hại. Nó chiếm một số lớn thì giờ của chính quyền Ken-nơ-đi trong những tháng đầu tiên làm nhiệm vụ của mình. Khả năng của Mỹ không cho Pa-thét Lào tham gia chính quyền đã trở thành một thử thách của ảnh hưởng Mỹ, đồng thời Mỹ cũng sợ ảnh hưởng đô-mi-nô của một chính phủ liên hiệp Lào đối với sự ổn định của Việt Nam cộng hòa.

Chính quyền Ken-nơ-đi xem Lào như là "một thử thách tượng trưng về sức mạnh giữa các cường quốc lớn của phương Tây và khối Cộng sản” và thấy rằng thế yếu của Mỹ ở đó đòi hỏi phải có những chính sách mạnh hơn ở Nam Việt Nam để cân đối lại tác động của nó đối với khu vực và thế giới. Một ngày sau thất bại Vịnh Con Lợn, Mỹ thành lập một đơn vị tác chiến đặc biệt về Việt Nam với ủy nhiệm "nắm những khái niệm mới và những công cụ mới" về chống nổi dậy có thể làm thất bại "lật đổ" khắp nơi trên thế giới. Việt Nam trở thành nơi thí nghiệm chống nổi dậy và, trong khi chú ý đến Lào, Cu-ba và toàn thế giới, chính quyền Mỹ bắt đầu một loạt các cuộc leo thang, mỗi cuộc tăng thêm thanh thế để gây lòng tin.

Nhận thức đó về Việt Nam từ năm 1961 trở đi đã đưa lại một ý nghĩa toàn cầu tượng trưng, quan trọng hơn nhiều những lợi ích cụ thể của Mỹ ở đó, nhưng đằng sau nhận thức đó còn có những mục tiêu xác thực, tuy khác nhau về tầm quan trọng nhưng đều biện bạch cho cố gắng của Mỹ. Nguyên liệu chẳng hạn, tuy ít được nhắc đến công khai hơn trước, nhưng vẫn còn rất quan trọng trong suy nghĩ của những người làm ra quyết định. Việc này bao gồm cả sự duy trì các thị trường hiện có. Sự nắm lấy Nam Việt Nam cũng được gắn với những quan hệ của Mỹ với các nước khác trong khu vực, nhất là In-đô-nê-xi-a, nơi mà Oa-sinh-tơn xem Xu-các-nô là một đe dọa quan trọng đối với lợi ích của mình.

Lòng tin càng tăng thêm tầm quan trọng khi xảy ra những thất bại liên tiếp của mỗi cuộc leo thang trong việc cung cấp tiền của và cố vấn mà số lượng đã lên đến 11.000 cuối năm 1962 và 23.000 hai năm sau đó. Học thuyết đô-mi-nô và những bối cảnh toàn cầu được kết hợp lại để biện bạch cho cuộc chiến tranh. Sự kết hợp này tỏ ra rất rõ trong năm 1964, khi tướng Mác-xoen Tay-lơ, một nhà lý luận hàng đầu về chiến tranh hạn chế và là đại sứ tại Sài Gòn, lý luận một cách điển hình rằng: "Nếu chúng ta cụp đuôi lại mà rời Việt Nam, thì những hậu quả của thất bại đó ở phần còn lại của châu Á, châu Phi và vùng Mỹ la-tinh sẽ là tai họa".

Khi cam kết của Oa-sinh-tơn tăng lên thì cả lòng tin lẫn khái niệm đô-mi-nô trở nên tinh vi và bao quát hơn. Nói chung Oa-sinh-tơn xem sự phân liệt công khai Trung - Xô sau năm 1962 là một đe dọa trực tiếp bởi vì Trung Quốc không bị ai hạn chế nên sẽ thù địch hơn và sẽ ủng hộ các phong trào giải phóng dân tộc chống lại "con hổ giấy Mỹ” trên khắp thế giới. Vào khoảng năm 1963, chính quyền Ken-nơ-đi ngày càng tin rằng chống lại Cách mạng ở Nam Việt Nam cũng đồng thời là một vấn đề của mối quan hệ Mỹ - Trung. Như Giôn T. Mác Nâu-tơn tháng 3 năm 1965 nói lên ý kiến nổi bật lúc bấy giờ là, các mục đích chiến tranh của Mỹ là "70 phần trăm để tránh một thất bại nhục nhã của Mỹ (với danh nghĩa là một nhà bảo lãnh)" và "20 phần trăm để giữ Nam Việt Nam (và các lãnh thổ lân cận) không rơi vào tay Trung Quốc" (xem Tài liệu Lầu Năm Góc tập III, trang 695. Boston: Beacon press, 1971).

Chính sách kiềm chế Trung Quốc, được xem như có ảnh hưởng lấn át ở các nông thôn xã miền Nam, đã được đưa ra trong một tuyên bố bao quát về mục đích chiến tranh của Hội đồng an ninh quốc gia tháng 3 năm 1964. Tuyên bố đó gắn học thuyết đô-mi-nô với lòng tin để xác định chiến tranh ở miền Nam "như là một trường hợp thử thách khả năng của Mỹ trong việc giúp một quốc gia chống lại chiến tranh giải phóng của Cộng sản".

Bằng cách ngày càng làm cho lòng tin trở thành tính toán cơ bản của Mỹ trong việc leo thang chiến tranh, các nhà lãnh đạo Mỹ đặt Việt Nam trong cán cân lực lượng thế giới và trong lịch sử sau chiến tranh, có liên quan đến hiệu lực của các chính sách truyền thống chống cách mạng của Mỹ. Bằng cách như vậy, vai trò tượng trưng của Mỹ mở rộng rất nhiều lợi ích của Mỹ ở đó. Tất cả các nhà lãnh đạo quan trọng của Mỹ ủng hộ lô-gích đó, cho đến khi nó bắt đầu gây tác hại. Ở mức độ nào đó, cách xác định đó có phần có lý.

Việc Mỹ không còn làm chủ Thế giới thứ ba nữa là một thực tế, nhưng những thay đổi xảy ra trong thế giới không phải là hậu quả của tình trạng thụ động của Mỹ. Trái lại chúng là kết quả của những biến đổi bình thường của tất cả các xã hội, đưa phái tả nổi lên hàng đầu của lịch sử hiện đại. Vũ khí có thể tạm thời ngăn cản sự phát triển của quá trình này ở một số nơi, nhưng tổn phí sẽ là rất lớn. Điều thiết yếu cho vai trò chống cách mạng là chọn chiến tranh vào đúng lúc và ở đúng nơi. Nhưng lấy lòng tin làm cơ sở cho chính sách đối ngoại là một việc làm mạo hiểm cao nhất của một quốc gia. Nó có thể dẫn đến leo thang, hoặc bị làm nhục, hoặc cả hai. Bởi vì dù Mỹ biết được khả năng và quyền lợi của mình một cách rõ ràng đi chăng nữa, Mỹ cũng không thể thấy được mối tương quan của chúng với những điều kiện xã hội, quân sự và con người thiết yếu hơn nhiều hiện đang tồn tại trên thế giới.

Cách lập luận của Mỹ về Việt Nam trong những năm 1961-1964 do đó không phải là độc nhất mà là di sản của chính sách đối ngoại sau 1945 của Mỹ. Nếu Mỹ hoàn toàn tránh được Đông Dương, rồi Mỹ cũng sẽ dính líu vào nơi khác theo một kiểu cách giống như vậy, bởi vì hai thập kỷ sau, Mỹ lại đương đầu với các vấn đế Trung Mỹ với cùng một cách lập luận và phản ứng tương tự.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 02 Tháng Chín, 2008, 10:29:45 pm
OA-SINH-TƠN VÀ ĐIỀU BÍ ẨN CỦA NGÔ ĐÌNH DIỆM

Công sức của Mỹ ở Việt Nam kéo dài sáu năm kể từ Hiệp định Giơ-ne-vơ, một phần lớn là do Mỹ gặp may tìm được Ngô Đình Diệm và việc Mỹ đảo ngược lại sau năm 1960 cũng phần lớn là hậu quả của sự lựa chọn đó. Diệm là một nhà lãnh đạo hiếm có mà bạo lực thuần túy, tổ chức và tính quả quyết thô bạo đã làm chậm đà phát triển xã hội, chính trị và quân sự đằng sau những thắng lợi của Cách mạng và những thất bại của Pháp. Những điều nguy hiểm cho Diệm đến từ ba hướng: một là từ Mặt trận Dân tộc Giải phóng, lực lượng đối lập có tính chất toàn quốc; hai là từ những phần tử trong chính bộ máy mà Diệm xây dựng, trước tiên là tổ chức quân sự ngày càng tăng; và ba là từ Mỹ, ngày càng có đủ lý lẽ để không ủng hộ những chính sách tự hủy hoại của Diệm.

Cách mạng là nhân tố chủ chốt làm cho Mỹ phải đứng sau Diệm cho đến mãi giữa năm 1963. Vào đầu những năm 1960, Mỹ không thể làm ngơ trước đe dọa mà sự tham nhũng và đàn áp trắng trợn của Diệm đặt ra cho chương trình của Mỹ lấy Nam Việt Nam làm nơi thử nghiệm tượng trưng cho ý chí và vũ khí của mình. Bộ trưởng Ngoại giao Đin Ra-xcơ tuyên bố chính xác một tuần sau khi Ken-nơ-đi nhậm chức rằng Mỹ bị "kẹt giữa việc ép Diệm làm những việc mà ông ta không muốn làm với nhu cầu phải đưa lại cho ông ta sự ủng hộ của Mỹ" (xem giác thư W. W. Rô-xtốp, 30-l-1961). "Diệm là tất cả cái gì chúng ta có, và không thể có ai thay thế được", đó là điều được chấp nhận một cách phổ biến trong chính sách của Mỹ (xem "Cuộc cách mạng thất bại" của Rô-bớt Sa-plên, Niu Yoóc, 1965). Vào năm 1961, Diệm hoàn toàn thấy rõ sự phụ thuộc của chính quyền Ken-nơ-đi vào chế độ của ông ta. Diệm làm ngơ trước những đề nghị phải chăng của Mỹ, nhiều lắm là ông ta đồng ý nghiên cứu, nhưng ông ta lại tích lũy những số tiền lớn, đề phòng khi bị giảm viện trợ. Mỹ thì xem viện trợ kinh tế và sự có mặt ngày càng tăng về quân sự của mình như một điều kiện tiên quyết, nếu không phải là một bảo đảm cho những cải cách phải có.

Trong khi đó thì giới quân sự đưa lại vừa những thách thức vừa những hứa hẹn cho cả Mỹ lẫn Diệm. Vì Diệm, tiêu diệt tất cả các giai cấp trí thức lớp trên và bắt hàng nghìn những người chỉ trích dân sự mà không phải là Mặt trận Dân tộc Giải phóng, cho nên những đối thủ tiềm tàng chống cộng của Diệm chỉ còn là những con đẻ của Diệm tức là những sĩ quan cấp cao. Vì Diệm không thể bỏ giới quân sự, cho nên lựa chọn duy nhất còn lại là kiểm soát họ càng chặt chẽ càng tốt. Nhưng điều khó xử với Mỹ là Diệm sẵn sàng hy sinh hiệu quả quân sự cho sự vững chắc chính trị, và nếu làm như vậy tức là phải tăng thêm sự có mặt của Mỹ để tránh một chiến thắng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng.

Tuy Mỹ biết những nguy hiểm của thế cô lập chính trị của Diệm, nhưng cho đến năm 1963, Mỹ chưa thấy phải có hành động gì. Ngay vài tuần trước khi Diệm bị lật đổ, Oa-sinh-tơn còn tin rằng "hoạt động quân sự đã có tiến bộ lớn và tiếp tục tiến bộ", theo cách nói của Mác Na-ma-ra và của Tay-lơ. Diệm không chịu thay đổi cách chỉ huy cũng như sự phối hợp trong quân đội như Mỹ yêu cầu. Diệm sàng lọc các sĩ quan, không cho phép phối hợp và chỉ ông ta mới có quyền kiểm soát. Tất cả các tỉnh trưởng và các chỉ huy khu vực và chiến trường phải báo cáo trực tiếp với ông ta, và họ không được hợp tác với nhau. Chế độ này chủ yếu là nhằm tránh đảo chính. Trong cuộc đảo chính chẳng thành tháng 11 năm 1960 chống Diệm, CIA có tiếp xúc với những người bày mưu nhưng không giúp họ. Diệm biết điều đó và ông ta đánh giá cao vai trò của quân sự đối với Mỹ, nếu Mỹ tìm cách lật đổ ông ta.

Tháng 5 năm 1961 khi phó tổng thống Lin-đơn Giôn-xơn thăm Sài Gòn và thông báo một quyết định chính thức, lấy việc cải cách cơ cấu chỉ huy làm một điều kiện phải có trước cho viện trợ quân sự, Diệm đã đồng ý nhưng rồi đâu lại để đó. Cơ cấu quân sự không hề được thay đổi gì cho đến khi Diệm bị lật đổ. Và sau đó tướng Nguyễn Văn Thiệu lại thiết lập lại một biến thể khác. Trên thực tế cách sắp đặt đó có nghĩa là cơ cấu quân sự ngày càng mở rộng của Việt Nam cộng hòa không phải để tiến hành một cuộc chiến tranh quy ước hay một cuộc chiến tranh du kích mà là để củng cố cơ cấu chính trị hiện có. Vì vậy một giới quân sự chia rẽ tất nhiên sẽ là một bảo đảm cho sự không ổn định và cuối cùng, một đội quân chính trị hóa như vậy hoàn toàn tỏ ra không đáp ứng được những yêu cầu của Oa-sinh-tơn trong bất kỳ lĩnh vực nào.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 02 Tháng Chín, 2008, 10:30:29 pm
Đối với Mỹ, một đội quân không có hiệu quả là vô cùng tai họa và trong suốt thời gian tăng thêm cam kết của Mỹ để biến Nam Việt Nam thành nơi thí nghiệm, thế cô lập chính trị và tình trạng tham nhũng của gia đình Diệm, nhất là những trò hề chủ quan độc ác của Nhu, đã ảnh hưởng sâu sắc đến suy nghĩ của Mỹ về đồng minh của mình. Trong năm 1962, sau khi nghiên cứu kỹ vấn đề, chính quyền kết luận rằng lúc đó chưa có ai thay thế được Diệm, nhưng việc thay thế là một vấn đề thời gian chứ không phải vấn đề nguyên tắc.

Đầu năm 1963, W. W. Rô-xtốp khởi xướng cuộc thảo luận về vai trò của quân sự trong Thế giới thứ ba và lập luận rằng dựa vào các nhà chức trách dân sự là một sai lầm. Và, vì Mỹ kiểm soát viện trợ cho quân sự cũng như huấn luyện cho họ, nên Mỹ phải biết lợi dụng những đòn bẩy đó để bênh vực quyền lợi của mình . Do đó tìm hiểu quân sự là điều thiết yếu ở In-đô-nê-xi-a hoặc ở Việt Nam, chẳng có gì thay thế được cho việc dựa vào quân sự và đó là ý kiến thường được những người làm ra quyết định tôn trọng.

Khi quân đội giết chín nhà Phật giáo ngày 8 tháng 5 năm 1963 những cuộc biểu tình chống Diệm xảy ra ở Huế, Mỹ lập tức tán thành những yêu sách của các nhà lãnh đạo của tôn giáo lớn nhất ở Việt Nam. Vào giữa tháng 6, Mỹ dọa cắt đứt quan hệ với Diệm vì vấn đề đàn áp Phật giáo. Chính lúc đó Nhu bí mật dùng người Pháp tiếp xúc với Việt Nam dân chủ cộng hòa để thảo luận việc nối lại buôn bán và quan hệ bưu điện giữa hai vùng, Oa-sinh-tơn mất hết dè dặt và câu chuyện được nhắc đi nhắc lại về việc lật đổ Diệm.

Còn đối với giới quân sự thì những người tham lam gia nhập đảng Cần lao không bao giờ chịu ở địa vị phụ thuộc. Họ muốn kiểm soát quyền lực thực sự và con đường duy nhất đi đến đó là đảo chính. Khắp nơi không thiếu những kẻ tham danh vọng và điều này không chấm dứt với việc Diệm bị ám sát. Tướng Trần Văn Đôn, quyền tổng tham mưu trưởng lúc đó, đã bình luận: "Một trong những sai lầm lớn nhất của Diệm là giao cho những tướng có tài và được trọng vọng nhất của ông ta những công việc vô nghĩa". Nhàn cư "không những làm cho họ trở nên quyết liệt mà còn dùng thời gian để suy nghĩ, vạch kế hoạch và hoàn thiện các chiến lược".

Nhóm đó gồm những người mà lòng tham là đường lối chính trị của họ, và được người Mỹ cộng tác sau khi quyết định ở Oa-sinh-tơn, ngày 24 tháng 8 nhằm gạt bỏ Nhu và bè lũ và thay đổi chính phủ, hoặc có Diệm hoặc không có Diệm. Phần đông các cố vấn Mỹ tin rằng chế độ Diệm sẽ nhanh chóng thua cuộc chiến tranh và họ rất thất vọng khi cuộc thảo luận đầu tiên về một cuộc đảo chính không đưa lại hành động nào. Kế hoạch đảo chính được nối lại trong tháng 10 và CIA đã biết việc này. Tất cả điều mà các tướng yêu cầu là được tiếp tục viện trợ nếu họ thắng. Trong khi sĩ quan liên lạc Mỹ bảo đảm rõ ràng về sự ủng hộ của Mỹ, họ cũng khuyên hành động một cách "chắc thắng" hoặc là không hành động bởi vì do dự còn tệ hơn là không hành động. CIA cũng hứa chịu mọi phí tổn cho những nhà lãnh đạo đảo chính. Tuy Diệm lựa chọn kỹ những sĩ quan của ông ta, chắc chắn ông ta giữ lại một lực lượng đủ để đối phó với một cuộc đảo chính, nếu ông ta có đủ thì giờ. Vì thế cách chắc chắn duy nhất để tránh việc ông huy động lực lượng chống lại là ám sát ông ta hoặc ít ra là em trai Nhu của ông ta. CIA biết điều đó và báo cho Oa-sinh-tơn vào đầu tháng 10, khi những người đảo chính đề nghị ám sát các em của Diệm là Nhu và Cẩn, coi đó như là biện pháp "tránh một cuộc chiến đấu kéo dài".

Oa-sinh-tơn tích cực ủng hộ một cuộc đảo chính thắng lợi và quyết định. Họ không nói gì để ngăn trở việc giết Nhu và Cẩn vì họ biết những người đảo chính không đủ sức để giành thắng lợi nếu không giết Nhu. Từ đầu, Oa-sinh-tơn đã xem Nhu như tên côn đồ độc ác nhất và CIA báo cho chi nhánh của mình ở Sài Gòn rằng trong khi họ "sẽ không thiên về việc giết Diệm" nhưng họ cũng chống lại việc "tự dính líu vào vấn đề đó"; "cách tốt nhất là không dính vào". Một vài giờ sau cuộc đảo chính bắt đầu ngày 1 tháng 11, CIA cung cấp tiền mặt để trả cho số quân đội tham gia, và chỉ sự ám sát Nhu và Diệm sáng hôm sau mới đưa cố gắng liều lĩnh đó đến kết thúc nhanh chóng và thắng lợi. Và cũng chấm dứt mối quan hệ trong nhiều năm nay nhằm biến Việt Nam thành tuyến trước để lấy lại lòng tin đối với Mỹ trước những cuộc khởi nghĩa cách mạng.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 02 Tháng Chín, 2008, 10:31:35 pm
GIỚI QUÂN SỰ NẮM QUYỀN

Tám cuộc đảo chính và tranh giành quyền lực đưa lại sự thay đổi trong các chính phủ, và hai cuộc đảo chính thất bại, giữa khi Diệm bị lật đổ và lúc các tướng Nguyễn Văn Thiệu - Nguyễn Cao Kỳ lên nắm quyền ngày 19 tháng 6 năm 1965, đã cho chính quyền Giôn-xơn thấy rằng không thể dựa vào quân đội Việt Nam cộng hòa để thiết lập lòng tin đối với sức mạnh của Mỹ...

Oa-sinh-tơn ủng hộ mạnh cuộc đảo chính không đổ máu của Nguyễn Khánh cuối tháng giêng năm 1964, cho là để gạt những sĩ quan trung lập thân Pháp sẵn sàng cướp quyền. Việc thành lập hội đồng quân sự làm cho Oa-sinh-tơn hy vọng sẽ có ổn định. Nhưng Khánh làm cho hy vọng đó không thành công. Trong năm tiếp theo Mỹ sống trong "ấn tượng kinh khủng” của âm mưu, tính kế, sắp đặt các loại, như Ra-xcơ đã nói đến.

Những tin tức về tình hình hỗn loạn đó dồn dập đổ về Oa-sinh-tơn cùng với những báo cáo rằng quân đội Việt Nam cộng hòa ngày càng mất tinh thần, thôi chiến đấu và trong nhiều vùng đã đạt được những sắp xếp "sống và để nhau sống" với Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Điều làm cho Mỹ lo âu nhất đối với những tướng lĩnh của Việt Nam cộng hòa là sự tồn tại của một nhóm tướng trung lập và thân Pháp mà tướng Đờ Gôn luôn luôn đổ thêm dầu vào bằng những đề nghị thường xuyên về nền trung lập của Việt Nam. Sự kiện Vịnh Bắc Bộ trong tháng tám là nhằm vào việc vừa phô trương sức mạnh của Mỹ vừa bắt đầu quá trình lâu dài chấm dứt chiến tranh bằng cách trừng phạt Việt Nam dân chủ cộng hòa đã đi vào chỗ trống mà đồng minh của Mỹ đã tạo ra. Đó cũng là một cử chỉ để nâng đỡ tinh thần đang sa sút của tập đoàn Khánh. Nhưng Khánh lợi dụng tình hình để tạo ra một chế độ gần như độc tài và chết yểu cho bản thân ông ta.

CIA cho Oa-sinh-tơn thấy một hình ảnh hỗn loạn ở Nam Việt Nam, mà kết quả là sự chán ghét chiến tranh và thái độ trung lập. Khi Khánh phản ứng với thất vọng của Mỹ đối với ông ta và bí mật quan hệ với Mặt trận Dân tộc Giải phóng để thăm dò một giải pháp trung lập cho cuộc chiến tranh thì Oa-sinh-tơn bỏ nhà lãnh đạo ngày càng chống Mỹ đó.

Trong các cuộc thay đổi nội các Sài Gòn sau tháng tám năm 1964, nổi lên một liên hiệp những "gã hung hăng" trong đó Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Văn Thiệu là những cá nhân quan trọng nhất. Họ bắt đầu xây dựng địa vị của họ như là những môi giới quyền lực cho đến khi một số trong bọn họ chính thức chiếm những chức vụ chiến lược vào tháng sáu tiếp theo. Sau nhiều tháng chìm ngập trong thế giới siêu thực tế của chính trị Sài Gòn và của những cuộc biểu tình đường phố cùng với sự tan rã của chế độ, người Mỹ đồng ý cho nhóm đó lên nắm quyền, nhưng không phải vì thấy nhóm này là một nhóm tốt hơn mà chính vì các đồng minh trước kia đã làm cho Oa-sinh-tơn yếu đi.

Trên thực tế bây giờ Mỹ thấy là phải dựa vào chính sức của mình. Họ không thể còn hy vọng vào quân đội Việt Nam cộng hòa để đạt những mục tiêu của họ với những tổn phí tương đối thấp hơn về người và về của. Mục tiêu của Mỹ và nhận thức về quy mô nhiệm vụ quân sự của họ đòi hỏi họ phải cam kết nhiều hơn nữa về nhân lực và vật lực. Còn đối với các nội các rệu rã ở Sài Gòn, Mỹ ít quan tâm và không hy vọng gì nhiều ở họ vào lúc đó Mỹ hy vọng nền chính trị ở Việt Nam cộng hòa sẽ tốt lên sau khi các lực lượng Mỹ đảo ngược cán cân lực lượng trong cuộc chiến tranh.

Sau cái chết của Diệm, vấn đề mà Mỹ phải đương đầu với những người thay thế hoàn toàn phụ thuộc ở Nam Việt Nam, bao gồm một loạt các vấn đề có quan hệ qua lại chặt chẽ với nhau: nền chính trị của Việt Nam cộng hòa, những tác động quân sự của một đội quân chính trị hóa cao độ, và nhiều vấn đề xã hội và kinh tế có liên quan khác. Muốn thiết lập lại lòng tin đối với Mỹ, cần phải có một cách trả lời đồng thời, có hiệu quả cho những khó khăn cực kỳ đa dạng, và khá khó giải quyết về mặt thể chế, vốn có trong chế độ Việt Nam cộng hòa giả tạo mà Mỹ đang ủng hộ.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 02 Tháng Chín, 2008, 10:32:36 pm
TẠO RA MỘT NGUYÊN CỚ: NGHỊ QUYẾT VỊNH BẮC BỘ

Điều cốt lõi của khó khăn chính trị cuối cùng của Oa-sinh-tơn là sự xem thường của các nhà làm ra quyết định đối với Quốc hội, báo chí và công chúng, gây ra một sự mất tín nhiệm sâu sắc đi đến điểm cao là Oa-tơ-ghết và sự tan rã của mối đoàn kết giữa giới hành pháp và giới lập pháp. Mác Gioóc-giơ Bân-đi, trợ lý an ninh quốc gia của Ken-nơ- đi ngay từ đầu đã tìm cách thực hiện chính sách đối ngoại càng ít công khai càng tốt và Tổng thống đã khuyến khích ông ta trong việc đó . . .

Cuộc tán loạn năm 1961 ở Cu-ba, những thất bại liên tiếp ở Việt Nam và việc mở rộng chiến tranh giấu giếm đòi hỏi một sự che đậy kỹ càng hơn trong việc thực hiện chính sách đối ngoại. Nhưng mỗi thất bại ở Việt Nam làm tổn thương sự lạc quan trước kia của Mỹ và đòi hỏi tăng thêm cam kết. Cái chết của Diệm và sự mất ổn định triền miên tiếp theo gây ra một nghi ngờ công khai ngày càng tăng về công cuộc ở Việt Nam. Cố gắng lớn của chính quyến nhằm đối phó với sự thù địch trong nước đối với chính sách Việt Nam trong quá trình leo thang là một loạt những sự kiện đưa đến đỉnh cao là nghị quyết Vịnh Bắc Bộ của Quốc hội Mỹ ngày 7 tháng 8 năm 1964.

Cho đến khi Diệm bị lật đổ, chính quyền ít tuyên bố về mối quan hệ của Việt Nam dân chủ cộng hòa với cuộc chiến tranh miền Nam. Nhưng số liệu của chính Mỹ về việc di chuyển người và vũ khí càng xác minh rằng lập luận của họ cho rằng Việt Nam dân chủ cộng hòa áp đặt chiến tranh cho miền Nam là hoàn toàn không đúng. Ngoài việc rêu rao rằng người tập kết dần dần trở lại quê hương họ, Mỹ phải thừa nhận rằng dòng vũ khí vào miền Nam là không đáng kể và Mặt trận Dân tộc Giải phóng thắng chiến tranh chủ yếu là do chính mưu trí và cố gắng của họ. Khi thượng nghị sĩ Mây-cơ Men-xphin từ Việt Nam về cuối năm 1962, sau một chuyến đi do Tổng thống yêu cầu, sự bác bỏ công khai của ông ta về những giải thích của chính quyền đối với tính chất và nguyên nhân của cuộc nổi dậy, càng làm cho vấn đề nói ở đây rõ ràng thêm.

Bất kể sự bất đồng như thế nào về các mặt cụ thể của sự dính líu sâu hơn của Mỹ vào Việt Nam, hầu như tất cả các cố vấn của Giôn-xơn, chỉ trừ một Gioóc-giơ Bon, ít ảnh hưởng, đều tán thành một mức độ leo thang nào đó. Và sự tháo gỡ cho chế độ Khánh cũng đòi hỏi có hành động để ngăn cản sự sụp đổ của nó. Biện pháp đầu tiên được gọi là OPLAN 34A, bắt đầu dưới hình thức những cuộc đánh phá làm lạc hướng vào Việt Nam dân chủ cộng hòa trong tháng 2 năm 1964 của nhóm nghiên cứu và quan sát, viết tắt là SOG, một "đơn vị chiến đấu đặc biệt của chiến tranh không quy ước” cực kỳ bí mật gồm các lực lượng đặc biệt và nhân viên CIA, đứng ra để thuê những kẻ đánh thuê Việt Nam. Tất cả các hoạt động của SOG, được tiếp tục thực hiện trong phần lớn cuộc chiến tranh đều phải được phép của các Bộ Quốc phòng và Ngoại giao cũng như của Nhà trắng. OPLAN 34A, mà chủ yếu là không thành công trong cố gắng đầu tiên, được làm song song với cái mà về sau tướng Oét-mo-len mô tả là "một chương trình liên kết" tức là những cuộc tuần tra "DESOTO" của hải quân Mỹ làm nhiệm vụ tình báo bằng điện tử ở Vịnh Bắc Bộ sát đến khu vực bốn dặm cách bờ biển.

Bên cạnh những biện pháp quấy rối nhỏ đó, ý muốn leo thang mới và quan trọng của Oa-sinh-tơn lên đến đỉnh cao trong cam kết tháng ba của Hội đồng an ninh quốc gia lấy Việt Nam làm nơi thí nghiệm lòng tin đối với Mỹ. Cũng tháng 3, Uy-li-am Bân-đi, trợ lý bộ trưởng ngoại giao và cũng là em của Gioóc-giơ Bân-đi, lập luận rằng những biện pháp trừng phạt nghiêm trọng chống lại Việt Nam dân chủ cộng hòa vì hành động của Mặt trận Dân tộc Giải phóng ở miền Nam, phải được Quốc hội tán thành, và một nghị quyết đã được thảo ra theo mẫu của nghị quyết tháng giêng năm 1955 về các đảo ngoài khơi nhằm phê chuẩn việc bảo vệ Đài Loan. Những nghị quyết tương tự về Cu-ba và Trung Đông cũng còn gây những "khủng hoảng liên tục".

Các cố vấn tổng thống thảo luận những sức ép cụ thể đối với Việt Nam dân chủ cộng hòa tuy biết những sức ép đó không có kết quả gì lớn. Uy-li-am Bân-đi thừa nhận: "Việt cộng có sức lôi cuốn lớn ở miền Nam Việt Nam và dựa nhiều vào vũ khí cướp được của Mỹ", tuy ông ta cũng xem vai trò của Việt Nam dân chủ cộng hòa là rất quan trọng. Còn Mác Na-ma-ra và những người khác thì cho rằng hành động chống Việt Nam dân chủ cộng hòa sẽ có ích cho tinh thần và sức lực sa sút toàn diện của chế độ xuống dốc nhanh chóng của Khánh. Tại một cuộc hội nghị ở Hô-nô-lu-lu trong những ngày đầu của tháng 6, những cố vấn chủ chốt đã tán thành một loạt các kế hoạch dự phòng về tiến công không quân chống Việt Nam dân chủ cộng hòa, kể cả việc chuẩn bị để tiếp tục những cuộc tiến công đó trên cơ sở lâu dài và tán thành việc mở rộng xây dựng quân đội và trang bị Mỹ cho sự bắt đầu của cái rõ ràng sẽ trở thành cuộc chiến tranh lớn hơn, dài hơn.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 02 Tháng Chín, 2008, 10:33:49 pm
Trong thời gian này, Giôn-xơn chủ yếu là thụ động về Việt Nam bởi vì ông ta nhậm chức với tâm trạng là một nhân vật bối rối, bấp bênh và vì ông ta đang trong giữa cuộc vận động để được bầu cử lại và đạo luật về quyền con người đương được đưa ra trước Quốc hội. Ông ta hoãn lại mọi sáng kiến về chính sách. Trong khi đó thì những trợ lý của ông ta có kế hoạch giáo dục công chúng một cách có hệ thống để xóa bỏ những "ngờ vực cơ bản" làm cản trở một sự cam kết sâu rộng hơn. Anh em Bân-đi thì chuẩn bị những dự thảo khác nhau của một nghị quyết quốc hội, hy vọng tranh thủ những phần tử thân chính quyền như thượng nghị sĩ Men-xphin chẳng hạn, nhưng họ lo ngại rằng vì "không có thay đổi nào quan trọng trong tình hình để nhắc đến" nên rất có thể Thượng viện sẽ chống lại cố gắng đó. Nếu không có một nghị quyết của Quốc hội thì sự "tự do hành động" của chính quyền sẽ vô cùng bị hạn chế, vì vậy họ đề ra mục tiêu là nghị quyết phải được thông qua từ đầu tháng 7 cho đến hết tháng 9 hoặc tháng 11 là chậm nhất, khi có thời cơ thuận lợi.

Cũng cần phải thấy rằng chỉ khi "có một sự chú ý tăng lên ở trong nước và một sự căng thẳng quốc tế mới có thể có lý do để bảo vệ khu vực Đông Nam Á trong mùa hè đến" (xem Ga-rét Poóc-tơ quyển "Việt Nam: một lịch sử bằng tư liệu", Niu Yoóc 1981, trang 278). Cùng thời gian đó, Mỹ nhờ Ca-na-đa cử một nhà ngoại giao được thông báo tình hình một cách đặc biệt đến Hà Nội để báo rằng Oa-sinh-tơn xem cuộc chiến tranh ở miền Nam là một cuộc thí nghiệm chống nổi dậy trên khắp thế giới và họ sẽ ném bom Việt Nam dân chủ cộng hòa một cách rộng rãi nếu Việt Nam dân chủ cộng hòa không chấm dứt cuộc chiến tranh chống chính phủ Sài Gòn. Đảng đã trả lời bằng việc đề nghị thành lập một chính phủ liên hiệp trung lập ở miền Nam, nhưng đồng thời Đảng cũng chuẩn bị để đối phó với vấn đề leo thang.

Vào lúc đó trong khi xem xét các loại lựa chọn, và trong khi Giôn-xơn lao vào cuộc vận động bầu cử cấp bách hơn, thì chính phủ Khánh bắt đầu ép Mỹ giúp việc Bắc tiến để khắc phục các khó khăn mới chớm nở trong nước và nâng cao tinh thần ở miền Nam. Vào những tuần cuối của tháng 7, một sự háo hức thực sự xâm lược Việt Nam dân chủ cộng hòa đã rất rõ ràng trong các giới Sài Gòn và Việt Nam dân chủ cộng hòa biết rõ điều đó. Chính trong giai đoạn tháng 6 tháng 7 đó mà Mỹ nối lại các hoạt động OPLAN 34A trên vùng bờ biển Việt Nam dân chủ cộng hòa, sử dụng, như Tài liệu Lầu Năm Góc về sau đã mô tả, "những nhân viên Nam Việt Nam được thuê và được Mỹ huấn luyện và cung cấp hậu cần".

OPLAN 34A trên thực tế là một kế hoạch của Mỹ và hoạt động vùng biển Việt Nam dân chủ cộng hòa quanh vĩ tuyến 19 khi chiếc tàu Ma-đốc của Mỹ ngày 31 tháng 7 được giao làm nhiệm vụ tuần tra DESOTO với một tổ lái tình báo điện tử đặc biệt. Các nhà chức trách cảnh giác của Việt Nam dân chủ cộng hòa thấy rằng Ma-đốc đang phối hợp với OPLAN 34A nên đã tiến công Ma-đốc, đưa đến cái gọi là sự kiện Vịnh Bắc Bộ ngày 2 tháng 8. Về sau Gioóc-giơ Bon mô tả chính xác các hoạt động DESOTO như là dùng "chủ yếu để khiêu khích". Cuộc tiến công không quân của Mỹ vào các cảng đậu của các tàu tuần tra và vào kho dầu là sự bắt đầu của cuộc chiến tranh không quân chống miền Bắc và việc thông qua ngày 7 tháng 8 nghị quyết Vịnh Bắc Bộ đã được chuẩn bị từ lâu và hầu như không có chống đối, đã cho phép Tổng thống "tiến hành tất cả các bước cần thiết, kể cả việc dùng lực lượng vũ trang để giúp bất cứ quốc gia Đông Nam Á nào”.

Các thượng và hạ nghị sĩ đã bỏ phiếu cho nghị quyết với những nhận thức rất khác nhau. Một số xem như một phản ứng đối với một sự kiện riêng lẻ, những người khác xem như một ủy nhiệm chiến tranh. Trên thực tế, nghị quyết là một tấm séc để trắng, giá tiền phải ghi chưa được chính quyền định trước. Quốc hội chỉ hối tiếc khi xem xét lại ý kiến của mình hoặc sau khi lời hứa kiềm chế của chính quyền đã bị vi phạm. Phần đông các nghị sĩ cuối cùng từ bỏ ủy nhiệm của nghị quyết bởi vì chính sách đã thất bại và bởi vì họ không thể không biết đến những vấn đề về những ưu tiên và những lợi ích quốc gia lớn hơn. Nhưng họ cũng không thể không thấy là họ đã quá ngây thơ vì thực tế chính quyền đã nói dối Quốc hội, và những chi tiết của sự kiện Vịnh Bắc Bộ, che giấu thực tế chính trị rằng chính sách đã được vạch ra sớm hơn nhiều và đi trước xa những phản ứng tại chỗ. Hơn tất cả, Nhà Trắng tuyên bố là đã bị khiêu khích trong khi trên thực tế chính Nhà Trắng là kẻ khiêu khích.

Điều quan trọng với sự kiện Vịnh Bắc Bộ là nó tạo ra một tiền đề cho mối quan hệ của chính quyền với Quốc hội và công chúng. Chính nó đã dần dần làm tổn thương cơ sở trong nước của sự nhất trí đối với chính sách đối ngoại, sự nhất trí đã có gần hai thập kỷ và đã từng là sức mạnh lớn nhất của chính sách đó. Trong gần ba năm sau đó, Nhà Trắng đã bất chấp vai trò quyết định của Quốc hội và công chúng trong việc phủ quyết chính sách đối ngoại của ngành hành pháp. Sự kiện Vịnh Bắc Bộ, trong tất cả các chiều cạnh của nó, về sau được chứng minh là một sai lầm lớn của chính quyền trong việc điều hành cuộc chiến tranh. 


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 02 Tháng Chín, 2008, 10:35:08 pm
Chương mười
CHIẾN TRANH VÀ NÔNG THÔN VIỆT NAM

RUỘNG ĐẤT VÀ NỘI DUNG ĐẤU TRANH

Trong khi tình trạng rối loạn ở Sài Gòn trong và sau thời kỳ Diệm chỉ làm cho triển vọng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng sáng sủa thêm, nhưng chính khả năng của Cách mạng khai thác sự tê liệt chính trị đó để tăng cường sức mạnh của chính mình mới thật là điều quan trọng. Sự phát triển của Cách mạng ở miền Nam sau năm 1960 không thể tách rời ra khỏi những kinh nghiệm trong những năm 1950, trước hết, là mối quan hệ của mặt trận đoàn kết với cuộc đấu tranh giai cấp về ruộng đất...

Khi chiến tranh tiếp tục tiến triển, các chuyên gia Mỹ rất chú ý đến cơ cấu của Mặt trận Dân tộc Giải phóng nhưng không hiểu được rằng chính nhờ mối quan hệ của Đảng với các vấn đề thực tế và với tính linh hoạt về mặt tổ chức mà Đảng luôn luôn giữ được thế bền vững.

Bộ phận miền Nam của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Trung ương Cục miền Nam, chỉ huy toàn bộ cuộc đấu tranh ở miền Nam. Bộ phận đó cũng lãnh đạo các đảng bộ liên tỉnh, tỉnh, huyện và xã của Đảng bộ miền Nam, được gọi là Đảng nhân dân cách mạng kể từ sau tháng giêng năm 1962. Trung ương Cục đóng một vai trò chi phối trong các ủy ban giải phóng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng tuy đa số thành viên không phải là đảng viên, và trong các hội giải phóng của quần chúng bao gồm nông dân, sinh viên và phụ nữ. Tất cả các tổ chức đó tồn tại song song nhưng độc lập với nhau và bổ sung cho nhau trong trường hợp một bên bị triệt phá. Một hệ thống cài vào nhau như vậy làm cho mạng lưới của Đảng khó mà bị xóa bỏ. Còn các cán bộ luôn luôn là những người động viên quần chúng rất cần thiết và là những người giải quyết khó khăn bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào . . . 

Hội nông dân giải phóng là tổ chức quần chúng lớn nhất của Mặt trận Dân tộc Giải phóng, và trong nhiều khu cách mạng cũ, hội là chính quyền địa phương thực sự. Vào giữa năm 1965; theo ước tính của CIA, các hội giải phóng có khoảng một nửa triệu hội viên. Những ước tính khác của Mỹ cho thấy rằng khoảng một nửa đến ba phần tư xã hội nông thôn, trong các vùng do Mặt trận Dân tộc Giải phóng kiểm soát, tham gia bằng nhiều cách công việc của chính quyền, so với một phần năm trong các vùng "tranh chấp" và còn ít hơn trong những vùng vững chắc của Việt Nam cộng hòa. Những cán bộ đều luôn luôn có mặt, chia sẻ cuộc sống của nhân dân, làm cho Đảng luôn luôn gắn liền với lo âu và ước vọng của quần chúng.

Những người Mỹ nghiên cứu vai trò của cán bộ ở thôn xóm, đều thấy họ được lòng dân và được kính trọng với tư cách vừa là người lãnh đạo vừa là con người với con người. Chính quyền cách mạng địa phương rất quan tâm đến nhu cầu của thôn xóm và chính sách của họ phản ánh thái độ đó. Tuy thuế ở vùng giải phóng được quy định năm 1963 là từ 6 đến 10 phần trăm của số lúa thu hoạch, nhưng tỷ lệ nộp của cá nhân phải "tùy theo ý muốn của người ta và không được buộc phải theo" những con số trên. Ở vùng tranh chấp tỷ lệ đó thấp hơn. Vào đầu năm 1967, chỉ 18 phần trăm thu nhập của Mặt trận Dân tộc Giải phóng là do thuế nông nghiệp đưa lại. Mỹ xem cố gắng đó của Mặt trận là nhằm tránh trút gánh nặng vào nông dân nghèo. Động viên chính trị luôn luôn là mối quan tâm hàng đầu.

Sự được lòng dân của Mặt trận Dân tộc Giải phóng là do chính sách xã hội của họ. Nông dân nghèo ủng hộ bởi vì họ được lợi. Đồng thời chính sách tuyển quân của Mặt trận cũng nhẹ nhàng hơn phía Việt Nam cộng hòa. Đối với một người nông dân, việc một đứa con trai ra đi không phải chỉ là một sự hy sinh về tình cảm mà còn ảnh hưởng tai hại đến tài sản và nền kinh tế gia đình của anh ta. Năm 1960 quân chính quy của Việt Nam cộng hòa lên đến 146.000 và bốn năm sau thì tăng gấp đôi, trong khi lực lượng Mặt trận Dân tộc Giải phóng cuối năm 1962 chỉ từ 23.000 đến 34.000, đó là theo những ước tính khác nhau của Mỹ. Những người do Việt Nam cộng hòa bắt lính có nguy cơ bị đưa đi xa mà không được đền bù gì. Nhiều người muốn tham gia lực lượng du kích địa phương của Mặt trận vì được ở gần nhà và được cấp ruộng. Chính sách ruộng đất là chìa khóa để tuyển quân và Mặt trận thành công trong việc động viên con của bần, cố nông là những người được lợi nhất trong cuộc đấu tranh. Cuối cùng, cuộc đấu tranh đó chính là cách mạng của họ.

Uy tín của Mặt trận Dân tộc Giải phóng ở cơ sở làm cho kẻ thù luôn luôn tìm cách tiến công. Để tự vệ, Mặt trận sẵn sàng vi phạm chính sách của Đảng mà cách ít rắc rối nhất là ám sát những kẻ thù của mình. Đảng cho rằng khủng bố là "vũ khí của kẻ yếu”. Đảng không khuyến khích việc đó tuy rằng hầu hết những kẻ bị trừng trị đều bị địa phương hết sức thù ghét. Đảng đề ra những thủ tục rõ ràng để ngăn chặn sự trừng phạt độc đoán như phải được Đảng cấp tỉnh cho phép, sự trừng trị mới có giá trị. Nhưng trên thực tế ít nhất là hai phần ba và có thể là bốn phần năm các cuộc trừng phạt không được chuẩn y trước. Đảng thường xuyên phàn nàn về tình hình đó, nhưng việc các tổ chức Mặt trận địa phương thanh toán các quan chức mất lòng dân của Việt Nam cộng hòa đều được quần chúng hoan nghênh.

Uy tín của Mặt trận cũng làm cho Mặt trận có thể tự xây dựng lại mình hết lần này đến lần khác và đặt Mỹ trước thực tế đáng thất vọng là dù Việt Nam cộng hòa có thành công đến đâu, cũng không sao diệt trừ được Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Mặt trận dựa vào chính sách ruộng đất ở miền Nam. Vào khoảng năm 1961, cải cách ruộng đất của Việt Nam cộng hòa đã ngừng hoạt động, trên hai phần năm ruộng đất lấy lại đã không được chia và các nhà chức trách Sài Gòn trở thành những địa chủ lớn nhất của đất nước. Chính sách hạn chế đó không được thực hiện và các quan chức Việt Nam cộng hòa tha hồ thu tô cho túi tiền của mình và cho Việt Nam cộng hòa.

Trong khi đó thì chính sách ruộng đất của Mặt trận Dân tộc Giải phóng nói chung rất thành công. Mặt trận huy động một phần lớn nông dân trực tiếp tham gia việc chia ruộng đất làm cho họ có lợi ích thiết thân trong sự thành công của Cách mạng. Chính vì vậy mà Mặt trận được bảo vệ trước bất kỳ kiểu gian nan thử thách nào. Đó là nhân tố cơ bản trong việc tuyển quân mà tinh thần và sự kiên định trước khó khăn không có gì có thể vượt qua được. Nó làm cho hàng nghìn thôn xã trở thành những cơ sở của Mặt trận và nó thỏa mãn nguyện vọng tha thiết nhất của nông dân là có quyền sở hữu ruộng đất.

Ngay cả ở nơi Mặt trận chưa có khả năng thực hiện việc chia lại ruộng đất hoặc không định chia ruộng đất, toàn bộ chế độ tô tức cũng phải chịu tác động của sự đe dọa hoặc của chỉ sự có mặt của Mặt trận. Ở những nơi mà Việt Nam cộng hòa kiểm soát chặt chẽ và không có sự thách thức của Mặt trận thì tá điền phải trả tô gấp đôi số tô được chính thức qui định, trái lại những nơi khác thì họ có thể trả tô ít hơn. Vì vậy tá điền rất mong muốn sự có mặt của Mặt trận và do đó quần chúng rất trung thành về chính trị và sẵn sàng ủng hộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Bằng cách đó, ngay từ đầu, Cách mạng đã nắm được quyền chủ động trong chiến tranh.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 02 Tháng Chín, 2008, 10:35:56 pm
MỸ VÀ TÌNH TRẠNG TIẾN LUI ĐỀU KHÓ CỦA VẤN ĐỀ BÌNH ĐỊNH

Trong suốt thời gian dính líu của mình vào Việt Nam, Mỹ chưa hề bao giờ xác định vấn đề "bình định" một cách nghiêm chỉnh trong những điều kiện xã hội và kinh tế lúc bấy giờ. Mỹ cố tình đánh giá rất thấp những giải thích rằng sức mạnh của Cách mạng là Do Cách mạng biết đáp ứng nguyện vọng và nhu cầu của quần chúng. Vấn đề liệu quân đội Việt Nam cộng hoà phải đánh một cuộc chiến tranh quy ước hay một cuộc chiến tranh du kích là một vấn đề trọng yếu đối với các cố vấn quân sự Mỹ hơn là các vấn đề khác quan trọng hơn, như vấn đề tại sao lại xảy ra cuộc chiến tranh, vấn đề lòng trung thành thật sự là những nguyện vọng của nhân dân, hay vấn đề những hậu quả của bạo lực của nhân dân đối với cam kết chính trị của Mỹ. Về thực chất, chống nổi dậy và bình định là hai khái niệm đồng nghĩa với nhau, tập trung vào các biện pháp quân sự và kỹ thuật để kiểm soát nhân dân về mặt thể chất. .

Chính cái lô-gích của cách suy nghĩ đó đã đẩy Mỹ và Việt Nam cộng hòa chống lại nhân dân và về lâu về dài, thay đổi sâu sắc cơ cấu dân cư và trật tự xã hội của đất nước. Và sự thay đổi đó là nhân tố quan trọng nhất xác định cách đánh cuộc chiến tranh và kết quả của nó. Tuy rằng phản ứng đầu tiên của nhân dân chống lại đàn áp làm cho Cách mạng mạnh lên, nhưng cuộc đột biến rộng lớn về xã hội, về dân cư và về con người mà chiến tranh gây ra cũng trở thành những thách thức tai họa cả cho Mỹ lẫn cho Đảng, tuy tính chất thì hoàn toàn khác nhau.

Ngay từ đầu Diệm tìm cách làm cho Mỹ đứng ngoài các vấn đề xã hội nông thôn và ruộng đất. Chương trình khu dinh điền tai họa của ông ta trong những năm 1959- 1960 đã huy động nhân dân cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng hơn bất kỳ chương trình nào khác và đã được Mỹ ủng hộ trong chừng mực có liên quan đến vấn đề chống nổi dậy. Năm 1962 chính quyền Mỹ chuyển viện trợ kinh tế cho các cơ quan dân sự. Từ 1960 đến 1965, không có viện trợ tài chính và cố vấn về cải cách ruộng đất cho Việt Nam cộng hòa. Điều quan trọng đối với Mỹ và Sài Gòn là kiểm soát về thể chất nhân dân mà những nguyện vọng và nhu cầu đều bị bóp nhỏ. Nhưng chính sự thay đổi về cơ cấu dân cư và sự thay đổi xã hội chứ không phải hành động quân sự nào đã xác định nội dung cho kết quả của cuộc chiến tranh.

Mùa xuân năm 1962 theo gợi ý của Rô-bớt G.K. Tom-xơn, một chuyên gia Anh nhiều ảnh hưởng, Diệm đưa ra chương trình "ấp chiến lược" xây dựng những công sự chung quanh đa số 11.300 ấp của Nam Việt Nam và tập trung nhân dân vào đó. Cảnh sát, các đơn vị tự vệ cũng như bộ máy bí mật của Việt Nam cộng hòa ở mỗi ấp làm nhiệm vụ kiểm soát sự đi lại của nhân dân và triệt phá cơ sở hạ tầng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng nhằm xây dựng những cụm ấp an toàn để từ đó mở rộng ra các cụm khác.

Đối với nhóm cố vấn viện trợ quân sự Mỹ (MAAG) thì chương trình ấp chiến lược nhấn mạnh nhiều hơn đến quân chính quy và hỏa lực, và việc di dân cũng triệt để hơn. Dân được đưa ra khỏi những "khu vực chết" mà về sau được gọi là khu "tự do bắn phá". Cái chung của cả Diệm lẫn Mỹ là kiểm soát dân với hy vọng vô hiệu hóa ảnh hưởng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng, hoặc nếu không, thì cũng làm cho Việt Nam cộng hòa tiếp xúc được với phần đông dân chúng, xóa bỏ cơ sở quần chúng của Mặt trận.

Diệm muốn có kết quả nhanh chóng nên huy động toàn bộ quân đội của ông ta để ép tạo ra những ấp chiến lược. Tháng 9 năm 1962, Diệm rêu rao rằng một phần tư tất cả các ấp đã được tổ chức và một năm sau thì con số đó lên ba phần tư.
Một nhà chiến lược cấp cao quân đội Việt Nam cộng hòa mô tả ấp chiến lược như "một trại tập trung lộn xộn” (xem Hoàng Ngọc Lung, Chiến lược và chiến thuật, Chuyên khảo Đông Dương, tr.27). Nông dân bị buộc phải bỏ nhà cửa, ruộng đất để vào những địa điểm mới, xa cách. Tiền mặt và vật liệu cho họ không bao giờ đủ nên họ phải bỏ ra nhiều lao động và tiền của. Các quan chức Việt Nam cộng hòa cai trị họ thì luôn luôn "cướp bóc truy thu thuế, đặt lại những địa chủ và đàn áp nhân dân như trung tá Uy-li-am R.Coóc-xơn, một chuyên gia bình định cho biết. Khi nhân dân không chịu vào ấp chiến lược thì quân đội Việt Nam cộng hòa dùng phi pháo để buộc họ phải chạy vào ấp để tránh.

Kết quả có thể thấy trước được đó là việc những người đến tuổi nhập ngũ trốn ra ngoài để tham gia các lực lượng của Mặt trận; đó là một làn sóng bất bình rộng lớn, lần này vượt quá các vấn đề ruộng đất để đòi quyền sở hữu và đòi một xã hội nông thôn ổn định. Đầu năm 1963 Mặt trận dành ưu tiên cho việc triệt phá chương trình ấp chiến lược. Vào tháng 9 năm 1963 Mặt trận phá hủy 2.500 ấp chiến lược gây thiệt hại nặng cho 1.000 ấp khác và có ảnh hưởng sâu trong số 2.500 ấp còn lại.

Với cái chết của Diệm, chương trình ấp chiến lược cũng bị hoãn lại và mặc dù có những chương trình tiếp theo nhưng đến tháng 2 năm 1966 thì những cố gắng kiểm soát nhân dân nông thôn không được cả Mỹ lẫn bất kỳ tập đoàn nào của Sài Gòn chú ý đến nữa. Vì các thất bại dồn dập trong tất cả các lĩnh vực của các chế độ tiếp theo làm cho Oa-sinh-tơn tính đến thất bại cuối cùng cho nên Oa-sinh-tơn quay sang việc dựa vào sức mạnh quân sự ào ạt của chính mình.

Tháng 11 năm 1964 tướng Uy-li-am C. Oét-mo-len, tư lệnh Bộ chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ ở Việt Nam (MACV) thừa nhận rằng bình định "không tiến hành tốt”. Còn Bộ trường quốc phòng Rô-bớt Mác Na-ma-ra thì thảo một bị vong lục cho Tổng thống ngày 13 tháng 3 năm 1964 nói rằng Mặt trận Dân tộc Giải phóng khống chế khoảng 30 phần trăm lãnh thổ Nam Việt Nam, nhưng ba ngày sau thì đưa con số đó lên 40 phần trăm.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 03 Tháng Chín, 2008, 09:24:50 pm
Chương mười một
SỰ THÁCH THỨC TRONG VIỆC XÁC ĐỊNH CÁC CHIẾN LƯỢC QUÂN SỰ

TÌM KIẾM NHỮNG VŨ KHÍ VÀ TỔ CHỨC CÓ HIỆU QUẢ

Trong khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng nghĩ rằng hành động quân sự mà không có cơ sở chính trị vững chắc là nóng vội, Mỹ và Diệm thì ngày càng dựa mạnh vào các biện pháp quân sự để bù vào những yếu kém chính trị đã sâu sắc và ngày càng tăng của họ . . .

Từ năm 1961 cho đến khi Diệm đổ, Mỹ tìm kiếm một học thuyết và những loại vũ khí thích hợp cho mình, một cố gắng thường chia rẽ giới lãnh đạo của họ, tuy họ thống nhất với nhau về những mục tiêu chính trị của sự can thiệp ngày càng tăng. Cuộc thảo luận về cách tổ chức lực lượng quân sự Việt Nam cộng hòa đã có phần phản ánh thế khó xử về sau của Mỹ.

Từ đầu, Nam Việt Nam được dùng làm phòng thí nghiệm để thử những suy nghĩ, những chiến lược và trang bị mới của Mỹ dùng cho chiến tranh chống nổi dậy ở các nơi khác. Họ dùng quân đội Việt Nam cộng hòa một phần để thử những vũ khí và những suy nghĩ đó. Nhưng về phần mình, Mặt trận cũng bắt đầu học được cách đối phó với những âm mưu và hành động của lính Mỹ. Về quân đội Việt Nam cộng hòa, Diệm muốn mở rộng quy mô của nó. Còn các cố vấn cấp cao của Mỹ thì bất đồng với nhau trong thời gian đó, về việc liệu quân đội Việt Nam cộng hòa có nên được xây dựng để đánh cuộc chiến tranh du kích hay là để đánh cuộc chiến tranh qui ước.

Trong năm 1960-1961 cơ cấu của quân đội đã được chấn chỉnh để có thể đánh cả hai thứ chiến tranh, nhưng trên thực tế thì chẳng đánh được cuộc chiến tranh nào một cách có hiệu quả cả. Các lực lượng chính quy và dân quân địa phương của Việt Nam cộng hòa càng ngày càng đi vào nhiệm vụ đóng quân tại chỗ để giữ đất, do đó phải dựa nhiều hơn vào kỹ thuật và sức cơ động để bù lại. Trong hoàn cảnh như vậy quân đội Việt Nam cộng hòa hoàn toàn phụ thuộc vào sức cơ động bằng không vận và vào hỏa lực của Mỹ, kể cả không quân chiến lược.

Lầu Năm Góc kết luận cuối năm 1961 rằng máy bay lên thẳng là vô cùng trọng yếu để giúp cho quân đội Việt Nam cộng hòa nhanh chóng tập trung quân lực và hỏa lực khi kẻ thù xuất hiện. Điều này đã làm cho hậu cần Việt Nam cộng hòa bị hoàn toàn buộc chặt vào "học thuyết Mỹ, trang bị Mỹ và tiền của Mỹ". Nó cũng đòi hỏi phải có cố vấn Mỹ mà số lượng đã tăng lên năm lần giữa cuối năm 1961 đến cuối năm 1963, để điều khiển hệ thống đó.

Trong thời gian này, Mỹ quyết định thành lập một cơ cấu chỉ huy cho các lực lượng của mình hoạt động tại Việt Nam hoặc gần Việt Nam. Cơ cấu này tồn tại cho đến năm 1973. Bất kể không quân, hải quân và lục quân của Mỹ thống nhất với nhau gì gì đi nữa, vần đề phân chia quyền lực và ngân sách luôn luôn tỏ ra là một nguồn gốc bất đồng giữa họ với nhau.
Tình trạng đó ảnh hưởng sâu sắc đến các chiến lược, thậm chí đến các cuộc chiến đấu mà họ tiến hành. Việc này càng trở nên một thất vọng lớn vì năm 1962, Oa-sinh-tơn không cho rằng sự can thiệp của mình vào Việt Nam là một vấn đề lớn hoặc có thể kéo dài nhiều. Vì lúc đầu xem nó như một vấn đề hành chính nhỏ, Lầu Năm Góc năm 1962 đặt Bộ chỉ huy viện trợ quân sự ở Việt Nam (MACV) ở Sài Gòn dưới thẩm quyền của Tổng tư lệnh Thái Bình Dương (CINCPAC) ở Ha-oai chứ không phải trực tiếp dưới quyền của Bộ tham mưu liên quân ở Oa-sinh-tơn.

CINCPAC kiểm soát tất cả các lực lượng ở Thái Bình Dương và do hải quân điều khiển, nhưng hải quân lại ít có việc làm ở Việt Nam hơn là bất cứ quân chủng nào khác. Hệ thống chỉ huy này càng trở nên phức tạp khi máy bay lên thẳng trở thành thiết yếu cho cuộc chiến tranh và khi trách nhiệm toàn bộ về "không vận" đã được giao cho lục quân. Không quân đã phản đối cách sắp xếp này cho đến năm 1966 mới thôi. Cách làm gây lộn xộn này lại càng thêm trầm trọng với việc không quân chia thành ba bộ chỉ huy hoàn toàn riêng biệt của ba bộ phận máy bay lên thẳng, không quân lính thủy đánh bộ và không quân hải quân. Tóm lại, với mỗi một cuộc leo thang mới, những vấn đề có tính chất pháp lý đó đã trở nên trầm trọng thêm cho đến khi trở thành nguồn gốc của những cuộc tranh cãi gay gắt và ác liệt mà thời gian làm cho càng thêm nghiêm trọng.

Trong tình trạng tổ chức như vậy ở các quân chủng, các hệ thống vũ khí mới được đem ra thí nghiệm ở Việt Nam. Thuốc diệt cỏ đã được thí nghiệm đầu tiên ở Việt Nam, bắt đầu tháng 8 năm 1961. Cuộc thảo luận về việc dùng thuốc làm trụi lá cây đã dẫn ngay đến mối lo sợ bị "lên án là dã man vì thực hiện một hình thức của chiến tranh hóa học". Nhưng lập luận của những người dân sự trong Lầu Năm Góc đã thuyết phục Tổng thống và tháng 11 năm 1961 chương trình đó đã được bắt đầu và đánh cả vào mùa màng nhưng còn trên cơ sở được kiểm soát một cách chặt chẽ. Vì lý do có liên quan đến dư luận công chúng nên chương trình được giữ bí mật và vì vậy mà không bị tiết lộ ở Mỹ cho đến cuối năm 1965. Năm 1962 chương trình đó rải thuốc xuống 6.000 mẫu Anh (mỗi mẫu Anh khoảng 0,4 héc-ta - ND) lên đến đỉnh cao 1,7 triệu mẫu Anh năm 1967; trong khoảng thời gian chín năm, 20 phần trăm rừng nói chung và 36 phần trăm rừng đước bị rải thuốc độc, riêng năm 1965 thì 42 phần trăm thuốc là rải xuống mùa màng lương thực. Năm 1963, Mỹ bắt đầu nghiên cứu chất da cam là chất được dùng nhiều nhất và nghi là gây ra ung thư, quái thai và nhiều vấn đề nghiêm trọng khác, một nghi ngờ đã được xác nhận năm 1967 nhưng vẫn không hề ảnh hưởng gì đến chính sách của Mỹ.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 03 Tháng Chín, 2008, 09:28:00 pm
Ngoài việc làm cho mặt đất trở nên trơ trụi và phá hủy mùa màng, việc làm rụng lá cây còn nhằm buộc nhân dân phải vào vùng do Việt Nam cộng hòa kiểm soát. Nhưng chương trình đó đã làm cho một số lớn nông dân tức giận và xa lánh. Ở vùng rừng núi thì tuy đo CIA, các lực lượng đặc biệt và dân quân của Việt Nam cộng hòa thực hiện, chương trình đó đã bị sụp đổ một phần vì đã phá hoại nặng nề mùa màng trong khi rải thuốc xuống rừng núi.

Sự tham nhũng của các quan chức Việt Nam cộng hòa khi thực hiện một chương trình nhỏ để bù vào thất thu của người miền núi càng làm cho nhân dân rất căm ghét Mỹ và Việt Nam cộng hòa, và một bản nghiên cứu bí mật của Ran-đơ cho . Lầu Năm Góc năm 1967 kết luận rằng việc phá hoại mùa màng là phản tác dụng cả về mặt chính trị lẫn mặt quân sự. Cuối cùng chính quyền Ních-xơn buộc phải chấm dứt chương trình, không phải vì sự phản đối mãnh liệt của quần chúng hoặc vì những suy nghĩ về đạo đức nào mà vì nó gây ra sự thiếu thuốc để dùng trong nước Mỹ và vì năm 1968 Thiệu đã thấy rằng tác động chính trị đối với nhân dân trong nước và đối với thế giới là quá tiêu cực.

Những đề nghị kỳ lạ, nực cười và bi thảm đã được nghiên cứu để tìm ra một con đường tắt đi đến thắng lợi, trong đó có những đề nghị về đô thị hóa hoặc sử dụng các giáo phái. Người ta đổ tiền của vào các chương trình nghiên cứu khoa học xã hội này mà kết quả trước mắt duy nhất là tạo ra một hình thức học viện, nhiều kinh phí, có thanh thế, làm cho chiến tranh trở nên hợp pháp trong đầu óc những người ở Oa-sinh-tơn và gây hy vọng thắng chiến tranh cho Mỹ. Trong khi đó thì Mỹ tiếp tục dựa vào máy bay lên thẳng, na-pan và hỏa lực đề "làm cho Việt cộng thực sự biết kính sợ Chúa" như tướng Pôn D.Hác-kin, người đứng đầu MACV lúc bấy giờ, nói năm 1962.

Lúc đầu máy bay lên thẳng có giúp được cho quân đội Việt Nam cộng hòa vừa đóng quân tại chỗ để giữ đất vừa có thể nhanh chóng đưa quân và hỏa lực đến những nơi cần thiết. Nhưng năm 1962, quân đội Mặt trận Dân tộc Giải phóng bắt đầu nghiên cứu chiến thuật máy bay lên thẳng. Thực vậy lực lượng vũ trang giải phóng nhân dân nghiên cứu rất có hệ thống mọi thứ vũ khí hoặc hệ thống vũ khí đưa vào cuộc chiến tranh. Đó là đội quân đầu tiên phải đánh một kẻ địch được không vận.

Năm 1962, họ tìm được cách bắn máy bay lên thẳng và đoán trước những nơi đổ quân, đặt sẵn súng cối, cắm chông tre và các loại cọc khác. Yếu tố bất ngờ của máy bay lên thẳng đã mất, nhưng các cố vấn Mỹ tìm cách trả lời lại các biện pháp của quân đội Mặt trận. Cách có hiệu quả nhất và cũng rất tốn kém là hộ tống máy bay lên thẳng vận tải bằng máy bay lên thẳng vũ trang. Chiến thuật này rất tốn kém và rất phức tạp, phải dùng nhiều chất đốt, phải bảo quản nhiều máy bay và phải chống lại súng phòng không từ mặt đất. Mỹ kết luận rằng nếu không có sẵn lực lượng của mình ở mặt đất thì máy bay lên thẳng sẽ dễ bị lâm nguy.

Tháng 1 năm 1963, lực lượng giải phóng nhân dân ở vùng trung tâm đồng bằng sông Cửu Long chọn Ấp Bắc làm nơi thử sức với quân đội Việt Nam cộng hòa và hệ thống máy bay lên thẳng của địch. Với việc để lộ khoảng một trăm quân, họ kéo đến được một lực lượng trên ba tiểu đoàn bộ binh do máy bay lên thẳng đổ xuống. Sau một trận chiến đấu chớp nhoáng năm máy bay lên thẳng bị phá hủy, chín chiếc khác bị hư hại và khoảng 400 lính chết và bị thương. Phía Quân đội giải phóng chỉ có 9 người được xác định là chết.

Mặc dù bài học quan trọng đó về khả năng của quân đội và vũ khí của mỗi bên, các cố vấn Mỹ chưa mất lòng tin vào vũ khí và kỹ thuật mà họ đã triển khai. Lòng tin này tất nhiên đưa đến kết luận rằng cũng là vũ khí đó mà nằm trong tay Mỹ chứ không phải trong tay Việt Nam cộng hòa thì đã cứu được lòng tin vào sức mạnh của Mỹ.



Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 03 Tháng Chín, 2008, 09:30:08 pm
QUYẾT ĐỊNH LEO THANG CỦA MỸ

Những sự kiện đưa đến vấn đề Vịnh Bắc Bộ làm cho Mỹ tin rằng muốn khỏi thất bại phải dùng sức mạnh nhiều hơn và nghị quyết Vịnh Bắc Bộ đã mở đường cho việc leo thang chiến tranh kéo dài. Tình trạng đen tối của các ấp chiến lược và những khả năng quân sự của Việt Nam cộng hòa, cuộc đấu tranh giành quyền lực không bao giờ chấm dứt của các tướng Sài Gòn và sự nhận thức ngày càng tăng rằng Mặt trận Dân tộc Giải phóng là một kẻ thù đáng gờm, đã buộc chính quyền Mỹ trở lại vấn đề cơ bản là lợi ích của Mỹ là gì trong tình hình này. Duy trì một chính phủ thân Mỹ ở Sài Gòn chỉ là một phương tiện cho mục đích của Mỹ mà thôi; nó không phải tự nó là một mục tiêu chính. Nói đến cùng, vấn đề là lòng tin và sức mạnh của Mỹ ở toàn khu vực.

Một khi mà quyết định ném bom Việt Nam dân chủ cộng hòa đã được đưa ra, thì toàn bộ cái lô-gích nguy hiểm và cứng nhắc của lòng tin lại được gắn với nó. Một khi đã bắt đầu, quá trình leo thang không thể chấm dứt được nếu nó chưa thành công, bởi vì nếu không thành công nó sẽ tỏ ra là một công cụ đáng ngờ và không hiệu quả, do đó mà làm mất tính đe dọa và vai trò như một răn đe của sức mạnh quân sự Mỹ. Tất cả điều mà sự tan rã không thể tránh khỏi của Việt Nam cộng hòa đưa lại, là phải có một sự leo thang tiếp tục bởi vì ý nghĩ cho rằng quân đội Việt Nam cộng hòa có thể thay thế cho lực lượng trực tiếp của Mỹ bây giờ đã ngày càng trở thành hão huyền. Dù các cố vấn Mỹ chủ chốt muốn gắn sự leo thang với sự tiến bộ của Việt Nam cộng hòa như thế nào, cuối cùng họ cũng phải trở về thực tế rằng nếu Mỹ buộc phải rời Nam Việt Nam thì tác động đối với vị trí toàn cầu của Mỹ sẽ rất "tai hại" như bản thân Tay-lơ đã nói lên như vậy.

Quyết định chính thức của chính quyền Mỹ ném bom lặp đi lặp lại Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhất là để trả lời những cuộc tiến công ở miền Nam, đã được đưa ra ngày 9 tháng 9 năm 1964, chủ yếu là vì sự tổng hợp lòng tin và thuyết đô-mi-nô với cái cho là lợi ích toàn cầu của Mỹ. Chính lập luận này sẽ làm hậu thuẫn cho những cam kết lớn hơn, bất chấp những thay đổi luôn luôn gây trì trệ của nền chính trị Sài Gòn.

Mùa hè năm 1964, cuộc bầu cử tổng thống đòi hỏi phải tạm thời ngừng mọi hành động thêm nữa. Khi ngày 1 tháng 11 một cuộc tiến công phối hợp giữa đặc công và súng cối phá hủy năm máy bay B57 và làm hư hỏng 15 chiếc khác tại căn cứ không quân Biên Hòa đã gây ra một tổn thất ngang với những tổn thất tồi tệ nhất trong Chiến tranh thế giới thứ hai, nhưng vẫn còn chưa thuận tiện để trả đũa. Mùa thu năm đó, Mỹ gắn việc leo thang chiến tranh không quân với sự cộng tác của Việt Nam cộng hòa, nhưng chẳng có gì xảy ra. Người ta đã biết rằng ngay dù cho Việt Nam dân chủ cộng hòa không gửi gì thêm nữa vào miền Nam, cuộc chiến tranh vẫn sẽ tiếp tục bởi vì như CIA đã thừa nhận "những thành phần cơ bản của lực lượng Cộng sản ở miền Nam vẫn là thành phần địa phương". Vào lúc đó chính quyền Mỹ cũng tán thành sự tin tưởng của Đảng rằng chiến tranh sẽ sớm chấm dứt nếu Mỹ không nhảy vào với quân đội của chính mình. Chiến tranh không quân chống Việt Nam dân chủ cộng hòa, một mình nó sẽ không đủ.

Đầu tháng 12 chính quyền Mỹ khẳng định lại quyết định tháng 9 của mình ném bom Việt Nam dân chủ cộng hòa để trả đũa bất cứ hoạt động lớn nào của Mặt trận Dân tộc Giải phóng ở miền Nam. Khả năng một cuộc leo thang hơn nữa, kể cả một cuộc phong tỏa Việt Nam dân chủ cộng hòa bằng hải quân đã được thông qua, nhưng còn tùy thuộc vào tiến bộ của Việt Nam cộng hòa. Nhưng sự xói mòn chính trị ở Sài Gòn và tình hình hỗn loạn không ngừng đó đưa Khánh trở lại chính quyền ngày 27 tháng 1 năm 1965 đồng thời với khả năng một giải pháp trung lập, làm cho Mỹ hoặc là chấp nhận một thất bại hầu như hoàn toàn về ngoại giao hoặc là tính đến khả năng của một thắng lợi quân sự. Vì trên 23.000 nhân viên quân sự được trang bị thật đầy đủ của Mỹ vào cuối năm 1964 gánh ngày càng nhiều chức năng quân sự, nên những cuộc tiến công vào các căn cứ của họ là tất yếu và có thể thấy trước được. Và cũng rõ ràng từ đó muốn tiếp tục chiến tranh thì Mỹ phải đưa người của mình vào chiến đấu trực tiếp. Một sự biểu lộ đầu tiên của cái lô-gích đó đã xuất hiện cuối tháng 1, khi không cần chờ bất cứ một sự khiêu khích cụ thể nào, Nhà Trắng đã quyết định cho phép máy bay phản lực Mỹ tiến công các lực lượng Mặt trận Dân tộc Giải phóng.

Xuất phát từ chính sách định sẵn như vậy, phản ứng của chính quyền đối với cuộc tiến công bằng đặc công và súng cối của Mặt trận vào căn cứ cố vấn Mỹ ở PLây Cu ngày 7 tháng 2 là hoàn toàn đoán trước được. Mác Gioóc-giơ Bân-đi lúc đó ở Sài Gòn với Oét-mo-len. Ông ta hành động "quyết liệt vội vã và có phần tự phụ" như Oét-mo-len về sau thừa nhận. Ông ta gọi điện cho Nhà Trắng yêu cầu Tổng thống trả đũa Việt Nam dân chủ cộng hòa và Tổng thống đã thực hiện tức khắc.
Không có nhân vật quan trọng nào ở Oa-sinh-tơn tán thành việc rút cố vấn hoặc cắt viện trợ. Họ không suy tính đến việc làm thế nào chiến thắng quân sự có thể làm cho Việt Nam cộng hòa tồn tại lâu dài hoặc thay đổi bản chất cơ bản là giả tạo của nó. Cũng không ai nêu lên câu hỏi làm thế nào người Mỹ có thể ở lại lâu dài trong hoàn cảnh khó khăn như vậy, bởi vì đó là một vấn đề không hợp pháp. Thực vậy, thật là rất tình cờ rằng lúc đó Mỹ đã nhận được nhiều tính toán thận trọng về những hạn chế của chiến tranh không quân chống Việt Nam dân chủ cộng hòa và về khả năng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng có thể tiếp tục chiến đấu dù cho không có viện trợ từ miền Bắc. Nhưng cuối năm 1964 Mỹ vẫn còn chắc rằng những khả năng vật chất và kỹ thuật mà Mỹ có, là đủ để thắng chiến tranh. Bởi vì nếu Mỹ không đủ để thắng những lực lượng chỉ được trang bị sơ sài trong một nước cực kỳ nghèo, thì sức mạnh của Mỹ có tác dụng gì đối với các nước khác? Thách thức này chỉ là một biến tướng của luận thuyết về lòng tin đối với sức mạnh của Mỹ mà Oa-sinh-tơn luôn luôn bị ám ảnh từ cuối năm 1945. Vấn đề vào đầu năm 1965 chỉ còn lại là cần thiết phải có bao nhiêu thì giờ và phải cố gắng đến mức nào mà thôi. 


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 03 Tháng Chín, 2008, 09:42:48 pm
Chương mười hai
MỸ, CÁCH MẠNG VÀ NHỮNG THÀNH PHẦN CỦA CUỘC ĐẤU TRANH

NHỮNG THÀNH PHẦN CỦA CUỘC ĐẤU TRANH VÀ SỰ THAY ĐỔI CHÍNH TRỊ

Những quyết định của mỗi bên trong cuộc chiến tranh Việt Nam phản ánh hệ tư tưởng cũng như khả năng vật chất của họ, và vì cuộc chiến tranh bây giờ là giữa một trong những nước nghèo nhất của thế giới với nước giàu nhất trong toàn bộ lịch sử, cho nên cuộc đấu tranh còn liên quan, ngoài các vấn đề khác, đến tính thích hợp của các học thuyết chính trị cạnh tranh nhau đối với lịch sử nhân loại và đến khả năng con người làm chủ các lực lượng xã hội.

Những sự kiện ở nửa sau năm 1964 làm cho sự lạc quan quân sự dè dặt của Mỹ trở thành một sự bi quan ngày càng sâu sắc, đạt đỉnh cao khi Mác Gioóc-giơ Bân-đi và Mác Na-ma-ra đầu năm 1965 tin rằng "Chính sách hiện nay của chúng ta chỉ có thể dẫn tới thất bại thảm khốc". Mặt kinh tế và chính trị của cuộc đấu tranh nay nhiều lắm mới chỉ được Mỹ coi là có tầm quan trọng thứ yếu. Dựa vào vũ khí là một vấn đề tất nhiên bởi vì ở những nơi khác vũ khí rất có ích để chống lại nổi dậy. Hơn nữa những đồng minh chính trị tiềm tàng không gây cho Mỹ bao nhiêu hứng thú. Họ không thể đối phó với những vấn đề chính trị cơ bản của cuộc chiến tranh. Mi-ca-en Pho-re-xton cảnh cáo tháng 5 năm 1964: "Chúng ta đang cố gắng làm cho công cụ quen thuộc và cách làm của chúng ta phù hợp với một vấn đề mà chúng ta chưa hề thực sự phân tích".

Vấn đề xem xem tại sao lại có cuộc chiến tranh lúc ban đầu đã bị coi như là không thích hợp lúc này so với vấn đề định ra chiến thuật của chiến tranh ví dụ như vận động chiến, chiến tranh quy ước hay bất kỳ một phương thức quân sự nào đó. Bản chất của chế độ Mỹ xác định mục tiêu của Mỹ và cả nhận thức của Mỹ về thực tế, và bản thân những thứ đó lại hạn chế hành dộng có thể có của Mỹ. Ý thức của Mỹ là xuất phát từ nhu cầu và lợi ích chủ quan của mình chứ không phải xuất phát từ nhận thức thực tế qua tiêu chuẩn khách quan và khoa học, bởi vì sự quan tâm của chế độ đó không phải là vì chân lý mà vì sức mạnh, và chính điều đó một phần là nguyên nhân của những mâu thuẫn và thất bại của Mỹ.

Do vậy, Cách mạng được hầu như độc quyền về chính trị và về đánh giá sâu sắc các nhân tố xã hội. Vì Cách mạng có ít sức mạnh quân sự và tài sản kinh tế nên vốn quý của Cách mạng là nhận thức của mình và sự chính xác trong lập luận và phân tích để làm cơ sở cho cách chỉ đạo chiến tranh. Nếu không thì Cách mạng chắc chắn trở thành nạn nhân của so sánh lực lượng tự nhiên khách quan, nó đánh một cách không thương tiếc vào kẻ yếu nếu hành động của kẻ yếu đó không đủ sáng suốt và đúng đắn. Ngoài những chiều cạnh về thể chất và về quân sự rất đặc biệt của Việt Nam, kẻ thù đó của Mỹ còn có những vốn quý về chính trị và về tri thức rất nguy hiểm cho Mỹ bởi vì phương pháp luận sáng tạo của Cách mạng có thể áp dụng không phải chỉ ở Việt Nam mà còn ở khắp nơi khác nữa. Mỹ đã chọn nhầm một nước để thử lòng tin của mình.

Khi Mỹ tăng vai trò của mình ở Nam Việt Nam năm 1961, các nhà lãnh đạo Đảng thấy có nhiều lựa chọn trong cuộc đấu tranh sáp tới và chuẩn bị cho những lựa chọn dó. Chính trị vẫn được xem như cơ sở cho cuộc chiến tranh kéo dài, chính trị là đối trọng có hiệu quả nhất nếu Mỹ leo thang quân sự. Thời gian là một tài sản quyết định mà Cách mạng dùng để đối phó với cả Mỹ lẫn Việt Nam cộng hòa...

Trong quá trình đánh giá các mục tiêu và những vai trò tiềm tàng của Mỹ với tư cách là một nước đế quốc và những triển vọng so sánh lực lượng thế giới, xu hướng của Đảng là lạc quan một cách thận trọng đối với hành động có thể có của địch bởi vì Đảng luôn luôn đặt những mục tiêu của Mỹ trong bối cảnh quốc tế mà các nhà vạch quyết định ở Oa-sinh-tơn cho là rất quan trọng. Dường như các nhà phân tích của Đảng không chắc lắm rằng Mỹ sẽ đầu tư quá nhiều sức mạnh của mình vào Việt Nam, rất có hại cho lợi ích toàn cầu khác. Tuy vậy, Đảng vẫn chuẩn bị cho trường hợp xấu nhất.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 03 Tháng Chín, 2008, 09:56:33 pm
NHỮNG THÀNH PHẦN QUÂN SỰ CỦA CUỘC ĐẤU TRANH

Toàn bộ chính sách đối ngoại sau chiến tranh của Mỹ là luôn luôn dựa vào việc sử dụng vũ khí để bù lại thất bại của chiến lược chính trị của Mỹ và của những đồng minh Mỹ. Mỹ trở thành ngày càng phụ thuộc vào những đồng minh đó để duy trì cố gắng đạt sự bá quyền toàn cầu, và Nam Việt Nam không phải là trường hợp đầu tiên hoặc trường hợp cuối cùng của sự phụ thuộc lẫn nhau mong manh về bản chất đó. Do bản chất của nó, mặt chính trị của mối quan hệ đó sản sinh ra những chế độ yếu, không ổn định và sự can thiệp vũ trang của Mỹ là điều tất nhiên không thể tránh khỏi được.

Vào năm 1964 và đầu năm 1965, chiến tranh hầu như đã thất bại. Quân đội giải phóng nhân dân của Mặt trận nắm quyền chủ động. Như Oét-mo-len về sau nhắc lại: nếu lúc đó Mỹ leo thang chiến tranh dữ dội bằng không quân thì có nguy cơ gây ra một sự gia tăng có ý nghĩa về hoạt động của Mặt trận; nó sẽ đưa Mặt trận lên nắm chính quyền. Do đó cuộc leo thang đầu tiên phải từ từ. Năm 1964 Cách mạng, tuy vậy, cũng chưa sẵn sàng với việc Mỹ đưa nhiều quân vào bởi vì việc này đòi hỏi phải có quân đội Việt Nam dân chủ cộng hòa, phải xây dựng hệ thống hậu cần tốt, và phải tăng tiến trang bị quân sự của mình. Lúc đó Cách mạng cũng không có khả năng đưa vào một số lớn chủ lực của mình để giành thắng lợi đã ở gần trong tầm tay. Vấn đề thời gian đã trở nên trọng yếu cho cả hai bên.

Vào năm 1964, cuộc đấu tranh của Việt Nam đã trên hai mươi năm và các nhà lãnh đạo đã biết rõ những chỗ mạnh và những chỗ yếu của lòng kiên nhẫn; họ có thể đợi hai mươi năm nữa nếu cần. Các nhà lãnh đạo Đảng, nhất là trong quân đội, bắt đầu thảo luận ngay những chiến lược khác nhau để khai thác thế chủ động mà họ đã nắm giữ năm 1965. Cuối cùng họ dựa vào những nguyên tắc cổ truyền của sự phân tán, bất ngờ và linh hoạt, bất kể chiến thuật lúc đó là như thế nào. Trên thực tế, mặc dù các nhà lãnh đạo Đảng sẵn sàng chấp nhận chiến tranh kéo dài, nhưng họ cũng tìm cách thắng chiến tranh trong một thời gian ngắn nếu có thể được.

Về phía Mỹ, Mỹ tin nhiều vào nguyện vọng của Đảng duy trì và mở rộng những thành quả kinh tế đã giành được một cách vất vả ở miền Bắc. Trên cơ sở đó, phần đông ở Oa-sinh-tơn nghĩ rằng một cuộc chiến tranh không quân từ từ sẽ giành được những nhượng bộ quan trọng để tránh thất bại cho Việt Nam cộng hòa. Điều mà Mỹ không thấy được là các nhà lãnh đạo Đảng dựa vào tính chất nông dân của nền kinh tế Việt Nam dân chủ cộng hòa, cho nên thời gian trở nên vô hạn định và là nhân tố bảo đảm cuối cùng cho thắng lợi. Các nhà lãnh đạo Đảng hiểu rõ những giới hạn của thời gian đối với Mỹ hơn là chính quyền Mỹ hiểu. Trong một xã hội công nghiệp thì giờ là tiền của, và Mỹ năm 1964 không thể tưởng tượng rằng một cuộc chiến tranh kéo dài một thập kỷ hay hai có thể hoặc là cần thiết hoặc là có thể làm được. Cả xã hội Mỹ, cả nền văn hóa Mỹ là không thể tiếp thu được khái niệm đó. Học thuyết quân sự của Mỹ không cho phép dùng chiến thuật thụ động. Những nguyên tắc chiến lược của quân đội Mỹ đòi hỏi một người chỉ huy "không được tự để hoàn cảnh sai khiến hành động của mình, mà phải quyết định lấy hoàn cảnh", nghĩa là phải tiến công và nắm quyền chủ động.

Liệu chính quyền Mỹ có làm được điều này hay không phụ thuộc không phải chỉ vào chiến lược của Việt Nam mà còn vào việc thử nghiệm những hệ thống vũ khí của chính Mỹ và vào những phương pháp mới của chiến tranh chống nổi dậy. Kết quả của việc thử nghiệm vũ khí từ bom na-pan, các cây điện tử, thuốc làm trụi lá cây cho đến nhiều loại vũ khí sáng tạo của nền khoa học Mỹ, đến năm 1965 còn chưa có kết luận. Sức mạnh không quân mà Mỹ sẵn sàng áp dụng đã trở nên ghê gớm một cách đáng sợ, nhưng cuộc tiến công tháng 11 năm 1964 của một số ít người vào căn cứ không quân Biên Hòa là một sự kiện "không có tiền lệ trong không quân", như một nhà viết sử của không quân về sau kể lại. Khi đưa không quân tham gia hoạt động chống nổi dậy từ năm 1961, người ta "không tính đến việc kẻ địch đánh vào các căn cứ không quán", một vấn đề không kém phấn quan trọng. Một giai đoạn mới của chiến tranh xuất hiện khi Mỹ chuẩn bị chuyển từ việc dựa vào quân đội Việt Nam cộng hòa sang việc dùng lực lượng của chính mình và các binh sĩ Cách mạng cũng phải tìm cách vô hiệu hóa càng nhiều càng tốt những việc làm của Mỹ. Làm nhanh chóng được việc này là vô cùng thiết yếu cho mỗi bên, nhất là đối với chính quyền Mỹ mà những điểm yếu ở cả Mỹ lẫn Việt Nam làm cho thời gian trở nên thực chất.

Cán cân thực sự của các lực lượng quân sự đến năm 1965 vẫn còn chưa rõ ràng ở Oa-sinh-tơn bởi vì Mỹ không thể đánh giá được tầm quan trọng cuối cùng của các nhân tố về tổ chức, kinh tế và chính trị ở Việt Nam và, sau đó, ở cả trong nước Mỹ nữa. Nhưng Mỹ đã tự tin và cho rằng lực lượng cơ động và hỏa lực của mình có thể lấp lỗ trống mà các thất bại trước kia của Mỹ cũng như của Việt Nam cộng hòa đã tạo ra. Thế là thế tiến lui đều khó cổ truyền sau chiến tranh của Mỹ định dựa vào vũ khí và học thuyết để đối phó với những thực tiễn chính trị hay thay đổi ở các nước ngoài, lại một lần nữa xuất hiện trở lại.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 04 Tháng Chín, 2008, 06:51:28 pm
VẤN ĐỀ LÀM CÂN BẰNG SỨC MẠNH

Chính trị đã từng là chìa khóa cho chiến tranh Việt Nam kể từ năm 1941 và các vấn đề xã hội và kinh tế là cơ sở tối hậu của cuộc đấu tranh thắng lợi của Đảng Cộng sản cho đến năm 1965. Trên bình diện đó, cuộc chiến tranh là không cân xứng trong đầu những năm 1960 và ngay từ đầu cán cân quân sự giữa Mỹ và Cách mạng ít thuận lợi cho Mỹ hơn nhiều như Mỹ đã đánh giá. Thật vậy, với một số lượng vũ khí nhỏ nhưng quan trọng về chất lượng của Quân đội giải phóng cũng như với nhân lực do Việt Nam dân chủ cộng hòa cung cấp, Mặt trận Dân tộc Giải phóng là một kẻ thù mạnh hơn nhiều so với sự tính toán của Mỹ. .

Nhưng một nhân tố vào cuối năm 1964 làm thay đổi mạnh mẽ sức mạnh của Cách mạng và đưa ra một tình hình xã hội mới mà cả hai bên phải đối phó. Vào năm 1964, chiến tranh ở Nam Việt Nam trở thành khốc liệt và ảnh hưởng sâu sắc đến các tầng lớp của xã hội, làm thay đổi nhanh chóng việc phân bổ nhân dân. Việc nhân dân bị buộc phải bỏ nhà ra đi tìm nơi an toàn làm thay đổi cơ cấu của toàn đất nước và đã tạo ra vô số những vấn đề cho cả hai bên.

Cách mạng thấy rõ tình hình đó ngay tức khắc. Cách mạng tìm cách gần gũi quần chúng nhưng nhiều nông dân phải bỏ làng hoặc vì bản năng muốn sống sót trước mức chiến đấu ác liệt hoặc vì phải ra đi dưới họng súng của Mỹ và Việt Nam cộng hòa. Việc di chuyển của nông dân từ ruộng đất lên thành phố đặt ra nhiều vấn đề và nhiều khó khăn to lớn, đụng chạm đến cơ sở xã hội của Cách mạng.

Việt Nam cộng hòa và Mỹ thì phải giải quyết những khó khăn của việc đô thị hóa nhanh chóng đang gây đau xót cho đất nước. Đầu tiên họ tưởng có thể giải quyết được và xem đó là điều có lợi cho sự nghiệp chống cộng của họ. Nhưng đó lại là một sai lầm tai hại vì Việt Nam cộng hòa không thể chỉ tồn tại về mặt quân sự, Việt Nam cộng hòa phải tìm cách vận động các lực lượng xã hội ở miền Nam để sẵn sàng ủng hộ và hợp pháp hóa họ.

Tóm lại, cả Cách mạng lẫn Mỹ và kẻ phụ thuộc vào Mỹ trong năm 1964-1965 đi vào một giai đoạn chuyển tiếp. Trong khi cả hai bên nhận thức tình hình một cách khác nhau, nhưng chưa bên nào hoàn toàn nắm được tầm quan trọng của tình hình đó đối với kết quả cuộc chiến tranh và tương lai của đất nước.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 04 Tháng Chín, 2008, 06:52:30 pm
PHẦN BA
CHIẾN TRANH TỔNG LỰC 1965 -1967 VÀ SỰ BIẾN ĐỔI CỦA NAM VIỆT NAM

Chương mười ba
LEO THANG VÀ THẤT VỌNG CỦA NỀN CHÍNH TRỊ MỸ

Chính sách đối ngoại của chính quyền Giôn-xơn vào đầu năm 1965 là sản phẩm của hai thập kỷ theo đuổi những mục tiêu cố định đã bị ảnh hưởng bởi những nỗi thất vọng sau chiến tranh và đã góp phần nhiều trong việc xác định tư tưởng và hành động của chính quyền đó trong ba năm quyết định tiếp theo. Bắt đầu với một ý thức về sức mạnh to lớn và về tự do, nhưng các giai đoạn khó khăn của chiến tranh và sự thất bại trong cố gắng của Mỹ đã làm cho Mỹ không còn những lựa chọn rộng rãi nữa và đến đầu năm 1968, thì đành phải chấp nhận những hạn chế không thể đảo ngược được về quân sự, kinh tế và chính trị mà cuộc chiến tranh kéo dài đã gây ra. Những hậu quả quân sự cán cân lực lượng nông thôn ở Nam Việt Nam, sự biến đổi của chính cơ cấu xã hội và những tổn phí của chiến tranh tất cả kết hợp lại làm thay đổi nội dung của tương lai chiến tranh và những lựa chọn của các nhà lãnh đạo Mỹ.

Cho đến khi họ thấy được những lực lượng và khó khăn đó, từ gánh nặng tài chính của chiến tranh và một công chúng Mỹ ngày càng thù địch cho đến những đồng minh của họ ở Sài Gòn và những kẻ thù ở những nơi khác của Việt Nam, các nhà vạch quyết định của Mỹ đã hành động hoàn toàn trong khung cảnh những mục tiêu và giả định sau chiến tranh với một lòng tự tin đáng kinh ngạc, bất chấp những bài học cay đắng của những cố gắng không hiệu quả trước đây. Những nhận thức của họ về những thất bại trước, từ nguy cơ của chiến tranh trên bộ cho đến sự bế tắc của chiến lược hạt nhân đã làm cho vai trò của Việt Nam trong chính sách đối ngoại sau chiến tranh của Mỹ trở thành càng quan trọng hơn, thúc đẩy các nhà lãnh đạo hành động chứ không phải làm cho họ thận trọng khôn khéo.

Bản năng chống cộng của họ, mối lo sợ về những cuộc nổi dậy không kiểm soát dược của thế giới thứ ba và lòng thiết tha muốn chứng minh hiệu quả của vũ khí đối với hoạt động chống nổi dậy, đã làm cho ý nghĩa của Việt Nam càng trở nên quan trọng đối với những người nắm quyền ở Oa-sinh-tơn. Họ xem đó là những chứng minh mà tất cả các suy xét khác phải phụ thuộc vào cho đến khi chính những thể chế chính trị, xã hội và kinh tế của Mỹ bị lâm nguy vào những tháng đầu của năm 1968. Trước lúc này thì những hạn chế về sức mạnh và về các quyết định trong xã hội Mỹ chưa bộc lộ hoàn toàn bởi vì thực tế xã hội có thể thấy được không phải khi chế độ của xã hội đó còn hoạt động một cách bình thường mà chính là khi nó bị rơi vào khủng hoảng.

Tháng 2 năm 1965, chính quyền Mỹ đã đến gần cái mà Mác Gioóc-giơ Bân-đi coi là "một quyết định phân ranh giới trọng đại", trên cơ sở những cam kết rõ ràng và những xác định về lợi ích kinh tế và chính trị trước đây. Lòng tin vào sức mạnh Mỹ là một sự biện bạch mà Mỹ cho là mầu nhiệm, đã đoàn kết hầu như tất cả những người làm ra chính sách cơ bản. Lòng tin đó có hiệu quả rộng lớn, nhất là đối với Tổng thống Giôn-xơn, người đã đặt nó ngang hàng với kinh nghiệm của thế kỷ hai mươi với hy vọng làm cho những đồng minh của Mỹ khắp nơi yên tâm và tin tưởng vào nhiều hiệp ước an ninh ký với Oa-sinh-tơn.

Lòng tin với tư cách là một chủ đề đã được đề cập đến trong các bị vong lục của Giôn Mác Nâu-tơn nguyên giáo sư luật ở Ha-vớt và hiện là trợ lý bộ trưởng quốc phòng, người đã xem nó là một vấn đề "thanh danh". Còn Ra-xcơ nói với Tổng thống tháng 7 năm 1965 rằng "tính kiên định trong cam kết của Mỹ là trụ cột chính của hòa bình trên khắp thế giới. Nếu cam kết đó không thể tin cậy được thì thế giới cộng sản sẽ rút ra những kết luận dẫn đến sự phá sản của chúng ta và hầu như chắc chắn đến một cuộc chiến tranh thảm họa".

"Sự làm nhục" đối với Mác Nâu-tơn là đồng nghĩa với mất lòng tin. Cả công khai lẫn ở hậu trường, học thuyết đó đã được chấp nhận dưới nhiều hình thức bởi hầu như tất cả các thành viên chính quyền, kể cả những người bên ngoài có ảnh hưởng nhất được tham khảo ý kiến dù cho họ là những nhà chính trị non nớt, nhà lý luận kinh viện hay là những tướng lĩnh hăng hái. Và ngay dù cho họ tranh luận về mức độ hành động để cứu vãn lòng tin, họ vẫn thống nhất với nhau về sự cần thiết cơ bản phải có những cố gắng quyết liệt để bảo vệ lòng tin đó.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 04 Tháng Chín, 2008, 06:53:27 pm
QUYẾT ĐỊNH LÀM CHIẾN TRANH

Chính quyền Giôn-xơn đưa ra những quyết định trọng yếu tăng lực lượng Mỹ và tăng hoạt động ở Nam Việt Nam giữa tháng 8 năm 1964 và tháng 2 năm 1965. Một số những bổ sung nhỏ nhưng quan trọng cho những chính sách đó trong mùa xuân năm 1965 đã tạo ra một tình hình không thể đảo ngược trước tháng 7 năm 1965, khi Giôn- xơn tăng số quân Mỹ lên 175.000. Với một ý nghĩa nhất định đó là một loạt các quyết định mờ ám, không được công bố, nó bộc lộ phong cách ưa thích của chính quyền, muốn hành động kín đáo và không đưa ra công khai nhằm tránh khỏi mọi ảnh hưởng chính trị.
Đối với Giôn-xơn, làm như vậy có nghĩa là tránh vai trò của một tổng thống chiến tranh để làm vai trò của một nhà cải cách trong nước. Ngược lại, công chúng và Quốc hội ngày càng thất vọng trước sự dính líu ngày càng sâu của Mỹ ở Việt Nam. Chính sự lừa dối đó, cũng như bản thân của sự leo thang đã làm cho nhiều người Mỹ bất bình.

Mặt khác, tại Nam Việt Nam, cuộc tiến công ngày 7 tháng 2 vào PLây Cu bộc lộ rằng các căn cứ Mỹ và hàng trăm máy bay mới ngày càng rất dễ bị tiến công. Vì Việt Nam cộng hòa không đủ sức bảo vệ các căn cứ đó nên MACV cuối tháng 2, yêu cầu cho lính thủy đánh bộ Mỹ vào Đà Nẵng để bảo vệ căn cứ liên hợp khổng lồ ở đó. Như Tài liệu Lầu Năm Góc nhận xét, đó là "một quyết định lớn đưa ra không kèn không trống và cũng không có kế hoạch đấy đủ". Cuộc chiến tranh không quân và vấn đề bình định đã được thảo luận thấu đáo nhưng việc đưa quân vào là một việc làm về sau, chủ yếu là do kết quả tất nhiên của cuộc chiến tranh không quân tiến công. .

Hai tiểu đoàn lính thủy đánh bộ đổ bộ vào ngày 8 tháng 3 và ba tuần sau đó là một sự cho phép không được công bố của Tổng thống rằng quân Mỹ có thể chiến đấu trong phạm vi 85 ki-lô-mét quanh căn cứ. Một lữ đoàn lục quân đến sân bay Biên Hòa khổng lồ tháng 5 với cùng mục đích. Bảo vệ căn cứ đã trở thành lý do chính của việc triển khai quân đội bởi vì Oa-sinh-tơn nhận thức rằng không thể có chiến tranh không quân nếu không có chiến tranh mặt đất. Khoảng một nửa lực lượng trên bộ vào đầu năm 1966 là nhằm để bảo vệ các khu vực căn cứ và đến cuối năm thì tỷ lệ đó là 40 phần trăm, khi quân Mỹ lên đến con số 485.000. Mỹ không hề bao giờ giải quyết được thế khó xử này.

Trong khi một số cố vấn cấp cao như Mác-xoen Tay-lơ bày tỏ sự ngờ vực về chương trình phối hợp không quân và bộ binh đó, nhưng tất cả, trừ Gioóc-giơ Bon, nghĩ rằng sự duy trì nó là cần thiết để giữ lòng tin. Tất cả, bất chấp những bất đồng với nhau, đều tán thành một mức độ leo thang. Ngày 1 tháng 3 năm 1965, Mác Na-ma-ra thảo luận viện trợ cho Việt Nam cộng hòa, dù là dưới hình thức hàng hóa hay dưới hình thức lực lượng Mỹ, và báo cho các bộ trưởng các quân chủng rằng "tôi muốn được hiểu rõ rằng có một ngân khoản không giới hạn để thanh toán viện trợ cho Việt Nam", một "séc để trống" như kế toán trưởng của quân đội về sau gọi như vậy, "mà các nhà lãnh đạo quân sự thường được nhận khi chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh" (xem Lê-ô-na B. Tay-lơ "Sự quản lý tài chính của cuộc xung đột Việt Nam", 1962-1972, Bộ lục quân Mỹ 1974, tr.48). Đầu tháng 4 và giữa tháng 6, việc cho phép đưa quân được tăng lên, và đến cuối tháng 6 thì số nhân viên quân sự Mỹ lên đến 60.000 cộng với 10.000 đã có phép lên đường.

Vào tháng 4 năm 1965, cả Mác Na-ma-ra lẫn Bộ tham mưu liên quân chủ trương những cuộc leo thang lớn về chiến tranh trên bộ cũng như trên không. Cuối tháng 5, W W Rô-xtốp lập luận rằng thắng lợi hoàn toàn có thể đạt được và thắng lợi đã đến gần hơn bao giờ hết, Mác Na-ma-ra nghĩ rằng 200.000 quân hoặc khoảng đó sẽ là con số tối đa cần để đảo ngược tình thế của chiến tranh trước khi giảm lực lượng Mỹ. Vào tháng 6, tính trầm lặng trước đây của Tay-lơ tan biến trước đề nghị của Bộ tham mưu liên quân và của Mác Na-ma-ra đưa số quân lên 175.000, sau đó lên 44 tiểu đoàn. Việc này có thể làm cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng không thể thắng được và làm xoay chuyển cán cân lực lượng vào cuối năm. Mác Na-ma-ra và Oét-mo-len lập luận rằng với việc thêm quân đội trong năm 1966 và 1967 Mỹ sẽ giành thế chủ động. Quân đội càng nhiều, thắng lợi càng sớm. Tổng thống quyết định dừng ở mức 34 tiểu đoàn với số quân là 175.000 và không đáp ứng yêu cầu không được lòng dân của Lầu Năm Góc gọi quân trù bị. Tuy nhiên, tin rằng Mặt trận đang thắng trong cuộc chiến tranh, nên Tổng thống muốn đưa mốt lực lượng Mỹ với số lượng lớn vào để đảo ngược tình thế làm cho ông ta có thể trở lại chương trình trong nước mà không bị lên án gây ra thất bại ở ngoài nước và làm tổn thương đến lòng tin. Vào cuối năm, có 184.000 quân Mỹ ở Nam Việt Nam, và sự leo thang lớn trong cuộc chiến tranh giữa mùa hè năm 1964 và một năm sau đó đã đạt đỉnh cao.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 04 Tháng Chín, 2008, 06:54:31 pm
NHỮNG THẾ TIẾN LUI ĐỀU KHÓ ĐANG XUẤT HIỆN TRONG VIỆC LÀM RA CHÍNH SÁCH

Để hiểu những mặt tự do và những mặt hạn chế trong việc lựa chọn chính sách của Oa-sinh-tơn, cần so sánh những sự kiện và quyết định của thời kỳ 1964-1967 và thời kỳ sau 1968. Cho đến năm 1968 chiến tranh về phía Mỹ bao gồm việc đối phó với một loạt các thách thức, trước hết là thắng lợi trước mắt của Mặt trận Dân tộc Giải phóng mà chính quyền Mỹ ít có khả năng ngăn chặn hoặc bằng những thể chế hiện có hoặc bằng tinh thần tư tưởng. Sau Tết 1968 chính thực chất kinh tế và chính trị của Mỹ đã bị dính líu vào chiến tranh và cho thấy rõ sự bất lực các thể chế của chế độ khi nó đến gần giới hạn kinh tế và chính trị của nó.

Trong ba năm leo thang, những điểm yếu của chính sách đối ngoại Mỹ đã bộc lộ, chứng minh rằng dù thống nhất như thế nào về những mục tiêu và biện pháp chung giữa các nhà làm ra quyết định, những thực tế cụ thể cuối cùng có thể, cùng với những thất bại ngày càng tăng, gây ra những bất đồng quan trọng về chiến thuật cụ thể và về lựa chọn những ưu tiên.

Tình hình đó nói lên những hạn chế về quyền lực của Mỹ. Những hạn chế cơ cấu của chế độ Mỹ cuối cùng biến thành một cuộc khủng hoảng kéo dài về lãnh đạo do đó mà một nước Mỹ to lớn về vật chất nhưng ngày càng bối rối và mất đoàn kết tự thấy bị những người cộng sản nghèo hơn nhiều về vật chất vượt qua. Vị trí của Việt Nam trong chính sách đối ngoại sau chiến tranh của Mỹ có thể được xem như một bộ phận của một chiến lược nhất quán cũng như của thế tiến lui đều khó liên tục của Mỹ. Đó là tình hình mà chúng ta đang sống ngày nay ở Mỹ La-tinh và ở những nơi khác. Ít người thấy trước được những thất bại có thể xảy ra từ cuộc can thiệp ở Việt Nam và họ giải quyết những tốn thất chính trị và kinh tế một cách khác nhau cho đến năm 1968, khi những lực lượng bên ngoài và những thực tế phũ phàng hạn chế gay gắt những lựa chọn của họ.

Trong giai đoạn chuyển tiếp ngắn ngủi 1965-1967, sự nhất trí về chính sách đối ngoại không loại bỏ được những bất đồng chiến thuật thật sự. Nhưng điều quan trọng hơn nhiều so với những thông báo về những sự kiện xảy ra ở Việt Nam đã từng làm nội dung cho báo chí, kể cả những thất vọng và sự mất lòng tin của những người như Mác Na-ma-ra, thực tế đã là thất bại to lớn của một chế độ. Thất bại đó thuộc về thể chế chứ không phải về cá nhân con người, thuộc về bản chất của chủ nghĩa đế quốc Mỹ, của chính sách đối ngoại sau chiến tranh, của nhận thức của Mỹ về thế giới và về chính bản thân mình, và thuộc về sự không tương xứng giữa ý muốn và lợi ích của Mỹ một bên và những hạn chế về quyền lực của Mỹ bên kia.

Một sự nhất trí về vai trò và mục tiêu của sức mạnh Mỹ và về tính chất của thế giới là một điều kiện tiên quyết trong quá trình làm ra quyết định và khi những chiều cạnh chính sách cụ thể của thế giới quan đó không còn phù hợp với những lợi ích lớn hơn của chế độ, thì thường là sẽ xảy ra một cuộc khủng hoảng về chính sách, về ưu tiên và cả về nhân sự. Sự nhất trí đó không bao giờ có thể loại trừ được những bất đồng về biện pháp của các cá nhân cũng như của các tổ chức vì những lý do từ lợi ích chế độ cho đến tham vọng cá nhân.

Một khi lợi ích hoàn toàn cá nhân đe dọa nhu cầu toàn bộ của chủ nghĩa tư bản Mỹ trong nước cũng như ngoài nước một cách rõ ràng, thì các nhà hoạt động chính trị sẽ bị những người khác thay thế, như đã xảy ra nhiều lần sau Tết 1968. Tuy nhiên, thực tế của chính sách đối ngoại vẫn cho phép một mức độ khác biệt và tham vọng cá nhân nhất định trong khung cảnh của một sự nhất trí. Ý muốn thực hiện chương trình xây dựng trong nước và được bầu lại của Giôn-xơn chẳng hạn đã ảnh hưởng sâu sắc, đến hình thức, tuy không phải là nội dung của chính sách về việt Nam, cho đến khi chính sách đó bị thất bại. Còn Gioóc-giơ Bon thì vì sự nhấn mạnh của ông ta về ưu tiên châu âu, nên đã lập luận chống lại Việt Nam trong chính quyền Mỹ . . .

Tóm lại, khó khăn của Mỹ xuất phát từ việc Mỹ không hiểu biết tập thể cả các lực lượng mà Mỹ phải đương đầu lẫn chính bản thân mình, hai hình thức của sự mù quáng dẫn đến những hành động dễ được cùng nhau chấp nhận. Những lời giải thích chủ quan, ngạo mạn cho những hành động đó là kết quả chứ không phải là nguyên nhân của thế tiến lui đều khó của Mỹ. Những giới hạn về quyền lực của Mỹ đã được bộc lộ trước đó như ở Triều Tiên và Cu-ba cho nên Mỹ thấy là rất cần thiết phải giành thắng lợi ở Việt Nam để bù lại những thất bại đã qua.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 04 Tháng Chín, 2008, 06:55:26 pm
SỰ XÓI MÒN CỦA SỰ NHẤT TRÍ

Sự nhất trí về chính sách đối ngoại giữa Oa-sinh-tơn, những nhóm quyền lực chủ chốt và công chúng từ sau năm 1950 đã từng là nhân tố thiết yếu cho việc Mỹ theo đuổi cuộc chiến tranh kéo dài, nhưng cũng chính là ở đây chứ không phải trong các cuộc thảo luận quanh co giữa chính quyền và giới quân sự mà Mỹ nhanh chóng bị đẩy vào thế phòng ngự trong một cuộc chiến tranh xâm lược. Tuy thế khó xử đó của Mỹ chủ yếu là do sức dẻo dai của Cách mạng tạo nên, nhưng ở mức độ nhất định cũng là do Nhà Trắng đưa lại. Cuối cùng, những xung đột bên trong và phong cách của chính quyền Giôn-xơn tỏ ra ít quyết định hơn là sự va chạm của chính quyền đó với một bộ phận quan trọng của công chúng trong năm 1968, dẫn đến việc Quốc hội chuyển sang phía đối lập.

Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ làm cho chính quyền Mỹ càng xem thường sự khôn ngoan của quần chúng và khuyến khích nó tiếp tục thao túng dư luận công (chúng và Quốc hội trong khi leo thang. Chính quyền đó có thể che giấu chiến lược đã có sẵn của mình, coi đó như là một phản ứng tức thời trước những khiêu khích của kẻ thù hoặc làm ra vẻ không có tính toán gì trước, khi có một bước leo thang mới, nếu cố gắng quân sự đó giành được thắng lợi. Nếu thất bại, thì quy mô của sự cố tình lừa dối để giành sự ủng hộ đó phải được tăng lên gấp bội. Vì mỗi thất bại của leo thang gây rắc rối cho chính quyền nên chính quyền nhanh chóng bị cột vào một vòng luẩn quẩn của những sự lừa dối. "Khoảng cách về lòng tin" giữa hành động và tuyên bố đã sớm bộc lộ tính thiếu ngay thẳng của chính quyền đưa đến một thách thức trọng yếu.

Nhà Trắng biết rằng dốc sức vào chiến tranh sẽ làm cho Chương trình kinh tế xã hội vĩ đại bị thiệt hại và làm cho những người cộng hòa có thể khai thác chủ nghĩa sô vanh hiếu chiến. Các chuyên gia quan hệ công cộng của Giôn-xơn ngày càng gặp khó khăn để giữ cho chiến tranh không lộ ra ngoài. Những cố gắng thỉnh thoảng đưa ra những tài liệu đề làm hậu thuẫn cho chính sách cũng không thành công. Còn tồi tệ hơn là một bộ phận lúc đầu còn bé nhỏ nhưng ngày càng trở nên quan trọng và tăng lên của công chúng nhận thấy được sự lừa dối của chính quyền và bắt đầu làm xói mòn sự nhất trí quốc gia đối với chính sách đối ngoại.

Một nhà báo bình thường của Oa-sinh-tơn ngay trong tháng 6 đã phải tiết lộ việc sử dụng lính thủy đánh bộ làm các vai trò chiến đấu sau tháng 3 năm 1965, chỉ bởi vì những thiệt hại của họ không thể che giấu được nữa. Những tiết lộ báo chí trong những năm tiếp theo buộc chính quyền phải công khai thừa nhận sự thật nhưng thường là thừa nhận rất chậm sau khi mọi người đã biết. Thậm chí tháng 11 năm 1967, nhóm cố vấn cấp cao của chính quyền, cái gọi là Những người thông thái, thuộc các tập đoàn luật, tài chính và công nghiệp, có nhiều kinh nghiệm ở Oa-sinh-tơn đã tán thành quan điểm của chính quyền cho rằng "vấn đề lớn. . . là làm thế nào xoay chuyển được dư luận Mỹ".

Điều đáng chú ý hơn việc thao túng dư luận công chúng là chính quyền đã tự lừa dối mình bằng việc tin là có thể khai thác thời gian và tính kiên nhẫn để đảo ngược trào lưu của chiến tranh. Họ tin vào việc dùng hỏa lực và các chương trình của mình bất chấp những tổn thất về người và tiền của có hại cho các ưu tiên khác trong nước và ngoài nước. Chính vì lòng tự tin đó, cộng với một ý thức chính trị nhạy cảm của mình, Tổng thống đã không động viên lực lượng trù bị hoặc huy động nền kinh tế trước năm 1968 vì ông ta tin rằng thời gian là ở về phía ông ta. Sự mơ hồ mỉa mai ở cấp bậc cao nhất đó đã đưa đến một thất bại lớn trong cố gắng chiến tranh của Mỹ.

Các chính sách của chính quyền Mỹ và "khoảng cách về lòng tin" đối với chính quyền đó cuối cùng đã ảnh hưởng sâu sắc đến toàn bộ quan điểm chính trị của Mỹ và tiếp tục ảnh hưởng đến vai trò quốc tế của Mỹ trong hàng thập kỷ về sau. Những thúc ép ngày càng tăng về kinh tế và chính trị trong nước đối với chính sách đối ngoại đã bắt đầu diễn biến sau năm 1964, và đến năm 1968 thì dư luận quần chúng đã tự tách ra khỏi sự nhất trí đế quốc bằng nhiều cách phức tạp nhưng cơ bản. Các xu hướng bắt đầu trong những năm 1964-1967 đã đập nát sự nhất trí về chính sách đối ngoại sau năm 1950 và thiết lập lại vai trò của Quốc hội trong việc quyết định chính sách đối ngoại, một vai trò đã từng cản trở việc áp dụng quyền lực của cơ quan hành pháp trong nửa thế kỷ sau năm 1900.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 04 Tháng Chín, 2008, 06:55:50 pm
Sự chuyển biến này xảy ra bằng nhiều cách song song với nhau không những bằng sự thù địch của quần chúng đối với các vấn đề trực tiếp có liên quan đến chiến tranh mà còn bằng việc ngày càng xa lánh chính phủ nói chung một cách có ý thức. Sự ủng hộ chiến tranh ngày càng giảm. Vào cuối năm 1967 nhiều người Mỹ chống lại quyết định đưa quân sang Việt Nam hơn là người ủng hộ, và việc này tiếp tục cho đến khi quân Mỹ rút khỏi Việt Nam tháng giêng năm 1973 là lúc mà tỷ lệ người chống so với người ủng hộ là hai trên một.

Những người chống chiến tranh nhiều nhất là những người lớn tuổi, lứa tuổi 20 đến 29 là lứa ủng hộ chiến tranh mạnh nhất, công nhân cổ xanh lớn tuổi rất thù địch với chiến tranh. Chính giai cấp công nhân cổ xanh và những nhóm thu nhập thấp, từ năm 1964 đến năm 1970 đã bất bình nhất với chế độ chính trị, kể cả những quyết định chính về kinh tế và chính sách đối ngoại. Lúc đầu, giới trí thức, do có lợi ích trong chính sách đối ngoại, đã ủng hộ chiến tranh, kể cả những người có lợi trong chiến tranh với những hợp đồng hay phù hợp về mặt tư tưởng, v.v. Nhưng những người Mỹ bình thường có con bị bắt lính hoặc bị chết, hay những người phải chịu đựng cảnh hỗn loạn mà chiến tranh bắt đầu đưa lại hoặc chịu đựng lạm phát mà chiến tranh gây ra, những người đó đã bắt đầu hình thành một thái độ thù địch đối với chế độ chủ yếu trên cơ sở những đường lối giai cấp.

Chiến tranh chứng minh rằng sự mất đoàn kết sâu sắc trong xã hội Mỹ sễ đi theo cuộc chiến tranh kéo dài và vào năm 1968, cả Nhà Trắng lẫn Quốc hội không thể không biết thực tế đó. Viện chính quyền bàng quan với sự hoài nghi của công chúng và che giấu những thực tế quan trọng không lợi gì cho họ mà trái lại làm cho họ phải đương đầu với nhóm trí thức chống chiến tranh chưa từng có trong lịch sử, vượt xa về quy mô và về hoạt động một thiểu số ủng hộ chiến tranh.
Nếu chính quyền không thể đoán trước được rằng quần chúng đã thôi ủng hộ chiến tranh trong thời gian giữa năm 1964 và 1968, thì họ lại càng không thể tưởng tượng được rằng một phong trào chống chiến tranh rõ rệt, tập trung ở các trường đại học sẽ xuất hiện để chống lại họ. Cần phải nói rằng phong trào này có một tác động sâu sắc. Kết hợp lại với nhau, các cố gắng chống chiến tranh trở nên rất có ý nghĩa. Những sinh viên và những viện sĩ có thể làm giảm vai trò của trường đại học trong hệ thống chiến tranh, tạm thời ảnh hưởng đến việc tuyển quân và huấn luyện các sĩ quan dự bị cũng như việc nghiên cứu quân sự ở các trường đại học. Phong trào cũng cung cấp tin tức tài liệu chiến tranh cho Quốc hội và có phần cho báo chí. Chí ít phong trào cũng gây ra một tâm lý thích ổn định trong nước hơn là thích thắng lợi ở Việt Nam.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 04 Tháng Chín, 2008, 06:56:39 pm
Chương mười bốn
SỰ TIẾP TỤC TÌM KIẾM NHỮNG CHIẾN LƯỢC QUÂN SỰ CÓ HIỆU QUẢ

MỸ VÀ THẾ TIẾN LUI ĐỀU KHÓ CỦA TÌNH TRẠNG CHIẾN TRANH

Cuộc chiến tranh Việt Nam là một quá trình hoạt động quân sự có tính chất thách thức nhất trong lịch sử Mỹ. Đó là một sự tổng hợp của chính trị và kỹ thuật, của những di sản các cuộc chiến tranh đã qua, của lô-gích và của chủ nghĩa tượng trưng, tất cả kết hợp với việc sử dụng một hỏa lực kinh khủng và việc pha trộn siêu thực tế của cái hư và cái thực của các nhà lãnh đạo Mỹ. Nó không thể chỉ đơn giản đóng khung trong vấn đề chiến lược và chiến thuật, vấn đề mục tiêu hay những loại giải thích một cách thông thường. Lúc bắt đầu, Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh trong ba năm mà không có hy vọng gì hoặc không quan tâm gì một cách nghiêm chỉnh đến những thúc ép và hậu quả của các chương trình và các chiến lược quân sự của mình. Có nhiều bài học rút ra được từ kết quả quân sự của cuộc chiến tranh, nhưng khả năng của một lực lượng cách mạng có năng lực và quyết tâm đánh bại những người Mỹ giàu hơn nhiều là bài học trọng yếu nhất cho tương lai của kinh nghiệm lịch sử hiện đại.

Chiến lược quân sự của Mỹ bao gồm nhiều nhân tố, cái bi thảm, cái phi lý, cái nguy hiểm, tất cả pha trộn thành một công thức thảm họa cho nước Mỹ và thành cuộc tiến công tàn nhẫn, táng tận lương tâm đối với hầu như toàn bộ nhân dân Việt Nam.

Mỹ luôn luôn tiến hành cuộc chiến tranh Việt Nam trên thế phòng thủ chiến lược, bởi vì nhiệm vụ quân sự của Mỹ là để đạt những mục đích chủ yếu là không quân sự cho nên thường là không rõ ràng trong suy nghĩ của phần đông các nhà chính trị và tướng lĩnh. Cuộc chiến tranh đã được tiến hành để tranh thủ thời gian cho Việt Nam cộng hòa trở thành một thực thể chính trị và quân sự vững chắc, để làm cho những người cộng sản thấy rằng họ không thể thắng, và nhất là, để cho thấy quyết tâm và lòng tin của Mỹ trong việc bảo vệ những tham vọng toàn cầu của mình. Nhưng chính quyền Mỹ tin rằng một thắng lợi quân sự dứt khoát là khó có thể đạt được trong những năm 1965-1967 và Bộ tham mưu liên quân nói chung tán thành nhận định đó.

Cách mạng có thể duy trì thế chủ động chiến lược, tự do thay đổi chiến thuật theo ý muốn của mình bởi vì mục tiêu chính trị của họ là thắng lợi và các cố gắng quân sự của họ đã được sắp xếp để đạt các mục đích chính trị với bất kỳ biện pháp nào cần thiết.

Còn đối với Mỹ, việc pha trộn chiến tranh với chính trị luôn luôn tạo ra những thế tiến lui đều khó và khỉ mà Mỹ ngày càng tập trung vào vũ khí thì họ xem nhẹ các mục tiêu chính trị.

Mỹ dấn thân vào một nhiệm vụ quân sự mơ hồ để tiến hành một cuộc chiến tranh chưa có tiền lệ trong lịch sử. Chỉ khối lượng lớn trang bị của Mỹ tự nó cũng đã đòi hỏi nhiều vấn đế rồi: nó phải được sử dụng, bảo vệ và bảo quản và mối quan hệ của nó với một chiến lược nhất quán thường là ở vào bậc thứ yếu. Sự không ăn khớp giữa các quân chủng, binh chủng và giữa cơ cấu quân sự đòi hỏi một sự dung hòa tỉ mỉ và tốn kém trong chiến lược quân sự của Mỹ: Và vì thế chủ động chiến lược ở chiến trường luôn luôn nằm trong tay Cách mạng, nên giới quân sự Mỹ luôn luôn bị buộc phải đối phó với những thách thức của Cách mạng.

Bất kể những cuộc tranh luận công khai hoặc riêng lẻ về chiến lược quét giữ, tìm và diệt hay chiến tranh tiêu hao như thế nào, trên thực tế Mỹ thực hiện đồng thời các biện pháp nói trên. Ngay từ đầu đã có những điều kiện tiên quyết hạn chế các chiến lược đó. Vì Mỹ không thể có mười người như Oa-sinh-tơn muốn để chọi với một du kích, Mỹ phải dùng hỏa lực và sức cơ động để thay nhân lực. Số lượng to lớn trang bị và hậu cần cần thiết cho một cuộc chiến tranh như vậy, có nghĩa là phải có những chốt cụm lớn và các lực lượng Mỹ bị ghìm chặt ở đó.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 04 Tháng Chín, 2008, 06:57:28 pm
Vào giữa năm 1967 nhân viên quân sự Mỹ ở Đông Nam Á vượt quá nửa triệu, bằng một phần trăm lực lượng lao động trai dân sự của Mỹ trong khi các lực lượng Việt Nam dân chủ cộng hòa ở miền Nam chưa đến hai phần trăm lực lượng lao động trai của họ. Qua những số liệu này, chính quyền Mỹ thấy rằng Cách mạng có thể dễ dàng địch được với những sự tăng quân của Mỹ hoặc là vô hiệu hóa những thắng lợi của họ.

Sau năm 1965, các quan chức Mỹ thảo luận liệu nên tập trung quân thành những cụm trên bờ biển hoặc đưa quân làm nhiệm vụ "tìm và diệt" để quét sạch các khu vực căn cứ của địch. Trên danh nghĩa họ chọn chiến lược thứ hai nhưng vào giữa năm 1966, việc bảo vệ căn cứ chiếm gần một phần ba số quân Mỹ mới đến và các lực lượng Nam Triều Tiên, và chiếm gần một nửa số quân Mỹ có thể dùng cho các hoạt động tiến công. Khi trang bị được đưa thêm vào thì nhu cầu bảo vệ các căn cứ lại tăng lên và không quân xem việc rút quân bảo vệ như là một mối nguy hiểm cho họ vì Mặt trận có thể dùng đặc công, súng cối và rốc-két tiến công vào các sân bay.

Nhưng Oét-mo-len cũng tập trung được lực lượng làm nhiệm vụ "tiêu hao" kẻ thù mà đỉnh cao là ba tháng đầu năm 1967 trong cuộc tiến công "Gian-xơn Xi-ti" lớn nhất của cuộc chiến tranh. 35.000 quân Mỹ và Việt Nam cộng hòa hành quân dọc theo biên giới Cam-pu-chia, tây-bắc Sài Gòn, nhưng "chẳng có gì nhiều để trình bày cho cố gắng của họ", như một tường thuật chính thức về sau đã thừa nhận. Với một ý nghĩa quan trọng, chức năng chủ yếu của quân đội hành quân trên khắp đất nước là để phát hiện những mục tiêu cho hỏa lực tập trung của Mỹ. Một tướng lục quân kết luận: "Đừng đánh tay đôi với anh ta.

Phát hiện và tránh. Rồi trút lửa vào anh ta và kiểm soát sau đó". Mục tiêu chủ yếu của chiến tranh tiêu hao là phá hủy nhân lực và thiết bị của kẻ thù với một tốc độ không thể thay thế kịp đồng thời tăng cường sức mạnh của Mỹ nhất là của Việt Nam cộng hòa. Dù lý thuyết như thế nào, trên thực tế chiến lược của Mỹ sử dụng những chiến thuật thụ động và xông xáo cùng một lúc bằng cách kết hợp sức cơ động với hỏa lực.

Vào giữa năm 1966, khi quân Việt Nam dân chủ cộng hòa tiến vào Nam với số lượng lớn hơn, thì lính thủy đánh bộ Mỹ bị cột chặt vào quân khu I, thực hiện đúng ý đồ của Quân đội nhân dân kéo quân Mỹ ra tận phía bắc để cho các lực lượng Mặt trận Dân tộc Giải phóng có thể tập trung hoạt động ở các khu đông dân. Mỹ biết rõ những nguy hiểm này, nhưng hy vọng thương vong Mỹ gây cho kẻ địch sẽ bù lại việc Mỹ mất thế chủ động và cho quân đội Việt Nam cộng hòa đủ thì giờ để củng cố sự kiểm soát của mình ở các khu đông dân.

Oét-mo-len và Bộ tham mưu liên quân ra sức bênh vực chiến tranh tiêu hao đó vì họ muốn biện bạch cho những năm leo thang và cho việc xin quân và xin tiền của họ. Nhưng đầu năm 1967 các nhân vật quan trọng ở Oa-sinh-tơn đều qua CIA và báo cáo của Lầu Năm Góc mà biết rõ rằng chiến lược đang thất bại. Tuy Mỹ thắng một số trận và Quân giải phóng và Quân đội nhân dân chịu một số thương vong, nhưng suốt trong giai đoạn đó Cách mạng chiếm ưu thế trong toàn bộ tình hình quân sự.

Số quân Mỹ và Việt Nam cộng hòa cộng lại chiếm ưu thế so với lực lượng Cách mạng kể từ sau năm 1965 và đến năm 1967 thì tỷ lệ đó là 4,7 trên một. Trong cùng năm, vì Cách mạng ghìm Mỹ và đồng minh Mỹ trong những vị trí tĩnh tại, cho nên Cách mạng vượt họ về số quân chiến đấu dành cho các cuộc hành quân tiến công. Dù cho Mỹ xác định chiến lược của họ như thế nào, những lực lượng nhỏ hơn nhiều của Cách mạng vẫn giữ được quyền chủ động chiến thuật cũng như chiến lược.

Vào giữa năm 1967, gần bốn phần năm các trận đụng độ giữa Mỹ và Cách mạng xảy ra vào lúc và nơi do Cách mạng lựa chọn, và tình trạng này kéo dài trong suốt phần còn lại của cuộc chiến tranh. Điều này có nghĩa là Cách mạng có thể kiểm soát những tổn thất của mình vào mức có thể chịu đựng được, và đến cuối năm 1968, thì Cách mạng quyết định được mức thương vong của Mỹ và Việt Nam cộng hòa. Ngay từ đầu, chiến tranh tiêu hao của Mỹ đã thất bại bởi vì hỏa lực và sức cơ động không quyết định trong các điều kiện quân sự, càng không quyết định trong chính trị.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 06 Tháng Chín, 2008, 11:53:54 am
MỘT CUỘC CHIẾN TRANH - BA QUÂN CHỦNG MỸ


Trên một mức độ nhất định, chính tính chất của tổ chức quân sự Mỹ đã làm cho chiến tranh cực kỳ tốn kém, lãng phí và làm cho các mục tiêu không thể đạt được về mặt chính trị càng thêm bấp bênh. Bởi vì, đáng ra phải hoạt động như một tổ chức hoàn toàn thống nhất và có hiệu quả thì ba quân chủng của quân đội Mỹ tiêu phí bao nhiêu thời gian và tiền của trong những cuộc tranh luận phô trương và hào nhoáng về pháp lý và quyền lực.

Cơ cấu chỉ huy Mỹ ở Việt Nam phức tạp một cách đáng ngạc nhiên. Ngày càng có sự kình địch giữa lục quân, không quân, hải quân và lính thủy đánh bộ vì những kỹ thuật quân sự chồng chéo lên nhau và vì sự tranh giành phần hơn về kinh phí. Lợi dụng sự chia quyền như vậy, Nhà Trắng thích giữ nguyên trạng hơn là có một tư lệnh chiến tranh hùng mạnh đứng trên một quân đội thống nhất, không phải chỉ để tránh những tranh cãi giữa các quân chủng mà chính là để loại trừ một thách thức chính trị có thể có của một vị tướng duy nhất, như đã xảy ra trong chiến tranh Triều Tiên. Dây chuyền chỉ huy, như tôi đã giải thích trước đây, chạy từ Nhà Trắng đến Bộ tham mưu liên quân, đến Tổng tư lệnh Mỹ Thái Bình Dương (CINCPAC) ở Ha-oai và rồi xuống đến các Bộ tham mưu dày đặc ở trong và quanh Đông Dương.

Nguồn lớn nhất của cuộc tranh cãi giữa quân đội với nhau là quân chủng lính thủy đánh bộ. Họ thấy Việt Nam là cơ hội phô trương chức năng vừa thủy vừa bộ, phát huy danh tiếng của họ ở Quốc hội và thậm chí giành thêm tiền để xây dựng một sư đoàn nữa cho lực lượng của họ. Họ đồng ý chiến đấu như một đơn vị ở vùng chiến thuật I, nhưng họ có hệ thống hậu cần riêng và không quân chiến thuật riêng mà họ dùng một cách rất tốn kém để thay thế cho pháo lớn. Như vậy là hai lực lượng không quân chiến thuật riêng rẽ hoạt động trên một chiến trường, gây ra bao nhiêu tốn kém và nhầm lẫn. Đồng thời lục quân và không quân tranh cãi với nhau về những máy bay có cánh cố định (có trên năm nghìn vào năm 1960) và những máy bay lên thẳng của lục quân. Không quân muốn kiểm soát cả hai loại máy bay này trên khắp thế giới.

Tháng 4 năm 1966, các quân chủng giải quyết cuộc tranh chấp thường là gay gắt đó, lục quân giữ máy bay lên thẳng của mình nhưng trong tương lai không đòi những kiểu máy bay có cánh cố định mới nữa. Toàn bộ không quân đóng ở Nam Việt Nam nằm dưới sự kiểm soát của Bộ chỉ huy viện trợ quân Mỹ ở Việt Nam (MACV) nhưng trên lãnh thổ Việt Nam dân chủ cộng hòa thì cả hải quân và không quân đều đòi hoạt động độc lập. Cuối cùng Việt Nam dân chủ cộng hòa được chia ra thành những khu vực mục tiêu cho mỗi quân chủng, hải quân hoạt động dưới quyền của Hạm đội Thái Bình Dương và không quân dưới quyền của Không quân Thái Bình Dương, B52 hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam dân chủ cộng hòa nằm dưới sự kiểm soát của Bộ chỉ huy không quân chiến lược, cho đến những tuần cuối của năm 1972. Ở Lào thì Không quân, CIA và Đại sứ quán tất cả đều vướng vào nhau và thường là bất hòa nghiêm trọng với nhau.

Với sự phân quyền kiểu thái ấp đó, Nhà Trắng ít phải lo ngại về những tướng lĩnh tham lam. Thật vậy, uy tín của bất kỳ tư lệnh nào đối với một cố gắng thực sự thống nhất có thể dễ dàng làm yếu những kiềm chế của Oa-sinh-tơn đối với những hành động quân sự phiêu lưu; nhất là có nguy cơ xung đột với Trung Quốc. Nhưng tác động quan trọng nhất của tình trạng này là nó làm cho chiến tranh tốn kém hơn nhiều, vào lúc mà sự tốn kém có ảnh hưởng quyết định đối với thời gian và cường độ của cuộc chiến tranh.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 06 Tháng Chín, 2008, 11:54:29 am
SỰ CÙNG TỒN TẠI CỦA CÁCH MẠNG VỚI CÁC KẺ THÙ CỦA MÌNH

Riêng quy mô của cơ cấu quân sự và chính trị của Cách mạng ở miền Nam cũng đã đòi hỏi địa phương phải tổ chức tài tình về hậu cần, và khả năng chiến đấu của chủ lực sẽ yếu đi rất nhiều nếu các cán bộ địa phương và các tổ chức Mặt trận Dân tộc Giải phóng không làm chủ được những vấn đề kinh tế cơ bản. Tuy các giới chính thức Mỹ đang còn tranh cãi gay gắt về quy mô tất cả các lực lượng Cộng sản, nhưng vào năm 1967, người ta ước tính có khoảng từ 221.000 đến 281.000 binh sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam và Quân giải phóng ở Nam Việt Nam. Trong đó khoảng một phần ba là du kích. Thêm vào đó có khoảng 120.000 lực lượng không chính quy và 75.000 đến 90.000 cán bộ chính trị. Quy mô này tồn tại cho đến năm 1972.

Cung cấp lương thực và trang bị cho một lực lượng như vậy là một nhiệm vụ lớn, trọng yếu, có thể thực hiện được chỉ nhờ cố gắng của Đảng sau năm 1955 thâm nhập vào Việt Nam cộng hòa, thành lập những mặt trận hợp pháp và tranh thủ được sự giúp đỡ kinh tế và quân sự từ chế độ mà Đảng tìm cách lật đổ. Cơ cấu mà Đảng thiết lập giữa năm 1955 và năm 1964 đã được nhanh chóng mở rộng để chống lại việc Mỹ ném bom các con đường ở miền Bắc Việt Nam. Việc thu thuế cũng được hoàn thiện và đánh mạnh vào các nhà kinh doanh. Các đơn vị chủ lực sản xuất lương thực ở đâu có thể làm được. Du kích sống ở thôn xã phải giúp nông dân làm mùa và thường là sống với họ. Họ cướp vũ khí và đạn dược của kẻ thù để dùng. Nhưng buôn bán với các vùng do Việt Nam cộng hòa kiểm soát trở nên ngày càng quan trọng.

Năm 1967, ngoài số hàng mua tại chỗ, Mỹ đưa vào trung bình hàng ngày 21.000 tấn hàng cung cấp chung và đạn dược do nhu cầu của chính mình. Tiêu thụ toàn bộ hàng ngày của Quân đội nhân dân Việt Nam và Quân giải phóng năm 1967, theo ước tính của CIA, là 215 tấn, tăng lên 250 tấn năm 1968. Lương thực là hàng tiêu thụ chính. Năm 1968, chỉ 24 phần trăm lương thực được nhập, phần lớn là từ Cam-pu-chia. Thực vậy, chỉ 30 phần trăm vũ khí và hàng cung cấp không phải là lương thực được đưa từ ngoài vào năm 1968 và 16 phần trăm đạn dược được cung cấp từ các nguồn ở miền Nam. Số nhập năm 1968 là 80 tấn hàng ngày, chỉ bằng một phần ba nhu cầu của Cách mạng về trọng lượng. Gộp chung lại, như Lầu Năm Góc ước tính, Cách mạng tự túc được tại Nam Việt Nam khoảng 70 phần trăm các hàng cung cấp mà quân đội của họ cần đến, một con số có lẽ quá thấp.

Cách mạng cũng dùng mối quan hệ cùng tồn tại của mình với Việt Nam cộng hòa cho công tác tình báo. Ngoài một số lớn những người cơ hội hoặc những gián điệp đôi mà CIA năm 1970 đưa ra con số khoảng ba mươi nghìn người trong quân đội và các cơ quan Việt Nam cộng hòa, có những gián điệp thực sự mà chuyên gia đứng đầu của CIA về chuyên đề này cho là khoảng ba nghìn người, một con số gần với sự thật. Từ những người này, Mặt trận Dân tộc Giải phóng có được những tin báo trước vô cùng giá trị về nhiều cuộc hành quân của quân đội Việt Nam cộng hòa và của Mỹ, kể cả cuộc xâm chiếm tai họa Lào của quân đội Việt Nam cộng hòa tháng 2 năm 1971. Và Mặt trận cũng đạt được những dịp hòa giải với quân đội Việt Nam cộng hòa ở một số vùng vì những sắp xếp như vậy là có lợi ích cho cả hai bên nhưng cũng có khi vì nhờ sự có mặt của những người của Mặt trận được cài lại ở những khu vực chủ chốt. Sự cùng tồn tại của Mặt trận Dân tộc Giải phóng với Việt Nam cộng hòa trong mọi lĩnh vực đã trở thành một phương tiện thiết yếu để Mặt trận kéo dài chiến tranh và giữ vững quyền chủ động.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 06 Tháng Chín, 2008, 11:55:16 am
Chương mười lăm
THẾ TIẾN LUI ĐỀU KHÓ TRONG CÁCH TIẾN HÀNH CHIẾN TRANH CỦA MỸ

CHIẾN LƯỢC CỦA KỸ THUẬT VÀ HỎA LỰC

Cuộc khủng hoảng trong học thuyết chiến lược của Mỹ sau Triều Tiên là rất trọng yếu đối với tính chất, hình thức và kết quả của cuộc chiến tranh Việt Nam. Do có động cơ muốn vượt những thế tiến lui đều khó của chiến tranh hạn chế đang ám ảnh của cuộc thảo luận chiến lược của Mỹ sau 1953, Oa-sinh-tơn biến Việt Nam thành nơi thí nghiệm cho học thuyết và vũ khí của họ. Nhưng những tiền đề của hành động Mỹ phản ánh một phạm vi toàn cầu, và những hệ thống vũ khí lớn của họ chủ yếu là để dùng ở các nước tiến bộ về kỹ thuật còn nếu được dùng trong các cuộc can thiệp ở Thế giới thứ ba thì chẳng qua chỉ là tình cờ. Vì những điều trải qua ở Việt Nam làm căng thẳng tài lực của họ, nên nỗi thất vọng chiến lược của Mỹ đã tăng lên, thúc đẩy họ lao vào những cam kết không thể thay đổi được để duy trì không chỉ lòng tin vào ý chí hành động của mình mà còn vào khả năng vật chất có thể thắng bất kỳ ở đâu trên thế giới nếu tham gia vào chiến tranh. Nhưng Việt Nam nhanh chóng đã làm lộ nền tảng kỹ thuật của sức mạnh Mỹ trên thế giới, kể cả những hạn chế sâu sắc của nó, chứng minh những chỗ yếu không phải chỉ về mặt chính trị hoặc đạo lý mà còn cả về mặt quân sự nữa. Việt Nam không những không giải quyết được cuộc khủng hoảng sau chiến tranh về học thuyết chiến lược của Mỹ mà còn làm cho nó thêm sâu sắc.

Chiến lược quân sự sau năm 1945 của Mỹ bị gắn một cách cứng nhắc vào kỹ thuật cao và không thể đáp ứng được những mặt cụ thể của chiến tranh cục bộ. Oa-sinh-tơn đã phản ứng về mặt quân sự ở Việt Nam chủ yếu là theo cách mà họ có thể phản ứng đối với bất kỳ cuộc chiến tranh thông thường nào trên thế giới.

Mức độ dựa ngày càng tăng vào kỹ thuật cao và hỏa lực ào ạt đó có thể thấy được qua số lượng đạn dược mà mỗi người lính dùng khi chiến đấu. Giữa Chiến tranh thế giới thứ hai của Chiến tranh Triều Tiên số lượng đạn dược mỗi người lính dùng đã tăng tám lần, nhưng trong Chiến tranh Việt Nam, con số dó là hai mươi sáu lần so với thời gian 1941-1945. Nói một cách khác, trong suốt Chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ đã dùng một tổng số là bảy triệu tấn đạn dược, trong thời gian 1964-1972, Mỹ đã dùng gần mười lăm triệu tấn. Trong thời gian này không quân và hải quân trở nên quan trọng hơn. Tỷ lệ lính chiến đấu trong lục quân giảm từ 36 phần trăm xuống còn 22 phần trăm. Chỉ một mình không quân chiến thuật vào cuối chiến tranh Việt Nam đã sử dụng gần một phần tư toàn bộ ngân sách quân sự, chưa kể không quân chiến lược và trọng pháo.

Ở Việt Nam người lính chiến đấu Mỹ chủ yếu chỉ là con mồi mà đằng sau là một khổng lồ kỹ thuật. Tướng Uy-li-am W Môm-yơ, người đứng đầu không lực ở Việt Nam trong đỉnh cao của chiến tranh, về sau viết: "Chính sách của chúng ta là sau khi tìm được địch, lực lượng trên bộ của chúng ta rút lui vào một khoảng cách đủ để cho không quân và trọng pháo được sử dụng một cách không giới hạn. Sau đó quân đội mới trở lại tiến công"... Vì vậy, một mình không quân chiếm gần một phần ba chỉ tiêu của chiến tranh. Một nhà nghiên cứu không quân khác tuyên bố. "Việc sử dụng hỏa lực chưa từng có và hoang phí để thay cho con người là một đặc điểm nổi bật của các chiến thuật quân sự Mỹ trong chiến tranh Việt Nam" (xem Rô-bớt M.Kipp, Chống nổi dậy từ 30.000 bộ, tạp chí Air University, tháng 2-1968, tr.17). Vào năm 1964, đó là kiểu chiến tranh duy nhất mà Lầu Năm Góc có thể tiến hành và tình hình đó vẫn tiếp tục tồn tại cho đến ngày nay.

Mỹ đưa ra thí nghiệm ở Việt Nam cơ sở quân sự của bá quyền Mỹ và tính hiệu quả của cả cơ cấu kỹ thuật rộng lớn của họ. Việc này đã động viên giới quân sự đứng vững sau cuộc chiến tranh và ủng hộ việc dựa vào hỏa lực, thậm chí sau khi hỏa lực đã tỏ ra là thất bại. Bộ tham mưu liên quân lập luận rằng đến một lúc nhất định số lượng hỏa lực sẽ biến thành chất lượng và đảo ngược chiều hướng, làm cho chiến thuật trở thành chiến lược. Giới quân sự xem cuộc chiến tranh không quân chống Việt Nam dân chủ cộng hòa là để thuyết phục miền Bắc hoặc là thôi ủng hộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng hoặc là thương lượng, đồng thời để duy trì tinh thần của Việt Nam cộng hòa. Họ dùng không quân ở miền Nam là với hy vọng đảo ngược tình hình quân sự trên bộ. Ngay khi vì sức ép chính trị mà Mỹ phải chấm dứt một phần ném bom Việt Nam dân chủ cộng hòa, họ chỉ việc chuyển máy bay sang Lào và số bom trên toàn chiến trường Đông Dương không bao giờ giảm xuống. Lào và Việt Nam dân chủ cộng hòa đã chịu một nửa toàn bộ các phi vụ.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 06 Tháng Chín, 2008, 11:56:01 am
Không quân đã sử dụng một nửa số đạn dược Mỹ dùng trong cuộc chiến tranh, và máy bay ném bom chiến lược B52 đã được thêm vào máy bay chiến thuật tháng 6 năm 1965 khi người ta nhận thấy rằng máy bay chiến thuật không thể nhanh chóng ném bom rải thảm xuống những khu vực lớn làm cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng không kịp phân tán. Thực vậy, không quân chiến thuật đã tỏ ra "tương đối không có hiệu lực" đối với các lực lượng ẩn náu trong hầm. Còn máy bay B52 thì thả số lượng 27 tấn bom của chúng từ độ cao 30.000 bộ (trên 9.000 mét) xuống những mục tiêu mà về sau được biết là một nửa không có Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Tóm lại, đó là những vũ khí khủng bố không chính xác giết hại nhiều dân thường và phá hủy tài sản của họ.

Theo những con số chính thức vô cùng dè dặt của Lầu Năm Góc thì Mỹ đã mất 3.689 máy bay có cánh vào cuối năm 1972, cộng với 4.857 máy bay lên thẳng, với giá tổng cộng trên 10 tỷ đô-la. Nhưng giá của máy bay chiến thuật tiêu chuẩn bấy giờ năm đến bảy lần đắt hơn trong Chiến tranh Triều Tiên. Hoạt động của máy bay rất không chính xác và chỉ gây tổn thất cho dân thường. Vì nó không ảnh hưởng nhiều đến những cuộc chiến đấu lớn hơn nên không có tác động căn bản đến cán cân chiến lược và tổn phí của nó bắt đầu làm xói mòn khả năng kinh tế để đánh một cuộc chiến tranh kéo dài. Về sau nó cũng gây ra sự chống đối chính trị rộng lớn.

Ngay từ đầu, cuộc chiến tranh không quân chống Việt Nam dân chủ cộng hòa đã là một thất bại và 80 phần trăm thương vong là dân sự. Ngay dù cho Mỹ có thể tăng cường những cuộc tiến công không quân chống miền Bắc thì cũng chỉ làm giảm các cuộc tiến công không quân ở miền Nam mà thôi và nền kinh tế Mỹ cũng sẽ không chịu đựng nổi những tổn phí lớn đó, chiến tranh không quân bị giảm tác dụng là do Mặt trận Dân tộc Giải phóng có thể tự túc về hậu cần. Mặt trận không những thỏa mãn được phần lớn nhu cầu của mình mà còn biết cách "liệu cơm mà gắp mắm" nhưng lại vẫn giữ được quyền chủ động chiến lược của mình.

Mỹ không thể chặn đứng được luồng tiếp tế hậu cần trên đường mòn Hồ Chí Minh. Đường mòn là một sản phẩm kỳ diệu của tài năng, sự kiên nhẫn và sự hy sinh không bờ bến của con người. Mọi thứ từ sức mạnh của chân tay và trâu bò cho đến xe ủi đều giúp vào việc giữ cho đường mòn tồn tại, bất chấp bom, mìn và mọi thứ dụng cụ, thiết bị có thể nghĩ ra được. Khả năng của Quân đội nhân dân sửa đường nhanh chóng đã vượt xa khả năng tiến công phá hoại có hiệu quả của không quân Mỹ. Rất mỉa mai là việc ném bom đã đào lên nhiều đất đá mà quân đội cần để sửa đường. Vào năm 1966, hệ thống phòng không dọc theo phần biên giới Lào hiệu quả đến mức đã phá hủy được một phần tư các máy bay gắn súng đánh vào các xe vận tải. Việc dùng các máy bay này đã được dừng lại giữa năm 1966 cho đến đầu năm 1969, và lại tạm ngừng nữa sau năm 1971. Hàng hóa vận chuyển trên đường mòn năm 1967 tăng lên hai phần ba so với năm 1966, nhưng số xe vận tải bị phá hủy vẫn giữ nguyên mức cũ. Các chuyên gia Mỹ không bao giờ có nghi vấn gì về khả năng của Việt Nam dân chủ cộng hòa vận chuyển đầy đủ số hàng cung cấp họ cần đến.

Việt Nam dân chủ cộng hòa có một hệ thống phòng không rất hiện đại và được điều khiển một cách tài giỏi, do đó cũng cản trở sự leo thang của Mỹ. Một mạng lưới ra-đa dày đặc, một hệ thống kết hợp giữa tên lửa đất đối không và súng phòng không với các máy bay chiến đấu đã gây khó khăn ngày càng lớn cho những kẻ xâm lược. Không lực Việt Nam dân chủ cộng hòa làm ra vẻ tiến công các máy bay Mỹ để buộc chúng trút bom xuống những vùng trống trải và chỉ thực sự đánh vào chúng khi được huấn luyện đầy đủ. Vào mùa hè năm 1972 thì Mỹ mất hai F4 mới hạ được ba MIG của Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Cuộc chiến tranh không quân chống Việt Nam dân chủ cộng hòa cũng không thể thắng lợi dù cho Mỹ có đủ máy bay và hậu cần để thẳng tay sử dụng ngay từ đầu cuộc chiến tranh. Nhưng Mỹ làm như vậy vì các giới cao nhất hầu như nhất trí với nhau từ đầu rằng chiến tranh không quân chống miền Bắc không thể nào thay đổi một cách có ý nghĩa cán cân lực lượng ở miền Nam, Mác-xoen Tay-lơ, người xem việc ném bom chỉ là một biện pháp gây tổn thất và xây dựng lòng tin, cho rằng cuộc chiến tranh không quân một mình nó chỉ là chuyện hão huyền. Tháng 2 năm 1965, CIA báo trước rằng Việt Nam dân chủ cộng hòa sẽ thiết lập một hệ thống phòng không hiện đại và trong suốt bốn năm tiếp theo CIA cung cấp tài liệu cho biết rằng không lực không bao giờ quyết định cả.

Còn đối với việc buộc Việt Nam dân chủ cộng hòa phải dùng nhân lực của mình để sửa đường sá và các nơi bị thiệt hại mà ước tính chiếm khoảng từ 500.000 đến 800.000 người năm 1968 thì các chuyên gia của Lầu Năm Góc kết luận rằng chín phần mười của số đó được bổ sung bằng sự phát triển tự nhiên của số dân. Một báo cáo của Lầu Năm Góc thừa nhận rằng viện trợ của các đồng minh cho Việt Nam dân chủ cộng hòa vượt xa những thiệt hại do Mỹ gây ra và việc ném bom đã đoàn kết và động viên nhân dân hơn bao giờ hết. Còn đối với việc máy bay Mỹ bị bắn hạ ở miền Bắc, tháng 6 năm 1971 giám đốc nghiên cứu của Lầu Năm Góc thừa nhận rằng "rất rõ ràng là chúng ta đã bị súng phòng không và tên lửa đất đối không của họ gây tổn thất nhiều hơn số tiền họ bỏ ra cho các hệ thống đó".


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 06 Tháng Chín, 2008, 11:56:40 am
Ở miền Nam, Cộng sản vô hiệu hóa một phần không lực Mỹ bằng đặc công, bằng sử dụng đường hầm và ban đêm và bằng cách buộc kẻ thù dùng nhiều máy bay để bảo vệ các căn cứ. Điều này càng thấy rõ khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng sau tháng 2 năm 1967 đã dùng rốc-két 140 mi- li mét tầm xa đánh lần đầu tiên vào căn cứ Đà Nẵng phá hủy và làm thiệt hại mười một máy bay, nói lên khả năng có thể đánh vào bất cứ sân bay nào ở miền Nam. Chậm nhất là vào mùa hè năm 1967, Mặt trận Dân tộc Giải phóng đã có một hệ thống báo trước tương đối có hiệu quả về các cuộc tiến công của B52, có lẽ bằng cách nhận các thông tin của Mỹ và cũng có thể là Liên Xô giúp đỡ.

Trong tất cả các hệ thống vũ khí mới và các sáng kiến Mỹ dùng ở Việt Nam, máy bay lên thẳng tỏ ra là quan trọng nhất và ở mức độ nhất định, hoạt động quân sự đã trở nên phụ thuộc vào nó. Oét-mo-len tuyên bố rằng nếu không có nó, thì phải thêm một triệu quân Mỹ nữa để làm cùng nhiệm vụ, chủ yếu là vận chuyển bộ binh đến những nơi xa để phát hiện Mặt trận Dân tộc Giải phóng và dùng hỏa lực Mỹ. Vào cuối năm 1968, đã có 3.500 máy bay lên thẳng ở Nam Việt Nam, ít hơn nhiều con số mà Cộng sản đã phá hủy tính cho đến khi Mỹ rút khỏi Việt Nam.

Máy bay lên thẳng rất dễ bị phục kích; và trong khi đưa lại sức cơ động, nó cũng đồng thời tiết lộ số lượng quân và địa điểm. Cũng giống như máy bay chiến thuật, nó làm mất yếu tố bất ngờ. Chiếc UH-IS chỉ chở được 8 đến 10 lính chiến đấu, nên quân đội cần rất nhiều thứ máy bay đó. Vì bị bắn hạ nhiều nên chi tiêu đã vượt quá một gánh nặng. Mỗi một giờ bay đòi hỏi tám giờ chăm sóc dưới đất và nhiên liệu tiêu thụ rất lớn. Vào cuối những năm 1960, lục quân cắt việc sử dụng máy bay lên thẳng xuống một phần năm đỉnh cao trong chiến tranh Việt Nam và công khai thừa nhận sai lầm nghiêm trọng trong việc sử dụng kỹ thuật đó.

Trọng pháo còn là một vũ khí thông thường hơn so với máy bay lên thẳng, và nó đã tiêu thụ một nửa số đạn dược sử dụng. Ngay từ đầu cuộc chiến tranh, Mỹ đã dùng rộng rãi trọng pháo cho mỗi một cơ hội có thể có và trừ thời gian tiến công Tết 1968 Lầu Năm Góc ước tính rằng 70 phần trăm đạn trọng pháo Mỹ đã được bắn "vào lúc cường độ chiến đấu hoặc nhẹ hoặc không có". Nhưng trọng pháo có sức tàn phá lớn. Việc bắn "quấy rối và ngăn chặn" vào những nơi mà các quan chức Mỹ cho là có địch gây ra thương vong dân sự lớn và rất tốn kém cho Mỹ. Nhưng về mặt quân sự thì như một phó tư lệnh của lục quân Mỹ ở Việt Nam về sau thừa nhận, nó "trên thực tiễn không gây thiệt hại cho địch".

Trọng pháo không hề bao giờ có giá trị quân sự quyết định. Nó cũng báo trước cuộc tiến công trên bộ sắp đến nên làm mất yếu tố bất ngờ. Hệ thống hầm hố chống trọng pháo cũng rất được phát triển và những viên đạn không nổ được sử dụng làm những bẫy mà Mặt trận điều khiển rất tài tình. Các lực lượng Cách mạng đối phó với trọng pháo bằng cách đánh vào các căn cứ cố định hoặc dã chiến. Bộ máy thống kê của Lầu Năm Góc nhận thấy rằng vào đầu năm năm 1969, trung bình có năm cuộc tiến công của đặc công mỗi tháng vào các căn cứ Mỹ, mỗi cuộc gây ít nhất một triệu đô-la thiệt hại. Nhưng điều quan trọng nhất là vì sợ các cuộc tiến công của đặc công mà Mỹ phải đầu tư nhiều thì giờ và tiền của cho việc bảo vệ các căn cứ.

Một cách rất mỉa mai, cố gắng của Mỹ đi vào tiến công chiến lược bằng hỏa lực lại đòi hỏi một tư thế ngày càng phòng thủ, thụ động vì hậu cần và nhân lực cần thiết cho cố gắng đó giữ chân một bộ phận lớn của lực lượng Mỹ đóng quân tại chỗ. Cách mạng nhận thức được thế tiến lui đều khó đó và thích nghi đúng với mỗi vũ khí. Cùng với việc dùng những biện pháp phân tán, phòng thủ đơn giản và rẻ tiền như sử dụng thời tiết, ban đêm và với một khả năng sáng kiến tuyệt vời, Cách mạng lại có một số lượng nhỏ vũ khí và những hệ thống phòng không tiên tiến, nên đã hạn chế rất nhiều sự tự do dùng hỏa lực của Mỹ. Hầu như tất cả các hệ thống vũ khí lớn của Mỹ nhanh chóng bị vô hiệu hóa một phần.

Cuối năm 1966 một nhà báo Lầu Năm Góc gần gũi với giới quân sự có thể kết luận rằng bộ sậu to lớn của trang bị và vũ khí Mỹ là không đủ: "Sức mạnh trí tuệ của Mỹ phải chịu khuất phục trước những người Việt cộng mưu trí và tháo vát đang tiến hành cuộc chiến tranh của mình một cách ít tốn kém" (Xem Momyer, Airpower, 81-82, tt. 106-7). Bây giờ, người Mỹ lao vào một cuộc chiến tranh tàn phá mà thắng lợi thì xa vời nhưng tổn thất thì rõ ràng là không giới hạn về mặt tiền của, ưu tiên quốc gia và nhân lực.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 06 Tháng Chín, 2008, 11:57:28 am
KỸ THUẬT VÀ SỐ LIỆU: THỰC TẾ, ẢO TƯỞNG VÀ TỔN THẤT

Giữa năm 1965 và năm 1967 Mỹ bị rơi vào một thế tiến lui đều khó hết sức phức tạp, ảnh hưởng lớn đến tính chất và tương lai của sức mạnh quân sự và chính trị Mỹ trên thế giới. Tình thế đó là do chính Mỹ tự gây ra. Một mặt là cái lô-gích cứng đờ của lòng tin và những hành động tương tự, mặt khác là những tham vọng và những lợi ích cụ thể ở Thái Bình Dương, cùng với sự tìm kiếm giày vò đau xót máy móc và ngày càng vô bổ một biện pháp quân sự có hiệu quả để khẳng định sức mạnh của Mỹ trên khắp trái đất. Có một sự mỉa mai cay đắng và nguy hiểm trong xâm lược của Mỹ ở Việt Nam ngay từ đầu. Với những dè dặt và tính toán nhất định, những người lãnh đạo chính sách của Mỹ không hề bao giờ tin rằng họ có thể giành được một thắng lợi quân sự dứt khoát. Tuy vậy họ vẫn tiến hành cuộc chiến tranh như họ dã làm, gây ra những tàn phá và chết chóc không thể tưởng tượng cho nhân dân, đất nước và nền văn hóa của Việt Nam.

Mục tiêu của chính quyền Mỹ trên chiến trường là tranh thủ thời gian để Việt Nam cộng hòa lớn mạnh đủ để chia cắt đất nước và có lẽ dùng chiến tranh để tạo thế trong thương lượng. Nhưng tin tức đưa về Mỹ thì rất không xác thực. Vấn đề quan trọng là trước năm 1968, họ không thể chấp nhận tin tức chính xác để làm cơ sở cho chính sách.

Chiến tranh Việt Nam đòi hỏi một cố gắng tình báo to lớn, mà muốn phân tích phải có một khả năng nhận thức cao hơn nhiều so với việc phân tích các cuộc xung đột trước kia bởi vì đó là một cuộc chiến tranh không có những mặt trận theo lối cổ truyền. Có những mười ba tổ chức tình báo dẫm chân lên nhau, cạnh tranh với nhau trong các vùng của Việt Nam, và số tài liệu thu thập được trong chưa đầy một năm, trong những năm 1966-1967, đã lên tới trên ba triệu trang, mà một phần mười, tức một nghìn trang mỗi ngày đã được dịch và tổng hợp. Vào đầu năm 1967, chỉ một mình lục quân ở Việt Nam sản xuất một nghìn bốn trăm cân Anh báo cáo hàng ngày (khoảng 635 ki-lô-gam). Có lẽ đánh giá toàn bộ lý thú nhất là

Báo cáo phân tích Đông Nam Á, mà Cơ quan phân tích hệ thống của Lầu Năm Góc xuất bản sáu tuần một lần, bắt đầu từ tháng giêng năm 1967. Khoảng 350 bản sao mật được chuyển cho các quan chức chủ chốt ở mỗi một cơ quan có liên quan đến chiến tranh. Qua phân tích và đánh giá các xu hướng quân sự chính trị và kinh tế, báo cáo đó đã nhanh chóng trở thành nguồn gốc của sự bi quan sâu sắc, và Bộ tham mưu liên quân đã nhiều lần tìm cách cản trở việc lưu hành. Mỗi khi các phần tử trong chính quyền thách thức những nhận định quân sự về cuộc chiến tranh, dù cho về sự hiệu quả của những nhiệm vụ tìm và diệt, về sự ném bom Việt Nam dân chủ cộng hòa hay về sự tin cậy của các thống kê, Cơ quan phân tích hệ thống, theo cách nói của Tài liệu Lầu Năm Góc, là "người tiên phong của sự phản ứng”.

Nhưng khi những thực tế không phù hợp với hành động, thì không sớm thì muộn, những người làm ra chính sách sẽ buộc phải có phản ứng dù cho họ có thiết tha đến đâu đối với sự nhất trí và đối với sự nghiệp của họ Mác Gioóc-giơ Bân-đi chẳng hạn đã lặng lẽ từ chức tháng 3 năm 1966 và Mác Na-ma-ra rút lui, hay là bị đẩy ra, tháng 11 năm 1967. Đó là hai người đã làm nhiều nhất để đưa Mỹ dính líu vào Việt Nam vì những lý do tư tưởng và kỹ thuật vô bổ. Những người còn lại càng ngày càng thấy rằng Mỹ không thắng nhưng không ai từ chức công khai để chống lại những chính sách rất nguy hiểm cho thế giới và ngày càng nguy hiểm cho nước Mỹ. Sự nghiệp tương lai của họ sẽ không tồn tại sau khi họ dám làm như vậy.

Giám đốc nghiên cứu của Lầu Năm Góc nói với Quốc hội tháng 3 năm 1967: "Cuộc xung đột Việt Nam đang thí nghiệm... hầu như tất cả trang bị và khái niệm quân sự chiến thuật (và một số là chiến lược) đã được triển khai trong hai mươi năm nghiên cứu và phát triển vừa qua". Quân sự đã dùng mọi kỹ thuật kỳ lạ và mới mẻ từ thiết bị ngửi hơi người gắn vào máy tính điện tử cho đến những máy bay cực kỳ tinh vi F111 giá đến 15 triệu đô-la một chiếc. Từ năm 1946, Mỹ đã ngày càng chuẩn bị cho chiến tranh, dùng kỹ thuật phức tạp hướng vào việc sử dụng hỏa lực lớn. Quy mô siêu hiện thực của cuộc chiến tranh Việt Nam chắc chắn đưa lại những tổn phí và phức tạp lớn cộng với những tổn thất mà cách mạng gây cho Mỹ ở nông thôn và vùng rừng núi. Kỹ thuật và hỏa lực cao là một hứa hẹn nhưng đồng thời nó tỏ ra là một cái bẫy, một nguồn gốc của những việc phù phiếm vô bổ và của những ảo tưởng nguy hiểm về những cuộc chiến tranh chống nông dân trong thời hiện đại.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 06 Tháng Chín, 2008, 11:57:59 am
NHỮNG TỔN PHÍ CỦA CUỘC CHIẾN TRANH KÉO DÀI

Chiến tranh Việt Nam trở thành cơn ác mộng cho những nhà quản lý vô cùng tự tin của Lầu Năm Góc mà hiện đang bị cột chặt vào một tình thế trong đó thắng lợi không thể có và thất bại thì ngày càng có khả năng. Những chuyên gia chương trình và ngân sách mà Mác Na-ma-ra đưa vào Lầu Năm Góc đã bị sa lầy vào những mâu thuẫn của chủ nghĩa đế quốc, và bản thân Mác Na-ma-ra là người có tội lớn nhất.

Quyết định mùng 1 tháng 3 năm 1965 của Mác Na-ma-ra cho phép chi tiêu không hạn chế cho chiến tranh Việt Nam đã được đưa ra khi Lầu Năm Góc chưa thiết lập cơ cấu hậu cần nào để thực hiện. Trong hai năm tiếp theo, hỏa lực bị hạn chế không phải vì lý do chính trị mà vì thiếu cơ sở vật chất. Việc xây dựng đã xảy ra một cách chưa từng có trong lịch sử chiến tranh của Mỹ và Lầu Năm Góc đặt mua mọi thứ cần thiết trên cơ sở vội vã. Như một báo cáo chính thức về sau đã nêu lên: "Lòng hăng hái, năng lực và tiền của đổ vào việc trang bị và cung cấp cho các lực lượng Mỹ ở Việt Nam đã đưa lại những đơn đặt hàng đồ sộ, làm tắc nghẽn hệ thống vận tải và đường tiếp tế và trong một thời gian, gây ra việc không còn kiểm soát được các kho tàng ở Việt Nam".

Năm tài chính 1966, cuộc chiến tranh tốn 5,8 tỷ đô- la. Năm 1967 Lầu Năm Góc quy định mức 5,5 tấn hậu cần cho một người một năm, nhưng lục quân thì đòi 9 tấn. Mác Na-ma-ra xác định mức 7,8 tấn, nhưng trong năm tài chính 1967 chiến tranh lên đến 20,1 tỷ đô-la và ngân sách quốc phòng và liên bang bị thâm hụt một cách bất ngờ, buộc chính quyền phải xin thêm Quốc hội 12,3 tỷ đô-la bổ sung cho năm 1967. Tình hình này làm cho cuộc chiến tranh vô cùng phức tạp ở trong nước cũng như ở Việt Nam.

Cuộc chiến tranh kéo dài tương đối ít tốn kém cho người Việt Nam nhưng lại gay go gian khổ nhất cho người Mỹ. Nhưng tiến hành một cuộc chiến tranh của người nghèo trong một thời gian dài sẽ là ngược lại với lô-gích và tiền đề của học thuyết chiến lược sau Chiến tranh thế giới thứ hai của Mỹ và không thể tưởng tượng được rằng người Mỹ có thể sống được ở nông thôn nhiệt đới của Việt Nam mà thiếu tiện nghi đầy đủ. Thời gian là một sự cần thiết cho Cách mạng và sự kiên nhẫn là một vốn quý lớn. Đối với người Mỹ, thời gian không phải chỉ là một sự hoang phí tiền của mà còn ngày càng làm mất sự tự kiểm soát mình về mặt chính trị và tâm lý. Những mục tiêu và những biện pháp của Mỹ đã tạo ra một cái bẫy mà họ phải tìm cách để tự rút ra. Cuối năm 1967, các nhà lãnh đạo ở Hà Nội đã thấy rõ thực tế đó.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 07 Tháng Chín, 2008, 10:59:45 am
chương mười sáu
CHIẾN TRANH VÀ SỰ BIẾN ĐỔI CỦA XÃ HỘI VIỆT NAM

TÌNH TRẠNG NHÂN KHẨU TRONG CHIẾN TRANH

Việc sử dụng hỏa lực của Mỹ đã làm thay đổi tình trạng nhân khẩu Nam Việt Nam sau năm 1964, làm cho một bộ phận lớn nông dân chỉ còn quan tâm đến một vấn đề duy nhất là sự sống còn về thể chất. Những phản ứng của họ là từ những hành động anh hùng qua cố gắng tập thể chống kẻ xâm lược ngoại lai đến quyết định đơn sơ của cá nhân con người để sống sót bằng mọi biện pháp cần thiết. Muốn hiểu rõ được cả quá trình này là điều không thể làm được bởi vì sự tàn phá, nỗi sầu khổ và đau đớn cá nhân quanh con người cũng như lòng dũng cảm không bờ bến không thể có bút nào tả xiết được.

Mỹ ở Việt Nam đã gây ra một cơn lũ lớn nhất của hỏa lực chưa từng thấy trong lịch sử để chống lại một đất nước. Đau khổ của con người là không bờ bến. Những con số đưa ra về tai họa to lớn này hoàn toàn không đủ, và giữa năm 1968 và năm 1970 hệ thống đưa tin về tị nạn phải ba lần xem xét lại con số của họ. Ước tính cuối cùng của Lầu Năm Góc về con số dân sự bị chết và bị thương những năm 1965 đến 1972 là từ 700.000 đến 1.225.000 trong khi con số của Thượng viện cho cùng thời gian đó là 1.350.000. Số người chết trong hai đánh giá đó là từ 195.000 đến 415.000, số "địch" chết là 850.000 tối thiểu và một bộ phận lớn của số này là dân sự. Con số của Cách mạng cao hơn nhiều. Trong một nước có khoảng 18 triệu dân năm 1970, chiến tranh đã gây một tổn thất vô cùng cao về người chết và bị thương.

Đạn dược là nguyên nhân chính của thương vong, mà phần lớn là do Mỹ và quân đội Việt Nam cộng hòa sử dụng, chiếm hầu hết số đạn trọng pháo và một trăm phần trăm số bom do máy bay thả xuống. Ngoài hỏa lực, Mỹ và Việt Nam cộng hòa còn dùng chất độc làm trụi lá cây để đẩy nông dân vào các trại tập trung. Một bộ phận quan trọng của nông dân bị đẩy ra khỏi ruộng đất của họ làm biến đổi vĩnh viễn tính chất của xã hội Nam Việt Nam. Ước tính đặt ra cho rằng ít nhất một nửa nông dân bị đẩy vào trại tập trung hoặc vào các trung tâm đô thị ít ra là một lần. Một khi đã vào trại tập trung, mức sống người nông dân giảm đi mất hai phần ba, còn mất mát về tâm lý thì không sao kể xiết. Kết quả là đô thị hóa một xã hội nông thôn một cách chưa từng thấy trong thế kỷ này. Trong các đô thị cũ người Trung Quốc chiếm khoảng một phần sáu dân cư đô thị, tức một triệu người nắm độc quyền các hoạt động kinh tế quan trọng cho nên các người mới tới chỉ có thể làm những việc rất phụ. Trong hoàn cảnh như vậy, sau năm 1964, hàng triệu, hàng triệu nông dân buộc phải chạy vào cảnh hỗn loạn đó.

Năm 1960, 20 phần trăm nhân dân Nam Việt Nam sống trong các vùng đô thị. Tỷ lệ đó lên 26 phần trăm năm 1964, 36 năm 1968 và 43 phần trăm năm 1971, một tốc độ tăng gấp năm lần so với tất cả các nước kém phát triển trong cùng thập kỷ. Sự tăng số dân ở Sài Gòn tuy rất lớn nhưng lại rất nhỏ trong nội thành so với Cần Thơ, Đà Nẵng, Biên Hòa, Huế và các thành phố khác gần chiến trận hơn. Đà Nẵng và Nha Trang tăng bốn lần giữa năm 1960 và 1971, chủ yếu là sau năm 1964, trong khi Cần Thơ tăng ba lần. Đến năm 1971 số dân ở Sài Gòn chiếm 43 phần trăm toàn bộ số dân đô thị ở miền Nam, nhưng nếu không tính vùng ngoại ô, thì tỷ lệ đó là một phần năm. Nhìn chung sự phát triển dân số đô thị là sản phẩm của việc tránh các vùng chiến đấu để tìm an ninh cho bản thân mình, còn lý do kinh tế thì rất phụ. Vào năm 1971, ba phần tư những người dân đô thị không phải sinh ra ở đô thị.

Việc đô thị hóa tạo ra một khoảng cách lớn giữa đời sống xã hội và con người ở vùng nông thôn và ở thành thị gây ra nhiều tác động chính trị, kinh tế và con người. Ngay trong khu vực đô thị cũng có nền văn hóa hai mặt: đa số là những nông dân buộc phải vào những trung tâm tị nạn chán ngắt và đông đúc và buộc phải thích nghi với không khí phồn hoa. Trong khi ở đô thị có những người thực sự là người đô thị trước khi Mỹ can thiệp và những người ở vùng chung quanh bụi bặm, lộn xộn mà chiến tranh đã tạo ra, bao vây các tỉnh lỵ cũ. Bên cạnh khu vực đô thị hoàn toàn mất trật tự đó là thành phố Sài Gòn cũ, một thành phố mà người Mỹ biết một cách rất tường tận và trở nên khác biệt một cách rất kỳ lạ với đời sống đô thị nói chung ở miền Nam và cả với đời sống của nông dân, một thành phố đặc quyền đặc lợi, đầy rẫy quyền lực và xa hoa.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 07 Tháng Chín, 2008, 11:01:05 am
BIÊN GIỚI CỦA ĐÔ THỊ

Những người nông dân ở thôn xã, mặc dù có những khác biệt với nhau như thế nào, vẫn có mối quan hệ sâu sắc với cộng đồng của họ và với các thành viên cộng đồng đó mà nhiều người có quan hệ với nhau trong suốt cả cuộc đời của mình. Gia đình, trên hết là đơn vị hoạt động kinh tế cơ sở và mối quan hệ mẫu mực, thông thường giữa con người với nhau thường là cơ sở cho sự sống còn tập thể trong một thế giới mong manh.

Đô thị thách thức sâu sắc vai trò cá nhân, sự cố kết gia đình, đặc biệt là mối liên hệ với một cộng đồng của người nông dân. Đô thị, với mớ hỗn loạn của tiếng động, với sự tắc nghẽn đông nghịt, với những thách tức muôn vẻ, là nơi chạm trán khốn khổ. Những khu đô thị mới nói chung là những khu nhà lụp xụp tồi tàn, có ít hoặc không có những điều kiện vệ sinh và những ngành phục vụ đời sống vật chất.

Vấn đề cấp bách nhất cho người nông dân mới đến một đô thị là làm sao sống sót được về mặt kinh tế. Cho nên việc đầu tiên là phải có lương thực và nơi dung thân. Không có những số liệu cụ thể về vấn đế này cho toàn các đô thị nhưng nghiên cứu riêng Sài Gòn, tuy không phải là nơi điển hình, thì thấy rằng một phần năm người mới đến nhanh chóng trở thành dân buôn đường phố: bán thực phẩm, bán rong mọi thứ hàng hóa, đánh giầy và làm những nghề nghiệp tương tự. Thất nghiệp là số phận của khoảng một phần ba số người chạy vào Sài Gòn. Vào năm 1974, kinh tế vỉa hè là nguồn thu nhập lớn nhất của những người dân sự không phải là nông nghiệp ở Nam Việt Nam.

Trong phạm vi toàn quốc, công việc xây dựng và phục vụ phát triển mạnh mẽ. Người Mỹ dùng 160.000 công nhân trực tiếp năm 1969 chủ yếu phục vụ nhu cầu binh lính của họ và xây dựng các căn cứ. Mãi dâm dưới mọi hình thức chiếm ít nhất 200.000 phụ nữ. Binh lính và cảnh sát Việt Nam cộng hòa vào khoảng 1,2 triệu tổng số. Một gia đình muốn tồn tại như một đơn vị phải có thu nhập nhiều nguồn, nếu không thì rất khó khăn, trừ một số gái mãi dâm. Trẻ con lang thang trên đường phố, mẹ thì bán rong vỉa hè hoặc làm người hầu cho lính Mỹ. Còn cha nếu không phải là lính, mà là người may mắn thì có thể làm công nhân không lành nghề hoặc làm nghề khuân vác. Thường là anh ta bị thất nghiệp hoặc cũng sống bằng kinh tế vỉa hè. Tình cảnh thất thường và tạm bợ đó đẩy một số nông dân trở về lại thôn xã của họ để gìn giữ sự thống nhất của gia đình.

Mức tiêu thụ tính theo đầu người từ năm 1960 đến năm 1970 tăng rất ít. Cơ quan phát triển quốc tế (AID) của Mỹ ở Sài Gòn thừa nhận rằng sự dồn dập đưa hàng tiêu dùng lâu bền vào Nam Việt Nam đã "gây ảo tưởng" rằng mức tiêu thụ tính theo đầu người đã tăng lên với một mức "choáng váng” nhưng trên thực tế nó đã làm cho mức sống của một số người đã giảm sút. Cơ quan đó cho rằng nếu không có chiến tranh, mức sống của người Việt Nam có thể sẽ cao hơn. Chỉ sau năm 1972, sự giảm sút mức sống ở đô thị mới mở ra cho Đảng khả năng tác động đến quần chúng đô thị về các vấn đế kinh tế. Nhưng nhờ trợ cấp của Mỹ nên mức tiêu thụ lương thực chưa bị giảm sút và thậm chí đầu những năm 1970, Nam Việt Nam có mức tiêu thụ ca-lo cao nhất tính theo đầu người ở Đông Nam Á.

Nhìn chung lại, tổng sản phẩm xã hội từ năm 1965 đến 1973 không thay đổi, cho nên chỉ việc phân phối thu nhập không công bằng mới làm cho một số tăng được mức tiêu thụ. Các nhà kinh tế Mỹ ở Sài Gòn kết luận rằng những người làm việc trong các khu vực công cộng không thu nhập được bao nhiêu, nhưng những nhà buôn thì phát đạt. Những nhà buôn hàng tiêu dùng lâu dài thì phất như diều, chủ yếu vì hai nhân tố: trước tiên là Mỹ dùng hàng tiêu dùng để đối lại với lạm phát mà sự có mặt quân sự dày đặc của Mỹ đã gây ra. Hai là chính sách rõ rệt của Oa-sinh-tơn làm cho máy phát thanh và vô tuyến truyền hình được bán tự do và rẻ tiền gây tâm lý thuận lợi trong chiến tranh...

Sự thật đằng sau bộ mặt đó là hoàn toàn khác. Sự đô thị hóa ép buộc đó không những đã sản sinh ra một nền kinh tế Việt Nam cộng hòa hoàn toàn không thể đứng vững được mà còn tạo ra một trật tự hỗn loạn sâu sắc về con người với mọi tác động chính trị rộng lớn. Nhìn một cách khách quan thì nước Mỹ trong chưa đầy một thập kỷ đã gây thiệt hại cho toàn bộ một xã hội nhiều hơn các nước thực dân khác hoặc bất cứ quá trình đô thị hóa nào trong nhiều thế hệ. Không ai, kể cả Cách mạng, lúc ban đầu, có thể nhận thức được quy mô của cuộc tiến công văn hóa này, nó đụng chạm đến vấn đề cơ bản của tính chất nền chính trị và những cam kết cá nhân trong khung cảnh xã hội của cuộc khủng hoảng cá nhân và gia đình. Nông dân lớn tuổi bị đẩy vào đô thị không chịu được nền văn hóa và xã hội đã rơi vào sự thống trị của những người Mỹ, là những kẻ làm hư hỏng con trai, con gái của họ, nuôi dưỡng những tập đoàn liên tiếp nhau, và tàn phá đất nước và truyền thống của họ. Quần chúng đô thị, như các công trình nghiên cứu của những chuyên gia Mỹ cho thấy, rất bực bội về tình hình ở Sài Gòn: trộm cướp, rác rưởi và nhiều vấn đề khác như vấn đề nhà cửa làm cho mọi người lo nghĩ vào năm 1971, đa số những dân cư đô thị nghĩ rằng Việt Nam cộng hòa điều khiển tồi các vấn đề kinh tế. Năm 1969, ít nhất là hai phần ba những người tỵ nạn ở lứa tuổi trưởng thành muốn trở về nhà hơn là ở lại thành phố, và chỉ một thiểu số nhỏ năm 1972 cho rằng ở Sài Gòn, thành phố thịnh vượng nhất, tốt hơn là ở nông thôn.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 07 Tháng Chín, 2008, 11:01:35 am
Tổn thất lớn nhất cho những người nông dân bị đẩy vào đô thị là về con em của họ. Chúng không có những kinh nghiệm và giá trị chính trị của bố mẹ chúng. Rất dễ bị ảnh hưởng bởi sự có mặt của Mỹ, nhiều đứa lớn lên trong nền văn hóa hè phố ồn ào, tắc nghẽn, đầy bụi bặm trở thành nạn nhân của mọi tệ xấu: tội ác và đồi trụy, nghiện ngập, mãi dâm, tạp hôn, ích kỷ. Những đứa con này sống phần lớn cuộc đời của chúng trên đường phố và ít được giáo dục. Một số là mồ côi, và những cháu không phải mồ côi cũng hoàn toàn bị bỏ rơi. Chúng ít có cơ hội có công ăn việc làm và những trẻ dưới 20 tuổi chiếm 60 phần trăm số dân miền Nam năm 1972, so với con số 38 phần trăm ở Mỹ. Lính Mỹ làm hư hỏng một số lớn những phụ nữ và làm lóa mắt những đàn ông với áo quần, xe máy và phong cách bề ngoài của họ. Cách mạng không thể tiếp xúc với số người lộn xộn đó và họ ngày càng cung cấp nhân lực cho quân đội Việt Nam cộng hòa. Đầu năm 1968 đa số những người tình nguyện và được tuyển là từ tầng lớp đó. Các sĩ quan của họ hầu như có nguồn gốc đô thị và điều này tăng cường thêm tính chất đô thị của quân đội và chiến lược Việt Nam cộng hòa.

Việc đô thị hóa là lô-gích không tránh khỏi của chiến tranh hỏa lực cao và hoàn cảnh văn hóa xã hội đã bị ảnh hưởng vì hơn hai triệu lính Mỹ đã có mặt trên khắp đất nước. Nhiều người ở Mỹ và Sài Gòn xem việc phân bổ lại dân chúng như vừa là một thời cơ vừa là một điều may mắn kín đáo. Nhưng việc Oa-sinh-tơn không hiểu kịp thời những tác động chính trị và kinh tế trọng yếu của tình hình phân bổ dân cư của chiến tranh là một trong những tính toán sai lầm lớn nhất của họ trong chiến tranh.

Công cụ hùng mạnh nhất mà cả Mỹ lẫn Việt Nam cộng hòa dùng để củng cố ảnh hưởng của họ trong quần chúng nhân dân là đồng đô-la, một vũ khí có tác dụng với những thanh niên sống trên hè phố nhưng lại cũng tỏ ra là hạn chế cả về số lượng lẫn về hiệu lực. Cuộc tiến công của đồng đô-la vào nền văn hoá, dù nền văn hóa tryền thống hay nền văn hóa cách mạng, đều đã làm cho một thành phần quan trọng của những người dân đô thị thực sự, đặc biệt là sinh viên và trí thức, xa lánh, vì họ có thì giờ để quan sát và suy nghĩ về hiện tượng đó. Số học sinh trung học và đại học từ năm 1954 đến năm 1970 đã tăng lên 10 lần, đến con số khoảng 680.000 như Việt Nam cộng hòa đã tuyên bố. Nhiều con em của giai cấp tiểu tư sản, nhà buôn thậm chí của những quan chức Việt Nam cộng hòa, đã thoát ly khỏi địa vị giai cấp của mình và sống theo kiểu riêng như các con em của những nông dân bị dồn vào đô thị đã sống.

Trí thức cũng vậy, cũng mong manh ở miền Nam như ở tất cả các nơi khác, có nhiều tâm trạng, nhiều thay đổi, lắm lập lờ, nước đôi, nhưng nhiều người đã ngày càng có tình cảm với Mặt trận Dân tộc Giải phóng khi họ quan sát điều mà Mỹ đã làm cho đất nước và nền văn hóa của họ, nhưng vẫn còn một bộ phận quan trọng của trí thức làm theo điều mà những kẻ cầm quyền đòi hỏi. Nhiều người trong bọn họ, nhất là những nhà giáo, được trả lương rất ít. Các sinh viên đã phản ứng lại đối với cơn ác mộng của sự thoái hóa con người quanh họ và một số đã giữ quyền hành động của mình. Cũng có một số rút vào thế giới đặc quyền riêng của họ. Tất nhiên là Mặt trận Dân tộc Giải phóng tăng thêm ảnh hưởng của mình trong các tầng lớp xã hội đó và một bộ phận lớn của họ tách ra khỏi Việt Nam cộng hòa và Mỹ.

Cuộc đấu tranh của Pháp chống Cộng sản trước kia đã không làm thay đổi cơ cấu, tính chất và những giá trị xã hội ở nông thôn một cách cơ bản nào. Ngay trong toàn bộ nền thống trị thực dân của họ, chỉ một thiểu số nhỏ nhân dân bị ảnh hưởng về mặt tư tưởng. Nhưng kiểu chiến tranh của Mỹ gây thiệt hại nhiều hơn cho tính chất và sự tồn tại của nhân dân, Mỹ hầu như không thể điều hòa các mâu thuẫn kinh tế và chính trị trong chính sách của họ. Cuối cùng những tác động tích lũy của việc đô thị hóa đối với hệ thống kinh tế, chính trị và quân sự của Việt Nam cộng hòa đã góp phần to lớn vào sự sụp đổ của chế độ đó.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 07 Tháng Chín, 2008, 11:02:25 am
Chương mười bảy
NGUYỄN VĂN THIỆU VÀ CƠ CẤU QUYỀN LỰC CỦA VIỆT NAM CỘNG HOÀ

GIỚI QUÂN SỰ VÀ GIAI CẤP TRONG VIỆT NAM CỘNG HÒA

Việc Đảng Cộng sản thực tế giữ độc quyền trong công cuộc chống chủ nghĩa đế quốc Pháp và Mỹ nói lên tác động của chủ nghĩa thực dân đối với cơ cấu giai cấp và sự diễn biến của nó. Tất cả những đối thủ tiềm tàng thách thức Đảng đều quá chia rẽ, quá bè phái và quá tham lam nên không thể lấp được lỗ trống trong chế độ chính trị, và những bất đồng về tôn giáo, đặc biệt là ở miền Nam đã làm cho phe đối lập không mác-xít yếu đi một cách nghiêm trọng. Việc Hoa kiều tuy chiếm lĩnh nền kinh tế và có lợi nhất trong việc giữ nguyên trạng, nhưng không làm được gì nói lên rằng họ trực tiếp không có quan hệ chính trị với phần còn lại của chế độ. Tình hình này cho thấy không có giới lãnh đạo nào có cơ sở giai cấp hùng mạnh ở Nam Việt Nam. Lỗ hổng về quyền lực và về chính trị đó đã được bổ sung bằng những thể chế trong đời sống ngắn ngủi của Việt Nam cộng hòa trong tay hai con người, hình thành những giới thượng lưu nhất thời không có cơ sở giai cấp độc lập và hoàn toàn phụ thuộc vào sự ủng hộ nước ngoài. Sự thống trị gần một thập kỷ của Diệm trong giai đoạn đầu cuộc sống gần hai mươi hai năm của Việt Nam cộng hòa với những cuộc tiến công có hệ thống vào di sản của bộ máy mong manh của Pháp và vào các giới thượng lưu giàu có, đặc biệt là Hoa kiều, đã thu hẹp hơn nữa cơ sở xã hội của nền thống trị và làm cho nó chỉ còn lại là tập đoàn của ông ta và giới quân sự mà ông ta không thể hủy bỏ hoặc giảm chức năng. Nói một cách đơn giản, giới quân sự là tầng lớp không cộng sản duy nhất có đủ khả năng thừa kế Diệm và lên nắm quyền.

Vị trí của Việt Nam cộng hòa cũng giống như vị trí của nhiều nước thuộc Thế giới thứ ba nằm ngoài châu Á, đang phụ thuộc vào viện trợ nước ngoài hoặc làm vai trò tư sản mại bản cho chủ nghĩa đế quốc. Trong hoàn cảnh như vậy giới quân sự thường làm nhiệm vụ chính trị và là công cụ cho việc duy trì kế tục chính quyền, tuy rằng Mỹ, nước cho viện trợ trong trường hợp này, cũng muốn dùng giới quân sự để duy trì ảnh hưởng nước ngoài của mình. Nếu chức năng chính trị trở nên mối quan tâm hàng đầu của quân sự thì công cụ bạo lực chỉ được dùng cho đấu tranh nội bộ của quân sự và những lo nghĩ về đe đọa bên ngoài đối với đất nước trở nên thứ yếu. Và lúc nào cơ cấu chính trị quân sự hóa đó quan tâm đến phát triển kinh tế thì tham nhũng sẽ xói mòn những khả năng chiến đấu. Tóm lại quan tâm đến chính trị nội bộ sẽ làm giảm khả năng quân sự một cách quyết định. Vì vậy ở miền Nam, nhà nước, nền kinh tế, giới quân sự và sức mạnh chính trị quấn quít vào nhau và đó là thế tiến lui đều khó của Mỹ khi Mỹ biến miền Nam phụ thuộc vào mình. Nhưng kết quả cuối cùng là Mỹ lại trở thành phụ thuộc vào kẻ phụ thuộc mình để hòng đạt những mục tiêu quốc gia của chính Mỹ.

Trong hoàn cảnh này, tính chất xã hội và chức năng của các sĩ quan trở thành một vấn đề cơ bản. Và nguồn gốc giai cấp cũng như quan hệ của họ có một ý nghĩa lớn trong việc xác định vai trò xã hội và kinh tế cũng như những nguyện vọng cá nhân của họ.

Các sĩ quan trong các lực lượng vũ trang Việt Nam cộng hòa, khoảng 25.000 năm 1967 cũng như một số nhỏ sĩ quan cấp cao từ thiếu tá trở lên, tỏ ra đồng nhất một cách kỳ lạ. Các sĩ quan cấp dưới gồm khoảng 95 phần trăm tổng số sĩ quan là rất trẻ. Vì họ phải có tối thiểu một bằng cao học nên họ được đô thị hóa và sinh ra từ những gia đình khá giả có thể nuôi họ đi học. Binh sĩ không thể qua hàng ngũ của mình mà lên sĩ quan được. Một phần tư tổng số sinh ở miền Bắc và tỷ lệ người theo đạo Thiên Chúa là gấp đôi tỷ lệ trung bình ở miền Nam. Điều này nói lên rằng quân đội là nơi quan trọng tiếp thu những người di cư miền Bấc vào sau năm 1954. Về kinh tế mà nói, các sĩ quan được trả lương thấp, thiếu úy chỉ được 55 đô-la một tháng năm 1967 và có ít bổng lộc. Đối với phần đông những người có gia đình, thì tình hình này trở nên là một khó khăn cho chức năng thực sự của họ. Các sĩ quan thường phân biệt với nhau vế trường đào tạo và về năm tốt nghiệp. Học viện quân sự quốc gia Đà Lạt đào tạo 13 phần trăm các sĩ quan trong quân đội năm 1967, nhưng 30 phần trăm cấp tướng là tốt nghiệp ở học viện đó trong khi đó học viện Thủ Đức đào tạo hai phần ba các sĩ quan nhưng chỉ có năm phần trăm là cấp tướng.

Lấy 60 tướng năm 1972 làm một mẫu để nghiên cứu thì một phần ba là con địa chủ, một phần tư khác là con các quan chức chính phủ và trên một phần tư là con sĩ quan, các nhà chuyên nghiệp đô thị và các thành phần thuộc giai cấp trên và giữa. Họ đang trong thời kỳ dễ được đề bạt và gia đình họ chưa phải là quan trọng nhưng đang bước vào lúc sắp trở thành quan trọng. Tình hình này ảnh hưởng sâu sắc đến việc sử dụng quyền lực của họ. Thiệu chẳng hạn, là con một địa chủ nhỏ và ông ta tốt nghiệp học viện Đà Lạt. Đa số những tướng này đã tốt nghiệp ở Đà Lạt, 14 phần trăm ở Thủ Đức. Hầu như tất cả bắt đầu sự nghiệp của mình dưới thời Pháp thuộc.

Động cơ của các sĩ quan cấp cao sau khi Diệm chết là rất đơn giản: quyền lực dưới hình thức chức vụ và tiền. Đó cũng là động cơ của một lô các đảng "mi-ni", các phe phái hoặc giáo phái luôn luôn nhảy vào nhảy ra hết liên minh này đến liên hiệp kia hoặc tha hồ sáng chế ra mọi thứ mưu đồ ở đâu không có lợi ích giai cấp hoặc lợi ích về hệ tư tưởng thì ở đó không có cơ sở cho hành động và trách nhiệm tập thể, và lợi ích cá nhân trở thành động cơ của nền chính trị, đưa đến những tham nhũng cá nhân trong xã hội.

Người Mỹ luôn luôn theo dõi tình hình rối loạn này với mối hoài nghi cao độ. Có lẽ khía cạnh nguy hiểm nhất của giai đoạn này là cố gắng của phái dân sự khuyến khích và câu kết với giới quân sự, dẫn đến một sự hỗn loạn triền miên và, vào năm 1966, là tình trạng cát cứ của những tướng quân phiệt ở mức độ khác nhau trong bốn vùng chiến thuật của miền Nam, nhất là vùng chiến thuật I ở phía bắc. Sau khi nhiều nhóm quân sự nối tiếp nhau nắm quyền ở Sài Gòn thì tất nhiên xảy ra mối nghi ngờ lẫn nhau trong một cảnh hỗn độn kéo dài giữa những người mà Mỹ ủng hộ. Nhưng dù sao cũng không thể để cho tình trạng này tồn tại mãi nên các sĩ quan cấp cao đã chọn Nguyễn Văn Thiệu.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 07 Tháng Chín, 2008, 11:03:15 am
SỰ XUẤT HIỆN CỦA NGUYỄN VĂN THIỆU

Chắc chắn Thiệu là nhà chính trị có khả năng nhất của lịch sử Việt Nam cộng hòa, và việc ông ta chuyển từ đạo Phật sang đạo Thiên Chúa để thỏa mãn danh vọng địa vị của mình, tỏ ra rằng ông ta là một con người vô cùng cơ hội. Ông ta là một thành viên của tập đoàn tháng 6 năm 1965 đại diện cho nhóm "Trẻ hung hăng" và không có quan hệ quá khứ chặt chẽ với Pháp và Diệm. Từ đó ông ta tiến lên mà không hề bị cản trở để tìm cách đối phó với các đối thủ tiềm tàng và, trước hết, tìm cách khoét sâu những chỗ yếu của những ai chống lại ông ta. Khác với Diệm, ông ta không có những kỳ vọng nghiêm chỉnh về hệ tư tưởng, chìa khóa ban đầu của thắng lợi của ông ta là ông ta sẵn sàng phân chia bổng lộc. Ông ta muốn giành sự kiểm soát quyền lực một cách vững chắc hơn là giành độc quyền và sau năm 1973 ông ta muốn giành toàn quyền vào tay mình.

Sau cái chết của Diệm, một trong những nhân tố quan trọng nhất để Thiệu nổi lên là ông ta được giới thượng lưu kinh doanh Hoa kiều giúp dỡ. Chị vợ của Thiệu lấy Lý Lương Thân người Hoa kiều giàu nhất ở Sài Gòn, có một hộ chiếu Mỹ trong tập hộ chiếu các loại của mình và là một nhân vật then chốt của bang Phúc Kiến. Thân giới thiệu Thiệu với Phrăng-xít Cô, bí thư thứ nhất đại sứ quán Đài Loan ở Sài Gòn và là một nhân vật cấp cao của giới tình báo SEATO. Phrăng-xít Cô chọn Thiệu để phục vụ cho cộng đồng Trung Hoa đang lâm trận, tạo điều kiện tiếp xúc và cung cấp tiền của cho ông ta để ông ta nâng cao địa vị của mình. Khi Nguyễn Cao Kỳ, đối thủ chính của ông ta xử tử một Hoa kiều (tên là Tạ Vinh) đầu năm 1966 để cảnh cáo những nhà đầu cơ tích trữ khác, giới kinh doanh Hoa kiều cho Thiệu rất nhiều tiền bạc và thay cho ông ta để can thiệp với các quan chức Mỹ. Thiệu là một người hoạt động khôn ngoan và tiền của đã giúp ông ta tiến lên thuận buồm xuôi gió. Ông ta có tài xoay xở và nhiều tiền hơn Kỳ. Sự nóng lòng muốn duy trì thống nhất đoàn kết trong giới quân sự đã làm cho Mỹ đưa Thiệu lên nắm quyền, nhưng quan hệ của Thiệu với tập đoàn Hoa kiều chắc chắn sẽ quyết định việc chế độ Thiệu phân phối những quyền lợi kinh tế như thế nào.

Năm 1967 Thiệu là tướng duy nhất đủ tài năng để sống sót sau tình hình hỗn loạn của nền chính trị Sài Gòn và tạo lập được một bộ máy chính trị hùng mạnh. Tháng 6 năm 1967, tập đoàn quân sự cử Thiệu làm tổng thống mới sau khi ông ta hứa hẹn làm theo ý muốn của một giới lãnh đạo tập thể. Ngay khi hùng mạnh nhất, Thiệu cũng đối xử với những đối thủ quân sự và dân sự của mình một cách hòa nhã hơn là Diệm, cố phân chia bổng lộc rộng rãi hơn nhằm tranh thủ thời gian để hưởng đặc quyền của quyền lực và nhất là để tránh những mối đe dọa của những chỉ huy quân sự cấp cao khác đối với bộ máy vững chắc của ông ta. Còn đối với cộng đồng Hoa kiều, một trong những hành động đầu tiên của Thiệu năm 1967 là để cho họ lập lại các bang và trả lại cho họ những tài sản đã bị tịch thu.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 07 Tháng Chín, 2008, 11:03:48 am
THIỆU THÀNH LẬP MỘT BỘ MÁY

Khi Thiệu lên nắm quyền tháng 9 năm 1967, ông ta bắt đầu xây dựng bằng nhiều cách chính thức và không chính thức một bộ máy quyền lực chủ yếu là cá nhân bao gồm giới quân sự, cơ cấu chính trị và kinh tế. Hệ thống đó rất phức tạp trên một số mặt, nhưng lại quá đơn giản ở một số mặt khác, nhưng bảo đảm được rằng số phận của Việt Nam cộng hòa sau năm 1968 gắn liền với những tham vọng, quyền lực và thậm chí những chỗ yếu của Thiệu. Thiệu đã tạm thời buộc các giai cấp phục tùng lợi ích của ông ta. Ông ta tập hợp những phần tử giai cấp tham lam và tập đoàn Hoa kiều giàu có quanh một mẫu số chung: tiền bạc và đặc quyền. Một tóm tắt của Ran-đơ Coóc-pô-rê-sơn về quan điểm của 27 sĩ quan và quan chức cấp cao sau chiến tranh đã viết: "Đặc điểm chủ yếu của chế độ Nam việt Nam... là tham nhũng". Nhưng những sĩ quan cấp cao, các nhà tư bản Hoa kiều và những nhà chính trị dân sự Việt Nam luôn luôn chia rẽ nội bộ và Nguyễn Văn Thiệu chỉ có thể kiểm soát được quyền lực từ năm 1969 đến năm 1973 (chứ không phải sau đó). Tất nhiên Thiệu sử dụng gia đình của mình càng nhiều càng tốt và sức mạnh thực sự của ông ta là khả năng phát hiện và hậu đãi những tướng sẵn sàng hợp tác với ông ta một cách trung thành trong việc quản lý các vấn đề quân sự và chính quyền. Một chiến lược hợp tác như vậy chỉ thành công chừng nào còn có những gì đó đủ để mà chia cho nhau.

Cả Cách mạng lẫn chính phủ Mỹ có một số nhà phân tích cố gắng đánh giá cơ cấu quyền lực trong Việt Nam cộng hòa. Công việc của họ cũng như của những quan chức Việt Nam cộng hòa trước kia rất giống nhau về phương pháp và kết luận. Các bên đều quy một tầm quan trọng đặc biệt cho những nhà tư bản Hoa kiều trong việc điều khiển chế độ. Nhưng không ai có thể gán cho họ trách nhiệm gây ra hậu quả bởi vì chính người Pháp và sau đó là người Mỹ mới là những người kiểm soát chế độ cộng tác với mình. Không có họ, Thiệu không thể làm được nhiều; tốt và nhanh như vậy. Nhưng, trong khi sự thật là trong những năm 1960, Hoa kiều là tầng lớp trên cổ truyền còn các tướng lĩnh rõ ràng là những người mới, thế nhưng sức mạnh chính trị của các tướng lại làm cho những người Hoa kiều phụ thuộc nhiều vào ân huệ của họ. Có thể kiếm được nhiều tiền trong nền kinh tế và trong các hoạt động của nhà nước và người Hoa kiều chiếm một phần lớn và một phần quan trọng trong hai loại hoạt động nói trên. Những cơ hội tham nhũng có thể nói là nhiều vô kể và các sĩ quan, các quan chức chính quyền chủ chốt chiếm phần lấn át trong tệ nạn này.

Cuối cùng Thiệu đã làm chủ được toàn bộ trật tự xã hội trong bốn năm. Do nắm được tiền, ông ta giữ được sự đoàn kết trong tầng lớp trên của quân đội và làm cho các nhà dân sự cấp cao trở nên dễ bảo cho đến năm 1973. Cơ cấu quyền lực của Thiệu là một sự tổng hợp hết sức cá nhân hóa của Thiệu với một liên minh của các tướng trung thành cũng như với tầng lớp trên của các nhà kinh doanh Hoa kiều. Không cần phải xác định tầm quan trọng tương đối của các thành phần nói trên bởi vì thành phần này sẽ không có nghĩa lý gì nếu không có thành phần kia. Làm giàu là sự nhất trí chung đoàn kết họ lại với nhau, và vì Thiệu lợi dụng lòng tham lam của họ nên bộ máy của ông ta có tất cả các đặc điểm chủ quan, độc đoán mà người ta liên kết với việc làm tiền bằng phương pháp chính trị và bằng tham nhũng trong một cuộc chiến tranh hoàn toàn do nước ngoài ủng hộ.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 07 Tháng Chín, 2008, 11:04:37 am
CÁC THÀNH PHẦN CẤU TẠO CỦA CHẾ ĐỘ THIỆU

Một khía cạnh cốt yếu của việc Mỹ cung cấp tiền cho chế độ Thiệu là việc Mỹ trả tiền công và phụ cấp cho những người làm công. Khi Diệm bị lật đổ, Việt Nam cộng hòa dùng 121.000 người làm công dân sự; vào năm 1965, con số đó lên đến 179.000, và tăng rất chậm cho đến năm 1968 (khi Thiệu nắm hoàn toàn bộ máy hành chính của đất nước). Từ 208.000 năm 1968, bộ máy hành chính phình ra đến 337.000 năm 1972 (cảnh sát chiếm 38 phần trăm con số đó). Bộ máy dân sự tỏ ra không ổn định và bất lực trước cơn bão tố của nền chính trị sau Diệm. Thiệu tìm cách biến nó thành một công cụ đáng tin cậy cho quyền lực của ông ta. Tuy lương danh nghĩa là thấp và tiếp tục giảm xuống nhưng Thiệu để cho người của mình hoàn toàn tự do tham nhũng nhằm duy trì lòng trung thành của họ. Thông thường nhất là phải hối lộ để xin những giấy tờ cần thiết từ giấy tờ giao dịch, tài liệu chứng nhận cho đến trì hoãn nhập ngũ cộng với vô số hình thức quỹ đen. Đâu cũng có tham nhũng và tham nhũng tăng thêm mầu mỡ cho bộ máy quan liêu ở tất cả các cấp.

Giới sĩ quan cấp dưới cũng trở thành nguồn ủng hộ lớn của Thiệu, bởi vì Thiệu thỏa mãn lòng tham của họ hơn bất kỳ ai trước Thiệu. Quân đội chính quy phát triển nhanh từ năm 1961 đến năm 1965, nhưng sĩ quan cấp dưới không theo kịp sự phát triển đó. Khi Thiệu lên nắm quyền, ông ta tăng số thiếu úy từ 8.764 năm 1968 lên 17.353 hai năm sau đó và số đại úy từ 4.793 lên 10.654 trong khi số quân tăng dưới một phần năm. Các sĩ quan này cũng được phép tham nhũng để bù vào lương thấp của họ. Họ được đề bạt thường là vì họ hàm ơn một sĩ quan cấp cao nào đó hoặc đơn giản hơn là vì họ mua được ông ta. Kiểu làm tiền của họ thường là lặt vặt, từ việc thu khẩu phần gạo và tiền lương của những binh lính chết hoặc đào ngũ cho đến việc bán xăng dầu và hàng cung cấp quân sự ra các thị trường địa phương, trong đó một số đã được Mặt trận dân tộc Giải phóng mua. Cùng với các quan chức chính trị, một số sĩ quan cũng cho vay nặng lãi mà dưới thời kỳ Thiệu lãi lên đến từ 50 đến 90 phần trăm hàng tháng.

Phó tổng thống Trần Văn Hương của Thiệu thừa nhận rằng "chúng ta trên thực tế sẽ chẳng còn ai để thực hiện cuộc chiến tranh nếu tất cả các chỉ huy tham nhũng bị khởi tố hay đuổi việc". Thiên tài của Thiệu là đã chuyển hướng được tham vọng giành quyền lực thực sự của nhóm sĩ quan cấp cao do ông ta lựa chọn, và làm cho họ "chỉ biết có tiền", như hai tướng cũ về sau nhớ lại. Nếu ước tính một cách dè dặt nhất thì cũng tròn hai phần ba tất cả các tướng và tá đều tham nhũng.

Hệ thống chính quyền của Việt Nam cộng hòa đi từ gần như hỗn loạn trước khi Thiệu lên cầm quyền đến trên thực tế là độc tài vào cuối cuộc chiến tranh, và các tổ chức quân sự và chính trị giẫm chân lên nhau, chồng chéo với nhau mà người ngoài khó phân biệt được. Chính vì lòng trung thành của giới quân sự được mua bằng những đặc ân kinh tế, nên toàn bộ bộ máy quyền lực quấn quít lấy nhau, dựa dẫm vào nhau.

Trong thời kỳ sau Diệm các tư lệnh của bốn vùng chiến thuật bắt đầu chọn lấy những tỉnh trưởng riêng của mình, tạo ra một tình trạng phân quyền cát cứ, nhất là ở vùng chiến thuật I ở phía bắc. Sau một năm nắm quyền, sau khi đã đánh bại các đồng minh của Kỳ, Thiệu giành lại thế độc quyền đối với giới quân sự và cảnh sát và nắm chắc rằng những kẻ thù tiềm tàng của ông ta ở trong tình trạng chia rẽ. Một trong bốn tư lệnh vùng chiến thuật là đồng minh cũ của ông ta và tiếp tục duy trì nhiệm vụ. Còn những người khác là những người do ông ta lựa chọn một cách kỹ lưỡng để giúp ông ta chọn 43 tỉnh trưởng và ngay cả những huyện trưởng mà một nửa đã được thay thế, tính đến mùa xuân năm 1970. Những tướng chỉ huy ba sư đoàn ở Sài Gòn cũng đã được chọn với sự thận trọng đặc biệt.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 07 Tháng Chín, 2008, 11:05:07 am
Bốn tư lệnh vùng chiến thuật nhận lệnh trực tiếp từ cá nhân Thiệu. Họ có thể, nếu cần, phối hợp các hoạt động quân sự của các tỉnh trưởng trong vùng chiến thuật của họ nhưng nhất thiết họ không được cộng tác trực tiếp với nhau về bất kỳ vấn đề nào nếu không thông qua văn phòng của Thiệu. Lệnh cấm này đã được áp dụng cho đến khi chiến tranh kết thúc. Thiệu chọn các tư lệnh, chủ yếu là trên cơ sở lòng trung thành của họ đối với ông ta. Tài năng quân sự hoàn toàn là thứ yếu. Bởi vì chỉ sự cộng tác của tư lệnh vùng chiến thuật, mới huy động đủ lực lượng có thể đe dọa Thiệu và việc này trở nên hết sức khó khăn và không sao tránh khỏi bị lộ với Thiệu.

Các tỉnh trưởng cũng trực tiếp chịu trách nhiệm trước Thiệu. Vừa là tư lệnh quân sự, vừa là nhà cai trị dân sự, họ ít khi bị các bộ ở Sài Gòn kiểm soát. Tuy nhiên, họ được hưởng lợi một cách rộng rãi, họ bán những chức vụ béo bở và những đặc quyền trong tỉnh họ, giúp đỡ gia đình và bạn bè và thậm chí, duy trì công tác kinh doanh của chính họ. Vì thời gian nắm quyền là cơ hội lớn nhất của họ để làm giàu trước khi chuyển trở lại các đơn vị quân sự ban đầu, cho nên ít có ai không lợi dụng thời gian đó.

Song song với toàn bộ cơ cấu quân sự là bộ tổng tham mưu do tướng Cao Văn Viên đứng đầu, một tướng quá ư dễ bảo, ngờ nghệch một cách bất thường, một người ăn chay không tham lam, làm việc một cách thụ động cho Diệm. Người ta nói ông ta tham nhũng qua bàn tay của vợ. Thiệu giữ Viên lại chính bởi vì ông ta vô hại. Bộ tổng tham mưu cũng là chỗ chứa các sĩ quan không được tin cậy lắm và cũng chưa có thể xếp vào vị trí nào. Thiệu sử dụng Hội đồng an ninh quốc gia mà ông ta thành lập năm 1970 theo kiểu riêng của ông ta. Thường là ông ta tham khảo ý kiến của trợ lý an ninh của ông ta, trung tướng Đặng Văn Quang mà Thiệu hoàn toàn tin cậy. Vào cuối chiến tranh, Thiệu có thói quen đòi các tư lệnh vùng chiến thuật và một nhóm riêng trong đó có Quang, cung cấp báo cáo. Không bao giờ ông ta hỏi ý kiến về chính sách và tất cả các quyết định chủ chốt hoàn toàn do tay ông ta làm ra.

Bộ máy quân sự và chính trị ngày càng tập trung vào tay ông ta và không thể nào hoạt động được nếu không có ông ta. Điều này quan trọng hơn nhiều cho số phận cuối cùng của Việt Nam cộng hòa, so với vấn đề liệu nên đánh chính quy hay đánh du kích. Chức năng đầu tiên của cơ cấu quân sự là duy trì chính quyền Thiệu và việc Mỹ có thể chống lại Cách mạng hay không là phụ thuộc vào sự tồn tại của một chế độ mà một tướng của Thiệu mô tả là "độc tài, đàn áp và đầy rẫy âm mưu". Đến năm 1971, các quan chức Mỹ đã biết một điều mà phải đợi cho đến mùa xuân năm 1975 mới được hoàn toàn bộc lộ. Đó là: tài năng của Thiệu với tư cách là một nhà lãnh đạo quân sự may lắm mới được coi là tầm thường. Vai trò của ông ta là chính trị và Oa-sinh-tơn ủng hộ ông ta cũng chỉ vì chính trị.

Thiệu hiểu rõ rằng bằng cách cho phép tham nhũng, thậm chí khuyến khích tham nhũng, ông ta có thể tranh thủ được sự trung thành. Một trợ lý trích lời nói của ông ta rằng: "Đó là cách tốt nhất để tránh đảo chính...". Nhưng thế tiến lui đều khó cho cuộc thập tự chinh chống cộng của Mỹ vẫn tiếp tục tồn tại. Cái gì ở miền Nam cũng gắn với cá nhân của Thiệu chứ không gắn với một thể chế chính thức nào. Ngay đối với tổng tuyển cử, Nguyễn Cao Kỳ cũng rút ra từ kinh nghiệm bản thân mình khi trúng cử phó tổng thống năm 1967 đều cho rằng đó là "một sự mất thì giờ và tiền của. Bầu cử là một trò đùa. Nó được dùng để thiết lập một chế độ không có gì dính dáng đến nhân dân, một chế độ vô tích sự và tham nhũng”. Quốc hội mà Diệm nặn ra cũng chẳng có thực quyền và Thiệu không ngó ngàng gì tới. Một nhà phân tích Mỹ có cảm tình nhất cho rằng ít nhất một phần ba đại biểu quốc hội là những kẻ tìm cách làm giàu và thường là Thiệu để cho họ làm như vậy.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 07 Tháng Chín, 2008, 11:05:41 am
CƠ CẤU CỦA GIỚI THƯỢNG LƯU VIỆT NAM CỘNG HÒA

Phân tích về mặt cơ cấu thì phần chóp của chế độ Thiệu là một tập đoàn nhỏ các sĩ quan và quan chức dân sự then chốt không quá vài nghìn người. Ngay dưới họ là một số lượng lớn hơn nhiều những quan chức và sĩ quan thấp hơn. Trực tiếp liên minh với tầng lớp trên đó, là những nhà buôn, những nhà thầu khoán, những nhà kinh doanh, kể cả một số địa chủ. Họ đưa tiền bạc của họ ra, vào các cấp cao thông qua các hợp đồng, các giấy phép nhập khẩu, v.v. Tuy không ước tính được quy mô, nhưng những chuyên gia của Cơ quan phát triển quốc tế thuộc tầng lớp trên của chế độ đó đã kết luận rằng: "Nhiều ngành công nghiệp lớn ở miền Nam Việt Nam là do một số nhỏ liên minh của những nhà kinh doanh Trung Hoa hợp tác với nhân viên chiến lược của chính phủ Việt Nam kiểm soát". Theo các quan chức Mỹ, người Phúc Kiến là những người hùng mạnh nhất, Lý Lương Thân là lãnh tụ quan trọng nhất của họ và họ kiểm soát hoặc có cổ phần lớn trong các ngành dệt, phế liệu, xây dựng, ngân hàng, bảo hiểm, chế biến thực phẩm và nhập khẩu.

Tất cả các bản phân tích của những người chủ chốt trong chế độ này chỉ đưa ra con số trăm cho số sĩ quan, và quan chức cấp cao có liên quan, và những đồng minh tư bản của họ, mà đa số lớn là người Trung Hoa, cũng không thể quá con số một hoặc hai nghìn. Một thành phần nhỏ nhưng trọng yếu như vậy đã nắm phần lớn tư bản tích lũy và tư bản lưu động. Trực tiếp dưới họ là một nhóm mới những người giàu dựa vào tài sản của nhà nước, mà chủ yếu là những người Trung Hoa. Họ làm giàu nhờ việc Mỹ đưa càng ngày càng nhiều lực lượng vào Việt Nam. Tầng lớp dưới này vào khoảng 35.000 đến 70.000 người. Những người sống bằng hối lộ nhỏ trong hệ thống quân sự và dân sự của Thiệu là vào khoảng một phần tư triệu người. Lấy 80.000 xí nghiệp hàng chế tạo, buôn bán, xây dựng, vận tải và dịch vụ năm 1968 sử dụng 750.000 người, làm cơ sở thì có thể thêm khoảng 200.000 đến 500.000 người dân sự coi như hưởng lộc của bộ máy Thiệu. Ước tính một triệu người được hưởng trong chế độ của Thiệu là quá cao. Tổng số người trong và ngoài bộ máy nhà nước trực tiếp kiếm được những số tiền lớn không quá 100.000. Người theo đạo Thiên chúa chiếm một phần mười nhân dân miền Nam, một phần lớn số này có động cơ rõ rệt về hệ tư tưởng và ủng hộ Thiệu một cách có ý nghĩa. Tính tổng cộng, những người ủng hộ Thiệu, so với những đối thủ chống cộng khác của ông ta có thể hơn một phần tám nhân dân miền Nam. 

Thiệu không bao giờ tìm cách xây dựng một cách nghiêm chỉnh một cơ sở giai cấp rộng rãi cho chế độ của ông ta. Cơ sở giai cấp cũ, mong manh mà Pháp đã xây dựng và Diệm đã từng làm xói mòn, bây giờ trở nên càng yếu hơn, trước sự thay đổi của cơ cấu số dân, trước sự tan rã của xã hội. Thành phần mới của những kẻ đầu cơ chiến tranh đã phá hoại di sản cuối cùng của giai cấp tư sản dân tộc và giai cấp tiểu tư sản, đẩy họ vào những cuộc khủng hoảng kinh tế và tinh thần. Do hoàn toàn phụ thuộc vào đồng tiền và sự ủng hộ của Mỹ để làm cho Việt Nam cộng hòa tồn tại, những kẻ đầu cơ mới đó không thể có tính chân chính dân tộc và văn hóa cho nền chính trị của họ. Điều này chính là điều họ không thể nào thay đổi được. 


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 10 Tháng Chín, 2008, 03:12:26 pm
Chương mười tám
THẾ TIẾN LUI ĐỀU KHÓ CỦA SỰ PHỤ THUỘC KINH TẾ VÀ CHẾ ĐỘ VIỆT NAM CỘNG HOÀ

MẶT KINH TẾ CỦA SỰ PHỤ THUỘC

Tuy nền kinh tế của Nam Việt Nam dưới thời Diệm là hoàn toàn phụ thuộc vào viện trợ của Mỹ, nhưng sau 1964, nó lại càng mong manh hơn nhiều. Cuộc chiến tranh được đẩy mạnh và việc tăng quân Mỹ theo cấp số nhân đã đưa lại những thách thức kinh tế tai họa một cách tiềm tàng cho lòng tham lam của Mỹ. Bởi vì nền nông nghiệp đang bị xóa bỏ, còn nhân dân thì bị đẩy vào đô thị và chính quyền không đủ khả năng tiếp thu họ với tài nguyên địa phương.

Mục tiêu của chính sách kinh tế Mỹ là cầm máu các vết thương kinh tế đủ lâu để đạt được những mục tiêu quân sự mơ hồ của mình vào một lúc mà Cơ quan phát triển quốc tế buồn rầu thừa nhận là "không có ai nghĩ rằng cuộc chiến tranh có thể kéo dài 10 năm, đừng nói gì đến việc nó sẽ bị thua". Tổn thất cho Mỹ, dù những giả định quân sự là có giá trị, thì cũng có thể chịu đựng được chỉ trong một thời gian ngắn thôi. Nhưng cắt giảm những tổn thất thì lại có nghĩa là đầu hàng quân sự. Đó là điều không thể nghĩ tới được. Trong khi đó thì những giải pháp kinh tế tạm thời của Oa-sinh-tơn, đưa lại những cơ hội kỳ lạ cho tham nhũng ngày càng tăng mà tác động là củng cố thế chính trị cho Thiệu. Thực vậy, Việt Nam cộng hòa chỉ tồn tại khi có đầy đủ viện trợ kinh tế và quân sự.

Cơ quan phát triển quốc tế kết luận một cách chính xác năm 1975 rằng "giai đoạn 1965-1967 ở Việt Nam không giống bất kỳ giai đoạn nào đã trải qua ở một nước kém phát triển". Những bộ máy khác nhau mà Mỹ sử dụng có thể tỏ ra là phức tạp cho những người không chuyên môn, nhưng thực chất, chúng chỉ biểu hiện một chính sách đơn giản. Một cuộc chiến tranh leo thang đang phá hủy nền kinh tế hiện có, và Oa-sinh-tơn thấy rằng cần thiết phải ngăn chặn lạm phát vì nó chỉ làm cho nhân dân thêm cấp tiến và thất bại thêm chắc chắn. Chiến tranh Triều Tiên, tuy nhỏ hơn nhiều về mặt số quân tham chiến cũng như về mặt phạm vi chiến trường, nhưng đã gây ra một sự lạm phát tăng vọt mà ký ức ở Oa-sinh-tơn đến năm 1964 vẫn còn như mới nguyên. Vì vậy để chống lạm phát Mỹ quyết định mở rộng nhập khẩu đến mức tối đa, làm giảm tác dụng của việc chi tiêu quá nhiều đô-la cho nửa triệu quân, cho việc mở rộng các căn cứ và xây dựng quân sự. Sự phồn vinh bề ngoài của Việt Nam cộng hòa hết sức hão huyền đối với đa số đất nước là kết quả hoàn toàn của chiến lược đó.

Sản xuất nông nghiệp năm 1968 thấp hơn trung bình đã thấp của những năm 1961-1965 đến một phần tư. Phải đến năm 1970, nó mới vượt được, tuy sản lượng đầu người không bao giờ bằng được lúc đó. Sản xuất công nghiệp chủ yếu để phục vụ những nhu cầu của quân đội Mỹ và để cung cấp vật liệu xây dựng, đã tăng lên trong thời gian 1964-1967, và giảm xuống mạnh năm 1968. Nhập khẩu năm 1964-1967 tăng một trăm phần trăm, và nhập khẩu trong những năm 1969-1971 đã vượt xa xuất khẩu. Vào năm 1967, khoảng 40 phần trăm tổng sản phẩm quốc dân của Việt Nam cộng hòa gồm những hàng nhập hoàn toàn phụ thuộc vào viện trợ Mỹ và đến năm 1970 thì tỷ lệ đó đã gần 50 phấn trăm. Phần của tổng sản phẩm quốc doanh dành cho công nghiệp chế tạo đã giảm sút nhiều trong thời gian dó, làm cho Nam Việt Nam trở thành nước châu Á duy nhất trải qua hình thức phi công nghiệp hóa như vậy và có tỷ lệ công nghiệp chế tạo thấp nhất. Nền kinh tế của Nam Việt Nam đã chuyển từ sản xuất hàng hóa, tức là cơ sở của sự phát triển kinh tế thực sự, sang làm công việc dịch vụ tức là làm cho nền kinh tế rất yếu về cơ cấu và không tránh khỏi một khủng hoảng kinh tế, khi người Mỹ bắt đầu rút đi. Phần của chính phủ trong tổng sản phẩm xã hội đã tăng từ 15 phần trăm năm 1960 tức là lúc đã phụ thuộc nhiều vào viện trợ, lên 21 phần trăm năm 1964 và 34 phần trăm năm 1972. Phần lớn sự tăng nhanh chóng khu vực dịch vụ cũng là kết quả của viện trợ Mỹ cũng như sự có mặt của Mỹ. Cùng với phần của chính phủ trong sản phẩm xã hội, khu vực dịch vụ tăng từ 56 phần trăm năm 1960 lên 78 phần trăm năm 1972. Giá cả từ 1964 đến 1972 tăng 10 lần, và lạm phát vẫn là một vấn đề kinh tế và xã hội nghiêm trọng mặc dù có viện trợ hào phóng của Mỹ. Ngân sách của Việt Nam cộng hòa từ năm 1966 trở đi thường là do viện trợ cung cấp đến 85 phần trăm. Khi viện trợ không đủ, Việt Nam cộng hòa dựa vào việc in tiền, mà năm 1965 chiếm đến gần một phần tư ngân sách. Phần lớn của ngân sách là dành cho quân sự, lên đến hai phần ba năm 1970 và không hề bao giờ có đủ tiền thu nhập bên trong để trả cho chiến tranh. Các cố vấn kinh tế Mỹ nhất trí rằng "Việt Nam cộng hòa không có một chế độ thuế có hiệu lực" và tiền khi cho số nhân viên thu thuế khá đông của họ còn tốn nhiều hơn số thuế thu được.

Nền kinh tế của Việt Nam cộng hòa vì vậy mà gặp khó khăn nghiêm trọng trong suốt lịch sử của mình và sẽ tiếp tục là như vậy ngay khi không có nạn tham nhũng. Khi lạm phát làm cho thu nhập thực tế giảm giá trị thì sự phụ thuộc vào viện trợ Mỹ lại tăng lên không ngừng.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 10 Tháng Chín, 2008, 03:13:12 pm
THAM NHŨNG VÀ THẾ TIẾN LUI ĐỀU KHÓ CỦA MỘT NỀN KINH TẾ GIẢ TẠO

Ngay từ khi chiến tranh bắt đầu, tất cả các quan chức Mỹ cấp cao đều biết, như Mác Na-ma-ra nói tháng 10 năm 1966 là có "nạn tham nhũng cả ở trên cao, cả ở dưới thấp". Lúc đầu nó làm cho nhiều người lo ngại, nhưng họ nhanh chóng quen đi và thậm chí một số bắt đầu thấy giá trị chính trị và thậm chí kinh tế của nó. Ac-tơ Xmi-thi nhận xét trong bản phân tích kinh tế năm 1970 của ông ta cho Oa-sinh-tơn rằng "Nói chung Việt Nam được thừa nhận là tham nhũng, nhưng không có bằng chứng rằng nó tham nhũng hơn các láng giềng Đông Nam Á của nó. Nếu nó có là như vậy, thì lý do có thể là chiến tranh và các chính sách thời chiến tạo ra nhiều cơ hội cho tham nhũng". Nhưng vấn đề tham nhũng không thể tách rời ra khỏi "ý nghĩa chính trị" của những người có lợi nhờ nó, ra khỏi vai trò là một "chất nhờn" chính trị, như Xmi-thi nói một cách tài tình như vậy, và ra khỏi tác động đưa lại đoàn kết và ổn định của nó. Các quan chức Mỹ không ai che giấu việc họ thích Thiệu, và việc đó gạt bỏ mọi ý nghĩ muốn ngăn chặn tham nhũng.

Tuy nhiên, khi chiến tranh chấm dứt, báo cáo nội bộ cuối cùng của AID là rất rõ ràng: "Tham nhũng lan tràn ở tất cả các cấp trong suốt thời kỳ dính líu của Mỹ”. Hoạt động quốc tế của AID làm cho họ tiếp xúc với tất cả các mức độ tham nhũng trên thế giới, nhưng về Việt Nam cộng hòa họ kết luận "Dù với tiêu chuẩn nào, mức độ tham nhũng là cao quá mức". Nó "vượt xa" công việc "đút lót bình thường" của nhà nước và "thường dính líu đến những số tiền vô cùng to lớn có liên quan đến các quan chức chóp bu và các tướng lĩnh”.

Các quan chức Mỹ phụ trách các vấn đề kinh tế tỏ ra rất thất vọng. Chính đại sứ En-ước Bân-cơ đầu năm 1970 cũng cho rằng "các vấn đề kinh tế trở nên nghiêm trọng hơn đe dọa quân sự và nếu không giải quyết thì chúng có thể làm mất tất cả các thành tựu đã đạt được". Việt Nam hóa chiến tranh chứa đựng một kế hoạch quân sự nhằm thay thế sự có mặt của Mỹ, nhưng mục tiêu nhằm làm cho Việt Nam cộng hòa tự túc về kinh tế là một thách thức còn phức tạp hơn nhiều nhưng lại bị việc giảm quân Mỹ và giảm chi tiêu làm cho càng nghiêm trọng. Tình hình lại càng khó khăn thêm bởi vì Mỹ "tạm thời" ra sức chuyển toàn bộ một nền kinh tế, và cả bộ máy chính trị điều khiển nó, sang vấn đề nhập khẩu. Họ đi xa đến mức cố ý giảm vai trò của nông nghiệp mà trong quá khứ đã đem lại nhiều lợi nhất, và làm cho phần nông nghiệp còn lại quá ham dùng phân bón nhập khẩu hơn bất kỳ nước nào ở Nam Á hoặc Đông Nam Á. Việc Mỹ trợ cấp nhập khẩu cho Việt Nam cộng hòa đã "ngăn cản sự phát triển ở nhiều lĩnh vực của cả công nghiệp lẫn nông nghiệp". Nhưng mâu thuẫn mà Mỹ phải đương đầu sau năm 1970 là nếu không phát triển được nền kinh tế thì sẽ làm cho Việt Nam cộng hòa vĩnh viễn phụ thuộc vào viện trợ, có thể đưa đến phá hủy công cuộc Việt Nam hóa các mặt quân sự của chiến tranh. Các cố vấn Mỹ quen thuộc với vấn đề này đều dự đoán rằng Việt Nam cộng hòa sẽ cần nhiều viện trợ, khoảng nửa tỷ đô la mỗi năm, cho ít nhất một hoặc hai thập kỷ nữa.

Những chuyên gia Mỹ có ảnh hưởng nhất nghĩ rằng không chắc Việt Nam cộng hòa có thể khắc phục được những vấn đề kinh tế của mình. Họ đều cho rằng chiến tranh đòi hỏi phải động viên quân sự một cách vô thời hạn và Xmi-thi không cho rằng Việt Nam cộng hòa có thể trông chờ một cách lâu dài vào khoản viện trợ kinh tế 700 triệu đô la hàng năm hoặc từ Mỹ hoặc từ bất cứ nước nào khác. Mùa thu năm 1971, khi ủy ban đối ngoại Thượng viện đưa ra vấn đề cắt viện trợ cho Đông Dương, nói lên sự bất bình nghiêm trọng ở Quốc hội, thì việc tìm biện pháp thay thế trở nên rất cấp bách. Trong khi các cố vấn Mỹ nghĩ rằng Việt Nam cộng hòa phải gia nhập nền kinh tế tư bản thế giới, tránh chế độ bảo hộ mậu dịch nội địa quá mức và tránh làm khó dễ cho đầu tư nước ngoài, thì Xmít-thi cảnh cáo rằng tư bản nước ngoài không đầu tư vào nơi mất ổn định quân sự. Hai năm sau các chuyên gia Mỹ chủ chốt phàn nàn rằng hầu như Thiệu không quan tâm gì đến sự sống còn kinh tế của chế độ ông ta. Vì những lý do thực tiễn, ông ta tính vào việc mãi mãi xin tiền của Mỹ và của nước ngoài.

Các chuyên gia Mỹ đưa ra vấn đề khai thác dầu ở Nam Việt Nam để khuyến khích đầu tư nước ngoài. Nhưng sức ép của các nhóm chống chiến tranh và của các nghị sĩ Quốc hội đầu năm 1971 làm cho phần lớn các công ty dầu rút vào thế phòng ngự. Các chuyên gia cũng đưa ra vấn đề viện trợ đa phương và quốc tế và muốn có một công-xoóc-xi-om viện trợ của Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát triển châu Á và Quỹ tiền tệ quốc tế. Nhưng mùa thu 1971, khi nhận thấy rằng quân đội Việt Nam cộng hòa tiếp tục giữ số lượng lớn và chiến tranh sẽ còn kéo dài thì việc đa phương hóa viện trợ càng trở nên khó khăn hơn. Thật là một ảo tưởng nếu muốn dùng kiểu viện trợ này để thay thế cho viện trợ Mỹ để làm một phương tiện duy trì nền kinh tế Việt Nam cộng hòa và cả chiến tranh nữa. Tạo ra một cơ sở kinh tế vững bền cho Thiệu ở Nam Việt Nam là thiết yếu cho sự thành công của cố gắng chiến tranh của Mỹ, nhưng chính những biến dạng xã hội, chính trị và kinh tế xảy ra trong toàn bộ quá trình chiến tranh và chính nhu cầu phải giữ Thiệu ở lại chính quyền đã làm cho mục tiêu nói trên rất là mong manh. Với thời gian, ý nghĩa quyết định của thách thức quan trọng này sẽ trở nên ngày càng rõ ràng.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 10 Tháng Chín, 2008, 03:14:07 pm
Chương mười chín
SỰ XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI VIỆT NAM CỘNG HOÀ VÀ CUỘC ĐẤU TRANH DÀNH NÔNG THÔN NAM VIỆT NAM

MỸ VÀ VIỆT NAM CỘNG HÒA TRƯỚC VẤN ĐỀ QUÂN SỰ

Sau năm 1965, Mỹ bị bẫy vào một thế tiến lui đều khó. Các nhà lãnh đạo của họ cho rằng sự can thiệp ào ạt của họ là nhằm tranh thủ thời gian cho Việt Nam cộng hòa củng cố quyền lực của mình ở Nam Việt Nam. Mọi người ở Oa-sinh-tơn đều hiểu rằng nếu không làm được như vậy sẽ buộc phải mở rộng và kéo dài sự có mặt của Mỹ. Ngay dù cho các tướng Sài Gòn không chịu từ bỏ sự quan tâm chính trị của họ, Mỹ cũng buộc phải giao cho quân đội Việt Nam cộng hòa những nhiệm vụ quân sự quan trọng và phải tăng cường lực lượng cho nó. Nhưng mỉa mai thay, quân đội và vũ khí Mỹ ào ạt đưa vào Việt Nam sau giữa năm 1965 đã tạo điều kiện cho Việt Nam cộng hòa càng đi vào cạnh tranh nồi da nấu thịt.

Ngay từ đầu, Mỹ không nắm chắc được học thuyết chiến lược và các nhiệm vụ của quân đội Việt Nam cộng hòa. Ngoài việc muốn giành càng nhiều lãnh thổ càng tốt, Việt Nam cộng hòa không có chiến lược riêng của mình trừ chiến lược mà người Mỹ giao cho và lấy đó làm cơ sở để trang bị. Vào giữa năm 1965, quân đội Việt Nam cộng hòa đứng trên vực thẳm của thất bại, bị cột chặt vào những vị trí cố định để chống lại một kẻ thù chỉ bằng một phần ba lực lượng của mình. Khi lực lượng Mỹ đổ vào miền Nam và xây dựng các căn cứ thì người ta chờ mong quân đội Việt Nam cộng hòa làm nhiệm vụ bảo vệ nhưng ngay từ đầu, họ đã làm một cách rất là tồi. Vai trò mở rộng của Mỹ càng làm cho quân đội Việt Nam cộng hòa trở nên bất động cả về mặt chức năng chính thức lẫn về mặt tâm lý.

Bằng sự thỏa thuận chung với Mỹ, sau năm 1965 quân đội Việt Nam cộng hòa làm ba chức năng quân sự. Vai trò thứ nhất là đảm bảo an ninh bằng việc bảo vệ các căn cứ, đô thị và những nơi tương tự. Hoạt động chiến đấu tuy là ít quan trọng hơn nhưng vẫn còn là một nhiệm vụ lớn mặc dù Mỹ chịu trách nhiệm về phần lớn các cuộc hành quân tiến công. Bình định các thôn xã cũng là một nhiệm vụ trọng yếu. Cách phân công lao động này đã gây rắc rối cho Mỹ trong ba năm tiếp theo.
Mọi phát triển ở Nam Việt Nam từ năm 1964 trở đi làm cho quân đội Việt Nam cộng hòa trở thành một đội quân tĩnh tại, phòng ngự không có khả năng giành quyền chủ động. Các sĩ quan cấp cao của nó luôn luôn bận tâm với các vấn đề chính trị và công cuộc làm giàu cho bản thân mình. Các cố vấn Mỹ đầu tiên huấn luyện quân đội Việt Nam cộng hòa để tiến hành một cuộc chiến tranh quy ước nhưng kết quả cuối cùng nó chẳng tiến hành được bất kỳ loại chiến tranh nào. Những chức năng tiến công của các lực lượng Mỹ cũng như công cuộc bình định ở các thôn xã đã đẩy quân đội Việt Nam cộng hòa vào một vai trò phòng thủ với việc kiểm soát dân là nhiệm vụ hàng đầu, vì Mặt trận Dân tộc Giải phóng không bao giờ bỏ lỡ cơ hội lấp những chỗ trống đã được tạo ra. Nếu quân đội Việt Nam cộng hòa còn chút cơ động chiến thuật nào thì đó là phụ thuộc phấn lớn vào máy bay lên thẳng và hậu cần do Mỹ cung cấp. Tỷ lệ cao về lực lượng cơ động và khả năng duy trì được quyền chủ động chiến lược của Cách mạng là những thực tế mà người Mỹ không thể khắc phục được.

Cố gắng của Mỹ nhằm chỉnh đốn những nhược điểm của quân đội Việt Nam cộng hòa hầu như là cả một quá trình thất vọng. Huấn luyện trong năm 1966 hầu như là không có và khả năng thực hiện các cuộc hành quân với đơn vị nhỏ, ban đêm hay phục kích của quân đội đó được xem là tồi và cuối năm 1968 không khá gì hơn lúc quân Mỹ mới bắt đầu vào. Thói ngủ buổi trưa thường lệ của họ làm cho các sĩ quan Mỹ tức giận. Mãi đến cuối năm 1969, quân đội Việt Nam cộng hòa mới kiểm soát khá hơn trọng pháo và máy bay lên thẳng của chính họ, nhưng thời gian trung bình luyện tập của một tiểu đoàn cũng chỉ có 3 giờ một tuần. Cách thông thường nhất của họ là cố tránh tiếp xúc với các lực lượng dịch, đó là điều mà các sĩ quan Mỹ rất khinh thường. Suốt năm 1966 và 1967, phần đông các sĩ quan Mỹ đều thống nhất với nhau rằng chính sự có mặt của quân đội Mỹ đã làm cho quân đội Việt Nam cộng hòa, đừng nói gì đến 300.000 lực lượng địa phương và dân quân, chiến đấu ít đi. Quân đội Mỹ do đó phải lấp vào chỗ trống mà quân đội Việt Nam cộng hòa để lại.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 10 Tháng Chín, 2008, 03:14:36 pm
Cố gắng của Mỹ xác định một vai trò quân sự cho các lực lượng vũ trang của Việt Nam cộng hòa luôn luôn bị xem thường và đầy tính bi quan. Tuy chính quyền Mỹ có ý định tranh thủ thời gian cho tay chân của mình nhưng không sao thực hiện được chính sách chuyển gánh nặng chiến đấu lên vai họ. Thú nhận điều này có nghĩa là tuyên bố rằng Mỹ hoặc là sẽ ở lại Việt Nam vô thời hạn hoặc là buộc phải rút lui với thất bại hoàn toàn. Năm 1965-1967, không có ai sẵn sàng thừa nhận rằng khả năng của chính quyền thực hiện được những mục tiêu và chiến lược để thắng các cuộc chiến tranh cục bộ, lại phụ thuộc vào một đội quân hào nhoáng nhưng bị lãnh đạo một cách hỗn loạn.

Nếu không kể những bận tâm riêng của các sĩ quan cấp cao thì bản thân quân đội Việt Nam cộng hòa cũng có nhiều vấn đề, từ nhỏ cho đến có tính chất cơ cấu và tất cả kết hợp lại làm thất bại cố gắng của Mỹ. Quan hệ của quân Mỹ với quân đội Việt Nam cộng hòa cũng không tốt và sự hợp tác ở cấp trên với nhau cũng xấu. Trước những khó khăn như vậy, các cố vấn Mỹ muốn lấy số lượng thay cho chất lượng của quân đội Việt Nam cộng hòa. Các lực lượng vũ trang Việt Nam cộng hòa tăng 129.000 giữa năm 1964 và 1967, và năm sau đó tăng thêm 177.000 nữa để lên đến 820.000 và đạt đỉnh cao 1.048.000 năm 1972. Nhưng Oét- mo-len viết năm 1968 rằng: "Thách thức lớn là phải thay đổi hình ảnh của một quân đội thất bại, mất tinh thần". Quân đội Việt Nam cộng hòa, chiếm năm phần trăm số dân nam giới của Nam Việt Nam năm 1956, lên bảy phần trăm năm 1964 và 11 phần trăm năm 1972, đã gây ra những thách thức to lớn cho trật tự xã hội Việt Nam cộng hòa tuy nó đưa lại cho người Mỹ những bia thịt mà Mỹ cho là thiết yếu.

Bằng cách nêu gương của mình và cũng bằng huấn luyện, ngay từ đầu Mỹ đã dạy cho quân đội Việt Nam cộng hòa dựa vào hỏa lực. Tất nhiên hỏa lực phụ thuộc vào kỹ thuật, tiền và một hệ thống hậu cấn có hiệu quả. Như một tướng cấp cao của Việt Nam cộng hòa mô tả về sau, hệ thống hậu cần lấy "học thuyết Mỹ, trang bị Mỹ và tiền Mỹ" làm nền tảng. Bộ Ngoại giao Mỹ tổng kết cuối năm 1974 rằng điểm "cơ bản của học thuyết chiến đấu Mỹ mà chúng tôi đã truyền đạt một cách thành công cho người Nam Việt Nam là đạt kết quả tối đa với tổn thất về người tối thiểu. Điều đó đòi hỏi sử dụng cao trang bị và chi tiêu lớn về hậu cần. . . Cách tiến hành chiến tranh của Nam Việt Nam (và Mỹ) tốn nhiều tiền hơn..." (xem Hồ sơ Quốc hội, 20-8-1974 và Hosmer, Sự sụp đổ của Nam Việt Nam, tr. 103-104). Sau năm 1964, quân đội Việt Nam cộng hòa sáp nhập một cách đơn giản vào bộ máy chiến tranh của Mỹ như là một bộ phận phụ thuộc nghèo hơn, và nó đã làm theo các chiến thuật đang thua của Mỹ.

Các tướng cấp cao của Việt Nam cộng hòa là những nhà đấu đá chính trị nội bộ tài tình hoặc là những nhà kinh doanh xuất sắc nhưng là những nhà lãnh đạo quân sự rất tồi, và đó chính là thực chất của chế độ xã hội Việt Nam cộng hòa. Nhưng thách thức đối với Mỹ lại còn lớn hơn nhiều; sự cần thiết tranh thủ thời gian để củng cố Việt Nam cộng hòa còn đặt ra một câu hỏi khó trả lời là ai sẽ đánh cuộc chiến tranh và đánh trong bao lâu. Thực vậy, việc Việt Nam cộng hòa sau năm 1968 giành được một cơ cấu chính trị ổn định dưới một chế độ độc tài quân sự chỉ làm mạnh thêm tính chất chính trị của hệ thống quân sự do đó mà chiến đấu trở nên khá là phụ. Chính tính chất này, còn hơn là sự phụ thuộc vào kỹ thuật, đã làm cho các lực lượng vũ trang của Việt Nam cộng hòa trở nên quá mong manh như vậy. Trong khi đó thì những nhu cầu quân sự và những thất bại của đội quân đó đã trở thành một vật xốp hút tiền của, lực lượng và thì giờ của Mỹ. Vào cuối năm 1967, chính quyền Giôn-xơn không thấy rõ mình có thể chịu được bao nhiêu những thứ đó nữa.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 10 Tháng Chín, 2008, 03:15:15 pm
CÔNG CUỘC BÌNH ĐỊNH CỦA MỸ VÀ VIỆT NAM CỘNG HÒA VÀ CHIẾN LƯỢC NÔNG THÔN

Trong bối cảnh quân sự như nói trên, Mỹ và Mặt trận Dân tộc Giải phóng đấu tranh để làm chủ nông thôn, nhiệm vụ "bình định" chủ yếu là giao cho các thành phần khác nhau của các lực lượng vũ trang Việt Nam cộng hòa. Những cố gắng liên tục dưới chế độ Diệm nhằm lùa nhân dân nông thôn vào các khu vực dành riêng, đặt ra cho người Mỹ một câu hỏi liệu công cuộc bình định tiếp tục được duy trì chỉ là một biện pháp kiểm soát nhân dân về thể chất và là một biện pháp chống nổi dậy như dưới thời Diệm, hay là đưa đến những thay đổi tư tưởng xã hội khả dĩ làm cho Cách mạng mất hiệu lực. Tranh thủ thời gian cho những người kế tục của Diệm có thể giải quyết những vấn đề đó, đã trở thành nhiệm vụ chiến lược của các lực lượng vũ trang Mỹ.

Đối với những người vạch kế hoạch chiến tranh, điều cần thiết là phải tách Cách mạng ra khỏi quần chúng nông thôn. Vào khoảng năm 1965, họ dựa chủ yếu vào hỏa lực để làm việc đó và họ nóng lòng muốn "bình định" nhân dân. Đối với Mỹ, chiến tranh Việt Nam và chương trình bình định là gần như đồng nghĩa với nhau tuy các nhà lãnh đạo dân sự Mỹ biết rằng, nó còn phải hơn thế nữa nếu muốn đánh bại Mặt trận Dân tộc Giải phóng.

Đầu năm 1966 chương trình không quân sự của Mỹ bị sa lầy vào sự rối loạn và bế tắc. Thế nhưng, Giôn-xơn vẫn còn tin rằng với tiếng tăm là một nhà cải cách, bắt đấu với chương trình "chiến tranh chống nghèo đói" ở trong nước, ông ta còn có quyền được kính nể. Cải cách ở Nam Việt Nam có thể đưa lại cho chiến tranh tính chính đáng rất cần thiết trước một công chúng và một quốc hội ngày càng thiếu thiện chí. Năm 1966, tại hội nghị Hô-nô-lu-lu đầu tháng 2 và hội nghị Ma-ni-la 24-25 tháng 10, Giôn-xơn gặp Thiệu và Kỳ, và trong các thông cáo chung, đã làm cho chiến tranh có vẻ như cần thiết để tạo lập một trật tự tự do ở Đông Nam Á. Sau hội nghị Hô-nô-lu-lu, các chương trình bình định của Mỹ có vẻ phối hợp tốt hơn. Tháng 3 năm 1967, Rô-bớt Cô-mơ được giao thực hiện cố gắng bình định lớn hơn nhiều. Ông ta đã đánh giá một cách chính xác những hạn chế chính trị, kinh tế và tổ chức làm cho chương trình của ông ta không thành công. Thất bại của chương trình đã làm cho Mác Na-ma-ra và các nhà dân sự ở Lầu Năm Góc thất vọng. Họ tin rằng các lực lượng Mỹ không tránh khỏi phải ở lại Nam Việt Nam lâu hơn nhiều.

Những mâu thuẫn trong chương trình bình định làm cho nó thất bại một cách rõ ràng trong những năm 1966- 1967. Rõ nhất là sự ủng hộ của Mỹ đối với chế độ Thiệu - Kỳ, một chế độ đưa lại sự ổn định chính trị trên cơ sở tham nhũng ngày càng tăng kể cả tham nhũng trong chương trình bình định. Khi buộc phải chọn giữa sự ổn định và sự hiệu quả của hoạt động, thì chính quyền Mỹ đều chọn sự ổn định. Quan trọng hơn nhiều là tác động của các hoạt động quân sự của Mỹ đối với cơ cấu nông thôn và mâu thuẫn không thể điều hòa được giữa các chính sách xây dựng và các chính sách phá hoại của Mỹ.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 10 Tháng Chín, 2008, 03:16:20 pm
NHỮNG MÂU THUẪN GIỮA TÌNH TRẠNG CHIẾN TRANH VÀ SỰ ỔN ĐỊNH CỦA MỘT XÃ HỘI NÔNG THÔN

Đến năm 1965, một thập kỷ của nổi dậy kéo dài đã phá hoại vế thể chất nông thôn Nam Việt Nam, làm cho nông dân trở nên cấp tiến và cơ cấu cộng đồng của họ tan rã. Mọi cố gắng xây dựng lại nông thôn đòi hỏi phải chấm dứt hỏa lực ào ạt đang đe dọa cuộc sống của nông dân và đang tạo ra một làn sóng di tản rộng lớn. Chưa lúc nào Oa-sinh-tơn nghĩ đến việc không nhấn mạnh đến vũ khí. Đối phó của họ với Cách mạng là di chuyển dân đi nơi khác, gây ra cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng một số vấn đề nhưng lại gây ra cho Mỹ và Việt Nam cộng hòa nhiều vấn đề mới hơn. Trong bối cảnh như vậy, bình định vẫn là một điều hão huyền cho đến cuối năm 1968 khi mà các hậu quả quân sự, chính trị và kinh tế của chiến tranh đã phá hủy mọi hy vọng mong manh còn sót lại của những cố gắng yếu đuối đó.

Vấn đề tị nạn hầu như chiếm hết tài sản của Mỹ và Việt Nam cộng hòa dành cho phát triển nông thôn, tất nhiên là trừ đi số tiền tham nhũng mà mọi chương trình đều phải gánh chịu. Oa-sinh-tơn kết luận rằng di chuyển nhân dân ra khỏi vùng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng đến vùng Việt Nam cộng hòa kiểm soát là dễ và ít nguy hiểm hơn nhiều so với việc vào các vùng đó để bình định và làm chuyển hóa nhân dân. Việc sử dụng chất diệt cỏ chống lại cây lương thực, mà Bộ Ngoại giao và Lầu Năm Góc luôn luôn ủng hộ, là một mặt của chính sách đó. Như lịch sử chính thức của không quân mô tả lập trường của Bộ tham mưu liên quân vào cuối năm 1967 là: "Sau khi mùa màng trong các khu vực mục tiêu bị chết trụi thì những nhóm dân sự di chuyển vào các khu vực do chính phủ kiểm soát sẽ làm trầm trọng thêm vấn đề nhân lực của du kích".

Tất cả các cơ quan làm ra quyết định ở Oa-sinh-tơn và Sài Gòn đều hoàn toàn hiểu rằng chiến đấu và hỏa lực gây đau khổ cho nhân dân và buộc họ rời bỏ nơi sinh sống đưa số di cư lên đến ba triệu người vào cuối năm 1967. Sự việc này là một món nợ chính trị của vấn đề bình định nhưng đồng thời cũng làm cho Mỹ kiểm soát về mặt thể chất kẻ thù tiềm tàng thực sự của mình là nông dân. Tuy chính sách gây ra vấn đề tị nạn không thấy ghi trong các tài liệu của Bộ chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ ở Việt Nam, nhưng "sự cần thiết của nó được thừa nhận công khai như là một đòi hỏi thực tiễn...".

Bình định, ít nhất là về mặt kết hợp chính trị và chiến tranh, là nạn nhân của chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ. Theo kiểu riêng của mình, Mỹ tìm cách áp dụng nhiều chương trình cùng một lúc. Vì Mỹ không tìm được một lý thuyết phù hợp với thực tế hành động của mình, nền Mỹ đã bào chữa cho sự khủng bố ác liệt từ trên không và sự phá hoại cả một đất nước nông thôn, bằng những lời lẽ tự do hoa mỹ. Người Mỹ vạch ra và trả tiền, định ra mọi thứ hoạt động mà họ cho là đặc biệt quan trọng, từ việc tăng thêm chương trình Phượng hoàng và cuối năm 1967 để vây ráp và "vô hiệu hóa" cơ sở hạ tầng chính trị của Mặt trận Dân tộc Giải phóng cho đến thành lập các trạm phát thuốc ở nhiều thôn xã để tranh thủ nhân dân. Họ đặt ra một hệ thống đánh giá các ấp để theo dõi mức thành công của công tác bình định. Hệ thống này có lẽ đã trở thành chỉ số quan trọng nhất của Oa-sinh-tơn để chỉ đạo chiến tranh. Mùa xuân năm 1965, hệ thống đánh giá đó báo cáo rằng Cách mạng chỉ kiểm soát có 24 phần trăm nhân dân. Các chính quyền nối tiếp nhau đã sử dụng hệ thống này để công khai bảo vệ tính hiệu quả chính sách chiến tranh của họ bởi vì phần đông những người Mỹ chủ chốt không hiểu tính chất của chiến tranh cách mạng càng ít hiểu chính sách của Mặt trận Dân tộc Giải phóng thâm nhập vào và cùng sống chung với các cơ cấu Việt Nam cộng hòa hiện có. Cuối năm 1968, khi hệ thống đánh giá các ấp báo cáo rằng 73 phần trăm nhân dân sống trong những vùng tương đối an toàn và 13 phần trăm trong vùng tranh chấp, thì cả CIA lẫn Bộ Ngoại giao Mỹ lại báo cáo riêng rằng Mặt trận Dân tộc Giải phóng còn có ảnh hưởng một cách có ý nghĩa đến ít nhất là hai phần ba của nhân dân nông thôn. Ngay cuối năm 1972, khi hệ thống đánh giá cho rằng 90 phần trăm nhân dân nằm dưới quyền kiểm soát của Việt Nam cộng hòa, thì những nhà phân tích của Lầu Năm Góc cho rằng cơ sở hạ tầng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng bao. gồm 71 phần trăm nhân dân. Những báo cáo của hệ thống đánh giá luôn luôn là không đúng. Phần đông các người Mỹ đi lấy số liệu không nói được hoặc nói rất ít tiếng Việt, họ dựa vào những người Việt Nam thường là ngồi tại nhà để điền số liệu chứ không xuống các ấp.

Bình định không thể đo bằng số liệu và chiến tranh là một sự kiện xã hội, chính trị vô cùng to lớn của con người mà những tác động phải được nghiên cứu hết sức kỹ càng tỉ mỉ. Thế mà trách nhiệm thắng một cuộc đấu tranh chính trị và tư tưởng lại được giao cho Việt Nam cộng hòa.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 10 Tháng Chín, 2008, 03:17:07 pm
TÁC ĐỘNG CỦA CÔNG CUỘC BÌNH ĐỊNH CỦA VIỆT NAM CỘNG HÒA

Các chính phủ nối tiếp nhau của Sài Gòn đã đáp ứng sức ép không mệt mỏi của Mỹ về các hoạt động bình định, vì vậy đến năm 1967 họ đã dành một nửa cố gắng của quân đội Việt Nam cộng hòa và một cố gắng lớn hơn thế của quân địa phương và dân quân cho chương trình đó. Nhưng việc các nhà lãnh dạo Việt Nam cộng hòa thụ động làm theo các kế hoạch của Mỹ là nhằm để tránh những cuộc tranh luận vô ích và để được tự do đấu tranh với nhau giành sự kiểm soát chính trị. Các chương trình mà Mỹ cho là thích hợp đã được áp đặt lên các sĩ quan hoang mang và thờ ơ, và khi các chương trình đó không được thực hiện nhanh chóng thì các quan chức cấp thấp của Mỹ liền tiếp quản để giám sát.

Chương trình quan trọng nhất của những cố gắng đó là chương trình phát triển cách mạng mà lúc ban đầu là một đề án của CIA lấy những cán bộ nông thôn còn lại của Diệm. Đến năm 1968, lực lượng này lên đến 60.000, nhưng đến năm 1972 thì còn lại một nửa, chia ra thành những đội 59 người, mặc đồ bà ba đen nông dân. Nhiệm vụ của họ được coi như là xây dựng các trường học, các trạm y tế hoặc đại khái là như vậy.

Quân đội Việt Nam cộng hòa không có trách nhiệm bảo vệ các đơn vị đó. Trách nhiệm này là của lực lượng dân quân, nhưng các cán bộ của chương trình phát triển cách mạng không tranh thủ được dân quân cho nên nhiều khi cán bộ chương trình bị tiến công mà dân quân thì án binh bất động. Sự quan tâm chính của cán bộ chương trình phát triển là tự bảo vệ mình chứ không phải cùng sống với nông dân như đã được dự định lúc ban đầu. Nhiều người trong bọn họ tìm nơi an toàn để ngủ ban đêm.

Vào cuối năm 1967, các chuyên gia Mỹ cho rằng Việt Nam cộng hòa đã không hợp nhất được các lực lượng của mình để ủng hộ công cuộc bình định và các đội phát triển cách mạng, theo lời của người trợ lý của Cô-mơ, là đang "thất bại".
Chương trình phát triển cách mạng nhằm xây dựng các xã tự quản cũng thất bại. Và thất bại của chương trình phát triển cách mạng kéo theo với nó sự xa rời của nông dân làm cho mọi thành quả mà Việt Nam cộng hòa giành dược nhờ những thắng lợi của Mỹ cũng bị xóa bỏ.

Cùng với sự đau khổ của nông dân vì đạn dược và vì con em bị lùa vào quân ngũ, chương trình bình định trở thành một món nợ chính trị cho cả Mỹ lẫn Việt Nam cộng hòa, dù cho có một số nông dân rút vào tiêu cực trước sự tàn phá khủng khiếp của chiến tranh. Nhưng đó không phải là sự rút lui khỏi chính trị hoặc khỏi các vấn đề giai cấp. Đó là "một sự lãnh đạm có phần thân Việt cộng" như các chuyên gia Mỹ khẳng định.

Phần đông những người thận trọng và trung lập nói trên dù sao vẫn giữ một thái độ thù địch cơ bản đối với Việt Nam cộng hòa, đối với những hành động và những mục tiêu của họ, như các nhà phân tích của Ran-đơ nói với Oa-sinh-tơn năm 1969. Từ lúc này trở đi, các nhà vạch quyết định của Mỹ và một số nhà lãnh đạo Việt Nam cộng hòa nghĩ rằng chán ngán chiến tranh và thờ ơ lãnh đạm là phản ứng chủ yếu của nông dân đối với cố gắng của họ. Không ai dám tự lừa dối mình là đã tranh thủ được lòng trung thành của nông dân.

Tướng Trần Đình Thọ, người đứng đầu công cuộc bình định của quân đội Việt Nam cộng hòa, về sau thừa nhận rằng "những cố gắng giành sự thống nhất chính trị và sự ủng hộ của nhân dân đã không thành công".

Nguyên nhân quan trọng nhất của thất bại trong cố gắng bình định của Mỹ là phương pháp tiến hành chiến tranh và tác động kinh khủng của nó với con người. Sự ủng hộ của Mỹ đối với cơ cấu chính trị của Việt Nam cộng hòa cũng là một vấn đề nghiêm trọng. Cả hai nhân tố đó tạo ra những cản trở không thể nào vượt khỏi để đi đến thắng lợi.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 10 Tháng Chín, 2008, 03:17:44 pm
NỀN KINH TẾ NÔNG THÔN ĐANG THAY ĐỔI

Cải cách ruộng đất là vấn đề trung tâm của nền chính trị nông thôn trong đầu những năm 1960. Tại cuộc họp tháng 2 năm 1966 với Thiệu và Kỳ, một số người Mỹ chủ chốt nghĩ rằng họ đã giành được sự ủng hộ của công chúng để thực hiện cải cách ruộng đất một cách nhanh chóng hơn . . . Nhưng rất mỉa mai là tác động cơ cấu to lớn của chiến tranh, của chính sách bình định và viện trợ của Mỹ đối với nền kinh tế nông thôn đã thay đổi sâu sắc tình hình ruộng đất. Việc nhiều người tị nạn chạy lên thành phố đã làm giảm nhiều số dân ở nông thôn, thêm vào đó cần phải kể đến con số thương vong của chiến tranh nữa. Việc quân đội Việt Nam cộng hòa tăng thêm nửa triệu quân giữa năm 1964 và năm 1970, cộng với một tỷ lệ nhỏ hơn của quân đội giải phóng nhân dân, đã làm giảm nhiều lực lượng lao động nam giới. Kết quả là thiếu nhân lực ở đồng bằng sông Cửu Long trong suốt phần còn lại của chiến tranh.

Tuy rất khó có một con số chính xác Cơ quan phát triển quốc tế ước tính khoảng 900.000 héc-ta đất bị bỏ hóa từ năm 1964 đến năm 1966. Đến cuối năm 1973, ước tính còn khoảng 560.000 héc-ta bỏ hóa. Từ một nước xuất khẩu gạo năm 1964, Nam Việt Nam trở thành một nước phải nhập 700.000 tấn năm 1967. Và trong phần lớn cuộc chiến tranh, gạo của Mỹ đã được bán cho Việt Nam cộng hòa với giá thấp hơn giá thế giới để tránh một cuộc khủng hoảng về lương thực trong các thành phố. Đó là lý do không khuyến khích nông dân trở lại sản xuất gạo, tuy các chuyên gia Mỹ thấy đó là một xu hướng có hậu quả lâu dài rất tai hại. Hơn nữa trồng lúa cũng rất nguy hiểm vì người nông dân dễ lâm vào những cuộc tiến công. Mặt khác thị trường các sản phẩm phụ như rau và quả, trong các đô thị và các căn cứ Mỹ được mở rộng nhanh chóng và thu được giá cao hơn. Được cả Mỹ và Việt Nam cộng hòa khuyến khích, nông dân lao vào sản xuất các sản phẩm phụ quanh nhà, ít sợ bị tiến công. Địa chủ thì không kiếm đâu ra tá điền mặc dù luôn luôn giảm mức tô. Vào khoảng năm 1966, địa chủ hướng tư bản của họ vào đô thị để xây dựng và để làm những ngành công nghiệp phục vụ cho người Mỹ. Nếu nhìn một cách thuần túy kinh tế thì đời sống người nông dân có phần dược cải thiện, do đó anh ta không còn cần đến cải cách ruộng đất nữa. Thực vậy cải cách ruộng đất có thể có lợi cho địa chủ hơn là cho nông dân.

Nhu cầu khẩn thiết nhất của nông dân là an ninh và sống còn. Đồng thời, thế giới kinh tế của anh ta cũng bị thay đổi một cách nhanh chóng làm cho những nhiệm vụ chính trị của cả Mỹ lẫn Cách mạng trở nên phức tạp hơn nhiều. Sự kết hợp của chiến tranh của những “thảm kịch cá nhân tàn nhẫn” và của đổi mới kỹ thuật, cũng như sự gián đoạn giữa quá khứ dù cho rối loạn đến đâu với hiện tại đang thay đổi một cách nhanh chóng, gây ra cho nông dân vô vàn thách thức và bối rối.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 10 Tháng Chín, 2008, 03:18:48 pm
chươg hai mươi
TÍNH CHẤT VÀ NHỮNG HẬU QUẢ CỦA HAI ĐỘI QUÂN VIỆT NAM

TÍNH CHẤT CỦA HAI ĐỘI QUÂN: SĨ QUAN VÀ CÁN BỘ

Sau năm 1963, trung tâm chính trị của Việt Nam cộng hòa là giới sĩ quan, và chính trị là mối quan tâm của đa số lớn các sĩ quan cấp cao. Trở thành được một sĩ quan có nghĩa là mon men giành được sức cơ động về xã hội, chính trị và kinh tế. Xuất thân từ những thành phần có đặc quyền ở đô thị và tương đối được học hành tốt hơn, giới sĩ quan là chốn ưa chuộng của những kẻ tham lam. Quyền lực chức tước và sự nghiệp ám ảnh phần đông bọn họ, và người Mỹ ở Sài Gòn thường phàn nàn về mối quan tâm suy nghĩ của bọn họ, đặc biệt là phàn nàn rằng những binh lính có khả năng thuộc các tầng lớp xã hội nghèo hơn không bao giờ được đưa lên những địa vị có trách nhiệm về quân sự.

Các sĩ quan cấp dưới và cấp giữa có trước mặt họ vô số những con đường kinh tế. Sau chiến tranh, tướng Cao Văn Viên thống kê thành hai mươi mốt hình thức tham nhũng thông thường trong quân đội Việt Nam cộng hòa: từ tham ô công quỹ, gian lận lương tiền và mức ăn của binh lính, đút lót của những người ký hợp đồng, bán chức tước và những nhiệm sở an toàn và tuồn nhiên liệu và thuốc men ra thị trường tư nhân cho đến việc buộc các cơ quan đơn vị khác trả tiền vận chuyển thậm chí tiền yểm trợ bằng trọng pháo khi chiến đấu. Toàn bộ hệ thống quân đội Việt Nam cộng hòa tham nhũng trên cơ sở hàng ngày cho đến đơn vị thấp nhất.

Nguồn thu nhập phổ biến nhất là cái gọi là lính ma, lên đến một phần tư, chưa bao giờ dưới một phần mười của tổng số vào bất kỳ lúc nào. Lính ma là những lính đã chết, những lính đào ngũ hoặc những lính đã chuyển sang làm công tác dân sự, mà cấp trên bỏ túi tiền lương và trợ cấp. Bản thân Thiệu cũng là người được chia một phần thu nhập béo bở của thủ đoạn làm tiền đó. Mối quan hệ của sĩ quan quân đội Việt Nam cộng hòa với binh lính phản ánh hệ thống làm tiền đó và hệ thống này về phần mình cũng phản ánh mối quan hệ của binh lính với nhân dân.

Còn một vấn đề cũng quan trọng là tính chất đô thị hoặc đô thị hóa của sĩ quan bên cạnh nguồn gốc chủ yếu là nông thôn của binh lính, do đó đã tạo ra một khoảng cách to lớn về thái độ, cách cư xử và giao dịch giữa họ với nhau.

Vấn đề lãnh đạo quân đội cách mạng tất nhiên là hoàn toàn khác vì đó là do những cán bộ chính trị thực hiện. Lầu Năm Góc phân tích tỉ mỉ hệ thống cán bộ và Ran-dơ Coóc-pô-rê-sơn, chịu trách nhiệm về việc phân tích đó đã đưa ra nỗi kinh sợ và khâm phục đối với cán bộ cách mạng. Ran-đơ, chỉ tập trung đánh giá những cán bộ cấp thấp, có quan hệ trực tiếp với binh sĩ thường.

Những cán bộ chính trị trong các lực lượng chủ lực đóng vai trò người cha, người anh, và người bạn đối với binh sĩ. Nhiệm vụ chính của họ là giữ quan hệ giữa các cấp với binh sĩ. Trao đổi, khuyến khích và khêu gợi tình cảm của họ là nhằm giữ một tinh thần cao trong những lúc rất gian khổ và khó khăn. Thuộc nguồn gốc bần nông ở miền Nam, họ không hề có sự cách biệt thành thị nông thôn thường chia rẽ sĩ quan Việt Nam cộng hòa và binh lính. Họ còn có quyền kiểm soát các quyết định quân sự ở cấp cao nhất nếu cần. Điều này làm cho các sĩ quan không thể không lo lắng đến tác động chính trị của hành động họ hoặc đến nhu cầu của binh sĩ họ. Đảng muốn xây dựng một đội quân dựa trên nhưng "nguyên tắc dân chủ" chứ không phải một đội quân hình thức trong đó cấp trên cũng có gặp cấp dưới nhưng lại đâu rồi vào đấy như không có gì xảy ra. Những chỉ thị quân sự của Đảng làm rõ rằng sự giao tiếp là thiết yếu và tuy các sĩ quan phải giữ cho kỷ luật được thực hiện, nhưng nhất thiết không được trở thành "quân phiệt và gia trưởng". Cuối cùng, chính cán bộ phải chịu trách nhiệm toàn bộ quân đội.

Trong giờ làm việc, cấp bậc rất được tôn trọng nhưng sau đó thì họ đối xử với nhau như anh em. Hầu hết xuất thân từ nông thôn, lương tiền và cách sống của họ loại bỏ mọi khác biệt về vật chất đã từng tồn tại trong hàng ngũ quân đội Việt Nam cộng hòa.

Cán bộ tất nhiên là tiến bộ hơn về mặt tư tưởng và phải là cá nhân gương mẫu để binh sĩ có thể kính trọng và noi theo. Cán bộ dám công khai nhận sai lầm để người khác theo đó mà sửa chữa sai lầm của mình. Cán bộ phải kiên nhẫn, biết "thương yêu và quan tâm" đến binh sĩ như người anh hoặc người chú. Cán bộ phải biết hy sinh "đời tư của mình" và các mối quan hệ gia đình cổ truyền để xem các đồng chí của mình như cùng gia đình, vì lợi ích của Cách mạng.

Một khi tính liêm khiết đã được xác nhận trước con mắt của binh sĩ, cán bộ không cần phải dùng đến mệnh lệnh và kỷ luật nữa. Ho hiểu rõ những lo buồn, đơn độc và thiếu thốn của binh sĩ nên tìm mọi cách làm giảm nhẹ một phần bằng cố gắng bản thân nhưng chính là bằng việc xây dựng tình đoàn kết thực sự giữa những người cùng chiến đấu.

Những chuyên gia của Ran-đơ báo cáo với Lầu Năm Góc rằng: Quân đội Việt cộng có vẻ như không có kỷ luật một cách rất đáng ngạc nhiên với quy tắc áp dụng chung là thuyết phục chứ không phải mệnh lệnh, kiên nhẫn chứ không phải hình phạt".


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 10 Tháng Chín, 2008, 03:20:02 pm
HÀNG NGŨ BINH SĨ THƯỜNG

Khi cuộc chiến tranh mới bắt đấu, số lính mới tuyển của quân đội Việt Nam cộng hòa cũng như của các lực lượng Giải phóng nhân dân và của Quân đội nhân dân Việt Nam nói chung khá thuần chất, nhưng lính của Việt Nam cộng hòa càng ngày càng tuyển mộ nhiều từ hàng ngũ dân nghèo thành thị. Sĩ quan của họ chủ yếu là thuộc nguồn gốc đô thị. Ngoài việc đội quân đô thị hóa không quen đánh ban đêm hoặc tiếp xúc có hiệu quả với nông dán, họ còn phụ thuộc một cách điển hình vào việc đi lại bằng xe động cơ. Nhưng vấn đề chính của quân đội Việt Nam cộng hòa, ít nhất theo quan điểm của Mỹ, là vấn đề lấy quân không công bằng một cách nhục nhã. Khi lực lượng quân đội tăng lên, người ta sục vào khắp nơi; nhất là các đô thị để đuổi bắt những người vì yếu quá mà không chạy trốn được. Những người bị cưỡng bức mang theo đầy những thói hư tật xấu của hệ thống đô thị đang trong quá trình tan rã, kề cả những tệ nạn đường phố và mánh khóe bảo mạng cho cá nhân mình. Những lính tuyển từ nông thôn, nhanh chóng học theo thói quen đô thị của đồng đội và nhanh chóng đô thị hóa.

Quân đội giải phóng nhân dân là một đội quân nhỏ hơn nhiều và được lựa chọn kỹ hơn. Họ được giáo dục tốt hơn và thông minh hơn, họ có nhiều quyền lợi nếu Mặt trận Dân tộc Giải phóng thắng. Đó là cơ sở vững chắc cho một quân đội. Cách mạng và Việt Nam cộng hòa xây dựng các lực lượng rất khác nhau.

Tính chất xã hội của quân đội Việt Nam cộng hòa làm cho nó trở thành khác thường bởi vì đó thực sự là một cơ cấu nửa dân sự gồm những binh lính bị cưỡng bức, ngày càng buộc phải tự tìm cách sống sót bằng trí thông minh của chính mình. Ngay khi các nhà lãnh đạo và sĩ quan Việt Nam cộng hòa lợi dụng cơ cấu đó, họ cũng tìm cách một phần biến quân đội chính quy thành một công cụ xã hội với những hậu quả quân sự và chính trị xã hội tai họa.

Khác với các binh sĩ cách mạng, quân đội Việt Nam cộng hòa thường không sống và chiến đấu như một đơn vị xã hội. Vào năm 1968, 23 phần trăm quân đội Việt Nam cộng hòa có thu nhập phụ ngoài quân đội. Những người khác là những lính ma.
Tóm lại họ không phải là những binh lính làm việc trọn ngày. Tất cả thành viên của quân đội Việt Nam cộng hòa phải ở tại ngũ cho đến tuổi 45; do đó 46 phần trăm có gia đình ở gần hoặc ở trong đơn vị. Quân đội Việt Nam cộng hòa để cho phần đông binh lính ở lại vùng tuyển quân của họ do đó mà làm mất tính cơ động, và dự trữ chiến lược của quân đội. Năm 1968, 74 phần trăm lực lượng đã có vợ. Mỗi binh lính có vợ đó, có trung bình 3,9 con. Nói một cách khác năm 1968, vợ và con của lực lượng vũ trang Việt Nam cộng hòa lên đến khoảng 3 triệu người, tức là 17 phần trăm toàn bộ nhân dân miền Nam. Số người sống với vợ hoặc sống gần chồng hoặc cha là trên một triệu và có thể là đến 1,8 triệu. Điều này có nghĩa là thêm vào chiến lược đóng quân tại chỗ quân đội Việt Nam cộng hòa luôn luôn bị níu chặt chân ở trong hoặc gần các căn cứ của họ bởi những người thân mà số lượng còn lớn hơn bản thân quân đội rất nhiều. Và số người khốn khổ, đông đúc đó lại tăng lên sau năm 1968 cả về số lượng tuyệt đối lẫn tăng lên một cách tương đối.

Những quân nhân có vợ từ cấp trung sĩ trở lên có thể sống ở ngoài căn cứ. Điều này giải quyết một số vấn đề tinh thần, nhưng lại tạo ra những vấn đề khác. Nhiều binh lính Việt Nam cộng hòa không ăn chung với nhau và việc nấu ăn chiếm một số quan tâm khác thường của họ. Năm 1968, 42 phần trăm tất cả các đơn vị không có đơn vị phục vụ ăn uống và binh lính phải dành tiền để tự nấu lấy ăn. Phần lớn thì giờ của quân đội được dành cho những việc đại loại như vậy.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 10 Tháng Chín, 2008, 03:21:19 pm
Đối với Cách mạng, việc giữ vững tinh thần trong những điều kiện có những thách thức đáng sợ và những thiếu thốn mọi bề, là vô cùng cần thiết cho sự sống còn và đã trở thành một nhân tố lớn để hình thành cuộc sống của quân đội. Các binh sĩ quan hệ với nhau như "anh em trong một gia đình". Cán bộ thì tìm cách giúp cho binh sĩ vượt những lo sợ cá nhân và làm cho họ thấy được sức mạnh tập thể và đủ sáng suốt để khắc phục những khó khăn. Tự phê bình được khuyến khích và phê bình và tự phê bình thường thay cho các hình phạt quân sự.

Quân đội cách mạng chiến đấu vì một sự nghiệp chính nghĩa. Nhiều nông dân nghèo biết rằng thắng lợi sẽ đưa lại an ninh vật chất và công bằng cho gia đình và thôn xóm họ. Đảng tìm cách làm cho mọi binh lính hiểu rõ điều đó và luôn luôn thừa nhận rằng đội quân hùng mạnh nhất là đội quân có ý thức chính trị rõ rệt.

Cũng rất cần biết là các binh sĩ cách mạng có một ý thức về so sánh lực lượng và về khả năng thắng lợi của mình Người Mỹ rất lấy làm ngạc nhiên là hai phần ba những binh sĩ bị bắt vẫn còn tin là Mặt trận Dân tộc Giải phóng sẽ thắng chiến tranh.

Nhìn chung lại, quân đội cách mạng rất thành công trong việc giáo dục binh sĩ của mình. Những người Mỹ có tiếp xúc với Cách mạng hiểu được kết quả nhưng không hiểu được nguyên nhân. Một thiếu tá các lực lượng đặc biệt Mỹ bị vây tháng 10 năm 1965 thừa nhận rằng những người tiến công anh ta là "những binh sĩ giỏi nhất mà tôi thấy trên thế giới trừ người Mỹ. Tôi muốn biết người ta cho họ uống thứ thuốc gì để làm cho họ chiến đấu như vậy, họ có động cơ cao thượng và dốc lòng một cách tuyệt diệu" (xem Thời báo Niu Yoóc, 26-lO-1965).

Cả hai bên đều có binh sĩ bỏ ngũ. Trong khi Cách mạng chỉ bỏ ra một ít thì giờ vận động binh lính Việt Nam cộng hòa bỏ ngũ thì quân đội Mỹ và Việt Nam cộng hòa dành ra những số tiền lớn cho công tác chiêu hồi của họ. Số đào ngũ của Cộng sản là khoảng 108.000 từ 1965 đến năm 1971, trong đó dưới 200 là sĩ quan cấp cao và dưới 1.000 là nhân viên quân sự trung cấp. Dưới một phần năm là thuộc lực lượng chính quy. Người đào ngũ trung bình là du kích địa phương bình thường có mối bất bình nào đó và, nhiều khả năng hơn, là vì không chịu được sự xa cách gia đình hoặc gian khổ của chiến tranh. Nếu anh ta muốn trở lại quân đội cách mạng sau một thời gian, thì anh ta không gặp khó khăn gì và nhiều người đã làm như vậy.

Trước những nguy hiểm to lớn hơn nhiều và những khó khăn hàng ngày, việc binh sĩ cách mạng ít đào ngũ nói lên sự hiệu quả của tổ chức và mục tiêu cách mạng đồng thời nói lên khả năng của Cách mạng giữ cho người mình ít bị căng thẳng do cuộc xung đột kéo dài.

Bắt đầu từ năm 1967, Cách mạng cho một số người "liên minh" và tham gia các đơn vị của dân quân Việt Nam cộng hòa hoặc tham gia một số chức vụ ở đô thị. Cuối năm 1970, Mỹ xem những vụ "đào ngũ" giả đó là một đe dọa ngày càng tăng.

Đào ngũ luôn luôn là một vấn đề nghiêm trọng hơn nhiều đối với Việt Nam cộng hòa; phải chăng vì những người đào ngũ vẫn còn trong danh sách số quân và các sĩ quan tiếp tục lãnh lương của họ? Nhưng điều quan trọng là không ai biết được số quân trong đơn vị khi đưa đơn vị đi chiến đấu. Số đào ngũ trong quân đội chính quy nhiều hơn nhiều so với lực lượng địa phương và dân quân vì số này sống gần nhà của họ. Và sự đào ngũ thường xảy ra trước mùa chiến đấu, nghĩa là vào lúc cần họ nhất. Số lượng đào ngũ rất lớn 113.000 năm 1965 và 138.000 năm 1972, đưa tổng số lên gần một triệu trong khoảng thời gian đó. Nhìn chung lại thì trung bình trong mỗi năm quân đội Việt Nam cộng hòa mất đi 30 phần trăm lực lượng chiến đấu vì đào ngũ.

Ngoài việc lãnh đạo tồi và huấn luyện kém, các tiểu đoàn Việt Nam cộng hòa trong suốt cuộc chiến tranh đi vào chiến đấu với số quân ít đi 25 phần trăm so với số quân chính thức được có. Số quân đào ngũ và bị thương vong luôn luôn bị báo cáo thấp đi. Và khi cuộc chiến tranh tiến triển thì vấn đế đào ngũ tăng theo và sức chiến đấu lại vì nó mà giảm sút. Nếu kể cả quy mô quân đội của hai bên thì tỷ lệ đào ngũ của toàn các lực lượng vũ trang Việt Nam cộng hòa luôn luôn là từ hai đến ba lần tỷ lệ đào ngũ của Cách mạng. Nhưng nếu chỉ lấy những đơn vị chiến đấu chính quy thì tỷ lệ đó ít nhất là 20 lần hoặc lớn hơn, đôi khi còn gấp đôi con số đó. 


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 11 Tháng Chín, 2008, 11:41:03 pm
Chương hai mươi mốt
NHỮNG PHẢN ỨNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN ĐỐI VỚI CHIẾN TRANH TỔNG LỰC

Đảng Cộng sản ở Việt Nam tồn tại với tư cách vừa là một nhà nước ở bắc vĩ tuyến 17 vừa là một phong trào kháng chiến ở nam vĩ tuyến đó. Khả năng của Đảng tiến hành cuộc chiến tranh phản ánh chỗ mạnh và chỗ yếu ở miền Nam cũng như quyền lực của bộ phận Đảng ở miền Bắc tức là bộ phận lãnh đạo chiến tranh. Miền Bắc luôn luôn được tuyên bố là hậu phương lớn của cuộc chiến tranh ở miền Nam và khi các hàng ngũ Mặt trận Dân tộc Giải phóng bị mỏng đi, thì Việt Nam dân chủ cộng hòa cam kết cung cấp nhân lực và vật lực cần thiết để tiếp tục cuộc đấu tranh chung.

Trước kia trong cuộc chiến tranh chống Pháp, Đảng đã thắng lợi bởi vì Đảng biết phát hiện và sử dụng những vấn đề xã hội và chính trị để động viên quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Những việc làm quan trọng nhất của Đảng lúc đó là cải cách ruộng đất và quyết tâm thành lập một Đảng lớn mạnh của giai cấp vô sản trong một quốc gia không có giai cấp công nhân.

Một số vấn đề mà Đảng phải đối phó trong đầu những năm 1960 cũng không khác gì về chất với những vấn đề của thập kỷ trước. Mối tác động qua lại giữa Đảng và quần chúng nhân dân là động lực của Cách mạng cho đến khi Mỹ xâm lược ào ạt miền Nam và đó cũng vẫn là công thức để giành thắng lợi trong phần còn lại của cuộc chiến tranh.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 11 Tháng Chín, 2008, 11:41:44 pm
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA VÀ SỰ HUY ĐỘNG QUẦN CHÚNG

Biết rằng tài năng, nghị lực và sự cam kết của nhân dân có thể đưa lại thắng lợi cho chiến tranh, Đảng tiếp tục điều mà họ gọi là "đường lối quần chúng".

Đảng luôn luôn chủ trương gần gũi quần chúng và tìm hiểu dư luận của họ. Đường lối quần chúng cũng bao gồm việc thành lập một Đảng quần chúng, làm giảm bớt tính riêng biệt của Đảng. Sau năm 1965 "đường lối quần chúng" là một vấn đề phân bớt quyền lực và trách nhiệm xuống dưới để cho cố gắng chiến tranh thêm hiệu quả . . .

Chính sách của Đảng đối với quần chúng là chìa khóa cho hai khía cạnh cốt yếu của cuộc chiến tranh. Một là vai trò của Đảng trong việc động viên nhân dân dành hết thì giờ và nếu cần hiến dâng cả cuộc đời mình để bảo vệ đất nước. Đảng biết rõ rằng nếu không có sự cần cù làm việc hết giờ này qua giờ khác của nhân dân dưới những điều kiện vô cùng thô sơ, sau khi phải đứng gác máy bay, nếu không có những hy sinh như vậy thì chiến tranh sẽ thất bại. Tiếp theo là, Đảng được mở rộng nhanh chóng không thể một mình làm chủ được những trách nhiệm quản lý mới của toàn bộ cuộc đấu tranh. Và quần chúng có khả năng tốt nhất để giúp Đảng theo dõi và kiềm chế những đảng viên quá mới.

Đường lối quần chúng và sự động viên của Việt Nam dân chủ cộng hòa tỏ ra là một phương pháp rất có hiệu quả và nếu không làm được như vậy thì sự sống còn của Việt Nam dân chủ cộng hòa sẽ bị nguy hại hay ít ra sẽ không đủ khả năng để duy trì cuộc chiến tranh ở miền Nam. Lý thuyết và thực hành được tổng hợp lại và giúp cho việc giảm đến mức tối thiểu ở Việt Nam nạn quan liêu rất rõ trong các đảng mác-xít lê-nin-nít cầm quyền khác. Vào năm 1968, dù cho những nhược điểm và những mâu thuẫn có thế nào đi chăng nữa, Việt Nam dân chủ cộng hòa đã thành một xã hội nhất thể hóa ở mức cao, lấy sự nhất trí của quần chúng làm cơ sở.

Cán bộ và đảng viên ở miền Nam ít khi cần phải được nhắc nhở về mối quan hệ với quần chúng. Chính quần chúng, chứ không phải những cán bộ Đảng đã tạo ra sự tiếp xúc với nhau và sự tiếp xúc này là rất cần thiết cho sự sống còn của cán bộ, đảng viên. Quan hệ với quần chúng là lẽ sống của họ. Vì vậy sự trung thành và kiên trì của họ trong những lúc quần chúng tương đối ít hoạt động và cuộc chiến tranh trở nên nguy hiểm nhất đặc biệt thời gian 1969-1972, là một kỳ công của con người, rất thiết yếu cho thành công của Cách mạng và cho kết quả của chiến tranh.

Mục tiêu của giới lãnh đạo Đảng ở Việt Nam dân chủ cộng hòa là đào tạo cho được những cán bộ mới xứng dáng với nhân dân miền Nam đã trưởng thành một cách kỳ lạ và giữ cho những cán bộ cũ đã từng có những thành tích xứng đáng trước năm 1955 không để mất đức tính vô cùng quý giá đó. Các cán bộ phải nâng cao chất lượng và hiểu biết của họ, phải luôn học tập và nhất là phải sẵn sàng đặt lợi ích của Cách mạng lên trên mọi ý muốn cá nhân.

Các đảng viên lúc ban đầu đầu là con em giai cấp tiểu tư sản, trí thức và nông dân và thuộc các gia đình khá giả theo mức của Việt Nam. Tàn dư chủ nghĩa cá nhân của các giai cấp đó vẫn tồn tại và tuy Đảng không cho rằng nguồn gốc giai cấp định trước số phận của con người, nhưng Đảng cũng không thể tùy tiện gạt nó đi. Đảng áp dụng phê bình và tự phê bình để rèn luyện đảng viên. Tuy Đảng có nhiều cách kết nạp đảng viên, nhưng Đảng vẫn xem xét đề nghị và đánh giá của quần chúng, xem đó cũng là một biện pháp quan trọng. Vào cuối những năm 1960 Đảng nhận ra khuyết điểm đã không kết nạp nhiều phụ nữ hơn trong khi phụ nữ đóng một vai trò ngày càng lớn trong lực lượng lao động.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 11 Tháng Chín, 2008, 11:42:39 pm
GIÁ TRỊ VÀ TƯ CÁCH ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG VỚI SỰ THAY ĐỔI XÃ HỘI

Đối với các nhà lãnh đạo Cách mạng, chìa khóa tối hậu cho thắng lợi của Đảng và cho việc đạt được chủ nghĩa xã hội là khả năng đào tạo được những người xã hội chủ nghĩa, cả nam lẫn nữ, có động cơ tốt, có ý thức về vai trò của mình và sẵn sàng lãnh đạo người khác bằng tấm gương và tri thức cá nhân của mình. Không có những con người như vậy Đảng sẽ không thành công. Vậy, đạo đức cách mạng, chủ nghĩa anh hùng, chủ nghĩa lạc quan cách mạng là gì? Nhân cách và đạo đức cách mạng cuối cùng là sự sẵn sàng hy sinh, từ cách sống hằng ngày mà người đảng viên tự chọn cho mình đến sự sẵn sàng tối hậu chết cho sự nghiệp.

Các nhà lý luận Đảng phân biệt đạo đức xã hội chủ nghĩa với những rơi rớt lại của đạo Khổng mà họ cho là phản động. Họ cũng xem chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi là phản động và tự cho mình đi theo phong trào "yêu nước", một bộ phận không thể tách rời của cách mạng vô sản quốc tế. Không bao giờ họ dùng những khẩu hiệu sô-vanh hoặc bài ngoại để huy động quần chúng.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 11 Tháng Chín, 2008, 11:43:08 pm
XÁC ĐỊNH MỘT HỌC THUYẾT CÁCH MẠNG VIỆT NAM ĐỘC LẬP

Ngoài những khác nhau rõ rệt so với các Đảng Cộng sản khác, có một thực tế quan trọng hơn là Đảng Việt Nam là đảng duy nhất lên cầm quyền mà sau đó không có nhiều chính sách khác biệt nhau và mâu thuẫn nhau một cách cơ bản làm cho Đảng mất tín nhiệm đối với các nhà lãnh đạo chủ chốt. Đảng Việt Nam gạt bỏ "cách lập luận máy móc và cứng đờ" để nắm tốt hơn những thực tế cách mạng.

Vào giữa những năm 1960, Đảng đã thành công trong việc nghiên cứu sâu các vấn đề phải đối phó về mặt kinh tế quân sự và tư tưởng, và đã phát triển được một chính sách gồm cả ba mặt đó. Điều đáng chú ý là cách lý giải và đánh giá mình và đánh giá kẻ thù của mình. Đảng đã tổng hợp một loạt những nguyên tắc và niềm tin làm cho cán bộ và nhân dân dung hòa được tính lạc quan với thực tế để hành động và hy sinh một cách có lý trí và đoàn kết xã hội. Nhưng Đảng không chủ quan xuất phát từ những tham vọng riêng của mình, trái lại tất cả các điều Đảng đưa ra đều được gắn với những phân tích duy vật ở mức độ cao. Nhìn toàn bộ, những nhận thức như vậy sản sinh ra một học thuyết nhất quán và một loạt những mục tiêu làm thay đổi một cách rất quyết định tính chất của những khả năng lịch sử, đưa lại thắng lợi chứ không phải thất bại.

Cách phân tích của Đảng là nhằm vào đánh giá so sánh lực lượng, gồm việc cân nhắc những mâu thuẫn trong nội bộ phe địch, để đánh giá chỗ yếu của mình và chỗ yếu của Mỹ và bối cảnh quốc tế của Mỹ cũng như hành động của mình. Những đánh giá như vậy đưa lại một cơ sở rất thuyết phục cho tính lạc quan cách mạng và biến nó thành hành động để ảnh hưởng nhiều hơn nữa đến cán cân lực lượng trong tương lai...


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 11 Tháng Chín, 2008, 11:43:46 pm
KHÁI NIỆM CỦA ĐẢNG VỀ TỔNG KHỞI NGHĨA

Trong Cách mạng tháng Tám, Đảng Việt Nam lên nắm quyền nhanh chóng chính là vì cuộc đấu tranh ở đô thị và nông thôn đã được kết hợp với nhau trong một tình hình thuận lợi một cách khách quan.

Trong chiến tranh Đảng tin rằng "hình thức cao nhất của sự kết hợp là giữa tổng công kích và tổng khởi nghĩa” nghĩa là một sự kết hợp giữa khu vực thành thị và khu vực nông thôn và giữa quân sự và chính trị. Các cách đánh khác nhau của các lực lượng giải phóng nhân dân vào năm 1967 dã phân tán Mỹ và quân đội Việt Nam cộng hòa trên khắp đất nước, làm cho họ dễ bị một cuộc tiến công ào ạt ở nơi và lúc mà Cách mạng chọn ra, kể cả khu vực đô thị. Xét về mặt cân bằng quân sự và nội dung chính trị, từ năm 1966, sự kết hợp giữa tổng công kích và tổng khởi nghĩa là phương tiện tối hậu (chứ không phải độc nhất) của Đảng khi tính đến tính chất đô thị hóa của Việt Nam cộng hòa, khâu yếu nhất của cố gắng Mỹ. Khởi nghĩa và tiến công tác động với nhau, trùng lặp lên nhau, tự xây dựng cho mình để tiến tới và lợi dụng sự phân tán của dịch.

Tổng công kích và tổng khởi nghĩa có thể là đồng thời hoặc nối tiếp nhau. Không nhất thiết nó phải đưa lại thắng lợi cuối cùng nhưng ít nhất sẽ đánh vào "ý chí" của Mỹ và làm tổn hại nghiêm trọng quân đội Việt Nam cộng hòa, chuẩn bị điều kiện cho sự "sụp đổ hoàn toàn” của quân đội đó. Đảng xem khái niệm đó là một công thức linh động, được áp dụng một cách sáng tạo tùy theo các hoàn cảnh và mở ra khả năng có thể thúc đẩy những sự kiện tự phát. Tiền đề của nó cuối cùng là không có khác biệt nông thôn và thành thị, là các đô thị vào cuối những năm 1960 sẽ cơ bản không khác những đô thị vào giữa những năm 1940 và những cuộc khủng hoảng xã hội và kinh tế của các đô thị sẽ thức tỉnh những người bị thiệt thòi và đưa lại những hình thức chống đối thích hợp.

Tình hình các đô thị miền Nam trong những năm 1960 có khác so với tình hình của miền Bắc bị nạn đói kinh khủng của những năm 1944-1945, là lúc mà Đảng đã đưa lại biện pháp để khắc phục nạn thiếu lương thực. Nhưng đồng thời cũng có những giống nhau. Trong những năm 1963-1966 những cuộc khủng hoảng chính trị đô thị đã làm cho những cuộc tiến công của Mặt trận Dân tộc Giải phóng thêm thuận lợi bằng cách buộc Việt Nam cộng hòa rải quân đội của mình mỏng ra khắp nơi. Tóm lại các cuộc đấu tranh đô thị không phải là những sự kiện từ ngoài đưa vào và Đảng thấy rõ tầm quan trọng của chúng đối với cố gắng của Đảng. Vào năm 1967, nhìn một cách khách quan thì các đô thị đã chín muồi cho sự thay đổi và Đảng muốn lãnh đạo công cuộc đó. Một cuộc khởi nghĩa có thể làm nổi lên những mâu thuẫn tiềm tàng của Việt Nam cộng hòa, phá hủy sức mạnh của nó trong các đô thị và gạt bỏ chỗ dựa thiết yếu của toàn bộ cố gắng Mỹ.

Sự phức tạp của kinh nghiệm đô thị và tình hình dân cư trong chiến tranh vừa thách thức vừa có lợi cho Cách mạng. Cuối cùng Việt Nam cộng hòa đòi hỏi phải có số tiền khổng lồ cho sự tồn tại và ổn định của mình mà, nếu không có nó thì Mỹ chỉ có trong tay một cơ cấu xã hội kinh tế bị bóp méo một cách không thể tha thứ được. Còn Mặt trận Dân tộc Giải phóng, dù có bị cản trở thế nào đi nữa, vẫn có cách để sống sót vô thời hạn. Mỹ tạo ra một Nam Việt Nam đô thị hóa để làm một thách thức cho Cách mạng, nhưng việc đó có thể đưa lại sự sụp đổ của Việt Nam cộng hòa. Vấn đề thực sự không phải là liệu Mặt trận Dân tộc Giải phóng có thể nắm quyền trong các đô thị hay không mà là Việt Nam cộng hòa có thể sống sót được bao lâu xét về gánh nặng chính trị và kinh tế đang đè lên vai nó. Các sự kiện quân sự do đó có thể tác động đến tốc độ mà Oa-sinh-tơn và Sài Gòn phải sử dụng để đối phó với những khó khăn và mâu thuẫn nói trên.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 11 Tháng Chín, 2008, 11:45:37 pm
Chương hai mươi hai
TÁC ĐỘNG KINH TẾ CỦA CHIẾN TRANH ĐỐI VỚI MỸ

Về mặt quân sự và chính trị, Việt Nam và trước hết Đông Nam Á, tạo thành một thử thách trọng yếu đối với Mỹ với tư cách là một cường quốc đế quốc đang tìm cách áp đặt bằng quân sự bá quyền địa lý chính trị và kinh tế của mình lên các phát triển chính trị, kinh tế và xã hội chính trên khắp Thế giới thứ ba. Tuy nhiên, vào năm 1965, cơ sở kinh tế cho chủ nghĩa đế quốc Mỹ ở Đông Nam Á đã tạo ra chính những mâu thuẫn tai họa của nó và những mâu thuẫn đó tỏ ra là quyết định trong việc gây ra thất bại, khi mà về mặt quân sự, Mỹ dường như còn khả năng đạt được thắng lợi.

Cuộc leo thang của Mỹ ở Việt Nam đến vào lúc gay go không những trong việc Mỹ xác định chiến lược quân sự và chính trị toàn cầu mà còn trong nền kinh tế trong nước và quốc tế tạo ra một căng thẳng cơ bản cho chính quyền Giôn-xơn ngay từ khi bắt đầu sự can thiệp. Sự can thiệp của Mỹ vào bốn cuộc chiến tranh trước từ năm 1898 đã bắt đầu vào lúc mà nền kinh tế đang trong một cuộc suy thoái hoặc vừa mới thoát ra từ một thời kỳ công suất sản xuất rất thấp; cùng với việc đạt những mục tiêu quân sự và chính trị của đất nước, các cuộc chiến tranh đó đã tạo ra sự phồn vinh cao hơn và gây ra ít, hoặc không có những thách thức cơ cấu cho nền kinh tế. Thời điểm như vậy củng cố đà tiến đằng sau vai trò toàn cầu của Mỹ, làm cho mô hình của chủ nghĩa đế quốc Mỹ được khẳng định với sự chống đối chính trị ở mức tối thiểu từ các phe phái quan trọng trong tầng lớp kinh tế lớp trên và trong xã hội. Hầu hết những người này đều có lợi trong cuộc chiến tranh.

Cuộc can thiệp ào ạt năm 1965 bắt đầu vào lúc có giai đoạn phát triển dài nhất trong nền kinh tế sau chiến tranh của Mỹ. Bắt đầu từ năm 1961, nghĩa là khá lâu trước khi được các chi tiêu ở Đông Nam Á thúc đẩy, giai đoạn phát triển đó kéo dài cho đến năm 1969. Trong bối cảnh như vậy tăng ngân sách quân sự chỉ tăng thêm lạm phát. Trái lại với việc tạo ra thỉnh vượng, nó chỉ làm hại cho thịnh vượng. Về mặt quốc tế, Mỹ rất dễ bị tổn thương. Mỹ tìm cách đóng vai trò ổn định cơ cấu kinh tế thế giới được hướng vào việc phục vụ cho sức mạnh đồng đô-la, trong khi, một mặt nó xuất khẩu vốn đầu tư và hàng hóa và mặt khác thì lại chịu những tổn thất và chi tiêu rất tốn kém về mặt chính trị và quân sự có tác hại lớn cho vai trò kinh tế của nó trên thế giới.

Vào cuối những năm 1950, đồng đô-la vẫn còn là đơn vị cơ sở của mậu dịch quốc tế. Đô-la và vàng làm cơ sở cho phần lớn các đồng tiền của thế giới tư bản, ngay khi các nền kinh tế nước ngoài phát triển vượt bậc và bắt đấu chiếm tỷ lệ lớn hơn về mậu dịch quốc tế và sản xuất công nghiệp thế giới. Vị trí đồng đô-la còn có thể ổn định chừng nào nền kinh tế Mỹ còn được quản lý một cách khôn khéo và điều đó đòi hỏi rất nhiều việc phải làm, từ tránh lạm phát và thâm hụt ngân sách cho đến phải có một cán cân thanh toán thuận lợi.

Với một ý nghĩa nhất định, chính sự thành công của Mỹ trong việc nhất thể hóa nền kinh tế thế giới sau chiến tranh quanh hệ thống Brét-tơn Út và đồng đô-la, đã đưa lại cho các nước tư bản chính khác một vai trò tiềm tàng trong việc kiểm soát và thúc ép những hậu quả kinh tế của chính sách quân sự và chính trị của Oa-sinh-tơn. Bởi vì, một mức độ kiểm soát toàn bộ chính sách của Mỹ trên thế giới, đã được mặc nhiên chuyển cho họ. Đó là điều mà chính quyền Mỹ chưa nhận thức ra khi đi vào leo thang chiến tranh ở Việt Nam. Nó gây ra sự chia rẽ tế nhị trong các giới cấp cao của chủ nghĩa tư bản Mỹ, giữa những người biết rõ những đòi hỏi cấp thiết của vai trò đồng đô-la trên thế giới và ảnh hưởng của nó đối với chính sách quân sự và chính trị và những người không biết hoặc không quan tâm đến các vấn đề đó.

Ngay từ năm 1959 Giô- dép M.Đốt-giơ, nhà ngân hàng, một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất về chính trị và kinh tế sau chiến tranh, đã kết luận rằng chỉ còn là vấn đề thời gian thôi trước khi sự ổn định của đồng đô-la bị giảm sút nghiêm trọng: "Câu hỏi thực sự là: bao lâu nữa?...". Các đồng tiền nước ngoài khác đang trở nên mạnh hơn và chuyển đổi được và sau năm 1957 các nước tư bản chính bắt đầu bớt tín nhiệm đối với đồng đô-la và đòi đổi lấy vàng. Với dự trữ vàng gần 23 tỷ đô la năm 1957, chỉ còn 16 tỷ cuối năm 1962.

Vào đầu những năm 1960, sự kiểm soát tiềm tàng của thế giới tư bản phương Tây đối với những hậu quả kinh tế của các chính sách kinh tế và quân sự của Mỹ cho thấy một sự thay đổi quan trọng trong cán cân lực lượng thế giới. Sự giảm sút về tỷ trọng của Mỹ trong thương mại thế giới, từ 48 phần trăm năm 1948 xuống 25 phần trăm năm 1964 và 10 phần trăm năm 1969 đã làm cho bá quyền của đồng đô- la trở thành một điều thất thường do điều kiện thời chiến để lại.

Chiếm ưu thế ngay từ lúc ban đầu bởi vì Chiến tranh thế giới thứ hai đã vừa tàn phá các đối thủ tư bản của Mỹ, vừa để cho Mỹ quyền tự do chỉnh đốn hệ thống tài chính thế giới, nhưng đến đầu những năm 1960, Mỹ khó mà có thể tiến hành một cuộc chiến tranh dù chỉ có thể làm đảo lộn tình thế một phần. Ngay dù cho những người quyết định leo thang không biết những thực tế đó, họ không thể tránh khỏi những hậu quả cuối cùng của hành động họ. Gioóc-giơ Bon, người thuộc phái "bồ câu" duy nhất trong bọn họ, cũng là người duy nhất lo lắng về những hậu quả kinh tế quốc tế của chiến tranh.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 11 Tháng Chín, 2008, 11:46:25 pm
PHÍ TỔN CỦA CHIẾN TRANH VÀ THẾ TIẾN LUI ĐỀU KHÓ CỦA NỀN KINH TẾ TRONG NƯỚC

Việc Mỹ không thừa nhận những giới hạn của sức mạnh kinh tế của mình và mối quan hệ của sức mạnh đó với chính sách quân sự và ngoại giao của Mỹ, chắc chắn không những chỉ xảy ra trong giữa những năm 1960 mà ngày nay vẫn còn là một vấn đề cơ bản gây rắc rối cho chủ nghĩa đế quốc Mỹ. Một quốc gia còn khó thừa nhận những yếu kém của mình hơn là một cá nhân bởi vì các quốc gia thường có những lợi ích mâu thuẫn nhau và có đầy đủ biện pháp để chần chừ.
Năm 1965, Mỹ rơi vào một tình trạng kinh tế rắc rối, phức tạp đi đến một thế bế tắc và chỉ với một thắng lợi nhanh chóng mới khỏi bị biến thành một cuộc đấu tranh quân sự và chính trị kéo dài mà tổn phí kinh tế quá lớn sẽ làm tăng nhanh thất bại của Mỹ.

Dù cho Mỹ tiến hành cố gắng chiến tranh của mình như thế nào đi chăng nữa, chiến lược quân sự của họ trong chiến tranh hạn chế vào giữa những năm 1960 chắc chắn là rất tốn kém. Gần một nửa chi tiêu chiến tranh là dành cho hoạt động không quân, đó là chưa kể tốn kém to lớn cho hỏa lực cao... Mỹ đã dùng phương pháp tốn kém nhất khi Mác Na-ma-ra đưa ra cho các tướng một séc trắng tháng 3 năm 1965.

Vào đầu năm 1968, khoảng 700.000 tấn vật liệu xây dựng được tích trừ ở Nam Việt Nam trong đó "tất cả đúng là hư hỏng tại chỗ", như một tướng phụ trách công nhận lúc đó. Tấm séc trắng bao gồm vô số chi tiêu khác mà Lầu Năm Góc bày ra cho chiến tranh Việt Nam để xin thêm tiền Quốc hội.

Mác Na-ma-ra tìm đủ mọi cách để che giấu chi tiêu của chiến tranh cho nên cuối cùng không thể kiểm soát được chúng. Cho đến ngày nay con số chi tiêu chính xác vẫn còn là một bí ẩn, trừ một điểm, đó là chiến tranh quá tốn kém cho điều kiện trong nước cũng như quốc tế của nền kinh tế Mỹ. Oa-sinh-tơn tìm mọi lý lẽ chính trị để lừa dối Quốc hội và công chúng về những chi tiêu thực sự và, do đó mà họ tự dối mình vì không còn làm chủ được đồng tiền làm cho chương trình kinh tế của chính quyền bị thất bại. Đơn đặt hàng quân sự và các hợp đồng tăng gấp đôi giữa năm 1965 và 1967 và chi tiêu chiến tranh chính thức ghi trong ngân sách đã tăng từ 5,8 tỷ đô-la năm tài chính 1966 lên 20,1 tỷ năm sau và 26,5 tỷ năm 1968.

Tình hình chi tiêu bừa bãi này gây nguy hại cho chương trình xã hội vĩ đại trong nước của Tổng thống. Thế nhưng cuối năm 1965, Giôn-xơn làm ngơ trước lời nhắc nhở của Hội đồng cố vấn kinh tế rằng chi tiêu chiến tranh đòi hỏi phải tăng thuế nếu không muốn có thâm hụt ngân sách lớn. Chính vì lý do chính trị mà Tổng thống muốn hoãn tăng thuế cho đến sau cuộc bầu cử tháng 11 năm 1966. Nhưng từ năm 1967 cho đến giữa năm 1968, chính quyền Mỹ không thể vận động được Quốc hội thông qua một đạo luật tăng thuế cho nên chương trình xã hội vĩ đại bị thiệt hại nghiêm trọng, còn thắng lợi ở Việt Nam thì xa vời hơn bao giờ hết và nền kinh tế thì đi vào giai đoạn phức tạp nhất của lịch sử Mỹ kể từ trước Chiến tranh thế giới thứ hai.

Trước tiên là thâm hụt ngân sách: 3,8 tỷ đô-la trong năm tài chính 1966, 8,7 tỷ năm sau và con số 25,2 tỷ rất kỳ lạ năm 1968, lớn hơn nhiều so với bất kỳ năm nào từ sau 1945 và chiếm 3 phần trăm toàn bộ tổng sản phẩm quốc dân. Từ năm 1965 trở đi công suất sử dụng của công nghiệp chế tạo đạt điểm cao nhất trong thời kỳ sau chiến tranh, sản lượng công nghiệp tăng lên đến điểm giới hạn, tăng 23 phần trăm giữa năm 1964 và 1967. Tỷ lệ chi tiêu của Lầu Năm Góc so với chỉ tiêu của chính phủ đã tăng rất mạnh, tất cả là vì Việt Nam. Kết quả không tránh khỏi là lạm phát.

Do có thời gian dài đầy đủ công ăn việc làm và sản xuất cao, bắt đầu từ năm 1961, không thể tránh khỏi rằng lãi suất cao hơn mà chính phủ phải trả để bù cho thâm hụt ngân sách và cho nền kinh tế quá căng thẳng, xô đẩy giá cả lên. Đỉnh cao của tăng giá là 6,1 phần trăm năm 1969 và tình hình này mở đầu cho sức ép lạm phát đánh vào nền kinh tế Mỹ kể từ đó.
Chỉ 1,3 phần trăm trong thời kỳ 1960-1965, sự tăng giá đó trung bình là 4,5 phần trăm trong 5 năm tiếp theo. Và vì lạm phát và vì nhu cầu lớn về lao động, phụ nữ đổ vào lực lượng lao động. Nhu cầu về hàng tiêu dùng cũng tăng lên. Hiệu quả của công nghiệp chế tạo giảm mạnh sau năm 1965, tăng năng suất tính theo giờ lao động là thấp nhất so với các nước tư bản lớn.

Mặc dù giá của một đơn vị lao động tăng lên, nhưng thu nhập thực tế của công nhân tăng cho đến năm 1969 và rồi, lần đầu tiên trong lịch sử sau chiến tranh, bắt đầu dao động mạnh để cuối cùng giảm xuống một cách chưa từng có trong thế kỷ này.

Chỉ sự đa dạng của các vấn đề cơ cấu kinh tế của Mỹ vào năm 1968 đã làm cho mọi người lo sợ. Và nguyên nhân là rõ ràng cho tất cả mọi người còn có thể phân tích vấn đề A-lan Xprao, nguyên chủ tịch hùng mạnh của Ngân hàng dự trữ liên bang ở Niu Yoóc tâm sự với một người bạn tháng 2 năm 1968: "Sự dính líu của chúng ta vào lục địa châu Á... là trung tâm của các khó khăn chính trị, xã hội và kinh tế trong nước và trên quốc tế của chúng ta" (xem Lawrence S.Ritter. ed. Selected papers of Allan Sproul, Niu Yoóc, 1980, tr. 20).


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 11 Tháng Chín, 2008, 11:47:03 pm
NHỮNG HẬU QUẢ KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA CHIẾN TRANH

Tác động chính trị và kinh tế của chiến tranh đối với nền kinh tế trong nước có thể hòa hoãn được bởi vì chính quyền thao túng tin tức và bởi vì Quốc hội còn tiếp tục ủng hộ những mục tiêu chiến tranh, nhưng đối với nền kinh tế thế giới thì không thể có hoàn cảnh như vậy được. Đồng đô la, tuy yếu hơn về mặt cơ cấu vẫn còn là một cơ sở được đánh giá quá cao cho mậu dịch và tài chính thế giới. Sự đánh giá quá cao đó đã đẩy nhanh đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Mỹ khi mà các công ty nhiều nước của Mỹ mua những bộ phận to lớn phương tiện sản xuất của châu Âu. Từ 33 tỷ đô-la năm 1960, đầu tư trực tiếp của Mỹ tăng 22 tỷ đô la trong 6 năm tiếp theo và lên đến con số 78 tỷ đô-la năm 1970. Đồng thời hàng xuất của Mỹ được định giá quá cao và hàng nhập định giá quá thấp đã tăng gấp đôi từ năm 1960 đến năm 1969, xóa sạch cán cân thương mại dư thừa sau chiến tranh và tạo ra một vấn đề cán cân thanh toán nghiêm trọng.

Trong khi quy mô của thâm hụt đó là một vấn đề kỹ thuật phức tạp, tác động của nó đối với chính trị lại không phải đơn giản như vậy. Từ 1968 đến 1972 đã xảy ra một thâm hụt dài nhất và lớn nhất sau chiến tranh. Thâm hụt cán cân thanh toán tăng từ 3,3 tỷ đô-la năm 1964 lên 9,4 tỷ năm 1968, con số lớn hơn nhiều con số mà Oa-sinh-tơn báo cáo. Dù cho con số là như thế nào, số lượng đô-la nằm trong tay nước ngoài tăng lên rất mạnh làm cho lợi ích các nước châu Âu càng gắn liền với sự ổn định của đồng đô-la.

Vào mùa thu năm 1966, Đơ-glat Đi-lon, Đa-vít Rô-cơ-phe-lơ và những cố vấn hàng đầu của cộng đồng ngân hàng về các vấn đề tiền tệ thế giới đều thấy rõ vai trò của chiến tranh gây ra tối thiều là ba phần tư những thâm hụt quân sự ở ngoài nước. Họ không nghi ngờ gì về sự bào chữa chính trị cho cuộc chiến tranh nhưng họ đòi chiến tranh không được làm đảo lộn thêm nữa các vấn đề cán cân thanh toán của đất nước. Vấn đề là không có cách nào vừa tiến hành chiến tranh vừa không để xảy ra những hậu quả kinh tế. Tuy họ có thể tiếp xúc với phần đông các cơ quan quan trọng của chính quyền, nhưng những nhà ngân hàng đó chỉ tập trung thuyết phục Bộ ngân khố xem xét nghiêm chỉnh vấn đề tài chính bên cạnh những nhân tố chính trị và quân sự

Mặc dù các nhà ngân hàng châu Âu để cho Oa-sinh-tơn có thì giờ trong năm 1966 để chấn chỉnh công việc của mình, nhưng vào giữa năm 1967 thì họ hoàn toàn thấy rõ rằng lạm phát và thâm hụt đã gây tác hại như thế nào cho giá trị số đô-la nằm trong tay họ. Nhưng bởi vì họ cũng vậy cũng có lợi ích trong việc bảo vệ đồng đô-la chừng nào nó còn có thể là một đồng tiền trung gian tốt hơn cho mậu dịch và tài chính, nên từ năm 1965 họ đã hợp tác với hội vàng của tám nước và với các sắp xếp tập thể khác để bảo vệ mối quan hệ giữa giá vàng và giá trị đồng đô-la. Việc Oa-sinh-tơn không cứu chữa được căn bệnh của mình làm cho tương lai của hội vàng và của vàng rất khó khăn, khi Pháp rút khỏi tổ chức đó tháng 7 năm 1967. Vấn đề cơ bản vào lúc này là tuy đồng đô-la đã bị yếu đi nhưng vẫn còn được vàng chính thức bảo đảm và có thể bị các ngân hàng trung ương đòi chuyển đổi bằng vàng. Trong khi đó thì các thâm hụt làm cho đô-la chạy ra ngoài nước Mỹ vì lạm phát làm giảm nghiêm trọng sức mua của nó và rõ ràng là toàn bộ hệ thống tài chính thế giới lấy đồng đô-la làm cơ sở, ngày càng dễ bị ảnh hưởng của một cuộc săn vàng.

Ngày 17 tháng 11 năm 1967, Anh giảm giá đồng bảng Anh sau nhiều tháng gặp khó khăn và kéo toàn bộ chính quyền Mỹ vào một vấn đề phức tạp rất ảnh hưởng đến nền kinh tế Mỹ. Sự phá giá của Anh gây ra một cuộc săn vàng của hội và vào giữa tháng 12, 1,5 tỷ đô-la vàng đã được rút ra, 60 phần trăm của số này là rút từ dự trữ vàng của Mỹ, làm cho nó giảm thêm 1,2 tỷ đô-la nữa năm 1967. Dự trữ vàng hầu như bị vét rỗng cho những mục tiêu của hội vàng mà thành viên rất quan tâm đến sự xấu đi nghiêm trọng của cán cân thanh toán Mỹ trong quý 4 của năm 1967. Vào giữa tháng 12 sáu đồng minh của hội vàng sẵn sàng giải tán hội và giao cho Mỹ tự giải quyết lấy khó khăn của mình, Nhà Trắng buộc phải công khai đương đầu với vấn đề kinh tế nóng bỏng của cuộc chiến tranh Việt Nam.   


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 11 Tháng Chín, 2008, 11:48:08 pm
chương hai mươi ba
CÁN CÂN LỰC LƯỢNG TRONG CHIẾN TRANH VÀO CUỐI NĂM 1967

Kết quả cuộc chiến tranh phụ thuộc vào những nhân tố thấy rõ và không thấy rõ, và khả năng của mỗi bên đánh giá kẻ thù của mình càng chính xác bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu và khả năng đi sát thực tế để thấy rõ được chỗ mạnh, chỗ yếu của mình, có thể ảnh hưởng một cách quyết định đến kết thúc chiến tranh.

Chiến tranh Việt Nam không khác gì bất kỳ cuộc chiến tranh nào khác bởi vì những hậu quả xã hội, kinh tế và con người cũng càng ngày càng trở nên quan trọng hơn với thời gian. Trong chừng mực Đảng Cộng sản hiểu rõ mối quan hệ giữa hành động của mình với cán cân quân sự quy ước cũng như với vô số những nhân tố khác đang quyết định kết quả cuộc chiến tranh, Đảng cũng biết được phải hành động như thế nào để thành công.

CÁCH MẠNG VÀ SO SÁNH LỰC LƯỢNG

Năm 1967, đã ngày càng rõ ràng rằng khả năng của Cách mạng thích nghi với mỗi một bước leo thang của Mỹ đã gây ra một bế tắc quân sự. Cách mạng luôn luôn hiểu rõ rằng hoạt động quân sự luôn luôn phụ thuộc vào đấu tranh chính trị và Cách mạng luôn luôn đánh giá một cách toàn bộ những vấn đề mà mình phải đương đầu. Với cách như vậy Cách mạng đã đủ khả năng bù lại cho sự còn thấp kém về vật chất của mình bằng việc phát huy cao độ những khả năng con người cho đến năm 1967.

Vào lúc này rõ ràng là chiến tranh tạo ra những thách thức mới đòi hỏi phải có những điều chỉnh quan trọng. Mặc nhiên, các nhà lãnh đạo Đảng đánh giá so sánh lực lượng đang thay đổi của chiến tranh, những chỗ yếu và chỗ mạnh của chính mình cũng như của Mỹ và của Việt Nam cộng hòa và Đảng biến những phân tích của mình thành những chính sách và hành động nhằm duy trì quyền chủ động chính trị, quân sự, chiến lược của Cách mạng.

Sự biến đổi cơ cấu dân cư và thành công tương đối của chương trình bình định Mỹ - Việt Nam cộng hòa là những khó khăn lớn nhất của Cách mạng. Việc đẩy dân vào đô thị đã làm yếu nhiều cơ cấu nông thôn của Đảng và Mặt trận Dân tộc Giải phóng, tuy Đảng đã có những hành động thích nghi thắng lợi. Đảng xem đây là một vấn đề quan trọng và một số các nhà lãnh đạo cho rằng điều quyết định là phải chấm dứt việc làm xói mòn nông thôn đó và khôi phục sự kiểm soát nông thôn cho Cách mạng. Cũng cần phải gạt bỏ thái độ "chờ thời" của một số nông dân.

Đồng thời với việc làm xói mòn nông thôn, việc di dân cũng gây ra những thách thức lớn ở đô thị cho Cách mạng. Thông thường mà nói thì đa số quần chúng nghèo thành thị phải thân Mặt trận, nhưng trên thực tế thì có phần rắc rối hơn. Trái lại, chính những sinh viên, trí thức, một số thành phần tiểu tư sản lại dễ tiếp thu chương trình của Mặt trận Dân tộc Giải phóng hơn hoặc sẵn sàng đi với Mặt trận vì sự nghiệp đấu tranh cho hòa bình.

Nhưng mặt khác vấn đề đô thị cũng bộc lộ một chỗ yếu cơ bản của cố gắng Mỹ. Nếu có nhiều người trong vùng đô thị vì lý do này hoặc lý do khác đã không đi với Mặt trận Dân tộc Giải phóng, thì họ cũng không ủng hộ Việt Nam cộng hòa, vì Việt Nam cộng hòa không tranh thủ được sự trung thành chính trị của nhân dân. Đảng thấy rõ sự thiếu cơ sở xã hội đó của Việt Nam cộng hòa nên từ 1966 trở đi Đảng tập trung vào việc tiêu diệt Việt Nam cộng hòa cùng với bộ máy quân sự và cai trị của nó, với sự tính toán rằng việc gạt bỏ Việt Nam cộng hòa sẽ gạt bỏ luôn lý do tồn tại của Mỹ ở Nam Việt Nam và buộc họ phải thừa nhận họ không có cơ sở thể chế để hòng kiểm soát tương lai của miền Nam. Như vậy là chiến lược của cả Cách mạng lẫn Mỹ đều tập trung chú ý vào số phận của kẻ thay thế cho Mỹ chủ yếu được dựng lên ở đô thị. Ngay dù cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng không huy động được các đô thị trong cuộc tổng khởi nghĩa thì ít ra Mặt trận cũng không để yên cho bá quyền của Việt Nam cộng hòa ở đô thị. Đảng luôn luôn thấy rằng Đảng đã nắm được quyền chủ động chiến lược trong các giai đoạn quân sự của cuộc chiến tranh bởi vì Đảng vừa quan hệ chặt chẽ với du kích và các lực lượng địa phương, vừa có khả năng đánh theo cách riêng của mình ở nơi và lúc do Đảng chủ động lựa chọn. Những sự kiện sau năm 1965 càng làm cho Đảng tin tưởng vào khả năng của mình.

Những thắng lợi quân sự của Đảng đến năm 1967 đã bắt đầu vượt quá những mặt lợi chính trị do các thắng lợi đó đưa lại một phần vì Đảng có thể phân tán chủ lực và một phần vì Đảng đã áp dụng chiến lược và chiến thuật nhằm lợi dụng những chỗ yếu trong việc sử dụng kỹ thuật cao của Mỹ. Sau khi đã nắm được phải đánh Mỹ như thế nào để giành thắng lợi và phải tổ chức Việt Nam dân chủ cộng hòa như thế nào để thành một hậu phương lớn cho chiến tranh ở miền Nam, các nhà lãnh đạo Đảng sẵn sàng nắm những thời cơ thuận lợi. Trong khi sẵn sàng về mặt lý thuyết cũng như về mặt thực tiễn tiến hành một cuộc chiến tranh kéo dài nếu cần, Đảng cũng cam kết giành "thắng lợi trong một thời gian tương đối ngắn nếu được”.

Mặc dù các nhà lãnh đạo Mỹ nghĩ rằng Việt Nam dân chủ cộng hòa là yếu và càng ngày càng yếu, nhưng trên thực tế Đảng tự thấy sung sức hơn bao giờ hết để tiến hành một hành động quân sự lớn vào lúc thích hợp. Đảng lập luận rằng tiến hành một hành động như vậy "không phải bản thân nó là phiêu lưu" bởi vì dù có thất bại sức mạnh vật chất của Đảng ở cả hai miền cũng được phát triển. Vì vậy đến tháng 1 năm 1967, Đảng đã bắt đầu chuẩn bị cho cuộc tiến công Tết năm sau.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 11 Tháng Chín, 2008, 11:49:09 pm
MỸ VÀ CÁN CÂN LỰC LƯỢNG.
ĐẦU NĂM 1968

Vào cuối năm 1967, cố gắng chiến tranh của chính quyền Giônxơn không còn đưa lại bất kỳ kết quả có ý nghĩa nào nữa, nhưng lại gây ra những khó khăn ngày càng nghiêm trọng. Đứng hàng đầu là vấn đề Việt Nam cộng hòa, phải chăng vì nó là không còn đảo ngược được.

Mỹ đã can thiệp, một phần là để tạo ra một cơ cấu thay thế cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng, nhưng đến năm 1967 thì ý đồ này cũng thất bại. Trừ một vài cá nhân, các quan chức cấp cao ở Oa-sinh-tơn, suốt những năm 1967 và 1968 tỏ ra bi quan về chương trình bình định rất then chốt để duy trì sự kiểm soát nông thôn. Đó chủ yếu là do sự yếu kém vốn có của quân đội Việt Nam cộng hòa mà chính quyền Mỹ cũng thừa nhận. Mặc dù thái độ lạc quan công khai của mình, cuối năm 1967 Tổng thống mong muốn hơn bao giờ hết rằng các nhà lãnh đạo Việt Nam cộng hòa "ngày càng phải chịu trách nhiệm hơn về tương lai của mình bằng bất cứ biện pháp nào có thể có”. Bởi vì nếu không làm được như vậy thì số lớn người Mỹ phải ở lại vô thời hạn hoặc là phải tìm một giải pháp khác.

Thế tiến lui đều khó của Mỹ, về cơ bản, là Việt Nam cộng hòa không thể trở thành một cơ cấu thay thế được cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng và vai trò lãnh dạo của họ phản ánh cuộc khủng hoảng xã hội Việt Nam trong thế kỷ này và cho thấy không có một cơ sở vững chắc cho giai cấp thống trị địa phương. Hoàn toàn phụ thuộc vào tiền bạc và quân đội Mỹ, bây giờ Việt Nam cộng hòa chỉ còn một giải pháp duy nhất là tiếp tục sống bằng viện trợ và sự có mặt của Mỹ. Quân đội của họ là một bộ máy chính trị dựa vào sự tham nhũng được thể chế hóa ở cấp cao, và bị đói ăn, mất tinh thần ở dưới đáy. Hệ thống quân sự và bộ máy hành chính nhà nước là đồng nghĩa với nhau. Mọi người trong chính quyền Mỹ đều biết rõ thực tế này.

Về mặt quân sự, Mỹ đang đi vào một thế bế tắc trong chiến tranh. Ngay từ đầu, chiến lược tìm diệt của Mỹ đầy rẫy mâu thuẫn nghiêm trọng và đòi hỏi phải có những khu căn cứ rộng lớn và một hệ thống hậu cần và kỹ thuật khổng lồ. Bị sa lầy trong chiến lược đóng quân tại chỗ để giữ đất và trong những chi tiêu to lớn, các tướng Mỹ không giành được thế chủ động và không lợi dụng được ưu thế hỏa lực lấn át của mình. Tuy họ có thể thực hiện những chiến thuật thành công, nhưng không thể phát triển được một chiến lược đưa lại thắng lợi. Như vậy họ không kiểm soát được cả thì giờ lẫn chi tiêu, một sự kiểm soát trở thành thực chất của chiến tranh.

Các nhà lãnh đạo quân sự Mỹ không hề bao giờ nhận thức được những thực tế chính trị và kinh tế đó ở trong nước cũng như ở Việt Nam đừng nói gì đến phạm vi toàn cầu là nơi mà họ ngày càng ít quan tâm đến những lợi ích khác của họ. Học thuyết chiến tranh hạn chế của Mỹ vào năm 1967 bị núi rừng bao la của Việt Nam chặn đứng lại và tại đây chủ lực của Cách mạng kéo số lượng lớn lính Mỹ vào trò chơi đuổi bắt. Đồng thời việc ném bom Việt Nam dân chủ cộng hòa và đường mòn Hồ Chí Minh một cách ào ạt và không bao giờ dứt nói lên rằng tác động của chiến tranh không quân cuối cùng cũng mong manh như chiến thuật cơ động cao trong việc xác định kết quả của chiến tranh hạn chế. Không những không giải quyết được thế tiến lui đều khó của chiến lược chiến tranh hạn chế, một trong những nhân tố đẩy Mỹ can thiệp vào Việt Nam ngay từ đầu chiến tranh Việt Nam đã ngày càng phơi bày những thất bại của Mỹ.

Nhận thức của chính quyền Mỹ đối với tính chất và tình trạng kẻ thù của họ cũng không được rõ ràng, một phần vì thông tin quá đồ sộ và quá mâu thuẫn cho nên cả người lạc quan lẫn kẻ bi quan đều có thể tìm được tư liệu họ muốn. Không dựa vào thực tế và không biết đến thực tế là điều luôn luôn xảy ra ngay từ đầu khi Oa-sinh-tơn vạch chính sách về Việt Nam, nhưng đến năm 1967 thì cách làm đó càng gây ra nhiều tác hại hơn nữa. Trong khi một số xem Cách mạng chỉ là một hệ thống tổ chức có thể thay thế bằng một hệ thống khác, thì những chuyên gia chính thức khác nhận định rằng Cách mạng sâu gốc bền rễ trong nhân dân vì nhiều lý do xã hội trọng yếu. Người ta thường tranh cãi vế tác động của việc ném bom cũng như về khả năng quân đội Cách mạng có thể đương đầu với những thách thức của Mỹ bằng cách tiến hành một cuộc chiến tranh kéo dài.

Vấn đề thừa nhận thực tế, vào năm 1967 đã trở thành một vấn đề lớn của chính sách đối ngoại Mỹ, bởi vì thực tế bây giờ không phải chỉ bao gồm những giới hạn về quyền lực trong nước và trên quốc tế của Mỹ, mà còn bao gồm cả chính sự tồn tại của chế độ Mỹ. Trong khi đó thì các nhà lãnh đạo Mỹ hoặc là không dám nhìn thẳng vào điều đang xảy ra hoặc không chịu rút ra những kết luận rõ ràng và đối phó với điều xảy ra đó. Vì thế cuộc chiến tranh ngày càng trở nên siêu hiện thực và tàn phá. Phải có một cố gắng vượt bậc mới phá được bức tường tư tưởng ngăn cách quan niệm tự do và chính sách của Mỹ với thực tế. 


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 12 Tháng Chín, 2008, 08:30:27 pm
PHẦN BỐN
CUỘC TIẾN CÔNG TẾT VÀ CÁC SỰ KIỆN NĂM 1968

Chương hai mươi bốn
CUỘC TIẾN CÔNG TẾT

Cuộc tiến công Tết 1968 là sự kiện quan trọng nhất và phức tạp nhất của chiến tranh Việt Nam. Những phản chiếu của nó cho thấy cơ cấu phong phú của các lực lượng đang quyết định kết quả của chiến tranh trong kinh nghiệm lịch sử hiện đại. Các chiều cạnh chính trị, quân sự và tâm lý của nó rất to lớn và rộng rãi cho nên bất kỳ giải thích đơn giản nào sẽ không nói lên được tính chất thật sự quan trọng hơn nhiều của tình trạng chiến tranh giữa chủ nghĩa đế quốc và các phong trào cách mạng trong lịch sử hiện đại.

Khi Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tháng giêng năm 1967 quyết định tiến hành cuộc tiến công Tết 1968, Ban Chấp hành đã chuẩn bị vừa một "thắng lợi quyết định trong một thời gian tương đối ngắn” vừa một cuộc chiến tranh tiếp tục kéo dài hoặc, xấu nhất, một cuộc leo thang của Mỹ. Ban Chấp hành hy vọng rút ngắn cuộc chiến tranh và cho rằng dù sao đi nữa nó cũng không quá kéo dài. Quan tâm chính của Ban Chấp hành là tác động của hành động quân sự đối với nội dung chính trị của chiến tranh, cả ở Nam Việt Nam lẫn ở Mỹ. Quang cảnh chính trị đó, theo đánh giá đúng đắn của các nhà lãnh đạo Đảng, tỏ ra thiết yếu và một cuộc tiến công sẽ là một chất xúc tác rất quan trọng trong quá trình thay đổi. Nó sẽ kéo Mỹ ra khỏi tình trạng tự mãn quá đáng. Đảng xem đó là chìa khóa cho tương lai của toàn bộ cuộc xung đột, bởi vì nếu không có sự cam kết không hạn chế của Mỹ thì Đảng có thể hy vọng giành được thắng lợi trong một tương lai không xa lắm.

Từ giữa năm 1967 trở đi, Đảng tiếp xúc với các trí thức khác nhau trong các đô thị lớn và những người lưu vong ở Pa-ri và bắt đầu thương lượng về một mặt trận chính trị đoàn kết rộng rãi. Một số kiểu liên hiệp đã được ghi vào chương trình như là một mặt của cố gắng Tết. Ít nhất Đảng cũng cố đưa cho được những phần tử tượng trưng quan trọng vào một lực lượng chống đối do Đảng lãnh đạo và vai trò của lực lượng này sẽ là vô giá trong một giải pháp chính trị ngoại giao trong tương lai. Tuy nhiên, nói một cách rộng ra, mục tiêu chủ yếu cuộc tiến công là nhằm ảnh hưởng đến Mỹ. Tuy Bộ Chính trị xem cuộc tiến công quân sự và tổng khởi nghĩa kết hợp đưa đến thắng lợi cuối cùng là có thể có, nhưng ý kiến chủ động tháng 12 năm 1967 là kẻ thù có thể tiếp tục cuộc chiến tranh, tuy trên một vị trí quân sự, chính trị và tâm lý ít thuận lợi hơn một cách quyết định. Đảng tin rằng có thể nhanh chóng bù lại những thương vong của mình. Những điều kiện khách quan của một thắng lợi cuối cùng sẽ có thể không xuất hiện trong một chiến dịch ngắn ba tháng, nhưng một cố gắng lớn hơn chắc chắn sẽ tạo ra những điều kiện như vậy.

Đập tan những ảo tưởng của Mỹ vào lúc này lại càng rất thiết yếu vì cuộc khủng hoảng của đồng đô-la mà báo chí của Đảng đã phân tích rất chi tiết suốt tháng giêng năm 1968. Đảng cũng công khai đánh giá những hạn chế của chiến lược quân sự Mỹ, sự mập mờ về học thuyết của nó và sự căng mỏng lực lượng của Mỹ. Trên thực tế, Đảng cảm thấy rằng bây giờ Đảng hiểu kẻ thù của mình tốt hơn là họ tự hiểu lấy họ và Đảng có thể tạo ra hoàn cảnh buộc họ phải chịu những hạn chế về sức mạnh và về tình cảnh của họ.

Trong nửa sau của năm 1967, Đảng bắt đầu phổ biến cuộc tiến công cho những sĩ quan cấp cao ở chiến trường. Việc tăng mạnh công tác chuẩn bị hậu cần trong suốt năm 1967 cho số đông thấy rằng một chiến dịch quy mô tương đối lớn đã được đặt kế hoạch cho tương lai gần. Vì mục đích tinh thần, cuộc tổng tiến công và khởi nghĩa được mô tả là có tính chất quyết định làm cho so sánh lực lượng chuyển biến có lợi cho thắng lợi cuối cùng của Cách mạng. Để làm cho Tết trở thành điểm ngoặt của chiến tranh và là điều kiện tiên quyết thiết yếu cho thắng lợi hoàn toàn cuối cùng, những người sắp bước vào chiến đấu được kêu gọi hy sinh tối đa và làm tất cả để tạo ra thắng lợi càng lớn càng tốt.
Chỉ có hành động và cam kết mới thay đổi được lịch sử và chính với nhận thức đó về thắng lợi mà mọi người được yêu cầu hành động với tất cả lòng tự tin.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 12 Tháng Chín, 2008, 08:31:29 pm
NGƯỜI MỸ CHUẨN BỊ CHO MỘT CUỘC TIẾN CÔNG

Tết là một hoạt động rất rộng lớn và rất quan trọng nên mặc dù cẩn thận che giấu các kế hoạch chính xác của mình, Cách mạng không sao tránh được sự đánh giá chung của công chúng đối với những điều kiện và những suy tính về cố gắng sắp xảy ra đó. Bất cứ ai theo dõi những gì được công bố, và Oa-sinh-tơn đã bỏ ra rất nhiều tiền của để làm việc đó, đều có thể nói rằng một cố gắng đặc biệt sắp xảy ra. Vào tháng 9 năm 1967, Ban Chấp hành Trung ương đưa ra những mệnh lệnh cho tất cả các bộ phận lớn ở miền Nam và tình báo Mỹ bắt đầu thu nhặt những tin tức về một cuộc tiến công sắp đến. Đầu tháng mười hai, tất cả mọi người của Oa-sinh-tơn chính thức, hoàn toàn biết về một "cuộc tiến công tổng lực" sắp xảy ra. Nó sẽ là điểm ngoặt của chiến tranh và bao gồm cả những cuộc tiến công vào nhiều khu vực đô thị. Phạm vi của cố gắng này được mô tả trong một thông cáo báo chí mà phái đoàn Mỹ ở Sài Gòn công bố ngày 5 tháng giêng năm 1968, tiên đoán sẽ có một cuộc tiến công vào Sài Gòn nhưng không nói đến ngày giờ xảy ra.

Giới quân sự Mỹ cho rằng cuộc tiến công sẽ có ba giai đoạn: một là, quân Mỹ bị nhử ra khỏi các vùng đông dân để vào vùng núi và biên giới; tiếp theo là những cuộc tiến công trên khắp đất nước tìm cách giành lại sự kiểm soát từ tay các bộ phận của quân đội Việt Nam cộng hòa đã được để lại để giữ các vùng đông dân; và cuối cùng, cả hai giai đoạn đó sẽ được tiếp theo bằng một cuộc chiến đấu trên bộ lớn ở một tỉnh phía bắc vì ý đồ của những người cộng sản là muốn chiếm một hoặc hai tỉnh.

CIA cũng vậy, bị ảnh hưởng vì lập luận nói trên, tiên đoán một cuộc tiến công vào Huế, PLây Cu và có lẽ Sài Gòn, nhưng không thể nói ngày giờ chính xác. Trong suốt tháng giêng, Oét-mo-len và các sĩ quan của mình thu thập những tin tức không thể bác bỏ được về một cuộc tiến công sắp đến, chỉ khác nhau về thời gian xảy ra, và họ đã chuyển số lớn quân đội vào vùng Sài Gòn và rút khỏi các biên giới.

Trong khi đó thì hai bên tập trung lực lượng to lớn quanh căn cứ Khe Sanh xa xôi, gần vĩ tuyến 17, giữ quân của Mỹ và của Quân đội nhân dân Việt Nam trong một cuộc chiến đấu ác liệt nhất của chiến tranh. Tổ chức một cuộc bao vây Khe Sanh từ 21 tháng 1 đến đầu tháng 4. Quân đội nhân dân Việt Nam coi đó là một hành động đánh lạc hướng nhằm kéo các lực lượng Mỹ cùng với lực lượng không quân yểm trợ của họ vào một vùng hẻo lánh. Vai trò này đã được thảo luận rộng rãi giữa các nhà phân tích quân sự phương Tây. Tuy nhiên Oét-mo-len khao khát một cuộc chiến đấu cổ điển và bất chấp sự suy xét tốt hơn của nhiều sĩ quan Mỹ, đã tìm cách kéo 20.000 Quân đội nhân dân vào đối đầu với 6.000 quân của mình và sử dụng 100.000 tấn đạn dược chống lại họ. Nhưng sự kiện ở Khe Sanh cũng làm cho Oét-mo-len tin rằng một cuộc tiến công sẽ được thực hiện ở các tỉnh phía bắc. Vào cuối tháng 2, với một nửa các tiểu đoàn cơ động tập trung vào vùng chiến thuật, Oét-mo-len đã rơi vào một chiếc bẫy rõ rệt.

Trong khi chính quyền Mỹ chờ đợi một cuộc tiến công, thì cuộc tiến công lại đến như một bất ngờ. Tuy hoàn toàn biết rõ cuộc tiến công sắp xảy ra, nhưng về sau Tổng thống buồn rầu tổng hợp sự ngạc nhiên của ông ta như sau: "Nó (cuộc tiến công) ào ạt hơn là chúng ta tưởng... chúng ta không ngờ họ tiến công nhiều (thành phố) như họ đã làm... chúng ta không tin rằng họ có khả năng tiến hành mức phối hợp như họ đã chứng tỏ... nó (lực lượng tiến công) đông hơn là chúng ta dự tính" (xem Lin-đơn B.Giôn-xơn, The Vantage, Point, Niu Yoóc 1971, tr.384).

Lạ lùng thay, sự lựa chọn Tết làm cho mọi người bất ngờ. Những tác giả Tài liệu Lầu Năm Góc đã viết không lâu sau sự kiện rằng "Cuộc tiến công Tết của kẻ thù, tuy đã được đoán trước; đã chộp bộ chỉ huy Mỹ và công chúng Mỹ trong sự bất ngờ, và sức mạnh, thời gian và cường độ của nó làm cho sự bất ngờ càng kéo dài thêm" (xem Tài liệu Lầu Năm Góc, Thượng nghị sĩ Gravel xuất bản tập IV, tr.539).

Bây giờ người Mỹ tiết lộ rằng họ đã không hiểu chiến lược và khả năng của kẻ thù cũng như không hiểu cả chính mình. Tết đã đưa Oa-sinh-tơn đến thực tế rằng Mỹ không nắm được một cách cơ bản tính chất cuộc chiến tranh mà họ đã cam kết nửa triệu quân nhân.

Sai sót này lại càng đáng ngạc nhiên hơn bởi vì vào cuối năm 1967, khí mà bằng chứng của một cuộc tiến công sắp xảy ra không còn có thể bác bỏ được nữa, thì phần lớn các cơ quan ở Oa-sinh-tơn xem xét lại sự phát triển và triển vọng của chiến tranh và đều cho rằng chiến tranh là bế tắc. Bấy giờ Mác Na-ma-ra tin rằng chiến tranh có thể kéo dài vô hạn định và CIA thì lập luận rằng Cách mạng có thể kéo dài chiến tranh quá năm 1968. Bộ tham mưu liên quân thì kết luận rằng nếu không được phép leo thang mạnh, "tiến bộ sẽ tiếp tục là chậm" và không thấy được sự kết thúc chiến tranh trong tương lai gần.

Nhưng Tổng thống thì gạt bỏ leo thang. Cuối tháng 11 Oét-mo-len trở về Oa-sinh-tơn và đọc một diễn văn được quảng cáo rộng rãi, ca tụng tiến bộ giành được trong chiến tranh, nhưng khi các nhà báo đa nghi ép ông ta tiên đoán lúc nào các lực lượng Mỹ có thể rút thì ông ta chỉ nói một cách không thỏa đáng rằng có thể rút tượng trưng vào cuối năm 1969, tùy theo tốc độ nhận trách nhiệm của quân đội Việt Nam cộng hòa. Một tâm trạng đần độn rõ rệt, nếu không nói là bi quan, bao trùm lên một thủ đô mệt mỏi.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 12 Tháng Chín, 2008, 08:32:23 pm
CUỘC TIẾN CÔNG BẮT ĐẦU

Bức tường giữa những nhận thức của Mỹ và thực tế đã sụp đổ ngày 31 tháng 1 khi những đơn vị đặc công và những lực lượng địa phương bắt đầu một cuộc tiến công chủ yếu là đồng loạt vào tất cả các đô thị lớn, 36 trên 44 tỉnh lỵ và 64 trên 242 huyện lỵ. Với việc đột nhập vào Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn, sự phô trương sức mạnh của Cách mạng làm kinh ngạc và đau đớn một Oa-sinh-tơn và một nước Mỹ đang còn ngờ vực. Phi-líp Ha-bíp của Bộ Ngoại giao báo cáo: "Kẻ thù đánh mạnh và vô cùng chú ý đến tổ chức, kho tàng và việc giữ bí mật".

Mặc dù các lực lượng Cách mạng đã tiến công trong các vùng chiến thuật I và II hai mươi bốn giờ trước cuộc tiến công ở miền Nam, và mặc dù các đơn vị Mỹ đã được báo động tối đa và tất cả các giấy nghỉ phép của quân đội Việt Nam cộng hòa đã được hủy bỏ, nhưng sự bất ngờ là phổ biến bởi vì không ai tưởng tượng được quy mô của cuộc tiến công, và quan trọng hơn, như CIA kết luận, Mỹ "đã hạ thấp hình ảnh của kẻ thù trong chúng tôi".

Số lượng binh sĩ mà Oét-mo-len ước tính vào khoảng 67.000 đến 84.000, tức chỉ khoảng một phần tư số quân sẵn có của Cộng sản, bây giờ đang khống chế toàn bộ khu vực đô thị của đất nước. Quan trọng hơn, với số lượng to lớn những nhà báo và những nhà quay phim vô tuyến truyền hình của mình, Sài Gòn là chiến trường được toàn thế giới theo dõi. Hầu như hỏa lực không chút bị giới hạn của Mỹ và của quân dội Việt Nam cộng hòa đã được sử dụng trong cuộc chiến đấu giành lại sự kiểm soát vật chất của các đô thị chống lại một số tương đối nhỏ những người tiến công.

Kế hoạch của Cách mạng, trừ Huế ra, là nhằm tiến công các đô thị với các lực lượng địa phương và đặc công cho đến khoảng năm ngày trong khi quân đội chính quy đợi sẵn gần đó. Nếu có khởi nghĩa của nhân dân hoặc một cuộc sụp đổ hoàn toàn của quân đội Việt Nam cộng hòa, thì chủ lực sẽ vào thành phố và chiến đấu sẽ có phạm vi rộng lớn hơn. Tuy nhiên tại khu vực Sài Gòn, việc triển khai lại vào phút cuối cùng của quân đội Mỹ quanh thành phố đã làm cho Cách mạng không triển khai được phần lớn chủ lực đóng trong khu vực.

Khởi nghĩa không xảy ra, ngay dù cho phần đông quân đội Việt Nam cộng hòa vẫn đi nghỉ hoặc đào ngũ. Quyết định trước mắt của Cách mạng là hạn chế tổn thất và đánh giá kết quả của đợt tiến công đầu tiên.

Những thắng lợi của những số nhỏ chiến sĩ như vậy mà chủ yếu là thuộc Mặt trận Dân tộc Giải phóng và một số thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam chắc chắn là một trong những bài học cay đắng nhất trong chiến đấu của Mỹ. Chỉ một nghìn nhân viên vũ trang trong Sài Gòn, với sự giúp đỡ của các đơn vị chính trị địa phương đã chặn được trong ba tuần trên mười một nghìn quân Mỹ và Việt Nam cộng hòa và cảnh sát.

Ở Huế một nghìn Quân đội nhân dân Việt Nam chính quy đã chiếm thành phố Huế mặc dù có tin tình báo chính xác báo trước một tuần về cuộc tiến công, và đã giữ Thành cho đến ngày 24 tháng 2, trong khi hỏa lực Mỹ biến 80 phần trăm thành phố thành gạch vụn.

Trọng pháo và máy bay đã san bằng một nửa Mỹ Tho, một thành phố 80.000 dân, và tỉnh lỵ Bến tre với 140.000 dân, đã bị phá hủy với lời bào chữa, như một đại tá Mỹ đã nói trong một tuyên bố được trích dẫn nhiều nhất trong chiến tranh: "Chúng tôi phải tàn phá thành phố để cứu nó".

Trong tháng 2, cuộc tiến công của Cách mạng khi lên, khi xuống trong suốt miền Nam, nhưng sau tuần đầu thì chuyển nhiều hơn sang dùng súng cối và tiến công nhỏ, và sau ngày 21 thì, chiến đấu đã giảm trên phần lớn các địa phương.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 12 Tháng Chín, 2008, 08:33:08 pm
Quanh Khe Sanh, bị bao vây từ 21 tháng 1, Cách mạng khởi xướng một cuộc chiến đấu quy ước trên bộ lớn nhằm hút hỏa lực và chú ý của Mỹ. Trong một tháng tròn, các đợt sóng của chiến tranh đụng đến mọi góc bể chân trời của đất nước, đi vào cuộc sống của mọi con người và tạo ra khoảng một triệu những người di tản tạm thời.

Trong tình hình chiến đấu ác liệt và sử dụng không hạn chế hỏa lực, không có gì có hơi hướng một cuộc khởi nghĩa đô thị. Tuyệt đại đa số những người đô thị kinh hãi tỏ ra thụ động đối với cả Mặt trận Dân tộc Giải phóng lẫn Việt Nam cộng hòa. Đảng đã biết trước những khó khăn và không phải không lo đến những chỗ yếu của mình ở các đô thị. Đảng cũng biết có khả năng Mỹ và Việt Nam cộng hòa tiếp tục duy trì sự kiểm soát các dinh lũy cai trị và quân sự then chốt của đô thị, nhưng Đảng cũng thấy trước rằng những người của Đảng và Mặt trận Dân tộc Giải phóng vào được các đô thị sẽ có khả năng động viên quần chúng nhiều hơn trước. Trên thực tế, cố gắng của cán bộ trong chiến đấu cũng làm cho một số cơ sở đô thị bị bắt và bị giết và lãnh đạo Đảng do dự trong việc đưa thêm lực lượng vào nếu không thật là cần thiết.

Đến ngày 10 tháng hai, CIA đánh giá rằng những người cộng sản đã đạt được những mục tiêu quân sự, chính trị và tâm lý lớn của họ, kiểm soát được những vùng nông thôn mới rộng lớn, đập tan hệ thống chính trị, kinh tế và quân sự của Việt Nam cộng hòa và ít ra là liên hệ được với khu vực đô thị một cách trực tiếp hơn và có tác dụng hơn.

Cuộc tiến công của Cách mạng đã thành công với một mức độ trọng yếu trong tất cả các mục tiêu lớn ban đầu của mình, trừ cuộc khởi nghĩa đô thị. Cuộc khởi nghĩa đô thị không thành công không phải chỉ vì hỏa lực điên cuồng nhắm vào bất cứ ai chống Mỹ và Việt Nam cộng hòa, mà còn vì những điều kiện tiên quyết chính trị chưa xuất hiện và vì những người có cảm tình với Cách mạng, tuy rất nhiều, nhưng chưa dám hy sinh. Nếu một số đông những người đô thị tham gia cuộc chiến đấu thì Việt Nam cộng hòa có thể bị lật đổ hoàn toàn, nhưng đồng thời Mặt trận Dân tộc Giải phóng cũng mất phần lớn các cơ sở vốn đã mong manh của mình.

Tuy sự động viên của Mặt trận đối với những người đô thị không thành công, nhưng ít ra nó cũng làm cho họ thấy rằng chiến tranh không tránh khỏi ảnh hưởng trực tiếp đến họ và chấm dứt nó là rất thiết yếu cho tương lai của mình. Tết đã khuyến khích nhiều phần tử có học ở đô thị tham gia hoạt động và làm cho một tỷ lệ lớn của họ thấy rằng Mặt trận Dân tộc Giải phóng không thể loại trừ ra khỏi quyền lãnh đạo Nam Việt Nam trong tương lai.

Tuy nhiên các tính toán khác của Đảng nhanh chóng tỏ ra là rất có giá trị, và ngoài tác động sâu sắc của cuộc tiến công đối với Mỹ, tác động của nó đối với vị trí quân sự, chính trị và nông thôn của Việt Nam cộng hòa cũng càng khẳng định lại sự lạc quan ban đầu của Đảng.

Vì các lực lượng quân đội Việt Nam cộng hòa và quân đội Mỹ rút khỏi vùng nông thôn để bảo vệ các đô thị, chương trình bình định phải chịu, theo lời tướng On-lơ Uy-le, Tổng tham mưu trưởng liên quân, "một bước lùi nghiêm trọng". Tuy khó mà minh họa tình hình này bằng tỷ lệ phần trăm, nhưng có một sự nhất trí ở Oa-sinh-tơn lẫn ở Sài Gòn rằng mặc dù Mặt trận dân tộc giải phóng không thành công ở các đô thị, nhưng đã thu được nhiều thành tựu ở nông thôn và do đó mà đền bù lại được những tổn thất về nhân lực của mình.

Những thất bại của quân đội Việt Nam cộng hòa vào lúc này còn quan trọng đối với Oa-sinh-tơn hơn là những thắng lợi của Đảng. Tỷ lệ đào ngũ của quân đội Việt Nam cộng hòa đạt đỉnh cao hơn bao giờ hết; nhìn toàn bộ, năm 1968 là năm xấu nhất của cuộc chiến tranh cho đến năm 1975. Các tiểu đoàn bộ binh của Việt Nam cộng hòa trong hai tuần đầu của tháng hai chỉ có một nửa số quân, các lực lượng biệt động ưu tú lại còn thấp hơn. Bốn trong chín tiểu đoàn không vận không còn hiệu lực chiến đấu. Các quan chức Mỹ vô cùng bất bình về tình hình không kỷ luật và về nạn cướp phá của họ trong suốt giai đoạn đó.

Nhưng điều làm cho các quan chức Oa-sinh-tơn lo âu nhất là trong khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng tiến gần đến thắng lợi hoàn toàn thì các nhà chính trị ở Sài Gòn vẫn chỉ tự lo cho mình và tham nhũng, không chú ý gì đến cuộc khủng hoảng trước mắt. Cuối năm đó, Oét-mo-len công khai phàn nàn rằng "chính phủ quốc gia lúc đầu tỏ ra bị rơi vào một tình trạng hỗn loạn". Do toàn bộ cơ cấu chỉ huy của quân đội Việt Nam cộng hòa chỉ lo làm nhiệm vụ chính trị, nên nó rõ ràng không còn khả năng phối hợp chiến đấu. Có sự nhất trí của Oa-sinh-tơn vào đầu tháng 3 rằng Việt Nam cộng hòa có thể sụp đổ trong vòng vài tháng nếu những thách thức nghiêm trọng hơn xảy ra cho nó. 


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 12 Tháng Chín, 2008, 08:34:12 pm
chương hai mươi lăm
TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC TIẾN CÔNG TẾT ĐỐI VỚI OA-SINH-TƠN

OA-SINH-TƠN BẮT ĐẦU ĐƯƠNG ĐẦU VỚI NHỮNG HẠN CHẾ CỦA MÌNH

Tác động quyết định nhất của cuộc tiến công Tết là làm rõ thực tế rằng Mỹ đang đương đầu với một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng một cách tiềm tàng. Ba tháng đầu của năm 1968 do đó là những tháng quan trọng nhất trong lịch sử của toàn bộ cuộc xâm lược Mỹ ở Việt Nam.

Tết đã làm trầm trọng thêm những khó khăn kinh tế cũng đồng thời gây ra những thế khó xử mới cho chính quyền Mỹ. Đó là những vấn đề không thể giải quyết được như căng thẳng chủng tộc trong các đô thị, tác động của chiến tranh làm yếu sức mạnh quân sự Mỹ và sự suy giảm dự trữ nhân lực chiến lược cần thiết để đối phó với những khủng hoảng thế giới khác, thậm chí ngay cả khủng hoảng trong nước.

Thế yếu đó đã được biểu hiện rõ ràng đầu năm 1968 khi Bắc Triều Tiên bắt chiếc tàu Pu-ê-blô của Mỹ và 83 người của tổ lái ngày 23 tháng giêng, một hành động làm nhục chính quyền và chứng minh rằng chính quyền là bất lực. Những căng thẳng ở vĩ tuyến 38 cũng đưa Nam Triều Tiên đến chỗ tính toán việc rút ngay số 49.000 quân của họ ở Nam Việt Nam, làm cho Oa-sinh-tơn có thể phải thay số quân đó đúng vào dịp Tết.

Tuy nhiên cuộc khủng hoảng vàng và đô-la mới là cuộc khủng hoảng gây ra những sức ép kéo dài và không thể cưỡng nổi đối với Oa-sinh-tơn. Tuy những lời hứa của chính quyền Mỹ hạ thấp những thâm hụt đã làm cho hội vàng tiếp tục tồn tại sau tháng 12, nhưng việc tiếp tục mua vàng cho thấy rằng các nhà ngân hàng châu Âu vẫn còn rất lo lắng. Họ đặc biệt lo lắng bởi vì Quốc hội Mỹ không chịu hành động theo đề nghị tăng thuế của Tổng thống để giảm thâm hụt. Chính trong hoàn cảnh đó mà các cố vấn tổng thống xem xét những phản ứng của họ đối với một thất bại trước mắt có thể xảy ra và Mác Na-ma-ra đưa ra lời khuyên lúc rút lui là Tổng thống không nên cho phép tăng quân ở Việt Nam, gây tổn thất cho đồng đô-la ở nước ngoài và cho nền kinh tế trong nước.

Ngày 4 tháng 3, bộ trưởng ngân khố Phao-lơ cảnh cáo Tổng thống rằng việc đổ xô vào vàng và trốn tránh đồng đô la là nghiêm trọng và có thể xấu đi nhanh chóng với việc cấm vận vàng đưa đến "những cuộc chiến tranh hối đoái và những khối mậu dịch riêng rẽ gây ra những tác động chính trị và kinh tế có hại”. Đồng thời các cố vấn chủ chốt khác cẩn thận và bi quan đánh giá những hậu quả của mọi sự tăng quân đối với tín nhiệm của các nhà ngân hàng châu Âu vào đồng đô-la.

Trong khi các thành viên hội vàng châu Âu đầu tháng 3 đồng ý giữ vững đồng đô-la, thì ngày 11 tháng 3, các ngân hàng tiến công hội làm mất gần một tỷ đô la bằng vàng trước khi cuộc tiến công đó chấm dứt bốn ngày sau đó. Rô-xtốp nói với Tổng thống ngày 14 tháng 3: "Chúng ta không thể tiếp tục như vậy" và, cùng ngày, nhiều nước châu Âu đưa đô-la ra mua lại vàng của ngân khố Mỹ để bù vào số vàng họ đã bỏ ra để giữ giá đồng đô-la. Chiều đó, sau khi mất 372 triệu đô-la và sợ sẽ mất thêm một tỷ nữa ngày tiếp theo, ngân khố Mỹ đóng cửa ngay thị trường vàng. Ngày 15 tháng 3 Giôn-xơn viết cho các thủ tướng châu Âu rằng: "Những lộn xộn tài chính này, nếu không được khắc phục ngay và kiên quyết sẽ gây tác hại sâu sắc cho các mối quan hệ chính trị giữa châu Âu và Mỹ và sẽ làm xuất hiện những lực lượng giống như những lực lượng đã làm tan rã thế giới phương Tây giữa năm 1929 và năm 1933".

Đầu tiên, Nhà Trắng muốn các đồng minh của mình chấp nhận những số lượng đô-la không hạn chế mà không có bảo đảm vàng, nhưng Phao-lơ và Mác-tin chống lại ý đồ đó vì là vừa không thực tế vừa là một chứng chỉ để tiếp tục sự vô trách nhiệm về tài chính.

Thực vậy, nếu chính quyền Mỹ không chịu đặt vị trí của việc bảo vệ đồng đô-la lên trên tất cả các xem xét khác thì lúc đó các nhà ngân hàng châu Âu sẽ giữ quyền đòi một bước đi có thể làm đảo lộn hoàn toàn địa vị của Mỹ trong nền kinh tế thế giới, với tất cả mọi tác động đến vai trò lãnh đạo chính trị của Mỹ.

Sau Tết, cuối cùng chính quyền Mỹ thừa nhận rằng mọi sự tăng quân đến Việt Nam đe dọa không phải chỉ nền kinh tế của đất nước Mỹ mà còn những ưu tiên trong nước và trên quốc tế nữa. Với việc nước Mỹ bị căng mỏng trên toàn cầu và với một cuộc khủng hoảng còn phôi thai ở Triều Tiên, Bộ tham mưu liên quân nhanh chóng làm sống lại yêu cầu trước đây về việc gọi quân trù bị, một biện pháp không được lòng quần chúng cho Tổng thống, và Chủ tịch tham mưu liên quân, tướng Uy-le dành phần còn lại của tháng 2 để vận động thêm người cho ngành quân sự. Bằng 1 một việc làm có tính chất chuyên môn, ông ta bay đến Sài Gòn và sau bốn ngày ông ta trở về Oa-sinh-tơn ngày 27 tháng 2  với một báo cáo vô cùng bi quan và một yêu cầu,  cho là của chính Oét-mo-len, xin thêm 206.000 quân.

Việt Nam đã làm yếu rất nhiều dự trữ nhân lực chiến lược dành  cho những cuộc khủng hoảng ở nơi khác trên thế giới, và Uy le cam kết có thể xây dựng lại, và tuyên bố rằng 206.000 quân xin thêm là thiết yếu để đảo ngược lại trào lưu. Bác bỏ toàn bộ yêu cầu của ông ta có nghĩa là làm nguy hại cho vị trí của tư lệnh ở Việt Nam, nếu không nói là gây nguy hiểm cho lực lượng của ông ta, Uy-le lập luận như vậy. Kết quả ngay tức khắc của việc xin thêm 206.000 quân là Tổng thống ngày 28 tháng 2 yêu cầu Clác Clíp-phớt, Bộ trưởng quốc phòng mới, thành lập một ủy ban để nghiên cứu việc xin quân đó. Và chính ủy ban này đã chuyển sự chú ý của mình vào việc xem xét một cách toàn diện cuộc chiến tranh và đưa đến việc các nhà vạch chính sách chủ chốt chống lại những cuộc leo thang thêm nữa.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 12 Tháng Chín, 2008, 08:35:34 pm
CHÍNH QUYỀN XÁC ĐỊNH MỘT GIỚI HẠN

Khi những người không nhận thức được những giới hạn của quyền lực mình mà chạm trán với thực tế, thì luôn luôn xảy ra căng thẳng và đột ngột. Tất nhiên trong tháng 2 và tháng 3 năm 1968, có những lúc rất căng thẳng và đột ngột như vậy; hối hận và nghi ngờ đưa đến mất lòng tự tin chưa từng gặp trong các nhà lãnh đạo Mỹ hàng thế kỷ nay. Nhưng từ lúc bắt đầu Tết cho đến bài diễn văn 31 tháng 3 lịch sử của Giôn-xơn, Oa-sinh-tơn gặp rất nhiều rắc rối và khó xử trong các quyết định về việc điều khiển chiến tranh.

Phản ứng đầu tiên của giới quân sự Mỹ là một mối hoài nghi do dự về sự đánh giá thấp một cách quá đáng khả năng của kẻ thù và về thất bại của chính mình sau ba năm cố gắng hết sức vẫn không làm nhụt được khả năng tiến công ngày càng tăng của Cách mạng. Ngay trong khi  Uy-le còn tích cực dỗ dành Oet-mo-len đòi thêm quân, thì chính Bộ tham mưu liên quân ngày 12 tháng 2 đề nghị hoãn một quyết định gửi quân.

Vào lúc Uy-le huy động được các tham mưu liên quân đứng đằng sau mình thì ông ta lại phải đương đầu với một sự chống đối khác từ tất cả các phía. Trong khi những nhà dân sự trong Lầu Năm Góc là những người hăng hái nhất thì họ cũng được phần đông CIA và Bộ Ngoại giao ủng hộ khi họ cho rằng gửi thêm quân sang Nam Việt Nam là vô ích. Những người chống đối lại yêu cầu thêm quân của Uy-le lập luận rằng không những việc thêm quân làm cho quân đội Việt Nam cộng hòa vốn đã không hiệu quả, sẽ lại chiến đấu kém hơn nữa, mà còn phải thấy rằng những cuộc chiến đấu quan trọng đang diễn ra sẽ được quyết định xong xuôi trước khi quân đội mới của Mỹ đến nơi. Chính để đối phó với những quan điểm trái ngược nhau đó mà Tổng thống thành lập ủy ban Clíp-phớt để giúp ông ta quyết định.

Ủy ban Clíp-phớt bắt đầu thu thập những sự kiện cơ bản. Mở đầu, nó không có ý định đặt vấn đề gì về sự hiệu quả của chiến tranh. Mác Na-ma-ra khi ra đi, có nhắc nhở Tổng thống, rằng nếu ông ta tán thành một lực lượng tiến công mới, lớn thì phải có 400.000 quân và 10 tỷ đô-la nữa. Bộ tham mưu liên quân thì cho rằng 108.000 quân trong số 206.000 quân yêu cầu, có thể làm nhích cán cân trong cuộc chiến tranh bế tắc trên tất cả các mặt. Nhưng ngay Rô-xtốp đã từng ủng hộ sự leo thang mới, bây giờ cũng thừa nhận rằng Việt Nam dân chủ cộng hòa sẽ đáp ứng được mọi leo thang của Mỹ.

Trong quá trình thảo luận của ủy ban một vấn đề rất quan trọng là có lập luận cho rằng chiến tranh đang buộc Mỹ phải hy sinh nhiều lợi ích ở những nơi khác trên thế giới, không phù hợp với những mục tiêu quốc tế toàn bộ của mình. Dần dần khả năng tiếp tục chiến tranh bằng leo thang đã bị gạt bỏ. Đặc biệt CIA lập luận rằng chiến tranh bị bế tắc và những người cộng sản vẫn giữ quyền chủ động chiến lược.

Vào lúc những cuộc thảo luận và phân tích ủy ban Clíp-phớt kết thúc ngày 3 tháng 3 thì Clíp-phớt thay đổi lập trường và không còn ai tán thành kế hoạch 206.000 quân trừ Uy-le và Bộ tham mưu liên quân. Uy-le đã lập luận một cách chính xác rằng: Năm 1968 sẽ là năm trụ cột" của chiến tranh.
Kết quả là một sự bế tắc trên danh nghĩa trong hàng ngũ các cố vấn then chốt của Tổng thống, nghĩa là một sự tiếp tục giữ nguyên trạng, mặc dù trên thực tế dư luận đang thay đổi một cách tế nhị dưới sức nặng của thực tế. Tuy khả năng đưa thêm 206.000 quân còn đang được bỏ ngỏ trên cơ sở "tuần này qua tuần khác", nhưng chỉ 22.000 quân được phép đưa đi ngay. Đó là "tất cả cái gì chúng tôi có thể cho được bây giờ" như Tổng thống đã nói.

Về sau ông ta tâm sự "Tôi cảm thấy rằng tôi đang bị đuổi tứ phía bởi một cuộc nổi dậy khổng lồ đến từ tất cả các hướng". Có vấn đề Việt Nam và cả vấn đề kinh tế nữa. Những người da đen đang nổi dậy, những sinh viên phản đối và những nhà báo kích động thúc ép... "Điều mà tôi sợ ngay từ ngày đầu của nhiệm kỳ của tôi thật sự đang đến. Rô-bớt Ken-nơ-đi đã công khai thông báo ý định của ông ta giành lại ngai vàng...". Sự căng thẳng làm cho cách cư xử của Giôn-xơn trở nên thất thường, tin đồn về tình trạng tâm thần rời rạc của ông lan truyền khắp nơi. Thượng nghị sĩ chống chiến tranh Iu-gin Mác Ca-ti chiếm 42 phần trăm phiếu bầu trong cuộc bầu cử sơ bộ Niu Ham-sơ ngày 12 tháng 3 đã làm tăng thêm sự tuyệt vọng của Tổng thống.

Trong khi đó thì Clíp-phớt không bằng lòng với tình trạng tê liệt và bất lực của Tổng thống trong việc đảo ngược lại quá trình tai hại đi đến leo thang. Những ý kiến của bạn bè ông ta củng cố thêm ý muốn thực sự và thường là thận trọng của ông ta nhằm xác định lại chiến lược Việt Nam của đất nước.

Năm sau đó ông viết: "Mỗi ngày tôi càng ý thức về tình trạng rối loạn nội bộ trong nước chúng ta. Thật đáng lo lắng cho tôi là những tác động kinh tế của một cuộc đấu tranh sẽ được kéo dài vô thời hạn với sự tốn kém tăng lên hơn bao giờ hết".

Ngày 19 tháng 3, ông ta đề nghị với Giôn-xơn rằng ông ta triệu tập một phiên họp khác của nhóm cố vấn cấp cao Bộ Ngoại giao, được gọi là "những người thông thái" mà mùa thu trước đã ủng hộ mạnh mẽ chính sách chiến tranh của Tổng thống.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 12 Tháng Chín, 2008, 08:36:29 pm
Đin A-ki-xơn, người đứng đầu nhóm theo yêu cầu của Tổng thống, từ tháng hai đã xem xét lại một cách không chính thức cuộc chiến tranh và mâu thuẫn của nó với những lợi ích của Mỹ ở các nơi khác trên thế giới và ông ta đã hết sức chỉ trích sự cam kết vô hạn định của Mỹ. Ngày 15 tháng 3, ông ta báo cho Giôn-xơn rằng Bộ tham mưu liên quân cho ông ta tin tức nghèo nàn và đã đến lúc phải rút ra khỏi cuộc chiến tranh không được lòng dân.

Clíp-phớt biết rằng mình có một người bạn hùng mạnh ở con người của vị Bộ trưởng ngoại giao cũ đó mà uy tín với Giôn-xơn là rất to lớn, và ông ta cũng cảm thấy được là nhóm của vị bộ trưởng cũ đó sẽ khuyên bảo những gì. Nhóm "những người thông thái" đã tiếp quản cuộc tranh luận mà ủy ban Clíp- phớt để lại.

Vai trò của nhóm "những người thông thái" nói lên sức mạnh và suy nghĩ ở Mỹ trong những lúc khủng hoảng. Những thực tế quân sự, kinh tế và chính trị ảnh hưởng sâu sắc đến nhóm đó đã từng đến tai phần đông các cố vấn chủ chốt của Tổng thống và cả đến chính Tổng thống nữa. Ngay những người diều hâu quá mức như Rô-xtốp cũng phải thừa nhận rằng tuy còn có thể đặt đất nước vào vị trí chiến tranh hồi tháng hai, nhưng "môi trường chính trị đang thay đổi ở trong nước và cuộc khủng hoảng tài chính tháng ba đã giảm rất nhiều khả năng đó" (xem Rô-xtốp. Diffusion of power, tr.520-21). Không có gì thay đổi được những thực tế đó và những ý kiến của nhóm "những người thông thái" phản ánh chiều hướng của sự kiện nhưng không hình thành được sự kiện.

Thế giới công nghiệp và tài chính lớn trước đây ủng hộ chiến tranh vì họ tin vào các mục tiêu của chính sách đối ngoại Mỹ đã từng đưa đến sự can thiệp. Tuy nhiên những cá nhân thì luôn luôn được triệu tập, hoặc là chính thức hoặc là không, để bình luận những vấn đề kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh như thâm hụt ngân sách và lạm phát. Tuy họ không hề bao giờ có một lập trường chỉ trích chiến tranh trước năm 1968, nhưng họ luôn luôn tán thành những cố gắng làm giảm những thách thức kinh tế đó.

Thái độ như vậy có nghĩa là nếu các khó khăn tài chính của đất nước trở nên khá nghiêm trọng thì họ sẽ chống leo thang và có thể tán thành giảm chiến tranh xuống một tỷ lệ có thể quản lý được về mặt kinh tế. Một lập trường như vậy là hoàn toàn thực tiễn và bộc lộ những mâu thuẫn đưa lại sự dính líu của Mỹ lúc ban đầu, bởi vì điều lý tường đối với họ là Mỹ thắng cuộc chiến tranh vừa nhanh vừa rẻ.

"Những người thông thái", gồm những người có liên hệ chặt chẽ với thế giới tài chính, các tập đoàn luật và kinh doanh lớn như Gioóc-giơ Bon, Đơ-giát Di-lon, Xal-rớt Ven-xơ, Giôn J.Mác Cloa, Mác Gioóc-giơ Bân-đi, Ác-tơ Đin, Rô-bớt Mơ-phi và Hen-ri Ca-bốt Lốt- giơ, rất hiểu những sắc thái đó trong tâm tư thế giới công nghiệp và tài chính. Chắc chắn là những tính toán như vậy sẽ ảnh hưởng đến những đề nghị của họ.

Là những người quen đối phó với những thực tế và những tác động của chúng, họ là những người đủ khả năng hơn ai hết chấp nhận cán cân lực lượng vật chất trong chiến tranh, không phải vì danh tiếng của họ bị lâm nguy mà vì chính lợi ích giai cấp của họ.

Cũng quan trọng trong tháng quyết định đó là tình hình dư luận công chúng và tình hình những nhà chính trị quan tâm đến dư luận, bất chấp sự lãnh đạo của họ trước đây đối với chiến tranh. Việc Mác Ca-ti và Ken-nơ-đi tham gia cuộc chạy đua giành chức ứng cử viên đảng Dân chủ sẽ không phải là thách thức gì ghê gớm lắm đối với Tổng thống, nếu cuộc thăm dò dư luận ngày 16 tháng 3 không cho thấy ông ta ở điểm tín nhiệm thấp nhất kể từ khi ông ta nhậm chức.

Những cảm nghĩ của công chúng về chiến tranh đã trở nên có tính chất phê phán từ năm 1966; vào cuối năm 1967, thì dư luận hai phía ngang nhau. Cuộc tiến công Tết làm cho phe chống đối tăng lên mạnh. Mùa hè năm 1968 những người Mỹ nghĩ rằng gửi quân sang Việt Nam là một sai lầm đã vượt xa những người ủng hộ. Xu thế này ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều quan chức Mỹ. Họ cho rằng sự mất kiên nhẫn ngày càng tăng của công chúng đặt ra một giới hạn thực sự cho việc kéo dài chiến tranh. Và sự xuất hiện một phong trào chống chiến tranh rộng lớn hơn và tích cực hơn trong các trường đại học nhất là trong hàng ngũ con em giới thượng lưu, đánh vào cá nhân của những người bảo vệ chủ chốt của chiến tranh.

Vào cuối tháng 3 năm 1968, đã khá rõ ràng rằng, ngay dù cho không biết đến những thúc ép quân sự và kinh tế, chính quyền cũng phải đương đầu với một tình hình sau chiến tranh chưa từng có, trong đó sự nhất trí về chính sách đối ngoại giữa cơ quan hành pháp, cơ quan lập pháp và công chúng bị sụp đổ hoàn toàn.

Những cuộc họp nổi tiếng, chi tiết trong những ngày 25 - 26 tháng 3 của "những người thông thái" khẳng định thực tế đó. Chiến tranh đã bị bế tắc và đất nước không thể cam kết thêm tài sản nữa để thắng nó mà không hy sinh nền kinh tế và những lợi ích toàn cầu khác của mình. Công chúng cũng vậy, cả ở Nam Việt Nam cũng như ở Mỹ, đều cực lực phản đối cố gắng chiến tranh. Phần đông nhóm cố vấn cấp cao tán thành chấm dứt leo thang và có những biện pháp đi đến tách ra khỏi chiến tranh, đi từ bớt ném bom Việt Nam dân chủ cộng hòa cho đến giảm các lực lượng Mỹ và chuyển giao nhiều trách nhiệm chiến tranh hơn cho Việt Nam cộng hòa.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 13 Tháng Chín, 2008, 12:47:35 pm
DIỄN VĂN 31 THÁNG 3 CỦA LIN-ĐƠN GIÔN-XƠN

Đối với Tổng thống bị quá rã rời về cảm xúc trong những tuần đó và kết hợp cuộc khủng hoảng cá nhân lớn nhất trong cả cuộc đời của mình với thất bại của chính sách đối ngoại và quân sự Mỹ trong thế kỷ này, những ngày cuối của tháng 3 là những ngày dằn vặt nhất. Sau những ngày khủng khiếp của sự căng thẳng tình cảm gay gắt, Giôn-xơn quyết định rút lui khỏi cuộc chạy đua giành chức ứng cử viên tổng thống năm 1968 để trở về với sự yên tĩnh ở trại Tếch-xát của ông ta.

Diễn văn 31 tháng 3 của Tổng thống đề cập đến mọi vấn đề từ chấm dứt ném bom đến thương lượng, nhưng phần quan trọng nhất và dễ thấy nhất của diễn văn là sự công bố quyết định rút khỏi nền chính trị của ông ta. Sự chấm dứt ném bom của ông ta trừ một vùng rất mơ hồ bắc vĩ tuyến 17 để đổi lấy hành động đáp ứng của Việt Nam dân chủ cộng hòa chỉ mới được một ngày đã làm cho chính quyền Mỹ rất lúng túng và vì máy bay Mỹ lại tiến công những địa điểm cách vĩ tuyến đó đến năm trăm ki-lô-mét về phía bắc.

Vào tháng 4 và tháng 5, những cuộc ném bom Việt Nam dân chủ cộng hòa mạnh hơn nhiều so với tháng 2 và tháng 3. Từ lúc đó cho đến 31 tháng 10, khi Giôn-xơn chấm dứt hoàn toàn ném bom Việt Nam dân chủ cộng hòa nhằm giành phiếu cho Hăm-phrây trong cuộc bấu cử tổng thống, thì rõ ràng việc ném bom đã trở thành một công cụ cho đấu tranh dư luận và một con bài chính trị cho Giôn-xơn đồng thời đặt thành một tiền lệ cho người kế nghiệp ông ta.

Đề nghị công khai của Giôn-xơn đi vào thương lượng nhanh chóng bị sa lầy khi Mỹ rút lui đề nghị gặp Cộng sản bất cứ ở đâu, làm cho chính quyền Mỹ rất khó xử ngay trước khi các cuộc hội đàm Pa-ri kéo dài và vô ích bắt đầu vào tháng 5 sau đó. Thừa nhận rằng sẽ không nâng mức quân lên quá 24.000, ông ta yêu cầu Quốc hội giúp giải quyết thâm hụt ngân sách, khủng hoảng vàng và đô-la và các vấn đề kinh tế khác mà những leo thang trước kia của ông ta đã gây ra.

Đề nghị mới nổi bật nhất trong thông điệp của Tổng thống mà đã trở thành cơ sở cho chính sách Việt Nam hóa tiếp theo của Ních-xơn, là việc mở rộng các lực lượng quân sự Việt Nam cộng hòa để họ có thể dần dần gánh phần chiến đấu lớn hơn và, như vậy là nghiễm nhiên giảm được sự phụ thuộc của họ vào quân đội Mỹ. Chính là chỉ ở chỗ này mà lời khuyên của "những người thông thái" thực sự đã làm chuyển động Tổng thống.

Sự có mặt Mỹ ở Việt Nam trực tiếp gắn liền với những yếu kém quân sự và chính trị kinh niên của Việt Nam cộng hòa, vì vậy mà xem xét hoạt động của Việt Nam cộng hòa trong những tuần sau Tết là rất cần thiết dể Oa- sinh-tơn xác định vai trò và những biện pháp thay thế của mình. Những báo cáo đầu tiên, thận trọng tỏ ra rất bi quan, và những cuộc tranh chấp nội bộ dai dẳng giữa Thiệu và Kỳ trong một cuộc đấu tranh sống chết đã làm cho các quan chức Mỹ thất vọng. CIA tin rằng vấn đề chính trị là rất quan trọng nhưng cũng thú nhận rằng nếu không có khả năng cải cách thì vai trò của Mỹ bất kể quy mô như thế nào, cũng sẽ là tuyệt vọng. Bộ Ngoại giao Mỹ gọi sự sụp đổ của Việt Nam cộng hòa là "một khả năng hiện thực chắc chắn trong vài tháng tới".

Tuy nhiên vào cuối tháng 3, tướng Crây-ton E-bram, người được chỉ định thay Oét-mo-len, lập luận rằng tinh thần quân đội Việt Nam cộng hòa đột ngột biến chuyển tốt hơn nhiều so với trước. Với đại bộ phận dư luận quân sự đối với Việt Nam cộng hòa rất hoài nghi và với di sản của những sự kiện thậm chí tiêu cực hơn, "những người thông thái" tập trung vào việc gắn công cuộc xây dựng quân đội Việt Nam cộng hòa với việc tách ra của Mỹ, tuy họ biết rằng công cuộc đó không chắc sẽ thành công. Vì vậy ý thức về một khoảng cách lịch sự để che giấu thất bại của các lực lượng Mỹ là rất rõ ràng.

Công khai chấp nhận câu chuyện tưởng tượng về những thắng lợi và sức mạnh ngày càng tăng của Việt Nam cộng hòa, chính quyền Mỹ xem đó là một cái cớ để biện bạch cho việc giải quân lúc cần. Mặc dù cho không có biểu thời gian rõ rệt, nhưng giả định ngầm trong các kế hoạch của Oa-sinh-tơn là thắng lợi không thể đạt được và "Việt Nam hóa" chiến tranh cũng chỉ nhằm tranh thủ thời gian để đạt bất kỳ khả năng ngoại giao hoặc chính trị nào có thể có, hoặc ít ra là sẽ đẩy lùi lại sau cuộc bầu cử việc phải đương đầu với thất bại thực sự.

Do không thấy nhắc đến trong diễn văn của Giôn-xơn vấn đề lòng tin, đô-mi-nô và đại loại như vậy, cho nên sự thay đổi mặc nhiên đó trong diễn văn là rất quan trọng. Những mục tiêu chiến tranh của Mỹ không còn là thắng lợi hoặc một vài điều trừu tượng nào khác mà là đưa lại cho Việt Nam cộng hòa một "lá chắn” để nó có thể núp bóng mà phát triển.

"Kết quả cuối cùng sẽ phụ thuộc" vào các cố gắng của nhân dân Việt Nam cộng hòa. Sự xác định lại các mục tiêu quốc gia cơ bản đó phù hợp với cả sự cần thiết quân sự, chính trị và kinh tế lẫn ý kiến bao trùm của các cố vấn và các nhà vạch quyết định hàng đầu. Chính sự sẵn sàng mới đó của Mỹ hạn chế cam kết của mình lại và về sau tách ra một phần, dù cho tuyên bố và xác định lúc đó mơ hồ như thế nào đi chăng nữa, cũng là kết quả lớn của cuộc tiến công Tết.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 13 Tháng Chín, 2008, 12:48:37 pm
OA-SINH-TƠN VÀ CÁN CÂN LỰC LƯỢNG MỚI

Việt Nam đã trở thành chiến tranh ngoài nước đầu tiên của Mỹ kể từ năm 1812 đã gây ra một cuộc khủng hoảng xã hội nội bộ sâu sắc và một sự phân hóa về mặt chính trị. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai giới lãnh đạo chính trị ở Oa-sinh-tơn đưa ra những quyết định then chốt một cách có ý thức và song song với những thay đổi diễn ra trong cán cân lực lượng toàn cầu. Còn đối với Việt Nam thì không phải như vậy.

Khác với những cuộc chiến tranh trước, Việt Nam làm trầm trọng thêm nhiều vấn đề của chủ nghĩa tư bản Mỹ chứ không phải làm cho chúng nhẹ bớt. Trong cơn chấn thương kéo dài của mối quan hệ chủng tộc, cuộc chiến tranh ngày càng trở nên tiêu điểm của sự phản đối và bất đồng của hàng triệu người. Những người này biết rõ rằng chừng nào chiến tranh còn tiêu tốn quá nhiều tiền của thì không thể nào giải quyết các nhu cầu xã hội trong nước.

Đại bộ phận những người Mỹ chống chiến tranh không có cơ sở để phân tích chiến tranh một cách nhất quán và những cố gắng của phái tả trong phong trào chống chiến tranh nhằm giải thích nó cũng không thành công. Tuy họ không sao nhận thức được cảnh khủng khiếp của người Việt Nam trung bình, nhưng nhờ có những hình ảnh do vô tuyến truyền hình đưa ra, một ý thức về sự khiếp sợ đó đã thấm sâu vào lương tâm của họ.

Vấn đề tội ác chiến tranh đã đi vào các cuộc thảo luận về chiến tranh và quy mô những tổn thất mà Mỹ gây ra làm cho mọi người lo lắng. Dù dư luận và thái độ lúc ban đầu như thế nào đi chăng nữa, người ta vẫn thấy được khoảng cách giữa suy nghĩ thông thường và thực tế, làm cho một số người Mỹ căm phẫn, hoài nghi và chán ghét.

Những đợt chiến đấu liên tiếp bắt đấu từ Tết đã gây ra gần một triệu người tỵ nạn và trên 200 triệu đô-la tư liệu sản xuất đã bị phá hủy chỉ trong dịp Tết. Sản lượng nông nghiệp và sản lượng khu vực tư nhân bị giảm nghiêm trọng năm 1968. Thu nhập của Việt Nam cộng hòa cũng vậy và càng phụ thuộc hơn vào viện trợ và không thể nào gánh được những trách nhiệm quân sự mà Mỹ dự định giao cho.

Gắn với gánh nặng kinh tế ngày càng tăng dó là việc biến đổi và đô thị hóa xã hội. Người Mỹ rất chú ý rằng nhân dân đô thị đã tỏ ra rất thờ ơ đối với thử thách của Việt Nam cộng hòa, thậm chí ở một số nơi còn cộng tác ở mức thấp nhất với Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Ủy ban Clíp-phớt đã báo trước: "Sự đáp ứng chính trị không có hiệu quả của chính phủ Việt Nam cộng hòa có thể còn giúp cho Việt cộng cải thiện sự nghiệp của họ trong các đô thị cũng như ở nông thôn".

Quyết định của chính quyền Mỹ tập trung củng cố các loại lực lượng vũ trang của Việt Nam cộng hòa là rất trọng yếu cả về mặt chính trị cũng như về mặt cơ cấu. Với ý định biến tính chất của chiến tranh từ cuộc xung đột giữa người Mỹ và Cách mạng sang cuộc xung đột giữa Việt Nam cộng hòa và Cách mạng, đó là một lựa chọn có hậu quả nghiêm trọng, bởi vì ít có ai thông thạo lại tin rằng Việt Nam cộng hòa có đủ khả năng thắng một cuộc xung đột như vậy.

Đảng đã tính toán chính vấn đề này từ trước cuộc tiến công Tết. Chiến lược mới đó của Mỹ là một sự bào chữa cho việc để lại một số quân Mỹ ở Nam Việt Nam trong khi sức ép trong nước đòi rút quân tăng lên. Trong khi Nhà Trắng xem xét vấn đề Việt Nam hóa thì nhiều người ở Oa-sinh-tơn thực sự xem nó là một công thức gỡ thể diện để thừa nhận chính những thất bại của mình.

Thật là mỉa mai vì việc xây dựng một bộ máy quân sự Việt Nam cộng hòa lớn hơn nữa lại sẽ trở thành thêm một phương tiện nữa để chắc chắn đưa lại thất bại cho sự nghiệp của Mỹ. Bởi vì vai trò tăng lên của quân đội Việt Nam cộng hòa đã thúc đẩy quần chúng nông thôn và đô thị, kể cả những phần tử trước còn thờ ơ hoặc thậm chí thù địch với Mặt trận Dân tộc Giải phóng, chống lại các chính sách chiến tranh của Việt Nam cộng hòa.

Mùa xuân năm 1968, Việt Nam cộng hòa tuyên bố tổng động viên thanh niên 18 và 19 tuổi. Tất cả đàn ông từ 18 đến 38 phải nhập ngũ và ở lại quân ngũ cho đến 45 tuổi, còn những người 16 và 17 tuổi và từ 39 đến 50 phải vào các lực lượng chủ yếu không vũ trang và lực lượng tự vệ địa phương.

Vào năm 1969, 150.000 lính mới được tuyển vào quân đội Việt Nam cộng hòa và 250.000 vào các lực lượng địa phương và dân quân. Việc tuyển quân ào ạt vào lúc các khó khăn kinh tế của Việt Nam cộng hòa ngày càng chồng chất đã làm cho tính chất hoàn toàn giả tạo của chế độ xã hội Việt Nam cộng hòa càng thêm gay gắt và kéo theo vô số chi tiêu mới. Việc tuyển quân bắt buộc đó làm cho nhân dân bất bình rất nhiều mặt. Mặt rõ ràng nhất là mất con và thiệt hại về kinh tế làm cho các gia đình ngày càng nhận thức rằng Việt Nam cộng hòa là gánh nặng chính của cuộc đời họ.

Quân đội Việt Nam cộng hòa, đối với con mắt của toàn đất nước, là gánh nặng ngày càng lớn bởi vì cướp bóc mà một mức mới đã xảy ra trong cuộc tiến công Tết, đã tăng lên với những vấn đề kinh tế khó khăn của binh lính. Đánh giá đầu năm 1969 của Hội đồng an ninh quốc gia kết luận rằng: "Cướp bóc và đạo đức xấu của các lực lượng vũ trang Việt Nam cộng hòa đối với quần chúng dân sự đã làm tổn thương đến lòng tin của nhân dân đối với quân đội Việt Nam cộng hòa" và điều này không có cách nào đảo ngược lại được.

Quân đội Việt Nam cộng hòa trở nên rời rạc hơn tuy có vũ khí mới. Tỷ lệ đào ngũ tăng lên đáng kể, đặc biệt là trong hàng ngũ lính mới và những lính ma trở nên thông thường hơn. Các sĩ quan không sẵn sàng làm nhiệm vụ và điều đó làm tăng thêm tình trạng mất tinh thần. Hội đồng an ninh quốc gia cũng tuyên bố đầu năm 1969 rằng "Tất cả các cơ quan đồng ý rằng quân đội Việt Nam cộng hòa không thể bây giờ hoặc thậm chí sau khi được hoàn toàn hiện đại hóa, đối phó với Việt cộng, và một mức có ý nghĩa với các lực lượng quân đội Bắc Việt Nam, nếu không có sự yểm trợ chiến đấu của Mỹ dưới hình thức không quân, máy bay lên thẳng, trọng pháo và hậu cần cùng với một số lực lượng trên bộ".

Tăng quy mô của quân đội Việt Nam cộng hòa chỉ làm yếu thêm nó với tư cách là một tổ chức chiến đấu, gây tác hại thêm cho toàn bộ trật tự xã hội và làm cho nền kinh tế càng phụ thuộc và càng dễ bị tiến công. Không muốn và không có khả năng đối phó với những thế tiến lui đều khó đó, chính quyền Giôn-xơn thích để tất cả chúng cho người kế nhiệm mình.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 14 Tháng Chín, 2008, 11:21:27 am
chương hai mươi sáu
ĐÁNH GIÁ CUỘC TIẾN CÔNG TẾT

VỊ TRÍ CỦA CÁCH MẠNG SAU THÁNG HAI 1968

Đánh giá những kết quả đợt đầu của cuộc tiến công Tết là một vấn đề cấp bách của Đảng. Tuy tổn thất về người không bằng con số mà quân Mỹ rêu rao, nhưng vẫn cao hơn mức dự kiến của các nhà lãnh đạo chính của Đảng. Những người miền Nam cùng hoạt động lâu năm với Quân đội giải phóng nhân dân cho rằng nếu chiến thuật của cuộc tiến công thực tế hơn thì thắng lợi sẽ lớn hơn và tổn thất sẽ ít hơn. Tuy Cách mạng có thể thay thế số người bị tổn thất, nhưng không bù lại được những hy sinh về chất lượng. Bởi vì phần lớn những người hy sinh là những cán bộ quân sự và chính trị giàu kinh nghiệm nhất của miền Nam, cả ở đô thị lẫn ở nông thôn.

Thật là mỉa mai, trong khi những phân tích đầu tiên của Mỹ thừa nhận những thắng lợi quân sự của Cộng sản thì những đánh giá đầu tiên của lãnh đạo Đảng lại tập trung vào những thất bại của mình. Chỉ sau đó họ mới có những suy xét đúng đắn và cân đối. Những báo cáo bi quan của địa phương làm cho các nhà lãnh đạo cấp trên từ lạc quan trước khi tiến công trở nên thận trọng hơn khi họ cắt bớt những giai đoạn tiếp theo của cuộc tiến công để duy trì lực lượng. Họ thấy được những thành tựu của họ trong việc phá hủy hệ thống quân sự và cơ cấu chính quyền của Việt Nam cộng hòa, nhưng họ xem cuộc tổng khởi nghĩa là một thất bại và cho rằng những kế hoạch hoạt động nông thôn còn quá mơ hồ và ngờ nghệch. Một số cũng nghĩ rằng vai trò lãnh đạo của Cách mạng bị sa sút vào lúc khẩn trương. Đảng rất lưu tâm đến những vấn đề này trong giai đoạn tiếp theo của cuộc tiến công.

Trong tháng ba, các báo lớn của Đảng xem xét lại tiến bộ của đợt Tết đầu tiên, nhấn mạnh đến thắng lợi trong việc đập tan cơ cấu quân sự và chính trị Việt Nam cộng hòa và do đó mà phá hoại cơ sở của cố gắng Mỹ. Chính quyền Giôn-xơn đã ở vào thế phòng ngự ở trong nước cũng như tại Việt Nam. Trong khi Cách mạng đã đạt được một thắng lợi chiến lược, đặt cơ sở cho thắng lợi cuối cùng, và trong khi Tết thực sự là một điểm ngoặt cho Mỹ và Việt Nam cộng hòa, nhưng chiến tranh chắc chắn sẽ còn đòi hỏi nhiều thời gian hơn.

Giai đoạn tiến công tiếp theo thận trọng hơn nhiều. Tiêu điểm chính vẫn còn là hệ thống quân sự và chính trị của Việt Nam cộng hòa, nhưng những cuộc tiến công bắt đầu từ ngày 4 tháng 5 đã được tổ chức tốt hơn, sử dụng những nhóm nhỏ với những mục tiêu linh động và dựa nhiều hơn vào súng cối và rốc-két. Cộng chung tất cả lại, họ đã tiến công 119 đô thị, thị trấn, căn cứ trong đêm 4 tháng năm; nhiều đơn vị đột nhập Sài Gòn, và một tuần chiến đấu trên đường phố tiếp theo là nhiều tuần tiến công đứt quãng bằng rốc-két.

Trong đợt tiến công này, Cộng sản không đánh vào các cơ sở Mỹ, dụng ý cho thấy rằng chính Việt Nam cộng hòa và thủ đô của họ là bộ phận mong manh nhất của cố gắng chiến tranh Mỹ. Tuy quần chúng không tham gia cuộc tiến công, nhưng Cách mạng đã đạt được mục tiêu quan trọng nhất của mình.

Đánh giá kết quả đợt tiến công thứ hai, Đảng kết luận rằng họ đã lặp lại những cuộc tiến công của đợt thứ nhất. Đảng không huy động được nhân dân đô thị và phân hóa được quân đội Việt Nam cộng hòa và tuy có những thiếu sót về mặt quân sự, nhưng về mặt chính trị, đợt này cũng là một thành tựu lớn.

Đợt thứ ba và cuối cùng bắt đầu ngày 17 tháng 8 và kéo dài sáu tuần lễ. Nó khác hai đợt đầu ở chỗ nó cũng tiến công các cơ sở Mỹ và không có ý định huy động khởi nghĩa quần chúng. Chủ yếu dựa vào súng cối và rốc-két, nó dùng các lực lượng địa phương và rút xuống mức tối thiểu tổn thất nhân lực bằng cách dựa vào những đơn vị nhỏ. Đợt này làm cho Việt Nam cộng hòa rối trí và cũng nhằm nhắc nhở người Mỹ rằng họ cũng dễ bị tiến công, một điểm rất phù hợp về mặt chính trị với cuộc vận động bầu cử đang tiến hành.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 14 Tháng Chín, 2008, 11:22:03 am
Cách mạng có thể tập trung lực lượng và tiến công các đô thị, hoặc phân tán ra thành các đơn vị nhỏ và kéo các lực lượng địch ra nông thôn, hoặc đồng thời làm cả hai. Các nhà phân tích Lầu Năm Góc nhấn mạnh vào cuối tháng ba rằng kẻ thù "có thể giới hạn thương vong của mình vào một tỷ lệ mà họ có thể chịu một cách vô thời hạn". Khả năng theo đuổi một cuộc chiến tranh kéo dài và một chiến lược linh hoạt làm cho Cộng sản giữ được quyền chủ động.

Các nhà lãnh đạo Mỹ và Đảng đều có ý thức sâu sắc về những nhược điểm của chính mình. Các tướng Mỹ tại chiến trường thấy khả năng tránh tiếp xúc của kẻ thù là đáng chán nản và thất vọng; những người khác thì thấy rằng ngay những chiến thuật trước Tết của Cộng sản cũng là một "Thắng lợi có ý nghĩa".

Những tin tức như vậy chỉ củng cố thêm quan điểm ở Oa-sinh-tơn sau Tết rằng Cách mạng vẫn giữ khả năng tiến hành chiến tranh kéo dài mặc dù có những thất bại tạm thời. Tuy nhiên, Bộ Chính trị rất có ý thức rằng vì "chưa đạt được những đòi hỏi cơ bản đã được đặt ra" nên phải có chính sách xây dựng lại lực lượng và nhấn mạnh chiến tranh du kích và đơn vị nhỏ để ít bị thương vong nhất. Bộ Chính trị không hy vọng rằng một cuộc khởi nghĩa đô thị sẽ có tính chất quyết định, nhưng cũng không ngờ những tổn thất lớn như vậy đối với cơ sở hạ tầng ở đô thị và đối với các lực lượng đã được đưa vào đô thị. Chiến đấu kéo dài ở đô thị buộc phải tập trung hơn ở đó làm yếu vị trí của Cách mạng ở nông thôn.

Những người Mỹ lại có những kết luận trái ngược. Trong đợt đầu của cuộc tiến công, ủy ban Clíp-phớt kết luận rằng những cuộc tiến công đô thị đã thực sự là một sự đánh lạc hướng thắng lợi để Cộng sản "chiếm nông thôn". .

Ủy ban này ước tính vào cuối năm 1967, Việt Nam cộng hòa thực sự kiểm soát chỉ 30 phần trăm nhân dân nông thôn. Ngay Oét-mo-len cũng thừa nhận rằng các cuộc tiến công đô thị đã kéo quân đội Việt Nam cộng hòa đang bảo vệ làng mạc về thành thị, gây "một bước lùi quan trọng cho chương trình bình định của chúng ta".

Đầu năm 1969 đánh giá có thẩm quyền nhất của Mỹ cho rằng cơ sở hạ tầng thôn xóm của Mặt trận Dân tộc Giải phóng đã mở rộng ra đến ba phần tư số dân nông thôn và những tổ chức địa phương của Việt Nam cộng hòa đã yếu đi trong suốt năm 1968. Các chuyên gia Mỹ về các lĩnh vực đặc biệt tin rằng bộ máy chính trị Mặt trận Dân tộc Giải phóng không bị yếu đi trong suốt năm 1968. Họ nghĩ rằng cơ sở hạ tầng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng vào cuối tháng 12 năm 1968 cũng giống như một năm trước đó với các ủy ban giải phóng nhiều hơn các tổ chức Việt Nam cộng hòa, và chương trình "Phượng hoàng" đưa ra năm 1967 đã không thành công một cách rất rõ rệt...

Những người Mỹ hiểu rõ rằng sức mạnh của Cách mạng cuối cùng là ở chỗ kẻ thù của Cách mạng không có khả năng làm vừa lòng nông dân hoặc giành được sự ủng hộ của họ. Hơn nữa, do con em bị bắt lính, tài sản bị cướp bóc và phá hủy, và luôn luôn bị các quan chức bóc lột, phần đông nông dân không ủng hộ phía mà Mỹ nâng đỡ, và đối với Mỹ, điều đó có nghĩa là thất bại. Còn những nông dân khác thì thấy rằng nếu họ làm gì cho phía Mỹ thì điều đó chỉ có hại cho cuộc đời quá mong manh của họ mà thôi. Do đó, vấn đề còn lại không phải là việc Mặt trận Dân tộc Giải phóng đã bỏ nông thôn hay bị tiêu diệt mà là việc Việt Nam cộng hòa đã bị loại trừ và không thể nào lấp được chỗ trống nữa.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 14 Tháng Chín, 2008, 11:22:43 am
ĐÁNH GIÁ TẾT CỦA ĐẢNG

Đánh giá Tết của Đảng đã ảnh hưởng đến chiến lược quân sự và chính trị tiếp theo của Đảng, bởi vì cuộc tiến công cho phép Đảng đánh giá một cách thực tế cán cân lực lượng. Tuy nhiên, trong ba khả năng Đảng vạch ra hồi trước tháng hai, từ khả năng một thắng lợi hoàn toàn và nhanh chóng đến khả năng một cuộc leo thang chiến tranh, khả năng đã xuất hiện cũng là khả năng được chờ đợi nhiều nhất đó là việc Mỹ sẽ chịu nhiều thất bại lớn nhưng vẫn tiếp tục chiến đấu. Nhưng so sánh lực lượng mới sẽ đưa lại những thắng lợi về sau.

Mỹ phải thấy rằng những người cộng sản có khả năng đánh cùng một lúc trên khắp đất nước và Mỹ phải rải quân ra để bảo vệ các đô thị nên ở vào thế bị động về chiến lược. Người Mỹ biết rằng Cộng sản có thể kéo dài chiến tranh vô thời hạn, rằng Mỹ không thể dựa vào quân đội Việt Nam cộng hòa và tất cả các chiến lược của Việt Nam cộng hòa là đang thất bại. Chủ nghĩa thất bại xuất phát từ tình hình quá rõ ràng này buộc Oa-sinh-tơn phải rút trước thời hạn và có thể thừa nhận thương lượng có ích trước tiên.

Đảng có hy vọng sẽ thành công trong việc làm mất tinh thần Oa-sinh-tơn, nhưng Đảng hoàn toàn không được chuẩn bị sẵn sàng cho quy mô to lớn của tác động Tết, ảnh hưởng đến nền chính trị nội bộ Mỹ, làm tổn thương vị trí kinh tế trong nước và trên thế giới và làm suy yếu quy thế cường quốc thế giới của Mỹ. Các nhà lãnh đạo Đảng cho là đã chọn thời cơ đúng với cuộc khủng hoảng đồng đô-la. Khi tất cả các nhân tố đó kết hợp lại với những thất bại quân sự của Việt Nam cộng hòa, chính quyền Giôn-xơn mất ý chí chiến đấu của mình, và điều này, theo cách nhìn của Cách mạng, là có tính chất quyết định.

Tuy nhiên tổn thất của Cách mạng cũng rất quan trọng mà trên thực tế chỉ những thất bại lớn hơn của Mỹ và Việt Nam cộng hòa mới che lấp được. Từ đó chiến lược Tết 1968 không hề được lặp lại, và việc giữ gìn lực lượng đã trở thành thiết yếu cho giai đoạn tiếp theo của cố gắng chính trị và quân sự của Cách mạng.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 14 Tháng Chín, 2008, 11:31:32 am
Ý NGHĨA CỦA CUỘC TIẾN CÔNG TẾT

Đảng từ năm 1968 đã xem cuộc tiến công Tết như là điểm ngoặt trong cuộc chiến tranh và như là một thắng lợi quyết định mà hậu quả sẽ hoàn thiện thắng lợi cuối cùng. Vào năm 1968, chiến tranh Việt Nam đã trở thành khó phân tích hơn nhiều, bởi vì chính quá trình diễn biến của cuộc xung đột kéo dài đã làm cho nó không chỉ là một cuộc đấu tranh quân sự mà còn là một cuộc đấu tranh trong đó các lĩnh vực chính trị, kinh tế, hệ tư tưởng và con người trở thành ngày càng trọng yếu. Trong tất cả các nhân tố đó, không có nhân tố nào một mình mà có tính chất quyết định được nhưng tác động qua lại của chúng với nhau sẽ hình thành kết quả cuối cùng của chiến tranh.

Đối với Mỹ, Tết là sự đối đầu với thực tế, đã bị trì hoãn quá lâu; trước đó Mỹ đã bị mê hoặc bởi chính những ảo tưởng, những tham vọng và những nhu cầu của chính mình. Nhận thức muộn màng rằng, tuy có chiến thuật và kỹ thuật quân sự, Mỹ không có chiến lược quân sự phù hợp với các ưu tiên trong nước và trên quốc tế, nhận thức đó đã làm cho Tết trở thành điểm ngoặt trong tính toán của chính quyền Mỹ. Những người trước kia tán thành chiến tranh, bây giờ có những đánh giá khách quan hơn nhiều về so sánh lực lượng.

Tuy nhiên sự thay đổi trong dư luận công chúng đã xảy ra do kết quả của Tết, nhưng nó chưa đủ mạnh để đưa lại sự thay đổi trong suy nghĩ của những người đánh giá chính sách. Tất nhiên Tết đã làm cho báo chí nghi ngờ các báo cáo chính thức về chiến tranh nhưng không bao giờ họ phê phán các chính sách đế quốc đưa đến sự can thiệp của Mỹ lúc ban đầu.

Một lý do khác của sự mất lòng tin đó, ngoài thắng lợi của Cách mạng, là việc những người phát ngôn của Mỹ không hiểu gì tính chất của cuộc chiến tranh. Họ không biết tôn trọng báo chí và đưa ra những tin tức cố tình xuyên tạc nên việc báo chí chống lại những ảo tưởng của chính quyền Mỹ là một điều có thể đoán trước được, đấy là chưa nói đến việc nhiều người trong chính quyền cũng không còn tin vào những nhận thức sai lầm đó nữa.

Tết cho thấy rằng đã đến lúc phải tập trung vào những hạn chế của chế độ. Nếu theo đuổi một quy mô leo thang với mức cao hơn nữa thì sẽ gây thiệt hại không kể xiết cho vị trí kinh tế của Mỹ ở trong nước cũng như ở ngoài nước, cho sức mạnh quân sự của Mỹ ở những nơi khác và cho cả đời sống chính trị của Mỹ nữa. Đó là một cái giá mà ít ai nghiêm chỉnh muốn trả.

Cuộc tiến công càng làm cho tình hình trên nghiêm trọng thêm và nhìn về mặt này thì Cách mạng đã đạt được một thế lợi quyết định trong toàn bộ cuộc đấu tranh của mình. Quan trọng hơn nữa là tiến công Tết đã mở mắt cho Oa-sinh-tơn thừa nhận vai trò quan trọng của Việt Nam cộng hòa trong cố gắng chiến tranh.

Tất cả các cố vấn cấp cao có liên quan đến việc vạch ra chính sách tương lai đều đồng ý với nhận xét của CIA rằng: "ý chí và khả năng của chính phủ Việt Nam cộng hòa và các lực lượng vũ trang của nó vẫn là chìa khóa cho kết quả cuối cùng". Những tướng Mỹ biết rằng họ không thể thắng chiến tranh nếu Việt Nam cộng hòa không đảm nhận thêm gánh nặng quân sự và tiếp tục giữ thái độ vô trách nhiệm về mặt chính trị.

Mỉa mai thay, "Việt Nam hóa" chiến tranh một cách muộn màng đã trở thành trụ cột cuối cùng cho chiến lược Mỹ, đồng thời làm cho Mỹ hoàn toàn phụ thuộc vào chính những người phụ thuộc mình.
Chính sự bắt buộc phải dựa vào kẻ khác đó của Mỹ là sự bảo đảm cho thắng lợi cuối cùng của Cách mạng, bởi vì hầu như tất cả những ai có liên quan đến chiến tranh đều nghi ngờ ràng Việt Nam cộng hòa có thể thắng về quân sự trong khi nửa triệu quân Mỹ không thể thắng được.

Với ý nghĩa này, Cách mạng đã đạt các mục tiêu chiến lược chính của cuộc tiến công Tết, buộc Mỹ phải rời bỏ lĩnh vực của ao ước để đương đầu với lĩnh vực của sự cần thiết. Nhưng chính khung cảnh của cuộc đấu tranh sử thi anh hùng đó đang thay đổi đối với Cách mạng cũng như đối với kẻ thù. Chính quá trình của cuộc xung đột làm tan rã toàn bộ trật tự xã hội, ảnh hưởng đến đạo đức và khát vọng.
Sự biến đổi của đất nước, sự đô thị hóa tàn bạo, sự Mỹ hóa tư cách đạo đức của thanh niên, và tất cả những tai họa của chiến tranh và của sự chiếm đóng đã làm biến đổi những mục đích của nhiều người Việt Nam.

Sự xuất hiện những tầng lớp xã hội mới trong các đô thị vừa nổi lên, gây khó khăn cho cả Việt Nam cộng hòa lẫn Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Tuy nhiên, trong khi những khó khăn đô thị của Đảng có tính chất chiến thuật thì đối với Việt Nam cộng hòa, chúng là những vấn đề cơ bản của sự sống còn.
Bởi vì khó khăn tai họa của Việt Nam cộng hòa là không có một cơ sở tổ chức kinh tế và tư tưởng để tự biến mình thành một lực lượng chính trị thực sự, có thể hoạt động và tồn tại độc lập với người Mỹ.

Cơ cấu nông thôn Nam Việt Nam cũng thay đổi và mỗi lần quần chúng bỏ ra đi thì sự thay đổi đó càng rõ rệt thêm. Vào năm 1968 tình hình nông thôn Nam Việt Nam khác hẳn khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng ra đời. Nhân dân ngày càng tha thiết với sự an ninh của mình vì đã chịu đựng quá nhiều những tàn phá của chiến tranh. Những nơi mà cơ sở hạ tầng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng bị phá hủy, nông dân vẫn không đi với Việt Nam cộng hòa, bởi vì điều mà họ mong muốn nhất là hòa bình, thì Việt Nam cộng hòa không thể đưa lại cho họ. Tệ hơn nữa, những đòi hỏi ngày càng tăng của Việt Nam cộng hòa đối với nông dân càng làm cho họ thêm bất bình.

Tết là ngưỡng cửa trong sự phát triển của chiến tranh, một điểm ngoặt lớn bảo đảm rằng Cách mạng không thể nào bị đánh bại được. Tất cả những chiều cạnh tổ chức xã hội, kinh tế và con người đang diễn biến nhanh chóng, đã trở nên ngày càng có ý nghĩa cho kết quả cuối cùng của chiến tranh, và ngay dù cho chúng có vẻ mập mờ và u ám như thế nào lúc đó, rõ ràng cuối năm 1968, chúng tỏ ra là quyết định.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 14 Tháng Chín, 2008, 11:35:50 am
PHẦN NĂM
CHIẾN TRANH VÀ NGOẠI GIAO
( 1969 - 1972)

Chương hai mươi bảy
SỰ ĐỐI ĐẦU CỦA CHÍNH QUYỀN NÍCH-SƠN VỚI VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI

Chính quyền Ních-xơn mang theo mình toàn bộ di sản của quá khứ: những nhận định trước kia về tính chất sức mạnh Mỹ và thế giới, những mong muốn và tham vọng quá chủ quan, những mục tiêu và những phương tiện để đạt những mục tiêu đó, cả những mâu thuẫn và thất vọng. Sự làm theo cũ chứ không phải đổi mới có tính toán là dấu hiệu của chính sách đối ngoại Mỹ đương thời, và những chuyển hướng lớn, nói chung chỉ nằm trong những lời hứa và ngôn từ của vận động bầu cử. Do cần có sự nhất trí chung, nên những thay đổi xảy ra chậm chạp, thường là để phản ứng lại những lực lượng và nhân tố nằm ngoài sự kiểm soát của Oa-sinh-tơn.

Chính sách Việt Nam của Mỹ trong nhiệm kỳ đầu của Ních-xơn thường có tính chất thí nghiệm và mâu thuẫn nhau, nhằm đối phó với cả so sánh lực lượng đang thay đổi ở Việt Nam lẫn những thúc ép chính trị và kinh tế chủ yếu không thể đoán trước được ở Mỹ cũng như trong chủ nghĩa tư bản phương Tây.

Chính quyền Ních-xơn mang theo một loạt các mục tiêu mà phần nhiều là sản phẩm của ý muốn chủ quan hơn là sự hiểu biết về thực tế, nhưng không có những ưu tiên toàn cầu rõ rệt, càng không có một kế hoạch hành động quyết định.

Mặc dù thông cảm với nỗi thất vọng sâu sắc về chiến tranh của Giôn-xơn, nhưng chính quyền Ních-xơn cũng vây, không thừa nhận thất bại. Chính quyền đó không có khả năng gì hơn để thực sự rút ra bởi vì nó tán thành tất cả các cam kết của các tổng thống trước về lòng tin, thuyết đô-mi-nô và thế khó xử của sức mạnh quân sự Mỹ. Tất cả điều khác nhau cơ bản là tình hình trong nước, ở Việt Nam, và trên thế giới, từ đầu năm 1969 đã diễn biến nhanh chóng và quyết định hơn nhiều so với sức tưởng tượng của chính quyền mới. .


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 14 Tháng Chín, 2008, 11:36:40 am
SỰ CHUYỂN TIẾP CỦA CHÍNH QUYỀN NÍCN-XƠN

Ních-xơn đã vạch ra một chiến lược khái quát về Việt Nam khá lâu trước khi gặp Kít-xin-giơ. Chiến lược đó đi song song với cách suy nghĩ trong chính quyền Giôn-xơn. Giống như phần đông ở Oa-sinh-tơn, cuối năm 1967, Ních- xơn đã thấy chiến tranh như bế tắc. Trong cuộc tiến công Tết, ông ta cùng với chính quyền Mỹ, tán thành quan điểm tranh thủ thời gian để cho Việt Nam cộng hòa nhận lấy gánh nặng chiến đấu, làm cho vai trò trực tiếp của Mỹ có thể giảm đi, trong khi những nhân tố khác có thể được kết hợp để giữ cho Nam Việt Nam không cộng sản tiếp tục tồn tại.

Những biện pháp đó bao gồm những hình thức leo thang mới nhằm gây sức ép đối với Việt Nam dân chủ cộng hòa đồng thời nhằm khuyến khích những phát triển khác. Vào năm 1968, ông ta không còn tin rằng cuộc chiến tranh có thể thắng chỉ bằng vũ lực. Tính chất độc đáo của Ních- xơn là ở chỗ ông ta mò mẫm tìm một giải pháp ngoại giao song song với chiến tranh bằng cách lôi kéo Liên Xô và Trung Quốc vào.

Trong khi ông ta phải cải tiến và mở rộng chính sách cho phù hợp với thời gian, ông ta có ý định gắn các quan hệ toàn cầu Mỹ - Xô với sự tiến bộ trong việc giành một giải pháp hài lòng cho chiến tranh Việt Nam, dùng sự tiếp xúc với người Nga bằng củ cà-rốt và cây gậy nếu cần. Ních-xơn cũng thấy được một vai trò độc lập của Trung Quốc và khả năng của một nền ngoại giao tam giác để lợi dụng làm sâu sắc thêm những bất đồng Trung - Xô.

Một phần không kém quan trọng của chiến lược Việt Nam như Ních-xơn đã tin trước khi ông ta trúng cử, là áp dụng "học thuyết người mất trí". Ông ta đã giải thích học thuyết đó cuối năm 1968 rằng: "Tôi muốn người Bắc Việt Nam tin rằng tôi đã đi đến chỗ có thể làm bất cứ việc gì để chấm dứt chiến tranh. Chúng ta chỉ cần chuyển lời cho họ rằng, vì chúa, anh phải biết rằng Ních-xơn rất ngán với Cộng sản. Chúng tôi không thể nào kìm chế được ông ta khi ông ta nổi giận - và ông ta có ngón tay đặt trên nút hạt nhân".

Tất nhiên, ấn tượng rằng Tổng thống là vô cùng thiếu trách nhiệm, đã dần dần lan rộng không phải đến những người cộng sản vì họ không bao giờ để cho bị hăm dọa, mà đến chính những người ủng hộ ban đầu của ông ta và đến phần còn lại của thế giới. Tất cả các thành phần đó của chính sách đan chéo vào nhau, kết hợp lại với nhau, đã chiếm phần lớn nhiệm kỳ đầu tiên của ông ta, nhưng những nhân tố của hành động tương lai đã được phát hiện ngay khi Ních-xơn chưa được bầu.

Hăng-ri Kít-xin-giơ không có vai trò gì trong giai đoạn đầu này của việc vạch ra một chiến lược mới. Là một con người mưu cầu quyền lực vô cùng tham lam, đã từng phục vụ cả những người Dân chủ lẫn đối thủ chính của Ních-xơn là Nên-xơn Rô-cơ-phe-lơ, Kít-xin-giơ đã biết lợi dụng sự mất tín nhiệm của Tổng thống đối với Bộ Ngoại giao và việc ông ta muốn tự mình kiểm soát chính sách đối ngoại.

Nhưng, nói rằng vị cố vấn an ninh quốc gia mới là một người cơ hội hoặc biết cách làm tăng cái tôi của Tổng thống và khuếch đại những ý nghĩ của Tổng thống, là điều không quan trọng bởi vì những cố vấn trước ông ta và sau ông ta đều là như vậy, cái độc đáo của Kít-xin-giơ không phải là ở tài bợ đỡ của ông ta mà là ở xu hướng bản năng đơn giản hóa một cách thô bạo bản chất của quá trình diễn biến quốc tế và các quan hệ quyền lực thế giới khả dĩ làm tăng thêm chính xu hướng của Tổng thống muốn đưa ngoại giao trở thành trung tâm cho chiến lược Việt Nam của ông ta.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 14 Tháng Chín, 2008, 11:37:18 am
Kít-xin-giơ thành thật tin rằng nền ngoại giao các nước lớn sẽ đưa lại một sự nhất trí có hiệu lực và có thể cùng nhau chấp nhận được, để giải quyết các vấn đề khu vực. Nếu ông ta còn có chút hoài nghi nào đó, thì chính quyền sẽ ít bị lôi cuốn một cách sai lầm vào điều mà họ cho là Trung Quốc và Liên Xô có thể làm để chấm dứt chiến tranh.

Kít-xin-giơ không có bất cứ khả năng nào để hiểu thấu đáo rằng những biến động xã hội trong thế giới và những khủng hoảng về chính sách đối ngoại do tình hình không ổn định gây ra, đã làm cho ngoại giao không còn thích hợp hoặc ít ra là có tính chất hời hợt như thế nào.

Bằng cách củng cố những nhận định đã ăn sâu của Tổng thống về chiến lược phức tạp của ông ta với chiến lược của chính mình, Kít-xin-giơ đã đưa chính quyền đi vào một nền ngoại giao viển vông có thể làm cho Mỹ cuối cùng rút được quân nhưng lại tạo điều kiện tiên quyết cho chiến thắng của Cách mang. Tóm lại, vị giáo sư trường đại học Ha-vát cũng không có nhận thức gì hơn các người trước ông ta.

Nhưng cách nhìn đặc biệt của Kít-xin-giơ đối với chiến tranh trước khi được cử vào chức vụ chiến lược của ông ta, không giàu tưởng tượng bằng Ních-xơn. Cũng tin rằng Mỹ không thể thắng cuộc chiến tranh bằng quân sự, Kít-xin-giơ cũng vậy, cũng tán thành chuyển một trách nhiệm quân sự lớn hơn nhiều cho Việt Nam cộng hòa và củng cố nó bằng chính trị. Ông ta tin rằng Mỹ phải hướng tất cả các hành động quân sự của mình để đi đến các cuộc thương lượng; nếu việc này mà thất bại thì đành phải đơn phương đạt được càng nhiều mục tiêu càng tốt. Đối với Kít. xin-giơ, rút quân hoàn toàn mà không cứu vãn được thể diện và lòng tin của Mỹ là không thể đặt thành vấn đề.

Điều làm cho các mục tiêu của tổng thống mới và các cố vấn của ông ta trong giai đoạn tiếp theo khác với các mục tiêu của chính quyền Giôn-xơn là việc Ních-xơn nhấn mạnh đến ngoại giao các nước lớn chứ không phải ngoại giao song phương để làm chìa khóa cho một giải pháp. Việt Nam hóa và đe dọa leo thang không phải là những biện pháp duy nhất. Nhưng kết hợp các thành phần của chính sách lại với nhau và thực hiện chúng, đòi hỏi phải có thời gian.

Trong khi đó thì Kít-xin-giơ lao ngay vào việc xem xét dư luận chính thức về tình trạng chiến tranh và cách lựa chọn, mà kết quả đã thể hiện dưới hình thức văn kiện "NSSM-1" đã được hoàn thành giữa tháng 3 năm 1969. Bản nghiên cứu mật bộc lộ một sự khác biệt vừa phải về triển vọng của chiến tranh giữa giới quân sự và phần còn lại của Oa-sinh-tơn, kể cả những người dân sự trong Lầu Năm Góc.

Tất nhiên là giới quân sự bảo vệ tính có hiệu quả của các hành động và chương trình của chính họ, nhưng trên thực tế họ chỉ đưa ra những mức độ khác nhau của sự bi quan vế sự kéo dài cuộc chiến tranh trong tương lai. Phần đông tin rằng chiến tranh sẽ kéo dài hơn là Ních-xơn hoặc bất kỳ ai khác cho là có thể chịu đựng được. Bản báo cáo cho rằng tương lai chính của Việt Nam cộng hòa là mong manh; không có sự có mặt của Mỹ nó không thể sống sót lâu.

Bản báo cáo cũng coi những người cộng sản vừa có khả năng vừa có quyết tâm tiếp tục cuộc chiến tranh một cách vô thời hạn. Nếu điều mà chính quyền mới cần là thời gian để áp dụng chiến lược của mình cho chiến tranh, thì NSSM-1 tiết lộ rằng cán cân lực lượng ở Việt Nam là rất bất lợi và khả năng của vũ khí Mỹ nhằm thay đổi cán cân đó không còn hứa hẹn gì cho Ních-xơn hơn là cho Giôn-xơn.

Nhưng trong khi NSSM-1 tỏ ra rất thực tế trong việc chẩn đoán có phần bi quan của mình, bây giờ vấn đề còn lại là liệu chính phủ mới có tỏ ra là hợp lý hơn những chính phủ trước để đương đầu với những thực tế không.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 14 Tháng Chín, 2008, 11:38:09 am
CUỘC ĐẤU TRANH GIÀNH THỜI GIAN CỦA CHÍNH QUYỀN

Những giả định ban đầu của chính quyền về vấn đề Việt Nam đòi hỏi thời gian một cách vô hạn định cũng như đòi hỏi thoát khỏi muôn vàn sức ép cả ở trong nước lẫn ở các nơi khác trên thế giới; thế tiến lùi đều khó là việc chính quyền không nắm được mức độ của sự tự do hoặc những ràng buộc của mình.
Chính quyền sớm thấy được sự thoát khỏi như thế nào các sức ép chính trong nước khi trong tháng 3, họ bắt đầu nói bóng gió về việc rút quân Mỹ đi đôi với một hành động hỗ tương của Cộng sản.

Chính quyền Giôn-xơn đã xem xét những cử chỉ như vậy nhưng chủ yếu là để giảm các lực lượng không chiến đấu quá mức để tiết kiệm chi tiêu, còn Ních-xơn thì đến tháng 6, để đáp ứng các sức ép chính trị, đã tán thành rút 25.000 quân và tiếp theo là rút một số lớn hơn vào tháng 9 và tháng 12 đưa tổng số quân rút trong năm đầu 1à 111.000.

Sự nghi ngờ của báo chí Mỹ đối với những cố gắng đó nhanh chóng xuất hiện. Không chịu tiết lộ toàn bộ chiến lược ở Việt Nam, tuy đã công khai khẳng định có một kế hoạch, Nhà Trắng cuối cùng bắt đầu làm giảm sự tin cậy đối với mình và đặt cơ sở cho một cuộc xung đột lớn giữa cơ quan hành pháp và quốc hội và cho một khủng hoảng lịch sử của nhiệm vụ tổng thống. Riêng Tổng thống cũng phải đương đầu với những vấn đề kinh tế và quân sự của đất nước.

Chống đối chiến tranh là một thực tế chính trị của cuộc sống sau Tết 1968, đạt đỉnh cao mùa xuân năm 1970, khi mà đa số hai trên một của người Mỹ tin rằng việc gửi quân sang Việt Nam là một sai lầm. Phong trào chống chiến tranh, hoạt động hơn và rõ rệt hơn cuối năm 1969, đã bám rễ sâu trong giới trí thức và trong các trường đại học lớn, đầy uy tín. Quốc hội cũng biết rõ những xu thế chính trị này và tình cảm chống chiến tranh cũng được phát triển ở đây. Trong khi đó thì chiến tranh bị hạ xuống thành một hành động tàn bạo, tội ác và cuộc thảm sát thôn Mỹ Lai tháng 11 năm 1969 là một bằng chứng của quá trình đó.

Sự tàn phá hàng loạt các thôn xã và giết hại người dân vô tội là đặc trưng của chiến tranh ngay từ đầu và vấn đề này đã được các nhóm chống chiến tranh công bố rộng rãi. Lúc đầu những tin tức này bị coi là cực đoan, cho đến khi các tờ báo lớn, đặc biệt tờ Thời báo Niu Yoóc phát hiện rằng ý định thực sự của chính quyền là kéo dài chiến tranh vô thời hạn. Tính chiến đấu mới này không phải là do có thêm tin tức mới mà là do một nỗi lo sợ sâu sắc của các tầng lớp khác nhau của xã hội truyền thống, rằng chiến tranh có thể kéo dài và tổn phí xã hội, kinh tế và chính trị có thể là khổng lồ. Vào cuối năm 1969, thời kỳ đặc ân của Tổng thống đã chấm dứt và một chuyển hướng bền bỉ trong Quốc hội, báo chí và các thành phần tinh túy khác sang tình cảm chống chiến tranh đã bắt đầu.

Sự thay đổi lớn trong cộng đồng kinh doanh xảy ra cuối năm 1968 và năm 1969. Tháng 9 năm 1969, tạp chí Phoóc-tuyn thăm dò dư luận những người đứng đầu của năm trăm công ty hàng đầu của Mỹ và thấy rằng Việt Nam, theo sau là lạm phát, các vấn đề đô thị, và tình trạng náo động trong các trường đại học, đã được xem như là một trong những vấn đề trầm trọng nhất mà đất nước phải đương đầu. Họ xem Việt Nam là gắn với tất cả những vấn đề đó và việc không thắng chiến tranh đã làm cho những người tin tưởng nhiều nhất vào nến kinh tế chuyển sang các chính sách có tính chất bồ câu.

Lạm phát năm 1969 và 1970 đạt đỉnh cao của thời kỳ sau năm 1951, và tuy ngân sách liên bang năm tài chính 1969 đã được cân đối sau một thâm hụt 25 tỷ đô-la năm trước đó, ngân sách đầu tiên của Ních-xơn năm 1970 đã thâm hụt 3 tỷ đô-la và tăng lên đến 23 tỷ trong năm 1971 cũng như trong năm 1972. Thị trường chứng khoán đầu năm 1970 bắt đầu trượt theo lạm phát, theo lợi nhuận kém sút và theo sự không ổn định của chiến tranh, và mùa xuân năm 1970, khi những đe dọa của một cuộc chiến tranh mở rộng ở Đông Dương bắt đầu lưu hành thì những phần tử có uy tín của cộng đồng kinh doanh bắt đầu nói lên lời nói của giới kinh doanh.

Lui B. Lơn-đboóc chủ tịch Ngân hàng Mỹ, ngân hàng lớn nhất thế giới nói ngày 15 tháng 4 với ủy ban quan hệ đối ngoại của Thượng viện, rằng "Đối với tôi, dường như đã đến lúc phải nói rõ: Cuộc chiến tranh đã phá hoại nghiêm trọng nền kinh tế Mỹ, đã làm rực cháy ngọn lửa lạm phát, đã làm khô kiệt tài sản vô cùng cần thiết để khắc phục các vấn đề nghiêm trọng trong nước... và đã hạ thấp tốc độ phát triển của lợi nhuận...".

Từ lúc này trở đi, sự chống đối chiến tranh không phải chỉ đóng khung trong những vùng cử tri cách biệt mà lan đến những khu vực quyền lực quan trọng có ảnh hưởng to lớn đến báo chí và Quốc hội. Tuần báo Bi- di-nêt-uýt kết luận vào giữa tháng 4: "Có ít diều hâu còn lại trong thế giới kinh doanh".
Sau khi mở rộng cuộc chiến tranh ra Cam-pu-chia, kể cả việc sử dụng lính Mỹ ngày 30 tháng 4, sự tự do hành động còn lại của Tổng thống đã bị gắn liền với khả năng của ông ta đối phó với sự chống đối rộng lớn của công chúng và của giới trí thức mà cuối năm 1970 đòi một sự rút quân hoàn toàn khỏi Việt Nam trong vòng một năm.

Không có tổng thống nào sau chiến tranh bị bao vây kìm chế như vậy. Điều đó không có nghĩa là ông ta không thể khắc phục được những vấn đề chính trị trước mắt của ông ta, nhưng không còn nghi ngờ gì nữa rằng dư luận bây giờ là một thách thức to lớn và mạnh mẽ đối với ông ta.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 15 Tháng Chín, 2008, 10:56:11 am
VIỆT NAM VÀ NHỮNG RÀNG BUỘC CỦA CÁC ƯU TIÊN TOÀN CẦU MỸ

Những thách thức chính quyền Ních-xơn bao gồm phần lớn các tác động chồng chất của cuộc chiến tranh kéo dài đối với vị trí và các ưu tiên quân sự và kinh tế toàn cầu Mỹ. Chính quyền đó nhận thức ra rằng họ không còn có thể trì hoãn đối phó với những vấn đề như vậy mà không gây ra một sự lu mờ nghiêm trọng quyền lực của Mỹ trên thế giới, và mặc dù tầm quan trọng rất tượng trưng của chiến tranh, chính quyền mới cũng thấy rằng họ còn phải giải quyết nhiều nhu cầu khác nữa.

Các thành viên chủ chốt của ngành hành pháp đối phó với thế khó xử đó một cách khá khác nhau, và trên nguyên tắc, tất cả đều thống nhất rằng phải làm một việc nào đó, nhưng chính Mên-vin R. Le-đơ, bộ trưởng quốc phòng mới, là người có quyết tâm nhất trong việc giải quyết các thách thức đó.

Vào năm tài chính 1969 chiến tranh chiếm 37 phần trăm toàn bộ chi tiêu quân sự và số tiền đó chủ yếu rút ra từ ngân sách dành cho vũ khí và trang bị, kể cả những hệ thống vũ khí mới, và cho các lực lượng lớn hơn ở châu Âu. Ngoài thực tế rằng các ngành đó luôn luôn thiếu kinh phí nên rất bất bình về những tác động của chiến tranh đối với tên lửa, tàu chiến, quyền lực khu vực của họ hoặc đối với khả năng đương đầu với sức mạnh của Liên Xô, toàn bộ ngân sách của Lầu Năm Góc đã bị lạm phát và không tránh khỏi bị cắt xén.

Trong năm tài chính 1973, do ngân sách sụt mất 8 phần trăm so với mức năm 1964 nên Lầu Năm Góc trở thành lực lượng khó bảo nhất mà Tổng thống phải đối phó, trong việc vạch ra chính sách Việt Nam trong nhiệm kỳ đầu của ông ta vì ông ta không dễ gì đàn áp như đàn áp sinh viên hoặc những trí thức suy tàn của miền Đông nước Mỹ. Hơn nữa Tổng thống không thể chống lại lập luận hết sức vững chắc rằng chi tiêu cho chiến tranh Việt Nam phải được giảm xuống để có thể mua tàu và tên lửa hết sức cần thiết.

Chính quyền đã bỏ ra cả năm 1969 để nghiên cứu những nhu cầu và lựa chọn quân sự toàn cầu của mình, và đi đến một bản nghiên cứu khác của Hội đồng an ninh quốc gia, NSSM-3, xác định một loạt các lựa chọn khác nhau, trong đó không có lựa chọn nào có thể thực hiện được nếu không rút các lực lượng Mỹ khỏi Việt Nam vào năm 1973, trừ việc để lại một phái đoàn cố vấn nhỏ.

Việc kéo Trung Quốc ra khỏi hàng ngũ kẻ thù cũng rất cần thiết cho việc thực biện bản nghiên cứu nói trên và chính việc này đã làm cho Oa-sinh-tơn củng cố chiến lược ngoại giao tiếp theo của mình. Vào đầu năm 1970, chính sách hiện đại hóa toàn bộ ngành quân sự đã được mọi người trong chính quyền ủng hộ và xem đó là thiết yếu cho sự khẳng định lại lòng tin và sức mạnh chiến lược của Mỹ chống lại Liên Xô và vào khả năng của Mỹ đánh một cuộc chiến tranh toàn bộ và một chiến tranh cục bộ lớn trong cùng một lúc.

Để cho lực lượng quân sự trở nên gọn và mạnh nhằm có nhiều khả năng nhưng lại tốn ít tiền, lực lượng đó phải giảm một triệu quân vào năm 1973 để lấy tiền mua sắm những thiết bị mới. Một khi đã dốc lòng theo chiến lược đó, Le-đơ đã tìm mọi cách thực hiện nó, vì biết rằng, nếu không làm được, thì tổ chức quân sự sẽ ở trong tình trạng yếu kém, vì thiếu kinh phí.

Đã từng hoạt động mười sáu năm trong Hạ viện, ông ta, hơn ai hết trong chính quyền, hiểu rõ những tình cảm của cơ quan lập pháp. Ông ta cũng tin rằng Mỹ khỏng thể thắng cuộc chiến tranh Việt Nam hoặc ở chiến trường hoặc trên bàn thương lượng, nên ông ta lo rằng dư luận công chúng sẽ buộc Mỹ rút ra khỏi cuộc chiến tranh bất chấp ý muốn của Tổng thống như thế nào. Ít ra ông ta muốn vừa hiện đại hóa quân đội vừa tiêu ít tiền và ông ta chiến đấu mãnh liệt cho lập trường của ông ta cả công khai lẫn riêng rẽ.

Những đợt rút quân đầu tiên năm 1969 chỉ nhằm vào những lực lượng không cần thiết và, trên hết, nhằm tranh thủ công chúng chấp nhận sự tiếp tục chiến tranh. Lúc ban đầu Le-đơ đề nghị chỉ rút vừa phải, nhưng khi NSSM-3 đã được đưa ra thì ông ta thấy rằng rút thường xuyên khỏi Việt Nam là thiết yếu. Bất chấp sự dè dặt của các tướng chủ chốt lo về chiến tranh, Le-đơ đã thúc đẩy những cuộc rút quân, buộc Tổng thống trong những năm tiếp theo thực hiện một cách vững chắc chính sách chính thức đó, ngay khi Tổng thống còn muốn quay lại chiến tranh lần nữa.

Mặc dù có những diễn biến sóng gió của chiến tranh, chi tiêu đã từ 28,8 tỷ đô-la năm 1969, ngân sách cuối cùng của Đảng Dân chủ, xuống còn 9,3 tỷ năm 1972. Toàn bộ lực lượng quân sự Mỹ trên thế giới đã giảm trên 1,1 triệu quân, gấp đôi số quân ở Việt Nam vào lúc cao nhất trong chiến tranh. Le-đơ đưa việc rút quân khỏi Việt Nam vào phạm vi ngân sách của Lầu Năm Góc và do đó mà tiến công vào mọi trì hoãn như là "từ bỏ việc hiện đại hóa vũ khí" làm cho những phần tử diều hâu cũng không chống lại được.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 15 Tháng Chín, 2008, 10:57:01 am
Việc rút quân cũng làm giảm tình cảm chống chiến tranh. Tuy vậy, trong năm đầu làm nhiệm vụ, chính quyền Ních-xơn cũng không đưa ra được một chiến lược chiến tranh nào để thay thế mà vẫn tiếp tục trì hoãn để tranh thủ thời gian và dựa vào các khái niệm về Việt Nam hóa, về sử dụng ngoại giao và về đe dọa bằng "học thuyết người mất trí" để tạo ra một kế hoạch mới, thắng lợi. Đồng thời chính quyền đó cũng vạch ra những chính sách nhất quán hơn về các vấn đề toàn cầu làm cho không thể trở lại một cách lâu dài quá trình leo thang. Nếu làm khác đi, không những có nghĩa là thua chiến tranh ở Việt Nam mà còn để cho sức mạnh ở nơi khác trở nên tan nát và làm phá sản vị trí của Mỹ trong nền kinh tế thế giới.

Chính sách chiến tranh của Nhà Trắng ngay tức khắc xung đột với những đòi hỏi của chiến lược quân sự toàn cầu và với những ràng buộc của tình hình kinh tế thế giới và của mối quan hệ giữa Mỹ với các đồng minh châu Âu, đã từng làm điêu đứng Giôn-xơn trong năm 1968. Trong suốt 4 năm đầu nhậm chức, Ních-xơn luôn luôn phải giải quyết các vấn đề kinh tế thế giới. Những lợi ích toàn cầu lớn hơn của Mỹ về mặt quân sự, kinh tế và chính trị đòi hỏi sự chú ý thường xuyên trong những năm Ních-xơn hơn là trước kia.

Không có nhân vật quan trọng nào trong nhiệm kỳ đầu tiên của ông ta sẵn sàng hoặc đủ khả năng đương đầu với những vấn đề kinh tế thế giới.. Kít-xin-giơ, tiêu biểu cho sự thiển cận trong toàn bộ sự nghiệp khoa học xã hội, đã thừa nhận rằng ông ta hoàn toàn dốt về khoa kinh tế quốc tế cho nên đã tránh nó được chừng nào tốt chừng ấy: "Chỉ về sau tôi mới biết rằng những quyết định chính sách kinh tế chủ chốt không phải là kỹ thuật mà là chính trị".

Vấn đề cơ bản là lạm phát. Nó gây ra những thâm hụt lớn khi các nhà kinh doanh Mỹ đầu tư đô-la của họ ra nước ngoài, gây nguy hại cho các nhà tư bản ngoại quốc. Những chi tiêu lớn cho chiến tranh và cho các căn cứ ở nước ngoài và những thâm hụt ngân sách to lớn trong nước làm cho các con số thống kê ngày càng trở nên đáng sợ. Năm 1971 Mỹ chịu thâm hụt mậu dịch đầu tiên sau chiến tranh, và cán cân tiền lưu hành ngoài nước của Mỹ đã lên đến con số đáng ngạc nhiên là 19 tỷ đô-la năm 1972.

Các nhà tư sản châu Âu đòi rằng người Mỹ không được tiếp tục những chương trình kinh tế làm xói mòn đồng đô-la một cách vô trách nhiệm, và chính quyền Mỹ cho rằng người Đức và Nhật Bản phải nâng giá đồng tiền của họ. Giôn Cô-na-li, bộ trưởng ngân khố tuyên bố rằng "đồng đô-la là đồng tiền của chúng tôi nhưng là vấn đề của các bạn".

Để bảo vệ mình, các ngân hàng trung ương bắt đầu đòi đổi đô-la lấy vàng ở Oa-sinh-tơn, và 845 triệu đô-la trong dự trữ vàng của Mỹ chạy ra khỏi Mỹ trong 9 tháng đầu năm 1971. Ngân hàng dự trữ liên bang ở Niu Yoóc trong mùa xuân đã luôn luôn nhắc nhở Oa-sinh-tơn rằng đồng đô-la có thể sụp đổ và sự sụp đổ có nghĩa là một cuộc khủng hoảng kinh tế và chính trị thế giới.

Vào lúc này hầu như tất cả những tập đoàn kinh tế Mỹ có hoạt động ở hải ngoại đều rất lo sợ trước các xu hướng đó, và chính quyền Mỹ thì buộc phải đương đầu với những vấn đề đang xảy ra. Ngay Kít-xin-giơ bàng quan, mà tính thụ động là mặt nạ che giấu sự dốt nát, cũng thấy rằng rất cần thiết "Không được để cho các vấn đề kinh tế lấn át tất cả các suy xét của chính sách đối ngoại".

Vào đầu tháng 8, các quan chức dự trữ liên bang Niu Yoóc nhắc nhở Oa-sinh-tơn về một sự hoang mang sợ hãi sắp xảy ra. Và ngày 15 tháng 8, chấp nhận một loạt các đề nghị do người đứng đầu trước đây của IBM dự thảo ra cho ông ta và phản ánh các nguyện vọng của các công ty Mỹ lớn hoạt động ngoài nước, Tổng thống đã chấp nhận một chương trình bảo vệ đồng đô-la, quy định giảm chi tiêu ngoài nước và tiến công vào lạm phát. Quan trọng hơn là, không tham khảo ý kiến các đồng minh nước ngoài hoặc các nhà lãnh đạo tài chính Niu Yoóc, chính quyền Mỹ đã hủy bỏ bảo đảm vàng của đồng đô-la và chấm dứt hệ thống Brêt-ton Út, đã từng khống chế nền kinh tế tư bản chủ nghĩa thế giới từ năm 1945.

Ngay biện pháp đó bây giờ cũng tỏ ra là quá ít và quá chậm. Người châu Âu bất bình sâu sắc về hành động đơn phương đối với những vấn đề có liên quan đến phúc lợi của họ. Tìm cách đưa ra những chính sách tài chính để thỏa mãn những nhu cầu trong nước, chính quyền Mỹ bị kẹt vào thế khó xử cổ điển giữa các vai trò kinh tế quốc tế và trong nước của mình.

Ngày 18 tháng 12 Mỹ chính thức phá giá đồng đô-la. Nền kinh tế thế giới bây giờ lại rơi vào cơn nước xoáy không bao giờ dứt và trong nhiều năm tiếp theo, nó buộc Oa-sinh-tơn phải quan tâm và trở thành một nhân tố dai dẳng trong các lựa chọn chiến tranh của Mỹ. Tuy chi tiêu chiến tranh thay đổi, nhưng bây giờ đã có một giới hạn về thời gian và về mức độ để chính quyền Mỹ tiếp tục cuộc chiến tranh, e rằng càng chi tiêu thêm càng làm nguy hại đến địa vị ngày càng mong manh của Mỹ trong nền kinh tế thế giới.

Cách tiến hành chiến tranh của chính quyền Ních-xơn đã làm giảm nhiều sự tự do hành động của họ. Vấn đề nổi bật mà Tổng thống phải đương đầu là: chiến tranh đấu với sức mạnh quân sự và kinh tế của Mỹ trên thế giới và với sự vững vàng của hệ thống kinh tế và chính trị trong nước. Nếu tránh né và trì hoãn được những vấn đề ở một lĩnh vực này thì Tổng thống lại phải đối phó với nhiều vấn đề ở lĩnh vực khác. Những vấn đề chồng chất của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc Mỹ đã đi vào một giai đoạn mới về chất lượng.

Cũng như cái lô-gích của tham vọng toàn cầu sản sinh ra sự xâm lược, khuyến khích các học thuyết về lòng tin và sự lo lắng về những đô-mi-nô ở Việt Nam, khi Oa-sinh-tơn tin là đã có sức mạnh to lớn về quân sự, kinh tế và chính trị, thì cũng chính cái lô-gích đó đã buộc Oa-sinh-tơn phải rút lui. Chính hoàn cảnh đó, những nhận thức và những vấn đề, những sức ép và những ép buộc về cơ cấu sau năm 1970 đã ảnh hưởng đến chính sách của Mỹ đối với một cuộc chiến tranh mà sự nguy hiểm cho sức mạnh và lợi ích của Mỹ trên khắp thế giới cũng như cho sự ấn định trong nước, đang ngày càng tăng lên.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 15 Tháng Chín, 2008, 10:58:06 am
LEO THANG VÀ VIỆT NAM HÓA

Bất chấp những khó khăn to lớn và ngày càng tăng của mình, chính quyền Ních-xơn rất ưa thích những ảo tưởng và hão vọng khi hoàn cảnh cho phép. Chính quyền đó rất kiên trì trong việc tranh thủ thời gian. Đứng trước những lựa chọn bị thu hẹp và tài sản bị hạn chế, chính quyền Ních-xơn không đi vào một chủ nghĩa thực tế trung thực để có một sức mạnh tổng hợp trong nước và ngoài nước nhằm bảo vệ lợi ích của mình, mà đi vào thỏa mãn những mong muốn và giả định hão huyền đã từng làm cơ sở cho chính sách đối ngoại của Mỹ sau chiến tranh.

Không thể chờ đợi rằng Mỹ sẽ tử tế và thông minh trước những sức ép không ngớt của các lực lượng bên ngoài, trước những thất bại vừa qua và trước nhược điểm hiện tại của họ. Tuy nhiên, dù là không nói lên rõ ràng, nhưng sự rút lui là thực tế ngay cho rằng hai người quan trọng nhất làm ra chính sách của chính quyền, Ních-xơn và Kít-xin-giơ, có đủ ảo vọng để làm cho mỗi bước đi trong quá trình trở nên đẫm máu và đau đớn một cách khủng khiếp, cho toàn bộ đất nước Việt Nam và một phần nhỏ hơn, khó mà so sánh được cho bản thân đất nước họ. 

Chính sách Mỹ ở Việt Nam sau năm 1969 trên thực tế chỉ là một loạt những hành động ngẫu hứng và những thí nghiệm dựa trên một số những ý muốn và giả định. Trong những giai đoạn dài, bản thân Nhà Trắng không thực sự hiểu hết những tác động cuối cùng và những mục tiêu chính sách của họ, mà nhìn lại về trước thì thấy là rất ngẫu nhiên.

Tuy vậy họ lấy lý do là để cứu vãn "lòng tin" vào sức mạnh của Mỹ, nên họ phải kéo dài chiến tranh đến lúc đạt được một giải pháp chấp nhận được mà không bị các vấn đề và các tổn thất khác lấn át. Đó là một chính sách mà Le-đơ không tán thành bằng cách đòi rút quân Mỹ với một tốc độ ngày càng tăng.

Còn Kít-xin-giơ, một nhà tư tưởng, thì cho rằng thuyết phục được những đồng minh châu Âu về "sức chịu đựng của Mỹ” là điều sống còn đối với NATO và thiết yếu cho việc duy trì sự ổn định và vai trò lãnh đạo của Mỹ trên thế giới. Ông ta luôn luôn trở lại đề tài này, như Tổng thống đã làm, và đó là điều giải thích chủ trương nhất quán của ông ta nhằm từng lúc leo thang bạo lực trong nhiệm kỳ đầu của Tổng thống.

Tuy nhiên lòng tin không phải là nguồn gốc duy nhất của việc kéo dài chiến tranh, bởi vì chính quyền còn muốn có thời gian để thí nghiệm chính sách Việt Nam hóa và sự thích hợp của nền ngoại giao các nước lớn cho một giải pháp Việt Nam. Bản thân Kít-xin-giơ trong năm 1969 bắt đầu xem xét kế hoạch khác nhau để leo thang chiến tranh với lòng tin rằng ông ta có thể đẩy Việt Nam dân chủ cộng hòa vào thương lượng theo những điều kiện của Mỹ. Ních- xơn thì vẫn còn muốn áp dụng "học thuyết người mất trí" của ông ta vào tình hình thực tế.

Một cơ hội như vậy xuất hiện trong tâm trí của Kít-xin-giơ và Ních-xơn, có lẽ để làm hoảng sợ Liên Xô và Việt Nam dân chủ cộng hòa khi vấn đề Cam-pu-chia diễn ra trong tháng 3 và tháng 4 năm 1970. Sự lật đổ Xi-ha-núc ngày 18 tháng 3 bởi tập đoàn Lon Non thân Mỹ hơn, đầu tiên không phải là việc làm của Mỹ nhưng Oa-sinh-tơn biết cuộc đảo chính trước khi nó xảy ra và nhanh chóng giúp đỡ những nhà lãnh đạo mới. Việc chế độ mới sẽ đuổi các lực lượng cộng sản ra khỏi các căn cứ của họ ở vùng biên giới là điều chắc chắn.

Cuối tháng 3, các đơn vị Việt Nam cộng hòa, được máy bay lên thẳng Mỹ chở đến, đã tiến công vào các căn cứ đó, do đó mở rộng chiến tranh ra một quốc gia khác. Cơ hội để tỏ ra cứng rắn đã đến.

Cả Le-đơ lẫn bộ trưởng ngoại giao Uy-li-am Rô-giơ đều phản đối một cuộc xâm lược Mỹ vào Cam-pu-chia. Nhiều trợ lý then chốt của Kít-xin-giơ cũng từ chức để phản đối. Ngày 20 tháng 4, Tổng thống công bố rút 150.000 quân Mỹ nữa trong năm tiếp theo và dùng nó để biện bạch cho một cuộc tiến công vào Cam-pu-chia rõ ràng là để quét sạch các căn cứ hậu cần lớn và tổng hành dinh của Trung ương Cục và để bảo vệ số quân còn lại sau khi rút.

Tác động cụ thể là đập tan mọi ảo tưởng và khoan dung nào còn lại ở nước Mỹ đối với Tổng thống; các trường đại học nổi dậy và phản đối nổ ra khắp nơi, và càng bị kích động hơn nữa, bởi việc lực lượng trù bị quốc gia giết chết bốn sinh viên tại trường đại học bang Kent ngày 4 tháng 5. Vào cuối năm, Quốc hội nghiêm chỉnh xem xét một loạt các đề nghị nhằm hạn chế chiến tranh.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 15 Tháng Chín, 2008, 10:58:49 am
Về quân sự, cuộc xâm lược Cam-pu-chia làm cho cuộc chiến tranh mở phạm vi ra cả Đông Dương, dàn mỏng một Việt Nam cộng hòa không được chuẩn bị tốt cũng như dàn mỏng cả những khả năng quân sự và chính trị của Mỹ. Cuộc xung đột mở rộng đó nhanh chóng chuyển so sánh lực lượng mới có lợi cho Cách mạng, làm cho Cách mạng lấp được lỗ trống mà không quân Mỹ và quân đội Việt Nam cộng hòa phải bỏ lại khi bị điều động ra hoạt động ở ngoài Nam Việt Nam.

Quan trọng hơn, Nhà Trắng bắt đầu một hành động tàn phá kinh khủng đất nước Cam-pu-chia. Rồi họ lại đưa ra một kế hoạch cho một cuộc viễn chinh của quân đội Việt Nam cộng hòa nhằm cắt đứt đường tiếp tế đi ngang qua Nam Lào. Cuộc tiến công lấy tên là Lam Sơn 719, bắt đầu ngày 8 tháng 2 năm 1971 với sự yểm trợ hoàn toàn của không quân Mỹ.

Khác với cuộc xâm lược Cam-pu-chia vạch ra một cách vội vã làm cho Quân đội nhân dân không đủ thì giờ để chuẩn bị. Cách mạng đã nắm được kế hoạch tiến công Lào khá lâu trước đó nên đã biến nó thành một cuộc tháo chạy hỗn loạn. Những tác động đối với quân đội Việt Nam cộng hòa và đối với sự thiếu khả năng vận động chiến của họ là vô cùng lớn lao. Cố gắng của chính quyền nhằm tranh thủ thời gian bằng cách mở rộng chiến tranh, đã nhanh chóng phát sinh ra những mâu thuẫn gay gắt. Chính quyền không thể xác định được một chiến lược quân sự chặt chẽ trong khi rút quân, và việc đó chỉ càng tăng thêm những vấn đề quân sự sẽ để lại.

Tính chất xoắn vào nhau của các mục tiêu Mỹ đã được điển hình hóa trong mối quan hệ phức tạp giữa "Việt Nam hóa" và rút quân. "Kế hoạch" của Tổng thống cho đến nửa năm 1972, khi những cuộc thương lượng nghiêm chỉnh bắt đầu, là vừa cải tiến quân đội Việt Nam cộng hòa cho đến lúc đủ sức làm nhiệm vụ chiến đấu, phá hủy những khả năng quân sự của Cách mạng càng nhiều càng tốt, vừa rút ra các lực lượng Mỹ để giảm sức ép chính trị trong nước. Một sự kết thúc chiến tranh do đó sẽ không phụ thuộc cuối cùng vào những tiến bộ ngoại giao, mặc dù ngoại giao có thể có ích nhiều và chính quyền cũng luôn luôn nói rõ rằng một lực lượng để lại sẽ được duy trì để phụ trách công tác hậu cần và chiến tranh không quân và hải quân trong một thời gian vô hạn định. Tháng 3 năm 1971, Le-đơ và Bộ tham mưu liên quân ước lượng con số để lại có thể vào khoảng 60.000 vào tháng 9 năm 1972.

Vấn đề là không có quan chức cao cấp Mỹ thông thạo nào tin rằng chương trình Việt Nam hóa có thể có kết quả nếu Mỹ không sẵn sàng trở lại khi cần thiết. Tháng 4 năm 1970, CIA củng cố thêm ấn tượng bao trùm của các sĩ quan Mỹ ở Sài Gòn rằng quân đội Việt Nam cộng hòa không thể nào đạt được tiến bộ thêm. Kít-xin-giơ thì nghĩ rằng Việt Nam hóa đang làm mất các lựa chọn quân sự và ngoại giao, vì nó bao gồm cả việc giảm lực lượng Mỹ. Le-đơ thì không muốn chiến tranh phá hoại những kế hoạch xây dựng lại toàn bộ cơ cấu quân sự và các ưu tiên mà ông ta đã vạch ra, ông ta ghi việc giảm quân vào ngân sách và nói rõ rằng mọi sự trì hoãn sẽ có hại cho sức mạnh quân sự của Mỹ ở các nơi khác trên thế giới.

Sự kết hợp các chính sách nói trên làm cho Tổng thống đỡ sức ép một phần và cho phép bánh xe ngoại giao chuyển động cho đến giữa năm 1972. Đây là một phản ứng có tính chất chiết trung đối với những đòi hỏi trong nước và quốc tế. Nhưng qua đó có thể thấy rằng chiến tranh tối đa chống lại Cách mạng đã thất bại và có nguy cơ kéo theo nó nền kinh tế của Mỹ.

Cố gắng xác định những mục tiêu cơ bản của Mỹ ở Đông Nam Á cũng rất là ngẫu nhiên, tuy chiếm rất nhiều thì giờ khi Mỹ bước vào cuộc chiến tranh nhưng đồng thời cũng chẳng đưa lại được gì bao nhiêu. Việc vạch ra "học thuyết Ních-xơn" khi Tổng thống ở Gu-am ngày 25 tháng 7 năm 1969 là cái làm ra vẻ nhất quán duy nhất. Cái gọi là học thuyết trên thực tế là kết quả của cuộc thảo luận có tính chất khá ngẫu nhiên với Kít-xin-giơ và của ý muốn quảng cáo của Tổng thống. Bản thân Kít-xm-giơ cũng rất ngạc nhiên. Học thuyết đã trở thành cơ sở cho việc xác định các chính sách về sau ở Đông Á của chính quyền.

Ních-xơn nhắc lại rằng Mỹ sẽ giữ các cam kết hiệp ước hiện có và mong rằng các nước châu Á ngày càng giải quyết các vấn đề an ninh nội bộ của mình bằng chính nhân lực của mình, tuy Mỹ vẫn còn sẵn sàng cung cấp viện trợ vật chất.

Về mặt kinh tế các quan chức cấp cao Mỹ nói rõ rằng, bất chấp các sắp xếp an ninh giữa Mỹ và các đồng minh khu vực của Mỹ như thế nào, Đông Á sẽ "ngày càng quan trọng” cho Mỹ, đặc biệt là về mặt buôn bán và đầu tư. Mức độ cam kết quân sự tương lai có thể có, do đó, chỉ có thể hiểu ngầm qua các hành động quá khứ và qua sự xác định mục tiêu của Mỹ chứ trên thực tế chưa có một sự đánh giá lại chính thức nào. Châu Á vẫn còn là một điều bí ẩn trong các tính toán của Oa-sinh-tơn về các ưu tiên toàn bộ của mình.

Chính sách của Mỹ có một mức độ linh hoạt nhất định nhưng không bao giờ chấp nhận nguyên tắc rút hoàn toàn, không can thiệp, và, như vậy là không chấp nhận thất bại. Đưa vấn đề rút quân ra như thế nào để giữ được danh dự và hình ảnh quốc tế của Mỹ là một vấn đề rất thiết yếu. Đồng thời Mỹ cũng nhấn mạnh những nhân tố khác, đặc biệt là sức mạnh quân sự và hoạt động ngoại giao. Chính những giới hạn ngày càng tăng của Mỹ sau năm 1969 đã làm cho ngoại giao ngày càng trở nên lĩnh vực duy nhất trong đó chính quyền có thể tìm cách đạt những mục tiêu của mình mà không bị những thúc ép vật chất và chính trị.

Sự chống đối chiến tranh tăng lên trong nội bộ Mỹ. Ở Việt Nam, không có cách nào vượt qua được những thực tế trên chiến trường cũng như những khả năng hạn chế của người thay thế Mỹ ở Sài Gòn. Năm 1972, với việc chính quyền bị hạn chế trong tất cả các lĩnh vực khác và đứng trước cuộc bầu cử tổng thống, hoạt động ngoại giao đã chuyển từ hậu trường ra sân khấu chính.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 15 Tháng Chín, 2008, 10:59:42 am
Chương hai mươi tám
CUỘC KHUNG HOẢNG CỦA SỨC MẠNH QUÂN SỰ MỸ

NHỮNG GIỚI HẠN CỦA SỨC MẠNH QUÂN SỰ MỸ Ở VIỆT NAM

Vào lúc Ních-xơn nhậm chức, không có gì chứng minh cho lòng tin rằng sự bế tắc quân sự ở Việt Nam có thể lật ngược lại. Đã không thắng được cuộc chiến tranh chi tiêu gần 30 tỷ đô-la hàng năm, Mỹ không thể nào hy vọng thắng bằng cách chi tiêu ít hơn. Hầu như ngay tức khắc tất cả các bài học và thất bại quân sự của những năm trước đã bắt đầu xuất hiện trở lại. Bởi vì Nhà Trắng cũng tin rằng "lòng tin" và chiến lược ngoại giao đòi hỏi phải định kỳ leo thang chiến tranh trong thời gian tương đối ngắn, ngay dù cho Nhà Trắng tìm cách tiến hành việc giảm quân, giảm chi tiêu và làm chệch hướng sự chống đối chiến tranh.

Tất cả các thành viên của chính quyến đồng ý rằng việc kiểm soát chiến lược quân sự phải được chuyển từ Bộ chỉ huy viện trợ quân sự ở Việt Nam, dưới quyền của tướng Crây-ton E-bram, về cho Oa-sinh-tơn. Ních-xơn, Kít-xin-giơ và Le-đơ bây giờ quyết định các vấn đề mà trước kia được quyết định gần ở chiến trường. Nhưng nói chung Le-đơ đã thắng được các vấn đề đang rất được tranh cãi về quy mô và thời gian rút quân bằng cách đơn phương sử dụng địa vị của ông ta.

Một trợ lý của ông ta giải thích năm 1971, "ông ta là một diều hâu về vấn đế răn đe hạt nhân" nhưng ông ta "muốn rút ra khỏi Việt Nam...". Le-đơ không chống chiến tranh vì chiến tranh mà chỉ vì chi tiêu quá cao. Giữa năm 1969, khi Kít-xin-giơ vạch ra những kế hoạch ném bom ồ ạt và rải mìn Việt Nam dân chủ cộng hòa, hoặc sau đó xem xét những cuộc leo thang tương xứng, thì ông ta và Ních-xơn không để cho Le-đơ biết.

Trong khi đó, chiến lược quân sự Mỹ ở Việt Nam đã được điều chỉnh cho hợp với việc rút quân. Năm 1969 gần một nửa nhân lực Mỹ ở Nam Việt Nam được xem là nhân viên phục vụ và hầu hết số quân giảm năm đó là rút từ số quân này. Phải đến năm 1971 các lực lượng chiến đấu của Mỹ và của Việt Nam cộng hòa dành cho các hoạt động tiến công mới được giảm một cách có ý nghĩa. Tuy nhiên, Mỹ đã giảm các hoạt động tiến công quy mô lớn trên bộ và muốn củng cố vị trí trong các vùng "hữu nghị".

Năm 1970, với số quân trên 400.000 trong suốt cả năm, số chết trong chiến đấu của Mỹ còn dưới một phần ba của con số năm 1968, và năm 1971 khi số quân còn bằng một nửa của năm 1968 thì số chết chỉ còn dưới một phần mười. Sự thay đổi này đã làm giảm chi tiêu của chiến tranh và sự chống đối chính trị trong nước và đồng thời cùng trở nên phù hợp với thực tế bao trùm là lục quân nhanh chóng không còn là một lực lượng chiến đấu có hiệu quả nữa.

Chiến lược của chính quyền Ních-xơn là dựa nhiều hơn nữa vào không lực và trọng pháo, tóm lại vào hỏa lực. Hơn một nửa số bom đạn của toàn bộ cuộc chiến tranh đã được sử dụng trong bốn năm đầu của Ních-xơn. Giả thuyết của Kít-xin-giơ là cần phải làm giảm cung cấp và lực lượng của Cách mạng càng lâu càng tốt nhằm tranh thủ thời gian cho các lựa chọn khác của ông ta. Năm 1969 Mỹ dùng 2,8 triệu tấn bom và đạn mặt đất, thấp hơn một ít đỉnh cao năm 1968. Năm 1971 số bom đạn còn hơn một nửa năm 1968. Đạn mặt đất giảm đi là do việc rút trọng pháo năm 1971 trong khi sức mạnh không quân ào ạt vẫn được duy trì trong khu vực. Chìa khóa cho hoạt động chiến đấu của chiến tranh là hệ thống căn cứ và hạm đội Mỹ ở Đông Á.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 15 Tháng Chín, 2008, 11:00:17 am
Vào đỉnh cao của cuộc chiến tranh, một phần tư triệu người Mỹ tham gia cuộc xung đột từ ngoài Việt Nam, đặc biệt là hải quân. Tùy theo cách tính, có khoảng từ 125.000 đến 200.000 quân ở Thái Lan, Ô-ki-na-oa, Gu-am, Phi-líp-pin, Hạm đội 7, Đài Loan và Ha-oai, trực tiếp tham gia các hoạt động có liên quan đến chiến tranh vào đầu năm 1972, đại khái gần bằng số quân Mỹ còn ở Nam Việt Nam vào lúc đó.

Không quân vẫn còn là con bài Oa-sinh-tơn sẵn sàng sử dụng và không bị Lầu Năm Góc, kể cả Le-đơ phản đối. Vì các máy bay Mỹ đậu bên ngoài lãnh thổ Nam Việt Nam, cho nên người Mỹ vẫn dùng chúng như một đe dọa để trở lại cuộc chiến tranh dù cho tất cả các lực lượng Mỹ rút khỏi Nam Việt Nam.. Mặc dù Kít-xin-giơ và Ních-xơn có thể dùng leo thang hay đe dọa leo thang như là những mục tiêu chính trị chống lại Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhưng giới quân sự Mỹ vẫn còn chưa quyết định. Ném bom chỉ là một cách để che giấu thất bại chứ không phải để tránh thất bại.

Đến năm 1970, quân đội mới làm chủ được hệ thống hậu cần phức tạp của mình. Việc ăn cắp nhiên liệu giảm xuống dưới mức cao 25 phần trăm trước đây, nhưng vẫn còn cao. Sự phung phí vẫn là thông thường, đặc biệt là đối với trang bị, nhưng chiến tranh có "giảm đi". Phần đông các sĩ quan cho là những dụng cụ tinh vi, như mắt điện tử phát hiện kẻ thù bằng điều khiển từ xa, đã thất bại tuy đã đầu tư nhiều thì giờ và tiền của cho việc sử dụng chúng. Hệ thống tình báo của Mỹ cũng kém cỏi. Tin tức tốt nhất là lấy từ những người đào ngũ và tin tức có lợi cho chiến đấu trước mắt là các chuyến trinh sát bằng máy bay, nhưng lại thiếu phi công cho các chuyến bay như vậy vì đa số lớn bị thương hoặc bị giết trong vòng 6 tháng qua.

Thế tiến lui đều khó thực sự của Mỹ sau năm 1969, khi họ ngày càng dựa vào không lực, là các lực lượng không quân chiến thuật và chiến lược tỏ ra không hiệu quả gì hơn, thậm chí trên một số mặt còn kém hơn trước. Dù cho Kít-xin-giơ hy vọng gì về việc ném bom, Cách mạng vẫn tiếp tục cung cấp cho các lực lượng của mình, giải quyết các nhu cầu thiết yếu và tin tức này đã được chuyển từ Lầu Năm Góc đến Nhà Trắng.

Ít nhất 108 máy bay lên thẳng và máy bay có cánh bị phá hủy và 608 chiếc khác bị hư hại trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 vào đầu năm 1971 bởi một hệ thống phòng không của Quân đội nhân dân Việt Nam, một hệ thống còn ít dễ sợ hơn nhiều so với hệ thống ở Việt Nam dân chủ cộng hòa và hệ thống này lại được luôn luôn cải tiến hằng ngày. Chiến tranh không quân chống Việt Nam dân chủ cộng hòa chủ yếu chấm dứt trong thời gian 1969 - 1971 nhưng những máy bay trước kia dùng ở đó lại được chuyển đi nơi khác, chủ yếu là đi Lào.

Cố gắng cắt đứt luồng tiếp tế quân sự đã thất bại bởi  xe vận tải càng bị phá hủy bao nhiêu thì lại càng được tăng lên nhiều hơn. Mức tiếp tế cần thiết luôn luôn được đầy đủ... các chuyên gia không quân không tin lắm vào hiệu lực những công cụ của họ với tư cách là một thành phần của chiến lược "người mất trí" trong Nhà Trắng.

Trong khi cả Ních-xơn lẫn Kít-xin-giơ tin rằng việc sử dụng và đe dọa không quân có thể thực sự thay đổi cán cân quân sự hoặc ít nhất cũng ảnh hưởng đến thương lượng thì Cách mạng và thậm chí một số chuyên gia quân sự và Lầu Năm Góc không tin là có khả năng đó. Khi mà lục quân bắt đầu giảm số lượng và, nghiêm trọng hơn và sâu sắc hơn, giảm sút về tinh thần và đoàn kết nội bộ thì trọng lượng bom ném xuống đã trở thành trụ cột duy nhất và cuối cùng của chiến lược quân sự đang sụp đổ của Oa-sinh-tơn.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 15 Tháng Chín, 2008, 11:02:41 am
CUỘC KHỦNG HOẢNG CỦA QUÂN ĐỘI MỸ

Chiến tranh Việt Nam đã thử thách mọi chiều cạnh của khả năng tiến hành chiến tranh hạn chế của Mỹ: vũ khí, chiến lược và cuối cùng, các lực lượng vũ trang. Nhưng, trong khi kinh nghiệm trước đây đã cho thấy hỏa lực bị hạn chế như thế nào khi đối phó với các cuộc chiến tranh cục bộ chống lại những kẻ thù có sức cơ động cao, thì Mỹ hoàn toàn tỏ ra không được chuẩn bị để đối phó với những nhược điểm của con người trong chính lực lượng vũ trang của họ. Lúc Ních-xơn vào Nhà Trắng, đó là một vấn đề nghiêm trọng ngày càng tăng; đến năm 1970, đó là một cuộc khủng hoảng lớn với những tác động rõ ràng đối với khả năng kéo dài chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam và khả năng can thiệp ở những nơi khác trong tương lai.

Trong khi chiến tranh đi theo lô-gích của việc Mỹ phụ thuộc vào kỹ thuật, thì giới sĩ quan Mỹ đưa lại cho vũ khí một tính chất đặc biệt làm cho nó ngày càng tàn phá hơn tuy rằng về mặt quân sự thì lại vô nghĩa. Người sĩ quan, cũng như binh sĩ, trung bình phục vụ một năm ở Nam Việt Nam, cho dù anh ta là một vị tướng. Trong những năm 1960 khoảng một phần mười quân đội là gồm những sĩ quan, và đối với những sĩ quan chuyên nghiệp, đặc biệt là những người tốt nghiệp ở U-oét Poang, thì một nhiệm kỳ ở Nam Việt Nam là cần thiết để được thăng chức. So với các cuộc chiến tranh trước, số sĩ quan cấp cao của quân đội Mỹ trong chiến tranh này thường là rất nặng nề trên chóp bu, vì vậy nhiều người tình nguyện rằng thời hạn chỉ huy ở Việt Nam có thể rút xuống 6 tháng để cho tất cả đều học được kinh nghiệm và tất nhiên là có cơ hội hơn để được đề bạt.

Chủ yếu ở lại các căn cứ hậu phương an toàn và thường là hết sức đầy đủ tiện nghi, các sĩ quan đó lấy lòng tham danh vọng làm động cơ cho các hành động của mình trong 6 tháng vinh quang đó. Các sĩ quan cấp thấp hơn, thường là các người tốt nghiệp trung tâm huấn luyện sĩ quan dự bị và không phải chuyên nghiệp, đều bị điều ra chiến trường và chịu những mối nguy hiểm như người lính thường. Theo một cách nhìn quân sự thì những sĩ quan đó vừa không có kinh nghiệm vừa không có động cơ chính đáng để trở thành những người chỉ huy tốt.

Đối với người chuyên nghiệp thì tăng thêm con số hoặc sửa đổi những con số về kẻ địch bị giết và về những mục tiêu bị phá hủy là điều làm thường xuyên. Vì vậy, một khi họ rời Nam Việt Nam thì chiến tranh trở thành là vấn đề của người khác. Lừa dối, hoài nghi và tàn bạo đã được nuôi dưỡng trong một chế độ như vậy.

Bom và đạn được sử dụng để đưa lại những kết quả có thể biến thành những huân chương, những lời khen ngợi và cả sự thăng chức. Gần như 9 trong 10 tướng phục vụ ở Việt Nam nghĩ rằng lòng tham danh vọng là một vấn đề phải quan tâm, trong khi 37 phần trăm xem đó là một vấn đề nghiêm trọng.

Một trong những tác động của việc này là sự tan vỡ trong mối quan hệ giữa sĩ quan và binh lính. Khá lâu trước khi chiến tranh kết thúc những nhà chỉ trích bên ngoài quân đội và một số sĩ quan cũ bất bình, đã nêu lên các vấn đề này.

Những sĩ quan cấp cao luôn luôn xuất thân chủ yếu từ giai cấp giữa và từ các cộng đồng nhỏ. Sự khác biệt giai cấp của họ với hàng ngũ binh lính xuất thân từ nông thôn hoặc khu ổ chuột ở thành thị tất nhiên không phải là một vấn đề gì mới. Trong số 27.222 quân nhân chết trong chiến tranh Đông Dương giữa năm 1965 và 1972, 3.269 là sĩ quan, trong số này 2.348 là từ trung úy hoặc thấp hơn, 554 là lái máy bay lên thẳng. Trong số 43.000 sĩ quan cấp thiếu tá hoặc cao hơn phục vụ trong quân đội ở Nam Việt Nam, chỉ 201 người bị chết trong chiến đấu, và phần đông là thiếu tá.

Nguồn đầu tiên cùng cấp những sĩ quan cấp thấp tại chiến trường khi bắt đầu chiến tranh là các trung tâm huấn luyện sĩ quan dự bị trong 268 trường đại học. Ngoài việc tham gia phong trào chống các trung tâm huấn luyện này, nam thanh niên thường tìm mọi cách để khỏi bị đưa đi chiến đấu. Việc tuyển chọn đã giảm từ 231.000 năm 1965 xuống còn 73.000 năm 1972, và lục quân buộc phải thay họ bằng những sĩ quan cấp thấp hơn huấn luyện trong chính những trường của mình. Hơn nữa vào năm 1970, gần 40 phần trăm những người còn trong trung tâm huấn luyện chống lại sự có mặt của quân Mỹ ở Nam Việt Nam, và 60 phần trăm không muốn tình nguyện phục vụ ở đó. Những người trẻ này ít có gì thống nhất được với những nhà chuyên nghiệp cấp cao ở trên họ. Ở các khu vực chiến đấu, mối quan hệ giữa sĩ quan và binh lính lại càng nghiêm trọng hơn.

Trong số 2.150.000 binh lính đưa sang Việt Nam, những người da trắng nghèo và người da đen đã chiếm một tỷ lệ có phần cao hơn mức bình thường. Chương trình xã hội vĩ đại của Giôn-xơn đã mưu toan đưa những thanh niên không may mắn vào các lực lượng vũ trang và một số lớn đã trở thành những tay súng của lục quân và chính những người này lại thường xuyên bị đưa đi chiến đấu. Như là một quy luật chung, các sĩ quan thích đưa những binh lính ít học ra tiền tuyến.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 15 Tháng Chín, 2008, 11:03:36 am
Trong những năm 1968-1970, 62 phần trăm thương vong là lính quân dịch. Những binh lính có từ 10 năm học hoặc ít hơn, chiếm tỷ lệ thương vong gấp ba lần số có 13 năm học hoặc hơn. Những binh lính thuộc các gia đình có thu nhập hàng năm từ 4.000 đến 7.000 đô-la, chiếm tỷ lệ thương vong gần gấp ba lần những binh lính thuộc các gia đình với thu nhập 17.000 đô-la hoặc hơn.

Khi cuộc chiến tranh bắt đầu, thương vong của những người da đen chiếm gần một phần tư tổng số và giảm xuống còn 13 phần trăm cho toàn bộ cuộc chiến tranh, cao hơn một ít tỷ trọng của người da đen trong toàn bộ số dân. Những người da đen và da màu chiếm đến một nửa số quân của các đại đội súng trường chiến đấu. Chủng tộc đã trở thành một bộ phận mới quan trọng của cơ cấu quân sự Mỹ trong chiến tranh.

Tuy được học ít và nghèo, người da đen ở Nam Việt Nam có một ý thức tự hào về chủng tộc của mình và có một ý thức đoàn kết với nhau rõ rệt hơn trong các cuộc chiến tranh trước và tính tình của họ cũng đã thay đổi. Cũng không kém phần quan trọng là nhận thức của họ đối với bản chất chính trị đầy tranh cãi của cuộc chiến tranh đã tạo ra cơ sở đầu tiên cho sự mất đoàn kết của quân đội trong lịch sử hiện đại của Mỹ.

Mâu thuẫn bên trong của người lính Mỹ chắc chắn là một trong những điều đáng ngạc nhiên của chiến tranh đối với các nhà lãnh đạo ở cả Oa-sinh-tơn lẫn Hà Nội. Một chiến lược thắng lợi đòi hỏi phải có những con người toàn tâm toàn ý ở tất cả các cấp chứ không chỉ ở các văn phòng hoặc các phòng nghiên cứu đầy đủ tiện nghi. Chiến tranh đối với các lực lượng Mỹ là đầy rẫy những bi kịch và đau khổ cá nhân, nhưng không phải đụng chạm đến tất cả hai triệu người đã đến Nam Việt Nam.

Giống như có hai loại sĩ quan ở Nam Việt Nam cũng có hai loại binh lính. Binh lính cũng chia ra thành những người luôn luôn phải tham gia chiến đấu và một đa số lớn khác chỉ bị nguy hiểm khi có quân biệt kích và pháo bắn từ xa. Phần đông lục quân không phải trải qua những kinh nghiệm của lính súng trường và chỉ một nửa được xem là lực lượng chiến đấu, bao gồm vừa trọng pháo, vừa cơ giới. Nhìn chung tất cả số này dễ bị những nguy hiểm nhưng chỉ một phần năm làm chức năng nhử quân đội cách mạng trong các nhiệm vụ tìm và diệt. Tuy nhiên, khi không phải chiến đấu, thường là chiếm nhiều thì giờ hơn, thì người lính Mỹ hưởng một cuộc chiến tranh xa xỉ nhất và tốn kém nhất trong lịch sử Mỹ. Có những căn cứ với những tiện nghi cực kỳ sang trọng, với việc ra vào thành phố rất thuận lợi, với việc đi nghỉ và giải trí ở các nhà chứa Đông Nam Á, có nhiều trò tiêu khiển và truy hoan phong phú.

Khí hậu của Việt Nam rất không thích hợp với lính Mỹ, và những cố gắng bù lại cho họ khi hoạt động ở chiến trường bằng lương thực và chăm sóc y tế không bao giờ được đủ. Mục tiêu của các cấp chỉ huy là muốn họ giết Việt cộng bằng hỏa lực, nhưng mục tiêu của chính họ là sống sót. Người lính Mỹ sẵn sàng tàn phá và một số rất nhỏ trở thành những kẻ giết người vô tri vô giác, sẵn sàng bóp cò súng trước bất kỳ đe dọa nào đối với đời sống của họ. Thảm sát làng Mỹ Lai là một trong vô số ví dụ về tình hình đó. Những người sử dụng hỏa lực bằng trọng pháo và không quân đã dùng chúng từ xa, nên không thấy điều gì hối hận trong lòng. Còn những lính chiến đấu thì hằng ngày tiếp xúc với cái chết thê thảm và thấy mình là một người sống sót.

Sự tàn bạo của Mỹ trong suốt cuộc chiến tranh hầu như hoàn toàn là kết quả của những lệnh cấp trên và, người lính chỉ là công cụ của những sĩ quan của mình. Nhưng người lính chỉ mong sống sót sau 12 tháng để được trở về. Các sĩ quan cấp cao thường phàn nàn rằng binh lính cụm lại với nhau và tránh tham chiến. Đại tá Rô-bớt D. Hên viết trong một báo cáo rất được chú ý tháng 6 năm 1971: "Tìm và tránh là một nguyên tắc của chiến tranh hiện nay, thể hiện một cách sinh động bằng một từ của lính Mỹ CYA (có nghĩa là giữ lấy thân anh; viết tắt của chữ cover your ass. (ND) và về nước". (xem Robert D. Heinl, Jr. quyển "The collapse of the armed Forces", Nhật ký Armed Forces, 7 tháng 6, 1971, tr. 31).

Việc không có cam kết chính trị của người lính Mỹ là một trong những chỗ yếu tai hại nhất của quân đội Mỹ. Người lính xem Việt Nam như là một nước của người khác, và anh ta rất nhạy cảm với những sĩ quan lành lặn trở về căn cứ đầy đủ tiện nghi nhưng lại đòi anh ta hy sinh hơn nữa. Anh ta bắt đầu không tin ai cả, từ những chiến hữu cùng đoàn kết với anh ta trong chiến đấu. Thật là ngược đời nhiều người, có lẽ là phần đông, ngày càng bất bình với quân đội Việt Nam cộng hòa và nhân dân Việt Nam, và sự thù địch chung đó vừa là một lý do cho bao nhiêu tội ác gây ra cho những người dân sự, vừa có những tác động quân sự gay cấn khi phải hợp tác với quân đội Việt Nam cộng hòa. Về phần mình nhân dân Việt Nam xem người Mỹ là nguyên nhân của sự làm nhục và làm mất, phẩm cách quốc gia của họ.

Tất cả những lực lượng và những mối quan hệ đó hoạt động bên trong cơ cấu quân sự Mỹ, đã tạo ra một món nợ nghiêm trọng cho toàn bộ cố gắng chiến tranh của Mỹ. Dù cho phần kỹ thuật có hiệu quả như thế nào, với tư cách là một tổ chức của con người, cơ cấu quân sự Mỹ trở nên yếu đến mức thời gian biến nó thành một nhân tố quan trọng trong toàn bộ cán cân quân sự. Những phản ứng cá nhân của người lính bộ binh đối với tình trạng khó khăn và hiểm nguy của họ, đối với sự xem thường giai cấp, thái độ cách biệt và lòng tham danh vọng của những cấp trên họ, đối với sự căng thẳng, sự gay gắt và sự thoái hóa, đã tạo ra những vấn đề lớn về con người với những tác động quân sự sâu rộng. Đương đầu với sự chống đối chiến tranh trong nước là một vấn đề, nhưng đương đầu với những người Mỹ ở Việt Nam lại là một vấn đề hoàn toàn khác.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 16 Tháng Chín, 2008, 09:21:09 am
SỰ MẤT TINH THẦN VÀ SỰ KHÁNG CỰ TRONG CÁC LỰC LƯỢNG VŨ TRANG

Dù cho những phản ứng cá nhân của người lính Mỹ đối với sự thất vọng của họ như thế nào, trước năm 1968, vấn đề tinh thần chưa gây ấn tượng là một vấn đề thực sự cho các sĩ quan cấp cao. Trong năm 1968 - 1969, tinh thần của quân đội bắt đầu giảm sút một cách rõ rệt và từ năm 1970 trở đi thì sự sụp đổ con người của người Mỹ ở Việt Nam không còn đơn giản là một vấn đề cá nhân và tâm lý nữa mà trở thành một vấn đề lớn về tổ chức được đưa ra công khai rộng rãi bao gồm vấn đề kỷ luật và cuối cùng là chính khả năng hoạt động của các lực lượng vũ trang Mỹ.

Những khó khăn bắt đầu với ma túy, vị thuốc an thần của lính Mỹ trước những giây phút và ngày giờ khiếp sợ và buồn chán. Lợi nhuận về ma túy rất là to lớn khi quân Mỹ được đổ vào sau năm 1965. Cả thống chế không quân Nguyễn Cao Kỳ lẫn hải quân Việt Nam cộng hòa là những nguồn chính đưa ma túy vào đất nước. Thiệu đóng một vai trò còn nhỏ hơn. Ngừng việc buôn bán ma túy có nghĩa là đương đầu với cơ cấu chính trị của Việt Nam cộng hòa. Vì vậy Đại sứ quán và Bộ chỉ huy viện trợ quân sự của Việt Nam ở Sài Gòn có thái độ thụ động đối với vấn đề đó.

Tuy nhiên, cũng có nhiều người Mỹ cấp cao không thể tưởng tượng rằng việc dùng ma túy có thể lan rộng đến như vậy. Sự đồng lõa của họ trong việc bảo vệ những đồng minh chính trị địa phương và việc CIA lặng lẽ giúp đưa thuốc phiện từ Lào về đã có chứng cớ đầy đủ. Các loại ma túy còn rẻ tiền và rất sẵn có trong năm 1968 khi việc sử dụng mới bắt đầu tăng lên mạnh.

Bệnh dịch ma túy tiếp theo có phần là do sự buồn nản của binh lính vì những ngày dài ở căn cứ thay cho các cuộc hành quân tìm và diệt. Một số tướng ở Sài Gòn xem việc sử dụng ma túy của binh lính chỉ là một vấn đế cá nhân nghiêm trọng nhất, tuy rằng Lầu Năm Góc giữ yên lặng càng lâu càng tất, cho đến lúc báo chí và Quốc hội đưa vấn đề này ra vào giữa năm 1971, Lầu Năm Góc vẫn cố mà chứng minh rằng chỉ 5 phần trăm binh lính dùng loại ma túy nặng. Năm 1973 Lầu Năm Góc nhận rằng 35 phần trăm toàn binh sĩ ở Nam Việt Nam đã dùng bạch phiến và khoảng 20 phần trăm đã bị nghiện một thời gian trong khi làm nhiệm vụ ở Việt Nam. Một số ước tính khác còn cho con số cao hơn. Vì Bộ chỉ huy viện trợ quân sự. không muốn và không có khả năng chấm dứt việc buôn bán ma túy, đầu năm 1972 một số căn cứ chủ chốt của Mỹ đã cho phép gái điếm vào doanh trại với hy vọng làm giảm nạn ma túy.

Xung đột chủng tộc giữa quân đội cũng phát triển từ những di sản chồng chất mà người da đen Mỹ ở Việt Nam nhận thức được. Bị đẩy ra chiến đấu hoặc vào những công việc hầu hạ kẻ khác quá nhiều lại có rất ít sĩ quan người da đen, người da đen ở Việt Nam chịu ảnh hưởng những trào lưu cấp tiến có tính chiến đấu nhiều hơn những đồng nghiệp người da trắng của mình. Sự tự hào về màu da của mình là một quy tắc đối với họ: En-đrit-giơ Cli-vơ, Man-com X, và Ca-xi-ut Clê là những anh hùng được ca ngợi nhất của họ.

Một phần năm những lính da đen ở Nam Việt Nam tuyên bố năm 1970 là họ ghét người da trắng, và hơn một phần ba không thích nhưng vẫn còn tìm cách sống với nhau. Người da đen là nhóm có ý thức nhất về chính trị trong binh lính Mỹ và cũng là những người thường dùng ma túy nhất.

Khoảng năm 1968, các sĩ quan cấp cao báo cáo với Lầu Năm Góc: "Những sự rắc rối và nhiễu loạn chủng tộc đã trở thành một vấn đề nghiêm trọng và bùng nổ". Quân đội cũng không chối là thực sự đã có vấn đề chủng tộc nhưng lập luận bừa rằng đó là là điều thâm căn cố đế trong xã hội Mỹ chứ không phải là việc do chính họ gây ra. Tuy vậy, vì những người vũ trang là để đánh kẻ thù chung chứ không phải để đánh lẫn nhau, cho nên vấn đề chủng tộc đã trở thành một nhân tố làm yếu kỷ luật và tinh thần của những binh lính vốn đã bất mãn.

Những cuộc nổi dậy có ý nghĩa đã bắt đầu ngay từ năm 1968, lan đến hải quân năm 1972. Một phần của phản ứng quân đội là tìm cách hạn chế tinh thần dân tộc của người da đen.

Sự kết hợp của việc binh lính xem thường sĩ quan, của việc sĩ quan muốn đẩy những người dưới mình ra chiến đấu với vấn đề ma túy và vấn đề chủng tộc, đã gây ra một sự tan vỡ sâu sắc và sự xuất hiện những mưu đồ của binh lính sát hại sĩ quan, thường là bằng lựu đạn.

Những cuộc tiến công của binh lính vào sĩ quan đã xảy ra trong hai cuộc chiến tranh thế giới khi binh lính không muốn đương đầu với những nguy hiểm của chiến đấu. Trong chiến tranh Việt Nam, những cuộc tiến công của lính da đen chống lại các sĩ quan da trắng vì những lý do chủng tộc và cả những cuộc tiến công của những người buôn và sử dụng ma túy trong quân đội để khỏi bị kỷ luật. Con số những cuộc tiến công đó, nhất là loại đầu, khó mà xác định, nhưng con số tối thiểu cho năm 1969 - 1972 là 788 vụ đã được xác định, gây ra 86 người chết. Thống kê chính thức nâng con số đó lên 1.016 vụ và một số ước tính khác lại đưa con số lên gấp đôi. Những con số này cao hơn các cuộc chiến tranh khác nhiều, tuy các cuộc chiến tranh đó, số người tham gia lại nhiều hơn. Chỉ một phần mười số vụ đó bị đưa ra tòa.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 16 Tháng Chín, 2008, 09:21:46 am
Những hành động binh biến, không phục tùng, không tuân lệnh đã từ 252 năm 1968 lên gần gấp đôi năm 1971, và chính những vụ này đã ảnh hưởng sâu sắc đến những sĩ quan. Một tướng phàn nàn năm 1972: khi các sĩ quan là những nhà lãnh đạo vững vàng, họ "thường liều mạng của họ để chỉ huy vì có thể xảy ra những vụ lựu đạn". Vào cuối cuộc chiến tranh, những cuộc tiến công đã đe dọa một số lớn các sĩ quan và quan hệ của họ với binh lính cũng hình thành theo chiều hướng như vậy.

Cũng rất đáng lo âu là sự không tuân lệnh đã lan ra đến hải quân và không quân. Trong hải quân, sự chống đối diễn ra dưới hình thức phá hoại trong năm 1972, đặc biệt là trên các tàu có liên quan đến chiến tranh. Một đám cháy lớn xảy ra trên chiếc tàu sân bay Pho-re-xton tháng 7, những điều trần chống chiến tranh với một nghìn chữ ký trên một chiếc tàu khác và vô số sự kiện dẫn đến cuộc điều tra của Hạ viện với kết luận như sau: "Tiểu ban đã nhận một bảng kê hàng trăm vụ gây tổn thất cho tài sản hải quân mà trong đó rất đáng nghi là có phá hoại... Quy mô của vấn đề... là đáng lo sợ".

Càng đáng lo âu hơn nữa là sự mất tinh thần của không quân trong những tháng cuối năm 1972. Tư lệnh của căn cứ B.52 ở Gu-am nói: "Đó là một việc làm không liên quan đến riêng cá nhân nào". Người lính không quân làm công việc của mình mà "không cần phải thắc mắc liệu có giết ai ở mặt đất hay không. Tôi không nghĩ rằng việc đó đi vào suy nghĩ của anh ta". Tuy vậy, các phi công không quân chiến thuật lo rằng họ có thể là người cuối cùng phải chết vì súng phòng không tuyệt diệu của Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đến tháng 11 thì một số đã bắt đầu bay chệch những phi vụ của họ ra khỏi những mục tiêu đã định trước. Khi B.52 được đưa ra để ném bom Hà Nội lễ Giáng sinh năm 1972, trong một hành động cuối cùng của chiến tranh thì không quân chiến thuật không làm được nhiệm vụ tiến công các cơ sở phòng không và 15 B.52 đã bị bắn hạ. Ít nhất là một người chỉ huy B.52 bị xét xử vì không chịu bay, nhưng nhiều người khác đe dọa làm theo anh ta. Theo một tài liệu nghiên cứu chính thức thì đã xảy ra một cuộc "gần như binh biến" trong một số tổ lái B.52 mà chỉ nhờ việc ký Hiệp định Pa-ri mới tránh được.

Trong phong trào chống sự có mặt của Mỹ ở Việt Nam, có một phong trào chống chiến tranh có tổ chức chưa hề có tiền lệ trong lịch sử của cơ cấu quân sự Mỹ. Ngay dù các binh lính da trắng Mỹ lúc đầu không đến nỗi chống chiến tranh với ý thức chính trị đầy đủ như họ chống việc phải đi Việt Nam vì những lý do cá nhân, nhưng càng ngày sự chống đối đó càng bắt đầu chuyển sang hình thức của thái độ chính trị. Trong khi "phong trào binh lính Mỹ" không tạo ra cuộc tiến công cơ bản là chống quân sự này, nhưng chắc chắn là nó đã thêm sức mạnh và có lúc làm cho cuộc tiến công đó trở nên rất chặt chẽ. Chính những nhà dân sự có học thức cao thuộc các màu sắc chính trị khác nhau đã bắt đầu phong trào này.

Công việc đầu tiên của phong trào diễn ra quanh các căn cứ ở Mỹ, kêu gọi các binh lính Mỹ có ít nhiều học thức đại học, bằng cách dùng báo chí và hàng chục quán cà phê. Với hiệu quả còn rất nhỏ lúc ban đầu, phong trào bị Lầu Năm Góc theo dõi chặt chẽ và thâm nhập vào. Bất chấp các phe phái trong phong trào khác nhau như thế nào về hệ tư tưởng, những binh lính Mỹ tiếp thu bằng ý kiến mới làm phong phú thêm nhận thức của họ. Đến năm 1971, các tổ chức dân sự bắt đầu cung cấp cho lính Mỹ những luật gia để bào chữa cho họ khi cần thiết. Chính sự phá hoại và phản đối trong hải quân năm 1972 là thành tựu quan trọng nhất của phong trào binh lính Mỹ.

Dù kết quả huy động binh lính Mỹ còn nhỏ như thế nào, nó vẫn là một mối gây phiền toái cho quân sự. Với tư cách là một biểu tượng cho sự tan rã của ba quân chủng, phong trào đó đã làm trầm trọng thêm các vấn đề khác về kỷ luật và chỉ huy. Trong một không khí không đi theo ý muốn, sự tồn tại của một cố gắng có ý thức nhằm lật đổ cơ cấu quân sự, rõ ràng là một triệu chứng của sự khủng hoảng toàn bộ chế độ của Mỹ.

Tầm quan trọng của sự xói mòn của các quân chủng, đặc biệt là của lục quân, đối với sự diễn biến quân sự và chính trị của cuộc chiến tranh, không được đánh giá thấp. Trong khi các nhà lãnh đạo chính trị ở Oa-sinh-tơn không biết các điều phát triển này, các tướng và đô đốc hoàn toàn nhận thức được chúng. Tướng về hưu Ha-min-ton H.Hao-de, một trong những nhân vật cao nhất của lục quân viết năm 1971: "Dù sao, người lính cộng sản Việt Nam vẫn có động cơ cao cả. Một lực lượng không có kỷ luật tốt sẽ thất bại khủng khiếp trước một lực lượng có kỷ luật tốt".

Lục quân có thể được dùng lại nếu cần ở Nam Việt Nam không? Trước công chúng, Lầu Năm Góc tránh vấn đề đó, nhưng Pi-tơ R.Can, phóng viên có thẩm quyền ở Sài Gòn của tờ Phố On, tháng 11 năm 1971 nói lên cảm giác chung là "bị mất hết nhuệ khí vì các vấn đề ma túy, chủng tộc, kỷ luật và tinh thần, khả năng chiến đấu của quân sự Mỹ, nếu buộc phải chiến đấu, càng ngày càng trở thành một vấn đề đáng nghi ngờ". Hơn nữa, vào lúc đó Lầu Năm Góc công khai thú nhận rằng chiến tranh đã làm yếu khả năng vật chất và tinh thần lục quân trên khắp thế giới, một phần bởi vì các lính Mỹ ở Nam Việt Nam đã chuyển thói quen và thái độ của họ ra khắp nơi.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 16 Tháng Chín, 2008, 09:22:17 am
Theo quan điểm của càng ngày càng nhiều những nhà dân sự và quân sự trong Lầu Năm Góc thì cần thiết phải đưa đại bộ phận lực lượng của Mỹ ra khỏi Nam Việt Nam và xây dựng lại toàn bộ cơ cấu nhân sự càng nhanh càng tốt. Đến cuối năm 1972, khi những hoạt động căng thẳng của hải quân và không quân bẻ gãy tinh thần và kỷ luật của hai quân chủng đó thì các tướng và đô đốc hầu như nhất trí rằng giải quyết các vấn đế đó là một điều kiện tiên quyết để làm cho sức mạnh quân sự Mỹ trên thế giới lại được tin cậy trở lại một lần nữa.

Việc rút quân do đó không phải chỉ thiết yếu cho việc tranh thủ thời gian chính trị trong nước mà còn là để cứu ngành quân sự khỏi có những vấn đề nghiêm trọng hơn nữa. Nếu Ních-xơn tìm cách lật ngược lại quá trình và Le-đơ chắc chắn sẽ không để ông ta làm như vậy một phần vì những lý do đó, thì có nhiều khả năng ông ta đưa lại một thất bại nghiêm trọng hơn cho quyền lực Mỹ. Những nhận thức như vậy về tình trạng của ngành quân sự có tác động đến các công việc chính trị và ngoại giao trong thời gian còn lại của chiến tranh Việt Nam. Kỹ thuật đã từng là ảo tưởng và đe dọa nhất của Mỹ, nhưng bây giờ nó đang tan rã vì con người trong bộ máy không còn tin và vâng lời nữa.

Trước Việt Nam, dù cho cuộc khủng hoảng của chiến lược học thuyết và vũ khí của Mỹ thể hiện trong học thuyết chiến tranh hạn chế có thế nào đi chăng nữa, thì nó vẫn còn kém hơn cuộc khủng hoảng xảy ra sau mười năm cố gắng. Bởi vì quan niệm về sức mạnh của Mỹ hoàn toàn lấy sự tồn tại và khả năng của chiến thuật và của vũ khí để làm cơ sở chứ không lấy tài năng và quan điểm của những người sử dụng chúng; không có những con người toàn tâm toàn ý thì nước Mỹ, với tất cả các loại vũ khí của mình, có thể tỏ ra là bất lực. Không có ở đâu xem xét kỹ những bước dẫn đến thất bại to lớn đó, dù cho trong các hội thảo chiến lược của quân sự, hay trong các trường đại học hoặc trong các bản phân tích của toàn bộ cơ cấu chính sách đối ngoại.

Bây giờ mà cái không thể tưởng được lại là sự thực, những thúc ép đối với những người cầm quyền lại càng lớn hơn, thì thất bại sắp đến của họ lại càng đồ sộ hơn nữa. Sự sụp đổ của tài trí thông thường của con người đã tỏ ra là hoàn toàn, khi chiến lược vũ khí tinh vi và những nhà chính trị và tướng lĩnh bảnh bao tỏ ra là không phù hợp và yếu đuối trước kẻ thù Việt Nam giàu tài năng và kiên cường. 


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 16 Tháng Chín, 2008, 09:22:55 am
Chương hai mươi chín
CHÍNH SÁCH QUÂN SỰ CỦA CÁCH MẠNG
(1969 – 1971)

Tác động của cuộc tiến công Tết đã thay đổi sâu sắc cách nhìn của Oa-sinh-tơn về cuộc chiến tranh cũng như khả năng duy trì nó, và Việt Nam hóa và sự xói mòn của quân đội Mỹ vẫn tiếp tục thay đổi cán cân lực lượng. Khả năng quân sự của Đảng Cộng sản cũng đã diễn biến nhanh chóng trong suốt thời kỳ sau Tết, và ban lãnh đạo Đảng phải đánh giá những thay đổi của hai bên và định ra kế hoạch tiến tới thắng lợi như thế nào trong một tương lai tương đối gần.

Cuộc tiến công Tết là một thắng lợi của lòng dũng cảm, cho thấy rõ tầm quan trọng của nghệ thuật quân sự của Cách mạng trong tài kết hợp sáng tạo sự bất ngờ, sự phân tán và sự lựa chọn chiến thuật với thực tế để xem có thể đạt được đến đâu. Đẩy quá xa và quá mạnh có thể sẽ đưa một chiến lược xuất sắc vào một thảm họa hoàn toàn và tác động tức khắc của Tết lúc đó sẽ đẩy Cách mạng vào một vị trí yếu đi về chiến thuật.

Sự sáng tạo đòi hỏi phải có một trình độ cao của óc thực tế và mọi sai lầm nhất định sẽ thuộc phạm vi của sự tính toán thận trọng bởi vì bất kể so sánh lực lượng hiện có hoặc tiềm tàng như thế nào, khách quan mà nói thì Mỹ vẫn còn khả năng gây ra những tổn thất nặng nề cho quân đội bị để lộ.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 16 Tháng Chín, 2008, 09:23:27 am
ĐẢNG ĐÁNH GIÁ LẠI MỸ VÀ BẢN THÂN MÌNH

Đánh giá tình trạng khó khăn của Mỹ là một trong những trách nhiệm dễ dàng nhất của các nhà lãnh đạo Đảng. "Mức độ của những khó khăn quân sự, chính trị, kinh tế và tài chính mà chiến tranh gây ra cho người Mỹ ở Việt Nam, ở chính Mỹ và trên thế giới , theo nhận định của Đảng, sẽ là biến số then chốt để xác định độ dài và kết quả của chiến tranh.

Việt Nam hóa chiến tranh sẽ chắc chắn thất bại bởi vì quân đội Việt Nam cộng hòa không sao giành được thắng lợi mà quân đội Mỹ ưu việt hơn nhiều đã không giành được. Năm 1969 Đảng sẵn sàng mô tả Mỹ còn rất mạnh, nhưng chính sách "quét và giữ” nhằm củng cố sự thống trị của họ trên các khu vực và tránh tổn thất về nhân lực, việc giảm dần các lực lượng và sự bị cô lập trên thế giới, đã đưa Mỹ vào một thế bị động về chiến lược mà Cách mạng sẽ nhân đó để giành thắng lợi "từng bước" bất chấp những khó khăn của chính mình.
Xét tất cả các nhân tố đó các nhà lãnh đạo cách mạng kết luận tháng 7 năm 1969 rằng chiến tranh sẽ chấm dứt với "một giải pháp chính trị" chứ không phải với một thắng lợi quân sự dứt khoát, lần đầu tiên nhận rõ ràng rằng Mỹ có khả năng ảnh hưởng đến hình thức nếu không nói là đến kết quả cuối cùng của cuộc đấu tranh. Dù cho việc đánh giá chiến lược của Mỹ chính xác đến đâu, việc đánh giá các quyết định chiến thuật của họ đòi hỏi phải linh hoạt và là một công việc khó hơn.

Trong những năm 1969 và 1970 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đưa ra những tuyên bố hướng dẫn chính sách thường xuyên hơn là những năm trước. Nghị quyết 9 tháng 7 năm 1969 mà Trung ương Cục đưa ra đã đánh giá toàn bộ mặt chính trị của cuộc chiến tranh và phê phán những thắng lợi và thất bại đã qua. Từ năm 1969 trở đi có sự nhất trí lớn hơn vế chiến lược do hai nhân tố, một là hiểu rõ hơn những khó khăn chính trị và quân sự của Mỹ và hai là hiểu rõ thực tế, khả năng của chính mình. Sự thống nhất chiến lược bao gồm hai điểm trọng yếu: tính chất và ý nghĩa cuộc chiến tranh kéo dài và các hình thức của hoạt động quân sự.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 16 Tháng Chín, 2008, 09:24:35 am
TẠO RA MỘT SỰ CÂN BẰNG QUÂN SỰ MỚI

Chiến tranh kéo dài đã được chấp nhận như một hình thức cơ bản của chiến tranh cách mạng chống lại một kẻ thù tốt hơn về mặt kỹ thuật. Đảng biết rằng chiến tranh kéo dài tăng thêm tốn kém cho Mỹ nhưng Đảng cũng phải trả giá cho sự tổn thất về người và cho sự phát triển kinh tế. Năm 1970 Đảng phác họa ra những cải cách kinh tế ở Việt Nam dân chủ cộng hòa để tăng thêm hiệu quả của khu vực không nông nghiệp. Và mọi người đều thống nhất phải chớp lấy mọi thời cơ mới để đẩy nhanh sự kết thúc chiến tranh.

Các nhà lãnh đạo Đảng lặp lại một chiến lược trung dung: quân chủ lực trang bị với vũ khí hiện đại kết hợp với quân du kích với vũ khí bình thường để tạo ra một khả năng tiến công hết sức linh hoạt. Đảng tiếp tục duy trì thế chủ động trong chiến tranh, và chuẩn bị để chiến đấu trong tương lai mà chủ yếu là xây dựng vị trí của mình ở miền Nam sau những tổn thất của Tết và để cho Mỹ có cơ hội tiếp tục rút quân, đồng thời Đảng có những biện pháp làm cho quân Mỹ còn lại bị căng mỏng và mất cân đối. Các lực lượng địa phương không cho địch tập trung khi chủ lực làm công tác củng cố lực lượng và chủ lực thì kéo các đơn vị cơ động của địch ra khỏi những vùng mà lực lượng địa phương còn yếu.

Hoạt động quân sự của Cộng sản cũng được duy trì ở mức gây đủ thương vong cho Mỹ để duy trì sức ép chính trị trong nước, đòi rút quân. Năm 1971, Đảng có quân chiến đấu nhiều hơn kẻ thù tuy quân đội Việt Nam cộng hòa và quân đội Mỹ cộng chung lại gần gấp sáu lần quân cách mạng. Đó là vì quân cách mạng là cơ động, trong khi quân Việt Nam cộng hòa đóng quân tại chỗ để giữ đất. Quân cách mạng là một đội quân mạnh hơn nhiều và hoàn toàn hồi sức, đủ khả năng đóng những vai trò dự định trong năm 1969. Đầu năm 1970, xe tăng của Quân đội nhân dân Việt Nam và hỏa ]ực được cải tiến rất nhiều, bắt đầu xuất hiện trên cao nguyên Trung Bộ.

Sự thông thạo của Quân đội nhân dân Việt Nam trong việc sử dụng những đơn vị nhỏ đã làm cho người Mỹ ngày càng thất vọng, cho đến lúc Mỹ chấm dứt những hoạt động trên bộ của họ vào năm 1971. Nếu bắt gặp được những đơn vị lớn của Quân đội nhân dân Việt Nam thì tức thì họ phân tán và không tham gia chiến đấu trừ khi không còn cách nào khác.

Những kỹ thuật đơn giản cũng tỏ ra rất thành công và cả Mỹ lẫn Việt Nam cộng hòa không sao đối phó được với mìn và biệt kích. Những kho đạn là những mục tiêu ưa thích và đầu năm 1969 một mình một căn cứ Mỹ đã mất 12.000 tấn đạn. Các căn cứ của quân đội Việt Nam cộng hòa năm 1972 mất 24.000 tấn đạn. Việt Nam cộng hòa thừa nhận rằng đó là "một chiến thuật rất có hiệu quả" thực hiện một cách rất thông thạo, hạn chế tổn thất về người đến mức tối thiểu mà gây thiệt hại vật chất và tâm lý tối đa cho kẻ thù.

Cũng gây thiệt hại to lớn cho kẻ thù là khả năng phòng không của Cách mạng. Chỉ trong một năm kết thúc vào tháng giêng năm 1970, 130 trong số 223 máy bay của phi đoàn không quân số 16 Mỹ đã bị súng mặt đất bắn rơi. Không những kỹ thuật không đưa lại thắng lợi mà Cách mạng và phong trào chống chiến tranh còn huy động dư luận thế giới thành một vũ khí chính trị hùng mạnh chống lại hệ thống vũ khí dã man, bừa bãi, từ vũ khí hóa học đến bom bi và đạn dược dùng một cách tập trung đến mức bão hòa.

Sức mạnh thực sự của một đội quân cách mạng là khi nó phân tán ra những đơn vị nhỏ mà vẫn tồn tại được trong lòng nhân dân, ví như ở đồng bằng sông Cửu Long. Nhất là sau khi Mỹ và Việt Nam cộng hòa thâm nhập Cam-pu-chia tháng 5 năm 1970, các lực lượng cách mạng ở các vùng chiến thuật III và IV sống chủ yếu bằng hậu cần địa phương mà cơ sở chính trị hạ tầng và những người ủng hộ trong quấn chúng nhân dân cung cấp. Do vai trò quan trọng của đồng bằng, lực lượng Mặt trận Dân tộc Giải phóng ở đó là một vốn quý quân sự to lớn. Đồng bằng đã kìm chân quân đội Việt Nam cộng hòa hơn bất kỳ khu vực nào khác làm cho các lực lượng cách mạng ở những nơi khác có thì giờ và rảnh tay phát triển khả năng quân sự của mình.

Do đó chính trị bổ sung cho cố gắng quân sự một cách hết sức trọng yếu và đó là những cơ sở Đảng ở thôn xóm gồm những người với tấm lòng kiên nhẫn tuyệt vời. Cuối cùng, dù phương trình quân sự thay đổi như thế nào, chính cơ sở chính trị đó đã làm cho Cách mạng có thể thực hiện được chiến lược tiến công của mình. Bởi vì sức mạnh của Cách mạng không phải là số lượng và vũ khí mà là sự cơ động, và sự linh hoạt quyết định của Cách mạng là hoàn toàn dựa vào sự sẵn sàng của hàng nghìn du kích và cán bộ chính trị địa phương, toàn tâm toàn ý để làm cho các lực lượng Việt Nam cộng hòa và Mỹ bị lúng túng, bị đánh lạc hướng và dễ bị tổn thương.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 16 Tháng Chín, 2008, 09:25:34 am
CHÍNH QUYỀN NÍCH-XƠN BUỘC CÁCH MẠNG PHẢI HÀNH ĐỘNG

Đặc điểm của những kế hoạch và hành động của Cách mạng sau năm 1968 là tính thận trọng và thực dụng. Bằng một ý nghĩa nghiêm túc, có thể nói rằng thế chủ động chiến lược đã tạm thời chuyển sang kẻ thù, và chính từ kinh nghiệm này mà Đảng có thể bắt đầu đánh giá một cách chính xác những hạn chế và những khả năng của mình.

Kỳ lạ thay, quyết định tháng 4 năm 1970, đưa ra một cách nông cạn của Mỹ biến cuộc chiến tranh ở Nam Việt Nam thành cuộc đấu tranh cho toàn Đông Dương, đã phán quyết trước thất bại cho Việt Nam cộng hòa. Ngoài tác động chính trị của nó ở Mỹ ra, cố gắng đó đã rải mỏng quân đội vốn đã mong manh của Sài Gòn ra một khu vực rộng hơn, đúng vào lúc Mỹ rút quân, phơi bày những nhược điểm của chương trình Việt Nam hóa.

Chiến dịch chống Cam-pu-chia tháng 5 năm 1970 đã buộc chặt không lực và tiềm lực kinh tế, quân sự Mỹ trong hơn ba năm và tạm thời kìm lực lượng xâm lược của Việt Nam cộng hòa trong một thời gian để cho chế độ Lon Non có thì giờ củng cố quyền lực. Tuy cuộc tiến công này có giúp Mỹ tranh thủ được một số tháng cho công cuộc Việt Nam hóa nhưng nó ấp ủ một số ảo tưởng về hầu như tất cả các mặt của chiến tranh và khuyến khích Mỹ đánh vào Lào và Cam-pu-chia một lần nữa năm sau.

Cuộc tiến công đầu tiên vào Cam-pu-chia đã làm cho quân đội cộng sản bất ngờ, nhưng những kế hoạch cho chiến dịch Lam Sơn 719 tháng 2 năm 1971 ở Lào và sau đó cuộc tiến công nhỏ hơn vào Cam-pu-chia lần nữa, đã bị lọt đến Cách mạng một cách chi tiết khá lâu trước cuộc tiến công và thậm chí trước khi được Mỹ thông qua. Tuy vậy chính quyền Mỹ tin rằng nó có thể tranh thủ được ít nhất hai năm cho quân đội Thiệu nếu phá hủy được đường mòn Hồ Chí Minh.

Sự yểm trợ của Mỹ cho chiến dịch này bị giới hạn chỉ vào việc vận chuyển bằng máy bay lên thẳng và việc ủng hộ bằng không quân. Cuộc tiến công của quân đội Việt Nam cộng hòa bị rơi vào một cái bẫy khổng lồ của Quân đội nhân dân Việt Nam được bố trí cẩn thận và phối hợp tuyệt vời với việc dùng  lần đầu tiên xe tăng T.54 và trọng pháo 130 mi-li-mét cùng với một hệ thống phòng không bảo vệ có thể bắn rơi máy bay lên thẳng. \

Bắt đầu từ ngày 8-2-1971, mười bảy nghìn quân thiện chiến nhất của Việt Nam cộng hòa được đưa đến Nam Lào để thực hiện một cuộc tiến công cơ động mà họ chưa quen. Thiệu đưa ra những chỉ thị bí mật ngày 12 tháng 2 để ngừng cuộc tiến công khi ba nghìn quân đã bị loại ra ngoài vòng chiến đấu và vào khoảng ngày 8 tháng 3, khi tổn thất về người và vật lực tăng lên, Thiệu ra lệnh rút lui mà không báo trước cho người Mỹ. Vào lúc đó chỉ có sự yểm trợ ào ạt của không quân Mỹ mới tránh được một thảm họa hoàn toàn cho các đơn vị ưu tú của Việt Nam cộng hòa phối hợp tồi và bị khiếp sợ.

Dù vậy, quân đội Việt Nam cộng hòa mất chín nghìn bị giết và bị thương và hai phần ba số xe cơ giới và trên bảy trăm máy bay lên thẳng và máy bay có cánh bị phá huỷ hoặc bị hư hại. Chiến dịch đã chuyển thành một thất bại khổng lồ cho ý đồ của chính quyền Mỹ và cho cả các kế hoạch họ đã vạch ra cho Việt Nam cộng hòa.

Cùng thời gian đó, bắt đầu từ ngày 8 tháng 2, một lực lượng quân đội Việt Nam cộng hòa vượt vào Cam-pu-chia để phá hủy các cơ sở và các kho tàng của Cách mạng ở trong hoặc quanh đồn điền cao su Chúp. Tư lệnh của cuộc hành quân bị giết trong một máy bay lên thẳng ngày 27 tháng 2 và vào giữa tháng 4, cuộc hành quân này cũng rút về trong thất bại.

Kít-xin-giơ nhận thấy Lam Sơn 719 là một thất vọng buồn thảm, và "Lào đã bộc lộ nhiều thiếu sót dai dẳng của họ (Việt Nam cộng hòa)". Thiệu đã tỏ ra là lừa dối và là một nhà lãnh đạo quân sự tồi. Các đơn vị tốt nhất của quân đội Việt Nam cộng hòa thiếu sự phối hợp, bị lãnh đạo tồi và hoàn toàn phụ thuộc vào không lực và hậu cần của Mỹ. Việt Nam cộng hòa không mạnh gì hơn trước khi Việt Nam hóa. Tình hình này làm mất tinh thần những người ủng hộ Việt Nam cộng hòa.

Các tướng Mỹ chắc chắn rằng chỉ có việc sử dụng đúng lúc và ào ạt sức mạnh không quân mới tránh được một sự tán loạn hoàn toàn. Nhưng trong khi các quan chức Mỹ có thể thừa nhận những điểm nói trên, lúc đó cũng như về sau, thì Tổng thống và Kít-xin-giơ bênh vực chiến dịch là đúng lúc để tranh thủ thời gian, cố ý không biết rằng chính Cộng sản mới có lợi nhất trong dịp này.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 16 Tháng Chín, 2008, 09:26:13 am
Quy mô của thất bại tất nhiên làm cho không thể nào chấp nhận được về mặt chính trị cũng như về mặt cá nhân, nhưng đồng thời nó cũng bộc lộ chỗ yếu tai hại của các nhà chiến lược Mỹ và của những người phụ thuộc họ. Lam Sơn 719, một cuộc chiến đấu trọng yếu của Việt Nam hóa là một thất bại hoàn toàn. Trên thực tế, những ảo tưởng cuối cùng của chính quyền Ních-xơn về tiềm lực của Việt Nam cộng hòa đã đưa họ đến việc mở chiến dịch Lào, Cam-pu-chia và vì thế mà phơi bày những điểm yếu quân sự nghiêm trọng của Việt Nam cộng hòa trong cuộc chiến tranh mà bây giờ đã được mở rộng ra toàn Đông Dương; những ảo tưởng đó cũng đưa lại những khó khăn chính trị ngày càng tăng cho Tổng thống ở trong nước.

Ngược lại các nhà lãnh đạo Đảng nghĩ rằng cuộc tiến công Lào đưa lại cho Cách mạng "kinh nghiệm rất cơ bản trong việc chỉ đạo, tổ chức và phát triển các lực lượng vũ trang nhất là quân chủ lực". Bây giờ đã thật rõ ràng cho họ rằng Việt Nam hóa không thành công trong khi những khả năng của Quân đội nhân dân Việt Nam tiến bộ rất lớn. Chỉ còn sức mạnh không quân Mỹ là đang cản trở thắng lợi. Quyết định tiến công và thất bại của Mỹ càng tăng thêm lòng tự tin của Bộ Chính trị sau hai năm củng cố lực lượng và hành động thận trọng.

Tháng 5 và đầu tháng 6, Bộ Chính trị họp để xem xét thời cơ chiến lược và quyết tâm "giành một thắng lợi quyết định trong năm 1972 và buộc đế quốc Mỹ chấm dứt chiến tranh bằng thương lượng từ một thế thất bại". Vì so sánh lực lượng chuyển mạnh sang có lợi cho mình, các nhà lãnh đạo quân sự của Đảng cho phép vạch kế hoạch cho một chiến dịch lớn để khai thác những điểm yếu và thế phòng ngự của Mỹ và Việt Nam cộng hòa.

Trong khi khẳng định lại sự quan tâm đến các cuộc chiến tranh song song ở Cam-pu-chia và Lào cũng như cuộc chiến tranh du kích ở Nam Việt Nam và cuộc đấu tranh đô thị, Bộ Chính trị nhấn mạnh việc chuẩn bị cho một cuộc tiến công của quân chủ lực, sử dụng vũ khí và sức cơ động đã bắt đầu được thí nghiệm trong chiến dịch Lam Sơn 719. Mục tiêu chủ yếu là tiêu diệt chủ lực của quân đội Việt Nam cộng hòa.

Cuối tháng 11, báo chí Mỹ đưa tin về các đoàn xe lớn đi vế phía nam và người ta bắt đầu phỏng đoán về thời gian và quy mô của cuộc tiến công. Phần đông các quan chức tiên đoán một cách sai lầm rằng vào khoảng tháng 2 sẽ là một cuộc tiến công nhỏ hơn nhiều và ngắn hơn nhiều so với cuộc tiến công Tết.

Thật kỳ lạ, nhiều người trong bọn họ, tuy khá thực tế đối với khả năng của Việt Nam cộng hòa lại ngờ vực về khả năng của Cộng sản và tin rằng Đảng còn quá yếu để có thể gây ra một thách thức lớn. Một số khác lại còn không chịu hiểu quy mô những điểm yếu của Việt Nam cộng hòa.

Trong khi đó thì báo chí của Việt Nam dân chủ cộng hòa và những chỉ thị của Đảng đầu năm 1972 đều hướng vào việc chuẩn bị tư tưởng cho công chúng đón nhận tình hình mới và những khả năng mới. Các sự kiện của năm 1971 đã được tổng kết kỹ lưỡng từ việc giảm quân Mỹ và tinh thần sa sút của họ cho đến việc xây dựng lực lượng du kích ở miền Nam và thất bại của bình định. Nhưng điều quan trọng nhất là Lam Sơn 719 và thất bại của Việt Nam hóa cũng như việc mở rộng chiến tranh ra Lào và Cam-pu-chia gây thành "những biến đổi sâu sắc" có lợi cho Cách mạng trên chiến trường.

"Những thắng lợi của năm 1971 đã tạo ra một thế chiến lược mới cực kỳ vững chắc... Khi chúng ta bước vào năm 1972 chúng ta đứng trước một thời cơ lớn và có thể phát triển nó một cách vô cùng đẹp đẽ". Điều duy nhất mà Đảng không nói về cuộc tiến công sắp đến là quy mô, địa điểm và thời gian của nó.

Nhận thức của Đảng về những chỗ yếu của mình và về sức mạnh của kẻ thù, đã làm cho Đảng tự kiềm chế sau năm 1968. Chỉ sau khi người Mỹ, vì tự lừa dối mình, đã hành động và phơi bày tình trạng mong manh của quân đội Việt Nam cộng hòa, Đảng mới có thể phân tích chính xác sức mạnh thực sự của chính mình và những lựa chọn tiềm tàng có thể có. Chính nhờ sự bộc lộ của những điều kiện mới, xác định so sánh lực lượng đó mà Đảng đã vượt qua được tính thận trọng của mình và đưa lại một điểm ngoặt trọng yếu trong chiến tranh.

Tất nhiên, vấn đề là ở chỗ liệu các ảo tưởng của Mỹ có tiếp tục che lấp khả năng nhìn thấy được thực tế của họ hay không hoặc là liệu họ có khả năng ngoại giao và chính trị nào để thay thế hay không. Năm 1972 tỏ ra là một năm có thể thanh toán về mặt quân sự nhưng trong một cuộc xung đột có ý nghĩa toàn cầu và chống lại một nước giàu và mạnh như vậy, không thể hoàn toàn chắc rằng cán cân sức mạnh quân sự sẽ tỏ ra là nhân tố trọng yếu duy nhất. Như Bộ Chính trị đã hoàn toàn đoán trước, năm 1972 có thể chỉ mở cửa cho các phát triển khác, nhất là cho thương lượng. Và như vậy có thể tạo ra một kiểu trận đấu khác.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 18 Tháng Chín, 2008, 10:20:49 am
Chương ba mươi
MỸ VÀ VIỆT NAM CỘNG HOÀ: NHỮNG MÂU THUẪN CỦA VIỆT NAM HOÁ

Việt Nam hóa chiến tranh đã tăng thêm sự phụ thuộc của Oa-sinh-tơn vào một nhóm nhỏ những người ở Sài Gòn. Số phận cuối cùng của cố gắng rộng lớn của Mỹ nhằm tạo ra một cơ cấu có thể thay thế cho Cách mạng phụ thuộc vào chỗ mạnh và chỗ yếu của nhóm người đó cũng như vào hệ thống chính quyền và quân sự của họ. Thách thức cơ bản cho công cuộc to lớn của Mỹ là không rõ những nhà chiến thuật chính trị sắc sảo và tham lam đang cai trị Việt Nam cộng hòa có dùng quyền lực của họ để giải quyết các vấn đề không bờ bến của Việt Nam cộng hòa hay là cứ tiếp tục theo đuổi lợi ích cá nhân của chính mình.

Nhà Trắng tin rằng Việt Nam hóa trong một khung cảnh ngoại giao đúng đắn có thể đủ để cho Việt Nam cộng hòa sống sót mặc dù có những điểm yếu kém rõ ràng của họ. Về mặt chính trị, Nhà Trắng đã đặt số phận toàn bộ chính sách Việt Nam của mình vào một con người duy nhất, Nguyễn Văn Thiệu với hy vọng đạt được sự ổn định trong một thế giới đầy rẫy mưu đồ chính trị của Việt Nam cộng hòa.

Còn Lầu Năm Góc thì lại cố gắng tạo ra một đội quân với kỹ thuật tiên tiến dựa theo học thuyết và kiểu mẫu của Mỹ, tuy đã rõ ràng rằng kiểu mẫu đó là không thích hợp. Vì củng cố chế độ hiện có là điều thiết yếu nên quân đội phải phục vụ cho việc đó. Khi xảy ra mâu thuẫn giữa mục tiêu quân sự và mục tiêu chính trị, nghĩa là giữa lợi ích quân sự và việc giữ Thiệu nắm quyền, thì chính trị luôn luôn được ưu tiên.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 18 Tháng Chín, 2008, 10:21:52 am
MẶT QUÂN SỰ CỦA VIỆT NAM HÓA

Để thực hiện cam kết của Mỹ tạo ra một cơ cấu chống lại Cách mạng, việc xây dựng các lực lượng vũ trang của Việt Nam cộng hòa là rất cần thiết. Vào năm 1970, không có một cơ sở học thuyết nào nhất quán cho cố gắng đó mà chỉ đi theo một quá trình quen thuộc của giới quân sự Mỹ. Về chức năng, thì mục tiêu là xây dựng một đội quân có khả năng kiểm soát càng nhiều quần chúng càng tốt, nghĩa là một lực lượng khổng lồ làm nhiệm vụ bảo vệ tĩnh tại, biết dùng kỹ thuật và số lớn đạn dược. Ngoài ra cũng phải được huấn luyện và trang bị cho vận động chiến. Kết quả là một đội quân hết sức tốn kém, cả về mặt gây thiệt hại cho nền kinh tế và trật tự xã hội lẫn vế mặt phụ thuộc vĩnh viễn của nó vào viện trợ quân sự to lớn của Mỹ.

Quy mô của các lực lượng vũ trang Việt Nam cộng hòa đạt con số 1,1 triệu năm 1973, thu hút trên một nửa lực lượng nam giới giữa 18 và 35 tuổi. Lầu Năm Góc luôn luôn mở rộng không quân và trọng pháo của Việt Nam cộng hòa trên cơ sở không những quân đội Việt Nam cộng hòa duy trì ưu thế hoàn toàn về không quân mà còn dùng nó như một bộ phận của các cuộc hành quân.

Bắt đầu với chỉ 75 máy bay lên thẳng kiểu cũ năm 1968, Việt Nam cộng hòa có 657 chiếc kiểu mới nhất vào tháng 7 năm 1972. Như vậy là Việt Nam cộng hòa có "một trong những đội máy lên thẳng lớn nhất, tốn kém nhất và hiện đại nhất thế giới (Chú thích: Xem James L. Collins, Jr. "Sự phát triển và huấn luyện quân đội Nam Việt Nam, 1950 - 1972" (Bộ Lục quân Mỹ 1975), tr.113. ). Ngoài ra không quân gồm 740 máy bay, đứng thứ 4 về số lượng trên thế giới. Vào năm 1971, quân đội Việt Nam cộng hòa nhận ít nhất 1.000 pháo bức kích, 1.650 cối hạng nặng, trên 1.000 xe chở quân M113, 300 xe tăng và một hệ thống thông tin liên lạc tiên tiến để nối đội quân rải rộng đó với nhau. Số lượng trang bị mà đội quân đó nhận được là một điều bí ẩn vì sau khi Mỹ rút, Mỹ để lại một số lượng khổng lồ vật liệu.

Việc huấn luyện phi công, thợ máy và các kỹ thuật viên là một nhiệm vụ to lớn, tốn nhiều thì giờ, trong đó việc dạy tiếng Anh rất là quan trong. Khoảng mười hai nghìn người được đưa đi Mỹ và học tiếng là trước tiên. Nhiều trường đặc biệt đã được mở ra ở Nam Việt Nam và học viên phải mất ba mươi sáu tuần để học tiếng Anh. Kiểu này không hề có hiệu quả và trang bị càng hiện đại thì càng chóng hỏng.
Việc chuyển giao các căn cứ Mỹ cho quân đội Việt Nam cộng hòa là một công việc rất phức tạp vì các căn cứ rất rộng lớn và xa hoa lộng lẫy cho nên việc duy trì kỹ thuật là một vấn đề lớn. Hơn nữa cái gì có thể bán được ra thị trường tư nhân đều bị ăn cắp kể cả bóng đèn và vật liệu lợp nhà. Các căn cứ đòi hỏi thêm nhân lực và thời gian, do đó mà làm cho một đội quân đã tĩnh tại càng thêm tĩnh tại. C

Các tướng cấp cao Mỹ thấy trước quá trình hư hỏng sẽ nhanh chóng, nhưng không có cách gì khác nên đành phải chuyển các căn cứ cho quân đội Việt Nam cộng hòa. Hầu như tất cả các sĩ quan Mỹ đều xem các vấn đề bảo quản và hậu cần là những trở ngại không thể nào khắc phục được.

Những kinh nghiệm về Việt Nam hóa như vậy và tình hình chiến đấu thực tế của quân đội Việt Nam cộng hòa đã làm nản lòng những người Mỹ có quan hệ chặt chẽ với các lực lượng vũ trang Việt Nam cộng hòa. Họ có thể đôi khi đưa ra được một vài tiến bộ trong những đơn vị đặc biệt, nhưng vấn đề chính là các lực lượng Mỹ đã rút nhanh hơn quân đội Việt Nam cộng hòa có thể có tiến bộ.

Thật là mỉa mai, sau năm 1967 khi các hàng ngũ binh lính thường càng tăng lên nhiều thì chất lượng lại càng giảm sút; hiệu quả của các đơn vị trọng pháo cũng bị giảm sút và một ít sĩ quan tốt thì bị sử dụng quá mức.

Trang bị mới cũng có những tác dụng tương tự. Số lượng không bao giờ biến thành chất lượng. CIA viết tháng 4 năm 1970: "Thành tích của quân đội Việt Nam cộng hòa trong quá khứ không phải là thành tích gây được lòng tin vào hoạt động tương lai trong chiến tranh của chủ lực".


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 18 Tháng Chín, 2008, 10:22:32 am
Sự huấn luyện chiến đấu cho hơn một nửa quân lực là không có hiệu quả và khả năng chiến đấu với đơn vị lớn chưa được thử thách. Thời gian không làm giảm khó khăn; trong các binh chủng như trọng pháo, thời gian còn làm cho khó khăn thêm trầm trọng. Mọi cố gắng đều bộc lộ rằng "ít thấy có tiến bộ trong chiến đấu".

Cuộc xâm chiếm Cam-pu-chia cho thấy sự phụ thuộc hoàn toàn của quân đội Việt Nam cộng hòa vào sự yểm trợ không quân Mỹ, còn trọng pháo của họ thì cũng không làm được gì. Lam Sơn 719 bộc lộ sự bất lực của quân đội Việt Nam cộng hòa trong việc phối hợp một chiến dịch lớn và trong việc sử dụng ưu thế hỏa lực một cách hợp lý. Các nhà báo luôn luôn lặp đi lặp lại lập luận rằng quân đội Việt Nam cộng hòa không bao giờ có thể thay thế, càng không thể tiến bộ hơn binh lính Mỹ.

Như nhiều tướng lão thành của Việt Nam cộng hòa về sau thừa nhận, Mỹ đã tìm cách biến một đội quân vốn đã không thỏa đáng thành một đội quân càng tồi tệ hơn, làm cho nó hoàn toàn phụ thuộc vào trang bị và học thuyết của Mỹ. Họ lập luận một cách đúng đắn rằng quân đội Việt Nam cộng hòa chỉ là một bộ phận phụ thuộc của lực lượng viễn chinh Mỹ và chính người Mỹ mà họ dựa vào, là người quyết định các vấn đề của họ khi thật cần thiết. Bởi vì, tình hình của quân đội Việt Nam cộng hòa là do sự lãnh đạo của Thiệu quyết định, mà Thiệu nắm được chính quyền là vì Mỹ muốn giữ ông ta ở đó.

Nhưng mặt khác phải thấy rằng giới sĩ quan cấp cao của Việt Nam cộng hòa là một thực thể chính trị thống nhất, nó sẽ tồn tại mà không cần đến Thiệu. Nói cho cùng mục đích của quân đội không phải là quân sự mà là chính trị và kinh tế, vì thế nó không tạo ra được một cơ sở quần chúng để chống lại Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Do đó Mặt trận Dân tộc Giải phóng bây giờ chỉ còn phải đương đầu với bạo lực có tổ chức của một bộ máy quân sự trang bị quá mức.

Nhưng cũng phải thấy rằng trong khi Quân đội nhân dân Việt Nam tiếp thu kỹ thuật nước ngoài một cách thành công, làm cho đội quân của họ thêm nhiều hiệu quả trong chiến tranh hiện đại, thì kỹ thuật lại làm cho quân đội Việt Nam cộng hòa thêm phụ thuộc và không còn chủ tâm đến hoạt động của họ. Sự khác nhau là tính chất của hai quân đội, một bên thì tích cực tận tụy vì có động cơ chính trị rõ rệt, còn bên kia thì là một phế phẩm giả tạo. Với ý nghĩa này, việc quân đội Việt Nam cộng hòa tin rằng Mỹ sẽ giúp họ thoát ra khỏi những hoàn cảnh khó khăn là một điều lô-gích bởi vì không có người Mỹ thì trước tiên họ không thể tồn tại được.

Chính quyền Mỹ đánh giá Việt Nam hóa một cách thắng thắn và khá bi quan ngay từ đầu. Những ảo tưởng còn lại cũng giảm dần với thời gian, và năm 1969, chính quyền vẫn còn xem một lực lượng lớn quân Mỹ để lại là rất thiết yếu cho sự tồn tại của chế độ. Lầu Năm Góc biết rõ hơn ai hết quân đội Việt Nam cộng hòa ít được chuẩn bị như thế nào cho chiến tranh hiện đại, và thời gian càng làm cho họ tăng thất vọng hơn chứ không phải giảm.

Trung tâm của khó khăn Việt Nam hóa vẫn là chất lượng của người lính thường và tính chất của giới sĩ quan. Vấn đề đào ngũ và lính ma càng trở nên xấu thêm, do đó mà việc tăng quân nhanh chóng cũng không tránh khỏi đưa đến việc giảm tỷ lệ lính chiến đấu thực tế, trong vòng bốn năm sau 1968. Kết quả cuối cùng là quân đội trở nên yếu hơn, loãng hơn và không đưa lại lợi ích quân sự nào trong khi tác động tàn phá xã hội của nó lại tăng lên không ngừng.

Xu hướng giảm thu nhập thực tế của quân đội Việt Nam cộng hòa vẫn tiếp tục phát triển và cả các quan chức Mỹ lẫn Việt Nam cộng hòa đều thừa nhận ảnh hưởng của nó đến tinh thần và tình trạng đào ngũ của binh lính. Tháng 4 năm 1970, những cựu binh tàn phế bị bỏ rơi và đói khổ, đã khởi xướng những cuộc phản đối và cảnh sát của Thiệu đã tiến công dã man và bắt những người lãnh đạo của họ vào tù.
Dù sự mỉa mai của tình tiết này như thế nào đi chăng nữa, nó vẫn nhắc nhở những binh lính thường rằng họ phải tự lo liệu lấy chứ không thể trông cậy gì vào các tướng lĩnh đang bòn rút nền kinh tế. Khi những tàn dư cuối cùng của mối quan hệ giữa con người và con người ở Việt Nam cộng hòa mất đi, thì người dân thường càng phải chịu cướp bóc và bạo lực nhiều hơn nữa và cái chế độ chịu trách nhiệm về sự tàn phá đó vẫn tiếp tục bắt con cái của họ đi lính làm bia đỡ đạn.

Trong triển vọng rộng lớn hơn đó, chính vai trò xã hội và kinh tế chứ không phải vai trò quân sự, cuối cùng ảnh hưởng sâu sắc nhất đến chiến tranh, bởi vì chính sách chính trị và sự huy động quần chúng là thực chất cố gắng của Cách mạng. Dù lực lượng quân sự của Đảng còn yếu như thế nào đi chăng nữa, việc Việt Nam cộng hòa tiếp tục gây oán thù trong nhân dân làm cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng giành được thế thuận lợi. Quân đội Việt Nam cộng hòa càng được mở rộng, càng đô thị hóa bao nhiêu thì càng bị nhân dân xa lánh bấy nhiêu và nhân dân càng thiết tha với hòa bình bấy nhiêu. Một quân đội như vậy đi ngược lại những mục tiêu lớn hơn của Thiệu. Việt Nam hóa không còn làm cho Việt Nam cộng hòa mạnh hơn về quân sự mà chỉ làm cho yếu hơn về kinh tế và xã hội, bởi vì không có cách nào tạo ra được một đội quân lớn, có hiệu quả mà lại ít tốn kém.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 18 Tháng Chín, 2008, 10:23:39 am
VAI TRÒ CHÍNH TRỊ CỦA HỆ THỐNG QUÂN SỰ
   

Thế tiến lui đều khó của Việt Nam hóa và toàn bộ cố gắng của Mỹ ở Việt Nam là việc không có bất kỳ một cơ sở xã hội thực sự nào cho Việt Nam cộng hòa ngoài giới quân sự mà vai trò và động cơ chính trị đã làm cho các chức năng chiến tranh trở thành thứ yếu. Những tính toán phức tạp đưa Mỹ đến việc ủng hộ cơ cấu quân sự hiện có vì những lý do chính trị, nói lên rằng việc chuyển giao trách nhiệm chiến đấu từ Mỹ sang Việt Nam không thể nào thành công được.

Mọi người lúc đó đều thấy rằng việc Oa-sinh-tơn ủng hộ Thiệu sẽ đưa đến việc chính trị hóa hơn nữa các sĩ quan cấp cao, đưa đến một nền kinh tế chỉ nhằm vào việc duy trì lòng trung thành của họ và đưa đến một sự suy giảm liên tục năng lực quân sự của quân đội Việt Nam cộng hòa. Nếu bỏ Thiệu, như Oa-sinh-tơn hiểu một cách đúng đắn, thì sẽ là một mớ hỗn tạp của những tập đoàn gây chiến, những phe phái và những người tham lam đã nổi lên sau khi Diệm chết và vì thế mà sản sinh ra một sự mất ổn định triền miên chỉ có lợi cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng.

Giữa hai lựa chọn đều xấu đó, Mỹ chọn Thiệu, một phần vì sau năm 1969 Mỹ tin sẽ có những cơ hội quân sự và ngoại giao có thể cứu được Thiệu. Một báo cáo của văn phòng Thượng viện Mỹ tháng 12 năm 1969 viết: "Chính phủ hiện nay có thể giữ được quyền hành nếu Mỹ tiếp tục ủng hộ nó. (Nhưng) nếu chính phủ hiện nay tiếp tục nắm quyền... thì Việt Nam hóa sẽ thất bại".

Thiệu củng cố xong cơ sở chính trị của mình vào năm 1969 và bỏ ra ba năm tiếp theo thu thập các đặc quyền mà Diệm đã có, chỉ khác Diệm ở chỗ ông ta cho các tướng chủ chốt của mình những quyền lợi bất di bất dịch để giữ ông ta nắm quyền.

Cách xây dựng bộ máy của ông ta có thể lấy trường hợp của tướng Nguyễn Văn Toàn làm điển hình. Nguyễn Văn Toàn bị Ban chống tham nhũng tố cáo về tội tham nhũng, bóc lột binh sĩ và buôn lậu quế, nhưng Thiệu không những bỏ qua mà còn đề bạt và tặng thưởng huân chương. Ban chống tham nhũng hủy bỏ sự tố cáo ngay tức khắc. Đã trung thành từ trước, Toàn càng dốc lòng hơn với Thiệu, cuối cùng được cử làm tư lệnh vùng chiến thuật II trọng yếu.

Một nhà phân tích hàng đầu của Oa-sinh-tơn viết trong một đánh giá mật tháng 6 năm 1970: "Nói chung đã được thừa nhận rằng một sự thăng cấp hoặc một sự thay đổi nhiệm vụ có nghĩa là một sự thay đổi vận mệnh chính trị chứ không phải một sự thưởng công tại chiến trường".

Thiệu làm việc một phần thông qua một người bạn chí thân, cùng lớp quân sự và là thủ tướng, tướng Trần Thiện Khiêm, để điều khiển mạng lưới tham nhũng và hạn chế những kẻ thù tiềm tàng. Thiệu đã cố gắng trong vòng vài năm không những gạt bỏ được những sĩ quan cấp cao và những tỉnh trưởng bị nghi ngờ mà còn tạo được một hệ thống chính quyền kiểu Diệm mới rất trung thành với ông ta. Điều khiển bộ máy nhà nước và làm giàu là hai việc chiếm phần lớn thì giờ của các tướng nắm quyền.

Nguồn gốc thực sự của quyền lực là Thiệu và những người trung thành của ông ta và bộ máy cá nhân hóa dựa vào ông ta. Công tác liên hệ với quần chúng của chính quyền Ních-xơn muốn tuyên truyền cho bộ mặt của Việt Nam cộng hòa.

Cuộc bầu cử tổng thống của Việt nam cộng hoà năm 1971 đã tỏ ra là một thất bại gây bối rối khi Thiệu đặt ra một luật bầu cử mới và gạt Kỳ, làm cho ông ta cuối cùng thành ra ứng cử viên duy nhất. Theo một phóng viên NBC Mỹ ở Sài Gòn thì số tiền dùng cho cuộc vận động đó là do một đồng minh gần gũi với Thiệu, tướng Đặng Văn Quang đóng góp với tư cách là nhân vật quan trọng nhất trong nghề buôn ma túy. Nguyên là người đứng đầu vùng chiến thuật IV, Quang đồng thời cũng là cố vấn tình báo chính của Thiệu.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 18 Tháng Chín, 2008, 10:24:32 am
Trong khi đó, Thiệu cũng tìm được cách củng cố quyền lực của mình đối với Quốc hội bằng việc cho các nghị sĩ tham gia các hình thức tham nhũng hoặc mua phiếu của họ đối với các vấn đề quan trọng. Vào tháng 9 năm 1972, Thiệu cũng tìm được cách tạo ra một hệ thống kiểm soát chính quyền cũng hoàn toàn giống như của Diệm với các quan chức ở tất cả các cấp rất trung thành với ông ta. Từ đó Thiệu bỏ mọi cố gắng về quan hệ công cộng, không tiếp xúc với ai và hiếm khi để cho ai phỏng vấn.

Tuy nhiên, quan trọng nhất là toàn bộ hệ thống quân sự tập trung về dinh tổng thống, bộ tư lệnh tác chiến gồm một chục người như tướng Tuấn, chịu ơn trực tiếp của Thiệu và không đủ khả năng hoạt động như những sĩ quan có tài và có thành tích. Thật là chẳng may cho Mỹ, một cơ cấu như vậy không thể làm được gì có hiệu quả về chính trị hay về quân sự để chống lại Cách mạng.

Những nhóm chống cộng nhưng cũng chống Thiệu không gây khó khăn gì cho Thiệu vì họ cũng không có cơ sở quần chúng. Đạo Phật và đạo Thiên Chúa lúc đầu có cơ sở tôn giáo cho hành động chính trị, nhưng cũng rất mong manh. Sau năm 1967, các tôn giáo này rất chia rẽ và đã có năm liên danh đạo Thiên Chúa và bốn liên danh đạo Phật ứng cử vào hạ nghị viện năm 1970.

Giới lãnh đạo Phật giáo trong giai đoạn 1963-1967 đã gây ra nhiều rắc rối, nhưng bây giờ với viện trợ và tiền của Mỹ, đã khéo léo hợp tác hoặc nằm im. Một nhóm các cố vấn của Oa-sinh-tơn kết luận năm 1970 rằng: "Phần đông những nhà chính trị mà Thiệu phải đối phó không phải là những nhà lãnh đạo chính trị với bất kỳ một ý nghĩa thực tế nào... Họ không có người ủng hộ, không có cương lĩnh hoặc chính sách, chỉ có lòng tham cá nhân và ham muốn theo đuổi những mưu đồ chính trị. Mỗi người đều muốn làm thủ tướng với quyền lực và tự do tối đa". Đánh giá chính thức của Mỹ đối với những nhóm này cũng đi song song với đánh giá của Cách mạng, nhưng Cách mạng tích cực tìm cách liên hệ với họ và chính các nhóm này được Cách mạng xem là lực lương thứ ba.

Vào năm 1972, sự chống đối Thiệu phản ánh một tình cảm thực sự ngày càng lớn mạnh, có tính chất toàn quốc, thiết tha muốn có hòa bình, và sự thù địch tàn nhẫn của Việt Nam cộng hòa đối với Mặt trận Dân tộc Giải phóng càng củng cố thêm tình cảm này. Tuy vậy, họ vẫn khác nhau sâu sắc về cách đi đến hòa bình; tất cả điều mà họ cùng chung quan điểm, cuối cùng là chống lại Thiệu. Và khi biết rằng Oa-sinh-tơn tiếp tục ủng hộ Thiệu chống lại mọi đối thủ của ông ta nghĩa là khi Thiệu và Oa-sinh-tơn trở thành đồng nghĩa với nhau theo con mắt của họ thì một trào lưu chống Mỹ có ý nghĩa xuất hiện.

Rõ ràng là đến năm 1971, quân đội Việt Nam cộng hòa là một đội quân mong manh một cách tuyệt vọng. Cũng vào lúc này những nhược điểm nghiêm trọng của Thiệu với tư cách là một nhà lãnh đạo quân sự cũng bộc lộ một cách rõ rệt nhất. Những tư lệnh quan trọng nhất của ông ta ở chiến trường là những người trung thành về chính trị, và người chịu trách nhiệm về cuộc hỗn loạn Lam Sơn 719, trung tướng Hoàng Xuân Lãm, tư lệnh vùng chiến thuật 1, vừa là tham nhũng vừa là bất tài. Quân đội Việt Nam cộng hòa không có một cơ cấu chỉ huy nhất thể hóa có thể hoạt động độc lập với Thiệu khi có những sức ép tại chiến trường. Hệ thống chỉ huy hiện có, hoàn toàn phục vụ cho quyền lực của Thiệu, và Thiệu giữ nó cho đến nạn hồng thủy cuối cùng năm 1975.

Thiệu mặc nhiên cho rằng nhiệm vụ chủ yếu của ông ta là chính trị và nhiệm vụ của người Mỹ là về các vấn đề quân sự. Tính chất chính trị chủ yếu của Việt Nam cộng hòa làm cho nó không đứng vững được về quân sự và vì cuối cùng Oa-sinh-tơn thừa nhận vai trò chính trị của Việt Nam cộng hòa, nên Oa-sinh-tơn phải đương đầu với những tác động quân sự. Cuối cùng, Mỹ không đạt được cả ổn định chính trị lẫn hiệu lực quân sự.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 19 Tháng Chín, 2008, 09:51:05 am
Chương ba mươi mốt
CUỘC ĐẤU TRANH CHO MỘT VIỆT NAM NÔNG THÔN ĐANG THAY ĐỔI

CHƯƠNG TRÌNH PHƯỢNG HOÀNG VÀ BÌNH ĐỊNH

Chương trình bình định của Mỹ và Việt Nam cộng hòa ngay từ đầu đã phải chịu những thế tiến lui đều khó không thể cứu vãn được. Oa-sinh-tơn không bao giờ tách chức năng chính trị ra khỏi chức năng quân sự, và khả năng của chương trình không thể hoạt động có hiệu quả về mặt chính trị đã làm cho nó chủ yếu là một cố gắng quân sự nhằm kiểm soát vật chất nhân dân nông thôn. Những sĩ quan và người dân sự Việt Nam cộng hòa phụ trách chương trình này chỉ trung thành với bản thân mình, và với những người chủ của họ, và sự tham nhũng và bất lực của họ đã ngấm vào toàn bộ hệ thống. Ý thức chính trị của nông dân phản ánh những bài học cay đắng mà những sĩ quan và quan chức làm công tác bình định đưa lại cho họ.

Các quan chức Mỹ hy vọng Việt Nam cộng hòa sẽ chịu trách nhiệm chủ yếu về bình định, phá hủy cơ sở hạ tầng chính trị của Mặt trận Dân tộc Giải phóng trong khi các lực lượng Mỹ đánh các đơn vị quân sự của Mặt trận. Họ luôn luôn bị thất vọng rằng chương trình không có hiệu quả nhũng lạm và bị xếp vào ưu tiên thấp ở Sài Gòn. Chính hỏa lực của Mỹ cũng gây ra những mâu thuẫn tai họa trong chương trình, bởi vì công cuộc bình định không thể tránh khỏi trở thành nạn nhân của cách làm chiến tranh của Mỹ cũng như của trật tự quân sự, mà Oa-sinh-tơn dựng lên ở Sài Gòn để thay thế cho họ. Tuy vậy, Mỹ vẫn còn nhận thức được rằng một chiến lược có hiệu quả ở nông thôn là một điều kiện tiên quyết cho sự sống sót của Việt Nam cộng hòa và năm 1969 Mỹ không còn ảo tưởng về những thiếu sót của Việt Nam cộng hòa nữa.

Khi Cách mạng giảm hoạt động quân sự của mình để đi vào giai đoan củng cố, các quan chức bình định lại trở lại nông thôn hoạt động như trước nhưng lại tham nhũng nhiều hơn do sức ép của lạm phát tăng lên. Theo con số của Mỹ thì những tiến bộ trong cố gắng bình định là do những chỗ trống mà Cách mạng để lại. Phần đông những người Mỹ thông thạo xem những kết quả giành được trong năm 1969 là mong manh và thừa nhận rằng số lượng không nói lên được gì về lòng trung thành của nông dân. Nhiều người cho rằng nếu có bất cứ một cuộc tiến công nào của Mặt trận Dân tộc Giải phóng thì sẽ đảo ngược mọi kết quả đã giành được.

Bình định được thực hiện trong giai đoạn của chính quyền Ních-xơn khác với trước kia ở chỗ nó áp dụng hai sáng kiến. Một, rõ ràng là củ cà-rốt, tức là chương trình cải cách ruộng đất mà Thiệu chứ không phải Mỹ khởi xướng năm 1970. Hai là cây gậy, chương trình Phượng hoàng mà Mỹ đưa ra năm 1967 nhưng không được chính thức tổ chức cho đến tháng 7 năm 1968. Phượng hoàng chắc chắn là một trong những chương trình có nhiều tranh cãi nhất của toàn bộ cuộc chiến tranh và mặc dầu luôn luôn có những cố gắng chính thức để tô son trát phấn cho nó nhưng nó là một trong những chương trình tàn bạo nhất. Lấy con số chết và bị thương làm mốc thì nó còn nhỏ hơn so với việc ném bom và bắn trọng pháo, nhưng nó bộc lộ quy mô những yếu kém của Mỹ trong việc tiến hành một cuộc chiến tranh chống lại những kẻ thù chính trị.

Người Mỹ đưa Phượng hoàng ra như một chương trình phối hợp chín cơ quan của Việt Nam cộng hòa và Mỹ nhằm tiêu diệt các cán bộ và hạ tầng cơ sở của Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Một cố gắng của nhiều cơ quan cùng một lúc như vậy làm trầm trọng thêm tính chất quan liêu và tăng thêm cơ hội tham nhũng. Cũng giống như tất cả cố gắng do Mỹ tổ chức, tiến bộ của Phượng hoàng được đánh giá bằng số lượng và hàng tuần một chỉ tiêu số lượng "VC" định trước được giao cho huyện làm công tác này. Nếu không bắt được đủ số cán bộ Mặt trận hoặc là thực sự hoặc là nghi ngờ thì nhân dân phải bị bắt để cho đủ số. Một tướng Việt Nam cộng hòa giải thích: "Lý luận chính thức là, thà bắt nhầm người nghi ngờ còn hơn để thoát người có tội, dù cho việc đó gây ra giận dữ”.

Trong số 450 người Mỹ tham gia chương trình có những quan chức của ngành đối ngoại và những sĩ quan của quân đội. Nhưng bộ phận tàn bạo nhất của chương trình là các đơn vị trinh sát cấp tỉnh, trực tiếp dưới sự chỉ huy của CIA được CIA huấn luyện và trả tiền. Số 4.400 người của các đơn vị trinh sát tỉnh là cánh tay hành động của Phượng hoàng và là những bàn tay đẫm máu nhất.

Mỹ khó đánh giá được tác động thực sự của chương trình Phượng hoàng và chỉ Cách mạng mới làm được việc này. Tuy các quan chức Mỹ tuyên bố đã bắt 86.000 người từ năm 1968 đến năm 1972, cộng với 20.000 người bị giết, nhưng kết quả đã làm cho họ thất vọng. Họ cho rằng Mặt trận Dân tộc Giải phóng đã thâm nhập trong hàng ngũ của Phượng hoàng để báo trước cho cán bộ quan trọng nên không có quan chức cấp cao nào bị bắt cả. Với tốc độ này, họ tin rằng cơ sở hạ tầng có thể tồn tại mà rất ít gặp khó khăn gì, ngay ở những cấp thấp hơn.

Người Mỹ cũng nghi ngờ rằng Mặt trận Dân tộc Giải phóng đã lo lót để nhiều người bị bắt được thả. Một số người cấp thấp Mỹ tham gia Phượng hoàng tin vào thắng lợi của chương trình, nhưng cũng thừa nhận là không đồng đều. Nhưng phần động  người Mỹ muốn lánh xa việc bắt bớ độc đoán, tra tấn và gây chết chóc xảy ra hàng ngày. Một cố vấn CIA cảnh cáo rằng việc bắt bớ đã làm cho nhiều nông dân căm thù sâu sắc: "Tác dụng thực sự của chương trình trong một tỉnh là tạo ra thêm Việt cộng mới chứ không phải quét sạch những người hoạt động đã có sẵn".

Các quan chức Mỹ không bao giờ tin rằng họ đã tìm được cách làm tổn hại cơ sở hạ tầng của Cách mạng một cách không thể đảo ngược được, nhưng ấn tượng chung cho mọi người là Phượng hoàng mở rộng hố ngăn cách, đã từng là rộng lớn giữa nhân dân và Việt Nam cộng hòa. Trừ một số nhỏ những người ủng hộ Việt Nam cộng hòa, ít người Việt Nam tán thành một nhà nước cảnh sát độc đoán.



Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 19 Tháng Chín, 2008, 09:52:17 am
THIỆU VÀ NHỮNG PHỨC TẠP CỦA CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT

Cuộc đấu tranh giành ruộng đất đã từng là động lực của Cách mạng Việt Nam ngay từ đầu, là khâu nối trọng yếu giữa nông dân và Đảng. Nhưng chính sách của Việt Nam cộng hòa và sự ngờ vực của Mỹ cùng với việc chiều theo ý muốn của Sài Gòn đã gạt vấn đề cải cách ra khỏi chương trình bình định dưới chính quyền Giôn-xơn. Vào lúc Mỹ và Việt Nam cộng hòa quay trở lại vấn đề, thì tính chất của vấn đề ruộng đất đã thay đổi lớn.

Sự biến đổi đó là do nhiều nhân tố. Trước tiên, Mặt trận Dân tộc Giải phóng đã cải cách chế độ ruộng đất cả về mặt phân phối lẫn về mặt mức tô. Chỉ một mình việc làm này đã đưa một bộ phận lớn nông dân về phía Mặt trận, với nhiều mức độ khác nhau và kéo dài cho đến khi chiến tranh kết thúc. Thứ nhì, mặt kinh tế của ruộng đất đã thay đổi mạnh mẽ do tác động của chiến tranh. Nông dân phải bỏ ruộng đất khi họ phải tìm nơi tỵ nạn, và việc quân đội Việt Nam cộng hòa chiếm trên một nửa số nam giới với lứa tuổi 18 đến 35 cũng như tình hình thương vong dân sự, đã làm thiếu nghiêm trọng nhân lực.

Mặt khác một số lớn trâu bò bị sát hại cũng làm thiếu sức kéo. Tô ở đồng bằng sông Cửu Long chỉ còn trung bình từ 5 đến 10 phần trăm, so với 40 đến 60 phần trăm trước năm 1939. Thậm chí số tô đó thường không được thu và giá đất ở đồng bằng từ năm 1958 đến năm 1967 giảm xuống còn một nửa. Tuy vậy, người ta vẫn còn kiếm được tiền trong nông nghiệp do thị trường đô thị được mở rộng, nhưng cách làm tốt nhất là đầu tư vốn vào kỹ thuật và giống còn quyền sở hữu đất thì trở nên ít quan trọng hơn. Nhưng ở đồng bằng sông Cửu Long thì nông dân không còn cần đến cải cách ruộng đất nữa, dù cho ý muốn sở hữu ruộng đất của họ mạnh như thế nào. Cải cách ruộng đất không còn là một vấn đề khẩn cấp nữa. Địa chủ cũng muốn biến ruộng đất của mình thành tiền để có thể đầu tư vào lĩnh vực khác.

Ngày 21 tháng 9 năm 1968, Thiệu đến Kiến Hòa, một tỉnh mà Mặt trận Dân tộc Giải phóng đã chia ruộng đất. Vào lúc này Thiệu đã hiểu được tính chất thay đổi của nền kinh tế nông nghiệp. Thiệu cũng đã biết được những lời phàn nàn của Mỹ rằng Thiệu đã củng cố quyền lực của Cộng sản bằng cách cộng tác và giúp đỡ địa chủ sau khi chiếm đóng một khu vực. Chưa thật yên tâm với việc tranh thủ các quan chức dân sự và các sĩ quan. Thiệu muốn mở thêm một mối quan hệ mới với nông dân bằng cách tuyên bố mập mờ rằng nông dân đã được Cách mạng chia ruộng đất có thể giữ số đất đó và ông ta cũng sẽ tiến hành một chương trình chia không ruộng đất. Sau đó, Thiệu đưa ra chương trình "Ruộng đất cho người cày" mà đến tháng 3 năm 1970 đã trở thành một đạo luật. Thiệu đề ra mục tiêu phân phát một triệu héc-ta ruộng đất.

Chương trình cải cách được áp dụng ở đồng bằng, vùng chiến thuật IV và III sau khi chương trình đã hoàn thành thì vẫn còn nửa triệu héc-ta đất bỏ hóa. Hai vùng chiến thuật ít ruộng đất ở phía bắc được giữ nguyên trạng. Chỉ 5 phần trăm ruộng đất định chia nằm trong khu vực này. Nhưng ở đây cũng vậy, như một cố vấn Mỹ về sau kết luận, chương trình ruộng đất cho người cày là "một thất bại khốn khổ ở Trung phần Việt Nam".


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 19 Tháng Chín, 2008, 09:53:13 am
SỰ THAY ĐỔI RUỘNG ĐẤT VÀ CUỘC KHỦNG HOẢNG NÔNG THÔN CHỚM NỞ

Luật cải cách ruộng đất của Việt Nam cộng hòa đưa ra chậm mất mười năm nên không thể có hiệu quả chính trị được nhưng nó được địa chủ hoan nghênh và nông dân chấp nhận. Nó gây ra một cơ sở cho cuộc khủng hoảng ruộng đất mới mà sự kết thúc chiến tranh năm 1975 mới đẩy lùi được

Mỗi một địa chủ được giữ lại mười lăm héc-ta. Nhưng chỉ cần khéo một chút là anh ta giữ lại được nhiều hơn tuy ít người làm như vậy. Đất dùng cho cây công nghiệp và cây ăn quả không phải là đối tượng cải cách cũng như ruộng tự cày cấy trong vùng biên giới của đô thị. Loại đất này, vào khoảng một triệu héc-ta, là có giá trị nhất. Chương trình này đã tốn ít nhất 500 triệu đô-la.

Trong 3 năm tiếp theo 1,1 triệu héc-ta tức là một phần ba đất trồng trọt đã được chuyển không cho 40 phần trăm nhân dân nông thôn tức là 800.000 tá điền. Những nông dân ở đồng bằng có thể được đền ba héc-ta. Khoảng 85.000 địa chủ bị lấy đất vẫn còn giữ 1,7 triệu héc-ta, nhưng bây giờ họ cũng có vốn hơn do được bồi thường.

Địa chủ rất phấn khởi. Nhiều người trước đây không thu được gì hàng năm trời, và tô thường là thấp hơn tiền lãi họ có thể nhận được. Nhiều địa chủ hối lộ quan chức cải cách để họ lấy ruộng và trả tiền bồi thường. Tỷ lệ người có ruộng trong nông thôn đã tăng từ 29 phần trăm cuối năm 1970 lên 56 phần trăm hai năm sau đó. Thăm dò dư luận của sáu nghìn nông dân có liên quan đến chương trình các chuyên gia Mỹ thấy rằng "người nông dân Việt Nam không được cảm kích như người đứng ngoài".

Các chuyên gia rất thất vọng mà thấy rằng cải cách ruộng đất không tạo ra được một sự thay đổi quyết định cho sự ủng hộ Việt Nam cộng hòa về chính trị và đa số lớn những người được chia ruộng không chịu đi với Việt Nam cộng hòa. Quá nhiều người đã được Cách mạng chia ruộng đất rồi cho nên vị trí của họ chẳng được thay  đổi gì hơn. Nhưng địa chủ ,thì bây giờ lai tốt hơn trước. Trong hoàn cảnh thiếu nhân lực và thừa ruộng đất, việc cải cách không còn ý nghĩa thực sự nào.

Một giai cấp tư sản mới xuất hiện nhanh chóng, gồm những địa chủ bị lấy ruộng và được bồi thường; họ đi vào buôn bán, kinh doanh, cho vay, thiết lập lại quyền nắm giữ nền kinh tế nông thôn qua các hình thức mới. Với lợi tức 60 đến 72 phần trăm hàng năm, họ dựng lại chế độ cổ truyền kiểm soát những nông dân sống nhờ vào vay mượn. Họ bắt đầu hiện đại hoá cày cấy trong các trang trại riêng của họ bằng cách dùng giống lúa thần kỳ và phân bón. Một số lớn máy kéo, máy cày và cơ giới nông nghiệp được nhập khẩu, do đó gần một nửa đất cày cấy trong năm 1973 đã được cày máy.

Chẳng bao lâu, sức mạnh kinh tế thật sự ở đồng bằng không còn lấy ruộng đất làm cơ sở nữa mà lấy sở hữu về sức ngựa của máy móc và khả năng kiểm soát thị trường cho vay, và cả hai mặt này những địa chủ cũ vẫn nắm độc quyền. Gần một phần ba lúa gạo của miền Nam là thuộc các giống cao sản và giống lúa này đòi hỏi máy móc và tiền vốn.

Đến năm 1972, nông dân bắt đầu phàn nàn về sự lên giá của phân bón và thuốc trừ sâu và về những khó khăn của công cuộc hiện đại hóa quá tốn kém mà Mỹ và Việt Nam cộng hòa đang khuyến khích; trong năm tiếp theo, những vấn đề đó bùng nổ thành một cuộc khủng hoảng quy mô đầy đủ. Hàng nghìn nông dân bắt đầu lại mất ruộng đất của họ một lần nữa cho những chủ nợ của mình, mà nhiều người là những địa chủ cũ đã sử dụng tiền được bồi thường khi bị lấy ruộng. Nhiều nông dân khác phải trả lại ruộng vì những địa chủ cũ xoay xở được để đưa ruộng đất của họ vào loại ruộng đất đô thị không phải là đối tượng cải cách. Một phần ba tỉnh Biên Hòa được sắp xếp lại là khu vực đô thị và những chủ đất mới được phân phối bị đuổi đi.

Tóm lại, cải cách ruộng đất nhanh chóng bị phá sản và chắc chắn là không gạt bỏ được cơ sở kinh tế cho tinh thần cấp tiến của nông dân. Tuy nhiên, sự kết hợp mới của những nhân tố sản xuất sau năm 1969 đã làm cho sản xuất gạo và các nông phẩm khác tăng lên trong nhiều năm. Nó làm tăng thu nhập của những địa chủ có đặc quyền, đặc biệt là những người cho vay hoặc phát canh.

Nhưng điều có thể thấy trước là chế độ mới đó sẽ phụ thuộc nặng nề vào nhập khẩu. Từ đầu chiến tranh, Mỹ đã hạ giá phân bón bán cho Nam Việt Nam. Với cuộc khủng hoảng giá đầu năm 1973, toàn bộ hệ thống nông nghiệp bị đe dọa nghiêm trọng; giá phân bón tăng gấp ba lần giữa năm 1972 và năm 1974. Thuốc trừ vật hại và nguyên liệu cũng tăng giá sau đó.

Khi chiến tranh kết thúc toàn bộ cơ cấu nông nghiệp miền Nam chìm vào một cuộc khủng hoảng sâu sắc. Cách mạng phải chấp nhận chính tình trạng như vậy. Cải cách ruộng đất chỉ đẩy nhanh sự biến đổi của hệ thống nông nghiệp, làm cho nó mất ổn định và dễ bị tổn thương hơn, trước nền kinh tế thế giới.

Sự thay đổi chứ không phải cải tiến số phận của quần chúng nông dân hoặc sự ủng hộ chính trị đối với Việt Nam cộng hòa, đã làm yếu thêm vị trí của cả hai bên và đẩy nhanh sự mai một của kẻ thù phụ thuộc vào Oa-sinh-tơn.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 19 Tháng Chín, 2008, 09:54:03 am
THẾ TIẾN LUI ĐỀU KHÓ CỦA CUỘC CHIẾN TRANH KÉO DÀI VÀ NÔNG DÂN

Không thể mô tả được toàn bộ tác động của cuộc chiến tranh đẫm máu, kéo dài đối với nông dân miền Nam và xã hội của họ, bởi vì nhiều năm tàn phá, biến đổi hệ thống dân cư và khủng bố đã làm thay đổi nghiêm trọng môi trường chính trỊ mà cả Cách mạng lẫn Mỹ phải có quan hệ. Ít có gia đình nông dân không phải chịu một tổn thất không thể bù lại được hoặc thậm chí nhiều tổn thất như  chết chóc, nhà cửa bị tàn phá hoặc phải rời bỏ, chịu nhục nhã... một thứ tổn thất không biết lấy gì cân mà người ngoài cuộc khó lòng hiểu thấu được.

Đối với phần đông nông dân, những sức ép tàn nhẫn, không bao giờ dứt bắt đầu làm cho họ có một cách lập luận khác; mục đích của họ chỉ là làm sao sống sót được và hạn chế tổn thất đến mức thấp nhất. Cả Đảng lẫn Mỹ đều hiểu rõ tâm lý đó và cố tìm cách đối phó với nó và giải quyết những thách thức của nó.

Thái độ thụ động đó đặt ra một thách thức cho Mỹ và Việt Nam cộng hòa lớn hơn là cho Cộng sản, bởi vì chương trình bình định của Mỹ lấy sự kiểm soát lãnh thổ và nhân dân làm một thần tượng quá đáng trong khi cách mạng linh hoạt hơn nhiều trong quan hệ với quần chúng. Xét các mục tiêu của Mỹ, sự hợp tác tích cực của nhân dân là rất cần thiết, nếu không, công cuộc bình định sẽ phải chịu những gánh nặng quân sự và kinh tế dài hạn quá đáng, như đã bắt đầu xảy ra. Thiếu sót tai họa trong cố gắng Mỹ là hậu quả của phương pháp cơ bản tiến hành chiến tranh cả về mặt quân sự lẫn mặt chính trị.

Trong khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng tìm cách gần gũi quần chúng lại trong làng thì Mỹ và Việt Nam cộng hòa buộc họ phải bỏ làng ra đi. Sau năm 1969 hầu như Việt Nam cộng hòa bắt tất cả con trai của nông dân vào lính. Cho đến năm 1971 việc bỏ thuốc trụi lá cây là nguyên nhân quan trọng cho những lời oán trách của nông dân nhất là trong các tỉnh ngoại vi.

Tất nhiên, chương trình Phượng hoàng là một nguồn khiếp sợ của quần chúng. Tuy mức sống có tăng lên và chiến đấu có giảm đi, nhưng tham nhũng hàng ngày của các quan chức Việt Nam cộng hòa và sự cướp bóc triền miên của binh lính, thuế khóa cao và sự xúc phạm đến nhân cách vẫn tiếp tục tồn tại hàng ngày.

Tóm lại, khi đường lối của nông dân tiến từ vấn đề kinh tế sang vấn đề sống còn, sự thù địch của họ đối với Việt Nam cộng hòa và đối với Mỹ tăng lên, bởi vì ruộng đất mà không có hòa bình thì cũng chỉ là vô dụng

Những người Mỹ tham gia công tác bình định, và ngay cả những sĩ quan cao cấp của quân đội Việt Nam cộng hòa cũng hiểu rõ quy mô của thách thức này và luôn luôn đánh giá đúng những thất bại của chính họ. Bộ chỉ huy của sư đoàn ky binh thiết giáp thứ 11 của Mỹ báo cáo cuối năm 1969 rằng nông dân "thật sự không có cảm tình" và điều đó che giấu "cảm tình rõ rệt với Việt cộng và cơ sở của Việt cộng mà phần đông là người nhà của họ. Điều trên hết là nhân dân muốn hòa bình và muốn được để yên, tuy rằng họ luôn luôn sẵn sàng ủng hộ tinh thần và vật chất Mặt trận Dân tộc Giải phóng.

Những chuyên gia của CIA và quân đội Mỹ cảm thấy rằng nông dân co lại, thích nghi với những thực tế quyền lực nhưng không muốn bắt nộp cán bộ Mặt trận. CIA báo cáo tháng 4 năm 1970 rằng tuy được cải thiện về kinh tế nhưng chẳng có sự ủng hộ chế độ Thiệu một "mức độ có ý nghĩa" nào ở nông thôn. Khi Mỹ hỏi ý kiến một số lớn nhân dân trong khoảng thời gian từ năm 1970 đến năm 1972 liệu Mỹ rút quân về nước có phải là điều khôn ngoan không, thì ít hơn một phần năm nghĩ rằng đó là không khôn ngoan. Sự căm ghét kẻ xâm lược nước ngoài đã lan đến cả những người cộng tác với họ và di sản của chủ nghĩa yêu nước không bao giờ không còn là một lực lượng phải tính đến.

Dù cho Mỹ gây thiệt hại như thế nào cho cố gắng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng, Rô-bớt Cô-mơ rất tiếc mà kết luận năm 1974 rằng "chúng ta không bao giờ có khả năng biến điều đó thành sự ủng hộ tích cực của quần chúng nông thôn đối với chính phủ Việt Nam... chúng ta không hề bao giờ có thể tự chúng ta gây ra một sự hấp dẫn ngược lại ở Sài Gòn đưa lại tình cảm của quần chúng, khả năng và hiệu quả công tác cai trị của chúng ta...".

Một vài sĩ quan quán đội Việt Nam cộng hòa có suy nghĩ hơn, cũng thừa nhận như vậy sau đó: "Đối với nhân dân nói chung, dày dạn và tỉnh táo vì cuộc chiến tranh kéo dài, tàn phá; bị vỡ mộng và thất vọng vì một nền hòa bình mong manh; và ngày càng lo ngại về một tương lai không chắc chắn, nhiều người tất nhiên không đi theo sự nghiệp và cố gắng của chính phủ Việt Nam cộng hòa". Thực tế này, tuy còn đặt ra tất cả các khó khăn, đã giúp cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng nắm quyền chủ động trong việc liên hệ với nhân dân.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 19 Tháng Chín, 2008, 09:54:47 am
PHẢN ỨNG CỦA CÁCH MẠNG ĐỐI VỚI BÌNH ĐỊNH

Mặt trận Dân tộc Giải phóng đối phó với vấn đế bình định sau năm 1969, trong một tư thế phòng ngự cho đến khi Mặt trận có thể bảo vệ những cán bộ chính trị của mình bằng một lực lượng vũ trang tối thiểu. Tuy mặt trận có ít vấn đề trong các khu vực đông dân phía bắc Sài Gòn mà đã trở thành trung tâm hoạt động quân sự của Mặt trận, nhưng ở đồng bằng sông Cửu Long, Mặt trận gặp nhiều khó khăn và tạm thời phải bỏ nhiều nơi. Tuy tố chức của Mặt trận còn nhỏ, nhưng những người còn lại, cũng đã buộc được lực lượng Việt Nam cộng hòa dành một lực lượng vũ trang lớn rải ra một vùng rất rộng để đối phó với họ. Với ý nghĩa này vai trò của Mặt trận là quân sự nhằm phân tán lực lương địch, chứ không phải là chính trị.

Nhưng cũng xảy ra nhiều phát triển làm giảm sức ép đối với Mặt trận. Trước tiên là việc đưa quân đội Việt Nam cộng hòa ra hoạt động ngoài Nam Việt Nam làm giảm các lực lượng để tấn công vào các căn cứ của Mặt trận. Hai là việc triển khai các hoạt động du kích ở đồng bằng căng mỏng các hàng ngũ của quân đội Việt Nam cộng hòa làm cho các cán bộ chính trị có cơ hội hoạt động hơn. Đến năm 1971 thì Mặt trận Dân tộc Giải phóng đã có thể trở lại một số vùng ở đồng bằng sông Cửu Long mà trước kia phải rời bỏ.

Một vấn đề mà Mặt trận Dân tộc Giải phóng rất quan tâm là vấn đề đô thị, tuy rằng sau Tết, Mặt trận còn yếu ở đây, Mặt trận tự tuyên bố là một liên hiệp của nhiều thành phần khác nhau ở miền Nam, và Đảng là trung tâm có quyền kiểm soát liên hiệp đó. Những thành phần đô thị đã xuất hiện trong Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình trong cuộc tiến công Tết, gồm những cá nhân có học thức rất thiết tha với hòa bình và bị Thiệu làm cho xa lánh.

Tháng 6 năm 1969, để thúc đẩy thương lượng tương lai và hoạt động ở đô thị, Mặt trận Dân tộc Giải phóng và Liên minh tuyên bố thành lập Chính phủ cách mạng lâm thời làm cho Mỹ rất lo ngại rằng Đảng sẽ đi vào một hình thức liên hiệp nào đó với giới thượng lưu không cộng sản chống Thiệu. Đảng rất quan tâm đến các xu hướng này ở đô thị, và phong trào sinh viên có rất nhiều hứa hẹn.

Mỗi một lần Thiệu củng cố quyền lực, thì khoảng cách chính trị giữa chế độ của ông ta và những người đứng ngoài chế độ lại rộng thêm. Những thành phần tri thức đô thị, chủ yếu thuộc giai cấp giữa, ngày càng thù địch với chiến tranh. Đảng luôn luôn thảo luận vai trò tiến bộ của giai cấp tư sản dân tộc trong lịch sử phong trào giải phóng dân tộc, nhưng sau năm 1971 vì muốn thành lập một liên minh ở miền Nam nên Đảng lại càng nhấn mạnh đến chức năng có thể có của giai cấp đó hơn nữa.

Sự mỉa mai của cán cân lực lượng mới giữa Mỹ và Việt Nam cộng hòa một bên với Cách mạng bên kia là cả hai bên đều yếu đi về mặt chính trị cuối năm 1971 so với năm 1969. Vấn đề duy nhất là tính chất và mức độ cơn bệnh của mỗi bên và khả năng của mỗi bên cứu chữa cơn bệnh đó. Các vấn đề của Việt Nam cộng hòa có nguồn gốc trong các sự kiện tại nước Mỹ và tại các nơi khác, và nhiều vấn đề là những cơn bệnh xã hội vốn có trong chế độ xã hội đặc biệt của Việt Nam cộng hòa.

Các điểm yếu của Cách mạng một phần là vì mặt tổ chức, và chính là hậu quả của tiến công Tết, nhưng chủ yếu là về mặt quân sự. Những điểm yếu đó trước hết là tạm thời. Về mặt chính trị, Cách mạng không phải bị yếu đi vì cố gắng cải cách ruộng đất của Việt Nam cộng hòa mà là do Cách mạng không đủ khả năng bảo vệ những cán bộ của mình trong chương trình phượng hoàng.

Cho đến cuộc tiến công mùa xuân 1972, làm đảo ngược toàn bộ quá trình này trong cuộc đấu tranh chính trị, những thành tựu chính mà Cách mạng giành được là do biết lợi dụng tình trạng sa sút của các lực lượng quân sự, của nền kinh tế và của vai trò lãnh đạo của Việt Nam cộng hòa, một tình trạng làm cho các chuyên gia Mỹ rất quan tâm. Tuy nhiên, trước khi những tác động đầy đủ của cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị và xã hội của chế độ Việt Nam cộng hòa được bộc lộ rõ ràng, thì những lực lượng quân sự và ngoại giao, hình thành kết quả của cuộc chiến tranh quá phức tạp và quá kéo dài, lại xuất hiện lên hàng đầu.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 19 Tháng Chín, 2008, 09:56:00 am
Chương ba mươi hai
CHIẾN LƯỢC QUỐC TẾ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN

TRUNG QUỐC VÀ CUỘC CHIẾN TRANH

Những bất đồng trong tầng lớp trên cầm quyền của Trung Quốc cũng như những đe dọa và khích lệ của Mỹ làm cho Trung Quốc trở thành cường quốc lớn không thể đoán trước được trong cuộc chiến tranh. Sau năm 1964, sự xấu đi trong quan hệ của Trung Quốc với Liên Xô bảo đảm rằng Trung Quốc sẽ dễ thay đổi nhất trong chính sách của mình có lợi cho lợi ích quốc gia hơn là cho cam kết quốc tế lịch sử của họ. Sau năm 1950, Trung Quốc đã tỏ ra có lúc rất linh hoạt, nhưng những đáp ứng của họ với Mỹ chịu ảnh hưởng sâu sắc sự thù địch không hề sút giảm của Oa-sinh-tơn sau chiến tranh Triều Tiên.

Vì sự can thiệp của Mỹ ở Việt Nam xuất phát từ quan điểm chủ quan cho rằng cuộc chiến tranh sẽ kiểm soát được sự bành trướng của Trung Quốc, nên những vai trò tiềm tàng của Trung Quốc ngày càng bị hạn chế không phải do ý muốn của chính Trung Quốc mà là do các cường quốc bên ngoài gây ra.

Trước những cuộc tẩy chay kinh tế của Liên Xô cuối những năm 1950, Trung Quốc bắt đấu đóng một vai trò làm tăng thêm ý thức vừa tự thấy mình là một cường quốc thế giới độc lập, vừa muốn đẩy mạnh những lợi ích quốc gia của mình. Hiệp định về Lào tháng 7 năm 1962 là ngưỡng cửa của chính sách Bắc Kinh đi ngược lại với những lời tuyên bố khoa trương của mình, bởi vì nó cho thấy việc giữ cho chiến tranh nằm cách xa biên giới của mình và tránh một sự đụng đầu trực tiếp với Mỹ vẫn còn là, như hồi ở Giơ-ne-vơ năm 1954, một nguyên tắc cốt yếu của nền ngoại giao Trung Quốc, bất kể hệ tư tưởng ra sao.

Các nhà phân tích Mỹ thấy sự phân biệt Trung - Xô về vấn đề Lào, phản ánh sự bất đồng sâu sắc giữa hai nước, nên họ kết luận rằng một chính sách cô lập Trung quốc sẽ làm cho Trung Quốc dễ sai khiến hơn. Trên thực tế, Trung Quốc đấu tranh không phải chỉ cho một chính sách đối ngoại độc lập mà còn cho cả sự bá quyền khu vực. Những cố gắng của Liên Xô sau năm 1957 buộc Trung Quốc phải tự lo cho mình, không phải là nguyên nhân của vai trò mới của Trung Quốc bởi vì vai trò đó đã có gốc rễ một nghìn năm trong lịch sử, nhưng sự thù địch của Liên Xô giúp cho Trung Quốc không còn do dự gì trong việc trở lại vị trí cổ truyền của mình trong bầu trời châu Á.
Chính sách của Trung Quốc thể hiện nào là một lý thuyết chiến tranh giải phóng dân tộc dựa vào những đơn vị nhỏ và chiến tranh kéo dài, nào là ý muốn thành lập và lãnh đạo một quốc tế mác-xít lê-nin-nít mới, nào là tôn trọng các nguyên tắc trung lập của Băng-dung năm 1955.

Tại Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954, Trung Quốc đã nhấn mạnh địa vị của mình là một quốc gia trọng yếu cho hòa bình và ổn định trong toàn khu vực. Họ cũng tìm cách giảm bớt khả năng về một cuộc đối đầu ngẫu nhiên bằng cách nói đi nói lại với Oa-sinh-tơn trong các tuyến bố và hành động của mình cũng như qua các con đường trực tiếp bí mật, rằng Trung Quốc sẽ không tham gia cuộc chiến tranh nếu Mỹ không xâm lược Việt Nam dân chủ cộng hòa và đe dọa đưa quân của mình đến biên giới Trung Quốc. Mặc dù những tuyên bố gay gắt về sự leo thang của Mỹ sau năm 1964, nhưng các nhà phân tích Mỹ dễ dàng thấy được nhiều lỗ hổng mà Trung Quốc để lại trong các tuyên bố của mình.

Mỹ rất lưỡng lự trước chứng cớ mâu thuẫn của những xu hướng trong chính sách Bắc Kinh bởi vì hàng ngũ bên trên của Trung Quốc chia rẽ sâu sắc lúc đó cũng như về sau làm cho khó có một lập trường chắc chắn nhất. Các chuyên gia Mỹ về sau kết luận rằng có ba phái đấu tranh với nhau để làm chủ chính sách.

Giới quân sự sợ nhất leo thang của Mỹ vì họ chưa được sẵn sàng và tìm cách tránh một cuộc đương đầu với người Nga. Họ ủng hộ một cuộc chiến tranh kéo dài, không kết thúc ở Nam Việt Nam để làm cho Mỹ bị giam chân ở đó và không đòi hỏi loại vũ khí làm cho Liên Xô tăng cường ảnh hưởng của mình đối với Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Những người cấp tiến, nổi lên từ Cách mạng văn hóa và chiếm ưu thế trong những năm 1966 - 1967 tán thành một đường lối hoàn toàn thuộc hệ tư tưởng thù địch ngang nhau đối với cả người Mỹ lẫn những người "xét lại" Xô Viết.

Và những người ôn hòa, đứng đầu là Chu Ân Lai, xem Liên Xô như mối đe dọa lớn hơn cho Trung Quốc và tán thành một cố gắng bình thường hóa quan hệ với Oa-sinh-tơn với hy vọng cùng với Oa-sinh-tơn làm yếu người Nga. Cuộc tiến công Tết cho thấy Mỹ ít đáng sợ hơn, đã củng cố phái của Chu.

Tất cả các phái này đều chống những cuộc thương lượng Việt Nam dân chủ cộng hòa và Mỹ nhưng với những lý do rất khác nhau. Những người cấp tiến và giới quân sự bác bỏ thương lượng vì nguyên tắc, nhưng những người ôn hòa thì muốn Ban-căng hóa Đông Dương vì sợ rằng một thắng lớn hoàn toàn của Cách mạng sẽ làm cho người Xô-viết có ảnh hưởng đối với Việt Nam dân chủ cộng hòa quá mức Bắc Kinh cho là tha thứ được. Những phái này tương đối cân bằng với nhau cho đến năm 1968, khi thái độ chống Xô sâu sắc của Mao Trạch Đông tăng thêm thế lực của Chu.

Các chuyên gia Mỹ nhận thức rõ các cạnh khía phức tạp của vai trò Trung Quốc trong khu vực và trong chiến tranh, ý nghĩa của sự phân biệt với Liên Xô, chiến lược hai mặt nếu chưa phải là lừa đảo đối với Việt Nam dân chủ cộng hòa, và những bất đồng nội bộ của họ.
Về sau các quan chức Mỹ phê bình chính quyền Giôn-xơn không nắm tầm quan trọng và khả năng to lớn của những thực tế đó cũng như không hiểu đầy đủ tính chất sâu sắc của sự phân liệt Trung - Xô. Do đó không có ai đủ khả năng bỏ qua được tin tức thông thường để đi sâu nghiên cứu những khả năng lợi dụng các xu hướng đó. Đó không phải chỉ vì thiếu sáng tạo mà vì tin rằng những tuyên bố về hệ tư tưởng thực sự đã hướng dẫn các hành động của Trung Quốc với tư cách là một quốc gia. Tuy nhiên, lúc này những diễn biến chính trị sôi động bên trong Trung Quốc cũng như những mục tiêu của Trung Quốc luôn luôn thay đổi rất rất khó nắm. Và chính quyền Giôn-xơn cũng không thể có nhà ngoại giao nào đủ sức làm việc đó.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 19 Tháng Chín, 2008, 09:56:43 am
LIÊN XÔ VÀ CUỘC CHIẾN TRANH

Chính sách Liên Xô gắn liền chặt chẽ với các phe phái đã có ở Liên Xô cho đến tháng 10 năm 1964 và khi Khơ-rút-sốp bị gạt. Nhưng do Crem-li ổn định hơn Bắc Kinh nhiều nên chính sách của Mát-xcơ-va nhất quán hơn và không bị thao túng. Cho đến khi Khơ-rút-sốp ra đi, Mỹ cảm thấy rằng người Nga không thành vấn đề gì nhiều và thực vậy Mỹ tin rằng người Nga cũng lo sơ các hành động Trung - Việt.
Oa-sinh-tơn xem sự ủng hộ tượng trưng và bằng lời của Nga đối với Việt Nam như là một mặt cần thiết cho việc duy trì uy tín của Nga trong phong trào cộng sản thế giới. Từ năm 1965, khi người Xô-viết tăng nhiều viện trợ kinh tế, cho đến giữa năm 1967, Mỹ có xu hướng xem người Nga là những đối tượng sẵn sàng chấp nhận những đòi hỏi của người Việt Nam để phục vụ cho lợi ích độc lập của họ. Nhưng Oa-sinh-tơn vẫn còn tin rằng người Nga sẽ kiềm chế Việt Nam dân chủ cộng hòa khi có thể.

Năm 1967, viện trợ quân sự của Liên Xô cho Việt Nam dân chủ cộng hòa đạt đỉnh cao của thời chiến, và trong khi những tuyên bố của Liên Xô ủng hộ Cách mạng đưa ra công khai cũng như trong nội bộ càng ngày càng mạnh mẽ thì Oa-sinh-tơn cũng không nghĩ rằng người Nga sẽ làm gì hơn là lời nói nếu có cuộc leo thang khác. Oa-sinh-tơn cũng không xem Mát-xcơ-va có thể ảnh hưởng đến chiến lược ngoại giao cơ bản của Hà Nội, bởi vì họ thấy chính sách của Liên Xô là thụ động và nhằm giữ Việt Nam dân chủ cộng hòa độc lập với Trung Quốc cũng như nhằm bảo vệ hình ảnh của Nga trong con mắt của phong trào chống chiến tranh rất to lớn của thế giới.

Chính quyền Giôn-xơn tin rằng người Nga rất thận trọng, và họ cũng biết rằng người Trung Quốc rất mong muốn tránh một cuộc đụng đầu trực tiếp với Mỹ. Họ cũng không nghĩ có thể lợi dụng sự căng thẳng Trung - Xô để vận động một hoặc cả hai đồng minh của Việt Nam dân chủ cộng hòa thúc ép. Cách mạng đi vào thương lượng theo những điều kiện của Mỹ vì họ xem Cách mạng là vô cùng độc lập. Các phe phái tinh túy lớn của Trung Quốc, mặt khác, cũng không sẵn sàng đưa lại sự thúc ép cần thiết.

Trước năm 1968, chính quyền cũng chưa hết khả năng dựa vào vũ khí, còn sau Tết thì họ lại không thể thương lượng trên một thế yếu. Hơn nữa, họ cũng không muốn nhượng bộ Liên Xô về những vấn đề bên ngoài chiến tranh hoặc về mối quan hệ của họ với Trung Quốc, để đổi lấy sự cộng tác về vấn đề Việt Nam.

Nhìn chung lại các nhà nghiên cứu cũng như các nhà chuyên nghiệp gặp nhiều khó khăn và phức tạp để lợi dụng sự phân liệt trong thế giới cộng sản. Rõ ràng chỉ một tay tài tử cả gan mới dám bất chấp những khó khăn rắc rối để chơi trò ngoại giao như vậy.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 19 Tháng Chín, 2008, 09:57:32 am
ĐI ĐẾN MỘT VAI TRÒ THẾ GIỚI
CÁCH MẠNG ĐỂ THAY THẾ

Việt Nam dân chủ cộng hòa cần phải có sự phân tích sắc sảo và sự khéo léo đặc sắc để xoay xở giữa những nguy cơ bội bạc của sự tranh chấp Trung - Xô và tiềm năng lợi dụng của Mỹ. Đảng ở trong một vị trí khó xử, không hoàn toàn tin ở đồng minh của mình nhưng cũng không thể tiến hành cuộc chiến tranh ở mức cao hơn nếu không có viện trợ của họ. Làm dịu những người ủng hộ ngày càng tranh chấp với nhau, khai thác những bất đồng của họ để đạt được viện trợ tối đa và liên minh chặt chẽ với bên này hay bên kia là một nhu cầu hết sức phức tạp của Đảng.

Trong khi sự phân liệt Trung - Xô vần còn chưa bất lợi lắm, nhưng Đảng thấy rõ về lâu về dài nó rất là nguy hiểm. Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954 và Hiệp ước Lào năm 1962 chứng minh rằng người Trung Quốc có khả năng không đáng tin cậy. Dù vậy, tiếp xúc giữa Việt Nam dân chủ cộng hòa và Trung Quốc vẫn còn đặc biệt gần gũi và ảnh hưởng của Trung Quốc còn lớn ngay sau khi Hà Nội cải thiện quan hệ với Liên Xô năm 1965.

Các lực lượng hậu cần của Trung quốc trong những năm 1965 - 1968, tuy có lẽ không lớn bằng lực lượng 320.000 mà về sau họ rêu rao, nhưng chắc chắn rất quan trọng và thiết yếu cho việc duy trì giao thông, vận tải. Do tính chất mật thiết trong mối quan hệ lâu đời và lòng chiếu cố đối với những người chịu ảnh hưởng nền văn hóa của mình, Bắc Kinh càng dễ bất bình khi người Việt Nam tiến tới một lập trường trung lập trong cuộc tranh chấp Trung - Xô và bắt đầu biến ý muốn có một chính sách đối ngoại độc lập của mình thành hiện thực. Mọi lời kêu gọi đoàn kết chống Mỹ của Việt Nạm dân chủ cộng hòa làm cho người Trung Quốc tức giận và vào giữa năm 1965, họ bắt đầu khiển trách người Việt Nam là "linh hoạt không nguyên tắc". Người Trung Quốc ít sẵn sàng chấp nhận một Việt Nam dân chủ cộng hòa độc lập, hơn người Liên Xô nhiều.

Cách mạng văn hóa Trung Quốc đẩy nhanh việc Việt Nam tiến tới lập trường độc lập. Từ một quan điểm về mặt tư tưởng, người Việt Nam thấy Cách mạng văn hóa là ghê tởm; về mặt thực tiễn, họ nghĩ rằng nó quá gây rối rắm cho người Trung Quốc nên họ còn quan tâm gì đến leo thang chiến tranh nữa. Hình ảnh của Hồng vệ binh và của mặt đất nước trên vực thẳm của nội chiến làm cho người Việt Nam rất kinh ngạc. Tệ hơn nữa, lập trường công khai của Trung Quốc chống lại bất cứ hình thức thương lượng nào với Mỹ trong suốt thời gian đó, bất kể vì những lý do gì, đều làm cho người Việt Nam xem như một sự lợi dụng vô nghĩa số phận của họ bởi những phe phái khác nhau của Trung Quốc.

Cuối năm 1967, Bộ Chính trị cho rằng cả Liên Xô lẫn Trung Quốc đều đặt lợi ích quốc gia của họ lên trên lợi ích của Việt Nam dân chủ cộng hòa, và vì vậy Bộ Chính trị phải xác định một đường lối ngoại giao mà không cần phải quá quan tâm đến những gợi ý mâu thuẫn một cách tuyệt vọng của họ.

Mối quan hệ của Cách mạng với Mát-xcơ-va bản thân nó ít gay cấn hơn. Liên Xô không có lợi ích trực tiếp trong khu vực và rất vừa lòng đã để cho Việt Nam dân chủ cộng hòa tự do giảm sự phụ thuộc của mình vào Trung Quốc và hưởng một lập trường độc lập, một vai trò làm giảm nhiều những kỳ vọng của Trung Quốc nhằm lãnh đạo Phong trào cộng sản quốc tế.

Rõ ràng là sau tháng 2 năm 1965, Việt Nam dân chủ cộng hòa làm hết sức mình để giành viện trợ tối đa của hai đồng minh và từ đó trở đi cả chính quyền Giôn-xơn lẫn chính quyền Ních-xơn đều tin chắc rằng họ sẽ tiếp tục làm như vậy.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 19 Tháng Chín, 2008, 09:58:04 am
Người Xô-viết, có đủ sức cho viện trợ vượt xa khả năng của Trung Quốc và nếu chỉ nói về số lượng không thôi, cũng đã nhiều hơn nhiều rồi. Vào năm 1966, thực tế đó đã được phản ánh trong một sự quan tâm có phần nhích hơn đối với Liên Xô mỗi khi Việt Nam dân chủ cộng hòa ra những tuyên bố về đánh giá. Người Việt Nam không bao giờ không nghĩ rằng người Nga có thể và phải viện trợ nhiều hơn, nhưng họ không thể nói công khai ra như vậy được. Thực vậy, chừng nào Việt Nam còn giữ Trung Quốc, thì họ có thể đối xử với người Xô-viết trên một cơ sở bình đẳng hơn.

Vì những điều lợi to lớn cho Liên Xô trong một cuộc chiến tranh thu hút cả nhân lực và tài sản của Mỹ, chia sẻ Mỹ với đồng minh của họ, và giảm rất lớn những sức ép của Mỹ đối với Liên Xô, Việt Nam dân chủ cộng hòa có thể hy vọng tiếp tục được viện trợ ngay dù cho Việt Nam không chấp nhận lời khuyên của Mát-xcơ-va về thương lượng hoặc không thông báo cho họ về các kế hoạch của mình.

Trong nội bộ, Đảng tiếp tục phê phán những di sản của chủ nghĩa xét lại trong chính sách đối ngoại của Liên Xô, bởi vì Crem-li còn theo các học thuyết cùng tồn tại hòa bình do Khơ-rút-sốp khởi xướng.

Tuy có giảm bớt lòng tin của mình đối với các đồng minh, nhưng Việt Nam dân chủ cộng hòa, vì những lý do hệ tư tưởng, đã tán thành khôi phục đoàn kết quốc tế. Từ năm 1963 đến 1965, Việt Nam dân chủ cộng hòa tránh liên kết với những cố gắng của Trung Quốc hoặc của Liên Xô muốn xây dựng một phong trào cộng sản quốc tế dưới sự bá quyền của mình. Họ giải thích sự đoàn kết của phong trào thế giới có nghĩa là sự cố kết giữa các bạn cùng phe bình đẳng, tự do lãnh đạo sự phát triển, đi đến chủ nghĩa xã hội của chính mình, theo như mình tự nhận là đúng và thích hợp.

Tất nhiên là cả hai đồng minh đều không chấp nhận giải thích như vậy và mỗi bên có xu hướng hợp tác với Mỹ hơn là hợp tác với nhau. Đảng liền mở rộng cách nhìn để đưa sự đoàn kết của phong trào thế giới vào trong chính cuộc đấu tranh của mình. Đảng bắt đầu lập luận sau năm 1969 rằng sự đoàn kết cộng sản thế giới chỉ tồn tại trong sự ủng hộ cuộc đấu tranh của Việt Nam và nếu không có nó thì phong trào cách mạng thế giới và chủ nghĩa quốc tế vô sản chỉ là những khẩu hiệu trống rỗng.

Cuộc đấu tranh của Việt Nam là tượng trưng và là hiện thân của phần còn lại cuối cùng của lý tưởng cao quý, nó đoàn kết một số lớn những Đảng, những phong trào và những con người khác nhau trên khắp thế giới, mẫu số chung là Việt Nam và những vấn đề và những nguyên nhân của chiến tranh. Lập luận này đạt đỉnh cao năm 1971 khi nền ngoại giao hòa dịu của Mỹ cố gắng lợi dụng những mâu thuẫn Trung - Xô. Thực vậy, Việt Nam đã trở thành một hiện thân của một sự nghiệp quốc tế mới vượt xa các Đảng thân Liên Xô hoặc thân Trung Quốc, và nó tượng trưng cho một phong trào thế giới rộng lớn và nhiều mặt với một lý tưởng trong sáng mà hàng triệu, hàng triệu không kể xiết nhân dân đã hưởng ứng và tập hợp quanh nó.

Việc Cộng sản Việt Nam đòi hỏi quyền chính đáng đặc biệt là một thực tế và một sự kiện chính trị, và đối với Trung Quốc và khối Liên Xô, đoạn tuyệt với Việt Nam, một tiên phong của sự biến đổi xã hội trong thời đại hiện đại, là gánh lấy một thảm họa chính trị và những hậu quả không sao kể xiết.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 21 Tháng Chín, 2008, 10:08:11 am
SỰ DIỄN BIẾN CỦA CHIẾN LƯỢC NGOẠI GIAO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN

Sau năm 1955, Đảng vạch ra những nét chính của một lập trường độc lập, khi những kinh nghiệm của chính bản thân mình và sự phản ứng đối với những thất bại trong nước ở Liên Xô và ở Trung Quốc buộc Đảng tinh chế lại tư tưởng của mình trong suốt thập kỷ tiếp theo. Sự xác định lại con đường riêng của mình đi đến chủ nghĩa xã hội là rất cần thiết.

Sau năm 1966, Đảng luôn luôn nhắc nhở cán bộ và đảng viên của mình rằng Việt Nam dân chủ cộng hòa có một chính sách tự chủ thích hợp với sự phát triển đặc biệt của Việt Nam. Đảng vẫn bắt đầu với những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-lê-nin, nhưng sự áp dụng những nguyên lý đó một cách sáng tạo vào những điều kiện của Việt Nam là chìa khóa của thắng lợi. Chủ đề của tất cả các bài viết về vấn đề này đều nhấn mạnh "độc lập và tự chủ" cũng như "tự lực".

Mặc khác với tư cách là những người quốc tế, các nhà lãnh đạo Đảng tìm cách tránh mọi biểu hiện của chủ nghĩa quốc gia hay chủ nghĩa ngoại lệ. Trong tổng kết của mình năm 1970, Lê Quẩn mô tả cách mạng Việt Nam như là một bộ phận không thể tách rời của cách mạng thế giới và đã nhận nhiều sự ủng hộ của cách mạng đó trong chiến lược độc lập và sáng tạo của mình.

Vào giữa năm 1971, khi chính sách ngoại giao hòa dịu của Ních-xơn bắt đầu thành công. Việt Nam dân chủ cộng hòa nhấn mạnh đến tính độc lập và phàn nàn những "mánh khóe ngoại giao xảo quyệt" mà chính quyền Ních-xơn đang sử dụng. Các báo của Việt Nam dân chủ cộng hòa thường xuyên nhắc lại những đề tài như tính độc lập tự chủ tuyệt đối của Đảng, sự trung thành hoàn toàn với chủ nghĩa Mác-lê-nin, mối quan hệ bình dẳng và có chủ quyền với các thành viên khác của “phe xã hội chủ nghĩa" cùng với nghĩa vụ của các thành viên này ủng hộ vai trò tiên phong của Việt Nam trong cuộc đấu tranh thế giới chống đế quốc

Đến năm 1969 Mỹ và Cách mạng cùng có những giả thuyết và những khó khăn giống nhau. Họ đều cho rằng bất kỳ thỏa thuận ngoại giao nào cũng sẽ phản ánh so sánh lực lượng quân sự và chính trị tại Nam Việt Nam. Khi chưa đạt đến mức đó thì ngoại giao chủ yếu là một cố gắng động viên hoặc vô hiệu hóa dư luận trong nước và trên thế giới hoặc các sức ép của đồng minh. Vì vậy, quá trình tiếp xúc trong giai đoạn này chẳng đi đến đâu vì cả hai bên chưa sẵn sàng thương lượng.

Cho đến lúc Mỹ không còn tin vào hiệu quả của các lực lượng vũ trang, đặc biệt vào chiến tranh không quân để buộc đối phương phải phục tùng những mục tiêu của mình, Mỹ không có một chiến lược ngoại giao nhất quán, càng không sẵn sàng thỏa hiệp đối với những mục đích chiến tranh rất hão huyền nhằm duy trì lòng tin và giữ cho Việt Nam cộng hòa tiếp tục cầm quyền.

Thực vậy, việc Oa-sinh-tơn sử dụng "những đề nghị hòa bình" để bào chữa cho những bước leo thang cố ý của mình, chỉ tăng thêm sự nghi ngờ của Việt Nam dân chủ cộng hòa về kết quả của những cuộc thương lượng vội vã.

Đối với Việt Nam dân chủ cộng hòa, sự giảm ném bom trên lãnh thổ của mình chỉ có nghĩa là tăng thêm ném bom ở Lào và Nam Việt Nam, vì không bao giờ các máy bay nghỉ cả. Nhưng vì tính dớ dẩn và thiếu thành thật của cố gắng Mỹ, Oa-sinh-tơn chịu thế bị động ngoại giao cho đến năm 1969.

Việt Nam dân chủ cộng hòa mạnh mẽ tin rằng cuộc chiến tranh sẽ trải qua ba giai đoạn. Đánh; đánh và đàm; và cuối cùng thương lượng đi đến một hiệp định. Họ không có ảo tưởng rằng ngoại giao sẽ phản ánh cái gì hơn là so sánh lực lượng thực sự. Năm 1964, Việt Nam dân chủ cộng hòa xem Mỹ là hùng mạnh và tất nhiên là không muốn thương lượng cho đến khi Mỹ hiểu được những hạn chế của sức mạnh mình, một quá trình phải mất nhiều năm. Tuy vậy Việt Nam dân chủ cộng hòa cũng có những cơ hội để đưa ra những sáng kiến mà họ cho là chỉ làm bối rối và cô lập người Mỹ.

Phải đợi đến tháng 4 năm 1968, khi Giôn-xơn công bố sự ngừng ném bom một cách lập lờ và thừa nhận những giới hạn của leo thang, Mỹ mới giành được kết quả tuyên truyền và đưa những người cộng sản đa nghi đàm phán tại Pa-ri. Nhưng do những bất đồng công khai trong nội bộ chính quyền Mỹ và những trở ngại thường xuyên của Việt Nam cộng hòa, Việt Nam dân chủ cộng hòa không bao giờ bị bối rối về ngoại giao. Vì Hội nghị Pa-ri kéo dài lê thê một cách vô bổ, nên đánh và đàm vẫn là chiến lược cơ bản của Việt Nam dân chủ cộng hòa cho đến mùa xuân 1972. Tất nhiên, lúc này so sánh lực lượng đã thay đổi một cách cơ bản.

Những vấn đề của Việt Nam dân chủ cộng hòa không phải đến từ Mỹ mà, dưới quyền Giôn-xơn, không có ý muốn chấm dứt chiến tranh bằng thương lượng, mà đến từ bạn bè và đồng minh tiềm tàng của Việt Nam dân chủ cộng hòa. Một quan chức Mỹ kiên nhẫn đã thống kê đến hai nghìn đề nghị hòa bình cá nhân chỉ trong khoảng thời gian 1965 - 1968, mà một số là của các nhân vật có ích cho Việt Nam dân chủ cộng hòa hoặc là của những người quá quan trọng cho nên không có thể bỏ qua.

Một số các nước Đông Âu cũng làm cho các nhà lãnh đạo Đảng phải suy tính. Đồng thời Trung quốc chống lại mọi biểu hiện sẵn sàng thương lượng của Việt Nam dân chủ cộng hòa với Mỹ và Hà Nội phải đi một con đường rất thận trọng. Riêng người Nga rất tự kiềm chế mình trong việc ép Hà Nội. Họ cảm thấy ít có khả năng thành công về ngoại giao với Giôn-xơn và họ sợ tăng ảnh hưởng của Trung Quốc đối với Việt Nam dân chủ cộng hòa. Họ thường chỉ làm trung gian nhưng cũng nói rõ rằng họ không có thế lực quyết định và họ sẽ tăng viện trợ cho Việt Nam dân chủ cộng hòa nếu Oa-sinh-tơn tiếp tục leo thang.

Vào lúc Ních-xơn vào Nhà Trắng, nền ngoại giao của Hà Nội đã đạt mức tinh vi cao, cả về lý thuyết lẫn thực tiễn và nhờ đó mà cô lập được kẻ thù của mình trên phạm vi quốc tế. Việt Nam dân chủ cộng hòa đã tránh được việc những ảo tưởng thương lượng làm mất ý chí quân sự, họ hiểu rằng khi vũ khí còn tác dụng thì không thể có thương lượng nghiêm chỉnh. Họ nắm thế chủ động trong mối quan hệ với công chúng bởi vì cuộc chiến tranh không quân và các cuộc tiến công quân sự của Mỹ, nhất là ở Cam-pu-chia sau năm 1970, hoàn toàn không đúng với những tuyên bố chính trị của Mỹ.

Ngoại giao đưa lại thời gian cho cách mạng củng cố sức mạnh quân sự của mình, trong khi thời gian lại làm xói mòn các hệ thống kinh tế, quân sự và chính trị của Việt Nam cộng hòa. Điều mà Việt Nam dân chủ cộng hòa quan tâm nhất là thái đô trước sau như một của đồng minh. Giữ thái độ cân đối giữa bên này và bên kia trong khi duy trì sự độc lập trong lập trường của mình là điều mà họ đã làm thành công cho đến năm 1969.

Liệu Việt Nam dân chủ cộng hòa có duy trì được thành tựu tuyệt vời đó cho đến khi có cơ hội gây sức ép quân sự tối đa cho kẻ thù của mình hay không là một trong những vấn đề có tính chất quyết định của toàn bộ cuộc chiến tranh và đó cũng là vấn đề mà Mỹ tìm cách ảnh hưởng đến.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 21 Tháng Chín, 2008, 10:09:23 am
Chương ba mươi ba
CHIẾN TRANH TRÊN HAI MẶT TRẬN: NGOẠI GIAO VÀ CHIẾN TRƯỜNG, 1971 - 1972

SỰ TÌM KIẾM MỘT CHIẾN LƯỢC NGOẠI GIAO CỦA NÍCH-XƠN

Những cuộc thương lượng ngoại giao nhằm chấm dứt chiến tranh đã để lại cho chính quyền mới của Ních-xơn một di sản của những thất vọng. Trong khi cả Cách mạng lẫn Mỹ đều nhất trí rằng một sự chấm dứt chiến tranh bằng thương lượng sẽ phản ánh so sánh lực lượng quân sự lúc bấy giờ, thì họ lại khác nhau rất nhiều về mức độ có thể thay đổi cuộc chiến tranh thông qua chiến đấu thêm nữa. Những người có quyền làm ra quyết định bị chia sẽ sâu sắc cho đến năm 1969 cho nên không thể theo đuổi một chiến lược thương lượng nhất quán, vững chắc. Vì vậy Hội nghị Pa-ri diễn ra sau lời cam kết 31 tháng 3 của Giôn-xơn, không có khả năng thắng lợi. Tổng thống đồng ý thương lượng trên thế mạnh và dùng không quân để thay đổi cán cân quân sự.

Một nhà ngoại giao Mỹ ở Pa-ri về sau kể lại: "Những cuộc thương lượng khó khăn nhất của chúng tôi là với Oa-sinh-tơn chứ không phải với Hà Nội". Và chính thái độ nước đôi trong thương lượng và việc xem những nhượng bộ của Việt Nam dân chủ công hòa là biểu hiện của sự yếu đuối để tăng thêm sức ép quân sự, đã cho thấy trước tất cả các cử chỉ ngoại giao hèn mọn của Giôn-xơn.

Ri-sớt Ních-xơn chăm chú theo dõi quá trình ngoại giao thất vọng đó. Ông ta cũng vậy, vì bản năng mà tin rằng việc áp dụng sức mạnh quân sự có thể thay đổi nội dung thương lượng, cho nên ông ta bắt đầu tính đến những biện pháp thay thế ngay từ đầu năm 1967. Ít nhất, ông ta cũng quyết tâm không để cho một chiến lược ngoại giao nhất quán bị tổn thương vì những bất đồng công khai trong hàng ngũ chính quyền ông ta, và quyền lực thực sự về những vấn đề như vậy phải được tập trung hoàn toàn vào chính tay ông ta. Ông ta không những có những suy tính về mặt hành chính thông thường mà còn có những quan điểm sáng tạo hơn về việc kết thúc chiến tranh như thế nào. Ông ta chưa hề có trong đầu óc một hình thức chính xác nào của một chiến lược mới, nhưng với tính cả gan tự tin và lòng quyết tâm gạt bỏ mọi trở ngại, ông ta có thể có hành động quyết định hơn, cả về ngoại giao lẫn về quân sự.

Ních-xơn tin rằng Việt Nam dân chủ cộng hòa là một quốc gia độc lập với những mục tiêu cứng chắc cho nên không thể giao thiệp trực tiếp với họ mà thành công trong việc cứu Việt Nam cộng hòa, trừ phi tranh thủ những người  ủng hộ Liên Xô và Trung Quốc của họ cùng với Mỹ gây sức ép. Một cách nhìn như vậy đã xuất hiện trong đầu óc Ních-xơn năm 1967 và 1968. Ông ta kết luận rằng chiến tranh bị bế tắc, leo thang hơn nữa sẽ không thành công trừ phi được gắn với một chiến lược ngoại giao song song.

Hơn nữa phạm vi rộng lớn của những lợi ích chung Mỹ - Xô ở những nơi khác trên thế giới, kể cả việc kiềm chế các chính sách hung hăng của Trung Quốc, sẽ làm cho Liên Xô sẵn sàng đáp ứng những sáng kiến của Mỹ. Đồng thời, Trung Quốc phải được giúp để phá thế cô lập của họ và như vậy sẽ được khuyến khích hợp tác về chiến tranh Việt Nam. Ông ta xem thế tam giác của mối quan hệ Mỹ - Xô - Trung là con đường có thể có để gây sức ép đối với Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Nhưng lúc đầu, Ních-xơn không đặt vào đó nhiều hy vọng lắm. Tuy nhiên Tổng thống đặt những cố gắng song phương Mỹ - Xô cao hơn rất nhiều trong lịch hoạt động của ông ta. Ních-xơn xem người Xô-viết mà viện trợ quan trọng nhất cho Việt Nam dân chủ cộng hòa đã giúp cho nước này cưỡng lại lời khuyên của Trung Quốc, như là vấn đề lớn. Ông ta cảm thấy rằng Việt Nam dân chủ cộng hòa hết sức thành công trong việc tranh thủ được cả hai đồng minh duy trì viện trợ, tuy Liên Xô là người ít được lợi nhất.

Trong một phạm vi quan trọng, Nhà Trắng xem việc khai thông với Trung Quốc và sự xuất hiện của thế tam giác là một phương án có thể dùng để ép người Xô-viết hợp tác với Oa-sinh-tơn. Về thực chất, con đường đến Mát-xcơ-va đi qua Bắc Kinh. Bản thân Kít-xin-giơ cũng như nhiều người khác, cũng có nghĩa đến những vấn đề như vậy, nhưng Ních-xơn đã đi đến kết luận chính của ông ta trước khi gặp cố vấn an ninh quốc gia mới, và ông ta luôn luôn là sức mạnh chính đằng sau tình hình này.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 21 Tháng Chín, 2008, 10:10:07 am
Điểm then chốt trong phân tích ngoại giao của Ních-xơn là cuộc phân liệt Trung - Xô tạo ra cho Mỹ một cơ hội quan trọng để thăm dò và khai thác, và chính khả năng của Việt Nam dân chủ cộng hòa buộc những người ủng hộ phải tôn trọng ưu tiên của họ làm cho Mỹ phải tìm cách chia rẽ hoặc giảm đến mức tối thiểu viện trợ cho Cách mạng. Thêm vào việc đưa ra những nhượng bộ cho Nga và Tnmg Quốc ở những nơi khác để đòi đổi lấy sư giúp đỡ của họ ở việt Nam, Ních-xơn sẵn sàng kết hợp ngoại giao sáng tạo với một đe dọa nối lại vũ lực buộc một hoặc cả hai đồng minh của Việt Nam dân chủ cộng hòa tham gia trực tiếp nhiều hơn vào chiến tranh hoặc phải chịu nhục.
Chính vì Ních-xơn nuôi dưỡng danh tiếng là một người chống cộng đến cùng, không gì cản trở nổi mà "học thuyết người mất trí" là phản ánh tối hậu của nó, nên ông ta nghĩ rằng bóng ma của thảm họa quân sự có thể buộc không chỉ Việt Nam dân chủ cộng hòa mà cả Nga lẫn Trung Quốc phải hợp tác với ông ta.

Tiếp xúc trực tiếp với Trung Quốc mà Ních-xơn đã công khai bàn định ngay từ năm 1967 là một việc dễ nói hơn làm. Các chuyên gia Mỹ về Trung Quốc vào đầu năm 1969 mô tả ảnh hưởng của Trung Quốc đối với chiến tranh là không khoan nhượng và quyền lực của Trung Quốc đối với Việt Nam là hạn chế. Nhưng điều thôi thúc chính là chính quyền chưa biết nên làm thế nào để Trung Quốc thích nghi với chiến lược của Mỹ. Vì vậy họ muốn thăm dò Liên Xô trước và hoãn vấn đề Trung Quốc lại sau. Bản thân người Trung Quốc cũng trong giai đoạn biến chuyển, làm theo lời khuyên của Chu Ân Lai vào cuối năm 1968 muốn có một cử chỉ với Ních-xơn, nhưng lại bị chính quyền Mỹ bác bỏ.

Chính những phản ứng và hành động của Liên Xô xác định tốc độ việc Mỹ khai thông với Trung Quốc, và Mát-xcơ-va vẫn luôn luôn là mục tiêu chủ yếu của cố gắng ngoại giao phức tạp và quấn quít với nhau của Mỹ.

Chính quyền mới nhanh chóng đưa ra những đề nghị cụ thể với Liên Xô nhằm "liên kết" cuộc chiến tranh với tất cả các mặt của mối quan hệ Xô - Mỹ, từ SALT đến Trung Đông và vấn đề buôn bán. "Liên kết các sự kiện lại với nhau, tạo ra những điều khích lệ hoặc những sức ép ở nơi này của thế giới để ảnh hưởng đến những sự kiện ở nơi khác" đã trở thành nguyên tắc ngoại giao chủ yếu của Oa-sinh-tơn.

Kít-xin-giơ làm rõ điều đó với người Nga ngày 20 tháng giêng năm 1969, nói rằng sự giúp đỡ của người Nga để giải quyết cuộc chiến tranh sẽ quyết định sự diễn biến các mối quan hệ ở những nơi khác, và nói bóng gió rằng nếu họ từ chối hợp tác thì ông ta có thể quay sang người Trung Quốc để yêu cầu giúp đỡ.

Lập trường của người Xô-viết cho đến năm 1971 là đợi thời cơ, làm cho Nhà Trắng thất vọng, và nói rõ rằng trong khi họ đồng ý liên kết các vấn đề với nhau, họ không cho rằng không có tiến bộ ở một vấn đề này sẽ không thỏa thuận được về các vấn đề khác.

Cuối mùa xuân năm 1969 Ních-xơn và Kít-xin-giơ xem xét con bài Trung Quốc, và tháng 7 Hội đồng an ninh quốc gia bắt đầu duyệt lại một cách rộng rãi những căng thẳng Trung - Xô. Cùng lúc, Tổng thống và trợ lý của ông ta quyết định rằng phải dùng "khuyến khích và trừng phạt" để kéo người Nga ra khỏi tâm trạng chần chừ, và những cố gắng tiếp xúc với Trung Quốc bắt đầu một cách nghiêm chỉnh.

Đầu tháng 3 quân Nga và Trung Quốc chạm trán nhau dọc biên giới sông U-xu-ri xa xôi ở đông bắc Trung Quốc và những xung đột biên giới nghiêm trọng cũng xảy ra ở những nơi khác trong phần còn lại của năm 1969. Vào lúc này, Kít-xin-giơ nói với nhân viên của ông ta rằng Trung Quốc sẽ cư xử như một quốc gia yếu bị bao vây hơn là một quốc gia chịu ảnh hưởng của những đòi hỏi về hệ tư tưởng, và thay đổi đã xảy ra trong giới cầm quyền Trung Quốc đủ để làm cho tiếp xúc với Mỹ có thể thực hiện được.

Sau những công việc chuẩn bị phức tạp, khúc khuỷu, tháng 12 năm 1969, Trung Quốc đồng ý mở một con đường liên lạc thường xuyên với Mỹ, và từ đó trở đi một loạt các cử chỉ tượng trưng nhỏ ở cả hai phía làm cho chính quyền Mỹ tin vào cách làm của mình. Ngoại giao tam giác về Việt Nam có thể làm được.

Trong tháng 10 và tháng 12, người Nga được báo cho biết rằng một sự cải thiện trong mối quan hệ Mỹ - Trung bây giờ là một bộ phận của toàn bộ quang cảnh ngoại giao, và trên thực tế đó là kết quả của việc hai nước không đạt được tiến bộ về các vấn đề quốc tế, nhất là vấn đề Việt Nam. Về phần mình người Trung Quốc muốn có một cử chỉ ủng hộ nào đó của Mỹ để ngăn chặn bất kỳ hành động nào có thể có của Liên Xô chống lại họ. Được khuyến khích, chính quyền Mỹ vào cuối năm 1969 cảm thấy rằng chiến lược ba gọng kìm; ngoại giao qua đầu Việt Nam dân chủ cộng hòa, đe dọa leo thang, và Việt Nam hóa, có thể thành công và chính hy vọng đó đã duy trì và hướng dẫn chính sách của Mỹ thêm ba năm nữa.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 21 Tháng Chín, 2008, 10:11:07 am
TRẠNG THÁI HỖN ĐỘN CỦA NỀN NGOẠI GIAO LỚN

Chiến lược ngoại giao của chính quyền Ních-xơn không hề bao giờ tách ra khỏi mối quan hệ của Mỹ với phần còn lại của thế giới, và chỉ tính chất phức tạp và tầm quan trọng của phạm vi toàn cầu đó hầu như làm cho cố gắng của Mỹ trở nên vô cùng rắc rối. Ngoại giao song phương đã khó, ngoại giao tam giác lại càng khó hơn và phải hết sức khéo léo mới tránh được việc gây ra phản tác dụng. Cả Ních-xơn và những người còn lại của chính quyền đều biết rằng chiến tranh Việt Nam đã làm cho Mỹ xao lãng mối quan hệ của mình với các đồng minh châu Âu và Nhật Bản vào lúc mà những nước này đang trở nên những nước cạnh tranh về kinh tế. Những hiệp định phòng thủ chung mà lúc ban đầu đã đưa họ lại với nhau bây giờ đang rơi vào tình trạng trì trệ. Bởi vì, chừng nào Mỹ còn thèm muốn vai trò lãnh đạo và bá quyền toàn cầu, thì họ phải luôn luôn đánh giá những ưu tiên của họ, và, nhìn từ khía cạnh đó thì Việt Nam là một nhân tố làm cho Mỹ đi trệch hướng, gây tác hại cho sức mạnh và hình tượng của Mỹ trước con mắt của những đồng minh càng ngày càng giàu mạnh.

Một biểu hiện của sự lo ngại đó là việc Kít-xin-giơ suy nghĩ và nói lên công khai tính chất của thế giới lúc đó. Thế giới được coi như có năm trung tâm: Mỹ, Nga, Tây  Âu, Nhật Bản và Trung Quốc. Trung Quốc được xếp vào đây chỉ vì độ lớn của nó. Sự giải thích như vậy rất có vẻ là tài tử, tuy luôn luôn được lặp đi lặp lại, bởi vì Mỹ tìm cách đặt cả Tây  Âu lẫn Nhật Bản hoàn toàn dưới ô chính trị và quân sự của họ, gắn họ với nhau càng nhiều càng tốt về mặt kinh tế, đồng thời đạt những thỏa thuận song phương với Liên Xô. Kít-xin-giơ cho rằng Trung Quốc bây giờ có ý nghĩa ở chỗ có thể làm đòn bẩy để Mỹ đòi Liên Xô phải hợp tác với Mỹ.

Dù cho quan điểm của ông ta về một thế giới năm cực như thế nào. Kít-xin-giơ vẫn luôn luôn tin rằng về mặt quân sự, thế giới vẫn là lưỡng cực nghĩa là Liên Xô là vô cùng trọng yếu cho việc Oa-sinh-tơn muốn ổn định trật tự quốc tế. Thực tế này nhanh chóng làm phức tạp thêm chính sách liên kết trong việc giải quyết chiến tranh và mặc nhiên nêu ra vấn đề Mỹ sẵn sàng hy sinh những quyền lợi ở những nơi khác cho những đòi hỏi của một giải pháp Việt Nam. Ngay từ đầu, chiến lược liên kết của Nhà Trắng, bất chấp sự chống đối của bộ Ngoại giao, đã bỏ tất cả các vấn đề vào một cái giỏ chung vì vẫn thấy rằng mọi tiến bộ cần phải được ăn khớp với nhau.

Tuy Liên Xô sẵn sàng đàm phán nhiều vấn đề cùng một lúc, nhưng vẫn quan tâm đến những vấn đề cụ thể như giới hạn vũ khí và mậu dịch, là những vấn đề cấp bách nhất. Vì vậy ngoại giao tam giác bắt đầu trong năm 1970, chính là vì chiến lược liên kết hoặc là thất bại hoặc là quá chậm so với mục tiêu chính trị nội bộ của chính quyền nhằm chấm dứt chiến tranh trước cuộc bầu cử tới.

Cho đến năm 1971, chẳng có tiến bộ nào với Liên Xô về bất cứ vấn đề có ý nghĩa nào. Tóm lại chiến lược thương lượng ban đầu của chính quyền đã đặt toàn bộ vị trí toàn cầu của Mỹ thành con tin cho thắng lợi của một giải pháp ở Việt Nam, một tình hình không thể kéo dài mãi được nhất là trong một thế giới năm cực mà họ đã đưa ra.

Thế tiến lui đều khó đó càng làm cho chính quyền thất vọng khi nó đi vào một chiến lược hòa dịu nhằm đạt một loạt các mục tiêu: một giải pháp hòa bình cho Việt Nam, một sự ổn định của cuộc chạy đua vũ trang, vấn đề mậu dịch, vấn đề hòa bình ở Trung Đông, v.v..

Tất nhiên, khi chiến lược được ăn cả ngã về không của Mỹ bị bế tắc và khi ngoại giao tam giác với Trung Quốc phải vượt qua những ngăn cách của nghi ngờ và giao tiếp, các thành viên khác nhau của chính quyền Mỹ bắt đầu ngả về việc tìm cách đạt những thỏa thuận nhanh chóng và cụ thể ở những nơi khác. Kít-xin-giơ là một trong những người này.

Ngay từ đầu chính sách ngoại giao của Mỹ về Việt Nam bị khóa chặt bởi những mâu thuẫn giữa chiến tranh với những lợi ích toàn cầu của Mỹ, giữa những ý muốn và ảo vọng của Mỹ với thực tế phũ phàng và bởi sự ngụy biện và hoài nghi kỳ lạ của Tổng thống và cố vấn an ninh của ông ta trong một khung cảnh nó làm cho không hiểu được sâu sắc tính chất của chiến tranh và mức độ mà thương lượng có thể ảnh hưởng đến chiến tranh.

Theo đuổi một chiến lược đầy mạo hiểm, với bao nhiêu cạm bẫy có thể lường trước được, Nhà Trắng thực sự sửng sốt khi tiến bộ đến quá chậm. Về sau Ních-xơn nhắc lại: "Tôi không hề tưởng tượng rằng vào cuối năm đầu làm tổng thống, tôi sẽ phải chờ đợi thêm hai năm chiến đấu ở Việt Nam nữa".

Để rút ra khỏi ngõ cụt, chính quyền quyết tâm trong năm 1970, chơi con bài Trung Quốc đầy đủ nhất, nhưng tiến bộ không vững chắc và đáp ứng của Trung Quốc không liên tục. Cuộc xâm lược Cam-pu-chia tháng 5 năm 1970 của Mỹ và Việt Nam cộng hòa thách thức lập luận của Chu Ân Lai và phe phái ông ta rằng Mỹ không thể nào cưỡng lại việc rút ra khỏi chiến tranh. Tuy nhiên, Trung Quốc thôi chống đối các cuộc thương lượng.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 21 Tháng Chín, 2008, 10:11:51 am
Không nghi ngờ gì, người Trung Quốc sẵn sàng đặt lợi ích của Việt Nam dân chủ cộng hòa lệ thuộc vào chính những nhu cầu của họ, nhưng họ còn chưa tin rằng có thể làm được hoặc cần thiết phải làm. Và mỗi một cuộc leo thang chiến tranh càng làm cho họ thêm lo ngại rằng Mỹ chỉ lợi dụng họ để thúc đẩy Liên Xô và không thành thực trong việc bình thường hóa các quan hệ.

Vì có quá nhiều điều tranh cãi giữa Bắc Kinh và Oa-sinh-tơn nên không thể có sự hòa giải dễ dàng và nhanh chóng, và người Trung Quốc cũng muốn chơi con bài Mỹ để xem có thể cải thiện quan hệ với Mát-xcơ-va hay không.

Ở một mức độ quan trọng, quan hệ của Trung Quốc với Mỹ được cải tiến theo tỷ lệ thuận với sự thất bại của các cuộc đàm phán Trung - Xô, và tháng 7 năm 1970, khi người Nga kêu gọi hành động chung chống lại bất kỳ cường quốc hạt nhân "thứ ba" nào thì Bắc Kinh tìm cách đề phòng một liên minh thù địch có thề có chống lại mình.

Tháng 3 năm 1971 Chu Ân Lai thăm Hà Nội và trong khi công khai lặp lại sự ủng hộ Việt Nam dân chủ cộng hòa, nói với người Việt Nam là ông ta nghĩ rằng Mỹ đang rút khỏi cuộc chiến tranh, và Trung Quốc không để cho cuộc đấu tranh gây trở ngại cho sự cải thiện mối quan hệ của họ với Oa-sinh-tơn. Mỹ đã phác họa một cuộc thăm cấp cao Bắc Kinh, và mặc dù những tranh cãi liên tục trong giới lãnh đạo Trung Quốc, Bắc Kinh đã mạnh mẽ nghiêng về việc chấp nhận.

Chính sách ngoại giao "bóng bàn" công khai bắt đầu với Trung Quốc tháng 4 năm 1971, những biện pháp tiếp theo để bình thường hóa mậu dịch, và chuyến đi thăm Bắc Kinh tháng 7 của Kít-xin-giơ để chính thức hóa chuyến đi thăm đã được chấp nhận của Tổng thống tháng 2 tiếp theo, đã được sử dụng để gây sức ép ngày càng tăng đối với người Nga. Người Trung Quốc tìm cách làm cho một Hà Nội vừa tức giận vừa lo âu tin rằng họ không hy sinh lợi ích của Việt Nam, và họ công bố một viện trợ bổ sung chỉ vài ngày trước khi cố vấn của Ních-xơn đến Bắc Kinh.
Kít-xin-giơ đã nêu lên vấn đề Việt Nam khi gặp Chu Ân Lai tháng 7. Về sau ông ta thuật lại: "Tôi nghi ngờ rằng các nhà lãnh đạo Trung Quốc có thể và sẽ làm gì nhiều để trực giúp đỡ, nhưng chuyến đi của tôi sẽ là một thất bại lớn cho Hà Nội" bởi vì nó làm cho công chúng Mỹ hiểu rằng những nhà lãnh đạo của họ có những bước bạo dạn cho hòa bình chứ không phải tỏ ra thụ động”.

Nhưng ngay khi người Trung Quốc đồng ý chơi trò chơi tam giác, thì người Xô-viết trở nên rất quan tâm, và trong tháng 10 Tổng thống công bố chuyến đi thăm Mát-xcơ-va của ông ta tháng 5 năm 1972. Đúng là quyết định của Trung Quốc chấp nhận những sáng kiến của Mỹ trước tiên là nhằm chủ yếu ngăn cản một sự cộng tác Mỹ - Xô ở nơi khác và giành những nhượng bộ về Đài Loan và về việc gia nhập Liên hợp quốc.

Rõ ràng điều mà cả Trung Quốc lẫn Nga làm, đã bảo đảm cho việc Ních-xơn được bầu lại và gạt bỏ nhiều thúc ép chính trị nội bộ về chính sách Việt Nam của ông ta. Nhưng dù cho ngoại giao tam giác có mức độ khiêm tốn như thế nào, nó cũng được đẩy được gánh nặng ngoại giao trở về phía Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Nhìn về mặt địa lý chính trị, những người chủ chốt vạch chiến lược Mỹ tin rằng Trung Quốc không muốn Việt Nam dân chủ cộng hòa thắng chiến tranh bởi vì Trung Quốc không tin vào thái độ của các nhà lãnh đạo Việt Nam dân chủ cộng hòa đối với Liên Xô và bởi vì họ sợ Việt Nam dân chủ cộng hoà trở thành một vệ tinh của Liên Xô và góp phần hoàn toàn bao vây Trung Quốc.

Mặc dù viện trợ của cả Liên Xô lẫn Trung Quốc đều tăng lên, nhưng cuối năm 1971, người Trung Quốc bắt đầu khuyên Việt Nam không nên vội vã mà kiên nhẫn đợi Mỹ rút lui, và rồi dựa vào đấu tranh chính trị ở miền Nam trong một thời gian vô hạn định. Đối với người Việt Nam, kiểu gợi ý này ngụ ý nhiều chuyện từ phản bội cho đến vứt bỏ mọi cam kết. Trong khi đó thì Hà nội vẫn tìm được cách giành viện trợ tối đa của cả hai bên.

Trên cơ sở kinh nghiệm cũ, người Việt Nam có đủ lý lẽ đề sợ sự phản bội của những phần tử ở Bắc Kinh. Trong năm 1971-1972, xu hướng bao trùm ở Trung Quốc là lấy người Mỹ làm nền để chống lại Liên Xô. Oa-sinh-tơn vì thế mà tin rằng thắng lợi đang ở tầm tay và điều đó làm cho họ sẵn sàng gánh những mạo hiểm lớn hơn.

Sự sẵn sàng càng tăng của Mát-xcơ-va và Bắc Kinh chơi thế tam giác chỉ khuyến khích Mỹ, nhưng sự sẵn sàng đó chẳng qua là vì những vấn đề khác. Tuy rằng Việt Nam là nguồn gốc của tam giác chiến lược, nhưng càng ngày Việt Nam càng trở nên một sự kiện phụ đối với người Xô-viết và người Trung Quốc, mặc dù nó vẫn là tiêu điểm chủ yếu, tuy không phải là độc nhất, đối với người Mỹ.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 21 Tháng Chín, 2008, 10:12:43 am
NHỮNG CUỘC THƯƠNG LƯỢNG - VÀ NỀN CHÍNH TRỊ CỦA TỔNG THỐNG

Nhà Trắng không thể nhận thức được rằng với sự giúp đỡ của Trung Quốc hoặc Nga, hoặc của cả hai sẽ không thể xác định được kết quả của chiến tranh, càng không thể quan niệm rằng các nước lớn không thể sắp đặt số phận của các nước nhỏ hơn. Nếu không có sự thiển cận ngoại giao này chính quyền Mỹ đã bị buộc phải thừa nhận thất bại, nếu không thì phải ở lại Việt Nam vô hạn định để đối phó với những thất bại xã hội, kinh tế và quân sự của chế độ Việt Nam cộng hòa.

Tự lừa dối mình bằng những cách nhìn đơn giản về những thành phần của chiến tranh cũng như về tiềm lực của nền ngoại giao lớn, chính quyền lại quay trở lại nhiệm vụ thương lượng kéo dài và gây thất vọng, với sự tin tưởng và táo bạo mới.

Chính trong quang cảnh nổi lên đó mà các cuộc thương lượng được tiến hành vừa công khai và thỉnh thoảng vừa bí mật. Cho đến khi chiến lược hòa dịu của ông ta có kết quả. Tổng thống tin rằng chỉ cán cân quân sự mới ảnh hưởng tốt đến thương lượng và điều đó đòi hỏi cả leo thang định kỳ lẫn thành công trong Việt Nam hóa. Chỉ Kít-xin-giơ trong hàng ngũ các cố vấn của ông ta là ủng hộ chiến lược, chiến thuật lớn hơn đó và cả những việc làm tùy tiện của ông ta. Ních-xơn xem bộ trưởng ngoại giao Uy-li-am Rô-giơ là một bồ câu đầu óc cũ kỹ, và chẳng kể gì đến ông ta, trong khi đó thì Le-đô theo đuổi một cách không khoan nhượng chiến lược rút quân bất chấp sự dè dặt của Tổng thống và Kít-xin-giơ.

Vượt lên trên tất cả là những thúc ép chính trị đối với chính quyền Mỹ làm cho nó phải định kỳ pha chế những đề nghị hòa bình nhằm vào những người chống đối trong nước. Đỉnh cao là kế hoạch mùng 7 tháng 10 năm 1970 của Ních-xơn đưa ra một sự ngừng bắn tại chỗ, hoàn toàn không thể thực hiện được về mặt kỹ thuật và không thể chấp nhận được cho cả Hà Nội lẫn Sài Gòn. Thiệu công khai bác bỏ những ý kiến của Ních-xơn và làm rõ ràng "hòa bình trong thắng lợi sẽ đến từ chiến trường”.

Mặc dù chính sách ngoại giao hòa dịu, Mỹ tiếp tục các cuộc thương lượng hàng tuần ở Pa-ri, mà không ai xem là nghiêm chỉnh cả. Những cuộc đàm phán mật giữa Kít-xin-giơ với Lê Đức Thọ và Xuân Thủy trong những năm 1970 - 1972 cũng bị bế tắc, ít vì các vấn đề quân sự hơn là vì các vấn đề chính trị.

Thiệu nói rõ ràng ông ta chống các cuộc thương lượng với Cách mạng, rằng "Cộng sản dùng sự liên hiệp chỉ là một mánh khóe để lừa những người ngây thơ và chiếm quyền một cách yên lặng". Chính sự ủng hộ Thiệu không ngừng của Mỹ với vũ khí, tiền của và yểm trợ kể từ năm 1968 đã là cản trở lớn nhất trong ba năm qua chứ không phải sự rút quân hay các thể thức của một cuộc ngừng bắn. Thiệu không che giấu sự bác bỏ của ông ta đối với bất kỳ thỏa thuận nào chấp nhận sự có mặt của Mặt trận Dân tộc Giải phóng, còn Đảng thì không thể và sẽ không để cho Cách mạng ở miền Nam bị Thiệu tha hồ thao túng.

Oa-sinh-tơn cũng biết rằng việc họ ủng hộ Thiệu sẽ đòi hỏi sự giúp đỡ của Liên Xô hoặc của Trung Quốc hoặc của cả hai để đạt một hiệp định. Kít-xin-giơ đoán chắc với cả hai đồng minh của Việt Nam dân chủ cộng hòa là họ có thể nói với Hà Nội rằng nếu Mặt trận Dân tộc Giải phóng thách thức Thiệu về chính trị chứ không phải về quân sự sau khi lính Mỹ rút, thì Mỹ sẽ không ủng hộ Thiệu một cách không điều kiện.

Tuy nhiên, Kít-xin-giơ không chịu nói trực tiếp lời cam kết mơ hồ đó với Việt Nam dân chủ cộng hòa. Điều đó có nghĩa là Cách mạng được yêu cầu tin rằng Thiệu sẽ đồng ý với sự thay đổi chính trị một cách hòa bình. Chừng nào điểm cơ bản đó còn tồn tại thì những vấn đề quân sự rắc rối tại các cuộc thương lượng mật chỉ là phụ. Vì Nhà Trắng xem các cuộc thương lượng nghiêm chỉnh với Cách mạng là quá sớm khi chưa đạt được những thắng lợi với những đồng minh của Việt Nam dân chủ cộng hòa, cho nên Tổng thống đợi thời cơ cho đến hết năm 1971. Rồi, để đảo ngược lại vị trí đang giảm sút của ông ta tại các cuộc thăm dò dư luận, ngày 25 tháng giêng năm 1972, Ních-xơn tiết lộ là đã có những cuộc họp mật với Việt Nam dân chủ cộng hòa từ tháng 2 năm 1970 và tiết lộ cả nội dung của những cuộc họp đó.

Đảng cảm thấy đã bị đánh vào sườn bằng một thủ đoạn bầu cử và khó mà tin người Mỹ có thể thương lượng nghiêm chỉnh. Vào đầu năm 1972, chính quyền Mỹ đã đạt được 3 thắng lợi chiến thuật trước một công chúng Mỹ đang bị vỡ mộng, đưa lại một ấn tượng rằng Mỹ thành thực tìm kiếm hòa bình ở Mát-xcơ-va, Bắc Kinh và Pa-ri. Kết quả là tăng uy tín chính trị của Ních-xơn. Vì sự ủng hộ ông ta trong nước tăng lên, Ních-xơn càng tin vào chiến lược của mình.

Đảng theo dõi với sự lo ngại các cố gắng của Mỹ nhằm ve vãn các đồng minh của mình. Báo chí Việt Nam dân chủ cộng hòa tháng 8 năm 1971 và trong suốt năm 1972 lên án Ních-xơn sử dụng những "mâu thuẫn" giữa Nga và Trung Quốc làm phương tiện áp đặt ý muốn của mình lên các nước nhỏ. Chưa bao giờ Đảng thấy cần phải hành động nhanh chóng và quyết định bằng sức mình để làm thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho mình hơn lúc này.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 21 Tháng Chín, 2008, 10:15:53 am
THAY ĐỔI CÁN CÂN LỰC LƯỢNG:
CUỘC TIẾN CÔNG MÙA XUÂN NĂM 1972 CỦA CÁCH MẠNG

Lam Sơn 719 khẳng định rằng quân đội Việt Nam cộng hòa dứt khoát kém hơn Quân đội nhân dân Việt Nam và điều đó làm tăng thêm lòng tin của Đảng vào chủ lực của chính mình sau ba năm thận trọng xây dựng và huấn luyện để tiến hành cuộc chiến tranh quy mô lớn hơn với vũ khí tiên tiến.

Dựa vào chủ lực không có nghĩa là coi nhẹ tý nào lực lượng du kích mà chức năng là giữ chân một số lớn lực lượng của Việt Nam cộng hòa, bảo vệ cán bộ chính trị và làm chậm công cuộc bình định.

Khi tính toán cuộc tiến công tiếp theo, các nhà lãnh đạo Đảng không phải chỉ tập trung vào chiến trường. Những mục tiêu chủ yếu của cố gắng đó còn phải làm cho thấy rõ Việt Nam hóa là một thất bại quân sự, và đặc biệt là làm đảo ngược những thắng lợi bình định ở đồng bằng sông Cửu Long và cũng có sự có mặt chính trị của Mặt trận Dân tộc Giải phóng ở những nơi mà Mặt trận đã bị suy yếu. Khả năng trở lại chiếm những khoản trống chính trị là rất cần thiết cho Mặt trận để giành những thắng lợi quân sự.

Thất bại của quân đội Việt Nam cộng hòa sẽ làm cho nhiều nhóm, kể cả nhân dân đô thị thấy rằng Mặt trận Dân tộc Giải phóng vẫn là lực lượng quyết định trong tương lai của miền Nam.

Đảng vạch kế hoạch cho cuộc tiến công năm 1972 trước hết là nhằm đảo ngược những tổn thất của mình từ trước và sử dụng hầu như chủ yếu là chủ lực. Không đặt ra khởi nghĩa đô thị, mà chỉ làm cho thay đổi so sánh lực lượng để phong trào đô thị có thể phát triển sau này. Bằng cách làm lộ rõ những chỗ yếu của Việt Nam hóa, Đảng hy vọng giành "một" thắng lợi quyết định năm 1972, làm cho Mỹ thấy rõ thế tuyệt vọng của họ đồng thời đẩy nhanh sự suy sụp quân sự, kinh tế và tâm lý của những kẻ phụ thuộc Việt Nam cộng hòa của họ.

Trong khi nghĩ rằng Việt Nam cộng hòa có thể sụp đổ hoàn toàn, Đảng cũng cho rằng điều có nhiều khả năng hơn là Việt Nam cộng hòa trở nên yếu hơn nhiều và tạo điều kiện cho ngoại giao và cho một thắng lợi cuối cùng về sau.

Về mặt ngoại giao, Bộ Chính trị tin rằng thắng trên chiến trường sẽ đi trước cố gắng của của Mỹ nhằm tranh thủ sự đồng tình của Liên Xô và Trung Quốc cho một giải pháp vượt quá khả năng thực tế của Mỹ và Việt Nam cộng hòa. Việt Nam cộng hòa tiếp tục ngày càng trở nên yếu và không có biểu hiện nào nói lên rằng thì giờ là có lợi cho Việt Nam cộng hòa và cho Việt Nam hóa.

Nhưng Đảng không muốn để cho thời gian chậm rãi trôi, ít nhất là về mặt ngoại giao, bởi vì sự biến đổi của xã hội miền Nam và nhu cầu của chính bản thân Đảng, thúc giục phải chấm dứt chiến tranh càng sớm càng tốt. Cuộc tiến công 1972 do đó tỏ ra là cơ bản cho kết quả cuộc chiến tranh.

Mỹ biết trước cuộc tiến công nhưng một lần nữa không đoán trước được thời điểm, quy mô và địa điểm. Nhà Trắng tiếp tục một niềm tin chung rằng cuộc tiến công sẽ không đảo lộn được chiến lược cơ bản là áp dụng sức ép ngoại giao, Việt Nam hóa, và đe dọa leo thang. Nhưng tướng Crây-tơn E-bram, trong khi cho rằng cuộc tiến công có nhiều khả năng nhất xảy ra trong tháng 2 ở cao nguyên Trung Bộ, đã hiểu một cách chính xác rằng thí nghiệm cơ bản của cuộc tiến công xem xem "Việt Nam hóa là một thành công hay thất bại".

CIA và các cơ quan khác nhau của Lầu Năm Góc ngày càng bi quan trước sức mạnh ngày càng tăng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng ở nông thôn. Những người Mỹ ở Sài Gòn, rất gần gũi với quân đội Việt Nam cộng hòa, đã trở nên chán nản sau khi Lam Sơn 719 bộc lộ thất bại rõ ràng của những năm cố gắng Việt Nam hóa. Phần còn lại của năm 1971 cũng chẳng tốt gì hơn. Đào ngũ và mất tinh thần vẫn tiếp tục, và trong những khu vực có thể xảy ra tiến công, các sĩ quan chỉ huy là những bạn chính trị chí thân của Thiệu nhưng lại là những chỉ huy tồi.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 21 Tháng Chín, 2008, 10:16:58 am
Trong lễ Tết 1972 quân đội Việt Nam cộng hòa giữ binh lính của mình trong tình trạng báo động và chỉ còn dưới 140.000 quân Mỹ để giúp họ. Nhà Trắng cho rằng chỉ hoạt động ngoại giao mới có thể kiềm chế được trào lưu, và Kít-xin-giơ cố làm cho chuyến đi thăm Mát-xcơ-va tháng 5 của Ních-xơn gắn vào sự hạn chế quân sự của Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Các tướng của Đảng gây ra sự bất ngờ tối đa khi ngày 30 tháng 3, bốn mươi nghìn quân đội nhân dân Việt Nam vượt qua khu phi quân sự bằng phẳng tại vĩ tuyến 17 vào lúc và nơi ít ngờ nhất. Cuộc tiến công cũng đồng thời xảy ra ở khu vực Công Tum - Đắc Tô thuộc cao nguyên Trung Bộ và ở khu vực Lộc Ninh, bắc Sài Gòn. Quân đội nhân dân lần đầu tiên dùng một số lớn xe tăng cũng như súng phòng không và trọng pháo.

Với tất cả kỹ thuật tiên tiến của Mỹ, Mỹ đã không phát hiện được việc di chuyển số trang bị đó qua đường mòn Hồ Chí Minh. Tất cả những nhược điểm chồng chất của quân đội Việt Nam cộng hòa xuất hiện ngay lập tức. Theo cách nói của tướng Cao Văn Viên, thì "cuộc tiến công 1972 của địch đã làm nói lên một cách bi thảm nhất sự yếu kém cơ bản của quá trình Việt Nam hóa". Thiếu tướng Đa-vít E.Ot, chuyên gia trọng pháo của lục quân Mỹ kết luận: "Hai tuần đầu của cuộc tiến công là tai họa cho các lực lượng Nam Việt Nam".

Trong suốt cuộc chiến tranh, Cách mạng giữ quyền cơ động và thế chủ động ở khắp nơi trong khi quân đội Việt Nam cộng hòa đóng quân tại chỗ trong những vị trí phòng thủ. Hoàn toàn không được chuẩn bị cho hướng tiến công, các căn cứ vùng chiến thuật I không được bảo vệ đầy đủ. Đã bộc lộ rõ ràng là phần đông các sĩ quan cấp cao của quân Việt Nam cộng hòa là bất tài.

Những câu chuyện về sự hèn nhát và về phán đoán tồi đã trở nên đầy rẫy.. Những câu chuyện này về sau cũng đầy rẫy trong lịch sử chính thức của Mỹ. Những đơn vị đáng ra phải được phối hợp thì lại hoạt động độc lập. Lực lượng không quân Việt Nam cộng hòa bắt đầu sụp đổ và tỏ ra ít muốn làm mồi cho hỏa lực của Quân đội nhân dân.

Kỷ luật bây giờ trở thành điểm yếu nguy ngập nhất của quân đội Việt Nam cộng hòa. Vấn đề đã nhanh chóng trở nên rắc rối với những số lượng quá lớn những người trong gia đình của quân đội cùng ở trong khu vực chiến đấu, mà ngay từ đầu đã gây cản trở và trong vài tuần tiếp theo gây ra một sự khủng khiếp trong quân lính và gây tắc nghẽn trên đường rút lui. Việc sử dụng ào ạt không quân Mỹ đã ngăn chặn được một sự sụp đổ hoàn toàn dọc theo vĩ tuyến mười bảy cho đến 18 tháng 4, khi quân đội Việt Nam cộng hòa bắt đầu hoảng sợ và bỏ phòng tuyến.

Vào cuối tháng 4, toàn bộ quân đội Việt Nam cộng hòa ở phía bắc tỉnh lỵ Quảng Trị đã bị tan rã và ngày 1 tháng 5 Quân đội nhân dân chiếm tỉnh lỵ và toàn bộ tỉnh Quảng Trị. Quân đội Việt Nam cộng hòa đã bị đánh bại tồi tệ và mất tinh thần, để mất những số lượng lớn vật dụng. Việc mất Quảng Trị làm cho quân đội Việt Nam cộng hòa không thoát khỏi những thất bại lớn hơn. Huế trên thực tế không được bảo vệ. Kít-xin-giơ ghi lại ý kiến của E-bram: "Toàn bộ cơ nghiệp có thể bị mất hết”.

Quân đội nhân dân Việt Nam cũng bộc lộ một số vấn đề. Các lực lượng của họ dễ bị không quân tấn công và họ đã mất một số lớn xe tăng. Trong khi họ đã sử dụng hoàn hảo trọng pháo nhưng cơ giới của họ còn thiếu kinh nghiệm và chưa phối hợp được tốt với bộ binh. Và họ không gắn được ba khu vực mặt trận để khai thác sự kiệt sức của quân đội Việt Nam cộng hòa. Nếu cuộc tiến công của Quân đội nhân dân Việt nam tập trung hơn thì có thể còn quyết định hơn nhiều.

Một số tướng của Đảng phê phán là đã không chiếm Huế trước khi Thiệu có thể tổ chức những đơn vị cuối cùng và tốt nhất để bảo vệ. Ngay các tướng Mỹ cũng nghĩ rằng đáng ra Quân đôi nhân dân Việt Nam còn có thể đạt những thắng lợi lớn hơn nhiều. Hoàn toàn rõ ràng là Quân đội nhân dân Việt Nam đã đi được một chặng đường dài, đã học được nhiều, tuy chưa đủ, trong khi quân đội Việt Nam cộng hòa không có tiến bộ nào. Hoạt động của họ ở Lào năm 1971 và cách đối phó còn tồi hơn năm 1972 là những triệu chứng của một căn bệnh tận cùng của họ.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 21 Tháng Chín, 2008, 10:18:07 am
Những nhà phân tích chính thức của Mỹ lúc đó và về sau cảm thấy rằng đáng ra cuộc chiến tranh có thể kết thúc mùa xuân năm 1972 nếu Mỹ không dùng những số lượng khổng lồ không quân ở Nam Việt Nam. Ngay dù cho tỉnh lỵ Quảng Trị bị chiếm lại, nhưng Quân đội nhân dân Việt Nam đã giữ phần lớn các khu vực rộng lớn mà họ đã tiến công kể cả phần lớn tỉnh Quảng Trị.

Việc sử dụng ngay tức khắc và quá nhiều sức mạnh không quân và hải quân Mỹ đã gây những thiệt hại nặng nề cho Quân đội nhân dân Việt Nam, và giúp cho quân đội Việt Nam cộng hòa được chút nghỉ ngơi tối cần thiết. Tuy nhiên cuộc tiến công của Quân đội nhân dân Việt Nam đã dấy lên tại Nhà Trắng vấn đề cơ bản của lòng tin đối với cả chính sách ngoại giao hòa dịu lẫn sức mạnh toàn cầu của Mỹ. Nhà Trắng đặc biệt hy vọng người Xô-viết giúp đỡ để chấm dứt chiến tranh, nhưng bây giờ, ít nhất là theo ý kiến của Tổng thống và phụ tá của ông ta, nước Mỹ tỏ ra là uể oải và bất lực.

Theo bản năng, Ních-xơn tán thành dùng ào ạt sức mạnh không quân. Số tàu hải quân đậu ngoài khơi Việt Nam vào cuối tháng 5 đạt đỉnh cao của chiến tranh và số B.52 tăng hơn gấp đôi trong vòng hai tháng. Le-đô chống lại xu hướng này, sợ rằng Tổng thống lại đưa quân đội trở lại Nam Việt Nam vào lúc Việt Nam hóa tỏ ra thất bại, và trên thực tế ông ta đã tìm được cách chuồn nhẹ 27.000 quân nữa ra khỏi Nam Việt Nam trong tháng 4.

Bộ chỉ huy quân sự ở Sài Gòn, muốn thêm không lực nhưng muốn máy bay chỉ giới hạn trong việc giúp quân đội
Việt Nam cộng hòa ở miền Nam. Tuy nhiên đối với Ních-xơn và phụ tá của ông ta thì cứu Việt Nam cộng hòa không quan trọng bằng tránh một thất bại gây nhục nhã vào lúc ông ta sắp đi Mát-xcơ-va. Do đó khía cạnh "người mất trí" của chiến lược ông ta, của Ních-xơn, con đường đứng đầu giận dữ, thiếu lý trí của một cường quốc thế giới, đã nổi lên hàng đầu.

Để chứng minh khả năng hành động của Mỹ, phải có những biện pháp tàn bạo, và Tổng thống đã chon việc ném bom lại Việt Nam dân chủ công hòa và rải mìn các cảng của họ, do đó mà thách thức việc vận tải bằng tàu của cả Liên Xô lẫn Trung Quốc. Chính quyền Mỹ cũng tỏ ra một lập trường Việt Nam cộng hòa cứng rắn hơn trong các cuộc thương lượng với người Xô-viết về những vấn đề chủ yếu là kinh tế.

Nhưng chính quyền Mỹ bị chia rẽ trong vấn đề leo thang chiến tranh. Le-đô chống lại, cũng như E-bram ở Sài Gòn, nhưng Bộ tham mưu liên quan thì hăng hái tuy không bác bỏ lập luận của CIA rằng leo thang sẽ không ảnh hưởng gì về vật chất đến cuộc chiến tranh ở miền Nam.

Ngày 30 tháng 4, Tổng thống tuyên bố công khai rằng lòng tin quốc tế vào sức mạnh Mỹ chống lại một quốc gia được "hai siêu cường cộng sản, viện trợ ào ạt" bây giờ là một vấn đề hàng đầu. Càng đáng ngại hơn là không những ông ta đưa ra khả năng tăng cường chiến tranh không quân mà còn mô tả các đê, đập ở Việt Nam dân chủ cộng hòa là "một mục tiêu chiến lược, và gián tiếp là một mục tiêu quân sự", tuy là một mục tiêu sẽ gây ra "một số lượng khổng lồ thương vong dân sự nếu bị phá hủy.

Khi ngày 8 tháng 5 tổng thống ra lệnh rải mìn và phong tỏa Việt Nam dân chủ cộng hòa và tăng cường chiến định không quân chống lại các mục tiêu cũ và mới, Việt Nam dân chủ cộng hòa bắt đầu sơ tán Hà Nội và củng cố các đê đập. Họ cũng nhanh chóng hầu như tìm được cách gạt bỏ tác động quan trọng nhất của cuộc phong tỏa bằng việc xây đựng một đường ống dẫn dầu từ biên giới Trung Quốc đến Hà Nội và bằng việc phát triển một phương pháp có hiệu quả của chính mình để vô hiệu hóa những mìn đã thả xuống.

Những phi vụ B.52 trong những tháng tiếp theo lên đến đỉnh cao của chiến tranh, và máy bay thả bom các đê rất rộng khắp, nhưng không gây được thiệt hại nghiêm trọng chỉ vì công tác sửa chữa đã làm tốt và nhờ mưa ít một cách thất thường. Về mặt quân sự mà nói, điều này có nghĩa là vì các cuộc tiến công Việt Nam dân chủ cộng hòa bằng không quân tăng lên và chỉ phục vụ mục đích chủ yếu là tượng trưng chứ không phải quân sự cho nên chiến tranh không quân ở miền Nam đã kém mức đáng ra phải có.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 21 Tháng Chín, 2008, 10:18:48 am
Với Việt Nam cộng hòa bị đánh bại một cách tồi tệ, Nhà Trắng tin rằng những sáng kiến ngoại giao chứ không phải quân sự sẽ đưa lại cho họ nhiều thành tựu hơn. Cuộc tiến công Việt Nam dân chủ cộng hòa là triệu chứng của thất bại Việt Nam hóa. 

Các tướng và chuyên gia Mỹ phân tích tác động của cuộc tiến công 1972 đối với Việt Nam hóa và cán cân quân sự ở miền Nam. Sự bi quan càng sâu sắc là kết quả của phân tích. Thất vọng là tướng E-bram mà nhiệm kỳ năm năm kết thúc vào 30 tháng 6. Ních-xơn thường hay nhắc lại ý kiến của E-bram để chứng minh rằng Việt Nam hóa có kết quả, nhưng khi nói chuyện riêng với nhau thì E-bram ít chắc chắn hơn về kết quả đó, nhất là sau Lam Sơn 719.
Quy mô thất bại của quân đội Việt Nam cộng hòa trong tháng 7 làm cho ông ta rất ngạc nhiên và phần đông những sĩ quan cấp cao chia sẻ nỗi thất vọng sâu sắc của ông ta. Tinh thần và khả năng chiến đấu của các sĩ quan quân đội Việt Nam cộng hòa làm cho sĩ quan Mỹ hết sức sửng sốt vì họ là những người gần gũi nhất.

Sau khi tổng kết lại những thất bại to lớn và những thiếu sót của quân đội Việt Nam cộng hòa, nhiều người Mỹ ở Nam Việt Nam nghĩ rằng ít nhất phải ba năm nữa mời biến được quân đội Việt Nam cộng hòa thành một lực lượng phòng thủ có hiệu quả Tuy nhiên một số những người thông thạo nhất lại kết luận rằng quân đội Việt Nam cộng hòa đã rất kém trong việc sử dụng vũ khí hạng nặng cho nên ít có hy vọng về khả năng nói trên.

Tất cả các yếu kém của quân đội Việt Nam cộng hòa, từ việc đảo ngũ cho đến sự bất lực của sĩ quan và tinh thần chung sa sút đã cộng vào với một Việt Nam cộng hòa yếu hơn nhiều so với Cách mạng về mặt quân sự. Bây giờ việc nghiên cứu những khó khăn của Quân đội nhân dân Việt Nam không còn hấp dẫn đối với phái đoàn Mỹ ở Sài Gòn như trước kia nữa. Bởi vì bây giờ Cách mạng chiếm giữ một vùng rộng lớn lãnh thổ và đã thấy một cách rõ ràng, và chắc chắn rằng trong cả năm 1971 lẫn năm 1972, quân đội Việt Nam cộng hòa đã được cứu khỏi thất bại hoàn toàn chỉ là nhờ sự can thiệp của Mỹ.

Những báo cáo bi quan của Bộ chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ ở Nam Việt Nam về Oa-sinh-tơn đã hình thành quan điểm của họ về cán cân quân sự mới và về tác động của Việt Nam hóa. Tiền đề quân sự cơ bản của Thiệu, từ khi ông ta nắm quyền, là chiếm giữ càng nhiều lãnh thổ và nhân dân càng tốt và bây giờ khi thế phòng ngự tĩnh tại đó cực kỳ dễ bị tiến công thì ông ta cũng không chịu thay đổi hoặc làm cho nó thích nghi với khả năng của ông ta hoặc của Cách mạng. Vì ông ta không chiếm lại được đất đai đã bị mất sau khi cuộc tiến công của Quân đội nhân dân Việt Nam chấm dứt, tình trạng yếu kém của ông ta đã làm tiêu tan mọi ảo tưởng còn lại của Nhà Trắng.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 22 Tháng Chín, 2008, 03:37:48 pm
NHỮNG HẬU QUẢ CHÍNH TRỊ VÀ NGOẠI GIAO CỦA CUỘC TIẾN CÔNG

Không những vị trí quân sự của Việt Nam cộng hòa yếu hơn, mà quyền lực và đời sống chính trị ở nông thôn của họ cũng yếu đi nghiêm trọng. Một mục tiêu lớn của cuộc tiến công là củng cố cơ cấu chính trị và du kích ở đâu có thể củng cố được, nhất là ở đồng bằng sông Cửu Long. Khi các lực lượng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng ở đồng bằng phát triển mạnh mẽ, thì chương trình bình định tan rã với một tốc độ không thể dự kiến trước. Hai chuyên gia Mỹ có ảnh hưởng đã đưa tin "rằng toàn bộ vị trí của kẻ thù ở đồng bằng đã được củng cố mạnh mẽ về mặt tự do đi lại, tiếp xúc với nhân dân và cung cấp lương thực cũng như về mặt làm giảm lòng tin của nhân dân nông thôn với khả năng bảo vệ của chính phủ".

Địa vị chính trị của Thiệu càng bị làm yếu hơn nữa vì chính sách bắt bớ và đàn áp của ông ta đã được đẩy mạnh khi cuộc tiến công bắt đầu, 3.300 người đã bị bắt trong 6 tuần ở đồng bằng và riêng Đà Nẵng có đến 600 người bị bắt. Với sự giúp đỡ của Đại sứ quán Mỹ, với mưu mô mánh khóe và với đút lót, Thiệu đã thuyết phục được Quốc hội tuyên bố quân luật cho đến cuối năm 1972, cấm báo chí còn ngặt nghèo hơn và chiếm độc quyền thống trị.

Hậu quả tức khắc là đoàn kết phe chống đối không cộng sản ở đô thị, gồm cả lần đầu tiên, những phần tử Thiên chúa giáo mà trước đây đã từng ủng hộ Thiệu một cách trung thành nhất. Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn tuyên bố rằng không thể có ai thay thế được Thiệu, nhưng rõ rằng cuộc tiến công đã thay đổi cán cân lực lượng ở cả nông thôn lẫn thành thị bất lợi cho Thiệu. Ngoài một số khá lớn những người "chờ thời", rõ ràng Thiệu không thể tìm đâu ra người để xây dựng một hệ thống quân sự có khả năng giành thắng lợi tại chiến trường. Riêng thực tế này cũng nói lên rằng trừ phi có một giải pháp hòa bình, nếu không chiến tranh có thể kéo dài và thất bại của Việt Nam cộng hòa là tất yếu. Càng rõ hơn nữa là đã xuất hiện một chuyển biến của tính chất chính trị ở đô thị: hòa bình và hòa giải trở thành những vấn đề có tầm quan trọng trọng yếu.

Còn Cách mạng thì trong mùa xuân và mùa hè năm 1972, đã đạt một thắng lợi lạ thường vừa về quân sự vừa về chính trị ở Việt Nam, và Oa-sinh-tơn biết rõ điều đó. Thắng lợi đã chứng minh rằng Mỹ không thể dựa vào Việt Nam hóa cuộc chiến tranh để cứu vãn vị trí của mình. Cả công khai lẫn trao đổi riêng với nhau, Cách mạng hoàn toàn vừa lòng đã chuyển sang so sánh lực lượng một cách quyết định sang phía mình và không có gì có thể đảo ngược được. Với nội dung và khả năng như vậy, lần đầu tiên các nhà lãnh đạo Đảng tin rằng họ có thể dựa vào ngoại giao làm một biện pháp chủ yếu, tuy chắc chắn không phải là độc nhất để đưa chiến tranh đến kết thúc.

Thật là kỳ lạ rằng, tuy thất bại rõ ràng của Việt Nam cộng hòa, Ních-xơn vẫn tăng thêm lòng tin vào thương lượng. Mặc dù mọi thứ đều trở nên xấu, ông ta ngày càng tin rằng chiến lược cô lập Việt Nam dân chủ cộng hòa đối với các đồng minh của họ, đang thành công tốt đẹp. Chừng nào Trung Quốc và Liên Xô sẵn sàng gặp Mỹ trong giai đoạn leo thang chống Việt Nam dân chủ cộng hòa, các lãnh đạo Mỹ có lý do để lạc quan và tất nhiên là Việt Nam dân chủ cộng hòa thì ngày càng bất bình và lo ngại khi Ních-xơn đi Mát-xcơ-va tháng 5 và Kít-xin-giơ đi Bắc Kinh liền sau đó.

Tuy nhiên, Kít-xin-giơ mô tả người Trung Quốc trong suốt thời gian đó có thái độ khá rõ rệt. Một công hàm của Trung Quốc trong tháng 4 "bày tỏ sự đoàn kết với Bắc Việt Nam", và khi Kít-xin-giơ đến Bắc Kinh cuối tháng 6, Chu "lặp lại đường lối tiêu chuẩn về món nợ lịch sử đối với Hà Nội", mà trong dó Kít-xin-giơ nhận ra một "ý ngầm" và một "hàm ý" đầy hy vọng về sự lo ngại của Trung Quốc đối với vai trò tương lai của Việt Nam dân chủ cộng hòa ở khu vực.

Nhu cầu "cô lập Hà Nội” hoặc "tách Hà Nội ra khỏi đồng minh" ngày càng chiếm cứ suy nghĩ của Ních-xơn và Kít-xin-giơ, trong khi những sự kiện thì diễn biến từ xấu đến tồi tệ ở Việt Nam, trong một đánh giá về sau của thời kỳ này, Kít-xin-giơ cho rằng "Crem-li đã thả lỏng đồng minh nhỏ nhưng lớn tiếng của mình". Nhưng ông ta cũng tuyên bố rằng "bằng việc để cho cuộc họp cấp cao được tiếp tục, Mát-xcơ-va đã giúp giảm bớt sự chống đối trong nước làm cho chúng tôi được tự do hành động để bẻ gãy xương sống cuộc tiến công của Bắc Việt Nam. Chiến lược hòa hoãn của chúng tôi, đặt ra những nguy hiểm và những lợi ích để nhử người Xô-viết đã dẫn đến khả năng đưa lại một sự kết thúc danh dự cho chiến tranh".

Người Nga không hủy bỏ cuộc họp cao trong khi B.52 mưa bom xuống toàn bộ Việt Nam, gây thiệt hại cho sinh mạng và tàu bè của Liên Xô. Không nghi ngờ gì những mối lợi chính trị của Ních-xơn trong cuộc họp là rất lớn và rõ ràng là các quan hệ Xô Mỹ đã đến một cao trào vượt xa cam kết của Mát-xcơ-va với Việt Nam dân chủ cộng hòa. Lợi ích của Liên Xô trong các vấn đề khác rõ ràng là rất lớn, và như thứ trưởng ngoại giao Mỹ U.A-le-xít Giôn-xơn đã nói mấy tháng sau đó rằng vì "việc giảm căng thẳng giữa bản thân chúng tôi và các cường quốc cộng sản cũng đe dọa ổn định của liên minh phương Tây", nên người Xô-viết cũng giành được một món lợi nào đó ở châu Âu, bất chấp những quan hệ mật thiết của họ với Việt Nam dân chủ cộng hòa.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 22 Tháng Chín, 2008, 03:38:26 pm
Như Kít-xin-giơ đã nhận xét "các cuộc họp cấp cao giúp cho chúng tôi hoàn thành việc cô lập Hà Nội", và hạ thấp sự chống đối trong nước bằng cách tô vẽ Ních-xơn thành một người làm ra hòa bình. Ở góc độ mà các đồng minh của họ đã bảo đảm cho việc bầu lại Ních-xơn, Cách mạng có vẻ bị thua thiệt. Nhưng các cuộc họp cấp cao tuyệt đối không thể làm được gì cho cán cân lực lượng vật chất, cho sự thất bại của Việt Nam hóa, hoặc cho các mâu thuẫn khác trong vai trò của Mỹ trên thế giới và, trừ phi Mỹ có thể đảo ngược thực tế đó nếu không, sớm hay muộn gì rồi Mỹ cũng số thua cuộc chiến tranh.

Cả người Trung Quốc lẫn người Nga đều tìm cách lợi dụng chính sách ngoại giao của Nhà Trắng cho lợi ích của chính mình. Nhưng không có bằng chứng nào rằng bên này hay bên kia đã làm gì quan trọng để làm giảm khả năng vật chất của Cách mạng trong việc bảo vệ những thành quả của mình, như bằng cách giảm viện trợ chẳng hạn. Đó là điều mà Oa-sinh-tơn quan tâm nhất. Dù cho con số còn có thể tranh cãi ra sao, những nguồn chính thức của Mỹ cho thấy rằng viện trợ quân sự của Trung Quốc cho Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1972 tăng gấp đôi năm 1971. Chỉ viện trợ kinh tế của họ có giảm phần nào so với năm 1971.

Viện trợ vũ khí của Liên Xô tăng hơn gấp đôi. Cả hai nước đã khắc phục sự tranh cãi quá khứ của họ để gửi hàng cung cấp bằng đường xe lửa, kể cả những vũ khí hạng nặng của Liên Xô, nhằm phá vỡ tình trạng phong tỏa. Thực tế là mỗi bên đều muốn tìm cách đẩy Mỹ chống lại bên kia khi có thể làm được, hoặc ít nhất là làm cho Mỹ trung lập. Vì vậy, mỗi bên đều lợi dụng cuộc chiến tranh Việt Nam là một đòn bẩy cho mối quan tâm bao trùm đó của họ.

Tuy nhiên đối với Ních-xơn mục tiêu chủ yếu của hòa hoãn là thắng chiến tranh, hoặc ít nhất, sau tháng 5, là tránh một thất bại. Do sự khác nhau cơ bản về động cơ thúc đẩy và về các ưu tiên của Mỹ, của Trung Quốc và Liên Xô nên Nhà Trắng thấy rằng hòa dịu và ngoại giao tam giác là một biện pháp vô cùng khó khăn và chậm chạp, nếu không nói là không thể thực hiện được, để đưa đại thắng lợi ở Việt Nam. Phần đông những chuyên gia chính sách đối ngoại của Oa-sinh-tơn ngay từ ngày đầu đã nghĩ rằng cố gắng đó đang bị thất bại. Nhưng về vấn đề chính sách thì một mình Nhà Trắng cũng đã rất đủ quyền hạn để quyết định một vấn đề.

Ngoài thực tế căn bản rằng ngoại giao không thể đảo ngược được thực tế ở Nam Việt Nam và Việt Nam dân chủ cộng hòa cũng có thể khai thác những bất đồng Trung - Xô, Ních-xơn và Kít-xin-giơ vẫn háo hức muốn xem mọi biểu hiện hoặc bóng gió đều là bằng chứng của thắng lơi. Nhà Trắng ngày càng không chống lại sự cám dỗ của lòng tin mù quáng, tự đầu độc mình, vào hiệu quả và tầm quan trọng của hòa dịu và ngoại giao tam giác để giảm đến mức tối thiểu thất bại của Việt Nam hóa và không lực và để chế ngự chiến lược của Cách mạng hoặc phá hoại thành quả của họ.

Những hoạt động ngoại giao hấp dẫn ở Trung Quốc và Liên Xô không thể xác định kết quả của chiến tranh. Thiên hướng học viên lâu đời của Kít-xin-giơ chơi ván bài quốc tế mà Tổng thống muốn, có thể đủ để đảm bảo rằng sự kết thúc của cuộc dính líu ba mươi năm của Mỹ ở Việt Nam cũng sẽ đến với những ảo tưởng và hy vọng tuy rất phức tạp nhưng không kém phần sai lầm và vô bổ hơn những ảo tưởng và hy vọng đã lôi kéo Mỹ sâu vào cuộc xung đột.

Cuối cùng, trong khi sự sẵn sàng của Liên Xô và Trung Quốc sử dụng cuộc đấu tranh của Việt Nam dân chủ cộng hòa để phục vụ lợi ích riêng của họ đã làm cho Cách mạng bất bình, nhưng sự thiệt hại gây ra cho Việt Nam dân chủ cộng hòa không tỏ ra là quan trọng lắm. Thật là mỉa mai, chính sự khuyến khích của Liên Xô và Trung Quốc đối với những tham vọng của Mỹ đã vô tình giúp cho Cách mạng củng cố những thắng lợi quân sự của mình bằng thắng lợi ngoại giao.

Đúng nửa năm sau cuộc tiến công 1972, Ních-xơn chấp nhận Hiệp định Pa-ri, tin rằng Liên Xô và Trung Quốc sẽ và có thể giúp thực hiện hiệp định bằng cách cắt viện trợ quân sự một cách quyết định cho Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nếu không có ảo vọng này, rất có thể Mỹ đã không ký hiệp định như đã làm.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 22 Tháng Chín, 2008, 03:41:20 pm
Chương ba mươi tư
QUÁ TRÌNH NGOẠI GIAO: ẢO TƯỞNG VÀ THỰC TẾ

Biểu hiện bên ngoài và ý muốn bên trong, ảo tưởng và thực tế, tất cả kết hợp lại trong phần còn lại của năm 1972 để đưa lại một giai đoạn sôi nổi, xoắn xuýt trong đó ngoại giao lần đầu tiên chiếm vũ đài trung tâm của chiến tranh. Khi Nhà Trắng thực hiện ở nhiều cấp chính sách địa lý chính trị toàn cầu của mình, tác động hấp dẫn của nó gây cho Đảng Cộng sản vừa lo ngại và tức giận bởi vì chính quyền Mỹ đã giành được thời gian và quyền tự do tiến công Việt Nam dân chủ cộng hòa, thoát được những sức ép chính trị trong nước đòi giải quyết chiến tranh, và tiếp tục chiến lược ngoại giao phức tạp của mình.

Niềm an ủi duy nhất của Cách mạng là niềm tin của họ rằng những lực lượng vật chất và chính trị khách quan ở Nam Việt Nam sẽ quyết định kết quả cuối cùng của chiến tranh, và chức năng thiết yếu của ngoại giao là phải chấp nhận so sánh lực lượng mới mà cuộc tiến công thắng lợi của họ tạo ra. Vào tháng 5, Cách mạng sẵn sàng để cho ngoại giao đóng vai trò trung tâm của các cố gắng của mình.

Cho đến tháng 5 năm 1972, Mỹ tố cáo Việt Nam dân chủ cộng hòa không chịu tách các vấn đề chính trị ra khỏi các vấn đề quân sự, nhưng trên thực tế không bên nào có thể làm như vậy được. Ý đồ của Nhà Trắng là giữ Thiệu nắm quyền trong khi Mỹ chịu trách nhiệm về những nhu cầu quân sự, chính trị trong nước và trên thế giới của chính mình. Chiến tranh mà không Cổ Chính trị là một điều không thể có được nhưng đó là lập trường của Mỹ trong tất cả các cuộc thương lượng vô bổ trong những năm 1970-1971, với hy vọng rằng chiến tranh cuối cùng sẽ kết thúc bằng một sự kết hợp của hoạt động ngoại giao nước lớn. Việt Nam hóa và leo thang. Cách mạng sẽ bị buộc phải chấp nhận một giải pháp "quân sự" cho phép một cơ cấu chính trị do Mỹ ủng hộ tiếp tục tồn tại ở Nam Việt Nam.

Vấn đề ngừng bắn, các địa điểm đóng quân và các vấn đề chính phủ không ngừng được thảo luận trong các cuộc họp toàn thể và riêng, là những vấn đề phụ cho đến tháng 5 năm 1972 bởi vì cả hai bên cho rằng chỉ sức mạnh mới có thể xác định những vấn đề kỹ thuật đó. Kít-xin-giơ đưa ra những quan điểm mập mờ và thăm dò trong những cuộc hội đàm, và Ních-xơn hết lòng ủng hộ những cố gắng như vậy. Những thủ đoạn mặc cả liên tiếp đó kể từ năm 1965 là nhằm vào công chúng Mỹ và dư luận thế giới hơn là vào Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Khi công thức 29 tháng 9 năm 1967 của Giôn-xơn hoặc đề nghị "ngừng bom" 31 tháng 3 của ông ta vừa được tiết lộ thì Mỹ lại rút lui những đề nghị của mình khi thấy cần thiết. Những sự lật ngược như vậy tất nhiên làm cho Việt Nam dân chủ cộng hòa nghi ngờ những ý định của Mỹ, nhưng tháng 5 năm 1972, Đảng biết rằng một đợt ngoại giao mới có thể không làm hại mà ngược lại có thể củng cố lập trường của họ.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 22 Tháng Chín, 2008, 03:42:27 pm
SỰ BẮT ĐẦU CỦA NHỮNG CUỘC THƯƠNG LƯỢNG NGHIÊM CHỈNH

Diễn văn ngày 8 tháng 5 năm 1972 của Ních-xơn công bố việc rải mìn và ném bom khu vực Hà Nội - Hải Phòng cũng mở ra một chuỗi các sự kiện ngoại giao, tập trung vào một cuộc ngừng bắn trong toàn Đông Dương (nghĩa là chấm dứt ba cuộc chiến tranh chứ không phải là một) coi đó như là điều kiện tiên quyết cho việc rút hoàn toàn quân Mỹ trong vòng bốn tháng sau khi ký hiệp định. Việt Nam dân chủ cộng hòa nhanh chóng trả lời với một kế hoạch cho một chính phủ ba thành phần ở Nam Việt Nam, bao gồm Việt Nam cộng hòa không có Thiệu, chính phủ Cách mạng lâm thời và một "lực lượng thứ ba trung lập”.

Đúng như Ních-xơn chỉ tìm cách xoa dịu dư luận thế giới đang căm phẫn về sự leo thang của ông ta, Việt Nam dân chủ cộng hòa cố gắng làm mất tinh thần Việt Nam cộng hòa và khuyến khích các nhóm khác nhau thuộc lực lượng thứ ba đang xuất hiện vào lúc đó. Nhà Trắng nhắc lại những cố gắng lặp đi lặp lại của họ nhằm kéo Liên Xô vào các cuộc thương lượng như là một biện pháp cô lập Việt Nam dân chủ cộng hòa với những đồng minh của họ. Sự kết hợp giữa các mối quan hệ trong nước với hoạt động ngoại giao đã được tăng cường trong suốt mùa hè.

Kít-xin-giơ gặp Lê Đức Thọ thường xuyên sau giữa tháng 7, nhưng quang cảnh chính trị của hội đàm là quan trọng hơn nhiều cho cả hai bên, nhất là cho Mỹ, chứ không phải là thực chất hội đàm. Việc các cuộc thương lượng được tiến hành mà đến tai công chúng thì có nghĩa là Ních-xơn sẽ có phiếu bầu trong cố gắng được bầu lại. Đến mùa hè, vị Tổng thống ngày càng tự tin, nghiêng mạnh về việc để các cuộc thương lượng lại sau cuộc bầu cử. Từ điểm này trở đi thời điểm và nội dung các cuộc hội đàm không còn là nhân tố hàng đầu trong lập trường thương lượng của chính quyền Mỹ nữa. Điều quan trọng hơn nhiều bây giờ là quan điểm chính trị rộng lớn hơn của chính sách ngoại giao toàn cầu và là phạm vi vô cùng phức tạp để đạt một giải pháp cuối cùng chiến tranh.

Việc dùng chính sách hòa dịu và ngoại giao tam giác để lợi dụng Trung Quốc và Liên Xô làm đòn bẩy cho việc chấm dứt chiến tranh Việt Nam trong mùa hè năm 1972, đã hoàn toàn ám ảnh Tổng thống và Kít-xin-giơ. Ảo tưởng rằng sức mạnh của Mát-xcơ-va và Bắc Kinh có thể giúp một cách quyết định vào việc đạt những mục tiêu chiến tranh, đã trở thành hy vọng của Mỹ trong việc đi đến chấm dứt chiến tranh. Thật vậy, việc cả Bắc Kinh lẫn Mát-xcơ-va sẵn sàng nói chuyện với Mỹ khi Mỹ leo thang ném bom là một điều khuyến khích mạnh mẽ cho Mỹ. Trong mùa xuân và mùa hè năm 1972, cả Liên Xô lẫn Trung Quốc đều sẵn sàng hơn làm vai trò những trung gian trong cuộc chiến tranh.

Tháng 7 người Pháp báo cho Oa-sinh-tơn rằng Mao Trạch Đông đã khuyên Chính phủ Cách mạng lâm thời thay đổi lập trường về vấn đề gạt Thiệu, một sáng kiến làm cho chính quyền Mỹ thêm tin vào khả năng cô lập Cách mạng. Trong khi đó thì Nhà Trắng giảm đến mức tối đa thậm chí còn làm ngơ khi có bằng chứng không thuận lợi cho chính sách hòa dịu của mình đối với Liên Xô và Trung Quốc. Mặc dù trong tháng 10, Nhà Trắng yêu cầu người Nga đưa ra một bảo đảm rõ ràng rằng họ sẽ cắt viện trợ vũ khí cho Việt Nam dân chủ cộng hòa sau khi có một giải pháp hòa bình, và chỉ nhận được những trả lời thoái thác nhưng khi Kít-xin-giơ gặp Thiệu thì lại nói với Thiệu rằng Trung Quốc và Liên Xô đã hứa giảm cung cấp vũ khí cho Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Tóm lại, trong khi Việt Nam dân chủ cộng hòa phàn nàn về thái độ của những người ủng hộ họ, thì sự khuyến khích mà Bắc Kinh và Mát- xcơ va đưa lại cho Oa-sinh-tơn không làm giảm được sức mạnh cơ bản của Hà Nội, nó chỉ củng cố ảo tưởng của Mỹ về thắng lợi trong việc lợi dụng bất đồng Trung - Xô.

Trong mùa hè năm 1972, các quan hệ giữa Oa-sinh-tơn và Thiệu trở nên căng thẳng vì Cách mạng ở miền Nam càng thêm mạnh và Thiệu thì không chịu đựng nổi những thách thức như vậy. Trước đó chính quyền Mỹ đã làm cho Thiệu tin rằng mục đích của Mỹ là giữ Thiệu nắm chính quyến, và Thiệu và Mỹ đều có một loạt các lợi ích chung. Gần năm năm hợp tác trung thành đã trôi qua kể từ khi Mỹ bắt đầu chấp nhận mọi việc làm của Thiệu, từ tham nhũng thô bạo đến bất lực về quân sự, và trong tháng 5 vừa qua thì giúp Thiệu thiết quân luật.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 22 Tháng Chín, 2008, 03:43:04 pm
Trước khi Tổng thống đi Bắc Kinh, ông ta đoan chắc với Thiệu sẽ không có giải pháp cho chiến tranh vượt qua đầu Thiệu hoặc sẽ không có gì hại cho Thiệu về các vấn đề có liên quan đến Việt Nam cộng hòa. Đồng thời, mặc dù có những cuộc thương lượng, Mỹ vẫn cam kết phục hồi sức mạnh quân sự cho Việt Nam cộng hòa sau thất bại choáng váng vừa qua, làm cho Việt Nam cộng hòa đủ sức phá hoại mọi hiệp định. Mùa hè năm 1972, Thiệu tuyên bố chính sách "bốn không của ông ta: "Không thương lượng với kẻ thù", "không có hoạt động cộng sản ở miền Nam”, "không chính phủ liên hiệp", "không mất lãnh thổ cho kẻ thù".

Chẳng hề có chút nghi ngờ gì về điều mà Thiệu sẽ làm nếu một hiệp định hòa bình được ký kết, và chính việc đó đã làm cho Cách mạng đòi loại trừ ông ta ra khỏi mọi cơ cấu chính trị tương lai do một giải pháp đưa lại. Công khai cũng như bí mật, các quan chức Mỹ làm việc với Thiệu đều nói rõ rằng họ sẽ ủng hộ Thiệu ở lại nắm quyền bất chấp sự chống đối của đô thị hoặc có một hiệp định như thế nào. Trong các cuộc trao đổi trực tiếp với A-léc-xan-đô He-gơ và Kít-xin-giơ trong mùa hè, Thiệu khẳng định lại sự chống đối mọi cuộc ngừng bắn và ngày 3 tháng 8 ông ta tuyên bố công khai rằng biện pháp để hòa bình là duy trì cuộc chiến tranh không quân chống Việt Nam dân chủ cộng hòa, một đề tài và ông ta lặp lại với Kít-xin-giơ vài tuần sau đó.

Sau đó Kít-xin-giơ thừa nhận rằng Thiệu "không sẵn sàng cho một nền hòa bình thương lượng” mà muốn "một sự đầu hàng không điều kiện". Trong khi Kít-xin-giơ đổ điều đó cho một loại mất trí và tin rằng Thiệu sẽ không phải là một trở ngại không thể khắc phục được, thì con người độc tài đó chỉ cố lấy tất cả những gì có thể lấy được.

Ngày 31 tháng 8, sau khi Kít-xin-giơ thảo luận vấn đề này với Ních-xơn, Tổng thống viết cho Thiệu một bức thư làm cho ông ta càng ngoan cố. Sau khi khẳng định là Mỹ đã điều chỉnh một số điểm "thực chất" theo quan điểm của Thiệu, bức thư còn khẳng định rằng Mỹ không có thể "mua bán hòa bình hoặc danh dự hoặc bù lại những hy sinh của mình bằng cái giá bỏ một đồng minh dũng cảm".

Sự khen ngợi hết lời của Ních-xơn đối với "vai trò lãnh đạo thực sự của Thiệu chính là điều mà nhà độc tài mong muốn để chống lại sự phản đối ngày càng tăng trong nước. Cuối cùng Thiệu có lý do để tin rằng người Mỹ phụ thuộc vào ông ta một cách không đảo ngược được. Vì vậy sự chống đối của ông ta đối với tất cả những điều xảy ra trong những tháng tiếp theo là sự lô-gích có thể đoán trước được của mối quan hệ của ông ta với Mỹ.

Cuộc chiến tranh không quân quy mô đầy đủ chống lại Việt Nam dân chủ cộng hòa đã được nối lại tháng 4 năm 1972 và đến mùa hè thì đạt những tỷ lệ đồ sộ, kể cả những cuộc tiến công vào những đê xung yếu nhất phía đồng bằng sông Hồng. Từ Hà Nội và Hải Phòng, nhiều thành phố khác đã bị tàn phá có hệ thống. Trong 25 ngày đầu của tháng 10 Mỹ đã thả xuống 31.600 tấn bom xuống Việt Nam dân chủ cộng hòa làm cho thời gian đó trở thành ác liệt nhất của việc ném bom hàng ngày kể từ trước.

Tổng thống tìm cách làm cho Việt Nam dân chủ cộng hòa thương lượng dưới sự cưỡng ép tàn bạo nhất, thực hiện mưu đồ tự tỏ ra là "con người mất trí". Vào lúc sự chú ý của Mỹ và của thế giới tập trung vào việc ném bom trong lễ Giáng sinh, Việt Nam dân chủ cộng hòa đã trải qua hơn nửa năm dưới cơn thịnh nộ của Ních-xơn. Cũng như chính quyền Mỹ không thương lượng dưới sức ép của cuộc bầu cử mà họ tin là sẽ thắng, Việt Nam dân chủ cộng hòa cũng không thương lượng do bị tàn phá khủng khiếp hơn nữa, bởi vì những đe dọa có thể có của Mỹ đều đã được thực hiện rồi.

Việc ném bom miền Bắc không có quan hệ gì với phương trình xã hội và quân sự ở miền Nam và điều đó làm cho Việt Nam dân chủ cộng hòa có thể thương lượng từ một thế mạnh. Về thực chất, không có tiền đề chủ chốt nào mà Ních-xơn dùng để làm cơ sở cho cuộc chiến tranh, từ ngoại giao hòa dịu cho đến Việt Nam hóa và leo thang điên rồ, còn có thể đứng vững khi thương lượng nghiêm chỉnh cuối cùng bắt đầu tháng 9 năm 1972.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 22 Tháng Chín, 2008, 03:44:05 pm
NHỮNG CUỘC HỘI ĐÀM PA-RI: LÀM RA VÀ PHÁ HỦY MỘT HIỆP ĐỊNH

Cho đến tháng 9 năm 1972, cả người Mỹ lẫn những người Cộng sản đã hướng những đề nghị của họ về chấm dứt chiến tranh không phải nhằm vào nhau mà nhằm vào dư luận hoặc ở trong nước, như trường hợp của Oa-sinh-tơn, hoặc ở Nam Việt Nam. Kế hoạch tháng 5 của Cách mạng thành lập một chính phủ liên hiệp ba thành phần bao gồm cả Việt Nam cộng hòa mà không có Thiệu là sự khai thác ngoại giao cuối cùng cho công tác tuyên truyền. Vào mùa hè, rõ ràng là Cách mạng đã làm nghiêng cán cân quân sự đủ về phía mình nhưng sẽ chịu tổn thất hết sức cao nếu tiếp tục chiến đấu chống không lực của Mỹ.

Cuộc tiến công 1972 đã làm bộc lộ tất cả những căng thẳng và thất bại của trật tự chính trị và quân sự Việt Nam cộng hòa, và việc Thiệu thiết quân luật phản ánh sự chống đối ngày càng tăng của những đối thủ thuộc giai cấp trung gian ở đô thị vừa mới nổi lên. Từ đầu, cuộc chiến tranh đã từng chủ yếu là một sự can thiệp quốc tế. Nếu không có sự có mặt của quân đội nước ngoài, Cách mạng chắc chắn đã giành được thắng lợi cuối cùng dưới bất kỳ hiệp ước hòa bình hợp lý nào.

Nhà Trắng khăng khăng đòi tách các vấn đề quân sự và chính trị riêng ra trong các cuộc thương lượng và giải quyết các vấn đề quân sự cụ thể trước. Đó là cách của Mỹ muốn giữ nguyên trạng thái chính trị. Vì Mỹ trong suốt mùa hè không đưa ra điều gì mới hơn là các kế hoạch cũ dưới những hình thức mới, nên chỉ những đề nghị mới của Việt Nam dân chủ cộng hòa mới có thể phá vỡ được bế tắc. Kít-xin-giơ thừa nhận phản ứng ngày 1 tháng 8 của Lê Đức Thọ: "ít nhất là một lần, lời tố cáo của ông ta rằng tôi không đưa ra "điều gì mới" cả, là chính xác”.

Việt Nam dân chủ cộng hòa đưa ra những sáng kiến lớn mà Kít-xin-giơ nghĩ rằng sẽ đưa đến việc tách riêng các vấn đề quân sự và chính trị ra với nhau, và chính lúc này, tin ở khả năng được bầu lại, Tổng thống cho thấy ông ta hoãn các cuộc thương lượng cho đến sau cuộc bầu cử, Xây-mua Het-sơ (Seymour Hersh) đã lập luận một cách thuyết phục rằng từ đó trở đi Kít-xin-giơ đơn phương tìm cách đi đến một hiệp định để củng cố các mối quan hệ đang giảm sút của ông ta với Tổng thống. Thành công trong việc chấm dứt chiến tranh không những làm cho ông ta giữ vững được chức vụ mà còn trở trành bộ trưởng ngoại giao trong chính quyền sắp đến. Kít-xin-giơ cũng biết rằng kéo dài bao nhiêu để đi đến một hiệp định thì càng ít khả năng bấy nhiêu để tác động đến các sự kiện quân sự nếu không đạt được hòa bình.

Tuy Tổng thống không thấy thoải mái, nhưng Lầu Năm Góc dưới quyền của Le-đô không ngừng rút quân Mỹ và gạt Việt Nam ra khỏi ngân sách những cam kết của mình. Ngày 29 tháng 8, Ních-xơn công bố một đợt rút quân nữa, để lại chỉ 27.000, và Kít-xin-giơ sợ rằng Mỹ có thể đơn phương rút tất cả các lực lượng của mình. Bây giờ ông ta thách thức không phải chỉ Ních-xơn và Thiệu mà còn cả những ai yên lặng nghiêng về việc kéo Mỹ ra khỏi một tình trạng đang thua.

Mặc dù sự chống đối của Thiệu, khi Chính phủ Cách mạng lâm thời ngày 11 tháng 9 nói rõ lập trường công khai chấp nhận Việt Nam cộng hòa như một thực tế và ngụ ý việc tách các vấn đề quân sự ra khỏi các vấn đề chính trị thì Kít-xin-giơ biết rằng Thiệu sẽ ở lại và những tiến bộ lớn sẽ diễn ra trong các cuộc thương lượng. Kít-xin-giơ nhớ lại rằng, "tình hình đó làm cho Thiệu chán nản" nhưng ông ta không nhụt chí. Và từ sự chống đối của Thiệu ngày càng làm cho Ních-xơn bực mình, nhưng chính ông ta trong những tuần tiếp theo cũng không muốn ký một hiệp định trước cuộc bầu cử nếu nó không có chính điều mà ông ta muốn.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 22 Tháng Chín, 2008, 03:44:39 pm
Kít-xin-giơ đưa ra đề nghị cuối cùng cho Việt Nam dân chủ cộng hòa ngày 8 tháng 10 và thông qua người Nga mà báo rằng nếu Việt Nam dân chủ cộng hòa bác bỏ đề nghị, thì ông ta sẽ hoãn cuộc hội đàm đến sau bầu cử. Tuy nhiên, cùng ngày Lê Đức Thọ trao cho Kít-xin-giơ văn bản của hiệp định dự thảo đầy đủ đầu tiên, bao gồm tất cả các điểm trong tuyên bố của Chính phủ Cách mạng lâm thời. Hiệp định rõ ràng tách riêng các vấn đề chính trị và quân sự do đó các vấn đề quân sự có thể có những tiến bộ nhanh chóng trong khi Chính phủ Cách mạng lâm thời và Việt Nam cộng hòa tìm cách giải quyết một cách độc lập các vấn đề chính trị phức tạp hơn.

Lê Đức Thọ cho rằng Việt Nam dân chủ cộng hòa đã chấp nhận thực chất các đề nghị trước của Mỹ và Kít-xin-giơ hớn hở ngay tức khắc báo cho Ních-xơn rằng ông ta đồng ý. Tổng thống tán thành: "Họ đang chấp nhận một giải pháp theo những điều kiện của chúng ta". Một vấn đề quan trọng nhưng không phải không giải quyết được là quyết tâm của Thiệu cản trở mọi hiệp định. Quan trọng hơn nhiều là việc Ních-xơn muốn hoãn các cuộc thương lượng, mặc dù mong muốn thiết tha của trợ lý ông ta là đi đến ký kết.

Kít-xin-giơ biết rằng Ních-xơn không thiết tha chấm dứt chiến tranh trong tháng đó, nhưng ông ta cũng thấy những nguy hiểm của việc hoãn lại. Về sau ông ta viết: "Người ta có thể tưởng tượng sự la ó của công chúng như thế nào nếu chúng ta lại bác bỏ việc Hà Nội chấp nhận những đề nghị của chúng ta và cuối cùng "những lời tố cáo về vô đạo đức và ác ý trong việc tự bác bỏ những đề nghị của chính mình" sẽ làm cho không thể nào còn giành được những điều kiện tốt hơn hoặc thậm chí ngang bằng về sau”. Trong quang cảnh như vậy và thấy trước triển vọng đầy bấp bênh, Kít-xin-giơ và Việt Nam dân chủ cộng hòa thương lượng ở Pa-ri.

Nhà Trắng đưa ra và nhận được một số thay đổi trong dự thảo của Việt Nam dân chủ cộng hòa. Vấn đề phức tạp này duy nhất là ngừng bắn cho toàn Đông Dương chứ không phải chỉ ở Việt Nam. Phần còn lại chỉ gồm những vấn đề kỹ thuật nhỏ và được giải quyết nhanh chóng. Cái chính là sẽ không có chính phủ liên hiệp mà chỉ là một cơ cấu tổ chức không ràng buộc để thảo luận về sau tất cả các vấn đề chính trị, ngay dù cho là vấn đề thừa nhận sự tồn tại và tính hợp pháp của Chính phủ Cách mạng lâm thời.

Không có gì được nói về việc rút các lực lương Việt Nam dân chủ cộng hòa khỏi Nam Việt Nam, một điểm mà Oa-sinh-tơn đã bỏ tháng 10 năm 1970, và Việt Nam dân chủ cộng hòa đã đồng ý để cho Mỹ thay thế vũ khí cho Việt Nam cộng hòa trên cơ sở một đổi một. Chủ yếu là Mỹ sẽ rời Nam Việt Nam và tháo gỡ các căn cứ của mình và Cộng sản sẽ cho hồi hương những binh lính Mỹ bị bắt trong khi Mỹ sẽ để lại những người thay thế Nam Việt Nam được giúp đỡ đầy đủ để tự lo liệu lấy.

Thực chất chính của hiệp định được nhanh chóng viết ra và chấp nhận ở Pa-ri trong những ngày ngắn ngủi đó. Khó khăn thực sự không phải là các điều khoản của hiệp định mà là Tổng thống, Thiệu và một mớ hỗn độn những mưu đồ và bực bội được xây dựng nên ở Oa-sinh-tơn và Sài Gòn.

Tất nhiên, Thiệu nói chung là có thể đoán trước được và ông ta ngay tức khắc đã thách đấu và buộc Kít-xin-giơ phải đi Sài Gòn ngày 19 tháng 10 trên đường đến Hà Nội để ký tắt hiệp định trước khi định ký chính thức ngày 31 tháng 10. Kít-xin-giơ thấy Thiệu là không khoan nhượng nhưng cũng rất hăm hở bòn rút viện trợ quân sự của Mỹ, Thiệu ở trong thế bị động nhưng vẫn nói rõ rằng ông ta chống lại cả những chi tiết lẫn nguyên tắc của hiệp định.

Khi Kít-xin-giơ đến Sài Gòn, ông ta mang theo một bức thư của Ních-xơn giải thích rằng mục tiêu chính trị cơ bản của Thiệu đã đạt được và "chính phủ của ông ta, các lực lượng vũ trang và các thể chế chính trị sẽ được giữ nguyên vẹn sau khi ngừng bắn được thực hiện”. Chính phủ đó sẽ tiếp tục nhận viện trợ quân sự và kinh tế. Ních-xơn nói rõ: "Chúng ta không có cách nào khác hợp lý hơn nên phải chấp nhận hiệp định đó". Và ông ta không những nghĩ rằng "đó là hiệp định tốt nhất mà chúng ta có thể đạt được" mà còn bảo đảm với Thiệu rằng Kít-xin-giơ đã được ông ta "hoàn toàn ủng hộ".


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 22 Tháng Chín, 2008, 03:45:31 pm
Kít-xin-giơ đã biết rằng Tổng thống vẫn không còn thiết tha có một hiệp định tháng đó nhưng Kít-xin-giơ nghĩ rằng ông ta có thể thuyết phục Ních-xơn. Lý do của Tổng thống là muốn tránh một cuộc đụng đầu với Thiệu, nhưng quan trọng hơn nhiều là một loạt các lý do chính trị, bàn giấy và cá nhân đưa đến một quyết định giống nhau trong nội bộ chính quyền Mỹ là không chịu ký một hiệp định chủ yếu là dựa trên lập trường của Mỹ, Kít-xin-giơ không tin điều đó sẽ xảy ra tuy bằng chứng sau này 19 tháng 10 cho thấy điều ngược lại.

Khi Kít-xin-giơ hoãn ngày đến Hà Nội và cuối cùng bỏ việc ký tắt đã được quy định, thì ngày 24 tháng 10 Thiệu công bố một sự lên án công khai các cuộc hội đàm. Bị phản bội, hai ngày sau, Việt Nam dân chủ cộng hòa đưa ra công khai lịch sử và văn bản của các cuộc thương lương.

Việc Việt Nam dân chủ cộng hòa tiết lộ sự lừa dối lạ lùng của Nhà Trắng không gây tổn thương gì cho Ních-xơn và ông ta đã được bầu lại với đa số phiếu lớn nhất trong lịch sử Mỹ. Trong khi đó thì Thiệu đã giành được một sự cam kết viện trợ khổng lồ trong tháng 10, coi đó là một sự an ủi mà về sau chỉ tăng thêm sự ngoan cố của Thiệu.

Trong mùa hè, Lầu Năm Góc đã bắt đầu thay những nhà kỹ thuật quân sự chủ chốt bằng những người dân sự mà nhiều người là những nhân viên quân sự cũ. Kế hoạch En-hen-xơ và tiếp theo là En-hen-xơ Phớt đưa sang Việt Nam 260.000 tấn hàng chiến tranh trong một thời gian hai tháng. Với giá gần 2 tỷ đô-la, En-hen-xơ đã làm cho Việt Nam cộng hòa có một lực lượng không quân lớn thứ tư của thế giới và một số lượng khổng lồ xe tăng, trọng pháo và máy bay lên thẳng.

Bây giờ Việt Nam cộng hòa có một ưu thế hỏa lực át hẳn đối với Việt Nam dân chủ cộng hòa, và đầu tháng 11, theo một tài liệu lịch sử chính thức của sự kiện này thì "Mỹ vi phạm tinh thần các điều khoản của Hiệp định Pa-ri" và đã chuyển quyền sở hữu các căn cứ của mình cho Việt Nam cộng hòa để khi đến lúc phải tháo gỡ thì có thể tuyên bố là không có căn cứ nào. Mọi điều đã được chuẩn bị để Thiệu có thể theo đuổi một cuộc chiến tranh kéo dài trong thời kỳ sau hiệp định.

Trong một cuộc chiến tranh mà từ đầu Mỹ đã có vô số hành động đen tối thì những sự kiện của hai tháng tiếp theo được xếp vào loại xấu xa nhất, Ních-xơn là kiến trúc sư chính của giai đoạn bẩn thỉu này và Kít-xin-giơ, giống như từ lúc mới bắt đầu, là kẻ bợ đỡ trung thành và cực kỳ tham lam của ông ta, chỉ quan tâm đến sự nghiệp riêng của mình trên tất cả. Cuối tháng 10, Tổng thống đã làm cho ông ta lúng túng và dọa dẫm ông ta nên ông ta không dám tỏ ra độc lập nữa. Những hành động của Ních-xơn bộc lộ tất cả tính chất tai ác đến việc ông ta phải rời nhiệm vụ. Quyền lực đã làm cho Tổng thống mê mẩn tâm thần.

Thiệu là người đầu tiên cảm thấy chua xót, ngay dù cho vũ khí và tiền của tuôn nhiều hơn vào Việt Nam cộng hòa. Nhưng Thiệu không phải là vấn đề cơ bản bởi vì thái độ của ông ta đối với thương lượng luôn luôn là rõ ràng và ông ta không giấu giếm gì chiến lược "bốn không” của ông ta để cản trợ sự thực hiện bất kỳ một hiệp định nào. Điều rất cần cho ông ta là có vũ khí và tiền của để phá hoại hiệp định, và những thứ đó ông ta đang nhận được. Thiệu chắc chắn không thể đề ra chính sách cho Nhà Trắng vào lúc này hay lúc khác, bởi vì mọi người đều biết rằng ông ta không thể tồn tại nếu không có tiền Mỹ. Ông ta chỉ được dùng như một cái cớ thích hợp cho sự trì hoãn của Mỹ.

Ngày 29 tháng 10 Ních-xơn nói với Thiệu "ông không được nuôi dưỡng ảo tưởng rằng chính sách của tôi muốn đạt một nền hòa bình, sớm sẽ thay đổi sau cuộc bầu cử”. Ngày 8 tháng 11, ông ta nói rằng trong khi tìm cách đạt những thay đổi trong "một hiệp định mà chúng tôi đã xem là rất tốt" Mỹ sẽ giữ vững nó. Ngày càng tức giận vì một chiến dịch chống hiệp định mà Thiệu đã tổ chức ra, Ních-xơn cảnh cáo Thiệu ngày 29 tháng 10, rằng nếu "quá trình nguy hiểm mà chính phủ ông đang theo đuổi" mà còn tiếp tục thì sẽ "không tránh khỏi việc cắt kinh phí của Quốc hội".

Từ đó trở đi Tổng thống không tiếc lời về việc Quốc hội cắt kinh phí nếu Thiệu trở nên ngoan cố, và đưa ra những đe dọa giảm hoàn toàn viện trợ. Nhưng để làm dịu bớt những lời cảnh cáo đó, ngày 14 tháng 11, Ních-xơn viết cho Thiệu "ông được tôi tuyệt đối bảo đảm rằng nếu Hà Nội không tôn trọng những điều khoản của hiệp định này thì ý định của tôi là đưa ra hành động trả đũa nhanh chóng và nghiêm trọng". Những cam kết tương tự đã được nói chi tiết vế sau trong chương trình này, cũng đã được đưa ra cho Thiệu trong tháng giêng tiếp theo.

Ních-xơn đe dọa Thiệu ngày 23 tháng 11 rằng nếu ông ta chống lại hiệp định "tôi sẽ tiếp tục đi tới với bất kể giá nào". Những lời cảnh cáo Thiệu về hành động của Quốc hội không phải là những lời suông bởi vì, sau khi thăm dò bạn bè ở đó, Nhà Trắng kết luận cuối tháng 11 rằng Quốc hội sẽ thực sự cắt viện trợ nếu không hoàn thành được một giải pháp sau khi Quốc hội họp lại vào cuối tháng giêng. Vấn đề thực sự của Tổng thống là ông ta không còn thì giờ để trì hoãn nữa và Thiệu là người duy nhất chịu trách nhiệm. Vì những lý do phù phiếm và không nói ra, Ních-xơn đã không chịu tán thành ký một văn kiện mà ông ta ủng hộ mạnh mẽ về nguyên tắc nên bây giờ phải giải quyết một thế khó xử lớn.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 23 Tháng Chín, 2008, 10:24:13 am
CUỘC NÉM BOM LỄ GIÁNG SINH VÀ VIỆC KÝ HIỆP ĐỊNH PA-RI

Nhà Trắng muốn Việt Nam dân chủ cộng hòa giải quyết khó khăn của họ, và họ đi tìm được cách thuyết phục người Việt Nam nối lại các cuộc hội đàm ngày 20 tháng 11. B.52 vào lúc đó ném bom tàn bạo phía nam vĩ tuyến 20, cho nên đe dọa duy nhất còn lại là ném bom phía bắc vĩ tuyến đó. Biết rõ chỗ mạnh và chỗ yếu của mình, nên khi những người Mỹ lừa lọc đưa ra một bảng kê dài các yêu cầu thay đổi mà một số có tầm quan trọng cơ bản, thì Đảng chấp nhận những điểm nhỏ, nhưng do dự với những điểm còn lại. Lập trường cơ bản của họ là văn kiện tháng 10 phải được ký nguyên vẹn. Cũng trong những tuần đó, họ sơ tán hai thành phố lớn nhất khi Kít-xin-gơ đe dọa ném bom.

Điều nổi bật trong lúc này là tính chất không tưởng của cố gắng Ních-xơn nhằm đạt tại bàn thương lượng cái mà Mỹ đã không làm được trong mười năm tại chiến trường. Rõ ràng không có vấn đề Hà Nội tin ở người Mỹ trước việc họ nuốt lời đối với hiệp định tháng 10, họ chuyển vũ khí ào ạt cho Thiệu và việc họ đẩy mạnh ném bom.

Danh tiếng và sự nghiệp của Kít-xin-giơ đang được thử thách. Ông ta nghĩ rằng nếu chấp nhận văn bản tháng 10 thì đe dọa trở lại chiến tranh bằng không quân sẽ bị tiêu tan. Sau một thời gian muốn đạt được hòa bình trong tháng 10, bây giờ ông ngả qua phía cực đoan khác và tán thành tăng sức ép quân sự. Ông ta cũng tìm cách để vận động người Trung Quốc và người Nga ảnh hưởng đến Việt Nam dân chủ cộng hòa, ngụ ý chắc chắn rằng ném bom bắc vĩ tuyến sẽ được nối lại nếu Việt Nam dân chủ cộng hòa không ủng hộ và chấp nhận các yêu cầu của Mỹ. Tuy nhiên, người Xô-viết chỉ đồng ý chuyển những đề nghị của Việt Nam dân chủ cộng hòa, không cho biết có thể giúp ích gì vào lúc nào, Lê Đức Thọ không những không đòi trở lại hiệp định tháng 10 mà còn giữ Mỹ lại bàn thương lượng với những thỏa hiệp nhưng ít hơn nhiều so với yêu cầu của Kít-xin-giơ.

Còn Kít-xin-giơ thì tuy không sẵn sàng đưa ra bất kỳ thỏa hiệp nào, nhưng cũng như Tổng thống tin rằng Quốc hội sẽ chấm dứt cuộc chiến tranh nếu Nhà Trắng không làm được, và bây giờ Kít-xin-giơ đề nghị ném bom và rải mìn Hải Phòng và Hà Nội. Tổng thống biết rằng ông ta đang gặp khó khăn nghiêm trọng trong việc duy trì kiểm soát chính trị trong nước, và khi ông ta chỉ thị cho Kít-xin-giơ cắt đứt hội đàm tại Pa-ri ngày 13 tháng 12 bằng việc đưa ra những yêu cầu không thể chấp nhận được để khiêu khích Lê Đức Thọ, thì ông ta đã tránh xa thế giới bên ngoài. Từ đầu tháng 10, ông ta chấm dứt các cuộc họp báo và ông ta chỉ giới hạn những tiếp xúc hàng ngày của mình với Ơ-li-sơ-man, Hon-đô-man, và Kít-xin-giơ là những người giúp làm cho ông ta đỡ căng thẳng trong cuộc khủng hoảng lớn nhất của nhiệm kỳ tổng thống.

Ngày 16 tháng 12 Kít-xin-giơ gặp các nhà báo và cố tránh những vấn đề cụ thể của các vấn đề ở Pa-ri. Cũng vào lúc này Tổng thống tán thành nối lại cuộc ném bom và ngày 18 tháng 12 Ních-xơn cho phép ném bom Hà Nội và Hải Phòng; ông ta không ngờ có một cơn phẫn nộ mãnh liệt bởi vì các cuộc leo thang trong những tháng trước hầu như không bị phản ứng. Trước đó Kít-xin-giơ tính toán rộng: "Chúng tôi đã làm mọi thứ chúng tôi có thể làm đối với Bắc Việt Nam chỉ trừ việc ném bom ào ạt bằng B.52 vào phần ba ở phía bắc...".

Mười hai ngày ném bom kéo dài vào khu vực Hà Nội - Hải Phòng là nhằm để hăm dọa và khủng bố Việt Nam dân chủ cộng hòa đối với tương lai nhưng đồng thời cũng gây sức ép với người Nga và Trung Quốc để họ buộc Việt Nam dân chủ cộng hòa vào quỹ đạo. Nói chung lúc đó mọi người kể cả không quân đều thừa nhận rằng B.52 là rất không chính xác và việc ném bom không có tác dụng quân sự lâu dài.
Nếu xét phía Mỹ thì khu vực Hà Nội - Hải Phòng là vào loại được bảo vệ tốt nhất của thế giới. Không quân Việt Nam dân chủ cộng hòa bây giờ là sung sức tuyệt vời. Không quân Mỹ làm việc quá sức sau những tháng hoạt động căng thẳng, thiếu sự yểm trợ của không quân chiến thuật và thiếu trang bị phòng thủ.

Sự phối hợp giữa không quân chiến lược và chiến thuật cũng rất kém vì sự mất tinh thần lan rộng do triển vọng hòa bình trước mắt và do làm việc quá sức gây ra. Kỷ luật là một vấn đề nghiêm trọng ngày càng tăng. Khi B52 bất đầu 12 ngày khủng khiếp, thì Việt Nam dân chủ cộng hòa đã để ra ba tuần trước đó để chuẩn bị đón chúng, sơ tán hơn nửa triệu người của riêng Hà Nội. Khi các máy bay bắt đầu hoạt động, chúng đã gây ra thương vong đáng sợ cho các mục tiêu dân sự nhưng đồng thời cũng phải chịu trả một giá chưa từng có.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 23 Tháng Chín, 2008, 10:24:59 am
Phản ứng đầu của chính quyền Mỹ là giảm đến mức tối thiểu con số về những tổn thất của khu vực dân sự Việt Nam dân chủ cộng hòa và của không quân Mỹ nhưng cả hai cách trình bày đều không chính xác. Khoảng hai trăm B.52 được dùng trong các cuộc tiến công, còn không quân chiến thuật bảo vệ thì thiếu đến mức mà các phi công B.52 coi là quá đáng. Hãy thừa nhận mười lăm B.52 bị bắn hạ, trong khi Việt Nam dân chủ cộng hòa đưa ra con số ba mươi tư. Ít nhất sáu B.52 không thể bay lại được và một số nhân viên Lầu Năm Góc thừa nhận không chính thức rằng số máy bay bị mất là gần với con số của Việt Nam dân chủ cộng hòa đưa ra, đó là chưa kể máy bay chiến thuật mà Việt Nam dân chủ cộng hòa khoe là đã hạ bốn mươi bảy chiếc.

Điều gây lúng túng cho Mỹ là Việt Nam đã bắt bốn mươi tư phi công Mỹ. Một sĩ quan thừa nhận: "Chúng tôi đã mất nhiều máy bay và tôi không nghĩ rằng chúng ta thấy trước được cái giá cao như vậy". Ngay với tổn thất mà họ thừa nhận thì cũng có nghĩa là tỷ lệ tổn thất của B.52 là trên 10 phần trăm trong mười ngày, một con số cao hơn con số mà các phi công có thể chấp nhận được và do đó mà làm cho họ mất tinh thần. Chính quyền rêu rao rằng Hà Nội phải quỳ gối, tên lửa đất đối không (SAM) đã cạn, nhưng điều chắc chắn hơn là lực lượng không quân Mỹ không thể hoạt động lâu hơn nữa. Vì những lý lẽ vững chắc Việt Nam dân chủ cộng hòa xem cuộc chiến đấu trên Hà Nội là một chiến trường vĩ đại.

Tất cả điều mà cuộc ném bom lễ Giáng sinh đưa lại là cô lập chính quyền Mỹ về mặt chính trị và đặt nó vào thế phòng ngự. Đa số báo Mỹ xem cuộc ném bom này là kinh tởm trong lễ Giáng sinh: ý kiến của tờ Thời báo Niu Yoóc là "sự khủng bố trên một quy mô chưa từng thấy". Phản ứng trong những nước thường là thân Mỹ cũng rất nghiêm trọng. Bốn mươi lăm trong số bảy mươi ba thượng nghị sĩ được hỏi ý kiến sau khi cuộc ném bom bắt đấu, đã chống lại nó và chỉ mười chín tán thành. Bốn mươi lăm tự tuyên bố sẵn sàng ủng hộ đạo luật chấm dứt chiến tranh. Tổng thống không còn cách gì hơn là ra lệnh, chấm dứt ném bom bắc vĩ tuyến hai mươi ngày 30 tháng 12.

Vào đầu tháng giêng cả Thượng lẫn Hạ viện đều bỏ phiếu cắt kinh phí quân sự cho Việt Nam, kể cả chính phủ Việt Nam cộng hòa. Ngay khi chiến lược dùng ném bom để gây sức ép Trung - Xô đối với Hà Nội đã thất bại, Kít-xin-giơ vẫn còn lập luận rằng "nếu lời tiên đoán" của các chuyên gia chúng ta là đúng thì Mát-xcơ-va và Bắc Kinh đang gây sức ép với Hà Nội. Rõ ràng hơn là sự lên án công khai của Brê-giơ-nép gọi cuộc chiến tranh là "dài nhất và bẩn thỉu nhất" trong lịch sử Mỹ, một sự lên án đe dọa cả quá trình diễn biến của các quan hệ Xô - Mỹ.

Các phóng viên nghĩ rằng đã có những dấu hiệu rõ rệt của những thảo luận giữa Liên Xô và Việt Nam dân chủ cộng hòa về viện trợ quân sự lúc đó. Có ý kiến cho ràng Brê-giơ-nép sẽ vì vấn đề Việt Nam mà hoãn chuyến đi Mỹ đã được dự định. Một cuộc họp tập hợp quần chúng ở Bắc Kinh chống Mỹ có Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Chính phủ Cách mạng lâm thời Nguyễn Thị Bình phát biểu và Chu Ân Lai và vợ Mao tham dự, đã được đưa nổi bật trên báo chí Trung Quốc. Tiên đoán của Kít- xin-giơ củng cố thêm những ảo tưởng của ông ta và của Tổng thống, nhưng điều chắc chắn hơn là các đồng minh đã tập hợp lại để ủng hộ Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Điều duy nhất mà Nhà Trắng đã làm là tỏ ra có đầy đủ khả năng để dùng sức mạnh không quân hòng ép buộc một hiệp định hòa bình. Đó là mục tiêu chủ yếu của việc ném bom, Ních-xơn muốn một mình Mỹ có "khả năng đơn phương chống vi phạm" cũng như duy trì "lòng tin vào việc kiểm soát hiệp định". Để chứng minh rằng việc trì hoãn là đáng giá, chính quyền lập luận và cảm thấy rằng trở lại các điều khoản tháng 10 sẽ làm tiêu tan hình tượng của quyết tâm Mỹ. Vấn đề duy nhất là thế giới đã trở nên phức tạp hơn nhiều so với điều mà Ních-xơn và Kít-xin-giơ đã suy nghĩ, và Tổng thống mới được bầu cử đã tỏ ra với tất cả mọi người là một con người rất đáng sợ và vô cùng nguy hiểm. Hình ảnh đó không hề bao giờ mất đi được.

Khi các cuộc thương lượng bắt đầu lại ở Pa-ri ngày 2 tháng giêng chính quyền Mỹ lâm vào một vị trí tương đối yếu hơn nhiều. Quốc hội bây giờ bước vào cuộc chiến một cách quyết định và Nhà Trắng không còn có thể vừa vì lý do chính trị vừa vì lý do kỹ thuật mà nối lại các cuộc tiến công bắc vĩ tuyến 20 nữa. Ních-xơn cũng muốn nhanh chóng có một hiệp định hòa bình và sẵn sàng chấp nhận dự thảo tháng 10. Chỉ Kít-xin-giơ còn muốn bòn thêm vài nhượng bộ gỡ thể diện để bào chữa cho nỗi thống khổ của Mỹ đã gây ra cho Việt Nam dân chủ cộng hòa vào lễ Giáng sinh. Thiệu thì chỉ đơn giản bị gạt ra một bên.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 23 Tháng Chín, 2008, 10:25:35 am
Trong các cuộc thương lượng tháng 11 và tháng 12, cả hai bên đưa ra và rút lại nhiều thay đổi, nhưng không thay đổi nào ảnh hưởng đến thực chất của hiệp định tháng 10. Những thay đổi cách viết có tính chất trang trí được thông qua nhanh chóng ở Pa-ri, và không phải là lời lẽ mà là ý định sẽ xác định sự thực hiện hiệp định. Mỹ đã giành được những câu, đoạn mà họ cho là tốt hơn, nhưng cuối cùng chỉ ảnh hưởng đến hình thức chứ không phải thực chất, Mỹ không đạt được sự gạt bỏ Chính phủ Cách mạng lâm thời ra khỏi những đoạn đó, có nghĩa là ngụ ý thừa nhận sự tồn tại của chính phủ đó, nhưng khi văn bản cuối cùng được hoàn thành thì Ních-xơn tuyên bố công khai rằng Mỹ thừa nhận Việt Nam cộng hòa như là "chính phủ hợp pháp duy nhất của Nam Việt Nam", nổi lên rằng Mỹ sẽ áp dụng một số điều khoản của hiệp định mà họ ủng hộ và bỏ qua phần còn lại. Rõ ràng chính quyền Mỹ bây giờ muốn giải quyết theo các điều khoản của tháng 10.

Về sau Kít-xin-giơ đặt câu hỏi: "Các điều thay đổi có đủ ý nghĩa để bào chữa cho nỗi thống khổ và sự cay đắng của những tháng cuối cùng của cuộc chiến tranh không? Có lẽ là không đối với chúng ta; hầu như chắc chắn là có đối với Sài Gòn. Rõ ràng, chúng tôi nghĩ rằng hiệp định tháng 10 là đầy đủ...". Nhưng Sài Gòn không đạt được điều họ muốn, tức là không có hiệp định nào, và không ai ở Oa-sinh-tơn nghĩ rằng nó sẽ bỏ chính sách "bốn không” nhất là bây giờ nó có vô số vũ khí để thực hiện chính sách đó. Thiệu được dùng làm lý do hợp lý duy nhất cho cuộc ném bom lễ Giáng sinh, được sử dụng như một đe dọa cho Việt Nam dân chủ cộng hòa trong tương lai cũng như một sự khẳng định với thế giới ý muốn, thậm chí sự tha thiết của Tổng thống duy trì hình ảnh sẵn sàng sử dụng sức mạnh quân sự của Mỹ.

Thực chất của Hiệp định Pa-ri là nó tách các vấn đế quân sự và chính trị ra khỏi nhau, các vấn đề quân sự thì rất cụ thể và các vấn đề chính trị thì còn phải thương lượng thêm trong tương lai để thực hiện. Mỹ tìm cách rút được quân cuối cùng của mình và được trao trả tù binh mà không phải thừa nhận thất bại quân sự của hai thập kỷ cố gắng. Cách mạng muốn đẩy Mỹ ra khỏi nước và đã đạt được. Cách mạng cũng tìm cách hạ mức viện trợ quân sự cho Việt Nam cộng hòa trên cơ sở một đổi một và hủy bỏ các căn cứ Mỹ do đó mà thay đổi so sánh lực lượng quân sự. Điều này Cách mạng cũng đạt được trên giấy tờ.

Toàn bộ văn kiện bây giờ phụ thuộc vào ý đồ và các mục tiêu thực tế của mỗi bên và vào quá trình phức tạp của chiến tranh và quyền lực mà chúng phản ánh, nhưng những then chốt của hiệp định tạo ra một tiêu điểm cho việc thảo luận và cho các sự kiện về sau. Một cuộc ngừng bắn sẽ có hiệu lực ngày 27 tháng giêng với sự ký kết chính thức. Trong vòng sáu mươi ngày Mỹ phải rút vũ khí và nhân viên quân sự của mình và tháo gỡ các căn cứ, và hai bên sẽ trao đổi các binh sĩ bị bắt của nhau. "Mỹ sẽ không tiếp tục sự dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam".

Ban liên hiệp quân sự tạm thời bốn bên đã được thành lập để ngăn chặn việc nối lại chiến tranh ở miền Nam giữa các khu vực kiểm soát hỗn hợp trên khắp đất nước, nhưng nguyên tắc nhất trí làm cho nó trở thành bất lực. Một nghị định riêng thành lập ủy ban quốc tế kiểm soát và giám sát gồm có Ca-na-đa, Hung-ga-ri, Ba Lan và In-đô-nê-xi-a làm cho tình hình thêm phức tạp. Ủy ban này giám sát cuộc ngừng bắn và cũng theo nguyên tắc nhất trí. Không bao giờ nó có thể làm chức năng một cách nghiêm túc được.

Về mặt chính trị hiệp định quy định một Hội đồng quốc gia hòa giải và hòa hợp dân tộc gồm Chính phủ Cách mạng lâm thời, Việt Nam cộng hòa và một Lực lượng thứ ba, nhưng nó cũng vậy cũng đòi hỏi sự nhất trí trong việc phấn đấu cho "quyền tự quyết", cho tuyển cử tự do và dân chủ dưới sự giám sát quốc tế và nhiều điều khác có vẻ đáng mừng nhưng chẳng có quan hệ gì với điều có thể xảy ra. Tuy nhiên việc có nhiều tổ chức để thực hiện hiệp định tạo ra điều kiện để cho Việt Nam cộng hòa luôn luôn có tiếp xúc với Chính phủ Cách mạng lâm thời. Quan trọng nhiều hơn nữa tất nhiên là việc các đại diện Chính phủ Cách mạng lâm thời có quyền có mặt trên khắp đất nước.

Một vấn đề rất trọng yếu giữa họ với nhau là việc thả các tù dân sự, mà Chính phủ Cách mạng lâm và Việt Nam cộng hòa phải "làm hết sức mình" để giải quyết trong vòng chín mươi ngày sau khi ngừng bắn có hiệu lực, nhưng không có biểu thời gian bắt buộc và đó là vấn đề trở thành một nguồn gốc quan trọng của tranh chấp. Điều 21 của hiệp định yêu cầu Mỹ "đóng góp vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh và công cuộc xây dựng sau chiến tranh" của Việt Nam dân chủ cộng hòa, một thủ đoạn mặc cả của Mỹ mà kỳ lạ thay, Việt Nam dân chủ cộng hòa lại chấp nhận một cách nghiêm chỉnh hơn là thái độ thực tế của mình trong quá khứ đã có thể cho phép.

Nhìn chung lại tất cả, trong hiệp định và các nghị định thư ký tại Pa-ri, Mỹ rõ ràng cam kết rút ra khỏi Nam Việt Nam. Mặc dù câu chuyện rắc rối xảy ra sau đó, Mỹ đã rút phần lớn nhân viên còn lại của họ; và, quan trọng nhiều hơn nữa Mỹ không còn được đưa thêm quân vào. Còn đối với phần lớn còn lại, các sự kiện chứng minh rằng các cuộc chiến tranh cách mạng không chấm dứt bằng ngoại giao.



Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 23 Tháng Chín, 2008, 10:27:01 am
NHỮNG MONG CHỜ VÀ THỰC TẾ CÁCH MẠNG

Nhiệm vụ khó khăn dự tính các giai đoạn tiếp theo của cuộc chiến tranh đã choán tâm trí các nhà lãnh đạo Đảng suốt mùa thu 1972. Mỗi một sự trì hoãn ký hiệp định buộc họ phải xem xét những triển vọng luôn luôn theo đuổi của tình hình. Quân đội Việt Nam cộng hòa đã bị đánh bại nặng nề trong mùa xuân, nhưng vào tháng 11, họ được vũ trang tốt hơn bao giờ hết, và tinh thần sa sút và sự lãnh đạo yếu kém của họ có thể không hoàn toàn phủ định hỏa lực của họ. Ngược lại các lực lượng Cách mạng đã kiệt hàng cung cấp, bị mệt mỏi, chưa bổ sung được cho những tổn thất trước đó.

Ước tính của Mỹ về quy mô các lực lượng cách mạng miền Nam là khoảng từ 219.000 đến 308.000 trong khi các lực lượng vũ trang Việt Nam cộng hòa về danh nghĩa có gần 1,1 triệu quân trang bị tuyệt vời. Trong khi những con số này không khác bao nhiêu những ước tính trong năm năm trước, nhưng có một thực tế là quân đội chiến thắng lại tạm thời kém khả năng tiếp tục chiến đấu hơn đội quân bại trận.

Về mặt chính trị, tình hình nhanh chóng diễn biến theo hướng chống lại Thiệu, và Đảng tin rằng chiều hướng đó sẽ tiếp tục. Tình trạng bị động là một vấn đề lớn của Cách mạng trong các đô thị cho đến mùa xuân năm 1972, nhưng sự tăng cường đàn áp của Thiệu đã đoàn kết một loạt các nhóm rời rạc và chưa hoàn toàn thành hình thuộc các thành phần giai cấp giữa, sinh viên và tôn giáo, chống lại Thiệu hơn bao giờ hết. Nhiều người trong số đó thấy rằng Mặt trận Dân tộc Giải phóng đã không bị đánh bại về quân sự và rất có nhiều khả năng thắng tốt. Ngoài những người cơ hội, có một số càng ngày càng tăng những người, nông thôn cũng như thành thị, thấy rằng hòa bình sẽ không đến nếu không có một chế độ hòa giải hơn ở Sài Gòn, nghĩa là phải gạt Thiệu.

Sự chống đối Thiệu bắt đầu đoàn kết tất cả những thành phần có động cơ nhiều mặt đó lại với nhau. Lực lượng thứ ba ngày càng tăng nhưng mất đoàn kết thường xuyên đã tập hợp sau năm 1971 quanh các vấn đề hòa bình và đàn áp và có phần cấp tiến hơn phe chống đối Phật giáo mà Mỹ đã khéo léo cộng tác. Khu vực đô thị nơi mà Mặt trận Dân tộc Giải phóng còn yếu nhất từ năm 1968, bây giờ tỏ ra rất hứa hẹn. Đảng tin rằng một hình thức mặt trận đoàn kết nào đó sẽ xuất hiện có lẽ dựa vào công thức ba thành phần còn chưa rõ ràng của Hiệp định Pa-ri, như là một giai đoạn "dân chủ dân tộc" có thể kéo dài và chuyển tiếp đến việc nắm quyền lực hoàn toàn.

Trong tháng 10, Đảng chỉ thị cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng chuẩn bị thực hiện hiệp định, tránh chiến đấu với quân đội Việt Nam cộng hòa nếu được, trừ việc cố chiếm càng nhiều điểm càng tốt và cắm cờ Mặt trận trước khi ngừng bắn... Cuộc đấu tranh sẽ chủ yếu là chính trị và bao gồm những cố gắng làm mất tinh thần và tan rã các đơn vị quân đội Việt Nam cộng hòa. Khi việc ký ngày 31 tháng 10 không xảy ra, Trung ương Cục ra lệnh cho các đơn vị tôn trọng mọi ngừng bắn nếu được ký và đợi chỉ thị, và có lẽ trong hai tháng tiếp theo, không đưa ra thêm chỉ thị nào.

Nhiều tổ chức địa phương, như trong quá khứ, bắt đầu đối phó với tình hình với cách mà họ cho là tốt nhất. Trong thời gian này, các lực lượng cách mạng, cũng như quân đội Việt Nam cộng hòa và phi công Mỹ, chiến đấu càng ít càng tốt và đã cùng nhau đạt được một số thỏa thuận "sống và để nhau sống" ở địa phương. Nhiều người trở nên hoang mang, và một số mất tinh thần.

Mặt khác, Thiệu rất quyết liệt về kế hoạch của ông ta trong giai đoạn này. Người anh em hùng mạnh và cố vấn thân cận nhất của ông ta Hoàng Đức Nhã nói với một phóng viên Mỹ: "Họ tìm cách cắt cổ chúng tôi, nên chúng tôi có quyền cất cổ họ". Việt Nam cộng hòa sử dụng báo chí và vô tuyến truyền hình để nhắc nhở toàn dân trong tháng 10 rằng ai là cộng sản hoặc giúp cộng sản sẽ bị phạt tù, tịch thu tài sản và giết chết. Không hề có nghi ngờ gì rằng ngay dù cho Thiệu có ký một hiệp định hòa bình, ông ta cũng sẽ không thi hành.

Ngay khi các hiệp định được ký kết tháng giêng. Thiệu ra lệnh cho các tỉnh trưởng bắt tất cả những người tình nghi chính trị và cho phép cảnh sát "bắn những kẻ gây rối" tại chỗ. Một chương trình đàn áp rộng rãi được vạch ra trong báo chí của Thiệu và, trước hết Việt Nam cộng hòa chuẩn bị không để cho những người tị nạn trở về các làng cộng sản.

Các nhà lãnh đạo Đảng tin rằng Việt Nam cộng hòa giảm sút nhanh chóng về chính trị và suy yếu về kinh tế. Còn Mặt trận thì mạnh lên về chính trị ở đồng bằng sông Cửu Long và thậm chí ở Sài Gòn sau những ngày ảm đạm của những năm 1969-1971. Họ thống nhất với nhau rằng một sự đổi mới quân đội cách mạng cả về trang bị lẫn về tinh thần đòi hỏi phải có một thời kỳ chuyển tiếp trong đó Đảng sẽ nhấn mạnh hoạt động chính trị và xác định xem hiệp định có được thi hành và Mỹ có chấm dứt ném bom hay không. Đảng hoan nghênh Hiệp định Pa-ri như một thắng lợi lớn làm thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho họ và giúp họ tranh thủ thời gian phát triển sức mạnh chính trị và quân sự của mình.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 23 Tháng Chín, 2008, 10:28:08 am
NHỮNG MONG CHỜ VÀ THỰC TẾ:
MỸ

Thiệu nói rõ ngay từ đầu rằng ông ta không chấp nhận những yêu sách chính trị của Đảng Cộng sản, càng ít chấp nhận hoạt động của họ. Không ai ở Oa-sinh-tơn chờ mong điều gì khác hơn. Xem Hiệp định Pa-ri chỉ là một cuộc ngừng bắn, ông ta khẳng định rằng hiệp định thừa nhận Việt Nam cộng hòa là chính phủ duy nhất của Nam Việt Nam, một luận điệu mà Ních-xơn đã công khai củng cố vào cuối tháng giêng. Sự tăng cường đàn áp của ông ta đầu năm 1973 đã được thấy trước ở Oa-sinh-tơn.

Mỹ đã gây mọi sức ép để Thiệu ký hiệp định, nhưng một khi Thiệu đã ký, thì họ cho Thiệu mọi phương tiện để vi phạm hiệp định. Thiệu ngăn cản có hệ thống ngay từ đầu công việc của Ban liên hiệp quân sự bốn bên. Ngoài việc ném bom và hầu như tiêu diệt phái đoàn chính phủ Cách mạng lâm thời trong Ban liên hiệp trong dịp Tết 1973, thỉnh thoảng Thiệu cũng không chịu giúp phái đoàn Mỹ.

Cố gắng của Nhà Trắng duy trì quân đội Việt Nam cộng hòa trong điều kiện cao nhất đã khuyến khích ảo tưởng vô cùng tai họa của Thiệu rằng ông ta có khả năng giải quyết cuộc chiến tranh bằng sức mạnh vũ khí, tuy rằng trên thực tế phần đông các cố vấn quân sự Mỹ biết rằng đó là việc hết sức phù phiếm.

Mùa xuân năm 1972, khi việc rút quân cũng rút hết các nhà kỹ thuật cần thiết cho việc bảo quản trang bị tiên tiến nhất của quân đội Việt Nam cộng hòa, Lầu Năm Góc có kế hoạch thay bằng những cố vấn gọi là dân sự trên cơ sở thuê theo hợp đồng. Lầu Năm Góc muốn dùng những công dân không phải là Mỹ nếu được nhưng cuối cùng lại buộc phải dựa nhiều vào nhân viên quân sự Mỹ trước kia. Các chuyên gia quân sự Mỹ kết luận tháng 10 năm 1972 rằng trên mức độ cơ bản, một bộ phận lớn quân đội Việt Nam cộng hòa không thể bắn súng trường chính xác hoặc sử dụng súng máy tốt cho nên họ dùng đạn dược một cách quá mức. Họ không đủ khả năng bảo quản và sử dụng gần hai nghìn máy bay và, tám trăm xe tăng mà họ đã có vào cuối năm 1972. Hậu cần không quân của họ thiếu nhân viên đến 50 phần trăm. Họ cần khoảng một nghìn phi công. Các quân chủng khác cũng gặp những khó khăn đại loại như vậy.

Theo điều khoản của hiệp định Pa-ri, Mỹ phải giải tán Bộ chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ ở Sài Gòn và thay vào đó Mỹ đã thiết lập một cơ quan tùy viên quốc phòng (DAO) gồm 50 sĩ quan cộng với 1.200 dân sự Mỹ mà số đông là những sĩ quan cấp giữa và cấp cao đã về hưu. Việt Nam dân chủ cộng hòa tại Pa-ri tìm mọi cách để không cho thành lập đội quân trá hình đó nhưng đã không thành công. Bây giờ DAO hoạt động kín đáo vì nó đã vi phạm tinh thần và lời văn của hiệp định. Vì lý do đó số lượng của DAO không rõ ràng. Đầu tiên Lầu Năm Góc báo cáo con số dự định là 10.000, nhưng đến tháng 3 thì thừa nhận 7.200 nhân viên dân sự, nhưng khoảng 1.000 là nhân viên cơ quan phát triển quốc tế (AID). Chính phủ Cách mạng lâm thời thì tố cáo Mỹ có từ 10.000 đến 20.000. Sau đó thì Lầu Năm Góc thừa nhận đã thuê "trên" 23.000 trong tháng giêng qua hợp đồng, trong đó "trên" 5.000 là người Mỹ. Bất kể số lượng chính xác là bao nhiêu, cố gắng của Oa-sinh-tơn nhằm duy trì quân đội Việt Nam cộng hòa là rất lớn, vi phạm Hiệp định Pa-ri và làm cho Thiệu có khả năng sử dụng sức mạnh quân sự của mình.

Việc Mỹ và Việt Nam cộng hòa cùng nhau không tôn trọng hiệp định là điều chắc chắn và có tính toán trước. Trong khi Nhà Trắng theo chiến lược như vậy thì các nhà dân sự trong Lầu Năm Góc, đặc biệt là Le-đô, lo ngại rằng Mỹ tự đưa mình vào một tình hình nguy hiểm. Ý kiến của Le-đô được nhiều người khác chia sẻ và họ cảm thấy rằng dù có được giúp như thế nào, quân đội Việt Nam cộng hòa cũng không thể tiến lên được và sẽ cũng hoạt động tồi tệ hơn. Lập trường của Le-đô cho rằng đòi hỏi của Việt Nam cộng hòa là không giới hạn và đã đến lúc Mỹ phải rút ra khỏi Việt Nam.

Trong khi đó ngày 17 tháng giêng Tổng thống báo cho Thiệu rằng ông ta sẽ "công khai xác định" ba "bảo đảm" ngay sau khi Hiệp định Pa-ri được ký; một là Mỹ sẽ thừa nhận Việt Nam cộng hòa "như chính phủ hợp pháp duy nhất của Nam Việt Nam". Điều này có nghĩa là Mỹ từ bỏ tiền đề chính trị cơ bản của toàn bộ giải pháp, và tất nhiên là Thiệu sẽ không làm kém hơn. Hai là "chúng tôi không thừa nhận quyền của quân đội nước ngoài ở lại trên lãnh thổ Nam Việt Nam", một sự bác bỏ thậm chí nguy hiểm hơn nguyên tắc quân sự cơ bản của hiệp định. Và cuối cùng, "Mỹ sẽ phản ứng mạnh mẽ đối với các vi phạm của hiệp định". Nhìn chung lại, lời hứa đó cho thấy rằng Nhà Trắng đã bỏ những điểm thiết yếu của hiệp định, trừ những điểm có lợi cho họ và hiệp định như vậy đã chết khi còn trứng nước trừ điều khoản rút số quân Mỹ còn lại.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 23 Tháng Chín, 2008, 10:28:47 am
Để dụ dỗ Thiệu hơn nữa, Ních-xơn tán thành gửi cho Thiệu một công hàm đơn phương, bí mật và chi tiết nói lên các cách suy diễn đó về hiệp định, một công hàm mà Thiệu góp phần viết ra và đã đọc bản thảo nhưng không nhận được bản chính thức cho đến ngày ký hiệp định. Trong khi đó, Tồng thống cũng cho thấy rằng ông ta sẽ xác nhận lại ba bảo đảm chính trong một buổi phát thanh ngày 23 tháng giêng để đánh dấu ngày ký tắt hiệp định, nhưng trên thực tế, ông ta chỉ nói rõ bảo đảm thứ nhất. Diễn văn của At-niu tại Sài Gòn một tuần sau, không được chú ý lắm, nói rõ hai điểm đầu nhưng rất mơ hồ trong việc nối lại chiến tranh không quân.

Hơn nữa, đe dọa nối lại chiến tranh không quân không phải chỉ là một đe dọa để ve vãn Thiệu ký hiệp định, mà còn tránh cho Mỹ khỏi thua cuộc chiến tranh ở Việt Nam và mất "lòng tin" quốc tế vào chiến tranh hạn chế. Còn Kít-xin-giơ thì làm rõ tại một cuộc họp báo tuần tiếp theo rằng Mỹ tiếp tục để lực lượng không quân và hải quân của mình đóng gần để đề phòng "điều có thể xảy ra" và sự triển khai sẽ "tùy thuộc vào mức độ của sự nguy hiểm".

Tổng thống thật sự có ý định nối lại ném bom B.52 chống lại Việt Nam dân chủ cộng hòa và nhất là Hà Nội, nếu những người Cộng sản làm điều gì mà ông ta cho đáng với sự trừng phạt đó. Ngày 26 tháng 3, để đáp ứng với quyết định của Ních-xơn, Lầu Năm Góc xin Quốc hội chuẩn chi 225 triệu đô-la để chuẩn bị khoảng 120.000 tấn bom dành cho Việt Nam "để giữ cho khu vực được ổn định". Bộ trưởng Quốc phòng Ri-sat-xơn, khi Thiệu sắp đi Ca-li-phoóc-ni-a để gặp Ních-xơn ngày 1 tháng 4, đã công khai nói về việc có thể nối lại cuộc ném bom.

Thiệu rất thích thú với chuyến đi của mình bởi vì không những ông ta chứng minh cho những người chống đối trong nước rằng ông ta có sự ủng hộ và viện trợ của Mỹ mà còn được Tổng thống cam kết đưa không lực trở lại chiến tranh nếu Cộng sản tiến hành một cuộc tiến công lớn. Nhưng Thiệu phải thông qua Sứ quán Mỹ để yêu cầu sự yểm trợ không quân của Mỹ.

Nhưng sau tháng 8, khi Quốc hội quyết định cấm chiến tranh không quân trên khắp Đông Dương, thì quân đội Việt Nam cộng hòa phải đủ sức kéo dài cuộc chiến đấu để Tổng thống có mười lăm ngày cần thiết xin sự thỏa thuận của Quốc hội. Một hệ thống "dây nóng" giữa bốn vùng chiến thuật của quân đội Việt Nam cộng hòa cũng như giữa bộ tổng tham mưu ở Sài Gòn với Bộ chỉ huy yểm trợ của Mỹ ở Thái Lan đã hoạt động được đầu năm 1974. Do đó Thiệu có mọi lý lẽ để chờ đợi sự can thiệp không quân của Mỹ, và cho đến Oa-tơ-ghết, có khả năng thật sự rằng Ních-xơn sẽ đưa B.52 trở lại vào cuộc chiến tranh.

Hành động của Thiệu phản ảnh sự bảo đảm đó và ông ta có thể tùy ý vi phạm hiệp định bởi vì ông ta tin rằng Mỹ sẽ cứu nếu Việt Nam dân chủ cộng hòa phản ứng lại bằng quân sự. Lòng tin kéo dài cho đến khi Ních-xơn rời Nhà Trắng và không bao giờ Thiệu từ bỏ nó. Ông ta cho rằng không thể tưởng tượng được sau hai thập kỷ dính líu, Mỹ sẽ để cho Cộng sản chiếm quyền mà không sử dụng không lực hùng mạnh của mình để ngăn chặn. Ních-xơn cũng nghĩ như vậy.

Cũng quan trọng như việc đe dọa nối lại cuộc chiến tranh không quân, Oa-sinh-tơn cho rằng các quan hệ khéo léo của Ních-xơn với Trung Quốc và Liên Xô sẽ cản trở hành động của Cách mạng, ít ra là bằng sức ép và giảm viện trợ. Nhiều thành viên của chính quyền Mỹ tin rằng tình hình nguyên trạng sẽ tiếp tục được duy trì. Xơn-li-ven quy sự hợp tác của Trung Quốc vào ý của họ muốn có một Đông Dương Ban-căng hóa, thoát ra khỏi sự kiểm soát của Việt Nam dân chủ cộng hòa và không sẵn sàng chấp nhận ảnh hưởng của Liên Xô, đó là lập luận mà ông ta giữ đến cuối năm 1973.

Nhìn chung lại Mỹ cho rằng chiến tranh đã trở thành một vấn đề thời gian, mà họ cho là có lợi cho phía họ. Với miếng mồi viện trợ kinh tế, với sự đe dọa trở lại cuộc chiến tranh, với sự giúp đỡ Trung - Xô và với vũ khí và sức mạnh của Thiệu, chính quyền Ních-xơn chắc rằng họ đã thực hiện chính sách chấm dút chiến tranh trong bốn năm qua với những điều kiện xem như là một thắng lợi "danh dự".
Hòa bình được công nhận là không chắc chắn, nhưng Nhà Trắng tin rằng có thể dành bốn năm tiếp theo cho cái mà Kít-xin-giơ gọi là "mối ám ảnh quốc gia của chúng ta" và có thể bỏ lại đằng sau những căng thẳng và xung đột khủng khiếp. Oa-sinh-tơn có thể nghĩ đến "một chính sách đối ngoại toàn cầu" một lần nữa.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 25 Tháng Chín, 2008, 09:30:14 pm
PHẦN SÁU
CUỘC KỦNG HOẢNG CỦA VIỆT NAM CỘNG HÒA VÀ SỰ KẾT THÚC CHIẾN TRANH, 1973 - 1975

chương ba mươi lăm
CÁN CÂN LỰC LƯỢNG Ở NAM VIỆT NAM, ĐẦU NĂM 1973, VÀ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC CHÍNH SÁCH CỦA VIỆT NAM CỘNG HÒA

CÁN CÂN LỰC LƯỢNG ĐẦU NĂM 1973

Vào đầu năm 1973, cả Cách mạng lẫn Việt Nam cộng hòa đều có ý thức sâu sắc về những điểm yếu quân sự của chính mình. Tuy vậy, cán cân lực lượng quân sự bây giờ chuyển sang phía Cộng sản một cách không sao đảo ngược được.

Vào lúc ký Hiệp định Pa-ri, Việt Nam cộng hòa có một ưu thế trang bị áp đảo, nhưng tình hình như vậy cũng đã xảy ra đầu năm 1971 và mùa xuân năm 1972 và trong cả hai trường hợp, chỉ có sự can thiệp của Mỹ mới cứu vãn nổi Việt Nam cộng hòa ra khỏi thảm họa, Việt Nam cộng hòa chủ yếu là thất bại chủ nghĩa bị tinh thần và kỷ luật sa sút, trong khi Cách mạng tạm thời bị kiệt sức về vật chất và thể lực, nhưng có sức hồi phục cao, và với một khả năng vô cùng rộng lớn và với thời gian, Cách mạng sẽ trở thành lực lượng chiến đấu thắng lợi.

Điểm nút của thế tiến lui đều khó của Việt Nam cộng hòa là chiến lược và sự cố kết nội bộ của họ. Bằng việc cung cấp cho Thiệu vô số vũ khí và đưa ra một bảo đảm rõ ràng bằng miệng là sẽ trở lại chiến tranh, chính quyền Ních-xơn đã khuyến khích nhà độc tài hung hăng sử dụng quân đội của mình. Cả Thiệu lẫn Mỹ đều xem Hiệp định Pa-ri không hơn gì một sắp xếp quân sự, có lẽ không hơn gì một sự tạm nghỉ mà thực chất phụ thuộc vào mức độ đe dọa không lực của họ. Thiệu không hề bao giờ tin rằng một mình ông ta có thể đối phó với một cuộc tiến công quân sự lớn của Cách mạng, và ông ta cùng các sĩ quan cho rằng Mỹ sẽ can thiệp trong trường hợp đó để cứu họ.

Vấn đề cơ bản của Cách mạng vào đầu năm 1973 không phải chỉ vì Thiệu mạnh mà vì Cách mạng cần thời gian để củng cố lực lượng của mình nhầm đối phó với thực tế đó. Sau Hiệp định Pa-ri, Cách mạng tạm thời giữ thế phòng ngự không phải vì thắng lợi của ngoại giao hòa dịu hoặc vì sự ném bom lại mà chính là vì những hạn chế vật chất của mình. Đe dọa ném bom càng ngày càng kém hiệu lực đối với các nhà lãnh đạo Đảng và cho đến khi chiến tranh kết thúc, họ không hề biết gì về việc Mỹ tích trữ bom. Họ tiếp tục nhận được viện trợ của Liên Xô và Trung Quốc vì họ khéo sử dụng bất đồng Trung - Xô hơn là Oa-sinh-tơn. Tuy họ có lo ngại về tương lại nhưng họ có thể thấy trước sẽ nhận được một số viện trợ tối thiểu bất kể sự ve vãn của Mỹ như thế nào. Với những Hiệp định Pa-ri, Đảng tin là đã tranh thủ được một lúc nghỉ ngơi để giải quyết các vấn đề cấp bách khác và để chuẩn bị đối phó với quân đội Việt Nam cộng hòa mà ít nhất một số nhà lãnh đạo Đảng còn đánh giá cao về mặt chiến thuật.

Những khó khăn vật chất của chính mình đã làm cho Cách mạng đánh giá thấp những điểm yếu chính trị và cơ cấu của chế độ xã hội Việt Nam cộng hòa. Tuy có một thiểu số nghĩ khác nhưng một giả thuyết bao trùm của Đảng cho rằng, Đảng phải có giai đoạn dựa vào các phần tử của lực lượng thứ ba để thành lập một phe đối lập chống lại chế độ và có thể phải chia quyền với họ trong một giai đoạn chuyển tiếp.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 25 Tháng Chín, 2008, 09:31:56 pm
Đầu năm 1973, Đảng xem thắng lợi hoàn toàn trong một tương lai không xa lắm, là một điều có thể có nhưng không chắc xảy ra. Còn đối với Thiệu, đe dọa lớn nhất không phải là từ những đội quân mà từ cái xã hội mà ông ta và Mỹ đã dựng lên, và thời gian chứ không phải thời cơ là kẻ thù xấu nhất của ông ta.

Chính trong lĩnh vực không quân sự này mà cán cân lực lượng chuyển biến một cách quyết định chống lại Thiệu và Mỹ, Hiệp định Pa-ri đưa lại cho các lực lượng không quân sự đó thời gian để gây tác động trong khi Cách mạng tăng cường sức mạnh vũ trang và chính trị của họ. Thời gian làm cho mâu thuẫn không chỉ trong nội bộ Việt Nam cộng hòa mà còn trong nước Mỹ và trên thế giới phát triển mạnh mẽ, và không ai ở Hà Nội có thể hình dung được phạm vi và sự đa dạng của những thay đổi thuận lợi cho họ đang phát triển, thúc ép và xác định giai đoạn cuối cùng của cuộc đấu tranh kéo dài ba thập kỷ.

Nhìn về mặt Hiệp định Pa-ri đưa lại thời kỳ nghỉ ngơi chỉ có hại cho Thiệu, thì nó đánh dấu một điểm ngoặt quyết định trong so sánh lực lượng. Quy mô đầy đủ và những khía cạnh của sự thay đổi này chỉ trở nên hoàn toàn rõ ràng vào mùa xuân năm 1975.

Về mặt chính trị, những hành động của Thiệu trong năm 1972 làm cho ông ta bị cô lập hơn bao giờ hết. Bất kể tình cảm của họ đối với những người Cộng sản như thế nào, đa số lớn người Việt Nam mong muốn hòa bình. Ai tìm cách không thực hiện các điều khoản chính trị của hiệp định chắc chắn sẽ làm cho họ trở nên thù địch.

Vai trò của Thiệu trở nên nguy ngập vì hệ thống nhà nước và kinh tế của ông ta tỏ ra không đủ khả năng đối phó với một loạt các khó khăn xã hội, kinh tế và cơ cấu mà chiến tranh gây ra. Tuy những khó khăn đó ngày càng tăng, sự có mặt và tiền của của Mỹ đã làm giảm bớt những tác động của chúng, cho đến năm 1972. Việt Nam cộng hòa không chỉ là một xã hội phụ thuộc về mặt tài chính mà còn tham nhũng một cách có hệ thống, và chính điều bất lương đó là rất thiết yếu cho việc giữ Thiệu nắm chính quyền. Tóm lại nền chính trị của Thiệu bị kẹp trong một ê-tô cho đến thất bại cuối cùng.

Trong hoàn cảnh như vậy, so sánh lực lượng ở Nam Việt Nam chuyển biến có lợi cho Đảng nhanh chóng hơn và toàn bộ hơn là Mỹ và Thiệu có thể tưởng tượng. Ở một mức độ nhất định, những hậu quả tích lũy của chiến tranh và sự gây chấn thương cho hệ thống xã hội đã bắt đầu, hơn bao giờ hết, xác định quy mô của sự thay đổi và thúc đẩy sự thay đổi đó. Khó mà thấy được tính chất chung, và những điểm chính của sự kết thúc chiến tranh chống lại Thiệu hơn là đối với các giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến tranh chống Pháp năm 1952-1954 và chống Mỹ năm 1971-1972.

Ở một quy mô nhất định, không thể thấy trước tất cả các biến số lớn, bởi vì nền chính trị của Mỹ là một trong những biến số đó và trong tháng giêng năm 1973 không có ai thấy trước được sự mai một chính trị của Ních-xơn. Sự đa dạng của lịch sử, tính chất của chiến tranh không phải chỉ là cuộc xung đột của những người cầm súng mà chủ yếu là một cuộc đấu tranh chính trị và xã hội, và tầm quan trọng của cuộc khủng hoảng kinh tế và của sự rối loạn của con người, tất cả những điều đó bây giờ nổi lên hàng đầu.

Sự chấm dứt của chiếc tranh Việt Nam sau ba mươi năm không thể hiểu một cách đơn giản trên cơ sở những đội quân và những tướng lĩnh, hoặc những nhân vật lãnh đạo họ. Vì vào năm 1973, chiến tranh ở Việt Nam vượt quá giới hạn của các đội quân và các nhà lãnh đạo và đang được tất yếu xác định do kinh nghiệm tích lũy về con người, xã hội, kinh tế, chính trị và cả quân sự nữa mà ba mươi năm đấu tranh của hàng triệu nông dân, binh sĩ và các nhà hoạt động chính trị đã tạo ra. Đảng Cộng sản bây giờ là người có lợi trong các quá trình lớn hơn đó, và việc Đảng có đánh giá chính xác hay không những quá trình đó là không quan trọng bằng sự bất lực của các kẻ thù của Đảng vì không thể làm được gì để đảo ngược các di sản tai họa của chính những chính sách và thể chế của họ.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 25 Tháng Chín, 2008, 09:33:04 pm
CHIẾN LƯỢC QUÂN SỰ CỦA VIỆT NAM CỘNG HÒA

Thật là mỉa mai, ngay sau khi ký Hiệp định Pa-ri, chính người Mỹ và các nhà lãnh đạo Việt Nam cộng hòa là người quyết định liệu sẽ có chiến tranh hay hòa bình. Quyết định đi vào xung đột của họ tăng thêm quá trình diễn biến kinh tế và chính trị làm cho họ càng bị động hơn về chiến lược trong phần còn lại của cuộc chiến tranh.

Theo quan điểm của Mỹ, quyết định của họ phụ thuộc vào liệu đấu tranh quân sự có tỏ ra là quan trọng hơn động viên chính trị và kinh tế để duy trì sự sống còn của Việt Nam cộng hòa hay không. Oa-sinh-tơn chưa hề bao giờ xem đấu tranh không quân sự là quyết định cả, và mùa thu năm 1972 Nhà Trắng tin rằng chiến lược hòa dịu, triển vọng của việc ném bom trở lại, sự kiệt quệ của Việt Nam dân chủ cộng hòa và vũ khí mới của Việt Nam cộng hòa, tất cả đã đưa lại một chiếc ô cho sự củng cố quyền lực của Thiệu.

Suốt mười tám tháng tiếp theo việc ký ở Pa-ri, chính quyền Ních-xơn hoàn toàn chịu trách nhiệm về quy mô các hành động quân sự của Thiệu. Chỉ đến mùa hè năm 1974, quyền chủ động cuối cùng mới được chuyển cho Quốc hội. Về mặt lý thuyết chiến đấu và phương pháp chiến tranh, Mỹ đã "truyền lại cho người Nam Việt Nam... khái niệm đạt hiệu quả tối đa với mất mát tối thiểu về người. Điều này đòi hỏi phải dùng trang bị cao và vũ khí nặng...". Một loạt các cơ quan Mỹ, bắt đầu là Cơ quan tùy viên quốc phòng (DAO) ở Sài Gòn và thông qua nhiều hệ thống quân sự khác nhau, đã kiểm soát thời điểm và quy mô toàn bộ các hoạt động quân sự của Việt Nam cộng hòa trong năm 1973 và đầu 1974.

Bộ chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ đã vạch ra các kế hoạch quân sự cho Việt Nam cộng hòa từ đầu chiến tranh, và những người kế tục họ đã tiếp tục viện trợ cả sau năm 1973. Lầu Năm Góc báo cáo cho Quốc hội mùa xuân năm 1974 rằng: "Các đường lối chỉ đạo của Bộ Quốc phòng vạch ra quy mô của lực lượng và nhịp độ các cuộc xuất kích v.v. còn phái đoàn Mỹ thì sử dụng các cơ quan chức năng để thông qua việc vạch kế hoạch, cung cấp các số lượng đặc biệt về hàng cung cấp, vật liệu, trang bị và vũ khí cần thiết...". Sự phụ thuộc sâu sắc đó đưa lại cái mà các sĩ quan Việt Nam cộng hòa về sau mô tả là một tâm trạng thuộc địa thụ động trong đó họ chờ đợi người Mỹ làm tất cả những gì thiết yếu trong lĩnh vực quân sự, bao gồm sự can thiệp trở lại để cứu họ nếu cần.

Sau tháng giêng năm 1973, Thiệu được chính quyền Mỹ giao cho nhiệm vụ củng cố quyền lực bằng sức mạnh vũ khí. Một số khá lớn người Mỹ vạch chính sách, tin rằng cán cân quân sự ngấp nghé chuyển sang phía có lợi cho Việt Nam cộng hòa và đã đến lúc giành ưu thế.

Trong tuần đầu sau lệnh ngừng bắn, hai bên tìm cách giành những điểm chiến lược. Cố gắng của Việt Nam cộng hòa giành đất kéo dài cho đến giữa năm 1974 nhất là ở các vùng chiến thuật III và IV. Mùa thu năm 1973 các đơn vị của Thiệu tiến sâu vào các căn cứ của Chính phủ Cách mạng lâm thời ở khu tây bắc Sài Gòn cũng như ở tỉnh Bình Định thuộc vùng chiến thuật II. Mùng 4 tháng giêng năm 1974, Việt Nam cộng hòa bắt đầu một đợt tiến công kéo dài năm tháng khi Thiệu công khai tuyên bố chiến tranh đã được "bắt đầu lại" và đã được đưa vào các khu vực Chính phủ Cách mạng lâm thời. Những cuộc hành quân quy mô nhiều sư đoàn đã được thực hiện ở các vùng chiến thuật III và IV và chiếm nhiều lãnh thổ căn cứ của Cách mạng.

Chính sách xâm chiếm thành công của Thiệu đã gây ấn tượng thuận lợi cho nhiều quan chức Mỹ và làm cho ông ta tiếp tục được cung cấp đạn dược. Phần đông những quan chức này trước kia rất nghi ngờ Thiệu và quân đội của ông ta, nhưng khi ông ta chiếm được thêm đất mà Cách mạng không đánh trả, thì họ có vẻ hài lòng. Cuối năm 1974, người Mỹ phụ trách thu nhặt tình báo ở Sài Gòn nói rằng việc để cho quân đội Việt Nam cộng hòa vi phạm Hiệp định Pa-ri đã làm cho "các lực lượng vũ trang Nam Việt Nam trở thành một công cụ của chính sách của Mỹ" Và các nhà lãnh đạo Nam Việt Nam rõ ràng rất biết điều đó.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 25 Tháng Chín, 2008, 09:33:42 pm
Nhưng một nhóm nhỏ các cố vấn Mỹ và sĩ quan Việt Nam cộng hòa đi đến kết luận rằng chính sách của Thiệu nhằm chiếm giữ thêm lãnh thổ sẽ dàn mỏng lực lượng ra những vị trí dễ bị tiến công và làm giảm sức cơ động, do đó dễ bị lực lượng cơ động và tập trung của Cộng sản đập nát. Thế chủ động chiến lược trong chiến tranh đang chuyển sang phía Cách mạng và Cách mạng sẽ dùng nó khi Cách mạng cho là lợi nhất. Thậm chí một số còn cho rằng Thiệu có thể chiếm và giữ đất là do bị kẻ thù giương cạm bẫy.

Chính sách giữ người và giữ đất tối đa của Thiệu là một chiến lược phòng thủ thụ động. Thắng lợi của chính sách đó phụ thuộc vào hai điều kiện: một là không có sự chống lại của Cách mạng và hai là có quân đông để có thể rải ra khắp nơi và được xe tải và máy bay lên thẳng cung cấp lương thực đạn dược tại chỗ. Những chiến lược của Thiệu sẽ trở thành một thảm họa nếu một trong hai nhân tố đó thay đổi.

Tóm lại Thiệu và người Mỹ cùng theo chung một chiến lược. Do có quyền giám sát và cung cấp đạn dược cho Thiệu, nên chính quyền Mỹ có quyền phủ quyết các hành động của Thiệu. Vì Thiệu luôn luôn có thiên hướng làm quá mức nên những tháng đầu sau Pa-ri, các sĩ quan Mỹ thấy cần thiết phải xác định cho Thiệu nên làm gì và không nên làm gì.

Tháng 2 năm 1973, quân đội Việt Nam cộng hòa dùng hết 78.000 tấn bom đạn, tức là gấp đôi số mà Mỹ thả xuống trong cuộc sấm sét tháng 12 năm 1972 chống Việt Nam dân chủ cộng hòa. Trong năm 1973, quân đội Việt Nam cộng hòa dùng đến 326.000 tấn đạn dược, nhiều hơn bất kỳ năm nào trước năm 1970 và bằng trên hai phần năm toàn bộ sản lượng đạn năm 1973 của Mỹ. Do đó Cơ quan tùy viên quân sự quốc phòng đã giảm số lượng xuống 205.000 tấn cho năm 1974 gần với số lượng tiêu thụ năm 1968. Nói một cách khác, trong năm 1973 Việt Nam cộng hòa tiêu thụ đạn dược mười bảy lần nhiều hơn quân đội Cách mạng, năm 1974 thì mười hai lần nhiều hơn.

Ngay cả trong tháng giêng năm 1975, họ sử dụng hơn gấp chín lần. Chiến lược Việt Nam cộng hòa là dựa vào hỏa lực tiến công, sự kiểm soát lãnh thổ bằng một đội quân lớn trong tình trạng tĩnh tại lệ thuộc vào vận tải để nối liền các căn cứ của họ lại với nhau. Đó là chiến tranh kiểu Mỹ và rất tốn kém. Kết quả tất yếu của chiến lược đó là tàn phá khủng khiếp.

Lầu Năm Góc báo cáo rằng năm 1973, 25.500 quân đội Việt Nam cộng hòa và 39.000 địch bị giết. Con số đó của Việt Nam cộng hòa là 13.800 và 48.200. Năm 1974, Lầu Năm Góc đưa con số 29.900 quân Việt Nam cộng hòa và 61.000 cộng sản bị giết. Năm 1973 khoảng 15.000 dân bị giết, 70.000 bị thương và 818.700 trở thành người tỵ nạn. Dù cho Hiệp định Pa-ri đạt được gì đi nữa, hòa bình không nằm trong những điều đã đạt được.

Một hậu quả quan trọng khác của hành động Việt Nam cộng hòa là sự kiểm soát chặt chẽ việc đi lại của nhân dân. Đầu năm 1973 có khoảng 640.000 sống trong các trại tỵ nạn của Việt Nam cộng hòa mà ba phần tư là từ các tỉnh phía bắc đang trong tay Cách mạng và đã từng ủng hộ Cách mạng lâu năm rồi. Chiến lược tỵ nạn của Việt Nam cộng hòa được tiến hành trên hai mức. Một mặt không những không cho những người tỵ nạn trở về nhà, mà còn tiếp tục kéo họ ra khỏi những khu vực hoặc do Chính phủ Cách mạng lâm thời kiểm soát hoặc còn đang tranh chấp. Những người không chịu đi thì bị đốt nhà. Việc này một số quan chức Mỹ cho là Việt Nam cộng hòa đã khuyến khích những nạn nhân ủng hộ Chính phủ Cách mạng lâm thời. Việt Nam cộng hòa cũng không cho phép người tỵ nạn trở về những khu vực mà họ không hoàn toàn khống chế.

Một chương trình tỵ nạn thứ hai gồm 200.000 người, có tính chất chủ yếu là quân sự. Những người bị tập trung vào khu vực này không được tín nhiệm, bị bao vây bằng dây thép gai và thậm chí không được ra khỏi trại nếu không có giấy phép đặc biệt. Các nơi định cư này được xếp ít nhất vào các thôn loại "A". Một nhà báo Bưu điện Oa-sinh-tơn viết: "Nhưng đó là loại kiểm soát giống như loại kiểm soát của cai ngục đối với tù nhân, như các quan chức địa phương thừa nhận, và nói chung là không có hiệu quả".


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 25 Tháng Chín, 2008, 09:34:53 pm
CUỘC KHỦNG HOẢNG NGÀY CÀNG SÂU SẮC CỦA CHẾ ĐỘ VIỆT NAM CỘNG HÒA, CHIẾN TRANH NHƯ LÀ MỘT QUÁ TRÌNH XÃ HỘI

Mặc dù chính quyền Ních-xơn tin rằng chiến lược của họ ngày càng có cơ hội đưa lại thành công, nhưng trên thực tế chính sách của họ đã cộng thêm vào các vấn đề chính trị và kinh tế của Việt Nam cộng hòa và bắt đầu đưa lại những thay đổi nguy hiểm cho tương lai của họ. Trước lòng thiết tha cực độ mong muốn hòa bình của một tỷ lệ to lớn nhân dân, sự hung hăng tiếp tục chiến tranh đưa lại một thách thức nghiêm trọng với Việt Nam cộng hòa trong hầu như mọi lĩnh vực kinh tế, quân sự, chính trị và tâm lý, rất thiết yếu cho kết quả cuối cùng của chiến tranh.

Bởi vì hứa hẹn hòa bình của Hiệp định Pa-ri bản thân nó là một thực tế chính trị bao trùm cho những người Nam Việt Nam đã kiệt quệ kể cả số đông quân đội Việt Nam cộng hòa. Vấn đề hòa bình và hòa hợp do đó đã trở thành một lực lượng mới đầy uy thế trong vũ đài trọng yếu của đấu tranh chính trị.

Cố gắng của Việt Nam cộng hòa kiểm soát sự đi lại và buôn bán của nhân dân không những chỉ vi phạm Hiệp định Pa-ri mà còn phá hoại nguyện vọng được ổn định của họ. Về vấn đề này, Thiệu đi vào một chiều hướng thất bại. Thiệu và các cố vấn Mỹ của ông ta không sao thấy được tác động của hình tượng hòa bình đối với thái độ của quân đội Việt Nam cộng hòa cũng như đối với khả năng chiến đấu của họ. Việt Nam cộng hoà luôn luôn gặp thế khó xử là muốn kiểm soát nhân dân nhưng không bao giờ tranh thủ được lòng trung thành của họ.

Những thất bại đó sau năm 1972 lại càng trở nên to lớn hơn bao giờ hết. Càng ngày càng có thêm chứng cớ rằng những nơi mà Việt Nam cộng hòa chỉ có thể hoạt động ban ngày cũng ngày càng tăng lên và những nông dân trước kia trung lập bây giờ càng ngày càng hoan nghênh Chính phủ Cách mạng lâm thời.

Bắt đầu năm 1973, Cách mạng đã tìm cách dàn xếp với các lực lượng địa phương và dân vệ hoặc ngay cả với các vị trí của quân đội Việt Nam cộng hòa. Những thỏa thuận về tuần tra và tiếp xúc đã đạt được trong nhiều khu vực và lần đầu tiên tình thân thiện đã xảy ra trong nhiều bộ phận. Còn đáng lo ngại hơn cho Việt Nam cộng hòa là sự buôn bán với các khu vực Cách mạng, kể cả nhiên liệu và vũ khí, nhất là bây giờ Cách mạng có thể trả giá cao cho những sĩ quan và binh lính túng thiếu. Và mặc dù Việt Nam cộng hòa coi sự trao đổi đó là bất hợp pháp, nhưng hòa bình tuyên bố trong Hiệp định Pa-ri lại đưa lại một sự thừa nhận mạnh mẽ.

Thực vậy, tác động của hiệp định vượt xa các chính sách của Việt Nam cộng hòa và trực tiếp ảnh hưởng đến các hành động của quần chúng và binh lính. Không ở đâu các xu hướng này quan trọng hơn là ở vùng chiến thuật IV là nơi chiếm gần một nửa nhân dân miền Nam. Tại đây, để bù lại sức mạnh bị suy giảm của mình, Việt Nam cộng hòa đã phạm một sai lầm lớn nhất bằng việc tiến hành một cuộc "chiến tranh lúa gạo" do đó mà thúc đẩy các mâu thuẫn ngày càng tăng của mình.

Đồng bằng sông Cửu Long bị chia ra thành những vùng kế cận với Cách mạng, những vùng không kế cận nhưng dễ đi vào và những vùng an toàn. Các gia đình trong những vùng kế cận chỉ được giữ lại một tuần gạo dự trừ, còn bao nhiêu đều bị tịch thu và được cấp cho những giấy để nhận gạo hàng tuần tại kho của Việt Nam cộng hòa. Số thừa ra được trả bằng tiền với giá thấp hơn giá thị trường 50 phần trăm. Đối với những vùng dễ vào thì được giữ lại một dự trữ gạo cho ba mươi ngày và cũng theo những điều kiện như đã nói trên. Vì vậy không những một số lớn nông dân gặp trở ngại gay gắt và mất những số tiền lớn mà còn bị trả rất chậm số tiền được trả lại và chất lượng gạo thì thường bị hạ thấp hơn mức thực tế rất nhiều.

Chiến tranh lúa gạo gây ra sự tham nhũng quy mô lớn bao gồm toàn bộ hệ thống chính quyền của Việt Nam cộng hòa, từ các tỉnh trưởng cho đến binh lính ở các trạm kiểm soát. Nó cũng bộc lộ vô số điểm yếu của toàn bộ chế độ Việt Nam cộng hòa và khuyến khích nông dân ngả theo Chính phủ Cách mạng lâm thời.

Trong năm tháng đầu năm 1974, trên tám mươi đồn, bốt của Việt Nam cộng hòa rơi vào tay Chính phủ Cách mạng lâm thời và Cách mạng hoạt động công khai hơn nhiều so với những năm trước. Những sĩ quan Mỹ ở địa phương theo dõi những xu hướng tai họa đó một cách lo sợ vì Thiệu đã đi vào một chiến lược đầy mạo hiểm ở phần đất đông dân và giàu nhất đó và đã thất bại thảm khốc.

Trong khi Thiệu hết sức lợi dụng ưu thế vật chất của ông ta thì chính bản chất của quân đội ông ta đã mang theo mình những nguy cơ nghiêm trọng hơn nhiều nguy cơ dựa vào kỹ thuật và trang bị mà họ cuối cùng không thể sử dụng được hoặc không thể tiếp tục có mãi. Sự phụ thuộc của họ vào học thuyết chiến tranh của Mỹ và vào hy vọng rằng không quân Mỹ sẽ can thiệp khi cần thiết, đã làm mê hoặc các tướng cấp cao Việt Nam cộng hòa và không bao giờ họ nghĩ đến việc tìm biện pháp nào khác. Quân đội Việt Nam cộng hòa không bao giờ chiến đấu nếu xa sự yểm trợ bằng không quân Mỹ và một bộ phận lớn không quân của họ phải bất động vì thiếu phi công và thiếu các nhà kỹ thuật để bảo dưỡng.

Tuy vậy, Lầu Năm Góc cũng không ngừng cho sang những máy bay hiện đại, vi phạm các điều khoản của Hiệp định Pa-ri. Trên thực tế, quân đội Việt Nam cộng hòa không thể tiến hành cả chiến tranh quy ước lẫn chiến tranh không quy ước và bản năng đầu tiên của họ là thay không quân bằng đạn mặt đất.

Trong khi Cơ quan tùy viên quốc phòng vạch ra và ủng hộ chiến lược cơ bản cùng hệ thống quân sự của Việt Nam cộng hòa, việc Sài Gòn mù quáng dựa vào trọng pháo làm cho các quan chức Mỹ ngày càng lo âu, bởi vì quân đội Việt Nam cộng hòa tiêu phí quá nhanh số lượng đạn pháo của Mỹ cung cấp. Bắn "quấy rối và ngăn chặn" là việc làm hàng ngày cho đến giữa năm 1974, thường không trúng vào đâu trong tất cả các trường hợp và đôi khi còn dùng làm lý do để có thể thu nhặt đuôi đạn đồng mà các sĩ quan có thể bán làm đồng nát rất giá trị. Dù một số cố gắng quân sự của Thiệu có thành công như thế nào, hầu hết các người Mỹ tham gia chiến tranh ngày càng có ý thức rằng quân đội Việt Nam cộng hòa không có tiến bộ nào về hậu cần và đã lãng phí số lớn trang bị mà, như một quan chức thừa nhận, "đang bị han gỉ".


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 25 Tháng Chín, 2008, 09:35:45 pm
CHIẾN TRANH NHƯ MỘT QUÁ TÌNH XÃ HỘI: CUỘC KHỦNG HOẢNG KINH TẾ NGÀY CÀNG SÂU SẮC CỦA VIỆT NAM CỘNG HÒA

Vào năm 1973 các chuyên gia cả Mỹ lẫn Việt Nam cộng hòa công khai thừa nhận rằng chính quy mô của quân đội tạo ra một thế tiến lui đều khó rất nghiêm trọng. Đào ngũ đạt đỉnh cao 200.000 trong năm 1974 vì những điều kiện kinh tế, và con số lính ma cũng tăng lên. Duy trì một đội quân 1,1 triệu đòi hỏi phải tuyển dụng hàng năm 200.000 đến 250.000 và đến năm 1974 thì tỷ lệ phát triển số nam giới không đủ để thay thế số bị tiêu hao.

Quân đội việt Nam cộng hòa thật sự có số lượng có lẽ dưới 800.000 binh lính nhưng dù như vậy cũng là quá lớn ngay đối với một nền kinh tế lành mạnh và có hiệu quả. Những nhà vạch kế hoạch kinh tế Mỹ và Việt Nam cộng hòa đã chuyển một cách có ý thức những tổn phí của họ cho nhân dân bằng một thủ đoạn đơn giản của thuế gián tiếp: binh lính được trả lương rất ít để cho họ buộc phải sống nhờ bằng xoay xở của họ. Vô số những vấn đề nghiêm trọng xuất phát từ quyết định này.

Ít tàn phá nhất về mặt xã hội là lính ma và đào ngũ và nguy hiểm nhất cho sự nghiệp của Mỹ là tham nhũng, cướp bóc, và làm cho nhân dân khánh kiệt. Chính sách này tai hại đến mức, ngay trước khi viện trợ quân sự và kinh tế bị cắt cuối năm 1974, Việt Nam cộng hòa đã bắt đầu sụp đổ rồi. Thu nhập thực tế của binh lính đã bị giảm khoảng hai phần ba từ 1963 đến 1969. Việc rút quân Mỹ và số thất nghiệp tăng lên sau năm 1972 đã làm mất những việc làm đã từng giúp cho gia đình họ thoát khỏi những cảnh khốn cùng thảm khốc.

Giữa tháng giêng 1973 đến tháng 5 năm 1974, thu nhập lại giảm đi hai phần ba nữa. Người lính trung bình có gia đình nhận được một món lương chỉ bằng một phần ba số tiền cần thiết để nuôi sống gia đình với mức tối thiểu. Ý thức trách nhiệm với gia đình buộc người lính phải tham nhũng và bòn rút nhân dân. Cuối cùng, quần chúng phải trả hóa đơn kinh tế bằng một cách hết sức tàn bạo, mất nhân phẩm với những hậu quả chính trị rất rõ rệt.

Khi tham nhũng tăng lên thì nạn nghiện rượu, nghiện ma túy và những trường hợp chống lệnh cũng tăng lên. Việc bán vũ khí trực tiếp cho Cách mạng có lẽ bây giờ cũng xảy ra lần đầu, tuy buôn bán gián tiếp đã có từ nhiều nărn rồi.

Những người lái máy bay lên thẳng bắt đầu đòi các binh lính bị thương phải trả một số tiền thù lao nhất định mới được chuyển ra khỏi mặt trận, và ngay một số khẩu đội trọng pháo cũng đòi các đơn vị được yểm trợ phải trả 1 đến 2 đô-la một viên đạn bắn đi. Chính nhu cầu kiếm tiền của quân đội Việt Nam cộng hòa là lý do cơ bản để có những dàn xếp địa phương với các lực lượng cộng sản.

Vào giữa năm 1974, trước khi Quốc hội ban hành việc giảm viện trợ quân sự và kinh tế cho Việt Nam cộng hòa, thì tham nhũng, mất tinh thần và cảnh khốn cùng về kinh tế đã đạt những tỷ lệ lan tràn và sâu sắc khắp nơi.

Thế tiến lui đều khó cơ bản của Việt Nam cộng hòa bắt rễ trong những tiền đề mà Pháp và Mỹ đã xác định khi họ làm cho nó ra đời. Nó chủ yếu là một đội quân, với một nhà nước và một nền kinh tế ghép một cách ngẫu nhiên lên nó, nhưng vào năm 1973, nếu không có một người đỡ đầu ngoại quốc không thể thiếu được để bảo vệ nó thì chính bản chất của một hệ thống xã hội như vậy cũng chắc chắn đưa lại sự sụp đổ trước mắt. Sức mạnh vật chất danh nghĩa, rất to lớn về mặt quân sự bắt đầu không còn ý nghĩa gì nữa. Nền kinh tế của nó hoàn toàn mất cân đối và khu vực đô thị của nó hoàn toàn giả tạo.

Với một cơ cơ mong manh hơn bao giờ hết như vậy, những người ủng hộ còn lại của Việt Nam cộng hòa ngày càng bị lôi cuốn vào những khó khăn hàng ngày của chính mình và lòng tin của họ vào các nhà lãnh đạo và vào tương lai cũng giảm sút một cách rõ ràng. Trong một hoàn cảnh như vậy, Oa-sinh-tơn không hình thành được sự kiện mà chỉ đáp ứng các sự kiện.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 25 Tháng Chín, 2008, 09:39:39 pm
Chương ba mươi sáu
THẾ TIẾN LUI ĐỀU KHÓ VỀ QUYỀN LỰC CỦA CHÍNH QUYỀN NICH-XƠN

NHỮNG THẤT VỌNG ĐANG NỔI LÊN CỦA CHIẾN LƯỢC TOÀN CẦU MỸ

Sự ám ảnh tai họa của Mỹ với Việt Nam, như Kít-xin-giơ đã hiểu một cách hoàn hảo, đã làm lạc hướng nghiêm trọng chính sách đối ngoại của Mỹ sau năm 1965, và bắt đầu từ năm 1973, Nhà Trắng có ý định chuộc lại tình hình đó. Diễn văn "năm châu Âu" của ông ta trong tháng 4, phản ánh sự nhận thức rằng tách ra khỏi Việt Nam là một sự cần thiết và Nhà Trắng bằng cách đó và bằng vô số cách khác đã giúp chuyển Quốc hội và Lầu Năm Góc sang những lo toan và ưu tiên khác.

Nhà Trắng không có ý định giảm các cam kết của mình đối với Việt Nam trong quá trình đó, bởi vì họ tin chắc rằng chính sách của họ có thể đưa lại thời gian cho Thiệu củng cố quyền lực của mình. Bằng cách tập trung vào những vấn đề quan trọng hơn, Nhà Trắng củng cố lại xu hướng của mọi người muốn giảm ý nghĩa tương đối của Việt Nam.

Về phần mình, Lầu Năm Góc không cần ai xúi giục, nhắc nhở, bởi vì chiến tranh đã làm cho họ thiếu kinh phí một cách nghiêm trọng cho các nhu cầu toàn cầu khác. Phần của họ trong ngân sách liên bang và trong tổng sản phẩm quốc dân đã giảm mạnh mẽ sau năm 1969 và họ tin rằng họ đang mất ưu thế kỹ thuật đối với người Nga. Việc Mát-xcơ-va thử thành công các tên lửa nhiều đầu đạn trong mùa hè năm 1973 đặc biệt làm cho họ lo ngại, bối rối. Để chỉnh đốn lại cán cân, cần phải chi tiêu thêm nhiều hơn, nhưng vì không thể có thêm kinh phí từ Quốc hội, cho nên điều hiển nhiên là phải sắp xếp lại kinh phí hiện có để đáp ứng những thách thức như vậy.

Bộ Quốc phòng không đặt thành vấn đề một cách công khai quan hệ giữa vấn đề Việt Nam và các ưu tiên còn lại của Mỹ trên thế giới, nhưng cách trình bày công khai của họ cho thấy muốn tránh lặp lại những sai lầm quá khứ.

Kít-xin-giơ đã nhớ lại: "Tôi đã tiến hành một cuộc đấu tranh liều lĩnh nhưng thất bại chống lại ý muốn của Lầu Năm Góc triển khai lại các lực lượng không quân và hải quân ra khỏi Đông Nam Á để dành số kinh phí ít ỏi dôi ra cho việc mua vũ khí mới".

Kít-xin-giơ thừa nhận cuối năm 1973 rằng "trong quan hệ của chúng tôi với bạn bè ở châu Âu thì đó là năm đầy thất vọng". Các vấn đề kinh tế và quân sự vẫn gây chia rẽ và sau cuộc chiến tranh tháng 10 giữa I-xra-en và Ai cập, chúng càng trở nên gay cấn hơn nhiễu.

Các nhà lãnh đạo châu Âu không ưa thích gì những phong cách độc đoán, dạy đời của Kít-xin-giơ và họ không chịu bị ràng buộc vào bá quyền của Mỹ đối với những vấn đề kinh tế sống còn như chính sách Trung Đông trong cuộc cấm vận đầy tai họa. Những vấn đề này cần phải được giải quyết nhưng sự xuất hiện của chúng dưới hình thức quá rõ ràng trong năm 1973 càng làm rõ nhu cầu của Oa-sinh-tơn phải ít quan tâm đến Đông Dương.

Nếu Kít-xin-giơ có khả năng theo đuổi một chính sách nhất quán sắp xếp lại các ưu tiên của Mỹ trong suốt năm 1973 thì chính quyền Mỹ có thể đã giành được một số các mục tiêu của mình nhưng Việt Nam vẫn còn ẩn náu như một ám ảnh tiếp tục của chính quyền. Nhà Trắng đã nổi lên từ thắng lợi bầu cử năm 1972, tự tin nhiều hơn và kiêu căng hơn bao giờ hết. Ních-xơn công khai xem xét những biện pháp để giảm quyền lực của báo chí và Kít-xin-giơ thì ngày càng xem thường Quốc hội.

Ngoài việc dùng mưu mô để ngăn cản những quyết định về ngân sách của Quốc hội đối với Đông Dương, Nhà Trắng luôn luôn đe dọa dùng không quân chống lại Việt Nam. Những cảnh cáo công khai liên tục của Kít-xin-giơ đối với Việt Nam dân chủ cộng hòa trong suốt nửa đầu của năm 1973, mỉa mai thay đã làm cho Quốc hội khiếp sợ hơn là Hà Nội. Quốc hội đã biết qua những điều trần tại Quốc hội và qua những việc chuẩn bị ào ạt tại Viễn Đông rằng không thể coi thường việc Tổng thống có ý đính nối lại cuộc chiến tranh không quân.

Một sự va chạm với Quốc hội không thể tránh khỏi bởi vì, mặc dù Ních-xơn có phiếu bầu cao, thành phần chính trị của Thượng viện đã chuyển một cách quyết định sang phía chống chiến tranh và hầu như chắc chắn rằng Quốc hội sẽ tiến hành một cuộc tiến công trực diện vào các quyền lực làm chiến tranh của Tổng thống. Nhà Trắng đã hiểu nhầm một cách tai hại kết quả phức tạp của cuộc bầu cử tháng 11.

Những cuộc xét xử Oa-tơ-ghết, triển khai đầy đủ vào tháng 3 năm 1973, củng cố sự sẵn sàng và khả năng của Quốc hội thách thức chính quyền, nhưng ở một chừng mực nhất định, sức chiến đấu mới của Quốc hội cũng đồng thời là sản phẩm của sự thất vọng sâu sắc đối với cách điều hành chính sách đối ngoại của tổng thống, mà Giôn-xơn đã bắt đầu nhưng Ních-xơn lại tiếp tục với sự trả thù.

Kít-xin- giơ trắng trợn thách thức Quốc hội bằng cách khẳng định rằng thắng lợi chính sách đối ngoại của ông ta làm cho các chi tiết của hình thức trở nên hoàn toàn phụ. "Lời phán quyết cuối cùng về chính sách đối ngoại là vấn đề thực chất chứ không phải vấn đề cách làm", ông ta không thể không huênh hoang như vậy ngay vào cuối năm 1973 là lúc mà Quốc hội không còn có thể tha thứ cho sự lảng tránh và vin vào lý do bí mật nữa. Sự tiếp tục những nguyên tắc mà được xem là đồng nghĩa với những đặc quyền của ông ta, tỏ ra rất hấp dẫn đối với ông ta bất chấp những thất bại của chúng ở Đông Nam Á và ngày càng tăng ở châu Âu và Trung Đông.

Vào đầu năm 1971 Quốc hội ngăn cản việc sử dụng các lực lượng trên bộ của Mỹ ở Cam-pu-chia và tháng 6 năm 1973, Thượng viện bỏ phiếu với một đa số lớn, cắt chi phí cho bất cứ hình thức chiến đấu nào của Mỹ trên Đông Dương Việc này không chỉ chấm dứt chiến tranh không quân lúc đó đang xảy ra ở Cam-pu-chia mà còn ngăn cản việc nối lại ném bom chống Việt Nam.

Ních-xơn phủ quyết đạo luật ngày 27 tháng 6 sau khi đạo luật được Hạ viện thông qua cùng với một đa số lớn. Thượng viện thông qua lại đạo luật và theo lời khuyên của Le-đô, bất chấp sự phản đối của Kít-xin-giơ, Ních-xơn chấp nhận đạo luật có hiệu quả ngày 15 tháng 8. Nhà Trắng mất con bài lớn nhất trong chiến lược Đông Dương của nó. Cả bí mật lẫn công khai, Kít-xin-giơ phàn nàn thất bại của ông ta và nói rõ rằng: "Tôi muốn ném bom Hà Nội, nhưng Quốc hội không để tôi làm. Ném bom sẽ làm cho nó (Hiệp định Pa-ri) được tôn trọng".

Tuy vậy, Nhà Trắng vẫn tuyên bố công khai rằng tổng thống sẽ trở lại xin quyền nối lại việc ném bom. Giữa tháng giêng năm 1974, Le-đô công bố rằng Quốc hội sẽ và phải bác bỏ vêu cầu ném bom lại của Nhà Trắng. Tóm lại tất cả những đe dọa mà Nhà Trắng đưa ra chỉ đẩy những người trước kia ủng hộ họ đi vào phía đối lập.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 25 Tháng Chín, 2008, 09:40:44 pm
VAI TRÒ CỦA HÒA DỊU

Vì chính quyền Ních-xơn không còn tự do nối lại cuộc chiến tranh không quân, nên hòa dịu, một trong ba trụ cột của chiến lược Việt Nam đã bắt đầu sụp đổ. Hòa dịu không mất đi một cách đột ngột; nó chỉ chìm đi trong những thực tế lâu dài của một thế giới quá phức tạp để có thể chịu sự kiểm soát của các nước lớn, cũng như bị chìm đi trong những di sản thâm căn cố đế của nửa thế kỷ chống cộng.

Ngoài tình trạng phức tạp vốn có trong việc sử dụng khéo léo thế tam giác giữa Liên Xô và Trung Quốc, chính quyền Mỹ có quá nhiều sức ép của Quốc hội trong nước nên không thể hòa giải được đồng thời cũng có quá nhiều cam kết ở châu Âu và Trung Đông. Những điều đó sớm làm cho các quan hệ Trung - Xô - Mỹ nhằm giải quyết thế khó xử của Mỹ ở Việt Nam không còn thích hợp nữa.

Nhưng vì sự tiêu tan của hòa dịu là một quá trình khá chậm và kéo dài, nên nó ấp ủ những tàn dư và bóng gió của tiến bộ làm cho Tổng thống tiếp tục hy vọng, mong ước và ảo tưởng.

Cố gắng của Kít-xin-giơ khai thác hòa dịu để điều hòa vấn đề Việt Nam tiếp tục tồn tại cho đến khi chiến tranh kết thúc, nhưng đặc biệt nổi bật năm 1973. Bản thân Thiệu rất khuyến khích cố gắng này và Kít-xin-giơ năm 1973 cho rằng ông ta đang thành công với một mức độ quan trọng. Không nghĩ như vậy, tức là thừa nhận thất bại của chiến lược cơ bản của Nhà Trắng kể từ năm 1969 và Kít-xin-giơ không thể nào làm như vậy được dù cho không công khai.

Nhưng chính quyền Mỹ cần chiến tranh lạnh, đặc biệt là với Liên Xô để tranh thủ phiếu của Quốc hội về vũ khí mới như tàu ngầm Tri-den và để giữ nguyên kinh phí nhằm duy trì quân Mỹ ở châu Âu. Một khi bóng ma của sự bành trướng Xô-viết được làm sống lại theo đơn đặt hàng, thì những ảo vọng của sự cùng tồn tại hòa bình cũng tan biến trong quá trình đó. Việc Liên Xô cung cấp vũ khí cho các nước Ả-rập trong cuộc chiến tranh Trung Đông tháng 10 đã đẩy nhanh quá trình tan rã đó, Kít-xin-giơ buồn rầu ghi nhận vào cuối năm 1973 rằng "hòa dịu có chọn lọc" không còn có thể làm được nữa.

Việt Nam bây giờ chỉ còn là một trong số các vấn đề giữa người Xô-viết và người Mỹ, nhưng không còn là vấn đề quan trọng nhất nữa. Sự thay đổi vị trí của Việt Nam từ trung tâm ra ngoại vi của lợi ích Mỹ đã làm cho nó trở thành một nguồn làm mất phương hướng cho chính quyền vì chính quyền luôn luôn ấp ủ hy vọng hão huyền khi giao thiệp với Liên Xô.

Vấn đề của Trung Quốc trong chiến lược này rõ rệt hơn, đơn giản hơn. Khi thăm Bắc Kinh tháng 2 năm 1973, Kít-xin-giơ kêu gọi Chu Ân Lai với dụng ý gợi ra một sự cộng tác trên thực tế để chống lại Liên Xô ở châu Á, một sự sắp xếp để duy trì cán cân lực lượng ở khu vực nhưng cũng bao hàm một sự có mặt tiếp tục của Mỹ và sự Ban-căng hóa Đông Dương. Ông ta nhận thấy Mao Trạch Đông thực sự không tin gì vào những cam kết công khai về hệ tư tưởng và nghĩ rằng có thể khai thác được một cái gì đó từ Bắc Kinh để gây sức ép với Mát-xcơ-va.

Nhưng Chu và Mao còn phải giữ ảnh hưởng trong nước và trước so sánh lực lượng mong manh giữa các phe phái trong tập đoàn lãnh đạo, họ phải chiều theo ý của những địch thủ hùng mạnh chống lại sự hợp tác như vậy với kẻ thù truyền thống. Hơn nữa, một sự thỏa hiệp cơ bản với Mỹ đang cho quá sớm vì vấn đề Đài Loan. Cũng còn nhiều điều phức tạp đáng phiền khác nữa. Kít-xin-giơ luôn luôn khoe khoang khoác lác và tháng 2 năm 1974 thì khẳng định rằng ông ta đang chơi con bài Trung Quốc để chống Nga, nhằm giành thêm nhượng bộ từ Mát-xcơ-va. Sợ tỏ ra là thua trí, cùng tháng, Chu đưa ra học thuyết "ba thế giới" chủ trương đoàn kết chống lại bá quyền của cả Mỹ lẫn Liên Xô.

Vào mùa thu năm 1973, nhiều thành viên của chính quyền Mỹ công khai tỏ ra nghi ngờ thắng lợi của hòa dịu và những hứa hẹn giả tạo của nó. Cuộc chạy đua chiến tranh lạnh truyền thống ít nhất cũng có cái lợi là tập hợp Quốc hội và các đồng minh châu Âu sau lưng Tổng thống. Nhà Trắng tiếp tục cả hai biện pháp và Kít-xin-giơ luôn luôn khẳng định rằng hòa dịu đã làm cho Liên Xô và Trung Quốc giúp ích hơn trong vấn đề Đông Dương, đặc biệt là giảm viện trợ cho Cách mạng.

Tháng 2 năm 1975, Kít-xin-giơ thừa nhận rằng vấn đề là, tuy viện trợ có giảm nhiều nhưng cố gắng của Mỹ nhằm ngăn chặn việc di chuyển trang bị, đạn dược xuống miền Nam đã bị chấm dứt hoàn to ông ta cho rằng tuy viện trợ có kém hơn nhưng vẫn còn quá nhiều. Trên thực tế, thắng lợi bộ phận đã làm cho chính quyền quá tin và đó là điều tỏ ra vô cùng tai hại cho những tham lam của họ.

Về phía Việt Nam dân chủ cộng hòa, họ theo dõi các sự phát triển đó và đối phó với những cố gắng của Mỹ tiếp tục tranh thủ đồng minh của mình như trước khi ký Hiệp định Pa-ri. Kết quả là so với năm 1972, toàn bộ viện trợ có thấp hơn một ít trong năm 1973 nhưng tăng 40 phần trăm năm 1974. Tuy Mỹ khoe khoang rằng trước năm 1973, không quân của họ đã phá hủy phần lớn trang bị quân sự trước khi có thể được dùng ở miền Nam, nhưng trên thực tế Cách mạng sau năm 1972 có nhiều vũ khí hơn bao giờ hết.

Với ý nghĩa này, người Xô-viết và người Trung Quốc đã làm phần của mình đối với Mỹ và Cách mạng. Nhưng điều mà họ không thể làm, tất nhiên là duy trì quan hệ giữa chính quyền và Quốc hội, càng không thể làm hơn nữa là giữ cho chế độ xã hội của Thiệu khỏi tan rã.
Như vậy rõ ràng là chiến lược lớn của Nhà Trắng sẽ thất bại. Hơn nữa, dù Nga và Trung Quốc có muốn giúp ích thế nào đi chăng nữa, họ cũng không thể bỏ hoặc làm gì Việt Nam dân chủ cộng hòa quá hơn việc giảm viện trợ quân sự. Và thật là mỉa mai, tuy Cách mạng không muốn nói đến việc đó, nhưng sự tự dối mình của Mỹ xem vai trò của viện trợ có tính chất quyết định là một điều lợi cho Cách mạng.

Hơn nữa, quan điểm đơn giản của chính quyền đề cao tầm quan trọng của việc giảm viện trợ đã làm cho họ trở nên ít nguy hiểm hơn. Nếu họ không tin rằng họ thành công, trong việc cắt giảm viện trợ, thì chắc chắn họ sẽ cố gắng nhiều hơn nữa để yêu cầu Quốc hội cho nối lại cuộc chiến tranh không quân hoặc, ít nhất là gửi thêm vũ khí hơn nữa cho Việt Nam cộng hòa. Sự thiển cận của chính quyền do đó làm cho Nhà Trắng mất thời gian, trong khi cả ở Quốc hội lẫn ở Nam Việt Nam các sự kiện cho thấy rằng nền ngoại giao và sự can thiệp quân sự của Mỹ ngày càng trở nên hão huyền.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 26 Tháng Chín, 2008, 12:49:06 pm
Chương ba mươi bảy
PHỤC HỒI VÀ PHẢN ỨNG: CHIẾN LƯỢC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN CHO ĐẾN GIỮA NĂM 1974

CHIẾN LƯỢC QUÂN SỰ CỦA CÁCH MẠNG CHO ĐẾN THÁNG 6 NĂM 1974

Khi Hiệp định Pa-ri được ký, Đảng Cộng sản dự kiến những khó khăn do Thiệu gây ra, nhưng khi Đảng gửi Nghị quyết 02 cho các ngành, các cấp ở miền Nam, thì Đảng chủ trương một cuộc đấu tranh chủ yếu là chính trị. Điều mà Đảng cần nhất là thời gian để củng cố vị trí của mình và lấy lại sức sau cuộc tiến công hao tổn 1972.

Chính sách quân sự của Đảng trong suốt năm 1973 phản ánh nhu cầu đó. Nghị quyết 03 trong tháng 3 của Đảng cũng khẳng định lại sự nhấn mạnh về chính trị. Tuy nhiên. Đảng vẫn xây dựng lại và vũ trang lại các đơn vị địa phương và du kích. Trong nửa đầu của năm 1973, Việt Nam cộng hòa còn khả năng làm tiêu hao lực lượng và tranh chiếm lãnh thổ của Cách mạng một cách đáng kể vì Cách mạng tránh chiến đấu. Ước tính của Mỹ cho thấy số lượng quân đội của Cách mạng ở miền Nam là từ 200.000 đến 253.000 mùa xuân năm 1973 xuống còn 184.000 tháng 4 năm 1974.

Cách mạng đã thành công trong việc dùng chủ yếu lực lượng địa phương để ghìm càng nhiều lực lượng vũ trang Việt Nam cộng hòa càng tốt và buộc họ vào thế thụ động, phòng ngự và dễ bị tiến công. Riêng ở đồng bằng sông Cửu Long, vấn đề sống còn đòi hỏi các lực lượng địa phương tiến hành những hoạt đông quân sự đã không được Cách mạng cho phép, vì vậy chỉ ở đồng bằng sông Cửu Long vị trí của Cách mạng mới có những tiến bộ đáng kể trong suốt thời gian đó.

Về thực chất, chiến lược của Đảng cho đến tháng 8 năm 1974 là xây dựng lực lượng của mình và đợi thời cơ khi Thiệu trở nên yếu hơn về chính trị và kinh tế, và Mỹ trở nên quẫn trí hơn. Nhưng do Thiệu phá hoại các bộ máy chính trị và các hy vọng trong Hiệp định Pa-ri nên Đảng không "còn cách nào khác ngoài việc nối lại cuộc đấu tranh quân sự". 

Trên thực tế, chính sách thận trọng của Đảng phải thay đổi bởi vì những thắng lợi liên tiếp cho thấy rằng Đảng đã phục hồi sức mạnh và quân đội Việt Nam cộng hòa thì yếu đi một cách nhanh chóng hơn trước nhiều. Ở đồng bằng sông Cửu Long, Cách mạng tiếp tục lấp những lỗ trống chính trị, tuy ở những nơi khác Đảng còn phải bỏ hoặc mất một số thôn xóm.

Tháng 3 năm 1974, ủy ban quân sự của Đảng vẫn còn chủ trương thực hiện chiến lược đề ra trong Nghị quyết 21 trong "vài năm tiếp theo nữa" nghĩa là theo đuổi con đường chính trị đồng thời tăng cường chuẩn bị quân sự. Đảng thảo luận học thuyết chiến tranh. Số đông còn nhấn mạnh yếu tố tinh thần và chính trị nhưng một số bàn đến "phương pháp tiên tiến của một đội quân chính quy và hiện đại" đồng thời nhìn rõ mặt kỹ thuật của chiến tranh.

Đảng cũng thảo luận mối quan hệ của những nhu cầu của nhân dân và của nền kinh tế ở miền Bắc với những đòi hỏi của chiến tranh ở miền Nam. Chính vì những lý do này mà trong khoảng một năm rưỡi không có sự nhất quán lớn giữa những ưu tiên kinh tế và những khả năng quân sự của Đảng và đa số các nhà lãnh đạo chưa tính đến một thắng lợi trước mắt. Và một bộ phận lớn giới quân sự dốc tâm vào một chương trình hiẹn đại hóa quân đội, đòi hỏi cả thì giờ lẫn tiền của để thực hiện.

Nói một cách khác, các sự kiện bây giờ đang vượt quá kế hoạch và sức tưởng tưởng của Đảng.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 26 Tháng Chín, 2008, 12:49:47 pm
CHIẾN LƯỢC CHÍNH TRỊ CỦA CÁCH MẠNG

Tổ chức chính trị của Đảng ở miền Nam bị thiệt hại nặng nề sau năm 1968 và với việc ký Hiệp định Pa-rỉ, các nhà lãnh đạo rất thiết tha xây dựng lại, tin rằng làm tốt việc đó sẽ là điều kiện tiên quyết cho tất cả các cố gắng khác của họ. Công việc của Đảng trong các vùng nông thôn do Việt Nam cộng hòa kiểm soát, nhất là ở đồng bằng sông Cửu Long đã thành công nhanh chóng. Đảng tăng cường sự chung sống giữa khu vực Việt Nam cộng hòa, khu vực giải phóng và khu vực tranh chấp có thể nói là thuộc cả hai bên mà Đảng muốn giữ nguyên trạng để được cung cấp hàng hóa và che chở.

Những điều kiện kinh tế, việc quân đội Việt Nam cộng hòa làm cho nông dân xa lánh và việc Sài Gòn dựa vào binh lính và hỏa lực của mình để gây đau khổ cho những khu vực rộng lớn, đã đẩy nhân dân buôn bán với Chính phủ Cách mạng lâm thời và trở thành ngày càng thù địch với chế độ Thiệu. Thiệu làm cho một số lớn nhân dân căm tức và một số những người ủng hộ Việt Nam cộng hòa trước đây, nay trở thành chờ thời và những người chờ thời lại trở thành những người bạn công khai của Cách mạng.

Việc làm của Đảng trong các thôn xóm trên ba mươi năm qua bắt đầu ra hoa kết quả lần nữa và thích nghi với những điều kiện mới. Thật là chẳng ngoa chút nào nếu nói rằng Đảng đã xây đắp một nền văn hóa cấp tiến một cách sâu sắc ít nhất là trong hàng ngũ bần cố nông.

Chính phủ Cách mạng lâm thời cũng có một khu vực công khai thuộc quyền hành chính của mình mà các quan chức Mỹ đầu năm 1975 thừa nhận gồm 25 đến 30 phần trăm lãnh thổ Nam Việt Nam với khoảng 1,2 triệu dân. Bản thân Chính phủ Cách mạng lâm thời cuối năm 1974 tính rằng chỉ khu vực B2 không thôi cũng đã có 3,4 triệu dân, đưa các tổ chức của Cách mạng "không kém hơn bao nhiêu mức năm 1968".

Quy mô và tốc độ tiến bộ chính trị ở miền Nam làm cho các nhà lãnh đạo Đảng ở Việt Nam dân chủ cộng hòa ngạc nhiên. Thậm chí những người đã từng tính đến cuộc chiến tranh kéo dài hàng thập kỷ và tập trung vào một đội quân chính quy hiện đại, bây giở phải suy nghĩ lại. Các đô thị trở thành một thách thức phức tạp hơn nhiều cho Chính phủ Cách mạng lâm thời, nhưng mọi khủng hoảng chính trị đặc biệt là kinh tế trong chế độ Việt Nam cộng hòa cũng làm cho vấn đề đô thị có thêm hứa hẹn.

Sự chống đối Thiệu ở đô thị phát triển nhanh hơn nhiều sự phát triển của chính tổ chức Chính phủ Cách mạng lâm thời. Chính phủ Cách mạng lâm thời sẵn sàng hợp tác với những nhóm của lực lượng thứ ba như một bộ phận của Hiệp định Pa-ri. Giai cấp tư sản dân tộc nhất là con em của họ, chủ yếu là sinh viên và trí thức, sẵn sàng vứt bỏ giai cấp cũ và tham gia công tác chính trị trên cơ sở lý tưởng chứ không phải quyền lực. Công nhân là nhóm đô thị sẵn sàng hy sinh và tỏ ra là hữu ích nhất.

Nhờ làm việc hăng say và nhờ tính linh hoạt về chính trị, nên sau năm 1972, Đảng đã xây dựng lại được một cơ cấu trong môi trường chín muồi một cách khách quan của đô thị. Vào giữa năm 1974 Đảng tìm được cách thực hiện sự có mặt của mình trong các tổ chức sinh viên, công đoàn và trong hàng ngũ những phần tử trí thức và tôn giáo. Cuối năm 1974, Đảng đã lập lại sự có mặt chính trị có ý nghĩa của mình trong các đô thị. Điều cũng quan trọng là Đảng biết với ai Đảng có thể làm việc và có thể chờ mong gì từ họ. Năm 1975, Đảng đã có khả năng tập hợp những người không phải là đảng viên, kể cả nhiều người chờ thời, có thể giúp ích trước và sau khi quân đội vào đô thị. Cuối cùng họ tỏ ra là một vốn lớn của Cách mạng. 


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 26 Tháng Chín, 2008, 12:50:50 pm
Chương ba mươi tám
CUỘC KHỦNG HOẢNG NGÀY CÀNG SÂU SẮC CỦA CHẾ ĐỘ XÃ HỘI VIỆT NAM CỘNG HÒA

TRẬT TỰ CHÍNH TRỊ VIỆT NAM CỘNG HÒA CHO ĐẾN MÙA HÈ NĂM 1974

Toàn bộ khả năng quân sự của Việt Nam cộng hòa phụ thuộc một cách quyết định vào tính chất và sức mạnh của trật tự chính trị và kinh tế của họ. Trong các cuộc chiến tranh chống các phong trào cách mạng, giữa các hệ thống xã hội và hệ tư tưởng cũng như giữa các quân đội, những thay đổi lớn trong tình hình sức mạnh xã hội và kinh tế của bên này hay bên kia đều có thể có ảnh hưởng quan trọng đến kết quả của cuộc đấu tranh.

Từ đầu, Mỹ đã ở trong thế bất lợi nghiêm trọng, nhưng sau năm 1972, tình hình của Mỹ còn trở nên mong manh hơn nhiều bởi vì trong khi họ có thể cung cấp trang bị quân sự cho Việt Nam cộng hòa, họ không có cách nào duy trì Thiệu về mặt chính trị trong một tình hình mà toàn bộ cố gắng chống cộng không mạnh hơn khâu yếu nhất của tình hình. Chính trị là gót A-sin của cố gắng chiến tranh Mỹ kể từ khi Mỹ ủng hộ Ngô Đình Diệm và gửi quân của chính mình sau đó để cứu các chế độ hỗn loạn của những người kế tục Diệm, và thành công hay thất bại của cố gắng khổng lồ của Mỹ bây giờ vẫn còn hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng và vai trò của một con người: Nguyễn Văn Thiệu.

Đầu năm 1973, Nhà Trắng cam kết duy trì Thiệu nắm chính quyền. Nhưng vấn đề là trong khi Việt Nam cộng hòa tự tuyên bố là một nhà nước ở Nam Việt Nam và có tất cả trách nhiệm của một nhà nước, thì Việt Nam cộng hòa không có cơ sở xã hội rộng rãi hoặc tính chất hợp pháp, và Thiệu cũng không quan tâm gì đến việc tạo ra cơ sở như vậy. Ông ta điều khiển Việt Nam cộng hòa hoàn toàn như một công cụ chính trị để duy trì sự kiểm soát của ông ta.

Không có những điều kiện tiên quyết của một cơ sở nhà nước bởi vì từ Diệm đến Thiệu, Việt Nam cộng hòa chỉ là một bộ máy khác nhau liên tiếp nhưng cá nhân hóa ở mức cao mà trách nhiệm và chức năng lại đến từ Oa-sinh-tơn cùng với vũ khí và tiền của để duy trì bộ máy đó. Do tính chất đặc biệt và lơ lửng bên trên và không có một cơ cấu giai cấp vững chắc bên dưới những nhóm nhỏ nắm quyền, nên cố gắng của Mỹ ngay từ đầu đã phải tính đến ngày tận số.

Sự ủng hộ của Nhà Trắng là vốn quý nhất của Thiệu và chừng nào sự ủng hộ đó còn được thể hiện bằng viện trợ vật chất thì Thiệu còn có thể duy trì cái tổ chức đang giữ ông ta nắm chính quyền. Mọi sự nhất trí, mà Thiệu đạt được không phải đơn giản chỉ vì ông ta xảo quyệt thao túng các đối thủ mà còn do ông ta sẵn sàng và có khả năng chia bổng lộc của chính quyền cho một nhóm người trung thành với ông ta. Phải thấy rằng Thiệu ít tham lam hơn Diệm tuy ông ta vẫn rất hám lợi, nhưng sau năm 1972, lợi lộc của ông ta không đủ để phân chia và lợi lộc càng ít, khó khăn càng tăng. Phân tích đến cùng, khủng hoảng chính trị của chế độ Việt Nam cộng hòa đến từ nhiều hướng: kinh tế, tổ chức và tư tưởng, tất cả kết hợp lại làm cho chế độ đi vào bế tắc mùa hè năm 1974.

Trong tình trạng không có một thế hợp pháp về chính trị và tư tưởng nhưng lại còn sức mạnh về kinh tế và chính quyền, thì một nhà nước chỉ có thể dùng chính sách đàn áp, và đàn áp thì nhất định đưa lại nhiều mức chống đối. Trong những năm 1972, và đầu 1973, chế độ của Thiệu còn là một nhà nước cảnh sát. Cơ cấu hợp pháp của nó chỉ biết có đàn áp, nhưng 120.000 cảnh sát và các tòa án quân sự vì là rất tham nhũng nên rất có thể bị mua chuộc để giảm bớt sự tàn bạo của chúng. Một đạo luật báo chí tháng 8 năm 1972 đóng cửa mười bốn trong số bốn mươi mốt tờ báo, số còn lại buộc phải nộp tại cơ quan kiểm duyệt một số tiền lớn để làm bảo đảm.

Việc thiết quân luật sau giữa năm 1972 đưa lại cho Việt Nam cộng hòa nhiều quyền lực tàn bạo kể cả việc bỏ tù hàng năm không cần xét hỏi. Ngoài con số chưa rõ là bao nhiêu đã nằm trong nhà giam vào giữa năm 1972, những trợ lý của Thiệu thừa nhận rằng 40.000 nữa đã bị bắt mùa thu năm 1972. Nhiều người bị bắt sau Hiệp định Pa-ri và bị kết án như thường phạm. Số người bị giết không được tiết lộ, nhưng tính chất đàn áp và khủng bố không ai không biết. Năm 1973 Mỹ còn 160 cố vấn cảnh sát ở Nam Việt Nam.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 26 Tháng Chín, 2008, 12:51:26 pm
Thiệu thừa nhận có 32.000 tù dân sự các loại khi hiệp định Pa-ri được ký kết, nhưng CIA thì cho rằng con số còn cao hơn nhiều. Con số của một ủy ban Lực lượng thứ ba là 202.000. Các nhà báo Mỹ và Quốc hội đưa ra tài liệu là có rất nhiều tù chính trị và nhiều người bị tra tấn và ngược đãi khủng khiếp. Thiệu ra sức phá hoại việc trao đổi tù chính trị và việc Thiệu điều khiển một nhà nước cảnh sát đàn áp, với tiền và giúp đỡ kỹ thuật của Mỹ, là điều mà không ai còn có thể nghi ngờ được. Thiệu cố gắng tạo ra một cơ cấu chính quyền mà ông ta có thể hoàn toàn kiểm soát. Trước tiên ông ta thành lập tháng 11 năm 1972 một đảng riêng của mình, nửa bí mật, đảng Dân chủ mà ông ta hy vọng là qua nó có thể làm chủ bộ máy nhà nước như Diệm đã làm qua đảng Cần lao. Năm 1973, ông ta sửa đổi lại hiến pháp để có thể được bầu lại một nhiệm kỳ 5 năm nữa vào tháng 10 năm 1975.

Quan trọng hơn nữa là ông ta cố gắng củng cố sự kiểm soát của mình đối với ngành dân sự như đã làm đối với giới quân sự. Tháng 7 năm 1973 được sự ủng hộ nhiệt tình của Mỹ, Thiệu tuyên bố một chương trình gọi là "cách mạng chính quyền”. Ông ta cho các tỉnh trưởng toàn quyền kiểm soát những quan chức dân sự trong lĩnh vực của mình, kể cả quyền bổ nhiệm và cách chức. Quyền làm ra quyết định được chuyển từ các bộ xuống các tỉnh. Đó là một sự sao lại của tổ chức quân đội Việt Nam cộng hòa, và ngoài việc các tỉnh trưởng đều là sĩ quan, Thiệu giữ độc quyền bổ nhiệm họ.

Trên thực tiễn, kế hoạch mới này bảo đảm cho Thiệu một độc quyền hoàn toàn về quyền lực, với tất cả các dây ràng buộc trong các hệ thống quân sự và dân sự tập trung về văn phòng của ông ta. Một biến đổi về tổ chức với một tính chất như vậy đòi hỏi phải có một giai đoạn chuyển tiếp dài nếu không muốn xảy ra một sự hỗn loạn. Nhưng việc Thiệu tìm kiếm một sự kiểm soát hoàn toàn như vậy đã gây nên tổn thương cho một bộ phận lớn những người ủng hộ ông ta vì các tỉnh trưởng của ông ta vừa bất tài vừa tham nhũng, tuy mỗi tháng thu nhập của họ theo báo cáo của tờ Thời báo Niu Yoóc là 100.000 đô-la.

Thiệu chắc chắn cũng tạo ra một cơ sở cho một giai đoạn hỗn loạn chính trị kéo dài, gây kiệt quệ, và một số ít cố vấn Mỹ có khả năng đã thấy điều này một cách rõ ràng nhất. Chính sách của Thiệu sau năm 1972 đã ngày càng làm cho bộ máy chiến tranh khổng lồ mà Mỹ xây dựng cho ông ta trở nên mất hiệu lực. Những hành động của ông ta đã phục vụ cho lợi ích riêng của ông ta đến mức tự đặt mình vào một vị trí dễ bị các đối thủ tiến công để bảo vệ hoặc mở rộng chính những quyền lợi của họ, Thiệu phải tự bảo vệ mình bằng việc giữ cho được lòng trung thành của các tư lệnh các vùng chiến thuật và các tỉnh trưởng. Ông ta phải chấp nhận sự tham nhũng của họ trong khi phải cải tiến hình ảnh của mình trước những người chỉ trích trong nước. Những người này tìm cách tố giác sự tham nhũng của tay chân Thiệu để chống lại Thiệu.

Trung tướng Đặng Văn Quang, trợ lý an ninh của Thiệu bị tố cáo buôn lậu thuốc phiện, gạo, và phần đông các tư lệnh quân khu đều mắc vào vòng phạm pháp, bất lương. Các tướng không còn bao nhiêu thì giờ cho công việc quân sự trong suốt thời gian sau Pa-ri. Thực vậy, đó là lô-gích bất di bất dịch của chế độ Thiệu.

Những rạn nứt trong chế độ Thiệu là kết quả tất yếu của thế dễ bị tiến công của ông ta, của những người tham lam quanh ông ta và cả chính sự thèm khát thêm quyền lực của bản thân ông ta. Đảng Dân chủ nhanh chóng lôi kéo một số những kẻ bon chen, và người đứng đầu đảng, Nguyễn Văn Ngạn, trợ lý của Thiệu cho rằng đảng phải đề ra chính sách cho chính phủ.

Va chạm với người anh em họ của Thiệu, Hoàng Đức Nhã và đồng thời cũng là trợ lý và kiến trúc sư của cuộc "Cách mạng chính quyền", Ngạn lên án Nhã là tham nhũng. Kết quả là một cuộc cải tổ nội các tháng 2 năm 1974 bộc lộ một rạn nứt chủ yếu tự mình gây ra trong giới thân cận của Thiệu. Người có lợi nhất là thủ tướng Trần Thiện Khiêm, đã từng rút vào bóng tối trong vài năm nay và đang sẵn sàng xuất hiện lại. Rõ ràng Nhã bị giáng chức nhưng chờ thời cơ và cuối cùng làm cho Ngạn bị xem là một tay chân của Cộng sản và bị cách chức. Bây giờ Khiêm được hỏi ý kiến khi cử các tỉnh trưởng. Mùa xuân năm 1974 lòng tham ô vô hạn của Thiệu gây tác hại và về mặt chính trị, ông ta yếu hơn bao giờ hết kể từ năm 1968.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 26 Tháng Chín, 2008, 12:52:12 pm
THẾ TIẾN LUI ĐỀU KHÓ CỦA VIỆT NAM CỘNG HÒA VỀ TÍNH HỢP PHÁP CHÍNH TRỊ

Vào mùa xuân 1974 thế giới chính trị được cân đối thận trọng quanh Thiệu đang tan rã, với giới quân sự trở thành hơn bao giờ hết nguồn ủng hộ chính, trong khi giới dân sự đã từng cộng tác với ông ta nhiều năm nay, bây giờ bắt đầu ngả qua tả và qua hữu của ông ta. Sự phức tạp và đa dạng của nhóm chống đối tăng lên đó mang tên là Lực lượng thứ ba, còn đi xa hơn trí thức đô thị sẵn sàng chiến đấu cho việc thực hiện Hiệp định Pa-ri hoặc đi xa hơn số người mong muốn hòa bình đông hơn rất nhiều nhưng hoàn toàn không có tổ chức.

Chính vì nhiều kẻ thù mới là những người đã từng ủng hộ ông ta, nên Thiệu đứng trước một thách thức còn nguy hiểm hơn nhiều. Việc chống lại và đe dọa giới dân sự là một sai lầm chiến thuật lớn của Thiệu bởi vì họ sẵn sàng gia nhập bất kỳ nhóm đối lập nào. Một số cá nhân đã làm sống lại một lực lượng thứ ba thân Pháp, chống Mỹ nhưng chưa thống nhất với nhau về thái độ đối với Chính phủ Cách mạng lâm thời. Sứ quán Pháp rất tích cực trong việc khuyến khích các phát triển này, mà họ hy vọng có thể khôi phục danh dự cho nghĩa vụ khai hóa của Pháp.

Tháng 4 năm 1974, Thiệu công kích lực lượng thứ ba là con đẻ không chỉ của Cộng sản mà còn là của những "thực dân" mà ông ta cho là đã cung cấp tiền của. Còn có thế lực hơn nữa là nhóm chống đối của những người theo đạo Thiên Chúa nhưng còn đang chia rẽ giữa các phái tả và phái hữu. Thiệu bắt đầu mất sự ủng hộ của các phần tử đạo Thiên Chúa trong năm 1972. Năm sau, Tòa thánh Va-ti-can tán thành một chính sách hòa giải với Chính phủ Cách mạng lâm thời, khuyến khích một thiểu số những người tiến bộ đạo Thiên Chúa trở nên tích cực hơn vì hòa bình.

Quan trọng hơn nhiều là sự xuất hiện lại của cánh hữu dưới sự lãnh đạo của cha Trần Hữu Thanh, một trong những người cộng tác trí thức gần gũi của Diệm và là người tổ chức cho Nhu: ông ta ra một tuyên bố tháng 6 năm 1974 chống lại sự tham nhũng và suy đồi xã hội và được 301 cha cố ký tên. Cha Thanh cho rằng chỉ một nhà nước trong sạch mới có thể đánh bại Cộng sản và nhiều người cho ông ta là diều hâu hơn cả Thiệu. Tiếp xúc với nhiều nhà lãnh đạo đang vươn lên và rêu rao rằng ba nghìn sĩ quan cấp cao là học trò cũ của mình, cha Thanh trở thành một nhân vật chống đối lớn.

Ngay đảng Dân chủ của chính Thiệu cũng trở thành một đá nam châm thu hút những người chống đối hùng mạnh. Sau tháng 5 năm 1974, đảng đó do Trần Văn Đôn, sinh ở Pháp và có thành tích lâu dài về mưu mô và cơ hội, lãnh đạo.

Thiệu cũng gặp khó khăn ngày càng tăng ở các tỉnh. Giáo phái Hòa Hảo ở sâu phía nam đồng bằng sông Cửu Long thành lập lại đội quân riêng với vũ khí mua của quân đội Việt Nam cộng hòa. Đối phó với họ là một nhu cầu quan trọng, buộc Thiệu phải xâm chiếm lãnh thổ của họ. Tháng 2 năm 1975. Tại cao nguyên Trung Bộ thiết yếu về mặt chiến lược, như một bộ trưởng của Thiệu về sau báo cáo lại những người miền núi chống lại Thiệu bởi vì quân đội Việt Nam cộng hòa "ăn trộm gà và giết hại gia súc, phá hoại mùa màng, đốt nhà và bắt bớ dân làng".

Những chuyên gia Mỹ ở Sài Gòn rất hoảng hốt trước những xu hướng này bởi vì Thiệu đối với họ là nền móng cho cố gắng của Mỹ. Tóm lại, Thiệu cũng giống như phần đông các nhà độc tài có quyền lực nhưng lại không có tính hợp pháp. Khi tình trạng này trở nên rõ ràng sau giữa năm 19?3, thì sự sống còn của Thiệu hoàn toàn phụ thuộc vào đồng đô-la Mỹ, cần thiết để nuôi sống các sĩ quan và trí thức là những người sống nhờ vào chế độ trong những năm béo bở. Dựng lên một lực lượng chính trị khả dĩ thay thế Cách mạng, từ một mớ hỗn độn những phe phái, những phần tử đứng ngoài, những quan chức chỉ biết có mình, và những tướng lĩnh đứng trên một xã hội đô thị, thụ động, tách ra khỏi họ, là một điểm hoàn toàn không thể làm được.

Sự tập trung nhân dân vào thành thị đã đẩy nhanh quá trình tan rã của Việt Nam cộng hòa bởi vì bây giờ càng khó duy trì một trật tự xã hội mà Mỹ đã tạo ra. Cách duy nhất để gạt vô số những mâu thuẫn phức tạp của một chế độ như vậy là tranh thủ lòng trung thành hoặc ít nhất sự thụ động của giới trí thức và quần chúng đô thị. Muốn thế phải duy trì vững chắc mặt kinh tế của toàn bộ cố gắng Mỹ.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 26 Tháng Chín, 2008, 12:53:04 pm
CUỘC KHỦNG HOẢNG KINH TẾ CỦA MỘT TRẬT TỰ PHỤ THUỘC

Việt Nam cộng hòa đã rơi vào một hội chứng tai hại sau năm 1972 trong đó những tham lam quân sự đã phá hoại nghiêm trọng nền kinh tế, những thất bại kinh tế làm yếu sự ủng hộ chính trị vốn đã nhỏ bé, và những xu hướng kinh tế và chính trị nhanh chóng hủy hoại cơ cấu quân sự. Chế độ Việt Nam cộng hòa đang chìm sâu với tư cách là một thực thể toàn bộ.

Thế tiến lui đều khó, rõ ràng nhất của Việt Nam cộng hòa trong năm 1973 là các mục tiêu chiến tranh của Thiệu; chúng mang theo những hậu quả của kinh tế không thể tránh khỏi được. Việc cung cấp tài chính cho chiến tranh rõ ràng là chìa khóa để đạt những mục tiêu quân sự của ông ta cho nên không giải quyết được vấn đề đó sẽ là một nhân tố lớn trong thất bại quân sự của Việt Nam cộng hòa. Có nhiều cách làm cho Việt Nam cộng hòa sụp đổ, cách nào cũng sẽ là quyết định cả, nhưng vì kinh tế là một điều kiện đầy đủ cho sự mai một cuối cùng của Việt Nam cộng hòa, cho nên trong một thời gian trung hạn, nó làm nghiêm trọng thêm và nảy sinh ra vô vàn những vấn đề khác.

Mọi chỉ số của nền kinh tế đã giảm sút sau năm 1972 mặc dù số lớn viện trợ của Mỹ. Sản xuất công nghiệp năm 1972 thấp hơn một ít mức năm 1971, nó giảm 8 phần trăm năm 1973 và 23 phấn trăm năm 1974. Sản lượng nông nghiệp có tăng nhưng phải nhập 382.000 tấn gạo năm 1973 và 319.000 tấn năm 1974 gần gấp đôi số lượng nhập những năm 1971-1972.

Vấn đề cơ bản của nền kinh tế là hơn một nửa tổng sản phẩm quốc dân của Việt Nam cộng hòa là thuộc ngành dịch vụ và trên 27 phần trăm những người làm việc là làm công tác dịch vụ. Tình hình kinh tế bất thường và tai họa mà Mỹ đã tạo ra đó làm cho nền kinh tế hoàn toàn phụ thuộc vào khu vực đô thị hóa và giả tạo.

Số người Việt Nam làm cho các cơ quan Mỹ đã giảm từ 145.000 năm 1969, gấp ba lần số người làm trong công nghiệp chế tạo, xuống còn 15.000 cuối năm 1973. Số lượng mua của Mỹ bằng tiền Việt Nam đã giảm từ 347 triệu đô-la năm 1969 xuống còn 97 triệu đô-la năm 1974. Những việc làm gián tiếp như cô hầu gái, mối lái, đĩ điếm cũng giảm theo tỷ lệ đại khái như vậy. .

Lạm phát tỏ ra là vấn đề cấp bách, nhất là đối với những người làm bàn giấy và quân đội. Giá ở Sài Gòn tăng 26 phần trăm năm 1972, lên 45 phần trăm năm 1973 và 63 phần trăm năm 1974. Giá nhập khẩu năm 1973 cũng tăng hơn năm 1972 là 35 phần trăm và năm 1974 tăng hơn năm 1973 tới 5 phần trăm. Kết quả là một cuộc khủng hoảng ngày càng sâu sắc về ngân sách, mà đại bộ phận là do viện trợ cung cấp hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp. Một nửa ngân sách là dùng cho chi tiêu quân sự tuy phần gián tiếp của quân sự còn lớn hơn nhiều.

Do việc sử dụng đến 1,4 triệu người, ngân sách Việt Nam cộng hòa tăng từ 19 phần trăm của tổng sản phẩm năm 1960 lên 30 phần trăm năm 1973. Phần của quân sự trong tổng sản phẩm quốc dân tăng từ 9 đến 18 phần trăm trong cùng thời kỳ. Xuất khẩu của Việt Nam cộng hòa không bao giờ vượt quá một phần mười của nhập khẩu và thường là vào khoảng một phần hai mươi. Thu nhập trong nước là do thuế chung đánh vào hàng tiêu dùng và nhập khẩu. Thuế thuốc lá cao hơn nhiều thuế thu nhập trực tiếp. Xét về mặt nào cũng vậy, nền kinh tế Việt Nam cộng hòa ở trong điều kiện khốn khổ không sao tự túc được. Việt Nam cộng hòa không sẵn sàng giảm chi tiêu của bộ máy quan liêu khổng lồ và cũng không sao xin đủ viện trợ để giữ nền kinh tế gần với mức 1969-1971.

Những con số đơn giản trên đây không sao nói lên được thực chất cuộc khủng hoảng kinh tế, nó làm cho sự kết thúc chiến tranh trở nên nhanh chóng. Cuộc khủng hoảng biểu hiện rõ nhất là ở các đô thị. Vì lạm phát mà buộc phải giảm nhập và giảm sản xuất sau đó cho nên thất nghiệp lên cao hơn bao giờ hết. Cơ quan phát triển quốc tế của Mỹ ước tính một cách dè dặt rằng một phần ba lực lượng lao động đô thị năm 1974 là thất nghiệp và thu nhập tính theo đầu người giảm đi từ 36 đến 48 phần trăm từ 1971 đến 1974.

Khủng hoảng kinh tế cùng với những chuyện kinh khủng về tham nhũng và bất lương là nội dung sự chống đối đô thị ngày càng tăng mà Thiệu phải đương đầu. Lần đầu tiên một câu hỏi cơ bản được thảo luận trong giới bảo thủ ở Sài Gòn là cơ cấu chính trị và xã hội của Việt Nam cộng hòa có thể tồn tại thêm được bao lâu nữa.

Giữa tháng 4 năm 1974, một cuộc họp đặc biệt của các quan chức chủ chốt và các nhà vạch chính sách kinh tế của Việt Nam cộng hòa để nghe Nguyễn Hữu Hạnh, một quan chức cao cấp rất được kính trọng của Quỹ tiền tệ quốc tế, đánh giá tương lai. Ông ta dự kiến viện trợ nước ngoài giảm sút, do đó tăng thêm thâm hụt về nhập. Vào cuối 1974 hoặc đầu 1975, do thiếu ngoại tệ mà phải giảm nhập rất lớn, Hạnh dự đoán như vậy. Cuối cùng, chẩn đoán của Hạnh được tóm tắt như sau "các hoạt động kinh tế sẽ đến chỗ bế tắc... lạm phát vượt ra ngoài sự kiểm soát, kinh doanh và nông nghiệp ngừng hoạt động do thiếu nguyên liệu, thất nghiệp sẽ đạt tỷ lệ kinh khủng, và hỗn loạn xã hội và chính trị bắt đấu".


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 26 Tháng Chín, 2008, 12:53:57 pm
NÔNG THÔN VIỆT NAM VÀ CÁC HẬU QUẢ CỦA SỰ PHỤ THUỘC

Trong khi nền kinh tế Việt Nam cộng hòa năm 1973 nặng về phi nông nghiệp, thì cuộc khủng hoảng kinh tế nông thôn lại đáng ngại hơn, bởi vì phương thuốc có thể cứu cho sự suy thoái đó sẽ phải được tìm ra ở nông thôn chứ không phải ở đâu khác cả. Nhưng những mất cân đối mà nền kinh tế do Mỹ đỡ đầu đã tạo ra, đang gây những khó khăn cơ cấu không thể sửa chữa được ở nông thôn.

Ngoài tình trạng dư thừa to lớn lao động ở thành thị và thiếu hụt gay gắt lao động ở nông thôn, còn xuất hiện sự phụ thuộc mới của nền kinh tế nông nghiệp vào nền kinh tế thế giới về mặt nhập khẩu. Cái gọi là hiện đại hóa nông thôn tạo ra một sự thịnh vượng tạm thời nhưng nó che giấu một điểm yếu mà năm 1973 bắt đầu xuất hiện và báo trước một thảm họa. Chỉ sự kết thúc chiến tranh mới làm cho nó không trở thành một tai ương ác nghiệt nhất.

Nông dân đã được khuyến khích và trợ cấp để hiện đại hóa. Việt Nam cộng hòa bắt con trai của họ đi lính cho nên phụ nữ năm 1971 chiếm gần ba phần tư lao động nông nghiệp. Trước tình hình như vậy, phải có những sáng kiến giảm bớt lao động. Máy nông nghiệp, bơm nước, phân bón và thuốc trừ sâu cùng với giống lúa năng suất cao làm cho một bộ phận lớn nông dân bị nợ nần ở nhiều mức khác nhau.

Giá cả tăng rất nhanh chóng. Phân bón trở thành mối lo âu của nông dân và là biểu tượng khó khăn của họ. Giá phân bón trong những năm 1972-1974 ở Nam Việt Nam tăng 285 phần trăm và cũng thiếu trên thế giới. Trong khi đó thì giống lúa mới của Mỹ đưa vào đòi hỏi phân bón nhiều gấp đôi giống lúa cổ truyền. Kết quả là nông thôn Nam Việt Nam dùng phân bón trên một héc-ta nhiều hơn bất cứ quốc gia nào ở Nam và Đông Nam Á. Vì việc dùng phân bón giảm xuống nên sản lượng sau năm 1975 được thấy trước là sẽ giảm.

Cũng cần xăng dầu cho máy bơm và các máy nông nghiệp của họ. Vào giữa năm 1973, 1974, giá xăng dầu tăng 250 phần trăm. Tiêu thụ dầu lửa và dầu xăng rất cần thiết cho đời sống nông dân đã giảm đi hơn quá nửa năm 1974. Với việc lấy vịt thay cho thuốc trừ sâu phải nhập, với việc giảm phân bón và dầu cần thiết cho hệ thống nông nghiệp mà Mỹ làm cho phụ thuộc tuyệt đối vào họ, Nam Việt Nam đang đi thẳng vào một cuộc khủng hoảng nông thôn.

Trong khi còn tệ hơn trước rất nhiều, nông dân vẫn còn có khả năng hơn những người đô thị để sống sót trong cuộc khủng hoảng kinh tế. Những vấn đề cấp bách nhất của họ là tiền mặt và thích nghi với kiểu nông nghiệp đắt tiền, do Mỹ đỡ đầu. Những nông dân nào trước đây hợp tác nhiều với Mỹ thì bây giờ rơi vào tình cảnh xấu nhất. Nhiều nông dân trở lại những cách làm nông cổ truyền sau khi đã bị nhiều nợ nần và phải đối phó với những vấn đề mới.

Tuy giá gạo tăng lên 143 phần trăm giữa cuối năm 1972 và cuối năm 1974, nhưng vẫn không đủ để bù lại giá lên của các nhu cầu nông dân. Giá gạo thế giới còn tăng hơn nhiều. Đáng lý tăng giá gạo trong nước và cắt 300.000 tấn gạo nhập hàng năm để khuyến khích sản xuất, thì Việt Nam cộng hòa lại thích duy trì việc nhập gạo của Mỹ làm đòn bẩy giữ giá. Chiến tranh gạo của chính quyền Sài Gòn năm 1973 đã buộc nông dân phải bán gạo của mình với giá thấp giả tạo. Nhưng trong nửa năm sau 1974, nông dân trả đũa bằng cách tích trữ gạo lại chứ không bán ra với giá hạ. Một cuộc đối đầu với nông dân không thể tránh khỏi.

Một vấn đề khó khăn lớn nữa là tham nhũng và tổn thất kinh tế mà tham nhũng gây ra trong năm 1974. Cơ quan phát triển quốc tế nhận định rằng tham nhũng là "đủ để trở thành một nhân tố then chốt trong cuộc suy thoái 1973-1974... Không đánh giá thấp tác dụng của việc giảm viện trợ Mỹ, nhưng rõ ràng là vấn đế tham nhũng, nhất là tham nhũng ở cấp cao, là một nhân tố trọng yếu trong việc làm tan rã tinh thần quốc gia...".

Phân bón là món nhập khẩu quan trọng nhất trong vấn đề sản xuất lương thực. Và cuộc bê bối phân bón tháng 4 năm 1974 liên can đến gia đình Thiệu, bộ trưởng thương mại, mười tỉnh trưởng và một số bạn chí thân của Thiệu. Em vợ Thiệu, người thân nhất của ông ta, là người tổ chức chủ chốt của bê bối này. Các chi tiết đã được công bố công khai vì những kẻ thù chính trị của Thiệu biết rằng vấn đề này làm cho Thiệu sẽ bị tiến công. Lòng hám lợi vô hạn độ của Thiệu trong một vấn đề trọng yếu như vậy bộc lộ một tính chất kẻ cướp đẩy Thiệu nhanh đến chỗ bị lật đổ. Trong cuộc bê bối này trên 85 triệu đô- la đã chạy vào túi của những người cộng tác với Thiệu.

Đến năm 1974, người nông dân ở trong tình cảnh tồi tệ nhất trần gian, không còn con, không có hòa bình, cũng như không có ngoại tệ. Họ chỉ thấy có Thiệu và binh lính của ông ta cướp bóc, giá lên và mất an ninh cùng thảm họa trong tương lai. Xét mặt nào cũng vậy, mặt hoạt động cũng như về con người, nền kinh tế nông thôn ở miền Nam đang suy sụp với một tốc dộ khủng khiếp. Nếu chiến tranh kéo dài thêm một ít nữa, thì ngay những nông dân giàu có cũng sẵn sàng theo Cách mạng.

So sánh với cơ cấu nông thôn, nền kinh tế đô thị còn gần sự sụp đổ hơn nhiều. Việc bần cùng hóa đô thị lao nhanh một cách khủng khiếp. Vì chiến tranh sau năm 1972 làm cho các vấn đề kinh tế trở nên nguy ngập hơn bao giờ hết, chính quyền Ních-xơn phải tìm cách giải quyết chúng. Không làm được như vậy sẽ đưa đến một thất bại của Mỹ còn chắc chắn hơn bất kỳ thất bại nào trên chiến trường.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 26 Tháng Chín, 2008, 12:55:14 pm
NHỮNG NHÀ VẠCH KẾ HOẠCH MỸ ĐƯƠNG ĐẦU VƠI KHỦNG HOẢNG KINH TẾ

Những rắc rối kinh tế của Việt Nam cộng hòa là hậu quả không thể xóa bỏ được của sự có mặt gây đau khổ của Mỹ sau năm 1964 mà không có gì có thể cứu chữa được. Sự suy sụp của nền kinh tế gây cho tình hình chính trị và quân sự xấu đi theo nó. Các quan chức Mỹ cũng như tham mưu trưởng liên quân đô đốc Tô-mát Mu-rơ tháng 2 năm 1974, thừa nhận rằng "vấn đề chủ yếu của Thiệu là kinh tế”.
Nhà kinh tế Mỹ thông thạo nhất về Việt Nam, A-tơ Xmi-thi của trường Đại học Ha-vớt luôn luôn là một người bi quan thận trọng về tương lai kinh tế của Việt Nam cộng hòa. Năm 1971, ông ta tiên đoán rằng Việt Nam cộng hòa sẽ tiếp tục phụ thuộc vào viện trợ ít nhất một đến hai thập kỷ nữa.

Việc vạch kế hoạch kinh tế của bản thân Việt Nam cộng hòa là một trong những thành phần đáng lo ngại nhất trong tình hình này, bởi vì không có một kế hoạch nào xứng với chính tên của nó. Mọi bộ có liên quan đến đồng tiền chủ yếu là một trung tâm ban ơn và một ổ tham nhũng mà Thiệu tự tay chọn lấy những người phụ trách.

Bộ trưởng kinh tế năm 1973, Phạm Kim Ngọc có quan hệ chặt chẽ với Lý Lương Thân, người Phúc Kiến quan trọng nhất ở Sài Gòn và là đầu mối chuyển tiền cho Thiệu. Tuy là một con cưng của Cơ quan phát triển quốc tế và là người chủ sở hữu ngôi nhà của AID, Ngọc bị chỉ trích vế nạn lạm phát năm 1973 và chuyển sang lãnh đạo Ủy ban kế hoạch. Thay cho Ngọc là Nguyễn Đức Cương 33 tuổi đã từng cộng tác với Ngọc trong cuộc bê bối phân bón.

Vào mùa hè năm 1974, khi hết quan chức kinh tế này đến quan chức kinh tế khác bị cách chức vì tham nhũng hoặc bất lực, Thiệu bắt đầu dựa vào những người bí mật không xuất hiện công khai. Không có kế hoạch nào của Việt Nam cộng hòa ngoài kế hoạch nhận viện trợ. Bộ máy kinh tế của Thiệu cũng đi song song với tổ chức quân sự của ông ta, nghĩa là những bộ máy của cá nhân trong cơ cấu quyền lực.

Vì các chuyên gia kinh tế Mỹ không thông thạo trong việc vạch một kế hoạch cho Việt Nam cộng hòa, nên năm 1973 họ yêu cầu Ngân hàng thế giới và Quỹ tiền tệ quốc tế đánh giá tình hình. Ngân hàng cho rằng không thể vạch được kế hoạch phát triển nào nếu không có viện trợ ở mức cao. Họ cho rằng đến năm 1980, Việt Nam cộng hòa còn cần 770 triệu đô la và năm 1990, 450 triệu.

Chính quyền Giôn-xơn đã thảo luận việc dùng các ngân hàng quốc tế để viện trợ kinh tế cho Việt Nam cộng hòa, và đầu năm 1973 chính quyền tiếp theo thực hiện chiến lược đó. Lúc đầu có thu được một số kết quả. Ngân hàng phát triển châu Á và nhiều nước khác, đặc biệt là Nhật Bản và Pháp, đã tăng mức cho không và cho vay của họ từ 33 triệu đô-la năm 1970 lên 168 triệu năm 1973, và cao hơn một ít năm 1974. Nhưng về sau các thành viên của ngân hàng chia rẽ, những việc làm trước đây lọt vào tay những nhà hoạt động chống chiến tranh cho nên khi cuộc họp tháng 10 năm 1974 để thảo luận việc nối lại cố gắng thì tờ báo "Thế giới" công bố chi tiết các cuộc họp mặt trước đó nên công việc phải trì hoãn cho đến khi chiến tranh kết thúc.

Nếu kế hoạch của Mỹ mà thành công thì Việt Nam cộng hòa sẽ nhận được 200 triệu đô-la từ các nguồn không phải là Mỹ trong năm 1975. Sự thất bại trong việc không quyết định được trong năm 1974 viện trợ của các ngân hàng cho Việt Nam cộng hòa đã có ảnh hưởng tâm lý rất quan trọng ở Sài Gòn.

Còn kỳ lạ và hào hiệp viển vông hơn nữa là những ý nghĩ kỳ quặc lấy dầu để cứu vãn Việt Nam cộng hòa ra khỏi thảm họa. Các công ty Mỹ thăm dò khu vực thềm lục địa Nam Việt Nam cuối những năm 1960 và thấy rằng có hứa hẹn về mặt địa chất. Năm 1971, tuyên truyền của phong trào chống chiến tranh và công bố của Quốc hội làm cho nhiều công ty nản lòng. Việt Nam cộng hòa thì muốn có đầu tư của nước ngoài và họ biết chỉ có dầu là cách duy nhất để khuyến khích. Mùa hè năm 1973 họ kêu gọi đấu thầu, nhưng đáp ứng rất ít. Tháng 5 năm 1974 khi giá dầu lên cao, họ kêu gọi lại và đến tháng 11 năm 1974 cũng chưa có kết quả gì dứt khoát hoặc hứa hẹn, làm cho Sài Gòn và Oa-sinh-tơn thất vọng.

Tuy vậy Cơ quan phát triển quốc tế vẫn cố gây ra sự phấn khởi. Mùa hè năm 1974, họ bắt đầu cho biết rằng viện trợ kinh tế có thể có lý của nó bởi vì trong vòng năm năm nữa dầu mỏ sẽ làm giảm viện trợ, thậm chí làm cho nó không cần thiết nữa. Trong những tháng cuối cùng của cuộc đời Việt Nam cộng hòa, các nhà lãnh đạo của họ tin rằng dầu sẽ ngăn chặn mọi thảm họa, bổ sung hoặc thậm chí thay cho mọi viện trợ và đồng thời xây dựng một khối hùng mạnh những người ủng hộ ở Mỹ. Một quan chức phấn khởi nói rằng chúng ta phải dựa vào Sheu, Mobil và Esso và vào thái độ chống cộng của họ".

Khi dấu hiệu đầu tiên của dầu được phát hiện tháng 8 năm 1974, Thiệu rất hoan hỉ. Tuy nhiên một trợ lý thân cận nhất của Thiệu đã nói: ảo tưởng cho rằng "việc phát hiện ra dầu có thể có sức mạnh thần kỳ giải quyết tất cả các vấn đề kinh tế của đất nước", chỉ làm cho thất vọng ngày càng sâu sắc. Trái lại, nó càng khuyến khích những chính sách tai họa, làm tăng thêm khả năng vốn có không dám đương đầu với thực tế. Trong không khí siêu thực tế mà mỗi một đất nước đang tan rã tạo ra, lòng tin rằng dầu có thể cứu khỏi diệt vong chỉ là một biểu hiện hão huyền của một nền văn hóa suy tàn. . 


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 26 Tháng Chín, 2008, 12:56:24 pm
Chương ba mươi chín
SÀI GÒN VÀ OA-SINH-TƠN GIỮA NĂM 1974; SỰ NỐI TIẾP CỦA HAI CUỘC KHỦNG HOẢNG

CUỘC KHỦNG HOẢNG Ở OA-SINH-TƠN...

Oa-tơ-ghết, sự kiện chính trị đau xót nhất của Mỹ trong hơn một thế kỷ, đã ảnh hưởng sâu sắc đến toàn bộ phạm vi của chính sách đối ngoại Mỹ. Vì phạm vi xoay xở của chính quyền Mỹ bị thu hẹp, nên họ không có khả năng về mặt chiến thuật tập hợp sự ủng hộ cho chính sách hoặc thậm chí suy nghĩ cặn kẽ hơn sau mùa xuân năm 1974. Nhưng vấn đề thực sự là hầu hết các khó khăn toàn cầu của họ đã được để lại từ trước và không có cách giải quyết dưới bất kỳ điều kiện nào.

Oa-tơ-ghết, không phải nguyên nhân của cuộc khủng hoảng quyền lực hành pháp và tính hợp pháp chính trị ở Mỹ, càng không phải nguyên nhân của cuộc khủng hoảng ở Sài Gòn. Cuộc khủng hoảng đó một phần là kết quả của cơ cấu vạch và thực hiện chính sách ngày càng khép kín và có tính chất đối phó, đã được tạo ra trong thời gian sau năm 1946 và được áp dụng một cách cực đoan ở Việt Nam.

Vào năm 1973, những di tích quan trọng nhất còn lại của hai thập kỷ cộng tác giữa Tổng thống và Quốc hội là việc những quyền làm ra quyết định được tập trung ở Nhà Trắng mà bây giờ những lý lẽ để bênh vực những quyết định đó và cả sự hiệu quả của chế độ trong việc đề ra các lợi ích quốc gia cũng sai lệch và không thuyết phục. Oa-tơ-ghết đã trở thành phương tiện được lựa chọn của Quốc hội để điều chỉnh lại sự mất cân đối giữa chính Quốc hội và Tổng thống, và do đó mà tăng thêm cuộc xung đột đã bắt đầu dưới thời Giôn-xơn năm 1968 và tiếp tục đến ngày nay.

Ngay dù cho không có Oa-tơ-ghết vẫn có cuộc khủng hoảng trong quan hệ hành pháp và lập pháp. Oa-tơ-ghết nổ ra cùng với những khó khăn lớn nhất của Thiệu nhưng chắc chắn không phải là nguyên nhân của chung. Tất nhiên là cơ quan hành pháp nhanh chóng trở nên dễ bị tiến công vì khó khăn của Ních-xơn với Oa-tơ-ghết, nhưng cái chính là vì Ních-xơn sử dụng quá mức quyền hành tổng thống vào một thời điểm không thích hợp. Ông ta làm như vậy chủ yếu là vì quá tham lam quyến lực và bất chấp những hạn chế của hiến pháp, nhưng cũng vì lòng tham vô hạn của Kít-xin-giơ vừa xem thường ý kiến kẻ khác, vừa muốn giữ độc quyền quyết định về chính sách đối ngoại, do đó mà những hậu quả của Oa-tơ-ghết tiếp tục tồn tại sau khi Ních-xơn từ chức ngày 9 tháng 8, để lại cho Thiệu một đồng minh quan trọng nhưng bị suy yếu ở Oa-sinh-tơn.

Vì Oa-tơ-ghết chiếm tất cả sự chú ý của Tổng thống nên Kít-xin-giơ tìm cách khống chế các phương tiện lãnh đạo chính sách đối ngoại. Kít-xin-giơ khéo léo làm cho Bộ trưởng Ngoại giao thụ động Uy-li-am Rô-giơ từ cuối năm 1972 trở thành một "vịt què" trong sáu tháng tiếp theo, và vào mùa hè năm 1973, Kít-xin-giơ trở thành một cách chưa từng có vừa bộ trưởng ngoại giao vừa cố vấn an ninh quốc gia.
Chừng nào Ních-xơn còn tại chức, nhiều nghị sĩ xem Kít-xin-giơ là một sự cản trở có ích, nhưng khi Ních-xơn ra đi rồi, thì Kít-xin-giơ trở thành tiêu điểm của sự thù địch Quốc hội, bị lên án vì "chủ nghĩa độc đoán một người" và vì tự dặt mình "lên trên quyền hạn của luật pháp" trong khi theo đuổi một chính sách đối ngoại "mua chuộc, hứa hão và khoa trương".

Từ đầu năm 1973 đến lúc Ních-xơn rời nhiệm vụ, Nhà Trắng tìm cách gạt tác động của Oa-tơ-ghết ra khỏi việc điều khiển chính sách đối ngoại, nhưng chính quyền vẫn ngày càng lâm vào thế bị động. Đầu năm 1974, như về sau Ních-xơn kể lại, tám tháng trước đó tỏ ra là "tàn bạo", và "bây giờ tôi chỉ còn lại sự phân tích tình hình của tôi thu gọn trong việc có thể sống còn hay không?".

Cuộc chiến tranh Trung Đông tháng 10 năm 1973 và cuộc cấm vận dầu cũng làm cho tình hình Mỹ thêm khó khăn. Giá dầu ở Mỹ tăng 6,2 phần trăm năm 1973, gấp đôi năm trước và cao nhất từ năm 1948, nhưng đến năm 1974 thì vọt lên 11,0 phần trăm. Thâm hụt ngân sách năm 1975 bắt đầu từ tháng 7 năm 1974, là 71 tỷ đô-la, lớn nhất trong lịch sử và bằng tất cả các thâm hụt từ năm 1960 cộng lại.

Những khó khăn kinh tế và những khó xử chính sách đối ngoại xen kẽ vào nhau. Năm 1973 cũng đánh dấu sự bắt đầu một giai đoạn mới trong cuộc chạy đua vũ khí chiến lược, rõ ràng là vì Liên Xô phát triển tên lửa mới và vì chính quyền Mỹ còn muốn một lần nữa xây dựng một ưu thế về chiến tranh quy ước, chiến tranh cục bộ. Các mặt này của chính sách quốc phòng Mỹ gây ra tác động tai hại của lạm phát đối với việc cung cấp vũ khí.

Trong hoàn cảnh như trên, Việt Nam không được chính quyền chú ý đầy đủ như trước và chỉ do những quan chức cấp thấp không có quyền lực cuối cùng phụ trách. Chính sách về Việt Nam không được điều chỉnh để thích hợp với những hoàn cảnh đang thay đổi, bởi vì Nhà Trắng còn một loạt rất lớn các thách thức khác, cấp bách hơn nhiều, từ sự sống còn của chức vụ tổng thống đến sự vững chắc của nền kinh tế và tương lai sức mạnh Mỹ ở châu Âu và Trung Đông.

Ngay dù cho không có bê bối Oa-tơ-ghết thì những vấn đề đó cũng sẽ choán tất cả thì giờ và những ưu tiên về ngân sách. Khi Ních-xơn từ chức và Giê-rôn Pho thay, Tổng thống mới không có thì giờ và sự sẵn lòng đương đầu với Quốc hội về Việt Nam, hoặc về bất cứ vấn đề nào khác. Bộ trưởng ngoại giao của ông ta, mà nhiều người xem là một tàn dư mất tín nhiệm của một quá khứ phá sản, không còn ảnh hưởng nào có ý nghĩa đối với các sự kiện.

... VÀ Ở SÀI GÒN

Vào giữa năm 1974, Việt Nam cộng hòa dễ bị tan rã về mặt chính trị và kinh tế. Số lượng viện trợ không có cách nào giải thích được những điền yếu chính trị của nó. Thế khó khăn về kinh tế là tất nhiên và vốn có trong số những thiếu sót cơ cấu mà Mỹ đã tạo ra trong chế độ của Việt Nam cộng hòa trong hơn một thập kỷ. Sự mong manh về quân sự là hậu quả của một đội quân đang sụp đổ không được trả lương đầy đủ và mất tinh thần nhưng lại gây đau khổ cho nông dân, làm cho họ ngày càng chống lại Việt Nam cộng hòa và đi với Cách mạng.

Cộng với những khó khăn khác của Mỹ, chắc chắn là cán cân lực lượng ở Việt Nam vào mùa hè năm 1974, đã chuyển biến hoàn toàn bất lợi cho Việt Nam cộng hòa và làm tan rã các thể chế hạ tầng và tạo ra những chấn thương chính trị và những đột biến kinh tế tai họa. Sự sụp đổ của Ních-xơn rõ ràng gây tác hại cho Thiệu và tuy Oa-tơ-ghết không phải là nhân tố quyết định, nhưng làm tăng thêm những khó khăn của Thiệu đúng vào lúc Thiệu không còn có thể chịu thêm được nữa.



Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 26 Tháng Chín, 2008, 12:57:54 pm
CUỘC ĐẦU TRANH XIN VIỆN TRỢ QUÂN SỰ CHO VIỆT NAM CỘNG HÒA

Chế độ của Thiệu có quá nhiều điểm yếu cơ bản về tổ chức và về con người nên một mình tiền không thể cứu chữa được, nhưng viện trợ quân sự Mỹ vẫn là một trong những nhân tố trọng yếu ảnh hưởng đến bước đi của sự kiện ở Nam Việt Nam. Nó vẫn còn là vấn đề xác định mối quan hệ của chính quyền Mỹ với Thiệu. Nhưng rất rắc rối cho nhà độc tài bởi vì Nhà Trắng ra sức tìm cách tập trung vào các vấn đề chính sách ở những nơi khác trên thế giới và đưa Việt Nam vào một ưu tiên thấp hơn.

Chính quyền lúc ban đầu xin 1,6 tỷ đô-la viện trợ quân sự cho năm 1975, xem đó là con số mặc cả, nhưng Mac-tin thì cho rằng con số 1,45 tỷ là tuyệt đối cần thiết. Mac-tin và Mu-rê thiếu tướng đứng đầu Cơ quan tùy viên quốc phòng, vận động cho việc xin viện trợ này vào tháng 4 tại Oa-sinh-tơn.

Theo yêu cầu của ủy ban quân lực Thượng viện, Sơ-lê-xin-giơ cử E-ric von Mac-bôd sang Sài Gòn đánh giá tình hình thực tế. Mac-bôd nhận thấy rằng, quân đội Việt Nam cộng hòa có một dự trữ trọng pháo và đạn thông thường ở gần mức cao của tháng giêng năm 1973, còn nhiên liệu thì phần lớn bị tuôn ra chợ đen. Mac-bôd báo cáo rằng yêu cầu viện trợ đã được đưa ra ở mức cao không cần thiết. Ngày 5 tháng 8, Hạ và Thượng viện đưa ra một mức viện trợ quân sự là 1 tỷ đô-la cho năm 1975. Đồng thời luật viện trợ này cũng giảm nhân viên quân sự và dân sự Mỹ ở Nam Việt Nam xuống mức đã được cho phép.

Một tướng cấp cao quân đội Việt Nam cộng hòa nhắc lại rằng "Tin về việc cắt giảm viện trợ quân sự đã lan rộng trong khắp hệ thống của quân đội Việt Nam cộng hòa như một quả bom khổng lồ có sức tàn phá lớn".

Tuy nhiên, vấn đề cấp bách nhất của Thiệu không phải là quân sự mà là chính trị. Câu chuyện hoang đường của Thiệu đã bị đập nát ở Sài Gòn, bởi vì ông ta không còn kiểm soát được kho hàng phong phú lớn của Mỹ nữa. Cố gắng đối phó với quy mô giảm viện trợ đó đã làm cho Việt Nam cộng hòa bận tâm cho đến những ngày cuối cùng và tăng thêm nỗi phiền muộn không bờ bến về chính trị và tâm lý của họ.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 26 Tháng Chín, 2008, 12:58:33 pm
NỀN KINH TẾ VIỆT NAM CỘNG HÒA ĐI VÀO NỖI THỐNG KHỔ CUỐI CÙNG

Trong mùa hè năm 1974, một nhóm các nhà kinh tế Mỹ và các quan chức viện trợ có trách nhiệm, đã khởi xướng một sự đánh giá lại quan trọng điều kiện sa sút nhanh chóng của nền kinh tế Việt Nam cộng hòa. Tháng 9, Việt Nam cộng hòa công bố ngân sách năm 1975 của mình; nó bao hàm những điều ngụ ý đáng ngại. Ngân sách năm 1974 dự tính là 561 tỷ đồng Việt Nam, nhưng thực chi là 720 tỷ, do đó đẩy nhanh lạm phát đang lan tràn. Các quan chức Việt Nam cộng hòa đưa ra con số 825 tỷ đồng Việt Nam cho ngân sách 1975, trong khi các chuyên gia Cơ quan phát triển quốc tế tin rằng nó sẽ lên tối thiểu đến 975 tỷ, mà hai phần ba sẽ là thâm hụt.

Vì không tìm đâu được 1,5 tỷ đô-la viện trợ nước ngoài để lấp lỗ trống đó, cho nên những cố vấn Mỹ phải đối phó với triển vọng in thêm tiền. Số viện trợ tổng số của tất cả các nguồn trong năm 1974 đã lên đến con số to lớn là 913 triệu đô-la. Khác với tình hình quân sự, triển vọng và khủng hoảng kinh tế của Việt Nam cộng hòa luôn luôn ảnh hưởng đến toàn bộ đất nước, và cuối cùng đến cán cân quân sự. Các chuyên gia Cơ quan phát triển quốc tế tiên đoán một mức lạm phát nhảy vọt và một sự mất ổn định kinh tế năm 1975. Mùa thu năm 1974, họ xem xét lại một cách rất rộng rãi nền kinh tế của Việt Nam cộng hòa với hy vọng tìm những giải pháp.

Cơ quan phát triển quốc tế tham khảo ý kiến các cố vấn của mình và Quỹ tiền tệ quốc tế. Trong khi họ có thể đồng ý với nhau về tính chất của vấn đề, nhưng rất khác nhau về các giải pháp. Xmi-thi và các chuyên gia tổ chức Rand cho rằng đồng bạc miền Nam đã bị phá giá quá nhanh, nhưng Quỹ tiền tệ quốc tế, áp dụng công thức tiêu chuẩn của mình cho mọi nước, lại muốn phá giá đồng tiền miền Nam nhanh hơn nữa (để khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu), muốn một ngân sách cân đối và thậm chí giảm quy mô của quân đội. Những bất đồng đó cộng với quy mô của thách thức, làm cho Cơ quan phát triển quốc tế nản lòng, không có thêm cố gắng để giải quyết thế khó xử kinh tế đó nữa.

Tháng 10, Xmi-thi, công khai mô tả nền kinh tế của Việt Nam cộng hòa đang trong một "tình trạng suy thoái sâu sắc". Trong khi các quan chức Cơ quan phát triển quốc tế ở Oa-sinh-tơn thật thà nói với Quốc hội rằng hỗn loạn đã xảy ra trong nền kinh tế nếu Quốc hội không cho đủ tiền, nhưng những chuyên gia ở Sài Gòn thì lại phải đương đầu với thực tế rằng các vấn đề cơ cấu chồng chất dè nặng lên Việt Nam cộng hòa đã vượt quá mức giải quyết của đồng tiền.

Khi nói chuyện riêng với nhau, các nhà phân tích sắc sảo nhất của Cơ quan phát triển quốc tế ở Sài Gòn nói: "Những chiều cạnh của thảm họa tiền tệ tiềm tàng đang trở thành rất rõ cho mọi người từ khi Phước Long thất thủ (ngày 6 tháng giêng năm 1975)". Họ thấy trước rằng năm 1976 và 1977 sẽ có những khủng hoảng không sao tả xiết. Cách nhìn về những sự kiện kinh tế sắp xảy ra và đáng lo ngại cũng lan tràn trong toàn bộ cơ cấu chính trị của Việt Nam cộng hòa.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 26 Tháng Chín, 2008, 12:59:36 pm
CUỘC KHỦNG HOẢNG CHÍNH TRỊ CỦA SÀI GÒN VÀ PHẢN ỨNG CỦA CHÍNH QUYỀN

Sự xói mòn của sự ổn định chính trị của Thiệu, bắt đầu từ năm 1974, kết quả những đe dọa của ông ta chống lại ngành dân sự cũng như những biểu hiện kinh tế và xã hội ngày càng yếu đi ở đô thị, đã đạt những tỷ lệ của khủng hoảng vào cuối mùa hè, và những căng thẳng chính trị ngày càng chiếm lĩnh những tháng cuối cùng tồn tại của Việt Nam cộng hòa. Càng ngày càng nhiều những người lớp trên đã từng ủng hộ Thiệu, bắt đầu tìm cách tự cứu lấy mình bằng cách chống lại tên độc tài quân sự.

Trong hai thập kỷ tồn tại của mình, Việt Nam cộng hòa đã trải qua những giai đoạn gay gắt của những âm mưu và những khả năng chính trị phức tạp làm kiệt quệ những người có liên quan và cả người Mỹ. Nửa sau của năm 1974 có lẽ là rắc rối và phức tạp nhất. Không thể lên biểu đồ được tất cả những mưu mô, thủ đoạn xuất hiện trong thời gian đó. Đặc điểm nổi bật của phe đối lập mới, quan trọng là họ chủ yếu nằm trong quỹ đạo của Thiệu và bao gồm không phải chỉ những quan chức dân sự cấp cao mà còn một số lượng ngày càng tăng những sĩ quan cấp cao đã thấy rõ rằng Thiệu không còn khả năng lợi dụng túi tiền viện trợ quân sự và kinh tế to lớn của Mỹ nữa.

Về phần mình, Thiệu tìm cách vô hiệu hóa tố cáo của linh mục Trần Hữu Thanh về tội tham nhũng của Thiệu, gia đình và bè bạn, trong đó có việc đầu cơ phân bón, buôn bán ma túy, và lợi dụng giá gạo. Những nhân vật chính trị có tiếng kể cả Trần Văn Lắm, bộ trưởng ngoại giao cũ của Thiệu, tướng Cao Văn Viên của bộ tổng tham mưu và Trần Quốc Bửu người đứng đầu các nghiệp đoàn và có quan hệ chặt chẽ với CIA, bây giờ sẵn sàng lợi dụng tội tham nhũng làm nền để có lợi cho mình. Tuy nhiên, phong trào của cha Thanh tuy là một trung tâm chống đối rõ rệt nhất nhưng khi nó kết nạp một số phần tử cơ hội nổi tiếng và những người thuộc phe Diệm cũ và khi nó đi đến tạo ra một liên minh với Nguyễn Cao Kỳ, thì hiệu lực của nó bị hạn chế.

Nhìn bề ngoài thì Thiệu đã đối phó với thách thức một cách khôn khéo: ông ta chấp nhận một số nhượng bộ trên mặt và gạt ra khỏi chính quyền những phần tử có thể không trung thành. Giữa tháng 9, ông ta thay sáu tỉnh trưởng mà ông ta nghi ngờ về lòng trung thành và trong khi ông ta hứa hẹn thêm tự do cho báo chí thì lại đàn áp thẳng tay những báo đăng lời tố cáo của cha Thanh.

Ngày 24 tháng 10, Thiệu cách chức bốn bộ trưởng nội các trong đó chỉ hai bị tố cáo ăn hối lộ và gạt 377 sĩ quan cấp tá ra khỏi quân đội. Quan trọng hơn, ông ta gạt ba trong số bốn tư lệnh vùng chiến thuật, đưa về học viện quân sự. Con người quanh co nhất trong ba người, tướng Nguyễn Văn Toàn, nổi tiếng là tướng "quế” đã được đưa trở lại làm tư lệnh vùng chiến thuật III tháng tiếp theo, khi Thiệu củng cố hơn nữa sự kiểm soát của mình đối với cán bộ chỉ huy quân đội và cảnh sát. Trong phần còn lại của năm 1974 và của cuộc đời Việt Nam cộng hòa, Thiệu tránh né được những thách thức, giữ nguyên được bộ hạ tham nhũng khá trung thành, một phần do cách ông ta xây dựng và duy trì bộ máy từ năm 1968, nhưng chủ yếu là nhờ sự đỡ đầu của Mỹ. Cuối cùng, số phận của Thiệu và của Mỹ không thể nào giải thoát được.

Cuộc khủng hoảng chính trị ở Sài Gòn sau giữa năm 1974 đưa lại cho chính quyền Mỹ nhiều vấn đề hắc búa đau đầu nhưng không đưa lại được thời cơ nào. Người ta chưa rõ những người bảo thủ chỉ trích Thiệu có thể và sẽ làm gì nếu họ được nắm quyền. Chính trách nhiệm của phái đoàn Mỹ ở Sài Gòn là phải theo dõi các sự kiện chính trị xảy ra ở Sài Gòn sau tháng 5; nhờ những máy nghe điện tử trong khắp lâu đài của Thiệu, Mỹ đã biết được những vấn đề riêng tư của Thiệu. Rõ ràng, một số quan chức, nhất là CIA, tán thành gạt Thiệu, nhưng họ không có khả năng thay đổi chính sách hiện có.

Công khai thì Mac-tin chống lại việc gạt Thiệu nhưng lại nói rằng ông ta không tin là nếu điều đó xảy ra thì tình hình rối loạn có thể kéo dài. Ông ta đồng thời cũng cho rằng nếu điều đó xảy ra thì cần phải đưa những người thông thạo vào chính phủ và giữ lại những người đã có sẵn. Ông ta công khai ủng hộ Châu Kim Ngân, bộ trưởng tài chính. Nhưng khi có tin đồn về một sự thay đổi do Mỹ ủng hộ và Ngân có thể là người kế vị, thì Thiệu cho Ngân về hưu, trong số bốn bộ trưởng mà ông ta gạt cuối tháng 10. Một khi thấy rõ rằng Thiệu sẽ chống lại, Mac-tin và hầu hết những người Mỹ ở Sài Gòn muốn có một sự chuyển tiếp hòa bình, có thể thông qua bầu cử tổng thống cuối năm 1975 hơn là một sự phân liệt trong tầng lớp trên chống cộng. Nhưng vì Thiệu kiểm soát một đảng hợp pháp duy nhất, cho nên tương lai chính trị của Việt Nam cộng hòa tỏ ra vô cùng phức tạp.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 26 Tháng Chín, 2008, 01:00:10 pm
Kít-xin-giơ nói riêng, chống lại những đổi mới chính sách. Nhưng đầu tháng 10, nhiều thượng nghị sĩ công khai chủ trương thay Thiệu và chỉ trích Nhà Trắng không có chính sách rõ ràng về tương lai chính trị của Việt Nam cộng hòa. Tuy vậy, bị rối mù vì những di sản của Oa-tơ-ghết và vì bận tâm với việc thu vén vào tay mình tất cả các khâu của chính sách đối ngoại, Kít-xin-giơ đã công khai bày tỏ nỗi tiếc rằng "đã phí quá nhiều thì giờ trong cuộc chiến tranh Việt Nam trong quá khứ, và ông ta khó có khả năng trở lại cuộc chiến tranh đó.
Ông ta cũng biết như bất cứ ai khác rằng sẽ mất rất nhiều thì giờ và cũng không thể làm gì được để đối phó với những thực tế kinh tế và quân sự đứng nước Việt Nam cộng hòa. Thực tế về cán cân lực lượng ở Nam Việt Nam hơn là những cấp dưới phiêu lưu của ỏng ta trong CIA và ở Bộ Ngoại giao Mỹ, Kít-xin-giơ không muốn tỏ ra là bỏ Thiệu như Ken-nơ-đi đã bỏ Diệm. Ông ta muốn một sự chuyển tiếp có trật tự, chứ không muốn có một cuộc đảo chính. Ông ta muốn duy trì nguyên trạng.

Tuy nhiên, vấn đề là ở chỗ trong tháng 10 và tháng 11 CIA và nhiều thành viên cấp thấp của Đại sứ quán Mỹ tiếp tục đưa ra những bình luận, bỏ ngỏ khả năng về một chế độ mới, khuyến khích phe đối lập. Một số chuyên gia về Việt Nam cấp cao nhất của CIA đến Sài Gòn trong tháng 9 và tháng 10 để tiếp xúc với những nhân vật chống đối chủ chốt. Những nhà báo có kinh nghiệm lâu đời biết được những suy tính đó và tập trung vào Trần Quốc Bửu của CIA như là người có thể thay thế, nếu không phải qua một cuộc cải tổ trước mắt thì cũng qua cuộc bầu cử tháng 10 năm 1975.

Tình hình này làm yếu rất nhiều liên minh của Thiệu và ngày 21 tháng 10, Đại sứ quán đưa ra một tuyên bố mạnh mẽ cải chính việc ủng hộ bất kỳ nhóm đối lập nào và nói rõ sự cam kết với Thiệu. Ngay sau đó, Mac-tin đến văn phòng Châu Kim Ngân một cách công khai, hy vọng ngăn cản Thiệu không gạt bỏ ông ta, nhưng không thành công.

Tin đồn cứ tiếp tục lan truyền làm cho Thiệu thất thế hơn về chính trị. Để có thể giữ được mọi sự lựa chọn, chính quyền Mỹ duy trì một chính sách mập mờ chính vào lúc Quốc hội giảm viện trợ quân sự và kinh tế cho Việt Nam cộng hòa. Thái độ đó đã làm cho Thiệu lúng túng đúng vào lúc ông ta khó bề xoay xở. Lần đầu tiên trong lịch sử của cuộc chiến tranh, Oa-sinh-tơn theo đuổi một chiến lược thụ động ở Việt Nam, bằng lòng để cho các sự kiện trôi qua dưới mũi. Đó là một lập trường mập mờ, đến lúc đưa lại thất vọng và thất bại nhục nhã.

Thiệu bây giờ phải đương đầu với bạn bè và những người ủng hộ không kiên định mà lòng cam kết cũng giảm sút cùng với số lượng viện trợ của Mỹ. Tự bản thân phe đối lập cánh hữu không có gì đáng sợ bởi vì nó không có cơ sở quần chúng và rất ít lòng tin. Những thành viên nổi bật nhất của họ là những nhà chính trị đồi bại, những tướng lĩnh tham lam và những người yêu sách đáng ngờ về tính trong sạch.
Nhưng những ve vãn của CIA và của Đại sứ quán Mỹ đối với những người đó cũng như những âm mưu công khai chống lại Thiệu làm thiệt hại cho Thiệu kém gì việc Quốc hội giảm viện trợ quân sự và kinh tế. Thiệu không che giấu sự lo ngại của ông ta đối với những mưu đồ của Mỹ. Vì chính quyền Mỹ muốn tránh một cuộc khủng hoảng gây rối loạn, nên cuối cùng họ quyết định rằng con đường dễ nhất để làm như vậy là đưa ra một cử chỉ tượng trưng ủng hộ Nguyễn Văn Thiệu.

Nói một cách thực tiễn, làm như vậy có nghĩa là phục hồi hình ảnh của ông ta giữa các sĩ quan và quan chức của ông ta như là một nhân vật còn có thể xin được tiền từ Oa-sinh-tơn, khi Nhà Trắng thực hiện kế hoạch này bằng cách đưa ra một yêu cầu viện trợ bổ sung trong tháng giêng năm 1975. Họ không thấy hành động của họ khó khăn và nguy hiểm như thế nào. Bởi vì cũng giống như sự ve vãn để tạo ra sự thay đổi ở Sài Gòn đã gây ra tác dụng làm mất ổn định, sự không đạt được một viện trợ bổ sung nhỏ cho Thiệu sẽ đe dọa làm mất tinh thần hơn nữa chế độ do Mỹ nuôi dưỡng ở Nam Việt Nam.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 29 Tháng Chín, 2008, 04:08:04 am
Chương bốn mươi
NHỮNG NHẬN THỨC VÀ KẾ HOẠCH CỦA CÁCH MẠNG CUỐI 1974

Mùa hè năm 1974, quy mô của những căng thẳng chính trị và kinh tế của Việt Nam cộng hòa đã bắt đầu vượt quá mức phân tích của Đảng Cộng sản. Toàn bộ cơ cấu của Việt Nam cộng hòa yếu đi nhanh chóng hơn nhiều so với tốc độ giành lại sức mạnh của Cách mạng, và việc này ảnh hưởng rất nhiều đến nhận thức của Đảng. Đảng có thể thấy rõ ràng nhất cán cân sức mạnh quân sự bằng cách đánh giá số đất chiếm được và sức chiến đấu của các lực lượng vũ trang Việt Nam cộng hòa. Nhưng tốc độ, mức phức tạp và cường độ suy sụp của Thiệu sau cuối năm 1973 không có tiền lệ và ít nhà lãnh đạo Đảng hiểu thấu một cách đầy đủ.

Đến một điểm nhất định, một số mặt của sự suy sụp Việt Nam cộng hòa trở nên rõ rệt, rõ nhất là các xu hướng kinh tế. Đảng hiểu rõ tầm quan trọng của sự cắt giảm viện trợ Mỹ, nhưng không sao thấy hết bằng những nhà kinh tế của Cơ quan phát triển quốc tế, là những người gần gũi với nền kinh tế Việt Nam cộng hòa. Đảng không thể để cho khả năng lãng mạn về một sự tan rã đột ngột và một thắng lợi nhanh chóng xâm chiếm suy nghĩ của mình.

Trong suốt phần sau của năm 1974, tuy thấy những khủng hoảng kinh tế và chính trị trải ra trước mắt mình, Đảng vẫn phàn nàn rằng tổ chức đô thị còn yếu hơn nhiều điều mà Đảng hy vọng. Một liên hiệp kiểu mặt trận đoàn kết không chắc có thể thực hiện được. Đảng vẫn còn tìm cách quan hệ với lực lượng thứ ba yêu hòa bình nhưng phong trào này còn chưa đoàn kết trong khi lực lượng thứ ba cánh hữu đã hoạt động cho đến mùa thu năm 1974. Mùa hè năm 1974, phần đông các nhà lãnh đạo Đảng tin rằng có khả năng sắp xảy ra một cuộc thay Thiệu mà Mỹ sẽ cho phép tiến hành.

Trước tình hình như vậy, nhận thức của Cách mạng về sự suy tàn quân sự của Việt Nam cộng hòa sau giữa năm 1974, làm cho họ mạnh dạn hành động. Thật vậy, toàn bộ những khó khăn của quân đội Việt Nam cộng hòa chỉ bộc lộ sau khi Cách mạng từ bỏ hy vọng rằng Hiệp định Pa-ri sẽ được thực hiện.

Mùa xuân năm 1974 Cách mạng bắt đầu thăm dò các vị trí của quân đội Việt Nam cộng hòa và đáp ứng lại các cuộc tiến công của chúng, nhất là ở đồng bằng sông Cửu Long và cao nguyên Trung Bộ. Trong khi quân đội Việt Nam cộng hòa còn duy trì hỏa lực cao và ưu thế về trang bị nhưng họ khư khư tiếp tục giữ đất, nên các sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam kết luận rằng quân đội Việt Nam cộng hòa là phòng ngự và bối rối, ngày càng dễ bị tiến công, nhất là khi họ không thể sử dụng gần một nửa lực lượng máy bay lên thẳng và không quân chiến thuật của họ. Không có sức cơ động cao, quân đội Việt Nam cộng hòa có thể bị đánh bại dễ dàng.

Quân giải phóng và Quân đội nhân dân Việt Nam tổ chức những cuộc tiến công nhỏ vào các tiền đồn đơn độc, dùng những lực lượng địa phương và du kích để mở những hành lang trong vùng cao nguyên Trung Bộ. Năm 1973, Cách mạng biết rõ rằng quân đội Việt Nam cộng hòa càng ngày càng mất tinh thần, nhưng việc họ không chịu chiến đấu vẫn làm cho Cách mạng ngạc nhiên. Với ít nhất năm trăm thôn nằm trong tay Chính phủ Cách mạng lâm thời ở đồng bằng sông Cửu Long cuối năm 1974, du kích bây giờ có thể xuất hiện ban ngày trên các đường đi, lần đầu tiên kể từ năm 1968.

Trong suốt năm 1973, các nhà lãnh đạo Đảng tập trung vào việc xây dựng lại ở Việt Nam dân chủ cộng hòa và đấu tranh chính trị ở miền Nam, đồng thời xây dựng lại các lực lượng và khả năng quân sự của họ. Tuy nhiên các sự kiện không để yên cho họ thực hiện các kế hoạch của họ. Ngay dù cho tỷ lệ đào ngũ của quân đội Việt Nam cộng hòa tăng lên đột ngột trong khi tinh thần thì lại sa sút nghiêm trọng, nhưng thật là kỳ lạ, Thiệu không những hung hăng về quân sự mà còn bắt đầu vạch những kế hoạch tiến công lớn trong năm 1976-1977. Đảng theo dõi những việc đó rất chặt chẽ, các đơn vị địa phương không cam tâm giữ thế bị động và những thắng lợi dễ dàng của họ cho thấy tính chất hời hợt của quyền lực Thiệu.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 29 Tháng Chín, 2008, 04:09:05 am
Giữa năm 1974, Việt Nam dân chủ cộng hòa đã xây dựng lại nền kinh tế của mình bằng mức năm 1965. Trong khi nhận viện trợ từ Liên Xô và Trung Quốc với số lượng các nhà lãnh đạo Đảng đã có những tính toán để phòng ngừa trước về viện trợ nhất là đối với Trung Quốc. Vào khoảng tháng 7, Lê Duẩn tin rằng tất cả các nhân tố của tình hình đòi hỏi phải có một thay đổi về chiến lược. Bộ Chính trị bắt đầu xem xét nên đối phó với tình hình sôi động ở miền Nam như thế nào. Tuy Bộ Chính trị cho đến tháng 10 không chính thức quyết định chấm dứt chiến tranh trong năm 1975 và 1976, nhưng cách nói đó rõ ràng là thừa nhận một thực tế và lần đầu tiên trong lịch sử, Đảng gắn lòng tin vào thắng lợi cuối cùng của mình với một biểu thời gian chính xác.

Quyết định tháng 10 được đưa ra trong khi các tướng của Đảng thảo luận sôi nổi những khía cạnh kỹ thuật của chiến lược. Về mặt kỹ thuật quân đội Việt Nam cộng hòa được xem là ưu thế về số lượng và trang bị. Then chốt của chiến lược Cách mạng là lôi họ ra, phân tán và dùng tiến công ào ạt và bất ngờ vào những vị trí xung yếu nhưng không mạnh, chú ý đến sự phụ thuộc của chúng vào các cơ sở hậu cần cách xa.

Việc quân đội Việt Nam cộng hòa say mê với việc giữ đất buộc họ phải có một chiến lược phòng ngự và dễ bị tiến công, làm cho thế chủ động chuyển sang Cách mạng. Đảng dùng các lực lượng quân sự và chính trị địa phương để giữ chân số lớn lực lượng Việt Nam cộng hòa, mà Thiệu phải phân tán để giữ bộ máy chính trị quá dàn rộng. Các lực lượng cơ động và chủ lực của Cách mạng có thể tập trung đánh vào nơi yếu nhất và ít sẵn sàng nhất.

Chiến lược này đã được thảo luận công khai, và các nhà chiến lược đều thống nhất rằng không thể nào lãng phí vốn cơ bản và những kinh nghiệm vô giá tích lũy được ở miền Nam. Đó là các đơn vị quân sự và chính trị địa phương đã được rèn luyện trên hai thập kỷ, có đầy đủ khả năng hoạt động bằng nhiều cách và lợi dụng mọi thời cơ; đó là một hệ thống khổng lồ các lực lượng vũ trang Việt Nam cộng hòa đang trên quá trình tan rã nhanh chóng và đang phải chịu những sức ép to lớn từ bên ngoài; đó là một đội quân chủ lực, hiện đại huấn luyện tốt gồm chủ yếu các binh sĩ miền Bắc mà trong cuộc tiến công sẽ là lực lượng xung kích.

Kế hoạch ban đầu là một chiến dịch hai năm tập trung trong năm 1975 ở cao nguyên Trung Bộ là nơi mà quân đội Việt Nam cộng hòa yếu nhất và Quân đội nhân dân Việt Nam mạnh nhất. Mục tiêu là cắt đất nước ra làm đôi và mở rộng sự kiểm soát ra các vùng đông dân. Bộ Chính trị nghĩ rằng một sự kết thúc chiến tranh trong năm 1975 là một khả năng, nhưng không chắc chắn đến mức phải chuẩn bị một kế hoạch chính trị và kinh tế để tiếp quản các vùng giải phóng, đặc biệt là các đô thị, trong trường hợp chiến thắng. Nhưng mặt khác, sự chuẩn bị quân sự cho cố gắng hai năm đã được tổ chức rất tốt.

Nhưng Bộ Chính trị và phần đông Bộ Tổng tham mưu, đặc biệt là tướng Dũng và những người chủ trương chiến tranh chính quy của ông ta, không tin rằng hậu cần của mình ở miền Nam đã đủ. Họ chủ yếu hy vọng rằng trong năm 1975 họ ngăn cản được Việt Nam cộng hòa rút vào những cứ điểm cố thủ. Họ tin rằng so sánh lực lượng nhanh chóng chuyển biến có lợi cho họ, nhưng họ vẫn thấy Việt Nam cộng hòa còn là một kẻ thù ghê gớm, hoàn toàn còn khả năng giành lại sức mạnh nếu không bị đánh bại sớm. Theo tính toán của họ, năm 1976 sẽ là năm của tiến công lớn, quyết định.

Ngay với khả năng một thắng lợi quân sự cuối cùng, cách nhìn về mặt chính trị các năm tới của họ vẫn còn không rõ ràng. Cuối cùng, phần đông các quan chức cấp cao của Đảng nghĩ rằng một chính phủ liên hiệp chuyển tiếp ở miền Nam sẽ cần thiết như là một mặt của cách mạng dân tộc dân chủ, và không có kế hoạch thống nhất đất nước vào một chế độ chính trị và kinh tế xã hội chủ nghĩa hợp nhất.

Hậu quả của tình hình trên đây là Đảng sẽ thắng cuộc chiến tranh trước khi sẵn sàng đối phó với những khó khăn chính đang gây tai họa cho Việt Nam cộng hòa và đang làm cho thắng lợi hoàn toàn của Cách mạng chắc chắn đến mức không thể tính trước. Thắng lợi hoàn toàn sẽ đến như một sự bất ngờ hoàn toàn đối với khá nhiều những nhà lãnh đạo Đảng cấp cao, cho nên tính chất kiên nhẫn trong cuộc đấu tranh ba mươi năm đã phần nào làm giảm sút những nhạy cảm chính trị của họ đối với những nhân tố xác định hậu quả cửa chiến tranh. Những người chủ trương phát triển một lực lượng quân sự quy ước dựa vào kỹ thuật và trang bị là những người ít hiểu nhất những nhân tố ngấm ngầm đã làm cho chiến thắng đối với một đội quân lớn hơn và trang bị tốt hơn nhiều có tốc độ nhanh chóng và có tính chất quyết định như vậy. Vấn đề đầu tiên trong việc vạch kế hoạch cho chiến dịch, thực vậy, đã diễn biến quanh sự bất đồng giữa những sĩ quan hướng về kỹ thuật, như tướng Văn Tiến Dũng, với những sĩ quan tinh tế hơn về chính trị.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 29 Tháng Chín, 2008, 04:10:17 am
SỰ BẤT NGỜ TẠI PHƯỚC LONG VÀ NHỮNG KẾ HOẠCH MỚI CỦA ĐẢNG

Trong kế hoạch ban đầu của mình, các tướng ở Hà Nội chia chiến dịch 1975 làm ba giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất sẽ bắt đầu tháng 12 chấm dứt tháng 2 năm 1975 và được giới hạn ở phần tây của chiến trường B2. Giai đoạn thứ hai, sẽ kéo dài từ tháng 3 cho đến tháng 6 và bao trùm toàn bộ đất nước, nhưng đặc biệt là cao nguyên Trung Bộ. Sau tháng 8, sẽ có hoạt động quy mô nhỏ chuẩn bị cho năm 1976 và cuộc tiến công lớn. Những sĩ quan cấp cao vạch kế hoạch cho chiến dịch trước tiên họp ở Hà Nội trong thời gian hai tháng bắt đầu giữa tháng 11 để xem xét toàn bộ chiến lược. Và lúc đó, chỉ giai đoạn đầu là hoàn toàn sẵn sàng để được thực hiện.

Ban lãnh đạo B2 và Trung ương Cục hình thành một khối khá nhất trí trong suốt các cuộc thảo luận trọng yếu đó. Họ trực tiếp tiếp xúc với những điều kiện trong các vùng đông dân và với những binh lính Việt Nam cộng hòa nên họ hăng hái hơn và nhất trí hơn là những hướng hoạt động ở các vùng xa xôi hoặc sống ở Hà Nội. Một mình họ thấy khả năng thực tế sự sụp đổ của Việt Nam cộng hòa và chắc chắn có các kế hoạch quân sự dự phòng nếu điều dó xảy ra.

Nhưng B2, mà đại diện là tướng Trần Văn Trà, và cả ủy viên Bộ Chính trị Phạm Hùng nghĩ rằng cuộc tiến công chiến dịch năm 1975 phải có phạm vi toàn quốc để tránh việc Việt Nam cộng hòa có thể điều quân của họ từ nơi này sang nơi khác. Trên thực tế họ đưa ra lý lẽ cho việc sử dụng mạnh bạo hơn các lực lượng hỗn hợp địa phương, khu vực và chủ lực để tiến công Việt Nam cộng hòa khắp nơi và khai thác những chỗ yếu của họ để gây cho họ những tổn thất tối đa.

B2 có thể sẽ không thuyết phục được trong cuộc tranh luận đó nếu không có cuộc tiến công bắt đầu ngày 13 tháng 12 vào tỉnh Phước Long, một khu vực rộng lớn, thưa dân, chỉ một trăm ki-lô-mét bắc Sài Gòn. Thắng lợi của cuộc tiến công càng có ý nghĩa bởi vì các tướng quân đội Việt Nam cộng hòa đã biết trước một cách chi tiết từ tháng 10, cho nên các lực lượng Cách mạng xáp trận với những quân lính không bị bất ngờ nhưng sợ hãi và mất tinh thần. Dùng một sự phối hợp các lực lượng địa phương với chủ lực, đội quân Cách mạng tương đối nhỏ đã thắng lợi nhanh chóng và ảnh hưởng lớn đến cuộc thảo luận ở Hà Nội.

Các đơn vị quân đội Việt Nam cộng hòa đánh rất tồi và Thiệu không chịu tăng quân cho họ. Tổn thất lên đến bốn phần năm số quân phòng thủ kể cả ít nhất hai mươi máy bay. Tỉnh lỵ Sông Bé, bị thất thủ ngày 6 tháng giêng, và việc giải phóng đầu tiên hoàn toàn một tỉnh trong toàn bộ cuộc chiến tranh đã được tiến hành nhanh chóng và dễ dàng.

Tác động tâm lý của thất bại đối với Việt Nam cộng hòa là vô bờ bến. Nó đưa lại sự vững dạ cho những ai ở Hà Nội đang vạch kế hoạch cho giai đoạn sau của cuộc chiến tranh. Nó gạt những nỗi lo sợ kéo dài về việc Mỹ trở lại chiến tranh, và nó bộc lộ sự bất lực của quân đội Việt Nam cộng hòa trên một quy mô rộng lớn chưa từng có.

Mặt khác, binh sĩ Cách mạng chiến đấu rất tốt, làm chủ được những thiếu sót về phối hợp và huấn luyện đã từng gây thiệt hại cho cuộc tiến công 1972 của họ. Rất nhiều mục tiêu quân sự nhỏ hơn cũng đã được chiếm đồng thời ở đồng bằng miền Đông và tỉnh Tây Ninh.
Bộ Chính trị họp từ 18 tháng 12 đến 8 tháng giêng để quyết định kế hoạch cuối cùng cho chiến dịch 1975- 1976. Cho đến lúc này, Bộ Chính trị chỉ có một kế hoạch rất chung chung, mặt cụ thể duy nhất của nó đang được thực hiện ở khu vực B2 với thắng lợi ngày càng nhiều. Đánh giá toàn bộ so sánh lực lượng ở miền Nam đã được Phước Long củng cố rất nhiều. Bộ Chính trị cũng xem xét sự đánh giá của Việt Nam cộng hòa đối với các ý đồ của Cách mạng.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 29 Tháng Chín, 2008, 04:10:59 am
CIA ở Sài Gòn, tin rằng đã nắm được nghị quyết chung đầu tiên của năm 1975, đã kết luận rằng ngoài giai đoạn một của cuộc tiến công ở vùng chiến thuật III và IV sẽ không có cuộc tiến công nào bằng quy mô của năm 1968 và 1972 nhưng chỉ hoạt động đủ để làm cho Việt Nam cộng hòa bối rối. Thiệu nhận được đánh giá đó và chấp nhận vì nó chính xác một cách phải chăng nhưng không biết rằng Đảng đã xác định chiến lược cuối cùng của họ. Khả năng xấu nhất mà Thiệu thấy trước là một cuộc tổng tiến công trùng hợp với cuộc bầu cử tổng thống Việt Nam cộng hòa tháng 10 tiếp theo hoặc có lẽ với cuộc bầu cử Mỹ một năm sau đó. Ông ta kết luận rằng như vậy thì không cần có thay đổi nào trong các lực lượng chính của mình. CIA cũng công bố đánh giá chi tiết của mình cho các nhà báo và được đưa ra công khai cuối tháng 12.

Trong khi các tướng của Đảng đặc biệt lấy cao nguyên Trung Bộ làm mục tiêu cho cuộc tiến công thì việc họ biết về những nhận định của Thiệu đối với những ý đồ của họ và việc Thiệu quyết định không củng cố vùng chiến thuật II, làm cho họ vững tin rằng họ đã chọn được đúng chỗ để tập trung cố gắng lớn ban đầu của họ.

Chỉ còn việc chọn địa điểm chính cho cuộc tiến công đầu tiên. Các đại diện B2 đề nghị Buôn Ma Thuột, một đô thị gần Phước Long và xa về phía nam của Kon-tum và Plây-cu, mà cả hai đã bị tiến công năm 1972. Đó là một mục tiêu có thể gây ra bất ngờ lớn nhất và cũng là nơi ít được bảo vệ nhất trong vùng. Họ tin rằng bằng cách kéo trục chính của cuộc chiến tranh xa hơn xuống phía nam và bằng cách gắn bó với khu vực B2, họ có thể sẽ làm cho thắng lợi càng lớn hơn và có thể rút ngắn cuộc chiến tranh.

Vì Phước Long đã tỏ ra rằng quân đội Việt Nam cộng hòa yếu hơn nhiều điều Hà Nội nhận thấy, nên lập luận của B2 có giá trị. Về phần mình, tướng Dũng cho rằng không những chiến dịch mở màn ở cao nguyên Trung Bộ sẽ thắng bất cứ ở đâu trong khu vực rộng lớn đó mà cuộc tiến công chính sẽ không thể tiến sâu xuống phía nam hơn nữa cho đến năm sau.

Những kế hoạch cuối cùng của Đảng do đó không phải là sản phẩm của một chiến lược dài hạn, chi tiết và bao quát mà là kết quả của ý muốn khai thác so sánh lực lượng rất có lợi cho mình và nắm bắt thời cơ. Cái đang được thử thách là sức mạnh của hai chế độ xã hội và những nhận thức về xã hội. Sức mạnh thực sự của cách mạng là sức mạnh của sự cố kết của bản thân mình và mối quan hệ với một phong trào quần chúng được phân quyền, bên cạnh những yếu kém chồng chất của Việt Nam cộng hòa.

Chiến lược của B2 tôn trọng cam kết cổ truyền của Đảng đối với học thuyết hỗn hợp vừa chiến tranh vừa chính trị, và ý thức của Đảng đối với những nhu cầu của miền Nam cũng như đối với tiềm năng của tình hình là chính xác. Việt Nam cộng hòa lúc này rất yếu ở tất cả các cấp và ít có nghi ngờ rằng ngay những quan niệm hưởng nhiều hơn về kỹ thuật và khá không mác-xít hiện đang có ở Hà Nội cũng có thể sẽ thắng ở chiến trường. Ở một mức độ nhất định có thể nói là cả hai quan niệm đã được áp dụng song song.

Tất cả điều mà một cuộc tiến công quân sự sẽ làm, là bộc lộ chỗ yếu tai họa của trật tự xã hội mà Mỹ đã dựng lên để đại diện cho quyền lợi của họ. Trật tự xã hội đó sẽ sụp đổ bằng cách này hay cách khác, là điều chắc chắn. Các tướng của Đảng là những người đóng vai trong lịch sử chứ không phải những người làm ra lịch sử. Tất cả các tình tiết của màn cuối cùng của chiến tranh đã được sắp đặt; không tình tiết nào là do ngẫu nhiên hoặc do tài của cá nhân, và ngay những sai lầm tai họa nhất của Việt Nam cộng hòa cũng có thể đoán trước vì Thiệu là con số đã biết.

Bắt đầu năm 1975 tất cả các nhân tố quyết định kết quả cuộc chiến tranh là những điều chồng chất mà các sự kiện và quá trình đưa lại: đó là những binh lính Việt Nam cộng hòa dàn mỏng khắp nơi, bị bỏ rơi trong thiếu thốn và mất tinh thần; đó là những nông dân kiên cường gây lo ngại cho các tỉnh trưởng và luôn luôn phải bị theo dõi; đó là những nhà lãnh đạo Mỹ kiệt sức, rất day dứt khi chỉ hai tiếng "Việt Nam" bị nhắc đến và quyết tâm tránh sự phung phí lần nữa năng lực và tiền của ở đó; đó là những tướng tham tiền với những bà vợ đầy vàng ngọc, và đó là nhiều thứ khác nữa. Số phận của Việt Nam, quá chậm đến hai thập kỷ, cuối cùng đã được quyết định.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 29 Tháng Chín, 2008, 04:11:47 am
Chương bốn mươi mốt
SỰ KẾT THÚC CỦA CHIẾN TRANH

VIỆN TRỢ CHO THIỆU VÀ TƯƠNG LAI CỦA VIỆT NAM CỘNG HÒA

Cuộc khủng hoảng chính trị làm rung chuyển Việt Nam cộng hòa sau giữa năm 1974 đã đặt trước chính quyền Pho một thực tế không sao tránh khỏi rằng tất cả các cố gắng hiện tại vào quá khứ rất đồ sộ của Mỹ đang lâm nguy. Sự thờ ơ, sự bất lực và những cố gắng vụng về của chính quyền Mỹ đã kết hợp vào cuối năm 1974 để đặt nó vào một trong những tình hình xấu nhất với một chế độ bị yếu đi nghiêm trọng mà không có hy vọng có một đối tượng nào vững vàng để thay cho Thiệu.

Vấn đề viện trợ quân sự bổ sung cho Việt Nam cộng hòa đã trở thành một vấn đề lớn hơn nhiều đối với Thiệu và với những chính quyền Mỹ nhưng không ai đã thấy trước được, khi Nhà Trắng xin tiền trong tháng giêng. Nó có tác động chính trị rõ rệt hơn nhiều đối với tương lai của Thiệu và Việt Nam cộng hòa so với tác động vật chất khi Quốc hội giảm viện trợ cho năm tài chính 1975.

Việc xin viện trợ bổ sung này có mục đích lúc ban đầu là tạo ra một sự làm yên lòng tượng trưng, nhưng hóa ra nó lại là một sự từ chối rõ ràng của Quốc hội trong việc ủng hộ Thiệu và nói trắng ra rằng Thiệu phải hoàn toàn tự lo liệu lấy với quân đội của mình để đối phó với kẻ thù. Nó cũng bộc lộ những sự chia rẽ và bất lực của chính quyền Pho, đẩy nhanh thêm cuộc khủng hoảng trong chính sách Việt Nam.

Cuối năm 1974, Thiệu cần một vài cử chỉ tâm lý để chứng minh rằng quan hệ của ông ta với Oa-sinh-tơn còn mạnh và có hiệu lực như trước. Vì thế ai cũng đều hiểu rằng việc xin viện trợ bổ sung là nhằm mục đích đó chứ không nhằm vào một số vũ khí có thể có ích nào đó dâu. Những sĩ quan cấp cao, lực lượng duy nhất có thể lật đổ Thiệu, là những người quan tâm trực tiếp nhất đến sự bất lực của Thiệu trong việc xin viện trợ. Một người trong bọn họ nói trong tháng 2 năm 1975 rằng: "Có nhiều điều than phiền về sự lãnh đạo ông ta". Sự việc này đã làm cho Thiệu, cũng trong tháng đó, cử tướng Toàn bỉ ổi làm tư lệnh vùng chiến thuật III trọng yếu quanh Sài Gòn và thắt chặt hơn nữa sự kìm kẹp của ông ta đối với cảnh sát và các bộ chỉ huy chủ chốt.

Về phần mình, Kít-xin-giơ xử lý vấn đề Việt Nam và vấn đề xin viện trợ bổ sung một cách không đưa lại kết quả gì. Hết sức bị lôi cuốn vào các vấn đề Trung Đông, ông ta lại đương đầu với Quốc hội vào lúc Lầu Năm Góc không che giấu sự chống đối của mình đối với mọi viện trợ bổ sung. Hai vấn đề đó kết hợp lại trong những tháng cuối cùng của cuộc chiến tranh làm cho chính sách Việt Nam của Nhà Trắng bị tê liệt và làm thiệt hại nặng đến khả năng sống sót chính trị của Thiệu.

Bảy mươi lăm hạ nghị sĩ mới, tham gia khóa Quốc hội thứ chín mươi tư, tháng giêng năm 1975, là những người chống chiến tranh mạnh mẽ và chủ trương cải tổ lại hệ thống các ủy ban đã từng giúp cho các chính quyền liên tiếp thực hiện chính sách đối ngoại. Không muốn mặc cả lôi thôi và xem thường Kít-xin-giơ là một kẻ kêu căng chỉ chạy theo quyền lực, cả Hạ lẫn Thượng viện nói rõ ngay từ đấu rằng việc xin viện trợ phụ ngày 28 tháng giêng ít có khả năng được thông qua và việc thông qua nhanh càng không chắc sẽ diễn ra.

Con số 300 triệu đô-la đã được đưa ra một cách may rủi và CIA ở Sài Gòn thì cho rằng, vì việc xin thêm này chỉ nhằm vào tác động tâm lý và vì việc mua thêm vũ khí không phải cấp bách, nên một con số nhỏ hơn có khả năng sẽ được thông qua nhanh chóng hơn. Trong những tuần đó, một báo cáo của một quan chức tổng kiểm tra về việc dùng một cách quá mức trang bị và đạn dược của Việt Nam cộng hòa đã bị lộ ra với Quốc hội, rồi với báo chí. Lầu Năm Góc cũng đưa ra tin tức về việc Việt Nam cộng hòa có những kho vũ khí đạn dược lớn. Những tiết lộ này không lợi cho Nhà Trắng. Chúng tiết lộ rằng càng có thêm tiền, Việt Nam cộng hòa sẽ trữ thêm vũ khí hoặc mở rộng chiến tranh.

Đầu tháng giêng, Kít-xin-giơ lại chỉ trích Lầu Năm Góc đã không chịu đưa một đơn vị tác chiến đặc biệt hải quân vào vùng biển Việt Nam để de dọa Việt Nam dân chủ hòa. Lầu Năm Góc tiết lộ sự việc này và làm cho Bộ trưởng ngoại giao rất lúng túng, buộc Pho ngày 21 tháng giêng tuyên bố rằng ông ta không thể thấy trước những hoàn cảnh làm cho Mỹ phải trở lại cuộc chiến tranh.

Trong những điều trần đầu tiên về viện trợ bổ sung, Lầu Năm Góc lại đưa ra những số liệu cho thấy rằng quân đội Việt Nam cộng hòa vẫn còn giữ ưu thế áp đảo về sức mạnh vật chất. Biết rằng khó có thể có được viện trợ bổ sung, Nhà Trắng đưa ra kế hoạch cả gói viện trợ quân sự và kinh tế 6,4 tỷ đô-la trong ba năm, sau đó thì sẽ chấm dứt mọi viện trợ. Lầu Năm Góc hành động trực tiếp hơn, vì thấy rằng nhiều tiền hơn sẽ bị đổ vào chiến tranh Việt Nam. Lầu Năm Góc muốn có kinh phí để hiện đại hóa các lực lượng vũ trang của mình và Sơ-lê-xin-giơ lập luận rằng nếu chính quyền Mỹ sẵn sàng để cho Việt Nam cộng hòa sụp đổ năm 1977, thì cũng có thể làm như vậy ngay tức khắc.

Trước khi kế hoạch ba năm được đưa ra, Lầu Năm Góc bắt đầu nói với Quốc hội rằng Việt Nam cộng hòa sẽ sụp đổ nếu nó không nhận được viện trợ thêm một thập kỷ nữa. Tuyên bố này làm cho kế hoạch ba năm thay thế cho viện trợ bổ sung bị tổn thương lớn. Sơ-lê-xin-giơ cũng không tiên đoán rằng Việt Nam cộng hòa sẽ thất bại nếu không có viện trợ bổ sung và đến tháng 3, ông ta công khai đòi quân sự Mỹ chuyển trung tâm của mình vào châu Âu và công cuộc hiện đại hóa.

Việc Quốc hội không cho viện trợ bổ sung đã đẩy Việt Nam cộng hòa vào một khủng hoảng tâm lý và chính trị trong giai đoạn cuối cùng của cuộc đời nó.



Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 29 Tháng Chín, 2008, 04:13:48 am
CÁN CÂN QUÂN SỰ VÀ CUỘC KHỦNG HOẢNG NGÀY CÀNG SÂU SẮC CỦA VIỆT NAM CỘNG HÒA, ĐẦU NĂM 1975

Về mặt vật chất, quân đội Việt Nam cộng hòa đầu năm 1975 có một ưu thế to lớn về số lượng trong tất cả các lĩnh vực, so với Cách mạng. Mặc dù những lời phàn nàn này nọ, nhưng con số cho thấy rằng quân đội Việt Nam cộng hòa là một đội quân đáng sợ chỉ cần nó dám chiến đấu thôi. Nó có 1.400 cỗ súng lớn so với 400 của Cách mạng. 1200 xe tăng và xe bọc thép chở quân so với 600 của Quân đội nhân dân Việt Nam. Lầu Năm Góc đánh giá có khoảng 185.000 quân chiến đấu, 107.000 quân yểm trợ  và 45.000 du kích trong đội quân của Cách mạng, nghĩa là quân đội Việt Nam cộng hòa có ưu thế hai trên một về quân chiến đấu và một ưu thế chung ba trên một về toàn bộ lực lượng.

Không quân Việt Nam cộng hòa còn có 1.400 máy bay, tuy hệ thống phòng không của Quân đội nhân dân Việt Nam rất hùng mạnh. Số lượng thật sự của quân đội Việt Nam cộng hòa là một điều bí ẩn đối với ngay cả những sĩ quan cao cấp nhất. Họ chỉ biết họ chỉ tìm khoảng một nửa số 50.000 quân mà họ cần hàng năm để thay những lính đào ngũ và những thương vong bình thường.

Mặc dù những phàn nàn than vãn của Mac-tin, quân đội Việt Nam cộng hòa bắn đạn súng lớn gấp chín lần phía Cộng sản và kho đạn của họ thì từ tháng 9 năm 1974 đến tháng 3 năm 1975 đã lên đến hai phần ba dự trữ khổng lồ đã có khi ký Hiệp định Pa-ri. Người đứng đầu cơ quan hậu cần của Việt Nam cộng hòa về sau thừa nhận: "Nhưng các đơn vị chiến đấu chưa bao giờ thiếu đạn khi lâm trận với kẻ thù và không có cuộc hành quân nào phải hoãn lại vì thiếu đạn".

Trong khi tinh thần của Việt Nam cộng hòa quá sa sút cho nên không sao cứu chữa được, thì vế mặt kỹ thuật, chiến lược "bốn không" của Thiệu nhằm giữ càng nhiều đất, nhiều dân càng tốt đã phung phí những vốn quý quân sự tiềm tàng của ông ta. Vì lý do đó, Cách mạng có thể xác định thời điểm và hình thức chiến đấu và luôn luôn đánh bại quân đội Việt Nam cộng hòa. Nhiều sĩ quan Mỹ kêu gọi những sĩ quan Việt Nam cộng hòa tập trung quân đội của họ vào những vùng có thể bảo vệ được và, đã được nhiều người đồng tình.

Các tướng của Thiệu cũng thảo luận chiến lược này và tháng 8 năm 1974, sau khi không còn đủ trang bị để mở rộng ra toàn đất nước, một ủy ban của quân đội nghiên cứu khả năng bỏ các vùng nghèo hơn ở các vùng chiến thuật I và II và tập trung vào các đô thị bờ biển và khu vực nam Nha Trang gần vĩ tuyến mười hai. Mac-tin và đại sứ quán khuyến khích ý định cắt bớt đất đó nhưng chủ yếu là để gây sức ép với Quốc hội nếu Quốc hội tiếp tục cắt viện trợ; tuy vậy vẫn có những người thực sự tán thành biện pháp đó. Đó hoàn toàn không phải là một chiến lược vô nghĩa và lập dị, và chỉ sự chống đối của Thiệu mới ngăn chặn được nó. Tướng Mu-rây là người Mỹ quan trọng nhất tán thành chiến lược đó và Cơ quan tùy viên quốc phòng luôn luôn quan tâm đến việc xem xét lại chiến lược.

Cuối năm 1974, Thiệu đồng ý rằng thành lập một dự trữ chiến lược là việc đáng làm về nguyên tắc, và giao cho một ủy ban để nghiên cứu. Các tướng Viên và Khiêm mạnh mẽ ủng hộ sự cải cách. Chỉ một mình việc này làm cho Thiệu thận trọng trong việc thực hiện bởi vì Khiêm là mối đe dọa chính trong giới quân sự. Thúc đẩy việc này lại là một người Ô-xtrây-li-a, đã từng là một quan chức của CIA và tổ chức Rand, và bây giờ là một cố vấn của Việt Nam cộng hòa, Tet-xa-rông, ông ta lập luận ràng bảy trong số mười ba sư đoàn đang bảo vệ chỉ một phần sáu nhân dân và ông ta chủ trương bỏ nửa trên của Nam Việt Nam.

Phần đông người Mỹ ở Sài Gòn nghĩ rằng những sự rút lui có tính toán là khôn ngoan; khi Thiệu và những trợ lý của ông ta hỏi ý kiến những người Mỹ thì họ nói rõ sẽ ủng hộ Thiệu bất kể ông ta quyết định như thế nào.

Vấn đề trước mắt của quân đội Việt Nam cộng hòa không phải là vấn đề vật chất mà là vấn đề tinh thần và lãnh đạo. Những sĩ quan và những chiến lược không thích hợp và sự cung cấp kém dồi dào hơn trước có gây một số tổn thương, nhưng cuối cùng những điểm yếu tai họa của Việt Nam cộng hòa bắt nguồn trong tính chất căn bản hơn của chế độ xã hội và trong chính cuộc chiến tranh. Tinh thần của binh lính sa sút trong nhiều năm. Tuy nó là tồi tệ trong tháng giêng năm 1975 hơn bao giờ hết, nhưng chừng đó không thôi không đủ để giải thích những sự kiện tiếp theo.

Điều độc đáo là sự tan rã của chế độ chính trị của Thiệu là tiếp theo những phản đối chống tham nhũng, cuộc khủng hoảng kinh tế, việc cắt viện trợ, và sự phân liệt sâu sắc trong khối liên hiệp mà "Thiệu đã hàn gắn trong những năm thịnh vượng 1969-1972. Điểm ngoặt của giới thượng lưu cổ truyền là việc mất tỉnh Phước Long, tiếp theo là việc không xin được viện trợ bổ sung tại Quốc hội. Một nỗi bi quan tuyệt vọng và một cảm giác tận số đang lơ lửng trên đầu đã bao trùm cả Sài Gòn. Nó càng trở nên sâu sắc thêm khi Trần Văn Lắm, chủ tịch Thượng viện Việt Nam cộng hòa và là bộ trưởng ngoại giao cũ, từ chuyến đi thăm Oa-sinh-tơn trong tháng 2 trở về, tuyên bố nhưng không có chứng minh thực sự rằng tất cả viện trợ sẽ chấm dứt năm tài chính đó.

Vào lúc này, Thiệu không thành công trong cố gắng chở vàng của Việt Nam cộng hòa sang Thụy Sĩ, nói là phụ thêm vào tiền vay để mua đạn dược, và Thiệu cũng cố gắng vay mượn trên cơ sở thu nhập tương lai về dầu. Trạng thái buồn rầu của Sài Gòn biến thành một nỗi hoảng sợ thực sự khi một phái đoàn Quốc hội Mỹ rõ ràng lạnh nhạt nhanh chóng ghé qua vào cuối tháng 2. Chính trạng thái của "không khí... đầy tin đồn và suy đoán", như tướng Viên mô tả, đã đe dọa quyền hành của Thiệu và chiếm lĩnh tâm trí của Việt Nam cộng hòa, của các nhà lãnh đạo cũng như của binh lính, trong khi các đội quân của Cách mạng chuẩn bị cuộc tiến công của mình.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 29 Tháng Chín, 2008, 04:14:57 am
CÁI BẮT ĐẦU CỦA SỰ KẾT THÚC:
THÁNG 3 NĂM 1975 VÀ CUỘC TÁN LOẠN QUÂN SỰ

Đầu tháng 3 năm 1975, kết quả cuộc chiến tranh chắc chắn phản ánh toàn bộ hai thập kỷ của những gì xảy ra ở Nam Việt Nam, nhưng hình thức chính xác của sự kết thúc sẽ được gắn liền ở một mức độ đáng chú ý, vào suy xét và thái độ xử sự của Nguyễn Văn Thiệu. Mỹ hoàn toàn dựa vào Thiệu để chứng minh lòng tin và hiệu quả tượng trưng của chính sách đối ngoại, làm cho cố gắng lâu dài của mình không mạnh gì hơn một con người mà một chế độ mà ngay từ đầu đã phụ thuộc vào Mỹ. Đó là một mối quan hệ đầy nguy hiểm cho cả chính quyền Pho lẫn những người cộng tác với Mỹ ở Sài Gòn.

Quyết định của Đảng tiến công cao nguyên Trung Bộ đã xảy ra vào lúc vị trí của Việt Nam cộng hòa trong khu vực đặc biệt suy yếu. Những bộ tộc miền núi trong các đơn vị vũ trang địa phương của Việt Nam cộng hòa, đặc biệt là quanh Buôn Ma Thuột, công khai chống lại Thiệu nhất là vì sự cướp bóc của quân đội Việt Nam cộng hòa. Họ không muốn báo cáo việc di chuyển rất nhiều Quân đội nhân dân Việt Nam vào khu vực trong tháng 2. Tinh thần quân đội Việt Nam cộng hòa ở cao nguyên cũng thấp như ở khắp các nơi khác; tỷ lệ nghiện ma túy được báo cáo là 30 phần trăm ở vùng Plây-cu và, ma túy là do sĩ quan bán cho.

Tuy vậy tình báo của quân đội Việt Nam cộng hòa biết trước vào giữa tháng 2 rằng một cuộc tiến công lớn sắp xảy ra ở cao nguyên và Buôn Ma Thuột là mục tiêu chính; nhưng tư lệnh vừng chiến thuật II thì cho rằng Plây-cu là mục tiêu chính và ông ta chuẩn bị theo hướng đó. Trong khi đó thì Quân đội nhân dân Việt Nam làm cho ông ta càng tin vào nhận định của mình bằng cách tổ chức những hành động nghi binh cả ở khu vực đó lần ở quanh Huế và tây Sài Gòn, một lần nữa buộc toàn bộ lực lượng vũ trang Việt Nam cộng hòa đóng quân tại chỗ. Họ bố trí rất cẩn thận nhằm cắt tất cả các đường chính để không thể đưa thêm quân vào cao nguyên hoặc đưa từ Plây-cu và Kon-tum để tiếp viện cho Buôn Ma Thuột, hoặc không cho quân của Thiệu thoát nếu Thiệu ra lệnh rút lui chiến lược khỏi khu vực, một cuộc rút lui mà họ biết đang được thảo luận trong nhiều tháng rồi.

Lực lượng vũ trang Việt Nam cộng hòa ở cao nguyên có đủ dự trữ để chiến đấu trong hai tháng. Các tướng của Quân đội nhân dân Việt Nam cũng chuẩn bị cho một chiến dịch hai tháng, trước khi mùa mưa gây khó khăn cho trang bị nặng của họ. Tính toán của họ là dựa trên khả năng của quân đội Việt Nam cộng hòa. Như một sĩ quan Mỹ về sau kết luận: "Người Bắc Việt Nam không khởi xướng chiến dịch với một ưu thế lực lượng áp đảo". Dự kiến lạc quan nhất của họ là toàn bộ cao nguyên có thể chiếm được trong năm 1975, tuy năm 1976 là đích có nhiều khả năng hơn. Trừ phi Thiệu ra lệnh rút lui nếu không họ cho là phải có thời gian dể chiếm các đô thị lớn của cao nguyên.

Cuộc tiến công Buôn Ma Thuột xảy ra sáng sớm ngày 10 tháng 3. Các đơn vị Quân đội nhân dân Việt Nam chiến đấu rất tốt, gây được bất ngờ và chặn được mọi tiếp viện đến thành phố. Khi không quân Việt Nam cộng hòa được phái đến, một máy bay đánh vào trung tâm tổ chức bảo vệ thành phố, phá hủy hoàn toàn trung tâm đó và kết thúc mọi sự phòng thủ có tổ chức. Tiếp theo là một loạt các sự kiện bộc lộ nhược điểm cơ cấu cơ bản của các lực lượng Việt Nam cộng hòa trên khắp đất nước.

Quân đội nhân dân Việt Nam chiếm thành phố và ngày hôm sau Thiệu ra lệnh cho tư lệnh vùng chiến thuật II chiếm lại, coi nó quan trọng hơn Plây-cu và Kon-tum. Hai trung đoàn quân tích cực, tận tụy của quân đội Việt Nam cộng hòa được không vận xuống một đô thị 30 ki-lô-mét đông Buôn Ma Thuột ngày 14 tháng 3 và hy vọng sẽ đánh tốt vì gia đình của họ bị kẹt ở Buôn Ma Thuột. Nhưng vì nhiều người trong gia đình của họ đã rời thành phố và chạy tán loạn khắp nơi, binh lính liền bỏ đơn vị và vũ khí để đi tìm gia đình. Sự trung thành của binh lính với gia đình mà phần lớn sống gần họ đã được lập lại khắp nơi, làm sụp đổ hoàn toàn tình đoàn kết chiến đấu và kỷ luật, và làm một nguyên nhân cơ bản thất bại Việt Nam cộng hòa.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 29 Tháng Chín, 2008, 04:15:36 am
Tư lệnh sư đoàn hai mươi ba cũng bỏ nhiệm sở để đưa gia đình ra ngoài bằng máy bay lên thẳng. Vì đông đảo binh lính và gia đình họ làm tắc nghẽn các đường khi tìm cách chạy thoát ra bờ biển cách đó gần một trăm ki-lô-mét, sự hoảng sợ và hỗn loạn bắt đầu lan ra trên khắp khu vực.

Cuộc tiến công mở màn ở cao nguyên Trung Bộ được tiếp theo với một loạt các cuộc tiến công nhỏ hơn ở khắp nơi làm cho Thiệu hoang mang không biết các mục tiêu chính và khả năng của Cách mạng như thế nào. Vì vậy sự có mặt của Cách mạng trên khắp Nam Việt Nam đã gây ra những sức ép và bối cảnh cho sai lầm chiến lược tai họa của Thiệu, mà nếu không có nó, chiến tranh có thể còn kéo dài như Cách mạng đã tính toán.

Vì số lớn các lực lượng vũ trang của Cách mạng là các đơn vị chính quy, chủ yếu từ Việt Nam dân chủ cộng hòa, cho nên các lực lượng địa phương rải ra trên khắp đất nước có một tầm quan trọng chất lượng đối với Thiệu và ảnh hưởng đến tính toán và triển khai lực lượng của ông ta.

Về phía mình, Quân đội nhân dân Việt Nam tự do tập trung lực lượng để giành ưu thế bởi vì các đơn vị địa phương ở vùng chiến thuật I hoặc ở đồng bằng sông Cửu Long đã là mối đe dọa cho quân đội Việt Nam cộng hòa trong những ngày trước cuộc tiến công mở màn vào Buôn Ma Thuột và trong những tuần tiếp theo, khi các lực lượng địa phương kiểm soát các đô thị lớn phía bắc Nam Việt Nam.

Chính sự cần thiết nghiệt ngã phải triển khai quân đội trên toàn đất nước, mặc dù chống lại những du kích ít hơn về số lượng và được trang bị nghèo nàn hơn, đã đưa đến sai lầm chiến lược của Thiệu và sự kết thúc choáng váng của chiến tranh trong chỉ sáu tuần.

Thiệu đã tìm cách biến quân đội Việt Nam cộng hòa thành một vũ khí chính trị quá lâu nên ông ta không thể thay đổi được, vì vậy với chiến dịch Tây Nguyên ông ta có ít lựa chọn trước mắt. Cả Lam Sơn 719 lẫn cuộc tiến công mùa xuân 1972 đã bộc lộ tính chất không vững vàng và không thông thạo của ông ta với tư cách là một nhà chiến lược quân sự. Vì những lý do chính trị rõ rệt, Thiệu đã chống lại sự cải tổ chiến lược mà các lực lượng của ông ta đã được thảo luận từ tháng 8 năm 1974.

Ngày 10 tháng 3 sau khi tham khảo lần cuối cùng với Đại sứ quán Mỹ, Mac-tin đang ở Mỹ cho đến cuối tháng để chữa răng, Thiệu quyết định triển khai lại quân đội của mình. Sáng ngày 11 tháng 3, khi Buôn Ma Thuột đã mất, ông ta báo cho các cố vấn quân sự cấp cao về kế hoạch chỉ giữ những thành phố bờ biển then chốt trong các vùng chiến thuật I và II và bỏ tất cả vùng cao nguyên, trừ vùng Buôn Ma Thuột sẽ được chiếm lại. Cùng với nửa nam của đất nước, vùng đó sẽ hình thành một cơ sở cho một Việt Nam cộng hòa có thể bảo vệ về mặt lãnh thổ và có một dự trữ chiến lược.

Được các kẻ nịnh hót quân sự của ông ta là những quan chức cấp thấp ở Sứ quán Mỹ hà hơi, Thiệu đưa ra quyết định tai họa nhất của cuộc chiến tranh như là một cố gắng tuyệt vọng để đối phó với cuộc tiến công của Cách mạng. Hai ngày tiếp theo ông ta nghiền ngẫm lại kế hoạch mà một số bộ phận trên thực tế đã được thực hiện, gặp nhà bói toán của ông ta và gặp Tet Xa-rông, cả hai người này đều hoài nghi. Rồi ngày 14 tháng 3, ông ta bay đi Cam Ranh để ra lệnh cho tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh vùng chiến thuật II, bỏ toàn bộ cao nguyên trong vòng hai ngày. Họ sẽ dùng các lực lượng rút từ khu vực Kon-tum - Plây-cu để chiếm lại vùng Buôn Ma Thuột. Phú không được nói với ai về kế hoạch di tản trừ các sĩ quan cấp cao, nhất là ông ta cũng không báo cho các đơn vị địa phương, trước khi cuộc di tản bắt dầu. Đây là một kế hoạch ngẫu hứng, không được dự định từ trước và khi Phú thất bại trong việc chiếm lại Buôn Ma Thuột, thì tất cả các nhân tố đã làm cho thảm họa trở thành điều chắc chắn, tuy tính chất ác liệt thì khó có thể tưởng tượng được hết.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 29 Tháng Chín, 2008, 04:16:16 am
Trong khi không có quan chức Mỹ nào dính líu vào kế hoạch này, nhưng họ biết nó sắp xảy ra. Liền sau khi nó bắt đầu, Oét-mo-len ở Oa-sinh-tơn gọi nó là một "hành động khôn ngoan". Chỉ khi nó tỏ ra là thảm họa, họ mới tìm cách tách xa mình ra. Mặc dù không có người Mỹ trọng yếu nào tham gia quyết định cụ thể, nhưng họ đã góp phần trong các cuộc thảo luận sau tháng 8, gây cảm hứng cho chủ trương đó. Trên hết, chính họ đã chọn Thiệu như là tổng tư lệnh và làm cho lời nói của ông ta trở thành mệnh lệnh.

Cuộc rút lui bắt đầu ngày 16 tháng 3. Sau khi tướng Phú gặp các sĩ quan của mình ở Plây-cu, ông ta trở về hưởng sự an toàn của Cam Ranh, bỏ cho họ tự xoay xở lấy. Một sĩ quan có hỏi về số phận của những nhân viên Việt Nam cộng hòa, những lực lượng địa phương và gia đình của binh lính Việt Nam cộng hòa, thì Phú ra lệnh, đúng theo lệnh của Thiệu: "Hãy quên họ đi. Anh không có trách nhiệm chăm sóc họ?... Nếu anh nói với họ về việc đó anh sẽ không kiểm soát được và không thể xuống đến Tuy Hòa vì sẽ có tình trạng hoảng hốt (xem Hosmer quyển "Fall of South Vietnam" trang 188).

Tuy nhiên, khi quân đội Việt Nam cộng hòa rút lui theo một con đường đã bị bỏ và không còn nhận ra được nữa, để xuống vùng bờ biển, thì gia đình của họ cũng theo với họ, và ngay tức khắc xảy ra một sự hỗn loạn cực độ. Nổi loạn, cướp bóc, hiếp dâm xảy ra trong suốt cuộc rút chạy và sự hoảng sợ do việc bỏ cao nguyên gây ra đã lan rộng đến vùng xa xôi như Huế. Những đợt sóng các lực lượng quân sự, gia đình họ và những người dân sự chen chúc nhau trên con đường ngập cỏ, bụi cây, không còn những chiếc cầu quan trọng, đã hỗn loạn hoàn toàn và còn bị chính máy bay của họ bắn phá, ít nhất ba phần tư lực lượng quân sự của vùng chiến thuật II đã bị tiêu diệt trong cuộc tán loạn đó và trong 400.000 người dân sự tìm cách chạy xuống vùng biển, chỉ một phần tư tới nơi. Những người sống sót loan truyền những câu chuyện về sự khủng khiếp và lừa dối của Việt Nam cộng hòa làm cho mọi người càng thêm hoảng sợ. Từ đó trở đi, đại bộ phận quân đội Việt Nam cộng hòa, kể cả các sĩ quan, dành lòng trung thành của họ cho gia đình họ chứ không phải cho các cấp chỉ huy mỗi khi bị Cách mạng tiến công, và một bộ phận rất lớn trang bị của họ bị vứt bỏ dọc đường.

Trong khi đó, những đơn vị tương đối nhỏ của Quân đội nhân dân Việt Nam gây sức ép đối với những cơ sở của quân đội Việt Nam cộng hòa gần Huế, là những cơ sở có thể dễ dàng giữ vững cho đến khi tin tức về cuộc tán loạn ở cao nguyên lọt đến họ. Quan trọng hơn nữa là sư đoàn dù tinh nhuệ ở phía bắc Huế, ngày 12 tháng 3, được điều về Sài Gòn vì lý do chủ yếu là chính trị, do đó mà làm yếu nghiêm trọng sự phòng thủ của vùng chiến thuật I.

Ngày 13, tư lệnh vùng chiến thuật I, trung tướng Ngô Quang Trưởng gặp Thiệu yêu cầu bỏ lệnh đó, và Thiệu báo cho ông ta bỏ tất cả vùng chiến thuật I, tập trung phòng thủ quanh Đà Nẵng và xây dựng một dự trữ chiến lược với những lực lượng dôi ra. Khi Trưởng trở về Huế, Thiệu chỉ thị cho ông ta đẩy nhanh việc rút quân; ngay khi việc rút quân bắt đầu thì quân đội Việt Nam cộng hòa tại vùng chiến thuật I bắt đầu tan rã. Gia đình quân đội chạy theo, những người dân sự hốt hoảng và ngay tức khắc, một bể người như loạn trí làm tắc nghẽn các ngả đường. Cướp bóc xảy ra khắp nơi, các đơn vị tan rã khi binh lính bỏ hàng ngũ đi tìm gia đình. Nhân dân khiếp sợ vì những cuộc cướp bóc, hiếp dâm không bao giờ dứt và vì những cuộc bắn nhau giữa lính các đơn vị của quân đội Việt Nam cộng hòa.

Khi sự khiếp sợ lan tràn, cuối cùng hai triệu người đổ vào Đà Nẵng; và một cảnh tưởng hỗn loạn và suy đồi vô hạn diễn ra. Thiệu gọi Trưởng về Sài Gòn ngày 19 và cho ông ta hoàn toàn tự do làm theo chiến lược của riêng mình. Vào lúc đó, sự tan rã của quân đội và sự cuồng loạn của quần chúng không còn để cho ông ta bao nhiêu lựa chọn. Trưởng đòi bảo vệ Huế và Thiệu đồng ý. Thiệu lên đài truyền hình chiều hôm sau với một phát biểu kỳ lạ bốn phút nhằm làm an tâm những người theo ông ta nhưng lại làm cho họ bực mình vì phát biểu quá ngắn. Ông ta tuyên bố sẽ giữ Huế với bất cứ giá nào. Nhưng cũng chính chiều hôm đó, ông ta bí mật một lần nữa ra lệnh cho Trưởng chỉ tập trung phòng thủ Đà Nẵng và cho lữ đoàn dù cuối cùng về Sài Gòn ngay. Trên thực tế, mười ngày sau cuộc tiến công Buôn Ma Thuột, quân đội Việt Nam cộng hòa trong nửa bắc của đất nước tan rã vì Thiệu gây ra hoang mang tuyệt đối cho nó. .


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 30 Tháng Chín, 2008, 03:23:42 am
CÁCH MẠNG CHỌN PHƯƠNG ÁN THẮNG LỢI HOÀN TOÀN
   

Các nhà lãnh đạo Cách mạng sững sờ trước sự mau lẹ của những sự kiện và những khả năng mới đột ngột mở ra trong khoảng trống mênh mông trước họ. Họ có quyết tâm dứt khoát làm thay đổi cán cân ở cao nguyên nhưng khó mà hình dung rằng chỉ trong vòng vài ngày Thiệu đã phạm vô số sai lầm chồng chất và không sử dụng được các lực lượng phòng thủ ghê gớm của mình. Bây giờ những tiêu chuẩn chính quy của chiến tranh không còn thích hợp mà còn nguy hiểm nữa; những nhân tố tinh thần và chỉ huy trở nên quyết định.

Bộ Chính trị họp ngày 11 tháng 3 và xem xét khả năng thắng lợi hoàn toàn, nhanh chóng, và chỉ thị cho Quân đội nhân dân Việt Nam không để cho số còn lại của các lực lượng Việt Nam cộng hòa thoát khỏi cao nguyên và tập hợp lại ở nơi khác. Vào lúc khẩn cấp này, học thuyết quân sự của Đảng mà cho đến lúc này, ngày càng nhấn mạnh đến một lực lượng chiến đấu chính quy, dùng những kỹ thuật tiêu chuẩn đặc trưng của tất cả các quân chủng, đã được chuyển sang nhấn mạnh đến tốc độ, cơ động và sáng tạo để chống lại một kẻ thù rối loạn không còn có thể chiến đấu chính quy nữa. Quân đội nhân dân Việt Nam bỏ phần nhiều thần tượng kỹ thuật của hai năm trước và bỏ bớt trang bị cồng kềnh nặng nề như tên lửa SAM2 mà họ đã gửi vào Nam. Tốc độ nhanh chóng và cơ động là thực chất để khai thác sự hoảng hốt và tan rã tổ chức quân đội Việt Nam cộng hòa.

Bản thân tướng Dũng, người chủ trương then chốt của chính quy hóa, nhanh chóng trở lại tiến hành cuộc chiến tranh mà không cần quan tâm đến những học thuyết mới đây của ông ta, nhận thức rằng trong một cuộc tán loạn chỉ óc sáng tạo cũng đủ để chiếm lĩnh thời gian. Bây giờ ông ta thúc Quân đội nhân dân Việt Nam chiếm ngay phần bắc của Nam Việt Nam.

Liền sau khi Thiệu để cho bộ chỉ huy bỏ các vùng chiến thuật I và II tất cả các lựa chọn của Đảng có thể đưa đến thất bại hoàn toàn của Việt Nam cộng hòa. Ngày 18 tháng 3, Bộ Chính trị quyết định tiến về Sài Gòn và kết thúc chiến tranh, trước tiên củng cố sự kiểm soát ở vùng chiến thuật I. Quyết định này có những tác động to lớn đến các chính sách của Việt Nam dân chủ cộng hòa về xây dựng lại và về các ưu tiên khác, tuy nhiên chấm dứt chiến tranh khi có thể chấm dứt là một thời cơ không thể nào bỏ qua được.

Tốc độ bây giờ là thiết yếu. Nếu số quân còn lại của Thiệu mà có thể tập hợp lại và chiến đấu, kéo dài chiến tranh thì tốn kém cho Việt Nam dân chủ cộng hòa sẽ phải lớn nhiều. Ngày 25 tháng 3 Bộ Chính trị định một biểu thời gian cho thắng lợi cuối mùa khô vào giữa tháng 5. Lần đầu tiên Bộ Chính trị chuẩn bị một kế hoạch để chiếm Sài Gòn. Toàn bộ Quân đội nhân dân Việt Nam được dành cho chiến tranh, và tất cả các tài sản được tập trung để thắng.

Thắng nhanh chóng một cuộc chiến tranh ba mươi năm, trải ra trên một lãnh thổ rộng lớn, đòi hỏi phải dũng cảm và có tài ứng biến. Tướng Dũng yêu cầu các tướng của ông ta phải giải quyết các khó khăn hậu cần to lớn mới theo cách Cách mạng đã làm ngay từ đầu, nghĩa là lấy của địch nuôi mình. Khi họ vượt quá khu vực cao nguyên là nơi mà họ có chuẩn bị để chiến đấu trong một thời gian thì họ chuyển sang chính sách cung cấp cho nhu cầu của mình tại chỗ và ở đây các đơn vị chính trị và du kích địa phương tỏ ra rất quan trọng.

Ủy ban cách mạng lâm thời Đà Nẵng đã tiếp xúc với các đơn vị Quân đội nhân dân Việt Nam đầu tiên để đưa vào thành phố vì họ đã thiếu xăng. Quân đội việt Nam cộng hòa rút lui đã không kịp phá hủy các kho dầu khổng lồ, xe vận tải và các loại đạn dược và súng ống, và gần một nửa vận tải của Quân đội nhân dân Việt Nam trong những ngày cuối đã sử dụng xe tải của Mỹ. Thậm chí họ thuyết phục nhiều lái xe của quân đội Việt Nam cộng hòa tiếp tục làm việc, và đã sử dụng rộng rãi trọng pháo chiếm được.

Vịnh Cam Ranh, với những phương tiện đầy đủ của nó, đã trở thành nguồn cung cấp thiết yếu cho cuộc tiến công vào Sài Gòn, và không phải chỉ hoàn toàn dùng những đường mà họ đã cần cù xây dựng, mà còn nhận thấy các đường lớn do Mỹ xây dựng cũng rất có giá trị. Cách mạng luôn luôn chung sống với kẻ thù của mình và những ngày cuối của cuộc chiến tranh vẫn như vậy, chỉ có quy mô lớn hơn.

Khi khoảng trống lớn mở ra, thì vấn đề vận chuyển là chìa khóa để thắng, và các lực lượng Cách mạng, kết hợp tài sản của mình với tài sản mà họ chiếm được, bắt đầu từ đầu tháng tư đã được trang bị tốt hơn bao giờ hết trong toàn bộ lịch sử của họ. Mặc dù có những sai sót không thể tránh khỏi về phối hợp, họ đã giữ được đà tiến quân và đã được sự suy sụp của Việt Nam cộng hòa giúp đỡ rất nhiều.

Vào giữa tháng 3 trở đi, Cách mạng thắng trận với rất ít chiến đấu, chỉ đi vào những vùng rộng lớn mà sự tan rã của kẻ thù mở ra một cách độc lập với hành động của những người chống lại họ. Khi phải chiến đấu thì với so sánh lực lượng vật chất không ngang bằng đó, cuộc chiến đấu ít khi kéo dài.



Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 30 Tháng Chín, 2008, 03:27:16 am
NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG CỦA SÀI GÒN:
CHÍNH TRỊ LÊN HÀNG ĐẦU

Cơ cấu quân sự của Nguyễn Văn Thiệu đã được tổ chức để duy trì quyền lực chính trị của ông ta, và việc nó đã thất bại và đẩy nhanh sự sụp đổ của chính nó trước một thách thức nghiêm trọng nhưng chưa phải quyết định, là điều lô-gích của chế độ mà người Mỹ đã dựng lên. Không phải Thiệu chỉ chia toàn bộ cơ cấu quân sự thành bốn vùng chiến thuật mà các vùng chiến thuật không còn thể liên hệ với nhau ngay cả trong trường hợp tối cần thiết.

Bộ tổng tham mưu mới dưới quyền của tướng Cao Văn Viên bị gạt ra khỏi mọi quyết định về chỉ huy: hơn nữa, Viên ít hoạt động nhưng lại thành công về mặt tài chính, luôn luôn củng cố xu hướng của những người ông ta phục và giữ im lặng khi Thiệu ngày 11 tháng 3 vạch ra kế hoạch rút lui tai họa khỏi cao nguyên. Thiệu như vậy là có đủ lý lẽ để không tín nhiệm ông ta nữa. Thiệu rất coi thường tất cả những tướng của ông ta, mua chuộc họ và luôn luôn theo dõi họ vì sợ rằng ai đó bị lôi kéo vào âm mưu chống lại ông ta.

Từ giữa năm 1974 ông ta luôn luôn sợ bị lật đổ và hoàn toàn chẳng quan tâm gì đến các vấn đề thuần túy quân sự. Thiệu luôn luôn là một con người chính trị trước hết và là một tướng chỉ vì hoàn cảnh và, việc ông ta là một quan tòa cực kỳ tồi về các vấn đề quân sự cũng không đến nỗi nào, bởi vì có người Mỹ ở đó để cứu ông ta. Toàn bộ chế độ là hậu quả của một quá trình chính trị, và trong những tuần cuối cùng, không thể tránh khỏi rằng chính trị là động cơ thúc đẩy cho nhiều quyết định quân sự của Thiệu.

Không thể tách hai chiều cạnh đó ra khỏi nhau được, bởi vì những người mà ông ta ủy cho những trách nhiệm quân sự then chốt, như tướng Phú chẳng hạn, lại gắn liền với ông ta về chính trị. Một ngoại lệ là tướng Trưởng của vùng chiến thuật I, được xem là có khả năng nhất và được chỉ huy những binh lính tốt nhất của phía Việt Nam cộng hòa. Ở một mức độ nhất định, kinh nghiệm của Trưởng càng cho thấy rõ trách nhiệm to lớn của vai trò Thiệu trong cuộc tán loạn.

Việt Nam cộng hòa có thể đã tồn tại thêm được một ít nữa nếu kế hoạch chung ngày 11 tháng 3 của Thiệu, quyết định bỏ cao nguyên và giữ các thành phố bờ biển của vùng chiến thuật I và II, được áp dụng một cách có trật tự. Nhưng bỏ cả hai vùng chiến thuật I và II cùng một lúc không sao có thể tránh được thất bại hoàn toàn hầu như ngay tức khắc.

Việc ngày 12 tháng 3 của ông ta yêu cầu tướng Trưởng đưa một sư đoàn về Sài Gòn là một quyết định nguy hiểm cùng với việc bỏ cao nguyên, gây ra sự hỗn loạn rộng khắp. Thiệu muốn đưa quân về Sài Gòn là vì những lý do chính trị. Một mặt để tự bảo vệ mình chống lại một cuộc đảo chính có thể có của các lực lượng gần Sài Gòn. Mặt khác ông ta sợ Trưởng có thể được Mỹ ủng hộ để làm người thay thế và muốn điều quân tinh nhuệ ra khỏi tay ông ta.



Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 30 Tháng Chín, 2008, 03:27:42 am
Cuộc gặp Thiệu ngày 13 tháng 3 làm cho Trưởng kinh tởm đến mức ông ta nói thẳng với những người tin cẩn rằng ông ta có thể tổ chức một cuộc đảo chính nếu nhà độc tài lại thay đổi kế hoạch lần nữa. Do đó Thiệu coi Trưởng là một con người nguy hiểm. Việc rút sư đoàn dù đã làm xảy ra cuộc tán loạn ngay tức khắc ở vùng chiến thuật I, và đưa đến sự kết thúc của toàn bộ cuộc chiến tranh.

Tuy rằng đối với Thiệu, các tướng của ông và các đối thủ bảo thủ chính trị là quan trọng hơn các vấn đề thuần túy quân sự, nhưng chính trị đối với phần đông, còn đứng hàng thứ hai so với những vấn đề cá nhân. Cơ quan tùy viên quốc phòng Mỹ rất thất vọng khi thấy rằng nhiều người trong bọn họ bị lôi kéo vào các vấn đề gia đình và các vấn đề riêng tư đến mức hầu như không làm gì để xây dựng lại quân đội Việt Nam cộng hòa với những số quân chạy vào từ phía bắc. Nhiều người đang bận chuẩn bị cho việc rời đất nước của họ. Họ chỉ ra lệnh nhưng không hề làm gì để thực hiện các lệnh đó.

Chỉ Cơ quan tùy viên quốc phòng cố vá víu lại quân đội Việt Nam cộng hòa để làm cho chiến tranh có thể tiếp tục. Các tướng Sài Gòn biết rất rõ ràng Mỹ đang còn mơ ước. Thiệu đi vào hầu như biệt lập, không gặp các bộ trưởng, chỉ nói chuyện với một vài người, hiếm khi xuất hiện trước công chúng, và cũng không nói gì để làm yên lòng những người mà ông ta còn kiểm soát. Mối quan hệ của ông ta với binh lính đã được biểu hiện bằng việc quân đội Việt Nam cộng hòa địa phương ở quê hương ông ta đã ủi khu mộ tổ tiên của ông ta và không để lại dấu tích gì .

Trong những tuần cuối cùng, Thiệu cũng còn phải đương đầu với những thách thức chính trị nghiêm trọng, mất nhiều thì giờ, của những người bảo thủ đã chống lại ông ta từ giữa năm 1974 và bây giờ rêu rao có thể và sẽ tiếp tục chiến tranh cho đến cùng. Kẻ bày mưu quyết liệt nhất, như thường lệ là Nguyễn Cao Kỳ mà đằng sau ông ta có cha Thanh và một tập hợp những người khao khát làm bộ trưởng. Ngay tướng Viên cũng duy trì những tiếp xúc thân ái nhưng kín đáo với ông ta, và thủ tướng Khiêm cũng có dính líu đến.

Do đã cùng CIA theo dõi từ trước, Thiệu dùng mánh khóe mời Kỳ và hai người khác góp ý kiến về các thay đổi trong chính phủ và rồi bắt bảy người cộng tác với Kỳ, ngày 2 tháng 4, Thượng viện, một pháo đài bảo thủ truyền thống, bỏ phiếu một cách áp đảo đòi một chính phủ mới, và Thiệu nhân đó gạt Khiêm ra, và chọn một số nhà lãnh đạo Thượng viện vào một nội các đệm mới. Khiêm đã từng là mối đe đọa thực sự duy nhất cho ông ta. Rồi ông ta bắt ít nhất sáu người bày mưu chủ chốt nữa kể cả Nguyễn Văn Ngạn, trợ lý cũ của ông ta và là người đứng đầu đảng Dân chủ.

Trong cái mớ âm mưu, thủ đoạn đó, Đại sứ quán Mỹ luôn luôn ủng hộ Thiệu. Với phe cánh của Kỳ bày mưu tính kế cho đến những ngày cuối cùng của chiến tranh mà ít ra là một lần đã bị Mac-tin phản bội, Thiệu vẫn tỏ ra còn làm chủ được nền chính trị ở Sài Gòn. Nhưng ông ta chẳng làm được gì cho quân đội. Ngày 8 tháng 4 một trong các máy bay F.5 của ông ta đã mưu toan ném bom dinh tổng thống nhưng đã không trúng đích.

Đời sống chính trị của Sài Gòn, kết thúc như nó đã bắt đầu, một sự hỗn hợp những bi hài kịch, tính hám lợi, ích kỷ và phản bội. Các tướng của Thiệu cuối cùng vẫn không phế bỏ ông ta, nhưng cũng không giúp ông ta xử lý với các đội quân đang đổ về Sài Gòn. Là những nhà chiến thuật chính trị cao tay, Thiệu và các sĩ quan của ông ta đã thất bại hoàn toàn với tư cách là những nhà lãnh đạo quân sự và tài của họ bây giờ là hoàn toàn tự sát.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 30 Tháng Chín, 2008, 03:29:20 am
SỰ TÊ LIỆT Ở OA-SINH-TƠN

Nỗi đau đớn và thống khổ mà sự sụp đổ của quân đội Việt Nam cộng hòa gây ra ở Oa-sinh-tơn là vừa tuyệt vọng vừa sâu sắc. Cố gắng hai mươi năm duy trì một tay chân ở Nam Việt Nam bây giờ rõ ràng đang đi đến kết thúc bằng một cách làm cho nước Mỹ, sự cam kết và sức mạnh của nó tỏ ra vô cùng bất lực và đáng thương. Tượng trưng toàn bộ của hình ảnh đó đè nặng lên Kít-xin-giơ và Nhà Trắng.

Cảnh tượng mà chính quyền Mỹ phải chứng kiến hoàn toàn là do họ tự làm ra, thế mà họ lại hoàn toàn không muốn nhìn vào thực tế đó. Họ đương đầu với sự kết thúc của hai thập kỷ đầu tư to lớn về thời gian và máu xương của chính họ bằng cách coi đỉnh cao của thất bại quan trọng nhất về quân sự và chính sách đối ngoại trong toàn bộ lịch sử của mình như là một vấn đề cần phải bỏ lại cho quá khứ đầy lúng túng càng nhanh càng tốt. 

Khi đội quân của Thiệu bắt đầu tan rã, thì Quốc hội Mỹ còn thảo luận đề nghị xin viện trợ bổ sung, và cuộc tán loạn chỉ thuyết phục Quốc hội rằng bất cứ viện trợ mới nào nữa cũng chỉ là lãng phí. Cuộc họp của nhóm Dân chủ trong Hạ viện ngày 12 tháng 3 bỏ phiếu 3 trên 1 chống lại đề nghị đó và trong những ngày tiếp theo của tháng 3, khi sự nghiệp của Thiệu tỏ ra tuyệt vọng hơn, nhiều người cộng hòa và bảo thủ cùng đánh giá rằng bây giờ đồ tiền thêm nữa chỉ là đổ vào hang chuột như phương ngôn đã nói đến.

Chính quyền lợi dụng phe đối lập để đổ việc mất Nam Việt Nam lên đầu Quốc hội và ép mạnh hơn để xin 6,4 tỷ đô-la cho 3 năm theo kế hoạch đã trình bày trước đây. Khó khăn duy nhất là bây giờ, tiền không còn giải quyết được các vấn đề của Việt Nam cộng hòa nữa và Lầu Năm Góc chống lại hơn bao giờ hết sự phung phí những số tiền lớn như vậy cho những cử chỉ chính trị và tượng trưng. Những bất đồng sâu sắc đó bảo đảm chắc chắn rằng cuộc chiến tranh sẽ chấm dứt cũng giống như khi nó bắt đầu và sẽ vẫn là sự kiện chia rẽ nhất chua cay nhất trong lịch sử Mỹ kể từ nội chiến.

Nhà Trắng quyết định cử tướng Phê-rê-đơ-ric C.Uây-ân, tham mưu trưởng lục quân đi Sài Gòn để đánh giá tình hình chiến tranh và giành sự ủng hộ cho đề nghị viện trợ đã đưa ra Quốc hội. Từ khi ông ta đến ngày 26 tháng 3 cho đến khi rời Sài Gòn, Viên và Thiệu yêu cầu cho B.52 đến cứu làm cho không lực trở thành chìa khóa cho sự sống còn của Việt Nam cộng hòa.

Về phần mình Uây-ân đề nghị Thiệu chuyển quyền lãnh đạo chiến tranh cho bộ tổng tham mưu. Viên gạt bỏ ngay ý kiến đó và việc này càng cho thấy sự bi quan của Viên. Uây-ân báo cáo với chính quyền rằng chỉ không quân chiến lược mới cứu vãn được Việt Nam cộng hòa khỏi thất bại, nếu Cộng sản đưa thêm ba sư đoàn nữa vào vùng chiến thuật III. Nếu không, ông ta tiên đoán rằng ngay việc cung cấp tất cả mọi vũ khí cần thiết cũng không thể gạt được thất bại trong vòng ba tháng, vì những sai lầm to lớn mà Thiệu đã phạm phải vào giữa tháng 3.

Tình báo của Lầu Năm Góc ít lạc quan hơn, họ cho Việt Nam cộng hòa chỉ một tháng, dưới bất kỳ hoàn cảnh nào. Lầu Năm Góc công khai từ chối hợp tác với Nhà Trắng, đưa ra công khai những thực tế chính làm cho họ chống lại viện trợ quân sự quá mức từ giữa năm 1974. Họ nói rằng còn đẩy đủ vũ khí và nhiên liệu trong các khu vực do Việt Nam cộng hòa kiểm soát để cho Việt Nam cộng hòa chiến đấu, và còn 270 triệu đô-la còn lại của viện trợ năm 1974. Bản thân Sơ-lê-xin-giơ ngày 2 tháng 4 lập luận công khai rằng quân đội Việt Nam cộng hòa không chịu đánh và vấn đề lãnh đạo và chỉ huy không liên quan gì đến vấn đề tiếp tế.

Tuy nhiên, Kít-xin-giơ thì xem sự bi quan của Lầu Năm Góc là không đúng chỗ bởi vì Thiệu là công cụ lựa chọn của Mỹ ở Việt Nam và, đội quân của ông ta là sản phẩm của chính sách và huấn luyện của Mỹ. Viện trợ không phải là vấn đề ngăn cản thất bại hoặc cứu vãn những khả năng hiếm hoi, mà là bảo vệ một cách tượng trưng những cam kết và lòng tin của Mỹ. Nhưng ông ta bị Quốc hội và Lầu Năm Góc ngăn cản và cố gắng lớn cuốỉ cùng của ông ta về chính sách Việt Nam cũng tỏ ra vô ích như những cố gắng trước đây nhằm chuộc lại thất bại kéo dài của đất nước ở Việt Nam.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 01 Tháng Mười, 2008, 11:30:28 am
CÁCH MẠNG ĐI VÀO CHỖ TRỐNG

Sau Buôn Ma Thuột, Cách mạng phải lấp lỗ trống to lớn mở ra trước mắt họ với một tốc độ không kịp thở. Toàn bộ cơ cấu chính quyền và quân sự bên ngoài Sài Gòn, vì những lý do thực tiễn, đã bị phá hủy đầu tháng 4. Binh lính vứt súng, công chức không đến làm việc và nhiều người chạy về Sài Gòn. Những quan chức quan trọng hơn và những nhà kinh doanh bắt đầu rời đất nước hoặc cho con em ra nước ngoài. Các sân bay bị tắc nghẽn; thị thực và vé giá cao quá đỗi. Không quân của Thiệu tan rã vì phi công và thợ máy tìm cách trốn thoát.

Cuối tháng 3, các nhà lãnh đạo Đảng ước tính rằng Việt Nam cộng hòa đã mất một nửa quân đội, và một nửa của số còn lại không có hiệu lực Một số nhà phân tích Mỹ tính rằng không quá một phần năm các lực lượng vũ trang Việt Nam cộng hòa sẽ chiến đấu, và ngay đánh giá này cũng sớm bị lạc hậu. Cuối tháng 4, Cách mạng có mười tám sư đoàn tập trung quanh Sài Gòn chống lại ba sư đoàn quân đội Việt Nam cộng hòa mất tinh thần.

Trong những tuần cuối của cuộc chiến tranh Việt Nam cộng hòa sụp đổ trong nhiều khu vực nhanh hơn các lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam có thể tiến đến. Đội quân đang sụp đổ và những công chức, đã để lại nhiều khu vực chìm trong cảnh ngục tù một thời gian lâu đến khiếp sợ, và bính lính Việt Nam cộng hòa tha hồ hoành hành một cách bừa bãi.

Việc Cách mạng đến Đà Nẵng đã được nhiều người chống cộng trước đây hoan nghênh như là cứu họ khỏi những tàn phá mà binh lính của Thiệu đã giáng xuống tài sản và cuộc sống của họ trong hai tuần đau khổ. Chính phủ Sài Gòn tuyên bố một địa điểm đã bị chiếm khi họ mất liên lạc với nó, trong khi Cách mạng chỉ xác nhận những nơi mà họ đã đặt chân đến. Các thành phố bờ biển quan trọng Nha Trang, Phan Rang, Quy Nhơn, và Phan Thiết đã bị bỏ mà không có chiến đấu. Các lực lượng Cách mạng địa phương đe dọa ghìm chân quân đội Việt Nam cộng hòa quá dàn mỏng để đợi !ực lượng chính quy đến tiêu diệt, làm cho họ càng chạy nhanh.

Các lực lượng địa phương đóng một vai trò trọng yếu từ đầu đến cuối chiến dịch, được bổ sung rất nhiều lính mới trong những tháng cuối cùng của chiến tranh. Ở cao nguyên họ cắt đường tiếp tế, liên lạc và quấy rối những toán quân rút lui, tạo điều kiện cho các đơn vị chính quy làm những việc khác. Ở Đà Nẵng và Huế họ chiếm các cơ sở và phương tiện trọng yếu. Ở Sài Gòn họ chiếm các phương tiện chủ chốt, hướng dẫn các đơn vị chính quy qua một thành phố dễ lầm lẫn trên tất cả các phương diện. Tầm quan trọng lớn nhất của họ là ở đồng bằng, ở đó có ba sư đoàn Việt Nam cộng hòa với đầy đủ lương thực thực phẩm và một số dân thiết yếu cho việc bảo vệ Sài Gòn và việc thực hiện kế hoạch ngày 11 tháng 3 của Thiệu củng cố quyền lực của ông ta ở Nam Bộ.

Kìm giữ ba sư đoàn đó tại chỗ làm cho họ bối rối là điều cần thiết để đập tan ảo tưởng của Thiệu và ngăn chặn ông ta tăng thêm nhân lực và dự trữ các mặt cho thủ đô. Bằng cách áp dụng chủ yếu chiến thuật du kích, các đơn vị Cách mạng địa phương đã tìm được cách cắt các đường giao thông nối liền đồng bằng với Sài Gòn, gạt bỏ khả năng kéo dài chiến tranh hoặc làm cho các tướng của Thiệu có lý do để chống lại.

Trên suốt Nam Việt Nam, sự kết thúc chiến tranh đã chứng kiến một sự kết hợp của dân quân địa phương và du kích bổ sung cho lực lượng địa phương và chủ lực, theo một cách có lợi và cần thiết cho cả hai bên. Các lực lượng địa phương ở nhiều khu vực chắc chắn sẽ bị tiêu diệt nếu không có sự có mặt và việc đến đúng lúc của lực lượng chính quy hoặc không có tác động của các lực lượng đó đối với tinh thần của quân đội Việt Nam cộng hòa.

Ngược lại, chủ lực cũng cần sự giúp đỡ của các lực lượng địa phương để làm các nhiệm vụ cảnh sát và yểm trợ, nếu không họ lại phải bận vào những nhiệm vụ ít cấp bách hơn. Trong một cuộc chiến tranh chính quy đã trở thành không chính quy thì các đơn vị địa phương trang bị không tốt lắm thực hiện một chức năng lớn hơn nhiều bất kỳ lúc nào kể từ năm 1968, trừ ở đồng bằng sông Cửu Long là nơi mà họ đã đóng một vai trò có giá trị chiến lược to lớn.

Cách giải quyết các vấn đề hành chính của thắng lợi cho thấy một chỗ thiếu lớn trong kế hoạch cơ bản tiến công 1975 của Đảng. Một tuần sau cuộc tiến công đầu tiên đã cho thấy khả năng thắng lợi hoàn toàn nên Đảng đã vạch kế hoạch tiến đến Sài Gòn, nhưng trong suốt thời gian đó, Đảng không có kế hoạch kinh tế và chính trị để quản lý miền Nam. Tóm lại Đảng chưa thật sẵn sàng cho thắng lợi hoàn toàn đó cũng như cho trách nhiệm nó đưa lại. Sự thiếu một ý thức phán đoán về thắng lợi hoàn toàn xảy ra nhanh chóng, đã ảnh hưởng đến những nhà lãnh đạo tốt nhất và có khả năng nhất của Đảng, kể cả những người hiểu biết tốt nhất miến Nam. Sự thiếu sót này còn trở nên phức tạp thêm vì rất nhiều người nổi lên và tuyên bố đã từng là một bộ phận của Cách mạng. Một số là thành thật tuy trước ít hoạt động. Nhiều người tham gia các đơn vị du kích và chiếm các xã, các đô thị, đôi khi trước khi cán bộ quân sự và chính trị đến tại chỗ. Cũng có những người cơ hội thực sự và những kẻ chờ thời. Nhưng đường lối của Đảng là thành lập một kiểu liên hiệp mà Mặt trận Dân tộc Giải phóng ở địa phương cũng sẵn sàng chấp nhận những phần tử như vậy tuy rất thực tế về động cơ của họ. Thắng lợi đã làm cho Đảng không kịp trở tay, chưa sẵn sàng trước một loạt to lớn công việc mới. Thực tế này cho thấy Đảng đã đánh giá thấp mình, đánh giá cao sức mạnh của Thiệu như thế nào và đã hiểu không đúng hoàn toàn những động lực của xã hội.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 01 Tháng Mười, 2008, 11:32:21 am
SỰ KẾT THÚC CHIẾN TRANH:
OA-SINH-TƠN VÀ SÀI GÒN

Mỹ bây giờ phải đương đấu với sự kết thúc của những thập kỷ dính líu ở Việt Nam, với những thất bại và thảm kịch, với những tổn thất sinh mạng và của cải, trong một cố gắng vô ích một cách tuyệt vọng đang kết thúc nhục nhã mà không hy vọng có chút phẩm giá và danh dự nào ẩn sau nó. Bởi vì đây là cuộc chiến tranh ngoài nước dài nhất trong lịch sử Mỹ, và gây tổn thất lớn nhất bằng tác động của nó đối với sự cố kết nội bộ của đất nước; ý nghĩa của thất bại sắp xảy ra là vô cùng to lớn xét về mặt thất bại của một chính sách và của kỹ thuật. Những mô hình tiềm tàng của Việt Nam tồn tại khắp nơi và Mỹ đáng ra phải đương đầu với những mô hình đó với những mục đích và khả năng tương tự.

Những suy tính đã từng làm cho các chính quyền trước kia nhảy vào và kéo dài chiến tranh, bây giờ vẫn còn ảnh hưởng đến Kít-xin-giơ khi ông ta chứng kiến sự sụp đổ hoàn toàn của chế độ Việt Nam cộng hòa mà Mỹ dựa vào để làm nhiệm vụ của mình ở Đông Nam Á và ngấm ngầm là cả ở thế giới thứ ba nữa.

Khi kết thúc những cuộc chiến tranh, thường thường người ta cố tìm một vài sự an ủi từ những sự kiện và diễn biến xã hội, nhưng sẽ là sai lầm nếu tập trung vào những điều xảy ra rất phụ và dù chúng có sức quyến rũ bao nhiêu cũng không được làm lu mờ các lô-gích đơn giản không thể đảo ngược được của tình hình: đó là những người Cộng sản sắp thắng về quân sự và tinh thần vì sức mạnh của lực lượng họ và sự yếu kém của kẻ thù, và người Mỹ đang chứng kiến thất bại rõ ràng, hoàn toàn của sự can thiệp nước ngoài kéo dài, quan trọng nhất của họ trong trên một thế kỷ nay.

Các nhà lãnh đạo Đảng ngày càng thấy rõ rằng so sánh lực lượng bây giờ đã làm cho họ đủ tự do để quyết định hình thức chính xác cho thắng lợi cuối cùng của họ. Kít-xin-giơ cũng vậy, đã nhận thức một cách rất rõ ràng sức mạnh của Cách mạng và ý nghĩa tượng trưng của toàn bộ sự kiện xảy ra cho quyền lực của Mỹ trên thế giới.

Giữa tháng 3, Kít-xin-giơ biết rằng vị trí yếu kém của Mỹ làm cho mọi cố gắng của họ trở nên vô ích, dù cho thương lượng, viện trợ hoặc thay Thiệu bằng một nhà lãnh đạo khác. Nếu Cộng sản đồng ý thương lượng, thì chỉ vì họ có thể được cái gì đó chứ không phải vì bị sức ép nào. Vì vậy tất cả các cố gắng của Kít-xin-giơ là nhằm vào làm giảm nhẹ thất bại và duy trì danh dự và lòng tin, chừng nào còn có thể làm được. Cách làm này đòi hỏi ở ông ta cả một vấn đề kỹ thuật. Mặt khác, các nhà lãnh đạo Đảng lại có vấn đề ngược lại nhằm làm sao chắc chắn rằng thương lượng không trì hoãn được bước tiến quân sự không sao cản lại nổi của họ. Dù sao, cả hai bên đều biết rằng quân đội và nhân dân sẽ xác định kết quả của chiến tranh.

Các nhà ngoại giao có thể xoay xở quanh thực tế đó, nhưng không thể vượt qua nó được. Trong lĩnh vực ngoại giao, có một đợt hoạt động liên tục Người Pháp bây giờ tích cực nhảy vào cuộc và được những nhà chính trị đầy mưu đồ của Sài Gòn giúp đỡ nhằm thiết lập lại ảnh hưởng của họ trên thuộc địa cũ. Sau khi Buôn Ma Thuột bị mất, Pháp đề nghị với Cộng sản một phương án mới gạt Thiệu và thi hành Hiệp định Pa-ri. Sự từ chối của Mỹ và Việt Nam cộng hòa thảo luận ý kiến đó làm cho Đảng tránh được lúng túng về sau, nhưng việc Đảng không bác bỏ phương án đã làm cho Pháp thêm cố gắng. Làm việc vừa ở Pa-ri vừa ở Sài Gòn, người Pháp thúc ép việc gạt Thiệu như là một điều kiện tiên quyết cho việc mặc cả nghiêm chỉnh. Kít-xin-giơ bác bỏ những cố gắng đó và coi là không thích hợp.

Đảng quyết định nghe họ một cách lịch sự, không làm nản lòng bất kỳ cố gắng nào có thể làm yếu Việt Nam cộng hòa và tránh cho họ phải mất thêm sinh mạng một cách không cần thiết. Nền ngoại giao của Đảng lúc này rất linh hoạt; thắng lợi hoàn toàn và trọn vẹn chỉ là một trong những kết quả của chiến tranh mà họ suy tính. Phải qua đến tháng 4, Đảng mới thấy rõ rằng Đảng sẽ không phải chia quyền cho ai cả. Trong khi đó thì nhiều dòng thương lượng đang được tiến hành.

Đấu tháng 4, người Pháp và một số người Mỹ, nhất là CIA ở Sài Gòn, đi đến chỗ tin rằng việc gạt Thiệu và sắp xếp một giải pháp chính trị có thể chấm dứt cuộc tiến công. Hy vọng này làm cho những người muốn làm thủ tướng và bộ trưởng nội các đi vào hoạt động. Tuy vậy họ khác nhau rất nhiều về cơ sở của chế độ mới, họ chỉ thống nhất với nhau trong nỗi thù địch với Thiệu hoặc trong nhiều trường hợp, vì lòng tham lam. Kít-xin-giơ cũng như Mac-tin không nghĩ rằng các cố gắng đó có thể thành công và ngài bộ trưởng ngoại giao quan tâm nhiều hơn đến việc tiếng tốt của Mỹ luôn luôn một lòng một dạ với bạn cũ, không được bị vấy bẩn quá sớm.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 01 Tháng Mười, 2008, 11:33:04 am
Trong khi người Pháp và các nhà chính trị Sài Gòn tiếp tục những mưu đồ của họ thì chính quyền Mỹ lại trở lại vấn đề viện trợ tượng trưng cho Việt Nam cộng hòa. Việc này rất quan trọng cho Kít-xin-giơ, nhưng Lầu Năm Góc cho rằng viện trợ thêm sẽ là một sự lãng phí tiền của, và Tổng thống Pho thì khác với những tổng thống trước, không muốn làm hoen ố uy tín của ông ta vì một cuộc chiến tranh gần kết thúc. Tổng thống không gây sức ép với Quốc hội, và những ngày tiếp theo thì càng ngày càng ít nói đến Việt Nam.

Một cuộc đấu tranh với Quốc hội chỉ dẫn đến thất bại và gây tổn thương cho triển vọng được bầu lại của ông ta trong năm 1976. Vấn đề nghiêm chỉnh duy nhất đứng trước chính quyền Mỹ là rút sáu nghìn người Mỹ còn lại và một số lớn người Việt Nam làm việc với Mỹ trước đây như thế nào ra khỏi Nam Việt Nam. Chính vấn đề xấu xa này với những âm mưu liên quan, những tranh giành cá nhân, lôi cuốn cả Tổng thống, Mac-tin, CIA, Kít-xin-giơ và Lầu Năm Góc vào hoạt động không ngừng, đã trở thành tiêu điểm chú ý của Oa-sinh-tơn. Quốc hội cũng gây sức ép, làm tăng thêm sự phức tạp của tình hình lộn xộn đó.

Lo ngại quan trọng nhất của các nghị sĩ là cách làm của Kít-xin-giơ và Mac-tin có thể đưa đến mất mát sinh mạng của Mỹ. Kít-xin-giơ muốn rằng việc ra đi của Mỹ có vẻ là trong danh dự và phù hợp với lập trường của Mỹ trên thế giới. Việc ông ta ủng hộ Mac-tin dã dẫn đến những cảnh tượng cuối cùng của hàng trăm người Mỹ tay trắng trèo lên mái nhà để chen chân lên máy bay lên thẳng đưa họ ra các tàu sân bay, trong khi từng đàn binh lính và cảnh sát quân đội Việt Nam cộng hòa giận dữ tràn vào các nhà của người Mỹ, cướp bóc tất cả những gì còn lại, một số bắn vào những ân nhân chạy trốn của mình.

Nỗi lo sợ ngày càng tăng của những người Mỹ trong hai tuần cuối của họ ở Sài Gòn là liệu họ sẽ bị giết bởi quân đội Việt Nam cộng hòa hay những người làm công cho họ mà bây giờ bị bỏ rơi. Đầu tháng 4, các tướng quân đội Việt Nam cộng hòa nói rõ rằng người Mỹ ở Nam Việt Nam đang sống như những con tin và Nhà Trắng lợi dụng tình hình đó để tranh thủ Quốc hội ủng hộ đề nghị viện trợ của họ, xem đó phần nào như là một món tiền chuộc. Cố gắng kéo dài của Mỹ di tản những người có địa vị cao và dễ bị trừng phạt nhất trong số 130.000 muốn chạy ra nước ngoài một phần phản ánh nỗi lo sợ về một cuộc tàn sát do những người mà Mỹ ủng hộ hàng thập kỷ nay gây ra.

Trong khi chính quyền Mỹ chuẩn bị để đối phó với sự sụp đổ của Thiệu, các cố gắng của Pháp nhằm cứu vãn một vai trò nào đó cũng nhà chính trị không phải là Chính phủ Cách mạng lâm thời, đã đạt đỉnh cao. Người Pháp có rất nhiều tiếp xúc nhưng hai nhân vật quan trọng nhất của họ là Trần Văn Đôn, bộ trưởng quốc phòng của Thiệu lúc bấy giờ và Dương Văn Minh hay "Minh lớn", đã từng là một người trung lập khi ông ta đứng đầu nhóm Sài Gòn năm 1963. Minh tiếp xúc với người Pháp, Đôn và Mặt trận Dân tộc Giải phóng nhưng với mỗi đối tượng dùng một con bài khác nhau.

Ngày 8 tháng 4, CIA tìm được một chỉ thị của Đảng cho cán bộ miền Nam rằng mục tiêu bây giờ là thắng lợi hoàn toàn và thương lượng chỉ là một thủ đoạn. Ý nghĩa của tài liệu đã được thảo luận trong hàng ngũ CIA và tướng Viên, và được họ hiểu rằng đó là một biểu hiện rằng Đảng muốn giành một chiến thắng quân sự, chứ không phải chấm dứt chiến tranh bằng chính trị. Đảng cũng không để cho tin đồn về hòa bình làm nhụt ý chí tiến công của quân đội mình.

Về phần mình, Minh tin rằng một số suy tính, như một sự phân liệt có thể giữa Chính phủ Cách mạng lâm thời và Việt Nam dân chủ cộng hòa, sự chống đối của Trung Quốc đối với một Việt Nam thống nhất và vai trò của Pháp có thể tỏ ra là thành công. Một số người quanh Thiệu cũng nghĩ như vậy trong khi Thiệu bắt đầu cho vợ và con gái đi Băng-cốc.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 01 Tháng Mười, 2008, 11:33:53 am
Ngày 20 tháng 4, Mac-tin gặp Thiệu để xem xét toàn bộ tình hình viện trợ, quân sự và chính trị; ông ta tuyên bố sau này là không yêu cầu Thiệu từ chức nhưng chỉ giải thích tình hình thực tế cho một con người rất thực dụng, hy vọng ông ta tự ý làm như vậy. Sáng hôm sau, Thiệu báo cho Khiêm và Phó tổng thống Trần Văn Hương ý định ra đi và đêm đó, ông ta đưa ra công khai ý định nói trên.

Giữ Hương ở lại chính quyền một tuần nguy kịch để tỏ ra rằng Mỹ không phải khuất phục trước sức ép của Cộng sản hay của Pháp là cái giá mà Mac-tin và Kít-xin-giơ đòi hỏi ở những đối thủ của Thiệu, Hương, một con người hoàn toàn gắn liền với chính sách của Thiệu và hoàn toàn không thể được Đảng chấp nhận, đã trở thành nguyên thủ quốc gia mới, già nua.

Bốn ngày sau, với hai va-li đồ sộ đầy vàng trong số hành lý của ông ta, CIA đưa Thiệu đi Đài Loan. Việc chỉ định Hương đưa đến một tuần đầy mưu đồ của những kẻ bày mưu của Sài Gòn. Kỳ, Viên, Khiêm, Đôn và tất cả những người khác gặp Minh và người Pháp, và mọi thứ mặc cả có thể có được đã bị gạt đi. Trong mớ bòng bong đó, đã được để cho người Pháp chọn ra những đối thủ. Phương án Minh để chống lại các tướng tham lam, nhất là Kỳ, hầu như hoàn toàn phụ thuộc vào người Pháp. Minh bây giờ là người của Pháp cũng như Thiệu trước đây là người của Mỹ. Do đó Mac-tin thúc đẩy nhanh việc ra đi của người Mỹ và những người cộng tác và bạn bè Việt Nam trong cái tuần quá đầy âm mưu đó, có lẽ là tuần gay gắt nhất kể từ cái chết của Diệm.

Đối với Đảng, việc cử Hương là bước cuối cùng. Vài ngày sau, Đảng báo cho người Pháp rằng thời gian đã cạn và không còn có thể có sự liên hiệp nào nữa; điều này không làm cho người Pháp nản chí tý nào. Ngày 26, Hương gợi ý Quốc hội cử Minh thay ông ta, và ngày hôm sau thì Quốc hội làm như vậy. Vào lúc này, Minh đã gạt nhiều điều mặc cả và quyết định trọng yếu của ông ta sẽ là nên đi với Pháp hay là đi với Chính phủ Cách mạng lâm thời. Minh không biết chắc chính sách của Cộng sản đối với ông ta như thế nào và Cộng sản thì biết rõ nhiều thỏa thuận lắt léo của ông ta. Điều này làm cho họ rất thận trọng, và chắc chắn rằng họ không từ bỏ quyết định giành thắng lợi quân sự nhanh chóng và bảo đảm, nếu Minh phạm một tý sai lầm dù nhỏ nhất nào.

Chiều 28 tháng 4, trong một cơn dông tố, trong diễn văn nhậm chức, Minh kêu gọi một nền hòa bình thương lượng nhưng cũng yêu cầu Cách mạng chấm dứt chiến sự ngay tức khắc, ông ta yêu cầu quân đội của ông ta "bảo vệ lãnh thổ còn lại và bảo vệ hòa bình" và nói thêm "Hãy giữ tinh thần cao, hàng ngũ nguyên vẹn và vị trí vững chắc...”. Ông ta cũng vạch kế hoạch không những để tiếp tục chống lại mà còn phản công các lực lượng cộng sản nữa.

Diễn văn của Minh khẳng định với những người Cộng sản rằng Pháp đã nắm ông ta chắc trong tay, và Cách mạng đã ra lệnh cho những máy bay chiếm được của Mỹ bắn phá dinh tổng thống và các sư đoàn kéo về Sài Gòn. Diễn văn không tưởng của Minh càng làm cho Đảng dứt khoát không muốn tiếp tục trò chơi chữ với một bù nhìn khác nữa. Minh đã đồng ý đòi Mỹ rút Cơ quan tùy viên quốc phòng ra khỏi Nam Việt Nam trong vòng hai mươi bốn giờ, nhưng Mac-tin đã tìm được cách, ngày 27 tháng 4, nói chuyện với ông ta để kéo dài cho đến ngày 30.

Sáng ngày 29 tháng 4, cuộc tiến công Sài Gòn bắt đầu, nhanh chóng cắt đứt Sài Gòn với tất cả các phía. Mac-tin ra lệnh đợt di tản cuối cùng bằng máy bay lên thẳng và những người Mỹ cuối cùng ra đi lúc 5 giờ sáng ngày 30 tháng 4. Vào lúc đó tất cả các đường huyết mạch vào thành phố đều nằm trong tay Quân đội nhân dân Việt Nam, trong khi những lực lượng địa phương, những người cảm tình và những chiến sĩ biệt động tràn vào khắp cả thành phố.

Lần đầu tiên trong hơn một thế kỷ, không còn người nước ngoài nào chiếm Việt Nam và cai quản công việc của họ.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 01 Tháng Mười, 2008, 11:34:44 am
Nguyễn Văn Thiệu đã xây dựng cho mình một dinh tổng thống có giá trị giữa một vườn rộng lớn ở trung tâm Sài Gòn, với một phòng khiêu vũ rộng, một bể bơi, nhiều buồng khách, một phòng chiếu bóng và một liên hợp các phòng lớn dùng vào những dịp thích hợp. Ông ta đã trang bị với nhung lụa và vải loại sang, với đá cẩm thạch và gỗ hiếm, với bên trong bóng nhoáng và đầy thảm quý, với những tranh sơn mài và những trường kỷ bọc da, tạo thành một quang cảnh mà ông ta cho là thiết yếu. Phòng làm việc của ông ta mà một phòng rộng với một chiếc ghế kiểu ngai vàng đằng sau một bàn giấy đồ sộ. Khu vực ở riêng của ông ta được xây trong một vườn xanh tươi nằm sâu bên trong tòa nhà đồ sộ đó.

Sáng ngày 30 tháng 4, lâu đài này là biểu tượng của tất cả cái gì còn lại của cố gắng Mỹ, đã bắt đấu hai mươi năm trước đây và đã làm hao tổn sinh mạng và cam kết, tình cảm và cuộc sống của hàng triệu con người. Phía nam Sài Gòn, trong đồng bằng sông Cửu Long, những tàn dư của quân đội Việt Nam cộng hòa đang tan rã và đầu hàng các đơn vị Mặt trận Dân tộc Giải phóng địa phương, đôi khi một vài du kích bắt giữ hàng trăm binh lính trang bị đến răng. Lúc 10 giờ 15 Minh thông báo ngừng bắn cho các lực lượng của chính ông ta, yêu cầu giữ nguyên vị trí đồng thời cũng yêu cầu phía Cộng sản làm như vậy cho đến khi thảo luận một cuộc giao quyền có trật tự. Đó là một cuộc đầu hàng, nhưng chắc chắn không phải là không điều kiện, công nhận thực tế ở chiến trường. Minh và nội các ông ta đến dinh của Thiệu và chờ đợi.

Thiệu ở Đài Loan; người Mỹ trên tàu sân bay chạy về Phi-líp-pin. Khi những đơn vị đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam vào thành phố họ gặp một vài phát súng bắn lẻ tẻ, và họ quét sạch một vài ổ kháng cự, và một đội ba xe tăng tiến thẳng vào dinh mà Thiệu đã xây dựng. Vào lúc này, toàn đất nước biết rằng sự kết thúc sắp đến nơi. Đài phát thanh ngừng hoạt động và trong vài giờ, thành phố lơ lửng giữa trật tự cũ và trật tự mới.

Xe tăng đến dinh tổng thống, hoàn toàn bỏ trống, không được bảo vệ, húc đổ cửa sắt đồ sộ, chạy qua sân cỏ rộng tiếp đến những bậc thang rất thoáng. Một binh sĩ với một lá cờ của chính phủ Cách mạng lâm thời lao lên ban công, phấn khởi phất cờ rồi treo vào cột khoảng 11 giờ 30 phút sáng. Anh ta và một đồng chí của mình băng qua các phòng và gặp Minh và nội các của ông ta ngồi quanh một chiếc bàn, im lặng. Không ai động đậy, một binh sĩ đứng gác trong khi người kia đi tìm sĩ quan của mình. Khi một cán bộ chính trị đến, Minh tuyên bố "Chúng tôi đang đợi các ông để có thể chuyển giao chính phủ". Người sĩ quan vặn lại: "Các ông chẳng còn gì để bàn giao. Các ông chỉ có thể đầu hàng vô điều kiện".

Cuộc chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 01 Tháng Mười, 2008, 11:35:55 am
KẾT LUẬN

Thắng lợi trong chiến tranh không phải đơn giản là kết quả của những trận chiến đấu, và không ở đâu trong thế kỷ thứ hai mươi, điều này đúng hơn là ở Việt Nam. Sẽ sai lầm nếu chỉ so sánh cán cân lực lượng quân sự. Đánh giá những mưu đồ cụ thể của mỗi bên đối thủ, tuy là thiết yếu nhưng chưa đủ chút nào. Những mục đích của con người và những điểm yếu rõ ràng là rất quan trọng, nhưng trong nội dung xã hội tồn tại ở Nam Việt Nam giữa năm 1973 và 1975, còn nhiều việc có liên quan hơn là những quyết định có ý thức.

Những điều trên đây không kém gì những điều đã xảy ra dẫn đến sự kết thúc mà không bên nào đoán trước được, càng không kiểm soát được. Sau khi ký Hiệp định Pa-ri, thay đổi cơ bản xảy ra ở Nam Việt Nam là cuộc khủng hoảng chung của toàn bộ trật tự xã hội mà Mỹ đã dựng nên. Vô số những hậu quả chính trị, kinh tế và đối với con người của cuộc khủng hoảng đó đã thu gọn thời gian và kết thúc cuộc chiến tranh ba mươi năm, có tính chất sử thi, trong một vài tuần đầy kinh ngạc bằng một thắng lợi hoàn toàn Cho những người Cộng sản.
Mỹ đã xây dựng một trật tự chính trị và kinh tế ở Nam Việt Nam giống như trật tự mà họ luôn luôn khuyến khích trong khắp thế giới thứ ba. Thất bại của Mỹ không phải chỉ là một thất bại của vũ khí. Thực vậy, trong khi thành công một phần trong việc chuyển giao sức mạnh quân sự cho người thay thế của mình, người Mỹ lại xây dựng những hình thức thể chế hoàn toàn không đủ sức thách thức với Cách mạng. Mỹ hoàn toàn không phát triển được một học thuyết chiến tranh hạn chế có thể tin được và một khả năng kỹ thuật để can thiệp vào thế giới thứ ba, một mục tiêu tượng trưng thiết yếu của ba chính quyền Mỹ.

Tuy nhiên điều đó cuối cùng không quyết định bằng sự bất lực bên trong của Mỹ, không tạo được một chế độ chính trị, kinh tế và tư tưởng, lâu dài có thể đạt được những điều kiện tiên quyết cho thắng lợi quân sự. Thất bại không phải quân sự này làm cho Việt Nam trở nên rất có ý nghĩa cho những giới hạn của sức mạnh Mỹ ở thế giới thứ ba. Bị kìm hãm trong nhiệm vụ kiểm soát sự phát triển chính trị và xã hội - kinh tế của thế giới, Mỹ đã đề ra cho mình những mục tiêu chính trị vốn không thể đạt được.

Dù tổn thất vật chất và con người của cuộc chiến tranh đối với Cách mạng trên khắp Việt Nam như thế nào, chính vô vàn những điểm yếu của xã hội do nước ngoài đỡ đầu và sức mạnh của những người Cộng sản đã đưa lại thế quyết định trong chiến tranh. Chủ nghĩa cá nhân và ích kỷ mà người Mỹ tìm cách nuôi dưỡng phản ánh hệ tư tưởng và chế độ xã hội của họ. Sự khuyến khích của họ đối với việc tích lũy sở hữu và tài sản tư nhân, không đòi hỏi một hệ tư tưởng chống cách mạng rõ rệt nhưng đó chỉ là một lối sống không phù hợp với những đức tính và giá trị chủ yếu của Cách mạng về tư cách đạo đức cá nhân và về thể chế xã hội.

Lựa chọn của Oa-sinh-tơn, cũng giống như học thuyết quân sự của họ, đòi hỏi phải tập trung tiền của, bởi vì họ mua một khách hàng tham nhũng, mong manh và không kiên định, nhưng đồng thời lựa chọn đó cũng vốn là tự hủy. Khi mà số tiền trả cho chế độ Việt Nam cộng hòa giảm đi, dù là giảm ít, toàn bộ trật tự bắt đầu lung lay cho nên hầu như mọi thách thức, quân sự hay chính trị, sẽ đập tan chế độ đó.

Năm 1974, các lực lượng vũ trang Việt Nam cộng hòa tan rã trước những tàn phế mà lạm phát và triển vọng làm mất tinh thần của cuộc chiến tranh không thể chấm dứt, gây ra cho binh lính. Quân đội chắc chắn sẽ sụp đổ trước bất kỳ thách thức có ý nghĩa đầu tiên nào và, sự sụp đổ của Việt Nam cộng hòa sau hai thập kỷ cố gắng liên tục và tốn kém của Mỹ nhằm xây dựng lực lượng quân sự cho nó, nói lên những khả năng con người của mỗi bên hơn là nói lên chiến lược đặc biệt hoặc trang bị của quân đội cộng sản. 

Không kém phần trọng yếu là vai trò của nhân dân trong các Vùng nông thôn và đô thị do Việt Nam cộng hòa kiểm soát. Ở mức độ rằng một quá trình cấp tiến hóa xảy ra cho họ trong năm 1974, vai trò của họ bảo đảm cho thắng lợi cuối cùng của Cách mạng, có hoặc không có thử thách vũ khí. Bởi vì nếu Quân đội nhân dân Việt Nam không tiến công tháng 3 năm 1975, chiến tranh cũng sẽ chấm dứt trong tương lai không xa với những biến động kinh tế và chính trị mà nhờ chúng Cách mạng sẽ chiến thắng sau một giai đoạn hỗn loạn xã hội. Khi cuộc tiến công xảy ra, Cách mạng nhanh chóng phá hủy ngôi nhà giấy của Việt Nam cộng hòa.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 01 Tháng Mười, 2008, 11:36:35 am
Mỹ thiết lập một hệ thống quân sự như một bộ máy để kiểm soát cơ cấu chính trị và trên hết kiểm soát trật tự kinh tế do Mỹ trợ cấp. Mọi tổ chức và mọi hành động dưới thời của Thiệu luôn luôn có tính đến khả năng của một cuộc đảo chính hoặc một sự tranh chấp. Các tướng chủ chốt của Thiệu, tuy được tin cậy về mặt chính trị, nhưng tỏ ra bất tài và bất lực với tư cách là những nhà lãnh đạo quân sự.
Việt Nam cộng hòa, như một số người Mỹ về sau lập luận, không phải là một bộ máy quân sự với một cơ cấu chính trị được sáp nhập vào. Trái lại nó là một trật tự ngoại lai vốn khó có khả năng hoạt động mà Mỹ đã xây dựng một cách trên không thấu, dưới không đến; đó là một đội quân không thể làm chiến tranh thắng lợi hoặc làm chính trị thành công, đừng nói gì đến làm kinh tế. Hầu như tất cả người Mỹ theo dõi sít sao Việt Nam cộng hòa sau năm 1973, biết rằng sự sụp đổ không tránh khỏi của nó không còn xa, và một số trong họ, ít ngạc nhiên trước tốc độ và hình thức của sự sụp đổ hơn là nhiều nhà lãnh đạo Đảng. Các cuộc chiến tranh thường chấm dứt khi các điếu kiện chính trị, xã hội và con người chín muồi, và tính chất và nhịp độ thắng lợi quân sự của Cộng sản chủ yếu là hậu quả của các điều kiện đó. Đảng Cộng sản phải tiếp nhận sự tan rã sâu rộng của chế độ xã hội đó khi Đảng vào nắm chính quyền.

Việc Mỹ thua chiến tranh ít có liên quan với cuộc khủng hoảng chính trị gắn với Oa-tơ-ghết. Xét các khó khăn bế tắc Mỹ phải đương đầu trong nền kinh tế thế giới thì khó khăn của chính quyền Mỹ ở Nam Việt Nam cũng sẽ nổi lên dù cho Ních-xơn ở trong đỉnh cao quyền lực của ông ta. Chính quyền phải định ra ưu tiên cho những mục tiêu toàn cầu của mình nếu muốn đạt bất cứ một mục tiêu nào. Những khó khăn kinh tế trong nước và những giới hạn về của cải và nhân lực cuối cùng buộc Mỹ khuôn Việt Nam cộng hòa vào quy mô khả năng của Mỹ, do đó mà gây ra một cuộc khủng hoảng trong chế độ của Thiệu.

Cuối cùng, sự yếu kém của trật tự xã hội Việt Nam cộng hòa cũng là thế khó xử lặp đi lặp lại của mối quan hệ Mỹ với tất cả các khách hàng của Mỹ trong thế giới thứ ba, mà Mỹ phải dựa một cách tai họa để làm công cụ cho việc áp dụng chính sách đối ngoại của họ. Sự tất yếu phải lựa chọn Thiệu làm người thay thế đã biến vị trí của Oa-sinh-tợn trở nên ngày càng bập bênh. Không thể nào thỏa mãn thách thức đó, bởi vì khái niệm về một bù nhìn trung thực là một mâu thuẫn Oa-sinh-tơn không thể giải quyết bất cứ ở đâu trên thế giới kể từ 1945. Trên thực tế, trong khi Mỹ còn phải giải quyết vấn đề quyền hợp pháp của chính mình và mối quan hệ với Quốc hội sau năm 1972, Mỹ còn phải đối phó với nghịch cảnh dai dẳng, phổ biến về sự không phù hợp của những người phụ thuộc bất lực của họ đối với sự phát triển quyền lực.

Chiến tranh Việt Nam đối với Mỹ là đỉnh cao của cố gắng sau chiến tranh đầy thất vọng của họ nhằm kết hợp vũ khí và chính trị để chấm dứt và đảo ngược sự xuất hiện của những nước và những chế độ xã hội đi ngược với trật tự quốc tế mà Oa-sinh-tơn tìm cách thiết lập. Đây không phải là thử thách nghiêm chỉnh đầu tiên của sức mạnh quân sự hoặc của chiến lược chính trị Mỹ mà chỉ là thử thách tai họa nhất. Mặc dù Mỹ có nhiều thắng lợi thực sự trong việc áp đặt bá quyền của mình ở những nơi khác, nhưng Việt Nam đã phơi bày những hạn chế tối hậu đối với sức mạnh của Mỹ trong thời hiện đại: những căng thẳng trong nước, những mâu thuẫn giữa sự dính líu quá mức vào một nước với lợi ích và tham vọng ở những nơi khác và những hạn chế vật chất của Mỹ.

Chính vì tính chất không thể lầm lẫn được của thất bại sau một cố gắng quá dài và quá chia rẽ như vậy, và vì tác động của chiến tranh đối với cơ cấu chính trị và khát vọng của Mỹ, nên cuộc xung đột này có một ý nghĩa lớn hơn ý nghĩa của bất cứ cuộc nào trong hai cuộc chiến tranh thế giới. Cả hai cuộc chiến tranh chỉ khuyến khích lòng tham của Oa-sinh-tơn muốn cầm đấu và sáp nhập hệ thống chính trị và kinh tế thế giới, một tham vọng chắc chắn đã trở thành nguyên nhân quan trọng nhất của sự can thiệp Mỹ vào cuộc xung đột Việt Nam sau năm 1950.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 01 Tháng Mười, 2008, 11:37:12 am
Trong khi những tác động chiến lược của chiến tranh đối với tương lai sức mạnh quân sự Mỹ nói lên quy mô rõ ràng nhất của thất bại Mỹ, ngay từ năm 1946, Mỹ đã phải đương đầu với những vấn đề đó rồi. Điều thực sự khác biệt là sự sụp đổ của sự nhất trí quốc gia đối với những đường lối bao quát của vai trò Mỹ trên thế giới. Chấn thương để lại quá mãnh liệt; chiến tranh kết thúc mà không có vinh quang nhưng lại đầy hối hận sâu sắc cho hàng chục triệu người Mỹ. Các chính quyền nối tiếp nhau đã theo đuổi chiến tranh một cách ác liệt vì những thất vọng của những năm 1960, nhưng không hề có chút ngờ vực rằng nếu không giải quyết những thất vọng đó thì chỉ để lại cho đất nước trong phần còn lại của thế kỷ một loạt rộng lớn hơn những khó khăn quân sự, chính trị và kinh tế. Nhưng năm 1975, Mỹ lại yếu hơn khi bắt đầu cuộc chiến tranh vào đầu những năm 1960, đó là một bài học mà những ai chủ trương một sự can thiệp mới khó lòng không biết đến.

Những hạn chế của vũ khí và của quân đội bộc lộ rõ nhất vào Tết 1968. Tuy về danh nghĩa Mỹ có vũ khí và chiến thuật tốt, nhưng lại không có một chiến lược quân sự có thể khắc phục những khả năng của kẻ thù đồng thời có thể thích hợp với của cải kinh tế, những ưu tiên toàn cầu và những ép buộc chính trị của Mỹ ở Việt Nam, trong nước và trên phần còn lại của thế giới. Mặc dù các mục tiêu của Mỹ ở Nam Việt Nam không hề thay đổi, nhưng Mỹ luôn luôn không thể đối phó được với vô số những phức tạp chính trị nhất định xuất hiện từ một cuộc xung đột vũ trang kéo dài.

Các nhà lãnh đạo chính trị, quân sự và tư tưởng của Mỹ không chú ý đến hoặc khinh thường những điều này cho đến khi chiến tranh đã bị thua trên cơ bản. Ngày nay, Mỹ vẫn còn không dám nhìn thẳng vào ý nghĩa của cuộc chiến tranh khi xem xét một cách hung hăng những mục tiêu cổ truyền sau chiến tranh của họ ở khu vực Mỹ la-tinh và ở các nơi khác. Thất bại của Mỹ tất nhiên là rất vật chất, nhưng cũng là thất bại về mặt phân tích vì nó là kết quả của một thói thiển cận vượt quá những tính toán của các chính sách ở văn phòng và vượt quá những đặc tính của các tổng thống và bộ sậu của họ.

Quyền lực của Mỹ sau năm 1946 không có khả năng ngăn chặn được một chế độ mà những nhu cầu và những tham lam ngày càng vượt quá những khả năng vật chất để thực hiện. Mỹ không có thể và không muốn thừa nhận rằng những mục tiêu . đó vốn không có thể đạt được và không thích hợp với các hình thức xã hội kinh tế mà phấn đông Thế giới thứ ba đang áp dụng để giải quyết những vấn đề kinh tế và những vấn đề con người của họ, và cố gắng của Mỹ nhằm thay đổi thực tế phổ biến đó chắc chắn sẽ gây ra xung đột.

Việc số phận của Mỹ ở Việt Nam phải bị gắn chặt vào hai con người dễ bị mua chuộc, là một sự việc tự nó rất đáng chú ý, nhưng không phải là đơn nhất trong thời đại sau chiến tranh. Và cũng không có gì phải ngạc nhiên rằng tính chất và vai trò của Thiệu và của xã hội mà ông người Mỹ đã nặn ra, đã trở thành biến số thiết yếu trong kết thúc lạ lùng của chiến tranh. Vì không có cơ sở xã hội, kinh tế và chính trị vững chắc cho bất kỳ chế độ nào do Pháp hoặc Mỹ dựng lên nên sự sụp đổ của các chế độ đó là tất yếu Nhìn ngược lại, mới thấy sự kỳ lạ là bốn chính quyền liên tiếp đã tìm cách áp đặt bá quyền của Mỹ lên Việt Nam với bao nhiêu tổn phí nhưng lại hoàn toàn phụ thuộc vào những người dễ bị tổn thương như vậy.

Mỹ không có lối thoát ra khỏi chiếc bẫy tuyệt vọng đó trừ phi sẵn sàng chấp nhận một thất bại sớm của mục đích tạo ra một Nam Việt Nam chống cộng. Mỹ luôn luôn thi ân cho người hùng trước đây với hy vọng họ sẽ đưa lại ổn định và một lựa chọn có hiệu quả. Quy mô và các chức năng chính trị và kinh tế của giới quân sự Việt Nam cộng hòa đã choán hết chỗ của các lực lượng xã hội không cộng sản, rời rạc và chủ yếu là không kiên định. Việc Mỹ ủng hộ vai trò trung tâm của giới quân sự trong chế độ Việt Nam cộng hòa tạo ra một công thức cho thảm họa xã hội, kinh tế và chính trị ở Việt Nam cộng hòa. Cuối cùng chính sách không thể tránh khỏi đó chắc chắn sản sinh ra một xã hội hoàn toàn giả tạo gây đau khổ không bờ bến cho quần chúng và mở rộng tiềm năng khách quan của Cách mạng, bất chấp những tổn thất của Cách mạng như thế nào.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 01 Tháng Mười, 2008, 11:37:50 am
Gắn liến với vấn đề biến sức mạnh vũ trang thành thắng lợi chính trị, là thực tế rằng trong quá trình tiến hành một cuộc chiến tranh bằng cách dùng hỏa lực với một mức độ khủng khiếp, người Mỹ đã tạo ra những cuộc biến động sâu rộng về con người và về cơ cấu dân cư, đưa lại một xã hội đô thị hóa không thể đứng vững được về kinh tế hoặc về chính trị. Chính những hậu quả của những tiền đề kỹ thuật, đã dàn mỏng toàn bộ cơ cấu xã hội Nam Việt Nam làm cho tay chân của Mỹ ở Sài Gòn không thể kiểm soát được. Và cũng chính chiến lược chiến tranh cục bộ và sau đó là Việt Nam hóa đã giáng xuống trật tự xã hội những gánh nặng không chịu nổi và đầy tai họa. Những điều đó đã lấn át những thắng lợi trên danh nghĩa ở chiến trường. Và chúng cũng cho thấy tại sao quân sự Mỹ không thể vào bất cứ xã hội nào mà không thúc đẩy những tác động gây tổn thương và những vấn đề rắc rối đưa đến thất bại chính tri cho đồng minh địa phương của họ.

Kỹ thuật trong chiến tranh đóng một vai trò hoàn toàn khác nhau cho mỗi bên. Áp dụng khả năng vũ khí và tiềm lực kỹ thuật hiện có để xác định và phát triển một chiến lược chiến tranh hạn chế và chống cách mạng dùng cho Thế giới thứ ba là một việc phức tạp hơn nhiều so với suy nghĩ của Mỹ trong đầu những năm 1960. Các nhà lãnh đạo và các tướng lĩnh lấy lòng tin vào số lượng vũ khí của họ để thay cho những phân tích chiến lược và chính trị vững chắc. Họ không thể nào đánh giá chính xác những triển vọng thắng lợi của họ, hoặc ngay cả những tốn kém về kinh tế cho những học thuyết của họ, mãi cho đến khi họ đã đi khá sâu vào chiến tranh, khi những suy xét quan trọng khác, như "lòng tin" đã làm tê liệt những suy nghĩ của họ.

Chỉ có Cộng sản mới đánh giá đầy đủ nội dung rộng lớn của cuộc đấu tranh. Họ đã khắc phục hệ thống vũ khí khủng khiếp trong lịch sử bằng một cuộc chiến tranh kéo dài dựa trên chiến thuật phân tán, động viên quần chúng và những chiến thuật quân sự thích nghi với những chỗ yếu đặc biệt của kỹ thuật. Thật vậy, giống như Mỹ hy vọng phát triển một khả năng chiến tranh hạn chế thích hợp cho toàn thế giới, những người Cộng sản định ra những phản ứng chính trị, tổ chức và kỹ thuật đối với sự can thiệp và vũ khí của Mỹ, và có thể có giá trị cho các lực lượng cách mạng ở những nơi khác. Thực tế này có khả năng kết hợp lại với nhau những khó khăn của Mỹ trong việc tự khoác cho mình nghĩa vụ chống cách mạng trong Thế giới thứ ba trong nhiều thập kỷ đến.

Đảng Cộng sản là bên dễ hiểu nhất trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Sự say mê lý thuyết và phân tích của Đảng là luôn luôn kiên định, luôn luôn công khai và thường đi vào nội tâm. Vai trò và các quyết định của Đảng luôn luôn rõ ràng trong lời nói cũng như trong hành động. Thăm dò, tìm hiểu Đảng có phần dễ dàng hơn bởi vì Đảng đã thắng và những nguyên nhân thắng của một chế độ dễ thấy hơn là những nguyên nhân thua. Bởi vì thắng lợi của Đảng là một bằng chứng không phải chỉ là của sự linh hoạt của lịch sử trong quá trình tiến triển chung mà còn là của tính hiệu quả thời chiến của những thể chế và tư tưởng phía thắng cũng như của nước bị thua.

Sức mạnh của Đảng, nhất là trước năm 1949, gắn liền chặt chẽ với những điều kiện mà sự sụp đổ của chế độ thực dân Pháp và tính chất của hệ thống giai cấp đã góp phần rất lớn để tạo ra. Sợi chỉ của thắng lợi mà chủ yếu là do sự có mặt và tính kiên trì của Đảng đồng thời cũng do những dại dột của kẻ thù, đã xuyên qua suốt toàn bộ cuộc chiến tranh ba mươi năm. Thế chủ động chính trị và quân sự được tính toán rất kỹ đã làm cho Đảng lãnh đạo rất năng động. Nhưng tác động cơ cấu tai họa của những hành động Mỹ và Việt Nam cộng hòa ở khắp Nam Việt Nam cho thấy rằng Đảng có khả năng khai thác những hậu quả của những nhược điểm không kể xiết của kẻ thù. Đảng vô cùng sáng tạo và thực dụng trong cố gắng sử dụng tối đa những khả năng trước mắt.

Cách mạng phải biết tổ chức những bộ phận lớn của xã hội Việt Nam lại. Trong quá trình đó, Cách mạng đã có những sai lầm cũng như những thành tựu. Nhưng quan trọng nhất là Cách mạng đã có khả năng sống sót như một tổ chức và tối thiểu như một sự nghiệp trong tâm trí của nhân dân. Do đó Cách mạng luôn luôn có thể khẳng định lại mình khi có cơ hội. Năng lực của giới lãnh đạo Đảng trong việc phân tích và thích nghi, trong việc gắn khả năng với thực tế, và tránh một ý thức quá tự mãn cũng như quá thận trọng, là một khâu thiết yếu nối liền các lực lượng đang có và tiềm tàng với tương lai.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 01 Tháng Mười, 2008, 11:38:27 am
Trên một mức độ quan trọng, khả năng tập hợp số lớn quần chúng của Đảng là do tác động tàn phá của chiến tranh đối với trật tự nông thôn và cũng do vai trò đoàn kết của Đảng. Chế độ ruộng đất và nền kinh tế do Pháp đặt ra đã đẩy quần chúng đến tuyệt vọng vào thời kỳ của Chiến tranh thế giới thứ hai, và những người Cộng sản đã đưa lại cho họ cách đối phó có tính chất cách mạng và có tổ chức đối với những vấn đề xã hội chung. Chính nhờ sự khẳng định tính chất cộng đồng và giai cấp trước nạn đói và chiến tranh mà tổ chức Đảng trở nên vững chắc. Và chính sự bất bình của nông dân nhất là về mặt kinh tế, làm cho Đảng có khả năng huy động quần chúng, nguồn sức mạnh của Đảng. Nhiều lần, nông dân ảnh hưởng sâu sắc đến chiến lược lớn của Đảng, quan trọng nhất là trong giai đoạn 1953 - 1955 ở miền Bắc, 1959 - 1961 ở miền Nam, và sau đó ở nhiều địa phương khác nhau của miền Nam. Làm theo đường lối bần cố nông thì có thể động viên được quần chúng, và luôn luôn đó là cái giá của thắng lợi.

Những thỏa hiệp như vậy đối với những sức ép từ bên dưới có khi mâu thuẫn với chủ trương về một đường lối mặt trận đoàn kết chống lại người Pháp và người Mỹ. Điều hòa những căng thẳng giữa xung đột giai cấp với sự thống nhất chính trị là điều mà Đảng phải làm thường xuyên. Hơn nữa, khả năng của Đảng sử dụng những cách khêu gợi không có tính chất giai cấp như khêu gợi lòng yêu nước và khả năng thu hút những nhà cách mạng có học thức thuộc nguồn gốc tư sản, cũng tỏ ra là một nguồn sức mạnh vô giá cho Đảng từ trước đến nay.

Trong quá trình đối phó với vô số những thách thức đó Đảng phạm những sai lầm, nhưng rõ ràng không có sai lầm nào gây tai họa cho toàn bộ cố gắng của Đảng. Thành tựu của Đảng với tư cách là một lực lượng dẫn đường là hiếm có trong thế kỷ hai mươi. Là những người theo dõi cực kỳ thận trọng của tình hình sôi động xã hội, chủ yếu là những nhà nghiên cứu chu đáo, có suy tính, các nhà lãnh đạo Đảng lão luyện hơn nhiều trong việc đánh giá tình hình một cách hợp lý và lô-gích so với những kẻ thù Pháp và Mỹ của họ là những người mà xu hướng đi vào những ảo tưởng và tượng trưng làm cho họ trở thành những người hoàn toàn lý thuyết trong cuộc chiến tranh. Trong khi sẵn sàng chấp nhận những nguy hiểm để đi đến những mục tiêu tối hậu của mình, các nhà lãnh đạo Đảng luôn luôn đánh giá một cách chu đáo cán cân lực lượng trong nước và nước ngoài và những tác động dài hạn của các hành động khác nhau. Cách làm thực tế như vậy đã làm cho Đảng tránh được những sai lầm quyết định.

Thiên tài của Đảng là khả năng sống sót và thích nghi với những thách thức khó tin nhất và xuất hiện trở lại đủ hùng mạnh để lấp lỗ trống mà Mỹ và những kẻ phụ thuộc họ tạo ra. Việc Đảng giữ được lòng trung thành của những thành viên của mình, đã từng chịu đựng những hy sinh cá nhân không bờ bến trong những giai đoạn kéo dài, là hạt nhân của sức bật đó và Đảng có thể làm như vậy là nhờ Đảng luôn luôn gắn bó với những vấn đề xã hội, đặt trước quần chúng nhân dân. Cố gắng này sau năm 1968 trở nên phức tạp hơn nhiều khi các vấn đề hòa bình và duy trì một xã hội cố kết chặt chẽ chống lại sự tiến công dữ dội do sự có mặt của Mỹ và do những tàn phá của chiến tranh, đã vượt quá các vấn đề giai cấp và trở thành vấn đề động viên nóng hổi. Nhiệm vụ của Đảng đối phó với ý thức mới và rộng lớn hơn đó, ở thành thị cũng như ở nông thôn, đặt ra một thách thức tế nhị hơn nhiều. Đảng biết tổn thất vật chất và tâm lý của chiến tranh là nặng nề, nhưng phần đông các nhà lãnh đạo Đảng chưa thấy hết được so sánh lực lượng hoàn toàn có lợi cho mình.

Do đó Đảng đánh giá thấp sự chuyển biến đặc biệt của thái độ chính trị xảy ra trong hàng ngũ những phần từ đô thị, nhanh chóng đưa đến lòng chán ghét và hờ hững, căn bản có hại cho sự cố kết của tương lai của Việt Nam cộng hòa. Đảng hiểu tốt hơn tình trạng mất tinh thần của các lực lượng vũ trang Việt Nam cộng hòa, nhưng ngay ở đây nữa, những tác động cũng chưa được thấy rõ cho đến tháng 12 năm 1974, khi Đảng thấy rằng sự chống lại một cuộc tiến công có thể là yếu ớt và không hiệu quả. Đảng thấy đã xuất hiện một lỗ hổng lớn và ngày càng lớn, mà bất kỳ một cố gắng có phối hợp nào cũng có thể chiếm được, nhưng ít tưởng tượng đến những điều xảy ra kỳ lạ của tháng 3 và tháng 4. Ở mức độ đó là kết quả của những ưu tiên và những cam kết Thiệu tự thu tóm cho mình, thì có thể đón trước được rằng những tiền lệ của Lam Sơn 719 và của cuộc tiến công 1972 là những dấu hiệu hùng hồn của sự bất tài của Thiệu và sự yếu kém của binh lính và sĩ quan khi đương đầu với nguy hiểm.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 01 Tháng Mười, 2008, 11:39:11 am
Ở một mức độ nhất định, tuy những người Cộng sản không thấy trước những sự kiện kỳ lạ của giai đoạn cuối cuộc chiến tranh, nhưng kết quả của những sự kiện đó là xuất phát từ cố gắng của bản thân chính những người cộng sản và từ tính chất các lực lượng bố trí chống lại họ. Khi thời cơ đến, họ nắm lấy cơ hội và đi vào khoảng trống mênh mông trong bảy tuần phi thường nhất trong toàn bộ lịch sử của chiến tranh. Nhưng vở kịch kỳ lạ đó, chỉ là đỉnh cao của một cuộc chiến tranh chính trị, xã hội và con người, đã được bắt đầu hai thập kỷ trước đây và đã được Cách mạng sử dụng để xây dựng hàng ngũ và thiết lập tính hợp pháp của mình trong một quá trình chậm rãi, kiên trì và có tính chất tích lũy. Đảng chỉ có thể tiên đoán rằng một loại rộng lớn và liên tục những cố gắng và hy sinh sẽ đưa lại thắng lợi hoàn toàn. Và họ cũng lấy chủ nghĩa mác-xít làm cơ sở để tin rằng nhân dân và các quá trình xã hội sẽ phối hợp với nhau, tác động lẫn nhau để xác định tương lai và hình thành kết quả của lịch sử.

Chiến tranh Việt Nam, theo phân tích cuối cùng, là một trận đấu giữa Mỹ và người thay cho họ được bảo vệ và trợ cấp dồi dào với phong trào cách mạng mà gốc rễ giai cấp và cơ sở tư tưởng đưa lại cho họ một sức bật và một sức nạnh to lớn. Cách mà những cá nhân xử sự trong chiến tranh cũng như trong hòa bình, phản ánh những tiêu chuẩn xã hội và tính chất của hai chế độ đang đối địch nhau. Nguồn sức mạnh quan trọng nhất của Đảng cộng sản trên ba mươi lăm năm qua là quan niệm của họ về một đạo đức cách mạng xã hội chủ nghĩa và sự nhấn mạnh của họ đối với ý nghĩa hàng đầu của mọi hành động và giá trị đưa đến một xã hội xã hội chủ nghĩa. Khả năng của Đảng phát triển một tổ chức mà cuộc sống của những thành viên phù hợp với những nguyên tắc nói trên, đã làm cho họ đạt được mục tiêu của họ..

Khái niệm về vai trò trọng yếu của cá nhân là một bổ sung cơ bản và đặc biệt nhất của chủ nghĩa cộng sản Việt Nam vào học thuyết mác-xít lê-nin-nít và là một sự xem xét lại tầm quan trọng tương đối của các nhà lãnh đạo và những hình thức tổ chức thuần túy. Không ai có thể hiểu được làm thế nào hàng chục nghìn đàn ông và đàn bà đấu tranh hết thập kỷ này đến thập kỷ khác trong những điều kiện vô cùng thiếu thốn, thường là đơn độc, đòi hỏi cam kết cá nhân, kiên trì và hy sinh phi thường, nếu không đánh giá được ảnh hưởng của những cam kết và giá trị cách mạng như vậy cũng như không đánh giá được sự hấp dẫn của chương trình xã hội và chính trị của Đảng vạch ra. Bởi vì, trong khi chiến thuật và chiến lược của Đảng trong suốt cuộc chiến tranh là đúng nhiều hơn không, đó là điều kiện cần thiết nhưng chưa đủ để thắng.

Trong một cuộc đấu tranh lâu dài trong đó một cuộc khủng hoảng muôn màu muôn vẻ tác động đến các sự kiện một cách vượt xa khả năng dự kiến của bất kỳ ai, kể cả các nhà lãnh đạo, thì sức mạnh tối hậu của Đảng là khả năng chịu đựng và do đó, tiếp tục liên kết với các sự kiện, dù đúng dù sai. Sự tồn tại của những đảng viên kiên trì, tận tụy đã giúp Đảng làm chủ tương lai của đất nước và lấp khoảng trống do Pháp và Mỹ để lại ở Việt Nam.

Đạo đức cách mạng khẳng định rằng ý thức tác động đến quá trình lịch sử bằng chính bản thân nó. Không phải Cách mạng không tính đến so sánh lực lượng vật chất, nếu Cách mạng không muốn trở thành chủ nghĩa thần bí hoặc chủ nghĩa lãnh mạn, nhưng Cách mạng khẳng định vai trò thiết yếu của trách nhiệm và hành động cá nhân. Một quan niệm về vai trò của quần chúng trong các sự kiện lớn và trong lịch sử đưa lại lòng tự tin và trở thành một thành phần của sức mạnh.

Đảng không bao giờ trở thành một Đảng của những ông thánh cách mạng, nhưng Đảng đã tìm được cách tập hợp một số rất lớn đàn ông và đàn bà mà đạo đức và lòng tận tụy với sự nghiệp là rất cao. Họ có những hy sinh to lớn và chịu vô vàn thiếu thốn và một mình họ đã làm cho đảng đóng được vai trò của mình trong lịch sử. Chính quy mô thắng lợi của Đảng mới càng đáng chú ý, như thể sức ép liên tục của cuộc đấu tranh dai dẳng đã thêm sức mạnh cho đảng viên và làm cho họ dễ hy sinh tính mạng của mình cho sự nghiệp. Bên trong sự cam kết của họ là một sự tổng hợp của lòng tin tưởng và sự chắc chắn ở tương lai, dựa vào sự kết hợp của hành động cần thiết của chính họ với sự đánh giá tính chất của thực tế xã hội và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Mỗi người đều vì nhân dân và vì một sự nghiệp mà trong đó số phận của từng người gắn với số phận của Cách mạng. Chính tác động của quan niệm đó đã làm cho thắng lợi cơ hồ như không thể đạt được trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, đã thực sự đạt được một cách trọn vẹn, và bằng chứng mạnh mẽ nhất cho tính hiệu quả của khái niệm đó sẽ được kinh nghiệm cuối cùng chứng minh.


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 01 Tháng Mười, 2008, 11:39:48 am
Vai trò của cải có thể làm và cái bị hạn chế trong những quá trình lịch sử và trong các sự kiện lớn luôn luôn thâm nhập vào sự suy nghĩ của con người. Vấn đề thực sự là xem nhu cầu và khả năng diễn biến như thế nào qua thời gian và trước hết là xem tại sao, khi nào và như thế nào bên này lại quan trọng hơn bên kia. Ý nghĩa của những vấn đề này, căn bản cho sự hiểu rõ kinh nghiệm lịch sử hiện đại, không cho phép đơn giản hóa hoặc có những kết luận ngẫu nhiên.

Việc hiểu thấu đáo những giới hạn và những khả năng thực tế là thực chất của chiến lược chính trị và là điều tiên quyết cho việc cải biến xã hội một cách có lợi nhất. Điều đáng chú ý là thay đổi xã hội trong thế kỷ này là nhanh chóng và gây đau khổ một cách kỳ lạ. Nhưng cuộc khủng hoảng bên ngoài của chiến tranh và vô số những phát triển bên trong sẽ duy trì sự biến đổi đó của thế giới trong tương lai. Những tổn thất mà các cuộc chiến tranh kéo dài gây cho các nền kinh tế quốc gia và có sự cố kết xã hội và tư tưởng của các nền kinh tế đó là nguồn gốc quan trọng của thay đổi nhất là trong việc đẩy nhanh sự phi thực dân hóa các trật tự âu và Mỹ. Là một cuộc xung đột dài nhất của thời hiện đại, chiến tranh Việt Nam đưa ra một toàn cảnh để đánh giá nguồn gốc và những thành phần của một cuộc khủng hoảng tác động đến hai cường quốc phương Tây và để thăm dò ý nghĩa của hành động và các tổ chức trong việc xác định một cách có ý thức kết quả cuối cùng một sự kiện lịch sử lớn.

Chiến tranh nói chung là nhân tố vượt lên trên hết trong tất cả các xã hội, đòi hỏi phải có lựa chọn và hành động. Những bên có thể gây ra thay đổi trong những lúc này là quần chúng nhân dân. Khi họ thấy rằng họ không thể tránh những hậu quả của hành động hoặc không hành động của họ, và thường là phải trả một giá cao hơn cho việc không hành động thì họ sẽ trở thành một lực lượng xã hội và lực lượng đó càng bền vững nếu họ tham gia một hình thức có tổ chức.

Chiến tranh Việt Nam là một sự kiện vĩ đại vượt quá phạm vi một nước và vượt quá cả thời gian và nó phản ánh, dưới hình thức rõ nét nhất, những sôi động và xu hướng cơ bản trong quá trình lịch sử, kể từ năm 1946. Đó không phải là ngẫu nhiên mà là kết quả lô-gích của lòng tham, sức mạnh, và nhược điểm đương thời của Mỹ, Chiến tranh một lần nữa khẳng định tính tất yếu của những biến đổi xã hội và những phong trào xã hội trong thế giới ngày nay, khẳng định những điểm yếu thật sự cũng như sức mạnh to lớn của chúng, và khẳng định tiềm năng đáng sợ của con người nhằm xác định chính tương lai của mình chống lại mọi sức cản trở. Cân nhắc cả những khả năng vì sự bất lực tối hậu của Mỹ so với khả năng những kẻ thù mà họ có thể đương đầu ở một nước bất hạnh khác nào trong Thế giới thứ ba, năm nay hay trong tương lai, là đánh giá tính chất sức mạnh thực sự và những thành phần của sự thay đổi trong thế giới ngày nay.
Bởi vì, nhìn các khía cạnh xã hội và con người ảnh hưởng đến kết quả của tình trạng chiến tranh giữa Mỹ và các phong trào và quốc gia cấp tiến, khó mà tưởng tượng rằng một cuộc xâm phạm ào ạt khác vào một quốc gia cách mạng ngoan cường nào đó có thể sẽ có một kết thúc khác với kết thúc ở Việt Nam.

Tất cả điều mà Mỹ có thể làm ngày nay là gây muôn vàn đau khổ cho nhân dân mà vũ khí và tiền của của Mỹ không thể nào kiểm soát được số phận. Mà muốn làm như vậy một lần nữa, tất nhiên phải đòi hỏi ở công chúng Mỹ một cái giá mà cuối cùng họ đã không chịu trả ở Việt Nam và chắc chắn họ không sẵn sàng trả trong tương lai. Không thể nào chống lại được sự thay đổi xã hội sâu sắc trong diễn biến lịch sử. Nhưng tính chất của quá trình đó và cách mà nó ảnh hưởng đến sinh mạng của quần chúng trong các nước đang phát triển trong những thập kỷ sắp đến, không thể tách ra khỏi vấn đề liệu thất bại trong chiến tranh Việt Nam có buộc Mỹ không can thiệp ở những nơi khác nữa và để cho nhân dân thế giới định đoạt lấy tương lai của mình hay không. 


Tiêu đề: Re: Giải phẫu một cuộc chiến tranh - Gabriel Kolko
Gửi bởi: SaoVang trong 01 Tháng Mười, 2008, 11:42:13 am
MỤC LỤC

PHẦN MỘT: NHỮNG NGUỒN GỐC CỦA CHIẾN TRANH CHO ĐẾN NĂM 1960
Chương một: Con đường đi đến khủng hoảng của Việt Nam
Chương hai: Đảng Cộng sản cho đến năm 1945: từ đại khủng hoảng cho đến chiến tranh
Chương ba: Việt Nam: từ cách mạng tháng Tám 1945 đến chiến tranh kéo dài
Chương bốn: Thế giới bên trong của chủ nghĩa Cộng sản Việt Nam: lý thuyết và thực hành
Chương năm: Sự củng cố quyền lực của Đảng Cộng sản
Chương sáu: Sự đối đầu của Mỹ với những giới hạn của quyền lực thế giới 1946-1960
Chương bảy: Nam Việt Nam cho đến năm 1959, những nguồn gốc của cuộc xung đột
Chương tám: Thế tiến lui đều khó của Đảng Cộng sản ở miền Nam, 1954-1959

PHẦN HAI: CUỘC KHỦNG HOẢNG Ở NAM VIỆT NAM VÀ SỰ CAN THIỆP CỦA MỸ, 1961-1965
Chương chín: Sự dính líu của Mỹ ở Việt Nam: từ trách nhiệm đỡ đầu cho đến chiến tranh không quân
Chương mười: Chiến tranh và nông thôn Việt Nam
Chương mười một: Sự thách thức trong việc xác định các chiến lược quân sự
Chương mười hai: Mỹ, cách mạng, và những thành phần của cuộc đấu tranh

PHẦN BA: CHIẾN TRANH TỔNG LỰC 1965-1967 VÀ SỰ BIẾN ĐỔI CỦA NAM VIỆT NAM
Chương mười ba: Leo thang và thất vọng của nền chính trị Mỹ
Chương mười bốn: Sự tiếp tục tìm kiếm những chiến lược quân sự có hiệu quả
Chương mười lăm: Thế tiến lui đều khó trong cách tiến hành chiến tranh của Mỹ
Chương mười sáu: Chiến tranh và sự biến đổi của xã hội Việt Nam
Chương mười bảy: Nguyễn Văn Thiệu và cơ cấu quyền lực của Việt Nam cộng hòa
Chương mười tám: Thế tiến lui đều khó của sự phụ thuộc kinh tế và chế độ Việt Nam cộng hòa
Chương mười chín: Sự xây dựng quân đội Việt Nam cộng hòa và cuộc đấu tranh giành nông thôn Nam Việt Nam
Chương hai mươi: Tính chất và những hậu quả của hai đội quân Việt Nam
Chương hai mươi mốt: Những phản ứng của Đảng Cộng sản đối với chiến tranh tổng lực
Chương hai mươi hai: Tác động kinh tế của chiến tranh đối với Mỹ
Chương hai mươi ba: Cán cân lực lượng trong chiến tranh vào cuối năm 1967

PHẦN BỐN: CUỘC TIẾN CÔNG TẾT VÀ CÁC SỰ KIỆN NĂM 1968
Chương hai mươi bốn: Cuộc tiến công Tết
Chương hai mươi lăm: Tác động của cuộc tiến công Tết đối với Oa-sinh-tơn
Chương hai mươi sáu: Đánh giá cuộc tiến công Tết

PHẦN NĂM: CHIẾN TRANH VÀ NGOẠI GIAO (1969-1972)
Chương hai mươi bảy: Sự đối đầu của chính quyền Ních-xơn với Việt Nam và thế giới
Chương hai mươi tám: Cuộc khủng hoảng của sức mạnh quân sự Mỹ
Chương hai mươi chín: Chính sách quân sự của Cách mạng, 1969-1971
Chương ba mươi: Mỹ và Việt Nam cộng hòa: Những mâu thuẫn của Việt Nam hóa
Chương ba mươi mốt: Cuộc đấu tranh cho một Việt Nam nông thôn đang thay đổi
Chương ba mươi hai: Chiến lược quốc tế của Đảng Cộng sản
Chương ba mươi ba: Chiến tranh trên hai mặt trận: Ngoại giao và chiến trường, 1971-1972
Chương ba mươi tư. Quá trình ngoại giao: ảo tưởng và thực tế

PHẦN SÁU: CUỘC KHỦNG HOẢNG CỦA VIỆT NAM CỘNG HÒA VÀ SỰ KẾT THÚC CHIẾN TRANH 1973-1975
Chương ba mươi lăm: Cán cân lực lượng ở Nam Việt Nam, đầu năm 1973 và tác động của các chính sách của Việt Nam cộng hòa
Chương ba mươi sáu: Thế tiến lui đều khó về quyền lực của chính quyền Ních-xơn
Chương ba mươi bảy: phục hồi và phản ứng: Chiến lược của Đảng Cộng sản cho đến giữa năm 1974
Chương ba mươi tám: Cuộc khủng hoảng ngày càng sâu sắc của chế độ xã hội Việt Nam cộng hòa
Chương ba mươi chín: Sài Gòn và Oa-sinh-tơn giữa năm 1974: Sự nối tiếp của hai cuộc khủng hoảng
Chương bốn mươi: Những nhận thức và kế hoạch của Cách mạng, cuối 1974
Chương bốn mươi mốt: Sự kết thúc của chiến tranh

KẾT LUẬN

HẾT