Tiêu đề: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 31 Tháng Bảy, 2008, 09:42:21 pm Tên sách: Phan Đình Phùng-Cuộc đời và sự nghiệp Nhà xuất bản: Nghệ An Năm xuất bản: 2007 Số hoá: ptlinh, chuongxedap LỜI DẪN Phan Đình Phùng sinh năm 1847 tại làng Đông Thái (nay là xã Tùng Ảnh), huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, trong một gia dình có truyền thống hiếu học, trọng đạo nghĩa, con cụ Phó bảng Phan Đình Tuyển; là em ruột các ông Tú tài Phan Đình Thông, Cử nhân Phan Đình Thuật và là anh ruột Phó bảng Phan Đình Vận. Phan Đình Phùng thi đậu Cử nhân năm 1876; năm sau, 1877, đậu Đình nguyên Tiến sĩ, nên nhân dân địa phương cũng gọi là cụ Đình; được bổ Tri huyện Yên Khánh (Ninh Bình), sau đó Cụ được đổi về kinh đô Huế, sung chức Ngự sử Đô sát viện. Cụ Phan nổi tiếng về tính cương trực và khảng khái. Năm 1882, Cụ dâng sớ đàn hặc Thiếu bảo Nguyễn Chánh về tội “ứng binh bất biến” (cầm quân ngồi yên không đi tiếp viện) khi giặc Pháp tiến công thành Nam Định. Năm 1883, vì thấy Tôn Thất Thuyết làm việc phế Dục Đức lập Hiệp Hòa, Cụ đứng lên phản đối, và vì thế bị Tôn Thất Thuyết đuổi về làng. Năm 1885, hưởng ứng Chiếu Cần vương, Phan Đình Phùng đã đứng ra chiêu tập quân sĩ chống Pháp. Các anh hùng hào kiệt khắp bốn tỉnh miền Bắc Trung Kỳ tự nguyện liên kết lực lượng dưới quyền chỉ huy tối cao của cụ Đình. Nghĩa quân xây dựng căn cứ tại vùng núi rừng Hương Sơn, Hương Khê (Vụ Quang) hiểm trở, nhằm tiến hành cuộc kháng chiến lâu dài. Địa bàn hoạt động rất rộng, bao gồm vùng Nghệ Tĩnh và một phần tỉnh Quảng Bình và tỉnh Thanh Hóa. Ngay từ buổi đầu kháng chiến, Cụ đã có nhận thức đúng đắn: cần có sức mạnh của toàn dân mới có thể chiến thắng được quân thù và cần có vũ khí hiện đại. Do dó, Cụ đã giao cho Cao Thắng lãnh trách nhiệm tổ chức và xây dựng phong trào ở Nghệ Tĩnh, còn Cụ ra Bắc (1887) đặt quan hệ và vận động thống nhất các lực lượng chống Pháp ở cả hai miền. Cao Thắng, người tùy tướng tài ba lỗi lạc của Cụ sau mấy tháng trời lao động, ngày đêm tìm tòi, đã cùng các đồng chí chế tạo được súng đạn đánh Pháp, đặc biệt là súng trường kiểu “1874”, đồng thời cũng chăm lo giáo dục nghĩa quân tinh thần hăng hái hy sinh dũng cảm và ý thức tổ chức kỷ luật... Năm 1888, Phan Đình Phùng ở Bắc về, trực tiếp lãnh dạo phong trào; thanh thế của nghĩa quân ngày càng lớn mạnh. Cụ chia nghĩa quân ra làm 15 quân thứ, mỗi quân thứ có từ 100 đến 500 nghĩa binh, có Đề đốc hoặc Lãnh binh chỉ huy, riêng đại đồn Vụ Quang lúc nào cũng có 500 quân trở lên. Chiến thuật, chiến lược của Cụ là dựa vào núi rừng hiểm yếu và công sự kiên cố để đánh giặc. Nhưng khác với lối đánh lập chiến tuyến cố định như của nghĩa quân Ba Đình (Thanh Hóa) trước đó, Cụ biết dùng căn cứ vững chắc phối hợp với lối đánh du kích dể tiêu diệt quân thù. Nghĩa quân có căn cứ địa nhưng không thủ hiểm, luôn luôn phân tán hoạt động đánh đồn diệt viện, chặn đường giao thông; không phá được đồn thì nhử địch ra ngoài để tiêu diệt; dùng hố chông, cạm bẫy để đánh địch, do đó đã làm cho quân xâm lược nhiều phen thất điên bát đảo. Trận Vụ Quang tháng 10-1894, với kế “Sa nang úng thủy” của Hàn Tín đánh quân Sở ngày xưa, đã làm cho bọn địch tổn thất nặng nề: 100 lính và ba sĩ quan địch bị tiêu diệt; nghĩa quân thu 50 súng và rất nhiều quân trang, quân dụng. Vì vậy, mặc dù phải chiến đấu trong điều kiện vô cùng khó khăn gian khổ, Cụ vẫn duy trì cuộc kháng chiến được mười năm, là thời gian dài nhất trong phong trào Cần vương của nhân dân ta chống Pháp cuối thế kỷ XIX. Trong sự nghiệp mười năm “Cần vương chống Pháp”, Phan Đình Phùng luôn luôn nêu cao tinh thần bất khuất, một lòng một dạ cứu nước, Cụ đã chiếm được lòng tin yêu của nghĩa quân và lòng kính mến của nhân dân. Giặc đem danh lợi ra mua chuộc Cụ, nhưng thất bại. Chúng dùng vũ lực để uy hiếp tinh thần, Cụ không sờn lòng. Chúng bắt thân nhân của Cụ, khai quật mồ mả tổ tiên, Cụ không nản chí. Câu trả lời khảng khái của Cụ trước mặt tên Lê Kinh Hạp Tiễu phủ sứ, tay sai của giặc, khi hắn dọa bắn giết người anh ruột là Phan Đình Thông và đào mả tổ tiên, đã nói lên khí tiết của một vị anh hùng dân tộc: “Nay tôi chỉ có một ngôi mộ rất to nên giữ là nước Việt Nam; tôi chỉ có một ông anh rất to đang bị lâm nguy là mấy triệu đồng bào. Nếu về mà sửa sang lại phần mộ của tổ tiên riêng mình, thì ngôi mộ cả nước kia ai giữ? Về để cứu sống ông anh của riêng mình, thì còn bao nhiêu anh em trong nước ai cứu?”. Phan Đình Phùng kiên quyết kháng chiến, một lòng một dạ vì nhân dân, vì đất nước. Đến cuối năm 1895, trong một trận giao tranh ác liệt, Cụ bị thương và sau đó đã hy sinh tại quân doanh vào ngày 28-12-1895. Từ đó, phong trào Cần vương của nhân dân ta coi như kết thúc, chấm dứt cả một thời kỳ đấu tranh vũ trang oanh liệt do các nhà sĩ phu văn thân yêu nước lãnh đạo. Phong trào chống Pháp của Phan Đình Phùng đã khẳng định sự biểu hiện hào hùng của tinh thần độc lập dân tộc, của cơ sở văn hóa cổ truyền dân tộc. Đứng về giá trị truyền thống mà nói thì đây là một sự tiếp tục, một sợi dây nối liền với những chủ trương của các sĩ phu yêu nước tiến bộ trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XX. Từ lâu nay, nhân dân ta đánh giá cao vai trò lịch sử của Phan Đình Phùng, vị anh hùng chống giặc cứu nước. Câu nói của tác giả Trần Dân Tiên sau đây, có thể coi là sự nhận định, đánh giá có ý nghĩa khái quát nhất về “con người và sự nghiệp cứu nước” của Phan Đình Phùng: “Cụ Phan Đình Phùng là một học giả nổi tiếng và là một vị quan to... Cụ là một trong những người chí sĩ yêu nước... đứng lên chống lại bọn đế quốc Pháp xâm lược. Cụ tổ chức những phần tử trí thức và nông dân Trung Bộ, lãnh đạo họ đấu tranh gian khổ chống bọn xâm lược, trải qua chín, mười năm. Tuy Cụ đã mất nhưng tên Cụ trở thành tượng trưng cho lòng yêu nước”1. Năm 1995, nhân kỷ niệm 100 năm ngày mất của Phan Đình Phùng, Trung tâm Khoa học xã hội nhân văn phối hợp với ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh đã tổ chức một cuộc Hội thảo khoa học tại Hà Nội. Tại cuộc Hội thảo này, có nhiều nhà khoa học tham dự với các bản tham luận đề cập nhiều lĩnh vực khác nhau, đồng thời cũng đặt vấn đề cần đẩy mạnh hơn việt nghiên cứu về “con người, cuộc đời sự nghiệp cứu nước”, cũng như cần sưu tập thêm tư liệu lịch sử, tác phẩm văn thơ của Cụ, kể cả giai thoại, chuyện kể... liên quan đến vị chí sĩ yêu nước, lãnh tụ của phong trào Cần vương chống Pháp lừng lẫy này. Đã hơn mười năm qua, kể từ Hội thảo khoa học ấy, chúng tôi một nhóm anh em nghiên cứu lịch sử, văn học đã cố gắng tổ chức viết mới, sưu tầm bổ sung thêm một số bài viết về “con người và sự nghiệp” của cụ Phan để biên soạn thành tập sách này, lấy tên là: PHAN ĐÌNH PHÙNG - CON NGƯỜI VÀ SỰ NGHIỆP. Cuốn sách được chia làm ba phần: I. Phan Đình Phùng và sự nghiệp Cần vương: bao gồm những bài viết của các nhà nghiên cứu về thân thế và sự nghiệp lãnh dạo phong trào Cần vương kháng Pháp của Cụ. II. Phan Đình Phùng và sự nghiệp thơ văn: - Các tác phẩm thơ văn của Phan Đình Phùng; - Thơ, câu đối, văn điếu Phan Đình Phùng; - Về thơ văn Phan Đình Phùng và hình ảnh Phan Đình Phùng trong thơ văn. III. Phụ lục: - Các văn bản về phong trào Cần vương; - Tư liệu về Phan Đình Phùng và phong trào Cần vương; - Văn thơ, truyện kể về phong trào Cần vương. Ngoài ra, nhân dịp này, để làm tài liệu tuyên truyền sâu rộng về phong trào Cần vương do Phan Đình Phùng lãnh đạo, chúng tôi cũng tổ chức xuất bản thêm hai tập sách khác, là: - Phan Đình Phùng - Nhà lãnh đạo 10 năm kháng chiến (1886 - 1895) ở Nghệ Tĩnh của Đào Trinh Nhất; - Tráng sĩ Cao Thắng: gồm các tác phẩm viết về Cao Thắng của Phan Bội Châu, Phan Khánh và một số tác giả khác. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc và mong được góp ý kiến. Hà Nội, tháng 5 năm 2007 T/M TRUNG TÂM VĂN HOÁ NGÔN NGỮ ĐÔNG TÂY VÀ NHÓM BIÊN SOẠN PGS. TS Sử học Chương Thâu ____________________________________ 1. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1984, tr. 11. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 31 Tháng Bảy, 2008, 09:53:47 pm Phần I PHAN ĐÌNH PHÙNG VÀ SỰ NGHIỆP CẦN VƯƠNG TRẦN HUY LIỆU1 TƯỞNG NHỚ NHÀ ĐẠI ÁI QUỐC PHAN ĐÌNH PHÙNG Trong công cuộc đánh giặc cứu nước của các văn thân vào cuối thế kỷ XIX, cụ Phan Đình Phùng, lãnh tụ nghĩa quân Hương Khê. xuất hiện như một ngôi sao sáng nhất . Cụ Phan Đình Phùng tên hiệu là Châu Phong, sinh ngày 24 tháng 4 năm Đinh Mùi, tức ngày 6-6-1847, tại làng Đông Thái, huyện La Sơn, nay là xã Đức Phong2, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Là một nhà Nho yêu nước nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc lâm nguy, năm 1885, Cụ đã tập hợp nghĩa quân phất cao cờ khởi nghĩa chống đánh thực dân xâm lược Pháp. Lực lượng nghĩa quân do Cụ cầm đầu bước lên con đường chiến đấu cứu nước trong điều kiện và hoàn cảnh cực kỳ khó khăn. Triều đình Huế với bù nhìn Đồng Khánh đã trở thành tay sai của giặc, thực dân Pháp câu kết với bọn phong kiến phản quốc đã đặt được bộ máy đô hộ của chúng trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Chúng tập trung binh lực và dùng mọi thủ đoạn hiểm độc dã man nhất để tiêu diệt phong trào khởi nghĩa chống xâm lược của nhân dân ta, trong đó có cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng. Dựa vào nhân dân địa phương, lực lượng nghĩa quân Phan Đình phùng có một sức sống tiềm tàng và có một sức chiến đấu vô cùng mãnh liệt, dẻo dai. Từ một lực lượng như một đốm lửa nhỏ bé xuất hiện buổi đầu của làng Đông Thái, thiếu vũ khí, thiếu lương thực, trong vòng mấy năm lực lượng đó đã vừa chiến đấu vừa xây dựng, phát triển thành một lực lượng mạnh mẽ bao gồm mấy nghìn tướng sỹ, phân chia thành 15 quân thứ hoạt động trên khắp miền núi rừng bốn tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Thanh Hóa và trang bị bằng nhiều súng do nghĩa quân tự chế tạo. Trước sự lớn mạnh của nghĩa quân Phan Đình Phùng, bọn thực dân Pháp đã phải xây dựng cả một hệ thống đồn bốt như một tấm lưới thép bao vây hòng triệt đường tiếp tế liên lạc, ngăn chặn nghĩa quân phát triển xuống đồng bằng. Đồng thời chúng ra sức thực hiện âm mưu dùng người Việt đánh người Việt và lệnh cho phong kiến Nam triều huy động một lực lượng lớn lính bao vây, sục sạo, chia cắt, tấn công nghĩa quân. Nhưng nghĩa quân Phan Đình Phùng như một cánh chim đại bàng vượt lên muôn trùng bão tố để chống lại mọi cuộc tấn công của quân thù và đã giáng vào kẻ địch nhiều đòn quyết liệt. Trong những năm 1885-1890, nghĩa quân đã nhiều lần chống càn thắng lợi và tấn công vào các đồn bốt giặc ở Hà Tĩnh, Nghệ An. Những trận tấn công đồn Dương Liễu, đồn Trường Lưu, đồn Quỳnh Lưu, đồn Linh Cảm; những trận phục kích ở làng Hốt, trại Tháp và nghĩa quân đã đánh cả xuống đồng bằng Nghệ An, phá vỡ kế hoạch tấn công của giặc. Những năm 1891-1892 đã chứng kiến những trận phục kích thắng lợi của nghĩa quân ở đồn Quỳ Hợp, Hương Khê ở Truông Vắt, những cuộc tiễu trừ bọn việt gian đầu sỏ theo giặc đàn áp nghĩa quân, phá vỡ hai trận càn lớn của giặc ở vùng Ngàn Phố, Sông Cả, Tràng Sim vào đại bản doanh của nghĩa quân ở Hội Trung và đã tập kích sát tỉnh lị Hà Tĩnh, đồng thời tấn công giặc liên tiếp ở Kỳ Anh, Nam Huân. Vào đêm 23 rạng ngày 24-8-1892, một đơn vị nghĩa quân đột nhập tỉnh lị Hà Tĩnh tấn công trại lính tập và nhà lao, giải phóng tất cả tù nhân, trong đó có 70 nghĩa quân bị giam giữ. Năm 1893 đánh dấu những trận chống càn oanh liệt của nghĩa quân ở khu Truông Vắt, Ngàn Trươi, những trận tấn công liên tục vào các đồn Trung Lương, Kim Chúc, Hương Khê. Cuối năm, nghĩa quân đã thực hiện một kế hoạch táo bạo nhằm giải phóng các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình nhưng thất bại kể từ khi vị tướng quân anh hùng Cao Thắng hy sinh trên đường tiến quân. Những năm 1894-1895 là giai đoạn chiến đấu cuối cùng của nghĩa quân. Giai đoạn này thực dân xâm lược Pháp đã tạm thời dập tắt ngọn lửa khởi nghĩa ở các nơi khác nên rảnh tay đối phó với lực lượng nghĩa quân Phan Đình Phùng. Chúng huy động bọn phong kiến phản quốc trong chính phủ Nam triều, tập trung 3.000 quân chia làm nhiều đạo, lập hệ thống đồn bốt bao vây nghĩa quân, khủng bố nhân dân và mở những cuộc tấn công càn quét quy mô liên tục. Tháng 7-1895, chúng lại phái tên việt gian Nguyễn Thân thay mặt Nam triều kéo thêm quân đi đàn áp nghĩa quân. Tuy vậy, kẻ thù vẫn không khuất phục được tinh thần chiến đấu kiên cường của nghĩa quân anh hùng. Ngay trong những năm nguy khốn nhất, nghĩa quân vẫn chiến thắng kẻ thù: oanh liệt nhất là trận chiến đấu phòng ngự nửa tháng ròng rã ở Đại Hàm vào cuối năm 1894, ở Cây Khế tháng 3-1895, tiêu diệt tên giám binh Samaran và cuối cùng là trận Vụ Quang nổi tiếng (tiêu diệt trên 100 quân địch với ba sĩ quan Pháp) vào tháng 7-1895. Cuộc chiến đấu oanh liệt còn đang tiếp diễn thì vị anh hùng dân tộc Phan Đình Phùng bị ốm nặng và từ giã cõi trần vào ngày 28-12-1895 tại sơn trại Núi Quạt. Cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng là một bản anh hùng ca bất hủ của dân tộc Việt Nam trong công cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc vào thời kỳ đầu xâm lược của thực dân Pháp. Vinh quang của cuộc khởi nghĩa đó thuộc về các tướng sĩ yêu nước tài giỏi anh hùng Cao Thắng, Nguyễn Trạch (tức Nguyễn Khương), Nguyễn Chanh (tức Nguyễn Dật), Cao Đạt, Nguyễn Mục, Đề Vinh, Đề Đạt, Lê Văn Tạc, Phan Đình Phong, Phan Đình Cam, Phan Đình Trình, Hiệp Tuấn, Lãnh Ngợi... Vinh quang đó thuộc về nhân dân đầy tình yêu nước của bốn tỉnh Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Bình, Thanh Hóa đã hăng hái tham gia nghĩa quân và đóng góp tiền bạc, tiếp tế binh lương, mật báo tin địch... Chỉ riêng hai làng Trung Lương và Vân Chàng đã có mấy trăm thợ rèn tham gia hàng ngũ nghĩa quân để chế tạo vũ khí kiểu mới. Vinh quang đó thuộc về chủ tướng Phan Đình Phùng; ông không những là một tấm gương sáng chói về tinh thần yêu nước nồng nàn mà còn nêu cao một đạo đức, tác phong gương mẫu có tác dụng cổ vũ và cảm hóa rất lớn đối với các tướng sĩ nghĩa quân và nhân dân địa phương. Mặc dù kẻ thù dùng mọi thủ đoạn thâm độc, từ việc đàn áp bằng vũ khí đến việc dụ dỗ Cụ đầu hàng, thậm chí bắn giết người thân, đào mả tổ tiên Cụ, tinh thần của cụ Phan Đình Phùng vẫn đứng vững như núi Giăng Màn, khí tiết của Cụ vẫn trong sáng tựa trăng rằm. Cụ là điển hình của câu châm ngôn “Giàu sang không quyến rũ được, nghèo nàn không làm dời đổi được, uy vũ không thể khuất phục được” Cụ Phan Đình Phùng đã ngã xuống chiến trường, hiến dâng đời mình cho Tổ quốc Việt Nam yêu quý, sống vì Tổ quốc, chết cũng vì Tổ quốc. Cụ Phan Đình Phùng và các tướng sĩ nghĩa quân vẫn sống mãi trong lòng nhân dân. Ngày nay trong cuộc chiến tranh vũ trang chống quân xâm lược của nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, miền Bắc nước ta đã hoàn toàn giải phóng, miền Nam nước ta đang sôi nổi cao trào cách mạng, những anh hùng dân tộc như cụ Phan Đình Phùng sẽ trở nên bất diệt cùng với non sông đất nước. Ngày 10 tháng Giêng năm 1965, năm thứ 20 nước Việt Nam dân chủ cộng hòa3. (Theo Hồ sơ số 49. P.THL. LTVSH, bản đánh máy) ________________________________________1. Trần Huy Liệu (1901-1969): Giáo sư, Viện sĩ, Viện trưởng Viện Sử học. 2. Hiện nay đổi thành xã Tùng Ảnh. 3. Viết về Phan Đình Phùng, trên Tập san Văn Sử Địa, số 45 (tháng 10-1958), Trần Huy Liệu còn có một bài tựa đề là Cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng, tiêu biểu của phong trào văn thân 1885-1896, tr.1-14. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 31 Tháng Bảy, 2008, 10:02:43 pm VÕ NGUYÊN GIÁP PHAN ĐÌNH PHÙNG CON NGƯƠI TƯỢNG TRƯNG CHO LÒNG YÊU NƯỚC1 Đó là đánh giá của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn của nhân loại nói về cụ Phan Đình Phùng, người anh hùng của phong trào vũ trang yêu nước chống Pháp vào thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XIX mà hôm nay chúng ta trang trọng tổ chức kỷ niệm 100 năm ngày mất của Cụ. Khi cụ Phan Đình Phùng hy sinh vì nghĩa lớn thì Bác Hồ của chúng ta mới lên 5 tuổi. Quê hương (làng Đông Thái, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh) cũng như vùng núi rừng Hương Sơn, Hương Khê, Vụ Quang) căn cứ địa kháng chiến của Phan Đình Phùng không xa quê hương Nam Đàn, Nghệ An của Bác. Chắc chắn, tuổi thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như trên những chặng đường hoạt động sau này, hình ảnh người thủ lĩnh nghĩa quân Phan Đình Phùng rất sâu đậm. Người còn nhấn mạnh đến nét đặc sắc trong tiểu sử cụ Phan là “một học giả nổi tiếng, một vị quan to, một chí sĩ yêu nước và là người đã tổ chức những phần tử trí thức và nông dân...” tham gia sự nghiệp cứu nước. Lòng ngưỡng mộ và khâm phục của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cụ Phan đã nói lên tầm vóc của người tiêu biểu nhất của phong trào Cần vương ở miền Trung (ở các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình), một vùng đất cũng tiêu biểu nhất cho tinh thần bất khuất chống ngoại xâm của Tổ quốc chúng ta. Có thể nói, cho đến nay sự đánh giá vị trí của cụ Phan Đình Phùng gắn liền với cuộc khởi nghĩa Hương Khê là nhất trí. Cụ là người chí sĩ bất khuất, biết dùng người tài như Cao Thắng. Đã chọn núi rừng hiểm yếu làm căn cứ địa, tổ chức ra 15 quân thứ có kỷ cương, coi trọng chế tạo vũ khí cả thô sơ và súng mới, biết dựa vào dân mà tích trữ quân lương. Nghệ thuật đánh giặc thì chủ động và sáng tạo, khi tập kích, phục kích, khi đánh ngay vào đầu não của địch, khi dùng mưu trí để diệt địch như trong trận Vụ Quang nổi tiếng, chiến đấu suốt mười năm, rõ ràng đã có tư tưởng đánh lâu dài với quân Pháp. Song để tìm thấy ở con người đó những bài học cho cuộc sống bảo vệ, xây dựng và đổi mới đất nước ngày hôm nay, chúng ta còn phải tiếp tục nghiên cứu, còn nhiều việc phải làm. Cuộc hội thảo ngày hôm nay, chúng ta đã nghe nhiều tham luận khoa học nói về thân thế, sự nghiệp và vị trí của Phan Đình Phùng trong lịch sử. Nhưng làm sao cho những tri thức của các nhà khoa học trở thành tri thức của xã hội, nhất là của lớp trẻ sống trong một hoàn cảnh lịch sử khác xa thời mất nước, nô lệ như thuở cụ Phan đã sống. Thực sự chúng ta thấy lo lắng khi chứng kiến hiểu biết về quá khứ, về lịch sử của xã hội ngày càng thấp. Một điều tra được công bố trên báo chí vừa qua cho biết, gần một nửa số người được hỏi, mà chủ yếu là các cháu học sinh, không biết vua Hùng là ai. Sự xuống cấp về tri thức lịch sử ấy phải được coi là một biểu hiện nghiêm trọng của sự xuống cấp về đạo đức xã hội. Bác Hồ luôn dạy chúng ta “Dân ta phải biết sử ta”, tổ tiên ta ngày trước cũng như Đảng ta ngày nay luôn coi việc học Quốc sử là một phần tri thức tạo nên nhân cách một con người có ích cho xã hội. Bởi vậy, tổ chức kỷ niệm nhân ngày giỗ lần thứ 100 của cụ Phan Đình Phùng cũng như nhiều cuộc sinh hoạt tưởng niệm các danh nhân hay sự kiện lịch sử khác, chúng ta không nên chỉ tổ chức cho long trọng ở hội trường, xây mộ hay dựng bia - đó là những việc cần làm - mà quan trọng hơn là làm sao cho những tri thức này được truyền bá rộng rãi trong quần chúng, đặc biệt là trong giới trẻ. Bởi vì, trong cuộc đời của các vị tiền bối như Phan Đình Phùng có biết bao nhiêu điều cao quý có tác dụng lớn với việc xây dựng con người mới có chí lớn, có hoài bão, có nghị lực, tài năng và nhất là có lòng yêu nước và tự tôn dân tộc. Điều này càng có ý nghĩa thiết thực trong thời mở cửa, tiếp nhận nhiều thông tin, tiếp xúc với nhiều nền văn hóa các nước. Thử nhắc lại câu trả lời của Phan Đình Phùng trước thủ đoạn trả thù hèn hạ của thực dân quật mồ mả tổ tiên của mình, dọa bắt giết người anh ruột, Cụ đã khảng khái đáp rằng “ngôi mộ to nhất nên giữ là Tổ quốc Việt Nam, người thân, rất thân nhất là cả mấy triệu đồng bào...” thì quả thực tấm gương ấy rất cần cho cuộc sống hôm nay. Xây dựng cuộc sống hòa bình càng phải giữ phẩm chất khí tiết để biết bảo vệ lợi ích dân tộc, lợi ích đồng bào, không chỉ nghĩ đến lợi ích của riêng mình. Trong bất kỳ thời đại nào của lịch sử dân tộc, chủ nghĩa yêu nước cũng là một động lực cho sự tồn vong và phát triển của đất nước. Do đó kỷ niệm cụ Phan Đình Phùng, một con người tượng trưng cho lòng yêu nước, chúng ta càng cảm nhận được sâu sắc ý nghĩa thiết thực của việc làm này. Nhân dịp ngày giỗ lần thứ 100 của cụ Phan Đình Phùng cũng là vào dịp sắp bước qua năm mới, xin chúc tất cả chúng ta sức khỏe, dốc lòng phấn đấu vì sự nghiệp chung của đất nước làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh, khỏi phụ công ơn những bậc tiền bối đã từng chiến đấu và hy sinh cho Tổ quốc như cụ Phan Đình Phùng. Theo Tạp chí Xưa và Nay, ___________________________________________số 33, tháng 1 năm 1996, tr.9 1. Lời phát biểu của Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại Hội thảo khoa học kỷ niệm 100 năm ngày mất Phan Đình Phùng, ngày 28-12-1995. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Tám, 2008, 04:32:35 pm HOÀNG MINH THẢO1 MẤY SUY NGHĨ VỀ CHIẾN LƯỢC VÀ CHIẾN THUẶT CỦA PHAN ĐÌNH PHÙNG2 Phong trào chống Pháp cứu nước của nhân dân ta cuối thế kỷ XIX đã sản sinh ra rất nhiều nhân tài trên các mặt, làm rạng rỡ truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm giành độc lập, tự do của dân tộc; gắn liền với phong trào vô cùng sôi động ấy cần kể đến cuộc khởi nghĩa chống Pháp kiên cường của Phan Đình Phùng. Phan Đình Phùng trước hết là văn thân - trí thức yêu nước. Tài năng của ông được kết tinh bởi ý chí quyết tâm chống giặc cứu nước, đức độ trong đời thường cùng nghệ thuật tập hợp đoàn kết lực lượng, kế dùng người và cách đánh giặc khôn ngoan, mưu lược... Dựa vào truyền thống yêu nước, yêu tự do độc lập của dân tộc, nhiều quan chức tiến bộ trong triều đình và các sĩ phu trong nước, cụ Phan khởi xướng phong trào Cần vương, nổi dậy kháng Pháp. Muốn kháng chiến phải có căn cứ địa, chiến khu làm chỗ đứng chân để triệu tập binh mã, huấn luyện quân sĩ, rèn đúc vũ khí, tích trữ lương thực. Sự kiện lịch sử đáng chú ý để những người nghiên cứu có cơ sở thực tế đánh giá Phan Đình Phùng, đó là khởi nghĩa Hương Khê (Hà Tĩnh - 1885-1896) gắn liền với căn cứ kháng Pháp kiên cường - núi Vụ Quang- chiến khu Ngàn Trươi. Ngàn Trươi là nơi hiểm hóc, địa thế tiện lợi cho việc dùng binh, mặt trước ngó ra tỉnh thành Hà Tĩnh, mặt sau là rừng núi, có đường qua Lào, Xiêm; hơn thế lại có đường thông với dãy núi hiểm hóc Đại Hàm. Các đồn trú của nghĩa binh để tiện việc chống giữ và chuyên chở lương thực của bốn tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình đều thuộc Vụ Quang, nơi đại nguyên soái Phan Đình Phùng đóng. Đời Trần - Lê đã từng chọn nơi đây thủ hiểm để chống quân Nguyên - Minh. Dưới quyền ông, người trực tiếp thay ông chỉ huy quân đội là Cao Thắng - vừa giỏi võ nghệ vừa lắm cơ mưu, giầu trí xảo. Sự nghiệp chống Pháp của cụ Phan rạng rỡ được, một phần không nhỏ nhờ Cao Thắng, người không chỉ tài chỉ huy mà còn giỏi chế tạo vũ khí. Phan Đình Phùng rất chú trọng việc xây dựng căn cứ để thực hành kháng chiến lâu dài, vì thế ông đã chọn căn cứ ở những vùng rừng núi hiểm trở, địch khó bao vây và tiến công ta, nhưng quân ta vẫn có thể tổ chức được lực lượng chiến đấu lâu dài, thực hiện được cả hai việc tiến, thoái. Về mặt quân sự, sử sách cho biết: núi Đại Hàm là một rặng núi hiểm hóc: sơn mạch liên tiếp nhau và đột ngột, khuất khúc, cứ mỗi trái núi có một khe suối, hai bên bờ khe nào cũng có lau sậy mọc lên cao quá đầu người. Đường lối đi vào rất gay go hiểm hóc, nếu ai không thuộc thì không tìm được đường vào, hay vào rồi mà không thuộc địa thế cũng không biết đường ra. Căn cứ kháng chiến Phan Đình Phùng không đơn độc ở một khu vực mà là sự liên kết của nhiều vùng thuộc bốn tỉnh miền Trung, ít nhiều đều có tác động qua lại với phong trào Cần vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX. Từ Vụ Quang, mãi tới Trùng Khê, Trí Khê, dài đến gần một trăm dặm, bây giờ có đồn trại của nghĩa quân liên tiếp dựng lên. Đồn trại dựng toàn bằng cây bền chắc, lấy ngay ở trong rừng, dựa theo thế núi, thế nước mà đóng để tiện chống giữ, việc ăn uống cũng như việc chuyên chở binh gia, lương thực đi lại. Rộng ra đến bốn tỉnh miền Trung là miền thượng du sơn cước đều rải rác có đồn trại nghĩa binh. Đồn lớn thì Đề đốc đóng, còn đồn nhỏ thì một Lãnh binh. Phan Đình Phùng chia nghĩa quân thống thuộc tay mình ra 15 thứ (mỗi thứ một vùng), nhiều hay ít quân tùy thuộc vào địa thế trong mưu đồ chiến lược chung, tuy là bộ hạ riêng của các văn thân võ tướng nhưng đều dưới quyền chỉ huy của cụ Phan lấy Vụ Quang làm chiến khu trung tâm chỉ huy cuộc kháng chiến. Lực lương quân sự chủ yếu tập trung ở chiến khu này. Mạch máu của quân đội là vấn đề lương thực, mang tính chiến lược được cụ Phan huy động không chỉ đủ mà còn tổ chức dự trữ lương thực với quy mô lớn, tỉ mỉ, khoa học. Với chính sách gần dân, thương dân, công tác dân vận thuyết phục, thu thuế nộp lương thực có hạn độ theo hoàn cảnh, nhân dân bốn tỉnh đã tích cực ủng hộ quân khởi nghĩa với mức cao nhất. Việc hoạch định chiến lược trong “xây dựng căn cứ lòng dân” đã không chỉ bảo toàn lực lượng mà còn đoàn kết lực lượng khởi nghĩa trên toàn quốc, không chỉ miền Trung mà còn vươn ra Bắc, vào Nam... chứng tỏ tầm nhìn chiến lược của lãnh tụ Phan Đình Phùng rất rộng và sâu xa. Nếu nhà tư tưởng ấy, mong muốn ấy của ông được thực hiện bằng sự liên kết thống nhất sức mạnh của phong trào kháng Pháp trong cả nước thì có thể hiệu quả của phong trào Cần vương còn lớn hơn rất nhiều. Sự tồn tại của phong trào khởi nghĩa Phan Đình Phùng hơn 10 năm trời dựa vào nghệ thuật xây dựng căn cứ, tích trữ lương thực, phối hợp tác chiến trong nước, thậm chí cả ngoài nước khẳng định tư tưởng kháng chiến trường kỳ, dựa vào địa hình hiểm trở của đất nước, lòng yêu nước, quyết tâm kháng chiến của nhân dân là chính xác và phù hợp với các điều kiện khách quan và chủ quan lúc đó. Cũng như lãnh tụ của các cuộc khởi nghĩa đương thời, chúng ta có thể tìm thấy tri thức quân sự ở Phan Đình Phùng rất dồi dào, sâu sắc, trình độ mưu lược cao. Có lẽ, do vậy, so với các cuộc khởi nghĩa khác, quy mô tầm vóc của khởi nghĩa Phan Đình Phùng cũng có phần nổi trội, thanh thế ảnh hưởng của nghĩa quân Phan Đình Phùng khá lớn, thuyết phục được nhiều lãnh binh khác về tụ hội dưới cờ cụ Phan. Qua các tài liệu lịch sử để lại, tuy không nhiều, nhưng cũng đủ để chứng minh cho cách dùng binh - tổ chức chiến đấu của cụ Phan. Chiến tranh du kích, đánh vận động, phục kích, nhỏ lẻ, đánh ban đêm quần nhau liên tục nhằm tiêu hao lực lượng quân Pháp, chờ thời cơ tổ chức đánh lớn vẫn là những hình thức chiến thuật phổ biến được cụ Phan vận dụng. Đó là một trong những cách đánh khá độc đáo mang tính truyền thống và hiện đại của quân ít đánh quân đông, quân yếu đánh quân mạnh, nhằm bảo toàn lực lượng, khoét sâu điểm yếu của quân Pháp hòng đưa khởi nghĩa đi tới thắng lợi. Ở đâu hoặc đến đâu nghĩa quân đều dựa vào dân tổ chức kháng chiến ở đó. Nhờ chiến thuật liên tục cơ động, đánh vận động mà nghĩa quân đã bảo toàn được lực lượng trong thời gian khá dài trước sự bao vây và tiến công liên tục với quy mô lớn của thực dân Pháp. Căn cứ kháng chiến được trải dài, rộng trên một địa bàn lãnh thổ rộng lớn, việc tổ chức từng quân thứ có thể độc lập chủ động tác chiến, kiên quyết kháng chiến để hỗ trợ nhau, phối hợp với nhau cùng kháng chiến làm cho quân thù không thể tập trung tiêu diệt nghĩa quân một cách nhanh chóng đã được khẳng định ở giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến. “Từ ngày 1-1-1896 đến 14-5-1896, mặc dầu chúng đã buộc được 144 tướng sĩ nghĩa quân phải ra hàng và bắt giết một số khác, nhưng một điều rõ ràng mà chúng phải công nhận là chúng vẫn không tiêu diệt nổi ý chí tiếp tục đề kháng của nghĩa quân Hương Khê”3. Sự thất bại của phong trào Cần vương nói chung và khởi nghĩa Phan Đình Phùng nói riêng là điều không hề khó hiểu. Song, khi mà chính quyền trung ương đã thối nát và tan rã, khi mà lực lượng khởi nghĩa trong toàn quốc bị thực dân Pháp chia rẽ sâu sắc, khi mà tương quan so sánh lực lượng địch, ta quá chênh lệch... thì đó chỉ là sự thất bại tạm thời, bởi phong trào Cần vương luôn thắp sáng ngọn lửa cách mạng trong mỗi con người Việt Nam để rồi những năm 50 của thế kỷ XX sự nghiệp giành độc lập, tự do cho dân tộc được thực hiện thắng lợi dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và Bác Hồ kính yêu. _______________________________________ 1. Hoàng Minh Thảo: Thượng tướng, Giáo sư, Nhà nghiên cứu khoa học quân sự, Viện trưởng Viện Chiến lược Quân sự, Bộ Quốc phòng. 2. Tham luận đọc ở Hội thảo khoa học kỷ niệm 100 năm ngày mất Phan Đình Phùng, ngày 28-12-1995. 3. Mai Hanh, Nghiên cứu lịch sử, số 85, tháng 4, 1966. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Tám, 2008, 04:39:02 pm ĐINH XUÂN LÂM1 PHAN ĐÌNH PHÙNG VỚI PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CHỐNG XÂM LƯỢC PHÁP CỦA NGHỆ TĨNH VÀ CẢ NƯỚC CUỐI THẾ KỶ XIX2 Phan Đình Phùng (1847-1895) quê làng Đông Thái (nay là xã Tùng Ảnh), huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống Nho học, thân sinh ông đậu Phó bảng, anh em ông người đậu Cử nhân, người đậu Tú tài, ngay từ hồi thanh niên ông đã nổi tiếng thông minh, có chí và chăm học. Thi Hương đậu Cử nhân khoa Bính Tý (1876) vào lúc 29 tuổi, năm sau thi Hội khoa Đinh Sửu (1877) đậu Tiến sĩ. Bước vào hoạn lộ, ông sớm tỏ rõ là một ông quan tốt, một mặt hết lòng chăm lo đến đời sống nhân dân, mặt khác rất nghiêm khắc với bọn quan lại tham nhũng dưới quyền, kể cả với bọn tay sai của Pháp khoác áo tôn giáo hoành hành trong nhân dân. Do có uy tín lớn, năm 1878, ông được triều đình Huế điều về kinh thành giữ chức Ngự sử ở Viện Đô sát có nhiệm vụ kiểm tra công việc các quan lại, sẵn sàng đàn hặc những người có lỗi, dù người đó ở cương vị nào, hay có phe cánh che chở. Ngày 17-7-1883, vua Tự Đức chết đúng vào lúc giặc Pháp nổ súng đổ bộ chiếm cửa biển Thuận An, đẩy triều đình Huế vào tình trạng rối loạn cực độ. Dưới áp lực quân sự của Pháp, triều đình Huế phải liên tiếp ký điều ước Quý Mùi (25-8-1883) và điều ước Giáp Thân (6-6-1884) xác nhận quyền đô hộ lâu dài của Pháp ở Việt Nam. Nhưng Tôn Thất Thuyết đứng đầu phái kháng chiến còn lại trong triều vẫn ráo riết tập hợp lực lượng, chuẩn bị khí giới để hành động khi thời cơ tới, đồng thời kiên quyết chống lại những phần tử đầu hàng, dù đó là ông vua đang ngồi trên ngai vàng. Do chưa nhận rõ tính chất đúng đắn và cấp thiết của việc làm đó, Ngự sử Phan Đình Phùng ngay buổi thiết triều có đông đủ các quan văn võ đã lớn tiếng phản đối Tôn Thất Thuyết phế bỏ Dục Đức mới được đặt lên ngôi ba ngày. Phản ứng tức thời và kịch liệt của Tôn Thất Thuyết là thét quân lính đưa Phan Đình Phùng ra chém, nhưng ngay sau đó lại cho giam vào ngục, rồi cách chức đuổi về quê. Sau khi cuộc tấn công của phái kháng chiến vào các căn cứ của Pháp tại Kinh thành Huế thất bại (5-7-1885), Tôn Thất Thuyết phải đưa vua Hàm Nghi chạy ra phía Bắc, rồi phát hịch Cần vương kêu gọi văn thân sĩ phu và nhân dân cả nước đứng dậy đánh giặc giúp vua, cứu nước (13-7-1885). Cả một cao trào yêu nước chống Pháp đã dâng lên từ Nam chí Bắc. Tại Hà Tĩnh, tiếp theo Lê Ninh khởi nghĩa ở Trung Lễ (nay là xã Đức Trung, huyện Đức Thọ), Phan Đình Phùng, trước đó ít lâu được chính Tôn Thất Thuyết bí mật phong chức Tham biện Sơn phòng sứ Hà Tĩnh với trách nhiệm chuẩn bị lực lượng chống Pháp trong tỉnh, đã đứng ra triệu tập một cuộc họp các văn thân sĩ phu trong vùng như các ông Phan Cát Tưu (tức Phan Cát Xu), Phan Tử Thụy, Phan Quang Cư, Phan Trọng Nghị, Phan Đình Tuyển, Phan Trọng Mưu, cả Tiến sĩ Nguyễn Xuân Ôn và Hoàng giáp Nguyễn Lạp từ bên Nghệ An cũng sang tham dự. Hội nghị đã nhất trí quyết định khởi nghĩa và cử Phan Đình Phùng lãnh đạo phong trào. Làng Đông Thái, sinh quán của Phan Đình Phùng, được gấp rút xây dựng thành làng kháng chiến và được gọi là Đại đồn Đông Thái, với một hệ thống các đồn trại, hào lũy, bãi tập, kho vũ khí, lương thực, xưởng rèn vũ khí, trại cày... giấu mình kín đáo sau lũy tre dày bao quanh. Tháng 10-1885, nghe tin Hàm Nghi ra tới Sơn phòng Phú Gia (Hương Khê, Hà Tĩnh), Phan Đình Phùng đích thân lên yết kiến nhà vua và được trực tiếp giao nhiệm vụ trở về đẩy mạnh phong trào địa phương mình. Hành động đầu tiên vào tháng 11-1885 của nghĩa quân Đông Thái là phối hợp với nghĩa quân Trung Lễ tiến đánh bọn phản động đội lốt tôn giáo hoạt động chia rẽ, phá hoại kháng chiến ở Thọ Ninh (Đức Ninh), Thọ Tường (Đức Trường). Nhưng giặc Pháp từ Vinh đã kịp thời kéo lên giải nguy cho tay sai, sau đó đã mở một trận càn lớn đánh vào căn cứ. Để bảo toàn lực lượng, nghĩa quân Đông Thái rút về đóng ở núi Mồng Gà (Hương Sơn), ít lâu sau lại rút về làng Phụng Công (Đức Thọ). Chính lúc này nghe tin Phan Đình Phùng dấy nghĩa, một thủ lĩnh nông dân có tài là Cao Thắng ở Tuần Lễ (Sơn Lễ, Hương Sơn) đã đem toàn bộ lực lượng dưới quyền sang xin gia nhập (1886) và được cụ Phan cử kéo quân sang Bạch Sơn (Sơn Tiến, Hương Sơn) phối hợp với Lê Ninh mới rút về đây cố thủ. Năm 1887, Phan Đình Phùng lên đường ra Bắc đặt quan hệ với phong trào ngoài này, Cao Thắng được cử thay cụ Phan lãnh đạo, với toàn quyền tổ chức và xây dựng lại phong trào. Nhận trách nhiệm lớn, Cao Thắng quyết định rút quân về đóng ở Cồn Chùa là một vùng rừng núi hiểm trở phía Bắc huyện Hương Sơn (Sơn Giang). Được ít lâu ông lại dời căn cứ sang Thượng Bồng - Hạ Bồng (nay là hai xã Đức Bồng và Đức Lĩnh của Đức Thọ). Căn cứ này nằm trên tả ngạn sông Ngàn Sâu, phía Nam có sông Ngàn Trươi bao bọc, phía Tây là Hói Trùng, Hói Trí và xa hơn nữa là Vụ Quang - Ngàn Trươi nối liền với dãy Trường Sơn trùng điệp. Từ đây có đường đi sang Đại Hàm, Cổng Chùa, sang Lào, Xiêm; nghĩa quân cũng có thể thông bằng đường núi với các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị ở phía Nam và Nghệ An, Thanh Hóa ở phía Bắc. Cũng từ đây nghĩa quân có thể liên lạc bằng đường sông với nhiều làng mạc trù phú miền xuôi của các huyện Đức Thọ, Hương Sơn, có thể bắt mối với các làng có nghề rèn, mộc phát triển lâu đời và cả những vùng làm muối, làm nước mắm ven biển huyện Nghi Xuân. Thượng - Hạ Bồng là một vùng trung du rất gần rừng núi nên có nhiều chỗ đóng quân thuận lợi lại cũng có nhiều nơi kín đáo có thể xây dựng kho tàng, xưởng rèn vũ khí v.v... Dựa trên những điều kiện thuận lợi về mọi mặt như vậy, Cao Thắng đã ra sức xây dựng vùng Thượng - Hạ Bồng thành một căn cứ địa hoàn chỉnh của cuộc khởi nghĩa. Chính ở nơi đây Cao Thắng cùng Lê Phác người làng Trung Lễ (nay là xã Đức Trung), Lê Quyên người làng Nội Diên (nay là xã Đức Diên) huyện Đức Thọ nghiên cứu chế tạo thành công loại súng trường theo mẫu 1874 của Pháp. Đi đôi với việc chế tạo vũ khí mới, Cao Thắng còn xây dựng một đội nghĩa quân có chất lượng chiến đấu cao, có kỷ luật nghiêm. Mặt khác ông cũng chuẩn bị sẵn lương thực, gạo muối ở căn cứ Vụ Quang - Ngàn Trươi để khi cần thiết có thể rút lên. Vào những năm 1888-1889, lực lượng nghĩa quân sau một thời gian củng cố đã lên tới hàng nghìn người, trong đó có một số được trang bị súng loại mới. Tuy nhiên ảnh hưởng của Cao Thắng vẫn chưa ra ngoài hai huyện Đức Thọ và Hương Sơn. Trong lúc ấy những cuộn khởi nghĩa lẻ tẻ ở Nghệ Tĩnh đang bị bọn Pháp uy hiếp đã quy tụ dần lại xung quanh những sĩ phu có danh vọng hay những tướng lĩnh nông dân có kinh nghiệm chiến đấu. Ở Thanh Hóa, sau khi khởi nghĩa Ba Đình tan rã (1887), Tống Duy Tân và Cầm Bá Thước cố gắng duy trì phong trào và đang muốn bắt liên lạc với Phan Đình Phùng. Ở Nghệ An, Nguyễn Xuân Ôn bị giặc bắt (1887), phong trào dần lắng xuống. Ở Quảng Bình, sau khi Nguyễn Phạm Tuân và Lê Trực thất bại, phong trào đã dần dẩn hồi phục lại dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Thụ và Nguyễn Bí. Ở Hà Tĩnh, ngoài Cao Thắng, lúc này vẫn còn có những đội quân của Nguyễn Huy Thuận ở Thạch Hà, Nguyễn Chanh và Nguyễn Trạch ở Can Lộc, Hoàng Bá Xuyên ở Cẩm Xuyên, Võ Phát ở Kỳ Anh... Những đội quân này trong quá trình chiến đấu đã có ít nhiều kinh nghiệm, nhưng nếu cứ phân tán thì sẽ có nguy cơ bị tiêu diệt. Thống nhất lực lượng dưới một sự chỉ đạo chung để tăng cường lực lượng chiến đấu, đó chính là một yêu cầu cấp thiết không riêng gì của nghĩa quân Hà Tĩnh mà còn của cả nghĩa quân bốn tỉnh bấy giờ. Nhận rõ điều đó, Cao Thắng đã phái người ra Bắc đón cụ Phan về để đảm nhiệm phong trào chung (9-1889). Căn cứ vào tình hình cụ thể của Hà Tĩnh hồi đó, có kết hợp trong một chừng mực nhất định với tình hình các tỉnh lân cận, cụ Phan chia tất cả thành 15 quân thứ, trong đó riêng Hà Tĩnh có 10: Khê thứ (huyện Hương Khê), Can thứ (huyện Can Lộc), Lai thứ (tổng Lai Thạch), Nghi thứ huyện Nghi Xuân), Lễ thứ (làng Trung Lễ), Cẩm thứ (huyện Cẩm Xuyên), Thạch thứ (huyện Thạch Hà), Kỳ thứ (huyện Kỳ Anh), Hương thứ (huyện Hương Sơn), Diệm thứ (làng Tình Diệm). Nghệ An có hai: Diễn thứ (huyện Diễn Châu), Anh thứ (huyện Anh Sơn). Quảng Bình có hai: Lệ thứ (huyện Lệ Thủy), Bình thứ (tỉnh Quảng Bình) . Miền núi tỉnh Thanh Hóa là Thanh thứ3. Thượng Bồng lúc này là trung tâm chỉ huy. Đội quân của Cao Thắng đã trưởng thành trong chiến đấu được coi là nòng cốt của cuộc khởi nghĩa, và Cao Thắng được coi như tổng chỉ huy các lực lượng vũ trang dưới sự lãnh đạo chung của Phan Đình Phùng. Mỗi quân thứ tùy theo binh sĩ nhiều ít mà có một Đề đốc hay một Lãnh binh chỉ huy. Mỗi quân thứ lại cử về đại bản doanh một đội nghĩa binh khỏe mạnh thông thạo đường lối để khi có mệnh lệnh thì chuyển đạt được nhanh chóng. Cụ Phan lại thảo ra những điều kỷ luật để thi hành chung trong các quân thứ. Về vũ khí, ngoài những loại thô sơ, các quân thứ còn dựa theo mẫu của Cao Thắng mà chế ra súng kiểu 1874. Như vậy Phan Đình Phùng và Cao Thắng không những chỉ thống nhất các lực lượng chống Pháp cả bốn tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình về danh nghĩa, mà còn về các mặt cụ thể khác như chỉ huy, kỷ luật, cả một phần về trang bị. Sự thống nhất đó tạo điều kiện cho sự thống nhất về ý chí, tư tưởng. Đó là một trong những nguyên nhân giải thích vì sao hoạt động trong một địa bàn đất không rộng, người không đông, quân số không nhiều, vũ khí so với địch thua kém, thế mà Phan Đình Phùng và Cao Thắng đã duy trì được cuộc chiến đấu hàng chục năm trời. ______________________________________ 1. Đinh Xuân Lâm: Giáo sư Sử học, Nhà giáo Nhân dân, Đại học Quốc gia Hà Nội. 2. Tham luận đọc ở Hội thảo khoa học kỷ niệm 100 năm ngày mất Phan Đình Phùng, ngày 28-12-1995. 3. David Marr trong sách Việt Nam chống chủ nghĩa thực dân (Vietnamese anticolonialism. University of California, Berkeley, Los-Angèles, 1971) có nhận xét đúng rằng Thanh thứ có lẽ chỉ là miền núi tỉnh Thanh Hóa. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Tám, 2008, 04:43:16 pm Sự thống nhất các lực lượng nghĩa quân đã mở ra một giai đoạn mới trong phong trào chống Pháp ở Nghệ Tĩnh và các tỉnh xung quanh, tạo thành một nguy cơ lớn cho giặc Pháp. Để đối phó lại, chúng đã thiết lập một hệ thống đồn bốt bao vây nghĩa quân, sau đó tung những lực lượng nhỏ để thám thính, rồi tập trung càn quét. Nhưng chiến thuật đó ít có hiệu lực vì nghĩa quân không thủ hiểm một chỗ mà kết hợp lối đánh chính quy với lối đánh du kích, linh hoạt phân tán nhiều nơi trên một địa bàn rộng lớn có địa hình hiểm trở, biết chủ động tránh các cuộc đụng độ lớn, luôn luôn tranh thủ tập kích vào những đồn lẻ hoặc phụt kích tiêu diệt địch trên đường hành quân, và cuối cùng an toàn chuyển đại bản doanh về Hói Trùng - Hói Trí (thuộc hai xã Hương Thọ, Hương Minh, huyện Hương Khê). Nổi bật nhất trong những năm 1890-1891 là việc nghĩa quân chủ động đánh đồn, diệt viện, bảo vệ căn cứ. Liên tiếp các đồn Trường Lưu (Can Lộc) và đồn Nầm (Hương Sơn) bị nghĩa quân tấn công từ những ngày cuối tháng 5 đến hết tháng 6-1890. Tiếp đó đến lượt các cuộc chiến đấu của nghĩa quân Trung Lễ (Đức Trung - Đức Thọ), mới được xây dựng lại sau khi cụ Phan ở Bắc về thành một căn cứ kháng chiến. Từ căn cứ này, nghĩa quân đã tỏa ra đánh nhiều trận phục kích địch trên đường hành quân, gây cho chúng nhiều tổn thất về người và vũ khí. Bước vào giai đoạn 1892-1893, nghĩa quân vừa chiến đấu vừa xây dựng đã trưởng thành nhanh chóng. Nhờ đó đã có thể tập trung lực lượng chống càn dài ngày, hoặc đánh vào những khu vực đầu não của kẻ thù mà điển hình là cuộc tập kích vào tỉnh lị Hà Tĩnh tháng 8-1892 và cuộc hành quân lớn của Cao Thắng từ căn cứ về Vinh tháng 10-1893. Từ đầu tháng 3 đến cuối tháng 4-1892 giặc Pháp tổ chức một trận càn lớn vào vùng Hương Sơn và Tràng Sim. Để đỡ đòn cho căn cứ, nghĩa quân đẩy mạnh hoạt động ở đồng bằng, tấn công vào Tuần Tượng (Kỳ Anh), phục kích địch ở gần huyện lỵ Kỳ Anh, làm cho giặc rất lúng túng, buộc chúng phải rút quân về. Đến tháng 8-1892 giặc lại mở một trận càn lớn vào khu căn cứ địa. Đêm 12 rạng ngày 13-8, chúng ồ ạt tấn công vào Hói Trùng và Ngàn Sâu. Nhờ có các quân thứ báo cáo cụ thể tình hình địch, Phan Đình Phùng và Cao Thắng bình tĩnh bố trí kế hoạch đối phó. Ngày 13-8, một cánh địch tiếp cận đồn tiền tiêu của Hói Trùng, nghĩa quân chống lại quyết liệt, buộc chúng phải rút lui. Các cánh quân khác của địch thấy tình hình bất lợi, lại bị nghĩa quân bám sát đánh mạnh trên tất cả các nẻo đường nên đến ngày 30-8 phải rút về. Trong khi các quân thứ Hương Sơn và Hương Khê chống càn thắng lợi, lợi dụng lúc các đồn bốt của chúng dưới đồng bằng bỏ trống, một cánh nghĩa quân đã tập kích tỉnh lị Hà Tĩnh ngày 23-8-1892, phá nhà tù, giải thoát cho số nghĩa binh bị bắt giam từ trước. Nghĩa quân thắng lợi hoàn toàn và rút lui ngay trong đêm. Để trả thù, ngay sau đó bọn Pháp đã đẩy mạnh càn quét vào các khu căn cứ nghĩa quân ở núi Quạt, Truông Vắt, nhưng đến đâu chúng cũng bị chặn đánh kịch liệt. Đến cuối năm 1893, nhận thấy lực lượng nghĩa quân đã khá mạnh, có thể chủ động tấn công địch, Cao Thắng xin cụ Phan cho đánh vào tỉnh lị Nghệ An để mở rộng phạm vi hoạt động với mục đích một mặt khuấy động lại phong trào Nghệ An hầu như bị lắng xuống từ năm 1891, mặt khác chủ động tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, gây một tiếng vang, rồi sau đó rút lui bảo toàn lực lượng. Nhưng trên đường hành quân, trong trận bao vây đánh đồn Nu (nay thuộc xã Thanh Xuân, huyện Thanh Chương, Nghệ An), Cao Thắng bị thương nặng, nghĩa quân cáng ông về đến Vụ Quang thì ông tắt thở, lúc mới 29 tuổi (1-11-1893)1. Sau khi Cao Thắng mất, khởi nghĩa Phan Đình Phùng đi dần vào thoái trào. Lúc này về căn bản bọn Pháp đã đàn áp được những cuộc khởi nghĩa trong toàn quốc nên chúng có điều kiện tập trung lực lượng để đè bẹp khởi nghĩa Phan Đình Phùng. Chúng lại kết hợp chặt chẽ tấn công quân sự với nhiều biện pháp chính trị như mua chuộc, dụ hàng và đặc biệt là tìm cách ly khai nhân dân với nghĩa quân. Ở những nơi nghĩa quân hoạt động mạnh như các vùng rừng hai huyện Hương Sơn và Đức Thọ, chúng bắt nhân dân phải rào làng - hàng rào này chúng gọi là “dè phân ly” chạy suốt từ làng này sang làng khác, phía ngoài đào hào sâu, dưới cắm chông tre, mỗi làng chỉ trừ hai cổng ra vào, sáng chiều ra đồng hay về nhà dân làng phải nhất nhất theo hiệu trống. Ban đêm, chánh tổng, lý trưởng phải đôn đốc tuần phu canh gác, hễ bắt được ai tiếp tế cho nghĩa quân thì chẳng những người đó bị bắn mà hương lý cũng phải chịu tội. Để tăng cường lực lượng đàn áp, chúng đóng đồn ở Xuân Trì (Sơn Lễ, Hương Sơn), Chợ Bộng (Đức Bồng, Đức Thọ). Sau đó chúng tập trung quân càn quét dài ngày vào các căn cứ địa chính. Bị uy hiếp mạnh, nghĩa quân phải di chuyển lên Vụ Quang - Ngàn Trươi. Bất chấp sự khủng bố của kẻ thù, nhân dân các nơi vẫn gắn bó chặt chẽ với nghĩa quân. Ở Thượng Bồng, chánh tổng và lý trưởng bên ngoài làm việc với Pháp, nhưng bên trong vẫn bí mật đôn đốc nhân dân đóng góp lương thực, và đêm đêm những đội tiếp tế vẫn bí mật chuyển lương thực vào núi cho nghĩa quân. Để ngăn cản nhân dân ủng hộ nghĩa quân, giặc bắt mỗi người mỗi đêm phải vót 100 chông tre thì những người ở nhà vót thêm nộp đủ suất cho những người đi tiếp tế. Đồng thời “đội thủy cơ” - đội thuyền tiếp tế lương thực - ráo riết hoạt động, đêm đêm chở muối, gạo, nước mắm, cá khô lên Vụ Quang. Trong khi đó, các đội nghĩa quân một mặt chặn đường tiếp tế của địch, mặt khác đột kích đồn Chợ Bộng buộc địch phải rút chạy. Đồn Xuân Trì của chúng cũng bị san bằng. Nhưng cuối cùng, sau một thời gian tập trung lực lượng, bọn Pháp đã càn được vào vùng căn cứ chính. Vụ Quang - Ngàn Trươi bị uy hiếp nghiêm trọng. Cụ Phan phải dời bản doanh sang Đại Hàm (Sơn Hàm), rồi núi Quạt (cùng một sơn hệ với Vụ Quang), được ít lâu lại trở về Vụ Quang (10-1891). Lúc này nghĩa quân đóng trên một ngọn núi và ráo riết chuẩn bị chiến đấu. Cụ Phan bí mật cho chặt nhiều cây gỗ để ngăn dòng nước thượng nguồn sông Vụ Quang lại. Ngày 26-10-1894, bọn Pháp bắt đầu tấn công. Chờ bọn địch ra đến giữa dòng, nghĩa quân nổ súng dụ giặc hùng hổ tràn sang. Chính lúc đó cụ Phan cho tháo kè gỗ, dòng lũ ầm ầm lao xuống, cuốn trôi cả lính và chỉ huy, những tên sống sót lại bị nghĩa quân phục kích hai bên bờ tiêu diệt. Ba sĩ quan Pháp và hơn 100 lính ngụy phải đền tội, nghĩa quân thu 50 súng và rất nhiều quân trang quân dụng. Chiến thắng Vụ Quang có tiếng vang lớn, nhưng không tạo nên cục diện mới có lợi cho nghĩa quân, vì lực lượng so sánh lúc này đã nghiêng hẳn về phía quân đội xâm lược. Đã vậy, tháng 8-1895, triều đình Huế theo lệnh thực dân Pháp lại cử Nguyễn Thân đem 3.000 quân ra phối hợp với Pháp đàn áp cuộc khởi nghĩa. Một mặt, chúng tăng cường bao vây kiểm soát nhân dân để cắt đứt việc tiếp tế người và của cho nghĩa quân, đóng chốt những con đường sang Lào, Xiêm không cho nghĩa quân chạy thoát; mặt khác, chúng dùng quân cơ động thay phiên nhau càn quét dài ngày để làm mệt mỏi suy yếu lực lượng nghĩa quân, chuẩn bị đánh một đòn quyết định. Ngày 28-12-1895, Phan Đình Phùng bị thương trong khi chỉ huy chiến đấu, rồi mất sau đó. Chủ tướng hy sinh, nghĩa quân tan rã dần, và đến cuối năm 1896 thì chấm dứt hoạt động. *** Bắt nguồn từ cuộc đấu tranh yêu nước của nhân dân Nghệ Tĩnh chống đế quốc xâm lược và phong kiến đầu hàng được phát động mạnh mẽ từ những năm 70 của thế kỷ XIX trong cao trào chống Pháp, cuộc khởi nghĩa do Phan Đình Phùng đích thân khởi xướng và phụ trách đã bùng nổ đúng lúc, rồi nhanh chóng phát triển trên cơ sở thống nhất nhiều phong trào trước và cùng thời ở Nghệ Tĩnh và các tỉnh lân cận để trở thành đỉnh cao của toàn bộ phong trào, tiêu biểu về nhiều mặt cho phong trào đấu tranh vũ trang cuối thế kỷ XIX của nhân dân ta. Các chiến sĩ Cần vương đã ngã xuống trên trường tranh đấu, cuộc chiến đấu của họ cuối cùng đã bị kẻ thù trong và ngoài nước dùng sắt thép đè bẹp. Sự thất bại đó gắn liền với những hạn chế giai cấp và thời đại. Nhưng không thể vì thất bại mà phủ nhận toàn bộ sự kiện Cần vương, đơn giản cho rằng đó chỉ là “sự kháng cự cuối cùng của một lý tưởng lỗi thời mù quáng” như một số người nước ngoài từng phát biểu2. Trái lại, phải khẳng định đây là sự biểu hiện hào hùng của tinh thần độc lập của dân tộc, của cơ sở văn hóa cổ truyền của dân tộc, và đứng về giá trị truyền thống mà nói thì đây là một sự tiếp tục, một sợi dây nối liền với những cố gắng có kết quả hơn vào thế kỷ XX liền sau đó. Khởi nghĩa Hương Sơn - Hương Khê với thủ lĩnh tối cao Phan Đình Phùng kéo dài trên 10 năm trời (1885-1896), suốt trong quá trình tồn tại nó đã giữ vững vai trò một phong trào trung tâm có tác dụng thống nhất của phong trào cùng thời về một mối, để rồi trở thành tiêu biểu nhất cho phong trào đấu tranh vũ trang chống Pháp xâm lược không riêng cho Nghệ Tĩnh mà chung cho cả nước trong những năm cuối thế kỷ XIX. Sự thất bại của nó có ý nghĩa kết thúc thời kỳ lịch sử đấu tranh của dân tộc trong phạm trù phong kiến để chuyển sang thời kỳ lịch sử đấu tranh của dân tộc bước vào phạm trù tư sản... ____________________________________ 1. Căn cứ vào ngày giỗ Cao Thắng ở Sơn Lễ (ngày 14-10 năm Quý Tỵ). 2. J.Chesneaux: Tradition et Révolution au Vietnam (Truyền thống và Cách mạng ở Việt Nam), Editions Anthropos, Paris, 1971. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Tám, 2008, 04:50:27 pm TRẦN ĐÌNH ĐÀN1 100 NĂM NGÀY MẤT PHAN ĐÌNH PHÙNG2 (28/12/1895 - 28/12/1995) (…) Cách nay vừa đúng một thế kỷ, cụ Đình nguyên Phan Đình Phùng, một trong những người con ưu tú của nhân dân Hà Tĩnh, nhà yêu nước, vị chỉ huy tối cao của khởi nghĩa Hương Khê, lãnh tụ tiêu biểu trong phong trào vũ trang yêu nước chống Pháp của nhân dân ta hồi cuối thế kỷ XIX đã ngã xuống hy sinh vì nước. Kết tinh và trưởng thành từ những phong trào yêu nước chống Pháp rộng lớn của nhân dân Nghệ Tĩnh, Quảng Bình, Thanh Hóa từ những năm 70 của thế kỷ XIX, sau sự biến Kinh thành Huế (1885), cuộc khởi nghĩa ở Hà Tĩnh do Phan Đình Phùng lãnh đạo đã kịp thời bùng nổ và ngày càng phát triển, mở rộng. Với tài năng, uy tín lớn của mình, Phan Đình Phùng đã nhanh chóng trở thành vị thủ lĩnh tối cao của phong trào trong toàn vùng. Trên tấm bia đá dựng tại mộ Phan Đình Phùng năm 1965, cố Viện trưởng Viện Sử học Việt Nam, Viện sĩ Trần Huy Liệu, đã mở đầu bài văn bia bằng những dòng khẳng định: Phan Đình Phùng là một trong những lãnh tụ lớn nhất, tiêu biểu nhất của phong trào Cần vương yêu nước chống Pháp ở nước ta cuối thế kỷ XIX. Cùng với Cao Thắng và các tướng lĩnh khác, Phan Đình Phùng đã lãnh đạo quân khởi nghĩa, lấy núi rừng Hương Khê làm trung tâm, tập hợp, quy tụ và thống nhất hầu hết các lực lượng chống Pháp phân tán lúc đó, ra sức tổ chức, xây dựng các căn cứ kháng chiến tại hầu khắp các địa bàn bốn tỉnh Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa, Quảng Bình và liên tục chiến đấu gần chục năm trời, gây cho giặc những thiệt hại nặng nề. Một trong những đặc điểm độc đáo và nổi bật của phong trào Phan Đình Phùng là ngay từ đầu phong trào đã mang tính nhân dân sâu sắc, tính tổ chức chặt chẽ hơn hẳn so với mọi phong trào khác cùng thời; phong trào Phan Đình Phùng chẳng những biết dựa vào sức mạnh tinh thần của nhân dân nói chung mà còn là phong trào duy nhất biết phát huy tính sáng tạo của quẩn chúng trong việc tạo ra những vũ khí lợi hại để chống lại đội quân xâm lược có ưu thế hơn hẳn về vũ khí, trang bị... Chính là biết vận dụng những nhân tố khoa học kỹ thuật trong việc tạo ra vũ khí, trang bị cho nghĩa quân đánh địch mà phong trào do Phan Đình Phùng lãnh đạo đã nhanh chóng trở thành mối lo lớn nhất của quân xâm lược. Thực dân Pháp đã phải huy động và đưa ra những cố gắng cao nhất để đối phó và đàn áp phong trào. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, phong trào cuối cùng đã thất bại... Cuộc đời chiến đấu anh dũng, ngoan cường của Phan Đình Phùng và các chiến sĩ Hương Khê đã để lại cho các thế hệ sau những tấm gương sáng chói về sự hy sinh cho độc lập, tự do của Tổ quốc, về khí phách hiên ngang, bất khuất trước mọi kẻ thù hung bạo. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Bác Hồ muôn vàn kính yêu của chúng ta thường nhắc đến một cách trân trọng tấm gương chiến đấu hy sinh của Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám ... Viết về Phan Đình Phùng, tác giả Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch cho rằng: “Cụ Phan Đình Phùng là một học giả nổi tiếng và một vị quan to. Ở Trung Bộ, Cụ là một trong những người chí sĩ yêu nước đầu tiên đứng lên chống lại bọn đế quốc Pháp xâm lược. Cụ tổ chức những phần tử trí thức và nông dân Trung Bộ, lãnh đạo họ đấu tranh gian khổ chống bọn xâm lược, trải qua chín, mười năm. Tuy Cụ đã mất nhưng tên Cụ trở thành tượng trưng cho lòng yêu nước”3. Có thể nói, cuộc khởi nghĩa Hương Khê dưới sự lãnh đạo của Phan Đình Phùng, Cao Thắng và các sĩ phu yêu nước ở Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Bình, Thanh Hóa là một trong những trung tâm lớn nhất, tiêu biểu nhất của phong trào yêu nước vũ trang chống Pháp ở nước ta vào những năm cuối của thế kỷ XIX. Nó đã đánh mạnh vào bọn thực dân Pháp xâm lược. và bè lũ tay sai của chúng, góp phần cùng với phong trào của cả nước làm cho thực dân Pháp suốt trong một thời gian dài không sao ổn định được bộ máy thống trị để tiến hành khai thác, bóc lột kinh tế. Phong trào tuy không giành được thắng lợi cuối cùng nhưng đã để lại những bài học vô cùng quý giá, là niềm cổ vũ lởn lao cho những thế hệ tiếp sau tiến bước đi tìm con đường đấu tranh đúng đắn để hoàn thành sự nghiệp cứu nước mà Phan Đình Phùng và các chiến sĩ Hương Khê nói riêng, phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân ta nói chung, mãi mãi là niềm tự hào của nhân dân Hà Tĩnh và nhân dân cả nước ta. Hà Tĩnh là vùng đất mang đậm trong mình dấu ấn của nhiều biến cố lịch sử trọng đại của nước ta. Không phải ngẫu nhiên trên dải đất hẹp miền Trung này, hàng ngàn địa danh, hàng trăm di tích đã đi vào lịch sử, gắn liền với các cuộc khởi nghĩa, chiến tranh vệ quốc. Đây là nơi đã hun đúc, sản sinh ra nhiều lương thần, danh tướng, nhiều nhà khoa bảng, nhà khoa học, nhà văn hóa nổi tiếng như Nguyễn Du, Phan Huy Ích, Nguyễn Công Trứ, Phan Tam Tỉnh, Phan Cát Tưu, Phan Đình Phùng, Phạm Văn Ngôn, Phạm Đương Nhân, Hồ Bá Phấn, Trần Phú, Võ Liêm Sơn, Võ Oanh... Trong suốt bề dày của lịch sử, nhân dân Hà Tĩnh đã phát huy cao độ truyền thống bất khuất, kiên cường, anh dũng, sáng tạo của cha ông, cùng cả nước làm nên những chiến công oanh liệt. Ngay từ những năm 30, Nghệ Tĩnh là “nơi đạt đỉnh cao nhất trong phong trào cách mạng 1930-1931”4. Trong hai cuộc kháng chiến, như lời đánh giá của đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười gần đây: “Đảng bộ và nhân dân Nghệ Tĩnh đã làm tròn nhiệm vụ hậu phương, cung ứng đến mức cao nhất sức người, sức của cho tiền tuyến, đánh thắng chiến tranh phá hoại, lập nhiều thành tích xuất sắc góp phần rất xứng đáng vào thắng lợi vẻ vang của dân tộc ta”5. Trong sự nghiệp cách mạng xây dựng và đổi mới hiện nay, nhân dân Hà Tĩnh luôn tự hào, trân trọng giữ gìn và ra sức phát huy những truyền thống quý báu của mình để vươn lên, xứng đáng với sự quan tâm, giúp đỡ mà Trung ương Đảng, Chính phủ và các cơ quan ban ngành đã dành cho đảng bộ và nhân dân Hà Tĩnh. Trong những năm gần đây Đảng bộ, chính quyền và ngành văn hóa thông tin Hà Tĩnh đã quan tâm sưu tầm, bảo quản và giữ gìn, từng bước phát huy những di tích về Phan Đình Phùng và cuộc khởi nghĩa Hương Khê cũng như các di tích lịch sử và cách mạng khác. Tuy nhiên, hiện nay, việc đầu tư kinh phí cho nghiên cứu, quy hoạch, bảo tồn và tu sửa cho những di tích quý báu này vẫn còn có nhiều khó khăn trở ngại. Chúng tôi hy vọng sẽ tiếp tục nhận được sự quan tâm giúp đỡ nhiều hơn nữa của các đồng chí lãnh đạo, các cơ quan ban ngành và các nhà khoa học, các đồng chí và các bạn. (…) ______________________________________ 1. Trần Đình Đàn: Tiến sĩ, Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Hà Tĩnh, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh. 2. Trích lời phát biểu tại Hội thảo khoa học kỷ niệm 100 năm ngày mất Phan Đình Phùng, ngày 28-12-1995. 3. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1975, tr.10. 4, 5. Lời Tổng Bí thư Đỗ Mười tại cuộc mít tinh kỷ niệm 65 năm Xô viết Nghệ Tĩnh (10-9-1995). Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Tám, 2008, 05:06:11 pm PHAN TRONG BÁU1. PHAN ĐÌNH PHÙNG - VỊ NHO TƯỚNG Cốt cách “Nho tướng” của Phan Đình Phùng, cũng đã có người bàn tới, Đào Trinh Nhất viết: “Tuy chủ trương lo lắng việc võ, nhưng cụ Phan cũng không bỏ việc văn, và không quên cái thú ung dung ngâm vịnh. Thiệt là một vị Nho tướng... mỗi khi có chuyện gì sinh tình, sinh cảm, nên vịnh nên ngâm thì vị Nho tướng ta cũng cứ ngâm vịnh một cách ung dung nhàn hạ”2. Như vậy theo Đào Trinh Nhất thì Nho tướng là một nhà Nho làm việc quân. Cũng có thể hiểu như vậy theo nghĩa hẹp, nhưng “nho” theo định nghĩa cơ bản tức là “nhu”, sự cần thiết của xã hội, nhà Nho là người cần thiết cho xã hội, cho đất nước. Tuy nhiên còn có một định nghĩa khác đầy đủ hơn: “thông thiên địa nhân viết nho” (Pháp ngôn), tức là một người thông hiểu cả thiên văn, địa lý, nhân sự thì gọi là nhà Nho. Vậy “nho” ở đây có thể hiểu theo tổng hòa của cả ba định nghĩa trên. Phan Đình Phùng trước hết là một nhà Nho, một người xuất thân từ cửa Khổng sân Trình như các nhà Nho khác, nhưng là một nhà Nho có cá tính rất mạnh mẽ, đó là lòng cương trực hiếm có. Khi Cụ vâng Chiếu Cần vương ứng nghĩa đúng là lúc phong trào chống Pháp ở Nghệ Tĩnh đang cần một ngọn cờ để tập hợp lực lượng, đó là nhu cầu của thời cuộc; còn khi đã trực tiếp chỉ đạo cuộc chống Pháp thì Cụ luôn nói đến lòng người vì khi đã cố kết được nhân tâm tức là nhân hòa thì sẽ có địa lợi và tạo được thời cơ cũng tức là thiên thời. Như vậy trong sự nghiệp chống Pháp của Phan Đình Phùng thì nhân hòa phải là hàng đầu rồi mới đến địa lợi và thiên thời. I. Một người cương trực hiếm có Đình Phùng hiệu Châu Phong sinh năm Đinh Mùi (1847), người làng Đông Thái nay là xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Ông đậu Đình nguyên Tiến sĩ khoa Đinh Sửu (1877) nên nhân dân thường gọi là cụ Đình. Thời gian làm quan tuy chỉ có sáu năm (1877-1883) nhưng Cụ đã nổi tiếng là một người cương trực. Sau khi thi đậu Cụ được bổ làm Tri phủ Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Lúc này có cha Sáu thường dựa vào thế lực của bọn Pháp ức hiếp dân lành, Cụ đã sai lính nọc cổ vị tu sĩ lộng hành ra giữa công đường mà đánh 10 hèo. Cảm phục tinh thần thẳng thắn hiếm có, Tự Đức đã cho triệu Cụ về kinh sung chức Ngự sử ở Viện Đô sát, chuyên “Giữ việc giám sát trăm quan, biện minh oan khuất, phàm có án kiện quan trọng thì cùng bộ Hình và Đại lý tự hội thẩm”3. Làm Ngự sử thời bình đã khó, Phan Đình Phùng lại giữ chức vụ này ở thời mà: Dân đói bên trời xao xác nhạn, Quân gian chật đất rộn ràng ong4. thì càng khó khăn biết bao. Nhưng với bản chất cương trực, Cụ luôn luôn làm hết chức năng của một vị quan ở Viện Đô sát, trên thì can gián Vua, dưới thì đàn hặc các quan, giữ nghiêm phép nước mà việc phát hiện sự gian dối của các văn võ đại thần trong việc tập bắn là một ví dụ. Hồi đó nhà vua có chỉ dụ cho các quan phải ra tập bắn ở trường bắn Thuận An. Việc này không tránh khỏi gian dối vì các đại thần của ta lúc đó, nhất là các quan văn, đều không quen với súng đạn nên “bách phát” đều “thiên trúng” - đạn bay lên trời! Nhưng Vua không hề biết, các Ngự sử ở Viện Đô sát trước cũng đều vị nể mà không trình tấu đúng sự thật. Đến khi Phan Đình Phùng về nhậm chức thì Cụ đã làm sớ tâu lên Tự Đức để Vua ra thị sát. Khi biết rõ sự thật, nhà Vua đã khiển trách việc ẩn nặc, khen Phan Đình Phùng đã dám nói sự thật và thăng chức cho Cụ làm Hình khoa Chưởng ấn5. Ít lâu sau Cụ lại được Tự Đức cử làm Khâm mạng thanh tra tình hình quan lại Bắc Kỳ. Cụ đã dâng sớ hạch tội Nguyễn Chánh, Kinh lược sứ, chỉ biết ra oai với dân lành, không quan tâm gì đến chính sự. Tự Đức đã triệu Nguyễn Chánh về kinh phế bỏ chức Khâm sai của Nguyễn làm Nguyễn vô cùng tức giận, tuy không làm được gì nhưng vẫn rắp tâm chờ cơ hội trả thù. Nhưng việc “động trời” hơn là Cụ đã dám mắng Phụ chính Đại thần Tôn Thất Thuyết giữa cuộc họp có đủ mặt văn võ bá quan vì ông Thuyết đã không làm theo di chiếu của Tự Đức mà phế bỏ Dục Đức lập Hiệp Hòa. Nếu như người khác thì đã bị Thuyết chém đầu, nhưng Thuyết cũng đã thấy ở Phan Đình Phùng một tinh thần cương trực hiếm có, đáng nể trọng nên chỉ cách hết chức tước và buộc Cụ phải về quê làm dân thường. Đó là khoảng đầu tháng 7-1883. II. Một ông nghè văn võ song toàn Phan Đình Phùng về quê Châu Phong chưa được bao lâu thì đầu năm 1884 Tôn Thất Thuyết đã cử Cụ làm Sơn phòng sứ, củng cố miền Tây Hà Tĩnh làm cơ sở cho việc chống Pháp sau này. Công việc tiến hành chưa được bao nhiêu thì Kinh thành Huế thất thủ, Hàm Nghi xuất bôn, hạ Chiếu Cần vương và Phan Đình Phùng thực sự bắt tay vào công cuộc chống Pháp. Lúc này Cụ được nhà vua phong làm Thống đốc Quân vụ Đại thần chỉ đạo phong trào chống Pháp bốn tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình. Từ việc văn, Cụ đã phải kiêm luôn cả việc võ. Ngày xưa kẻ sĩ tài giỏi, chân chính là phải “bách vi”, làm được trăm việc, phải rành việc văn đã đành mà việc võ cũng phải am tường. Văn không chỉ là văn từ thơ phú mà phải biết cách trị nước an dân, sao cho phù hợp với thời bình cũng như thời loạn. Võ không phải là việc biết múa gươm, bắn súng, việc đó không nhất thiết, mà phải biết trù mưu, tính kế, hiểu địch biết ta khi tiến cũng như khi lùi, nghĩa là phải có tầm nhìn chiến lược. Phan Đình Phùng là một người như thế. Lúc này trong bốn tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình có đến 40 cuộc ứng nghĩa, riêng hai tỉnh Nghệ Tĩnh có đến hơn 30 cuộc, nhưng thiếu liên kết, thiếu lãnh đạo thống nhất nên đã bị kẻ thù đàn áp, tan rã gần hết, chỉ còn lại hai trung tâm là Nghệ An và Hà Tĩnh. Sau khi Nguyễn Xuân Ôn ở Nghệ An bị giặc bắt và hy sinh thì tất cả quy tụ lại dưới ngọn cờ duy nhất của Phan Đình Phùng. Với tầm nhìn chiến lược và quan điểm đánh lâu dài, Phan Đình Phùng đã đề ra hai việc: một là phải xây dựng căn cứ địa vững chắc, hai là phải thống nhất phong trào dưới sự chỉ đạo chung của một người đã được nhà Vua ủy thác. Việc thứ nhất Cụ giao cho Cao Thắng; việc thứ hai quan trọng hơn, Cụ thấy tự mình phải gánh vác. Năm 1886, trong vai thầy đồ Nghệ, Cụ đã ra Bắc để bàn bạc với các nhà yêu nước tìm phương kế thống nhất lại lực lượng đánh giặc. Trong hai năm 1886-1887, Cao Thắng ở nhà đã xây dựng căn cứ địa lúc đầu là Cồn Chùa thuộc huyện Hương Sơn và sau đó là Thượng - Hạ Bồng huyện Đức Thọ, ngoài ra còn có căn cứ dự phòng như Trùng Khê, Trí Khê (Hói Trùng, Hói Trí), Vụ Quang, Ngàn Trươi ở Tây Bắc Hương Khê, tất cả đều thuộc tỉnh Hà Tĩnh. Ở các khu căn cứ, Cao Thắng chẳng những đã huấn luyện nghĩa binh, tích trữ lương thực, rèn đúc vũ khí thô sơ như gươm giáo, mà còn tìm cách tự chế ra súng trường kiểu 1874 là loại vũ khí hiện đại của bộ binh lúc đó. Năm 1888, Cao Thắng cho mời cụ Phan từ Bắc về trực tiếp chỉ đạo phong trào. Với cương vị Thống đốc Quân vụ Đại thần do Hàm Nghi phong từ trước, Phan Đình Phùng thấy cần thống nhất lực lượng chống Pháp trong bốn tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình thêm một bước nữa, sao cho tất cả lực lượng đều quy về một mối thì mới đủ sức mạnh để chống kẻ thù. Căn cứ vào địa bàn đóng quân của các thủ lĩnh đang hoạt động, Cụ đã chia tất cả làm 15 quân thứ. Tổ chức quân thứ là một sáng tạo lớn của Phan Đình Phùng mà các cuộc chống Pháp đương thời không có. Quân thứ hình thành trên cơ sở các cuộc khởi nghĩa địa phương đã được thử thách, do đó các thủ lĩnh có thể tự động tác chiến theo một kế hoạch chung hoặc tấn công tiêu diệt sinh lực địch, hoặc chống càn bảo vệ căn cứ địa, hoặc táo bạo đột kích vào trung tâm đầu não của địch. Từ đồng bằng đến miền núi, miền biển đều có quân thứ, do đó những hoạt động của địch đều có thể bị ta phát hiện và ngăn chặn kịp thời. Đó là sự hợp lý trong bố trí thế trận quân sự. Địa bàn của cuộc khởi nghĩa chủ yếu ở vùng Nghệ Tĩnh, nơi nhân dân có tinh thần yêu nước nồng nàn, uy tín của Phan Đình Phùng còn rất lớn, nhân dân vẫn đang hướng về khởi nghĩa, do đó đang tồn tại chính quyền “hai mang” phục vụ cho công cuộc kháng Pháp6. Ở khu vực này kinh tế chủ yếu là nông nghiệp nhưng lại có các làng nghề truyền thống quan trọng như nghề rèn Trung Lương, Vân Chàng, nghề mộc Xa Lang, nghề đốt than ở một số làng miền Tây Hương Khê, nghề đúc đồng ở Thạch Hà, Can Lộc... chẳng những đã tạo điều kiện cho nghĩa quân rèn đúc vũ khí thô sơ mà còn sản xuất được vũ khí hiện đại là súng trường kiểu 1874 như đã nói trên. Đó là sự hợp lý trong bố trí thế trận chính trị, hậu cần. Do những ưu thế về quân sự, chính trị, hậu cần mà từ 1890 đến 1893 quân ta đã thắng nhiều trận giòn giã trên địa bàn của các quân thứ và đã hai lần đột kích vào tỉnh lị Hà Tĩnh, tiêu diệt một số lính ngụy và giải thoát những nghĩa quân đang bị giam trong nhà tù. Chính bọn chỉ huy Pháp cũng thừa nhận Phan Đình Phùng là một ông quan văn mà “có tài tổ chức đến lạ lùng trong công cuộc đối kháng với người Pháp”7. Phan Đình Phùng không trực tiếp cầm quân hay trực tiếp chỉ huy chiến đấu, nhưng Cụ luôn quán triệt tư tưởng dựa vào dân, đánh lâu dài, lấy đoản binh thắng trường trận và tận dụng yếu tố bất ngờ là những tư tưởng quân sự truyền thống đã giúp nghĩa quân thắng nhiều trận, nhưng tiêu biểu nhất là trận Vụ Quang. Chính ở đây Phan Đình Phùng đã cho ngăn nước thượng nguồn sông Vụ Quang, dùng kế nhử giặc, bất ngờ phá đập tiêu diệt chúng. Cụ đúng là một ông nghè văn võ song toàn. ___________________________________________ 1. Phan Trọng Báu: Nghiên cứu viên Viện Sử học, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. 2. Theo Đào Trinh Nhất: Phan Đình Phùng - Nhà lãnh đạo 10 năm kháng chiến (1886-1895) ở Nghệ Tĩnh, Nxb Tân Việt, Sài Gòn, 1949, tr.142. 3. Đỗ Văn Ninh: Từ điển chức quan Việt Nam, Nxb Thanh Niên, Hà Nội, 2006, tr.275. 4. Trích ở bài thơ của Phan Đình Phùng Lâm chung thời tác (Trần Huy Hiệu dịch). 5. Hình khoa Chưởng ấn Cấp sự trung thuộc Viện Đô sát là chức quan cao nhất đứng đầu sáu Khoa của triều đình (Khoa là tổ chức bên cạnh Bộ, giúp Bộ điều hành các việc) làm việc với các Bộ, Viện, đi kiểm tra các địa phương theo ngành dọc của Viện Đô sát (Từ điển chức quan Việt Nam, sđd, tr.178). 6. Toàn quyền Rousseau trong báo cáo ngày 22-6-1895 cũng đã phải thừa nhận “Hà Tĩnh thật sự có hai chính quyền. Chính quyền hợp pháp và chính quyền nổi dậy. Cả hai loại chính quyền này từ hơn 10 năm nay đều thu thuế của tất cả các thôn xã ...” 7. Ch.Gosselin: L’Empire d’Annam, Paris, 1901, tr.313. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Tám, 2008, 05:20:11 pm III. Khí tiết tùng mai Những năm đầu mới khởi binh, vì chưa được luyện tập, chưa có kinh nghiệm chiến đấu nên nghĩa quân thường bị Pháp đánh bại. Đại đồn Đông Thái của Cụ cũng bị đánh tan hoang và Cụ phải lui về làng Phụng Công đóng quân trên núi Mồng Gà, còn anh ruột Cụ là Phan Đình Thông thì chạy về Thanh Chương tỉnh Nghệ An. Không may Phan Đình Thông bị một tên thủ hạ là Nguyễn Sử phản bội dẫn quân Pháp nửa đêm đến bắt giải về tỉnh đường Nghệ An. Tổng đốc Nghệ An lúc đó là Nguyễn Chánh, vốn sẵn lòng hiềm khích với Phan Đình Phùng như ta đã biết, nên đã nghĩ ra một kế thâm độc là sai Tiễu phủ sứ Lê Kinh Hạp viết thư dụ hàng, nếu không Phan Đình Thông sẽ bị chém. Lê Kinh Hạp đã khuyên Phan Đình Phùng nên ra đầu thú để cứu anh và mồ mả tổ tiên không bị giặc đào bới. Còn nếu Cụ không muốn ra làm quan với Pháp thì về ở ẩn cũng là một việc làm để bảo tồn lấy cái khí tiết của nhà Nho. Đương nhiên là Cụ không làm theo lời của Lê Kinh Hạp. Cụ nói: “Nay tôi chỉ có ngôi mộ rất lớn nên giữ, đó là đất nước Việt Nam, tôi chỉ có một ông anh rất to đang bị nguy vong, đó là mấy mươi triệu đồng bào. Nếu về để sửa sang phần mộ của mình, thì ngôi mộ cả nước kia ai giữ? Về để cứu vớt ông anh của mình thì bao nhiêu anh em trong nước ai cứu?” ... Cụ không chịu đầu hàng. Anh Cụ liền bị giặc giết hại, việc đó thật vô cùng đau xót nhưng không làm nhụt chí vị Nho tướng. Đó là khi mới khởi binh. Khi Cụ ở Bắc về được vài năm, Tuần phủ Hà Tĩnh Võ Khoa vốn là người quen biết cũ muốn dụ hàng nhưng biết Phan Đình Phùng là một người cương trực khó ai lay chuyển nổi, hơn nữa lúc này thế lực nghĩa quân đang lên, nhưng Võ Khoa cũng làm một bài thơ ý tứ kín đáo gửi đến Phan Đình Phùng, dịch ý như sau: Mùa hè khôn rưới lửa nồng, Gió xuân chi để lạnh lùng khắp nơi. Châu ta còn có một người, Lúc này sao nỡ phụ lời non sông. 1 Phan Đình Phùng đã họa lại tỏ ý chí sắt đá của mình: Trăm năm xã tắc lòng nung nấu, Một tấm cô trung khiếp vía thù. Nhắn nhủ đồng liêu ai biết chẳng: Sở vương nhổ được núi nào đâu?2 Như thế là đã rõ: Dù địch có sức mạnh như Sở Vương cũng chưa làm được gì, nghĩa là Cụ không sợ địch mạnh, Cụ nhất quyết một lòng vì đất nước. Dùng kế dụ hàng để cứu anh không được, nói bóng gió, khuyên về ở ẩn cũng không xong, thực dân Pháp lại sai Hoàng Cao Khải viết thư dụ hàng một lần nữa. Hoàng tuy mới chỉ đậu Cử nhân nhưng gặp thời, lại biết tận dụng thời cơ nên công danh của ông ta đã lên đến hàng cực phẩm. Hoàng đã được phong tước Quân công và giữ chức Kinh lược sứ Bắc Kỳ. Vốn biết là Hoàng người quen biết cũ lại là đồng hương, đồng quận với Cụ, nên người Pháp hy vọng với sự khôn ngoan và tài văn chương, họ Hoàng sẽ khuynh đảo được vị Nho tướng. Trước hết Hoàng ca ngợi sự nghiệp ứng nghĩa Cần vương của cụ Phan là rất cao đẹp, xứng đáng là “người tuấn kiệt”, hợp với đạo lý quân thần, nhưng chỉ đúng lúc đó thôi. Hoàng viết tiếp: sự thể lúc này đã khác rồi, có cố theo đuổi cũng không xoay chuyển nổi tình thế. Hoàng khuyên Cụ nên bãi binh để cho dân khỏi khổ. Hoàng còn đe dọa: Nếu vì Cụ mà cuộc chiến phải kéo dài thì “Cả cái đất Hồng Lam này sẽ thành ao cá hết chứ không phải riêng làng Đông Thái đâu?”. Lại khuyến dụ: Nếu Cụ ra hàng thì sẽ được Hoàng bảo lãnh như một số người khác, được người Pháp trọng dụng và mồ mả tổ tiên sẽ được trả lại yên ổn. Quả thật tình hình cuộc khởi nghĩa lúc này đã rất khó khăn, cái khí thế: Hồng Lam mặc súc tung hoành Đánh đồn tỉnh Nghệ, phá thành Nam Giang. (Vè Quan Đình) không còn nữa, nhất là sau khi Cao Thắng hy sinh, một số đồng liêu, đồng quận của Cụ cũng đã ra hàng; nếu chỉ một phút thoái chí, chỉ một tiếng thở dài “đại sứ khứ hĩ”, việc lớn đã qua rồi, thì có thể Cụ đã ra làm quan với “tân triều” hoặc để giữ tròn danh tiết thì đi ở ẩn như một vài người đã làm, dẫu tiêu cực nhưng ít nhiều còn được tiếng trong sạch. Nhưng không, Cụ không bao giờ tự huyễn hoặc như vậy, và Cụ đã viết thư trả lời họ Hoàng. Trước hết Cụ khẳng định: Nước ta là một nước văn hiến lâu đời, có bờ cõi non sông riêng biệt mà “Xưa kia các nhà Hán, Đường, Tông, Nguyên, Bao phen muốn chiếm lấy đất nước ta mà rút cục vẫn chiếm không được”. Đó là nhờ dân tộc ta có tinh thần yêu nước và ý chí độc lập tự chủ rất cao. Cụ lên án bọn Pháp xâm lược đã làm cho “Trọn cả nước nhà, dân nhà cũng bị chìm đắm hết thảy, có phải riêng một châu hay một nhà ai phải chịu cảnh lầm thêm mà thôi đâu”. Cụ vạch mặt bọn tay sai (đương nhiên là muốn ám chỉ cả Hoàng Cao Khải) đã “Hùa theo bày kế lập công, những người không có tội gì chúng cũng buộc cho có tội”, để trách phạt đục khoét và “đó mới chính là mối họa đã làm cho nhân dân phải ly tán, xóm làng phải tan lìa trôi dạt”. Còn công cuộc khởi nghĩa của Cụ là chính nghĩa được nhân dân ủng hộ mặc dầu họ có thể bị trách phạt hoặc bị chém giết; “Lòng người trước sau chẳng hề lấy thế làm chán nản ngã lòng; trái lại họ vẫn bỏ của bỏ sức ra giúp đỡ tôi, mà số người mạnh bạo ra theo tôi ngày càng nhiều thêm mãi”. Chính vì vậy Cụ không thể bỏ dân được: “Chỉ vì họ tin cậy lòng tôi, lượng xét chí tôi cho nên hâm mộ vậy đó thôi”, và đặt lại câu hỏi cho họ Hoàng: “Lòng người như thế đó, nếu như cố nhân đặt mình vào cảnh tôi liệu chừng cố nhân có nỡ lòng nào mà bỏ đi cho đành không?”3; và một lần nữa Cụ khẳng định: dầu có chết cũng không bãi binh quy hàng, và Cụ cũng nói thẳng với Hoàng Cao Khải là không nên gửi thư dụ hàng lần nữa, công việc đó là vô ích. Sau ba lần dụ dỗ không được và ngay cả con chủ bài về thuyết khách cuối cùng cũng không đem lại hiệu quả mong muốn, thực dân Pháp đã dùng đại binh, có quân của triều đình do Nguyễn Thân chỉ huy, phối hợp mở những cuộc tấn công quy mô lớn vào các quân thứ, chặn đường tiếp tế lên Vụ Quang, và Phan Đình Phùng, vị chủ soái của phong trào chống Pháp, đã ngã bệnh và qua đời nơi chốn rừng xanh vào ngày 28-12-1895. *** Phan Đình Phùng, vị Nho tướng, văn võ song toàn, một người bình sinh đã ứng xử theo đạo lý của một chân nho, nhưng là chân nho Việt Nam, tuy Cụ vẫn lấy “cái gốc vua tôi, cha con theo năm đạo thường”, vẫn luôn coi khởi nghĩa của mình là do Vua ủy thác, nên không thể từ chối. Tuy nhiên trung với Vua lúc này là trung với nước, ra sức chống ngoại xâm để khôi phục nền tự chủ của đất nước. Còn chữ “hiếu” đối với Cụ cũng khác, từ rất lâu chữ “hiếu” đã được các đại nho hiểu một cách rộng rãi; Nguyễn Trãi không theo cha sang Trung Quốc mà trở về nuôi chí phục thù, đó là “đại hiếu”, chữ hiếu lớn; còn khi phần mộ của cha ông bị xâm phạm mà Phan Đình Phùng vẫn không hề nao núng, đó chính là Cụ đã hành động theo “đại hiếu”, hiếu với nước. “Hiếu” và “trung” luôn luôn đi đôi, do đó khi Cụ nói nếu về đầu hàng giặc để cứu anh thì bao nhiêu anh em trong cả nước ai cứu, đó cũng chính là xuất phát từ “đại hiếu”. “Hiếu trung là nếp nhà ta” Truyền thống dòng họ, truyền thống dân tộc là thế. Do xác định được mục tiêu chiến đấu, xác định được chữ “trung”, chữ “hiếu” một cách rộng rãi, nên Cụ đã chiến đấu với ý chí của một chân nho mà giàu sang không ham muốn, nghèo khó không đổi dời, uy vũ không khuất phục làm chính kẻ thù cũng phải kính trọng mà gọi Cụ là “kẻ địch trung tín” (rival sincère – Vial; trung tín đây là đối với nhân dân - P.T.B.). Còn văn thân Nghệ Tĩnh thì ca ngợi Cụ là khí tiết tùng mai và “tinh thần một thác rạng trăng sao”. Hà Nội, tháng 3 năm 2007 ______________________________________ 1. Nguyên văn: Ký vô hạ vũ tô binh tỏa, An sử xuân phong biến hỗ hàn. Kỳ vị ngô châu di nhất ái Thử hồi ninh phụ thử giang san. (Theo Đào Trình Nhất: Phan Đình Phùng..., sđd, tr.144) 2. Nguyên văn: Bách niên tôn xã dư hoài nhiệt, Nhất phiến cô trung tặc đởm hàn. Ký ngữ đồng nhân tri dã phủ: Sở vương thế lực bạt hà san. (Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX, Nxb Văn học, Hà Nội, 1976, tr.310) Hai bài này do Khương Hữu Dụng dịch. 3. Tất cả những trích dẫn đều lấy trong Thơ văn yêu nước nửa sau thể kỷ XIX, Nxb Văn học, Hà Nội, 1976, tr.315, 317. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Tám, 2008, 12:47:50 pm ĐINH VĂN NIÊM1 PHAN ĐÌNH PHÙNG VỚI CUỘC KHỞI NGHĨA HƯƠNG KHÊ Đêm 23-5 năm Ất Dậu tức là 7-6-1885, Kinh thành Huế thất thủ. Vua Hàm Nghi xuất bôn, hạ Chiếu Cần vương. Văn thân hưởng ứng và nổi lên rầm rộ khắp cả nước gây thiệt hại nặng nề cho chính phủ Bảo hộ, bóc trần bộ mặt thực dân xâm lược Pháp và sự đầu hàng thỏa hiệp của bọn phong kiến bù nhìn tay sai. Nhưng do tình thế lúc bấy giờ, Chính phủ Nam triều hèn nhát, nền thống trị của thực dân Pháp đã được củng cố, lực lượng, vũ khí chênh lệch, các phong trào Cần vương chỉ tồn tại một hai năm, có phong trào được năm, sáu năm. Duy có một phong trào kéo dài được 10 năm, gây được lòng tin đối với nhân dân, có tổ chức quy mô, chặt chẽ, có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về mọi mặt, làm cho chính phủ Bảo hộ, lo sợ, hoang mang. Đó là cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Đình nguyên Phan Đình Phùng lãnh đạo (1885-1895). Phan Đình Phùng sinh năm 1847 tại làng Đông Thái, huyện La Sơn (nay là huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh), trong một gia đình Nho học có truyền thống yêu nước. Năm 1877 khoa thi Tiến sĩ dưới Triều Tự Đức, ông đậu Đình nguyên. Năm 1878 được bổ làm Tri phủ Yên Khánh, Ninh Bình. Cuối năm 1878 được bổ Ngự sử Viện Đô sát. Tháng 2-1882 được bổ Hình khoa Chưởng ấn. Tháng 6-1882 làm Khâm mạng thanh tra quan lại Bắc Kỳ. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ ông lại về giữ chức Hình khoa Chưởng ấn. Tháng 6-1883, Tự Đức băng hà, để di chiếu truyền ngôi cho Ưng Chân là vua Dục Đức. Ba ngày sau, Hội đồng phụ chính Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Văn Tường, Trần Tiễn Thành phế Dục Đức lập Hồng Dật lên ngôi lấy niên hiệu là Hiệp Hòa. Hình khoa Chưởng ấn Phan Đình Phùng mắng Tôn Thất Thuyết giữa triều đường: “Đức Tiên Hoàng vừa mới nhắm mắt mà ngài đã làm việc trái nghịch di chiếu như thế. Bây giờ triều đình phải tuân theo di chiếu lập ngài Dục Đức lên ngôi mới được. Huống chi Tân quân chưa có lỗi gì và nếu có lỗi chưa thấy can ngăn đã vội vàng mạo phạm, việc bỏ vua, lập vua là việc to lớn lại làm dễ dàng quá như thế. Đó là việc làm càn rỡ không còn đạo nghĩa nhân thần một chút nào”. Tôn Thất Thuyết sai tả hữu trói Phan Đình Phùng giam vào trại Cẩm Y đợi ngày nghiêm trị. Những người có ý theo Phan đều sợ hãi lùi lại hết. Vài ngày sau Phan Đình Phùng bị cách chức về quê làm ruộng. Đầu năm 1884, Tôn Thất Thuyết tâu vua Hàm Nghi phong Phan Đình Phùng làm Tham biện Sơn phòng tỉnh Hà Tĩnh. Tháng 10-1885, vua Hàm Nghi đến thượng du Hà Tĩnh, Phan Đình Phùng và một số bạn văn thân như Phan Quang Cự, Phan Khắc Hoà, Phan Trọng Mưu, Hoàng Xuân Phong, Ngụy Khắc Kiều tới bái yết. Vua Hàm Nghi phong Phan Đình Phùng chức Tán lý Quân vụ trưởng tướng các đạo nghĩa binh. Phan Đình Phùng ra lời kêu gọi, dựng cờ khởi nghĩa tại quê nhà. Sỹ phu, thân hào, nhân dân đồng tâm hưởng ứng ngày một đông. Gia nhập nghĩa quân Hương Khê còn có nhiều tướng lĩnh, quân sĩ đã từng tham gia các cuộc khởi nghĩa ở các nơi chưa thành công tìm đến tình nguyện chiến đấu dưới ngọn cờ khởi nghĩa do Phan Đình Phùng lãnh đạo. Nói là cuộc khởi nghĩa Hương Khê nhưng địa bàn hoạt động rộng khắp cả bốn tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình. Lúc đầu, để có phong trào mau chóng, Phan Đình Phùng lấy làng Đông Thái làm căn cứ kháng chiến, lấy nhà riêng của mình làm Nghĩa Sỹ Đường của nghĩa quân. Tại căn cứ nghĩa quân có xưởng rèn đúc vũ khí, sân bãi luyện tập binh sĩ. Sau một thời gian ngắn quân sĩ đã có tới năm, sáu ngàn người. Cả tổng Việt Yên chỗ nào hiểm yếu đều có đồn trại nghĩa quân đóng giữ. Quân sĩ trong các đồn trại kỷ luật nghiêm, tinh thần hăng hái, ai cũng nô nức chờ dịp giết giặc lập công. Trận đánh đầu tiên của nghĩa quân là hai làng có đạo Thọ Tường và Thọ Ninh. Ta đừng hiểu lầm việc Phan Đình Phùng đánh vào hai làng có đạo là theo chỉ dụ cấm đạo của triều đình và chủ trương “Bình Tây sát tả” của một số phần tử quá khích trước đó. Các cố đạo hai làng này đã kích động giáo dân làm nhiều điều trái đạo như đốt nhà, cướp của, hiếp đáp nhiều gia đình trong vùng. Có trường hợp họ tự đốt những căn nhà không ra nhà của họ để vu cho văn thân xúi người bên lương đốt rồi kiện lên chính quyền bảo hộ, được các cha cố đạo bênh vực bao che, họ được đền bù nhiều tiền bạc. Nấp dưới sự bao che của chính quyền bảo hộ và các cố đạo, một số giáo dân ngày càng lộng hành, phá phách, khối đoàn kết giáo lương trong vùng luôn luôn mất ổn định. Một đêm, có ba người họ đạo ở Thọ Tường, Thọ Ninh mang vũ khí và hoả hổ đột nhập vào làng Đông Thái định đốt xưởng vũ khí, kho tàng và Nghĩa Sỹ Đường của nghĩa quân. Nhờ sự bố phòng cẩn mật, nghĩa quân đã bắt được bọn chúng khi chưa kịp hành động. Bọn chúng khai ra là do các cố đạo người Tây xúi giục. Phan Đình Phùng truyền lệnh cho nghĩa quân bắt bọn cố đạo và bọn tay sai đang ẩn nấp trong hai làng trên và tuyệt đối không được xâm phạm đến tính mạng, tài sản của giáo dân lương thiện. Nghĩa quân đánh riết, mấy ông cố đạo cho người trốn ra đi báo các đồn quân Pháp gần đó đến cứu viện. Quân Pháp tới, hai bên giao chiến kịch liệt. Lần đầu tiên nghĩa quân trực tiếp đánh nhau với quân Pháp. Nghĩa quân hăng hái, chiến đấu dũng cảm, không sợ hy sinh. Sau mấy giờ đồng hồ chống cự quyết liệt, do vũ khí kém và thiếu, một số mới nhóm họp chưa được tập luyện tinh thông, càng đánh càng yếu thế, quân Pháp các đồn lân cận kéo đến càng nhiều. Nghĩa quân phải rút lui. Quân Pháp lợi dụng tình hình triệt phá trung tâm đồn trại của nghĩa quân làng Đông Thái. Phan Đình Phùng động viên an ủi quân sĩ, kéo quân vào xây dựng căn cứ trong rừng thuộc địa phận hai huyện Hương Khê và Hương Sơn, nằm giữa vùng núi rừng hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Căn cứ này vừa bí mật, vừa hiểm trở. Phía Đông là dãy núi Thiên Nhẫn, phía Bắc là dãy núi chạy dài ra đến vùng Thanh Hóa. Phía Nam là dãy Truông Vắt kéo đến dãy Hoành Sơn. Phía Tây là dãy Khai Trướng thường gọi là núi Giăng Màn. Giữa là lưu vực sông Lam gồm các chi lưu Ngàn Phố (Hương Sơn), Ngàn Sâu (Hương Khê). Tiến vào Nam là vùng Tuyên Hoá Quảng Bình có thể tiến sâu vào Quảng Trị, Thừa Thiền, ra Bắc có thể đến tận Thanh Hóa, Hoà Bình. Nghĩa quân đặt Tổng hành dinh ở núi Vụ Quang còn gọi là Ngàn Trươi thuộc huyện Hương Khê. Ở đây có đường thông sang Lào, Xiêm và ra Hà Tĩnh, qua sông là sang Nghệ An. Đây là một vùng núi rừng có xen kẽ đầm lầy rất hiểm trở ở ngoài khó tìm đường vào mà đã vào rồi thì khó tìm được đường ra. Đồn trại nghĩa quân rải ra trên một chiến tuyến từ chân núi Vụ Quang đến núi Trùng Khê, Trí Khê kéo dài hàng trăm cây số dựa vào núi rừng, sông ngòi, khe suối, tiện lợi cho việc chiến đấu và tiếp vận lương thực. Phan Đình Phùng đóng vai trò chủ tướng lãnh đạo cuộc kháng chiến. Ta còn nhớ sự kiện tháng 6-1883, do bất đồng với Hội đồng phụ chính trong việc phế vua Dục Đức lập vua Hiệp Hoà, Phan Đình Phùng đã mắng Tôn Thất Thuyết giữa triều đường, bị cách chức đuổi về quê. Nhưng rồi đầu năm 1884 thì chính Tôn Thất Thuyết lại là người tâu vua Hàm Nghi phong cho Phan Đình Phùng chức Tham biện Sơn phòng Hà Tĩnh. ____________________________________________ 1. Đinh Văn Niêm: Đại tá, Quân chủng Phòng không, Không quân Việt Nam. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Tám, 2008, 12:55:14 pm Tuy có sự bất đồng nội bộ, Tôn Thất Thuyết đã phát hiện ra bản chất thẳng thắn, cương trực và lòng trung quân ái quốc của Phan Đình Phùng. Trong lúc Tôn Thất Thuyết đang cần một cộng sự có tầm chiến lược trong chủ trương đánh Pháp của mình thì Tôn Thất Thuyết đã nghĩ đến Phan Đình Phùng. Chẳng thế mà giữa năm 1889, khi còn sống ở Quảng Tây được tin vua Hàm Nghi đã bị bắt, Tôn Thất Thuyết buồn vì chưa tìm được cơ hội về nước. Nhưng khi nghe tin nghĩa quân Phan Đình Phùng ngày càng lớn mạnh thì ông mừng lắm. Tôn Thất Thuyết sai gia nhân trung tín là Trần Thế mang thư về cho cụ Phan, trong thư Tôn Thất Thuyết khen tài chí của Phan Đình Phùng và vẫn tự coi mình là tể tướng triều đình phong cho Phan Đình Phùng giữ chức “Binh trung tướng quân”. Trong thư có đoạn viết: “Hiện nay trong nước như không có triều đình, không có vua chúa. Vậy thì nơi tướng quân dựng cờ khởi nghĩa coi như nơi trung khu của Nhà nước. Tướng quân cứ tuỳ tiện làm việc, chọn người mà dùng, cốt giữ vững lấy đức liêm, chính, công, bình mà lo việc nước...”. Nhân có bức thư và những lời ân cần của Tôn Thất Thuyết, Phan Đình Phùng đã viết câu liễn treo giữa Nghĩa Sỹ Đường của Đại đồn: “Liêm bình khâm tướng huấn Ưu nhục lẫm thần tâm”. Câu trên tỏ ý của mình vâng lời quan tướng Tôn Thất Thuyết giữ liêm, bình, công, chính. Câu dưới xác định người làm tôi thì vua lo, tôi nhục; vua nhục, tôi chết. Nay vua Hàm Nghi đã bị bắt, nước nhà bị ngoại xâm chiếm đóng, mệnh nước uỷ thác cho mình, sắt đá một lòng, quyết tâm hành động cho đến thành công, dù thất bại hy sinh không sờn gan, thối chí. Giai đoạn 1885-1886, nghĩa quân Hương Khê vừa mới thành lập đã phải đương đầu với cuộc chiến có cả quân đội triều đình và thực dân Pháp. Căn cứ đầu tiên ở làng Đông Thái bị tàn phá, nghĩa quân phải vừa chiến đấu vừa xây dựng căn cứ mới để phát triển lực lượng. Năm 1887, Phan Đình Phùng ra Bắc tìm cách hợp sức với sĩ phu văn thân Bắc Hà để hỗ trợ lẫn nhau. Trước khi đi, ông dặn dò các tướng sĩ ở lại kiên trì chờ đợi, tiếp tục xây dựng lực lượng, đợi thời cơ ông trở về. Công việc nghĩa quân ông giao cho Cao Thắng toàn quyền lãnh đạo. Cao Thắng cùng các tướng Cao Đạt, Cao Nữu, Nguyễn Niên thống nhất rút về làng Lệ Động tổ chức lại lực lượng. Vấn đề cốt tử của nghĩa quân lúc này là vũ khí. Qua những năm đánh nhau với Pháp, Cao Thắng nhận ra rằng gươm giáo khó mà chống nổi súng đồng, chiến hạm. Cao Thắng tổ chức quân xưởng chế súng đạn theo kiểu Tây Phương. Ban đầu ông đúc được 200 khẩu súng kíp thường gọi là súng hoả mai. Binh sĩ có thêm 400 người. Vì là loại súng nạp hậu, bắn chậm, Cao Thắng phân chia từng thê đội: Khi thê đội này bắn thì thê đội kia nạp đạn và cứ thay nhau theo thao tác đó. Nhờ vậy mà khi tác chiến nghĩa quân vẫn nổ súng liên tục làm cho quân địch không phát hiện số lượng vũ khí của quân ta. Trong một trận phục kích tại làng Phố Châu, huyện lỵ Hương Sơn, một toán lính tập gồm 15 tên và hai viên sĩ quan chỉ huy là người Pháp bị tiêu diệt, Cao Thắng thu được 17 khẩu súng bắn nhanh của Pháp. Lập tức, Cao Thắng cho thợ rèn ở hai làng Vân Chàng và Trung Lương huyện Can Lộc tháo rời ra một khẩu để nghiên cứu các bộ phận rồi rèn đúc thử. Qua nhiều lần thao tác khó khăn, cuối cùng xưởng thợ Cao Thắng đúc được 350 khẩu súng giống hệt kiểu súng 1874 của quân đội Pháp. Đại uý Ch.Gosselin nhận xét loại súng của nghĩa quân Hương Sơn như sau: “Khi tôi mang khẩu súng đó về Pháp, ai cũng nhận thấy nó giống hoàn toàn súng của Pháp chế tạo, khiến cho các sĩ quan pháo binh vô cùng ngạc nhiên. Nó chỉ kém ở chỗ lò xo yếu và không có đường xoi trong nòng (đường khương tuyến) nên bắn kém xa...”. Lúc này Phan Đình Phùng đang đóng giả một ông tú ngồi dạy học tại một gia đình văn thân ở Sơn Tây để nghe ngóng tình hình chính trị và thân sĩ ở Bắc Hà. Phan Đình Phùng bắt liên lạc với các lãnh tụ Cần vương Hải Dương, Yên Thế... nhưng ông đã phát hiện ra các phong trào ngoài Bắc cũng yếu ớt lẻ tẻ, thiếu thống nhất, khó hy vọng một sự hợp tác đủ lực lượng chống xâm lăng. Phan Đình Phùng đang có ý định trở lại Hương Sơn thì Cao Thắng cho người ra đón. Khi Phan Đình Phùng trở lại căn cứ Vụ Quang, trai tráng các nơi được tin nô nức tòng quân. Cơ sở nghĩa quân lúc này đã khá vững chắc, quân số đã tăng hơn 1.000 người, vũ khí có 500 khẩu súng kiểu mới, các tướng lĩnh có Đề Niên, Đề Ninh, Đề Vinh, Đề Đạt, Hiệp Tuấn, Nguyễn Chanh, Lê Văn Tạc, Phan Đình Phong, Phan Đình Cần, Cao Nữu... Khi biết rõ vua Hàm Nghi bị tên Trương Quang Ngọc phản bội bắt giao cho Pháp đêm 2-11-1888 để lĩnh thưởng, Phan Đình Phùng đích thân đem quân tới đất Mọi Ta Bao bắt tên Ngọc chém đầu, khám xét nhà y thu được cây bảo kiếm của nhà vua bị y chiếm giữ. Văn thân, nhân dân trong vùng hả lòng hả dạ vì đã diệt được tên phản bội. Hào kiệt ở Hà Tĩnh như Ngô Quảng, Nguyễn Cấp, Vũ Phát; ở Thanh Hóa thì Cầm Bá Thước, Cao Đạt đều đem quân về theo cuộc khởi nghĩa Hương Khê. PHAN ĐÌNH PHÙNG CÙNG CAO THẮNG TỔ CHỨC BIÊN CHẾ LẠI LỰC LƯỢNG I. Về tổ chức Nghĩa quân chia ra làm 15 quân thứ tức là 15 quân khu. Quân khu đóng ở đâu thì lấy tên ở địa phương ấy. 1. Quân thứ huyện Hương Khê: Khê thứ, do Nguyễn Thoại chỉ huy. 2. Quân thứ huyện Can Lộc: Can thứ, do Nguyễn Trạch, Nguyễn Chanh chỉ huy. 3. Quân thứ huyện Lai Thạch: Lai thứ, do Phan Đình Nghinh chỉ huy. 4. Quân thứ tỉnh Quảng Bình: Bình thứ, do Nguyễn Thụ chỉ huy. 5. Quân thứ huyện Hương Sơn: Hương thứ, do Nguyễn Huy Giao chỉ huy. 6. Quân thứ phủ Diễn Châu: Diễn thứ, do Lê Trọng Vinh chỉ huy. 7. Quân thứ phủ Anh Sơn: Anh thứ, do Nguyễn Mậu chỉ huy. 8. Quân thứ huyện Nghi Xuân: Nghi thứ, do Ngô Quảng chỉ huy. 9. Quân thứ làng Trung Lễ phủ Đức Thọ: Lễ thứ, do Nguyễn Cấp chỉ huy. 10. Quân thứ huyện Cẩm Xuyên: Cẩm thứ, do Huỳnh Bá Xuyên 11. Quân thứ huyện Thạch Hà: Thạch thứ, do Nguyễn Huy Thuận chỉ huy. 12. Quân thứ huyện Kỳ Anh: Kỳ thứ, do Võ Phát chỉ huy. 13. Quân thứ huyện Lệ Thủy: Lệ thứ, do Nguyễn Bí chỉ huy. 14. Quân thứ tỉnh Thanh Hóa: Thanh thứ, do Cầm Bá Thước chỉ huy. 15. Quân thứ làng Tình Diệm núi Đại Hàm: Diệm thứ, do Cao Đạt chỉ huy. II. Quân số Các quân thứ lớn hay nhỏ là do tầm quan trọng từng vùng, trung bình mỗi quân thứ có từ 100 đến 500 nghĩa quân, giữa các quân thứ thường xuyên liên lạc với “tổng hành dinh” để nhận tin tức và mệnh lệnh chiến đấu. Mỗi quân thứ phải tuyển chọn từ 20 đến 30 kiện nhi cung cấp cho “tổng hành dinh” tổ chức thành các đơn vị cơ động hỗ trợ cho các quân thứ khi khẩn cấp và bảo vệ “tổng hành dinh”. Đơn vị “tổng hành dinh” Nguyễn Mục chỉ huy. Việc bố trí lực lượng từ Quảng Bình ra Thanh Hóa có tính chất vừa cơ động yểm trợ cho nhau vừa làm cho thực dân phải phân tán lực lượng chống đỡ. Ngoài lực lượng cơ động của tổng hành dinh, các quân thứ đều có những đơn vị cơ động nhỏ chia đi nhiều nơi chặn đánh các cuộc hành quân, quấy rối bức rút đồn địch, khi địch hành quân càn quét vào căn cứ các quân thứ thì lực lượng cơ động luồn về hậu phương địch đánh phá các điểm hiểm yếu làm các quân địch hoang mang phải rút lui về giữ các đồn bốt và căn cứ. III. Về trang bị Toàn thể nghĩa quân 15 quân thứ trang bị y phục giống nhau, vũ khí dùng súng của xưởng quân khí nghĩa quân chế tạo và vũ khí tước được của địch ở các trận đánh. IV. Về Lương thực Lương thực là vấn đề cốt lõi của nghĩa quân. Nhờ sự giúp đỡ của nhân dân, vấn đề lương thực của nghĩa quân được giải quyết hết sức chu đáo. Nhân dân ở địa phương nào có bổn phận cung ứng lương thực cho quân thứ ở nơi ấy. Hàng năm ngoài việc nộp thuế nghĩa vụ cho Nhà nước, nhân dân tự nguyện nạp thêm mỗi mẫu ruộng một đồng bạc cho nghĩa quân để có ngân quỹ hoạt động lâu dài. V. Về kho tàng chứa lương thực Từ Vụ Quang đi Trùng Khê, Trí Khê, cứ vài dặm lại có một cái hố chu vi khoảng 30 trượng, đào sâu xuống đất rồi chất củi đốt cho các thành và đáy hố khô cứng như sành sứ nung có độ dày hàng tấc, coi như những cái chum khổng lồ, thóc đổ đầy được đậy kín bằng những tấm ván loại gỗ tốt theo kiểu mui rùa, bảo đảm khi mưa nước không tràn vào. Trên mặt các hố lương thực được ngụy trang hết sức cẩn thận, chỉ có những người trực tiếp xây dựng hố đó mới biết được. Rải rác chung quanh có dụng cụ xay giã. Ngoài số lương thực chứa dự trữ trong các kho đặc biệt này, dân chúng còn trực tiếp cung cấp đầy đủ cho đại đồn “tổng hành dinh” Vụ Quang. Sang năm 1889 là giai đoạn quyết liệt nhất của 10 năm kháng chiến. Đến đây nghĩa quân Hương Khê đã được tổ chức chu đáo về tinh thần cũng như vật chất. Nhân dân bốn tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình tin tưởng ủng hộ. Thực dân Pháp tỏ ra lo ngại, hoang mang, chúng lập ra nhiều đồn bốt để canh phòng, ngăn chặn hoạt động của nghĩa quân. Chung quanh vùng Hương Khê chúng lập 20 đồn, mỗi đồn có 30 tên lính tập và một viên chỉ huy người Pháp. Địch dùng thủ đoạn ác độc “dùng người Việt giết người Việt” do Nghị định ngày 11-2-1886 của tướng Warnet và Nghị định ngày 6-8-1886 của Toàn quyền Paul Bert. Sau khi hai Nghị định này ban hành, các đơn vị ngụy binh (lính khố xanh) được thành lập ở các miền chúng chiếm đóng nhằm đàn áp phong trào văn thân ở các nơi và Trung Kỳ. Tháng 11-1889, Thượng Hội đồng Đông Dương trao hẳn việc đàn áp các cuộc khởi nghĩa cho lính khố xanh. Paul Bert, tên toàn quyền Pháp sau này đã thừa nhận rằng: đánh chiếm nước Nam là công lao quân đội viễn chinh Pháp nhưng dẹp yên các cuộc khởi nghĩa văn thân là nhờ lính tập kể cả khố đỏ, khố xanh và khố vàng” Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Tám, 2008, 12:59:35 pm NHỮNG TRẬN ĐÁNH MỞ MÀN CỦA NGHĨA QUÂN HƯƠNG KHÊ Sau khi củng cố lực lượng, ổn định tổ chức, được sự cổ vũ của toàn dân, nghĩa quân bắt đầu tác chiến. Năm 1889 Ngày 1-9-1889, Đề Niên lập hai đồn tại Mỹ Hoà đánh thắng trận càn của đơn vị lính tập do tên Thiếu úy De Ninort chỉ huy. Nghĩa quân diệt được 16 tên lính khố xanh và một tên Lãnh binh ngụy. Tuần phủ Hà Tĩnh và tên Giám binh Jacquet phải mang nhiều binh lính đến cứu nguy. Ngày 15 và 16-12-1889, nghĩa quân đột kích đồn Dương Liễu gây cho địch nhiều thiệt hại. Cuối tháng 12-1889, nghĩa quân đánh đồn Hương Sơn do tên Thiếu úy Lambert và Roty chỉ huy đóng giữ. Năm 1890 Tháng 3-1890, đồn Hương Sơn bị tấn công một lần nữa, địch hoang mang lo sợ xin viện binh ứng cứu. Quân địch tăng cường càn qua huyện La Sơn và Hương Sơn. Đề Thắng và Phan Trọng Mưu anh dũng chống cự. Ở Hương Khê các ông Bang Trúc và Hiệp Quản Diệp tăng cường hoạt động, quân địch buộc phải rút lui. Ngày 13-4-1890, Đốc Chanh và Đốc Trạch phục kích giặc ở làng Hốt, nhiều lính khố xanh và lính dõng bị tiêu diệt. Đêm 26 và 27-5-1890, Cai khố xanh tên là Hép ở đồn Trường Lưu ra hàng nghĩa quân, chỉ đường cho quân ta đánh đồn này. Đêm 28-5 nghĩa quân công đồn ráo riết, hai tên Thiếu úy Devogh và Trouve bỏ đồn chạy, quân ta rút về căn cứ. Ngày 29-5 chúng tăng viện chiếm lại đồn. Đêm 31-5, đồn Trường Lưu lại bị ta tấn công, địch đóng cửa đồn không dám chống cự, nghĩa quân chuyển sang đánh đồn Hương Sơn. Đêm 12-6-1890, một toán lính khố xanh do Cai Lưu chỉ huy từ Napé về Hà Trai bị Đề Đạt phục kích, tiêu diệt. Đêm 3-6-1890, nghĩa quân đánh đồn Hương Sơn và bao vây đồn Linh Cảm. Ngày 4-6-1890, Giám binh Lambert bị đánh bại khi đi càn quét ở phía trên Hương Sơn vội vàng rút chạy. Ngày 26-6-1890, hai Thiếu úy khố xanh và Lambert bị chặn đánh tại Gia Định, Đông Tài và làng Hót. Địch rút chạy, nghĩa quân đánh đồn Trường Lưu lần thứ tư. Đêm 28 rạng ngày 29-6-1890, nghĩa quân đánh địch ở hai làng Trung Lễ và Thượng Ích, giặc thiệt hại nặng nề và rút chạy. Sau đó địch cho quân về đốt phá hai làng này. Ngày 20-7-1890, đồn Linh Cảm bị nghĩa quân tấn công, tên Thượng tá ngụy đến tiếp cứu bị nghĩa quân phục kích chặn đánh tiêu diệt. Phía nghĩa quân Đội Trạc và Cai Hẹp bị thương. Đêm 21-7, nghĩa quân đánh đồn Quỳ Châu, do điều tra không kỹ, nghĩa quân thất bại. Lãnh Thiệt hy sinh. Giặc do thám biết tình hình nghĩa quân do Đề Mậu chỉ huy ở vùng Cây Chanh, Đồn Cốc. Công sứ Nghệ An là Luce tổ chức bao vây đánh Đề Mậu. Quân địch bao vây bốn mặt, Đề Mậu chỉ huy nghĩa quân vừa đánh, vừa theo đường bí mật rút lui. Ngày 2-9-1890, quân địch từ Hà Tĩnh về Kỳ Anh dồn lực lượng đi càn quét bị Đốc Chanh phục kích ở Cẩm Xuyên. Ngày 14-9-1890, nghĩa quân chặn đánh quân Lambert tại làng Xuân Liễu cách thị xã Hà Tĩnh 14 km. Tháng 10-1890, nghĩa quân hai huyện Hương Khê và Hương Sơn hợp với quân của Đốc Chanh đánh đồn Nam Huân. Cuộc chiến đấu kéo dài năm ngày từ 20 đến 25-10 tại các làng Gia Hanh và làng Hốt cùng các vùng phụ cận. Tháng 12-1890, địch điều thêm quân đánh vùng Trại Tháp cách Nam Huân 6 km. Nghĩa quân của Mai Văn Vinh đánh đồn Linh Cảm và chống trả quyết liệt cuộc càn quét của địch, gây cho chúng nhiều thiệt hại buộc chúng phải rút về căn cứ. Đây là giai đoạn nghĩa quân hoàn toàn chủ động chiến trường tại các huyện Thanh Chương, Hương Sơn, La Sơn, Hương Khê. Năm 1891 Ngày 2-2-1891 Bang biện ở Vinh đánh úp đơn vị lính tập di chuyển từ Nam Huân về Nghệ An. Địch bị thiệt hại nặng nề. Từ ngày 2 đến ngày 9-3-1891, Giám binh Boudon chỉ huy càn quét từ Tri Bản đến Quỳ Hợp và kéo vào Hương Sơn. Nghĩa quân bí mật phục kích ở Thiều Thôn đánh địch giải thoát được đoàn tù binh của ta do Thiếu úy Hugnit áp giải từ Nam Huân về Linh Cảm. Trận đánh kéo dài bốn giờ đồng hồ. Hugnit thoát chết, còn Boudon từ Truông Vắt, Trại Tháp về đến Linh Cảm thì bị tấn công. Trong khi đó, ngày 2 đến 5-3, Đốc Đốp và Bá hộ Thuận tấn công quân của Lambert ngay gần tỉnh lị Hà Tĩnh. Ngày 28-3-1890, Đề Thanh đánh quân của Thiếu úy Robert tại Thượng Bổn. Đầu và cuối tháng 4 nghĩa quân tiêu diệt được một toán lính khố xanh khi chúng kéo đến càn quét và nghĩa quân bao vây đồn Đức Thọ. Tháng 6-1891, Boudon bị nghĩa quân đánh úp phải bỏ đơn vị chạy tháo thân. Ngày 15-7-1891, Lãnh binh Dương Lê đánh nhau với quân Thiếu úy Duravisean. Trước các hoạt động lẻ tẻ nhưng liên tiếp của nghĩa quân, địch đã cho Giám binh Boudon, Hugnit, Bourgeois, Focher, Magistris, Margnet và Robert là những sĩ quan trấn đóng các vùng Linh Cảm, Chợ Bộng, Tri Bản (Hà Tĩnh) mở cuộc càn quét rộng lớn từ 1-9-1891 ở khắp nơi nhưng nghĩa quân vẫn đủ sức cơ động chống trả làm tiêu hao nhiều sinh lực của địch. Ngày 19-11, Duravissean, Magistris và Montignean đem quân đến Tràng Sim bị nghĩa quân đánh kịch liệt hàng giờ đồng hồ, gây cho địch nhiều thiệt hại rồi nghĩa quân chủ động rút an toàn về Vụ Quang. Ngày 19-12, Đề Thắng đem quân đi đánh địch ở Lương Điền. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Tám, 2008, 07:54:11 pm Năm 1892 Ngày 7-3-1892, nghĩa quân do Bá hộ Thuận chỉ huy đánh đồn Trung Lễ bắt được hai tên Bá hộ phản động giam tại Lạc Hà, đánh úp đồn huyện Thạch Hà bắt sống viên tri huyện. Cũng trong thời gian này Cao Thắng cho quân đóng giả lính khố xanh bắt tuần phủ Đinh Nho Quang lúc này giữ chức Tiễu phủ Quân vụ huyện Hương Sơn tại nhà riêng vì Đinh Nho Quang đã viết thư tố cáo và nói xấu Phan Đình Phùng với Pháp. Nhưng Phan Đình Phùng không sát hại mà bắt nộp cho nghĩa quân sáu ngàn đồng bạc rồi giữ lại bản Đồn. Việc bắt Đinh Nho Quang đã làm cho bọn việt gian hoảng sợ, hoang mang. Mấy tháng đầu năm 1892, tên Công sứ Damade được lệnh mở cuộc càn quét lớn vào khu Tràng Sim là căn cứ nghĩa quân Đề Thắng. Lính khố xanh Hà Tĩnh được huy động tối đa kéo vào vùng giữa Ngàn Phố và Sông Cả rồi tiến vào rừng Tràng Sim. Nghĩa quân chia lực lượng làm hai phần: một phần ở lại chống càn quét, một phần luồn về hoạt động gần tỉnh lị Hà Tĩnh và các phủ huyện lân cận. Ngày 2-3-1892, địch đánh vào Tràng Sim, Đinh Nho Quang và Cử Nhan được giải thoát, nghĩa quân lập kế cho người báo với viên chỉ huy Hugnit chỗ ở của Bá hộ Thuận tại Kỳ Anh và Nam Huân. Hugnit lập tức đem quân đến vây bắt. Khi đến nơi thì chỉ thấy đồn không nhà trống. Tràng Sim được an toàn. Hugnit lọt vào vòng vây của nghĩa quân. Tên Thiếu úy Briscout vội đem quân từ Kỳ Anh đến cứu cũng bị nghĩa quân phục kích đánh chặn. Sau hai giờ kịch chiến, địch thiệt hại nặng nề, Briscout chạy tháo thân về đồn Kỳ Anh. Còn Hugnit mãi sau mở được vòng vây chạy về đồn Voi lại bị chặn đánh, sau nhờ viện binh cứu thoát. Như vậy là chiến dịch càn quét của đạo quân Damade sau hai tháng tưởng sẽ nhấn chìm được nghĩa quân nhưng chúng đã bị nhiều tổn thất, đến cuối tháng 4-1892 phải kéo quân về căn cứ. Ngày 8-6, lính khố xanh và lính dõng đến chợ Hương Sơn cách đồn Ngụy Giang chừng 1km thì bị phục kích. Nghĩa quân lại bí mật về làng Trung Lễ, Đông Khê và Văn Lâm trừng trị một số việt gian ác ôn, giết tên Hiệp quản ngụy tại đồn Đông Khê. Trưởng đồn Linh Cảm đem quân đến cứu bị phục kích ở Văn Lâm. Quân địch ở Nam Huân và Tri Bản đến tăng viện cho Linh Cảm cũng bị nghĩa quân chặn đánh cho tan tác dọc đường. Tối 18-6, toán quân vận lương của nghĩa quân ở Hà Tĩnh đánh nhau với địch, trưởng đồn Robert đưa quân đến trợ chiến tại Truông Vắt thì nghĩa quân lại tiến đến bao vây đồn Nam Huân làm cho tên chỉ huy De Soulages, Robert và Hugnit mất thế chủ động phải xin gấp viện binh. Như vậy, trong các năm 1889, 1890, 1891, 1892 nghĩa quân liên tiếp chủ động tấn công địch trong hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Địch tổ chức nhiều cuộc càn quét nhưng vẫn không ngăn nổi hoạt động của nghĩa quân. Chúng cho bọn việt gian, thám báo thường xuyên đi sâu vào các vùng nghĩa quân đóng giữ. Có nguồn tin cung cấp cho địch là Phan Đình Phùng với nhiều tướng lĩnh và quân sĩ đang đóng tại căn cứ Hội Trung, Cao Đạt đóng tại La Sơn, Bá hộ Thuận đóng ở Trại Chè, Đốc Chanh đóng ở Thiều Thôn. Ngay lập tức chúng lập kế hoạch tiến đánh Trại Chè của Bá hộ Thuận để đánh lạc hướng nghĩa quân rồi bất ngờ mang đại quân đánh thẳng vào Hội Trung tiêu diệt nghĩa quân ở Hữu ngạn Ngân Sơn nhằm bắt sống Phan Đình Phùng. Từ 5 đến 9-8-1892, các tên chỉ huy Hugnit, Bourgeois, Le Pare và Lãnh binh Trọng chỉ huy quân càn quét từ Hà Tĩnh đến Trại Chè theo ba mũi: - Thiếu úy Hugnit và Focher đưa 80 lính khố xanh đến Hương Khê. - Robert và Bourgeois đưa 60 lính tập đến Trạc Cuội Hương Sơn. - Lambert cùng Thiếu úy Crénon và Antariani đem 50 lính theo đường vòng đến Hương Khê. Cả ba mũi quan tạo thành một gọng kìm, lấy giờ G là 21 giờ đêm 12-8-1892 đồng loạt tấn công. Nhưng do địa bàn hiểm trở và sự cảnh giác cơ động của nghĩa quân, công tác điều tra, trinh sát của địch không chính xác, lực lượng huy động cho cuộc hành quân ít, đội hình bị kéo dài tạo điều kiện cho nghĩa quân phục kích đánh chặn. Thực ra, lực lượng nghĩa quân lúc này đã có mặt tại các phủ huyện, liên lạc giữa các đơn vị với nhau hết sức chặt chẽ. Ngoài việc chống càn quét nghĩa quân còn có thể chuyển nhanh từ thế thủ ra thế công. Chủ tướng Phan Đình Phùng thường xuyên theo dõi, nghiên cứu nắm được mọi tính toán của kẻ địch. Đúng giờ G, 21 giờ đêm 12-8 Robert đánh vào tiền đồn của nghĩa quân, đến sáng 13-8 thì tiến sâu vào rừng để lùng sục nhưng không gặp lực lượng nào. Bất ngờ, 20 giờ đêm 13-8 nghĩa quân phản công mãnh liệt, tiêu diệt 16 lính địch, đánh bị thương 15 tên, một số tên sa vào hố chông và bẫy chặt. Bọn địch phải vội vàng rút quân về căn cứ. Đặc biệt là trong lúc địch đang dàn quân càn quét căn cứ nghĩa quân Khê Thượng, Hương Khê, Hương Sơn thì đêm 23-8-1892, Bá hộ Thuận được lệnh của Phan Đình Phùng bí mật đem quân đến sát thị xã Hà Tĩnh, một toán quân nghi binh đánh vào phố xá gây náo động, thu hút sự chú ý của địch, để cho hai cánh quân lớn tấn công ráo riết vào trại khố xanh và nhà lao Hà Tĩnh gây cho địch nhiều tổn thất và giải phóng được 70 nghĩa quân đang bị chúng giam giữ. Bọn địch nghe tin nghĩa quân tấn công thị xã Hà Tĩnh vội vàng thu quân đang càn quét các nơi rút nhanh về giữ các căn cứ ở đồng bằng. Nghĩa quân ung dung vận tải lương thực, chiến lợi phẩm về khu căn cứ an toàn. Từ đó, đến ngày 15-12-1892 mới có cuộc đánh nhau giữa nghĩa quân với bọn Robert và Bourgeois ở núi Quạt. Năm 1893 Tháng 2-1893, quân Pháp lại mang lính khố xanh và linh dõng đi càn quét dãy núi Ngàn Trươi (Vụ Quang) và Truông Vắt. Chỉ huy các đạo quân là bọn Lambert, Maricini, Hugnit. Theo kế hoạch của chúng, ngày 7-1-1898 De Soulages đã đem quân về phía Bắc, xuất phát từ Khiêm Ích nhưng ở đây chúng chỉ toàn gặp lều trại trống vắng. Hugnit từ Tràng Sim đi về phía Nam đến Khê Thượng bị quân ta chặn đánh, không làm sao ra khỏi địa điểm này đành phải mở vòng vây quay về Hoà Duyệt. Ngày 23, Lambert tiến vào Khe Ngọt bị nghĩa quân phục kích chặn đánh bị thương phải ngưng lại. Còn tên chỉ huy Bourgeois mãi đến ngày 21 vẫn không tiến nổi, vội liên lạc với Hugnit và ngày 6-2-1893 chúng bị nghĩa quân tấn công tiêu diệt 20 tên và nhiều tên khác bị thương. Chúng phải rút lui. Ngày 29-3-1893, Đề Thắng đánh thiệt hại quân của Bourgcois ở Mỹ Đức rồi rút an toàn về Trại Chè. Đầu tháng 4, Đề Thắng đem quân đánh nhau với Robert và Bourgeois ở Mỹ Duệ một lần nữa. Cuối tháng 4, tên Hugnit được thăng Giám binh giữ chức chỉ huy trưởng vùng Hương Khê, Hương Sơn bèn xuất quân đánh vào Trại Chè thì Phan Đình Phùng cho nghĩa quân luồn về đồng bằng tấn công các đồn Trung Lương, Kim Chúc ở Can Lộc, đồn Hương Khê và nhiều căn cứ trong huyện Nghi Xuân - Hugnit vối rút quân về bảo vệ các căn cứ đang bị uy hiếp. Từ tháng 5 đến tháng 7, Đề Nam, Đốc Trạch quấy phá địch dữ dội theo chiến thuật “địch đi ta đến, địch đến ta đi”, tức là tránh gặp địch để đánh địch những lúc sơ hở và bất ngờ làm cho địch hoang mang, bối rối. Như vậy cuộc khởi nghĩa Hương Khê khởi đầu từ cuối năm 1885 đến 1893 đã 8 năm. Trải qua bao gian nan, vất vả, vừa đánh, vừa xây dựng lực lượng, khi thuận lợi, khi khó khăn, nghĩa quân đã trưởng thành nhiều mặt. Liên tiếp những năm 1889-1890-1891-1892-1893, các tướng sĩ đã nắm vững yếu tố nhân hòa, địa lợi để chống các cuộc càn quét lớn của địch và lợi dụng tình thế nghĩa quân đã chuyển nhanh từ thế thủ sang thế công, chủ động tấn công địch hàng trăm trận, có trận thắng lợi rất vẻ vang. Nhưng lúc này do triều đình phong kiến đầu hàng, thỏa hiệp, thực dân Pháp đã đặt được bộ máy thống trị khắp cả nước, một hệ thống đồn bốt áp sát vào các căn cứ nghĩa quân. Còn nghĩa quân thì vẫn cơ động đánh địch, chống trả quyết liệt các cuộc càn quét nhưng địa bàn càng ngày càng bị thu hẹp và lùi sâu vào trong rừng. Việc tiếp tế lương thực ngày càng gặp khó khăn. Các quân thứ ở Quảng Bình, Thanh Hóa mất dần liên lạc, việc ứng cứu nhau kém dần hiệu quả. Cao Thắng nghĩ đến tương lai của cuộc khởi nghĩa, đề xuất với Phan Đình Phùng phải có những trận đánh lớn về đồng bằng, mở rộng địa bàn đất đai và dân cư, nếu không nghĩa quân ngày càng hao mòn thu hẹp, lương thực khó khăn sẽ và tự bị tiêu diệt. Phan Đình Phùng từ lâu cũng đã nhận thấy cứ quanh quẩn trong rừng núi của bốn tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình mà không ra được đồng bằng cũng là tự thất bại rồi, nếu tồn tại thì lâu dài cũng trở thành đội quân “lục lâm thảo khấu” mà không đạt được mục đích sự nghiệp. Sau khi phân tích, nhận rõ tình thế, Phan Đình Phùng chấp nhận kế hoạch cho Cao Thắng đem quân chủ lực đánh vào thành Nghệ An. Quân thứ các tỉnh nhất tề hoạt động để phân tán lực lượng địch. Thu giữ được thành Nghệ An thì các quân thứ khác cũng có điều kiện thu giữ các sở lỵ nơi mình đang hoạt động. Có thể coi đây là cuộc tổng phản công địch của nghĩa quân Hương Khê. Trận đánh quyết định sống hay là chết, để mở ra một tương lai xán lạn hay là để tự diệt một cách vẻ vang. Cao Thắng từ căn cứ Vụ Quang (Ngàn Trươi) đem 1.000 binh chia làm hai đạo tiến ra Nghệ An. Cao Thắng và Nguyễn Niên chỉ huy một đạo 500 quân làm nhiệm vụ tiên phong. Cao Nữu chỉ huy một đạo 500 quân làm nhiệm vụ hậu tập. Trên đường hành quân Cao Thắng đã đánh thắng và thu hồi được mấy đồn. Một số đồn nghe tin Cao Thắng chỉ huy tấn công đã tự động rút chạy. Đến đồn Nu Thanh Chương, Cao Thắng chia lực lượng tấn công. Trong trận đánh này Cao Thắng bị quân của Thiếu úy Phiến bắn bị thương. Và cuối cùng do vết thương quá nặng Cao Thắng hy sinh tại trận tuyến. Thế là kế hoạch tiến về đồng bằng tan vỡ. Tin Cao Thắng hy sinh đã làm cho Phan Đình Phùng chết lặng người hồi lâu và từ đó ông tiên lượng sự khó khăn của cuộc khởi nghĩa trong những năm tiếp theo. Sau khi Cao Thắng hy sinh, lực lượng nghĩa quân ngày càng hao mòn, lương thực ngày càng thiếu thốn, địa bàn hoạt động ngày càng bị thu hẹp. Việc thông tin liên lạc và ứng cứu cho nhau giữa các quân thứ khó khăn dần, có quân thứ đã bị mất liên lạc hoàn toàn. Địch dùng chính sách chiêu hàng, phái Khâm sai đại thần Hoàng Cao Khải vốn là bạn học cùng quê hương với Phan Đình Phùng thực hiện chính sách này. Hoàng Cao Khải dùng đủ mọi lý lẽ tình cảm viết thư khuyên Phan Đình Phùng hạ khí giới trở về với triều đình sẽ được giữ nguyên quan tước bổng lộc. Nhưng Phan Đình Phùng đã kiên quyết thà chết không hàng địch, từ chối thẳng bức thư Hoàng Cao Khải. Kế hoạch dụ hàng thất bại, bọn Pháp lại dùng chính sách quân sự tập trung lực lượng đánh mạnh vào lực lượng nghĩa quân. Nhưng nghĩa quân vẫn chủ động tấn công quân địch. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Tám, 2008, 07:56:43 pm Năm 1894 Ngày 1-3-1894, nghĩa quân đánh vào đồn chợ Phố và hai hôm sau nhử địch đến một làng ở gần đó để phân tán lực lượng tạo điều kiện cho đơn vị bạn tấn công. Ngày 4-3-1894, nghĩa quân lại tấn công địch, cùng ngày tên chỉ huy Bricout bị nghĩa quân chặn đánh trên đường hành quân. Ngày 29-3-1894, Đốc Bình và Nguyễn Bảo tấn công đồn Nu giết được Thiếu úy Phiến, tên việt gian đã chỉ huy quân ngụy bắn chết Cao Thắng. Ngày 31-3-1894, Bá hộ Thuận mở cuộc tập kích vào thị xã Hà Tĩnh, một lần nữa nhằm thực hiện lại kế hoạch cũ của Cao Thắng nhưng kết quả thu được không nhiều. Luôn ba tháng 4, 5, 6-1894, nhiều cuộc giao chiến diễn ra giữa các tướng lĩnh nghĩa quân là Phan Duy Cầm, Đốc Cơ, Đốc Trạch với toán quân De Soulages, Philippe của Pháp. Ngày 25-6 và đêm 12-7-1894 đồn Pháp ở Quỳ Hợp bị nghĩa quân tập kích. Ngày 14-7-1894, tên chỉ huy Pháp Rallier du Paty tấn công Bá hộ Thuận. Nghĩa quân chống trả quyết liệt, nhiều lính địch rơi vào hầm chông, trúng đạn, bị chết và bị thương cuối cùng phải rút lui. Cùng ngày tên Samaran mang quân đi càn quét ở phủ Diễn Châu và huyện Anh Sơn. Khi về gần tỉnh lị Vinh chúng đã bị nghĩa quân chặn đánh. Ngày 27-7-1894, tên chỉ huy Soulages bị đánh tại Đại Hàm. Y bị thương tháo chạy. Tháng 8-1894 có nhiều trận đánh tại Ngàn Cỏ và núi Mò Ho giữa quân bảo hộ do các tên Pháp Samaran, de Souclages, Gruault, Pallier du Paty, Focher cùng các tướng lĩnh nghĩa quân. Cuối năm 1894, nghĩa quân phải di chuyển tổng hành dinh sang Đại Hàm. Lực lượng nghĩa quân bây giờ đã yếu, giặc đánh thẳng vào Đại đồn. Hai bên giằng co nhau rất kịch liệt. Phan Đình Phùng đóng quân trên núi. Địch bao vây dưới chân. Núi này thuộc làng Tình Diệm là quân Diệm thứ ở vùng núi Đại Hàm do tướng Cao Đạt chỉ huy. Nghĩa quân có hơn 400 người, vũ khí có trên 200 khẩu súng, lương thực đang bị thiếu thốn. Quân địch có hàng ngàn vừa lính vừa dân phu phục dịch chiến trường. Địch vây chặt, tấn công ráo riết. Các đường tiến thoái của nghĩa quân bị bịt kín, Phan Đình Phùng trưng cầu ý kiến tướng sĩ. Cao Đạt và Nguyễn Mục cùng các nghĩa sĩ kiên quyết xin đánh. Phan Đình Phùng ra lệnh nổ súng vào đám quân đầu tiên của địch. Hai bên đánh nhau luôn 15 ngày liền. Nghĩa quân ở trên núi có thế đánh rất lợi. Địch tiến lên bao nhiêu bị ngã gục bấy nhiêu. Quân địch bị tổn thất nặng nề phải gọi viện binh, Phan Đình Phùng cho quân nghi binh rút khỏi Đại Hàm trở lại núi Quạt an toàn. Năm 1895 Tháng 1-1895, nghĩa quân lại từ núi Quạt rút về Vụ Quang định lập căn cứ tại một đỉnh núi hiểm trở. Nhưng đỉnh núi này đã bị địch chiếm đóng. Phan Đình Phùng chọn một địa điểm tương đối hiểm trở ở thung lũng Vụ Quang đóng quân. Trước trại nghĩa quân có con sông Vụ Quang nước chảy rất xiết. Phan Đình Phùng và các tướng lĩnh dự kiến thế nào địch cũng dò la và tấn công nên đã có phương án chủ động đề phòng trước. Phan Đình Phùng cùng các tướng lĩnh bàn phương án tác chiến, dùng kế “Sa nang úng thủy” của Hàn Tín đánh quân Sở ngày xưa bên Tàu. Nghĩa quân bí mật vào rừng chặt cây, xẻ ván, ngăn sông làm thác, cưa cây từng khúc vót nhọn hai đầu chất đống trong lòng sông. Một thời gian nước phần trên sông ứ đầy thành vực mà đoạn sông trước trại nghĩa quân nước cạn thấp dần. Như đã dự tính, quân lính Bảo hộ phát hiện ra đồn trại nghĩa quân liền tấn công ráo riết. Nhưng Phan Đình Phùng nắm được âm mưu của địch nên đã dời quân sang một thung lũng khác. Địch tấn công vào đồn trại nghĩa binh, khi tới nơi thấy toàn đồn vắng chúng cho rằng nghĩa binh đã sợ hãi bỏ chạy. Địch chủ quan lùng sục. Sáng ra trời còn sương mù, thấy dưới thung lũng có toán quân đang đánh trống phất cờ, bắn súng như muốn tấn công địch, quân Pháp lập tức dẫn quân tiến công nhằm bắt sống gọn toán quân ít ỏi này. Nghĩa quân vừa đánh, vừa rút. Quân Pháp đuổi riết. Ra bờ sông Vụ Quang, đến chỗ nước cạn, quân ta vứt hết cờ trống bỏ chạy sang sông. Quân Pháp cũng cho quân truy kích qua sông. Khi quân Pháp dồn hết ra giữa dòng sông thì bất ngờ nghe một tiếng pháo lệnh. Bộ phận canh gác đầu nguồn của nghĩa quân chặt dây, phá kè. Nước trên thác đổ xuống ào ào, nghĩa quân phục kích hai bên bờ sông bắn xuống quyết liệt. Nước sông chảy xiết, các khúc gỗ vót nhọn lao theo dòng nước tông thẳng vào quân Pháp. Quân Pháp bị ghìm chặt xuống lòng sông, vừa bị chết đuối, vừa bị trúng đạn và bị các khúc gỗ vót nhọn tông ngã. Một trận thảm bại chưa từng có của quân lính Bảo hộ. Ta thu được rất nhiều chiến lợi phẩm và vũ khí đạn dược. Đây là trận thắng oanh liệt giữa lúc nghĩa quân đang lâm vào cảnh vô cùng khó khăn. Ngày 17-1-1885, quân địch chuẩn bị cuộc phục thù ở núi Đại Hàm. Samaran đem quân càn quét dãy núi Truông Vắt. Chiều ngày 4-2-1885, Đốc Trạch bố trí phục binh quanh đồn Cao Khê. Viên tướng Samaran vô mưu xông thẳng vào trận địa của nghĩa quân một cách chủ quan, hai cánh quân của Đốc Trạch đánh ập lại. Samaran bị trúng đạn ngã gục tại trận địa. Ngụy quân lập tức tháo chạy, quân ta truy kích gây cho địch tổn thất nặng nề. Ngày 5-2-1895, Đề Đạt đánh tan một đơn vị khố xanh đang trên đường càn quét. Nghĩa quân Hương Khê thắng luôn mấy trận liền nhưng vẫn không cải thiện được tình thế, không làm chủ được chiến trường, vẫn bị quân địch bao vây kiềm toả. Ngày 20-1-1895, Haguet cho ngụy Phó quản Di đem một đội khố xanh đến đánh nghĩa quân ở làng Trại thuộc huyện Nghi Xuân. Từ đấy đến tháng 5-1895 nghĩa quân vẫn phải cơ động để bảo toàn lực lượng, cuộc sống của nghĩa quân ngày càng khó khăn. Ngày 10-5-1895, Marquet tấn công nghĩa quân của Phan Đình Nghinh ở Truông Vắt bị nghĩa quân đánh trả quyết liệt. Ngày 12-5-1895, Lý Võ cho quân tập kích đơn vị của Thiếu úy Daufès. Tháng 6-1895, có nhiều trận đánh giữa nghĩa quân Phan Đình Nghinh và Đề Đạt với quân của bọn chỉ huy Pháp Huguet, Fonre, Do Soulagces, Franit, Hugnit tại Truông Vắt và Công Khê. Tuy có tổ chức được các cuộc giao chiến chống càn quét và tấn công trực tiếp vào các đồn địch nhưng nghĩa quân mỗi ngày lại bị lún sâu vào thế bị động. Ngược lại, bọn Pháp lúc này đã đặt được ách bảo hộ khắp toàn quốc do triều đình Huế đã đầu hàng thỏa hiệp hoàn toàn nên có điều kiện tăng cường lực lượng bao vây, ép chặt nghĩa quân vào rừng sâu, núi hiểm. Tháng 7-1895, tên Nguyễn Thân lãnh chức Khâm mạng Đại thần đại diện cho bọn phong kiến Nam triều ra đánh dẹp nghĩa quân bốn tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình. Duvillier, Công sứ Nghệ An, làm tư lệnh ngụy quân bốn tỉnh, đốc suất 15 tên giám binh và 3.000 lính khố xanh mở cuộc tổng tấn công vào Hương Khê nhằm mục đích xoá sổ cuộc khởi nghĩa do Phan Đình Phùng lãnh đạo. Trong lúc này quân chủ lực Hương Khê cũng như các quân thứ bị chia cắt, rời rạc, các phương tiện giao thông, liên lạc bị gián đoạn, lương thực, vũ khí và quân số bị thiếu hụt không bù đắp được. Các đường tiếp tế bị phong toả, các địa phương trước đây thường xuyên cung cấp lương thực cho nghĩa quân bị vây ráp, khủng bố, có làng bị triệt hạ. Nhân dân hết đường tiếp tế lương thực cho nghĩa quân. Mỗi lần bị địch tấn công, nghĩa quân chỉ cơ động để bảo toàn lực lượng trong rừng núi từ dãy Giăng Màn sang núi Quạt rồi về lại Vụ Quang. Trong hoàn cảnh cấp bách này, Phan Đình Phùng do quá gian khổ, vất vả, thiếu ăn, mất ngủ, lo đại sự không thành đã lâm bệnh kiết lỵ nặng. Ngày 12-7-1895, một toán quân dân mang cá khô và muối gạo cho nghĩa quân bị tên De Soulages phục kích đánh cướp. Ngày 19-7-1895, Phó lãnh binh Hồ Lai bị bắt. Đề Mậu, Đề Vinh đóng quân ở Quỳ Châu, Diễn Châu và Anh Sơn định luồn về đồng bằng nhưng không nổi, họ bị vây đánh gắt gao. Stenger, Allier tập trung quân đội tại Thổ Hoàng để bắt Phan Đình Phùng vì giặc cho rằng lúc đó Phan Đình Phùng đang ở Vụ Quang. Khi chúng tràn đến thì nghĩa quân đã rút hết. Ngày 28-12-1895 Đình nguyên Phan Đình Phùng do bệnh quá nặng đã trút hơi thở cuối cùng tại căn cứ núi Quạt, thọ 49 tuổi. Trong hoàn cảnh giặc bao vây bốn phía, quân sĩ của Phan Đình Phùng vẫn bình tĩnh tổ chức tang lễ người chủ tướng long trọng, cẩn thận. Một cây gỗ vàng tâm được đục rỗng làm quan tài, đặt thi hài người chủ tướng vào, gắn kín, hạ xuống lòng đất núi Quạt. Sau đó một số tướng lĩnh của nghĩa quân đã ra hàng như Đốc Phương, Đốc Trạch, Nguyễn Duyệt, Đề Mậu, Phan Đình Nghinh, Phan Đình Phong, Phan Đình Cẩn, Phan Đình Trinh. Riêng Tôn Thất Hoàng, Hiệp Tuân, Phan Đình Thoại, Tôn Thất Định chiến đấu cho đến khi bị bắt. Đề Đạt, Nguyễn Mậu và một số khác rút sang Xiêm. Cuộc khởi nghĩa Hương Khê 10 năm đã gây cho giặc Pháp và quân triều đình nhiều tổn thất nặng nề đến đây cáo chung để đi vào lịch sử dân tộc Ngày 10 tháng 6 năm 2006 Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Tám, 2008, 08:02:14 pm PHẠM NHƯ THƠM1 BÀN VỀ CĂN CỨ ĐỊA CUỘC KHỞI NGHĨA HƯƠNG KHÊ DO PHAN ĐÌNH PHÙNG LÃNH ĐẠO Trong phong trào Cần vương kháng Pháp cuối thế kỷ XIX, có một cuộc khởi nghĩa được nhiều người biết đến và được nhiều nhà nghiên cứu lịch sử, quân sự quan tâm, đó là cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo. Theo chúng tôi sự quan tâm đặc biệt ấy không phải chỉ vì cuộc khởi nghĩa do một sĩ phu có tên tuổi lãnh đạo hay là cuộc khởi nghĩa kéo dài nhất (10 năm từ 1885 đến 1895), mà còn là bởi nó để lại một bài học vô giá. Đó là vấn đề chọn và xây dựng căn cứ kháng chiến. Như chúng ta đều biết, sau các hiệp định 1883, 1884 đất nước ta hoàn toàn rơi vào tay thực dân Pháp, một phong trào kháng Pháp bùng nổ và ngày càng lan rộng khắp Trung - Nam - Bắc. Phong trào ấy lại càng sôi nổi, mạnh mẽ khi Tôn Thất Thuyết đưa xa giá Hàm Nghi đến Sơn phòng Quảng Trị ra Chiếu Cần vương (13-7-1885) kêu gọi nhân dân đứng lên phò vua cứu nước, một trong những địa phương có phong trào Cần vương mạnh mẽ, sôi nổi là Hà Tĩnh với các cuộc khởi nghĩa của Lê Ninh ở Trung Lễ (Đức Thọ); Phan Đình Phùng ở Đông Thái (La Sơn); Đinh Văn Chất ở Kim Khê (Hương Khê); Nguyễn Trạch, Nguyễn Chanh ở Gia Hanh (Can Lộc); Ngô Quảng, Hà Văn Mỹ ở Nghi Xuân; Nguyễn Thoại ở Hương Khê, Nguyễn Thuận (Bá hộ Thuận) ở Truông Xoi (Thạch Hà); Huỳnh Bá Xuyên (Cẩm Xuyên). Nhưng nhìn chung các cuộc khởi nghĩa trên đều mang tính chất tự phát, cô lập, thiếu sự liên kết và không có sự chỉ đạo thống nhất. Phan Đình Phùng là người sớm nhận ra điều đó. Ngay từ cuối năm 1885 ông đã đưa nghĩa quân của mình về hội với nghĩa quân của Lê Ninh tại vùng núi Bạnh Sơn (Hương Sơn) dùng lối đánh du kích để chống lại các cuộc tấn công của địch, bảo toàn lực lượng. Biết rằng cuộc chiến đấu của mình là cô độc, lực lượng lại quá nhỏ không thể thắng được mà còn có thể bị tiêu diệt, năm 1887 ông quyết định giao quyền lãnh đạo nghĩa quân cho Cao Thắng, người trợ thủ đắc lực của mình để ra Bắc tìm cách bắt liên lạc với các cuộc khởi nghĩa nhằm tạo thế hỗ trợ nhau trong cuộc chiến tranh cứu nước. Trước khi đi ông căn dặn các tướng lĩnh của mình không nên ham đánh mà manh động, hãy tích cực xây dựng và phát triển lực lượng vững chắc để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài. Theo lời dặn của ông, Cao Thắng đã đưa nghĩa quân về làng Lê Động quê hương mình (nay là xã Sơn Lễ - Hương Sơn), hô hào vận động nhân dân tham gia ủng hộ nghĩa quân, rèn sắm vũ khí, tổ chức những cuộc đánh úp địch lấy vũ khí. Và cũng chính trong thời gian này “dưới sự chỉ đạo tài giỏi của Cao Thắng, nghĩa quân đã chế được súng trường kiểu 1874, kiểu súng mới nhất của Pháp lúc bấy giờ”2 để trang bị cho nghĩa quân. Qua hai năm xây dựng “đến năm 1889 trong doanh trại của Cao Thắng đã có 1.000 quân và trên 500 khẩu súng”3. Như vậy là lực lượng và trang bị của nghĩa quân đã khá mạnh, trong khi đó thì phần lớn các cuộc khởi nghĩa khác không chỉ ở địa bàn Hà Tĩnh mà cả ở các địa phương lại đang tan rã vì thất bại. Chính lúc đó Phan Đình Phùng sau việc liên lạc không mấy thành công đã trở về tiếp tục lãnh đạo phong trào. Với uy tín lớn và lòng yêu nước thiết tha của mình Phan Đình Phùng đã nhanh chóng quy tụ được hầu hết các cuộc khởi nghĩa, không chỉ riêng ở Hà Tĩnh mà cả ở Nghệ An, Thanh Hóa, Quảng Bình, đông đảo nhân dân khắp nơi kéo về gia nhập, ủng hộ nghĩa quân. Lực lượng nghĩa quân lớn mạnh nhanh chóng. Lúc này một vấn đề đặt ra là: xác định chỗ đứng cho nghĩa quân (Theo chúng tôi, lúc này vấn đề chỗ đứng mới được đặt ra vì lực lượng nghĩa quân đã lớn mạnh cần có căn cứ địa để đóng quân từ đó phát động chiến tranh). Phan Đình Phùng cùng bộ tham mưu của mình đã quyết định, chọn vùng thượng du hai huyện Hương Sơn và Hương Khê làm căn cứ kháng chiến và vùng thượng du Nghệ An - Hà Tĩnh làm địa bàn hoạt động chính bao quanh khu căn cứ. Đây là khu vực núi non hiểm trở, phía Bắc là vùng rừng núi Thanh Hóa, Nghệ An; phía Đông là dãy Thiên Nhẫn án ngữ đường từ đồng bằng lên; phía Nam là dãy Truông Vắt chạy dài đến tận Hoành Sơn; phía Tây là dãy núi Trường Sơn trùng điệp (dân ở đây thường gọi là dãy Giăng Màn). Chính vùng núi này khi xưa các vua Trần đã đóng để chống quân Nguyên, Lê Lợi đã thủ hiểm hơn sáu năm ròng để rồi tiến đánh giặc Minh thắng lợi. Với địa bàn rừng núi lại trải dài như vậy nghĩa quân không những hạn chế được khả năng cơ động, tập trung, chỗ mạnh của địch về trang bị kỹ thuật nếu chúng tấn công, lại phát huy cao độ được sở trường của mình là đánh du kích, phục kích, vận động tiêu hao sinh lực địch. Và khi lực lượng mạnh có thể nhanh chóng phát triển xuống đồng bằng Nghệ Tĩnh hoặc tiến ra Thanh Hóa, Hòa Bình phía Bắc; Quảng Bình, Quảng Trị phía Nam. Thực tế những trận tập kích của nghĩa quân xuống vùng đồng bằng từ 1891 đến 1893, đặc biệt là trận tập kích vào tỉnh lị Hà Tĩnh (8-1892) và cuộc tiến quân về thành Nghệ An cuối năm 1893 đã chứng minh điều đó. Căn cứ chính của nghĩa quân được xây dựng tại vùng thượng lưu sông Lam với hai chi lưu là Ngàn Phố (huyện Hương Sơn) và Ngàn Sâu (huyện Hương Khê). Khu Ngàn Trươi nơi có dãy núi Vụ Quang (vùng giáp ranh giữa hai huyện Hương Sơn và Hương Khê) là khu trung tâm của nghĩa quân. Đó là một vùng rừng núi cực kỳ quanh co hiểm trở. Từ Ngàn Trươi có ba con đường độc đạo ra thị xã Hà Tĩnh, sang Lào, Xiêm và đến dãy Đại Hàm. Nhưng những con đường này cũng rất quanh co khúc khuỷu khi thì vượt núi cao, khi lại men theo những khu rừng lầy lội. Người ta nói rằng nếu không biết đường sẽ bị lạc vào những vùng lầy bùn sâu tới bụng4. Khu này xung quanh có núi cao bao bọc, trước mặt là các phụ lưu của sông Ngàn Phố và Vụ Quang như những chiếc hào tự nhiên bao bọc, che trở. Tại khu trung tâm Ngàn Trươi là xưởng chế tạo vũ khí, khu huấn luyện nghĩa quân và khu hậu cần lương thảo. Đại đồn của nghĩa quân được xây dựng trên dãy núi Vụ Quang. Để bảo vệ cho Đại đồn và Đại bản doanh Ngàn Trươi nghĩa quân đã cho xây dựng hàng loạt đồn trại với công sự kiên cố ở xung quanh và được bố trí thành từng phòng tuyến một. Nhìn chung đồn trại nghĩa quân đều dựa theo thế núi, sông, suối để vừa tiện chiến đấu, sinh hoạt, vận chuyển. Không những thế dọc theo vùng ven núi rừng từ Vụ Quang đến dãy Quỳnh Khê, Trí Khê dài gần một trăm dặm cũng được xây dựng liên tiếp các đồn trại kiên cố nhằm đánh chặn địch ngay từ bên ngoài nếu chúng tấn công căn cứ. Cùng với việc xây dựng khu Đại bản doanh, Phan Đình Phùng còn xây dựng các căn cứ Tràng Sim, Ngàn Phố, Sông Cả, Hội Trung và Ngàn Sâu để hỗ trợ cho căn cứ trung tâm. Đồng thời ông cũng ra lệnh cho các thứ quân xây dựng căn cứ kháng chiến ở địa phương để cùng phối hợp tác chiến thực hiện mục tiêu chiến lược là phân tán, tiêu hao sinh lực địch (thí dụ: Thanh thứ của Bá hộ Thuận lập căn cứ ở Trại Trê, Diệm thứ của Cao Đạt lập căn cứ ở Đại Hàm...). Mỗi quân thứ đều phải cử vài chục nghĩa quân đến Đại đồn Vụ Quang làm giao thông liên lạc, nhận những mệnh lệnh để chỉ huy, hành động cho thống nhất với kế hoạch chung. Ngoài các thứ quân, Phan Đình Phùng và Cao Thắng còn cho đặt những đồn trại rải rác khắp vùng thượng du Nghệ An, Hà Tĩnh để nắm tình hình địch và tiếp nhận đồ tiếp tế của nhân dân các nơi gửi đến ủng hộ nghĩa quân, phần lớn lương thực, trang bị, tiền của mua sắm vũ khí đạn dược, vật liệu chế tạo vũ khí đều do nhân dân đóng góp. Đông đảo nhân dân Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình đã chính thức nộp thuế cho nghĩa quân nhất là nhân dân xung quanh vùng căn cứ. Nghĩa quân quy định thóc gạo nhân dân đóng góp ủng hộ ở quân thứ địa phương nào thì để ở quân thứ một phần đủ dùng còn đưa lên Đại bản doanh làm kho dự trữ. Để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài vấn đề dự trữ lương thực được nghĩa quân đặc biệt quan tâm. Tại vùng căn cứ từ Đại đồn Vụ Quang đến Trùng Khê, Trí Khê cứ cách độ ba dặm nghĩa quân lại cho đặt một hố chứa lương. Mỗi hố chu vi tới 30 trượng đào sâu dưới đất, dùng củi đốt cho khô đất, đổ thóc xuống rồi ngụy trang lại. Đồng thời bên cạnh mỗi hố cũng được chôn theo một số dụng cụ xay giã cho tiện khi dùng. _______________________________________ 1. Phạm Như Thơm: Nghiên cứu viên, Viện Sử học. 2. Lịch sử Việt Nam, tập 2, Nxb Khoa học Xã hội Hà Nội, 1989, tr.75. 3. Tài liệu tham khảo cách mạng cận đại Việt Nam. BNC Sử Địa Văn Hà Nội, 1955, tập 1, tr.70. 4. Tài liệu tham khảo lịch sử cận đại, sđd, tr.64. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Tám, 2008, 08:12:17 pm Vũ khí, đạn dược một phần do nghĩa quân tự chế tạo ra từ những vật liệu nhân dân quyên góp, một phần phải cử người qua Lào sang Xiêm mua về1. Xưởng chế tạo vũ khí Ngàn Trươi với hàng trăm thợ rèn đã góp phần quan trọng trong việc trang bị khí giới cho nghĩa quân. Trên đây là một vài nét phác họa về căn cứ kháng chiến của nghĩa quân Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo, từ đó chúng ta có thể rút ra mấy nhận xét sau: 1. Việc hình thành vùng căn cứ địa miền Tây Hà Tĩnh là bước phát triển tất yếu của cuộc khởi nghĩa Hương Khê. Cuộc khởi nghĩa do Phan Đình Phùng lãnh đạo nổ ra năm 1885 không phải tại Hương Khê mà tại làng Đông Thái huyện La Sơn (nay là xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ). Lúc đầu chỉ có vài trăm nghĩa quân đứng chân tại làng. Đầu năm 1886, mặc dù hội thêm nghĩa quân của Lê Ninh tại Bạch Sơn (thuộc dãy Đại Hàm), nhưng lực lượng nghĩa quân vẫn chưa được là bao, nên khi cụ Phan ra Bắc, Cao Thắng đã đưa nghĩa quân về làng để dựa vào dân phát triển lực lượng. Như vậy thời gian đầu do lực lượng quá nhỏ, địch chưa để ý đến, nghĩa quân còn có thể dựa vào dân làng để được phát triển lực lượng, xây dựng thực lực. Nhưng sau hai năm xây dựng và phát triển, lực lượng nghĩa quân đã khá mạnh, thanh thế nghĩa quân đã khá lớn và lại càng lớn mạnh khi cụ Phan từ Bắc trở về quy tụ được các cuộc khởi nghĩa trong vùng. Một mặt thì kẻ thù đã để mắt và tìm cách đàn áp, một mặt nghĩa quân cần có chỗ đứng để tiến hành cuộc chiến tranh lâu dài nếu không sớm muộn cũng bị địch tiêu diệt. Vì vậy sự ra đời của căn cứ địa là đòi hỏi khách quan và tất yếu của cuộc khởi nghĩa. 2. Chúng ta đều biết trong khởi nghĩa vũ trang nói riêng và trong chiến tranh giải phóng nói chung căn cứ địa có tầm quan trọng mang tính chiến lược. Nó trở thành điều kiện sống còn khi cuộc khởi nghĩa mới nổ ra và cả khi tương quan so sánh lực lượng giữa ta và địch còn quá chênh lệch nghiêng hẳn về phía địch. Bởi trước hết căn cứ địa là chỗ đứng chân của nghĩa quân để tập hợp, phát triển lực lượng tiến hành chiến tranh, về mặt này nó còn là nơi dự trữ cung cấp hậu cần cho nghĩa quân, đồng thời căn cứ địa cũng là nơi bảo toàn lực lượng là bàn đạp để tấn công kẻ thù. Không có căn cứ địa vững chắc thì không thể tiến hành cuộc kháng chiến lâu dài để cuối cùng giành thắng lợi. Lênin đã từng nói: “Trong chiến tranh ai có nhiều lực lượng hậu bị hơn, ai có nhiều nguồn lực lượng hơn, ai kiên trì đi sâu vào quần chúng nhân dân hơn thì người đó thu được thắng lợi”2. Một căn cứ địa vững chắc theo chúng tôi ít nhất phải đạt được hai yêu cầu cơ bản là địa lợi và nhân hòa. Địa lợi tức là nơi có vị trí, địa hình có lợi cho ta, bất lợi cho địch. Nhân hòa tức là nơi mà đại đa số nhân dân được giác ngộ, không sợ hy sinh hết lòng ủng hộ và tham gia kháng chiến. Trong khởi nghĩa vũ trang thông thường ở giai đoạn đầu bao giờ lực lượng của nghĩa quân cũng yếu hơn địch rất nhiều. Trong điều kiện hoàn cảnh như vậy, kinh nghiệm của ông cha ta là chọn những nơi hiểm yếu, nơi rừng núi hiểm trở làm căn cứ địa như: động Khuất Liêu của Lý Bôn, đầm Dạ Trạch của Triệu Quang Phục, rừng Lam Sơn của Lê Lợi... Thực tế các cuộc chiến tranh giải phóng và khởi nghĩa vũ trang ở Việt Nam đã chứng minh rằng rừng núi bao giờ cũng là căn cứ địa tốt nhất. Khi tổng kết nghệ thuật quân sự Việt Nam, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng đã từng viết: “Nông thôn rừng núi là căn cứ địa, hậu phương vững chắc nhất của cách mạng và chiến tranh cách mạng nước ta”3. Là một nhà khoa bảng yêu nước như Phan Đình Phùng, một nhà quân sự tài giỏi như Cao Thắng, các ông hiểu rõ dân tộc ta, cha ông ta đã lợi dụng rừng núi như thế nào để đánh giặc. Hơn nữa những kinh nghiệm của các cuộc khởi nghĩa như Ba Đình, Hùng Lãnh, Bãi Sậy và đặc biệt là những cuộc khởi nghĩa ngay chính trên quê hương đã giúp các ông nhận ra rằng với một kẻ thù mạnh, vũ khí tối tân như thực dân Pháp thì tốt hơn hết là áp dụng chiến thuật thủ hiểm ở rừng núi để bảo toàn, phát triển lực lượng, thực hiện chiến tranh du kích, phòng ngự kết hợp với tấn công tiêu hao và tiêu diệt sinh lực địch. Và các ông cũng nhanh chóng nhận ra rằng: vùng rừng núi Hương Sơn, Hương Khê với địa hình hiểm trở như đã trình bày ở trên sẽ là chỗ đứng chân có lợi cho nghĩa quân, hạn chế thế mạnh của địch, hơn nữa nhân dân ở đây vốn giàu truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm, chính họ đã từng hưởng ứng ủng hộ cuộc khởi nghĩa Ba Đình của Đình Văn Chất, Nguyễn Thoại và của chính nghĩa quân. Hiện thời vùng này đang là trung tâm sôi động nhất của phong trào kháng Pháp. Nếu làm chủ được nó nghĩa quân sẽ dễ dàng phát triển lực lượng không những xuống vùng đồng bằng Nghệ Tĩnh, liên kết phong trào khởi nghĩa trong vùng mà còn có thể phát triển ra địa bàn Thanh Hóa, Ninh Bình, vào Quảng Bình, Quảng Trị... Và trong trường hợp nguy cấp có thể rút qua Lào bảo toàn lực lượng. Có lẽ từ sự nhìn xa trông rộng ấy mà các nhà lãnh đạo cuộc khởi nghĩa đã quyết định chọn vùng này làm căn cứ của nghĩa quân. Từ nhận xét ấy chúng ta có thể tạm đi đến kết luận: Việc xây dựng căn cứ địa ở vùng rừng núi Hương Khê, Hương Sơn là sự kết hợp giữa nghệ thuật quân sự dân tộc với tầm nhìn chiến lược của các nhà lãnh đạo khởi nghĩa Hương Khê. Thực tế đã chứng minh rằng: căn cứ địa đã trở thành tấm lá chắn che chở bảo vệ nghĩa quân, ngăn bước tiến của giặc Pháp trong suốt gần 10 năm kháng chiến. 3. Xây dựng căn cứ địa hiểu theo nghĩa thông thường là dựa vào thế hiểm yếu để phòng thủ mà còn phải xây dựng cho mình một hệ thống công sự vững chắc khoa học để việc phòng thủ có hiệu quả hơn. Trong khu căn cứ của mình nghĩa quân Hương Khê đã được một hệ thống đồn trại, công sự khá vững chắc và kiên cố theo kiểu phòng tuyến nhưng lại triệt để lợi dụng địa vật như rừng, núi, sông, suối để vừa tiện sinh hoạt vừa phù hợp với cách đánh phục kích, khi vận động chiến linh hoạt của mình. Trong thực tế chiến đấu và ngay cả những trận chống càn ở khu căn cứ chúng ta rất ít thấy nghĩa quân cố thủ trong công sự để chống trả mà thường lợi dụng địa hình địa vật để cơ động tiêu diệt địch. Chính vì vậy mà qua nhiều đợt càn quét mặc dù thiệt hại nặng nề giặc Pháp vẫn không thể tiêu diệt được nghĩa quân. Trong căn cứ từ khu Đại bản doanh Ngàn Trươi - Vụ Quang lực lượng nghĩa quân được bố trí trên một diện rộng khiến địch không thể tập trung lực lượng để tiêu diệt, mà trái lại khi cần có thể hỗ trợ cho nhau. Trái lại khu Đại bản doanh lại được xây dựng như một cụm cứ điểm liên hoàn mạnh để bảo vệ cơ quan đầu não cuộc khởi nghĩa, bảo vệ khu hậu cần. Tại khu này ngoài những đồn trại ở các phòng tuyến xung quanh, riêng đại đồn Vụ Quang lúc nào cũng có từ 500 quân trở lên luôn sẵn sàng chiến đấu. Đây vừa là lực lượng mạnh để bảo vệ trung tâm, vừa là lực lượng cơ động chiến đấu. Những điều trên có thể cho phép chúng ta khẳng định việc xây dựng căn cứ địa và bố trí ở căn cứ thể hiện rõ tư tưởng chủ động tiến công của nghĩa quân Hương Khê, nếu ở một khía cạnh nào đó mang tính chất phòng ngự thì cũng không phải là phòng ngự bị động đơn thuần, tiêu cực mà là phòng ngự trên thế tiến công. Đây là sự thể hiện sinh động của đường lối, nghệ thuật quân sự chủ động, tấn công của nghệ thuật quân sự Việt Nam. 4. Cuộc chiến tranh giải phóng là cuộc chiến tranh trường kỳ, đòi hỏi phải có căn cứ địa vững chắc nghĩa là ngoài địa hình thuận lợi, mà còn phải có sự tiếp tế thường xuyên về nhân tài vật lực. Muốn vậy phải có nhân dân nhiệt tình ủng hộ và phải có đường tiếp tế thuận lợi. Căn cứ của nghĩa quân Hương Khê không những được nhân dân Hương Khê, Hương Sơn mà cả nhân dân Thanh - Nghệ - Tĩnh hết lòng ủng hộ. Họ tự nguyện đóng thuế cho nghĩa quân (1 đồng bạc một mẫu), trong lúc đang khốn khổ vì phải chịu chế độ sưu thuế nặng nề của thực dân Pháp. Họ đem cả mâm thau, nồi đồng để giúp nghĩa quân chế đạn, đúc súng. Ngày ấy nhân dân Nghệ Tĩnh thường truyền nhau câu vè: Bảo nhau đem của cải ra Gửi Lên sơn trại gọi là nuôi quân4 Những người không có của cải thì lên sơn trại giúp nghĩa quân xay giã thóc gạo. Hàng trăm thợ rèn từ khắp nơi kéo về giúp nghĩa quân chế tạo vũ khí. Ngay cả những lúc giặc Pháp đàn áp, khủng bố dã man những người ủng hộ hoặc bị chúng nghi là ủng hộ nghĩa quân họ vẫn không nản lòng, nhiều gia đình vẫn dám cho nghĩa quân trú tại nhà mình, che chở cho nghĩa quân mỗi khi bị càn quét. Vừa được nhân dân hết lòng ủng hộ, vừa trải dài trên diện rộng thuận tiện cho việc tiếp tế, chính vì vậy mà trại căn cứ nghĩa quân không những có đầy đủ lương ăn, áo mặc, vũ khí mà còn dự trữ để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài mặc dầu trong căn cứ có lúc nghĩa quân lên đến hàng ngàn người, trong khi thực dân Pháp đã dựng hàng chục đồn bốt để ngăn chặn. Một điểm đáng lưu ý là không những thuận lợi cho việc tiếp tế mà căn cứ nghĩa quân còn có đường thông sang Lào từ đó qua Xiêm, điều này đã giúp nghĩa quân rất nhiều trong việc mua sắm vũ khí. Công điện ngày 16-10-1895 của khâm sứ Trung Kỳ gửi Toàn quyền đã khẳng định điều đó. “Những chuyến đi lại của Cao Đạt giữa Trung Kỳ và Lào cũng như các mối quan hệ của hắn với các quan lại ở Xiêm đã có từ lâu. Những chuyến đi đó đã được mật báo nhiều lần trong những năm 1891 và 1894. Mục đích của những chuyến đi đó thường là mua sắm vũ khí đạn dược ở Nông Khay, La Khôn, và của người Xiêm”5. Chính nhờ vào sự giúp đỡ của nhân dân, vào căn cứ địa mà nghĩa quân mới có thể duy trì cuộc chiến đấu kéo dài suốt hơn mười năm trời. Vì vậy căn cứ địa của nghĩa quân Hương Khê không những là sự thể hiện tư tưởng dựa vào dân để chiến đấu của các lãnh tụ nghĩa quân, mà còn là sự thể hiện cao độ của tinh thần yêu nước, của truyền thông anh hùng, bất khuất chống giặc ngoại xâm của nhân dân Hương Sơn, Hương Khê nói riêng và Thanh - Nghệ - Tĩnh nói chung. 5. Điều khác biệt với nhiều cuộc khởi nghĩa trong phong trào Cần vương kháng Pháp cuối thế kỷ XIX là nghĩa quân Hương Khê không chỉ xây dựng cho mình một căn cứ địa duy nhất (như vậy rất dễ rơi vào thế cô lập) mà đồng thời với việc xây dựng căn cứ chính ở núi rừng Hương Sơn, Hương Khê nghĩa quân còn xây dựng nhiều căn cứ địa tại chỗ, mỗi quân thứ có một căn cứ của mình. Những căn cứ này được liên lạc thường xuyên với căn cứ chính qua những nghĩa quân làm nhiệm vụ liên lạc tại Đại bản doanh. Nhờ vậy mà hoạt động của toàn bộ nghĩa quân luôn có sự thống nhất hỗ trợ cho nhau, phân tán lực lượng của địch, khiến cho nhiều trận càn lớn của địch phải bỏ dở. Đây là nét độc đáo, sáng tạo của nghĩa quân trong nghệ thuật xây dựng căn cứ địa. Tuy vậy việc xây dựng căn cứ địa của nghĩa quân Hương Khê vẫn còn có những hạn chế nhất định bởi tầm nhìn chiến lược của các nhà lãnh đạo cuộc khởi nghĩa. Như chúng tôi đã trình bày căn cứ địa của nghĩa quân được xây dựng ở vùng rừng núi Hương Khê và Hương Sơn đây là một vùng núi non hiểm trở, dân cư thưa thớt có thể nói hầu như không có, việc tiếp tế tại chỗ không có mà hầu như từ bên ngoài vào. Nói là dựa vào dân nhưng thực tế là dân ngoài căn cứ vì vậy khi địch thực hiện âm mưu bao vây cắt đường tiếp tế thì lập tức nghĩa quân gặp khó khăn khó tránh khỏi bị tiêu diệt. Trong trường hợp ấy nghĩa quân phải tổ chức sản xuất tại chỗ nhưng nghĩa quân lại không làm được việc đó. Thực tế đã chứng minh khi thực dân Pháp tách được dân ra khỏi nghĩa quân thì nghĩa quân dễ dàng tan rã. Việc bố trí lực lượng nghĩa quân trong căn cứ lỏng, bị dàn trải tuy phân tán được lực lượng địch nhưng nếu địch tập trung lực lượng lại dễ bị tiêu diệt và nhất là không có điều kiện mở những cuộc tấn công có quy mô lớn. Thực tế trận đánh của nghĩa quân chỉ là những trận đánh nhỏ ở quy mô chiến thuật, chưa có trận nào mang ý nghĩa chiến lược. Khi cuộc khởi nghĩa đang trên đà phát triển, nghĩa quân chỉ ham đánh để tiêu hao, tiêu diệt địch mà không chú trọng đến việc mở rộng căn cứ địa xuống vùng có dân, nhất là xuống vùng đồng bằng nơi đông người nhiều của, phát động quần chúng biến khởi nghĩa vũ trang thành chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân để giành thắng lợi. Bởi “cách mạng không phải là cuộc đảo chính, không phải là kết quả của những âm mưu, cách mạng phải dựa vào cao trào cách mạng của nhân dân”6. Vì lẽ ấy cuộc khởi nghĩa không thể tạo cho mình một hậu phương vững chắc. Và nhất là từ cuối năm 1893 khi cuộc khởi nghĩa có chiều hướng đi xuống thì lẽ ra phải tập trung lực lượng phá vây để củng cố căn cứ địa thì các nhà lãnh đạo nghĩa quân lại quyết định đem quân tấn công thành Nghệ An làm đẩy nhanh quá trình tan rã của nghĩa quân. Những hạn chế trên đây theo chúng tôi là không thể tránh khỏi bởi những nhà lãnh đạo khởi nghĩa Hương Khê cũng như các cuộc khởi nghĩa khác của phong trào Cần vương cuối thế kỷ XIX đều là các sĩ phu, văn thân yêu nước không phải là những nhà quân sự. Hơn nữa do những hạn chế về tư tưởng giai cấp, về thời đại họ không thể giải quyết được đúng đắn yêu cầu giải phóng dân tộc và dân chủ của lịch sử Việt Nam hồi đó. Cho nên các cuộc khởi nghĩa Cần vương nói chung, Hương Khê nói riêng chỉ rầm rộ buổi đầu do nhiệt tình tham gia ủng hộ của nhân dân rồi dần dần tan rã mà không trở thành một phong trào dân tộc thực sự, không thể đi đến thắng lợi được. Mặc dù thất bại nhưng những kinh nghiệm về xây dựng căn cứ địa và những hạn chế của cuộc khởi nghĩa Hương Khê không những đã để lại cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm quý báu mà còn góp phần làm phong phú thêm nghệ thuật quân sự truyền thống Việt Nam. Những bài học ấy đã được Đảng và nhân dân ta phát huy triệt để trong Cách mạng tháng Tám, kháng chiến chống Pháp và đặc biệt là trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước sau này. Hà Nội, tháng 12 năm 1995 __________________________________________ 1. Theo cuốn Tài liệu tham khảo lịch sử cận đại Việt Nam, tập 1, thì cô Tám con gái ông Hoàng Phúc một lãnh tụ nghĩa quân là người có công nhất trong việc mua sắm vũ khí từ Xiêm về. 2. Lênin toàn tập, tập 80, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1971. tr.84. 3. Võ Nguyên Giáp: Chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1979, tr.215. 4. Vè quan Đình, theo Đặng Huy Vận - Hoàng Đình Bình: Những năm đầu của phong trào chống Pháp ở Nghệ Tĩnh và quá trình hình thành cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng - Nghiên cứu lịch sử số 133. 5. Hồ sơ: Phủ Thống sứ Bắc Kỳ (Renseignement sur les opérations de la colonne de police à NgheAn ét HaTinh). Cục lưu trữ số 55, tr.286. 6. Lênin: Chủ nghĩa Mác về khởi nghĩa vũ trang. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1966, tr.7. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 08 Tháng Tám, 2008, 11:15:28 pm NGÔ VĂN HOÀ1 XƯỞNG VŨ KHÍ CỦA NGHĨA QUÂN HƯƠNG KHÊ2 Đến giữa thế kỷ XIX, một tai họa đè lên vận mạng của dân tộc ta, đó là họa xâm lăng của đế quốc Pháp. Khác với những thế lực xâm lăng trước trong lịch sử các tập đoàn phong kiến Trung Quốc mà trình độ khoa học kỹ thuật cũng tương đương như dân tộc ta, lần này tư bản thực dân Pháp có một nền khoa học kỹ thuật hiện đại cao hơn hẳn nền khoa học kỹ thuật cổ truyền của dân tộc Việt Nam. Để bước đầu giải quyết mối mâu thuẫn trên đây, Phan Đình Phùng và các tướng lĩnh nhận thấy rằng muốn đương đầu và chiến thắng quân thù không những cần lòng hy sinh dũng cảm giết giặc mà còn phải có những lực lượng vật chất khả quan, có lương thực và nhất là vũ khí. Trong việc trang bị kỹ thuật cho nghĩa quân của các phong trào kháng Pháp hồi cuối thế kỷ XIX thì cuộc khởi nghĩa Hương Khê đã có những đóng góp lớn lao. Đó là việc chế tạo được súng trường kiểu 1874 của Pháp. Để tiếp cận vấn đề này, chúng tôi xin giới thiệu nguồn tài liệu ở trong nước và sau đó là nguồn tài liệu do thực dân Pháp viết để các bạn có điều kiện so sánh đối chiếu hòng dựng lại sự thực lịch sử này. I. GIỚI THIỆU NGUỒN TÀI LIỆU LỊCH SỬ TRONG NƯỚC Đại bản doanh của cuộc khởi nghĩa được đặt ở Vụ Quang và bao gồm nhiều khu căn cứ. Khu căn cứ Vụ Quang - Ngàn Trươi gồm nhiều đồn luỹ, trong đó có căn cứ đóng quân Làng trong cách thành 5km về phía Đông Bắc với bãi tập, xưởng rèn, kho lương. Khu đồn Cồn Bội cách thành 18km về phía Đông Bắc với các lò rèn vũ khí, hầm chứa vũ khí, lương thực. Khu căn cứ Thượng Bồng, Hạ Bồng gồm một hệ thống đồn luỹ, trong đó có rú Cồi (Khôi Sơn), rú Cọng (Điếm Sơn). Tại đây có một số lò rèn vũ khí do ông Phó Bích làm hiệp quản chỉ huy. Các lò rèn đều bố trí gần các khe suối để bảo đảm bí mật, như ở các khe Nhà Trận, rú Sui, rú Công, rú Cồi v.v... quân số làm việc rèn này lên đến hàng trăm người. Lò rèn Xá Lễ là một khu lò rèn lớn cung cấp vũ khí cho nghĩa quân. Theo các cụ phụ lão địa phương cho biết thì hồi nghĩa quân dựng lò rèn tại đây, khu vực này còn rất rậm rạp, tại chỗ có lúc tập trung từ 200 đến 300 thợ, có đến 30 gian lán trại dựng dọc theo các khe suối quanh vùng và các hiệp thợ thay phiên nhau làm việc từ tờ mờ sáng cho đến tối. Khu căn cứ Trùng Khê - Trí Khê cũng có cả một hệ thống đồn trại, bãi tập, xưởng vũ khí. Đồng thời với việc xây dựng và phát triển các khu căn cứ, nghĩa quân thấy trước hết là phải làm thế nào có súng mẫu để theo đó chế súng mới, mua thì không đời nào Pháp bán cho nên phải tổ chức cướp súng. Được tin có một toán lính đi từ Nghệ An lên đồn Phố Châu gồm hai sĩ quan Pháp và 15 lính tập mang theo tiền lương và có súng, con đường này lại xuyên qua nhiều khu rừng rậm rất thuận tiện cho việc phục kích. Cao Thắng đã trực tiếp chỉ huy một toán nghĩa quân phục kích cướp được 17 khẩu súng, hai hòm đạn và tiền bạc. Đây là loại súng mới với cỡ nòng 11mm, bắn bằng thuốc đạn không khói. Cao Thắng lên vùng Thượng Bồng, mời Lê Phác tức Kiểm Phất, người xã Trung Lễ, huyện Đức Thọ) và Lê Quyên (tức Đội Quyên, người làng Yên Hồ, huyện Đức Thọ) và một số thợ rèn giỏi của vùng Nghệ Tĩnh cùng nghiên cứu khẩu súng của giặc để chế tạo. Những người thợ thủ công đã phát huy hết trí sáng tạo của mình lấy phương tiện thô sơ để làm ra vũ khí hiện đại. Để chế tạo bộ máy cò phức tạp đòi hỏi kỹ thuật cao, người ta tháo một khẩu súng Pháp ra từng bộ phận và rèn theo mẫu đó, xong lắp vào súng bắn thử, nếu được thì cứ theo mẫu mà làm, chưa được thì phải nghiên cứu sửa chữa lại bằng được mới thôi. Nòng súng là một bộ phận yêu cầu hợp kim cao, người ta có sáng kiến là uốn bằng sắt và củng cố thêm bằng nhiều vòng sắt ở bầu nòng cho chắc thêm và để khi bắn khỏi bị vỡ. Lò xo kim hoả cần thép cứng và dẻo đã được nghĩa quân thay bằng loại gọng ô. Mọi bộ phận nghiên cứu xong, Cao Thắng đưa lên vùng Lệ Động hơn 300 thợ rèn của hai làng Trung Lương và Vân Chàng, 30 thợ gỗ và mộc ở làng Xa Lang để làm báng súng và một số thợ bạc để làm vỏ đạn, một số thợ đúc đồng để đúc đạn. Cao Thắng tổ chức sản xuất theo lối dây chuyền và chuyên môn hoá. Về nguyên liệu, ông cho người đi khắp các làng quê, mua hoặc quyên tất cả những thứ như nồi đồng, mâm đồng, sắt cũ, sắt vụn, cầy cuốc hư hỏng của nhân dân đem về căn cứ đúc súng. Đồng bào lương và giáo đã nhiệt liệt hưởng ứng, có người bớt cả đồ đồng đang dùng. Có bài viết cho biết Cao Thắng đã mời Cổ Khai, cha xứ ở Thọ Ninh, Thọ Tường (Đức Thọ) vào Cồn Chùa để thương lượng việc này3. Dân làng Thượng Bồng đốt than lim là một loại than có nhiệt độ cao để cho lò rèn rèn súng. Ngoài việc sản xuất súng, ông còn nghĩ cách chế thuốc súng theo kiểu thủ công, gồm than xoan tán nhỏ và diêm tiêu để nhồi vào đạn hoặc vượt rừng núi qua đường Lào sang tận Xiêm La (tức Thái Lan ngày nay) mua thuốc súng. Sau nhiều tháng trời lao động quên mình vì nghĩa lớn, Cao Thắng và những người thợ rèn ở vùng Nghệ Tĩnh đã tự chế được gần 350 khẩu súng kiểu 1874, kỹ thuật không khác gì nhiều so với của địch. Thành công này đã làm cho nghĩa quân phấn khởi và tin tưởng ở thắng lợi của mình: Súng ta, chế được vừa xong Đem ra mà bắn nức lòng lắm thay Bắn cho tiệt giống quân Tây Cậy nhiều súng ống phen này hết khoe4. Khi Cao Thắng mất, ông mới 29 tuổi. Trong bài văn tế chữ nôm do Phan Đình Phùng đọc trong ngày chung thất, Cụ cũng đã nhắc đến tài năng sáng tạo của con người anh hùng trẻ tuổi đối với nghĩa quân: “Thiên tài toán học chước Võ Hầu, chế súng đạn biết bao chừng cơ trí”. _______________________________________ 1. Ngô Văn Hòa: Phó Giáo sư Viện Sử học. 2. Tham luận Hội thảo khoa học kỷ niệm 100 năm ngày mất Phan Đình Phùng, ngày 28-12-1995. 3. Đinh Xuân Lâm và Phan Trọng Báu. Cao Thắng với Phong trào yêu nước chống Pháp xâm lược cuối thế kỷ XIX. Nghiên cứu lịch sử số 9, 10-1975, tr.53. 4. Vè yêu nước chống đế quốc Pháp xâm lược. Nxb Văn học, Hà Nội, 1970. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 08 Tháng Tám, 2008, 11:20:45 pm II. GIỚI THIỆU NGUỒN TÀI LIỆU CỦA THỰC DÂN PHÁP Thực dân Pháp cũng rất quan tâm chú ý đến trang thiết bị quân sự của nghĩa quân Hương Khê, nên ngay từ đầu thế kỷ XX, đại uý Ch. Gosselin trong quyển sánh L’Empire d’Annam (Đế quốc An Nam) đã viết về thành tựu này như sau: “Ông (tức Phan Đình Phùng. N.V.H chú thích) đã biết đào tạo các chiến binh của mình theo cung cách kỷ luật và hành binh theo kiểu châu Âu, đó là điều mà chúng ta chưa bao giờ nhận thấy từ trước cho đến lúc đó, trang phục cho quân lính bằng những bộ quần áo tương tự như những binh lính người bản xứ và cuối cùng là trang bị cho các chiến binh bằng các khẩu súng kiểu 1874, những khẩu súng này được sản xuất bí mật tại những địa điểm mà chúng ta không phát hiện ra được và với một khối lượng rất nhiều. Tôi đã mang về Pháp vài khẩu súng này, những khẩu súng này giống về tất cả mọi phương diện với những khẩu súng do các công binh xưởng của chúng ta sản xuất và đã làm cho các sĩ quan pháo binh mà tôi đưa cho họ xem phải hết sức ngạc nhiên, những khẩu súng này chỉ khác với những khẩu súng của chúng ta về hai điểm mà thôi: lò xo xoáy ốc tôi chưa đủ và lòng súng không có xẻ rãnh; hậu quả của điều này là đạn đi không xa; tuy nhiên những khẩu súng này đã bắn chết rất nhiều binh lính và sĩ quan người Âu và binh lính người bản xứ” (Nxb Perrin et Cie, Paris, 1904, tr.313). Gần đây trong luận án Tiến sĩ quốc gia nhan đề “Les contacts Franco Vietnamiens en Annam et au Tonkin de 1885 à 1896” (Những sự tiếp xúc Pháp Việt ở Trung và Bắc Kỳ từ 1885 tới 1896); Ch. Fourniau đã cho công bố nhiều bản báo cáo đương thời của bọn thực dân Pháp đã tham gia đàn áp cuộc khởi nghĩa Hương Khê. Thực dân Pháp có mô tả một số doanh trại của nghĩa quân mà chúng chiếm được: “doanh trại của Phan Đình Phùng bao gồm nhiều dãy nhà bằng gỗ được xây dựng rất tốt (những chỗ ở cho các tướng lãnh và trại lính chứa đến 300 người) và một xưởng vũ khí khá rộng có thể chứa đến 30 công nhân”. Cũng toán lính này phát hiện ở một chỗ không xa một doanh trại khác, gồm 12 căn nhà, chứa được từ 150 đến 200 người. Người ta tìm thấy nhiều lò rèn và những dụng cụ để làm vỏ đạn và 4.000 khẩu phần gạo mà nghĩa quân bỏ lại khi rút lui. Báo cáo của Le Normand ngày 11-5-18951 cho biết lúc ban đầu, cuộc khởi nghĩa Hương Khê cũng giống như các cuộc khởi nghĩa khác trong nước về mặt trang bị kỹ thuật, vũ khí của nghĩa quân là bạch khí, nghĩa là chỉ gồm gươm giáo mác, mã tấu v.v... chưa có vũ khí hiện đại. Từ 1890, nghĩa quân đã tổ chức được một cuộc phục kích thành công, thu được một tá súng trường. Phấn khởi trước thành tích, sau đó nghĩa quân đã liên tiếp tổ chức nhiều cuộc phục kích nữa để cướp súng, những trận sau đó Đề Mậu và Đề Niên chỉ huy. Theo báo cáo của Công sứ Nghệ Tĩnh Duvillier, ngày 17-12-18952, những người thợ làm những công đoạn khó khăn trong việc chế tạo súng đã được nghĩa quân trả công cao hơn rất nhiều so với mức bình thường ở ngoài xã hội. Về những người thợ thủ công này, báo cáo của Le Normand viết tiếp: “Phan Đình Phùng đã sử dụng những người quê ở La Sơn đã từng là người làm vũ khí ở trên các pháo hạm hoặc trong các xưởng của hải quân, hoặc là thợ máy tại các hãng Daniel Chatmont... Những người này lại tuyển mộ ở Hà Nội những người làm vũ khí khác người bản xứ. Sau đó Phan Đình Phùng mới trưng dụng những người thợ rèn, thợ bạc, thợ mộc và thợ gỗ để làm ra súng. Việc sản xuất này được thúc đẩy nhanh chóng và chẳng bao lâu các toán quân đều được trang bị những vũ khí lợi hại. Những xưởng sản xuất được thiết lập trong những kho tại dãy núi Ngàn Trươi và Ngàn Phố, những người làm vũ khí và thợ bạc đã chế ra những quy lát từ chất thép được nấu theo phương pháp Catalane (một phương pháp nấu thép từ quặng sắt mà không phải trải qua giai đoạn gang. N.V.H chú thích). Họ cũng sản xuất các bộ phận bằng đồng, và những vỏ đạn bằng đồng do họ trưng dụng được từ các mâm và nồi đồng ở các làng quê. Nòng súng được đúc trong núi, hoặc tại các làng thợ rèn, chẳng hạn như ở Vân Chàng. Báng súng được chuẩn bị ở mỗi nơi một ít và ở khắp mọi nơi”. Hơn thế nữa người ta còn ra chợ Vinh để mua sắt, thép, chì, công việc này do em gái Phan Đình Phùng mà tài liệu của Pháp viết là Bà Thị Giang đảm nhiệm (Báo cáo của Brière ngày 14-2-1896. Phụ lục số 3. Biên bản hỏi cung Lê Vang ngày 1-10-1894). Một phần nhỏ lò xo xoắn ốc là do từ nguồn Hà Nội mang vào. (Tôi không biết do ai gửi vào Tôi cũng không rõ những nguồn cung cấp khác về lò xo xoắn ốc. Lê Vang khai như vậy). Ngoài việc chế tạo súng trường tại chỗ, cụ Phan còn tìm cách mua được một ít vũ khí đạn dược ở Xiêm. Từ 1891, Cao Đạt đã nhiều lần sang Xiêm để làm công việc này. Luce cho biết kết quả cụ thể đạt được như sau: 94 Li-vơ-rơ (500 gr) Xan pết (Kali nitrat, N.V.H chú thích), 53 túi hạt nổ to, 100 túi hạt nổ nhỏ, 110 túi thuốc súng, và một lần khác mua được 21.000 hạt nổ nhỏ, 30 túi hạt nổ to, 1 khẩu Lefaucheux và 66 viên đạn, 1 súng lục và 100 viên đạn, hai súng ngắn và 72 viên đạn3. Báo cáo của Le Normand đưa ra những con số khác, một lần 15 súng lục và một lần khác 50 súng lục. Thực dân Pháp thừa nhận đại bộ phận vũ khí là do nghĩa quân sản xuất ở trong nước. Le Normand ước lượng là tổng số vũ khí do nghĩa quân sản xuất và sử dụng cho đến 1895 là từ 1200 đến 1300 khẩu. Nếu tính cả số thiệt hại và phá huỷ do quân Pháp gây ra nhiều lần khi tấn công vào các căn cứ địa của nghĩa quân, thì tổng số vũ khí do nghĩa quân chế tạo được lên đến hàng ngàn khẩu. Sau khi đàn áp xong cuộc khởi nghĩa, tháng 1-1897 thực dân Pháp đã mang ra bán làm sắt vụn những vũ khí của nghĩa quân mà chúng thu được, trọng lượng của đống hàng này lên đến hơn hai tấn rưỡi sắt, bao gồm: 403 khẩu súng, 328 nòng súng, 103 súng có pít tông (fusil à piston), 436 dao (biên bản việc bán ngày 26-11-1897 và báo cáo của tổng sứ 10-10-18964. *** Qua những nguồn tài liệu vừa trình bày bên trên, chúng ta thấy nổi bật thành tựu mà nghĩa quân Hương Khê đã đạt được là chế tạo thành công được súng trường kiểu 1874, về mặt chất lượng gần đạt tiêu chuẩn quốc tế và về mặt số lượng lên đến hàng ngàn khẩu, một số lượng lớn lao mà không một cuộc khởi nghĩa nào khác hồi thế kỷ XIX cũng như sau này đạt được. Điều này cho phép nghĩa quân Hương Khê không ngừng lớn mạnh và đủ sức đánh giặc lâu dài. Người ta cũng thấy mặc dù chưa có chính quyền trong tay, phương tiện vật chất thiếu thốn nghèo nàn hầu như không có gì, trình độ hiểu biết về khoa học kỹ thuật hiện đại lại thấp nhưng với tinh thần yêu nước nồng nàn xả thân vì nghĩa lớn, nghĩa quân Hương Khê đã dám lao vào tấn công một trận tuyến mới, đó là lãnh vực khoa học kỹ thuật tiên tiến và đã thu được một số thành tựu rất đáng tự hào và khâm phục. Tất nhiên lúc đó chưa thể có được những thành tựu ngang với kẻ địch về mặt này vì bối cảnh lịch sử chưa cho phép. Nhưng dù sao điều này cũng đã nói lên tài trí thông minh sáng tạo, vượt khó khăn của nghĩa quân Hương Khê cũng như của dân tộc Việt Nam chúng ta, đặt cơ sở cho những bước phát triển ngày càng cao hơn của các thế hệ sau trong việc nối bước truyền thống của các bậc tiền bối, vươn lên làm chủ khoa học kỹ thuật tiên tiến và hiện đại. Trong thời kỳ cận hiện đại của lịch sử Việt Nam, Cao Thắng đã nêu một tấm gương về tinh thần sáng tạo kỹ thuật, biết dùng và đối xử đúng đắn với thợ giỏi, khắc phục khó khăn, tổ chức dây chuyền sản xuất theo kiểu hiện đại, thật xứng đáng là người có công đầu trong việc sản xuất vũ khí hiện đại cũng như vươn lên làm chủ khoa học kỹ thuật tiên tiến của thế giới. _____________________________________________ 1. A.O.M 22318. 2. A.O.M 22312 3, 4. A.O.M 22314. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tám, 2008, 09:39:47 pm THÁI KIM ĐỈNH1 CHIẾN KHU VỤ QUANG THỜI CẦN VƯƠNG Phong trào Cần vương chống thực dân Pháp xâm lược ở bốn tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình cuối thế kỷ XIX do Phan Đình Phùng, Cao Thắng lãnh đạo và chỉ huy, là cuộc kháng chiến oanh liệt kéo dài mười năm (1885-1895) không chỉ có tiếng vang lớn trong nước mà cả ở nước Pháp. Phan Đình Phùng sinh năm Đinh Mùi (1847 - “Đăng khoa lục” chép năm Giáp Thìn, 1844), quê làng Đông Thái, xã Việt Yên Hạ, nay là xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, trong một gia đình khoa bảng. Đỗ Cử nhân trường nghệ khoa Bính Tý (1876) rồi đỗ Tiến sĩ Đình nguyên khoa Đinh Sửu (1877), ông được bổ ra làm Tri phủ Yên Khánh (Ninh Bình), rồi về Huế, giữ chức Ngự sử ở Viện Đô sát. Vì chưa hiểu thấu đáo tình hình, ông kịch liệt phản đối việc Tôn Thất Thuyết phế bỏ vua Dục Đức, ngay giữa triều đình, liền bị tống vào ngục Cẩm Y, rồi cách chức đuổi về làng. Nhưng một năm sau (1884), ông được cử làm Tham biện Sơn phòng Hà Tĩnh. Tháng 9-1885, kinh thành thất thủ, vua Hàm Nghi xuất bôn, ra Sơn phòng Phú Gia (Hương Khê), hạ Chiếu Cần vương lần thứ hai. Phan Đình Phùng dẫn một số sĩ phu lên bái mạng. Ông được phong làm Tán lý Quân vụ Đại thần, thống lĩnh các đạo nghĩa quân Cần vương. Ông về làng quê, dựng cờ khởi nghĩa. Nhưng sau trận đánh bọn phản động trong Thiên chúa giáo ở Định Tường, quân Pháp ồ ạt tất công Đại đồn Đông Thái, nghĩa quân thua to, phải rút lên vùng núi Hương Sơn, đóng tại xã Phụng Công để củng cố lực lượng. Tại đây, năm 1886, Cao Thắng đưa đội nghĩa quân do ông chỉ huy đến gia nhập. Cao Thắng là con Cao Quỳ, quê gốc xã Phúc Dương (Sơn Phúc bây giờ) sau dời sang ở xóm Nhà Nàng thôn Yên Đức, xã Tuần Lễ, nay là xã Sơn Lễ, huyện Hương Sơn. Ông sinh năm Giáp Tý (1863), lúc nhỏ, có được học ít nhiều, rồi đi theo làm liên lạc cho Đội Lựu (Trần Quang Cán, người Phúc Dương) trong cuộc khởi nghĩa Giáp Tuất (1874). Cuộc khởi nghĩa Cờ Vàng bị dập tắt, Đội Lựu bị bắt, Cao Thắng được Giáo thụ Phan Đình Thuật (anh ruột Phan Đình Phùng) che chở đưa về nuôi, đến năm 1885, ông Thuật mất, mới về quê. Lúc này, cha mới mất, ông bị Quản Loan vu cho giết vợ hắn để chiếm ruộng đất nhà họ Cao. Ông bị bắt giam ở nhà lao Hà Tĩnh đến tháng 11-1885 mới được nghĩa quân Lê Ninh vào hạ thành, cứu thoát. Ông trở về Tuần Lễ, cùng em là Cao Nữu và bạn là Nguyễn Đình Kiểu chiêu mộ dân nghèo khởi nghĩa, rồi gia nhập quân Cần vương Phan Đình Phùng. Ngay từ đầu, Phan Đình Phùng đã nhận ra Cao Thắng là người tài trí, phong chức Quản cơ, phụ trách việc tổ chức nghĩa quân. Năm 1887, Phan Đình Phùng trao quyền chỉ huy cho ông để ra Bắc liên kết các lực lượng chống Pháp. Lúc này quân Cần vương ở các tỉnh Bắc Trung Kỳ mòn mỏi dần, chỉ còn những nhóm nhỏ hoạt động lẻ tẻ trong từng địa bàn hẹp. Cao Thắng bỏ Phụng Công (vùng Đức Hoà, Đức Thọ bây giờ) rút về xây dựng căn cứ ở Cồn Chùa (nay thuộc các xã Sơn Lâm, Sơn Giang, Hương Sơn) dựa vào thế rừng núi để bảo toàn và phát triển lực lượng. Ông lập một hệ thống đồn luỹ ở Cửa Vua, cồn Trại Đồn, Hố Đập, Bằng Cửa Cổng (nay thuộc xã Sơn Lễ), chốt giữ con đường Truông Mèn, bảo vệ khu trung tâm Cồn Chùa. Ngày nay, ở vùng này còn lưu lại khá rõ dấu vết bãi tập Trại Đày, Đồn Rèn khe Cáy, đồn Khe Su, đồn rú Roọc Bạch Sơn, nay thuộc xã Sơn Ninh) trên đường Truông Trảy... Căn cứ Cồn Chùa là vùng đất hẹp, ở sâu trong núi, cách ly với dân, tạm thời có thể bảo toàn lực lượng, không có cơ mở rộng, phát triển lâu dài. Hai năm sau, 1898, Cao Thắng chuyển sang xây dựng căn cứ Thượng Bồng - Hạ Bồng, bao gồm các xã Thượng Bồng, Hạ Bồng, Lê Động, Phương Duệ, Yên Duệ, thuộc tổng Thượng Bồng, huyện Hương Sơn, và cả các thôn Lâm Thao, Hoà Duyệt thuộc tổng Hương Khê, huyện Hương Khê (nay là các xã Đức Bồng, Đức Lĩnh, Đức Hương, Đức Liên và một phần là xã Đức Giang, huyện Vũ Quang). Căn cứ Thượng Bồng - Hạ Bồng nằm bên tả ngạn sông Ngàn Sâu, lưng tựa vào đại ngàn Trường Sơn, phía Bắc thông sang núi Đại Hàm, núi Thiên Nhẫn, ra Nghệ An, Thanh Hóa. Phía Nam qua bên kia sông Ngàn Trươi là rừng núi Vụ Quang mênh mông, có đường xuyên sơn vào Quảng Bình và sang Lào. Phía Đông nối liền với La Sơn (Đức Thọ), Can Lộc, Nghi Xuân, vào Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh... Căn cứ Thượng - Hạ Bồng được xây dựng khá hoàn chỉnh với một hệ thống đồn trại, lò rèn, kho tàng liên hoàn, thuận lợi cho việc phòng thủ và là nơi xuất phát để tấn công xuống đồng bằng. Lúc này lực lượng nghĩa quân đã khá đông đảo. Phía Bắc, có đội quân của Hiệp Cự đóng ở Hạ Bồng trấn giữ con đường từ Linh Cảm lên. Phía Đông Nam có đội quân của Trần Hữu Châu đóng ở Phương Duệ. Bên kia sông Ngàn Trươi có đội quân của Nguyễn Quýnh đóng giữ mặt Nam. Qua sông Ngàn Sâu, Động Đòi sang Trại Cốc, đến đồn Cơn Khế của anh em Nguyễn Trạch, Nguyễn Chanh trên dãy Trà Sơn... Hệ thống đồn trại từ Bắc chí Nam khu căn cứ đến nay vẫn còn nhiều dấu tích. Đồn Đại Long trên núi Đại Long (nay thuộc xóm Quang Thành xã Đức Lĩnh) còn dấu vết nền đồn, và hai đồn Mẫu Sĩ ở phía Nam, Khe Kẽm ở phía Đông cùng nằm trong sơn hệ Đại Hàm. Đồn Cháy (nay còn nhận ra chỗ đóng quân, bãi tập, kho lương) và Đồn Mũi Son (nay còn tên gọi Mũi Son), cách đồn Cháy 20km về phía Đông Nam, cùng Đại Long tạo thành một dãy liên hoàn thẳng từ Bắc xuống Nam, hỗ trợ cho nhau. Theo đồng bào địa phương thì ở xóm Hương Phố, xã Đức Hương có nghĩa quân cụ Phan đóng ở nhà cố Quyến, (sau cách mạng, nhà cố Trương còn giữ được một khẩu súng nạp tiền thời ấy) và ở xóm Liên Trung (Trại Trửa) xã Đức Liên xưa có tên gọi Đồn Thượng. Ở Chọ Nhợn (?) xóm Cao Phong (Đức Lĩnh) và ở Nhà Nho sau động Lành, động Màu (Đức Liên) đều còn tên gọi và dấu tích bãi tập của nghĩa quân. Cùng với hệ thống đồn trại là những cụm lò rèn vũ khí. Cụm lò rèn ở rú Cồi (Khôi Sơn), rú Cọng (Điếm Sơn), rú Sui, khe Nhà Trận... có đến hàng trăm thợ do ông Phó Bích làm Hiệp quản, chỉ huy. Cụm lò rèn ở Mò O làng Lê Động, cách rú Cồi, rú Cọng một ngày đường nằm sâu trong rừng rậm là khu lò rèn lớn có đến 30 gian lán trại, thường xuyên có 200-300 thợ thay nhau làm việc suốt ngày đêm. Theo tài liệu của địa phương thì ở vùng núi Đồ Hố làng Hòa Duyệt (Đức Liên) bên kia sông Ngàn Sâu và ở Khe Tủ, Mũi Đồn cũng là nơi đặt các lò rèn. Những lò rèn ở đây đã cung cấp đầy đủ vũ khí cho nghĩa quân trong vùng. Với sự cộng tác của Đội Quyên (tức Lê Quyên ở Yên Hồ), Lê Phác, Cao Thắng đã chế tạo thành công kiểu súng trường 1874 của Pháp. Các cụ già ở Minh Lang (nay là Trung Lương) còn kể chuyện thầy trò cố Đương gồng gánh lò bể, búa đe lên đại ngàn tham gia nghĩa quân, chuyện ông Thiện rình hàng chục ngày ở bến Linh Cảm trộm được một khẩu súng Tây nộp cho nghĩa quân làm mẫu, chuyện cố Đĩ Thuần có công giúp ông Đề Thắng đúc súng... ở Uy Viễn (Nghi Xuân) người ta nhắc lại chuyện người thợ đúc đồng nổi tiếng Đặng Duy Truy đã dẫn năm anh em, con cháu lên căn cứ tham gia chế súng... Một bài vè lưu truyền ở Trung Lương có đoạn nhắc đến một người thợ rèn trong xã là “bác Năm Đen” tham gia đúc súng ở đồn Lục (chưa rõ đồn nào): “... Nghe ở bên đồn Lục - Lò của bác Năm Đen - Cử chộ (thấy) đập phèng phèng - Đã đúc xong chưa hả? - …Thôi ra đe, ra búa - Chú em mô đi làm hạt nổ - Sắp sẵn cái bao liều - Chú nữa mau tay mau - Gọt lanh cái bẹng (báng) súng - Mai mốt tha hồ chất đống - Súng của ông Cao Thắng chế ra - Súng bắn gần bắn xa - Cùng có công ta - Ngày đêm rèn đập...”. Ngoài các kho lương thực đặt gần các đồn lính, đồn rèn Cao Thắng còn thiết lập các kho thóc, kho muối dự trữ ở phía Nam sông Ngàn Trươi, trong vùng rừng núi Vụ Quang, phòng khi cần đến. Người ta kể rằng: ông cho đào những hố lớn trên ngọn đồi trong rừng, chặt gỗ chất xuống đốt, làm cho lòng hố cứng như gạch nung, quét dọn sạch sẽ lát ván, đổ thóc, muối xuống, lợp mái che kín. Như vậy, thóc không bị chuột phá và để lâu không hỏng. Lúc này (1889), dưới quyền chỉ huy của Cao Thắng, đã có tới 1.000 người, trang bị khá đầy đủ bằng gươm giáo, súng nạp tiền và súng kiểu Tây 1874, được huấn luyện khá tinh và có kỷ luật nghiêm, nhưng chỉ mới có ảnh hưởng trong ba huyện Hương Sơn, Hương Khê, Đức Thọ mà thôi. Một số đội quân khác còn khá mạnh thì lại hoạt động trong từng địa bàn hẹp, thiếu sự phối hợp với nhau: Ngô Quảng ở Nghi Xuân; Nguyễn Trạch và Nguyễn Chanh ở Can Lộc; Nguyễn Huy Thuận ở Thạch Hà; Hoàng Bá Xuyên ở Cẩm Xuyên; Võ Phát ở Kỳ Anh... Ở Thanh Hóa, cuộc khởi nghĩa Ba Đình bị đánh tan, Tống Duy Tân và Cầm Bá Thước còn cố gắng duy trì lực lượng. Ở Nghệ An, sau khi Nguyễn Xuân Ôn bị bắt, phong trào lắng xuống, các đội quân nhỏ vẫn ngấm ngầm hoạt động, chờ thời cơ. Còn ở Quảng Bình, phong trào đã hồi phục dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Thụ, Nguyễn Bí. Tình hình trên đòi hỏi phải có một người đủ uy tín quy tụ nghĩa quân Cần vương về một mối, tạo cục diện mới cho cuộc kháng chiến. Cao Thắng cử người ra Bắc trình với cụ Phan và mời Cụ về. Được tin, nghĩa quân bốn tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình đều phấn chấn, chấn chỉnh lại đội ngũ, tiếp tục hoạt động. ______________________________________ 1. Thái Kim Đỉnh: Nhà nghiên cứu Lịch sử - Văn hóa, tỉnh Hà Tĩnh. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tám, 2008, 09:46:04 pm Cụ Phan về đến căn cứ Thượng Bồng tháng 9-1889. Theo tài liệu điền dã, Cụ được bố trí ở nhà ông Lê Hữu Chỉ tại xóm Công; ông Chỉ vừa là thư ký, vừa hầu hạ cơm nước cho Cụ. Hiện ở Rú Nhà còn có dấu tích “Đường hào cụ Phan”. Với danh nghĩa Tán lý Quân vụ Đại thần, Phan Đình Phùng hội các tướng trong căn cứ bàn bạc và quyết định chia lực lượng nghĩa quân bốn tỉnh làm 15 quân thứ (Thanh Hóa: 1; Nghệ An: 2; Quảng Bình: 2; Hà Tĩnh: 10). Mỗi quân thứ, tùy theo số quân nhiều ít mà đặt một Đề đốc hoặc một Lãnh binh chỉ huy. Cao Thắng được phong chức Chưởng vệ, chỉ huy lực lượng nghĩa quân bốn tỉnh, dưới quyền lãnh đạo của Phan Đình Phùng. Đại bản doanh đóng tại Thượng Bồng. Mỗi quân thứ cử về đây một đội nghĩa binh khỏe mạnh, thông thạo đường sá để khi cần, chuyển mệnh lệnh kịp thời. Tại khu trung tâm căn cứ ở rú Cồi, rú Cọng có đội chủ lực gồm 300 quân tinh nhuệ do Cao Thắng trực tiếp chỉ huy. Nghĩa quân đều được trang bị gươm giáo, súng hỏa mai, súng Tây kiểu 1874 tự chế tạo, ăn mặc quần áo màu đen hoặc nâu, thắt lưng xanh, đội nón bằng nhỏ; từ Hiệp quản trở lên thì quần áo cẩm bào đỏ. Các đội quân đều được luyện tập kỹ càng, kỷ luật nghiêm minh. Bên cạnh cụ Phan có 20 vệ binh túc trực do tướng Nguyễn Mục chỉ huy. Về sau, Đại úy Pháp Gosselin viết: “Té ra từ trước tới nay, chúng ta không hay Phan Đình Phùng biệt sắp đặt, tập rèn quân lính theo như kỷ luật và binh pháp Châu Âu, cho quân lính mặc y phục giống hệt một thứ lính tập bản xứ của ta, lại mang súng là kiểu 1874 do ông bí mật chế tạo lấy rất nhiều, nhưng chế tạo ở chỗ nào thì không ai biết...” (“Vương quốc An Nam” (L’ Empire d’Annam), trang 313). Có sự chỉ huy thống nhất, trong hơn hai năm từ 1889 đến 1891, phong trào Cần vương phát triển nhanh, mạnh. Mở màn, nghĩa quân tấn công các đồn địch ở Tràng Lưu (Can Lộc), Nầm (Hương Sơn), Linh Cảm (La Sơn) vào đầu 6-1890... Tiếp đó là trận phục kích diệt viện ở Trung Lễ, đánh đồn và phục kích địch ở Nam Huân (Can Lộc), bẻ gãy trận càn lớn vào Truông Vắt (Hương Khê) vào cuối năm 1890 đầu 1891. Ở Nghệ An cũng có các trận đánh địch ở Nghĩa Đàn, Cơn Chanh (Anh Sơn) ... Nhưng lúc này khu căn cứ bị địch bao vây, o ép rất dữ. Năm 1891, nghĩa quân phải dời căn cứ lên vùng Hói Trùng, Hói Trí. Căn cứ Hói Trùng, Hói Trí nằm về phía Nam căn cứ Thượng Bồng - Hạ Bồng, bên kia cửa Rào và sông Ngàn Trươi. Hói Trùng (Trùng Khê) , Hói Trí (Trí Khê) là hai con khe lớn trong vùng rừng núi phía Đông ngàn Vụ Quang, với hàng trăm khe suối nhỏ, đổ xuống sông Ngàn Trươi, trải trên một lưu vực từ Khê Thượng xuống Kẻ Cồ, Kẻ Vạn, Kẻ Mọn, Kẻ Quánh, nay là đất ba xã Hương Đại, Hương Minh, Hương Thứ, một đoạn vè nhật trình nhắc đến một số địa danh vùng này: “Nhân khi thong thả cắm trào (sào), Nhật trình ta kể Cửa Rào mà lên. Nào ai buôn bán tương liên, Cúi đầu Phục Vọng bình yên trong lòng. Nào ai lỡ bên chênh dòng, Kẻ Mân, Kẻ Quánh ngàn trùng xiết bao. Nom lên Kẻ Dụn, Kẻ Lào, Nào ai không biết nơi nao Trí, Trùng. Kẻ Cồ, Kẻ Nắng đã từng, Đan Trai, Khê Thượng tới Tuần Lèn xây...” Trong khi xây dựng căn cứ Thượng Bồng - Hạ Bồng, Cao Thắng đã chuẩn bị sẵn kho tàng, địa điểm đóng quân, nên lúc dời đại bản doanh đến thì bắt tay ngay vào việc. Ở đây cũng có một hệ thống đồn trại, bãi tập, cơ sở hậu cần... Đồn Cơn Trổ, đồn Động Cao, kho Tạm Hói... Nay vẫn còn tên gọi một số nơi: Lò Rèn, Cồn Văn thư, Vườn cụ Phan... Một đoạn hồi ký về “An toàn khu II” thời kháng chiến chống Pháp viết: “Ban Giám đốc cho tổ chức một phân xưởng vào sâu hơn nữa trong rừng, đên gần Hói Trí. Tại đây anh em còn thấy một số vết tích cũ: nền nhà, vườn chè, bãi tập..., anh em còn nhặt được tiền đồng, súng kíp hỏng, mảnh bát vỡ... của nghĩa quân xưa” (“Một thời không quên”, tập 1, tr.27). Thời gian này, lực lượng nghĩa quân vẫn khá mạnh, nhất là ở Hà Tĩnh, đủ sức đánh địch dài ngày bảo vệ căn cứ, đồng thời đánh vào nơi sơ hở của chúng. Đầu tháng 9-1891, quân Pháp tập trung lực lượng càn lên Truông Vắt (giữa Thạch Hà và Hương Khê) suốt 15 ngày liền, không thu kết quả gì, đành phải rút. Đầu tháng 3 đến cuối tháng 4-1892, chúng lại càn lên Hương Sơn, đánh thọc vào Tràng Sim (xã Sơn Thọ bây giờ). Một mặt nghĩa quân tích cực chống càn, một mặt chặn đánh địch ở đồng bằng Thạch Hà, Can Lộc, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh và tấn công đồn địch ở Voi... Giữa tháng 8-1892, Giám binh Hà Tĩnh Lambert cùng các sĩ quan dưới quyền Haguet, Faucher, Robert, Bourgeois, Crénont, Maricini đưa khoảng 200 lính chia làm ba cánh, mở trận càn vào căn cứ Hói Trùng - Hói Trí. Từ ngày 5 đến ngày 9-8, địch đánh lên Trại Chè (Hương Bộc, Thạch Hà) để nghi binh, cầm chân đội quân Thạch thứ, đồng thời đánh vào vùng Khê Thượng (Hương Đại); đêm 12 rạng 13-8, chúng đánh vào Hói Trùng nhưng chỉ có đội quân của Robert tới được đồn tiền tiêu, bị diệt 18 tên và bị thương 15 tên, phải bỏ chạy. Khi nghĩa quân Hương Sơn, Hương Khê đang chống càn, thì ngày 23-8, lợi dụng khi địch sơ hở, đội quân Thạch thứ đánh vào tỉnh lị Hà Tĩnh, tấn công trại lính khố xanh, phá nhà tù giải thoát cho 70 người, rồi rút lui an toàn ... Lambert được tin, vội vã rút quân về. Lúc này, lực lượng nghĩa quân ở Hà Tĩnh đã khá mạnh, đủ sức phá các trận càn lớn, dài ngày và chủ động đánh địch ở nhiều nơi, nhưng vẫn bị hãm trong rừng núi. Cuối năm 1893, Cao Thắng xin với cụ Phan cho đánh tỉnh thành Nghệ An để gây tiếng vang, khuấy động phong trào Cần vương bên Nghệ hầu như đã tắt từ 1891, mở rộng địa bàn hoạt động. Cao Thắng chỉ huy 1.000 quân tinh nhuệ, xuất phát giữa tháng 11-1893. “... Trống đánh cờ mở - Trăm thầy nghìn tớ - Xuôi Vinh đánh Tây - Đánh năm bảy trận rày - Hữu thắng hữu bại - Nhất tâm trung ái – Hết nghĩa theo thầy” (Vè). Nhưng trong trận tấn công đồn Nu (nay ở xã Thanh Xuân, Thanh Chương), Cao Thắng bị thương nặng. Nghĩa quân đưa về đến Khê Thượng thì ông mất. Đó là ngày 11 tháng Mười âm lịch (21-11-1893). Lúc này, ông chưa đến 30 tuổi Các tướng sĩ đều thương xót vị tướng tài ba, cụ Phan đau đớn, làm câu đối khóc ông: - “Hữu chí phất thành, anh hùng dĩ hĩ! Vị tiệp tiên tử, thiên ý vị hà?” (Có chí không thành, anh hùng đã khuất; Chưa thắng đã chết, ý trời ra sao?) - “Công cầu tất thành, kích tiếp thệ tảo thanh quốc tặc Sự nan dự liệu, cứ yên kim dĩ thiểu tư nhân” (Công muốn lập nên, gõ mái (chèo) nặng thề trừ giặc nước Việc khôn tính trước, lên yên (ngựa) nay thấy vắng người này). Cụ lại sai ông Võ Phát làm bài văn tế ông. Mộ Cao Thắng được mai táng tại động Cơn Mít, làng Khê Thượng, nhân dân thường gọi là “Mộ quan Chưởng”. Tương truyền, quan tài được làm bằng một cây gỗ lớn khoét rỗng ruột, sau khi chôn cất nghĩa quân san bằng đất để địch không phát hiện được. Hiện nay, vùng mộ này vẫn còn, ở xóm 2, thị trấn Hương Đại, bên mé đường Hồ Chí Minh. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tám, 2008, 09:50:05 pm Cái chết của Cao Thắng là một đòn nặng nề đối với nghĩa quân Cần vương. Từ đây, phong trào suy yếu dần. Đầu năm 1894, Phan Đình Phùng phải dời bản doanh lên căn cứ Vụ Quang gần biên giới Việt - Lào, nay là các xã Hương Điền, Vũ Quang. Trung tâm của căn cứ là thành Vụ Quang, tục gọi là Thành Lù, trên đỉnh núi Thành Lù, giữa rừng sâu thượng nguồn sông Ngàn Trươi. Nói là “thành”, kỳ thực là vách núi đá tự nhiên cao chừng 30 mét, có hai “cổng” ra vào, “cổng” Đông Bắc và “cổng” chính, nơi có hai tảng đá dựng đứng làm vọng gác. Khe Sa Vanh và một nhánh phụ của nó chảy quanh, ôm lấy chân thành như hai con hào tự nhiên. Tài liệu khảo sát thực địa của Bảo tàng Hà Tĩnh mô tả: “... Phía trước dưới chân thành là khe Vách có nhiều vực thác (vực Thành, vực Cơn Da, thác Cơn Ổi...). Đối diện mặt tiền là dẫy núi có tên gọi “dãy Tây Thành” làm bức tường tự nhiên bảo vệ đại bản doanh. Hậu thành dựa vào núi Giăng Màn, dưới có khe Rào Rồng chảy ôm lấy thành và gặp khe Vách (Rào Vực) tạo thành đầu nguồn sông Ngàn Trươi...”. Thành Vụ Quang có một vị trí quân sự lợi hại lại được hỗ trợ của một hệ thống đồn trại trong vùng. Căn cứ đóng quân Làng Trong cách thành 5km về phía Đông Bắc với bãi tập, xưởng rèn, kho lương... Đường tập Khe Công cách thành 9 km ở bờ Nam sông Ngàn Trươi. Khu đồn Cồn Bội cách thành 18 km về phía Đông Bắc, với các lò rèn, hầm chứa lương thực, vũ khí, bãi tập... nay vẫn còn dấu vết. Tuy vậy, lúc này thế và lực của quân Pháp đã áp đảo nghĩa quân. Chúng đóng đồn binh ở Xuân Trì (Sơn An), Chợ Bộng (Đức Bồng) o ép nhân dân hai tổng Yên Ấp, Thượng Bồng, cách ly dân với lực lượng kháng chiến. Nghĩa quân đánh phá các đồn, tổng lý Thượng Bồng vẫn vận động dân góp gạo, muối, tiếp tế... nhưng quân Cần vương ngày càng bị vây chặt trong núi. Tháng 5-1894, Toàn quyền Pháp De Lanessan và Hoàng Cao Khải lại viết thư dụ hàng Phan Đình Phùng. Thư do bà chị ruột của cụ Phan là Phan Thị Đại chuyển. Bà là vợ Cử nhân Lê Văn Thống, mẹ Giải nguyên Lê Văn Huân ở Trung Lễ, bị bắt sau khi cụ Phan khởi nghĩa, giam tại lao Nghệ An, bị kết án tử hình, nhưng Viện Cơ mật Huế không duyệt y, nên bà bị đưa về giam ở lao Hà Tĩnh. Một hôm, bà được vợ Tuần phủ Tôn Thất Hân mời vào dinh, tiếp đãi tử tế, và được “cụ Tuần” tiếp chuyện. Ông ta trao cho bà ba phong thư (một của Toàn quyền De Lanessan, một của Hoàng Cao Khải, một của ông ta, Tuần phủ Hà Tĩnh): “Phiền bà đưa lên trao tận tay cụ Đình” và hứa “Nếu kết quả sẽ xin trọng thưởng”. Lâu ngày xa cách, muốn gặp ông em nên bà vui vẻ nhận lời. Một toán lính cơ đưa võng giá đến nhà lao, rước bà lên Cửa Rào. Cụ Phan đã biết tin trước, cho người xuống đón, đưa bà về sơn trại. Bà Đại ở lại Vụ Quang ba ngày trò chuyện với ông em, rồi chị em lưu luyến từ biệt nhau. - Cậu ra hay không là chuyện hệ trọng của nước nhà, chị không dám bàn. Còn chị thì chị về, kẻo họ lại nghĩ là chị hãi. - Tôi không ra, nhưng nếu phúc đáp ngay thì họ sẽ giết chị, cứ để thư thư. Nay tôi tạm viết mấy dòng, chị mang về trước. Bà Đại về, lại vào nhà lao cho đến năm 1895 mới được tha. Cũng cần nhắc đến một người đàn bà khác, vợ thứ của cụ Phan, thường gọi bà Ngoéc Rừng. Bà theo cụ Phan lên chiến khu từ buổi đầu sau khi cụ Phan mất mới trở về quê. Dụ hàng không xong, hơn một tháng sau, quân Pháp tập trung lực lượng đánh vào căn cứ Vụ Quang - Ngàn Trươi. Bị uy hiếp rát, Phan Đình Phùng phải dời bản doanh sang núi Đại Hàm, rồi sang rú Quạt, đến tháng 10-1894, tình hình tạm yên, mới trở về lại Vụ Quang. Biết quân Pháp chóng hay chầy cũng đánh lên, cụ Phan họp các tướng bày sẵn trận “Sa nang úng thủy” để đợi chúng. Các tướng đôn đốc quân sĩ đắp con đập chắn ngang dòng suối lớn, tạo thành cái hồ ở phía trên, chặt tre, nứa, gỗ thả xuống nước, ngụy trang khéo léo và đặt phục binh hai bên khe núi. Quả nhiên, ngày 26-10-1894 (có tài liệu chép 30-10-1894), quân Pháp ồ ạt kéo lên sục sạo, đến các khu lán trại đều thấy trống không, thì cho rằng nghĩa quân đã sợ hãi bỏ trốn hết. Khi vừa xuống núi, chúng gặp một toán quân vừa bắn vừa chạy, liền đuổi theo định bắt sống. Toán quân kia băng qua con suối cạn giữa hai triền núi, dừng lại nấp bắn. Quân Pháp ào xuống lội qua khe thì một tiếng pháo nổ, đập bị phá, nước chảy xuống như thác, kéo theo tre nứa, gỗ, cây cối. Chúng tán loạn, la hét, nhưng không thoát, bị nước cuốn trôi, tre gỗ đâm chết, đứa nào trườn lên được bờ thì bị quân mai phục bắn chết... Trong trận này, nghĩa quân tiêu diệt ba sĩ quan Pháp và hàng trăm lính ngụy, thu 50 khẩu súng. Sách “Lịch sử Hà Tĩnh” ghi chú: “Theo điều tra trên thực địa, trận đánh này xảy ra ở thác Cà Tỏ là thác lớn nhất trên sông Vụ Quang, gần thành Vụ Quang”. Sau khi thắng trận, cụ Phan làm ba bài thơ “Cảm tác”. Dưới đây là bài thứ hai: “Sơn cát cao hề thủy cái thanh, Mỗi ư mặc tướng hiển anh linh. Bất nhiên chúng quả tương huyền thậm, Hồ đáo khê tiền dĩ thất kinh?” Cụ Thương Hữu Dụng dịch: Non rất cao mà nước rất xanh, Nước non linh hiển giúp cho mình. Nếu không bên ít bên nhiều thế Sao đến đầu khe đã hoảng kinh? Chiến thắng Vụ Quang có tiếng vang lớn, làm nức lòng dân Nghệ Tĩnh, nhưng đây chỉ là ánh chớp cuối cùng của cuộc kháng chiến. Lúc này, phong trào Cần vương ở các tỉnh từ ngoài Bắc trở vào hầu như đã tắt hẳn. Ở Hà Tĩnh, nhiều đội nghĩa quân bị đánh bật ra khỏi căn cứ, phải chạy lên Vụ Quang. Quân Pháp rảnh tay, có điều kiện dồn sức đối phó với nghĩa quân. Lực lượng Cần vương có đông hơn, nhưng chỗ ở không ổn định, lương thực, vũ khí thiếu nghiêm trọng. Dân trong vùng vẫn một lòng ủng hộ, nhưng bị địch kiềm tỏa, việc tiếp tế thường gián đoạn; quân sĩ không được củng cố về tổ chức và tinh thần ngày càng suy yếu. Tháng 8-1895, triều đình Huế lại sai Nguyễn Thân đưa 3.000 quân ra Hà Tĩnh phối hợp với quân Pháp vây chặt chiến khu Vụ Quang, càn quét lùng bắt cho được cụ Phan và các tướng nghĩa quân để dập tắt phong trào. Những tháng cuối năm 1895, quân địch càng tăng cường sục sạo. Trong một trận chiến đấu vào ngày 28-12-1895, Phan Đình Phùng bị thương nặng rồi mất. Các tướng nghĩa quân hoặc bị bắt, hoặc ra đầu thú, đều bị giết hại. Nhiều người vượt biên sang Xiêm làm ăn hoặc tiếp tục tham gia các cuộc vận động yêu nước. Cuộc kháng chiến oanh liệt chống thực dân Pháp kéo dài 10 năm (1885-1895) của nhân dân Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình do Phan Đình Phùng, Cao Thắng tổ chức và lãnh đạo đến đây kết thúc. Chiến khu Vụ Quang (nằm trên toàn bộ huyện Vũ Quang ngày nay) sau bảy năm (1889-1895) cũng đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của mình. Nhưng mãi mãi địa danh Vụ Quang vẫn gắn với tên tuổi của những anh hùng cứu quốc cuối thế kỷ XIX. Tạp chí Hồng Lĩnh, số 26, 2005 Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Tám, 2008, 11:49:12 pm PHẠM BÍCH HẰNG1 PHẠM QUANG TRUNG2 CHIẾN THẮNG VỤ QUANG TRONG CUỘC KHỞI NGHĨA PHAN ĐÌNH PHÙNG3 Nếu như cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng là một trong những cuộc khởi nghĩa lớn nhất trong phong trào Cần vương cuối thế kỷ XIX thì chiến thắng Vụ Quang lại là chiến công oanh liệt nhất trong cuộc khởi nghĩa đó. Việc tìm hiểu về chiến thắng Vụ Quang không những làm sáng tỏ thêm về cách thức tổ chức chiến đấu và quá trình xây dựng lực lượng của nghĩa quân Hương Khê mà còn thấy được tài thao lược cũng như nghệ thuật quân sự của linh hồn cuộc khởi nghĩa là Phan Đình Phùng. Trong phạm vi bài viết nhỏ này, chúng tôi xin điểm lại diễn biến lịch sử của chiến thắng Vụ Quang, từ đó thấy được tầm quan trọng và vai trò của chiến thắng đối với cuộc khởi nghĩa Hương Khê cũng như đối với phong trào kháng Pháp của nhân dân Trung - Bắc Kỳ cuối thế kỷ XIX. Vùng núi Vụ Quang - nơi đặt đại bản doanh của nghĩa quân Phan Đình Phùng - ngày nay thuộc vùng rừng Hương Khê ở phía Tây tỉnh Hà Tĩnh. Theo như bộ Đại Nam nhất thống chí thì trước kia núi Vụ Quang thuộc phủ Lạc Biên: “Phía Đông núi (Giăng Màn) là chỗ phát nguyên của sông Xiêm, phía Tây sông có một đường thông sang phủ Lạc Biên, phủ này có núi Vụ Thấp”4. Đây là một vùng có địa thế hiểm yếu: sơn mạch liên tiếp nhau và đột ngột khuất khúc, cứ mỗi trái núi có một khe suối, hai bên bờ bên nào cũng có lau sậy mọc lên cao quá đầu người. Núi Vụ Quang thuộc Hương Sơn là nơi có địa thế thuận lợi cho việc dùng binh nhờ có ba con đường độc đạo: thông sang Lào và Xiêm (Thái Lan ngày nay), ra tỉnh thành Hà Tĩnh và một con đường nhỏ thông suốt qua núi Đại Hàm5. Viết về cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng, chúng ta không thể tách rời việc tìm hiểu phong trào kháng Pháp ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, lúc này đã phát triển khá mạnh mẽ và sôi nổi. Ở Nghệ An có đội quân của Nguyễn Xuân Ôn (phủ Diễn Châu), Vương Thúc Mậu (Nam Đàn) , Nguyễn Hữu Chính (Thanh Chương)... Ở Hà Tĩnh có Lê Ninh, Phan Cát Tưu, Nguyễn Cấp... Hưởng ứng lời kêu gọi của Phan Đình Phùng, lúc này đang phát triển nghĩa quân ở làng Đông Thái, Nguyễn Quỳnh, Nguyễn Hữu Giao, Nguyễn Đạt, Cao Nữu... cũng tham gia khởi nghĩa và lập căn cứ ngay tại làng. Ngoài ra còn nổi lên đội quân của Bá hộ Thuận ở Thạch Hà, của Nguyễn Trạch, Nguyễn Chanh ở Can Lộc, Huỳnh Bá Xuyên ở Cẩm Xuyên... Phong trào chống Pháp ở Nghệ An, Hà Tĩnh đã phát triển khá rầm rộ, được rèn luyện trong chiến đấu song vẫn ở tình trạng phân tán và thiếu tổ chức. Nhìn chung họ mới chỉ thành lập được những đội quân nhỏ, lẻ tẻ và lập căn cứ ngay tại làng mình nên khi địch tập trung lực lượng tiêu diệt thì các đội quân này lâm vào tình thế bị cô lập và tan rã. Phong trào lúc này đòi hỏi phải có sự thống nhất các lực lượng nghĩa quân dưới sự chỉ huy thống nhất của một số người thực sự có tài tổ chức và có uy tín. Giữa lúc ấy, Phan Đình Phùng đi liên lạc với các lực lượng kháng chiến Bắc Kỳ về (1888) đã đảm đương trách nhiệm lịch sử đó. Là người có tầm nhìn sâu rộng và sắc bén, ông thấy điều cần thiết trước tiên là phải lập được một cơ sở vững chắc để tập hợp lực lượng chống Pháp: “Nếu bây giờ không sắp đặt thế nào, mà cứ quanh quẩn ở trong rừng núi, nay yên thì ở núi này, mai động lại sang rừng kia, rốt lại tất nhiên cũng đến thất bại như trước. Vì đó, bây giờ Cụ tính cách cho bền thế giữ đã, rồi mới tính đến thế đánh sau”6. Ngoài việc căn cứ vào địa hình địa thế thuận lợi, xuất phát từ những điều kiện cụ thể như đã trình bày ở trên, Phan Đình Phùng cùng các tướng lĩnh đã chọn dãy núi Vụ Quang làm nơi đóng đại bản doanh, đầu não của cuộc khởi nghĩa, từ đó điều khiển chỉ huy đi các nơi. Phan Đình Phùng đã căn cứ vào tình hình cụ thể ở từng nơi, đặt ra các quân thứ để phối hợp chiến đấu. Theo cuốn sánh viết về Phan Đình Phùng của Đào Trinh Nhất: nghĩa quân chia khu vực hoạt động ra làm 15 quân thứ, quân thứ đóng ở đâu thì lấy tên ở đó, ví dụ quân thứ ở huyện Hương Khê lấy tên là Khê thứ, ở huyện Can Lộc lấy tên là Can thứ... Tùy theo tầm quan trọng của từng địa phương mà phân chia mỗi quân thứ từ 100 đến 500 người, riêng tại đồn Vụ Quang lúc nào cũng có 500 tay súng giỏi7. Từ Vụ Quang tới Trùng Khê, Trí Khê, nghĩa quân đều dựng lên những đồn trại liên tiếp. Vị trí và vật liệu dựng trại đều dựa theo thế núi và gần sông ngòi, khe suối để tiện cho việc chuyển vận và tiếp tế. Nhờ sự ủng hộ của dân chúng, nên quân thứ nào ở đâu thì dân chúng ở đó cung cấp thóc gạo cho quân thứ ấy. Thóc gạo để ở quân địa phương một phần đủ chi dùng, còn thì tập trung vào đại bản doanh, là đồn Vụ Quang8. Từ Vụ Quang đến núi Trùng Khê, Trí Khê cứ cách ba dặm hoặc năm dặm lại có một hầm chứa thóc với những dụng cụ xay giã do nhân dân cung cấp. Như vậy, lực lượng nghĩa quân dưới sự chỉ đạo của Phan Đình Phùng đã hình thành nên một hệ thống có tổ chức và có thanh thế mạnh. Mặc dù địa bàn hoạt động của nghĩa quân chủ yếu ở vùng Hương Khê nhưng phong trào còn lan rộng ra bốn tỉnh Thanh Hóa, Quảng Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh. Dưới sự chỉ huy tài tình của Cao Thắng, nghĩa quân đã tự chế tạo ra những khẩu súng trường, theo kiểu súng Pháp từ những vật liệu thô sơ nhất. Có thể nói, binh lực của nghĩa quân bố trí ở Vụ Quang là bộ phận quân tinh nhuệ nhất9, lớn nhất trong các cuộc khởi nghĩa ở Trung - Bắc Kỳ. Về phía quân giặc, vào đêm trước của trận đánh lịch sử, để đối phó với lực lượng nghĩa quân lúc này đã phát triển mạnh, chúng tìm cách bao vây, chặn không cho nghĩa quân tràn ra đường bằng. Giặc Pháp thực hiện nhiều thủ đoạn: vừa tấn công bằng quân sự, vừa ra sức dụ hàng, ly gián giữa nhân dân với nghĩa quân. Chúng cho xây dựng một hệ thống các đồn bốt, ngăn chặn con đường tiếp tế và hoạt động của nghĩa quân. Riêng tại Hương Khê, Pháp đã xây dựng tới 20 đồn, mỗi đồn tối thiểu có 30 lính10. Chúng thực hiện triệt để âm mưu dùng người Việt đánh người Việt. Lực lượng chính mà chúng sử dụng là lính tập, tăng cường lính khố xanh đóng ở các đồn địa phương. Quân lệnh ngày 11-2-1886 của tướng pháp là Warnet và nghị định ngày 6-8-1886 của toàn quyền Paul Bert đều với nội dung thành lập những cơ ngụy binh khố xanh11. Điều này cho thấy chỉ huy Pháp thực sự lo sợ trước sự lớn mạnh của nghĩa quân Hương Khê và cố gắng mọi cách chuẩn bị lực lượng để đối phó với phong trào. Với việc huy động một số lớn binh lực và cách bố trí các đồn bốt của địch, có thể thấy Pháp đã phải đưa ra những cố gắng cao nhất hòng tiêu diệt lực lượng nghĩa quân. Trong suốt hơn 10 năm chiến đấu, có rất nhiều trận đánh đã diễn ra liên tiếp giữa nghĩa quân Hương Khê và quân Pháp dưới mọi hình thức, gây cho quân địch nhiều tổn thất. Trong đó trận chiến ở dãy núi Vụ Quang ngày 26-10-1894 là trận thắng tiêu biểu nhất của phong trào. Do biết trước địch sẽ tập trung lực lượng tấn công vào đại đồn của nghĩa quân, Phan Đình Phùng đã lập ra một kế hoạch sẵn sàng đối phó với chúng. Ông đã biết lợi dụng địa hình địa vật theo cách đánh cổ truyền, triệt để lợi dụng sức nước để đánh giặc. Ông chỉ huy nghĩa quân chặt những cây gỗ lim, ghép lại thành từng bè lớn đặt trên đầu nguồn của con sông chảy qua dãy núi Vụ Quang, hình thành nên một bẫy nước để cản đường giặc. Trong khi đó, biết rõ Phan Đình Phùng đang đóng quân ở Vụ Quang, thực dân Pháp quyết định tổ chức một cuộc tập kích chớp nhoáng để tiêu diệt nghĩa quân và bắt Phan Đình Phùng. Ngày 26-10-1894 đại bộ phận đội quân địch tấn công vào căn cứ chính của nghĩa quân; chúng không biết rằng Phan Đình Phùng trước đòn đánh của địch đã di chuyển đồn trại đóng trên một thung lũng núi khác. Trận đánh diễn ra theo đúng dự kiến của Phan Đình Phùng: ông cho một toán quân ở dưới chân núi nổi trống phất cờ, khiêu chiến với quân địch. Sau khi hai bên đánh nhau ác liệt, nghĩa quân dùng kế nghi binh, giả thua rồi chạy tới sông Vụ Quang - nơi đã được chuẩn bị để đón đánh địch. Chờ khi quân giặc vì hiếu thắng, hùng hổ đuổi theo nghĩa quân ra đến dòng sông, Phan Đình Phùng ra lệnh cho binh lính phá kè ở trên nguồn cho gỗ theo nước lao vào quân giặc. Đồng thời quân mai phục ở hai bên bờ sông đồng loạt nổ súng, khiến cho quân địch bị mắc kẹt ở giữa... Quân giặc bị tấn công bất ngờ nên vô cùng hoảng loạn, không kịp chạy thoát thân. Trong trận này nghĩa quân đã diệt được ba viên quan võ Pháp, hơn 100 lính, thu 50 súng và nhiều quân trang, quân dụng12. Có thể nói chiến thắng Vụ Quang là chiến công oanh liệt nhất của nghĩa quân Hương Khê trong suốt 11 năm kể từ khi bắt đầu khởi nghĩa. Thắng lợi này đã bẻ gãy âm mưu đánh vào Vụ Quang để tiêu diệt lực lượng nghĩa quân của giặc Pháp, làm cho chiến thuật gọng kìm và bao vây tuần tiễu của địch bị phá sản một bước. Sau thất bại này, quân Pháp ngày càng hoảng sợ trước sự lớn mạnh của phong trào, và để đàn áp được cuộc khởi nghĩa chúng đã phải sử dụng một lực lượng lớn mạnh hơn với chiến thuật tinh vi hơn. Trận Vụ Quang kết thúc thắng lợi là kết quả của tài dùng binh và biết lợi dụng địa hình địa vật với diệu kế “Sa nang úng thủy” của Phan Đình Phùng. Chiến thắng Vụ Quang còn cho thấy nghệ thuật sử dụng các hình thức chiến tranh du kích tài tình của Phan Đình Phùng và các tướng lĩnh trong phong trào. Tuy nhiên trong trận này cũng bộc lộ sự non yếu của nghĩa quân, nhất là về mặt trang bị vũ khí. Nghĩa quân với chiến thắng Vụ Quang vẫn chưa tạo nên được một cục diện mới cho phong trào ... Do điều kiện và hoàn cảnh lịch sử lúc đó, do nhiều nguyên nhân khác nhau nên nghĩa quân không còn triển khai được thế trận liên hoàn, phối hợp tác chiến giữa các cánh quân, không kéo được lực lượng ra nhiều nơi để đối phó, vì thế khi địch tập trung lực lượng, tấn công quyết liệt bằng những toán quân cơ động mạnh phong tỏa bao vây nghĩa quân thì phong trào yếu thế và đi đến tan rã. Mặc dù chiến thắng Vụ Quang, do tình hình cụ thể lúc đó, đã không làm biến đổi được cục diện so sánh lực lượng giữa ta và địch; nhưng đã có thể coi là một trong những thắng lợi có tiếng vang lớn của phong trào Cần vương ở nước ta vào thời điểm lúc đó. Nó đã để lại những kinh nghiệm vô cùng quý giá, có thể coi như một trong những trận điển hình trong lịch sử nghệ thuật quân sự nước ta. ____________________________________________ 1. Phạm Bích Hằng: Cử nhân Viện Sử học. 2. Phạm Quang Trung: Tiến sĩ, Viện Sử học. 3. Tham luận Hội thảo khoa học kỷ niệm 100 năm ngày mất Phan Đình Phùng, ngày 28-12-1995. 4. Vụ Thấp nay đổi làm Vụ Quang. Dẫn theo Đại Nam nhất thống chí, tập 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1970, tr.134-135. 5, 6. Theo Đào Trinh Nhất: Phan Đình Phùng..., sđd, tr.129; tr.128,131. 7. Theo Đào Trinh Nhất: Phan Đình Phùng…, sđd, tr.128, 131. 8. Trần Huy Liệu: Cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng tiêu biểu của phong trào văn thân 1885-1896, Tập san Văn Sử Địa, 10-1958, tr.13. 9. Theo Đào Trinh Nhất: Phan Đình Phùng…, sđd: mỗi quân thứ phải kén trong quân mình ra hai chục hoặc ba chục tên kiện tốt về đóng ở đại đồn núi Vụ Quang gọi là quân túc trực (tr.131). 10, 11. Tài liệu tham khảo lịch sử cách mạng cận đại Việt Nam, Nxb Văn Sử Địa, 1957, tr.137, 138. 12. Tài liệu tham khảo lịch sử cách mạng cận đại Việt Nam, sđd, tr.157. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Tám, 2008, 11:56:13 pm BÙI THIẾT1 PHONG TRÀO CẦN VƯƠNG CHỐNG PHÁP Ở HÀ TĨNH: BẢN CHẤT - TƯ LIỆU – NHỮNG NHẬN THỨC MỚI I Sau cái chết của tướng quân Cao Thắng vào tháng 10-1893 và đặc biệt là sau cơn bạo bệnh giết chết thủ lĩnh Phan Đình Phùng vào ngày 28-12-1895 tại rú Quạt trong chiến khu Vụ Quang, thì phong trào kháng chiến chống Pháp dưới cờ nghĩa Cần vương do Phan Đình Phùng khởi xướng - lãnh đạo - tổ chức coi như bước vào chung cục thảm bại; sự nghiệp 10 năm kháng chiến chống Pháp oanh liệt tàn tạ trong đàn áp bạo lực của quân thù. Hơn một thế kỷ sau, dường như còn đâu đó trên đất đai Hà Tĩnh những cảnh tang tóc, những cuộc truy quét, những mất mát máu xương mà quân giặt từng gây ra cho cư dân và non sông Hà Tĩnh. Hơn một thế kỷ sau thất bại ở Vụ Quang, bút mực viết về cuộc đề kháng này hẳn không thua kém các sự kiện quân sự ở Việt Nam xảy ra từ năm 1858 trở đi, các chính kiến được bộc lộ qua từng trang viết. Nhưng có điều tùy thái độ và cách nhìn nhận sự kiện này khác nhau mà người ta có cách trình bày khác nhau; chung quy lại có hai cách nhìn: Một là ủng hộ sự nghiệp chống Pháp do Phan Đình Phùng lãnh đạo, đó là một tiếp nối truyền thống chống xâm lược của dân tộc ta, cho dù có bị đàn áp đẫm máu cũng chẳng hề chi, đó là sự hy sinh cho Tổ quốc; và hai là bằng mọi cách chỉ trích cuộc đề kháng này, bởi vì họ đứng trên lập trường của bọn thực dân. Cho đến khi phía những người ủng hộ sự kiện này chiếm ưu thế, bởi sự hình thành của đội ngũ các nhà sử học - văn học của nước Việt Nam mới sau 1945-1954, thì dường như mọi người đều chấp nhận một cách thanh thản và có lý có tình sự kiện này, vai trò và vị trí của Phan Đình Phùng cùng chiến hữu và cộng sự của ông cũng được suy tôn như những anh hùng dân tộc lỗi lạc trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Tuy vậy, các trước tác từ hai phía đều không phân định được một cách rõ ràng bản chất của phong trào kháng chiến chống Pháp này, mà biểu hiện rõ nhất là ở chỗ định danh cho nó; bởi cả hai phía đều coi đó là khởi nghĩa. Từ khởi nghĩa được nêu ra bởi phía chính quyền thực dân Pháp khi họ nói đến cuộc đề kháng này. Trong Pháp ngữ thì khởi nghĩa bao hàm nghĩa không được mấy tôn trọng với nguyên nghĩa là Insurrection hay révolte, các thuật ngữ này nhằm chỉ sự nổi dậy của ai đó chống lại ai đó (chính quyền, chế độ...), nếu chống lại chính quyền hay chế độ xấu xa thì sự nổi dậy đó được coi là tiến bộ, hợp quy luật lịch sử, mà quả thật sự nổi dậy khởi nghĩa như vậy, làm thay đổi thể chế hay chính quyền, đều được nâng cấp và sẽ được định danh là cuộc cách mạng – Revolution; trong trường hợp ngược lại, đó là sự nổi dậy chống lại chính quyền hay chế độ tốt đẹp thì chắc chắn rằng cuộc nổi dậy ấy sẽ bị đàn áp và bị lịch sử lên án. Người ta đã định danh phong trào chống Pháp do Phan Đình Phùng lãnh đạo, đã hàm ý rằng đây là một cuộc nổi loạn, chống lại sự xâm chiếm tốt đẹp, hay là sự khai hóa của người Pháp, và dưới con mắt của họ thì đây là một hành động phá hoại đáng bị tiêu diệt, và họ đã tiêu diệt được một cách man rợ! Nói một cách chính xác, thì phong trào chống Pháp do Phan Đình Phùng lãnh đạo là một cuộc kháng chiến, tiếng Pháp là Résistance, để chỉ sự chống lại ách áp bức nô dịch của thế lực ngoài nào đó cho một dân tộc, một quốc gia. Mà đằng này, vào những năm 80 của thế kỷ XIX, thực dân Pháp vẫn đang là một thế lực viễn chinh, chưa phải đã là thế lực trị vì hợp thức ở Việt Nam, nhiều vùng đất rộng như ở Thanh - Nghệ - Tĩnh vẫn thuộc vương triều Nguyễn với cộng đồng làng xã cố kết ổn định, dân vẫn sống trong kỷ cương của nước Đại Nam, bọn xâm lược Pháp đang cố rình ngó và hy vọng chiếm đóng được một cách tượng trưng hay danh nghĩa nào đó mà thôi, bởi vì bài học lịch sử của vùng đất này, hết thảy mọi thế lực ngoại xâm vào đứng chân được ở đây là vô cùng khó khăn và thường là bị thất bại thảm hại. Vậy thì người Pháp vào lúc đó vẫn đang là một thế lực viễn chinh xâm lược, chưa thiết lập được nền cai trị đích thực và với đúng nghĩa của nó, thì sự chống lại của nhân dân Việt Nam mà tiêu biểu là các nghĩa binh Cần vương, rõ ràng là một cuộc kháng chiến chống xâm lược với đúng nghĩa của từ này. Một sự nhầm lẫn dù bên ngoài và mang tính hình thức đi chăng nữa cũng là không thể chấp nhận được bởi vì ở thuật ngữ khởi nghĩa bao hàm hai nghĩa đối lập nhau. Còn thuật ngữ kháng chiến chỉ có một nghĩa duy nhất không bị hiểu nhầm, dù các phía có chính kiến khác nhau về cuộc kháng chiến đó. Khởi đầu từ chính quyền thực dân Pháp sau khi đàn áp cuộc kháng chiến do Phan Đình Phùng lãnh đạo, đã không chịu thừa nhận đây là một cuộc kháng chiến, mà ngụy tạo cho sự kiện này là khởi nghĩa - nổi loạn - nổi dậy... Và họ đã bôi xấu bản chất tốt đẹp của cuộc kháng chiến này một cách có ý đồ và có ý thức; và đến lượt các học giả nhuốm quan điểm thực dân hay bị khống chế bởi quan niệm nô lệ, đã không ngần ngại tung hô lên sách báo thuật ngữ khởi nghĩa gán cho phong trào chống Pháp lẫy lừng này. Đây là điều không có gì khó hiểu, bởi vì trong mắt họ, đáng lẽ ra Phan Đình Phùng cộng tác với bọn thực dân thì không có tổn hại to lớn ở Vụ Quang như lịch sử đã chứng kiến! Nhưng lạ lùng hơn, là từ sau năm 1945-1954, khi hình thành chuyên ngành khoa học lịch sử của nước Việt Nam mới, đội ngũ các nhà sử học (kể cả văn học và chính trị), vẫn theo khuôn sáo của các chính quyền thân Pháp, lặp lại một cách nguyên xi thuật ngữ khởi nghĩa để gắn cho sự kiện Cần vương chống Pháp này. Hệ quả là các quan điểm thực dân vẫn tìm thấy hạt nhân hợp lý và sự an ủi phần nào khi các nhà sử học yêu nước chống ngoại xâm vẫn không có được sự phân định rạch ròi đâu là sự nổi dậy - khởi nghĩa và đâu là sự đề kháng chống xâm lược? Điều này được minh chứng bởi hàng loạt sách báo lịch sử, từ sách giáo khoa các cấp cho đến cao học, các tác phẩm lịch sử từ chuyên sử cho đến thông sử, các tác phẩm văn chương lấy đề tài lịch sử và nhiều sách báo tuyên truyền lịch sử, từ sau 1945-1954 đến nay, hết thảy đều ghi đậm KHỞI NGHĨA VỤ QUANG - để chỉ cuộc kháng chiến chống Pháp do Phan Đình Phùng lãnh đạo, lấy Vụ Quang làm căn cứ. Tính hai mặt của thuật ngữ Khởi nghĩa (nổi loạn, bạo loạn, ...) vẫn được quảng bá một cách sâu rộng không chỉ với bạn đọc tiếng Việt, mà bạn đọc thuộc các ngôn ngữ khác vẫn nhận thấy tính chất hai mặt đối lập của thuật ngữ này, và theo đó tính chất của cuộc kháng chiến chống Pháp dưới cờ nghĩa Cần vương do Phan Đình Phùng lãnh đạo như một bóng đen của lịch sử, ông và chiến hữu của ông chỉ là những kẻ chống đối bất mãn với chính quyền thực dân Pháp mà thôi! Nhân đây, tôi xin cung cấp thêm tư liệu đã được tạc lên bia đá, đó là bài văn bia bằng Việt ngữ và Pháp ngữ, dựng ở đền thờ Phan Đình Phùng trên cửa ngõ vào căn cứ Vụ Quang (nay thuộc xã Kim Quang, huyện Vụ Quang, tỉnh Hà Tĩnh), tương truyền nơi đây là đồn tiền tiêu của chiến khu Vụ Quang. Bài văn bia, nghe nói là do GS. Đinh Xuân Lâm soạn; người ta đọc được trên văn bia thuật ngữ viết là KHỞI NGHĨA, được dịch sang tiếng Pháp là INSURRECTION. Một lần đứng trước văn bia này, tôi đã nói với GS. Đinh Xuân Lâm rằng đây là một sự ngộ nhận tai hại của hậu thế đối với Phan Đình Phùng, và vì sao đây không phải là một cuộc KHÁNG CHIẾN? Con cháu của những người kháng chiến ngộ nhận cha ông mình là người khởi nghĩa, là một cảnh báo tai hại vì con cháu đã không tiếp cận được đúng đắn với sự nghiệp của cha ông mình! Nói rộng hơn, không chỉ có cuộc kháng chiến chống Pháp do Phan Đình Phùng lãnh đạo đã bị “biến chất” thành khởi nghĩa, mà hầu như hàng trăm cuộc kháng chiến chống Pháp to hay nhỏ kể từ năm 1858 đến 1945 đều được liệt vào phạm trù “khởi nghĩa” nhất loạt. Các thế hệ con cháu vẫn đọc và học về các cuộc khởi nghĩa chống Pháp một cách tự nhiên, bình thản, rằng đó là những cuộc nổi dậy chống lại chính quyền Pháp, chứ không phải chống lại sự xâm lược, đô hộ thực dân mà người Pháp áp đặt lên đầu lên cổ dân tộc ta! Ví như phong trào kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ do Trương Định và hàng loạt thủ lĩnh khác chỉ huy trước khi triều đình Huế ký Hàng ước dâng ba tỉnh Nam Bộ cho Pháp năm 1862, sao lại bị liệt vào “khởi nghĩa”? Và ngay cả các cuộc kháng chiến xảy ra ở miền Trung cho đến trước năm 1883, rồi các cuộc kháng chiến xảy ra ở Ba Đình (Thanh Hóa), cho đến cuộc kháng chiến ở Yên Thế (Bắc Giang) do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo, hết thảy bị xếp vào phạm trù khởi nghĩa một cách oan uổng! Ngay cái gọi là Tổng khởi nghĩa tháng 8-1945 cũng cần được xem xét lại, vì đó đã là một cuộc CÁCH MẠNG đích thực, mà không hiểu vì sao, cho đến nay vẫn lưu hành hai thuật ngữ là khởi nghĩa và cách mạng cho cùng một sự kiện trọng đại này? Như vậy, đã đến lúc buộc chúng ta phải xác định lại bản chất cho hầu hết các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược từ năm 1858 cho đến năm 1945 và kéo dài cho đến năm 1954, một sự danh chính “kháng chiến” sẽ nói lên tất cả những gì mà các thế hệ dân tộc Việt Nam đã hy sinh cho nền độc lập dân tộc, các cuộc kháng chiến đó về hành vi và biểu hiện có khi tương đồng với các cuộc khởi nghĩa - nổi dậy - phản loạn ... song bản chất là hoàn toàn khác biệt, không thể nhầm lẫn “kháng chiến” thành “khởi nghĩa”, và ngược lại. Một sự nhầm lẫn trong định danh sẽ mang theo nhiều hậu quả tai hại khác, một sự nhầm lẫn tai hại, mà tai hại không cho riêng ai, mà cho cả một dân tộc, cho nhận thức chung của nhân loại. _____________________________________________ 1. Bùi Thiết: Nhà nghiên cứu Lịch sử, Viện Văn hóa, Bộ Văn hóa - Thông tin. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Tám, 2008, 12:00:26 am II Xuất phát từ quan niệm thực dân đối với phong trào Cần vương chống Pháp do Phan Đình Phùng lãnh đạo, biến cuộc kháng chiến thành cuộc khởi nghĩa - nổi loạn; cho nên những tư liệu được sử dụng khi trình bày sự kiện này cũng tuân thủ nguyên tắc nhằm biện minh cho một cuộc khởi nghĩa - nổi loạn, và chứng minh về sự thất bại tất yếu của phong trào. Những công bố đầu tiên về sự kiện Vụ Quang ra trước công luận được thực hiện bởi chính quyền thực dân Pháp, ngay từ trong quá trình tiến hành của phong trào (1885-1895) và đặc biệt được khuếch trương khi thực dân Pháp đàn áp đẫm máu cuộc kháng chiến 1896; những công bố đó mang nặng sắc thái chính trị, nhằm răn đe những ai có tinh thần như Vụ Quang hay bảo vệ tán dương cho sự kiện này; cũng vì vậy mà những tư liệu và thông tin được cung cấp nhiều khi không trung thực; những giá trị của cuộc kháng chiến bị xuyên tạc và giảm đến mức ít nhất, những hạn chế của sự kiện được tô vẽ để biến thành tội ác đáng bị trừng trị, và những thất bại của Vụ Quang được nhân lên gấp bội như để cảnh báo cho các thế lực muốn noi gương Vụ Quang. Đó là điều hiển nhiên, và ta có quyền hồ nghi tính đúng đắn trung thực của sự kiện Vụ Quang do từ chính quyền thực dân công bố, nếu muốn chứng minh cái sai của những công bố đó phải có điều kiện và cánh làm việc mang tính phản biện. Chúng tôi chưa có chuẩn bị phản biện cho Vụ Quang, nhưng một việc làm như vậy là không bao giờ muộn với lịch sử. Nhân đây xin nêu một dẫn chứng về cái chết của Hoàng Hoa Thám năm 1913, do chính quyền thực dân cung cấp: theo các nguồn tin và hình ảnh thì Hoàng Hoa Thám đã bị Lương Tam Kỳ phản bội, giết chết ngày 18-3-1913; chính quyền còn chụp ảnh thi thể một người bị giết và ghi là Hoàng Hoa Thám. Cái chết của Hoàng Hoa Thám được công bố như là một thắng lợi của thực dân Pháp, là cuộc tấn công chí mạng đối với Yên Thế và chấm dứt cuộc kháng chiến ròng rã 30 năm. Nhưng cho đến nay càng có nhiều người hoài nghi cái chết của vị Thủ lĩnh phong trào Yên Thế, rằng các tình tiết không được kiểm chứng, kể cả tấm ảnh mà người Pháp trưng ra uy hiếp dân chúng cũng là ngụy tạo, rằng Hoàng Hoa Thám không dễ gì bị hãm hại đến như vậy, rằng với điều kiện khó khăn không thể duy trì nổi cuộc kháng chiến Hoàng Hoa Thám cùng nghĩa quân chọn phương án rút lui, rằng Hoàng Hoa Thám vẫn còn sống đâu đó trong nhà chùa và chết già vì đau yếu ... Ở đây chúng ta thấy sự lợi hại của sự tung tin thất thiệt, khi không thắng trên chiến trường người ta có thể tạo chiến thắng ảo bằng công luận và chuyển thế cục có lợi cho mình. Vụ Quang từ một sự kiện thời sự - chính trị được nhìn nhận theo quan điểm thực dân, nhanh chóng biến thành một sự kiện lịch sử được đánh giá theo sự áp đặt của quan điểm thực dân khi người ta sử dụng các tư liệu - thông tin được chính quyền thực dân cung cấp. Những công trình viết về Phan Đình Phùng và sự kiện Vụ Quang trước 1945- 1954 mang tính hai mặt, hay nói cách khác đó là lịch sử hóa sự kiện Vụ Quang hoặc chính trị hóa sự kiện này, làm cho người đọc cảm thấy như bị nhồi nhét sự kiện Vụ Quang theo kiểu giáo huấn mang tính răn đe hơn là sự thuyết phục một cách khoa học. Cũng có nghĩa là các tư liệu do chính quyền thực dân cung cấp được nhai lại - cải biên theo cách của sử học một cách khiên cưỡng; bởi vì các trứ tác vừa nói đến chỉ sử dụng mỗi một nguồn do phía chính quyền thực dân soạn thảo sẵn. Các nhà sử học của nước Việt Nam mới sau 1945-1954, trên cơ bản đã có cách nhìn mới về sự kiện này, tuy có điều cần thay đổi như đã nói ở phần trên. Các công trình và chương sách viết về Vụ Quang nhìn chung là kế thừa và xử lý được thông tin từ các nguồn cũ một cách có hiệu quả và phần nào tin cậy được, đặc biệt là lập trường và quan điểm yêu nước dành cho sự kiện Vụ Quang, góp phần giúp cho bạn đọc đánh giá đúng đắn hơn tầm vóc và giá trị lịch sử của sự kiện này. Đó là nói chung, còn đi sâu một cách cụ thể, sẽ còn nhiều chuyện để nói về các công trình liên quan đến Phan Đình Phùng - Vụ Quang của giới nghiên cứu từ 1945-1954 đến nay. Trong khi xử lý mới thông tin từ nguồn cũ, giới nghiên cứu mới hầu như chưa thu thập được các nguồn ngoài nguồn mà các chính quyền cũ cung cấp. Điều đó là có thật, vì từ năm 1955-1956 khi về Hà Nội, các cơ quan nghiên cứu có liên quan, như Viện Sử học, khoa Lịch sử Đại học Tổng hợp với tổ Lịch sử Cận đại Việt Nam, và sau này là các Ban Lịch sử địa phương Nghệ Tĩnh và Hà Tĩnh... đã không hề có các chương trình dài hạn hay ngắn hạn, hoặc các chuyên đề dành riêng cho Phan Đình Phùng và Vụ Quang. Trong vòng 50 năm qua, không có bất kỳ một tổ chức hay nhóm cá nhân và cá nhân đơn lẻ nào đặt Phan Đình Phùng và sự kiện Vụ Quang làm đề tài - chuyên đề nghiên cứu của mình. Cũng vì vậy mà không có bất kỳ một cuộc điền dã khoa học nào về Phan Đình Phùng và Vụ Quang được thực thi ở Hà Tĩnh nói riêng và Nghệ Tĩnh nói chung; hầu như hàng trăm làng quê ở Hà Tĩnh, cho đến nay vẫn còn lưu giữ khá nhiều tư liệu về phong trào văn thân chống Pháp cuối thế kỷ XIX, rất nhiều nhân chứng chống Pháp mới vĩnh biệt chúng ta chừng nửa thế kỷ nay đã kể lại rất nhiều mẩu chuyện sinh động thời đó, rất nhiều chứng tích văn thân - Cần vương vẫn còn lưu lại ở nhiều vùng quê khác nhau... Vậy mà không có một ai ghi lại, không có bất kỳ một cơ quan khoa học nào thu thập, và không có một công trình nào thể hiện được những tư liệu đang ẩn tàng đó! Tình trạng này đã và đang xảy ra, và những tư liệu sống ngày càng bị mai một không gì cưỡng nổi. Giá như trong vòng 50 năm qua, mỗi năm có một sinh viên đại học theo đề tài Phan Đình Phùng và Vụ Quang, đến thực tế ở Nghệ Tĩnh, đến tận các làng quê thu thập các nguồn... thì cho đến nay ít ra có chừng 50-100 luận văn về sự kiện này, một khối lượng đồ sộ chắc đã hiện hữu với chúng ta. Nhân kỷ niệm 160 năm ngày sinh Phan Đình Phùng (1847-2007), việc tỉnh Hà Tĩnh tổ chức một đợt sinh hoạt khoa học về Phan Đình Phùng và Vụ Quang được đánh giá là một cố gắng vượt bực, đưa sự kiện Vụ Quang trở lại trong đời sống thường nhật của dân chúng, đưa một minh họa cho truyền thống yêu nước phục vụ các sinh hoạt chính trị trở thành một giá trị vĩnh hằng của lòng yêu nước, chí khí quật cường chống ngoại xâm của dân tộc ta. 10 năm trước đây, tôi đã có dịp trở lại Hà Tĩnh tiến hành một đợt khảo sát kéo dài 5 năm, điều tra tư liệu của hơn 260 xã, thị trấn, phường của Hà Tĩnh để soạn thảo cuốn Từ điển Hà Tĩnh (sách công bố năm 2000) và đã phát hiện ra hàng loạt tư liệu về phong trào Cần vương chống Pháp, kể từ khi vua Hàm Nghi ban bố Dụ Cần vương (năm 1885) cho đến những năm cuối của thế kỷ XIX, khi trên cơ bản thực dân Pháp đã đàn áp xong phong trào yêu nước ở Nghệ Tĩnh. Các nguồn tài liệu thực địa về phong trào Cần vương chống Pháp ở Hà Tĩnh có rất nhiều, mà hầu hết chưa được thu thập - hệ thống - xử lý một cách khoa học; những nguồn đó từ dăm ba năm nay lần lượt được công bố ít ỏi và lẻ tẻ, chủ yếu trên tạp chí VĂN HÓA HÀ TĨNH - cơ quan ngôn luận của ngành văn hóa, chứ không phải là chuyên ngành lịch sử. Hy vọng Văn hóa Hà Tĩnh cứ công bố theo cách đã làm của mình, và đến lượt chúng ta sẽ có trong tay những gì mà chúng ta cần khi tìm hiểu một cách đầy đủ phong trào Cần vương chững Pháp. Để khái quát, ngoài nguồn tài liệu do chính quyền thực dân công bố cách đây hơn 100 năm, chúng ta còn có các nguồn chính sau đây: - Nhân chứng: Ngoài những nhân vật như Phan Đình Phùng, Cao Thắng, bộ chỉ huy ở Vụ Quang và thủ lĩnh của 8 quân thứ ở 8 huyện được công bố trước đây chỉ là một phần ít trong tổng số hàng mấy trăm những tướng lĩnh của Cần vương, và trong tổng số hàng ngàn - hàng vạn chiến sĩ Cần vương. Đạo quân đông đảo này đã làm nên phong trào Cần vương. Ngày nay về tận các làng quê vào các dòng họ lớn cháu chắt từ 3-5 đời còn kể về ông - cụ mình đã theo cụ Phan chống Pháp ra sao? Nhiều mẩu chuyện sinh động về các cụ vẫn được cháu chắt lưu truyền, nhiều gia phả còn ghi lại hành trạng những người ứng nghĩa Cần vương, hoặc bị ly tán bị bức hại do tham gia Cần vương; chẳng hạn, họ Nguyễn Quang ở làng Tăng Phú (nay là thôn Ngũ Quế, xã Cẩm Vịnh, huyện Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh) vì đã nuôi cụ Phan Đình Phùng ba tháng trong nhà, khi cụ Phan có ý định xây dựng căn cứ chống Pháp ở Đá Bạc (tức là thôn Ngụ Lương Đá Bạc, tổng Mỹ Duệ, nay đã chìm sâu trong lòng hồ Kẻ Gỗ) trước khi chọn Vụ Quang làm căn cứ kháng chiến lâu dài; sau khi thực dân Pháp đàn áp xong quân thứ Cẩm Xuyên - Thạch Hà, gia đình họ Nguyễn Quang buộc phải bỏ làng, 5 anh em trai nhà Nguyễn Quang có hai người trốn vào Quảng Trị và ba người khác trốn lên Kẻ Da (nay là Bộc Nguyên, xã Cẩm Thạch, Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh) sinh sống và định cư lâu dài, và may mà có một người từ Quảng Trị đã trở về quê sau bạo loạn gây dựng lại họ Nguyễn Quang như ngày nay. Chúng ta sẽ thu nhận được hàng trăm, thậm chí hàng ngàn những mẩu chuyện sinh động như vậy về những người tham gia phong trào Cần vương, nếu biết dày công khai thác thu thập, nhằm làm giàu thêm nguồn thông tin cho sự kiện lịch sử trọng đại này. Từ trước tới nay, mọi người chỉ biết chân dung mờ nhạt của số ít người trong bộ chỉ huy ở Vụ Quang mà thôi, còn hàng trăm tướng lĩnh, hàng ngàn vạn binh sĩ tạo nên ngọn sóng lừng Cần vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX thì chỉ như là một đống cô hồn, những xác chết chồng chất dưới họng súng quân thù, không ai nhắc đến họ, không có sử sách nào nói về họ, không có bia đá nào tạc danh họ... như một nhắn nhủ cho hậu thế, rằng những liệt sĩ - chiến sĩ Cần vương này đã hiến dâng cả đời mình cho nền độc lập của nước non này! Qua sử sách đã công bố, chúng ta thấy một tập thể nhỏ những người lãnh đạo, có phần đơn độc và không có dân chúng, nhất là khi co cụm vào Vụ Quang; nhưng với tiếp cận tư liệu mới, chúng ta hiểu thêm rằng Vụ Quang được quy tụ bởi hàng trăm căn cứ chống Pháp được hình thành ở từng làng xã, với hàng vạn chiến binh trải khắp mọi vùng, sẵn sàng về với Vụ Quang không nề hà nguy hiểm. Trong quá trình chuẩn bị kỷ niệm 160 năm ngày sinh Phan Đình Phùng và phong trào Cần vương chống Pháp, tôi đề xuất một hạng mục công việc điều tra thống kê trong phạm vi toàn tỉnh Hà Tĩnh, lên danh sách họ tên của những người tham gia phong trào Cần vương chống Pháp; mỗi người ghi rõ tên họ, quê quán, tuổi tác... đã tham gia phong trào; thống kê này có thể thực hiện được thông qua khai báo của các dòng họ có các thế hệ ông - cụ tham gia, bởi vì như tôi đã nói, cháu chắt đương đại, qua gia phả và truyền miệng hẳn còn nhớ rõ ông - cụ mình làm gì thuở bình sinh? Chỉ một danh sách như vậy thôi, tuy chưa đầy đủ, nếu được hoàn thiện một cách gấp gáp đi chăng nữa, chúng ta cũng có thể ghi nhận được hàng ngàn chiến sĩ - tướng sĩ Cần vương; Danh sách này cần được ghi tạc lại trên một tấm bia đá có tên là Bia đề đanh tướng sĩ Cần vương dựng ngay trước cửa ngõ vào Chiến khu Vụ Quang, hay một nơi nào đó trang trọng tiêu biểu cho sự kiện lịch sử vĩ đại này; mà chỉ với việc làm này không thôi, hẳn những người đã nằm xuống hả lòng hả dạ vì con cháu đã trả được ơn nghĩa cho tiền nhân; hơn thế nữa đây là một khẳng định rằng dân tộc ta là một dân tộc quật cường, một dân tộc tuy từng chịu biết bao ách đô hộ nhưng không bao giờ cam chịu là một dân tộc nô lệ? Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Tám, 2008, 12:02:08 am - Vật chứng: như chúng ta thấy, phía Chính quyền thực dân đó cho công bố những vật chứng liên quan đến phong trào Cần vương với số lượng ít ỏi vừa phải thôi, đủ để chứng minh rằng đó là các dấu tích vật chất của một cuộc đối đầu không cân sức, và sự thất bại của kẻ chống đối là không tránh khỏi. Các địa danh như Vụ Quang, Ngàn Trươi, Hói Trùng, Đại đồn Trung Lễ, một số căn cứ của 8 quân thứ,... có vẻ như rời rạc, thiếu sự liên kết của một hệ thống, đã bị quân giặc tấn công liên tục trong suốt thời gian từ 1885-1895, cũng là một minh chứng cho thất bại của phong trào Cần vương. Qua tư liệu của kẻ thù, chỉ bằng ngần ấy căn cứ làm sao mà trụ nổi trước sức mạnh lấn lướt của bọn thực dân! Những gì mà chính quyền thực dân nói về sức mạnh có phần thua kém của nghĩa quân Cần vương là không chính xác họ muốn hạ thấp hơn nhiều lần nữa sức mạnh của phong trào, với ý đồ khuyên kẻ yếu chở có đương đầu với thế lực hùng mạnh của họ! Tư liệu thực địa về phong trào Cần vương với tư cách là vật chứng về cuộc đối đầu Việt Pháp trên phần đất Hà Tĩnh hai thập kỷ cuối thế kỷ XIX còn lại cho đến nay là rất phong phú và đa dạng, nhưng có điều chưa được ai quản lý, và giới nghiên cứu chưa thể biến nó thành thông tin trong các công trình của mình. Vật chứng mà tôi đề cập đến ở đây bao gồm những thứ như: Căn cứ, đồn lũy, công sự, bãi chiến trường, phần mộ - nghĩa địa, những địa danh có liên quan... đến các sự kiện Cần vương chống Pháp cả phía ta và phía địch, hiện còn lại hay được ghi lại bởi nhân dân, với những chuyện kể lý thú về các vật chứng đó. Như đã nói là cho đến nay một thống kê phân loại các vật chứng đó chưa được thực hiện theo các tiêu chí khoa học điền dã lịch sử; nhưng chắc chắn rằng chúng ta sẽ làm tốt việc đó, cho dù đã muộn. Có dịp đi đến nhiều vùng quê ở Hà Tĩnh, chúng tôi tận mắt chứng kiến nhiều những đi tích - phế tích liên quan đang trong tình trạng hoang phế. Theo dự đoán của chúng tôi, thì các vật chứng có liên quan đến Cần vương ở Hà Tĩnh hiện có đến hàng mấy trăm đơn vị được phân bố rải rác ở khắp các làng xã, đặc biệt ở những địa phương gần các trục giao thông thủy và bộ, ở gần các trung tâm chính trị quân sự. Điều đặc biệt là ở nơi nào hình thành các đơn vị vũ trang thì ở đó có căn cứ có đồn và có bãi tập cũng như có bãi chiến trường xảy ra các đụng độ quân sự. Những năm 1885-1886-1887 cả vùng đất Hà Tĩnh đâu đâu cũng là chiến trường, 8 quân thứ ở 8 huyện là bộ chỉ huy trực tiếp của các cuộc chiến chống thực dân Pháp ngay tại địa phương nhà; về sau khi thực dân đàn áp một cách cơ bản 8 quân thứ, nghĩa quân dồn lên Vụ Quang, thì các cuộc đụng độ ở vùng đồng bằng chấm dứt, chiến sự xảy ra ở các căn cứ có liên quan đến Vụ Quang. Như vậy, trước khi tập trung lực lượng bao vây Vụ Quang, thực dân Pháp đã kịp xóa sạch một phần trên thực địa và đa phần trên danh nghĩa và công luận các căn cứ chiến đấu ở đồng bằng, coi như chưa bao giờ có lực lượng chống đối hùng mạnh của phong trào Cần vương ở đây. Hàng loạt vật chứng đó bị quên lãng một cách cố tình với người Pháp và vô tình với giới nghiên cứu, mà hệ quả là cho đến nay mọi người đều không biết gì đến hàng trăm vật chứng Cần vương đó. Không ai biết đến một ma trận chống quân xâm lược rộng khắp mọi làng quê Hà Tĩnh vào hai thập kỷ cuối của thế kỷ XIX đau thương. Nếu viết lại lịch sử phong trào Cần vương chống Pháp ở Hà Tĩnh do Phan Đình Phùng lãnh đạo, chỉ dựa vào tư liệu và các thông tin do chính quyền thực dân cung cấp và không thu thập các thông tin là nhân chứng - vật chứng còn rải rác trong các vùng quê và các nơi xảy ra các cuộc đụng độ lúc đó thì chắc chắn rằng lịch sử đã và sẽ bị bóp méo, không mấy trung thực, mà trong đó tầm vóc dân tộc trước quân thù bị xâm hại, điều mà chính quyền thực dân và các cơ quan ngôn luận của họ đã làm được trong vòng một thế kỷ qua. Việc thu thập những tư liệu và thông tin mới về phong trào Cần vương để có được những công trình xứng đáng với cuộc đề kháng cực kỳ anh dũng này đặt lên vai các cơ quan hữu trách và các nhà nghiên cứu đầy bản lĩnh một trọng trách vô cùng nặng nề; những thông tin đã có là cần thiết song chưa đủ để phác họa lại toàn cảnh sinh động của cuộc đụng độ lịch sử này; tuy đã muộn nhưng vẫn còn nhiều cơ may và hy vọng cho những ai thật sự muốn tìm hiểu phong trào Cần vương chống Pháp ở Hà Tĩnh. Tất cả đang ở phía trước! III Từ cách nhìn nhận bản chất của phong trào Cần vương như đã trình bày và quan niệm về tư liệu cho việc nghiên cứu sự kiện lịch sử trọng đại mà chúng tôi vừa đề cập đến, mà phần nào các nguồn đó được khống chế, cho phép chúng tôi trình bày một số những nhận thức mới về sự kiện này - điều mà từ trước tới nay người ta chỉ mới phác vẽ có tính chất biên niên hay là diễn biến của phong trào Cần vương lấy Vụ Quang làm trung tâm cho mọi mô tả và nghiên cứu; chúng tôi sẽ không lặp lại những gì mà người ta đã trình bày có tính trình tự từ đầu đến cuối sự kiện, như một sự mô tả diễn biến, mà sẽ được trình bày theo từng vấn đề như đặc điểm hay đặc trưng của sự kiện này, theo đó chúng tôi đề xuất những nhận thức mới về phong trào Cần vương chống Pháp ở Hà Tĩnh như sau: 1. Phong trào Cần vương chống Pháp xác định thực dân Pháp là kẻ thù số một của nhân dân Việt Nam. Bây giờ thì ai ai cũng hiểu điều đó, nhưng cách đây hơn 120 năm, khi vua Hàm Nghi ban bố Dụ Cần vương, những người yêu nước theo đường lối chủ chiến và toàn dân từng tham gia đánh Pháp từ 1858-1885, chịu qua nhiều thất bại, không hẳn đã nghe theo một cách dễ dàng, vì trong những thắng lợi của thực dân Pháp phần nào đó có “công” của triều đình Huế. Điểm lại cái diễn biến chính trị sự kiện Pháp đánh Đà Nẵng (1858), đánh Sài Gòn (1859), đánh và chiếm và ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ (1862), thôn tính nốt ba tỉnh Tây Nam Kỳ (1874) và đạt được Hàng ước Harmand (1883) buộc triều đình Huế nhường chủ quyền quốc gia cho thực dân Pháp đã đủ nói lên rằng: kẻ thù của Việt Nam là thực dân Pháp, nhưng kẻ thù của nhân dân Việt Nam không chỉ là bọn thực dân xâm lược mà còn cả triều đình nhu nhược, không dám chống Pháp lại còn buộc nhân dân tước bỏ quyền tự vệ chống xâm lược của mình. Riêng ở Nghệ Tĩnh, sau khi triều đình Huế cắt toàn Nam Kỳ cho Pháp (1874) sĩ phu, văn thân và nhân dân Nghệ Tĩnh đã khởi xướng phong trào Bình Tây sát tả, mà trung tâm là cuộc kháng chiến do Trần Tấn - Đặng Như Mai khởi xướng, nêu rõ kẻ thù của nhân dân là thực dân Pháp - triều đình Huế đầu hàng - thế lực công giáo làm tay sai cho Pháp. Đánh thắng một trong ba thế lực đó đã là khó, nói chi đến đánh bại cả ba, mà ở một khía cạnh nào đó mà nói thì ba thế lực này đã liên kết với nhau một cách vô thức, không có cam kết và không phải là đồng minh hay liên minh với nhau. Với một thế cục như vậy, mọi cuộc đề kháng tự phát của sĩ phu và dân chúng khó đi đến thắng lợi, mà hầu hết đều bị đàn áp một cách dã man như lịch sử từ 1858-1885 đã chứng minh. Đây là một sự thật vô cùng cay đắng, có lẽ với những ai trong cuộc đã cay đắng ngàn lần so với chúng ta bây giờ! Với cuộc binh biến bất thành xảy ra ở Huế ngày 23-5 Ất Dậu (1885) buộc Hàm Nghi và phái chủ chiến rút khỏi Kinh thành Huế, ra Tân Sở (Cam Lộ, Quảng Trị) rồi ra Sơn phòng (Hương Khê, Hà Tĩnh) và ban bố Dụ Cần vương, tiếp theo đó là sự hình thành của lực lượng chống Pháp dưới cờ nghĩa Cần vương, như là một định hướng cơ bản có tính chất uốn nắn lại đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân Việt Nam. Đánh giá đường lối chiến lược của phong trào Cần vương chống Pháp một cách khách quan và đúng với thời điểm lịch sử của nó làm cho chúng ta tin rằng, những gì mà tướng sĩ của phong trào Cần vương đã hiến dâng cho nền độc lập của dân tộc Việt Nam là vô giá, là không thể bị hiểu sai lạc cho dù với động cơ nào! Từ phong trào Cần vương trở đi cho đến thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945, mọi hoạt động yêu nước đều xác định kẻ thù của nhân dân Việt Nam là bọn xâm lược, chủ yếu là thực dân Pháp, và từ sau vụ Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945) là bọn phát xít Nhật. Có lẽ đó là giá trị mà phong trào Cần vương đã lưu lại một cách đầy ấn tượng trong lịch sử chống ngoại xâm hàng ngàn năm qua của nhân dân Việt Nam. Nói lại điều đó có vẻ là thừa, nhưng điều quan trọng là bởi vì lâu nay chúng ta quen nói những gì không phải của lịch sử, cứ tưởng rằng cha ông ta thời đó cũng hiểu như chúng ta ngày nay, rằng mọi chuyện đã rõ ràng trước lịch sử. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Tám, 2008, 12:05:01 am 2. Với sụ hứng khởi của phong trào Cần vương, Hà Tĩnh được coi như đất phát tích của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lần thứ hai của nhân dân Việt Nam. Như chúng ta thấy, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lần thứ nhất được phát động từ năm 1858 và chấm dứt bởi Hàng ước 1883; chiếm 1/4 thế kỷ có hàng trăm cuộc đụng độ xảy ra ở Nam Bộ và Bắc Bộ (riêng Trung Bộ chỉ xảy ra ở Đà Nẵng và Thừa Thiên – Huế), tất cả các cuộc đề kháng đó đã bị thất bại cho phía lực lượng yêu nước; và với Hàng ước 1883, thực dân Pháp hy vọng dập tắt được ý chí chống xâm lược của người Việt Nam. Nhưng đó là một ảo tưởng, và với triều đình kháng chiến của Hoàng đế Hàm Nghi, cuộc kháng chiến chống xâm lược lại được khởi phát với một nội dung và tinh thần mới, đó là triều đình giương cờ Cần vương để thu nạp lực lượng dân chúng tham gia, bởi triều đình bấy giờ chỉ còn là hư vị, triều đình đã sơ tán và thoát khỏi quyền lực truyền thống vốn có của một triều đình. Linh hồn của phong trào Cần vương lúc đó là Dụ Cần vương, lời kêu gọi thống thiết của Hoàng đế Hàm Nghi trước họa xâm lăng của thực dân Pháp và kêu gọi dân chúng cùng đứng lên chững xâm lược. Dụ Cần vương được soạn thảo sẵn khi Hàm Nghi ra Tân Sở, được công bố tại Tân Sở vào ngày 26 Ất Dậu (13-7-1885); nhưng một sự ban bố và quán triệt Dụ Cần vương đến các lực lượng yêu nước chống Pháp và có hiệu lực thi hành thì phải là khi Hàm Nghi có mặt ở Sơn phòng (Hương Khê, Hà Tĩnh) và gặp mặt các văn thân sĩ phu Cần vương vào tháng 9-1885; tại lần gặp này có Phan Đình Phùng, Phan Quang Cư, Phan Khắc Hòa, Hoàng Xuân Phong, Ngụy Khắc Kiều, Phan Trọng Mưu... và nhiều người khác. Với lòng tin đối với văn thân Cần vương, Hàm Nghi đã phong cho Phan Đình Phùng làm Tán lý quân vụ, thống lĩnh các đạo nghĩa binh Cần vương trong toàn cõi Trung Kỳ. Đây là một nghi lễ trọng đại tái lập lại cuộc kháng chiến chống Pháp dưới cờ nghĩa Cần vương, lấy lực lượng và địa bàn Hà Tĩnh làm chính, tất nhiên phong trào Cần vương có ảnh hưởng rộng khắp dải đất Trung Kỳ - nơi mà trên danh nghĩa là đất do Pháp bảo hộ còn triều đình Huế chỉ có cái quyền hờ không hơn không kém. Lực lượng văn thân từ Sơn phòng trở về ngay quê hương bản quán thành lập lại căn cứ chống Pháp với nghĩa binh - trang bị và hậu cần tại chỗ, tất cả đều hướng về Hàm Nghi và Phan Đình Phùng. Mà lịch sử ghi nhận rằng đây là một phong trào kháng chiến chống bọn xâm lược Pháp quyết liệt nhất, anh dũng nhất trong số những cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam kể từ khi Pháp xâm lược cho đến nay. Với tinh thần đó, chúng ta có thể nói được rằng, vùng đất Hà Tĩnh xứng đáng là nơi phát tích của phong trào Cần vương, mở đầu cho giai đoạn chống Pháp xâm lược lần thứ hai (Vì điều kiện có hạn chúng tôi xin nói gọn lại rằng cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam từ 1858-1945, có thể chia làm ba giai đoạn: lần đầu từ 1858-1885, lần thứ hai từ 1885-1930 và lần thứ ba từ 1930-1945, mỗi lần có những đặc điểm và tính chất riêng tuy mục đích trên cơ bản là tương đồng, tức đánh đuổi bọn thực dân xâm lược Pháp - chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này trong một dịp khác), đây là một giai đoạn biến chuyển cơ bản trong chiến lược chống thực dân Pháp xâm lược, và là giai đoạn chịu nhiều tổn thất nhất, mà cũng từ bài học lịch sử này mà cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp giai đoạn thứ ba từ 1930-1945 thu lại được những thắng lợi to lớn, dẫn đến Cách mạng tháng Tám 1945 một cách trọn vẹn và ngoạn mục. Với ý nghĩa đó, chúng ta có thể xếp Hà Tĩnh vào hàng ngũ các địa danh lịch sử của đất nước, là nơi phát tích của các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm trong lịch sử bảo vệ Tổ quốc, như Mê Linh (nay thuộc Hà Tây) thời Hai Bà Trưng; Núi Nưa (nay thuộc Thanh Hóa) thời Bà Triệu; Rú Đụn (Nghệ An) thời Mai Thúc Loan, Thăng Long các thời Lý - Trần, Lam Sơn (Thanh Hóa) thời Lê Lợi . 3. Phong trào Cần vương chống Pháp xâm lược phát triển rất nhanh chóng, rộng khắp, vô cùng quyết liệt và dũng cảm. Thật không ngờ được rằng, chỉ mấy tháng cuối năm 1885, từ khi Hàm Nghi xuất bôn cho đến giáp Tết Bính Tuất (1886) các đội nghĩa binh Cần vương ở Hà Tĩnh đã hình thành và hoạt động chống Pháp có hiệu quả. Theo sơ đồ tổ chức được nói đến một cách hình thức, thì lực lượng Cần vương ở Hà Tĩnh nói riêng được phiên chế theo các cấp: trên cùng là do Phan Đình Phùng thống lĩnh, cấp thứ hai là các quân thứ ở các huyện, riêng ở Hà Tĩnh có 8 quân thứ, và chắc rằng dưới các quân thứ có các đồn binh và các nghĩa binh tập hợp theo làng xã và cụm làng xã. Đây là các đơn vị nghĩa binh cơ động và đảm nhiệm địa bàn hoạt động của mình. Tất nhiên đó là một phiên chế không chặt chẽ, đa phần được hình thành một cách tự phát nhưng có trật tự. Như chúng tôi đã nói là các tư liệu cũ không nói gì đến lực lượng của các quân thứ và trực thuộc quân thứ - tức các lực lượng tại các làng xã nhưng số lượng này rất nhiều, hầu như làng xã nào cũng có, các nghĩa binh Cần vương là dân binh tập trung tại quê nhà, xây dựng căn cứ tại quê nhà và chuẩn bị chiến đấu nếu giặc đến. Hay nói cách khác, mỗi làng quê hay một cụm làng quê ở Hà Tĩnh, đặc biệt là những nơi gần trục giao thông, đều hình thành các đơn vị nghĩa binh Cần vương, đó là những nông dân lao động nông nghiệp và làm thủ công nghiệp như rèn và mộc, tự trang bị vũ khí và tự lo lấy hậu cần là chính. Gia phả nhiều dòng họ ở Hà Tĩnh còn ghi lại hay truyền khẩu về danh tính những người của dòng họ mình theo Cần vương chống Pháp, có dòng họ có đến chục tráng đinh tham gia, và họ ít thì cũng một vài người. Chỉ huy các đơn vị nghĩa binh làng xã đại bộ phận là những người giàu có, có học vấn, có võ nghệ... họ được liệt vào hàng ngũ văn thân như sử sách nói đến lâu nay là một phản ảnh chính xác; và khi lực lượng văn thân này chỉ huy các đơn vị nghĩa binh, mọi đảm bảo cho đơn vị hoạt động như vũ khí - lương thực là hoàn toàn tin cậy. Lịch sử từng ghi chép các danh tướng thuộc quyền của Phan Đình Phùng như Cao Thắng, Cao Đạt, Lê Ninh... các tướng lĩnh của các quân thứ ở các huyện; riêng các thủ lĩnh các đơn vị nghĩa binh làng xã dường như bị quên lãng, đó là: Nguyễn Cao Đôn ở Phất Nạo (nay là xã Thạch Bình, thị xã Hà Tĩnh) đỗ cử nhân khoa thi Nhâm Ngọ (1882) đã hưởng ứng Cần vương, tổ chức lực lượng chống Pháp ở quê và có những hoạt động tích cực; đó là Trần Vĩnh Thiêng và Trần Vĩnh Hài ở Vĩnh Lại (nay là xã Cẩm Vịnh, huyện Cẩm Xuyên) là hai anh em cùng học trường võ ở Thanh Hóa về quê tập hợp lực lượng, chặn đánh cánh quân Pháp tấn công vào làng; Vĩnh Thiêng bị tử trận, Vĩnh Hài kéo lực lượng lên hoạt động ở vùng Đồn Điền - Đá Bạc một thời gian; đó là Đội Ban ở Cẩm Hòa, Cẩm Xuyên, lập đồn binh chống Pháp ở Động Đồn, và tiến quân lên đánh Đồn Trường (Cẩm Thắng, Cẩm Xuyên), ông cùng nghĩa quân bị bắt, bị xử tử ở Rú Nài (Đại Nài, thị xã Hà Tĩnh) ... Cứ lần lượt hết mọi vùng quê, những trích ngang như vậy ắt sẽ dài ra và dày thêm đến ba con số, sẽ cung cấp cho ta những hình ảnh sống động của các nghĩa sĩ Cần vương anh dũng một thời. Nhân kỷ niệm 160 năm ngày sinh Phan Đình Phùng và phong trào Cần vương ở Hà Tĩnh, nếu có được một danh sách tướng sĩ Cần vương thông qua khai báo của các dòng họ, của các làng quê, do cơ quan hữu trách khởi xướng và chỉ đạo thực hiện sẽ là việc làm vô cùng có ích? Các cuộc đụng độ giữa nghĩa quân Cần vương với quân Pháp trên địa bàn Hà Tĩnh, những năm đầu và trước khi giặc Pháp tập trung tấn công vào Vụ Quang, rất ít được sử sách ghi lại, hay nói cách khác là bị quên lãng, bởi từ suốt 120 năm qua không có bất kỳ một cuộc điều tra khoa học thực địa nào được tiến hành, các mẩu chuyện mà các cụ các ông kể lại một thời, lâu ngày mất dần mất dần một cách tự nhiên. Hẳn rằng nhiều cuộc đụng độ đã xảy ra giữa quân ta với quân địch ở khắp nơi; quân địch cậy có vũ khí và trang bị hiện đại hơn, còn nghĩa quân chỉ có vũ khí truyền thống - bạch vũ khí, song vô cùng dũng cảm, hễ có tốp quân giặc nào đến là nghĩa quân lăn xả vào đánh giáp lá cà, cũng có những trận địa mai phục, và quân địch ngay từ thời gian đầu không phải đã áp đảo được nghĩa quân, và không phải muốn đánh đâu thì đánh. Hơn nửa thế kỷ trước, tôi được nghe nhiều chuyện Cần vương đánh Pháp ở quê tôi, do ông nội kể lại, rằng quân Pháp cũng nhát gan tuy có súng, chúng chỉ dám đối đầu nơi đồng không mông quạnh, không dám vào làng xóm, vì vào làng là bị tiêu diệt ngay, đến các đồn quân Pháp ở Hà Tĩnh cũng không có nhiều, hễ có đồn là bị tập kích bởi nghĩa quân. Như vậy, muốn nói lên rằng, sau hơn 1/4 thế kỷ vào xâm lược Việt Nam, lần đầu tiên quân Pháp đụng độ với nghĩa binh Cần vương và dân chúng khu vực miền Trung gan góc này, lịch sử đã xếp sắp các cuộc đụng độ, mà bởi nhiều lý do, những người Việt yêu nước ở đây không gặp may mắn hơn đồng bào và chiến sĩ của họ ở miền Bắc Bộ và Nam Bộ từ hai đầu đất nước. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Tám, 2008, 12:07:06 am 4. Với phong trào Cần vương và căn cứ Vụ Quang, mô hình chiến khu chống xâm lược hình thành ở Việt Nam. Bây giờ thì chúng ta không thể lý giải nổi, vì sao các cuộc đề kháng của nhân dân ta liên tiếp thất bại từ Nam Kỳ ra Bắc Kỳ và thực dân Pháp buộc triều đình Huế ký Hàng ước 1883, mà Phan Đình Phùng còn lãnh sứ mạng cao cả tổ chức phong trào chống Pháp dưới cờ nghĩa Cần vương? Lãnh tụ nghĩa quân Cần vương Phan Đình Phùng hẳn rằng đã có phương lược gì đây! Những Tân Sở (Cam Lộ, Quảng Trị), Sơn phòng (Hương Khê, Hà Tĩnh) được phái chủ chiến trong triều đình Huế ngầm cho xây dựng từ sau Hàng ước 1883 có lẽ đã làm cho Phan Đình Phùng lần tìm một kế sách mới cho cuộc chiến chống thực dân Pháp xâm lược, liên tục thất bại từ 1/4 thế kỷ qua; hẳn rằng khi được tiếp kiến Hàm Nghi ở Sơn phòng Hà Tĩnh, Phan Đình Phùng nhận thức được vùng địa linh này đối với sự nghiệp chống ngoại xâm của nhân dân Việt Nam, mà đây là một sự nghiệp mang nặng dấu ấn truyền thống suốt hàng ngàn năm lịch sử. Phan Đình Phùng không nói lại gì với lịch sử trong quá trình tổ chức - xây dựng lực lượng Cần vương, do đó mọi đoán định về ông đều mang tính giả định. Theo đó chúng tôi cho rằng, một mặt Phan Đình Phùng phát động cuộc kháng chiến rộng khắp đến tận các làng xã và xây dựng các đơn vị và các căn cứ kháng chiến tại mỗi làng quê, như là một cuộc kháng chiến toàn dân và toàn diện; mặt khác Phan Đình Phùng chuẩn bị để xây dựng chiến khu kháng chiến lâu dài, phòng khi các đơn vị và căn cứ bị đàn áp. Thực tế gần hai năm chiến đấu, giặc Pháp nhanh chóng dập tắt cuộc đề kháng từ các quân thứ, những đồn binh mạnh như Đại đồn Trung Lễ (Đức Thọ) của Lê Ninh cũng không trụ nổi trước sức ép của quân giặc, phải chuyển lên rừng núi Vụ Quang. Điều đó bức bách Phan Đình Phùng và cộng sự đắc lực của ông xây dựng chiến khu kháng chiến Vụ Quang. Trước khi chọn Vụ Quang, Phan Đình Phùng đã tìm kiếm vài nơi có địa thế dụng binh để chọn lập căn cứ chiến khu lâu dài; theo những thông tin mà chúng tôi nhận được, thì khoảng cuối năm 1886, Phan Đình Phùng đã định chọn vùng Đá Bạc (nay nằm trong lòng hồ Kẻ Gỗ, thuộc xã Cẩm Mỹ, huyện Cẩm Xuyên) để làm địa bàn hoạt động. Đá Bạc là một thung lũng khá rộng, hình thành những trang trại sản xuất và chăn nuôi trâu bò, và đầu thế kỷ XX được nâng lên là đơn vị hành chính cơ sở, gọi là trại Mụ Lương Đá Bạc thuộc tổng Mỹ Duệ, huyện Cẩm Xuyên. Từ Đá Bạc có đường thông sang Hương Khê, đường thông vào Quảng Bình và thông về Cẩm Xuyên cũng như Hà Tĩnh; Đá Bạc được coi như thế đất có thể làm căn cứ kháng chiến lâu dài, có khoảng cách chừng 25km so với thị xã Hà Tĩnh. Nhưng thực tế tương quan lực lượng giữa ta và địch đã không cho phép Phan Đình Phùng chọn Đá Bạc làm chiến khu kháng chiến lâu dài, vì Đá Bạc không đủ rộng, không đủ hiểm trở và không đủ xa cách với các trung tâm chiếm đóng và dễ dàng bị tấn công; nên dự định bị bãi bỏ. Gia phả và truyền ngôn họ Nguyễn Quang ở thôn Chỉ Trụ, xã Vĩnh Lại (nay thôn Ngụ Quế, xã Cẩm Vịnh, huyện Cẩm Xuyên) ghi lại rằng, Phan Đình Phùng bí mật đến ở gia đình Nguyễn Quang này ba tháng để tìm hiểu Đá Bạc, được gia đình này nuôi dưỡng và che giấu, sau ba tháng Phan Đình Phùng trở lên Hương Khê và chọn Vụ Quang làm chiến khu. Sau khi thực dân Pháp chiếm cứ toàn bộ vùng đồng bằng Hà Tĩnh, họ Nguyễn Quang này bị trả thù vì đã ủng hộ Cần vương và che giấu Phan Đình Phùng, năm anh em nhà Nguyễn Quang phải bỏ làng ra đi tìm nơi ẩn náu ở gần Đá Bạc và vào tận Quảng Trị, sau này người con trai trưởng từ Quảng Trị đã về lại làng. Chiến khu Vụ Quang xuất hiện trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp dưới cờ nghĩa Cần vương, sau thất bại của phong trào chống Pháp ở vùng đồng bằng Hà Tĩnh, và đặc biệt sau khi thực dân Pháp tàn phá và đàn áp nhanh chóng căn cứ Ba Đình (Nga Sơn, Thanh Hóa), có lẽ cuộc rào làng chiến đấu ở Ba Đình như một thức tỉnh và thôi thúc Phan Đình Phùng và cộng sự phải nhanh chóng tạo lập nên chiến khu Vụ Quang. Cho phép chúng tôi không nói gì về chiến khu Vụ Quang và cuộc chiến đấu bảo vệ Vụ Quang của nghĩa quân và các cuộc vây ráp Vụ Quang của thực dân Pháp, mà nhấn mạnh sự xuất hiện của chiến khu Vụ Quang, và tiếp theo đó là của chiến khu Yên Thế (Bắc Giang) của Hoàng Hoa Thám (và một mặt nào đó là của căn cứ Ba Đình), tạo nên sắc thái riêng biệt cho cuộc kháng chiến chống Pháp từ 1885-1930, một giai đoạn chuyển biến tích cực của cuộc kháng chiến trước khi xuất hiện đường lối kháng chiến giải phóng dân tộc do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo. Thừa kế kinh nghiệm của Ba Đình, Vụ Quang, Yên Thế đối với việc duy trì một cách lâu dài cuộc kháng chiến chống ngoại xâm nhằm giành lại độc lập cho dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1930, sau khi ra đời, đã thử nghiệm một số hoạt động kiểu như Xô viết Nghệ Tĩnh (1930-1931) và đấu tranh nghị trường như phong trào Bình dân (1936-1939) dường như không mấy hiệu quả lắm trước bạo lực của kẻ thù, đã chuyển sang hình thức lập chiến khu kháng chiến lâu dài, tạo các vùng gọi là ATK, và đỉnh cao là chiến khu Việt Bắc, đã tạo nên sức mạnh vĩ đại dẫn đến Cách mạng tháng Tám 1945 lừng lẫy. Vụ Quang tuy thất bại, cũng như hầu hết các cuộc chống xâm lược Pháp từ 1858-1945 đều thất bại (trừ Cách mạng tháng Tám 1945), nhưng tinh thần Vụ Quang mãi mãi vẫn còn với lịch sử, kinh nghiệm chiến khu Vụ Quang như là một sáng tạo độc đáo của phong trào Cần vương, được phát huy tác dụng trong thời kỳ thứ ba (1930-1945) của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược đến thắng lợi hoàn toàn. *** Nhìn nhận đánh giá và có được những nhận thức mới về phong trào Cần vương chứng thực dân Pháp ở Hà Tĩnh và Trung Bộ do Phan Đình Phùng lãnh đạo không hẳn là vấn đề gì xa lạ với lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta, nhưng là vấn đề luôn luôn mới với giới nghiên cứu và với đông đảo bạn đọc trong và ngoài nước; vấn đề là ở chỗ làm sao tiếp cận được một cách nhiều hơn, chính xác hơn, đầy đủ hơn với sự kiện lịch sử trọng đại này. Mọi cố gắng đang ở phía trước, so với thời gian hơn một thế kỷ xảy ra sự kiện này là hơi muộn, nhưng sẽ không bao giờ muộn khi chúng ta nói được, phản ánh được, trình bày được sự kiện lịch sử này. Ngày 15 tháng 1 năm 2007 Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Tám, 2008, 07:37:30 pm PHAN VĂN THẮNG1 PHONG TRÀO KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP Ở NGHỆ TĨNH CUỐI THẾ KỶ XIX Ngày 1-9-1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng, chính thức phát động chiến tranh xâm lược nước ta. Ngày 5-6-1862, triều đình nhà Nguyễn ký Điều ước Nhâm Tuất dâng cho giặc ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ (Biên Hòa, Gia Định, Định Tường). Năm 1873, thực dân Pháp đánh chiếm Hà Nội và một số tỉnh Bắc Bộ. Ngày 15-5-1874, nhà Nguyễn lại ký Điều ước giao nộp nốt cho giặc Pháp ba tỉnh miền Tây. Cùng với cả nước, xứ Nghệ đã đứng lên, vừa chống đế quốc xâm lược, vừa chống phong kiến đầu hàng. Ở Thanh Chương có khởi nghĩa Giáp Tuất của Trần Tấn và Đặng Như Mai. Ở Hà Tĩnh có khởi nghĩa của Trần Quang Cán, Nguyễn Huy Điển. Cùng với cuộc chiến đấu của Trương Quang Thủ ở Quảng Bình, cuộc khởi nghĩa Giáp Tuất mặc dù cuối cùng đã bị đàn áp và thất bại nhưng đã khẳng định ý chí chống giặc cứu nước và ấp ủ một tình yêu lớn đối với Tổ quốc của đồng bào và sĩ phu xứ Nghệ, để rồi 10 năm sau lại bùng lên dữ dội trong phong trào Cần vương chống Pháp. Ngày 18-8-1883, giặc Pháp đánh chiếm Kinh thành Huế. Phái chủ hòa trong triều đình Huế đã ký các Điều ước Quý Mùi (28-8-1883), Giáp Thân (6-6-1884) dâng toàn bộ đất nước cho giặc. Đêm 5-7-1885, phái chủ chiến trong triều đình do Tôn Thất Thuyết chỉ huy tấn công quân Pháp ở đồn Mang Cá (Huế) không thành. Vua Hàm Nghi xuất bôn và ngày 13-7-1885 từ Sơn phòng Quảng Trị xuống Chiếu Cần vương, kêu gọi văn thân sĩ phu và đồng bào cả nước đứng lên đánh giặc cứu nước. Đồng bào và sĩ phu xứ Nghệ lại cùng cả nước dấy lên phong trào yêu nước, chống Pháp quật cường. Tiếp ứng nghĩa đầu tiên là cuộc khởi nghĩa Lê Ninh ở làng Trung Lễ (Đức Thọ). Ngày 20-9-1885, tại Sơn phòng Phú Gia (Hương Khê - Hà Tĩnh), vua Hàm Nghi lại xuống Chiếu Cần vương lần thứ hai kể tội quân cướp nước, hô hào sĩ phu và nhân dân cứu nước. Từ ngòi nổ đầu tiên - cuộc khởi nghĩa của Lê Ninh, phong trào chống Pháp - Cần vương - cứu nước đã bùng lên sôi nổi trên đất Nghệ Tĩnh. Ở Đức Thọ có Lê Ninh, Phan Đình Phùng... Ở Can Lộc có hai anh em Nguyễn Chanh, Nguyễn Trạch; ở Thạch Hà có Nguyễn Cao Đôn, Nguyễn Huy Thuận; ở Cẩm Xuyên có Dương Duy Dừ, Hoàng Bá Xuyên; ở Kỳ Anh có Võ Phát, Võ Hoán, Lê Nhất Hoàn, Trần Công Thưởng; ở Nghi Xuân có Hà Văn Mỹ, Nguyễn Thế, Nguyễn Quân; ở Hương Khê có Trần Hữu Châu, Nguyễn Thoại; ở Hương Sơn có Nguyễn Hữu Giao, Thái Vĩnh Chinh, Đinh Nho Hành, đặc biệt là có đội quân của Cao Thắng; ở Nghi Lộc có Đinh Văn Chất, Nguyễn Hành, Nguyễn Chất, Nguyễn Mậu; ở Thanh Chương, Đô Lương có Trần Khắc Kiệm, Nguyễn Hữu Chỉnh, Trần Văn Biểng, Hồ Văn Phú...; ở Nam Đàn có Vương Thúc Mậu, Vương Thúc Quý...; ở Quỳnh Lưu có Phan Duy Phổ, Hồ Đức Thạc, Hồ Trọng Miên, Hồ Trọng Hoán; vùng Anh Sơn - Con Cuông có Lê Doãn Nhạ; ở Nghĩa Đàn, Quỳ Châu, Quế Phong có Lang Văn Thiết... Nhưng lớn nhất, có sức quy tụ, tập hợp nghĩa khí và nghĩa binh của các lực lượng kháng chiến khác là các cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Xuân Ôn và Phan Đình Phùng, hai trung tâm kháng chiến ở Bắc và Nam xứ Nghệ. Tiến sĩ Nguyễn Xuân Ôn, hiệu Ngọc Đường, sinh ngày 10-5-1825, quê ở làng Quần Phương (Diễn Thái, Diễn Châu). Trước họa xâm lăng ông đã phản đối thái độ cầu hòa của triều đình, bị cách chức về quê. Khi Chiếu cần vương lần thứ nhất ban bố, ông đã chuẩn bị lực lượng, lương thực, khí giới để khởi nghĩa. Sau khi xuống Chiếu Cần vương lần thứ hai, vua Hàm Nghi phong ông là Hiệp đốc quân vụ An Tĩnh. Từ đó ông đã tập hợp được đông đảo lực lượng quân sĩ trên địa bàn cả tỉnh Nghệ An. Với nhiều cách đánh linh hoạt, nghĩa quân của Nguyễn Xuân Ôn, ngay từ lúc xuất quân, năm 1886 đã có những trận chiến đấu kiên cường, gây cho địch nhiều tổn thất to lớn, buộc đội quân bình định của giặc Pháp phải đối phó rất khó khăn, căng thẳng. Sau khi rút lên căn cứ Đồng Thông, nghĩa quân của Nguyễn Xuân Ôn không chỉ phục kính địch mà còn chủ động tấn công các căn cứ của chúng. Đó là trận tấn công phủ thành Diễn Châu, căn cứ làng Tràng Thành... Trong trận đánh bọn địch thọc vào khu căn cứ, không may, Nguyễn Xuân Ôn bị trọng thương rồi sau đó bị địch bắt vì có việt gian khai báo vào ngày 25-7-1887. Ngày 1-10-1889, Nguyễn Xuân Ôn trút hơi thở cuối cùng. Nguyễn Xuân Ôn hy sinh nhưng cuộc khởi nghĩa do ông khởi xướng vẫn được duy trì. Các tướng lĩnh và quân sĩ của ông đã quy tụ dưới ngọn cờ khởi nghĩa Phan Đình Phùng - Cao Thắng. Phan Đình Phùng (1847-1895) quê ở làng Đông Thái (nay là xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ). Ông sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống nho học, đời đời kế tiếp thi đỗ làm quan. Năm 30 tuổi đỗ cử nhân, năm sau, 31 tuổi ông đỗ Tiến sĩ và ra làm quan. Ở Bắc một thời gian, ông được gọi về Huế giữ chức Ngự sử, nổi tiếng cương trực khảng khái. Năm 1883, khi Tôn Thất Thuyết và phái chủ chiến phế bỏ Dục Đức, vì chưa nhận được sự đúng đắn và cấp bách mà Tôn làm, ông đã công khai lớn tiếng phản đối lại triều chính nên bị đuổi về quê. Sau khi Chiếu Cần vương được ban bố, tiếp theo Lê Ninh khởi nghĩa ở Trung Lễ, Phan Đình Phùng triệu tập cuộc họp các sĩ phu. Đông đảo văn thân sĩ phu Hà Tĩnh và Nghệ An đã đến dự, quyết định khởi nghĩa và cử Phan Đình Phùng đứng ra lãnh đạo phong trào. Làng Đông Thái được gấp rút xây dựng thành làng kháng chiến - Đại đồn Đông Thái. Tháng 10-1885, Phan Đình Phùng yết kiến vua Hàm Nghi ở Sơn phòng Hương Khê. Tháng 11-1885 nghĩa quân Đông Thái phối hợp với nghĩa quân Trung Lễ tiến đánh bọn gián điệp đội lốt tôn giáo phá hoại kháng chiến ở Thọ Ninh, Thọ Tường. Cuộc tấn công thất bại vì quân Pháp ở Vinh kéo lên giải nguy. Sau đó chúng tấn công vào đại đồn Đông Thái. Nghĩa quân Đông Thái rút lên đóng ở núi Mồng Gà (Hương Sơn) rồi về làng Phụng Công (Đức Hòa - Đức Thọ). Vào thời điểm này, nghĩa quân Phan Đình Phùng có thêm sự gia nhập của nghĩa quân Cao Thắng. Cao Thắng (1864-1893) vốn quê ở làng Phúc Dương (nay thuộc Sơn Phúc - Hương Sơn), đến đời ông nội thì chuyển về thôn Nhà Nàng, làng Yên Đức, xã Tuần Lễ (nay là xã Sơn Lễ - Hương Sơn). Ông tham gia khởi nghĩa năm Giáp Tuất với Trần Quang Cán (Đội Lựu). Khởi nghĩa thất bại, ông được cử nhân Phan Đình Thuật (là em trai Phan Đình Phùng) làm Giáo thụ phủ Anh Sơn che chở, nhận là cháu và đem về nuôi. Năm 1881, Phan Đình Thuật mất, Cao Thắng trở về quê làm ăn nhưng lại bị cường hào o ép, vu oan, bắt giam ở nhà lao Hà Tĩnh. Tháng 11-1885, Lê Ninh đánh thành Hà Tĩnh, phá nhà lao, Cao Thắng được giải phóng và tức tốc về quê cùng với em trai là Cao Nữu và bạn thân Nguyễn Đình Kiểu (nay ở Sơn Châu) chiêu mộ quân dấy nghĩa. Được tin Phan Đình Phùng khởi nghĩa, ông đã đem toàn bộ lực lượng đến gia nhập (1866). Năm 1887 Phan Đình Phùng, trước khi ra Bắc để liên kết lực lượng, đã giao toàn quyền lãnh đạo cho Cao Thắng. Cao Thắng sau khi nhận trọng trách đã rút quân về đóng bản doanh ở Cồn Chùa - một vùng núi non hiểm trở phía Bắt huyện Hương Sơn (nay thuộc xã Sơn Giang), sau lại chuyển về căn cứ này nằm trên tả ngạn Ngàn Sâu, có vị trí vô cùng hiểm trở nhưng lại có thể thông sang phía Tây với Lào, Xiêm, phía Nam với Quảng Bình, Quảng Trị, phía Bắc với Nghệ An, Thanh Hóa... và trực tiếp nhất là các làng ở Đức Thọ, Can Lộc, Hương Sơn... Tại đây Cao Thắng đã xây dựng đội nghĩa quân có chất lượng chiến đấu cao, có kỷ luật nghiêm; lại tích trữ lương thực gạo, muối ở căn cứ Vụ Quang - Ngàn Trươi (Hương Khê) phòng khi cần thiết. Đặc biệt, là ông đã chế tạo thành công loại súng trường theo kiểu 1874 của Pháp, góp phần quan trọng để nâng cao sức chiến đấu cửa nghĩa quân. Vào thời kỳ này, 1888-1889, lực lượng nghĩa quân đã khá lớn mạnh nhưng ảnh hưởng vẫn chỉ ở trong phạm vi Đức Thọ và Hương Sơn. Trong lúc đó các cuộc khởi nghĩa lẻ tẻ khác ở Nghệ - Tĩnh và khu vực Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình đang bị giặc Pháp uy hiếp và đàn áp. Khởi nghĩa Ba Đình (Thanh Hóa) tan rã. Nguyễn Xuân Ôn (Nghệ An) bị giặc bắt (1887) phong trào tạm lắng. Ở Quảng Bình, sau khi Nguyễn Phạm Tuân và Lê Trực thất bại, phong trào đang dần được hồi phục dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Thụ và Nguyễn Bí. Các lực lượng khác ở Hà Tĩnh cũng thiếu sự phối hợp chặt chẽ nên chưa phát huy được ưu thế, chưa tạo nên sức mạnh lớn để đối phó với quân Pháp. Việc thống nhất lực lượng, thống nhất lãnh đạo để tăng cường sức chiến đấu đã trở thành yêu cầu cấp thiết cho tất cả các lực lượng khởi nghĩa, của cuộc kháng chiến. Vì vậy, tháng 9-1889, Cao Thắng đã cho người ra Bắc đón Phan Đình Phùng về lãnh đạo phong trào kháng chiến. Sau khi về đến Thượng Bồng, căn cứ vào tình hình ở bốn tỉnh, Phan Đình Phùng phân bố tất cả các lực lượng thành 15 quân thứ (Khê thứ (Hương Khê), Hương thứ, Can thứ, Lai thứ (Tổng Lai Thạch), Nghi thứ, Lễ thứ (Trung Lễ), Cẩm thứ, Thạch thứ, Kỳ thứ, Diệm thứ (làng Tình Diệm - Hương Sơn), Diễn thứ (Diễn Châu), Anh thứ (Anh Sơn), Lệ thứ (Lệ Thủy - Quảng Bình), Bình thứ (Quảng Bình), Thanh thứ (Thanh Hóa)). Mỗi quân thứ do một người chỉ huy đứng đầu. Căn cứ Thượng Bồng là đại bản doanh với lực lượng nòng cốt là đội quân của Cao Thắng và ông được giao chỉ huy về quân sự dưới sự thống lĩnh chung của Phan Đình Phùng. Ngoài việc thống nhất các lực lượng kháng chiến của cả bốn tỉnh, hai ông còn xây dựng sự thống nhất về chỉ huy, kỷ luật và một phần về trang bị vũ khí, tạo nên sức mạnh mới của phong trào, mở ra một thời kỳ chiến đấu rất quyết liệt từ năm 1889-1893. Thời kỳ này mặc dù quân Pháp đã tăng cường lực lượng, thiết lập hệ thống đồn bốt bao vây, tổ chức các cuộc càn quét tập trung nhưng thế chủ động vẫn do nghĩa quân nắm giữ. Từ giữa năm 1890, trước sự tấn công của địch, đại bản doanh của cuộc khởi nghĩa được chuyển lên vùng núi cao hơn, ở Hói Trùng, Hói Trí. Hoạt động chính của nghĩa quân thời kỳ 1890-1891 là chủ động đánh đồn, diệt viện, bảo vệ căn cứ. Bước sang những năm 1892-1893, vừa chiến đấu vừa xây dựng, lực lượng của nghĩa quân đã trưởng thành nhanh chóng, có thể tập trung chống càn dài ngày hoặc đánh vào các căn cứ của địch. Tiêu biểu là trận chống càn thắng lợi vào tháng 8-1892. Trong lúc các thứ quân Hương Sơn, Hương Khê chống càn thắng lợi, ở khu căn cứ thì nghĩa quân Thạch thứ đã bất ngờ tập kích tỉnh lị Hà Tĩnh. Cuối năm 1893, căn cứ vào sự phát triển của lực lượng và thực tế chiến trường, Cao Thắng mở cuộc hành quân ra tỉnh lị Nghệ An để khuấy động phong trào và tiêu hao sinh lực địch. Tiếc là công viện chưa thành thì tướng quân Cao Thắng bị thương và hy sinh (21-1-1893) lúc mới 29 tuổi. Từ đó, cuộc khởi nghĩa đi vào giai đoạn khó khăn, suy yếu. Giặc Pháp và tay sai không chỉ tăng cường lực lượng mà còn có nhiều thủ đoạn thâm hiểm và độc ác để đàn áp cuộc khởi nghĩa. Chúng thực hiện kế hoạch “dè phiên ly” và đóng các “đồn phòng triệt”, tập trung quân càn quét dài ngày vào vùng căn cứ chính. Nghĩa quân Phan Đình Phùng đã tích cực phản công, tập kích, quấy rối. Nhân dân các nơi vẫn gắn bó với nghĩa quân, tiếp tế lương thực cho nghĩa quân. Sau mấy lần phải dời đại bản doanh, tháng 10-1894, Phan Đình Phùng trở lại căn cứ Vụ Quang. Tại đây, ngày 26-10-1894 ông đã trực tiếp chỉ huy một trận phục kích chống càn thắng lợi, tiêu diệt ba sĩ quan Pháp, trên 100 lính ngụy, thu 50 súng và nhiều quân trang quân dụng, gây một tiếng vang lớn cả vùng Nghệ Tĩnh. Tuy vậy, vẫn không xoay chuyển được cục diện, tình thế của nghĩa quân vô cùng khó khăn. Các đơn vị nghĩa quân đã chiến đấu vô cùng quả cảm nhưng không có thời gian và điều kiện để củng cố. Sự tiếp tế lương thực ngày càng khó khăn, sự bổ sung vũ khí đạn dược không được đầy đủ nên lực lượng nghĩa quân suy yếu dần. Trong lúc đó, địch ra sức tấn công nghĩa quân, truy bắt Phan Đình Phùng và các tướng lĩnh khác. Ngày 28-12-1895, trong một cuộc giao chiến ác liệt, Phan Đình Phùng bị thương và sau đó hy sinh. Đó cũng là thời điểm chấm dứt cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng - Cao Thắng nói riêng và phong trào chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược cuối thế kỷ XIX ở Nghệ - Tĩnh, kết thúc thời kỳ các sĩ phu phong kiến yêu nước lãnh đạo phong trào chống Pháp để chuẩn bị chuyển giao vai trò lãnh đạo cho một lực lượng mới. Tuy thất bại nhưng những cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX ở Nghệ Tĩnh đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm về đấu tranh vũ trang, xây dựng làng chiến đấu, về chiến tranh du kích, về tổ chức lực lượng, động viên toàn dân đánh giặc và sách lược chiến tranh nhân dân. Tuy thất bại nhưng các cuộc khởi nghĩa chống Pháp cuối thế kỷ XIX đã thể hiện tình yêu đất nước, ý chí kiên trung, sự nhạy bén với thời cuộc và khả năng tổ chức chiến đấu của các sĩ phu yêu nước và các tầng lớp nhân dân. Tròn 110 năm kể từ thời điểm bi hùng ấy, chúng tôi lược chép lại những sự kiện, những nhân vật chính của phong trào với ý nguyện được xem như một nén nhang để tưởng nhớ công lao của các bậc tiền nhân (Tạp chí Văn hóa Nghệ An, số 67, tháng 12 năm 2005) _________________________________________1. Phan Văn Thắng: Tổng biên tập Tạp chí Văn hóa Nghệ An. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Tám, 2008, 08:01:35 pm PHAN TRỌNG BÁU TỪ “TIẾNG XƯỚNG NGHĨA TRƯỚC TIÊN” CỦA LÊ NINH ĐẾN KHỞI NGHĨA PHAN ĐÌNH PHÙNG1 Khởi nghĩa Phan Đình Phùng là một cuộc khởi nghĩa lớn, là đỉnh cao của phong trào chống Pháp của nhân dân ta cuối thế kỷ XIX. Nó đã quy tụ được hầu hết các cuộc khởi nghĩa lẻ tẻ của bốn tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình thành một phong trào duy nhất, có tổ chức khá quy mô, chỉ huy tương đối thống nhất và chặt chẽ, đã huy động được nhân tài vật lực từ trung du, đồng bằng đến miền biển, miền núi và đặc biệt là cả một số nhân dân Lào ở vùng biên giới cùng tham gia, do đó thời gian kéo dài đến 10 năm (1885-1895) Tuy nhiên trước khi khởi nghĩa Phan Đình Phùng trở thành ngọn cờ khởi nghĩa tiêu biểu thì một cuộc khởi nghĩa mở đầu như một phát súng báo hiệu cho trận quyết chiến, cổ vũ mọi người xông lên giết giặc, đó là khởi nghĩa Lê Ninh “Tiếng xướng nghĩa trước tiên” của Nghệ Tĩnh như Phan Đình Phùng đã nói. Bản tham luận này chúng tôi xin trình bày mối quan hệ giữa khởi nghĩa Lê Ninh với phong trào chống Pháp do Phan Đình Phùng lãnh đạo đã khẳng định một lần nữa tính chất cuộc khởi nghĩa đó. *** Lê Ninh hiệu Mạnh Khang, sinh năm 1857, tại làng Ngu Lâm, xã Trung Lễ, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh trong một gia đình quan lại, bố là Lê Khanh làm Bố chánh tỉnh Bình Định. Lê Ninh vừa chào đời thì đất nước bắt đầu chìm vào khói lửa của cuộc chiến tranh xâm lược. Năm 1858 tức là khi ông vừa một tuổi thực dân Pháp đánh Đà Nẵng, sau đó ba tỉnh miền Đông, ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ lần lượt rơi vào tay giặc, rồi Bắc Kỳ, Trung Kỳ cùng chung một số phận. Nếu như tự thiếu thời ông đã nhìn thấy cảnh mất nước nhà tan thì ông cũng đã chứng kiến những cuộc khởi nghĩa ngay trên quê hương mình như Trần Quang Cán (Đội Lựu) và nhất là Trần Tấn - Đặng Như Mai đã “quyết đánh cả triều lẫn Tây” năm Giáp Tuất (1874). Những biến cố lớn lao này hẳn đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong đầu óc non trẻ của ông. Bởi vậy tuy xuất thân trong gia đình nho học nhưng Lê Ninh không nuôi chí khí làm quan mà ông miệt mài nghiên cứu binh thư, kết giao cùng những người nghĩa khí trong vùng chờ thời cơ khởi sự. Ngày 5-7-1885 Kinh thành Huế thất thủ, Hàm Nghi xuất bôn hạ Chiếu Cần vương. Lời kêu gọi cứu khốn phò nguy của vị vua yêu nước đã cảm kích Lê Ninh đến cao độ. Ông thân lĩnh chiếu, tuyên độc trước toàn thể dân làng và khẩn trương xây dựng quê hương mình thành căn cứ kháng chiến. Lòng nhiệt thành của ông đã được mọi tầng lớp nhân dân tham gia. “Nhà giàu năm bảy tháng, Bá hộ đôi ba nghìn”, trai tráng thì gia nhập nghĩa binh, ông còn xuất tiền tuyển thêm hai vệ quân ở Yên Trường, Yên Dũng và cả năm anh em ông đều tham gia khởi nghĩa2. Đại đồn Trung Lễ đóng ngay đầu làng, ngoài doanh trại còn có hai khu lò rèn chế tạo vũ khí, kho quân lương, trường tập bắn. Việc sắp đặt đúng theo binh pháp cổ điển: “Binh năm đạo tác tiến tác hậu, học đồ bát trận Khổng Minh. Đồn trong làng xóm Mới xóm Đình theo phép ngũ liên Tề Bá ... Nơi quân dụng thì quàn thâm áo ngại, cờ ngũ hành cờ: tiểu nỉ thêu; nơi binh khí thì gươm bạc khiên son, súng hỏa mai súng cò máy đá”. Kỷ luật thật là chặt chẽ: Một phen hội diễn, trống đánh vang làng Mấy lần tập binh, tiếng ầm dạ há...3. Trong khi, xa giá Hàm Nghi đang trên đường ra Quảng Bình thì ở Huế bọn Pháp đã gấp rút đặt Đồng Khánh lên ngôi và tổ chức hai đạo quân ra Quảng Bình và Nghệ An ép Hàm Nghi vào giữa. Nhưng nhân dân ta vẫn một lòng ủng hộ triều đình kháng chiến, ngọn cờ Cần vương của Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết đã tập hợp được nhân dân toàn quốc nhất tề đứng lên chống Pháp. Tuy vậy rải rác đã có những bóng đen của sự phản bội, đó là bọn Lê Đại ở Hà Tĩnh cùng một số tay chân của chúng. Tháng 10-1885 Hàm Nghi ra đến Sơn phòng Phú Gia (Hương Khê, Hà Tĩnh) xuống chiếu cho Lê Đại phải mang quân lên hộ giá. Nhưng tên này đã phản bội Tổ quốc, chẳng những hắn không tuân theo lệnh của triều đình kháng chiến mà còn âm mưu liên kết với bọn quan lại đầu hàng ở Nghệ An để đón Tây vào Hà Tĩnh. Thời cơ cứu nước đã đến, ngày 2-11-1885, Lê Ninh xuất quân kéo vào Hà Tĩnh. Trước tiên ông cho hai viên hiệp quản là Lê Hoạt và Nguyễn Dương đưa một đội “thân binh” bí mật lọt vào thành làm nội ứng, còn ông thì đích thân đốc đại quân kéo theo sau. Được tin Lê Ninh xuất binh các cánh quân nghĩa của Nguyễn Thoại ở Mỹ Xuyên (Hương Sơn), Huỳnh Bá Xuyên ở Hữu Chế (Đức Thọ) cũng kéo đến phối hợp. Tới Can Lộc Lê Ninh lại hội quân rồi tiến phát, khí thế thật là mãnh liệt: Kéo qua xã Hằng Nga4 Kéo vô huyện Thạch Hà Qua tổng Trung tổng Đậu5 Kéo ba ngày cho thấu6 Đêm 6-11-1885, nghĩa quân bí mật bao vây thành Hà Tĩnh. Đội “thân binh” của Lê Hoạt và Nguyễn Dương lập công xuất sắc đã bắt Bố chánh Lê Đại và Án sát Trịnh Bưu, tạo điều kiện cho đại quân nhanh chóng chiếm lĩnh thành Hà Tĩnh, thu toàn bộ lương thực, khí giới và voi ngựa. Lê Ninh cũng đã thuyết phục được quân của triều đình đi theo nghĩa quân quay khí giới chống lại quân giặc: “Quân lính cũng một lòng, cờ Cần vương đỏ chói”. Sau khi giành được thắng lợi bước đầu, Lê Ninh cho một bộ phận ở lại bảo vệ thành, còn ông mang đại quân lên Sơn phòng yết kiến Hàm Nghi. Nhà vua phong cho Lê Ninh làm Bang biện quân vụ trở về đóng ở đại đồn Trung Lễ. Căn cứ này có nhiệm vụ khống chế con đường từ Đức Thọ vào Hà Tĩnh và phối hợp với các cánh quân khác bảo vệ đường thủy từ sông La ra Nghệ An. Phan Đình Phùng đã được Hàm Nghi phong làm Thống đốc quân vụ Đại thần chỉ đạo phong trào Cần vương của bốn tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình. Thấy phong trào kháng chiến lên mạnh, một bọn cha cố và giáo dân phản động ở Thọ Ninh, Thọ Tường đã tổ chức do thám đại đồn Trung Lễ để báo cho Tây ở Nghệ An. Một đại đội lính Pháp theo đường thủy từ sông La đổ bộ lên đánh thọc vào đại đồn. Vì mới tổ chức, vũ khí còn thô sơ lại chưa có kinh nghiệm tác chiến trước một đối tượng có trang bị hiện đại nên nghĩa quân buộc phải lui về Bạch Sơn. Ở đây dựa vào thế núi hiểm trở và địa hình kín đáo của phía Đông Bắc huyện Hương Sơn, Lê Ninh vừa xây dựng vừa liên lạc với các đội nghĩa quân ở Nghệ An để hỗ trợ cho nhau. Dưới sự chỉ đạo của Phan Đình Phùng, nhiệm vụ nghĩa quân là xây dựng lực lượng kết hợp với trừ gian, kiên quyết giữ vững căn cứ địa để bảo vệ cho Sơn phòng Hà Tĩnh, Quảng Bình, là nơi Hàm Nghi đang ẩn náu. Bọn Pháp sau khi chiếm được thành Nghệ An chúng bắt đầu đóng một số đồn lính tập dọc sông Lam như đồn Dương Liễu (Nam Đàn), đồn Nu (Thanh Chương), đồn Cây Chanh (Anh Sơn) để bảo vệ vùng đồng bằng Nghệ An. Trong số này đồn Dương Liễu là một cứ điểm quan trọng vì từ đây bọn lính tập có thể thọc một mũi bất ngờ vào khu căn cứ Bạch Sơn. Đồn Dương Liễu do tên lãnh binh ngụy Nguyễn Duật chỉ huy. Hàng ngày Duật vẫn cho quân lùng sục vào các làng xung quanh bắt bớ những người mà chúng nghi là có quan hệ với nghĩa quân. Cuối năm 1886 Lê Ninh cùng Đề Mậu (Nguyễn Mậu) mang quân bí mật bao vây đồn Dương Liễu. Lĩnh Duật chưa kịp chống cự đã bị nghĩa quân tóm được, bọn lính tập hoảng hốt đứa bỏ chạy, đứa xin đầu hàng. Việc bắt tên Lĩnh Duật là một đòn đánh vào bọn tày sai của giặc làm cho chúng phải co lại không dám ngang nhiên hoành hành như trước và nhân dân thêm tin tưởng, phấn khởi: Diệt đồn Dương Liễu sấm ran, Bắt tên Lĩnh Duật giết đoàn mộ Tây. Trong lúc nghĩa quân khí thế đang lên thì không may mùa thu năm 1887 Lê Ninh bị bệnh nặng. Mặc dầu các lương y trong vùng đã hết sức chạy chữa nhưng bệnh tình vẫn không thuyên giảm. Cuối năm đó ông được bí mật đem về quê vợ ở Phù Long (Hưng Nguyên, Nghệ An) để tiếp tục điều trị, nhưng vì bệnh quá nặng nên ông đã từ trần vào ngày 15-12-1887. Lê Ninh, vị tướng tiên phong đầy mưu lược và chí khí trong phong trào ứng nghĩa Cần vương mất giữa tuổi 30, tuổi đang tràn đầy sinh lực làm cho Phan Đình Phùng vô cùng thương xót. Cụ đã cử Cao Thắng lên thay và trong lễ tang cử hành cực kỳ trọng thể, Cụ đã làm đôi câu đối viếng: Tuy vân thành bại do thiên, xướng nghĩa tiên thanh tồn Nghệ Tĩnh, Kham thán anh hùng vô địa, phù quân đại tiết hữu Hồng Lam. (Tuy rằng thành bại tại trời, tiếng xướng nghĩa trước tiên còn truyền Nghệ Tĩnh, Than nhẽ anh hùng không đất, tiết phò vua cao cả khá sánh Hồng Lam)7. Cuộc khởi nghĩa do Lê Ninh lãnh đạo tuy chỉ tồn tại có hai năm, trên một địa bàn đất không rộng, người không đông nhưng đã đóng vai trò rất quan trọng trong phong trào chống Pháp thế kỷ XIX do Phan Đình Phùng lãnh đạo. Một, khởi nghĩa Lê Ninh là ngòi pháo, đã nổ ra rất đúng lúc mở đầu cho khởi nghĩa Phan Đình Phùng. Như ta đã biết, sau khi Chiếu Cần vương được ban bố, nhân dân Nghệ Tĩnh đã hưởng ứng hết sức nhiệt liệt, riêng Hà Tĩnh đã có đến 20 cuộc ở khắp các phủ huyện từ miền núi đến đồng bằng. Lúc đầu phong trào tuy có rầm rộ nhưng chỉ là những cuộc bạo động tự phát, thiếu tổ chức chỉ huy thống nhất do đó dễ bị kẻ thù dập tắt. Phong trào dần dần quy tụ lại dưới những ngọn cờ tiêu biểu, ở Nghệ An thì có Nguyễn Xuân Ôn còn Hà Tĩnh là Phan Đình Phùng. Sau khi Nguyễn Xuân Ôn mất (1887) thì người duy nhất có đầy đủ uy tín để lãnh đạo công cuộc cứu nước thiêng liêng đó là Phan Đình Phùng. Thực ra lúc này Phan Đình Phùng với danh nghĩa Đốc thị lưỡng kỳ quân vụ đại thần cũng chỉ là một tước hiệu của Hàm Nghi phong để cho danh chính ngôn thuận tổ chức phong trào chống Pháp, nhưng trong tay chưa có một lực lượng cụ thể. Vì như trên đã nói phong trào lúc đầu mới nhóm còn mang tính tự phát, mỗi người thường lấy ngay xóm làng của mình làm căn cứ để mộ quân ứng nghĩa. Ngay Cao Thắng vị tướng tài, trợ thủ đắc lực của Cụ, lúc này cũng chưa hoạt động. Phải đến năm 1888 khi Phan Đình Phùng ở Bắc về thì thực lực của Cụ do Cao Thắng xây dựng mới trở thành đối thủ đáng gờm của bọn xâm lược Pháp. Lực lượng vũ trang có tổ chức nhất có uy tín nhất ngay sau khi Chiếu Cần vương được ban bố chính là của Lê Ninh. Do đã có luyện tập ít nhiều và tuy chỉ có vũ khí thô sơ nhưng có tinh thần sẵn sàng chiến đấu cao nên sau khi nhận Chiếu Cần vương và biết được bọn Lê Đại, Trịnh Bưu mưu toan làm phản thì Lê Ninh đã có thể xuất quân và ngay trận đầu đã thu thắng lợi giòn giã. Với chiến công hạ thành Hà Tĩnh, tiêu diệt bọn phản bội, âm mưu của giặc định chặn đường bắt Hàm Nghi đã bị đẩy lùi một bước, bọn Lê Đại định “rước voi về giày mồ” bị trừng trị đích đáng, uy tín của Lê Ninh càng lớn và cờ nghĩa của Phan Đình Phùng càng bay cao, càng tập hợp được nhiều lực lượng. Ngoài những đội quân đã tham gia cùng Lê Ninh vào Hà Tĩnh như Nguyễn Thoại (Hương Sơn), Huỳnh Bá Xuyên (Đức Thọ), Nguyễn Chanh, Nguyễn Trạch (Can Lộc) còn có Nguyễn Cao Đôn ở Thạch Hà, Bá hộ Thuận chiếm vùng Truông Xai làm căn cứ, Kỳ Anh có Võ Phát, ở Nghi Xuân Ngô Quảng và Hà Văn Mỹ cũng bắt đầu hoạt động. Đặc biệt vùng Đức Thọ quê hương của Lê Ninh, các ông Phan Cát Tửu, Phan Tử Thụy, Phan Quang Cư, Phan Trọng Nghị, Phan Đình Tuyển, Phan Trọng Mưu... cũng đã họp nhau bàn việc mộ quân ứng nghĩa. Rõ ràng khởi nghĩa Lê Ninh là phát súng hiệu, là hồi kèn xung trận cho phong trào chống Pháp của nhân dân ta cuối thế kỷ XIX. Hai, Lê Ninh đã áp dụng chiến thuật thích hợp mà sau này nghĩa quân Phan Đình Phùng đã rút kinh nghiệm và thực hiện thành công. Trong quá trình tiến hành chiến tranh chống xâm lược từ những thế kỷ trước tổ tiên ta cũng đã từng tổng kết: Lấy ít địch nhiều, thường dùng mai phục. Lấy ít chống mạnh hay đánh bất ngờ. Lê Ninh cũng đã ý thức được những điều đó cho nên khi hạ thành Hà Tĩnh, một cứ điểm mạnh, kiên cố so với nghĩa quân lúc đó, lại có lũy cao, hào sâu, quân nhiều, lương sẵn, nếu cứ đường đường chính chính đánh theo chiến thuật công thành cổ điển thì sẽ kéo dài và không thành công. Ông đã cho “thân binh” đi trước, nắm hết tình hình nên khi đại quân kéo tới, lập tức những vị trí then chốt và nhất là bộ chỉ huy đầu não đã bị khống chế và tê liệt, nghĩa quân hạ thành Hà Tĩnh mà không tốn một viên đạn. Cũng vậy khi diệt đồn Dương Liễu, Lê Ninh không dùng nhiều quân, ông chỉ mang theo 10 người can đảm khỏe mạnh, thông thạo địa hình và đang đêm đột kích vào khi Lĩnh Duật đang hút thuốc phiện do đó đồn Dương Liễu bị hạ nhanh chóng mà lực lượng nghĩa quân vẫn được bảo toàn nguyên vẹn. Chiến thuật đánh bất ngờ nhằm vào bộ phận đầu não của kẻ địch đã được những thủ lĩnh nghĩa quân sau này nhất là Cao Thắng áp dụng có hiệu quả cao. Ví như khi đánh bọn lính tập ở Hương Sơn để cướp súng, ông đã từng “xuất kỳ bất ý, công kỳ vô bị” (đánh bất ngờ, đánh khi địch chưa chuẩn bị), hoặc khi bắt Đinh Nho Quang ông cũng cho nghĩa quân trá hình thành lính tập đột nhập dinh viên tuần phủ này ngay trước mặt bọn lính làm cho chúng không kịp trở tay. Những trận Vực Vôi (Hương Sơn), Vực Ác (thượng lưu sông La) và nhất là trận Vụ Quang, yếu tố bí mật bất ngờ vẫn tỏ ra thích hợp nhất, có hiệu quả nhất. Những điều vừa trình bày đã chứng minh rằng trong khởi nghĩa Phan Đình Phùng thì “Tiếng xướng nghĩa trước tiên” của Lê Ninh đã đóng vai trò quan trọng là phát súng hiệu, là hồi kèn xung trận cho hàng loạt cuộc ứng nghĩa khác. Về chiến thuật thì những người đi sau cũng đã rút được những kinh nghiệm nhất định và áp dụng sáng tạo vào từng hoàn cảnh cụ thể để lập nên những chiến công oanh liệt làm rạng rỡ thêm trang sử chống xâm lược của nhân dân ta. Hà Nội, tháng 12 năm 1995 _________________________________________ 1. Tham luận Hội thảo khoa học kỷ niệm 100 năm ngày mất Phan Đình Phùng, ngày 28-12-1995. 2. Năm anh em trai ông là: Lê Ninh, Lê Diên, Lê Phác, Lê Trực và Lê Võ. 3. Lê Trọng Đôn: Bài phú Trung Lễ thất hỏa, Tri Tân, số 164. tr. 11. 4. Thuộc Can Lộc. 5. Thuộc Thạch Hà. 6. Vũ Ngọc Khánh, Hồ Như Sơn: Vè yêu nước chống Pháp xâm lược, tr.170. 7. Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX, Nxb Văn học, Hà Nội, 1976, tr.308. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Tám, 2008, 08:13:46 pm HỒ HỮU PHƯỚC1
VÀI Ý KIẾN VỀ CUỘC KHÁNG CHIẾN CỦA PHAN ĐÌNH PHÙNG Cuộc kháng chiến của Phan Đình Phùng cuối thế kỷ XIX, chống thực dân Pháp xâm lược, dường như không phải bàn cãi về mọi phương diện: mục đích, tính chất, nguyên nhân thất bại v.v... Rằng đó là phong trào Cần vương cuối cùng và lớn nhất ở Trung Kỳ, rằng ngọn cờ Cần vương không còn đủ sức tập hợp lực lượng vì giai cấp phong kiến đã hết vai trò lịch sử nên dẫn đến thất bại v.v... Tuy nhiên nhân kỷ niệm 160 năm ngày sinh Phan Đình Phùng, chúng tôi còn muốn bàn thêm một số ý kiến về cuộc kháng chiến này. Sau Điều ước Quý Mùi tức Điều ước Harmand (25-8-1883), Điều ước Giáp Thân tức Điều ước Patenôtre (6-6-1884), triều đình Huế nói riêng và giai cấp phong kiến Việt Nam nói chung có sự phân hóa sâu sắc rõ ràng chứ không còn mập mờ như thuở Pháp nổ súng xâm lược Đà Nẵng (1858) hoặc khi Điều ước Nhâm Tuất (1862) nhường ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ cho Pháp nữa. Sau Điều ước Harmand và Điều ước Patenôtre, tại triều Nguyễn hình thành hai phe rõ ràng là phe chủ chiến do Tôn Thất Thuyết cầm đầu và phe chủ hòa do Nguyễn Văn Tường cầm đầu. Thuở ấy trong dân gian xuất hiện một câu ca phản ánh và đánh giá thái độ các nhân vật của hai phái trên: “Nước Nam có bốn anh hùng: Tường gian, Viêm láo, Khiêm khùng, Thuyết ngu2 Một bộ phận quan lại triều Nguyễn và một bộ phận giai cấp phong kiến đã tách ra khỏi dân tộc, không còn đồng hành cùng dân tộc như từng có trong lịch sử “vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, cả nước đấu sức lại mà đánh giặc”. Một bộ phận khác, trong đó kể cả vua Hàm Nghi kiên quyết đi cùng dân tộc, lãnh đạo nhân dân chống xâm lược đến cùng. Vua Hàm Nghi đã nói “Trẫm đức mỏng, để cho thần dân phải lầm than là lỗi ở Trẫm” đã phản ánh đúng sự gắn bó mật thiết giữa quyền lợi dân tộc và quyền lợi bộ phận tiến bộ trong giai cấp phong kiến Việt Nam tự chủ. Phan Đình Phùng là nhân vật tiêu biểu xuất sắc, là lãnh tụ của bộ phận giai cấp phong kiến tiến bộ cuối thế kỷ XIX, luôn biết gắn bó quyền lợi của giai cấp mình với quyền lợi tối cao của dân tộc. Lúc đến Sơn phòng sứ Hà Tĩnh ở Phú Gia (Hương Khê), Phan Đình Phùng đã khóc nói “Để cho bệ hạ long đong vất vả là tội của lũ hạ thần” biểu hiện lòng trung quân ái quốc của Cụ. Vua Hàm Nghi là một ông vua yêu nước không chỉ biết quyền lợi triều Nguyễn mà hơn ai hết, ông vua này biết coi trọng quyền lợi dân tộc, đặt dân tộc và Tổ quốc lên trên hết. Chẳng thế mà sau khi bị tên phản bội Trương Quang Ngọc báo cho Pháp bắt đưa về Kinh thành Huế, nhà vua cự tuyệt đến cùng, không thèm trả lời bọn Pháp, sẵn sàng chờ đón sự gian khổ, giam cầm, kiên quyết không nao núng không chịu lùi một ly trước bọn thực dân Pháp. Cho nên ngọn cờ kháng chiến Phan Đình Phùng phất lên là ngọn cờ Cần vương đã đành mà ngọn cờ ấy còn là ngọn cờ dân tộc. Cần vương và dân tộc là hai mục đích song song đồng hành của cuộc kháng chiến Phan Đình Phùng. Giả sử toàn bộ triều Nguyễn từ vua cho đến quan lại lúc bấy giờ đầu hàng Pháp tất cả, không có một người nào như vua Hàm Nghi, thử hỏi Phan Đình Phùng có giương lên lá cờ Cần vương không? Chắc chắn là không. Cho nên từ trước tới nay chỉ nhấn mạnh mục đích Cần vương của cuộc kháng chiến Phan Đình Phùng và gọi đó là “phong trào Cần vương Phan Đình Phùng” thì e rằng chưa đủ. Có lẽ nên gọi là, cuộc kháng chiến của Phan Đình Phùng cuối thế kỷ XIX chống thực dân Pháp xâm lược” thì thỏa đáng hơn. Chính vì cuộc kháng chiến của Phan Đình Phùng có mục đích chính nghĩa rõ ràng giương cao ngọn cờ Cần vương kết hợp ngọn cờ dân tộc nên nó có sức tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân, tạo nên hậu thuẫn sâu rộng vững chắc ở Bắc Trung Kỳ có cơ sở kháng chiến từ Thanh Hóa đến Quảng Bình. Đây là cuộc kháng chiến lớn nhất cuối thế kỷ XIX và cuộc kháng chiến này nhanh chóng trở thành một cuộc chiến tranh nhân dân. Tính chất chiến tranh nhân dân của cuộc kháng chiến Phan Đình Phùng được biểu hiện ở nhiều mặt trong đường lối kháng chiến “ngụ nông ư binh” tại các làng xã ở vùng chiến khu căn cứ kháng chiến, ở phong trào yêu nước toàn dân kháng chiến. Cuộc kháng chiến của Phan Đình Phùng là một cuộc kháng chiến toàn dân. Mọi tầng lớp nhân dân từ các bậc văn thân, các vị hào trưởng, các nhà hào phú cho đến người dân cày, người thợ thủ công, người buôn bán nhỏ, già trẻ gái trai v.v... đều trực tiếp đứng trong hàng ngũ nghĩa quân kháng chiến. Hà Tĩnh là trung tâm của cuộc kháng chiến có 10 quân thứ trong số 15 quân thứ và có đại bản doanh tại đại đồn Vụ Quang. Hầu như tuyệt đại bộ phận làng xã ở Hà Tĩnh đều tiến hành kháng chiến, đều có người trực tiếp đứng trong hàng ngũ kháng chiến. Từ những tướng lĩnh như Đề đốc, Đốc binh, Lãnh binh, người chỉ huy cấp thấp hơn như suất đội đến người thợ rèn đúc vũ khí, người nữ giao thông tiếp tế binh lương làm tình báo dò la tin tức nội bộ địch, người dân bảo vệ kho lương hậu cần v.v... tất cả tạo thành một lực lượng, một mạng lưới chiến tranh nhân dân của cuộc kháng chiến. Hà Tĩnh có 10 quân thứ mà người chỉ huy các quân thứ ấy không chỉ là các bậc võ cử khoa bảng như Võ Phát, Cao Đạt hoặc nhà hào phú như Bá hộ Thuận (tức Nguyễn Huy Thuận) mà còn có cả những nông dân như Đề Chanh, Đề Trạch (Nguyễn Chanh, Nguyễn Trạch). Đặc biệt người tổng chỉ huy tổng tư lệnh quân kháng chiến thật sự là một nông dân: Cao Thắng mới 21 tuổi đã được Đình nguyên Phan Đình Phùng lãnh tụ cuộc kháng chiến tin tưởng giao cho việc lớn điều khiển ba quân; Cao Thắng đã không phụ lòng cụ Phan và nghĩa quân, có thể nói cụ Phan là linh hồn của cuộc kháng chiến và Cao Thắng là rường cột của cuộc kháng chiến. Ngoài Cao Thắng, những tướng lĩnh của cuộc kháng chiến Phan Đình Phùng đều giỏi giang, tài ba và tuyệt đối trung thành như Võ Phát Kỳ Anh, Dương Huy Dừ (Đề Dừ) ở Cẩm Xuyên, Bùi Long (Đốc Long), Trần Danh Lập (Đề Quynh) ở Thạch Hà, Thái Vĩnh Chinh (Lãnh Thái) ở Hương Sơn v.v... Ngoài các vị này còn nhiều tướng lĩnh, nhiều người chỉ huy khác mà hiện nay chúng ta chưa biết hết. Một cuộc khảo sát quy mô và có tổ chức chắc chắn sẽ sưu tầm được nhiều người nữa. Không chỉ có tướng lĩnh mà còn có cả quân lính. Làng xã nào cũng có người lính cầm súng trực tiếp chiến đấu chống Pháp trong hàng ngũ quân kháng chiến của Phan Đình Phùng. Một vài thí dụ: Tại xã Phong Phú (Thạch Hà) có ông Trương Quốc Chúc cầm súng chiến đấu suốt 10 năm trời dưới sự chỉ huy của Đốc Long, cho đến khi cuộc kháng chiến thất bại (1896) ông mới trở về quê làm ruộng sinh sống; Tại xã Hữu Bằng (Hương Sơn) có ông Hồ Lực cũng là người lính chiến thuộc Hương thứ (quân thứ Hương Sơn) trực tiếp dưới sự chỉ huy của Nguyễn Huy Giao, người phụ trách quân thứ Hương Sơn; Và còn nhiều người nữa mà ta chưa biết hết tên tuổi của họ. Có như vậy thì quân kháng chiến của Phan Đình Phùng mới hùng hậu, đông đảo tổ chức được 10 quân thứ tại Hà Tĩnh. Nhờ có đội quân hùng hậu đông đảo mà cụ Phan và Cao Thắng đã có thể phân phối quân lính rải đều rất nhiều căn cứ kháng chiến, ngoài 10 quân thứ nói trên. Chưa nói các huyện khác, chỉ riêng một huyện Hương Sơn mà căn cứ kháng chiến của Phan Đình Phùng cũng đã dày đặc: Tuần Lễ, Hàm Lại, Khe Sắn, Cồn Chùa, Tình Diệm, Phúc Dương, Phúc Đậu, Tràng Sim, Thủy Mai v.v... Trong đó có những nơi còn để lại dấu tích kháng chiến đến ngày nay như căn cứ Tràng Sim. Tại đây còn dấu tích Khe Rèn và đồn Cơn Khế (nay thuộc địa phận xã Sơn Trường và xã Sơn Hàm). Khe Rèn xưa kia và nơi rèn đúc và cất giấu vũ khí của quân kháng chiến Phan Đình Phùng, trong đó có cả loại súng kiểu 1874 của Pháp. Sau khi được cô Tám (con ông Hoàng Phúc) mật báo có một toán lính tập đi từ Vinh về Phố Châu, Cao Thắng đã bố trí quân mai phục tại dốc Tứ Mỹ (nay thuộc xã Sơn Châu) chém giết 15 tên lính tập, cướp được 15 khẩu súng Tây. Cao Thắng cho trưng tập thợ rèn Trung Lương và Vân Chàng về căn cứ Tràng Sim, tháo ra một khẩu rồi cứ theo đó mà đúc các bộ phận. Súng đúc xong bắn rất hiệu nghiệm, chỉ có nhược điểm là lò xo và rãnh chưa thật đúng kích cỡ. Sau khi đúc thành công khẩu đầu tiên và bắn thử nghiệm, Cao Thắng cho sản xuất hàng loạt súng kiểu 1874 của Pháp trang bị cho quân đội. Số còn lại dự trữ để vào kho vũ khí tại Khe Rèn và đồn Cơn Khế. Với việc làm này, Cao Thắng thật sự là một tài năng xuất chúng vượt xa những tướng lĩnh phong kiến Việt Nam lúc bấy giờ. Đại úy Gosselin người trực tiếp chỉ huy đàn áp cuộc kháng chiến Phan Đình Phùng đã hết sức kinh ngạc khâm phục tài năng Cao Thắng. Trong Văn tế Cao Thắng ông Bang Nhu cũng ca ngợi “ Chế súng đạn biết bao chừng cơ trí”. ____________________________________________ 1. Hồ Hữu Phước: Nhà nghiên cứu Lịch sử - Văn hóa tỉnh Hà Tĩnh. 2. Nguyễn Văn Tường, Hoàng Tá Viêm, Ông Ích Khiêm và Tôn Thất Thuyết. Câu ca này còn được truyền tụng đến trước Cách mạng Tháng Tám 1945. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Tám, 2008, 08:14:36 pm Cuộc kháng chiến của Phan Đình Phùng đã huy động được tiềm lực nhân dân các tỉnh Bắc Trung Kỳ về mọi mặt nhân, tài, vật lực. Nam giới, nữ giới đều trực tiếp tham gia kháng chiến. Các cô Bùi Thị Trang, Bùi Thị Điểm, cô Tám v.v... là những thí dụ. Bùi Thị Trang, Bùi Thị Điểm là con gái Phó bảng Bùi Thố và là em ruột ông Đốc Long. Hai bà đã tham gia cuộc kháng chiến từ đầu với nhiệm vụ quyên góp binh lương, tiếp tế và dò la tin tức bọn giặc. Bà Bùi Thị Trang đã nói lên chí lớn chống giặc xâm lược của mình trong Thư gửi quan Bang (tức Lê Ninh):
Từ ngày phụng chỉ Cần vương Muôn dân vui vẻ hai kinh vững vàng Làm tỏ mặt Hồng Lam tú kiệt Thật rõ ràng oanh liệt trâm anh. Cô Tám là con gái ông Hoàng Phúc nhận nhiệm vụ làm tình báo dò la tin tức nội bộ địch, chủ yếu là các đồn lính Pháp ở Vinh (Nghệ An) và Phố Châu (Hương Sơn). Để che mắt địch, cô Tám làm nghề buôn chuyến hàng nông lâm sản từ Hương Sơn xuôi về Vinh, hàng chuyên chở bằng đò dọc. Người dân Hương Sơn, lớp tuổi già đến nay vẫn còn truyền tụng những cáu hát đò đưa của cô Tám trên dòng sông Ngàn Phố, chứa chan lòng yêu nước: Đôi ta cùng nợ nước non Chàng đà trả sạch, thiếp còn long đong Bao giờ sông lặng nước trong Bõ người chèo chống đêm đông nhọc nhằn. Cô Tám đã dò la được những tin tức chính xác từ nội bộ bọn giặc, giúp cho bộ chỉ huy quân kháng chiến tổ chức đánh địch thắng lợi. Trận tập kích giặc ở dốc Tứ Mỹ thắng lợi là công lao lớn về tin tức tình báo chính xác do cô Tám cung cấp. Trận địch tập kích đánh vào căn cứ Tràng Sim bị quân kháng chiến đẩy lùi là do quân kháng chiến đã đề phòng đầy đủ, chuẩn bị tư thế sẵn sàng đánh địch nhờ biết trước âm mưu của bọn Pháp, trong đó cô Tám là một trong những người cung cấp tin tức cho nghĩa quân. Ngoài các cô Bùi Thị Trang, Bùi Thị Điểm, cô Tám còn nhiều chị em khác trực tiếp đứng vào hàng ngũ kháng chiến của Phan Đình Phùng. Đặc biệt đối với các nhà hào phú, nhiều người đã trực tiếp hoặc gián tiếp giúp kháng chiến chủ yếu là quyên góp binh lương. Ví dụ Bá hộ Hồ Thế Tế ở Hữu Bằng (Hương Sơn) đã nhận nhiệm vụ quyên góp lương thực, tiền bạc, sắt thép ở vùng tổng Hữu Bằng, tổng An Ấp để cung cấp tiếp tế binh lương vật liệu rèn đúc vũ khí cho quân kháng chiến. Hoặc giả như Cả Hoan, Nguyễn Đoạn (Kỳ Anh) cũng có công lớn trong việc quyên góp binh lương giúp quân kháng chiến Phan Đình Phùng. Cụ Phan Đình Phùng biết khơi dậy truyền thống yêu nước của mọi tầng lớp nhân dân không phân biệt giàu nghèo sang bèn làm cho lòng yêu nước chống giặc của toàn dân được phát huy cao độ. Điều đó được thể hiện trong Hịch chống Pháp Cụ viết: “Các ông có chí lớn tài to, nếu không muốn đưa ra cho nước dùng, thì nên đem mưu lạ chước hay ra dạy bảo để cứu lấy sinh dân thì Phùng tôi xin nhả cơm, búi tóc sẵn lòng nghe theo. Như thế tuy các ông ở nơi thôn dã mà cũng có công báo nước giúp đời, chứ đừng coi việc đó làm thường”. Trong khi lãnh đạo công cuộc kháng chiến, điều rất đáng quý rất đáng kính trọng ở vị lãnh tụ Phan Đình Phùng là Cụ luôn chú ý đến nhân dân, luôn canh cánh một niềm thương yêu nhân dân, thương yêu tầng lớp nghèo khổ, bị bóc lột nặng nề nhất trong xã hội. Càng thương yêu nhân dân, Cụ càng căm thù giặc: Dân đói kêu trời xao xác nhạn Quân gian chật đất rộn ràng ong. (Thơ Tuyệt mệnh của Phan Đình Phùng) Chính sức cảm hóa bằng đức lớn thật sự thương dân của cụ Phan mà nhân dân đã đi theo cuộc kháng chiến của Cụ đến cùng không nao núng, không lùi bước mặc cho chém giết, hiểm nguy. Bởi vậy tính chất chiến tranh nhân dân của cuộc kháng chiến Phan Đình Phùng càng thêm sâu đậm. Chính cụ Phan đã nói rõ tính chất nhân dân của cuộc kháng chiến khi trả lời thư dụ hàng của Hoàng Cao Khải: “Trải hơn 10 năm trời, những người dấn thân theo việc nghĩa, hoặc bị trách phạt tù đày, hoặc bị chém giết. Ấy thế mà họ chẳng hề chán nản ngã lòng bao giờ. Có phải họ lấy sự hiểm nguy, chém giết làm thèm thuồng đâu. Chỉ vì họ tin vào sức tôi, lượng ở chí tôi nên mới hăm hở vậy đó. Nếu cố nhân ở vào cảnh ngộ tôi liệu cố nhân có nỡ lòng bỏ họ mà đi cho đành hay không?. (Thư Phan Đình Phùng trả lời Hoàng Cao Khải – Bản dịch Đào Trinh Nhất) Phan Đình Phùng thấy rõ sức mạnh của sự đoàn kết trong sự nghiệp kháng chiến cứu nước nên ngay từ đầu Cụ đã tìm mọi cách liên hệ bắt tay với các lực lượng kháng chiến trong cả nước, trước hết là ở Bắc Kỳ nơi Cụ có điều kiện liên hệ thuận lợi. Cụ giao việc quân cho Cao Thắng lo liệu củng cố lực lượng kháng chiến ở Hà Tĩnh, một mình Cụ đi ra Bắc gặp thủ lĩnh kháng chiến ở Bắc Kỳ là Nguyễn Quang Bích bàn bạc việc hợp sức kháng chiến, làm thế ỷ dốc cho nhau mong đánh thắng bọn xâm lược Pháp. Tầm nhìn của Phan Đình Phùng quả là sắc sảo, rộng lớn, vượt xa tầm nhìn của một số người khác chỉ bó hẹp, trong phạm vi hoạt động của mình chưa có sự liên kết rộng rãi. Căn cứ kháng chiến Ba Đình của Đinh Công Tráng ở Thanh Hóa hoặc căn cứ kháng chiến Đồng Thông của cụ Nghè Nguyễn Xuân Ôn ở Nghệ An chưa mở rộng hoạt động như Phan Đình Phùng, một là chưa có điều kiện, hai là do các cụ Đinh Công Tráng, Nguyễn Xuân Ôn chưa nghĩ tới sự bắt tay đoàn kết rộng rãi với các lực lượng kháng chiến khác ở Trung Kỳ thì rõ ràng lúc bấy giờ không thể có điều kiện để bắt tay chung sức hợp lực kháng chiến. Dẫu là một cuộc kháng chiến toàn dân, luôn lấy sự đoàn kết làm đầu, nhưng Phan Đình Phùng rất tỉnh táo. Cụ không bắt tay với những kẻ làm lung lay lực lượng kháng chiến. Ví dụ Đoàn Đức Mậu tức Bạch Xỉ dựa vào một câu sấm “Bạch Xỉ sinh, thiên hạ bình” đưa phép thuật tà ma ra để phỉnh lừa dân chúng, phỉnh lừa quân sĩ, bị cụ Phan cự tuyệt và trừng trị để yên lòng quân. Những kẻ phản bội như Trương Quang Ngọc, Cụ kiên quyết trừng trị để răn đe nghiêm khắc những tên phản bội khác đang lăm le làm tay sai cho thực dân Pháp1 Với đường lối kháng chiến sáng suốt lấy chiến tranh nhân dân làm chỗ dựa, với việc giương lên đồng thời hai ngọn cờ kháng chiến là ngọn cờ Cần vương và ngọn cờ dân tộc, Phan Đình Phùng là một lãnh tụ kháng chiến đầy bản lĩnh và là một nhà chiến lược tài giỏi. Phan Đình Phùng xứng đáng là lãnh tụ xuất sắc nhất trong các lãnh tụ kháng chiến cuối thế kỷ XIX. Mặc dầu tên việt gian Nguyễn Thân làm chuyện thất đức “trời không dung, đất không tha” khai quật mộ Phan Đình Phùng đốt xác Cụ trộn thuốc súng bắn ra Tam Soa hòng tuyệt diệt Phan Đình Phùng, song tinh thần và khí phách Phan Đình Phùng vẫn còn sống mãi với non sông đất nước, với nhân dân Hà Tĩnh quê hương Cụ. Hà Tĩnh, tháng 3 năm 2007 ___________________________________________ 1. Trương Quang Ngọc mật báo bọn Pháp bắt vua Hàm Nghi bị cụ Phan trừng trị giết chết. Bố của Trương Quang Ngọc là Trương Quang Thủ người dân tộc thiểu số là một thủ lĩnh quân kháng chiến chịu sự lãnh đạo của Phan Đình Phùng. Ông Trương Quang Thủ là một nhà yêu nước. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Tám, 2008, 09:11:38 pm NGUYỄN TRƯỜNG LỊCH1
CẢM NHẬN VỀ CUỘC KHỞI NGHĨA PHAN ĐÌNH PHÙNG Cụ Phan thuộc gia đình trí thức yêu nước nổi tiếng khắp vùng. Thân sinh Cụ là Phan Đình Tuyển đỗ Phó bảng, làm quan đời Minh Mạng. Anh trai cả đỗ Tú tài, anh thứ hai đỗ Cử nhân và em trai thứ năm đỗ Phó bảng. Bản thân cụ Phan là Đình nguyên Tiến sĩ, Ngự sử triều đình nhà Nguyễn. Uy tín của toàn gia đình đại khoa và khí phách hào hùng trung với vua, với nước của một bậc sĩ phu dám đấu tranh chống lại bọn đầu hàng phản nước hại dân, cụ Phan đã tạo nên một từ trường có sức thu hút rộng lớn, tập hợp được đông đảo tầng lớp nho sĩ, vốn là lớp người trí thức hiểu biết, giữ vị trí trung tâm trong quá trình phát triển hệ ý thức tư tưởng xã hội đương thời - cùng liên minh với đông đảo nông dân trong vùng. Ngay cả hình ảnh và phẩm chất của người chị ruột, bà Phan Thị Đại cũng góp thêm phần tiếng tăm và sức lôi cuốn chị em phụ nữ hướng theo phong trào Cần vương. Bà Đại có chồng là Cử nhân Lê Văn Thống ở huyện Đức Thọ cùng hưởng ứng phong trào (bà có con trai là Cử nhân Lê Văn Nhiễu, bạn đồng khoa với Giải nguyên Phan Bội Châu và con thứ là Giải nguyên Lê Văn Huân về sau là liệt sĩ thời chống Pháp; là bà nội của Giáo sư Tiến sĩ Lê Văn Thiêm, bà ngoại của Giáo sư Lê Thước). Thực dân Pháp kết tội bà có tham gia hoạt động liên quan đến phong trào của cụ Phan, nên bắt bà vào tù, bị đày đọa hết sức dã man, chúng định xử tử bà, nhưng rồi lại thả ra tìm cách mua chuộc bà; chúng giao cho bà nhiệm vụ cầm lá thư của triều đình Huế và thư của Hoàng Cao Khải đem vào tận sào huyệt Vụ Quang nhằm thuyết phục người em trai - lãnh tụ nghĩa quân ra đầu hàng. Nhưng người anh hùng không hề bị lung lay trước kẻ thù nên âm mưu thâm độc ấy bị thất bại, song chúng vẫn thả bà về để quản thúc tại gia2, hòng xoa dịu nỗi căm giận đang dâng cao và giảm bớt làn sóng đấu tranh sôi sục của quần chúng lúc bấy giờ. Buổi đầu phong trào khởi nghĩa bùng nổ như một ngọn lửa lớn tỏa sáng rộng khắp vùng Nghệ Tĩnh, Bình Trị Thiên và vang dội khắp cả nước, khiến giặc Pháp hoảng sợ, còn triều đình nhà Nguyễn nao núng hoang mang. Biết vậy, nhưng giặc Pháp cũng không dễ gì dập tắt nhanh chóng ngọn lửa hào hùng ấy. Chúng dùng thủ đoạn chia cắt, bao vây mọi đường tiếp tế lương thực, vũ khí, rồi dùng thuật nội gián đưa lính vào tận sào huyệt bắt sống được vua Hàm Nghi. Phần cụ Phan quyết giương cao lý tưởng yêu nước thương nòi, với uy tín cá nhân cũng như dòng họ, Cụ đã duy trì phong trào kháng chiến suốt 10 năm trên căn cứ địa Vụ Quang chạy dọc theo dãy đại ngàn Trường Sơn, chiếm lĩnh vùng đất rộng lớn Hương Sơn, Hương Khê kéo dài đến tận phía Tây Quảng Bình... Nhung trường phụng mệnh, thập canh đông Vũ lược y nhiên vị tấn công. (Việc quân vâng mệnh đã mười đông Chiến sự nay còn tính chửa xong) . Tuy biết rằng sự nghiệp phục quốc tính kế chưa xong, nhưng “Tứ hải nhân dân thủy hỏa trung”, đúng là muôn dân chìm trong máu lửa, còn đang ở thế mạnh khó lòng mà chiến thắng được chúng: Dân đói kêu trời tan ổ nhạn, Quân thù chật đất dậy đàn ong. Về thực lực, cuộc khởi nghĩa bùng nổ mang tính bột phát, thiếu kế hoạch đầy đủ, chuẩn bị chưa chu đáo theo chiến thuật lấy “đoản binh đánh trường trận”, đặc biệt là phong trào chưa tổ chức được lực lượng nhân dân một cách chặt chẽ để tác chiến lâu dài, cho nên kết quả là nghĩa quân sau nhiều năm kháng chiến vô cùng anh dũng và sáng tạo vẫn không đạt được thắng lợi. Ngược lại, vua Hàm Nghi đã bị bắt, lực lượng bị tiêu hao nhiều, nên cụ Phan tự thấy lòng mình hổ thẹn với nước non Tiên Rồng, với các bậc anh hùng liệt sĩ, xót xa trước cảnh đói khổ của đồng bào nên buộc lòng phải ngậm ngùi tuyệt mệnh, giã từ cuộc chiến đấu sinh tử với kẻ thù hung bạo để giữ tròn khí tiết. Trước khi nhắm mắt, người chỉ huy kiên trung, nhân nghĩa ấy vẫn không quên khuyên các nghĩa binh hãy trở về gia đình sản xuất đợi thời cơ khác. Nỗi niềm yêu nước thương dân được bộc lộ hết sức sâu sắc qua bài thơ Tuyệt mệnh được viết trước phút lâm chung. Đúng là hình tượng cao đẹp của một người chân chính, sống oanh liệt, chết vẻ vang ấy sẽ còn sống mãi với non sông đất nước! Chín trùng Thánh Chúa nơi quê lạ, Bốn bể nhân dân chốn lửa nồng Trách vọng càng cao lo lại nặng, Tướng môn những thẹn với anh hùng. (Lâm chung thời tác - Lê Thước3 dịch)4 Rõ ràng là kẻ thù đã đã dùng mọi lực lượng hùng mạnh để tiêu hao dần quân khởi nghĩa, chúng bao vây tứ phía, cô lập vùng căn cứ địa. Thời thế không thuận lợi, nghĩa quân lâm vào tình trạng bị động, thiếu thốn đủ thứ, đời sống hàng ngày gặp muôn vàn khó khăn, từ lương thực đến vũ khí. Lúc bấy giờ, hậu phương không yên, nhân dân phải sống trong nghèo đói, trong cùm kẹp, máu lửa, chết chóc; sức dân có hạn, nếu chiến tranh kéo dài thì khó lòng làm chỗ dựa vững bền cho nghĩa quân chiến đấu được. Mặt khác, về sách lược tổ chức, phong trào Cần vương còn khá nhiều hạn chế. Triều đình nhà Nguyễn tại Huế nhu nhược đã đầu hàng thực dân Pháp, do đó ngọn cờ quân chủ đã lỗi thời không thể đủ sức huy động được mặt trận đoàn kết nhân dân rộng rãi để chống lại thế lực đang hùng mạnh của đế quốc Pháp xâm lược. Đồng bào quanh vùng bị khủng bố nặng nề, hễ ai liên lạc giúp đỡ nghĩa quân đều bị đàn áp bắn giết hết sức tàn bạo. Bà con trong vùng vẫn thường kể lại, nghĩa quân bị giặc Pháp bắt được đều bị chúng trói tay chân, rồi chặt đầu thả trôi sông. Trước tình hình bế tắc ấy, nghĩa quân lại thiếu sáng suốt trong chính sách dân vận. Họ phạm phải những sai lầm không đáng có... nhất là đối với các gia đình khá giả trong vùng. Họ dùng nhiều biện pháp cưỡng ép nhân dân, mà lẽ ra phải kiên trì tuyên truyền thuyết phục. Đấy là điều đáng tiếc đã xảy ra trong thực tế lịch sử, tạo nên không ít nỗi bất bình từ quần chúng, đặc biệt ở vùng Hương Sơn, nơi tướng Cao Thắng chỉ huy. Vào những năm 1941-1945, tôi đang học tiểu học đúng vào lúc Nhóm cộng sản Hồ Hảo5 vượt ngục trốn vào rừng Ngàn Phố để chống Pháp, đồng thời cũng là thời kỳ Việt Minh bắt đầu hoạt động ở vùng Nghệ Tĩnh. Thực dân Pháp lập đồn bốt tuần tra khắp nơi trong huyện Hương Sơn để truy nã nhóm Hồ Hảo. Chúng lùng soát gắt gao tận các làng xóm như thời cụ Phan khởi nghĩa và thời Xô viết Nghệ Tĩnh nổi lên lật đổ chính quyền thống trị. Thời đó, ông ngoại tôi thường kể nhiều chuyện chống Pháp xảy ra trong thôn xóm từ cuộc khởi nghĩa Cần vương, trong đó có chuyện về Nhóm Tân Hoài6, dư đảng của nghĩa quân. Sau khi cụ Phan từ trần vào nărn 1895, phong trào Cần vương thất bại tan rã dần, nhưng dư đảng còn hoạt động kéo dài vào những năm đầu thế kỷ XX, mà tiêu biểu là Nhóm Tân Hoài, còn tiếp tục hoạt động ở hai huyện Hương Sơn và Đức Thọ, từng làm cho bọn thống trị phải hoảng hốt lo sợ. Nhóm này dùng lối đánh du kích bất ngờ, tiếp tục giết một số cá nhân có quyền lợi liên quan chặt chẽ với thực dân Pháp. Cụ thể là họ đã giết ông Tú Áng (tức Lê Khánh Áng), một Bá hộ giàu có ở xã Sơn An. Sau đó bọn Pháp ra lệnh san phẳng, chặt hết các lũy tre bao bọc từ làng này sang làng khác đến tận gốc để truy nã Nhóm Tân Hoài đang lẩn trốn trong các nhà dân. Một lần Tân và Hoài (tên hai nghĩa binh) đang trốn ở làng Gôi thì bị giặc bao vây chặt, chúng lục soát từng nhà, khiến hai nghĩa binh phải nhảy xuống ao, rồi phủ bèo xanh kín đầy người, ngâm mình trong nước mấy giờ liền mới thoát được bàn tay kẻ thù. Ao này thuộc làng Gôi, xã Sơn Hòa ngày nay. Lúc bấy giờ bố tôi còn nhỏ, (1901-1970) đang sống cùng bà ngoại ở xã Sơn Hòa cũng biết rõ sự kiện đó. Về sau Nhóm Tân Hoài tới tạm lánh tại vùng chợ Trổ, làng Yên Hồ (xã Đức Nhân) huyện Đức Thọ. Được tin báo, sếp đồn Linh Cảm cho quân lính đến vây bắt tìm diệt. Không thể bắt sống được vì họ có súng bắn trả quyết liệt, nên bọn lính Pháp bèn đốt cháy vườn mía bao quanh ngôi nhà năm gian, nơi hai nghĩa binh đang trú ẩn. Và đám cháy đó đã hỏa thiêu luôn cả hai người nhất định không đầu hàng giặc. Trong trận đọ súng ấy, viên Cai Mưu thuộc đồn Linh Cảm bị đạn của Nhóm Tân Hoài giết chết. Viên cai này là người trong xóm tôi, cạnh nhà ông ngoại tôi, chung bờ giậu bên phải, còn bên trái là nhà thờ họ của gia đình ông Lê Minh Hương. Bà Cai Mưu còn rất trẻ, chưa có con cái gì, mà ở vậy thủ tiết thờ chồng và được triều đình phong kiến nhà Nguyễn tặng Bằng khen Tiết hạnh khả phong. Tôi biết rất rõ bà này, vì bà có tuổi thọ khá cao, mãi vào cuối năm năm mươi mới mất. Giáo sư Đinh Xuân Lâm, người cùng làng tôi, cho biết khi ông Cai Mưu chết vì trúng đạn nghĩa quân có một bài văn tế ông khá hay, giáo sư đã sưu tầm được và công bố trên tuần báo Văn nghệ, tiếc rằng đến nay không còn nhớ vào số nào và năm nào, chỉ còn nhớ hai câu: “Mây Tùng Lĩnh phất phơ màu khói bạc, Nước Tam Soa lấp lánh ánh trăng soi” Trên quê hương Nghệ Tĩnh, ảnh hưởng của cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng còn vang vọng mãi tới phong trào Đông Du của Phan Bội Châu và phong trào Tân Việt, cho đến tận năm 1930 khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Phải chăng có thể nói, ngọn lửa Xô viết Nghệ Tĩnh bùng lên dữ dội rung chuyển khắp nước, vang tận phương trời Tây cũng là sự kế thừa một cách sinh động truyền thống yêu nước, giương cao ngọn cờ phản đế từ thế kỷ trước, nhưng được phát triển ở tầm cao song song với cách mạng phản phong, thực hiện “người cày có ruộng”. Dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác-Lênin, hai nhiệm vụ chiến lược cùng tồn tại đã tập hợp được đông đảo quần chúng công nông tham gia ngày càng đông đảo. Sức mạnh bão táp ấy càng lớn mạnh trong cuộn Cách mạng tháng Tám (1945) long trời lở đất đánh đổ chế độ thực dân xây dựng chính quyền công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Từ lịch sử đương đại, nhìn vào truyền thống quá khứ, chúng ta có thể phần nào so sánh về thế trận lòng dân và vai trò của Đảng ta trước những thành tựu diệu kỳ trong sự nghiệp giải phóng dân tộc ở thời đại Hồ Chí Minh. Một chân lý ngời sáng là chúng ta chỉ có thể chiến đấu chống ngoại xâm thắng lợi khi toàn dân đoàn kết một lòng. Dân tộc ta trải qua bao chiến công oanh liệt chống kẻ thù cướp nước, lịch sử quá khứ soi sáng đường hướng đi tới tương lai dạy chúng ta rằng nguồn gốc của mọi thắng lợi chính là nhờ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân. (Tạp chí Văn hóa Hà Tĩnh, số 99+100, tháng 10+11 năm 2006, tr.14-15) ________________________________________1. Nguyễn Trường Lịch: Giáo sư, Tiến sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội. 2. Dựa theo Giáo sư Lê Thước trong Gia phả Bà ngoại tôi - 1970, bản đánh máy. 3. Lê Thước (1890-1975): Giáo sư trường quốc học Vinh. 4. Giáo trình Ngữ văn Hán Nôm, Phan Văn Các chủ biên, Nxb Giáo dục, 1983, tr.2/263. Bài thơ này còn được người đời sau đặt tên là Tuyệt mệnh. 5. Nhóm Hồ Hảo: nhóm nhỏ đảng viên cộng sản bị địch bắt ở huyện Hương Sơn, rồi vượt ngục vào rừng sâu hoạt động tự phát, sau khi giết một tên chủ đồn điền người Pháp ở Napê; nhưng rồi bị quân Pháp tiêu diệt sau bốn năm hoạt động 1941-1944. 6. Nhóm Tân Hoài: dư đảng không rõ lực lượng) của phong trào Cần vương, hoạt động tự phát một thời gian dài sau khi cụ Phan mất; cuối cùng bị chính quyền Pháp tiêu diệt. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Tám, 2008, 11:33:54 pm LÊ NGUYỄN1 HOÀNG CAO KHẢI - PHAN ĐÌNH PHÙNG, MỘT TÌNH BẠN, HAI CON ĐƯỜNG Năm 1878, người dân vùng Yên Khánh tỉnh Ninh Bình chứng kiến một sự kiện bất ngờ mà họ nhớ mãi. Đó là chuyện viên Tri phủ sở tại đã dám sai lính đè cổ đánh cha Trần Lục, thường được gọi là cụ Sáu một giáo sĩ nức tiếng thời đó nhờ được lòng thực dân Pháp và có những thành tích giết người như ngoé. Viên Tri phủ đó là Phan Đình Phùng, vừa đỗ đầu khoa thi Đình năm 1877. Sự cương trực thẳng thắn của Cụ bộc lộ ngay từ những ngày đầu trên hoạn lộ và điều này không khiến người ta lấy làm lạ khi 6 năm sau, Cụ đã dám ngang nhiên hét to vào mặt hai quyền thần uy thế nhất của triều đình Huế là Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết khi hai ông này quyết định phế truất ông hoàng Dục Đức, người đã được vua Tự Đức cử lên kế vị. Trước sự giận dữ đến tím mặt của Thuyết và sát khí đằng đằng của hơn 300 quân gươm giáo sáng quắc, các quan lại lúc bấy giờ lo cho sinh mạng Phan Đình Phùng; nhưng rốt cục, Cụ chỉ bị Thuyết giam trong ngục rồi sau thả cho về làng quê. Trong khi đó, đệ nhất Phụ chánh Trần Tiễn Thành cũng chống đối việc làm của Tường và Thuyết một cách nhẹ nhàng hơn, về sau lại bị Thuyết sai quân đến nhà sát hại. Điều này có thể giải thích ở điểm Trần Tiễn Thành là một trở ngại cho mưu đồ kháng Pháp của Thuyết. Còn Phan Đình Phùng là một người cương nghị, có lập trường cứng rắn với Pháp và những tay sai theo Pháp, nên theo Thuyết, Cụ còn có thể hữu dụng về sau. Điều này được minh chứng là mấy tháng sau khi Cụ về quê ở làng Đông Thái, tỉnh Hà Tĩnh để cày ruộng, Thuyết đã nghĩ lại và cử Cụ làm Tham biện Sơn phòng Hà Tĩnh. Phần Cụ, dù khẳng khái phản đối Thuyết trong việc phế vua Dục Đức, nhưng biết rằng Thuyết là người luôn nuôi trong lòng mưu đồ kháng Pháp nên Cụ đã quên đi tị hiềm cũ mà nhận lấy trách nhiệm do Thuyết giao. Năm 1885, khi vua Hàm Nghi xuất bôn khỏi Kinh thành Huế và lưu lạc đến Quảng Bình, Hà Tĩnh, Cụ cùng một số nhân sĩ yêu nước đã đi đón, lạy vua và khóc. Tấm lòng thần tử đối với một vị thiếu quân mới 14 tuổi, vì cảnh nước mất nhà tan phải lênh đênh nơi rừng thiêng nước độc, đã làm xúc động biết bao người! Hịch Cần vương ban ra, Cụ về lại làng Đông Thái, tìm kiếm súng đạn, rèn giáo mác, gươm đao. Lực lượng chưa tinh nhuệ, súng ống còn thiếu thốn, những thất bại đầu tiên làm cho một vài bộ tướng của Cụ nản lòng, có người đầu hàng giặc. Tuy nhiên, đa số nghĩa quân vẫn một lòng theo Cụ, quyết chí kháng Pháp. Viên Đại úy Pháp Ch.Gosselin, trong tác phẩm “L’Empire d’Annam” (Vương quốc An Nam) xuất bản tại Pari, Pháp năm 1904, đã khen ngợi Phan Đình Phùng về tài tổ chức quân binh, luyện tập sĩ tốt, cải tiến cả trang phục và vũ khí, chứng tỏ là một đạo quân có kỷ luật. Trong những năm sau đó, nghĩa quân của Phan Đình Phùng đã thực hiện được hai việc có ý nghĩa, làm rung động cả nước. Việc thứ nhất là lập kế vượt qua hàng rào lính canh đông đảo để bắt sống cựu Tuần phủ Đinh Nho Quang. Quang là bạn thân của cụ Phan, sau khi hưu trí được Pháp giao cho công tác tiễu trừ “giặc” ở vùng Hà Tĩnh, từng gửi cho Cụ thư dụ hàng với những lời lẽ xấc xược. Bắt được Đinh Nho Quang, cụ Phan không giết mà chỉ giam tại chỗ. Về sau, Quang được quân Pháp giải thoát trong một cuộc chiến không cân sức giữa Pháp và nghĩa quân. Việc thứ hai là xử Trương Quang Ngọc, kẻ phản bội đã cam tâm dẫn Pháp đến tận miền thượng sông Gianh để bắt vua Hàm Nghi vào tháng 11-1888. Tháng 12-1893, một buổi chiều nọ, Trương Quang Ngọc đang nằm trong nhà thì nghĩa quân nhảy rào vào, y không kịp trở tay đã bị chém bay đầu. Từ đó, những tên phản bội nghĩa quân, theo Pháp, sợ hãi, không dám manh động nữa. Nhận thấy đối phó với một tổ chức nghĩa quân hoạt động du kích rất khó đạt kết quả mong muốn, giữa năm 1894 thực dân Pháp quay sang một con cờ khác, một người vừa là đồng hương, vừa là bạn thân cũ của cụ Phan: Kinh lược sứ Hoàng Cao Khải. Đây là một nhân vật mà sự thăng tiến trong xã hội phong kiến là một mơ ước của bao nhiêu quan lại đương thời. Trong những năm 1883-1884, họ Hoàng còn ở chức Tri huyện Thọ Xương, một chức quan khiêm tốn ở hàng lục phẩm. Tuy nhiên, ông ta sớm được thực dân Pháp chú ý. Tháng 9-1883, trong cuộc gặp gỡ với Tổng đốc Hà Nội Nguyễn Hữu Độ, một quan chức Pháp là Bonnal đã lưu ý đến Hoàng Cao Khải: “một thành niên có gương mặt thanh tú và thông minh”. Sau năm 1885, Hoàng Cao Khải đã leo đến quyền Tổng đốc Hải Dương, vào hàng chánh nhị phẩm. Trong lúc các cuộc khởi nghĩa nổ ra mãnh liệt Nguyễn Thiện Thuật, Tạ Hiện ở Bãi Sậy, Đốc Tít ở Đông Triều, Cai Kinh ở Yên Thế, Lương Tam Kỳ ở chợ Chu ... , Khải đã được Kinh lược sứ Nguyễn Trọng Hợp giao cho trọng trách đánh dẹp các tổ chức nghĩa quân và đã đạt những thắng lợi lớn: Nguyễn Thiện Thuật phải bỏ sang Tầu, Đốc Tít ra hàng, bị đày sang Algérie, Lương Tam Kỳ, Đốc Ngữ ra hàng... Sau những thành tích trên, cuối thập niên 1880, Hoàng Cao Khải được phong chức Bắc Kỳ Kinh lược sứ cùng những tước vị tột bậc: Thái tử Thiếu bảo, Khâm sai đại thần, tước Diên Mậu tử, Hội viên Hội đồng Tối cao Đông Dương (Conseil supérieur de I’Indochine), được ân thưởng Bắc đẩu bội tinh của Pháp. Biết rằng nhiệm vụ dụ hàng Phan Đình Phùng là một công việc đầy cam go, họ Hoàng gửi cho cụ Phan một bức thư với những lời lẽ hết sức lễ độ khôn khéo: “Đồng ấp Phan Đình nguyên đại nhân túc hạ, Tôi với ngài xa cách nhau, xuân thu đắp đổi trải đã mười bảy năm nay rồi. Dâu bể cuộc đời, Bắc Nam đường bụi, tuy là mỗi người đi một ngả khác nhau nhưng mà trong giấc mộng hồn vẫn thường thấy nhau không phải xa xôi gì. Ngồi nghĩ lại, ngày trước chúng ta còn ở chốn quê hương, giao du với nhau, cái tình ấy đằm thắm biết là dường nào! Từ lúc ngài khởi nghĩa đến giờ, nghĩa khí trung can đều rõ rệt ở tai mắt người ta. Tôi thường nghe các quý quan (ám chỉ người Pháp - LN) nói chuyện đến ngài, ông nào cũng phải thở than khen ngợi và tỏ ý kính trọng ngài lắm. … Có điều tôi thấy tình trạng ở quê hương chúng ta gần đây lấy làm đau lòng hết sức. Nhân đó, tôi thường muốn đem ý kiến hẹp hòi để ngỏ cùng lượng cao minh soi xét...” (theo Đào Trinh Nhất: PhanĐình Phùng - Nhà lãnh đạo 10 năm kháng chiến (1886-1895) ở Nghệ Tĩnh, Nxb Tân Việt, 1957, tr.202-203). Cụ Phan Đình Phùng trả lời Hoàng Cao Khải bằng một bức thư dài, cũng với những lời lẽ hết sức lễ độ nhưng cương quyết: “… Cố nhân với tôi đều là người sinh đẻ tại châu Hoan mà ở cách xa ngoài muôn ngàn dặm, cố nhân còn có lòng đoái tưởng quê hương thay, huống chi là tôi đây đã từng lấy thân chịu đựng và lấy mắt trông thấy thì sao? Khốn nỗi cảnh ngộ bó buộc, vả lại sức mình chẳng làm được theo lòng mình muốn, thành ra phải đành, chứ không biết làm sao cho được. Cố nhân đã biết đoái hoài thương xót dân này, thì cố nhân nên lấy tâm sự tôi và cảnh ngộ tôi, thử đặt mình vào mà suy nghĩ xem, tự nhiên thấy rõ ràng, có cần gì đến tôi phải nói dông dài nữa ư?” (Đào Trinh Nhất, Sđd, tr.209). Không lay chuyển được tấm lòng sắt đá của cụ Phan, Hoàng Cao Khải đành cho dịch bức thư ra chữ Pháp, trình lên Toàn quyền Đông Dương De Lanessan. Kế hoạch sử dụng Hoàng Cao Khải bất thành, giữa năm 1895, thực dân Pháp nhờ đến Tổng đốc Bình Định Nguyễn Thân, con người đầy mưu lược và nổi tiếng tàn ác lúc bấy giờ. Biết rằng rất khó tiến công những nhóm quân du kích rải rác trong rừng sâu, Nguyễn Thân tung quân cắt đứt các đường tiếp tế lương thực cho nghĩa quân, những ai bị bắt gặp có mang lương thực vào rừng đều bị chém đầu ngay. Biện pháp này đạt được kết quả Nguyễn Thân mong muốn. Nghĩa quân đã khốn đốn vì đời sống thiếu thốn, nay còn nguy ngập hơn. Sức khỏe cụ Phan ngày càng kiệt quệ vì bệnh lỵ trầm trọng. Ngày 13-11 âm lịch năm 1895, Cụ trút hơi thở cuối cùng khi sự nghiệp kháng Pháp còn dang dở. Tướng sĩ mai táng cụ trong rừng, không dám đắp mộ cao vì sợ bị giặc trả thù. Nhưng không may, hơn 10 ngày sau đó, một người lính nghĩa quân bị giặc bắt và bị tra tấn nặng nề nên đã tiết lộ nơi chôn Cụ. Nguyễn Thân cho đào hài cốt Cụ lên đem hỏa thiêu rồi trộn với thuốc súng bắn xuống sông La Giang. Sau những thành tích kiểu đó, Nguyễn Thân leo lên đến chức vụ Phụ chánh đại thần, Cần chánh diện Đại học sĩ, đứng đầu trong Tứ trụ đại thần. Còn Hoàng Cao Khải có hai người con trai là Hoàng Mạnh Trí và Hoàng Trọng Phu đều làm Tổng đốc, nên người đương thời có hai câu thơ ám chỉ gia đình Hoàng Cao Khải: Con cái một nhà hai Tổng đốc, Pháp Nam hai nước một công thần. Điều đáng buồn hơn nữa là Phan Đình Cự (tự Bá Ngọc), người con trai còn lại của cụ Phan Đình Phùng, trốn sang Nhật học năm 1906, là một trong những người mở đường cho phong trào Đông Du đầu thế kỷ XX, nhưng đã bị thực dân Pháp mua chuộc để làm những việc có hại cho phong trào cách mạng Việt Nam ở hải ngoại. Theo hồi ký của Kỳ Ngoại hầu Cường Để, cháu 5 đời của Hoàng thái tử Cảnh, thì nhân một đêm chơi đèn, đốt pháo ở Hàng Châu (Trung Quốc) một thanh niên Việt Nam yêu nước là Võ Nguyễn Trinh (tự Tản Anh) đã dùng súng hạ sát Bá Ngọc, chấm dứt cuộc sống của một con người sớm bị khuất phục bởi lợi danh và đi ngược lại con đường cách mạng của cha mình. (Lê Nguyễn: Xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc - Nhân vật và sự kiện lịch sử, ___________________________________________Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2005, tr. 243-249) 1. Lê Nguyễn: Nhà nghiên cứu lịch sử. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Tám, 2008, 11:39:49 pm PHẠM XANH1 NHỮNG CHUYỂN BIẾN TÍCH CỰC TRONG TƯ TƯỞNG PHAN ĐÌNH PHÙNG Phan Đình Phùng (1847-1895) người làng Đông Thái, huyện La Sơn, nay là xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, đậu Cử nhân năm 1876, đậu Tiến sĩ năm 1877. Trước khi trở thành lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa Hương Khê, Cụ đã từng làm tri huyện Yên Khánh, Ninh Bình, rồi làm Ngự sử trong Viện Đô sát Triều đình Huế. Vậy là, Phan Đình Phùng chẳng những được đào tạo và thấm nhuần giáo lý Khổng, Mạnh, mà đã dấn thân vào chốn quan trường. Nho giáo dạy cho người ta trung, tín, lễ, nghĩa, coi đó là những mực thước trong việc “Trị nước, bình thiên hạ”. Tấm bằng Tiến sĩ và những năm tham chính của Phan Đình Phùng, trên một ý nghĩa nào đó, khẳng định ý thức tư tưởng của Cụ không đi chệch dòng chính thống đó. Thế nhưng, trong lời nói và hành động của Cụ đây đó đã thấy xuất hiện những nét mới không giống đại bộ phận nho sĩ đương thời. Thời mà Cụ đang sống, từ vua đến quan, từ quan đến dân, đều cho rằng Thiên chúa giáo là tà đạo, những người theo tôn giáo này đều là tay sai cho quân Pháp. Quan niệm không đúng đó một thời đã dẫn đến những tấn thảm kịch trong lịch sử Việt Nam thời kỳ đó giữa lương và giáo. Phan Đình Phùng, khác với những quan niệm thông thường đó, đã có những ý nghĩ thoáng hơn, đúng đắn hơn về Thiên chúa giáo. Ông thường nói với những người tâm phúc: “Đạo thiên chúa lấy Da Tô làm trời, cũng như Thích Ca Mâu Ni là trời của đạo Phật hay Khổng phu tử là trời của nhà Nho. Hễ ai đã tín ngưỡng điều gì, thì điều ấy là trời của mình. Mình muốn người ta đừng xâm phạm đến sự tín ngưỡng của mình thì mình đừng xâm phạm đến sự tín ngưỡng của người ta. Thiên chúa cũng là một thứ tôn giáo, mặc ai tin thì theo”2. Cùng với sự thẳng thắn, cương trực trong tính cách của ông và truyền thống phản kháng của quê hương, tầm nhìn khoáng đạt ấy dần dà giúp ông có được những chuyển biến mạnh mẽ trong quan niệm của ông về hai phạm trù đạo đức học nho giáo cơ bản - Trung, Hiếu. Như chúng ta đều biết, nho sĩ Nghệ Tĩnh đã đáp lại những hòa ước của Tự Đức bằng những hành động có một không hai thời bấy giờ. Năm 1862 khi được tin Triều đình ký hòa ước cắt ba tỉnh miền Đông cho Pháp, nho sĩ Nghệ Tĩnh do Phan Huân đứng đầu dâng sớ bày tỏ một tâm trạng, một ý thức trái hẳn với truyền thống: “Thiên hạ là của thiên hạ, thiên hạ không phải của bệ hạ mà chuyên giữ lấy một mình”. Tiếp đó là phong trào chống Hòa ước 1874 lan rộng trong nhân dân và sớm trở thành phong trào vừa chống Pháp xâm lược vừa chống triều đình đầu hàng đạt tới đỉnh điểm trên đất Nghệ Tĩnh, thì dân gian đặt vè tố cáo nhà vua: “Làm vua ra rồi, một lòng bán nước; khi đang đánh được, không đánh gấp cho”. Văn thân bốn tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình trong thư trả lời Tự Đức, bày tỏ chủ trương kháng chiến của mình và bác bỏ lý do giảng hòa của nhà vua và Triều đình: “Đổng Thiên Vương dù không còn nữa, nhưng trong thiên hạ những người như Đổng Thiên Vương không thiếu. Trần Hưng Đạo đã mất, nhưng trong thiên hạ những người như Trần Hưng Đạo hãy còn nhiều... Trong khoảng mười bước còn có nhiều cỏ thơm, rộng rãi như hai Kỳ há không có người tài năng hay sao?”3 Tư tưởng chống triều đình, chống nhà vua trái với chủ nghĩa trung quân truyền thống, coi vua là nước, đã đạt tới đỉnh điểm trong cuộc khởi nghĩa Giáp Tuất của Trần Tấn, Đặng Như Mai xem Triều đình và giặc Pháp là kẻ thù của dân tộc phải quyết đánh: Dập dìu trống đánh cờ xiêu Phen này quyết đánh cả Triều lẫn Tây. Truyền thống bất khuất của quê hương đã giúp Phan Đình Phùng xác định được chỗ đứng của mình trong cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc - kiên quyết đứng về phe chủ chiến. Cuối năm 1885 vua Hàm Nghi ra Sơn phòng Hà Tĩnh, Phan Đình Phùng đã cùng với các bạn là Phan Quang Cư, Phan Khắc Hòa, Hoàng Xuân Phong, Ngụy Khắc Kiều, Phan Trọng Mưu tìm đến yết kiến và được vua phong Tán lý quân vụ, thống lĩnh các đạo nghĩa binh, nhận Chiếu Cần vương về quê nhà tổ chức khởi nghĩa và cuộc khởi nghĩa của ông trở thành cuộc nổi dậy điển hình nhất của phong trào Cần vương, kéo dài trên 10 năm, vắt qua hai thời kỳ: Cần vương có vua và Cần vương không có vua. Ở thời kỳ đầu (1885 - 1888) tức là khi dấy nghĩa đến khi vua Hàm Nghi bị bắt, Phan Đình Phùng vừa xây dựng lực lượng, vừa lặn lội ra Bắc liên lạc với các văn thân nghĩa sĩ cùng dấy binh để phá thế cô lập. Ở thời kỳ này ông đã vượt qua một sự thử thách ghê gớm trước những mưu mô, hành động độc ác của quân thù. Ấy là lúc người anh của ông là Phan Đình Thông bị bắt, và kẻ thù cho Lê Kính Hạp, trước là bạn thân của ông, lấy việc hiếu đễ, tình cốt nhục viết thư dụ dỗ ông ra hàng: “Này bác Phan ơi! Ngày nay trong họ hàng làng xóm được an hay nguy chỉ can hệ ở nơi bác. Thôi thì tấm lòng trung của bầy tôi đối với vua, tới đó bác cũng đã chứng tỏ với quỷ thần rồi, không lo ai chê mình vào đâu được nữa. Còn Hiếu và Đễ cũng là cái gốc lớn của đời người ta, có lẽ nào bậc người khoa giáp như bác mà học chưa tới nơi hay sao?”4. Kẻ thù đã đặt Phan Đình Phùng vào sự lựa chọn một trong hai giải pháp: buông súng đầu hàng để họ hàng làng xóm, mồ mả tổ tiên được bình yên, người anh thoát nạn, hoặc tiếp tục chiến đấu thì mọi thứ đó sẽ mất. Tiến sĩ Phan Đình Phùng ung dung, thanh thản chọn cho mình giải pháp thứ hai, đặt vận mệnh của đất nước, đặt tư tưởng trung với vua lên trên họ hàng làng xóm, chấp nhận sự hy sinh riêng tư. Phan Đình Phùng đã nói với chủ tướng: “Tôi từ khi cùng chủ tướng khởi binh Cần vương, đã có chủ tâm là bỏ cả việc gia đình quê quán ra ngoài, không nghĩ gì đến nữa. Nay tôi chỉ có một ngôi mộ rất to, nên giữ, đó là đất Việt Nam; tôi chỉ có một ông anh rất to, đang bị nguy vong, là cả mấy mươi triệu đồng bào. Nếu về mà sửa sang phần mộ của mình, thì ngôi mộ cả nước kia ai giữ? Về để cứu vớt ông anh của mình, thì bao nhiêu anh em trong nước ai cứu? Tôi bây giờ thì chỉ có một cái chết mà thôi”; và ông đáp thư Hạp bằng một lời nhắn: “Nếu ai có làm thịt anh ta, thì nhớ gửi cho ta bát nước canh!” Phan Đình Phùng đã gạt chữ Hiếu, chữ Đễ sang một bên, dồn hành động vì chữ Trung. Trước hành động chối bỏ đó kẻ thù đã thực thi hành động tàn bạo: đào mồ mả tổ tiên và hãm hại người anh của ông, nhưng ông vẫn không nao núng, quyết chiến đấu đến cùng dưới ngọn cờ Cần vương. Năm 1888 khi vua Hàm Nghi bị bắt, một lần nữa Phan Đình Phùng trải qua một thử thách ghê gớm đối với một nhà Nho: tiếp tục chiến đấu khi không còn vua hay lấy cái chết của mình để làm rạng danh sự trung thành của bầy tôi đối với đức vua cao cả. Nếu như ở giai đoạn trước trong quan niệm chữ Trung của Phan, vua gắn với nước thì đến đây đã có sự biến chuyển căn bản - nước đã được đặt lên trên vua. Ông đã chọn con đường tiếp tục chiến đấu. Đó cũng chính là thời điểm mở đầu giai đoạn hai của phong trào Cần vương và của cuộc khởi nghĩa Hương Khê. Mở đầu cho giai đoạn này, Phan Đình Phùng phát lệnh cho quân sĩ lên vùng Thượng du Quảng Bình lấy đầu tên Trương Quang Ngọc, kẻ phản nghịch đã dẫn quân địch bắt vua Hàm Nghi. Sự kiện có ý nghĩa đó đã làm cho nhiều thủ lĩnh đem theo nghĩa binh về với Phan Đình Phùng như Ngô Quảng, Nguyễn Cáp, Võ Phát, Cầm Bá Thước. Từ đó quân số nghĩa quân tăng, được chia thành 15 quân thứ và sức mạnh chiến đấu cũng tăng lên. Nghĩa quân đã giành nhiều thắng lợi trong những cuộc chống càn và tập kích vào thị xã Hà Tĩnh, mở rộng địa bàn hoạt động của nghĩa quân, và đến năm 1893 nghĩa quân mở chiến dịch đánh vào thành Vinh. Trong chiến dịch này, Cao Thắng - vị chỉ huy của nghĩa quân, cánh tay phải của Phan Đình Phùng, bị trúng đạn tử trận trong trận tấn công vào đồn Nu. Kế hoạch lớn không thực hiện được. Vào chính thời điểm đó thực dân Pháp bảo Hoàng Cao Khải, người cùng làng với ông, viết thư dụ hàng. Ông đã đáp lại bằng một bức thư đanh thép nói rõ ý chí bất khuất của mình, vạch mặt những kẻ như Khải mượn chữ “Trung” làm những điều bất nhân tàn bạo: “Nhưng tôi ngẫm nghĩ lại, nước nhà ta mấy ngàn năm nay chỉ lấy văn hiến truyền nối nhau, hết đời này qua đời kia, đất nước chẳng rộng, quân lính chẳng mạnh, tiền của chẳng giàu, duy chỉ có ý thị dựa nương để dựng nước, là nhờ có cái gốc vua tôi, cha con theo năm đạo thường mà thôi. Xưa kia nhà Hán, nhà Đường, nhà Tống, nhà Nguyên, nhà Minh bên Tàu bao nhiêu phen lăm le muốn chiếm lấy đất ta làm quận huyện của họ mà vẫn chiếm không được... Đến nay người Pháp với mình, cách xa nhau không biết là mấy muôn dặm, họ vượt bể tới đây, đi tới đâu như là gió lướt tới đó, đến nỗi nhà vua phải chạy, cả nước lao xao, bỗng chốc non sông nước mình biến thành bờ cõi người ta, thế là trọn cả nước nhà, dân nhà cũng bị đắm chìm hết thảy, có phải là riêng một châu nào hay một nhà ai phải chịu cảnh lầm than mà thôi đâu. Từ lúc tôi khởi nghĩa tới nay, đã trải mười năm trời, những người đem thân theo việc nghĩa, hoặc đã bị trách phạt, hoặc đã bị chém giết, vậy mà lòng người trước sau chẳng hề lấy thế làm chán nản ngã lòng bao giờ; trái lại, họ vẫn ra tài, ra sức giúp đỡ tôi, số người mạnh bạo ra theo tôi càng ngày càng nhiều thêm mãi. Nào có phải người ta lấy điều tai vạ hiểm nguy làm cho sự sung sướng thêm thường mà bỏ nhà dấn thân ra theo tôi như vậy đâu. Chỉ vì họ tin cậy lòng tôi, lượng xét chí tôi, cho nên hăm hở vậy đó thôi... Chỉ vì nhân tâm đối với tôi như thế cho nên cảnh nhà tôi hương khói vắng tanh, bà con xiêu bạt, tôi cũng chẳng dám đoái hoài. Nghĩ xem, kẻ thân với mình mà mình không đoái hoài huống chi là kẻ sơ; người gần với mình mà mình không bao bọc nổi, huống chi người xa. Vả chăng, hạt ta đến nói điêu đứng lầm than quá, không phải riêng vì tai họa binh đao làm nên nông nỗi thế đâu. Phải biết quân Pháp đi tới đâu có lũ tiểu nhân mình túa ra bày kế lập công, thù vơ oán chạ; những người không có tội gì chúng cũng đâm thọc buộc ràng cho người ta là có tội”. Với quyết tâm đó, Phan Đình Phùng đã lãnh đạo nghĩa quân chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Hương Khê do ông lãnh đạo cũng chính là sự cáo chung của hệ tư tưởng phong kiến bất lực trước nhiệm vụ lịch sử của đất nước. Dẫu ông có kiên tâm tới đâu đi nữa, ngọn cờ Cần vương đã rách tả tơi không còn đủ sức tập hợp dân chúng cho sự nghiệp cao cả của mình. Và sự thất bại của Phan Đình Phùng cũng là điều dễ hiểu. Nhưng những chuyển biến tích cực trong tư tưởng của ông là sự khởi đầu và sẽ được tiếp nối trong tư tưởng Phan Bội Châu để cuối cùng hoàn thiện trong tư tưởng Hồ Chí Minh - những người đồng hương Nghệ Tĩnh của ông. Hà Nội, tháng 3 năm 2007 ________________________________________1. Phạm Xanh: Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. 2. Theo Đào Trinh Nhất: Phan Đình Phùng..., sđd, tr.20. 3. Dẫn theo Trần Văn Giàu: Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng Tháng Tám, tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1970, tr.435. 4. Theo Đào Trinh Nhất: Phan Đình Phùng..., sđd, tr.85. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Tám, 2008, 12:01:57 am NGUYỄN QUANG TÔ1 VÀI TÀI LIỆU VỀ PHAN ĐÌNH PHÙNG Cụ Phan Đình Phùng là một nhà lãnh tụ cách mạng Cần vương vùng Nghệ Tĩnh, toàn thể quốc dân, già, trẻ, gái, trai không ai không biết. Tuy nhiên đối với cái chết và thi hài của Cụ có nhiều tài liệu viết khác nhau. Đại khái như sau đây: - Có tài liệu viết rằng: Cụ bị bệnh chết, Nguyễn Thân đào xác lên định đem đốt ra than lấy tro trộn với thuốc súng mà bắn đi, nhưng sau lại cho đem chôn. - Một tài liệu khác lại nói: Cụ bị bệnh kiết lỵ mà chết, Nguyễn Thân cho đào lên, đốt ra than đem đổ xuống sông. Nhưng, ông Đào Trinh Nhất trong sách Phan Đình Phùng thì lại viết về cái chết của cụ Phan như sau: “Lối 8 giờ sáng ngày 13 tháng 11 Cụ mất, Tang Lễ cử hành cố nhiên là đơn sơ. Duy có việc tẩm liệm thi thể của Cụ, tướng sĩ đã làm hết mình. Thay vì phải dùng quan tài như thường, tướng sĩ chặt cây gỗ vàng tâm thật lớn ở trong rừng, đem về khoét lũng thân cây đặt di thể trong đó, trên đậy nắp gắn lại chắc chắn. Di thể mang áo mão tấn sĩ “Đúng ngày an táng, tướng sĩ sắp hàng làm lễ cử ai và lạy trước linh cữu, rồi rước linh cữu xuống táng dưới chân núi Quạt. Lúc linh cữu hạ huyệt rồi, trên chỉ đắp đất bằng phẳng, chứ không đắp cao lên thành mồ. Tướng sĩ dụng tâm chôn cất như thế, là vì sợ mai sau có kẻ điểm chỉ mộ Cụ bị khai quật lên chăng. “Quân Pháp không hay việc cụ Phan đã mất, vì tướng sĩ vẫn đóng ở trên núi Quạt như thường và giữ cách trầm tĩnh êm đềm, không lộ ra một hình tích gì bày tỏ cho bên ngoài biết trong quân vừa có đại biến. Duy có quân thứ các nơi nghe tin chủ tướng mất rồi, sinh ra chán nản, lần hồi tản tác, trở về quê hương, hoặc trốn qua Lào qua Xiêm cũng nhiều. Còn bổn bộ tướng sĩ của Phan, thì vẫn theo hầu phu nhân để chờ ngày ra thú. “Cánh mười mấy hôm sau, quân Tây đi tuần, bắt được một tên nghĩa binh ở trên sơn trại lén xuống xóm làng tìm mua lương thực. Trước còn dỗ dành, sau doạ bắn chết, nếu như không nói rõ binh tình trên núi, thành ra tên lính nọ phải thú thiệt rằng cụ Phan đã qua đời trên mười bữa nay, và nó chỉ cả nơi chôn di thể nữa. “Quan quân buộc nó đi dẫn đường, tới đào mộ lên lấy thi thể cụ Phan đem về. “Lạ thay! Đêm bữa 29 ở trên sơn trại, phu nhân đang ngủ, nằm mộng thấy cụ Phan hiển linh về, nói với phu nhân như vầy: “ - Ngày mai ta thử ra trước mặt quân Tây, xem chúng làm gì ta”. Phu nhân cho là điềm lạ, suy nghĩ phân vân. Té ra chiều bữa sáu là ngày 30, có tin báo lên sơn trại rằng: Không hiểu tại sao quân lính Bảo hộ biết chỗ, đã đào mộ cụ Phan lên đem về đồn Linh Cảm rồi. Trong mộng Cụ nói: “ta thử ra trước mặt quân Tây” là ám chỉ việc đào mả. “Nói về quân Pháp biết được chỗ khai quật được mả cụ Phan lên, đem di hài về đồn Linh Cảm giao cho Nguyễn Thân xem xét có phải thiệt là di hài của cụ Phan không. “Nguyễn Thân cho đem ra địa đầu tổng Việt Yên đem dầu chế vào đốt đem mun trộn vào thuốc súng thần công và bắn xuống bể”2. Trên đây là đoạn văn trong cuốn Phan Đình Phùng của Đào Trinh Nhất mô tả về cái chết của nhà chí sĩ họ Phan, nhưng Đào quân đã không nói rõ sự việc này ông đã lấy đâu ra? Biên khảo theo tài liệu nào? mà trong đó cũng có nhiều điểm dị đồng so với các tài liệu khác. Vả chăng, nhìn chung, những tài liệu viết về cái chết của nhà Tiên liệt Cách mạng Phan Đình Phùng từ trước tới nay, thường có tính chất Dã sử, nghĩa là các sử liệu chỉ có tính chất truyền miệng nhiều hơn là các sử liệu có căn cứ trên giấy trắng mực đen. Để góp ý kiến hầu làm sáng tỏ vấn đề tồn nghi đó, gần đây chúng tôi đã cố tâm tìm được ba văn kiện lịch sử có tương quan, xin sưu dịch cống hiến độc giả sau đây: 1. Tờ yết thị của Nguyễn Thân (http://i255.photobucket.com/albums/hh125/chuongxedap/Qsu/PhanDinhPhung/PDP-toyetthiNguyenThan.jpg) Phiên âm: “Thành Thái Thất niên thập nhị nguyệt sơ cửu nhật, Khâm sai Đổng tiết Quân vụ Đại thần vi yết thị sự: Tư Phan Đình Phùng sở vi quan quân bức nã, cai ngụy bôn soán Quảng Bình thượng du sơn phận (khe Quạt xứ) hiện dĩ mệnh chung, thi hài yêu hồi Linh Cảm đồn trú xứ do lỗ thuộc đa nhân nhận vi cai đích thi lánh hành thiêu huỷ. Tư yết thị. Hựu yết thị hạt hạ quân dân nhất y tuân tri”. Dịch nghĩa: Ngày mùng 9 tháng 12 niên hiệu Thành Thái thứ bảy, quan Khâm sai Đổng tiết Quân vụ Đại thần3 yết thị rằng: Nay Phan Đình Phùng bị quân quan bức nã, nên ngụy ấy lẩn trốn lên miền thượng du tỉnh Quảng Bình (xứ Khe Quạt), hiện đã chết rồi, thi hài ngụy ấy đã đưa về đồn Linh Cảm do nhiều tên cựu thuộc của tên giặc ấy nhận diện cho đúng là thi hài của ngụy ấy. Thi hài ấy sẽ đem thiêu huỷ Nay yết thị Vậy yết thị cho quân dân trong hạt biết”. Khi chúng tìm được xác chết cụ Phan, ngoài tờ yết thị của Nguyễn Thân kể trên, viên Phó sứ ủy viên Chính phủ cũng ra một yết thị bằng chữ Pháp, nội dung cũng tương đồng với tờ yết thị của Nguyễn Thân. 2. COLONNE DE POLICE N: 83 NOTE CIRCULAIRE Phan Đình Phùng pourchassé de toutes parts, obligé de se réfugier dans le haut Quảng Bình (Région de Quạt) est mort et son cadavre rapporté à Linh Cảm, où il a été formellement reconnu par de nombreuses personnes, sera incinéré. Les cendres seront dispersées. Cet important résultat est dù à la ténacité et au dévouement de tous. Le Vice Résident Commissaire du Gouvernement se borne, pour l’instant, à adresser ses félicitations chaleureuses aux Inspecteurs et Gardes principaux ayant pris part aux expéditions du Laos et de Quạt, en signalant toutefois que M.M. les Gardes Principaux Moutin notamment, et Génault ont eu l’initiative et l’heureuse chance de prendre une part directe et des plus inlelligentes à la découverte du cadavre du chef de la rébellion Linh Cảm le 29 Janvier 1890 Le V. Résident Commissaire du Gouvernement Signature et Cachet Dịch nghĩa: Thông Tư số 83 Bị truy nã tập kích khắp nơi, Phan Đình Phùng buộc phải lẩn tránh lên vùng thượng du tỉnh Quảng Bình (vùng Quạt) và đã chết, thi hài đã được đưa về Linh Cảm và đã được nhiều người nhận diện. Thi hài ấy sẽ bị thiêu, và tro tàn sẽ bị phân tán. Kết quả quan trọng này là nhờ sự kiên nhẫn, cũng như sự tận tâm hi sinh của mọi người. Hiện giờ vị Phó Công sử ủy viên chính phủ chỉ mới ban lời khen nồng hậu đối với các viên Giám binh đã từng tham dự hành quân ở Lào và Quạt, đặc biệt là viên Giám binh Moutin và Génaul có sáng kiến cùng gặp được may mắn trục tiếp tham dự cuộc tìm thấy thi hài của lãnh tụ phản loạn. Linh Cảm ngày 29-1-1896 Quan Phó sứ ủy viên Chính phủ, Ký tên và đóng dấu (Theo tài liệu của Trác Ngọc, Nội san trường Vinh, số Xuân 1971) _____________________________________________ 1. Nguyễn Quang Tô: Giáo sư trường Đại học Vạn Hạnh - Sài Gòn (trước năm 1975). 2. Theo Đào Trinh Nhất, Phan Đình Phùng..., sđd, tr.232-233. 3. Quan chức của Nguyễn Thân được Pháp phong cho khi đàn áp phong trào Cần vương ở Trung Kỳ. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Tám, 2008, 09:16:33 am Ngoài hai tài liệu trên đây, chúng tôi xin cung cấp thêm hai tài liệu lịch sử liên quan tới vấn đề cái chết của nhà Đại ái quốc Chí sĩ Phan Đình Phùng như sau đây:
3. Tờ thông tư của Nguyễn Thân Khi thực dân Pháp tìm được xác chết cụ Phan Đình Phùng, Nguyễn Thân mừng hí hửng, ngoài tờ yết thị kể trên, ông ta còn làm một tờ thông tư cho công bố khắp nơi, nhất là từ Nghệ Tĩnh trở ra Bắc. Thông tư này nguyên tác bằng chữ Hán, chúng tôi tìm được trong hồ sơ chính trị của Nha Kinh lược. (http://i255.photobucket.com/albums/hh125/chuongxedap/Qsu/PhanDinhPhung/PDP-tothongtuNguyenThan.jpg) Phiên âm: Hiệp Biện Đại học sĩ Khâm mệnh Tiết chế Quân vụ Đại thần Diên Lộc Nam Nguyễn... vi luân phi tư sự: Chiếu nhi Nghệ Tĩnh Ngụy chính tướng Phan Đình Phùng cập cừ mục đẳng quân dĩ đáo án. Lánh phụng phi chương tịnh hồng kỳ đáo tiệp ngoại, triếp thử luân phi tư kỷ tri chiếu. Giá tu chiếu lệ sao lưu bị chiếu tồn nguyên tư đệ đáo Kinh lược nha trình nạp. Tu chí luân tư giả. Hựu luân phi tư… Nghệ An tĩnh dĩ bắc chư địa phương quan. Thành Thái thất niên thập nhị nguyệt sơ bát nhật. Quyền chủ sự võ nhược Phác phụng khảo. Dịch nghĩa: Hiệp biện Đại học sĩ Khâm mệnh Tiết chế Quân vụ Đại thần Diên Lộc Nam, Nguyễn... ban hành tờ thông tư khẩn như sau: Chiếu chi Chính tuớng của Ngụy quân ở hai tỉnh Nghệ Tĩnh là Phan Đình Phùng cùng với bọn cừ mục đồ đảng đều đã chịu tội hết. Ngoài việc đón tiếp phi chương cùng cờ hồng báo tiệp nay cho luân phi thông tư này cho các nơi đều được biết. Các nơi nhận được phải sao thông tư này để phổ biến, đồng thời đệ nạp về Nha Kinh luợc. Nay luân tư. Tờ thông tư luân phi này được phổ biến cho các hạt quan từ tỉnh Nghệ An trở ra Bắc. Thành Thái năm thứ bảy tháng Chạp ngày mùng tám. Quyền Chủ sự Võ nhược Phác phụng khảo. 4. Biên bản khám nghiệm quan tài cụ Phan Đình Phùng Khi mấy viên sĩ quan người Pháp mang được quan tài của cụ Phan Đình Phùng từ núi Quạt về, chúng cho gọi viên Tuần vũ Hà Tĩnh tới cậy quan tài ra khám và lập biên bản. Đây là biên bản khám nghiệm quan tài và thi thể cụ Phan người ta tìm được trong hồ sơ của Nha Kinh lược Bắc Kỳ. Nguyên tác bằng chữ Hán: (http://i255.photobucket.com/albums/hh125/chuongxedap/Qsu/PhanDinhPhung/PDP-bienbankhamnghiem.jpg) Phóng ảnh nguyên bản hiện tàng trữ tại Văn Khố Quốc gia. Sài gòn. Chưa đề số hiệu Phiên âm: Quyền hộ Hà Tĩnh Tuần vũ quan phòng hạ chức Phan Huy Quán túc trình: Phụ Đại Thần Thái tử Thiếu bảo Võ Hiển điện Đại học sĩ Khâm sai Bắc Kỳ Kinh lược Đại sứ Diên Mậu Tử, tôn Tướng công đài tiền hy chúc: Thừa chiếu Thiểm hạt hiện tình tiết phụng trình thẩm hĩ tồn Phan Đình Phùng cận nhất xuất đảng tiềm vãng thượng du. Thừa Khâm mệnh khâm sai liệt Đại nhân thương uỷ viên binh truy nhiếp: Bản nguyệt sơ bát nhật, tiếp tam khuyên quan thư báo Quảng Bình tỉnh nhân đinh ngụy Lĩnh Quê thú xưng Phan Đình Phùng dĩ ư nguyệt tiền thập tam nhật bị đạn thống tử cai kinh dẫn để táng xử đẳng tình. Bản nhật tiếp Thiểm tỉnh quyền lãnh Niết sứ Nguyễn… phi trình tự: khứ nhật tiếp Quý quan binh đệ tương ngụy Phùng quan cữu hồi để Linh Cảm trú thứ thừa phái cai viên dự Tán lý Lê, hội đồng quý quan sức khai kiểm nghiệm. (Khô mộc quan nhất, thượng phú minh tinh nhất đoạn, dụng hồng bạch ước thất phương, châu thư: Hoàng triều Bính Tý khoa Cử nhân, Đinh Sửu khoa Đình nguyên Tiến sĩ, Cáo thụ Tư thiện Đại phu, An Tĩnh tổng đốc, sung kiêm đốc chư tỉnh quân vụ đại thần, gia tứ Bỉnh trung tướng, tự Tôn Cát, thuỵ Trang Lạng, hiệu Châu Phong, Phan công chi cữu) (Khai khám thi trường ước tứ xích, niên ước ngũ thập thượng hạ, đầu phát đoản, tu trường ước từ thốn quân bán bạch, khẩu nhãn quân khai. Đại tiểu liệm quân dụng sinh quyến, đầu trước xích sắc sô sa cân nhất đoạn. Phú diện xích đoạn nhất phương, lượng thủ bao xích đoạn, lượng túc bao bạch đoạn, ngoại trước lục sắc Bắc đoạn, quang tụ y nhất lĩnh, thứ trước thanh sắc sô sa, hiệp tụ y nhất lĩnh, thứ trước xuyến bạch y nhất lĩnh, nội trước bạch y nhất lĩnh, hạ thường bạch quyền nhất bức. Hữu thủ mậu chỉ phân tam chi, nội nhất chi liên cốt, nhất đoạn nhục sinh dĩ hủ, yêu đái thanh sô sa ước thập phương Hựu bạch nhất đoạn ước thập phương). Kinh chất Đông Thái thôn hào cựu tộc thuộc quân nhận xác hệ ngụy Phùng đích thi. Tại thứ Khâm mệnh Đại thần kinh phụng phi chương nhập tấu hĩ. Tự tiếp hội tự cai hệ ngụy cư nghĩ ứng hỏa táng dĩ thị phân biệt. Tức sức Đức Thọ phủ bị biện sài tân luyện cai quan cữu tương vu khoáng địa phần hoá; Cai viên nghiệp tuân uỷ hành thứ phó lãnh binh Nguyễn... bản tảo hội đồng quý toà phái quan dữ cai phủ viên chiếu biện trình chiếu. Đẳng nhân triếp cảm túc phục duy tư chiếu Tu chí túc trình giả Thành Thái thất niên thập nhị nguyệt sơ cửu nhật Chánh bát phẩm Đoàn Thúc Cảnh phụng khảo. Dịch nghĩa: Quyền hộ Hà Tĩnh tỉnh Tuần vũ quan phòng hạ chức là Phan Huy Quán, kính cẩn phúc trình. Thái tử Thiếu bảo Võ hiển điện Đại học sĩ Khâm sai Bắc Kỳ Kinh lược Đại sứ Diên Mậu Tử, tôn Tướng công đài tiền hy chúc; Xin kính trình ngài hiện tình về tỉnh hạt tôi: Gần đây bọn Phan Đình Phùng sai đồ đảng lén về vùng thượng du. Sau khi thương thảo với quý vị Khâm sai, đã cho binh lính đuổi theo. Ngày mùng tám tháng này, tỉnh tôi có nhận được thư báo của quan Đại uý, theo đó một tên dân tỉnh Quảng Bình, Lãnh binh của Ngụy tên là Khuê, về đầu thú đã tiêu xưng rằng: ngày 13 tháng trước Phan Đình Phùng đã bị đạn và chết. Y cũng đã dẫn tới xem xét tình hình tại nơi chôn. Ngày hôm nay, lại tiếp Quyền lãnh Niết sứ tỉnh tôi là Nguyễn... trình báo rằng: Hôm vừa rồi quý quan binh đã đem áo quan Phan Đình Phùng về để tại đồn Linh Cảm, đồng thời sức cho y viên cùng với Tán lý là Lê Hội đồng với quý quan tới kiểm nghiệm: Áo quan này là một thân cây đục rỗng bên trong, trên có phủ một lá cờ bằng lụa đỏ chừng bảy vuông, với hàng chữ đỏ như sau: “Hoàng triều Bính Tý khoa Cử nhân, Đinh Sửu khoa Đình nguyên Tiến sĩ, cáo thụ Tư thiện Đại phu, An Tĩnh Tổng đốc, sung kiêm đốc chư tỉnh Quân vụ Đại thần, gia tứ Bỉnh trung tướng, tự Tôn Cát, thuỵ Trang Lạng, hiệu Châu Phong, Phan công chi cữu”. Mở hòm ra khám, thây dài ước 4 thước1, tuổi ước trên dưới 50, đầu tóc ngắn, râu dài ước chừng 4 tấc, đầu một nửa đã bạc. Miệng và mắt đều mở. Tiểu liệm và đại liệm đều dùng lụa sống. Đầu chít khăn san màu đỏ, mặt đậy một vuông đoạn đỏ. Hai tay đều bọc đoạn đỏ, hai chân bọc đoạn trắng. Ngoài mặc đoạn Tàu sắc lục; một chiếc áo rộng ống, lại tới một chiếc áo hẹp ống bằng sa mịn màu xanh, tiếp đó là áo bằng xuyến trắng. Bên trong là chiếc áo lụa, phần dưới vấn lụa trắng sống. Ngón cái tay mặt phân làm ba chi, chi trong cùng liền xương, một chi thịt đã rữa. Lưng vấn sa màu xanh, ước mười vuông, cùng với lụa cũng chừng mười vuông. Sau khi chất vấn các hào cựu cùng tộc thuộc ở thôn Đông Thái, tất cả đều xác nhận rằng đây là thi thể của ngụy Phùng. Vâng lệnh của vị Đại thần qua phi chương, đối với các tên cừ mục Ngụy; nghĩ nên đem hoả táng cho có sự phân biệt. Chúng tôi đã sức cho phủ Đức Thọ liệu biện đầy đủ củi lửa đem áo quan ra nơi đất trống hoả phần. Sáng nay vâng lệnh, phó Lãnh binh Nguyễn... đã hội đồng với các phái quan của quý toà cùng với nhân viên phủ Đức Thọ đã tới để liệu biện việc hoả phần nầy. Nay kính trình Thành Thái năm thứ 7 tháng Mười hai ngày mùng 9. (Tập san Sử Địa, Sài Gòn số 28, 1973) __________________________________________________ 1. Lối 1m60 vì một thước ta tương đương với 0m40 bây giờ. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Tám, 2008, 09:42:55 am VŨ HUY PHÚC1 PHAN ĐÌNH PHÙNG DƯỚI CON MẮT NHÀ SỬ HỌC PHÁP CHARLES FOURNIAU Phan Đình Phùng là một vị anh hùng dân tộc bậc nhất của phong trào Cần vương chống Pháp ở nước ta thời cận đại. Giới sử học nước ta hầu như “nhất trí” đánh giá rất cao Phan Đình Phùng. Các nhà sử học nước ngoài cũng vậy. Một trong những sử gia nước ngoài nghiên cứu đầy đủ nhất về phong trào Cần vương là Giáo sư Charles Fourniau. Ngoài công việc nghiên cứu lịch sử, ông còn là một đảng viên Cộng sản Pháp, một người không mệt mỏi cống hiến đời mình cho sự tăng cường và thắt chặt mối quan hệ hữu nghị giữa hai dân tộc Pháp-Việt. Ngoài những chi tiết như chúng ta đã biết, Charles Fourniau còn dựa vào các tư liệu lưu trữ Pháp (nhất là Archivess d’OutuMer) để bổ sung tư liệu và đưa ra nhiều nhận xét về con người và sự nghiệp chống Pháp của Phan Đình Phùng. Có thể giới thiệu một số nét đáng chú ý dưới đây qua cuốn “Trung Bắc Kỳ 1885-1896. Sĩ phu và nông dân Việt Nam đương đầu với cuộc chinh phục thuộc địa”2. Theo tác giả Ch.Fourniau, thời kỳ trước 1885, Phan Đình Phùng “là một con người minh chứng hầu như hoàn hảo cho một sĩ phu Khổng nho”. Từ 1882 với tư cách vị quan cấp cao, “ông đã dũng cảm phản đối các cuộc tấn công của Pháp”. Ta biết rằng lúc này Phan Đình Phùng đã rời Tri huyện Yên Khánh (Ninh Bình) để về triều nhận chức Ngự sử (có tài liệu nói là Hình khoa chưởng ấn). Với cương vị này, năm 1883 cụ Phan đã phản đối hay can gián Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết không nên phế bỏ Dục Đức lập vua Hiệp Hòa. Ngay sau đó Cụ bị cách chức đuổi về làng (Đông Thái). Hành động này được nhiều nhà nghiên cứu trong đó có Ch.Fourniau cho là “dũng cảm”. Quả thực khi đó không triều thần nào dám nói gì, riêng cụ Phan đứng ra nói: “Tự quân chưa có tội gì mà làm sự phế lập như thế thì sao phải lẽ” . Rõ ràng Phan Đình Phùng không tán thành việc phế lập do các quan đại thần phụ chính Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết chủ trương, lại còn nói thẳng công khai trước các triều thần (cần nhớ rằng Phan Đình Phùng kém Tôn Thất Thuyết tới 12 tuổi, kể cả quan chức cũng thấp hơn). Vì vậy Cụ là người cương trực và dũng cảm. Đương nhiên lúc đó quyền nghiêng lệch thiên hạ nằm trong tay các ông Tường và Thuyết. Và cũng chính vì thế cụ Phan mới bị phạt nặng. Ở đây cần lưu tâm tới mối quan hệ giữa Phan Đình Phùng với Tường và Thuyết, không thể làm gì khác hơn là gắng hiểu thêm những con người anh hùng chống Pháp một thời. Muốn vậy trước hết hãy gắng lý giải việc phế lập Dục Đức. Khi Tự Đức còn sống đã bất đắc dĩ mà lập Dục Đức làm hoàng tử nối nghiệp, tên đặt lại là Ưng Chân (nguyên là Ưng Ái và là con nuôi trưởng). Đó là năm 1869 khi Ưng Chân 18 tuổi. Về sau, Tự Đức khi sắp qua đời di chiếu lại rằng Dục Đức tuy có những cá tính không tốt song là con trưởng và triều đình cần vua lớn tuổi đủ tư thế đảm đương việc nước đang gian nan, nên để Dục Đức lên làm vua nối ngôi. Trong thâm tâm, Tự Đức muốn lập người em Dục Đức là Dưỡng Thiện (Ưng Đăng) làm vua nhưng Ưng Đăng lúc đó còn ít tuổi. (Năm 1883 Ưng Đăng 15 tuổi, còn Ưng Chân hay Dục Đức đã 32 tuổi). Khi nhận di chiếu lên ngôi, Dục Đức có ý muốn xóa bỏ những đoạn nói về cá tính xấu của mình trong di chiếu, bèn bàn với các quan phụ chính không nên đọc các đoạn có trước triều thần. Nhưng cũng vì việc này các phụ chính đại thần đã lấy đó làm cớ để truất ngôi lập tức của Dục Đức chỉ ba ngày sau. Vậy cái duyên cớ chủ yếu để truất ngôi Dục Đức như nêu trên có phải là toàn bộ vấn đề không? Duyên cớ trước mắt là điều đã dẫn ở trên, nhưng nguyên nhân sâu xa hẳn là ở chỗ các quan đại thần phụ chính không muốn có một ông vua vừa còn tính xấu lại vừa tỏ ra có mưu mô và do đó khó nghe lời phụ chính. Đối với các quan phụ chính, các vua nhỏ tuổi có lẽ dễ nghe lời hơn, nhất là dễ đứng về phía chủ chiến với các ông hơn. Bởi lẽ cho đến lúc đó hai ông Tường, Thuyết là trụ cột của phái chủ chiến và thực sự sẽ chiến đấu. Chắc chắn cụ Phan Đình Phùng cũng là người chủ chiến và tán thành Tôn Thất Thuyết, nhưng Cụ chỉ không tán đồng cách làm của Tôn Thất Thuyết riêng trong việc phế lập Dục Đức mà thôi. Chính vì vậy nên hai năm sau, khi Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm Nghi ra Sơn phòng chống Pháp sau vụ thất thủ Kinh đô thì Phan Đình Phùng đã lập tức hưởng ứng Chiếu Cần vương và khi vua Hàm Nghi cùng Tôn Thất Thuyết ra đến Sơn phòng Hà Tĩnh thì Phan Đình Phùng được vời ra làm Tán lý Sơn phòng tỉnh này (tháng 10-1885). Sau đó Phan Đình Phùng còn được cử giữ chức Hiệp thống quân vụ lãnh đạo phong trào Cần vương ba tỉnh Hà Tĩnh, Nghệ An và Quảng Bình. Như vậy rõ ràng không có lý do gì để nói tới một mâu thuẫn nào giữa Phan Đình Phùng và Tôn Thất Thuyết. Có lẽ vì chưa nắm vững tình hình này nên tác giả Ch.Fourniau đặt nhầm sự kiện Phan Đình Phùng phản đối việc phế lập Dục Đức vào năm 1885 (thực ra là năm 1883, cũng có thể lỗi in sai của Nxb), rồi từ đó cho rằng vai trò Phan Đình Phùng hồi đầu phong trào Cần vương không được nổi bật là do sự bất hòa giữa cụ Phan với Tôn Thất Thuyết3. Chỉ sau khi Tôn Thất Thuyết ra đi năm 1889 thì Phan Đình Phùng mới giữ vai trò chỉ huy công cuộc chiến đấu kết hợp toàn quốc chống Pháp4. Dù còn một vài điều chưa chính xác như trên, tác giả Ch.Fourniau đặc biệt cung cấp cho ta thêm tư liệu mới, và nhất là làm sáng tỏ tính toàn quốc của phong trào Cần vương dưới sự lãnh đạo của Phan Đình Phùng. Về cá nhân Phan Đình Phùng, tác giả dẫn một lời mô tả trong báo cáo ngày 14-2-1896 của Brière: “Một người trạc độ 50 tuổi, cao lớn, mặt rỗ vì đậu mùa, tóc ngắn hoa râm, râu ngắn thưa và hơi bạc, bàn tay phải có ngón cái phụ5. Tác giả cho rằng “những gì người ta biết về cụ Phan cho thấy Cụ có một nhân cách mạnh mẽ, đặt nhiệm vụ lên trên - cho tới tận hơi thở cuối cùng - tuân thủ chặt chẽ các nghi thức, hiểu bổn phận phải sắp đặt đúng chỗ lòng trung thành với vua trước rồi với cha mẹ, đó chính là những nét của tầng lớp sĩ phu nho học Việt Nam điển hình tốt đẹp. Con người thuộc dòng dõi nổi danh này, vị Đình nguyên nhân cách mạnh mẽ của vị quan danh tiếng lớn đáng nể trọng vì tính liêm khiết và lòng thẳng thắn đó, tự toát lên một quyền uy đạo lý cực kỳ đặc biệt. Hơn nữa, khác với Nguyễn Quang Bích là người có nhiều phẩm chất đồng đều, cụ Phan Đình Phùng như được phú cho có tài năng lớn của một nhà tổ chức, một vị thủ lĩnh. Sau nữa ra đời ở đất Nghệ Tĩnh, một vườn ươm phong phú các văn thân và anh hùng, cụ Phan được sự quây quần và giúp rập của một nhóm các lãnh tụ có nguồn gốc khác nhau, hình thành nên một bộ chỉ huy rất có hiệu quả”. Tác giả nhắc tới Cao Thắng với vai trò đặc biệt quan trọng của ông như một thủ lĩnh lớn có thể thay thế Phan Đình Phùng. Ông là người tổ chức quân đội tài năng kiêm chế tạo vũ khí súng trường kiểu 1874 không thua kém kỹ thuật Pháp. Súng của ta chỉ có 2 điểm yếu: lò so xoắn hơi mềm và nòng súng không có khương tuyến. Theo báo cáo của Le Normand hồi đó, nghĩa quân đã được trang bị từ 1200 tới 1300 khẩu súng này. Sở dĩ làm được như vậy vì cũng theo Le Normand thì “Phan Đình Phùng đã thu dùng được nhiều người quê gốc ở làng (La Sơn) từng làm thợ vũ khí trên các chiến hạm hoặc trong các binh xưởng hải quân, hay làm thợ máy trong các hãng Daniel và Chaumont... Những người này tuyển thêm những thợ vũ khí khác. Thế là Phan Đình Phùng sai người trưng dụng các thợ rèn, thợ bạc, thợ quân khí, thợ mộc để làm súng. Công việc này tiến hành rất nhanh..., các xưởng chế tạo vũ khí này đặt trong những kho núi từ Ngàn Trươi đến Ngàn Phố. Các thợ quân khí và thợ bạc làm bộ phận nắp hậu của súng (Culasse) bằng thép chế tạo lấy. Họ cũng làm các chi tiết bằng đồng và các hộp vỏ đạn bằng các mâm đồng và các nồi đồng trưng dụng từ các làng. Các nòng súng được đúc trên núi hoặc trong các làng rèn, nhất là ở làng Vân Chàng. Còn báng súng gỗ thì ở đâu cũng làm được”. Về các chất liệu sắt thép thì mua ở chợ Vinh. Đây là một trong những nhiệm vụ của Bà Thi, em gái Phan Đình Phùng...”6. Ngoài việc kể ra các hoạt động tổ chức nghĩa quân, mô tả một vài đồn lũy, nêu lên một tập thể của người dân yêu nước tham gia tích cực vào cuộc kháng chiến, trong đó có cả những thân tộc của Phan Đình Phùng, tác giả còn khẳng định tính quốc gia của phong trào Phan Đình Phùng. Trước hết tác giả khẳng định cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng đã nắm chính quyền thực sự ở nông thôn tỉnh Hà Tĩnh. Toàn quyền Rousseau đã viết: “Năm 1895 Hà Tĩnh luôn luôn rối ren. Ở đó thực tế có hai chính phủ, chính phủ hợp pháp và chính phủ khởi nghĩa. Từ 10 năm nay cả hai chính phủ đều thu thuế của tất cả các làng không trừ làng nào. Vị thủ lĩnh chính của chính phủ khởi nghĩa là Phan Đình Phùng”. (Tài liệu lưu trữ Bộ Thuộc địa). Le Normand cũng báo cáo: “Các làng đóng thuế cho cả chính quyền thường trực lẫn chính quyền khởi nghĩa”. Người ta còn biết rõ hơn nữa là chính quyền của Phan Đình Phùng không chỉ ở Hà Tĩnh mà còn ở Nghệ An, Quảng Bình và xa hơn nữa. Thực vậy, Chavassieux trong báo cáo ngày 25-4-1894 đã khẳng định Phan Đình Phùng “luôn luôn giữ quan hệ với các đám loạn ở Bắc Kỳ”. Còn Le Normand cũng nhấn mạnh rằng cụ Phan có nhiều thư tín liên lạc với Bắc Kỳ, ngay cả với Hà Nội, như thể là quan chức cao cấp của các đám nổi loạn, được họ cung cấp thông tin, liên lạc để đi Trung Quốc ... “Chúng ta biết qua nhiều bằng chứng rằng Phan Đình Phùng không chỉ được cung cấp tài lực nhờ thuế má đảm phụ từ Hà Tĩnh, Nghệ An mà còn nhận được những khoản viện trợ đáng kể từ khắp các tỉnh Bắc Kỳ, từ Thanh Hóa, từ 5 tỉnh Quảng và thậm chí từ Nam Kỳ”. Tác giả kết luận về tính chất cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng: “Vậy phong trào La Sơn không phải là một phong trào khởi nghĩa bình thường chống ách đô hộ của Pháp mà thực là một cuộc biểu dương của toàn thể phong trào dân tộc Cần vương Việt Nam. Nó là niềm hi vọng cuối cùng của phong trào này”7. Những điều tác giả Ch.Fourniau trình bày tuy chưa phải đã hoàn toàn đầy đủ và chi tiết, nhưng các nhận xét của ông dựa vào các nguồn tư liệu gốc đáng tin cậy về phía Pháp đã góp phần làm sáng tỏ phần nào nhiều khía cạnh của phong trào khởi nghĩa Hương Sơn của Phan Đình Phùng. Chúng ta ghi nhận sự đánh giá cao của tác giả Ch.Fourniau đối với Phan Đình Phùng trong phong trào Cần vương, phong trào kháng Pháp của cả dân tộc Việt Nam. Chúng ta hoan nghênh những nhà sử học nước ngoài có tinh thần khoa học, có tình cảm đậm đà với lịch sử dân tộc Việt Nam, trong đó có nhà sử học Pháp Charles Fourniau. Hà Nội, tháng 12 năm 1995 __________________________________________ 1. Vũ Huy Phúc: Phó Giáo sư Viện Sử học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam. 2. Ch.FOURNIAU: An Nam - Tonkin 1885-1896. Lettrés et paysans Vietnamiens face à la conquéte coloniale. Ed. L’Harmattan, Paris, 1989. 3, 4, 5. Ch.Fourniau: An Nam - Tonkin..., tr.243, 244.) 6. Ch.Fourniau: An Nam - Tonkin..., tr.247. 7. Ch.Fourniau: An Nam - Tonkin..., tr.248. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Tám, 2008, 10:51:51 pm Phần II PHAN ĐÌNH PHÙNG VÀ SỰ NGHIỆP THƠ VĂN Thơ văn của Phan Đình Phùng còn lại không nhiều, và cũng như với nhiều tác giả khác của Việt Nam, ít nhiều chịu nạn “tam sao thất bản”. Trong tập sách này chúng tôi cố gắng sưu tầm những tác phẩm của cụ đã được công bố rải rác trước đây trong nhiều tập sách báo khác nhau (mà chắc chắn còn chưa đầy đủ), và đưa thêm những chú giải cần thiết có được. Riêng cuốn Việt sử địa dư, một trong những công trình quan trọng nhất của Phan Đình Phùng, thì đến nay vẫn chưa có được bản dịch hoàn chỉnh; do điều kiện thời gian, chúng tôi chỉ xin trích in trước một phần tác phẩm này coi như sự giới thiệu; toàn văn xin mười độc giả đón đọc sau. A. CÁC TÁC PHẨM THƠ VĂN CỦA PHAN ĐÌNH PHÙNG BÀI ĐỐI SÁCH THI ĐÌNH - KHOA ĐINH SỬU, NĂM TỰ ĐỨC THỨ BA MƯƠI (1877) Nguyên tác: (http://i255.photobucket.com/albums/hh125/chuongxedap/Qsu/PhanDinhPhung/PDP-baithidinh1877.jpg) (http://i255.photobucket.com/albums/hh125/chuongxedap/Qsu/PhanDinhPhung/PDP-baithidinh18772.jpg) Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Tám, 2008, 10:56:35 pm (http://i255.photobucket.com/albums/hh125/chuongxedap/Qsu/PhanDinhPhung/PDP-baithidinh18773.jpg) (http://i255.photobucket.com/albums/hh125/chuongxedap/Qsu/PhanDinhPhung/PDP-baithidinh18774.jpg) (http://i255.photobucket.com/albums/hh125/chuongxedap/Qsu/PhanDinhPhung/PDP-baithidinh5.jpg) (http://i255.photobucket.com/albums/hh125/chuongxedap/Qsu/PhanDinhPhung/PDP-baithidinh18776.jpg) Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Tám, 2008, 11:00:33 pm (http://i255.photobucket.com/albums/hh125/chuongxedap/Qsu/PhanDinhPhung/PDP-baithidinh18777.jpg) (http://i255.photobucket.com/albums/hh125/chuongxedap/Qsu/PhanDinhPhung/PDP-baithidinh18778.jpg) (http://i255.photobucket.com/albums/hh125/chuongxedap/Qsu/PhanDinhPhung/PDP-baithidinh18779.jpg) (http://i255.photobucket.com/albums/hh125/chuongxedap/Qsu/PhanDinhPhung/PDP-baithidinh187710.jpg) Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Tám, 2008, 11:04:24 pm (http://i255.photobucket.com/albums/hh125/chuongxedap/Qsu/PhanDinhPhung/PDP-baithidinh187711.jpg) (http://i255.photobucket.com/albums/hh125/chuongxedap/Qsu/PhanDinhPhung/PDP-baithidinh187712.jpg) (http://i255.photobucket.com/albums/hh125/chuongxedap/Qsu/PhanDinhPhung/PDP-baithidinh187713.jpg) (http://i255.photobucket.com/albums/hh125/chuongxedap/Qsu/PhanDinhPhung/PDP-baithidinh187714.jpg) (http://i255.photobucket.com/albums/hh125/chuongxedap/Qsu/PhanDinhPhung/PDP-baithidinh15.jpg) Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Tám, 2008, 11:14:12 pm Phiên âm: Tự Đức tam thập niên tứ nguyệt nhị thập cửu nhật phụng Phúc thí: Chế sách viết: Thiên vận ký hữu thường biến, thế vận khỉ vô long ô. Thượng cổ diểu mang cố vô khả luận, nãi đoan xác bất tranh chi thế, dĩ cự hữu Bản Tuyền, Trác Lộc chi chiến, chinh tru chi hậu khước cánh hữu thiện nhượng chi công. Đại đồng chi mỹ, do dĩ vi phi. Sở thượng các thù, bất năng vô tệ. Tự thị hất Minh, cập ngã Việt Đinh, Lý, Trần, Lê, hoặc trị hoặc loạn, hoặc hợp hoặc phân, tuy biến cố đa đoan, yếu bất xuất tư nhị giả. Kỳ gian dị đồng tà chính, khỉ bất năng trần? Hựu hữu tuần tập nhất ban, nhi vận tộ trường đoản bất đồng, kỳ cố an tại? Đế, vương, bá chi đạo, kỳ biệt hà như? Kỳ hiệu hà tự? Nhân hậu hà trí uỷ mị? Phú cường hà trí kiêm tính? Dĩ khí tiểu nhi năng khuông, dĩ vương tá nhi bất năng nhất thống. Chúng định chi thuyết như hà khả tất, lý thế chi phân như hà khả thị? Di địch nhập Trung Quốc, hà thuỷ hà chung, hà vi hà cực? Thái Tây chư quốc, lập quốc nhật cửu, tòng nhân sinh dĩ lai, dĩ cố hữu chi. Vô luận chí Minh thuỷ kiến, kỳ chư tiền đại, khỉ tận vô văn? Cứu kỳ quy mô, hà dĩ xâm xâm nhật thịnh? Giảo chư vãng sự, quả phủ thiện kỳ? Cứu cánh kỳ quy, khỉ vô khả chế? Tu nội giả vương, tu ngoại giả bá; tu nội giả dật, tu ngoại giả lao, kỳ thuyết quả năng tín phủ? Kim đông phương chư quốc, giai dục khử ngã cựu tập, hiệu nhân tân đồ, dĩ trí phú cường, thẩm tư thị phủ? Thả Phú nhân dữ ngã hữu cựu, tố tương vãng lai, hào vô oán khích, đặc dĩ trung gian, sảo khuê âm vấn. Dục tu cựu hảo, bất viễn nhi lai, vô nại ngôn ngữ văn tự bất thông, ngọc bạch nan trần, can qua viên cập. Thành trẫm hữu bất đắc dĩ xứ, niên khinh thức thiển, nhất ngộ nan truy. Nguyên kỳ sơ tâm, phi dục chiếm nhân thổ địa, đặc dĩ tình nghĩa vi trọng, đắc thất vi khinh, cố bất hứa An Nghiệp vọng vi. Nhất nặc thiên kim, tận khiết tứ tỉnh dĩ hoàn ngã. Tứ tỉnh như thử, lục tỉnh khả tri, kỳ quốc quân đại thần nguyên soái giai tố hữu thử hảo ý. Gia dĩ cận lai đôn mục thân thiết, hữu vô tương trợ, lợi đồng lạc cộng, tận thích tiền phi. Nhược tảo hoàn chi, phi duy nghĩa thanh trứ vu tứ hải, lệnh văn thuỳ vu thiên thu, nhi thả hữu khai thương đa nhập chi ích, vô viễn vận bất thường chi tổn. Thất gia tương khánh, tật khổ thậm sưu, tưởng dĩ trù chi thục hĩ, vô đãi phiền ngôn. Duy bất tri hà ý, cô thiểu hoãn nhĩ. Nhiên nhi hoãn nhất nhật, tắc tăng nhất nhật lao phí tật khổ chi ngu, hạt nhược đoạn nhiên tảo hoàn chi vi tận thiện tận mỹ hĩ. Trí giả bất hoặc, bất sử thất hoan. Nhân giả bất nhẫn, bất sử thất sở ký tự đắc chi, tất tự hoàn chi, phương vi nhân trí tín nghĩa vô gián. Nhược tất đãi cầu thuỷ ứng, tắc diệc vãn hĩ, hà túc quý tai! Sĩ quân tử hoài bão hữu tố, kinh tế vi tâm, học cổ dĩ nhập quan, sinh tài tất hữu dụng. Kỳ tất ý phu trần, vô tường cổ nhi lược kim, vô quải nhất nhi lậu vạn. Sự tất hữu trưng, ngôn tất khả dụng, dĩ vô phụ Trẫm hiếu vấn hiếu sát chi chí ý, Trẫm tương thuỳ lãm nhi thái dụng yên. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Tám, 2008, 11:15:58 pm *** Thần đối: Thần văn, Thiên vận hữu tuần hoàn chi bất nhất, thế vận hữu thịnh suy chi bất đồng. Cổ kim dị biến, thế đại hữu thù. Nhiên thống nhi quan chi, nhất trị tất hữu nhất loạn, nhất loạn phục hữu nhất trị, thử thịnh giả bỉ suy, bỉ thịnh giả thử suy, nãi tất nhiên chi lý dã. Cố đương phù khí vận chi thịnh giả, cố khả dĩ nhân nhi hợp thiên, đương phù khí chi suy giả, vưu đương tư dĩ nhân nhi hồi thiên, tắc thiện ngôn trị giả, phù diệc viết yếu thẩm phù thế đạo thăng giáng chi cơ, nhi thiện vi cán hồi yên tư khả hĩ. Khâm duy: Hoàng đế bệ hạ, thông minh tác tắc, khải đễ vi cương, phụng tự lâm ngự dĩ lai, tư tư đồ trị, cố dĩ sự vị chi phòng, khúc vị chi chế. Kỳ ư phòng hoạn tri cơ chi yếu, trù chi thục hĩ, do thả giảng cầu trị đạo, thâm duy cứu thiên bổ tệ chi phương, phấn sức tăng tu, cẩn cầu thượng lý. Đương thử sự cơ chi hội, bất phế cầu ngôn chi khoa, triệu tiến thần đẳng ư đình, giáng tứ luân âm, sách chi dĩ cổ kim chi sự biến, thế đại chi long ô, dữ phù đương kim tu hảo giao lân chi đạo, thần ư thử hữu dĩ ngưỡng kiến. Hoàng thượng hiếu vấn chi thành, cầu ngôn chi ích, mỗi dục châm chước cổ kim, dĩ cầu chế trị bảo bang chi yếu dã. Dĩ thần thiển kiến mạt học, hạt túc dĩ thượng xứng minh vấn. Cố đương đối trường y thuỷ, cảm bất đạn thuật sở văn, dĩ vi bái hiến chi tiên tư hồ? Thần phục độc chế sách hữu viết: “Thiên vận ký hữu thường biến, thế vận khải vô long ô. Thượng cổ diểu mang, cố vô khả luận, nhi nhân tựu phù khả khảo giả, tắc hữu chinh tru thiện nhượng chi bất đồng, trị loạn phân hợp chi hữu dị. Di địch, Trung Quốc, thịnh suy bất đồng, Thái Tây chư quốc quy mô nhật thịnh, dữ phù Phú nhân chi dữ ngã hoà hảo hữu tố, lục tỉnh chi giao hoàn tảo vãn”, dĩ vấn thần đẳng. Thần thành hữu dĩ kiến Hoàng thượng tiêu cán chi hoài, hữu vị thường nhất nhật trí dã. Thần thiết duy: Doanh hư tiêu tức, khí số bất tề. Thiên vận ký hữu thường biến dã, tắc đương phù thiên vận chi thường giả, thế vận long thịnh; đương phù thiên vận chi biến giả, thế vận diệc tuỳ nhi ô hạ. Thượng cổ chi thế, tải tịch vị tường, cố vô khả luận. Nãi đoan xác chi hậu, thế chất dân thuần nhi chinh Du Vọng, cầm Xuy Vưu dĩ hữu Bản Tuyền, Trác Lộc chi chiến. Thị phóng phạt chi sự, đế thế cố dĩ hữu chi, tự phi Thang Vũ thuỷ dã. Nhiên thế đạo phương long, vật mục chi phong do vị biến dã, cố kế thử nhi Nghiêu Thuấn Vũ chi thụ thụ, khước cánh hữu thiện nhượng chi công. Phù đại đồng chi thế, tuyển hiền dữ năng, giảng tín tu mục, do dĩ vi phi. Hạ chi thế, do cận hồ cổ, kỳ trị thượng trung. Ân chi thế, vị ly hồ trung, kỳ trị thượng chất. Chu tắc phong khí ký khai, nhân văn đại trứ, kỳ trị thượng văn. Nhiên trung chi tệ, tắc thất chi dã, chất chi tệ tắc thất chi xuẩn, văn chi tệ tắc thất chi xảo, sở thượng các thù, bất năng vô tệ. Tự thị chi hậu, Hán chi yết can dĩ tru Tần, Đường chi bỉnh việt nhi diệt Tuỳ, Tống tắc thụ Chu chi thiện, Nguyên chi phạt Tống, Minh chi kế Nguyên. Dĩ cập ngã Việt, Đinh Tiên Hoàng chi định thập nhị sứ quân, Lý Đạo Uẩn chi bình nhất khu vũ, Trần thụ Chiêu Hoàng chi thiện, Lê bình Bắc quốc chi khấu, hoặc trị hoặc phủ, hoặc hợp hoặc phân, tuy biến cố đa đoan, diệc bất xuất tư nhị giả. Tựu trung quan chi, Hán Đường chi đắc quốc tắc chính hĩ, nhi Tống tắc dĩ mưu, Nguyên chi dĩ ngoại di loạn Trung quốc, tắc bội hĩ, nhi Minh đắc chính thống. Ngã Việt Đinh Tiên Hoàng vi cương kỷ chi thủ, tắc chính hĩ, nhi Lý tắc hữu khuy. Lê Thái Tổ lập vạn thế chi công tắc chính hĩ nhi Trần cánh dĩ sắc, kỳ gian dị đồng tà chính, khí bất năng trần, diệc hữu tuần tập nhất ban, nhi vận tộ trường đoản bất đồng, diệc thị hồ chính dữ phủ nhĩ. Đế Vương Bá chi đạo hà như? Dĩ đức hoá dân giả, Đế dã, tức lê dân chi ư biến, tị ốc chi khả phong, phi dĩ đức chi hiệu hồ? Dĩ công khuyến dân giả, Vương dã, tức triệu dân chi chương tín, quần lê chi biến đức, phi dĩ công chi hiệu hồ? Dĩ lực soái dân giả, Bá, tắc giả chi chi đồ dã, tức hoan ngu chi hiệu bất năng thường câu phu tất chí chi nhân tâm. Đế Vương Bá chi đạo bất đồng giả như thử, nhi kỳ hiệu diệc nhân chi hữu dị dã. Quan thử tắc thế chi ngôn trị giả, sở đương quý vương đạo nhi tiện bá thuật dã. Bỉ nhân hậu nhi trí uỷ mị, dĩ kỷ cương chi bất chấn nhĩ, nhiên quan hậu chi nhập nhân giả thâm, bất khả vi cường nhi khả vi cửu, Chu toại hữu bát bách niên chi trường. Phú cường nhi trí kiêm tính, dĩ pháp chế chi bả trì nhĩ, nhiên nhi phú cường chi độc dân ký thậm, nhân tâm ta oán, quốc thế thổ băng, Tần toại trí xúc nhị thế chi đoản. Phản điếm, tắc môn, Quản trọng chi khí tiểu dã, kỳ tá Hoàn Công nhi năng nhất khuông, quỷ ngộ nhi hoạch cầm nhĩ, nhiên nguyên kỳ khí tiểu, tức cư hợp tam thập niên, nhi công liệt như bỉ kỳ ti, tốt bất năng dĩ thành nhương Sở tôn Chu chi liệt. Bá trọng Y Lã, Khổng Minh vương tá chi tài dã, kỳ phụ Tiên chủ, nhi bất năng nhất thống giả, vận di nan khôi phục nhĩ, nhiên nguyên hữu vương tá chi tài, tức trì khu nhị thập tải, nhi đại danh thuỳ vu vũ trụ, năng thành xanh Ngô kháng Nguỵ chi công. Quan thử tắc uỷ mị nhi chung bất hại nhân hậu chi trị thể, kiêm tính nhi thích dĩ kiến phú cường chi cận công. Năng nhất khuông dã, nhi khí tiểu, chung lưu ư bá thuật; bất năng nhất thống dã, nhi vương tá ích hiển kỳ vi chân nho, tắc “chúng định” chi thuyết hữu khả tất, nhi lý thế chi phân hữu khả thi dã. Di địch chi nhập Trung Quốc dã, thuỷ ư Chu chi Hiểm Doãn, chung ư Tống chi Khiết Đan, phương Tấn chi tỷ Phương ư tái hạ tắc thượng thuật dã, đãi Nguyên chi đại Tống hữu thiên hạ tắc cực thịnh dã. Thái tây chư quốc, như Phật Lan Tây, Ý Đại Lý, Mễ Lợi Kiên, Hà Lan đẳng quốc, lập quốc dĩ cửu, tòng nhân sinh dĩ lai, kí đồng hữu chi, vô luận chí Minh thuỷ kiến, tức vi Thư chi Tây Lữ để cống quyết ngao, Lễ Vương chế chi thuỷ vân Tây Nhung, dữ Minh đường sở đình tứ Di chi vị, kỳ chư tiền đại phi tận vô văn dã. Kỳ quy mô sở dĩ xâm xâm nhật thịnh giả, cái Thái tây chư quốc, địa cư Càn tuất, độc đắc kim khí chi chính, kỳ nhân trí tuệ hữu thuật, chí ư trị quốc vưu tinh ư phú cường chi kế, tức như hoả thuyền hoả xa, hành điện hành thành hữu dĩ cực kỳ xảo diệu, nhi khả dĩ chế phục hồ nhân, thử sở dĩ hữu nhật thịnh chi tiệm dã. Nhiên diệc bất quá thiết tập hồ nhân chi tri dĩ vi tri, nhi thiện ư dụng tri nhĩ. Tức quan ư tác pháo nhất sự, Minh Hoàng Vũ niên gian, hữu Tây quốc nhân đầu nhập Tát Mã Hoàn hãn bộ hạ, nhân thiết bác cơ dĩ hồi, toại nghiên tinh đạn tư, hữu dĩ cực kỳ xảo, tắc giảo chư vãng sự, diệc vị tất quả thiện kỳ dã. Cứu cánh kỳ quy, diệc vị tất kỳ toàn thủ thắng, như xạ ký cập viễn, bác chi lợi dã, nhi sa viên thấp nhự khả dĩ chế chi; thuấn tức thiên lý, vô phong tự hành, thuyền chi lợi dã, nhi hủ thảo cự phạt khả dĩ chế chi. Hựu huống công ư thuyền bác, bất tri kỹ kích, thử vưu kỳ đoản giả hồ? Tắc diệc vị tất kỳ vô khả chế chi giả. Sở vị “tu nội giả vương, tu ngoại giả bá”, bỉ chi sở vi cận hồ bá hĩ. “Tu nội giả dật, tu ngoại giả lao”, bỉ chi sở vi xử hồ lao hĩ. Kỳ thuyết diệc khả tín hĩ. Kim đông phương chư quốc, luận giả giai dục khử ngã cựu tập, dĩ hiệu nhân tân đồ, nhi trí phú cường chi cận hiệu, thị diệc kiến Nhật Bản chi hiệu tha sở vi, toại trí nhất thời thịnh cường, cố hữu thử luận nhĩ. An hữu hồ bách niên chi pháp độ, nhất đán khí chi, nhi mưu kỳ tân hồ? Cấp ư cận lợi, nhi cận lợi vị tất khả đắc, tức sử đắc chi, diệc miễn biến di chi tiêu dã. Thả Phú nhân dữ ngã quốc bản hữu cựu hảo, tố tương vãng lai, hào vô oán khích, trung gian đặc dĩ sơn xuyên chi du viễn, phong vực chi trở trường, sảo khuê âm vấn. Phú nhân dục tu cựu hảo, bất viễn thiên vạn lý, giá hải nhi lai, phi hữu tha ý, vô nại ngôn ngữ bất thông, nan trần ngọc bạch, viên cập can qua, thuỷ ư Trà Sơn, kế nhi quan khẩu. Bản phi diệu võ, dục thân tiền hảo nhĩ. Thử thành hữu thậm bất đắc dĩ xứ. Phụng ngã Hoàng thượng dĩ xã tắc vi trọng, dĩ sinh dân vi niệm, bất dục sử xích tử biên manh trùng lị phong tiêu, toại cát lục tỉnh chi địa, cô dữ hành thành, vi nhất thời quyền nghi chi kế, ư dĩ hưu binh tức dân. Nguyên kỳ Phú nhân chi sơ tâm, thực bất dục chiếm nhân chi thổ địa, cái dĩ tình nghĩa vi trọng, đắc thất vi khinh, cố bất hứa An Nghiệp vọng vi. Hoắc Đạo Sinh nhất dữ ngã sứ giai lai, tức tứ tỉnh chi thổ địa nhân dân, tận khiết nhi quy ư ngã, nhất nặc thiên kim, hào bất cận tích. Kỳ quốc quân, đại thần, nguyên soái giai tố hữu thử hảo ý, gia dĩ cận lai giới sứ chi vãng lai, pháo thuyền chi tặng hảo, đôn mục thân thiết, hữu vô tương trợ, lợi đồng lạc cộng, tận thích tiền phi. Nhược tảo giao hoàn lục tỉnh tắc thanh văn chi mỹ, dục vận chi ích, tưởng dĩ trù chi thục hĩ. Nhiên nhi do thiểu hoãn giả, diệc tất hữu kỳ thuyết yên. Nhất viết dĩ cố hòa ước, phù Phú nhân chi ư ngã, tuy hữu cựu hảo, nhi thiên lý viễn lai, bỉ diệc vị kỳ kỳ “ngã vô nhĩ trá, nhĩ vô ngã chiếm”, cố tất dĩ thử vi an trú chi địa, sở dĩ tráng bỉ chi thế, nhi cố ngã chi hoà dã. Nhị viết dĩ tư địa lợi, phù Gia Định lục tỉnh, kỳ địa phì nhiêu, túc mễ chi sở xuất thắng ư chư hạt, cố bỉ diệc vị tất vô trì hồi quan vọng chi tâm. Kiêm dĩ Nam Kỳ lục tỉnh dữ Bắc Kỳ tứ tỉnh, sự thế thực hữu bất đồng: Nam Kỳ lục tỉnh, thủ ư hòa ước sơ định chi nhật, nhược Bắc Kỳ tứ tỉnh, tắc thị hòa ước ký định, An Nghiệp vọng vi, bỉ chi lý khúc, cố diệc bất đắc bất tảo hoàn, cố lục tỉnh tắc do hữu thiểu hoãn, diệc hữu sở nhân dã. Tư thỉnh ngã Hoàng thượng chí thành dĩ đãi chi, nghi văn dĩ tiếp chi. Nội ký bất phế tự trị chi sách, nhi ngoại hựu quảng phù cập nhân chi tín, sử bỉ lạc quan triều đình ý đức, tiệm tiêu nghi nhị chi tâm. Tích Khổng Tử tướng Lỗ, Tề nhân quy kỳ xâm cương, vô phi chí thành cảm động đắc tha nhĩ. Thả đồ đại sự giả, bất kế tiểu phí, cổ nhân chi sở dĩ khắc tảo tế sự dã. Thỉnh vi quan kỳ sự, nhược sảo hữu lợi tâm, tắc hoặc dĩ quan tân chi thuế dịch chi khả dã, hoặc ước tăng bồi ngân, sĩ hậu thanh hoàn khả dã. Hựu thả thân hoà hảo chi ước, sử chi hiểu nhiên ư tình lý chi khúc trực, sự thế chi lợi hại, tắc bỉ tương lai lục tỉnh chi địa tảo quy Triều đình, hựu hà chí động phiền ngã Hoàng thượng tiêu cán chi hoài tai! Thả trí giả bất hoặc, bất sử thất hoan, nhân giả bất nhẫn, bất sử thất sở. Bỉ ký cảm Triều đình giao tiếp chi hậu, lễ ý chi cần, tất bất khẳng dĩ bất trí bất nhân tự xử, cố bất đãi cầu nhi thuỷ ứng hĩ. Thần phục độc Chế Sách hà đẳng truân thiết, hiếu vấn hiếu sát chi thành, cổ chi Ngu Thuần đãi vô dĩ quá. Thần sơ học tân tiến, võng tri chính yếu, xuyết thập thường đàm, can mạo thần nghiêm bất thăng. (Người phiên âm từ nguyên tác: Phan Văn Các) Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Tám, 2008, 11:31:47 pm Dịch nghĩa: Ngày 29 tháng 4 năm Tự Đức thứ ba mươi Chế sách hỏi: Vận trời đã có lúc thường lúc biến. Vận đời há chẳng có khi thịnh, khi suy? Đời thượng cổ xa xưa không thể bình luận, nhưng trong thời đại con người còn chất phác thật thà, không tranh giành lẫn nhau mà đã có sớm những trận giao tranh ở Bản Tuyền1 Trác Lộc2, và sau thời gian chinh phạt, chém giết như thế, lại còn có chuyện coi thiên hạ là của công mà truyền ngôi cho người hiền3. Thời “đại đồng”4 tốt đẹp cũng còn có người cho là trái lẽ. Mỗi đời chuộng một khác, không thể tránh được cái hỏng. Từ đó đến nhà Minh vì các triều Đinh, Lý, Trần, Lê ở nước ta, khi bình trị, khi loạn ly, khi hợp nhất, khi phân chia, tuy biến cố đa đoan nhưng cũng không ra ngoài hai sự việc ấy. Trong đó các chuyện dị đồng và tà chính thế nào, người há không thể trình bày? Lại còn có nhiều truyền gia mỗi phép của nhau mà vận nước dài ngắn không đều, lý do tại sao? Các đạo Đế, Vương, Bá5 khác nhau những gì, hiệu quả giống nhau chỗ nào? Nhân hậu sao đến nỗi yếu hèn; giàu mạnh sao dẫn đến thôn tính? Người khí độ nhỏ nhen mà không được thiên hạ về chính thống6 người có tài vương bá lại không thể thống nhất được non sông7. Thuyết “chúng định”8 làm thế nào mà tin chắc được, sự phân biệt giữa lý và thế và làm sao tin cậy được? Quân Di Địch vào Trung Quốc bắt đầu và kết thúc từ bao giờ? Lúc nhỏ yếu và lúc cùng cực, mạnh nhất thì như thế nào? Các nước Thái Tây lập nước đã lâu, từ khi con người sinh ra vốn đã có. Không kể chuyện mới thấy họ trong đời nhà Minh, các đời trước há phải hoàn toàn không biết? Xét về quy mô của họ, tại sao mà ngày càng thịnh vượng? So sánh với các việc cũ, có thật họ giỏi về kỹ xảo hay không? Xét đến cùng, há không thể chế ngự được sao? Sửa sang việc nội trị là “Vương”, đi chinh phục nước người là “Bá”, có thuyết nói sửa việc nội trị thì nhàn, đi chinh phục nước người thì vất vả, có tin được không? Nay các nước Đông phương đều muốn bỏ tập tục cũ, bắt chước người mà mưu toan cái mới để được giàu mạnh. Xét xem như thế có đúng hay không? Người Pháp vốn có tình cũ với ta, thường vẫn đi lại. Không hề có chuyện hiềm khích, chỉ có thời gian gần đây, việc thăm hỏi hơi thưa. Họ muốn nối lại tình thân cũ, không ngại đường xa mà đến, chỉ vì ngôn ngữ, chữ nghĩa không truyền đạt được mà khó đặt quan hệ bang giao, đến nỗi sinh việc can qua. Thật Trẫm xét có chỗ bất đắc dĩ, tuổi trẻ hiểu biết nông cạn, đã sai thì khó kéo lại. Bản tâm họ chẳng phải muốn chiếm đất đai của người, chỉ nặng về tình nghĩa mà coi nhẹ chuyện thiệt hơn, nên mới không cho phép An Nghiệp9 làm càn. Một lời hứa giá ngàn vàng, họ đã đem cả bốn tỉnh trả lại cho ta10. Bốn tỉnh đã như thế thì sáu tỉnh có thể biết là quốc vương đại thần nguyên soái nước họ vẫn có lòng tốt. Hơn nữa, gần đây hai nước hoà thuận thân thiết, giúp đỡ bổ sung lẫn cho nhau, có lợi cùng chung có vui cùng hưởng, bỏ hết chuyện sai trái cũ. Nếu họ sớm trả lại đất cho ta thì không những tiếng nghĩa của họ sáng người bốn bể, tiếng hay truyền lại nghìn năm, mà còn lại được nhiều trong việc thông thương, không có phí tổn vận chuyển xa nào mà không được bồi thường. (Được như thế thì) nhà nhà chúc mừng nhau11, đau khổ tiêu tan, chắc họ cũng tính hết rồi, chẳng đợi phải nói. Chỉ có không biết ý họ thế nào mà họ còn tạm hoãn ít lâu. Hiềm vì nỗi hoãn một ngày thì thêm một ngày vất vả, tốn phí, đau khổ. Sao bằng họ quyết định sớm trả, có phải rất hay, rất đẹp hay không? Người trí giả không nên hoãn, không làm cho người mất vui. Người có nhân không tàn nhẫn, không làm người mất chỗ nương tựa đã lập được, trả được mới không trái với các điều nhân, trí, tín, nghĩa. Nếu cứ đợi yêu cầu rồi mới đáp ứng thì đã muộn, còn quý nỗi gì. Kẻ sĩ quân tử các người sẵn hoài bão trị nước, giúp đời, học xưa để làm quan, ôm chí hướng. Trời sinh người tài ắt có chỗ dùng. Hãy trình bày hết ý đừng tường tận chuyện cổ mà sơ lược chuyện nay, đừng chăm chú một vật mà để sót vạn vật. Sự việc phải nêu điều nên, lời nói phải dùng được. Đừng phụ Trẫm ham hỏi, ham nói. Trẫm sẽ xem và chọn dùng. _________________________________________ 1. Bản Tuyền: Tên một con suối, nay gọi là suối Hoàng Đế, thuộc huyện Bản An, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc. Tục truyền đấy là nơi Hoàng đế đã giao chiến với Viêm Đế (khoảng 2700-2640 tr.CN). 2. Trác Lộc: Tên một ngọn núi, ở Đông Nam huyện Trác Lộc, tỉnh Sát Cáp Nhĩ, Trung Quốc. Tục truyền đấy là nơi Hoàng đế đã chém Suy Vưu (khoảng 2660-2600 tr.CN) 3. Truyện chữ Thiên phương: Triều đại của vua Nghiêu, Thuấn truyền ngôi vua cho người hiền (khoảng 2855-2205 tr.CN). 4. Thời đại đồng: Chữ trích ở thiên Lễ Vận trong Kinh Lễ “Đạo lớn được thi hành, thiên hạ là của công, những người hiền thì được dùng, mọi người ăn ở với nhau thành thực và thuận hoà, cho nên người ta không chỉ thương yêu riêng cha mẹ và con cái mình, về của thì ghét của rơi, nên không nhặt để cất giấu cho mình, về sức thì ghét sức làm ra không phải do mình và làm không phải chỉ vì mình, cho nên không có chuyện âm mưu, không có trộm cướp, cửa người không phải đóng, đấy là đại đồng” 5. Các đạo Đế, Vương, Bá: - Đế đạo: Đường lối chính trị dùng đức để trị dân, khiến cho thiên hạ coi nhau như một nhà, không có cày cấy và dệt vải riêng, mọi người cùng chịu chung đói rét của Ngũ Đế (Hoàng Đế, Chuyên Húc, Đế Cốc, Đế Nghiêu, và Đế Thuấn) hoặc theo ý kiến khác, lại cho là: Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế, Kim Thiên, Chuyên Húc trong truyền thuyết Trung Quốc. Theo lịch sử Trung Quốc thì là hậu kỳ chế độ Công xã nguyên thủy (khoảng 2910-2205 tr.CN) - Vương đạo: Đường lối chính trị dựa vào đạo đức để mưu hạnh phúc cho nhân dân. - Bá đạo: Đường lối chính trị dựa vào vũ lực và luật pháp nghiêm minh để làm cho nước giàu mạnh, coi thường nhân nghĩa của nhà Nho chính thống. 6. Người khí độ nhỏ nhen: chỉ Quản Trọng phò Tề Hoàn Công, mượn danh nghĩa “tân chủ” mà làm hại chư hầu. 7. Người có tài Vương bá: chỉ Khổng Minh (Gia Cát Lượng) phò Lưu Bị lập nên nhà Thục Hán. 8. a) Ngũ Tử Tư thì quyết diệt nước Sở để báo thù cho cha, bảo đảm chữ Trung. Nguyên văn hai câu: “Nhân chúng giả thắng thiên” (người đông thì thắng trời), và “Thiên định diệc năng thắng nhân” (Trời định cũng có thể thắng người). Kết quả là cả hai người đều được thực hiện ý muốn của mình: “Ngũ Tủ Tư đã dẫn quân nước Ngô đánh đến tận Kinh đô nước Sở năm 511 tr.CN, đốt phá tôn miếu của vua nước Sở, đào mả đánh nát thây, rồi chém đầu thi hài Sở Bình Vương là người đã giết cha và anh Ngũ Tử Tư. b) Thuyết “Chúng định”: Ở đây, Tự Đức đã chơi chữ bằng cách lấy hai chữ thứ hai của hai câu nói trong cuộc đàm thoại giữa Ngũ Tử Tư và Thân Bao Tư viết trong chuyện “Ngũ Tử Tư” ở Sử Ký của Tư Mã Thiên, cả hai người: Ngũ Tử Tư đều là bề tôi nước Sở và là bạn thân với nhau, nhưng chủ trương khác nhau: Thân Bao Tư thì chạy sang cầu viện binh nước Tần, Tần Ai Công không cho quân đi, ông đã đứng kêu khóc trước sân chầu của nhà Tần suốt bảy ngày đêm, không ăn uống gì, làm vua Tần cảm động phải ra quân phục hồi được nước Sở khỏi bị quân Ngô tiêu diệt.) 9. An Nghiệp: Francis Garnier đem quân Pháp xâm lược Bắc Kỳ lần thứ nhất, năm 1873. 10. Bốn tỉnh: Hà Nội, Ninh Bình, Nam Định, Hải Dương quân Pháp đã chiếm được trong cuộc xâm lược Bắc Kỳ lần thứ nhất năm 1873. Pháp đã trả lại bốn tỉnh này vì Francis Garnier bị tử trận, tinh thần chưa giữ được nên tạm trả để ký Hiệp ước 1874 chiếm cả sáu tỉnh miền Nam và được chính thức công nhận để lại buôn bán khắp nước Việt Nam... 11. Nguyên văn viết: Thất gia tương khánh: chữ trích trong thiên “Trọng hưng chi cao”, sách Kinh thư nói lên sự vui mừng của nhân dân khi được vua Thành Thang đến giải thoát cho khỏi ách bạo ngược của nhà Kiệt. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Tám, 2008, 12:03:11 pm *** Thần xin đối: Thần nghe nói: Vận trời có tuần hoàn đổi thay, vận đời có thịnh suy khác biệt. Xưa và nay đổi khác, mỗi đời một vẻ. Nhưng nhìn chung thì thấy rằng một thời bình ắt có một thời loạn, một thời loạn lại có một thời bình, thời này thịnh thì thời kia suy, thời kia thịnh thì thời này suy, đó là lẽ tất nhiên. Cho nên người giỏi việc bình trị, gặp thời thịnh mà dùng được sức người để làm hợp ý trời, thì khi vận suy lại càng lo tính dùng sức người để lấy lại lòng trời; đó cũng có nghĩa là cần phải thấy được mầm mống thăng trầm của đường đời mà khéo mưu toan xoay chuyển thời vận. Thần kính cảm nghĩ rằng: Hoàng đế bệ hạ (vốn người) thông minh nên phép tắc, đức độ bậc mối giường, từ khi lên trị vì đến nay chăm chăm mưu việc bình trị, nên đã phòng xa sự việc, ngăn chặn cái hại. Cái điều trọng yếu đề phòng tai hoạ liệu trước thời cơ, người đã trù tính kỹ càng, lại còn nghiên cứu đường lối bình trị, suy nghĩ sâu sắc phương pháp sửa cái lệch chữa cái hỏng, tỏ vẻ sửa sang cốt sao tìm thấy đạo lý hay nhất. Gặp khi có sự thể này mà người chẳng bỏ khoa thi cầu lời nói, vời bọn thần đến sân chầu, ban hỏi việc biến đổi từ xưa đến nay, sự thịnh suy của các triều đại và đường lối hoà hảo trong việc bang giao hiện tại. Do đó, thần ngẩng trông thấy Hoàng thượng chân thành ham hỏi mong cầu lời nói có ích. Người muốn châm chước việc cổ kim để thấy được điểm trọng yếu trong việc bình trị, giữ gìn đất nước. Thần kiến thức nông cạn, học tập kém cỏi, sao xứng đáng ơn trên ban hỏi. Nhưng nghĩ lại buổi đầu được ứng đối, đám đâu chẳng nói hết những điều nghe biết để hiến dâng. Thần cúi đọc chế sách ban rằng: “Vận trời đã có lúc thường lúc biến, vận đời há chẳng có khi thịnh, khi suy. Đời thượng cổ xa xăm vốn không thể bàn, nhân hỏi đến những điều có thể khảo cứu như sự bất đồng giữa chinh phạt và thiên nhượng1, những chỗ khác nhau giữa bình trị và loạn lạc, giữa phân chia và hợp nhất. Di Địch, Trung Quốc, thịnh suy bất đồng, các nước Thái Tây quy mô ngày càng thịnh và việc người Pháp với ta vốn vẫn hoà hiếu, việc trả lại sáu tỉnh, sớm muộn thế nào? Thần thật thấy rằng Hoàng thượng thức khuya, dậy sớm, lo lắng không một ngày nào thôi. Thần thiết nghĩ: Khí số so le, lúc đầy, lúc vơi, khi suy, khi thịnh. Vận trời đã lúc thường lúc biến, thì khi vận trời thường át vận đời thịnh vượng, gặp khi vận trời biến thì vận đời cũng thế mà suy. Đời thượng cổ, sách chép chưa rõ, cố nhiên không thể bàn. Nhưng sau thời đại (cổ xưa) thành thực, thế tục chất phác, nhân dân thuần hậu mà đã có các trận giao tranh ở Bản Tuyền, Trác Lộc để đánh Du Vọng, bắt Suy Vưu. Như thế thì những chuyện đánh dẹp đã có từ các đời Đế, chứ không phải đến các triều Thang2, Vũ3 mới mở đầu Nhưng đạo đời đang thịnh, phong tục thuần hậu chưa biến đổi, cho nên kế tiếp sau là Nghiêu nhường ngôi cho Thuấn, Thuấn nhường ngôi cho Vũ, thành ra lại có chuyện coi thiên hạ là của công mà nhường ngôi cho người hiền. Thời Đại đồng, tuyển người hiền, dùng người giỏi, dạy điều tín, ăn ở hoà thuận, còn cho là trái (chữ phê bên cạnh: chưa rõ). Đời nhà Hạ4 còn gần thời cổ, nên việc trị nước chuộng trung thực. Đời Ân5 chưa xa rời đức trung thực nên chuộng tính chất phác. Đời Chu6 phong tục đã mở, văn hoá rực rỡ nên chuộng văn vẻ. Nhưng cái hỏng của sự trung thực là mắc tính quê kệch, chất phác thì hay mắc tính ngu xuẩn. Cái hỏng của cái văn vẻ là hay mắc tính xảo trá, điều ưa chuộng khác nhau đều không tránh được cái hỏng. Từ đó về sau: nhà Hán giương gậy giết Tần, nhà Đường cầm búa diệt Tuỳ, Tống nhận ngôi nhường của nhà Chu7, Nguyên đánh chiếm nhà Tống, Minh nối tiếp nhà Nguyên. Đến chuyện nước Việt ta thì Đinh Tiên Hoàng dẹp mười hai sứ quân8, Lý Công Uẩn9 trị bình một cõi. Trần nhân sự nhường ngôi của Chiêu Hoàng10, Lê đánh tan quân giặc phương Bắc11. Hoặc bình trị, hoặc loạn lạc, hoặc hợp nhất, hoặc phân chia, tuy biết có nhiều việc cũng không ngoài hai điều ấy12. Trong đó: Hán13 Đường14 được nước là chính đáng, nhà Tống15 thì dùng mưu, Nguyên16, rợ ngoài làm loạn Trung Quốc là trái lẽ, nhưng nhà Minh17 thì được coi là chính thống. _________________________________________ 1. Chinh phạt và thiên nhượng: Đánh dẹp và truyền ngôi vua cho người hiền khác họ. 2. Thang: Vua Thành Thang (1766-1752 tr.CN) đã đuổi vua Kiệt của triều đại Hạ, lập nên Triều đại Thượng. 3. Vũ: Vũ vương (1122 - 1115 tr.CN) đã đánh đổ triều đại Thượng, khiến Trụ Vương phải tự thiêu, lập nên Triều đại Chu. 4. Đời nhà Hạ: Từ vua Vũ đến Trụ Vương, gồm mười bảy đời vua, trải qua bốn trăm ba mươi chín năm (2205-1766 tr.CN). 5. Đời Ân: Còn gọi là Ân Thương, từ vua Thành Thang đến Trụ Vương gồm hai mươi tám đời vua, trải qua sáu trăm bốn mươi tư năm (1766-1122 tr.CN). 6. Đời Chu: Từ Vũ Vương đến Noãn Vương ba mươi bảy đời vua, trải qua tám trăm sáu mươi bảy năm (1122-255 tr.CN). 7. Chu: Nhà Hậu Chu đời Ngũ Đại chỉ có chín năm (952-959) trải ba đời vua. 8. Đinh Tiên Hoàng: Dẹp xong mười hai sứ quân năm 987. 9. Lý Công Uẩn: là con Lý Khánh Vân và Phạm Thị, người làng Cổ Pháp tức Đình Bảng, huyện Tiên Du, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, giữ chức Điện tiền chỉ huy sứ là chức võ tướng cao cấp, chỉ huy quân hậu cần của Triều Tiền Lê. Ông có uy tín và thế lực trong triều, đồng thời là người thân cận của người Phật giáo. Vì vậy sau khi Lê Long Đĩnh chết (năm 1009) các quan trong triều và một số nhà sư đã ủng hộ và suy tôn ông lên làm vua, tức Lý Thái Tổ. Triều Lý bắt đầu từ Lý Công Uẩn đến Lý Chiêu Hoàng (1009-1225) trải qua hai trăm mười sáu năm, gồm chín đời vua. 10. Trần: Vua cuối cùng của triều Lý là Huệ Tông bị bệnh cuồng và không có con trai, phải nhường ngôi cho công chúa Chiêu Khánh mới lên bảy tuổi (tức Lý Chiêu Hoàng, lúc bấy giờ họ Trần đã nắm giữ mọi chức vụ trọng yếu trong Triều. Ngày 10 tháng 12 năm 1226 do sự bố trí của Trần Thủ Độ, người cầm đầu thế lực họ Trần lúc đó. Lý Chiêu Hoàng tuyên bố nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh (cháu Trần Thủ Độ). Trần Cảnh lên ngôi (tức Trần Thái Tông) lập ra Triều Trần, gồm mười hai đời vua, trải qua 174 năm (1126 - 1400). Thời gian chống quân Minh xâm lược còn có hai vua nhà Hậu Trần là Hưng Khánh (tức Trần Ngỗi 1407-1409) và Trùng Quang (tức Trần Quý Khoáng 1400-1415). 11. Lê: Lê Thái Tổ và Nguyễn Trãi lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã chiến đấu mười năm gian khổ (1417-1427) mới giành được nước từ tay quân nhà Minh xâm lược. 12. Hai điều: Thiên nhượng và chinh phạt. 13. Hán: Lưu Bang diệt Triều Tần của Thủy Hoàng bạo ngược lập nên Triều Hán (từ 206 - đến năm 263 tr.CN). 14. Đường: Lý Uyên diệt Triều Tuỳ của Dạng Đế bạo ngược lập nên Triều Đường (618-905). 15. Tống: Tống Thái Tổ, vua mở đầu Triều Tống (960-1279) tên là Triệu Khuông Dẫn, đã phục vụ ba triều Hậu Đường, Hậu Hán, Hậu Chu đời Ngũ Đại (907-960) và đã lập được nhiều chiến công. Đến đời Cung Đế nhà Mậu Chu, Triệu Khuông Dẫn làm Tiết độ sứ Quý Đức và Hiến Đức đem quân đi chống quân Khiết Đan xâm lược. Khi đó Cung Đế còn nhỏ, quân sĩ mưu lập Triệu Khuông Dẫn, ban đầu tập trung ở nơi đóng quân là Trần Kiều, họ khoác áo bào vàng cho Triệu Khuông Dẫn và tung hô “vạn tuế” rồi phò Triệu Khuông Dẫn về triều bắt Cung Đế phải nhường ngôi cho Triệu Khuông Dẫn (tháng 3 năm 960). 16. Nguyên: Giai cấp chủ nô Mông Cổ đem quân xâm lược Trung Quốc, diệt Triều Nam Tống lập nên Triều Nguyên (1279-1368). 17. Minh: Minh Thái Tổ là Chu Nguyên Chương đánh đuổi Nguyên Thuận Đế vua nhà Nguyên xâm lược về Thượng đô và lập ra Triều Minh (1368-1661). Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Tám, 2008, 12:17:44 pm Nước Việt ta, Đinh Tiên Hoàng mở đầu đặt kỷ cương là chính đáng, nhưng nhà Lý thì có thiếu sót. Lê Thái Tổ lập công muốn đời là chính đáng, nhưng mầm mống thì dùng sắc đẹp. Các điều dị đồng, tà chính của các triều đại đó, há đâu không thể trình bày. Tuy có những đời noi theo phép của nhau mà vận nước dài ngắn khác nhau (có chữ phê bên cạnh: chưa rõ) nên cần nhìn xem có chính đáng hay không. Các đạo của Đế Vương Bá như thế nào? Lấy đức để giáo hoá dân là Đế, dân do đó mà biến đổi, nhà nhà đều có người hiền1 thế chẳng phải là hiệu quả của đức sao? Lấy công lao để khuyến khích dân là Vương, như việc đưa muôn dân tin theo toàn dân có đức, thế chẳng phải là hiệu quả của việc lấy công lao để khuyến khích sao? Lấy sức mạnh để đứng đầu mọi người là Bá, đấy là bọn chuyên mượn danh nghĩa2 nên hiệu quả của sự vui vẻ cũng không còn mãi được3. Sự bất đồng giữa các đạo Đế, Vương, Bá là như thế, do đó hiệu quả của các đạo ấy cũng khác nhau. Xem đấy thì người bàn việc bình trị phải quý Vương đạo mà khinh Bá thuật. Nhân hậu mà đi đến suy đồi vì không làm cho kỷ cương đẩy lên được, nhưng nhân hậu vào sâu lòng người, không thể mạnh, nhưng có thể lâu nên nhà Chu mới có tám trăm năm lâu dài. Giàu mạnh mà đi đến thôn tính là vì chuyện dùng pháp chế để nắm giữ chính quyền nhưng giàu mạnh là hại dân quá lắm, lòng người oán giận, thế nước như đất lở, nhà Tần rút lại chỉ có hai đời ngắn ngủi. Lạm dụng phản điếm, Tắc môn4 Quản Trọng khí độ nhỏ nhen phò Hoàn Công mà khuôn được thiên hạ về chính thống là chuyện đi đường cong gặp may, nhưng vốn người khí độ nhỏ nhen, nên ba mươi năm tập hợp chư hầu mà sự nghiệp thấp như thế, cuối cùng không hoàn thành sự nghiệp đánh Sở tôn Chu. Sánh ngang tầm Y Lã5, Khổng Minh6 có tài vương tá7 (phò Tiên chủ8 mà không nhất thống được, vì thời vận suy thì không thể khôi phục được nữa, nhưng vốn người có tài vương tá, nên chỉ hai mươi năm ruổi rong vó ngựa mà tiếng lớn lưu truyền vũ trụ làm nên công trạng giữ Ngô chống Ngụy). Xem thế thì thấy uỷ mị nhưng kết quả không hại thể chế, trị nước bằng nhân hậu mà thôn tính thì thấy ngay cái công nghiệp ngắn ngủi của sự phú cường. Khuôn được thiên hạ, nhưng vì khí độ nhỏ nhen nên cuối cùng lại rơi vào “Bá thuật”, không thống nhất được, nhưng tài vương tá nên càng thể hiện rõ tính cách “chân nho” như thế thì thuyết “chúng định” có thể tin chắc việc phân biệt giữa “lý” và “thế” có thể tin cậy. Quân Nhung Địch vào Trung Quốc bắt đầu từ Hiểm Doãn đời nhà Chu, sau cùng là Khiết Đan đời Tống. Khi nhà Tấn9 đưa rợ Chương đến dưới quan ải thì thế rợ còn nhỏ, đến khi quân Nguyên đánh đổ triều Tống mà có thiên hạ thì đấy là thời kỳ cực thịnh. Các nước Thái Tây như Pháp, Ý, Mỹ, Hà Lan lập nước đã lâu, từ khi sinh ra người thì họ đều đã có cả rồi, không bàn đến việc đời Minh mới thấy họ, xem trong sách Kinh Thư viết chuyện người “Tây Lũ” đem cống chó ngao, hay trong chương “Vương chế” sách Kinh Lễ kể chuyện Tây Nhung và việc ở nhà “Minh đường”10 có đặt vị trí cho bốn Di, như thế thì các đời trước không phải hoàn toàn không biết (họ). _________________________________________ 1. Nguyên văn viết: “Lê dân chí ư biến, ti ốc chi khả phong”, chữ trích trong Nghiêu điển, sách Kinh thư: “Lê dân ư biến thời ưng” (dân đen biến đổi, luôn sống hoà thuận), và còn trích trong Vương Mãng truyện, sách Hán thư: “Đường Ngu chi thời khả tị ốc nhi phong” (các nhà Đường, Ngu nhà nào cũng đáng khen thưởng (vì đều có người hiền lập công trạng). Tác giả dẫn dụng để chứng minh hiệu quả của việc dùng đức đã thấm nhuần đến dân, trong các đời Đế.) 2. Nguyên văn viết: “Triệu dân chi chương tứ” chữ trích trong thiên “Trọng thủy trị cáo” ca ngợi vua Thành Thang: “Khắc khoan khắc nhân, chương tín triệu dân” (nhà vua) khoan dung nhân hậu (nên đã được lòng tin của nhân dân). Tác giả dẫn dụng để chứng minh hiệu quả tốt của Vương đạo. Đời Xuân Thu (770-401 tr.CN). 3. Nguyên văn viết: “Hoan ngu chi hiệu”, lấy ý trong chương “Tận tâm thượng” sách Mạnh Tử. Mạnh Tử nói: Bá giả chi dân hoan ngu như dã (dân đời Bá vui vẻ, và theo ý Trình Tử: “Hoan ngu hữu sở tạp nhi nhiên, khởi nang cữu dã (sự vui vẻ nhờ sức người mà có, làm sao bền lâu được). 4. Phản điếm: Bàn đắp đất, dùng để đặt chén không sau khi uống hết rượu, một dụng cụ có tính cách nghi thức bang giao khi hai vua chư hầu tiếp đãi nhau. Tắc môn: Cổng chào dựng trên đường đi, một nghi thức bang giao có quy định thứ bậc: vua thì dựng cổng ngoài, chư hầu thì dựng cổng trong, quan đại thần thì dùng mành mành, kẻ sĩ thì dùng màn để khi giao tiếp phân biệt chỗ ngồi của chủ và khách. Trong thiên “Bát dật”, sách Luận Ngữ có viết: “Thầy (Khổng Tử) nói: “Khí độ của Quản Trọng sao mà nhỏ nhen!” Có người hỏi (vì) Quản Trọng tiết kiệm ư? Trả lời: “Họ Quản có đài Tam quy gia thần làm quan không kiêm nhiều việc, sao gọi là tiết kiệm?”. Hỏi: “Như thế thì Quản Trọng biết lễ chăng?” Trả lời: “Vua chư hầu dựng Tắc môn, họ Quản cũng dựng Tắc môn; vua chư hầu (hội họp) giao hữu có phản điếm, họ Quản cũng có phản điếm, họ Quản mà biết lễ thì ai không biết lễ?”; Ở đây, ý Khổng Tử muốn nói Quản Trọng khí độ nhỏ nhen vì xa xỉ và phạm lễ (đã dùng các dụng cụ nghi lễ không đúng với cương vị của mình). 5. Y Lã: Y Doãn phò vua Thành Thang nhà Thương; Lã Thượng phò vua Văn, vua Vũ nhà Chu, đều lập công khai sáng triều đại mới. 6. Khổng Minh: Gia Cát Lượng đời Tam Quốc (220-265). 7. Tài Vương tá: Tài giúp vua làm nên sự nghiệp lớn. 8. Tiên chủ: Lưu Bị vua Thục kế nghiệp nhà Hậu Hán đời Tam Quốc. 9. Tấn: Nhà Hậu Tấn đời Ngũ Đại, Thạch Kính Đường vua đầu nhà Hậu Tấn, nhờ dẫn quân Khiết Đan về diệt nhà Hậu Đường mà được Khiết Đan lập làm vua, do đó Thạch Kính Đường phụng sự Khiết Đan hết mức, nhưng cuối cùng chỉ được hai đời làm vua dài 10 năm, rồi lại bị Khiết Đan tiêu diệt. 10. Minh đường: nơi triều hội chư hầu. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Tám, 2008, 12:23:22 pm Quy mô của họ thịnh vượng nhanh chóng, vì các nước Thái Tây ở vào hướng “Càn thất”, được ngôi chính của khí “Kim” nên người nước họ khôn ngoan khéo léo, chuyện trị nước thì họ càng giỏi về mưu toan sự nghiệp phú cường, như có thuyền máy, xe lửa, điện di, thành di đã rất tinh xảo kỳ diệu, lại có thể khuất phục được người, do đó họ ngày càng thịnh. Nhưng đấy chẳng qua là chuyện lấy trộm cái biết của người làm cái biết của mình, mà lại giỏi dùng cái biết. Hãy xem một việc chế tạo súng, vào thời kỳ những năm Hoàng Vũ triều Minh1 có người Tây đến làm bộ ba hầu Tát Mã Hoàn, nhân đó lấy trộm súng mang về, nghiên cứu tính toán kỹ lưỡng, đạt được đến mức rất tinh xảo, so sánh với các chuyện cũ như thế, thì thấy chưa chắc họ đã một mình nắm được những cái kỳ lạ. Nói cho cùng, chưa chắc họ đã giành được mọi thắng lợi, ví như súng có lợi thế bắn được xa, nhưng mà tường cát, bông ướt có thể chế ngự được, không có gió mà trong nháy mắt đi được ngàn dặm là cái lợi hại của tàu thủy, nhưng mà cỏ mục, bè lớn có thể chế ngự được. Hơn nữa, họ giỏi về tàu thủy về súng ống nhưng không biết võ nghệ thì chẳng phải là cái rất kém của họ sao? Vì thế cho nên cũng chưa phải là không chế ngự được họ. Câu nói “Sửa sang việc nội trị là Vương, đi chinh phục nước ngoài là Bá” (chứng minh) việc của chúng làm thuộc loại “Bá thuật”. “Sửa việc nội trị thì nhàn, đi chinh phục thì vất vả”, thế là họ ở vào chỗ làm vất vả, thuyết đó có thể tin được. Những nhà bình luận ở các nước phương Đông hiện nay đều muốn bỏ cái học cũ của mình, bắt chước người mưu toan cái mới, để đạt đến hiệu quả trước mắt của sự giàu mạnh, đấy là vì họ trông thế nước Nhật Bản đã bắt chước người mà được cường thịnh nhất đời, nên mới có những ý kiến bình luận ấy. Nhưng làm sao lại có thể bỗng nhiên vứt bỏ pháp độ hàng trăm năm để mưu làm cái mới. Vội tìm cái lợi trước mắt, những cái lợi trước mắt chưa chắc đã được, dù có được chăng nữa, cũng không tránh được tiếng chê cười là biến thành rợ mọi! Vả lại người Pháp đối với ta vốn có tính hoà hiếu cũ, vẫn còn đi lại không hề có hiềm khích, gần đây vì đất nước xa xôi, biên cương cách trở mà phải thưa việc thăm hỏi. Họ muốn nối lại tình hoà hiếu cũ, nên đã không ngại xa ngàn vạn dặm, vượt biển mà đến, chẳng có ý gì khác, chỉ vì ngôn ngữ không thông, khó đặt quan hệ bang giao mà sinh chuyện can qua, mở đầu từ Trà Sơn, tiếp đến Cửa Cấm. Họ vốn không phải khoe võ lực mà chỉ muốn lập lại tình cũ, thật tình có chỗ rất bất đắc dĩ. Hoàng thượng vì lấy non sông làm trọng, và lo cho sinh mạng của nhân dân. Người không muốn để con dân nơi biên cương lại mắc chuyện binh đao, nên đã cắt đất sáu tỉnh để tạm giảng hoà với chúng, cốt làm sao để hoãn binh nhất thời cho binh nghỉ dân yên. Bản thân người Pháp thực không muốn chiếm nước người, vì lấy tình nghĩa làm trọng, coi thường sự thiệt hơn, nên họ đã không cho phép An Nghiệp làm càn. Hoắc Đạo Sinh2 vừa đến cùng với sứ thắn của ta là lập tức đem cả đất đai, nhân dân bốn tỉnh trả lại cho ta, một lời hứa giá ngàn vàng, không tơ hào nuối tiếc. Quốc quân, Đại thần, Nguyên soái nước họ vốn vẫn có ý tốt ấy. Hơn nữa gần đây sứ thần đi lại, tặng biếu pháo thuyền, hoà hảo thân thiết, giúp đỡ lẫn nhau, vui lợi cùng hưởng, bỏ hết chuyện sai trái cũ. Nếu họ sớm trả sáu tỉnh thì được tiếng hay, được lợi về thông thương, vận chuyển , chắc họ đã tính kỹ rồi. Nhưng nay họ còn hoãn lại ít lâu, chắc cũng có lý do: Một là để củng cố Hòa ước, vì người Pháp tuy có tình hoà hiếu cũ đối với ta, nhưng họ từ nghìn dặm xa mà tới, vị tất không có sự lo lắng “Tôi không lừa anh, anh không hại tôi”, nên họ phải lấy đất ấy làm chỗ ở yên để làm mạnh cái thế của họ và làm vững cái hoà của ta. Hai là để thu địa lợi, vì đất đai sáu tỉnh Gia Định màu mỡ, sản xuất lúa gạo nhiều hơn các hạt khác, nên vị tất họ không có ý lần lữa trông chờ. Hơn nữa, sự thế sáu tỉnh Nam Kỳ và bốn tỉnh Bắc Kỳ thật không giống nhau, sáu tỉnh Nam Kỳ bị lấy từ ngày Hòa ước mới bắt đầu quy định, còn bốn tỉnh Bắc Kỳ thì ở vào thời gian Hòa ước đã quyết định rồi. An Nghiệp làm càn, lý của họ trái, nên không thể không trả sớm, còn sáu tỉnh tạm hoãn ít lâu cũng là có nguyên nhân vậy. Xin Hoàng thượng hết lòng thành thực, đối xử với họ, dùng nghi thức văn chương trang trọng để tiếp đãi họ. Đối nội đã không bỏ chính sách tự trị, đối ngoại lại mở rộng chữ tín đối với người, khiến họ vui vẻ thấy được ý tốt của Triều đình mà thôi, không bụng ngờ vực nữa. Xưa đức Khổng Tử làm Tể tướng nước Lỗ, nước Tề trả lại đất đã xâm chiếm chỉ vì người hết lòng thành thực nên đã cảm động được họ. Vả lại đã mưu việc lớn thì không tiếc tốn nhỏ, do đó mà người xưa đã chóng giải quyết xong việc. Xin Hoàng thượng cho xem xét kỹ sự thể, nếu họ hám lợi thì lấy thuế quan, thuế bến mà đổi cho họ, hoặc giao ước tăng tiền bồi thường đợi sau thanh toán lại kéo dài điều ước hoà hiếu khiến cho họ nhận thấy lẽ phải trái trong tình lý và sự lợi hại trong sự thể, ắt họ phải đem sáu tỉnh sớm trả lại cho Triều đình, đâu đến nỗi phiền Hoàng thượng phải lo lắng vất vả. Vả lại bậc trí giả không mê hoặc, không làm người mất vui; bậc nhân giả không tàn nhẫn, không làm người mất nơi nương tựa. Họ đã cảm động về sự hậu đãi và sự ân cần trân trọng của Triều đình thì tất nhiên chẳng chịu ở vào vị trí của kẻ bất trí, bất nhân, do đó, họ chẳng đợi ta yêu cầu mới đáp ứng. Thần cúi đọc chế sách biết bao ân cần tha thiết, thành khẩn ham hỏi, ham xét, Nghiêu Thuần khi xưa hầu như chẳng hơn. Thần sơ hoạ mới tiến, không biết việc trọng yếu của chính sự, nhặt nhạnh những điều bình luận tầm thường, mạo phạm đức chí tôn. Khôn xiết ... Phạm Thị Kim và Chương Thâu dịch Đặng Thai Mai hiệu đính3 Chú thích: Nguyên tác bài này chúng tôi in theo văn bản Hội Đình văn tuyển từ tờ 13 - 20, bản in Liễu - Chàng tàng bản xếp ở cuối tập Hương thí văn tuyển, ký hiệu sách: A.3173 của Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam; bản phiên âm của GS. Phan Văn Các và bản dịch của Phạm Thị Kim và PGS. TS. Chương Thâu; GS. Đặng Thai Mai hiệu đính. _____________________________________________ 1. Hoàng Vũ: Triều Minh không có niên hiệu Hoàng Vũ mà chỉ có Hồng Vũ, niên hiệu của Triều Minh Thái Tổ (1368-1396), có thể là in nhầm hoặc không kiêng tên của Tự Đức là Hồng Nhậm. 2. Hoắc Đạo Sinh: Philastre thống soái của thực dân Pháp cùng với Nguyễn Văn Tường ra Bắc Kỳ để bàn về việc trả lại bốn tỉnh miền Bắc do Francis Garnier đánh chiếm trong cuộc xâm lược Bắc Kỳ lần thứ nhất năm 1873. 3. Phạm Thị Kim: Nghiên cứu viên Viện Thông tin KHXH; Chương Thâu: Phó giáo sư, Tiến sĩ, Viện Sử học, Viện KHXH Việt Nam; Đặng Thai Mai (1902 - 1984): Giáo sư, Viện trưởng Viện Văn học, Viện KHXH Việt Nam. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Chín, 2008, 10:55:47 pm BÀI VĂN ĐIẾU HOÀNG DIỆU (1982)1 Nguyên tác: (http://i255.photobucket.com/albums/hh125/chuongxedap/Qsu/PhanDinhPhung/BaivandieuHoangDieu.jpg) Phiên âm: Đệ, dã ngu Phan Đình Phùng bút phục Trần Đình Túc, Nguyễn Hữu Độ, Hoàng Hữu Thường, Võ Nhự3 đồng bái Trượng phu hứa quốc, duy kiệt lực ư đương vị; Chí sĩ thành nhân, khởi sát thân chi túc tích. Tự phi kiến nguy chí mạng, xác hữu cương trường, Thế năng thị tử như quy, hào vô chuyển kế. Cố Hà Ninh tổng đốc Hoàng đại nhân Tằng lăng kỳ cốt, Lỗi lạc phong tư. Cụ công minh thanh chính chi tài, triều hữu trực thanh, quận hữu năng tích; Phụ tuấn tiểu quảng ngung chi khí, môn vô tư kiệt, gia vô hậu tàng. Phương đương Long Biên kiến tiết chi sơ, Dĩ hữu kình hải dương ba chi lự. Bất đồng giả lực, cố tri thời thế chi nan; Duy ký quyết tâm, diệc việt phong cương chi trách. Hi sinh cảnh thượng, ký hòa hiếu nhi đãi bỉ chi lai; Giáp mã thành biên, nại lăng bách nhi thụ ngã dĩ khôn. Phong đình nhất trận yên trần cô dung; Quân khí ký suy, công kế toại quyết. Vân quan hồi thủ, khởi vô Quản Di Ngô tam tẩu chi tư; Nùng lĩnh ngưng mâu, cánh thiết Hoa Tư Mã phục lai chi sỉ. Thảng thốt hoàng cung bái tạ, thần tội đương tru; Thung dung Võ Miếu quyên sinh, minh thần công chứng. Cô trung khả bạch, tố nhất trường chi liệt liệt oanh oanh; Công luận do tồn, phó chúng khẩu chi phi phi thị thị. Ô hô! Doanh hoàn vận hội, thiên cổ sáng văn; Nhĩ chử phong ai, thập niên lưỡng độ. Khách sái tân đình chi lệ, thử nhật sơn hà; Sĩ chiêu lữ thấn chi hồn, cựu thời bộ khúc. Độc thị trung can nghĩa phủ, văn kiến đồng khâm; Thứ cơ thiên trụ địa duy, cương thường bất trụy. Duy tiền bằng điếu, thực quan nhân sinh ý khí chi bi; Tận hậu cán hoàn, ích hệ thế đại tích kim chi cảm. Viên sơ vu dẫn dụng đương phỉ ca. Dịch nghĩa: Trượng phu hứa thân vì nước, chỉ hết mình nơi việc đáng làm. Chí sĩ quyết liệt thành nhân, há lại sợ sát nhân mà tiếc. Thấy nguy liều mệnh, thế mới đáng gọi là cang trường. Coi chết như về, thật rõ rệt trần gian hãn hữu. Cố Hà Ninh Tổng đốc đại nhân, Tằng lăng khí cốt, Lỗi lạc phong tư4; Đủ công minh thanh chính biệt tài, nơi triều quận tiếng tăm đà lừng lẫy Lại chí khí ngang trời dọc đất, chốn gia tư môn hộ thanh cần. Nơi Long Biên lập tiết bắt đầu, đã rõ chí kình ngư dương biển cả. Chốn trận mạc đo gươm đấu súng, đã thấy ngay binh khí chẳng đồng đều. Nhưng cũng quyết tâm chiến đấu, dẫu sao thì cũng phải tròn nhiệm vụ chốn phong cương. Hi sinh vì đại cuộc, hãy ký hòa xem chúng sẽ làm sao? Giáp mã bên thành, xung trận mạc chúng liền vây khổn. Một trận lôi đình, khói mây mù mịt, ba quân kiệt lực, chiến cuộc suy tàn. Ngõ tắt đường cùng. Tướng công bèn quyết. Đường mây ngoảnh lại, há chẳng như Quản Di Ngô ta lúc bôn ba. Nùng Lĩnh trông về lại giống thể Hoa Tư Mã một lần trở gót. Mới vội vã hoàng cung bái tạ, thần tội đáng tru5, rồi thong dong Võ Miếu quyên sinh, thần minh chứng giám. Cô trung đã rõ, thiệt một trường liệt liệt oanh oanh. Công luận đó còn, mặc miệng thế hay hay dở dở. Một cuộc doanh hoàn, ngàn năm khai sáng. Nhị hà tung bụi, mười độ hai lần. Giọt lệ Tần đình tuôn nhỏ, sơn hà này biết nói làm sao? Đám tang khách địa chiêu hồn, bộ khúc nọ đau lòng chi xiết. Trước gương sáng gan trung ruột nghĩa, ai chẳng người khâm phục anh hùng. Thế mới hay thiên trụ địa duy6, muôn năm nữa cương thường khôn đổ. Trước linh cữu đồng nhân bái điếu, ngẫm nhân sinh bao xiết đau lòng. Sau cơ trời có lúc tái hoàn, lại thế đại vô cùng cảm khái. Lời văn thô thiển, mong thế phỉ ca7. Đệ dã ngu Phan Đình Phùng bút phục. Trần Đình Túc, Nguyễn Hữu Độ, Hoàng Hữu Thường, Võ Nhự đồng bái. Thái Can dịch (Theo Nguyễn Hoàng Viên: Hoàng Diệu 1829-1882, Nxb Đà Nẵng, 2001, tr.93-96) Chú thích: 1. Bài điếu văn của Phan Đình Phùng do một vị lão Nho chép lại, được thêu trên một bức trướng to, treo tại gian thờ Hoàng Diệu trong nhà thờ tộc Hoàng ở Xuân Đài thời trước. Năm 1947 nhà thờ bị bom Pháp đánh phá tan nát, các di vật hoành phi, liễn đối đều không còn. 2. chữ (?) không thấy có trong các từ điển tiếng Hán, kể cả Khang Hi Tự Điển và Hán Ngữ Đại Từ Điển, 12 tập, La Trúc Phong chủ biên Hán Ngữ Đại Từ Điển, xuất bản, xã Thượng Hải, 1994. 3. Trần Đình Túc, quê Quảng Trị; Cử nhân, năm 1873 Tổng đốc Hà Nội, thương nghị với Pháp; thuộc phái chủ hòa. Nguyễn Hữu Độ, quê Thanh Hóa; Tiến sĩ, làm quan đến Thượng thư, Phụ chính Đại thần; 1880-1883 Kinh lược sứ Bắc Kỳ sau khi thực dân Pháp chiếm Hà Nội. Hoàng Hữu Thường, quê Thừa Thiên; Tiến sĩ; sau khi Pháp đánh chiếm Hà Nội cùng Khâm sai Trần Đình Túc thương thuyết với Pháp, rồi làm Bố chánh Hà Nội, sau đó làm Thị lang, sung nội các ở Huế. Võ Nhự, quê Hải Dương; Cử nhân, làm Đốc học Hà Nội, Tuần vũ Hà Nội (theo Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế: Từ điển nhân vật lịch sử. Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1993). 4. Tằng lăng khí cốt: khí cốt cứng và cao, ngạo nghễ như núi lởm chởm. Lỗi lạc phong tư: nếp người tài trí lỗi lạc hơn người. 5. Tru: chém. Không dám viết ra tiếng Việt, cứ để nguyên văn tiếng Hán. 6. Thiên trụ địa duy: cương thường như cột để trụ trời, như màn để che đất, nếu cương thường sụp đổ thì trời đất cũng sụp đổ luôn. 7. Phỉ ca: lời ca văn nhã (thế đây là thay thế)... Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Chín, 2008, 11:45:45 am VIỆT SỬ ĐỊA DƯ (1883) (trích) Tiểu dẫn: Việt sử địa dư là sách địa lý chú giải về sự thay đổi địa danh lịch sử nước ta từ thời Hùng vương đến cuối thời Lê, do Phan Đình Phùng biên khảo, Hàn lâm viện Điển tịch Thái Khắc Tuy khảo chính, Hình ty Chánh bát phẩm Phạm Đình Tấn khảo xét, Công ty Vị nhập lưu Thư lại Hoàng Chí Thức, Vị nhập lưu Thư lại Bùi Văn Dự cùng sao chép, hoàn thành vào niên hiệu Kiến Phúc năm thứ nhất (1883). Đây là sách nằm trong số thư tịch tài liệu do Học viện Viễn đông Bác cổ của Pháp trao lại cho ta vào năm 1958, sau đó đến năm 1979 lại được bàn giao cho Viện Nghiên cứu Hán Nôm quản lý. Sách gồm một bản, mang ký hiệu A.971, đóng bìa bằng giấy Tây màu hồng, gáy bả sơn ta, khổ 20x29cm, viết bằng chữ Hán trên giấy dó, có chấm câu bằng mực đỏ. Toàn bộ tác phẩm gồm 204 trang, tức 102 tờ giấy dó viết gập đôi, trong đó phần Mục lục là 22 trang, phần tập Thượng là 104 trang, tập Hạ là 78 trang. Phương pháp biên soạn của sách là trích dẫn hoặc tóm tắt những sự kiện trong chính sử liên quan đến địa danh rồi chú giải những địa danh đó thay đổi qua từng thời. Sách địa lý nước ta ra đời từ khá sớm gồm hai loại Quốc chí và Địa phương chí, nhưng loại sách chuyên chú giải về địa danh thì không nhiều. Ngoài Dư địa chí của Nguyễn Trãi biên soạn vào thế kỷ XV, Việt sử địa dư là tác phẩm thứ hai viết về chủ đề này. Tuy nhiên, so với tác phẩm của Nguyễn Trãi, tác phẩm của cụ Phan và các cộng sự của cụ có dung lượng bao quát địa danh rộng lớn hơn nhiều. Trong khuôn khổ tập sách, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu phần đầu của tác phẩm Việt sử địa dư, là tập Thượng để độc giả hiểu thêm về con người và sự nghiệp của Phan Đình Phùng. Vì khuôn khổ tập sách và thời gian có hạn, chúng tôi không đưa vào đây phần nguyên bản chữ Hán và phiên âm như các tác phẩm khác, kính mong bạn đọc thông cảm và tìm đọc ở tập sách in toàn bộ Việt sử địa dư, do Nguyễn Hữu Mùi, Tiến sĩ, Nghiên cứu viên Viện nghiên cứu Hán Nôm, Viện KHXH Việt Nam - dịch và chú thích, sẽ được Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây tổ chức xuất bản trong thời gian tới. TẬP THƯỢNG TIỀN BIÊN Quyển 1 Niên kỷ Hùng vương, Hùng vương đóng đô ở Phong Châu, đặt quốc hiệu là Văn Lang. Phong Châu, theo Thái Bình hoàn vũ ký do Nhạc sử đời Tống soạn, ghi Phong Châu là quận Thừa Sĩ, xưa là nước Văn Lang. Cứ theo đó nay là địa hạt các phủ Vĩnh Tường, Lâm Thao thuộc tỉnh Sơn Tây. [nơi đây] có miếu thờ Hùng Vương (nên có căn cứ), chia trong nước làm 15 bộ. Lời chú của Nguyễn Thiên Túng trong Dư địa chí của Nguyễn Trãi về 15 bộ, là Sơn Nam (nay thuộc đất các tỉnh Hà Nội, Nam Định, Hưng Yên), thời cổ là bộ Giao Chỉ; Sơn Tây, thời cổ là bộ Chu Diên và Phúc Lộc; Kinh Bắc (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh), thời cổ là bộ Vũ Ninh; Thuận Hoá [tờ 12b] (nay là phần đất Hải Lăng của tỉnh Quảng Trị đến phần đất Điện Bàn của tỉnh Quảng Nam), thời cổ là bộ Việt Thường; An Bang (nay là tỉnh Quảng Yên), thời cổ là bộ Ninh Hải; Hải Dương, thời cổ là bộ Dương Tuyền; Lạng Sơn, thời cổ là bộ Lục Hải; Thái Nguyên; Cao Bằng, thời cổ là bộ Vũ Yên; Nghệ An, thời cổ là Hoài Hoan; Thanh Hoá, thời cổ là bộ Cửu Chân; Hưng Hoá; Tuyên Quang, thời cổ là bộ Tân Hưng. Ngoài ra thấy khuyết hai bộ Bình Văn và Cửu Đức. Khảo trong Tấn chí, thấy bộ Cửu Đức do nhà Ngô đặt, nay là phần đất tỉnh Hà Tĩnh. Họ Việt Thường đi sứ sang nhà Chu, hiến chim trĩ trắng, khi trở về bị lạc đường, Chu Công ban cho xe chỉ nam, do Phù Nam và Lâm Ấp có danh giới giáp biển mà về, vừa đúng một năm mới về đến nước. Phù Nam, theo Phương dư kỷ yếu, nước Phù Nam ở trong đảo lớn về phía Tây Nam Hải thuộc quận Nhật Nam. Nước Lâm Ấp, từ Tây, Nam, Bắc cách quận Nhật Nam bảy nghìn dặm, từ Tây đi Lâm Ấp hơn ba nghìn dặm [tờ 13a]. Nước này rộng hơn ba nghìn dặm. Lâm Ấp (nguyên chú vào năm Vĩnh Hòa thứ 9 (380) thuộc Mục đế đời Tấn), thuộc quốc giới họ Việt Thường thời cổ, nhà Tần đặt làm huyện Lâm Ấp thuộc Tượng Quận, nhà Hán đổi làm huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật Nam. Cuối đời nhà Hán, con viên Công tào là Khu Liên giết viên Huyện lệnh, tự lập làm vua nước Lâm Ấp. Về sau Khu Liên không có con kế dõi, trải đến niên hiệu Trinh Quán (627- 649) nhà Đường, người trong nước lập Gia Cát Địa lên làm vua, đổi quốc hiệu là Hoàn Vương, thường sang xâm lấn An Nam, bị Đô hộ [An Nam] là Trương Chu đánh phá, nước đó mới bỏ Lâm Ấp, dời đến nước Chiêm, gọi là nước Chiêm Thành. Từ các liệt thánh của bản triều1 khai mở cơ nghiệp đều định đô ở đây. Nay thành Phật Thệ ở Thừa Thiên, thành Chà Bàn ở Bình Định đều là di tích cố đô của Chiêm Thành vậy: [tờ 13b] Thục An Dương Vương năm thứ nhất (257 tr.CN), vua diệt nước Văn Lang, đổi quốc hiệu là Âu Lạc, đóng đô tại Phong Khê. Âu Lạc, theo Dư địa chí của Cổ Hy Phùng, Giao Chỉ về đời nhà Chu gọi là Lạc Việt; nhà Tần gọi là Tây Âu. Theo Giao quảng ký của Hoàng Sâm, Giao Chỉ có ruộng lạc điền, khai khẩn theo nước thuỷ triều lên xuống. Người hưởng hoa lợi ở ruộng này, gọi là Lạc Hầu. Các huyện tự gọi là Lạc Tướng. Về sau con của Thục Vương mang quân đánh Lạc Hầu, tự xưng là An Dương Vương, đóng đô ở Phong Khê. Phong Khê nay là thành Cổ Loa huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh. Thục An Dương Vương năm thứ 44 (214 tr.CN), nhà Tần sai Đồ Thư và Sử Lộc đến cướp Lĩnh Nam, đặt thành Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận. Xét trong Lĩnh ngoại đại đáp của Chu Khứ Phi nhà Tống, nói ba quận này là đất Bách Việt cũ. Từ khi Tần Thuỷ Hoàng kiêm tính được thiên hạ, phạt núi thông đường, cướp đất Dương, Việt, lược định đất Dương Việt, đặt làm Nam Hải, Quế Lâm và Tượng Quận. Nay tỉnh Quảng Tây tức là Quế Lâm đời Tần. Quảng Đông tức là Nam Hải đời Tần. Giao Chỉ tức là Tượng Quận đời Tần [tờ 1a]. Khi Hán Vũ Đế đánh Nam Hải, tách Quế Lâm đời Tần làm hai là Uất Lâm và Thương Ngô, tách Tượng Quận làm ba là Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Lại cắt phần đất dư của Nam Hải và Tượng Quận đặt làm quận Hợp Phố. Lại từ khi huyện Từ Văn vượt biển cướp hai quận Châu Nhai và Đạm Nhĩ ở phía Nam biển, đặt viên Thứ sử ở Giao Châu. Đến nhà Ngô chia làm hai là Giao Châu và Quảng Châu. Giao Châu đặt lỵ sở ở Long Biên, còn Quảng Châu đặt ly sở ở Phiên Ngung. Quy mô giống như thời nhà Hán, duy có súy phủ là có khác. Đường Cao Tông bắt đầu đặt An Nam đô hộ phủ ở Giao Châu. Bản triều [triều Tống] trong niên hiệu Hoằng Hựu (1049-1053), đặt chức An phủ và Kinh lược ở Quế Lâm. Súy phủ ở Tây đạo bắt đầu dựng lên ở đây. Đến nay Bát Quế, Phiên Ngung, Long Biên đứng đối nhau như chân vạc, là theo kiểu cũ của nhà Tần. Nhà Tần lấy Triệu Đà làm chức lệnh Long Xuyên, di dân bị tội đày sang thú ở Ngũ Lĩnh. [tờ 14b]. Long Xuyên, tên huyện của Nam Hải, nay là đất Tuần Châu; Ngũ Lĩnh, theo Quảng Châu ký của Bùi Uyên, Ngũ Lĩnh là Đại Dũ, Thuỷ An, Lâm Hạ, Quế Dương, Yết Dương, nay thuộc địa giới tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây. Thục An Dương Vương năm thứ 48 (210 tr.CN), Triệu Đà mang quân đánh Thục Vương, đóng quân ở núi Tiên Du thuộc Bắc Giang. Thục Vương đem quân chống lại Triệu Đà, dời quân doanh đến núi Vũ Ninh. Thục Vương cắt đất cho Triệu Đà từ Bình Giang về phía Bắc để giảng hoà, rồi hai bên cho bãi binh rút quân về. Núi Tiên Du, theo An Nam chí lược của Cao Hùng Trưng, núi Tiên Du còn có tên là núi Lạn Kha, tại địa phận huyện Tiên Du. Trên núi đó có hòn đá hình bàn cờ, tương truyền có người tiều phu nhìn thấy hai ông tiên đánh cờ, bất giác cán rìu mục ra lúc nào không biết. Núi Vũ Ninh, theo An Nam chí lược của Cao Hùng Trưng, núi đó ở châu Vũ Ninh (nay là huyện Võ Giàng) . Trên núi này có sống núi gọi là Tỉnh Thủy Cương, sống núi ấy có rắn đá, tên gọi là Ngọc Kinh. Bình giang, tức sông Thiên Đức, lại có tên là sông Đông Ngàn. Triệu Vũ Vương năm thứ nhất (207 tr.CN), Triệu Đà tự lập làm Nam Việt Vương, đóng đô ở Phiên Ngung [tờ 15a]. Phiên Ngung (thời Hán gọi là Nam Thành) thuộc quận Hải Nam, nay là phủ Quảng Đông và Quảng Châu. Triệu Việt Vương năm thứ 10 (198 tr.CN), Triệu Vương bắt đầu sai hai viên sứ coi giữ ở hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Giao Chỉ, xưa là phần đất các bộ Giao Chỉ, Chu Diên, Phúc Lộc, Vũ Ninh, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Vũ Định và Tân Hưng. Nhà Triệu đặt làm quận, thống lãnh 10 huyện. Về sau các bộ này giữ nguyên hoặc thay đổi mỗi thời mỗi khác. Nay thuộc phần đất của các tỉnh Bắc Kỳ. Cửu chân, xưa là phần đất của ba bộ Cửu Chân, Hoài Hoan và Việt Thường. Nhà Tần đặt làm đất Tượng Quận; nhà Triệu đặt làm quận, thống lĩnh 12 huyện; nhà Hán, khoảng niên hiệu Nguyên Đỉnh (116 - 111 tr.CN), tách 5 huyện Tỷ Cảnh, Lư Cốc, Tây Quyển, Tượng Lâm và Chu Ngô đặt làm quận Nhật Nam, còn 7 huyện Tư Phố, Cư Phong, Đô Bàng, Dư Phát, Hàm Hoan, Vô Thiết và Vô Biên, vẫn theo cũ đặt làm quận Cửu Chân; nhà Ngô, Tấn, Tống, Tề giữ nguyên như thế. Đến nhà Lương đổi làm Ái Châu. Về sau châu này giữ nguyên hay thay đổi mỗi thời mỗi khác. Nay là phần đất Thanh Hóa, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên. [tờ 15b] [triệu] Ai Vương năm thứ nhất (112 tr.CN), nhà Hán sai bọn Lộ Bác Đức đem quân đến đánh, Triệu Vương cùng tướng của mình là Lã Gia và Trì Nghĩa Hầu tên là Quý người Việt đem quân Dạ Lang xuống sông Tường Kha, hội binh ở Phiên Ngung. Dạ Lang, là tên nước, nay là phần đất Kiện Vi thuộc Bá Châu. Thời Hán, do Tây di có đến cả chục người làm quân trưởng, Dạ Lang là nước lớn nhất, ở bên ngoài quận Thục, phía Đông giáp Giao Chỉ, phía Tây giáp Điền Quốc. _________________________________________ 1. Liệt thánh bản triều: chỉ các chúa Nguyễn từ Nguyễn Hoàng đến Duệ Tông, Nguyễn Phúc Thuần. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Chín, 2008, 11:55:04 am CHÍNH BIÊN Quyển 2 Triệu Vương Kiến Đức năm thứ nhất (111 tr.CN), nhà Hán diệt nhà Triệu, chiếm lấy đất nhà Triệu, đặt làm 9 quận, liệt làm bộ Giao Chỉ, mỗi quận đặt một viên Thái thú, gọi gộp chung đất Nam Việt là Giao Châu. [tờ 16a]. Thương Ngô, nay là đất Ngô Xuyên; Uất Lâm, nay là đất Quảng Tây; Hợp Phố, nay là đất Quảng Châu; Nhật Nam, xưa là bộ Việt Thường, nhà Tần đặt làm Tượng Quận, đến nhà Triệu thuộc quận Cửu Chân, đầu nhà Hán tách đặt thành Nhật Nam, đến nhà Ngô, Tần, Tống giữ theo như nhà Hán. Về sau bị Lâm Ấp chiếm đoạt. Nhà Tùy đánh Lâm Ấp, đặt làm Đãng Châu, tiếp đến đổi thành quận Tỷ Cảnh. Về sau quận này bị sáp nhập vào Chiêm Thành. Nay thuộc phần đất tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị. Châu Nhai, ở trong biển lớn, sát bên bờ biển. Nhà Đường đổi làm Châu Nhai, nay là phần đất Quỳnh Châu và Nhai Châu. Đam Nhĩ, cũng là một bãi nổi trong biển lớn, nhà Đường đổi làm Đam Châu, nay là phần đất Đam Châu của phủ Quỳnh Châu. Các quận còn lại, đã chú ở trên. Thuộc Hán Võ Đế, niên hiệu Nguyên Phong năm thứ nhất (110 tr.CN), chế độ của nhà Hán, châu thì đặt Thứ sử, quận thì đặt Thái thú. Long Uyên, Mê Linh, Doanh Lâu, Quảng Tín đều có trị sở của Thứ sử. [tờ 16b]. Long Uyên, tức Long Biên, là tên huyện thời Hán, thuộc quận Giao chỉ, là quận trị thời Đông Hán. Theo Thuỷ Kinh chú, niên hiệu Kiến An thứ 13 (208) nhà Hán, khi mới đắp thành, có loài giao long đi lại ở hai bên bờ, nhân đó đổi thành Long Uyên. Nhà Lý đặt kinh đô ở đây đổi tên là Thăng Long. Nhà Trần, Lê định đô và giữ theo tên y như nhà Lý. Nay là tỉnh thành Hà Nội. Mê Linh, theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi, thời xưa là quận Phúc Lộc. Sách Vân đài loại ngữ của Lê Quý Đôn ghi là Phong Châu (nay thuộc tỉnh Sơn Tây). Sách Văn hiền thông khảo chú rằng, đất Gia Ninh, Thừa Hoá và Tân Xương đều thuộc huyện Mê Linh của thời Hán. Doanh Lâu, tên huyện, thuộc bộ Giao Chỉ, nay là xã Lũng Khê huyện Siêu Loại tỉnh Bắc Ninh, do ở đó có di chỉ thành cũ. Quảng Tín, theo Phương du kỷ yếu thuộc quận Thương Ngô, nay là tên huyện thuộc phủ Ngô Châu. Thuộc Hán Quang Võ, niên hiệu Kiến Võ thứ 18 (42), Mã Viện nhà Hán đem quân đến Lãng Bạc, giao chiến với Trưng Trắc [17a], rút về cố thủ ở Cấm Khê. Lãng Bạc, còn có tên là Dâm Đàm, nay là hồ Tây thuộc tỉnh Hà Nội. Cấm Khê, theo Thủy Kinh chú, căn cứ vào sách Việt chí ghi rằng, Cấm Khê ở về phía Tây huyện Mê Linh, nay là địa hạt phủ Vĩnh Tường tỉnh Sơn Tây. Thuộc Hán Linh đế, niên hiệu Quang Hoà năm thứ nhất (178), người Man ở Giao Chỉ, Hợp Phố, Ô Hử làm phản. Ô Hử, theo mục Tây Nam truyện trong Hậu Hán thư và Nam châu dị vật chí của Vạn Chấn, đều ghi Ô Hử là tên đất, ở về phía Nam Quảng Châu, phía Bắc của Giao Châu, người xứ đó thường ra đường rình rập khách bộ hành, bất ngờ đánh giết họ, mong lấy người để ăn thịt, chứ không tham của cải, cũng có khi dùng làm thịt ướp để ăn. Vì thế mới gọi là nước Hám Nhân. TIỀN BIÊN Quyển 3 [tờ 17b] Thuộc Ngô chúa Quyền, niên hiệu Hoàng Vũ năm thứ 5 (226), lấy Lữ Đại làm Giao Châu mục. Lữ Đại khiến các vua ngoài biên giới Lâm Ấp và Đường Minh, mỗi nơi phải sai sứ đến dâng cống. Giao Châu tuy tạm yên nhưng có giặc cũ ở Cao Lương chờ thời cùng giặc ở đất các quận Nam Hải và Châu Quan nổi lên ngày một nhiều. Đường Minh, tên nước, nằm trong vụng biển, cách..Nhật Nam 7 nghìn dặm về phía Bắc, tức nước Đạo Đường. Châu Quan, tức quận Hợp Phố nhà Hán, nhà Ngô đổi thành Châu Quan. Cao Lương, tên huyện, thuộc quận Hợp Phố. Thuộc Ngô chúa Hạo, niên hiệu Nguyên Hưng năm thứ nhất (264), chia đất Giao Châu, đặt ra Quảng Châu Nhà Ngô cắt ba quận Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm đặt thành Quảng Châu, trị sở ở Phiên Ngung; Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố làm Giao Châu, trị sở ở Long Biên. Việc phân chia Giao Châu và Quảng Châu bắt đầu từ đó. [tờ 18a] Đương thời người Di Lạo ở quận Vũ Bình, Cửu Đức vàTân Xương hung hăng mạnh mẽ, trải các đời không chịu thần phục, Đào Hoàng đưa quân đi đánh, dẹp yên được chúng. Vũ Bình, vốn là đất huyện Phong Khê, do thời nhà Ngô đặt, thống lĩnh 7 huyện; nhà Tuỳ đặt làm huyện Long Bình; nhà Đường đổi làm huyện Vũ Bình, tiếp đến đặt làm Đằng Châu; đến nhà Đinh, Lê đặt làm phủ Thái Bình; nhà Trần đổi làm Khoái Lộ; nhà Lê sửa đổi đặt thành hai phủ Tiên Hưng và Khoái Châu. Nay là đất tỉnh Hưng Yên. Cửu Đức xưa là đất họ Việt Thường; đến nhà Ngô mới đặt ra quận Cửu Đức, thống lĩnh 8 huyện; nhà Tần, Tống, Lê, Tề giữ nguyên theo cũ; nhà Lương đổi là huyện Cửu Đức, thuộc quận Nhật Nam; nhà Đường thay đổi lệ vào Hoan Châu. Nay là đất tỉnh Hà Tĩnh. Tân Hưng, theo lời chú của Hồ Tam Tỉnh, tức Phong Châu. Nay là đất tỉnh Sơn Tây. Thuộc Tống Văn Đế, niên hiệu Nguyên Gia năm thứ 23 (466), nhà Tống sai Thứ sử Giao Châu là Đàn Hoà Chi đánh vua nước Lâm Ấp là Phạm Dương Mại, tiến quân đến đồn Chu Ngô, thừa thắng đánh vào Tượng Phố. [tờ 18b]. Chu Ngô thú, là tên huyện, từ thời Hán về sau thuộc quận Nhật Nam, đương thời ở đất này đặt đồn thú ở phía Bắc nước Chiêm Thành Tượng Phố, tên huyện, ở về phía Tây Bắc nước Chiêm Thành, vốn là huyện Tượng Lâm của nhà Hán, thuộc quận Nhật Nam. Nhà Tuỳ đổi là quận Lâm Ấp. Thuộc Tề Vũ Đế, niên hiệu Vĩnh Minh năm thứ 3 (485), Lưu Khải điều động quân ở các quận Nam Khang, Lô Lăng và Thuỷ Hưng đánh Thứ sử Giao Châu là Lý Thúc Hiến. Hai quận Nam Khang và Lô Lăng đều thuộc Giang Châu: Quận Thuỷ Hưng thuộc Tương Châu. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Chín, 2008, 12:10:30 pm TIỀN BIÊN Quyển 4 Lý Nam Việt Đế, niên hiệu Thiên Đức năm thứ nhất (544), Lý Bí, người Thái Bình, phủ Long Hưng, xƯng Nam Việt Vương, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân. [tờ 19a] Long Hưng, tên đất, do nhà Trần đặt. Thái Bình, nay ở xã Tử Đường huyện Thụy Anh phủ Thái Bình tỉnh Nam Định có đền thờ Lý Bí. Vạn Xuân, nay ở xã Vạn Phúc huyện Thanh Trì tỉnh Hà Nội có hồ Vạn Xuân. Nhà [Tiền] Lý, niên hiệu Thiên Đức năm thứ hai (545), nhà Lương sai Trần Bá Tiên mang quân hợp với quân của Dương Phiếu ở Tây Giang, đánh Lý Bí, Lý Bí chạy về Gia Ninh. Tây Giang, cách nửa dặm về phía Tây của huyện Vĩnh Phúc phủ Quế Lâm của nhà Thanh. Gia Ninh, vốn là đất huyện Mê Linh do nhà Hán đặt. Nhà Ngô phân lập thành huyện Gia Ninh, về sau giữ nguyên tên như thế. Nhà Lý, niên hiệu Thiên Đức năm thứ 4 (547), Triệu Quang Phục trấn giữ ở Dạ Trạch. Dạ Trạch, nay tại huyện Đông An phủ Khoái Châu, cũng gọi là đầm Nhất Dạ. [tờ 19b] Triệu Việt Vương, năm thứ 2 (550), Trần Bá Tiên đánh Lý Thiên Bảo, Thiên Bảo chạy sang Ai Lao. Ai Lao, tên nước. Theo Hậu Hán thư, người Di Ai Lao có tổ tiên ở Lao Sơn, về sau sinh trưởng mạnh, mới phân đặt tiểu vương, cư ấp san sát, phân tán tại các khe núi, có 99 bộ, với 6 Tù trưởng, đều có hiệu là Chiếu. Đến đời Đường họ Mông mới xưng là Nam Chiếu. Nước này phía Tây thông với Đại Tần, phía Nam thông với Giao Chỉ. Nay thuộc tỉnh Vân Nam. Triệu Việt Vương, năm thứ 9 (557), vua cùng [Lý] Phật Tử phân địa giới ở châu Quân Thần, cho ở phía Tây của nước, Phật Tử dời đến thành Ô Diên. Châu Quân Thần, nay thuộc địa phận hai xã Thượng Cát và Hạ Cát huyện Từ Liêm tỉnh Hà Nội. Ô Diên, xưa là đất Giao Chỉ, do nhà Đường đặt, cùng Từ Liêm, Vũ Lập là ba huyện, thuộc Giao Chỉ. Nay ở xã Hạ Mỗ huyện Từ Liêm có đền thờ thần Bát Lang, có thể là Nhã Lang (Nhã Lang là con của Phật Tử). [tờ 20a] Nhà Hậu Lý, năm thứ nhất (571), Lý Phật Tử đánh Triệu [Việt] Vương, Triệu Vương chạy đến cửa biển Đại Nha, nhậy xuống biển tự tử. Cửa biển Đại Nha, nay thuộc cửa biển Liêu Hải huyện Đại An, nơi đó có đền thờ Triệu Vương. Nhà Hậu Lý, năm thứ 32 (602), Nhà Tuỳ sai Thứ sử Qua Châu (Qua Châu thuộc đạo Sơn Nam của đời Đường) là Lưu Phương đánh [Lý] Phật Tử. Phật Tử chạy đến núi Đô Long thì xin hàng. Núi Đô Long, theo Nhất thống chí của nhà Thanh, núi đó ở phủ Khánh Viễn, đời Đường thuộc An Nam quản có núi Đô Long. Thuộc niên hiệu Đại Nghiệp năm thứ nhất (605), Dượng Đế nhà Tuỳ trao cho Lưu Phương chức Hành quân Tổng đốc đạo Hoan Châu, đánh nước Lâm Ấp, Phương cho quân vượt qua sông Chà Lê. Hoan Châu, xưa là bộ Hoài Hoan; đời Tần thuộc Tượng Quận; nhà Hán thuộc quận Nhật Nam; nhà Lương đổi làm Đức Châu [tờ 20b]; đến niên hiệu Khai Hoàng (581-600) nhà Tùy, đổi làm Hoan Châu; đến niên hiệu Đại Nghiệp (605-616) nhà Tùy, đổi làm Nhật Nam; nhà Đường phục theo cũ đặt làm Hoan Châu; nhà Đinh, Lê giữ theo tên cũ như của nhà Đường; đến nhà Lý đổi là châu Nghệ An; nhà Trần đổi là trấn Lâm Giang; thời thuộc Minh lệ vào phủ Nghệ An và Diễn Châu; đến đời Quang Thuận (1460-1469) nhà Lê, đặt làm Nghệ An thừa tuyên. Nay là đất tỉnh Nghệ An. Chà Lê, theo Thông giám tập lãm, chú sông này ở phía Bắc nước Chiêm Thành. Nay chưa rõ đích xác. Thuộc Đường Cao Tông, niên hiệu Điều Lộ năm thứ nhất (679), nhà Đường đặt An Nam Đô hộ phủ, phủ lỵ ở Giao Châu, thống lãnh 12 châu, là Giao Châu, Lục Châu, Phong Châu, Ái Châu, Hoan Châu, Trường Châu, Phúc Lộc Châu, Thang Châu, Chi Châu, Vũ Nga Châu, Diễn Châu (nay vẫn theo tên cũ) và Vũ An Châu. Theo Địa lý chí trong Đường thư: Giao Châu thống lãnh 8 huyện, là Tống Bình, Nam Định, Thái Bình, Giao Chỉ, Chu Diên, Long Biên, Bình Đạo và Vũ Bình. Lục Châu, thững lãnh ba huyện, là Ô Lôi, Hoa Thanh và Ninh Hải. Phong Châu, thống lãnh 5 huyện [tờ 21a], là Gia Ninh, Thừa Hóa, Tân Xương, Cao Sơn và Chu Lục. Ái Châu, thống lãnh 6 huyện, là Cửu Chân, Yên Thuận, Sùng Bình, Quân Ninh, Nhật Nam và Trường Lâm. Hoan Châu, thống lãnh 4 huyện, là Cửu Đức, Phố Dương, Việt Thường và Hoài Hoan. Trường Châu, thống lãnh 4 huyện, là Văn Dương, Đồng Thái, Trường Sơn và Kỳ Thường. Phúc Lộc Châu, thống lãnh ba huyện, là Nhu Viễn, Đường Lâm và Phúc Lộc. Thang Châu, thống lãnh ba huyện, là Dương Tuyền, Lục Thủy và La Thiều. Chi Châu, thống lãnh 7 huyện, là Hân Thành, Phú Xuyên, Bình Tây, Lạc Quang, Lạc Diễm, Đa Vân và Tư Long. Vũ Nga Châu, thống lãnh 7 huyện, là Vũ Nga, Như Mã, Vũ Nghĩa, Vũ Di, Vũ Duyên, Vũ Lao và Lương Sơn. Diễn Châu, thống lãnh 7 huyện, là Trung Nghĩa, Hoài Hoan, Long Trì, Tư Nông, Vũ Lang, Vũ Dung và Vũ Kim. Vũ An Châu, thống lãnh hai huyện, là Vũ An, Lâm Giang. Nay xét Lục Châu, xưa thuộc quận Ninh Hải, tức nay thuộc tỉnh Quảng Yên. [tờ 21b]. Chi Châu, xưa là bộ Tân Hưng, nay là tỉnh Hưng Hóa. Thang Châu, xưa là bộ Vũ Định, nay là tỉnh Tuyên Quang. Vũ Nga Châu, xưa là bộ Vũ Định, nay là tỉnh Thái Nguyên. Xét như thế để thấy thời Hùng vương đã phân thành 15 bộ. Nguyễn Thiên Túng chú rằng: Thái Nguyên, Cao Bằng, xưa là bộ Vũ Định; Hưng Hóa, Tuyên Quang, xưa là bộ Tân Hưng, thì hơi khác, ngờ rằng Nguyễn Thiên Túng đã lầm. Thuộc Đường Đại Tông, niên hiệu Đại Lịch năm thứ 2 (767), người Côn Luân và Chà Bà đến cướp, nhà Đường sai Kinh lược sứ là Trương Bá Nghi đánh phá được chúng. Đắp La Thành. Theo Nam Man truyện trong Đường thư, Chà Bà là tên nước. Phía Đông, nước này tiếp giáp với Lục Chân Lạp, phía Tây tiếp giáp với Đông Thiên Trúc, phía Nam tiếp giáp biển, phía Bắc giáp Nam Chiếu, có 18 nước phụ thuộc. Lại có cả bộ Tiểu Côn Luân và Đại Côn Luân. Theo Quận quốc lợi bệnh thư của Cố Viễm Vũ [tờ 22a], nước Côn Luân nằm về phía Nam của nước Lâm Ấp. Căn cứ vào đó thì nước Chà Bà rộng lớn, gồm cả nước Tiêm La và Miến Điện, duy nước này không có gì thống thuộc, tùy từng xứ mà xưng hùng trưởng, đều lấy việc cướp bóc làm nghiệp. Nay đã bị các nước thôn tính, những xứ Tất Lực, Hạ Liêu, Giang Lưu Ba và Ma Lục Giáp đều bị người Tây Dương chiếm cứ. Người ta còn gọi người bản thổ là Chà Bà. Côn Luân lại là thuộc quốc của nước này. Nay thuộc hải phận Vĩnh Long còn có đảo Đại Côn Luân và Tiểu Côn Luân, người dân Hán đến đây định cư làm ăn, đã được nhiều đời. La Thành (theo biên chú vào niên hiệu Hàm Thông năm thứ 7 (866) thuộc Đường1, tức là Long Biên, do Trương Bá Nghi đời Đường đắp, Triệu Xương, Lý Nguyên Gia và Cao Biền tu sửa. Bên ngoài thành có sông Tô Lịch. Trước đây có người tên là Tô Lịch sinh sống ở đây, nên mới đặt tên sông như thế. [tờ 22b] Thuộc Đường Kính Tông, niên hiệu Bảo Lịch năm thứ nhất (825), dời phủ ly đô hộ đến Tống Bình. Tống Bình, là huyện Long Biên thời Hán, đầu thời Lưu Tống tách đặt làm huyện Tống Bình, đến đời Tùy thuộc vào Giao Châu, nhà Đường giữ nguyên theo nhà Tùy. Theo Nhất thống chí của nhà Thanh, huyện Tống Bình xưa thuộc vào Giao Châu, có thành cũ là Doanh (nay thuộc địa phận huyện Siêu Loại tỉnh Bắc Ninh), cách phía Tây của huyện 75 dặm. Thuộc Đường Tuyên Tông, niên hiệu Đại Trung thứ 12 (858), nước Chiêm Thành và Chân Lạp nối lại việc đi sứ, trả lại dân bị cướp trước đây. Chiêm Thành, đã chú ở phần thuộc Hùng vương. Chân Lạp, ở phía Nam của Lâm Ấp. Theo Đường thư, Chân Lạp còn có tên là Cát Miệt, vốn thuộc quốc của Phù Nam, sau đời Thần Long (705-706) đời Đường, chia làm 2, nửa về phía Bắc có nhiều núi đồi, gọi là Lục Chân Lạp, tức nay thuộc Cao Man; nửa còn lại về phía Nam giáp biển, có nhiều hồ đầm, gọi là Thủy Chân Lạp, nay là 6 tỉnh Nam Kỳ. ______________________________________ 1. Nguyên bản của dòng lưỡng cước chú này ghi: “Nguyên biên chú tại thuộc Đường Hàm Thông nguyên niên” là nhầm, vì năm này (860) chưa xảy ra sự kiện Cao Biền tu bổ La Thành. Chúng tôi sửa lại như trên cho hợp với sự kiện ghi trong chính sử. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Chín, 2008, 12:21:30 pm TIỀN BIÊN Quyển 5 [tờ 23a] Thủ lĩnh người Man của Nam Chiếu là Tù Long thăng chức cho Đoàn Tù Thiên làm Tiết độ sứ ở Thiện Xiển. Thiện Xiển, theo Nam Man truyện trong Đường thư: Thiện Xiển, là một kinh đô của Nam Chiếu, ở Về phía Tây Bắc của Giao Chỉ. Thuộc Đường Chiêu Tuyên đế, niên hiệu Thiên Hựu năm thứ 3 (906), nhà Đường sai Khúc Thừa Dụ, người Hồng Châu, lĩnh chức Tiết độ sứ. Hồng Châu, thời Lê là hai phủ Thượng Hồng và Hạ Hồng, nay thuộc hai phủ Bình Giang và Ninh Giang của tỉnh Hải Dương. Thuộc Tấn Cao Tổ, niên hiệu Thiên Phúc năm thứ 3 (938), Ngô chúa Quyền [Ngô Quyền], đánh Hoằng Tháo, con của chúa Nam Hán ở sông Bạch Đằng. Sông Bạch Đằng, xuất phát từ sông Lục Đầu của tỉnh Bắc Ninh, chảy đến xã Đoan Lễ, gọi là sông Bạch Đằng. Phía Nam sông giáp địa giới của huyện Thủy Đường tỉnh Hải Dương [tờ 23b]. Phía Bắc giáp địa giới huyện Yên Hưng của tỉnh Quảng Yên. Theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi: [sông này] còn có tên là Vân Cừ, rộng hơn hai dặm, có nhiều núi dựng đứng và nhiều sông giao nhau, sóng cồn giáp trời, hai bên bờ cây cối um tùm, thực là nơi hiểm yếu về đường biển. Trước là Ngô chúa Quyền đánh bại Hoằng Tháo, sau đến Hưng Đạo Vương đời Trần đánh bại quân Nguyên ở sông này. Nam Tấn Vương nhà Ngô, năm thứ nhất (951), Đinh Bộ Lĩnh khởi binh ở Hoa Lư. Hoa Lư, tại sơn phận hai xã Uy Viễn và Uy Tế thuộc tỉnh Ninh Bình. Đương Thái Tổ nhà Tống, niên hiệu Càn Đức năm thứ 4 (966), Mười hai sứ quân đua nhau nổi dậy: Trần Lãm chiếm cứ ở cửa biển Bố Hải; Kiều Công Hãn chiếm cứ ở Phong Châu; Nguyễn Khoan chiếm cứ ở Tam Đới; Ngô Nhật Khánh chiếm cứ ở Đường Lâm; Lý Khuê chiếm cứ ở Siêu Loại; Nguyễn Thủ Tiệp chiếm cứ ở Tiên Du; Lữ Đường chiếm cứ ở Tế Giang; Nguyễn Siêu chiếm cứ ở Tây Phù Liệt; Kiểu Thuận chiếm cứ [tờ 24a] ở Hồi Hồ; Phạm Bạch Hổ chiếm cứ ở Đằng Châu; Bọn Ngô Xương Xí, Đỗ Cảnh Thạc lại chiếm cứ ở sông Đỗ Đồng. Cửa biển Bố Hải, nay là xã Kỳ Bố huyện Vũ Tiên phủ Kiến Xương tỉnh Nam Định. Phong Châu, nay là huyện Vĩnh Tường tỉnh Sơn Tây. Tam Đới, cũng thuỷ phủ Vĩnh Tường. Đường Lâm, nay thuộc huyện Phúc Thọ tỉnh Sơn Tây. Tiên Du, tên huyện, thuộc tỉnh Bắc Ninh. Tế Giang, nay thuộc huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh. Tây Phù Liệt, nay là xã Phù Liệt huyện Thanh Trì tỉnh Hà Nội. Hồi Hồ, nay là huyện Cẩm Khê tỉnh Sơn Tây. [tờ 24b] Đằng Châu, nay là xã Đằng Châu huyện Kim Động tỉnh Hưng Yên. Sông Đỗ Đồng, thuộc huyện Thanh Oai CHÍNH BIÊN Quyển 1. Đinh Tiên Hoàng, năm thứ nhất (970), Đinh Bộ Lĩnh, người động Hoa Lư, châu Đại Hoàng lên ngôi Hoàng đế, lấy quốc hiệu là Đại Cồ Việt. Đại Hoàng, tên châu, nay thuộc huyện Gia Viễn tỉnh Ninh Bình. Ngô Nhật Khánh đưa người Chiêm Thành vào cướp, đến cửa biển Tiểu Khang bị gió đánh đắm thuyền rồi chết. Cửa biển Tiểu Khang, tại địa phận huyện Yên Mô tỉnh Ninh Bình. Nay là cửa Cờn. Nhà Tống sai Hầu Nhân Bảo đốc suất quân lính, hẹn ngày cùng sang xâm lược. Quan trấn giữ Lạng Châu biết tin, tâu về triều. Lạng Châu, nhà Tiền Lê, nhà Lý đặt làm lộ, thời Trần đặt làm lộ Lạng Giang. Nay thuộc tỉnh Lạng Sơn. [tờ 25a]. Hầu Nhân Bảo kéo quân đến Lạng Sơn, sông Chi Lăng. Lạng Sơn, xưa là bộ Lục Hải; thời Hán thuộc về Giao Chỉ; thời Đường thuộc về Giao Châu; thời Đinh chia làm đạo Lạng Sơn, lại gọi là Lạng Châu; thời Tiền Lê, Lý đặt làm lộ; nhà Trần đặt làm lộ Lạng Giang; thời Lê đặt làm Lạng Sơn thừa tuyên. Nay là tỉnh Lạng Sơn. Sông Chi Lăng, ở xã Chi Lăng thuộc Ôn Châu phủ Trường Khánh. Lê Đại Hành đánh Chiêm Thành, theo đường đến núi Đồng Cổ sông Bà Hòa. Núi Đồng Cổ, ở địa phận xã Đan Nê huyện Yên Định tỉnh Thanh Hóa. Sông Bà Hòa, ở huyện Ngọc Sơn tỉnh Thanh Hóa. Nay là sông xã Đồng Hòa. Lê Đại Hành dựng điện ở núi Đại Vân. Núi Đại Vân, tại thành Hoa Lư, nay là xã Trường Yên. [tờ 25b] Lê Đại Hành cày tịch điền ở Đọi Sơn. Đọi Sơn, còn có tên là núi Long Đọi, tại xã Đọi Sơn huyện Duy Tiên tỉnh Hà Nội. Nhà Lê [Đại Hành] sai Đinh Thừa Chính đón tiếp sứ giả nhà Tống ở Thái Bình quân. Thái Bình quân, là đất Tượng Quận nhà Đường, là huyện Hợp Phố của nhà Hán; đến nhà Tống đặt làm Thái Bình quân, rồi lại đặt làm Liêm Châu; nhà Thanh giữ nguyên làm Liêm Châu. Các con Lê Đại Hành, như Long Kính thụ phong ở Mạt Liên1; Long Mang thụ phong ở Vũ Lũng; Long Đề thụ phong ở Cổ Lãm; người con nghĩa thụ phong ở Phù Đới. Mạt Liên, tên huyện, nay thuộc huyện Tiên Lữ tỉnh Hưng Yên. Vũ Lũng, tên châu, thuộc tỉnh Thanh Hóa (nay chưa khảo rõ). Cổ Lãm, nay thuộc huyện Đông Ngàn tỉnh Bắc Ninh. Phù Đới, nay là tên xã thuộc huyện Vĩnh Lại tỉnh Hải Dương. [tờ 26a] Lê [Đại Hành] phóng thích người nước Chiêm, trả họ về châu Ô Lý. Châu Ô Lý, xưa là đất Việt Thường; nhà Tần đặt làm Tượng Quận; nhà Hán đặt làm quận Nhật Nam; nhà Đường đặt làm Cảnh Châu; thời nhà Tống, phía Bắc Chiêm Thành gọi châu Ô Lý; đến khoảng niên hiệu Hưng Long (1293-1314) nhà Trần, chúa Chiêm Thành dâng châu đó cho nhà Trần; nhà Trần đổi thành hai châu là Thuận Châu và Hóa Châu; thời thuộc Minh đặt làm phủ Thuận Hóa, lấy Thuận Châu và Hóa Châu lệ vào phủ này; nhà Lê đặt làm Thuận Hóa thừa tuyên. Nay là phần đất huyện Đăng Xương và huyện Hải Lăng của tỉnh Quảng Trị và huyện Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà của tỉnh Thừa Thiên, đây vốn là đất của Thuận Hóa xưa. Huyện Phú Lộc và Phú Vang của tỉnh Thừa Thiên và huyện Diên Phúc, Hoà Vang của tỉnh Quảng Nam, đây vốn là đất của Hóa Châu xưa. Lê Đại Hành bảo sứ giả nước Tống là Lý Nhược Thuyết rằng: “Trước đây xảy ra cướp bóc ở trấn Như Hồng và Như Tích là do giặc ở ngoài biên giới, giả sử Giao Châu nổi lên chống lại thì trước tiên kéo sang Quảng Châu, sau đến Mân Châu, há đâu chỉ nhằm vào trấn Như Hồng, Như Tích mà thôi?” [tờ 26b] Như Hồng, Như Tích là hai trấn, đều thuộc Khâm Châu. Mân Châu, nay thuộc Phúc Kiến thống bộ. Vua Lê Đại Hành đánh giặc Hà Động, dẹp yên được chúng. Hà Động, tức động Hà Nam, nay là đất huyện Thạch Thành tỉnh Thanh Hoá. Vua Đinh, tên là Toàn mất ở Cử Long. Cử Long, tên dân tộc Mán bị nhà Lý tiêu diệt. Niên hiệu Thuận Thiên (1428-1433) nhà Lê, đặt là huyện Lạc Thủy, đến niên hiệu Quang Thuận (1460-1469) đổi là huyện Cẩm Thủy. Nay vẫn giữ nguyên tên như thế, thuộc tỉnh Thanh Hóa (nguyên chú thấy vào niên hiệu Ứng Thiên năm thứ 8 (1001), đời Lê Đại Hành). Vua Lê là Long Việt bị người Thạch Hà giết chết. Thạch Hà, tên châu, nhà Lý đổi làm huyện; nhà Trần đổi làm châu Nhật Nam; thời thuộc Minh đổi làm châu Nam Tĩnh; nhà Lê lại đặt làm huyện Thạch Hà. Nay vẫn tên như thế, thuộc tỉnh Hà Tĩnh. [tờ 27a] Vua Lê là Long Đĩnh đích thân đánh người Mán Cử Long, cho quân trú ở cửa biển Thần Đầu. Cửa biển Thần Đầu, tại địa phận huyện Yên Mô tỉnh Ninh Bình, nhà Lê đổi là Thần Phù. Nay là cửa Chính Đại. Hoàng Khánh Tập dâng sớ thỉnh vua Tống, xin dùng đồn binh Quảng Nam để tiến đánh Giao Chỉ. Quảng Nam, thời Ngũ Đại (907-959), thuộc đất Nam Hán; nhà Tống đặt làm Quảng Nam Đông lộ và Quảng Nam Tây lộ; nhà Nguyên hợp lại đặt thành đạo Quảng Đông; nhà Minh đổi là tỉnh; nhà Thanh cũng giữ nguyên tên như nhà Minh. _______________________________________ 1. Chính sử ghi là Mạt Liên, đây ghi là Vị Liên. Chữ Mạt và chữ Vị có tự dạng giống nhau nên dễ nhầm, ở đây sửa lại như trên cho hợp với chính sử. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Chín, 2008, 12:53:27 pm CHÍNH BIÊN Quyển 2 Vua Lê, tên huý là Long Đĩnh, niên hiệu Cảnh Thuỵ năm thứ nhất (1008), xuống chiếu cho quân dân đào cảng Ái Châu, từ cửa ải Chi Long qua núi Đính Sơn đến sông Vũ Lũng. [tờ 27b] Ái Châu, tức Thanh Hoá. Cửa ải Chi Long, nay tại huyện Nga Sơn. Vũ Lũng (theo nguyên chú thấy vào niên hiệu Hưng Thống năm thứ 4 (992) đời Lê Đại Hành), là tên châu. Niên hiệu Cảnh Thuỵ năm thứ 2 (1009), vua đích thân đi đánh các châu Hoan Đường và Thạch Hà. Hoan Đường, thuộc đất Hoan Châu, thời Đinh, Lê đặt làm châu Hoan Đường; thời thuộc Minh, đổi là Thạch Đường; thời Hậu Lê, đổi là huyện Nam Đường. Nay vẫn là huyện Nam Đường thuộc tỉnh Nghệ An. Thạch Hà (theo nguyên chú thấy vào niên hiệu Ứng Thiên năm thứ 12 (1005) đời Lê Đại Hành, là tên huyện, thuộc tỉnh Hà Tĩnh. Người Diên Uẩn, Cổ Pháp, Bắc Giang là Lý Công Uẩn tự lập làm vua. Bắc Giang, tức Kinh Bắc (thấy chú vào niên hiệu Quang Thuận thứ 10 (1469), đời Lê Thánh Tông. Cổ Pháp, tên châu. Từ thời Đinh trở về trước là châu Cổ Lãm; đến thời Tiền Lê đổi là Cổ Pháp; nhà Lý đặt lên làm phủ Thiên Đức [tờ 28a]; nhà Trần đổi là huyện Đông Ngàn; nhà Hậu Lê giữ nguyên tên như thế. Nay là đất huyện Đông Ngàn tỉnh Bắc Ninh. Diên Uẩn, tên hương, thuộc châu Cổ Pháp. Lý Thái Tông, niên hiệu Thuận Thiên năm thứ nhất (1010), dời đô đến thành Thăng Long. Thành Thăng Long, theo Hà Nội sách, thời Lý là thành Thăng Long, thời Trần đổi là Đông Đô; thời thuộc Minh là thành Đông Quan; nhà Lê là Đông Kinh; niên hiệu Gia Long năm thứ 4 (1805) nhà Nguyễn, đổi lại là Thăng Long. Nay là tỉnh thành Hà Nội. Đổi thành Hoa Lư làm phủ Trường Yên, đổi sông Bắc Giang thành sông Thiên Đức. Phủ Trường Yên, do nhà Lý đặt, nhà Trần giữ theo tên cũ, nay là phủ Yên Khánh tỉnh Ninh Bình. Sông Thiên Đức, là một nhánh của sông Nhĩ Hà, còn có tên là Diên Uẩn, lại có tên là sông Đông Ngàn, chảy qua hai huyện Đông Ngàn và Quế Dương, nhập vào sông Lục Đầu. Nay là sông Thiên Đức của tỉnh Bắc Ninh. [tờ 28b] [Lý Thái Tổ] niên hiệu Thuận Thiên năm thứ 2 (1011) dựng điện Hàm Quang ở bến sông Phú Lương. Sông Phú Lương, phía trên tiếp giáp sông Bạch Hạc tỉnh Sơn Tây, phía dưới thông với sông Đại Hoàng của tỉnh Nam Định, chạy ra biển. Nay là sông Nhĩ Hà của tỉnh Hà Nội. [Lý Thái Tổ] niên hiệu Thuận Thiên năm thứ 3 (1012), vua đích thân đi đánh Diễn Châu, trở về đến cửa Biện. Diễn Châu, nay là tên phủ thuộc tỉnh Nghệ An. Cửa Biện, nay là cửa Biện thuộc địa giới huyện Ngọc Sơn tỉnh Thanh Hoá. [Lý Thái Tổ] niên hiệu Thuận Thiên năm thứ 4 (1013), vua đích thân đi đánh Châu mục Vị Long. Vị Long, tên châu. Thời Đinh, Lê gọi là Vị Long; thời Lý, Trần vẫn gọi theo tên như thế, thời thuộc Minh đổi là Đại Man; thời Hậu Lê vẫn dùng tên như thời thuộc Minh. Nay là châu Chiêm Hoá tỉnh Tuyên Quang. [tờ 29a] [Lý Thái Tổ] niên hiệu Thuận Thiên năm thứ 5 (1014), người Mán ở Hạc Thác vào cướp. Theo Minh sử, Hạc Thác cũng có tên là Nam Chiếu. Đổi phủ Ứng Thiên thành Nam Kinh. Phủ Ứng Thiên, thời thuộc Minh là phủ Ứng Bình, thời Hậu Lê là phủ Ứng Thiên. Nay là phủ Ứng Hoà thuộc tỉnh Hà Nội. [Lý Thái Tổ] niên hiệu Thuận Thiên thứ 7 (1016), sai Dực Thánh vương đánh Trắc Tuấn ở các châu Đô Kim và Bình Nguyên. Đô Kim, theo Đường thư địa lý chí, nhà Đường đặt ra châu Kim Đô. Nay là phần đất tổng Đô Kim huyện Hàm Yên tỉnh Tuyên Quang. Bình Nguyên, từ thời thuộc Minh về trước là châu; nhà Lê đổi là châu Vị Xuyên. Nay là châu Vị Xuyên tỉnh Tuyên Quang. [Lý Thái Tổ] niên hiệu Thuận Thiên năm thứ 13 (1022), sai Dực Thánh vương đánh Đại Nguyên Lịch, phá được chúng. [tờ 29b] Đại Nguyên Lịch, theo sử cũ chú là người Mán, ở khoảng giữa trại Như Hồng và trấn Triều Dương, cách châu Vĩnh An của Giao Chỉ 20 dặm Triều Dương, xưa là bộ Ninh Hải, thời Đinh, Lê gọi là trấn Triều Dương; thời Lý đổi là châu Vĩnh An; thời Trần đổi là lộ Hải Đông; thời thuộc Minh là châu Tĩnh An; thời Lê thuộc Yên Bang. Nay là đất các châu Tiên Yên và Vạn Ninh của tỉnh Quảng Yên. [Lý Thái Tổ] niên hiệu Thuận Thiên thứ 18 (1027), xuống chiếu cho Khai Thiên Vương [Phật Mã] đánh châu Thất Nguyên; Đông Chinh Vương [Lực] đi đánh Văn Châu. Châu Thất Nguyên, thuộc tỉnh Lạng Sơn. Thời Lý đặt làm châu Thất Nguyên; thời Lê đổi là châu Thất Tuyền. Nay là huyện Thất Khê. Văn Châu, thuộc Lạng Sơn. Thời Lý đặt làm Văn Châu; thời thuộc Minh, chia làm châu Thượng Văn và Hạ Văn; thời Hậu Lê gọi là châu Văn Uyên. Nay vẫn giữ nguyên như thế. Lý Thái Tông, niên hiệu Thiên Thành năm thứ nhất (1028), hội họp quần thần tuyên thệ ở miếu núi Đồng Cổ. [tờ 30a] Núi Đồng Cổ (chú tại mục niên hiệu Thiên Phúc năm thứ 4 (983) đời Lê Đại Hành). [Lý Thái Tông] niên hiệu Thiên Thành năm thứ 6 (1033), vua đích thân đi đánh giặc ở châu Chân Đăng; dẹp yên dược giặc ở châu Định Nguyên. Châu Chân Đăng, thuộc Sơn Tây. Nay là phủ Lâm Thao. [Lý Thái Tông] niên hiệu Thông Thuỵ năm thứ 4 (1037), vua đích thân đi đánh giặc ở Lâm Tây. Lâm Tây, thuộc tỉnh Hưng Hoá. Nhà Lý đặt làm đạo Lâm An; nhà Trần đặt làm đạo Đà Giang; thời thuộc Minh đặt làm châu Gia Hưng; thời Lê đổi làm phủ Gia Hưng. Nay vẫn là phủ Gia Hưng. [Lý Thái Tông] niên hiệu Thông Thuỵ năm thứ 5 (1038), thủ lĩnh Thảng Do là Nùng Tồn Phúc chiếm đất Vạn Nhai, Vũ Lặc, tiếm xưng là Hoàng đế. Thảng Do, tên châu. Theo Độc sử phương dư kỷ yếu của Cố Tổ Vũ, châu Thảng Do tiếp giáp địa giới châu Quảng Nguyên (Quảng Nguyên thuộc tỉnh Cao Bằng; thời thuộc Minh đặt làm châu Quảng Uyên; thời Lê đặt làm châu Lộng Nguyên. Nay là châu Quảng Uyên) [tờ 30b] Châu Vạn Nhai, thuộc tỉnh Thái Nguyên. Thời thuộc Minh là châu Vũ Lễ; thời Lê là Vũ Nhai. Nay cũng là châu Vũ Nhai. Vũ Lặc, theo Đường thư địa lý chí, nhà Đường đặt thành châu Lung, thống lãnh huyện Vũ Lặc; Thảng Do và Vũ Lặc, hiện thuộc địa hạt tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn, trải các đời đã phân chia lệ thuộc ra sao hiện chưa khảo được. [Lý Thái Tông] niên hiệu Càn Phù Hữu Đạo năm thứ nhất (1039), Thủ lĩnh Tây Nông là Hà Văn Trinh đem việc làm phản của Tồn Phúc tâu lên, vua đích thân làm tướng đi đánh dẹp. Tây Nông, thuộc tỉnh Thái Nguyên, nay là huyện Tư Nông. [Lý Thái Tông] niên hiệu Càn Phù Hữu Đạo năm thứ 2 (1040), người ở động Vũ Kiến dâng vàng sống. Người châu Lộng Thạch và Định Biên đều nói ở hai châu này có hiện ra khí sắc trắng như bạc. Động Vũ Kiến, thuộc châu Quảng Nguyên. Lộng Thạch, thuộc tỉnh Lạng Sơn. Định Biên, thuộc tỉnh Cao Bằng. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Chín, 2008, 11:00:56 pm CHÍNH BIÊN Quyển 3 [tờ 31a] [Lý Thái Tông] niên hiệu Càn Phù Hữu Đạo năm thứ 3 (1041), vua trao cho Nùng Trí Cao chức Châu mục Quảng Nguyên, lấy lại các động Lôi Hỏa và Tư Lang phụ vào địa hạt của Nùng Trí Cao. Động Lôi Hoả, theo Độc sử phương dư kỷ yếu của Cố Tổ Vũ, động Lôi Hoả tại phía Tây Bắc phủ Lạng Sơn, nằm khoảng giữa hai châu Quảng Nguyên và Thảng Do. Nay thay đổi thế nào chưa rõ. Châu Tư Lang, ban đầu lệ vào tỉnh Thái Nguyên, nay thuộc tỉnh Cao Bằng. Thời Lý đặt làm châu Tư Lang; thời thuộc Minh đặt làm Thượng Tư Lang và Hạ Tư Lang; nhà Lê đổi làm Thượng Lang và Hạ Lang. Nay là hai huyện Thượng Lang và Hạ Lang. [Lý Thái Tông] niên hiệu Thiên Cảm Thánh Vũ năm thứ nhất (1044), vua tự làm tướng đi đánh Chiêm Thành, khi thuyền đến cửa biển Đại Ác (tức cửa biển Đại Nha), bỗng sóng gió ngừng bặt, vua sai đổi tên từ Đại Ác thành Đại An. Đến núi Ma Cô, qua vụng Não Hà, thấy có đám mây che trên thuyền ngự, nên thuyền vượt qua hai đảo Đại Trường Sa và Tiểu Trường Sa, tiến thẳng đến cửa biển Ô Long. Chúa Chiêm bày trận tại bờ Nam sông Ngũ Bồ. Vua ở bờ Bắc đốc thúc quân đi tắt qua sông đánh dịch, lại cho quân đánh vào thành Phật Thệ, bắt được chúa Chiêm là Sạ Đẩu, rồi cho rút quân. Núi Ma Cô, còn có tên là núi Lễ Đễ, ở ngoài biển thuộc địa phận huyện Kỳ Anh tỉnh Hà Tĩnh. Hai đảo Đại Trường Sa và Tiểu Trường Sa, theo Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn, hai đảo nằm ven biển, từ cửa biển Nhật Lệ đến cửa biển Minh Linh, gọi là Đại Trường Sa; từ phía Nam cửa biển Việt Hải đến cửa biển Tư Dung, gọi là Tiểu Trường Sa. Cửa biển Ô Long, tại phía Đông Nam của huyện Phú Vang, thuộc tỉnh Thừa Thiên. Thời Lý gọi là Ô Long; thời Trần gọi là Tư Dung; thời Mạc gọi là Tư Khách. Nay là cửa biển Tư Hiền. [tờ 32b] Thành Phật Thệ, theo mục An Nam cổ tích trong Nhất thống chí của nhà Thanh, thành Phật Thệ là kinh đô cũ của vua Chiêm. Nay là địa phận xã Nguyệt Biều huyện Hương Thuỷ tỉnh Thừa Thiên. Vua xuống chiếu cho trấn Vĩnh Khang và Đăng Châu, mỗi nơi đặt làng xóm, phỏng theo như tên gọi cũ của Chiêm Thành để cho người Chiêm nhận theo bộ thuộc, nhận lấy mà ở. Vĩnh Khang, thuộc tỉnh Nghệ An. Nay là huyện Vĩnh Hoà phủ Tương Dương. Đăng Châu, thuộc tỉnh Hưng Hoá. Thời Lý đặt làm Đăng Châu; thời Trần đặt là trấn Thiên Hưng; thời thuộc Minh đặt làm châu Quy Hoá; thời Lê đổi làm phủ. Nay là phủ Quy Hoá [Lý Thái Tông] niên hiệu Sùng Hưng Đại Bảo năm thứ 3 (1051), đào kênh Lẫm. [tờ 32b] Kênh Lẫm, tại huyện Tống Sơn tỉnh Thanh Hoá. [Lý Thái Tông] niên hiệu Sùng Hưng Đại Bảo năm thứ 5 (1053), Dư Tĩnh nhà Tống chiêu mộ những kẻ cảm tử cho vào Đại Lý để lùng tìm Nùng Trí Cao, nhưng Trí Cao đã chết, đầu hắn bỏ vào hòm đưa về kinh dô. Họ Nùng bị diệt. Đại Lý, tên nước. Theo mục Vân Nam thổ ty truyện trong Minh sử, Đại Lý là đất của huyện Diệp Du nhà Đường. Vào niên hiệu Khai Nguyên (713-741) đời Đường, Bì La Các, người Mông Chiếu đóng đô ở đây, gọi là Nam Chiếu, đặt quốc hiệu là Đại Mông, sau đó đổi là Đại Lễ. Đến thời Ngũ Đại (907-959) nhà Tấn, Đoàn Tư Bình chiếm được đất này, đổi là nước Đại Lý. Khoảng niên hiệu Hồng Vũ (1368-1398) nhà Minh, Đoàn Thế bị bắt, mới đổi nước này làm phủ Đại Lý, đặt ra vệ quan và thiết lập Chỉ huy sứ ty, lệ vào tỉnh Vân Nam. [Lý Thánh Tông] niên hiệu Long Thuỵ Thái Bình năm thứ 3 (1056), dựng chùa Sùng Khánh ở phường Báo Thiên. [tờ 33a] Phường Báo Thiên, tại thôn Tiên Thị huyện Thọ Xương tỉnh Hà Nội. [Lý Thái Tông] niên hiệu Long Chương Thiên Tự năm thứ 2 (1067), Ngưu Hống đến cống. Ngưu Hống, tên một dân tộc Mán. Theo Hưng Hoá phong thổ ký của Hoàng Trọng Chính, ngôn ngữ văn tự của người Ngưu Hống giống với ngôn ngữ văn tự của người Ai Lao. Nay Ngưu Hống đã sáp nhập vào bản đồ nước ta thuộc đất Yên Châu tỉnh Hưng Hoá. [Lý Thái Tông] niên hiệu Thần Vũ năm thứ nhất (1070), chúa nước Chiêm Thành là Chế Củ hiến ba châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính để xin về nước. Vua y cho. Châu Địa Lý, xưa là đất Việt Thường. Thời Hán thuộc quận Nhật Nam; thời Tống là châu Địa Lý của nước Chiêm Thành; đến nhà Lý đổi là châu Lâm Bình; nhà Trần đổi là Tân Bình; nhà Lê đổi là Tiên Bình. Nay là phủ Quảng Ninh tỉnh Quảng Bình. Châu Ma Linh, xưa là đất Việt Thường. Thời Hán thuộc quận Nhật Nam thời Tống là châu Ma Linh của nước Chiêm Thành [tờ33b]; đến thời Lý, đổi là châu Minh Linh; thời thuộc Minh đổi là châu Nam Linh; thời Lê đặt làm huyện. Nay là phần đất hai huyện Minh Linh và Do Linh tỉnh Quảng Trị. Châu Bố Chính, xưa là châu Bố Chính. Thời Hán là huyện Thọ Linh, lệ vào quận Nhật Nam; nhà Tống đặt làm châu Bố Chính thuộc nước Chiêm Thành; nhà Lý giữ theo như nhà Tống; thời thuộc Minh, đổi làm châu Trấn Bình; nhà Lê chia làm hai châu Bố Chính Nam và Bố Chính Bắc. Nay là địa phận của huyện Bình Chính, Minh Chính và Bố Trạch tỉnh Quảng Bình. Lý Nhân Tông, niên hiệu Thái Ninh năm thứ 2 (1073), cầu tạnh nắng ở thần núi Tản Viên. Núi Tản Viên, tại huyện Bất Bạt tỉnh Sơn Tây, thần tên Hương Lang, là con của Lạc Long Quân. [Lý Nhân Tông] niên hiệu Thái Ninh năm thứ 4 (1075), bắt đầu khảo thi học trò bằng ba kỳ thi. Lê Văn Thịnh, người Đông Cứu Gia Định đỗ đầu. Gia Định, nay là huyện Gia Bình tỉnh Bắc Ninh. [tờ 34a] [Lý Nhân Tông] niên hiệu Anh Vũ Chiêu Thắng năm thứ nhất (1076), quân nhà Tống sang xâm lược, vua sai Lý Thường Kiệt mang quân đón đánh ở sông Như Nguyệt, quân Tống rút lui, chiếm lấy các châu huyện Tô Châu, Quang Lang rồi kéo quân về. Sông Như Nguyệt, ở phía Đông Bắc huyện Yên Phong tỉnh Bắc Ninh, gần đó có xã Như Nguyệt, nên gọi tên như vậy. Hai châu: Tô Châu và Mậu Châu, ứng với địa giới của hai tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn ngày nay. Quang Lang, tên huyện. Thời Lý đặt làm huyện; thời Trần đặt làm châu Khâu Ôn. Nay là Ôn Châu tỉnh Lạng Sơn. [Lý Nhân Tông] niên hiệu Anh Vũ Chiêu Thắng năm thứ 9 (1084), nhà Tống lấy 6 huyện Bảo Lạc trả lại cho ta. Bảo Lạc, thuộc tỉnh Tuyên Quang, nay là đất hai huyện Vĩnh Điện và Để Định. [Lý Nhân Tông] niên hiệu Quảng Hựu năm thứ 5 (1089), đào sông Lãnh Kinh. Sông Lãnh Kinh, theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi, thuộc tỉnh Thái Nguyên. Nay chưa rõ đích xác. [tờ 34b] Vua đến núi Long Thủy Hiệp xem săn voi. Núi Long Thuỷ Hiệp, tại châu Đà Bắc tỉnh Hưng Hoá. Nay là núi Long Môn. [Lý Nhân Tông] niên hiệu Hội Phong năm thứ 5 (1096), Thái sư Lê Văn Thịnh mưu phản, đày đi an trí ở Thao Giang. Thao Giang, tại địa phận huyện Tam Nông tỉnh Hưng Hoá. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Chín, 2008, 11:29:52 pm CHÍNH BIÊN. Quyển 4 [Lý Nhân Tông] niên hiệu Hội Tường Đại Khánh năm thứ 8 (1117), vua đi Ứng Phong xem xét việc cày ruộng. Ứng Phong, thuộc tỉnh Nam Định. Xưa là huyện Hiển Khánh; thời Lý đổi là Ứng Phong; thời Lê đặt là phủ Nghĩa Hưng. Nay cũng là phủ Nghĩa Hưng. [Lý Nhân Tông] niên hiệu Hội Tường Đại Khánh năm thứ 10 (1119), vua tự làm tướng đích thân đi đánh giặc ở Ma Sa. [tờ 35a] Ma Sa, tên động. Nay là đất châu Đà Bắc tỉnh Hưng Hoá. [Lý Nhân Tông] niên hiệu Thiên Phù Duệ Vũ năm thứ 6 (1125), rồng vàng hiện ở hành cung Lợi Nhân. Lợi Nhân, tên châu. Niên hiệu Quang Thuận (1460-1469) triều Lê, đổi làm phủ Lỵ Nhân, nay là phủ Lý Nhân thuộc tỉnh Hà Nội. [Lý Thần Tông] niên hiệu Thiên Thuận năm thứ nhất (1128), vua ngự giá đi Na Ngạn. Na Ngạn, nay là huyện Lục Ngạn tỉnh Bắc Ninh. [Lý Nhân Tông] niên hiệu Thiên Thuận năm thứ 2 (1129), Để Giang có con hươu trắng. Để Giang, tên huyện, thuộc tỉnh Sơn Tây. Từ thời Trần trở về trước gọi là Để Giang; thời Lê đổi là huyện Sơn Dương. Nay cũng là huyện Sơn Dương. Lý Anh Tông, niên hiệu Đại Định năm thứ 2 (1141), Thân Lợi chiếm giữ ở Tây Nông, sai người các xứ Thượng Nguyên, Tuyên Hoá, Cảm Hoá, Vĩnh Thông đánh phá Phú Lương [tờ 35b]. Phú Lương, thời Lý đặt làm phủ. Thời Lê đổi làm huyện. Nay vẫn là huyện Phú Lương. Tuyên Hoá, thời Lý đặt làm huyện. Thời Lê đổi làm châu Định Hoá. Nay là Định Châu. Cảm Hoá, nay theo cũ cũng là tên huyện. Vĩnh Thông, nay là châu Bạch Thông. Các xứ này đều thuộc tỉnh Thái Nguyên. [Lý Anh Tông] niên hiệu Đại Định năm thứ 10 (1149), vua thấy thuyền buôn của các nước Qua Oa và Tiêm La tụ nhiều ở Hải Đông, bèn cho lập trang ở đảo để họ cư trú, gọi là trang Vân Đồn. Qua Oa, theo Minh sử, là tên nước, ở về phía Tây Nam nước Chiêm Thành, còn có tên là Hạ Cảng, hoặc có tên là Thuận Tháp. Tính tình người nước đó hung bạo, người lớn, người bé đều giắt dao, hễ tức giận là đánh nhau. Điều mà sách Phật gọi là nước Quỷ, cũng chính là nước này. [tờ 36a] Tiêm La, theo Nhất thống chí của nhà Thanh: thời nhà Tuỳ, Đường là nước Xích Thổ, nằm ở phía Tây Nam nước Chiêm Thành, là một tộc loại của nước Phù Nam. Về sau, chia làm hai nước là Tiêm và La Hộc. Vào niên hiệu Nguyên Trinh (1295-1296) nhà Nguyên, hai nước này đi cống sang nhà Minh. Sau đó nước La Hộc thôn tính đất Tiêm, đặt tên là nước Tiêm La Hộc. Vào đầu niên hiệu Hồng Vũ (1368-1398) thời Minh, Tiêm La Hộc đến chầu, vua Minh ban cho ấn “ Tiêm La quốc vương”. Từ đây mới gọi là nước Tiêm. Hải Đông, tức Yên Bang, nay là tỉnh Quảng Yên. Vân Đồn, nay là phần đất tổng Vân Hải huyện Nghiêu Tư tỉnh Quảng Đông. CHÍNH BIÊN. Quyển 5 [Lý Anh Tông] niên hiệu Đại Định năm thứ 11 (1150), người nước Chân Lạp vào cướp, đến núi Vụ Thấp, Nghệ An. Núi Vụ Thấp, theo Nghệ An chí, núi này còn có tên là núi Vụ Ôn, ở địa phận huyện Hương Sơn, là một nhánh của núi Vũ Môn. [tờ 36b] [Lý Anh Tông] niên hiệu Đại Định năm thứ 17 (1156), dựng hành cung ở Ngự Thiên. Ngự Thiên, tên huyện. Thời thuộc Minh là huyện Tân Hoá. Thời Lê gọi lại là huyện Ngự Thiên. Nay là huyện Hưng Nhân tỉnh Hưng Yên. Nhà Tống Sách phong cho vua là An Nam Quốc Vương. Theo Nguyên sử loại biên: An Nam, xưa gọi là Giao Chỉ. Thời Đường đặt làm An Nam Đô hộ phủ. Tên An Nam bắt đầu có từ đó. Tống Hiến Tông phong Thiên Tộ là An Nam Quốc Vương, thì tên An Nam có từ đây. Theo Sử ký của Ngô Thì Sĩ: nhà Tống từ khi vượt xuống phía Nam, mỗi khi sứ ta đi cống, tất chỉ giao cống phẩm ở Quảng Tây, chưa từng đến kinh đô của nhà Tống, mà cũng chưa lần nào đi đủ ba sứ thần. Đến năm nay là kỳ đưa lễ cống, vua đưa thư sang nhà Tống [tờ 37a] xin nhà Tống đưa sứ giả đến cung khuyết, lại đủ cả ba sứ thần. Vua Tống đồng ý. Lại còn khen nhân vật của nước ta ôn hòa, mũ áo chỉnh tề, mới ban cho tên nước là như thế [Lý Anh Tông] niên hiệu Chính Long Bảo Ứng năm thứ 2 (1164), người Cổ Hoằng Thanh Hóa nổi loạn, vua sai đánh dẹp được yên. Cổ Hoằng, tên giáp, nay là huyện Hoằng Hóa. Lý Cao Tông, niên hiệu Thiên Gia Bảo Hựu năm thứ 2 (1203), Bố Trì, người nước Chiêm đỗ thuyền ở cửa biển Cơ La. Cửa biển Cơ La, nay là cửa Nhượng, thuộc huyện Kỳ Anh tỉnh Hà Tĩnh. Phí Lang, người Đại Hoàng làm loạn, vua sai Thượng thư Từ Anh Nhĩ đi đánh dẹp ở sông Lộ Bố. Sông Lộ Bố, tại địa giới huyện Ý Yên. [Lý Anh Tông] niên hiệu Thiên Gia Bảo Hựu năm thứ 4 (1205), Phạm Du, tri Nghệ An quân làm phản, vua sai hoạn quan Phạm Bỉnh Di đốc suất người ở Khoái Châu đi đánh. Khi trở về, bị giặc nói gièm pha, vua bèn giết chết. Quách Bốc, bộ tướng của Bỉnh Di nổi loạn, vua lánh ở Quy Hóa. Khoái Châu, nguyên là đất Đằng Châu. Nhà Lý chia làm châu Khoái. Nhà Trần gọi là lộ Khoái Châu. Nay là phủ Khoái Châu tỉnh Hưng Yên. Sông Quy Hoá, còn có tên là sông Thao, tại phía Bắc huyện Tam Nông tỉnh Hưng Hoá. Thái Tử Sảm đến thôn Lưu Gia ở Hải Ấp, gặp con gái của Trần Lý, lấy làm vợ. Thôn Lưu Gia, nay là xã Lưu Xá huyện Hưng Nhân. Lý Huệ Tông, niên hiệu Kiến Gia năm thứ 8 (1218), người Mán ở Quảng Oai làm phản. Quảng Oai, thời Lý đặt làm châu, nay là phủ Quảng Oai tỉnh Sơn Tây. [tờ 38a] [Lý Huệ Tông] niên hiệu Kiến Gia năm thứ 10 (1220), Nguyễn Nộn chiếm cứ ở Phù Đổng, tự xưng là Hoài Đạo Vương. Phù Đổng, tên hương, nay là xã Phù Đổng huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Chín, 2008, 11:36:31 pm CHÍNH BIÊN Quyển 6 Trần Thái Tông, niên hiệu Kiến Trung năm thứ 2 (1226), Tổ của nhà Trần, là người Tức Mặc. Tức Mặc, tên hương, nay là tên xã, thuộc huyện Mỹ Lộc phủ Xuân Trường tỉnh Nam Định. [ Trần Thái Tông] niên hiệu Kiến Trung năm thứ 4 (1228), Đoàn Thượng chiếm cứ ở Yên Nhân. Đường Hào. Đường Hào, tên huyện. Yên Nhân, tên xã. Huyện Đường Hào và xã Yên Nhân đều thuộc tỉnh Hải Dương. [ Trần Thái Tông] niên hiệu Kiến Trung năm thứ 7 (1231), đào hai sông là Trần và Hào Hai sông Trần và Hào, đều thuộc huyện Ngọc Sơn tỉnh Thanh Hoá. [tờ 38b] [ Trần Thái Tông] niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình năm thứ nhất (1232), phong cho em là Bà Liệt làm Hoài Đức vương. Bà Liệt, tên người, người huyện Tây Chân (từ thời Trần trở về trước, Tây Chân là tên huyện. Thời Lê đổi là huyện Nam Chân. Nay cũng là huyện Nam Chân, thuộc phủ Xuân Trường tỉnh Nam Định). [ Trần Thái Tông] niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 6 (1237), Hoài Vương [trần] Liễu làm loạn. Vua đến núi Yên Tử. Núi Yên Tử, tại huyện Đông Triều tỉnh Hải Dương. Trên núi có ngọn Tử Tiêu và am Ngọa Mây, tương truyền vị Yên Kỳ tu luyện ở đây, do vậy mà có tên đó. [ Trần Thái Tông] niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 11 (1242), chia trong nước làm 11 lộ. Chính sử ghi không rõ. Căn cứ theo ghi chép cũ, thấy các lộ là Thiên Trường, Long Hưng, Quốc Oai, Bắc Giang, Hải Đông, Trường Yên, Kiến Xương, Hồng, Khoái, Thanh Hoá, Hoàng Giang và Diễn Châu. Lại có phủ, châu, trấn như Tân Bình, Nghệ An, Thái Nguyên, Lạng Giang. Đại để theo thể chế nhà Trần, thì phủ, châu, trấn thống thuộc vào lộ. [tờ 39a] Lộ Thiên Trường, vốn là hương Tức Mặc; nhà Trần lấy làm cố hương nên đổi thành phủ Thiên Trường, lại dùng Thiên Trường đứng đầu lộ ấy là lộ Thiên Trường. Lại vì lấy quân ở hương bản lộ của mình nên mới có hiệu là: “Thiên thuộc quân”; nhà Lê đặt làm phủ Thiên Trường, nay theo gọi của nhà Lê, thuộc tỉnh Nam Định. Long Hưng, xưa là hương Đa Cương. Nhà Trần đặt mộ tổ ở đây, nhân vì thế mà đổi là phủ Long Hưng; thời Hồ đổi là phủ Tân Hưng. Nay cũng là phủ Tân Hưng thuộc tỉnh Hưng Yên. Hồng Lộ, tức lộ Hồng Châu, chú ở trên. Kiến Xương, thời Trần đặt làm lộ; thời Hồ đổi làm phủ Kiến Ninh; thời Lê phục lại, gọi là phủ Kiến Xương. Nay cũng là phủ Kiến Xương thuộc tỉnh Nam Định. [ Trần Thái Tông] niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 14 (1245), mùa thu nước lên to, vỡ đê Long Đàm. Long Đàm, tên huyện thời Trần; thời Minh đổi là huyện Thanh Đàm; nhà Lê đổi là huyện Thanh Trì; lại đổi chữ “thanh” với nghĩa là “trong”, thành chữ “thanh” với nghĩa là “xanh”. Nay cũng là huyện Thanh Trì tỉnh Hà Nội. [tờ 39b] [ Trần Thái Tông] niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 17 (1248), sai người giỏi về phong thuỷ đi trấn áp vượng khí trong khắp núi sông, như núi Chiêu Bạc, sông Bà, sông Lễ ở Thanh Hóa, đều đào và đục đi. Lấp các khe kênh, mở đường ngang lối dọc, không thể kể xiết. Núi Chiêu Bạc, ngờ rằng tức núi Chiếu Sơn, tại huyện Nga Sơn. Sông Bà, tại địa giới huyện Đông Sơn. Sông Lễ, còn có tên là sông Mã, phát nguyên từ nước Lão Qua, hợp lưu với sông Lương, cùng chảy ra biển. [ Trần Thái Tông] niên hiệu Nguyên Phong năm thứ 7 (1257), chủ trại Quy Hoá là Hà Khuất sai người chạy trạm về triều tâu việc người Mông Cổ mang quân sang xâm lược. (Quy Hoá, thuộc tỉnh Hưng Hoá). Quy Hoá, xưa thuộc bộ Tân Hưng; thời Lý là Đăng Châu; thời Trần là trại Hoá Châu; thời Lê đổi là phủ. Nay cũng là phủ Hóa Châu. Quân Mông Cổ rất mạnh, vua rút lui xuống giữ sông Thiên Mạc. [tờ 40a] Sông Thiên Mạc, tức phần hạ lưu sông Nhĩ Hà, ở về địa phận châu Mạn Trù huyện Đông Yên tỉnh Hưng Yên. Tiểu hiệu Hoàng Cự Đà chèo thuyền đi trốn đến Hoàng Giang. Hoàng Giang, tại địa giới huyện Nam Xang phủ Lý Nhân. Phía trên tiếp giáp sông Thiên Mạc, phía dưới thông với sông Giao Thuỷ. CHÍNH BIÊN Quyển 7. Trần Thánh Tông niên hiệu Bảo Phù năm thứ 5 (1277), xuống chiếu cho quân diễn tập chiến thuyền ở sông Bạch Hạc. Sông Bạch Hạc, thuộc huyện Bạch Hạc tỉnh Sơn Tây. Phía trên tiếp giáp sông Thao và sông Đà, phía dưới thông với sông Phú Lương. Sai Đào Thế Quang sang Long Châu. Long Châu, thuộc tỉnh Quảng Tây, tiếp giáp với địa giới tỉnh Lạng Sơn của nước ta. [tờ 40b] Vua tự làm tướng đánh giặc Nẫm Bà La. Nẫm Bà La, tên động của người Mán. Theo Nhất thống chí của nhà Thanh, ghi là Ổn Bà La, thuộc một lộ trong phủ Bố Chính. Nay chưa rõ đích xác. Lý Nhân Tông, niên hiệu Thiệu Bảo năm thứ 4 (1282), quân Nguyên sang xâm lược. Vua đến bến đò Chí Linh, Bình Than. Chí Linh, xưa là đất Bàng Châu, lại có tên là Bàng Hà; thời Minh đổi là huyện Chí Linh; thời Lê giữ nguyên tên theo nhà Minh. Nay thuộc tỉnh Hải Dương. Bình Than, tên bến, tại địa phận xã Trần Xá huyện Chí Linh. [ Trần Nhân Tông] niên hiệu Thiệu Bảo năm thứ 6 (1284), Hưng Đạo Vương [trần] Quốc Tuấn cầm quân đến Lộc Châu, rồi chia quân cự chiến với giặc ở núi Khâu Cấp. Quân Nguyên bèn theo cửa ải Khả Ly để tiến quân. Quan quân ta lui về giừ bến Vạn Kiếp. Lộc Châu, trước thuộc lộ Tư Minh. Vào niên hiệu Tuyên Đức năm thứ nhất (1426) nhà Minh, bắt đầu thuộc vào nước ta; thời Lê theo đó gộp với đất châu Tây Bình, đổi thành châu Lộc Bình. Nay vẫn là châu Lộc Bình, thuộc tỉnh Lạng Sơn. Núi Khâu Cấp, thuộc tỉnh Lạng Sơn, phố Kỳ Lừa, châu Ôn. Cửa ải Khả Ly, không rõ. Trần Quốc Tuần điều khiển quân các lộ Vân Trà, Ba Điểm; Hưng Tri Vương Nghiễn đốc suất quân ở các lộ Bàng Hà, Na Ngạn và Long Nhãn, đều về họp hội ở Vạn Kiếp. Vân Trà, Ba Điểm, đều thuộc tên hương, thuộc lộ Hải Đông tỉnh Quảng Yên. Bàng Hà, Na Ngạn, chú ở trên. Long Nhãn, tên huyện. Thời Lê đổi là huyện Phượng Nhãn. Nay vẫn là huyện Phượng Nhãn thuộc tỉnh Bắc Ninh. Quân Nguyên thả sức cướp bóc ở đất Gia Lâm và Vu Ninh. Chúng đóng quân ở bãi Tha Mạc. Gia Lâm, tên huyện. Vũ Ninh, tên châu. Nhà Lê đổi là huyện Võ Giàng. Nay cũng là huyện Võ Giàng, cả Gia Lâm và Võ Giàng đều thuộc tỉnh Bắc Ninh. Bãi Tha Mạc, tức sông Thiên Mạc. [tờ 41b] [ Trần Nhân Tông] niên hiệu Trùng Hưng năm thứ nhất (1285), quân Nguyên đuổi gấp, vua mời Thượng hoàng chạy ra nguồn Tam Trĩ, sai người kéo thuyền ngự của vua ra cửa biển Ngọc Sơn để đánh lừa địch. Vua lại dùng thuyền đến sông Nam Triệu, vượt cửa biển Đại Bàng vào Thanh Hóa. Nguồn Tam Trĩ, nay là xã Tam Trĩ châu Tiên Yên tỉnh Quảng Yên. Cửa biển Ngọc Sơn, nay tại phía Đông châu Vạn Ninh, giáp lộ Khâm Châu. Sông Nam Triệu, tức sông Bạch Đằng. Cửa biển Đại Bàng, tại địa phận xã Đại Bàng huyện Nghi Dương tỉnh Hải Dương. Chiêu Văn vương [ Trần Nhật Duật] đánh bại quân Nguyên ở cửa Hàm tử. Cửa Hàm Tử, tại bãi Hàm Tử huyện Đông Yên tỉnh Hưng Yên. Vua tự làm tướng đánh bại được quân Nguyên ở Chương Dương, bèn thu phục kinh thành. Chương Dương, tên bến, nay thuộc địa phận xã Chương Dương huyện Thượng Phúc tỉnh Hà Nội. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Chín, 2008, 12:18:09 pm CHÍNH BIÊN Quyển 8 Nhà Nguyên huy động quân người Lê ở bốn châu hải ngoại được hơn vạn tên đến xâm lược, chúng chia thành đồn binh ở Phả Lại, Chí Linh. Quân người Lê ở bốn châu hải ngoại, là châu Mai, châu Đam, châu Quỳnh và châu Vạn, nay thuộc tỉnh Quảng Đông của nhà Thanh. Đất các châu đó có động của người Mán chủng tộc người Lê. Nhà Nguyên thiết lập thành 12 cánh quân người Lê, có phủ Thiên Hộ thống lĩnh các cánh quân này. Núi Phả Lại, tại xã Phả Lại huyện Quế Dương tỉnh Bắc Ninh. Núi Chí Linh, tại huyện Chí Linh tỉnh Hải Dương. [ Trần Nhân Tông] niên hiệu Trùng Hưng năm thứ 4 (1288), quân Nguyên đánh vào Yên Hưng. Yên Hưng, tên trại, nhà Lê đổi làm huyện. Nay vẫn giữ là huyện Yên Hưng thuộc tỉnh Quảng Yên. [tờ 42b] Thoát Hoan nhà Nguyên bại trận trốn về nước. Khi đến cửa ải Nội Bàng, lại thấy gián điệp nói quân ta chia giữ cửa ải Nữ Nhi, Thoát Hoan phải dò đường Đan Dĩ đi tắt về Tư Minh. Cửa ải Nội Bàng và cửa ải Nữ Nhi, đều thuộc tỉnh Lạng Sơn. Đan Dĩ, tên huyện, có chỗ chép là Đan Dĩ [hai chữ “đan” này khác nhau về nghĩa: chữ đan trước với nghĩa là sắc màu đỏ, chữ đan sau với nghĩa là đơn chiếc], thuộc tỉnh Lạng Sơn. Nay do thay đổi nên không rõ. Tư Minh, thuộc địa giới nhà Thanh. [ Trần Nhân Tông] niên hiệu Trùng Hưng năm thứ 8 (1292), lấy Trần Kiến làm An phủ sứ Yên Khang. Yên Khang, tên lộ, xưa là Yên Ninh. Thời Lê đổi là phủ Yên Khang. Nay đổi là phủ Yên Khánh thuộc tỉnh Ninh Bình. Trần Anh Tông, niên hiệu Hưng Long năm thứ 4 (1296), Thượng Hoàng xuất gia ở hành cung Vũ Lâm. Vũ Lâm, tại xã Vũ Lâm huyện Yên Khánh tỉnh Ninh Bình. Đất này có núi non trùng điệp, trong núi có động [tờ 43a]. Núi non ở đây rộng đến vài chục mẫu, bên ngoài có sông nhỏ chảy quanh co, chảy vào trong động, thuyền nhỏ có thể ra vào được. [ Trần Anh Tông] niên hiệu Hưng Long năm thứ 9 (1301)1, Phạm Ngũ Lão đánh bại quân Ai Lao ở Mường Mai. Mường Mai, xưa là động của người Mán. Nay đổi là châu Mai thuộc tỉnh Hưng Hoá. [ Trần Anh Tông] niên hiệu Hưng Long thứ 10 (1302)2, ban cho Đạo sĩ Trung Quốc là Tông Đạo được cư trú ở phường Yên Hoa. Phường Yên Hoa, nay là phường Yên Phụ huyện Vĩnh Thuận tỉnh Hà Nội. Các khoa cúng về phù thủy và làm chay làm tiếu thịnh hành ở nước ta bắt đầu từ đây. CHÍNH BIÊN Quyển 9 [ Trần Anh Tông] niên hiệu Hưng Long năm thứ 20 (1312), vua ngự thuyền đến sông Sâm Thị. [tờ 43bl Sông Sâm Thị, tại địa phận xã Sâm Thị huyện Thanh Trì tỉnh Hà Nội. [ Trần Anh Tông] niên hiệu Hưng Long năm thứ 21(1313), nhà Nguyên sai Lưu Nguyên Hanh đến Dư Thôn xem xét địa thế3. Du Thôn, thuộc xã Bảo Lâm huyện Văn Uyên tỉnh Lạng Sơn. Nay có cửa ải Du Thôn. Trần Hiến Tông, niên hiệu Khai Hựu năm thứ nhất (1329), Thượng hoàng đích thân đi đánh người Mán ở Ngưu Hống (Ngưu Hống, chú ở trên), mang quân đến Mang Việt, đóng ngự doanh ở đây, ban tên cho chỗ ngự doanh là phủ Thái Bình, có suối Bác Tử, đặt tên cho suối là Thanh Thủy. Mang Việt, xưa là động của người Mán. Nhà Lê đổi là Việt Châu. Nay đổi là Yên Châu thuộc tỉnh Hưng Hoá. Thượng hoàng tự làm tướng đi đánh Ai Lao, tiến quân đến Kiềm Châu. Kiềm Châu, tức đất Mật Châu. Nay là địa hạt phủ Tương Dương tỉnh Nghệ An. Trần Hiến Tông, niên hiệu Khai Hựu năm thứ 7 (1335), Ai Lao chiếm giữ ở ấp Nam Nhung, đồn trại của chúng đóng ở sông Tiết La4. … [tờ 44a] Trần Dụ Tông, niên hiệu Thiệu Phong năm thứ 4 (1344), người Trà Hương là bọn Ngô Bệ tụ tập dân chúng ở núi Yên Phụ nổi lên làm giặc cướp. Núi Yên Phụ, tại địa phận xã Yên Phụ huyện Giáp Sơn phủ Kinh Môn tỉnh Hải Dương. Trà Hương (theo nguyên chú vào niên hiệu Khai Vận năm thứ 2 (945) của nhà Tấn) là tên huyện. Nay thuộc huyện Kim Thành tỉnh Hải Dương. [ Trần Dụ Tông] niên hiệu Thiệu Phong năm thứ 7 (1347), Bảo Uy Vương Hiến, vì lấy trộm vải hoả hoãn [vải do nhà Tống tặng để may áo cho vua], bị đuổi ra ngoài, khi đến sông Trinh Nữ, vua sai người giết đi Sông Trinh Nữ, tức sông Vạn Nữ xưa, nay là địa giới huyện Yên Mô tỉnh Ninh Bình. [ Trần Dụ Tông] niên hiệu Thiệu Phong năm thứ 11 (1351), người con gái ở Thiên Cương (Thiên Cương, tên hương) hóa ra con trai. Hương Thiên Cương, thuộc tỉnh Nghệ An. ___________________________________________ 1. Nguyên bản ghi là Hưng Long năm thứ 10 (1302), ở đây sửa lại như trên cho hợp với chính sử. 2. Nguyên bản ghi là năm Hưng Long thứ 11 (1303), ở đây sửa lại như trên cho hợp với chính sử. 3. Nguyên bản ghi là năm Hưng Long thứ 20 (1212), ở đây sửa lại như trên cho hợp với chính sử. 4. Đoạn này thiếu phần chú giải địa danh. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Chín, 2008, 12:27:20 pm CHÍNH BIÊN Quyển 10 [ Trần Dụ Tông] niên hiệu Thiệu Phong năm thứ 12 (1352)1, đê Bát Khối bị vỡ, lúa màu bị ngập, dân vùng Thuận An thiệt hại nặng. Bát Khối, tức tên hai xã Bát Tràng và Thổ Khối. Nay thuộc huyện Gia Lâm tỉnh Bắc Ninh Thuận An, tên phủ [tờ 44b], nay cũng thuộc tỉnh Bắc Ninh. Đưa chúa nước Chiêm Thành là Chế Mỗ về nước, đến Cổ Luỹ [lại quay trở về nước ta]. Cổ Luỹ, xưa là địa giới quận Nhật Nam; từ nhà Đường trở về sau là đất Chiêm Thành; thời Hồ chiếm lấy đặt làm Châu Tư Châu Nghĩa; thời Lê hợp làm phủ Tư Nghĩa. Nay là tỉnh Quảng Ngài. [ Trần Dụ Tông] niên hiệu Thiệu Phong năm thứ 14 (1354), cướp bóc hoành hành tại các vùng Lạng Châu và Nam Sách. Lạng Châu và Nam Sách, chú ở trên. [ Trần Dụ Tông] niên hiệu Thiệu Phong năm thứ 15 (1355), núi Kính Chủ bị lở. Núi Kính Chủ, xưa là núi Thánh chủ, tại địa phận xã Kính Chủ, huyện Giáp Sơn tỉnh Hải Dương. [ Trần Dụ Tông] niên hiệu Đại Trị năm thứ 4 (1361)2, người nước Chiêm Thành vượt biển đến cướp bóc của cải của dân ở cửa biển Di Lý. Cửa biển Di Lý, nay thuộc địa phận xã Lý Hoà huyện Bố Trạch. [tờ 45a] Tập hợp những người giàu trong nước, như người ở Đình Bảng thuộc Bắc Giang, Nga Đình thuộc Quốc Oai vào cung đánh bạc làm vui, cứ mỗi tiếng ăn thua tới 300 quan tiền. Đình Bảng, tên hương. Nga Sơn, tên hương, thuộc phủ Quốc Oai tỉnh Sơn Tây. Bắc Giang, nay thuộc Bắc Ninh. Mùa Đông, núi Thiên Kiện bị lở. Núi Thiên Kiện, còn có tên là núi Địa Kiện. Nay thuộc xã Thiên Kiện huyện Thanh Liêm tỉnh Hà Nội. [ Trần Dụ Tông] niên hiệu Đại Trị năm thứ 9 (1366), vua đi chơi hương Mễ Sở, khi trở về đến bãi Chử Gia bị cướp, mất cả ấn báu và gươm báu Mễ Sở, tên hương, nay thuộc huyện Đông Yên tỉnh Hưng Yên. Bãi Chử Gia, nay thuộc huyện Văn Giang tỉnh Bắc Ninh. [ Trần Dụ Tông] niên hiệu Đại Trị năm thứ 10 (1367), sai Trần Thế Hưng đánh Chiêm Thành ở Chiêm Động. [tờ 45a] Chiêm Động, xưa là đất Nhật Nam; nhà Đường trở về sau đặt làm Chiêm Thành; nhà Hồ chiếm lấy đất, đặt làm châu Thăng và châu Hoa; nhà Lê hợp lại làm phủ Thăng Hoa. Nay là đất phủ Thăng Bình tỉnh Quảng Nam. Trần Nghệ Tông, niên hiệu Thiệu Khánh năm thứ nhất (1370), Cung Tuyên Vương Kính; Chương Túc Hầu Nguyên Đán hội quân ở sông Đại Lại, mưu giết Dương Nhật Lễ. Sông Đại Lại, tại địa giới tỉnh Thanh Hoá, thuộc nhánh của sông Lương Giang, chảy qua các huyện Hậu Lộc, Vĩnh Lộc đổ ra biển. Lại có núi Đại Lại, Hồ Quý Ly đổi tên là núi Kim Âu. Tháng 11, Cung Định Vương lên ngôi Hoàng Đế ở phủ Kiến Hưng Kiến Hưng, xưa là phủ Hiển Khánh; thời Trần đặt là phủ Kiến Hưng; thời Lê đổi là phủ Nghĩa Hưng. Nay cũng giữ nguyên là phủ Kiến Hưng thuộc tỉnh Nam Định [tờ 46a] [ Trần Nghệ Tông] niên hiệu Thiệu Khánh năm thứ 2 (1371), người nước Chiêm Thành vào cướp bóc kinh thành, đến bến Thái Tổ. Bến Thái Tổ, nay đổi là phường Phục Cổ thuộc huyện Thọ Xương tỉnh Hà Nội. Trần Nghệ Tông, niên hiệu Long Khánh năm thứ 3 (1375), sai Đào Lực Đinh đốc suất dân tu bổ đường xá, từ Cửu Chân đến Hà Hoa. Cửu chân, xưa là bộ Cửu Chân thời Hùng vương; thời Đinh, Lê gọi là Ái Châu; đến niên hiệu Thiệu Phong (1341-1357) đời Trần, đặt làm lộ, chia làm ba phủ, là Thanh Hoá, Cửu Chân và Ái Châu. Hà Hoa, từ thời Trần trở về trước, là tên huyện, thời Lê gọi là huyện Kỳ Hoa. Nay đổi là huyện Kỳ Anh thuộc tỉnh Hà Tĩnh. Trần Duệ Tông, niên hiệu Long Khánh năm thứ 4 (1376), vua tự làm tướng đi đánh Chiêm Thành, quân của vua đến cửa biển Di Luân, rồi qua cửa biển Nhật Lệ. Cửa biển Di Luân, tại xã Di Luân huyện Bình Chánh. Cửa biển Nhật Lệ, tại xã Đông Hải huyện Phong Lộc. Cả hai cửa biển này đều thuộc tỉnh Quảng Bình [ tờ 46b] [ Trần Duệ Tông] niên hiệu Long Khánh năm thứ 5 (1377), sai Đỗ Lễ đánh quân Chiêm Thành, tiến đến cửa biển Thi Nại, cho quân trú ở động Ỷ Mang (động Ỷ Mang không rõ). Cửa biển Thi Nại, nay thuộc địa giới hai thôn Hương Hải và Chính Thành huyện Tuy Phước tỉnh Bình Định. Trần Phế Đế, huý Hiện, niên hiệu Xương Phù năm thứ 4 (1380), Lê Quý Ly đánh bại quân Chiêm Thành ở Ngu Giang, trao cho Quý Ly chuyên giữ chức Nguyên nhung, làm Hải Tây đạo Đô thống chế. Ngu Giang, nay thuộc địa giới huyện Hoằng Hoá tỉnh Thanh Hoá. Hải Tây đạo, từ thời Trần trở về trước chưa có tên địa danh này; khoảng niên hiệu Thuận Thiên (1428-1433) nhà Lê, mới lấy vùng Thanh Hoá, Nghệ An, Tân Bình và Thuận Hoá đặt là đạo Hải Tây, ngờ rằng sử cũ bị nhầm. [ Trần Phế Đế] niên hiệu Xương Phù năm thứ 5 (1381), sai Thiền sư Đại Than đốc suất nhà sư trong nước đi đánh Chiêm Thành. [tờ 47a] Đại Than, tên xã, thuộc huyện Gia Bình tỉnh Bắc Ninh. [ Trần Phế Đế] niên hiệu Xương Phù năm thứ 7 (1383)3, Lê Quý Ly đóng đồn binh ở núi Long Đại, đóng các thuyền chiến lớn, cho tiến quân đến vụng Lại Bộ Nương và Ô Tôn, nhưng vì gặp sóng to, nên phải quay về. Núi Long Đại, nay thuộc địa giới huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hóa. Vụng biển Lại Bộ Nương, nay là cửa biển Nương Loan, tại địa giới huyện Kỳ Anh tỉnh Hà Tĩnh. Ô Tôn, nay là eo biển Vĩnh Sơn, tại địa phận huyện Bình Chánh tỉnh Quảng Bình, tiếp giáp địa giới huyện Kỳ Anh tỉnh Hà Tĩnh. [ Trần Phế Đế] niên hiệu Xương Phù năm thứ 8 (1384), sai Trần Nghiêu Du vận chuyển lương thực đến địa đầu Thuỷ Vĩ, đợi giao nộp cho quân Minh Thuỷ Vĩ, tên châu, thuộc phủ Quy Hoá tỉnh Hưng Hoá, tiếp giáp địa giới Vân Nam. [ Trần Phế Đế] niên hiệu Xương Phù năm thứ 9 (1385), Chương Túc hầu, Nguyên Đán, vì tuổi già, xin về trí sĩ ở Côn Sơn, lấy hiệu là Băng Hồ. [tờ 47b] Côn Sơn, nay ở xã Chi Ngại huyện Chí Linh tỉnh Hải Dương. Phía trên có động Thanh Hư, phía dưới có cầu Non Ngọc. _______________________________________ 1. Nguyên bản ghi là Thiệu Phong năm thứ 13 (1353), ở đây sửa lại như trên cho hợp với sự kiện ghi trong chính sử. 2. Nguyên bản ghi là năm Đại Trị thứ 5 (1362), ở đây sủa lại như trên cho hợp với sự kiện ghi trong chính sử. 3. Nguyên bản ghi là năm Xương Phù thứ 6 (1382), ở đây sửa lại như trên cho hợp với sự kiện ghi trong chính sử. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Chín, 2008, 09:36:55 pm CHÍNH BIÊN Quyển 11 Trần Thuận Tông, niên hiệu Quang Thái năm thứ 2 (1389), người Nông Cống là Nguyễn Kỵ tụ họp binh lính đi cướp bóc. Nông Cống, xưa là huyện Tư Nông; đến thời Minh đổi là huyện Nông Cống. Nay giữ theo là Nông Cống, thuộc tỉnh Thanh Hoá. Yêu tăng Phạm Sư Ôn hô hào tụ họp dân chúng ở lộ Quốc Oai, đóng đồn ở Nộn Châu, vua sai Hoàng Phụng Thế từ Miệt Giang tiến quân đánh dẹp được chúng. Nộn Châu, thuộc phủ Quốc Oai tỉnh Sơn Tây, nhưng chưa rõ đích xác nơi nào. Miệt Giang, là một nhánh của sông Hát, chảy qua các huyện Chương Đức, Hoài An thông với Hoàng Giang. [tờ 48a] Trần Thuận Tông niên hiệu Quang Thái năm thứ 3 (1390), bè đảng của Nguyên Đĩnh là Trần Khang chạy trốn đến Lão Qua Lão Qua, tên dân tộc người Mán, tục gọi là Qua Giang. Phía Đông Nam đất này giáp địa giới nước ta, phía Tây giáp địa giới nước Bát Bách tức phụ, phía Bắc giáp địa giới nước Xa Lý. Vào niên hiệu Vĩnh Lạc năm thứ 3 (1405) nhà Minh, mới đặt Tuyên úy ty. Nay thuộc nước Nam Chưởng. [ Trần Thuận Tông] niên hiệu Quang Thái năm thứ 4 (1391), Trang Định Đại Vương Ngạc chạy trốn ra Vạn Ninh. Vạn Ninh, từ thời Trần trở về trước là tên châu; thời thuộc Minh đổi là huyện; thời Lê phục lại làm châu. Nay đổi làm phủ Hải Ninh thuộc tỉnh Quảng Yên. [ Trần Thuận Tông] niên hiệu Quang Thái năm thứ 10 (1397), [Hồ] Quý Ly kiến nghị muốn dời kinh đô đến Yên Tôn. Nguyễn Nhữ Thuyết dâng thư can ngăn, nói: “Nay đất Long Đỗ có núi Tản Viên, có sông Nhĩ Hà, núi cao sông sâu, đất đai bằng phẳng rộng thoáng. Từ xưa các bậc đế vương mở nền dựng nước [tờ 48b], không đời nào không lấy đất này làm căn bản, giữ làm kế bền lâu cho quốc gia. Còn dịa giới Yên Tôn là nơi chật hẹp, sơn cùng thủy tận, không thể định cư được. Dựa vào hiểm trở liệu có ích gì?” Quý Lý không nghe. Yên Tôn, tên động, tại xã Yên Tôn huyện Vĩnh Lộc tỉnh Thanh Hoá. Di chỉ thành đó vẫn còn, bên phải bên trái đều sát núi đá, sát cạnh là hợp lưu của hai sông Lương và Mã. Long Đỗ, tức thành Đại La, lúc Cao Biền đắp, thấy vị thần nhân tự xưng là Long Đỗ, cho nên có tên như thế. Bổ dụng Lê Hán Thương lĩnh chức Đô hộ phủ ở lộ Đông Đô, Trần Nguyên Trữ làm Đô thống phủ ở lộ Tam Giang. Lộ Đông Đô, tức thành Thăng Long, đương thời gọi Thanh Hoá là Tây Đô, gọi Thăng Long là Đông Đô. Tam Giang, thời Lý trở về trước là đất Phong Châu và Chân Đăng; thời Trần đặt làm lộ Tam Giang. Do đất này có ba con sông là Lô Giang, Thao Giang và Đà Giang nên có tên như thế [tờ 49al; thời Lê chia làm ba phủ là Thao Giang, Đà Giang và Đoan Hùng. Nay các phủ Hưng Hóa của tỉnh Tuyên Quang và Lâm Thao, Đoan Hùng và Quảng Oai của tỉnh Sơn Tây đều thuộc về vùng đất ấy. Quý Ly sai viên Miếu lệnh là Lê Hợp và viên Phụ đạo Cổ Lũng là Lê Ông hợp mưu giết cung nữ. Cổ Lũng, tên huyện. Thời Lê đổi làm huyện Cổ Lũng. Nay theo cũ đặt làm huyện Cổ Lũng thuộc tỉnh Bắc Ninh. Phụ đạo, tên quan thổ tù. Trần Thiếu Đế, niên hiệu Kiến Tân năm thứ 2 (1399), bọn Trần Nguyên Hãn, Trần Khát Chân họp tuyên thệ ở Đốn Sơn. Đốn Sơn, tại xã Cao Mật huyện Vĩnh Lộc tỉnh Thanh Hoá. Nguyễn Như Cái tập họp dân chúng quấy nhiễu ở vùng núi Lịch, sông Đáy. [tờ 49b] Núi Lịch, tại địa giới huyện Sơn Dương tỉnh Sơn Tây. Sông Đáy, phát nguyên từ núi Tam Đảo, chảy qua địa giới các huyện Tam Dương và Lập Thạch của tỉnh Sơn Tây, đổ vào sông Bạch Hạc. Hồ Hán Thương, niên hiệu Thiệu Thành năm thứ 2 (1402), Chiêm Thành dâng đất đầu nguồn, thiết lập đất ấy làm trấn Tân Ninh. Tân Ninh, nay là vùng Chiên Đàn, Ô Da và Thu Bồn của tỉnh Quảng Nam. CHÍNH BIÊN Quyển 12 Hồ Hán Thương, niên hiệu Khai Đại năm thứ nhất (1403), đặt Tứ phụ của kinh kỳ Nền móng ở Tây Đô đã xây dựng xong, Hán Thương lại đổi phủ Thanh Đô thành phủ Thiên Xương, phủ Diễn Châu thành phủ Linh Nguyên, gộp cả Cửu Chân và Ái Châu làm Tứ phụ [Hồ Hán Thương] niên hiệu Khai Đại năm thứ 2 (1404), mở Liên Cảng nhưng không thành. [tờ 50a] Liên Cảng, nay thuộc xã Thuỷ Liên huyện Lệ Thuỷ tỉnh Quảng Bình. Hán Thương sai mở Liên Cảng từ Tân Bình đến địa giới Bình Thuận, nhưng vì bùn cát đùn lên, công mở cảng không thành. [Hồ Hán thương] niên hiệu Khai Đại năm thứ 3 (1405)1, đắp thành Đa Bang. Thành Đa Bang, tại xã Cổ Pháp huyện Tiên Phong tỉnh Sơn Tây. Nhà Minh sai bọn Trương Phụ và Mộc Thạnh chia làm hai đạo quân: một đạo xuất phát từ Long Châu, Bằng Tường tiến quân đến cửa ải Pha Luỹ, kéo thẳng đến sông Phú Lương; một đạo xuất phát từ Vân Nam, Mông Tự tiến đánh cửa ải Phú Lệnh, kéo thẳng đến sông Bạch Hạc. Chúng hội quân đánh nhà Hồ. Long Châu, Bằng Tường thuộc phủ Thái Bình, tỉnh Quảng Tây nhà Thanh, giáp địa giới tỉnh Lạng Sơn nước ta. Cửa ải Pha Luỹ, thuộc xã Đồng Đăng huyện Văn Uyên tỉnh Lạng Sơn. Nay là cửa Nam Quan. Mông Tự, tên huyện, thuộc tỉnh Vân Nam, tiếp giáp địa phận tỉnh Hưng Hoá nước ta. Cửa ải Phú Lệnh, thuộc địa giới tỉnh Tuyên Quang. [tờ 50b] Trần Giản Định, huý Ngỗi, niên hiệu Hưng Khánh năm thứ nhất (1407), Trương Phụ nhà Minh đánh bại quân nhà Hồ ở sông Mộc Hoàn. Hồ Nguyên Trừng rút quân cố thủ ở cửa biển Muộn Hải. Sông Mộc Hoàn, tại địa phận xã Mộc Hoàn huyện Phú Xuyên tỉnh Hà Nội, tiếp giáp sông Hoàng Giang. Cửa biển Muộn Hải, thuộc địa phận huyện Giao Thuỷ tỉnh Nam Định. Nay bị san lấp Mùa hạ, quân Minh tiến dành Lỗi Giang. Lỗi Giang, tức một nhánh của sông Mã, tại huyện Vĩnh Lộc tỉnh Thanh Hoá. Hạ lưu sông này thông với sông Đại Lại. Theo Thiên hạ quận quốc lợi bệnh toàn thư ghi huyện Lỗi Giang có cửa ải Ba Lẫm. Trương Phụ cho quân truy đuổi bắt được cha con Hồ Hán Thương ở núi Cao Vọng, cửa biển Kỳ La. Cửa biển Kỳ La, nay tại địa phận huyện Kỳ Anh tỉnh Hà Tĩnh, tiếp giáp với núi Cao Vọng. [tờ 51a] Lại đuổi người nước Chiêm. Đưa [Hoàng] Hối Khanh trở về đền cửa biển Đan Thai. Cửa biển Đan Thai, tại nơi tiếp giáp giữa hai huyện Nghi Xuân và Chân Lộc tỉnh Nghệ An. Nay là cửa biển Hội Thống. Phạm Chấn, viên thổ hào ở Đông Triều khởi binh ở Bình Than. Đông Triều, tên huyện, thuộc tỉnh Hải Dương. Bình Than, chú ở trên Trương Phụ nhà Minh kéo quân đến cửa biển Bố Chính. Cửa biển Bố Chính, tại địa giới hai huyện Bình Chánh và Bố Trạch tỉnh Quảng Bình, tức cửa biển Linh Giang. [ Trần Giản Định] niên hiệu Hưng Khánh năm thứ 3 (1409), vua Ngỗi đích thân cầm quân đánh bọn Mộc Thạnh và Lã Nghị nhà Minh ở thành Đông Quan, chém được Lã Nghị ở Bô Cô. Duy có Mộc Thạnh thoát thân chạy đến thành Cổ Lộng. [tờ 51b] Thành Đông Quan, tức thành Đông Đô; thời Minh đặt Đông Đô làm phủ trị, cũng có tên là Thành Đông Quan. Bô Cô, tên bến, tại huyện Phong Doanh tỉnh Nam Định, tiếp giáp với tỉnh thành Ninh Bình. Tên cũ là Bô Cô, nay đổi làm xã Hiếu Cổ. Thành Cổ Lộng, do nhà Minh đắp, nay tại xã Bình Cách huyện Ý Yên tỉnh Nam Định. Di chỉ hãy còn, tục gọi là thành Cách. Vua Ngỗi đánh chống cự với quân Minh ở thành Ngự Thiên. Bấy giờ, bọn Nguyễn Cảnh Dực và Đặng Dung đều căm giận vì cha bị giết oan, mới đem quân Thuận Hoá đón rước Quý Khoáng (Quý Khoáng là cháu của Nghệ Tông) đến Nghệ An, lập làm vua, lên ngôi ở Chi La, đổi niên hiệu là Trùng Quang. Ngự Thiên, tên huyện. Hương Đa Cương có mộ tổ nhà Trần, vậy có tên là Ngự Thiên. Nay đổi là huyện Hưng Nhân thuộc tỉnh Hưng Yên. Chi La, tên huyện, nay đổi là huyện La Sơn thuộc tỉnh Hà Tĩnh. [tờ 52a] Đế Quý Khoáng, niên hiệu Trùng Quang năm thứ nhất (1409), đế Ngỗi chạy đến trấn Thiên Quan, quân Minh đuổi đến Mỹ Lương thì bắt được, đưa về Kim Lăng. Mỹ Lương, tên huyện, nay thuộc tỉnh Sơn Tây, giáp với địa giới huyện Nho Quan. Thiên Quan, tức phủ Nho Quan hiện nay. Nhà Minh bắt các xứ Từ Sơn, Gia Lâm, mỗi nơi đều đặt dịch trạm. Từ Sơn, xưa là đất châu Cổ Pháp; thời thuộc Minh đặt là huyện Từ Sơn; thời Lê thăng làm phủ. Nay vẫn giữ là tên phủ, thuộc tỉnh Bắc Ninh Gia Lâm, tên huyện, cũng thuộc tỉnh Bắc Ninh Nguyễn Hữu Mùi dịch ___________________________________________ 1. Nguyên bản ghi là năm Khai Đại thứ 4 (1406), ở đây sửa lại như trên cho hợp với sự kiện ghi trong chính sử. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Chín, 2008, 09:50:53 pm CẢM TÁC1 Nguyên tác: (http://i255.photobucket.com/albums/hh125/chuongxedap/Qsu/PhanDinhPhung/CamTac.jpg) Phiên âm: CẢM TÁC Thức mục kinh thành tử tế khan, Thống tâm quân quốc lệ lan lan. Quyền gian trực dục hoà ngu Tống, Trung nghĩa na vi hận báo Hàn. Thảo mộc sơn hà phi cựu chủ Vương hầu đệ trạch dĩ tân nhan. Các trung đệ tử kim hà tại, Dao vọng Bình Sơn tẩm bất an. Dịch nghĩa: CẢM TÁC Gạt nước mắt nhìn kỹ về chốn kinh thành, Đau lòng vì vua vì nước, nước mắt chan chứa. Bọn quyền gian chỉ muốn xui ngu nhà Tống chịu hoà2 Người trung nghĩa làm thế nào vì nước Hàn báo hận3. Non sông cây cỏ đều không còn chủ cũ, Phủ đệ vương hầu đã thay bộ mặt mới. Con em các nhà quyền quý hiện giờ ở đâu, Xa xa ngóng về non Bình mà ngủ chẳng yên giấc4. Dịch thơ: Kinh thành ngoái lại mà trông, Xót vua đau nước, mắt rưng lệ nhoà. Quyền gian một mực xúi hoà, Để người trung nghĩa biết là làm sao Thay mặt mới, khác vương hầu, Non sông đổi chủ còn đâu của mình. Con em dòng dõi vắng tanh, Xa xa những ngóng non Bình, khôn an5 Lê Vũ Hoàng dịch Chú thích: 1. Bài thơ này làm năm Ất Dậu Hàm Nghi nguyên niên (1885). 2. Ám chỉ bọn quan lại “chủ hoà” đương thời, như bọn Tần Cối xui vua nhà Tống chịu hoà với giặc Kim, nhượng bộ chúng từng bước để đến nỗi mất nước. 3. Bày tỏ ý chí của tác giả như Trương Lương hận nhà Tần diệt nước Hàn của mình nên đi theo Lưu Bang bày mưu quyết báo thù cho nước cũ. 4. Non Bình: Núi Ngự Bình ở Huế, một biểu tượng của kinh đô Huế. 5. Toàn bộ thơ văn chữ Hán trong Phần II, mục A “Các tác phẩm thơ văn Phan Đình Phùng” theo Tổng tập Văn học Việt Nam, tập 17, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2000. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Chín, 2008, 11:25:44 pm ĐỂ TÔ THỊ GIA1 Nguyên tác: (http://i255.photobucket.com/albums/hh125/chuongxedap/Qsu/PhanDinhPhung/Detothigia.jpg) Phiên âm: ĐỂ TÔ THỊ GIA Đinh Hợi xuân nhị nguyệt, Ngẫu quá Đông Yên thôn Văn hữu Tô thị gia, Trung hậu thế kỳ môn. Thăng giai thị nhất kiến, Ngôn ngữ hà ôn tồn. Sự gia trọng hữu hiếu, Huynh đệ tự thiên luân. Chủ nhân ái thi khách, Lương bằng đương mãn tịch. Tương dữ đàm cổ kim, Xướng hoạ doanh ốc bích. Bá Ngọc miễn hồ tai, Phàm thư giai thế trạch. Miễn chi hựu miễn chi, Dư hương bằng thiên tích. Dịch thơ: ĐẾN NHÀ HỌ TÔ Tháng Hai xuân Đinh Hợi, Nhân ghé làng Đông Yên. Nghe có nhà họ Tô, Trung hậu nổi tiếng truyền. Qua buổi đầu gặp gỡ, Thấy nói năng ôn tồn. Phép nhà trọng hiếu hữu, Anh em trọng thiên luân. Chủ nhân vốn mến khách, Đầy nhà những bạn hiền. Cùng luận bàn kim cổ, Ngâm vịnh suốt ngày đêm. Quý thay ông Bá Ngọc! Ấy ơn dày từ trước Gắng lên! Gắng nữa lên! Làm lành được hưởng phước. Lê Thước dịch Chú thích: 1 Ông Tô Bá Ngọc là một nhà Nho yêu nước ở thôn Đông Yên, tổng Vân Tụ (nay là xã Minh Thành, huyện Yên Thành, Nghệ An), khi Phan Đình Phùng trên đường ra Bắc (đầu năm 1887) đã dừng lại ở gia đình này một thời gian và có làm thơ xướng họa với chủ nhà. Phan Đình Phùng để lại lời dẫn như sau trong tờ Di bút tặng ông Tô Bá Ngọc (xem Bút tích Phan Đình Phùng trong phong trào Cần vương chống Pháp của Trần Nguyên Trinh - Trần Bá Chí, Tạp chí Hán Nôm, số 2 (35), 1998). Phiên âm: Tuế Đinh Hợi xuân, nhị nguyệt dư dĩ công cán để Diễn, kinh quá Vân Tụ chi Đông Yên thôn, thôn hữu Tô thị giả văn đạo thế truyền trung hậu, dư nhân vãng túc yên. Bá Ngọc tử kỳ đích phái dã. Sơ kiến thời, ngôn từ cử chỉ tuân tuân nhiên hữu cổ phong, cư cửu chi tri gia bất thậm phù, bình sinh xử gia kỳ vì phụ tử huynh đệ túc pháp. Bá Ngọc tảo cô, thiếu y vu thúc, đãi thúc thị cố, thẩm quả cư, Bá Ngọc thiện sự chi. Chư đường đệ hữu bất năng tự cấp, Bá Ngọc đa thiệm dĩ tiền túc. Uyển nhiên Trương Công Nghệ Trần Cảnh chi gia pháp. Hương hữu bần giả lai, bất vấn tiền chi đa thiểu, tất giảm kỳ giá nhi dữ chi túc. Cố mỗi ngộ hoang niên, bần dân lại dĩ toàn hoạt giả thậm chúng. Thả tinh hiếu khách, hữu dĩ thi văn chi triếp lạc dữ ngâm vịnh, tuy luỹ tuần liên nhật bất yếm dã. Cố châu chi văn sĩ đa tháo yên. Y! Bá Ngọc chi tiên nhân dư phất cập tri dã, nhi quan Bá Ngọc chi mục thân, chi chu bần, chi giao hữu, thử sổ đoan giả, tắc kỳ sở vị thế truyền trung hậu, tưởng phi hư ngữ dã. Hựu văn hữu lân ông giả bình nhật tính khắc bạc, hiếu thực hoá, quảng trí tức trái, gia phú luỹ cự vạn, sinh hữu tử nhị, ông tốt vị sổ nguyệt, huynh đệ phân tài tranh hiệu đa thiểu chi vu huých tường, gia nghiệp tỉ tiền đại giảm, hương nhân giai dĩ vị ông khắc bạc chi báo. Ta ta! Đồng nhất giang sơn, đồng nhất phong thổ, đồng nhất lư lý tỉnh cương, hà nhất hậu nhất bạc chi bất đồng dã? Tắc diệc thị phù gia phạm chi hà như nhĩ. Tương biệt tiền sổ nhật, Bá Ngọc trưng thi ư dư. Dư tố chuyết, vưu bất năng thi Nhiên Bá Ngọc ái ngâm nhân dã, dư khả dĩ chuyết từ hồ tai? Nhân tẩu bút dĩ tặng chi tịnh chí sở kiến sở văn, dĩ miễn thế chi vi phụ huynh giả đương pháp kỳ trung hậu, vô vi khắc bạc vân. Hàm Nghi tam niên nhị nguyệt sơ thập nhật. La Yên tam giáp Tiến sĩ Phan thị thư. Dịch nghĩa: Mùa xuân tháng hai năm Đinh Hợi (1887), tôi đi công cán qua phủ Diễn Châu vào làng Đông Yên, tổng Vân Tụ, nghe có nhà họ Tô, đời truyền trung hậu, nhân tiện ghé thăm. Ông Bá Ngọc vốn người dòng dõi. Mới gặp đã thấy ngôn ngữ, cử chỉ đều có phong độ cổ nhân; ở lâu mới biết nhà không giàu lắm; thường ngày trong gia đình anh em cha con ăn ở đều có phép tắc. Ông Bá Ngọc mồ côi sớm, lúc nhỏ ở dựa nhà chú; đến khi chú mất, bà thím ở goá, ông xử sự chu đáo. Những anh em con cháu, ai túng thiếu, ông giúp tiền gạo, giống như phép nhà của Trương Công Nghệ và Trần Cảnh xưa vậy. Làng xóm có người nghèo đến nhờ giúp, ông không hỏi tiền nhiều hay ít, đều để rẻ gạo cho cả. Gặp năm mất mùa, dân nghèo được ông cứu đói khá đông. Tính ông lại trọng khách. Ai giỏi văn thơ đến ngâm vịnh, dù lâu mấy ông vẫn vui lòng. Văn sĩ khắp vùng đều đến kết bạn thân tình. Tiếc thay! Tôi không biết các bậc tiền nhân của ông Bá Ngọc, nhưng cứ xem cách ông Bá Ngọc hoà thuận với bà con, giúp đỡ người nghèo khó, tử tế với bạn bầu, cũng đủ biết người đời truyền tụng về đức trung hậu của nhà ông, quả không sai vậy. Lại nghe nói có ông láng giềng, ngày thường tính khắc bạc, tham lam, cho vay nặng lãi nên nhà giàu đền ức vạn, sinh hạ được hai con trai thì cha chết chưa được vài tháng, anh em đã chia gia tài tranh nhau nhiều ít, tức giận nhau mà đi đến bất hoà, gia nghiệp sa sút nghiêm trọng. Người làng đều cho rằng vì trước ông ấy ăn ở khắc bạc nên đời con chịu quả báo đến như thế. Ôi! Cùng một giang sơn, cùng một phong thổ, cùng một làng xóm, sao lại một bên nhân hậu, một bên khắc bạc khác nhau quá xa làm vậy! Cứ nhìn vào phép nhà ra sao thời rõ thôi mà. Vài hôm trước khi từ biệt, ông Bá Ngọc có xin thơ tôi. Tôi vốn làm vụng, lại không hay thơ, nhưng thấy ông Bá Ngọc là người ham ngâm vịnh, tôi nỡ nào vì kém vụng mà từ chối hay sao? Tôi liền phóng bút viết mấy dòng, nói lên điều tai nghe mắt thấy để khuyên răn những người làm cha anh nên bắt chước tính trung hậu, chớ theo tuồng khắc bạc vậy. Ngày 10 tháng 2 niên hiệu Hàm Nghi năm thứ 8 (1887). Tiến sĩ họ Phan quê làng Yên Đồng huyện La Sơn ghi. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Chín, 2008, 11:36:17 pm KÝ TÔ CHỦ NHÂN1 Nguyên tác: (http://i255.photobucket.com/albums/hh125/chuongxedap/Qsu/PhanDinhPhung/KyTochunhan.jpg) Phiên âm: KÝ TÔ CHỦ NHÂN Quân bản tính Tô, ngã tính Phan, Quân gia Lạp lĩnh, ngã Tùng san (sơn). Vô đoan binh hoả phùng giai cấu, Dữ quân chước tửu chúc bình an. Dịch nghĩa: GỬI TÔ CHỦ NHÂN Bác vốn họ Tô, tôi họ Phan, Nhà bác ở núi Lạp, tôi ở núi Tùng. Không dưng có việc binh lửa, nên may được gặp, Cùng nâng chén rượu, chúc nhau bình an. Dịch thơ: Bác vốn họ Tô, tôi họ Phan, Bác nhà non Lạp, tôi Tùng san. Không dưng bình lửa nên may gặp, Chuốc chén cùng nâng, chúc vạn an. Lê Vũ Hoàng dịch Chú thích: 1. Đây là bài xướng của Phan Đình Phùng trong cuộc xướng họa với Tô Bá Ngọc, nhưng rất tiếc phần họa của ông Tô Bá Ngọc đến nay không thấy. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Chín, 2008, 11:47:54 pm DỮ BÁ NGỌC XƯỚNG HỌA1 Nguyên tác: (http://i255.photobucket.com/albums/hh125/chuongxedap/Qsu/PhanDinhPhung/Dubangocxuonghoa.jpg) Phiên âm: DƯ BÁ NGỌC XƯỚNG HOẠ Văn chương tòng cổ hữu tiền nhân, Tri thức hưu luân cựu hoặc tân. Khoa giáp ngã vi Tùng lĩnh chủ, Thi thư quân thị Lạp sơn nhân. Cố năng bạch nhãn thành tri kỷ, Toại sử thiên nhai nhược tỉ lân Giải cấu thư trung đa kỳ ngộ, Hảo tương giai tác chí kim xuân. Dịch nghĩa: CÙNG XƯỚNG HOẠ VỚI BÁ NGỌC Văn chương từ xưa đã có sự nối tiếp nhau, Đã biết nhau thì đừng bàn cũ hay mới. Về đường khoa bảng, tôi là chủ ở non Tùng2, Về mặt thi thư thì ông là người núi Lạp3. Cho nên có thể từ xa lạ mà thành tri kỷ4, Khiến cho ở tận chân trời mà nên bạn láng giềng. Tình cờ không hẹn mà nên, trong sách đã có nhiều chuyện kỳ ngộ, Để cho có những giai phẩm đến mùa xuân này. Dịch thơ: Văn chương từ trước có tiền duyên, Mới cũ bàn gì chỗ lạ quen. Khoa giáp non Tùng, ta ấy chủ, Thi thư núi Lạp, bạn là tiên. Vì sao mắt trắng thành bầu bạn, Để khiến trời xa hoá láng giềng. Gặp gỡ phen này nhiều thú lạ, Ghi mùa xuân đẹp mảnh hoa tiên. Lê Thước dịch Chú thích: 1. Bài này cũng nằm trong chùm xướng họa được ghi trong Bút tích... của Phan Đình Phùng, nhưng chỉ đề thứ tự bài số 3; đầu đề trên là của những người biên soạn Tổng tập văn học Việt Nam, Nxb Khoa học Xã Hội, 1995. 2. Non Tùng: ở xã Việt Yên, quê hương tác giả. 3. Núi Lạp: ở tổng Vân Tụ, cạnh làng Đông Yên, quê hương Tô Bá Ngọc. 4. Xa lạ: nguyên văn “bạch nhãn” (mắt trắng). Theo điển cũ: có người gặp kẻ không quen thì nhìn bằng mắt trắng, gặp bạn thân thì nhìn bằng mắt xanh. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Chín, 2008, 11:49:35 pm TÁI BỘ CHỦ NHÂN Nguyên tác: (http://i255.photobucket.com/albums/hh125/chuongxedap/Qsu/PhanDinhPhung/Taibochunhan.jpg) Phiên âm: TÁI BỘ CHỦ NHÂN Tằng văn tẩy giáp vãn thiên hà, Bỉ thị hà nhân, ngã thị hà? Đương đạo xà do trì bạt kiếm, Trung nguyên lộc thượng phí thao qua. Tam canh ưu uất nan thành mộng, Vạn lý thê trì tiện thị gia. Hội ẩm Nhục Chi đầu thượng tửu, Đan trì tranh đấu khải hoàn ca. Dịch nghĩa: LẠI HỌA VẦN THƠ CỦA CHỦ NHÂN Từng nghe [có thơ]: níu sông trời xuống để rửa áo giáp1, Người ấy là ai, còn ta là ai? Hận còn chậm tuốt gươm chém rắn giữa đường2, Uổng vung giáo đuổi hươu ngoài đồng nội3. Ba canh lo nghĩ chất chứa, khó thể ngủ được, Vạn dặm, nơi nào dừng nghỉ nơi ấy là nhà. Sẽ họp mặt uống rượu trên đầu bọn giặc Nhục Chi4, Rồi ca khúc khải hoàn trước sân nhà vua. Dịch thơ: Từng nghe rửa giáp níu sông trời, Người ấy là ai, ta ấy ai? Chém rắn giữa đường, gươm tuốt chậm, Đuổi hươu đồng nội, giáo khua sai, Ba canh không ngủ lòng lo giận, Muôn dặm xa nhà chốn nghỉ ngơi. Máu giặc hẹn ngày hoà với rượu, Khúc ca chiến thắng tấu vua hay. Lê Thước dịch Chú thích: 1. Câu này nhắc lại câu thơ của Đặng Dung trong bài Thuật hoài (Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà), tỏ ý muốn dẹp giặc thành công rồi xếp can qua, hưởng thái bình. 2. Hán Cao Tổ đi chơi gặp con rắn nằm ngang giữa đường, tuốt gươm chém chết. Ý muốn nói diệt trừ loài hung ác, đây chỉ giặc Pháp. 3. Ngôi báu nhà Tần bị sụp đổ, các hào kiệt đương thời thi nhau tranh giành chiếm lại, cũng giống như đuổi con hươu trên đồng nội. Ý đây nói, chiếm lại ngôi báu cho vua Hàm Nghi. 4. Nhục Chi: tên một nước ngày trước ở phía Bắc Trung Quốc. Có một thời gian, nước đó trở nên hùng mạnh thường vào cướp phá Trung Quốc và xâm lấn các miền Trung Châu Á, đến tận Ấn Độ. Nghĩa bóng chỉ giặc Pháp đối với nước ta lúc đó cũng như Nhục Chi đối với các nước trên. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Chín, 2008, 11:56:25 pm ĐỀ TÔ THỊ TỪ ĐƯỜNG1 Nguyên tác: (http://i255.photobucket.com/albums/hh125/chuongxedap/Qsu/PhanDinhPhung/DeTothituduong.jpg) Phiên âm: ĐỀ TÔ THỊ TỪ ĐƯỜNG Đệ thất đan trì bốc tuỵ anh, Khách du đáo xứ bội di tình. Phùng nhân thí vấn hảo sơn thủy. Ưng thuyết Tô gia thi lễ đình. Dịch nghĩa: ĐỀ NHÀ THỜ HỌ TÔ Ngôi nhà sân đỏ dùng để thờ cúng gia tiên Khách đi qua vào đây, tình cảm để lại gấp bội Gặp người, hỏi về những nơi tốt của núi sông Phải nói, nhà họ Tô là sân nhà thi lễ. Dịch thơ: Ngôi nhà rực rỡ thờ gia tiên, Lòng khách vào đây vui vẻ thêm. Hỏi núi sông đây gì đẹp nhất Họ Tô thi lễ thế gia truyền. Lê Thước dịch Chú thích: 1. Khi làm bài thơ này, Phan Đình Phùng có chú rằng (đã dịch): “Nhà này có bức câu đối: Truyền gia điển báo tồn phong yến Đệ thất đan trì bốc tuỵ anh cho nên làm nối bài thơ này”. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Chín, 2008, 04:39:01 pm MẬU TÍ NGUYÊN NHẬT Nguyên tác: (http://i255.photobucket.com/albums/hh125/chuongxedap/Qsu/PhanDinhPhung/MauTinguyennhat.jpg) Phiên âm: MẬU TÍ NGUYÊN NHẬT Lưu oanh đình ngoại ngư hoa chi, Hoa báo xuân quy nhân vị quy. Bình lĩnh bách niên tư nhật nhiễu, Hồng sơn vạn lý vọng vân phi. Ngô gia hữu giáo căn trung hiếu, Khách địa vô tâm oán biệt ly Gia tiết thị nhân hành lạc xứ, Ngã phùng giai tiết bất thăng bi Dịch nghĩa: MỒNG MỘT TẾT MẬU TÝ (1888) Ngoài sân, chim oanh bay đến hót trên cành hoa, Hoa báo tin xuân về mà người chưa về. Núi Bình trăm năm còn nhớ lúc mặt trời rọi quanh1, Non Hồng xa muôn dặm, ngóng trông mây bay2. Gia giáo nhà ta gốc ở trung hiếu, Nên dù ở đất khách cũng không có lòng oán hận nỗi ly biệt. Tiết lành là lúc mọi người ăn chơi vui vẻ, Ta gặp tiết lành mà buồn khôn xiết kể. Bản dịch thơ 1: Ngoài sân oanh nói với hoa cười, Hoa báo xuân về, vẫn vắng người. Núi Ngự trăm năm vầng nhật chiếu, Non Hồng muôn dặm bóng mây trôi. Nhà ta vốn dạy niềm trung hiếu, Đất khách không lòng oán ngược xuôi. Tết đền người người vui vẻ cả, Riêng ta gặp tết vẫn bùi ngùi. Chu Thiên3 dịch Bản dịch thơ 2: Tiếng oanh non nỉ sân ngoài Tìm Xuân về đó mà người ở đâu Ngàn thu một tấm cô sầu Non Hồng núi Ngự mây đầu xa xa Hiếu trung là nếp nhà ta Biệt ly đất khách, oán mà làm chi Tiết Xuân ai cũng vui vầy Mà ta riêng nỗi sầu bi một mình. Đào Trinh Nhất4 dịch Chú thích: 1. Núi Ngự Bình ở kinh đô Huế, đây ý nói nhớ vua.. 2. Núi Hồng Lĩnh ở Hà Tĩnh. Trông mây bay là nhớ quê, nhớ cha mẹ. 3. Chu Thiên: Nhà văn, Giảng viên khoa Sử, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. 4. Đào Trinh Nhất (1899-1951): con trưởng Đình nguyên Nhị giáp Tiến sĩ Đào Nguyên Phổ (con rể Lương Ngọc Quyến), kiêm thông Hán học, Pháp học lại có văn tài, trong 30 năm để lại nhiều thành tích trong làng văn, làng báo. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Chín, 2008, 04:55:30 pm ĐÁP HỮU NHÂN KÝ THI Nguyên tác: (http://i255.photobucket.com/albums/hh125/chuongxedap/Qsu/PhanDinhPhung/Daphuunhankythi.jpg) Phiên âm: ĐÁP HỮU NHÂN KÝ THI Bách niên tôn xã dư hoài nhiệt, Nhất phiến cô trung tặc đởm hàn. Ký ngữ đồng nhân tri dã phủ, Sở vương thế lực bạt hà san? Dịch nghĩa: ĐÁP THƠ NGƯỜI BẠN GỬI ĐẾN Lòng ta nung nấu nghĩ đến tông xã xây đắp hàng trăm năm, Một tấm cô trung đủ làm cho giặc sợ mất vía. Gửi lời hỏi bạn đồng sự cũ có biết hay không: Thế lực vua Sở1 đã nhổ được quả núi nào? Dịch thơ: Trăm năm xã tắc lòng nung nấu, Một tấm cô trung khiếp vía thù. Nhắn nhủ đồng liêu ai biết chẳng. Sở vương nhổ được núi nào đâu? Khương Hữu Dụng2 dịch Chú thích: 1. Vua Sở: Tức Hạng Vũ. Lúc bị quân Hán vây ở Cai Hạ, Hạng Vũ đã hát một khúc hát biệt Ngu Cơ. Câu đầu: “Lực bạt sơn hề khí cái thế”, nghĩa: khí trùm đời chừ sức nhổ núi. Ý câu: dù địch có sức mạnh như vua Sở cũng chưa làm gì được 2. Khương Hữu Dụng (1907-2005): Nhà thơ, dịch giả, người có nhiều đóng góp cho nền văn học Việt Nam. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Chín, 2008, 05:04:45 pm THẮNG TRẬN HẬU CẢM TÁC1 Nguyên tác: (http://i255.photobucket.com/albums/hh125/chuongxedap/Qsu/PhanDinhPhung/Thangtranhaucamtac.jpg) Phiên âm: THẮNG TRẬN HẬU CẢM TÁC Nhất Tài phát binh hành hối phỉ lai, Dư tâm vị định chính bồi hồi. Trướng tiền thỉnh chiến hà nhân giả? Quả bất thời gian báo tiệp hồi. Nhị Sơn cái cao hề thủy cái thanh, Mỗi ư mặc tướng hiển anh linh. Bất nhiên chúng quả tương huyền thậm. Hồ đáo khê đầu dĩ thất kinh? Dịch nghĩa: SAU KHI THẮNG TRẬN, CẢM TÁC I Vừa mới phái quân đi giặc bỗng kéo đến, Lòng ta còn đương băn khoăn chưa biết tính sao. Trước trướng người xin ra đánh là ai vậy? Mà trong chốc lát đã có tin thắng trận báo về. II Núi rất cao, mà sông rất trong, Núi sông thường khi hiển linh lên để giúp ta. Không thế thì sao bên nhiều bên ít chênh nhau như vậy, Mà mới đến đầu khe giặc đã sợ bỏ chạy? Dịch thơ: I Vừa phái quân đi giặc kéo vào, Lòng ta chưa biết tính nên sao. Quyết xin ra đánh là ai đó? Thắng trận tin về quả chẳng lâu. II Non rất cao mà nước rất xanh, Nước non linh hiển giúp cho mình. Nếu không bên ít bên nhiều thế, Sao đến đầu khe đã hoảng kinh Khương Hữu Dụng dịch Chú thích: 1. Bài này Phan Đình Phùng làm sau khi đi xem chiến trường một trận thắng ở Vụ Quang năm 1894. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Chín, 2008, 05:09:48 pm KIẾN NGỤY BINH THI CẢM TÁC Nguyên tác: (http://i255.photobucket.com/albums/hh125/chuongxedap/Qsu/PhanDinhPhung/Kiennguybinhthicamtac.jpg) Phiên âm: KIẾN NGỤY BINH THI CẢM TÁC Nhĩ tâm nguyên vị lợi danh mi, Khước hướng khê biên tác tử thi. Giám triệt thuỳ nhân ưng tảo ngộ, Đáo thân tử hậu hối hoàn trì. Dịch nghĩa: THẤY XÁC LÍNH NGỤY, CẢM TÁC Lòng mày nguyên chỉ tham danh lợi, Để đến nỗi làm cái xác chết ở bên khe. Soi vết xe trước đã đổ, ai đó nên sớm tỉnh ngộ. Kẻo đến khi thân chết rồi mới hối thì đã muộn. Dịch thơ: Mày chỉ vì danh lợi đó thôi, Bên khe đến nỗi để thây phơi! Dấu xe trước mắt ai trông đó, Kẻo chết ăn năn cũng muộn rồi. Khương Hữu Dụng dịch Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Chín, 2008, 07:19:29 pm PHÚC ĐÁP HOÀNG CAO KHẢI Nguyên tác: (http://i255.photobucket.com/albums/hh125/chuongxedap/Qsu/PhanDinhPhung/PhucdapHoangCaoKhai.jpg) Phiên âm: PHÚC ĐÁP HOÀNG CAO KHẢI Trung hiếu do lai kỷ đắc tuyền, Phong trần hồi thủ lệ sàn nhiên. Vị năng nhất tử thù quân phụ, Không phí tam sinh học thánh hiền. Thập tải hồn du thanh tỏa địa Vạn hàng huyết lệ bạch vân thiên. Khổ tâm liêu hướng đồng tâm thoại, Tạc dạ tàn đăng độc tự liên. Dịch nghĩa: ĐÁP HOÀNG CAO KHẢI Từ trước tới nay trung hiếu mấy ai giữ được toàn vẹn cả, Trải phong trần quay đầu nghĩ lại nước mắt đầm đìa. Chưa thể đem một cái chết báo đền vua cha, Uổng phí công ba sinh học đạo thánh hiền. Mười năm hồn mơ chơi ở nơi cung khuyết1. Muôn hàng huyết lệ trông theo mây trắng lên trời. Nỗi khổ tâm muốn nói nhưng vắng bạn đồng tâm, Đêm qua dưới ánh đèn tàn, mình lại thương mình. Dịch thơ: Xưa nay trung hiếu khó hoà hai, Ngẫm lại phong trần luống lệ rơi. Quân phụ thù chưa đem chết báo. Thánh hiền học cũng uổng công thôi. Hồn mơ bao độ cung vua tới, Lệ máu muôn hàng mây trắng trôi! Khó nói cùng ai niềm khổ não, Tự thương riêng có bóng đèn soi. Chu Thiên dịch Chú thích: 1. Câu này ở nguyên văn cuốn sách chữ “thanh tỏa” tức là viền xanh. Ngày xưa các cửa ở cung vua chạm viền khung trang trí và sơn xanh cái khung chạm ấy. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Chín, 2008, 07:22:59 pm ĐIẾU LÊ NINH Nguyên tác: (http://i255.photobucket.com/albums/hh125/chuongxedap/Qsu/PhanDinhPhung/DieuLeNinh.jpg) Phiên âm: ĐIẾU LÊ NINH Tuy vân thành bại do thiên, xướng nghĩa tiên thanh tồn Nghệ Tĩnh; Kham thán anh hùng vô địa, phù quân đại tiết hữu Hồng Lam. Dịch nghĩa: CÂU ĐỐI VIẾNG ÔNG LÊ NINH Tuy rằng thành bại tự trời, tiếng xướng nghĩa trước tiên, còn truyền Nghệ Tĩnh. Than nhẽ anh hùng không đất, tiết phò vua cao cả, khá sánh Hồng Lam. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Chín, 2008, 07:28:10 pm KHỐC CAO THẮNG Nguyên tác: (http://i255.photobucket.com/albums/hh125/chuongxedap/Qsu/PhanDinhPhung/KhocCaoThang.jpg) Phiên âm: KHỐC CAO THẮNG NHẤT Hữu chí phất thành, anh hùng dĩ hĩ; Vị tiệp tiên tử, thiên ý vị hà? NHỊ Công cầu tất thành, kích tiếp thệ ngôn thanh quốc tặc; Sự nan dự liệu, cứ yên kim dĩ thiểu tư nhân. Dịch nghĩa: CÂU ĐỐI KHÓC ÔNG CAO THẮNG I Có chí không thành, anh hùng đã khuất; Chưa thắng đã chết, ý trời ra sao? II Công muốn lập nên, gõ mái nặng thề trừ giặc1 nước; Việc khôn tính trước, lên yên2 nay thấy vắng người này. Chú thích: 1. Gõ mái: Tổ Địch đời Tấn khi kéo quân qua sông đi đánh bọn giặc xâm lăng phương Bắc, ra giữa dòng, ông gõ mái chèo thề rằng: “Không quét hết giặc, thề không trở về qua sông này” 2. Lên yên: Mã Viện đời Hán đã 62 tuổi xin đi đánh giặc, Quang Vũ ngại tuổi già không muốn cho đi. Mã Viện nói: “Tôi còn đủ sức mặc áo giáp và cưỡi ngựa”. Nói rồi nhảy lên ngựa, ngồi vững trên yên. Quang Vũ khen ngợi thuận cho đi. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Chín, 2008, 07:33:41 pm THƯ TRẢ LỜI HOÀNG CAO KHẢI Nguyên tác: (http://i255.photobucket.com/albums/hh125/chuongxedap/Qsu/PhanDinhPhung/ThutraloiHoangCaoKhai.jpg) Phiên âm: PHÚC KÝ HOÀNG CAO KHẢI THƯ Đồng ấp Cử nhân Hoàng quý đài điện giám: Đệ cận dĩ binh sự, cửu xử lâm hác, kiêm chi đông thiên hàn lãnh, tịch nhược vô liêu. Thích hữu nhân báo cố nhân thư lai, nhất văn chi hạ, bất giác hàn tịch tận phá, khắc tức triển độc. Thư nội hiển thị hoạ phúc, thuyết tận lợi hại; cực tri cố nhân phi đồ vị đệ kế an toàn, thực dục vi toàn hạt mưu ninh thiếp dã. Thiên lý tuy dao, bất xí đồng đường ngộ đối, can trường phế phủ chi ngôn, quân dĩ lãnh tất. Nhiên dĩ đệ chi tâm sự chi cảnh ngộ tắc hữu vạn nan ngôn giả, hà dã? Hiện kim thiên hạ chi sự thế như thử, nhi đệ chi tài lực như bỉ, cổ nhân vị dĩ đường tý nhi đương vạn thặng, kim tắc hựu bất chỉ thử dã! Nhiên đệ thoái nhi tư chi, ngã quốc thiên bách niên lai, địa bất quảng, binh bất cường, tài bất phú, sở thị dĩ lập quốc giả, quân thần phụ tử ngũ luân nhi dĩ. Hán Đường Tống Nguyên Minh luỹ dục quận huyện kỳ địa, chung bất khả đắc. Phù tha chi dữ ngã, địa tắc tương liên, lực tắc vạn bội, nhi chung bất khả dĩ vi cường giả, thử vô tha, Nam quốc sơn hà, tiệt nhiên định phận, thi thư chi trạch, thành hữu khả thị dã. Tư giả, dương nhân dữ ngã, tương cách bất tri kỳ kỷ thiên vạn lý chi dao, việt hải nhi lai, sở chí phong mị, thiên tử bôn ba, cử quốc hoàng hoàng, viêm Tống sơn hà, thành Kim thế giới. Thiên hạ chi trầm nịch hà như, khỉ đồ nhất châu nhất gia đồ thán nhi dĩ tai. Ất dậu niên, giá để Tĩnh phòng, thử thứ đệ đinh hữu mẫu ưu, duy tri bế môn cư tang, khỉ cảm hữu tha. Vô nại dĩ thế thần chi cố, luỹ chiếu tuyên triệu, cố bất đắc bất khởi nhi ứng chi; cận hựu trạc dĩ bất thứ, uỷ dĩ trọng quyền, quân mệnh như thử, túng sử cố nhân đương thử, kỳ năng từ nhi tỵ chi hồ? Cận lai cơ dĩ thập niên, tòng nghĩa chư nhân, hoặc bị trách phạt, hoặc bị tru lục, nhi chung vô ly tâm, vô hối chí, xuất tài xuất lực, tòng giả thật dĩ gia đa; phù khỉ nhân tình chi lạc tai tham hoạ nhi nhiên tai? Thử cái hữu dĩ tín đệ chi tâm dã. Nhân tâm như thử, thảng sử cố nhân xử thử, kỳ năng từ nhi khí chi hồ? Cố hương hoả chi thê lương, thân thích chi ly tán, bất cảm cố dã. Thân giả do bất cảm cố, nhi huống ư sơ giả hồ? Cận giả do bất cảm bảo, nhi huống ư viễn giả hồ? Phả ngã hạt chi sở dĩ thậm ư đồ thán giả, phi đồ bình chi vi tệ dã: Pháp quan nhất lai, quần tiểu phụ chi, vô tội giả chỉ vi hữu tội, kim nhật ngôn trách, minh nhật ngôn phạt, phàm khả dĩ thủ dân tài giả, vô sở bất dụng kỳ chí, tệ đoan bách xuất, Pháp quan an đắc nhi tận tri, lư diêm kỳ năng bất chí ư phiêu tán giả hồ? Cố nhân dữ đệ giai Hoan sản dã, thiên lý chi ngoại, cố nhân do dĩ châu lý vi niệm, huống đệ mục kích nhi thân thân giả hồ? Đãn vị cảnh sở khuất, lực bất tòng tâm, tắc diệc vô như chi hà nhĩ. Tư cố nhân lý hữu ý cập tư dân, tất dĩ đệ chi cảnh ngộ, thiết dĩ thân xử nhi tư chi, tắc đệ chi tâm sự tự liệu nhiên hĩ, hựu hà tất phiền đệ chi chuế trần tai. Nhất dương giai hậu, dao chúc bình an. Phan Đình Phùng phúc thư Dịch nghĩa: THƯ TRẢ LỜI HOÀNG CAO KHẢI1 Hoàng quý đài các hạ, Gần đây, tôi vì việc quân, ở mãi trong trốn rừng rú, lại thêm lúc này tiết trời mùa đông, khí hậu rét quá, nông nỗi thật buồn tênh. Chợt có người báo có thư của cố nhân gửi đến. Nghe tin ấy, không ngờ bao nhiêu buồn rầu lạnh lẽo, tan đi hết cả. Tiếp thư liền mở ra đọc. Trong thư, cố nhân chỉ bảo cho điều họa phúc, bày tỏ hết chỗ lợi hại, đủ biết tấm lòng của cố nhân, chẳng những muốn mưu sự an toàn cho tôi thôi, chính là muốn mưu sự yên ổn cho toàn hạt ta nữa. Những lời nói gan ruột của cố nhân, tôi đã hiểu hết, cách nhau muôn dặm tuy xa, nhưng chẳng khác gì chúng ta được ngồi cùng nhà nói chuyện với nhau vậy. Song le, tâm sự và cảnh ngộ của tôi có nhiều chỗ muôn vàn khó nói hết sức. Xem sự thể thiên hạ như thế kia, mà tài lực tôi như thế này, y như lời cổ nhân đã nói: thân con bọ ngựa là bao mà dám giơ tay lên muốn cản trở cỗ xe thì cản sao nổi; việc tôi làm ngày nay sánh lại còn quá hơn nữa, chẳng phải như chuyện con bọ ngựa đưa tay ra cản xe mà thôi. Nhưng tôi ngẫm nghĩ lại, nước mình ngàn năm nay, đất nước chẳng rộng, quân lính không mạnh, tiền của chẳng giàu, cái chỗ dựa để dựng nước, là nhờ có cái gốc vua tôi, cha con theo năm đạo thường mà thôi. Xưa kia nhà Hán, nhà Đường, nhà Tống, nhà Nguyên, nhà Minh, bao nhiêu phen lăm le muốn chiếm lấy đất ta làm quận huyện của họ mà rút cục vẫn chiếm không được. Ôi! Họ đối với nước ta, bờ cõi liền nhau, sức mạnh hơn ta vạn bội, thế mà trước sau họ không thể ỷ mạnh mà nuốt trôi nước ta được, nào có vì lẽ gì khác đâu, chẳng qua non sông nước Nam tự trời định phận riêng rõ ràng rồi, và cái ơn giáo hoá của thi thư vốn là chỗ dựa cho mình đấy. Đến nay người Tây với mình, cách xa nhau không biết là mấy muôn dặm, họ vượt bể lại đây, đi tới đâu như là gió lướt tới đó, đến nỗi nhà vua phải chạy, cả nước lao xao, bỗng chốc non sông nước mình biến thành bờ cõi người ta, thế là trọn cả nước nhà, dân nhà cũng bị đắm chìm hết thảy, có phải là riêng một châu nào hay một nhà ai phải chịu cảnh lầm than mà thôi đâu. Năm Ất Dậu, xa giá thiên tử ngự đến Sơn phòng Hà Tĩnh; giữa lúc đó tôi đang còn tang mẹ, chỉ biết đóng cửa chịu tang cho trọn đạo, trong lòng há dám mơ tưởng đến sự gì khác đâu. Song vì mình là con nhà thế thần, cho nên đôi ba lần đức Hoàng thượng xuống chiếu vời ra, không lẽ nào có thể từ chối, thành ra tôi phải bất đắc dĩ đứng ra vâng chiếu. Gần đây, Hoàng thượng lại đoái tưởng lựa chọn tôi mà giao phó cho việc lớn, uỷ thác cho quyền to; ấy mang ơn vua uỷ thác như thế đó, nếu cố nhân đặt mình vào trong cảnh như tôi, liệu chừng cố nhân có đành chối từ trốn tránh đi được hay không? Từ lúc tôi khởi nghĩa đến nay, đã trải mười năm trời, những người đem thân theo việc nghĩa, hoặc đã bị trách phạt, hoặc đã bị chém giết, vậy mà lòng người trước sau chẳng hề lấy thế làm chán nản ngã lòng bao giờ; trái lại, họ vẫn bỏ của bỏ sức ra giúp đỡ tôi, mà số người mạnh bạo ra theo tôi lại càng ngày càng nhiều thêm mãi. Nào có phải người ta lấy điều tai vạ hiểm nguy làm sự sung sướng thèm thuồng mà bỏ nhà dấn thân ra theo tôi như vậy đâu. Chỉ vì họ tin cậy lòng tôi, lượng xét chí tôi, cho nên hâm mộ vậy đó thôi. Nay lòng người như thế đó, nếu như cố nhân đặt mình vào cảnh của tôi liệu chừng cố nhân có nỡ lòng nào bỏ mà đi cho đành hay không? Chỉ vì nhân tâm đối với tôi như thế, cho nên cảnh nhà tôi đến nỗi hương khói vắng tanh, bà con xiêu giạt, tôi cũng chẳng dám đoái hoài. Nghĩ xem, kẻ thân với mình mà mình còn không đoái hoài, huống chi là kẻ sơ; người gần với mình mà mình còn không bao bọc nổi, huống chi người xa. Vả chăng hạt ta đến nỗi điêu đứng lầm than quá không phải riêng vì tai hoạ binh đao làm nên nông nỗi thế đâu. Phải biết quân Pháp đi tới, có lũ tiểu nhân mình hùa theo bầy kế lập công, những người không có tội gì, chúng cũng buộc cho có tội, rồi thì bữa nay trách thế nọ, ngày mai phạt thế kia, phàm có cách gì đục khoét được của cải của dân, chúng nó cũng dùng hết không từ. Bởi thế mà thói hư mối tệ tuôn ra cả trăm cả ngàn, quân Pháp làm sao biết thấu? Như thế mà bảo làng xóm không phải tan lìa trôi giạt đi thì có thể được ư? Cố nhân với tôi đều là người sinh tại châu Hoan, mà cố nhân ở cách xa ngoài muôn ngàn dặm, còn có lòng đoái tưởng quê hương thay, huống chi là tôi đây đã từng lấy thân chịu đựng và lấy mắt trông thấy thì sao? Khốn nỗi cảnh ngộ bó buộc, vả lại sức mình chẳng làm được theo lòng mình muốn thành ra phải đành, chứ không biết làm sao cho được. Cố nhân đã biết đoái hoài thương xót dân này, thì cố nhân nên lấy tâm sự tôi và cảnh ngộ tôi, thử đặt mình vào mà suy nghĩ xem, tự nhiên thấy rõ ràng, chứ cần gì đến tôi phải nói dông dài nhiều nữa. Tiết đẹp nhất dương2, bình yên xa chúc. Phan Đình Phùng kính đáp Chu Thiên dịch Chú thích: 1. Tháng 5-1884, Hoàng Cao Khải vâng lệnh toàn quyền Lanessan viết thư cho người đem đến tận nơi đưa cho Phan Đình Phùng dụ ra hàng. Đây là thư Phan Đình Phùng trả lời bức thư ấy. 2. Nhất dương: Tháng 11 âm lịch. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Chín, 2008, 07:39:39 pm Để bạn đọc hiểu hơn nội dung “Thư trả lời Hoàng Cao Khải” của Phan Đình Phùng, chúng tôi xin đăng toàn bộ phần “Thư Hoàng Cao Khải gửi Phan Đình Phùng” do Chu Thiên dịch: THƯ HOÀNG CAO KHẢI GỬI PHAN ĐÌNH PHÙNG Triều Thành Thái, năm Giáp Ngọ (1894), tháng tư. Kính gửi Đình nguyên Tiến sĩ Phan huynh ông túc hạ Tôi với túc hạ xa cách nhau thấm thoát đã mười bảy năm rồi. Việc đời dâu bể phong trần kẻ Bắc người Nam, xu hướng dù có khác nhau, nhưng hồn mộng vẫn quanh quẩn bên nhau. Hồi tưởng khi ngày trước ở làng xóm vui chơi, tình nghĩa đôi ta sao mà thắm thiết thế! Từ khi túc hạ gây việc đến nay, gan trung dạ nghĩa đã vang khắp đó đây, mọi người đều biết. Tôi thường được nghe các quý quan nói chuyện với nhau, ai cũng khen ngợi và kính trọng túc hạ, đủ rõ cái quan niệm về nghĩa khí và tôn bậc thân, người nơi khác cũng đồng tình, chứ không phải chỉ là bọn thanh khí riêng mình với nhau mà thôi đâu. Nguyên khi kinh thành có việc, nhà vua dời đi, túc hạ đã hăng hái đứng ra ứng nghĩa, giữa lúc sự thể đến tay như thế, mà làm như thế, ai dám bảo là không đúng. Còn đến gần đây, sự thể như thế nào? Việc thiên hạ có thể làm được nữa hay không? Thì dù những kẻ thô thiển tầm thường cũng còn biết được, nữa là túc hạ là hạng người tuấn kiệt, há không nghĩ được hay sao? Tôi trộm đoán cái chí của túc hạ cho rằng: “Ta cứ làm việc nghĩa của ta, hết sức hết tài của ta, còn nên hay không là do trời, ta chỉ biết dâng mình cho nước đến chết thì thôi!” Cho nên đi luôn biền biệt mà không trở lại nữa, là vì không thể cướp được cái chí ấy. Nhưng tôi thấy tình cảnh hiện nay của xóm làng thật là đau lòng, tôi thường muốn đem ý kiến thô thiển của mình mạo muội bày tỏ lên bậc cao minh, nhưng đã rải giấy mài mực, rồi lại gác bút lên mà than thở nhiều lần. Tại sao thế? Vì nghĩ rằng gan vàng dạ sắt ấy, không thể lấy lời nói câu văn mà chuyển động được. Phương chi tình khác, cảnh khác, mặt xa, lòng xa, lời nói của tôi chưa chắc đã thấu đến sân túc hạ, mà dù có đến được sân túc hạ chăng nữa, vị tất đã lọt được vào tai của túc hạ, chỉ tổ cho cố nhân cười tôi là ngu mà thôi. Nay nhân quan toàn quyền cũ lại sang, trước tiên đem công việc anh ta ra bàn, có khuyên tôi sai người tỏ ý với túc hạ, ngài lại gửi lời nhờ nói với túc hạ rằng: “Những người đạt nhân1 cố nhiên vốn không bo bo vì gia đình mình, nhưng cũng phải nghĩ đến cứu nhân dân một phương này chứ”. Câu ấy quan toàn quyền không nói với ai, mà lại nói với tôi, là vì cho là tôi với túc hạ có tình làng xóm, lẽ nào tôi lại im đi làm thinh mà không nói với túc hạ cho đành. Kìa như quan toàn quyền từ xa muôn dặm đến đây mà còn băn khoăn nghĩ đến dân ta như thế, phương chi chúng ta sinh trưởng ở xứ này, cha anh họ hàng ở cả đấy mà một sớm quên hết cả tình nghĩa, điềm nhiên như không, rồi trăm năm sau người ta sẽ bảo chúng ta ra sao? Nguyên con người ta trên là đức của vua, vì dưới là vì dân; kẻ đã trung với vua thì phải có lòng thương dân, chưa có người nào không thương đến dân của mình mà bảo là trung với vua được. Những công việc túc hạ đã làm bấy lâu nay, bảo là trung thì trung thật đấy. Nhưng riêng nhân dân hạt ta thì phỏng có tội gì mà phải lâm vào cảnh lầm than ấy? Đấy là lỗi của ai? Nếu cứ theo cái đà này mà đi mãi, tôi sợ rằng cả cái vùng Hồng Lam này sẽ thành ao cá hết, chứ có phải riêng làng Đông Thái chúng ta phải lo thôi đâu! Cứ cho rằng: “Người làm việc thiên hạ thì không nhìn đến nhà”. Nhưng chỉ nhà của một người thì được, còn như nhà của cả một tỉnh thì sao? Thiết tưởng không phải điều mà nhân dân quân tử thích làm. Tôi lui vào mà nghĩ, lại bất giác vùng dậy vui vẻ nói rằng: “Câu này có thể đem ra mà thỉnh giáo với bề trên được đấy!” Tuy nhiên, sự thế của túc hạ hiện nay như cưỡi cọp muốn xuống, nguy hiểm biết là nhường nào? Nếu tôi không có gì tự tin thì quyết không dám khinh suất dựng nên lời nói để làm hại cố nhân. May có quan toàn quyền đại thần quen biết với tôi từ lâu, lại quan khâm sứ ở kinh và quan công sứ Nghệ An, Hà Tĩnh, đều tin cậy ý kiến tôi cả. Tức như trước đây, quan Bố trần, quan Thị Phan2 người thì bị án mạng, người thì bị an trí, tôi đều vì tình trong làng trong tỉnh, bảo toàn cho cả, may đều được yên ổn. Lại như mới đây, Phan huynh3 ông ra thú, tôi đưa đi yết kiên các quý quan, đều được đối đãi như khách. Lại sai đánh điện bảo trả ngay mồ mả tiền nhân, thả anh em thân thuộc ra. Khoan hồng biết là nhường nào? Xem đấy, dù biết lẽ ân lòng ấy, tuy xa nghìn dặm, vẫn có chỗ giống nhau vậy. Nếu túc hạ không cho lời tôi nói là viển vông quá, xin hoàn toàn đừng lo ngại sự gì. Quyết không để cho cố nhân mang tiếng là bất tài đâu. Nay tôi đã thương thuyết với các quý quan: trước hãy tha bà chị nhà được đến báo tin với túc hạ, và kèm cả bức thư này đường độ gửi đến túc hạ. Kính xin bậc cao minh xét cho. Đầu non mai báo tin xuân, mong đợi có thư trả lời. Chu Thiên dịch Theo nguyên văn chữ Hán trong Bài ngoại liệt truyện 1. Đạt nhân: Người có tâm hồn rộng rãi, phóng khoáng hiểu biết mọi lẽ phải trái ở đời, chứ không cố chấp. 2. Quan Bố Trần: Trần Khánh Tiến người làng Phổ Minh, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, đỗ Phó bảng, làm Bố chính sứ tỉnh Nghệ An. Quan Thị Phan: Phan Huy Nhuận, người làng Đông Thái, huyện La Sơn, Hà Tĩnh, đỗ Tiến sĩ, làm Thị lang Bộ Công. 3. Tức Phan Trọng Mưu cùng làng với Phan Đình Phùng, đỗ Tiến sĩ, làm Tham biện Nội các. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Chín, 2008, 07:46:21 pm LÂM CHUNG THỜI TÁC Nguyên tác: (http://i255.photobucket.com/albums/hh125/chuongxedap/Qsu/PhanDinhPhung/Lamchungthoitac.jpg) Phiên âm: LÂM CHUNG THỜI TÁC Nhung trường phụng mệnh thập canh đông, Vũ lược y nhiên vị tấu công. Cùng hộ ngao thiên nan trạch nhạn, Phỉ đồ biến địa thượng đồn phong. Cửu trùng xa giá quan sơn ngoại, Tứ hải nhân dân thủy hoả trung. Trách vọng dũ long ưu dũ trọng, Tướng môn thâm tự quý anh hùng. Dịch nghĩa: LÀM LÚC SẮP MẤT Vâng mệnh ở chốn binh nhung đã mười năm, Mưu lược đánh gìặc vẫn chưa nên được việc gì. Dân chúng cùng đường đói khổ kêu trời như đàn nhạn không có chỗ ở Bọn giặc còn đóng đồn như ong khắp mọi nơi. Xa giá của vua đang ở ngoài quan sơn, Nhân dân bốn bể như sống trong nước sôi lửa bỏng. Trách nhiệm càng cao thì mối lo càng lớn, Nghĩ mình cũng trong cửa tướng, mà riêng thẹn với tiếng anh hùng. Bản dịch thơ 1: Nhung trường vâng mệnh đã mười đông, Vũ lược còn chưa lập được công. Dân đói kêu trời xao xác nhạn, Quân gian chật đất rộn ràng ong. Chín lần xa giá non sông cách, Bốn bể nhân dân nước lửa nồng. Trách nhiệm càng cao càng nặng gánh, Tướng môn riêng thẹn mặt anh hùng. Trần Huy Liệu dịch Bản dịch thơ 2: Việc quân vâng mệnh trải mười đông, Chiến sự nay còn tính chửa xong. Dân đói kêu trời tan ổ nhạn, Quân thù chật đất dậy đàn ong. Chín trùng thánh chúa nơi quê lạ, Bốn bể nhân dân chốn lửa nồng. Trách vọng càng cao, lo lại nặng, Tướng môn những thẹn với anh hùng. Lê Thước dịch Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Chín, 2008, 08:00:47 pm B. THƠ, CÂU ĐỐI, VĂN ĐIẾU PHAN ĐÌNH PHÙNG NGUYỄN THỨC TỰ VÀ PHAN BỘI CHÂU1 NGHỆ TĨNH VĂN THÂN ĐIẾU PHAN ĐÌNH PHÙNG ĐỐI LIÊN Phiên âm: Thành bại anh hùng mạc luận, thử cô trung, thử đại nghĩa, thệ dữ chư quân tử thủy chung; Châu chi anh, mặc chi linh, độc thư mỗi niệm cương thường trọng; Khả hận giả thùy điên đại hạ, nhất mộc nan chi, cung lãnh yên tiêu, thùy nhân bất tác thâm sơn oán? Huống lương nhật long phi vân ám, cộng ta nhân sự vô thường, khả liên La Thành giang sơn, bách niên văn hiến phiên, binh mã; Cổ kim thiên địa vô cùng, nhi lưu thủy, nhi cao phong, đồng thử đại trượng phu vũ trụ; Lam chi phong, Hồng chi tuyết, xung hàn vô nại bá tùng điêu; Vị hà tai hội quyết đồi ba, trung lưu để trụ, tinh di vật hoán, hà nhân bất khởi cố viên tình? Cập thử thời nhạn tán phong xuy, kham thán thiên tâm mạc trợ, độc thử tùng mai khí tiết, nhất tử tinh thần quán Đẩu Ngưu. (Theo Đào Trinh Nhất: Phan Đình Phùng..., sđd) Dịch nghĩa: CÂU ĐỐI VĂN THÂN NGHỆ TĨNH VIẾNG PHAN ĐÌNH PHÙNG Anh hùng thành bại kể chi, tấc dạ cô trung, tấm gương nghĩa cả, thề cùng các bạn chu tuyền; Son mực thánh thần, đọc sách lấy cương thường làm trọng; Giận vì lẽ nhà to sắp đổ, một cây chẳng chống được nào, cung lạnh khói tàn, cảnh non thẳm ai không xót nỗi? Gặp vận rồng bay mây tối; Ngậm ngùi cuộc thế đổi thay, thương ôi La Thành non sông, văn hiến trăm năm binh mã loạn; Trời đất cổ kim còn mãi, một dòng nước chảy, muôn trượng núi xa, ấy chốn nam nhi ngang dọc; Lam Hồng gió tuyết, ngạo đông cho tùng bách cũng gầy; Tính sao đây sóng cả đang dâng, cột đá giữa dòng khó vững, sao dời vật đổi, tình cố hương ai chẳng chạnh lòng? Nguồn cơn nhạn lạc gió gầm, ngao ngán lòng trời cay nghiệt, thấy chửa tùng mai khí tiết, tinh thần một thác Đẩu Ngưu cao! Hoàng Tạo2 dịch Chú thích: 1. Nguyễn Thức Tự: Ông đồ nổi tiếng ở vùng Nghi Lộc, được các sĩ phu xứ Nghệ đánh giá là bậc thầy về kinh sử và nhân cách. Học trò của ông là các nhà khoa bảng nổi tiếng như Đinh Văn Chấp, Nguyễn Đức Lý, Hoàng Kiêm, Ngô Đức Kế, Nguyễn Sinh Sắc... Phan Bội Châu (1867-1940): nhà cách mạng Việt Nam trong phong trào chống Pháp đầu thế kỷ XX, thành lập phong trào Duy Tân Hội và khởi xướng phong trào Đông Du. Về xuất xứ đôi câu đối này xin xem thêm bài “Lòng ngưỡng mộ của Phan Bội Châu đối với cụ Phan Đình Phùng”. 2. Hoàng Tạo: Chuyên viên Hán học, Nxb Văn học. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Chín, 2008, 08:10:37 pm PHAN TRỌNG MƯU1 1.ĐIẾU PHAN ĐÌNH PHÙNG Phiên âm: Đối sách đại đình quân đoạt giáp, Cần vương sát tặc quân vi khôi. Trung trinh bất quý danh gia tử, Trực tiết do truyền cựu gián đài, Nhất phiến can tràng tranh liệt nhật, Thập niên tâm sự tán hàn hôi. Ô hô! Chính khí quy hà nhạc, Khốc hướng Châu Phong loại nhất bôi2. Dịch nghĩa: ĐIẾU PHAN ĐÌNH PHÙNG Thi văn ở sân vua, ông giật giải nhất, Cần vương giết giặc ông đứng đầu. Trung trinh không thẹn là con nhà danh giá. Tiết cứng còn truyền tiếng quan Ngự sử cũ.. Một mảnh can tràng đua sáng chói với mặt trời, Mười năm tâm sự tan theo tro lạnh3. Than ôi! Chính khí trở về với sông núi, Khóc hướng về ngọn Châu Phong rót viếng một chén rượu. Bản dịch thơ 1: Thi đình ông đỗ Trạng nguyên, Cần vương giết giặc ông trên mọi người. Trung trinh xứng đang con nòi, Triều đình nổi tiếng gián đài thẳng ngay. Can tràng sáng chói mặt trời, Mười năm tâm sự gửi nơi tro tàn. Khí thiêng trở lại hà san, Khóc dâng chén rượu viếng hồn Châu Phong. Bản dịch thơ 2: Giật giải thi Đình ông bậc nhất, Dựng cờ khởi nghĩa ông đầu đàn. Trung trinh chẳng thẹn nhà gia thế, Chính trực còn truyền tiếng Gián quan. Một tấm can tràng vầng nhật tỏ, Mười năm tâm sự bụi tro tàn. Than ôi, chính khí về sông núi,. Khóc bác Châu Phong chén rượu tràn. ______________________________________________ 1. Phan Trọng Mưu (1853-1904): sinh ngày 11-11-1853 (tức 11 tháng 10 năm Quý Sửu), hiệu là Hồng Tiều, quê làng Đông Thái, (nay thuộc xã Đức Phong, huyện Đức Thọ) tỉnh Hà Tĩnh. Là con của Tiến sĩ Tổng đốc Phan Tam Tỉnh, ông đậu Tiến sĩ năm 1879, làm Tri phủ Hoài Đức (nay thuộc Hà Tây) được một năm thì Pháp chiếm được cả nước ta, ông bỏ quan về quê chiêu dân mộ nghĩa đánh giặc. Năm 1885, hưởng ứng Chiếu Cần vương, ông cùng Đình nguyên Phan Đình Phùng, Tiến sĩ Phan Huy Nhuận, Tiến sĩ Phan Quang Cự, Cử nhân võ Phan Cát Xu lên hành tại vua Hàm Nghi ở Sơn phòng Hà Tĩnh. Ông được Hàm Nghi ủy cho cùng với Phan Đình Phùng và các đồng chí khác về mộ nghĩa Cần vương tại Hà Tĩnh. Hai năm xông pha đương đầu với giặc, ông tỏ ra là người trí dũng. Lúc Phan Đình Phùng ra Bắc để liên hệ với Văn thân Bắc Hà, ông cùng Cao Thắng lo lắng mọi việc trong quân ngũ. Ít lâu sau Phan Đình Phùng trở về, gặp ông đang đóng quân ở Đan Hải (Nghi Xuân), liền giao cho ông việc phòng giữ mặt biển. Năm 1893, nghĩa quân gặp khó khăn, ông ra Bắc tìm cách cứu vãn tình thế. Giặc về Đông Thái đào mả bố mẹ ông, bắt giam người chú ruột ông là Huấn đạo Phan Trọng Nghị cùng nhiều người khác. Bác ông là Phan Trọng Cung ra tìm, bắt ông phải đầu thú để cứu nhà. Thế không thể làm thế nào được, ông phải ra đầu thú vào đầu năm 1894, bị giam lỏng ở ấp Thái Hà (Hà Nội) cho mãi đến 1898. Sau đó, ông vào Huế dạy học tư rồi được trao một giáo chức ở Quảng Ngãi, đến 1904 thì mất. Trong những ngày bị giam lỏng ở ấp Thái Hà, để thể hiện một phần tâm sự của mình, ông đã viết sách Bài ngoại liệt truyện và tập thơ Hồng Tiều thi tập. Mấy bài thơ sau đây đều từ tập thơ nói trên do ông Phan Trọng Quảng - con tác giả cung cấp cho ông Ninh Viết Giao 2. Theo Bài ngoại liệt truyện. 3. Đây ý nói đến việc tên Nguyễn Thân đem thi hài cụ Phan đốt ra than, tán nhỏ, nhồi vào nòng súng bắn xuống sông. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Chín, 2008, 08:18:28 pm PHAN TRỌNG MƯU 2. KÍNH VÃN PHAN ĐÌNH NGUYÊN Phiên âm: Thánh triều tam thập khôi đa sĩ, Nghĩa tích danh cao chí ngũ nhân. Ư ngũ nhân trung công độc quán, Tứ chân bất quý Tống Văn thần. Dịch nghĩa: KÍNH VIẾNG ÔNG ĐÌNH NGUYÊN HỌ PHAN Triều Nguyễn có ba mươi người đậu Đình nguyên1, Trong những người này, nổi tiếng nghĩa sĩ có năm vị2. Trong năm vị ấy, ông trội hơn hết, Thật quả ông không thẹn với tiếng “Tứ chân” của Văn thần nhà Tống3. Dịch thơ: Triều Nguyễn, Đình nguyên ba chục người, Danh cao nghĩa liệt chỉ năm thôi. Trong năm người ấy, ông hơn cả, Cùng Tông Văn thần khá sánh đôi. Lê Thước dịch Chú thích: 1. Kể từ khoa thi Hội đầu tiên của nhà Nguyễn, năm Minh Mệnh thứ 3 (1821), đến khoa thứ ba mươi, năm Thành Thái thứ 4 (1892) là năm tác giả chép Bài ngoại liệt truyện. 2. Tác giả muốn chỉ Phan Đình Phùng và bốn vị Đình nguyên khác cùng chết vì việc nước là: - Mai Anh Tuấn, người huyện Nga Sơn, Thanh Hóa, đậu Đình nguyên năm Thiệu Trị thứ ba (1843), làm án sát Lạng Sơn, đi dẹp loạn bị giết chết. - Nguyễn Khắc Cần tức Nguyễn Lê, người huyện Quốc Oai, Hà Tây, đi quân thứ Lạng Bằng (Lạng Sơn, Cao Bằng) bị giết. - Nguyễn Quang Bích, người Thái Bình, cầm đẩu nghĩa quân Cần vương chống Pháp ở vùng Tây Bắc, chết trong quân năm 1889. - Đỗ Huy Liệu, người Nam Định, bị giặc bắt giam, được tha về và bị quản thúc, ông tự sát. 3. Tứ chân: Văn Thiên Tường đời Tống bên Trung Quốc được người đương thời gọi là “Tứ chân”: chân Trạng nguyên, chân hiếu tử, chân Tể tướng, chân trung thần. Cụ Phan Đình Phùng được xem là: chân Thái thú (Tri phủ), chân Gián đài (Ngự sử), chân Tiến sĩ (Đình nguyên Tiến sĩ) và nhân trung thần (lãnh tụ Cần vương giúp vua cứu nước). Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Chín, 2008, 08:25:46 pm PHAN TRỌNG MƯU 3. THUẬT HOÀI KÝ ĐỒNG TÂM Phiên âm: Đồ báo khu khu dĩ thập niên; Sự chung vô nại nại hà thiên. Hoàng hà diếu diếu nan thanh sỉ, Thương hải mang mang hận vị điền. Đãn nguyện hoàng quan quy tín quốc, Ninh chung tạo mạo lão triều thiên. Thử tâm đáo để thùy năng bạch, Hồi thủ gia sơn lệ vạn thiên1. Dịch nghĩa: THUẬT NỖI LÒNG GỬI BẠN ĐỒNG TÂM Khư khư giữ cái chí báo thù trong mười năm, Cuối cùng lại không ngờ đến nỗi này. Sông Hoàng Hà cuồn cuộn chảy mà không rửa được nhục2, Bể xanh mênh mông mà lấp không được cái hận. Những muốn đội mũ vàng về quê nhà3, Nhưng làm sao lại đội mũ đen ở chốn triều chính4. Nỗi lòng này làm sao mà giãi tỏ, Nhớ đến quê hương lệ chảy ròng ròng. Dịch thơ: Mười năm báo phục quyết ra tay, Sự thế ngờ đâu đến thế này. Cuồn cuộn sông Hoàng trông khó đợi, Mênh mông bể thẳm lấp khôn đầy. Mũ vàng muôn được về quê cũ, Bệ ngọc màng chi được ở đây. Tưởng đến quê hương chan chứa lệ, Nỗi lòng nào biết có ai hay. Phan Trọng Quảng5 dịch Chú thích: 1. Theo tài liệu của Ninh Viết Giao. 2. Hoàng Hà: một con sông lớn ở Trung Quốc. 3. Mũ vàng (hoàng quan): chỉ mũ của người nông phu, tết bằng cỏ, màu vàng: Cả câu ý nói, chỉ muốn làm kẻ dân dã ở chốn nông thôn. 4. Mũ đen (tạo mạo): mũ thường đội của những lai dịch ở chốn công môn. 5. Phan Trọng Quảng: nhà lão thành cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX, con trai của Phan Trọng Mưu. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Chín, 2008, 10:19:50 pm NGUYỄN THƯỢNG HIỀN1 PHAN CÔNG ĐÌNH PHÙNG VÃN TỪ2 Phiên âm: Vạn lý ai già bất khả văn, Lục long thiên ngoại cách yên phân3. Binh qua chấp nghĩa phù tông quốc. Bào hốt lâm nguy bái thánh quân. Lang miếu cựu truyền chân Ngự sử4 Giang hồ kim khấp cố tướng quân. Tha niên tái kiến trung nguyên định5 Hãn tặc Thường Sơn hữu đại huân6. Dịch nghĩa: VIẾNG ÔNG PHAN ĐÌNH PHÙNG Ngoài muôn dặm, tiếng kèn ai oán, nghe không chịu được. Cỗ xe sáu rồng kéo vua đi ra ngoài kinh đô, mây mù che lấp không trông thấy nữa Ông giữ trọn nghĩa lấy gươm giáo cứu Tổ quốc lâm nguy. Lúc sắp mất, ông mang áo mũ lạy vua (tỏ ý chưa làm xong nhiệm vụ). Ngày trước ông đã nổi tiếng là một vị quan Ngự sử chân chính ở trong triều đình.. Nay mọi người thương tiếc vị tướng quân qua đời giữa chốn giang hồ. Ngày kia, trung nguyên được bình định Thì ông sẽ được ghi công lớn chống giặc như Thường Sơn trước kia. Dịch thơ: Muôn dặm kèn buồn tiếng vẳng đưa, Ngoài trời xe ngựa khói mây mờ, Binh qua vị nghĩa lo phò nước, Bào hốt lâm nguy ngoảnh lạy vua. Lang miếu trước khen đài gián giỏi, Giang hồ nay khóc tướng quân xưa. Trung nguyên sẽ thấy ngày bình định. Chống giặc ghi công lúc bấy giờ Chú thích: 1. Nguyễn Thượng Hiền (1868-1925): nhà chí sĩ yêu nước hoạt động cùng thời với Phan Bội Châu. Ông làm bài này khi ở bên Trung Quốc được tin Phan Đình Phùng mất. 2. Theo cuốn Nguyễn Thượng Hiền tuyển tập thơ – văn, Chương Thâu sưu tầm và biên soạn, Nxb Lao Động - Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2004. 3. Chỉ việc Hàm Nghi bị đày sang Angiêri. 4. Nhắc chuyện cụ Phan đàn hặc Tôn Thất Thuyết giữa triều đình về việc phê phán Dục Đức. 5. Trung nguyên: chỉ nước nhà. 6. Thường sơn: thái thú Thường Sơn Nhan Cảo Khanh đời Đường chống An Lộc Sơn bị bắt, không khuất phục, bị hi sinh, sau được ghi công lớn. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Chín, 2008, 10:26:22 pm NGUYỄN DƯỠNG GIÁ1 TIẾT NGHĨA PHAN ĐÌNH PHÙNG2 Công danh không phụ với khoa danh, Ồ! Thế mà nên, thế cũng đành. Thuốc đắng ngọt ngào lòng tiết nghĩa, Lửa nồng mát mẻ tấm trung trinh. Sống chưa thỏa chí trừ da trắng, Thác cũng còn tên ở sử xanh. Gương sáng người Nam coi học lấy, Sinh mà như Cụ chẳng hư sinh3. Chú thích: 1. Nguyễn Dưỡng Giá: người xã Văn Lâm, nay là xã Đức Lâm, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Ông học giỏi, thi đậu Tú tài, được các nhà Văn thân đề cử làm Thương biện quân vụ kiêm Ngự tiền văn hỗ giá của vua Hàm Nghi thường ở cạnh vua (cùng với Ngự tiền võ hỗ giá là Tăng Bạt Hổ). Sau khi vua Hàm Nghi bị Pháp bắt, Nguyễn Dưỡng Giá bỏ về nhà, vào tu ở một ngôi chùa vắng gần làng Yên Phúc, xã Yên Hồ (nay là xã Đức Phúc), huyện Đức Thọ. Năm 1890, Phan Đình Phùng ra Bắc trở về, quân cũ lại hoạt động mạnh, Nguyễn Dưỡng Giá có trở lại hàng ngũ nghĩa quân cũ không, chưa thấy tài liệu nào nói đến, song qua một số thơ văn của ông còn lại, ta thấy ông cũng là người có nghĩa khí. 2. Theo tài liệu chính thức thì Phan Đình Phùng mất vì bệnh lỵ kinh niên, lại thêm lam sơn chướng khí ở chốn rừng sâu. Nhưng lúc đầu có tin nói ông đã uống thuốc độc tự tử, nên Nguyễn Dưỡng Giá mới làm bài thơ điếu có nội dung như trên. 3. Theo tạp chí Văn học số 5-1970. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Chín, 2008, 10:34:53 pm KHUYẾT DANH BÀI VÈ KỂ CHUYỆN PHAN ĐÌNH PHÙNG KHỞI NGHĨA ĐÁNH PHÁP1 Quan Đình người ở quê ta Khí thiêng hun đúc sơn hà Hồng Lam. Vốn là dòng dõi họ Phan, Tiếng thơm Đông Thái đồn vang khắp miền. Tài cao từ thuở thiếu niên, Đã gồm văn võ lại hiền xưa nay. Vua ban chức Ngự sử đài, Phụng công thủ pháp đêm ngày chăm lo2 Triều quan từ nhỏ đến to, Ngài đều hặc tấu không cho hỗn hào. Nước nhà đang buổi nhôn nhao, Ngoài đường có giặc, trong sao lăng loàn. Giận thay mấy kẻ quyền gian, Thay vua đổi chúa coi thường nhân luân Quan Đình vốn trọng nghĩa nhân, Thanh thiên bạch nhật ngài phân tỏ tường. Rằng nay giữa chốn miếu đường, Mưu toan phế lập luân thường ra chi. Tự quân chưa có tội gì3, Mà đem phế lập vậy thì có nên. Quan Tướng nổi giận xung thiên4, Đã toan trảm quyết nhãn tiền cho coi. Nhưng rồi lại nghĩ xa xôi, Trọng gương nghĩa khí, thương người đởm trung5 Truyền cho giáng chức hoàn dân, Quan Đình khi ấy lui chân ra về. Quê hương cách trở sơn khê, Tin nhà vội báo ngài về cư tang6. Mấy năm mến cảnh xóm làng, Càng nhìn lại chốn miếu đường càng đau. Phải là gỗ đá chi đâu, Chí cao vẫn rắp mưu sâu những ngày. Đến năm Ất Dậu vừa hay, Trấn Bình súng nổ, giặc Tây chiếm thành7. Tan hoang phố xá, miếu đình, Quân gia vất vả, dân tình bơ vơ. Cháy nhà mặt chuột mới trơ, Quận Tường sớm đã thừa cơ đầu hàng8 Bám phường tả đạo cho an, Mặc quân với quốc, mặc làng với dân. Một mình quan Tướng ân cần, Thua được sự thường, phải giữ lòng trung. Xe loan đành nhuốm bụi hồng, Vua quan lúc ấy một lòng quyết đi. Vượt qua mấy nẻo trùng vi, Đèo cao núi thẳm quản gì gian lao. Cần vương xuống hịch ruổi sao9, Phải lấy máu đào đền đáp giang sơn. Anh hùng thảo dã, thâm sơn, Phải ra mà giúp quân vương hội này. Quan tướng nghĩ được chước hay, Liền cho lệnh chỉ vời ngay quan Đình10. Cầm tay ký chú đinh ninh, Tòng vong hộ giá sự mình phải lo. Còn như xây dựng cơ đồ, Phất cờ tụ nghĩa phải nhờ cậy ông11. Tước ban Tể tướng sơn trung, Quan Đình khi ấy vui lòng đảm đương. Trở về giữa chốn quê hương, Nằm gai nếm mật lo lường quốc gia. Hương Khê non nước bao la, Giang sơn riêng hẳn một toà cõi Nam. Mười tám quân thứ rõ ràng, Suốt từ Thanh Hoá đi sang Quảng Bình12. Trong tay mấy vạn tinh binh, Đã trừ quân đạo, lại bình quân Tây Trăm họ hớn hở đêm ngày Tụng công đức ấy ví tày mẹ cha. Bảo nhau của cải đem ra Gửi lên sơn trại gọi là quân lương. Quan Đình tâm vẫn chí cường, Đêm đêm trằn trọc tính đường thế công. Bảo cùng Cao Thắng đổng nhung, Quân Tây nó có thần công rất màu. Súng ta có đọ được đâu, Làm sao chế được mới hầu hơn thua. Khen thay Cao Thắng tài to, Lấy ngay súng giặc về cho lò rèn. Đêm ngày tỷ mỷ mở xem, Lại thêm có cả đội Quyên cũng tài13, Xưởng trong cho chí trại ngoài, Thợ rèn các tỉnh đều mời hội công. Súng ta chế được vừa xong, Đem ra mà bắn nức lòng lắm thay. Bắn cho tiệt giống quân Tây, Cậy nhiều súng ống phen này hết khoe. Các tướng mưu lược cũng ghê, Đội Văn, quản Đạt, đứng kề Lãnh Chanh. Hồng Lam mặc sức tung hoành, Đánh đồn tỉnh Nghệ, phá thành Nam Giang14 Bắt sống tuần phủ Đinh Quang, Giết Trương Qụang Ngọc hết đàng theo Tây. Vận trời còn bĩ khi nay, Để cho xa giá lọt tay kẻ thù Trời Nam gió bụi mịt mù, Quan Đình ngài vẫn giữ cờ không nao. Hồng Lam tỏ mặt anh hào, Văn thân bốn cõi trông vào một ta. Thua cơ Tây phải cầu hoà, Sai Hoàng Cao Khải tiến thơ thuyết hàng. Quan Đình sắt đá bền gan, Lại xui Tây tặc phải thời tiến binh. Sao không biết hổ với mình, Hỏi rằng chức tước hiển vinh nỗi gì? Mang danh khoa mục làm chi, La Giang một nước mà chia đôi dòng15. Hoàng Cao nhục nhã đã xong, Nguyễn Thân đâu cũng vào vòng khuyển nô. Lại cùng Tây tặc mưu mô, Người Nam lại phá cơ đồ nước Nam. Tử sinh liều giữa chiến tràng, Thương thay Cao Thắng nửa đàng mệnh chung. Anh hùng vẫn giống anh hùng, Há đem thành bại luận trong cao dày Quan Đình như gãy cánh tay, Nghĩ tình thủ túc đêm ngày xót thương. Nguyễn Thân lập kế tuyệt lương, Chia binh các ngả chặn đường quân ta. Quan Đình nhuốm bệnh tháng ba, Thương thay Ngũ Trượng sao sa chí kỳ16. Vụ Quang huyết chiến vừa khi Mấy ngàn lính Pháp xác thì chặt sông. Trong quân chưa kịp hạ công Quan Đình phút đã xe rồng lên tiên. Bàng hoàng thương nỗi con đen, Chim non mất mẹ vẹn toàn được sao. Sông dài biển rộng trời cao, Sử xanh còn với anh hào dài lâu. Nguyễn Thân hèn hạ xiết đâu, Đốt thây làm thuốc nhồi đầu hoả mai. Gian tà đắc chí mấy hơi, Kẻ chê bất nghĩa, người cười vô lương. Quan Đình giữ tiết cương thường, Vẫn còn hương hoả từ đường dài lâu. Bình Tây ai dựng cờ đầu, Hồng Lam danh tiếng về sau còn nhiều. Dặn con, dặn cháu mọi điều, Vè này phải thuộc cho nhiều mới hay. (Theo Ninh Viết Giao: Kho tàng về xứ Nghệ, tập 8, Nxb Nghệ An 2000) Chú thích: 1. Bài vè do Ninh Viết Giao, PGS. Hội Văn nghệ Dân gian tỉnh Nghệ An, sưu tầm và công bố. 2. Phụng công thủ pháp: theo phép công mà giữ gìn lề lối. 3. Tự quân: vua kế vị chỉ vua Dục Đức. 4. Quan Tướng: chỉ Tôn Thất Thuyết. Khi Phan Đình Phùng đứng lên đàn hặc việc phế lập Dục Đức, Tôn Thất Thuyết định ra lệnh chém ông, nhưng thấy ông là người ngay thẳng, có tài nên lại thôi, cách chức quan và cho về làng. 5. Đởm trung: can đảm và trung thành. 6. Ý nói vừa lúc đó có tin báo ở quê nhà bà mẹ qua đời, ông phải về cư tang. 7. Năm Ất Dậu: Ngày 1-7 năm 1885, giặc Pháp nổ súng vào Trấn Hải Đài còn gọi là Trấn Bình Đài rồi đồn Mang Cá, sáng ngày 5-7-1885 quân ta tấn công đồn Mang Cá. Nhưng đến khi nghe De Courcy tiến vào thành thì sau 3 giờ hỗn chiến quân ta thất bại. 8. Quận Tường: tức Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường. Khi Hàm Nghi xuất bôn, Nguyễn Văn Tường đem vua và tam cung tạm lánh ra Khiêm Lăng rồi ra Quảng Trị. Đến đây Nguyễn Văn Tường trở lại Phú Xuân, nương nhờ giám mục Caspar. Việc đó nhiều người cho là Tường đầu hàng. Gần đây có ý kiến xét lại hành động ấy của Nguyễn Văn Tường. 9. Ý nói ở nơi hành tại này, Hàm Nghi xuống hịch Cần Vương và hịch được truyền đi rất nhanh. 10. Chỉ Tôn Thất Thuyết lúc này nghĩ đến một người có tài đức có thể cần vương cứu nước là Đình nguyên Phan Đình Phùng. 11. Mấy câu này là lời của Tôn Thất Thuyết nói với Phan Đình Phùng. 12. Đây nói những ngày Phan Đình Phùng ra Bắc về, ông tập hợp được nhiều tướng tá ở các phủ, huyện, tỉnh, và liên hiệp với cả nghĩa quân ở Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Bình. Cứ mỗi nơi đóng quân của một đề đốc, lãnh binh hay tác vi, gọi là một quân thứ. Bài này nói có 18 quân thứ, nhưng theo “Lịch sử Nghệ Tĩnh” tập I thì chỉ có 15 quân thứ. 13. Đội Quyên: tên là Lê Quyên, người làng Nội Diên, nay là xã Đức Diên, huyện Đức Thọ. 14. Chưa rõ đánh đồn tỉnh Nghệ là đồn nào, ở đâu và thành Nam Giang là thành nào. 15. La Giang: con sông trước làng Đông Thái. Một nước mà chia đôi dòng, ý nói Hoàng Cao Khải và Phan Đình Phùng người cùng một làng mà bên theo giặc bên trung với vua với nước, quyết chí đánh giặc. 16 Dẫn tích Gia Cát Lượng mưu việc nhà Tây Thục không thành, mất ở gò Ngũ Trượng để ví với Phan Đình Phùng cũng như Gia Cát Lượng. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Chín, 2008, 10:54:31 pm C. VỀ THƠ VĂN PHAN ĐÌNH PHÙNG VÀ HÌNH ẢNH PHAN ĐÌNH PHÙNG TRONG THƠ VĂN PHAN VĂN CÁC1 BÀI VĂN SÁCH ĐÌNH ĐỐI CỦA ĐÌNH NGUYÊN PHAN ĐÌNH PHÙNG Phan Đình Phùng sinh năm Đinh Mùi (1847) trong một gia đình khoa bảng ở làng Đông Thái, xã Việt Yên Hạ, tổng Việt Yên, huyện La Sơn, nay là xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Tuổi niên thiếu, không phải là người thông minh, nhưng cậu Phùng đã sớm bộc lộ một chí khí kiên cường quyết tâm “đóng cửa đọc sách”, “thề chiếm giải khôi nguyên”. Quả nhiên, ông đã đỗ Cử nhân năm Bính Tý (1876) và đỗ Đình nguyên Tiến sĩ năm Đinh Sửu (1877) khi ông tròn 30 tuổi. Năm 1878, được bổ làm Tri phủ Yên Khánh (Ninh Bình), mở đầu chặng đường làm quan dưới triều Nguyễn. Sau đó, ông được triệu vào kinh, sung Đô sát viện, cơ quan có chức năng can gián vua và đàn hặc lỗi lầm của bá quan văn võ. Là Ngự sử, ông đã vạch tội Kinh lược sứ Bắc Kỳ Nguyễn Chánh đục khoét dân lành, khiến y bị bài chức. Năm 1883, vua Tự Đức băng hà, phụ chánh đại thần Tôn Thất Thuyết nắm toàn quyền sinh sát, phế Dục Đức lập Hiệp Hòa. Đình thần có mặt trong cuộc họp phế lập ấy đều biết làm như vậy là trái với di mệnh của Tự Đức nhưng trước uy quyền của Thuyết, đều buộc phải im lặng. Riêng Phan Đình Phùng đã nổi giận đứng phắt lên quát mắng Thuyết. Có người lo cho ông, níu áo ông lại nhưng ông đã giật đứt cả vạt sau của tấm áo đại triều. Tôn Thất Thuyết cả giận hô chém đầu ông, nhưng sau chỉ cách hết chức, đuổi ông về làng. Năm 1884, Phan Đình Phùng được cử làm Tham biện Sơn phòng tỉnh Hà Tĩnh. Tháng 9 năm 1885, vua Hàm Nghi xuất bôn, phong cho ông làm Tán lý quân vụ, thống lĩnh quân cần vương. Phan Đình Phùng truyền hịch khởi nghĩa ở quê hương Đông Thái, rồi rút lên Phụng Công. Giặc bắt được Phan Đình Thông, anh ruột Phan Đình Phùng. Chúng đặt điều kiện: Hoặc Phan Đình Phùng phải đầu hàng, hoặc chúng sẽ đào mộ bố mẹ Cụ và chém đầu Phan Đình Thông. Phan khẳng định: “Nay tôi có một ngôi mộ rất to nên giữ là đất nước Việt Nam, tôi có một ông anh rất to đang bị nguy vong là cả mấy mươi triệu đồng bào. Nếu về sửa sang phần mộ nhà mình thì ngôi mộ cả nước kia ai giữ? Về để cứu ông anh của mình thì mấy mươi triệu anh em trong nước ai cứu? Bây giờ tôi chỉ có một chết mà thôi...” Nghĩa quân xây dựng căn cứ tại vùng núi rừng Hương Sơn - Hương Khê (Vụ Quang) hiểm trở, nhằm tiến hành cuộc kháng chiến lâu dài. Địa bàn hoạt động khá rộng, bao gồm Nghệ An, Hà Tĩnh và một phần Quảng Bình và Thanh Hóa. Ngay từ buổi đầu, Phan Đình Phùng đã có nhận thức đúng đắn, cần phải dựa vào sức mạnh của toàn dân mới có thể chiến thắng được quân thù có vũ khí hiện đại. Phan đã giao cho Cao Thắng trách nhiệm tổ chức và xây dựng phong trào ở Nghệ Tĩnh, rồi tự mình ra Bắc (1887) liên hệ và vận động thống nhất các lực lượng chống Pháp ở cả hai miền Trung và Bắc. Năm 1888, Phan Đình Phùng ở Bắc về, trực tiếp lãnh đạo phong trào, thanh thế của nghĩa quân ngày càng lớn mạnh. Phan chia nghĩa quân ra làm 15 quân thứ, mỗi quân thứ có từ 100 đến 150 nghĩa binh, do một Đề đốc hay Lãnh binh chỉ huy, riêng đại đồn Vụ Quang lúc nào cũng có 500 quân trở lên. Nghĩa quân đã khéo dựa vào núi rừng hiểm trở, áp dụng chiến thuật du kích để tiêu diệt quân địch. Trận Vụ Quang tháng 10-1894 với kế “Sa nang úng thủy” của Hàn Tín đánh quân Sở ngày xưa, đã khiến địch phải chịu tổn thất nặng nề: hơn trăm binh lính và 3 sĩ quan bị tiêu diệt, nghĩa quân thu 50 súng và rất nhiều quân trang quân dụng. Trong điều kiện vô cùng gian khổ, nghĩa quân Phan Đình Phùng đã duy trì cuộc kháng chiến được 11 năm là thời gian dài nhất trong phong trào Cần vương kháng Pháp của nhân dân ta cuối thế kỷ XIX. Chiến thắng Vụ Quang có tiếng vang lớn, nhưng không xoay chuyển được đại cục. Quân xâm lược với ưu thế tuyệt đối về vũ khí, lại có thêm sự phối hợp của triều đình Huế (tháng 8-1895 triều đình Huế cho Nguyễn Thân đem 3000 quân ra giúp Pháp đàn áp nghĩa quân) đã tăng cường bao vây căn cứ địa của nghĩa quân, cắt đứt mọi nguồn tiếp tế, mặt khác dùng quân cơ động luân phiên càn quét dài ngày, khiến lực lượng của nghĩa quân hao mòn suy yếu. Cuối 1895, Phan Đình Phùng lùi về rú Quạt. Bị thương trong khi chỉ huy chiến đấu, Phan Đình Phùng lại bị bệnh tật giày vò, đã từ trần ngày 28 tháng 12 năm 1895. Chủ tướng qua đời, nghĩa quân tan rã dần, cho đến cuối năm 1896 thì phong trào tắt hẳn. Cuộc đấu tranh vũ trang Hương Sơn - Hương Khê dưới sự chỉ huy của nhà chí sĩ yêu nước Phan Đình Phùng kéo dài trên 10 năm trời (1885- 1896) là biểu hiện hào hùng của tinh thần độc lập dân tộc của truyền thống yêu nước Việt Nam. Các chiến sĩ Cần vương đã ngã xuống trên trường tranh đấu, để lại cho hậu thế một tấm gương bất khuất vì giống nòi. Phan Đình Phùng, vị lãnh tụ tiêu biểu của phong trào Cần vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX là một anh hùng dân tộc vĩ đại mà tên tuổi còn sáng mãi trong lòng hậu thế. *** Tác phẩm Phan Đình Phùng để lại có Việt sử địa dư vựng sách (lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, kí hiệu A971) là một tập tài liệu lịch sử và địa lí có giá trị khoa học, cùng một số thơ văn, trong đó có bài thơ tuyệt mệnh nói lên tâm sự của một nhà Nho yêu nước mà sự nghiệp kháng Pháp còn dang dở. Dưới đây xin trình bày một số cảm nghĩ của chúng tôi khi đọc Bài văn sách đình đối của ông trong khoa thi Đinh Sửu năm Tự Đức 30 (1877). Văn bản của bài văn sách này được lưu giữ trong Hội Đình văn tuyển tờ 13-20, bản in khắc Liễu Chàng tàng bản xếp ở cuối tập Hương thí văn tuyển, kí hiệu A.3173, Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam. Chế sách của vua Tự Đức và đối sách của Phan Đình Phùng đều đã có bản dịch của Phạm Thị Kim và Chương Thâu, Đặng Thai Mai hiệu đính. *** Lệ thi văn sách có từ đời Trần, vào năm Quang Thái 9 (1396) triều vua Thuận Tông có ban chiếu định cách thức thi cử nhân. Cứ năm trước thi hương thì năm sau thi hội, ai đỗ hội thì nhà vua ra một thi một đề văn sách để định thứ tự. Buổi đầu đời Trần, thi Thái học sinh chia ra Thượng trại, Hạ trại và thi Đình chia ra Kinh và Trại, lấy đỗ có Tam khôi nhưng văn thể không nhất định. Đến đây theo phép thi của nhà Nguyên, dùng văn thể bốn trường, bỏ bài ám tả cổ văn. Trường nhất thi một bài kinh nghĩa, có những đoạn phá, tiếp ngữ, tiểu giảng, nguyên đề, đại giảng, kết thúc, bài làm hạn 500 chữ trở lên; trường nhì thi một bài thơ dùng Đường luật, một bài phú dùng cổ thể, hoặc thể ly tao, hoặc thể văn tuyển, cũng hạn 500 chữ trở lên; trường ba thi một bài chiếu dùng thể đời Hán, chế biểu mỗi thứ một bài, dùng thể tứ lục đời Đường, trường tư thi văn sách một bài, ra đề về kinh sử, thời vụ, 1000 chữ trở lên. Văn sách thực chất là một bài văn nghị luận trình bày kiến giải riêng của thí sinh về vấn đề được nêu ra hỏi trong đầu bài. Sách ở đây nghĩa là kế sách, mưu hoạch; phần câu hỏi của đề bài được gọi là Sách vấn; phần trả lời của sĩ tử được gọi là Đối sách. Cũng như kinh nghĩa, văn sách có thể được viết bằng văn xuôi hay biền ngẫu, nhưng phải tuân theo những công thức nhất định. Mở đầu phải có ba chữ Đối sĩ văn (xin thưa kẻ sĩ này nghe) nếu là ở khoa thi Hương; Đối sinh văn (xin thưa kẻ nho sinh này nghe) nếu là ở khoa thi Hội; Thần đối thần văn (thần xin thưa thần nghe) nếu là ở khoa thì Đình. Thân bài phải bắt đầu bằng câu Tư thừa sách vấn nhi nhược trần chi (nay vâng lời sách hỏi mà bày tỏ qua như sau). Mở đầu một câu trả lời lại có mấy chữ Thiết vị (trộm nghĩ rằng) tỏ ý khiêm tốn. Kết thúc bao giờ cũng có một câu: Sĩ giả hạnh phùng thịnh thế, tòng sự văn trường, quản kiến như tư, vị tri khả phủ, nguyện chấp sự kì trạch nhi tiên chi, sĩ cẩn đối (Kẻ sĩ này may gặp đời thịnh, theo việc văn trường, kiến giải hẹp hòi như vậy, chưa biết có được hay không, xin quan trường chọn lựa mà cân nhắc cho. Kẻ sĩ này kính cẩn thưa). Nếu đề do vua ra (ngự đề, chế sách) thì bài làm phải kết thúc bằng câu Thần cẩn đối [cẩn luận] (kẻ hạ thần kính cẩn thưa, hoặc kính cẩn bàn). Nội dung bài văn sách thường gồm hai phần: phần đầu lấy kinh điển để trả lời câu hỏi, và phần sau nêu kiến giải của mình về vấn đề mà đề bài nêu ra, đồng thời phải vận dụng tình hình thực tế. Kế thừa chế độ thời Trần, ở các khoa thi Hương và thi Hội thời Lê, văn sách vẫn được xếp ở trường thứ tư; đến thi Đình thì chỉ thi một bài văn sách, gọi là Văn sách đình đối. Văn sách trong thi Hương và thi Hội giống nhau về bố cục, chỉ khác nhau về độ dài quy định của bài thi và độ khó của câu hỏi. Thời Lê sơ, văn sách thi Hương dài nhất là 1000 chữ, văn sách thi Hội khoảng 2000 chữ. Văn sách thi Hương và thi Hội đều được chú ý cả ở nội dung lẫn nghệ thuật, thường thì nghệ thuật được chú ý hơn, nên nói chung văn sách mang nặng tính từ chương. Riêng văn sách trong kì thi Đình chỉ dùng để xếp hạng các Tiến sĩ, nên phần nội dung được coi trọng hơn hẳn, vì đây là lúc và là chỗ để các cống sĩ hiến kế sách với vua và triều đình. Văn sách đình đối là loại bài nghị luận ít bị gò bó về các quy cách đối ngẫu và tu từ, ít nhiều được tương đối tự do về tư tưởng. Tại kì thi đình khoa Đinh Sửu, năm Tự Đức 30 (1877) này, chế sách của nhà vua xuất phát từ tiền đề “Vận trời đã có lúc thường lúc biến. Vận đời há chẳng có khi thịnh khi suy?” (Thiên vận kí hữu thường biến, thế vận khởi vô long ô?) để yêu cầu các thí sinh trình bày các vấn đề: 1 - Các lẽ dị đồng, tà chính của các triều đại Trung Hoa từ thượng cổ đến đời Minh và các triều đại Việt Nam Đinh, Lý, Trần, Lê khi trị khi loạn khi hợp khi phân và lí do khiến các triều đại ấy vận số dài ngắn không đều. 2 - Các đạo Đế, Vương, Bá khác nhau những gì? Giống nhau chỗ nào? Nhân hậu sao đến nỗi yếu hèn? Giàu mạnh sao dẫn đến thôn tính? 3 - Người có khí độ nhỏ nhen mà khuôn được thiên hạ về chính thống, người có tài vương bá lại không thể thống nhất được non sông, là cớ làm sao? 4 - Thuyết “chúng định” làm thế nào mà tin chắc được, sự phân biệt giữa lí và thế làm sao tin cậy được? Chế sách lại hỏi đến những vấn đề quốc tế: 5 - Quân và Địch vào Trung Quốc bắt đầu và kết thúc bao giờ? Lúc nhỏ yếu và lúc cùng cực mạnh nhất thì như thế nào? 6 - Các nước Thái Tây tại sao ngày càng thịnh vượng? Có thật họ giỏi về kĩ xảo hay không? Xét đến cùng, há không thể chế ngự được sao? 7 - Nay các nước Đông Phương đều muốn bỏ tập tục cũ, bắt chước người mà mưu toan cái mới để được giàu mạnh. Xét xem như thế có đúng hay không? 8 - Và cuối cùng, câu hỏi trọng tâm của chế sách đặt vào vấn đề cốt lõi nóng bỏng của thời sự đất nước lúc bấy giờ là vấn đề quan hệ với người Pháp. Xuất phát từ nhận định: “Người Pháp vốn có tình cũ với ta, thường vẫn đi lại, không hề có chuyện hiềm khích, chỉ có thời gian gần đây việc thăm hỏi hơi thưa. Họ muôn nối lại tình thân cũ, không ngại đường xa mà đến, chỉ vì ngôn ngữ, chữ nghĩa không truyền đạt được mà khó đặt quan hệ bang giao, đến nỗi sinh việc can qua. Thật Trẫm xét có chỗ bất đắc dĩ, tuổi trẻ hiểu biết nông cạn, đã sai thì khó kéo lại” (!) và một sự phân tích nếu không phải là tự dối mình thì là quá đỗi cả tin và ngây thơ về chính trị rằng: “Bản tâm họ chẳng phải muốn chiếm đất đai của người, chỉ nặng về tình nghĩa mà coi nhẹ chuyện thiệt hơn, nên mới không cho phép An Nghiệp (Francis Garnier) làm càn2” mà tin rằng “Một lời hứa giá ngàn vàng, họ đã đem cả bốn tỉnh trả lại cho ta (bốn tỉnh Hà Nội, Ninh Bình, Nam Định, Hải Dương quân Pháp đã chiếm được năm 1873. Chúng trả lại bốn tỉnh này vì Francis Garnier tử trận, xem ra chưa giữ được nên tạm trả để kí Hiệp ước 1874 chiếm cả sáu tỉnh miền Nam và được chính thức công nhận để lại buôn bán khắp nước Việt Nam). Bốn tỉnh đã như thế thì sáu tỉnh có thể biết. Quốc vương, đại thần, nguyên soái nước họ vốn có ý tốt như vậy” (!) và hi vọng hão huyền: “Nếu họ sớm trả lại đất (lục tỉnh) cho ta thì không những tiếng nghĩa của họ sáng ngời bốn bể, tiếng hay truyền lại ngàn năm, mà còn được nhiều trong việc thông thương... Chỉ có không biết ý họ thế nào mà họ còn tạm hoãn ít lâu” (!!!) Nhà vua yêu cầu các sĩ tử sẵn có hoài bão kinh bang tế thế hãy trình bày hết ý kiến để “Trẫm sẽ xem và chọn dùng”, “đừng phụ lòng Trẫm ham hỏi ham xét”. (Lời lẽ của nhà vua tỏ ra rất chân thành và tự tin!) Xin đi vào đối sách của Đình nguyên Phan Đình Phùng. Sau những lời xưng tụng nhà vua phải phép “trường quy”, tác giả đã tóm tắt nội dung của chế sách bằng mấy câu: (Thần cứ đọc chế sách ban rằng:) “Vận trời đã có lúc thường lúc biến, vận đời há không có khi thịnh khi suy. Đời thượng cổ xa xăm vốn không thể bàn, nhân hỏi đến những điều có thể khảo cứu như sự bất đồng giữa chinh phạt và thiên nhượng, những chỗ khác nhau giữa trị và loạn, giữa phân và hợp. Di Địch, Trung Quốc thịnh suy bất đồng, các nước Thái Tây quy mô ngày càng thịnh và việc người Pháp với ta vốn vẫn hòa hiếu, việc trả lại sáu tỉnh sớm muộn thế nào?” _______________________________________ 1. Phan Văn Các: Phó Giáo sư, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Viện KHXH Việt Nam. 2. Chỉ việc quân Pháp xâm lược Bắc Kỳ lần thứ nhất, năm 1873. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Chín, 2008, 11:04:52 pm Phan đã lần lượt trình bày kiến giải của mình về 8 vấn đề mà chế sách đã nêu ra: 1. “Thời đại cổ xưa thành thục, thế tục chất phác, nhân dân thuần hậu mà đã có các trận giao tranh ở Bản Tuyền, Trác Lộc để đánh Du Vọng, bắt Suy Vưu 1. Như thế thì những chuyện đánh dẹp đã có từ các đời Đế, chứ không phải đến các triều Thang Vũ mới mở đầu. Nhưng đạo đời đang thịnh, phong tục thuần hậu chưa biến đổi, cho nên kế tiếp sau là Nghiêu nhường ngôi cho Thuấn, Thuấn nhường ngôi cho Vũ, thành ra lại có chuyện coi thiên hạ là của công mà nhường ngôi cho người hiền. Đời nhà Hạ còn gần thời cổ, nên việc trị nước chuộng trung thực. Đời Ân chưa xa rời đức trung thực nên chuộng tính chất phác. Đời Chu phong tục đã mở, văn hóa rực rỡ nên chuộng văn vẻ. Nhưng trung thực có mặt dở là quê kệch, chất phác có mặt dở là ngu xuẩn, văn vẻ có mặt dở là xảo trá, các sự ưa chuộng khác nhau đều có mặt dở. Từ đó về sau, nhà Hán giơ gậy diệt Tần, nhà Đường cầm búa diệt Tùy, Tông nhận ngôi nhường của nhà Chu 2, Nguyên đánh chiếm nhà Tống, Minh nối tiếp nhà Nguyên. Đến chuyện nước Việt ta thì Đinh Tiên Hoàng dẹp mười hai sứ quân, Lí Công Uẩn trị bình một cõi. Trần nhận sự nhường ngôi của Chiêu Hoàng, Lê đánh tan quân giặc phương Bắc”. Sau mấy câu lược thuật lịch sử, Phan đã bình luận và giải thích: “Hán Đường được nước là chính đáng, Tống thì dùng mưu, Nguyên là rợ ngoài làm loạn Trung Quốc là trái lẽ, nhưng nhà Minh thì được coi là chính thống. Nước Việt ta, Đinh Tiên Hoàng mở đầu đặt kỉ cương là chính đáng, nhưng nhà Lí thì có thiếu sót. Lê Thái Tổ lập công muôn đời là chính đáng [...] Vận nước dài ngắn khác nhau, là phải xem được nước có chính đáng hay không”. 2. [Đế Vương Bá khác nhau thế nào?] “Lấy đức để giáo hóa dân là Đế, dân do đó mà biến đổi, nhà nhà đều có người hiền, thế chẳng phải là hiệu quả của đức sao? Lấy công lao để khuyến khích dân là Vương, như việc đưa muôn dân tin theo toàn dân có đức, thế chẳng phải là hiệu quả của việc lấy công lao để khuyến khích sao? Lấy sức mạnh để đứng đầu mọi người là Bá, đấy là bọn chuyên mượn danh nghĩa nên hiệu quả của sự vui vẻ cũng không còn mãi được. Sự bất đồng giữa các đạo Đế, Vương, Bá là như thế, do đó hiệu quả của các đạo ấy cũng khác nhau. Xem đấy thì người bàn việc bình trị phải quý Vương đạo mà khinh Bá thuật. Nhân hậu mà đi đến suy đồi là vì không làm cho kỉ cương đẩy lên được, nhưng nhân hậu vào sâu lòng người, không thể mạnh, nhưng có thể lâu nên nhà Chu mới có tám trăm năm lâu dài. Giàu mạnh mà đi đến thôn tính là vì chuyên dùng pháp chế để nắm giữ chính quyền, nhưng giàu mạnh là hại dân quá lắm, lòng người oán giận, thế nước như đất lở, nhà Tần rút lại chỉ có hai đời ngắn ngủi”. 3. “Lạm dụng phản điếm, tắc môn, Quản Trọng khí độ nhỏ nhen, phò Hoàn Công mà khuôn được thiên hạ về chính thống là chuyện đi đường cong gặp may, nhưng vốn người khí độ nhỏ nhen, nên ba mươi năm tập hợp chư hầu mà sự nghiệp thấp như thế, cuối cùng không hoàn thành được sự nghiệp đánh Sở tôn Chu. Sánh ngang tầm Y Lã 3, Khổng Minh có tài vương tá 4 phò tiên chủ 5 mà không nhất thống được, là vì thời vận suy thì không thể khôi phục được nữa, nhưng vốn người có tài vương tá nên chi hai mươi năm ruổi rong vó ngựa mà tiếng lớn lưu truyền vũ trụ làm nên công trạng giữ Ngô chống Ngụy. […] Khuôn được thiên hạ, nhưng vì khí độ nhỏ nhen nên cuối cùng lại rơi vào Bá thuật; Không thống nhất được, nhưng có tài vương tá nên càng thể hiện rõ tính cách “chân Nho”. 4. Thuyết “chúng định” có thể tin chắc được, việc phân biệt giữa “lí” và “thế” có thể tin cậy, chính là như thế. 5. “Quân Nhung Địch vào Trung Quốc bắt đầu từ Hiểm Doãn đời nhà Chu, sau cùng là Khiết Đan đời Tống. Khi nhà Tấn đưa rợ Khương đến dưới quan ải thì thế rợ còn nhỏ, đến khi quân Nguyên đánh đổ triều Tống mà có thiên hạ thì đấy là thời cực thịnh”. 6. “Các nước Thái Tây như Pháp, Ý, Mĩ, Hà Lan lập nước đã lâu, từ khi sinh ra người thì họ đều đã có cả rồi, không bàn đền việc đời Minh mới thấy họ. Xem trong sách Kinh Thư viết chuyện người Tây Lũ đem cống chó ngao, hay trong chương Vương chế sách Kinh Lễ kể chuyện Tây Nhung và việc ở nhà Minh đường có đặt vị trí cho bốn Di, như thế thì các đời trước không phải hoàn toàn không biết họ. “Quy mô của họ thịnh vượng nhanh chóng, vì các nước Thái Tây ở vào hướng “Càn tuất”, được ngôi chính của khí “Kim” nên người nước họ khôn ngoan khéo léo, còn về trị nước thì họ càng giỏi mưu toan sự nghiệp phú cường, như có thuyền máy, xe lửa, điện đi, thành đi đã rất tinh xảo kì diệu, lại có thể khuất phục được người, do đó họ ngày càng thịnh”. Ở đây cần lưu ý rằng, đối với ưu thế kĩ thuật của các nước Phương Tây, Phan không những không tỏ ý sùng bái thán phục mà còn vạch rõ những nhược điểm và hạn chế của họ. Ông viết: “Nói cho cùng chưa chắc họ đã giành được mọi thắng lợi, ví như súng có lợi thế bắn được xa, nhưng mà tường cát, bông ướt có thể chế ngự được; không có gió mà trong nháy mắt đi được ngàn dặm là cái lợi hại của tàu thủy, nhưng mà cỏ mục, bè lớn có thể chế ngự được. Hơn nữa, họ giỏi về tàu thủy về súng ống nhưng không biết võ nghệ, thì chẳng phải là cái rất kém của họ sao Vì thế cũng chưa chắc là không có cách gì chế ngự họ. Có câu rằng: sửa sang việc nội trị là Vương, đi chinh phục nước ngoài là Bá việc của chúng làm thuộc loại Bá thuật. Sửa việc nội trị thì nhàn, đi chinh phục thì vất vả, thế là họ ở vào chỗ vất vả, thuyết đó có thể tin được”. 7. “Những nhà bình luận ở các nước Phương Đông hiện nay đều muốn bỏ cái học cũ của mình, bắt chước người mưu toan cái mới, để đạt đến hiệu quả trước mắt là sự giàu mạnh, đấy là vì họ trông thấy nước Nhật Bản đã bắt chước người mà được cường thịnh nhất thời, nên mới có những bình luận ấy. Nhưng làm sao lại có thể bỗng nhiên vút bỏ phép độ hàng trăm năm để mưu làm cái mới. Vội tìm cái lợi trước mắt, nhưng cái lợi trước mắt chưa chắc đã được, dù có được chăng nữa, cũng không tránh được tiếng chê cười là biên thành rợ mọi!” 8. “Người Pháp đối với ta vốn có tình hòa hiếu cũ, vẫn còn đi lại không hề có hiềm khích, gần đây vì đất nước xa xôi, biên cương cách trở mà phải thưa việc thăm hỏi. Họ muốn nối lại tình hòa hiếu cũ, nên đã không ngại xa ngàn vạn dặm, vượt biển mà đến, chẳng có ý gì khác, chỉ vì ngôn ngữ không thông, khó đặt quan hệ bang giao mà sinh chuyện can qua, mở đầu từ Trà Sơn, tiếp đến Cửa Cấm. Họ vốn không phải khoe võ lực, mà chỉ muốn lập lại tình cũ, thật tình có chỗ rất bất đắc dĩ. Hoàng thượng vì lấy non sông làm trọng, và lo cho sinh mạng của nhân dân. Người không muốn để con dân nơi biên cương lại mắc chuyện binh đao, nên đã cắt đất sáu tỉnh để tạm giảng hòa với chúng, cốt làm sao để hoãn binh nhất thời cho binh nghỉ dân yên. Bản thân người Pháp thực không muốn chiếm nước người, vì lấy tình nghĩa làm trọng, coi thường sự thiệt hơn, nên họ đã không cho phép An Nghiệp làm càn. Hoắc Đạo Sinh 6 vừa đến cùng với sứ thần của ta là lập tức đem cả đất đai, nhân dân bốn tỉnh trả lại cho ta, một lời hứa giá ngàn vàng, không tơ hào nuối tiếc”. “Quốc quân, Đại thần, Nguyên soái nước họ vốn vẫn có ý tốt ấy. Hơn nữa gần đây sứ thần đi lại, tặng biếu pháo thuyền, hòa hảo thân thiết, giúp đỡ lẫn nhau, vui lợi cùng hưởng, bỏ hết chuyện sai trái cũ. Nếu họ sớm trả sáu tỉnh thì được tiếng hay, được lợi về thông thương, vận chuyển, chắc họ đã tính kĩ rồi. Nhưng nay họ còn hoãn lại ít lâu, chắc cũng có lí do. Một là để củng cố hòa ước, vì người Pháp tuy có tình hóa hiếu cũ đối với ta, nhưng họ từ nghìn dặm xa mà tới, vị tất không có sự lo lắng. “Tôi không lừa anh, anh không hại tôi”, nên họ phải lấy đất ấy làm chỗ yên, để làm mạnh cái thế của họ và làm vững cái hòa của ta. Hai là để thu địa lợi, vì đất đai sáu tỉnh Gia Định màu mỡ, sản xuất lúa gạo nhiều hơn các hạt khác, nên vị tất họ không có ý lần lữa trông chờ. Hơn nữa, sự thế sáu tỉnh Nam Kỳ và bốn tỉnh Bắc Kỳ thật không giống nhau, sáu tỉnh Nam Kỳ bị lấy từ ngày Hoà ước mới bắt đầu quy định, còn bốn tỉnh Bắc Kỳ thì ở vào thời gian Hoà ước đã quyết định rồi. An Nghiệp làm càn, lí của họ trái, nên không thể không trả sớm, còn sáu tỉnh hoãn ít lâu cũng có nguyên nhân vậy. Xin Hoàng thượng hết lòng thành thực, đối xử với họ, dùng nghi thức văn chương trang trọng để tiếp đãi họ. Đối nội đã không bỏ chính sách tự trị, đối ngoại lại mở rộng chữ tín đối với người, khiến họ vui vẻ thấy được ý tốt của Triều đình mà thôi không bụng ngờ vực nữa. Xưa đức Khổng Tử làm tể tướng nước Lỗ, nước Tề trả lại đất đã xâm chiếm chỉ vì người hết lòng thành thực nên đã cảm động được họ. Vả lại đã mưu việc lớn thì không tiếc tốn nhỏ, do đó mà người xưa đã chẳng giải quyết xong việc. Xin Hoàng thượng cho xem xét kĩ sự thế, nếu họ hám lợi thì lấy thuế quan, thuế bến mà đổi cho họ, hoặc giao ước tăng tiền bồi thường đợi sau thanh toán lại kéo dài điều ước hoà hiếu khiến họ nhận thấy lẽ phải trái trong tình lí và sự lợi hại trong sự thế, ắt họ phải đem sáu tỉnh sớm trả lại cho Triều đình, đâu đến nỗi phiền Hoàng thượng phải lo lắng vất vả. Vả lại bậc trí giả không mê hoặc, không làm người mất vui, bậc nhân giả không tàn nhẫn, không làm người mất nơi nương tựa. Họ đã cảm động về sự hậu đãi và sự ân cần trân trọng của Triều đình thì tất nhiên chẳng chịu ở vào vị trí của kẻ bất trí, bất nhân do đó, họ chẳng đợi ta yêu cầu mới đáp ứng”. Trên đây là kiến giải mà Đình nguyên Phan Đình Phùng đưa ra để giải đáp các vấn đề do chế sách nêu lên. Hãy nhìn lại bối cảnh lịch sử đất nước lúc bấy giờ: 1862, Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông (Gia Định, Định Tường, Biên Hoà) và gọi đó là “nam Kỳ thuộc Pháp” và đặt cả miền này dưới chế độ thuộc địa, 1875 (hai năm trước khoa thi Đinh Sửu) chúng chia Nam Kỳ thành 4 khu vực hành chính. Cũng năm đó (ngày 19-5) chúng xử tử Thủ khoa Huân, lãnh tụ khởi nghĩa chống Pháp ở Tân An, Mĩ Tho. Sau khi chiếm được Lục tỉnh, thực dân Pháp gấp rút thực hiện ý đồ chiếm miền Bắc và miền Trung. Cuộc tấn công ra đất Bắc lần thứ nhất (1873) của giặc Pháp vấp phải sức kháng chiến kiên cường, anh dũng của nhân dân ta. Thắng lợi giải phóng đất Bắc đã ở trong tầm tay, nhưng triều đình Huế đã đầu hàng phản bội. Hiệp ước Giáp Tuất (15-3-1874) chính thức công nhận chủ quyền của Pháp ở cả Lục tỉnh. Bảy năm sau khoa thi Đinh Sửu, các bản hiệp ước đầu hàng 1883, 1884 của triều đình Huế đã dâng toàn đất nước cho thực dân Pháp xâm lược. Lịch sử đã diễn ra hoàn toàn trái ngược với những nhận định ngây thơ mơ hồ của vua Tự Đức về “thiện chí” và “tình giao hảo” của người Pháp, trình bày trong chế sách của khoa thi Đinh Sửu như chúng ta đã thấy. Đối sách của Đình nguyên Phan Đình Phùng (năm đó 30 tuổi) cũng không vượt được ra khỏi nhận định và quan điểm chính trị của vua Tự Đức. Hơn thế, những giáo điều của đạo Nho và cả ý thức hệ phong kiến đã ràng buộc mọi suy nghĩ của sĩ tử. Phải đợi đến 8 năm sau đó, khi đã từng trải trong quan trường và nhất là khi xuất hiện ông vua nhà Nguyễn yêu nước kháng Pháp đầu tiên là vua Hàm Nghi đã xuất bôn và ban Chiếu Cần vương ngày 13-7-1885 thì Đình nguyên Phan Đình Phùng mới danh chính ngôn thuận đứng ra lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Hương Khê trực diện kháng Pháp suốt 11 năm trời (1885-1896) cực kì anh dũng kiên cường, nêu cao và tô đẹp thêm truyền thống yêu nước bất khuất của dân tộc. Hà Nội, tháng 2 năm 2007 ______________________________________ 1. Bản Tuyền là tên một con suối, nay gọi là suối Hoàng Đế, thuộc huyện Bản An, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc. Tương truyền đó là nơi Hoàng Đế giao chiến với Viêm Đế khoảng năm 2700- 2640 tr.CN; còn Trác Lộc là tên một ngọn núi, ở Đông Nam huyện Trác Lộc tỉnh Sát Cáp Nhĩ Trung Quốc ngày nay, tương truyền là nơi Hoàng Đế chém Suy Vưu khoảng năm 1660-2600 tr.CN. 2. Nhà Hậu Chu thời Ngũ Đại, chỉ có 8 năm 952-959 trải 3 đời vua. 3. Y Doãn phò Thành Thang, Lã Thượng phò Văn vương Vũ vương nhà Chu, đều lập công khai sáng triều đại mới. 4. Tài giúp vua làm nên sự nghiệp lớn. 5. Lưu Bị 6. Tức Philastre thống soái của thực dân Pháp cùng với Nguyễn Văn Tường ra Bắc Kỳ để bàn về việc trả lại bốn tỉnh miền Bắc do Francis Garnier đánh chiếm trong cuộc xâm lược Bắc Kỳ lần thứ nhất năm 1873. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Chín, 2008, 10:23:19 pm VŨ NGỌC KHÁNH1. PHAN ĐÌNH PHÙNG TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM2 Văn học Việt Nam thời cận đại rất dồi dào những bài văn tế, thơ ca ca ngợi anh hùng nghĩa sĩ. Gương chiến đấu, tinh thần hi sinh vì nước của các vị được nhân dân, nhất là lớp nho sĩ nhiệt liệt đề cao. Khắp Bắc - Trung - Nam, từ những người có tầm ảnh hưởng lớn lao trong cả nước như Nguyễn Trung Trực, Hoàng Diệu, Tống Duy Tân, Nguyễn Cao... cho đến những thủ lĩnh địa phương như Phan Cát Xu, Vũ Hữu Lợi v.v... (còn nhiều nữa) đều được tôn vinh, trân trọng. Tùy theo hoàn cảnh thời gian, tình hình cụ thể, sự biểu dương sùng bái có mức độ khác nhau, riêng đối với Phan Đình Phùng thì lòng ngưỡng mộ trước sau có lẽ là tuyệt đối. Trong phạm vi văn học sử, cảm hứng nghệ thuật về người anh hùng Vụ Quang luôn luôn được gợi mở, không chỉ nhất thời mà phát triển với thời gian, không chỉ trong phạm vi văn chương bác học, mà cả trong dân gian, cũng đậm đà phong phú. Ca ngợi Phan Đình Phùng, người ta luôn luôn nhắc đến vị trí đứng đầu của ông, cả trong chiến đấu, trong học thuật. “Đối sách đại đình quân đoạt giáp, Cần vương sát tặc quân vi khôi” (Thi đình ông đỗ đầu, giết giặc vì vua, ông là số một), câu thơ ấy hoàn toàn nói đúng về vị trí của Phan Đình Phùng. Tinh thần kiên nghị, quả cảm bất chấp quyền uy của ông cũng luôn luôn được nhắc đến. Ông là một “trực gián đài” như lời Phan Trọng Mưu (trong Bài ngoại liệt truyện), là một “chân Ngự sử” như lời Nguyễn Thượng Hiền (trong Nam chi tập). Ông là người bạn chiến đấu của nhiều thế hệ. Đồng thời với ông, Bạch Xỉ Đoàn Chí Tuân đã tự giác xin làm người phò tá cho ông (mặc dù không được ông chấp nhận). Tướng quân nghĩa liệt văn hoàn vũ Nguyện hướng viên môn tác chấp tiêu. (Nghĩa liệt tướng quân vang bốn cõi Xin theo bên ngựa đỡ dây cương). Và những lớp trẻ sau ông ít lâu, cũng thừa nhận ông là bạn của thế hệ những người cha, và cũng là người bày đường chỉ lối cho thế hệ những người con, đúng như ý kiến của Ngô Quang Đoan (con trai của Nguyễn Quang Bích): Báo quốc đan tâm trung quán nhật Diệt cừu bảo kiếm khí lăng vân. Gia nghiêm tích nhật tằng chiêu nghĩa Hậu bối đương nhiên nguyện vấn tân. (Tượng Phong thi tập) Tạm dịch: Cứu nước lòng son soi nhật nguyệt Diệt thù gươm báu khí tung trời, Cha xưa khởi nghĩa cùng người Con nay cũng đến xin lời bảo ban. Song có lẽ chưa có một vị tiên liệt nào được tôn vinh bằng đôi câu đối trường thiên, mỗi vế có đến 80 chữ, như đôi câu đối được biết là của Văn thân Nghệ Tĩnh điếu Phan Đình Phùng. Đã có nhiều giả thuyết về tác giả của đôi câu đối này. Có người nói là của Tổng đốc Đào Tấn, có người cho là của Nguyễn Thúc Tự (thầy học của Phan Bội Châu) mới là đúng hơn. Câu đối quả là tuyệt bút, cả hai phương diện tư tưởng và nghệ thuật đều đạt đến mức tuyệt vời. Điều cơ bản mà mọi người nhận ra trong con người và sự nghiệp của Phan Đình Phùng là không phải ở chỗ ông thành công hay thất bại trong cuộc khởi nghĩa, mà chính là ở tấm lòng cô trung, ở tinh thần đại nghĩa của ông. Lá cờ ông giương lên là lá cờ dân tộc, chứ không phải chỉ là lá cờ Cần vương như hầu hết các nhà Văn thân khác. Những bài thơ đương thời hay về sau viết về Phan Đình Phùng, thường nhắc đến bổn phận, nghĩa vụ của người trung thần đối với nhà vua, đôi câu đối này không hề đề cập gì đến khía cạnh đó. Và đây chính là cái nét mới trong sự phát triển của phong trào Cần vương mà ít người chú ý đến. Lòng thủy chung, sự kiên trì chiến đấu vì Tổ quốc của Phan Đình Phùng cho thấy ông là người biết trọng nước hơn vua, điều mà hầu hết các lãnh tụ khởi nghĩa hưởng ứng Chiếu Cần vương đã không thể hiện được. Câu đối viếng ông đã cho thấy được sự tiến bộ trong nhận thức của các nhà Văn thân. Tổ quốc, giang sơn, dân tộc… đã nổi lên cho lý tưởng Phan Đình Phùng thêm sáng chói. Thấm nhuần lý tưởng đó là cái mới của thế hệ Cần vương. Công lao và vinh dự của Phan Đình Phùng là ở đó. Chính do cái khuynh hướng lý tưởng đó, mà cách tôn vinh Phan Đình Phùng trong đôi câu đối đã có nét riêng trong kho tàng câu đối Việt Nam. Chưa bao giờ có những câu đối mà hình ảnh đất trời, non nước, thiên nhiên vũ trụ được huy động đến mức dồn dập như thế, để đề cao cái lớn lao của nhà lãnh tụ Hương Khê. Trên 24 chữ toàn chỉ vào thiên địa, giang sơn, vân tuyết, bách tùng; trên 10 chữ nhắc đến dân tộc, giống nòi, văn hiến, truyền thống; trên 10 chữ khác là nhắc đến tinh thần nghĩa vụ. Những hình tượng như cột đá giữa dòng, cây to giữa bão, nổi bật lên để khắc họa sức mạnh hào hùng, và Phan Đình Phùng trở nên một “đại trượng phu vũ trụ”. Và còn đây nữa, cái hào khí quê hương: những tinh thần La Việt, Tùng Mai v.v... Chỉ riêng vùng Nghệ Tĩnh này mới có. Được một câu đối như vậy, người anh hùng chắc cũng thỏa chí trong cõi xa xăm. *** Văn chương bác học chung quanh đề tài Phan Đình Phùng đáng là một hiện tượng văn chương, và ta cũng không quên là ở lãnh vực này, Phan Đình Phùng cũng rất đáng cho các nhà văn học sử chú ý. Hình như hình tượng Phan Đình Phùng anh hùng cứu nước vĩ đại quá, lớn lao quá, nên có khi ta cũng quên hoặc lướt qua tư cách nhà văn của Phan Đình Phùng. Chúng ta thường không để ý đến một hiện tượng đặc biệt trong văn học sử Việt Nam hồi cuối thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX. Ta chỉ chú ý đến những bài thơ Đường, những đôi câu đối hoặc văn tế, mà quên rằng chính giai đoạn này văn chương chính luận, có tính cách bút chiến đã nổi bật lên, hùng hồn và đanh thép hơn bao giờ. Ta có những bài biểu đưa lên nhà vua, có bài báo bỏ những lập luận nhu nhược, sợ địch của Tự Đức (như bài trả lời của Văn thân Nghệ Tĩnh). Có bài trả lời thẳng cho các viên tướng xâm lược Pháp, viết từ những địa phương lớn đến những căn cứ nhỏ v.v... Loại tác phẩm này còn phát triển mãi về sau như những lá thư của Nguyễn Thái Học gửi cho chính phủ Pháp những năm cuối thập kỷ 20. Nếu có công tập hợp lại những bài này thì chắc chắn ta có thể bổ sung thêm một số nhận định cho lịch sử tư tưởng và lịch sử văn học. Trong số những bài này phải kể đến lá thư của Phan Đình Phùng trả lời Hoàng Cao Khải. Sự lập luận chặt chẽ, lập trường dứt khoát phân minh, trong cách diễn đạt tình lý đầy đủ như ở lá thư này, thật là hiếm có. Còn một số điểm nữa tuy có thể là bất ngờ với nhiều người, song là một sự thực. Không làm nhiều thơ, không chuyên sáng tác, nhưng Phan Đình Phùng vẫn có một tâm hồn thi sĩ. Ông có duyên nợ với thơ. Ta nhớ lại, ngày Phan Đình Phùng sắp sửa từ giã cõi đời, ông đã gặp vợ con, tả hữu, tướng lĩnh thân thích, rồi bảo mang bút giấy đến cho ông. Có thể là ông muốn viết lời di chúc? Có lẽ ông muốn ghi mấy dòng chữ cho bạn bè, họ hàng để ký thác vợ con? Hay ông muốn nói thêm những lời cuối cùng với kẻ địch. Không? ông không làm như thế. Ông làm thơ. Bài thơ là tiếng nói cuối cùng của ông trong đời. Ông cần có thơ, ông nhớ đến thơ, và làm thơ trong phút giây trọng đại ấy - phút giây mà trong thực tế rất ít người nghĩ ra và làm được. Có một cử chỉ, một duyên nợ với thơ như thế, ông xứng đáng là một thi sĩ hoàn toàn. Và bài Lâm chung thời tác của ông cũng đáng là một bài thơ trang trọng với tấm lòng nhân đạo bao la, với tinh thần chiến đấu quyết liệt của ông. Nàng thơ cũng đến với Phan Đình Phùng trong một số trường hợp khác, đáng kể là trường hợp ông còn phiêu lưu trên đất Bắc, ăn tết xa quê hương, vì đang lo lắng vận động phong trào. Hồn thơ trong bài bát cú này thật là lai láng, chất thơ đậm đà, tâm hồn tha thiết... có thể xem là một tác phẩm xuất sắc so với nhiều bài của các vị Văn thân khác. Đào Trinh Nhất đã dịch bài này ra thể lục bát và tôi nghĩ là có phần đạt hơn tất cả các bài dịch chúng ta có trong tay: Tiếng oanh non nỉ sân ngoài Tìm Xuân về đó mà người ở đâu Ngàn thu một tấm cô sầu Non Hồng núi Ngự mây đầu xa xa Hiếu trung là nếp nhà ta Biệt ly đất khách, oán mà làm chi Tiết Xuân ai cũng vui vầy Mà ta riêng nỗi sầu bi một mình. Cuối cùng, còn phải ghi nhận rằng, chung quanh Phan Đình Phùng còn có cả một kho văn học dân gian phong phú. Khá nhiều lãnh tụ Cần vương hoặc anh hùng, chiến sĩ ở các phong trào khác đều được văn học dân gian ghi nhận, song ít phần phong phú hơn Phan Đình Phùng. Bài Vè Quan Đình thuộc loại tác phẩm xuất sắc nhất trong kho tàng văn vè Việt Nam. Bài vè nêu khá đầy đủ tiểu sử Phan Đình Phùng, từ một nhà trí thức tiến lên thành một anh hùng cứu nước, vạch rõ bản chất trọng trách của ông, so sánh với bọn Hoàng Cao Khải, Nguyễn Thân. Bài vè nêu rõ đất Hương Sơn, Hương Khê lúc đó đã thành “Giang sơn riêng hẳn một tòa cõi Nam”, dưới sự lãnh đạo của con người “tâm viên chí cường”: Hồng Lam tỏ mặt anh hào Văn thân bốn cõi trông vào một ta! Và bài vè cũng đề cập đến cái bất tử của Phan Đình Phùng; rất dân gian: Quan Đình giữ tiết cương thường Hãy còn hương hỏa từ đường dài lâu Bình Tây ai dựng cờ đầu Hồng Lam danh tiếng về sau còn nhiều. Cái đặc sắc của tác giả vè là đưa ra một lời khuyên nhủ: Dặn con dặn cháu một điều Vè này phải thuộc cho nhiều mới hay! Phải thuộc cho nhiều! Điều ấy có nghĩa là tấm gương của Phan Đình Phùng phải luôn luôn được học tập, truyền bá. Lời khuyên nhủ này ít gặp trong nhiều bài vè khác, chứng tỏ lòng sùng bái của nhân dân đối với Phan là thường trực, sự tôn vinh là lâu dài. Sau bài Vè Quan Đình, vùng Nghệ Tĩnh còn lưu truyền những bài vè khác, gần như muốn minh họa cho đầy đủ cuộc khởi nghĩa Hương Khê, đặc biệt là việc đúc khí giới. Xưởng võ khí trên núi Vụ Quang là một hiện tượng hiếm có trong lịch sử khởi nghĩa Việt Nam. Nghĩa quân nơi đâu chẳng rèn gươm giáo, vót cung tên, chỉ có quân khởi nghĩa của Phan Đình Phùng mới dám đúc súng theo kỹ thuật tối tân của Pháp lúc đó. Việc đúc súng đối với những người dân thợ rèn Nghệ Tĩnh thời kỳ ấy là một niềm hào hứng vừa của phát minh, vừa của hi sinh chiến đấu. Thợ rèn các làng, nhất là Trung Lương, Vân Chàng đã được mời về Sơn trại, bí mật nhưng vẫn ào ạt: Nay vâng lệnh quan Phan Lên rừng ta đúc súng Những bệ rèn, ống dóng Những mâm thau nồi đồng Cày cuốc cũng tập trung Than rừng thì có đó! Cả một không khí tấp nập, rừng rực khí thế đua tranh. “Xưởng trong cho chí trại ngoài, thợ rèn các tỉnh đều mời hội công”... Cuối cùng kết quả hào hứng đã diễn ra: việc đúc súng đã thành công mỹ mãn: Súng ta chế được vừa xong Đem ra mà bắn nức lòng lắm thay Bắn cho tiệt giống quân Tây Cậy nhiều súng ống phen này hết khoe. Tiếp theo vè, có lẽ phong phú nhất là những giai thoại, những chuyện đồn đại chung quanh cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng. Người dân Nghệ Tĩnh luôn luôn kể cho nhau nghe những “mẩu chuyện quan Đình”. Nào là tinh thần dũng cảm của ông chống Tôn Thất Thuyết trong vụ phế lập, nhưng sau đó hai ông lại thống nhất với nhau trong nhiệm vụ cứu nước, mà những lời “tướng huấn” của Tôn Thất Thuyết được Phan Đình Phùng treo ngay nơi làm việc của mình (câu đối: Liêm bình khâm tướng huấn). Nào là mưu trí của ông trong việc bắt sống tuần phủ Đinh Nho Quang, việc ông học tập cái kế “Sa nang úng thủy” của Hàn Tín để giành thắng lợi trong một trận đánh Pháp. Giai thoại về những tướng lĩnh dưới trướng Phan Đình Phùng cũng rất nhiều, thường tập trung vào hai nhân vật Cao Thắng và Đội Quyên, hai người có công sáng tạo, thực hành trong việc đúc súng. Chuyện về các ông Lĩnh (như Lĩnh Chanh), các ông Đội (như Đội Văn) tung hoành trên các trận địa, biến hóa, thay hình đổi dạng trên các căn cứ hoặc các làng mạc v.v... luôn luôn được kể lại một cách hào hứng, không loại trừ nhiều trường hợp hư cấu, thêm bớt theo sự tưởng tượng của người kể. Lại cũng không nên quên các mẩu chuyện về những quân thứ của Phan Đình Phùng. Chuyện của những người xướng nghĩa đầu tiên ở Nghệ Tĩnh như Lê Ninh, người cầm đầu Lễ thứ (làng Trung Lễ, Đức Thọ); của người tiếp tục hoạt động sau khi Phan Đình Phùng đã mất như Ngô Quảng (ở Nghi thứ, Nghi Xuân)v.v.. Dân gian còn truyền tụng những chuyện về nhiều chị em trong cuộc khởi nghĩa này cũng đều là kiện tướng có tài năng, mưu lược nhưng đến nay tiểu sử vẫn còn chưa được giới thiệu cho đầy đủ. Người ta chỉ nhắc với nhau về một cô Tời, bà vợ lẽ Đội Quyên, có cái biệt hiệu là Ngưu Y Nữ, nhiều phen làm cho bọn Tây táng đởm kinh hồn. Người ta cũng nhắc với nhau về một cô Tám, cô hàng than ở bến chợ Tràng, phải chăng là tác giả của những câu hò tuyệt diệu: Đi đâu lật đật hỡi ai Mũi tên hòn đạn cho người này theo Mênh mông một nước một chèo Giang san gánh nặng vẫn đeo bên mình. *** Những điều ghi nhận trên đây cho phép chúng ta đi tới một khẳng định: Phan Đình Phùng là một tên tuổi lớn trong lịch sử Việt Nam. Ông cũng có một vị trí nhất định trong văn học. Cả văn chương bác học và văn chương bình dân đều tôn vinh ông, và về phía bản thân mình, ông cũng đóng góp cho văn học. Có một sự hài hòa ở con người này, sự nhất trí giữa tình cảm và lý trí. Nét đẹp của cuộc khởi nghĩa Hương Sơn, của thơ văn yêu nước cuối thế kỷ XIX, và cả của Phan Đình Phùng là ở đó. ___________________________________ 1. Vũ Ngọc Khánh. Phó Giáo sư, Viện Văn hoá dân gian, Viện KHXH Việt Nam. 2. Tham luận Hội thảo khoa học kỷ niệm 100 năm ngày mất Phan Đình Phùng, ngày 28-12-1995. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Chín, 2008, 10:29:30 pm HÀ QUẢNG1 PHAN ĐÌNH PHÙNG: MỘT TẤM LÒNG THƠ BỤI CHẲNG MỜ… Phan Đình Phùng là một lãnh tụ tiêu biểu của phong trào yêu nước chống Pháp vào cuối thế kỷ XIX. Cụ sinh năm 1847, ở làng Đông Thái, huyện La Sơn, tỉnh Hà Tĩnh (nay là xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh), trong một gia đình nho học truyền thống. Thân sinh là cụ Phó bảng Phan Đình Tuyển, hai anh Phan Đình Thông và Phan Đình Thuật cùng em là Phan Đình Vận đều là những nhà khoa bảng có tiếng trong vùng. Ông đậu Tiến sĩ Đình nguyên, làm quan đến chức Ngự sử; năm 1883 khi xảy ra việc Tôn Thất Thuyết phế vua Dục Đức, ông can gián, bị bắt giam 12 ngày trong ngục rồi bãi chức về làng. Năm 1885, khi vua Hàm Nghi ra Sơn phòng Hà Tĩnh ban Chiếu Cần vương, ông đến yết kiến và được vua phong chức Tán lý quân vụ trông coi nghĩa quân chống Pháp ở Nghệ Tĩnh. Năm 1888 vì nội phản, vua Hàm Nghi bị bắt, phong trào sút kém dần, một mình Phan Đình Phùng theo đuổi cuộc kháng chiến, ông đặt bản doanh ở Vụ Quang để chỉ huy phong trào. Năm 1893 ông chém đầu tên phản bội Trương Quang Ngọc (kẻ chỉ điểm Pháp bắt vua Hàm Nghi), nghĩa quân thanh thế tăng lên, đánh nhau với Pháp nhiều trận oanh liệt. Suốt mười năm trời (1885- 1895), bất chấp mọi khó khăn gian khổ, nghĩa quân Phan Đình Phùng đã gây cho giặc Pháp nhiều tổn thất nặng nề. Thực dân Pháp thấy không thể dùng sức mạnh quân sự dẹp tắt được nghĩa quân, quay sang thủ đoạn dụ dỗ, mua chuộc. Tổng đốc Hoàng Cao Khải nhiều lần ngon ngọt dụ hàng nhưng ông cự tuyệt, quyết kháng chiến đến cùng. Năm 1895, triều đình vâng lệnh Pháp sai Nguyễn Thân đi đàn áp, khủng bố dã man. Tháng 11-1895 ông bị bệnh mất, phong trào từ đó tan rã. Phan Đình Phùng mất đi, cuộc kháng chiến cũng kết thúc. Song, cuộc khởi nghĩa Hương Khê xứng đáng là đỉnh cao của phong trào Cần vương. Đây cũng là thời điểm kết thúc sứ mạng lãnh đạo của tầng lớp sĩ phu phong kiến Việt Nam chống Pháp. Trước đó là các cuộc kháng chiến của Hồ Huân Nghiệp (1829-1864), Nguyễn Thông (1827-1884), Nguyễn Cao (1828-1887), Nguyễn Quang Bích (1832- 1890)... cũng đều thất bại! Phan Đình Phùng không chỉ là người lãnh đạo tài năng mà còn là nhà thơ. Cụ đã sáng tác một số câu đối (Điếu Lê Ninh, Khốc Cao Thắng) và nhiều áng thơ văn không chỉ có ảnh hưởng lớn lúc bấy giờ mà còn được truyền tụng mãi về sau (Đáp hữu nhân ký thi, Thắng trận hậu cảm tác, Kiến ngụy binh thi cảm tác, Phúc đáp Hoàng Cao Khải, Thư tuyệt mệnh...). *** Phan Đình Phùng cũng như nhiều sĩ phu khác, không mong lập thân bằng văn chương, chỉ lấy thơ văn dốc bầu tâm sự những khi tức cảnh, hoặc bày tỏ tình cảm với người thân. Thơ các vị chính là tấm lòng, là chí khí, bởi vậy, nó vô cùng chân thật và mang đậm tính cách con người tác giả. Thơ cụ Phan để lại không nhiều, trong 10 năm chiến đấu, sau những lần vượt nguy, hoặc những kỷ niệm đầy cảm khái với chiến sĩ, với bạn bè, Cụ tức cảnh một đôi vần mà thôi; tuy nhiên, nó cũng thể hiện rõ tấm lòng của Cụ đối với thế sự bao thăng trầm, biến động. Có khi một ngày đáng nhớ bằng cả cuộc đời? Thơ là tiếng lòng cá nhân của Cụ nhưng đọc kỹ ta thấy nó mang tâm tình, chí khí của cả một thế hệ sĩ phu thời bấy giờ. Trước hết là tấm lòng lo lắng với thời cuộc, thấy rõ trách nhiệm với dân với nước. Đầu năm 1887, khi trên đường ra Bắc tìm bạn “ứng nghĩa văn thân” dừng chân ở Nghệ An, tâm trạng có lo lắng nhưng hưng phấn thể hiện trong bài thơ từ biệt Tô Bá Ngọc: … Ba canh không ngủ lòng lo giận, Muôn dặm xa nhà chôn nghỉ ngơi. Máu giặc hẹn ngày hoà với rượu, Khúc ca chiến thắng tấu vua hay. (Lê Thước dịch)2 Về sau trên chặng đường chiến đấu đầy cam go, biến thiên khôn lường, cạm bẫy giăng đầy khắp nơi khắp chốn, tấm lòng trung nghĩa thì bất biến nhưng con mắt nhìn thời cuộc có khác, nhất là khi có sự biến. Âu lo, bùi ngùi vì quốc sự, giữa ngày xuân mà lòng tác giả “Tết đến người người vui vẻ cả / Riêng ta gặp tết vẫn bùi ngùi” hoặc “Ngoài xuân oanh nói với hoa cười/ Hoa báo xuân về vẫn vắng người”. Trong bài thơ tác giả không nói rõ nguyên nhân sự bùi ngùi của mình nhưng người đọc thầm hiểu. Đó là vì lúc này vua Hàm Nghi đã bị bắt (1888), cuộc kháng chiến càng nguy khó, tác giả vì mệnh vua và lòng dân, vì truyền thống gia đình mà lãnh trách cuộc kháng chiến nhưng luôn cảm thấy thời vận thật khó khăn, tương quan quá chênh lệch. ... Núi Ngự trăm năm vầng nhật chiếu. Non Hồng muôn dặm bóng mây trời. Nhà ta vốn dạy niềm trung hiếu Đất khách không lòng oán ngược xuôi (Mậu Tý nguyên nhật, 1888, Chu Thiên dịch) Hoặc về sau trong bài thơ Tuyệt mệnh (1885), tâm sự này bộc lộ càng sâu sắc: Trách nhiệm càng cao càng nặng gánh, Tướng môn riêng thẹn mặt anh hùng. (Trần Huy Liệu dịch) Đó cũng là tâm sự mà sau này ta gặp ở Phan Bội Châu và nhiều nhà Nho khác “Vẫn biết thời cơ đã lỡ rồi. Đến nơi sự thế phải làm thôi”. Trong một vài trận chiến thắng lợi, Cụ có một vài vần thơ cảm khái tức cảnh vui cùng các chiến sĩ, nhưng nhìn chung tâm sự của Cụ là buồn lo bùi ngùi. Cũng như bao sĩ phu khác trước đó, họ chiến đấu chữ DŨNG LƯỢC có thừa nhưng chữ LẠC QUAN thì thiếu vắng! Nguyễn Quang Bích, một lãnh tụ nghĩa quân khác ở xứ Bắc sinh thời chẳng đã từng chua xót ngâm ngợi mấy câu thơ người xưa: Chung rượu cười vui khì còn sống/ Mai đây thác xuống biết có ai rưới chén say lên mồ mình! Tự hào truyền thống gia đình... Hiếu trung là nếp nhà ta /... Ba đời khanh tướng nhà ta... Truyền thống hiếu trung, ơn vua lộc nước buộc họ hành động hơn là vì một niềm tin vào sự nghiệp lớn! Các nhân tố để khôi phục cơ nghiệp mà một thời Nguyễn Trãi từng nói đến thời, thế, lực3 đều vắng thiếu: thời đã lỡ, thế đơn côi, lực mong manh! *** Một nội dung lớn đầy tính nhân văn trong thơ cụ Phan mà ta không thể không nhắc đến, đó là tình cảm nồng đượm với bè bạn, với người thân. Cụ thật chân tình, khi thể hiện tình cảm của mình với họ Tô và các bạn hữu đất Yên Thành, gia đình mà Cụ sống những ngày trên đường ra Bắc: Tháng Hai xuân Đinh Hợi Nhân ghé Đông Yên thôn Nghe có nhà Tô Thị Trung hậu nổi tiếng đồn. Buổi đầu mới gặp gỡ Nói năng vé ôn tồn Nếp nhà trọng hiếu hữu. Anh em vẹn luân thường Chủ nhân quý “Thi khách” Quanh chiếu những bạn hiền. Cùng luận bàn kim cổ Xướng hoạ dán đầy phên Quý thay ông Bá Ngọc Nhờ phúc trạch gia tiên Hãy gắng lên! Gắng lên! Làm thiện hưởng phúc bền4. Cái tình người chân chất nồng thắm giúp ta hiểu vì sao cuộc kháng chiến đơn lẻ thiếu thốn trăm bề có thể tồn tại hơn thập kỷ trước nanh vuốt quân thù. Trong “Thư trả lời Hoàng Cao Khải” điều này còn thể hiện rõ: “… Từ lúc tôi khởi nghĩa đến nay, đã trải mười năm trời, những người đem thân theo việc nghĩa, hoặc bị trách phạt hoặc bị chém giết, vậy mà lòng người trước sau chẳng lấy thế làm chán nản bao giờ, trái lại họ vẫn ra tài đua súc giúp đỡ tôi, vả lại số người mạnh bạo ra giúp đỡ tôi ngày càng đông mãi. Nào có phải người ta lấy điều tai vạ làm sung sướng thèm thuồng mà bỏ nhà dấn thân theo tôi như vậy đâu. Chỉ vì họ tin cậy lòng tôi lượng xét chí tôi, cho nên hăm hở vậy đó. Ấy lòng người như thế, nếu như cố nhân đặt vào địa vị tôi, liệu cố nhân có bỏ đi cho đành hay không?” Ngay đối với những kẻ lầm đường lạc lối vì miếng cơm manh áo hoặc vì mù quáng đi làm bia súng cho giặc Pháp Cụ cũng có cái nhìn thật độ lượng... tấm lòng nhân ái của Cụ đã cảm hoá biết bao người, tác giả Đào Trinh Nhất đã nói rõ điều này trong tập sách viết về Cụ: “… Phan Đình Phùng rất chú ý đến công tác ngụy vận. Cụ thường bảo với nghĩa quân: “Hễ khi giao chiến vạn bất đắc dĩ hãy bắn giết lính tập, bởi họ là anh em đồng bào với mình...” (Phan Đình Phùng - Nhà lãnh đạo 10 năm chống Pháp ở Nghệ Tĩnh (1886-1895)). Và cũng chính với tấm lòng nhân nghĩa đó, Phan Đình Phùng đã cảm hoá được các tướng lĩnh giỏi như Cao Thắng, Nguyễn Chanh, Nguyễn Trạch, Phan Đình Cam, Cầm Bá Thước, Nguyễn Mục v.v... vượt qua bao gian truân khó khăn, hết lòng trung thành với sự nghiệp chống Pháp. ___________________________________ 1. Hà Quảng: Nhà giáo ưu tú. 2. Trong bài viết của tác giả Hà Quảng sử dụng một bản dịch khác, nhưng chúng tôi thấy có một số chi tiết không chính xác nên xin thay bằng bản dịch của cụ Lê Thước vốn đã phổ biến. BT. 3. Nguyễn Trãi. Thư lại dụ Vương Thông. 4. Theo Nguyễn Trung Hiền, tạp chí Văn hóa Nghệ An, số 12-2005. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Chín, 2008, 11:30:06 pm *** Như trên đã nói, trong 10 năm nằm gai nếm mật tiến hành cuộc kháng chiến không cân sức với giặc Pháp, cái gương xả thân thành nhân của Cụ và các chiến hữu thật ngời sáng. Phẩm chất dũng cảm kiên trinh vì lí tưởng của Cụ sáng chói cùng sử sách. Trong bài thơ “Trả lời tuần phủ Võ Khoa” khi viên quan đồng học này gửi Cụ bài thơ xa ngái khuyên bãi binh, Cụ đã khẳng định: Bách niên tồn xã dư hoài nhiệt / Nhất phiến cô trung tặc đởm hàn! (Trăm năm đất nước sục sôi. Một tấm lòng cô trung làm giặc khiếp hồn!). Câu thơ như một lời thề khắc vào đá núi! Mười năm đồng sinh đồng tử với nghĩa quân, những lúc vượt qua nguy nan, nhiều trận đánh thu được thắng lợi, Cụ không giấu niềm vui sung sướng, những bài thơ mừng chiến thắng của Cụ không chỉ hoà được lòng mình cùng chiến sĩ mà còn ngầm bày tỏ sự tin yêu ở chiến hữu. Một lần phái quân đi các nơi, đại đồn chỉ còn ít lính cảnh vệ, giặc Pháp đến cụ Phan định rút nhưng tuỳ tướng Nguyễn Mục xin đánh. Nhờ thế núi hiểm trở, các chiến sĩ dùng nghi binh quyết chiến đánh lui quân giặc. Cụ cho mở tiệc mừng và làm bài thơ Mừng chiến thắng: Vừa phái quân đi giặc đến nơi Lòng ta lui tới luống bồi hồi Người xin quyết đánh là ai đó Chớp mắt mà ra đã thắng rồi. Chót vót non cao nước một màu Quỷ thần âu cũng giúp ngầm nhàu Không dưng bên ít bên nhiều thế Mà đến đầu khe đã chạy sao? Tuy trong thẳm sâu lòng Cụ thông cảm cho những người vì miếng cơm manh áo hoặc vì bị cưỡng bức phải đi lính tập vào vòng binh lửa, nhưng đối với những kẻ hám danh lợi mà làm tay sai cho giặc, cụ vẫn không giấu sự khinh bỉ và có dịp là cảnh tỉnh cho chúng:... Chẳng qua danh lợi buộc thân mày / Đến nỗi bên khe chết bỏ thây / Trông đó ai ơi nên sớm liệu / Chết rồi có hối cũng ra chày. Đối với những người con, những chiến sĩ hy sinh vì nghĩa lớn, cụ vô cùng thương tiếc. Trường hợp Cao Thắng hy sinh là một cái tang lớn không chỉ cho Cụ mà cho cả phong trào kháng chiến. Cụ đã khóc than đau đớn và bỏ ăn nhiều ngày khi nghe tin viên chỉ huy trẻ, cánh tay phải của mình hy sinh. Mấy câu liễn viếng Cao Thắng đã nói rõ tấm lòng cụ: Hữu chí phất thành, anh hùng dĩ hĩ; Vi tiệp tiên tử, thiên ý vị hà * Công cầu tất thành, kích tiếp thệ ngôn thanh quốc tặc; Sự nan dự liệu, cứ yên kim dĩ thiểu tư nhân. Dịch: Có chí không thành, anh hùng đã khuất; Chưa thắng đã chết, ý trời ra sao? * Công muốn lập nên, gõ mái nặng thề trừ giặc nước; Việc khôn tính trước, lên yên nay thấy vắng người này1. Thơ tuyệt mệnh là bài thơ sau cùng cũng là bài thơ hay nhất của Cụ, để lại nhiều dư âm nhất trong lòng người đời. Bài thơ là một lời tự bạch về tâm trạng của một người tướng, một lãnh tụ nghĩa quân trước khi chết cảm thấy hổ thẹn vì chưa làm tròn sứ mệnh nhà vua giao phó “Vũ lược còn chưa báo được công”, xót xa vì chưa làm tròn phận sự giải phóng nhân dân, dân tộc “Bốn bể nhân dân nước lửa nồng”! Cảnh tang tóc bấn loạn đang trùm lên tất cả “Dân đói kêu trời tan tác nhạn, Quân gian chật đất rộn ràng ong”. Người anh hùng đã phải ra đi khi sự nghiệp còn dang dở “Trách nhiệm càng cao càng nặng gánh, Tướng môn riêng thẹn với anh hùng”. Một bài thơ thật cảm động, đã vẽ lên khá đầy đủ vẻ đẹp tinh thần cũng như sự bế tắc của tầng lớp sĩ phu đương thời trong sự nghiệp cứu dân, cứu nước mà đến hơn nửa thế kỷ sau những người anh hùng mới - những người Cộng sản, sẽ thay thế làm trọn được trách nhiệm mà lịch sử giao phó. *** Bằng thể thơ Đường cổ điển với các phép đối quen thuộc, cách sử dụng ngôn từ còn có những ước lệ, nhưng cái tình thật và cái nỗi đau nhân thế bao trùm đã làm xúc động người đọc qua nhiều năm tháng, vượt khỏi sự phân cách không gian, thời gian cùng ý thức hệ. Trong những năm tiến hành cuộc kháng chiến anh hùng và gian khổ, nhiều nhân vật thân cũng như sơ, phía này hay phía kia có nói đến cụ Phan và bằng văn thơ thể hiện mối quan tâm với những động cơ khác nhau. Đó là trường hợp đối thoại giữa cụ Phan với Tuần phủ Võ Khoa..., với ông Bạch Xỉ, với Quận công Đại thần Hoàng Cao Khải, với Cử nhân Tô Bá Ngọc... Mục đích và hoàn cảnh có khác nhau nhưng các vị này đều thể hiện một lòng khâm phục nhân cách cụ Phan. Hoặc để dụ dỗ: “… Từ lúc ngài khởi nghĩa đến nay nghĩa khí trung can đều rõ rệt ở tai mắt người ta. Tôi thường nghe các quan Pháp nói chuyện về ngài, ông nào cũng tỏ vẻ thở than khen ngợi và quý trọng ngài lắm”. (Hoàng Cao Khải) Hoặc để làm thân: Nghĩa liệt tướng quân vang bốn cõi Xin theo bên ngựa đỡ dây cương. (Bạch Xỉ)2 Hoặc là sự khâm phục thật lòng: … Can tràng sáng chói mặt trời Mười năm tâm sự gửi nơi tro tàn. Khí thiêng trở lại hà san Khóc dâng chén rượu rửa hồn Châu Phong (Tô Bá Ngọc) Phạm Văn Ngôn, nhà chí sĩ đời sau, khi nhắc đến chiến công của Cụ đã không ngớt tự hào về trận phục binh “Sa nang úng thủy” ở Vụ Quang: Gió lạnh sương mù buổi rạng đông Ba quân phục sẵn ở bên sông Chiêng khua một tiếng quân reo dậy Đê phá trên nguồn nước chảy tung... Phan Đình Phùng là một minh chứng cho vẻ đẹp “xả thân thành nhân” của người xưa. Cụ mất nhưng để lại tiếng thơm cho đời. Lời Võ Phát trước đấy khi thay mặt Phan Đình Phùng khóc thương Cao Thắng, phải chăng cũng có thể nói thay được tấm lòng người dân quê hương Hồng Lam tiếc thương Cụ: Non Thiên Nhẫn phất phơ hơi gió thổi, thương người tiết nghĩa ngậm ngùi thay, Nước Tam Soa thấp thoáng bóng trăng soi, nhớ kẻ trung trinh ngao ngán nhẽ! Cùng với các sĩ phu nổi tiếng một thời chống Pháp, các vị là một dãy sao sáng trong bầu trời Việt thời kỳ cận đại, Phan Đình Phùng vì sao rực rỡ bay lên từ mảnh đất Hồng Lam giàu truyền thống. Tháng 11 năm 2006 (Theo Tạp chí Hồng Lĩnh, số 37, tháng 4-2007) ____________________________________ 1. Trong bài viết của tác giả Hà Quảng sử dụng một bản dịch khác, nhưng chúng tôi thấy có một số chi tiết không chính xác nên xin thay bằng bản dịch trong Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỉ XX. BT. 2. Bạch Xỉ cùng khởi nghĩa chống Pháp đồng thời với Phan Đình Phùng, căn cứ hai bên cũng ở gần nhau. Bạch Xỉ không theo cụ Phan nhưng rất trân trọng, quý mến tài đức Cụ. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Chín, 2008, 09:59:56 pm NINH VIẾT GIAO1. “CÔ TRUNG MỘT MẢNH GIẶC KINH HỒN”2 (VÀI NÉT VỀ THƠ VĂN PHAN ĐÌNH PHÙNG) Phan Đình Phùng làm thơ làm văn không nhiều, hay nói cho chính xác hơn, thơ văn Phan Đình Phùng còn truyền lại đến bây giờ không nhiều. Song điều đáng quý, tất cả thơ văn Phan Đình Phùng đều có giá trị nghệ thuật và đều mang nội dung yêu nước. Thơ văn Phan Đình Phùng cũng như con người Phan Đình Phùng: yêu nước nhiệt thành, khảng khái, mang tư tưởng “tiên thiên”, chiến đấu kiên cường, đạo đức gương mẫu, có sức cảm hóa sâu sắc. Phan Đình Phùng hưởng ứng Chiếu Cần vương, “xướng nghĩa tiên thanh phù xã tắc” vào lúc thực dân Pháp, về căn bản, đã chiếm xong nước ta. Dưới áp lực quân sự của giặc, triều đình Huế đã ký hai Hàng ước nhục nhã vào ngày 25-8-1883 và ngày 6-6-1884 công nhận toàn quyền đô hộ của chúng ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Thời kỳ chiến đấu giữ nước kéo dài từ 1858 đến đây chấm dứt. Bây giờ là thời kỳ kháng chiến giành lại Tổ quốc đã nằm trong tay giặc. Tại Nghệ Tĩnh, “các quan đã mãi trứng gà, đem xuống cửa Hội để mà đón Tây”. Nước mất. Triều đình nhà Nguyễn đầu hàng. Tiếng súng chống Pháp thưa dần. Một tâm lý bi quan, hoang mang, thất vọng trong toàn thể xã hội ta, nhất là trong tầng lớp sĩ phu và quan lại yêu nước. Mấy trăm năm qua, kể từ ngày quân Minh bị đuổi ra khỏi nước (quân Thanh chưa kịp thực hiện ý đồ xâm lược), ách thống trị của nước ngoài khá xa lạ đối với nhân dân ta. Bây giờ một kẻ thù từ phương Tây, mịt mù cách trở về địa lý, về sinh hoạt, về ăn mặc, ngôn ngữ,... đến đè đầu cưỡi cổ nhân dân ta, đó là một biến cố phi thường, nên tâm lý bi quan, thất vọng trên có gì như sững sờ, thảng thốt. Phan Đình Phùng đã ghi tâm trạng đó trong một bài thơ đề là Cảm tác làm năm Hàm Nghi Nguyên niên (1885). Mắt ngó kinh thành ruột rối bời, Đau lòng việc nước lệ tuôn rơi... Trung thần nghĩa sĩ giờ đâu tá? Đắm đắm non Bình nghĩ chẳng nguôi. (Nguyên văn chữ Hán) Phan Đình Phùng quặn lòng đau xót trước cảnh non sông đã thay thầy đổi chủ: “Thảo mộc sơn hà phi cựu chủ, vương hầu đệ trạch dĩ tân nhan”. Song “gia bần tri tử hiếu, quốc loạn thức tôi trung”. Tôi trung ở đây không phải là trung với vua đã hàng giặc, mà là trung với nước, trung với nền độc lập dân tộc, với nguyện vọng cứu nước, giữ nước của nhân dân ta. Thơ văn Phan Đình Phùng, không chỉ thể hiện nội dung yêu nước sâu sắc, chống đế quốc xâm lược mà còn chống bọn phong kiến đầu hàng. “Thư trả lời Hoàng Cao Khải” vừa là bút chiến với tên Việt gian bán nước, vừa là bộc lộ quan điểm, lập trường khởi nghĩa chống giặc của cụ. Mang tư tưởng tích cực đó, lãnh trách nhiệm trước sứ mệnh lịch sử, Phan Đình Phùng khẳng định ý chí đánh giặc: Cứu quốc lòng ta sốt sắng luôn, Cô trung một mảnh giặc kinh hồn. Lê Thước dịch Trước kẻ thù hùng mạnh có tàu to súng lớn, Cụ không hề sợ hãi. Coi thường kẻ thù, đứng trên kẻ thù, cũng trong bài thơ trên Cụ viết hai câu cuối: Nhắn lời các bạn hay chăng tá, Sở vương nhổ được núi nào đâu! Đánh giá tương quan giữa ta và địch lúc bấy giờ như vậy là biểu thị một tinh thần kiên cường bất khuất, một khí phách hào hùng của sĩ phu Hoan Diễn. Huống chi Phan còn coi lòng trung nghĩa là một sức mạnh to lớn. Nó làm kẻ thù phải run sợ: Nhất phiến cô trung tặc đởm hàn. Thái độ ấy quả là hiếm trong nội dung thơ văn yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX. Điều hiếm hơn nữa là thơ văn của Phan thắm đượm một niềm tin vào sự nghiệp chiến đấu của mình: Máu giặc hẹn ngày hòa với rượu, Khúc ca chiến thắng tấu vua hay. Tái bộ nguyên vận chủ nhân Tô Niềm tin này tỏa sáng trong bài Thắng trận hậu cảm tác: Vừa phái quân đi, giặc kéo vào, Lòng ta chưa biết tính nên sao. Quyết xin ra đánh là ai đó Thắng trận tin về quả chẳng lâu. Khương Hữu Dụng dịch Bài thơ tràn trề một niềm phấn khởi tự hào của một vị tướng cầm quân thắng trận, biết tin vào chính nghĩa, vào nghĩa binh, thể hiện được hùng khí của dân tộc trong những giờ phút chống ngoại xâm. Quyết tâm đánh giặc, tin vào sự nghiệp chính nghĩa của mình, suy nghĩ kỹ về vai trò của kẻ trượng phu “Đương kim chi thế xả ngã kỳ thùy” nhưng “ Cần vương lại bị nhà vương gia hình”. Mười năm đã trôi qua, thắng có bại có, lúc ra Bắc, lúc mong người đồng chí, lúc lo cơ mưu trong trướng, lúc trực tiếp cầm quân đánh giặc,... “cô thần mưu quốc phong sương lão”, Phan Đình Phùng những muốn đem toàn tâm toàn sức ra cứu vớt giang sơn. Nhưng rồi các tướng giỏi như Cao Thắng, Nguyễn Chanh đều tử trận, thế lực nghĩa quân yếu dần, đã có lúc Phan tự kiểm điểm: “Chém rắn giữa đường gươm tuốt chậm, đuổi hươu đồng nội giáo khua sai”. Giặc Pháp dốc toàn lực tấn công vào căn cứ, chúng chặn các đường giao thông, càn quét dài ngày, biết thời thế khó xoay, Phan bộc lộ nỗi niềm: Việc quân vâng mệnh trải mười đông, Chiến sự nay còn tính chửa xong. Dân đói kêu trời tan ổ nhạn, Quân thù chật đất dậy đàn ong. Chín trùng thánh chúa nơi quê lạ, Bốn bể nhân dân chốn lửa nồng. Trách vọng càng cao, lo lại nặng, Tướng môn những thẹn với anh hùng. Lê Thước dịch Một tâm sự u uất của một kẻ cô trung bao trùm khắp bài thơ. Một tư tưởng ưu ái trước cảnh non sông bị chìm đắm, nhân dân cùng đường đói khổ chỉ biết kêu trời như đàn nhạn tan tác, còn quân thù lộng hành hung hãn, vua bị đày đi xứ lạ, cứ theo trách nhiệm của một sĩ phu yêu nước mà dâng lên dào dạt man mác trong bài thơ. Một mảnh lòng son của tầng lớp nhà Nho Nghệ Tĩnh đứng lên xoay vần cuộc thế, nhưng nay cảm thấy bất lực, chỉ còn biết nặng trĩu đau buồn và thẹn với anh hùng trong lịch sử. Chúng ta trân trọng mảnh lòng son, tâm trạng cô trung ấy. Đến đây ta rõ thêm rằng, thì ra cái gốc của lòng yêu nước, của hào khí can trường trong thơ văn Phan Đình Phùng đã được hun đúc từ cái nền đạo lý truyền thống của nhân dân. Bài thơ có 8 câu, 4 câu tác giả trách mình, 4 câu nói đến dân đến vua. Nhưng hình ảnh vua cũng không lấy gì làm đậm đà cho lắm, dù đó là ông vua yêu nước. Còn hình ảnh nhân dân đau khổ thì rất da diết đậm đà. Tâm sự ấy của Phan Đình Phùng, phải chăng chỉ trong bài thơ trên? Trong Thư trả lời Hoàng Cao Khải, khi nói đến nỗi đau buồn của nhân dân, Phan Đình Phùng như không cầm được nước mắt: “... Đến nay người Tây với mình, cánh xa nhau không biết là mấy muôn dặm, họ vượt bể lại đây, đi tới đâu như gió lướt tới đó, đến nỗi nhà vua phải chạy, cả nước lao xao, bỗng chốc non sông nước mình biến thành bờ cõi người ta, thế là trọn cả nước nhà, dân nhà cũng bị chìm đắm hết thảy, có phải là riêng một châu nào hay một nhà nào phải chịu cảnh lầm than mà thôi đâu...” Có lòng thương yêu nhân dân nồng nàn bao la đó, Phan Đình Phùng thương xót cả những người nông dân lầm đường đi theo giặc. Qua bài Kiến ngụy binh thi cảm tác, tác giả tỏ lòng độ lượng đối với họ, cảm thông với nỗi nhục nhã của họ đồng thời thành tâm mong muốn những ai trót đi lính cho giặc hãy sớm tỉnh ngộ quay về với Tổ quốc: Mày chỉ vì danh lợi đó thôi, Bên khe đến nỗi để thây phơi. Dấu xe trước mắt ai trông đó, Kẻo chết ăn năn cũng muộn rồi. Ngời sáng tấm lòng yêu nước thương dân nên Phan Đình Phùng được nhân dân tin yêu. Nhân dân phấn khởi hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của Cụ, coi công đức của Cụ như công đức mẹ cha. Dầu rằng vất vả và bị bóc lột tàn tệ, song trước nạn nước, người tự nguyện tham gia nghĩa binh, người đem của cải đóng góp cho cuộc khởi nghĩa: Trăm họ hớn hở đêm ngày, Tụng công đức ấy coi tày mẹ cha. Bảo nhau đem của cải ra, Gửi lên sơn trại gọi là quân lương. (Vè Quan Đình) Cuộc khởi nghĩa không thành. Sau những ngày trực tiếp chỉ huy chiến đấu dũng cảm, Phan Đình Phùng đã hi sinh oanh liệt ngày 28-12-1895. Tỏ lòng ái mộ một sĩ phu yêu nước yêu dân, cương quyết kháng chiến, Văn thân Nghệ Tĩnh đã có một câu đối viếng khá thống thiết. Nghĩ đến nhân cách và công lao của Phan Đình Phùng, một sĩ phu đã điếu bài thơ: Giật giải thi Đình ông bậc nhất, Dựng cờ khởi nghĩa ông đầu đàn. Trung trinh chẳng thẹn nhà gia thế, Chính trực còn truyền tiếng gián quan. Một tấm can trường vầng nhật tỏ, Mười năm tâm sự bụi tro tàn. Than ôi chính khí về sông núi, Khóc bác Châu Phong chén rượu tràn. (Bài ngoại liệt truyện) Rõ ràng một chế độ xã hội đã chết đi, kéo theo cả nền tảng tinh thần, trật tự, đạo đức ,... thường gọi là chính khí, là cương thường mà các Cụ đứng lên vãn hồi không được. Nhưng những người vì nghĩa vì dân mà đánh giặc cứu nước vẫn được các thế hệ mai sau mãi mãi ngợi ca. Các Cụ đã để lại cho chúng ta một truyền thống: biết làm người, biết giữ gìn nhân phẩm, biết tự lập tự cường, yêu nước, xả thân vì nước, cam chết vinh không cam sống nhục,... Phan Đình Phùng là như vậy “tinh thần còn mãi vẻ xanh tươi”3 ... Tháng 11 năm 2003 ________________________________________1. Ninh Viết Giao: Phó Giáo sư, Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Nghệ An. 2. Đầu đề này là một câu thơ trong một bài thơ của Phan Đình Phùng. 3. Những tư liệu dẫn trong bài viết này đều lấy trong Tổng tập văn học Việt Nam tập 4 và Thơ văn nhà Nho xứ Nghệ. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Chín, 2008, 10:25:22 pm CHƯƠNG THÂU LÒNG NGƯỠNG MỘ CỦA PHAN BỘI CHÂU ĐỐI VỚI CỤ PHAN ĐÌNH PHÙNG Phan Bội Châu (1867- 1940) nhà yêu nước chân chính, nhân vật trung tâm của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ XX, là người nối tiếp “phong trào Cần vương chống Pháp”, từng giương cao ngọn cờ dân tộc - dân chủ trong sự nghiệp cứu nước của mình và cũng đã đạt được một số công tích lịch sử đã ghi nhận. Trong quá trình hình thành và phát triển chủ trương đường lối cách mạng của mình Phan Bội Châu cũng từng tiếp thu “tư tưởng và thủ đoạn bạo động” cũng như tấm gương đấu tranh kiên cường bất khuất của phong trào chống Pháp ngay quê hương Nghệ Tĩnh do cụ Phan Đình Phùng lãnh đạo trước đó. - Từ tấm bé, Phan Bội Châu đã từng nghe biết về phong trào đánh Pháp của Phan Đình Phùng và tỏ lòng ngưỡng mộ sâu sắc. Trong tập tự truyện Phan Bội Châu niên biểu đã ghi lại sự kiện Phan Bội Châu năm 19 tuổi (1885) vì đại nghĩa kích thích và vì tâm phục mà nóng lòng muốn hưởng ứng phong trào Cần vương của thân hào Nghệ Tĩnh do cụ Phan Đình Phùng đứng đầu, đã cùng bạn là Trần Văn Lương lập ra “Đội thí sinh quân” gồm 60 thanh niên để phối hợp tác chiến với nghĩa quân của cụ Đình, tấn công đồn binh Pháp ở tỉnh thành Nghệ An. Việc không thành và đã kịp thời rút bài học kinh nghiệm, rằng: “Hễ muốn làm anh hùng tất phải tiềm dưỡng cho thật lâu, muốn gánh việc lớn, tất phải chứa mưu cho thật nhiều”1, ý Phan Bội Châu muốn nói là phải học tập theo gương cụ Phan Đình Phùng lúc đó. - Phan Bội Châu tiếp tục bồi dưỡng, rèn luyện tâm chí, náu mình trong công việc thường nhật “vừa dậy học kiếm sống, nuôi cha và các em, vừa tìm kiếm kết liên với các bạn đồng tâm đồng chí”. Trong khi dạy học, “mỗi khi giảng sách dạy bài, thường nhắc đi nhắc lại những việc nhân nhân chí sĩ đời xưa. Tựu trung lịch sử của Hoàng Phan Thái tiên sinh, của Phan Đình Phùng tiên sinh, càng vui miệng nói luôn, mong có người cảm động...”2 và: “Các đầu mục, dư đảng của cụ La Sơn (Phan Đình Phùng), tôi thường âm thầm kết nạp. Nghĩa tán tương là Nguyễn Quýnh, người Hương Sơn, nghĩa đốc biện là Hà Văn Mỹ ở Nghi Xuân cho đến nghĩa phó lĩnh là Ngô Quảng, nghĩa quản cơ là Lê Hạ với những ông như Đội Quyên, Quan Phấn, thảy là bạn bí mật của tôi...”3 - Phan Bội Châu đã thừa kế được những thành tựu (kể cả các dư đảng) của phong trào Phan Đình Phùng để tiến lên “tiếp nối sự nghiệp cứu nước dở dang của Cụ”. Phan đã ghi lại tâm trạng của mình trước bước ngoặt lịch sử đó, như sau: “Đến năm tôi ngoài 30 tuổi, đang Cần vương khắp trong nước nối nhau vỡ lở tan thành, chỉ còn sót lại một mình cụ Phan Đình Phùng ở La Sơn, cố sức cầm cự được lâu. Nhưng tới năm Giáp Ngọ (1896) niên hiệu Thành Thái thứ 6, Cụ mất. Từ đó trở đi, non sông hiu quạnh, việc gánh vác không còn ai. Trải 10 năm, tôi ôm lòng phẫn, nuôi chí to, vẫn rấp ranh ở ngay giữa khoảng núi Hồng sông Lam, dựng nên một cây cờ độc lập. Tới đây, tôi không thể nào nín mà không làm được”4 - Bước quyết định cuộc đời dấn thân cứu nước cứu dân của Phan Bội Châu, bắt đầu từ đây, và như chúng ta đều biết, từ sau năm 1900, khi đã đỗ Giải nguyên “đã có được một cái mặt nạ để mượn đó mà che lấp mắt đời”, Phan Bội Châu đã “vào Nam ra Bắc” nhằm “kết liên đồng chí” để rồi thành lập ra Duy Tân hội (1904) với “mục đích cốt khôi phục Việt Nam, lập nên một chính phủ độc lập5. Rồi trực tiếp lãnh đạo phong trào Đông Du từ năm 1905-1909... Sau nữa, đến năm 1912, lại lập ra Việt Nam Quang phục hội... và tiếp tục lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam cho đến năm 1925 khi Phan Bội Châu bị giặc Pháp bắt đưa về nước và chấm dứt vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam của “bực anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân cho độc lập được 20 triệu con người trong vòng nô lệ tôn sùng” như Nguyễn Ái Quốc đã đánh giá. Như trên đã đề cập, để trở thành một Phan Bội Châu lãnh đạo phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trong một phần tư đầu thế kỷ XX, trong đó có yếu tố học tập tiếp thu truyền thống chủ trương bạo động cách mạng của các bậc anh hùng chống Pháp thế hệ trước, tức là thế hệ Cần vương, mà gần gũi và cụ thể nhất là tấm gương Phan Đình Phùng. Trong các tác phẩm thơ văn tuyên truyền yêu nước có khá nhiều đoạn văn, nhiều truyện ký, Phan Bội Châu tỏ ra hết lòng ngưỡng mộ Phan Đình Phùng. - Trong tác phẩm Việt Nam vong quốc sử, một cuốn “lịch sử cách mạng” đầu tiên do Phan Bội Châu viết tại Nhật Bản, nhằm tố cáo tội ác của thực dân Pháp, trong đó Chương II: Tiểu truyện các chí sĩ lúc mất nước, tác giả đã dành số trang nhiều nhất (so với các chí sĩ khác) cho Phan Đình Phùng. Đây cũng là một “tiểu truyện” xuất hiện sớm nhất viết tương đối kỹ về “hành trạng” của La Sơn tiên sinh. Xin trích dịch nguyên văn như sau để các bạn cùng tham khảo và cũng để thấy tấm lòng trân trọng biết chừng nào của Phan Bội Châu đối với cụ Phan Đình Phùng. “Năm Ất Dậu (1885), đương lúc xảy ra nạn nước, xa giá nhà vua dời ra ngoài, lấy huyện Hương Khê làm nơi hành tại - ở hạt Hà Tĩnh. Hà Tĩnh thuộc tỉnh Nghệ An. Toàn bộ An-Tĩnh theo nghĩa rất nhiều, chống với quân Pháp rất lâu, và cũng bị tai vạ rất tàn khốc hơn các tỉnh khác. Trong khoảng mười một năm, những bọn buôn thúng bán mẹt, tá điền, đồ tể, trộm cướp đều tụ tập nổi dậy ở nơi thảo dã, liều mạng đánh nhau với Pháp, vất vả trăm trận đánh, trở thành danh tướng một thời. Trong bọn ấy, nổi bật có chưởng doanh nghĩa binh là Cao Thắng. Đề lĩnh nghĩa binh là Nguyễn Chanh cùng với Cao Thắng quả cảm thiện chiến, thấy một cái súng Tây mà có thể y theo kiểu chế tạo ra tinh xảo không kém gì của Pháp. Đánh nhau với Pháp, ông đã chém được đầu những quan một, quan hai của Pháp. Quân Pháp đã phải khuyên nhau hễ gặp Thắng là phải tránh đi. Giá mà trong nước có được mấy trăm ông Thắng, thì người Pháp chả phải thua liểng xiểng mà rút về Tây ư? Từ khi ông Thắng vào quân ngũ, gặp địch là đánh, thực là kẻ kình địch đối thủ của giặc Pháp. Thắng chết, người Pháp đốt chỗ làng ở, quật phần mộ ông lên, Nguyễn Chanh quả cảm không bằng Thắng, nhưng mưu lược lại hơn, khi người Pháp mới đến, Chanh lập tức đi lính cho Pháp làm gian tế, dẫn quân Pháp đi nã phỉ, bàn âm mưu khuyên đồ đảng lấy rượu nhử quân Pháp, nhân lúc quân Pháp say, giết sạch, cướp hết súng về theo nghĩa đảng, vâng chiếu của Xuất đế làm lãnh binh. Tới chiến trận, Chanh biết tránh mũi nhọn nhằm đánh vào chỗ trễ nải, lấy thư thái đối địch với bọn đang mệt nhọc, lâm cơ thung dung, ứng biến nhanh như thần, có phong thái của danh tướng đời xưa. Luôn luôn đọ súng giao chiến với Pháp, đều không thưa. Thật là “Trời còn đương phù hộ cho nước Sở, chưa thể tranh lại được”. Tiếc thay! Chanh, Thắng chết rồi, Hà Tĩnh không có danh tướng nữa, hai người đều là bộ thuộc của Phan Đình Phùng. Ông Phùng lúc thư sinh đã vượt ra ngoài khuôn sáo, thi Đình đỗ đầu liền được bổ Ngự sử, gặp lúc quyền gian trị nước, tự tiện làm việc phế lập, đao búa vây cánh sẵn như rừng, chúng họp triều thần lại để nghe mệnh lệnh. Cả triều đều nín thở, riêng mình ông Phùng kháng đối rất nghiêm khắc, nghĩa khí ông lẫm liệt, thường chết cũng không sợ, đại loại như thế. Chiếu Cần vương đưa xuống, Phùng đang ở nhà cư tang mẹ, cứ mặc áo tang đi phụng chiếu, đốc suất mọi đạo nghĩa quân đắp đồi núi, cướp ụ của Pháp. Dân hai hạt phần lớn quy phục người Pháp, hiệu lệnh không thể thi hành được. Tên trùm nô lệ của Pháp là Hoàng Cao Khải, người cùng làng với Phùng, đem lời ngọt lễ hậu đến dụ ra hàng không được. Vua mới6 bị Pháp hiếp, cũng ôn tồn dụ ra làm quan, cuối cùng đều không được cả. Người Pháp bắt giam quyến thuộc, đào mả ông cha. Con em Phùng khóc đem tin đến, Phùng nói: “Nhà ta đời đời chịu ơn nước, phải cùng nước cùng chịu tai họa, ông bà ta cũng bằng lòng như thế, ta phải làm theo chí của người trước thề chết không thôi”. Bèn cứ hiểm nuôi quân, tích lương, sắm khí giới, chuẩn bị cách tiến thủ, thanh thế vang lừng hai kỳ. Gặp phải tên giặc Nguyễn Thân, Quảng Ngãi, là chó săn của quân Pháp đem mấy nghìn lính tập cùng với mấy nghìn lính Pháp chia đường tiến công, quân chưa vào tới nơi, gặp ngay lúc Phùng bị bệnh nặng chết, quân Pháp liền phá được sào huyệt. Lúc bấy giờ dưới cờ không còn có tướng giỏi bằng Chanh, Thắng, quân đội liền tan rã. Than ôi! “Ra quân, chưa thắng đã chết, khiến kẻ anh hùng lệ đẫm khăn”7. Phùng sắp chết có đôi câu đối tuyệt bút rằng: Cửu trùng xa giá quan sơn ngoại Tứ hải nhân dân thủy hỏa trung. Tạm dịch: Bốn bề nhân dân trong lửa nước, Chín lần xa giá cách quan sơn. Phùng chết rồi, người Pháp treo thưởng rất hậu để mua xác, nhưng bộ thuộc ông không ai chịu chỉ dẫn. Người Pháp cho tìm khắp miền rừng núi bắt được một người Mọi chỉ rõ nơi chôn ông Phùng. Người Pháp đào xác lên xét nghiệm thì thấy có ngón tay thừa và trên mặt áo quan có cái ấn “Lưỡng kỳ kinh lược đại sứ”, “Bình Tây đại súy” của vua Hàm Nghi sắc cho, bèn lấy xác ra phun dầu hỏa vào mà đốt, lại sợ có người lượm cái gì ấy đem chôn, nên chúng đem rắc gio xuống sông. Từ xưa đến nay chưa nghe thấy nói có một hình phạt thảm khốc như thế bao giờ, mà nay lại thấy ở một nước văn minh châu Âu! Trị tội những kẻ trộm cướp chính cống còn không có cái luật ấy phương chi đối với một nghĩa sĩ làm việc Cần vương ư? Cái nước văn minh kia sẽ làm gì để mà giải thích được mối ngờ ấy cho thiên hạ? Cuối năm Ất Mùi tháng bẩy. Phùng chết. Tháng bảy năm sau nghĩa đảng tan; tháng mười một, người Pháp bắt dân bốn hạt phải bồi thường 20 vạn đồng vàng binh khí, nước bàn bình định. Như thế nghĩa là đất cát 36 tỉnh, hơn 120 phủ huyện gồm gần 50 triệu nhân dân nam phụ lão ấu, cho đến kẻ cùng đinh ở động Mường, phía Nam đến hết Hà Tiên, phía Bắc đến tận Lạng Sơn, Tây giáp Xiêm La, Đông giáp biển lớn, không một nơi nào là không thuộc về người Pháp quản hạt. Đấy là kết cục việc người Pháp cướp lấy Việt Nam. Từ đấy về sau, người Pháp bèn dùng đủ mọi thủ đoạn độc ác để kinh lý Việt Nam, cứ thong thả từ đó đưa gót chân tàn nhẫn giầy xéo toàn cõi Việt Nam”8. Cùng với tấm lòng ngưỡng mộ đó, trong tác phẩm Sùng bái giai nhân xuất bản tại Nhật Bản năm 1907, khi viết về những tấm gương của các Trang sử hào kiệt: Truyện Mẹ Lân hay Truyện tráng sĩ Cao Thắng. Phan Bội Châu đã viết nhiều trang, nhiều đoạn, nhiều câu nói về công tích của vị thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Hương Khê (1885-1895) rất cảm động như: “Không bao lâu sau, nghĩa binh đã thu phục được thành Hà Tĩnh. Tiếng tăm lừng lẫy. Giặc đem hết các đạo quân hùng mạnh trong nước, tập trung về đất Châu Hoan để chống cự với nghĩa binh”... 9 - Đặc biệt, trong số thơ văn ca ngợi Phan Đình Phùng, phải kể đến đôi câu đối Điếu Phan Đình Phùng dài đến 162 từ (một đôi câu đối có lẽ dài nhất trong thể câu đối) của các thân sĩ Nghệ Tĩnh. Trước đây, người ta chưa biết rõ tác giả (người chấp bút) là ai. Nhưng gần đây, qua sự tìm hiểu của nhiều người và đã thống nhất: tác giả đôi câu đối đó là Nguyễn Thức Tự và hai người học trò “đầu bảng” của Cụ tức Phan Bội Châu và Đặng Thái Thân. Phan Bội Châu được công nhận là “đồng tác giả” với thầy học của mình lúc đó là cụ Đông Khê Nguyễn Thức Tự, tức cụ Sơn ở Nghi Lộc, Nghệ An. Đôi câu đối được các bậc túc nho Xứ Nghệ coi là một áng văn tuyệt bút (về thể câu đối), nội dung của nó đã tóm lược một cách đầy đủ công lao, đức độ của cụ Phan Đình Phùng. Xin chép ra đây (bản dịch) toàn văn để mọi người cùng thưởng thức văn tài và tư tưởng của tác giả và tác phẩm độc đáo này: “Thành bại anh hùng chí sá quản; trung côi kia, nghĩa lớn nọ, thì mãi cùng đồng chí thủy chung; Son Mực anh linh, đọc sử sách cương thường vẫn trọng; Khá hận nỗi nhà to nghiêng đổ, một cột khó đương, để khói lạnh phòng hoang, ai chẳng nhớ rừng sâu ngâm oán khúc, huống đang buổi rồng bay mây nhạt, chung sầu việc thế tủi thay, khá thương La, Việt non sông, văn hiến ngàn năm binh lửa ngút”; “Cổ kim trời đất mãi không cùng, nước chảy đó, núi cao đây, đều khắp cõi giang sơn tuấn kiệt; Lam Hồng sương tuyết, trải giá băng tùng bách coi khinh; Cớ sao xin sóng lớn cuồng dâng, giữa dòng lo chống, khiến sao dời vật đổi, ai không nhìn vườn cũ động thương tình, đúng giữa thời nhạn lạc gió đồn, đành hận ý trời chẳng giúp, riêng tỏ Tùng, Mai khí tiết, tinh thần một chết đẩu ngưu nhòa”10 _____________________________________ 1. Phan Bội Châu Toàn tập, tập 6. Nxb Thuận Hóa và Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2000, tr.53. 2, 3, 5. Phan Bội Châu Toàn tập, tập 6. Nxb Thuận Hóa và Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2000, tr.57, 58, 60. 4. Phan Bội Châu Toàn tập, tập 3, sđd, tr.58, 60. 6. Tức Đồng Khánh. 7. Nguyên văn chữ Hán bài thơ của Triệu Đỉnh thời Nam Tống: “Xuất sư vị tiệp thân tiên tử Trường sử anh hùng lệ mãn khâm” 8, 9. Phan Bội Châu Toàn tập, tập 2, sđd, tr.121-124; tr.296. 10. Trong hai vế đối này có mấy địa danh ở quê hương Phan Đình Phùng: Hòa Son, Hòn Mực (núi) La Sơn (huyện) , Việt Yên (tổng) Lam Giang (sông), Hồng Lĩnh (núi). Tùng Ảnh, Mai Hồ (các làng) Theo bản dịch (vô danh) đăng trên báo Tổ quốc, số 11-1983. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Chín, 2008, 03:43:37 pm BÙI ĐÌNH PHONG1. PHAN ĐÌNH PHÙNG SỐNG MÃI VỚI QUÊ HƯƠNG, ĐẤT NƯỚC Trời mô xanh bằng trời Can Lộc Nước mô xanh bằng giòng nước La!2 Nói đến sông La, lại nhớ về Phan Đình Phùng, con người mà: Thi đình ông đỗ Đình nguyên, Cần vương giết giặc ông trên mọi người. Trung trinh xứng đáng con nòi, Triều đình nổi tiếng gián đài thẳng ngay. Can tràng sáng chói mặt trời, Mười năm tâm sự gửi nơi tro tàn. Khí thiêng trở lại hà san3. Suốt cả cuộc đời mình, lúc làm quan hay bị cách chức đuổi về quê, rồi trở thành thủ lĩnh tối cao của phong trào Cần vương, Phan Đình Phùng luôn luôn là một tấm gương sáng chói về tình yêu nước và ý chí độc lập của dân tộc. Nêu cao tấm gương yêu nước của các bậc tiền bối, ông coi việc người Tây muốn chiếm đất ta thì cảnh lầm than là cả nước phải gánh chịu. Ông quan niệm cứu quốc là việc nghĩa. Vì vậy, dù phải chịu trách phạt, chém giết cũng dấn thân, gắng sức mà làm. Ông sớm có ý thức phân biệt giữa ý thức dân tộc với những lực lượng chia rẽ dân tộc. Những hành động yêu nước đầu tiên của người thanh niên họ Phan là trừng trị bọn phản động đội lốt tôn giáo hoạt động chia rẽ, phá hoại kháng chiến. Nhất quán tư tưởng quan hệ vua tôi là cái gốc và chỗ dựa để dựng nước: nước với vua là một, trong hành động của Phan tuy có lúc quá tử, nhưng cái lõi cốt - hạt nhân hợp lý là chí căm thù giặc Pháp và lòng yêu quê hương, đất nước nồng nàn. Đó chính là sức mạnh, ý thức thường trực quán xuyến toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp cứu nước của ông, cả lúc cuộc đời éo le, cay nghiệt. Sức mạnh đó đã vượt lên trên, chiến thắng thành kiến và ham muốn cá nhân. Đó cũng chính là sợi dây bền chặt, điểm hội tụ, sự gặp gỡ giữa Tôn Thất Thuyết, nhà lãnh đạo tài ba của phái chủ chiến với Phan Đình Phùng, con người khảng khái, cương trực, yêu nước và trung quân theo đạo vua tôi truyền thống. Hơn mười năm trời, Phan Đình Phùng - với cương vị thủ lĩnh tối cao lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Hương Sơn - Hương Khê - là minh chứng hùng hồn của một tấm gương đánh giặc cứu nước. Trong suy nghĩ và hành động của Phan Đình Phùng, yêu nước gắn liền với thương dân và ông đã tìm thấy sức mạnh ở nhân dân để đánh giặc. Phan Đình Phùng là một ông quan tốt trên cả hai phương diện: Giữ trọn đạo vua tôi và biết chăm lo đến đời sống nhân dân. Một tiến sĩ giữ chức tri huyện rồi Ngự sử trong triều mà thanh liêm, mực thước là hiện tượng không có nhiều dưới thời phong kiến. Ở tuổi tam thập, sau khi đậu tiến sĩ, Phan được giữ chức tri huyện Yên Khánh, Ninh Bình. Làm quan ở “đất khách quê người”, nhưng ông vẫn chăm lo đến đời sống nhân dân. Ông ghét cay, ghét đắng bọn người tham nhũng. Với quyền hạn của mình, ông sẵn sàng trừng trị bất cứ kẻ nào đục khoét của dân, nhũng nhiễu dân, chia rẽ gây thù hận dân tộc. Toàn bộ sự nghiệp chiến đấu ngoan cường của Phan Đình Phùng là biểu hiện cao đẹp của tấm lòng vì dân, vì nước. Những lúc xa quê hay khi viết thư trả lời một tên Việt gian cùng sinh ra ở một làng, ông đều bộc bạch tư tưởng và tình cảm sâu nặng của mình với dân, với nước. Tết đến, xuân về, ngồi dạy học ở đất khách - mà thực chất là để liên kết lực lượng chống Pháp - nhớ người, nhớ quê, ông viết: Ngoài xuân cảnh nói với hoa cười Hoa báo xuân về vẫn vắng người … Tết đến người người vui vẻ cả Riêng ta gặp tết vẫn bùi ngùi. Điều tâm niệm sâu sắc của ông là không bao giờ được phụ lòng dân, bởi nhân tâm đất Việt cao cả, quý giá vô ngần. Trả lời thư dụ hàng của Hoàng Cao Khải, ông viết: “... Chỉ vì họ tin cậy lòng tôi, lượng xét chí tôi, cho nên hâm mộ vậy đó thôi. Nay lòng người như thế đó, nếu như cố nhân đặt mình vào cảnh của tôi liệu chừng cố nhân có nỡ lòng nào mà đi cho đành hay không?”. Thương dân đồng thời ông tìm thấy sức mạnh ở dân. Đặt quan hệ với phong trào ngoài Bắc, thống nhất lực lượng chống Pháp của nhân dân bốn tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình. Đó chính là sức mạnh to lớn của phong trào và tạo điều kiện cho cuộc chiến đấu kéo dài hơn mười năm trời. Chính là xuất phát từ tấm lòng yêu nước thương dân cao cả của Phan mà nhân dân cũng rất mực tin yêu, kính phục người thủ lĩnh gan dạ, tài ba. Nhân dân trở thành tai mắt của nghĩa quân, tham gia chiến đấu, đóng góp và tiếp tế lực lượng. Phan Đình Phùng còn là một tấm gương sáng của một nhà Nho cương trực, một vị quan thanh liêm, mực thước. Ông không màng danh lợi, không sợ võ lực, sẵn sàng gác tình nhà lo việc nước, dù phải hi sinh tính mạng cũng cam lòng. Bản chất của một người trí thức chân chính hòa quyện với tính cương trực, khảng khái của con người xứ Nghệ đã đưa tên tuổi của Phan Đình Phùng sống mãi với quê hương, đất nước. Quan lại có lỗi Phan lên tiếng phản đối mà không sợ liên lụy. Việc “chướng tai gai mắt” ông không chịu tha. Việc làm của ông tuy có lúc chưa được suy nghĩ kỹ, nhưng cái sâu thẳm và bền vững trong ông là đánh Pháp, cứu nước. Suy nghĩ thường trực của ông luôn luôn hướng về “mấy triệu đồng bào của nước Việt Nam lâm nguy”. Ông đã từng khẳng định: “Nay tôi chỉ có một ngôi mộ rất to nên giữ là nước Việt Nam, tôi chỉ có một ông anh rất to đang bị lâm nguy là cả mấy triệu đồng bào, nếu về mà sửa sang lại phần mộ của mình, ngôi mộ cả nước kia ai giữ; về để cứu sống ông anh của mình thì bao nhiêu anh em trong nước ai cứu?” Ông sẵn sàng từ bỏ chốn an nhàn sung sướng, chấp nhận cái chết “thịt nát ra bột, xương tàn thành tro” nhưng “khi chết thì xương thơm muôn đời, còn hơn ra hàng, sống sướng mà lưu mãi mùi thối trên đời”. Đúng như Văn thân Nghệ Tĩnh viếng Phan Đình Phùng: Anh hùng thành bại kể chi, Tấc dạ cô trung, tấm gương nghĩa cả, Thề cùng các bạn chu tuyền, Son mực thánh thần, đọc sách lấy cương thường làm trọng. Giận vì lẽ nhà to sắp đổ, một cây chắn chống được nào Cung lạnh khói tàn, cảnh non thẳm ai không xót nỗi. Gặp vận rồng bay mây tối, Ngậm ngùi cuộc thế đổi thay Thương ôi La Việt non sông, Văn hiến trăm năm binh mã loạn; * Trời đất cổ kim còn mãi, Một dòng nước chảy, muôn trượng núi xa, Ấy chốn nam nhi ngang dọc, Lam Hồng gió tuyết, ngạo đông cho tùng bách cũng gầy. Tính sao đây sóng cả đang dâng, cột đá giữa dòng khó vững, Sao dời vật đổi, tình cố hương ai chẳng chạnh lòng. Nguồn cơn nhạn lạc gió gầm, Ngao ngán lòng trời cay nghiệt. Thấy chửa Tùng Mai khí tiết? Tinh thần một thác đẩu ngưu cao!4 Phan Đình Phùng, người chiến sĩ Cần vương tiêu biểu đã ngã xuống trên trường tranh đấu ở tuổi bốn tám đầy sức sống. Sự thất bại của Phan Đình Phùng cũng như toàn bộ phong trào đấu tranh vũ trang cuối thế kỷ XIX gắn liền với những hạn chế giai cấp và thời đại. Nhưng điều đó hoàn toàn không làm mờ đi tính chất hào hùng của sự kiện tiêu biểu nhất trong phong trào Cần vương chống Pháp. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc thuộc phạm trù tư sản mà Phan Bội Châu là ngọn cờ đầu cũng như phong trào cách mạng vô sản mà người lãnh đạo tiêu biểu nhất Hồ Chí Minh đều khởi nguồn và phát triển trên mảnh đất yêu nước màu mỡ của dân tộc Việt Nam đã được đắp bồi qua nhiều thế hệ, trong đó có đóng góp xứng đáng của nhà trí thức chân chính Phan Đình Phùng. Nói đến lịch sử nước ta thời Cần vương, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc đến Phan Đình Phùng, Tống Duy Tân, Hoàng Hoa Thám... với tấm lòng trân trọng. Người ghi nhận “Phan Đình Phùng là một học giả nổi tiếng và một vị quan to. Ở Trung Bộ, Cụ là người chí sĩ yêu nước đầu tiên đứng lên chống bọn đế quốc Pháp xâm lược, trải qua chín, mười năm. Tuy Cụ đã mất, nhưng tên Cụ trở thành tượng trưng cho lòng yêu nước”. Chủ tịch Hồ Chí Minh thật sự khâm phục, tôn kính tất cả những Phan Đình Phùng, Tống Duy Tân, Hoàng Hoa Thám. Bởi vì theo Người, “cái chết của họ làm cho Tổ quốc sống lại, lòng can đảm của họ bất diệt”. Khai thác triệt để, chắt lọc tinh hoa và trân trọng các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mà hàng đầu là tinh thần yêu nước, chủ nghĩa dân tộc, khát vọng độc lập dân tộc với bản lĩnh tự cường, tự chủ, rồi nâng lên một trình độ mới, chất mới, đáp ứng yêu cầu của thời đại mới để phục vụ cho mục tiêu cách mạng “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” theo tư tưởng và tấm gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt cuộc đời cách mạng trong sáng, cao đẹp của mình, đó là trách nhiệm to lớn, khó khăn nhưng vô cùng vinh quang của chúng ta hôm nay. Hà Nội, tháng 3 năm 2007 _______________________________________ 1. Bùi Đình Phong: Phó Giáo sư, Tiến sĩ Học viện Chính trị Hồ Chí Minh. 2. Trích lời thơ từ một bài thơ của tác giả Phương Thuý, đã được nhạc sĩ Doãn Nho phổ nhạc trong một ca khúc thường được phát sóng trên đài TNVN. 3. Thơ văn yêu nước nửa sau thếkỷ XIX (1858-1900), Nxb Văn học, Hà Nội, 1970, tr. 503. 4. Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX (1858-1900), Nxb Văn học, Hà Nội, 1970, tr.504. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Chín, 2008, 03:54:34 pm Phần III PHỤ LỤC A. CÁC VĂN BẢN VỀ PHONG TRÀO CẦN VƯƠNG CHIẾU CẦN VƯƠNG THỨ NHẤT (13 - 7 - 1885) “Dụ: Từ xưa kế sách chống giặc không ngoài ba điều: đánh, giữ, hoà. Đánh thì ch01B0a có cơ hội, giữ thì khó định hẹn được sức, hoà thì chúng đòi hỏi không biết chán. Đang lúc sự thế thiên vạn nan như vậy, bất đắc dĩ thì phải dùng quyền. Thái Vương ra đời ở đất Kỳ, Huyền Tông sang chơi ở đất Thục, người xưa cũng đều đã có làm. Nước ta gần đây bỗng gặp nhiều việc. Trẫm tuổi trẻ nối ngôi, không lúc nào không nghĩ đến tự cường, tự trị. Bọn Tây được phái đến càng ngang bức, hiện tình mỗi ngày một quá thêm. Hôm trước, chúng tăng thêm binh thuyền đến, bắt theo những điều mình không thể làm được, ta phải theo lệ thường khoản tiếp, chúng không chịu nhận một thứ gì. Người Kinh đô náo động mối nguy hiểm ngay trong chốc lát. Kẻ đại thần mưu nước, chỉ chăm nghĩ đến kế yên xã tắc, trong triều đình phải đắn đo về hai điều: cúi đầu tuân mạnh, ngồi để mất cơ hội, sao đành nhìn thấy chỗ âm mưu biến động của địch mà đối phó trước? Ví bằng việc xảy ra không thể tránh, thì cũng còn cái việc của ngày nay mà mưu tất cái lợi sau này, cũng là do thời thế xui nên vậy. Phàm những người cùng được chia mối lo này, tưởng cũng biết cả. Biết thì phải tham gia vào công việc, nghiến răng dựng tóc, thề giết tan giặc, nào ai là không có cái lòng như thế? Cũng có lẽ nào không có người gối gươm, đánh đầm, cướp giáo lăn chum ư? Vả lại kẻ bầy tôi đứng ở triều, chỉ có thể theo nghĩa mà thôi, nghĩa đã ở đâu là sống chết ở đấy. Hồ Yển, Triệu Thôi nước Tấn, Quách Tử Nghi, Lý Quanh Bật nhà Đường là người thế nào ở đời xưa nay vậy? Trẫm đức mỏng, gặp biến cố này không thể hết sức giữ được, để đô thành bị hãm, xe từ giá phải dời xa, tội ở mình Trẫm cả, thật là xấu hổ vô cùng. Nhưng chỉ có luân thường quan hệ với nhau, bách mưu kế người dũng hiến sức lực, kẻ giàu bỏ của ra giúp quân nhu, đồng bào đồng trạch chẳng từ gian hiểm, như thế là mới phải chứ? Cứu nguy chống đổ, mở chỗ nguy khốn giúp nơi bức bách, đều không tiếc gì tâm lực, ngõ hầu lòng giúp người thuận, chuyển loạn thành trị, chuyển nguy thành an, thu lại bờ cõi. Chính cái cơ hội này, phúc của tôn xã tức là phúc của thần dân, cùng lo với nhau rồi cùng nghỉ với nhau, há chẳng tốt lắm ư? Bằng cái lòng sợ chết hơn cái lòng yên vua, nghĩ lo cho nhà hơn là lo cho nước, làm quan thì mượn cớ tránh xa, đi lính thì đào ngũ trốn lẩn, người dân không biết trọng nghĩa cứu gấp việc công, kẻ sĩ thì cam bỏ nơi chỗ sáng đi vào nơi tối tăm, ví không phải sống thừa ở trên đời, thì áo mũ mà là trâu ngựa, ai nỡ làm như thế? Thưởng cũng hậu mà phạt cũng nặng, triều đình sẽ có điển hình hẳn hoi, chớ để sau này phải hối phải nghiêm sợ mà tuân theo! Khâm thử Hàm Nghi năm đầu tháng 6 mồng 2”. In theo Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX (1858-1890), Nxb Văn hoá, Hà Nội, 1976, tr.521-523 Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Chín, 2008, 03:56:49 pm CHIẾU CẦN VƯƠNG THỨ HAI (19 - 9 - 1885) “Hàm Nghi năm đầu, ngày 11 tháng 8 (tức 19-9-1885) Thông báo cho các khanh sĩ bách quan văn võ lớn nhỏ và toàn dân trong nước mọi người đều biết. Vương quốc An Nam ta ký hoà ước với bọn rợ Âu kể cũng đã lâu năm. Mới đầu ta nhượng cho chúng ba tỉnh Nam Kỳ. Vào khoảng hai năm sau, còn ba tỉnh nữa, chúng lại chiếm nốt. Như vậy mà vẫn chưa đủ để cho chúng thoả mãn, vì chúng cho rằng “thế cũng còn là ít”. Rồi dùng mưu mẹo, chúng đi đến chỗ đặt một đặc phái ngoại giao ở Huế và một ở Bắc Kỳ xong bắt buộc ta phải ký một hoà ước mới và lại thêm bớt xoá bỏ, lại làm không biết bao nhiêu lần. Sau đó chúng nhất quyết dùng võ lực chiếm các tỉnh Bắc Kỳ hòng thu tất cả tài sản của nước ta vào trong tay chúng. Giữa lúc Tiên Hoàng đế1 băng hà, trong khi ta đang có đại tang, chúng đem quân đến cướp cửa Thuận An và bức ta phải thiêu hủy ấn tín... Chúng lại cưỡng bức ta cho chúng đóng quân trong Hoàng thành để có thể đặt súng ống của chúng trên tường thành thay thế cho súng ống của ta. Chúng cư xử một cách phi lý như thế thử hỏi ta làm sao có thể kiên nhẫn chịu đựng đến cùng được. Tuy vậy, nhờ có sự mẫn cán của quan quân ta hôm sau ta vẫn có thể tổ chức tang lễ Đức Vua, nhưng đem so với các bậc tiền bối thì phần long trọng kém xa nhiều. Tháng 5 năm nay, bọn Pháp tập hợp hơn một vạn quân và bắt ép ta phải nhượng Kinh thành cho chúng. Dụ ý của chúng là tìm cách bắt Vua để làm tôi tớ cho chúng, còn chúng thì nắm quyền cai trị, áp bức dân ta, ép buộc dân ta phải chịu theo luật pháp man rợ, như thế là để chúng không phải khó nhọc nhiều mà vẫn được hưởng toàn bộ lợi lộc. Âm mưu của chúng đã lộ rõ. Vì vậy, Hội đồng cơ mật đã họp và quyết định thử mở một trận khởi công ở Huế. Nếu ta thắng thì Nguyễn Văn Tường sẽ lập một đoàn hộ tống đưa Trẫm ra ngự tại Nghệ An, Hà Tĩnh, còn Tôn Thất Thuyết ở Huế chuẩn bị mưu kế bài trừ bọn giáo dân để làm dễ dàng cho việc đánh thắng quân Pháp sau này, vì chính bọn này vào hùa với bọn rợ phương Tây. Trái lại, nếu ta thua thì Trẫm sẽ cùng với triều thần lánh mặt quân man rợ để mưu đồ khôi phục đất nước. Cuộc tấn công khởi đầu từ nửa đêm và kéo dài đến nửa buổi sáng, quân giặc chết vô kể. Đồng bào ta trong thành đông quá không sao cứu nổi cũng chết rất nhiều, nhưng đó là mệnh trời, không sao tránh được. Ngay lúc ấy Nguyễn Văn Tường cùng Trẫm ra khỏi thành, còn Tôn Thất Thuyết thì ở lại chống nhau với quân Pháp, ngăn không cho chúng đuổi theo Trẫm. Ai ngờ, Tường đổi bụng, bỏ trốn vào nhà truyền giáo. Thế là giữa các quan văn võ có sự chia rẽ và nhiều người bắt đầu nảy sinh lòng bội bạc với Trẫm. Ra tới Quảng Trị, Trẫm được tin quân Pháp sai Tường tìm cách triệu Trẫm về kinh, chúng hứa sẽ trả Hoàng thành cho Trẫm. Đấy là mưu mô của bọn Pháp muốn giết Trẫm. Nguyễn Văn Tường đã bỏ Trẫm và đã hợp đồng với Pháp để lừa dân, làm sao cho dân quên hẳn nghĩa vụ đối với Trẫm, y lại còn định bắt Trẫm nộp cho bọn bạch quỷ... Nói làm sao tội ấy nặng đến chừng nào. Trông thấy cảnh ấy, Trẫm chịu làm sao nổi? Cuối cùng cái tên yêu quái ấy lại sai Tôn Thất Phấn và Võ Khưu đi thông đồng với quan các tỉnh để bắt Trẫm về. Trẫm biết rõ hành động của chúng, nhưng quan lại các tỉnh có đâu lại chịu hạ mình đi theo con đường lầm lỗi ấy. Nếu quả thực người Pháp có ý định trả lại Hoàng thành cho Trẫm thì sao chúng vẫn tiếp tục kéo quân đưa súng đến và vẫn cứ ở trong thành? Ngoài ra, sao chúng còn dùng mưu mẹo sai người đi các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An để lùng bắt Trẫm mặc dù chúng đã chiếm được Kinh đô và Tôn Tướng quốc đã ra khỏi Hoàng thành, chúng sợ Trẫm và Tôn Đại thần sẽ hiệp lực với quan lại các tỉnh để đánh lại chúng. Vì vậy, chúng không được yên lòng, chúng không thể cai trị được và chúng sẽ dùng Nguyễn Văn Tường là một tên gian giảo làm phụ tá để giả đò ý muốn trao trả lại Hoàng thành cho Trẫm. Như thế có khác gì ném mồi cho cáo, để khi bắt được Trẫm rồi, chúng sẽ tuyên bố đặt nước ta dưới quyền bảo hộ của chúng như chúng đã làm đối với Cao Miên. Nhưng ai là có thể tin được ở lòng thành thực của những con người đang là chó sói, mèo rừng. ' Đừng nói rằng Trẫm còn trẻ tuổi mà thiếu kinh nghiệm. Phải, Trẫm còn trẻ thật và chưa am hiểu việc đời, nhưng cái ý định của bọn rợ Âu thì làm gì mà Trẫm không biết, Trẫm còn biết cả động cơ gì đã đưa đường chỉ lối cho cái tên Tường hèn mạt và giả dối kia. Ngoài ra, Trẫm lại được tin tên Tường đốn kiếp đã giả mạo một bức thư nói rằng, Ba cung đã có lệnh triệu Trẫm về. Ba cung đã dời khỏi Hoàng thành thì tên Tường phản tặc kia lại dẫn về với bọn rợ Tây để ra lệnh đó. Ba cung mà làm sao có thể từ chối được? Vả chăng, trong di chiếu của Đức Tiên Đế có nói: một điều luật không gì lay chuyển nổi của Vương quốc ta đã quy định việc trị quốc chẳng thể trao cho phụ nữ. Bởi vậy, Ba cung không thể nhân danh cá nhân ra lệnh trên, chính tên Tường gian trá đã mạo danh Ba cung để lừa dối dân, rồi thì quan lại các tỉnh đã hoảng sợ và đã ngả theo quân phản nghịch. Ai nhận được lệnh trên phải đem hết đến chỗ Trẫm để Trẫm đốt đi và đừng có đặt thành vấn đề nữa, đừng bao giờ nói đến thứ giấy tờ đó nữa. Những kẻ nào còn coi trọng các chỉ dụ đó là những kẻ phụ bạc vào loại tồi tệ nhất đối với Trẫm. Vậy ai nấy nên sớm hối lỗi kẻo những người thân thuộc của mình lại bị khép vào đồng tộc. Núi non hiểm trở, Trẫm phải đi quanh co mất hai tháng mới tới đây, sự chậm trễ đó đã làm cho quân thù có cớ để bịa đặt ra lắm chuyện hoang đường làm nản lòng dân. Từ nay, ai nấy nên biết rằng Tôn Tướng quốc đã đưa Trẫm đến núi Ấu Sơn thuộc huyện Hương Khê và tất cả các khanh sĩ quan lại trong ngoài, từ quan to đến quan nhỏ, tất cả, Trẫm nhắc lại, từ quan to đến quan nhỏ, đều đã tề tựu bên cạnh Trẫm. Các Cử nhân, Tú tài, học trò, kỳ hào các làng, dân chúng và binh sĩ, tất cả cũng đến bái yết Trẫm. Giữa lúc trong nước mọi sự đều đảo lộn, Trẫm cứ thờ ơ và không hành động sao được? Vì vậy, Trẫm hạ lệnh cho ai nấy đều phải quyết tâm và khi có hiệu thì sẵn sàng nổi dậy giết chết tất cả những kẻ hùa theo lũ rợ Tây phương, không để cho tên nào trốn thoát. Trẫm cấm chỉ không ai được tư thông với giặc, khiến cho chúng không thể làm gì được, không thể thu gom được tin tức gì, không thể mua được lương thực. Rồi lại phải tìm cách giết chúng bất ngờ. Nếu chúng bắt ép phải làm việc cho chúng thì bất luận hay dở cũng làm, nhưng phải luôn nghĩ cách tìm mưu tiêu diệt chúng. Làm như vậy thì chúng không thể nào cai trị được, cũng không thể nào thu được mối lợi gì về cuộc chiếm đóng của chúng. Đó là cách tốt nhất để đánh quân kẻ cướp. Chớ coi để tai nghe những lời phỉnh phờ lừa lọc và nếu gặp những con thú dữ đó thì cũng đừng có sợ. Khi nào trừ khử được chúng rồi thì đến gặp Trẫm. Trẫm sẽ đóng đô tại Thanh Hoá; đây là một địa điểm quý giá. Nhưng Trẫm lại vừa được tin quân Pháp đến đây rồi và đã đặt đồn canh trên núi, quan lại tỉnh này đã cúi đầu chịu đựng sự có mặt của kẻ thù. Trẫm không hiểu sao họ lại cư xử như vậy. Bây giờ Trẫm ra lệnh tối mật này cho nhân dân các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Ninh Bình và trên nữa về phía Bắc: Văn thân kỳ hào các xã phải thông đồng với nhau để nổi dậy cùng một lúc và để đi cầu xin một đồng minh hùng mạnh giúp đỡ. Các phủ huyện phải hợp lực với các tổng lý để đi tìm đồng minh đó, thế rồi ta sẽ chống lại quân Pháp, thoạt tiên ta hãy đánh đuổi chúng ra khỏi các tỉnh miền Bắc, sau bắt đầu từ Hà Tĩnh, sau ta sẽ chọn một địa điểm để đóng đô. Kết quả này sớm muộn ta cũng phải đạt bằng được. Có được tất cả các tỉnh từ Quảng Bình đến miền Nam là do công lao của các vị tiền bối đáng kính của ta. Ở các tỉnh đó có rất nhiều nhân tài và những người con trung thành với Trẫm cũng rất đông. Mong rằng ai nấy không trừ người nào, đều theo đường ăn lẽ ở nói trên và nhất là đều tránh nghe theo lời dụ dỗ của tên Tường phản phúc. Trẫm cầu trời cho dân ta cùng nhau đồng tâm hiệp lực đánh đuổi quân man rợ và những kẻ làm hậu thuẫn cho chúng. Còn những kẻ phản bội thì Trẫm cầu trời tiêu diệt chúng đi. Chính chúng là những đứa phải tóm cổ và giết chết trước tiên. Sau đó, ta mới chiến thắng được quân Pháp. Xưa cũng đã thấy có những việc như vậy. Chớ có đem lòng chán nản. Trước kia cách đây gần một trăm năm, tại Nam Kỳ, vua Gia Long chỉ đánh có một trận mà chiếm được cả nước. Bây giờ, đương lúc nguy nan, làm sao ta lại có thể bỏ cuộc chiến đấu và không đem hết sức mình để chiến đấu. Trẫm hi vọng rằng tất cả mọi người, quan lại, binh sĩ và thường dân, đều đồng tâm hiệp lực, như thế thì không còn nghi ngờ gì nữa, nước Nam vẫn cứ là của người Nam, mặc dù quân Pháp có mạnh, chúng cũng không thể chinh phục được ta. Họ tên của những người tận tuỵ đến cùng với Trẫm đánh đuổi quân Pháp sẽ được ghi vào một quyển sổ trong đó sẽ viết câu: Đây là họ tên của những vị anh hùng hào kiệt đã góp phần giải phóng Vương quốc. Thân thuộc của những vị đó sẽ được nhà vua đặc biệt bảo vệ đến muôn đời. Như vậy công trạng của họ không phải chỉ được tuyên dương trong một tháng hay một năm, mà trong hàng nghìn thế kỷ. Ngoài ra, Trẫm sẽ làm một cái bia kỷ niệm, trên đó sẽ ghi công đức của mỗi người và cái bia đó sẽ được đặt trong một đền thờ về bên phải. Mỗi người sẽ được Trẫm tuỳ theo công đức mà khen thưởng. Những lời nói của Trẫm phải được mọi người biết đến, cả người ở xa cũng như người ở gần. Trẫm nói toàn sự thật, không giả dối chút nào. Khâm thử Hàm Nghi năm đầu tháng 8 ngày 11”. In theo Tạp chí Nghiên cứu lịch sử (số 140 - 1971, tr. 54 - 56) ____________________________________ 1. Chỉ vua Tự Đức. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Chín, 2008, 04:13:15 pm PHAN CÁT XU. TỜ THÔNG TRI CHO CÁC THÂN HÀO MỘ BINH Năm Hàm Nghi thứ nhất, tháng 6 ngày mồng 3, Phan Cát Xu, Cử nhân học ở Giám, người thôn Đông Thái, tổng Việt Yên, huyện La Sơn, phủ Đức Thọ, thông tri việc như sau: Ngày 23 tháng trước, kinh thành thất thủ, nhân Thánh giá ra nơi hành tại Cam Lộ, tôi kính mệnh của quan Tôn Thất Đại thần về bản quán khuyên dụ thân hào cùng nhau kén họp nghĩa quân đi hộ giá Cần vương, vì vậy thông tri cho các vị, mong các vị lượng xét: Người nào cùng một lòng, xin nội trong tháng này hạ cố tới làng tôi cùng bàn bạc cử sự. Hoặc vị nào không chịu cùng làm việc với làng chúng tôi xin cũng tuân theo lời Vua dụ, tự mở một đạo quân nghĩa dũng riêng, dẫn đến hành tại bảo vệ xa giá cũng được. Còn dân trong xứ, ai vui lòng ứng mộ thì cần lấy chữ nhận thực của lý trưởng thôn mình (nếu lý trưởng nào không chịu nhận, tức là ngăn cản lòng trung nghĩa, việc phát giác ra, sẽ không dung tha) đem tới nơi đóng quân ở làng tôi để nhận thưởng theo từng mức (tài sức hùng vĩ là nhất, tài giỏi là thứ) để luyện tập kịp dùng vào việc. Năm trước, bọn Mai, Tấn1 giả danh mượn nghĩa, dân ta còn cho là phải, đi theo rất đông. Phương chi ngày nay, làm việc là vì nước vì Vua, quang minh chính đại, còn sợ gì nữa mà không làm? Chớ đắn đo trông ngóng để sau này phải hối. Than ôi! Trăm năm xây dựng phút chốc tan tành, Thiên tử long đong, quan quân tan chạy, trời xanh thăm thẳm kia ơi, còn có nỗi cực nào hơn nữa? Bọn chúng ta là dân của Vua, ở đất của Vua, đã đội ơn sâu rất lâu từ trước, thử suy nghĩ kỹ mà xem, với cảnh đau xót này, ai lại không rơi lệ? Rất mong mỗi người đều hăng hái tỏ lòng trung nghĩa, đứng ngồi mà xét lẽ thịnh suy, ngõ hầu đem tài sức đền bù mảy may ơn nước, tỏ dạ hiếu trung và không thẹn với phong tục chất phác thuần hậu của quê ta. Đó là điều mong mỏi của dân ta vậy. Còn như dân giáo, tuy không phải là đạo của ta, nhưng cũng là dân của Vua, giữa lúc nhiễu nhương rối loạn này, phải riêng nhớ đến ơn huệ vỗ nuôi yên ổn, tưởng cũng phải thấy ngay ngáy trong lòng cùng chung lo việc nước. Vậy bọn ta đây cử sự, không có lời nói gì khác, chỉ khuyên các người, ai nấy cứ ở yên giữ nghiệp làm ăn, chớ có vẩn vơ nghĩ ngợi. Rất mong. Chu Thiên dịch (Theo bản nguyên văn chữ Hán do Ty Văn hóa Hà Tĩnh cung cấp) ____________________________________ 1. Chỉ Đặng Như Mai, Trần Tấn khởi nghĩa ở Nghệ Tĩnh (tức Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay) năm 1874, vừa chống Pháp, vừa chống triều đình Tự Đức. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Chín, 2008, 11:30:18 pm THƯ NGHĨA QUÂN THANH - NGHỆ - TĨNH TRẢ LỜI KINH LƯỢC LƯƠNG QUY CHÍNH1 Thưa ngài, Kính tiếp bức thư của ngài, đọc xong khôn xiết mừng cảm. Trộm xét bản tâm chúng tôi lúc đầu suy nghĩ, chỉ vì đời đời chịu ơn nước, ngẫu nhiên gặp lúc vận nước khó khăn, không dám tiếc mình mà thôi, chứ không có mong công danh lợi lộc gì cả. Sau đó, thời thế đổi thay, cơ sự mỗi ngày mỗi khác, có người trốn tránh, có người ẩn nấp đi nơi khác, đều chịu cực khổ để giữ tiết tháo, thề thủy chung với nhau, dù có ai đem mệnh lệnh của triều đình đến khuyên bảo hay đem tình trạng của nhân dân đến kêu ca, chúng tôi cũng chỉ xin đáp là hãy đem lòng ưu ái chân thành mà chờ đợi, nhất thiết mọi việc chống vua phản nước, giết hại nhân dân, chúng tôi đều luôn luôn nhắc nhau răn nhau sâu sắc. Nhưng đến khi người thì bị tù, Vua thì chạy ra miền Bắc, những việc đau lòng bày ra trước mắt, non sông hoả vượng2 hầu như cảnh tượng đời “miên mộc”3. Tấm lòng vì nghĩa, người ta ai khác ai đâu? Gián hoặc có người vì lời thanh nghị thúc đẩy, có người bị bọn ra đầu thú bức bách, có người vì mong nước lớn rủ lòng thương, có người lại sợ họ khác nổi dậy. Trời có sáo thì dễ kêu, hươu đến lúc nguy thì chạy quàng, dù muốn cấm nhưng cấm làm sao được! Thành thử người trong nhà giết hại lẫn nhau, kẻ hàng xóm lại hoá ra đắc sách, thật là đáng buồn và đáng giận. Lại thêm nữa, tiến thoái đều lật đật, tai mắt khó xét thấy hết được, nên có hạng mượn tiếng để hại dân (có khi tự ý ra đi, liền làm rất nghiêm khắc để ra oai), bọn lính tuần nhân đó mà sinh tàn nhẫn (hễ ở đâu là cướp lấy của cải nhân dân cho kỳ hết sạch). Bầy ong lũ kiến, bè đảng thật nhiều. Thương hại cho dân ta mắc phải nỗi khổ cực ấy! Thời thế ư? Hay số mệnh ư? Ai làm ra thế? Mà ai xui nên thế? Tự nhiên không ở chỗ trũng mà bao nhiêu tội ác cứ dồn về, chỉ có tiếng suông mà mang lấy vạ thực. Đến lúc có người đem danh nghĩa Xuân Thu ra mà trách móc, mới tự biết là khó đường trốn tránh. Vả lại, lòng người, sĩ khí, Nam Bắc đều như nhau, sự xuất xử của chúng tôi cố nhiên không quan trọng gì, những một ngày còn có lòng dân, thì một ngày còn có quốc thể, lòng tà còn được răn đe, chính thống còn có người nâng đỡ, thì người ở lại kẻ ra đi cũng dễ tuỳ thời chuyển hướng. Phương chi ra [làm quan] thì ý nghĩ với việc làm trái nhau, không thể khích lệ được mọi người, mà cũng không thể tự bảo toàn lấy thân mình được, việc Tiến sĩ Trần Văn Dự4 ở Quảng Nam, Cử nhân Nguyễn Cao Đôn5 ở Hà Tĩnh còn sờ sờ trước mặt đấy. Bằng như cứ ở lại thì trong ngoài giúp đỡ nhau, đã có thể giữ được mình, lại có thể thức tỉnh được người khác. Quân kinh thành rút đi hết, thuế nhà, thuế trâu đang thu đình hẳn lại. Như thế lâu rồi sẽ tự chán thôi. Chỉ lấy một việc xuất xử đó mà so sánh lợi hại đã thấy được rõ rồi. Cho nên tuy là tôi con trung thành mà coi như giặc loạn, người nằm gai nếm mật lại sẵn sàng chịu nấu phanh6 thì cũng chỉ yên phận cho trọn đời, chứ còn oán trách người làm chi nữa. Tấm lòng cay đắng, nếu ai đặt mình vào cảnh ngộ, tưởng sẽ thấu tình. Ngài vừa đến nhận chức, đã hạ cố gửi cho bức thư tâm huyết, lại khuyên bảo nên đổi ý, hồi tâm. Bọn chúng tôi tuy ngu, đâu đến nỗi cứ u mê không tỉnh, duy chưa rõ nên đổi ý gì? Hồi tâm cái gì? Để có thể làm hạng tôi con mà nước nhà vui lòng có, tỏ được tâm tích cho sĩ phu tin theo, cùng là để cho nước ở ngoài mấy lần bể khơi nghe thấy mà biết được phần nào và công luận đời sau có thể khoan thế cho phần nào, nếu ngài chỉ giáo được cho, thì chúng tôi xin vâng mệnh ngay. Sửa mũ dưới cây mận, xỏ giầy trong vườn dưa, dễ mở đường cho người ta ngờ vực7. Tuôn rơi dòng lệ, trả lại ngọc châu chỉ làm cho cô con gái nghĩ mà đau lòng8. chúng tôi bất đắc dĩ phải làm trái ý tốt của ngài, cho nên không dám nhiều lời biện bạch. Cúi xin bậc cao minh soi xét cho thì thật may mắn. Còn như thuyền cá ra vào động Hoa Lư9, bóng rồng thực giả ở đầu núi10, nếu quả sách trời đã vạch sẵn ra rồi thì sức người phù trì vào chỉ là uổng phí, tưởng những người mưu việc nước, lo đến ngày mai, đương nhiên cũng phải nghĩ sâu và lo xa vậy, chúng tôi không dám nói thừa. Chu Thiên dịch Theo bản nguyên văn chữ Hán, trong Bài ngoại liệt truyện _______________________________________ 1. Lương Quy Chính người gốc Thái Bình, đỗ Cử nhân, có một thời tham gia chống Pháp, nhưng sau đầu hàng, làm đến Thượng thư, sung chức Kinh lược ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh. 2. Phương Nam thuộc hoả, nên nước ta được là hoả vượng. 3. “Miên mộc” chiết tự chữ Tống, chỉ cảnh đời Nam Tống bị Kim xâm lược. 4. Trần Văn Dự người làng An Mỹ Tây, huyện Hà Đông, tỉnh Quảng Nam, đỗ Đồng Tiến sĩ, làm Sơn phòng sứ Quảng Nam, chống Pháp thua rút chạy, sau ra thú để về kinh, đến thành Quảng Nam bị quân Pháp bắt đem giết. 5. Nguyễn Cao Đôn người làng Phất Nạo, huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh, đỗ Cử nhân, khởi nghĩa thống Pháp, sau ra thú bị giết. 6. Nấu phanh: dịch chữ “đỉnh đang”, ở đây dùng nghĩa như “đỉnh hoạch” - hình phạt bỏ tội nhân vào nấu vạc cho chết. 7. Đừng sửa mũ dưới cây mận, đừng xỏ giầy trong vườn dưa để tránh người ta ngờ lấy trộm mận và dưa. 8. Chữ trong Đường tiết phụ ngâm của Trương Tịch: “Anh biết em có chồng, tặng em đôi ngọc châu... Em trả lại đôi ngọc châu, đôi dòng lệ lã chã”. 9. Chỉ việc trước đây Phạm Văn Nghị về ẩn ở Hoa Lư. 10. Chỉ việc Bạch Xỉ đang mộ quân chống Pháp. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Chín, 2008, 08:35:40 pm B. TƯ LIỆU VỀ PHAN ĐÌNH PHÙNG VÀ PHONG TRÀO CẦN VƯƠNG. NGUYỄN PHAN QUANG1 sưu tầm và giới thiệu HÀ TĨNH ẤT DẬU KÝ (1885) Lời Người biên soạn: Trong quá trình biên soạn, xuất bản cuốn sách Phan Đình Phùng - con người và sự nghiệp, chúng tôi nhận được cuốn sách Việt Nam cận đại - những sử liệu mới, tập 2, Nxb Tp. HCM, 1998 của Giáo sư Sử học Nguyễn Phan Quang gửi tặng với lời đề nghị trân trọng: “Kính gửi Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây cuốn sách này để góp phần Kỷ niệm 160 năm ngày sinh Lãnh tụ Cần vương Phan Đình Phùng. Hà Nội, 3-1-2007. Nguyễn Phan Quang”. Đây là một tập sách quí do Giáo sư Phan Quang, người có nhiều năm nghiên cứu Phong trào Cần vương, phát hiện được tại quê hương Hà Tĩnh, chứa nhiều tư liệu lịch sử xác thực và quí hiếm, lại được chú thích rất cẩn thận, đầy đủ và khoa học về “giai đoạn mở đầu Phong trào Cần vương chống Pháp” nên rất giúp ích cho giới nghiên cứu và đông đảo bạn đọc. Tuy nhiên do phần chú giải của Giáo sư Nguyễn Phan Quang có nhiều chỗ trùng lặp với những văn bản đã công bố trong cuốn sách này nên chúng tôi xin phép được lược bỏ. N.B.S Lời dẫn của Giáo sư Nguyễn Phan Quang: Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về Khởi nghĩa Hương Khê (1885-1895). Gần đây chúng tôi được tiếp xúc với tập HÀ TĨNH ẤT DẬU KÝ, một tư liệu của dòng họ Lê ở Trung Lễ, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, bản chép tay bằng chữ quốc ngữ. Đây là một tư liệu mới về Phong trào Cần vương ở Hà Tĩnh với những chi tiết có lẽ gắn với sự thật hơn, đáng được tham khảo; xin được sao y bản gốc, giữ nguyên văn phong và các từ ngữ địa phương. Để tiện theo dõi sự kiện lịch sử, chúng tôi có sắp xếp lại và đặt thêm các tiểu mục. Nhân đây, chúng tôi xin chân thành cảm ơn cụ Trác Viên đã cung cấp tư liệu quý báu của dòng họ. I PHAN ĐÌNH PHÙNG VÀ PHONG TRÀO CẦN VƯƠNG HÀ TĨNH Việc phế lập ở triều đình - Vua Hàm Nghi xuất bôn “Năm Tự Đức thứ 36 (Quý Vị), năm Thiên Chúa giáng sinh 1883, nội trị và ngoại giao nước nhà đã bắt đầu bước vào thời kỳ bối rối. Lúc ấy lục tỉnh Nam Kỳ đã nhường cho nước Pháp và cửa bể Đà Nẵng cũng nhượng cho nước Pháp rồi. Nước Pháp đã lập một nhà sứ quán tại Trấn Bình Đài (tức đồn Mang Cá), ở đó có đóng một đạo quân hộ vệ sứ thần ước độ 300 người. Vị sứ thần ở kinh đô ta đó là thay mặt nước Pháp để thương thuyết với triều đình ta, cốt nhất là về việc lập chính phủ Bảo hộ tại Trung, Bắc Kỳ. Cùng năm ấy, đức Tự Đức băng hà. Nếu như Ngài còn sống được độ vài năm thì sự lập chính phủ Bảo hộ có phần dễ dàng, không đến nỗi lưu huyết. “Khi vua Tự Đức băng hà, di chiếu lập con nuôi Ngài là vua Dục Đức lên ngôi. Khi ấy trong triều đình ta có hai phái, một phái chủ hòa, một phái chủ chiến. Đứng đầu phái chủ chiến là quan Thượng thư Bộ Binh Tôn Thất Thuyết, đứng đầu phái chủ hòa là quan Thượng thư Bộ Lại Trần Tiễn Thành. Vì rằng quan Tôn Thất Thuyết thống suốt cả binh quyền nên phái chủ hòa không thể chống lại (...), chỉ vận động riêng với quan sứ thần Pháp ở Trấn Bình Đài mà thôi. “Vì lòng quả quyết kháng chiến cho nên ông Tôn Thất Thuyết đã sửa soạn phòng bị từ xưa. Ông bèn lập Sơn phòng nha tại các tỉnh có liên lạc với dãy núi Ngăng Màn [Giăng Màn hay Khai Trướng] từ Bắc chí Nam, tỉnh nhỏ lập một Sơn phòng, tỉnh lớn lập hai, chuyền khí giới và quân lương (...) [bản gốc bị nhòe, rách nhiều đoạn]. “Muốn như vậy, Ngài lại hết sức làm uy phước để khiếp phục thần dân. Bắt đầu ngài làm sự phế lập. Ngài bèn hội các đình thần lại để bàn về việc phế vua Dục Đức. Ngài lấy cớ rằng; khi nhà nước có việc, cần có một ông vua cương quyết hơn; vua Dục Đức nhu nhược không giữ nổi xã tắc, cho nên Ngài lập Đức Hiệp Hòa... Khi ấy đình thần sợ uy quyền ông Thuyết, không ai dám nói gì cả. Duy chỉ có ông Phan Đình Phùng làm Tả trực Ngự sử, lên tiếng phản kháng. Ông Thuyết định chém ông Phan Đình Phùng, nhưng đình thần đều lên tiếng can lại, lấy cớ rằng Phan Đình Phùng là một ông quan Ngự sử, chức của ông là gián quan, nay chém ông Phan thì sau không ai dám làm Ngự sử nữa. Ông Phan được miễn tử, song phải cách hết cả quan chức. “Vua Hiệp Hòa lên ngôi được mấy tháng, chưa hiểu thời thế, bị phái chủ hòa cám dỗ, nên Ngài hạ chỉ xuống sắc đổi ông Tôn Thất Thuyết sang làm Thượng thư Bộ Lễ (...) [bản gốc bị nhòe, rách nhiều đoạn]. Thân hào Hà Tĩnh đón xa giá vua Hàm Nghi “ Xa giá vua Hàm Nghi ra Sơn phòng Cam Lộ, rồi đi thẳng lên Ai Lao, rồi vòng về Sơn phòng Hà Tĩnh. Khi ấy thân hào Hà Tĩnh ra phụng chỉ Cần vương rất đông. Ở Đức Thọ (Đông Thái) có ông Phan Đình Phùng (con cụ tuần phủ Phan Đình Luận)2; ở Trung Lễ (Lạc Thiện, Đức Thọ) có ông Lê Ninh, Lê Diên, Lê Phác (ba anh em ruột, con cụ bố chánh Lê Văn Khanh); ở Hương Sơn (Ngôi Mỹ) có ông Võ phó bảng Đinh Nho Hạnh. Các ông tự xuất của nhà ra mộ lấy quân sĩ, rèn lấy khí giới. Và nhờ có lòng trung ái của dân bản hạt, kẻ giúp tiền bạc, người giúp lương thực cho sự chiêu mộ được kết quả sung mãn...” Lực lượng trong buổi đầu của phong trào “Ở Hương thứ (Hương Sơn) ông Phó bảng Hạnh mộ được 500 quân, ở Thái thứ (Đông Thái) ông Phan Đình Phùng mộ được 100 quân, ở Lễ thứ (Trung Lễ ) ông Lê Ninh mộ được bốn đạo quân, mỗi đạo 500 người. “Được tin kinh thành thất thủ và xa giá vua Hàm Nghi đã gần ra đến Sơn phòng Hà Tĩnh (Phú Gia, Hương Khê), các ông bèn đem quân lên Sơn phòng đợi giá. Khi giá đến Sơn phòng thì chỉ còn độ 500 quân, Đức Hàm Nghi ngự trong một cái võng, ông tả quân Trần [Xuân] Soạn3; đi một con ngựa bạch, các quan tùy tùng văn võ cũng độ vài chục người. Quan chánh sứ Sơn phòng là Nguyễn Chính đem các quan và các thân hào ứng nghĩa ra bái mạng. “Ông Tôn Thất Thuyết bèn cầm tay và nói với ông Phan Đình Phùng rằng: Ngày nay tôi được gặp ông rất lấy làm cảm phục, và ông đã tỏ lòng trung nghĩa đem quân lên đón xa giá, thì ông lấy công nghị làm đầu, bỏ tư tình ra một khác. Ông Phan đáp lại: Ngày hôm nay anh em chúng tôi phụng chỉ đến nghênh giá, lấy việc quốc gia làm trọng, không bao giờ chúng tôi nhớ đến tư tình. Ông Tôn Thất Thuyết bèn tâu vua phong đặc cách cho ông Phan Đình Phùng làm... Trung tướng quân, lĩnh Binh Bộ Thượng thư. Chức Binh Bộ Thượng thư là chức của ông Tôn, nay ông trao lại cho ông Phan, một là vì việc quốc gia, hai là để cho ông Phan quên việc khi ở Ngự sử bị cách, đó cũng là một thủ đoạn khéo léo… “… Ở Sơn phòng nghe tin quân “bình giáo” đều thất bại, Nghệ Tĩnh đều thất thủ, sợ thánh giá ở Sơn phòng không được yên, ông Tôn Thất Thuyết dời giá sang đóng tại làng Xuân Lạng (Hương Khê) và ông cho chiêu mộ 300 quân Thanh Lạng (Quảng Bình), gọi là đội quân thiện xạ (vì người thổ dân ở Thanh Lạng rất giỏi về nghề bắn nỏ có tên độc). Đội quân ấy do một viên đội người Thanh Lạng tên là Ngọc tổ chức. Ông Tôn phong cho Ngọc làm Lãnh binh và sắc cho đội quân thiện xạ ấy thay đội cấm binh để hộ giá...”. Tôn Thất Thuyết sang Tàu “… Ngó qua cái phong sắc bất lợi từ khi đầu, ông Tôn bèn định kế sang Tàu cầu viện. Ông bèn giao ấn Bộ Binh cho ông Phan Đình Phùng và dặn các quân Cần vương phải phò giá cho được chu đáo, phải duy trì cho được một năm. Lúc ông lên đường, để lại người con đầu là Tôn Thất Đàm ở nhà giúp việc phò giá. Ông bèn lên đường sang Tàu, đi từ Sơn phòng này đến Sơn phòng kia, sang tận Quảng Tây (Long Châu). Khi đi với ông có quan tả quân Trần [Xuân] Soạn, ông hiệp quản Cao Đạt (người Tình Di, Hương Sơn), văn võ tùy tùng độ mươi người.” Quân Pháp tiến đánh căn cứ Hương Khê “Sau khi chiếm đóng tỉnh thành [Hà Tĩnh], quân đội Pháp lại tiến lên Hương Khê. Nghe tin quân Pháp lên, ông Nguyễn Chính (Sơn phòng Chánh sứ) bèn đốt phủ Sơn phòng và đem quân đi nghinh tiếp quân đội Pháp. Người Pháp bèn đem ông Chính về lãnh tổng đốc An - Tĩnh. “Nghe tin Sơn phòng thất thủ, xa giá ở Xuân Lạng phải dời vào Thanh Lạng. Quân Pháp lúc ấy nhứt diện (một mặt) đi theo hiếp giá, nhứt diện đi đánh đuổi quân Cần vương. Quân Pháp theo giá vào Tân Ấp bị quân thiện xạ mai phục dùng tên độc bắn ra, bị thương và chết rất nhiều cho nên phải lui về đóng tại Sơn phòng. Quân Cần vương, mỗi thiếu thứ và trưởng thứ nhiều phen thất bại. Ông Phan Đình Phùng và Đinh Nho Hạnh phải nhiều trận gian nan. Lòng trung nghĩa của nhân dân, hồn chiến đấu của quân sĩ ngày một giảm. Không bao lâu, ông Hạnh bị bệnh mất… _____________________________________ 1. Nguyễn Phan Quang: Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh. 2. Theo tiểu sử, thân phụ của Phan Đình Phùng là Phan Đình Tuyển, có lẽ ở đây chép nhầm - BT 3. Trần Xuân Soạn: người Thanh Hóa, tham gia cuộc nổi dậy ở Kinh đô Huế ngày 4 - 5/7/1885 và đưa vua Hàm Nghi ra Sơn phòng Hà Tĩnh, về sau mất ở Trung Quốc. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Chín, 2008, 08:41:10 pm Tôn Thất Thuyết cầu viện Tàu. “Ông Tôn Thất Thuyết sang đến Quảng Tây, bèn dâng sớ nhờ quan tổng đốc Quảng Tây đạt lên triều đình nhà Thanh. Vua Đạo Quang nhà Thanh quan tâm đến việc nước Nam ta và tỏ ý giúp đỡ. Ngài bèn ra dụ phong ông Phùng Tử Tài (tuần phủ Quảng Tây) làm Chinh di Đại tướng quân, thôi đốc Lưỡng Quảng, Vân Nam, Quý Châu binh mã kéo sang nước ta. Đạo quân ông Phùng Tử Tài ước độ 100.000 rất có thanh thế, khí giới tinh nhuệ. Ông đánh nhiều trận thắng lợi ở Nam Quan, Đồng Đăng, Lạng Sơn, chưa được một tháng mà ông đã tiến gần tới Bắc Ninh. “Khi ấy quan toàn quyền thứ nhất ở Đông Dương là ông Paul Bert rất am hiểu chính trị và binh bị, ông bèn sai viên Phó Đô đốc hải quân Courbet đem hạm đội sang bắn phá các tỉnh duyên hải của nước Tàu, các tỉnh duyên hải bị bắn phá rất nhiều. Vì khi ấy Trung Hoa không có hải quân, không thể chống nổi. Vả lại nước Tàu đã hai lần thất bại với quân Anh - Pháp, không khác gì con chim bị cung bắn nhiều lần, thấy cây cong thì sợ. Vì thế cho nên triều đình Mãn Thanh phải điều đình với viên công sứ Pháp ở Bắc Ninh, ký một bản hiệp ước ở Thiên Tân, công nhận cho nước Pháp lập chính phủ Bảo hộ ở Việt Nam và cắt đất Quảng Châu Loan, triệt đạo quân chính Nam của ông Phùng Tử Tài và đạo quân ông Lưu Vĩnh Phúc về Tàu, yên trí thầy trò ông Tôn Thất Thuyết. “Thi hành hiệp ước, ông Tôn Thất Thuyết và mấy kẻ tòng vong đều phải đem đi yên trí ở Thiều Châu và được triều đình nhà Thanh cấp cho mỗi tháng 100 nén bạc (?). Từ đó, hi vọng trở về cố quốc của ông Tôn thành một sự chiêm bao vậy. Vua Hàm Nghi bị bắt “Nghe tin có hiệp ước Thiên Tân, lòng sốt sắng chờ đợi quân cứu viện của vua Hàm Nghi và các ông Cần vương bỗng thành ra một sự mộng tưởng. Chẳng bao lâu, viên hộ giá Lãnh Ngọc chết. Khi lâm chung, ông giao việc hộ giá cho con đầu của ông cũng tên là Ngọc... Từ khi ông mất, quân thiện xạ một ngày một tiêu diệt, phần thì bị lam chướng, phần thì bị tên đạn, chỉ còn độ 50 người. “Được ít tháng, viên Lĩnh Ngọc trái lời di chúc của cha và hiếp giá ra nạp tại đồn quân Pháp tại Thanh Lạng. Kể từ khi nhà vua xuất bôn cho đến khi bị bắt, gần ngót hai năm. Chính phủ Pháp bèn đem Ngài đi yên trí ở xứ Bắc Phi Châu. Phan Đình Phùng ra Bắc (1887) “Sau khi vua Hàm Nghi bị bắt, thân hào Cần vương trong hạt chỉ còn ông Phan Đình Di (?) và ông Lê Phác. Hai ông thấy sự không thành, bèn tìm chốn yên thân để sửa soạn chờ cơ hội khác. Ông Lê Phác định sang Tàu, đi đến Lạng Sơn thì bị bệnh mất. Còn ông Phan Đình Phùng thì ra Bắc Kỳ tàng hình thành một thầy đồ dạy trẻ con(?) ở hạt Bắc Ninh. Ở được ít lâu, cũng có nhiều người thân hào biết ông là một nhà phi thường, vì rằng cũng có nhiều khi tâm sự, ông thổ lộ ra nơi thi phú. Rồi đó, ông cũng cố kết được vài ông bạn đồng chí. Ngọn lửa Cần vương đến năm Mậu Tý (1888) thì bị thổi tắt. Song than đỏ vẫn còn vùi dưới trấu, một ngày kia rồi lại cháy bùng lên. Một bài học trung ái và tự cường! Trần Xuân Soạn và Cao Đạt sang Tàu “Sau khi ông Tôn Thất Thuyết đã phải yên trí ở Thiều Châu, ông Trần Xuân Soạn biết rằng nước Tàu không đủ tự vệ, hãy còn vào một tình thế nguy ngập, không có thể đợi được sự giúp đỡ của họ. Nhân dịp ông Tôn sai ông Cao Đạt về nước lấy vàng ngoé chôn ở các Sơn phòng Cam Lộ và Hương Khê đem sang Tàu, ông Soạn bèn mưu với ông Cao dùng một số vàng ấy đem sang Hương Cảng mua được một ít binh khí. Rồi ông cùng với ông Cao trốn ông Tôn, về Quảng Tây thương thuyết với ông Phùng Tử Tài. Ông này có vẻ buồn bực với việc triều đình nhà Thanh trong vụ ký điều ước Thiên Tân, bèn dung cho ông Soạn được tự do hành động. Ông Soạn bèn chiêu tập được hơn 1000 quân ở Quảng Tây. Ông có một ít khí giới đã mua được ở Hương Cảng, còn thì mượn của tỉnh Quảng Tây. Ông và ông Cao thân ra luyện tập đạo quân ấy, được hai tháng thì ông tiến thẳng về biên giới Lạng Sơn. Lúc đầu người Pháp tưởng quân của ông Soạn là một toán giặc cỏ ở Tàu tràn sang nên không lấy làm quan trọng lắm. Ông Soạn đánh được nhiều trận thắng lợi, tiến quân lấy tỉnh Cao Bằng. Sau người Pháp biết là đạo quân của ông Trần [Xuân] Soạn, họ bèn tập trung nhiều tinh binh, hai vệ quân đóng ở Bắc Kỳ ước độ 5000 người, chia làm ba đạo tiến lên vây đánh. Lạ gì quân ô hợp (của ông Soạn) và không có lòng nghĩa khí, thấy bất lợi một vài phen và chết một vài trăm người, bèn bỏ chạy về Tàu. Ông Soạn chỉ còn mươi hai thầy tớ thân tín, chưa kịp chạy sang Tàu, phải ẩn nấp trong châu Lộc Bình. Người Pháp trao giải thưởng 10.000 đồng cho ai bắt được hoặc giết được ông... Ông bị bọn thổ châu ấy mai phục mưu bắt ông. Một đêm, bảy thầy tớ ông Soạn theo đường thượng đạo sang Tàu. Bọn người này biết ông Soạn cưỡi một con ngựa bạch, chúng bèn đặt nhiều bẫy ở giữa đường để cho ngựa ông bổ (té ngã) rồi bắt ông. Ông là người võ nghệ rất giỏi, đương đi giữa đường thấy ngựa sập bẫy sa chân xuống, bọn người thổ chưa kịp hành động thì ông đã nhảy xuống đất và chém được hai tên. Kế đến, bảy thầy tớ bắn súng vào bọn chúng; bị chết bốn tên, bọn còn lại chạy vào rừng cả Thầy trò ông Soạn thoát được sang Tàu, rồi lại trở về Thiều Châu, chỗ ông Tôn (...). Từ đó, thầy trò ông Tôn đành thúc thủ ngồi đợi ở Thiều Châu... Phan Đình Phùng trở về Hà Tĩnh (9-1889) “Lúc ấy, ông Tám Nàng và các ông ở Lễ thứ bàn định với các quan văn thân toàn hạt, để mời cụ Phan Đình Phùng về làm chủ, điều đó được toàn thể hoan nghinh. Bấy giờ các quan bèn vận động với cháu ruột cụ Phan là ông Phan Đình Nghinh để nhờ ông Nghinh ra Bắc tìm Cụ và mời Cụ về. “Ông Nghinh vâng mạng ra Bắc tìm cụ Phan. Cụ Phan tiếp được thư các quan văn thân ở nhà gửi ra, rất lấy làm cảm khái và quyết chí trở về. Cụ bèn phúc thư cho các quan để hẹn nhật kỳ và nhất diện Cụ thu thập hành lý. Khi Cụ về, có một ông người Nam Định, một ông người Bắc Ninh theo về, sau gọi là ông Lãnh Nam và ông Lãnh Bắc (không tường được tên họ). “Theo như nhật kỳ đã định, các quan bèn hội lại ở Lễ thứ (làng Yên Vượng, Đức Thọ) để đón tiếp Cụ. Rồi sai người ra Bến Thủy chực Cụ, rồi lại sai một viên Hiệp quản là Lê Hoạt đem 50 quân tinh nhuệ đi hai chiếc đò xuống Chợ Chế đón Cụ. Cụ ở Bắc về, tàng hình là hành khách, đi một chuyến tàu thủy từ Hải Phòng về Bến Thủy. Tiếp được Cụ ở Bến Thủy, người đón Cụ ở đó lập tức thuê một cái đò con để rước Cụ lên Chợ Chế. Viên Hiệp Hoạt tiếp được Cụ đến Chợ Chế bèn phóng chèo để rước Cụ đi theo con sông về Trung Lương rồi lên Đò Trai, đi bộ lên Yên Vượng. Nào ngờ, hồi quốc gia mới thay đổi, chính phủ bảo hộ mới chưa được ấm dằm mà ban trinh thám đã bắt đầu hoạt động. “Cụ Phan và tiểu đội vừa dời Chợ Chế độ một cây số thì đã trông thấy 4 chiếc thuyền chở quân do đồn Bến Thuỷ và đồn Quả Phẩm (Chợ Chế) tiến theo. Bây giờ về tiết tháng 11, độ 5 giờ chiều, viên Hiệp Hoạt bèn cho chiếc thuyền nhỏ của Cụ phóng đi trước, còn hai chiếc chở quân của ông ta đi lại sau và sửa soạn nghênh địch. Đã 5 giờ chiều, trời đã chập choạng tối. Ông Hiệp Hoạt bèn đổ bộ quân lên bờ sông mai phục rồi lại đẩy hai chiến thuyền ra sông; nhân con nước lên, thuyền cứ trôi lênh đênh giữa sông, quân đuổi theo chỉ yên trí rằng quân địch hãy còn ở trên hai chiếc thuyền đi trước, họ cố đuổi theo cho vừa tầm súng. “Trời đã chập choạng, bỗng dưng một hiệp súng bắn vào sườn thuyền của họ, thuyền bị thủng nhiều chỗ, nước chảy vào thuyền như xối. Quân trong thuyền phần thì chưa rõ địch ở chỗ nào, phần thì xé túi-dết để trám lỗ nước vào, phần thì nhắm mắt bắn lên hai chiếc thuyền đi trước. Kế đó, lại một hiệp súng bắn vào sườn thuyền nữa; thuyền bỉ lủng nhiều chỗ quá, quân lính hoảng hốt, xé hết dẻ hết khăn để bịt lỗ thủng. Viên giám quân thấy thuyền lủng nhiều quá, sợ nguy đến tính mạng quân lính, bèn hạ lệnh cho thuyền chèo ngang qua bên kia bờ sông, rồi nhân trời túi (tối) rút quân trở về. Trận ấy, không rõ quân lính trong thuyền thương tử là bao nhiêu, chắc thế nào cũng có thiệt hại. Còn viên Hiệp quản cũng vội thu quân về cho kịp đưa cụ Phan lên Yên Vượng. Thấy như vậy, cụ Phan rất lấy làm vui vẻ và khen ngợi lớp võ quan mới luyện tập sau này... “Về đến Yên Vượng, các quan văn thân đón tiếp, Cụ lấy làm vui mừng, bèn thân ra duyệt các đạo quân ra nghênh tiếp của ba thứ, độ 1000 người. Cụ thấy quân dung và khí giới khác hẳn ngày xưa, rất lấy làm tâm phục cái thiên tài của ông Cao Tất Thắng. Đại bản doanh Vụ Quang Sau trận đánh ở Yên Vượng, quân ba thứ [Hương thứ, Can thứ, Lễ thứ] lại về ba nơi, còn tổng hành dinh của cụ Phan thì đóng tại xã Vụ Quang, thuộc huyện Hương Khê bây giờ. “Lúc này quân Cần vương đã hơi có một chút thanh thế, phần đa số trong bộ tham mưu đều muốn tiến quân lên phía hai tỉnh Cam Môn, Cam Cát của Lào để lập căn cứ và cho tiện đường giao thông sang Xiêm. Song hiềm vì xứ Lào tuy có địa hiểm, nhưng nhân dân quá ít, lúa gạo không đủ dùng, không biết lấy gì làm quân nhu, còn đường vận chuyển từ ta lên Lào rất là vất vả, cho nên đành phải đóng tại đất nhà. “Vì việc lương thực khó lòng như thế, cho nên cụ Phan lại phái ông Phan Đình Nghinh và ông Nguyễn Chanh đem quân vào đóng trong tổng Vọng Liệu để làm quân lương trong tỉnh Quảng Bình, còn ông Cao Thắng thì phải đem quân đi làm lương thực tại Thanh Chương, Anh Sơn, Nam Đàn. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Chín, 2008, 08:48:21 pm Quân Pháp chặn đường tiếp tế của nghĩa quân “Biết rằng quân Cần vương thiếu thốn về lương thực và khí giới, không thể làm được đại sự, vì vậy chính phủ Bảo hộ tìm cách làm ngăn trở đường lương thực và giao thông của quân Cần vương. Họ bèn đặt ra nhiều đồn nhỏ, những nơi cần thiết thì mỗi làng một đồn, ngoài ra mỗi tổng đặt hai hoặc ba đồn. Họ lại cho một số Bang biện người thổ trước được toàn quyền hành động tiễu trừ các đội quân Cần vương đi thôi đốc lương thực. Mưu kế này của họ làm cho quân Cần vương rất bối rối về giao thông và lương thực. “Khi cụ Phan Đình chưa về, các quan Cần vương mua được nhiều đạn dược và nguyên liệu làm khí giới ở Xiêm là nhờ ông hoàng thúc Xiêm là ông Phracha làm Tổng đốc binh mã nước Xiêm. Ông là người phản đối chính sách thân Pháp, ông làm nhiều việc khiêu khích, ông cho quân ra đóng tại bờ sông Cửu Long, ông hạ lệnh cho bắn chìm một chiếc tàu Pháp tại vịnh Xiêm La và giết một toán quân Pháp sang dự tiệc tại Lạc Hòn, ông nhất định khai chiến với Pháp. Sau chính phủ Pháp thương thuyết với chính phủ Anh việc trừng phạt nước Xiêm bằng binh bị (bấy giờ nước Xiêm là một nước tự trị dưới sự bảo hộ của Anh). Nước Anh không muốn cho nước Pháp dính líu vào việc nước Xiêm, bèn bắt nước Xiêm bồi thường thiệt hại cho Pháp và phải giải chức Tổng đốc binh mã của ông hoàng thân Phracha. Cho nên hồi này cụ Phan vẫn phái người sang nước Xiêm mua thuốc đạn, nhưng không được thuận lợi như trước, có khi còn mua không được. Bởi vậy, việc tiến lên Lào để thông với Xiêm không bàn đến nữa. Đánh đồn Thanh Lạng - giết tên Lãnh Ngọc Một việc đáng ghi nhớ trong Sử Ất Dậu là khi cụ Phan Đình về rồi, Cụ nhớ đến việc vua Hàm Nghi bị hiếp giá, Cụ bèn sai anh em ông Lãnh Khai đem 200 quân vào đánh phá đồn Thanh Lạng (Quảng Bình). Ông Khai vào vây đồn đánh phá 7 ngày đêm không thể hạ được, ông sợ đánh lâu sẽ phải đối phó với quân cứu viện, bèn quyết kế hạ đồn. Ông thân đốc quân sĩ đánh sát chân đồn rồi phóng vào trong đồn hơn 100 ống hỏa hổ. Mấy cái nhà tranh trong đồn bốc cháy nghi ngút, quân trong đồn hoảng hốt, không có lòng chiến đấu. Đạn dược đã hết mà chờ quân cứu viện không có, Lãnh Ngọc bèn đem loạn quân mở cửa đồn chạy về phía Tuyên Hóa, vừa chạy chưa được một cây số thì bị quân mai phục của ông Lãnh Khai bắn chết. “Anh em ông Khai giết được Lãnh Ngọc và hạ được đồn rồi, bèn thu thập số khí giới bắt được của địch và cắt đầu của Lãnh Ngọc đem về nạp tại đại bản doanh (Vụ Quang). Cụ Phan Đình bèn gia phong cho ông Lãnh Khai lên chức Đổng nhung; ông em lên chức Lãnh binh. Phan Đình Phùng và Bạch Xỉ “Hồi này các ông Đoàn Đức Hậu, hiệu là Bạch Xỉ, người ở Quảng Bình, lấy đạo thần thánh và nhâm cầm độn toán để chiêu tập một đảng, được một số đông người Nghệ Tĩnh hưởng ứng. Quân sĩ và tướng lĩnh cụ Phan cũng có nhiều người theo ông. Ông tự tôn là Hoàng đế lấy hiệu là Long Đức, đóng đại dinh ở miền sơn phận Hương Sơn. Cụ Phan Đình tức giận về sự tiến ngụy của ông Bạch Xỉ, bèn giết một số tướng lĩnh và quân sĩ nhị tâm theo ông Bạch Xỉ (ông Tác Ngà người Thịnh Xá, các ông Lĩnh Nam, Lĩnh Bắc người Nam Định và Bắc Ninh theo Cụ ở ngoài Bắc về đều bị diệt về vụ đó). Cụ hạ lệnh bắt ông Bạch Xỉ. Ông Bạch Xỉ phần thì bị quân Bảo hộ truy nã, phần thì bị cụ Phan Đình truy bức, ông chạy sang miền Nghệ An rồi bị quân Bảo hộ bắt ở đó. “Cũng vì ông Bạch Xỉ mà quân đội của cụ Phan Đình suy giảm đi nhiều, vì một số tướng lĩnh và quân sĩ của Cụ bỏ theo đảng Bạch Xỉ. Sau khi ông Bạch Xỉ bị bắt, dư đảng hoặc bị quân Bảo hộ bắn giết, hoặc ra đầu thú. Đảng Bạch Xỉ đã không lợi gì cho Cần vương mà còn làm hại cho công cuộc Ất Dậu vậy. “Nhân đây, nói thêm: Hồi bấy giờ cụ quận Hoàng Cao Khải làm Kinh lược Bắc Kỳ, cũng là người một làng với cụ Phan Đình. Cụ có viết một bức thơ về cho cụ Phan Đình, và Phan Đình có viết một bức thơ trả lời... Phan Đình Phùng mất “Sang đầu năm Giáp Ngọ [?], niên hiệu Hàm Nghi thứ 10, niên hiệu Thành Thái thứ 7 [?] (quân Cần vương vẫn giữ niên hiệu Hàm Nghi thứ 10), cụ Phan Đình bị đau nặng, lúc ấy Cụ mới có 49 tuổi. Cụ tự biết trong mình hèn yếu và ở xứ lam chướng lâu ngày, không sống được bao lâu để theo đuổi việc nước, Cụ bèn bỏ xứ Vụ Quang, lui lên đóng giáp xứ Lào để tìm cách tĩnh dưỡng. Nào ngờ vận nước éo le, lòng trời run rủi, đến tháng 11 năm ấy Cụ từ trần. “Khi Cụ mất, tướng lĩnh chỉ còn có ông Tán Quýnh, ông Đổng Nghinh, ông Ngô Quảng và anh em ông Lĩnh Khai. Các ông yên táng Cụ ở trong xứ Quạt (giáp Lào và Quảng Bình, Hà Tĩnh). Nguyễn Thân đàn áp phong trào Cần vương Hà Tĩnh “Trước khi cụ Phan Đình mất, triều đình Huế sai nhiều ông ra tiễu phủ ở Hà Tĩnh, nhất là ông Lương Quy Chánh, ông Phan Huy Quán, song các ông ấy không thành công. Một là các ông ấy không có tài bát loạn, hai là các ông ấy cũng có một chút tâm huyết, không muốn làm tàn hại đồng bào. “Đến tháng 5 nhuần năm Giáp Ngọ [1894], niên hiệu Thành Thái thứ 7 [?], triều đình Huế và tòa Khâm sứ cử ông Nguyễn Thân, Tổng đốc Bình Phú, làm Khâm mạng Đại thần ra tiễu phủ ở Hà Tĩnh. Cùng ra với ông có các ông Tán lý Lê Tựu Khiết, Nguyễn Gia Thoại, Tán tương Tạ Tương, Nguyễn Đỉnh, bốn ông Đề đốc là tám ông Lãnh binh. “Được tin ông Nguyễn Thân ra tiễu phủ và nghe tiếng ông ở Bình Phú là một tay trung thành với Chính phủ Bảo hộ, con ông Đề Trạch ở Can thứ là ông Nguyễn Văn Hoan (thường gọi là ông Lãnh Cậu) bàn với cụ Đề Trạch rằng: Nguyễn Thân là một tay tàn ác, nay ra làm tiễu phủ ta, không chỉ gây hại cho ta mà còn tàn hại dân ta. Ông xin đem toàn quân vào Kỳ Anh, Đèo Ngang, xuất kỳ bất ý đánh chụp [đánh úp] vào đạo quân Khâm mạng, như thế có lẽ giết được ông Nguyễn Thân và đánh tan đạo quân ấy. Song cụ Trạch không nghe, bảo rằng ông Tiễu Thân ra lần này cũng không khác gì ông Tiễu Chánh, Tiễu Quán trước đó. Cụ Trạch không muốn làm việc táo bạo như thế, e rằng tàn hại đến nhân dân, việc thành hay không mặc dầu, Hồng Lam đều thành tro bụi. Ông Lãnh Cậu là con và là một kiện tướng của cụ Trạch, ông đã từng lập công nhiều trận. Trận đánh đồn Cây Khế (Can Lộc), ông bắn chết một viên quan ba Tây tên là Samaran. Ông được phong Chánh Lãnh binh sau trận ấy. “Khi ông Nguyễn Thân ra, đầu tiên trù hoạch cách triệt quân lương của quân cần vương. Ông ra lệnh cho trong hạt, nhà nào cũng phải làm hai sổ khai nam phụ lão ấu, phải khai cho thiệt đúng, nếu sau bắt được một tên nào mà sổ kê khai không có tên thì hào lý sẽ bị tử hình; trong làng xã nào có người hiện theo đảng Cần vương, làm chức phận gì đều phải khai rõ. Một khi quan quân đến làng nào mà tìm thấy những người không có tên trong sổ làng khai thì những người ấy bị tử hình đã đành, mà hào lý cũng bị tru lục; nếu người làng này đi sang làng kia mà ở đêm lại thì phải có giấy thông hành, động khi quan quân hỏi thì phải trình giấy ra xét xem trong sổ khai làng ấy có tên người thông hành ấy không. Làm như thế là cốt tiệt các quân quan trong núi không có thể tàng hình ra ở dân gian. Sự lai vãng khó khăn như thế, vả lại quân tiễu phủ đóng ra nhiều đồn nhỏ ở dân gian, cho nên đường vận tải lương thực vào núi rất khó. “Khi ấy quân trong núi yếu thế đi nhiều; từ khi ông Nguyễn Thân ra cho đến khi về, hơn 6 tháng mà không có một trận đánh nào cả. Ở trên Đại dinh Vụ Quang thì cụ Phan Đình hiện đau nặng, mà tướng lĩnh thì chỉ còn ông Tán Quýnh, ông Đề Đạt, ông Đổng Nghinh, ông Ngô Quảng và anh em ông Lĩnh Khai, còn ở Can thứ thì còn cha con ông Đề Trạch và rể là ông Đề Quýnh. Quân sĩ thì giải tán hết nhiều, chỉ còn độ 300 hay 400 nữa thôi; vả lại lương thực và đạn dược đều thiếu thốn, không đủ sức kháng chiến và giữ lâu được. “Nhân khi ấy, ông Nguyễn Thân sai ông Phan Quang Cự vào dỗ các quan trong núi ra hàng (ông Cự là người cùng làng Đông Thái với Cụ Phan Đình Phùng, đậu Tiến sĩ, làm Bố chính hồi Ất Dậu, ông cũng phụng chỉ ra Cần vương, được cử làm Tán lý quân vụ kiêm Hà Tĩnh Hộ phủ sứ thay ông Bố Đại bị giết; sau ông ra thú, được ân xá. Ông Cự hứa rằng: ra hàng thì đều được ân xá cả và làm chức gì thì nhà nước sẽ phục chức ấy. Vừa khi cụ Phan Đình tạ thế, tướng sĩ đều ngã lòng cả. Nhiều võ quan muốn ra hàng, duy chỉ có ông Tán Quýnh, ông Ngô Quảng, ông Đề Đạt và anh em ông Lĩnh Khai không chịu ra. Các ông kia thì trốn sang Xiêm, còn anh em ông Lĩnh Khai ở lại trên núi. “Đến tháng 10 năm Giáp Ngọ thì các quan trên núi cuốn giáp ra hàng cả: các ông Phan Đình Nghinh, Nguyễn Thương, Đề Trạch, Nguyễn Hoan, Lãnh Cậu (con ông Đề Trạch), Nguyễn Quynh (Đề Quynh) cùng một quan văn Kiểm biện và một Bang biện độ 5, 6 người. Được tin các quan ra hàng, ông Nguyễn Thân cho cờ trống đi rước từ trong núi ra đến Đại dinh Linh Cảm (Đức Thọ). Ông làm như thế là cốt để sau không ai dám làm như cụ Phan Đình mà ông cho là phản nghịch chính phủ, cũng là theo cách địa lý ta: để tiệt mả làm giặc. “Được mấy hôm, ông đưa các tướng về Hà Tĩnh, rồi ông đưa ra Huế. Khi đi khỏi địa phận Hà Tĩnh (Đèo Ngang) thì các hàng tướng đã thấy cũi sơn son chực ở đấy rồi. Trông thấy việc đó thì các ảo mộng tưởng phục chức của các quan đều tiêu tan cả. Lúc bấy giờ ông Lãnh Cậu có than rằng: nơi này là nơi ông định đánh giết ông Nguyễn Thân, mà té ra ông lại chết nơi này, mặc dầu không phải ông Nguyễn Thân bắt được ông, mà chính là cha ông bắt ông vậy. Đem về Huế không được một tháng, thì tất cả các hàng tướng đều bị giết hết. Còn anh em ông Nguyễn Khai không ra hàng, ở lại trong núi được mấy tháng cũng đều bị bắt và bị giết cả. “Kể từ năm Hàm Nghi Ất Dậu cho đến Thành Thái Giáp Ngọ, công cuộc Cần vương duy trì được 10 năm. Từ Giáp Ngọ trở đi, ngọn lửa Cần vương tuy không thấy khói mà lửa lòng trung nghĩa vẫn ngấm ngầm nhen mãi. Sang năm Ất Vị [1895], các ông Cần vương xuất dương như ông Tán Quýnh, ông Lãnh Hưng (Ngô Quảng), ông Đề Đạt (Cao Đạt) lại trở về, kế tiếp công cuộc rửa nhục đất nước”. Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Chín, 2008, 09:04:45 pm II LÊ NINH VÀ PHONG TRÀO CẦN VƯƠNG HÀ TĨNH Lê Ninh lên Sơn phòng đón xa giá tháng (9-1885) “… Khi giá đến Sơn phòng thì chỉ còn độ 500 quân, Đức Hàm Nghi ngự trong một cái võng, ông tả quân Trần [Xuân] Soạn đi một con ngựa bạch, các quan tùy tùng văn võ cũng độ vài chục người. Quan chánh sứ Sơn phòng là Nguyễn Chính đem các quan và các thân hào ứng nghĩa ra bái mạng (...). “… Phong cho ông Lê Ninh làm Tĩnh thứ Tán lý Quân vụ, ông Lê Diên làm Đốc vận quân lương, ông Lê Phác làm Phó Đề đốc, ông Phó bảng Hạnh làm Lãnh binh. “Ở Hương thứ (Hương Sơn), ông phó bảng Hạnh mộ được 500 quân, ở Thái thứ (Đông Thái), ông Phan Đình Phùng mộ được 100 quân, ở Lễ thứ ông Lê Ninh mộ được 4 đạo quân, mỗi đạo 500 người. Lê Ninh hạ thành Hà Tĩnh (tháng 11-1885) “Ông Tôn Thất Thuyết thấy 4 đạo quân của ông Tán Ninh [Lê Ninh] rất chỉnh tề, tướng tá hùng dũng, bèn tâu Vua sắc cho ông Lê Ninh đem quân về lấy thành Hà Tĩnh và bắt Bố chánh Lê Đại đem lên nạp tại Sơn phòng. Lúc này, quan Bố chánh thủ hiến Hà Tĩnh là ông Lê Đại, án sát là ông Dương Thanh, Thương biện là ông Lê Kinh Hạp... “Ông Lê Đại tiếp được tờ mật tri của Bộ nói về việc cải Hàm Nghi nguyên niên làm Đồng Khánh nguyên niên, bắt đầu từ tháng 6 Ất Dậu [1885] và sức cho tỉnh hẹn khi nào giá vua Hàm Nghi ra Hà Tĩnh thì đem quân ra hiếp giá đem về. Khi ấy ông Lê Đại trở lại theo chính phủ mới, đem việc ra bàn với quan Lãnh binh Tôn Thất Bá, bảo phải đem một đội quân lên giáp Ai Lao, khi nào giá vua Hàm Nghi đến thì uy hiếp đem về. Ông Tôn Thất Bá một lòng trung thành, không nghe lời quan Bố, bèn phái quan Phó Lãnh Trần Mỹ đem quân đi đón giá, dặn rằng khi giá đến Sơn phòng thì trước hết đem việc ông Bố Đại làm phản tâu lên. Vì vậy, ông Tôn Thất Thuyết tâu vua hạ sắc lệnh bắt ông Bố Đại và cách chức quan án sát Dương Thanh và quan Thương biện Lê Kinh Hạp. “Nhận được chỉ văn cho về lấy tỉnh thành Hà Tĩnh, ông Lê Ninh bèn kéo bản bộ binh mã về Trung Lễ, sửa soạn lương thực hẹn ngày tiến phát. Ngày mồng 2 tháng 10 Ất Dậu, ông Lê Ninh đem quân bản bộ 2000 người cùng sai phu tải lương thực. Đi với ông có hai em ruột là Lê Diên và Lê Phác. Đến sáng mồng 6, quân của ông đã kéo vào đến tỉnh. Trong thành, quan Bố nghe tin đã sắp đặt việc kháng bị, bắn súng đại bác và súng tay để ngăn chặn. Quan Bố tự ra đứng dưới cột cờ chỉ huy, giữ cửa Tiền, cửa Hữu, còn cửa Hậu giao cho Lãnh binh Tôn Thất Bá. “Nào ngờ quan Lãnh là người trung nghĩa, thấy lá cờ “Cần vương phụng chỉ” bay phấp phới ngoài thành, bèn mở hai cánh cửa cho quân Cần vương tràn vào. Lúc này quan Bố vẫn đang chống cự trước cửa tiền vẫn không hay biết, bỗng nhiên thấy một đạo quân ào tới trói lại. Nguyên do là: khi vào hạ thành, ông Lê Ninh đã sắp đặt một đội quân, gọi là đội thân binh, gồm toàn “tinh binh” của tỉnh về hạ ban. Quân ấy ăn mặc y hệt lính tỉnh, do hai viên Hiệp quản là Nguyễn Dương và Lê Hoạt chỉ suất (ông Lê Hoạt, tức Hiệp Hoạt, người Trung Lễ, võ nghệ rất giỏi và là người đồng tông với ông Lê Ninh, nên ông cho làm Hiệp quản). “Khi đội quân ấy vào trong thành rồi mà quan Bố vẫn tưởng là quân mình, cho nên họ đến sát bên cạnh mà ngài không biết, chỉ nghe một tiếng hô như sét, rồi ngài bị trói, tiếp theo là tiếng hô “Hàm Nghi vạn tuế” và “Phụng chỉ Cần vương “ dậy một phương trời. Tiếng súng chống cự im bặt, rồi trở lại bắn theo lối “khánh hạ” [chào mừng]. Nhìn lên kỳ đài đã thấy ngọn cờ “Cần vương” bay phấp phới. Tiếng ống gọi [ống loa] và tiếng trống giục quân vang một phương trời. Quân “thân binh” giải quan Bố đến đại đinh. Ông Tán Lê Ninh nghĩ rằng quan Bố là một ông quan Tam phẩm, không nỡ giải lên Sơn phòng chịu hình phạt đau đớn, bèn cho ông được uống thuốc độc tự tử. “Được dăm hôm, quan Bố mới là Phan Quang Cự, quan án là Nguyễn Hợp, quan Thương biện là Nguyễn Cao Đôn đến nhậm chức. Tỉnh thành trở lại ổn định như thường. Quân Cần vương đóng ở tỉnh độ 15 ngày rồi lại kéo về Trung Lễ. Đó là võ công thứ nhất của quân Lễ thứ vậy. “Ông Tán Ninh làm xong phận sự lại lên Sơn phòng bái mạng. Vua Hàm Nghi thưởng cho 10 lạng vàng và một kim khánh, lại sắc cho ông về trấn thủ Trung Lễ để sửa soạn việc tiến ra Nghệ An... “Bình Tây sát tả”, một sai lầm của Chiếu Cần vương “... Hồi đó, ông Phan Đình Phùng vẫn đóng quân ở Đông Thái. Vâng theo đạo sắc lịnh “Bình giáo”, ông Phan tâu lên Sơn phòng rằng: ở hạt Hà Tĩnh, mấy ông linh mục không chỉ việc truyền giáo mà thôi, mà lại làm nội công cho quân đội Pháp nữa; ông xin bắt mấy linh mục cho khỏi ngại về sau. Vua Hàm Nghi bèn sắc cho ông về “Bình giáo”. Ông bèn đem bản bộ binh mã, và ông Phó bảng Hạnh ở Hương Sơn cũng kéo xuống giúp sức, xuống đột phá hạt Thọ Ninh, Thọ Tường. Mấy ông linh mục Pháp thấy sự nguy cấp, bèn hợp lại một nơi để tổ chức việc tự vệ. Quân ông Phan và ông Hạnh đánh phủ không nổi, bèn tâu lên Sơn phòng xin đem quân ông Lê Ninh ra hợp lực. Vua bèn sắc cho ông Lê Ninh đem quân ra “Bình giáo”. Các vị linh mục nghe tin ông Lê Ninh sắp sửa xuất quân, cho là sự nguy cấp đến nơi, bèn sai người đem thư ra Nghệ cầu cứu viên đốc quản Pháp đóng ở tỉnh Nghệ. Khi ấy quân đội Pháp đã đổ bộ lên đóng ở tỉnh Nghệ rồi. Quân ông Lê Ninh đánh phá rất gấp và đã độ hà sang vây Yên Phú, Thọ Ninh, Thọ Tường. Các ông linh mục Pháp chỉ hi vọng sống từng giờ từng phút nữa thôi và đã xưng tội cuối cùng rồi. Nào ngờ giữa sông xuất hiện nhiều thuyền chạy sôi nước lên sùng sục và tiếng kêu ầm ầm, quân tuần giang chưa hiểu gì cả; rồi thấy trong thuyền toàn là người mặc mấn [váy] và đội mạo [mũ] đỏ, rồi thấy súng bắn lên như mưa, súng bắn lên đến nỗi tre các vườn đều gãy ngọn cả, và mía ngoài đồng không còn cây nào đứng giữa vườn. Đó là lần đầu quân Cần vương tiếp xúc với quân Phi châu của Pháp do 5 chiếc xà-lúp ở Nghệ chở lên. Quân ta bị thương rất nhiều, súng điểu thương đoản mạ và cò máy đá không thể chống lại với súng cà-la-đinh của quân Pháp. Quân ta chống không nổi đều chạy toán loạn cả ra. Ông Phan Đình Phùng và ông Phó bảng Hạnh chạy lên Hương Sơn, ông Lê Ninh lui về Trung Lễ. Khi ấy, một số người giáo hợp với quân đội Pháp kéo lên thiêu phá làng Đông Thái (làng ông Phan Đình Phùng); ông Phan lại lên đóng ở Hương Sơn. Quân đội Pháp lại kéo vào Trung Lễ. Quân Lễ thứ có kháng chiến độ ba giờ đồng hồ rồi rút lui vào đóng tại làng Tràng Lưu (Lai Thạch, Can Lộc). Trung Lễ cũng bị tàn phá. Giáo dân khi ấy trong hạt Hà Tĩnh ở mạn Bắc thì hợp tại Thọ Ninh ở mạn trong thì hợp tại Trại Lệ (Can Lộc). Lúc này ở Trại Lệ cũng có cuộc lưu huyết. Quân quan Tế ở Kiệt Thạch (Can Lộc) cũng kéo vào đánh phá Trại Lệ. Ngài cũng phụng chỉ mộ quân, mộ được 200 người, cũng theo đạo sắc lịnh “Bình giáo” cho nên ngài vào đánh Trại Lệ. Trận ấy, ngài có một ông con đầu là ông Cử Vinh tử trận. Sau cuộc thất bại ấy ngài bèn ra thú rồi đem toàn gia vào lánh ở Quảng Nam. Ngày 26 tháng 11 năm Ất Dậu, quân đội Pháp kéo vào Hà Tĩnh, quan Thương biện Nguyễn Cao Đôn có đem quân ra kháng ngự, giao chiến độ một giờ đồng hồ rồi rút lui về đóng ở Phất Nạo (Thạch Hà). Quân Pháp bèn tiến vào đóng ở phủ Thạch Hà độ một chủ nhật rồi mới kéo ra tỉnh...” Lê Ninh sang Lào mộ quân cờ đen “… Sau khi chiếm đóng tỉnh thành [Hà Tĩnh], quân đội Pháp lại tiến lên Hương Khê. Nghe tin quân Pháp lên, ông Nguyễn Chính (Sơn phòng Chánh sứ) bèn đốt phủ Sơn phòng và đem quân đi nghinh tiếp quân đội Pháp. Người Pháp bèn đem ông Chính về lãnh tổng đốc An - Tĩnh. “Nghe tin Sơn phòng thất thủ, xa giá ở Xuân Lạng phải dời vào Thanh Lạng. Quân Pháp lúc ấy nhứt diện (một mặt) đi theo hiếp giá, nhứt diện đi đánh đuổi quân Cần vương. Quân Pháp theo giá vào Tân Ấp bị quân thiện xạ mai phục dùng tên độc bắn ra, bị thương và chết rất nhiều cho nên phải lui về đóng tại Sơn phòng. Quân Cần vương, mỗi thiếu thứ và trưởng thứ nhiều phen thất bại. Ông Phan Đình Phùng và Đinh Nho Hạnh phải nhiều trận gian nan. Lòng trung nghĩa của nhân dân, hồn chiến đấu của quân sĩ ngày một giảm. Không bao lâu, ông Hạnh bị bệnh mất... “Quân Lễ thứ tuy đông hơn và mạnh hơn, song cũng chịu chung một số phận. Ông Lê Ninh biết sự khó thành, bèn mạo hiểm lên giáp Trấn Ninh mộ một đội quân Cờ Đen. Quân ấy là quân ông Lưu Vĩnh Phúc sót lại, không chịu về Tàu, rồi từ Bắc Kỳ kéo vào, định phá tỉnh Trấn Ninh. Đội quân ấy còn lại độ 120 người, do hai viên tướng Liêu và Bạch chỉ huy. Hai tướng ấy ứng lời chiêu mộ của ông Ninh, bèn theo về đóng tại hạt Nam Đàn... (sau khi ông Lê Ninh mất [15-12- 1887], thanh thế quân Tĩnh thứ giảm đi nhiều, đội quân Cờ Đen có giao chiến với quân Pháp ở Thịnh Xá (Hương Sơn) song không được thắng lợi gì, rồi họ biệt quân Cần vương ta, kéo thẳng lên Xiêm La...)” Thắng trận ở Nam Đàn “… Nghe tin ông Ninh tập trung quân đội ở Thanh Chương, Nam Đàn mưu việc thu phục Nghệ An, quân đội Pháp và quân tinh binh tỉnh Nghệ do ông Lãnh Duật chỉ huy, tiến lên Nam Đàn. Quân Lễ thứ dùng lối tập công và giáp lá cà, giết hại được quân địch rất nhiều và bắt sống được Lãnh Duật. Trận đánh ở Trúc Liêu này diễn ra suốt một đêm trường và thu được ít nhiều thắng lợi. Đó là võ công thứ hai của quân Lễ thứ vậy... Lê Ninh mất [12-1887] “… Ít lâu sau trận thắng ở Nam Đàn, chẳng may ông Ninh bị bệnh mất tại Thanh Chương. Quân Cờ Đen và quân bản bộ của ông đưa linh cữu ông về Trung Lễ an táng. Kế đó người em ruột của ông là ông Lê Diên cũng bị bệnh mất, binh quyền Lễ thứ giao cho ông Lê Phác (em thứ ba của ông Lê Ninh). Ở hành tại cũng đã phong cho ông Lê Năng (anh em họ với ông Lê Ninh) làm Tĩnh thứ Tán lý quân vụ, thay ông Ninh...” Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Chín, 2008, 09:07:45 pm III CAO THẮNG – THỦ LĨNH XUẤT SẮC TRONG PHONG TRÀO CẦN VƯƠNG HÀ TĨNH Cao Đạt về nước gặp Cao Thắng “ Lúc bấy giờ trong thầy tớ tòng vong của ông Tôn Thất Thuyết có ông Cao Đạt người ở Tình Di, huyện Hương Sơn. Thấy sự ngoại viện không thể trông cậy được, ông bèn về nước triệu tập bạn bè cũ lại. Ông bèn tìm được ông Cao Tất Thắng, người làng Yên Đức, tổng Yên Ấp, huyện Hương Sơn, ông Nguyễn Chanh (tức Nguyễn Dật), Nguyễn Hương (tức Nguyễn Trạch) hai anh em ruột, người làng Gia Hanh, huyện Can Lộc, ông Lê Trực là em ruột của ông Lê Ninh; bèn triệu tập một kỳ hội nghị quan trọng về công cuộc tái khỉ (khởi)...” Chế tạo súng kiểu Tây “… Các ông đều công nhận rằng: nếu không có dương pháo và quân đội không luyện tập theo lối mới của các nước Âu Mỹ thì không sao có thể duy trì được, dẫu có lòng trung nghĩa hi sinh cũng vô ích. Muốn cho sự tái khỉ (khởi) được mau chóng, ông Đạt và ông Thắng bèn tìm kế hoạch để đoạt một ít chục khẩu súng Tây. “… Lúc bấy giờ ở Hà Trại thuộc huyện Hương Sơn, người Tây mới đóng một cái đồn tạm, chưa có hào lũy gì kiên cố. Hai ông bèn định kế đánh chụp cái đồn ấy để cướp súng. Đoạn rồi hai ông hợp 40 người can đảm, đều đeo đoản kiếm, đi theo đường núi đến Hà Trại. Nhân khi trời tối, các ông đâm chết ngay người lính gác rồi ào vào đồn cướp súng, xuất kỳ bất ý, quân trong đồn không kịp kháng cự và không biết thực hư thế nào, đều bỏ chạy tan tác vào rừng, bị thương và chết hơn 10 người. Hai ông lấy được 24 khẩu súng và một số đạn dược. Đó là công việc khi bắt đầu tái khởi, vào năm Mậu Tý [1888], tức là năm Thành Thái nguyên niên vậy. “Ở Can Lộc, ông Chanh, ông Trạch (tức Lãnh Hương) cũng theo cách như ở Hương Sơn, cũng dùng thủ đoạn giống như thế để lấy súng. Nhân khi có một đội lính khố xanh đi tuần ở làng Hốt (xã Lai Thạch) rồi đóng nghỉ ở làng ấy, các ông đem một đội thủ hạ 20 người, thủ đoản đao trong mình, ăn mặc theo lối nhà quê, trà trộn làm phu làng đến hầu hạ và nấu ăn cho đội lính ấy. Nhân khi lính đang ăn uống say sưa, hai ông và thủ hạ xông vào cướp lấy súng và đạn, dùng đoản đao đâm chết 17 người lính, chỉ còn một người thoát khỏi nạn ấy mà thôi. “Thế là quân Hương Sơn đã có 24 khẩu súng Tây, quân Can Lộc được 18 khẩu, còn đội quân của ông Lê Trực ở Trung Lễ thì chỉ có 12 khẩu súng Tây (đó là số súng năm Ất Dậu ông Lê Ninh vào hạ thành Hà Tĩnh lấy được 24 khẩu súng Tây, trong số 1000 khẩu do chính phủ Pháp tặng cho vua Tự Đức sau khi ký hiệp ước nhượng Nam Kỳ). Sau khi ông Lê Ninh mất và quân Cần vương Ất Dậu đều thất bại, ông Lê Trực chỉ giữ lại được 12 khẩu. Mặc dầu với một số khí giới nhỏ nhen, các ông đều dốc một lòng theo đuổi công cuộc, và nhờ có lòng trung ái của dân nên công cuộc vận động của các ông được kết quả nhanh chóng. “Tuy không có học vấn sâu xa, song ông Cao Thắng là một người có thiên tài, có tinh thần chiến đấu và tinh thần chế tạo. Ông nhận thấy thiếu thốn khí giới thì không thể làm được đại sự. Ông bèn tìm cách chế tạo súng Tây. Ông sai người về làng Trung Lương (Can Lộc đòi 16 người thợ rèn lên núi, rồi ông tháo khẩu súng ra từng bộ phận, ông giao cho cứ hai người thợ rèn phải làm một bộ phận trong khẩu súng cho in [cho giống hệt] như thế, ông thân ra đốc công. Làm xong rồi lắp lại, không khác gì khẩu súng Tây. “Song đến khi bắn thử thì lòng [nòng] súng bể [vỡ] ngay, vì rằng thợ rèn mình chưa có thể đúc sắt tốt làm lòng súng. Họ chỉ cuốn sắt lại làm lòng cho nên lòng súng không chịu nổi sức mạnh của hơi thuốc đạn. Sự không thành làm ông Thắng nản chí. Ông bèn nhờ ông Đạt sang Xiêm khảo cứu cách làm lòng súng và mua hột nổ, trong lúc ở nhà ông cứ hết sức bảo làm ra nhiều súng, chỉ trừ lòng súng thì phải đợi để tìm cách làm sao cho có hiệu quả. “Ông Đạt sang Xiêm giao thiệp với nhiều nhà chuyên môn làm sắt của Hồng Mao [nước Anh]. Họ nói: Muốn làm lòng súng thì phải nấu thép và lọc lại cho kĩ rồi đổ vào khuôn, cuối cùng chỉ dùng đá đánh cho trơn nữa mà thôi. Theo cách đúc lòng súng như vậy thì người mình chưa thể làm được; ông Đạt bèn thú thiệt trình độ của sợ [thợ] mình chưa có thể đúc được sắt như vậy. “Hồi này người Hồng Mao và người Pháp đang có nhiều sự bất hòa về vấn đề thuộc địa, cho nên có lẽ họ có lòng giúp mình. Họ bèn bày cho một cách, tuy không làm được mau chóng nhưng có thể làm được lòng súng tốt. Họ bày cho cách làm một cái lòng súng đặc bằng thép non, rồi lấy khoan bằng thép già khoan cho thành lòng súng, rồi sau tui [tôi] lại lòng súng cho già. Ông Đạt lấy làm mừng rỡ, bèn nhờ họ làm cho một ít lưỡi khoan cho đúng phân số lòng súng “ca-là-đinh” và mua thêm rất nhiều hạt nổ. Ông còn mua lại được vài chục khẩu súng lục và 10 khẩu súng trường tối tân, có thể nạp được 12 phát đạn. Ông hăm hở mong ngày đem chở về nước... “Đem cách làm lòng súng thi hành thì có kết quả ngay, bắn thử rất tốt. Song chỉ bắn được có 6 phát thôi, bắn thêm nữa đạn không phát, là vì lò xo làm bằng gọng ô, bắn nóng lên thì nó hèn [yếu] đi, không có sức phá được hạt nổ, thành thử phải bắn từng hiệp 5, 6 phát rồi lại phải nghỉ một lúc cho súng nguội; khi cần bắn nhiều thì phải chế [rót] nước lạnh vào lò xo. Súng ấy tuy không được hoàn toàn song cũng có thể dùng được. Thâu ngày thâu đêm, các ông làm gấp được 500 khẩu. “Từ khi chế được một ít súng, thanh thế quân Cần vương trong Nghệ Tĩnh ngày một bành trướng lên. Lúc bấy giờ các ông bàn với nhau rồi chia ra làm ba khu vực để làm ỷ dốc và tiện cho việc vận chuyển lương thực. Ông Cao Tất Thắng đổng lý khu vực thứ nhất gọi là Hương thứ, ông Trạch khu vực thứ nhì gọi là Can thứ, ông Lê Trực khu vực thứ ba gọi là Lễ thứ. Quân Hương thứ độ 600 người đóng tại núi Đại Ngàn, giáp với huyện Hương Khê, Hương Sơn. Quân Can thứ độ 500 người đóng tại sơn phận huyện Can Lộc, tổng Nga Khê. Quân Lễ thứ độ 300 người cũng đóng vào địa phận Can Lộc, giáp giới tổng Nga Khê và Lai Thạch. Quân Pháp tăng cường đàn áp “Vào khoảng Đồng Khánh tam niên [1889] và Thành Thái nguyên niên, trong hai hạt Nghệ Tĩnh, đối với chính phủ thì dùng niên hiệu Thành Thái mà đối với Cần vương thì dùng niên hiệu Hàm Nghi; nạp ưthuế cho chính phủ bằng tiền bạc, mà nạp thuế cho các quan Cần vương thì bằng lúa. Dân Nghệ Tĩnh bấy giờ thật là tiều tụy; nhất là làng xã nào là quê quán các vị Cần vương hoặc là cho quân Cần vương trú ngụ đều bị tàn phá hết cả, người thì bị bắn hoặc chém, nhà thì bị đốt phá, thôn hiệu bị tước hủy. Như làng Yên Đức, Tình Di ở Hương Sơn sản xuất ra ông Cao Tất Thắng và ông Cao Đạt, làng Đông Thái, phủ Đức Thọ sản xuất ra ông Phan Đình Phùng, làng Lạc Thiện sản xuất ra anh em ông Lê Ninh, làng Trùng Hanh, Can Lộc sản xuất ra anh em ông Trạch... “Dân tuy lầm than như thế mà vẫn đeo đuổi một lòng ủng hộ Cần vương. Khi ấy quan Công sứ Nghệ Tĩnh được quyền giám sát binh bị hai tỉnh và triều đình ta phong cho là Võ Vệ hầu, hiệu là quan công sứ Đô (tên Tây không được rõ). Ông Công sứ bèn dùng một số đông người thổ - trước cho làm Bang tá quân vụ; mấy người này am hiểu quen thuộc đường sá, phải hướng dẫn việc hành binh (...) Một phủ huyện đóng một cơ binh khố xanh, và một tổng lại đặt hai đến ba đồn nhỏ, mỗi đồn có một viên Bang tá. Chiến lược đó là cốt để cắt đứt đường giao thông và vận tải của quân Cần vương. Song nhờ có lòng ủng hộ của nhân dân, cho nên quân Cần vương vẫn được dễ dàng và thuận tiện về đường giao thông và vận tải... Trận thắng đầu tiên “Lần đầu tiên hai quân cơ của chính phủ tiến lên đánh ông Cao Thắng ở Hương Sơn không được chút thắng lợi gì, vì họ tưởng rằng quân Cần vương năm Kỷ Sửu này [1889] cũng chẳng khác gì quân hồi Ất Dậu [1885]. Nào ngờ quân Cần vương ngày nay có khí giới tối tân và luyện tập theo lối Âu Mỹ. “Hai bên tiếp xúc nhau đầu tiên tại địa phận xã Tĩnh Di. Ông Cao Tất Thắng đánh thế thủ, quân sĩ mai phục dưới một cái hào theo thế “trường xà” và chỉ bắn lên dăm ba phát súng khi mới giao chiến. Quân chính phủ bắn vào như mưa suốt 6 tiếng đồng hồ, từ 7 giờ sáng cho đến 1 giờ chiều, quân Cần vương không hề bắn lại. Nghe ít tiếng súng nổ, họ cho rằng quân địch có ít súng chỉ có giáo mác nhiều mà thôi, nên họ bèn tiến sâu vào trận địa quân địch. “Thấy quân ngoài đã tiến vào gần trận địa, quân Cần vương lại bắn ra dăm phát súng để khiêu địch, lập tức ngoài này lại trả lời bằng một vài giờ mưa đạn. Họ bắn đến nỗi tre gỗ trong làng không còn một cơn [cây] nào hoàn toàn, và ruộng khoai ngoài đồng không còn ruộng nào có lá nữa. Mặc dù bắn nhiều, mũi thiên - oai kia cũng không thể nào chui xuống dưới hào quân Cần vương mai phục. “Đến ngoại 4 giờ chiều, ông Cao thấy quân địch có chiều mệt mỏi và có ý khinh thường, ông dàn quân ra mai phục giữa rãnh đồng khoai. Tuy vậy, dù đối diện nhau cũng không thể bắn xuyên qua vồng khoai. Ông Cao bèn lấy một đội quân tinh nhuệ lui ra khỏi tầm đạn của địch, đi vòng ra phía cạnh sườn bên phải của quân địch rồi vòng vào rất kín đáo. Quân đội của chính phủ đương khi bất ý nghe súng liên thanh đổ dồn vào cạnh sườn mình, nghe tiếng nổ hình như ở bên lỗ tai. Đột nhiên, tiếng người kêu cứu, tiếng người rên thở rầm rị cả lên. Quân chính phủ bị thương rất nhiều, tính cả chết và bị thương hơn 50 người. Quân sĩ lộn xộn, hồn chiến đấu không còn; thấy vậy các viên mẫu binh [sĩ quan người Pháp] cho lính thổi kèn lui quân. Muốn lui đã sẵn, lại nghe giọng kèn, quân sĩ vội vàng tháo lui chẳng theo hàng lớp gì. Thấy quân địch lộn xộn rút lui thì quân ở trận tuyến chính cũng nhảy lên tấn công. Đạn ở mặt trước bắn sang và ở mặt sườn bắn lại, hai bên đều giáp công, quân chính phủ rút lui rất vất vả. “Vì có trận đánh này cho nên mấy người mẫu binh Tây đều cho rằng quân của ông Cao đã luyện tập theo lối Âu Mỹ và quân sĩ có một số khí giới mới đáng lưu tâm. Nhờ có trận đánh đó, lòng sốt sắng của nhân dân lại hưởng ứng lên nhiều và danh tiếng ông Cao cũng thêm lừng lẫy...” Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Chín, 2008, 09:22:58 pm Chỉnh đốn tổ chức nghĩa quân “… Quân Can thứ, Lễ thứ cũng đều theo gương quân Hương thứ mà tổ chức quân binh theo lối mới cả. Quân lính đều ăn mặc như nhau, áo quần đen, chân vấn xà-cạp, đầu đội nón chóp con bọc vải, lưng mang nịt đạn và lưỡi lê. Nhưng vì súng ống chưa đủ, cho nên quân thứ nào cũng hãy còn một đội mang gươm trường hoặc mã tấu để chờ khi đánh giáp nhau hoặc đột kích. Súng ống tuy mỗi ngày một làm thêm, song cũng không được bao nhiêu, vì rằng số lượng tiền cung cấp trong hai tỉnh họa may là vừa đủ quân nhu, không còn tiền bạc đâu mà mua khí giới cho nhiều. “Đoạn rồi các quan Cần vương mở một kỳ đại hội nghị để thảo luận về bản chương trình kháng chiến. Bèn phụng chỉ vắng mặt suy tôn nhau lên để đặt trật tự trong quân ngũ: Tôn ông Cao Thắng làm Hương thứ Đổng nhung; ông Cao Đạt làm Hương thứ Lãnh binh; ông Cao Tất Quý (em ruột ông Cao Thắng) làm Phó Lãnh binh, ông Ngô Quảng làm Tác vi Phó Lãnh binh..., một ban võ quan độ 15 người đều thuộc quyền ông Đổng nhung Cao Tất Thắng. Tôn ông Nguyễn Trạch ở Can thứ làm Chánh Lãnh binh, ông Chanh làm Phó Lãnh binh và một ban võ quan độ 10 người đặt dưới quyền ông Lãnh Trạeh. Còn ở Lễ thứ thì tôn ông Lê Nang làm Tán lý Quân vụ, ông Lê Trực làm Thương biện Quân vụ, ông Trần Cấp làm Lãnh binh, một ban võ quan độ 10 người đều đặt dưới quyền hai ông văn quan Lê Nang và Lê Trực. “Thứ nào tuy có người chủ trương thứ ấy, song chưa có một người chủ trương toàn thể; bấy giờ các quan nghị luận phân vân về việc này. Vả lại thấy văn thân như cụ Phan Quang Cự, Phan Trọng Mưu đều đã ra đầu thú cả rồi, khó tìm được một ông văn thân có danh vọng để suy tôn làm minh chúa... Lúc ấy, ông Tám Nang và các ông ở Lễ thứ bàn định với các quan văn thân toàn hạt, để mời cụ Phan Đình Phùng về làm chủ, điều đó được toàn thể hoan nghinh...” Trận đánh ở Yên Vượng [?] “Cụ Phan [vừa ở Bắc trở về] đóng tại Yên Vượng được hai ngày, bỗng có tin báo quân địch do ba đường tiến vào; đạo thứ nhất từ Khiêm Ích tiến ra, đạo thứ hai từ Linh Cảm tiến xuống, đạo thứ ba từ các đồn nhỏ Hữu Chế, Đông Khê, Trung Lễ tiến vào. Ba đạo quân ấy ước độ 1500 người. Cụ Phan bàn với các quan lui quân vào sơn phận, nhất là tránh sự tàn phá giữa dân gian, hai là được lợi về địa hiểm. “Ông Cao Tất Thắng, ông Trạch đều xin Cụ cho phép đánh một trận giữa bình nguyên để tỏ cho quân địch hiểu lực lượng của quân Cần vương ra thế nào và để an ủi lòng trung nghĩa của nhân dân chờ đợi đến ngày toàn thắng. Được lịnh, các quan bèn sai một viên kiện tướng và 200 quân rước Cụ vào sơn phận, còn quân ba thứ chia làm ba đạo ra nghinh địch. “Đây là lần thứ hai, đại quân Cần vương sắp sửa tiếp xúc với quân Bảo hộ. Lần này, quân Bảo hộ không dám khinh thường, họ tiến rất cẩn thận. Theo chiến lược của ông Chưởng Cao [Cao Thắng], thì quân ba thứ phải ra nghinh địch trước, và lập ra trận thế vững vàng để khiến cho ba đạo quân địch phải tiến công trước khi liên lạc được với nhau. Lần thứ nhất, Hương thứ lập thế công thì Can thứ, Lễ thứ giữ thế thủ, mặc dầu quân địch có tấn công dữ dội đến mức nào. “Ông Chưởng Cao thân ra đốc chiến trước mặt trận, ông phái ông Đề Đạt đem 100 quân khỏe mạnh tàng hình làm dân quê đi lánh nạn, mang tơi đội nón đi vòng ra phía sau trận địa quân địch, sẽ xuất kỳ bất ý đánh chụp vào nơi quân địch để lương thực đạn dược, rồi cướp lấy hết quân nhu của địch, khiến cho quân địch thiếu đạn dược thì không có thể đánh được lâu. Chiến lược ấy rất có hiệu quả. Trong khi quân hai bên đang đánh nhau dữ dội, quân địch ba mặt đều tiến công, còn quân Cần vương thì chỉ có đạo quân Hương thứ lập thế công mà thôi. Bắn nhau dữ dội, đến nỗi khói đạn tỏa ra túi [tối] như trời ban đêm, cách nhau 20 mét không thấy rõ mặt người. Cuộc tấn công bắt đầu từ 7 giờ sáng, đến 3 giờ chiều bỗng nhiên thấy tiếng súng bắn phía sau trận địa quân địch và khói đen bay lên nghi ngút. Nguyên là ông Đề Đạt đem quân tàng hình đánh chụp vào nơi để lương thực và đạn dược của quân địch. Quân địch giữ ở đó cũng ước độ 100 người, song bị đánh bất ý không thể sao địch nổi thế đánh đột kích của quân võ sanh, phải bỏ chạy tán loạn, bỏ lại đến hai phần quân nhu trước trận địa. Nghe sung bắn phía sau đồn lương thực và thấy khói lửa bốc lên nghi ngút, quân Bảo hộ lập tức sai người về cứu viện, nhưng về chưa đến nơi thì đã bị quân của ông Đề Đạt chẹn đánh. Thấy quân nhu mất hết, biết sự duy trì không lâu được, và muốn tránh cho khỏi sự bao vây, viên mẫu binh các đạo quân Bảo hộ phải hạ lệnh cho quân sĩ lui về phía tả dực để tránh khỏi làn đạn trước sau bắn lại. “Thấy quân địch đã núng thế, ông Chưởng Cao bèn ra lệnh cho quân sĩ quay về phía hữu dực để tấn công quân địch đang rút lui rất gấp. Đến khi đạo quân địch đã rút lui được xa, quân Hương thứ lại lui về hợp sức với quân Can thứ để tấn công đạo quân thứ nhì. Đạo quân này tấn công từ khi sáng đến 5 giờ chiều không có hiệu quả gì cả, nay lại bị quân hai thứ phản công, không thể sao địch nổi. Vả lại nghe nhân dân phía sau trận địa xôn xao bàn bạc với nhau rằng: đạo quân thứ nhất của Bảo hộ đều bị diệt cả rồi, lúc ấy hồn chiến đấu chẳng còn chút nào, bèn rút lui một cách không có trật tự. Nguyên là ông Chưởng Cao đã cho vài ba người đến các làng ở sau trận địa quân địch, phao ra những tin bất lợi để cho quân địch khiếp chiến. Đạo quân thứ hai rút lui lộn xộn như thế, thiệt hại rất nhiều. “Đoạn rồi quân Hương thứ được lệnh nghỉ ngơi, còn quân Can thứ thì phải hợp sức với quân Lễ thứ để đánh đạo quân thứ ba. Đạo quân ấy tấn công từ 7 giờ sáng đến 7 giờ tối đã mệt nhọc nhiều rồi, bỗng nhiên lại bị hai đạo quân phản công, vả lại trời đã tối tăm rồi, chỉ sợ bị bao vây cả bốn mặt, họ vội vàng lui quân để tránh mấy sự nguy hiểm đó. Đạo quân ấy rút lui theo đường đại lộ và trong khi trời tối tăm cho nên không thiệt hại gì mấy. “Kết cuộc trận ấy, quân Cần vương bị thương và chết mất 10 người, còn quân Bảo hộ thì chết và bị thương mất 50 người và mất một số thuốc đạn khá nhiều. Trận đánh thứ hai này tuy không được kết quả gì mấy, song để tỏ cho cụ Phan Đình Phùng biết rằng quân Cần vương ngày nay không phải như quân hồi Ất Dậu. Sau trận ấy rồi, quân ba thứ lại về ba nơi, còn tổng đại dinh của cụ Phan thì đóng tại xã Vụ Quang thuộc huyện Hương Khê bây giờ”. Sắp xếp lại bộ chỉ huy nghĩa quân “Các quan thân bèn làm lễ tôn cụ Phan lên làm minh chủ; và Cụ chỉ xin giữ chức cũ của Đức Hàm Nghi phong cho Cụ tại Sơn phòng Hương Khê: Phấn trung tướng quân, lĩnh Binh bộ Thượng thư, kiêm Nam - Bắc Bình di Quân vụ Đại thần. Cụ bèn nhiếp phong cho ông Cao Tất Thắng làm Chưởng vệ, đổng suất Hương thứ quân vụ, ông Cao Đạt làm Phó Đề đốc, ông Cao Tất Quý làm Chánh Lãnh binh, ông Nguyễn Khương (tức Trạch) làm Phó Đề đốc, đổng suất Can thứ quân vụ, ông Nguyễn Chanh làm Chánh Lãnh binh, con đầu ông Trạch là Nguyễn Hoan làm Tác vi Phó Lãnh binh, ông Lê Trực làm Thương biện quân vụ, đổng suất Lễ thứ, ông Trần Cấp làm Phó Lãnh binh, ông Trần Cát làm Tác vi Phó Lãnh binh, ông Thương Thuận làm Thạch thứ Thương biện quân vụ (ông người làng Ngụy Dương, Thạch Hà). Và từ Hiệp quản, suất đội trở xuống đều được gia phong cả”. Trận đánh lớn ở Vụ Quang [năm 1892?] Năm Thành Thái thứ tư [1892], chính phủ Bảo hộ đem đại quân lên tiến đánh cụ Phan. Một đạo từ Lào kéo xuống đánh ở phía sau Vụ Quang, một đạo tiến từ Hương Sơn, Hương Khê lên. Hai đạo quân ấy ước độ 3000 người, trong số đó chỉ có độ 300 người Pháp, còn lại toàn là người bản xứ. Họ tiến lên rất chậm và cẩn thận, mang theo lương thực, khí giới và thuốc đạn rất nhiều, có ý muốn kéo dài cuộc chinh phạt. “Biết được tin quan trọng này, cụ Phan bèn mở một kỳ hội nghị khẩn cấp và triệu quân các thứ về Đại dinh. Kỳ hội nghị ấy cốt để bàn cách nghinh địch hay rút quân lên Ai Lao. Bấy giờ ông Cao Tất Thắng xin quyết ở lại nghinh địch, ông bèn hiến kế với cụ Phan như sau: “Đắp ngang sông Vụ Quang thành một cái đập lớn, trên đập nước lên cao, rồi chặt gỗ và nứa mứt nhọn [vót nhọn] một đầu, thả lên trên đập rất nhiều, có độ hàng vạn cậy. Dưới đập nước phải cạn, lòi [lộ] dòng sông ra không khác gì một cái khe cạn. Hai bên bờ sông, cây cối và lau lách rất tốt, thì đặt toàn là bẫy lò ho (bẫy người sơn cước hay làm để bẫy hươu nai và heo rừng) và cắm thiệt nhiều dông [chông] theo hai bên bờ sông một quãng độ 4 kilômét; và mình mai phục mỗi bên bờ sông độ 300 quân, đợi khi nào quân địch lộn xộn thì khỉ (khởi) súng lên đánh đuổi. Lại phục một đội quân trên đập, thấy quân địch tiến hết vào quãng sông cạn thì phá đập cho nước xuống, nhất là đợi khi quân địch nghỉ ngơi hoặc ăn cơm. Quân địch bất ý bị nước ào xuống, thứ thì bị trôi, thứ thì bị mứt [dầu nhọn] gỗ đâm nhằm [đâm trúng], tất phải chạy lên hai bờ sông, chạy lên đó thì tất bị bẫy và dông của ta, lúc bấy giờ quân ta đuổi đánh, họ tất bị diệt. Còn quân ở Lào tiến xuống thì ta cho dăm bảy người thân tín trá xưng là người đi rừng làm nứa làm gỗ cách Vụ Quang độ dăm bảy chục cây số, khi quân địch đi đến đó, thế tất cũng sẽ bắt bọn người này dẫn đường đi Vụ Quang, đáng lẽ đi đường bộ ba ngày thì đem họ đi quanh đi quẩn cho đến 6, 7 ngày mới đến; khi đến gần Vụ Quang thì dẫn họ vào nơi mai phục hiểm trở của mình. Ta đem toàn quân ra chỗ mai phục, quân địch không chống lại nổi, tất cũng bị diệt. Mặt khác, ta đem một tiểu đội đi đóng ở phía sau trận địa của họ, đợi khi quân họ tháo về thì đánh cướp lấy quân nhu. Cứ như thế, đạo quân Pháp từ Hương Khê tiến lên theo đường sông tất phải bị diệt trước ba ngày thì đạo quân ở Lào mới xuống đến nơi. Một khi diệt được đạo quân ở mặt trước rồi, ta có thể đem toàn quân quay về đánh mặt sau. Cụ Phan cho rằng kế đó có thể có hiệu nghiệm, bèn ủy cho ông Cao làm Trận tiền đô Chỉ huy sứ để sắp xếp việc nghinh địch. “Công việc xếp đặt xong đâu đó, quả như ông Cao dã liệu, quân Bảo hộ theo sông tiến lên, bình lương đều chở bằng thuyền. Thuyền lên hết nước [lên đến đoạn sông cạn nước] bèn đổ quân lên bộ, giữa sông khô ráo không có nước, ngờ rằng về tiết nắng nước sông cạn như thế, cứ theo sông tiến lên. Khi còn cách Vụ Quang độ 20 ki-lô-mét, trời đã gần túi [tối], quân Bảo hộ dừng lại nấu ăn, nghỉ ngơi để ngày mai tiến lên Vụ Quang. “Đương khi bất ý, thấy nước giữa sông đổ xuống như thác, nứa gỗ đâm xuống như tên bắn, quân sĩ không kịp thu thập hành lý, thứ thì bị nước cuốn đi, thứ thì bị nứa gỗ đâm nhằm [trúng], thứ đóng ở gần bờ sông thì chạy lên núi, thứ lên hai bờ sông thì bị dông [chông] và bẫy đâm. Đương khi rối loạn như thế, bỗng thấy hai bên súng bắn như mưa, quân sĩ không còn hồn chiến đấu nữa, chỉ theo hai bên bờ sông tháo lui. Khi tháo chạy, số lính bị thương bị đạn không nhiều mà bị thương vì dông bẫy thì rất nhiều. Đạo quân 1500 người có lẽ không mấy người tránh khỏi bị thương, còn số chết phỏng chừng 100 người, quân nhu, khí cụ bị trôi mất nhiều. “Đoạn rồi quân Cần vương quay lại mặt sau, sắp xếp vừa xong thì quân địch tiến đến nơi mai phục. Chỗ ấy rất hiểm, hai bên núi dốc, ở giữa có khe, quân chỉ đi leo bên mép khe mà thôi. Còn quân mai phục thì đóng nửa chừng đỉnh núi. Khi đạo quân Bảo hộ lọt vào chỗ ấy rồi, thì quân mai phục hai bên bắn nhào xuống, quân Bảo hộ miễn cưỡng bắn lại, song không có hiệu quả gì hết, vì đứng ở dưới móp [mép, bờ] khe bị cây cối che khuất, không thấy gì trên núi, chỉ thấy đạn trên núi bắn xuống như mưa. “Viên mẫu binh thấy trận địa của mình rất nguy hiểm, bèn hạ lệnh cho quân lui ra để lập trận thế mới, nhưng việc lui ra không dễ dàng vì bị quân ta đánh đuổi theo rất gấp. Lui được một khúc thì lại nghe tiếng súng trong núi bắn ra, không hiểu vì sao quân ta lại lọt ra sau trận địa, không dám dừng quân, cứ việc tháo lui. Lui được một khúc nữa lại nghe tiếng súng trong núi bắn ra. Quân Bảo hộ nghĩ rằng quân địch đã chẹn hết đường tháo lui của mình, nhưng cũng cố lui thêm một khúc nữa rồi dừng lại lập trận tuyến xin quân cứu viện, nghĩ rằng đã cách xa quân địch. “Nào ngờ quân Cần vương đã bọc nhíp ba mặt, ngay khi đạo ấy tiến vào thì đã bị mấy người dụ địch đem đi theo đường cong queo nguy hiểm, đến khi quân Cần vương đuổi theo thì mấy người này lại đi đường khác nên đã thoát ra được ở phía sau trận địa quân địch. Họ cũng đã trù nghĩ trước: khi lui đến một bãi lau lách rộng rãi, thế nào quân Bảo hộ cũng đóng tại đó để lập đồn lũy chờ quân cứu viện và đợi tin tức đạo quân mặt trước... Quả nhiên, khi rút quân đến đó, quân Bảo hộ dừng lại, định lập trận tuyến. Bỗng dưng thấy lửa bốc lên nghi ngút, theo chiều gió lửa bén theo lau lách, cháy lên rất mạnh, quân sĩ vội vàng ra chữa cháy; kế đó, tiếng súng ba bề bốn bên bắn lại như mưa, bấy giờ mới biết là trúng kế, phần thì bị lửa tấn công, phần thì bị quân ta giáp công sấp gấp, mà quân rút lui thì đã nhọc mệt, tâm thần không định, không thể nào chiến đấu được, chạy tán loạn, đội ngũ không còn chỉnh tề. Thêm nữa, trận cuối cùng này đã sâu vào đất Lào nhiều rồi, nên quân Cần vương không đuổi theo nữa. Đạo quân này không bị thiệt hại nhiều như đạo mặt trước, chỉ tử thương độ 60 người. Thế là trận tấn công của chính phủ [thực dân] không đem được chút kết quả gì mà lại có phần thiệt hại. Cao Thắng hi sinh “Sang năm Quý Tỵ [1893], cụ Phan Đình muốn lập một căn cứ ở Sơn..., tỉnh Nghệ An để cho rộng phạm vi và làm nơi dự trữ lương thực do tỉnh Nghệ cung cấp. Cụ bèn sai ông Đề Thắng đem một cánh kiện binh độ 300 người sang đánh các đồn quân ở hạt Thanh Chương. Ông Thắng ra đánh nhiều trận oanh liệt, quân các đồn bị nhiều trận thiệt hại. Rốt cuộc không may ông Thắng bị một viên đạn lạc xuyên qua phổi. Ông Đề Đạt và ông Ngô Quảng đem ông về đến đất Bạch Sơn thì ông tắt thở. “Cụ Phan Đình được tin ông mất thương tiếc vô cùng. Cụ nói rằng thế là một cánh tay của Cụ bị cắt đứt. Từ khi ông Đề Thắng mất, thanh thế quân Cần vương giảm mất quá nửa. Cũng trong năm ấy, ông Lãnh Chanh tử trận tại Kỳ Anh, ông Thương Trực tử trận tại Lạc Thiện. Các ông Lãnh Cấp và Lãnh Cát cũng đều tử trận, các tướng lĩnh ngày một hao mòn, thanh thế cũng ngày một suy giảm. (Theo Nguyễn Phan Quang: Việt Nam Cận đại. Những sử liệu mới. Tập 2 Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, 1998, tr.147-263) Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 26 Tháng Chín, 2008, 08:34:32 pm PHAN TRỌNG BÁU QUÂN THỨ TRONG KHỞI NGHĨA PHAN ĐÌNH PHÙNG - CAO THẮNG Quân thứ (chỗ đóng quân) trong khởi nghĩa Phan Đình Phùng là một vấn đề thú vị vì các phong trào chống Pháp cuối thế kỷ XIX chưa có nơi nào tổ chức quân thứ. Vậy quá trình hình thành và phát triển của quân thứ như thế nào? Vai trò của nó trong khởi nghĩa và những bài học có thể rút ra trong tổ chức quân thứ ra sao? Là những vấn đề sẽ được trình bày trong bài viết này. I - Từ 40 địa bàn khởi nghĩa đến 15 căn cứ, hay là sự hình thành quân thứ: Sau cuộc phản công ở kinh thành Huế thất bại ngày 5-7-1885, Hàm Nghi xuất bôn hạ Chiếu Cần vương thì một phong trào chống Pháp bột phát khắp toàn quốc, đặc biệt là ở Nghệ Tĩnh. Theo thống kê của chúng tôi, hai tỉnh này đã có 35 cuộc khởi nghĩa, nếu tính cả Thanh Hoá và Quảng Bình thì có đến 40 cuộc. Các thủ lĩnh khởi nghĩa đều chiếm lấy một địa bàn nhất định rồi kéo đi đánh quân Pháp - lúc bấy giờ đã đặt chân lên Trung Kỳ. Tuy nhiên, những cuộc khởi nghĩa ở giai đoạn này đều mang tính chất tự phát và rất phân tán nên không đủ mạnh để đương đầu với kẻ thù. Riêng Hà Tĩnh tuy bị giặc Pháp đàn áp, nhưng phong trào vẫn được duy trì. Tại Hương Sơn, đội quân của Cao Thắng chẳng những không bị tiêu diệt mà ngày càng lớn mạnh. Lúc đầu, Cao Thắng định xây dựng căn cứ ở Cồn Chùa, phía Tây Bắc huyện Hương Sơn nhưng thấy đó chỉ là chỗ thủ hiểm khó phát triển, ông lại dời về Thượng - Hạ Bồng, huyện Đức Thọ. Sau khi ổn định tổ chức, củng cố lực lượng, Cao Thắng đã mời Phan Đình Phùng ở Bắc về trực tiếp chỉ đạo phong trào. Với cương vị Thống đốc Quân vụ Đại thần (do Hàm Nghi phong từ trước), Phan Đình Phùng thấy cần thống nhất lực lượng chống Pháp trong 4 tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình thêm một bước nữa, sao cho tất cả đều quy về một mối thì mới đủ sức mạnh để chống lại kẻ thù. Ông đã căn cứ vào địa bàn đóng quân của các thủ lĩnh hiện đang hoạt động mà chia làm 15 quân thứ: Nghệ An có hai quân thứ: Diễn thứ (Diễn Châu) do Lê Trọng Vinh chỉ huy; Anh thứ (Anh Sơn) do Nguyễn Mậu đứng đầu. Hà Tĩnh có 10 quân thứ: Khê thứ (Hương Khê) do Nguyễn Thoại chỉ huy; Hương thứ (Hương Sơn) do Nguyễn Huy Giao chỉ huy; Diệm thứ (làng Tình Diệm, Hương Sơn) do Ngô Quảng đứng đầu; Lại thứ (tổng Lai Thạch) do Phan Đình Nghinh chỉ huy; Lễ thứ (làng Trung Lễ) do Nguyễn Cấp và Lê Trực lãnh đạo; Can thứ (Can Lộc) do Nguyễn Chanh và Nguyễn Trạch chỉ huy; Lai thứ (tổng Lai Thạch, huyện Can Lộc) do Phan Đình Nghinh (cháu Phan Đình Phùng) đứng đầu; Cẩm thứ (huyện Cẩm Xuyên) do Hoàng Bá Xuyên và Dương Huy Dừ phụ trách; Kỳ thứ (Kỳ Anh) do Võ Phát và Nguyễn Tiến Đắc chỉ huy; Thạch thứ (Thạch Hà) được giao cho Nguyễn Huy Thuận và Trần Danh Lập. (ở đây có nhầm lẫn không biết do đâu: có Lại thứ? mà không có Nghi thứ (do Ngô Quảng chỉ huy)-Cxd) Các tỉnh khác như Thanh Hoá chỉ có quân thứ duy nhất là Thanh thứ do Cầm Bá Thước chỉ huy; Quảng Bình có Bình thứ do Nguyễn Thụ và Lệ thứ (huyện Lệ Thủy) do Nguyễn Bí đứng đầu. Riêng Thượng Hạ Bồng là căn cứ trung tâm đầu não do Phan Đình Phùng và Cao Thắng trực tiếp chỉ huy, không đặt vào một quân thứ nào. Như vậy, qua một giai đoạn chiến đấu từ hơn 40 điểm đóng quân buổi đầu, lúc này đã hình thành 15 quân thứ khá ổn định. Quân thứ được chia theo các nguyên tắc sau: - Phải là địa bàn của một thủ lĩnh đã tồn tại qua thời gian “thử lửa” với quân địch. Ví dụ Lê Trọng Vinh ở Diễn Châu, Nguyễn Mậu ở Anh Sơn là những người đã từng khởi binh từ những năm đầu trong khởi nghĩa Nguyễn Xuân Ôn. Sau khi Nguyễn Xuân Ôn bị bắt, một số thủ lĩnh hoặc bị giết hoặc phải trốn tránh, thì Lê Trọng Vinh vẫn hoạt động dọe theo đường giao thông huyết mạch từ Diễn Châu lên Đô Lương và liên hệ với Nguyễn Mậu, từ đó mà có Diễn thứ và Anh thứ. - Tên gọi của quân thứ có thể lấy theo tên tỉnh, huyện, hoặc xã. Có trường hợp tên một tỉnh được đặt cho một quân thứ, nhưng nếu có thêm một quân thứ trên đất của tỉnh đó nữa thì lấy tên huyện. Như tỉnh Quảng Bình đã có Bình thứ rồi lại còn có Lệ thứ (là của huyện Lệ Thủy); huyện Hương Sơn đã có Hương thứ lại còn có Diệm thứ (làng Tình Diệm) v.v... Như vậy, các quân thứ không phải được phân cấp theo quản lý hành chính (như tỉnh là cấp trên của huyện, huyện là cấp trên của xã...) mà tất cả đều qui về một mối do Phan Đình Phùng và Cao Thắng ở trung tâm Thượng Hạ Bồng điều hành. Riêng Thanh Hoá là một ngoại lệ, Thanh thứ không nói lên quy mô của tỉnh này mà chỉ đại diện cho miền Tây Thanh Hoá, nơi có phong trào khá mạnh, trong khi ở đồng bằng đã tạm lắng sau thất bại của khởi nghĩa Ba Đình. Một điểm nữa là quân thứ có khi cũng còn để gây thanh thế, động viên phong trào hơn là hoạt động thực tế của nó. Bình thứ và Lệ thứ là một ví dụ. Khi thành lập các quân thứ này, phong trào chống Pháp ở Quảng Bình đã giảm sút, nhưng để hai quân thứ này hiện diện, các nhà lãnh đạo cũng muốn nói lên quy mô của cuộc khởi nghĩa không chỉ bó hẹp trong 1, 2 tỉnh mà là cả 4 tỉnh miền Trung. II - Quân thứ trong tổ chức hậu cầu và chiến đấu Quân thứ đã hình thành và trải rộng trên 4 tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình nhưng chủ yếu là Nghệ - Tĩnh. Mỗi quân thứ đã cử về Thượng - Hạ Bồng khoảng 20 người làm nhiệm vụ giao thông liên lạc. Đội quân của Cao Thắng khoảng 300 người, trang bị chủ yếu bằng súng trường tự tạo, đóng ở Rú Cộng và một số đồn trại xung quanh bảo vệ cho Thượng - Hạ Bồng. Đây là một đội quân khá tinh nhuệ, quen trận mạc, do Cao Thắng trực tiếp chỉ huy. Công tác hậu cần được giải quyết khá cơ bản, nhất là lương thực và vũ khí. Đa số các quân thứ đều có ở trung du hoặc đồng bằng, gần các làng mạc trù phú, do đó việc vận động nhân dân đóng góp lương thực khá thuận lợi. Nhân dân tuy phải đóng góp cho cả hai bên (cho Pháp và cho nghĩa quân), nhưng nhờ uy tín của các thủ lĩnh, nhất là Phan Đình Phùng (thường gọi là quan Đình) và Cao Thắng (còn gọi là ông Chưởng vệ) nên họ vẫn nhiệt liệt hưởng ứng. Thóc lúa ở các làng xã đóng góp đều được các quân thứ ghi chép cẩn thận, ngoài chi dùng tại chỗ còn đưa về trung tâm để dự trữ. Lương thực được cất giấu ở những nơi kín đáo dưới hầm đất đã đốt nung cho cứng lại, có chỗ để cối xay giã. Về quân trang, có tư liệu cho rằng nghĩa quân mặc đồng phục như lính tập. Điều này khó thực hiện trong điều kiện lúc bấy giờ. Có thể họ đã mặc những bộ quần áo chiến lợi phẩm để làm một số việc khi cần thiết1, còn đa số là “áo thâm khăn ngại” như nghĩa quân Lệ thứ, ngoài ra là áo quần nhuộm nâu, một thứ vải mà phụ nữ ven sông La (Đức Thọ) và sông Phố (Hương Sơn) dệt quanh năm. Trong sản xuất vũ khí, người ta thường nhắc tới Cao Thắng với nhiều sáng kiến trong sản xuất súng trường kiểu 1874. Đây là loại vũ khí bộ binh hiện đại lúc đó. Phương pháp của ông và các cộng sự là tháo từng bộ phận một của khẩu “súng mẹ” ra rồi theo mẫu đó mà thay vào bằng những chi tiết tự rèn lấy cho đến lúc có khẩu súng hoàn chỉnh. Nhờ phương pháp thủ công đó mà một số nơi như Can thứ đã có thể tự rèn được súng “kiểu Tây”. Trong khi cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng - Cao Thắng đang có những bước phát triển mới thì bọn xâm lược cũng đã đàn áp được những lực lượng đối kháng ở Bắc và Trung Kỳ, tập trung quân đội để bình định những vùng còn lại. Sau khi củng cố lực lượng, Phan Đình Phùng chủ trương mở rộng hoạt động, các quân thứ chủ động tấn công tiêu diệt địch ngay trên địa bàn đóng quân để bảo vệ căn cứ. Mùa hè 1890, nghĩa quân Can thứ đã tiêu diệt đồn Trường Lưu, Diệm thứ đã đánh đồn Nầm. Đồn Linh Cảm cũng bị tấn công đến 2, 3 lần. Cuối tháng 6-1890, quân Pháp định bất ngờ tấn công đồn Trung Lễ, nhưng bị chỉ huy Lễ thứ là Lê Phất, Tác Can, Nguyễn Cấp phát hiện và tiêu diệt. Tháng 10-1890, nghĩa quân Can thứ do Nguyễn Chanh chỉ huy lại tấn công đồn Trường Lưu lần thứ hai và phục kích địch tuần tiễu ở Gia Hanh, Phú Lộc, Hốt... Trong khi đó, nghĩa quân Diễn thứ do Đề Niên và Dương Quế Phổ chỉ huy đã tập kích vào đồn Phủ Quỳ (Nghĩa Đàn) đêm 24-7-1890 buộc địch phải rút về Cầu Giát. Nghĩa quân Anh thứ của Đề Mậu cũng đã luồn về đồng bằng tiêu diệt các đồn lẻ dọc đường từ Anh Sơn đi Diễn Châu và uy hiếp phủ lỵ. Để ngăn chặn những hoạt động của nghĩa quân, thực dân Pháp đã mở nhiều cuộc càn quét vào các quân thứ. Đầu tháng 9-1891, chúng đã điều một đại đội từ thị xã Hà Tĩnh, phối hợp với các đồn Linh Cảm, Nam Huân, Chợ Bộng, Tri Bản, đánh vào Truông Vắt vùng giáp ranh giữa ba huyện Thạch Hà, Can Lộc, Hương Khê - là những căn cứ bảo vệ từ xa cho trung tâm. Nếu chiếm được khu vực này, chúng sẽ dồn lực lượng đánh vào Thượng - Hạ Bồng, đại bản doanh của cuộc khởi nghĩa. Tuy nhiên, cuộc hành quân kéo dài 15 ngày không đạt kết quả, bọn địch bị tiêu hao khá nhiều, còn các quân thứ vẫn bảo vệ được địa bàn của mình. Đầu tháng 3-1892, quân Pháp lại tổ chức một trận càn lớn vào Tràng Sim, vùng giáp ranh giữa Nam Hương Sơn về Bắc Hương Khê. Nghĩa quân đã chiến đấu rất linh hoạt. Một mặt Khê thứ và Diệm thứ đánh chặn quân đi càn, mặt khác để kéo lực lượng địch về đồng bằng, “đỡ đòn” cho miền núi. Nguyễn Huy Thuận ở Thạch thứ và Nguyễn Tiến Đắc ở Kỳ thứ tập kích tiêu diệt đồn Voi và một số đồn lẻ khác làm chúng phải bỏ dở trận càn vào Tràng Sim, kéo về cứu nguy cho đồng bằng. Sau hai lần càn quét không kết quả, lần thứ ba, quân Pháp đã điều những lực lượng tinh nhuệ tiếp tục càn vào Khê thứ - nơi chúng tin chắc có đại bản doanh của nghĩa quân. Trận càn do Lambert, Giám binh Hà Tĩnh, chỉ huy. Sau khi tập kết lực lượng ở Khê Thượng, địch âm mưu bao vây khu căn cứ Hói Trùng, Hói Trì. Cao Thắng đã chỉ đạo nghĩa quân Lễ thứ và Khê thứ phục kích địch dọc đường tiến quân và cho một bộ phận bất ngờ đột kích khi chúng mới đặt chân lên địa đầu Hương Khê, diệt và làm bị thương 15 tên, chính Lambert cũng trúng thương. Trong khi lực lượng của giặc lùng sục không có kết quả ở rừng núi, thì Nguyễn Huy Thuận lại táo bạo đột kích lần thứ hai vào thị xã Hà Tĩnh diệt một tiểu đội khố xanh, phá nhà lao, rồi nhanh chóng rút lui. Trận càn của địch một lần nữa thất bại. Rút kinh nghiệm sau những thất bại trong thời gian qua, quân Pháp thay đổi kế hoạch, không tập trung quân càn quét dài ngày, vì như vậy sẽ “hở sườn”, mà tăng thêm quân cho các đồn lẻ, bao vây các trọng điểm, đặc biệt là căn cứ Vụ Quang, Ngàn Rươi. Ở vùng đồng bằng chúng bắt nhân dân rào làng, gọi là “dè phiên ly” để cô lập nghĩa quân, lập “phu đoàn kết” là tổ chức tuần tráng có vũ trang, ráo riết tuần tra ngày đêm trong thôn xóm. Năm 1893, Cao Thắng định đột kích vào Vinh để nới lỏng vòng vây của địch, nhưng không may ông đã hi sinh trong trận đồn Nu, gây một tổn thất lớn cho nghĩa quân. Mặc dầu nhân dân vẫn tìm cách để tiếp tế trước sự o ép của địch như dùng cần buộc bò để ném các gói lương thực ra ngoài hàng rào, cải trang thành những sơn tràng hay thợ đốt than để mang gạo muối cho nghĩa quân nhưng vẫn không thấm vào đâu so với những khó khăn ngày càng chồng chất. Một số quân thứ phải tự giải tán, trốn sang Lào để khỏi bị tàn sát; một số nhỏ khác thì kéo về tập trung ở Vụ Quang - Ngàn Rươi. Do thiếu lương thực, vũ khí, lại mất một tướng tài là Cao Thắng nên tinh thần chiến đấu của nghĩa quân bị suy sụp nghiêm trọng. Sau khi Phan Đình Phùng mất, cuộc khởi nghĩa thất bại, các quân thứ lần lượt tan rã. III - Vài nhận xét. Quân thứ là một tổ chức hợp lý trong cuộc chiến không cân sức giữa ta và địch. Như đã chứng minh, quân thứ trong khởi nghĩa Phan Đình Phùng - Cao Thắng hình thành trên cơ sở các cuộc khởi nghĩa địa phương. Từ đồng bằng đến miền biển đều có quân thứ, do đó những hoạt động của địch đều bị quân ta phát hiện và ngăn chặn kịp thời. Đó là sự hợp lý trong bố trí thế trận. Địa bàn của cuộc khởi nghĩa chủ yếu là vùng Nghệ Tĩnh, nơi nhân dân có tinh thần yêu nước nồng nàn, kinh tế chủ yếu là nông nghiệp nhưng lại có các làng nghề quan trọng, do đó có điều kiện tương đối thuận lợi cho việc cung cấp lương thực và sản xuất vũ khí, kể cả súng trường quân dụng. Đó là sự hợp lý trong bố trí thế trận hậu cần. Quân thứ đã tập hợp được những tài năng để đánh giặc. Nếu như trước kia những người như Lê Quyên, Lê Phất, Nguyễn Bố... chỉ là những thợ thủ công tài khéo chưa giúp ích gì nhiều cho công cuộc cứu nước, thì với cuộc khởi nghĩa các ông đã đưa hết tài năng mình ra chế súng đạn. Cũng vậy, khi đã tập hợp lại trong các quân thứ, có sự chỉ đạo chung thì những thủ lĩnh địa phương đã phát huy được tính năng động sáng tạo như Nguyễn Huy Thuận (Can thứ), Cao Nữu, Cao Đạt (Diệm thứ)... Tuy nhiên, tổ chức quân thứ cũng bộc lộ những khuyết nhược điểm khó khắc phục. Về tổng thể, quân thứ chỉ tập trung ở đồng bằng Hà Tĩnh, còn các tỉnh khác thì rất mỏng hoặc chỉ có ở miền núi (Thanh Hoá, Quảng Bình), bỏ trống miền xuôi là kho người, kho của, do đó quân thứ có nơi chỉ là danh nghĩa mà không có hoạt động thực tế Do phân tán nên việc ứng cứu cho nhau gặp nhiều khó khăn, nhất là những nơi xa. Trong khi đó, quân địch cơ động hơn đã bao vây và xoá bỏ dần những điểm đóng quân của nghĩa quân và tiến tới dập tắt hoàn toàn cuộc khởi nghĩa. Một điểm nữa, quân thứ là chỗ đóng quân ở nông thôn, nhưng chưa có một chính quyền để hỗ trợ cho tổ chức quân sự. Một vài chánh tổng, lý trưởng “hai mang” (vừa làm cho địch, vừa làm cho ta) chỉ là do tự nguyện của một số cá nhân hào lý yêu nước chứ chưa phải là tổ chức chính quyền của ta. Trong khi đó, địch đã có thể bắt đầu với tới chính quyền cơ sở, biến nó thành công cụ phục vụ cho những hoạt động quân sự, gây rất nhiều khó khăn cho nghĩa quân. Dù vậy, quân thứ trong khởi nghĩa Phan Đình Phùng - Cao Thắng là một sáng tạo độc đáo trong hoàn cảnh khó khăn của cuộc khởi nghĩa vũ trang lúc đó. Quân thứ đã phát huy được tinh thần yêu nước, tính sáng tạo trong tổ chức và chỉ huy của các nhà lãnh đạo, đã kế thừa được tư tưởng quân sự truyền thống về đánh lâu dài, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh, lấy thô sơ chống với hiện đại, một hình thái mới trong cuộc đọ sức giữa ta và quân xâm lược Pháp cuối thế kỷ XIX. (Theo Tạp chí Văn hoá Nghệ An số 67, _______________________________________tháng 12 - 2005, tr.13-14) 1. Như việc đóng giả sĩ quan và binh lính địch để bắt tuần phủ Đinh Nho Quang (Theo Đào Trinh Nhất: Phan Đình Phùng…, Nxb Mai Lĩnh, 1994) Tiêu đề: Re: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp Gửi bởi: chuongxedap trong 26 Tháng Chín, 2008, 08:39:10 pm VÕ KIM CƯƠNG1 NHÂN DÂN HÀ TĨNH VỚI CUỘC KHỞI NGHĨA PHAN ĐÌNH PHÙNG2 Đất Hồng Lam vốn từ ngàn đời nay là một vùng đất giàu truyền thống yêu nước chống ngoại xâm. Ở bất kỳ một giai đoạn lịch sử nào, khi đất nước có nguy cơ bị xâm lược thì Nghệ Tĩnh cũng đều có những đóng góp lớn vào công cuộc giữ gìn biên cương của Tổ quốc, an ninh của dân tộc. Truyền thống yêu nước của nhân dân Nghệ Tĩnh là một trong những nhân tố cơ bản dẫn đến sự ra đời và phát triển của nhiều cuộc khởi nghĩa ở địa phương chống lại ách xâm lược ngoại bang, mà tiêu biểu cho trào lưu đó là cuộc khởi nghĩa do cụ Phan Đình Phùng tổ chức, lãnh đạo vào cuối thế kỷ XIX vừa qua. Từ khi Pháp nổ súng đánh chiếm Đà Nẵng mở màn cuộc xâm lược Việt Nam, trên đất Nghệ Tĩnh bắt đầu dấy lên một phong trào phản đối hành động ăn cướp của bọn thực dân Tây dương. Ở Quỳnh Lưu, Văn Đức Khuê đứng lên mộ quân nghĩa dũng tình nguyện vào Nam chiến đấu; Các văn thân, sĩ phu yêu nước đã thành lập các “Nghĩa sĩ đoàn” với mục đích đề cao tinh thần chống giặt, cứu nước. Khi nhà Nguyễn ký Hàng ước 1862 với thực dân Pháp, nhiều văn thân người Nghệ Tĩnh dâng sớ lên án thực dân xâm lược, đòi triều đình phải tiến hành cuộc đấu tranh sống mái với kẻ thù như Phan Huân, Hoàng Phan Thái... Đến khi Hàng ước 1874 vừa ký kết thì một số nơi đã phất cao cờ nghĩa, xây dựng lực lượng chuẩn bị cho một cuộc kháng chiến lâu dài như Trần Tấn và Đặng Như Mai (Nghệ An), Trần Quang Cán, Nguyễn Huấn (Hà Tĩnh). Những nơi này là những điểm cháy đầu tiên của phong trào kháng chiến, nhân dân địa phương đã đồng lòng hưởng ứng và tích cực tham gia, vì vậy đã tạo nên được một cao trào đấu tranh mạnh mẽ về sau. Sau khi vua Hàm Nghi hạ Chiếu Cần vương lần thứ nhất (13-7-1885) thì phong trào kháng chiến của nhân dân Nghệ Tĩnh bước sang một giai đoạn mới. Ở Nghệ An có phong trào của cụ Nghè Nguyễn Xuân Ôn với sự tham gia của các văn thân Đinh Nhật Tân, Trần Quang Diệm, Lê Trọng Vinh; phong trào của đội quân Nguyễn Ngợi (Lãnh Ngợi) và nhiều văn thân, sĩ phu khác như Phan Bá Niên, Vương Thúc Mậu, Nguyễn Đức Đạt, Lãnh Sĩ, Quản Hòe, Nguyễn Hữu Chính, Nguyễn Mậu, Lê Doãn Nhạ. Cũng như ở Nghệ An, ở Hà Tĩnh ngay từ sớm một phong trào phản kháng quân xâm lược đã sớm dấy lên rộng khắp và được sự hưởng ứng của rộng rãi các tầng lớp nhân dân trong tỉnh. Điều này đã tạo ra tiền đề vững chắc cho việc xây dựng phát triển lực lượng của cuộc khởi nghĩa do Phan Đình Phùng lãnh đạo sau này. Trên đất Hà Tĩnh, từ 1883 sau khi bị cách chức, thôi quan trở về quê, Phan Đình Phùng đã tức khắc xúc tiến mọi công tác chuẩn bị cho một cuộc kháng chiến chống quân xâm lược. Phan Đình Phùng đã cho lập một trại cày dưới chân núi Mặc gần quê để che mắt địch, nhưng thực tế là làm nơi chiêu mộ và huấn luyện quân sĩ, chuẩn bị lực lượng cho một cuộc khởi nghĩa lâu dài. Cũng trên cùng quê hương Phan Đình Phùng, trong giai đoạn này có Lê Ninh (tức Ấm Ninh), người làng Trung Lễ đã tổ chức khởi nghĩa. Nghĩa quân của Lê Ninh hoạt động mạnh, tổ chức tập kích thành Hà Tĩnh, bắt Bố chánh Lê Đại và án sát Trịnh Bưu - những người đã quay sang đầu hàng giặc. Nhưng cuộc khởi nghĩa nhanh chóng bị đàn áp, làng Trung Lễ bị đốt phá và Lê Ninh mất vào năm 1887 vì ốm. Nối gót ông, các con Lê Khai, Lê Phác và Lê Trực thay ông tiếp tục duy trì lực lượng chiến đấu chống quân thù. Ở Đức Thọ còn diễn ra các hoạt động kháng chiến của nghĩa quân Phan Cát Tưu. Năm 1885 khi vào thi Hội gặp sự biến, ông đã theo xa giá vua đến Sơn phòng Hà Tĩnh rồi trở về quê mộ quân đánh giặc; nhưng ông đã sớm hi sinh trong trận đánh trên sông Ốc Giang năm 1887. Quân sĩ của Lê Ninh và Phan Cát Tưu về sau đều gia nhập phong trào do Phan Đình Phùng khởi xướng. Trên địa bàn huyện Hương Sơn, theo lời kêu gọi của Phan Đình Phùng có Nguyễn Quỳnh và Nguyễn Huy Giao đứng lên tập hợp được một lực lượng đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia khởi nghĩa. Một tướng tài của nghĩa quân Phan Đình Phùng sau này là Cao Thắng, đã cùng em Cao Nữu, anh họ Nguyễn Đạt và bạn là Nguyễn Kiều tổ chức khởi nghĩa và lập căn cứ ngay tại làng (Sơn Lễ). Ngoài ra còn có Thái Vĩnh Chinh ở Sơn Bằng (Hữu Bằng) cùng Lê Trình mộ quân giết giặc; Đinh Nho Hành (Gia Mỹ) tổ chức khởi nghĩa ngay tại quê nhà. Nổi bật nhất trong phong trào ở Can Lộc hưởng ứng Chiếu Cần vương là cuộc nổi dậy của hai anh em Nguyễn Trạch (còn gọi là Nguyễn Khương) và Nguyễn Chanh (còn gọi là Nguyễn Đạt) ở Gia Hanh (Nhân Lộc). Hai anh em họ Nguyễn đã xây dựng được một đội quân hùng mạnh. Năm 1888 quân số của hai anh em lên tới 600 người và được tổ chức thành cơ, đội. Căn cứ của nghĩa quân được lập ở đồn Cơn Khế. Mặc dầu quân giặc nhiều lần tiến đánh nhưng đều bị thất bại trước sự chống trả mưu trí và dũng cảm của nghĩa quân. Ở Phù Lưu Thượng (cùng địa bàn Can Lộc) còn có Mai Thế Quý chiêu mộ được một đội ngũ nghĩa quân khoảng năm sáu trăm người, hoạt động rất táo bạo. Nhưng ông đã sớm hi sinh trong một trận đánh sống mái với giặc thù vào cuối năm 1885. Sau khi ông mất, quân sĩ đã gia nhập nghĩa quân của Nguyễn Trạch - Nguyễn Chanh. Ở Nghi Xuân có phong trào của Thần Sơn Ngô Quảng và Hà Văn Mỹ; ở Hương Khê có Nguyễn Thoại; Cẩm Xuyên có Huỳnh Bá Xuyên, Nguyễn Chuyên, Đề Dự; ở Kỳ Anh có Võ Pháp, Lê Nhất Hoan, Trần Công Thưởng, Phan Khắc Hòa; ở Thạch Hà có phong trào của Nguyễn Cao Đôn, ba anh em Bùi Hanh, Bùi Dương và Bùi Đệ. Ngoài ra còn có đội quân của Nguyễn Huy Thuận (Bá hộ Thuận) đóng căn cứ ở Trùng Mai. Nghĩa quân của Nguyễn Huy Thuận nhiều lần dũng cảm đột kích vào thị xã Hà Tĩnh và phủ lỵ Thạch Hà, gây không ít thiệt hại cho giặc. Như vậy, chỉ cần nhìn qua chúng ta đều thấy rõ là ngay từ ngày Chiếu Cần vương được ban bố, trên đất Hà Tĩnh đã sớm dấy lên một phong trào chống Pháp rộng khắp các địa phương của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Phong trào đó, mặc dù lúc đầu còn mang tính tự phát và địa phương rõ rệt, nhưng dần dần quy t |