Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: fantomasft trong 28 Tháng Giêng, 2013, 09:21:09 am



Tiêu đề: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 28 Tháng Giêng, 2013, 09:21:09 am
BỘ CHỈ HUY QUÂN SỰ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LỊCH SỬ
TIỂU ĐOÀN BỘ BINH 1 ANH HÙNG
( R20 – QUẢNG ĐÀ )


(http://farm9.staticflickr.com/8052/8422536460_0af9ac3a4f.jpg) (http://www.flickr.com/photos/90883775@N03/8422536460/)
 (http://www.flickr.com/photos/90883775@N03/8422536460/) (http://www.flickr.com/people/90883775@N03/)

NHÀ XUẤT BẢN ĐÀ NẴNG
05 – 2005



Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 28 Tháng Giêng, 2013, 09:35:20 am
LỊCH SỬ TIỂU ĐOÀN BỘ BINH 1 “R20”
ANH HÙNG
--------------


Chỉ đạo nội dung:

BỘ CHỈ HUY QUÂN SỬ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG


Tổ chức thực hiện:

BAN KHOA HỌC – CÔNG NGHỆ - MÔI TRƯỜNG

TỔNG KẾT – VIẾT SỬ


Biên soạn bản thảo:

                    Thượng tá: LÊ DUY MINH – Chương 1, 2, 3 và 5

           Thượng tá: NGUYỄN HỮU TÀI – Chương 4


CUNG CẤP TÀI LIỆU


BAN LIÊN LẠC TIỂU ĐOÀN BỘ BINH 1 “R20”


LẠI NAM DƯƠNG, NGUYỄN XUÂN KHOA, LÊ NGỌC BẢY, PHẠM XUÂN QUÍ, PHẠM NGỌC HUÂN, NGUYỄN VĂN THÔNG, BÙI HỒNG KHANH, NGUYỄN THANH TÙNG, LÊ VĂN THẮNG, LÊ VĨNH AN


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 28 Tháng Giêng, 2013, 09:40:46 am
Lời giới thiệu

   Ngày 19.05.1965, tại bãi cát thôn Giảng Hòa, xã Lộc Quí (nay là xã Đại Thắng), Vùng B Đại Lộc, Tiểu đoàn bộ binh “R20” bộ đội địa phương tỉnh Quảng Đà được thành lập, trên cơ sở các đại đội độc lập (Đ61, Đ62, Đ63 và Đ64) được hình thành trong phong trào diệt ác, phá kèm, đồng khởi giải phóng miền núi và nông thôn, đồng bằng.

   Ra đời trong giai đoạn cách mạng miền Nam đang trên dà thắng lợi, chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ - Ngụy bị phá sản, buộc chúng phải thay đổi bằng chiến lược chiến tranh cục bộ, đưa quân Mỹ và Chư hầu vào xâm lược miền Nam, cứu nguy cho chế độ Sài Gòn khỏi bị sụp đổ, đẩy cuộc chiến tranh lên một nấc thang mới, nguy hiểm hơn, làm thay đổi so sánh tương quan lực lượng, do đó, việc thành lập Tiểu đoàn bộ binh R20 đánh dấu một bước trưởng thành của các lực lượng vũ trang nhân dân Quảng Đà, đáp ứng yêu cầu chiến đấu đánh bại hoàn toàn chiến lược chiến tranh đặc biệt và sẵn sàng bước vào giai đoạn đánh Mỹ, thắng Mỹ.

   Trải qua 10 năm xây dựng, chiến đấu (1965 – 1975), dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy (sau là Đặc khu ủy Quảng Đà) và Ban chỉ huy Tỉnh đội (sau là Bộ tư lệnh Mặt trận Quảng Đà), sự chi viện, giúp đỡ của các đơn vị, địa phương và sự đùm bọc, nuôi dưỡng của nhân dân trên khắp các địa bàn của tỉnh, Tiểu đoàn R20 đã có những bước trưởng thành vượt bậc, liên tục cơ động chiến đấu lập nhiều chiến công xuất sắc ở Văn Quật, Kiểm Bền, Xuân Diệm, Gò Hà, Bồ Mưng, cầu Ông Nở, cây Da Lý, Xuyên Thanh, Gò Nổi, Sở chỉ huy Bộ tư lệnh Quân đoàn 1 Ngụy, Non Nước, Vĩnh Điện, Nam Phước, Đức Dục, Đá Đen, Gò Phan…

   Những chiến công đó góp phần đánh bại các âm mưu, thủ đoạn chiến thuật, chiến dịch và chiến lược chiến tranh của Mỹ - Ngụy, xây dựng truyền thống đơn vị “Cơ động, thọc sâu, đánh nhanh, diệt gọn”, tô đậm truyền thống: “Quảng Nam trung dũng, kiên cường, đi đầu diệt Mỹ”, với những chiến công đó, Tiểu đoàn được Đảng, Nhà nước tuyên dương danh hiệu đơn vị “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” tháng 12.1973.

   Sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước độc lập, thống nhất, Tiểu đoàn luôn giữ vững và phát huy mạnh mẽ truyền thống đơn vị anh hùng trong kháng chiến, ra sức xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, không ngừng học tập, huấn luyện, nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu, giữ vững tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên những địa bàn được phân công và hai lần chấp hành mệnh lệnh cấp trên đi làm nghĩa vụ Quốc tế ở chiến trường Tây Nam.

   Để ghi lại những chiến công oanh liệt của Tiểu đoàn bộ binh “R20” trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Năm 1990 – Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng cũ đã hợp đồng với anh Trần Trúc Tâm thu thập tư liệu, biên soạn tập sử “Tiểu đoàn 1 (R20)”. Nội dung, phương pháp thể hiện mang tính giáo dục tuyên truyền khá tốt.

   Nhân dịp kỷ niệm 115 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19.05.1890 – 19.05.2005), 30 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc và 40 năm ngày thành lập Tiểu đoàn (19.05.1965 – 19.05.2005), Bộ chỉ huy quân sự thành phố Đà Nẵng chỉ đạo thu thập, chỉnh lý tư liệu, biên soạn, tái bản tập “Lịch sử Tiểu đoàn bộ binh R20 Quảng Đà”, nay là Tiểu đoàn bộ binh 1 thuộc Bộ chỉ huy quân sự thành phố Đà Nẵng.

   Nhân dịp này, Bộ chỉ huy quân sự thành phố chân thành cảm ơn các cơ quan liên quan, các đồng chí cán bộ lãnh đạo, chỉ huy của Tiểu đoàn qua các thời kỳ.

BỘ CHỈ HUY QUÂN SỰ
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG



Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 28 Tháng Giêng, 2013, 09:41:58 am
CHƯƠNG MỘT

CAO TRÀO ĐỒNG KHỞI GIẢI PHÓNG

NÔNG THÔN, ĐỒNG BẰNG 1962 – 1965

VÀ SỰ RA ĐỜI CỦA TIỂU ĐOÀN 1 (R20)

TỈNH QUẢNG ĐÀ



TẤM LÒNG NGƯỜI DÂN, THẾ CÁCH MẠNG

   Ngày 20.07.1954, Hiệp định Giơ – ne – vơ (Thụy Sĩ) về chấm dứt chiến tranh Việ Nam được ký kết công nhận chủ quyền độc lập, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam.

   Theo Hiệp định, một đường giới tuyến quân sự tạm thời được thiết lập ở vĩ tuyến 17, để trong thời hạn 300 ngày, lực lượng của hai bên tập kết về vùng mình kiểm soát: Quân đội nhân dân Việt Nam tập kết ở phía bắc vĩ tuyến 17, Quân đội Liên hiệp Pháp tập kết ở phía nam vĩ tuyến 17.

   Điểm C (Điều 14 của Hiệp định) ghi: Mỗi bên cam kết không dùng mọi cách để trả thù hoặc đối xử, phân biệt những cá nhân và tổ chức vì lý do hoạt động của họ trong chiến tranh và cam kết bảo đảm mọi quyền tự do lựa chọn vùng cư trú. Các bên không tham gia một liên minh quân sự nào, không lập thêm căn cứ quân sự, không đưa thêm lực lượng quân sự, vũ khí, đạn dược vào miền Nam. Tiến hành trao trả tù binh và dân thường bị bắt, giam giữ trong chiến tranh.

   Ngày 21.07.1954, Hội nghị quốc tế về lập lại hòa bình ở Đông dương đã ký tuyên bố chung chứng nhận văn bản Hiệp định Giơ – ne – vơ. Tổ chức kiểm soát, giám sát quốc tế. Chứng nhận tuyên bố của Pháp sẽ rút quân ra khỏi Việt Nam và xác định 2 năm sau (tức tháng 07.1956) dưới sự kiểm soát quốc tế để thống nhất đất nước Việt Nam.

   Hòa bình, độc lập, tự do trở về với dân tộc ta, thế nhưng Hiệp định ký kết chưa ráo mực, người dân Việt Nam, mà trước hết là nhân dân miền Nam chưa được tận hưởng một ngày hòa bình, lại phải bắt tay vào cuộc đấu tranh chống kẻ thù mới.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 28 Tháng Giêng, 2013, 10:20:05 am
   Đế quốc Mỹ, cường quốc của một đất nước cách xa Việt Nam hàng vạn km, lịch sử hình thành mới hơn 200 năm, đã từng giúp Pháp trở lại xâm lược nước ta lần thứ hai, nay âm mưu gạt chân Pháp, để độc chiếm miền Nam Việt Nam. “Tiêu diệt bằng được phong trào yêu nước của nhân dân ta, thôn tính miền Nam Việt Nam, chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự Mỹ, lập phòng tuyến ngăn chặn chủ nghĩa xã hội lan xuống Đông Nam Á. Đồng thời lấy miền Nam làm căn cứ, bàn đạp tiến công miền Bắc, tiền đồn XHCN ở Đông Nam Châu Á” (1). Thực tế, ngay từ đầu, Mỹ ra sức phá hoại Hiệp định Giơ – ne – vơ, ngày 21.07.1954, Ai – Xen – Hao, Tổng thống Mỹ tuyên bố: “Hoa Kỳ không bị ràng buộc bởi những quyết định của hội nghị Giơ – ne – vơ”. Khi Hiệp định có hiệu lực thì lợi dụng các điều khoản để thực hiện các âm mưu, thủ đoạn từng bước can thiệp và nội bộ nước ta, đó là:

   - Tăng cường cố vấn và viện trợ.

   - Ra sức xây dựng, củng cố chế độ phát xít Ngô Đình Diệm (2) làm cơ sở để áp đặt chủ nghĩa thực dân mới.

   Ngày 17.11.1954, chính quyền Mỹ cử tướng Cô – lin sang làm Đại sứ và tướng Ô – đa – ni – en sang làm trưởng phái đoàn viện trợ quân sự Mỹ ở miền Nam.

   Đến Sài Gòn, các quan thầy Mỹ đề ra một loạt kế hoạch, chủ trương, biện pháp nhằm xây dựng bộ máy ngụy quân, ngụy quyền từ Trung ương đến cơ sở. Từ chối Hiệp thương tổng tuyển cử. Thành lập các đảng phái, lực lượng chính trị phản động như: Đảng Cần Lao Nhân Vị, Phong trào cách mạng quốc gia, Thanh niên cộng hòa, Phụ nữ liên đới…, đế quốc Mỹ đặt miền Nam Việt Nam dưới sự bảo trợ của khối SEATO (3).

   Ngày 23.10.1955, Mỹ - Diệm bày trò “Trưng cầu ý dân” nhằm truất phế Bảo Đại, dọn đường cho Diệm lên làm Tổng thống. Ngày 25.04.1956, trước sức ép của Mỹ, chính phủ Pháp tuyên bố giải tán Bộ chỉ huy quân viễn chinh Pháp và rút hết quân đội ra khỏi Việt Nam, chuyển giao các cơ sở quân sự, kinh tế, tài chính, ngân hàng cho Mỹ - Ngụy. Tháng 07.1956, Mỹ - Diệm tuyên bố cự tuyệt Tổng tuyển cử và trắng trợn tuyên bố: “Biên giới Hoa Kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17 của Việt Nam”.


______________________________

1. Báo cáo chính trị của BCHTƯ Đảng tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 4, tháng 12.1976.

2. Ngô Đình Diệm (1901 – 1963) quê Lệ Thủy – Quảng Bình, năm 1930 làm Tuần vũ Bình Thuận, năm 1933 Thượng thư bộ lại, năm 1945 bị Việt Minh bắt giam, rồi phóng thích, năm 1950 sang Mỹ, tháng 6.1954 được Mỹ đưa về nước làm Thủ tướng, rồi làm Tổng thống đến tháng 11.1963 bị các thế lực khác do Mỹ dàn dựng, lật đổ và bị giết cùng em là Ngô Đình Nhu.

3. Khối SEATO: Liên minh quân sự của các nước Đông Nam Á với Mỹ - Anh – Pháp – Úc – Pakistan.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 28 Tháng Giêng, 2013, 10:34:36 am

   Đến lúc này, cơ bản Mỹ - Diệm đã phá hoại hoàn toàn Hiệp định Giơ – ne – vơ, gạt Pháp ra khỏi miền Nam Việt Nam. Tiêu diệt và làm tan rã lực lượng các giáo phái đối lập (Bình Xuyên, Cao Đài, Hòa Hảo…) và một bộ phận tổ chức cơ sở Đảng cộng sản ở những vùng trọng điểm, thiết lập bộ máy ngụy quân, ngụy quyền từ Trung ương đến cơ sở (xã, phường).

   Kết hợp xây dựng bộ máy chính quyền, Mỹ - Diệm ra sức thực hiện chính sách “tố cộng, diệt cộng” nhằm tiêu diệt tận gốc các tổ chức cơ sở Đảng, tước đoạt mọi thành quả cách mạng của Đảng và nhân dân ta giành được, phương châm thực hiện “tố cộng, diệt cộng” là “lâu dài, từng bước, triệt để”, khẩu hiệu hành động là “diệt cộng là yêu nước”, “giết lầm hơn bỏ sót”, “nội bất xuất, ngoại bất nhập”. Mỹ - Ngụy coi đây là “quốc sách” là cuộc đấu tranh về “ý thức hệ”. Kế hoạch thực hiện chia làm nhiều giai đoạn, nhiều đợt, có trọng tâm, trọng điểm, thủ đoạn rất thâm độc, tàn bạo. Chưa hết, chúng còn đưa ra các sắc luật mang tính chất phát xít như Luật 10/59 đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật, chém giết cán bộ, đảng viên không cần xét xử.

   Quảng Nam – Đà Nẵng là mảnh đất giàu truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm và tay sai, nên Mỹ - Ngụy chọn làm trọng điểm “tố cộng, diệt cộng”, tập trung lực lượng mở các chiến dịch tố cộng “Phan Châu Trinh”, “Trịnh Minh Thế”, “Thanh Minh”, chúng đã gây ra nhiều cuộc tàn sát tập thể, dã man ở chợ Được (Thăng Bình), Hà Mật (Điện Bàn), Cây Cốc (Tiên Phước), Vĩnh Trinh (Duy Xuyên), Phước Sơn, Phước Cẩm, Phước Hà (Tiên Phước). Hàng ngàn cán bộ, đảng viên, cơ sở cách mạng bị giết hại, hàng vạn cán bộ, đảng viên, cơ sở cách mạng, gia đình kháng chiến bị tù đày, tra tấn, sám hối, tống tà trong các chiến dịch tố cộng. Trường học, đình làng, nhà chùa cũng trở thành nơi tập trung học tập tố cộng, tra tấn, đánh đập, truy bức những người kháng chiến. Không khí làng xóm, tộc họ, gia đình lúc nào cũng ngột ngạt, ngờ vực, thiếu tin lẫn nhau. Thực chất đây là hành động trả thù hèn hạ, vi phạm các điều khoản của Hiệp định Giơ – ne – vơ, vi phạm nhân quyền một cách nghiêm trọng.

   Quy luật vận động của tự nhiên là “tức nước ắt phải vỡ bờ”, quy luật vận động khách quan của xã hội cũng như thế. “Có áp bức ắt phải có đấu tranh”, thực tiễn là cán bộ, đảng viên và nhân dân bất chấp mọi âm mưu, thủ đoạn phát xít của Mỹ - Diệm, vẫn một lòng trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, dù phải chịu tù đày, tra tấn, thủ tiêu, nhưng hầu hết không đầu hàng, phản bội, siết chặt quan hệ đoàn kết để đấu tranh chống đàn áp, khủng bố, chống “trưng cầu dân ý”, viết đơn lấy chữ ký gửi Ủy ban kiểm soát đình chiến quốc tế, đòi thi hành Hiệp định, Hiệp thương tổng tuyển cử, thống nhất đất nước.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 28 Tháng Giêng, 2013, 10:47:22 am

   Những tổ chức cơ sở Đảng và cán bộ, đảng viên chưa bị lộ vẫn kiên trì trụ bám, để lãnh đạo phong trào, xây dựng cơ sở, bảo toàn lực lượng, tạo thời cơ phát động nhân dân đấu tranh, nổi dậy, cơ sở Đảng, gia đình kháng chiến bị địch khủng bố, kiểm soát nghiêm ngặt nhưng vẫn bí mật che dấu, nuôi dưỡng cán bộ, đảng viên, tạo điều kiện cho các đồng chí có nơi ăn, ở, đi lại hoạt động.

   Thực tế trên đây nói lên trong điều kiện cực kỳ khó khăn, gian khổ, nhưng cán bộ, đảng viên và nhân dân trên khắp địa bàn Quảng Nam – Đà Nẵng vẫn đoàn kết, trung thành với Đảng, kiên định con đường đấu tranh giải phóng dân tộc của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra. Đó là tấm lòng của người dân, là thế của cách mạng đối với vận mệnh của đất nước.

   Tháng 01.1959, trước đòi hỏi bức xúc của phong trào cách mạng miền Nam, BCHTƯ Đảng (Khóa II) tiến hành hội nghị lần thứ 15 – Hội nghị đề ra nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là “Giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân ở miền Nam, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh” (4).

   Nghị quyết hội nghị xác định con đường cơ bản của cách mạng miền Nam là dùng bạo lực, lấy sức mạnh của nhân dân, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc, phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân.

   Nghị quyết 15 của BCHTƯ Đảng ra đời là ngọn đuốc soi đường cho cách mạng miền Nam tiến lên, đáp ứng nguyện vọng thiết tha của cán bộ và nhân dân ta. Sau những năm đấu tranh chống chế độ phát xít Mỹ - Diệm, dù phải trải qua nhiều hy sinh, tổn thất, nhưng vẫn một lòng hướng về Đảng, Hồ Chủ Tịch, tin tưởng sự thắng lợi tất yếu của cách mạng.

   Quán triệt Nghị quyết của Trung ương Đảng và sự chỉ đạo của Khu ủy Khu 5, tháng 03.1959 – Tỉnh ủy Quảng Nam – Đà Nẵng đề ra một số chủ trương, biện pháp nhằm biến những lý luận cách mạng khoa học mà Nghị quyết 15 đề ra trở thành hiện thực, chỉ ra con đường, lực lượng, phương châm, phương pháp đấu tranh cách mạng. Đây là chủ trương đúng đắn, kịp thời trong việc vận dụng nghị quyết 15 vào đặc điểm tình hình cách mạng của Tỉnh.

___________________________

4. Dẫn theo: “Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954 – 1975 – NXB Chính trị Quốc gia – Hà Nội, tập 2, năm 1996, trang 228.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 28 Tháng Giêng, 2013, 11:03:25 am
   Tháng 08.1959, một đoàn cán bộ chính trị do đồng chí Hồ Nghinh dẫn đầu, một đoàn cán bộ quân sự do đồng chí Trần Tốc dẫn đầu, tất cả họ là những người con của quê hương đất Quảng tập kết ra miền Bắc, nay băng rừng, lội suối trở về giải phóng quê hương.

   Đầu năm 1960, tại căn cứ địa cách mạng của tỉnh ở làng A Duân (huyện Hiên), Đảng bộ tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng tiến hành Đại hội đề ra nghị quyết lãnh đạo phong trào cách mạng. Đây là cái mốc lịch sử trọng đại của Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh, chấm dứt thời kỳ đấu tranh giữ gìn lực lượng chuyển sang phương châm kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang.

   Sau Đại hội tỉnh, Đảng bộ, Tỉnh ủy quyết định thành lập Ban quân sự tỉnh, do đồng chí Trần Thận – Thường vụ Tỉnh ủy làm trưởng ban.

   Để hoàn thành đường lối cách mạng cả nước nói chung, miền Nam nói riêng, tháng 9.1960, Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ III diễn ra tại Thủ đô Hà Nội. Ngày 20.12.1960, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập, do luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ tịch.

   Đầu tháng 01.1961, Quân ủy Trung ương chỉ thị thành lập Quân giải phóng miền Nam Việt Nam, do Thiếu tướng Trần Lương (tức Trần Nam Trung) - Ủy viên Trung ương Đảng làm Tư lệnh (Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chính phủ cộng hòa miền Nam Việt Nam 1961 – 1975), đây thực chất là một bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam làm nhiệm vụ chiến đấu, giải phóng miền Nam” (5).

   Những sự kiện lịch sử trên đây góp phần to lớn vào việc hoàn chỉnh đường lối cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam, ngọn đuốc soi sáng con đường đấu tranh cách mạng của quân và dân cả nước nói chung, miền Nam nói riêng.

   Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh ủy và sự chỉ đạo của Ban quân sự tỉnh, các huyện miền Núi lần lượt tổ chức các đội vũ trang tuyên truyền, du kích tập trung để hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng. Sau đó phát triển thành từng tiểu đội, trung đội bộ đội địa phương, lực lượng nòng cốt của phong trào đồng khởi giải phóng miền Núi, đỉnh cao là khởi nghĩa làng Ông Tía (Phước Sơn) tháng 03.1960, tiếp đến là các trận tiến công, tiêu diệt quận lỵ Hiệp Đức, Trà My.

______________________

5. Ở Khu 5: Ngày 27.07.1961 Đảng ủy – Bộ tư lệnh Quân khu 5 được thành lập.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 28 Tháng Giêng, 2013, 12:34:59 pm
   Ở cánh bắc có các trận tập kích tiêu diệt đồn Ga Lâu, Bót – Xít… Tháng 3.1961, Đại đội H29 phối hợp với lớp đào tạo cán bộ Tiểu đội trưởng, do đồng chí Nguyễn Chơn (6) chỉ huy tổ chức trận địa phục kích ở làng Trao (huyện Hiên) diệt gọn 1 đại đội Bảo an, trong đó diệt 30 tên, bắt sống 60 tên, 4 súng ĐKZ 57, 9 súng đại liên, 80 súng tiểu liên. Sau đó tiến công đồn Rô (nằm trên đường 14) diệt 100 tên, thu 30 súng, miền Núi được hoàn toàn giải phóng. Đây là thắng lợi có ý nghĩa to lớn đối với quá trình kháng chiến của quân và dân ta, đập tan bộ máy kèm kẹp của Mỹ - Ngụy ở miền Núi, giải phóng cho hàng ngàn đồng bào dân tộc Ca – Tu, Ê – đê, H’Mông, xây dựng căn cứ địa cách mạng vững chắc, tạo điều kiện cho các cơ quan lãnh đạo, chỉ huy các cấp đứng chân chỉ đạo phong trào cách mạng toàn tỉnh, đồng thời còn tạo ra bàn đạp, hành lang tiến xuống giải phóng nông thôn, đồng bằng.

   Căn cứ miền Núi mở ra, nhiều đoàn cán bộ từ miền Bắc tiếp tục trở về làm hạt nhân xây dựng lực lượng cách mạng.

   Cuối năm 1960, Quảng Nam – Đà Nẵng được bổ sung một khung cán bộ đủ để thành lập tiểu đoàn. Tỉnh ủy – Ban quân sự tỉnh lãnh đạo, chỉ đạo các đội vũ trang tuyên truyền ở vùng giáp ranh và đồng bằng vận động lên căn cứ miền Núi tham gia cách mạng. Có nguồn thực lực, Tỉnh ủy quyết định thành lập 5 đại đội bộ đội địa phương của tỉnh. Bao gồm 3 đại đội bộ binh (mật danh H21, H30, H36), 1 đại đội đặc công (mật danh H29), 1 đại đội quân báo – trinh sát (mật danh H32). Quân số mỗi đại đội chỉ mới hơn 30 cán bộ, chiến sĩ, nhưng chất lượng rất cao, đó là tỷ lệ đảng viên, trình độ kỹ, chiến thuật tinh nhuệ. Bên cạnh đó, các cơ quan, đơn vị bảo đảm cũng được hình thành như: Thông tin liên lạc, vận tải, trạm xưởng quân giới, quân y. Không khí cách mạng ở khắp bản làng miền Tây của tỉnh lại bùng lên, đồng bào các dân tộc rất phấn khởi, tin tưởng. Tuy nhiên, thắng lợi bước đầu gặp không ít khó khăn, đó là nơi ăn, chốn ở, lương thực, thực phẩm, thuốc men, vũ khí trang bị gần như phải tự lực hoàn toàn, nhưng với đường lối chiến tranh nhân dân: “Toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực, tự cường” và tư tưởng “lấy dân làm gốc, có dân là có tất cả”, “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” mà đường lối cách mạng của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh đã nêu, lãnh đạo, chỉ huy, cán bộ, chiến sĩ các cơ quan, đơn vị cùng nhân dân siết chặt quan hệ đoàn kết, gắn bó với nhau, tạo thành sức mạnh tổng hợp để vượt qua thử thách, gian khổ, cầm chắc tay súng chiến đấu, đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn của Mỹ - Ngụy.

______________________

6. Nguyễn Chơn: Nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Thượng tướng – Thứ trưởng Bộ Quốc Phòng.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 28 Tháng Giêng, 2013, 12:46:45 pm
   Trước sự hồi phục, phát triển của phong trào đồng khởi ở các địa phương trên cả miền Nam, đã buộc Mỹ - Diệm phải chuyển sang chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, một loại hình chiến tranh xâm lược, mà chính quyền Mỹ coi đây là một phát kiến mới mẻ nhằm đối phó với phong trào cách mạng giải phóng dân tộc, miền Nam Việt Nam là chiến trường đang nóng bỏng, cần phải đưa “chiến tranh đặc biệt” vào thí điểm bằng các chiến dịch, chiến thuật tác chiến, vũ khí, trang bị hiện đại, thông qua đội quân tay sai do cố vấn Mỹ huấn luyện, chỉ huy nhằm tiêu diệt cách mạng miền Nam và áp đặt chủ nghĩa thực dân mới.

   Mỹ - Diệm lấy kế hoạch Sta – lây – Tây – lo (7) làm nòng cốt để thực hiện chiến lược chiến tranh đặc biệt. Cốt lõi của kế hoạch đó là: Gom dân, lập ấp, bình định nông thôn miền Nam trong vòng 18 tháng (từ tháng 07.1961 – 12.1962). Gom dân, lập ấp chiến lược (8 ) là biện pháp hết sức thâm độc, nó như một trại giam trá hình để kèm kẹp, kiểm soát nhân dân, thực hiện “tát nước, bắt cá” để tiêu diệt cơ sở cách mạng.

   Diệm – Nhu còn coi đây là “quốc sách”, là xương sống của “bình định”. Để điều hành kế hoạch bình định, lập ấp, tháng 02.1962, Mỹ chuyển cơ quan viện trợ (MAAG) thành Bộ tư lệnh viện trợ quân sự Mỹ (MACV) do Đại tướng Pôn – Hác – Kin làm Tư lệnh, đồng thời đưa 3000 cố vấn vào miền Nam và 400 lính thuộc lực lượng đặc biệt của C.I.A (Cục tình báo Trung ương Mỹ) vào Nha Trang, Đà Nẵng để xây dựng, huấn luyện biệt kích rừng và người nhái.

   Quảng Nam – Đà Nẵng từng là trọng điểm của “tố cộng, diệt cộng” nay Mỹ - Ngụy cũng chọn làm thí điểm thực hiện “lập ấp, bình định”.

___________________________

7. Sta – lây: Tiến sĩ, Viện nghiên cứu chiến lược Stan – pho Mỹ, Mắc – xoen – Tây – lo: Đại sứ Mỹ tại miền Nam Việt Nam.

8. Ấp chiến lược được xây dựng trên cơ sở kinh nghiệm được rút ra từ việc xây dựng “khu trù mật”, “khu dinh điền”, “ấp kiểu mẫu”, trước đó nhưng nặng nề về mặt tổ chức hành chính, quân sự, có tổ chức từ Trung ương đến cơ sở, có cố vấn Mỹ theo sát hướng dẫn, kiểm tra. Mỗi ấp có một ban trị sự, 1 trung đội dân vệ, 1 trung đội nhân dân tự vệ, 1 đoàn bình định, cảnh sát… Cấu trúc mỗi ấp về đại thể, giống như một trại giam trá hình. Dựa vào địa hình, địa thế thôn, xóm, Mỹ - Ngụy bắt dân dồn vào bên trong và đóng góp công sức, tre gỗ rào 3 lớp rào (1 lớp rào tre hình chữ X, 2 lớp rào đơn bằng thép gai). Xen kẽ giữa mỗi hàng rào là 2 giao thông hào có cắm chông dưới lòng hào. Chúng gọi đây là kiểu phòng thủ “2 sông 3 núi”. Nhân dân ra vào hàng ngày chỉ được đi theo cổng chính và chịu sự kiểm soát của lính gác ở cổng.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 28 Tháng Giêng, 2013, 12:56:10 pm
   Đầu năm 1962, chính phủ Sài Gòn ra sắc lệnh số 162 chia tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng thành 2 tỉnh:

   - Tỉnh Quảng Nam từ Quế Sơn trở ra.

   - Tỉnh Quảng Trị từ Thăng Bình trở vào.

   Ở các tỉnh, các quân, thị, thành, xã, phường cũng điều chỉnh lại địa giới, thay đổi tên gọi.

   Trên cơ sở kế hoạch, biện pháp đề ra và dưới sự chỉ huy, điều hành của cố vấn Mỹ, bộ máy ngụy quân, ngụy quyền ngày đêm bắt dân đóng góp tiền của, công sức để rào ấp chiến lược, đào giao thông hào, đắp thành, xây đồn, không khí làng xã một lần nữa diễn biến hết sức căng thẳng, chúng bắt mỗi gia đình phải mua sắm đầy đủ các dụng cụ: gậy, dây, đèn gió, bọc đá, trống mõ, trước cổng nhà còn treo khẩu hiệu: “Nhà tôi không chứa chấp cộng sản”. Điển hình nhất là ở Điện Bàn – Trần Quốc Thái – Quận trưởng (người Quảng Điền – Quảng Trị), cán bộ Đảng Cần Lao Nhân Vị, tay chân thân tín của gia đình Ngộ Đình Nhu, đã ra lệnh bắt dân đóng góp tre, gạch để xây dựng các lò gạch ngói, bắt thân nhân gia đình có người đi kháng chiến đi lấy củi ở Cù Lao Chàm, lấy than đá ở Nông Sơn đem về nung gạch cho Thái, gạch làm ra Thái đem bán cho dân xây dựng các ấp kiểu mẫu, lợi nhuận Thái đều thu hết, còn người dân lao động không được trả một đồng tiền công.

   Kết hợp xây dựng hệ thống ấp chiến lược, Mỹ - Ngụy ra sức xây dựng bộ máy chỉ huy, điều hành kế hoạch, chương trình bình định, lập ấp, từ Trung ương đến cơ sở, nhất là ở xã, phường, thôn, ấp, có Hội đồng hương chính, Ban trị sự ấp, bên dưới còn liên gia (còn gọi là Tam ngũ liên gia bảo/tức là ba đến năm gia đình thành 1 nhóm) để quản lý, kiểm soát lẫn nhau. Gom dân, lập ấp, bình định là âm mưu, thủ đoạn thâm độc, lúc đầu gây cho ta một số khó khăn, tổn thất, Mỹ - Ngụy kiểm soát được địa bàn dân cư, nhưng chúng không kiểm soát được ý chí đấu tranh của người dân, không cắt đứt được mối liên hệ giữa Đảng với dân, phong trào cách mạng ngày đêm sục sôi trong lòng nhân dân.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 28 Tháng Giêng, 2013, 01:11:47 pm
ĐẨY MẠNH PHONG TRÀO DIỆT ÁC, PHÁ KÈM,

MỞ RỘNG CĂN CỨ MIỀN NÚI, NHANH CHÓNG

PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG

   
   Kết hợp lập ấp, bình định, củng cố phòng thủ đồng bằng, đô thị, từ giữa năm 1961, Mỹ - Ngụy huy động lực lượng, phương tiện mở các cuộc càn quét, đánh phá vùng giáp ranh và căn cứ miền Núi. Ở cánh bắc, tháng 10.1961, chúng sử dụng bọn Bảo an, biệt kích (tương đương 1 tiểu đoàn) có phi pháo yểm trợ từ quận lỵ Hòa Vang, Hiếu Đức càn quét, đánh phá các làng, bản ở Tống Cói - Ổ Rây, Phú Mưa (huyện Hiên – nay là huyện Đông Giang). Quyết tâm đánh bại các cuộc càn quét của địch, ngoài các đại đội bộ đội địa phương của tỉnh và du kích người Ca – Tu còn có một số cán bộ quân sự đi tập kết về (như Nguyễn Hữu Đức, Trần Tốc, Đặng Văn Chí, Huỳnh Hồng, Lê Bình, Lại Nam Dương, Nguyễn Thiệu, Lê Minh) tham gia chiến đấu. Các đơn vị, địa phương phối hợp chặt chẽ với nhau, dựa vào địa thế, địa hình rừng núi, bản làng, bố trí trận địa, lực lượng, chông, mìn, cạm bẫy, phục kích kết hợp vận động tiến công, liên tục tiến công tiêu hao, tiêu diệt sinh lực định cơ động trên đường 14.

   Diễn biến chiến sự kéo dài trong nhiều ngày, ngày 25.10, Mỹ - Ngụy phải điều động 1 đại đội biệt kích rừng từ Đà Nẵng lên tăng viện, đánh chiếm Phú Mưa. Một mũi bí mật thọc sâu vào phía sau trận địa của ta và nổ súng gây thương vong 2 đồng chí trong bộ phận trinh sát, lập tức đồng chí Lại Nam Dương dùng trung liên bắn quyết liệt vào đội hình địch, diệt 15 tên, buộc chúng phải tháo chạy. Để bảo toàn lực lượng, bộ đội, du kích và đồng bào bí mật rút vào rừng sâu, đồng thời sử dụng lực lượng bám đánh địch. Ban ngày phục kích bắn bia, bắn tỉa, ban đêm tập kích, gài chông, mìn, cạm bẫy, gây cho địch nhiều tổn thất nặng nề, hàng ngày trực thăng từ Đà Nẵng lên chở hàng chục xác chết, bị thương. Sau 1 tháng không chịu nổi cách đánh của chiến tranh du kích, quân địch phải rút chạy về đồng bằng. Thất bại trong trận càn này của Mỹ - Ngụy đã góp phần tạo nên phong trào đấu tranh chính trị, binh vận của các tầng lớp nhân dân đô thị phát triển. Cơ sở cách mạng được hình thành và hoạt động có hiệu quả, vận động hàng trăm thanh niên, trong đó có nhiều sinh viên, học sinh là con em gia đình kháng chiến bị Mỹ - Diệm giết hại hoặc cầm tù trong những năm “tố cộng, diệt cộng”. Tất cả bí mật thoát ly lên căn cứ ở bản Phú Mưa tham gia cách mạng.

   Có nguồn thực lực, ngày 22.12.1961, nhân kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân, Ban quân sự tỉnh quyết định điều động lực lượng, trong đó có 1/3 cán bộ, chiến sĩ của Đại đội H30 để thành lập Đại đội 1 bộ binh (mật danh là Đ61), do đồng chí Đặng Văn Chí làm đại đội trưởng, đồng chí Huỳnh Hồng làm chính trị viên. Quân số lúc đầu có 65 cán bộ, chiến sĩ, biên chế thành 3 trung đội. Trang bị lúc này cứ 1 tổ (3 người) có 1 súng trường, còn lại là lựu đạn, dao găm, mã tấu. Trang bị tuy thiếu, thô sơ, nhưng tổ 3 người hoặc tiểu đội có một thứ vũ khí sắc bén, tinh nhuệ đó là tinh thần yêu nước, yêu quê hương, căm thù sâu sắc bọn xâm lược và tay sai, quyện chặt thành một mũi nhọn chiến đấu trong mọi tình huống.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 28 Tháng Giêng, 2013, 01:20:17 pm
   Kết hợp xây dựng với chiến đấu, Đại đội 61 vận dụng linh hoạt phương thức hoạt động phân tán nhỏ lẻ, phối hợp chặt chẽ với các đội vũ trang tuyên truyền của Hòa Vang, Điện Bàn, Đại Lộc, Duy Xuyên đẩy mạnh phong trào diệt ác, phá kèm, hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy, phá ấp giành quyền làm chủ. Đây là những địa bàn đông dân, đất ruộng màu mỡ, nhân dân có truyền thống đấu tranh cách mạng, nên Mỹ - Ngụy tập trung nhiều lực lượng đánh phá, đưa những tên ác ôn khét tiếng, có máu phản bội tổ quốc như Trần Quốc Thái, Quận trưởng, Lên Nguyên Hàm, chi trưởng cảnh sát Điện Bàn, tên Hường chi phó cảnh sát Đại Lộc, tên Điểu, chỉ huy Tổng đoàn dân vệ ở Đại Lộc, tên Quí, chi trưởng cảnh sát Hòa Vang, tên Sáu – Đại úy chỉ huy biệt kích, những tên này đã từng chém giết, mổ bụng, ăn gan những chiến sĩ cộng sản mà người đời từng nói “họ là những người ăn thịt người”.

   Đối với quân và dân ta, đây là những địa bàn rất quan trọng, không chỉ là nơi cung cấp nguồn nhân tài vật lực dồi dào cho kháng chiến, mà là căn cứ, bàn đạp để bao vây, tiến công vào sào huyệt của quân Mỹ - Ngụy ở Đà Nẵng – Hội An.

   Xuân – Hè 1962, Đảng ủy – BTL Quân khu chủ trương mở đợt hoạt động tác chiến nhằm tiêu diệt 1 bộ phận sinh lực địch, đánh bại một bước kế hoạch bình định, lập ấp của Mỹ - Ngụy. Trong đợt hoạt động này, Quân khu tăng cường Tiểu đoàn 60 chủ lực cho Quảng Nam – Đà Nẵng.

   Căn cứ vào mệnh lệnh của Quân khu, Tỉnh ủy, Ban quân sự tỉnh chủ trương sử dụng các đại đội bộ đội địa phương của tỉnh phân tán thành các phân đội nhỏ, phối hợp chặt chẽ với các đội vũ trang tuyên truyền các huyện: Đại Lộc, Điện Bàn, Duy Xuyên, Hòa Vang đẩy mạnh tác chiến tiêu diệt bộ máy kèm kẹp của địch, hỗ trợ cho nhân dân đồng khởi, giành quyền làm chủ, tạo ra căn cứ, bàn đạp để tiếp tục tiến công và nổi dậy. Chấp hành chủ trương của Ban quân sự tỉnh, Ban chỉ huy đại đội 61 phân công Trung đội 1 đảm nhiệm các xã phía tây – Hòa Vang, Trung đội 2 đảm nhiệm Vùng A Điện Bàn, Trung đội 3 đảm nhiệm các xã Vùng B Đại Lộc và Khu Tây Duy Xuyên.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 28 Tháng Giêng, 2013, 01:32:47 pm
   Nhận nhiệm vụ cấp trên giao, các trung đội ngày đêm bám sát địa bàn, phối hợp với các đội công tác xã, liên lạc với cơ sở bên trong để nắm địch, chuẩn bị kế hoạch, phương án chiến đấu.

   Tháng 03.1962, một khung tiểu đoàn (Tiểu đoàn 75) hầu hết là con em Quảng Nam đi tập kết trở về tham gia xây dựng, chiến đấu giải phóng quê hương. Về đến căn cứ, tiểu đoàn phân tán bổ sung quân số cho các đơn vị ở cả cánh nam và cánh bắc của tỉnh. Ở cánh bắc, trên cơ sở nguồn cán bộ từ Tiểu đoàn 75 và số thanh niên từ đồng bằng thoát ly lên căn cứ, Ban quân sử tỉnh quyết định thành lập Đại đội 2 Bộ binh (mật danh Đ62) do đồng chí Lê Cật làm đại đội trưởng, đồng chí Đoàn Tơ làm chính trị viên. Sau khi ổn định tổ chức, đại đội về đứng chân tại vùng A, B Đại Lộc, phối hợp với Tiểu đoàn 60 Quân khu và lực lượng địa phương liên tục cơ động chiến đấu giữ chân, tiêu hao, tiêu diệt đại đội Bảo an và Tổng đoàn dân vệ của tên Điểu ở vùng A Điện Bàn, tạo điều kiện cho các đơn vị, địa phương chuẩn bị chiến trường.

   Nhân dân các địa bàn nói trên, sau những năm bị kèm kẹp, khủng bố, nay gặp lại bộ đội, du kích đều phấn khởi, không ngại khó khăn, không sợ bọn Ngụy quân, Ngụy quyền bắt giam, tra tấn, mà tìm cách liên lạc, đùm bọc, nuôi dưỡng, làm buồng kín, hầm bí mật để che dấu.

   Sau thời gian chuẩn bị kế hoạch, phương án, đêm 24.04.1962, phối hợp với chiến trường chung của Quân khu, Đại đội Đ61, Đ62 cùng lực lượng các huyện Đại Lộc, Điện Bàn, Duy Xuyên, Hòa Vang đồng loạt tiến công tiêu diệt hầu hết các mâm hội đồng, tổng đoàn dân vệ, Bảo an, bình định, cảnh sát… ở các địa bàn được giao, hỗ trợ cho hàng vạn quần chúng đồng khởi nổi dậy phá tan các ấp chiến lược, giành quyền làm chủ. Phát huy thắng lợi, các mũi tiến công tiếp túc phát triển xuống sát đường số 1, có mũi tiến xuống vùng đông của tỉnh. Bộ máy kèm kẹp và ấp chiến lược sụp đổ từng mảng. Mỹ - Ngụy sử dụng lực lượng phản kích nhưng đều bị tổn thất. Đây là đợt hoạt động tác chiến đầu tiên hỗ trợ cho nhân dân các vùng nông thôn đồng khởi và giành thắng lợi to lớn, có ý nghĩa rất lớn đối với phong trào cách mạng trong tỉnh, tác động đến phong trào đấu tranh chính trị, binh vận của các tầng lớp nhân dân thành phố đô thị.

   Phong trào mở ra, thế và lực của cách mạng ngày càng tăng, tạo điều kiện thuận lợi cho quân và dân trong tỉnh tiếp tục chiến đấu giành thắng lợi to lớn.

   Tháng 11.1962, xuất phát từ yêu cầu lãnh đạo, chỉ đạo phong trào cách mạng, Khu ủy, Bộ tư lệnh Quân khu 5 quyết định chia tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng thành 2 tỉnh: Tỉnh Quảng Nam và tỉnh Quảng Đà. Địa giới tỉnh Quảng Nam từ Quế Sơn trở vào, tỉnh Quảng Đà từ Duy Xuyên trở ra.

   Sau khi chia tách, Đảng bộ tỉnh tiến hành đại hội, bầu Ban chấp hành tỉnh ủy, do đồng chí Hồ Nghinh làm bí thư, Ban chỉ huy tỉnh đội do đồng chí Nguyễn Hữu Đức (tức Đinh Châu) làm Tỉnh đội trưởng, đồng chí Trần Tốc làm chính trị viên.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 28 Tháng Giêng, 2013, 01:58:50 pm
   Mặc dù chia tách, nhưng Đảng bộ, lực lượng vũ trang và nhân dân Quảng Nam, Quảng Đà vẫn giữ vững truyền thống đoàn kết, chi viện, giúp đỡ lẫn nhau, coi đây là một chiến trường, một nhiệm vụ cách mạng chống kẻ thù chung.

   Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào đồng khởi, giải phóng nông thôn, đồng bằng miền Nam nói chung, tỉnh Quảng Đà nói riêng, Mỹ - Ngụy ở vùng I chiến thuật sử dụng Sư đoàn 2 và các lực lượng địa phương, vận dụng các chiến thuật “Thiết xa vận”, “trực thăng vận”, mở các cuộc hành quân “Lam Sơn”, đánh phá các địa bàn quân và dân ta mới mở ra và vùng giáp ranh.

   Quyết tâm đánh bại các âm mưu, thủ đoạn của Mỹ - Ngụy, các đại đội bộ binh Đ61, Đ62, vừa tranh thủ học tập, huấn luyện củng cố đơn vị, vừa sử dụng lực lượng phối hợp với lực lượng địa phương bám sát địa bàn, cơ động, quần lộn đánh địch, tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực, đánh bại các cuộc hành quân của địch, giữ vững thế làm chủ địa bàn, đẩy địch lùi về căn cứ.

   Thắng lợi trong tiến công quân sự tác động mạnh mẽ đến phong trào đấu tranh chính trị, sinh viên, học sinh, phật tử, tiểu thương ở Đà Nẵng, Hội An, liên tục đấu tranh chống chế độ đàn áp của Mỹ - Diệm.

   Thắng lợi trong phong trào đồng khởi giải phóng nông thôn, đồng bằng của quân và dân miền Nam dẫn đến sự thất bại của kế hoạch “bình định, lập ấp”, xương sống của chiến lược “chiến tranh đặc biệt” bị gãy từng đoạn làm cho nội bộ Mỹ - Ngụy mẫu thuẫn, lục đục lẫn nhau, buộc Mỹ phải tính chuyện thay ngựa giữa dòng.

   Ngày 01.11.1963, được Mỹ hậu thuẫn, dàn dựng, tướng tá Ngụy do Dương Văn Minh cầm đầu cuộc đảo chính giết hại anh em Diệm – Nhu. Chưa đầy 1 tháng sau, ngày 22.11.1963, bên kia biển Thái Bình Dương, Ken – nơ – đi Tổng thống Mỹ bị ám sát.
   Sau khi chế độ gia đình trị của họ Ngô bị lật đổ, tình hình an ninh chính trị ở miền Nam lâm vào cuộc khủng hoảng nghiêm trọng, nội bộ ngụy quân, ngụy quyền cấu xé, tranh giành địa vị. Trong vòng 20 tháng (từ tháng 11.1963 đến tháng 6.1965) diễn ra 14 cuộc đảo chính, phản đảo chính, 6 chính phủ thay nhau nắm chính quyền.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 28 Tháng Giêng, 2013, 02:00:01 pm
   Để cứu vãn tình thế, đế quốc Mỹ cử Mac – ra – ma – ra – Bộ trưởng quốc phòng sang nghiên cứu, đánh giá tình hình, đề ra kế hoạch tăng cường lực lượng và điều chỉnh kế hoạch bình định 12 tháng. Còn ngụy quyền, khi Nguyễn Khánh lên nắm chính quyền thì ký kết với Mỹ “Hiến chương Vũng Tàu”, nhượng bán hải cảng Cam Ranh cho Mỹ 99 năm. Nắm chắc diễn biến tình hình, lãnh đạo, chỉ huy các cấp trên chiến trường Quảng Đà chỉ đạo các lực lượng vũ trang và nhân dân đẩy mạnh hơn nữa phong trào đồng khởi, diệt ác, phá kèm, mở ra bàn đạp quan trọng bao quanh Đà Nẵng, Hội An và các thị trấn khác. Nổi bật nhất là chiến công của đại đội Đ62 đánh thiệt hại nặng Đại đội biệt kích của tên đại úy Sáu tại Diện Thọ - Điện Văn, và Đại đội 1 do đồng chí Nguyễn Chí Sa chỉ huy tiến công tiêu diệt bọn dân vệ ở Điện Tiến, trong đó có tên Mẫn ác ôn khét tiếng.

   Kết hợp chiến đấu với xây dựng, đầu năm 1965, BCH tỉnh đội quyết định thành lập Đại đội 3 (Mật danh Đ63) do đồng chí Nguyễn Xuân Quang làm Đại đội trưởng, đồng chí Lê Dũng làm chính trị viên. Tiếp đến, thành lập tiếp Đại đội 4 hỏa lực (mật danh Đ64) do đồng chí Sự làm đại đội trưởng, đồng chí Trần Tiến làm chính trị viên, trang bị có 4 khẩu ĐKZ57, 2 cối 81 ly, 2 đại liên. *

   Vừa ổn định tổ chức, học tập, huấn luyện, đại đội ra quân phối hợp cùng các đại đội bộ binh cơ động đánh địch càn quét, phản kích, hỗ trợ nhân dân nổi dậy, lúc này phong trào đồng khởi đã phát triển thành cao trào mạnh mẽ, đều khắp, hình thành phương thức đấu tranh 2 chân, 3 mũi giáp công, một phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân khoa học và hiệu quả.

   Đầu năm 1965, giữa lúc Mỹ - Ngụy lúng túng đối phó với cao trào đồng khởi phát triển như vũ bão. Khu ủy Khu 5 và Đảng ủy, BTL Quân khu 5 chủ trương mở đợt hoạt động tác chiến Xuân – Hè 1965. Chấp hành mệnh lệnh của Bộ tư lệnh Quân khu, Tỉnh ủy – BCH tỉnh đội Quảng Đà quyết định mở chiến dịch Xuân 1965 (chiến dịch mang tên Nguyễn Văn Trỗi) nhằm:

   - Tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, chủ yếu là lực lượng kèm kẹp, thúc đẩy quân Ngụy tan rã nhanh hơn nữa.

   - Phá tan số ấp chiến lược còn lại, thu hẹp vùng địch kiểm soát, mở rộng vùng giải phóng, xây dựng căn cứ, bàn đạp vững mạnh.

   - Kết hợp chặt chẽ đấu tranh “2 chân, 3 mũi giáp công”, nhất là ở vùng ven thành phố, đô thị.

   - Xây dựng, phát triển lực lượng cách mạng rộng rãi, đều khắp.

   Hướng trọng điểm của chiến dịch ở Gò Nổi (Điện Bàn), Khu Trung và Tây Bắc (Hòa Vang).

   Lực lượng tham gia chiến dịch hầu hết các đơn vị, địa phương của Quảng Đà.

   Ngày 07.02.1965, chiến dịch mở màn, các đại đội bộ binh (Đ61, Đ62, Đ63, Đ64) và đặc công – trinh sát đều rời căn cứ tỏa đi các hướng, phối hợp chặt chẽ với các lực lượng địa phương đồng loạt nổ súng tiến công tiêu diệt và làm tan rã bộ máy ngụy quân, ngụy quyền của Mỹ - Ngụy, hỗ trợ cho hàng vạn quần chúng nổi dậy phá ấp chiến lược, giải phóng hoàn toàn 6 xã Gò Nổi (Điện Bàn), Tây Bắc (Hòa Vang), Vùng B (Đại Lộc) và vùng ven các chi khu quận lỵ. Vùng nông thông, đồng bằng từ nam sông Cẩm Lệ vào giáp với Quảng Nam được giải phóng, chính quyền cách mạng được thiết lập, mặt trận và các đoàn thể cách mạng được hình thành.

   Đây là thắng lợi to lớn của quân và dân ta trong chiến dịch Xuân 1965, góp phần đánh bại chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ - Ngụy.

_____________________
*. Khung cán bộ của Đại đội Đ63, Đ64 đều từ Miền Bắc vào.

*

*   *



Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 28 Tháng Giêng, 2013, 02:31:38 pm
TIỂU ĐOÀN BỘ BINH R20 RA ĐỜI VÀ

CHIẾN CÔNG “RA QUÂN ĐÁNH THẮNG TRẬN ĐẦU”.

   Chiến dịch Xuân 1965 kết thúc thắng lợi, vùng giải phóng nông thôn, đồng bằng được mở rộng, vùng căn cứ miền núi được củng cố vững chắc, trở thành hậu phương trực tiếp chi viện cho cuộc chiến đấu của quân và dân ở đồng bằng, đô thị.

   Nguồn nhân lực tăng lên gấp nhiều lần, nhân dân phấn khởi, hăng hái lao động sản xuất, ổn định cuộc sống, động viên đóng góp kháng chiến. Nổi bật nhất là phong trào vận động thanh niên thoát ly tham gia bộ đội, du kích, thanh niên xung phong, phong trào diễn ra ngày càng sôi động. Nhiều địa phương tổ chức lễ phát động thanh niên đăng ký tòng quân, dựng lễ đài, cầu vinh quang để thanh niên bước qua cầu lên đường chiến đấu giết giặc lập công. Sau các đợt tòng quân “Nguyễn Văn Trỗi” hàng vạn thanh niên Quảng Đà thoát ly gia đình, quê hương, tham gia bộ đội, du kích trong đó có hàng ngàn học sinh, sinh viên, công nhân từ thành phố, đô thị bí mật ra vùng giải phóng tham gia cách mạng. Lúc này diễn biến chiến sự trên chiến trường Quảng Đà trở nên sôi động, quân Mỹ và chư hầu ồ ạt đổ vào Đà Nẵng, chiếm đóng các địa bàn chiến lược quan trọng, đẩy quân Ngụy ra vòng ngoài, càn quét đánh phá vùng giải phóng nông thôn.

   Xuất phát từ tình hình đó và yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu đánh bại hoàn toàn chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ - Ngụy và sẵn sàng tư thế đánh Mỹ, thắng Mỹ. Tỉnh ủy, BCH tỉnh đội đề ra chủ trương tăng cường xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang địa phương, nhằm tăng cường sức chiến đấu hợp đồng trên qui mô lớn giữ vững và phát triển thế làm chủ chiến trường để tiến công địch.

   Ở tỉnh phát triển từ các đại đội độc lập lên thành tiểu đoàn, ở huyện, thị, thành từ các trung đội phát triển thành đại đội, dân quân du kích ở xã phát triển mạnh mẽ, đều khắp để làm nòng cốt cho chiến tranh du kích và phong trào toàn dân đánh giặc. Thực hiện chủ trương của Bộ tư lệnh Quân khu và Tỉnh ủy, đầu tháng 05.1965, BCH Tỉnh đội đề ra kế hoạch điều động các đại đội bộ binh Đ61, Đ62, Đ63, Đ64 đang hoạt động tác chiến ở các huyện về chuẩn bị thành lập Tiểu đoàn bộ binh đầu tiên của các lực lượng vũ trang Quảng Đà. Đại đội Đ61 đang hoạt động tác chiến ở Đại Lộc, Đại đội Đ62 đang hoạt động tác chiến ở Điện Bàn. Đ63 và Đ64 mới thành lập, đang tập trung củng cố, huấn luyện. Chấp hành mệnh lệnh cấp trên, các đại đội nhanh chóng hành quân về tập kết tại thôn Phú Phong, Phú Bình, Phú An xã Lộc Quí (nay là xã Đại Thắng). Đây là những đại đội đã ra đời trong phong trào đồng khởi giải phóng miền núi đến phong trào diệt ác, phá kèm, đồng khởi giải phóng nông thôn, đồng bằng (từ 1961 – 1964), đội ngũ cán bộ chỉ huy nhiều đồng chí đi tập kết về và trưởng thành từ phong trào đấu tranh cách mạng trong những năm đồng khởi giải phóng quê hương, còn chiến sĩ và cán bộ trung, tiểu đội hầu hết là con em gia đình kháng chiến, giác ngộ cách mạng ở Đại Lộc, Điện Bàn, Duy Xuyên, Hòa Vang, Hội An, sẵn sàng cống hiến tuổi thanh xuân của mình, sẵn sàng chịu đựng gian khổ, hy sinh tham gia bộ đội chiến đấu giải phóng quê hương, giải phóng miền Nam.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 28 Tháng Giêng, 2013, 02:32:21 pm
   Đứng chân ở đây, các đại đội nhận tân binh, vũ khí, đạn dược, tranh thủ tập luyện đội ngũ, kỹ thuật, chiến thuật, chuẩn bị cho lễ thành lập. Nhân dân khắp nơi trong tỉnh nói chung, vùng B Đại Lộc nói riêng, những ngày này càng rạo rực niềm tin cách mạng sẽ thắng lợi hoàn toàn, non sông đất nước sẽ được độc lập, thống nhất, các thôn của xã Lộc Quí, Lộc Phước trở thành những thao trường sôi nổi suốt ngày đêm.

   Đêm 19.05.1965, nhân kỷ niệm 75 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tại bãi cát nằm bên bờ sông Thu Bồn và giữa hai thôn Quảng Đợi và thôn Giảng Hòa. Tỉnh ủy, BCH Tỉnh đội Quảng Đà tổ chức lễ thành lập Tiểu đoàn bộ binh đầu tiên của tỉnh (mang mật danh là R20) (9). Đồng chí Trần Thận – Phó bí thư Tỉnh ủy (nguyên trưởng Ban quân sự tỉnh), đồng chí Nguyễn Hữu Đức – Tỉnh đội trưởng đến dự. Trong không khí trang nghiêm, hơn 650 cán bộ, chiến sĩ đội ngũ chỉnh tề, trang bị đầy đủ, sắp xếp theo từng đại đội, đứng đầu là các đồng chí chỉ huy đã từng xông pha trận mạc, hết đánh Pháp đến đánh Ngụy, đánh từ rừng núi xuống đồng bằng như: Lại Nam Dương, Nguyễn Xuân Mua, Nguyễn Xuân Quang, Trần Tiến, Huỳnh Hồng, Đặng Văn Chí, Lê Dũng Tiến, Nguyễn Chí Sa, Nguyễn Văn Dung.

   Sau lễ chào cờ, đồng chí Tỉnh đội trưởng trao cờ “Quyết thắng” cho đồng chí Võ Xuân Lâm – Tiểu đoàn phó quyền tiểu đoàn trưởng. Đồng chí Phó Bí thư Tỉnh ủy phát biểu nêu rõ tình hình, nhiệm vụ của quân và dân trong tỉnh nói chung, của Tiểu đoàn bộ binh R20 nói riêng, đồng chí căn dặn, đặt niềm tin của Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh vào cán bộ, chiến sĩ đơn vị hãy giữ vững và phát huy mạnh mẽ truyền thống Quân đội nhân dân “Ra quân là đánh thắng”, đánh thắng từ trận đầu để xây dựng truyền thống Tiểu đoàn. Đồng chí Trần Sinh – Chủ nhiệm chính trị Tỉnh đội kiêm chính trị viên Tiểu đoàn thay mặt cán bộ, chiến sĩ hứa hẹn quyết tâm với Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong tỉnh: Tiểu đoàn bộ binh R20 quyết tâm thực hiện hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Xứng đáng là đơn vị bộ binh chủ công, cơ động, thọc sâu, đánh thắng mọi kẻ thủ trong mọi tình huống.

_____________________________

9. Tiểu đoàn lấy mật danh “R20” là lấy tên Tiểu đoàn 20 của Tỉnh trong cuộc kháng chiến chống Pháp đã lập nhiều chiến công xuất sắc trong chiến cục Đông – Xuân 53 – 54, đặc biệt Tiểu đoàn 20 là đơn vị chủ công tiêu diệt Chiến đoàn 10 hỗn hợp của quân Pháp ở Bồ Bồ (Điện Tiến).


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 28 Tháng Giêng, 2013, 02:52:14 pm
   BCH Tiểu đoàn gồm có:

   - Đồng chí Võ Xuân Lâm – Tiểu đoàn phó quyển Tiểu đoàn trưởng.

   - Đồng chí Trần Sinh – Chủ nhiệm chính trị Tỉnh đội kiêm chính trị viên trưởng – Bí thư Đảng ủy Tiểu đoàn.

   - Đồng chí Nguyễn Chí Sa – Tham mưu trưởng tiểu đoàn.

   Lãnh đạo, chỉ huy của các đại đội cũng được sắp xếp đầy đủ.

   Chất lượng mọi mặt của tiểu đoàn tương đối cao, trong đó có 50 đảng viên, 350 đoàn viên, trình độ kỹ thuật, chiến thuật được huấn luyện chu đáo, cán bộ, chiến sĩ đều quen thuộc địa hình, có khả năng cơ động, thọc sâu đánh địch cả trong công sự và ngoài công sự.

   Trang bị vũ khí, đạn dược cũng tương đối khá hơn các đơn vị, nhưng chủ yếu là súng K44, K50 của các nước xã hội chủ nghĩa và tiểu liên, súng trường của Pháp, Đức, Mỹ.

   Sau buổi lễ, các đại đội di chuyển đội hình về trú quân ở các thôn Quảng Đại, Khánh Vân, Trang Điền. BCH Tiểu đoàn đứng chân ở thôn Quảng Đại.

   Cùng đêm 19.05, ở cánh Bắc, Tỉnh ủy – BCH Tỉnh đội và thành đội Đà Nẵng tổ chức lễ thành lập Đại đội 1 đặc công hậu cứ, nhiều đơn vị, địa phương cũng điều động lực lượng bổ sung hoặc thành lập thêm các đơn vị mới.

   Tiểu đoàn bộ binh “R20” được thành lập là sự kiện lịch sử quan trọng, đánh dấu bước trưởng thành của các lực lượng vũ trang tỉnh Quảng Đà, đáp ứng kịp thời yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu trước mắt và lâu dài của quân và dân trong tỉnh. Đặc biệt là phối hợp với các đơn vị, địa phương tiếp tục tiến công địch, đánh bại các âm mưu, thủ đoạn càn quét, phản kích của địch.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 28 Tháng Giêng, 2013, 03:16:17 pm
   Trong những ngày cuối tháng 5 lịch sử, thực hiện quyết tâm “Ra quân là đánh thắng”. Đảng ủy – BCH tiểu đoàn tổ chức một đoàn cán bộ - trinh sát do đồng chí Võ Xuân Lâm – quyền tiểu đoàn trưởng  và đồng chí Nguyễn Chí Sa – Tham mưu trưởng phụ trách đi chuẩn bị chiến trường theo mệnh lệnh của BCH Tỉnh đội. Mở trận vận động phục kích tiêu diệt đoàn xe vận tải quân sự của Mỹ - Ngụy hàng ngày từ Đà Nẵng vào đi ngang qua đoạn từ thị trấn Nam Phước đến phía bắc cầu Bà Rén (Duy Xuyên). Được sự giúp đỡ, che dấu, nuôi dưỡng của cấp ủy, nhân dân Xuyên Tân (nay là Duy Thành), chỉ trong thời gian ngắn, bộ phận chuẩn bị chiến trường đã hoàn thành xuất sắc, tạo điều kiện cho Đảng ủy, chỉ huy tiểu đoàn xây dựng kế hoạch, chiến đấu và báo cáo cấp trên phê chuẩn.

   Mười bảy giờ ngày 25.05.1965, từ địa bàn đứng chân – Tiểu đoàn xuất quân vượt sông Thu Bồn rồi qua dốc Bà Son, ranh Xuyên Hiệp, xuống Xuyên Trà. Đến đêm, bí mật vượt qua đường số 1, vòng qua Quế Xuân rồi vòng lại xã Xuyên Tân. Đêm tối, đường xa, nhưng nhờ có tổ chức chặt chẽ, biện pháp hành quân linh hoạt, nên tất cả các bộ phận đến nơi an toàn, đầy đủ quân số, đến nơi các đại đội nhanh chóng triển khai trận địa phục kích ở thôn Văn Quật, nằm phía bắc cầu Bà Rén, phía đông đường số 1. Phối hợp với trận đánh của Tiểu đoàn bộ binh R20 còn có đại đội bộ đội địa phương huyện Duy Xuyên và cán bộ, du kích xã Xuyên Tân, Xuyên Phước.

   Chỉ huy trận đánh có các đồng chí: Nguyễn Hữu Đức – Tỉnh đội trưởng, Trần Sinh – chính trị viên tiểu đoàn, đồng chí Trần Thận – phó bí thư tỉnh ủy, đồng chí Võ Xuân Lâm – Tiểu đoàn phó, Nguyễn Chí Sa trực tiếp chỉ huy các hướng.

   Rạng sáng ngày 29.05.1965, các đại đội hoàn thành mọi công tác chuẩn bị chiến đấu và trận địa được ngụy trang kín đáo, bất ngờ đồng chí Huỳnh Dạng – Tiểu đội trưởng của đại đội 1 phát hiện quân địch xuất hiện ở phía đông thôn  Văn Quật (tức phía sau trận địa phục kích của tiểu đoàn), lập tức đồng chí báo cáo cho đại đội trưởng Lại Nam Dương, tình huống bất ngờ ngoài dự kiến, đồng chí ra lệnh đơn vị sẵn sàng chiến đấu và báo cáo chỉ huy tiểu đoàn. Cũng trong lúc này, một loạt đạn car bin bắn vào trận địa làm đồng chí Cán – đại đội phó bị thương.

   Sau khi nghe cán bộ - trinh sát báo cáo tình hình địch trên các hướng, chỉ huy tiểu đoàn ra lệnh cho các đại đội: Hướng nào có địch phát hiện thì nổ súng chặn đánh, hướng nào chưa bị địch phát hiện thì phải giữ bí mật trận địa. Ngay lúc đó, BCH hội ý chớp nhoáng để đánh giá kết luận về tình hình: Đây là tình huống ngoài dự kiến, có thể địch chủ động càn quét, hoặc do bọn gián điệp chỉ điểm nên Tiểu khu Quảng Nam ra lệnh điều động tập trung lực lượng lớn để bao vây, tiến công khu vực phục kích của Tiểu đoàn. Lực lượng gồm: 2 đại đội biệt kích “Tây Hồ”, 2 đại đội  Bảo an và ½ Tổng đoàn dân vệ bí mật đến bao vây thôn Văn Quật, nhưng địch không ngờ Tiểu đoàn bộ binh R20 của ta bí mật cơ động đến đây. Trước tình huống đó, chỉ huy tiểu đoàn hạ quyết tâm chuyển phương án vận động phục kích đánh địch cơ động trên đường số 1 sang phương án vận động phục kích đánh địch càn quét.

   Chấp hành mệnh lệnh của chỉ huy trận đánh, các phân đội nhanh chóng vận động hình thành thế bao vây tiến công vào đội hình địch. Bị đánh bất ngờ, từ thế bao vây ta chuyển sang thế bị ta bao vây chia cắt và bị tiêu diệt từng cụm làm cho đội hình rối loạn, nhưng bọn sống sót, nhất là lính biệt kích ngoan cố chống cự. Kiên quyết trừng trị hành động của địch, các tổ chiến đấu của ta xông lên đánh giáp lá cà bằng lưỡi lê, dao găm. Tiếng hô xung phong, tiếng va chạm của các loại kim khí hòa trong tiếng kêu la của binh lính địch, tạo nên một âm thanh hỗn loạn giữa trận địa. Sau 1 giờ chiến đấu, các mũi tiến công của Tiểu đoàn bộ binh R20 đã đánh bật địch ra khỏi đầu thôn, dồn bọn bảo an, dân vễ ra giữa cánh đồng trống, còn bọn biệt kích chạy ra nghĩa địa tổ chức phản kích lại. Không để địch hồi phục, đại đội 4 sử dụng hỏa lực bắn vào giữa đội hình tiêu diệt nhiều tên, bọn dân vệ hoảng sợ kéo chạy về Nam Phước lại bị cối 60 ly của đại đội bắn chặn. Tiểu đội Huỳnh Dạng xung phong vào giữa trận địa của biệt kích diệt từng tên, có tên nằm áp mặt xuống đất giả chết. Mặt trời lên cao, Mỹ - Ngụy sử dụng máy bay L19, HU1A và 4 khu trục vào ném bom, chi viện cho địch rút chạy, do không phân biệt được mục tiêu nên máy bay HU1A dùng rốc két, đại liên bắn vào lò gạch, gây nhiều thương vong cho bọn bảo an, dân vệ.

   Quyết không cho địch chạy thoát, chỉ huy trận đánh ra lệnh cho các phân đội xung phong truy kích địch. Chính trị viên tiểu đoàn dùng loa kêu gọi binh lính địch đầu hàng, lập tức nhiều toán địch bỏ súng đầu hàng, dân quân, du kích, binh vận địa phương cũng xông ra bắt tù binh, kêu gọi lính địch nộp súng, đầu hàng.

(http://farm9.staticflickr.com/8212/8422908818_82551a95e2_c.jpg) (http://www.flickr.com/photos/90883775@N03/8422908818/)
 (http://www.flickr.com/photos/90883775@N03/8422908818/)



Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 28 Tháng Giêng, 2013, 03:25:40 pm
   Gần trưa, địch sử dụng 1 chi đoàn xe tăng từ Đà Nẵng vào chi viện, nhưng bị đại đội 1 chặn đánh, buộc chúng phải dừng lại.

   Diễn biến trận đánh kéo dài đến 15 giờ mới kết thúc. Các đại đội nhanh chóng thu chiến lợi phẩm. Kết quả trận đánh, Tiểu đoàn đã loại khỏi vòng chiến đấu 150 tên địch, bắt sống hơn 100 tên, trong đó có nhiều tên ác ôn khét tiếng như tên Bường – Đại úy chỉ huy biệt kích, tên Được – Trung úy chỉ huy lính Bảo an.

   Chiến thắng Văn Quật là trận đầu Tiểu đoàn bộ binh R20 ra quân đánh thắng kể từ ngày thành lập (chỉ cách 09 ngày). Đơn vị tiêu diệt được nhiều sinh lực địch, thu nhiều vũ khí, thể hiện trình độ chiến đấu trong vận dụng hình thức chiến thuật, xử lý các tình huống từ bị động chuyển sang chủ động tiến công, từ phục kích chuyển sang bao vây, vận động tiến công, đồng thời cũng thể hiện tinh thần chiến đấu mưu trí, dũng cảm, đạp lên đầu thù mà xốc tới, nhiều gương chiến đấu kiên cương, hy sinh anh dũng như y tá Nguyễn Văn Độ lấy thân mình che đạn pháo cho thương binh và đồng chí hy sinh anh dũng. Chiến thắng còn biểu hiện tinh thần đoàn kết hợp đồng chiến đấu giữa Tiểu đoàn với cấp ủy, chính quyền, đoàn thể địa phương. Sau trận đánh, nhiều đơn vị, địa phương gửi thư, quà đến chúc mừng đơn vị. Tiểu đoàn được tặng thưởng Huân chương chiến công hạng nhất, các đồng chí Huỳnh Dạng, Nguyễn Văn Thanh, Trần Bát, Hồng Cẩm được tặng Huân chương chiến công hạng Ba. Phấn khởi trước thắng lợi “Ra quân đánh thắng trận đầu”. Tiểu đoàn bắt tay vào đợt học tập, huấn luyện kỹ, chiến thuật củng cố tổ chức, phát triển đảng viên, đoàn viên, nâng cao chất lượng đơn vị. Đồng chí Lê Lan Chi được bổ nhiệm là Tiểu đoàn trưởng, đồng chí Nguyễn Xuân Khoa – chính trị viên. Chiến thắng Văn Quật nêu lên nhiều kinh nghiệm để đơn vị nghiên cứu, vận dụng trong quá trình xây dựng chiến đấu, chiến thắng kẻ thù. Viết nên trang sử về truyền thống ra quân đánh thắng của Tiểu đoàn.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 28 Tháng Giêng, 2013, 03:43:13 pm
   Chặng đường 10 năm (từ tháng 07.1954 đến tháng 03.1965) là một giai đoạn đấu tranh cực kỳ gian khổ và quyết liệt nhất của quân và dân Quảng Đà để chống lại chế độ thực dân mới của Mỹ - Ngụy.

   Thực hiện chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới, tiêu diệt cách mạng miền Nam, chia cắt lâu dài đất nước ta bằng các âm mưu, thủ đoạn thâm độc, xảo quyệt: Phá hoại Hiệp định Giơ – ne – vơ, cự tuyệt hiệp thương tổng tuyển cử, thực hiện các quốc sách “tố cộng, diệt cộng”, “gom dân, lập ấp chiến lược, bình định”. Mỹ - Ngụy đã gây ra nhiều tội ác man rợ đối với cán bộ, đảng viên và nhân dân ta khắp các địa bàn của tỉnh, gây nhiều khó khăn, tổn thất cho phong trào cách mạng.

   Vượt qua những khó khăn, thử thách, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chủ Tịch, quân và dân tỉnh Quảng Đà đã phát huy mạnh mẽ truyền thống đấu trang cách mạng kiên cường, trụ bám, tập hợp lực lượng đấu tranh chống Mỹ - Ngụy phá hoại Hiệp định, đòi hiệp thương tổng tuyển cử, chống các trò hề “trưng cầu ý dân”, “bầu cử quốc hội bù nhìn”, chống “tố cộng, diệt cộng”, chống “gom dân, lập ấp chiến lược, bình định”. Kết hợp đấu tranh chống chế độ đàn áp, khủng bố với giữ gìn, bảo toàn lực lượng, từng bước khôi phục tổ chức, phát triển lực lượng, tích trữ vũ khí, lương thực, tiến lên diệt ác, phá kèm, phá lỏng thế kèm kẹp của địch, phát động phong trào đồng khởi giải phóng miền núi, xây dựng căn cứ địa miền núi. Kết hợp xây dựng lực lượng chính trị quần chúng với xây dựng lực lượng vũ trang để làm nòng cốt trọng diệt ác, phá kèm, tiêu diệt và làm tan rã lực lượng kèm kẹp của địch, hỗ trợ cho nhân dân đồng khởi nổi dậy giải phóng làng xã, giành quyền làm chủ. Quá trình xây dựng, phát triển từ thấp đến cao, từ ít đến nhiều. Vừa xây dựng, vừa chiến đấu và ngược lại. Trong phong trào đồng khởi giải phòng miền núi mới có một số trung đội, đến đồng khởi giải phóng nông thôn, đồng bằng phát triển được nhiều đại đội.

   Sau chiến dịch Xuân 1965, trước yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu, lực lượng vũ trang Quảng Đà đã thành lập Tiểu đoàn bộ binh “R20” trên cơ sở các Đại đội độc lập (Đ61, Đ62, Đ63, Đ64) ra đời trong phong trào đồng khởi giải phóng nông thôn, đây là tiền đề xây dựng các đơn vị cấp Tiểu đoàn tiếp theo thể hiện sự trưởng thành vượt bậc của các lực lượng vũ trang nhân dân Quảng Đà, đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

*
*   *


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 28 Tháng Giêng, 2013, 04:12:37 pm
CHƯƠNG HAI
QUYẾT TÂM ĐÁNH MỸ, THẮNG MỸ
GÓP PHẦN ĐÁNH BẠI CHIẾN LƯỢC
CHIẾN TRANH CỤC BỘ (1965 – 1968)


QUÂN MỸ Ồ ẠT ĐỔ VÀO ĐÀ NẴNG.
QUÂN VÀ DÂN QUẢNG ĐÀ RA SỨC XÂY DỰNG
LỰC LƯỢNG VÀ THẾ TRẬN, QUYẾT TÂM
ĐÁNH MỸ VÀ THẮNG MỸ.

   Đầu năm 1965 “chiến lược chiến tranh đặc biệt” của Mỹ - Ngụy, mặc dù được đẩy lên nấc thang cao nhất, nhưng đều bị quân và dân ta đánh bại hoàn toàn, chế độ Sài Gòn đứng trước sự sụp đổ, quân Ngụy cũng được trước nguy cơ bị tiêu diệt. Trước bối cảnh đó, Mỹ không thể chơi bài đem con bỏ chợ mà phải thay đổi chiến lược chiến tranh, nhằm tiếp tục thực hiện âm mưu xâm lược và thống trị miền Nam bằng chủ nghĩa thực dân mới.

   Thực hiện âm mưu trên, từ đầu mùa hè 1965, Mỹ đưa một lực lượng lớn quân chiến đấu của Mỹ và chư hầu (10) vào xâm lược miền Nam, sử dụng không quân, hải quân mở cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc. Tăng cường xây dựng quân Ngụy lên trên 50 vạn.

   Oét – mô – len Tư lệnh Bộ chỉ huy quân sự Mỹ tại miền Nam Việt Nam đề ra kế hoạch 3 giai đoạn. Mở các cuộc phản công chiến lược mùa khô bằng hai biện pháp mang tính chiến lược “tìm diệt và bình định”, nhằm bẻ gãy xương sống Việt cộng (tức là tiêu diệt quân giải phóng miền Nam). Dự định kết thúc vào cuối năm 1967 và từng bước rút quân về nước.

   Thực hiện kế hoạch trên, ngày 08.02.1965, Mỹ đưa tiểu đoàn tên lửa HAWK (Chim Ưng) “đất đối không” vào Đà Nẵng, lập trận địa ở Sơn Trà, Phước Tường, Hải Vân.

   Ngày 08.03.1965, 13.500 quân thuộc Lữ đoàn 9 – Sư đoàn 3 lính thủy đánh bộ (LTĐB) (11) Mỹ đổ vào bãi biển Nam Ô – Xuân Thiều và sân bay Đà Nẵng. Như vậy, Mỹ đã theo vết chân quân Pháp, chọn Đà Nẵng làm nơi đổ quân đầu tiên vào xâm lược nước ta, mở đầu chiến lược chiến tranh cục bộ ở miền Nam. Tiếp đến các lực lượng Hải – Lục – Không quân và Sư đoàn LTĐB ồ ạt đổ vào Đàn Nẵng – Chu Lai xây dựng Đà Nẵng thành căn cứ liên hợp quân sự lớn nhất ở miền Trung.

   Ngay sau khi đổ vào Đà Nẵng, các đơn vị LTĐB Mỹ mở các cuộc càn quét, mở rộng địa bàn chiếm đóng chung quanh, hình thành các tuyến phòng thủ bảo vệ căn cứ Đà Nẵng. Bên trong, các đơn vị hậu cần, kỹ thuật nhanh chóng xây dựng, nâng cấp Sở chỉ huy: Bộ tư lệnh Đệ Tam Hải – Lục – Không quân (III MAF) tại An Hải – Quận Ba. Bộ tư lệnh Quân đoàn I kiêm Vùng I chiến thuật ngụy, Bộ tư lệnh các sư, lữ đoàn và tương đương, sân bay Đà Nẵng, Nước Mặn, Xuân Thiều, các bến cảng Tiên Sa, Nại Hiên, các Tổng kho: An Đồn, Phước Lý, Bàu Mạc, các trận địa pháo Thanh Vinh, La Bông, Dương Mẹo, bãi xe Non Nước, Cẩm Bình, trung tâm chỉ huy, dẫn đường cho máy bay, tàu chiến đánh phá miền Bắc.

   Tính đến cuối năm 1965, quân Mỹ đã đưa vào Nam 206.772 tên, trong đó có 22.000 quân các nước chư hầu.

   Quân Mỹ đã đẩy quân Ngụy ra vòng ngoài, càn quét, đánh phá vùng giải phóng nông thôn, tạo điều kiện cho quân Mỹ triển khai lực lượng, bố trí thiết bị chiến trường. Bộ máy chiến tranh tâm lý của Mỹ - Ngụy ngày đêm không ngớt tuyên truyền về sức mạnh của quân Mỹ, về tư tưởng tự do, nhân quyền, lối sống Mỹ.

___________________________

10. Úc, Tân Tây Lan, Nam Triều Tiên, Phi – Líp – Pin, Thái Lan, Đài Loan.

11. Sư đoàn 3 Lính thủy đánh bộ Mỹ thành lập năm 1942 nhưng đã có trung đoàn tham gia trong Đại chiến thế giới lần thứ nhất, Đại chiến thế giới lần thứ hai. Sư đoàn 3 tham chiến ở chiến trường châu Á – Thái Bình Dương. Năm 1953 rút về Ô – ki – na – wa (Nhật) làm lực lượng dự bị Tây Thái Bình Dương, biên chế sư đoàn có 4 trung đoàn (3, 4, 9 và 26), 1 tiểu đoàn tăng M48, 1 tiểu đoàn pháo chống tăng tự hành, 1 tiểu đoàn xe lội nước, 1 đại đội trinh sát.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 29 Tháng Giêng, 2013, 08:37:54 am
   Tuy nhiên, quân Mỹ cũng như quân Ngụy đi đến đâu cũng gây tội ác, tự do dùng bom đạn để bắn giết, đốt nhà, cướp của, điển hình như vụ ngày 16.03.1965, máy bay Mỹ - Ngụy ném bom vào trường tiểu học Mân Quang (Hòa Quý) giết hại 45 học sinh và làm bị thương nhiều người khác. Quân Ngụy cũng mở hàng trăm cuộc càn quét, đánh phá vùng giải phóng Điện Bàn, Đại Lộc, Duy Xuyên. Như vậy, được Mỹ hà hơi, tiếp sức, quân Ngụy đã gượng dậy sau cao trào đồng khởi của quân và dân ta, chúng ra sức phản kích quyết liệt, tạo sự ổn định bên trong cho quân Mỹ đổ quân và phương tiện chiến tranh vào xâm lược miền Nam, gây cho phong trào cách mạng và nhân dân ta nhiều khó khăn.

(http://farm9.staticflickr.com/8324/8424757977_79fc2c10a3.jpg) (http://www.flickr.com/photos/90883775@N03/8424757977/)

 (http://www.flickr.com/photos/90883775@N03/8424757977/)
(http://farm9.staticflickr.com/8232/8424757879_d0c14cf9a4.jpg) (http://www.flickr.com/photos/90883775@N03/8424757879/)
 (http://www.flickr.com/photos/90883775@N03/8424757879/)

(http://farm9.staticflickr.com/8367/8425847692_ef240eb73b.jpg) (http://www.flickr.com/photos/90883775@N03/8425847692/)
 (http://www.flickr.com/photos/90883775@N03/8425847692/)

(http://farm9.staticflickr.com/8231/8425847624_e4011ae268.jpg) (http://www.flickr.com/photos/90883775@N03/8425847624/)

 (http://www.flickr.com/photos/90883775@N03/8425847624/)
   Việt quân Mỹ và chư hầu đổ vào miền Nam nói chung, Quảng Đà nói riêng, thực hiện chiến lược chiến tranh cục bộ đã làm thay đổi cục diện chiến tranh, so sánh tương quan lực lượng, Mỹ - Ngụy gấp hơn ta nhiều lần, nhất là về trang bị kỹ thuật, trong khi đó quân và dân ta chưa có kinh nghiệm đánh Mỹ, ngôn ngữ bất đồng, trang bị vũ khí, đạn dược của các lực lượng vũ trang nhân dân ta còn thiếu và kém hiện đại, chủ yếu là vũ khí từ thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ hai còn lại, chưa có B40, B41, AK47… một số cán bộ, chiến sĩ và nhân dân gờm sợ Mỹ, không dám tiếp xúc với quân Mỹ. Nhiều nước xã hội chủ nghĩa và các nước trong phong trào giải phóng dân tộc không tin quân và dân ta đánh được Mỹ và thắng Mỹ. Đây là thử thách to lớn đối với quân và dân ta, một cuộc đụng đầu lịch sử, mang tính thời đại và quốc tế.
   Quân và dân ta với truyền thống yêu nước, căm thù sâu sắc bọn ngoại xâm, không có con đường nào khác, hoặc chấp nhận sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc thực dân do Mỹ cầm đầu, hoặc tiếp tục cầm súng chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc.




Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 29 Tháng Giêng, 2013, 09:32:30 am
TIỂU ĐOÀN BỘ BINH R20 QUYẾT TÂM ĐÁNH MỸ,
THẮNG MỸ.

   Trước tình hình quân Mỹ ồ ạt đổ quân xâm lược miền Nam, dùng không quân, hải quân đánh phá miền Bắc – Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra các chỉ thị, nghị quyết sáng suốt, kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo quân và dân ta nắm vững đường lối kháng chiến, chiến tranh nhân dân, tư tưởng cách mạng tiến công, động viên mọi lực lượng, vật chất để đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ.

   Quán triệt sâu sắc đường lối kháng chiến của Đảng, chỉ thị, nghị quyết của Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và tư tưởng chỉ đạo của Khu ủy – Bộ tư lệnh Quân khu 5 “Chuẩn bị tư tưởng cho bộ đội trực tiếp chiến đấu với quân Mỹ”. Thường vụ Tỉnh ủy – BCH Tỉnh đội Quảng Đà chủ trương: “Động viên, tổ chức cho quân và dân toàn tỉnh vừa tiếp tục diệt Ngụy, mở rộng vùng giải phóng, vừa tích cực chuẩn bị đánh Mỹ” (12). Trước mắt sử dụng lực lượng tại chỗ của Hòa Vang – Đà Nẵng đánh phủ đầu quân Mỹ, hạ uy thế quân Mỹ, rút kinh nghiệm cho toàn tỉnh đánh Mỹ. Nhanh chóng hình thành “Vành đai diệt Mỹ” bao quanh căn cứ Đà Nẵng. Tiếp đến, Tỉnh ủy phát động phong trào “Ra Hòa Vang đánh Mỹ”, phong trào thi đua “Quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược”, “tìm Mỹ mà diệt, tìm Ngụy mà đánh”, thi đua giành các danh hiệu “Dũng sĩ diệt Mỹ”.

   Chấp hành chủ trương cấp trên, hưởng ứng các phong trào thi đua đánh Mỹ, thắng Mỹ, các đơn vị, địa phương trên khắp chiến trường Quảng Đà ngày đêm sử dụng lực lượng, vũ khí trang bị, vận dụng sáng tạo các phương thức hoạt động, hình thức chiến thuật, cách đánh mưu trí, bí mật, bất ngờ, tiến công vào quân Mỹ, mở nhiều trận đánh phủ đầu, giáng cho chúng nhiều đòn trừng trị đích đáng ở sân bay Đà Nẵng, cầu sắt Quảng Nam, Hòa Ninh, kho xăng Liên Chiểu, sân bay Nước Mặn. Từ thực tế những trận đầu đánh thắng quân Mỹ, một phong trào thi đua đánh Mỹ bắt đầu hình thành và phát triển.

____________________

12. “Quảng Nam – Đà Nẵng: 30 năm chiến đấu và chiến thắng”, Tập 2, Nxb QĐND – Hà Nội, năm 1988, trang 83.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 29 Tháng Giêng, 2013, 09:37:47 am

   Tiểu đoàn bộ binh R20, sau đợt học tập, huấn luyện, đơn vị ra quân phối hợp với bộ đội, du kích Duy Xuyên, Điện Bàn, mở các trận tiến công vào chi khu quận lỵ, hỗ trợ nhân dân vùng ven nổi dậy diệt ác, phá kèm, đồng thời tham gia nghiên cứu cách đánh Mỹ, xây dựng trận địa, làng xã chiến đấu. Trong cuộc họp Đảng ủy, đồng chí Võ Xuân Lâm – tiểu đoàn phó nêu: Chúng ta phải tìm ra cách đánh Mỹ, thắng Mỹ, chấm dứt huyền thoại về sức mạnh của quân Mỹ. Đồng chí Nguyễn Xuân Khoa – chính trị viên – Bí thư đảng ủy thì nêu: Đánh Mỹ, thắng Mỹ là quyết tâm của toàn dân tộc, còn cách đánh Mỹ như thế nào để thắng Mỹ thì phải xuất phát từ thực tế chiến trường. Phải cử cán bộ, chiến sĩ ra phía trước đánh Mỹ để tìm câu trả lời. Chấp hành nghị quyết Đảng ủy – BCH tiểu đoàn giao nhiệm vụ cho Đại đội 1 chọn ra 1 tiểu đội do đồng chí Huỳnh Dạng – Tiểu đội trưởng chỉ huy ra Hòa Vang đánh Mỹ, trang bị 1 súng phóng lựu, 1 trung liên, tiểu liên K50 và lựu đạn, thủ pháo. Nhận nhiệm vụ cấp trên giao, tiểu đội hứa quyết tâm phát huy truyền thống ra quân đánh thắng trận đầu, để đánh Mỹ, rút kinh nghiệm cho đơn vị. Từ hậu cứ vùng A, B Đại Lộc, tiểu đội bí mật về đứng chân ở khu Trung Hòa Vang. Đêm 12 tháng 06 năm 1965, được cán bộ, du kích xã Hòa Châu dẫn đường. Tiểu đội chia làm 3 tổ (mỗi tổ có 1 du kích dẫn đường) bí mật tiếp cận vị trí 1 trung đội Mỹ đang trú quân dã ngoại, thời cơ nổ súng xuất hiện, tiểu đội trưởng ra lệnh tiến công, lập tức tiểu liên, lựu đạn, thủ pháo dồn dập đánh vào quân Mỹ, rồi nhanh chóng rút lui, sau 20 phút nổ súng, tiểu đội loại khỏi vòng chiến đấu 26 tên Mỹ, đơn vị chỉ có 1 đồng chí bị thương nhẹ.

   Một tuần sau, tiểu đội tập kích cứ điểm Miếu Trắng xã Hòa Lương. Cứ điểm Miếu Trắng nằm phía đông bắc cách Gò Cà 1 km, địa hình trống trải, bên trong có 1 lô cốt nổi, bên ngoài có 3 lớp rào kẽm gai, lực lượng chiếm đóng 1 trung đội, nhiệm vụ chốt chặn, kiểm soát một đoạn đường trên đường 14 từ Đà Nẵng đi Ái Nghĩa. Sau khi đi chuẩn bị chiến trường về, tiểu đội làm sa bàn tập luyện, giao nhiệm vụ cho các tổ. Căn cứ phương án chiến đấu của tiểu đội Huỳnh Dạng, xã Hòa Lương tăng cường 2 du kích thông thạo địa hình và 30 lựu đạn (M26 của Mỹ).

   Đêm 22.06.1965, tiểu đội chia làm 2 mũi (mỗi mũi 4 đồng chí) bí mật tiếp cận mục tiêu, khắc phục vật cản, áp sát công sự lính Mỹ. Đến giờ hợp đồng nổ súng, một tiếng nổ bùng lên, trùm lên lô cốt đầu cầu, tiếp theo là tiếng thủ pháo, lựu đạn, tiểu liên đánh dồn dập vào công sự Mỹ. Bị đánh bất ngờ, quân Mỹ không kịp phản ứng. Sau 25 phút chiến đấu. Tiểu đội Huỳnh Dạng diệt gọn quân Mỹ ở Miếu Trắng, thu 2 súng Garand M2 và rút lui an toàn.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 29 Tháng Giêng, 2013, 11:03:13 am
   Trở về trú quân ở Phú Sơn (xã Hòa Khương) tiểu đội nghiên cứu cách đánh Mỹ đi lùng sục ban ngày.

   Sáng ngày 28.06.1965, được sự giúp đỡ của cán bộ, du kích địa phương, tiểu đội bố trí trận địa phục kích tiêu diệt quân Mỹ từ Gò Hà (Hòa Khương) đi càn quét ở thôn Phú Sơn. Khi đội hình quân Mỹ cách trận địa 25m, mục tiêu lọt vào tầm bắn của các loại hỏa lực, đồng chí Huỳnh Dạng siết có diệt tên Mỹ đi đầu, lập tức trung liên của xạ thủ Nguyễn Văn Thanh rung lên diệt một số tên, đồng chí Trần Quyền chỉ huy 1 tổ đánh thọc sườn, hất bọn Mỹ sang bên kia đường 14, bỏ lại 10 tên nằm trên mặt đường. Sau những phút đầu nổ súng, bọn Mỹ phát hiện trận địa của ta, chúng tập trung hỏa lực phản kích, đồng chí Dạng và Thanh bị thương. Không để địch củng cố đội hình, tiểu đội trưởng ra lệnh cho xạ thủ súng phóng lửa bắn diệt khẩu đại liên, chớp thời cơ đồng chí Quyền vận động lên đường 14 thu 1 khẩu Garand M2. Sau 30 phút nổ súng chiến đấu, quân Mỹ ở Gò Hà sử dụng cối bắn vào trận địa của ta. Không để trận đánh kéo dài, tiểu đội trưởng ra lệnh rút lui, được nhân dân giúp đỡ, tiểu đội vượt sông trở về địa điểm trú quân. Còn quân Mỹ xông vào bắn phá làng Phú Sơn. Trong những ngày tiếp theo, tiểu đội 5 chiến sĩ, nhưng vẫn bám địa bàn, nghiên cứu nắm địch, đánh địch ở Gò Gai diệt 1 tên Mỹ, sau đó rút về hậu cứ.

   Sau 25 ngày bám đất, bám dân, điều tra, nghiên cứu quy luật hoạt động của quân Mỹ, sử dụng lực lượng tập kích tiêu diệt quân Mỹ hành quân dã ngoại ngoài công sự, bố trí trận địa phục kích đánh Mỹ cả ban ngày, loại khỏi vòng chiến đấu 61 tên Mỹ, thu 5 súng Garand M2, 1 súng cối cá nhân M79.

   Những trận đánh của tiểu đội Huỳnh Dạng thuộc tiểu đoàn bộ binh R20, tuy không lớn nhưng có ý nghĩa lớn, đó là: Hiệu suất chiến đấu cao, quân số ít nhưng thường chiến đấu với địch có quân số tương đương 1 trung đội. Vấn đề cơ bản nhất là qua chiến đấu, tiểu đội rút ra kết luận: Quân Mỹ cao to, trang bị hiện đại, mang vác cồng kềnh, di chuyển nặng nề, tác chiến theo kiểu chiến tranh hiện địa, không thoát ly xa căn cứ, tầm chi viện của hỏa lực, sợ đánh gần, đánh đêm, từ thực tế đó tiểu đội nghiên cứu vận dụng hình thức chiến thuật tập kích, phục kích, bám sát đội hình chúng mà đánh, mà phải đánh nhanh, rút nhanh. Trong chiến đấu, ngoài yếu tố kỹ thuật, chiến thuật, phải có yếu tố tinh thần: Mưu trí, dũng cảm, nhanh nhẹn, quen thuộc địa hình, thì mới đánh được Mỹ.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 29 Tháng Giêng, 2013, 12:19:00 pm
   Kinh nghiệm đánh Mỹ, thắng Mỹ của tiểu đội Huỳnh Dạng, tiểu đội du kích Trương Văn Hòa (Điện Hòa) cũng như của các đơn vị, địa phương trên vành đai diệt Mỹ Đà Nẵng – Hòa Vang có một ý nghĩa lịch sử sâu sắc, nó góp phần to lớn vào việc giải đáp câu hỏi: Làm sao đánh được Mỹ, đánh bằng cách gì, vũ khí gì? Bộ đội, du kích có đánh được Mỹ không? Giúp cho tiểu đoàn và các đơn vị khác đề ra quyết tâm chiến đấu, chiến thắng quân Mỹ. Đó là cơ sở lý luận và thực tiễn, đặt nền móng cho đơn vị chiến đấu tiêu diệt quân Mỹ từ ít đến nhiều, từ thấp đến cao, diệt từng đơn vị Mỹ từ tiểu đội đến tiểu đoàn.

   Trên cơ sở kết quả đánh Mỹ của Tiểu đội Huỳnh Dạng – Đảng ủy – BCH Tiểu đoàn lãnh đạo, chỉ đạo mở đợt sinh hoạt học tập, huấn luyện nhằm nâng cao trình độ giác ngộ cách mạng, lập trường, bản lĩnh chiến đấu, trình độ kỹ, chiến thuật. Xây dựng tiểu đoàn thật sự là mũi nhọn sắc bén, quả đấm thép, sẵn sàng đánh bại các đơn vị sừng sỏ của Mỹ - Ngụy.

   Cuối tháng 6.1965, chấp hành mệnh lệnh của BCH Tỉnh đội, tiểu đoàn sử dụng 1 Trung đội cối (2 khẩu 81 ly), 1 Trung đội ĐKZ 57 ly (2 khẩu), tăng cường cho Đại đội 1 đặc công hậu cứ Đà Nẵng để tập kích sân bay Đà Nẵng đêm 30.6.1965, các khẩu đội đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần cùng Đại đội Đặc công lập chiến công ngay giữa lòng địch, phá hủy 57 máy bay, 43 xe quân sự, 3 dàn ra đa, loại khỏi vòng chiến đấu 271 tên Mỹ - Ngụy.

   Cuối tháng 8 đầu tháng 9.1965, Mỹ - Ngụy tập trung lực lượng trên 1000 tên (bao gồm cả chủ lực và địa phương) được xe tăng, phi pháo yểm trợ đắc lực, mở chiến dịch “Tám thơm ly thị” nhằm đánh phá, bình định vùng A, B Điện Bàn và khu Trung (Hòa Vang), đẩy lực lượng ta ra xa, chiếm lại những địa bàn đã mất, khai thông đường 100 và giải vây cho các chốt điểm cầu Bình Long, ngã tư Nông Sơn, cài cắm thêm chốt điểm, lập khu dồn, rồi xúc tát dân vào đó để dễ kiểm soát, đưa bọn tề lưu vong về lập lại bộ máy chính quyền xã, thôn. Bắt dân ở vùng chúng kiểm soát và gia đình ngụy quân, ngụy quyền lưu vong đến gặt cướp mùa lúa tháng tám của dân ở vùng giải phóng, đây là thủ đoạn thâm độc, nhằm cắt đứt dạ dày của bộ đội, du kích và nhân dân. Thực hiện âm mưu, thủ đoạn trên, rạng sáng ngày 02.09.1965, sau khi sử dụng máy bay trinh sát L19 và các trận địa pháo Vĩnh Điện, Ái Nghĩa bắn phá quyết liệt vào thôn, ấp dọc sông La Thọ và đường 100 từ Vĩnh Điện lên Ái Nghĩa. Các cánh quân của địch từ các hướng xuất phát tiến công, đánh phá địa bàn 10 xã vùng A, B Điện Bàn lúc bấy giờ. Chiến dịch cho Nguyễn Vàng – trung đoàn trưởng Trung đoàn 51 và trung tá Hoàng Trừng quận trưởng Điện Bàn trực tiếp chỉ huy.

   Ở phía Đông: Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 51) và 1 chi đoàn xe bọc thép M113 từ Vĩnh Điện tiến theo đường 100 lên Bình Long, Phong Thử, tiến theo sau cánh quân này có các đại đội Địa phương quân (13), biệt kích, nghĩa quân (14), bình định, cảnh sát, tề lưu vong.
   
   Ở phía Bắc: 1 đại đội địa phương quân và nghĩa quân ở các đồn Ngũ Giáp – Trảng Nhật từ đường số 1 tiến dọc 2 bên sông La Thọ.

___________________________

13. Địa phương quân: Một bộ phận của quân đội Sài Gòn, là thành phần chủ yếu của lực lượng lãnh thổ, nhiệm vụ chủ yếu là tác chiến chống chiến tranh du kích, bảo vệ an ninh nông thôn và lực lượng bình định. Được tổ chức ngày 07.05.1964 trên cơ sở lực lượng Bảo an (Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam – Nxb QĐND, Hà Nội, năm 1996, trang 262)

14. Nghĩa quân: Một bộ phận của quân đội Sài Gòn, thuộc lực lượng lãnh thổ, có nhiệm vụ bảo vệ an ninh ở cơ sở (xã, ấp) – Cùng Địa phương quân tác chiến chống chiến tranh du kích. Được tổ chức ngày 12.05.1964 trên cơ sở lực lượng Dân vệ (Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam, Nxb QĐND, Hà Nội năm 1996, trang 547).


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 29 Tháng Giêng, 2013, 12:29:10 pm
   Sau khi chiếm được một số thôn, ấp, bọn Ngụy quân, Ngụy quyền lưu vong đốc thúc binh lính gặt cướp lúa của dân, dùng xe GMC chở về các kho và đồn bốt ở Vĩnh Điện.

   Về ta, nắm được âm mưu, thủ đoạn ngay từ đầu, Tỉnh ủy, BCH Tỉnh đội đã có kế hoạch chỉ đạo cho các cấp ủy, lực lượng vũ trang địa phương và nhân dân Điện Bàn sử dụng mọi lực lượng, vận dụng linh hoạt phương châm đấu tranh 2 chân, 3 mũi giáp công để đánh bại chiến dịch “Tám thơm ly thị” của Mỹ - Ngụy.

   Để tăng cường lực lượng chi viện cho quân và dân Điện Bàn, BCH Tỉnh đội ra lệnh cho Tiểu đoàn bộ binh R20 đang đứng chân ở vùng B Đại Lộc cơ động xuống phối hợp với lực lượng địa phương đánh bại các mũi tiến quân của địch, hỗ trợ cho quần chúng đấu tranh chống đốt nhà, cướp của, gặt cướp lúa, bảo vệ cho nhân dân vùng giải phóng thu hoạch mùa lúa tháng Tám được an toàn.

   Nhận nhiệm vụ cấp trên giao, Đảng ủy – BCH Tiểu đoàn nhanh chóng tổ chức một bộ phận cán bộ - trinh sát do đồng chí Võ Xuân Lâm. Tiểu đoàn phó chỉ huy đi nắm tình hình địch, nghiên cứu địa hình, liên hệ cấp ủy, xã đội Điện Xuân, Điện Văn, Điện Thọ để xây dựng kế hoạch chiến đấu bằng hình thức chiến thuật: Vận động phục kích tiêu diệt Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 51 Ngụy). Khu vực được chọn bố trí trận địa phục kích từ cống Dương Huệ (Điện Thọ) lên quán Kiểm Bền (thôn Cẩm Văn, xã Điện Văn) dài khoảng 1 km. Căn cứ ý định trên, BCH Tiểu đoàn sử dụng Đại đội 1 do đồng chí Lại Nam Dương – Đại đội trưởng chỉ huy bố trí tại thôn Cẩm Văn, đảm nhiệm chặn đầu và đối diện tiêu diệt địch ở quán Kiểm Bền, Đại đội 2 do đồng chí Nguyễn Xuân Mua đại đội trưởng chỉ huy bố trí lực lượng tại Đa Hòa, đảm nhiệm tiến công chính diện, Đại đội 3 sử dụng 2 trung đội bố trí tại Thanh An, do đồng chí Nguyễn Xuân Quang chỉ huy, đảm nhiệm khóa đuôi, còn 1 trung đội làm dự bị cho tiểu đoàn. Đại đội 4 hỏa lực bố trí trận địa ở Đa Hòa, cách đường 100: 500 m. Vị trí chỉ huy tiểu đoàn đứng tại Đa Hòa.

   Bộ đội địa phương và du kích vùng A, B Điện Bàn sử dụng lực lượng bố trí trận địa chốt chặn ở Lạc Thành đánh địch từ Ái Nghĩa tiến xuống và làm nhiệm vụ phục vụ chiến đấu.

   Hoàn thành xây dựng phương án chiến đấu, đêm 01.09.1965, tại hậu cứ vùng B Đại Lộc, tiểu đoàn làm lễ xuất quân, chính trị viên tiểu đoàn Nguyễn Xuân Khoa phổ biến nhiệm vụ cho các đại đội hành quân. Trước khi tiểu đoàn xuất quân, bà con vùng B đến thăm hỏi, động viên.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 29 Tháng Giêng, 2013, 02:58:03 pm
   Rạng sáng ngày 02.09.1965, các đại đội hoàn thành xây dựng trận địa, công sự, bố trí lực lượng, hỏa lực, cùng lúc đó máy bay trinh sát, pháo cối của địch bắn phá dọn đường. 8 giờ cánh quân địch từ Vĩnh Điện xuất phát. 12 giờ đến cây số 6 (Nông Sơn – Điện Phước), từ đây đội hình địch chia làm 2 mũi tiến dọc 2 bên đường 100, xe bọc thép cơ động trên mặt đường.

   Quá trình tiến quân của địch diễn ra hết sức căng thẳng, Ngụy quân, Ngụy quyền lưu vong về đốt nhà, cướp của, gặt lúa của dân đưa lên xe GMC chở đi, bộ đội, du kích bám đánh địch, cán bộ, cơ sở cách mạng huy động lực lượng quần chúng ra đấu tranh, có nơi bọn ác ôn bắn chết và bắn bị thương dân, hoặc bắt về giam giữ. Quyết tâm trừng trị hành động tàn bạo của địch, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn bộ binh R20 vẫn bình tĩnh, bí mật chờ địch. Chỉ huy tiểu đoàn vẫn ở đài quan sát theo dõi hành động của chúng, trinh sát cùng du kích địa phương vẫn bám sát đội hình địch.

   Khi mặt trời ngả hẳn về hướng Tây khoảng 14 giờ 30 phút, hai mũi tiến quân của địch đã lọt vào trận địa phục kích của tiểu đoàn. Thời cơ nổ súng tiến công địch xuất hiện, từ vị trí chỉ huy tiểu đoàn, 1 phát pháo hiệu vọt lên, lập tức khẩu đại liên của đồng chí Hùng và khẩu trung liên của đồng chí Mai Xuân Hồng – Đại đội 1 rung lên quật ngã tốp địch đi đầu. Tiếp đến cả trận địa đồng loạt bắn vào đội hình địch, chặn đầu, khóa đuôi và chính diện đối diện đều khép chặt quân địch. Bị tiến công bất ngờ, 2 mũi tiến quân của địch bị ùn lại, bám vào 2 bên đường 100, không để địch co cụm chống cự, Đại đội 4 hỏa lực sử dụng cối 81 ly bắn dập, chính xác vào đội hình quân địch. Bọn địch la hét khắp trận địa “Đụng chủ lực Việt cộng”, rồi chạy lui dần lên ngã ba Trùm Giao. Pháo địch ở các trận địa chung quanh bắn vào trận địa, máy bay trinh sát bắn rốc két chỉ điểm cho máy bay phản lực ném bom. Mặc cho phi pháo địch bắn phá, Đại đội trưởng Đại đội 1 Lại Nam Dương ra lệnh cho đại liên, trung liên bắn sát mặt đường 100 và đường cái mới, không cho địch rút chạy sang Bồ Bồ (Điện Tiến). Thời cơ vận động tiến công địch xuất hiện, tiểu đoàn phó Võ Xuân Lâm ra lệnh xung phong, lập tức các tổ chiến đấu của Đại đội 1, Đại đội 2 bật lên khỏi công sự, khắp trận địa vang lên tiếng xung phong và tiếng súng nổ. Trước sức tiến công mãnh liệt của ta, nhiều tên địch hoảng sợ bỏ súng đầu hàng, nhưng còn một số tên ngoan cố dùng đại liên bắn chặn, gây cho tổ chiến đấu của đồng chí Mai Xuân Hồng thương vong hai đồng chí, còn 1 mình đồng chí ôm khẩu trung liên bắn kiềm chế đại liên địch, và dùng lựu đạn diệt hỏa điểm của địch. Diệt được hỏa điểm thứ nhất, hỏa điểm thứ 2 xuất hiện, bắt đồng chí bị thương, các tổ xuất kích của đơn vị không tiến lên được, một lần nữa đồng chí Hồng dùng lựu đạn diệt hỏa điểm thứ hai, tạo điều kiện cho các tổ xông lên tiêu diệt quân địch ngoan cố chống cự, một số tên sống sót bỏ trận địa kéo chạy xuống Phong Thử. Khi trận đánh diễn ra, bọn xe bọc thép mới đến cầu Phong Thử thì dừng lại, không dám lên chi viện cho bộ binh.

   Diễn biến chiến đấu đến 16 giờ kết thúc, Tiểu đoàn bộ binh R20 làm chủ hoàn toàn trận địa, không quân và pháo binh địch vẫn còn phản kích, bắn phá đội hình tiểu đoàn. Các đại đội nhanh chóng thu chiến lợi phẩm và bắt tù binh, rồi tổ chức lui quân. Kết quả trận chiến đấu vận động phục kích của Tiểu đoàn bộ binh R20 đã đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 2 – Trung đoàn 51 Ngụy, loại khỏi vòng chiến đấu 200 tên địch, bắt sống 25 tên, thu 180 súng các loại, 3 máy PRC 10. Đây là trận đánh đạt hiệu suất chiến đấu cao, đánh bại cánh quân chủ yếu của địch trong chiến dịch “Tám thơm ly thị” thể hiện tinh thần chiến đấu dũng cảm của cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn, nổi bật nhất là tổ chiến đấu của Mai Xuân Hồng – Đại đội 1 đã diệt nhiều hỏa điểm của địch, diệt hàng chục tên, bắt 17 tên, thu 6 súng. Trận đánh còn thể hiện tinh thần đoàn kết hợp đồng chiến đấu giữa Tiểu đoàn với các lực lượng địa phương.

   Sau trận đánh, Đại đội 1 hành quân ra đứng chân ở Điện Tiến để chuẩn bị đánh Mỹ. Đại đội 2 và 3 hành quân xuống đứng chân ở Điện Phước, Điện Hòa đánh địch phản kích, bảo vệ dân thu hoạch mùa màng.

   Phát huy chiến thắng của trận vận động phục kích ở quán Kiểm Bền, ngày 14.09.1965, BCH Tiểu đoàn ra lệnh cho Đại đội 2 cơ động xuống đứng chân tại thôn Hạ Nông (Điện Phước) phối hợp cùng du kích đánh địch càn quét. Trước sức tiến công mạnh mẽ của Đại đội 2 và lực lượng địa phương, cánh quân địch ở hướng này phải co cụm về khu vực cầu Giáp Ba (Điện An), nắm chắc tình hình địch, BCH tiểu đoàn ra lệnh cho Đại đội 3 sử dụng lực lượng tập kích tiêu diệt bọn địch ở đây, loại khỏi vòng chiến đấu hàng chục tên. Bị thất bại nặng nề, Mỹ - Ngụy phải điều Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 4 – Sư đoàn 2) đến tăng cường cho Trung đoàn 51 đã mất sức chiến đấu, nhưng cũng bị các lực lượng vũ trang địa phương chặn đánh quyết liệt, tiêu diệt nhiều sinh lực. Không chịu nổi với các trận tiến công của bộ đội địa phương và phong trào nhân dân du kích chiến tranh, cuối tháng 09.1965, Mỹ - Ngụy phải kết thúc chiến dịch “Tám thơm ly thị”.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 29 Tháng Giêng, 2013, 03:17:15 pm

   Trong 25 ngày đêm chiến đấu, riêng tiểu đoàn bộ binh R20 đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 200 tên địch, bắt sống 25 tên, thu 180 súng các loại, 3 máy PRC25. Thắng lợi của Tiểu đoàn bộ binh R20 trong đánh bại chiến dịch Tám thơm của địch, thể hiện sự trưởng thành của cán bộ, chiến sĩ trong vận dụng chiến, kỹ thuật, trình độ tổ chức chỉ huy hợp đồng tác chiến với lực lượng địa phương, hỗ trợ đắc lực cho nhân dân đấu tranh chống địch càn quét, cướp lúa. Nhiều tấm gương chiến đấu dũng cảm, kiên cường như tổ chiến đấu của đồng chí Mai Xuân Hồng, tả xung, hữu đột, tung hoành giữa trận địa, từ đầu đến khi kết thúc trận đánh diệt hàng chục tên địch, bắt 17 tù binh, thu 68 súng, cuối cùng các đồng chí hy sinh anh dũng, đồng chí Hồng được truy tặng Huân chương chiến công hạng nhất.

   Chiến dịch “Tám thơm ly thị” vừa kết thúc, quân Mỹ từ Đà Nẵng bắt đầu càn quét, đánh phá các địa bàn ranh giới giữa Điện Bàn – Hòa Vang. Ở phía Đông, 1 đại đội lính thủy đánh bộ Mỹ và 1 chi đội xe bọc thép M113 càn quét vào xã Điện Bình (nay là xã Điện Ngọc). Bộ binh và xe bọc thép M113 lội băng qua đồng lúa của dân, lập tức đội quân tóc dài của xã do mẹ Bưng dẫn đầu kéo xe ra chặn đầu xe tăng, đấu tranh buộc chúng quay đầu lại. Đây là lần đầu tiên lực lượng chính trị quần chúng đấu tranh trực diện với quân Mỹ và giành thắng lợi trên chiến trường Quảng Đà.

   Ở phía Tây, trong lúc Đại đội 1 trú quân tại Điện Tiến, lợi dụng địa hình, địa thế để bố trí trận địa sắn sàng đánh địch, thì sáng ngày 08.10.1965, quân Mỹ sử dụng 1 đại đội lính thủy đánh bộ có xe tăng, phi pháo chi viện, từ Hòa Lương (Hòa Vang) càn quét, đánh phá thôn Xuân Diệm (Điện Tiến). Để tăng cường chỉ huy đơn vị đánh bại cuộc càn quét của quân Mỹ, trưa ngày 08.10, đồng chí Nguyễn Chí Sa – Tham mưu trưởng tiểu đoàn từ Hạ Nông – Điện Phước lên Điện Tiến cùng BCH Đại đội 1 lập kế hoạch chiến đấu, 14 giờ ngày 08.10 đội hình địch băng qua cánh đồng trống, một mũi tiến vào trận địa của Trung đội 3 và nổ súng làm bị thương 5 chiến sĩ, đồng chí Kim – chính trị viên đại đội đến ngay trận địa để ổn định tình hình tư tưởng vả tổ chức, cùng lúc Trung đội 1 của đồng chí Huỳnh Dạng nổ súng diệt một số tên trước công sự. Không để địch làm chủ tình hình, đại đội trưởng Lại Nam Dương ra lệnh cho Trung đội 2 của đồng chí Cường vận động đánh thọc sườn rồi xông vào giữa đội hình địch, bị đánh bất ngờ quân Mỹ bắt đầu lúng túng kêu la, xe M113 ở hướng bờ sông cũng phải dừng lại. Lúc này máy bay trực thăng, pháo cối cũng bắn phá vào trận địa, đổ thêm quân xuống Xuân Diệm, nhưng không dám phát triển, trận đánh diễn ra quyết liệt, Trung đội 1 có nhiều đồng chí có kinh nghiệm đánh Mỹ nên vẫn bình tĩnh theo dõi hành động của từng mũi tiến quân của lính Mỹ, sử dụng từng tổ vận động ra chặn đánh quân Mỹ, làm cho chúng không tiến lên được, mà co cụm lại tạo điều kiện cho đơn vị diệt từng tốp địch, bắn cháy nhiều máy bay.

   Sau 2 giờ chiến đấu quyết liệt với 2 đại đội lính thủy đánh bộ Mỹ, Đại đội 1 đã loại khỏi vòng chiến đấu 85 tên Mỹ, thu 14 súng, trong đó có 2 đại liên M60, 2 máy PRC 25, bắn cháy 6 máy bay lên thẳng, hư hỏng 2 xe M113. Đây là trận đánh Mỹ giữa ban ngày, diệt nhiều sinh lực và phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của quân Mỹ, bổ sung thêm kinh nghiệm đánh Mỹ càn quét, dã ngoại.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 29 Tháng Giêng, 2013, 03:37:48 pm
   Mùa mưa đã đến, nhưng diễn biến chiến sự trên chiến trường Quảng Đà nói chung, vành đai diệt Mỹ Đà Nẵng – Hòa Vang nói riêng vẫn sôi động, Mỹ - Ngụy ra sức càn quét, lấn chiếm, mở rộng địa bàn kiểm soát, tạo vành đai an toàn cho căn cứ Đà Nẵng, tiếp tục gây tổn thất về tài sản và tính mạng của nhân dân. Bên trong tăng cường bộ máy tay sai phản động để tìm diệt cơ sở cách mạng, đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân. Trong sách “Ngập ngừng giữa bùn lầy” xuất bản ở Mỹ năm 1967, Đa – vít – an – bớt – tơn viết: “Chúng ta (Mỹ) đến đây (Đà Nẵng) là để dạy cho họ giết cộng sản, họ giết chưa đủ, ta phải dạy cho họ giết nhiều hơn nữa”, còn sách “Tổ hợp công nghiệp quân sự Mỹ” thì viết: Tướng Poston – Tư lệnh Đệ tam Hải – Lục – Không quân Mỹ ở Đà Nẵng ra lệnh cho binh lính thuộc quyền “Tìm cho ra những kẻ chống lại và biến họ thành những xác chết”.

   Tuy nhiên, âm mưu, thủ đoạn của Mỹ - Ngụy không ngăn chặn được sức tiến công của các đơn vị, địa phương, không phá được thế trận chiến tranh du kích, vẫn bị động lúng túng. Bộ đội, du kích trên vành đai diệt Mỹ vẫn trụ bám làm chủ địa bàn, sử dụng lực lượng tiến công tiêu diệt địch cả ngoài công sự và trong công sự. Nổi bật nhất là đêm 26 rạng ngày 27.10.1965, Đại đội 1 và Đại đội 2 Đặc công Đà Nẵng tập kích sân bay Nước Mặn – Quận Ba Đà Nẵng phá hủy hơn 100 máy bay trực thăng, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 100 tên Mỹ.

   Phối hợp với các đơn vị địa phương, Tiểu đoàn bộ binh R20 được tăng cường Đại đội 1 bộ đội địa phương Điện Bàn tập kích tiêu diệt cứ điểm Gò Hà (còn gọi là Gò Rộng), nằm trên đường 14, cách Đà Nẵng 15 km về phía Tây, đây là điểm cao có giá trị về chiến thuật quân sự, khống chế khu Tây Hòa Vang và Tây – Bắc Điện Bàn. Lực lượng chiếm đóng gồm 1 đại đội lính thủy đánh bộ Mỹ, được tăng cường 4 xe bọc thép M113, cấu trúc bên trong có hàng chục lô cốt, hàng trăm công sự chiến đấu, giao thông hào, trận địa hỏa lực. Bên ngoài có 2 lớp rào và bố trí nhiều lựu đạn, mìn các loại. Chung quanh có nhiều cứ điểm liên quan: Miếu Trắng, Gò Cà, ba ra An Trạch, Túy Loan nằm trong tầm chi viện hiệu quả của các trận địa hỏa lực chung quanh và nhiều trận địa pháo cối, xe cơ giới, sẵn sàng chi viện khi bị tiến công. Trong đợt hoạt động Đông – Xuân 1965 – 1966, BCH Tỉnh đội giao nhiệm vụ cho Tiểu đoàn bộ binh R20 tiêu diệt cứ điểm Gò Hà. Nhận nhiệm vụ cấp trên giao, BCH tiểu đoàn phân công cán bộ, trinh sát đi chuẩn bị chiến trường. Với yêu cầu “Tai nghe, mắt thấy, tay sờ”, được sự giúp đỡ của cán bộ, du kích địa phương, các đồng chí vận dụng nhiều phương pháp để điều tra, nắm địch, xây dựng kế hoạch, phương án tiến công, ban ngày cải trang tiếp cận chốt điểm (cách 300 m) để quan sát nắm cấu trúc chốt điểm, hành động của quân Mỹ, ban đêm tổ chức đột nhập vào bên trong đếm từng lô cốt, công sự, trận địa hỏa lực. Sau 10 ngày điều tra, nghiên cứu, Đảng ủy – BCH Tiểu đoàn xây dựng phương án chiến đấu, bằng hình thức tập kích xung hỏa lực kết hợp. Trên cơ sở đó, giao nhiệm vụ cho các đại đội đắp sa bàn tập luyện theo phương án đã được xác định. Đại đội 1 (R20) được tăng cường Đại đội 1 Điện Bàn (thiếu 1 trung đội) đảm nhiệm tiến công trên hướng chủ yếu từ phía Đông Nam lên, còn 1 trung đội của Đại đội 1 Điện Bàn đảm nhiệm tập kích, tiêu diệt cứ điểm Miếu Trắng. Đại đội 2 đảm nhiệm tiến công trên hướng thứ yếu từ phía Tây xuống. Đại đội 3 sử dụng 1 trung đội làm dự bị, còn 2 trung đội đảm nhiệm tập kích tiêu diệt cứ điểm Ba ra An Trạch – cách Gò Hà 500 m về hướng Đông Nam. Đại đội 4 sử dụng hỏa lực chi viện cho các đại đội và bắn phá kìm chế các cứ điểm chung quanh. BCH Tỉnh đội phân công đồng chí Lê Tự Cả - Tham mưu trưởng làm phái viên của tỉnh tham gia chỉ huy trận đánh và chỉ đạo các xã: Điện Tiến, Điện Hòa (Điện Bàn) và Hòa Tiến, Hòa Khương (Hòa Vang) huy động 500 dân công phục vụ chiến đấu. Vị trí chỉ huy nằm phía sau đội hình Đại đội 1.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 29 Tháng Giêng, 2013, 04:07:50 pm
   Sau khi hoàn thành công tác chuẩn bị, đơn vị làm lễ xuất quân. Trước toàn thể cán bộ chỉ huy các cấp của đơn vị và phái viên tỉnh đội, Đảng ủy – BCH Tiểu đoàn: Hạ quyết tâm chiến đấu, giao nhiệm vụ cho các đại đội. Sau đó các đơn vị về vị trí trú quân, khẩn trương thực hiện công tác chuẩn bị mọi mặt, ngày 26.10.1965, từ hậu cứ Vùng B Đại Lộc, tiểu đoàn hành quân đến địa điểm trú quân (Điện Tiến), nhưng trên đường cơ động tiểu đoàn nhận nhiệm vụ bố trí trận địa vận động phục kích tiêu diệt tiểu đoàn chủ lực Ngụy đang hành quân, đánh phá trên đoạn đường từ Phong Thử (Điện Thọ) lên Ái Nghĩa. Qua một ngày đêm chờ đợi căng thẳng, đơn vị không đánh được địch, vì đội hình càn quét của địch đi theo hướng khác, đến 18 giờ các đại đội thu quân, nhận lĩnh lương thực do dân công các xã Điện Thọ, Điện Hòa, Điện An mang đến. Sau đó, tiểu đoàn hành quân ra thôn Châu Sơn (Điện Tiến). Căn cứ vào chủ trương, mệnh lệnh cấp trên, 14 giờ ngày 28.10.1965, tại thông Châu Sơn, ngoài trang bị súng đạn, mỗi đồng chí còn buộc 1 mảnh vải đỏ ở tay, vừa thể hiện tinh thần quyết tâm chiến đấu, vừa để cho đồng đội hoặc dân công dễ nhìn nhận khi chiến đấu hy sinh, bị thương. Hành quân trong đêm trời mưa, đường trơn, ruộng nước, sông rộng, pháo cối địch bắn cầm canh vào vùng giải phóng, đơn vị phải khắc phục nhiều khó khăn để đưa đội hình đến trú quân bí mật tại thôn Châu Sơn (Điện Tiến).

   Đêm 29 rạng ngày 30.10.1965, từ khu vực trú quân (thôn Châu Sơn – Điện Tiến), các đại đội hành quân chiếm lĩnh trận địa xuất phát tiến công. Trong đội hình chiến đấu có đầy đủ các đồng chí trong Đảng ủy – BCH Tiểu đoàn: Lê Lan Chi: Tiểu đoàn trưởng, Nguyễn Xuân Khoa: Chính trị viên, Võ Xuân Lâm: Tiểu đoàn phó, Lê Tự Cả: Phái viên Tỉnh đội đều bám sát các mũi và chỉ cách mục tiêu 40 – 50 mét, đồng chí Nguyễn Chí Sa – Tham mưu trưởng đi cùng Đại đội 3, đồng chí Mai Văn Giáp – chính trị viên phó chỉ huy trạm phẫu và lực lượng dân công. Ở hướng tiến công chủ yếu, Đại đội 1 tiểu đoàn và Đại đội 1 Điện Bàn tiến hành khắc phục vật cản, mở 2 cửa, đến 22 giờ đã cắt xong 3 lớp rào, tổ đánh chiếm đầu cầu chỉ còn cách lô cốt đầu cầu 4m. Ở mũi thứ yếu của Đại đội 2 do đi lạc, nên tiếp cận mục tiêu chậm hơn và gặp địch bắn cầm canh, lại phải dừng lại để theo dõi, biết không bị lộ, các tổ tiếp tục mở cửa. Còn ở hướng Đại đội 3, đến 23 giờ 30 phút, đã tiêu diệt quân địch ở ba ra An Trạch.

   Tại vị trí chỉ huy, các đồng chí chỉ huy tiểu đoàn và phái viên BCH Tỉnh đội theo dõi tin tức các đại đội báo cáo tình hình khắc phục vật cản, đội hình mũi chủ yếu của Đại đội 1 nằm giữa đồi đất sỏi trống trải, còn mũi thứ yếu của Đại đội 2 vẫn chưa tiếp cận mục tiêu, trinh sát Tiểu đoàn phải đi tìm rồi đưa vào vị trí mở cửa, đồng chí Lại Nam Dương – Đại đội 1 báo cáo tình hình rất căng thẳng, chỉ huy tiểu đoàn động viên các mũi bí mật chờ đợi lệnh nổ súng thực hiện theo kế hoạch hợp đồng.

   Hai giờ ngày 30.10, đồng chí Võ Xuân Lâm – Tiểu đoàn phó ra lệnh cắt dây điện thoại liên lạc giữa quân Mỹ ở Gò Hà với các cứ điểm chung quanh, đồng thời ra lệnh nổ súng. Một loạt tiểu liên phát hỏa, lập tức tổ xung kích Huỳnh Dạng mũi chủ yếu xông lên diệt lô cốt đầu cầu, rồi thọc sâu vào chốt điểm đánh sập lô cốt chỉ huy, thông tin liên lạc. Đại đội trưởng Lại Nam Dương dẫn đầu các tổ chiến đấu xông vào trận địa lần lượt tiêu diệt các mục tiêu. Ở hướng Đại đội 2, khi nghe lệnh nổ súng, Đại đội trưởng Nguyễn Xuân Mua dẫn đầu các tổ vượt qua lớp rào cuối cùng đánh chiếm các mục tiêu. Sau 30 phút nổ súng chiến đấu, các mũi đã tiêu diệt phần lớn các mục tiêu chủ yếu, quân Mỹ lúc đầu bị bất ngờ và mất sức chiến đấu, nhưng còn một số hỏa điểm chưa bị diệt, ngoan cố dùng đại liên 12,7 ly và M60 bắn chặn các tổ chiến đấu của Đại đội 1, máy bay HU1A, CH47 từ Đà Nẵng lên thả đèn sáng, pháo cối cũng bắn vào chung quanh chốt điểm, một quả rơi vào vị trí chỉ huy, làm bị thương đồng chí Lê Tự Cả, trận đánh trở nên quyết liệt. Quyết tâm tiêu diệt các hỏa điểm của địch, tổ chiến đấu thọc sâu (Tư, Miền, Thanh) lao lên diệt từng tên Mỹ, dồn chúng về hướng Đông, địch dùng 12,7 ly bắn chặn, lập tức đồng chí Tư bắn 1 quả AT diệt khẩu đại liên, đồng chí Thanh bật dậy dùng lựu đạn đánh tiếp, bất ngờ bị 1 tên Mỹ bắn ngã. Máy bay trực thăng không liên lạc được với bọn Mỹ dưới mặt đất, nên dùng rốc – két bắn vào trận địa, làm cho bọn Mỹ còn sống sót chạy ra ngoài, gặp tổ truy kích của Huỳnh Dạng, chúng nổ súng, đồng chí Dạng hy sinh. Quyết trả thù cho đồng đội, Tiểu đội 3 do đồng chí Chính chỉ huy xông lên diệt bọn Mỹ còn lại và bắn cháy 1 xe M113, làm chủ trận địa và nhanh chóng thu chiến lợi phẩm, giải quyết thương binh, tử sĩ. Dân công hỏa tuyến vượt qua làn đạn từ máy bay địch bắn xuống để xông vào trận địa đưa thương binh ra. Còn cán bộ, chiến sĩ tập trung thu vũ khí, đồng chí Nguyễn Xuân Khoa – chính trị viên tiểu đoàn thu 3 súng, khi rút ra ngoài bị đại liên địch từ máy bay bắn bị thương gãy tay.

(http://farm9.staticflickr.com/8214/8421813621_a74392b231_c.jpg) (http://www.flickr.com/photos/90883775@N03/8421813621/)
 (http://www.flickr.com/photos/90883775@N03/8421813621/)

   Ở ba ra An Trạch, khi nghe lệnh nổ súng, các mũi đồng loạt nổ súng tiến công tiêu diệt phần lớn quân địch ngay từ đầu, sau 30 phút chiến đấu, Đại đội 3 đã làm chủ trận địa, còn Trung đội 3 – Đại đội 1 Điện Bàn đã diệt gọn 1 trung đội lính thủy đánh bộ Mỹ ở Miếu Trắng, thu toàn bộ vũ khí.

   Kết quả Tiểu đoàn bộ binh R20 đã tiêu diệt 1 đại đội lính thủy đánh bộ Mỹ, loại khỏi vòng chiến đấu 180 tên, thu 150 súng các loại, trong đó có 2 súng Ba – dô – ca 90 ly, bắn cháy 4 xe bọc thép M113.

   Trận tiến công cứ điểm Gò Hà là trận đánh xuất sắc, đánh dấu sự trưởng thành của Tiểu đoàn bộ binh R20. Đây là lần đầu tiên trên chiến trường Quảng Đà, cũng như Khu 5, lực lượng vũ trang địa phương tiêu diệt 1 đại đội lính thủy đánh bộ Mỹ trong công sự tương đối vững chắc, có trang bị vũ khí hiện đại. Trận đánh thể hiện tinh thần quyết tâm chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ, nhất là khi trận đánh diễn ra ác liệt, cấp ủy, chỉ huy tiểu đoàn đã bình tĩnh, phát huy trí tuệ tập thể, kết luật tình hình một cách chính xác, đề ra những biện pháp xử lý tình huống căng thẳng, phức tạp, không thay đổi phương án chiến đấu, mà kiên trì bám trận địa, động viên cán bộ, chiến sĩ giữ vững quyết tâm chiến đấu, đây là quyết định mang tính lích sử tạo điều kiện cho các mũi, tổ chiến đấu tiêu diệt địch, hoàn thành nhiệm vụ cấp trên giao phó. Tuy nhiên, quá trình chiến đấu đơn vị cũng gặp tổn thất lớn, gần 100 cán bộ, chiến sĩ hy sinh và bị thương, trong đó có đồng chí Huỳnh Dạng – Trung đội trưởng, một dũng sĩ diệt Mỹ xuất sắc của tiểu đoàn, đồng chí Thân Đức Liên – Chính trị viên Đại đội 1 – bộ đội địa phương Điện Bàn.

   Sau trận đánh, đơn vị hành quân về thôn Lệ Bắc của xã Xuyên Lộc (Duy Xuyên) làm lễ truy điệu các đồng chí đã hy sinh và trưng bày vũ khí, đạn dược thu được trong trận đánh, sau hậu cứ vùng B Đại Lộc cán bộ, nhân dân địa phương đến dự đều cảm động, thương tiếc các đồng chí vì sự nghiệp cách mạng, vì nhân dân mà chiến đấu hy sinh anh dũng.

   Cũng sau trận đánh Mỹ ở Gò Hà, một đoàn nhà báo của Cu Ba, Trung Quốc và phóng viên các báo của ta đến thăm hậu cứ tiểu đoàn, tìm hiểu về chiến công của tiểu đoàn và cách đánh thắng Mỹ của cán bộ, chiến sĩ đơn vị. Lãnh đạo, chỉ huy đã tiếp đón và báo cáo kinh nghiệm, đồng thời trao tặng cho đoàn Cu Ba và Trung Quốc mỗi đoàn 1 khẩu cối cá nhân M79 thu được của Mỹ ở trận Gò Hà.

*
*   *


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 30 Tháng Giêng, 2013, 08:56:12 am
LIÊN TỤC CƠ ĐỘNG CHIẾN ĐẤU, GÓP PHẦN
ĐÁNH BẠI 2 CUỘC PHẢN CÔNG CHIẾN LƯỢC
MÙA KHÔ CỦA MỸ - NGỤY
(1965 – 1966, 1966 – 1967)


   Cuối năm 1965, đầu năm 1966, sau khi hoàn thành việc triển khai lực lượng, bố trí thiết bị chiến trường, Mỹ - Ngụy tập trung lực lượng, phương tiện chiến tranh mở cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất (1965 – 1966) đánh vào miền Đông Nam bộ, Tây Nguyên và Bắc Bình Định. Tỉnh Quảng Đà không nằm trong những hướng tiến công chủ yếu, nhưng đây là địa bàn chiến lược rất quan trọng, nơi có căn cứ liên hợp quân sự lớn nhất ở miền Trung, lực lượng tập trung tương đối đông, do đó, trong những tháng cuối năm 1965, Mỹ - Ngụy tăng cường phi pháo đánh phá vùng Gò Nổi (Điện Bàn), Vùng B (Đại Lộc), tăng thêm hỏa lực cho các trận địa pháo Thượng Đức, Ái Nghía, An Hòa – Đức Dục, Hòn Non Trượt, Vĩnh Điện để bắn phá chung quanh, gây nhiều khó khăn cho sản xuất, sinh hoạt của nhân dân. Đầu năm 1966, các trung đoàn thuộc Sư đoàn 1 (15), Sư đoàn 3 thủy quân lục chiến Mỹ, Liên đoàn 11 biệt động quân, Trung đoàn 51 Ngụy bắt đầu mở các cuộc hành quân tìm diệt đánh phá vùng giải phóng phía Nam và phía Tây căn cứ Đà Nẵng, hỗ trợ cho lực lượng địa phương dồn dân, bình định.

   Trước những âm mưu, thủ đoạn của Mỹ - Ngụy, tháng 12.1965, BCHTƯ Đảng (khóa III) tiến hành hội nghị lần thứ 12 đề ra nghị quyết lãnh đạo cuộc kháng chiến. Nghị quyết nhấn mạnh: “ Chúng ta phải động viên lực lượng cả nước, kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất cứ tình huống nào, để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hòa bình, thống nhất đất nước”.

   Quán triệt nghị quyết 12 của Trung ương Đảng, Khu ủy – BTL Quân khu 5 đề ra phương hướng, nhiệm vụ cho lực lượng vũ trang Quân khu là: “Ra sức tiến công và phản công địch, kiên quyết tiêu diệt quân Mỹ và Ngụy, đánh bại kế hoạch phản công chiến lược mùa khô của chúng, giữ vững và mở rộng căn cứ miền núi và vùng giải phóng đồng bằng, phát triển lực lượng cách mạng” (16).

   Trên cơ sở nghị quyết, nhiệm vụ cấp trên giao, Thường vụ Tỉnh ủy – BCH tỉnh đội Quảng Đà đề ra chủ trương tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo các đơn vị, địa phương tích cực đánh địch càn quét, lấn chiếm, đồng thời xây dựng, phát triển lực lượng và thế trận, nhằm đáp ứng yêu cầu đánh Mỹ trong không gian, thời gian lớn hơn.

   Thực hiện chủ trương đó: từ tháng 8 đến tháng 11.1965, BCH Tỉnh đội Quảng Đà quyết định điều động lực lượng, trong đó có ½ cán bộ, chiến sĩ nòng cốt của Tiểu đoàn bộ binh R20 để thành lập Tiểu đoàn bộ binh 2 (mật danh V25), tiểu đoàn đặc công hậu cứ Đà Nẵng (mật danh 489) và một số đại đội binh chủng: Công binh, thông tin, trinh sát. Ở các huyện, thị, thành cũng tăng thêm 1 – 2 đại đội bộ đội địa phương. Kết hợp xây dựng lực lượng, các đơn vị, địa phương còn huy động lực lượng xây dựng trận địa làng, xã chiến đấu, mở rộng vành đai diệt Mỹ, phát triển phong trào nhân dân du kích chiến tranh.

   Tiểu đoàn bộ binh R20, sau các trận đánh Mỹ, đơn vị rút về hậu cứ củng cố tổ chức (17), bổ sung quân số, trang bị, tiến hành sinh hoạt, học tập, huấn luyện, đồng thời cùng nhân dân xây dựng trận địa sẵn sàng đánh địch. Đêm 14.01.1966, chấp hành mệnh lệnh cấp trên, tiểu đoàn cơ động xuống vùng B Điện Bàn, tập kích đánh thiệt hại Tiểu đoàn 37 (Liên đoàn 11 biệt động quân Ngụy) đang đóng quân dã ngoại tại thôn Bồ Mưng – Điện Thắng, thu 20 súng, 2 máy PRC 25, bắt sống 3 tên.

   Sau trận đánh này, tiểu đoàn hành quân về đứng chân tại Điện Văn (nay là xã Điện Hồng) để cùng bà con nhân dân ở đây đón tết âm lịch Bính Ngọ (1966), tết cổ truyền của dân tộc. Nhân dịp này, cấp ủy, mặt trận, đoàn thể của xã, cấp ủy, chỉ huy tiểu đoàn chủ trương đẩy mạnh đấu tranh binh vận đối với bọn lính ở đồn Trường Giảng, bằng biện pháp: Lợi dụng thời gian những bắn trong dịp tết, mặt trận, đoàn thể địa phương tổ chức một đoàn đại diện vào đồn chúc tết, tặng quà cho binh lính địch, rồi mời chúng giao hữu bóng chuyền với quân giải phóng, qua đó, vận động binh lính địch đào rã ngũ.

   Thực hiện kế hoạch trên, 09 giờ ngày 01.01  âm lịch, các đại biểu đoàn thể mang quà vào đồn. Lúc đầu bọn lính gác không cho vào đồn, nhưng trước yêu cầu chính đáng của bà con, nên chúng cho vào gặp tên Toàn – Trung úy đồn trưởng. Sau khi chào hỏi, tặng quà xong, ta đề nghị giao hữu bóng chuyền, lúc đầu chúng cũng từ chối, nhưng sau lại nhận lời. Trận giao hữu bóng chuyền giữa binh lính đồn Trường Giảng và cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn bộ binh R20 diễn ra lúc 14 giờ 30 phút ngày 1 âm lịch, ở gần đồn Trường Giảng, nhân dân đến xem rất đông. Kết quả, lính đồn Trường Giảng thắng 2 – 1, cán bộ binh vận và bà con ta tranh thủ vận động tuyên truyền binh lính về chính sách của Mặt trận dân tộc giải phóng, nên sau tết có nhiều binh lính ở đồn Trường Giảng đào ngũ.

___________________

15. Sư đoàn 1 Lính thủy đánh bộ Mỹ thành lập năm 1774 đây là đơn vị kỳ cựu, tinh nhuệ nhất của Mỹ, chiến tranh thế giới lần thứ 2 đổ bộ vào Phi Líp Pin, Nhật, Triều Tiên. Sư đoàn có 4 trung đoàn (1 + 5 + 7 + 27) 1 tiểu đoàn xe tăng M48, 1 tiểu đoàn pháo chống tăng tự hành, 6 tiểu đoàn pháo mặt đất, 1 tiểu đoàn trinh sát, 1 đại đội xe lội nước. Tháng 8.1965 bắt đầu đổ vào Đà Nẵng, đến tháng 1.1966 toàn bộ sư đoàn có mặt ở Quảng Đà. Sau xuân Mậu Thân 68 được điều động ra chiến trường Huế - Quảng Trị. Cuối năm 1969 tham gia các chiến dịch bình định nông thôn ở vùng 1 chiến thuật. Sư đoàn bị tổn thất nặng nề nhất ở Chu Lai, Vạn Tường, Khe Sanh, đường 9. Ngày 30.4.1975 rút về nước.

16. Dẫn theo: “Quân khu 5 – Thắng lợi và những bài học kinh nghiệm trong cuộc KCCM cứu nước”, Nxb QĐND – năm 1981, tập 1  - trang 80.

17. Đồng chí Dương Văn Cứ làm chính trị viên tiểu đoàn thay cho đồng chí Nguyễn Xuân Khoa bị thương đi điều trị.






Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 30 Tháng Giêng, 2013, 09:11:30 am
   Trở lại vùng B (Đại Lộc) – tiểu đoàn nhận nhiệm vụ triển khai kế hoạch chiến đấu đánh Mỹ càn quét: Xây dựng công sự, trận địa phục kích kết hợp vận động tiến công, bố trí lực lượng thành thế trận liên hoàn, vững chắc.

   - Đại đội 1 bố trí trận địa ở thôn Phú An.

   - Đại đội 2 bố trí trận địa ở thôn Phú Long.

   - Đại đội 3 bố trí trận địa ở Quảng Đại.

   - Đại đội 4 và BCH Tiểu đoàn đứng ở Quảng Đại.
   
   - Đồng chí Võ Xuân Lâm – Tiểu đoàn phó trực tiếp chỉ huy. Sáng ngày 28.01.1966, sau nhiều ngày sử dụng phi pháo đánh phá, chọn khu vực đổ bộ đường không, quân Mỹ sử dụng hơn 200 lần chiếc trực thăng đổ bộ hơn 1000 quân thuộc Sư đoàn 3 lính thủy đánh bộ Mỹ xuống càn quét, đánh phá các xã vùng B Đại Lộc. Đây là lần đầu tiên quân chiến đấu Mỹ đặt chân đến vùng giải phóng Đại Lộc.

   Cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn bộ binh R20 đã có một số kinh nghiệm đánh Mỹ hành quân dã ngoại, nên khi quân Mỹ đổ xuống, triển khai đội hình càn quét, thì vẫn bình tĩnh, bí mật, bám chắc công sự, trận địa, chờ địch tiến sát mới nổ súng, thực hiện khẩu hiểu “mỗi viên đạn 1 tên Mỹ”, đó là cách đánh thích hợp, linh hoạt, hạn chế được thương vong do hỏa lực địch, nhất là bom, pháo gây ra.

   Tại trận địa Đại đội 1, khi đội hình địch tiến đến cách công sự 15 m, đại đội trưởng ra lệnh nổ súng, lập tức khẩu đại liên do đồng chí Kéo xạ thủ rung lên tiêu diệt những tên Mỹ trong tốp đi đầu, bọn sống sót nằm lăn xuống ruộng lúa rồi bò lùi lại, một tên Mỹ kéo đại liên M60 định bắn, nhưng cũng bị diệt. Sau loạt đạn đại liên nổ, các loại súng ở khắp trận địa nổ dồn dập, diệt từng tên Mỹ, bị đánh bất ngờ, bọn Mỹ, lùi lại tổ chức gọi phi pháo đánh trả, trên không máy bay trinh sát L19, OV10, HU1A, F4, F100 gầm rú bắn rốc - két, ném bom xuống đồng lúa thôn Phú Bình. Sau đó quân bộ Mỹ tổ chức xung phong. Cuộc chiến đấu diễn ra ngày càng quyết liệt từ 09 giờ đến 11 giờ, quân Mỹ tổ chức 7 đợt xung phong vào trận địa đại đội 1 nhưng đều thất bại, phải lui ra xa củng cố đội hình. Máy bay, pháo cối của địch tiếp tục bắn phá. Lợi dụng tình hình trên, các đại đội vừa theo dõi hành động của địch, vừa tranh thủ củng cố công sự, hầm trú ẩn và ăn vội mấy nắm cơm của nuôi quân và chị em địa phương đưa đến. Đến chiều, quân Mỹ lại tiếp tục tiến công, tổ chức nhiều đợt xung phong vào trận địa Đại đội 1, nhưng đều bị đánh bật ra, đến đợt xung p hong cuối cùng, chúng tập trung gần 100 tên xông vào chọc thủng trận địa đơn vị, khẩu đại liên của đồng chí Kéo ở trường tiểu học Phú An chiến đấu đên viên đạn cuối cùng, đồng chí phá súng, rồi dùng lựu đạn diệt nhiều tên Mỹ và hy sinh anh dũng. Để bảo toàn lực lượng, tiểu đoàn ra lệnh cho Đại đội 1 rút về Phú Bình Tây.

   Tại trận địa của Đại đội 2 ở thôn Phú Long, các tổ chiến đấu bám chắc công sự đánh bại các đợt xung phong của địch, không cho chúng lọt vào trận địa, đến tối cùng với lực lượng ở Phú An rút về co cụm ở Giảng Hòa.

   Ngày 29.01, quân Mỹ từ Giảng Hòa chia làm nhiều mũi càn quét, đánh phá các thông Quảng Đợi, Phú Long, Phú An. Trước tình hình đó, BCH tiểu đoàn ra lệnh cho các đại đội bám chắc trận địa, đánh bại các mũi tiến quân của chúng, Đại đội 4 hỏa lực sử dụng cối 81 ly, ĐKZ tập kích vào đội hình địch, đồng thời sử dụng trung liên, đại liên bắn rơi 4 máy bay trực thăng, không thực hiện được ý định, đến tối quân Mỹ lại rút về co cụm ở Giảng Hòa.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 02 Tháng Hai, 2013, 08:41:11 am
   Diễn biến chiến sự trên vùng B Đại Lộc và khu Tây Duy Xuyên diễn ra ngày càng quyết liệt, Trung đoàn 4 (Sư đoàn 3 lính thủy đánh bộ Mỹ) được phi pháo chi viện đắc lực, liên tục càn quét, đánh phá các thôn xóm.

   Quyết tâm đánh bại các cuộc càn quét của quân Mỹ, Tiểu đoàn bộ binh R20 đã phối hợp chặt chẽ với lực lượng địa phương, vận dụng linh hoạt các hình thức chiến thuật: Tập kích, phục kích, vận dụng tiến công, bắn bia, bắn tỉa, kết hợp chiến đấu phân tán với chiến đấu tập trung, đánh địch cả ban ngày và ban đêm, chiến đấu với tinh thần bám thắt lưng địch mà đánh, nhiều trận chiến đấu quyết liệt diễn ra tại khu vực cầu ông Nở (giữa thôn Long An và Phú Bình) tiểu đoàn đánh thiệt hại 2 đại đội lính thủy đánh bộ Mỹ, diệt hàng trăm tên Mỹ tại đây, Chiến công đó được cán bộ, nhân dân địa phương ca ngợi bằng câu ca:

                                                                Lấy xác Mỹ xây cầu ông Nở
                                                                Cho Long An nối lại Phú Bình

   Sau gần 1 tháng chiến đấu, tiểu đoàn đã đánh 54 trận lớn nhỏ, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 300 tên Mỹ, bắn rơi 6 máy bay, thu 17 súng. Ngày 25.02.1966, quân Mỹ phải rút khỏi vùng B Đại Lộc.

   Những trận chiến đấu của Tiểu đoàn bộ binh R20 đánh quân Mỹ càn quét vùng B Đại Lộc (tháng 02.1966) có ý nghĩa lịch sử rất lớn: Tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận sinh lực sừng sỏ, thiện chiến của lính thủy đánh bộ Mỹ. Mặc dù tính chất, cường độ các trận đánh diễn ra ngày càng quyết liệt, căng thẳng, quân Mỹ đông, trang bị hiện đại, hỏa lực chi viện tối đa, quyết tìm diệt cho được Tiểu đoàn bộ binh R20, thế nhưng ngược lại diễn biến không theo ý định chiến dịch, chiến thuật của quân Mỹ, cán bộ, chiến sĩ với tinh thần quyết tâm chiến đấu cao, bản lĩnh vững vàng, trình độ kỹ, chiến thuật tinh nhuệ, thông thuộc địa hình, được cán bộ, nhân dân nuôi dưỡng, nên Tiểu đoàn đã trụ bám kiên cường, dựa vào trận địa, làng xã chiến đấu, vận dụng mọi hình thức chiến thuật, cách đánh, trang bị vũ khí để quần lộn, bám thắt lưng địch mà đánh, đánh trong mọi thời gian, không gian, lập được nhiều chiến công xuất sắc, cuối cùng quân Mỹ phải rút về căn cứ, còn đơn vị vẫn trụ bám làm chủ địa bàn. Từ thực tế những trận chiến đấu này, tiểu đoàn rút ra nhiều kinh nghiệm trong đánh Mỹ, thắng Mỹ hành quân dã ngoại.

   Chiến công đánh Mỹ của Tiểu đoàn bộ binh R20, cũng như của quân dân tỉnh Quảng Đà cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh chính trị của các tầng lớp nhân dân, làm cho nội bộ Mỹ - Ngụy ở Quân đoàn 1 Ngụy mâu thuẫn, cấu xé lẫn nhau dẫn đến sự kiện lực lượng ly khai Quân đoàn 1 và các tầng lớp nhân dân Đà Nẵng và các đô thị đấu tranh đòi lật đổ Thiệu – Kỳ, đòi Mỹ rút quân về nước, làm chủ thành phố 76 ngày đêm (10-03 đến 24-05-1966).

   Bị thất bại nặng nề trên các mặt quân sự, chính trị, Mỹ - Ngụy phải kết thúc cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất vào cuối tháng 04.1966 (trước 1 tháng theo dự kiến) để chuẩn bị mở cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai (1966 – 1967). Trên chiến trường Quảng Đà, Mỹ - Ngụy tăng cường thêm lực lượng, phương tiện chiến tranh, liên tục mở các cuộc hành quân đánh phá vùng giải phóng Điện Bàn, Đại Lộc, Duy Xuyên. Tăng cường củng cố, mở rộng các căn cứ chi khu quận lỵ An Hòa – Đức Dục, Nông Sơn – Thượng Đức – Ái Nghĩa – Núi Lỡ, hình thành hệ thống phòng thủ từ xa của căn cứ Đà Nẵng. Cường độ, quy mô, tính chất ác liệt, càn quét đến đâu, Mỹ - Ngụy ra sức đốt nhà, cày ủi nhà cửa, hầm trú ẩn, bắt giết hàng ngàn dân vô tội ở vùng A, B, Gò Nổi (Điện Bàn). Vùng A, B (Đại Lộc), khu Trung, khu Tây (Duy Xuyên), điển hình nhất là các vụ tàn sát hàng loạt dân ở Thủy Bồ - La Thọ - Điện Quang (Điện Bàn). Trước hành động đánh phá tàn bạo của Mỹ - Ngụy, một số nhân dân ở vùng giải phóng phải rời bỏ nhà cửa, làng xóm, sơ tán đi nơi khác, sống cảnh màn trời, chiếu đất, nhiều làng xã ở vùng giải phóng bắt đầu thưa dân, trắng đất.

   Trước tình hình diễn biến căng thẳng, phức tạp, Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Đà họp nhận định: “Địch đã bị thất bại nặng nề trong mùa khô lần thứ nhất, nhưng bản chất hiếu chiến xâm lược của chúng chưa bị đánh bại, khả năng của chúng còn”. Hội nghị quyết định “Kiên quyết trụ bám đánh địch, giành, giữ dân với khẩu hiệu: “Đảng bám dân, dân bám đất, bộ đội, du kích bám đánh địch”, gọi tắt là “Ba bám”, đây là phương châm đúng đắn, kịp thời của lãnh đạo, chỉ huy các cấp nhằm giữ vững thế làm chủ chiến trường, thế cách mạng tiến công.

   Quán triệt chủ trương của Thường vụ Tỉnh ủy, các đơn vị, địa phương triển khai thực hiện bằng nhiều biện pháp cụ thể, nhất là các đơn vị hoạt động tác chiến trên vành đai diệt Mỹ Đà Nẵng – Hòa Vang, vẫn bám chắc vành đai, chiến đấu giữ chân địch, đồng thời thọc sâu vào bên trong tiến công các mục tiêu quan trọng.

   Tiểu đoàn bộ binh R20 sau trận chống càn quét ở vùng B, vẫn đứng chân ở tại đây củng cố, sẵn sàng cơ động chiến đấu, bảo vệ nhân dân, làng xã.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 02 Tháng Hai, 2013, 08:53:05 am
   Ngày 15.03.1966, Mỹ - Ngụy sử dụng 1 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ càn quét, đánh phá đốt nhà, bắn giết hàng chục người dân vô tội xã Điện Hồng (nay là xã Điện Quang – Điện Bàn), quyết tâm trả thù cho đồng bào vô tội bị chúng giết hại, Tiểu đoàn bộ binh R20 sử dụng Đại đội 2 và 3 do đồng chí Võ Xuân Lâm chỉ huy từ hậu cứ hành quân xuống đánh địch càn quét ở Điện Hồng. Căn cứ kế hoạch, phương án chiến đấu, các đại đội đã xây dựng trận địa phục kích kết hợp với trận địa tiến công, bố trí lực lượng quần lộn chiến đấu với quân Mỹ, bẻ gãy 27 đợt xung phong của địch, đánh thiệt hại nặng 1 đại đội lính Mỹ, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 100 tên, bắn rơi 1 máy bay trực thăng.

   Trong chiến dịch Hè 1966 của Quân khu, tiểu đoàn nhận lệnh cơ động ra đứng chân ở vùng B Điện Bàn tham gia trận đánh công đồn, diệt viện ở xã Điện Phước. Tham gia trận tiến công này có: Tiểu đoàn bộ binh 2 (V25) đảm nhận tiến công tiêu diệt đồn Bình Long. Tiểu đoàn 70 (Trung đoàn 1 Sư đoàn 2 Quân khu 5) tăng cường bố trí trận địa đánh địch phản kích ở Nhị Dinh, Hạ Nông (Điện Phước), chủ yếu đánh địch cơ động trên đường 100, Tiểu đoàn bộ binh R20 làm nhiệm vụ dự bị, bố trí trận địa ở La Thọ (Điện An), sẵn sàng đánh địch từ quốc lộ 1 cơ động lên hướng này.

   Trận đánh do đồng chí Nguyễn Hoán – Tham mưu trưởng tỉnh Quảng Đà và đồng chí Đỗ Châu Sa – Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 70 chỉ huy.

   Đêm 24.04.1966, Tiểu đoàn bộ binh 2 tiến công tiêu diệt 1 đại đội địa phương quân ở đồn Bình Long, thu toàn bộ vũ khí. Rạng sáng ngày 25.04.1966, Mỹ - Ngụy huy động 3 tiểu đoàn lính chủ lực, 2 đại đội địa phương quân, 2 chi đoàn xe tăng M113 mở cuộc hành quân giải tỏa, lực lượng xe tăng chủ yếu tiến theo đường 100 rơi vào trận địa phục kích của Tiểu đoàn 70, nên ở đây diễn ra nhiều trận đánh ác liệt. Đến chiều tối, địch chiếm lại Bình Long, các đơn vị tham gia trận đánh đều rút về hậu cứ, Tiểu đoàn bộ binh R20 và bộ binh 2 rút về Gò Nổi tiếp tục đánh địch càn quét.

   Bước vào những ngày đầu tháng 5 lịch sử, Tiểu đoàn bộ binh R20 cơ động về vùng B Đại Lộc, chuẩn bị đánh quân Mỹ càn quét trở lại đây. Trong không khí thi đua lập thành tích chào mừng kỷ niệm ngày sinh của Hồ Chủ Tịch và 1 năm thành lập Tiểu đoàn, tiểu đoàn hăng hái chuẩn bị công sự, trận địa, bỏ sung vũ khí, đạn dược.

   Lúc này, theo tin Quân báo – trinh sát cấp trên thông báo Trung đoàn 5 (Sư đoàn 1 lính thủy đánh bộ Mỹ) đang đứng tại An Hòa – Đức Dục sẽ sử dụng lực lượng càn quét trở lại vùng B Đại Lộc. Nhận được mệnh lệnh của BCH Tỉnh đội, Đảng ủy – BCH Tiểu đoàn họp xác định phương án chiến đấu, sau đó phân công chỉ huy tiểu đoàn đến ngay các đại đội để triển khai đội hình sẵn sàng chiến đấu đánh Mỹ từ An Hòa vượt sông Thu Bồn sang càn quét đánh phá vùng B Đại Lộc.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 02 Tháng Hai, 2013, 09:59:07 am
   Đúng như dự đoán của ta, sáng ngày 16.05.1966, 1 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ và 1 chi đoàn xe bọc thép M113, M48, từ phía Nam sông Thu Bồn, chia làm nhiều mũi vượt sông Thu Bồn rồi tiến vào thôn Phú Long, đội hình tiến quân của địch đi thận trọng. Nhân dân đi lao động hái dâu, trồng khoai ở bãi cát Giảng Hòa đều phải quay về nhà.

   Trận địa các đại đội nhận lệnh sẵn sàng chiến đấu.

   Đồng chí Nguyễn Văn Trí – Đại đội phó Đại đội 1, đang ở trận địa Trung đội 2 theo dõi hành động của quân Mỹ và động viên anh em: Đừng bắn xa uổng đạn, đợi nó đến gần mới đồng loạt nổ súng thì mới đạt hiệu quả, chính xác hơn.

   Phía trước trận địa, hơn 10 chiếc xe tăng, dẫn đầu lính bộ binh tiến vào làng, ĐKZ57, súng phóng lựu AT, đại liên và các loại súng đều sẵn sàng.

   Khi chiếc xe bọc thép M113 đi đầu cách công sự 150 mét, chỉ huy ra lệnh chiến đấu, lập tức cả trận địa nổ súng, khẩu ĐKZ do đồng chí Mạnh làm khẩu đội trưởng bắn diệt chiếc xe đi đầu, tiếp đến đồng chí Huỳnh Bá Bửu bắn 5 quả diệt thêm 4 xe, đồng chí Sơn bắn 3 quả phóng lựu AT, diệt 2 xe tăng, những chiếc còn lại lui ra xa, dùng hỏa lực bắn vào trận địa ta, bọn lính bộ binh số chết, bị thương nằm trước trận địa, số còn lại bám vào xe tăng để chống cự.

   Quan sát thấy quân địch dừng lại co cụm, chỉ huy tiểu đoàn lệnh cho các khẩu đội cối 60, 82 ly, từ thôn Phú Ninh vận động đến phía sau trận địa Đại đội 1 bắn dồn dập vào đội hình địch ở bãi cát Giảng Hòa, làm 1 xe M48 bốc cháy, còn 2 chiếc khác bị thương, quân địch hốt hoảng lui ra mép sông chấn chỉnh đội hình và gọi pháo binh, không quân đánh phá thôn Phú Long. Trong đợt phản kích đầu tiên, Đại đội 1 và Đại đội 4 hỏa lực Tiểu đoàn bộ binh R20 đã đánh thiệt hại 1 đại đội lính thủy đánh bộ Mỹ, bắn cháy và bị thương nhiều xe tăng, xe bọc thép.

   Sau 1 giờ sử dụng phi pháo đánh phá, xe tăng, bộ binh Mỹ lại xung phong vào trận địa.

   Không để cho quân Mỹ tiến vào, chỉ huy tiểu đoàn ra lệnh cho Đại đội 3 ở Quảng Đợi sử dụng đại liên vận động đến Gò Dẹt bắn ra bãi dâu, chia cắt đội hình địch, đồng chí Trần Huỳnh – khẩu đội trưởng mưu trí, bình tĩnh phát huy tính năng, tác dụng của đại liên, bắn từng loạt, chính xác, gim đầu quân Mỹ xuống bãi cát, diệt hàng chục tên, bọn sống sót bỏ chạy về phía sau, sau nhiều đợt xung phong bị thất bại, chúng lùi lại để củng cố đội hình, sử dụng phi pháo đánh phá, ác liệt vào trận địa, rồi xe tăng, bộ binh mới dám xung phong vào.

   Diễn biến đến 14 giờ, quân Mỹ tiến hành hàng chục đợt xung phong, nhưng đều bị bẻ gãy, 1 đại đội nữa bị thiệt hại nặng, 8 xe tăng bị bắn cháy và bị thương. Tổn thất nặng nề lại bị bọn chỉ huy thúc dục, quân Mỹ sử dụng 1 đại đội và 4 xe tăng đột thẳng vào trận địa của Trung đội 3, một mũi khác và 3 xe tăng đột vào Quảng Đợi, các loại hỏa lực trên xe bắn liên tục vào các trận địa của ta, nhà cửa, cây lá, bụi tre, bờ làng đã bị phi pháo đánh nát, nay càng bị tơi tả thêm. Lúc này ở trận địa Đại đội 1, các tổ chiến đấu đã bắn hết đạn, sức chiến đấu sau gần 1 ngày quyết liệt cũng đã giảm sút, khẩu ĐKZ cũng hư hỏng kính ngắm, đồng chí Mạnh và đồng chí Bửu – Khẩu đội trưởng bị thương nặng. Trước tình hình đó, chỉ huy tiểu đoàn lệnh cho Đại đội 1 rút về thôn Phú Ninh, củng cố đội hình, quân Mỹ tiến vào thôn Phú Long, đến tối chúng rút về trú quân ở bãi cát Giảng Hòa.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 02 Tháng Hai, 2013, 09:59:36 am
   Sau những ngày quần lộn, chiến đấu quyết liệt với quân Mỹ ở vùng B, Tiểu đoàn bộ binh R20 cơ động toàn bộ lực lượng xuống dừng chân ở các xã phía Tây Gò Nổi và khu Tây – Duy Xuyên nhằm phối hợp với lực lượng địa phương đánh địch càn quét ở vùng này, tạo điều kiện nâng cao trình độ chiến đấu, rèn luyện tác phong chiến đấu, thích hợp với phương thức, phương châm tiến hành chiến tranh nhân dân địa phương, chiến tranh du kích chống chiến tranh hiện địa của Mỹ - Ngụy. Mặc dù diễn biến tình hình ở đây cũng căng thẳng, Mỹ - Ngụy sử dụng phi pháo đánh phá liên tục, Gò Nổi là nơi có nhiều truyền thống đấu tranh cách mạng, nơi có nhiều cơ quan, đơn vị của tỉnh, của huyện trú quân và là hành lang cơ động từ hậu cứ xuống đồng bằng, do đó nhân dân Gò Nổi rất gần gũi gắn bó các cơ quan, đơn vị bộ đội đứng chân tại đây, trong đó có cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn bộ binh R20, coi đây là tình cảm, trách nhiệm của mỗi người dân, mỗi gia đình của mảnh đất Gò Nổi. Sống, chiến đấu trong tình thương yêu, đùm bọc của nhân dân, cán bộ, chiến sĩ càng phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, thử thách để chiến đấu, chiến thắng quân xâm lược và tay sai.

   Trong lúc đơn vị đang hoạt động tác chiến ở Gò Nổi (Điện Bàn) và khu Tây Duy Xuyên, thì ở Đại Lộc, quân Mỹ và tay sai tập trung càn quét, đánh phá các xã chung quanh thị trấn Ái Nghĩa, trong đó có xã Lộc Hưng, chúng bắt dân vào khu dồn, tra tấn đánh đập những người dân vô tội, dân quân, du kích địa phương không đủ sức tiêu diệt bọn này, nhân dân ở đây tâm sự: “Không biết Tiểu đoàn bộ binh R20 đánh Mỹ ở đâu, mà chẳng thấy về đây đánh bọn Mỹ - Ngụy, để cho bà con đỡ khổ hơn một chút”. Trước yêu cầu bức thiết của nhân dân, Đảng ủy – BCH Tiểu đoàn phân công một cán bộ và trinh sát đến ngay xã Lộc Hưng để nắm tình hình, xây dựng kế hoạch, chiến đấu đánh Mỹ càn quét. Đêm 15.06.1966, tiểu đoàn bí mật vượt sông Thu Bồn cơ động đến bố trí trận địa chiến đấu ở xã Lộc Hưng. Căn cứ vào phương án chiến đấu đã chọn:

   - Đại đội 2 triển khai bố trí trận địa ở Bàn Thạch, Hòa Thạch, chặn đánh địch từ cây Da Lý, đình Không Chái tiến vào.

   - Đại đội 1, đơn vị chủ động đảm nhiệm bố trí trận địa ở Thạch Bồ, sẵn sàng cơ động tiến công vào bên sườn đội hình quân Mỹ.

   - Đại đội 4 hỏa lực bố trí trận địa ở thôn Lộc Bình, sẵn sàng chi viện cho các đại đội.

   - Đại đội 3 làm lực lượng dự bị.

   - Sáng ngày 16.06.1966, 1 đại đội lính thủy đánh bộ Mỹ từ thị trấn Ái Nghĩa tiến xuống đình Không Chái rồi chia làm 2 mũi. Một mũi thọc vào chợ Quảng Huế, một mũi tiến đến cây Da Lý, rồi vào thôn Hòa Thạch. Quân Mỹ hùng hổ chủ quan xông tới như đi vào chỗ không người.

   Tiểu đoàn trưởng Lê Lan Chi trực tiếp chỉ huy trận đánh. Quan sát quân Mỹ khi đã lội qua hết cánh đồng trước trận địa, đồng chí ra lệnh cho Đại đội 2 nổ súng. Khẩu đại liện của Trung đội 2 rung lên diệt tốp Mỹ đi đầu, tiếp đến các loại súng của trung đội bắn vào đội hình địch. Nghe súng nổ, quân Mỹ từ đình Không Chái tiến thẳng vào trận địa của Trung đội 3. Trung đội trưởng bình tĩnh ra lệnh cho các tổ phải để địch đến gần mới được nổ súng, do đó mũi tiến công của Mỹ vào trận địa Trung đội 3 đã bị tổn thất ngay từ đầu, buộc phải dạt ra bãi dâu trước chợ Quảng Huế để củng cố và cho quân tiếp viện. Một mũi tiến vào trận địa Trung đội 1 cũng bị đánh bại. Đội hình địch bị đánh phía trước và cả hai bên sườn, rơi vào tình thế tiến thoái, lưỡng nan, phải gọi phi pháo chi viện, các trận địa pháo Bồ Bồ, Ái Nghĩa, Thượng Đức, An Hòa bắn cấp tập vào trận địa. Lợi dụng thời cơ quân bộ binh ngừng tiến công, tiểu đoàn phó Võ Xuân Lâm ra lệnh cho Đại đội 4 sử dụng 06 khẩu cối 81 ly và cối 60 ly bắn dồn dập vào khu vực cây Da Lý và phía sau đội hình địch, không để chúng rút chạy về địa điểm xuất phát. Tiểu đoàn trưởng ra lệnh 2 khẩu súng cao xạ 12,7 ly và đại liên của các đại đội tiêu diệt máy bay, bảo vệ đội hình bộ binh chuẩn bị xung phong.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 02 Tháng Hai, 2013, 10:13:02 am
   Sau khi hỏa lực của tiểu đoàn bắn áp chế đội hình địch trong 15 phút, cán bộ, chiến sĩ các đại đội vẫn bám sát đội hình địch, sẵn sàng nổ súng tiêu diệt bọn Mỹ tiến vào lấy xác. Trên không hết máy bay phản lực, đến trực thăng vũ trang quần lượn ném bom, bắn rốc – két, đại liên và khắp trận địa. Các khẩu đại liên của tiểu đoàn tập trung bắn vào bọn giặc trời, buộc chúng vọt lên cao. Để chuẩn bị xung phong đánh thẳng vào đội hình địch, tiêu diệt bọn Mỹ còn lại, tiểu đoàn phó Võ Xuân Lâm ra lệnh các Đại đội sử dụng lực lượng chờ lệnh tiếp. Khi hỏa lực của tiểu đoàn vừa kết thúc, 2 đại liên của đồng chí Nhất và đồng chí Trưởng nâng cao tầm bắn, khống chế quân Mỹ, chỉ huy trận đánh ra lệnh xung phong, các mũi tiến công của Đại đội 1 và 2 đồng loạt xung phong vào đội hình địch. Tiếng hô xung phong và tiếng súng vang lên khắp trận địa, bị tiến công mãnh liệt, quân Mỹ hoàn toàn bị tê liệt, phần lớn bị chết, bị thương, một số sống sót tìm cách tháo chạy, đồng chí Thông – chính trị viên Đại đội 1 vượt lên đuổi theo 1 tên Mỹ, quên mất đội hình đơn vị đang rút về trận địa, một tên Mỹ khác bắn đồng chí bị thương, đồng chí Ngô Minh Hoàng nhìn thấy thấy, lập tức ra lệnh cho Trung đội 3 quay lại truy kích diệt những tên Mỹ và đưa đồng chí Thông về sau để cứu chữa. Trận địa lúc này chỉ còn tiếng pháo nổ, bom đạn từ máy bay bắn xuống, để cho 2 chiếc trực thăng hạ xuống lấy xác và bọn lính bị thương. Chớp thời cơ, tiểu đoàn phó Lâm ra lệnh cho ĐKZ bắn cháy 2 chiếc trực thăng, thiêu cháy hàng chục tên Mỹ.

   Diễn biến chiến đấu kéo dài đến 15 giờ kết thúc, quân Mỹ sợ quân ta đánh tiếp, chưa dám điều động lực lượng đến cứu viện, giải quyết hậu quả ngay. Theo dõi phán đoán tình hình địch, tiểu đoàn trưởng ra lệnh thu dọn chiến trường, củng cố trận địa, sẵn sàng chiến đấu, chờ quân Mỹ đến là tiêu diệt, đến tối tiểu đoàn cơ động về hậu cứ, để lại 1 trung đội cùng du kích địa phương phục kích đánh bọn trực thăng đến lấy xác.

   Trận chiến đấu vận động phục kích của Tiểu đoàn bộ binh R20 ở cây Da Lý (Lộc Hưng – Đại Lộc) là một chiến công xuất sắc, một trận đánh hay, đạt hiệu suất chiến đấu cao. Tiểu đoàn đã tiêu diệt 1 đại đội lính thủy đánh bộ Mỹ, thu gần 100 súng các loại, bắn rơi 7 máy bay trực thăng, bắn bị thương 1 máy bay F105. Trận đánh diễn ra sát chi khu quận lỵ Đại Lộc làm cho bọn Mỹ - Ngụy hết sức hoang mang. Cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn bộ binh R20 càng chiến đấu càng trưởng thành, thực tế từ trận đánh Mỹ càn quét đầu tiên ở Xuân Diệm (Điện Tiến) đến cây Da Lý (Lộc Hưng), Tiểu đoàn bộ binh R20 đã đọ sức quyết liệt với nhiều đơn vị, lực lượng sừng sỏ của Mỹ - Ngụy, trang bị những vũ khí hiện đại, được huấn luyện kỹ càng những chiến thuật tác chiến của chiến tranh chính quy, hiện đại. Tác chiến phòng ngự hoặc hành quân dã ngoại đều được xe tăng, phi pháo chi viện đánh phá mang tính chất hủy diệt. Mỹ - Ngụy lầm tưởng sẽ nghiền nát tất cả sự chống chả của quân và dân ta, nhưng ngược lại quân và dân ta, trong đó có cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn bộ binh R20 với tinh thần yêu nước nồng nàn, căm thù sâu sắc bọn xâm lược và tay sai, chiến đấu vì mục tiêu độc lập, tự do của Tổ quốc, tạo nên sức mạnh chiến đấu không có gì ngăn nổi.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 02 Tháng Hai, 2013, 10:24:57 am
   Những chiến công oanh liệt của Tiểu đoàn bộ binh R20 vang lên khắp mọi miền đất nước và vượt qua các dại dương, đến với nhân dân tiến bộ thế giới, nước An – Giê –Ri dân chủ nhân dân (ở châu Phi), năm 1956 đã giành được độc lập từ tay thực dân Pháp (sau khi nhân dân Việt Nam giành được thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Pháp tháng 7.1954) đề nghị Nhà nước ta cho phép kết nghĩa với Tiểu đoàn bộ binh R20, lấy tên là “Tiểu đoàn An – giê – ri chiến thắng”, một danh hiệu vẻ vang, một vinh dự to lớn, động viên cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn vươn lên, xốc tới giành chiến thắng lớn hơn nữa.

   Bọn Mỹ - Ngụy sau những càn quét thất bại nặng nề ở vùng B Đại Lộc, chúng rất cay cú, hung hăng huy động lực lượng, có lúc tương đương 2 trung đoàn và hàng trăm xe tăng, thiết giáp, dưới sự chi viện đắc lực của phi pháo đánh phá vùng A, B Đại Lộc, tìm diệt Tiểu đoàn bộ binh R20, xúc dân vào các khu đồn để bình định kiểm soát.

   Nắm được âm mưu, thủ đoạn của địch, vận động linh hoạt phương thức hoạt động kết hợp tập trung với phân tán, phối hợp chặt chẽ với dân quân du kích các xã sử dụng lực lượng, vũ khí trang bị hiện có, đẩy mạnh hoạt động tác chiến của chiến tranh du kích, liên tục sử dụng các phân đội nhỏ cơ động bí mật, thọc sâu vào thị trấn Ái Nghĩa, tiến công tiêu diệt các mục tiêu quan trọng bằng cách đánh bất ngờ, táo báo, tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực, làm cho chúng đối phó bị động, lúng túng. Trong đó có những trận vận động phục kích tiêu diệt quân Ngụy càn quét, đốt nhà, cướp hoa màu của dân.

   Ngoài việc dồn dân, bình định, bọn Ngụy quân, Ngụy quyền ở Ái Nghĩa huy động dân (chủ yếu gia đình bọn ác ôn) chuẩn bị dụng cụ, thuyền, bè vượt sông Vu Gia, theo sau đội hình càn quét để bẻ bắp của dân trụ bám, thủ đoạn thâm độc vừa thu lợi bất chính, vừa cắt nguồn sống chủ yếu của dân và bộ đội, du kích. Tình hình diễn ra rất nhiều lần, vì đây là vùng đất màu mỡ, chuyên canh cây mía, cây đậu và bắp. Khi đến màu thu hoạch địch tập trung lực lượng càn quét và thu hết hoa màu của dân.

   Quết tâm trừng trị hành động ngang ngược, trắng trợn của địch, cấp ủy – chỉ huy tiểu đoàn đã phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, xã đội các xã vùng B Đại Lộc nghiên cứu tình hình, địa hình, địa thế, xây dựng phương án chiến đấu bảo vệ hoa màu của dân, nhất là khi thu hoạch. Theo phương án, các đơn vị, địa phương tổ chức lực lượng bám sát địch, theo dõi các hoạt động của chúng, sử dụng cơ sở bí mất luồn vào bên trong các đồn bót, khu dồn chung quanh Ái Nghĩa và chi khu quận lỵ Đại Lộc để nắm kế hoạch, ý định của địch, khi nào càn quét, bẻ bắp, quân số, phương tiện phục vụ càn quét. Còn Tiểu đoàn R20 sử dụng lực lượng bố trí trận địa vận động phục kích, sẵn sàng đánh địch

   Với quyết tâm cao, kế hoạch hợp đồng chặt chẽ, công tác chuẩn bị chu đáo, nên tiểu đoàn và các xã vùng B Đại Lộc nhiều lần đánh bại thủ đoạn càn quét, cướp bóc hoa màu của dân, có lần chúng phải tháo chạy, bỏ lại bao bì, thuyền, bè khắp bến sông, bãi bắp, bảo vệ an toàn cho dân thu hoạch nhanh gọn, nhân dân rất kính phục, ca ngợi tinh thần chiến đấu vì dân của cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn bộ binh R20 và du kích.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 02 Tháng Hai, 2013, 10:44:15 am
   Ngày 17.07.1966, giữa lúc cuộc kháng chiến của quân và dân cả nước bước vào giai đoạn chiến đấu quyết liệt và ngày càng giành thắng lợi to lớn, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá. Song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do” (18)

   Lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch là lời của Tổ quốc, là hồi kèn xung trận, thúc dục quân và dân ta thi đua quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược.

   Cuối tháng 07.1966, Mỹ - Ngụy tập trung lực lượng mở cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai (1966 – 1967). Hướng trọng điểm vẫn là miền Đông Nam bộ, Tây Nguyên. Tiến hành 3 cuộc hành quân quy mô lớn: Át – tơn – bơ – rơ (Att le bo ro), Xi da-phon (Ce darfall) và Giôn – xơn – xy – ty (Jun ction city) đánh vào các căn cứ địa cách mạng miền Nam. Giữa lúc đó, quân và dân ta tập trung lực lượng mở chiến dịch đường 9 – Bắc Quảng Trị, đây là đòn tiến công chiến lược bất ngờ, làm cho Mỹ - Ngụy bị động đối phó lúng túng, điều động 6000 lính thủy đánh bộ thuộc Sư đoàn 1 và Sư đoàn 3 ra mở cuộc hành quân “Seotland” để bảo vệ Khe Sanh, đồng thời điều động Lũ đoàn lính thủy đánh bộ “Rồng Xanh” Nam Triều Tiên ở Quảng Ngãi – Phú Yên ra tăng cường cho Quảng Nam – Quảng Đà. Rõ ràng Mỹ - Ngụy đã bị động chiến lược, lực lượng bị căng kéo khắp nơi.

   Trên chiến trường Quảng Đà, Mỹ - Ngụy tập trung lực lượng vận dụng các chiến thuật “Căn cứ lực lượng” cụm cứ điểm liên hoàn, “Căn cứ hỏa lực”, “Trực thăng vận, thiết xa vận”, để càn quét, tìm diệt các đơn vị lực lượng vũ trang của tỉnh, hỗ trợ cho quân Ngụy dồn dân, bình định.

   Nắm chắc diễn biến tình hình, lãnh đạo, chỉ huy các cấp trên chiến trường Quảng Đà chỉ đạo các lực lượng vũ trang ngày đêm trụ bám địa bàn, quần lộn đánh địch, giữ vững thế trận cài răng lược, giữ vững thế làm chủ để tiến công, tiêu hao tiêu diệt sinh lực, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh ngay trong hậu cứ cả phía trước và phía sau của chúng. Âm mưu, thủ đoạn tìm diệt, bình định của Mỹ - Ngụy như gà con vướng tóc.

   Cuối năm 1966, để chuẩn bị cho hoạt động tác chiến Đông – Xuân 1966 – 1967, chủ động tiến công đánh bại cuộc phản công mùa khô của Mỹ - Ngụy, Khu ủy – BTL Quân khu 5 mở Đại hội liên hoan chiến sĩ thi đua, dũng sĩ diệt Mỹ, nhằm tổng kết những kinh nghiệm chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân trong hơn 1 năm đánh Mỹ, thắng Mỹ, tuyên dương những ngọn cờ tiêu biểu, xuất sắc về: Diệt địch, diệt xe tăng, đánh phá giao thông, bắn máy bay… Quảng Nam, Quảng Đà được trao tặng ngọn cờ “Trung dũng kiên cường, đi đầu diệt Mỹ”.
   
______________

18. Hồ Chí Minh: Về đấu tranh vũ trang và LLVT nhân dân. Nxb QĐND – Hà Nội năm 1970, trang 71


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 04 Tháng Hai, 2013, 10:18:52 am
   Đại hội ra lời kêu gọi: “Hãy dũng mãnh tiến quân vào mùa khô lần thứ hai” giành cờ “Trung dũng kiên cường, lập công xuất sắc”.

   Hưởng ứng lời kêu gọi của BTL Quân khu 5, quân và dân ta trên khắp chiến trường Quảng Đà hăng hái thi đua đánh Mỹ, diệt Ngụy, lập nhiều chiến công xuất sắc.

   Tại Gò Nổi (Điện Bàn) ngày 06.12.1966, Mỹ - Ngụy đánh hơi Tiểu đoàn bộ binh R20 đứng chân hoạt động tại đây, lập tức chúng sử dụng 1 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ từ Đà Nẵng vào càn quét nhằm tìm diệt Tiểu đoàn bộ binh R20. Nắm chắc ý định của địch, BCH Tỉnh đội phân công đồng chí Nguyễn Hoán – Tỉnh đội phó đến trực tiếp chỉ đạo đánh địch càn quét (vì lúc này một cán bộ chỉ huy tiểu đoàn, đại đội đi tập huấn chiến thuật, chiến dịch ở tỉnh).

   Quyết tâm đánh bại cuộc càn quét của địch, tiểu đoàn chủ trương sử dụng lực lượng phối hợp với các đơn vị bạn và dân quân, du kích Gò Nổi, vận dụng linh hoạt các hình thức chiến thuật, cách đánh của chiến tranh du kích và kỹ, chiến thuật đặc công để tiến công địch ở Vân Ly, Xuân Đài, Tư Phú. Ban ngày bám sát đội hình địch để phục kích, bắn bia, bắn tỉa, dùng đại liên, trung liên bắn máy bay, không cho chúng tiếp tế lương thực, suốt 10 ngày, lính Mỹ đói khát, có tên lấy cám heo của dân để ăn (do dân ta bày chúng ăn), ban đêm tập kích, hoặc luồn sâu vào khu vực trú quân lấy hàng chục khẩu súng mà chúng không hay biết. Sau 25 ngày trụ bám, quần lộn chiến đấu với tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ, Tiểu đoàn bộ binh R20 đã loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên Mỹ. Cuối cùng không tìm diệt được Tiểu đoàn bộ binh R20, lại bị tổn thất nặng, nên quân Mỹ phải rút khỏi Gò Nổi.

   Bị thất bại nặng nề, nhưng ý định tìm diệt Tiểu đoàn bộ binh R20 và cơ quan Tiền phương của BCH Tỉnh đội đứng chân ở Gò Nổi vẫn không từ bỏ, nên ngày 15.01.1967, quân Mỹ sử dụng 1 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 5 lính thủy đánh bộ từ An Hòa mở cuộc càn quét đánh phá các xã khu Tây Duy Xuyên rồi tiến sang Gò Nổi. Kiên quyết trừng trị hành động của quân Mỹ, BCH tiểu đoàn lúc này do đồng chí Võ Xuân Lâm – quyền tiểu đoàn trưởng (19) và đồng chí Lại Nam Dương (nguyên tiểu đoàn phó Tiểu đoàn bộ binh R20) phái viên của Tỉnh đội đã hội ý nghiên cứu đánh giá tình hình để xây dựng kế hoạch, chiến đấu, với ý định là sử dụng một lực lượng nhỏ phối hợp với du kích địa phương trụ bám đánh địch tiêu hao sinh lực, làm cho quân Mỹ phải ngao ngán, mệt mỏi, chủ quan. Còn đại bộ phận tiểu đoàn từ Điện Quang, Điện Hồng bí mật cơ động đến xã Xuyên Thanh, dựa vào địa hình, làng xã để lập trận địa vận động phục kích từ thôn Thanh Châu lên chợ La Tháp, tiêu diệt tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ khi chúng từ Gò Nổi qua Xuyên Thanh để về căn cứ An Hòa, đây là một phương án chiến đấu tối ưu, thể hiện sự linh hoạt trong nghệ thuật chỉ huy, chỉ đạo của lãnh đạo, chỉ huy tiểu đoàn, phù hợp với truyền thống và trình độ chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn bộ binh R20.

____________________________

19. Lúc này bộ phận cán bộ đi tập huấn chưa về.
   
   


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 04 Tháng Hai, 2013, 10:37:37 am
   Xã Xuyên Thanh phía tây quận lỵ Duy Xuyên và nằm dọc 2 bên đường 104. Phía Tây Xuyên Thanh có đồn Kiểm Lâm. Phía Bắc giáp sông con nhỏ, mùa mưa ngập nước, mùa nắng thì khô cạn, thành một bãi cát rộng 500 mét tiếp giáp với xã Điện Hồng và Điện Quang (Gò Nổi). Cán bộ, nhân dân Xuyên Thanh có truyền thống cách mạng, nên đã động viên mọi lực lượng giúp đỡ cho tiểu đoàn xây dựng công sự, trận địa. Tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu còn có bộ đội địa phương Duy Xuyên và du kích địa phương.

   Căn cứ phương án chiến đấu, Đại đội 1 bố trí trận địa phía bắc đường 104, Đại đội 2 bố trí trận địa cở cầu Cây Gáo, tiếp đến là Đại đội 3, Trung đội bộ đội địa phương Duy Xuyên bố trí giữa Đại đội 2 và 3. Đại đội 3 sử dụng 1 trung đội cùng du kích bố trí trận địa chặn đánh địch từ Kiểm Lâm – An Hòa xuống chi viện. Vị trí chỉ huy và Đại đội 4 hỏa lực bố trí trận địa ở thôn Tân Phong.

   Đúng như dự kiến của tiểu đoàn, những ngày càn quét, tìm diệt đơn vị ở Gò Nổi, ngày 26.01.1967, tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ từ sân vân động Bảo An (Điện Quang) rút sang Xuyên Thanh để về căn cứ An Hòa.

   Sau giờ, quân Mỹ xuất phát từ Gò Nổi tiến sang Xuyên Thanh, đội hình tiến theo hàng dọc, nhằm hướng trận địa Đại đội 1 và Đại đội 2. Gần đến trận địa, chó bẹc – giê đánh hơi người chồm lên sủa inh ỏi, bọn chỉ huy ra lệnh binh lính sẵn sàng chiến đấu. Khi còn cách trận địa Đại đội 1 khoảng 5 – 6 m, đại đội trưởng Đại đội 1 Nguyễn Văn Trí ra lệnh: Bắn! Khẩu đại liên của đồng chí Hùng rung lên, loạt đạn đầu diệt tốp Mỹ và mấy con chó đi đầu, tiếp sau các loạt súng của Đại đội 1 tập trung bắn vào đội hình địch, diệt thêm một số tên. Quân Mỹ biết ta chặn đầu, nên chưa dám xông tới, mà lùi lại dùng các loại hỏa lực đại liên M60, M72, cối 60, 81 ly bắn dồn dập vào trận địa, rồi tổ chức từng mũi nhỏ bò vào kéo xác, nhưng tên nào tiến lên thì bị diệt tên đó. Không lấy được xác đồng bọn, quân Mỹ rút ra bãi dâu tìm hướng đột phá trận địa và gọi phi pháo chi viện, các trận địa pháo Vĩnh Điện, Bồ Bồ, Hòn Non Trượt, An Hòa bắn phá các thôn xóm của xã Xuyên Thanh. Trên không máy bay L19, OV10, F105 và hàng chục máy bay trực thăng quần lượn ném bom, rốc két, đại liên khắp trận địa. Sau đợt đánh phá bằng hỏa lực, quân Mỹ tổ chức xung phong nhiều lần, nhưng đều bị đánh bật ra, nhiều tên chết nằm sát công sự của ta, bọn chúng không sao xông vào kéo ra được. Không chọc thủng trận địa của Đại đội 1 và 2, quân Mỹ lại sử dụng hỏa lực đánh phá ác liệt vào trận địa ta.

   Diễn biến trận đánh kéo dài đến 11 giờ, quân Mỹ tập trung các loại hỏa lực bắn thẳng bắn quyết liệt chi viện cho lính Mỹ đột phá vào hướng Khe Lợi và cầu Cây Gáo. Một trung đội Mỹ khác phải bò dưới làn đạn đại liện rồi bất ngờ đánh chiến một đoạn giao thông hào của trung đội bộ đội địa phương Duy Xuyên, sau đó chia làm 2 mũi đánh lên trận địa Đại đội 3. Để bảo vệ cho đội phẩu đang đứng sau đội hình Đại đội 3. Đại đội trưởng Thái lệnh cho tổ trung liên cơ động đánh vào sau lưng địch, cùng lúc, Quyền tiểu đoàn trưởng ra lệnh cho Đại đội 4 sử dụng ĐKZ và cối bắn mạnh vào đội hình địch. Đại đội 1 sử dụng 1 trung đội (Trung đội 2) do đại đội trưởng chỉ huy vọt ra khỏi công sự, vận động lên chiếm các gò mả, bờ ruộng chặn đánh quân Mỹ suốt 30 phút.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 04 Tháng Hai, 2013, 11:01:44 am
   Bị Đại đội 1 đánh phía trước, Đại đội 3 đánh sau lưng, hỏa lực Đại đội 4 bắn dồn dập vào giữa đội hình, bọn lính Mỹ, kéo chạy về qua phía sau trận địa Đại đội 2, đồng chí Thương – đại đội trưởng, đồng chí Năm chính trị viên bị thương, nhưng cán bộ, chiến sĩ Đại đội 2 vẫn kiên cường chiến đấu giữ vững trận địa, đánh bật các đợt xung phong của lính Mỹ, có lúc các đồng chí xông lên đánh giáp lá cà với lính Mỹ. Bị tổn thất nặng nề, nhưng bọn chỉ huy vẫn ngoan cố tổ chức lại đội hình xung phong, từ cầu Chìm tiến lên trận địa Đại đội 1. Tổ chiến đấu (Miền, Vân, Long) bí mật theo dõi, để đội hình đi qua, rồi xuất kích tiến công vào phía sau lưng địch, diệt 4 tên, bọn còn lại bị hất qua phía Nam đường 104.

   Chiến sự diễn biến đến 17 giờ, sau hàng chục lần tổ chức lực lượng xung phong dưới sự chi viện đắc lực của phi pháo, nhưng tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ không chiếm được trận địa của Tiểu đoàn bộ binh R20, mà còn bị tổn thất nặng nề, máy bay trực thăng từ An Hòa – Đà Nẵng liên tục đến lấy xác và số bị thương đưa về căn cứ. Lúc này, quân Mỹ không còn thời gian và sức lực để tiến công, phi pháo đánh phá cũng giảm dần. Tranh thủ thời gian tạm yên, các đại đội nhanh chóng củng cố công sự, trận địa, bổ sung đạn dược, bộ phận hậu cần, nuôi quân đưa cơm nước đến tận công sự. Tại trận địa Đại đội 1, chính trị viên Nguyễn Văn Thông đến tận giao thông hào, công sự gặp gỡ các tổ chiến đấu, thông báo kết quả chiến đấu, biểu dương, động viên cán bộ, chiến sĩ nhanh chóng củng cố công sự, kiểm tra vũ khí, trang bị, sẵn sàng đánh địch nếu chúng liều lĩnh tiến công.

   Trong lúc chính trị viên đi kiểm tra trận địa, thì đại đội trưởng đang ở trận địa của Trung đội 2 (Đại đội 1) để theo dõi hành động của địch. Gặp chính trị viên, đồng chí nếu lên ý kiến kết luận về địch: Quân Mỹ chưa bị tiêu diệt hoàn toàn, nhưng cũng không còn đủ sức để tiến công, mở đường rút về căn cứ và cũng không dám co cụm, trú quân ban đêm giữa bãi cát gần thôn Thanh Châu, vì sợ ta tập kích, chỉ còn biện pháp duy nhất là sử dụng trực thăng đến bốc về căn cứ An Hòa, đó là thủ đoạn tác chiến chiến thuật của quân đội Mỹ. Trên cơ sở kết luận đó, BCH Đại đội 1 chủ trương: Tập trung lực lượng và vũ khí đạn dược còn lại bí mật cơ động đến phía sau hàng tre thôn Thanh Châu, sẵn sàng đánh địch co cụm, tháo chạy bằng đường không.

   Khi mặt trời bắt đầu lặn, trận địa đã im tiếng súng, bọn chỉ huy lính Mỹ dự đoán qua một ngày bị bom pháo chúng đánh phá ác liệt như thế, thì bộ đội ta không chịu nổi và bây giờ rút đi rồi, nên chúng ra lệnh cho lính Mỹ ở các hướng rút dần ra bãi cát trống bên cạnh thôn Thanh Châu, một lúc sau lính Mỹ đứng lúc nhúc đầy bãi cát chờ máy bay trực thăng đến bốc về căn cứ.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 04 Tháng Hai, 2013, 11:32:52 am
   Thời cơ tiêu diệt địch rất thuận lợi, nhưng BCH Đại đội 1 còn lo lắng với cơ số đạn còn ít không đủ để diệt gọn bọn Mỹ, vừa lúc đó cả BCH tiểu đoàn cùng bộ phận hỏa lực của Đại đội 4 và phái viên của Tỉnh đội xuất hiện, nhưng mặc dù đã trải qua một ngày chiến đấu ác liệt, cán bộ, chiến sĩ rất phấn khởi hăng hái xung phong diệt Mỹ.

   Sự trùng khớp về  ý định chiến đấu tiêu diệt bọn Mỹ còn lại co cụm, rút chạy theo đường không thể hiện tư duy chiến thuật linh hoạt, sáng suốt của cán bộ chỉ huy Tiểu đoàn bộ binh R20. Không để cho địch rút chạy, chỉ huy tiểu đoàn ra lệnh “Bắn”, lập tức hàng trăm khẩu súng, đủ các cỡ nhả đạn tới tấp vào vị trí co cụm của địch, cối 60, 81 ly, ĐKZ, cũng trút đạn xuống đầu quân Mỹ, xé tan đội hình địch, số chết, số bị thương nằm khắp bãi cát, bị đánh bất ngờ, làm cho chúng không còn sức chống đỡ. Không để địch hồi phục, chỉ huy trận đánh ra lệnh “xung phong”, tất cả đồng loạt vượt lên khỏi chiến hào, công sự, xông tới tiêu diệt bọn Mỹ còn sống sót, một số tên thoát chết chạy ra khỏi trận địa, gọi phi pháo chi viện. Để tránh thương vong, các mũi xuất kích nhanh chóng thu vũ khí, rồi rút về trận địa, giải quyết thương binh, tử sĩ sau 1 ngày chiến đấu. Còn quân Mỹ tiếp tục sử dụng phi pháo bắn phá xung quanh trận địa, máy bay C130 đến thả đèn sáng, chi viện cho bọn trực thăng đến giải quyết hậu quả.

   Kết quả sau 1 ngày chiến đấu quyết liệt, Tiểu đoàn bộ binh R20 đã tiêu diệt 1 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ. Đây là một trong những chiến công oanh liệt nhất của quân và dân Quảng Đà nói chung, của Tiểu đoàn bộ binh R20 nói riêng. Một trận đánh tiêu biểu đạt hiệu suất chiến đấu cao nhất và có nhiều ý nghĩa sâu sắc: Một tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ đi tìm diệt Tiểu đoàn bộ binh R20 của ta, nhưng lại bị tiểu đoàn tiêu diệt gần như không còn một mảnh giáp để mang về căn cứ. Đơn vị đã ghi thêm một trang sử oanh liệt vào truyền thống của Tiểu đoàn. Chiến công đó cổ vũ mạnh mẽ phong trào thi đua quyết chiến, quyết thắng của quân và dân Quảng Đà, tiếp tục chiến đấu đánh bại các cuộc hành quân tìm diệt đồng thời sử dụng lực lượng thọc sâu vào bên trong bất ngờ tiến công tiêu diệt các căn cứ của Mỹ - Ngụy.
(http://farm9.staticflickr.com/8374/8422908494_4ca5a86f85_c.jpg) (http://www.flickr.com/photos/90883775@N03/8422908494/)
 (http://www.flickr.com/photos/90883775@N03/8422908494/)


   Sau trận Xuyên Thanh, cán bộ, nhân dân Quảng Đà nói chung, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn nói riêng đã đúc kết những trận chiến đấu quyết liệt bằng những câu ca:

                                                          “Trên trời có phản lực cơ
                                                           Dưới đất có R20 đánh càn”*

   Phát huy thắng lợi, đêm 28.07.1967, tiểu đoàn pháo mang vác 99 pháo kích hàng trăm hỏa tiễn A12 vào sân bay Đà Nẵng, phá hủy nhiều máy bay và xe cơ giới, diệt hàng trăm giặc lái và nhân viên kỹ thuật của Mỹ. Ở Hội An, đêm 05.03.1967, Tiểu đoàn bộ binh 2 tập kích đánh phá chi khu quận lỵ Hiếu Nhơn, tiếp đến tập kích nhà lao, căn cứ Tiểu đoàn 102 (Liên đoàn 10 công binh chiến đấu Ngụy).

__________________________

* Đánh càn: Đánh địch hành quân, càn quét.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 04 Tháng Hai, 2013, 01:48:55 pm
   Mặc dù so sánh tương quan lực lượng, phương tiện chiến tranh giữa ta và địch, thì địch bao giờ cũng gấp hơn ta nhiều lần, nhưng về mặt chiến đấu thì ta hơn địch nhiều lần, đó là mục tiêu lý tưởng trong cuộc kháng chiến của quân và dân ta là chính nghĩa, toàn dân, toàn diện, lực lượng vũ trang nhân dân, thế trận chiến tranh nhân dân ngày càng phát triển với nhiều hình thức chiến thuật, cách đánh sáng tạo, phong phú, làm cho chiến tranh tổng lực của Mỹ mất tác dụng và sa lầy vào thế trận của ta đã chuẩn bị sẵn. Thực tế, Tiểu đoàn bộ binh R20, không chỉ có kinh nghiệm chiến đấu: vận động phục kích kết hợp với vận động tiến công, mà còn học tập vận dụng hình thức tập kích bí mật, tập kích xung hỏa lực kết hợp, do đó hiệu suất chiến đấu ngày càng cao. Lính Mỹ và chư hầu đã chán nản, giảm sút tinh thần chiến đấu. Mỹ - Ngụy buộc phải thừa nhận: “Chúng ta (Mỹ) và những người Nam Việt Nam (Ngụy) đang tiến hành một cuộc chiến tranh theo điều kiện của đối phương” (20) “Hiện nay chúng ta và Nam Việt Nam đang đánh theo những điều kiện của địch, do kẻ địch định đoạt địa điểm, thời gian và các chiến thuật trong từng trận đánh. Trong khi đó các hoạt động của chúng ta có tính chất phản ứng” (21).

   Trước sức tiến công mạnh mẽ và hiệu quả của quân và dân ta, cuối tháng 04.1967, Mỹ - Ngụy phải kết thúc sớm cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ 2, không đạt được những mục tiêu đề ra, chúng phải tăng thêm lực lượng và phương tiện chiến tranh, chuẩn bị mở cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ 3 (1967 – 1968).

   Trên chiến trường Quảng Đà lúc này chiến sự diễn ra vẫn giằng co, quyết liệt. Để đối phó với các cuộc tiến công của ta, Mỹ - Ngụy tiếp tục càn quét đánh phá vùng giải phóng, biến các làng xã thành vùng trắng đất, trắng dân, nhà cửa, cây cối bị bom đạn, chất độc hóa học thiêu trụi, mồ mả, đồng ruộng bị cày xới hàng chục lần, tạo thành vành đai trắng bao quanh các căn cứ. Kết hợp càn quét, đánh phá, Mỹ - Ngụy còn xây dựng lực lượng tác chiến hỗn hợp, hoạt động theo kiểu du kích, lực lượng mỗi đơn vị tương đương trung đội, đại đội. Chúng gọi là: “Chương trình hoạt động hỗn hợp”, hay còn gọi là Mỹ: C.A.P (22), ta gọi là “Mỹ kép, Mỹ lết”. Thủ đoạn hoạt động của bọn này rất tinh vi, xảo quyệt, kết hợp lùng sục với phục kích, tập kích, gài mìn… Bên trong chúng còn đầu tư xây dựng hệ thống chốt điểm, chướng ngại vật dày đặc, như các hàng rào kẽm gai, bãi mìn, máy phát hiện tiếng động từ xa (ra đi ô sol – cây nhiệt đới), thiết bị nhìn đêm, đèn hồng ngoại tuyến… Chiều ngang 01 – 10 m, chiều dài từ đèo Hải Vân đến các xã vùng A, B, C Điện Bàn (gọi là hàng rào điện tử Mắc-na-ma-ra). Những âm mưu, thủ đoạn của Mỹ - Ngụy trên đây gây cho ta một số khó khăn, nhưng vỏ quýt dày, có móng tay nhọn, các lực lượng vũ trang vẫn trụ bám, cơ động, thọc sâu tiến công địch cả trong và ngoài căn cứ.

   Ở Đại Lộc, trong đợt hoạt động tác chiến Hè – Thu 1967 được cán bộ, du kích địa phương giúp đỡ, Tiểu đoàn bộ binh R20 sử dụng lực lượng tập kích tiêu diệt chốt điểm cầu Chìm đánh bại âm mưu càn quét, cài cắm chốt điểm, mở rộng địa bàn kiểm soát của bọn Mỹ - Ngụy ở chi khu quận lỵ Thượng Đức nhằm ngăn chặn hành lang cơ động vận chuyển của ta ở vùng giáp ranh. Sau trận tập kích bằng kỹ, chiến thuật đặc công của Tiểu đoàn bộ binh R20, Mỹ - Ngụy phải bỏ chốt, co cụm về chi khu.
   Cũng trong Hè – Thu 1967, để chuẩn bị cho đơn vị cơ động, thọc sâu, tiến công tiêu diệt quân Mỹ ở phía Tây Đà Nẵng. Tiểu đoàn trưởng Võ Xuân Lâm chỉ huy bộ phận trinh sát đi điều tra chốt điểm Gò Bui, nằm phía đông Gò Hà (Hòa Khương). Khi đi chuẩn bị, các đồng chí phát hiện quân Mỹ rất chủ quan, sơ hở, thời cơ diệt địch rất thuận lợi, nên trung đội trinh sát báo cáo đề xuất với Tiểu đoàn trưởng cho đơn vị đánh ngay. Được chỉ huy tiểu đoàn chấp thuận, trung đội trinh sát sử dụng lực lượng chia làm 2 mũi, vận dụng kỹ, chiến thuật đặc công, bí mật tiềm nhập khắc phục vật cản, luồn sâu vào bên trong, dùng lựu đạn, thủ pháo, tiến công địch, diệt gọn 1 trung đội lính thủy đánh bộ Mỹ, thu hàng chục súng, đơn vị an toàn.

_______________

20. Dẫn từ sách: “Nhìn lại quá khứ, tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam” Nxb Chính trị Quốc gia – Hà Nội năm 1995.

21. Dẫn theo “Tài liệu mật của lầu Năm góc” trang 299

22. Combined Action Program.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 04 Tháng Hai, 2013, 02:03:32 pm
   Sau nhiều lần sử dụng các đơn vị lính thủy đánh bộ Mỹ từ đại đội đến trung đoàn, được xe tăng, phi pháo chi viện càn quét đánh phá vùng B Đại Lộc bị Tiểu đoàn bộ binh R20 của tỉnh và lực lượng vũ trang địa phương chặn đánh gây nhiều thiệt hại nặng nề. Quân Mỹ thua đau, rút chạy, nhưng quân Ngụy hung hăng, thách thức nhảy vào đỡ đòn cho quân Mỹ. Tháng 07.1967, Mỹ - Ngụy sử dụng Trung đoàn 51, mở các trận càn quét đánh phá vùng B, đi đến đâu bọn chúng cũng đốt nhà, xúc tát dân vào khu dồn ở chung quanh Thượng Đức, Ái Nghĩa, ai không đi thì chúng đánh đập, ai phản đối, chống cự thì bị bắn chết.

   Hành động tàn bạo của Mỹ - Ngụy không chỉ gây ra sự căm phẫn của nhân dân, mà còn đụng chạm đến quan hệ tình cảm giữa cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn bộ binh R20 với cán bộ và nhân dân. Do đó sau khi nhận nhiệm vụ cấp trên giao, Đảng ủy – BCH Tiểu đoàn nghiên cứu tình hình, đề ra kế hoạch, phương án chiến đấu, phối hợp chặt chẽ với bộ đội địa phương dựa vào địa hình, địa thế làng xã chiến đấu, vận dụng linh hoạt các hình thức chiến thuật: Phòng ngự trận địa kết hợp vận động tiến công và bí mật tập kích, nhằm tiêu hao, tiêu diệt sinh lực, làm thất bại các cuộc càn quét của trung đoàn 51 Ngụy. Thực hiện quyết tâm chiến đấu của BCH tiểu đoàn, từ ngày 14 đến ngày 16.07.1967, các đại đội bám chắc địa bàn chiến đấu liên tục với các mũi càn quét của địch, đánh thiệt hại 1 tiểu đoàn, tiêu diệt 2 đại đội, bắn cháy 5 xe tăng, bắn rơi 1 máy bay trực thăng. Đêm 17.02.1967, Đại đội 2 sử dụng lực lượng bí mật tập kích vào khu vực trú quân của địch, bất ngờ nổ súng tiến công tiêu diệt 1 đại đội lính Ngụy. Bị tiến công liên tục và tổn thất nặng nề, Trung đoàn 51 Ngụy phải chấm dứt cuộc càn, rút khỏi vùng B Đại Lộc. Tranh thủ thời gian chiến sự tạm yên, cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn bắt tay vào việc giúp dân dựng lại nhà cửa, củng cố hầm, hào trú ẩn, ổn định đời sống sinh hoạt cho bà con. Cùng lúc một bộ phận cán bộ, trinh sát của tiểu đoàn tiến hành điều tra khu vực thị trấn Vĩnh Điện và Nam Phước, chuẩn bị cho đơn vị tiến công tiêu diệt các mục tiêu của Mỹ - Ngụy ở chung quanh chi khu quận lỵ Điện Bàn, Duy Xuyên, hỗ trợ cho cán bộ, du kích các địa phương diệt ác, phá kèm, vận động nhân dân nổi dậy phá khu dồn, trại tập trung. Sau nhiều ngày đêm lặn lội, vượt qua hệ thống phòng ngự của địch, các đồng chí đã nắm được tình hình quân số, trang bị, quy luật hoạt động của địch, tạo thuận lợi cho Đảng ủy – BCH Tiểu đoàn xây dựng kế hoạch chiến đấu, giao nhiệm vụ cho các đơn vị. Căn cứ nhiệm vụ trên giao, các đại đội nhanh chóng tổ chức đội hình chiến đấu. Trước đêm nổ súng tiến công, tiểu đoàn cơ động xuống đứng chân ở Gò Nổi, riêng Đại đội 2 cơ động xuống trú quân ở Điện Nam, đảm nhiệm tiến công từ hướng Đông Bắc vào thị trấn Vĩnh Điện, trên hướng Tây Nam, Đại đội 1 và 3 vượt sông Thu Bồn, rồi cơ động chiếm lĩnh trận địa xuất phát tiến công ở thôn Bồng Lai, Khúc Lũy (thuộc xã Điện Minh), tham gia trận tiến công vào thị trấn Vĩnh Điện còn có Đại đội 1 và 2 Điện Bàn, cán bộ, du kích các xã chung quanh. Trận đánh do đồng chí Võ Xuân Lâm chỉ huy.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 04 Tháng Hai, 2013, 02:14:14 pm
   Đêm 28.08.1967, phối hợp với chiến trường chung, các đại đội của Tiểu đoàn bộ binh R20 và bộ đội địa phương Điện Bàn từ các hướng đồng loạt nổ súng tiến công vào thị trấn Vĩnh Điện. Sau 02 giờ 30 phút chiến đấu, các đơn vị đã làm chủ trận địa, diệt 2 đại đội địa phương quân, bắt và diệt nhiều tên ác ôn, phá hủy 1 trận địa pháo 105 ly, 1 kho đạn dược, thu 3 đại liên. Trong quá trình chiến đấu, 1 mũi tiến công (9 đồng chí) của Đại đội 2 do đồng chí Thu, đại đội phó chỉ huy chốt chặn đánh địch phản kích tại ngã tư Vĩnh Điện, sát chi khu quận lỵ, đã chiến đấu quyết liệt với hàng trăm tên địch, diệt hàng chục tên và tất cả hy sinh anh dũng.

   Sau trận tiến công vào thị trấn Vĩnh Điện, tiểu đoàn cơ động vào tập kích tiêu diệt 2 đại đội biệt kích Tây Hồ, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 100 tên, bắt sống 5 tên, thu 15 súng, 5 máy PRC25. Chiến công của Tiểu đoàn bộ binh R20 ở Vĩnh Điện – Nam Phước đã góp phần vào thắng lợi của quân và dân Quảng Đà trong chiến dịch Thu 1967. Những trận đánh này có ý nghĩa rất lớn là trong lúc Mỹ - Ngụy huy động lực lượng càn quét, tìm diệt đơn vị, nhưng với trình độ chiến đấu điêu luyện, thông thuộc địa hình, tư duy quân sự thông minh, nhạy bén, bất ngờ cơ động thọc sâu vào sào huyệt của Mỹ - Ngụy để tiến công, tiêu diệt chúng, làm cho bọn chỉ huy hoang mang, đối phó lúng túng, đi càn quét hoặc cố thủ trong căn cứ, công sự cũng bị tiêu diệt.

   Sau đợt hoạt động Hè – Thu 1967, các đơn vị, địa phương vừa tiếp tục chiến đấu giữ thế làm chủ chiến trường, vừa củng cố, phát triển lực lượng, chuẩn bị mở các chiến dịch tấn công quy mô lớn hơn, giành thắng lợi to lớn hơn.

   Tỉnh Quảng Đà được xác định là một trong những chiến trường chính của Khu 5, nơi đọ sức quyết liệt giữa quân và dân ta với các lực lượng hùng hậu thuộc Bộ tư lệnh Đệ Tam Hải – Lục – Không quân Mỹ và Bộ tư lệnh Quân đoàn 1 Ngụy. Nhiều âm mưu, thủ đoạn chiến tranh, chiến thuật tác chiến, phương tiện chiến tranh được đem ra thí nghiệm trên chiến trường này. Xuất phát từ đặc điểm đó, nên từ tháng 07.1967, Khu ủy Khu 5 quyết định thành lập Đặc khu ủy Quảng Đà (thay cho Tỉnh ủy Quảng Đà) do đồng chí Hồ Nghinh làm Bí thư. Bộ tư lệnh Quân khu 5 quyết định thành lập Bộ tư lệnh Mặt trận 44 (tức mặt trận Quảng Đà) do đồng chí Võ Thứ làm Tư lệnh, đồng chí Hồ Nghinh làm chính ủy.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 04 Tháng Hai, 2013, 02:30:10 pm
   Lực lượng vũ trang Mặt trận Quảng Đà bao gồm các đơn vị thuộc tỉnh đội Quảng Đà và thành đội Đà Nẵng. Để tăng cường lực lượng tác chiến trên chiến trường Quảng Đà, BTL Quân khu bổ sung 2 trung đoàn pháo binh mang vác (575 và 577), Trung đoàn bộ binh 31 (thiếu 1 tiểu đoàn). Trước đó, Bộ tư lệnh Hải quân bổ sung cho tỉnh Quảng Đà 1 phân đội (đại đội) đặc công nước, BCH Tỉnh đội và Thành đội Đà Nẵng cũng điều động lực lượng thành lập Tiểu đoàn 487 đặc công hậu cứ, Tiểu đoàn bộ binh 3 và Đại đội công binh Hải Vân. Bộ đội địa phương, dân quân du kích các huyện, thị, thành cũng phát triển cả số lượng và chất lượng. Thế trận chiến tranh nhân dân địa phương được củng cố vững chắc, liên hoàn.

   Tiểu đoàn bộ binh R20 là đơn vị chủ công của Mặt trận, cán bộ, chiến sĩ hầu hết là con em của nhân dân trong tỉnh, quen thuộc địa hình, có trình độ kỹ, chiến thuật, từ khi thành lập đến lúc này luôn cơ động, thọc sâu đánh hiểm, đánh bất ngờ, lập được nhiều chiến công oanh liệt, do đó Đảng ủy – BTL Mặt trận luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tin tưởng giao nhiệm vụ nặng nề, nhưng là vinh dự to lớn. Sau chiến dịch Thu 1967, ngày 27.10.1967, tiểu đoàn rút về đứng chân ở Gò Nổi xã Điện Chính, Điện Phong để củng cố, huấn luyện, chuẩn bị ra quân tham gia chiến dịch Xuân Mậu Thân 1968.

   Đến nơi vừa ổn định nơi ăn ở, triển khai đội hình sẵn sàng chiến đấu, thì bất ngờ quân Mỹ sử dụng trực thăng đổ bộ 1 đại đội lính thủy đánh bộ xuống khu vực Huyện đoàn Điện Bàn đang tổ chức Đại hội. Có thể do bọn gián điệp chỉ điểm, nên địch không tiến hành bắn phá, chuẩn bị bãi đổ bộ, mà bí mật cơ động đến đổ quân. Trước tình huống bất ngờ, BCH tiểu đoàn ra lệnh cho Đại đội 4 hỏa lực dùng cối 82 ly bắn dồn dập vào khu vực máy bay Mỹ đổ bộ, làm cháy và bị hư hỏng 8 chiếc, diệt hàng chục tên Mỹ, buộc chúng vội vã bốc quân, tháo chạy, bảo vệ an toàn hơn 300 đại biểu dự Đại hội Huyện đoàn Điện Bàn.

   Ban chỉ huy tiểu đoàn lúc này:

   - Đồng chí Lại Nam Dương – Tiểu đoàn trưởng (thay cho đồng chí Võ Xuân Lâm về làm trung đoàn phó Trung đoàn 31).

   - Đồng chí Hoàng Thanh Tùng – Chính trị viên tiểu đoàn kiêm Bí thư đảng ủy.

   - Đồng chí Nguyễn Văn Đán – Tiểu đoàn phó.

   - Đồng chí Nguyễn Văn Trí – Tham mưu trưởng.

   Quân số tiểu đoàn 400 cán bộ, chiến sĩ. Trong đó có 120 đảng viên, 280 đoàn viên.

   Biên chế 4 đại đội. Trang bị lúc này tương đối đầy đủ và hiện địa như AK47, súng chống tăng B40, B41, đại liên 12,8 ly, súng cối 82 ly… của các nước xã hội chủ nghĩa, được đưa từ hậu phương miền Bắc vào chi viện. Tiểu đoàn được trang bị 2 cối 82 ly, 8 đại liên, 2 ĐKZ 57 ly, 12 B40, B41.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 04 Tháng Hai, 2013, 03:11:38 pm
   Trong những ngày cuối năm 1967, mặc dù thời tiết mưa lạnh, nhưng không khí chuẩn bị chiến dịch diễn ra sôi động. Bộ Chính trị BCH Trung ương Đảng (Khóa III) ra nghị quyết: “Chuyển cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam của ta sang thời kỳ mới, thời kỳ giành thắng lợi quyết định” (23).

   Trên cơ sở nghị quyết của Bộ Chính trị, Bộ Tổng tham mưu xây dựng kế hoạch tác chiến với phương châm là: Kết hợp tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng trên cả 3 vùng chiến lược (rừng núi, nông thôn, đồng bằng và đô thị).

   Hướng tiến công chủ yếu là đô thị, trọng điểm là Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng.

   Mục tiêu tiến công là các cơ quan đầu não Mỹ - Ngụy.

   Không gian tiến công là trên cả miền Nam.

   Thời gian tiến công là đêm 30 rạng ngày 31.01.1968 (tức đêm giao thừa tết Mậu Thân).

   Mật danh cuộc tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là “T25”.

   Quán triệt quyết tâm chiến lược của Trung ương Đảng và Khu ủy – BTL Quân khu 5, lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị, địa phương ngày đêm lao vào thực hiện các mặt công tác chuẩn bị chiến trường, sắp xếp bố trí lực lượng, phân công nhiệm vụ. Quân và dân Quảng Đà hăng hái thi đua hoàn thành nhiệm vụ được giao với khẩu hiệu: “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng”.

______________

23. “Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954 – 1975 – Những sự kiện quân sự” Nxb QĐND – Hà Nội, 1980, trang 165 – 166.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 04 Tháng Hai, 2013, 03:13:33 pm
   Lực lượng chính trị của quần chúng cũng ra sức chuẩn bị tinh thần, vật chất tham gia chiến dịch, lực lượng binh địch vận tìm cách đưa thư cho Hoàng Xuân Lãm – Trung tướng – Tư lệnh Quân đoàn 1 kiêm Vùng 1 chiến thuật ngụy và lôi kéo một bộ phận binh lính ly khai chống Mỹ - Ngụy.

   Căn cứ kế hoạch, phương án chiến đấu, Đảng ủy – BTL Mặt trận 44 giao nhiệm vụ cho Tiểu đoàn bộ binh R20 thực hiện:

   - Phương án 1: Theo kế hoạch cấp trên, tiểu đoàn cải trang thành lính Ngụy làm binh biến, tập kết phía Nam cầu Đỏ, cơ sở nội tuyến sử dụng 20 xe GMC chạy ra đón đơn vị vào đánh chiếm một số mục tiêu quan trọng, tiêu diệt lực lượng địch ngoan cố chống cự, tạo điều kiện cho các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang Mặt trận Quảng Đà, Sư đoàn bộ binh 2 Quân khu và lực lượng quần chúng bên ngoài tiến công vào thành phố. Đây là phương án tiến công địch trong trường hợp Tư lệnh Quân đoàn 1 ngụy chập thuận làm nội ứng. Nhưng đến trước ngày nổ súng, Lãm lật lọng, hủy bỏ lệnh ngừng bắn và ra lệnh cho binh lính cắm trại trong những ngày tết. Xuất phát từ tình hình đó, BTL chỉ thị cho Tiểu đoàn bộ binh R20 không thực hiện phương án 1.

   - Phương án 2: sử dụng lực lượng của Tiểu đoàn cơ động, thọc sâu vào bên trong đánh chiếm Bộ tư lệnh Quân đoàn 1 Ngụy và một số mục tiêu khác, hỗ trợ cho quân chúng nổi dậy, tạo điều kiện cho Sư đoàn 2 Quân khu và lực lượng quần chúng từ bên ngoài tiến công vào. Căn cứ phương án được duyệt, BCH tiểu đoàn phân công đồng chí Nguyễn Văn Trí – Tham mưu trưởng và đồng chí Trần Dung cán bộ tác chiến và một bộ phận cán bộ trinh sát đi chuẩn bị chiến trường, hành lang cơ động, bàn đạp trú quân.

   Chấp hành mệnh lệnh cấp trên, đêm 29.01.1968, từ hậu cứ, tiểu đoàn tổ chức hành quân ra trú quân tại Khu III Hòa Vang, khi tiểu đoàn hành quân đến đập Bà Quang thì gặp pháo địch bắn, đồng chí Lại Nam Dương – tiểu đoàn trưởng bị thương, không thể chỉ huy đơn vị hành quân tiếp. Đảng ủy – BCH Tiểu đoàn phân công đồng chí Nguyễn Văn Đáng – tiểu đoàn phó đảm nhiệm quyền tiểu đoàn trưởng để chỉ huy tiểu đoàn tiếp tục thực hiện phương án chiến đấu.

   Ngày 30.01.1968, tiểu đoàn bí mật trú quân ở khu vực Trung Lương – Cồn Dầu (nay là xã Hòa Xuân). Đi cùng với Tiểu đoàn bộ binh R20 trên hướng này còn có bộ phận tiền phương của Đặc khu ủy Quảng Đà do đồng chí Mai Đăng Chơn – Thường vụ đặc khu ủy phụ trách, tiền phương của Bộ tư lệnh Mặt trận 44 do đồng chí Nguyễn Hữu Đức (24) – Thường vụ Đặc khu ủy – Tham mưu trưởng phụ trách, đồng chí Trần Sinh – Phó chủ nhiệm Chính trị - Mặt trận.

   Trước đó, đồng chí Trần Thận – Phó bí thư Đặc khu ủy, đồng chí Hà Kỳ Ngộ, Nguyễn Duy Hưng – Thường vụ Đặc khu ủy bí mật vào đứng chân trong nội thành, đến trưa ngày 30.01.1968, đồng chí Hồ Nghinh – bí thư Đặc khu ủy cũng vào bên trong thành phố.

   Đêm 30.01.1968, tiểu đoàn hành quân, nhưng khi đến bờ sông Cẩm Lệ thì gặp bọn Mỹ rải quân phòng ngự dọc bờ sông, chúng đập phá hết thuyền bè chuẩn bị đưa bộ đội sang sông để tiến công vào BTL Quân đoàn 1 Ngụy. Tiểu đoàn không thể vượt sông được, chỉ có 1 trung đội của Đại đội 1 do đồng chí Dương Văn Chín chỉ huy và 1 trung đội bộ đội địa phương khu III Hòa Vang do đồng chí Trần Văn Dũng chỉ huy, do đồng chí Huỳnh Phước Đông – Tham mưu phó chỉ huy, bộ phận luồn sâu tổng cộng 57 đồng chí, trang bị gọn nhẹ, bí mật vượt sông, tiếp cận vào sát mặt phía Đông – Bộ tư lệnh Quân đoàn 1 Ngụy.

   Đêm 30.01.1968 (tết Mậu Thân 1968) các mũi tiến công trên các hướng cũng đã sẵn sàng. Lúc 02 giờ 30 phút – giờ hợp đồng tất cả đồng loạt tiến công, pháo cối trên khắp chiến trường dỗi bão lửa xuống đầu quân Mỹ - Ngụy ở các sân bay, căn cứ, kho tàng. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968 mở màn. Lực lượng vũ trang đánh chiếm nhiều mục tiêu quan trọng chung quanh Đà Nẵng, bên trong biệt động, tự vệ cũng tập kích nhiều cơ quan, đồn bót, làm cho chúng hoang mang, hoảng loạn.

   Tiểu đoàn bộ binh R20, không vượt được sông Cẩm Lệ, BCH Tiểu đoàn quyết định chuyển phương án chiến đấu, ra lệnh cho các đại đội tiến công tiêu diệt Cồn Dầu, làm chủ Trung Lương, chuẩn bị đánh địch phản kích.

   Rạng sáng ngày 31.01, diễn biến chiến đấu hết sức căng thẳng, ác liệt, ta không thực hiện được ý định ban đầu, Mỹ - Ngụy sau khi bị tiến công, chúng huy động lực lượng, máy bay, xe pháo ra phản kích, chốt chặn các cửa ngõ vào thành phố, đồng thời sử dụng lực lượng bao vây, truy kích các mũi tiến công của biệt động, tự vệ và lực lượng quần chúng nổi dậy.

   Mũi luồn sâu của Tiểu đoàn đã áp sát BTL Quân đoàn 1 Ngụy, khi có lệnh nổ súng, các đồng chí bật dậy lao qua tường rào xông vào đánh chiếm 1 góc của BTL. Do mục tiêu quá rộng, quân số ít, nên các tổ chỉ đánh lướt qua, rồi rút ra chốt giữ ngã tư (nay là ngã tư đường Núi Thành và Duy Tân) để chờ lực lượng chủ yếu của ta tiến vào tiếp tục tiến công địch.

   Khi trời vừa sáng, Mỹ - Ngụy điều động 2 tiểu đoàn biệt động quân, 1 tiểu đoàn bộ binh, 4 xe tăng, trên không hàng chục máy bay trực thăng kéo đến bao vây, phản kích với tinh thần chiến đấu cảm tử, các đồng chí bình tĩnh, lợi dụng các bờ tường, góc phố đánh trả các mũi xung phong của địch, diệt hàng trăm tên, các đồng chí chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và phần lớn đã hy sinh anh dũng, không để địch bắt sống hoặc đầu hàng địch, còn một số được cơ sở che dấu, bảo vệ và tìm cách đưa ra vùng giải phóng. Trận chiến đấu kiên cường, hy sinh anh dũng của 57 cán bộ. chiến sĩ Tiểu đoàn bộ binh R20 biểu hiện ý thức chấp hành nghiêm chỉ thị, mệnh lệnh cấp trên, làm lực lượng xung kích, thọc sâu, đánh chiếm một phần BTL Quân đoàn 1 Ngụy, tạo bàn đạp cho lực lượng chủ yếu phía sau cơ động lên tiến công địch, tinh thần chiến đấu ngoan cường, hy sinh anh dũng của các đồng chí thể hiện bản chất chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.
_______________________
24. Đồng chí Nguyễn Hữu Đức được Nhà nước truy tặng danh hiệu: Anh hùng LLVT nhân dân ngày 30.10.1978


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 04 Tháng Hai, 2013, 03:39:44 pm

   Chiến sự ở Đà Nẵng diễn ra càng quyết liệt. Tại Trung Lương – Cồn Dầu, Mỹ - Ngụy huy động hàng ngàn tên được xe tăng, phi pháo chi viện đắc lực, mở nhiều đợt phản kích vào trận địa của Tiểu đoàn bộ binh R20. Mặc dù lực lượng địch đông gấp nhiều lần, nhưng cán bộ, chiến sĩ vẫn trụ bám quyết tâm chiến đấu đến cùng, bẻ gãy nhiều đợt xung phong của bộ binh, xe tăng địch. Ngày thứ 2 (01.02.1968) quân số, trang bị hao hụt, không bổ sung kịp, Mỹ - Ngụy liên tục tiến công, gây nhiều thương vong cho đơn vị, các đồng chí Mai Đăng Chơn, Nguyễn Hữu Đức, Nguyễn Văn Đáng vừa chỉ huy, động viên cán bộ, chiến sĩ chiến đấu, vừa cầm súng đánh trả địch đến cùng và hy sinh anh dũng. Đêm 01.02.1968, lợi dụng quân Mỹ co cụm, đồng chí Nguyễn Văn Trí – Tham mưu trưởng trực tiếp chỉ huy củng cố đội hình, tổ chức mở đường đưa hơn 80 cán bộ, chiến sĩ của tiểu đoàn vượt khỏi vòng vây của địch, rồi cơ động về Gò Nổi (Điện Bàn). Như vậy, sau 2 đêm 2 ngày quần lộn chiến đấu với một lực lượng địch đông gấp nhiều lần, Tiểu đoàn bộ binh R20 đã loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên Mỹ - Ngụy, bắn cháy 2 xe tăng, san bằng 1 chốt điểm. Tuy nhiên để làm nên chiến công đó, tiểu đoàn cũng chịu tổn thất lớn, nhiều cán bộ, chiến sĩ đã từng chiến đấu xông pha trận mạc, lập công xuất sắc, dày dạn kinh nghiệm và đã hy sinh anh dũng trong trận chiến đấu không cân sức, không theo ý định quyết tâm đề ra, ngoài những tình huống đã dự kiến, sự hy sinh của các đồng chí để lại biết bao niềm thương tiếc của đồng chí, đồng bào.

   Các mũi tiến công quân sự và kế hoạch nổi dậy bên trong không đạt mục tiêu đề ra, nên lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị quần chúng bên ngoài không tiến vào hỗ trợ cho bên trong được, Mỹ - Ngụy tung lực lượng ra ngăn chặn, phản kích, bắn chết và bị thương hàng trăm người.

   Diễn biến chiến sự chung quanh Đà Nẵng còn kéo dài trong những ngày tiếp theo. Đêm 02.02.1968, một phân đội thuộc Sư đoàn 2 Quân khu 5 sau khi đánh chiếm thị trấn Nam Phước (Duy Xuyên), cơ động ra tập kích tiêu diệt 1 đại đội lính thủy đánh bộ Mỹ ở Lỗ Giáng (Hòa Xuân). Thời cơ hợp đồng cùng lực lượng vũ trang Mặt trận Quảng Đà để tiến công vào Đà Nẵng không còn nữa, đơn vị lui về đánh địch phản kích ở Hòa Phước rồi rút về hậu cứ.

   Chiến dịch tổng tiến công và nổi dậy trên chiến trường Quảng Đà nói chung, Đà Nẵng nói riêng diễn ra quyết liệt, quân và dân ta đã đem hết tinh thần và lực lượng để thực hiện quyết tâm chiến lược của Đảng và đã giành được một số thắng lợi nhất định.

   Để giành được thắng lợi đó, quân và dân ta cũng chịu nhiều hy sinh tổn thất lớn. Nguyên nhân là ta đánh giá tương quan lực lượng chưa đầy đủ, lực lượng Mỹ - Ngụy ở Đà Nẵng đông, trang bị mạnh, bố trí dày đặc, lực lượng vũ trang của ta chưa đủ sức tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận quân Mỹ và Ngụy. Kế hoạch hợp đồng tiến công với nổi dậy chưa chặt chẽ, thống nhất. Bên cạnh đó, lệnh chuyển thời gian hợp đồng tiến công từ đêm 30 sang đêm 31.01.1968 trên toàn chiến trường miền Nam đến chậm, các đơn vị lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị đã cơ động chiếm lĩnh địa bàn xuất phát không thể hoãn được, do đó kế hoạch nổ súng trên chiến trường Quảng Đà vào đêm 30.01.1968 vẫn diễn ra theo ý định ban đầu.

   Mặc dù có một số khuyết, nhược điểm, nhưng quân và dân Quảng Đà đã giành thắng lợi to lớn góp phần cùng quân và dân Miền Nam đánh bại chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ - Ngụy, tác động sâu sắc đến nội tình nước Mỹ cả quân sự, chính trị, kinh tế, xã hội. Mâu thuẫn trong nội bộ nhà Trắng thêm gay gắt, phong trào chống chiến tranh của nhân dân Mỹ và nhân dân tiến bộ trên thế giới dâng lên cao. Trước những thất bại nặng nề, ngày 01.03.1968, Giôn – Xơn – Tổng thống Mỹ giao cho Cơ – lip – pho làm Bộ trưởng Quốc phòng thay cho Mắc-na-ma-ra vừa từ chức. Ngày 22.03.1968, Giôn-Xơn ra lệnh cách chức Oét – mo – len, đưa A Bram lên làm Tổng tư lệnh quân Mỹ ở Việt Nam và quyết định không ra tranh cử Tổng thống nhiệm kỳ thứ hai, làm cơ sở để thực hiện các quyết định:

   - Tăng cường hiệu lực chiến đấu của quân Ngụy bằng trang bị và các thứ viện trợ khác của Mỹ, đây là điểm ưu tiên hàng đầu trong các hành động của Mỹ.

   - Hạn chế ném bom miền Bắc.

   Chủ trương cụ thể là:

   - Loại trừ mọi sự leo thang chiến tranh lớn.

   - Thay chiến lược “tìm diệt, bình định” bằng “quét và giữ”.

   - Từng bước “Phi Mỹ hóa cuộc chiến tranh” làm bước đệm chuyển tiếp từ chiến lược chiến tranh cục bộ sang chiến lược Chiến tranh Việt Nam hóa.

   - Chấp nhận đàm phán để chấm dứt chiến tranh, từng bước rút quân Mỹ và chư hầu về nước, chuyển giao trách nhiệm chiến đấu trên bộ cho quân Ngụy.

   Như vậy, Mỹ đã chịu thất bại, nhưng ý chí xâm lược chưa bị đánh bại hoàn toàn, tiếp tục tiến hành cuộc chiến tranh bằng đội quân tay sai, để vừa đánh, vừa đàm.

   Trước những âm mưu, thủ đoạn của Mỹ - Ngụy. Sau chiến dịch tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968, quân và dân ta trên khắp chiến trường miền Nam vẫn giữ vững quyết tâm thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”, ra sức huy động mọi lực lượng, vật chất để mở chiến dịch Hè 1968 (mật danh là X1). Hướng tiến công chủ yếu vẫn là thành phố, đô thị, thị trấn, chi khu quận lỵ. Ngày 05.05.1968, chiến dịch mở màn.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 04 Tháng Hai, 2013, 03:55:59 pm
   Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Trung ương Đảng nêu trong Nghị quyết 14 (tháng 01.1968) của BCHTW (Khóa III): “Tổng tiến công và nổi dậy là một giai đoạn, một quá trình tiến công chiến lược hết sức quyết liệt và phức tạp…, bằng nhiều chiến dịch tiến công quy mô lớn của lực lượng vũ trang ở các vùng chiến lược quan trọng kết hợp chặt chẽ sự nổi dậy của quần chúng”. Quân và dân Mặt trận Quảng Đà khẩn trương chuẩn bị mọi mặt tham gia chiến dịch Hè 1968. Để tăng cường lãnh đạo, chỉ huy các lực lượng trên chiến trường chính: Đà Nẵng và các đô thị, Thường vụ Khu ủy Khu 5 chỉ định đồng chí Trương Chí Cương làm Bí thư Đặc khu ủy Quảng Đà, BTL Quân khu 5 chỉ định đồng chí Nguyễn Chánh làm Tư lệnh Mặt trận 44, đồng chí Võ Thứ làm phó tư lệnh, đồng chí Giáp Văn Cương – phó tư lệnh – Tham mưu trưởng, đồng chí Hồ Nghinh – phó bí thư Đặc khu ủy kiêm chính ủy Mặt trận. Xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ trên giao, tháng 04.1968, BTL Mặt trận quyết định thành lập Trung đoàn 38 (gồm các Tiểu đoàn 1, 2, 3 và 489) do đồng chí Nguyễn Hoán làm Trung đoàn trưởng, đồng chí Nguyễn Phục (Khôi) làm chính ủy. Ngoài lực lượng hiện có, Quân khu quyết định tăng cường cho Mặt trận Quảng Đà Trung đoàn 36 thuộc Sư đoàn 308 từ miền Bắc mới vào.

   Tiểu đoàn bộ binh 1 (25), sau khi về đứng chân ở Gò Nổi (Điện Bàn), dưới sự lãnh đạo , chỉ đạo trực tiếp của Đảng ủy, BTL Mặt trận, đơn vị tập trung củng cố tư tưởng và tổ chức, tiếp nhận 400 tân binh từ miền Bắc mới vào và nhận vũ khí đạn dược, tiến hành sinh hoạt, học tập, huấn luyện, nâng cao trình độ nhận thức chính trị, kỹ, chiến thuật. Quân số tiểu đoàn lúc này có 450 cán bộ, chiến sĩ, trong đó có 120 đảng viên, 300 đoàn viên. Biên chế thành 4 đại đội. BCH Tiểu đoàn gồm có:

   - Đồng chí Nguyễn Văn Trí – Tiểu đoàn trưởng.

   - Đồng chí Nguyễn Văn Thông – Chính trị viên tiểu đoàn kiêm Bí thư đảng ủy.

   - Đồng chí Dương Văn Chín – Tiểu đoàn phó.

   - Đồng chí Hoàng Thanh Ba – Tham mưu trưởng.

   Đây là một thời điểm khó khăn của Tiểu đoàn. Nhưng với truyền thống yêu nước, trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng, được nhân dân thương yêu, đùm bọc, cán bộ, chiến sĩ đơn vị đoàn kết một lòng, quyết tâm giữ vững truyền thống là tiểu đoàn chủ công, cơ động, thọc sâu, ra quân đánh thắng của các lực lượng vũ trang mặt trận.

   Chiến dịch Hè 1968 diễn ra sôi động, các trung đoàn chủ lực 31, 36 đánh địch phản kích ở Thượng Đức và dọc 2 bên sông Thu Bồn. Trung đoàn 38 của Mặt trận sử dụng Tiểu đoàn đặc công 489 đánh địch ở khu III Hòa Vang, Tiểu đoàn 2, 3 đánh địch ở Điện Bàn, Hội An, Tiểu đoàn bộ binh R20 đang củng cố, huấn luyện, cán bộ, chiến sĩ đều muốn tham gia chiến đấu nhưng chưa có lệnh cấp trên.

   Sau chiến dịch Hè, các đơn vị chủ lực rút về hậu cứ, chuẩn bị tham gia chiến dịch Thu 1968 (mật danh X2). Các đơn vị tranh thủ nghiên cứu rút kinh nghiệm, huấn luyện kỹ, chiến thuật, chuẩn bị kế hoạch, phương án, chiến đấu theo mệnh lệnh của BTL Quân khu và BTL Mặt trận.

   Trong chiến dịch này, BTL Quân khu tiếp tục tăng cường cho Mặt trận Quảng Đà Trung đoàn 141 (thuộc Sư đoàn 312) từ hậu phương miền Bắc mới vào. Tỉnh Thanh Hóa kết nghĩa cũng gửi 1 Tiểu đoàn đặc công tinh nhuệ vào chiến đấu trên chiến trường Quảng Nam (1 đại đội), Quảng Đà (4 đại đội). Các đại đội binh chủng (công binh, thông tin, trinh sát, vận tải) cũng được bổ sung quân số, trang bị và phát triển thành tiểu đoàn.

________________________

25. Tiểu đoàn bộ binh 1 tức là Tiểu đoàn R20.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 05 Tháng Hai, 2013, 08:50:48 am

   Ngày 17.08.1968 chiến dịch Thu 1968 mở màn, phối hợp với chiến trường toàn miền, quân và dân Quảng Đà đồng loạt nổ súng tiến công các mục tiêu được giao, hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy. Theo phương án chiến đấu được cấp trên phê duyệt. Các trung đoàn chủ lực 31, 36, 141 tiến công các căn cứ, chi khu quận lỵ ở chung quanh Đà Nẵng, nhằm kéo địch từ bên trong ra phản kích, chi viện, tạo điều kiện thuận lợi cho lực lượng bên trong tiến công, tiêu diệt địch.

   Đêm 22.08.1968, Trung đoàn 38 sử dụng Tiểu đoàn 489 đặc công tập kích tiêu diệt chi khu quận lỵ Hòa Vang, Tiểu đoàn bộ binh 2 (V25) đánh chiếm đầu cầu Cẩm Lệ, sau đó phối hợp với tiểu đoàn 489 bố trí trận địa đánh địch phản kích ở thị trấn Cẩm Lệ, Hòa Châu. Tiểu đoàn bộ binh 3 bố trí trận địa ở Hòa Phước. Riêng Tiểu đoàn bộ binh 1 “R20” được cấp trên giao nhiệm vụ tiêu diệt căn cứ biệt kích Nùng ở Non Nước (Hòa Hải) bằng hình thức chiến thuật: Bí mật tập kích, căn cứ biệt kích Nùng nằm trên một bãi cát trắng thuộc xã Hòa Hải (Khu III Hòa Vang) cách trung tâm Đà Nẵng 5 km về phía Đông Nam. Phía Đông giáp biển Đông, phía Tây giáp đường 538 (đường Đà Nẵng – Hội An), phía Nam giáp núi Thủy Sơn, phía Bắc giáp nhà lao Non Nước và sân bay Nước Mặn. Diện tích căn cứ khoảng 5 ha, cấu trúc bên trong có 20 mục tiêu hầu hết bằng bê tông, cốt thép, kiên cố, phía Tây có sân bay dã chiến, chung quanh có tường thành, giao thông hào, 5 – 7 lớp rào kẽm gai, các loại mìn, lựu đạn bố trí dày đặc.

   Lực lượng đồn trú có 1 tiểu đoàn biệt kích (phiên hiệu là “776 Xi Xi Lôi Hổ”), được hình thành từ tháng 11.1961, quân số trên 500 tên, hầu hết là lính người Nùng từ các tỉnh ở miền Bắc di cư vào Nam sau hiệp định Giơ – ne – vơ (7.1954) và những tên ác ôn khét tiếng ở miền Nam được tuyển chọn vào lực lượng này, do Cục tình báo trung ương Mỹ (C.I.A) tổ chức xây dựng, huấn luyện và chỉ huy hoạt động26, huấn luyện viên do lực lượng đặc biệt của C.I.A chịu trách nhiệm.

   Hoạt động của lực lượng này mang tính chất chiến lược dưới sự chỉ huy, chỉ đạo của C.I.A, được xếp là thành viên của Liên đoàn đặc biệt Mỹ, được Mỹ - Ngụy chiều chuộng, trả lương rất cao, nên chúng rất hung hăng, tàn ác. Nhiệm vụ chủ yếu là sau khi huấn luyện ở đây, được tung lên hoạt động ở vùng giáp ranh, hoặc sử dụng máy bay thả từng tốp xuống căn cứ miền Núi, biên giới Việt – Lào để đánh giá hành lang, kho tàng, cơ quan của ta, hoặc chỉ điểm cho phi pháo đánh phá.

______________________________

26. Căn cứ biệt kích Nùng là một trong 3 trung tâm huấn luyện biệt kích của C.I.A ở miền Nam: Đà Nẵng – Nha Trang – Sông Mao.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 05 Tháng Hai, 2013, 08:51:22 am
   Chung quanh căn cứ biệt kích Nùng còn có nhiều căn cứ, chốt điểm dày đặc, lực lượng Mỹ - Ngụy đông hơn dân ở đây. Do đó đánh vào căn cứ biệt kích Nùng là đánh sâu vào lòng địch, có hệ thống phòng ngự kiên cố, lực lượng đông, thiện chiến. Tuy nhiên, địch cũng sơ hở, chủ quan nằm sâu trong căn cứ, không ai có thể đột nhập vào được. Địa thế ở phía Nam là núi Ngũ Hành Sơn có nhiều hang động dễ dấu quân, nhân dân Hòa Hải có truyền thống đấu tranh cách mạng kiên cường, đó là thuận lợi để tiểu đoàn thực hiện nhiệm vụ khó khăn, nặng nề mà Đảng ủy – BTL Mặt trận tin tưởng giao phó.

   Nhiệm vụ cấp trên giao: Tiểu đoàn được phối thuộc 1 tiểu đội đặc công Quận Ba – Đà Nẵng, 1 tiểu đội du kích xã Hòa Hải, có nhiệm vụ tiêu diệt căn cứ Biệt kích Nùng, giải phóng nhà lao Non Nước, bắn phá sân bay Nước Mặn, phá hủy dàn đèn hồng ngoại tuyến, chốt chặn núi Đùng đánh địch phản kích. Nhận nhiệm vụ cấp trên giao, ngay từ giữa tháng 07.1968, BCH Tiểu đoàn sử dụng 25 cán bộ, trinh sát do đồng chí Hoàng Thanh Ba27 – Tham mưu trưởng đi chuẩn bị chiến trưởng. Sau 25 ngày bí mật trú quân ở trong các hang đá, sườn đồi của núi Ngũ Hành Sơn, đặt dải quan sát ban ngày ở núi Chùa, tổ chức nhiều mũi đột nhập vào căn cứ biệt kích và trạm thông tin liên lạc của Mỹ ở núi Đùng. Bộ phận đi chuẩn bị chiến trường đã nghiên cứu, nắm chắc địa hình, tình hình, quy luật hoạt động của địch, xác định được phương án chiến đấu, chọn hướng tiến công. Hướng chủ yếu: phía Tây Nam, hướng thứ yếu ở phía Đông. Mục tiêu chủ yếu là căn cứ biệt kích Nùng, mục tiêu thứ yếu Núi Đùng, nhà lao, sân bay Nước Mặn. Ý định sử dụng lực lượng , tiểu đoàn sử dụng 164 cán bộ, chiến sĩ.

   + Hướng chủ yếu: Do Đại đội 1 đảm nhiệm, sử dụng 42 đồng chí, do đồng chí Tiến – đại đội trưởng chỉ huy.

   + Hướng thứ yếu: Do Đại đội 3 đảm nhiệm, sử dụng 38 đồng chí, do đồng chí Phan Hiệp (tức Phan Hành Sơn) – Đại đội trưởng chỉ huy.

   + Chốt điểm núi Đùng: Đại đội 2 sử dụng 15 đồng chí, do đồng chí Lai – chính trị viên Đại đội 2 chỉ huy.

   + Khu nhà lao: sử dụng 27 đồng chí trong đó có 12 trinh sát và đặc công nước, do đồng chí Khuê – Trung đội trưởng trinh sát chỉ huy tập kích đánh chiếm nhà lao, giải thoát tù nhân.

   + Sân bay Nước Mặn: Đại đội 4 hỏa lực sử dụng 37 đồng chí, do đồng chí Chín – tiểu đoàn phó trực tiếp chỉ huy, trang bị 2 ĐKZ 57, 1 đại liên 12,7 ly, 2 cối 82 ly, bí mật bố trí trận địa ở phía Tây mõm núi Thổ Sơn. Khi có lệnh bắn kìm chế sân bay Nước Mặn. Ngoài ra, đơn vị còn xây dựng kế hoạch hợp đồng với các đơn vị bạn và địa phương. Đồng chí Tiểu đoàn trưởng và chính trị viên tiểu đoàn trực tiếp chỉ huy trận đánh. Vị trí chỉ huy nằm sau đội hình Đại đội 1. Thời gian nổ súng 01 giờ 30 phút ngày 23.08. Qua điều tra, nghiên cứu tình hình, các đồng chí đã có đánh giá, kết luận tình hình địch tương đối chính xác: Địch vòng ngoài hoạt động cả ngày, lẫn đêm, nhưng còn thủ đoạn canh gác bên trong rất xảo quyệt, dùng những con bù nhìn đứng gác chung quanh, miệng có hút thuốc lá, nhưng thân xác bất động, thỉnh thoảng có 1 tên lính thật đến đốt thuốc, các đồng chí trinh sát phải theo dõi nhiều đêm mới phát hiện, đây là sơ hở của địch, thuận lợi của ta. Nhưng muốn tiêu diệt được căn cứ biệt kích Nùng thì đồng thời phải đánh chiếm đỉnh núi Đùng, phá hủy hệ thống dàn đèn hồng ngoại tuyến để bố trí hỏa lực khống chế sân bay Nước Mặn và địch chung quanh. Kết quả đó, ngoài ý chí quyết tâm của cán bộ, trinh sát đi chuẩn bị chiến trường, còn có sự giúp đỡ, che dấu nuôi dưỡng của cán bộ, du kích địa phương, trong đó có sự đóng góp to lớn của đồng chí Nguyễn Xuân Mua, cán bộ trưởng thành từ Tiểu đoàn bộ binh R20, nay là Quận đội trưởng Quận Ba – Đà Nẵng giới thiệu cơ sở bí mật của Quận là Đại đức Thích Trí Long – trụ trì trong chùa Non Nước, tạo điều kiện giúp đỡ đơn vị trú quân, điều tra nắm tình hình địch. Để hoàn chỉnh phương án chiến đấu, đêm 11.08.1968, đồng chí Nguyễn Văn Trí – Tiểu đoàn trưởng cùng 4 đại đội trưởng và trinh sát đi kiểm tra lần cuối cùng.

_________________________

27. Người con xã Hòa Hải


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 05 Tháng Hai, 2013, 09:04:36 am
   Căn cứ vào quyết tâm chiến đấu của BCH Tiểu đoàn, đêm 21.08.1968, từ khu vực đứng chân ở Điện Xuân (Điện Bàn) đơn vị xuất phát cơ động đến trú quân bí mật ở vùng 5 Hòa Hải.

   Ban chỉ huy tiểu đoàn và các bộ phận phục vụ đến đêm 22.08.1968 mới xuất phát.

   22 giờ đêm ngày 22.08.1968, các đại đội cơ động đến vị trí chỉ huy của tiểu đoàn ở chân núi phía Đông Nam núi Thổ Sơn để bổ sung nhiệm vụ và củng cố quyết tâm chiến đấu. Sau đó có phân đội, các mũi triển khai chiếm lĩnh trận địa, thực hành mở cửa, khắc phục vật cản. Ở hướng núi Đùng, theo đường dốc đá thẳng đứng, các chiến sĩ trinh sát lanh lợi, dũng cảm, bí mật chốt lại trên đỉnh núi, đã nhận được tín hiệu bên dưới, rồi nhanh chóng dùng dây ni lông cột chặt vào đá thả xuống, cho các chiến sĩ Đại đội 2 và 4 cùng vũ khí trang bị (cối 82, ĐKZ 57, đại liên, B40, B41) leo lên. Bọn lính Mỹ ở sát bên cạnh không hay biết gì. Sau khi đội hình đã lên hết đỉnh núi, dàn đèn hồng ngoại tuyến, chiếm được mục tiêu, các đồng chí bí mật triển khai trận địa hỏa lực sẵn sàng chi viện cho Đại đội 1 và Đại đội 2.

   Ở mục tiêu chủ yếu: Trên hướng chủ yếu, đến 01 giờ 26 phút ngày 23.08.1968, đã khắc phục xong vật cản, tổ thọc sâu của đồng chí Tiền (Trung đội trưởng) dẫn đầu tổ bí mật luồn sâu vào trung tâm căn cứ, vừa áp sát mục tiêu thì bị địch phát hiện, lập tức các đồng chí dùng thủ pháo, lựu đạn đánh vào lô cốt chỉ huy và hệ thống thông tin liên lạc. Tổ 2 và 3 tiến vào sau, nhưng bị địch nổ súng bắn chặn, không phát triển được, đồng chí Tiến – đại đội trưởng bị thương. Chỉ huy trận đánh ra lệnh cho đội dự bị vào chi viện.

   Ở hướng thứ yếu: còn 1 lớp rào cuối cùng, nhưng khi nghe hướng chủ yếu đã nổ súng, không chần chừ, đồng chí Hiệp ra lệnh cho B40, B41 diệt các lô cốt đầu cầu và các hỏa điểm của địch, rồi đồng chí bật dậy dẫn đầu cả mũi đạp rào, xông vào trận địa dùng tiểu liên, lựu đạn, lần lượt tiêu diệt các mục tiêu, đồng chí Bính – chính trị viên đại đội và đồng chí Hùng – liên lạc lấy thân mình đè lên lớp rào để chiến sĩ vượt qua.

   Cùng lúc, hỏa lực của Đại đội 4 bắn dồn dập vào sân bay Nước Mặn, phá hủy nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh. Ở khu vực nhà lao, trinh sát và đặc công nước quận Ba, khi tiếp cận khắc phục vật cản thì bị địch phát hiện và sử dụng súng bắn chặn, gây thương vong, nên phải lui ra.

   Ở căn cứ biệt kích Nùng, lúc đầu địch bị bất ngờ và mất sức chiến đấu, nhưng sau đó số còn sống xót ngoan cố chống trả quyết liệt, trên không máy bay trực thăng cũng đến phản kích. Ở hướng tiến công của Đại đội 3 đồng chí Hiệp tiếp tục chỉ huy các tổ đánh địch, khi vượt qua tuyến công sự phòng ngự bên trong thì đồng chí vấp ngã, một tên biệt kích trọc đầu lao tới đè lên người và bóp cổ, đồng chí cố vùng dậy, nhưng vì mất thế, vừa lúc đó đồng chí Cấp liên lạc lao đến dùng báng súng AK đánh vào đầu tên lính, cứu sống đồng chí đại đội trưởng để tiếp tục chỉ huy Đại đội 3 đánh phát triển vào trung tâm căn cứ bắt liên lạc với Đại đội 1, tiếp đến 2 mũi phối hợp đánh tảo trừ, tiêu diệt những tên biệt kích còn sống sót. Diễn biến chiến đấu đến 02 giờ 15 phút, các mũi làm chủ hoàn toàn trận địa. Hơn 20 mục tiêu gồm 7 lô cốt, 10 nhà lính, 1 nhà kho, 1 hầm chỉ huy, 1 kho đạn dược, 1 nhà đèn và hệ thống thông tin liên lạc bị phá hủy, hơn 500 tên biệt kích bị loại khỏi vòng chiến đấu.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 05 Tháng Hai, 2013, 10:03:22 am

   Sau khi trận đánh kết thúc, các mũi tổ chức lui quân, chiếm lĩnh các hang động, chuẩn bị trận địa đánh phản kích. Đại đội 3 rút về án ngữ phía Nam xã Hòa Hải. Đại đội 1 sử dụng lực lượng tại các hang núi của núi Đùng. Đại đội 2 sử dụng 2 trung đội phối hợp với Đại đội 1 bố trí trận địa đánh địch phản kích. Bộ đội, du kích Khu III Hòa Vang cũng sử dụng lực lượng tham gia chiến đấu, cán bộ, nhân dân Hòa Hải chuẩn bị nhiều tấn lương thực, thực phẩm cất dấu trong các hang động phục vụ bộ đội chiến đấu. Lực lượng đánh địch phản kích do đồng chí Dương Văn Chín – tiểu đoàn phó và đồng chí Phan Hiệp – Đại đội trưởng Đại đội 3 trực tiếp chỉ huy.

   Trận tiến công của Tiểu đoàn bộ binh R20 tiêu diệt hoàn toàn căn cứ biệt kích Nùng và các mục tiêu chung quanh, và những trận đánh của các tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 38, biệt động, tự vệ Đà Nẵng trong đêm 22 rạng ngày 23.08.1968 làm rung chuyển cả căn cứ liên hợp quân sự Đà Nẵng, loại khỏi vòng chiến đấu hàng ngàn tên địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh hiện đại. Bọn chỉ huy Mỹ - Ngụy hêt sức hoang mang, lo sợ, tức tối và điên cuồng phản kích, nên ngay rạng sáng ngày 23.08.1968, máy bay trực thăng Mỹ quần lượn, tập trung bắn phá các khu vực của núi Ngũ Hành Sơn. Đến 08 giờ, một đại đội lính thủy đánh bộ từ Nước Mặn tiến vào Dốc Kinh, nhưng bị Đại đội 1 do đồng chí Tiến chỉ huy chặn đánh, diệt hàng chục tên, buộc phải lui ra, 10 giờ quân Mỹ sử dụng máy bay trực thăng đổ thêm quân xuống phong tỏa núi Đùng, 12 giờ đổ tiếp 1 tiểu đoàn phong tỏa vòng ngoài và chiếm núi Chùa, chúng chia làm nhiều mũi xung phong vào trận địa chốt chặn của các phân đội. Kiên quyết giữ vững trận địa, cán bộ, chiến sĩ Đại đội 1 và 2 đã trụ bám, vững chắc ở các hốc núi, hang động, chặn đánh địch, bẻ gãy 20 đợt xung phong của quân Mỹ, tiêu diệt hàng trăm tên ngay dưới chân núi và trước cửa hang, bắn cháy 2 máy bay lên thẳng. 

(http://farm9.staticflickr.com/8229/8445731819_8d0345478e_z.jpg) (http://www.flickr.com/photos/90883775@N03/8445731819/)
 (http://www.flickr.com/photos/90883775@N03/8445731819/)

(http://farm9.staticflickr.com/8468/8446819544_1dd1fcda30_z.jpg) (http://www.flickr.com/photos/90883775@N03/8446819544/)
 (http://www.flickr.com/photos/90883775@N03/8446819544/)


(http://farm9.staticflickr.com/8328/8446819040_cb72155b13_z.jpg) (http://www.flickr.com/photos/90883775@N03/8446819040/)
 (http://www.flickr.com/photos/90883775@N03/8446819040/)


(http://farm9.staticflickr.com/8191/8445730427_a14fdeabb9_z.jpg) (http://www.flickr.com/photos/90883775@N03/8445730427/)
 (http://www.flickr.com/photos/90883775@N03/8445730427/)


(http://farm9.staticflickr.com/8222/8422909010_8c1f8e246c_c.jpg) (http://www.flickr.com/photos/90883775@N03/8422909010/)
 (http://www.flickr.com/photos/90883775@N03/8422909010/)


   Đêm 23.08.1968, BCH tiểu đoàn ra lệnh cho các đại đội bí mật rút quân về trú ở các thôn phía Nam xã Hòa Hải, sau đó rút về vùng cát Điện Bàn. Trận tiến công tiêu diệt Tiểu đoàn biệt kích Nùng và đánh địch phản kích ở núi Chùa, núi Đùng (xã Hòa Hải) của Tiểu đoàn bộ binh R20 là một trong những trận đánh đạt hiệu suất chiến đấu cao, diệt nhiều sinh lực cao cấp của Mỹ - Ngụy (lực lượng tác chiến đặc biệt của tình báo Mỹ), đây là chiến công oanh liệt của Tiểu đoàn kể từ sau trận tiêu diệt 1 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ ở Xuyên Thanh (01.1967), chiến công vang dội trên khắp chiến trường miền Nam, thể hiện trình độ tổ chức chỉ huy chiến đấu, trình độ kỹ, chiến thuật, tinh thần chiến đấu dũng cảm, kiên cường của cán bộ, chiến sĩ trong vận dụng hình thức chiến thuật, cách đánh đặc công, trong đó có nhiều trận chiến đấu xuất quỷ nhập thần, diệt địch trong căn cứ và đánh địch phản kích, giải tỏa. Cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn bộ binh R20 được Bộ chỉ huy quân giải phóng miền Nam tặng thưởng Huân chương Quân công hạng nhất, nhiều cá nhân được tặng Huân chương chiến công, đồng chí Phan Hiệp – đại đội trưởng Đại đội 3 chỉ huy mũi thứ yếu, khi chưa khắc phục hết vật cản và mũi chủ yếu gặp khó khăn, đồng chí dẫn đầu các tổ băng qua hàng rào cuối cùng, bình tĩnh tiêu diệt các mục tiêu của địch, một mình đồng chí sử dụng 3 loại vũ khí (AK, đại liên, B40) để đánh địch, góp phần cùng đơn vị giành chiến thắng. Lập công trên quê hương mình28 và bên núi Ngũ Hành Sơn, nên sau trận đánh đồng chí lấy tên là Phan Hành Sơn, đồng chí được Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (01.01.1969).

_________________

28. Đồng chí Phan Hiệp quê ở xã Hòa Quý (Khu III Hòa Vang cũ).


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 05 Tháng Hai, 2013, 03:04:27 pm

   Diễn biến chiến dịch thu 1968 kéo dài đến cuối tháng 08 mới kết thúc, nhưng chiến sự vẫn diễn ra ác liệt trên vành đai Đà Nẵng đến giữa tháng 09.1968. Các đơn vị chủ lực rút về hậu cứ. Bộ đội địa phương và dân quân du kích vẫn trụ bám, quần lộn, chiến đấu giữ thế làm chủ chiến trường.

   Sau trận đánh, BTL Mặt trận điều động đồng chí Nguyễn Văn Trí về làm Trung đoàn phó – Trung đoàn 36 và bổ nhiệm đồng chí Dương Văn Chín làm Tiểu đoàn trưởng.

   Thắng lợi của quân và dân Mặt trận Quảng Đà trong chiến dịch tiến công và nổi dậy Thu 1968 có ý nghĩa to lớn: Mặc dù Mỹ - Ngụy tập trung nhiều lực lượng để phòng thủ, bảo vệ Đà Nẵng và các đô thị, chi khu quận lỵ, nhưng các lực lượng vũ trang của Mặt trận Quảng Đà vẫn thực hành tiến công và nổi dậy, trong đó có nhiều trận đánh xuất sắc của Tiểu đoàn đặc công 489, Tiểu đoàn bộ binh R20, 2 và Biệt động tự vệ, diễn ra ngay giữa trung tâm Đà Nẵng. Trong tiến công, các đơn vị kết hợp chặt chẽ hợp đồng tác chiến, hình thức chiến thuật, đánh địch cả bên trong và bên ngoài, cả ban đêm và ban ngày, kéo địch từ trong công sự ra để tiêu diệt, gây cho địch nhiều thiệt hại cả sinh lực và phương tiện chiến tranh. Các phương tiện thông tin đại chúng của phương Tây đều phản ánh thực tế đó. Ngày 24.08.1968, hãng tin UPI đưa tin: “Trận đánh vào các mục tiêu ở Đà Nẵng là trận đánh quyết liệt nhất trong 50 trận đánh mà cộng sản mở từ Sài Gòn đến phía Nam vĩ tuyến 17”.

   Thắng lợi trên đây góp phần cùng quân và dân miền Nam và cả nước đánh bại hoàn toàn chiến lược chiến tranh cục bộ, đánh sập ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, tạo điều kiện đưa cách mạng miền Nam chuyển tiếp sang giai đoạn mới.

   Trải qua gần 4 năm (19.05.1965 đến cuối năm 1968) xây dựng, chiến đấu dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy – BCH Tỉnh đội Quảng Đà (Đặc khu ủy – BTL Mặt trận Quảng Đà), Tiểu đoàn bộ binh R20 đã thực hiện hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của cấp trên giao phó. Là đơn vị chủ công, tiểu đoàn liên tục cơ động, thọc sâu, đánh nhanh, diệt gọn, lập được nhiều chiến công oanh liệt ở Văn Quật, Xuyên Thanh, Bồ Mưng, Gò Nổi, Trung Lương, Cồn Dầu, ngã tư Quân đoàn, Non Nước… Những chiến công đó tô thắm thêm truyền thống đấu tranh cách mạng kiên cường, bất khuất của quân và dân đất Quảng “Trung dũng, kiên cường đi đầu diệt Mỹ”. Chiến thắng đó còn thể hiện sự trưởng thành vượt bậc về lập trường, ý chí, bản lĩnh chiến đấu, trình độ kỹ, chiến thuật, tinh thần chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ , nhờ đó mà đơn vị đã đánh thắng các lực lượng sừng sỏ, thiện chiến của quân Mỹ - Ngụy, nêu lên nhiều kinh nghiệm để nghiên cứu, tiếp tục vận dụng vào quá trình xây dựng, chiến đấu của Tiểu đoàn.

*

*   *


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 15 Tháng Hai, 2013, 01:06:44 pm
CHƯƠNG BA
QUYẾT TÂM KHẮC PHỤC KHÓ KHĂN,
LIÊN TỤC CHIẾN ĐẤU LẬP CÔNG,
GÓP PHẦN GIẢI PHÓNG QUÊ HƯƠNG
(1969 – 1975)

   Đầu năm 1969, Nich – Xơn, đại diện choi các thế lực hiếu chiến của Mỹ lên làm Tổng thống, nhận thấy những thất bại nhục nhã trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, nên Nich – Xơn đề ra chiến lược toàn cầu mang tên “Học thuyết Nich – Xơn” và chiến lược quân sự “Răn đe thực tế” thay thế cho chiến lược “Phản ứng linh hoạt” trước đó.

   Vận dụng học thuyết chiến lược trên đây, Mỹ - Ngụy càng đẩy nhanh phi Mỹ hóa cuộc chiến tranh chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” thực chất là dùng người Việt để đánh người Việt, “thay màu da trên xác chết”, với sự chỉ huy, tiền bạc và vũ khí của Mỹ.

   Dựa trên những chủ trương, biện pháp thực hiện của chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh, Mỹ - Ngụy ra sức bắt lính, đôn quân, tăng cường lực lượng quân Ngụy. Đến tháng 06.1969, trên toàn chiến trường miền Nam có 1.138.000 quân, trong đó có 549.000 quân Mỹ, 68.000 quân chư hầu (biên chế thành 24 sư, 16 trung đoàn). Trong đó xây dựng lực lượng quân Ngụy, Mỹ - Ngụy rất chú trọng xây dựng các lực lượng địa phương (như Địa phương quân, nghĩa quân, bình định, cảnh sát, gián điệp, Thiên nga, chỉ điểm), mở các chiến dịch “Phượng hoàng” (29). Xây dựng thêm nhiều chốt điểm, cụm chốt điểm, tăng cường củng cố hệ thống phòng thủ vững chắc hơn trước, kết hợp với càn quét, đánh phá các vùng nông thôn bằng lực lượng và phương tiện chiến tranh, dùng B52 rải thảm vùng Gò Nổi và giáp ranh, máy bay Đơ – cô – ta, C130 rải chất độc hóa học khắp các địa bàn, sử dụng Trung đoàn 5 và Trung đoàn 7 (Sư đoàn 1 lính thủy đánh bộ Mỹ) thay nhau càn quét, bao vây căn cứ Hòn Tàu, Vùng B Đại Lộc, Gò Nổi, A, B Điện Bàn đồng thời sử dụng lực lượng liên tục mở các chiến dịch bình định (bình định trọng điểm, bình định cấp tốc, bình định nước rút), gây cho quân và dân ta nhiều khó khăn, tổn thất, nhà cửa, mồ mả, làng xóm bị cày lên, lấp xuống không biết bao nhiêu lần, nhiều nơi trở thành vùng trắng đất, trắng dân.

   Như vậy, đế quốc Mỹ đã chịu thất bại, xuống thang chiến tranh, nhưng đặc điểm, tính chất của cuộc chiến tranh ngày càng gay go, quyết liệt.

   Đối với quân và dân Quảng Đà, qua một năm dồn sức tiến công và nổi dậy, giành được nhiều thắng lợi có ý nghĩa quan trọng, nhưng cũng chịu nhiều hy sinh, tổn thất, lực lượng, vũ khí, trang bị chưa bổ sung kịp, nông thôn, đồng bằng bị tàn phá nặng nề, tiềm lực hậu cần tại chỗ giảm sút, một số đơn vị thuộc lực lượng vũ trang mặt trận Quảng Đà phải giải thể hoặc rút gọn, Trung đoàn 38 của Mặt trận được giải thể, các Tiểu đoàn bộ binh 1 (R20), 2, 3 và đặc công 489 trở về vị trí tác chiến độc lập, phân tán, thay vào đó, BTL Quân khu 5 quyết định tăng cường cho Quảng Đà Trung đoàn bộ binh 38 của Bộ từ chiến trường Trị - Thiên mới vào.

______________________

29. Chiến dịch Phượng Hoàng: Một chiến dịch khét tiếng bởi sự tàn ác của nó mà C.I.A phát động sau tết Mậu Thân 1968 do William Colly – trùm tình báo C.I.A tại miền Nam trực tiếp chỉ hủy.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 15 Tháng Hai, 2013, 01:09:11 pm
   Mặc dù gặp khó khăn, nhưng với quyết tâm đánh bại âm mưu, thủ đoạn của Mỹ - Ngụy, quân và dân Quảng Đà tập trung lực lượng tham gia chiến dịch Xuân Kỷ Dậu. Chiến dịch mở màn đêm 22.02.1969, phối hợp với các đơn vị, địa phương, Tiểu đoàn bộ binh R20 sử dụng lực lượng tiến công tiêu diệt cứ điểm Bình Kỳ (Hòa Quý) và cứ điểm Cai Lanh nằm giữa xã Hòa Quý (Hòa Vang) và xã Điện Ngọc (Điện Bàn). Sau chiến dịch, tiểu đoàn phân tán từng đại đội, trung đội về trụ bám, quần lộn đánh địch, chủ yếu là bọn lính địa phương quân, Mỹ C.A.P ở Gò Nổi, vùng B Đại Lộc, khu Tây – Duy Xuyên, sau đó vào đứng chân ở Bình Hòa (Thăng Bình), Quế Phú, Quế Xuân (Quế Sơn) để củng cố, đồng thời tham gia đánh địch càn quét. Nổi bật nhất là trận tập kích diệt gọn 1 trung đội nghĩa quân ở Mộc Bài (Quế Phú) thu 2 súng M79, 5 AK 15, bộ phận hậu cần tiểu đoàn thu mua được 300 kg lương thực.

   Phát hiện tiểu đoàn và các đơn vị khác (Tiểu đoàn đặc công 489, Biệt động Lê Độ) đứng chân tại đây, địch sử dụng Tiểu đoàn 21 (Liên đoàn 11 Biệt động quân) và 1 Chi đoàn xe bọc thép M113 càn quét, đánh phá khu vực trú quân. Mặc dù quân số tiểu đoàn lúc này chỉ còn 70 cán bộ, chiến sĩ, nhưng vẫn giữ vững quyết tâm chiến đấu, đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn Biệt động quân, bắn cháy 2 xe, bắn rơi 1 máy bay phản lực. Bị thất bại, ngày hôm sau địch huy động 3 tiểu đoàn cả Mỹ và Ngụy đánh vào khu vực Bình Hòa, nhưng tiểu đoàn đã cơ động ra Quế Phú, Quế Xuân tiếp tục quầng lộn chiến đấu, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, góp phần đánh bại một bước các kế hoạch bình định của địch, giữ vững thế tiến công của quân và dân ta, góp phần thúc đẩy cuộc đàm phán ở Paris được tiến hành.

   Sau thời gian cơ động đánh địch ở Thăng Bình, Quế Sơn, tiểu đoàn hành quân ra đứng chân ở vùng cát Điện Bàn. Tình hình địch ở đây, lúc này cũng hết sức căng thẳng, các đơn vị lính thủy đánh bộ Mỹ và Nam Triều Tiên ngày đêm lùng sục, đánh phá ác liệt các thôn xóm, địa hình các thôn xóm nằm sát ven biển hết sức trống trải và cát trắng, khó làm công sự, hầm trú ẩn, nhưng với quyết tâm trụ bám làm chủ địa bàn, đơn vị phối hợp chặt chẽ với các đơn vị, địa phương chiến đấu bảo vệ làng xã, có thời gian tiểu đoàn phải nằm dưới hầm bí mật 1 tuần.

   Đầu tháng 09.1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ thiên tài của cách mạng Việt Nam, người Cha thân yêu của các lực lượng vũ trang qua đời, quân và dân cả nước, trong đó có cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn bộ binh R20, vô cùng đau đớn, thương tiếc. Để tưởng nhớ đến Bác Hồ, Đảng ủy – BCH tiểu đoàn tổ chức truy điệu, phát động thi đua quyết tâm biến đau thương thành hành động cách mạng. Sau những ngày buồn đau, nuối tiếc, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn ra quân chiến đấu, từ nơi trú quân tiểu đoàn sử dụng 2 đại đội do đồng chí Dương Văn Chín chỉ huy, chia làm 3 mũi, thọc sâu xuống Điện Ngọc, tiến công cứ điểm Cồn Khe bằng kỹ, chiến thuật đặc công, đánh thiệt hại nặng 2 đại đội lính thủy đánh bộ Mỹ, đánh sập 10 lô cốt, phá hủy 4 pháo 105 ly, 10 xe quân sự, 1 kho đạn dược. Thắng lợi của trận đánh không chỉ thể hiện quyết tâm chiến đấu của tiểu đoàn mà còn tạo điều kiện cho phong trào nhân dân du kích chiến tranh ở đây phát triển.

   Tháng 12.1969, nhân dịp lễ Nô – en, BCH Tiểu đoàn sử dụng lực lượng trinh sát cải trang thành dân thường cùng chị em phụ nữ chủ yếu là cơ sở cách mạng xã Hòa Xuân tổ chức vào thăm, tặng hoa cho bọn lính Mỹ ở đồn Cồn Dầu, lợi dụng cuộc thăm viếng này, bộ phận trinh sát bị mật điều tra, vẽ sơ đồ câu trúc phòng ngự của quân Mỹ, làm cơ sở cho tiểu đoàn xây dựng kế hoạch, quyết tâm chiến đấu. Đêm 28.12.1969, BCH Tiểu đoàn sử dụng cán bộ, chiến sĩ chia làm 2 mũi, vận dụng cách đánh đặc công bí mật khắc phục vật cản, mở cửa, đưa đội hinh chiến đấu luồn sâu vào bên trong, áp sát các mục tiêu, bất ngờ nổ súng, tiêu diệt 1 đại đội Mỹ, loại khỏi vòng chiến đầu gần 100 tên Mỹ, đánh sập 6 lô cốt, 4 nhà lính. Một bộ phận của đại đội 1 do đồng chí Công – Đại đội trưởng, chỉ huy sau khi đánh chiếm trận địa pháo 105 ly, phá hủy 4 khẩu pháo, rồi chốt lại giữa trận địa để sẵn sàng đánh địch phản kích. Rạng sáng hôm sau, quân Mỹ huy động lực lượng đến bao vây, tiến công. Dựa vào lô cốt, công sự trận địa pháo của địch, các đồng chí chiến đấu kiên cường, đánh lui nhiều đợt xung phong của địch, diệt hàng chục tên, diễn biến chiến đấu giữa đồn địch và nằm sâu trong vùng chúng kiểm soát, nên các đồng chí đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và hy sinh anh dũng, nêu một tấm gương sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 16 Tháng Hai, 2013, 11:18:44 am
   Bước vào năm 1970, cuộc kháng chiến chống Mỹ của quân và dân ta vẫn còn gặp nhiều khó khăn, thử thách. Trên chiến trường Quảng Đà, quân Mỹ và chư hầu bắt đầu rút vào phòng ngự và rút dần về nước, nhưng quy mô, cường độ đánh phá ngày càng ác liệt, mang tính chất hủy diệt. Mỹ - Ngụy tăng cường hỏa lực: B52, F4, F105, C130, trực thăng vũ trang, pháo hạm, pháo 155, 175 ly liên tục đánh phá suốt ngày lẫn đêm ở các vùng hậu cứ của mặt trận ở Hòn Tàu, khu Tây Duy Xuyên, vùng B Đại Lộc, Trung Mang, Phú Túc (Hòa Vang). Sử dụng biệt kích, lực lượng hỗn hợp Mỹ - Ngụy (C.A.P) càn quét, đánh phá hành lang, bịt chặt các cửa khẩu của ta từ căn cứ xuống đồng bằng, từ nông thôn vào thành phố, đô thị và ngược lại. Lực lượng kìm kẹp sử dụng nhiều thủ đoạn phát xít để kiểm soát dân, ngăn chặn các nguồn đóng góp của nhân dân cho kháng chiến. Âm mưu, thủ đoạn của Mỹ - Ngụy gây cho quân và dân nhiều khó khăn, tổn thất. Diễn biến tình hình kéo dài đến những năm tiếp theo, Tiểu đoàn bộ binh R20 và các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang của Mặt trận phải liên tục cơ động khắp các địa bàn, vừa đẩy mạnh tác chiến tiêu diệt địch, vừa phòng tránh để bảo tồn lực lượng. Không chỉ khó khăn trong hành quân, trú quân, đánh địch mà trong bảo đảm lương thực, thực phẩm, thuốc men, đạn dược cũng thiếu hụt nghiêm trọng, lúc này các cơ quan dân, chính, đảng, đơn vị lực lượng vũ trang ở vùng căn cứ đều phải chịu cảnh: đói, đau, đạn, địch. Tiểu đoàn bộ binh R20 có lúc 10 ngày liên tục không có gạo, muối để ăn, phải ăn rau rừng, trái cây, ốc đá để sống. Khó khăn, gian khổ là vậy, nhưng không một ai giảm sút ý chí chiến đấu, kêu ca, phàn nàn.

   Tuy nhiên, khó khăn, gian khổ do kẻ thù gây ra không thể làm lung lay ý chí cách mạng, ý thức kỷ luật, đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân của cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn. Đảng ủy – BCH tiểu đoàn đề ra các chủ trương, biện pháp để lãnh đạo, chỉ đạo, động viên cán bộ, chiến sĩ phải đoàn kết chặt chẽ, xác định quyết tâm khắc phục khó khăn, trở ngại, tin tưởng sự lãnh đạo của Đảng, phấn đấu thực hiện hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của lãnh đạo, chỉ huy cấp trên giao phó.

   Với truyền thống đoàn kết, chiến đấu kiên cường và chủ trương đúng đắn, kịp thời, cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn vừa bố trí trận địa, lực lượng phòng tránh, đánh địch tập kích hỏa lực đường không, đường bộ, phối hợp với các đơn vị bạn chiến đấu với các đơn vị lính thủy đánh bộ Mỹ ở Hòn Tàu, vùng B Đại Lộc, đồng thời sử dụng lực lượng, vũ khí, trang bị mở đường từ hậu cứ xuống đồng bằng nhận lĩnh lương thực, thu mua thực phẩm, thuốc men điều trị thương, bệnh binh. Coi đây là một nhiệm vụ chiến đấu quan trọng, thực tế, có lúc cũng diễn ra ác liệt, khi đi thì an toàn, đến khi về thì gặp địch phục kích hoặc bom pháo tọa độ gây thương vong, nhiều đồng chí hy sinh, bị thương. Những lúc khó khăn, tưởng chừng như khó vượt qua, nhưng tinh thần đoàn kết cán bộ với chiến sĩ, đồng chí, đồng đội càng gắn bó nhau hơn. Trong một trận chiến đấu với bọn biệt kích Mỹ đột nhập vào nhà nuôi quân, anh em đơn vị đã rút ra rừng, nhưng còn để sót một cái nồi nấu cơm duy nhất của đơn vị, đồng chí Hồ Thị Thu Ba nuôi quân quay lại lấy cho được cái nồi, vừa thoát ra khỏi nhà thì bọn Mỹ ập đến phát hiện và bắn theo, khi được các đồng chí trong đơn vị hỏi sao liều như thế, đồng chí trả lời: Anh em chiến đấu bị thương mà còn mang súng về được, mình phục vụ chỉ có một cái nồi mà bỏ, thì làm sao hoàn thành nhiệm vụ của Đảng giao.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 16 Tháng Hai, 2013, 11:19:05 am
   Sau thời gian cơ động, trú quân ở căn cứ miền núi và vùng giáp ranh, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn bộ binh R20 nhận nhiệm vụ cơ động xuống đứng chân ở Điện Bàn, phối hợp với các lực lượng địa phương, vận dụng linh hoạt phương thức hoạt động phân tán, cơ động thọc sâu, đánh nhanh, diệt gọn, tiêu hao, tiêu diệt quân địch càn quét, đánh bại chiến thuật phân đội nhỏ của Mỹ - Ngụy (C.A.P), tạo thế làm chủ địa bàn, chuẩn bị cho các đợt hoạt động, chiến đấu quy mô lớn hơn. Tháng 07.1970, được sự giúp đỡ, nuôi dưỡng của cán bộ và nhân dân các xã Điện An, Điện Thắng (Điện Bàn) và Hòa Phước (Hòa Vang). BCH Tiểu đoàn sử dụng 1 tiểu đội trinh sát (8 đồng chí) trong đó có 2 xạ thủ B40 của Đại đội 1 và Đại đội 3 do đồng chí Lê Ngọc Bảy – trung đội trưởng chỉ huy, trang bị 2 B40 và AK, lựu đạn, được cấp ủy, du kích và nhân dân Hòa Phước giúp đỡ, các đồng chí bí mật cơ động đến thôn Tân Hạnh để điều tra, nghiên cứu căn cứ sở chỉ huy Trung đoàn 51 Ngụy tại đây. Đêm 21.07, tiểu đội vận dụn kỹ, chiến thuật đặc công bí mật tiếp cận khắc phục 5 lớp rào, vô hiệu hóa các loại mìn.

   Đến 23:00, phân đội trinh sát đã khắc phục 3 lớp rào, thì bất ngờ địch trong căn cứ báo động, dùng đại liên và pháo cối bắn chung quanh rào, đây là thủ đoạn canh gác, phòng ngự ban đêm của địch, nên các đồng chí vẫn bình tĩnh giữ bí mật để chờ địch sơ hở thì tiếp tục khắc phục hàng rào cuối cùng, rồi thực hành kỹ thuật luồn sâu, áp sát các mục tiêu đến 02 giờ rạng sáng ngày 22.07, bọn lính gác phát hiện tổ xung kích của đồng chí Lê Ngọc Bảy và Nguyễn Thanh Chiến, tên lính gác vừa la lên thì lập tức đồng chí Bảy nổ súng diệt ngay, làm hiệu lệnh cho trận đánh, địch sử dụng đại liên bắn chặn, nhưng tổ mũi nhọn đã lao thẳng vào trung tâm, diệt hỏa điểm của địch, tạo điều kiện cho tổ thọc sâu (Cấp, Khuy, Dũng) xung phong vào dùng AK, thủ pháo diệt các mục tiêu, trận đánh diễn ra quyết liệt, nhưng với lối đánh nở hoa trong lòng địch và tinh thần dũng cảm, 8 đồng chí lần lượt diệt các mục tiêu còn lại, làm chủ trận địa, thu chiến lợi phẩm, bí mật rút lui an toàn.

   Kết quả sau 01 giờ nổ súng chiến đấu, tiểu đội trinh sát Tiểu đoàn bộ binh R20 đã đánh thiệt hại 1 đại đội lính bảo vệ căn cứ chỉ huy của Trung đoàn 51 Ngụy, thu 15 súng, AK15, 2 M79, 3 máy PRC25, 1 súng ngắn, phá hủy 1 kho đạn 105 ly, 1 nhà máy điện, đơn vị không có đồng chí nào thương vong. Trận tập kích căn cứ Miếu Bông tuy nhỏ, nhưng có ý nghĩa rất lớn đối với Tiểu đoàn. Đơn vị sử dụng lực lượng ít, nhưng đã tiêu diệt được nhiều sinh lực địch, thu nhiều vũ khí, mà không bị thương vong. Trận đánh thể hiện quyết tâm cao của cán bộ, chiến sĩ trinh sát, chấp hành nghiêm mệnh lệnh cấp trên, bí mật cơ động vượt qua chặng đường gần 10 km và hệ thống phòng ngự của địch, để tiến công mục tiêu nằm sâu trong vùng địch kiểm soát. Tiểu đội trinh sát và đồng chí Lê Ngọc Bảy được tặng Huân chương chiến công hạng hai và được bổ nhiệm là Đại đội trưởng, 5 đồng chí được tặng thưởng Huân chương chiến công hạng ba.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 16 Tháng Hai, 2013, 11:19:30 am
   Kết quả trận đánh còn tác động mạnh mẽ đến tinh thần cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn. Sau trận đánh, đơn vị tiếp tục phân tán, cơ động, phối hợp với bộ đội, du kích Điện Bàn trụ bám, đánh địch càn quét và tập kích địch ở thị trấn Vĩnh Điện – chi khu quận lỵ Điện Bàn.

   Vận dụng linh hoạt các phương thức hoạt động, hình thức chiến thuật, cách đánh, tiểu đoàn đã lập được nhiều thành tích cùng các đơn vị , địa phương đánh bại các cuộc càn quét, lấn chiếm của địch, giữ vững thế làm chủ địa bàn, nhưng trong điều kiện khó khăn, ác liệt, tiểu đoàn chưa thể vươn lên, phát triển mạnh mẽ như trước được, quân số thiếu hụt, do chiến đấu hy sinh, bị thương, và cấp trên điều động đi học hoặc tăng cường cho các đơn vị khác. Lãnh đạo, chỉ huy tiểu đoàn thường xuyên thay đổi.

   Cuối năm 1970, sau khi đồng chí Nguyễn Thanh Chiến được điều động về Quận 3 – Đà Nẵng, Bộ tư lệnh Mặt trận bổ nhiệm đồng chí Lê Văn Bảy (quê xã Đại Cường, huyện Đại Lộc) làm tiểu đoàn trưởng, đồng chí Huỳnh Thanh Ba thay đồng chí Nguyễn Văn Thông làm chính trị viên tiểu đoàn.

   Trước tình hình khó khăn về quân số, trang bị, Đảng ủy – Bộ tư lệnh Mặt trận chỉ đạo các cơ quan thuộc quyền điều động lực lượng, vũ khí, đạn dược bổ sung cho Tiểu đoàn, quân số bổ sung lúc này chủ yếu là con em nhân dân các tỉnh ở miền Bắc vào chiến đấu trên chiến trường miền Nam.

   Để tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo củng cố đơn vị, Đảng ủy – BCH Tiểu đoàn đề ra nghị quyết, kế hoạch quyết tâm khắc phục khó khăn, giữ vững và phát huy mạnh mẽ truyền thống tiểu đoàn, ra sức kiện toàn tổ chức, tiến hành sinh hoạt, học tập, đánh giá thắng lợi của cách mạng, xác định nhiệm vụ đơn vị trước những diễn biến của cuộc kháng chiến. Tăng cường nâng cao chất lượng lãnh đạo của tổ chức Đảng, xây dựng tổ chức Đoàn tiên tiến (Liên chi đoàn, chi đoàn), đoàn viên tiên tiến, chọn lựa đoàn viên thanh niên, ưu tú để giáo dục, bồi dưỡng, kết nạp vào Đảng, lớp đảng viên Hồ Chí Minh. Với nỗ lực phi thường của cán bộ, chiến sĩ, nên trong một thời gian ngắn, tình hình tư tưởng, tổ chức, trình độ chiến đấu được nâng lên một bước, khí thế đơn vị sôi nổi, phấn khởi, cán bộ, chiến sĩ sẵn sàng nhận nhiệm vụ ra quân đánh giặc.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 16 Tháng Hai, 2013, 11:19:54 am
   Sự chuyển biến về tư tưởng, tổ chức và trình độ chiến đấu của Tiểu đoàn bộ binh R20 cũng như các đơn vị, địa phương khác trên chiến trường Quảng Đà đã tạo điều kiện cho quân và dân ta vượt qua khó khăn, thử thách, đánh bại một bước kế hoạch càn quét, bình định của địch, góp phần làm cho “Việt Nam hóa chiến tranh” dẫm chân tại chỗ. Đứng trước nguy cơ phá sản, Mỹ - Ngụy tập trung lực lượng, phương tiện chiến tranh nhằm tiếp tục thúc đẩy Việt Nam hóa chiến tranh phát triển, ổn định tình hình miền Nam, mở rộng chiến tranh xâm lược sang Cam pu chia, tiếp đến tháng 3.1971, Mỹ - Ngụy huy động 35.000 quân và sử dụng tối đa các loại hỏa lực mở cuộc hành quân “Lam Sơn 719” đánh vào đường 9 Nam Lào, nhằm cắt đứt tuyến đường vận chuyển chiến lược Hồ Chí Minh, đánh phá cơ sở hậu cần, kỹ thuật của ta, đồng thời thực nghiệm khả năng chiến đấu của quân Ngụy trong thực hiện “Việt Nam hóa chiến tranh”, nhưng sau 43 ngày đêm (từ 31.01 đến 23.03.1971) cuộc hành quân bị thất bại hoàn toàn, hơn 50% quân số bị diệt và bị bắt, số còn lại tháo chạy tán loạn về Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế, Đà Nẵng. Các bệnh viện ở Đà Nẵng đầy ắp lính chết và bị thương, làm cho binh lính Ngụy hoang mang, lo sợ, đào rã ngũ diễn ra hàng loạt, Hoàng Xuân Lãm – Tư lệnh vùng I chiến thuật bị cách chức, Ngụy quyền Sài Gòn đưa Ngô Quang Trưởng – Trung tướng ra làm Tư lệnh Quân đoàn I Ngụy.

   Nắm chắc diễn biến tình hình, chấp hành mệnh lệnh của Quân khu và chủ trương của Đặc khu ủy, BTL Mặt trận Quảng Đà, quân và dân Quảng Đà tập trung lực lượng mở đợt hoạt động Xuân 1971, tiến công tiêu diệt trên 30 mục tiêu nằm quanh căn cứ Đà Nẵng – Hội An và các chi khu quận lỵ. Bước vào đợt hoạt động Hè 1971, các lực lượng vũ trang Mặt trận Quảng Đà sử dụng lực lượng do đồng chí Lư Giang – Tư lệnh Mặt trận, đồng chí Bùi Dư, chính ủy mặt trận chỉ huy lần lượt tiến công tiêu diệt chi khu quận lỵ Đức Dục, khu Kỹ nghệ An Hòa, đập tan hệ thống phòng ngự của địch, loại khỏi vòng chiến đấu hàng ngàn tên, hỗ trợ cho hơn 1 vạn dân ở đây nổi dậy trở về làng cũ.

   Tiểu đoàn bộ binh R20 lúc này vẫn đứng chân hoạt động ở Điện Bàn, phối hợp với chiến trường chung, đêm ngày 10.04.1971, tiểu đoàn sử dụng Đại đội bộ binh 3, do đồng chí Lê Ngọc Bảy chỉ huy tiên công tiêu diệt cứ điểm Thái Lai nằm trên thôn Giáng La xã Điện Thọ (huyện Điện Bàn), tiêu diệt 1 đại đội thuộc Trung đoàn 51 chủ lực Ngụy. Cuối tháng 04.1971, trong lúc các đơn vị đặc công, pháo binh tiến công chi khu quận lỵ Đại Lộc, tiểu đoàn bí mật cơ động xuống vùng Đông Điện Bàn, tiến công chốt điểm và khu dồn Cồn Lân, diệt gọn 1 trung đội nghĩa quân, thu 10 súng.

   Phát huy những thắng lợi đạt được, trong các đợt hoạt động tác chiến Xuân – Hè, năm 1971, Đảng ủy, BTL Mặt trận 44, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo củng cố lực lượng, học tập, huấn luyện, chuẩn bị cho chiến dịch tiến công chiến lược năm 1972. Sau khi BTL Quân khu rút Trung đoàn 38 và một số cán bộ chỉ huy, chỉ đạo của Mặt trận về xây dựng khối chủ lực Quân khu. Đảng ủy – BTL chỉ đạo điều động lực lượng từ cơ sở lên bổ sung cho các đơn vị bộ đội địa phương. Lực lượng vũ trang mặt trận Quảng Đà còn 4 tiểu đoàn bộ binh (1, 2, 3 và 8), 2 tiểu đoàn đặc công (489, 491), 2 tiểu đoàn pháo binh 575, 577, và các đại đội binh chủng. Bộ tư lệnh Mặt trận do đồng chí Phan Hoan làm Tư lệnh, đồng chí Hồ Nghinh Bí thư Đặc khu ủy làm chính ủy. Để nâng cao trình độ, chất lượng chiến đấu, các đơn vị, địa phương vừa sử dụng lực lượng trụ bám, chiến đấu giữ vững thế làm chủ địa bàn, vừa thay nhau về căn cứ miền núi để học tập, chỉnh huấn chính trị, huấn luyện kỹ, chiến thuật tác chiến hợp đồng binh chủng.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 16 Tháng Hai, 2013, 11:20:41 am
   Về địch trong những tháng cuối năm 1971, lợi dụng các đơn vị chủ lực Quân khu và bộ đội địa phương của Mặt trận rút hậu cứ để về củng cố và lợi dụng mùa mưa lũ đến, Mỹ - Ngụy tăng cường hoạt động đánh phá, đặc điểm tác chiến của quân Ngụy lúc này là áp dụng tối đa chiến thuật “Thiết xa vận”, “Trực thăng vận” để càn quét, đánh phá quyết liệt các vùng giáp ranh và hành lang, căn cứ, bàn đạp của ta. Các loại máy bay L19, OV10, HU1A, CH47, OH6A… hoạt động suốt ngày, khi phát hiện lực lượng ta thì đổ quân tập kích vào doanh trại, khu vực trú quân, rồi nhanh chóng cơ động về căn cứ, hoặc sử dụng máy bay F4, F105, AĐ6 ném bom. Ban đêm lực lượng cơ động, càn quét rút về căn cứ co cụm,phòng ngự, chung quanh gài mìn, lựu đạn M26 rất tinh vi, gây cho ta nhiều tổn thất đồng thời sử dụng máy bay C130 thả đèn sáng, bắn đại liên 20 ly xuống các bến sông, hành lang, máy bay trực thăng cũng soi rọi khắp chung quanh Đà Nẵng. Cuộc chiến đấu để đánh bại các chiến thuật, kỹ thuật tác chiến của quân Ngụy lúc này cũng hết sức khó khăn, vất vả, nhưng sau khi ta sử dụng lực lượng và vũ khí để chống trả hiệu quả, thì địch phải hạn chế đánh phá. Tiểu đoàn bộ binh R20 cũng phối hợp với lực lượng các địa phương lập trận địa, công sự để tiêu diệt máy bay bay thấp, bắn rơi và bị thương hàng chục chiếc trực thăng.

   Thành tích xây dựng, chiến đấu của Tiểu đoàn bộ binh R20 trong năm 1971 không chỉ có ý nghĩa là tạo thế phấn khởi tin tưởng trong cán bộ, chiến sĩ mà còn hỗ trợ cho phong trào nhân dân du kích chiến tranh các địa phương phát triển, giữ vững thế làm chủ địa bàn, địch ra sức “quét và giữ” nhưng ta vẫn trụ bám, đánh bại âm mưu lấn đất, giành dân của chúng. Trong quá trình chiến đấu không tránh khỏi tổn thất, thương vong, tháng 05.1971, đồng chí Lê Văn Bảy hy sinh, đồng chí Dương Văn Chín lên thay thế, đến cuối năm 1971, đồng chí Phan Hành Sơn lên làm Tiểu đoàn trưởng, chính trị viên tiểu đoàn do đồng chí Lê Văn Đại đảm nhiệm, đến cuối năm 1971 đồng chí Nguyễn Văn Bốn (quê Vĩnh Phú) thay thế.

   Xuất phát từ tình hình đó, nên khi hành quân về hậu cứ, Đảng ủy – BCH tiểu đoàn đề ra nghị quyết, kế hoạch, biện pháp tăng cường củng cố đơn vị, làm cơ sở thực hiện nghị quyết của Đặc khu ủy Quảng Đà và ba cao trào hành động cách mạng do Khu ủy Khu 5 phát động:

   - Cao trào diệt và làm tan rã lớn quân Ngụy.

   - Cao trào tiến công và nổi dậy giành quyền làm chủ.

   - Cao trào cách mạng trong thành phố, đô thị.

   Đợt chỉnh huấn này, cán bộ, chiến sĩ nghiên cứu, quán triệt sâu sắc tình hình nhiệm vụ, chủ trương, chiến lược của Đảng, nâng cao trình độ giác ngộ giai cấp, căm thù sâu sắc bọn Mỹ - Ngụy, khắc phục tư tưởng ngại khó khăn, gian khổ, trông chờ vào đàm phán, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng. Về huấn luyện quân sự, học tập cách đánh theo mệnh lệnh hợp đồng binh chủng, trong các chiến dịch tiến công tổng hợp, vận dụng thành thạo hình thức chiến thuật tập kích xung hỏa lực để tiêu diệt các cứ điểm, cụm cứ điểm của địch.

   Song song với việc học tập, huấn luyện, đơn vị còn tham gia chiến dịch thu mua, vận chuyển lương thực, thực phẩm, vũ khí, đạn dược từ đồng bằng lên và từ tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn về căn cứ, chuẩn bị chiến dịch tiến công và nổi dậy sắp đến.

   Đầu năm 1972, quân Mỹ và chư hầu cơ bản đã rút về nước, còn một bộ phận của Lữ 196 lính thủy đánh bộ Mỹ cũng chuẩn bị xuống tàu về nước. Quân Ngụy ráo riết bắt lính, đôn quân, tiếp tục kế hoạch bình định, tăng cường phòng ngự, đề phòng quân và dân ta tiến công.

   Giữa lúc Mỹ - Ngụy đang lúng túng, phán đoán về hướng tiến công chiến lược của ta, thì bất ngờ trưa ngày 30.03.1972 cuộc tiến công chiến lược Xuân – Hè 1972 mở màn trên chiến trường Trị - Thiên, sau đó là Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ. Phối hợp với chiến trường chung, chủ lực Quân khu và bộ đội địa phương Quảng Nam tiến công tiêu diệt cứ điểm Chư Gan, Liệt Kiểm, chi khu quận lỵ Hiệp Đức.

   Tại mặt trận Quảng Đà, đêm 13.04.1972, các tiểu đoàn pháo binh 575, 577 bắn phá các sân bay, trận địa pháo của địch ở Đà Nẵng, Tiểu đoàn 2 và 3 tiến công tiêu diệt chốt điểm Điện Tân, Điện Nhơn (Gò Nổi), sau đó đánh địch phản kích, bắt sống cả xe bọc thép M113.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 16 Tháng Hai, 2013, 01:59:31 pm
   Đợt 1 chiến dịch kết thúc thắng lợi, quân và dân ta giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị và một số địa bàn rộng lớn ở Tây Nguyên, Nam Bộ, chiến lược chiến tranh Việt Nam hóa bị sụp đổ. Để cứu nguy tình thế thất bại hoàn toàn, ngày 09.05.1972, Nich – Xơn ra lệnh đánh bom trở lại miền Bắc, rải mìn phong tỏa các cửa biển.

   Bước vào đợt 2 chiến dịch, quân và dân ta trên khắp chiến trường tiếp tục tiến công và nổi dậy.

   Trên địa bàn Quảng Đà, phối hợp với chiến trường chung, đêm 14.05.1972, tất cả các đơn vị, địa phương ra quân tiến công địch.

   Trong đợt 2 chiến dịch, Tiểu đoàn bộ binh R20 mới ra quân tham gia chiến đấu, tiêu diệt cứ điểm Liên Đại 122 địa phương quân đang đứng tại thị trấn Nam Phước bằng hình thức chiến thuật xung hỏa lực kết hợp. Trận đánh do đồng chí Nguyễn Văn Trinh – Tiểu đoàn trưởng và đồng chí Lê Đức Thị - Tiểu đoàn phó chỉ huy. Đây là trận đánh thí điểm về hình thức chiến thuật mới đầu tiên trên chiến trường Quảng Đà. Kết quả Tiểu đoàn diệt gọn Liên Đại 122, làm chủ trận địa. Sau trận đánh quận lỵ Duy Xuyên, Bộ tư lệnh Mặt trận ra lệnh cho các đơn vị cơ động ra hoạt động ở phía Bắc sông Thu Bồn. Theo kế hoạch, phương án chiến đấu của Đảng ủy – Bộ tư lệnh Mặt trận; Tiểu đoàn 491 đặc công tiêu diệt chốt điểm Ngũ Giáp (Điện Thắng), Tiểu đoàn 8 tiêu diệt đồn Trảng Nhật (Điện Hòa). Tiểu đoàn bộ binh R20 và Tiểu đoàn 2 bố trí trận địa đánh địch phản kích ở Điện Thắng, Điện Hòa, Điện An, đồng chí Phan Hoan – Tư lệnh Mặt trận trực tiếp chỉ huy khu chiến này.

   Đêm 10.06.1972, Tiểu đoàn 491 đặc công và Tiểu đoàn 8 tập kích tiêu diệt gọn quân địch ở đồn Ngũ Giáp và Trảng Nhật. Tiểu đoàn bộ binh R20 và 2 xuất kích chiếm lĩnh trận địa, cắt đứt đường số 1 (đoạn qua xã Điện Thắng và Điện An). Rạng sáng ngày 11.06, địch sử dụng Trung đoàn 56 (Sư đoàn 3 Ngụy) và 2 tiểu đoàn địa phương quân được xe tăng, phi pháo chi viện đến phản kích, giải tỏa các chốt điểm trên, tập trung đánh vào trận địa phòng ngự của tiểu đoàn ở Thanh Quýt, Ngũ Giáp, An Tự, Bồ Mưng. Trận chiến đấu diễn ra quyết liệt suốt ngày 11.06, bộ binh, xe tăng địch tổ chức nhiều đợt xung phong vào trận địa của đơn vị, nhưng đều bị thất bại. Ngày 12.06.1972, địch tập trung hỏa lực đánh phá vào cho bộ binh tiến vào trận địa, các phân đội phòng ngự của Tiểu đoàn bộ binh R20 bí mật để địch tiến sát trận địa mới nổ súng tiêu diệt, buộc chúng phải lui ra. Hết bọn Sư đoàn 3 đến Địa phương quân thay nhau phản kích, nhiều lần xung phong bị thất bại, địch phải lui xuống phía Đông đường số 1 để củng cố, nhưng bọn Sư đoàn 3 nhút nhát hơn vì bọn này đã bị quân và dân ta tiêu diệt và tan rã cả sư đoàn ở chiến trường Quảng Trị, Bộ tư lệnh Quân đoàn 1 mới rút về Đà Nẵng để khôi phục lại, nên khi bị đánh thì chúng không dám xông vào trận địa, mà chỉ dựa vào mép đường phía Đông và Gò Phật, dùng đại liên, cối 60 ly, 81 ly bắn vào trận địa của ta. Nắm chắc tình hình địch hoang mang, chỉ huy trận đánh ra lệnh cho Tiểu đoàn bộ binh R20 và Tiểu đoàn 2 (V25) sử dụng lực lượng xuất kích tiến công địch ở Gò Phật và đường số 1, buộc cả bộ binh và xe tăng bỏ trận địa chạy ra hướng Bồ Mưng – Hòa Phước. Sau 2 ngày chiến đấu quyết liệt, Tiểu đoàn bộ binh R20 đã loại khỏi vòng chiến đấu 200 tên địch, bắn cháy 2 xe M113.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 16 Tháng Hai, 2013, 02:00:06 pm
   Đêm 12.06, chấp hành mệnh lệnh cấp trên, tất cả các đơn vị rút ra khỏi khu chiến và về hậu cứ. Tiểu đoàn bộ binh R20 rút về Gò Nổi. Để chuẩn bị cho cao điểm chiến dịch, BTL Mặt trận điều động đồng chí Nguyễn Văn Trinh về cơ quan Mặt trận và bổ nhiệm đồng chí Lê Đức Thị làm tiểu đoàn trưởng, đồng chí Lê Ngọc Bảy làm Tiểu đoàn phó kiêm Tham mưu trưởng, đồng chí Lê Vĩnh An làm chính trị viên tiểu đoàn, Bí thư Đảng ủy Tiểu đoàn.

   Bước vào cao điểm chiến dịch Hè – Thu 1972, BTL Mặt trận 44 sử dụng Tiểu đoàn 491 đặc công, Tiểu đoàn bộ binh R20 và Tiểu đoàn bộ binh 2 tiến công lần thứ hai tiêu diệt chi khu quận lỵ Duy Xuyên và các cứ điểm ở thị trấn Nam Phước. Tiểu đoàn bộ binh R20 được tăng cường 1 trung đội hỏa lực (2 khẩu 12,8 ly) thuộc Tiểu đoàn pháo 557, có nhiệm vụ tiến công tiêu diệt cứ điểm Gõ Dỗi ở Nam Phước bằng hình thức chiến thuật “Xung hỏa lực kết hợp”. Đêm 09.08.1972, tiểu đoàn sử dụng 350 cán bộ, chiến sĩ, do đồng chí Lê Đức Thị chỉ huy, chia làm 2 mũi tiến công tiêu diệt cứ điểm Gò Dỗi, sau 01 giờ nổ súng chiến đấu, Tiểu đoàn bộ binh R20 đã tiêu diệt ban chỉ huy liên đại đội địa phương quân 122 và Đại đội địa phương quân 163, loại khỏi vòng chiến đấu gần 200 tên, phá hủy 2 pháo 105 ly, một trận địa cối 106,7 và 81 ly, chiến thắng Nam Phước thể hiện sự thành công trong vận dụng cách đánh đạt hiệu suất chiến đấu cao, tạo điều kiện cho tiểu đoàn củng cố quyết tâm chiến đấu, lập công to lớn hơn. Sau trận tiến công vào Nam Phước, tiểu đoàn cơ động tham gia đánh địch ở khu Tây Duy Xuyên.

   Trước sức tiến công mạnh mẽ của quân và dân ta, cuối tháng 10.1972, BTL Quân đoàn 1 sử dụng Trung đoàn 57 thuộc Sư đoàn 3 Ngụy mở cuộc càn quét vùng B Đại Lộc. Chấp hành mệnh lệnh cấp trên, tiểu đoàn cơ động về vùng B đánh địch. Liên tục trong 3 ngày (20 đến ngày 23.10) tiểu đoàn sử dụng từng phân đội, vận dụng các hình thức chiến thuật, cách đánh liên tục tiến công tiêu diệt địch, loại khỏi vòng chiến đấu gần 100 tên, bắn cháy 2 xe M113. Không chịu nổi sức tiến công của ta, Trung đoàn 57 Ngụy phải rút chạy qua sông Thu Bồn, chiều ngày 25.10.1972, nắm chắc thời cơ truy kích địch, BCH Tiểu đoàn ra lệnh cho Đại đội 2 xuất kích giữa ban ngày để tiến công địch, bắn chìm 3 thuyền chở lính qua sông, loại khỏi vòng chiến đấu 50 tên cả trên bờ sông và dưới lòng sông.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 16 Tháng Hai, 2013, 02:01:58 pm

   Bị thất bại nặng nề trên cả hai miền Nam – Bắc, cuối tháng 10.1972, chính phủ Mỹ thỏa thuận ký kết Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh trên cơ sở dự thảo của Chính phủ Việt Nam đưa ra, dự kiến ký kết vào ngày 26.10, nhưng sau đó Mỹ - Ngụy lại trì hoãn, đòi sửa đổi một số điều khoản. Ngày 26.10.1972, Chính phủ ta ra tuyên bố tố cáo hành động ngoan cố, lật lọng của Mỹ trước dư luận trong và ngoài nước. Cuộc đàm phán ở Paris bị gián đoạn.

   Kiên quyết trừng trị hành động ngoan cố, xảo quyệt của Mỹ - Ngụy, quân và dân ta trên khắp chiến trường miền Nam tiếp tục tiến công và nổi dậy. Ở chiến trường Quảng Đà, các đơn vị, địa phương vẫn trụ bám, quần lộn đánh địch càn quét, bình định.
   Phối hợp với các đơn vị bạn, Tiểu đoàn bộ binh R20 sau khi đánh địch ở vùng B Đại Lộc lại cơ động sang khu Tây – Duy Xuyên để cùng lực lượng địa phương chiến đấu tiêu hao, tiêu diệt Trung đoàn 56 (Sư đoàn 3 Ngụy), đêm 16.12.1972, tiểu đoàn sử dụng lực lượng do đồng chí Bảy – Tiểu đoàn phó chỉ huy, tập kích vào 16 căn nhà nằm trong khu kỹ nghệ An Hòa (Đức Dục) diệt 50 tên Ngụy, thu 8 súng AR15, sau đó bố trí trận địa chốt giữ đánh địch phản kích.

   Hành động dây dưa của Mỹ còn hy vọng vào việc sử dụng con bài không quân chiến lược mở chiến dịch “Lai – nơ Bếch cơ II” (30) để đánh phá hủy diệt Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố khác, thực hiện lời nói của Curtis Le May: chỉ huy lực lượng không quân chiến lược, thành viên ban tham mưu trưởng Liên quân Mỹ: “Chúng ta phải ném bom để đưa miền Bắc Việt Nam trở lại thời kỳ đồ đá”, âm mưu của Mỹ buộc ta phải ký kết Hiệp định theo điều kiện của chúng. Tuy nhiên, sau 12 ngày đêm đánh phá ồ ạt (từ ngày 18 đến ngày 29.12.1972) đã bị quân và dân miền Bắc đánh bại hoàn toàn cuộc tập kích chiến lược bằng không quân của Mỹ, bắn rơi 81 máy bay các loại, trong đó có 34 máy bay B52, 5 máy bay F111A “Cánh cụp, cánh xòe”. Trước thất bại chua cay, nhục nhã, Ních – Xơn phải tuyên bố ngừng ném bom và trở lại đàm phán Paris. Biết rằng ngoan cố, xảo trá cũng không tránh khỏi việc ký kết Hiệp định nên ngày 27.01.1973, Mỹ - Ngụy phải cầm bút ký kết, theo điều kiện của ta. Hiệp định có hiệu lực từ 07 giờ ngày 28.01.1973. Hiệp định có 09 chương, 23 điều, trong đó có những điều khoản cơ bản:

   - Mỹ phải tôn trọng độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam.

   - Mỹ phải rút hết quân Mỹ và chư hầu về nước kết thúc vào ngày 26.03.1973.

   - Mỹ - Ngụy phải công nhận Chính phủ lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam.

   - Mỹ phải bồi thường chiến tranh.

   Hiệp định Paris được ký kết là thắng lợi to lớn của quân và dân ta sau nhiều năm kiên trì chiến đấu không mệt mỏi và đầy khó khăn, thử thách để đánh cho quân Mỹ phải chấp nhận thất bại và cút khỏi đất nước ta. Cán bộ, chiến sĩ và nhân dân ta trên khắp mọi miền đất nước đều phấn khởi, tự hào thắng lợi vừa giành được. Tuy nhiên, cuộc chiến đấu để bảo vệ thành quả cách mạng, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc còn phải tiếp tục chiến đấu đến cùng.

   Đối với Mỹ - Ngụy, Hiệp định Paris ký kết là một thất bại nặng nề, nhưng với bản chất hiếu chiến, xâm lược, âm mưu kéo dài chiến tranh, thực tiễn sau khi Hiệp định được ký kết và có hiệu lực, Nguyễn Văn Thiệu – Tổng thống Ngụy quyền ra lệnh cho quân Ngụy thực hiện kế hoạch tràn ngập lãnh thổ, với chủ trương “trên hòa bình, dưới chiến tranh”, “trong hòa hợp, ngoài bình định”, tăng cường càn quét, bình định, bắt dân treo cờ “ba que”, lấy sơn kẻ trên tường rào, nóc nhà.

   Ngày 26.03.1973, nhân ngày Mỹ làm lễ cuốn cờ bại trận về nước, Thiệu tuyên bố “Tất cả mọi việc của ta, luật lệ của ta, hành chính của ta y như trước, không có gì thay đổi. Hễ Việt cộng vào trong làng thì bắn bể đầu, ở Việt Nam không ai tự cho mình thuộc lực lượng thứ ba…, phải tiến hành bình định toàn diện, đi vào chiều sâu” (31).

   Như vậy, Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở miền Nam Việt Nam không có hiệu lực ngay từ đầu. Tiếng súng càn quét, lấn chiếm, chống lấn chiếm vẫn diễn ra quyết liệt.

   Tại chiến trường Quảng Đà, ngay sáng 28.01.1973, Sư đoàn 3 Ngụy cùng lực lượng địa phương được xe tăng yểm trợ đã nổ súng tiến công đánh chiếm vùng kiểm soát của ta trên khắp địa bàn.

   Trước tình hình diễn biến phức tạp, căng thẳng từ sau khi ký kết Hiệp định Paris, BCHTW Đảng (Khóa III) ra lời kêu gọi: “Nhiệm vụ trước mắt của đồng bào hai miền nước ta là tăng cường đoàn kết, nâng cao cảnh giác, ra sức củng cố những thắng lợi đã giành được, giữ vững hòa bình lâu dài, hoàn thành độc lập, dân chủ ở miền Nam, tiến tới hòa bình, độc lập thống nhất Tổ quốc” (32). Quân ủy Trung ương cũng ra nghị quyết: “Chúng ta phải luôn cảnh giác, sẵn sàng đối phó với khả năng xấu nhất, địch gây ra chiến tranh trở lại”. (*)

__________________________

30. Chiến dịch “Tiền vệ”.

31. Dẫn theo “Một số thú nhận của đối phương” Nxb QĐND, Hà Nội năm 1997, trang 35.

32. (*) Dẫn theo: Quân khu 5: Thắng lợi và những bài học kinh nghiệm. Tập 1 – Nxb QĐND – Hà Nội. Năm 1981, trang 142.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 16 Tháng Hai, 2013, 02:02:57 pm
   Quán triệt chỉ thị, mệnh lệnh cấp trên, các lực lượng vũ trang Mặt trận Quảng Đà sát cánh cùng nhân dân trụ bám làng xã, chiến đấu ngoan cường, trừng trị những hành động ngoan cố của quân Ngụy, phá hoại hiệp định Paris, lấn chiếm vùng giải phóng.

   Tiểu đoàn bộ binh R20, được Bộ tư lệnh Mặt trận giao nhiệm vụ cùng cán bộ, du kích và nhân dân các xã Lộc Sơn, Lộc Phước, Lộc Hòa (Tây Đại Lộc) xây dựng trận địa, cắm cờ Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam trên khắp các địa bàn, bố trí lực lượng sẵn sàng chiến đấu tiêu diệt quân địch càn quét, lấn chiếm, bảo vệ địa bàn kiểm soát và cờ cách mạng. Mọi công tác chuẩn bị hoàn thành trước giờ hiệp định có hiệu lực.

   Sáng ngày 28.01.1973, trong không gian yên tĩnh, không có tiếng súng nổ, cán bộ, chiến sĩ và nhân dân đang vui mừng, đón tết âm lịch, và Hiệp định Paris, thì tình hình bỗng trở nên sôi động, căng thẳng, quân Ngụy trong các đồn bốt nhìn cờ Mặt trận giải phóng tung bay khắp các làng xã bao quanh chúng, lập tức gọi phi pháo đến bắn phá và tung lực lượng ra càn quét, nhổ cờ. Ở khu vực phòng ngự của Tiểu đoàn bộ binh R20, địch sử dụng Trung đoàn 57 (Sư đoàn 3) và 1 chi đoàn xe tăng liên tục mở các cuộc càn quét đánh vào trận địa của ta, lấn chiếm đất đai, cắm cờ ba que. Quyết tâm chiến đấu, trừng trị hành động hiếu chiến của quân Ngụy, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn bộ binh R20 phối hợp chặt chẽ với lực lượng địa phương chặn đánh quyết liệt các cánh quân càn quét của bọn Sư đoàn 3 Ngụy, đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn.

   Cuối tháng 3.1973, những tên lính Mỹ cuối cùng rút khỏi Đà Nẵng, nhưng quân Ngụy vẫn tiếp tục càn quét, lấn chiếm. Ở khu Tây Duy Xuyên, Sư đoàn 3 sử dụng Trung đoàn 56 và 1 chi đoàn xe tăng càn quét, chiếm đất, cắm cờ, đẩy lực lượng ta ra khỏi địa bàn, bảo vệ an toàn việc cơ động vận chuyển tiếp tế trên đường 104.

   Để tăng cường lực lượng, đánh bại Trung đoàn 56 Sư đoàn 3 Ngụy, Bộ tư lệnh Mặt trận ra lệnh cho Tiểu đoàn bộ binh R20 từ khu Tây Đại Lộc hành quân xuống trú quân ở các xã Điện Hồng, Điện Quang (Gò Nổi) phối hợp cùng Tiểu đoàn đặc công 491 và Tiểu đoàn bộ binh 2 chiến đấu tiêu diệt sinh lực địch, bảo vệ vùng giải phóng Gò Nổi và Tây Duy Xuyên.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 16 Tháng Hai, 2013, 02:03:42 pm

   Ngày 05.04.1973, chấp hành mệnh lệnh cấp trên, BCH tiểu đoàn ra lệnh cho các phân đội từ Điện Quang vận động sang tiến công quân địch ở Xuyên Thanh. Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt suốt 4 ngày. Tiểu đoàn đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 100 tên, đánh bại cuộc càn của địch, chúng phải rút lui, không cắm được một cây cờ nào. Trong những trận chiến đấu này, đã xuất hiện những tấm gương chiến đấu kiên cường, đồng chí Ba là một tân binh, nhưng cùng đồng đội quyết tâm chiến đấu giữ đất, giữ dân, thực hiện ý chí của Đảng và nhân dân: “Một tấc giang sơn, một dòng máu đỏ”, một mình đồng chí diệt 9 tên địch, đồng chí Bốn nuôi quân, suốt 3 ngày lăn lộn giữa trận địa, vượt qua bom đạn của địch để mang cơm, nước đến từng công sự cho cán bộ, chiến sĩ. Sau trận chiến đấu cả 2 đồng chí được tặng Huân chương chiến công.

   Cuộc chiến đấu chống lấn chiếm, giữ đất, giành dân diễn ra ngày càng quyết liệt, chỉ trong 5 tháng (từ tháng 02 đến tháng 07.1973), quân Ngụy đã lấn chiếm hầu hết các vùng căn cữ lõm, căn cứ bàn đạp chung quanh Đà Nẵng và một số địa bàn ở Điện Bàn, Duy Xuyên, Đại Lộc. Tình hình trên gây cho ta một số khó khăn. Mặc dù cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang đã chiến đấu ngoan cường, giữ từng tấc đất, từng người dân, nhưng chiến đấu dài ngày, ác liệt, sức lực giảm sút, chưa bổ sung kịp thời, bên cạnh đó còn bị ảnh hưởng tư tưởng hòa bình chủ nghĩa, lãnh đạo, chỉ huy chưa nhận rõ âm mưu, thủ đoạn của Mỹ - Ngụy để giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ. Do đó, chiến đấu đạt hiệu suất thấp, để mất đất, mất dân, thực tế trên đây còn diễn ra nhiều nơi trên địa bàn Khu 5.

   Trước tình hình Mỹ - Ngụy ra sức phá hoại hiệp định Paris, tháng 7.1973 – BCHTW Đảng (khóa III) họp hội nghị lần thứ 21 ra nghị quyết khẳng định: “con đường cách mạng miền Nam vẫn là con đường bạo lực cách mạng, bất kể trong tình hình nào, cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối, chiến lược tiến công” (33).

   Xuất phát từ diễn biến tình hình trên chiến trường và tư tưởng chỉ đạo của Trung ương Đảng. Khu ủy Khu 5 mở hội nghị xác định nhiệm vụ trung tâm của quân và dân Khu 5 lúc này là: “Ra sức đánh bại lấn chiếm, bình định của địch, giành giữ dân, mở rộng quyền làm chủ, phát triển lực lượng ta”. Tiếp đến Bộ tư lệnh Quân khu 5 phát động cuộc vận động “Nâng cao chất lượng và trình độ chiến đấu của các lực lượng vũ trang”.

   Quán triệt nghị quyết và chủ trương của cấp trên, cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang Quảng Đà nói chung, Tiểu đoàn bộ binh R20 nói riêng đều sinh hoạt, học tập, nâng cao nhận thức tư tưởng, xác định đúng đắn bản chất của kẻ thù và con đường đấu tranh để giành thắng lợi chỉ có bạo lực cách mạng mới có khả năng đánh đổ lực lượng phản cách mạng. Trên cơ sở nhận thức tư tưởng, lãnh đạo, chỉ huy tiểu đoàn ngày đêm chăm lo xây dựng củng cố đơn vị vững mạnh mọi mặt.

_____________________

33. “Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954 – 1975; Những sự kiện quân sự” Nxb QĐND, Hà Nội năm 1980, trang 170.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 16 Tháng Hai, 2013, 04:19:44 pm
   Mặc dù địch ra sức đánh phá, vi phạm hiệp định Paris, nhưng cuộc kháng chiến chống Mỹ của quân và dân ta lúc này đã có nhiều thuận lợi, đó là nguồn chi viện nhân tài, vật lực từ hậu phương miền Bắc, ngày càng dồi dào, hệ thống giao thông vận chuyển cơ giới từ Tây Trường Sơn phát triển xuống đến vùng giáp ranh, các cơ quan, đơn vị ở hậu cứ miền núi cũng đã tăng gia, sản xuất, chăn nuôi, góp phần cải thiện đời sống, sinh hoạt của cán bộ, chiến sĩ nhờ đó khi bước vào Đông – Xuân 1973 – 1974 lực lượng vũ trang Quảng Đà tăng nhanh về số lượng, chất lượng.34 Sau khi ổn định một bước tình hình tổ chức, trang bị, các đơn vị, địa phương nhanh chóng ra quân chiến đấu, phục vụ chiến đấu. Tiểu đoàn bộ binh R20 nhận nhiệm vụ đánh địch ở khu Tây Duy Xuyên và vùng B Đại Lộc. Từ tháng 10 đến tháng 12.1973, tiến công tiêu diệt các chốt điểm Đồi 30 (Phú Phong), Lộc Thành, mở toang căn cứ, bàn đạp ở Tây Nam căn cứ Đà Nẵng, đưa hàng ngàn dân trở về trụ bám làng cũ.

   Trong những ngày cuối năm 1973, diễn biến chiến sự trên các chiến trường miền Nam diễn ra sôi động và quân dân ta giành nhiều thắng lợi, thì một tin vui đến với cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn bộ binh R20 được Đảng, Nhà nước tuyên dương danh hiệu đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, một phần thưởng cao quý mà các thế hệ cán bộ, chiến sĩ đã phấn đấu liên tục trong 8 năm (1965 – 1973). Phấn khởi, tự hào với vinh dự đó, cán bộ, chiến sĩ càng ra sức thi đua chiến đấu lập công xuất sắc nhiều hơn nữa.

   Đầu năm 1974, Bộ tư lệnh Quân khu chủ trương mở đợt hoạt động tác chiến tiêu diệt, bứt rút, phá vỡ hệ thống chốt điểm của địch. Thực hiện chủ trương cấp trên, đầu tháng 03.1974, Tiểu đoàn bộ binh R20 ra quân tham gia chiến đấu, đồng chí Lê Ngọc Bảy được bổ nhiệm làm tiểu đoàn trưởng, đồng chí Lê Thượng Hải làm chính trị viên. Đêm 10.03.1974, tiểu đoàn sử dụng lực lượng tiến công tiêu diệt đồn Đá Đen (xã Xuyên Trà, nay là xã Duy Trung) bằng hình thức chiến thuật hợp đồng binh chủng, tiêu diệt 1 đại đội biệt lập, sau đó chốt lại Đá Đen để đánh địch phản kích, diệt 1 đại đội (thuộc Tiểu đoàn 113 địa phương quân). Sau đợt hoạt động tác chiến này, tiểu đoàn rút về củng cố, chuẩn bị tham gia chiến dịch sắp đến.

   Phát huy thắng lợi của đợt hoạt động Hè, Bộ tư lệnh Quân khu quyết định mở chiến dịch Thu 1974, tiến công tiêu diệt một số căn cứ, chi khu quận lỵ, đánh vỡ từng mảng hệ thống phòng ngự cơ bản của địch ở vùng giáp ranh, đồng bằng. Trên chiến trường Quảng Nam, Quảng Đà, Quân khu mở 3 khu chiến: Nông Sơn – Trung Phước, Thượng Đức và Tây Quế Sơn. Tại mặt trận Thượng Đức, Tiểu đoàn bộ binh R20 và Tiểu đoàn 10 được Bộ Tư lệnh Mặt trận điều động tham gia mặt trận Thượng Đức làm nhiệm vụ tiến công tiêu diệt các chốt điểm vòng ngoài của chi khu quận lỵ Thượng Đức.


________________________

34. 6 Tiểu đoàn bộ binh (1, 2, 3, 8, 10, 76), 2 Tiểu đoàn pháo binh (575, 577), 2 Tiểu đoàn đặc công (489, 491), 8 Đại đội độc lập.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 16 Tháng Hai, 2013, 04:20:09 pm

   Chi khu quận lỵ Thượng Đức là một căn cứ quân sự mạnh, án ngữ phía Tây Đà Nẵng, Mỹ - Ngụy xây dựng từ thời Ngô Đình Diệm, nằm ở ngã ba sông Cái và sông Côn, cách Đà Nẵng 40 km, có hệ thống lô cốt, công sự, hầm ngầm kiên cố. Lực lượng chiếm đóng khoảng 1600 tên, do Nguyễn Quốc Hùng – Thiếu tá quận trưởng chỉ huy.

   Ngày 29.07.1974, Sư đoàn 304 chủ lực của Bộ nổ súng, tiến công quận lỵ Thượng Đức. Phối hợp các mũi tiến công của chủ lực, Tiểu đoàn bộ binh R20 sử dụng lực lượng tiến công, tiêu diệt các tiền đồn của địch ở đồi Mồ Côi, Lục Nam (thuộc xã Đại Hồng ngày nay) sau đó chuyển sang phòng ngự ở phía Tây sông Vu Gia, chặn đánh địch ở Thượng Đức chạy sang, bắt sống 6 tên, trong đó có Vũ Trung Tín – Đại úy chỉ huy phó chi khu Thượng Đức.

   Mất Nông Sơn – Trung Phước – Thượng Đức, cánh cửa phòng thủ mạnh nhất ở phía Tây – Nam và Tây căn cứ Đà Nẵng bị mở toang. Lực lượng Quân đoàn 1 Ngụy không đủ sức phản kích lấy lại Thượng Đức, Nguyễn Văn Thiệu – Tổng thống Ngụy; Cao Văn Viên – Bộ trưởng Quốc phòng từ Sài Gòn ra Đà Nẵng để nghiên cứu tình hình, quyết định đưa lực lượng tổng dự bị chiến lược ra phản kích, tái chiếm Thượng Đức.

   Từ ngày 10 đến ngày 19.08.1974, hai Lữ đoàn dù từ Sài Gòn ra Đà Nẵng, ngày 20.08 chúng triển khai đội hình hành quân giải tỏa. Tướng Dư Quốc Đống – Tư lệnh Sư đoàn dù tuyên bố: “Nếu không lên được Thượng Đức thì xin giải tán binh chủng dù”, sau đó chúng còn điều động thêm Lữ đoàn 2 dù từ Trị - Thiên về tăng cường cho mặt trận Thượng Đức.

   Quyết tâm trừng trị hành động phản kích của quân Ngụy, sau 2 tháng chiến đấu phòng ngự. Sư đoàn chủ lực 304 và lực lượng vũ trang địa phương đã đánh quỵ Sư đoàn dù, không tái chiếm được Thượng Đức, mà còn bị thiệt hại nặng nề. Tiểu đoàn bộ binh R20 cũng sử dụng lực lượng quần lộn chiến đấu, tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, tiêu biểu nhất lúc 09 giờ ngày 15.9.1974, tiểu đoàn vận động phục kích đánh thiệt hại nặng 1 đại đội lính dù, bắt sống 4 tên, thu 1 súng M79, 1 AR15, 1 máy PRC25.

   Sư đoàn dù bị bại trận, quân Ngụy phải đưa Sư đoàn Thủy quân lục chiến (lực lượng tổng dự bị chiến lược) ra thay thế, nhưng cũng không làm gì được, mà còn bị tổn thất.

   Như vậy, trong chiến dịch Thu 1974, Mỹ - Ngụy đã huy động một lực lượng chủ lực tương đối lớn, trong đó có hai sư đoàn thuộc lực lượng tổng dự bị chiến lược đến càn quét, phản kích lấy lại Nông Sơn – Thượng Đức, nhưng đã bị thất bại thảm hại.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 16 Tháng Hai, 2013, 04:21:08 pm
   Đây là thắng lợi to lớn của quân và dân ta, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của lực lượng vũ trang nhân dân, tạo ra tiền đề để đánh bại hoàn toàn quân Ngụy.

   Trong lúc đó, tình hình nước Mỹ lâm vào khủng hoảng trầm trọng, Nich – Xơn từ chức, phó Tổng thống Giê – Rôn – Pho lên thay thế, nội bộ nước Mỹ bị phân hóa, Quốc hội bác bỏ kế hoạch viện trợ cho Ngụy quyền Sài Gòn, làm cho quân Ngụy lâm vào tình trạng khốn đốn, Nguyễn Văn Thiệu phải đề ra chủ trương “đánh giặc theo kiểu con nhà nghèo”, điều mà một quân đội được trang bị đến tận răng mà bây giờ phải thực hiện như thế thật là ảo tưởng.

   Theo dõi, nắm chắc diễn biến tình hình trên các chiến trường, cuối năm 1974, Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng mở nhiều cuộc hội nghị hạ quyết tâm: “ Động viên nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ở cả hai miền trong thời gian 2 năm (1975 – 1976), tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa, tiêu diệt và làm tan rã quân Ngụy, đánh đổ Ngụy quyền từ Trung ương đến địa phương, giành quyền về tay nhân dân, giải phóng miền Nam Việt Nam” (35).

   Tại Hội nghị Bộ chính trị tháng 12.1974, đồng chí Lê Duẩn – Bí thư thứ nhất BCHTW Đảng (khóa III) kết luận: “Chúng ta đang đứng trước thời cơ chiến lược lớn, chưa bao giờ ta có điều kiện đầy đủ về quân sự, chính trị như hiện nay, có thời cơ chiến lược to lớn như hiện nay để hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam để tiến tới hòa bình, thống nhất Tổ quốc” (36).

   Ngoài ra, Bộ chính trị còn chuẩn bị một kế hoạch khác, mà theo đó, “Nếu thời cơ đến vào đầu năm hoặc cuối năm 1975, thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975”.

   Mặt trận Quảng Đà là một trong những hướng tiến công chủ yếu của các binh đoàn chủ lực.

________________________


35. Dẫn theo: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954 – 1975 – Những sự kiện quân sự, Sđđ trang 251.

36. Dẫn theo: Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “ Tổng hành dinh trong mùa xuân đại thắng 1975” Nxb Chính trị Quốc gia – Hà Nội năm 2000, trang 169.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 16 Tháng Hai, 2013, 04:23:03 pm

   Thực hiện quyết tâm chiến lược của Bộ chính trị và kế hoạch tác chiến của Bộ Tổng tham mưu, Khu ủy – BTL Quân khu 5 xây dựng kế hoạch tác chiến năm 1975.

   Chấp hành tư tưởng chỉ đạo của Trung ương Đảng và BTL Quân khu, Đặc khu ủy và BTL Mặt trận Quảng Đà đề ra chủ trương, biện pháp nhanh chóng động viên mọi lực lượng, phương tiện, vũ khí, trang bị chuẩn bị bước vào thực hiện nhiệm vụ lịch sử. Tháng 01.1975, BTL Mặt trận Quảng Đà quyết định thành lập Trung đoàn 96 (gồm 3 tiểu đoàn bộ binh 1, 2, 76 và một số đại đội, trung đội binh chủng), đồng chí Lại Nam Dương làm Trung đoàn trưởng, đồng chí Nguyễn Võ làm chính ủy, các đơn vị, địa phương khẩn trương điều động lực lượng và vận động thanh niên tham gia bộ đội, du kích.

   Trong khí thế sôi động đang diễn ra khắp các chiến trường, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn bộ binh R20 cũng hăng hái ra quân chuẩn bị mọi mặt để phối hợp cùng các đơn vị trong Trung đoàn tiến công tiêu diệt hệ thống chốt điểm vòng ngoài của căn cứ Đà Nẵng và các chi khu quận lỵ.

   Lúc này lực lượng địch trên chiến trường Quảng Đà còn tương đối đông, khoảng 46.500 tên, do Ngô Quang Trưởng – Trung tướng Tư lệnh, Nguyễn Duy Hinh – Thiếu tướng Sư đoàn trưởng Sư đoàn 3, Nguyễn Đức Khánh – Chuẩn tướng Sư đoàn trưởng Sư đoàn không quân, chiếm đóng trên 332 căn cứ, chốt điểm, 153 khu dồn, trại tập trung, trang bị 373 máy bay, 176 xe tăng, 250 xe quân sự, 25 tàu chiến, 114 khẩu pháo. Mặc dù quân đông, trang bị mạnh nhưng tinh thần chiến đấu của quân Ngụy đã giảm sút nhiều, nhất là sau thất bại ở Nông Sơn – Thượng Đức, rồi đến sự kiện Phước Long diễn ra trong 20 ngày (12.12.1974 đến 06.01.1975) quân và dân miền Đông Nam Bộ tiến công, nổi dậy giải phóng hoàn toàn tỉnh Phước Long, tiếp đến đánh chiếm núi Bà Đen (Tây Ninh), quân Ngụy huy động lực lượng phản kích, nhưng đều thất bại. Mỹ báo động khẩn cấp 3 sư đoàn và lực lượng không quân, hải quân hăm dọa sẵn sàng can thiệp, nhưng cũng chỉ gây áp lực từ xa. Tại Sài Gòn, đại sứ Mỹ nói với Nguyễn Văn Thiệu: “Việc yểm trợ bằng máy bay lúc này chưa được phép”. Tiếp đến, Tổng thống Pho tuyên bố: “Không có hành động nào khác, ngoài việc viện trợ bổ sung cho Sài Gòn”. Thực tế trên đây, một lần nữa khẳng định quân chủ lực Ngụy không đủ sức đương đầu với chủ lực ta.

   Trong lúc quân và dân ta tích cực chuẩn bị chiến trường, thì địch lại ra sức phán đoán hướng tiến công của ta, Thiệu điều động sư đoàn dù về phòng thủ Sài Gòn, điều sư đoàn thủy quân lục chiến vào thay thế, Ngô Quang Trưởng đưa Liên đoàn 12 biệt động quân vào Tuần Dưỡng, tăng cường cho Quảng Nam, còn Sư đoàn 2 thì bị ghìm chân ở Quảng Ngãi, Sư đoàn 3 thì lo càn quét, giải tỏa ở vùng B Đại Lộc, vùng A, B Điện Bàn.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 16 Tháng Hai, 2013, 04:23:31 pm

   Ngày 10.03.1975, chiến dịch Tây Nguyên mở màn bằng đòn tiến công chiến lược giải phóng Buôn Mê Thuột, địch hoàn toàn bất ngờ về cả chiến lược và chiến dịch. Sư đoàn 23 (Quân đoàn 2 Ngụy) đến phản kích, nhưng đã bị tiêu diệt. Ngày 14.03.1975, Thiệu ra lệnh rút khỏi Tây Nguyên, thừa thắng xông lên, quân và dân ta tiếp tục tiến công, truy kích địch, đến ngày 21.03.1975, giải phóng hoàn toàn Tây Nguyên. Đây là đòn tiến công chiến lược thứ nhất trong tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975.

   Phối hợp với chiến trường chung, Sư đoàn 2 chủ lực Quân khu 5 cùng quân và dân Quảng Nam tiến công giải phóng Tiên Phước – Phước Lâm, đánh địch phản kích ở Tây Tam Kỳ, uy hiếp tỉnh đường Quảng Tín.

   Trên chiến trường Quảng Đà, đêm 16.03, Tiểu đoàn 3 (thiếu) tiến công khu dồn Điện Tân, Điện Nhơn, nhưng không thành công, các tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 96 bố trí trận địa đánh địch phản kích ở Gò Nổi, sau 2 ngày địch không ra phản kích, các đơn vị nhận lệnh rút về tập trung đánh địch ở khu Trung Duy Xuyên.

   Tình hình chiến sự diễn biến hết sức thuận lợi cho ta, Bộ chính trị, Quân ủy Trung ương khẳng định thời cơ lớn đã đến và hạ quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975.

   Thưc hiện chủ trương của Trung ương, quân và dân ta tiếp tục đẩy mạnh tiến công địch, nhanh chóng tiêu diệt lực lượng Quân đoàn 1 Ngụy, không cho chúng co cụm chiến lược ở Đà Nẵng hoặc rút chạy về Sài Gòn. Ở phía Bắc, Quân đoàn 2 và Quân khu Trị - Thiên nhanh chóng cơ động lực lượng xuống cắt đứt đường số 1, hình thành thế bao vây thành phố Huế. Ở phía Nam, quân và dân ta đã vây chặt địch ở thị xã Tam Kỳ và các căn cứ lớn: Tuần Dưỡng, Chu Lai.

   Ngày 23.03.1975, Thường vụ Khu ủy và BTL Quân khu 5 họp và ra quyết định: “Nắm chắc thời cơ, phấn đầu trong một thời gian ngắn giải phóng hoàn toàn các địa bàn của Quân khu”. Chấp hành mệnh lệnh cấp trên, các đơn vị chủ lực và bộ đội địa phương đồng loạt tiến công giải phóng thị xã Tam Kỳ, tỉnh lỵ Quảng Tín của Ngụy quyền vào trưa ngày 24.03.1975. Hợp đồng chiến đấu với chiến trường chung, từ ngày 20 đến ngày 22.03.1975, Tiểu đoàn bộ binh R20 đã sử dụng lực lượng bao vây, tiến công tiêu diệt 1 đại đội lính Ngụy. Ngày 23 và 24.03.1975 tiểu đoàn bao vây, tiến công đồi Đá Đen (lần thứ hai), chốt điểm Gò Phan (ở Xuyên Hòa), sau đó chốt giữ đánh địch phản kích. Như vậy, chỉ trong mấy ngày, mặc dù thiếu cán bộ chỉ huy, đồng chí Phạm Xuân Quý – chính trị viên tiểu đoàn bị thương trong trận đánh đồi Đá Đen, đồng chí Lê Ngọc Bảy – tiểu đoàn trưởng phải kiêm cả chính trị viên, nhưng tiểu đoàn đã thực hiện hoàn thành ý định cấp trên là tiến công, tiêu diệt một loạt chốt điểm ở khu Trung Duy Xuyên, mở rộng căn cứ, bàn đạp, hành lang cơ động của ta ở hướng Tây Nam – Đà Nẵng trong quá trình chiến đấu.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 16 Tháng Hai, 2013, 04:23:57 pm

   Ngày 24.03.1975, trên đà thắng lợi, Bộ chính trị quyết định thành lập Bộ chỉ huy chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng do đồng chí Lê Trọng Tấn – Trung tướng – Phó Tổng tham mưu trưởng làm Tư lệnh, đồng chí Chu Huy Mân – Thượng tướng – Tư lệnh Quân khu 5 làm Chính ủy, đây là chiến dịch tiến công chiến lược thứ hai, do đó Bộ chính trị, Quân ủy Trung ương đề ra tư tưởng chỉ đạo là “Kịp thời nhất, nhanh chóng nhất, táo báo nhất, bất ngờ nhất và chắc thắng”.

   Ngày 25.03.1975, Đặc khu ủy Quảng Đà họp thông qua kế hoạch tác chiến, tiến công giải phóng Đà Nẵng do Bộ tư lệnh Mặt trận 44 đề xuất. Cũng trong ngày 25.03, thành phố Huế được giải phóng, tàn quân địch không thể rút chạy về Đà Nẵng, mà bị tiêu diệt và tan rã tại chỗ. Tuy nhiên tại Đà Nẵng, lực lượng địch cũng tăng hơn 10 vạn tên.

   Mất Thừa Thiên – Huế và tỉnh Quảng Tín, vòng vây Đà Nẵng ngày càng siết chặt, tình hình an ninh, trật tự ở Đà Nẵng trở lên hỗn loạn, tàn quân địch lợi dụng cướp bóc, chém giết lẫn nhau. Ngô Quang Trưởng ra sức hò hét: “Lập lại trật tự”, “Tử thủ Đà Nẵng”, trong cảnh hỗn quan, hỗn lính, Mỹ phải lập cầu hàng không di tản cố vấn, nhân viên kỹ thuật Mỹ và sĩ quan, ác ôn Ngụy, dòng người di tản phần lớn gia đình Ngụy quân, Ngụy quyền kéo đến sân bay, bến cảng ngày càng đông.

   Ngày 27.03.1975, tình hình chiến sự diễn ra quyết liệt, khẩn trương, các đơn vị, địa phương thực hiện phương án “Huyện giải phóng huyện, xã giải phóng xã”. Hàng loạt chốt điểm, khu dồn ở Duy Xuyên, Đại Lộc, Điện Bàn, Hòa Vang bị bộ đội địa phương, du kích và nhân dân bao vây, tiến công, bứt rút, bức hàng.

   Ngày 28.03.1975, ở phía Nam, Sư đoàn 2 chủ lực Quân khu tiến công dọc theo đường số 1, đánh chiếm Bà Rén, Trung đoàn 96 Quảng Đà đánh chiếm thị trấn Nam Phước, sau đó vượt sông Thu Bồn, đường 100 rồi tập kết lực lượng tại Điện Hòa.

   Ở phía Bắc các Sư đoàn 324, 325 (Quân đoàn 2) đánh chiếm đèo Hải Vân, đèo Mũi Trâu, ở phía Tây, Sư đoàn 304 chủ lực (Quân đoàn 2), tiến công theo đường 14. Đêm 28.03, tất cả các mũi tiến công của ta tiếp tục đánh địch, mở đường tiến vào Đà Nẵng. Cũng trong đêm tướng, tá Ngụy và tên Tổng lãnh sự quán Mỹ tìm cách chạy trốn, nhưng đi đến đâu, pháo tầm xa của ta cũng bắn phá, cuối cùng phải dùng trực thăng bay ra tàu chiến ngoài khơi.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 16 Tháng Hai, 2013, 04:24:27 pm

   Rạng sáng ngày 29.03.1975, các mũi tiến công của chủ lực tiếp tục tiến công vào trung tâm Đà Nẵng, tạo điều kiện cho lực lượng đặc công, biệt động, tự vệ cùng nhân dân nổi dậy chiếm giữ các đồn bót, cơ quan Ngụy quyền.

   Tiểu đoàn bộ binh R20 từ Trảng Nhật tiến theo đường Cái Mới xuống đường số 1 (ngã ba quán Bốn Anh – Điện Thắng) rồi chia thành 2 mũi:

   - Mũi 1: gồm Đại đội 1 và Đại đội 2, do đồng chí Lê Ngọc Bảy – Tiểu đoàn trưởng chỉ huy phối hợp cùng Trung đoàn 1 (Sư đoàn 2 chủ lực Quân khu) tiến theo đường số 1 vượt qua Cầu Đỏ rồi tiến ra ngã Ba Huế rồi thọc sâu xuống trung tâm thành phố đánh chiếm Tòa thị chính Đà Nẵng.

   - Mũi 2: gồm Đại đội 3 và Đại đội 4, do đồng chí Nga – Tiểu đoàn phó chỉ huy phối hợp cùng Trung đoàn 38 (Sư đoàn 2 Quân khu 5) và 2 Tiểu đoàn 3 và 4 (thuộc Trung đoàn 97 Quảng Đà) vượt cầu Tứ Câu (Điện Ngọc) tiến xuống Non Nước.

   Căn cứ phương án chiến đấu, các mũi nhanh chóng xuất kích.

   Để bộ đội cơ động nhanh vào tiếp quản các mục tiêu, lực lượng cách mạng bên trong sau khi nổi dậy làm chủ một số địa bàn đã sử dụng hàng chục ô tô chạy ra đón bộ đội vào, nhân dân hai bên đường, chủ yếu là phụ nữ, thanh thiếu niên vừa vui mừng chào đón, tiếp tế cơm, nước, đường, sữa cho cán bộ, chiến sĩ Đại đội 1, Đại đội 2.

   Trên đường cơ động ra Đà Nẵng, khi xe đi đầu của Đại đội 1 (trong đó có đồng chí Bảy – Tiểu đoàn trưởng) đến chợ Miếu Bông thì gặp một đám tàn quân địch khoảng 1 đại đội dùng súng bắn chặn, lập tức Tiểu đoàn trưởng ra lệnh cho xe vừa chạy, vừa sử dụng tiểu liên AK bắn vào quân địch. Đại đội 2 do đồng chí Củng chỉ huy từ phía sau vượt lên kịp thời truy kích tiêu diệt những tên ngoan cố, bọn còn lại tháo chạy tán loạn, đơn vị tiếp tục xuất kích. Diễn biến chiến sự đến 09 giờ, các cánh quân từ phía Nam tiến ra, phía Bắc tiến vào, phía Tây tiến xuống đã đánh chiếm sân bay Đà Nẵng, Bộ tư lệnh Quân đoàn 1 Ngụy hợp điểm tại ngã ba Huế, rồi nhanh chóng phát triển vào trung tâm thành phố, cánh quân phía Đông gặp sức kháng cự quyết liệt của tàn quân Sư đoàn 3 và bọn thủy quân lục chiến, nên đến 10 giờ các đơn vị mới đánh chiếm được sân bay Nước Mặn, bọn địch tháo chạy ra ngã ba An Hải và Mỹ Khê lập trận địa ngăn chặn sức tiến công của ta.

   Ở trung tâm thành phố, mũi 1 của Tiểu đoàn bộ binh R20 từ ngã Ba Huế phát triển xuống ngã Ba Cai Lang – đường Thống Nhất (nay là đường Lê Duẩn) chiếm Tòa thị chính rồi tỏa ra chiếm các mục tiêu Quân vụ thị trấn, Lãnh sự quán Pháp, Ngân khố. Còn Đại đội 2 tiến theo đường Khải Định (nay là đường Ông Ích Khiêm) rồi được nhân dân giúp đỡ, đơn vị tiến xuống Thanh Bồ - Đức Lợi, truy bắt các nhóm tàn quân địch. Diễn biến chiến đấu ở trung tâm Đà Nẵng đến 11 giờ 30 phút kết thúc. Tiểu đoàn trưởng Lê Ngọc Bảy dùng máy 2 Oát báo cáo cho Trung đoàn trưởng 96 – Lại Nam Dương là: “Tiểu đoàn R20 đã đánh chiếm, làm chủ và treo cờ giải phóng trên nóc Tòa thị chính Đà Nẵng lúc 11 giờ 30 phút”.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 16 Tháng Hai, 2013, 04:25:09 pm

   Ở phía Đông, các đơn vị tiếp tục tiến công, dồn quân địch ra khu vực bán đảo Sơn Trà, bọn địch không còn lối thoát nào nữa, phải buông súng đầu hàng.

   Trên hướng tiến công này, mũi thứ hai của Tiểu đoàn bộ binh R20 (tức Đại đội 3 và 4) cũng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, làm chủ đánh chiếm các mục tiêu dọc đường Trưng Nữ Vương đến Cổ Viện Chàm, sau đó tiến theo đường Bạch Đằng bắt liên lạc với mũi thứ nhất ở Tòa thị chính. Một phân đội của Tiểu đoàn BBR20 chiếm giữ, bảo vệ an toàn tài sản và nhân viên lãnh sự quán Pháp tại Đà Nẵng (nay là thư viện Đà Nẵng).

   Như vậy, sau 32 giờ đồng loạt nổ súng tiến công và nổi dậy, đến 15 giờ 30 phút thành phố Đà Nẵng được hoàn toàn giải phóng, quân và dân ta đã tiêu diệt và làm tan rã hoàn toàn Quân đoàn 1 Ngụy, trên 10 vạn tên. Cờ giải phóng tung bay trên Tòa thị chính Ngụy quyền, Sở chỉ huy Quân đoàn 1 Ngụy. Chấm dứt 117 năm bị thực dân, đế quốc xâm lược, thống trị.

   Chiến thắng của chiến dịch Huế - Đà Nẵng là thắng lợi rực rỡ của đòn tiến công chiến lược thứ hai, góp phần quan trọng vào quá trình tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam, mà đỉnh cao là thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đòn tiến công chiến lược thứ ba trong đại thắng mùa xuân 1975.

   Sau ngày Đà Nẵng được hoàn toàn giải phóng, các binh đoàn chủ lực tiếp tục tiến về phía Nam tham gia giải phóng Sài Gòn và hải đảo xa xôi của Tổ quốc. Các đơn vị lực lượng vũ trang Quảng Đà nhanh chóng ổn định tình hình tổ chức và bắt tay vào thực hiện nhiệm vụ mới. Dưới sự chỉ huy, chỉ đạo của Ủy ban quân quản thành phố, Tiểu đoàn bộ binh R20, một mặt nhận tân binh, tổ chức biên chế, trang bị, mặt khác tham gia xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng trên địa bàn được phân công, tổ chức tuần tra, canh gác, bảo vệ các cơ quan Đảng, chính quyền, địa bàn dân cư, góp phần đưa tình hình an ninh chính trị, trật tự xã hội thành phố đi vào ổn định, nề nếp.

   Đảng ủy – BCH Tiểu đoàn phân công nhiều cán bộ tham gia làm công tác vận động quần chúng, làm sạch địa bàn đóng quân. Mở các đợt học tập, tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cho các đối tượng Ngụy quân, Ngụy quyền.

   Phối hợp với lực lượng tự vệ, du kích, thanh niên thành lập các tổ, đội xung kích để truy quét tàn quân địch còn lẩn trốn, tổ chức liên hoan văn nghệ, nói chuyện về chiến thắng của quân và dân ta trên các chiến trường, tạo khí thế cho phong trào cách mạng quần chúng sôi nổi, phấn khởi.

   Đà Nẵng trong mấy mươi năm sống trong sự kèm kẹp của bọn thực dân, đế quốc và tay sai, bị chúng tuyên truyền xuyên tạc về cuộc chiến tranh chính nghĩa của dân tộc Việt Nam, về cuộc chiến đấu dũng cảm, kiên cường của các lực lượng vũ trang nhân dân, nên hạn chế sự hiểu biết về Đảng, cách mạng, Hồ Chủ Tịch, khi nghe cán bộ chính trị tiểu đoàn giới thiệu, các tầng lớp nhân dân rất xúc động, sung sướng, tận mắt nhìn thấy sức mạnh, chính nghĩa, nhân đạo của cách mạng. Nhờ đó, tình hình trật tự xã hội ở các địa bàn tiểu đoàn đóng quân dần dần đi vào nề nếp.

   Việc làm tốt đẹp, tình cảm của cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang nhân dân nói chung, Tiểu đoàn bộ binh R20 nói riêng đã đánh bại luận điệu chiến tranh tâm lý của bọn Mỹ - Ngụy về sự trả thù của chính quyền cách mạng đối với bọn sĩ quan ác ôn và gia đình họ. Thực tế, ngược lại, họ đã thức tỉnh, nhất là số còn lẩn trốn đều ra trình diện và chấp hành chính sách cải tạo của cách mạng.

   Thấm nhuần quan điểm cách mạng của Đảng, trong những ngày đầu Đà Nẵng mới được giải phóng, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn bộ binh R20 đã dựa vào cán bộ và nhân dân, thực hiện hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của Đảng và nhân dân giao phó.

*
*   *


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 18 Tháng Hai, 2013, 08:14:40 am
   Chặng đường hơn 6 năm (từ đầu năm 1969 đến tháng 03.1975) là một trong những giai đoạn cực kỳ khó khăn, ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của quân và dân ta trên chiến trường Quảng Đà, Mỹ - Ngụy không từ bỏ một âm mưu, thủ đoạn nào để thực hiện chiến tranh Việt Nam hóa bằng các biện pháp thâm độc, tàn bạo: Càn quét, cày ủi trắng, dồn dân, bình định, cuộc chiến đấu giữ đất, giành dân diễn ra hết sức căng thẳng, quyết liệt. Cường độ, tính chất đánh phá với mức độ cao, hủy diệt cả môi trường và môi sinh, tạo thành những vành đai trắng bao quanh căn cứ đồn bót của chúng. Bộ đội, du kích và nhân dân trụ bám phải liên tục cơ động. Tiểu đoàn bộ binh R20 cũng phải cơ động, hành quân, trú quân ở khắp các địa bàn. Vừa đánh địch càn quét, giữ vững thế làm chủ để tiến công địch, vừa phải bảo toàn lực lượng để chiến đấu lâu dài.

   Bất chấp mọi khó khăn, thử thách, cùng với quân và dân cả tỉnh, cả miền Nam, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn bộ binh R20 đã kiên định lập trường, ý chí chiến đấu, đoàn kết vượt qua mọi gian khổ, ác liệt, phát huy mạnh mẽ truyền thống trong những năm trực tiếp chiến đấu với quân Mỹ, chư hầu và quân Ngụy, tiếp tục xây dựng, chiến đấu lập nhiều chiến công xuất sắc, đánh bại các cuộc càn quét, dồn dân, bình định của Mỹ - Ngụy, ở vùng B Đại Lộc, khu Trung, khu Tây Duy Xuyên, Gò Nổi và vùng A, B Điện Bàn, khu III Hòa Vang, tiêu diệt được nhiều sinh lực, phá hủy phương tiện chiến tranh của địch, giữ vững thế tiến công, làm chủ địa bàn, góp phần đánh bại chiến lược chiến tranh Việt Nam hóa của Mỹ - Ngụy, tạo điều kiện thuận lợi để phối hợp với các đơn vị, địa phương đồng loạt tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Đà và thành phố Đà Nẵng vào ngày 29.03.1975.

*
*   *

(http://farm9.staticflickr.com/8511/8484388632_878400eaea.jpg) (http://www.flickr.com/photos/90883775@N03/8484388632/)
 (http://www.flickr.com/photos/90883775@N03/8484388632/)

(http://farm9.staticflickr.com/8240/8484388582_51763dd9c2.jpg) (http://www.flickr.com/photos/90883775@N03/8484388582/)
 (http://www.flickr.com/photos/90883775@N03/8484388582/)

(http://farm9.staticflickr.com/8242/8483295227_d82c72f910.jpg) (http://www.flickr.com/photos/90883775@N03/8483295227/)
 (http://www.flickr.com/photos/90883775@N03/8483295227/)


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 18 Tháng Hai, 2013, 09:26:39 am

CHƯƠNG BỐN
PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG ANH HÙNG,
HOÀN THÀNH XUẤT SẮC NHIỆM VỤ
TRONG GIAI ĐOẠN MỚI (1975 – 2005)


I- RA SỨC XÂY DỰNG, CỦNG CỐ ĐƠN VỊ THAM GIA TRUY QUÉT TÀN QUÂN ĐỊCH, GIỮ GÌN AN NINH CHÍNH TRỊ - TRẬT TỰ XÃ HỘI ĐỊA BÀN ĐƯỢC PHÂN CÔNG.

         - Tham gia truy quét tàn quân địch sau ngày giải phóng:

         Ngày 29.03.1975, thành phố Đà Nẵng được hoàn toàn giải phóng. Sau hơn 20 năm vượt qua muôn vàn gian khổ, chiến đấu, hy sinh; chính quyền thành phố đã thuộc về tay nhân dân.

         Để nhanh chóng thiết lập lại trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo đảm cuộc sống cho nhân dân trong điều kiện thành phố vừa được giải phóng. Đảng ủy – Bộ tư lệnh Quân khu 5 quyết định thành lập Ủy ban quân quản thành phố Đà Nẵng do đồng chí Hồ Nghinh - Ủy viên Thường vụ Khu ủy 5 làm trưởng ban và các đồng chí trong Ủy ban: Trần Thận – bí thư Đặc khu ủy Quảng Đà; Nguyễn Chánh – Phó tư lệnh Quân khu 5; Nguyễn Bá Phát – Phó Tư lệnh Hải quân; Phạm Đức Nam – Phó bí thư Đặc khu ủy, Chủ tịch UBND các mạng Quảng Đà; Phan Hoan – Chỉ huy trưởng Mặt trận Quảng Đà.

         Ngay sau khi được thành lập, ngày 30.03.1975, Ủy ban quân quản thành phố ra mệnh lệnh:

         - Tuyên bố giải tán bộ máy Ngụy quân, Ngụy quyền và các đảng phái phản động, thành lập UBND cách mạng lâm thời xã, phường và Ủy ban quân quản các quận, huyện.

         - Ra lệnh giới nghiêm toàn thành phố từ 18 giờ chiều ngày hôm trước đến 06 giờ sáng ngày hôm sau.

         - Nhanh chóng thu nộp vũ khí, đạn dược, trang bị, thực hiện xong trước ngày 31.03.1975.

         - Tất cả sĩ quan, binh lính, nhân viên Ngụy quyền các cấp phải trình diện vào ngày 31.03.1975.

         - Tuyên truyền, phát huy chiến thắng Đà Nẵng và các chiến trường; tuyên truyền chính sách của Mặt trận và nhiệm vụ của nhân dân.

         - Tổ chức tổng vệ sinh đường phố và các khu dân cư.

         - Giải tỏa số dân bị dồn vào thành phố, cung cấp phương tiện vận chuyển lương thực, thực phẩm để bà con trở về quê cũ.

         - Huy động mọi nguồn lực để tham gia giải phóng Sài Gòn và quần đảo Hoàng Sa.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 18 Tháng Hai, 2013, 09:27:29 am
         Chấp hành mệnh lệnh của Ủy ban quân quản thành phố, Đảng ủy – Bộ chỉ huy Mặt trận Quảng Đà đã đề ra các chủ trương, biện pháp nhằm tập trung mọi lực lượng, phương tiện tiến hành truy quét tàn quân địch. Đưa bộ đội vào đứng chân ở các khu dân cư, địa bàn trọng điểm để làm công tác dân vận, phát động quần chúng xây dựng cơ sở nòng cốt; kết hợp chặt chẽ với an ninh vũ trang làm tốt công tác trị an.
Thực hiện nhiệm vụ của Bộ chỉ huy Mặt trận giao; sau khi hoàn thành các mục tiêu được phân công trong chiến dịch giải phóng  Đà Nẵng, các Tiểu đoàn 1, 3 và 76 về làm nhiệm vụ Quân quản và truy quét địch tại các khu vực Tam Tòa, Đức Lợi, Thanh Bồ, Tùng Sơn, An Ngãi, Hòa Thanh, Hòa Vinh. Riêng Tiểu đoàn 1 đảm nhiệm các phường Thanh Bình, Thuận Phước, Hải Châu 1, Hải Châu 2 (trọng điểm là khu vực chợ Tam Thuận, bãi biển Thanh Bình).

         Những ngày đầu giải phóng, tình hình an ninh trật tự của thành phố Đà Nẵng chưa thật ổn định. Sau sự thất bại, hoảng loạn; ngụy quân, ngụy quyền chỉ mới tan rã về tổ chức; tư tưởng, lập trường chống cộng vẫn còn tồn tại trong số sĩ quan, ác ôn, đảng phái phản động, bọn cực đoan đội lốt tôn giáo… chúng đang tìm mọi cách lẩn trốn, móc nối chờ thời cơ hoạt động chống phá; đồng thời tiến hành các hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc đường lối chủ trương, chính sách của chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam, gây tâm lý hoang mang, lo sợ trong xã hội. Mặt khác, hậu quả của cuộc chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa thực dân mới để lại rất nặng nề; đồn bót, bom đạn nằm rải rác khắp các địa bàn, luôn đe dọa tính mạng và cuộc sống của nhân dân.

         Ngày 03.04.1975, sau khi cơ động về đóng quân tại trung tâm tuyển mộ nhập ngũ (nay là 87 Lý Tự Trọng) và khách sạn Đống Đa (khách sạn Đà Nẵng); Vừa tạm ổn định nơi ăn, ở; Tiểu đoàn triển khai ngay việc củng cố, kiện toàn tổ chức biên chế, vũ khí trang bị. Đảng ủy tiểu đoàn họp bàn chủ trương lãnh đạo đơn vị hoàn thành nhiệm vụ, yêu cầu đặt ra là: Cấp ủy, chỉ huy các cấp tăng cường lãnh đạo, quản lý giáo dục cán bộ, chiến sĩ thuộc quyền, nhận thức đúng đặc điểm tình hình của nhiệm vụ mới. Chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh của cấp trên, phối hợp chặt chẽ với các đơn vị bạn và lực lượng liên quan, thực hiện tốt nhiệm vụ quân quản, vận động nhân dân chấp hành chính sách của Mặt trận, tham gia truy quét tàn quân địch, góp phần giữ vững an ninh trật tự địa bàn được phân công.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 18 Tháng Hai, 2013, 09:28:20 am

         Bước vào thực hiện nhiệm vụ quân quản, quân số của tiểu đoàn có 390 đồng chí, gồm 4 đại đội và các phân đội trực thuộc. Ban chỉ huy tiểu đoàn có các đồng chí: Lê Ngọc Bảy – Thượng úy – Tiểu đoàn trưởng; Phạm Xuân Quý – Thượng úy – Chính trị viên; Trần Trung Nga – Trung úy – Tiểu đoàn phó. Đại đội 1: đồng chí Đường – Đại đội trưởng; đồng chí Duân – Chính trị viên. Đại đội 2: đồng chí Xoàng – Đại đội trưởng; đồng chí Ngọc – Chính trị viên. Đại đội 3: đồng chí Phú – Đại đội trưởng; đồng chí Khiêm – Chính trị viên. Đại đội 4: đồng chí Long – Đại đội trưởng; đồng chí Chí – Chính trị viên.

         Ngày 15.04.1975, đơn vị được trung đoàn bổ sung 95 thanh niên tình nguyện nhập ngũ, phần lớn là con em của nhân dân lao động thành phố, sinh ra và lớn lên dưới chết độ cũ, chưa hiểu biết nhiều về cách mạng. Để chiến sĩ mới nhanh chóng thích nghi với môi trường quân đội, yên tâm tư tưởng, xác định tốt nhiệm vụ. Tiểu đoàn tiến hành công tác giáo dục chính trị kết hợp với huấn luyện quân sự tạo điều kiện cho chiến sĩ mới tham gia các hoạt động của đơn vị. Chỉ trong thời gian ngắn, được đứng trong đội hình Tiểu đoàn R20 anh hùng, được công tác bên cạnh những cán bộ, chiến sĩ một thời lừng lẫy chiến công, được sống trong tình cảm chan hòa anh em ruột thịt, tất cả chiến sĩ mới đều phấn khởi tự hào, nhiều đồng chí đã hòa nhập được với môi trường quân đội, hăng hái nhận và hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao.

         Những ngày đầu tháng 4, Tiểu đoàn bộ binh 1 vinh dự được đón Đại tướng Võ Nguyên Giáp – Tổng tư lệnh Quân đội về thăm đơn vị. Đại tướng đã biểu dương và căn dặn cán bộ, chiến sĩ “Các đồng chí chiến đấu rất giỏi, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng miền Nam, nhưng chuyển sang giai đoạn mới cũng không kém phần giain khổ, khó khăn, vẫn có thể còn phải đổ máu. Vì vậy, các đồng chí cần phải cố gắng nhiều hơn nữa”.

         Mặc dù Đại tướng bộn bề công việc vẫn trực tiếp đến thăm, động viên căn dặn đồng thời quán triệt quyết tâm Đảng ủy tiểu đoàn đã đề ra; toàn tiểu đoàn đã dấy lên phong trào thi đua sôi nổi, do vậy chỉ trong thời gian từ 30.03 đến ngày 15.06.1975 vừa củng cố, kiện toàn kết hợp với huấn luyện chiến sĩ mới, vừa triển khai thực hiện nhiệm vụ quân quản. Tiểu đoàn bộ binh 1 đã phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương và nhân dân vận động và bắt giữ hàng trăm sĩ quan cấp tá, cấp úy của địch không ra trình diện và ngăn chặn một tàu địch tổ chức vượt biển trốn chạy ra nước ngoài tại bãi biển Thanh Bình.

         Cũng trong thời gian này, các đơn vị bạn trên địa bàn thành phố đã tham gia truy bắt được 4622 ngụy quân, trong đó có 1 đại tá, 6 trung tá, 196 thiếu tá, 174 đại úy, 962 ngụy quyền các cấp, 478 cảnh sát, 406 người thuộc các đảng phái phản động.
Kết hợp với bắt giữ tàn quân địch lẩn trốn, Tiểu đoàn bộ binh 1 cùng với các đơn vị của Mặt trận Quảng Đà, Quân khu đã thu gom được: 50353 khẩu súng các loại, trong đó có 35 pháo 105 ly, 8 pháo 155 ly, 12000 tấn đạn, quân trang, quân dụng do địch bỏ lại khi tháo chạy, giao cho các cơ quan chuyên ngành kỹ thuật của trên quản lý, sử dụng.

         Kết thúc nhiệm vụ quân quản, cuối tháng 6 cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn vui mừng được đón đồng chí Song Hào – Trung tướng – Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam đến thăm đơn vị, đồng chí đã biểu dương thành tích mà tiểu đoàn đạt được trong 3 tháng làm nhiệm vụ truy quét tàn quân địch; và nhắc nhở: Nhiệm vụ tiếp theo của Tiểu đoàn bộ binh 1 là rất nặng nề, cán bộ, chiến sĩ phải an tâm tư tưởng nỗ lực phấn đấu để hoàn thành tốt nhiệm vụ của Đảng và Quân đội giao phó.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 18 Tháng Hai, 2013, 09:29:04 am

         Sau các đợt tuyên truyền vận động truy quét của các lực lượng vũ trang và nhân dân, hầu hết sĩ quan, binh lính ngụy và ngụy quyền các cấp ra trình diện, khai báo, giao nộp vũ khí, chịu sự quản lý cải tạo của chính quyền cách mạng; nhưng với bản chất ngoan cố, lòng hận thù trước sự thất bại thảm hại, một số ngụy quân, ngụy quyền, ác ôn vẫn không chịu ra trình diện, lẩn tránh ở những nơi chính quyền cách mạng chưa quản lý, kiểm soát hết được, tiếp tục móc nối, liên lạc với bọn phản động lưu vong ở nước ngoài, nhen nhóm các tổ chức phản động. Ngoài ra, tình hình vượt biên, vượt biển, nhất là dọc tuyến ven biển từ chân đèo Hải Vân đến Sơn Trà, Non Nước, Điện Ngọc, Điện Dương (Điện Bàn) diễn ra khá phức tạp.
 
         Từ cuối năm 1975 và nhiều năm sau này tiểu đoàn liên tục được trên giao nhiệm vụ tham gia truy quét địch ở bán đảo Sơn Trà, đèo Hải Vân, các xã Tây Hòa Vang. Phối hợp bắt giữ bọn tội phạm, giải tán bọn gây rối ở ga Đà Nẵng, Thanh Bồ, Tam Thuận, Đức Lợi, Công viên 29.3. Một trong những đợt công tác có thời gian dài ngày, thể hiện ý chí quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ của tiểu đoàn là: Tháng 10.1997, sau khi nhận được tin báo một số tên Quốc dân đảng tụ tập ở khu vực núi Ba Viên (Hòa Vang) có những biểu hiện chuẩn bị hoạt động chống phá chính quyền. Được lệnh của Chỉ huy trưởng – Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, tiểu đoàn nhanh chóng tổ chức lực lượng trinh sát và xây dựng phương án truy quét, đồng chí Phạm Ngọc Huân – Tiểu đoàn phó được phân công trực tiếp chỉ huy Đại đội 1 và Đại đội 2 hành quân lên Ba Viên. Sau nhiều ngày không quản ngại khó khăn, dù phải đi bộ, vượt qua nhiều đèo dốc, lực lượng của tiểu đoàn đã triển khai đội hình vây bắt được 7 tên, giao về cho các ngành chức năng của thành phố xử lý.

         Ngoài ra, trong những năm từ năm 1976 – 1982, lực lượng vũ trang thành phố, trong đó có Tiểu đoàn bộ binh 1 đã phối hợp với công an, biên phòng mở nhiều đợt truy quét bọn phản động, tội phạm, bắt 19 tên trong tổ chức “Việt Nam dân tộc cách mạng Đảng”, 78 tên trong “Mặt trận quốc gia giải phóng Việt Nam”; 278 tên trong “Lực lượng dân quân phục quốc”; 42 tên trong “Mặt trận Bảo quốc”; 83 tên trong “Hắc Long đoàn”; 19 tên trong “Biệt đoàn Quảng Đà”, xóa sổ 7 nhóm phản động khác ở các xã, vùng núi Tây Bắc Hòa Vang như: Hòa Phú, Hòa Ninh, Hòa Bắc, Hòa Liên. Ngăn chặn hàng trăm vụ vượt biên, vượt biển, bắt giữ hàng ngàn người vượt biên trái phép.

         Hoạt động truy quét tàn quân địch và bọn tội phạm của Tiểu đoàn bộ binh 1 những năm đầu sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng góp phần giữ vững tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, huyện Hòa Vang, tạo điều kiện để chính quyền cách mạng các cấp chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 18 Tháng Hai, 2013, 11:12:56 am


- Khắc phục khó khăn, tích cực xây dựng, củng cố đơn vị, tham gia giúp nhân dân vùng Tây Điện Bàn ổn định đời sống:


* Xây dựng, củng cố đơn vị, sẵn sằng nhận nhiệm vụ:

   Sau ngày thành phố Đà Nẵng hoàn toàn giải phóng, các đơn vị chủ lực của Bộ và Quân khu lần lượt cơ động vào phía Nam tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng Sài Gòn và các đảo, quần đảo ở biển Đông, bàn giao địa bàn cho lực lượng vũ trang địa phương và các đơn vị hậu cần – kỹ thuật của trên tiếp quản.

   Lực lượng vũ trang Mặt trận Quảng Đà hoạt động trên địa bàn Đà Nẵng – Hòa Vang hầu hết về đứng chân ở các căn cứ doanh trại của ngụy quân. Cụ thể: Trung đoàn 97, sau khi tham gia giải phóng khu Đông Đà Nẵng đã triển khai bố trí theo mệnh lệnh cấp trên. Riêng Tiểu đoàn 4 đóng tại khu vực Bắc Mỹ An và sân bay Nước Mặn, sau đó nhận lệnh cơ động ra phòng thủ đào Cù Lao Chàm (xã Tân Hiệp, thị xã Hội An), Tiểu đoàn 91 đặc công đóng tại ngã ba Cai Lang. Tiểu đoàn 89 đặc công đóng tại trại Tây Sơn (Nam ngã ba Huế), Tiểu đoàn 35 đặc công đóng tại khu công binh An Hải. Đại đội thông tin đóng tại khu nhân lực 1 Ngụy (nay là 36 Trần Phú). Đại đội công binh (Hải Vân) đóng tại trại Nguyễn Công Trứ, đường Khải Định (nay là đường Ông Ích Khiêm). Bệnh xã 78 đóng tại đường Nguyễn Thị Giang (nay là 156 Nguyễn Thị Minh Khai). Bộ chỉ huy Mặt trận Quảng Đà đóng tại Quân vụ thị trấn (nay là 38 Trần Phú).

   Cũng như các đơn vị thuộc Mặt trận Quảng Đà, tháng 06.1975, chấp hành kế hoạch điều chỉnh lực lượng của trên, Tiểu đoàn bộ binh 1 theo đội hình của Trung đoàn 96 về đứng chân tại trung tâm huấn luyện Hòa Cầm.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 18 Tháng Hai, 2013, 11:13:18 am

   Như vậy, sau gần 3 tháng đóng quân ở thành phố; điều kiện sinh hoạt của tiểu đoàn khá ổn định; về căn cứ Hòa Cầm, là nơi từng là trung tâm huấn luyện tân binh Ngụy, nhưng doanh trại rất tạm bợ, nhà ở được xây dựng chủ yếu bằng khung sắt lắp ghép; mái, vách đều lợp tôn nên rất nóng; nhà ở ngổn ngang, xơ xác do hậu quả của cuộc rút chạy vô tổ chức của địch khi quân ta vào giải phóng thành phố. Mặt khác về mùa khô điều kiện nước sinh hoạt ở đây rất khó khăn, bộ đội phải ra dân, hoặc ra sông Túy Loan (cách doanh trại gần 2 km) để tắm giặt.

   Về nơi ở mới, vấn đề đặt ra không phải là những khó khăn trước mắt về điều kiện sinh hoạt của đơn vị, mà chính là tình hình tư tưởng của một số cán bộ, chiến sĩ của tiểu đoàn có những diễn biến thiếu tích cực. Ngoài số chiến sĩ mới vừa được bổ sung, đa số cán bộ, chiến sĩ đều có nguyện vọng được nghỉ phép, một số muốn chuyển ngành, ra quân hoặc đi học.

   Trước tình hình đó, tiểu đoàn tiến hành ngay đợt sinh hoạt chính trị, nhằm động viên cán bộ, chiến sĩ tiếp tục phát huy những thành tích đạt được, vượt qua những khó khăn, trở ngại, ra sức xây dựng đơn vị, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ trên giao. Về nội dung đợt sinh hoạt, trước hết tiểu đoàn tiến hành tổng kết phong trào thi đua “lập công dâng Bác” dịp ngày 19.05 đồng thời động viên khen thưởng những tập thể, cá nhân hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tham gia chiến dịch giải phóng thành phố, làm nhiệm vụ quân quản và truy quét tàn quân địch; phê bình nhắc nhở những cá nhân, tập thể có những thiếu sót, nhược điểm trong công tác đồng thời phát động phong trào thi đua đột kích chào mừng kỷ niệm 30 năm Quốc khành 2/9.

   Song song với việc củng cố tình hình đơn vị, Tiểu đoàn tập trung sửa chữa doanh trại, bảo đảm đủ nơi ăn, ở sinh hoạt cho bộ đội, đẩy mạnh tăng gia sản xuất, tạo mọi điều kiện đưa bộ đội vào nề nếp chính quy. Chấp hành nghiêm kỷ luật của quân đội và các chế độ quy định chung của trung đoàn để ra.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 18 Tháng Hai, 2013, 11:13:54 am

* Giúp nhân dân các xã của huyện Điện Bàn xây dựng nhà cửa, khôi phục sản xuất, ổn định cuộc sống:


   Đóng quân tại Hòa Cầm gần một tháng, vừa ổn định nơi ăn, ở và bắt tay vào huấn luyện. Cuối tháng 7.1975, tiểu đoàn được trên giao nhiệm vụ về các xã vùng Tây huyện Điện Bàn giúp nhân dân xây dựng nhà ở, ổn định đời sống sau những năm chiến tranh.

   Về với các xã vùng Tây Điện Bàn, nơi một thời chiến tranh tiểu đoàn đã lăn lộn chiến đấu, được dân dưỡng nuôi, chở che, đùm bọc. Những chiến công mà tiểu đoàn đã viết nên ở Văn Quật, Bồ Mưng, Xuân Diệm… không chỉ được đổi bằng sự hy sinh của lớp lớp cán bộ, chiến sĩ mà trong đó có phần xương máu của nhân dân các địa phương.

   Với quyết tâm phải hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trung đoàn giao, góp phần giảm bớt khó khăn của nhân dân vùng giải phóng. Thường vụ Đảng ủy tiểu đoàn xác định: Cấp ủy, chỉ huy các cấp phải động viên mọi cán bộ, chiến sĩ khắc phục khó khăn, yên tâm tư tưởng, tham gia lao động với chất lượng và hiệu quả cao nhất.

   Tiểu đoàn tiến hành phân công và giao nhiệm vụ cho các đơn vị: Đồng chí Duân – chính trị viên đại đội, phụ trách Đại đội 1 giúp nhân dân xã Điện Văn; đồng chí Cũng – đại đội trưởng phụ trách Đại đội 2 về giúp nhân dân xã Điện Thái; đồng chí Phú – đại đội trưởng, phụ trách đại đội 3 giúp nhân dân xã Điện Phước; Ban chỉ huy tiểu đoàn, Đại đội 4 và các phân đội thông tin, trinh sát, hậu cần về xã Điện Thọ.

   Tháng 8.1975, tiểu đoàn hành quân về huyện Điện Bàn đến các xã được phân công các bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn một lần nữa chứng kiến sự tàn khốc, ác liệt của bom đạn Mỹ và sự chịu đựng gian khổ của nhân dân. Dọc đường 100 từ tháp Bàng An (Điện An) đến Phong Thử (Điện Thọ) chỉ thấy lác đác những bóng cây, nhà cửa hầu như không còn. Nhân dân phải dựng lều, căn bạt ở tạm trên nền nhà cũ ngổn ngang đổ nát. Một số gia đình phải ăn, ở dưới những chiếc hầm kèo tránh bom đạn còn lại sau chiến tranh. Nhiều gia đình vừa về lại quê cũ sau thời gian bị ép buộc vào các khu dồn, hoặc tản mác ở các địa phương trong tỉnh.

   Được sự thống nhất của chính quyền địa phương và theo yêu cầu của nhân dân, vừa đến nơi, đơn vị phân công mỗi nhà từ 3 đến 5 chiến sĩ ở để trực tiếp giúp gia đình.

   Sau 5 ngày giúp dân đắp nền chuẩn bị cất nhà, một thực tế đặt ra là một số gia đình không có vật liệu để làm nhà, đời sống quá khó khăn, trong số này chủ yếu là bà con trụ bám lại quê hương trong chiến tranh. Đảng ủy tiểu đoàn phải triệu tập cuộc họp bất thường và hạ quyết tâm: Bằng mọi cách, mọi biện pháp phải có vật liệu để giúp đỡ bà con có nhà ở. Đồng chí Trần Trung Nga – tiểu đoàn phó được phân công phụ trách 50 cán bộ, chiến sĩ của tiểu đoàn, hành quân lên sông Bung, Thạnh Mỹ (nay thuộc huyện Nam Giang) để chặt tre, nứa, kết bè xuôi sông Vu Gia về Điện Thái, phân phối cho các đơn vị. Đồng chí Phạm Xuân Quý – chính trị viên tiểu đoàn phụ trách 30 đồng chí hành quân về 2 xã Điện Phương và Điện Minh vận động nhân dân ủng hộ tre, giúp đồng bào các xã vùng Tây làm nhà (2 xã này ít bị tàn phá trong chiến tranh). Khai thác vật liệu đến đâu, tổ chức vận chuyển ngay trong ngày bằng xe bò, xe kéo. Ngoài, ra căn cứ vào nhiệm vụ, các đại đội chủ động khai thác nguồn tại chỗ, vận động các gia đình có vật liệu ủng hộ.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 18 Tháng Hai, 2013, 11:14:37 am
   Sau khi hoàn thành nhiệm vụ ở các xã vùng Tây, toàn tiểu đoàn hành quân về giúp nhân dân 2 xã Điện Thắng, Điện Hòa là những địa phương cũng rất khó khăn về đời sống. Do vật liệu được khai thác tại chỗ, nên. Trong thời gian 10 ngày đơn vị đã giúp bà con dựng xong 15 căm nhà; đắp được 20 nền nhà khác, giúp nhân dân phát dọn hàng chục ha đất sản xuất.

   Như vậy, sau hơn 2 tháng, tiểu đoàn đã giúp nhân dân các địa phương làm mới 159 căn nhà (trong đó có 50 căn do đơn vị tổ chức lực lượng tìm kiếm vật liệu và vận động nhân dân ở các xã Điện Phương, Điện Minh, Điện Thắng đóng góp) vận chuyển và đắp hàng ngàn khối đất nền nhà, 10.000 cây tre, nứa… Quá trình lao động, các đơn vị đã chủ động phối hợp với địa phương tổ chức hàng chục đêm sinh hoạt giao lưu văn hoă, văn nghệ với thanh niên địa phương.

   Kết thúc đợt công tác, về lại đơn vị, tiểu đoàn đã tổ chức tổng kết, rút kinh nghiệm; biểu dương khen thưởng các tập thể và cá nhân đã chủ động, sáng tạo và có nhiều cố gắng trong lao động giúp dân. Về tập thể có Đại đội 1, Đại đội 3; cá nhân có các đồng chí: Trần Trung Nga – Tiểu đoàn phó; Lê Anh Duân – Chính trị viên Đại đội 1; đồng chí Kiên – Chính trị viên Đại đội 3; đồng chí Lê Thành Huynh – Trung đội trưởng Đại đội 2; đồng chí Hồi – Trung đội trưởng Đại đội 3 và 46 chiến sĩ trong tiểu đoàn.

   Kết quả đợt công tác này tuy chưa lớn, nhưng góp phần đáng kể giúp nhân dân các địa phương giảm bớt một phần khó khăn, tạo điều kiện để nhân dân nhanh chóng ổn định cuộc sống, sau những năm dài gian khổ đưới chế độ Mỹ - Ngụy. Một lần nữa tiểu đoàn đã ghi tiếp vào truyền thống của mình những thành tích mới, thành tích của “đội quân công tác”. Một trong ba nhiệm vụ lớn mà Đảng và Quân đội đã giao cho.

*
*   *

   Tháng 01.1976, Trung đoàn 96 được Quân khu điều về đứng chân ở Chu Lai (Núi Thành) để nhận nhiệm vụ làm kinh tế. Tiểu đoàn bộ binh 1 được tách ra trực thuộc Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng, tiếp tục xây dựng, huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu.

   Tiểu đoàn về đứng chân tại đơn vị 1 Quảng Trị (thay Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 96), quân số trên 400 đồng chí, đội ngũ cán bộ tiểu đoàn, đại đội có sự thay đổi. Đồng chí Đinh Phước Châu được trên điều về làm chính trị viên phó tiểu đoàn, đồng chí Võ Thành Nhơn, giữ chức Đại đội trưởng Đại đội 1 (thay đồng chí Đường), đồng chí Hoàng Kiến Minh (thay đồng chí Ngọc đi học), giữ chức chính trị viên Đại đội 2. Năm 1976, đồng chí Trần Trung Nga – Tiểu đoàn phó được giải quyết chính sách, đồng chí Nguyễn Hữu Duyên về thay, Đại đội 1 đồng chí Phạm Thanh Mai về thay đồng chí Võ Thành Nhơn – Đại đội trưởng.

   Trong các năm từ 1976 – 1978 được sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Đảng ủy – Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng, cùng với sự chủ động sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ huy của cấp ủy và người chỉ huy các cấp của tiểu đoàn; đồng thời chú trọng tổng kết rút kinh nghiệm và liên tục phát động các phong trào thi đua như: “Nếp sống đẹp, kỷ luật nghiêm”, “chăn vuông góc, tóc ba phân”, “quân phục chỉnh tề, đi, về báo cáo”, “Nhìn quân kỷ biết tác phong”,v.v… Vì vậy, Tiểu đoàn bộ binh 1 luôn là đơn vị dẫn đầu trong phong trào thi đua quyết thắng của các lực lượng vũ trang Quảng Nam – Đà Nẵng; Năm 1976, được Quân khu đánh giá là đơn vị có ý thức tổ chức kỷ luật, ý thức sẵn sàng chiến đấu và chấp hành điều lệnh nhất Quân khu. Trong hai năm 1977 – 1978, tiểu đoàn được Cục chính trị Quân khu khen thưởng đơn vị dẫn đầu phong trào Đoàn. Đồng chí Nguyễn Thành Đức – Chính trị viên phó (Đại đội 2) đi báo cáo kết quả xây dựng chi đoàn ở Đại đội tại Trường quân chính Quân khu 5 (1977), báo cáo kinh nghiệm tiến hành công tác Đảng – công tác chính trị ở Đại đội bộ binh (1978). Với những thành tích đó, tiểu đoàn được đồng chí Huỳnh Hữu Anh – Phó tư lệnh Quân khu, hai lần về kiểm tra thực tế và khen ngợi. Mồng 1 tết (1977) một lần nữa tiểu đoàn được đón Đại tướng Võ Nguyên Giáp về thăm. Đại tướng đã khen ngợi: Các đồng chí có thành tích trong xây dựng, huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu, cán bộ, chiến sĩ chấp hành nghiêm, đội ngũ cán bộ vững vàng… cần tiếp tục phát huy.

*
*   *


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 18 Tháng Hai, 2013, 11:15:55 am

   II- TỔ QUỐC GỌI, TIỂU ĐOÀN LÊN ĐƯỜNG CHIẾN ĐẤU BẢO VỆ BIÊN GIỚI TÂY NAM VÀ LÀM NGHĨA VỤ QUỐC TẾ:


   1- Tham gia cuộc tổng tiến công giải phóng hoàn toàn Cam pu chia:

   Ngày 30.04.1975, miền Nam hoàn toàn được giải phóng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta bước vào một kỷ nguyên mới: Độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên xây dựng CNXH. Nhiệm vụ trước mắt của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta lúc này là tập trung hàn gắn vết thương chiến tranh, nhanh chóng khôi phục sản xuất và phát triển kinh tế… Nhưng cũng trong thời điểm này đất nước ta lại đứng trước nguy cơ một cuộc chiến tranh mới: Cuộc chiến tranh xâm lấn biên giới Tây Nam Tổ quốc do tập đoàn phản động Pôn Pốt – Iêng xa – ry gây ra.

   Ngay từ đầu năm 1977, Khơ me đỏ (Pôn – Pốt) đã tăng cường lực lượng quân sự, áp sát biên giới Tây Nam, tiến hành hàng loạt hoạt động gây hấn, xâm lấn lãnh thổ nước ta với quy mô ngày càng lớn.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 20 Tháng Hai, 2013, 02:26:22 pm

   Chấp hành chỉ thị của Quân ủy Trung ương và mệnh lệnh của Bộ quốc phòng, lực lượng vũ trang các Quân khu phía Nam đã tổ chức lực lượng tại chỗ chiến đấu ngăn chặn địch khiêu khích, lấn chiếm biên giới, kết hợp vowischinsh quyền địa phương đấu tranh để giải quyết tranh chấp biên giới bằng thương lượng hòa bình… Mặt khác, Bộ quốc phòng đã kịp thời tổ chức lực lượng, điều chỉnh đội hinh một số đơn vị theo thế chiến lược mới.

   Đầu tháng 12 năm 1978, thực hiện chỉ thị của Tư lệnh Quân khu 5, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng giao nhiệm vụ tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam và làm nghĩa vụ quốc tế ở Cam pu chia.

   Biên chế, tổ chức của tiểu đoàn đến thời điểm này gồm: 3 đại đội bộ binh (1, 2, 3, tiểu đoàn có 5 chi bộ, có chi ủy) và Đại đội 4 trợ chiến, tiểu đội trinh sát, trung đội thông tin và tiểu đoàn bộ. Quân số tiểu đoàn hơn 600 đồng chí. Đồng chí Lê Ngọc Bảy – tiểu đoàn trưởng; đồng chí Phạm Xuân Quý – chính trị viên; Phạm Ngọc Huân – tiểu đoàn phó sau đó đồng chí Trần Dung về thay, đồng chí Nguyễn Thành Đức – Chính trị viên phó Đại đội 2, được bổ nhiệm chính trị viên phó Tiểu đoàn.

   Về tổ chức Đảng và đội ngũ Đảng viên, toàn tiểu đoàn có 5 chi bộ, trong đó có 4 chi bộ đại đội, 1 chi bộ tiểu đoàn bộ, chi bộ có chi ủy 5. Tổng số Đảng viên của tiểu đoàn có 50, chiếm tỷ lệ lãnh đạo 8,7%.

   Trong năm 1978, tình hình mọi mặt của đơn vị chưa thật sự ổn định, quân số biến động nhiều, phần lớn chiến sĩ mới nhập ngũ tháng 8 năm 1978 là sinh viên năm thứ hai Đại học bách khoa Đà Nẵng và nhân viên thuộc các cơ quan doanh nghiệp Nhà nước, trong khi đó một số cán bộ, chiến sĩ có biểu hiện chưa an tâm tư tưởng. Tình hình trên ảnh hưởng nhất định đến chất lượng của đơn vị.

   Quán triệt nhiệm vụ trên giao. Đảng ủy tiểu đoàn ra nghị quyết chuyên đề lãnh đạo đơn vị, tập trung làm rõ mặt mạnh cơ bản của tiểu đoàn: Đội ngũ cán bộ hầu hết đã trải qua chiến đấu và sẵn sàng nhận nhiệm vụ, số chiến sĩ mới có trình độ học vấn được huấn luyện khá cơ bản…., những mặt yếu của đơn vị không lớn, có thể nhanh chóng khắc phục trong thời gian ngắn. Đảng ủy xác định, được trên giao nhiệm vụ tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc là vinh dự và trách nhiệm của tiểu đoàn. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ dù phải chiến đấu trong điều kiện khó khăn, gian khổ, nhiều mất mát hy sinh, nhưng tiểu đoàn vẫn xuất sắc vượt qua và trở thành đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Ngày nay, đất nước thống nhất, cả nước là hậu phương; tiểu đoàn được sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng ủy – BCH quân sự tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng, sự giúp đỡ, tạo điều kiện cho cấp ủy, chính quyền các ban ngành, đoàn thể, địa phương, do vậy, đơn vị có đủ điều kiện để hoàn thành tốt nhiệm vụ trên giao.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 20 Tháng Hai, 2013, 02:26:43 pm

   Sau khi kiện toàn, củng cố về tổ chức, biên chế, triển khai huấn luyện bổ sung, tiểu đoàn đã cơ bản hoàn thành công tác chuẩn bị, sẵn sàng lên đường nhận nhiệm vụ mới.

    Ngày 13.12.1978, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng tổ chức buổi lễ xuất quân cho Tiểu đoàn bộ binh 1, ngay tại doanh trại của tiểu đoàn. Đến dự, ngoài các đồng chí trong Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, đại diện các Phòng – Ban thuộc Bộ chỉ huy, còn có đồng chí Trần Quang Hải – Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy tiền phương tỉnh, đại diện các cơ quan của tiền phương có: đồng chí Nguyễn Lưu (chính trị), Nguyễn Thanh Hồng (Hậu cần), đồng chí Nguyễn Thanh Ngũ (Tham mưu). Ngoài ra, đơn vị được đón đồng chí Phạm Đức Nam – Chủ tích UBND tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng, đồng chí Nguyễn Thị Thanh – Chủ tịch Hội liên hiệp Phụ nữ tỉnh, cùng lãnh đạo một số Ban, ngành đến dự. Phát biểu trong buổi lễ xuất quân, đồng chí Phạm Đức Nam căn dặn: Tiểu đoàn bộ binh 1 vinh dự được chọn đại diện cho quân và dân Quảng Nam – Đà Nẵng đi chiến đấu bảo vệ biên giới Tổ quốc và làm nghĩa vụ Quốc tế. Cấp ủy, chỉnh quyền và nhân dân trong tỉnh tin tưởng tiểu đoàn sẽ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, xứng đáng với quê hương Quảng  Nam – Đà Nẵng và Tiểu đoàn R20 Anh hùng.

   Đúng 8 giờ sáng ngày 13.12.1978, toàn đơn vị xuất phát bằng xe cơ giới. Sau gần 2 ngày hành quân đến 15 giờ ngày 14.12, toàn tiểu đoàn đã có mặt ở vị trí tập kết Tây ngầm Ô đa đao, triển khai đội hình và tiến hành đào công sự, sẵn sàng chiến đấu.

   Từ ngày 26 đến ngày 30.12.1978, Tiểu đoàn bộ binh 1 được giao nhiệm vụ chốt đường, tổ chức bám và truy quét địch trên các khu vực dọc theo trục đường 19, tạo điều kiện cho các lực lượng của Quân khu phát triển lên hướng Tây.

   Ngày 28.12, trên hướng chủ yếu của Quân khu, Trung đoàn 31 thuộc Sư đoàn 309 được tăng cường 1 tiểu đoàn tăng – thiết giáp, 2 tiểu đoàn pháo 105 ly, 1 tiểu đoàn phòng không, 2 tiểu đoàn ô tô vận tải, 4 lần chiếc máy bay trực thăng làm nhiệm vụ thọc sâu trên hướng chủ yếu của chiến dịch, đánh chiếm thị xã Bô Keo và tiếp tục phát triển theo nhiệm vụ trên giao.

   Sáng 28.12, Tiểu đoàn bộ binh 1 được lệnh vừa cơ động, vừa truy quét địch theo trục đường 19 lên bản Bông đến thị xã Bô Keo, thị trấn Von Sai (tỉnh Ra ta na ki ri), 18 giờ ngày 30.12 đơn vị đến đồi Đá, được lệnh dừng lại, triển khai đội hình đi chậm: Đại đội 1, Đại đội 2, tiểu đoàn bộ ở các khu vực Đông Nam đồi Đá 200 m, Đại đội 4 đứng chân ở đồi Đá.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 20 Tháng Hai, 2013, 02:27:04 pm
   Thời điểm này, các đơn vị phía trước của tiền phương Quân khu đã cơ động đến cầu Sê Rê Pốc, do cầu bị địch đánh sập, đội hình dừng lại chờ trung đoàn công binh sửa chữa và dùng phà đưa bộ đội qua sông, phát triển theo trục đường 19 đánh chiếm thị xã Stung treng. Tiểu đoàn bộ binh 1 tiếp tục tạm dừng ở khu vực đồi Đá.

   Từ ngày 31.12.1978 đến ngày 5.1.1979 Bộ chỉ huy tiền phương tỉnh giao nhiệm vụ cho tiểu đoàn tiếp tục chốt đường, làm nhiệm vụ truy quét địch và tiến hành công tác dân vận, địch vận ở các Phum, bản quanh khu vực. Chỉ thị cho đơn vị thực hiện các điều quy định của Quân khu: Khi công tác trên đất Bạn, quân tình nguyện chỉ được hưởng không khí, nước, củi khô, chỉ được nhặt cây làm lán trại. Toàn tiểu đoàn tiến hành học tiếng Khơ me. Trước mắt, cử các đồng chí có trình độ học vấn, có năng khiếu học trước phục vụ cho chỉ huy, chỉ đạo và công tác dân, địch vận.

   Ngày 6.1.1979, các Sư đoàn 307, 309 và các đơn vị khác của Quân khu đã vượt qua ngã ba đường 13, 19 phát triển theo hướng Stung-treng, Prết vi hia.

   Tiểu đoàn rời đồi Đá, tiếp tục vừa cơ động, vừa truy quét địch theo đường 19 đến cầu Sê Rê Pốc.

   Ngày 7.1.1979, bốn tỉnh Đông Bắc Campuchia: Ra ta na ki ri, Môn đô ki ri, Stung-treng, Prết vi hia do Quân khu 5 đảm nhiệm về cơ bản đã đuộc giải phóng, góp phần giải phóng hoàn toàn Campuchia. Chế độ diệt chủng của tập đoàn phản động Pôn - Pốt Iêng Xa - ry sụp đổ.

   16 giờ chiều ngày 7.1.1979, Tiểu đoàn bộ binh 1 cơ động đến cầu Sê rê pốc, được lệnh dừng lại, chốt giữ bảo vệ cầu. Tiểu đoàn nhanh chóng triển khai đội hình, Đại đội 2 vượt qua cầu, cơ động về đứng chân ở bản Chê – rốp; Đại đội 1, Tiểu đoàn bộ, các trung đội thông tin, tiểu đội trinh sát đứng chân ở Tây cầu, Đại đội 3, Đại đội 4 ở lại phía Đông cầu, Tiền phương của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh đứng trong khu vực tiểu đoàn bộ (đến ngày 30.1 về đứng chân ở ngã ba đường 13 – 19), tiểu đoàn bộ di chuyển lên bản Chê Rốp.

   Sau cuộc tổng tiến công, nổi dậy của quân và dân Campuchia (ngày 7.1), dưới sự lãnh đạo của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, được sự giúp đỡ của quân tình nguyện Việt Nam. Tuy chế độ Pôn Pốt sụp đổ, nhưng địch chưa bị tiêu diệt hoàn toàn. Trước sức mạnh của lực lượng ta, nhiều đơn vị địch được lệnh rút chạy để bảo toàn lực lượng, chuyển sang cách đánh du kích, nhỏ lẻ để từng bước tiêu hao lực lượng ta và Bạn. Khi được lệnh rút chạy, địch dùng thủ đoạn vừa tuyên truyền xuyên tạc bôi nhọ quân tình nguyện Việt Nam, vừa ép buộc nhân dân chạy theo chúng, thực hiện “vườn không, nhà trống” gây khó khăn cho công tác vận động quần chúng của bộ đội ta và bạn (Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Cam pu chia).

   Sau ngày Cam pu chia được giải phóng, nhiệm vụ trên giao cho Tiểu đoàn bộ binh 1 là: tuần tra chốt giữ, bảo vệ được 19, tham gia truy quét tàn quân địch, tiến hành công tác dân vận, địch vận, bảo vệ thành quà cách mạng và cuộc sống của nhân dân Campuchia anh em.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 20 Tháng Hai, 2013, 02:27:48 pm

   Thấu suốt nhiệm vụ trên giao, trong hơn 2 tháng tiểu đoàn đã triển khai hàng trăm đợt truy quét địch, cấp đại đội, trung đội, tiểu đội tiêu diệt 3 tên và gọi hàng 50 tên, vận động hàng trăm dân ở các bản Si – ka – lung, Shi – ha – nuk, Sê rê pốc, Chê Rốp trở về bản cũ làm ăn, bảo đảm an toàn đường 19 (đoạn được phân công). Có được kết quả đó, là do tiểu đoàn đã biết kết hợp chặt chẽ giữa tuần tra, truy quét địch với tiến hành công tác dân vận, địch vận, thực hiện nghiêm các quy định của Quân khu, của Tiền phương Bộ chỉ huy khi công tác trên đất Bạn. Mặt khác, cấp ủy, chỉ huy, cán bộ, chiến sĩ các đại đội, phân đội trực thuộc đã nỗ lực cố gắng, không ngại khó khăn, gian khổ, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ: Thể hiện như: Đại đội 2, sau hơn một tháng ở Chế Rốp mặc dù tích cực tuần tra truy quét nhưng chưa đánh được địch, tiểu đoàn trực tiếp giao nhiệm vụ cho đồng chí Mai Xuân Hựu – đại đội trưởng mở đợt truy quét với quyết tâm: không đánh được địch không về, sau đó, đại đội đã tiêu diệt được 3 tên thu 2 súng AK, 1 CKC. Đồng chí Én (Đại đội 1) tuần tra bảo vệ đường 19, phát hiện địch phục kích xe của cơ quan Tiền phương (không phải khu vực đơn vị quản lý) đồng chí bình tĩnh làm công tác sơ cứu thương binh, tự lái xe đưa thương binh về Stung – treng. Hành động của đồng chí Én được Quân khu và Tiền phương Bộ chỉ huy quân sự Quảng Nam – Đà Nẵng khen ngợi. Để có thể tiến hành công tác dân vận, địch vận có hiệu quả, các đồng chí Thắng, đồng chí Nam, đồng chí Biểu được giao nhiệm vụ học tiếng Khơ Me, sau đó hướng dẫn lại cho nhiều đồng chí khác, giúp Tiền phương Bộ chỉ huy và tiểu đoàn khai thác hàng binh địch. Sự nỗ lực, trong công tác vận động nhân dân còn thể hiện ở việc các Đại đội 1, 3, 4 không quản ngại khó khăn, cán bộ, chiến sĩ tích cực bám nắm dân ở ngoài rừng, động viên nhân dân về bản cũ làm ăn.

   Tháng 03.1979, hầu hết các đơn vị chủ lực của Quân khu cơ động lên hướng Chép – Đầm Rây, Prết vi hia tiếp tục đánh địch tháo chạy. Quân khu quyết định tăng cường lực lượng bảo vệ các trục đường huyết mạch, các mục tiêu quan trọng ở Đông Bắc Cam pu chia, đồng thời làm nhiệm vụ giúp bạn lâu dài. Quân khu giao nhiệm vụ cho Tiểu đoàn 1 rút một số cán bộ từ tiểu đoàn đến tiểu đội và những chiến sĩ có thành tích chiến đấu về nước để đi học và tiếp tục xây dựng tiểu đoàn. Số còn lại đề nghị đề bạt, bổ nhiệm, tổ chức biên chế sắp xếp cơ bản đủ một tiểu đoàn để bàn giao cho Quân khu.

   Vì vậy, trên cơ sở Tiểu đoàn bộ binh 1, Trung đoàn 280 được thành lập. Riêng đồng chí Phạm Xuân Quý – Chính trị viên tiểu đoàn được bổ nhiệm Phó chủ nhiệm, sau đó là Chủ nhiệm chính trị trung đoàn.

   Ngày 15.04 đồng chí Lê Ngọc Bảy – Tiểu đoàn trưởng chỉ huy đội hình tiểu đoàn (số được giao nhiệm vụ) về lại Quảng Nam – Đà Nẵng.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 20 Tháng Hai, 2013, 02:29:02 pm

   2- Xây dựng, củng cố đơn vị vững mạnh. Sang Campuchia lần thứ hai, tham gia chiến dịch mùa khô năm 1984 – 1985:

   * Củng cố, kiện toàn đơn vị, huấn luyện sẵn sàng chiến đấu:


   Sau khi hoàn thành nhiệm vụ ở chiến trường Campuchia, mùa hè năm 1979, Tiểu đoàn bộ binh 1 về lại Tổ quốc, được Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng sát nhập vào Núi Thành (Lữ 173) được biên chế gồm: 3 đại đội bộ binh, 1 đại đội hỏa lực, trung đội thông tin, trung đội vận tải, tiểu đội trinh sát và bộ phận phục vụ. Tiểu đoàn tiếp tục đóng quân tại đơn vị 1 Quảng Trị (phường An Khê), đồng chí Lê Ngọc Bảy – Tiểu đoàn trưởng, (đồng chí Bảy đi học, đồng chí Phạm Ngọc Huân đi học, đồng chí Tảo về thay), đồng chí Vũ Văn Lượng – Chính trị viên (năm 1982 đồng chí Khổng Bá Độ về thay), đồng chí Trần Ngọc Thảo – Tiểu đoàn phó chỉ huy các đại đội được sắp xếp đủ theo biên chế.37 Quân số của tiểu đoàn 450 đồng chí.

____________________________

37.    Đại đội 1: Trần Anh Dũng – Đại đội trưởng; Bùi Thế Na – Chính trị viên.

   Đại đội 2: Phạm Quang Hiền – Đại đội trưởng; Bùi Hữ Tuột – Chính trị viên.

   Đại đội 3: Nguyễn Văn Thắng – Đại đội trưởng; Trần Quang Hà – Chính trị viên.

   Đại đội 4: Lê Xuân Sanh – Đại đội trưởng; Bùi Chí Loan – Chính trị viên.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 20 Tháng Hai, 2013, 02:29:29 pm

   Vừa về nước, tiểu đoàn bắt tay vào kiện toàn, củng cố lại tổ chức biên chế và thực hiện nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu. Thời gian đầu đơn vị gặp không ít khó khăn. Đội ngũ cán bộ, chiến sĩ cũ của tiểu đoàn phần lớn được bổ sung cho Trung đoàn 280, tiếp tục làm nhiệm vụ ở Campuchia. Số về nước, nhiều đồng chí được điều động đi học, cho xuất ngũ; Cán bộ các cấp (kể cả tiểu đoàn) thường xuyên thay đổi; Hầu hết chiến sĩ là quân nhân đào ngũ được thu gom. Cơ sở vật chất bảo đảm cho nhiệm vụ huấn luyện, ăn, ở sinh hoạt của bộ đội còn thiếu thốn, xuống cấp.

   Tuy nhiên, được sữ lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy – Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng, trực tiếp là Lữ đoàn 173, tinh thần chủ động, sáng tạo, nỗ lực khắc phục khó khăn, của cán bộ, chiến sĩ, chỉ trong thời gian ngắn tình hình tiểu đoàn dần đi vào ổn định, chất lượng mọi mặt từng bước được nâng lên.

   Từ năm 1980 đến cuối năm 1984 nhiệm vụ chủ yếu trên giao cho tiểu đoàn là: lấy giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng làm chủ yếu; lấy huấn luyện kỹ, chiến thuật từng cá nhân, tiểu đội, trung đội, đại đội, có tổng hợp tiểu đoàn, diễn tập bắn đạn hơi và thuốc nổ làm trọng tâm; lấy huấn luyện điều lệnh đội ngũ và điều lệnh nội vụ, kết hợp với sản xuất tự túc 3 tháng lương thực cho tiểu đoàn làm trọng điểm và yêu cầu: Tiểu đoàn phải tập trung nâng cao chất lượng huấn luyện, xây dựng đơn vị theo hướng chính quy, sẵn sàng chiến đấu cao. Phối hợp với các lực lượng liên quan, giữ vững an ninh – chính trị trên địa bàn.

   Để hoàn thành nhiệm vụ, nghị quyết của Đảng ủy tiểu đoàn từng tháng tập trung lãnh đạo khắc phục những khâu yếu, mặt yếu, tìm ra các biện pháp để nâng cao chất lượng các mặt công tác, nhất là các mặt công tác chủ yếu, quan trọng. Tiểu đoàn đã quyết định xây dựng Đại đội 2 làm điểm, Đại đội 1 là đơn vị đột phá, trên cơ sở đó xây dựng toàn tiểu đoàn vững mạnh toàn diện, đáp ứng yêu cầu đơn vị điểm của Lữ đoàn 173.

   Hằng năm trong công tác huấn luyện, tiểu đoàn luôn bám vào phương châm “Cơ bản, thiết thực, vững chắc”. Tập trung huấn luyện, kỹ thuật bộ binh, binh khí, huấn luyện chiến thuật. Kết hợp huấn luyện theo chương trình quy định với huấn luyện bổ sung theo yêu cầu nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu. Đặc biệt tiểu đoàn chú trọng huấn luyện kết hợp với diễn tập. Tháng 12 năm 1979, tiểu đoàn tổ chức diễn tập: Tiểu đoàn bộ binh tiến công đánh địch đổ bộ đường biển ở xã Hòa Hải và xã Điện Dương (Điện Bàn) có bắn đạn thật và sử dụng thuốc nổ. Năm 1980, diễn tập tiểu đoàn bộ binh tiến công đánh địch đổ bộ đường không, ở thôn Bích Bắc và thôn Hà Đông (Điện Hòa – Điện Bàn).


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 20 Tháng Hai, 2013, 02:30:49 pm
   Kết quả công tác huấn luyện, diễn tập, sẵn sàng chiến đấu, suốt 4 năm tiểu đoàn luôn là đơn vị dẫn đầu của lực lượng vũ trang Quảng Nam – Đà Nẵng.

   Song song với nhiệm vụ huấn luyện, xây dựng đơn vị, xuất phát từ đặc điểm tình hình, nhiệm vụ trên giao. Tiểu đoàn coi trọng tiến hành công tác Đảng – công tác chính trị, kết hợp chặt chẽ giữa công tác tư tưởng và tổ chức, không ngừng giáo dục về bản chất truyền thống của quân đội, của đơn vị, quê hương, qua đó nâng cao nhận thức chính trị, ý thức cảnh giác, tình cảm, trách nhiệm, cho cán bộ, chiến sĩ, đặc biệt là chiến sĩ mới thu gom, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.

   Công tác hậu cần, kỹ thuật được triển khai tích cực. Tiểu đoàn thường xuyên phát động phong trào tăng gia sản xuất, chăn nuôi quanh bếp, quanh vườn, đồng thời tổ chức lực lượng tích cực lao động mở rộng khu sản xuất của đơn vị ở Phước Hà (Tiên Phước – Quảng Nam) đến cuối năm 1984 khu sản xuất có 20 ha trồng lúa nước, đậu phụng, ngô, khoai lang.v.v… đàn bò trên 50 con, đàn heo 100 con. Về cơ bản đơn vị tự bảo đảm lương thực được 3 tháng lương thực theo quy định của trên, góp phần giảm bớt khó khăn cho quân đội.

(http://farm9.staticflickr.com/8365/8491799000_a4c5fbbc45_z.jpg) (http://www.flickr.com/photos/90883775@N03/8491799000/)
 (http://www.flickr.com/photos/90883775@N03/8491799000/)

(http://farm9.staticflickr.com/8096/8491798948_d16b5776d7_z.jpg) (http://www.flickr.com/photos/90883775@N03/8491798948/)
 (http://www.flickr.com/photos/90883775@N03/8491798948/)

(http://farm9.staticflickr.com/8247/8490698549_bf908bbbf3_z.jpg) (http://www.flickr.com/photos/90883775@N03/8490698549/)
 (http://www.flickr.com/photos/90883775@N03/8490698549/)

(http://farm9.staticflickr.com/8094/8490698481_34594cd6fe_z.jpg) (http://www.flickr.com/photos/90883775@N03/8490698481/)
 (http://www.flickr.com/photos/90883775@N03/8490698481/)


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 21 Tháng Hai, 2013, 09:12:08 am

   * Tham gia chiến dịch mùa khô 1984 – 1985 trên chiến trường Cam pu chia:

   Bước vào mùa khô năm 1984 – 1985, Đảng – Nhà nước Cộng hòa nhân dân Campuchia chủ trương: Mở chiến dịch trên toàn lãnh thổ, phối hợp với quân tình nguyện Việt Nam tiến công quét sạch toàn bộ các căn cứ địch trên tuyến biên giới. Đồng thời huy động sức mạnh tổng hợp của nhân dân, của lực lượng vũ trang xây dựng tuyến phòng thủ biên giới, làm cơ sở để bảo vệ chủ quyền đất nước, chống lại mọi kẻ thù từ bên ngoài xâm nhập.

   Trước tình hình trên, để tăng cường lực lượng tham gia chiến dịch, hoàn thành các mục tiêu đảm nhiệm. Quân khu 5 giao nhiệm vụ cho Bộ chỉ huy quân sự các tỉnh, nhanh chóng chọn các đơn vị thuộc quyền có bề dày thành tích trong chiến đấu tham gia làm nghĩa vụ Quốc tế.

   Chấp hành chỉ thị của Quân khu; Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng quyết định chọn Tiểu đoàn bộ binh 1 (Lữ 173).

   Theo quyết định điều động, tháng 06.1984 Tiểu đoàn 96 (BCHQS tỉnh Phú Khánh), Tiểu đoàn 50 (BCHQS tỉnh Nghĩa Bình), Tiểu đoàn bộ binh 1 (BCHQS tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng) được biên chế vào Trung đoàn 3 (Sư đoàn 859). Tuy nhiên, quá trình củng cố tổ chức biên chế, các tỉnh phải chịu trách nhiệm xây dựng về mọi mặt.

   Như vậy, sau 5 năm (1979 – 1984) từ chiến trường Campuchia về nước làm nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, lần thứ hai Tiểu đoàn 1 anh hùng được chọn sang Campuchia làm nghĩa vụ quốc tế.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 21 Tháng Hai, 2013, 09:12:58 am

   Biên chế, tổ chức của Tiểu đoàn thời gian này gồm: Tiểu đoàn bộ, 3 đại đội (1, 2 và 4), trung đội thông tin, tiểu đội trinh sát, trung đội vận tải. Quân số tiểu đoàn 370 đồng chí; Đảng bộ có 4 chi bộ gồm: 30 đảng viên, tỉ lệ lãnh đạo 8,7%; Đảng ủy tiểu đoàn 7 đồng chí.

   Ban chỉ huy tiểu đoàn có đồng chí Phạm Ngọc Huân – tiểu đoàn trưởng, Khổng Bá Độ - phó tiểu đoàn trưởng về chính trị, Nguyễn Hạnh Kiểm – phó tiểu đoàn trưởng quân sự. Các đại đội được sắp xếp đủ theo biên chế. (38)

   Nhận nhiệm vụ lần này, so với trước tiểu đoàn có những thuận lợi: Cán bộ, chiến sĩ đã được huấn luyện tương đối cơ bản các hình thức chiến thuật, kỹ thuật… Một số cán bộ đã có kinh nghiệm chiến đấu ở chiến trường Campuchia. Tuy vậy, đơn vị cũng gặp nhiều khó khăn, một số cán bộ, chiến sĩ chưa thật sự an tâm tư tưởng, chưa sẵn sàng nhận nhiệm vụ, hiện tượng thiếu ý thức kỷ luật như: phát ngôn thiếu xây dựng, tự động bỏ về nhà, bỏ sinh hoạt diễn ra nhiều… Điều đáng lo ngại là một số cán bộ (có cả cán bộ tiểu đoàn) chưa gương mẫu trong công tác sinh hoạt. Trong khi đó đồng chí tiểu đoàn trưởng và một số trợ lý đi chuẩn bị chiến trường ở Campuchia. Hạn chế có tính chất phổ biến của chiến sĩ đơn vị là ngại gian khổ, hy sinh.

_______________________

38.    Đại đội 1: Nguyễn Thành Công – Đại đội trưởng; Thái Bá Tiến – Phó đại đội trưởng chính trị; Hồ Công Tuấn – Phó đại đội trưởng quân sự.

   Đại đội 2: Phạm Thanh Ba – Đại đội trưởng; Nguyễn Văn Hạnh – Phó đại đội trưởng chính trị; Phan Quang Trung – Phó đại đội trưởng quân sự.

   Đại đội 4 (Hỏa lực): Phạm Thành Trung – Đại đội trưởng; Lê Thanh Tâm – Phó đại đội trưởng chính trị; Vũ Thanh Tâm – Phó đại đội trưởng quân sự.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 21 Tháng Hai, 2013, 09:13:23 am

   Trước tình hình trên, Thường vụ Đảng ủy – Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, Lữ 173 phối hợp với Trung đoàn 3 (F859) tập trung chỉ đạo công tác giáo dục chính trị, phát huy dân chủ, đồng thời đích thân các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy của tỉnh, của Lữ đoàn trực tiếp xuống cùng ăn, cùng ở, cùng sinh hoạt với đơn vị, qua đó tìm hiểu tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của cán bộ, chiến sĩ, để có biện pháp tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc.

   Sau khi nghiên cứu kỹ tình hình đơn vị, trên đã quyết định điều động đồng chí Lê Văn Thắng về giữ chức tiểu đoàn trưởng (thay đồng chí Phạm Ngọc Huân đang đi chuẩn bị chiến trường. Sau đó đồng chí Huân được điều về làm trợ lý tác chiến Trung đoàn 3); đồng chí Lương Mai Công – thượng úy về thay đồng chí Khổng Bá Độ, giữ chức tiểu đoàn phó chính trị. Đồng thời cử tổ phái viên của Bộ chỉ huy gồm 4 đồng chí: đồng chí Trần Phước Hà (phái viên quân sự), Hoàng Kiến Minh (phái viên chính trị), Trương Văn Hảo (phái viên hậu cần), Lương Văn Duyên (phái viên kỹ thuật).

   Theo chỉ thị của Quân khu, đúng 4 giờ sáng ngày 20.12.1984, trong đội hình Trung đoàn 3 (Sư đoàn 859) tiểu đoàn hành quân đi Campuchia.

   Đội hình hành quân bằng xe cơ giới, theo thứ tự: Tiểu đoàn bộ binh 1 trước, tiếp đến là Trung đoàn bộ, Tiểu đoàn 50 và đi cuối cùng là Tiểu đoàn 96.

   18 giờ ngày 20.12, Trung đoàn 3 vượt ngầm Ô đa đao (đi đầu vẫn là Tiểu đoàn bộ binh 1) đội hình nghỉ đêm tại Trạm 5.

   18 giờ ngày 21.12, tiểu đoàn hành quân đến ngã Ba (đường 13 – 19) đơn vị tạm dừng và triển khai đội hình cách Nam ngã Ba đường (hướng đi Kra chê) 300 m để nghỉ lại.

   7 giờ sáng ngày 22.12, tiểu đoàn được lệnh hành quân bộ theo dudwonwgf 13 đi Stung Treng; Tối cùng ngày đến Tha La và triển khai ngủ qua đêm.

   8 giờ sáng ngày 23.12, Tiểu đoàn tiếp tục hành quan bằng xe cơ giới của Quân khu đi Prết vi hia; 17 giờ đơn vị có mặt tại Tà Ben.

   Sáng ngày 24.12, Tiểu đoàn bộ binh 1 được phối thuộc cho Sư đoàn 307 và nhận lệnh cơ động về núi Cụt, sẵn sàng chi viện cho Trung đoàn 95 (Sư đoàn 307). 14 giờ chiều ngày 24.12, toàn tiểu đoàn đến Đông núi Cụt 3 km (Đông Nam 547), sư đoàn ra lệnh tạm dừng, triển khai đào công sự, sẵn sàng nhận nhiệm vụ.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 21 Tháng Hai, 2013, 09:13:53 am

   Đầu năm 1985, chiến dịch mùa khô 1984 – 1985, trên toàn chiến trường, bước vào giai đoạn khốc liệt. Ở mặt trận 579, các Sư đoàn 307, 315, Sư đoàn 2, Tiểu đoàn đặc công 409 đã đồng loạt tiến công đánh chiếm các căn cứ của địch dọc theo biên giới Campuchia từ giáp tỉnh Xiêm – Riệp đến Ba Biên.

   Trong thời gian này Tiểu đoàn 1 được giao nhiệm vụ cơ động về đứng gần đông điểm cao 547, chốt chặn, ngăn không cho địch tháo chạy từ biên giới vào nội địa, đồng thời Tiểu đoàn sẵn sàng nhận nhiệm vụ chi viện cho các hướng.

   Cuối tháng 2/1985, Tiểu đoàn được giao nhiệm vụ về lại đội hình Trung đoàn 3 đứng chân tại khu vực Trung đoàn 29 (Sư đoàn 307), có nhiệm vụ thay thế Tiểu đoàn 96 (Trung đoàn 3) chốt chặn địch theo trục đường 30, ngăn chặn không cho địch vận chuyển vũ khí, trang bị từ đất Thái Lan vào sâu trong nội địa Cam pu chia; kiên quyết chia cắt địch từ trong nội địa (các căn cứ lõm) với hậu phương của chúng trên đất Thái Lan.

   Quá trình thực hiện nhiệm vụ, tiểu đoàn vừa triển khai huấn luyện bổ sung cho đơn vị, đồng thời tổ chức lực lượng cùng Trung đoàn 95 (Sư đoàn 307) đi trinh sát chuẩn bị tham gia chiến dịch K3.

   Cuối tháng 3.1985, trong chiến dịch K3, tiểu đoàn được giao nhiệm vụ phối thuộc với Sư đoàn 307, cùng với Trung đoàn 95 hợp vây diệt địch tại các khu vực Tây, Tây Nam các điểm cao 547, 288… thu được một số vũ khí trang bị của địch.

   Với những thành tích đạt được trong chiến dịch mùa khô 1984 – 1985, tiểu đoàn vinh dự được Bộ tư lệnh Quân khu 5 tặng cờ “Đánh nhanh diệt gọn” hậu cứ quân địch. Bộ quốc phòng nước Cộng hòa nhân dân Campuchia tặng cờ “Liên sinh đoàn kết chiến đấu và chiến thắng, hoàn thành nhiệm vụ quốc tế cao cả”.

   Tháng 05.1985 đơn vị theo Binh đoàn 52 về lại Tổ quốc.

*
*   *


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 21 Tháng Hai, 2013, 09:14:22 am

   Hoàn thành nghĩa vụ Quốc tế ở Campuchia. Về lại đất nước, Tiểu đoàn bộ binh 1 vẫn đứng trong đội hình Lữ đoàn 173 và tiếp tục đóng quân tại phường An Khê. Tiểu đoàn đã nhanh chóng củng cố, kiện toàn tổ chức biên chế, củng cố nơi ăn, ở. Tập trung xây dựng, huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, tăng cường công tác Đảng – công tác chính trị, trong đó thực sự coi trọng công tác tư tưởng, tổ chức. Xây dựng đơn vị vững mạnh theo hướng chính quy, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

   Do yêu cầu của tình hình, tháng 6.1986, Trung đoàn 971 được thành lập, Tiểu đoàn bộ binh 1 về trực thuộc trung đoàn. Tổ chức biên chế của tiểu đoàn theo loại hình tiểu đoàn thiếu, bao gồm: Tiểu đoàn bộ, Đại đội 1 đủ quân, 3 đại đội (2, 3 và 4) thành khung thường trực. Đồng chí Phạm Thành Trung được phân công phụ trách. Tháng 04.1987, đồng chí Nguyễn Thành Công về giữ chức Tiểu đoàn trưởng, đồng chí Đinh Hữu Thu làm Phó tiểu đoàn trưởng về chính trị. Tháng 12.1988, đồng chí Nguyễn Thành Công được bổ nhiệm Phó trung đoàn trưởng – Tham mưu trưởng Trung đoàn 971, đồng chí Phạm Thành Trung được bổ nhiệm Tiểu đoàn trưởng. Nhiệm vụ của tiểu đoàn có sự thay đổi: Ngoài huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu; phải tiến hành đăng ký, quản lý, huấn luyện quân dự bị động viên trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

   Từ năm 1988 đến năm 1996 tiểu đoàn được tổ chức thành khung thường trực, không có tiểu đoàn bộ và các đại đội (năm 1993 đồng chí Trung nghỉ hưu, đồng chí Phan Văn Tuân về thay.
*
*   *


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 21 Tháng Hai, 2013, 11:07:42 am

   III- XÂY DỰNG ĐƠN VỊ CHÍNH QUY, TINH NHUỆ, VỮNG MẠNH MỌI MẶT, SẴN SÀNG CƠ ĐỘNG CHIẾN ĐẤU, GÓP PHẦN BẢO VỆ TÌNH HÌNH AN NINH – CHÍNH TRỊ, TRẬT TỰ XÃ HỘI, THAM GIA CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG.


   1- Ổn định tổ chức biên chế, xây dựng đơn vị về mọi mặt, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ:

   Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa IX (1996) nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra nghị quyết tách Đà Nẵng – Hòa Vang ra khỏi tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng thành đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương. Đây là mốc lịch sử quan trọng đối với Đảng bộ, nhân dân và các lực lượng vũ trang thành phố, là thời cơ thuận lợi để Đà Nẵng xây dựng, phát triển ngang tầm với vị trí trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng – an ninh của khu vực miền Trung và Tây Nguyên. Sau khi chia tách, bộ máy lãnh đạo, chỉ đạo từ Thành phố xuống cơ sở nhanh chóng được hình thành, từng bước ổn định, đi vào hoạt động theo chức năng, quyền hạn được quy định của Hiến pháp Nhà nước.

   Tháng 01.1997, thực hiện quyết định của Bộ quốc phòng, Quân khu 5, các lực lượng vũ trang thành phố Đà Nẵng được tổ chức biên chế và hoạt động theo đơn vị hành chính mới.

   Lực lượng vũ trang thành phố được tổ chức lại bao gồm: Bộ chỉ huy quân sự thành phố và 4 cơ quan, các địa phương đơn vị trực thuộc (Ban chỉ huy quân sự 6 quận, huyện, Trường Quân sự địa phương, Trung đoàn 971 KTT, Tiểu đoàn Tăng – Thiết giáp 699, Tiểu đoàn bộ binh 1, Đại đội thông tin, Đại đội trinh sát, Đại đội công binh và một số phân đội.

   Tiểu đoàn bộ binh 1 được quyết định tách khỏi đội hình Trung đoàn 971 trực thuộc Bộ chỉ huy quân sự Thành phố, về tiếp quản doanh trại của Tiểu đoàn 72 (Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng, Tiểu đoàn 72 về trực thuộc Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Nam), đứng chân ở phường Thọ Quang (Quận Sơn Trà) có nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu và cơ động làm nhiệm vụ A2 khi có lệnh.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 21 Tháng Hai, 2013, 11:08:14 am

   Về tổ chức biên chế, Tiểu đoàn được tổ chức lại theo loại hình tiểu đoàn có quân gồm: 3 Đại đội (2 đại đội bộ binh, 1 đại đội KTT, tiểu đoàn bộ và các phân đội trực thuộc: Trung đội phục vụ, tiểu đội trinh sát, trung đội cối, trung đội phòng không 12,7 ly, trung đội thông tin).

   Ban chỉ huy tiểu đoàn thời gian này có các đồng chí: Nguyễn Hữu Nghĩa – thiếu tá – tiểu đoàn trưởng, đồng chí Phan Văn Niêm – đại úy – phó tiểu đoàn trưởng về chính trị, đồng chí Nguyễn Duy Thúy – phó tiểu đoàn trưởng.

   Ban chỉ huy các đại đội: Đại đội 1: đồng chí Lê Văn Nhân, đại đội trưởng, Đoàn Văn Toàn – phó đại đội trưởng về chính trị. Đại đội 2: đồng chí Lê  Viết Hùng, đại đội trưởng, Ngô Xuân Lộc – phó đại đội trưởng về chính trị. Đại đội 3: đồng chí Phan Hùng Dũng – Đại đội trưởng (sau 2 tháng đồng chí Tống Phú về thay), đồng chí Nguyễn Thế Đức – Phó đại đội trưởng về chính trị.

   Hơn 10 năm là đơn vị KTT với nhiệm vụ đăng ký, quản lý, huấn luyện quân dự bị động viên, năm 1997 trở thành đơn vị đủ quân. Được Đảng ủy – Bộ chỉ huy quân sự thành phố và các cơ quan Bộ chỉ huy lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, địa phương nơi đóng quân tạo điều kiện, tiểu đoàn 1 có nhiều thuận lợi để ổn định tình hình mọi mặt, nhanh chóng triển khai thực hiện nhiệm vụ. Tuy vậy, khó khăn cũng đặt ra với tiểu đoàn là: Đội ngũ cán bộ còn thiếu, nhất là cán bộ trung đội phần lớn được điều chuyển từ các địa phương đơn vị, kinh nghiệm quản lý, xây dựng, huấn luyện chiến sĩ mới chưa nhiều. Mặt khác chỉ trong 2 tháng vừa củng cố doanh trại, kiện toàn tổ chức biên chế, vừa xây dựng chương trình, chuẩn bị giáo án, mô hình, học cụ để tiếp nhận và huấn luyện chiến sĩ mới. Trong khi đó cơ sở vật chất, thao trường, bãi tập, nơi ăn, ở, sinh hoạt của đơn vị còn thiếu thốn.

   Quán triệt nhiệm vụ trên giao, đánh giá đúng đặc điểm tình hình đơn vị. Đảng ủy – Ban chỉ huy Tiểu đoàn bộ binh 1 xác định: năm 1997 là năm có tính chất bản lề, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong năm là cơ sở để xây dựng đơn vị trong những năm tiếp theo.

   Vì vậy, ngay từ đầu năm 1997, Đảng ủy tiểu đoàn đã tập trung lãnh đạo đơn vị bắt tay ngay vào thực hiện nhiệm vụ, quyết tâm đạt thành tích cao trên tất cả các mặt công tác. Các đại đội, phân đội trực thuộc dấy lên phong trào thi đua sôi nổi hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.

   Trước hết, về công tác quân sự, tiểu đoàn thường xuyên duy trì nghiêm chế độ sẵn sàng chiến đấu, luôn bảo đảm về quân số, vũ khí, trang bị. Xây dựng và luyện tập phương án chiến đấu tại chỗ, phương án A2, phối hợp với địa phương, các lực lượng đứng chân trên địa bàn bảo vệ an ninh- chính trị, trậ tự an toàn xã hội.

   Trong công tác huấn luyện; để nâng cao chất lượng; Tiểu đoàn đã chủ động tổ chức tập huấn cho đội ngũ cán bộ trung đội, đại đội về phương pháp viết giáo án và thực hành huấn luyện. Hướng dẫn chuẩn bị mô hình, học cụ.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 21 Tháng Hai, 2013, 11:08:34 am

   Năm 1997, đơn vị triển khai huấn luyện cho cả 2 đối tượng chiến sĩ cũ và mới, kết quả kiểm tra, đánh giá đều đạt khá. Riêng các phân đội binh chủng: Thông tin, cối 82 ly, ĐKZ, 12,7 ly, trinh sát, được huấn luyện theo sự chỉ đạo, hướng dẫn của chuyên ngành binh chủng Kết quả 100% phân đội đạt yêu cầu, có 85% khá giỏi trở lên, riêng phân đội cối đạt 100% khá giỏi.

   Tiểu đoàn chú trọng tiến hành công tác Đảng, công tác chính trị; Đối với công tác giáo dục, ngoài việc triển khai theo chương trình quy định. Tiểu đoàn giáo dục một số nội dung bổ trợ như: Truyền thống Tiểu đoàn bộ binh 1 (R20), học luật nghĩa vụ quân sự, mời Viện Kiểm sát khu vực 51 báo cáo chuyên đề “Dân chủ, kỷ luật trong quân đội”. Song song với công tác giáo dục, công tác Đảng được thực hiện đúng nguyên tắc, năm 1997 2/3 chi bộ và gần 70% đảng viên được kiểm tra đảng viên chấp hành, phát triển 5 đảng viên mới. Đặc biệt thực hiện chỉ đạo của trên và căn cứ vào tình hình thực tế của đơn vị, ngoài nghị quyết thường kỳ, Đảng ủy đã ra 3 nghị quyết chuyên đề (công tác dân vận; bảo vệ chính trị nội bộ; công tác thanh niên trong tinh hình mới). Kết quả phân tích chất lượng đảng viên và tổ chức cơ sở đảng năm 1997: 96,2 % đảng viên đạt mức 1; 3,8 % đảng viên mức 2. 3/3 chi bộ đạt trong sạch vững mạnh. Đảng bộ đạt trong sạch vững mạnh.

   Trong năm, Tiểu đoàn luôn gắn chặt nhiệm vụ xây dựng đơn vị với tham gia xây dựng cơ sở chính trị ở địa phương nơi đóng quân. Tháng 07.1997, Tiểu đoàn đã hành quân dã ngoại về xã Hòa Liên (Hòa Vang) làm công tác dân vận. Kết quả qua 1 tháng, đơn vị đã vận chuyển được 900 khối đất, đấ đắp nền sân trường cấp 1, sửa chữa 3000 mét đường liên xã, đắp 2 nền nhà mẹ Việt Nam anh hùng, thăm và tặng quà hàng chục gia đình chính sách. Đặc biệt, bằng nguồn tiền huy động trong cán bộ, chiến sĩ và kinh phí hỗ trợ của Bộ chỉ huy, Tiểu đoàn đã xây nhà tình nghĩa cho gia đình liệt sĩ Lê Văn Bảy nguyên là Tiểu đoàn trưởng R20 (ở thôn Quảng Đại, Đại Cường, Đại Lộc) đã hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ; nhận phụng dưỡng 1 mẹ Việt Nam anh hùng, hành động của cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 1 thể hiện đạo lý “Uống nước, nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây” đã thâm sâu vào truyền thống đơn vị. Ngoài ra, trong năm đơn vị đã tham gia hàng trăm công giúp nhân dân phường An Hải Bắc khắc phục hậu quả bão lụt, đóng góp hàng triệu đồng vào quỹ đền ơn, đáp nghĩa của phường Thọ Quang và cho trên.

   Quán triệt quan điểm “Tự lực, tự cường”, chủ động khắc phục khó khăn, tích cực lao động sản xuất, cải thiện đời sống đơn vị. Tiểu đoàn đã động viên cán bộ, chiến sĩ tranh thủ thời gian, phát dọn mở rộng diện tích tăng gia sản xuất, trồng cây ăn quả v.v… Đến cuối năm 1997, đơn vị trồng được 2 ha xoài, thu rau xanh các loại 8687 kg (bình quân một người 12 kg /1 tháng), có đàn bò, heo hàng chục con, đưa vào ăn thêm 500 đồng/ người/ ngày.

   Qua một năm vừa ổn định tổ chức, biên chế, vừa triển khai thực hiện nhiệm vụ xây dựng, huấn luyện chiến sĩ mới và sẵn sàng cơ động theo mệnh lệnh của Bộ chỉ huy quân sự thành phố. Cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn bộ binh 1 đã phát huy truyền thống của Tiểu đoàn R20, không ngại khó khăn, gian khổ, đoàn kết nhất trí, ra sức xây dựng đơn vị về mọi mặt; trong đó, coi trọng thực hiện các nhiệm vụ trung tâm và đạt được nhiều thành tích quan trọng. Trong phong trào thi đua quyết thắng năm 1997, Tiểu đoàn được Hội đồng thi đua Bộ chỉ huy tặng cờ đơn vị dẫn đầu khối Trung, Tiểu đoàn, nhà trường. Các tập thể: Trung đội hậu cần, Trung đội trinh sát. Cá nhân: đồng chí Tống Phú – Đại đội trưởng, Vũ Xuân Nơ – Trợ lý hậu cần tiểu đoàn được tặng bằng khen.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 21 Tháng Hai, 2013, 11:17:23 am

   2- Tập trung xây dựng đơn vị theo hướng chính quy, sẵn sàng chiến đấu cao, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ trên giao:

   Từ năm 1998 đến năm 2005, Tiểu đoàn bộ binh 1 thực hiện nhiệm vụ được giao có nhiều thuận lợi: Thành phố Đà Nẵng sau một năm tách ra trực thuộc Trung ương dần đi vào ổn định và từng bước phát triển, đời sống của các tầng lớp nhân dân và lực lượng vũ trang được cải thiện. Thành tích đạt được trong xây dựng, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu năm 1997 bước đầu tạo nền tảng và động lực để đơn vị phấn đấu trong những năm tiếp theo. Tuy vậy, những tồn tại, thiếu sót, nhất là về năng lực của lãnh đạo, chỉ huy các cấp, chất lượng tổng hợp và khả năng sẵn sàng chiến đấu, xây dựng nề nếp chính quy, chấp hành kỷ luật… đặt ra những yêu cầu mới mà cán bộ, chiến sĩ toàn Tiểu đoàn phải khắc phục vượt qua.

   Bước sang năm 1998 và các năm sau này (1998 – 2005) đội ngũ cán bộ tiểu đoàn có sự thay đổi, đồng chí Đặng Văn Liêm về thay đồng chí Nguyễn Hữu Nghĩa – Tiểu đoàn trưởng (đi học), đồng chí Dương Tấn Ơi thay đồng chí Nguyễn Duy Thủy giữ chức tiểu đoàn phó (cuối năm 1998), đồng chí Huỳnh Bá Thành thay đồng chí Phan Văn Niêm, giữ chức tiểu đoàn phó chính trị (cuối năm 1999), đồng chí Nguyễn Chánh về thay đồng chí Huỳnh Bá Thành (cuối năm 2000) (39).

   Phát huy những kết quả đã đạt được trong năm 1997, từ những năm 1998 – 2005 thưc hiện mục tiêu xây dựng đơn vị theo hướng chính quy, nâng cao chất lượng tổng hợp và khả năng sẵn sàng chiến đấu, Tiểu đoàn đã tập trung lãnh đạo tạo sự chuyển biến rõ rệt trên tất cả các mặt, nổi lên có một số mặt công tác chủ yếu, trung tâm như:

   Đối với nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, tiểu đoàn duy trì thật sự nghiêm túc các chế độ trực chỉ huy, trực ban, trực chiến, tuần tra canh gác. Tiếp tục bổ sung hoàn chỉnh kế hoạch chiến đấu tại chỗ, kế hoạch A2, kế hoạch phòng chống cháy nổ, phòng chống bão lụt. Trên cơ sở các kế hoạch, phương án thường xuyên báo động luyện tập.

   Tiểu đoàn chấp hành và thực hiện đúng tổ chức biên chế của đơn vị, tập trung ưu tiên cho đại đội trực chiến sẵn sàng chiến đấu, thường xuyên bảo đảm quân số 95% trở lên. Tổ chức thâm nhập, tiếp nhận chiến sĩ mới hàng năm bảo đảm chặt chẽ, đúng hướng dẫn, bảo đảm tiêu chuẩn, chất lượng. Việc giáo dục, quản lý chiến sĩ được thực hiện chặt chẽ, chấm dứt tình trạng đào bỏ ngũ. Giải quyết ra quân hàng năm bảo đảm an toàn, đúng thời gian và luật định.

__________________________

39. Năm 2001: Đ/c Dương Tấn Ơi thay đ/c Đặng Văn Liêm; Cuối năm 2004 Đ/c Nguyễn Hữu Bưu thay đ/c Ơi giữ chức Tiểu đoàn trưởng.

     - Đ/c Nguyễn Quốc Kháng giữ chức Phó tiểu đoàn trưởng chính trị (thứ 2). Năm 2003 đ/c Đỗ Thanh Xuân về thay đ/c Nguyễn Chánh giữ chức Tiểu đoàn phó chính trị (thứ 1).



Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 21 Tháng Hai, 2013, 11:32:19 am

   Trong công tác huấn luyện, thường xuyên quán triệt cho cán bộ, chiến sĩ nắm vững phương châm “Cơ bản, thiết thực, vững chắc” các nguyên tắc, quan điểm, các mối kết hợp trong huấn luyện, làm tốt việc thống nhất kế hoạch và tổ chức huấn luyện theo phân cấp, chú trọng khâu bồi dưỡng, nhất là cán bộ tiểu đội, trung đội, trên quan điểm yếu mặt nào kịp thời bồi dưỡng mặt đó. Trước khi bước vào giai đoạn huấn luyện làm tốt công tác chuẩn bị thao trường, học cụ, giáo án, tập huấn cán bộ. Trong huấn luyện kết hợp với rèn luyện hành quân xa, mang vác nặng, huấn luyện sát với thực tế chiến đấu, địa hình, thời tiết. Kết quả kiểm tra hàng năm cả kỹ thuật và chiến thuật tiểu đoàn đều đạt khá, giỏi 75 – 80% trở lên.

   Đối chiếu với mục đích, yếu cầu của nhiệm vụ huấn luyện hàng năm, đơn vị hoàn thành nhiệm vụ ở mức khá, trong đó có nhiều nội dung giữ vững thành tích nhiều năm.

   Trên cơ sở quán triệt và chấp hành nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết của trên về xây dựng nề nếp chính quy, Tiểu đoàn duy trì nghiêm 10 chế độ trong ngày, 3 chế độ trong tuần, thường xuyên kiểm tra chấn chỉnh, rút kinh nghiệm ở từng cấp, trong đó chú trọng việc chấp hành các chế độ quy định, thực hiện chức trách cán bộ và lễ tiết tác phong quân nhân, xưng hô, chào hỏi, quan hệ trên, dưới, xây dựng cảnh quan môi trường… Do vậy, chất lượng xây dựng chính quy ngày càng có sự tiến bộ trưởng thành và đi vào nề nếp, đồng thời Tiểu đoàn chú trọng xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện theo 5 chuẩn. Từng năm, từng giai đoạn; tiểu đoàn, đại đội, trung đội đã cụ thể hóa nội dung xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện ở cấp mình, gắn chặt với lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và xây dựng Đảng bộ, chi bộ trong sạch vững mạnh. Qua kiểm tra của Quân khu và Bộ chỉ huy quân sự thành phố, đơn vị luôn được đánh giá là đơn vị có sự chuyển biến liên tục trong xây dựng chính quy, chấp hành kỷ luật.

   Công tác bảo đảm hậu cần, tăng gia, sản xuất bảo đảm đời sống đã đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện và các nhiệm vụ khác của tiểu đoàn, “phong trào thi đua ngành hậu cần làm theo lời Bác Hồ” được phát động một cách sâu rộng, chỉ tiêu bình quân rau xanh hàng tháng đạt 11,2 kg/ người, chăn nuôi đạt 20 kg thịt/ người/ năm. Ngoài ra đơn vị chủ động tổ chức lao động ngoài giờ, tạo quỹ vốn đưa vào ăn thêm 1116 đồng/ người /ngày. Chất lượng bữa ăn được cải thiện, 100% các bữa ăn sáng đều có sữa đậu nành, bữa ăn trưa – chiều có trái cây, bảo đảm quân số khỏe và không có dịch bệnh xảy ra.

   Qua 7 năm, bếp ăn của tiểu đoàn luôn đạt tiêu chuẩn bếp nuôi quân giỏi, quản lý tốt Công tác bảo đảm nơi ăn ở, sinh hoạt, làm việc, học tập thường xuyên được tu bổ kịp thời.

   Công tác bảo đảm kỹ thuật được tiến hành tốt, tiểu đoàn thường xuyên bảo đảm đủ số lượng, có chất lượng và đồng bộ vũ khí trang bị cho nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện và hoạt động thường xuyên của dơn vị. Quán triệt thực hiện tốt cuộc vận động “Quản lý, khai thác, sử dụng vũ khí trang bị tốt, bền, an toàn tiết kiệm và an toàn giao thông”, duy trì chặt chẽ chế độ lau chùi, bảo quản; luôn bảo đảm đủ hệ số kỹ thuật theo quy định, tránh được tình trạng xuống cấp, hư hỏng. Sử dụng đạn thật, thuốc nổ không để xảy ra mất an toàn.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 21 Tháng Hai, 2013, 02:16:12 pm

   Công tác Đảng – công tác chính trị gắn với thực hiện cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn đảng theo Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII trên mọi lĩnh vực hoạt động trong đơn vị, nâng cao được nhận thức về yêu cầu xây dựng bản lĩnh chính trị, về chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, lãnh đạo tập thể với phân công cá nhân phụ trách, phát huy vai trò của cấp ủy viên, từng tổ chức đảng và ý thức chấp hành kỷ luật, kỷ cương, trau dồi phẩm chất đạo đức lối sống… Qua đó, cán bộ, đảng viên quần chúng đều có nhận thức và hành động đúng, có tinh thần khắc phục khó khăn, có ý chí phấn đấu vươn lên hoàn thành nhiệm vụ chức trách được giao, tình hình chính trị tư tưởng của Đảng bộ thường xuyên được giữ vững ổn định. Đảng bộ duy trì thực hiện nghiêm chế độ phân tích chất lượng đảng viên và tổ chức Đảng, thực hiện tốt công tác Đảng viên, hàng năm Đảng bộ tiểu đoàn phát triển được từ 12 – 15 đảng viên mới.

   Kết quả bình xét tổ chức đảng hàng năm, Đảng bộ tiểu đoàn luôn đạt tiêu chuẩn Trong sạch vững mạnh, trong đó 3 năm liền (2002 – 2004) được Thành ủy Đà Nẵng công nhận là Đảng bộ Trong sạch vững mạnh tiêu biểu của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng.

   Vận động quần chúng là một trong những mặt công tác nổi bật của tiểu đoàn. Trong các năm 1998 đến năm 2004, tiểu đoàn đã hành quân dã ngoại về các xã miền núi như Hòa Phú, Hòa Sơn, Hòa Ninh, Hòa Bắc thuộc huyện Hòa Vang thành phố Đà Nẵng, xã Tư, huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam để làm công tác dân vận; ngoài việc tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện tốt các đường lối chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ của địa phương. Tiểu đoàn tham gia tu sửa và đắp mới hàng chục km đường liên thôn, liên xã; làm mới và sửa chữa 140 nhà, 5600 km kênh mương, xây 23 cống, nạo vét và đào 15 giếng khơi. Khám và chữa bệnh cho hàng ngàn đồng bào, trong đó có 300 đồng bào dân tộc ở các xã Hòa Phú, Hòa Bắc. Đặc biệt năm 1999 lần đầu tiên đơn vị về làm công tác dân vận ở xã Hòa Sơn, địa phương có hơn 80% đồng bào theo các tôn giáo. Sau hơn 1 tháng cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn đã để lại trong lòng nhân dân xứ đạo: Phú Thượng, Phú Hạ, Tùng Sơn, An Ngãi, những tình cảm quân dân tốt đẹp, góp phần xây dựng cơ sở chính trị ở địa phương vững mạnh, vận động nhân dân thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đặc biệt được giao nhiệm vụ kết nghĩa với một số thôn của xã Hòa Sơn, đơn vị đã có nhiều đóng góp nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo và hoạt đọng của cấp ủy Đảng, chính quyền, ban ngành đoàn thể địa phương, góp phần xây dựng chi bộ xã phát triển thành Đảng bộ.

   Với những thành tích đó, từ năm 1997 đến năm 2004 Tiểu đoàn bộ binh 1 được Bộ chỉ huy quân sự, Ủy ban nhân dân thành phố và Bộ tư lệnh Quân khu 5 tặng nhiều bằng khen và cờ thi đua xuất sắc. Đáng kể nhất là năm 1999 tiểu đoàn được UBND thành phố tặng bằng khen vì có thành tích xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ công tác dân vận, vận động quần chúng. Năm 2000 được Ban chỉ đạo phòng chống lụt bão Trung ương tặng bằng khen vì có thành tích tham gia cứu hộ, cứu nạn trong đợt lũ lụt ở miền Trung năm 1999. Năm 2002 được Bộ tư lệnh Quân khu 5 tặng danh hiệu đơn vị Quyết thắng và bằng khen vì có thành tích xuất sắc trong 7 năm thực hiện cuộc vận động “Ngành hậu cần quân đội làm theo lời Bác Hồ dạy” năm 1995 – 2002. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn tặng bằng khen vì đã có thành tích xuất sắc trong công tác phòng cháy, chữa cháy rừng.

*
*   *


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 21 Tháng Hai, 2013, 02:16:43 pm

   Trải qua 30 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành, phát huy truyền thống anh hùng trong kháng chiến. Tiểu đoàn bộ binh 1 đã vượt qua nhiều khó khăn thử thách, tiếp tục hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao trong giai đoạn mới, giai đoạn cả nước thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Xã hội chủ nghĩa.

   Vừa bước ra từ khói lửa của cuộc chiến tranh giải phóng; cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 1 lại hành quân về với chiến trường xưa tham gia lao động giúp nhân dân ổn định cuộc sống sau những năm dài sống dưới ách kèm kẹp của Mỹ - Ngụy.

   Bắt tay vào nhiệm vụ xây dựng, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu chưa được bao lâu, năm 1979, tiểu đoàn nhận nhiệm vụ lên đường chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam Tổ quốc và tham gia vào đội quân tình nguyện Việt Nam góp phần giải phóng đất nước Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng.

   Chưa đầy 5 năm sau đó, năm 1984, một lần nữa đơn vị được lệnh hành quân sang Campuchia, tham gia chiến dịch mùa khô (1984 – 1985) cùng với các đơn vị bạn quét sạch nhiều căn cứ địch dọc theo tuyến biên giới Campuchia – Thái Lan.

   Gần 10 năm đứng trong đội hình Trung đoàn 971 (1986 – 1996) làm nhiệm vụ đăng ký, quản lý, huấn luyện lực lượng dự bị động viên và sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ động viên khi có lệnh. Tiểu đoàn đã đăng ký, quản lý chặt chẽ hàng trăm quân dự bị đang công tác và lao động sản xuất ở các đơn vị, địa phương, cơ quan địa bàn thành phố.

   Từ năm 1997 đến năm 2005, được trực thuộc Bộ chỉ huy quân sự Thành phố Đà Nẵng. Để hoàn thành chức năng là đơn vị chủ yếu của thành phố trong thực hiện nhiệm vụ phòng thủ, góp phần giữ vững an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội, tham gia phòng chống thiên tai. Tiểu đoàn đã ra sức xây dựng đơn vị theo hướng chính quy, tinh nhuệ, không ngừng nâng cao chất lượng về mọi mặt. Nhiều năm được đánh giá là một trong những đơn vị dẫn đầu phong trào thi đua quyết thắng của các lực lượng vũ trang thành phố, của Quân khu.

   Những thành tích mà Tiểu đoàn bộ binh 1đạt được trong 25 năm qua, trước hết là do sự nỗ lực phấn đấu, sự năng động sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ của cấp ủy, chỉ huy các cấp, của cán bộ, chiến sĩ toàn tiểu đoàn. Đồng thời có sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp trên, trực tiếp là Đảng ủy – Bộ chỉ huy quân sự thành phố, và sự giúp đỡ, tạo điều kiện của cấp ủy, chính quyền địa phương.

   Kết quả 30 năm xây dựng, trưởng thành của Tiểu đoàn bộ binh 1 là sự nối tiếp truyền thống kiên cường, dũng cảm của Tiểu đoàn R20 anh hùng, góp phần quan trọng nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang thành phố trong những năm qua.

*
*   *


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 21 Tháng Hai, 2013, 04:17:04 pm

CHƯƠNG NĂM
(Kết luận)

   Trải qua chặng đường 40 năm xây dựng chiến đấu, trưởng thành (19.05.1956 – 19.05.2005). Các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn bộ binh 1 (R20) đã phấn đấu vượt qua muôn ngàn khó khăn, thử thách, hy sinh tổn thất để xây dựng đơn vị, thực hiện hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Quảng Đà trước đây và nay là thành phố Đà Nẵng giao phó. Đặc biệt trong 10 năm (19.05.1965 – 19.05.1975) xây dựng, chiến đấu góp phần đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của quân Mỹ - Ngụy, chư hầu, giải phóng quê hương, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

   Trong những năm tháng đó, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh ủy Quảng Đà (sau là Đặc khu ủy), sự chỉ huy, chỉ đạo của BCH tỉnh đội Quảng Đà (sau là BTL Mặt trận Quảng Đà), sự chi viện, giúp đỡ của các đơn vị, địa phương trên chiến trường Quảng Đà, Quảng Nam, kể cả một số tỉnh, thành ở hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa và sự đùm bọc, nuôi dưỡng của nhân dân ở các địa bàn đứng chân hoạt động, công tác, chiến đấu. Cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn bộ binh 1 (R20) liên tục sử dụng lực lượng, vũ khí trang bị, phối hợp chặt chẽ với các đơn vị, địa phương để tiến công tiêu diệt sinh lực, phá hủy phương tiện chiến tranh, đánh bại các âm mưu, thủ đoạn của Mỹ - Ngụy, lập được nhiều chiến công xuất sắc ở Văn Quật, quán Kiểm Bền, Xuân Diệm, Gò Hà, Bồ Mưng, cầu ông Nở, cây Da Lý, Xuyên Thanh, Trung Lương, Cồn Dầu, ngã tư Quân đoàn 1 Ngụy, Non Nước, Cồn khe, thị trấn Vĩnh Điện, Nam Phước, Đức Dục, An Hòa, Đá Đen, Hòn Bằng, hai lần tiến công vào Đà Nẵng: Xuân Mậu Thân 68 và tổng tiến công nổi dậy mùa xuân 1975.

   Trong 10 năm xây dựng, chiến đấu, Tiểu đoàn bộ binh 1 đã tiến hành hơn 800 trận đánh lớn nhỏ, loại khỏi vòng chiến đấu 10770 tên địch, trong đó có 2250 tên Mỹ, 141 tên lính Nam Triều Tiên, 185 tên sĩ quan, ác ôn, tề điệp, bắt sống hơn 500 tên. Diệt gọn 1 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ, 1 tiểu đoàn biệt kích Nùng, 1 BCH Trung đoàn, 3 chục tiểu đoàn Mỹ - Ngụy, hàng chục mâm Hội đồng, Đoàn bình định, Chi cảnh sát Ngụy.

   Thu gần 1500 súng các loại, 23 máy thông tin và hàng chục tấn đạn dược, quân trang, quân dụng. Bắn cháy và hư hỏng 152 xe quân sự, trong đó có 55 xe tăng, bọc thép, bắn rơi 68 máy bay, san bằng 45 cứ điểm, đồn bót.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 21 Tháng Hai, 2013, 04:20:47 pm

   Những chiến công oanh liệt của Tiểu đoàn bộ binh 1 “R20” trong 10 năm tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước, góp phần to lớn đánh bại các âm mưu, thủ đoạn chiến thuật, chiến dịch, chiến lược chiến tranh của Mỹ - Ngụy, tô đậm truyền thống đấu tranh cách mạng của quân và dân đất Quảng kiên cường, bất khuất, trung dũng, đi đầu diệt Mỹ. Xây dựng nên truyền thống chiến đấu của Tiểu đoàn: “Cơ động, thọc sâu, đánh nhanh, diệt gọn”, được Nhà nước tuyên dương danh hiệu đơn vị: Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân từ cuối năm 1973 và được tặng nhiều Huân chương, cờ thi đua quyết thắng, cờ thành đồng quyết thắng, danh hiệu: “Tiểu đoàn An-giê-ri chiến thắng” (40). Hai cá nhân: Liệt sĩ Võ Xuân Lâm – nguyên Tiểu đoàn trưởng và đồng chí Phan Hành Sơn (đã từ trần) được tuyên dương danh hiệu: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, nhiều cán bộ, chiến sĩ được tặng Huân chương, danh hiệu chiến sĩ thi đua, dũng sĩ diệt Mỹ, dũng sĩ quyết thắng.

   Chiến công của Tiểu đoàn bộ binh 1 (R20), không chỉ nói lên số đơn vị và số địch bị diệt mà có ý nghĩa rất lớn. Là một đơn vị bộ đội địa phương, bộ binh cơ động, thọc sâu, so với địch quân số ít hơn, trang bị kém hiện đại, cán bộ, chiến sĩ đều là nông dân mặc áo lính, nhưng quá trình chiến đấu, tiểu đoàn đã đánh thắng, đánh diệt gọn nhiều đơn vị thiện chiến, hung ác trang bị đến tận răng của Mỹ - Ngụy, tô thắm truyền thống bách chiến, bách thắng của Quân đội nhân dân anh hùng và quê hương trung dũng kiên cường, đi đầu diệt Mỹ, nêu lên bài học kinh nghiệm quý báu về nghệ thuật tổ chức chỉ huy chiến đấu, vận dụng cách đánh, tinh thần chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ, xứng đáng với tầm vóc đơn vị chủ công, cơ động, thọc sâu, đánh nhanh, diệt gọn của các lực lượng vũ trang tỉnh Quảng Đà (nay là thành phố Đà Nẵng).

   Chiến công của Tiểu đoàn bộ binh R20 còn vang vọng khắp đất nước, bè bạn năm châu, đặc biệt sau trận Xuân Diệm, Gò Hà, các đoàn nhà báo Cu-Ba, Trung Quốc đến tận nơi trú quân của đơn vị (ở vùng B Đại Lộc) để thăm viếng và tìm hiểu cách đánh này, hoặc sau trận Xuyên Thanh, nhà nước Ăng-giê-ri (Châu Phi) đề nghị nhà nước ta cho đặt danh hiệu đơn vị là “Tiểu đoàn Ăng-giê-ri chiến thắng”.

   Chiến công của Tiểu đoàn bộ binh 1 “R20” bắt nguồn từ những yếu tố khách quan, chủ quan, trong chiến tranh giải phóng dân tộc, cũng như trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

______________________

40. Danh hiệu do Nhà nước An-giê-ri đề nghị Tiểu đoàn bộ binh 1 tỉnh Quảng Đà được mang danh hiệu vẻ vang đó.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 21 Tháng Hai, 2013, 04:21:48 pm

   - Trước hết là do có đường lối cách mạng đúng đắn, đường lối chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực, tự cường, tư tưởng quân sự khoa học và thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thông qua đó, lãnh đạo, chỉ huy các cấp, mà trực tiếp là Tỉnh ủy Quảng Đà (sau là Đặc khu ủy nay là Thành ủy Đà Nẵng), BCH tỉnh đội Quảng Đà (sau là Bộ tư lệnh Mặt trận Quảng Đà) và nay là Bộ chỉ huy quân sự thành phố Đà Nẵng luôn nghiên cứu, vận dụng một cách linh hoạt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng vào việc xây dựng, phát triển lực lượng, địa bàn hoạt động, trang bị vũ khí đạn dược, bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần, cũng như chiến thuật, chiến dịch tác chiến phù hợp với đặc điểm địa lý, địa hình, thời tiết, địch ta trong từng giai đoạn, từng vùng chiến lược (rừng núi, đồng bằng, đô thị).

   Thực tiễn trong những năm đồng khởi giải phóng rừng núi, rồi đến nông thôn, đồng bằng, Tỉnh ủy, BCH Tỉnh đội đều quan tâm đến việc xây dựng, phát triển các đội vũ trang tuyên truyền, các đại đội độc lập Đ61, Đ62 làm nhiệm vụ diệt ác, phá kèm, hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy, diệt ác, phá ấp chiến lược, giành quyền làm chủ, phát động quần chúng động viên con em thoát ly tham gia bộ đội, du kích, thanh niên xung phong. Có nguồn nhân lực, BCH Tỉnh đội quyết định thành lập thêm Đại đội Đ63, Đ64, do đó khi thành lập Tiểu đoàn bộ binh 1 đã có đủ thành phần, cơ cấu, quân số. Quá trình công tác, chiến đấu, quân số hao hụt cũng được cấp ủy, chỉ huy cấp trên ưu tiên bổ sung.

   - Cấp ủy, chỉ huy các cấp thường xuyên chăm lo xây dựng chất lượng mọi mặt cho Tiểu đoàn.

   Là đơn vị bộ binh đảm nhiệm chủ công, cơ động thọc sâu, đánh nhanh, diệt gọn, chiến đấu trên chiến trường trọng điểm, ác liệt nhất ở phía Bắc của tỉnh, nên Tỉnh ủy, BCH Tỉnh đội đến Đảng ủy, chỉ huy tiểu đoàn luôn quan tâm đến việc xây dựng chất lượng mọi mặt cho đơn vị, trước hết là chất lượng của tổ chức cơ sở Đảng (tổ đảng, chi bộ, Đảng bộ) và đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, đây là cốt lõi của mọi thắng lợi. Cấp ủy, chỉ huy các cấp phải có lập trường cách mạng vững vàng, trung thành tuyệt đối sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân, có tư duy quân sự thông minh, sáng tạo, phẩm chất đạo đức trong sáng, lành mạnh, tác phong công tác, chỉ huy chiến đấu gương mẫu, sâu sát, táo bạo, dũng cảm, thực sự là Bộ tham mưu chiến đấu, là ngọn cờ tiên phong trong quá trình xây dựng, chiến đấu của đơn vị.

   Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của cấp ủy, chỉ huy tiểu đoàn và đại đội, cán bộ, chiến sĩ luôn phấn đấu, tu dưỡng rèn luyện để có lập trường, bản lĩnh chiến đấu vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng của Đảng và nhân dân, có lòng căm thù địch. Tinh thần chiến đấu mưu trí, dũng cảm, chịu đựng gian khổ ác liệt, không sợ hy sinh tổn thất, chấp hành nghiêm ý thức tổ chức kỷ luật, chỉ thị, mệnh lệnh cấp trên. Sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

   Thực tiễn trong chiến đấu, cũng như lúc gian nan, ác liệt, dù biết rằng mình có thể hy sinh, bị thương, nhưng cán bộ, lãnh đạo, chỉ huy vẫn xông xáo, dũng cảm, dẫn đầu đơn vị xông vào trận địa tiêu diệt hỏa điểm của địch, tạo điều kiện cho đơn vị hoàn thành nhiệm vụ, thể hiện phẩm chất anh hùng, trong sáng của anh bộ đội Cụ Hồ.

   Hiệu quả, chất lượng chính trị, tư tưởng là cái gốc của mọi thắng lợi, nhưng hiệu quả, chất lượng chiến đấu, công tác cũng là yếu tố quan trọng để làm nên chiến công. Cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn đều nhận thức được tầm vóc, vị trí đơn vị đối với các lực lượng vũ trang trong tỉnh, do đó, bất cứ tình huống nào, cũng trụ bám vững chắc địa bàn, công sự, trận địa để chiến đấu tiêu diệt địch, phá hủy phương tiện chiến tranh, còn một tổ, một người cũng đánh đến người cuối cùng, viên đạn cuối cùng khi ra trận. Có lệnh xung phong tất cả bật lên băng qua lửa đạn, lao vào giữa trận địa, đánh giáp lá cà với địch, bất kể là lính Mỹ hay lính Ngụy, Nam Triều Tiên, coi sự hy sinh của mình nhẹ như lông hồng. Có thời gian, Mỹ - Ngụy tập trung lực lượng, phương tiện chiến tranh để truy tìm tông tích Tiểu đoàn R20, sử dụng tình báo, gián điệp, pháo binh, không quân, kể cả B52 rải thảm để đánh phá khu vực trú quân, hoặc đổ bộ đường không tìm diệt đơn vị. Tiểu đoàn phải liên tục cơ động khắp các địa bàn nông thơn, đồng bằng đến vùng núi, hết Quảng Đà rồi vào Quế Sơn – Thăng Bình (Quảng Nam), nhưng nhờ có lập trường vững vàng, tinh thần mưu trí, dũng cảm, sức cơ động nhanh, linh hoạt nên hạn chế thương vong.

   Để nâng cao chất lượng mọi mặt, cấp ủy, chỉ huy tiểu đoàn không ngừng lãnh đạo, chỉ đạo công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao trình độ giác ngộ cách mạng, bản lĩnh chiến đấu, tin tưởng sự lãnh đạo của Đảng và thắng lợi tất yếu của cuộc kháng chiến, ý thức tổ chức kỷ luật, đề cao cảnh giác, phòng gian, bảo mật, làm trong sạch nội bộ và địa bàn hoạt động. Phát động mạnh mẽ phong trào thi đùa quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược, xây dựng các ngọn cờ tập thể và cá nhân tiêu biểu, xuất sắc, anh hùng, chiến sĩ thi đua, dũng sĩ diệt Mỹ…, tạo nên động lực thúc đẩy đơn vị thực hiện hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

   Đi đôi với việc lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, nâng cao chất lượng chính trị, tư tưởng, cấp ủy, chỉ huy Tiểu đoàn cũng hết sức quan tâm đến việc học tập, huấn luyện các phương thức, nguyên tắc tác chiến, phương châm hoạt động, kỹ thuật, chiến thuật tác chiến, làm cho cán bộ, chiến sĩ hiểu biết, thành thạo nhiều hình thức chiến thuật, chiến dịch tiến công, phòng ngự, thủ đoạn cách đánh của chiến tranh nhân dân địa phương, tiêu diệt được nhiều sinh lực địch trong công sự vững chắc, cũng như khi hành quân dã ngoại, đánh được mọi đối tượng (Mỹ, Ngụy, chư hầu, chủ lực, địa phương) trên khắp các vùng chiến lược: Rừng núi, nông thôn, đồng bằng, đô thị.

   Với những chủ trương, biện pháp trên đây, trong quá trình xây dựng, chiến đấu, chất lượng mọi mặt của Tiểu đoàn bộ binh R20 không ngừng được nâng lên, bảo đảm thực hiện hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ của cấp trên giao phó.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 21 Tháng Hai, 2013, 04:22:49 pm

   - Cán bộ, chiến sĩ luôn có quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thử thách, chiến đấu với tinh thần mưu trí, dũng cảm, sáng tạo, đánh nhanh, diệt gọn.

   Hoạt động chiến đấu trên một chiến trường trọng điểm, nhất là sau khi quân Mỹ và chư hầu đổ vào, lực lượng đông, trang bị hiện đại, sức cơ động chiến đấu cao, thủ đoạn chiến tranh tàn bạo, thâm độc, mang tính chất hủy diệt, địa hình phức tạp, nhiều sông núi, vừa có lợi, nhưng vừa có hại, đòi hỏi cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang nói chung, Tiểu đoàn bộ binh R20 nói riêng phải có lập trường kiên định vững vàng, trình độ chiến đấu, ý chí quyết tâm cao, mới vượt qua khó khăn, ác liệt, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong bất cứ tình huống nào.

   Nhận thức sâu sắc đặc điểm, tính chất của cuộc kháng chiến, trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn bộ binh R20 đã phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, thử thách, có lúc tưởng chừng không vượt qua được. Điển hình như sau chiến dịch tiến công, nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, quân số chỉ còn trên dưới 80 cán bộ, chiến sĩ, đến cuối năm 1968, nhiều đơn vị của Mặt trận Quảng Đà phải giải thể, thu gom, nhưng Tiểu đoàn vẫn tồn tại. Tiếp đến trong những năm 1969 – 1970, tiểu đoàn phải trải qua một giai đoạn cực kỳ gian khổ, quân số, vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm, thuốc men thiếu hút nghiêm trọng, có lúc đơn vị phải nhịn đói nhiều ngày, ăn rau rừng, trái cây, ốc đá để sống, chiến đấu.

   Trong khi đó, đơn vị vừa phải chiến đấu, vừa cơ động hết địa bàn này đến địa bàn khác để phòng tránh địch càn quét, tìm diệt, bảo tồn lực lượng chiến đấu lâu dài. Đó là những thời điểm khắc nghiệt nhất đối với cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn. Thực tế là vậy, nhưng điều kỳ diệu nhất là đơn vị không giải thể, cán bộ, chiến sĩ không giảm sút ý chí chiến đấu, luôn giữ vững lập trường, lòng tin cách mạng thắng lợi, nhờ đó mà đơn vị đã vượt qua gian khổ, thử thách, chiến đấu, chiến thắng kẻ thù.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 21 Tháng Hai, 2013, 04:23:46 pm

   Trong chiến đấu, bất cứ hoàn cảnh nào, cán bộ, chiến sĩ cũng thể hiện tinh thần mưu trí, dũng cảm, chủ động tiến công địch bằng nhiều hình thức chiến thuật, cách đánh sáng tạo, nhất là trong giai đoạn đánh Mỹ, lúc đầu trang bị ít hiện đại, kinh nghiệm chiến đấu với linh Mỹ chưa có, nhưng với tư duy thông minh, sáng tạo, lấy thực tiễn làm cơ sở, thước đo khả năng chiến đấu của mình, lãnh đạo, chỉ huy tiểu đoàn đề ra chủ trương, biện pháp sử dụng lực lượng, mở ra các trận đánh Mỹ thí điểm, đánh từ nhỏ đến lớn, diệt từng tên lính Mỹ đến từng đơn vị Mỹ, từ tiểu đội đến tiểu đoàn, đánh cả ban ngày lẫn ban đêm, đánh cả trong công sự và ngoài công sự, vừa chiến đấu, vừa rút kinh nghiệm, đánh giá, kết luận về địch tương đối chính xác để trên cơ sở đó đề ra kế hoạch quyết tâm chiến đấu cho đơn vị, đạt hiệu suất, chất lượng cao hơn. Kinh nghiệm thực tiễn muốn đánh thắng Mỹ là phải trụ bám kiên cường, cơ động linh hoạt, bám sát thắt lưng Mỹ mà đánh, đánh gần, đánh hiểm, đánh từ trong ra ngoài, không để địch làm chủ trận đánh, không phát huy được tác dụng của hỏa lực. Thực tiễn từ các trận đánh Mỹ của tiểu đội Huỳnh Dạng đến trận Xuân Diệm, Gò Hà, vùng B Đại Lộc, Gò Nổi, Xuyên Thanh và hàng trăm trận đánh khác, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn R20 đều bám sát đội hình địch để đánh, khi địch xung phong thất bại, phải co cụm để củng cố thì đơn vị tổ chức xung phong vào giữa đội hình địch mà đánh, rồi nhanh chóng cơ động ra khỏi trận địa, với cách đánh đó, tiểu đoàn lập được những chiến công oanh liệt, tô đậm truyền thống quê hương, đất nước, quân đội và được đúc kết thành những câu ca:

                                                          “Lấy xác Mỹ xây cầu ông Nỡ
                                                           Cho Long An nối lại Phú Bình”

Hay:

                                                           Trên trời có phản lực cơ
                                                           Dưới đất thì có R20 đánh càn”


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 21 Tháng Hai, 2013, 04:24:15 pm

   - Quan hệ đoàn kết, tạo nên sức mạnh tổng hợp để vượt qua thử thách, ác liệt, đánh thắng mọi kẻ thù.

   Đoàn kết nội bộ cấp trên với cấp dưới, cán bộ với chiến sĩ, lãnh đạo, chỉ huy với phục tùng, đoàn kết nhân dân, đoàn kết với các đơn vị, địa phương trong công tác, hợp đồng chiến đấu là những mối quan hệ truyền thống, bản chất tốt đẹp của các lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, nó xuất phát từ đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng, tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh và thực tiễn cuộc chiến đấu của quân và ân Quảng Đà nói chung, Tiểu đoàn bộ binh R20 nói riêng, trong xây dựng cũng như chiến đấu lúc gian khổ, ác liệt cũng như lúc bình thường, cán bộ, chiến sĩ đều thể hiện một cách đầy đủ, nhất quán các mối quan hệ đoàn kết thương yêu lẫn nhau vì mục tiêu lý tưởng cách mạng, vì nhiệm vụ của Đảng và nhân dân giao phó, vì tình cảm của giai cấp, đồng chí, đồng đội, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đáu, gắn bó máu thịt với nhân dân, nhất là ở vùng B Đại Lộc, Gò Nổi, A, B Điện Bàn, nơi sinh ra, chiến đấu, trưởng thành, được nhân dân đùm bọc, nuôi dưỡng, được cấp ủy, chính quyền đoàn thể quan tâm giúp đỡ.

   Nhờ đó, trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu đã tạo nên động lực mạnh mẽ, cổ vũ động viên đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

   - Thường xuyên quán triệt và thực hiện xuất sắc quan điểm: tự lực, tự cường, lấy sức mình để xây dựng, chiến đấu cho mình, cho nhân dân.

   Đường lối kháng chiến của Đảng là toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực, tự cường, trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn bộ binh R20 luôn nhận thức, quán triệt sâu sắc và thực hiện xuất sắc quan điểm tự lực, tự cường, biểu hiện trong chiến đấu không có vũ khí, đạn dược thì tìm cách đánh địch, lấy vũ khí địch để trang bị, lương thực, thực phẩm, thuốc m en, ngoài sự đóng góp của nhân dân, đơn vị còn phân công lực lượng sản xuất tự túc ở vùng hậu cứ. Khi địch bao vây kinh tế thì tìm cách đánh địch, mở hành lang, cửa khẩu để thu mua lương thực, góp phần khắc phục tình hình thiếu cơm, lạt muối, đỡ bớt một phần đóng góp của nhân dân, những thứ trang bị, tiêu dùng khác của cán bộ, chiến sĩ, anh em tự giải quyết. Với quyết tâm cao, nhất là trong thời đầu xây dựng đơn vị và những năm khó khăn ác liệt nhất 1969 – 1971, bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ trên giao.

   Những yếu tố trên đây đã tạo nên sức mạnh tổng hợp cho tiểu đoàn thực hiện hoàn thành xuất sắc vai trò lịch sử của mình trong quá trình xây dựng, chiến đấu, làm nên những chiến công oanh liệt, truyền thống vẻ vang, kinh nghiệm quý báu, góp phần vào thắng lợi chúng của quân và dân đất Quảng cũng như trong xây dựng đơn vị ngày nay.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 22 Tháng Hai, 2013, 08:50:26 am

   Năm tháng đi qua, chiến tranh đã lùi dần về dĩ vãng, ước mơ đất nước hòa bình, thống nhất độc lập, tự do, hạnh phúc đã trở thành hiện thực, tất cả mọi người đều hướng đến mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội, công bằng, dân chủ, văn minh, con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã chọn. Trên bước đường đi lên của đất nước, chúng ta không thể đoạn tuyệt với một quá khứ vinh quang, bất diệt, in sâu trong ký ức của mỗi con người Việt Nam, làm sợi chỉ đỏ xuyên suốt từ quá khứ đến hiện đại và tương lai, đây là truyền thống tốt đẹp, quý báu, Để làm nên những chiến công vĩ đại đó, biết bao thế hệ người Việt Nam đã ngã xuống, hy sinh tình cảm riêng tư, đem mồ hôi, nước mắt, xương máu để xây đắp, bảo vệ các giá trị truyền thống tốt đẹp của quê hương, đất nước. Trong sự hy sinh to lớn đó, có sự đóng góp của hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn bộ binh R20 Mặt trận Quảng Đà, nay là Tiểu đoàn bộ binh 1 thành phố Đà Nẵng, những con người mang trong mình dòng máu dân tộc Việt Nam và lý tưởng cách mạng trong sáng, cao đẹp, sẵn sàng hy sinh tình cảm riêng tư, gia đình, tộc họ, quê hương để tham gia kháng chiến, giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực tiễn tiểu đoàn đã làm nên những chiến công oanh liệt, sự tích anh hùng trong đánh Mỹ, thắng Mỹ và đánh bọn xâm lược ở chiến trường Tây Nam.

   Hiểu biết cái đích thực, cốt lõi của đường lối cách mạng, đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh là toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực, tự cường, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn bộ binh R20 không ngừng phấn đấu thực hiện hoàn thành xuất sắc vai trò của mình là đơn vị chủ công, cơ động, thọc sâu, đánh thắng mọi đối tượng, trong mọi tình huống. Không thể kể hết những chiến công và kể cả sự hy sinh, tổn thất to lớn của tiểu đoàn, nhưng với hàng trăm trận đánh xuất sắc, đã đạt hiệu suất, chất lượng chiến đấu cao, bằng nhiều hình thức chiến thuật, cách đánh mưu trí, sáng tạo, nêu lên nhiều bài học kinh nghiệm quý báu để bổ sung vào kho tàng nghệ thuật quân sự Việt Nam.

   Ngày nay cách mạng Việt Nam đang tiến bước trên con đường đổi mới toàn diện đất nước, thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa, bên cạnh thành tựu đạt được và thời cơ, thuận lợi mở ra trước mắt, còn có những nguy cơ, thách thức, các thế hệ thù địch trong và ngoài nước ngày đêm câu kết với nhau, tìm cách chống phá cách mạng nước ta, nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

   Lịch sử đấu tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhất là trong 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, quân và dân ta đã hy sinh biết bao xương máu, để giành độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, hiểu được cái giá mà thế hệ cha ông ta phải trả, các thế hệ hôm nay và mai sau phải tôn trọng, tôn vinh, gìn giữ và phá huy mạnh mẽ truyền thống anh hùng của dân tộc, quê hương, quân đội nhân dân. Ra sức học tập, tu dưỡng rèn luyện, thực hiện hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn gây rối, bạo loạn lật đổ, giữ vững tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên những địa bàn được phân công, góp phần bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt nam xã hội chủ nghĩa, để xứng đáng con người Việt Nam trong thời đại mới và truyền thống:

                                                              “Lớp cha trước, lớp con sau
                                                               Trở thành đồng chí chung câu quân hành”


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 22 Tháng Hai, 2013, 09:39:55 am

Phụ lục 1

DANH SÁCH TIỂU ĐOÀN TRƯỞNG – CHÍNH TRỊ

VIÊN TIỂU ĐOÀN QUA CÁC THỜI KỲ


(http://farm9.staticflickr.com/8517/8496964780_9d2a87942f_z.jpg) (http://www.flickr.com/photos/90883775@N03/8496964780/)
 (http://www.flickr.com/photos/90883775@N03/8496964780/)

(http://farm9.staticflickr.com/8241/8495860253_bb6ec0a2e0_z.jpg) (http://www.flickr.com/photos/90883775@N03/8495860253/)
 (http://www.flickr.com/photos/90883775@N03/8495860253/)


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 22 Tháng Hai, 2013, 09:41:05 am

Phụ lục 2

THÀNH TÍCH CỦA TIỂU ĐOÀN 1 “R20” ANH HÙNG

TRONG 10 NĂM

(Tính từ ngày thành lập tiểu đoàn: 19.05.1965 – 19.05.1975)

   - Đánh: 800 trận lớn nhỏ.

   - Tiêu diệt: 10770 tên địch, có hơn 2250 tên Mỹ, 141 tên Nam Triều Tiên.

   - Diệt gọn: 2 tiểu đoàn; có 1 Tiểu đoàn Biệt kích Nùng, 1 Tiểu đoàn thủy quân lục chiến Mỹ, 1 Ban chỉ huy Trung đoàn Mỹ, 3 Ban chỉ huy Tiểu đoàn Mỹ, 1 Ban chỉ huy Liên đại 122 Ngụy.

   - Đánh thiệt hại 27 đại đội, có 14 đại đội Mỹ, 79 trung đội, có 31 trung đội Mỹ, 2 trung đội Nam Triều Tiên.

   - Đánh thiệt hại 3 Tiểu đoàn Mỹ và các trung đội, đại đội Mỹ chứ hầu.

   - Diệt 14 mâm tề điệp, 16 đoàn bình định.

   - Bắt sống 910 tên địch (chủ yếu là Ngụy).

   - Thu 1.450 khẩu súng các loại, kể cả súng cối 81, cối 60, 23 máy PRC 10-25.

   - Bắn cháy 152 xe quân sự, có 55 xe tăng, xe bọc thép.

   - Bắn rơi và phá hủy 168 máy bay các loại.

   - Phá hủy 27 khẩu pháo từ 105 mm - 155 mm và cối 106, 7 mm.

   - San bằng 145 cứ điểm lớn nhỏ, hàng chục khu dồn, nhà lính ở.

   - Đốt cháy: 1 kho đạn, 2 kho máy truyền tin, 3 nhà đèn và hàng triệu lít xăng dầu.

   - Tiểu đoàn được tặng thưởng: 28 Huân chương các loại, có 3 Huân chương Quân công hạng nhất và hạng nhì, 13 Huân chương chiến công, có 6 hạng nhất, 5 hạng nhì, 2 hạng 3, một cờ luân lưu Tiểu đoàn Quyết thắng, 1 lá cờ Thành đồng Quyết thắng; Danh hiệu Tiểu đoàn 2 giỏi, 2 lần được tặng cờ đơn vị mưu trí, dũng cảm đánh nhanh, diệt gọn; 1 cờ Liên minh đoàn kết chiến đấu chiến thắng hoàn thành nhiệm vụ Quốc tế cao cả của Bộ quốc phòng nước Cộng hòa nhân dân Cam pu chia.

   - Tháng 12.1973, Tiểu đoàn được Nhà nước tuyên dương: Đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

   - Cá nhân của Tiểu đoàn được tặng thưởng 290 Huân chương chiến công, 196 Dũng sĩ diệt Mỹ, có 60 cấp ưu tú, 296 Dũng sĩ quyết thắng, 68 chiến sĩ thi đua.

   - Đồng chí Phan Hành Sơn, Đại đội trưởng Đại đội 3 được Nhà nước tuyên dương: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (đã từ trần).

   - Liệt sĩ Võ Xuân Lâm – nguyên Tiểu đoàn trưởng – Tiểu đoàn bộ binh R20.

   - Hai cán bộ chiến sĩ Tiểu đoàn, trưởng thành là tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam:

+ Thiếu tướng: Nguyễn Văn Trí – nguyên Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng cũ – Cục trưởng Cục Dân quân – Tự vệ - Bộ Tổng tham mưu.

+ Thiếu tướng: Nguyễn Văn Thảng – Phó Tư lệnh chính trị - BTL Quân khu 5.

+ Thiếu tướng: Trần Minh Hùng – Cục trưởng Cục Quân huấn – BTTM.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Tiểu đoàn Bộ binh 1 anh hùng - (R20 - Quảng Đà)
Gửi bởi: fantomasft trong 22 Tháng Hai, 2013, 09:42:03 am
MỤC LỤC
----------*----------

1-   Lời giới thiệu (http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php/topic,26530.msg424354.html#msg424354)

2-   Chương Một:
+ Cao trào đồng khởi giải phóng nông thôn, đồng bằng 1962 – 1965 và sự ra đời của Tiểu đoàn 1 “R20” Tỉnh Quảng Đà. (http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php/topic,26530.msg424355.html#msg424355)

3-   Chương Hai:
+ Quyết tâm đánh Mỹ, thắng Mỹ góp phần đánh bại chiến lược chiến tranh Cục bộ (1965 – 1968). (http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php/topic,26530.msg424441.html#msg424441)

4-   Chương Ba:
+ Quyết tâm khắc phục khó khăn, liên tục chiến đấu lập công, góp phần giải phóng quê hương (1969 – 1975). (http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php/topic,26530.msg426444.html#msg426444)

5-   Chương Bốn:
+ Phát huy truyền thống anh hùng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong giai đoạn mới (1975 – 2005). (http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php/topic,26530.msg426778.html#msg426778)

6-   Chương Năm
+ Kết luận. (http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php/topic,26530.msg427258.html#msg427258)


HẾT.