Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: macbupda trong 11 Tháng Chín, 2012, 07:55:57 pm



Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Chín, 2012, 07:55:57 pm

(https://www.quansuvn.net/index.php?action=dlattach;topic=31677.0;attach=23294;image)

Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Tác giả: Trần Trọng Trung
Nhà xuất bản: Chính trị quốc gia
Năm xuất bản: 2011
Số hóa: macbupda

Cuốn sách này là nén hương thơm tưởng nhớ anh Hoàng Văn Thái, bác Hoàng Đạo Thúy và các anh Nguyễn Văn Trang, Vũ Văn Hà, Vũ Văn Thềm, Trần Văn Lư, Hoàng Minh Đạo, Nguyễn Văn Nấp, Đỗ Văn Sảng và rất nhiều anh khác. Các anh là những người đã đặt những viên gạch đầu tiên làm nền móng vững chắc cho Bộ Tổng tham mưu và ngành tham mưu toàn quân, để cùng toàn quân đi tới đích cuối cuối cùng của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

TRẦN TRỌNG TRUNG

LỜI NHÀ XUẤT BẢN

Bộ Tổng tham mưu là một cơ quan có bề dày truyền thống của Quân đội ta. Ra đời ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, trong bối cảnh đất nước đang ở tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, trải qua 66 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành. Bộ Tổng tham mưu đã không ngừng lớn mạnh, đóng góp to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xứng đáng là cơ quan tham mưu chiến lược của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng.

Cuốn sách Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây (1945-1950) của tác giả Trần Trọng Trong đề cập một giai đoạn lịch sử đầy cam go của cơ quan tham mưu chiến lược, khi đất nước còn bị bao vây tứ bề, mọi cái đều bắt đầu là con số không.

Tác giả cuốn sách này là một trong những nhân chứng hiếm hoi còn lại trong số những cán bộ đầu tiên của Bộ Tổng tham mưu, từ thời cơ quan mới ra đời ở phố Nguyễn Du - Hà Nội và cũng là một trong những người công tác ở cơ quan tham mưu Tổng hành dinh dài nhất trong cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.

Ngay từ khi Bộ Tổng tham mưu mới thành lập, với cương vị người giúp việc Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái, được phân công ghi chép trong nhiều cuộc họp, nên đồng chí Trần Trọng Trung có điều kiện nắm được những chủ trương quân sự lớn của Tổng hành dinh và những hoạt động cụ thể của cơ quan tham mưu chiến lược. Sau đó, trong những năm làm việc tại Ban Tổng kết chiến lược (trực thuộc Quân ủy Trung ương, do đồng chí Hoàng Văn Thái trực tiếp phụ trách) và ở Viện Khoa học quân sự, đồng chí Trần Trọng Trung lại có thêm điều kiện nghiên cứu sâu hơn những vấn đề chiến lược của Tổng hành dinh trong hai cuộc chiến tranh giải phóng. Một số tài liệu ghi chép của đồng chí đã được đồng chí Hoàng Văn Thái đồng ý cho dùng vào việc biên soạn lịch sử Bộ Tổng tham mưu, trong đó có những tài liệu đánh máy trên giấy dó sau nhiều thập kỷ đã phai màu, phải dùng kính “lúp” mới đọc được để chuyển sang lưu lại trên đĩa vi tính.

Những tư liệu phong phú còn lưu giữ được và nhất là trí nhớ tốt, là những điều kiện cơ bản để tác giả hoàn thành cuốn sách này sau một năm biên soạn, giúp cho người đọc hiểu thêm về “những ngày thơ ấu” của cơ quan chi đạo chiến lược của Tổng hành dinh Việt Nam. Không ít sự kiện và những chi tiết tác giả viết trong sách này chưa được đề cập trong lịch sử chính thống của Bộ Tổng tham mưu.

Ra đời trong bối cảnh đất nước vừa giành được độc lập tự do, thù trong giặc ngoài đang uy hiếp sự tồn vong của chế độ mới, trong điều kiện khó khăn thiếu thốn mọi bề, từ kiến thức sơ đẳng về công tác tham mưu đến cơ sở vật chất tối thiểu. Bộ Tổng tham mưu đã làm gì và làm như thế nào để vừa xây dựng cơ quan vừa đáp ứng những đòi hỏi nóng bỏng của chiến trường miền Nam sau khi quân Pháp trở lại nổ súng xâm lược lần thứ hai. Hơn một năm sau, khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, trong điều kiện chỉ mới chập chững bước đi đầu tiên của một cơ quan tham mưu chiến lược, Bộ Tổng tham mưu đã là thế nào để thể hiện bản lĩnh và năng lực nghiệp vụ khi tình thế đòi hỏi phải đối mặt với một bộ máy chiến tranh đã có hàng trăm năm kinh nghiệm xâm lược thuộc địa.

Dù là một chiến sĩ Giải phóng quân như Hoàng Văn Thái, một nhân sĩ trí thức như Hoàng Đạo Thúy, dù là một cựu binh, một công nhân cứu quốc hay một thanh niên học sinh mới rời ghế nhà trường, mỗi thành viên đầu tiên của Bộ Tổng tham mưu đều đến với ngành tham mưu bằng con số không về kiến thức nghiệp vụ tham mưu chiến lược. Qua từng trang sách, bạn đọc sẽ thấy vị Tổng Tham mưu trưởng đầu tiên Hoàng Văn Thái và các đồng sự của ông đã tiếp thu và biến lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa học vừa làm - có chí thì nên thành hiện thực như thế nào để xây dựng được một cơ quan tham mưu chiến lược từ không đến có và trưởng thành từng bước để đủ sức đương đầu với bộ máy quân sự viễn chinh của một đế quốc già đời như thực dân Pháp. Chỉ có lòng căm thù quân xâm lược, quyết tâm vươn lên của tuổi trẻ, tinh thần hàm học, dám nghĩ - dám làm - dám chịu trách nhiệm mới giúp cho mỗi thành viên và cả bộ máy chỉ đạo chiến lược hoàn thành nhiệm vụ trước mọi thử thách.

Chiến đấu trong vòng vây của các thế lực đế quốc trong điều kiện so sánh lực lượng quân sự, kinh nghiệm chiến đấu và cơ sở vật chất rất chênh lệch giữa ta và địch, Bộ Tổng tham mưu - với vị thế là cơ quan tham mưu chiến lược - đã từng bước vượt lên chính mình để giúp Bộ thống soái chỉ đạo, chỉ huy toàn quân trên từng chặng đường đầy thử thách quyết liệt trong suốt 5 năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Chính qua thực tế đối mặt với những thử thách ở tầm chiến lược mà Bộ Tổng tham mưu - dưới sự dìu dắt của Quân ủy Trung ương - đã cùng toàn quân trưởng thành từng bước. Đó là sự thử thách trong cuộc tổng giao chiến trong thành phố những ngày đầu, tiếp đến là những khó khăn khi xuất hiện hiện tượng “vỡ mặt trận” ở nơi này nơi kia do địch dùng bộ binh cơ giới mở rộng vùng chiếm đóng, rồi ngay sau đó là cuộc đọ sức trong mùa khô đầu tiên khi hàng vạn quân Pháp, với máy bay, pháo binh, cơ giới, tiến công ồ ạt lên căn cứ địa Việt Bắc hòng tóm gọn Chính phủ kháng chiến và tiêu diệt đội quân cách mạng non trẻ. Chính nhờ đã đứng vững trước những thử thách ban đầu đó mà Bộ Tổng tham mưu trưởng thành từng bước vững chắc để cùng toàn quân tiếp tục vươn lên nhằm đáp ứng yêu cầu chủ trương chiến lược của Đảng là triển khai bằng được thế toàn dân đánh giặc, đáp ứng yêu cầu huy động sức mạnh của toàn dân nhằm khắc phục những khó khăn mới do cục diện chiến tranh mở rộng đặt ra trong bối cảnh kinh tế hết sức hạn hẹp, bộ đội chiến đấu trong điều kiện thiếu ăn, thiếu súng. Ý chí tự lực tự cường cùng toàn quân, toàn dân vượt qua những khó khăn trong hai năm 1948-1949 đã tôi luyện và tạo đà cho Bộ Tổng tham mưu thêm vững vàng về bản lĩnh chính trị và trưởng thành thêm một bước về nghiệp vụ tham mưu chiến lược. Chính trên cơ sở đó mà Bộ Tổng tham mưu cùng toàn quân có điều kiện chủ quan cần thiết để tiếp thu sự giúp đỡ của Giải phóng quân Trung Quốc về trang bị và kinh nghiệm chiến đấu, đặc biệt là kinh nghiệm công tác tham mưu để giúp Bộ thống soái chỉ đạo, chỉ huy quân đội mở chiến dịch lớn đầu tiên nhằm khai thông biên giới, phá thế bao vây của địch, mở đường giao lưu với thế giới dân chủ. Sự giúp đỡ kinh nghiệm nghiệp vụ tham mưu của bạn chỉ bén rễ và nở hoa kết trái trên cơ sở trưởng thành của Bộ Tổng tham mưu suốt 5 năm trước đó, cũng tức là khi Bộ Tổng tham mưu đã đủ khả năng và bản lĩnh để tiếp nhận và vận dụng sáng tạo có chọn lọc kinh nghiệm của bạn sao cho phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước và quân đội Việt Nam.

Ngày nay, đất nước đã có một quân đội được tôi luyện trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ trên ba thập ỷ, đã có một bộ máy chỉ đạo chiến lược bề thế cả về tổ chức và kinh nghiệm nghiệp vụ tham mưu, nhìn lại những ngày trứng nước 66 năm trước là một dịp để nhớ lại chặng đường mà Bộ Tổng tham mưu cùng toàn dân, toàn quân đã trải qua những buổi ban đầu và cũng là một dịp để tôn vinh lớp người đi trước đã đặt nền móng vững chắc cho Bộ Tổng tham mưu và ngành tham mưu của quân đội anh hùng của một dân tộc anh hùng.

Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.

Tháng 3 năm 2011
                                                                                       
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - SỰ THẬT


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Chín, 2012, 07:56:24 pm
CHƯƠNG I

NHỮNG NGÀY TRỨNG NƯỚC

I

Người thanh niên đó dừng lại trước cổng sắt Bắc Bộ phủ. Rõ ràng là quang cảnh đường phố Thủ đô khiến anh rất xúc động.

Anh không có mặt ở Hà Nội trong những ngày Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Chừng mươi ngày trước, từ châu Lục Yên (khi đó còn thuộc tỉnh Tuyên Quang) anh đang cùng các anh Song Hào, Tạ Xuân Thu, Nguyễn Văn Chỉ bàn công việc trước mắt của chính quyền thì nhận được thư của anh Văn - (tức ông Võ Nguyên Giáp - Chủ tịch Quân sự ủy viên hội kiêm Bộ trưởng Nội vụ trong Chính phủ lâm thời) gọi về Hà Nội gấp. Thư dặn rõ: Cần chú ý bọn Việt Nam Quốc dân Đảng theo gót quân Tưởng Giới Thạch về nước, có thể chúng vào chiếm đóng thị xã Việt Trì. Nếu thấy cần thì nên đi đường vòng qua hướng Thái Nguyên.

Và chiều ngày hôm qua, 6-9, anh mới có mặt ở Hà Nội. Qua một đêm ở Ban Chỉ huy Chi đội 3, được nghe anh Quang Trung cho biết tình hình Hà Nội và cả nước sau[9] nửa tháng Tổng khởi nghĩa. Quang Trung còn chuyển lời anh Văn dặn vào giờ này sáng nay, đến gặp Ông Cụ, mà không nói thêm vì việc gì. Có thể là để báo cáo về việc giành chính quyền ở Yên Bái, Tuyên Quang? Mãi đến khuya đêm qua, anh vẫn còn tràn trọc, suy nghĩ, sắp xếp lại những điều cần báo cáo.

Nhớ lại 5 năm trước, nhân một chuyến đi công tác từ căn cứ Hiệp Hòa (Bắc Giang) về Thái Bình, anh có qua Hà Nội, một Hà Nội hồi đó còn xa lạ đối với anh, một nông dân miền biển đã trải qua những năm tháng rời quê hương Tiền Hải ra Quảng Yên làm công nhân mỏ để hoạt động cách mạng ở vùng than Đông Bắc.

Hà Nội hôm nay khác hẳn, thành phố đã trở thành Thủ đô của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trẻ tuổi và bỗng trở nên thân thiết với anh hơn hồi năm 1940. Mấy ngày qua, tại đây vừa diễn ra một sự kiện quan trọng: ngày Lễ độc lập. Dư âm của ngày lịch sử đó vẫn như còn lắng đọng lại trên mỗi đường phố, trong mỗi gia đình. Lá quốc kỳ (mà hồi đó nhiều người còn quen gọi là “cờ Việt Minh”) vẫn tung bay trước các công sở, mỗi căn nhà. Băngrôn, khẩu hiệu, tiếng Việt có, tiếng nước ngoài có, căng cao trên các đường phố, ở mỗi ngã tư, ngã năm. Qua một khu phố, anh bỗng nghe vang tiếng đồng ca trầm hùng của một nhóm thanh niên nam nữ đang tập hát.

         Việt Nam bao năm ròng rên xiết lầm than
         Dưới ách quân tham tàn đế quốc sài lang…


Hồi ở Khu giải phóng, anh chỉ thuộc những bài hát của Đội Việt Nam Giải phóng quân, trong đó có bài Phất cờ Nam tiến. Bài này do anh sáng tác trong những ngày Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân bắt đầu thực hiện kế hoạch từ Cao Bằng tiến về xuôi trong cao trào tiền khởi nghĩa.

Y hẹn, đúng 7 giờ anh qua cổng Bắc Bộ phủ.

Lên đến gác hai, nơi có phòng làm việc của Bác Hồ anh thấy anh Văn đã đợi ở đây. Đúng lúc, một đồng chí ra báo:

- Bác đang chờ các đồng chí. Mời các đồng chí vào.

Ông Cụ đang chăm chú ghi chép gì đó, nghe tiếng chào, ngẩng đầu lên. Rồi Bác nhanh nhẹn đứng dậy bắt tay hai người, mời ngồi rồi quay lại hỏi:

- Thế nào, chú Bình, à chú Khang, có mạnh khỏe không, đi đường xa có mệt không?

Anh Văn mỉm cười. Trí nhớ của Ông Cụ thật tuyệt vời. Ngô Quốc Bình là tên anh hồi còn học ở Trường quân sự Điền Đông (Hoa Nam) năm trước, còn Khang là tên hồi hở Khu giải phóng. Tên chính thức lúc này của người thanh niên ba mươi tuổi ấy là Hoàng Văn Thái, hôm nay được Chủ tịch gọi đến để trao một trọng trách.

Sau khi thăm hỏi sức khỏe và nghe đồng chí Thái báo cáo tóm tắt về tình hình mấy tỉnh phía trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói ngay vào việc mà Cụ định giao cho anh sáng nay. Đại ý Cụ nói:

- Trải qua nhiều năm đấu tranh, dân tộc ta đã giành được tự do. Ta tuyên bố thành lập chính quyền cả nước. Trong Chính phủ đã có Bộ Quốc phòng. Nay phải thành lập cơ quan tham mưu để chỉ huy, điều hành lực lượng vũ trang toàn quốc. Đoàn thể giao cho chú làm Tham mưu trưởng… Lúc này, phải tổ chức ngay Bộ Tham mưu.

Cụ nói thêm: Bộ Tổng tham mưu là cơ quan mật của Đoàn thể, cơ quan đầu não của quân đội. Nhiệm vụ của Bộ Tổng tham mưu là phải biết địch, biết ta cho rõ ràng, xây dựng quân mạnh, rèn luyện quân giỏi, bày mưu kế khéo, tổ chức chỉ huy thông suốt, bí mật, nhanh chóng, chính xác, để đánh thắng mọi kẻ thù, bảo vệ thành quả cách mạng…


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Chín, 2012, 07:57:09 pm
Anh Thái vừa nghe vừa chăm chú nhìn Cụ Hồ. Da Ông Cụ vẫn xanh và người vẫn gầy, tuy có khá hơn hồi ở Tân Trào. Cụ Hồ vừa ngừng lời, anh ngập ngừng rồi mạnh dạn thưa:

- Thưa Bác, việc này lớn quá, cháu chưa làm nổi… Vả lại, cháu chưa biết gì về công việc tham mưu…

Anh đã nói thật lòng. Sau mấy năm ra nước ngoài học tập, kiến thức quân sự của anh có được mở mang thêm, về nước đảm nhiệm công tác trinh sát của Độ Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân rồi phụ trách Trường Quân chính kháng Nhật ở Khu giải phóng. Kinh nghiệm của anh chủ yếu là vận động chính trị quần chúng, còn về quân sự anh chỉ mới qua mấy trận Phay Khắt, Nà Ngần và Đồng Mu. Chưa bao giờ anh nghĩ rằng một ngày nào đó mình sẽ làm Tổng Tham mưu trưởng của quân đội quốc gia…

Cụ Hồ nhìn anh trìu mến như thấu hiểu nỗi lo lắng của người đối thoại. Cụ nói tiếp, vẻ mặt trang nghiêm nhưng giọng nói vẫn đầm ấm, thân tình, đầy sức thuyết phục:

- Chúng ta làm cách mạng, bây giờ đã giành được chính quyền, nhưng chú thấy, trong Chính phủ đã ai biết điều hành chính quyền thế nào đâu? Làm cách mạng, phải vừa làm, vừa học. Chú chưa hiểu về công tác tham mưu, lúc đầu chưa có kinh nghiệm, sẽ có nhiều khó khăn, nhưng phải rút kinh nghiệm dần dần, phải vừa làm, vừa học, miến là có chí thì thế nào cũng học được, làm được. Chúng ta phải xây dựng ngành tham mưu vững mạnh, giỏi giang, xứng đáng với dân tộc ta, một dân tộc dũng cảm, mưu lược, bất khuất. Chú cứ về bàn bạc với anh em đi.

Câu nói của Cụ đã giúp anh thấy một thực tế: Rõ ràng là cán bộ phụ trách các bộ, các khu và tỉnh, các ngành và đoàn thể, với tuổi đời cũng chỉ trên dưới ba mươi, tất cả đều mới bắt tay vào nắm chính quyền. Phải chăng các đồng chí đó cũng đang đứng trước hàng loạt công việc mới mẻ và cũng đều quyết tâm làm, theo phương châm mà Ông Cụ đã vạch ra là “Vừa làm vừa học - có chí thì nên”.

Ngừng một lát, Bác nói thêm:

- Tình hình rồi đây sẽ còn nhiều khó khăn. Nhưng nhân dân ta nhất định sẽ khắc phục được, nhất định sẽ thắng lợi. Chú cứ bắt tay vào công việc đi. Chú Văn sẽ giúp đỡ chú. Đừng lo, có Đoàn thể lãnh đạo, nhất định chúng ta sẽ làm được.

Quyết định của Ông Cụ thế là rõ. Cụ đã truyền cho anh một niềm tin, một quyết tâm. Cuối cùng, anh mạnh dạn thưa với Cụ Hồ:

- Vâng, nhiệm vụ Bác đã trao, cháu xin hứa sẽ cùng anh em quyết tâm thực hiện…

Cụ Hồ cười đôn hậu, đứng dậy bắt tay hai người. Thế là từ đấy, trên trang lịch sử của dân tộc, của quân đội, ngày 7-9-1945 trở thành ngày ra đời chính thức của bộ Tổng tham mưu, cơ quan tham mưu chiến lược đầu tiên của chính quyền nhân dân, của lực lượng vũ trang nhân dân. Và Hoàng Văn Thái trở thành Tổng Tham mưu trưởng đầu tiên của quân đội cách mạng Việt Nam.

Về đến phòng làm việc của anh Văn, anh Thái trở lại câu hỏi lớn, bao trùm, đang vương vấn trong đầu:

- Bây giờ làm thế nào anh?

Lại một câu hỏi chân tình, chất phác.

Nghe anh Thái hỏi, anh Văn cười. Anh chậm rãi nói về tình hình chung và những dự kiến ban đầu, những cán bộ đoàn thể Việt Minh sẽ giới thiệu sang và những việc trước mắt cần phải làm để cơ quan tham mưu nhanh chóng hình thành. Anh nói rõ một số cán bộ đầu tiên đã được điều động về là những ai:

- Anh Hoàng Đạo Thúy có biết về thông tin. Anh Mai Hữu Thao biết ít nhiều về công tác tham mưu trung đoàn của quân đội Pháp. Đoàn thể sẽ giới thiệu sang anh Hoàng Minh Đạo. Hồi ở Chiến khu Đông Triều, anh Đạo đã chỉ đạo việc nghiên cứu tình hình hoạt động của bọn phản cách mạng nên có chút kinh nghiệm về công tác nắm địch…

Hai người bàn bạc và thống nhất phác ra một số công việc trước mắt cần làm ngay.

Sau này, nhớ lại buổi sáng khó quên đó, anh thường tâm sự với cán bộ trong cơ quan tham mưu:

- Đối với tôi hồi ấy, có thể nói nhiệt tình cách mạng kháng chiến, nhưng cung cách tổ chức một cơ quan tham mưu ra sao và điều hành nó như thế nào thì đúng là còn như chim chích vào rừng “Vừa làm vừa học” - tôi nhớ lời dạy của Bác và tự cổ vũ mình: “Có chí thì nên”.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Chín, 2012, 07:57:25 pm
II

Anh Hoàng Văn Thái rời Tân Trào - Thủ đô Khu giải phóng - để sang chỉ đạo khởi nghĩa ở châu Lục Yên từ đầu tháng Tám. Anh không được biết những gì đã diễn ra ở Tân Trào - cái làng miền núi đã đi vào lịch sử trong những ngày sôi động vừa qua. Giờ đây anh mới được đọc và nghe anh Văn nói lại về Nghị quyết Hội nghị toàn quốc của Đảng hồi trung tuần tháng Tám. Bản nghị quyết giúp anh nhận thức rõ tình hình và chủ trương của Đảng trong và sau khi giành chính quyền trong cả nước. Điều tâm đắc tới mức thích thú đối với anh là thời cơ Tổng khởi nghĩa: không trước khi Nhật đầu hàng, và không sau khi quân Tưởng Giới Thạch - nhân danh “đồng minh” - đặt chân lên nước ta. Với thời cơ đó, hai tuần lễ khởi nghĩa nhanh gọn đã diễn ra thắng lợi.

Một vấn đề gắn liền với nhiệm vụ trước mắt của cơ quan tham mưu mà anh mới được Cụ Hồ thay mặt Đoàn thể và Chính phủ trao cho tổ chức và điều hành, đó là tìm hiểu về những lực lượng được gọi là “đồng minh” kia thế nào, ý đồ của họ và đối sách của ta ra sao?

Việc phân chia đất nước Việt Nam ra làm hai miền, lấy vĩ tuyến 16 làm ranh giới, là kết quả bàn bạc về những vấn đề hậu chiến giữa các nước Đồng minh tại Hội nghị Pốtxđam (Đức), diễn ra từ ngày 17-7 đến ngày 2-8-1945 vừa qua. Người ta giao cho quân Anh vào phía nam quân Tưởng vào phía bắc vĩ tuyến 16 để giải giáp quân đội Nhật. Do Đảng ta đã kịp chớp thời cơ lãnh đạo toàn dân giành chính quyền trọn vẹn từ Nam chí Bắc và trở thành người chủ thực sự của đất nước, nên cả Anh và Tưởng đều bị động, buộc phải “nói chuyện” với Chính phủ lâm thời Việt Nam, dù họ cố tình lợi dụng tính hợp pháp của tấm “hộ chiếu Pốtxđam”. Tại miền Nam, tin tức mấy ngày qua cho biết phái bộ Anh đã đến Sài Gòn, kéo theo một đơn vị biệt kích Pháp mặc quân phục hoàng gia Anh. Ngay sau khi hạ cánh xuống sân bay Tân Sơn Nhất, bọn lính Pháp này được Anh cho thay thế quân đội Nhật chiếm đóng một số vị trí quan trọng trong thành phố Sài Gòn - Gia Định, kể cả bến cảng, xưởng đóng tàu, kho thuốc súng… Đúng như Hội nghị toàn quốc ở Tân Trào đã nhận định, đế quốc Pháp, núp dưới cờ quân Đồng minh, cụ thể là cờ Anh, đang “lăm le khôi phục địa vị của chúng ở Đông Dương”.

Còn ở miền Bắc, chỉ mươi ngày sau khi nhân dân giành chính quyền ở Hà Nội, quân đội Tưởng Giới Thạch đã vượt biên giới tràn vào đóng quân ở nhiều thị trấn, thị xã và thành phố lớn dọc theo các đường giao thông huyết mạch. Chúng còn cho bọn tay sai người Việt theo về nước, núp dưới danh nghĩa các tổ chức chính trị như Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc), Việt Nam Cách mạng đồng minh hội (Việt cách)… chiếm đóng một số nơi ở Bắc Bộ… Rõ ràng là Chính phủ Trùng Khánh, lợi dụng nghị quyết Pốtxđam, nhân cơ hội này, thực hiện mưu đồ “Hoa quân nhập Việt” ấp ủ từ lâu, hòng biến nước ta thành một nước chư hầu của Trung Hoa dân quốc.

Một điều tâm đắc đối với Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái khi nghiên cứu bản Nghị quết Tân Trào là Đảng đã sớm chỉ rõ phải chống lại mưu đồ của Pháp định khôi phục lại địa vị cũ ở Đông Dương và tham vọng của bọn quân phiệt Trung Hoa định thôn tính nước ta. Thực tế tình hình hiện nay sớm chứng minh điều mà Hội nghị toàn quốc của Đảng dự kiến là hoàn toàn đúng đắn. Về đối sách của ta, do dự kiến sớm muộn sẽ xuất hiện mâu thuẫn giữa hai thế lực Đông minh Anh - Pháp và Mĩ - Tưởng, nên Đảng chủ trương lợi dụng mâu thuẫn cụ thể này của hai thế lực phản cách mạng, chủ trương tránh trường hợp một mình phải cùng một lúc đói phó với nhiều thế lực ngoại xâm. “Dù sao chỉ có thực lực của ta mới quyết định được sự thắng lợi”. Anh Thái coi lời khẳng định đó là kim chỉ nam khi bắt tay vào tổ chức cơ quan, xây dựng lực lượng.

Người cán bộ tham mưu đầu tiên mà anh gặp và trao đổi về công tác hôm sau, ngày 8-9, là bác Hoàng Đạo Thúy, người có mặt trong Quốc dân Đại hội Tân Trào mấy ngày trước Tổng khởi nghĩa. Hơn Tổng Tham mưu trưởng mười lăm tuổi nhưng phong cách và thái đội nhiệt tình cởi mở của bác Thúy đã để lại cho anh ấn tượng tốt ngay từ buổi đầu gặp gỡ.

Bác Thúy nói:

- Anh Văn bảo tôi: “Bây giờ mình đã có Bộ Quốc phòng, có nhiều bộ đội ở khắp các chiến khu. Phải làm sao nắm được các đơn vị, từ Lao Cai đến Cà Mau. Đồng chí quen đường đất, Đoàn thể trao cho đồng chí nhiệm vụ ấy, làm thế nào tổ chức liên lạc ngay từ các địa phương, chuyển được công điện, công văn”. Tôi rất lo cho công việc được giao vì chưa làm bao giờ và trong tay chưa có phương tiện gì. Tôi đề nghị và bàn với cơ quan tham mưu đã. Anh Văn bảo: “Vài hôm nữa một thanh niên từ chiến khu về sẽ nhận nhiệm vụ thành lập cơ quan tham mưu. Đừng chờ đợi. Công việc của đồng chí cần làm ngay…”. Tôi đã đi tìm người, tìm máy, tìm xe. Hôm nay mới biết người thanh niên mà anh Văn nói chính là anh. Từ đây, bộ phận tôi nhập vào do anh chỉ huy…


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Chín, 2012, 07:57:44 pm
Bác Thúy còn cho biết thêm là Đoàn thể mới cử sang hai người trước đây đã làm nghề vô tuyến điện. Đó là các anh Vũ Hán Thăng và Lê Dung. Ngoài ra, còn có một số cựu binh sĩ cứu quốc. Anh em đã kiếm được một số máy vô tuyến và đã liên lạc được với đài Sài Gòn, nhưng khi trời xấu thì phải nhờ đài Quảng Ngãi chuyển.

Anh Thái thống nhất với bác Thúy, cần tổ chức ngay một mạng thông tin vô tuyến điện, một mạng điện báo, một hệ thống truyền đạt công văn, bàn việc mở lớp huấn luyện sử dụng máy vô tuyến, tổ chức một bộ phận mật mã…

Thế là, dù cho phương tiện kĩ thuật còn rất nghèo nàn, nhưng nhờ tài năng và trách nhiệm của bác Thúy, ngành thông tin đã xác định được hướng đi và đã đi trước một bước.

Ngay chiều hôm đó, Tổng Tham mưu trưởng triệu tập một cuộc họp với mấy đồng chí cán bộ được giới thiệu đến để bàn những việc trước mắt cần làm ngay. Ngồi quây quần quanh anh Thái là ngót chục người: già có, trẻ có. Ngoài bác Thúy và anh Hoàng Minh Đạo, còn các anh Nguyễn Văn Trang, Vũ Văn Thềm, Nghiêm Xuân Hân do Thành hội Việt Minh Hà Nội giới thiệu; các anh Đỗ Xuân Sảng, Mai Hữu Thao đến từ Hội Cựu binh sĩ cứu quốc. Bác Thúy cho biết các anh Lê Dung và Vũ Hán Thăng đang đi tìm máy móc nên không có mặt. Hồi đó mấy ai nghĩ rằng mình là người đặt những viên gạch đầu tiên xây dựng nền móng cho cơ quan tham mưu của một quân đội nhân dân có truyền thống bách chiến bách thắng sau này. Đấy là chặng đường mấy chục năm sắp tới. Còn trước mắt thì ngay trụ sở của cơ quan cũng chưa có, phải họp nhờ trong căn phòng nhỏ ở Bắc Bộ phủ.

Nội dung cuộc họp chưa có gì đáng gọi là “tham mưu” cả, vì chỉ bàn việc đi tìm trụ sở và kiếm phương tiện làm việc và sinh hoạt. Cuộc họp kết thúc nhanh chóng. Ngay sau đó mấy anh em “thổ công Hà Nội” tỏa đi chọn nơi đặt trụ sở cơ quan. Vừa đi xem xét, vừa trao đổi ý kiến. Ý kiến lúc đầu còn chưa thống nhất. Người này ưng mấy trường học của bọn con Tây hồi trước như Trường Anbe Xarô (Albert Sarraut) hay trường Phêlích Phô (Phélix Faure), người khác chọn khu Đồn Thủy và khu nhà binh Pháp trước đây ở phố Concession (nay là đường Phạm Ngũ Lão). Người khác lại “kết” trụ sở Ty Liêm phóng cũ… Cuối cùng, sau khi phân tích mọi lẽ qua ý kiến anh em, anh Thái đồng ý chọn ngôi nhà hai tầng số 16 đường Riquier (nay là 18 phố Nguyễn Du) làm trụ sở của Bộ Tổng tham mưu.

Thời Pháp, nhà này là trường mồ côi, đến thời Nhật, đây là trại lính. Sau Tổng khởi nghĩa, tự vệ khu phố dùng làm nơi hội họp, sân của ngôi nhà trở thành bãi tập quân sự. Với diện tích chừng hơn 1.000 mét vuông, có sân rộng, tường cao, ở trong khu vực thường được quen gọi là “khu phố ta”, xa nơi đóng quân của Tàu Tưởng và các đơn vị Nhật hiện vẫn còn ở trong thành phố.

Sau khi có trụ sở, anh Thái muốn họp bàn ngay việc tổ chức cơ quan. Nhận chỉ thị tổ chức cuộc họp đầu tiên của cơ quan tại trụ sở mới ở phố Nguyễn Du, anh Nguyễn Văn Trang, người được phân công làm quản lý đầu tiên của Bộ Tổng tham mưu, cứ bắn khoăn một điều: cả cơ quan chưa có một chiếc bàn ghế nào, ngồi ở đâu mà họp! Anh em đã đến một số nơi ta vừa tiếp quản như trại Bảo an binh, nhà Bưu điện, Sở giao thông công chính để liên hệ hoặc xin hoặc mượn, nhưng chưa được. Tổng Tham mưu trưởng cười, bảo anh Trang:

- Ta mượn tạm đồng bào vài cái chiếu, quét sạch sàn, trải xuống. Anh em ngồi xếp bằng trên chiếu để họp, như bà con nông dân họp việc làng…

Cuộc họp bắt đầu sáng ngày 12-9, được coi là hội nghị tham mưu đầu tiên của quân đội cách mạng trẻ tuổi. Cả người mới và người “cũ”, vỏn vẹn ngót hai chục. Người lớn tuổi nhất vẫn là bác Thúy, tuổi 45. Số anh em đã từng làm việc trong quân đội và chính quyền cũ cũng chỉ xấp xỉ tuổi 30 - 35. Một vài chiến sĩ Giải phóng quân rất trẻ mới theo anh Thái từ chiến khu về. Còn lại số đông là thanh niên học sinh. Có lẽ ngồi đây chẳng ai nghĩ rằng, trong điều kiện đất nước mới giành được độc lập, thù trong giặc ngoài đang đặt quốc gia vào thế ngàn cân treo sợi tóc, họ chính là những người sẽ ghé vai gánh vác trọng trách cách mạng trao cho là xây dựng một cơ quan tham mưu chiến lược để giúp trên điều hành một cuộc chiến tranh kéo dài gần một phần ba thế kỷ. Ngồi sát bên nhau trên mấy chiếc chiếu, các anh tự giới thiệu tên tuổi để bước đầu từ chỗ còn ít nhiều xa lạ, dần dần đến chỗ thân quen, điều kiện tối thiệu để chung lưng đấu chật trong công việc chung.

Bác Hoàng Đạo Thúy, các anh Hoàng Minh Đạo, Nguyễn Văn Trang… báo cáo tình hình các bộ phận đầu tiên trong quá trình hình thành. Lực lượng còn mỏng, tổ chức cụ thể chưa định hình rõ rệt. Trước mắt, bác Thúy đảm nhiệm việc tổ chức mạng thông tin liên lạc, anh Hoàng Minh Đạo nghiên cứu tổ chức việc nắm địch, anh Nguyễn Văn Trang lo toan sinh hoạt vật chất toàn cơ quan. Trên cho biết, sẽ có một đồng chí về giúp Tổng Tham mưu trưởng phụ trách công tác nội bộ. Mới trải qua ít ngày, từ chỗ con số không, cơ quan ban đầu đã có chừng vài chục người, khiến anh em phấn khởi. Anh Trang báo cáo thêm: về cơ sở vật chất sinh hoạt, anh Đỗ Xuân Sảng đã cho mang đến tặng cơ quan một xe bò chở đầy nồi xoong, rổ rá, bát đĩa… đủ cho vài chục người.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Chín, 2012, 07:59:09 pm
Cuộc họp mang tính “ra mắt” diễn ra trong vòng hơn một giờ đã đề cập đến một số vấn đề cụ thể chủ yếu là về tổ chức và sinh hoạt. Cuối cùng anh Thái kết luận tóm tắt những việc đã bàn. Anh nói:

- Chúng ta mới làm quen với nhau và cũng mới bàn được một số công việc trước mắt. Trước hết, cần ổn định chỗ ở và nơi làm việc. Do cơ quan còn thiếu phương tiện sinh hoạt, các anh em có nhà ở Hà Nội vẫn tạm thời được phép ăn ngủ với gia đình, ngày ngày đến cơ quan làm việc. Các anh em khác ăn ở nhà ăn tập thể, ngủ ở căn nhà đằng sau cơ quan. Việc canh gác do đội vệ binh của đồng chí Thái Dũng đảm nhiệm. Ngoài một số cán bộ sẽ được Thành ủy và Tổng bộ Việt Minh giới thiệu sang, anh em tìm thêm những người quen biết và tin cậy, báo cáo để trên xét duyệt đưa vào làm việc. Mấy anh em cự binh sĩ cứu quốc đã được phân công nghiên cứu tổ chức cơ quan tham mưu của Pháp sẽ làm việc riêng với tôi để bàn việc thành lập các bộ phận của cơ quan(1). Nghiên cứu tổ chức của nước ngoài cần đề xuất ý kiến vận dụng sao cho phù hợp với điều kiện của ta trong lúc này, nhất là yêu cầu nắm địch, nắm ta, theo dõi việc xây dựng lực lượng ở các địa phương, đồng thời bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt…

Tổng Tham mưu trưởng còn dặn một người thân ái đoàn kết, cùng nhau góp công sức, đem sự hiểu biết xây dựng cơ quan để guồng máy sớm hoạt động. Cần coi trọng việc giữ bí mật và tổ chức, về công việc của cơ quan, giữ quan hệ tốt với nhân dân khu phố, nhất là với tự vệ và thanh niên. Mọi việc quan hệ về công tác với các đơn vị và địa phương đều phải báo cáo với cán bộ phụ trách. Hội nghị kết thúc. Mọi người như cũng theo đuổi một suy nghĩ: Phải tìm người quen biết, thân tín, giới thiệu vào cơ quan để guồng máy sớm hoạt động.

Hồi ấy, mấy ai nhận thức rành rẽ vai trò của cơ quan tham mưu chiến lược, cũng chưa ai được giải thích về tiêu chuẩn người sĩ quan tham mưu phải như thế nào. Nhưng điều chắc chắn mà ai cũng nghĩ tới là phải tìm và giới thiệu người đứng đắn đáng tin cậy mà trước hết là tin cậy về lòng yêu nước, về tinh thần tha thiết với chế độ mới.

Sau cuộc họp chỉ chừng mươi ngày, giữa lúc tổ chức và công việc chưa “ra ngô ra khoai” (như cách nói của anh Thái sau này nhớ lại) thì Chủ tịch Quân sự ủy viên hội Võ Nguyên Giáp cho mời Tổng Tham mưu trưởng sang nhận nhiệm vụ gấp. Quân Pháp đã gây hấn ở Sài Gòn. Hưởng ứng Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng bào miền Nam đã đứng lên kháng chiến. Chắc chắn quân và dân trong đó đang gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc chiến đấu không cân sức. Phải tổ chức ngay lực lượng vào chi viện cho miền Nam. Thường vụ Trung ương đã điện cho các địa phương chọn người, chọn vũ khí cho các đoàn quân Nam tiến

Một công tác “tham mưu đích thực” bắt đầu ngay khi cơ quan tham mưu mới tròn nửa tháng tuổi.

Sau khi nhận nhiệm vụ, anh Thái cùng một số cán bộ bắt tay ngay vào việc, một công việc hoàn toàn mới mẻ cần triển khai trong điều kiện hết sức khẩn trương. Và chính anh đã có mặt ở ga Hàng Cỏ đêm 26-9, đích thân tiễn đơn vị Nam tiến đầu tiên lên đường. Những người được vinh dự lên đường trong chuyến Nam tiến đầu tiên đó là cán bộ chiến sĩ ba đại đội Bắc Sơn, Bắc Kạn và Hà Nội, được tổ chức thành một chi đội do anh Hoàng Thơ chỉ huy. 72 cán bộ trong số gần 400 học viên vừa tốt nghiệp lớp đào tạo ngắn ngày của Trường Quân chính trung ương tại Hà Nội,cũng có mặt trong chuyến này. Từ đó, hầu như không tuần nào không có quân Nam tiến. Bên cạnh hàng loạt công việc cấp bách của chính quyền non trẻ, việc tổ chức cho các chiến sĩ trên đường vào Nam chiến đấu được Đoàn thể và chính quyền địa phương coi là nhiệm vụ hàng đầu. Với tinh thần Bắc - Nam một nhà, tay đứt ruột xót, nhân dân và chiến sĩ miền Bắc sẵn sàng vượt lên mọi khó khăn thiếu thốn của chính quyền trứng nước, quyết tâm chia lửa với đồng bào và chiến sĩ miền Nam đang đối mặt hằng ngày với quân viễn chinh Pháp.

Đoàn tàu Nam tiến xuất phát đêm 26-9-1945 đã đi vào lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp, mở đầu cho cả quá trình 30 năm “miền Nam gọi - miền Bắc trả lời”. Đến Nam Định, tàu dừng lại, nhận thêm đơn vị của Ninh Bình - Nam Định và cứ như thế, từ Thanh Hóa - Vinh đến Huế - Đà Nẵng rồi Quảng Ngãi - Bình Định… ga nào cũng có đơn vị Nam tiến của địa phương đón sẵn.

Một hình ảnh sinh động cả nước lên đường, đúng vào thời điểm Cụ Hồ kêu gọi đồng bào Nam Bộ “Thà chết tự do hơn sống nô lệ”.


(1) Do lúc này ta chưa có chút kiến thức gì về công tác tham mưu, nên anh Thái đồng ý cho một số anh em cựu binh sĩ địch và nghiên cứu cuốn Sổ tay bộ binh thuộc địa (Manuel d’Infanterie coloniale) của quân đội Pháp mà các anh kiếm được, dù cuốn sách chỉ nói đến công tác tham mưu cấp trung đoàn.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Chín, 2012, 07:59:32 pm
III

Vấn đề trăn trở đối với Tổng Tham mưu trưởng trong những ngày này là tổ chức cơ quan như thế nào, gồm những bộ phận gì và tên gọi ra sao, cung cách tiến hành công việc phải như thế nào cho đúng chức năng, nhiệm vụ.

Vào khoảng đầu tháng 10, nhân dịp có một số cán bộ mới nhận nhiệm vụ chỉ đạo, chỉ huy các đơn vị và địa phương về họp, anh Thái đã tranh thủ trao đổi ý kiến với các anh về tổ chức ngày tham mưu ở trên Bộ cũng như ở các khu, các trung đoàn. Qua trao đổi thấy có nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí có những ý kiến khá độc đáo, ví như trường hợp anh Trần Độ. Anh Độ đã nói lên “kinh nghiệm” của mình về tổ chức cơ quan tham mưu như sau:

- “Sáng kiến” trước tiên là phải tìm cho phòng tham mưu những tấm bản đồ. Tham mưu là phải có bản đồ. Thế là tôi cho tìm mấy tấm bản đồ hành chính (của Pháp trước đây) và cho đóng lên tường căn phòng dành cho tham mưu. Còn những con người làm công tác tham mưu thì phải như thế nào à? Tôi nghĩ rằng đó phải là những anh tháo vát, linh hoạt, táo bạo, dũng cảm. Và cứ theo “tiêu chuẩn” ấy, tôi đã tuyển chọn về phòng tham mưu một số… cầu thủ bóng đá chân giày có tên tuổi…

Câu chuyện khá hài hước được anh Trần Độ sau này nhắc lại để chứng minh một điều là trong những ngày trứng nước của chính quyền cách mạng, chúng ta ấu trĩ biết nhường nào!

Trong số cán bộ được phân công phụ trách “đầu ngành”(1), một số anh em có chút tay nghề chuyên môn như thông tin, bản đồ… Ngoài ra, phải kể đến một vài võ quan Nhật đã sang hàng ngũ ta. Họ biết về công tác tham mưu quân đội đế quốc, kể cả tham mưu cấp trung đoàn, sư đoàn của quân đội Thiên hoàng. Đó là kinh nghiệm tổ chức cơ quan tham mưu của một quân đội đế quốc đã có lịch sử hàng trăm năm, có đầy đủ cơ ngơi, “đủ mâm đủ bát”. Vấn đề đặt ra với ta là sử dụng kinh nghiệm đó như thế nào trong điều kiện trình độ ta còn thấp, kinh nghiệm và phương tiện hoạt động còn quá nghèo nàn.

Anh Thái biết anh Văn rất bận. Anh là Bộ tưởng Nội vụ Chính phủ lâm thời nhưng vẫn được Cụ Hồ và Trung ương giao nhiệm vụ theo dõi và chỉ đạo công tác quân sự, chuẩn bị quốc phòng. Tổng Tham mưu trưởng cố tìm mọi dịp để hỏi anh Văn điều này, điều khác, để xác định hướng đi cho mình và cho cơ quan. Sau này có lần anh kể lại cuộc đối thoại giữa anh với anh Văn vào khoảng đầu tháng 10-1945:

“Một lần anh đến cơ quan chúng tôi ở 18 Nguyễn Du. Sau khi nghe tôi báo cáo những việc đang làm và những việc còn đang nghiên cứu cách làm, anh cười và nói vu:

- Như vậy là anh vừa học vừa làm Tổng Tham mưu trưởng rồi đấy!

Và anh dặn:

- Cố gắng nắm được tình hình các khu, các tỉnh. Cần hiểu dưới đó anh em đang làm gì, gặp khó khăn, thuận lợi gì, cần chúng ta giúp đỡ gì. Có như thế mới chỉ đạo, chỉ huy, hướng dẫn anh em đi đúng đường lối chủ trương của Đoàn thể.

Tôi nói:

- Vừa rồi tôi mới đi mấy tỉnh quanh Hà Nội. Nhiều công việc quá, muốn đi mà không xuể.

Anh Văn nói:

- Trước đây, chúng ta chỉ huy một số đơn vị nhỏ, hoạt động trong một số địa bàn nhỏ hẹp. Bây giờ mỗi khu đã có hàng ngàn quân. Đất nước đã có hàng vạn quân rải ra từ Nam chí Bắc. Muốn nắm tình hình mà cứ phải xuống tận nơi như trước thì không được đâu. Anh đã trao đổi với các khu về việc tổ chức cơ quan tham mưu, cần bàn với họ tổ chức xuống cơ quan quân sự tỉnh, phải bày cho anh em cách báo cáo thường xuyên. Trường hợp cần nắm sâu một địa phương nào, về một vấn đề gì thì hướng dẫn cho anh em cán bộ cơ quan xuống. Ngay trong cơ quan Bộ Tổng tham mưu, anh cũng chỉ nên tập trung nắm một số đầu mối, còn thì giao cho tham mưu chủ nhiệm(2). Cần có chế độ họp nghe anh em báo cáo và hướng dẫn rút kinh nghiệm để cho anh em nắm tình hình và báo cáo tình hình…

- Tối cũng mới, anh em còn chưa quen công việc mà việc thì rất nhiều. Lắm hôm, chỉ giải quyết được một vài việc là Thủ đô này cũng hết ngày. Như hôm nay, vừa chuẩn bị cho đơn vị Nam tiến xong lại giải quyết vụ quân ta xích mích với quân Tưởng.

- Đúng, công việc của chúng ta thật là chồng chất. Nhưng phải nắm đâu là công việc chính, tình hình gì là chủ yếu nắm và lại phải hướng dẫn cho anh em biết nắm tình hình nữa. Anh em có tinh thần hăng say cách mạng, nhưng trình độ hạn chế và chưa biết phương pháp làm việc. Muốn khắc phục ngay tình hình đó thì cũng không được đâu mà phải vừa làm vừa rút kinh nghiệm dần dần. Muốn thế, phải biết thật rõ vị trí công tác của mình hiện nay. Chúng ta không còn hoạt động trong một phạm vi nhỏ hẹp của một địa phương như trước đây nữa mà công việc hiện nay có tính chất rộng lớn cả nước. Nắm tình hình cũng phải chú ý nhiều nhất, trước nhất đến những vấn đề có ảnh hưởng tới cả nước. Giải quyết công việc hằng ngày cũng phải gạt bớt những cái gì vụn vặt. Nếu công việc nào không ảnh hưởng đến tình hình chung cả nước thì cứ để các địa phương và cấp dưới trong cơ quan bàn bạc tự lo lấy, sau khi mình góp ý chỉ đạo để anh em đi đúng phương hướng…”.


(1) Như các anh Mai Hữu Thao và Đỗ Xuân Sảng - tác chiến; Hoàng Minh Đạo và Bùi Huy Bê - tình báo; Hoàng Đạo Thúy và Vũ Hán Thăng, Lê Dung - thông tin, Tạ Quang Đệ (Quang Đạm) và Đinh Loan Thuyên - mật mã; Nguyễn Hữu Ngân và Phạm Thanh Hà - bản đồ; Nguyễn Chính (Du Phong) và Nguyễn Văn Trang - Văn phòng, quản lý nội bộ, v.v. Lúc đầu việc nắm tình hình lực lượng vũ trang của ta vẫn do Tổ Nhân sự (đặt trong văn phòng) đảm nhiệm, theo dõi cả quân số và trang bị. Mãi đến đầu năm 1946 mới hình thành Phòng Nhân sự (sau này là Quân lực) và từ đầu tháng 4 do anh Trần Văn Lư làm Trưởng phòng.
(2) Hồi Bộ Tổng tham mưu mới thành lập cho đến hết năm đầu kháng chiến toàn quốc, tham mưu chủ nhiệm là người giúp Tổng Tham mưu trưởng giải quyết những vấn đề thuộc quản lý nội bộ Bộ Tổng tham mưu. Các tham mưu chủ nhiệm đầu tiên là các ông Lâm Kính (Lâm Cẩm Như), Trần Văn Quang, Phan Tử Lăng (khi bắt đầu kháng chiến) và Trần Văn Lư (từ giữa năm 1947 đến tháng 10-1948). Chừng nửa năm sau Hội nghị tham mưu toàn quân (tức khoảng gần cuối năm 1948) chức danh đó mới đổi thành Tổng Tham mưu phó (sau này là Phó Tổng tham mưu trưởng) và khi đó chức năng mới “với” đến toàn quân. Vào thời điểm này (1949-1950), Tổng Tham mưu phó là các ông Đào Văn Trường, Vũ Hiển, Phan Phác…


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Chín, 2012, 08:01:22 pm
Trải qua nhiều ngày suy nghĩ và trao đổi ý kiến với nhóm được phân công nghiên cứu tổ chức cơ quan tham mưu, lại được sự gợi ý hướng dẫn của anh Văn, tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái đã cùng anh em thống nhất định hình các tổ chức chính trong cơ quan: tác chiến - đồ bản, tình báo, thông tin liên lạc và văn phòng. Một lần anh đi qua một phòng, thấy anh em tranh luận rất hăng về số liệu của các phòng, người thì cho rằng: Phòng Tác chiến nên gọi là toadem buyarô (Phòng 3), người thì cho rằng phải là prơmê buyarô (Phòng 1). Tham gia ý kiến với anh em, anh Thái nói:

- Chúng ta không nên bàn cãi nhiều chung quanh vấn đề đặt tên, ví như Phòng Tình báo nên gọi là Phòng 2 hay Phòng 5, Phòng Tác chiến nên gọi là Phòng 1 hay Phòng 3… Cứ trông việc đặt tên để làm việc đã. Ví như cũng cần nghiên cứu xem Văn phòng có ôm đồm quá nhiều việc không, cả văn thư hành chính, rồi quản lý nội bộ, lại còn bao gồm cả Tổ Nhân sự, theo dõi binh lực toàn quân. Hay cần nghiên cứu xem có nên để Tổ Mật mã trong Phòng Thông tin liên lạc hay không, v.v. Hiện nay cán bộ chưa nhiều, bộ phận nào cũng đang trong quá trình định hướng công việc nên cứ tạm để như vậy, trải qua thực tế vừa làm vừa rút kinh nghiệm, sẽ thay đổi bổ khuyết sau…

Phải đến khoảng trung tuần tháng 10-1945, tổ chức bước dầu được định hình cùng với sự phân công, phân nhiệm giữa các bộ phận.

Nhớ lời dặn của đồng chí Võ Nguyên Giáp (nắm tình hình chung, toàn cục và tập trung vào những công việc chủ yếu, quan hệ đến toàn quốc), Tổng Tham mưu trưởng cùng các cán bộ phụ trách các phòng dần dần tập trung suy nghĩ vào việc nắm tình hình, nhất là tình hình địch. Lúc này sự hiểu biết của cơ quan tham mưu về tình hình quân Tưởng ở ngoài Bắc đã hạn chế, việc nắm tình hình quân Pháp ở trong Nam lại càng khó hơn.

Cuộc trao đổi ý kiến giữa các anh Hoàng Văn Thái và Bùi Huy Bê ngày 29-10 đánh dấu một mốc quan trọng về việc đinh hướng theo dõi tình hình của Phòng Tình báo. Lúc này anh Hoàng Minh Đạo đang xuống chỉ đạo tổ chức tình báo ở một số địa phương Khu 4. Anh Bê mới được điều động về làm Phó Trưởng phòng Tình báo được mấy tuần. Cuộc họp kéo dài một ngày đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề quan trọng liên quan tới nghiệp vụ của phòng.

Chừng hai mươi vạn quân Tưởng vào miền Bắc đâu phải để giải giáp mấy vạn quân Nhật? Kế hoạch “Hoa quân nhập Việt” của chúng đã ấp ử từ lâu. Khi còn ở bên Trung Quốc, anh Thái đã từng được nghe nói về ý đồ này của chính quyền Trùng Khánh. Giờ đây kế hoạch đó mang một nội dung mới, đó là âm mưu “diệt cộng - cầm Hồ” nhằm phá chính quyền cách mạng của ta. Yêu cầu đặt ra là cơ quan tình báo phải liên hệ mật thiết với anh Lê Giản (Giám đốc Nha Liêm phóng), bám sát để kịp thời có kế hoạch phối hợp ngăn chặn hành động chống phá của quân Tưởng và bọn Việt quốc, Việt cách tay sai của Trùng Khánh ngay trên đường phố Hà Nội.

Ở trong Nam, báo chí và tin tức nhận được trong gần một tháng qua cho thấy chiến sự đã mở rộng. Bàn tay quân đội Anh nối giáo cho quân Pháp đã quá rõ ràng. Bên cạnh quân đội Anh còn có quân đội Nhật, tuy đã giải giáp nhưng lại được phái bộ Anh thả ra và sử dụng vào việc giúp Pháp. Anh Thái và anh Bê nhận định: Trước sau quân Nhật cũng sẽ hồi hương; sớm muộn quân Anh cũng rút đi, sau khi đã giúp cho quân Pháp “đứng chân được” ở miền Nam. Đối tượng cần tập trung theo dõi sẽ là quân đội Pháp. Nói đến Pháp, không thể không nói đến lính Pháp bại trận còn bị giam trong thành Hà Nội, cũng như số tàn quân Pháp bị Nhật đánh bật ra ngoài vùng Đông Bắc và mấy ngàn tên khác chạy trốn sang vùng Vân Nam đang rục rịch kéo về; cũng không thể không nói đến số Pháp kiều có vũ trang đang chờ thời cơ ngóc đầu dậy.

Phương hướng và đối tượng nắm địch như thế là được xác định rõ. Tổng Tham mưu trưởng yên tâm, tiếp tục bàn bạc công việc cần triển khai với các bộ phận khác.

Từ sau ngày giành chính quyền, lực lượng vũ trang của ta ở các địa phương phát triển từng ngày, nơi này do Mặt trận Việt Minh tổ chức, nơi kia do ủy ban (chính quyền) tổ chức. Bàn bạc với bộ phận phụ trách nhân sự, Tổng Tham mưu trưởng thấy yêu cầu đặt ra đối với cơ quan tham mưu là phải làm sao nắm được tình hình quân ta ở các địa phương, các đơn vị, đề bạt ý kiến về chỉ đạo xây dựng, tổ chức, huấn luyện; phải nắm lấy công việc động viên chi viện cho miền Nam mà các địa phương đang thực hiện theo chỉ thị của Trung ương. Lúc này, nhiều đơn vị bộ đội Vệ quốc đoàn và nhất là tự vệ và du kích ở các nơi còn tự túc về trang bị, theo khả năng của từng địa phương. Các cơ quan quân khu, quân khí đã hình thành trong Bộ Quốc phòng. Tham mưu cần cử người lên Thái Nguyên, bàn bạc với anh em ở xưởng quân giới Giang Tiên để có kế hoạch thống nhất phương hướng sản xuất vũ khí trong phạm vi khả năng của ta, trong khi đó vẫn tranh thủ mua vũ khí của ca quân đội Tưởng và quân đội Nhật. Ưu tiên là khẩn trương cải tiến trang bị cho lực lượng vũ trang tập trung của các tỉnh. Lúc này các đơn vị Vệ quốc đoàn (chưa tổ chức thống nhất, nơi là chi đội, nơi là trung đoàn) còn do chính quyền tỉnh cấp dưỡng. Cần hướng dẫn mẫu biểu và chế độ báo cáo để nắm về số lượng, từng bước thống nhất về biên chế, phiên hiệu, v.v.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Chín, 2012, 07:21:23 am
Do lực lượng không cân sức, đất nước ta lại dài và hẹp, khi xảy ra chiến tranh, chiến trường dễ bị chia cắt. Ngay lúc này, trước yêu cầu nắm tình hình các địa phương và đơn vị, cần sớm hoàn chỉnh mạng lưới thông tin liên lạc, cả vô tuyến điện, điện thoại và liên lạc chạy chân. Làm việc với đồng chí Hoàng Đạo Thúy, Tổng Tham mưu trưởng nhất trí rằng, mỗi khi có thêm người, thêm phương tiện thông tin, cần tập trung cho các địa phương đang có chiến sự ở trong Nam và các địa bàn xung yếu ngoài Bắc. Trước hết phải đảm bảo thông suốt từ các chiến khu về trung ương. Bộ phận mật mã (sau này gọi là cơ yếu) đang nghiên cứu bản luật mật mã để đảm bảo bí mật chỉ huy bằng vô tuyến điện và bằng điện thoại. Lúc này điện thoại còn phải qua đường dây của bưu điện vì ngành quân sự chưa tổ chức được hệ thống điện thoại riêng.

Trong một buổi làm việc, đồng chí Hoàng Đạo Thúy cho biết người đầu tiên bắt tay vào công việc nghiên cứu mật mã là anh Tạ Quang Đệ (Quang Đạm), do bác Thúy và bác Đặng Thai Mai giới thiệu. Được gọi vào quân đội, anh Đạm cũng như rất nhiều thanh niên hồi đó, đã trải qua nhiều nung nấu mộng Nam tiến vì “xếp bút nghiên lên đường tranh đấu”, ai cũng mong được đối mặt với quân thù. Nhưng rồi khi được giao nhiệm vụ, anh yên tâm với công việc và dốc sức vào nghiên cứu bản luật mật mã. Vốn hiểu biết về mật mã của anh còn rất hạn chế. Khi bắt đầu công việc, anh chỉ được nghe nói về ý nghĩa quan trọng và yêu cầu bảo đảm bí mật quân sự như thế nào. Còn nội dung cụ thể của công tác mật mã ra sao, đối với anh vẫn còn là một ẩn số. Như sau này anh Đạm tâm sự, suy đi tính lại, bản thân chữ “mật mã” cho thấy vấn đề là ở chỗ làm thế nào bảo toàn được bí mật của mình, dù trước mắt địch là bức điện mà đài của chúng vừa cáptê được. Thế là anh bắt tay vào nghiên cứu, dựa theo cơ sở kinh nghiệm “trò chơi đọc thư mật” khi anh còn trong tổ chức Hướng đạo sinh mấy năm trước. Có trình độ học vấn, lại có thói quen tìm tòi nghiên cứu, anh đã lập ra được bảng luật bằng cách nghiên cứu từ ngữ trong các từ điển Việt - Việt, Việt - Pháp, Việt - Hán và nghiên cứu cả cuốn Ám tự (Cryptographie) do một người Pháp viết. Cuối cùng, một bảng luật đã hình thành, tuy “khóa” còn rất đơn sơ nhưng đã được đưa vào sử dụng, không chỉ giữa các chiến khu ngoài Bắc mà Bộ Tổng tham mưu còn cử người thân tín, đã được huấn luyện sử dụng, mang vào chiến trường miền Nam. Ít lâu sau anh Nguyễn Bình rất vui, biên thư ra cảm ơn anh Thái và Phòng Mật mã. Quá trình vừa sử dụng vừa cải tiến chừng ba tháng sau, tức vào cuối năm 1945 đầu năm 1946, luật mật mã được đánh giá là “tương đối thích hợp và đạt trình độ táng tin cậy đáng kể so với yêu cầu đề ra”.

Sau khi bộ máy được hình thành, từ khoảng tháng 11-1945, hoạt động của từng bộ phận đã dần dần đi vào nội dung cụ thể theo chức năng nhiệm vụ ban đầu đề ra. Kết quả công việc đã mang lại hiệu quả, do đi đúng hướng chỉ đạo của Tổng Tham mưu trưởng. Cùng với những buổi sinh hoạt như đọc báo, nghe tin tức, là những buổi kiểm điểm rút kinh nghiệm về nghiệp vụ, trên cơ sở tổng hợp của từng phòng và ý kiến nhận xét của Tổng Tham mưu trưởng. Nền nếp đó dần dần trở thành biện pháp tốt để anh chị em thấy cần tập trung vào những công việc gì và làm thế nào để công tác đi vào chiều sâu và đạt được hành quân cao hơn. Có thể nói, từ đây mới chính là quá trình vừa làm vừa học mà Cụ Hồ đã chỉ ra từ mấy tháng trước.

Một kinh nghiệm hay, khá phổ biến đối với các phòng nghiệp vụ tham mưu hồi đó là biết mau chóng mở lớp đào tạo nhân viên chuyên môn, không những để thêm người cho hoạt động của cơ quan trên Bộ mà còn nhằm đạo tạo “giảng viên” để phái xuống mở các lớp chuyên môn nghiệp vụ cho các khu, tỉnh và trung đoàn. Trong khi đó, ở từng phòng, như đã thành nếp, cứ mỗi khi có “lính mới” được bổ sung về là mở “lớp”, dù chỉ vài ba người. Chính do không cầu toàn, không chờ đợi, lại biết xoáy vào những nội dung thiết thực và những kinh nghiệm đầu tiên tuy còn rất ít ỏi và đơn sơ, những buổi bồi dưỡng nghiệp vụ ở phòng đã giúp cho nhiều anh em về cơ quan với hai bàn tay trắng đã dần dần quen với công việc. Điều đó giải thích vì sao quá trình cán bộ được bổ sung về từng bước cũng là quá trình hoạt động của bộ máy nhịp nhàng và hiệu quả hơn.

Chiến sự đang lan rộng ở miền Nam, nhưng vì nhiều lý do, trước hết vì phương tiện thông tin hạn chế, báo cáo chưa thành nền nếp, cho nên mấy tháng đầu cơ quan tác chiến chưa có điều kiện với tới các chiến trường. Ngoài việc thu thập tin tức chiến sự vốn rất hạn chế, Phòng Tác chiến - Đồ bản lo việc sưu tầm các loại bản đồ xin được của Sở Địa chính Bắc Kỳ, phân loại, sắp xếp và can vẽ. Dần dần phòng đã cung cấp được một số bản đồ giản đơn ở từng khu vực bằng bản vẽ trên giấy bóng “can”, hoặc bản đồ nền xanh - nét trắng và nền trắng - nét tím, bước đầu cung cấp cho các đơn vị đáp ứng yêu cầu trước mắt.

Một tình hình thực tế thu hút hoạt động của Phòng Tác chiến là cùng Nha Công an đi dàn xếp các vụ xung đột do quân Tưởng gây ra hầu như hằng ngày, ngay ở Thủ đô Hà Nội. Trước hành động ngang ngược của chúng, xử trí những chuyện gây rối trong điều kiện ngôn ngữ bất đồng, là một công việc khó khăn, phức tạp đối với cán bộ tham mưu tác chiến. Yêu cầu đặt ra là làm sao ngăn chặn hành động gây rối của chúng, nhằm thực hiện chủ trương hòa hoãn, bảo vệ được chính quyền cách mạng, để tập trung tinh lực đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp đang lan rộng ở miền Nam. Cụ thể là phải làm sao thực hiện được phương châm mà Chính phủ đã đề ra biến những cuộc xung đột to thành xung đột nhỏ, biến những cuộc xung độ nhỏ thành không có xung đột. Bằng biện pháp vừa kiên quyết vừa khéo léo mềm dẻo, dựa vào sự hậu thuẫn của nhân dân, cán bộ Phòng Tác chiến đã cùng anh em công an góp phần hạn chế ý đồ xung đột và phá hoại của quân đội Tưởng đồng thời răn đe bọn Việt quốc, Việt cách - tay sai của chúng.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Chín, 2012, 07:21:54 am
Phòng Tình báo cũng coi việc theo dõi âm mưu và hoạt động của quân đội Tưởng và tay sai là một trong những nhiệm vụ hàng đầu. Ngay khi được giao nhiệm vụ xây dựng ngành, anh Hoàng Minh Đạo đã đặt trụ sở ở số 67 Bà Triệu và ra sức tìm người đưa vào hoạt động ngay, sau khi đã bồi dưỡng chút kiến thức về “tình báo sơ giải” mà anh Lê Giản đã huấn luyện cho một số anh em trong “khóa huấn luyện đặc biệt” trên Khu giải phóng hồi tiền khởi nghĩa. Nhờ vậy mà từ cuối năm 1945, nơi nào có quân Tưởng đóng, ta đều có tình báo viên hoạt động. Theo nhận xét của anh Đạo thì “vết dầu đã nhanh chóng loang ra”. Đến khoảng tháng 2-1946, Phòng Tình báo đã có “chân rết” ở chừng 20 nơi thuộc Bắc Bộ và khoảng 6 nơi ở Trung Bộ, tập trung vào những địa bàn có quân Tưởng đóng, nhất là các vùng biên giới duyên hải và dọc các đường giao thông quan trọng. Quá trình hoạt động rất thô sơ, đơn giản ban đầu cũng là quá trình rút kinh nghiệm kiện toàn đội ngũ và nâng dần chất lượng nghiệp vụ. Đó còn là quá trình ngăn ngừa và khắc phục những hoạt động không đúng đắn của một số ít anh em tình báo viên chịu ảnh hưởng của những cuốn tiểu thuyết hoặc phim trinh thám, hoạt động phiêu lưu, mạo hiểm, công khai, lộ liễu. Hình thức điều tra phổ biến nhất là quan sát bằng mắt. Tình báo viên lợi dụng địa hình thuận tiện, kín đáo, để quan sát cống trại lính Tưởng, đếm quân, đếm súng, đếm xe ra vào của chúng… Một vài nơi, như ở Hà Nội, Phòng Tình báo đã cài người vào điều tra được một số tin quan trọng về âm mưu của bọn Việt quốc, Việt cách, từ ý đồ gây rối phá hoại đến âm mưu bắt cóc và ám sát cán bộ của ta.

Do đội ngũ tình báo viên được tăng cường, do mạng lưới cơ sở được mở rộng, dần dần đã hình thành những cá nhân và nhóm chuyên trách theo dõi quân đội Tưởng và tay sai, theo dõi Pháp kiều có vũ trang đang rục rịch hoạt động khi có tin quân Pháp sắp ra Bắc và theo dõi cả bọn phản động đội lốt tôn giáo lén lút hoạt động theo chủ trương chống phá của Lê Hữu Từ…

Phát hiện âm mưu và theo dõi hoạt động của địch đã khó, nhưng nắm được tình hình phát triển từng ngày của lực lượng vũ trang của ta ở các đơn vị, các địa phương cũng không phải là việc dễ dàng, khi mà bộ phận nhân sự mới có dăm ba người, chưa có trình độ nghiệp vụ, chế độ báo cáo chưa thành nền nếp, mẫu biểu chưa được quy định thống nhất.

Trong khí thế cách mạng sôi nổi sau Tổng khởi nghĩa, lực lượng vũ trang phát triển rất nhanh ở các địa phương, miền núi cũng như miền xuôi. Thanh niên nam nữ nô nức tham gia lực lượng vũ trang, cả nước như một thao trường luyện tập quân sự khổng lồ. Thoát thai từ một chế độ mà con dao găm cũng bị coi là đồ quốc cấm, giờ đây người dân không phân biệt nam nữ, ở nhiều lứa tuổi, tự hào biết bao với chiếc gậy tầy, khẩu súng gỗ trên vai, bước đều trong đội ngũ theo tiếng hô dõng dạc một - hai - một – hai. Trong bối cảnh đó, vấn đề đặt ra với nhóm người quá ít ỏi của cơ quan nhân sự là làm thế nào nắm được tình hình tổ chức, biên chế, trang bị và cả phiên hiệu còn chưa thống nhất của các đơn vị lực lượng vũ trang đã ra đời và đang lớn lên từng ngày.

Trải qua bàn bạc, anh em thấy việc cử người xuống - trước hết là xuống các địa phương và đơn vị trọng điểm - là biện pháp phù hợp nhất lúc này để nắm tình hình mọi mặt. Sau một thời gian vận dụng biện pháp này, trả lời một số vấn đề được nêu ra thảo luận, có đồng chí đã nói:

- Kinh nghiệm của tôi giản đơn thế này: khi xuống khu, tỉnh và nhất là đơn vị cơ sở, tôi mượn sổ quân số của khu, của tỉnh, đối chiếu với chi đội, trung đoàn, lấy cả sổ ghi quân số ăn hằng ngày của quản lý đại đội, tiểu đoàn đối chiếu với sổ nhân sự của cấp chỉ huy đơn vị cơ sở.

Một phương pháp nghiệp vụ thật quá bình thường, nhưng đối với trình đội chuyên môn của Phòng Nhân sự hồi đó cũng là một kinh nghiệm.

Hội nghị quân sự cuối năm 1945 giữa Bộ Tổng tham mưu với các cấp chỉ huy các khu, tỉnh, thành, đã giúp cho cơ quan nhân sự có điều kiện thống nhất bước đầu về chế độ báo cáo định kỳ, cả về biên chế, tổ chức, trang bị, huấn luyện và hệ thống cán bộ từ khu đến cơ sở.

Cũng chính trong cuộc họp quan trọng này, đồng chí Tổng Tham mưu trưởng đã cùng cấp chỉ huy quân sự khu và tỉnh thảo luận và nhất trí những nguyên tắc cơ bản về tổ chức lực lượng chi viện cho chiến trường miền Nam. Những nguyên tắc này sau đó đã được thường vụ Trung ương chuẩn y. Hội nghị khẳng định: Chiến sự ở miền Nam đang ngày càng mở rộng. Quân địch đang tiếp tục đưa viện binh từ Pháp và các thuộc địa ở châu Phi sang. Một trong những nhiệm vụ hàng đầu của Bộ Tổng tham mưu cũng như cấp chỉ huy quân sự các địa phương đối với tiền tuyến miền Nam lúc này là tiếp tục tổ chức tốt những đoàn quân Nam tiến và chuyển vũ khí chi viện cho chiến trường trong Nam. Việc tổ chức và bảo đảm mọi mặt cho các đơn vị lên đường do tỉnh, thành phụ trách, theo kế hoạch chung của Bộ Tổng tham mưu đã được Thường vụ Trung ương thông qua. Binh lực nhiều hay ít sẽ do Bộ quy định, xét theo khả năng của từng địa phương, nhưng yêu cầu chung là trước hết cần chú trọng chất lượng. Thành phần các đơn vị Nam tiến là những chiến sĩ tình nguyện, có tinh thần kỷ luật tốt và đã được huấn luyện ngắn ngày hoặc đã có ít nhiều kinh nghiệm chiến đấu. việc lựa chọn cán bộ chỉ huy phải được tiến hành chặt chẽ. Vũ khí của các đơn vị Nam tiến phải là những khẩu súng tốt, với số đạn nhiều nhất trong phạm vi có thể…

Sau hội nghị, cán bộ tham mưu - nhân sự được phái xuống một số đơn vị và địa phương. Anh em ra đi hồ hởi, phấn khởi, vì cuộc họp mấy ngày đã mở ra “cách làm ăn” bấy lâu mò mẫm. Trọng tâm chuyến đi là cùng chính quyền và đoàn thể địa phương bàn bạc về việc tổ chức thêm các đơn vị Nam tiến, với tinh thần kịp thời tiếp sức cho tiền tuyến. Cũng như các đợt Nam tiến trước, ngành quân sự được quyền ưu tiên sử dụng đường sắt vào việc chuyển quân. Việc ăn uống hoàn toàn dựa vào sự ủng hộ của nhân dân dọc đường xe lửa Bắc - Nam.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Chín, 2012, 07:22:20 am
Vào một buổi sáng trung tần tháng 11-1945, Tổng Tham mưu trưởng cùng một số cán bộ tham mưu ra ga Hàng Cỏ khẩn trương một đơn vị Nam tiến nhân dịp anh em lên đường. Gặp và chuyện trò thân mật với cán bộ, chiến sĩ trong chuyến đi hôm nay, đồng chí Tổng Tham mưu trưởng hài lòng trước khí thế ra quân của bộ đội. Từ trên các toa tàu, tiếng hát trầm hùng vang lên, bài nọ nối tiếp bài kia: Cùng nhau đi hồng binh, Diệt phátxít, Phất cờ Nam tiến, Tiếng súng Nam Bộ… Nghe tiếng hát của bộ đội, anh Thái thật sự xúc động, nhớ lại những ngày đội quân cách mạng mới ra đời. Gần một năm trước, bài hát Phất cờ Nam tiến do anh sáng tác để động viên Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân trên đường tiến về xuôi cùng nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền. Anh không hề nghĩ rằng giờ đây, cùng với những bài hành khúc của Văn Cao, Đỗ Nhuận, Nguyễn Đình Thi… bài Phất cờ Nam tiến lại được hòa chung cùng nhịp điệu động viên khí thế của đoàn quân ra trân:

      “Cờ giải phóng phất cao, mau thẳng tiến
      Trời phương Nam dân chúng đang chờ ta…”.


Qua báo cáo của Ủy ban kháng chiến miền Nam, Tổng Tham mưu trưởng được biết, những đơn vị Nam tiến đầu tiên, dưới sự chỉ huy của các đồng chí Hoàng Thơ, Hoàng Đình Giong (Vũ Đức), Nam Long, v.v. ngay từ tháng 10-1935 đã sát cánh cùng quân dân miền Nam chiến đấu trên các chiến trường từ Tây Nguyên, Khu 6 đến miền Đông Nam Bộ. Chẳng bao lâu, nhiều đơn vị đã trở thành nòng cốt cả về tác chiến và xây dựng trên chiến trường miền Nam.

Nhờ sự giúp đỡ của các cơ quan nghiệp vụ của Chính phủ, Phòng Thông tin có thêm điều kiện đề mở rộng mạng liên lạc xa hơn so với những ngày đầu thành lập. Sau khi Chính phủ chuẩn y đề nghị đặt Sở Vô tuyến thuộc quyền điều hành của quốc phòng, ngành thông tin quân sự có thêm một số máy, một số xe. Nhờ đó, trong mấy tháng cuối năm 1945, các chiến khu 2, 3 Việt Bắc và mấy tỉnh trọng điểm đã liên lạc được với Trung ương bằng những máy vô tuyến đặt trên xe du lịch do Sở Hải quan giúp cho quốc phòng. Ngày 1-10 được coi là mốc triển khai, xong hệ thống liên lạc trên toàn quốc. Khái niệm “toàn quốc” nói ở đây thực ra cũng chỉ giới hạn ở số lượng đủ người và máy để liên lạc được với một số địa phương miền Bắc, với Khu 6 (Quảng Ngãi) và Nam Bộ. Nhưng mốc phát triển của ngành thông tin trong Bộ Tổng tham mưu rất đáng được chú ý ở chỗ, càng về gần cuối năm 1945, cùng với mạng liên lạc vô tuyến điện được mở rộng bằng luật mật mã bước đầu được cải tiến, mỗi đài vô tuyến đã có một nhân viên mật mã, hệ thống chuyển đạt công văn bằng đường bộ của đội “liên lạc đi” đã bắt đầu hoạt động trên mấy hướng chính. Một hạn chế là hệ thống liên lạc bằng điện thoại vẫn còn phải dựa vào đường dây của bưu điện.

Vào khoảng cuối năm 1945, nhân một lần anh Thái đến thăm lớp huấn luyện báo vụ vô tuyến điện, bác Hoàng Đạo Thúy báo cáo Tổng Tham mưu trưởng rằng chỉ ít ngày nữa sẽ có thêm 20 báo vụ viên bổ sung cho đài các địa phương.

- Theo bác trù tính, thời gian huấn luyện cần bao nhiêu?

- Thông thường thì phải mất 6 tháng. Nhưng theo ý kiến anh, để đáp ứng yêu cầu cấp bách, tôi đề nghị anh Thăng và anh Dung cố gắng huấn luyện cơ bản trong vòng trên dưới một tháng, bảo đảm các báo vụ viên có thể cầm “manip” được. Về địa phương địa phương sẽ củng cố thêm.

Sau này, bác Hoàng Đạo Thúy kể lại, nhờ tinh thần tranh thủ học tập của anh chị em, sau hơn một tháng các báo vụ viên đã làm được việc. Với tinh thần hăng say của tuổi trẻ, với phương châm “vừa làm vừa học”, tay nghề của anh chị em nhanh chóng được nâng lên.

Ở đây cần nói thêm về một thành tích thật đáng trân trọng của các chiến sĩ thông tin ngoài mặt trận. Khi chiến sự nổ ra ở Sài Gòn, do không kịp mang máy vô tuyến ra ngoại thành nên liên lạc với miền Bắc đã có lúc bị gián đoạn. Anh em đã chạy về Mỹ Tho, dùng đài ở đây thay thế, có khi liên lạc thẳng với đài trung ương, nhưng chủ yếu là nhờ đài Khu 6 chuyển tiếp. Nhờ tinh thần chủ động đó mà ngay từ đầu sau khi nổ ra chiến sự, mạch máu liên lạc Bắc - Nam được thông suốt. Khi quân Pháp chiếm được thành phố, chúng chiếm Đài Phát thanh Sài Gòn. Công nhân và chiến sĩ ta đã có sáng kiến lấy được một máy phát thanh dự bị đưa lên xe hơi mang ra ngoại thành. Nhờ đó, từ chiến khu, Tiếng nói Ủy ban kháng chiến Nam Bộ tiếp tục phát đều tin tức hằng ngày đi lục tỉnh. Chiến sự dần dần lan rộng nhưng trải qua một thời gian dài, quân dân Nam Bộ vẫn nhận được sự chỉ đạo của Ủy ban kháng chiến. Riêng ngành thông tin quân sự, liên lạc giữa miền Đông và miền Tây vẫn thông suốt, nhờ mấy chiếc máy lấy được từ máy bay rơi của Pháp.

Trên miền Bắc, dự kiến tình hình liên lạc sẽ khó khăn khi nổ ra chiên sự nên Phòng Thông tin đã đặt thêm một đài vô tuyến điện dự bị của Trung ương ở ngoại thành Hà Nội, sẵn sàng cơ động khi có lệnh.

Vào những ngày cuối năm 1945 đầu năm 1946, nhiều cán bộ thông tin liên lạc ít khi có mặt ở phòng. Anh em phân nhau đi khắp nơi tìm kiếm máy thu, máy phát, máy nổ. Kiếm được bất kỳ phương tiện, linh kiện gì có thể dùng được cho ngành thông tin là mang về tập trung, phân loại rồi sắp xếp vào một kho dự bị bí mật ở Thanh Oai, Hà Đông. Cũng vào hồi này, nghe tin ở Nhà máy điện Hải Phòng có một máy vô tuyến điện 1kw, anh Vũ Hán Thăng được phái ngay xuống. Điều khó khăn nhất là làm sao mang được chiếc máy ra ngoài trót lọt, qua cổng có quân Tưởng gác. Sau khi bàn bạc, anh thăng đã cùng anh em công nhân tháo rời chiếc máy ra thành những bộ phận nhỏ và tìm cách mang khỏi nhà máy và chuyển dần lên Bắc Kạn. Một việc làm thể hiện ý thức chuẩn bị trước, phòng khi chiến sự nổ ra ở Hà Nội.

Với kết quả cụ thể từng việc được giải quyết theo tinh thần biết lo xa như vậy, mỗi cán bộ, mỗi nhân viên trong từng ngành được Bộ Tổng tham mưu đã thầm lặng góp công sức vào xây dựng cơ quan cả về tổ chức, trình độ nghiệp vụ và cơ sở vật chất, đặt nền móng đầu tiên vững chắc cho một Bộ Tổng tham mưu bề thế ngày nay. Và chính trong quá trình đi từ không đến có ấy, dần dần các anh biết phải làm gì và làm như thế nào để đi đúng chức năng, nhiệm vụ trong thời bình cũng như khi nổ ra chiến sự trong cả nước.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Chín, 2012, 07:22:43 am
IV

Hồi đó hầu hết anh em được điều về cơ quan tham mưu đều còn là thanh niên. Tuổi trẻ, vừa được thở hít bầu không khí trong lành của một đất nước tự do đã thấy trước mắt hàng loạt kẻ thù đang uy hiếp thành quả cách mạng mới giành được. Điều đó giải thích vì sao nguyện vọng của của anh em là được cầm súng đứng trong hàng ngũ những đoàn quân Nam tiến, được trực tiếp đối mặt với quân thù. Nhưng về đến 18 Nguyễn Du, nhiệm vụ đã giao, trước hết là phục tùng, là bắt tay vào việc, với tinh thần hăng say vốn có của tuổi trẻ. Cái tập thể nhỏ bắt đầu từ 5-7 người ấy đã sớm gắn bó keo sơn, sớm bắt tay vào những công việc khẩn trương, phức tạp, đa dạng và nhất là mới lạ. Cũng từ đó bắt đầu cuộc sống tập thể, một cuộc sống trước đó còn xa lạ đối với nhiều người, một cuộc sống còn thiếu thốn trăm bề.

Do điều kiện tài chính khó khăn sau ngày chính quyền mới thành lập, việc cung cấp lương thực, thực phẩm cho cơ quan - nhất là những tháng đầu - phải dựa vào sự giúp đỡ của Tổng bộ Việt Minh, nhất là của đoàn thể Phụ nữ cứu quốc, cơ quan quân nhu thuộc Bộ quốc phòng chỉ cấp phát được một phần rất nhỏ. Phần đông anh em phải tự túc về quần áo. Đây là một việc không khó khăn lắm đối với những anh em có gia đình ở Hà Nội. Nhưng đối với những người ở xa và điều kiện gia đình khó khăn thì phải trông vào sự đùm bọc của bạn bè cùng phòng. Trừ một vài cán bộ có nhiệm vụ giao dịch với người nước ngoài được phát một bộ quần áo kaki vàng, có sơmi trắng, cavát đen, còn thì mọi người có gì mặc nấy, tùy theo hoàn cảnh và khả năng của từng người: đủ loại, đủ kiểu, từ áo bluđông, quần soóc đến áo chàm. Nếu có cái gì giống nhau thì đó là cái mũ calô đính huy hiệu bằng dạ đỏ, giữa là ngôi sao vàng, viền vàng hoặc trắng. Riêng đội vệ binh, mỗi người được phát hai bộ áo thu được của bảo an binh trong Tổng khởi nghĩa do Ủy ban bảo vệ thành phố Hà Nội gửi tặng.

Hằng ngày, nhìn những chàng thanh niên mặc quần áo đủ loại ra vào khu trường mồ côi cũ, ai mà biết rằng đó chính là những sĩ quan đang mang trọng trách đóng góp vào việc xây dựng cơ quan tham mưu chiến lược của một quốc gia vừa hồi sinh đã đứng trước sự uy hiếp của đủ loại kẻ thù.

Những cuộc họp bàn công việc của từng bộ phận hoặc của toàn cơ quan, những sinh hoạt hằng ngày như tập thể dục buổi sáng, nghe thời sự hằng tuần, chào cờ sáng chủ nhật, những buổi lửa trại và cuộc sống tập thể, dù người có là thanh niên Hà Nội chính tông hay là người mà anh em thường gọi đùa là “dân tỉnh lẻ”.

Quan hệ giữa tuổi trẻ trong cơ quan với thanh niên khu phố cũng dần bớt ngăn cách và trở nên thân thiết. Nhiều cán bộ trong cơ quan tham mưu trở thành những giáo viên thân quen của những lớp luyện tập quân sự của tự vệ khu phố. Ngoài ra, những cuộc thi đấu bóng rổ, bóng đá, bóng chuyền, những buổi liên hoan văn nghệ là những dịp làm cho tình đoàn kết giữa thanh niên ngoài khu phố với lớp cán bộ trong cơ quan càng thêm gắn bó.

Cơ quan thành lập được ba tháng, đến cuối năm 1945 quân số đã tăng lên tới trên dưới 50 người. Tuy vậy, không phân biệt lạ quen, mới cũ, cuộc sống trong cơ quan sớm chan hòa, đi vào nền nếp, khuôn khổ. Hạt nhân lãnh đạo là một tổ Đảng, lúc đầu chỉ có đồng chí Hoàng Văn Thái và hai đảng viên, sinh hoạt trong Chi bộ Bộ Quốc phòng. Sau khi Đảng tuyên bố “tự giải tán”, tổ Đảng và chi bộ tiếp tục hoạt động bí mật, lãnh đạo toàn cơ quan thông qua Việt Minh đoàn, một tổ chức quần chúng tin cậy, tiên tiến toàn diện. Đây là cánh tay đắc lực của lãnh đạo trên các mặt hoạt động của cơ quan. Sự lãnh đạo của Đảng lúc này tập trung vào khâu đoàn kết nội bộ và xây dựng cơ quan trên các mặt tư tưởng, chính trị, tổ chức, nghiệp vụ và học chữ (bình dân học vụ). Nhiều anh em có tinh thần đoàn kết tốt, ý thức kỷ luật gương mẫu, hoàn thành tốt nhiệm vụ… được tổ chức Đảng đề nghị kết nạp vào Việt Minh đoàn. Tổ chức chính trị này sinh hoạt chặt chẽ, tháng hai kỳ. Đây thực chất là một bước rèn luyện thử thách đối với những anh em trong diện cảm tình Đảng (như cách gọi sau này).

Trong những ngày trứng nước, Bộ Tổng tham mưu được sự quan tâm giáo dục và dịu dắt của nhiều đồng chí lãnh đạo, mà trực tiếp thường xuyên là các đồng chí Vũ Anh và Võ Nguyên Giáp. Mỗi lần anh Vũ Anh hay Võ Nguyên Giáp đến thăm cơ quan là một lần anh em cán bộ tham mưu được bồi dưỡng thêm những hiểu biết mới về tình hình nhiệm vụ. Đó là những ngày thật đáng ghi nhớ.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Chín, 2012, 07:23:13 am
Một trong những lần đó là vào dịp Ban Chấp hành Trung ương ra Chỉ thị Kháng chiến - kiến quốc (25-11-1945). Cơ quan mới ra đời được vài tháng, nhận thức của anh em về thời cuộc, về tình hình và nhiệm vụ còn rất hạn chế. Đến thăm cơ quan Bộ Tổng tham mưu lần này, không phải chỉ nhằm nghe anh Thái báo cáo về tổ chức và hoạt động ban đầu của cơ quan mà anh Văn còn muốn nói để toàn thể cán bộ Bộ Tổng tham mưu hiểu tinh thần cơ bản chỉ thị của Trung ương. Anh nối về tình hình quốc tế và trong nước đã thay đổi như thế nào từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đặc biệt là mấy tháng sau Cách mạng Tháng Tám, lấy đó làm tiền đề để phân tích chủ trương kháng chiến - kiến quốc của Đảng. Điều thấm thía đối với mọi người là được nghe giải thích về hoàn cảnh nhiều loại kẻ thù, từ Âu đến Á kéo vào Việt Nam, với mọi thủ đoạn nham hiểm và thâm độc hòng tiêu diệt chính quyền cách mạng non trẻ, khiến cho đất nước mới giành được độc lập đã ở vào thế “ngàn cân treo sợi tóc”… Và chính trong hoàn cảnh vô cùng phức tạp đó, Đảng đã chỉ đích danh “kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lăng, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng”. Bằng những lời thân tình, anh động viên mọi người ráng sức làm việc, vừa làm việc vừa kịp thời rút kinh nghiệm trong thực tế công tác hằng ngày để không ngừng tiến bộ. Anh căn dặn phải đặc biệt coi trọng việc nắm bắt tình hình diễn biến ở chiến trường, coi trọng việc tổ chức chi viện người và vũ khí cho cuộc chiến đấu của đồng bào, đồng chí miền Nam, đồng thời bám sát và kịp thời đối phó ngăn chặn một cách có hiệu quả âm mưu và hành động của quân đội Tưởng và bọn tay sai ở ngoài Bắc…

Khi giải tán, vừa xuống cầu tháng, một vài anh em nói với nhau: Chưa bao giờ được nghe phân tích tình hình rành rẽ dễ hiểu như hôm nay. Thật rất cần thiết đối vói công việc… Ý kiến đó phản ánh suy nghĩ chung của các chàng sĩ quan tham mưu trẻ tuổi đang làm quen với từng đường đi nước bước của một cơ quan tham mưu chiến lược còn trong thời kỳ trứng nước.

Đến khoảng tháng 10-1945, trong cơ quan Bộ Tổng tham mưu mới có một số rất ít người được gặp Bác Hồ. Đó là chị Đàm Thị Loan, các anh Nguyễn Chính (Du Phong) và Trần Trọng Trung, những chiến sĩ Giải phóng quân đã được gặp Bác hồi ở Khu giải phóng. Đó còn là bác Hoàng Đạo Thúy, trong dịp lên dự Quốc dân đại hội ở Tân Trào đúng trong những ngày cao trào Tổng khởi nghĩa tháng Tám. Ai cũng mong được gặp Bác, nhưng không ai nghĩ rằng điều mong ước đó lại sớm thành hiện thực, chỉ hơn ba tháng kể từ ngày Bác chỉ thị thành lập Bộ Tổng tham mưu.

Bác đến thăm cơ quan vào một ngày thứ năm, 20-12-1945, nhân dịp kỷ niệm ngày ra đời của Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân. Chỉ mới tròn một năm kể từ ngày đội quân cách mạng ra đời theo chỉ thị của Bác, cả dân tộc đã đổi đời, người dân từ kiếp nô lệ trở thành người chủ đất nước. Riêng đội quân cách mạng mới đầy “một tuổi tôi” đã lớn lên gấp hàng trăm lần và đã đi “suốt từ Nam ra Bắc” đúng như lời tiên đoán của Người. Một thành viên mới trong đội quân đó đã hình thành là Bộ Tổng tham mưu mà hôm nay Bác đến thăm.

Bác đến mà không báo trước. Tác phong đó của Người sau này đã trở thành quên thuộc đối với nhiều người, nhiều địa phương, đơn vị. Vì là một ngày công tác bình thường, mọi người đang mải miết làm việc, nên không hề hay biết. Bác đi thẳng vào bếp và người đầu tiên hết sức ngỡ ngàng nhưng rồi cố trấn tĩnh lại để chào Bác là anh “hỏa thực” (ngày nay gọi là chiến sĩ nuôi quân) Nguyễn Văn Roãn. Bác thăm hỏi tình hình ăn uống của anh em ra sao, có thiếu thốn lắm không, hằng tuần có nhịn một bữa để góp gạo cứu đói không?... Rồi Bác bước vào nhà ngủ, một dãy nhà bằng tre nứa mới được dựng lên ngay đằng sau khu vực làm việc. Đến lúc đó Tổng Tham mưu trưởng mới biết và vội vàng từ tầng hai xuống. Anh xúc động trước sự có mặt bất ngờ của Bác, trước những câu hỏi ân cần của Người về đời sống và công việc của anh chị em trong cơ quan. Thấy nhà ngủ tập thể bụi bám nhiều, Bác nhắc anh Thái nên xây dựng thành nền nếp hằng tuần cho anh em dọn dẹp, vệ sinh chung.

Tổng Tham mưu trưởng mời Bác lên phòng làm việc trên gác. Vừa ngồi xuống ghế, Bác vừa cười vừa hỏi:

- Thế nào, công việc cơ quan chú tổ chức đến đâu rồi? Chú đã biết làm tham mưu chưa?

Lúng túng và chưa trả lời ngay được, anh Thái cũng cười nhưng hai tai đỏ lên. Cuối cùng anh báo cáo với Bác: Cơ quan có chừng 50 người; đã cùng anh em nghiên cứu hình thành một số phòng đảm nhiệm những công tác cấp bách trước mắt như theo dõi nắm tình hình, giúp đỡ các địa phương xây dựng và huấn luyện lực lượng vũ trang, cùng ngành quân nhu mua sắm và chỉ đạo sản xuất vũ khí và nhất là thực hiện chủ trương chi viện người và trang bị cho các chiến trường miền Nam. Anh chị em đoàn kết, thương yêu nhau, tiến bộ trong công tác. Tuy có việc còn lúng túng, bỡ ngỡ, nhưng rồi chắc chắn sẽ quen, sẽ làm được tốt hơn…

Bác Hồ tỏ ra vui lòng. Bác hỏi kỹ về kết quả chi viện chiến trường. Tổng Tham mưu trưởng báo cáo là đã cùng các địa phương tổ chức huấn luyện khẩn trương và đưa vào Nam 6 đợt quy mô chi đội, lấy quân từ Hà Nội, căn cứ địa Việt Bắc, vùng duyên hải, đồng bằng Bắc Bộ và một số tỉnh Bắc và Trung Bộ. Phần lớn các đơn vị Nam tiến đều có các chiến sĩ Giải phóng quân làm nòng cốt, cán bộ có ít nhiều kinh nghiệm đánh du kích trước đây. Vũ khí trang bị tuy còn kém nhưng các đơn vị lên đường đều mang theo những loại tốt nhất mà ta có.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Chín, 2012, 07:23:37 am
Bác gật đầu, tỏ ra hài lòng về kết quả công việc đã đạt được. Người dặn phải coi trọng công tác huấn luyện, chú ý giúp đỡ Trường Quân chính trung ương ở Hà Nội và của các chiến khu, chú ý việc đào tạo khẩn trương cán bộ, cả quân sự và chính trị, phải hướng dẫn các đơn vị, các địa phương huấn luyện thiết thực, phải là coi trọng huấn luyện cách đánh du kích, tránh “một hai - một hai” hình thành…

Trong lúc Bác đang nói chuyện, nhiều anh em kiếm cớ ngấp nghé ở cửa để được nhìn thấy Bác. Đến khi toàn cơ quan được gọi vào nghe Người nói chuyện thì anh chị em từ mọi hướng cửa chạy vội vào, tìm chỗ ngồi chung quanh Bác. Ai cũng muốn được ngồi thật gần Bác. Người chăm chú và trìu mến nhìn khắp lượt rồi hỏi tên tuổi, quê quán “mấy cô mấy chú tham mưu” ngồi gần. Nghe Bác gọi “mấy cô mấy chú tham mưu”, mọi người cười ồ vui sướng. Không khí thật ấm tình cha con, bác cháu. Cuối cùng Bác nói đại ý:

- Cơ quan ta mới thành lập cũng như chính quyền ta mới thành lập: mọi việc đều mới mẻ. Chú Thái vừa báo cáo rằng các cô các chú đã có nhiều cố gắng, khắc phục khó khăn, vừa học vừa làm, nên mới qua mấy tháng mà bước đầu đã đạt được thành tích, bước đầu đã có tiến bộ. Như vậy là tốt. Bác thay mặt Đoàn thể khen ngợi các cô các chú…

Rồi Bác nói về những việc mà tham mưu phải làm cho tốt, khuyên mọi người ra sức công tác, khiêm tốn học tập, thân ái đoàn kết, giữ nghiêm kỷ luật và bí mật…

- Ở Nam Bộ, giặc Pháp đang âm mưu mở rộng chiến tranh. Ta phải chi viện mạnh hơn nữa cho đồng bào và chiến sĩ miền Nam kháng chiến. Chúng ta phải vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Nhiệm vụ chính của Vệ quốc đoàn là chống giặc ngoại xâm, song không được coi nhẹ các công việc khác như vận động tổ chức nhân dân tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm…

Sau này, trong những trang hồi ký viết nhân dịp kỷ niệm 40 năm chính quyền dân chủ cộng hòa, Đại tướng Hoàng Văn Thái nhớ lại: “Với tôi, những lời Bác dạy hô đó là những điều ghi lòng tạc dạ, không thể nào quên được. Đó không chỉ là những lời giáo huấn riêng về công tác tham mưu, mà mãi mãi là định hướng chung cho cả chặng đường cách mạng của mỗi người chúng tôi…”.

Bác ra về. Mọi người theo Bác xuống cầu thang. Đến tầng dưới, Bác giơ tay ngăn, để mọi người không chạy ra sân, ra phía công. Bác cười, vẫy tay chào mọi người đang vỗ tay tiễn Bác, bắt tay anh Thái rồi lên xe.

Ngay sau đó, các phòng dành thời gian còn lại của buổi sáng làm tổng vệ sinh nơi ăn ngủ, nơi làm việc. Dần dần, thành một nền nếp được duy trì mãi đến sau này: cứ thứ năm hằng tuần, toàn cơ quan làm tổng vệ sinh doanh trại. Chỉ một lời nhắc nhờ của Bác, toàn cơ quan đã xây dựng được một thói quen đáng quý.

Chừng một tháng rưỡi sau, lại một lời nhắc nhở của Bác khiến mọi người, từ Tổng Tham mưu trưởng đến chiến sĩ vệ binh, không bao giờ quên. Hồi đó, một bài trên báo tường của cơ quan đã gọi sự kiện này là “sự chểnh mảng ngày Xuân”, vì nó xảy ra vào dịp Tết Bính Tuất (1946), Tết độc lập đầu tiên.

Hồi đó, chế đọ trực ban ngày nghỉ, giờ nghỉ chưa thành nếp. Ngày Xuân, cơ quan nghỉ việc. Anh em đi chúc Tết nhân dân, đến thăm bạn bè ở Hà Nội, vui Xuân Thủ đô. Và một việc không ngờ tới đã xảy ra: Đêm giao thừa, Bác Hồ gọi điện đến, không có ai trả lời vì không có người trực máy. Sáng hôm sau, mùng 2-2 dương lịch, tức mồng Một Tết, Bác lại gọi điện xuống gặp Tổng Tham mưu trưởng ở máy, Bác chúc Tết rồi phê bình nhẹ nhàng:

- Tối hôm qua giao thừa, đón Xuân, Bác định chúc Tết các cô các chú nhưng gọi mãi không có ai cầm máy trả lời cả. Là cơ quan tham mưu mà mất cảnh giác thì không được. Các chú là tham mưu, phải làm gương cho toàn quân về tinh thần cảnh giác và chấp hành nghiêm chỉnh chế độ quy định.

Một việc mày bây giờ nhìn lại, có thể có người cho rằng không có gì là “đặc biệt”. Nhưng nó “đặc biệt” ở chỗ nói lên được một thực tế ấu trĩ của cơ quan trên bước đường trưởng thành, ấu trĩ và trưởng thành từ những vấn đề rất cụ thể mà hồi đó chưa ai biết đến, chưa ai nghĩ ra.

Sự hối tiếc của đồng chí Tổng Tham mưu trưởng chắc hẳn là sâu sắc hơn anh em chúng tôi. Mãi 40 năm sau, qua những dòng hồi ký, khi nói đến kỷ niệm khó quên này, anh Thái viết: “Vậy mà chỉ vì sự chểnh mảng của chính mình, anh em chúng tôi đã không được đó nhận sự quan tâm ân cần đó của Bác vào lúc giao thừa… Tôi càng thấm thía trước những lời Bác nhắc nhờ về sự thiếu cảnh giác, không biết chỉ đạo anh em xây dựng chế độ trực ban, trực nhật của cơ quan…”.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Chín, 2012, 07:24:08 am
V

Thấm thoắt nửa năm đã trôi qua. So với trung tuần tháng 9-1945, khi cơ quan mới hình thành, thì lúc này quân số đã tăng lên gấp nhiều lần, tức là xấp xỉ 100 người.

Việc tăng mạnh quân số là do nhu cầu công tác của một cơ quan mới thành lập và đó cũng là đặc điểm chung về mặt tổ chức “từ không đên có” trong những ngày đầu chính quyền cách mạng. Hồi đó, mấy ai đã có khái niệm đầy đủ, rõ ràng về công tác tổ chức - cán bộ, mấy ai đã hiểu về tiêu chuẩn người sĩ quan tham mưu, về các thủ tục giới thiệu vào làm việc trong một cơ quan chiến lược của một quốc gia đang bị giặc ngoài, thù trong uy hiếp. Thông qua từng người cụ thể do đoàn thể Việt Minh tin cậy giới thiệu, quân số phòng cứ nhân lên. Tuyệt đối không phải vì đã có tay nghề, trừ nột vài trường hợp như các anh Nguyễn Văn Tình, Ngô Thế Duông, vốn đã từng là nhân viên kỹ thuật vô tuyến điện của chế độ cũ. Trình độ học vấn, biết tiếng nước ngoài là những mặt được quan tâm đến, nhưng không phải là điều kiện hàng đầu. Tất nhiên, dần dần không ai phủ nhận một thực tế là: có trình độ học vấn, biết ngoại ngữ, có chuyên môn kỹ thuật về một ngành nào đó, ví như thông tin, bản đồ, thì càng thêm điều kiện thuận lợi để nhanh chóng nắm được công việc, nhanh chóng đem lại hiệu quả công tác tốt hơn, từ việc nghiên cứu cải tiến các bảng mật mã, tổ chức mạng thông tin, sửa chữa máy móc đến việc lập các mẫu thống kê, viết báo cáo, vẽ biểu đồ, bàn đồ, hướng dẫn nghiệp vụ cho các địa phương, đơn vị…

Hầu hết cán bộ làm việc trong Bộ Tổng tham mưu trong thời kỳ đầu chưa phải là đảng viên, thậm chí chưa có nhận thức rõ ràng về đảng, về giai cấp. Theo bác Hoàng Đạo Thúy kể lại, trong cuộc hội nghị bàn về nhân sự cuối năm 1945, có cán bộ  tham mưu vốn là cựu binh sĩ còn không tán thành chế độ chính trị viên trong quân đội. Nhưng yếu tố chủ yếu giúp anh em sớm gắn bó với nhau, đoàn kết thương yêu giúp đỡ nhau trên bước đường mò mẫm về nghiệp vụ là tinh thần yêu nước, giác ngộ dân tộc, là quyết tâm giữ vững lời thề độc lập, quyết tâm bảo vệ thành quả cách mạng mới giành được. Thực tế mấy năm sau có thấy được sự giáo dục của Đảng, nhiều anh em đã tiến bộ một bước dài từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, đã sớm được đứng trong hàng ngũ của Đảng.

Mùa Xuân năm 1946, chính trong bối cảnh tổ chức cơ quan đã hình thành và bước đầu phát triển, guồng máy đã dần dần hoạt động đều đặn, có nền nếp, cũng là lúc hình thành và nhiệm vụ đòi hỏi mỗi người có nhận thức mới và nỗ lực hoạt động cao hơn trước yêu cầu mới. Đó là yêu cầu do chủ trương Hòa để tiến đặt ra trước toàn dân, toàn quân, trong đó có Bộ Tổng tham mưu.

Chủ trương đó được anh Văn truyền đạt lại trong buổi nói chuyện ngày 5-3-1946 với toàn cơ quan. Dựa theo Chỉ thị ngày 3-3 của Thường vụ Trung ương, nhan đề Tình hình và chủ trương, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã giúp anh em nhận thức được bối cảnh hai miền đất nước sau nửa năm vừa chiến đấu vừa bảo vệ và củng cố chính quyền, thấy được sách lược của Đảng trong tình hình mới.

Tại miền Nam, chiến sự đã lan rộng từ các đô thị về nhiều vùng nông thôn. Địch đã kiểm soát được nhiều thành phố và đường giao thông quan trọng. Lực lượng của chúng đã bị căng mỏng vì phải rải quân ra để tiếp viện các vùng do quân Anh “bàn giao” trước khi rút về nước. Có tin một sư đoàn sắp được tăng viện từ Pháp sang. Tổng Chỉ huy quân viễn chinh Pháp đang ráo riết ổn định tình hình vùng tạm chiếm để đưa lực lượng ra Bắc sau kết quả cuộc đàm pháp Pháp - Hoa ở Trùng Khánh.

Ở ngoài Bắc, tàn quân Pháp (bị tan rã trong cuộc đảo chính của Nhật ngày 9-3-1945) từ Côn Minh (Trung Quốc) đã trở lại chiếm đóng nhiều vùng trên Tây Bắc, một số khác xuất hiện trong vùng ven biển Đông Bắc, phối hợp với lực lượng viễn chinh từ miền Nam ra. Trong khi đó, sau khi thất bại trong âm mưu lật đổ chính quyền của ta, quân đội Tưởng Giới Thạch đang tiếp tục gây sức ép để bọn tay sai được tham gia Quốc hội và chính quyền trung ương. Bọn tướng lĩnh cầu đầu quân đội Tưởng liên tục khuyến khích bọn tay sai chống phá chính quyền cách mạng hòng ép ta nhượng bộ. Chính phủ Trùng Khánh hy vọng bọn Việt quốc, Việt cách đạt được ý đồ chính trị trước khi quân Tưởng rút về nước đối phó với cuộc nội chiến đang có nguy cơ mở rộng.

Dự kiến khả năng nhân nhượng và thỏa hiệp giữa Pháp và Tưởng về vấn đề Đông Dương và trước việc Pháp muốn thương lượng chính thức với ta, ngày 24-2, Thường vụ Trung ương chủ trương: Ta nên tiếp tục nói chuyện với Pháp nhưng đồng thời phải chuẩn bị kháng chiến. Vì hoàn cảnh thế giới và trong nước, ta có thể chủ trương điều đình để bảo toàn lực lượng, nhưng với điều kiện ta phải có chính phủ tự chủ nằm trong Liên bang Đông Dương và trong khối Liên hiệp Pháp. Pháp có thể cử cố vấn do Chính phủ ta lựa chọn. Ta cho quân Pháp thay quân Tưởng ở ngoài Bắc, nhưng Pháp phải giải quyết vấn đề Nam Bộ thống nhất với cả nước…


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Chín, 2012, 07:25:05 am
Cũng vào dịp thường vụ Trung ương đề ra chủ trương Hòa để tiến thì tại Trùng Khánh, cuộc vận động ngoại giao kéo dài nhiều tháng giữa Pháp và Tưởng đã dẫn tới bản thỏa hiệp Pháp - Hoa ký kết ngày 28-2. Nội dung chủ yếu là Trung Hoa dân quốc thuận cho Pháp đưa quân vào thay thế quân đội Tưởng ở bắc vĩ tuyến 16, đổi lấy những nhân nhượng của Pháp về mặt kinh tế. Trước tình hình đó, Thường vụ Trung ương nhận định rằng: “Hiệp ước Pháp - Hoa không phải là chuyện riêng của Tàu Tưởng và của Pháp. Nó là chuyện chung của phe đế quốc và bọn tay sai của chúng”. Nhưng do khó khăn nội bộ và trước sự lớn mạnh của cách mạng Việt Nam, cả Pháp và Tưởng đều “muốn dàn xếp với ta về việc quân Pháp kéo vào miền Bắc nước ta”. Trước tình hình đó, Thường vụ Trung ương chủ trương:

“Nếu Pháp chủ trương cho Đông Dương tự trị theo bản Tuyên ngôn ngày 24-3-45 (của tướng Đờ Gôn - T.G) thì nhất định đánh, và rất có thể đánh lâu dài theo lối du kích, nhưng nếu Pháp công nhận Đông Dương tự chủ thì có thể hòa, hòa để phá tan thâm thù của bọn Tưởng Giới Thạch, bọn phản động Việt Nam và bọn phát xít Pháp còn sót lại, chúng định hãm ta vào tình thế cô độc, buộc ta phải đánh với nhiều kẻ thù một lúc để giử thực lực của ta tiêu hao”(1).

Sau khi phân tích những thuận lợi, khó khăn nếu thực hiện chủ trương tạm thời hòa hoãn với Pháp, đồng chí Võ Nguyên Giáp giải thích rõ những nội dung quan trọng sau đây trong bản Chỉ thị ngày 3-3 của Thường vụ Trung ương để mọi cán bộ tham mưu quán triệt và hoạt động cho đúng:

Vấn đề lúc này không phải là muốn hay không muốn đánh. Vấn đề là biết mình, biết người, nhận định một cách khách quan những điều kiện lợi hại trong nước và ngoài nước mà chủ trương cho đúng…

Điều cốt từ là trong khi mở cuộc đàm phán với Pháp, không những không ngừng một chút công việc sửa soạn, sẵn sàng kháng chiến bất cứ lúc nào và ở đâu, mà còn hết sức xúc tiến công việc sửa soạn ấy…

Cơ quan tham mưu cần nắm điều mà Thường vụ Trung ương dự kiến, đó là “bọn thực dân Pháp có thể tăng gia lực lượng trên đất ta để một ngày kia bội ước diệt ta”.

Trong những lần trao đổi ý kiến về tình hình và nhiệm vụ sau buổi nghe nói chuyện trên đây, nhiều anh em rất tâm đắc với dự kiến trên đây của Đảng. Anh em cho rằng dự kiến như vậy là “kín võ”. Vấn đề đặt ra với tham mưu là phải chuẩn bị như thế nào để sẵn sàng đối phó với tình huống xấu nhất? Phải khẳng định một thực tế là hồi đó, trình độ tri lớp trẻ chúng tôi chưa đủ để nhận thức vấn đề một cách rõ ràng, khúc chiết. nhưng dù sao, ở cái tuổi mà nhớ lại thực tế cuộc sống dưới chế độ cũ cũng đủ để mọi người biết thế nào là “thiện chí” của người Pháp trên mảnh đất này.

Tin tưởng và nhất trí với chủ trương hòa để tiến, nhận thức bước đều về chức năng nhiệm vụ tham mưu mặc dù còn hạn chế nhưng cũng đủ cho mọi người thấy phải luôn luôn sẵn sàng.

Tinh thần “sẵn sàng” ấy thể hiện trong nhiệm vụ mà đồng chí Tổng Tham mưu trưởng căn dặn các phòng triển khai ngay trong những ngày đầu tháng 3-1946. Cuộc thương lượng giữa ta và Pháp dừng lại trên một số vấn đề cơ bản. Báo chí và đài phương Tây đưa tin hạm đội Pháp từ trong Nam sắp vào hải phận của ta trong Vịnh Bắc Bộ. Chính trong những ngày này, tin tức cho thấy tình hình căng thẳng, không những giữa ta với Pháp và quân Tưởng mà cả giữa những người đại diện của Pari và Trùng Khánh ở Hà Nội.

Các phòng Tình báo, Tác chiến và Nhân sự cố gắng nắm chắc tình hình, nhất là ở Hà Nội và Hải Phòng. Phải chuẩn bị số anh em phái viên sẵn sàng đi đến nơi dự kiến, sẽ có thể nổ ra xung đột, nắm tình hình và báo cáo về Bộ. Phòng Tình báo bám sát động tĩnh của quân Tưởng, đồng thời phối hợp với công an và tự vệ theo dõi hoạt động của ngoại kiều, trước hết là Pháp kiều và Hoa kiều, hoạt động của bọn Việt quốc, Việt cách và các lực lượng phản động khác, kể cả bọn phản động đội lốt thầy tu. Phòng Thông tin liên lạc duy trì chế độ thường trực của đội liên lạc chạy chân, khẩn trương mạng thông tin vô tuyến, bảo đảm thường xuyên thông suốt trước hết là giữa Hà Nội và các tỉnh đồng bằng để kịp thời chuyển đạt mệnh lệnh và nhận báo cáo bất kỳ lúc nào. Văn phòng và Phòng Quản lý nội bộ phối hợp đi nghiên cứu đường sá, dự kiến lập kho lương thực trên các hướng Chương Mỹ và Hoài Đức, hướng dự kiến di chuyển sơ tán cơ quan ra khỏi thành phố khi cần.

Phòng Nhân sự cử người sang bàn với các cục nghiệp vụ bên Bộ Quốc phòng về kế hoạch bổ sung đạn dược cho bộ đội Vệ quốc đoàn và các đơn vị tự vệ tập trung, trước hết ở Hà Nội, Hải Phòng, dọc đường 5 và cử một số đơn vị biên giới Đông Bắc, Tây Bắc.

Với tinh thần và tư thế chủ động trước tình huống bất trắc có thể xảy ra vào thời điểm phức tạp của một khúc quanh lịch sử, từ đầu tháng 3-1946 không khí làm việc trong cơ quan tham mưu khẩn trương hẳn lên.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t.8, tr.43.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Chín, 2012, 08:30:40 am
CHƯƠNG II

TÌNH THẾ ĐÒI HỎI PHẢI VƯƠN LÊN

I

Đồng chí Tổng Tham mưu trưởng về đến 18 Nguyễn Du thì đường phố Hà Nội đã lên đèn. Vừa đi, anh Thái vừa suy nghĩ về những điều mới được nghe anh Văn phổ biến về những công việc quan trọng mà cơ quan tham mưu cần triển khai trong những ngày sắp tới, khi Hiệp định sơ bộ giữa ta và Pháp được kí kết.

Từ lâu, anh đã được nghe về những cuộc gặp riêng không chính thức giữa ta và đại diện Pháp, cũng như về cuộc mặc cả kéo dài nhiều tháng giữa hai bên Hoa - Pháp. Đại diện của Pari đã được Tưởng chấp thuận cho mấy ngàn quân Pháp ở Vân Nam vào Bắc Bộ. Đám quân này thoát chết trong cuộc đảo chính hồi háng 3 năm trước, sau khi được củng cố, đã lén lút vượt biên giới vào Tây Bắc Việt Nam, ngay khi cuộc đàm phán giữa Pháp và Tưởng còn đang tiếp diễn. Trung tuần tháng 11-1945, chấp hành lệnh của trên, Bộ Tổng tham mưu đã điều 7 đại đội từ các tỉnh trung du và đồng bằng lên tăng cường cho Tây Bắc. Chi đội Sơn La đã được thành lập. Sau đó, vào những ngày đầu năm 1946, trong một lần cùng Khu trưởng Bằng Giang lên Sơn La, Tổng Tham mưu trưởng đã góp ý kiến với Khu 10 về phương hướng hoạt động bám đất, bám dân, xây dựng cơ sở chính trị của các đơn vị Tây tiến đầu tiên trước âm mưu của quân Pháp trên địa bàn chiến lược quan trọng này.

Hôm nay, Tổng Tham mưu trưởng được nghe khái quát quá trình diễn biến cuộc đấu tranh ngoại giao giữa ta với Pháp, dẫn đến bản Hiệp định sơ bộ vừa được ký kiết chiều nay tại Hà Nội. Nội dung khiến Tổng Tham mưu trưởng quan tâm là quân Pháp sẽ có mặt ở miền Bắc để thay thế quân Tưởng. Ta phải tổ chức một vạn quân để cùng quân Pháp tiếp phòng quân Tưởng; phải cử một số cán bộ tham mưu tham gia Ủy ban liên lạc và kiểm soát quân sự (gọi tắt là Liên kiểm) để kiểm tra việc thi hành Hiệp định Việt - Pháp và giải quyết những vấn đề của hiệp định liên quan đến mặt quân sự; nhất là phải tranh thủ thời gian tạm thời hòa hoãn với Pháp khẩn trương xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố cơ quan chỉ huy các cấp, đào tạo cán bộ, sản xuất vũ khí, sẵn sàng đối phó với mọi tình thế. Đây chính là thời cơ khôi phục lại cả thế và lực của ta ở trong Nam.

Về tới cơ quan, dù đã 7 giờ tối, Tổng Tham mưu trưởng vẫn gặp các cán bộ phụ trách các phòng (số đông ăn ở trong cơ quan) để truyền đạt tình hình mới và cùng anh em trao đổi về những dự kiến công việc cần triển khai trong những ngày tới.

Trước khi cuộc họp bắt đầu, anh giới thiệu đồng chí Nguyễn Sỹ Là mới được điều về phụ trách Văn phòng, đồng chí Nguyễn Đông (Nguyễn Văn Nấp) về phụ trách Phòng Tác chiến. Trước đây, Tác chiến chưa có Trưởng phòng, Tổng Tham mưu trưởng phải kiêm nhiệm nên khá bận rộn, vì phải cùng với các đồng chí Mai Hữu Thao, Đỗ Xuân Sáng chỉ đạo nhiều việc cụ thể, từ việc tổ chức từng đoàn quân Nam tiến đến việc dàn xếp những cuộc xung đột với quân Tưởng ở nơi này nơi kia…

Trong lúc vui chuyện khi cuộc họp chưa bắt đầu, anh Hoàng Minh Đạo quay sang hỏi nhỏ bác Thúy:

- Nghe nói bác định bỏ anh em ra đi đấy à?

Bác Thúy bỏ chiếc “píp” đen nhánh, to bằng quả trứng gà ra khỏi miệng, thủng thắng dáp:

- Chẳng biết thế nào. Lúc thì có tin mình được cử làm Bộ trưởng Quốc phòng trong Chính phủ liên hiệp, lúc lại có tin làm Cục trưởng Cục Chính trị. Mình thấy những công việc ấy khó lắm. Làm thông tin là rất hay rồi.

Anh Thái cũng vui chuyện, nói với bác Thúy:

- Điều có thể chắc chắn là khi nào bên Quốc phòng mở trường võ bị thì thế nào bác cũng được mời giúp một tay đấy.

- Báo cáo Tham mưu trưởng, sao nghe nói có anh Phan Phác rồi?

- Anh Phác phụ trách Cục Quân huấn của Quốc phòng. Hình như anh Văn đã đề nghị Cụ Chủ tịch để bác và anh Trần Tử Bình trực tiếp lãnh đạo nhà trường. Anh Phác đang giúp anh Phan Anh và anh Tạ Quang Bửu làm kế hoạch chiêu sinh và mở trường.

Bác Thúy không nói gì thêm. Và cuộc họp phổ biến tình hình và nhiệm vụ mới cũng bắt đầu.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Chín, 2012, 08:31:42 am
Mới hôm qua, cán bộ cơ quan đã được nghe đồng chí Võ Nguyên Giáp giải thích về chủ trương Hòa để tiến của Thường vụ Trung ương. Chủ trương đó dẫn đến bản hiệp định mới kí kết giữa ta và Pháp. Tổng Tham mưu trưởng cho biết: theo hiệp định, 15.000 quân Pháp sẽ vào miền Bắc nước ta, gồm lực lượng từ trong Nam ra, từ bên kia biên giới Việt - Trung về cùng với số quân Pháp bị Nhật bắt trước đây vẫn bị giam ở trong thành Hà Nội và cả ở một số nơi khác. Một bản hiệp nghị quân sự giữa ta và Pháp sẽ quy định quân số và địa điểm Pháp được đóng quân, nhưng chắc chắn là chúng sẽ có mặt tại các điểm nút giao thông ở biên giới, ở vùng mỏ, các bến cảng, dọc các đường chiến lược và các thành phố, kể cả Thủ đô Hà Nội. Vấn đề đặt ra với tham mưu là cần nắm chắc cho được binh lực của chúng ở từng nơi mà Pháp được phép đóng quân, ý đồ của chúng và mối liên hệ của chúng với Pháp kiều và các lực lượng phản động tại địa phương. Quân Tưởng sẽ lần lượt rút khỏi miền Bắc. Theo Hiệp ước Pháp - Hoa, việc rút quân Tưởng phải hoàn tất trong tháng 3-1946, nhưng trên dự kiến chúng sẽ kiếm cớ để dây dưa kéo dài sự có mặt trên đất nước ta. Chúng vẫn hy vọng tiếp tục hậu thuẫn cho bọn tay sai về mặt chính trị, cụ thể làm tham gia Chính phủ. Mặt khác, chúng nấn ná để kiếm chác thêm về kinh tế. Do đó, vẫn cần tiếp tục bám sát động tĩnh của bọn Tàu trắng và tay sai cho đến khi những đơn vị cuối cùng của chúng rút khỏi miền Bắc.

Về tổ chức bộ máy quân sự trung ương, Tổng Tham mưu trưởng cho biết, về mặt đoàn thể, Quân ủy Trung ương (được thành lập tháng 1 vừa qua) do đồng chí Võ Nguyên Giáp làm Bí thư, vẫn có nhiệm vụ giúp Thường vụ Trung ương lãnh đạo quân đội; về mặt chính quyền, trong kỳ họp thứ nhất của Quốc hội vừa qua để thành lập Chính phủ liên hiệp chính thức, Quốc hội đã nhất trí trao Bộ Quốc phòng cho hai nhân sĩ không đảng phái là các ông Phan Anh và Tạ Quang Bửu đảm nhiệm. Chức năng của Bộ Quốc phòng là chỉ đạo việc xây dựng, tổ chức, biên chế, trang bị, huấn luyện và cấp dưỡng quân đội. Còn việc điều khiển quân đội trong cả nước thuộc quyền Kháng chiến Ủy viên hội (thành lập trong kỳ họp Quốc hội ngày 2-3-1946), do đồng chí Võ Nguyên Giáp là Chủ tịch. Nhiệm vụ này được xác định từ khi thành lập Chính phủ liên hiệp lâm thời (1-1-1946), nay lại được Quốc hội khẳng định. Cũng trong cuộc họp ngày 2-3 vừa qua, Quốc hội chính thức thông qua việc bổ nhiệm Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái.

Về tổ chức nội bộ cơ quan tham mưu, để hợp lý hóa và phù hợp với chức năng nhiệm vụ của các phòng, cần có một vài thay đổi. Tổ Nhân sự tách khỏi Văn phòng, thành một Phòng Nhân sự do anh Trần Văn Lư phụ trách, với chức năng nắm quân số và trang bị, phối hợp với bên Quốc phòng nghiên cứu việc tổ chức, biên chế của toàn quân(1). Tổ Quân nhu cũng tách khỏi Văn phòng, tổ chức thành Phòng Quân nhu - Kế toán, do anh Nguyễn Quý Tín phụ trách, với chức năng phối hợp với bên Quốc phòng, nghiên cứu việc cấp phát quân nhu và trang bị cho toàn quân. Tổ Mật mã tách khỏi Phòng Thông tin liên lạc, tổ chức thành một ban, vẫn do anh Tạ Quang Đạm phụ trách. Ban mật mã trực thuộc Tổng Tham mưu trưởng về mặt nghiệp vụ và với Văn phòng về mặt hành chính. Bộ phận Bản đồ tổ chức thành một ban hay tổ trong Phòng Tác chiến để tiện chỉ đạo và phối hợp công tác.

Trước đây, tuy đã có Bộ Quốc phòng, nhưng việc phân nhiệm chưa thật rõ ràng nên nhiều việc, kể cả chính trị, cung cấp và đối ngoại, đều do tham mưu làm theo sự ủy nhiệm của trên. Nay Bộ Quốc phòng trong Chính phủ liên hiệp đã bao gồm các cục chuyên ngành nên Bộ Tổng tham mưu có điều kiện đi sâu vào nhiệm vụ chủ yếu theo chức năng của cơ quan tham mưu, giúp Quân ủy Trung ương (về chính quyền là Quân sự Ủy viên hội) chỉ đạo toàn quân. Trong các vấn đề quan hệ đến quản lý bộ đội, tham mưu phải phối hợp với các cục nghiệp vụ bên Quốc phòng.

Trở lại những công việc trước mắt của cơ quan, Tổng Tham mưu trưởng nói rõ: cơ quan tham mưu vẫn phải chú ý theo dõi tình hình cả Pháp, Tưởng và tay sai, nhưng do sau Hiệp định sơ bộ quân Pháp sẽ có mặt ở ngoài Bắc, cho nên đối tượng chủ yếu trước mắt và lâu dài của công tác nắm địch là Pháp, kể cả quân đội Pháp, Pháp kiều và những tên phản động có thể ngóc đầu dậy làm tay sai cho Pháp.

Như anh Văn đã nói hôm qua khi phổ biến chỉ thị của Đoàn thể, không vì có chủ trương tạm thời hòa hoãn với Pháp mà lơ là việc xây dựng lực lượng, nhất là đào tạo cán bộ. Tham mưu cần mở Trường quân chính Bắc Sơn trong tháng 3-1946, như kế hoạch đã chuẩn bị; sẽ phối hợp với Cục Quân huấn bên Quốc phòng khai giảng trường võ bị sau khi chuẩn bị xong cả về chiêu sinh, nội dung huấn luyện và đội ngũ giảng viên. Trên đã chấp nhận cho Ủy ban kháng chiến miền Nam tổ chức trường lục quân ở phía Nam, có thể là ở Quảng Ngãi. Ngoài các trường đào tạo này, trên còn chỉ thị tham mưu chuẩn bị mở một số lớp bổ túc cho cán bộ đại đội và tiểu đoàn, trong khi các khu và trung đoàn mở trường quân chính đào tạo và bổ túc cán bộ trung đội và tiểu đội.


(1) Anh Trần Văn Lư là Chủ tịch Hội Cựu binh sĩ cứu quốc, mới được Thành bộ Việt Minh Hoàng Diệu (Hà Nội) giới thiệu sang cùng với một số cựu binh sĩ khác như các anh Nguyễn Văn Nấp (Nguyễn Đông), Tuấn Kiệt, Đoàn Mạnh Nghi, Nguyễn Quý Tín, Lê Tôn Hy, Nguyễn Sỹ Là…


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Chín, 2012, 08:32:15 am
Trong chuyến thị sát chiến trường miền Nam trong dịp Tết vừa qua, anh Văn được nghe báo cáo và tỏ ta hài lòng về tổ chức mạng thông tin phục vụ chiến đấu trên địa bàn Tây Nguyên, kể cả ở Cheo Reo, Buôn Hồ cũng như khi lui quân về An Khê. Sắp tới, cần nghiên cứu lại tổ chức thông tin cho phù hợp với yêu cầu nắm vững tình hình chiến trường chuyển biến trong quá trình thi hành hiệp định, cũng như khi tổ chức lại thành các chiến khu trong cả nước.

Tổng Tham mưu trưởng giải thích rõ: Nói cục diện chiến trường chuyển biến, là nói tới nhiều vấn đề liên quan đến nghiệp vụ của các phòng, ban. Địch rút bớt quân ra Bắc, lực lượng của chúng, dù có được tăng viện, cũng vẫn phải căng mỏng ra để kiểm soát những vùng tạm chiếm. So sánh lực lượng trên chiến trường sẽ thay đổi theo chiều có lợi cho ta. Nếu địch ngoan cố không chịu thi hành điều khoản đình chiến ở miền Nam, thì đồng bào và chiến sĩ miền Nam càng có điều kiện nổi dậy diệt tề, trừ gian, phát triển lực lượng và đánh địch, nhất là đánh các đội tuần tiễu nhỏ của chúng trên bộ và trên sông. Yêu cầu đặt ra với các phòng, ban, nhất là Tình báo, Tác chiến và Thông tin liên lạc, là phải phối hợp chặt chẽ, nắm vững tình hình, báo cáo kịp thời để có phương hướng chỉ đạo. Việc chi viện cho miền Nam tuy không khẩn trương cấp bách như hồi sau Tổng khởi nghĩa, nhưng vẫn phải tiếp tục, theo nguyên tắc trên đã chỉ thị về điều chỉnh lực lượng giữa miền Bắc và miền Nam. Trước yêu cầu sẵn sàng đối phó với âm mưu địch trong tình hình mới, miền Bắc dần dần sẽ trở thành chiến trường chính, thu hút nhiều lực lượng của cả ta và địch. Cho nên việc bổ sung trang bị cần tiếp tục với tinh thần khẩn trương hơn, kể cả việc phát triển lực lượng dân quân du kích và tự vệ, trước hết là ở những nơi có quân Pháp đóng.

Ban Liên lạc và Kiểm soát quân sự trung ương (gọi tắt là Ban Liên kiểm) sẽ được thành lập. Thứ trưởng Bộ Nội vụ Hoàng Hữu Nam được giao nhiệm vụ chỉ đạo ban này của phía Việt Nam, với danh nghĩa đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Anh Cao Xuân Hổ được chỉ định làm Tổng Thư ký, Tham mưu cần cử một số anh em tham gia vào cơ quan Liên kiểm của ta. Ngoại ngữ là một điều kiện quan trọng nhưng cần có kiến thức quân sự, có tư thế tác phong chững chạc và nhất là thái độ phải biết vừa cương quyết vừa mềm dẻo, cương nhu cho đúng lúc mà vẫn đảm bảo đi đúng chủ trương, chính sách của ta. Cần suy nghĩ điều mà trên đã căn dặn là: Cơ quan Liên kiểm của ta phải phát huy tác dụng ngăn chặn hành động vi phạm của phía Pháp, nhưng một yếu tố quyết định trong cuộc đấu tranh để thi hành hiệp định là sức mạnh của ta cả về quân sự và chính trị. Yếu tố đó phải không ngừng được củng cố và tăng cường, lực lượng vũ trang phải cùng nhân dân sẵn sàng ứng phó với mọi tình thế.

Cuộc trao đổi ý kiến về công tác sắp tới kéo dài tới khuya. Là những người phụ trách đầu ngành, các anh thấy trách nhiệm của Bộ Tổng tham mưu trước tình hình mới thật nặng nề và phức tạp. Nói “tạm thời hòa hoãn” với Pháp, nhưng đồng thời phải thấy tim đen của bọn tướng lĩnh thực dân. Họ đem quân ra Bắc hẳn không phải vì thiện chí.

Chỉ mấy ngày sau, các anh được biết qua những cuộc tiếp xúc đầu tiên của đại diện phái ta với tướng lĩnh Pháp, nhiều triệu chứng cho thấy khả năng họ sẵn sàng vi phạm hiệp định. Anh em cán bộ Bộ Tổng tham mưu còn nhớ, hôm 5-3, khi nghe phổ biến về cuộc đấu tranh với Pháp trong những ngày cuối tháng 2 đầu tháng 3 nhằm thực hiện chủ trương Hòa để tiến, một trong những vấn đề mà báo và đài Pháp hay nói đến là xung quanh hai từ relèveretour. Nhiều cơ quan thông tấn phương Tây đưa ra những lời bình luận: phía Pháp muốn coi quân đội của họ là lực lượng trở lại (retour) chiếm đóng miền Bắc Đông Dương chứ không phải là lực lượng thay thế quân đội Tưởng tiếp phòng (relève) miền Bắc.

Anh Thái nhớ lại những điều căn cặn của Bác Hồ ngay 8-3 tại Tòa thị chính Hà Nội. Hôm đó (hai ngày sau khi bản hiệp định được ký kết), trong cuộc nói chuyện với các khu trưởng (các khu phố Hà Nội) và đại đội trưởng tự vệ thành phố, Người nói đại ý:

- Ký hiệp định đình chiến này không phải là đã hết chiến tranh đâu. Thái độ hòa hoãn, nhã nhặn của ta đối với quân đội Pháp không phải là thái độ nhu nhược, thụ động. Trái lại, phải nâng cao tinh thần kháng chiến của toàn dân để đối phó với những việc bất ngờ bất cứ lúc nào cũng có thể xảy ra. Tinh thần kháng chiến, sự chuẩn bị chu đáo là phải thường trực, tiếp tục không một ngày một phút nào ngừng…

Chỉ một ngày sau khi ký Hiệp định sơ bộ, quân Pháp vội vã đổ bộ lên Hải Phòng. Ta dự kiến chúng sẽ dựa vào hiệp định này để nhanh chóng kéo lên Hà Nội mà không cần đợi kết quả cuộc họp giữa đại diện quân sự hai bên Pháp - Tưởng đang diễn ra ở Trùng Khánh. Có thể chúng cũng không đợi Hiệp nghị quân sự Việt - Pháp, vì ít nhất đầu tháng 4 phái đoàn quân sự hai bên mới chính thức gặp nhau để bàn về quy chế đóng quân tiếp phòng.

Rõ ràng là hàng loạt công việc cấp bách đang được đặt ra đối với cơ quan tham mưu chiến lược.

Sau cuộc họp chung với cán bộ đầu ngành, đồng chí Tổng Tham mưu trưởng thấy vẫn cần dành thời gian khẩn trương làm việc với từng phòng, bàn bạc cụ thể và hướng dẫn anh em những công việc cần triển khai gấp cho phù hợp với tình hình hiệp định.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Chín, 2012, 08:34:49 am
II

Trải qua mấy tháng công tác thực thế, anh Thái cũng như các anh phụ trách các phòng đã dần dần thấy cần phải làm gì và làm thế nào để nắm được tình hình nhanh hơn, chắc hơn. Với cán bộ tiếp tục được bổ sung, việc cử phái viên xuống các địa phương đi đôi với tận dụng mạng thông tin đã dần dần được mở rộng, là cách tốt nhất để nắm tình hình, trước hết là trên các địa bàn trọng điểm. Điều đó giải thích tại sao vào những ngày cuối tháng 3 đầu tháng 4 này, khi làm việc với từng phòng, Tổng Tham mưu trưởng thấy anh em báo cáo tình hình tốt hơn so với trước.

Trước hết anh Thái nghe tổng hợp tình hình về ta, mặc dù trước đó anh vẫn định kỳ nắm được tình hình từng mặt khá cụ thể. Theo báo cáo của anh Trần Văn Lư, Trường phòng Nhân sự, thì phòng đã tổng hợp được các đơn vị Nam tiến và lực lượng của ta trên miền Bắc. Cho đến đầu tháng 3, Bắc Bộ và Trung Bộ đã chi viện cho chiến trường miền Nam 12 chi đội và 6 đại đội(1). Cán bộ chỉ huy các đoàn quân Nam tiến đã có kinh nghiệm chiến đấu, như các anh Hoàng Đình Giong, Thu Sơn, Nam Long, Vy Dân, Hoàng Thơ… đều đã trưởng thành từ đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Qua báo cáo của các phái viên từ trong Nam ra cho biết, ngay từ đầu, lực lượng Nam tiến đã góp phần quan trọng làm tăng thêm sức mạnh chiến đấu cho các chiến trường miền Nam.

Từ Trung Bộ trở ra, phổ biến mỗi tỉnh đều có một chi đội hoặc trung đoàn Vệ quốc đoàn(2). Tình hình trang bị còn kém. Mỗi trung đội(3) có 15 - 20 súng trường kiểu cũ, còn phổ biến là giáo mác, đại đao. Ở các thôn xã, đường phố, đều có lực lượng dân quân du kích và tự vệ đông đảo, gồm cả tự vệ cứu quốc và tự vệ chiến đấu. Tuy trang bị còn rất thô sơ, chủ yếu là gậy gộc, giáo mác, súng kíp, nhưng hàng vạn lực lượng vũ trang tại chỗ, không thoát ly, đã trở thành công cụ sắc bén bảo vệ chính quyền địa phương từ tỉnh xuống xã.

Nguồn trang bị của bộ đội Vệ quốc đoàn hiện nay là những xưởng quân giới được thành lập rải rác nhiều nơi. Theo số liệu của Cục Quân giới bên Quốc phòng thì từ Thừa Thiên trở ra, đến đầu năm 1946, ta đã có 12 cơ sở sản xuất và sửa chữa vũ khí, phần lớn là do tỉnh tổ chức. Tại các thôn, xã, các lò rèn trở thành lò sản xuất vũ khí thô sơ cho lực lượng vũ trang địa phương. Khi nghe báo cáo về tình hình biên chế tổ chức và trang bị của bộ đội, Tổng Tham mưu trưởng cho các anh Trần Văn Lư và Nguyễn Quý Tín biết: Bộ Quốc phòng đang nghiên cứu để trình lên Chính phủ ra sắc lệnh thống nhất tổ chức quân đội, cả về biên chế, trang bị và các chế độ của một quân đội quốc gia thống nhất. Các phòng Nhân sự và Quân nhu - Kế toàn cần liên hệ mật thiết với các cục chuyên môn bên Quốc phòng trong quá trình nghiên cứu các vấn đề trên. Một việc cấp thiết là nắm lại khả năng sản xuất vũ khí của ta và bàn kế hoạch tranh thủ mua thêm súng đạn của quân đội Tưởng trước khi chúng rút về nước. Về việc trang bị, cần tập trung trước hết vào các đơn vị trên những địa bàn xung yếu, những đơn vị ở nơi có quân Pháp đóng. Sau khi đã nắm lại tình hình, hai phòng sẽ cùng Phòng Tác chiến bàn bạc và lập một đề án bổ sung và điều chỉnh trang bị đưa lên Tổng Tham mưu trưởng duyệt. Với các tỉnh cần nắm vững phương châm của Đoàn thể “vũ trang toàn dân”, động viên sản xuất thêm nhiều vũ khí thô sơ cho lực lượng vũ trang tại chỗ.

Anh Thái dặn thêm: quá trình làm việc với các cục chuyên môn bên Bộ Quốc phòng, cần giữ quan hệ tốt, bàn bạc chân tình. Nếu có điều chưa thống nhất về nghiệp vụ, cần trao đổi ngay để bảo đảm đoàn kết trong quan hệ phối hợp công tác.

Làm việc với Phòng Tình báo, anh Thái cho biết anh Châu Ký sẽ được điều sang làm phó phòng cùng với anh Bùi Huy Bê, giúp Trưởng phòng Tình báo Hoàng Minh Đạo chỉ đạo công tác nắm tình hình địch. Vấn đề trước mắt được Tổng Tham mưu trưởng thảo luận với Phòng Tình báo là nắm địch trong tình hình mới như thế nào? Qua trao đổi ý kiến, các anh đều thấy ngoài việc nắm tình hình địch ở các thành phố và các trục giao thông lớn ở đồng bằng, cần phải chú ý hơn nữa hướng Tây Bắc. Số quân Pháp từ Vân Nam kéo vào Lai Châu đã tiến dần xuống Lai Châu, Tuần Giáo, Điện Biên Phủ và đang bị quân ta chặn lại ở bắc Sơn La. Chung trên toàn miền Bắc, trước hết là ở các thành phố và đường giao thông lớn, phải củng cố gấp các cơ sở nắm địch trước khi Pháp đưa quân tỏa ra các địa bàn mà ta và Pháp sẽ thỏa thuận cho quân tiếp phòng đóng. Nhân dịp này, đám tàn quân Pháp rải rác ở vùng đảo Đông Bắc sẽ phối hợp với quân Pháp đang có mặt ở vùng cảng đẩy mạnh hoạt động. Ở vùng mỏ Quảng Yên, chúng có thể lôi kéo bọn Việt cách để có thêm lực lượng chống phá ta. Ngoài ra, vẫn phải theo dõi quá trình chuẩn bị rút quân của Tưởng và hoạt động của bọn tay sai, nhất là những tên lăm le thay thầy đổi chủ sau khi quân Tưởng rút.

Các anh phụ trách Phòng 2 báo cáo với Tổng Tham mưu trưởng rằng phòng đã tổ chức được 20 cơ sở nắm địch ở Bắc Bộ và 6 tỉnh thuộc Trung Bộ. Số 25 nhân viên mới được đào tạo khóa trước đã được đưa về các địa phương nhưng vẫn còn thiếu nhiều trước tình hình mới. Phòng dự kiến sẽ điều chỉnh lại mạng lưới nắm địch trên các địa bàn xung yếu mà không dàn đều. Các anh cũng đề nghị để anh Bùi Huy Bê đi một chuyến vào Khu 4 và Khu 5 để kiểm tra tình hình và củng cố lại các cơ sở nắm địch dọc đường số 1, từ Thanh Hóa vào Đà Nẵng. Anh Đạo và anh Châu Ký sẽ thay nhau đi củng cố ban tình báo các tỉnh Bắc Bộ, trước hết là các thành phố dọc đường 1, đường 5, vùng mỏ và đặc biệt là Thủ đô.


(1) Đến cuối năm 1945 đầu năm 1946, ta vẫn chưa có điều kiện thống nhất biên chế bộ đội Vệ quốc đoàn, nên quân số các chi đội vẫn chưa thống nhất, thường là 500 - 600, cá biệt có địa phương nhiêu hơn.
(2) Sau Cách mạng Tháng Tám, do quan hệ đối ngoại với tướng lĩnh cầm đầu quân Tưởng, tháng 9-1945, Chính phủ quyết định đổi tên Giải phóng quân thành Vệ quốc đoàn. Khi Chính phủ ra Sắc lệnh số 71 (22-5-1946), Vệ quốc đoàn đổi tên là Quân đội quốc gia Việt Nam.
(3) Quân số trung đội hồi đó thường xấp xỉ đại đội sau này.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Chín, 2012, 08:35:38 am
Tổng Tham mưu trưởng chỉ thị nên mở thêm mấy lớp bồi dưỡng nghiệp vụ và đào tạo cán bộ. Anh nhắc anh Đạo và anh Bê cần coi trọng việc rút kinh nghiệm hoạt động nắm địch, kể cả việc nghiên cứu phân tích việc nắm tình hình hoạt động của quân Tàu Tưởng và tay sai khác với việc nắm quân Pháp và Pháp kiều như thế nào. Trước mắt, anh Bê cần nhanh chóng hướng dẫn những hiểu biết cần thiết về quân đội Pháp, từ phù hiệu, cấp hiệu đến tổ chức và các loại trang bị. Cần trang bị cho anh em có những kiến thức tối thiểu về đối tượng đang trở thành chủ yếu của ngành tình báo. Việc hướng dẫn nghiệp vụ cho tình báo các khu về đối tượng mới là rất cần thiết để anh em có thể tự điều hành mạng trinh sát nắm địch trong địa bàn của mình. Phòng Tình báo của Bộ chỉ tập trung vào mấy nơi xung yếu nhất, nếu không thì không đủ sức. Việc anh Bê đi một chuyến vào miền Trung là rất cần thiết.

Anh Thái cùng các anh Phòng 2 trao đổi thêm về tình hình quân đội Pháp. Theo tin công khai thì lực lượng của chúng đưa ra miền Bắc là những đơn vị thuộc Sư đoàn 9 bộ binh thuộc địa (9è DIC) và một đơn vị cơ giới cỡ trung đoàn. Chúng sẽ phải rải lực lượng ra nhiều nơi. Dù có thu vén được đủ 15.000 quân thì lực lượng của chúng cũng rất phân tán. Rõ ràng là chúng đứng trước một mâu thuẫn không tránh khỏi, càng tham rải quân ra nhiều nơi thì binh lực lại càng phân tán, dàn mỏng. Cần bám sát binh lực thực tế của chúng trên từng địa bàn, hệ thống chỉ huy và cách bố trí trú quân của chúng, việc chuyển quân thường xuyên và bất thường, v.v. Cần lên danh sách những Pháp kiều và bọn tay sai có khả năng lén lút hoạt động tiếp tay cho Pháp. Tin tức cho biết: Chính phủ Pháp đã sớm phê chuẩn Hiệp định 6-3, nhưng thế lực phản động Pháp ở Pari và Sài Gòn đang phản đối rất dữ việc ký bản hiệp định này, trong đó đáng chú ý là Đô đốc Cao ủy Đácgiăngliơ và cả tướng Đờ Gôn, dù ông này đã rời ghế Tổng thống kiêm Thủ tướng từ đầu năm. Điều đó cho thấy việc thi hành hiệp định sẽ gặp không ít khó khăn.

Anh Hoàng Minh Đạo báo cáo thêm về trụ sở. Phòng 2 mới từ 67 Bà Triệu chuyển về 36 Lý Thường Kiệt, nhưng trụ sở hiện nay không tiện vì có gia đình một cán bộ trung ương cùng ở. Các anh dự kiến sẽ chuyển đến số 9 Hai Bà Trưng. Anh Thái chấp thuận và nhắc thêm nên đề nghị bác Thúy cố thu xếp một máy điện thoại liên lạc trực tiếp từ Hai Bà Trưng về Nguyễn Du để kịp thời báo cáo tình hình. Thực tế vừa qua cho thấy, sự kiện quân đội Tưởng bắn vào tàu Pháp (khi quân đội Pháp tiến vào sông Cấm sáng 6-3) đã không được báo cáo kịp thời, mặc dù Phòng 2 đã nắm được tin của tình báo Hải Phòng khá sớm. Nguyên nhân một phần vì thiếu máy liên lạc trực tiếp về Nguyễn Du.

Anh Nguyễn Văn Nấp mới về phụ trách Phòng Tác chiến đã được cử đi Tây Bắc giải quyết việc quân Pháp xin được tiến quân theo đường số 6 về Hà Nội. Họp bàn công việc với Tổng Tham mưu trưởng là hai đồng chí Phó phòng Mai Hữu Thao và Đỗ Xuân Sảng. Một thời gian sau ngày về Bộ Tổng tham mưu từ hồi cơ quan mới thành lập, anh Thao đã được giao nhiệm vụ hướng dẫn, giúp đỡ cán bộ Tổ đồ bản những hiểu biết cần thiết về bản đồ quân sự(1).

Làm việc với Phòng Tác chiến hôm nay, đồng chí Tổng Tham mưu trưởng không trở lại diễn biến của chiến trường sáu tháng qua. Anh đã có trong tay một bản báo cáo tổng hợp. Điều mà Tổng Tham mưu trưởng cùng các anh Thao và Sảng trao đổi ý kiến hôm nay là tình hình mới nhất ở miền Bắc vào thời điểm quân Pháp sắp ra thay thế quân Tưởng.

Bọn tay sai của Tưởng ở Vĩnh Yên, Việt Trì, Phú Thọ, Yên Bái vẫn bị quân ta bao vây trong các thị xã. Toán nào nống ra ngoài là bị tiêu diệt. Bọn Việt quốc từ Thanh Hóa vào Vinh lén lút trong các trụ sở bí mật đều bị tóm gọn… Lực lượng phản động ở một số nơi khác (như Đại Việt và Việt quốc ở Chiêm Hóa - Tuyên Quang, Nga Mi - Hòa Bình, Di Linh - Thanh Hóa), các ổ phỉ ở Hà Quảng, Trùng Khánh - Cao Bằng, Pò Mã - Lạng Sơn, đều đã bị tiêu diệt.

Từ giữa tháng 2, quân ta đã chiến đấu ngăn chặn quân Pháp từ Hoa Nam về vùng Luân Châu, Tuần Giáo. Địch không tiến được về Sơn La, mặc dù lúc này lực lượng của chúng ở Tây Bắc đã lên tới 3.000 tên. Các tướng lĩnh Pháp buộc phải thương lượng để quân Pháp được phép tiến về miền xuôi. Theo chỉ thị của trên, Trưởng phòng Tác chiến Nguyễn Văn Nấp đã lên tây Bắc, nhân danh Bộ Tổng tham mưu, giải quyết việc này. Số quân Pháp trên đây là một bộ phận của 15.000 quân được đưa về miền Bắc theo Hiệp định 6-3.

Tình hình hướng tây Khu 4 có khác. Ngay từ hồi tháng 9, tháng 10, tức chỉ một tháng sau Tổng khởi nghĩa, quân Pháp âm mưu vượt bên giới trên các trục đường 7, 8 và 12 hòng vào phía tây Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình. Chúng đã bị chặn lại và chiến sự đang diễn ra ở Mường Xén (đường 7), Napê (đường 8) và Banaphào (đường 12). Ta không đủ sức tiêu diệt các vị trí địch và địch cũng không vượt qua được các chốt của ta để sang bên này biên giới.

Tổng Tham mưu trưởng chỉ thị Phòng Tác chiến hướng dẫn các đơn vị ở vùng Đông Bắc sẵn sàng đối phó với bọn Pháp đổ bộ lên vùng Quảng Yên, Hải Ninh nếu chưa được sự nhất trí của hai bên hoặc chúng vi phạm những điều hai bên đã thỏa thuận.


(1) Anh Thao, cùng với các anh Phạm Thanh Hà, Lê Văn Túc, Nguyễn Hữu Ngân, là những người đầu tiên đặt nền móng cho ngành bản đồ quân sự Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Chín, 2012, 08:36:46 am
Chừng cuối trung tuần tháng 3, quân Pháp sẽ từ Hải Phòng tiến lên Hà Nội, rồi tỏa đi các nơi xung yếu, trước hết là các thành phố lớn và dọc các trục giao thông chiến lược. Khi đó, có thể đã có, cũng có thể chưa có hiệp định quân sự quy định cụ thể việc đóng quân của Pháp. Phòng Tác chiến cần liên hệ với Phòng Tình báo và sơ đồ các khu vực đóng quân của chúng, chung cả miền Bắc và riêng ở các thành phố lớn và các thị xã quan trọng, nhất là các thị xã biên giới. Từ các sơ đồ đó, sẽ rút ra kết luận về thế bố trí xen kẽ giữa ta và địch(1). Từ tình hình tổng quát đó, kế hoạch tác chiến chung và trên từng địa bàn nên chú ý vấn đề gì? Cần dự kiến địch sẽ tăng viện, ít có khả năng lớn, nhưng nhỏ giọt từng bước. Phòng Tác chiến cùng Phòng Tình báo tìm hiểu trang bị của quân Pháp, nhất là những trang bị lớn để có phương hướng nghiên cứu biện pháp tác chiến phù hợp, có thể vận dụng nếu nổ ra chiến sự. Cần bàn với các đồng chí Tòng và Ngân ở bộ phận đồ bản sưu tầm và sao vẽ thêm bản đồ tỷ lệ 1/100.000, 1/25.000 và cả bản đồ đường sá 1/400.000. Việc này cần được tiến hành khẩn trương, trước hết là bản đồ vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ.

Hồi đó, tất cả các phòng đều chưa nhận thức đầy đủ về vị trí trung tâm hợp đồng là cơ quan tác chiến trong Bộ Tổng tham mưu. Như sau này, anh Thao và các anh trong Phòng Tác chiến nhớ lại, trong cuộc họp với phòng sau khi có hiệp định, đồng chí Tổng Tham mưu trưởng đã nói lên vị trí trung tâm đó. Đại ý đồng chí nói:

- Trước tình hình mới, Phòng Tác chiến nên chủ động trao đổi ý kiến với các phòng ban, đề xuất những vấn đề cùng nhau nghiên cứu giải quyết, tạo nên sự hợp đồng nhịp nhàng thường xuyên mà không cần phải đợi đến những cuộc họp chung, như vậy mới kịp thời đáp ứng tình hình nhiều khi rất khẩn trương.

Từ cuối năm 1945, toàn quốc đã dần dần chia thành các chiến khu, lần lượt được hình thành từ Bắc vào Nam. Phòng Thông tin liên lạc đã có nhiều cố gắng mới tạm đủ người, đủ máy để các địa phương, nhất là từ Khu 4 trở ra, bảo đảm liên lạc được về Bộ bằng ba phương tiện: vô tuyến, điện thoại và liên lạc chạy đường bộ. Đến đầu năm 1946, điện thoại vẫn phải qua hệ thống đường dây bưu điện. Tình hình mới đòi hỏi thông tin liên lạc cần vươn sâu hơn xuống các địa phương, nhất là các trung đoàn ở những vị trí xung yếu.

Làm việc với Tổng Tham mưu trưởng, bác Hoàng Đạo Thúy báo cáo rằng sau khi thành lập Khu 5 và Khu 6 (cả Nam Trung Bộ và Tây Nguyên), Phân phòng Thông tin liên lạc của Ủy ban kháng chiến miền Nam giải tán để mỗi khu có khoa thông tin, với tổ vô tuyến, tổ điện thoại và đội liên lạc. Khu 5 được giao nhiệm vụ thành lập một trạm giữa (trạm trung chuyển), bảo đảm chắc chắn đường liên lạc vô tuyến Bắc - Nam). Điện thoại dọc đường xe lửa đã được ngành bưu điện hợp lực củng cố. Một đội liên lạc chạy bộ hàng trăm người, do Ủy ban kháng chiến Nam Trung Bộ trực tiếp chỉ đạo, phụ trách chuyển tiếp trên chặng đường từ Thừa Thiên đến Bà Rịa, bảo đảm trục liên lạc đường bộ từ miền Trung vào Nam Bộ.

Tổng Tham mưu trưởng bàn với bác Thúy về việc nghiên cứu thành lập ở miền Bắc, trước hết là Khu 4 trở ra, một đội “liên lạc đặc biệt” có mang thẻ bài “hỏa tốc” để đáp ứng yêu cầu chuyển mệnh lệnh khẩn đến các chiến khu, đề phòng đường điện thoại gặp khó khăn vì còn phụ thuộc vào bưu điện trong khi máy vô tuyến quá cũ dễ bị trục trặc. Để đảm bảo liên lạc giữa Trung ương với các phái đoàn đàm phán, giữa anh Lê Thiết Hùng - chỉ huy Quân tiếp phòng Việt Nam - với các đơn vị tiếp phòng ở các địa phương, cần lập thêm các bảng mật mã riêng, cùng với nhân viên mật mã đi theo các máy. Việc này cần được thảo luận thêm với bộ phận mật mã. Các anh Hoàng Đồng và Hồ Tôn Vinh được chỉ định thay anh Tạ Quang Đệ phụ trách Ban Mật mã, anh Đồng về chuyên môn, anh Vinh về chính trị. Anh Đạm chuẩn bị bàn giao để tham gia Ủy ban liên kiểm, hướng dẫn quân Pháp vào tiếp phòng quân Tưởng ở Đà Nẵng.

Trong buổi làm việc đó, anh Thái cho biết: theo thông báo của trên, việc bác Thúy sắp rời Bộ Tổng tham mưu đã trở thành sự thật. Việc đào tạo cán bộ quân sự là một trong những công việc rất cấp bách trong lúc này. Trường cán bộ Việt Nam đã mở nhiều khóa bổ túc ngắn ngày. Cả khu và trung đoàn đều có trường quân chính. Nhưng trước yêu cầu của tình hình, trên thấy cần mở trường võ bị, đào tạo cán bộ trung đội, đại đội có trình độ cao hơn, toàn diện hơn. Trên đã chỉ định bác Hoàng Đạo Thúy và anh Trần Tử Bình phụ trách trường này, ngay từ khóa đầu, dự kiến khai giảng vào tháng 4 hay tháng 5 tới, khi mọi việc đã chuẩn bị xong. Công việc Phòng Thông tin liên lạc giao lại cho các anh Nguyễn Văn Tình và Vũ Hán Thăng.

Bác Thúy hỏi:

- Sao các anh không để tôi tiếp tục làm thông tin? Tôi thấy công việc này rất hợp với tôi.

- Đành thế, bác Thúy ạ, anh Thái trả lòi. Nhưng tổ chức một trường võ bị là một công việc lớn, vừa quan trọng vừa cấp bách. Công việc thông tin đã có người thay bác quán xuyến, chứ việc chỉ đạo một trường quân sự chính quy rất cần một người hiểu biết về thanh niên và có kiến thức về sự phạm như bác. Anh Phan Phác ở Cục Quân huấn bên Bộ Quốc phòng đang nghiên cứu đề án tổ chức trường để đề đạt lên trên. Khi nào tiện, đề nghị bác gặp anh Phác và anh Bình để trao đổi ý kiến, coi như đã chính thức được thông báo về nhiệm vụ mới…

Tổng Tham mưu trưởng còn nói thêm một công việc khác của ngành thông tin quân sự. Đó là việc chuẩn bị người, sẵn sàng cùng phái đoàn của Chính phủ lên nghiên cứu, chuẩn bị căn cứ, đề phòng trường hợp nổ ra chiến tranh. Việt Bắc sẽ là trung tâm lãnh đạo kháng chiến của cả nước…

Bác Thúy không hỏi gì thêm về việc thay đổi công tác. Sau này kể lại, bác nói:

- Mình nghĩ không nên và không thể từ chối, vì Đoàn thể đã giao việc thì chắc là cần…

Một suy nghĩ nhẹ nhàng của một người gương mẫu về tinh thần phục tùng sự phân công của tổ chức. Suy nghĩ ấy hướng bác Thúy vào cả hai việc trước mắt hàng loạt công tác mà Phòng Thông tin sắp triển khai gấp và tiếp đến là công việc cần dự kiến đối với trường võ bị. Điều bác Thúy quan tâm là làm sao cho các anh Tình và Thăng không bỡ ngỡ, thông tin vẫn bảo đảm thông suốt trước tình hình có thể trở nên phức tạp trong quá trình thực hiện Hiệp định sơ bộ 6-3.


(1) “ta” ở đây là bao gồm cả 10.000 Vệ quốc đoàn nhân danh quân tiếp phòng Việt Nam và bộ đội Vệ quốc đoàn (không phải là quân tiếp phòng).


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Chín, 2012, 08:37:13 am
III

Ba ngày sau khi bản hiệp định về quân sự được ký kết giữa ta và Pháp, anh Văn đến thăm cơ quan vào một chiều cuối tuần. Anh đến không thông báo trước, đúng vào lúc Tổng Tham mưu trưởng và các cán bộ phụ trách đang trao đổi tình hình trong tuần. Vừa bắt tay mọi người, anh vui vẻ nói:

- Mình đến thăm để xem tham mưu sẵn sàng chiến đấu đến đâu rồi…

Cán bộ chủ chốt trong cơ quan tham mưu đều biết rằng trong tháng qua anh rất bận, trong đó có những cuộc tiếp xúc rất găng với các tướng lĩnh Pháp. Đến nay, thêm một hiệp định quân sự đã được hai bên ký kết để thi hành các điều khoản về quân sự của Hiệp định sơ bộ.

Sau khi nghe báo cáo những việc đã làm và những dự kiến công tác sắp tới, anh Văn nói tóm tắt để mọi người nắm được những vấn đề mấu chốt về tình hình một tháng qua kể từ ngày ký Hiệp định sơ bộ và những nội dung mà tham mưu cần nắm vững trong bản hiệp định quân sự vừa được ký kết. Sau khi nghe báo cáo rằng nhiều anh em đã đi dự cuộc mít tinh chiều ngày 7-3 ở Nhà hát lớn thành phố và được nghe anh Thái nói về cuộc gặp gỡ của Bác Hồ với cán bộ tự vệ thành, mới đây lại được nghiên cứu Chỉ thị ngày 9-3 của Thường vụ Trung ương (Chỉ thị Hòa để tiến), anh Văn tỏ ra hài lòng:

- Đúng, phải nắm vững đường lối, chủ trương của Đảng thế thì hành động mới đúng đắn, kịp thời…

Sau đó anh Văn nói rõ thêm về tình hình.

Chúng ta cần nhận thức vì sao Pháp phải ký hiệp định, vì sao trước mắt Pháp phải tìm một giải pháp mới với chúng ta. Nhưng mặt khác, cần kể đế những khó khăn của bản thân chủ nghĩa đế quốc Pháp, cả ở trên đất Pháp, cả ở Đông Dương và trên những vùng còn bị coi là “thuộc địa” của chúng. Tuy đứng trước không ít khó khăn, Pháp vẫn chưa chịu công nhận nền độc lập của ta. Trong Chỉ thị ngày 25-11-1945 (Chỉ thị Kháng chiến - kiến quốc) thường vụ Trung ương đã xác định kẻ thù chính là thực dân Pháp xâm lược. Nay Hiệp định sơ bộ đã ra đời, về sách lược, chúng ta xác định kẻ thù cụ thể lúc này cần chĩa mũi nhọn vào là bọn phản động Pháp. Chúng đang phá hoại sự thống nhất của Việt Nam, ngăn cản cuộc đấu tranh giành độc lập hoàn toàn của nhân dân ta, ngăn cản việc thi hành Hiệp định sơ bộ. Vì vậy, trên mặt trận quân sự, ta càng phải giữ vững và bồi dưỡng lực lượng, sẵn sàng đề phòng mọi bất trắc. Những việc đã làm và sắp làm của tham mưu như vậy là đúng hướng và cần đề phòng một cách thiết thực khả năng thực dân Pháp bội ước. Thực tế một tháng qua chứng tỏ dự kiến của Đoàn thể là đúng đắn. Tổng hợp tình hình một tháng qua, chúng ta thấy gì? Trước hết, thái độ của Pari thế nào? Ngày 9-3, Phêlích Goanh (Félix Gouin, một thủ tướng đảng viên Đảng Xã hội mới lên thay Đờ Gôn từ đầu năm 1946 - T.G) đã thay mặt Chính phủ Pháp phê chuẩn Hiệp định sơ bộ, nhưng chỉ 5 ngày sau, Mariuyt Mutê (Marius Moutet - Bộ trưởng Pháp quốc hải ngoại, cũng là đảng viên Đảng Xã hội - T.G) đã lộ rõ ý đồ tiếp tục tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam. Điều đó cho thấy, chúng ta không nên trông chờ gì ở những người gọi là đảng viên Đảng Xã hội đang nắm giữ quyền hành ở Pari. Còn ở Việt Nam thì sao? Quân Pháp vội vã đổ quân lên Hải Phòng ngày 7, một ngày sau khi ký Hiệp định sơ bộ. Phía Pháp thúc bách Tưởng ký hiệp định quân sự Trùng Khánh ngày 13, rồi vội vã đưa quân lên Hà Nội ngày 18. Nhiều người đại diện của Pháp ở đây, từ Lơcle đến Xanhtơny luôn nói đến hợp tác thân thiện (Philíp Lơcle - lúc này là đại diện chính trị của Pari ở Hà Nội - T.G). Tờ báo Pháp xuất bản ở đây cũng lấy tên là Hòa hợp (Entente), nhưng trên thực tế hoạt động của quân đội Pháp thế nào? Cuộc thảo luận về thể thức thực hiện đình chiến tại Nam Bộ diễn ra rất găng trong nhiều phiên họp. Ta đòi cử Ủy ban đình chiến vào Nam bộ để thi hành điều khoản III của Hiệp định sơ bộ, nhưng phía Pháp viện lý do để lần tránh. Cuộc thảo luận do đó không đạt được kết quả. Ở Nam Bộ, máy bay Pháp rải truyền đơn đòi quân đội Việt Nam phải nộp vũ khí. Quân Pháp đánh úp nhiều vị trí của ta ở trong Nam. Tiếng súng tiếp tục nổ ở Nam Bộ. Trong các lần gặp gỡ, ta đã kịch liệt phản kháng những cuộc tiến công trái phép đó của quân đội Pháp. Còn ở ngoài Bắc, vừa đổ bộ lên Hải Phòng, chúng đã tự ý di chuyển quân đội mà không được sự thỏa thuận của ta. Ở Hà Nội, chỉ 10 ngày sau khi quân lên đây, đã xảy ra vụ chiếm Sở Tài chính của ta. Phía Pháp chỉ trao trả khi vấp phải sự phản kháng kiên quyết, nhất là thái độ phẫn nộ bất hợp tác của nhân dân Thủ đô. Tất cả những sự kiện đó đòi hỏi chúng ta phải hết sức cảnh giác trước lời nói và việc làm của Pháp.

Ra ngoài Bắc, trước thái độ của nhân dân từ chỗ lạnh nhạt đế chỗ quyết liệt, đã khiến tổng chỉ huy Pháp Lơcle không khỏi suy nghĩ.

Sau này nhiều người đều biết, trong hồi ký, Đại tướng Võ Nguyên Giáp kể lại: một lần viên tướng Pháp này ngỏ ý muốn biết thái độ của dân chúng Việt Nam đối với người Pháp. Anh Văn hỏi lại y:

- Chúng ta đều là quân nhân, ông có muốn nghe nói thẳng không?

- D’accord (đồng ý), hắn đáp.

- Các ông miệng nói hòa bình, nhưng hành động của các ông thì lại giống như hành động của những kẻ đi xâm lược. Đó là dư luận của dân chúng Việt Nam đối với các ông…

Được biết thêm, trong buổi đầu tiên gặp viên tướng Pháp này ở Hải Phòng, hay ngày sau khi ký Hiệp định sơ bộ, anh Văn đã nói với y những điều cần nói. Nghe viên tướng Pháp này tự khen rằng mình là người yêu nước Pháp, anh Văn đã trả lời y thẳng thắn: Tôi nghĩ rằng, những người yêu nước chân chính thì bao giờ cũng biết tôn trọng lòng yêu nước của những người khác. Nghe đến đây, viên tướng viễn chinh nói lảng sang chuyện khác…

Từ buổi gặp gỡ đầu tiên, tiếp đó đến khi bản Hiệp định quân sự tạm thời được ký kết, phải trải qua gần một tháng. Báo chí đã đăng nội dung hiệp định, nói lên sự thỏa thuận giữa hai bên về số lượng, loại quân và địa điểm đóng quân của hai lực lượng tiếp phòng Việt - Pháp…


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Chín, 2012, 08:37:39 am
Sau khi chính thức thông báo nội dung Hiệp định quân sự ngày 3-4 vừa qua, anh Văn nhấn mạnh để Bộ Tổng tham mưu cần chú ý những điểm gì đã được hai bên thỏa thuận trong hiệp định.

Một là, binh lính Pháp làm nhiệm vụ tiếp phòng phải là người Pháp. Những binh lính không phải là người Pháp chính cống chỉ được dùng vào việc canh gác tù binh Nhật. Cần chú ý điều này do ta đưa ra nhằm gạt bọn lê dương ra ngoài quân tiếp phòng.

Hai là, bộ đội Việt Nam làm nhiệm vụ tiếp phòng là một bộ phận của quân đội Việt Nam. Quân tiếp phòng Việt Nam có bộ tư lệnh của mình, trực tiếp nhận mệnh lệnh của Bộ Tổng tham mưu quân đội Việt Nam và do Bộ Tổng tham mưu Việt Nam quản lý.

Ba là, phân biệt những nơi có quân đội hai bên cùng làm nhiệm vụ tiếp phòng quân Tưởng (như Hà Nội, Hải Dương, Nam Định, Vinh, Huế, Đà Nẵng…) với những nơi quân Pháp chỉ tiếp phòng quân Tưởng về danh nghĩa rồi trao trả lại cho quân tiếp phòng Việt Nam (như Phủ Lý, Thái Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa, Đồng Hới, Đông Hà…).

Bốn là, quân tiếp phòng Pháp chỉ đến đóng các vị trí ở biên giới (như Móng Cái, Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai, Lai Châu) sau khi hai bên đã thỏa thuận vào một thời gian thích hợp.

Năm là, kế hoạch di chuyển của các đơn vị tiếp phòng Việt Nam và Pháp phải do Bộ Tư lệnh tiếp phòng hai bên thảo luận và quyết định thống nhất. Kế hoạch này phải được trình Chính phủ Việt Nam ít nhất 48 giờ trước khi thi hành. Các xe nhà binh dùng vào việc tiếp tế cho quân tiếp phòng chỉ được đem theo nhiều nhất mỗi xe 4 người có vũ khí; tổng số số người mang vũ khí trong một đoàn xe không được quá con số 60.

Sáu là, một Ủy ban liên lạc và kiểm soát trung ương Việt - Pháp (Ban Liên kiểm trung ương) được thành lập ở Hà Nội để kiểm soát việc thi hành hiệp định. Nếu cần sẽ thành lập những ủy ban tương tự tại địa phương.

Với bản Hiệp định sơ bộ, Pháp đã hiểu rõ Việt Nam không còn là một thuộc địa của chúng. Pháp Pháp không thể muốn làm gì thì làm hòng duy trì các quyền lợi của chúng ở Đông Dương như trước đây. Nhưng chấp hành chủ trương của bọn phản động Pháp, Đô đốc Đácgiăngliơ (Thierry d’Argenlieu) sẽ tìm cách phá hoại việc thi hành Hiệp định, trước hết về vấn đề Nam Bộ (đòi đặt dưới chế độ tự trị, lập chính quyền tay sai, v.v.) và lấn dần ở miền Bắc. Tất cả đều nhằm đặt chúng ta tước những sự việc đã rồi. Bởi vậy, đi đôi với đấu tranh ngoại giao buộc phía Pháp phải nhanh chóng mở cuộc đàm phán chính thức, quân ta, trước hết là cơ quan tham mưu và bộ đội ở những nơi đóng quân xen kẽ với Pháp, phải hết sức tỉnh táo, cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu. Hãy luôn nhớ lời dạy của Bác Hồ khi Người gặp cán bộ tự vệ thành ngày 8-3 vừa qua.

Sau đó anh Văn nói về quân đội Tưởng và tay sai.

Phải sau một tuần Hiệp định sơ bộ được ký kết, Tưởng Giới Thạch mới thuận cho Pháp vào thay thế quân Trung Hoa dân quốc làm nhiệm vụ tiếp phòng ở Bắc Đông Dương. Bản hiệp định được ký ngày 13-3 ở Trùng Khánh quy định quân Tưởng bắt đầu rút từ ngày 15 và kết thúc ngày 31-3-1946. Như vậy là về mặt pháp lý, quân Tưởng không còn có cớ gì tiếp tục ở lại. Mặt khác, với bản Hiệp định sơ bộ, tuy Tưởng chưa chịu công khai thừa nhận ta, nhưng chúng buộc phải coi ta là một nước có chủ quyền. Chúng không thể can thiệp vào công việc trị an của ta như trước ngày 6-3. Nhưng chúng ta phải đề phòng âm mưu của chúng muốn kéo dài thời gian có mặt ở miền Bắc nước ta đề vơ vét thêm về kinh tế trước khi buộc phải cuốn gói ra đi. Thái độ của chúng ta đối xử với bọn Tưởng lúc này cần hết sức khéo léo, lợi dụng mâu thuẫn tại chỗ giữa Pháp và Tưởng để đẩy quân Tưởng đi cho nhanh, đồng thời đòi Pháp phải thực hiện nghiêm chỉnh những điều đã cam kết.

Nói đến Tưởng, phải nói đến bọn tay sai của chúng. Do sự khôn khéo của Bác, Vũ Hồng Khanh buộc phải ký vào bản Hiệp định sơ bộ, nhưng ngay sau đó, đi đôi với luận điệu xuyên tạc bản hiệp định, chúng tìm cách gây ra những vụ khiêu khích, tạo điều kiện cho thực dân Pháp kiếm cớ can thiệp hoặc xóa bỏ những điều đã ký kết. Mười ngày sau Hiệp định sơ bộ, cả Việt quốc và Việt cách đã buộc phải cùng ta ra bản Thông lệnh về việc thống nhất hành chính và thống nhất quân đội. Họ buộc phải hứa thành thật hợp tác, không công kích bắt bớ lẫn nhau, không dọa nạt dân, được tự do tuyên truyền trong vòng pháp luật và phải tuyệt đối tuân theo mệnh lệnh của Chính phủ. Nhưng thông lệnh vừa được công bố trên báo chí thì bọn chúng đã kéo ra đường phố, hò hét những khẩu hiệu phản đối và xuyên tạc hiệp định. Bọn tay sai của Tưởng sẵn sàng thay thầy đổi chủ, nhất là bọn thân Pháp trước đây. Chúng sẵn sàng tiếp tay cho Pháp tiến hành một cuộc đảo chính lật đổ chính quyền cách mạng.

Cần hiểu rằng với bản hiệp định ra đời, Việt quốc, Việt cách và các lực lượng tay sai khác của Tưởng rất hoang mang trước nguy cơ bị bỏ rơi khi quân Tưởng rút đi. Chúng ta phải nhân cơ hội đó tìm cách phân hóa chúng, lôi kéo những người lầm đường về với nhân dân. Khi cần thiết và thời cơ thuận lợi, cần kiên quyết trừng trị bọn cầm đầu, những tên có thể câu kết với Pháp, chống lại nhân dân.

Quân Pháp đã đến, quân Tưởng chưa rút. Trước mắt, trên miền Bắc và nhất là ở Hà Nội, quân đội ngoại quốc đông hơn nhiều so với hồi Cách mạng Tháng Tám. Nhưng với Hiệp định sơ bộ, tình hình lúc này đã khác. Sự có mặt của quân Pháp có thể làm cho tình hình găng hơn nhưng không khí lại dễ thở hơn hồi tháng 8, tháng 9-1945. Hồi đó, để tránh va chạm với quân Tưởng, quân đội ta tạm dãn ra vùng xung quanh các thành phố có quân Tưởng đóng. Nếu có đơn vị nào canh gác các công sở trong thành phố thì cũng được lệnh tạm rút lui vào trong hàng rào để tránh bị khiêu khích. Giờ đây, ngoài lực lượng tự vệ thành có mặt ở khắp nơi, từng đơn vị Vệ quốc đoàn với đầy đủ trang bị có thể hiên ngang đi trên đường phố. Ngoài các trạm gác của quân Tưởng, đã xuất hiện nhiều tram gác của bộ đội ta và những trạm hỗn hợp. Vệ quốc đoàn cùng gác với lính Pháp. Rõ ràng là tình hình đã khác với hồi quân Tưởng mới kéo vào. Cuộc duyệt binh chung giữa ta và Pháp sau khi quân Pháp vào Hà Nội cũng nói lên điều đó. Từ tình hình đã thay đổi trên đây, tham mưu cần chú ý một điều, quân Pháp và quân Tưởng trước mắt còn tạm thời cùng tồn tại, nhưng do mâu thuẫn giữa chúng với nhau, lại do hành động ngang ngược của quân đội Pháp vi phạm hiệp định, do âm mưu và thủ đoạn của bọn chống đối núp dưới bóng quân Tưởng để tiếp tục khiêu khích, cho nên những cuộc va chạm giữa ba lực lượng có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Chúng ta phải kịp thời phát hiện và ngăn chặn, trên nguyên tắc bảo vệ hiệp định, bảo vệ chủ quyền, không để cả quân Pháp và quân Tưởng lợi dụng những cuộc va chạm mà mở rộng khiêu khích, gây thêm khó khăn cho công việc đấu tranh ngoại giao đang diễn ra.

Có nhiều dấu hiệu cho thấy các cuộc thương thuyết tiếp theo sẽ rất khó khăn, phức tạp; do thái độ ngoan cố của phía Pháp, nhất là của viên Đô đốc Đácgiăngliơ. Họ cố tình trì hoãn cuộc đàm phán chính thức trong khi chúng ta mong muốn cuộc đàm phán đó diễn ra càng sớm càng tốt, nhất là diễn ra ở Pari. Cuộc gặp gỡ giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đácgiăngliơ hạ thuần tháng trước đã đi đến thỏa thuận mở cuộc đàm phán trù bị ở Đà Lạt. Tham mưu cần chuẩn bị người và các văn kiện cần thiết cùng phương tiện thông tin liên lạc để phục vụ phái đoàn ta trong cuộc đàm phán trù bị này.

Anh em đặt ra những câu hỏi để được giải đáp về thái độ trong quan hệ với quân Pháp, mỗi khi xảy ra xung đột, va chạm. Anh Văn nhắc chung mọi người cần nắm vững nguyên tắc bảo vệ chủ quyền, bảo vệ Hiệp định sơ bộ và hiệp định tham mưu đã được ký kết. Nhưng trong thái độ và biện pháp, cần mềm mỏng, biết tự kiềm chế, phải chủ động, sáng suốt, không để bị lôi cuốn vào những mưu đồ khiêu khích của chúng, dù là Pháp, Tưởng hay bọn tay sai.

Trước khi ra về, anh cười vui, dặn anh em:

- Chúng ta cần đẩy nhanh quân Tưởng đi càng sớm càng tốt. Nhưng tham mưu là phải làm sao kiếm thêm được súng của chúng, càng nhiều càng tốt. Chúng đang tranh thủ bán trước khi rút đi. Việc này anh Thái cần gặp và xin ý kiến của anh Vũ Anh.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Chín, 2012, 10:43:00 am
IV

Một số cán bộ tham mưu được cử đi tham gia công tác của Ủy ban Liên kiểm quân sự Việt - Pháp. Khoảng giữa tháng 4, trước ngày lên đường, anh em họp mặt tại trụ sở Bộ Tổng tham mưu. Cuộc họp do các đồng chí Hoàng Hữu Nam, Thứ trưởng Bộ Nội vụ và Hoàng Văn Thái, Tổng Tham mưu trưởng, chủ trì. Cùng dự họp còn có các đồng chí Cao Xuân Hổ, Trưởng ban Liên kiểm trung ương của Việt Nam, Phan Mỹ, Tổng Thư ký và Phan Phác, sĩ quan liên lạc giữa hai bên Việt - Pháp. Ngoài mấy đồng chí hoạt động trong Ủy ban Liên kiểm trung ương ở Hà Nội, hầu hết các đồng chí khác đều được phân công về phụ trách Liên kiểm ở một số thành phố hoặc dẫn quân Pháp về tiếp phòng quân Tưởng ở những nơi không có quân tiếp phòng Việt Nam.

Điểm mặt các sĩ quan Liên kiểm có mặt trong cuộc họp này, cho thấy đúng là mỗi người mỗi vẻ. Nếu có những anh điềm đạm, ít nói, như Trần Văn Lư, Tạ Quang Đạm, thì cũng có những anh rất sôi nổi, như Trương Cao Phong, một người có tác phong khiến trong giao thiệp sau này, bọn sĩ quan Pháp rất “ớn”. Anh được giao nhiệm vụ ở một địa bàn đầu sóng ngọn gió: cảng Hải Phòng.

Mở đầu cuộc họp, anh Hoàng Hữu Nam nói về tình hình chung lúc này, về sách lược hòa hoãn với Pháp, về dự kiến hai khả năng thi hành Hiệp định sơ bộ. Anh Phan Mỹ giới thiệu những kinh nghiệm đầu tiên trong quan hệ với Pháp mà anh đã rút ra từ những cuộc gặp gỡ vừa qua ở Hải Phòng trong những ngày sau Hiệp định sơ bộ. Cuối cùng, anh nói:

- Thái độ của họ tùy thuộc vào việc tiếp xúc với đối tượng nào, về loại công việc nào. Họ thường nhấn mạnh “danh dự quân đội Pháp” để bào chữa cho những hành động ngang trái của mình. Có người tỏ ra mềm mỏng, cũng có người khá lỗ mãng, nhưng nhìn chung thái độ của họ là ngoan cố. Họ chỉ tỏ ra “biết điều” sau khi bị ta nắm trúng những chỗ yếu cơ bản của họ là những hành động mang tính chất xâm lược phi nghĩa lỗi thời.

Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái nói về tổ chức 10.000 quân tiếp phòng của ta. Người được Đoàn thể trao nhiệm vụ chỉ huy lực lượng này là đồng chí Lê Văn Sửu, Khu trưởng Khu 4, mới được phong hàm thiếu tướng, tên công khai lúc này là Lê Thiết Hùng. Về hình thức tổ chức, quân tiếp phòng gồm hai đại đoàn: Đại đoàn 1 do Đại tá Lê Quảng Ba, Khu trưởng Khu Hà Nội chỉ huy, có nhiệm vụ tiếp phòng quân Tưởng từ Nam Định trở ra; Đại đoàn 2 do Đại tá Hoàng Điền, Khu phó Khu 4 chỉ huy - Trụ sở Cục Tổng chỉ huy quân tiếp phòng đặt ở 18 Nguyễn Du, bên cạnh Bộ Tổng tham mưu.

Về hoạt động của Ủy ban Liên kiểm, các sĩ quan Liên kiểm đều phải nắm vững một nhiệm vụ quan trọng là giúp trên nắm và đánh giá tình hình, phục vụ cho việc chỉ đạo, chỉ huy. Bởi vậy, mọi báo cáo đều phải gửi về Ban Liên kiểm trung ương, Cục Tổng chỉ huy quân tiếp phòng và Bộ Tổng tham mưu. Định kỳ hoặc bất thường, Tổng Tham mưu trưởng sẽ triệu tập những đồng chí hoạt động trên địa bàn nào đó về báo cáo và nhận thêm nhiệm vụ đột xuất, nhất là những nơi dễ trở nên sôi động, phức tạp. Trong quan hệ, cần vận dụng nguyên tắc mà trên đã chỉ thị: phải kiên quyết trong đấu tranh thi hành các điều khoản trong Hiệp định sơ bộ và Hiệp nhị tham mưu, nhưng lại cần có biện pháp mềm mỏng, biết tự kiềm chế, tránh để bị khiêu khích.

Sau cuộc họp dài chừng hai giờ, mọi người về nhận nhiệm vụ cụ thể của Ban Liên kiểm, khẩn trương chuẩn bị bước vào một cuộc đấu tranh mới, phức tạp và chưa mấy ai có kinh nghiệm.

Anh Thái mời anh Cao Phong ở lại để bàn thêm về tình hình Hải Phòng trong một tháng qua.

Anh Cao Phong cho biết, sau khi Hiệp định sơ bộ được ký kiết, ngày 7-3, được sự thỏa thuận của quân Tưởng, quân Pháp vội vã đổ bộ, căng lều dọc bờ sông Cấm. Chúng mang toàn trang bị của quân Mỹ, từ xe bọc thép, đại bác đến quân trang. Đúng đây là Sư đoàn bộ binh thuộc địa thứ 9 (9è RIC), dưới quyền chỉ huy của tướng Vallluy (Etienne Valluy) cùng một trung đoàn xe bọc thép do viên Đại tá Mátxuy (Massu) chỉ huy.

Về lực lượng ta, từ hồi quân Tưởng vào, để tránh va chạm, bộ đội Vệ quốc đoàn được lệnh tạm giãn ra vùng xung quanh. Trong thành phố, chỉ còn lực lượng cảnh sát và tự vệ. Mỗi khu phố có chừng một trung đội đến một đại đội tự vệ, trang bị bằng súng mua hoặc lấy được của quân Nhật và quân Tưởng. Có những đơn vị được trang bị khá mạnh, như tự vệ Khu 7. Sáng ngày 6-3, trong cuộc xung đột của Pháp - Tưởng, kho vũ khí của quân Tưởng bị tàu Pháp bắn cháy, anh em tự vệ đã nhân lúc chúng nhốn nháo, kiếm thêm được khá nhiều súng. Ngoài tự vệ của thành, còn có lực lượng tự vệ của Công nhân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc. Nhiều đồng bào không đứng trong đội ngũ tự vệ cũng sắm súng, lựu đạn…

- Toàn thành có lực lượng tự vệ tập trung không? Tổng Tham mưu trưởng hỏi anh Cao Phong.

- Báo cáo, có một đại đội tự vệ chiến đấu chừng 200 người.

Anh Thái dặn anh Cao Phong quan hệ chặt chẽ với anh Nguyễn Nam, phụ trách tình báo của Hải Phòng, nắm chắc động tĩnh của địch, cả Pháp, Tưởng và tay sai, cả ở Hải Phòng, cả trên hai hướng Đồ Sơn, Kiến An và Núi Đèo, Quảng Yên.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Chín, 2012, 10:43:41 am
Sau khi các phái viên tham mưu - sĩ quan Liên kiểm lên đường, Tổng Tham mưu trưởng tập trung chỉ đạo các phòng đẩy mạnh hoạt động trước yêu cầu của tình hình mới.

Việc bổ túc và đào tạo cán bộ là một trong những công tác được Bộ Tổng tham mưu quan tâm hàng đầu, đúng như chỉ thị của trên.

Tháng 3-1946, Trường Bắc Sơn khai giảng. Đây là một lớp bổ túc quân sự - chính trị ngắn ngày, do Ban chỉ huy Khu 1 tổ chức theo kế hoạch và sự giúp đỡ trực tiếp của Bộ Tổng tham mưu. Học sinh gồm những đảng viên và hội viên cứu quốc do đảng bộ địa phương cử đi.

Hai tháng sau, ngày 26-5-1946, Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn khai giảng tại Sơn Tây. Trường do Bộ Quốc phòng tổ chức theo Nghị định ngày 17-4-1946 của bộ trưởng Phan Anh, cơ quan lãnh đạo của trường gồm những cán bộ do Bộ Tổng tham mưu đề bạt và được Quân ủy Trung ương thông qua. Đây là trường chính quy đầu tiên đào tạo sĩ quan chỉ huy (cấp đại đội) của quân đội ta. Ban Giám đốc gồm các ông Hoàng Đạo Thúy và Trần Tử Bình. Ngoài những cán bộ quân sự của Quân giải phóng như Vương Thừa Vũ, Trương Văn Quyền (Vũ Lập), các giáo viên gồm một số sĩ quan của của quân đội Pháp và một số thanh niên đã tốt nghiệp Trường tiền tuyến ở Huế, tòng quân sau ngày Tổng khởi nghĩa. Trong quá trình học tập, trường được Bác Hồ rất quan tâm. Ngay hôm khai giảng, Bác đến thăm trường và tặng lá cờ thêu 6 chữ vàng trên nền đỏ: Trung với nước - Hiếu với dân. Bác nói với cán bộ và học sinh toàn trường: “Trung với nước - Hiếu với dân là một bổn phận thiêng kiêng, một trách nhiệm nặng nề nhưng cũng là vinh dự của người chiến sĩ trong đạo quân quốc gia đầu tiên của nước ta…”.

Từ đó, Trung với nước - Hiếu với dân trở thành bản chất và truyền thống tốt đẹp của quân đội cách mạng Việt Nam.

Về nhiều mặt như tổ chức nhà trường, chế độ huấn luyện, nội dung huấn luyện… Trường võ bị Trần Quốc Tuấn đã đặt cơ sở đầu tiên cho một trường đào tạo cán bộ chính quy. Nhưng do lúc đó nhiều người chưa hình dung đầy đủ cách đánh trong một cuộc chiến tranh không cân sức, nhất là cách đánh du kích, cho nên lúc đầu chương trình gồm một số nội dung không phù hợp với trình độ của ta, không phù hợp với tình hình năm 1946, khi đất nước đang đứng trước yêu cầu sẵn sàng đối phó với một cuộc chiến tranh xâm lược. Sau khi đi dự Hội nghị Đà Lạt về, đồng chí Võ Nguyên Giáp lên thăm trường, phát hiện tình hình trên, đã góp ý kiến với Cục trưởng cục Quân huấn và ban lãnh đạo nhà trường. Theo anh Phan Phác kể lại, anh Văn đã nói:

- Việc đào tạo cán bộ trong lúc này càng phải thiết thực, nhằm đáp ứng yêu cầu của quân đội đang cùng toàn dân chuẩn bị sẵn sàng bước vào cuộc kháng chiến trong cả nước. Các anh nên nghiên cứu bỏ bớt những nội dung chưa cần thiết lắm. Tình hình sẽ khẩn trương. Nếu cần, phải rút ngắn thời gian huấn luyện…

Nhờ những ý kiến chỉ đạo kịp thời đó, một số bài toán, lý, hóa, một số khoa mục như đi môtô, cưỡi ngựa… không còn để trong chương trình.

Cũng trong dịp này, tháng 6-1946, Ủy ban kháng chiến miền Nam mở Trường Lục quân trung học Quảng Ngãi và mấy tháng sau, Bộ Tổng tham mưu mở liên tiếp 2 lớp bổ túc cho cán bộ trung sơ cấp ở Tông (Sơn Tây).

Nhờ biết coi trọng việc đào tạo và bổ túc cán bộ cơ sở trong suốt quá trình chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến toàn quốc, ta đã có một đội ngũ cán bộ khá đông đảo, nhất là cán bộ cấp trung đội đến tiểu đoàn, để triển khai rộng rãi việc huấn luyện bộ đội và dìu dắt lực lượng vũ trang cấp địa phương. Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, chính đội ngũ cán bộ bước đầu trưởng thành ấy đã trở thành nòng cốt chỉ huy bộ đội chiến đấu trên các chiến trường trong cả nước.

Trong điều kiện quân đội ta mới là những đơn vị bộ binh trang bị còn rất thô sơ, Quân ủy Trung ương đã sớm nghĩ đến việc xây dựng những cơ sở đầu tiên của các đơn vị hỏa lực. Quán triệt tinh thần ấy, ngay từ đầu năm 1946, các đơn vị Vệ quốc đoàn và tự vệ Thủ đô đã nhận được lệnh triệu tập các cựu binh sĩ đã từng ở trong binh chủng pháo binh của Pháp trước đây, tập trung về Bộ để xây dựng khung chỉ huy pháo binh của quân đội quốc gia. Phương châm xây dựng pháo binh cách mạng vẫn là phương châm đã trở thành truyền thống của quân đội ta: Người trước - súng sau, từ nhỏ đến lớn. Một số “cựu pháo thủ” như các anh Phạm Văn Đôn, Doãn Tuế, v.v. được tập hợp lại, cùng một số cán bộ mới tốt nghiệp Trường quân chính Bắc Sơn, đã trở thành những người chỉ huy đầu tiên của binh chủng hỏa lực mặt đất. Đó là về người. Còn súng thì sao? Cần lui lại đôi chút về mặt lịch sử. Trong những năm Chiến tranh thế giới thứ hai, tại Hà Nội, quân Pháp chỉ vẻn vẹn có mấy khẩu cao xạ 75mm đặt ở Láng, Xuân Tảo, Bạch Mai, Yên Phụ, mỗi nơi vài khẩu. Ngày Nhật đảo chính, quân Pháp vội vã vứt một khẩu xuống sông Hồng. Tự vệ Thành Hoàng Diệu đã bí mật xuống sông tháo rời ra và mang đi cất giấu. Số còn lại rơi vào tay quân Nhật. Khi quân Tưởng vào giải giáp, Nhật phải giao lại. Hiệp định sơ bộ được ký kết, bọn Pháp lăm le giành lại các pháo đài này sau khi Tưởng rút quân, nhưng Bộ Tổng tham mưu đã cùng Thành ủy và Ủy ban bảo vệ thành phố Hà Nội có kế hoạch đi trước chúng một bước quyết định. Khoảng trung tuần tháng 6, quân Tưởng vừa rút, tự vệ Hà Nội đã kịp thời vào chiếm các “pháo đài”, tháo các khẩu pháo ra rừng bộ phận và cất giấu đi. Riêng ở Xuân Tảo, quân Pháp đem xe cơ giới đến hòng gây sức ép. Theo kế hoạch đã định sẵn, nhân dân địa phương được huy động rất kịp thời ra vây quanh đoàn xe địch. Đúng lúc đó các sĩ quan Liên kiểm đến, cuộc đấu tranh kéo dài, cuối cùng quân Pháp cùng đoàn xe cơ giới phải rút lui.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Chín, 2012, 10:44:21 am
Với mấy khẩu pháo đầu tiên, trên chấp nhận lời đề nghị của Bộ Tổng tham mưu, cho tổ chức thành ba trung đội pháo, trực thuộc khu Hà Nội.

Ngày 29-6, thêm một sự kiện diễn ra trong lịch sử trưởng thành của Quân đội quốc gia Việt Nam. Binh chủng pháo binh cách mạng Việt Nam ra đời tại trại Vệ quốc đoàn trung ương, 40 Hàng bài, Hà Nội. Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái thay mặt Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, đến dự lễ khai sinh đơn vị hỏa lực mặt đất đầu tiên của quân đội. Sau khi đọc quyết định tổ chức Đoàn pháo binh Thủ đô, đồng chí Tổng Tham mưu trưởng nói chuyện với các cán bộ và chiến sĩ pháo thủ. Đồng chí khẳng định:

Tuy pháo cũ, đạn ít, khí tài trang bị còn thiếu thốn, lực lượng chưa nhiều, cán bộ, chiến sĩ còn rất mới mẻ, nhưng cũng như Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân trước đây, tiền đồ của pháo binh ta rất vẻ vang và rộng lớn…

Trông những chiến sĩ pháo thủ giản dị trong quân phục “soóc” vàng nhạt, đứng trang nghiêm trong hàng ngũ hôm nay, liệu có mấy ai nghĩ rằng chỉ chưa đầy nửa năm sau, những khẩu pháo cũ kỹ dưới sự điều khiển của các anh sẽ nổ những trái phá đầu tiên vào các mục tiêu ở trung tâm Thủ đô Hà Nội. Các anh chính là những người bắn pháo lệnh mở màn cuộc kháng chiến toàn quốc. Rồi một năm sau nữa, những khẩu pháo cũ kỹ ấy lại theo các anh lập chiến công vang dội, đưa những tên đất, tên sông, những Đoan Hùng, Bình Ca, những sông Lô, sông Gâm vào những trang lịch sử trưởng thành và chiến thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Chính các anh là những người đã chứng minh lời tiên đoán hôm nay của Tổng Tham mưu trưởng: tiền đồ binh chủng pháo binh thật vẻ vang và rộng lớn.

Từ mùa hè năm 1946, bộ đội chủ lực được thống nhất một bước quan trọng về mặt tổ chức. Sắc lệnh số 60 (6-5-1946) và số 71 (22-5-1946) là cơ sở thống nhất quân đội từ trung ương đến các đơn vị.

Ngày 6-5-146, Quân sự ủy viên hội (thường được gọi tắt là Quân ủy hội) ra đời, thay thế Kháng chiến ủy viên hội là cơ quan tối cao quân sự đặt thẳng dưới quyền điều khiển của Chính phủ và có nhiệm vụ điều khiển quân đội toàn quốc”. Sắc lệnh số 71 xác định: “Quân đội của nước Việt Nam là một quân đội quốc gia”, đồng thời quy định về tổ chức biên chế (thống nhất từ tiểu đội, trung đoàn, đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn, đại đoàn, sư đoàn, liên đoàn, tập đoàn) của bộ binh, tổ chức biên chế của các đơn vị chuyên môn và hỏa lực trợ chiến; quy định chế độ tuyển binh, cấp bậc, thăng giáng và thuyển chuyển; quy định về quân phong, quân kỷ (kỷ luật), thưởng phạt, nghi lễ quân đội.

Trong nhiều ngày suốt mùa hè, Tổng Tham mưu trưởng cùng các cán bộ phụ trách của phòng Nhân sự, Quân nhu - Kế toán, Tác chiến luôn làm việc với các Cục Chế tạo, Quân nhu, Quân huấn bên Bộ Quốc phòng. Các buổi làm việc không chỉ nhằm thực hiện các sắc lệnh 60 và 71 về mặt tổ chức biên chế mà còn các vấn đề và trang bị và huấn luyện bộ đội. Nhiều cuộc họp mở rộng đến cả các khu trưởng, thường là chỉ từ Khu 4 trở ra. Cùng với việc chỉ đạo đấu tranh với Pháp nhằm thi hành hiệp định, việc chỉ đạo thống nhất xây dựng quân đội về các mặt là một trong những công tác trung tâm hàng đầu của Bộ Tổng Tham mưu trong thời kỳ này.

Sau khi Chính phủ ban hành Sắc lệnh 71, ở các tỉnh từ Khu 4 trở ra, các chi đội dần dần được tổ chức thống nhất, thành 30 trung đoàn. Phiên hiệu các trung đoàn được Bộ Tổng tham mưu quy định thống nhất chính thức. Các chi đội từ Khu 5 trở vào, do tình hình chiến sự tiếp diễn ở nhiều địa phương, nên vẫn tạm thời để như cũ.

Về mặt trang bị, mặc dù các trường kỹ nghệ, các xưởng cơ khí của Pháp trước đây hầu hết được chuyển thành các xưởng quân giới, nhưng khó khăn nổi lên trong việc sản xuất vũ khí lúc này là vấn đề nguyên liệu. Với tinh thần yêu nước nồng nàn, nhân dân đã góp nhiều công sức và của cải vào việc trang bị cho quân đội quốc gia và lực lượng vũ trang địa phương. Nhân dân đã huy động cho các công binh xưởng mọi nguyên liệu có thể thu thập được, từ sắt thép vụn, đường ray, ống chì, ống gang đến đồ thờ bằng đồng. Chính nhờ sự giúp đỡ của nhân dân mà ngoài việc sửa chữa các loại súng trường, tiểu liên, pháo hư hỏng và sản xuất đạn, lựu đạn, ngành quân giới đã bắt đầu nghiên cứu và sản xuất một số vũ khí bấy giờ được coi là “tối tân” như tiểu liên, bom ba càng và bắt đầu nghiên cứu bazôca. Mặc dù chất lượng còn hạn chế nhưng khối lượng vũ khí sửa chữa và sản xuất trong năm 1946 đã nói lên tinh thần khắc phục khó khăn và sáng tạo của công nhân quân giới và các nhà trí thức yêu nước, mà Ngô Gia Khảm và Trần Đại Nghĩa là những con chim đầu đàn.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Chín, 2012, 10:44:50 am
Việc chỉ đạo huấn luyện bộ đội do hai cơ quan (Quân huấn bên Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng tham mưu bên Quân ủy hội) cùng phối hợp điều hành, cả về nội dung và phương thức chỉ đạo thực hiện. Dưới sự chỉ đạo chung của Tham mưu và Quân huấn, các địa phương và đơn vị tiến hành huấn luyện bộ đội theo điều kiện cụ thể của mình, nhất là tùy thuộc vào trình độ kinh nghiệm của các huấn luyện viên. Sau này nhớ lại, anh Phan Phác thừa nhận rằng do chưa có kinh nghiệm chỉ đạo nên chương trình và nội dung huấn luyện của nhiều đơn vị không đồng đều, phương hướng huấn luyện mỗi nơi một khác, nhưng nhìn chung là chưa biết hướng vào yêu cầu tác chiến phù hợp với cách đánh du kích. Tình trạng khá phổ biến là thiên về huấn luyện đội ngũ, thiên về tác chiến trận địa. Do công việc nhiều, trình độ có hạn, không biết phát hiện vấn đề kịp thời, nên tình trạng đó kéo dài. Thiếu sót này là khó tránh khỏi trong bối cảnh lúc đó, khi mà phần lớn cán bộ Cục Quân huấn xuất thân từ lớp sĩ quan dự bị (E.O.R.) của Pháp trong những năm 1939-1940. Cán bộ tham mưu cũng chưa có độ dày kinh nghiệm chỉ đạo huấn luyện, trong khi tình hình ngày càng khẩn trương, lại không biết khắc phục, tạo điều kiện tổ chức một cuộc họp chung với các quân khu, tỉnh để rút kinh nghiệm. Một lý do quan trọng mà sau này trong các cuộc tọa đàm, nhiều đồng chí cán bộ cũ của Bộ Tổng tham mưu còn nhắc đến, đó là về mặt tổ chức chỉ đạo huấn luyện của các cơ quan quân sự trung ương. Bộ Quốc phòng, cụ thể ở đây là Cục Quân huấn, không có quan hệ chỉ đạo các khu. Việc liên hệ giữa Bộ Tổng tham mưu (thuộc Quân ủy hội) với Cục Quân huấn (thuộc Bộ Quốc phòng) chỉ là liên hệ ngang về nghiệp vụ nên không kịp thời và chặt chẽ. Chính với bài học đó mà năm 1948 ta mới hợp lý hóa tổ chức. Cục Quân huấn trở thành một cục trong Bộ Tổng tham mưu phụ trách công tác huấn luyện chiến đấu dưới sự chỉ đạo của thủ trưởng Bộ Tổng tham mưu.

Việc chỉ đạo huấn luyện lực lượng vũ trang địa phương lúc này cũng không tránh khỏi khuyết điểm như chỉ đạo huấn luyện bộ đội chủ lực. Mãi chừng một tháng trước ngày kháng chiến toàn quốc, khi Bộ Quốc phòng và Quân sự ủy viên hội đã thống nhất thành Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy, Cục Quân huấn mới cử cán bộ xuống các đơn vị ở miền Bắc, nhất là vùng xung quanh Thủ đô và dọc đường 5, giúp đỡ đẩy mạnh nhịp độ huấn luyện du kích và tự vệ. Nhưng lúc này, tình hình đã rất khẩn trương. Lực lượng vũ trang bị thu hút vào công việc chuẩn bị toàn diện cho cuộc kháng chiến nên kết quả huấn luyện ở một số địa phương cũng hạn chế.

Đi đôi với việc đẩy mạnh công tác huấn luyện và tăng cường trang bị cho bộ đội và dân quân du kích, tự vệ, yêu cầu nắm địch đặt ra ngày càng gay gắt. Mạng lưới tình báo đòi hỏi rất rộng nhưng số lượng cán bộ có hạn. 25 cán bộ tình báo sau khóa huấn luyện ngắn ngày đầu tiên đã được phân công về các tỉnh và thành phố, nay được điều chỉnh lại, nhằm ưu tiên cho những địa bàn có quân Pháp đóng, trước hết là hai thành phố Hà Nội và Hải Phòng. Đồng chí Bùi Huy Bê đã dành hàng tháng đi hướng dẫn công tác nắm địch cho ban tình báo các tỉnh, từ Ninh Bình, Thanh Hóa đến Huế, Đà Nẵng và Quảng Ngãi…

Sau khi Khu 5 và Khu 6 thống nhất thành Ủy ban kháng chiến miền Nam Trung Bộ, Khoa tình báo ra đời, do Phòng Tham mưu Ủy ban kháng chiến trực tiếp chỉ đạo. Công tác nắm địch từ Khu 7 trở vào do Bộ Chỉ huy Khu điều hành vì khu vực đó vẫn còn nằm ngoài tầm với của Phòng Tình báo Bộ Tổng tham mưu. Một đặc điểm mà cũng là ưu điểm của tổ chức và hoạt động tình báo Nam Bộ là mặc dù mang nhiều tên khác nhau (Ban Trinh sát, Ban Thám phòng…) nhưng mục tiêu hoạt động đều tập trung vào việc phục vụ cho chỉ đạo tác chiến và các mặt hoạt động quân sự khác. Từ mùa hè năm 1946, ở Sài Gòn - Chợ Lớn hình thành một tổ chức mang tên Ban Thông tin, dưới sự chỉ đạo của Bộ Chỉ huy Khu 7. Đây là một tổ chức tình báo “luồn sâu” nắm địch đầu tiên ra đời ở Nam Bộ sau Hiệp định sơ bộ.

Trước yêu cầu nắm địch ngày càng khẩn trương, Phòng Tình báo Bộ Tổng tham mưu mở tiếp hai khóa bồi dưỡng cán bộ vào tháng 6 và tháng 9-1946. Khóa tháng 6 mở ở Hà Nội nhằm bổ túc cho một số cán bộ đầu ngành ở các tỉnh, thành. Khóa tháng 9, mở ở Sơn Tây, với số lượng đông tới 40 người, thời gian tương đối dài (3 tháng), bế mạc trước khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ ít ngày.

Mạng lưới thông tin mở rộng đòi hỏi thêm nhiều nhân viên mật mã đi theo các đài vô tuyến. Phòng Mật mã mở thêm một khóa đào tạo nhân viên kỹ thuật, khai giảng ở Hà Nội vào tháng 7-1946, với sự tham dự của 20 học viên từ Khu 5 trở ra. Sau hơn một tháng được bồi dưỡng những kiến thức về nguyên lý mật mã, phương pháp cơ bản về mật mã và mã thám, các học viên được điều về Ban Mật mã Bộ Tổng tham mưu và các khu, kể cả Khu 5 và Khu 6 để thực tập. Từ đó cho đến ngày toàn quốc kháng chiến, ngành mật mã hình thành trong cả nước và ngày càng đi sâu vào nghiệp vụ. Với tinh thần độc lập sáng tạo, mặc dù nhiều anh chị em mới vào nghề, nhưng lòng yêu nước, yêu nghề, đã giúp cho cán bộ nhân viên mật mã đi sâu vào nghiên cứu, không ngừng làm cho bảng mật mã được cải tiếng và nâng cao, bước đâu bảo đảm bí mật khi bước vào cuộc kháng chiến toàn quốc.

Sau này bác Hoàng Đạo Thúy kể lại một câu chuyện xảy ra vào tháng 4-1946, một câu chuyện nói lên bài học chung về công tác mật mã, bài học về tôn trọng nguyên tắc bảo đảm bí mật chỉ huy.

Chẳng là một tổ thông tin và mật mã được cử đi phục vụ phái đoàn đàm phán của ta ở Đà Lạt. Tổ này do một cán bộ quân sự phụ trách, có nhiệm vụ định kỳ liên lạc với Hà Nội. Cho rằng bản mật mã của ta quá phức tạp, mã dịch mất nhiều thời gian, đồng chí cán bộ quân sự nọ đã tự tiện làm ra một bảng luật đơn sơ bằng hình thức thay chữ (chữ A thay bằng chữ B, chữ B thay bằng chữ C, v.v.). Kết quả là điện bị lộ. May mà đồng chí lãnh đạo phái đoàn phát hiện và ra lệnh chấm dứt ngay hành động tùy tiện đó. Lúc đầu, sự việc ít người biết, kể cả nhân viên mật mã, nhưng sau đó, theo lệnh của Tổng Tham mưu trưởng, việc này được đem ra rút kinh nghiệm làm bài học chung cho toàn ngành, bài học về bệnh ấu trĩ, về không coi trọng tính nguyên tắc. Hành động vô nguyên tắc, dù chỉ do một cá nhân, nhiều khi đem lại hậu quả tai hại không thể lường hết được. Vấn đề càng nghiêm trọng khi xảy ra vào thời điểm ta đang đối mặt với một kẻ thù có nhiều kinh nghiệm đến mức xảo quyệt để moi và tận dụng mọi sơ hở của đối phương nhằm phục vụ cho cuộc đấu tranh đang gay gắt diễn ra cả về quân sự và chính trị, trên chiến trường cũng như trên bàn đàm phán.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Chín, 2012, 10:45:22 am
CHƯƠNG III

TỪ THỜI BÌNH SANG THỜI CHIẾN

I

Những cuộc tiếp xúc đầu tiên giữa đồng chí Võ Nguyên Giáp và tướng Lơcle ngày 8-3 ở Hải Phòng, giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh với Cao ủy Đácgiăngliơ ngày 24-3 ở Vịnh Hạ Lọng cũng như quá trình đàm phán để đi đến bản Hiệp định quân sự ngày 3-4-1946, tất cả cho thấy rất nhiều dấu hiệu thiếu thiện chí của phía Pháp.

Sau này ta được biết, chỉ vài ngày sau khi Hiệp định sơ bộ được ký kết, tại Sài Gòn, những người đại diện của Pháp là Đô đốc - Cao ủy Đácgiăngliơ và Ủy viên Cộng hòa Pháp Xêđin (Cédile) đều nói lên những lời phủ định bản hiệp định. Ngày 8-3, khi Đácgiăngliơ từ Pháp trở lại Sài Gòn thì bản hiệp định đã được ký kết 3 ngày. Viên Cao ủy Pháp nói với tướng Valuy:

- Tôi ngạc nhiên, thực vậy tướng quân ạ, tôi ngạc nhiên là nước Pháp có đội quân viễn chinh tốt mã dường kia mà những người chỉ huy nó (ám chỉ tướng Lơcle) lại thích điều đình hơn là thích đánh.

Mấy ngày sau, trong cuộc họp của Hội đồng tư vấn Nam Kỳ, đến lượt Xêđin nói bừa rằng Hiệp định 6-3 chỉ là một bản hiệp định cục bộ được ký kết giữa nhà cầm quyền Hà Nội với Ủy viên Cộng hòa Pháp ở Bắc Kỳ. Những người đại diện Pháp ở miền Nam còn công khai đòi các đơn vị Nam tiến của ta phải rút về miền Bắc, bộ đội Việt Nam ở Nam Bộ phải tập trung vũ khí nộp cho quân Pháp rồi trở về quê quán.

Đi đôi với những luận điệu ngang ngược đó là những hành động trắng trợ vi phạm hiêp định, nhất là về điều khoản ngừng bắn. Giữa tháng 4, cuộc đàm phán kéo dài 7 ngày giữa phái đoàn ông Hoàng Quốc Việt với đại biểu Pháp (họp ở Nha Trang để thực hiện các điều khoản về ngừng bắn) đã không đạt được kết quả. Tại một vài nơi ở Khu 6, bọn chỉ huy Pháp tìm bắt liên lạc với cán bộ ta, nói là để bàn việc đình chiến rồi bất ngờ đem quân đánh úp.

Vụ vi phạm điển hình đầu tiên của phía Pháp ở Hải Phòng xảy ra ngày 11-4, một tuần sau khi có Hiệp định quân sự Việt - Pháp. Theo báo cáo của các anh Trương Cao Phong (liên kiểm) và Nguyễn Nam (tình báo) gửi về Bộ Tổng tham mưu thì hôm đó quân Pháp ngang nhiên kéo đến chiếm nhiều ngôi nhà của một số cơ quan chính quyền trong thành phố. Mấy ngày sau, chúng lại kéo đến phá trụ sở Đảng Dân chủ đồng thời điều động thêm quân từ Hải Phòng lên Hà Nội mà không báo cho Ủy ban Liên kiểm biết. Cuối tháng 4, xảy ra cuộc tiến công bằng xe tăng, xe bọc thép vào các đơn vị và tự vệ của ta ở các phố Trần Hưng Đạo, phố Ga, đại lộ Hồ Chí Minh… Tự vệ Hải phòng kiên quyết đánh trả. Ty Liên kiểm ở Hải Phòng phải mất nhiều thời gian để buộc Pháp trở về vị trí cũ.

Trước hành động vi phạm của phía Pháp, ta chủ trương tiếp tục các cuộc đàm phán ở cấp cao càng sớm càng tốt, từ đàm phán trù bị ở Đà Lạt đến đàm phán chính thức ở Pari. Đồng chí Võ Nguyên Giáp được Thường vụ Trung ương và Bác Hồ giao nhiệm vụ lãnh đạo phái đoàn đàm phán trù bị ở Đà Lạt. Phái đoàn này do Nguyễn Tường Tam, Bộ trưởng Ngoai giao Chính phủ liên hiệp dẫn đầu.

Để chuẩn bị cho phái đoàn lên đường, trong những ngày đầu trung tuần tháng 4, hầu như hằng ngày Tổng Tham mưu trưởng cũng hội báo tình hình với Chủ tịch Quân sự ủy viên hội Võ Nguyên Giáp. Thế yếu của địch ở miền Nam ngày càng được anh Văn và anh Thái khẳng định qua thực tế diễn biến, nhất là ở Nam Bộ.

Sau khi Sư đoàn 9 và Trung đoàn cơ giới Matxuy ra Bắc, ở trong Nam chỉ còn Sư đoàn bộ binh thuộc địa thứ 3 (3è D.I.C). Lực lượng địch đã ít lại bị phân tán ra cả Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Bộ máy cai trị từ trên xuống dưới mới hình thành còn rất yếu. Mặc dù vậy, quân đội Pháp và chính quyền tay sai vẫn ngoan cố, không những không chịu thi hành những điều khoản về ngừng bắn mà còn liên tiếp vi phạm hiệp định một cách công khai, trắng trợn. Để củng cố và phát triển, đồng bào ta ở nhiều địa phương đã nổi dậy diệt tề trừ gian, bao vây tiêu diệt hoặc bức rút nhiều đồn bót địch, đánh sập từng mảng tề ngụy, lập lại chính quyền cách mạng. Chỉ trong vòng hơn một tháng sau Hiệp định sơ bộ, nhiều vùng rộng lớn ở miền Nam đã thoát khỏi sự kiểm soát của địch. Nhiều đội vũ trang tuyên truyền được thành lập, luồn sâu vào vùng tạm chiếm để cổ vũ nhân dân hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng vững trên vị trí chiến đấu. Được các đội vũ trang tuyên truyền bảo vệ, các cuộc míttinh, biểu tình rầm rộ diễn ra ở nhiều nơi có tác dụng động viên chính trị tinh thần nhân dân rất lớn. Chiến tranh du kích phát triển rộng rãi. Bốt Kênh Sáng (huyện Cái Bè), bốt Chợ huyện Cao Lãnh (Sa Đéc) bị du kích dùng mưu tiêu diệt. Với một khí thế mới, toàn miền Nam như sống trong bầu không khí mà bà con gọi là “khởi nghĩa lại”.

Trong khi phân tích tình hình, Chủ tịch Quân ủy hội và Tổng Tham mưu trưởng đặc biệt quan tâm đến phong trào trong đô thành Sài Gòn. Bằng nhiều hình thức, như míttinh, biểu tình, bãi công, đồng bào đấu tranh chống Pháp vi phạm hiệp định, vi phạm điều khoản về ngừng bắn. Giới trí thức yêu nước ở Sài Gòn dùng báo chí công khai vạch trần trò hề “đòi tự trị” của bọn tay sai do Pháp giật dây.

Nghe anh Thái báo cáo về trận đánh của đội biệt động vượt sông tiến công kho đạn Thị Nghè, phá hủy rất nhiều đạn dược của địch, anh Văn nêu một lời nhận xét:

- Bộ đội đã chọn đúng mục tiêu và thời cơ đánh cho chúng một đòn đau! Thấy Tổng Tham mưu trưởng như chưa hiểu hết ý mình định nói, anh Văn nói thêm:

- Theo đài Sài Gòn, ngày 8-4 phái đoàn đàm phán của Pháp do Mắc Ăngđrê (Max André) dẫn đầu vừa đặt chân đến Sài Gòn. Trận Thị Nghè diễn ra đúng vào ngày ấy, thật là một đòn cảnh cáo kịp thời…


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Chín, 2012, 10:46:13 am
Mấy ngày trước khi lên đường đi dự Hội nghị trù bị Đà Lạt, anh Văn đến bộ Tổng tham mưu, cùng anh Thái trao đổi và nhận định tổng hợp tình hình miền Nam suốt 40 ngày qua. Nghe báo cáo xong, anh Văn còn ngồi lại rất lâu để cùng Tổng Tham mưu trưởng trao đổi ý kiến về triển vọng diễn biến của tình hình, nhất là ở miền Nam, ở Nam Bộ. Anh nói về chủ trương của Xứ ủy nhân thời cơ thuận lợi sau hiệp định đẩy mạnh việc củng cố và phát triển lực lượng. Phương châm hoạt động do Xứ ủy đề ra (cả về tác chiến, diệt tề và củng cố chính quyền đều nhằm tạo nên thế mới, lực mới. Ngay trong thành phố Sài Gòn, Xứ ủy cũng đã kịp thời cử cán bộ vào để đẩy mạnh phong trào lên. Việc trừng trị tên Trần Tấn Phát ngày 29-3 là một đòn cảnh cáo đối với bọn cầm đầu cái chế độ “tự trị” do Pháp định nặn ra. Ở vùng nông thôn, đảng viên ở cơ sở, trải qua những tháng khó khăn, đã tự động liên lạc với nhau để bám quần chúng, giữ vững và phát triển cơ sở.

Về phía địch, các cuộc tiến công của chúng ở Bình Thuận, Ninh Thuận (Khu 6), Thiện Tân, Cây Đào (Khu 7), ở U Minh, Đồng Tháp và một số nơi ở Tây Nguyên chỉ ít ngày sau hiệp định, cho thấy rõ ràng địch không chịu thực hiện việc đình chiến. Chúng xúc tiến các cuộc tiến công lấn chiếm đi đôi với tăng cường khủng bố nhân dân, trong đó có những trận tiến công lớn (chừng 5.000 quân) ngày 15-3 vào một số nơi ở miền Đông Nam Bộ…

Trước khi chia tay, đồng chí Võ Nguyên Giáp nói như tâm sự với người bạn chiến đấu một điều tâm đắc;

- Đúng là càng nghiên cứu kỹ tình hình, càng thấm thía lời dặn của Ông Cụ là bước vào Hội nghị Đà Lạt, cần đặt ngay vấn đề Nam Bộ và vấn đề đình chiến lên hàng đầu của chương trình nghị sự.

Tiễn anh Văn ra về, anh Thái báo cáo thêm là đã cho chuẩn bị xong máy, nhân viên kỹ thuật và bảng mật mã đi theo anh Phùng Thế Tài và anh Tuấn Kiệt phục vụ phái đoàn đàm phán, bảo đảm để phái đoàn thường trực thường xuyên nắm được tình hình mới nhất, cần thiết cho cuộc đấu tranh ngoại giao.

Này 16-4, phái đoàn lên đường vào Đà Lạt. Từ đó đến ngày hội nghị khai mạc và suốt 3 tuần diễn biến của hội nghị, tổ thông tin mật mã đi theo phái đoàn đã đảm bảo liên lạc thông suốt giữa phái đoàn với Hà Nội. Thiếu sót về nguyên tắc bảo đảm bí mật thông tin vừa nảy sinh đã sớm được uốn nắn và khắc phục. Nhiều tin mới và quan trọng đã được chuyển đến kip thời cho phái đoàn, nhất là tin tức về âm mưu lâu dài của địch. Phái đoàn đã nắm được và vạch trần trước phái đoàn Pháp bức điện của tướng Pháp Valuy chỉ thị cho cấp dưới về chuẩn bị tiến tới một màn đảo chính, lật đổ chính quyền của ta.

Ngay từ phiên họp đầu tiên của hội nghị trù bị, thực tế ngày càng chỉ rõ hội nghị không hứa hẹn triển vọng gì tốt đẹp. Qua những bức điện báo cáo của phái đoàn mà bộ phận thông tin - mật mã của Bộ Tổng tham mưu nhận được và chuyển lên Ban Thường vụ Trung ương, phía Pháp ngày càng lộ rõ thái độ ngoan cố trên hàng loạt vấn đề chủ yếu do phái đoàn ta đưa ra: vấn đề đình chiến, vấn đề Nam Bộ, vấn đề trưng cầu ý dân, vấn đề Liên bang Đông Dương, v.v.

Do thái độ ngoan cố của phía Pháp, Hội nghị trù bị Đà Lạt không đem lại kết quả. Ngày 12-4, phái đoàn ta trở về Hà Nội.

Mấy ngày sau, anh Văn đến thăm Bộ Tổng tham mưu. Nói chuyện với cán bộ phụ trách các phòng, anh phân tích vì sao lập trường hai bên không thể gặp nhau trên bất kỳ vấn đề chủ yếu nào. Anh cũng dẫn ra những việc làm trắng trợn của phía Pháp (như việc bắt ông Phạm Ngọc Thạch, một thành viên của phái đoàn vừa từ Nam Bộ đến Đà Lạt), dẫn ra lời nói ngạo mạn và ngoan cố của viên Trưởng phái đoàn Pháp, Mác Ăngđrê. Y nói:

- Với Việt Nam, người Pháp đã tỏ ra rất rộng rãi, Pháp nhượng bộ như thế là quá lắm rồi, không thể tiếp tục nhượng bộ mãi, không thể theo truyền thống Muyních…

Giá trị thực tế đối với ta là cuộc Hội nghị trù bị Đà Lạt đã cho ta thấy tim đen của giới phản động Pháp.

Trong cuộc gặp mặt hôm nay, anh Văn đã nghe Bộ Tổng tham mưu báo cáo thêm về hoạt động của đồng bào và chiến sĩ miền Nam, hậu thuẫn cho phái đoàn trong quá trình đàm phán. Điển hình là Mỹ Tho, từ bắc Cai Lậy, phong trào loang dần ra khá nhanh. Hoạt động của du kích và các đội vũ trang tuyên truyền ngay trong thị trấn Cái Bè đã gây tiếng vang lớn tới thị trấn Mỹ Tho, khiến bọn ngụy binh vô cùng sợ hãi. Hoạt động nổi lên của quân và dân Nam Bộ trong mấy tuần qua là các cuộc diệt tề trừ gian và phá hoại đường giao thông. Báo chí Sài Gòn đưa tin: Lộ 4 bị chặt nham nhở “như hàm răng cá sấu”…

Nghe đến đây, anh Văn nhắc ngay Phòng Tác chiến cần tìm hiểu và nghiên cứu kinh nghiệm phá hoại đường giao thông của quân dân miền Nam để vận dụng vào việc chỉ đạo chuẩn bị kháng chiến cho các địa phương trong toàn quốc sau này.

Vấn đề chuẩn bị kháng chiến cần được đặt ra một cách khẩn trương tích cực trên cơ sở phân tích âm mưu cơ bản của thế lực phản động Pháp. Chúng những tưởng với việc phá hoại Hội nghị trù bị Đà Lạt, đã thực hiện được ý đồ cắt chiếc cầu liên lạc giữa hai bên để có thể lộng hành bằng những “việc đã rồi”, thực hiện được những toan tính của phái hữu ở Pari(1).


(1) Sau này, qua sách báo của phía bên kia, điều dự kiến đó đã được chứng minh là đúng đắn. Trước khi Hội nghị trù bị Đà Lạt bắt đầu, bọn phản động trong giới cầm quyền Pháp đã cho Mác Ăngđrê một chỉ thị mật nói rằng: “Phải đưa ra yêu sách đã được tính toán cân nhắc, làm sao cho những yêu sách đó trở thành không thể chấp nhận được đối với phía Việt Nam”. Ý đồ thâm độc của Pari là một khi hội nghị tan vỡ, Pháp có thể nói rằng, phía Việt Nam không nghiêm chỉnh đàm phán và sự tan vỡ của hội nghị là do phía đoàn Việt Nam gây ra và nếu có xảy ra xung đột, phần trách nhiệm không thuộc về phía Pháp.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Chín, 2012, 10:46:47 am
Bọn chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương càng hy vọng sau khi nhận được tin tức từ Pari cho biết đầu tháng 5-1946, do hoạt động ráo riết của lực lượng phản động Pháp và của Đờ Gôn, bản Dự thảo hiến pháp mới của nước Pháp (chứa đựng nhiều điểm dân chủ và tiến bộ) đã bị bác tỏ trong cuộc trưng cầu ý dân. Tiếp đến là nội các Phêlích Goanh bị đổ (12-6). Một tuần sau, nội các mới được thành lập, do Biđôn (Georges Bidault) làm Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng. Mariuyt Mutê làm Bộ trưởng Pháp quốc hải ngoại. Phái hữu đã giành được một thắng lợi. Chính quyền mới tỏ ra không tán thành bản Hiệp định sơ bộ.

Với nguồn hy vọng tự do hành động bằng những “việc đã rồi”, trung tuần tháng 5, Đácgiăngliơ bay ra Hà Nội với ý đồ ép ta hoãn cuộc đàm phán chính thức ở Pháp. Viên cao ủy đã vấp phải thái độ kiên quyết của ta, đòi phải tôn trọng những gì hai bên đã thỏa thuận ngày 24-3 tại Vịnh Hạ Long. Lập trường của ta đã rõ ràng. Dù sao, Hội nghị trù bị Đà Lạt cũng chỉ mới là một cuộc đàm phán tại chỗ, còn chưa bị cắt đứt. Cuộc đàm phán chính thức phải được tiến hành ở Pari càng sớm càng tốt. Chậm một ngày là thêm một ngày để bọn phản động Pháp ở đây thực hành “chính sách việc đã rồi”.

Tổng Tham mưu trưởng chỉ thị cho Phòng Tình báo phối hợp với công an tăng cường bám sát mọi âm mưu và hành động của quân Pháp và bọn tay sai. Anh Thái mới được trên nêu lên những nhận định mới: do không trì hoãn được cuộc đàm phán, phái Pháp sẽ có thể tiến hành đồng thời hai nước cờ. Tại Pháp, giới phản động sẽ tìm mọi cách gây khó dễ và làm cho cuộc đàm phán đi đến thất bại. Trong khi đó, tại Việt Nam, theo chủ trương đã vạch sẵn của Đácgiăngliơ, các tướng lĩnh Pháp sẽ đẩy mạnh các hành động vi phạm hiệp định hòng đặt trước cuộc đàm phán và trước Chính phủ Pháp những việc đã rồi.

Dự kiến của trên sớm được thực tế chứng minh là đúng. Từ đâu tháng 6, qua báo cáo từ các nơi gửi về và những tin tức đăng công khai trên báo chí, mọi hoạt động vi phạm của phía Pháp đã diễn ra liên tiếp ở nhiều nơi, kể cả ở Thủ đô Hà Nội.

Chỉ một ngày sau khi phái đoàn ta lên đường sang Pháp, Phủ Cao ủy Sài Gòn cho ra đời cái gọi là “Chính phủ lâm thời của nước Cộng hòa Nam Kỳ”. Tiếp đến là việc quân Pháp đánh lên Tây Nguyên và liền sau đó, chúng chiếm Phủ Toàn quyền cũ ở Hà Nội. Tháng 7, chúng định giật dây cho bọn tay sai Quốc dân Đảng gây rối trong cuộc duyệt binh mà Pháp đề nghị tổ chức chung với ta nhân dịp Quốc khánh Pháp (14-7) hòng lấy cớ đánh úp, lật đổ chính quyền ta ở ngay Hà Nội. Tình báo ta đã phối hợp với công an khám phá và đưa ra ánh sáng âm mưu đảo chính của chúng. Giữa tháng 7, tướng Lơcle bị triệu hồi về nước Pháp. Quyền chỉ huy quân viễn chinh chuyển sang tay tướng Valuy. Cũng từ đó hành động vi phạm của Pháp trắng trợn và liên tục hơn. Tháng 8, sau việc tổ chức ở Đà Lạt cái gọi là Hội nghị Liên bang Đông Dương gồm những tên tay sai bản sứ, phía Pháp liên tiếp gây ra những vụ va chạm trên đường Hà Nội - Lạng Sơn và những vụ rắc rối đầu tiên xung quanh vấn đề thuế quan ở Hải Phòng.

Khác với cuộc Hội nghị trù bị ở Đà Lạt, lần này Bộ Tổng tham mưu không có điều kiện cử thông tin và mật mã theo phái đoàn đàm phán ở Pháp. Mọi việc liên lạc giữa phái đoàn ta ở Pari về nước đều qua phía Pháp chuyển. tin tức tuy rất chậm nhưng qua báo chí công khai vẫn luôn được Phòng Tình báo báo cáo với Tổng Tham mưu trưởng. Ngược lại anh Thái cũng thông báo cho các cán bộ chủ trì các phòng nắm được những bước đi chậm chạp của cuộc đàm phán do những khó khăn bắt nguồn từ thái độ ngoan cố của phái đoàn Pháp. Lập trường của họ không những không tiến bộ hơn mà còn thụt lùi trên nhiều điểm so với Hội nghị trù bị Đà Lạt và kém xa những gì hai bên đã thỏa thuận hồi ký Hiệp định sơ bộ.

Chỉ mấy ngày sau kỷ niệm Quốc khánh 2-9, đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh cho mời Tổng Tham mưu trưởng sang làm việc. Anh Nhân - bí danh của đồng chí Trường Chinh hồi đó - muốn trực tiếp nghe báo cáo cụ thể cục diện chiến trường miền Nam trong thời gian qua. Anh đang chuẩn bị triệu tập hội nghị quân sự toàn quốc bởi những gì diễn ra trong cuộc đàm phán tại Pháp cho thấy khả năng hòa hoãn giảm dần, khả năng nổ ra chiến tranh toàn cục tăng lên.

Khi anh Thái đến thì anh Văn đã có mặt và đang làm việc với anh Nhân. Hai anh cùng nghe báo cáo của tham mưu, vừa nghe vừa trao đổi ý kiến.

Nửa năm qua, kể từ sau hiệp định, cùng với phong trào nổi dậy diệt tề trừ gian, lập lại chính quyền ở nhiều vùng nông thôn miền Nam, ta đã xây dựng lại nhiều chi đội, kể cả ngay cửa ngõ Sài Gòn, như Chi đội 12 ở Gia Định, Chi đội 15 ở Chợ Lớn, Chi đội 13 ở khu Rừng Sát, Chi đội 6 lưu động ở Củ Chi, nam Trảng Bàng sang Đức Hòa, Trung Quận v.v. Có chi đội được trang bị hàng trăm cây súng, phần lớn là cướp của địch. Tình hình Nam Trung Bộ cũng đã thay đổi. Một số trung đoàn đã ra đời. Ở Tây Nguyễn đã hình thành một trung đoàn chủ lực, trong đó có Tiểu đoàn M’Trang Lơng, gồm toàn anh em người dân tộc thiểu số. Do lực lượng địch thiếu lại bị căng mỏng, quân cơ động không còn, nên thế của địch yếu đi nhiều so với hồi trước hiệp định. Điểm nổi lên hiện nay là cuộc tranh chấp giữa ta và địch ở vùng ven. Bộ đội và du kích phối hợp chống địch càn quét và phá hoại giao thông. Lực lượng vũ trang phối hợp với thanh niên tiến hành vũ trang tuyên truyền rộng khắp. Những căn cứ lớn của ta vẫn tồn tại và được củng cố. Chiến khu Tân Uyên hồi phục. Chiến khu Đồng Tháp mở rộng. Chiến khu U Minh đứng vững. Từ Mộc Hóa xuống Hồng Ngự đã trở thành vùng giải phóng rộng lớn. Các căn cứ du kích nhỏ tiếp tục mọc lên, trải rộng trên trên địa bàn 5 - 6 xã, có nơi vài ba huyện, đang dần dần móc nối lại với nhau, cả ở Tây Nguyên, cực Nam Trung Bộ và Nam Bộ.

Lực lượng du kích tuy chưa lớn, vũ trang còn thô sơ, nhưng mỗi xã có từ 1 đến 2 tiểu đội. Quanh Sài Gòn cũng đã hình thành một số đội du kích khá mạnh, như ấp số 4 (Gia Định), Hòa Lân (Thủ Dầu Một), Bình Đa (Biên Hòa).

Từ kinh nghiệm bản thân, cả chủ lực và du kích, sau khi củng cố lại, đã tìm ra phương thức hoạt động phù hợp, bảo vệ được mình, tiêu diệt được địch. Ở hầu hết mọi nơi đã chấm dứt tình trạng, chỉ một tiểu đội, địch cũng có thể đi nghênh ngang trên được hoặc sục vào làng cướp phá mà không bị trừng trị.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Chín, 2012, 10:47:51 am
Một đồng chí mới ở trong ra cho biết, anh Nguyễn Văn Kỉnh được Xứ ủy phái vào lãnh đạo phong trào Sài Gòn từ sau hiệp định. Trong một cuộc họp với anh Phạm Hùng, anh Kỉnh nói:

- Lòng đồng bào Sài Gòn luôn hướng cả về kháng chiến. Sài Gòn ban đêm yên tĩnh, nhưng xung quanh thành phố, đêm nào cũng có tiếng súng nổ. Còn về chính trị thì không khí Sài Gòn “hệt như một nồi hơi đang sôi”. Địch đã nhiều lần tung quân càn quét vùng căn cứ, nhưng không sao hạn chế được cái mạnh của ta là thế chính trị, một thế vượt hẳn lên so với địch. Không chỉ quần chúng lao động mà giới trí thức cũng hướng về kháng chiến ngày càng đông…

Anh Thái kể lại một câu chuyện mà anh mới được nghe. Bác sĩ Tung là người lúc đầu tán thành khuynh hướng “tự trị”. Nhưng rồi dần dần thấy bộ mặt thật của bọn thân Pháp, ông ta thay đổi thái đội. Chính ông ta đã dùng xe riêng đưa anh Phạm Ngọc Thạch ra khỏi vùng kiểm soát của địch và đưa lên tận Đà Lạt đến dự Hội nghị trù bị Việt - Pháp.

Sau khi nghe báo cáo tóm tắt tình hình quân Pháp ở miền Bắc, tình hình truy quét bọn tay sai của Tưởng trong quá trình quân Trung Hoa dân quốc rút đi và tình hình xây dựng lực lượng, các anh ngồi cùng nhau tiếp tục trao đổi ý kiến về tình hình, về quyết tâm chiến lược của những người đại diện cho ý nguyện của toàn Đảng, toàn dân mà đây còn là những lời nói mang nặng tình nghĩa Bắc Nam trước một bước ngoặt của sự nghiệp giải phóng dân tộc. Những lời tâm huyết mà anh Nhân, anh Văn nói trong cuộc họp ngày ấy vẫn thường được anh Thái nhắc lại mỗi khi nói chuyện với cán bộ làm công tác tổng kết và biên soạn lịch sử Bộ Tổng tham mưu những năm sau này.

Cám ơn đồng bào và chiến sĩ miền Nam, đồng bào và chiến sĩ cả nước. Chính quyền mới vừa tròn một tuổi và miền Nam của đất nước cũng vừa trải qua một năm chiến đấu. Đó là một năm chứng minh sức mạnh của chế độ mới, sức mạnh của cả một dân tộc đã thức tỉnh, quyết không chịu khuất phục trước bất cứ kẻ thù nào. Đối với đồng bào, đồng chí miền Nam, những ngày thử thách gay go nhất đã qua, ta đã có thế mới, lực mới. Kẻ địch đã bị đẩy lùi khỏi nhiều vùng nông thôn về các đô thị, lên tận Sài Gòn. Báo chí phương Tây đã nêu lên một nhận xét khá chính xác và sắc sảo, chứng minh lời thú nhận của những người cầm đầu quân viễn chinh Pháp rằng: lời tuyên bố của tướng Lơcle “đã bình định xong Nam Kỳ” chỉ là một lời huênh hoang khoác lác. Quân Pháp không kiểm soát được gì bên ngoài tầm súng của những tên lính gác. Ý đồ chinh phục miền Nam bằng một cuộc chiến tranh tốc quyết tốc thắng đã trở thành ảo vọng.

Đồng chí Tổng Bí thư căn dặn các đồng chí Chủ tịch Quân sự ủy viên hội và Tổng Tham mưu trưởng cần làm sao cho cán bộ quán triệt tinh thần Nghị quyết Hội nghị cán bộ Trung ương vừa qua(1). Cụ thể là phải khẩn trương hơn nữa trong việc xây dựng lực lượng, chế tạo và mua sắm thêm vũ khí, chuẩn bị kháng chiến về mọi mặt. Cuộc đàm phán ở Pháp cho thấy khả năng hòa hoãn không còn, dù có đạt tới một giải pháp nào đó cũng chỉ là tạm thời. Chính quyền Biđôn phản ánh đầy đủ dã tâm xâm lược của giới cầm quyền phản động Pháp. Vì vậy, sớm muộn chiến tranh cũng nổ ra, mặc dù ta không muốn nhưng kẻ địch buộc ta phải cầm súng chiến đấu. Thực dân Pháp có thể được chính quyền Tơruman (Harry Truman - Tổng thống thứ 33 của Mỹ) giúp sức. Chúng có thể huy động thêm quân ở chính quốc và các thuộc địa sang. Cuộc kháng chiến của ta do đó sẽ lâu dài, gian khổ, nhưng nhất định thắng lợi. Đó là điều chắc chắn. Công việc chuẩn bị kháng chiến phải được xúc tiến hết sức khẩn trương, nhưng phải giữ bí mật, không để kẻ địch có cớ gây chiến tranh sớm, khi ta chuẩn bị chưa đầy đủ.

Đồng chí Trường Chinh cũng cho biết: Trung ương dự định triệu tập hội nghị quân sự vào trung tuần tháng 10-1946 để bàn và kiểm tra tình hình chuẩn bị kháng chiến của các chiến khu. Nhưng tham mưu không được chờ đợi, phải chủ động chuẩn bị theo chức năng của mình, theo sự chỉ đạo của Quân ủy hội và sự hướng dẫn của anh Văn…

Đồng chí Tổng Bí thư tiễn hai người ra cổng thì đường phố đã lên đèn. Tiết trời thu mát dịu làm cho các anh cảm thấy khoan khoái hơn sau một ngày làm việc căng thẳng. Trước khi chia tay, anh Văn dặn thêm anh Thái cần nắm thật chắc tình hình mọi mặt để góp phần vào việc xây dựng nghị quyết hội nghị quân sự họp trong tháng 10.

Trên đường về cơ quan, mải suy nghĩ về những công việc trước mắt, anh Thái sực nhớ hôm nay là ngày “đầy tuổi tôi” của Bộ tổng tham mưu. Một năm đã qua, với biết bao sự kiện đối với đất nước, đối với quân đội. Một năm, với bước trưởng thành của riêng anh và những người đồng sự thân tình, cơ quan tham mưu đã trải qua những ngày trứng nước, đang dần dần cứng cáp, sẵn sàng bước vào một giai đoạn mới của sự nghiệp giải phóng dân tộc.


(1) Trước tình trạng dậm chân tại chỗ của Hội nghị Phôngtenơblô, trong hai ngày 31-7 và 1-8, Hội nghị cán bộ Trung ương họp, chuẩn bị một bước cho cuộc kháng chiến. Sau khi nhận định tình hình mọi mặt, hội nghị đề ra cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhiệm vụ: “Tích cực sẵn sàng về quân sự và chính trị đối phó với những bất trắc có thể xảy ra”. Riêng về mặt quân sự, hội nghị chủ trương thống nhất tổ chức các lực lượng vũ trang, tăng cường công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng và huấn luyện quân sự đối với các lực lượng vũ trang, nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng, sẵn sàng chiến đấu, chủ động đối phó với mọi âm mưu mới của địch.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Chín, 2012, 08:47:52 am
II

Vào những ngày đầu tháng 10, anh em trong Bộ Tổng tham mưu thấy anh Thái ít khi có mặt ở cơ quan. Anh dành nhiều thời gian cùng cán bộ tham mưu xuống đơn vị, lên thăm Trường võ bị Trần Quốc Tuấn, dự lễ khai giảng khóa 2 Trường bổ túc quân sự ở Tông, gặp gỡ các cán bộ chỉ huy các khu Hà Nội, Khu 2, Khu 3 và nhiều tỉnh dọc đường 1, đường 5. Ban Thường vụ nhiều lần triệu tập anh đến báo cáo tình hình. Các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Võ Nguyên Giáp, Vũ Anh, v.v dành nhiều buổi ngồi nghe tình hình quân sự chung trong nước, cùng anh trao đổi ý kiến, chuẩn bị cho hội nghị quân sự quan trọng sắp được triệu tập. Tấm bản đồ của Phòng Tác chiến luôn được bổ sung những tin tức mới nhất. Dưới sự hướng dẫn và kiểm tra của Trưởng phòng Nguyễn Văn Nấp, đồng chí Nguyễn Minh Lý hằng ngày tác nghiệp hoàn chỉnh tấm bản đồ sẵn sàng cho Tổng Tham mưu trưởng sử dụng trong các cuộc họp với trên.

Mỗi lần nghe báo cáo của tham mưu là mỗi lần thấy những nội dung mới về xây dựng lực lượng và chuẩn bị cho cuộc kháng chiến.

Trường bổ túc Tông đã kết thúc khóa 1, bắt đầu khóa 2. Trường võ bị Trần Quốc Tuấn sẽ bế mạc và khoảng trung tuần tháng 12, sau khi đã rút bớt một số nội dung cho phù hợp với tình hình khẩn trương hiện nay. Qua kiểm tra định kỳ, kết quả học tập tốt, trừ một số anh em học viên người miền núi tiếp thu có phần khó khăn vì trình độ học vấn hạn chế. Tham mưu đã cùng Quân huấn bàn với các anh Trần Tử Bình, Vũ Lập về biện pháp bảo đảm chất lượng huấn luyện của khóa học sau khi các anh Hoàng Đạo Thúy, Vương Thừa Vũ đi nhận nhiệm vụ mới(1).

Việc huấn luyện cho bộ đội đang được xúc tiến rất khẩn trương. Nội dung chương trình đã dần dần thống nhất do sự chỉ đạo sát sao hơn, nhất là huấn luyện về chiến thuật cá nhân và tiểu đội, về các kỹ thuật dùng súng trường, tiểu liên, ném lựu đạn. Từng tiểu đoàn (có khi đại đội) tự giải quyết vấn đề giao liên, ai khá về môn nào được huy động về tổ huấn luyện môn đó của từng đại đội, tiểu đoàn.

Trả lời câu hỏi về tình hình huấn luyện của lực lượng vũ trang địa phương, Tổng Tham mưu trưởng báo cáo có gặp khó khăn vì dân quân du kích bận công việc mùa màng. Các phái viên tham mưu đang cùng với cán bộ quân huấn bàn với các địa phương điều hòa lực lượng vừa bảo đảm cày cấy và thu hoạch, vừa phân chia luân phiên huấn luyện.

Các công binh xưởng thi đua ngày đêm sản xuất vũ khí, cả vũ khí cải tiến và vũ khí thô sơ. Khó khăn đột xuất đang được nghiên cứu khắc phục là vấn đề hạt nổ. Bom, mìn, đạn và lựu đạn đều cần hạt nổ. Anh Trần Đại Nghĩa và một số cán bộ kỹ thuật của ngành quân khí đang cùng anh Ngô Gia Khảm tập trung lo việc đó.

Việc quân Tưởng rút đi làm cho ta thiếu hẳn một nguồn cung cấp vũ khí quan trọng. Với vũ khí hiện có và đang được tiếp tục sản xuất, tham mưu đang từng bước điều chỉnh trang bị, trước hết là cho các đơn vị sắp đảm nhiệm nhiệm vụ trực tiếp chiến đấu. Dự trữ lương thực hiện nay mới bảo đảm ba ngày. Phong trào Mùa đông binh sĩ mới được phát động đã được sự hưởng ứng rộng rãi của nhân dân, nhất là đoàn thể phụ nữ. Mỗi đợt áo trấn thủ nhận được đã ưu tiên gửi cho các đơn vị miền núi.

Điều quan tâm hiện nay của tham mưu là làm sao cùng các cục bên Bộ Quốc phòng giải quyết hai vấn đề liên quan đến các địa phương. Đó là việc huấn luyện cho du kích và tự vệ (hiện nay kết quả chưa cao) và việc dự trữ lương thực cho chiến đấu còn quá mỏng.

Tổng Tham mưu trưởng thấy các đồng chí Thường vụ tỏ ra hài lòng về công tác chuẩn bị kháng chiến, hài lòng vì hoạt động của tham mưu đã đi đúng hướng. Và cứ mỗi lần nghe báo cáo xong, qua trao đổi, các anh lại gợi ra những ý mới, giúp cho anh Thái mở rộng tầm suy nghĩ về nhiệm vụ chỉ đạo chuẩn bị kháng chiến.

Quân Tưởng dây dưa mãi, cuối cùng đã phải rút hết. Lực lượng tay sai của chúng đã bị quét hết ở mấy thị xã trung du. Sau khi dứt điểm một vài nơi còn lại cuối cùng (như Lào Cai), vào thượng tuần tháng 10 này, trên đất nước ta chỉ còn lại một đối tượng là quân viễn chinh Pháp. Thất bại của cuộc đàm phán ở Phôngtenơblô chỉ ra rằng khả năng hòa hoãn đã rất hạn chế. Bản Tạm ước 14-9, đúng như tên của nó, chỉ là biện pháp tạm thời, không chứa đựng những quyết định có tính nguyên tắc. Những vấn đề cốt lõi chưa được giải quyết để buộc đối phương phải tôn trọng nền độc lập và chủ quyền của ta. Chúng ta ký chính là nhằm tranh thủ thêm thời gian hoàn thành việc chuẩn bị kháng chiến càng đầy đủ càng tốt. Bởi vậy, cần hết sức tranh thủ từng ngày, từng buổi đẩy nhanh hơn nữa công tác chuẩn bị trong lúc Chính phủ đang cố gạn chắt thêm mọi khả năng hòa hoãn cuối cùng, không để chiến tranh nổ ra sớm theo ý muốn của phía Pháp.


(1) Lúc này Thường vụ Trung ương đã quyết định cử ông Hoàng Đạo Thúy về phụ trách Cục Cán bộ - tập trung vào việc nghiên cứu phá hoại cầu đường, ông Vương Thừa Vũ về chỉ huy Đặc khu Hà Nội, tập trung vào công tác chuẩn bị chiến đấu ở Thủ đô.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Chín, 2012, 08:48:41 am
Đặc điểm thế bố trí giữa ta và địch hiện nay là xen kẽ cài răng lược ngay trên từng địa bàn cụ thể, ngay trong từng khu phố. Trong bất kỳ tình hống nào, không để bị bất ngờ, khi nổ ra chiến sự thông tin vẫn thông suốt, đường liên lạc và nguồn tin tức không bị đứt. Cố gắng giải quyết những công việc chuẩn bị còn lại, trong đó có vấn đề đạn D.A.M cho bộ đội(1).

Những ý kiến ngắn gọn nhưng cụ thể do các đồng chí lãnh đạo nêu lên vừa là lời động viên vừa là mệnh lệnh, càng thúc đẩy guồng máy tham mưu quay nhanh.

Điều quan tâm của Phòng Tình báo là làm sao cài cắm thêm người tiếp cận với địch, làm thế nào để bảo đảm tin tức thu được nhanh chóng và chuyển đi thông suốt. Thêm hai cơ sở mới được chuẩn bị, một ở Hàng Bột, một ở Hàng Đường. Đồng chí Nguyễn Hồng, một tình báo viên của Hà Nội, đã lọt được vào làm lao công trong sân bay Gia Lâm. Với bản sơ đồ sân bay do anh vẽ và bổ sung từng ngày, với việc thông thuộc đường lối ra vào, sau này chính anh được giao nhiệm vụ dẫn đội quyết tử vào đánh sân bay ngay đêm đầu kháng chiến toàn quốc. Nhiều cán bộ tình báo đã lọt được vào làm thư ký của các công sở Pháp ở Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định hoặc được chỉ định mở cửa hàng buôn bán, tạo điều kiện để hoạt động công khai trong các thành phố sau này.

Cử người đi tìm thêm máy, thêm phương tiện, vẫn là một trong những công việc hằng ngày của Phòng Thông tin liên lạc. Đội “Liên lạc đặc biệt” đã ra đời, gồm những thanh niên cường tráng, tháo vát, lanh lợi. Nhiệm vụ của đội là mang theo bài “hỏa tốc” và giấy ủy nhiệm đặc biệt, dùng xe môtô đưa công văn khẩn đến các khu. Anh em hiểu rằng, trong điều kiện phương tiện kỹ thuật còn quá thiếu thốn thì mỗi thành viên của đội đều là một mạch máu nhỏ đảm bảo cho guồng máy chỉ đạo, chỉ huy quân sự từ trung ương đến các chiến khu chạy đều trong bất kỳ tình huống nào. Đó là lời động viên của Trưởng phòng Thông tin liên lạc mà mãi sau này anh em còn chưa quên.

Những cuộc tranh luận thường nổ ra trong Phòng Tác chiến xung quanh cách thức phá hoại đường sá, phá cầu, phá các công trình kiên cố, v.v. như thế nào để đảm bảo nhanh nhất và hiệu quả nhất, trong điều kiện thuốc nổ không nhiều. Đắp ụ trên những quãng đường nào, đắp kè trên những khúc sông nào, lập các vật chướng ngại trong thành phố như thế nào là những vấn đề thu hút sự chú ý của các cán bộ tham mưu tác chiến. Biết có người từ miền Nam ra, dù đang ở đâu, anh em cũng tìm đến hỏi xem kinh nghiệm của Sài Gòn về những loại công việc như vậy. Nhưng điều khiến Trưởng phòng Nguyễn Văn Nấp và bộ phận nghiên cứu trong phòng suy nghĩ nhiều là kế hoạch tác chiến, trước mắt là trong các thành phố, đặc biệt là Hà Nội.

Nghe tin anh Vương Thừa Vũ đã về nhận nhiệm vụ chỉ huy Đặc khu Hà Nội, anh Nấp cùng mấy cán bộ tác chiến xuống gấp để cùng anh em trao đổi về kế hoạch tác chiến bảo vệ Thủ đô.

Anh Vũ mới về Khu 11 từ trung tuần tháng 10. Suốt hơn một năm sau ngày Tổng khởi nghĩa, anh được giao nhiệm vụ huấn luyện cán bộ, từ Tường cán bộ Khu 2 ở Ba Thá đến Trường Cán bộ Việt Nam và vừa qua là Trường võ bị Trần Quốc Tuấn. Ngay sau khi về nhận nhiệm vụ, anh coi việc chuẩn bị kháng chiến ở Hà Nội là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu. Cứ sáng sáng mấy cán bộ của Phòng Tham mưu đặc khu lại cùng Khu trưởng đạp xe dạo quanh các phố. Các anh đi lại nhiều lần “khu phố ta” ở phía bắc thành phố, đi sâu cả vào những đường hẻm, những ngõ ngách. Các anh thường dừng lại ở các ngã tư, ngã năm để nghiên cứu địa hình. Sau mỗi buổi đi về, quanh tấm bản đồ trải rộng, cuộc thảo luận lại diễn ra sôi nổi. Ngày này qua ngày khác, những dự kiến về cách đánh trong thành phố dần dần hình thành rõ nét. Và cũng từng có những lần anh Văn và anh Thái cùng đi với anh Vũ. Có hôm các anh tập trung rà soát lại một chủ trương tác chiến cụ thể trong một khu phố nào đó, nhất là ở “khu phố ta”, nơi mật độ dân số đông nhất và địa hình lại phức tạp nhất. Sau này anh Vương Thừa Vũ viết trong Hồi ký: “Đã mấy lần đồng chí Tổng Chỉ huy (Võ Nguyên Giáp) cùng chúng tôi đi xem xét thực địa trong và ngoài thành phố. Mỗi lần đi là một lần đồng chí trao đổi ý kiến rất cụ thể về công việc tổ chức, chỉ huy chiến đấu; mà thường là đồng chí đề ra những câu hỏi khêu gợi, nêu những tình huống tác chiến cụ thể, những giả định để chúng tôi suy nghĩ, giải quyết, rồi đồng chí góp ý kiến uốn nắn, chỉ dẫn thêm…”. Trong Hồi ký, anh Vũ cũng nhắc lại những gợi ý của Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái về những vấn đề cụ thể trong công tác tổ chức chỉ huy. Ví dụ, có lần anh Thái nói: “Trong thế xen kẽ giữa ta và địch như hiện nay, việc tổ chức chỉ huy là vấn đề mấu chốt, có ý nghĩa quyết định. Cho nên ngay từ bây giờ các đồng chí cần tập trung suy nghĩ tìm ra một biện pháp tổ chức hữu hiệu một mạng lưới thông tin liên lạc để bảo đảm chỉ huy thông suốt trong các tình huống phức tạp, nhất là đối với các đơn vị tác chiến cầm chân thu hút địch trong thành phố”.

Tấm bản đồ hành chính mà Bộ Chỉ huy có trong tay ngày càng dày đặc những ký hiệu, những ghi chép, những vết tẩy xóa. Quá trình nghiên cứu tình hình cũng là quá trình hình thành ngày càng rõ những dự kiến kế hoạch tác chiến, quá trình Chỉ huy trưởng Vương Thừa Vũ trao đổi với Bí thư Khu ủy Nguyễn Văn Trân và Chính ủy Trần Độ, quá trình thảo luận giữa cán bộ Phòng Tác chiến Đặc khu Hà Nội với các phái viên Bộ Tổng Tham mưu và với cả một người nước ngoài, anh Ái Việt. Người võ quan Nhật này đã sang hàng ngũ ta từ sau ngày Tổng khởi nghĩa. Anh nhiệt tình đem những kiến thức quân sự đóng góp vào công tác huấn luyện và việc chuẩn bị kháng chiến của Bộ Chỉ huy Hà Nội. Nhưng vốn là sĩ quan quân đội một đế quốc đông quân, nhiều súng, chiến đấu với mục tiêu chính trị khác với quân đội cách mạng cho nên không có gì là khó hiểu nếu quan điểm quân sự của Ái Việt có những điểm không phù hợp với ta. Nhưng với tinh thần vừa làm vừa học, ta cố chắt lọc những tri thức quân sự có thể vận dụng vào điều kiện của ta.

Anh Vũ trao đổi với Ái Việt cũng chính trên tinh thần đó. Và đã từng diễn ra không ít những cuộc tranh luận náo nhiệt giữa hai người trong quá trình xây dựng kế hoạch tác chiến bảo vệ Thủ đô. Bằng những lời lẽ chân tình, anh Vũ giải thích vì sao không thể chấp nhận được kế hoạch của Ái Việt về việc lập ba phòng tuyến quanh thành phố để ngăn chặn quân Pháp. Anh nói về sức mạnh của lực lượng vũ trang tại chỗ (8.000 tự vệ thành), tuy trang bị còn thô sơ nhưng nếu có cách đánh phù hợp sẽ phát huy tác dụng ngay từ đầu. Anh nói về tinh thần nhân dân Thủ đô, về cơ sở vật chất mà quân đội và tự vệ có thể dựa vào sự ủng hộ của nhân dân mà chiến đấu lâu dài trong thành phố; nói về địa hình phức tạp của khu Bắc thành phố được chọn làm nơi bám trụ thu hút địch và chiến đấu dài ngày.


(1) Đạn D.A.M là loại đạn phổ biến dùng cho tiểu liên và súng trường (súng mousqueton của Pháp) hồi đầu kháng chiến chống Pháp.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Chín, 2012, 08:50:28 am
Trong quá trình chuẩn bị kế hoạch tác chiến, Chỉ huy trưởng Vương Thừa Vũ còn nghiên cứu và tranh luận với nhiều ý kiến khác như chủ trương tập trung lực lượng đánh một số trận lớn, “vang đội”, bằng những trận tiến công vào thành, vào Trường Bưởi, Trường Anbe Xarô, vào Phủ toàn quyền cũ, v.v Bằng những dẫn chứng thực tế về lực lượng so sánh, về phương châm tác chiến tiêu diệt địch bảo tồn mình để kháng chiến lâu dài, anh Vũ đã trao đổi, giải thích, tranh luận để đi đến không chấp nhận kiểu đánh “dốc túi - trắng tay” như vậy, cách đánh không phù hợp với đường lối kháng chiến của ta.

Quan điểm của Chỉ huy Vương Thừa Vũ được sự nhất trí và ủng hộ của Tổng Chỉ huy Võ Nguyên Giáp và Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái.

Vào khoảng trung tuần tháng 10, Đại đội trưởng cảnh vệ Thái Dũng được chỉ thị cử một trung đội đến tổ chức một trạm gác bí mật phía trong cổng ngôi nhà số 58 đường Nguyễn Du, trông ra hồ Thiền Quang. Ngày 19-10, trong khu biệt thự này đã diễn ra một hội nghị quân sự quan trọng nhằm kiểm điểm tình hình, rà soát lại những việc đã làm và đề ra những nội dung toàn diện cho công cuộc chuẩn bị kháng chiến. Ngoài các đồng chí ủy viên Trung ương và Ủy viên Tổng quân ủy, cán bộ quân sự và chính trị chủ chốt của các khu đều có mặt.

Khi về, phổ biến nhiệm vụ cho các cán bộ đầu ngành trong cơ quan tham mưu, Tổng Tham mưu trưởng nói rằng từ ngày thành lập chính quyền, chưa bao giờ có một hội nghị quân sự quan trọng như vậy.

Hội nghị nhận định rằng, mặc dù bản Tạm ước đã được ký kết, Pháp vẫn đang dùng hành động lấn ta từng bước cả về kinh tế và quân sự, nhưng đồng thời chúng cũng lo đối phó, sợ bị ta tiến công trước. Bởi vậy, ta vừa phải ngăn chặn âm mưu của chúng trên từng mặt, trong từng địa phương, nhưng phải nắm vững nguyên tắc là hết sức tránh không để những cuộc xung đột sớm lan rộng. Riêng đối với các cơ quan quân sự trung ương, do những “phiền phức và trở ngại” về mặt chỉ đạo quân sự trong thời gian qua, hội nghị quyết định thống nhất Quân sự ủy viên hội với Quốc phòng, đi đôi với việc chỉnh đốn tổ chức, phân chia lại chiến trường để tiện việc chỉ huy trên toàn quốc, sửa đổi lối làm việc của các cơ quan chỉ huy, sao cho “giản dị, thiết thực”, trên cơ sở phân quyền hạn và trách nhiệm rõ ràng(1). Hội nghị đặc biệt quan tâm đến công tác Đảng, công tác chính trị, công tác cán bộ (cụ thể trên các mặt giáo dục, bổ túc, đào tạo, điều động, sử dụng cán bộ và thống nhất các trường huấn luyện cán bộ…), công tác chỉnh đốn bộ đội và dân quân tự vệ, cùng các mặt bảo đảm cung cấp cho lực lượng vũ trang.

Căn cứ nhận định về âm mưu của địch và thực tế so sánh lực lượng hiện nay, hội nghị rút ra những kết luận quan trọng: Nhất định không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh ta và ta cũng nhất định phải đánh Pháp. Công tác chính trị tư tưởng phải làm sao khắc phục không khí thái bình, cho rằng ký hiệp định rồi thì không nổ ra chiến tranh nữa. Về triển vọng của cuộc kháng chiến, hội nghị khẳng định, phải tự tin rằng tuy ta còn kém địch về trang bị kỹ thuật, nhưng với tinh thần dẻo dai bền bỉ, cuộc kháng chiến của quân và dân ta nhất định thắng lợi.

Trên cơ sở đánh giá kết quả chuẩn bị kháng chiến, hội nghị đã đề ra nhiệm vụ hoàn thành công tác chuẩn bị về mọi mặt để sẵn sàng giành thế chủ động trong mọi tình huống.

Việc thống nhất hai cơ quan quân sự của cấp trung ương được chính thức hóa trong kỳ họp thứ 2 (khóa II) của Quốc hội, ngày 28-10-1946. Bộ Quốc phòng thống nhất với Quân sự ủy viên hội thành Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy do ông Võ Nguyên Giáp làm Bộ trưởng, ông Tạ Quang Bửu làm Thứ trưởng. Từ đây, Bộ Tổng tham mưu trở thành một thành viên trong Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy. Việc thống nhất cơ quan chỉ huy quân sự tối cao đánh dấu một mốc quan trọng và là điều kiện thuận lợi để Bộ Tổng tham mưu đi sâu vào chức năng nhiệm vụ của mình mà trực tiếp lúc này là chuẩn bị cho toàn dân, toàn quân bước vào cuộc kháng chiến trong phạm vi cả nước. Một trong những nhiệm vụ đó là chuẩn bị chỗ đứng chân lâu dài cho cơ quan đầu não lãnh đạo kháng chiến. Đầu tháng 11, Bộ tổng tham mưu cử một đoàn cán bộ thông tin, tác chiến và quản lý nội bộ, cùng phái đoàn của Trung ương và Chính phủ lên chuẩn bị căn cứ địa. Việc chọn Việt Bắc làm hậu phương kháng chiến đã được Thường vụ Trung ương và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định từ sau khi Người ở Pháp về nước. Một trong những yêu cầu quan trọng đối với đoàn cán bộ tham mưu trong chuyến đi lần này là chuẩn bị mạng lưới thông tin liên lạc trong khu căn cứ, trung tâm đặt ở Bắc Kạn. Kế hoạch này đã được hoàn thành hết sức khẩn trương nhờ sự phối hợp và giúp đỡ của Ban thông tin Chiến khu 1.


(1) Sau Hội nghị quân sự toàn quốc của Đảng ngày 25-11-1946, Chính phủ quyết định chia cả nước thành 12 khu (khi đó gọi là chiến khu). Mỗi khu có khu ủy, ủy ban kháng chiến và bộ chỉ huy quân sự khu. Từ thực tế kinh nghiệm hoạt động trong một năm qua, lần này Chính phủ quyết định phân chia các chiến khu như sau:
Chiến khu 1: Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Phúc Yên.
Chiến khu 2: Sơn Tây, Hà Đông, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu.
Chiến khu 3: Hải Phòng, Kiến An, Thái Bình, Hưng yên, Hải Dương (trừ Đông Triều và Chí Linh).
Chiến khu 4: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên.
Chiến khu 5: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Kon Tum, Gia Lai.
Chiến khu 6: Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đắc Lắc, Lâm Viên, Đồng Nai Thượng.
Chiến khu 7: Bà Rịa, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Gia Định, Chợ Lớn, Sài Gòn.
Chiến khu 8: Tân An, Gò Công, Mỹ Tho, Sa Đéc, Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre.
Chiến khu 9: Châu Đốc, Long Xuyên, Hà Tiên, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Rạch Giá.
Chiến khu 10: Lào Cai, Hà Giang, Yên Bái, Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Yên.
Chiến khu 11: Đặc khu Hà Nội.
Chiến khu 12: Lạng Sơn, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải Ninh, Hòn Gai, Quảng Yên (cả Đông Triều và Chí Linh).


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Chín, 2012, 08:51:58 am
Đúng như nhận định của hội nghị quân sự toàn quốc, hành động lấn chiếm của quân Pháp ngày càng trắng trợn, trong tháng 10 và nổi lên là từ tháng 11-1946. Tấm bản đồ của Phòng Tác chiến luôn được bổ sung bằng những sự kiện vi phạm mới.

Ngày 4-11, tướng Nyô (Nyo) ra ngoài Bắc để cùng với ta thảo luận và thành lập Ủy ban quân sự hỗn hợp thực hiện và kiểm soát đình chiến ở miền Nam theo tinh thần và lời văn của bản Tạm ước 14-9. Nhưng chính trong những ngày tháng 11 ấy, quân Pháp vẫn tiếp tục nổ súng tại nhiều nơi, cả ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Quân ta buộc phải có những hành động tự vệ.

Tại miền Bắc, báo cáo hằng ngày của các đồng chí Nguyễn Nam và Trương Cao Phong gửi về Bộ Tổng tham mưu cho thấy, do hành động của Pháp vi phạm chủ quyền của ta về vấn đề thuế quan cho nên quan hệ giữa hai bên ở khu vực cảng Hải Phòng ngày càng trở nên căng thẳng. Từ đua tháng 9, Đácgiăngliơ đã ra lệnh cho viên tướng chỉ huy quân Pháp kiêm Ủy viên Cộng hòa Pháp ở Bắc Bộ là Moóclie thiết lập quyền kiểm soát thuế quan ở Hải Phòng, kể từ ngày 15-10. Bất chấp bản Tạm ước đã được ký kết, phía Pháp tự ý đơn phương quy định nhiều thứ hàng xuất cảng của ta phải được chúng cho phép. Ta đã nhiều lần phản kháng nhưng chúng vẫn làm ngơ và cuộc xung đột đã nổ ra ngày 20-11. Trước hành động của phía Pháp trắng trợn vi phạm chủ quyền của ta, công an Hải Phòng đến can thiệp. Lập tức quân Pháp nổ súng. Ta bắn trả và cuộc xung đột lan rộng. Pháp cho xe bọc thép tiến công nhà ga và nhiều nơi khác trong thành phố. Ty Liên kiểm dàn xếp, phía Pháp không chịu lui quân về vị trí cũ. Viên Đại tá Đebơ (Dèbes), chỉ huy quân Pháp ở Hải Phòng còn gửi tối hậu thư đòi ta phải thi hành những điều kiện do phía Pháp đưa ra. Những điều kiện vô lý đều bị ta bác bỏ. Đebơ liền huy động binh lực lớn, tiến công vào Nhà hát ở trung tâm thành phố. Quân ta kiên quyết đánh trả, đầy lùi nhiều đợt xung phong của địch.

Thừa lệnh Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu điều thêm lực lượng tăng viện cho Hải Phòng đồng thời ra lệnh cho bộ đội chỉ nên có hành động tự vệ.

Sáng hôm sau, 21-11, một ủy ban hỗn hợp từ Hà Nội xuống Hải Phòng để dàn xếp nhưng quân Pháp không chịu ngừng bắn. Chúng dùng cả pháo từ Cát Bi bắn vào các vị trí của quân ta ở Hải Phòng. Buổi chiều, tiếng súng tạm ngưng nhưng quân Pháp không chịu lui về vị trí trước khi xảy ra xung đột.

Sau này, qua tài liệu của phía bên kia, được biết: trước ngày xảy ra sự kiện Hải Phòng, Cao ủy Đácgiăngliơ đã lánh mặt về Pháp cho tướng Valuy dễ bề hành động. Mọi việc làm của Đebơ đều theo lệnh trực tiếp của Valuy thẳng từ Sài Gòn ra, vượt qua đầu viên chỉ huy quân Pháp ở Bắc Kỳ là tướng Moóclie, viên tướng bị coi là “thiếu tinh thần tiến công”. Đều đó góp phần giải thích vì sao, sáng 23, trong lúc tại Hà Nội, ủy ban hỗn hợp đang thảo luận tìm giải pháp thỏa đáng thì tại Hải Phòng, Đebơ gửi tối hậu thư đòi quân ta phải rút khỏi nhiều khu phố, đòi tước vũ khí tự vệ Khu 7. Chính những chiến sĩ tự vệ này hai ngày trước đã cho chúng một đòn đau. Ta đã bác bỏ mọi yêu sách phi lý của địch. Đến 9 giờ 45 phút, Pháp huy động máy bay, pháo binh tiến công vào khu phố Hoa kiều. bộ đội và tự vệ chiến đấu quyết liệt với địch ở từng góc phố, trong từng căn nhà.

Ngày 28, Bộ Tổng tham mưu chuyển lệnh của bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy cho bộ đội và tự vệ rút về tuyến chiến đấu mới ở ngoại ô, bao vây quân địch trong thành phố, phá hoại triệt để đường liên lạc từ ngoài vào, đặc biệt là đường Hải Phòng - Đồ Sơn.

Hầu như đồng thời với việc đánh chiếm thành phố cảng, quân Pháp cũng tìm cớ khiêu khích rồi dùng vũ lực đánh chiếm thị xã Lạng Sơn, tiếp đến, chúng tiến công ta ở Tiên Yên, Đình Lập. Bằng việc đánh chiếm hai thành phố cửa ngõ đường biển và đường bộ ở Bắc Bộ, trên thực tế Bộ Chỉ huy quân viễn chinh Pháp đã mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược miền Bắc đi đôi với tiếp tục mở rộng chiến tranh ở miền Nam.

Trước tình hình đã trở nên nghiêm trọng, ta tiếp tục đấu tranh đòi duy trì ủy ban hỗn hợp để giải quyết các vụ xung đột. Nhưng dưới sức ép của Sài Gòn, tướng Moóclie buộc phải hành động theo lệnh của Valuy, khước từ các cuộc thảo luận và dàn xếp của ủy ban hỗn hợp. Thực ra, theo nhiều tác giả Pháp và nước ngoài(1) thì mọi hành động của Đebơ đều do Valuy thúc đẩy theo kịch bản đã được dàn dựng trước khi Đácgiăngliơ về Pháp trung tuần tháng 11-1946. Viên cao ủy cần có những “bằng chứng về những cuộc xung đột” để có cớ đòi cuộc họp liên bộ của chính quyền Biđôn (họp ngày 23-11 bàn về vấn đề Đông Dương) phải đi đến một “đường lối chính trị cứng rắn”, thay thế cho cái mà hắn gọi là “chính sách thỏa hiệp và rút lui”.

Trong những ngày cuối tháng 11 đầu tháng 12, Bộ Tổng tham mưu nhận được tin tức và báo cáo về việc quân Pháp dùng xe tăng tiến công hòng mở thông đường Hải Phòng - Đồ Sơn, tin chúng đưa thêm quân trái phép đến Hải Dương, đổ bộ thêm quân vào Hải Phòng, Đà Nẵng. Ngay tại Thủ đô Hà Nội, những hành động khiêu khích của quân Pháp ngày càng tăng và càng trắng trợn. Những vụ cướp phá hiệu buôn, xé cờ Việt Nam ở Nhà Thông tin ở phố Tràng Tiền, phóng xe bạt mạng trên các đường phố, bắt cóc cán bộ, đặt súng trên nóc nhà cao tầng bắn vào tàu điện đang chạy, v.v. Tất cả cho thấy, dường như chiến tranh có thể nổ ra bất cứ lúc nào, tuần này hoặc tuần sau, thậm chí hôm nay hoặc ngày mai.

Không khí và nhịp độ hoạt động của Bộ Tổng tham mưu ngày càng trở nên khẩn trương chưa từng thấy. Vừa tiến hành công việc hằng ngày, từng phòng vừa phân loại vừa sắp xếp tài liệu, chuẩn bị quân trang gọn ghẽ, sẵn sàng cơ động vận chuyển khi có lệnh. Cán bộ đi công tác lẻ được lệnh mang theo súng ngắn đề phòng bất trắc. Qua những gì tai nghe mắt thấy trên đường phố, qua những buổi sinh hoạt, nghe phổ biến tình hình, mọi người đều hiểu rằng thời kỳ hòa hoãn mong manh đã qua rồi, toàn quân, toàn dân đang sắp sửa bước vào cuộc chiến tranh toàn cục.

Trung tuần tháng 11, Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái đang đi kiểm tra tình hình thị xã Lào Cai mới được giải phóng thì nhận được điện gọi phải về Hà Nội ngay. Anh Văn cho biết, tình hình Hải Phòng đang rất căng thẳng.

Suốt dọc đường về Thủ đô anh suy nghĩ về những công việc mà cơ quan tham mưu chiến lược sắp phải gánh vác khi đất nước chuyển sang bước ngoặt của lịch sử. Sau này nghĩ lại anh thấy biết bao điều mới lạ mà chỉ khi va chạm với thực tế mới sáng tỏ, còn vào những ngày trước chiến tranh chưa ai hình dung ra được.


(1) Ví như Philip Đờvile (Philipe Devillers - tác giả cuốn Paris - Sài Gòn - Hà Nội) và Tônnétxơn (Stéin Tonnesson - tác giả cuốn Năm 1946 - Bùng nổ cuộc chiến tranh Đông Dương).


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Chín, 2012, 08:52:33 am
III

Để sẵn sàng đối phó với tình hình, đề phòng bị đánh úp và để bảo đảm chỉ đạo, chỉ huy tác chiến được liên tục khi nổ ra chiến sự, từ ngày 5-12, từng bộ phận trong cơ quan tham mưu lần lượt rời thành phố chuyển về phía Hà Đông, từ Gò Đống Đa đến Tây Mỗ, Đại Mỗ. Trung tâm thông tin - tổng đài điện thoại dự bị - đặt ở ấp Thái Hà, nơi làm việc của Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái. Chỉ còn một bộ phận nhỏ ở lại cơ quan trong nội thành cùng với tổng đài thường trực để nắm tình hình và giải quyết những công việc còn lại. Hằng ngày, phía cổng chính, vẫn có người ra vào, nhằm duy trì bộ mặt bình thường của ngôi nhà 18 Nguyễn Du.

Với tinh thần năng động sáng tạo, vượt lên mọi khó khăn thiếu thốn về người và phương tiện, máy móc, lúc này Phòng Thông tin liên lạc đã nối liền mạng thông tin điện thoại giữa tổng đài dự bị ở ấp Thái Hà với 18 Nguyễn Du, với các đơn vị ở nội thành, các chiến khu và cả với mạng điện thoại mới được triển khai trên căn cứ Việt Bắc. Hai cụm đài vô tuyến điện lưu động đã được triển khai ở La Phù và Ba Thá (Hà Đông), trên đường di chuyển của cơ quan đầu não kháng chiến lên căn cứ địa. Hội nghị các trưởng ban thông tin từ Trị - Thiên trở ra đã được triệu tập đầu tháng 12, nhằm thống nhất lần cuối cùng những quy ước về làn sóng, về giờ thu phát và cách làm việc giữa đài trung ương và đài địa phương, khi Bộ Tổng tham mưu còn ở Hà Nội cũng như trong quá trình di chuyển lên căn cứ địa.

Trong những ngày đầu tháng 12-1946, Phòng Thông tin liên lạc bận rộn, vất vả nhất nhưng cũng phấn khởi nhất. Chẳng là anh em vừa được nhận “tài sản” của Sở Vô tuyến điện Việt Nam. Việc kiểm kê lại toàn bộ phương tiện và phân loại ra thành “của ăn - của để” được tiến hành hết sức khẩn trương. Tuy cơ sở vật chất không lấy gì làm “giàu có”, nhưng nhưng toàn phòng hiểu rằng đó là tài sản vô cùng quan trọng trên bước đường phát triển của cả ngành thông tin quân sự. Cũng trong dịp này, phòng còn được giao nhiệm vụ giúp Đài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam bí mật di chuyển gấp những máy dự bị và những bộ phận cơ khí chính ra ngoài thành phố. Yêu cầu đặt ra là phải đảm bảo cho đài hoạt động liên tục ngay từ những ngày đầu kháng chiến, bắt đầu khi có lệnh chuyển về địa điểm sơ tán đầu tiên là vùng Chùa Trầm, phía nam thị xã Hà Đông.

Phòng Tình báo kết thúc khóa huấn luyện tình báo trung cấp ở Tông để cán bộ kịp về các địa phương nắm tình hình đang diễn biến từng ngày. Toàn phòng bị thu hút vào những công việc đặc biệt khẩn trương, từ việc phân công lại cán bộ trong phòng thành hai bộ phận (Tả ngạn mang mật danh là V-B, Hữu ngạn là V-A) để tiện nắm và chỉ đạo các cơ sở tình báo dọc hai bên sông Hồng, hoạt động khi chiến sự nổ ra, cử người đi kiểm tra lại lần cuối và hướng dẫn thêm các cơ sở tình báo dọc đường 5, kiểm tra lại các cơ sở cài cắm lại nội thành cùng với các hộp thư liên lạc bí mật đến việc bàn và thống nhất kế hoạch với cán bộ tình báo Gia Lâm về trận đánh sân bay, dự kiến sẽ nổ ra ngay trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến.

Ngày 9-12, Tổng Tham mưu trưởng chủ trì cuộc hội nghị nhằm hai vấn đề chủ yếu cần giải quyết gấp cho các địa phương xung quanh Hà Nội: 1- kiểm tra lại kết quả và cho ý kiến bổ sung kế hoạch huấn luyện lực lượng dân quân tự vệ các tỉnh và huyện, nhất là vùng trung du và đồng bằng sông Hồng; 2- kiểm tra và cho ý kiến về công tác phá hoại, nhất là tình hình phá hoại những đường lớn xung quanh Thủ đô. Thành phần cán bộ được các phòng cử đến họp và chuẩn bị xuống các địa phương gồm những người ít nhiều đã có trình độ về mặt tác chiến và huấn luyện. Khi thảo luận về công tác phá hoại đường giao thông thì không khí cuộc họp sôi nổi hẳn lên. Rất nhiều ý kiến tranh luận nên tập trung vào phá hoại đường nào trước, đường nào có thể để lại cho đến ngày nổ ra chiến sự mới phá. Khó khăn bao trùm là thiếu thuốc nổ để phá cầu. Riêng về đường bộ, nên phá thế nào để có tác dụng ngăn bước tiến của cơ giới địch? Làm sao vận dụng được kinh nghiệm của Nam Bộ là biến những con đường huyết mạch thành “những hàm răng cá sấu” như cách gọi của quân Pháp ở trong Nam? Vì sao đường Hải Phòng - Đồ Sơn đã phá hoại nhưng địch sửa lại một cách dễ dàng, v.v. Sau nhiều ý kiến trao đổi, tranh luận, kết luận cuối cùng là phải dựa vào sức dân, dựa vào đặc điểm và vị trí của từng đoạn đường, từng khúc sông để nghiên cứu cách phá hoại và lập các ụ chướng ngại có tác dụng làm chậm bước tiến của địch.

Sau cuộc họp, đoàn cán bộ tỏa đi các nơi dự kiến chiến sự có thể lan đến sớm để giúp lực lượng vũ trang địa phương trong công tác huấn luyện và công tác phá hoại, trước hết là phá hoại các đường giao thông chính nối liền với Thủ đô.

Trước tình hình chiến tranh có thể sắp nổ ra, ngày 13-12, tại Sở Địa chính thị xã Hà Đông, Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy triệu tập hội nghị các khu trưởng (từ Khu 4 trở ra) để kiểm điểm toàn bộ công tác chuẩn bị kháng chiến ở các địa phương, đơn vị. Đại diện Bộ Tổng Tham mưu dự hội nghị, ngoài Tổng Tham mưu trưởng và một số trưởng phòng, còn có Tham mưu chủ nhiệm Trần Văn Quang. Anh Quang mới về thay anh Lâm Kính được điều đi phụ trách Tham mưu trưởng Chiến khu 2. Đồng chí Tổng Chỉ huy Võ Nguyên Giáp chủ trì cuộc họp.

Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái báo cáo tình hình chung về chuẩn bị kháng chiến từ Đà Nẵng trở ra, kể từ sau hội nghị quân sự trung tuần tháng 10-1946.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Chín, 2012, 08:52:59 am
Sau hội nghị chỉnh đốn lại biên chế, lực lượng Vệ quốc đoàn trong cả nước là 85.000 người, gồm 27 trung đoàn ở miền Bắc và 25 chi đội ở miền Nam, tăng 70% so với cuối năm 1945. Do tích cực mở lớp bồi dưỡng và đào tạo cán bộ cho nên tình trạng thiếu cán bộ đã cơ bản được khắc phục. Lớp bổ túc khóa 2 ở Tông (Sơn Tây) và khóa 1 Trường võ bị Trần Quốc Tuấn đã bế mạc cách đó mấy ngày. Trừ một số ít học viên võ bị được giữ lại làm giáo viên, hầu hết anh em tốt nghiệp đã được điều động về các đơn vị từ Đà Nẵng, trở ra để kịp nắm bộ đội chuẩn bị chiến đấu. Kết quả sản xuất, sửa chữa, mua sắm và kết quả điều chỉnh vũ khí cho hợp lý đã làm cho tỷ lệ trang bị của các đơn vị chủ lực được tăng hơn trước. Nếu cuối năm 1945, số người mang súng ở mỗi đại đội chưa đạt 1/3 quân số thì nay đã tăng lên 2/3 quân số. Tuy nhiên, vấn đề đạn dược vẫn còn là một khó khăn. Sau khi đơn vị pháo đầu tiên của Thủ đô ra đời, các chiến khu cũng thành lập các đơn vị pháo - cối và bố trí theo kế hoạch tác chiến của khu: Khu 1 ở Phúc Yên, Khu 2 ở Nam Định, Khu 3 ở Kiến An, Hải Dương, Cát Bà, Đồ Sơn, Khu 4 ở Huế, Khu 5 ở Bồng Sơn, Khu 10 ở Tuyên Quang. Xưởng Giang Tiên đã chế tạo thành công 4 khẩu “đại bác không giật”, gọi tắt là ĐKZ, cỡ 60mm, với 50 viên đạn. Khẩu badôca đầu tiên đang được bắn thử nghiệm và sẽ nghiên cứu bổ sung cho hoàn chỉnh về kỹ thuật.

Nghe đến đây, đồng chí Bộ trưởng đề nghị Tổng Tham mưu trưởng tạm ngừng lời. Anh Văn đứng dậy giới thiệu tác giả khẩu badôca với toàn thể hội nghị. Đó là anh Trần Đại Nghĩa, một trí thức yêu nước, mới theo Bác Hồ về để tham gia kháng chiến. Tuần trước, anh được Chính phủ bổ nhiệm làm Cục trưởng Cục Quân giới. Hội nghị hoan hô nhiệt liệt, biểu thị lòng tin vào những người làm công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật, tin tưởng vào đội ngũ công nhân quân giới Việt Nam trẻ tuổi.

Mọi người tiếp tục theo dõi bản báo cáo của tham mưu.

Dưới sự chỉ huy của cơ quan quân sự tỉnh, lực lượng vũ trang địa phương phát triển mạnh. Các cán bộ của Bộ trong tổ chức mang mật danh “B.13” được phái xuống địa phương đã phát huy tác dụng giúp đỡ trong việc huấn luyện, nghiên cứu việc xây dựng làng chiến đấu và công tác phá hoại giao thông. Việc điều chỉnh giữa lực lượng huấn luyện và chuẩn bị chiến đấu với lực lượng thu hoạch mùa màng đã được giải quyết tốt hơn trước, bằng biện pháp luân phiên tại từng thôn xã. Đến nay việc trang bị của dân quân tự vệ vẫn do từng tỉnh giải quyết, theo phương hướng sản xuất vũ khí thô sơ là chủ yếu.

Về lương thực, theo chỉ thị của Bộ Quốc phòng, các khu đang huy động đề bạt số lượng dự trữ 2 tháng cho bộ đội. Các kho được bố trí phân tán theo kế hoạch tác chiến của từng chiến khu.

Kế hoạch tác chiến của các địa phương, đơn vị đã được xây dựng xong. Dưới sự hướng dẫn và chỉ đạo của đồng chí Tổng Chỉ huy, cơ quan tham mưu đã cử nhiều đoàn cán bộ xuống các địa phương từ Đà Nẵng trở ra góp ý kiến vào việc xây dựng kế hoạch. Riêng khu Hà Nội, kế hoạch sẽ được Tổng Chỉ huy trực tiếp thông qua lần cuối cùng vào ngày mai, 14-12. Trong những ngày tác chiến đầu tiên, các đơn vị, địa phương đều tập trung vào yêu cầu chủ yếu là tiêu hao và kìm chân địch dài ngày trong thành phố, thị xã đi đôi với phá đường, phá cầu, cô lập địch giữa thành phố nọ với thành phố kia, đồng thời đánh giao thông, hạn chế khả năng tăng viện, tiếp ứng của địch.

Việc phá hoại đường sá đã làm được một phần. Phần chủ yếu là, ngay khi kháng chiến bùng nổ, trong khi bộ đội đang tác chiến trong thành phố, các địa phương huy động người và phương tiện, tiến hành phá đường, phá cầu và các nhà kiên cố trong các thị trấn sát thành phố, sát các trục giao thông lớn theo kế hoạch đã chuẩn bị.

Bộ Tổng chỉ huy đã lệnh cho các chiến khu cực Nam Trung Bộ và Nam Bộ chuẩn bị kế hoạch đánh mạnh ngay từ đầu, khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, nhằm giam chân thu hút lực lượng địch, hạn chế đến mức thấp nhất khả năng địch điều lực lượng từ trong Nam ra tăng viện cho các thành phố ngoài Bắc.

Hội nghị dành nhiều thời gian trao đổi kinh nghiệm về công tác chuẩn bị chiến đấu giữa các địa phương và bàn về cách đánh. Từ kinh nghiệm của Sài Gòn năm trước, của Hải Phòng mới đây, Tổng Chỉ huy Võ Nguyên Giáp nhắc lại và nhấn mạnh chỉ thị của Thường vụ là nhất định không để bị bất ngờ, riêng Đặc khu Hà Nội không được để tái diễn “sự kiện Hải Phòng” giữa Thủ đô. Phải làm sao giành được chủ động, phải sẵn sàng để bất ngờ tiến công địch ngay khi có lệnh nổ súng trong thành phố, thị xã kết hợp với bao vây địch, nhằm tiêu hao, tiêu diệt được sinh lực của chúng, bảo tồn được lực lượng ta, giam chân cô lập chúng trong từng thành phố càng lâu càng tốt, hạn chế khả năng tăng viện của địch giữa các khu vực.

Quá trình hướng dẫn thảo luận, Tổng Chỉ huy Võ Nguyên Giáp luôn gợi ý về những khó khăn mà từng địa phương cần được sự giúp đỡ của bộ để khắc phục, nhất là những khó khăn về bảo đảm thông tin, về phối hợp và hỗ trợ nắm tình hình địch, v.v.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Chín, 2012, 08:54:09 am
Mọi người chú ý theo dõi báo cáo của Khu trưởng Khu 11 Vương Thừa Vũ về kinh nghiệm chuẩn bị chiến đấu của Thủ đô. Hà Nội được coi là chiến trường trung tâm của cả nước khi nổ ra kháng chiến, lại ở gần Bộ trong suốt quá trình chuẩn bị chiến đấu, nên có điều kiện tiếp thu sự chỉ đạo trực tiếp của trên. Trước sự quan tâm theo dõi của cấp chỉ huy các chiến trường bạn, với đức tính khiêm nhường vốn có, anh Vũ nói:

- Được anh Văn, anh Thái và các đồng chí trên cơ quan tham mưu sâu sát giúp đỡ, suốt hai tháng qua, chúng tôi đã cơ bản hoàn thành công tác chuẩn bị. Ngày mai, các anh trên mới chính thức thông qua kế hoạch cụ thể. Có thể điều này mới được chấp nhận, điều khác phải thay đổi hoặc bổ sung thêm…

Rồi anh giới thiệu tinh thần cơ bản của kế hoạch và biện pháp tác chiến chủ yếu của Khu 11, điểm nào vận dụng được kinh nghiệm của Sài Gòn và Hải Phòng, điểm nào phải làm khác cho phù hợp với điều kiện địch, ta và địa hình của Thủ đô… Các biện pháp chuẩn bị tác chiến mà anh giới thiệu đều hướng vào hai yêu cầu mà Bộ nên lên từ đầu: một là không để bị bất ngờ, nếu địch đánh trước ta phải quật lại ngay; hai là phát huy được sức mạnh của tất cả các lực lượng Vệ quốc đoàn, tự vệ thành, công an xung phong, tiêu hao và cố gắng tìm mọi biện pháp giam chân địch càng lâu càng tốt, không cho chúng đánh rộng ra ngay từ những ngày đầu, đồng thời phải bảo toàn và phát triển lực lượng của ta để đánh lâu dài, không chỉ trong Thủ đô mà trường kỳ mãi về sau…

Tình hình khẩn trương đòi hỏi kết thúc hội nghị luôn trong ngày. Tuy thời gian ít nhưng nhiều vấn đề cụ thể được các cấp chỉ huy các chiến khu đề ra vẫn được thảo luận và được đồng chí Tổng Chỉ huy kết luận để các nơi thấy được phương hướng và biện pháp vận dụng vào điều kiện cụ thể của từng thành phố, từng chiến trường khác nhau.

Hội nghị kết thúc khi trời sắp tối. Một số cán bộ chỉ huy các khu còn nán lại để cùng các cục chuyên môn giải quyết những vấn đề cấp bách còn lại của địa phương. Đồng chí Tổng Chỉ huy và Tổng Tham mưu trưởng cũng nán lại. Các anh thấy cần gợi ý, trao đổi và hướng dẫn thêm về những vẫn đề mà cán bộ còn vướng mắc, những vấn đề cần được giải quyết ngay trong mấy ngày tới, với tinh thần hết sức khẩn trương. Với một vài khu, các anh trở lại nhiều vấn đề rất sâu. Đặc điểm địch, ta trong địa bàn sắp nổ ra chiến sự là gì, những thuận lợi cần phát huy và tận dụng, những khó khăn trước mắt và lâu dài cần khắc phục và khắc phục như thế nào để vận dụng kinh nghiệm chiến đấu của Hải Phòng, kinh nghiệm chuẩn bị chiến đấu của Hà Nội vào điều kiện cụ thể của địa phương mình… Các anh còn cho hướng dẫn và kiểm tra nhiều lần xem cán bộ các khu đã nắm vững quy ước về lệnh nổ súng mà tham mưu đã phổ biến trong hội nghị chưa?

Sau này, các anh Hoàng Minh Thảo và Lê Quang Hòa nhớ và kể lại:

- Lúc đó, chia tay với các anh trên Bộ thì trời đã tối hẳn. Hai chúng tôi quyết trở về đơn vị ngay trong đêm. Chúng tôi như được tiếp thêm nguồn sức mạnh, thêm lòng tin tưởng vào thắng lợi trong những ngày chiến đấu sắp tới, mặc dù ngay từ lúc đó đã thấy rõ sẽ đứng trước rất nhiều khó khăn, thử thách. Nhưng rõ ràng là cấp trên đã làm hết sức mình để tạo điều kiện thuận lợi cho toàn quân bước vào chiến đấu…

Hôm sau, ngày 14-12, Tổng Chỉ huy và Tổng Tham mưu trưởng cùng một số cán bộ tham mưu xuống làm việc với Bộ Chỉ huy khu 11. Ngay trong quá trình chuẩn bị kế hoạch tác chiến của Hà Nội, các anh trên Bộ đã tán thành cách đánh mà anh Vũ đặt cho cái tên nôm na là chiến thuật “cài then cửa”. Đó là cách đánh du kích trong thành phố, khi ẩn khi hiện trong từng căn nhà, từng góc phố, kết hợp phục kích của tổ, đội và bắn tỉa vào từng cá nhân, kết hợp trong đánh ngoài vây, kết hợp tiến công với phòng ngự, tiêu hao địch, ngăn chặn chúng từng bước, không cho chúng nhanh chóng đánh rộng ra vùng ngoại ô.

Hôm nay, các anh trên Bộ xuống để chính thức phê duyệt lần cuối cùng. Đó là kế hoạch sử dụng lực lượng tiến công và bao vây của 5 tiểu đoàn Vệ quốc đoàn và lực lượng tự vệ thành, kế hoạch tổ chức chiến đấu lâu dài ở Liên khu 1(1), kế hoạch bản đảm vật chất, trang bị, việc tổ chức mạng thông tin từ trong thành phố ra ngoài, dự kiến kế hoạch lui quân ra khỏi thành phố khi có lệnh v.v. Các anh cũng nghe giới thiệu những biện pháp cụ thể được áp dụng để ngăn chặn địch trong thành phố như lập vật chướng ngại (hồi đó thường gọi là baricat), đục tường giữa các căn nhà dọc từng dãy phố để cơ động lực lượng, ngả cây, lật tàu điện, tàu hỏa để chặn đường tiến của xe tăng, cơ giới địch…


(1) Theo kế hoạch tác chiến ở Thủ đô, Hà Nội được chia thành ba liên khu:
Liên khu 1 gồm 7 khu hành chính: Hoàn Kiếm, Đông Kinh nghĩa thục, Đông Thành, Đồng Xuân, Trúc Bạch, Long Biên, Hồng Hà. Ranh giới phía nam và tây nam là các đường Tràng Tiền, Hàng Khay, Tràng Thi, Cột Cờ (nay là đường Điện Biên Phủ); phía tây bắc là từ đường Cổ Ngư (nay là đường Thanh niên) tới Yên Phụ; phía bắc và đông bắc là theo hữu ngạn sông Hồng, từ Yên Phụ đến Nhà hát lớn.
Liên khu 2 là khu vực phía nam Hà Nội, phía bắc giáp Liên khu 1, phía đông theo hữu ngạn sông Hồng đến Vĩnh Tuy; phía tây dọc đường Hàng Lọng (nay là đường Lê Duẩn), Kim Liên; phía nam gồm các xã Hoàng Mai, Thanh Xuân.
Liên khu 3 ở tây và tây nam thành phố, phía bắc và đông bắc giáp Liên khu 1, phía đông giáp Liên khu 2.
Liên khu 1 được chọn làm khu trung tâm chiến đấu ở Hà Nội. Theo kế hoạch, sau mấy ngày chiến đấu đầu tiên, một tiểu đoàn sẽ lui về Liên khu 1, thu hút lực lượng địch. Ở các Liên khu 2 và 3, các tiểu đoàn khác luôn áp sát, tiến công tiêu hao địch, hỗ trợ cho tiểu đoàn Liên khu 1, thực hiện ý định “trong đánh - ngoài vây”, để kìm chân địch trong thành phố.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Chín, 2012, 08:54:38 am
Vẫn với tấm bản đồ hành chính đã được vẽ lại với những ký hiệu quân sự “chính quy hơn”, Khu trưởng Vương Thừa Vũ vừa thuyết tình bản kế hoạch của mình, vừa trả lời những vấn đề do anh Văn và anh Thái đặt ra hoặc gợi ý để cùng nhau giải quyết. Cuối cùng anh Vũ dẫn các anh đi kiểm tra một lần nữa cách bố trí và kế hoạch tác chiến của Tiểu đoàn 101 và một số đơn vị tự vệ trong Liên khu 1. Đây là một “khu phố ta”, dân cư đông đúc, ở phía bắc thành phố với những phố ngang phố dọc đan nhau phức tạp, được chọn làm nơi thu hút địch. Ta vẫn dùng cách đánh mà anh Vũ gọi là “trùng độc chiến”, nhằm thu hút, tiêu hao và giam chân địch dài ngày. Anh Vũ cũng báo cáo tình hình chuẩn bị tác chiến của các tiểu đoàn khác ở hai Liên khu 2 và 3.

Tổng Chỉ huy hài lòng thấy rằng kế hoạch trên đây được xây dựng với sự nhất trí cao giữa Chỉ huy trưởng và Bí thư Khu ủy và Chính ủy khu, giữa Bộ Chỉ huy Hà Nội và cơ quan tham mưu Bộ.

Sau khi thông qua kế hoạch tác chiến, đồng chí Tổng Chỉ huy lưu ý các anh về việc bảo vệ tính mạng của nhân dân trong thành phố, kể cả ngoại kiều. Một mặt động viên và tổ chức cho nhân dân tản cư ra khỏi thành phố càng nhiều càng tốt, nhất là người già và trẻ em, nhưng đồng thời cũng phải tìm mọi biện pháp bảo vệ tài sản và tính mạng của những người vì lý do nào đó mà còn ở lại. Trước khi ra về, anh Văn nói thêm:

- Ông Cụ chỉ thị cố giữ trong vòng vài tuần. Nhưng nếu đánh tốt, tiêu hao được nhiều sinh lực địch, phát triển được lực lượng ta thì giữ được càng lâu càng tốt. Đây không chỉ là mục đích quân sự mà còn là yêu cầu chính trị tinh thần rất lớn, rất quan trọng đối với toàn quốc, toàn dân từ Nam chí Bắc và ảnh hưởng cả đến dư luận nước ngoài.

Từ Bộ Chỉ huy Khu 11, Tổng Tham mưu trưởng về thẳng cơ quan ở ấp Thái Hà. Biết bao công việc đang chờ đợi anh lúc này.

Trừ số anh em vắng mặt vì bận đi đôn đốc việc chuẩn bị chiến đấu ở các đơn vị và địa phương, tất cả tập hợp đông đủ trong buổi sinh hoạt toàn cơ quan tối hôm đó. Qua thực tế công việc hằng ngày, mọi người đều đã biết tình hình đang hết sức khẩn trương. Do hành động khiêu khích và cố tình gây chiến của địch, ta buộc phải đối phó. Chiến tranh có thể nổ ra ngày một, ngày hai.

Sau khi thông báo tóm tắt tình hình chuẩn bị kháng chiến của các nơi, sự đóng góp của tham mưu trong quá trình chuẩn bị đó là nhiệm vụ nặng nề của cơ quan trong những ngày sắp tới, Tổng Tham mưu trưởng nhắc lại yêu cầu đặt ra đối với toàn cơ quan lúc này là phải hết sức cảnh giác, giữ bí mật, bình tĩnh và kỷ luật, đoàn kết giúp đỡ nhau khắc phục mọi khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ. Ta có thể thấy trước cuộc chiến tranh sẽ lâu dài, gian khổ. Biết bao thử thách đang ở phía trước mà lúc này chưa lường hết được. Cuối cùng, bằng một giọng xúc động, đầy thông cảm, anh Thái nói với anh chị em toàn cơ quan:

- Mỗi người chúng ta đều có một hoàn cảnh riêng. Hoàn cảnh đó phụ thuộc và sự nghiệp chung là kháng chiến, bảo vệ thành quả Cách mạng Tháng Tám, để vĩnh viễn không trở lại cuộc đời nô lệ. mỗi người chúng ta hãy làm sao cho hoàn cảnh riêng của mình phù hợp với sự nghiệp chung của dân tộc, của đất nước. Cơ quan chúng ta đã đi từ hai bàn tay trắng, đã lớn lên trải qua nhiều tháng mò mẫm từng bước. Lúc này chính là lúc đem tinh thần và trí tuệ đóng góp vào cuộc đấu trí đấu lực với kẻ địch. Là những cán bộ trong cơ quan tham mưu của toàn quân, nhân dân tin tưởng ở chúng ta, quân đội đang chờ đợi sự giúp đỡ của chúng ta. Do trách nhiệm lớn lao, dù sẽ phải trải qua những chặng đường dài khúc khuỷu, chúng ta hãy cùng chung vai gánh vác nhiệm vụ mà Đoàn thể và nhân dân tin cậy, giao phó…

Sau này, trong cuộc gặp mặt giữa một số cán bộ cũ của Bộ Tổng tham mưu nhân dịp kỷ niệm ngày kháng chiến toàn quốc, rất nhiều anh nhắc lại cuộc họp mặt khó quên ấy của cơ quan tham mưu chiến lược buổi tối 14-12 năm đó. Cuộc họp mặt hết sức ngắn gọn nhưng có tác dụng động viên sâu sắc. Nắm được tình hình, nhiệm vụ và như được tiếp thêm nguồn sức mạnh mới, từng người, từng bộ phận soát lại công tác chuẩn bị của mình và của cả phòng. Không mấy bận lòng với đồ đạc riêng vốn quá đơn sơ, nhẹ nhõm, điều quan tâm là làm sao bảo vệ được tài liệu, làm sao hoàn thành được phần công việc được giao, với vốn liếng nghiệp vụ chưa có gì gọi là đáng kể.

Trong suốt mấy ngày cuối trung tuần tháng 12, từ trung tâm Thủ đô, những báo cáo bằng giấy, bằng điện thoại liên tiếp, dồn dập được chuyển tới cơ quan tham mưu ở ấp Thái Hà. Lúc này, Hà Nội như một kho thuốc súng mà khúc dây cháy chậm đang cháy đến đoạn cuối cùng. Vụ tàn sát đồng bào ta ở Yên Ninh - Hàng Bún, những chiếc xe tăng, xe bọc thép xiết bánh trên đường phố Thủ đô…, tất cả như đang thử thách tinh thần nhẫn nại của quân và dân ta giữa lúc chúng ta đang tranh thủ từng ngày từng buổi để cố hoàn tất công tác chuẩn bị kháng chiến với khả năng cao nhất. Những hành động khiêu khích và gây chiến của quân Pháp khiến từng người trong cơ quan tham mưu biết rằng thời điểm lịch sử tất yếu sắp đến. Mọi người bình tĩnh chờ đợi và bộ máy chỉ huy, từ tác chiến, tình báo đến thông tin, mật mã tiếp tục hoạt động với nhịp độ khẩn trương nhất.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Chín, 2012, 08:56:05 am
Sau này, mọi người mới biết, chính vào những ngày nóng bỏng đó tại làng Vạn Phúc gần thị xã Hà Đông, Thường vụ Trung ương đã họp và hạ quyết tâm là: phát động cuộc kháng chiến toàn quốc.

Đường lối kháng chiến thế nào, phương châm kháng chiến ra sao, những ngày đó mấy ai trong cơ quan tham mưu đã được nghe phổ biến và quán triệt. Chỉ mãi đến sau khi được nghe Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, được nghiên cứu Chỉ thị toàn dân kháng chiến của Thường vụ Trung ương và thông qua những hoạt động thực tiễn trong cơ quan tham mưu chiến lược, nhiều vấn đề về chủ trương, đường lối mới dần dần được sáng ra đối với từng người. Tuy nhiên, có một văn kiện lịch sử mà hồi cuối năm 1946 cũng như suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp, anh em cán bộ Bộ Tổng tham mưu không được biết. Chỉ sau ngày hòa bình lập lại, đọc các tài liệu lịch sử Đảng hoặc tham quan Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, mọi người mới được biết bút tích của Bác Hồ viết chừng nửa tháng sau khi Người trở về nước sau chuyến đi thăm nước Pháp và đàm phán với giới cầm quyền ở Pari. Văn kiện mang một cái tên mộc mạc: Công việc khẩn cấp bây giờ. Thì ra, sau thất bại của Hội nghị Phôngtenơblô, với việc ký bản Tạm ước 14-9, Người đã thấy chiến tranh trước sau cũng nổ ra. Ngày 5-11-1946, chỉ bằng mấy dòng ngắn gọn, Bác đã chỉ rõ kẻ thù xâm lược ngoan cố như thế nào, cuộc kháng chiến sẽ rất gay go cực khổ, nhưng thế ta đã vững hơn trước và ngày càng vững hơn, lực ta đã đông hơn trước và ngày càng đông hơn và kháng chiến nhất định sẽ thắng lợi. Bác đã chỉ ra những việc cần làm để đi đến thắng lợi đó: Ta phải có và phải làm cho dân ta có tín tâm và quyết tâm. Phải phá hoại để ngăn địch, kiến thiết để đánh địch. Phải tổ chức du kích khắp nơi, tăng gia sản xuất khắp nơi và cuối cùng là một hình ảnh nói lên triển vọng tươi sáng của cuộc kháng chiến được Bác phác ra vô cùng rõ nét: Cố rán sức qua khỏi mùa đông lạnh lẽo thì sẽ gặp được mùa xuân.

Vào những năm sau này, trong cuộc tọa đàm nhân kỷ niệm ngày thành lập cơ quan Bộ Tổng tham mưu, đọc lại cho nhau nghe, nhớ lại và suy nghĩ, anh em cán bộ tham mưu càng thấm thía rằng lời tiên đoán kỳ diệu của lãnh tụ đã được thực tế lịch sử chứng minh qua hai mùa xuân đại thắng: Xuân 1954 với chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, giải phóng nửa nước, rồi 21 năm sau: Xuân 1975, với chiến dịch mang tên Người, Xuân thắng lợi trọn vẹn.

Đó là những gì diễn ra mấy chục năm sau. Còn giờ đây, vào cái ngày 19-12 đáng ghi nhớ này, một sự kiện đặc biệt đã diễn ra trong cơ quan tham mưu chiến lược ở ấp Thái Hà.

Sáng hôm đó, hai nhân viên mật mã Lương Dân và Hoàng Văn Đôn được lệnh mang hết tài liệu và đồ đạc cá nhân đến một phòng nhỏ (cùng ở trong khu ấp Thái Hà) sẵn sàng nhận nhiệm vụ. Hai người ăn nghỉ tại chỗ. Bên ngoài cửa, có hai chiến sĩ bảo vệ. Vào khoảng 8 giờ, đồng chí Hồ Tôn Vinh (mà sau này anh em thường gọi đùa là “chính ủy” của Phòng Mật mã) đến trao cho hai người một bức điện, có chữ Tổng Tham mưu trưởng ghi bên lề bên trái “Cần gửi đi ngay”. Bức điện được mã địch với tốc độ nhanh nhất và chuyển ngay đến đài thông tin vô tuyến ở gần đấy.

Mãi sau này, lục trong tập hồ sơ lưu trữ của Cục Cơ yếu, mới biết nội dung bức điện như sau:

“Gửi các mặt trận và các khu,

Giặc Pháp đã hạ tối hậu thư đòi tước khí giới của quân đội, tự vệ và công an ta. Chính phủ đã bác bức tối hậu thư ấy. Như vậy chỉ trong vòng 24 giờ là cùng, chắc chắn giặc Pháp sẽ nổ súng. Chỉ thị của Trung ương: “Tất cả hãy sẵn sàng”.


Ngày 19-12-1946
                                                                                                                   
Ban Thường vụ Trung ương”

Tiếp sau đó, bức điện thứ hai, chỉ gửi cho các khu 1, 2, 3, 4, 11 và Đà Nẵng, mà nội dung sau này mới được tiết lộ:

“Chuyến hàng sẽ đến lúc 18 giờ ngày 21-12-1946. Hàng mang mã hiệu A+2 và B-2. Chú ý theo dõi đón hàng đúng giờ”.

Bức điện không có người ký tên. Mọi điều quy ước đã được thống nhất giữa Tổng Tham mưu trưởng với chỉ huy trưởng các chiến khu trong cuộc họp ngày 13 vừa qua. Theo quy ước đó thì A là giờ, B là ngày. A+2 tức là 18 giờ + 2 = 20 giờ. B-2 tức là ngày 21 - 2 tức là ngày 19. Như vậy, theo bức điện, lệnh nổ súng vào 20 giờ ngày 19-12-1946. Giờ đó, ngày đó đã đi vào lịch sử của dân tộc, đánh dấu bước ngoặt từ tạm thời hoài hoãn chuyển sang kháng chiến lâu dài.

Xong nhiệm vụ dịch và chuyển điện, hai bộ phận mật mã và thông tin ở nguyên tại chỗ. Người và phương tiện chỉ lên đường hành quân rời ấp Thái Hà đến một làng cạnh đê Mai Lĩnh đêm hôm đó khi có pháo lệnh phát đi từ pháo đài Láng, mở màn cuộc kháng chiến toàn quốc.

Cũng đêm đó, một đêm thứ năm, cuối tháng 11 âm lịch, trời không trăng sao, tối và rét, toàn cơ quan tham mưu rời khu Gò Đống Đa lên đường kháng chiến. Trừ một số anh em theo xe cùng với tài liệu, thuốc men, quân trang, tất cả hành quân bộ về phía tây nam thị xã Hà Đông. Đây là chặng đường đầu tiên lên căn cứ địa Việt Bắc, cũng là chặng đường đầu tiên của 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Mười, 2012, 06:24:14 am
CHƯƠNG IV

NHỮNG BÀI HỌC VỠ LÒNG

I

Chiếc xe của đồng chí Tổng Tham mưu trưởng chạy đến đầu dốc phía nam cầu Mai Lĩnh thì dừng lại. Nơi dừng xe là điểm hẹn cuối cùng nhận báo cáo về tình hình hành quân của cơ quan đêm nay. Qua báo cáo của đội công tác(1) gặp dọc đường từ Ngã Tư Sở về Hà Đông, anh Thái đã nắm được tình hình các phòng, ban đang di chuyển về hướng tây nam thị xã.

Nghe báo cáo của đội công tác xong, anh Thái trao đổi ý kiến với chị Hán, cán bộ phụ vận của tỉnh Hà Đông, để tim hiểu thêm về địa điểm trú quân. Sau đó, anh lên xe, tựa lưng vào đệm, nhắm mắt lại. Các đồng chí lái xe và thư ký cùng đi biết rằng Tổng Tham mưu trưởng cần chợp mắt ít phút sau một ngày làm việc căng thẳng, không nghỉ. Cũng có thể anh đang suy nghĩ về công việc của cơ quan trong điều kiện cuộc kháng chiến vừa mới bắt đầu.

Nhưng chỉ mấy phút sau, anh mở cửa bước ra khỏi xe, hướng về phía Hà Nội, nhìn những chớp lửa vừa lóe lên, kèm theo những tiếng tiếng nổ vang không ngớt. Đây chính là thời điểm chờ đợi của Tổng Tham mưu trưởng. Nhưng thật khó mà phân biệt pháo địch hay pháo ta, cũng khó mà phân biết pháo từ Xuân Canh, Xuân Tảo hay từ Láng, Thủ Khôi bắn vào trong thành. Từ cuối tháng 11, bốn “pháo đài” đã được tổ chức thống nhất thành một đại đội, dưới quyền chỉ huy của Đại đội trưởng Phạm Văn Đôn.

Mấy ngày trước đây, đến kiểm tra tình hình chuẩn bị chiến đấu của bộ đội pháo binh trẻ tuổi, Tổng Tham mưu trưởng đã được nghe anh em pháo thủ ở mấy “pháo đài” suy tôn Láng là “pháo đài anh cả”. Chẳng là, bốn khẩu pháo cao xạ 75 ly ở đây đã được dồn lắp lại thành hai khẩu pháo hoàn chỉnh, có máy đo độ cao, máy tính cự ly và phát hỏa bằng pin. Cái khó không bó cái khôn. Dưới bàn tay của các thợ pháo Việt Nam trẻ tuổi, mấy khẩu “pháo trời” của Pháp trước đây đã trở thành “pháo đất” để bắn vào các mục tiêu trong thành. Anh em tin tưởng vào vai trò của “pháo đài anh cả”, nhất là sau khi được biết Bộ trưởng Quốc phòng - Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp vừa đến thăm và kiểm tra công tác chuẩn bị chiến đấu của trận địa pháo ở Láng.

Hôm đó, 5 ngày trước kháng chiến toàn quốc, là một ngày rét đậm. Đồng chí Tổng Chỉ huy ra tận trận địa, xem xét từng khẩu pháo, từng lô đạn, kiểm tra cả nơi ăn ở của đơn vị, hỏi các chiến sĩ ai đã có, ai chưa có áo trấn thủ, rồi đồng chí căn dặn: Các đồng chí cần cố gắng nghiên cứu, sáng tạo nhiều hơn nữa. Khi cần thiết, phải hạ thấp nòng pháo, bắn thẳng vào quân địch…

Giờ đây, chính hai khẩu pháo của “pháo đài anh cả” đang cùng các trận địa pháo bạn nã từng quả trái pháo vào vị trí quân Pháp trong thành phố Hà Nội.

Chiếc xe con quay đầu, đưa đồng chí Tổng tham mưu trưởng trở lại thị xã Hà Đông. Dọc đường, dưới trời mưa phùn và rét, từng đoàn người tản cư từ Thủ đô, từ thị xã Hà Đông ra, kéo nhau về hướng nam, hướng Ba La - Bông Đỏ. Hầu hết là đi bộ, người gánh, người đội, người đẩy xe thồ, người đi xe gác. Nhiều bà mẹ gánh một bên là mấy túi quần áo, cái chăn chiên cuộn tròn, đầu đòn bên kia là cái thúng, một em nhỏ ngồi lọt thỏm bên trong, dưới cái chiếu gập bốn khum làm mái che mưa. Mấy đứa lớn hơn, chạy gần theo bước chân mẹ. Phía sau lưng họ, không ngớt tiếng nổ và ánh chớp đạn pháo.

Chiếc xe của Tổng Tham mưu trưởng dừng trước Sở Địa chính ở trung tâm thị xã Hà Đông. Gặp anh Bùi Công Trừng ở cổng, anh Thái được biết các thành viên của Chính phủ vừa được nghe phổ biến Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh và những điều căn dặn của Người.

Tổng Tham mưu trưởng đến chỗ đặt máy điện thoại thường trực của Bộ Tổng tham mưu gọi đến Bộ Chỉ huy mặt trận Hà Nội. Anh nghe ràng rọt tiếng anh Vương Thừa Vũ ở đầy dây đằng kia. Từ Sở Chỉ huy mặt trận đặt gần sân bay Bạch Mai, anh Vũ báo cáo tóm tắt tình hình những giờ phút chiến đấu đầu tiên.

- Pháo bắn có chính xác không? Tổng Tham mưu trưởng hỏi.

- Báo cáo anh, khá chính xác. Lúc đầu, có một vài trái phá rơi lạc ra Cửa Đông và Cửa Bắc. Ngay sau đó, đạn đã được hiệu chỉnh lại. Anh Trân đang đến thăm và động viên chiến sĩ ở pháo đài Láng…

Về tình hình chiến đấu trong mấy giờ đầu tiên, anh Vũ cho biết chiến thuật “cài then cửa” đã phát huy hiệu lực, trước hết là ở phố Hàng Đậu. Mấy hôm chuẩn bị kế hoạch tác chiến, ta đã dự kiến đúng: khi chiến sự nổ ra ở Thủ đô, thế nào địch cũng tung một lực lượng lớn ra chiếm phố này để làm chỗ đứng chân, kiểm soát cầu Long Biên. Đội tự vệ Hàng Đậu đã đã bí mật chuẩn bị sẵn một số xe bò, chất đầy gỗ, sắt gỉ, bao cát giấu ở các phố ngang, ngõ hẻm. Vừa có lệnh chiến đấu, tự vệ đã đẩy các “xe chướng ngại vật” đồng thời hạ cây và cột đèn ngổn ngang trên mặt đường, rồi bố trí những tay súng phục sẵn trong các căn nhà gần đó. Một đoàn xe địch từ trong thành, qua Cửa Bắc, định tiến ra hướng cầu Long Biên, đã buộc phải dừng lại trước “cái cửa đã cài then”. Hai chiếc xe tăng đi đầu bắn phá dọn đường, rồi cố bò lách đến giữa phố. Một trái mìn nổ, hai chiếc xe tăng chết dí, trở thành hai ụ sắt - hai cái vật cản bổ sung cho chiếc “then cài” thêm chắc. Từ những xe sau, bọn lính mũ đỏ nhảy xuống. Giờ phút chờ đợi đã đến. Từ các vị trí ẩn nấp, các chiến sĩ tự vệ bất thình lình lao ra. Trận đánh diễn ra trong vòng ba phút. Cuối cùng, địch phải rút chạy vào trong thành…


(1) Đội công tác là tên gọi một tổ chức lâm thời, gồm những người tin cậy, tháo vát, có kinh nghiệm giao tiếp với chính quyền và đoàn thể các địa phương, biết làm công tác vận động quần chúng, được cử đi làm tiền tạm, chuẩn bị nơi dừng chân cho cơ quan sau từng chặng đường hành quân trong quá trình di chuyển từ Hà Nội lên Việt Bắc.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Mười, 2012, 06:25:50 am
Anh Vũ cho biết thêm, Bộ Chỉ huy vừa trao đổi ý kiến, nhất trí nhận định: Ta đã giành được chủ động, bất ngờ tiến công địch. Qua mấy giờ chiến đấu đầu tiên, các anh dự kiến có thể thực hiện được ý định và quyết tâm của trên, tiêu hao và kìm chân địch trong thành phố một thời gian.

Tổng Tham mưu trưởng thống nhất với Chỉ huy trưởng mặt trận: cứ hai giờ báo cáo một lần về tổng đài thường trực của Bộ ở thị xã Hà Đông. Đêm nay, anh Thái sẽ cùng một số cán bộ tham mưu túc trực ở đây để nắm tình hình chiến sự ở Thủ đô. Trước khi đặt máy, anh báo cho anh Vũ biết: sáng mai anh Văn sẽ ra cùng Bộ Chỉ huy mặt trận Hà Nội đi thăm bộ đội, thị sát chiến trường.

Mờ sáng 20-12, chiếc xe đưa Tổng Chỉ huy Võ Nguyên Giáp, phái viên Trung ương Trần Quốc Hoàn và Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái đến Sở Chỉ huy thì anh Vương Thừa Vũ đã chờ sẵn. Khu trưởng cũng vừa qua một đêm hầu như thức trắng. Anh muốn báo cáo tình hình chiến đấu đêm qua, nhưng Tổng chỉ huy cho biết cả anh và anh Hoàn đã được nghe anh Thái báo cáo đầu đủ. Các anh muốn đến thăm bộ đội ngay. Ngồi trên xe sẽ báo cáo thêm.

Xe đưa các anh trở lại Ngã Tư Sở rồi lên hướng Khâm Thiên. Một xe khác đưa Tổng Tham mưu trưởng lên hướng pháo đài Láng.

Sau khi thăm hỏi và kiểm tra tình hình chuẩn bị chiến đấu của mấy đơn vị dọc đường Khâm Thiên, đến quan sát vị trí địch ở khu Nhà dầu Sen, anh Văn cùng anh Hoàn, anh Vũ quay về thăm đơn vị bộ đội đang chuẩn bị chiến đấu ở phố Hàng Bột. Không khí lạc quan tin tưởng của các chiến sĩ trẻ biểu thị quyết tâm chiến đấu khiến các anh yên tâm.

Mãi gần trưa, các anh mới trở về đến Sở Chỉ huy mặt trận.

Trao đổi ý kiến với anh Nguyễn Văn Trân và anh Trần Độ về tình hình chiến đấu ở các khu vực khác trong thành phố, các anh tỏ ra hài lòng về tình hình bộ đội và tự vệ, hài lòng về hiệu suất chiến đấu trong ngày đầu tiên. Ta đã chọn được cách đánh linh hoạt, phù hợp với thế bố trí xen kẽ trong lòng Thủ đô, phù hợp với lực lượng so sánh, buộc địch phải đối phó một cách bị động. Các anh dự kiến quân ta còn có thể kéo dài trận chiến đấu bên ngoài một vài ngày, trước khi chủ động rút vào Liên khu 1.

Mãi sau này, chúng ta mới có điều kiện đọc những lời thú nhận của tướng lĩnh Pháp về cảnh bị động đối phó trước đòn tiến công bất ngờ và đồng loạt của quân ta đêm 19-12-1946. Hai mươi lăm năm sau, trong tập Hồi ký xuất bản năm 1971, tướng Pháp Raun Salăng (Raoul Salan) còn nhắc lại tình hình quân Pháp đã trải qua “một nỗi kinh hoàng bao trùm toàn thành phố” đêm đó, khi mà “việc chi viện của cơ giới và thiết giáp trở nên khó khăn” không thể ứng cứu kịp thời cho quân Pháp ở những nơi cuộc chiến đấu ác liệt đang diễn ra, khiến cho mỗi vị trí, mỗi đơn vị, mỗi căn nhà đều bị cô lập trong nhiều giờ, không có sự chỉ huy của cấp trên. Điều đó giải thích vì sao, mới chỉ qua một đêm chiến đấu, sáng ngày 20, tại đại bản doanh ở Sài Gòn, Tổng Chỉ huy Pháp Valuy đã phải tung ra một bản nhật lệnh, kêu gọi quân đội Pháp ở Bắc Đông Dương hãy “cùng nhau nghiến răng chịu đựng trước cuộc xung đột đang diễn ra ác liệt”.

Tổng Tham mưu trưởng đến pháo đài Láng thì trời đã sáng hẳn. Sau khi báo cáo tình hình chiến đấu đêm qua, Trung đội trưởng Nguyễn Ưng Gia nói với anh Thái:

- Báo cáo anh, thật quý giá vô cùng tấm bản đồ 1/25.000 mà Bộ đã kịp thời gửi cho chúng tôi. Nếu không có nó thì… Tổng Tham mưu trưởng nói ngay:

- Đó là nhờ tinh thần làm việc của anh em đồ bản trên Cục Giao thông công binh, lại nhờ sáng kiến của bác Hoàng Đạo Thúy. Được tin anh em pháo binh không có bản đồ, các anh ấy sục đi tìm, chỉ được một bản “nguyên đồ” thành Hà Nội. Có người nghĩ rằng muốn vẽ và in lại, phải mất mấy tháng. Bác Thúy cho cắt ra làm 16 mảnh, chia cho mỗi người sao lại một mảnh, hẹn ngày giờ phải xong. Anh em làm không nghỉ, cuối cùng khớp lại rồi cho in ngay mới kịp gửi cho các đồng chí. Bộ phận đồ bản đã góp công đầu vào thành tích chiến đấu của pháo binh đêm qua.

Sau khi kiểm tra tình hình các khẩu đội, Tổng Tham mưu trưởng căn dặn Trung đội trưởng Nguyễn Ưng Gia và các pháo thủ:

- Đêm đầu tiên, địch bị bất ngờ đến đối phó chệch choạc. Nhưng những ngày sắp tới, nhất định chúng sẽ bắn phá dữ dội. Cuộc chiến đấu sẽ gay go, ác liệt. Để thực hiện được chủ trương của trên giam chân địch dài ngày trong thành phố, các đồng chí phải tích cực đề phòng, phải giữ được người, bảo vệ được pháo, để đánh lâu dài, đánh tốt.

Anh Thái chỉ ra những việc cần làm ngay, như ngụy trang trận địa pháo, đào thêm công sự. Anh hướng dẫn anh em làm trận địa giả, bện bù nhìn rơm để nghi binh, lừa địch…

Tổng Tham mưu trưởng trở về khu vực đứng chân của cơ quan tham mưu ở bên kia cầu Mai Lĩnh thì trời đã gần tối. Những bộ phận cuối cùng của cơ quan cũng đã từ Đại Mỗ, Tây Mỗ di chuyển đến địa bàn huyện Chương Mỹ. Nghe xong báo cáo về tình hình di chuyển cơ quan đêm qua, anh nói với đội công tác và anh Vũ Văn Hà, phụ trách công tác chính trị:

- Các bộ phận không nên phân tán quá xa nhau, nhất là các phòng, ban có liên quan đến việc chỉ đạo, chỉ huy. Ví dụ bộ phận mật mã quá xa nơi ăn ở của Tổng Tham mưu trưởng là chuyện bất tiện, nhất là khi cơ quan đang quá trình di chuyển, mạng điện thoại nội bộ cũng không đủ dây để triển khai. Hai là vấn đề giữ bí mật. Đồng bào vừa cảnh giác, vừa có lý khi đặt vấn đề nghi vấn là bộ đội gì lại không có súng mà anh nào anh nấy đều trắng trẻo như thư sinh cả? Anh Hà cần bàn thêm với đội công tác và trao đổi thêm với các đồng chí địa phương về bảo đảm bí mật. Như đồng chí nào đó công nhận một cách dễ dàng mình là người “phóng văn lình”(1), cũng tức là tự nhận ràng mình thuộc cơ quan chỉ huy cấp này cấp kia rồi đấy…

Trước khi chia tay, anh Thái nói riêng với anh Hà: Cơ quan sẽ dừng lại ở vùng Chúc Sơn ít ngày, rồi sẽ lên đường, có thể trước Tết. Mọi việc chuẩn bị nơi ăn ở và làm việc hiện nay cũng như ở địa điểm sắp tới cần tiến hành chu đáo, tránh tạm bợ. Cần bàn với anh Trang, quản lý, bảo đảm cho anh em vừa làm việc vừa ăn cái Tết kháng chiến đầu tiên được an toàn, vui vẻ. Với rất nhiều anh em, đây là cái Tết đầu tiên xa nhà. Mặt khác, cần chú ý làm tốt công tác dân vận, vừa đảm bảo bí mật cơ quan, vừa xây dựng tốt mối quan hệ quân dân đoàn kết…


(1) Lính văn phòng (nói lái).


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Mười, 2012, 06:28:04 am
II

Cuộc hội ý giữa tổng Tham mưu trưởng với các trưởng phòng tối 20-12 là cuộc họp đầu tiên của cơ quan tham mưu, một ngày sau khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ.

Anh Thái thông báo tình hình đã nắm được về cuộc chiến đấu của quân và dân Thủ đô. Ngay từ đầu, các đơn vị chiến đấu tốt. Liên lạc bảo đảm giữa các đơn vị trong nội thành, chủ yếu là liên lạc chạy bộ. Các cháu thiếu niên quen thuộc đường ngang ngõ tắt trong thành phố đã đóng vai trò quan trọng trong việc này. Ta dự kiến kéo dài cuộc chiến đấu ở bên ngoài một số ngày, sau đó sẽ đưa lực lượng vào Liên khu 1 theo kế hoạch đã định để thu hút binh lực địch, thực hiện trong đánh ngoài vây, kìm chân quân địch dài ngày trong thành phố. Qua điện thoại, Tiểu đoàn trưởng 101 đã nhận được chỉ thị bổ sung cần thiết cả về tác chiến và xây dựng lực lượng chiến đấu và bảo toàn lực lượng, bảo vệ nhân dân, tiết kiệm đạn dược, sẵn sàng đưa đơn vị vào chiến đấu trong Liên khu 1 khi có lệnh. Phòng Tình báo cần kiểm tra lại việc nắm địch của các cơ sở cài lại trong thành phố, đề phòng đứt mối tin tức. Phòng Tác chiến cần thông báo kịp thời tình hình ở các thành phố khác cũng như trên các chiến trường toàn quốc, chuyển đạt lệnh của Bộ đôn đốc các nơi đẩy mạnh hoạt động phối hợp với Hà Nội, nhất là ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng, không cho chúng tiếp viện cho Hà Nội. Phòng Nhân sự và Phòng Tác chiến cần dự kiến đề đạt thêm lực lượng bổ sung để tăng cường sức ép, phối hợp với Tiểu đoàn Liên khu 1, thực hiện trong ngoài cùng đánh.

Trả lời Tổng Tham mưu trưởng về trận tập kích sân bay Gia Lâm do Ban Tình báo Gia Lâm chuẩn bị, anh Bùi Huy Bê cho biết: Phòng 2 chưa nhận được tin tức nhưng trận đánh đã không diễn ra đêm qua, chưa rõ lý do vì sao(1). Theo chỉ thị của Tổng Tham mưu trưởng, cùng với việc ổn định nơi ăn ở và làm việc tại Chúc Sơn, các phòng nhanh chóng tập trung vào theo dõi tình hình chiến sự trong cả nước, đã nắm được diễn biến trên các chiến trường, trước hết là mặt trận Hà Nội.

Sau năm ngày chiến đấu, các đồng chí Nguyễn Văn Trân, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Khu 11, Vương Thừa Vũ, Khu trưởng và Trần Độ, Chính trị viên mặt trận Hà Nội, được triệu tập về Vạn Phúc để báo cáo và nhận chỉ thị mới. Cùng dự họp, còn có đồng chí Đỗ Đức Kiên mới được điều về tăng cường cho mặt trận Hà Nội.

Sau khi báo cáo tình hình chiến đấu của quân, dân Thủ đô mấy ngày qua, trong đó nổi lên là các trận đánh ở Bắc Bộ phủ, trên đường Ngọc Hà, trên dọc đê Thanh Nhàn, đồng chí Chỉ huy trưởng Vương Thừa Vũ nói:

- Trải qua mấy ngày chiến đấu đầu tiên, chúng ta đã thực hiện tốt yêu cầu kìm chân địch trong thành phố. Đến đêm 23, chúng ta đã hoàn thành thế trận mà chúng tôi gọi là “trùng độc chiến”. Các lực lượng thuộc Liên khu 1 cụm lại trong trung tâm thành phố, nằm gọn trong lòng địch để thu hút và tiêu hao lực lượng của chúng. Lực lượng các Liên khu 2 và 3 đã nới dần ra các cửa ô, tiến công và ngăn chặn địch không cho chúng nhanh chóng đánh rộng ra. Phía Hàng Bột, Khâm Thiên, đê Đại La là Tiểu đoàn 523; phía Cầu Dền, Thanh Nhàn là Tiểu đoàn 77; phía Đông Mác, Vĩnh Tuy là Tiểu đoàn 56 (mới được bổ sung); phía Kim Mã, Quần Ngựa, Yên Phụ là Tiểu đoàn 145. Tiểu đoàn 212 là đội dự bị của mặt trận, đứng chân ở khu vực Hàn Lâm, Quỳnh Mai. Các tiểu đoàn 56 và 145 đã được lệnh phái một bộ phận bí mật vào nội thành hoạt động thu hút lực lượng địch, hỗ trợ cho Tiểu đoàn 101 trong Liên khu 1.

Đồng chí Tổng Chỉ huy Võ Nguyên Giáp nhắc lại nhiệm vụ chiến đấu của Mặt trận Hà Nội trong giai đoạn 2(2), nhằm tiếp tục tiêu hao và giam chân quân địch trong thành phố. Sau đó, đồng chí công bố quyết định về tổ chức chỉ huy trong tình hình mới. Để thống nhất chỉ huy và tăng thêm sức mạnh chiến đấu của quân dân Thủ đô, Bộ quyết định sáp nhập Khu 11 vào Khu 2. Mặt trận Hà Nội (cùng với Hà Đông, Sơn Tây) trở thành tiền phương của Khu 2. Đồng chí Vương Thừa Vũ được chỉ định làm Khu phó Khu 2 kiêm Chỉ huy trưởng Mặt trận tiền phương. Đồng chí Trần Độ làm Phó Chính trị ủy viên Khu 2. Đồng chí Đỗ Đức Kiên làm Chính trị ủy viên mặt trận tiền phương.

Anh Thái hỏi ngay các anh trong Bộ Chỉ huy Hà Nội:

- Tổ chức lại như thế, các anh thấy thế nào?

Anh Nguyễn Văn Trân trả lời ngay:

- Rất tán thành! Hoàn toàn nhất trí!

Theo phong cách riêng, “rất Trần Độ”, anh Độ vui vẻ tiếp lời:

- Phấn khởi lắm! Tôi xin biểu quyết cả hai tay1

Tổng Tham mưu trưởng quay sang anh Vũ:

- Còn anh, anh cũng nhất trí chứ?

Anh Vũ gật gật cái đầu húi “cua”, nói:

- Vâng, vâng! Nhất trí như anh Trân, anh Độ…


(1) Sau này, qua hồi ký của đồng chí Lê Minh Nghĩa (viết cho ban Tổng kết và viết sử Bộ Tổng tham mưu) và qua bài viết của đồng chí Đặng Viết Châu (báo Quân đội nhân dân, ngày 4-12-1984), được biết: đêm 19-12-1946, trận đánh sân bay Gia Lâm không thực hiện được vì không chuẩn bị kịp. Khi tiếng súng bên Hà Nội nổ, địch ở Gia Lâm tăng cường tuần tiễu, yếu tố bất ngờ không còn, ta phải rút lực lượng ra. Mãi đến trước Tết Đinh Hợi (22-1-1947) ta mới thực hiện được trận tập kích đầu tiên vào sân bay Gia Lâm, phá được hai máy bay địch.
(2) Giai đoạn 2 bắt đầu từ ngày Tiểu đoàn 101 chuyển vào chiến đấu thu hút địch trong Liên khu 1, các lực lượng ở các Liên khu 2 và 3 dãn dần ra phía các cửa ô, thực hiện chủ trương “trong đánh ngoài vây”.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Mười, 2012, 06:29:31 am
Sau này anh Vũ cho biết: Thực tế chiến đấu cho thấy thống nhất chỉ huy là một quyết định sáng suốt, phù hợp với tình hình mới. Nhờ tổ chức chỉ huy mới này mà mặt trận Hà Nội không những có đủ lực lượng trực tiếp chiến đấu mà còn có một địa bàn rộng lớn làm hậu phương, để xoay xở, có thêm lực lượng dự bị hùng hậu của các tỉnh Hà Đông, Sơn Tây, Hòa Bình, Hà Nam. Nói cách khác, những đơn vị chủ lực của toàn Khu 2 có thể luân phiên nhau vào tham gia chiến đấu ở các cửa ô Hà Nội và vùng ngoại vi. Rõ ràng là thế của ta thêm vững, lực của ta thêm mạnh, ta có thêm khả năng chiến đấu giam chân địch dài ngày trong thành phố.

Mười ngày chiến đấu qua đi khá nhanh. Quân ta đã vượt quá yêu cầu về thời gian mà Bác Hồ chỉ thị cho cuộc chiến đấu bảo vệ Thủ đô.

Tối 27-12, anh Thái được anh Văn gọi sang để cùng nhau nhận định tình hình, chuẩn bị cho cuộc họp với Bộ Chỉ huy Mặt trận Hà Nội, dự kiến vào ngày hôm sau.

Đánh giá tình hình chiến sự ở Thủ đô, hai anh nhận thấy: Trải qua 10 ngày, quân ta vẫn ghìm được địch trong nội thành. Chúng chưa bén mảng được đến các cửa ô. Trận địa trụ bám trong Liên khu 1 đã tỏ ra vững chắc. Một tuần lễ qua, địch không mở được cuộc tiến công nào vào Liên khu 1 mà chỉ hình thành thế bao vây bằng cách rải quân ra đóng thêm một số vị trí bên ngoài liên khu. Nhưng vành đai của địch quanh Tiểu đoàn 101 cũng không vững chắc vì vừa bị đánh phía trước, vừa bị các đơn vị của Liên khu 2 và 3 đêm đêm đánh thúc sau lưng, khiến chúng phải bị động đối phó trên nhiều hướng. Thế trận giằng co đó có lợi cho ta, nó tạo điều kiện thuận lợi để quân ta thực hiện chủ trương giam chân địch trong thành phố càng lâu càng tốt. Tuy nhiên, đồng chí Tổng Chỉ huy dự kiến tình hình sẽ thay đổi. Địch sẽ cố gắng tăng viện cho Hà Nội để quân Pháp ở đây thoát khỏi thế bất lợi, tránh được tình thế phải đối phó lúng túng như hiện nay. Đồng chí nhắc cơ quan tham mưu cố nắm tình hình ở các thành phố khác. Tin tức vừa ít vừa không cụ thể khiến cho việc phán đoán và chỉ đạo chung trở nên khó khăn.

Cuộc họp với các anh Vương Thừa Vũ và Đỗ Đức Kiên diễn ra ngắn gọn buổi sáng hôm sau, 28-12. Sau khi thống nhất nhận định tình hình và dự kiến chiến sự phát triển trong những ngày sắp tới, đồng chí Tổng Chỉ huy căn dặn các đồng chí chỉ huy Mặt trận Hà Nội:

- Để bao vây và khống chế Liên khu 1 có hiệu quả, rồi đây có khả năng địch sẽ mở những cuộc tiến công lớn ra ngoại ô. Yêu cầu đặt ra với quân ta là vừa phải tiêu hao thật nhiều địch trong và ngoài Liên khu 1, vừa phải chuẩn bị kế hoạch và lực lượng để mở rộng mặt trận, vừa ngăn chặn địch có hiệu quả nhất khi chúng đánh rộng ra, vừa phải bảo toàn và phát triển lực lượng để chiến đấu lâu dài.

Sau đó, Tổng Chỉ huy và Tổng Tham mưu trưởng cùng anh Vũ, anh Kiên bàn những biện pháp cụ thể để bộ đội có thể tiếp tục bám trụ trong thành phố và nhất là dự kiến thời điểm có thể kết thúc trận chiến đấu trong nội thành, lui quân lên phía bắc.

Qua cuộc họp, điều băn khoăn đối với Tổng Tham mưu trưởng và các cơ quan nghiệp vụ là tin tức các chiến trường trong cả nước nhận được không đều và chậm. Nửa tháng đã trôi qua, vậy mà những bức điện gửi đi và nhận được vẫn chưa giúp cho cơ quan tác chiến tổng hợp được diễn biến chính của chiến sự tại các chiến trường trong cả nước.

Qua điện báo của các nơi, một điều khiến cơ quan tham mưu chú ý là thời điểm các nơi nhận được lệnh và bắt đầu nổ súng không được thống nhất như dự kiến(1). Điều đó nói lên những khó khăn và ấu trĩ của ta trong công tác thông tin liên lạc và tổ chức chỉ huy nhằm đảm bảo cho bộ đội có thể đồng loạt nổ súng tiến công đúng thời gian quy định trong mệnh lệnh ngày 19-12. Rõ ràng là ở nhiều nơi, thông tin liên lạc chậm chạp và tổ chức chỉ huy có điểm không hợp lý, bộ đội không được chuẩn bị và sửa soạn đầy đủ từ trước.

Mặc dù vậy, trên nhiều chiến trường, quân ta đã thực hiện được yêu cầu đánh trước, đã giữ được trận địa và uy hiếp định trong một thời gian trên khắp các mặt trận, nổi lên là Nam Định, Hải Dương, Bắc Ninh, Bắc Giang và Vinh.

Tại Hải Dương, sau ba ngày chiến đấu trong thành phố và dọc đường 5, địch mới chiếm được thị xã và nối liền trục đường Hải Phòng - Hải Dương. Quân Pháp buộc phải đầu hàng ta ở Vinh, phải bỏ hai thị xã Bắc Ninh, Bắc Giang, chạy về Hà Nội. Tại Nam Định, không những quân ta liên tục tiến công địch trên bộ và trên sông, đánh bại nhiều cuộc phản kích của chúng, giữ được nhiều vị trí xung yếu trong thành phố, mà còn làm thất bại cuộc hành quân giải tỏa quy mô lớn của quân dù và nhiều thủy đội xung kích (dinassaut) của địch ngược sông Hồng kéo đến hòng giải vây cho đồng bọn trong thành phố.

Qua nghe báo cáo tổng hợp bước đầu về thành tích và những thiếu sót của các nơi qua máy tuần chiến đấu, Tổng Tham mưu trưởng cùng các đồng chí trưởng phòng Tác chiến và Tình báo thống nhất nhận định rằng: vừa qua, bộ đội trên cả nước không hoàn toàn giành được bất ngờ và chủ động đồng loạt tiến công địch theo đúng kế hoạch của trên. Có thể kế hoạch thiếu tỷ mỉ, cán bộ chỉ huy chưa nghiên cứu quán triệt đầy đủ, việc hướng dẫn thực hành chiến đấu chưa cụ thể, thông tin không bảo đảm thông suốt để các phân đội cơ sở sẵn sàng nổ súng khi có lệnh.

Đối với cơ quan tham mưu chiến lược, đó là những bài học vỡ lòng rút ra từ cuộc Tổng giao chiến(2).


(1) Mà ít ngày sau cơ quan tham mưu mới biết thời gian nổ súng của các địa phương như sau: Hải Dương: khoảng 22 giờ ngày 19-12; Nam Định: 0 giờ 30 ngày 20-12; Vinh: 01 giờ ngày 20-12; Huế: 2 giờ 30 ngày 20-12; Bắc Ninh, Bắc Giang: 03 giờ ngày 20-12; Hải Phòng, Đà Nẵng và Nam Bộ: trong ngày 20-12.
(2) “Tổng giao chiến” là cụm từ mà sau này đồng chí Võ Nguyên Giáp dùng khi viết hồi ký. Còn hồi đó, cơ quan tham mưu thường gọi là cuộc chiến đấu trong thành phố và thị xã.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Mười, 2012, 06:30:05 am
III

Trung tuần tháng 1-1947, Thường vụ Trung ương chỉ đạo Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy triệu tập hội nghị quân sự toàn quốc tại Chúc Sơn, huyện lỵ Chương Mỹ. Đây là lần đầu tiên Bộ Tổng tham mưu được giao nhiệm vụ tổ chức một hội nghị lớn trong điều kiện thời chiến, ngay trên một địa bàn cách xa địch không đầy 20 kilômét đường chim bay. Mối quan tâm hàng đầu mà trên nhấn mạnh khi giao nhiệm vụ cho anh Thái và các đồng chí Văn phòng Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy là làm sao bảo đảm bí mật và an toàn cho hội nghị, nhất là về phòng không.

Tham gia hội nghị quan trọng này gồm có cán bộ chỉ huy cấp khu và một số cán bộ trung đoàn tại Khu 4 trở ra, một số cán bộ thuộc Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy, trong đó có nhiều cán bộ cấp phòng thuộc Bộ Tổng tham mưu. Hội nghị họp trong 5 ngày (12-16 - 1-1947). Hồi đó cán bộ tham mưu chúng tôi thường gọi là Hội nghị Chúc Sơn, còn văn bản sau này gọi là Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ nhất. Tầm quan trọng của hội nghị không phải chỉ là rút những bài học đầu tiên về chỉ đạo tác chiến sau ba tuần đầu của cuộc Tổng giao chiến mà còn quyết định nhiều vấn đề ở tầm chiến lược trong quá trình chuyển gấp đất nước từ thời bình sang thời chiến, cả về chiến đấu và xây dựng trên các mặt quân sự, chính trị và cung cấp; kháng chiến và quả trị hành chính; quân sự và dân sự…

Trong báo cáo đọc tại hội nghị, Tổng Chỉ huy Võ Nguyên Giáp nêu lên những thành tích mà quân và dân ta đã đạt được trong việc thực hiện nhiệm vụ chiến lược trong gần một tháng chiến đấu vừa qua và vạch ra những mặt yếu kém cần khắc phục về mặt tổ chức chỉ huy, về cách đánh của bộ đội. Đồng chí dự kiến: sau khi được tăng viện, quân địch sẽ đẩy mạnh hoạt động quân sự, phản công và tiến công ta, đi đôi với những âm mưu chính trị và chính sách “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”. Bộ đội ta phải nắm vững nguyên tắc chỉ đạo tác chiến nhằm đánh bại chủ trương chiến lược của địch trong thời gian tới. Cụ thể là: “Tránh mũi dùi của chủ lực địch để bảo toàn chủ lực của ta và duy trì sức chiến đấu của bộ đội; phát động chiến tranh du kích, phối hợp trận địa chiến với du kích chiến, phong tỏa không cho địch phát triển vị trí và tiến quân mau lẹ; tập trung lực lượng, tiêu diệt từng toán quân lẻ tẻ của địch, tiêu hao lực lượng của chúng để luôn luôn chiếm giữ phần thắng lợi, nhằm động viên quân dân cả nước duy trì cuộc kháng chiến lâu dài cho tới khi giành được phần thắng lợi cuối cùng”.

Riêng về mặt quân sự, với những kinh nghiệm đầu tiên rút ra từ mấy tuần chiến đấu vừa qua, hội nghị tập trung thảo luận về tổ chức và biện pháp nắm địch, tổ chức chỉ huy, công tác chính trị, huấn luyện bộ đội, công tác cán bộ, các mặt bảo đảm vật chất chiến đấu, công tác phá hoại giao thông và viện hoàn thiện chuẩn bị cho nhân dân chuyển hẳn vào thời chiến.

Trong hội nghị này, đại biểu các địa phương và đơn vị đặc biệt theo dõi kinh nghiệm chiến đấu của Hà Nội, những kinh nghiệm vừa tác chiến vừa xây dựng và phát triển lực lượng ngay trong lòng địch, dưới tầm súng các cỡ của chúng. Với thành tích và kinh nghiệm của mình, bộ đội Vệ quốc đoàn và tự vệ thành Hà Nội được Tổng chỉ huy biểu dương khi đồng chí công nhận Trung đoàn Liên khu 1 (vừa được thành lập ngày 7-1-1947) và tặng trung đoàn danh hiệu “Trung đoàn Thủ đô”.

Tổng Tham mưu trưởng nói:

- Hội nghị đã yêu cầu, đề nghị anh Vũ cứ nói lại những kinh nghiệm chiến đấu gần đây nhất cho anh em nghe…

Bằng một giọng trầm trầm, khi chậm rãi, khi sôi nổi hào hứng, đồng chí Vương Thừa Vũ nói đến những khởi nghĩa mà anh cho là tâm đắc nhất, rút ra từ các trận Khâm Thiên, Hàng Bột, Kim Mã cuối tháng 12-1946, các trận Thụy Khê, Liễu Giai, Thanh Nhàn, Vĩnh Tuy, Giảng Võ, đầu tháng 1-1947. Đó là những điển hình thành công và không thành công của mặt trận Hà Nội mà anh phân tích rõ nguyên nhân, với tinh thần tự phê bình của người chỉ huy cao nhất trước những yếu kém và thiếu sót của mình. Cuối cùng anh nhận xét:

- Trải qua hơn ba tuần chiến đấu, từ đêm nổ súng đến khi Trung đoàn Thủ đô ra đời, bộ đội và tự vệ Liên khu 1 và Hà Nội nói chung, đã trưởng thành rõ rệt. Từ phòng ngự đơn giản, rải quân trong các hố chiến đấu riêng lẻ, anh em đã tiến tới có chiến hào, giao thông hào, liên kết với nhau để cơ động. Từ chỗ chỉ biết phòng ngự phía trước mặt, anh em đã biết đề phòng bên sườn, phía sau, đã biết tổ chức và sử dụng lực lượng dự bị. Qua các trận chiến đấu, anh em đã biết vận dụng nhiều cách nhử địch, nghi binh, lừa địch và tìm ra cách đánh thích hợp với nhiệm vụ ngăn chặn, phù hợp với trình độ tác chiến của ta. Địch tiến đánh ta, anh em kiên quyết đánh chặn từng bước, đánh trước mặt và đánh tạt sườn, làm cho chúng mệt mỏi và bị tiêu hao từng ngày… Chúng tôi đã cùng các cán bộ nhiều lần họp bàn cách bố trí thế trận mới, nhằm thực hiện chỉ thị của Bộ là đánh tốt, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giam chân chúng thêm một thời gian nữa mà ta vẫn bảo toàn và phát triển được lực lượng để kháng chiến lâu dài…


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Mười, 2012, 06:32:02 am
Ngừng một lát, anh Vũ nói tiếp:

- Việc thành lập trung đoàn, chúng tôi trong Bộ Chỉ huy đã bàn bạc rất thận trọng, cân nhắc mọi mặt. Cuối cùng, nhận thấy chỉ có thống nhất lực lượng mới thống nhất chỉ huy, mới tăng thêm được sức mạnh để giam chân địch dài ngày. Chúng tôi báo cáo lên trên và được Bộ chấp nhận cho thành lập trung đoàn tuần trước, trước khi chúng tôi về dự hội nghị này. Chúng tôi vừa nhận được báo cáo cho biết sau khi nghe cấp trên tặng danh hiệu Trung đoàn Thủ đô cho bộ đội Liên khu 1, cả mặt trận Hà Nội rất phấn khởi. Tôi thầm nghĩ: trên đã khéo chọn danh hiệu cao quý ấy để tặng cho Trung đoàn Liên khu 1. Thật khó tìm được cái tên nào xứng đáng hơn. Ngày may, 14-1, đội cảm tử của trung đoàn sẽ được thành lập và làm lễ tuyên thệ. Thực tế cho thấy, phương châm chỉ đạo của trên “vừa tác chiến vừa xây dựng và phát triển lực lượng” để càng đánh càng mạnh thật là sáng suốt…

Trong giờ giải lao, nhiều đại biểu đến hỏi thăm anh Vũ những chi tiết về Trung đoàn Thủ đô. Anh cho biết ngoài lực lượng nòng cốt là tự vệ công nhân, những người đã lớn lên từ những ngày Tổng khởi nghĩa và những ngày đầu bảo vệ chính quyền non trẻ, trung đoàn còn bao gồm nhiều thành phần khác nhau: nam có, nữ có, rồi nhà báo, nhà thơ, nhạc sĩ, nghệ sĩ nhiếp ảnh và cả cầu thủ bóng đá. Tuổi trung bình 22 - 25, nhưng cũng có khá nhiều em thiếu niên như Trần Xuân Tám, Nguyễn Văn Phúc, Trang Công Lũy, Phụng “còi”, Sơn “con”. Những chú bé 10 -15 tuổi ấy đã gắn bó với đơn vị từ những ngày đầu. Trong chiến đấu ác liệt, chính nhờ những “con sóc” ấy mà đường dây liên lạc chỉ huy không bao giờ đứt…

Trở lại hội nghị, một vấn đề được thảo luận sôi nổi là vũ khí. Mọi người đểu nhất trí với chủ trương của Bộ là cần tổ chức ở mỗi khu một ty quân giới để chuyên lo tìm nguyên liệu và sản xuất vũ khí, lo việc điều chỉnh dần dần các loại súng giống nhau tập trung vào một đơn vị. Mọi người cùng nhất trí phải coi trọng chế tạo vũ khí thô sơ, gồm cả cung tên, đại đao, súng kíp. Nhưng điều khiến hội nghị quan tâm là làm sao có một loại súng nào đó để đánh xe tăng, cơ giới địch.

Chủ tọa hội nghị, đồng chí Võ Nguyên Giáp, mời anh Trần Đại Nghĩa lên phát biểu về vấn đề này. Nhà khoa học đứng lên, vẻ như mất tự nhiên. Anh xa Tổ quốc đã lâu ngày, mới về được mấy tháng thì chiến tranh bùng nổ. Nhiều từ ngữ khoa học - kỹ thuật anh diễn đạt bằng tiếng Việt rất khó khăn. Vì vậy anh rất ngại phát biểu trước đông người, nhất là trong một hội nghị mà số đông là cán bộ chỉ huy hay chưa hề quen biết. Nhưng rồi được hội nghị vỗ tay khích lệ, anh mạnh dạn nói lên những điều suy nghĩ của mình về công việc của Cục Quân giới trong thời gian qua.

Anh cho biết, vừa được chính thức giao chức Cục trưởng Quân giới chừng hai tuần (cụ thể là từ ngày 5-12) thì cả nước bước vào cuộc kháng chiến. Việc thí nghiệm bazôca chưa thành công là điều khiến anh canh cánh trong lòng. Nhưng trước mắt, phải chỉ đạo và đôn đốc việc di chuyển các nhà máy lên chiến khu, tổ chức các xưởng quân giới theo yêu cầu nhiệm vụ mới, phải chuẩn bị nguồn nguyên liệu cho sản xuất vũ khí lâu dài. Bước đầu, để bộ đội có thứ vũ khí đánh được xe tăng, cơ giới địch, ngay khi về cục, anh đã cho sản xuất và hướng dẫn cách dùng “chai cháy Môlôtốp”, còn gọi là chai xăngcrếp, xung quanh có bọc Cloratkali. Đây là một thứ vũ khí thô sơ đánh chiến xa có hiệu quả nhất định trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Để đánh xe tăng trong thành phố, người chiến binh từ trên tầng cao ném chai xăngcrếp xuống xe địch. Chất hỗn hợp bám dính trên vỏ thép và bốc cháy. Nhiệt độ trong xe tăng lên rất cao, khiến cho lính địch ở trong không chịu nổi phải mở nắp chui ra, đó là cơ hội tốt để tiêu diệt chúng bằng súng bộ binh. Cách đánh này đã được áp dụng trong các trận chiến đấu ở Thủ đô vừa qua. Nhân dân phố Hàng Da và Hà Trung đã ủng hộ nguyên vật liệu để Cục Quân giới chế tạo loại vũ khí này. Nhờ vậy mà chỉ trong ít ngày trung tuần tháng 12 vừa qua, trước khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, hàng ngàn chai xăngcrếp đã được đưa về cho các đơn vị.

Bộ đội có vũ khí thô sơ để đánh xe tăng rồi - tuy số lượng chưa nhiều, nhưng lúc này đạn bazôca của ta sản xuất vẫn chưa thành công khiến Cục trưởng Quân giới vẫn day dứt khôn nguôi. Anh Trần Đại Nghĩa nhớ và kể lại, vào một ngày cuối tháng 12, anh gặp một chiến sĩ Vệ quốc quân từ mặt trận Hà Nội ra. Được biết anh là Cục trưởng Quân giới, anh lính trẻ nói một hơi không nghỉ, vẻ tiếc nuối:

- Lẽ ra chúng em đã cho thằng Moóclie(1) đi đời rồi. Hắn vừa từ nhà riêng ở phố Hàng Trống đi ra, một cậu bắn tỉa nổ súng, súng bị tắc. Chúng em ném tiếp mấy quả lựu đạn, không quả nào nổ. Một cậu tức quá, bất chấp nguy hiểm, lao ra đường, ném thêm quả lựu đạn thứ năm. Lựu đạn nổ nhưng chiếc xe bọc thép của hắn đã chạy quá tầm. Thật là uống. Nếu có súng tốt, lựu đạn tốt, nhất là có một loại súng nào đó bắn được xe tăng, xe bọc thép địch ở cự ly dăm chục mét thì cơ giới của chúng không thể nghênh ngang trên phố được mà anh em cũng đỡ đổ xương máu hơn.


(1) Tướng Moóclie, chỉ huy quân Pháp ở miền Bắc.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Mười, 2012, 06:33:09 am
Kể đến đây, giọng người kỹ sư như nghẹn lại. Cả hội trường im phăng phắc. Rồi anh nói tiếp, giọng xúc động:

- Nghe người chiến sĩ kể chuyện, suốt đêm hôm đó tôi không tài nào ngủ được. Hình ảnh người chiến sĩ ôm bom ba càng lao vào xe tăng địch để rồi vĩnh viễn nằm xuống đường phố Thủ đô cứ hiện lên trước mắt tôi. Và câu chuyện của người chiến sĩ trẻ đã thôi thúc tôi thức dậy chong đèn, đọc lại lý thuyết, kiểm tra lại quá trình tính toán về đạn bazôca. Tất cả đều đúng. Vậy thì tại sao qua bắn thử, kể cả bắn thử gần đây nhất ở huyện Ứng Hòa, sức công phá, cụ thể là sức xuyên của đạn, chưa đạt yêu cầu? Chúng tôi đang tập trung vào giải đáp điều nghi vấn về vai trò gợi nổ của “đềtô” (détomateur - hạt nổ, kíp nổ - T.G). Phải làm sao cho thuốc nổ trong viên đạn cháy hết để tạo nên một nhiệt độ và một áp suất cần tiết, tạo được uy lực vừa phá, vừa xuyên… Xin hứa với anh Giáp, anh Bửu và các anh chỉ huy: chúng tôi quyết hoàn chỉnh viên đạn bazôca và trong vòng một tháng nữa có thể sản xuất hàng loạt…

Cả hội trường vỗ tay hoan hô nhiệt liệt. Đồng chí Tổng Chỉ huy đứng dậy, đến bắt tay và ôm hôn đồng chí Cục trưởng Trần Đại Nghĩa(1).

Một vấn đề quan trọng khác được hội nghị quân sự toàn quốc lần này thảo luận sôi nổi là công tác phá hoại đường sá, cầu cống và ngăn sông. Qua thảo luận, mọi người đều nói lên tính cấp bách của việc cản bước tiến của xe tăng, cơ giới địch khi chúng đánh rộng ra ngoài các thành phố, trong điều kiện ta chưa có súng lớn đánh địch có hiệu quả. Hội nghị nhất trí cho rằng, mỗi khu và mỗi địa phương, đơn vị đều phải có kế hoạch cụ thể, định rõ cần phá đường nào, giữ đường nào, huy động lực lượng nào, vào lúc nào… Kế hoạch đó phải được bàn bạc, nhất trí giữa chỉ huy quân sự và Ủy ban kháng chiến từng cấp. Đây là vấn đề cấp bách cần tiến hành mà không cần đợi lệnh của Bộ.

Bác Hoàng Đạo Thúy mới về nhận chức Cục trưởng Giao thông công binh từ đầu tháng 12-1946. Trong hội nghị này bác Thúy báo cáo rằng, hai trung đoàn công binh đã hình thành nhưng kỹ thuật chuyên môn, kinh nghiệm về công tác phá hoại cầu đường cũng như phương tiện vật chất đều rất thiếu thốn. Chẳng hạn như thuốc nổ. Có lệnh của Bộ là phải phá tất cả các cầu trên đường số 1, kể cả cầu Long Biên. Cục đã cho đi sưu tầm được hồ sơ một số cầu trên miền Bắc. Theo hồ sơ thì ở cột 16 của cầu Long Biên đã có một hố xây sẵn để đặt chừng 650 kilôgam thuốc nổ. trong tay công binh chỉ có 10 kilôgam, nghĩa là chỉ đủ để phá một nửa cầu Đơ (thị xã Hà Đông).

Một mâu thuẫn cần giải quyết là làm sao điều hòa được yêu cầu phá đường, ngăn sông với yêu cầu vận tải của Quốc phòng. Một ví dụ gần đây nhất là kè trên sông Nhuệ vừa làm xong thì đoàn thuyền chở muối của ông Cả (tức đồng chí Nguyễn Lương Bằng - T.G) lên. Thế là phải dỡ kè cho thuyền muối qua…

Trước yêu cầu làm chậm bước tiến của cơ giới địch, hội nghị nhận thấy, cần tiếp tục xúc tiến gấp công tác phá hoại đường sá, cầu cống và các nhà kiên cố đi đôi với làm vật cản trên sông. Cục Giao thông công binh cử người về các địa phương và đơn vị để giúp đỡ, hướng dẫn. Cần cắt đứt từng đoạn đường dài kết hợp với đắp những ụ chướng ngại trên các trục giao thông lớn từ Hà Nội tỏa ra, như đường số 1, số 5, số 6, dùng lượng thuốc nổ có thể có, kết hợp với sức người là chính, đánh sập các cầu trên các hướng cơ giới địch có thể đi qua, chọn vị trí thích hợp và lợi hại, dựng kè trên sông, kể cả sông Hồng, sông Đuống. trên nhưng trục đường có tàu hỏa, dùng cách gỡ đường ray, dựng thành hàng rào cánh sẻ, chắn ngang đường, phía sau là những thanh tàvẹt cắm xiên thành những bãi cọc sắt kéo dài chừng 30 mét trên mặt đường…

Đến lúc này, chưa ai khẳng định được rằng việc phá đường, phá cầu, đắp ụ, dựng kè, lập hàng rào chướng ngại, có hiệu quả ngăn cơ giới địch tới mức nào. Nhưng như đồng chí Tổng Chỉ huy đã luận, chúng ta chưa có loại vũ khí nào có đủ hiệu lực diệt cơ giới địch, chúng ta cũng chưa có kinh nghiệm phá hoại giao thông, nhưng dựa vào sự giúp đỡ của nhân dân, chúng ta cứ làm, vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Địa phương nào, đơn vị nào có kinh nghiệm hay, báo cáo về Bộ để phổ biến rộng rãi cho các nơi khác.

Trải qua thực tế một tháng chiến đấu, hội nghị nhận thấy công tác tổ chức tình báo và chỉ đạo nắm địch đã sớm bộc lộ sự yếu kém, không đáp ứng yêu cầu chỉ đạo, chỉ huy. Nhưng do tình hình khẩn trương, hội nghị quân sự lúc này chưa có điều kiện bàn sâu. Mọi người nhất trí với quyết định của đồng chí Tổng Chỉ huy giao cho Bộ Tổng tham mưu sớm tổ chức hội nghị chuyên ngành, nhằm rút kinh nghiệm và chấn chỉnh cả về tư tưởng, tổ chức và nghiệp vụ trinh sát - tình báo trước yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới.

Hội nghị quân sự toàn quốc kết thúc sau 5 ngày làm việc. Năm ngày được coi là thời gian dài giữa lúc cuộc chiến đấu đang diễn ra khẩn trương đòi hỏi sự có mặt của người lãnh đạo chỉ huy ở phía trước. Năm ngày, với những tin tức địch tập trung lực lượng cố nống ra phía nam thành phố Hà Nội; tin địch tập trung quân từ Tây Nguyên ra, từ Lào sang, hòng giải vây Huế và Đà Nẵng… Nhưng chính trong 5 ngày ấy, hàng loạt công việc lớn lao và cấp bách đã được hội nghị thảo luận đi tới nhất trí để triển khai gấp. Ai cũng thấy, kể từ sau cuộc họp của cán bộ cấp khu ngày 13 tháng trước, trải qua những ngày chiến đấu đầu tiên, thực tế đã giúp cho từng người lớn lên nhưng đồng thời cũng biết bao công việc mới mẻ với những thử thách đang chờ ở phía trước.


(1) Hơn một tháng sau, lời hứa của nhà khoa học đã trở thành hiện thực. Cuối tháng 2-1947, hai khẩu bazôca và mười viên đạn hoàn chỉnh về kỹ thuật đã được giao cho bộ đội Khu 2. Và tin chiến công đầu của bộ đội dùng loại vũ khí này đã nhanh chóng bay về cơ quan tham mưu Tổng hành dinh: ngày 5-3-1947, hai chiếc xe tăng địch bị súng bazôca bắn cháy ở chùa Trầm khi quân Pháp đánh ra hướng Quốc Oai.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Mười, 2012, 06:33:55 am
IV

Cùng Tổng Tham mưu trưởng đi dự hội nghị quân sự toàn quốc về, các đồng chí trưởng phòng đều thấy nhiệm vụ nặng nề của cơ quan mình trong những ngày sắp tới. Nhưng, như sau này anh Bùi Huy Bê kể lại, lo lắng nhất có lẽ là anh Hoàng Minh Đạo và các đồng chí phụ trách Phòng Tình báo. Qua những ý kiến phát biểu trong hội nghị vừa rồi, điều thấm thía đối với các anh là sự yếu kém của công tác tình báo quân sự, cả về tổ chức và nghiệp vụ, từ phòng đến cơ sở. Trao đổi ý kiến với nhau, các anh thấy có những nguyên nhân về tư tưởng và tinh thần trách nhiệm, đồng thời có những nguyên nhân về tổ chức và trình độ nghiệp vụ nắm địch, về thông tin liên lạc. Cũng không loại trừ nguyên nhân về quan hệ cá nhân, như nội bộ tổ chức tình báo Hà Nội. Về phía lãnh đạo của phòng, đã không dự kiến hết tình hình khó khăn phức tạp trong chỉ đạo nghiệp vụ thời chiến nên thiếu biện pháp cần thiết để chủ động khắc phục, bảo đảm công tác nắm địch và báo cáo tình hình được thường xuyên, chính xác, kịp thời hơn. Do đó, từ khi chiến sự nổ ra cũng như suốt một tháng qua, từ Phòng Tình báo của Bộ đến các địa phương đều lúng túng, nhất là khi liên lạc bị đứt vì không còn dựa được vào đường dây thông tin qua bưu điện. Có nơi, tổ chức nắm địch ở cơ sở bị tan vỡ, một số nhân viên theo gia đình đi tản cư, một số khác lẩn tránh nhiệm vụ, trong đó có một số người trong Ban Tình báo Hà Nội. Tổ chức cơ sở như vậy, nên không có gì là khó hiểu nếu Phòng Tình báo của Bộ đuối sức trước yêu cầu nắm tình hình địch kịp thời để phục vụ cho chỉ đạo, chỉ huy.

Sau hội nghị quân sự toàn quốc, Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy đã cử anh Lê Trọng Nghĩa sang cùng các anh Hoàng Minh Đạo và Bùi Huy Bê cải tiến việc chỉ đạo hệ thống nắm địch. Anh Thái cũng cùng các anh Nghĩa, Đạo và Bê làm việc chuẩn bị cho hội nghị chuyên ngành. Dự kiến triệu tập vào cuối tháng 1-1947 tại Chúc Sơn. Chiến sự đang khẩn trương, nhưng đây là một yếu kém cần có biện pháp khắc phục ngay. Yêu cầu đặt ra với hội nghị là cùng nhau thấy được những yếu kém thời gian qua về công tác nắm địch và tìm ra biện pháp thiết thực để khắc phục.

Đến ngày họp, trừ hai cán bộ ở Huế và Vinh, vì lý do giao thông không ra kịp, còn cán bộ phụ trách tình báo các tỉnh phía Bắc - nhất là những địa bàn đang có chiến sự - đều có mặt đầy đủ.

Hội nghị diễn ra trong những ngày giáp Tết, nhưng vì băn khoăn trước nhiệm vụ chưa hoàn thành, không mấy anh em còn tâm trí nghĩ đến chuẩn bị vui xuân. Thông cảm với nỗi băn khoăn lo lắng của anh em, Tổng Tham mưu trưởng đã chỉ thị cho Phòng Tình báo và Phòng Quản lý quan tâm đến nơi ăn chốn ở, điều kiện làm việc và sinh hoạt của anh em. Anh Thái đã cùng anh Đạo dành nhiều thời gian bàn bạc dân chủ, động viên anh em mạnh dạn đề đạt phương hướng khắc phục những khó khăn, thiếu sót vừa qua. Các anh hỏi về tình hình địa phương, về tổ chức các cơ sở nắm địch của ta, phương pháp làm việc và cả những bài học cụ thể về hoạt động tình báo ở các địa phương. Chính nhờ những khêu gợi và nắm được những vấn đề mấu chốt cần giải quyết mà các anh thấy được phương hướng khắc phục cả về tư tưởng, tổ chức và biện pháp nghiệp vụ. Thực tế sau đó chỉ rõ, bằng sự quan tâm chăm sóc, bằng thái độ chân tình, cởi mở, động viên nhiều hơn là chê trách, Tổng Tham mưu trưởng đã làm cho anh em thấy rõ những thành tích đã đạt được, nhưng yếu kém cần và có thể vượt qua. Anh em đã thấy rõ nguyên nhân thiếu sót đồng thời cũng thấy phương hướng khắc phục như thế nào… Qua những buổi gặp gỡ và làm việc, cả trong và ngoài hội nghị, anh em thấy thoải mái và tự tin vì đã hiểu cần làm gì và làm thế nào để hoàn thành nhiệm vụ trong thời gian tới. Những ý kiến và đề nghị cụ thể của anh em, như về tư tưởng, cần giáo dục khắc phục lối “làm ăn tài tử, phiêu lưu mạo hiểm cá nhân như thường thấy trong tiểu thuyết trinh thám”, đồng thời khắc phục “tư tưởng tự do, dễ làm khó bỏ”. Phòng cần quan tâm hướng dẫn về nghiệp vụ hoạt động trinh sát quân sự hơn nữa, nên sáp nhập thống nhất khi tổ chức nắm địch ở Bắc và Nam sông Hồng; nên thay người phụ trách tình báo ở Hà Nội; nên mở lớp huấn luyện cơ bản về nghiệp vụ trinh sát, v.v. Tất cả mọi ý kiến đều được Tổng Tham mưu trưởng và các đồng chí phụ trách phòng quan tâm nghiên cứu, cùng anh em thảo luận giải quyết.

Chính nhờ phương pháp làm việc dân chủ, đề cập nhiều vấn đề cụ thể nhưng thiết thực nên cán bộ phụ trách tình báo các địa phương hoàn toàn nhất trí với nội dung bản báo cáo tổng kết hội nghị của đồng chí Tổng Tham mưu trưởng. Bản báo cáo đã phản ánh được mặt mạnh, mặt yếu hiện nay của ngành tình báo quân sự, đã chỉ ra hướng di trong thời gian sắp tới của ngành, cả về tư tưởng, tổ chức và nghiệp vụ.

Với kết quả của hội nghị, anh em tin tưởng vào triển vọng của công tác, mặc dù biết rằng còn phải đương đầu với nhiều khó khăn do âm mưu và thủ đoạn của kẻ thù, một kẻ thù dày dạn kinh nghiệm trong nghề tình báo quân sự xâm lược.

Tinh thần thoải mái, anh em chia tay nhau về các địa phương, đúng vào dịp xuân sang. Trong khi đó, Tổng Tham mưu trưởng bàn với các đồng chí phụ trách phòng nên tổ chức ngành tình báo của Bộ như thế nào, phương pháp chỉ đạo sắp tới nên như thế nào và trước hết là việc chuẩn bị nội dung và tổ chức lớp bồi dưỡng nghiệp vụ trinh sát mà các anh đều thấy là cần mở sớm, ngay vào dịp tết này.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Mười, 2012, 06:35:02 am
Cơ quan Bộ Tổng tham mưu rời đất Chương Mỹ sang địa phận Quốc Oai - Thạch Thất đúng vào dịp xuân Đinh Hợi đang về.

Tết đến, cái Tết kháng chiến đầu tiên đem lại cho mỗi chàng sĩ quan tham mưu những suy nghĩ khác nhau. Thực ra không phải đối với mọi người Tết này là Tết đầu tiên xa nhà, vì trong số anh em, có mấy chiến sĩ Giải phóng quân đã từng sống ở chiến khu và mấy cựu binh sĩ đã từng đón xuân trong cảnh tha hương khi còn ở trong quân đội Pháp trước đây. Nhớ lại năm ngoái, xuân độc lập đầu tiên, một số anh người Hà Nội còn cùng gia đình đón giao thừa giữa Thủ đô hoặc ít nhất cũng được tạt qua nhà ít ngày nếu gia đình ở gần Hà Nội. Năm nay, mọi người sống trong không khí cái Tết kháng chiến đầu tiên giữa những người đồng chí, trong tình thương yêu, chăm sóc của đồng bào. Riêng một vài anh chị em không khỏi lo lắng vì gia đình còn ở lại trong nội thành hoặc đã đi sơ tán mà không có tin tức, nhất là khi nghe tin địch đang cố đánh rộng ra ngoại vi Hà Nội. Cũng có người thoáng qua một câu hỏi trong đầu: Liệu kháng chiến kéo dài mấy năm? Liêu bao giờ được đón xuân trong không khí đoàn tụ gia đình?

Nhân dân mấy xã Ngọc Thân, Sài Sơn, Thôn Bùng thuộc Quốc Oai, huyện địa đầu phía nam của tỉnh Sơn Tây, đón các phòng, ban của Bộ Tổng tham mưu về nhà ăn Tết như đón người thân quen. Ngay khi anh em vào nhà, có thể nhà chủ thoáng nghĩ rằng đây là một đơn vị bộ đội “không bình thường”. Vũ khí không có, lẻ tẻ một vài người đeo súng ngắn. Có người lại cưỡi ngựa. “Chắc đây là cấp chỉ huy cao nhất”. Rồi tiếp đến là những hòm sắt tây đựng tài liệu, những máy chữ, máy điện thoại… Ban quản lý còn lỉnh kỉnh khiêng từ những chiếc xe bò mấy cái hòm nặng trịch…

Trong một gia đình nọ, nhà cửa khá rộng, chủ nhà thấy anh chị em xin phép được căng lên mấy bức vải màu nâu, màu xanh, “quây kín như buồng bà đẻ”. Rồi sớm cũng như chiều, dưới ánh đèn dầu, từ trong vọng ra những tiếng lạ tai: Paxiphi, Glôri, Xeka, Đôngrogép(1). Ở vài nhà khác quanh đấy, chốc chốc lại vang lên tiếng chuông điện thoại, tiếng máy chữ lách cách, tiếng máy phát điện kêu ro ro, tiếng manip gõ tạch tè. Bà con địa phương có thể ngầm hiểu: nếu không phải là một cơ quan văn phòng thì cũng là một đơn vị bộ đội đặc biệt nào đó, gồm những anh những chị không có gì là dày dạn phong sương. Họ nói năng lễ độ với người già, có phong cách chững chạc trước chị em phụ nữ địa phương, nhưng lại rất vui nhộn với trẻ nhỏ. Từ khi các anh, các chị về đây, sân nhà lúc nào cũng sạch, chum nước lúc nào cũng đầy. Chiều chiều, trên những thửa ruộng mới gặt chỉ còn trơ gốc rạ, các anh giúp nam nữ dân quân luyện tập quân sự. Tối tối, chỗ này vang lên tiếng trẻ em học hát, xen lẫn tiếng đập lúa thình thịch; chỗ kia, các anh các chị tập kịch hay ôn lại bài hát đồng ca, chuẩn bị ra mắt đồng bào vào dịp Tết. Gọi là chuẩn bị văn nghệ đón xuân, nhưng nhìn chung lại, học hát nhiều hơn tập kịch, kịch “cương” nhiều hơn là kịch có kịch bản đàng hoàng.

Trong những ngày này, không khí xóm làng nhộn nhịp hẳn lên, không chỉ vì nhà nhà chuẩn bị đón xuân mà còn vì cuộc sống vui tươi yêu đời của các anh, các chị đã sớm hòa nhịp với từng gia đình, nhất là với nam nữ thanh niên, các em thiếu nhi và các đội dân quân du kích địa phương. Ngày ngày, chủ nhà thấy các anh các chị cặm cụi làm việc trên những chiếc bàn, những tấm phản, trên những cái chõng tre, thậm chí trên những tấm cửa gỗ được hạ xuống. Thỉnh thoảng, thoáng nghe những ý kiến trao đổi, với những từ mới lạ mà chủ nhà không hiểu biết nội dung. Tinh thần làm việc miệt mài, thái độ kính già yêu trẻ và phong cách chững chạc của các anh, các chị đã làm cho nhân dân địa phương sớm quên đi những thắc mắc ban đầu về nhưng “anh bộ đội không có súng”. Chính với tình cảm sớm gắn bó ấy mà bà con lo chuẩn bị Tết, công khai bộc lộ niềm phấn khởi rằng Tết này nhà mình sẽ đông vui hơn…

Ban quản lý nội bộ đã khéo lo liệu cho từng phòng vài bữa ăn tươi, gồm bánh chưng, kẹo mứt, thuốc lá và cả rượu. Mấy ngày giáp Tết, Tổng Tham mưu trưởng thường vắng mặt ở cơ quan. Anh tập trung chỉ đạo hội nghị của ngành tình báo. Trong một lần hội ý, anh lưu ý các trưởng phòng nhắc nhở anh em trong từng nhà giúp gia đình quét dọn, trang trí nhà cửa, chú ý tôn trọng phong tục ngày tết của địa phương. Sáng mồng một, chú ý đi chúc thọ người già, mừng tuổi trẻ em, kể cả những nhà không có bộ phận nào trú quân. Nếu chủ nhà mời, có thể liên hoan chung cùng gia đình mừng xuân, nhưng cần tránh gây phiền hà cho gia đình nhất là đừng để say rượu. Điều quan trọng là từng phòng ban phải có người thường trực, phải thường xuyên nắm vững thông tin chỉ huy, duy trì chế độ báo cáo diễn biến chiến sự, nhất là ở Hà Nội.

Nhờ có sự dặn dò của Tổng Tham mưu trưởng cho nên ngày mồng một, trong lúc số đông anh chị em đi chúc Tết nhân dân, tổ chức liên hoan văn nghệ thì guồng máy thường trực chỉ đạo, chỉ huy vẫn bám sát tình hình chiến sự, sôi nổi nhất vẫn là tin tức trong nội thành.


(1) Những từ chuyên môn của anh chị em mật mã (cơ yếu) thường đọc khi mã dịch.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Mười, 2012, 06:35:36 am
Chừng một tuần trước Tết, ngày 15-1 dương lịch, đúng vào dịp ta và quân Pháp thỏa thuận một cuộc ngừng bắn (tạm thời) để đưa ngoại kiều ra ngoài vùng không có chiến sự, Bộ chỉ thị nhân thời cơ này đưa thương binh ra vùng căn cứ để tiện việc chăm sóc điều trị, đồng thời giảm bớt “quân số” phụ nữ và trẻ em thuộc Trung đoàn Thủ đô để hạn chế những khó khăn về cung cấp. Vòng vây của địch đang dần dần thu hẹp đã tác động trực tiếp đến đường tiếp tế của ta từ ngoài vào nội thành. Trung đoàn Thủ đô đã tổ chức đưa anh em thương binh và hàng ngàn đồng bào ra ngoại thành. Vậy mà đến nay, Phòng Tác chiến nhận được báo cáo cho biết quân số Trung đoàn Thủ đô vẫn còn hơn 1.000 người (với hơn 200 phụ nữ và chừng 100 thiếu niên), chứ không phải tổng quân số 500 người như chỉ thị của Bộ. Sau này, theo báo cáo của Ban Chỉ huy Trung đoàn thì nhiều người cố tính lẩn tránh, không chịu rút ra ngoài. Đúng là một hành động làm trái lệnh trên, nhưng lại mang ý nghĩa và quyết tâm chiến đấu, “sống chết với Thủ đô”. Do số người trong thành phố giảm, những khó khăn về tiếp tế tuy có bớt đi, nhưng cơ bản chưa được khắc phục. Theo tin tức mà tham mưu nắm được thì quân địch mới được tăng viện từ Hải Phòng lên. Trước sau, chúng sẽ tập trung lực lượng đánh mạnh vào Liên khu 1 và đánh rộng ra các vòng cung ngoại vi phía nam Hà Nội. Anh Vũ phán đoán chúng sẽ tập trung lực lượng ở hướng Nhật Tân - Nhật Tảo, vì đây là căn xứ xuất phát và bảo vệ đường dây tiếp tế liên lạc của quân ta trên mạn tây bắc thành phố.

Cơ quan tham mưu đã chuyển đạt lên Bộ Chỉ huy mặt trận Hà Nội nhận định của Bộ Tổng chỉ huy: tình hình chiến sự trong mấy ngày sắp tới ở Liên khu 1 sẽ trở nên rất ác liệt. Bộ Chỉ huy mặt trận phải có kế hoạch chỉ đạo đối phó có hiệu quả trước cuộc tiến công mới của địch nhưng vẫn phải nhớ tránh mạnh - đánh yếu, để tiêu hao quân địch, bảo toàn lực lượng ta, không mạo hiểm.

Trước Tết, sau mấy ngày đêm chặn đánh quyết liệt các mũi tiến công của địch ở các cửa ô, quân ta đã chủ động điều chỉnh lại thế bố trí theo kế hoạch đã thống nhất giữ Tổng Tham mưu trưởng và Chỉ huy trưởng mặt trận. Nhiều vị trí địch bị tiến công, nhiều kho tàng địch bị đốt phá ngay đêm 30 Tết. Tuy vậy, dựa vào lực lượng mới được tăng viện, địch tung quân ra quyết lấn chiếm thêm một số vị trí trên đường vòng cung ngoại ô. Tiếp đó, ngay sau Tết, chúng tuyên truyền lực lượng mở cuộc tiến công chiếm Nhật Tân, Nhật Tảo, nhằm hoàn chỉnh việc chiếm đóng vòng cung ngoại thành, cắt đường tiếp tế của ta từ ngoài vào Liên khu 1.

Ngay ngày hôm đó, 25-1-1947, các đồng chí Tổng Chỉ huy và Tổng tham mưu trưởng có mặt ở Sở Chỉ huy mặt trận Hà Nội, đóng tại Tây Mỗ. Hai đồng chí cùng Bộ Chỉ huy đứng trước tấm bản đồ Thủ đô mở rộng. Trên tấm bản đồ đó, như nhận xét của anh Vương Thừa Vũ sau này, “trận địa của Trung đoàn Thủ đô chỉ còn là một mảnh con con tô màu đỏ nằm lọt thỏm giữa vùng địch chiếm đóng khá rộng tô màu xanh. Súng cối 81 mm của địch đã có thể bắn từ bên này sang bên kia, vượt qua đội hình Liên khu 1, cả trên chiều ngang lẫn trên chiều dọc”.

Suy nghĩ hồi lâu, đồng chí Tổng Chỉ huy nhận định:

- Trước tiên, kẻ địch có thể đánh chiếm nhà Xôva và trường Ke(1) là hai vị trí ở phía đông Liên khu 1, có nhà cao tầng, có đường lớn chạy ngang qua trước mặt. Nếu Nhật Tân, Nhật Tảo là căn cứ xuất phát và bảo vệ đường dây tiếp tế thì nhà Xôva và trường Ke là hai vị trí bảo vệ cửa ngõ Liên khu 1. Chiếm được các vị trí này, quân địch hoàn toàn khép kín vòng vây đối với Trung đoàn Thủ đô. Chúng sẽ tập trung lực lượng tiến công chia cắt Liên khu 1 ra từng ô nhằm tiêu diệt quân ta, thẳng tay đàn áp nhân dân còn lại trong đó… Cần bàn kỹ để có kế hoạch đối phó với ý đồ này của địch.

Anh Thái và anh Vũ trao đổi ý kiến rất lâu để thực hiện chỉ thị trên đây của Tổng Chỉ huy. Các anh nhận thấy một mặt cần ra lệnh cho bộ đội phía ngoài (các Liên khu 2 và 3) cho những đơn vị nhỏ, bí mật luồn sâu vào nội thành, thường xuyên quấy rối, tiêu hao địch, buộc chúng phải phân tán lực lượng đối phó, giảm bớt sức ép đối với Liên khu 1. Mặt khác, muốn giữ hai vị trí phía đông, cần có những tổ trinh sát liên tục bám địch, có những phân đội tinh nhuệ, được trang bị mìn, lựu đạn, chai xăngcrếp đánh cơ giới, có các tổ bắn tỉa… Bằng những hoạt động nhỏ lẻ, thường xuyên, khiến địch không lường được lực lượng của ta. Phải bố trí những chiến sĩ gan dạ nhất, có quyết tâm bảo vệ hai vị trí nói trên. Phải giữ vững liên lạc với ngoài, bảo đảm tiếp tế và tăng viện cho các chiến sĩ chiến đấu ở nhà Xôva và trường Ke.

Ý kiến trên được Tổng Chỉ huy nhất trí và trở thành cơ sở để Bộ Chỉ huy mặt trận Hà Nội đi sâu bàn bạc cụ thể biện pháp tổ chức và chỉ đạo cuộc chiến đấu sắp tới ở phía đông Liên khu 1. Ra về, cả anh Văn và anh Thái thấy yên tâm về những gì đã được thảo luận nhất trí sáng hôm đó. Các anh cũng trao đổi thêm về phương hướng sắp tới của Trung đoàn Thủ đô nên như thế nào, đến lúc nào thì đề nghị với Bác và Thường vụ cho anh em rút ra vùng tự do để bảo toàn và phát triển lực lượng. Anh em đang đứng trước rất nhiều khó khăn thiếu thốn, cả về vật chất trang bị, cả về lương thực và nước uống.


(1) Nhà Xôva (Sauvage) là tên Sở Vận tải đường sông dưới thời Pháp. Sau Cách mạng Thắng Tám, nhân dân vẫn quen gọi theo tên cũ. Hiện nay là Trường Nguyễn Huệ, đường Trần Quang Khải. Cũng dưới thời Pháp, trường Ke là một trường tiểu học, nằm trên đường Quai Clémanceau. Tiếng Pháp, Quai (đọc là Ke) có nghĩa là bến. Nay là Trường Trần Nhật Duật.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Mười, 2012, 06:37:17 am
VI

Trở về cơ quan, Tổng Tham mưu trưởng chỉ đạo cho Phòng Tác chiến và Phòng Tình báo tập trung theo dõi tình hình tăng viện của địch, theo dõi cuộc chiến đấu sắp diễn ra ở phía đông Liên khu 1.

Đúng như ta dự đoán, ngày 6-2 địch bắt đầu tiến công vào nhà Xôva và chúng đã bị thất bại. Cả 5 lần xung phong của chúng đều bị quân ta đẩy lui. Hôm sau, 6 lần xung phong của địch vào trường Ke cũng không thành công. Hai vị trí cửa ngõ của Liên khu 1 trông ra sông Hồng vẫn đứng vững. Quân địch chuyển hướng tiến công sang phố Hàng Thiếc. Liên tục 4 ngày, từ ngày 1 đến ngày 13-2, chúng dồn bom, pháo đánh phá dữ dội vào trận địa Trung đoàn Thủ đô. Tiếp đến là trận tiến công vào khu chợ Đồng Xuân. Suốt từ sáng đến trưa ngày 14, những trận đánh ác liệt không chỉ diễn ra bên trong chợ mà cả ở phía nam, trên đường phố Hàng Thiếc, Hàng Mã, Hàng Đường.

Tổng Chỉ huy và Tổng Tham mưu trưởng dành nhiều thời gian theo sát diễn biến của mặt trận Hà Nội. Nhớ lại hai tuần trước, khi ra làm việc với Bộ Chỉ huy, các anh đã dự kiến những khó khăn mà Trung đoàn Thủ đô sẽ gặp phải trong những ngày chiến đấu tiếp sau đó. Nếu các anh tin tưởng và yên tâm về tinh thần chiến đấu của bộ đội Liên khu 1 thì các anh lại suy nghĩ nhiều về lực lượng so sánh và những thiếu thốn về vật chất mà bộ đội không có khả năng vượt qua. Theo báo cáo, anh em đã phải đào giếng để có nước ăn và tắm giặt, đã cử người ra tận bờ sông Hồng để hái từng ngọn khoai lang, tìm chuối xanh và đu đủ làm rau, đã cho người tiếp cận các phố giáp địch để tìm kiếm lương thực và thực phẩm khô trong những căn nhà bị bom đạn đánh sập.

Sau các trận Xôva và trường Ke, rồi trận đồng Xuân, Hàng Thiếc, quân ta đã giam chân địch trong thành phố gần hai tháng. Anh em đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, vượt xa yêu cầu của trên, nhưng rõ ràng là tình hình ngày càng trở nên khó khăn hơn.

Vào buổi tối 14-2, Chỉ huy trưởng Vương Thừa Vũ nhận được một lệnh của Tổng Chỉ huy Võ Nguyên Giáp: Tổ chức cho Trung đoàn Thủ đô rút ra ngoài. Việc lui quân phải giữ bí mật triệt để đến phút cuối cùng. Kèm theo là một thư riêng của anh Văn gửi các anh trong Bộ Chỉ huy mặt trận Hà Nội. Bức thư chuyển lời khen của Bác Hồ, nói rằng Trung đoàn Thủ đô đã giam chân địch được hơn một tháng đã là thắng lợi, đến nay giữ Hà Nội được hai tháng là đại thắng lợi.

Au này anh Vũ kể lại rằng: Tay cầm lệnh và bức thư của đồng chí Tổng Chỉ huy, anh rất xúc động. đây không phải là lần đầu tiên Bộ đặt vấn đề này ra với các anh. Tại hội nghị quân sự toàn quốc trung tuần tháng trước cũng như hôm đến Sở Chỉ huy ở Tây Mỗ, anh Văn đã từng hỏi: Quân ta đã kìm chân địch trong thành phố một thời gian vượt yêu cầu ban đầu của Bộ đề ra là một tháng. Anh xem liêu bao giờ thì ta nên rút Trung đoàn Thủ đô ra? Và anh đã trả lời ngay sau khi suy nghĩ: Ta còn khả năng trụ bám trong đó, đề nghị cho tiếp tục giữ Liên khu 1 thêm một thời gian nữa.

Thể theo nguyện vọng của bộ đội và nhất là xét khả năng thực tế lúc đó, Bộ đã chấp nhận lời đề nghị này. Thêm gần ba tuần đã trôi qua, ba tuần nói lên tinh thần chiến đấu dũng cảm của bộ đội trước những thử thách ngày càng quyết liệt, ba tuần chứng minh quyết định để bộ đội kéo dài cuộc chiến đấu trong lòng Thủ đô là hoàn toàn đúng đắn. Giờ đây, khó khăn nổi lên của chiến sĩ Liên khu 1 là lương thực và đạn dược đã cạn. Bộ đội và đồng bào trong đó có lúc phải nhường nhau từng bát cơm, từng gáo nước. Các đơn vị ở Liên khu 2 và 3 đã đang hoạt động ngày càng xa Liên khu 1, không còn khả năng hỗ trợ và phối hợp đắc lực với Trung đoàn Thủ đô như trước. Mệnh lệnh của trên cho trung đoàn rút ra khỏi thành phố vào thời điểm này là hoàn toàn chính xác.

Sau khi họp bàn thống nhất trong Bộ Chỉ huy, Chỉ huy trưởng Vương Thừa Vũ trực tiếp về Bộ báo cáo kế hoạch lui quân được anh gọi là “cường công - mật rút”. Anh em cán bộ Bộ tổng tham mưu đã quen nghe những từ Hán Việt thường được anh Vũ dùng để diễn đạt những vấn đề về chiến thuật. Kế hoạch rút quân do Bộ Chỉ huy mặt trận Hà Nội đề nghị được Bộ phê duyệt. Anh Văn, anh Thái cho những ý kiến cụ thể thêm về kế hoạch nghi binh, lừa địch, về các mặt bảo đảm khác và về vị trí tập kết khi ra tới] vùng tự do. Sau này, anh Vũ còn nhớ và kể lại: khi tiễn anh ra về, anh Thái bắt tay anh, cười và nói vui:

- Thằng địch nó thua ta ở keo này là ở chỗ khi công thì ta cườngkhi rút thì ta mật đấy…

Hai anh cùng cười.

Ngay sau khi anh Vũ ra về, một số phái viên tác chiến được cử xuống các Trung đoàn 37 và 80, bàn và đôn đốc việc tiến công, áp sát, thu hút lực lượng địch về hướng các cửa ô Cầu Dền, Cầu Giấy.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Mười, 2012, 06:38:42 am
Mãi những năm về sau này, qua sách báo Pháp và phương Tây, ta thấy địch thú nhận rằng chúng đã bị lừa. Những tiếng nổ, những đám cháy do ta bố trí nghi binh ngay sát liên khu 1, những mũi tiến công áp sát ngoại vi phía tây và phía nam thành phố, đã khiến địch tin rằng đêm đó, 17-12-1947, quân ta đánh mạnh. Chúng không hề biết rằng, vào khoảng nửa đêm, trung đoàn Thủ đô đã cùng hàng ngàn đồng bào bí mật lọt qua vòng vây, lặng lẽ qua gầm cầu Long Biên, dùng thuyền vượt sông Hồng sang Bắc Biên (Cơ Xá) rồi lên Đông Ngàn (Long Tựu). Mãi mờ sáng hôm sau chúng mới vỡ lẽ, vội vã cho canô chạy ngược sông Hồng đuổi theo, phối hợp với cánh quân từ Yên Phụ, Nhật Tân đánh sang, từ Chèm đánh xuống. Hai chiếc máy bay lồng lộn dọc sông Hồng. Pháo binh từ các trận địa bắn đuổi…

Dựa vào công sự đã được chuẩn bị sẵn trên Bãi Giữa, mép sông Hồng, Tiểu đoàn du kích Hồng Hà do Nguyễn Ngọc Nại chỉ huy đã anh dũng chiến đấu kìm chân địch, bảo đảm cho toàn trung đoàn vượt sông an toàn cho đến khi chiếc thuyền cuối cùng vượt bến bên kia. Chiến đấu trong điều kiện so sánh lực lượng tuyệt đối chênh lệch, 8 trong số 9 chiến sĩ của Tiểu đội du kích Hồng Hà đã anh dũng hy sinh.

Trong Hồi ký của mình, đồng chí Vương Thừa Vũ viết:

“Trận đánh kéo dài mãi gần trưa. Chúng ta không còn được gặp Nguyễn Ngọc Nại… nhưng chúng ta có đầy đủ bằng chứng để đánh giá tác dụng to lớn của trận này… Các đồng chí đã hy sinh oanh liệt… bảo đảm cho Trung đoàn Thủ đô rời Hà Nội được tuyệt đối an toàn”.

Đêm 22-2, khi lễ tuyên dương công trạng Trung đoàn Thủ đô diễn ra trang nghiêm tại đình làng Thượng Hội, (Đan Phượng - Hà Đông) thì tại thôn Sài Sơn (Quốc Oai - Sơn Tây), mấy cán bộ tác chiến và nhân sự Bộ Tổng tham mưu đang chong đèn nghiên cứu kế hoạch đề đạt lên trên về phương hướng xây dựng và tác chiến sắp tới của trung đoàn. Trải qua 60 ngày thử thách trong khói lửa, Trung đoàn Thủ đô như hạt giống đỏ đã bén rễ, nảy mầm, cứng cây, đứng vững trước phong ba bão táp. Vấn đề đặt ra với cơ quan tham mưu chiến lược lúc này là góp phần vun tưới, làm sao cho nó không ngừng nở hoa, kết trái.

Cũng trong những ngày cuối tháng 2 này, trước yêu cầu của tình hình do chiến sự có chiều hướng mở rộng, Bộ Tổng tham mưu triệu tập hội nghị thông tin liên lạc, họp ở gần Mai Lĩnh. Thành phần về dự gồm các Trưởng ban thông tin từ Khu 4 trở ra. Trong hai tháng qua, ở hầu hết các khu đều có chiến sự diễn ra cho nên các ban thông tin đều có ít nhiều kinh nghiệm bảo đảm thông tin phục vụ chỉ huy tác chiến. Các bản báo cáo, nhất là báo cáo của ngành thông tin khu Đặc khu Hà Nội, được đặc biệt chú ý. Hàng loạt vấn đề được nêu lên để thảo luận trong hội nghị. Bài học nổi lên qua hai tháng chiến đấu vừa qua là làm thế nào bảo đảm phát huy tác dụng của cả ba phương tiện, nhất là tổ chức liên lạc chạy chân, để thông tin chỉ huy luôn thông suốt, khi có rất nhiều phân đội nhỏ chiến đấu phân tán trong thành phố.

Trong báo cáo tổng kết hội nghị, đồng chí Tổng Tham mưu trưởng biểu dương thành tích các chiến sĩ thông tin đã có nhiều cố gắng bảo đảm thông tin chỉ huy thông suốt trong hai tháng qua, nhất là bảo đảm bí mật giờ nổ súng đêm 19-12. Đồng chí cũng chỉ ra những thiếu sót cần khắc phục, nhất là hiện tượng ỷ lại vào hệ thống thông tin điện thoại của bưu điện. Chính do thiếu sót này mà nhiều tin tức của ngành tình báo ở các địa phương bị ách tắc. Dự kiến chiến sự sẽ lan rộng, chiến trường có thể bị chia cắt, đồng chí phân tích đặc điểm của tình hình sắp tới là chiến sự sẽ không còn thu hẹp trên các địa bàn thành phố mà sẽ lan ra vùng trung du và đồng bằng, tình huống diễn biến sẽ khẩn trương hơn, trên một không gian rộng hơn. Yêu cầu đặt ra ới ngành thông tin quân sự là phải biết phát huy mặt mạnh, mặt thuận lợi của mình, biết dựa vào sự phối hợp chặt chẽ ba phương tiện vô tuyến, điện thoại và liên lạc chạy chân, quyết tâm vượt mọi khó khăn để đảm bảo thông tin luôn thông suốt và bí mật, nhanh chóng, kịp thời. Dẫn chứng điển hình được Tổng Tham mưu trưởng nêu lên trước hội nghị là tinh thần khắc phục khó khăn về thông tin chỉ huy của pháo đài Xuân Canh. Đài quan sát đặt trên một cây gạo cao, xa khẩu pháo chừng 1.000 mét. Máy điện thoại không có. Anh em đã biết dựa vào nhân dân, tổ chức một đường dây “người”, nối liền đài quan sát với trân địa để chỉ huy hiệu chỉnh pháo. Sau đó, đường dây “người” được thay bằng xe đạp. Rõ ràng là kinh nghiệm rất thô sơ, nhưng nhờ biết dựa vào dân, biết suy nghĩ để vượt qua khó khăn mà phó dài Xuân Canh đã góp phần lập thành tích ngay từ những ngày chiến đấu đầu tiên ở Thủ đô.

Cuối bản báo cáo tổng kết, Tổng Tham mưu trưởng căn dặn cán bộ phụ trách thông tin các cấp, các đơn vị phải tranh thủ mọi điều kiện cho phép để đào tạo nhân viên chuyên môn, coi trọng việc chỉ đạo bảo quản sửa chữa và tận dụng mọi phương tiện thông tin, nhất là phương tiện thu được của địch. Phải phấn đấu tiến tới luôn có người và phương tiện thay thế. Muốn vậy, một yêu cầu về kỹ thuật được đặt ra là mỗi nhân viên thông tin phải học tập sử dụng được nhiều loại máy, cả máy ta có và máy chiến lợi phẩm. Đồng chí động viên mọi người trong ngành đoàn kết, khiêm tốn học tập lẫn nhau, nhất là học tập kinh nghiệm kỹ thuật để không ngừng nâng cao tay nghề, cải tiến tổ chức sao cho thích hợp nhất, nắm vững và tôn trọng mọi quy tắc chuyên môn, quy bắc bảo đảm bí mật thông tin chỉ huy trong mọi tình huống.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 13 Tháng Mười, 2012, 07:07:42 am
CHƯƠNG V

CHẶNG ĐƯỜNG LÊN CĂN CỨ ĐỊA

I

Sau hai tháng quân ta chiến đấu trong thành phố, nhất là với việc Trung đoàn Thủ đô hoàn thành nhiệm vụ tiêu hao và giam chân địch ở Hà Nội, thời kỳ chiến đấu đầu tiên đã kết thúc thắng lợi. Trong báo cáo gửi lên Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy cuối tháng 2-1947, Tổng Tham mưu trưởng viết:

“Chúng ta đã hoàn thành nhiệm vụ tổ chức trận tiến công chiến lược từ Đà Nẵng trở ra, tiêu diệt được một số sinh lực địch và thu được một số vũ khí, giam chân quân địch trong các thành phố, thị trấn quan trọng, còn lực lượng ta thì lớn mạnh lên. Trung ương, Chính phủ và quân dân ta có thời gian chuẩn bị lực lượng và thực hiện sơ tán, di chuyển, kể cả tài sản của cải Nhà nước, để giữ gìn lực lượng cho kháng chiến lâu dài”.

Trước đó, kết quả việc di chuyển cơ sở vật chất cho kháng chiến đã được Tổng tham mưu trưởng báo cáo tại hội nghị do Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy triệu tập hồi cuối trung tuần tháng 2-1947, vào dịp Trung đoàn Thủ đô rời khỏi Hà Nội.

Việc chuyển các máy móc và cơ sở vật chất quốc phòng từ các thành phố ra vùng chưa có chiến sự và đưa về các vùng căn cứ là một trong những kỳ công của công nhân và nhân dân trước và trong những ngày đầu kháng chiến toàn quốc. Trong cuộc họp này, đại biểu Tổng công đoàn Việt Nam cho biết chỉ tính kết quả đợt tổng di chuyển từ cuối năm 1946 đến tháng 1-1947, ta đã chuyển ra khỏi các thành phố và đưa ra vùng tự do khoảng 38.000 tấn máy móc, nguyên vật liệu, trên một tổng chiều dài khoảng 8.000 kilômét đường bộ và đường sông. Ngoài sự tháo vát của công nhân các nhà máy xí nghiệp, yếu tố quan trọng quyết định cuộc di chuyển được tiến hành nhanh chóng và an toàn là sự giúp đỡ tận tình, cả về người và phương tiện của nhân dân các địa phương. Toàn bộ tài sản nhỏ bé của quốc gia được bảo toàn trong quá trình di chuyển. trong số tài sản nhỏ bé đó, máy móc và nguyên vật liệu công nghiệp quốc phòng là vốn liếng ban đầu của ngành quân giới Việt Nam trong cuộc đọ sức lâu dài sau này với quân đội viễn chinh Pháp được đế quốc Mỹ viện trợ ngày càng nhiều.

Hội nghị kết thúc, Tổng Tham mưu trưởng đến gặp Tổng Chỉ huy Võ Nguyên Giáp báo cáo rồi trở về cơ quan chuẩn bị cho việc di chuyển.

Buổi sáng thứ ba, 25-2-1947, toàn cơ quan Bộ Tổng tham mưu được lệnh: mỗi phòng, ban để một người ở nhà thường trực, còn tất cả tập trung tại đình thôn Bùng để nghe nói chuyện. Anh chị em từ Ngọc Thán, Sài Sơn, từ Canh Dậu, Dị Nậu lục tục kéo về nơi tập trung. Dọc đường, người này phán đoán đến nghe thời sự về diễn biến hai tháng chiến đấu, người khách cho rằng đến nghe Tổng Tham mưu trưởng truyền đạt tình hình, nhiệm vụ mới. Cách lập luận nào nghe cũng có vẻ xuôi tai.

Sau này, cùng nhau ngồi ôn lại kỷ niệm Tết kháng chiến đầu tiên, nhiều anh còn nhắc lại không khí đầm ấm trong cuộc họp mặt hôm đó.

Mặc dù hôm đó đã là mùng 5 Tết, Tổng Tham mưu trưởng vẫn vui vẻ mở đầu bằng lời chúc mọi người một năm mới mạnh khỏe, đoàn kết, tiến bộ, cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ… Anh nói lên sự thông cảm của lãnh đạo đối với số đông anh chị em lần đầu xa nhà vào ngày xuân. Rồi anh chuyển sang nói về tình hình, nhiệm vụ và về cuộc hành quân sắp tới.

Quân ta đã hoàn thành nhiệm vụ tiêu hao và giam chân quân địch dài ngày trong nhiều thành phố, tạo một nguồn động viên chính trị to lớn và những điều kiện thuận lợi cho quân và dân cả nước chủ động chuyển sang thời chiến.

Lúc này, cơ quan tham mưu đã có điều kiện tổng hợp tình hình chiến sự trong cả nước hơn hai tháng qua. Tại Nam Bộ, nổi lên là hoạt động của các đội tự vệ và cảm tử quân trong thành phố Sài Gòn. Ngay mấy ngày đầu kháng chiến toàn quốc, quân ta đã nổ súng đánh địch ở nhiều nơi, gây tiếng vang lớn ở Sài Gòn - Chợ Lớn. Trên chiến trường Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, từ cuối tháng 12, các trận phục kích, tập kích diễn ra chủ yếu trên đường 19 và trên địa bàn hai tỉnh Bình Thuận và Ninh Thuận. Nhân dân đang đẩy mạnh việc phá cầu đường, đắp ụ chướng ngại và đánh giao thông để cản trở bước tiến của địch trên con đường chiến lược 19. Quân ta ở Đà Nẵng không chuẩn bị kịp để tiến công địch trước như đã định vào nửa đêm 19. Hôm sau 20-12, địch đánh trước. Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt trên đường phố, ở sân bay và bến cảng. Cuộc bao vây địch kéo dài một tháng, tiếp đến là các trận đánh địch khi chúng tập trung quân, khai thông đường ra, giải vây cho đồng bọn ở Huế. Nếu lúc đầu việc lập vành đai bao vây địch trong thành phố Đà Nẵng là cách đánh không phù hợp thì sau đó, những trận phục kích địch, nhất là trên đèo Hải Vân là những trận đánh tốt, gây cho địch nhiều thiệt hại. Trung đoàn Cao Vân ở Huế nổ súng tiến công địch lúc 2 giờ 30 sáng 20-12. Do tiến công chậm so với nhiều thành phố ở ngoài Bắc nên địch đã chuẩn bị đối phó. Cuộc chiến đấu trong thành phố kéo dài 50 ngày đêm. Khi địch đưa quân từ Tây Nguyên ra, từ Lào sang, mở cuộc hành quân giải vây Huế đồng thời với Đà Nẵng, quân ta buộc phải rút khỏi cố đô trong thế bị động. Tại Vinh, do lực lượng ta mạnh hơn nên áp đảo địch, buộc chúng phải đầu hàng ngay trong đêm 19-12. Cuộc chiến đấu của bộ đội Vệ quốc đoàn và tự vệ Nam Định bắt đầu từ đêm 19-12 và kéo dài trong thành phố dệt cho đến nay đã hơn hai tháng. Ta đã giành giật với địch từng mục tiêu, đã đánh bại cuộc hành quân giải vây của địch ngày 6-1. Dự kiến rồi đây cuộc hành quân giải vây quy mô lớn hơn sẽ còn diễn ra. Địch quyết tập trung lực lượng đánh lại thành phố mà chúng coi là quan trọng vào hàng thứ ba ở Bắc Bộ. Bộ đội ở thị xã Bắc Ninh và Phủ Lạng Thương nổ súng tiến công địch mở sáng ngày 20-12. Mười ngày sau, địch buộc phải rút khỏi hai thị xã này, kéo về Hà Nội. Ta đã không tranh thủ được cơ hội đánh địch khi chúng rút chạy. Hải Dương là một thành phố có vị trí quan trọng trên đường số 5. Đêm 19, quân ta tiến công địch cùng một lúc ở ba nơi là thị xã, cầu Lai Vu và cầu Phú Lương. Sau đó, khi địch từ Hải Phong theo đường 5 lên giải vây cho Hải Dương và chuẩn bị khai thông với Hà Nội, cuộc chiến đấu diên ra quyết liệt ở nhiều đoạn trên con đường chiến lược này. Rồi đây địch sẽ từng bước rải quân chiếm đóng nhiều vị trí dọc đường 5 hòng đối phó với lực lượng vũ trang các làng hai ven đường. Hà Nội là mặt trận mà cơ quan tham mưu có điều kiện theo sát chiến sự diễn biến ngay từ đầu và trong suốt 60 ngày đêm. Sau khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến đấu tiêu hao và kìm chân địch, trung đoàn Thủ đô đã rút ra vùng tự do với kinh nghiệm khá dày dạn, trước một kẻ địch mạnh hơn mình gấp nhiều lần trên một mặt trận quan trọng vào bậc nhất. Chúng ta đã chuẩn bị kế hoạch đề đạt với trên về phương hướng xây dựng trung đoàn thành một đơn vị chủ lực mạnh của Bộ.

Tổng Tham mưu trưởng cho biết: ta dự kiến sau khi địch được tăng viện, chúng sẽ đánh rộng ra phía nam Hà Nội và vùng đồng bằng sông Hồng. một số anh em đã được phái đi tăng cường cho đoàn cán bộ tham mưu mang bí danh “trung đội 13”, giúp các địa phương huấn luyện lực lượng vũ trang, phát triển chiến tranh du kích, triển khai việc phá hoại giao thông, tiêu hao lực lượng địch, nhằm làm chậm bước tiến của chúng. Tham mưu cũng đã đề đạt với Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy kế hoạch hoạt động mùa hè của chủ lực cũng như lực lượng vũ trang các khu, tỉnh.

Về hoạt động của cơ quan, Bộ tổng tham mưu, Tổng tham mưu trưởng nhận xét: Trong hơn hai tháng qua, kể từ ngày rời Thủ đô, trong điều kiện vừa di chuyển, ổn định nơi ăn ở trên mỗi chặng đường, và tiếp tục làm việc, phục vụ chỉ đạo, chỉ huy, mặc dù còn nhiều bỡ ngỡ trước hàng loạt công việc mới mẻ trong những ngày đầu kháng chiến, nhưng chúng ta đã làm được nhiều việc, đã bảo đảm thông tin chỉ huy, nắm được diễn biến chiến sự, nhất là ở mặt trận Hà Nội, đã giúp trên chuẩn bị nội dung và tổ chức hội nghị quân sự toàn quốc, đã góp phần giúp đỡ bộ đội Liên khu 1 trong quá trình chiến đấu cũng như chuẩn bị và thực hành lui quân bí mật, an toàn ra vùng tự do, đã góp phần công sức vào việc di chuyển các cơ quan, đoàn thể và Chính phủ… Trong quá trình di chuyển từ ấp Thái Hà về đây, chúng ta đã bảo đảm được bí mật, đã giữ tốt quan hệ quân dân tại nơi đóng quân, nhất là trong dịp Tết vừa qua. Những thành tích trên đây mà cơ quan đạt được là do sự cố gắng chung của toàn thể anh chị em, từ các đồng chí phụ trách các phòng ban đến từng cán bộ, nhân viên, chiến sĩ lần đầu tiên làm việc trong điều kiện không thuận lợi bằng khi còn ở Hà Nội. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng chúng ta còn tỏ ra non kém trong nhiều mặt về nghiệp vụ công tác tham mưu. Đó là điều dễ hiểu khi chúng ta phải vừa làm vừa học ngay trong điều kiện chiến tranh đã lan rộng ra cả nước. Thực tế cuộc sống và chiến đấu sẽ giúp chúng ta khắc phục từng bước, trưởng thành từng bước.

Tổng Tham mưu trưởng cho biết, ngày mai toàn cơ quan sẽ bắt đầu cuộc hành quân đường dài lên vùng căn cứ địa. Cuộc di chuyển sẽ gian lao vất vả, nhất là đối với nhiều anh chị em chưa quen đi bộ đường xa. Cuộc hành quân được chia thành nhiều cung chặng, vừa đi vừa nghỉ, theo kế hoạch của đội công tác tiền trạm, và chuyến đi sẽ kéo dài hàng tháng. Yêu cầu dặt ra là đoàn kết giúp đỡ nhau trong hành quân, nhất là đối với các đồng chí sức khỏe yếu; chúng ta phải vừa di chuyển cơ quan vừa bảo đảm thông tin chỉ huy để việc nắm bắt tình hình chiến sự không bị gián đoạn. Một yêu cầu đặc biệt quan trọng là bảo đảm bí mật cả trong hành quân và trú quân. Máy bay địch sẽ hoạt động trên các trục đường mà chúng nghi là đường hành quân di chuyển của các cơ quan lãnh đạo kháng chiến. Đối với nhân dân dọc đường hành quân, cần phát huy ưu điểm thời gian trong công tác dân vận, vừa giữ tốt quan hệ quân dân, vừa giữ bí mật công việc và hướng di chuyển…

Ngay sau cộc họp, từng phòng, từng ban lặng lẽ khẩn trương chuẩn bị. Túi vải đựng gạo, thùng sắt tây dựng tài liệu được Ban quản lý phân phối gấp về các bộ phận. Tham mưu chủ nhiệm Phan Tử Lăng chạy đi chạy lại giữa các phòng kiểm tra đôn đốc việc chuẩn bị lên đường.

Sau bữa cơm chiều hôm đó, mồng 5 Tết Đinh Hợi, giữa không khí ấm cúng tình quân dân trong từng gia đình, anh chị em họp mặt thưa chuyện với chủ nhà, nói lên lời cảm ơn đã được gia đình giúp đỡ suốt thời gian trú quân ở đây. Mới qua mấy tuần quen hơi bén tiếng, các em thiếu nhi như ngỡ ngàng, luyến tiếc khi biết các anh chị bộ đội sắp ra đi. Không mấy ai không biết anh Ba Đang Nam Bộ, anh Đôn vui nhộn, anh Nghi cao kều… Biết bao giờ các anh mới trở lại để có những tối học hát những lớp bình dân học vụ, những đêm liên hoan văn nghệ? Cuộc chuyện trò thấm đậm tình quân dân kéo dài tới khuya.

Sáng hôm sau, trong nhà ngoài sân đã được các anh quét sạch, vại nước đã được gánh đầy, sớm hơn thường lệ. Cơm nước xong, các anh chị lên đường. Người lớn bịn rịn chia tay, các em nhỏ tranh nhau khoác bao gạo lên vai, theo các anh ra tận cuối thôn vẫn còn muốn theo các anh đi nữa…


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 13 Tháng Mười, 2012, 07:09:02 am
II

Với nhiều chàng sĩ quan tham mưu trẻ tuổi, cuộc lên đường sáng 26-2-1947 này được coi là khởi đầu của cả con đường dài chinh chiến. Đã ai hình dung được bàn chân vạn dặm của người lính - dù là lính cơ quan Tổng hành dinh - sẽ đặt trên những nẻo đường nào của đất nước.

Dưới sự chỉ huy chặt chẽ, thống nhất của từng phòng, theo kế hoạch đã được đội công tác vạch ra cho tổ tiền trạm trên từng chặng đường, anh chị em vui vẻ lên đường. Mọi việc liên hệ với Đoàn thể và chính quyền địa phương, thu xếp nơi ăn nghỉ trên từng chặng đường dừng chân, đã được bố trí chu đáo. Trừ một số phương tiện nặng được xếp lên xe bò, tất cả đều hành quân bộ. Ngoài số tư trang ít ỏi, mỗi người vắt vai một bao gạo và khoác một thùng sắt tây đựng tài liệu mà anh em gọi đùa là “thùng pháxa(1)”. Nhờ có chiếc thùng sắt đeo toòng teng bên hông này mà dù trời mưa hay nắng, tài liệu vẫn được giữ gìn chu đáo. Đêm đêm, nó trở thành một cái gối bất đắc dĩ, chẳng êm ái gì nhưng lại rất cần thiết cho việc đảm bảo an toàn tài liệu trong suốt cuộc hành quân.

Ngay từ những ngày đầu, một điều khiến mọi người dễ nhận thấy là, qua một đêm nghỉ ngơi đẫy giấc, tiếp đến là bữa cơm sáng trước khi lên đường, mấy giờ hành quân đầu tiên trong ngày bao giờ cũng là những lúc chuyện trò rôm rả nhất. Hầu như ai cũng có chuyện để kể, từ chuyện thời trẻ nghịch ngợm như thế nào, chuyện anh em cựu binh trong đơn vị của ông Ba Viên đấu tranh với bọn chỉ huy Pháp trong những ngày chạy trốn ở Hoa Nam sau cuộc đảo chính của Nhật, chuyện vừa nhận được thư của người bạn gái viết vội trên đường tản cư, v.v. đến chuyện Xanhtơni từ chối gặp ta hôm 19-12 để rồi chịu đòn tiến công bất ngờ ngay đêm hôm đầu kháng chiến, chuyện về các trận đánh ở Bắc Bộ Phủ, ở nhà Xôva, ở chợ Đồng Xuân… Rôm rả nhất và thu hút sự chú ý của nhiều người vẫn là những câu chuyện tiếu lâm. Tiếng cười cứ vang lên và kéo dài không ngớt.

Nhưng rồi càng về chiều, khi ánh nắng đầu hè đã dịu, cũng là lúc các chàng trai chân đã mỏi, vai đã tê, sự thấm mệt hiện trên nét mặt từng người. Và thế là những câu chuyện và những tiếng cười cứ ít dần, thưa dần. Lúc này, mọi người đều có chung một điều mong đợi là sớm nhìn thấy nhân viên tiền trạm đứng đón ở đâu đây. Cuối cùng, con người mà anh em mong đợi cũng xuất hiện. Tiếng thở phào nhẹ nhõm chỉ thực sự thốt ra khi túi gạo và “thùng pháxa” được hạ xuống thềm nhà, nơi từng bộ phận được phân phối nghỉ lại đêm đó. Nhờ sự giúp đỡ tận tình của chính quyền và nhân dân địa phương, nhất là của các mẹ, các chị trong đoàn thể phụ nữ, việc thu xếp nơi nghỉ ngơi và bữa ăn tối đã được chuẩn bị nhanh chóng theo yêu cầu của đội tiền trạm.

Lại một ngày mệt nhọc qua đi. Giấc ngủ nhanh chóng bù lại cho những chàng trai sức lực cần thiết để ngày mai lại rong ruổi lên đường.

Chẳng bao lâu, chặng đường dài đầu tiên đã lui dần về phía sau: Quốc Oai, Quang Oai, Hưng Hóa, Lâm Thao… Thông thường, anh chị em qua các thị trấn đó vào ban đêm. Mặc dù vậy, các chàng sĩ quan tham mưu quê Hà Nội vẫn nhanh chóng chứng minh được rằng: người Thủ đô vẫn nhanh chân tỏa đi khắp các nẻo đường kháng chiến.

Trên dọc đường chạy theo chiều dài của huyện lỵ, nhan nhản những người tản cư. Các cô gái, tuy quần áo không còn sặc sỡ như trên đường phố Thủ đô nửa năm về trước, nhưng từ mái tóc đến đôi dép đều nói lên một điều: họ là người thành thị mới về đây. Dưới ánh đèn không đủ sáng, đây đó vẫn khiến cho người ta cảm nhận một phần của Hà Nội đang dừng chân ở nơi này, từ quán phở Lò Đúc, phòng ảnh Hà Nội Photo, đến tiệm Càphê Ly, rồi Phở Tàu bay, Cà phê Nhân… Mặc dù cơ ngơi không thể bề thế bằng ở Thủ đô, nhưng phong cách vẫn rất Hà Nội! Chỉ có những bàn tay quen vẽ tranh quảng cáo, quen với khuôn mẫu của những panô tuyên truyền ở Thủ đô mới dựng được bức tranh hoàn tráng cỡ lớn rất hấp dẫn ngay đường vào phố huyện: bức tranh cổ động toàn dân kháng chiến. Những dòng quảng cáo trên bức tường còn lại của ngôi nhà mới bị “tiêu thổ” cho biết nội dung biểu diễn văn nghệ của đoàn nghệ sĩ Tự do mới từ Hà Nội qua đây và dừng chân dùng tiếng nhạc, lời ca động viên kháng chiến.

Trên đường hành quân lên phía Bắc, mặc dù ngày càng xa Hà Nội, nhưng những cảnh, những người gặp trên mỗi nẻo đường vẫn không khỏi đôi lúc gợi lại cho các chàng trai tham mưu hỉnh ảnh hoặc hương vị nào đó mang dấu ấn Thủ đô.

Sau đúng một tháng hành quân, cuối tháng 3-1947, cơ quan Bộ Tổng tham mưu đến Tiên Kiên (Lâm Thao - Phú Thọ). Theo chỉ thị của Tổng Chỉ huy Võ Nguyên Giáp, anh Thái đã cùng một số cán bộ tham mưu vượt lên, đến thị trấn này trước để chuẩn bị cho hội nghị các khu trưởng (từ Khu 4 trở ra) họp trong các ngày 25 và 26-3. Hội nghị tập trung chủ yếu bàn về cách đánh, đồng thời thảo luận giải quyết những vấn đề nóng bỏng do chiến sự đang mở rộng đặt ra với Tổng hành dinh và cấp chỉ huy các chiến trường.


(1) Pháxa: tên gọi một thứ lạc rang, có mùi húng lìu, đựng trong thùng sắt thường do Hoa kiều bán rong tại các thành phố hồi Pháp thuộc.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 13 Tháng Mười, 2012, 07:10:05 am
Từ thực tế hơn ba tháng chiến đấu vừa qua, nhất là trong quá trình địch đánh rộng ra ngoài các thành phố và thị xã, hội nghị đi sâu nghiên cứu một số trận điển hình của quân Pháp(1) để thấy đâu là chỗ mạnh và chỗ yếu trong cách đánh của địch, đâu là những tiến bộ và những mặt còn yếu kém của ta. Cứ sau khi phân tích một chiến thuật cụ thể của địch, hội nghị lại bàn cách ứng phó phù hợp với trình độ tổ chức chỉ huy và điều kiện trang bị của ta, đồng thời thảo luận những vấn đề cụ thể cần giải quyết để thực hiện biện pháp đó. Kết luận phần trao đổi về cách đánh của ta và của địch, đồng chí Tổng chỉ huy nói: “Hơn ba tháng chiến đấu chống thực dân phản động Pháp, từ một quân đội còn non kém, chúng ta đã và đang trưởng thành trong những kinh nghiệm bắng sắt và máu. Những thất bại của ta, những chiến thuật của địch đều là những bài học quý báu. Chúng ta phải luôn luôn học tập ở quân địch, học tập trong chiến đấu”.

Sau đó hội nghị bàn và quyết định những vấn đề cấp thiết trước mắt mà chiến trường đặt ra lúc này như các vấn đề nắm vững bộ đội, công tác chính trị, củng cố căn cứ địa, dân quân du kích, quân nhu quân giới…

Như sau này Tổng Tham mưu trưởng và nhiều khu trưởng thường nhắc lại, cuộc hội nghị (mà chúng tôi thường quen gọi là Hội nghị Tiên Kiên) không chỉ là một lớp tập huấn ngắn ngày đối với cấp chỉ huy các chiến trường mà còn gợi mở những vấn đề hết sức thiết thực về phương hướng hoạt động của Bộ Tổng tham mưu trong bối cảnh chiến sự đang ngày càng mở rộng.

Sau một tuần dừng chân lấy sức tại Tiên Kiên, chặng đường hành quân thứ hai của cơ quan Bộ Tổng tham mưu bắt đầu, với Tây Cốc, Đoan Hùng, rồi Bình Ca, Sơn Dương. Vượt Đèo Khế để sang Văn Lãng, vào đất Thái Nguyên, là một trong những thử thách rất đáng ghi nhớ trong cuộc hành quân. Gay go nhất là đoạn từ Đa Năng lên đỉnh đèo. Đối với nhiều anh chị em, lần đầu tiên những bàn chân thư sinh được thực sự rèn luyện và cũng là lần đầu tiên hiểu thế nào là “thở bằng tai”. Dăm bảy năm sau nhớ lại, khi những Pha Đin, Cò Nòi đã rèn cho những cặp giò xông pha ngàn dặm trở thành những “bắp chân đầu gối đã săn gân” thì chặng đường Đa Năng - Đèo Khế chỉ là những thử thách đầu tiên, những bài học vỡ lòng.

Khác với lần tạm nghỉ sau chặng đầu ở Tiên Kiên, trong lần dừng chân thứ hai này ở Văn Lãng, bộ máy chỉ đạo, chỉ huy có thêm điều kiện hoạt động đều đặn hơn. Văn Lãng ở sát chân Núi Hồng, ở phía cửa ngõ tây nam căn cứ địa Việt Bắc, đã rất xa mặt trận. Điện đài có điều kiện hoạt động nhiều hơn mà không ngại bị địch theo dõi và phát hiện hướng di chuyển cơ quan như khi còn ở đồng bằng hay trung du.

Tin tức nhận được hằng ngày cho thấy địch đang dùng xe tăng, cơ giới đánh rộng ra ngoài các thành phố, kết hợp với việc lùng sục cơ quan lãnh đạo kháng chiến trên đường di chuyển. Như tài liệu của địch tiết lộ sau này, bất kỳ một bộ phận nào thuộc cơ quan trung ương của ta cũng đều là mục tiêu lùng sục của quân Pháp. Và kẻ địch đã phải thú nhật rằng chúng không thành công. Trong lúc chúng tập trung theo dõi hướng tây nam Hà Nội thì cơ quan Đảng và Nhà nước đang “thiên đô” lên hướng tây bắc. Tin tức cũng cho thấy địch đang đứng trước những khó khăn mới, trước hết về mặt binh lực. Mặc dù đã có viện binh nhưng do chiến trường đã mở rộng, binh lực lại hạn chế, cho nên nhịp độ tiến công của địch dần dần chậm lại khiến chúng không thực hiện được ý đồ nhanh chóng mở rộng phạm vi chiếm đóng vùng châu thổ sông Hồng. Để che giấu nguyên nhân bước tiến của quân Pháp trên chiến trường Bắc Bộ giảm dần, cơ quan chiến tranh tâm lý của địch gọi đây là “mùa hè yên tĩnh”. Thực chất đó chỉ là quá trình vừa củng cố địa bàn mới chiếm được vừa chờ đợi thêm viện binh để tiếp tục mở rộng thêm phạm vi chiếm đóng. Vào dịp này, cơ quan tham mưu phát hiện một tình hình mới, đó là trong các vùng địch kiểm soát, ngụy quyền dần dần xuất hiện gần như đồng thời với việc bắt lính để bổ sung cho quân đội tay sai. Thực tế sau này đã cho thấy: tất cả những hoạt động trong mùa hè chính là để chuẩn bị cho một ý đồ chiến lược trong thu đông.

Trong vài ngày dừng chân ở Văn Lãng cũng là những ngày vừa thư giãn, lấy lại sức, vừa có dịp kể cho nhau nghe những chuyện được coi là “không bình thường” trong cuộc “thiên đô” vừa qua. Nói “không bình thường” là đối chiếu với chức năng, nhiệm vụ cơ quan tham mưu chiến lược. Đó là “những việc không tên”, nhưng vì không biết giao cho cơ quan nào hoặc vì quá tin tưởng Bộ Tổng tham mưu nên cấp trên ủy thác cho anh em làm. Có thể kể ra vài ví dụ.

Chỉ một ngày sau khi đặt chân đến Văn Lãng, phòng Quân nhu - Kế toán tổ chức một cuộc họp mặt đặc biệt được gọi là “để mừng tư lệnh kỵ binh mới hoàn thành nhiệm vụ đặc biệt trở về”. Trong cuộc họp mặt, anh em yêu cầu anh La Tuynh báo cáo về chuyến công tác đột xuất vừa qua.


(1) Ví dụ các trận địch dùng cơ giới để vận động, phối hợp hải - lục - không quân, thực hành các thủ đoạn (mà nghị quyết hội nghị gọi là) chiến thuật bước nhảy, chiến thuật mũi dùi, chiến thuật gọng kìm, chiến thuật toàn diện bao vây, chiến thuật vu hồi. Tất cả đều là những thủ đoạn tác chiến của địch khi đó còn rất mới lạ với nhiều cấp chỉ huy của ta.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 13 Tháng Mười, 2012, 07:11:11 am
Chẳng là từ hồi Tết, trước khi cơ quan lên đường hành quân, anh La Tuynh được Tổng Tham mưu trưởng gọi lên giao nhiệm vụ đi tìm mua chừng 20 con ngựa để Trung đoàn Hà Tuyên thí điểm xây dựng một đội kỵ binh hoạt động ở miền núi. Đó là một nhiệm vụ vừa đột xuất đối với phòng Quân nhu - Kế toán, vừa rất mới mẻ đối với La Tuynh, một người chưa hiểu biết gì về ngựa. Balô trên vai, anh cùng với một cán bộ Ban quản lý lên Thái Nguyên tìm mua ngựa. Phải mất hàng tuần lễ đi tìm tòi, học hỏi những đồng bào có kinh nghiệm để biết thế nào là ngựa tốt, ngựa hay, thế nào là ngựa thồ hàng, ngựa kéo xe và ngựa cưỡi. Được sự giúp đỡ của Ủy ban kháng chiến tỉnh, số ngựa được lần lượt mua về. Ngựa mau được rồi cũng là lúc bắt đầu hàng loạt chuyện rắc rối. Biết bao giai thoại được anh Tuynh kể lại về nỗi vất vả kéo dài hàng tháng trước một bầy ngựa khác giống từ khắp nơi tập trung về thành một bầy. Gian khổ nhất là những ngày chăn dắt chúng “hành quân” trên những quãng đường hai bên là ruộng lúa, quang đãng, rất dễ bị máy bay địch phát hiện. Mãi đến cuối tháng 4, sau khi giao lại một số ngựa cho văn phòng Bộ Quốc phòng và số còn lại giao cho Trung đoàn Hà Tuyên, ngài “tư lệnh kỵ binh” bất đắc dĩ mới thở phào nhẹ nhõm, trở về với công việc của cơ quan, đúng dịp toàn bộ Bộ Tổng tham mưu vừa đặt chân đến vùng cửa ngõ phía tây bắc của căn cứ địa Việt Bắc.

Cũng vào khoảng cuối tháng 2, khi cơ quan bắt đầu lên đường “thiên đô”, trước khả năng địch có thể đánh lan ra các tỉnh quanh Hà Nội, một cơ quan bạn lo cho số phận hơn 200 tấn máy móc, sắt thép, để ở vùng Chèm Vẽ. Chưa biết xử lý thế nào trước nguy cơ số tài sản quý giá đó có thể bị phá hủy hoặc lọt vào tay địch, nên phái cán bộ đến yêu cầu Bộ Tổng tham mưu giúp đỡ chuyển lên hướng Việt Trì. Một cán bộ tham mưu trẻ măng được Tổng Tham mưu trưởng gọi lên giao nhiệm vụ. Là một học sinh vừa tham gia cách mạng từ sau Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, anh chưa hề có kinh nghiệm giao thiệp để giải quyết những công việc vừa nặng nề vừa phức tạp như vậy. Trong tay chỉ có một cái giấy giới thiệu của Bộ Tổng tham mưu, chàng sĩ quan tham mưu trẻ tuổi của chúng ta đã được các phường thuyền mảnh ở Phúc Yên tận tình giúp đỡ. Cả chủ thuyền cũng như anh em phu thuyền không nề hà chọn ngày “xuất hành đầu xuân”, cũng không quan tâm đến một việc “làm không công”, ai nấy hồ hởi bắt tay vào việc. Chỉ trong vòng mươi ngày, hơn 200 tấn hàng đã được chở lên Việt Trì và được chính quyền địa phương giúp đỡ cất giấu vào nơi an toàn. Cám ơn và chia tay những người bạn đường sông nước, chàng cán bộ tham mưu vội vã trở về cơ quan khi đó đang trên đường di chuyển lên hướng Quảng Oai. Trên đường về, suy nghĩ để chuẩn bị báo cáo công tác với Tổng Tham mưu trưởng, mặc dù chưa có lý luận để phân tích vấn đề một cách sâu sắc, nhưng thực tế cũng giúp anh có một suy nghĩ ban đầu về tinh thần và sức mạnh của người dân trong cuộc kháng chiến. Điều đó, như anh tâm sự sau này, càng trưởng thành hơn trong thực tế đấu tranh, anh càng có cơ sở lý luận rành rẽ hơn để hiểu thế nào là vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng và kháng chiến.

Chuyện thứ ba cũng khá đặc biệt, xảy ra vào dịp cơ quan tham mưu đang cùng đồng bào vui xuân Đinh Hợi. Đó là chuyện làm sao đưa được hai chiếc máy bay Tiger MothMorane Soulnier ra khỏi vùng sắp có chiến sự. Đề phòng chiến sự lan tới, hai chiếc máy bay có thể rơi vào tay địch, Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy giao cho Bộ Tổng tham mưu bàn với anh Phan Phác - Cục trưởng Cục Quân huấn (bên Bộ Quốc phòng) tổ chức một cuộc “hành quân bộ” đưa hai máy bay lên căn cứ địa Việt Bắc. Và một việc hiếm thấy trong lịch sử chiến tranh đã diễn ra: hai chiếc máy bay được tháo rời thành nhiều bộ phận, khi thì được xếp lên xe bò, khi thì trên thuyền, rong ruổi nhiều ngày, để rồi được đưa lên tận Hang Hùm, giữa ngã ba cây số 5 và đường đi Bình Ca (Sơn Dương - Tuyên Quang)(1).

Cũng trong cuộc di chuyển của các cơ quan Trung ương lên căn cứ địa Việt Bắc, thêm một sự việc nói lên sự tin cậy của các cơ quan nhà nước đối với Bộ Tổng tham mưu. Ban quản lý nội bộ Bộ Tổng tham mưu được giao một nhiệm vụ khá đặc biệt. Hồi đó mấy ai biết rằng, bước vào kháng chiến, kho bạc nhà nước có bao nhiêu tiền. Vào một buổi sáng đầu tháng 12-1946, khi cơ quan Bộ Tổng tham mưu vừa từ phố Nguyễn Du chuyển xuống ấp Thái Hà, một cán bộ Ban quản lý được lệnh dẫn một tiểu đội cảnh vệ lên xe đi nhận một nhiệm vụ mà anh chưa biết là việc gì. Tới Văn phòng Bộ Quốc phòng, người ta giao cho anh hai triệu đồng bạc tiền giấy và một trăm thỏi bạc trắng. Tất cả bỏ vào hai chiếc hòm sắt khóa lại, đưa thẳng về Chương Mỹ (Hà Đông) với lời dặn sẽ hành quân cùng cơ quan trong suốt cuộc di chuyển lên căn cứ địa. Người ta chỉ yêu cầu anh một điều: tuyệt đối không nói với bất cứ ai trong hai hòm sắt có gì. Vì tin cậy hay vì ấu trĩ về mặt hành chính - quản lý, việc bàn giao chẳng qua một thủ tục giấy tờ nào. Suốt chặng đường hành quân từ Chương Mỹ lên Đoan Hùng, đồng chí cán bộ quản lý nọ lo ngay ngáy trong vai trò “thần giữ của”. Mãi đến khi cơ quan tham mưu dừng chân ở Đoan Hùng, hai chiếc hòm sắt mới được chuyển sang cho Ban Kinh Tài trung ương. Người đảm nhiệm vụ việc chuyển hai két bạc này là anh Trần Văn Lư, Trưởng phòng Nhân sự Bộ Tổng tham mưu và anh Vĩnh Thuận (Đinh Văn Nhật) cán bộ Bộ Quốc phòng.


(1) Đây là hai chiếc máy bay của “cựu hoàng” Bảo Đại. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông ta được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời ra làm cố vấn của Chính phủ lâm thời. Bảo Đại đề nghị và được Chính phủ chấp nhận đưa hai chiếc máy bay từ Huế ra Hà Nội, sau đó lên Kim Bái (Tông - Sơn Tây). Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, hai chiếc máy bay được đưa lên Hang Hùm (gần Bình Ca - Tuyên Quang) rồi lên Soi Đúng, phía nam huyện lỵ Chiêm Hóa chừng 10 kilômét. Năm 1949, khi Bộ Tổng tham mưu tổ chức Ban Nghiên cứu không quân thì hai chiếc máy bay trở thành “giáo cụ trực quan”.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 13 Tháng Mười, 2012, 07:11:58 am
III

Từ hạ tuần tháng 2 và trong suốt cuộc di chuyển cơ quan, điều khiến Tổng Tham mưu trưởng suy nghĩ nhiều là những tin tức về các cuộc hành binh bằng xe tăng, cơ giới của địch sau khi chúng đánh rộng ra ngoài các thành phố. Chính vì những cuộc hành binh loại này của quân Pháp mà nơi này nơi kia xảy ra hiện tượng “vỡ mặt trận”. Anh đã nhiều lần trao đổi với bộ phận nghiên cứu của Phòng Tác chiến về biện pháp hạn chế không để cho cơ giới địch tự do hoành hành trên các trục đường, cả trên bộ và trên sông.

Vấn đề này đã từng được đặt ra trong các hội nghị quân sự trước đó, nhất là hội nghị các khu trưởng họp tại Tiên Kiên hạ tuần tháng 3. Ta chưa có đủ súng để diệt xe tăng địch một cách có hiệu quả như trong trận Chùa Trầm. Những ụ chướng ngại đắt trên đường, những hàng rào bằng đường ray đan cánh sẻ, những hố đào sâu trên nhiều đoạn đường dài hàng chục mét, v.v. Tất cả đều không có tác dụng đáng kể để ngăn chặn một kẻ địch được trang bị xe ủi, xe háptơrắc, thuốc nổ… Sau khi quân địch đánh rộng ra vùng xung quanh các thành phố lớn, đài Con Nhạn của quân viễn chinh Pháp nói nhiều về những cuộc hanh binh của các đơn vị cơ giới trên các trục đường lớn ở đồng bằng Bắc Bộ. Chúng gọi đây là những cuộc “dạo mát quân sự trong mùa hè yên tĩnh”.

Không phải bị kích động bởi những lời huênh hoang đó, nhưng thực tế chứng tỏ hoạt động của xe tăng, cơ giới địch đã gây khá nhiều khó khăn cho ta, kể cả đối với những đơn vị chủ lực đã từng kinh qua chiến đấu từ những ngày đầu, như Trung đoàn 66. Trung đoàn này là đơn vị đã tốn khá nhiều công sức trong việc đắp ụ, phá đường.

Vào một buổi chiều đầu tháng 4 khi cơ quan đã vượt Đèo Khế và dừng chân ở Văn Lãng, ba cán bộ Phòng Tác chiến được mời lên gặp Tổng Tham mưu trưởng. trong những ngày qua, các anh đã đôi ba lần được anh Thái gợi ý để suy nghĩ về vấn đề này. Hôm nay, Tổng Tham mưu trưởng nói lại với ba người những điều suy nghĩ trăn trở của mình. Sau hơn một giờ trao đổi thảo luận, cuối cùng anh Thái giao nhiệm vụ:

- Đấy, vấn đề mình đặt ra là như vậy. Ngày mai, các cậu xuống gặp các anh Phùng Thế Tài và Tuấn Kiệt, cùng các anh ấy bàn bạc, tìm cho ra cách ngăn chặn có hiệu quả, không cho cơ giới địch tự do hoành hành như hiện nay.

Với những giấy tờ ủy nhiệm cần thiết, kèm theo một thư riêng của Tổng Tham mưu trưởng gửi Trung đoàn trưởng 66, sáng hôm sau các phái viên tác chiến lên đường. Suốt dọc đường, giữa ba người luôn diễn ra những cuộc trao đổi, có khi khá sôi nổi, vẫn về một chủ đề nóng bỏng: làm thế nào để làm chậm bước tiến của cơ giới địch? Một điều trùng hợp lý thú là các anh đến trung đoàn đúng vào lúc Ban Tham mưu đang chuẩn bị hội nghị chuyên đề bàn về công tác phá hoại giao thông, ngăn chặn địch.

Ngay ngày đầu của cuộc họp, vấn đề được đặt ra là vì sao Trung đoàn bộ 66 phải rút thẳng một mạch vào sâu trong dãy Núi Bà để rồi cuối cùng phải vượt sông Đà sang “lưu vong” trên đất Thanh Thủy, Phú Thọ. Có nhiều lý do, nhưng điều làm cho mọi người quan tâm đi sâu tìm nguyên nhân là vì sao thất bại trong ý định phá hoại giao thông nhằm làm chậm bước tiến của địch? Trong quá trình chuẩn bị hội nghị cũng như mấy buổi thảo luận đầu tiên, người ta dễ nhận thấy Trưởng ban Tham mưu trung đoàn, anh Tuấn Kiệt, đã để nhiều tâm trí vào vấn đề này. Trao đổi ý kiến với Trung đoàn trưởng Phùng Thế Tài và các phái viên của Bộ cũng như phát biểu ở hội nghị, anh tỏ ra rất tự tin vào những nhận xét của mình:

- Ta bỏ nhiều công sức đắp ụ chướng ngại trên đường lớn. Địch chỉ tốn ít công dùng xe ủi phá đi dễ dàng. Cả trên đường Hà Nội - Hà Đông và Hà Nội - Sơn Tây đều như vậy.

- Phải mất 1.400 công mới dựng được một hàng rào bằng đường ray đan chéo cánh sẻ. Địch dùng thuốc nổ cộng với mấy chiếc xe ủi húc đổ toàn bộ trong mấy giờ.

- Phải tốn mấy chục công mới hạ được một cây to vắt ngang đường. địch dùng mìn phá rồi cưa ra rừng đoạn, cuối cùng dùng xe ủi gạt sang lề đường, cũng chỉ mất vài tiếng đồng hồ. Nếu tính toàn bộ số công dùng vào việc ngả cây trên hai con đường từ Ngã Tư Sở và từ Văn Điển vào thị xã Hà Đông, ta tốn dăm ngàn công. Địch chỉ cần vài tiểu đội công binh dùng mìn và xe ủi dọn trong vòng vài ba ngày.

- Cắt một đoạn đường nhựa hay đường đá, dài 15 mét, rộng 8 mét, sâu 3 mét, mất hàng ngàn công. Địch dùng một tiểu đoàn, đánh mìn bạt hai đầu hố, sửa thành dốc thoai thoải cho cơ giới chạy qua được, chỉ mất mấy tiếng đồng hồ.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 13 Tháng Mười, 2012, 07:12:27 am
Tóm lại, mọi cách đã dùng, tuy có tác dụng gây khó khăn cho cơ giới địch, nhưng hiệu quả rất ít, không tương xứng với công sức bỏ ra. Vấn đề đặt ra để suy nghĩ là làm sao tốn ít sức hơn mà ngăn chặn địch hiệu quả hơn trong điều kiện ta chưa có vũ khí đánh cơ giới địch một cách phổ biến.

Trải qua mấy ngày thảo luận sôi nổi, trí tuệ tập thể đã tìm ra những biện pháp mới được mọi người chấp nhận để đề đạt lên trên. Đó là cách phá đường theo hình cánh hoa mai do anh Tuấn Kiệt vừa thuyết trình vừa vẽ lên bảng. Với cách phá đường này, ta buộc địch phải tốn công sức sửa chữa nhiều hơn, lâu hơn, lại không cản trở việc đi lại của ta, kể cả đi bộ, đi xe đạp hoặc đi ngựa. Cụ thể là:

- Các hố trên mặt đường đào so le (hình cánh hoa mai), mỗi hàng cách nhau 2 - 3 mét, mỗi hố rộng 0,6 mét, dài 1 mét, sâu 0,6 mét (đủ lọt bánh xe cỡ lớn), hố nọ cách hố kia 1,5 - 1,8 mét.

- Mặt đường còn lại (không đào) là 1 mét, chạy chữ chi (Z), cứ khoảng 100 mét mép đường bên phải lại qua 100 mét bên trái. Mặt đường (không đào) có đủ cho người đi bộ hoặc xe đạp.

Cách phá đường như vậy so với trước đây ít tốn công sức hơn mà lại làm cho cơ giới địch không đi được, tránh hố này thì bánh xe sa xuống hố kia. Muốn sửa cho cơ giới địch được, phải san lấp cả một đoạn đường dài. Để gây thêm khó khăn cho địch trong công việc san lấp, đất ta đào lên không để đống cạnh đường như trước mả rải vãi ra khắp mặt ruộng hai bên đường.

Đoạn đường chọn để phá là những nơi bất lợi cho cơ giới địch cơ động cũng như trong việc sửa đường. Đó là những đoạn đường vòng, càng cao hơn mặt ruộng càng tốt, gần nơi có địa hình địa vật thuận lợi cho ta bố trí cá tổ chiến đấu tiêu hao địch khi chúng buộc phải dừng lại để sửa đường. Muốn vậy, cần nghiên cứu kinh nghiệm tác chiến của bộ đội nội thành Hà Nội, huấn luyện và tổ chức các tổ dân quân du kích giỏi bắn tỉa, bố trí sẵn ở các công sự được đào gần đó từ trước.

Trên mặt đê, vì không được đào để bảo đảm sự bền vững của đê nên phải dùng cách đắp những con chạch lớn, dài 3 mét, rộng 1 mét (phổ biến là chiếm một phần tư mặt đê, cao 0,6 mét), xen kẽ bên phải và bên trái mặt đê. Đất đắp các con cạch phải lấy từ xa, cách đê từ 30 mét trở lên, ở phía trong đê, để không ảnh hưởng đến sự an toàn của chân đê.

Riêng các cầu cống cần phá và có thể phá, đề nghị Bộ giao cho công binh đảm nhiệm. Cần phá tới mức buộc địch phải làm đường ngầm hoặc cầu phao, hoặc phải xây lại, tốn công, tốn của, mất nhiều thời gian…

Trải qua mấy ngày thảo luận, sau khi ý kiến đã thống nhất, Ban Tham mưu Trung đoàn 66 phối hợp với địa phương, ra thực địa làm thí nghiệm phân tích lợi hại, bổ sung những điều cần thiết để biện pháp phá hoại được hoàn chỉnh, báo cáo lên trên.

Ba phái viên tham mưu khẩn trương trở về cơ quan. Tổng Tham mưu trưởng dành hẳn một buổi, vừa nghe báo cáo, vừa trao đổi ý kiến, thảo luận, bổ sung cho biện pháp thêm hoàn chỉnh. Cuối cùng, một bức điện được chuyển xuống Trung đoàn 66, phê chuẩn kế hoạch và giao cho Ban Tham mưu trung đoàn cử cán bộ xuống một số địa phương thuộc Hà Đông và Sơn Tây bàn bạc và hướng dẫn thực hiện, làm thí điểm.

Chính quyền và các đoàn thể hai tỉnh đã nhiệt liệt hưởng ứng. Nhờ vậy, chỉ trong vòng vài ba tuần lễ, các trục đường chính thuộc Hà Đông và Sơn Tây cũng như con đường Hưng Hóa - Cẩm Khê đều được phá hoại như phương pháp mới. Trên các mặt đê sông Hồng và sông Đáy, các đoạn xung yếu đều được đắp con chạch theo đúng phương pháp và kích thước đã được thống nhất. Phòng Tác chiến Bộ Tổng tham mưu tập trung theo dõi hoạt động của xe tăng và cơ giới địch. Chừng một tháng sau, thực tế đã cho phép rút ra kết luận: cách phá đường theo kiểu hoa mai và đắp con chạch trên đê tuy không tuyệt đối ngăn chặn bước tiến của địch nhưng đã làm cho chúng tốn nhiều thời gian và công sức mới tiến hành được một cuộc hành binh bằng cơ giới. Kinh nghiệm trên đây được phổ biến xuống các đơn vị và địa phương ở trung du, đồng bằng Bắc Bộ và Khu 4. Chẳng bao lâu, mạng đường giao thông bị phá hoại theo phương pháp mới được nhân lên đã ảnh hưởng lớn đến hình thức của địch. Sau này, trong Hồi ký viết đầu những năm 1970, tướng Pháp Xalăng (Raoul Salan) đã phải than phiền rằng những hố phá hoại “như những phím đàn pianô” trên khắp các nẻo đường “đã gây trở ngại khá nhiều cho các cuộc hành binh bằng cơ giới của chúng ta” (Pháp).


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 13 Tháng Mười, 2012, 07:13:33 am
IV

Chặng đường hành quân cuối cùng của Bộ Tổng tham mưu từ Văn Lãng lên hướng Chợ Chu kết thúc vào thượng tuần tháng 5. Thế là trải qua gần ba tháng vừa di chuyển cơ quan vừa bám sát diễn biến của chiến trường, toàn cơ quan đã hội tụ trong khu vực Quán Ông Già đến Quảng Nạp, Yên Thông. Cuộc hành quân đã qua địa hạt 5 tỉnh: Hà Đông, Sơn Tây, Phú Thọ, Tuyên Quang và Thái Nguyên, từ đồng bằng, trung du, tiến vào vùng rừng núi trung tâm căn cứ địa Việt Bắc.

Cùng với việc tiếp tục nắm tình hình chiến trường, tình hình bộ đội, phục vụ chỉ đạo tác chiến và xây dựng trong mùa hè, hàng loạt công việc được đồng thời đặt ra: ổn định tổ chức nơi ở và làm việc, xây dựng nền nếp công tác sinh hoạt trong điều kiện mới, điều kiện sống và làm việc trong vùng đồng bào thiểu số. Với địa hình núi non hiểm trở mà sau này Tố Hữu khái quát là “rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”, với lòng người dân vốn có truyền thống gắn bó lâu đời với cách mạng, yêu cầu đặt ra cho mỗi thành viên Bộ Tổng tham mưu là góp phần xây dựng căn cứ địa vững mạnh về mọi mặt, làm nơi đứng chân lâu dài của bộ máy lãnh đạo kháng chiến.

Ngay sau khi tới nơi, một trong những công việc đầu tiên mà Bộ Tổng tham mưu phải quan tâm là xây dựng tổ chức bảo vệ cơ quan Đảng và Chính phủ, từ việc làm nhà, đào công sự tránh máy bay đến việc tổ chức canh gác. Nhiều cán bộ hồi ở Việt Bắc được giao nhiệm vụ xây dựng nơi làm việc cho cơ quan Trung ương vẫn còn nhớ một câu văn vần được đồng chí Phạm Ngũ Kiên (Chính ủy trung đoàn bảo vệ căn cứ địa) và các đồng chí giúp việc Bác Hồ truyền đạt lại cho cơ quan Tổng đội thuộc Bộ Tổng tham mưu. Nó nói lên những điều cần chú ý khi chọn địa điểm xây dựng nơi ở và làm việc của Bác. Đó là:

Trên có núi, dưới có sông,
Có đất ta trồng, có bãi ta chơi.
Tiện đường sang Bộ Tổng,
Thuận lối tới Trung ương
Nhà thoáng, ráo, kín mái,
Gần dân, không gần đường.


Sau này, bác Phạm Ngũ Kiên (chúng tôi vẫn quen gọi là Ké Kiên) có dịp nói lên suy nghĩ của mình về những lời dặn trên đây mấy thập kỷ trước:

- Hồi đó anh em chúng tôi đã phải giảng giải cho bộ đội hiểu hết ý nghĩa mấy câu này khi nhận nhiệm vụ xây dựng chỗ ở và làm việc của Bác Hồ ở Thanh La, gần Tân Trào. Càng về sau, suy sâu nghĩ kỹ càng thấy mấy câu đơn sơ mộc mạc đó chứa đựng phong cách của Người, chứa đựng quan điểm chiến tranh nhân dân của Đảng mà anh em trong Tổng đội chúng tôi phải vận dụng trong việc chọn địa điểm và xây dựng nơi ở và làm việc của Bác Hồ. Bác dạy chúng tôi phải dựa vào dân để được sự che chở, đùm bọc của dân; phải xa đường để tránh con mắt tò mò của kẻ xấu; dựa vào địa hình có núi có sông, làm cho cuộc sống thoải mái, gần gũi với thiên nhiên; lại có đất tăng gia, trồng trọt để cải thiện đời sống, kháng chiến lâu dài; có bãi vui chơi, luyện tập để tăng cường sức khỏe; mọi việc lãnh đạo kháng chiến phải được bàn bạc với tập thể Trung ương để chỉ đạo hoạt động của Bộ Tổng, nên nơi ở của Bác phải tiện đường thuận lối để Bác dễ qua lại các cơ quan lãnh đạo, chỉ huy…

Về phần mình, nhiều cán bộ cũ của Bộ Tổng tham mưu chưa quên những công việc đầu tiên khi cơ quan đến Quảng Nạp, nơi đóng quân đầu tiên ở căn cứ địa Việt Bắc trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Quá trình ổn định tổ chức, xây dựng nền nếp làm việc hướng xuống đơn vị, hướng qua chiến trường, cũng là quá trình xây dựng mối tình đoàn kết quân dân trong điều kiện anh em chưa có kinh nghiệm làm công tác quần chúng trên một địa bàn dân tộc thiểu số, có địa phương nhân dân chưa nói thạo tiếng Kinh. Tuy không tiện nói ra nhưng trong suốt thời gian đầu chung sống với đồng bào địa phương, điều khiến anh chị em ngại nhất là việc ăn ở và làm việc trên nhà sàn. Trên nhà mái thấp, ánh sáng thiếu mà lại thường xuyên phải hít mùi phân trâu, phân lợn từ dưới xông lên. Ai cũng biết rằng cuộc vận động vệ sinh là một công việc không thể thực hiện được một sớm một chiều, thế nhưng thích ứng với điều kiện ăn ở và làm việc như vậy là một điều không giản đơn. Bởi vậy về sau, cứ mỗi lần thay đổi địa điểm cơ quan, nhiều phòng, ban tìm tre nứa lá, tự dựng lấy nhà ở và nơi làm việc của mình.

Như sau này anh Thái nói lại, điều này anh suy nghĩ và nhiều lần trao đổi với Tham mưu chủ nhiệm Phan Tử Lăng trong những ngày Bộ Tổng tham mưu mới đặt chân lên căn cứ địa, là nhanh chóng xây dựng cơ quan trưởng thành cả về tư tưởng, chính trị, tổ chức và nghiệp vụ, nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới. Chiến tranh đang mở rộng. Làm thế nào để mọi người trưởng thành, đủ sức đóng góp vào việc hoàn thành chức năng của cơ quan tham mưu chiến lược.

Việc xây dựng cơ quan được đánh dấu bằng một mộc quan trọng, vào trung tuần tháng 5, khi cơ quan còn trú quân ở Quảng Nạp. Đó là một cuộc họp do Tổng Tham mưu trưởng triệu tập và chủ trì, gồm Tham mưu chủ nhiệm, các tổ trưởng Đảng và cán bộ phụ trách các phòng, ban. Yêu cầu đặt ra với cuộc họp là xác định phương hướng xây dựng cơ quan vững mạnh trước khi bước vào mùa khô 1947, mùa khô đầu tiên của cuộc kháng chiến.

Đã xa rồi, cái ngày mà Bộ Tổng tham mưu mới ra đời, với mấy đảng viên sinh hoạt trong một tổ Đảng. Tình hình nay đã khác. Số đảng viên trong cơ quan đã lên đến hơn 30 đồng chí, đạt yêu cầu về tỷ lệ lãnh đạo là 1 trên 3. Tháng trước, đồng chí Hoàng Văn Thái đã đề nghị lên trên cho phép tổ chức một chi bộ trong Bộ Tổng tham mưu, thuộc tổ chức Đảng Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy. Đề nghị chưa được chấp nhận, vù lúc này tổ chức Đảng của Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy cũng chưa được xác định. Về mặt chính quyền, với quân số đã lên tới hơn 100 người, tổ chức Bộ Tổng tham mưu lúc này gồm các phòng Nhân sự, Tình báo, Tác chiến, Trang bị - Cấp dưỡng, Văn thư - Hành chính và mấy bộ phận độc lập như Ban quản lý, Ban Bí thư. Vài tháng qua, có đôi chút xáo động về mặt tổ chức của cơ quan tình báo. Sau hội nghị chuyên môn tổ chức ở Chúc Sơn hồi tháng 2-1947, trước yêu cầu nắm địch, cuối tháng 3 Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy quyết định tổ chức Cục Tình báo trực thuộc Bộ, trên cơ sở tổ chức cũ của Phòng Tình báo Bộ Tổng tham mưu. Đồng chí Hoàng Mỹ (Trần Hiệu), Phó Giám đốc Nha Công an Bắc Bộ được điều về làm Cục trưởng. Lớp tình báo do Bộ Tổng tham mưu tổ chức ở Ỷ La (Tuyên Quang) cũng được bàn giao sang cho Cục Tình báo. Suốt gần hai tháng qua, Bộ Tổng tham mưu đứng trước một mâu thuẫn: là cơ quan chỉ đạo, chỉ huy tác chiến nhưng trong tay không có một tổ chức nắm địch. Bộ phận “địch tình” mới từ Phòng Tình báo chuyển sang Phòng Tác chiến, không đủ sức cung cấp những tin tức cấp thiết về địch. Cơ quan tham mưu muốn có tin phải sang liên hệ với Cục Tình báo Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy. Đồng chí Tổng Tham mưu trưởng đã sớm phát hiện sự bất hợp lý này nên đã đề đạt lên trên giải phóng(1).


(1) Mãi đến ngày 30-5-1947, Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy mới ra Nghị định về tổ chức mới của Bộ Tổng tham mưu. Phòng Tình báo lại được tổ chức ở Bộ Tổng tham mưu, tồn tại song song với Cục Tình báo của Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 13 Tháng Mười, 2012, 07:14:56 am
Bàn về nội dung lãnh đạo xây dựng cơ quan trước khi bước vào mùa khô, Hội nghị cán bộ Bộ Tổng tham mưu giữa tháng 5-1947 nhận thấy cần đặc biệt quan tâm đến việc bồi dưỡng cán bộ một cách toàn diện, cả về phẩm chất, đạo đức, trình độ chính trị, kiến thức quân sự và nghiệp vụ. Mặc dù thời gian qua, số đông cán bộ mới được điều về đã tốt nghiệp các trường quân sự hoặc đã kinh qua chiến đấu, nhưng trình độ nói chung là không đồng đều, nhất là kiến thức nghiệp vụ công tác tham mưu và sự hiểu biết về đường lối kháng chiến, vận dụng vào việc phục vụ chỉ đạo, chỉ huy. Do đó, hội nghị thấy rằng trong công tác lãnh đạo của Đảng cũng như trong việc tiến hành ở từng phòng, ngoài việc lãnh đạo mọi người đoàn kết, tích cực công tác, sinh hoạt gương mẫu, đề cao ý thức phòng gian giữ bí mật, xây dựng quan hệ quân dân, tăng gia sản xuất để cải thiện đời sống, v.v., từng phòng và toàn cơ quan Bộ Tổng tham mưu cần đặc biệt quan tâm lãnh đạo việc học tập của cán bộ.

Vấn đề đặt ra thảo luận trong hội nghị là học gì cho thiết thực đối với chức năng và nhiệm vụ của toàn cơ quan và từng bộ phận; tổ chức từng đợt học tập như thế nào để anh em có thể thay nhau học tập đầy đủ?

Trước hết, ngay trong đợt đầu, cần tổ chức cho cán bộ nghiên cứu đường lối kháng chiến của Đảng. Từ đầu tháng 3 vừa qua, trên tờ Sự thật, đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh đã bắt đầu viết một loạt bài giải thích về nhiều vấn đề như: đối tượng, mục đích, tính chất của cuộc kháng chiến; đường lối, phương châm chiến lược, chiến thuật, v.v. Từng phòng tổ chức thành tổ học tập, nghiên cứu các bài viết trên, nhất là phần kháng chiến về mặt quân sự. Yêu cầu học tập đặt ra trước hết làm làm cho anh em nắm vững đường lối kháng chiến của Đảng là đánh lâu dài, vừa đánh vừa bồi dưỡng và phát triển lực lượng; giúp cho cán bộ khắc phục những nhận thức không đúng đắn, làm cơ sở hoàn thành tốt nhiệm vụ. Ngay trong đợt 1, toàn cơ quan tổ chức một ban chỉ đạo học tập do đồng chí Đào Văn Trường phụ trách(1). Từng phòng có trách nhiệm bảo đảm cho mọi cán bộ đều thay nhau nghiên cứu học tập các bài viết của Tổng Bí thư.

Về mặt nghiệp vụ, trước mắt để giúp đỡ các cán bộ mới được điều về nhanh chóng nắm được công việc, cần bố trí xen kẽ cũ mới, xen kẽ giữa những người đã qua trường đào tạo và những người chưa được bồi dưỡng tại trường. Hằng quý và nhất là sau khi hoàn thành một bước công tác, các phòng cần tổ chức rút kinh nghiệm để nâng cao trình độ nghiệp vụ lên đồng đều, sẵn sàng thay thế nhau khi cần thiết để mỗi khi có người được phái đi các chiến trường và đơn vị vẫn bảo đảm công việc của từng bộ phận không bị gián đoạn.

Riêng về phần mình, dự kiến mùa khô đến, thời gian eo hẹp vì công việc sẽ rất khẩn trương, Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái quyết định hoàn thành việc biên soạn tập sách về Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân ngay trong mùa hè này. Anh cho rằng, cuốn sách một khi hoàn thành, sẽ góp phần vào việc giáo dục chính trị tư tưởng, cụ thể là giáo dục về truyền thống cho bộ đội.

Khi còn ở Trường Quân chính trên Tân Trào, ngay từ khóa 1, qua các bài viết trên tờ báo tường của trường, anh đã phát hiện trong số học viên, Trần Trọng Trung là người có khả năng giúp anh về việc này. Được điều từ Khu giải phóng về Bộ Tổng tham mưu ngay sau Tổng khởi nghĩa, ngoài những công việc của người thư ký giúp việc anh hằng ngày, anh đã kể lại cho Trần Trọng Trung ghi lại toàn bộ “sự kiện Quân Giải phóng” từ khi thành lập đến ngày tiến quân xuống Tuyên Quang, Thái Nguyên trong cao trào Tổng khởi nghĩa. Bản thảo được người thư ký “chấp bút” coi như cơ bản hoàn thành và đánh máy sạch sẽ từ trước khi cơ quan chuyển xuống ấp Thái Hà. Dùng từ “chấp bút” thì chỉ đúng với những công trình Trần Trọng Trung giúp anh biên soạn sau này. Còn bản thảo cuốn Quân giải phóng viết cuối năm 1946, nói nôm na là anh Thái kể, Trần Trọng Trung ghi nhanh, sắp xếp lại, viết dần từng phần rồi đưa anh Thái cho ý kiến (đôi khi rất cụ thể) để có hướng sửa chữa, hoàn thành.

Có một chi tiết khó quên, đó là khi anh bảo sửa mấy từ mà người “chắp bút” xem ra đắn đo mãi, không thông. Đó là đoạn viết về hoạt động của Quân giải phóng sau trận Phay Khắt. Đêm đó bộ đội lên đường để chuẩn bị hôm sau đánh trận Nà Ngần. Trong bản thảo, người “chắp bút” viết: “bộ đội lạnh lùng xuất quân, bước vào trận chiến đấu mới”. Anh Thái hỏi: Sao lại lạnh lùng? Người “chắp bút” trả lời: Trong một bài hành khúc đang rất thịnh hành (ý nói Bài ca chiến sĩ Việt Nam của Văn Cao) có câu: “Bao chiến sĩ anh hùng - Lạnh lùng vung gươm ra sa trường”, tôi mượn ý ấy. Đúng là một dòng suy nghĩ “tiểu tư sản”. Anh Thái không đồng ý, bảo cần thay bằng một từ gì đó cho nó có khí thế hơn. Người thư ký trù trừ rồi cuối cùng đành chấp hành…

Giờ đây, mặc dù công việc chuẩn bị bước vào mùa khô rất bận, nhưng Tổng Tham mưu trưởng đã dành một tuần để cùng người thư ký duyệt lại bản thảo lần cuối cùng để đưa đi in. Anh Văn Tiến Dũng, Cục trưởng Cục Chính trị Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy rất hoan nghênh và cho rằng đây là tài liệu lịch sử đầu tiên có tác dụng giáo dục truyền thống cho bộ đội. Bản thảo được Cục Chính trị duyệt ngay và đưa sang Nhà xuất bản Vui sống, chỗ anh Từ Giấy. Tổng Tham mưu trưởng vui lòng vì đã làm xong một việc nhỏ trước khi bước vào thu đông. Đây là cuốn sách đầu tiên của anh và cũng là cuốn sách đầu tiên Trần Trọng Trung chắp bút cho anh. Phải sang đầu năm 1948 cuốn sách in bằng giấy dó, chỉ dày 82 trang, nhan đề Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân - Lịch sử thành lập và những chiến công đầu tiên, mới được gửi xuống các trung đoàn, vì từ mùa hè năm 1947 mọi ngành, mọi cơ quan đều bị hút và chuẩn bị kế hoạch thu đông(2).


(1) Đồng chí Đào Văn Trường - chiến sĩ Cứu quốc quân từ sau khởi nghĩa Bắc Sơn - được điều về Bộ Tổng tham mưu phụ trách Phòng Tác chiến từ mùa hè năm 1947, sau đó (1949) làm Tổng Tham mưu phó.
(2) Hiện nay cuốn sách còn được lưu trữ tại Thư viện Trung ương Quân đội.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 21 Tháng Mười, 2012, 07:22:49 am
CHƯƠNG VI

CHUẨN BỊ BƯỚC VÀO THU ĐÔNG

I

Ngay sau khi hoàn thành kế hoạch “tổng giao chiến” trong các thành phố, thị xã, Tổng Chỉ huy đã từng nói với Tổng Tham mưu trưởng về khái niệm chiến tranh mùa và gợi ý về phương hướng chuẩn bị kế hoạch thu đông. Dựa vào ý kiến của anh Văn, anh Thái suy nghĩ về những việc cần tập trung giải quyết để khắc phục những yếu kém vừa qua nhằm giúp trên chỉ đạo toàn quân bước vào mùa khô đầu tiên của cuộc kháng chiến. Ví dụ: xây dựng kế hoạch bồi dưỡng nhằm nâng trình độ hệ thống tham mưu từ trên Bộ xuống cấp trung đoàn trước yêu cầu phát triển của chiến trường; trong chỉ đạo xây dựng lực lượng cũng như chỉ đạo tác chiến, làm thế nào để quan tâm cả bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương, nhất là phải tìm biện pháp phát động được chiến tranh du kích, triển khai được thế trận toàn dân đánh giặc; trước mắt phải nghiên cứu âm mưu và thủ đoạn quân sự của địch và dự kiến cách đánh của ta trong thu đông, v.v.

Điều khiến Tổng Tham mưu trưởng suy nghĩ và thường trao đổi với cán bộ phụ trách các phòng nghiệp vụ là làm sao cho cán bộ Bộ Tổng tham mưu cũng như hệ thống tham mưu trong toàn quân vững mạnh về tổ chức và tinh thông nghiệp vụ, nhất là phải khắc phục được những hạn chế về biện pháp nắm và phân tích tình hình địch, ta đúng với thực tế trên chiến trường để giúp trên chỉ đạo, góp phần cùng toàn quân giành thắng lợi trong thu đông này. Riêng với cán bộ tham mưu của Bộ, điều nổi lên mà các anh thấy cần sớm khắc phục không chỉ là những yếu kém cụ thể về nghiệp vụ như các hội nghị quân sự toàn quốc đã chỉ ra. Tổng Tham mưu trưởng cho rằng điều cần thiết là phải vừa bồi dưỡng những vấn đề cơ bản về đường lối kháng chiến như đợt học tập vừa qua, giúp anh em nắm vững những chủ trương chiến lược của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy, đồng thời phải tạo điều kiện để anh em nắm được những vấn đề nóng bỏng do chiến trường đặt ra.

Bước vào mùa hè, Tổng tham mưu trưởng chỉ thị tổ chức thêm một đợt học tập trong phạm vi hẹp, chủ yếu là cán bộ các phòng có nhiệm vụ trực tiếp giúp việc chỉ đạo, chỉ huy tác chiến và xây dựng lực lượng. Yêu cầu của đợt học tập này là, sau khi thảo luận và khẳng định những kinh nghiệm chỉ đạo trong đợt chiến đấu trong thành phố và mấy tháng đầu năm, cần để anh em đi sâu thảo luận, nghiên cứu nhằm quán triệt các huấn lệnh về Du kích vận động chiến (ban hành ngày 1-2-1947), Nghị quyết hội nghị khu trưởng ngày 25-3-947, phần quân sự trong Nghị quyết hội nghị cán bộ Trung ương, tháng 4-1947, v.v Sau đó, sẽ tổ chức thêm một đợt nghiên cứu nghị quyết hội nghị dân quân du kích toàn quốc (sẽ họp cuối tháng 5) và hội nghị quân sự toàn quốc (sẽ họp vào trung tuần tháng 6)…

Vì nội dung học tập cá đợt này là những văn kiện chứa đựng nhiều điều cơ mật, nên danh sách cán bộ được tham gia nghiên cứu phải do Ban học tập đề nghị và Tổng Tham mưu trưởng thông qua.

Như sau này nhiều đồng chí cán bộ cũ của Bộ Tổng tham mưu nhớ lại, thực tế cho thấy việc tổ chức học tập nhằm bồi dưỡng kiến thức toàn diện cho cán bộ là một chủ trương đúng đắn. Việc nghiên cứu các văn kiện quân sự của Trung ương, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy đã mở rộng sự hiểu biết của anh em về âm mưu chiến lược, thủ đoạn tác chiến của địch và những vấn đề liên quan đến chỉ đạo, chỉ huy của cơ quan tham mưu chiến lược, liên quan đến tổ chức và chỉ đạo hoạt động của từng phòng nghiệp vụ. Các cuộc thảo luận đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề quan trọng, nhất là về cách đánh của địch và những thiếu sót cần khắc phục của ta.

Khi địch đánh rộng ra ngoài các thành phố, chúng rút binh lực nơi này tập trung đánh nơi khác, sau đó lại rút bớt binh lực ở nơi đã chiếm để tiếp tục đánh rộng ra. Thủ đoạn phổ biến của địch là dùng bộ binh cơ giới hóa, bằng cách bao vây vu hồi, từ nhiều hướng tiến công vào một điểm. Dùng xe tăng, cơ giới để tiến công, địch còn nhằm mục đích uy hiếp nhân dân, phá cơ sở kho tàng của ta, làm cho bộ máy kháng chiến ở cơ sở của ta phải bối rối, từ đó có hiện tượng “vỡ mặt trận”, thậm chí có nơi bộ đội tan rã. Trong khi đó, bộ đội ta phổ biến là theo cách đánh trận địa (tư tưởng trận địa chiến), phân tán lực lượng, phân tán cả người và vũ khí để giữ đất. Thời kỳ đầu khi đánh rộng ra, chúng ta chưa nghiên cứu tốt biện pháp có hiệu quả nhằm hạn chế hoạt động của cơ giới địch bằng phá hoại giao thông, làm vật chướng ngại, phối hợp với bộ đội chuyên môn đánh cơ giới. Bộ đội chủ lực lại thiếu một quan điểm căn bản của chiến tranh nhân dân là phát triển và bồi dưỡng, dìu dắt lực lượng dân quân du kích để quấy rối, tiêu hao, làm chậm bước tiến của địch, bảo vệ địa phương. Các cơ quan, kho tàng, vật liệu không được đưa vào nơi an toàn, thông tin liên lạc, báo động không kịp thời. Do tư tưởng trận địa chiến, nghĩ rằng mặt trận sẽ thay đổi rất chậm, nên khi bị địch dùng cơ giới tiến công bất ngờ, cấp chỉ huy trở nên lúng túng bị động trước tình hình chiến sự chuyển biến rất nhanh.

Ngoài nguyên nhân chính trên đây, các văn kiện của Bộ còn chỉ ra những yếu kém của công tác tham mưu ở cơ sở mà cơ quan tham mưu chiến lược cần nghiên cứu chỉ đạo khắc phục. Ví dụ: tổ chức liên lạc không vững chắc, thiếu chuẩn bị địa điểm dự bị, thiếu giao thông bí mật, tình báo rất kém, tin tức thiếu chính xác, kịp thời và rõ ràng, làm cho chỉ huy không nắm được địch, không hiểu được tình thế để vận dụng cách đánh linh hoạt; cơ quan chỉ huy nặng nề, bộ đội không gọn gàng, không quen cơ động khi tập trung khi phân tán, lại không nắm vững địa hình và đường sá ngay cả trên địa bàn hoạt động của mình, nên cơ động lực lượng chậm chạp khó khăn; công tác kiểm tra chấp hành mệnh lệnh không chính xác, dưới báo cáo sai, trên không biết để xử lý kịp thời, v.v.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 21 Tháng Mười, 2012, 07:24:40 am
Trong một buổi hướng dẫn cán bộ tham mưu học tập, khi nói về những nhược điểm và thiếu sót trên đây, Tổng Tham mưu trưởng nói với anh em:

- Thực tế trên đây phản ánh một phần trình độ của ngành tham mưu cấp dưới rất cần sự giúp đỡ của chúng ta để khắc phục những điểm yếu trên đây. Mà muốn giúp đỡ được cơ quan tham mưu ở cơ sở, tình hình đòi hỏi chúng ta phải vươn lên nhiều hơn nữa để đáp ứng yêu cầu chỉ đạo ngành dọc, nhất là tham mưu cấp trung đoàn.

Về mặt chiến thuật, mặc dù lúc này (hè 1947), khái niệm “du kích vận động chiến” ở mức độ nào đó còn chưa được xác định hoàn chỉnh(1) nhưng qua nghiên cứu hai bản huấn lệnh ngày 1-2 và 6-3-1947, cán bộ Bộ Tổng tham mưu đều nhất trí với trên: “Phải dùng ngay chiến thuật du kích vận động chiến một cách mạnh dạn”, đồng thời cũng nhất trí với những điểm sau đây đã được xác định trong các huấn lệnh trên: “Phải tập trung bộ đội, củng cố tinh thần bộ đội, dùng lối hành binh (cơ động lực lượng) rất nhanh chóng, rất bí mật, đánh mạnh vào những chỗ địch tương đối yếu hoặc mới chiếm, chưa củng cố vị trí, xong đó lập tức rút lực lượng đi đánh nơi khác… Làm như vậy thì có nơi phải bỏ đất, không phải đâu cũng chặn (địch) mà giữ (đất), vì vậy không cương quyết bạo dạn thì không làm được”.

Liên hệ với chức năng, nhiệm vụ của cơ quan tham mưu chiến lược, vấn đề đặt ra với Bộ Tổng tham mưu là phải làm sao giúp ngành tham mưu ở cơ sở đáp ứng được yêu cầu của “du kích vận động chiến” như đã được nêu lên trong huấn lệnh. Cụ thể là: “liên lạc phải nhanh chóng, vững chắc, tình báo phải chính xác, đầy đủ, kịp thời; trang bị của bộ đội phải gọn gàng, để có thể sẵn sàng cơ động, bộ đội phải hành quân giỏi cả ban ngày và ban đêm, phải biết giữ bí mật hành động. Về mặt chỉ huy, phải giúp cho cán bộ chỉ huy biết tập trung bộ đội đánh từng trận lớn (đánh có điều tra, có chuẩn bị, đánh chắc thắng, chứ không như trận tiến công của Trung đoàn 66 vào thị xã Hà Đông hồi đầu tháng 3); phải chỉ đạo cho đơn vị biết phân tán một số bộ đội để phối hợp với dân quân du kích; giúp đỡ xây dựng phong trào dân quân mạnh mẽ để thường xuyên tiêu hao, quấy rối quân địch. Về mặt tổ chức, trang bị, phải tập trung vũ khí nặng, xây dựng và huấn luyện những đội chuyên môn dùng bom, địa lôi để đánh chiến xa địch, kết hợp với việc mở rộng ngăn sông, phá đường, đắp ụ chướng ngại trên đê…

Qua các buổi nghiên cứu các văn kiện quân sự theo kế hoạch của Ban Chỉ đạo học tập, anh em đều thấy rất nhiều vấn đề cơ bản liên quan đến công tác chỉ huy đã được trên nhận định, đánh giá và chỉ ra phương hướng khắc phục, cả về chỉ đạo tác chiến và xây dựng lực lượng. Rõ ràng yêu cầu đặt ra với Bộ Tổng tham mưu là phải củng cố tổ chức, nâng cao trình độ nghiệp vụ, bám sát diễn biến của tình hình, hướng xuống đơn vị để giúp trên chỉ đạo kịp thời, nhằm biến những chủ trương chiến lược đó thành hiện thực trên chiến trường. Đó cũng chính là kết luận và lời động viên của Tổng Tham mưu trưởng khi sơ kết đợt bồi dưỡng cán bộ mùa hè năm 1947. Kết quả học tập và những lời động viên của anh Thái trở thành cơ sở để từng phòng liên hệ đối chiếu với thực tế của mình, bàn bạc tìm biện pháp khắc phục những yếu kém về nghiệp vụ chuyên môn ngành dọc và những điều bất hợp lý trong mối quan hệ hợp đồng giữa các bộ phận.

Từng bước tiến bộ và trưởng thành của các bộ phận đã được anh Thái động viên kịp thời. Anh chị em cán bộ Bộ Tổng tham mưu nhớ mãi bài phát biểu của Tổng Tham mưu trưởng trong cuộc họp mặt toàn cơ quan vào hạ tuần tháng 6, nhân dịp sơ kết công tác sau nửa năm kháng chiến toàn quốc và sơ kết đợt học tập. Sau khi nhận xét tóm tắt tình hình chung và biểu dương bước tiến bộ và thành tích toàn cơ quan 6 tháng vừa qua, đề ra phương hướng, nhiệm vụ trong thu đông sắp tới, anh Thái nói:

- Mùa hè đang qua đi rất nhanh. Thu đông sắp đến. Để chuẩn bị bước vào mùa khô, chúng ta phải chạy đua với địch trong mấy tháng sắp tới. Chúng có nhiều bình lực và phương tiện chiến tranh hiện đại hơn ta. Âm mưu của địch trong thu đông rất thâm độc. Thực tế đó đòi hỏi mỗi chúng ta phải cô gắng vươn lên, phải tiến bộ hơn nữa để quyết giành phần thắng trong mùa khô này, lập thành tích kỷ niệm một năm kháng chiến toàn quốc và ba năm ngày thành lập quân đội.

Tuy lúc này một số anh em chưa có cơ sở lý luận và thực tiễn để suy nghĩ thật sâu sắc, nhưng mọi người đều thấy những lời trên đây của anh Thái không chỉ là lời động viên của đồng chí lãnh đạo cơ quan mà còn là một mệnh lệnh, một sự đòi hỏi đối với từng người và từng bộ phận trong những ngày sắp tới, mặc dù lúc này chưa ai hình dung được cuộc thử thách trong mùa khô sẽ quyết liệt như thế nào!


(1) Khái niệm “du kích vận động chiến” được Bộ Tổng chỉ huy giải thích trong tài liệu Tiến mạnh sang giai đoạn mới (xuất bản năm 1948) như sau: “Các chiến thuật mà quân đội chính quy ta thường dùng là du kích vận động chiến, không phải là du kích chiến vì lực lượng huy động tương đối lớn, vì mục đích nhằm tiêu diệt hơn là tiêu hao, nhưng cũng chưa phải là vận động chiến, vì điều kiện kỹ thuật và giáo luyện của quân đội ta còn kém, vì phạm vi tác chiến chưa rộng lớn lắm, lại vì hình thức chiến đấu có khi là bao vây, vu hồi, nhưng cũng có khi là phục kích, tập kích, mà cũng có khi là phối hợp tất cả các hình thức ấy. Trong quá trình chiến tranh, du kích chiến phải phát triển thành vận động chiến. Hai chiến thuật khác nhau ở trình độ phát triển. Chiến thuật du kích vận động của bộ đội ta (lúc này) ở quãng giữa trên quá trình phát triển ấy.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 21 Tháng Mười, 2012, 07:25:14 am
II

Với Sắc lệnh ngày 1-5-1947 về tổ chức Bộ tổng chỉ huy Quân đội quốc gia Việt Nam và Nghị định ngày 30-5 của Bộ Tổng chỉ huy về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của Bộ Tổng tham mưu, mối quan hệ giữa các phòng đã được xác định rõ thêm một bước. Riêng Phòng Tác chiến đã hình thành các tổ như: Tổ Tin tức, Tổ Lưu động (phái viên tác chiến), Tổ Đồ bản, Tổ Nghiên cứu. Nhiệm vụ của Phòng Trang bị - Cấp dưỡng (tức Phòng Quân nhu - Kế toán trước đây) cũng được xác định rõ, là phối hợp với các ngành hậu cần của Bộ Quốc phòng để thống nhất kế hoạch đáp ứng yêu cầu vật chất chiến đấu cho bộ đội. Từ ngày 19-7, khi cơ quan quân sự tối cao tách thành hai bộ: Bộ Tổng Chỉ huy (Bộ trưởng - Võ Nguyên Giáp) chuyên lo chỉ đạo xây dựng quân đội và chỉ huy tác chiến và Bộ Quốc phòng (Bộ trưởng - Tạ Quang Bửu) chuyên lo hành chính quân sự và sản xuất quốc phòng) thì mối liên hệ giữa chuẩn bị kế hoạch tác chiến và chỉ huy chiến đấu với nhu cầu vật chất bảo đảm kế hoạch tác chiến đã dần dần đi vào nền nếp hơn.

Riêng Bộ Tổng tham mưu, vào giữa năm 1947, quân số đã lên tới hơn 100 người, trong đó có một số cán bộ tốt nghiệp các Trường võ bị Trần quốc Tuấn, Quân chính Bắc Sơn, Lục quân Quảng Ngãi và cán bộ đã kinh qua chiến đấu được điều về. Qua các đợt học tập và nhất là qua rút kinh nghiệm trong thực tế công tác, trình độ nghiệp vụ đã được nâng lên một bước quan trọng so với những ngày đầu kháng chiến. Nhưng một tình hình phổ biến trong các phòng nghiệp vụ là trình độ không đồng đều. Sự tin thông và sáng tạo trong nghiệp vụ nhiều hay ít thể hiện rõ nhất trong sự chênh lệch về kiến thức quân sự, kinh nghiệm chiến trường và trình độ học vấn. Tình hình đó đã được Tổng Tham mưu trưởng phân tích làm cơ sở cho từng phòng thấy được phương hướng cũng như đối tượng nào cần bồi dưỡng và bồi dưỡng nội dung gì, để thu hẹp dần khoảng cách về trình độ trong một phòng và giữa các phòng nghiệp vụ. Do xác định đúng phương hướng và biện pháp bồi dưỡng cán bộ trong thực tế công tác mà cơ quan tham mưu bước vào thu đông 1947 với một đội ngũ cán bộ được coi là tương đối “đều tay - đều việc”

Đối với hệ thống tham mưu cấp khu và trung đoàn, ngoài việc giao nhiệm vụ cho các phòng nghiệp vụ có trách nhiệm bồi dưỡng hệ thống dọc của mình, đồng chí Tổng Tham mưu trưởng cũng thường nhân các lần gặp cán bộ chỉ huy các khu và trung đoàn mà nhắc nhở trách nhiệm chỉ đạo ngành tham mưu của cấp chỉ huy khu và trung đoàn. Tại Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ ba (trung tuần tháng 6), sau khi biểu dương những cố gắng và tiến bộ của tham mưu Khu 3 và Khu 12, Tổng Tham mưu trưởng đã nêu lên những yếu kém cần khắc phục trước khi bước vào thu đông. Về mặt tổ chức, ngay từ đầu năm 1947, Hội nghị quân sự lần thứ nhất đã ra nghị quyết thành lập phòng tham mưu khu, nhưng trải qua nửa năm, nhiều nơi cơ quan tham mưu vẫn chưa hình thành hoặc chưa có cán bộ phụ trách. Nền nếp nắm tình hình và báo cáo định kỳ (10 ngày) còn nhiều thiếu sót, cả về nội dung cũng như về nền nếp hành chính quân sự: báo cáo không đều, chất lượng kém, không có chữ ký của người phụ trách, nội dung thiếu sự phân tích, chọn lọc, so sánh, nhận xét, v.v. Tổng Tham mưu trưởng đã dẫn ra báo cáo của một khu để làm ví dụ: Báo cáo của trinh sát nói vị trí X của địch do một tiểu đội nắm giữ. Nhưng khi quân ta tiến công thì “ba khẩu 12,7 mm, một khẩu súng cối 81 mm và nhiều súng thmpson, carbine bắn ra quyết liệt…”. Vậy binh lực trong vị trí này là bao nhiêu? Cuối cùng, đồng chí đề ra từng điểm cụ thể mà các khu và trung đoàn cần nhanh chóng khắc phục, cả về tổ chức, sắp xếp cán bộ, bồi dưỡng nghiệp vụ chỉ đạo hoạt động và thường xuyên nhận xét, rút kinh nghiệm để ngành tham mưu cấp khu và trung đoàn có điều kiện thực hiện được chức năng nhiệm vụ giúp người chỉ huy chỉ đạo xây dựng và tác chiến.

Từ ngày cơ quan Bộ Tổng Tham mưu lên đóng quân ở vùng Quảng Nạp - Yên Thông, công việc càng bề bộn bao nhiêu, mọi người càng cảm thấy những ngày hè qua đi nhanh bấy nhiêu. Học tập, làm công tác chuyên môn đi đôi với ổn định nơi ăn ở, theo yêu cầu nhanh chóng triển khai hàng loạt công việc mùa hè, chuẩn bị bước vào mùa khô đầu tiên, tất cả đều diễn ra với nhịp độ khẩn trương.

Tin tức cho biết trong mùa hè này, địch đang củng cố lực lượng, nghỉ ngơi, chuẩn bị cho kế hoạch quân sự sắp tới. Rõ ràng là một cuộc chạy đua đang diễn ra ngấm ngầm giữa ta và địch để giành phần thắng trong thu đông.

Tổng Tham mưu trưởng thường nhắc nhở toàn cơ quan làm sao hoàn thành đồng thời hai nhiệm vụ trong mùa hè này để tạo điều kiện thuận lợi bước vào thu đông 1. Chỉ đạo bộ đội các khu và trung đoàn luân phiên tiếp tục hoạt động nhằm “phá kế hoạch nghỉ ngơi củng cố của địch”; 2. Nhanh chóng củng cố bộ đội chủ lực, đặc biệt là chủ lực của Bộ. Lực lượng này chỉ mới gồm hai trung đoàn. Trung đoàn 147, với ba tiểu đoàn đứng chân ở ba nơi, một ở Bình Ca, cửa ngõ phía tây của căn cứ địa, một ở Vĩnh Yên và một ở vùng trung đoàn bộ ở Sơn Dương, bảo vệ cơ quan đầu não kháng chiến. Kinh nghiệm chiến đấu của trung đoàn còn rất hạn chế, mặc dù một số cán bộ tốt nghiệp Võ bị khóa I và khóa Bắc Sơn đã được điều về bổ sung cho trung đoàn. Đơn vị thứ hai là Trung đoàn Thủ Đô, sau một thời gian chiến đấu ở phòng tuyến sông Đáy đã hành quân lên Việt Bắc. Từ tháng 5, thêm Tiểu đoàn 11 đã kinh qua chiến đấu trên mặt trận Hải Phòng - đường 5, được điều lên để xây dựng thành chủ lực của bộ.

Thực ra lúc này cán bộ Bộ Tổng tham mưu chưa có lý luận và kinh nghiệm thực tế về biên chế, tổ chức, trang bị, huấn luyện một đơn vị chủ lực, nhất là chủ lực tương lai sẽ trở thành dự bị chiến lược của Bộ thống soái. Nhưng trên dưới đều thấy cần phải củng cố về mọi mặt các đơn vị hiện có để hình thành trong tay Bộ Tổng chỉ huy một lực lượng mạnh.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 21 Tháng Mười, 2012, 07:26:10 am
Mở đầu việc xây dựng chủ lực của Bộ được đánh dấu bằng một cuộc họp mà hồi đó chúng tôi thường gọi là Hội nghị Phú Minh, họp vào tháng 5-1947. Địa điểm hội nghị là thôn Phú Minh (Đại Từ - Thái Nguyên), nơi đóng quân của Tiểu đoàn 11 vừa từ khu 3 lên. Đồng chí Tổng Tham mưu trưởng chủ trì cuộc họp. Thành phần tham dự gồm cán bộ quân chính từ cấp đại đội trở lên của Trung đoàn Thủ đô, Trung đoàn 147 và Tiểu đoàn 11. Đó là những đơn vị lúc này đã được coi là “chủ lực của Bộ”.

Là cuộc họp bàn về xây dựng bộ đội chủ lực nhưng thực chất đây là một hội nghị tập huấn. Tổng Tham mưu trưởng muốn nhân dịp này truyền đạt cho cán bộ một số hiểu biết cơ bản về xây dựng và quản lý bộ đội, nhằm khắc phục những nhận thức không đúng đã xuất hiện trong các đơn vị chủ lực trên đây. Về mặt tổ chức, đồng chí giải thích tại sao có Sắc lệnh 47 ngày 1-5-1947, vì sao cơ quan chỉ huy tối cao lại đổi là Bộ Tổng Chỉ huy Quân đội quốc gia Việt Nam, quân đội quốc gia của ta là quân đội như thế nào… Về chiến lược, vì sao cán bộ cần quán triệt chiến lược đánh lâu dài, từng bước chuyển yếu thành mạnh, càng đánh càng mạnh. Tổng Tham mưu trưởng đã dựa vào tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Trung ương về một loạt vấn đề mới đây của Tổng Bí thư Trường Chinh về cuộc kháng chiến mà giải thích cho cán bộ tham mưu dự hội nghị.

Đồng chí lý giải vì sao đề cấp vấn đề đánh lâu dài trong cuộc họp này? Lãnh đạo đã biết có những đơn vị bộc lộ tư tưởng ngại chiến đấu lâu dài gian khổ, nhất là trên chiến trường rừng núi Việt Bắc, vì thời tiết, khí hậu, địa hình, vì sinh hoạt kham khổ. Có cán bộ thuộc Trung đoàn Thủ đô muốn trở về quanh vùng Hà Nội. Tiểu đoàn 11 mới lên Việt Bắc cũng sớm tỏ nguyện vọng được trở lại chiến trường Khu 3. Tiểu đoàn 18 (Trung đoàn 147) không muốn đứng chân ở vùng Bình Ca - Đa Năng vì sốt rét nhiều, sức khỏe giảm sút, v.v.

Trong bài phát biểu của mình, Tổng Tham mưu trưởng giải thích về lực lượng so sánh hiện nay giữa ta và địch, về yêu cầu đánh lâu dài để từng bước chuyển hóa lực lượng ngày càng có lợi cho ta để đi đến thắng lợi cuối cùng, giải thích về vai trò và vị trí chiến lược của bộ đội chủ lực, nhất là chủ lực của Bộ, về phạm vi hoạt động của nó là “trong cả nước”, không phân biệt chiến trường rừng núi hay đồng bằng. Bộ đội chủ lực không phải của riêng chiến trường nào, mà “Bộ chỉ đâu, bộ đội chủ lực phải đánh đấy, đánh đâu phải thắng đấy”. Muốn đánh thắng, phải xây dựng cho lớn mạnh, đánh đi đôi với rút kinh nghiệm, đánh để tiêu diệt địch và thu vũ khí, nhằm cải thiện trang bị cho mình để càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng. “Vũ khí chiến lợi phẩm vẫn là nguồn bổ sung trang bị rất quan trọng đối với quân đội chúng ta trong lúc này”…

Biết rằng còn nhiều vấn đề về học thuật chưa được nhận thức rành rẽ, nên anh Thái đã dựa vào những bài viết mới nhất của đồng chí Tổng Bí thư và thực tế chiến đấu của năm qua mà gợi ý anh em những khái niệm về chiến thuật và nhất là hai vấn đề cán bộ được nghe lần đầu, đó là chiến dịch và tư tưởng chỉ đạo tác chiến… Anh nhấn mạnh vấn đề bồi dưỡng và đào tạo cán bộ, nhất là cán bộ tiểu đội, trung đội và việc huấn luyện bộ đội. Đó là những việc cấp bách trước mắt cần giải quyết, nhằm khắc phục những yếu kém về chỉ huy của cán bộ cơ sở, sự yếu kém của bộ đội về kỹ thuật (bắn súng, ném lựu đạn, đâm lê…).

Về mặt công tác chính trị, cùng với việc thảo luận về tăng cường đoàn kết nội bộ, tăng cường kỷ luật, chống tư tưởng tự do tản mạn, chống đào ngũ, trốn trách nhiệm, hội nghị thảo luận nhiều về quan hệ quân dân. Vấn đề đặt ra là hiểu và thực hiện thế nào điều mà đồng chí Trường Chinh đã viết: Nhân dân như nước, bộ đội như cá, nhân dân là nguồn vô tận của bộ đội…

Ổn định sinh hoạt cho bộ đội, chống bệnh tật (trước hết là bệnh sốt rét) là điều kiện đặc biệt quan trọng đối với bộ đội lần đầu hoạt động trên chiến trường rừng núi trong điều kiện sinh hoạt khó khăn thiếu thốn. Vấn đề vệ sinh phòng bệnh được đặt ra và thảo luận khá sôi nổi. Làm thế nào để giữ sức khỏe cho bộ đội khi mà anh em thiếu từ cái màn đến viên thuốc ký ninh. Nhiều biện pháp cụ thể đã được nêu lên: đốt khói hun muỗi mỗi buổi tối, ăn chín, uống sôi, tăng gia sản xuất để cải thiện sinh hoạt, tăng sức đề kháng cho bộ đội. Từ vấn đề tăng gia sản xuất, cải thiện sinh hoạt đề ra trong hội nghị này mà Nông trường Yên Thái ra đời.

Mọi vấn đề nêu lên đều là mới mẻ, lại nêu giữa những cán bộ đang ở tuổi đôi mươi, cho nên không khí thảo luận của hội nghị thật là náo nhiệt. Ba ngày làm việc nhanh chóng trôi qua. Mọi người nhất trí về phương hướng xây dựng đơn vị vững mạnh về mọi mặt, từ bổ sung quân số đầy đủ, sắp xếp lại cán bộ, tổ chức huấn luyện bộ đội và chuẩn bị một bước cho cuộc chiến đấu sắp tới, đến những việc cần làm ngay để cải thiện đời sống bộ đội, chống bệnh tật, bảo đảm quân số chiến đấu…

Những vấn đề nêu lên trong hội nghị, các ý kiến khác nhau trong quá trình thảo luận và kết luận cuối cùng của Tổng Tham mưu trưởng là những bài học thiết thực, bổ ích đối với một số cán bộ Bộ Tổng tham mưu tham dự hội nghị. Theo chỉ thị của Tổng Tham mưu trưởng, những vấn đề trên được ghi chép và sắp xếp lại thành một tài liệu về phương hướng xây dựng bộ đội chủ lực. Sau khi được Bộ Tổng chỉ huy thông qua và phê duyệt, tài liệu sẽ được trao cho các đại biểu về dự Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ ba dự kiến họp vào trung tuần tháng 6. Các khu cũng đang cần sự hướng dẫn để xây dựng bộ đội chủ lực của khu cũng như các trung đoàn của tỉnh.

Sau Hội nghị Phú Minh, bộ đội chủ lực của Bộ được củng cố một bước quan trọng về nhiều mặt. Sau khi có sắc lệnh của Chính phủ, đầu tháng 7 Bộ Tổng chỉ huy giao nhiệm vụ cho Bộ Tổng tham mưu xây dựng đại đoàn chủ lực đầu tiên của Bộ, trên cơ sở hai trung đoàn và hai tiểu đoàn hiện có. Đồng chí Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái được bổ nhiệm kiêm chức Đại đoàn trưởng(1). Việc xây dựng chủ lực của khu và việc củng cố các trung đoàn của tỉnh cũng được xúc tiến khẩn trương và bước đầu đạt kết quả tốt. Bộ Tổng tham mưu đang cùng các khu nghiên cứu xây dựng các “đơn vị đặc biệt” theo Nghị quyết hội nghị quân sự lần 2 và lần 3 (đội súng nặng; đội đánh mìn, địa lôi; đội đánh canô; đội bắn máy bay, đánh quân nhảy dù…) cùng các đội vũ trang tuyên truyền và các đội quân ngầm trong các thành phố tạm bị chiếm…


(1) Xây dựng đại đoàn chủ lực của Bộ (gọi là đại đoàn độc lập) là ý định từ mùa hè năm 1947. Nhưng ngay sau đó, nhất là khi bắt đầu chiến dịch Việt Bắc, Quân ủy đã nhận thấy đây là một chủ trương chưa thích hợp và chưa có điều kiện thực hiện, nên việc xây dựng đại đoàn chưa được xúc tiến.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 21 Tháng Mười, 2012, 07:27:17 am
III

Đi đôi với việc chỉ đạo xây dựng bộ đội chủ lực, trước hết là chủ lực của Bộ, việc theo dõi và chỉ đạo phong trào dân quân du kích là một trong những mặt công tác Bộ Tổng tham mưu quan tâm, nhằm thực hiện Nghị quyết về vấn đề dân quân của Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ hai (họp đầu tháng 4-1947) và sau đó là Nghị quyết Hội nghị dân quân toàn quốc. Vấn đề đặt ra là làm sao để bộ đội Vệ quốc đoàn đóng ở bất kỳ nơi nào đều thấy trách nhiệm và thực hiện tốt việc giúp đỡ huấn luyện lực lượng vũ trang địa phương và làm sao cho dân quân “quen với tiếng súng”. Tổng Tham mưu trưởng đã chỉ thị cho Phòng Tác chiến phối hợp với Phòng Dân quân (khi đó vẫn còn trong biên chế của Cục Chính trị Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy) nghiên cứu và phổ biến kinh nghiệm xây dựng “làng kháng chiến” của Bắc Ninh, Kiến An, kinh nghiệm hoạt động của lực lượng biệt động Thừa Thiên, Quảng Trị, của dân quân vùng Hậu Giang, v.v. Trong nhiều lần gặp gỡ và làm việc các anh Hoàng Văn Thái và Trần Đại Nghĩa đã bàn bạc và nhất trí về việc phát huy vai trò các công binh xưởng, các lò rèn ở thôn xã để sản xuất vũ khí thô sơ (đại đao, súng kíp, địa lôi, tên nỏ, v.v.) cho dân quân.

Trong các hội nghị cán bộ Bộ Tổng tham mưu, anh Thái khẳng định những việc làm trên đây là đúng hướng. Nhưng điều băn khoăn của Tổng Tham mưu trưởng lúc này là làm thế nào để “hóa một phần bộ đội thành dân quân” như đã nêu trong nghị quyết chỉ đạo của Tổng Chỉ huy Võ Nguyên Giáp, anh Thái cùng Phòng Dân quân chuẩn bị đề án đề đạt lên Thường vụ đúng vào dịp Trung ương triệu tập Hội nghị dân quân lần thứ nhất, cuối tháng 5-1947. Tại hội nghị này, lần đầu tiên vai trò chiến lược của dân quân, tự vệ được xác định. Những vấn đề thảo luận trong hội nghị đã giúp Bộ tổng tham mưu và Phòng Dân quân nhận thức rõ hơn về chức năng, nhiệm vụ và phương hướng giúp đỡ và chỉ đạo lực lượng vũ trang địa phương. Vấn đề này càng có ý nghĩa quan trọng trong những năm đầu kháng chiến, khi mà phương châm chỉ đạo tác chiến chiến lược của Trung ương coi “du kích chiến là căn bản”.

Ngay sau hội nghị dân quân, đồng chí Tổng Tham mưu trưởng triệu tập một số cán bộ các phòng nghiệp vụ có liên quan trong Bộ Tổng tham mưu cùng Phòng Dân quân họp bàn triển khai những vấn đề cụ thể nhằm thực hiện Nghị quyết về tăng cường chỉ đạo phong trào dân quân. Anh Thái nhắc lại tinh thần cơ bản của Trung ương trong hội nghị dân quân vừa qua nhằm giúp cán bộ tham mưu thống nhất nhận thức về vai trò chiến lược của dân quân du kích. Tổng Tham mưu trưởng khẳng định:

- Để hoàn thành nhiệm vụ của các cơ quan nghiệp vụ trong Bộ Tổng chỉ huy đối với phong trào dân quân du kích, từ việc chỉ đạo tổ chức lực lượng, huấn luyện quân sự, xây dựng làng chiến đấu, phá hoại đường sá, đến việc chỉ đạo các đơn vị Vệ quốc đoàn dìu dắt dân quân du kích trong thực tế chiến đấu…, chúng ta phải nhớ và thực hiện đúng lời Bác Hồ trong bức thư Người gửi đến Hội nghị dân quân. Bác nói: “Dân quân, tự vệ và du kích là lực lượng của toàn dân tộc, là một lực lượng vô địch, là một bức tường sắt của Tổ quốc. Vô luận địch nhân hung bạo thế nào, hễ đụng vào lực lượng đó, bức tường đó, thì địch nào cũng phải tan rã”(1). Nhiệm vụ của chúng ta là phải làm sao cho “bức tường sắt dân quân du kích và tự vệ” ngày càng vững chắc.

Tổng Tham mưu trưởng cũng dẫn một số đoạn trong báo cáo của Tổng Chỉ huy đọc tại Hội nghị dân quân, rằng: “Công cuộc xây dựng và củng cố dân quân du kích, chúng ta phải coi đó quan trọng ngang hàng với công cuộc củng cố bộ đội chủ lực”… Về nhiệm vụ của lực lượng vũ trang địa phương, Tổng chỉ huy nói: “Về mặt quân sự, dân quân du kích phối hợp với chủ lực tác chiến hay độc lập tác chiến để tiêu hao, tiêu diệt quân địch, bảo vệ làng mạc, ruộng nương cho dân; về mặt chính trị, dân quân du kích dùng phương thức vũ trang tuyên truyền mà trừ gian và giữ vững tinh thần cho dân; về mặt kinh tế, dân quân du kích bảo vệ cho dân sản xuất hay trực tiếp giúp dân cày cấy, gặt hái… Những đội du kích thoát ly cũng phải có một bộ phận tăng gia sản xuất để đi đến chỗ tự cung cấp…”.

Việc thực hiện Nghị quyết về phong trào dân quân du kích được triển khai từ giữa năm 1947. Nhưng trên thực tế, do nhận thức về kinh nghiệm còn hạn chế nên mãi đến cuối năm 1947 phong trào vẫn chưa đẩy lên được. Sau này, nhiều đồng chí cán bộ Bộ Tổng tham mưu cũng thừa nhận rằng: đối với các cơ quan chức năng từ Bộ Tổng chỉ huy đến cơ sở, quán triệt tư tưởng chỉ đạo của trên đối với phong trào dân quân du kích là cả một quá trình đấu tranh để khắc phục những nhận thức và tư tưởng lệch lạc, đặc biệt là phải thường xuyên cảnh giác trước một hiện tượng sai lầm khá phổ biến là thường xuyên thiên về chủ lực, xem nhẹ lực lượng vũ trang địa phương.

Mặt khác, cần nói thêm rằng trong việc chỉ đạo phong trào dân quân du kích một khó khăn tồn tại dai dẳng đối với Bộ Tổng tham mưu là Phòng Dân quân vẫn nằm trong tổ chức của Cục Chính trị (cùng trong Bộ Tổng chỉ huy) nên vẫn chỉ là quan hệ hợp đồng chứ chưa phải là quan hệ chỉ đạo.


(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 132.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 21 Tháng Mười, 2012, 07:28:46 am
Đến cuối năm 1947, qua số liệu mà Bộ Tổng tham mưu nắm được, trong cả nước có tới hơn một triệu dân quân du kích và tự vệ. Nhưng trên thực tế, trừ một số địa phương phong trào đã đi vào chiều sâu, cả về tổ chức lực lượng, xây dựng làng chiến đấu và tác chiến tiêu hao địch, bảo vệ địa phương, như Cự Nẫm (Quảng Bình), Lý Nhân (Hà Nam), Cự Đà (Hà Đông), Phùng Thượng (Sơn Tây), Đình Bảng (Bắc Ninh)… còn nhiều địa phương khác, nhất là ở vùng tự do, lực lượng vũ trang địa phương chưa qua thử thách nên chất lượng xây dựng chưa cao. Riêng đối với Bộ Tổng tham mưu, tuy bước đầu cán bộ đã nhận thức được vai trò chiến lược của dân quân du kích, nhưng về biện pháp cụ thể để phát động được phong trào dân quân du kích thì phải đến cuối năm 1947, qua cuộc thử thách mùa khô, cơ quan tham mưu mới có kinh nghiệm bước đầu, mới hiểu được rằng muốn đẩy mạnh phong trào dân quân du kích phát triển, phải có biện pháp chỉ đạo cụ thể như thế nào.

Tuy nhiên, sau hội nghị dân quân toàn quốc, về mặt tổ chức chỉ đạo đã bước đầu có những biến chuyển đáng ghi nhận. Ông Lê Liêm (Chính trị ủy viên Ủy ban kháng chiến hành chính Khu 1) được điều về phụ trách Phòng Dân quân Bộ Tổng chỉ huy. Cơ quan chỉ đạo, chỉ huy lực lượng địa phương cũng đã được củng cố, hình thành hệ thống từ Phòng Dân quân trên Bộ đến tỉnh đội, huyện đội, xã đội, do cấp ủy địa phương trực tiếp chỉ đạo. Ở nhiều địa phương, chính trị đội dân quân du kích do bí thư Đảng kiêm nhiệm. Các khu, tỉnh đã phân tán một bộ phận Vệ quốc đoàn về giúp đỡ việc huấn luyện dân quân du kích. Nhiều địa phương tự tổ chức các lớp đao kiếm, lớp võ thuật. Bộ Tổng tham mưu đã cùng Phòng Dân quân và Cục Quân giới phổ biến kinh nghiệm sản xuất và sử dụng vũ khí thô sơ của các lò rèn ở thôn xã. Kinh nghiệm xây dựng làng chiến đấu cũng đã được nghiên cứu và phổ biến bước đầu, nhưng còn nhiều mặt hạn chế và chưa thành phổ cập. Để chuẩn bị bước vào mùa khô, ở nhiều địa phương trong căn cứ địa, lực lượng dân quân tự vệ đã phát huy vai trò nòng cốt trong công tác phá hoại đường sá, cầu cống và các ngôi nhà kiên cố trong các thị xã, thị trấn, trong công tác động viên nhân dân cắm cọc chống quân nhảy dù trên các bãi trống đồi trọc, trong việc sơ tán nhân dân ở Thái Nguyên và dọc đường số 3 phía nam Thái Nguyên, đường số 2 phía nam Tuyên Quang.

Đi đôi với việc phát triển phong trào dân quân, việc xây dựng bộ đội chủ lực để kịp bước vào mùa khô, đòi hỏi một đội ngũ cán bộ rất lớn. Thế nhưng, nhìn chung tình hình cán bộ hiện nay, như Hội nghị quân sự lần thứ ba nhận xét, cả về số lượng và trình độ còn rất hạn chế trước yêu cầu khẩn trương xây dựng lực lượng, huấn luyện bộ đội và chỉ huy chiến đấu. Tình hình và nhiệm vụ đòi hỏi phải nhanh chóng nâng trình độ cán bộ trong toàn quân lên một bước. Vấn đề bồi dưỡng cán bộ đã được Quân ủy Trung ương đề ra trong nghị quyết hội nghị quân sự toàn quốc trung tuần tháng 6.

Riêng ở cấp chiến lược, thực hiện chủ trương trên đây, Bộ Tổng chỉ huy đã giao cho Bộ Tổng tham mưu chuẩn bị nội dung và chiêu sinh, tổ chức lớp bổ túc cán bộ trung cấp (tiểu đoàn và trung đoàn). Mục đích của lớp học, như Bộ Tổng chỉ huy xác định, là nhằm giúp cho cán bộ nhận thức đúng đắn về đường lối quân sự của Đảng, hiểu biết về tổ chức, huấn luyện, giáo dục, quản lý bộ đội và biết nghiên cứu, vận dụng những kinh nghiệm chiến đấu hơn nửa năm qua.

83 cán bộ được triệu tập từ Khu 4 trở ra, tổ chức thành một đại đội học viên. Ban phụ trách lớp gồm đồng chí Hoàng Văn Thái, Giám đốc; đồng chí Phan Tử Lăng(1), Phó Giám đốc kiêm Đại đội trưởng; đồng chí Hoàng Điền, Đại đội phó; đồng chí Trần Tử Bình, Chính trị viên. Giảng viên là những đồng chí lãnh đạo của Đảng và của quân đội: Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Đức Thọ, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Thái, Văn Tiến Dũng. Nhiều cán bộ Bộ Tổng tham mưu được điều động đến, hình thành bộ máy quản lý hớp học về mọi mặt, đồng thời tranh thủ nghe giảng để mở rộng kiến thức.

Ngày 5-8-1947, lớp học khai giảng tại xã La Bằng, huyện Đại Từ, Thái Nguyên. Niềm vui sướng đối với từng cán bộ, học viên hôm đó là được Bác Hồ đến thăm. Không ít cán bộ lần đầu tiên được gặp bác. Nói chuyện với cán bộ nhà trường và học viên, sau khi nhắc lại truyền thống đánh giặc giữ nước oanh liệt của ông cha ta, phân tích tình hình và nhiệm vụ trước mắt, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn mọi người về tư cách, về trách nhiệm người cán bộ quân đội đối với kỷ luật, với chiến sĩ, với nhân dân, với kẻ địch. Về quan hệ giữa cán bộ và chiến sĩ, Bác nói đại ý:

- Cán bộ phải thương yêu săn sóc đội viên lúc bình cũng như lúc chiến. Cán bộ coi đội viên như chân tay, đội viên coi cán bộ như đầu óc. Đội viên chưa có cơm ăn, chưa có áo mặc, chưa có chỗ ngủ, cán bộ chưa được ăn no, không được mặc ấm, không được ngủ yên… Cán bộ phải chăm lo học tập: học chính trị, học chiến lược, chiến thuật, học cách cầm quân… làm sao đánh thắng giặc mà đỡ tốn xương máu của chiến sĩ, của đồng bào, rút ngắn lại những ngày đau khổ…

Trong cuộc đời cầm quân, nhiều cán bộ còn được Bác giáo dục nhiều lần trong nhiều dịp khác nhau. Nhưng với nhiều cán bộ, đây là lần đầu tiên được nghe Bác nói về quan hệ cán binh, về trách nhiệm của người cán bộ quân đội cách mạng.

Sau sáu tuần học tập, lớp bổ túc cán bộ bế mạc vào trung tuần tháng 9-1947. Hơn 80 cán bộ trở về các đơn vị, địa phương, góp phần cùng toàn quân bắt tay vào chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mùa khô sắp tới. Bộ Tổng tham mưu dự kiến, sau khi lớp bổ túc trung cấp và hai khóa võ bị 2 và 3 bế mạc, bước vào thu đông ta sẽ có thêm 600 cán bộ bổ sung cho bộ đội chủ lực và gần 90 cán bộ chỉ huy tăng cường cho lực lượng vũ trang địa phương.

Với những nỗ lực vươn lên cả về tổ chức và nghiệp vụ, với kết quả giúp trên xây dựng lực lượng, cả chủ lực và địa phương, cả huấn luyện bộ đội và bồi dưỡng cán bộ, Bộ Tổng tham mưu đã hoàn thành một bước quan trọng nhiệm vụ chuẩn bị thực lực cho thu đông 1947. Tuy còn nhiều mặt hạn chế, nhưng kết quả trên đây đánh dấu một bước trưởng thành và tiến bộ của cơ quan tham mưu chiến lược trước khi bước vào cuộc thử thách mới. Vấn đề khó khăn, phức tạp nổi lên lúc này là tìm hiểu ý đồ và khả năng của địch trong mùa khô này như thế nào?


(1) Từ ngày 1-7-1947, ông Phan Tử Lăng được điều sang làm Cục trưởng Cục Quân chính Bộ Quốc phòng. Ông Trần Văn Lư (Trưởng phòng Nhân sự Bộ Tổng tham mưu) kiêm chức Tham mưu chủ nhiệm Bộ Tổng tham mưu.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 21 Tháng Mười, 2012, 07:30:31 am
IV

Phán đoán âm mưu chiến lược và biện pháp tác chiến của đối phương là một trong những vấn đề khó khăn đối với cơ quan tham mưu chiến lược lúc này. Vào những ngày hè thu năm 1947, công việc đó vượt trên khả năng chủ quan của Bộ Tổng tham mưu. Chúng ta chưa có một hệ thống tình báo chiến lược, chưa có những tình báo viên tầm cỡ cài trong hàng ngũ địch. Nhưng tình hình và nhiệm vụ đòi hỏi Bộ Tổng tham mưu phải tìm ra đáp số cần thiết của bài toán do một kẻ địch có kinh nghiệm chiến tranh xâm lược hàng trăm năm đặt ra trước mắt chúng ta: Ý đồ chiến lược mùa khô sắp tới của quân viễn chinh Pháp là gì? Khả năng của chúng đến đâu? Phương thức hoạt động của chúng thế nào?... Mặc dù tổ chức và khả năng nghiệp vụ nắm địch còn rất hạn chế, Bộ Tổng tham mưu vẫn phải cùng các cơ quan chuyên môn giải đáp câu hỏi hóc búa đó.

Tổng Tham mưu trưởng đã nhiều lần cùng các đồng chí Lý Thủy Thọ, Trưởng phòng 2 Bộ Tổng tham mưu và Trần Hiệu, Cục trưởng Cục Tình báo Bộ Tổng chỉ huy, trao đổi ý kiến xung quanh vấn đề nóng bỏng này. Hơn ai hết, các anh hiểu rất rõ một thực tế là hệ thống nắm địch của ta, từ Cục Tình báo và Phòng 2 đến các cơ sở trong vùng địch tạm chiếm đều đang trong thời kỳ củng cố về mặt tổ chức và rút kinh nghiệm hoạt động sau nửa năm đầu kháng chiến. Trước mắt, khả năng tốt nhất và cũng là biện pháp hầu như duy nhất là dựa vào báo chí công khai và đài phát thanh của Pháp và phương Tây, dựa vào hoạt động của chính khách và tướng lĩnh Pháp, dựa vào động tĩnh của quân viễn chinh Pháp trên toàn chiến trường Đông Dương, trước hết là ở Sài Gòn và Hà Nội. Tất cả những nguồn tin đó là cơ sở để các anh thảo luận, tìm ra đáp số của bài toán.

Thực tế ngày càng chứng minh lời phán đoán của các hội nghị quân sự tháng 3 và tháng 6 (về khả năng địch sẽ đánh một đòn chiến lược mạnh trong mùa khô này) là hoàn toàn đúng đắn.

Từ tháng 3, báo chí Pari phản ánh dự luận tiến bộ Pháp đòi đình chỉ cuộc chiến tranh Đông Dương, đòi dàn xếp với Chính phủ Hồ Chí Minh. Để trấn an và lừa gạt dư luận, ngày 18-3, Thủ tướng Pháp tuyên bố trước Quốc hội rằng vấn đề Đông Dương không thể giải quyết được bằng vũ lực mà phải bằng một giải pháp chính trị. Bộ trưởng Chiến tranh Pháp cũng nói với báo chí rằng vấn đề Đông Dương không còn là vấn đề quân sự mà đã chuyển sang bình diện chính trị. Vài tuần sau, Bôla (Emile Bollaert) được cử sang thay Cao ủy Đácgiăngliơ. Nhân dịp này, báo chí cánh hữu ở Pari cố tình thổi phồng khả năng tiến tới một cuộc thương lượng. Nhưng những gì diễn ra ở Đông Dương lại hoàn toàn ngược lại. Đúng là đã có một cuộc gặp gỡ giữa đôi bên ở thị xã Thái Nguyên trung tuần tháng 5. Anh Thái được trên cho biết lập trường của phía Pháp trong cuộc xúc tiến này vẫn rất ngoan cố. Họ đưa những điều kiện thực chất là đòi ta phải hạ vũ khí, đầu hàng. Đúng vào dịp này, qua tin nhận được của đài Con nhạn, Phòng 2 báo cáo với Tổng Tham mưu trưởng nội dung bài diễn văn ngày 15-5 của Bôla tại Hà Nội. Viên cao ủy mới này khẳng định sự có mặt của người Pháp ở Đông Dương, khẳng định vị trí của Đông Dương trong khối Liên hiệp Pháp. Điều đáng chú ý là ông ta nói đến sự hợp tác với tất cả các đảng phái chứ không công nhận một đảng chính trị nào “độc quyền đại diện cho dân tộc Việt Nam”. Tin tức còn cho thấy nhiều nhân vật “quốc gia Việt Nam” đang tới tấp đến Hồng Kông vận động “cựu hoàng Bảo Đại” trở về nước hợp tác với Pháp “chống lại quân phiến loạn Việt Minh”(1).

Có những điểm cụ thể về âm mưu của địch mà nhiều năm sau chúng ta mới biết qua sách báo Pháp và phương Tây. Còn vào hè thu 1947 này, một vấn đề lớn cần tìm hiểu là: Quân viễn chinh Pháp sẽ làm gì trong mùa khô tới? Câu hỏi đó đã nảy sinh từ khi quân ta kết thúc đợt hoạt động trong các đô thị. Tiếp đến là những dự kiến nêu lên trong Hội nghị quân sự lần thứ ba (họp trung tuần tháng 6) rằng: “Chúng cũng có thể mưu đồ cuộc đại tiến công vào Việt Bắc… nhằm mục đích chính là tiêu diệt chủ lực của ta…”.

Về các đánh của ta, cũng tại Hội nghị quân sự lần thứ ba, Mấy vấn đề về tư tưởng chỉ đạo tác chiến (mà đồng chí Trường Chinh vừa viết trong một loạt bài của mình) đã được thảo luận sôi nổi để quán triệt tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng. Đó là các vấn đề tư tưởng tiến công, vấn đề giành quyền chủ động, vấn đề phát động phong trào dân quân… Về tư tưởng tiến công, đồng chí Tổng Bí thư viết: “Tiến công là một cách duy nhất hiệu nghiệm để tiêu diệt địch. Đánh giặc mà không tiến công thì không phải là đánh giặc”. Đề cập vấn đề giành quyền chủ động, đồng chí Trường Chinh chỉ rõ: “Hiện nay địch mạnh ta yếu, cho nên nói chung địch vẫn giữ quyền chủ động, ta bị động. Nhưng trong chỗ bị động, ta phải giành lấy quyền chủ động. Chủ động là nguyên lý cốt yếu của chiến thuật nói chung và của du kích vận động chiến nói riêng”. Về phát động phong trào dân quân, Tổng Bí thư viết: “Chiến tranh nhân dân phải do dân làm lấy. Nghĩa là không phải chỉ quân chính quy đánh giặc, mà cả những người hăng hái, không kể trai gái, không kể có trong quân đội hay không, cũng đánh giặc”. Qua các buổi thảo luận sôi nổi về chỉ đạo, chỉ huy tác chiến, Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ ba cũng đã đề cập một số cách đánh khá cụ thể như: đột kích vào các đô thị địch mới chiếm đóng, tập kích các vị trí nhỏ của địch; phục kích, đánh giao thông thủy bộ của địch đi đôi với phá hoại đường sá, đắp kè trên sông… Hội nghị đã khẳng định: Do trình độ bộ đội hiện nay, “dùng lối phục kích có lợi hơn lối tập kích”. Về bố trí binh lực, hội nghị kết luận: “Nói chung, nguyên tắc đối phó cơ bản là không phán tán binh lực khắp các mặt trận; không bố trí phòng tuyến chữ nhất, phải sẵn sàng một lực lượng dự bị có thể tập trung nhanh chóng ở một địa điểm cơ động, nghĩa là tiến thoái thuận lợi, rồi nhằm chỗ yếu của địch mà tiến công tiêu diệt…”.


(1) Sau này qua sách báo Pháp và phương Tây, được biết trong lúc Bôla ve vãn đưa Bảo Đại về lập chính quyền tay sai thì, cũng vào khoảng trung tuần tháng 5, tại Pari, viên tướng Pháp Raun Xalăng (Raoul Salan - một sĩ quan thực dân lâu đời, đã từng là đồn trưởng Đình Lập (Lạng Sơn) vào những năm 30) được vời đến gặp Bộ trưởng Pháp quốc hải ngoại Mutê (Marius Moutet) và Bộ trưởng Chiến tranh Phlorê (Coste Floret). Người ta yêu cầu viên tướng này sang Việt Nam với nhiệm vụ chủ yếu trước mắt là đưa quân lên vùng thượng du Bắc Kỳ “bịt biên giới Việt - Trung, đè bẹp quân kháng chiến Việt Minh”. Hai viên bộ trưởng đã nói thẳng với Xalăng rằng nước Pháp không thể tiếp tục cuộc chiến tranh tốn kém và kéo dài này, vì “những lực lượng ném vào cuộc chiến tranh này quá lớn so với khả năng của Pháp”. Phải nhanh chóng kết thúc nó bằng một đòn chớp nhoáng - quyết định (un coup éclair - décisif), đánh thẳng vào sào huyệt đối phương.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 21 Tháng Mười, 2012, 07:32:23 am
Lĩnh hội tất cả những nội dung đã trở thành Nghị quyết của Hội nghị quân sự lần thứ ba, trở về cơ quan, Tổng Tham mưu trưởng tiếp tục cùng một số trợ lý chủ chốt và Trưởng phòng Tác chiến nghiên cứu, thảo luận để cụ thóa hóa và quán triệt sâu sắc thêm một bước về chức năng giúp trên chỉ đạo tác chiến trong thu đông này. Vấn đề khiến các anh trăn trở và lật đi lật lại trong quá trình thảo luận vẫn là, từ những nguyên tắc chung trên đây, việc sử dụng lực lượng và chọn cách đánh cụ thể nên như thế nào?

Những tin tức tổng hợp sau những tháng hè cho biết: mấy tháng qua, quân địch được nghỉ ngơi; chúng được tăng viện thêm 20.000 quân, lại phát triển được quân ngụy, khiến cho tổng số binh lực của chúng đã lên tới gần 13 vạn. Trong hàng ngũ sĩ quan chỉ huy cũng có sự thay đổi, trong đó có việc tướng Xalăng được cử sang phụ trách chiến trường Bắc Đông Dương. Nhiều nguồn tin cho biết các chuyến bay thị sát chiến trường của viên tướng này trên các vùng biên giới Đông Bắc và vùng trung du Bắc Bộ cho biết việc huấn luyện quân dù, quân Bắc Phi và quân ngụy được coi trọng. Rõ ràng địch đang chuẩn bị một ý đồ chiến lược lớn vào mùa khô. Nhưng bài toán chưa có lời giải đáp dứt khoát: Địch có tiến công lên Việt Bắc không? Nếu có, khả năng huy động lực lượng của địch là bao nhiêu? Cách đánh của chúng thế nào? Anh Thái và các đồng chí phụ trách Phòng 2 đều chưa quên nhận định của hội nghị cán bộ Trung ương hồi đầu tháng 4 là : “Việt Nam không thể có căn cứ địa rộng rãi và vững chắc… Những căn cứ địa ở Việt Nam đều có thể bị địch đánh xuyên mũi dùi vào hoặc bao vây”.

Càng đến gần mùa khô, âm mưu của địch càng được khẳng định, bài diễn văn mà Cao ủy Pháp Bôla đọc tại thị xã Hà Đông ngày 10-9 là một dẫn chững. Rõ ràng là địch sẽ đánh mạnh trong thu đông, nhằm bẻ gãy lực lượng kháng chiến, đi đôi với lôi kéo Bảo Đại về lập chính quyền tay sai trong cả nước. Ngày 15-9, trong Chỉ thị Bôla nói gì? Ta phải làm gì?, Thường vụ Trung ương lại chỉ rõ: Phải tích cực chuẩn bị chiến dịch mùa đông về mọi mặt, đặng đối phó với cuộc tiến công có thể lan rộng và ác liệt của quân đội Pháp sau mùa nưa này; phải chuẩn bị chống các cuộc quân địch đánh xuyên mũi dùi, đánh vòng thật rộng, nhảy dù đổ bộ sau lưng ta; phải phát triển dân quân và vũ trang gấp cho dân quân, phải phá hoại triệt để những thị trấn địch có thể chiếm trong mùa đông sắp tới(1).

Chấp hành chỉ thị của Tổng Chỉ huy, Tổng Tham mưu trưởng cùng một số cơ quan bạn trong Bộ Tổng chỉ huy tập trung giúp trên chuẩn bị Hội nghị quân sự toan quốc lần thứ tư, dự kiến sẽ họp vào cuối tháng 9. Trọng tâm hội nghị là nhận định về âm mưu và khả năng của địch và hoạt động của ta trong mùa khô này.

Song song với việc chuẩn bị hội nghị quân sự, Tổng Tham mưu trưởng đã chỉ đạo các trưởng phòng sớm triển khai các mặt công tác cần thiết để cơ quan cũng như toàn quân sẵn sàng bước vào mùa khô. Ngày 20-9, anh Thái triệu tập các tổ trưởng Đảng và các trưởng phòng, phổ biến tinh thần và nội dung hội nghị liên tịch họp từ ngày 14 đến 19-9-1947 mà đồng chí vừa tham dự. Đó là hội nghị do Quân ủy Trung ương triệu tập nhàm giao nhiệm vụ lãnh đạo trong mùa khô sắp tới cho các cơ quan Bộ, các cấp Đảng và chính quyền các tỉnh trung du và Việt Bắc. Cuộc họp do đồng chí Bí thư Quân ủy Trung ương Võ Nguyên Giáp chủ trì. Thành phần tham dự hội nghị gồm từ cán bộ cấp tiểu đoàn trở lên thuộc các đơn vị bộ đội chủ lực của Bộ, các đồng chí phụ trách Đảng và chính quyền các tỉnh trong địa bàn dự kiến địch có thể đánh tới trong thu đông này.

Dựa vào nội dung hội nghị trên, đồng chí Hoàng Văn Thái phổ biến tinh thần của Quân ủy Trung ương nhận định về âm mưu quân sự và chính trị của địch trong mùa khô này, tính chất khẩn trương và quyết liệt mà quân và dân ta phải đương đầu trong thu đông. Đồng chí truyền đạt chỉ thị của Quân ủy và giao nhiệm vụ cho các đảng viên trong từng phòng ban lãnh đạo anh em giúp trên bám sát tình hình, nắm chắc động tĩnh địch và tình hình lực lượng vũ trang của ta, cả chủ lực và địa phương, góp phần vào việc đánh bại kế hoạch mùa khô của quân viễn chinh Pháp. Các đảng viên ở từng bộ phận phải xung phong trong mọi nhiệm vụ, xứng đáng với vai trò tiên phong trong những tình huống gay go khó khăn nhất.

Sau cuộc họp, từng phòng soát xét lại công việc của từng người và khẩn trương hoàn thành mọi công tác chuẩn bị phục vụ cho yêu cầu chỉ đạo tác chiến, trong đó có việc phân công bộ phận ở lại cơ quan và các phái viên sẵn sàng nhận nhiệm vụ xuống các địa phương, đơn vị, trực tiếp giúp đỡ cả về huấn luyện và chiến đấu.


(1) Như đồng chí Hoàng Văn Thái nói trong cuộc tọa đàm năm 1979, khách quan mà nói, hồi đó thực ra Bộ Tổng tham mưu cũng chưa nhận thức được sâu sắc và triệt để những nội dung chỉ đạo trên đây trong chỉ thị của Thường vụ Trung ương. Ở nhiều ngành, nhiều cấp cũng vậy. Đó là nguyên nhân dẫn đến những sơ khoáng trong công tác chuẩn bị của ta, khiến ta gặp những khó khăn và bị động trong những ngày đầu cuộc tiến công của địch.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 21 Tháng Mười, 2012, 07:33:50 am
V

Mùa khô đã đến. Vào những ngày nửa cuối tháng 9-1947, vấn đề nổi lên đối với Bộ Tổng tham mưu vẫn là: Đánh địch như thế nào? Suốt mấy tháng xuân hè vừa qua, các huấn lệnh, cũng như các hội nghị các khu trưởng đều nhấn mạnh yêu cầu phải gấp rút chuyển sang du kích vận động chiến. Hội nghị cán bộ Trung ương tháng 4 đã định hướng rõ hơn: Chiến thuật cơ bản là du kích vận động chiến; trận địa chiến là chiến thuật bồi bổ, giúp đỡ cho du kích vận động chiến; du kích vận động chiến phải là cách đánh của toàn dân, không phải của riêng bộ đội, nên phải phát động phong trào dân quân và vũ trang toàn dân để có thể mở mặt trận ở bất cứ nơi nào có bóng địch, đánh ngay cả ở sau lưng địch, trong ruột địch…

Đối với cơ quan chỉ đạo, chỉ huy tác chiến chiến lược như Bộ Tổng Tham mưu, định hướng như thế là khá rõ và trên thực tế, mọi công tác chuẩn bị cho lực lượng vũ trang trong cả mùa hè đều đi theo hướng đó. Nhưng là người đứng đầu cơ quan tham mưu Tổng hành dinh, đồng chí Tổng Tham mưu trưởng thấy không thể dừng lại ở đó mà phải tiếp tục nghiên cứu cụ thể hơn để chỉ đạo vận dụng sao cho phù hợp với thực tế chiến trường đồng thời gắn với tư tưởng chỉ đạo trong Chỉ thị ngày 15-9 của Thường vụ Trung ương.

Tấm thoắt đã sắp hết tháng 9. Hội nghị quân sự họp trong ba ngày, từ 27 đến 29. Trong báo cáo đọc tại hội nghị, đồng chí Tổng Chỉ huy nhận định rằng địch sẽ đánh mạnh trong thu đông và chiến trường chính sẽ là Bắc Bộ. Hội nghị nhận định: Mạo hiểm lắm địch mới đánh lên Việt Bắc, mà có thể chúng không dám mạo hiểm. Địch không có khả năng tập trung đến hai sư đoàn để đánh lên Việt Bắc, cũng không thể nhảy dù xuống Bắc Kạn vì quá xa căn cứ của chúng ở đồng bằng. Nếu địch đánh Việt Bắc thì kế hoạch tiến công của chúng sẽ như thế nào? Hội nghị phán đoán chúng sẽ tiến công từ trung du lên, từ Lạng Sơn về. Mặt tiến công chính của địch là Phúc Yên, Thái Nguyên, Phú Thọ, Vĩnh Yên, Tuyên Quang; mặt kiềm chế hay phối hợp: phía tây sẽ là vùng Hòa Bình, phía đông sẽ là vùng Bắc Giang, Lạng Sơn(1).

Trong thảo luận tại hội nghị, cũng có những ý kiến không đồng tình với nhận định trên đây. Ví dụ: về âm mưu và khả năng của địch, có ý kiến của đồng chí Nguyễn Sơn (Khu trưởng Khu 4) nói thẳng ra rằng: “Liệu đấy, không khéo quân Pháp nhảy dù thẳng lên đầu chúng ta (ý nói cơ quan Tổng hành dinh) cho mà xem”. Những ý kiến như vậy - mà thực tế sau này chứng minh là có nhiều điểm đúng - đã không được quan tâm và thảo luận đầy đủ. Âu cũng là một bài học ấu trĩ về dân chủ quân sự ở cấp chiến lược.

Do những phán đoán không chính xác về âm mưu, khả năng điều động lực lượng và cách đánh của quân Pháp, cho nên trong suốt mùa hè việc chỉ đạo công tác phá hoại ở một số thị xã (như Tuyên Quang, Bắc Kạn) hay công tác phá hoại giao thông phía trên đường số 3 (Thái Nguyên - Bắc Kạn - Cao Bằng), phía trên đường số 2 (Tuyên Quang - km 31) và đường liên tỉnh (km 31 - Chiêm Hóa) không được tích cực. Các khu vực nói trên, cho đến ngày địch tiến công vẫn hầu như nguyên vẹn. Chúng ta không tin rằng địch sẽ tiến sâu vào các địa bàn đó. Trong cái mà sau này đồng chí Trường Chinh phê phán là “tư tưởng đại hậu phương chủ nghĩa” ấy, Bộ Tổng tham mưu có phần trách nhiệm của mình, với cương vị cơ quan tham mưu chiến lược, giúp trên chỉ đạo chuẩn bị và thực hành tác chiến chiến lược. Sự ấu trĩ của cơ quan tham mưu phản ánh trình độ và kinh nghiệm chỉ đạo chiến tranh nói chung của ta hồi đó.

Về quy mô tác chiến của ta thảo luận trong hội nghị quân sự lần này, trong bài phát biểu của mình Tổng Tham mưu trưởng đã nêu rõ quan điểm về sử dụng bộ đội chủ lực trong tác chiến. Theo đồng chí, quy mô tổ chức chủ lực lúc này là trung đoàn. Nhưng trên thực tế, trung đoàn chủ yếu chỉ là cấp quản lý và chỉ đạo xây dựng. Do trình độ trang bị kỹ thuật và tác chiến của bộ đội, trình độ chỉ huy chiến đấu của cán bộ, Tổng Tham mưu trưởng cho rằng tác chiến quy mô trung đoàn lúc này là chưa phù hợp. Thực tế cho thấy, đơn vị chiến đấu phổ biến của ta chỉ nên là cấp đại đội, cao hơn nữa là cấp tiểu đoàn, trước hết là các tiểu đoàn đã kinh qua chiến đấu từ đầu năm đến nay. Ý kiến của Tổng tham mưu trưởng là một trong những vấn đề được thảo luận nhiều trong hội nghị.

Hội nghị quân sự lần này còn dựa vào Chỉ thị ngày 15-9 của Thường vụ Trung ương để thảo luận sâu về cách đánh, đánh vận động, đánh tiêu diệt, coi trọng cách phục kích hơn là tập kích, đồng thời bàn các nội dung khác gắn liền] với tác chiến của chủ lực, như phát triển chiến tranh du kích, phá hoại tiêu thổ, đẩy mạnh vũ trang tuyên truyền, diệt tề trừ gian. Hội nghị nhấn mạnh yêu cầu chỉ đạo phối hợp chặt chẽ giữa bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương trong từng trận và trong cả quá trình hoạt động trong thu đông. Qua thảo luận, nguyên tắc bố trí lực lượng Vệ quốc đoàn và quan hệ giữa chủ lực với địa phương mang nội dung mới, được ghi thành nghị quyết: Ngoài chủ lực cơ động, nên dùng đơn vị đại đội để hoạt động trong từng địa phương. Luyện cho bộ đội hóa chỉnh vi linh, hóa linh vi chỉnh, hóa trang lẫn vào dân khi cần…


(1) Như sau này (sau chiến dịch Việt Bắc) Hội nghị Trung ương tháng 1-1948 nhận xét, “ta đoán mưu mô địch chưa đến nơi”. Huấn lệnh ngày 6-2-1948 của Bộ Tổng chỉ huy nói cụ thể hơn: “Những phán đoán của ta về địch có khi đúng, có khi không được đúng lắm, nhiều khi sai”. Điều đó phản ánh trình độ thực tế của ngành tình báo của ta (trong đó có Phòng 2 Bộ Tổng tham mưu) trước khi bước vào mùa khô năm 1947.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 21 Tháng Mười, 2012, 07:34:56 am
Nội dung Nghị quyết về dùng đơn vị đại đội hoạt động trong từng địa phương phản ánh kinh nghiệm hoạt động của lực lượng vũ trang Nha Trang và Thừa Thiên. Tại mặt trận Nha Trang hồi đầu năm 1946, khi địch đánh rộng ra, bộ đội chủ lực xây dựng phòng tuyến để phòng ngự ngăn địch nhưng không đủ sức đối mặt với xe tăng, pháo binh của chúng. Theo gợi ý của phái viên Chính phủ Võ Nguyên Giáp(1), Bộ Chỉ huy Mặt trận Nha Trang - Khánh Hòa cho phần lớn bộ đội chủ lực lui về phía sau để củng cố, chỉ để lại một số đơn vị tổ chức thành những đội vũ trang nhỏ (cao nhất là đại đội) bí mật luồn vào vùng sau lưng địch, hòa vào dân, phát động chiến tranh du kích, tiếp tục duy trì sức chiến đấu và đã chiến đấu có hiệu quả. Trong hội nghị quân sự lần này, được biết ở vùng tạm bị chiếm Bắc Ninh (khu 12) cũng có trường hợp như vậy. Đồng chí Tổng Chỉ huy cho rằng đây là một vấn đề mới, cần được nghiên cứu chu đáo và rút ra kết luận cả về thực tiễn và lý luận sử dụng lực lượng và phương thức tác chiến.

Sau hội nghị, vào những ngày cuối tháng 9, đầu tháng 10, một vài cán bộ tham mưu theo Tổng Chỉ huy Võ Nguyên Giáp xuống Nhã Nam. Sau khi làm việc với Bộ Chỉ huy Khu 12 và với Tỉnh đội Bắc Ninh, những kinh nghiệm về hoạt động của Đại đội Hồng Hà trong vùng tạm chiếm Nam phần Bắc Ninh đã được sáng tỏ. Bài học tổng quát là đưa lực lượng nhỏ Vệ quốc đoàn luồn vào vùng địch kiểm soát, “thường dân hóa”, dựa vào nhân dân để xây dựng và củng cố cả hai lực lượng chính trị và quân sự, duy trì sức chiến đấu, vận dụng cách đánh du kích, nhỏ lẻ, phân tán, rộng khắp…

Từ kinh nghiệm của Bắc Ninh, lúc này ý tưởng lấy đại đội làm đơn vị hoạt động trên từng địa phương đã xuất hiện trong tư duy quân sự của Tổng Chỉ huy Võ Nguyên Giáp, nhưng chưa được định hình cụ thể. Điều đó lý giải vì sao trong mệnh lệnh đề ngày 4-10-1947 Bộ Tổng chỉ huy chỉ viết rất chung: “Ngoài bộ đội chủ lực đánh vận động, các bộ đội hoạt động trên chiến trường lấy đại đội làm đơn vị”, mà chưa chỉ ra phương thức hoạt động cụ thể. Dù sao, ngay hồi đó cũng đã manh nha một cách dùng binh đem lại hiệu quả chiến lược quan trọng, đó là phương châm đại đội độc lập - tiểu đoàn tập trung.

Sau hội nghị quân sự, vấn đề tồn tại đối với Bộ Tổng tham mưu vẫn là quy mô tác chiến của bộ đội chủ lực đánh vận động, nên dùng cỡ đại đội, tiểu đoàn hay lớn hơn? Qua nhiều lần thảo luận, do chưa có thực tế nên mọi người đều thấy quy mô tác chiến tùy thuộc tính chất của từng trận đánh, điều kiện địa hình và nhất là trình độ của từng đơn vị. Mệnh lệnh ngày 4-10 của Bộ Tổng chỉ huy cũng chỉ nêu lên phương hướng và nhiệm vụ tác chiến chung cho từng khu. Phương hướng đó đề ra trên cơ sở Nghị quyết Hội nghị quân sự lần thứ tư: Nếu địch tiến công lên Việt Bắc, hướng chính của chúng là Phúc Yên, Thái Nguyên, Phú Thọ, Vĩnh Yên, Tuyên Quang, hướng kiềm chế hay phối hợp: phía tây là vùng Hòa Bình, Sơn La, phía đông là vùng Bắc Giang, Lạng Sơn. Do đó, nhiệm vụ tác chiến đề ra trong mệnh lệnh ngày 4-10 của Bộ Tổng chỉ huy cho bộ đội chủ lực là:

- Đại đoàn độc lập (chủ lực của Bộ đang trong quá trình xây dựng) vòng sang mạn Nhã Nam, phối hợp với Khu 1;

- Chủ lực Khu 10 đánh vào Vĩnh Yên, Việt Trì;

- Chủ lực Khu 1 để ở chân Tam Đảo, đánh vòng xuống Phúc Yên;

- Khu 12 đánh vào bên cạnh hoặc phía sau địch hoặc phối hợp Khu 1 đánh phía nam Thái Nguyên, Phúc Yên, Bắc Giang và trên đường số 4;

- Khu 3 đánh mạnh trên đường số 5 và các cứ điểm ở vùng trung châu;

- Khu 2 và khu 11 đánh thọc vào Hà Đông hay Hà Nội;

- Các chiến trường Trung và Nam Bộ: đẩy mạnh tác chiến phối hợp.

Cũng trong mệnh lệnh ngày 4-10, Bộ Tổng chỉ huy quyết định tổ chức lại chiến trường Bắc Bộ thành những liên khu lâm thời. Nhớ lại hồi tháng 7, do dự kiến chiến trường có thể bị chia cắt, Chính phủ đã ra sắc lệnh thành lập Phân khu Bình - Trị Thiên (18-7) và Khu 14 (25-7). Khu 14 gồm Lai Châu, Sơn La, một phần Hòa Bình và Phú Thọ. Mục đích việc thành lập các liên khu lâm thời lần này là nhằm thống nhất chỉ đạo, chỉ huy trong thu đông sắp tới. Với tổ chức mới này, dù chiến trường có bị chia cắt, việc phối hợp tác chiến vẫn có thêm điều kiện thực hiện thuận lợi hơn. Theo mệnh lệnh trên, chiến trường Bắc Bộ được chia thành ba liên khu lâm thời:

- Khu A: Gồm hai khu 12 và 1, cộng thêm hai tỉnh Vĩnh Yên và Tuyên Quang. Liên khu trưởng: đồng chí Chu Văn Tấn, Liên khu phó: đồng chí Lê Hòa; Chính trị viên: đồng chí Nguyễn Vĩnh.

- Khu B: Gồm Khu 10 và Khu 14, bớt hai tỉnh Vĩnh Yên, Tuyên Quang. Liên khu trưởng: đồng chí Bằng Giang; quyền Liên khu phó: đồng chí Lê Trọng Tấn; Chính trị viên: đồng chí Song Hào.

- Khu C: Gồm Khu 3, Khu 2 và Khu 11. Liên khu trưởng: đồng chí Hoàng Sâm; Chính trị viên: đồng chí Lê Hiến Mai; các ủy viên: Hoàng Minh Thảo, Vũ Hiển, Lê Quang Hòa.

Mệnh lệnh trên đây chưa kịp triển khai thì ba ngày sau, cuộc tiến công mùa khô của địch lên căn cứ địa Việt Bắc bắt đầu.


(1) Khi đó là Bộ trưởng Nội vụ - Bí thư Quân sự ủy viên hội, vào thị sát chiến trường miền Nam.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Mười, 2012, 07:39:29 am
CHƯƠNG VII

MÙA KHÔ ĐẦY THỬ THÁCH

I

Thị xã Bắc Kạn, sáng sớm ngay 7-10-1947, một ngày thứ ba bình thường.

Sau khi tập thể dục, đồng chí Hoàng Văn Thái chuẩn bị đến làm việc với Tỉnh đội và sau đó đến thăm một đơn vị Vệ quốc đoàn trong thị xã.

Dưới bầu trời sương đang tan nhanh, tiếng máy bay trinh sát của địch từ xa vọng về khiến đồng chí chú ý. Máy bay địch bay sớm là một hiện tượng không bình thường. Khoảng 8 giờ, tiếng ì ầm nặng dần, rồi từng tốp máy bay địch xuất hiện trên bầu trời thị xã. Sau mấy đợt bom và súng bắn phá, những chiếc dù từ máy bay tung ra, lơ lửng trên không trung. Địch nhảy xuống nhiều nơi trong thị xã. Lần đầu tiên anh Thái được hứng kiến một cuộc đổ bộ đường không với số dù nhiều như vậy.

Tổng Tham mưu trưởng tự thấy mình bị bất ngờ. Trong những lần thảo luận kế hoạch tác chiến thu đông, đã từng có ý kiến về khả năng địch đánh sâu vào căn cứ kháng chiến. Nhưng anh không hề nghĩ rằng vào thời điểm này, địch bắt đầu cuộc tiến công thu đông của chúng ngay tại thị xã trung tâm Việt Bắc. Núp mình dưới lùm cây bên đường, nơi ngã ba cửa ngõ phía tây thị xã, anh theo dõi những chiếc dù từ từ chạm đất. Không nghe thấy tiếng súng của quân ta. Anh biết trong thị xã lúc này chỉ có một đơn vị Vệ quốc đoàn đang huấn luyện. Phần lớn là tân binh. Có thể anh em cũng bị bất ngờ nên đối phó bị động.

Điều khiến anh Thái băn khoăn là tình hình phía dưới thế nào, ở Định Hóa, nơi đứng chân của các cơ quan Trung ương và Bộ Tổng chỉ huy. Điều gì đã diễn ra ở phía đó. Tổng Tham mưu trưởng cùng đồng chí thư ký lên ngựa, đi nhanh về phía Chợ Đồn. Dọc đường, anh biết có nhiều cơ sở sản xuất của quân giới, quân y ở ngay gần đường cái. Anh tranh thủ tạt qua, thông báo tình hình và chỉ thị cho các kho tàng, công xưởng chuyển sâu hơn nữa vào trong rừng. Đài phát thanh cũng cần di chuyển ngay. Việc phát tin không bị gián đoạn vì đã có đài chính đặt ở bàn Vài đảm nhiệm.

Ngồi trên lưng ngựa, đi trên mặt đường rải đá, Tổng Tham mưu trưởng suy nghĩ nhiều về công tác phá hoại. Sớm hôm qua, anh vừa từ cơ quan đi ngược đường số 3 lên đây. Từ Thái Nguyên lên hướng bắc, con đường hầu như còn nguyên vẹn, nguyên vẹn như những ngôi nhà gạch trong thị xã Bắc Kạn. Nhớ lại ý kiến của anh Nguyễn Sơn hôm thảo luận về cách đánh của địch tại hội nghị quân sự cuối tháng trước, anh thấy thấm thía trước sự chủ quan, sai lầm trong việc phán đoán âm mưu địch. Rõ ràng là chúng đã mạo hiểm, đã tận dụng những sơ hở do thiếu kinh nghiệm của ta. Còn ta, ít nhiều cũng phải trả giá cho những sơ hở, những thiếu sót. Vấn đề làm làm sao hạn chế đến mức thấp nhất những khó khăn và tổn thất.

Vừa đi, Tổng Tham mưu trưởng vừa trao đổi ý kiến với Nguyễn Văn Ngạn, người thư ký giúp việc gần gũi nhất và cũng là người thông cảm với những băn khoăn của anh lúc này.

Hai người về đến Đông Viên - một xã sát đường cái - khi trời đã xế chiều. Sau khi làm việc với Ủy ban kháng chiến xã, anh ra nói chuyện với đồng bào trong cuộc mít tinh được triệu tập cấp tốc. Các đồng chí địa phương đề nghị anh nói cho bà con biết tình hình và hướng dẫn những việc làm cần thiết để ổn định tư tưởng nhân dân. Địa phương này vốn là nơi hoạt động trước đây của anh. Bà con địa phương không mấy người không biết mặt đồng chí Khang thời kỳ trước khởi nghĩa. Bằng những lời chân tình và dễ hiểu, anh Thái nói với đồng bào về chiến sự vừa diễn ra trong tỉnh nhà.

Địch đánh lên Việt Bắc là đánh vào căn cứ địa cách mạng, căn cứ địa kháng chiến, nơi có cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Kẻ địch tỏ ra rất chủ quan và mạo hiểm. Chúng ỷ vào vũ khí hơn ta, đánh sâu vào hậu phương ta, xa nguồn tiếp tế của chúng. Các điều kiện thời tiết, khí hậu, địa hình và cơ sở chính trị đề không lợi cho địch. Chúng không đủ quân để rải ra trên một địa bàn rộng lớn như Việt Bắc. Càng phân tán mỏng lực lượng trên vùng rừng núi xa lạ, khó hành quân cơ động, càng thuận lợi cho bộ đội và dân quân du kích đánh trả.

Đồng chí Hoàng Văn Thái đặt vấn đề: làm thế nào để đánh thắng được địch, bảo vệ được làng bản? Đồng chí đề nghị đồng bào cần bình tĩnh, cảnh giác trước mọi tình hình, không để người lạ, kẻ xấu làm cho hoang mang, mất tin tưởng. cần đoàn kết, cùng nhau làm tốt công tác chuẩn bị đánh địch; sơ tán người già, trẻ em, đưa thóc lúa trâu bò vào sâu phía trong, càng xa đường cái càng tốt, không để của cải rơi vào tay địch; dân quân du kích phải được bổ sung súng đạn, bổ sung mọi thứ vũ khí thô sơ có trong địa phương, thường xuyên cảnh giác, đề phòng kẻ gian, người lạ lọt vào địa phương dẫn đường cho địch, sẵn sàng chiến đấu khi có địch và cũng sẵn sàng giúp các cơ quan, công binh xưởng di chuyển máy móc, tài sản…

Tối hôm đó, anh Thái biên thư cho người mang gấp đến Huyện ủy Chợ Đồn, dặn dò những điều cần thiết, cán bộ sẵn sàng đánh quân địch có thể nhảy dù xuống thị trấn trong mấy ngày không xa. Rồi anh họp với Ban Chỉ huy Xã đội Đông Viên, hướng dẫn công tác chuẩn bị đánh địch khi chúng nhảy xuống thị trấn Chợ Đồn và nối liền đường Bắc Kạn - Chợ Đồn. Việc thực hiện vườn không nhà trống và phá hoại đường sá là những việc cần được triển khai ngay.

Mờ sáng hôm sau, Tổng Tham mưu trưởng lên đường về cơ quan. Từ Đông Viên, hai người đi tắt qua bản Điểng, Đèo So. Mặc dù mới qua một đêm ít ngủ, anh Thái vẫn không dứt dòng suy nghĩ về công việc, nhất là công tác chuẩn bị chiến đấu của bộ đội ở vùng căn cứ địa, và việc bố trí các trung đoàn chủ lực. Hơn mười trung đoàn đã dồn cả xuống phía trung du. Các đại đội độc lập được dự kiến đưa về đứng chân ở các huyện để hỗ trợ cho phong trào chiến tranh du kích chắc chưa kịp tới nơi, nhất là các huyện phía bắc vì mệnh lệnh mới gửi đi ngày 4-10.

Vừa đi vừa suy nghĩ, anh càng thấm thía vì việc chỉ đạo chuẩn bị chiến đấu tỏ rõ nhiều điểm sơ khoáng, nhất là công tác phá hoại. Các thị xã như Bắc Kạn, Cao Bằng, các thị trấn như Chợ Đồn, Chợ Rã, các đường số 3 (phía trên Thái Nguyên), số 2 (phía trên Tuyên Quang) và cả con đường số 13 (đoạn nối liền hai thị xã Tuyên Quang và Thái Nguyên) đều chưa được phá hoại tới mức có thể ngăn chặn địch. Làm thế nào bổ khuyết ngay trong những thiếu sót này. Không thể để cho địch lợi dụng được những sơ hở của ta để phục vụ cho việc trú quân và chuyển quân cơ động của chúng.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Mười, 2012, 07:40:03 am
Chặng đường 40 kilômét cuối cùng cũng kết thúc, Chiều ngày 8-10, Tổng Tham mưu trưởng về đến cơ quan ở Yên Thông thì biết tin Tổng Chỉ huy Võ Nguyên Giáp đi kiểm tra tình hình chuẩn bị chiến đấu ở Chiêm Hóa cũng vừa về tới nơi.

Không khí trong cơ quan thật khẩn trương. Theo chỉ thị của Tổng Chỉ huy, việc bảo đảm liên lạc để nắm tình hình Bắc Kạn là việc hàng đầu. Một số phái viên đã được cử lên phía trên. Anh em ở lại người nào làm việc nấy, nét mặt trang nghiêm, tư lự, tập trung vào việc đột xuất lúc này là nắm cho được tình hình địch, nắm việc chuyển quân của chủ lực mà Bộ Chỉ huy đã ra lệnh điều từ phía trung du lên hướng Bắc Kạn, Chợ Mới. Trong từng phòng, bàn, ba lô và thùng sắt đựng tài liệu đã được chuẩn bị. Mọi công tác vấn tiến hành khẩn trương nhưng mọi người ai cũng đã sẵn sàng cơ động di chuyển hoặc đi nhận nhiệm vụ đột xuất khi có lệnh. Điều trông đợi của Phòng Tác chiến là tin bộ đội nổ súng ở Bắc Kạn, Chợ Mới. Nhưng chỉ mới có tin thêm về địch mới nhảy dù xuống Chợ Đồn sáng này.

Trước khi sang gặp đồng chí Tổng Chỉ huy, anh Thái nói với anh Trần Văn Lư, Tham mưu chủ nhiệm triệu tập các trưởng phòng để nắm lại tình hình. Trưởng phòng Tác chiến Đào Văn Trường báo cáo những nét mới nhất về địch. Ngày đầu, chúng nhảy xuống Bắc Kạn, Chợ Mới, xe cơ giới từ Lạng Sơn qua Đồng Đăng lên Na Sầm. Hôm nay, 8-10, có tin chúng nhảy dù chiếm Chợ Đồn. Trên hướng đường số 4, cánh quân cơ giới tiếp tục qua Thất Khê lên hướng Cao Bằng.

Chợt có điện thoại từ bên Văn phòng Trung ương gọi sang. Nghe tin anh Thái mới ở Bắc Kạn về, anh Hoàng Quốc Việt hỏi có gặp anh Trường Chinh trên đó hay không? Đêm 6-10, đồng chí Tổng Bí thư từ Đại Từ lên thẳng Bắc Kạn. Anh lên giảng bài cho Trường võ bị Trần Quốc Tuấn ở gần thị xã, sau đó sẽ làm việc với Tỉnh ủy.

Như sau này anh Thái kể lại, nghe anh Việt hỏi, anh cố nhớ lại buổi sáng hôm đó ở thị xã Bắc Kạn, nơi anh được chứng kiến cuộc nhảy dù của địch. Vào giờ đó, buổi lên lớp có thể chưa bắt đầu, nhất là có hiện tượng lạ do máy bay địch đến sớm khiến mọi người chủ ý. Nhưng rõ ràng là vào giờ đó, đồng chí Tổng Bí thư đang ở trong thị xã. Nỗi lo của Tổng Tham mưu trưởng tăng lên, anh quyết định sang gặp anh Văn sớm hơn dự kiến.

Anh Văn cho biết, sau khi lên lớp ở trường ngoại ngữ ở Văn Lãng, ngày 6 anh Trường Chinh xuống dự hội nghị văn nghệ ở Đại Từ, rồi từ đó, anh lên thẳng Bắc Kạn. Sau khi địch nhảy dù, trong cuộc hội ý đêm 7-10, Bác và các anh rất lo vì chưa có tin tức gì của anh Trường chinh. Văn phòng đã cử người lên Bắc Kạn để nắm tình hình. Về việc chỉ đạo tác chiến, Thường vụ Trung ương và Bác đã gửi điện đi các địa phương, động viên tinh thần chiến đấu của bộ đội và dân quân đồng thời chỉ thị cho cấp ủy các địa phương những công việc cấp bách trước mắt. do sự phán đoán của ta trước đây có nhiều điểm không sát đúng với hoạt động hiện nay của địch nên Bộ Tổng chỉ huy cũng vừa gửi mệnh lệnh cho các địa phương và đơn vị hướng dẫn về tác chiến và bổ khuyết những thiếu sót về công tác chuẩn bị chiến đấu.

Để chuẩn bị cho cuộc họp của Thường vụ Trung ương, các anh trao đổi ý kiến để thống nhất nhận định về tình hình chiến sự mới nhất. Quả là còn thiếu nhiều tin tức để có thể đánh giá chính xác tình hình, nhưng những hoạt động đầu tiên của địch đã cho phép rút ra những kết luận cần thiết. Anh Văn nói lại với Tổng Tham mưu trưởng những điều suy nghĩ mấy ngày qua và những gợi ý chỉ đạo đầu tiên của Bác Hồ trong cuộc hội ý đêm 7-10.

Nhảy dù vào trung tâm căn cứ địa, địch giành được bất ngờ nhưng rõ ràng là chúng hoạt động mạo hiểm. Vì sao chúng dám và phải mạo hiểm? Chúng dám mạo hiểm vì ít nhiều nắm được những sơ khoáng của ta. Chúng phải mạo hiểm vì hòng đánh đòn quyết định, giành một thắng lợi quân sự “vang dội”, tạo điều kiện ép ta chấp nhận những điều kiện thương lượng để kết thúc chiến tranh. Gần một năm qua chứng tỏ nước Pháp không đủ sức theo đuổi một cuộc chiến tranh kéo dài. Để thực hiện được ý đồ chiến lược mạo hiểm này, địch có thể huy động bao nhiêu lực lượng? Ngoài cánh quân cơ giới trên hướng đường số 4, liệu còn có hướng phối hợp ở hướng tây, hướng đường số 2 - sông Lô? Dù lực lượng địch huy động có lên tới 1 - 2 vạn tên, thì trên địa bàn Việt Bắc rộng lớn, nhất định chúng phải căng mỏng lực lượng, quân có thể đông nhưng không tạo được sức mạnh. Trong cuộc hội ý đêm 7-10, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra cho quân và dân ta một phương hướng hành động. Với phong cách hết sức bình thản, Bác bảo: Kẻ địch muốn tạo thành một cái ô chụp xuống Việt Bắc. Chúng hy vọng cụp ổ lại, trên đánh xuống, dưới đánh lên, sẽ phá được cơ quan đầu não kháng chiến. Rồi Bác chỉ ra phương hướng hành động: Chúng mạnh ở hai gọng kìm. Nếu ta bẻ gãy gọn kìm thì cái ô của địch cụp xuống sẽ trở thành ô rách.

Hai anh thống nhất nhận định: Đường số 4 là một gọng kìm. Địch sẽ nối liền Cao Bằng với Bắc Kạn. Nhưng từ Bắc Kạn, chúng sẽ loang rộng ra hướng nào? Có thể là hướng nam, nơi có cơ quan lãnh đạo kháng chiến. Cần bám sát động tĩnh của địch để phán đoán cho chính xác, kịp thời. Trước mắt và là điều cần quan tâm hàng đầu là công tác bảo vệ cơ quan lãnh đạo kháng chiến. Kinh nghiệm nước ngoài cũng như thực tế của ta (những năm 1945-1946 ở Nam Bộ và hồi tháng 3 vừa qua khi cơ quan lãnh đạo kháng chiến đang trên đường di chuyển lên Việt Bắc) cho thấy, chộp bắt cơ quan đầu não của đối phương luôn là một thủ đoạn của địch, nhằm giành thắng lợi với giá rẻ nhất. Cần nghiên cứu trường hợp địch từ Bắc Kạn tiến xuống phía nam hay nhảy dù thẳng xuống Chợ Chu thì cơ quan lãnh đạo sẽ chuyển đi hướng nào? Hai là tuy còn quá sớm để khẳng định về thủ đoạn tiếp theo của cuộc hành quân của địch, nhưng rõ ràng là bộ đội chủ lực không có mục tiêu ở trung du. Phải điều lực lượng lên chủ động đánh địch trên đường số 4 và đường số 3, đánh vị trí địch mới chiếm đóng, đánh giao thông, không cho địch củng cố vị trí mới chiếm và tự do cơ động đi lùng sục và tiếp tế tăng viện. Nếu địch mở thêm một gọng kìm trên hướng đường số 2 - sông Lô thì hướng đó cũng sẽ thành một mặt trận. Tham mưu cần nghiên cứu và đề đạt kế hoạch điều động lực lượng cho từng hướng. Ba là, đôn đốc việc chấp hành các chỉ thị bổ sung của Bộ về các mặt công tác chuẩn bị cần thiết, nhất là công tác phá hoại đường sá, phân tán và bảo vệ kho tàng, công xưởng, sơ tán nhân dân, làm vườn không nhà trống. Bốn là, căn cứ vào diễn biến thực tế trên chiến trường, cần nghiên cứu bổ sung bản mệnh lệnh ngày 4-10. Thực tế cho thấy, do phán đoán về địch có những điểm chưa thật đúng, thậm chí có những điểm sai, cho nên bảnh mệnh lệnh có những nội dung không còn phù hợp…


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Mười, 2012, 07:40:53 am
II

Đồng chí Tổng Tham mưu trưởng trở về cơ quan thì trời đã rất khuya. Anh đang suy nghĩ trên những trang ghi chép trong buổi làm việc vừa qua với anh Văn thì trực ban tác chiến vào báo tin ban chỉ huy một đơn vị Vệ quốc đoàn ở phía Bắc Kạn báo cáo về: đã gặp đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh ở phía nam Chợ Đồn. Anh Thái mừng khôn xiết. Anh gọi điện sang cho anh Văn và anh Việt để báo cáo với Bác, rồi ra lệnh cho một tiểu đội vệ binh chuẩn bị sáng sớm hôm sau lên đường. Anh Thái quyết định đích thân đi đón Tổng Bí thư.

Tổng tham mưu trưởng cùng anh em vệ binh lên đến Thành Cóc thì gặp một đơn vị địa phương Chợ Đồn cùng anh Trường Chinh đang nghỉ chân ở bờ suối. Đồng chí Tổng Bí thư nóng lòng mong sớm trở về cơ quan nên đã cùng các chiến sĩ Chợ Đồn đi bảo vệ hành quân từ trước khi trời sáng. Sau khi cho anh em bộ đội trở lại đơn vị, mang theo thư khen của Tổng Tham mưu trưởng, anh Thái cùng anh Trường Chinh lên đường trở về cơ quan. Dọc đường, anh tranh thủ báo cáo với đồng chí Tổng Bí thư tình hình chiến sự đã nắm được, những chỉ thị và mệnh lệnh bổ sung, những dự kiến điều động lực lượng và tổ chức mặt trận sắp tới. Anh cũng báo cáo về sự lo lắng của Bác Hồ và Thường vụ Trung ương khi chưa nhận được tin tức về anh Trường Chinh…

Nghe xong, anh Trường Chinh đem những suy nghĩ và những ý kiến mà anh phác thảo để trao đối với anh Thái(1).

Âm mưu chiến lược của địch là trong cuộc hành quân đánh vào căn cứ địa chính của kháng chiến là:

- Tìm chủ lực của ta để tiêu diệt.

- Tập kích các cơ quan, bắt cán bộ và tài liệu, phá kho tàng và xưởng máy, phá hoại mùa màng, cướp thóc lúa, triệt đường ngoại thương tiếp tế.

- Bao vây vùng Việt Bắc và cản trở việc giao thông liên lạc tiếp tế giữa Việt Bắc với miền xuôi.

- Giành thắng lợi quân sự để tập hợp bọn tay sai, lập chính quyền bù nhìn toàn quốc.

- Chiếm đóng vùng biên giới để câu kết với bọn phản động Quốc dân Đảng Trung Hoa…

Chỗ mạnh của chúng là dựa vào ưu thế về binh khí kỹ thuật, đánh đòn bất ngờ vào sau lưng ta, làm cho cục diện chiến tranh không còn phân rõ rệt tiền tuyến và hậu phương, đường giao thông liên lạc của ta dễ bị đứt đoạn, cuộc chiến đấu của ta sẽ gay go quyết liệt hơn. Nhưng cuộc hành binh sớm làm lộ những nhược điểm lớn của địch. Lực lượng của chúng có hạn, lại rải ra trên một chiến trường quá rộng, xa căn cứ tiếp tế, nên chỉ ồ ạt lúc đầu. Đưa quân lên Việt Bắc, phía sau địch sơ hở, ta càng có điều kiện đánh mạnh ở miền xuôi. Chúng lại buộc phải cơ động để tiếp tế tăng viện cho một lực lượng lớn vừa tung lên Việt Bắc, ta càng có điều kiện đánh địch trong lúc chúng cơ động trên đường bộ và đường thủy.

Đồng chí Tổng Bí thư trao đổi với Tổng Tham mưu trưởng những dự kiến mà đồng chí sẽ đề đạt với Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thường vụ trong cuộc họp sắp tới. Đó là phương hướng nhiệm vụ đặt ra cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, nhằm đánh bại cuộc hành binh mạo hiểm của địch. Về tổ chức và cách làm việc của cơ quan kháng chiến các cấp phải theo nguyên tắc quân sự hóa cho thích hợp với tình thế mới. Phải giữ vững chính quyền kháng chiến, phá âm mưu lập chính quyền bù nhìn của địch. Phải phát động chiến tranh du kích rộng rãi, phối hợp giữa chủ lực với dân quân du kích đánh địch rộng khắp đi đôi với triệt để làm vườn không nhà trống, phòng gian giữ bí mật, bảo vệ lực lượng dự trữ về người và của của kháng chiến. Các ngành cung cấp trong quân đội phải bảo vệ cơ sở vật chất quốc phòng đồng thời phải tìm mọi cách tự cấp tự túc, bảo đảm cho lực lượng vũ trang duy trì cuộc chiến đấu lâu dài. Ngành tham mưu phải cải thiện việc tình báo nắm địch và việc thông tin liên lạc, phải nghiên cứu chỉ đạo cách đánh của bộ đội, nhằm đạt hai yêu cầu: tiêu hao, tiêu diệt địch đi đôi với bảo vệ và phát triển lực lượng của ta. Cách đánh của ta cần nhằm vào chỗ yếu của địch trong cuộc hành binh này. Những chỗ yếu đó là gì? Là địa hình rừng núi hiểm trở, khiến chúng vận động khó khăn, lại dễ bị bao vây khi đóng quân, dễ bị phục kích ngang đường khi chuyển quân; là sự thiếu hụt quân số, binh lực bị phân tán, mà lực lượng càng bị dàn mỏng thì càng dễ bị tiêu diệt; là yêu cầu liên lạc, tiếp tế, tăng viện giữa phía sau và phía trước, giữa các cứ điểm, vị trí. Ta phải nhân những cuộc vận chuyển của địch trên các trục đường bộ và đường sông mà tổ chức những trận phục kích các đoàn quân địch cơ động…

Câu chuyện say sưa làm cho chặng đường Thành Cóc - Kim Lung như rút ngắn lại. Khuya ngày 9-10, đồng chí Tổng Bí thư đã về đến cơ quan Trung ương. Anh Thái được chứng kiến giây phút vui mừng khi anh Trường Chinh và anh Hoàng Quốc Việt ôm nhau, nghẹn ngào, xúc động.

Dù đã rất khuya, anh Thái vẫn cùng tiễn đội vệ binh trở về Yên Thông. Trên đường, anh suy nghĩ và nhớ lại những điều đã nghe anh Trường Chinh nói về phương hướng chỉ đạo làm đảo lộn thế cờ, giành lại chủ động trong thế bất ngờ bị động ban đầu. Như sau này anh Thái kể lại, “bài học trên đường” hôm đó là một trong những bài học sâu sắc khó quên trong suốt những năm dài chiến đấu sau này. Phong cách thư thái, bình tĩnh và cách đặt vấn đề, giải quyết vấn đề khúc chiết của đồng chí Tổng Bí thư để lại cho Tổng Tham mưu trưởng một ấn tượng sâu sắc. Dù trong lúc địch tỏ ra hung hăng, tiến quân ồ ạt, chúng vẫn không tránh khỏi bộc lộ những “chỗ yếu chí tử”. Người lãnh đạo, chỉ huy phải bình tĩnh tìm ra những nhược điểm của địch để khoét sâu, từ đó đảo lộn thế cờ, chuyển khó khăn thành thuận lợi, chuyển bại thành thắng.


(1) Năm 1979, khi kể lại với Ban tổng kết và viết sử Bộ Tổng tham mưu, anh Thái nhận thấy những điểm suy nghĩ ban đầu của Tổng Bí thư Trường Chinh chính là nội dung chủ yếu trong bản Chỉ thị ngày 15-10 của Thường vụ Trung ương gửi đến các địa phương về phương hướng đánh bại cuộc tiến công thu đông của địch.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Mười, 2012, 07:41:39 am
III

Ngày 13-10, khi chiến sĩ Nguyễn Danh Lộc đến trạm liên lạc của Bộ Tổng tham mưu ở Quán Vuông thì trời đã gần tối. Người mệt lả, anh chỉ kịp yêu cầu trạm trưởng gọi vào Bộ báo cáo rằng có một tài liệu rất quan trọng từ Cao Bằng gửi về cần được giao ngay cho Tổng Tham mưu trưởng. Sau đó anh ôm chặt túi tài liệu vào lòng và ngủ thiếp đi, không kịp húp bát cháo nóng mà đồng chí hỏa thực(1) của trạm bưng lên. Lộc vừa qua một chặng đường đi liên tục 4 ngày 3 đêm hầu như không nghỉ. Anh không hề biết nội dung tập tài liệu quan trọng như thế nào đối với cuộc chiến đấu nóng bỏng đang diễn ra. Chỉ biết sau khi chiếc máy bay JU-52 của quân Pháp bị hạ ở Cao Bằng, anh được giao nhiệm vụ mang tài liệu này về Bộ, “sớm giờ nào tốt giờ ấy”.

Được tin, anh Thái cử ngay thư ký ra trạm Quán Vuông. Nhận tài liệu xong, Nguyễn văn Ngạn lập tức quay trở về cơ quan sau khi dùng điện thoại báo cáo trước rằng đó là bản kế hoạch hành binh của quân Pháp lên Việt Bắc. Giờ đây, khi tập tài liệu quý giá đã được đặt lên bàn Tổng Tham mưu trưởng, một số cán bộ chủ trì của các phòng Tình báo và Tác chiến đã có mặt. Tổng Tham mưu trưởng thấy cần nghiên cứu và khai thác gấp nội dung bản tài liệu ngay trong đêm nay. Các anh vừa đọc, vừa dịch và ghi trên bản đồ, vừa trao đổi ý kiến. ý đồ hành quân của địch dần dần hiện rõ trên tấm bản đồ Việt Bắc trải rộng. Kế hoạch của địch gồm hai bước:

Bước 1: một cuộc hành quân mang mật danh “Lêa” ở vùng Chợ Đồn, Bắc Kạn, Chợ Mới.

- Ngày 7-10 - Binh đoàn Xôvanhắc (Sauvagnac) nhảy dù xuống Bắc Kạn, Chợ Mới; ngày 8 xuống Chợ Đồn và càn quét xung quanh; ngày 9 hai cánh quân ở Bắc Kạn - Chợ Đồn gặp nhau ở bản Pei (cách Bắc Kạn 20km trên hướng Bắc Kạn - Chợ Đồn).

- Ngày 10-10 - Binh đoàn Bôphrơ (Beaufre) từ Lạng Sơn lên chiếm Cao Bằng, rồi từ Cao Bằng tiến xuống Bắc Kạn - Chợ Đồn (dự kiến vào ngày 12), sau đó từ Chợ Đồn tiến ra Đài Thị vào ngày 13, hợp điểm với cánh quân hướng tây, tức Binh đoàn Commuynan (Communal) - theo hướng đường số 2 - sông Lô lên.

- Sau khi củng cố vị trí mới chiếm đóng ở Chợ Mới (dự kiến vào ngày 11), sẽ bắt đầu kế hoạch càn quét và tuần tiễn trên quốc lộ 3 và đường Chợ Mới - Phố Bình Gia.

Bước 2: Một cuộc hành quân mang mật danh “Clô-Clô”, chiếm Chợ Chu (dự kiến vào ngày 14), từ nhiều hướng: Bắc Kạn, Chợ Mới tiến về; nhảy dù trực tiếp xuống Chợ Chu (1 đại đội) và nhảy xuống phía nam Chợ Chu (khóa đường Chợ Chu - Phú Minh - Đại Từ - Thái Nguyên).

- Sau đó càn quét trong vùng, tùy theo tin tình báo.

Qua những nét phác thảo trên bản đồ, các anh nhận thấy: hướng tiến quân của địch trên phía các đường số 4 và số 3 đã rõ:

1. Chúng từ Lạng Sơn tiến lên Cao Bằng (kết hợp nhảy dù xuống thị xã Cao Bằng), rồi từ Cao Bằng tiến xuống Bắc Kạn (do quân dù đã chiếm mấy hôm trước, hình thành một gọng kìm lớn ở phía đông bắc;

2. Một cánh khác, theo đường số 2 hoặc dọc theo các sông Thao, sông Lô, sông Gâm, từ Việt Trì lên chiếm Tuyên Quang. Hướng tiến quân này không ghi rõ trong hai kế hoạch Lêa hoặc Clô-Clô, nhưng tin tức về địch tiến quân trên hướng Việt Trì (11-10), Đoan Hùng (12-10) và Tuyên Quang (13-10) cho phép khẳng định: một gọng kìm quan trọng mà điểm nút của nó là nơi hội quân với gọng kìm hướng đông từ Chợ Đồn sang hướng tây từ Tuyên Quang, Chiêm Hóa lên. Nút đó là Đài Thị, một làng sát ngay tả ngạn sông Gâm, đông bắc Chiêm Hóa chừng 10 kilômét đường chim bay. Lúc này tin tức cho biết địch mới đổ bộ lên thị xã Tuyên Quang. Như vậy là kế hoạch hợp điểm ở Đài Thị đã không thực hiện được đúng hẹn;

3. Việc càn quét và lùng sục tập trung vào vùng biên giới Bắc Kạn - Chợ Chu - Chợ Mới về phía đông bắc đường số 3, trên trục Chợ Mới - Phố Bình Gia;

4. Nhìn đại thể, gọng kìm hướng đông dài chừng 420 kilômét, gọng kìm hướng tây chừng 250 kilômét. Khu tứ giác Tuyên Quang - Đài Thị - Bắc Kạn - Thái Nguyên rộng chừng 3.600 kilômét vuông, trong đó trọng điểm càn quét lùng sục (Bắc Kạn - Chợ Chu - Chợ Mới) là một địa bàn có diện tích chừng 300 kilômét vuông. Lực lượng địch sẽ bị căng mỏng nếu phải rải ra một vùng rừng núi rộng như vậy;

5. Cơ quan lãnh đạo kháng chiến tập trung phía tây nam Chợ Chu, sát trung tâm càn quét của địch. Dù đã lui vào sâu, xa đường lớn, nhưng khó bảo đảm an toàn. Cần đề đạt hướng di chuyển ra ngoài trung tân càn quét của địch.

Dù đã khuya, anh Thái vẫn thấy cần báo cáo ngay với Tổng Chỉ huy. Sau khi cho người mang gấp tài liệu sang Văn phòng Bộ, anh dùng điện thoại báo cáo trước với anh Văn những điểu, mà tham mưu đã nghiên cứu và rút ra kết luận về bản kế hoạch của địch. Tổng Chỉ huy dặn anh sáng sớm hôm sau, 14-10, sang làm việc, mang theo kế hoạch đề nghị điều động và bố trí lực lượng, cả bộ đội tập trung và các đơn vị (đại đội) Vệ quốc đoàn dự kiến phân phối về các địa phương. Anh Văn cũng không quên nhắc Tổng Tham mưu trưởng đề nghị với bên Chính trị tặng thưởng huân chương cho đơn vị trợ chiến của Trung đoàn 74 về thành tích hạ chiếc JU.52 của địch và về ý thức thu lượm bản kế hoạch, kịp thời đưa về Bộ.

Đồng chí Tổng chỉ huy vui vẻ nói:

- Đây là chiếc huân chương đầu tiên trong thu đông này. Mong rằng sẽ còn nhiều huân chương khác nữa, từ nay đến khi chiến dịch kết thúc…


(1) Sau này ta gọi là “anh nuôi”.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Mười, 2012, 07:42:07 am
IV

Cuộc họp chỉ có ba người: Tổng Bí thư Trường Chinh, Tổng Chỉ huy Võ Nguyên Giáp và Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái. Các anh đánh giá lại toàn bộ tình hình làm cơ sở góp ý kiến vào bản dự thảo chỉ thị mà đồng chí Trường Chinh đã trình bày trước hội nghị Thường vụ chiều nay.

Nghiên cứu kế hoạch hành quân của địch, các anh nhận thấy chúng huy động một lực lượng lớn (chừng 1,5 - 2 vạn quân), gồm cả lực lượng bộ binh, cơ giới và công binh, pháo binh, máy bay cùng phương tiện vận tải trên sông. Ý đồ của địch đã rõ. Chúng triệt để lợi dụng ưu thế về phương tiện kỹ thuật, mạo hiểm đánh sâu và hậu phương kháng chiến, bất ngờ bao vây căn cứ địa, chộp bắt Chính phủ kháng chiến và tiêu diệt chủ lực ta, giành thắng lợi về quân sự, nhằm phục vụ cho mục tiêu chính trị, lập chính quyền tay sai trong cả nước.

Sau khi phân tích rõ chỗ mạnh, chỗ yếu của địch trong cuộc hành binh này, các anh nhất trí với bản dự thảo, đề đạt với Thường vụ những nhiệm vụ cụ thể sau đây nhằm đánh bại cuộc tiến công của địch:

- Động viên các chiến trường trong cả nước phối hợp với Việt Bắc, làm cho địch không còn lực lượng để đưa thêm lên Việt Bắc; phát động chiến tranh du kích rộng rãi, phối hợp giữa Vệ quốc đoàn với lực lượng vũ trang địa phương đánh địch, buộc chúng phải phân tán lực lượng đối phó khắp nơi. Phương châm tác chiến đề ra là đánh những trận tiêu diệt đi đôi với giữ gìn chủ lực để kháng chiến lâu dài.

- Triệt để làm vườn không nhà trống, phân tán nhà máy, kho tàng, bệnh viện, lui sâu vào xa đường cái, bảo vệ không cho địch phá hoại cướp cơ sở vật chất kháng chiến.

- Phá hoại triệt để các thị xã, thị trấn, các đường giao thông, chặt đứt đường liên lạc giữa các cứ điểm của địch và đánh mạnh trên các đường giao thông nhằm triệt đường tăng viện, tiếp tế của chúng từ miền xuôi lên.

- Ngành quân giới đẩy mạnh việc sản xuất rộng rãi các loại vũ khí thô sơ để trang bị phổ cập cho dân quân du kích, theo phương châm động viên toàn dân - vũ trang toàn dân. Các ngành cung cấp quốc phòng (quân nhu - quân giới - quân y) đều phải tiến tới chỗ “Việt hóa”, gắng tìm vật liệu trong nước mà chế tạo nhằm đáp ứng nhu cầu quốc phòng trong mọi tình huống.

- Củng cố căn cứ địa về mọi mặt hành chính, dân vận, quân sự, kinh tế, giao thông liên lạc, bảo đảm sự liên hệ mật thiết giữa các căn cứ địa trong toàn quốc, giữa Việt Bắc với miền xuôi.

- Quân sự hóa các cơ quan trong bộ máy kháng chiến theo phương châm gọn, nhẹ, cơ động; phòng gian giữ bí mật, phong tỏa tin tức, tăng cường việc canh gác bảo vệ các cơ quan trọng yếu…

Đồng chí Tổng chỉ huy báo cáo với đồng chí Tổng Bí thư dự kiến đề đạt với Thường vụ về ý định tổ chức thành ba mặt trận (đường số 4, đường số 3 và sông Lô - đường số 2). Các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Thái và Trần Tử Bình sẽ phân công xuống các mặt trận này để trực tiếp chỉ huy dưới sự chỉ đạo chung của Thường vụ và Tổng Quân ủy. Bộ Tổng tham mưu sẽ cử các phái viên đi các khu ở Việt Bắc và đồng bằng, Khu 4 để đôn đốc việc tác chiến phối hợp theo kế hoạch chung. Về bố trí lực lượng, anh Văn cho biết sẽ ra lệnh điều chỉnh bộ đội Vệ quốc đoàn thành hai lực lượng: đại đội độc lập - tiểu đoàn tập trung. Chủ trương này đã được Bác và Thường vụ nhất trí sau khi anh Văn đi Nhã Nam về hồi đầu tháng nhưng chưa kịp thực hiện. Trước mắt, triển khai thí điểm ở Việt Bắc để lấy kinh nghiệm chỉ đạo các chiến trường khác. Cụ thể là, trong các khu 1, 10 và 12 sẽ rút ra khoảng 30 đại đội độc lập, có khả năng độc lập tác chiến, phân tán về hỗ trợ du kích tại các huyện; 18 tiểu đoàn tập trung hoạt động chủ yếu trên các hướng trong địa bàn ba mặt trận nói trên.

Về hướng cơ động của cơ quan lãnh đạo kháng chiến, các anh nhất trí đề đạt với Thường vụ, khi cần sẽ di chuyển lên phía bắc, giữa khu tam giác Chợ Chu - Yên Sơn và Chiêm Hóa, một bộ phận sang hướng Tràng Xá, Võ Nhai, để tránh các mũi hành quân lùng sục của địch. Thời điểm di chuyển sẽ căn cứ vào diễn biến của chiến sự.

Kết thúc cuộc họp, như vừa tự chỉ trích, như vừa rút kinh nghiệm với các đồng chí lãnh đạo quân sự, đồng chí Tổng Bí thư nói, đại ý:

- Trong việc chuẩn bị chiến dịch thu đông này, chúng ta chủ quan, đánh giá thấp kẻ địch, không phán đoán đúng mưu mô của chúng hoặc phán đoán không đến nơi. Chính vì vậy địch lợi dụng triệt để ưu thế và trang bị kỹ thuật của chúng để đánh mạnh vào nhược điểm của ta là chủ quan sơ hở. Rõ ràng cuộc tiến công của địch lần này và những thất bại đầu tiên của ta ở Bắc Kạn, Cao Bằng, Chợ Đồn, Tuyên Quang, sẽ giúp cho cán bộ ta thấy rõ bệnh chủ quan cho rằng địch không dám tiến công táo bạo, rằng chúng chưa dám đánh Việt Bắc, không dám nhảy dù hay đổ bộ xa căn cứ. Bài học đối với cán bộ chúng ta là không sợ địch nhưng không khinh địch. Sắp tới, chiến tranh sẽ gay go, quyết liệt hơn. Chúng ta phải vừa đánh, vừa học, kể cả học cái hay của địch để sửa chữa sai lầm của ta, phát triển những ưu điểm của ta, lợi dụng triệt để những nhược điểm và sai lầm của địch, nhằm trúng chỗ yếu của chúng mà đánh, mà chuyển bại thành thắng, chuyển bị động thành chủ động, làm cho địch thiệt hại nặng, buộc chúng phải kết thúc cuộc hành binh này mà không đạt kết quả mong muốn.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Mười, 2012, 07:42:33 am
Trước khi chia tay, anh Văn dặn anh Thái cần làm cho cán bộ quán triệt chủ trương tổ chức ba mặt trận và cách đánh của hai lực lượng tại chỗ (đại đội độc lập và dân quân du kích) và lực lượng cơ động (tiểu đoàn tập trung), quán triệt tầm quan trọng của việc giúp đỡ lực lượng vũ trang địa phương…

Trên đường trở về cơ quan (khi đó đã lùi sâu vào bản Piềng, sát chân Núi Hồng hơn trước), Tổng Tham mưu trưởng suy nghĩ nhiều về mấy trận đầu đánh địch vừa qua. Bộ đội đã không thực hiện được nhiệm vụ tập kích vào Chợ Chu theo mệnh lệnh của Bộ. Tổ chức biên chế nặng nề, trang bị kém, hành quân chậm, tổ chức chiến đấu thiếu khẩn trương, tất cả đều không phù hợp với yêu cầu đánh một kẻ địch trang bị mạnh hơn, có phương tiện cơ động nhanh hơn. Làm thế nào để hạn chế chỗ mạnh của địch, khắc phục chỗ yếu của ta? Chỗ dựa của bộ đội là gì? Là nhân dân, là địa hình rừng núi, là kinh nghiệm đánh du kích ở căn cứ địa Việt Bắc những ngày tiền khởi nghĩa, vận dụng vào điều kiện quân đội đông hơn, trang bị khá hơn so với năm 1945… Anh Thái nhớ lại: đồng chí Tổng Bí thư có nêu ra mấy yêu cầu là: phải cắt đứt đường liên lạc tiếp tế của địch; phải cô lập chúng trong các vị trí như trong những đảo nhỏ cô lập giữa biến cả; bảo vệ cơ sở vật chất của kháng chiến. Tất cả chỉ có thể thực hiện được nếu phát huy vai trò của lực lượng đại đội độc lập trong từng địa phương, của tiểu đoàn tập trung trên từng địa bàn, từng mặt trận.

Số cán bộ mà anh Thái điện trước về triệu tập họp đã có mặt ở Phòng Tác chiến. Số lượng không đông lắm, vì thành phần tập trung vào mấy phòng liên quan đến việc giúp trên chỉ đạo tác chiến. Ngoài Tham mưu chủ nhiệm Trần Văn Lư, Phòng Tình báo có các anh Lê Thủy Thọ, Bùi Huy Bê; Phòng Tác chiến có các anh Đào Văn Trường, Bùi Văn Phú (Tuấn Kiệt), Nguyễn Bình Chuẩn, Đặng Văn Việt, Hồ Quang Hóa, Nghiêm Xuân Hiếu…

Vấn đề mà Tổng Tham mưu trưởng đặt ra để mọi suy nghĩ và thảo luận là đánh giá tình hình địch và đề đạt cách đánh cụ thể.

Có ý kiến cho rằng địch đánh lên Việt Bắc, chiếm Bắc Kạn như một mũi dao cắm vào lưng ta. Ngược lại cũng có người cho rằng đó chỉ là một cái gai nhọn, nó không giết được ta, nhưng làm cho ta nhức nhối. Địch buộc phải rút quân ra đóng đòn, vị trí nó cách vị trí kia hàng chục kilômét. Lực lượng đồn trú và lực lượng tung đi càn quét đều mỏng. Địch muốn càn quét, nhưng khả năng lực lượng huy động cho mỗi hướng, mỗi mũi là bao nhiêu? Mỗi ngày đi được bao nhiêu kilômét, với vai vác nặng, hành quân bộ, đường dốc? Chúng có thể thọc sâu vào phía trong đường cái bao xa, trong điều kiện rừng núi, khó tìm ra đường sá trên bản đồ, khó phát huy được hỏa lực yểm trợ, lại rất dễ bị phục kích, đánh lén, bắn tỉa, nếu ta khéo tổ chức. Mũi tiến quân không mạnh, thọc không sâu thì sao gọi là mũi dao đâm vào sau lưng căn cứ địa kháng chiến được?...

Tổng Tham mưu trưởng nhắc lại những vấn đề đã từng trao đổi và nhất trí, nói rằng địch chủ quan, mạo hiểm, rằng chúng ỷ lại vào binh khí kỹ thuật, rằng chúng sớm bộc lộ những nhược điểm mà ta cần và có thể khoét sâu để đánh bại chúng, v.v. Nhưng vấn đề đặt ra là chọn cách đánh thế nào, vận dụng nguyên tắc bố trí binh lực với hai lực lượng cơ động và tại chỗ như thế nào?

Có ý kiến cho rằng chỉ cần đánh mạnh trên hai hướng sông Lô và đường số 4, tức là đánh vào gốc, khiến cho hướng Bắc Kạn (ngọn) không phải đánh, địch cũng buộc phải rút. Thậm chí phải làm sao chi địch không rút vội khỏi Chợ Đồn, Chợ Rã, Bắc Kạn… khiến chúng phải giam chân ở đó một phần lực lượng, chúng phải huy động phương tiện tiếp tế vận tải lớn, làm cho binh lực địch càng phân tán, dàn mỏng, mà ta thì có thêm điều kiện phục kích khi chúng cơ động trên đường. Ngược lại, cũng có ý kiến nên dồn sức đánh mấy đòn vang dội ở vùng Bắc Kạn và lân cận. Phải nhổ Bắc Kạn - “cái gai” địch cắm vào lưng ta.

Tổng Tham mưu trưởng nói lại quyết tâm sử dụng binh lực và nguyên tắc tác chiến mà các đồng chí lãnh đạo đã bàn. Làm thế nào phát huy hết tác dụng của 30 đại đội được phân phối về các huyện thuộc mấy tỉnh trọng điểm của Việt Bắc (Thái Nguyên, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Cao Bằng, Lạng Sơn), với nhiệm vụ dìu dắt lực lượng vũ trang địa phương chiến đấu, bảo vệ làng bản, phát động chiến tranh du kích rộng khắp. Các đại đội này sẽ dựa vào dân mà chiến đấu cho đến khi lực lượng vũ trang địa phương đã trưởng thành và chiến tranh du kích tại chỗ đã phát triển. Làm thế nào tìm ra cách đánh tốt, nhằm phát huy hết sức mạnh của 18 tiểu đoàn tập trung sẽ hoạt động trên các mặt trận sắp hình thành? Quy mô tác chiến phổ biến lúc này là tiểu đoàn. Với điều kiện tổ chức, trang bị và chỉ huy của ta hiện nay, quy mô đó là phù hợp. Phải làm sao thực hiện được chỉ thị của Bác Hồ: bẻ gãy gọng kìm của địch, làm cho chúng không thể nối liền hướng đường số 4 với hướng Sông Lô và bọn địch trên đường số 3 không đủ sức lùng sục sâu vào khu trung tâm căn cứ của ta.

Để sớm có kinh nghiệm về đại đội độc lập, Tổng Tham mưu trưởng giao cho anh Nguyễn Bình Chuẩn lên Bắc Sơn, nắm một đại đội độc lập, giúp đỡ phong trào du kích tại địa phương. Nhiệm vụ cụ thể là tổ chức cho dân quân du kích, cho nhân dân địa phương đánh địch rộng rãi, bảo vệ và xây dựng làng bản về các mặt, làm bàn đạp phát triển trên hướng Bình Gia. Anh Thái nhấn mạnh: điều quan trọng là phải kịp thời báo cáo kinh nghiệm về Bộ để nghiên cứu chỉ đạo hoạt động của đại đội độc lập ở các địa phương khác.

Anh Bình Chuẩn phấn khởi chuẩn bị lên đường. Sau này kể lại, anh chưa quên những suy nghĩ riêng tư của một cán bộ cơ quan được thỏa mãn nguyên vọng là ra đơn vị, xuống địa phương đúng lúc chiến sự đang sôi động. Anh cũng thấy sự tin cậy của cấp trên trao cho anh nhiệm vụ thử nghiệm một chủ trương có ý nghĩa chiến lược; quan hệ đến cả xây dựng và tác chiến, chủ lực và địa phương, quân sự và các mặt khác của cuộc kháng chiến trong địa bàn một huyện.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Mười, 2012, 07:42:53 am
Ngày 15-10, nhiều vấn đề được khẳng định trong huấn lệnh của Bộ Tổng chỉ huy: nguyên tắc bố trí lực lượng, nhiệm vụ tác chiến, cách đánh chiến dịch… Huấn lệnh quy định đại đội độc lập là đơn vị bố trí ở từng địa phương (châu, huyện) có nhiệm vụ dìu dắt và phối hợp với dân quân du kích trong địa phương và lực lượng vũ trang địa bàn bên cạnh, quấy rối, tiêu hao, tiêu diệt từng bộ phận nhỏ của địch; đôn đốc và tham gia việc phá hoại nhà cửa kiên cố, đường sá, tiến hành vũ trang tuyên truyền, phối hợp và giúp đỡ bộ đội chủ lực lưu động (tiểu đoàn tập trung) đánh những trận lớn. Bản huấn lệnh nhấn mạnh tầm quan trọng của hai nhiệm vụ được nêu lên trong mệnh lệnh ngày 4-10 là giúp đỡ dân quân du kích và triệt để phá hoại. Tiểu đoàn tập trung là đơn vị chủ lực, bố trí ở những nơi cơ động hoặc gần đường giao thông quan trọng, hoạt động tập trung trong từng khu vực, từng mặt trận, có nhiệm vụ phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương (đại đội độc lập và dân quân du kích) tiêu diệt quân địch trong vị trí hay quân địch cơ động trên các đường giao thông thủy bộ.

Riêng đối với bộ đội Khu 1, do tầm quan trọng của địa bàn trung tâm đang có chiến sự sôi động, mệnh lệnh ngày 16-10 của Bộ đã chỉ rõ những khu vực phải triển khai 2 lực lượng cơ động và tại chỗ của các trung đoàn:

Trung đoàn 121. Tiểu đoàn tập trung hoạt động từ Thái Nguyên đến Phúc Yên; một đại đội độc lập ở Đông Anh, Đa Phúc; một đại đội ở Kim Anh, Yên Lãng; năm đại đội ở năm huyện Phú Bình, Võ Nhai, Chợ Chu, Đại Từ, Đồng Hỷ.

Trung đoàn 72. Tiểu đoàn tập trung hoạt động từ Bắc Kạn, Nguyên Bình đến Cao Bằng. Năm đại đội độc lập trên năm huyện Chợ Rã, Chợ Đồn, Ngân Sơn, Nà Rì, Phủ Thông.

Trung đoàn 74. Tiểu đoàn tập trung hoạt động từ Cao Bằng đến Đông Khê. Năm đại đội độc lập hoạt động trên năm huyện Nguyên Bình, Sóc Giang, Hòa An, Quảng Uyên, Phục Hòa.

Cũng trong những ngày 15 - 16-10-1947, việc phân chia thành ba mặt trận được Bộ quyết định:

Hướng sông Lô - đường số 2 do đồng chí Trần Từ Bình, Tổng Thanh tra quân đội, phụ trách. Nhiệm vụ của mặt trận này làm đánh địch hành quân trên bộ và trên sông, ngăn chặn việc tiếp tế tăng viện của địch, tiến tới bẻ gãy gọng kìm phía tây.

Hướng đường số 3 do đồng chí Hoàng Văn Thái phụ trách. Nhiệm vụ của mặt trận Bắc Kạn - Đường số 3 là tiêu hao, tiêu diệt quân địch cơ động trên đường Cao Bằng - Bắc Kạn và giữa các vị trí xung quanh Bắc Kạn, đồng thời bảo đảm an toàn cho các cơ quan lãnh đạo trong khu vực trung tâm căn cứ địa.

Hướng đường số 4 do đồng chí Võ Nguyên Giáp trực tiếp theo dõi và chỉ đạo. Nhiệm vụ đề ra cho mặt trận Cao Bằng - đường số 4 là tiêu hao, tiêu diệt địch cơ động trên đường số 4, ngăn chặn việc tiếp tế tăng viện của chúng từ Lạng Sơn đến Cao Bằng, hạn chế sức mạnh cơ giới của địch trên gọng kìm phía đông.

Cùng tham gia bộ máy chỉ đạo, chỉ huy các mặt trận có các đồng chí Tạ Xuân Thu (hướng Tuyên Quang), Lý Thủy Thọ (hướng đường số 3), Đào Văn Trường, Đặng Văn Việt (hướng đường số 4). Một số phái viên tham mưu được thường xuyên cử xuống các mặt trận này, giúp cho sự chỉ đạo, chỉ huy của Bộ được sát hơn trong điều kiện phương tiện thông tin hạn chế, đồng thời giúp cho các cấp chỉ huy trung đoàn, tiểu đoàn thực hiện chủ trương tác chiến của Bộ. Với các phái viên, đây còn là một dịp tự bồi dưỡng và nâng cao trình độ trong thực tế chiến đấu và công tác.

Các phái viên được phân công xuống các khu đồng bằng và vào Khu 4 cũng khẩn trương chuẩn bị lên đường.

Số cán bộ còn lại của Bộ Tổng tham mưu được chia làm hai bộ phận: A và B. Bộ phận A gọn nhẹ, sẵn sàng cùng bộ phận nhẹ của Bộ Tổng chỉ huy di chuyển sang phía đông đường số 3, vùng Tràng Xá. Bộ phận B, gồm phần lớn các bộ phận còn lại của Bộ Tổng tham mưu, cùng với Văn phòng Bộ Tổng chỉ huy ở lại vùng từ Bảo Biên, bản Cái, bản Mù, bản Piềng (sát chân Núi Hồng). Cục Chính trị ở vùng Khao Ry. Bộ phận B do Tham mưu chủ nhiệm Trần Văn Lư và Cục trưởng Cục Chính trị Văn Tiến Dụng phụ trách, lấy mật danh là C.101, có nhiệm vụ tổ chức trạm thông tin liên lạc và đón tiếp cán bộ các nơi về làm việc với Bộ (trạm liên lạc đặt ở yên Thông); giữ liên lạc thường xuyên, thông báo và báo cáo tin tức nhận được của bộ phận A và các mặt trận, nhằm phục vụ cho sự chỉ đạo, chỉ huy chiến trường toàn quốc. Ngoài ra còn có tác dụng nghi binh, đánh lạc hướng địch (làm cho chúng tin rằng cơ quan chỉ huy tối cao vẫn còn ở phía tây đường số 3).

Địch đã chiếm đóng ba điểm trong tam giác Bắc Kạn - Chợ Đồn - Chợ Mới. Chợ Mới là một vị trí địch chiếm ngay từ đầu, chỉ cách khu vực cơ quan Bộ Tổng chỉ huy chừng ba chục kilômét đường chim bay. Anh Thái nhấn mạnh với bộ phận ở lại: cần đề phòng bọn gián điệp đánh hơi thấy một bộ phận cơ quan lãnh đạo kháng chiến còn ở trong khu vực từ tây nam Chợ Chu đến chân Núi Hồng, là khu vực sát ngay vùng trung tâm càn quét đã được ghi trong kế hoạch hành binh của địch. Yêu cầu đặt ra với anh Trần Văn Lư là thường xuyên liên lạc với anh Văn Tiến Dũng ở Khao Ry, để cùng Cục Chính trị tổ chức phòng tránh, sẵn sàng chiến đấu và di chuyển, nhằm bảo vệ bộ phận B được an toàn khi địch càn quét, lùng sục.

Hai ngày 16 và 17 không khí trong cơ quan thật nhộn nhịp. Các phái viên và bộ phận A chuẩn bị lên đường. Bộ phận còn lại cũng thu xếp chuyển sâu vào phía sát chân Núi Hồng. Những cái bắt tay, những câu chúc tụng, những lời hứa hẹn hoàn thành nhiệm vụ… Ai cũng biết rằng cơ quan đang cùng toàn quân bước vào một cuộc thử thách lớn, với quyết tâm đánh bại cuộc hành binh mùa khô của địch.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Mười, 2012, 07:43:42 am
V

Theo kế hoạch Clô-Clô, đáng lẽ địch đã nhảy dù xuống Chợ Chu từ ngày 14 để bắt đầu cuộc càn quét. Nhưng phải chăng vì hai gọng kìm chưa hội quân được ở Đài Thị theo đúng kế hoạch (13-10) nên việc đánh chiếm Chợ Chu chưa xảy ra? Tổng Tham mưu trưởng quyết định cứ chủ động di chuyển cơ quan tham mưu sang phía đông đường số 3. Khi quân ta đánh mạnh trên các hướng thì địch cũng có thể đối phó hòng hạn chế hoạt động của ta. Cuộc càn quét từ vùng tây nam Chợ Chu vào phía chân Núi Hồng có thể xảy ra bất cứ lúc nào.

Việc di chuyển cơ quan phải tiến hành hết sức bí mật. Chào hỏi chia tay với đồng bào địa phương, anh em hẹn đi chiến đấu, ít ngày sẽ trở về. Tình cảm quân dân lưu luyến sau nửa năm trú quân trong sự đùm bọc giúp đỡ của đồng bào xã Yên Thông thể hiện trên nét mặt của từng người. Anh em dặn dò bà con nên tạm lánh sâu vào phía núi, đề phòng địch bất có thể bất thình lình hành quân qua.

Bộ phận A rời khu vực bản Piềng - Yên Thông lên đường sang Tràng Xá chiều 20-10. Qua Quán Ông Già, rẽ vào Kê Tâm thì trời vừa tối. Đó là thời cơ vượt đường số 3 đi về hướng Võ Nhai, dưới sự hướng dẫn của bộ phận tiền trạm. Tháng chín âm lịch, ánh sáng đầu tuần trăng không đủ soi cho cuộc hành quân đường rừng. Có lệnh cấm dùng đèn pin hoặc đuốc. Đã qua nửa năm không hành quân đường dài, nhất là hành quân đêm, nhưng do quán triệt yêu cầu của nhiệm vụ, lại được sự chuẩn bị đón trên mỗi chặng đường của bộ phận tiền trạm do anh La Tuynh phụ trách khá chu đáo nên mỗi chặng đều đi đúng thời gian quy định. Vất vả nhất vẫn là bộ phận quản lý của anh Nguyễn Văn Trang. Bắt đầu từ Kê Tâm rẽ vào là đường rừng hẹp, dốc, trời tối, ngựa thồ rất dễ bị thụt lầy. Mỗi lần như vậy là một lần phải bốc hàng xuống, kéo ngựa ra khỏi bãi lầy. Chính vì vậy mà bộ phận này phải mất hơn hai ngày mới đến Nà Chế.

Việc ổn định nơi ở và làm việc ở địa điểm mới diễn ra rất khẩn trương. Từng bộ phận phân công nhau đi vừa dựng lán, vừa tiếp tục nắm tình hình chiến sự, bảo đảm thông tin liên lạc, chuyển đạt mệnh lệnh và thông báo tình hình cho các đơn vị, địa phương. Dù biết rằng chỉ tạm dừng ở bên này một thời gian, nhưng nhiều phòng vẫn cố gắng tạo cho mình một nơi ở và làm việc khá tươm tất.

Một buổi tối cuối tháng 10, khi các bộ phận đã tạm ổn định nơi ăn chống ở và làm việc, Tổng Tham mưu trưởng triệu tập cuộc họp mặt toàn thể cán bộ Bộ phận A. Anh Thái vừa ở hướng Bắc Kạn về. Mọi người tập trung trong một hang đá ven rừng Tràng Xá, xung quanh một chiếc bàn nhỏ trên có đặt chiếc đèn dầu hỏa. Không khí trong hang lạnh giá, mặc dù thời tiết mới chớm đông.

Mở đầu cuộc họp, anh Thái tóm tắt tình hình chiến sự hai tuần qua. Hai gọng kìm của địch ôm lấy trung tâm Việt Bắc sau khi quân dù nhảy xuống chiếm Bắc Kạn, Chợ Mới, Chợ Đồn. Do những thiếu sót về tổ chức chỉ huy và chuyển quân, nắm địch, nên bộ đội đã lỡ thời cơ tiến công địch ở Chợ Mới trước khi chúng kịp củng cố vị trí mới chiếm được. Hiện nay, quân ta đã được điều động lên các hướng, hình thành ba mặt trận đường số 4, đường số 3 và sông Lô - đường số 2, với nhiệm vụ chủ yếu là đánh địch vận động trên bộ và trên sông, tiêu hao tiêu diệt lực lượng địch đi đôi với ngăn chặn việc tiếp tế của chúng. Các trận đánh ở km 7 đường số 2 (Tuyên Quang - Hà Giang) ngày 22-10, trận phục kích tàu địch ở Đoan Hùng ngày 24-10 là những trận đánh hiệu suất cao, mở đầu cho cách đánh này. Các đại đội độc lập đã được đưa về nhiều huyện trọng điểm của Việt Bắc để hỗ trợ phong trào chiến tranh du kích. Trải qua hai tuần, các đại đội đã làm quen với địa bàn hoạt động. Được nhân dân ủng hộ và giúp đỡ, anh em đã nắm vững tình hình địa phương, nắm vững địa hình trong khu vực được phân công, đó là những điều kiện quan trọng hàng đầu để các đại đội độc lập hoàn thành nhiệm vụ bám trụ địa phương, cùng nhân dân đánh địch. Sau đó, anh Thái thông báo những tin tức của các phái viên tham mưu xuống các địa phương, đơn vị. Báo cáo của các phái viên chưa nhiều, nhưng một vài báo cáo đầu tiên cho thấy anh em phái viên đã nắm tình hình khá vững và giúp Bộ thấy được nhiều vấn đề cần giải quyết trong chỉ đạo, chỉ huy. Về tình hình và nhiệm vụ của bộ phận A ở Tràng Xá, trước hết Tổng Tham mưu trưởng biểu dương kết quả cuộc di chuyển khẩn trương, vượt đường số 3 an toàn. Trong điều kiện vừa ổn định nơi làm việc, anh em bộ phận A đã bước đầu giúp trên nắm được tình hình chung trên nhiều hướng trong cả nước, đồng thời sẵn sàng chiến đấu bảo vệ cơ quan, trong điều kiện sinh hoạt thiếu thốn sau khi chuyển sang đây. Anh Thái động viên mọi người đoàn kết, củng nhau vượt qua mọi khó khăn ban đầu, nắm vững thông tin chỉ huy, nắm vững tình hình bộ đội, kịp thời nghiên cứu và đề xuất những ý kiến cân thiết phục vụ cho việc chỉ đạo, chỉ huy. Cuộc tiến công thu đông của địch là một thử thách đối với nhân dân và quân đội ta, trong đó có Bộ Tổng tham mưu. Chính qua cuộc thử thách đó mà mỗi người chúng ta trưởng thành lên một bước, cả về tinh thần, tư tưởng và trình độ nghiệp vụ…

Đúng lúc đó, đồng chí Tổng Chỉ huy cùng một số cán bộ từ ngoài đi vào, trước sự ngỡ ngàng của mọi người. Không mấy ai biết các anh mới ở Bình Ca về. Đó là nơi anh và một số cán bộ tham mưu đặt cơ quan chỉ huy theo dõi và chỉ đạo mặt trận đường số 4. Hôm nay, y hẹn với Tổng Tham mưu trưởng, anh đến thăm cơ quan Bộ Tổng tham mưu.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Mười, 2012, 07:44:30 am
Bằng giọng ấm áp, anh Văn phân tích ba mục đích chiến lược của cuộc hành binh lên Việt Bắc của địch, và triển vọng của hành binh đó.

Từ đầu tháng 3-1947, khi chúng ta đang trên đường di chuyển lên Việt Bắc, địch đã có ý định chộp bắt cơ quan lãnh đạo kháng chiến ngay phía tây sông Đáy, chỉ cách Hà Nội vài chục kilômét. Địa hình đồng bằng, địch lại có máy bay cơ giới, chúng hy vọng tóm gọn cơ quan đầu não kháng chiến. Hồi đó, lực lượng của ta, kể cả lực lượng bảo vệ cơ quan Trung ương, chưa nhiều, chưa mạnh. Nhưng dựa vào sự che chở của dân, do tổ chức phòng gian, giữ bí mật tốt, do biết cơ động gọn nhẹ, chúng ta đã làm thất bại ý định trên đây của địch. Bằng cuộc hành binh thu đông này, với quân đông, phương tiện nhiều, chúng hy vọng đạt được mục tiêu thứ nhất của cuộc tiến công là bắt gọn cơ quan lãnh đạo kháng chiến, tạo điều kiện kết thúc nhanh chóng cuộc chiến tranh. Nhưng tình hình đã khác. Sự trưởng thành về nhiều mặt của bộ đội ta sau 10 tháng thử thách vừa qua, sự đùm bọc của đồng bào các dân tộc Việt Bắc vốn có truyền thống cách mạng, địa hình hiểm trở của núi rừng… Tất cả tạo thành những yếu tố thất bại trong mục tiêu đầu tiên của địch trong cuộc hành quân này. Thứ đến là địch hy vọng đối mặt hòng tiêu diệt bộ đội chủ lực của ta, một đối thủ mà chúng đã không tiêu diệt được sau mấy tháng chiến đấu trong thành phố và suốt mùa hè vừa qua khi chúng đánh rộng ra vùng đồng bằng. Trong thời gian đó, không những chủ lực ta đã thực hiện thành công phương châm tác chiến của Trung ương là diệt địch đi đôi với bảo vệ mình mà chúng ta còn nhanh chóng xây dựng bộ đội chủ lực trưởng thành về nhiều mặt trong suốt mấy tháng hè thu. Mặc dù vậy, trong mùa khô này, các trung đoàn chủ lực của ta sẽ không trực tiếp đối mặt với các mũi tấn công mạnh của cơ giới địch. Điều kiện trang bị và trình độ tổ chức chỉ huy chiến đấu của cán bộ, kinh nghiệm tác chiến của bộ đội, không cho phép ta làm như vậy, không cho phép dùng lực lượng lớn, dàn thành tuyến, be bờ ngăn chặn địch. Chúng ta dùng lực lượng vừa phải, các tiểu đoàn tập trung, bí mật bất ngờ, dựa vào địa hình rừng núi, lấy cách đánh phục kích quân địch cơ động ngoài trời là chủ yếu, để tiêu diệt từng cánh quân nhỏ của địch. Bằng cách đánh này, chủ lực của ta không những không bị địch tiêu diệt mà bằng kết quả của từng trận đánh vừa và nhỏ, quân ta sẽ làm suy yếu, tiến tới bẻ gãy từng gọng kìm của địch, góp phần quyết định làm thất bại cuộc hành binh mạo hiểm của chúng. Phải nhận rằng, do lợi dụng được sơ hở của ta, quân địch đã đạt được một phần trong mục tiêu thứ ba của cuộc hành binh là phá cơ sở vật chất của ta trong căn cứ địa. Một số kho tàng, cơ sở sản xuất ở vùng Bắc Kạn, Chợ Đồn, Chợ Mới, vùng bản Thi, Đầm Hồng, do chưa kịp phân tán, đã bị tổn thất. Ở những nơi đó, khi địch đến, ta bị bất ngờ, không có lực lượng sẵn sàng đánh địch vì không dự kiến và đề phòng chúng có thể tiến vào sâu như vậy. Đó là một trong những bài học quan trọng đầu tiên mà cơ quan chỉ huy chúng ta phải rút ra trong chiến dịch thu đông này. Những ngày thử thách đầu tiên đã qua. Lực lượng của ta đã được điều chỉnh và bố trí lại. Các mặt trận đã hình thành. Chúng ta đã tìm được cách đánh và quy mô tác chiến thích hợp. Qua mấy trận đầu tiên, cách đánh đó đã bắt đầu phát huy sức mạnh của lực lượng cơ động, của các tiểu đoàn tập trung. Địch đã thất bại trong ý đồ hợp điểm ở Đài Thị vào ngày 13-10. Đó là thất bại đầu tiên, nói lên tính mạo hiểm của kế hoạch hành binh. Rồi đây, chỉ một thời gian ngắn nữa, cục diện chiến trường sẽ chuyển biến và có thể chuyển biến nhanh nếu các tiểu đoàn tập trung phát huy mạnh mẽ sức chiến đấu của mình, nếu các đại đội độc lập hoạt động có hiệu quả, phong trào chiến tranh du kích được đẩy lên đều tay, rộng khắp…

Cuối cùng, anh Văn động viên mọi người bình tĩnh, thận trọng, nắm vững tình hình, đồng thời suy nghĩ, đề đạt biện pháp chỉ đạo làm sao cho bộ đội đánh tốt, tiêu hao tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Mọi người phải sẵn sàng kiêm nhiệm được công việc của nhau để sẵn sàng thay thế khi có người được cử xuống đơn vị, ra mặt trận. Như vậy, công việc của cơ quan chỉ huy phía sau mới không bị ảnh hưởng. Trước mắt, rõ ràng là còn không ít khó khăn. Nhưng rồi các đồng chí sẽ thấy, chỉ trong một vài tháng nữa, tình hình sẽ thay đổi, thậm chí có thể thay đổi mau lẹ. Chúng ta dám nói như vậy, vì địch có rất ít nhân tố để giành được thắng lợi trong cuộc hành binh này.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Mười Một, 2012, 05:48:55 pm
VI

Đến cuối tháng 10, guồng máy của bộ phận A đã hoạt động bình thường nhưng khẩn trương theo nhịp độ sôi động của chiến trường. Sự liên lạc hằng ngày với bộ phận B cũng như với ba mặt trận đã dần dần đều đặn. Các phái viện mặt trận đã lần lượt gửi báo cáo hoặc “thư công tác” về cơ quan. Nhờ đó, các phòng nghiệp vụ nắm được tình hình khá chặt.

Để phát huy vai trò nghi binh, bộ phận B (C.101) vẫn nhận tin tức và chuyển thông báo chiến sự cho Đài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam (khi đó ở Kim Sơn). Trạm liên lạc ở Yên Thông vẫn là nơi đón tiếp cán bộ từ các nơi về làm việc với Bộ Tổng tham mưu. Trong khi đó, bộ phận A mới là cơ quan trung tâm chỉ đạo của Bộ Tổng chỉ huy đối với các đơn vị, các địa phương. Từ những ngày đi kiểm tra mặt trận đường số 4, đồng chí Võ Nguyên Giáp thường có mặt ở Tràng Xá để chỉ huy chung ba mặt trận và chiến trường toàn quốc. Đồng chí Hoàng Văn Thái dành nhiều thời gian đi thị sát mặt trận đường số 3.

Do nhiều phái viên tham mưu được cử đi các chiến trường chuyển báo cáo về nên công việc ở bộ phận A rất bận rộn và khẩn trương. Máy thông tin vô tuyến điện hạn chế, đường liên lạc quá xa, dây không đủ để triển khai đường điện thoại, cho nên cơ quan tác chiến và tình báo nắm tin tức các đơn vị Việt Bắc qua báo cáo của cấp chỉ huy đơn vị và thư công tác của các phái viên bằng đường liên lạc chạy chân là chủ yếu. Báo cáo và thư công tác qua trạm liên lạc C.101 ở Yên Thông rồi mới chuyển tiếp sang bộ phận A ở Tràng Xá (qua trạm liên lạc đặt ở Võ Nhai) nên thường chậm. Có ý kiến đề nghị cho liên lạc chạy thẳng đến trạm liên lạc của bộ phận A ở Võ Nhai. Đề nghị đó không được chấp nhận vì phải bảo đảm bí mật tuyệt đối cho bộ phận chỉ huy nhẹ của bộ ở phía trước. Trước yêu cầu bức thiết về máy vô tuyến điện, bộ phận kỹ thuật của Phòng Thông tin liên lạc đã cố điều chỉnh và chắp vá sửa chữa, bảo đảm cho mỗi mặt trận có một máy vô tuyến liên lạc thẳng về Bộ. Từ khoảng trung tuần tháng 11, các báo cáo của chỉ huy các khu và trung đoàn cũng như thư công tác của phái viên tham mưu (mà Bộ nhận được qua liên lạc chạy chân) chỉ nhằm phục vụ cho việc tổng hợp tình hình hằng tuần hơn là chỉ đạo tác chiến. Mặc dù vậy, rõ ràng là các phái viên đã phát huy vai trò của mình là cái cầu nối liền Bộ với các đơn vị, các mặt trận. Sự có mặt của các anh đã giúp cho các khu và nhất là trung đoàn yên tâm hơn trong việc thực hiện chủ trương tác chiến của Bộ. Ngược lại, chình nhờ có thư công tác và báo cáo của các anh mà cơ quan tham mưu ở phía sau nắm được cụ thể hơn tình hình địa phương, tình hình đơn vị và gợi ra nhiều việc bổ ích cho sự chỉ đạo của trên.

Trong các buổi giao ban hằng ngày, các đồng chí chủ trì các phòng nghiệp vụ đều có một suy nghĩ chung là là thế nào để tạo thêm điều kiện cho chiến trường đánh địch tốt hơn. Các mặt trận đã hình thành, với binh lực chừng 8 trung đoàn, kể cả lực lượng tập trung (các tiểu đoàn tập trung - lưu động) và tại chỗ (các đại đội độc lập tại chỗ). Lực lượng như vậy là không quá ít so với điều kiện của ta, nhưng trang bị còn quá kém. Mỗi tiểu đoàn trung bình có 150 súng trường với chừng 30 viên đạn mỗi khẩu, 1 - 2 đại liên, 5 - 7 trung liên, 1 - 2 súng cối 60mm. Số đơn vị được trang bị súng máy 13,2mm, 12,7mm và súng cối 81mm không nhiều. Toàn bộ pháo ta có đều dồn sang mặt trận sông Lô, gồm 5 khẩu, cả sơn pháo và cao pháo, cỡ từ 37 đến 75mm, với nhiệm vụ đánh địch hành quân trên sông. Đó là mấy khẩu pháo cũ, theo bộ đội từ các trận địa xung quanh Thủ đô ra. Mặc dù đã được tu sửa nhưng kỹ thuật vẫn còn là vấn đề khó khăn. Đi đôi với trang bị hạn chế là tình độ không đồng đều của bộ đội. Nhiều đơn vị mới thành lập, tuy đã trải huấn luyện mùa hè nhưng chưa qua chiến đấu. Cán bộ sơ cấp tuy đã được bổ sung (từ các khóa 2 và 3 của Trường võ bị Trần Quốc Tuấn), nhưng trình độ chung còn hạn chế, nhất là kinh nghiệm chiến đấu. Số đông cán bộ trung cấp chưa qua chỉ huy tác chiến tập trung quy mô tiểu đoàn.

Một mối lo khác, thường được nêu lên để giải quyết trong các buổi giao ban là phương tiện thông tin chỉ huy quá thiếu, không những giữa Bộ và chiến trường toàn quốc mà riêng với Việt Bắc cũng không đủ. Làm sao bảo đảm thông tin liên lạc đều đặn kịp thời như Tổng Chỉ huy đã chỉ thị? Ở khu B, thiết bị liên lạc với các chiến trường xa trong toàn quốc là một máy công suất 50w, đặt sâu ở chân Núi Hồng. Đài ở Tràng Xá chỉ đủ công suất liên lạc chỉ huy chiến trường miền Bắc, trước hết là Việt Bắc, với các đài nhỏ cơ động của ba mặt trận. Máy trục trặc là nỗi lo cho cả bộ phận kỹ thuật thông tin. Do công suất máy và thời gian lên máy có hạn nên những bức thư công tác của các phái viên tham mưu gửi về luôn là một nguồn vui cũng là nguồn cung cấp tình hình cho các phòng nghiệp vụ trong các buổi giao ban.

Thư công tác của các phái viên được cử xuống các địa phương nói nhiều về hoạt động của các đại đội độc lập ở Bắc Kạn, Cao Bằng, Lạng Sơn. Các anh không chỉ dùng bộ đội đánh địch mà còn tham gia sơ tán kho tàng công xưởng, giúp chính quyền và đoàn thể từ tỉnh đến xã làm công tác động viên nhân dân tham gia mọi công tác khác như phá hoại, “tiêu thổ kháng chiến”, làm vườn không nhà trống, tiễu phỉ trừ gian, duy trì an ninh trật tự. Các anh giúp địa phương tổ chức cho bộ đội và dân quân du kích gặt hái và cất giấu thóc lúa, trâu bò, nông cụ. Nơi nào chưa có địch thì công tác huấn luyện cho đại đội độc lập cũng như dân quân du kích được triển khai khẩn trương. Những bức thư công tác và báo cáo ít nhiều đã nói lên kinh nghiệm trên từng mặt cụ thể về hoạt động của đại đội độc lập. Nơi nào cũng nhận xét rằng, được sự giúp đỡ tận tình của nhân dân, các đại đội sau khi được cử về đã “nhanh chóng bén rễ vào địa phương”. Và bài học nổi lên là muốn phong trào chiến tranh du kích phát triển rộng rãi, muốn động viên mọi người tham gia đánh địch thì phải dựa vào dân, dựa vào sự giúp đỡ của các đoàn thể quần chúng cách mạng, nhất là thanh niên và phụ nữ trong Mặt trận Liên Việt.

Các phái viên đi theo các đơn vị chủ lực trên các thường nói nhiều đến các trận đánh của tiểu đoàn tập trung. Trên đường số 3, vì sao những ngày đầu mấy trận tập kích quân địch ở Chợ Mới, Chợ Đồn, Chợ Rã, Phủ Thông không thành công. Địch đã củng cố vị trí. Vũ khí công đồn của ta lại thiếu. Ta cũng thiếu cả kinh nghiệm tập kích quân địch cổ thủ trong đồn. Ngược lại, hình thức phục kích có tác dụng lớn, tiêu hao tiêu diệt địch khi chúng tiếp tế tăng viện trên đường Bắc Kạn - Cao Bằng, nổi lên là các trận Đèo Cả, Đèo Giàng. Vấn đề các anh đặt ra để nghiên cứu tìm hiểu vì sao quân Pháp phải bỏ kế hoạch tiến quân từ Bắc Kạn qua Chợ Đồn để hợp điểm với cánh quân phía tây ở phía trên Chiêm Hóa. Có nhiều lý do nhưng phải chăng chủ yếu là do những trận đánh phục kích của ta ở Đoan Hùng, Bình Ca, ở ngã ba sông Lô - sông Gâm và trên đường Tuyên Quang - Chiêm Hóa đã gây cho chúng những tổn thất quá nặng nề.

Trên đường số 4 nổi lên là trận Bông Lau cuối tháng 10 của bộ đội Lạng Sơn. Anh Đặng Văn Việt, phái viên tham mưu, không được chứng kiến trận này, nhưng đã tìm hiểu trận đánh và biên thư về, giúp cho cơ quan ở phía sau hiểu rõ về địa điểm phục kích lý tưởng này trên đường số 4, về quá trình chuẩn bị và thực hành trận đánh của Tiểu đoàn 374, Trung đoàn 11 Lạng Sơn. Đơn vị đã vừa huấn luyện vừa thực hành trinh sát chiến trường chọn vị trí phục kích. Anh em phải nghiên cứu khắc phục một mâu thuẫn là vừa dựa vào dân để làm công tác chuẩn bị nhưng làm thế nào vẫn giữ được bí mật, bất ngờ. Nhiều vấn đề mới lần đầu phải giải quyết như chuẩn bị về tư tưởng, về tổ chức chỉ huy, kể cả việc quy định giờ nổ súng. Với một quân đội như sau này đã được tôi luyện trong “trận đánh ba mươi năm”, những vấn đề trên không có gì là mới lạ. Nhưng với một “đội quân thơ ấu” như cách nói của Bác Hồ, vào thời điểm thu đông 1947, những vấn đề trên đều phải qua những bước mò mẫm. Và cuối cùng trận phục kích địch ở đèo Bông Lau đã thắng lợi giòn giã. Hồi đó, nhiều người dường như đã thấy trước rằng trên đoạn đường rừng hiểm trở dài chừng 10 kilômét, từ Bông Lau đến Lũng Phầy, địch sẽ còn tiếp tục bị nhiều đòn đau. Nhưng hồi đó chưa ai nghĩ rằng một phái viên tham mưu như Đặng Văn Việt sẽ trở thành một trung đoàn trưởng nổi danh trên con đường số 4 này.

Những bức thư và báo cáo từ hướng sông Lô cho biết vì sao mấy trận đầu tiên của pháo binh không đạt kết quả. Ở Việt Trì, pháo cơ động ra chậm, tàu địch qua rồi, pháo bắn vuốt đuôi. Ở Lã Hoàng, hai phát đạn đầu không trúng, phát thứ ba đạn hóc. Ở Bình Ca, mới bắn được một phát, pháo đã hỏng. Nhưng rồi pháo binh sông Lô đã kịp thời khắc phục khó khăn, thiếu sót về kỹ thuật và tổ chức chỉ huy để có những chiến công ở Khoan Bộ (23-10), Đoan Hùng (24-10), rồi Khe Lau (10-11) mà kinh nghiệm thành công đã bí mật phục kích, đặt pháo gần bắn thắng vào mục tiêu di động trên sông.

Những “trường ca sông Lô” bắt nguồn từ đó và âm vang cho mãi đến ngày nay trong lịch sử pháo binh Việt Nam anh hùng, trong lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Mười Một, 2012, 05:49:41 pm
VII

Khoảng đầu tháng 11, anh Thái từ mặt trận đường số 3 về đến cơ quan. Sau một ngày làm việc với đồng chí Tổng Chỉ huy, anh tổ chức họp các cán bộ phòng, ban, phụ trách theo dõi các mặt tác chiến, tình báo, nhân sự, trang bị cấp dưỡng dùng với một số phái viên từ các địa phương, các mặt trận mới được triệu tập về. Sau khi nghe hai phòng Tác chiến và Tình báo báo cáo tổng hợp tình hình diễn biến trên các mặt trận trong cả nước một tháng qua, Tổng Tham mưu trưởng rút ra mấy nhận xét:

1. Do chủ quan trong việc phá đoán âm mưu và khả năng của địch, những ngày đầu ta bị bất ngờ lúng túng, bị động đối phó. Địch thực hiện được những ý định chiếm đóng một số thị xã, thị trấn trên cả hai hướng Cao Bằng Bắc Kạn và Tuyên Quang. Chúng cũng phá được một số kho tàng công xưởng của ta ở phía trên Bắc Kạn và Thái Nguyên.

2. Do bị động nên việc điều động lực lượng đánh một số vị trí mới chiếm đóng, không thực hiện được. Ta chuyển quân chậm, tới nơi thì địch đã củng cố vị trí, kể cả những mục tiêu có lệnh tiêu diệt ngay từ những ngày đầu, như[206] Chợ Mới. Trái lại, sau đó một số trận đánh quân địch cơ động trên bộ và trên sông đạt kết quả tốt, nhất là trên hướng đường số 4 và sông Lô. Thực tế cho phép khẳng định quy mô tác chiến tiểu đoàn là thích hợp, dùng chiến thuật phục kích là chủ yếu là thích hợp.

3. Chiến tranh du kích bước đầu phát triển. Ở một số nơi, các đại đội độc lập đã phát huy vai trò hỗ trợ cho chiến tranh du kích, cùng dân quân du kích đẩy mạnh hoạt động, nhất là ở Cao Bằng, cùng nhân dân địa phương khắc phục những thiếu sót ban đầu trong công tác chuẩn bị chiến đấu. Thực tế chứng minh đại đội độc lập là hình thức rất tốt để hỗ trợ và thúc đẩy phong trào chiến tranh du kích. Các đại đội được phái về các địa phương được nhân dân hoan nghênh, giúp đỡ, đã nhanh chóng thích ứng với nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, vì thời gian còn quá ngắn nên chiến tranh du kích nhìn chung chưa được đẩy lên đều khắp.

4. Các chiến trường toàn quốc phối hợp với Việt Bắc chưa mạnh. Ở miền Nam, một số hoạt động của biệt động trong đô thị trừng trị mấy tên tay sai đầu sỏ, có làm cho bọn Việt gian lo sợ nhưng chưa đáp ứng yêu cầu chia lửa với Việt Bắc. Điểm yếu của các chiến trường trong thu đông này là chưa đẩy được chiến tranh du kích lên để tiêu hao và căng kéo địch hơn nữa, buộc chúng phải đối phó khắp nơi, đỡ đòn cho Việt Bắc. Trong xuân hè vừa qua, sau khi bộ đội rút khỏi các thành phố, sở dĩ ở đồng bằng Bắc Bộ có hiện tượng “vỡ mặt trận”, một nguyên nhân chủ yếu là do chưa nơi nào biết phát động chiến tranh du kích để tiêu hao và làm chậm bước tiến của địch. Chúng ta chưa có biện pháp cụ thể để triển khai thế trận toàn dân đánh giặc.

Tóm lại, yêu cầu cấp bách đối với cả nước cũng như riêng với chiến trường Việt Bắc lúc này là đẩy mạnh chiến tranh du kích phát triển rộng khắp. Để đáp ứng yêu cầu đó, Tổng Tham mưu trưởng giới thiệu nội dung bản dự thảo Huấn lệnh để phát động chiến tranh du kích đã được đồng chí Tổng Chỉ huy gợi ý phác thảo. Yêu cầu đối với cán bộ tham mưu có mặt trong cuộc họp hôm nay là bổ sung ý kiến và quán triệt tinh thần chỉ đạo của Bộ để cùng các địa phương triển khai thực hiện.

Về mặt nhận thức, cần khẳng định cuộc kháng chiến chống Pháp là cuộc chiến tranh nhân dân, một cuộc chiến tranh của toàn dân. Trên chiến trường toàn quốc, ngoài Vệ quốc đoàn còn có lực lượng vũ trang địa phương, cùng toàn thể nhân dân tham gia vào công cuộc giết giặc, cứu nước bằng cách này hay cách khác. Muốn thực hiện toàn dân kháng chiến, phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân.

Trong giai đoạn hiện nay, khi mà khoảng cách về trang bị kỹ thuật giữa ta và địch còn quá lớn, việc phát động chiến tranh du kích phải là nhiệm vụ quân sự căn bản. Lúc này, khi chiến sự đã lan rộng đến hậu phương và hậu phương đã nhanh chóng trở thành tiền tuyến, địch đã kiểm soát nhiều thị xã, thị trấn và đường giao thông chính ngay trong căn cứ địa, thì chỉ có phát động chiến tranh du kích mạnh mẽ mới đảo ngược được thế trận. “Cơ sở toàn dân vũ trang của ta sẽ dìm các đô thị và đường giao thông do địch kiểm soát trong vòng vây của ta, từ thế bị bao vây, ta chuyển sang thế bao vây quân địch; từ thế bị động, ta chuyển dần sang thế chủ động”. Đó là lời khẳng định của đồng chí Tổng Chỉ huy, khi gợi ý dự thảo bản huấn lệnh này.

Vấn đề phát động chiến tranh du kích đã được đề cập từ lâu, trong các hội nghị của Đảng và hội nghị quân sự. Phong trào chiến tranh ở một số nơi đã khá mạnh, nhưng chưa đều, chưa rộng khắp. Về nhận thức, không ít địa phương chưa quán triệt sâu sắc đường lối chiến tranh nhân dân, chưa biết dựa vào dân, động viên và tổ chức nhân dân đánh giặc. Về trang bị, nhiều nơi chưa chú trọng mở rộng phong trào sản xuất vũ khí thô sơ để trang bị phổ cập cho dân quân du kích. Về cách đánh, nhiều địa phương chưa biết vận dụng chiến thuật du kích, còn hiện tượng thích đánh quy mô lớn, chưa coi trọng những hoạt động quấy rối, những trận lẻ tẻ; chưa biết tổ chức làng chiến đấu một cách phổ biến, nên kết quả tiêu hao địch, bảo vệ địa phương còn hạn chế. Nhiều đơn vị Vệ quốc đoàn chưa có kế hoạch cụ thể và tích cực giúp đỡ lực lượng vũ trang địa phương, phát động chiến tranh du kích, cả về mặt tổ chức, trang bị, huấn luyện và dìu dắt trong chiến đấu.

Do những thiếu sót về phát động chiến tranh du kích, do phong trào chiến tranh du kích chưa mạnh nên bộ đội chính quy (cụ thể là các tiểu đoàn tập trung) khó hoàn thành nhiệm vụ của mình là tiêu diệt từng bộ phận sinh lực của địch; còn lực lượng vũ trang địa phương cũng không đủ sức bảo vệ nhân dân, bảo vệ làng bản, khi bộ đội tập trung lưu động đi tác chiến ở nơi khác. Rõ ràng là “phát triển chiến tranh du kích tức là tạo điều kiện thuận lợi cho vận động chiến; du kích chiến và vận động chiến cần phải kết hợp với nhau”.

Khắc phục những thiếu sót hiện nay của phong trào chiến tranh du kích là yêu cầu cấp bách đặt ra với ủy ban kháng chiến các cấp, với bộ đội Vệ quốc đoàn và dân quân du kích, mà trực tiếp là các đại đội độc lập được phái về các địa phương mà phong trào chiến tranh du kích còn yếu kém. Yêu cầu trước mắt là một đại đội độc lập phải giúp đỡ cho một trung đội du kích tập trung của địa phương trưởng thành.

Được giao nhiệm vụ góp ý vào bản dự thảo Huấn lệnh của Bộ về phát động chiến tranh du kích, các phái viên dựa vào những việc đã làm được và chưa làm được ở địa phương, bổ sung những thực tế sinh động, chứng minh tính đúng đắn của phương châm đại đội độc lập trong chỉ đạo phát động chiến tranh du kích. Các anh cũng nêu lên những biện pháp cụ thể cần vận dụng cho phù hợp với đặc điểm từng địa phương, từng chiến trường. Tất cả đều nhất trí rằng trước hết cần giải quyết tư tưởng và nhận thức của cấp lãnh đạo Đảng và chính quyền và chỉ huy quân sự các cấp, nhất là ở cơ sở. Vấn đề là biết dựa vào dân, động viên toàn dân, vũ trang toàn dân. Đó là biện pháp bao trùm nhất để làm chuyển biến tình hình hiện nay ở các địa phương mà phong trào chiến tranh du kích chưa mạnh, chưa cao. Hội nghị nhất trí đề nghị lấy tên bản huấn lệnh là Huấn lệnh về phát động du kích chiến tranh - Nhiệm vụ quân sự căn bản trong giai đoạn này.

Một vài cán bộ tham mưu được chỉ định hoàn chỉnh bản huấn lệnh để anh Thái thông qua rồi đưa sang Văn phòng, đệ trình Tổng Chỉ huy phê duyệt. Các phái viên đợi mang về ngay các địa phương để cùng triển khai thực hiện.

Trước khi hội nghị bế mạc, Tổng Tham mưu trưởng hỏi mọi người:

- Các cậu có biết hôm nay là ngày gì không?

Mọi người im lặng, như chưa hiểu ý anh Thái hỏi gì. Rồi có tiếng ai đó trả lời:

- Hôm nay là ngày thứ sáu.

Tiếp đến là tiếng một người khác:

- Ngày 7-11…

- Đúng, Tổng Tham mưu trưởng nói tiếp. Hôm nay là kỷ niệm 30 năm ngày Cách mạng Tháng Mười Nga. Chúng ta đã thảo luận và góp ý vào bản dự thảo huân lệnh đúng vào ngày lịch sử này. Tôi mong rằng, cũng với tinh thần ấy, tinh thần Cách mạng Tháng Mười, các đồng chí mang về quán triệt ở các địa phương, các đơn vị, biến chủ trương chiến lược của trên thành hiện thực phong trào chiến tranh du kích rộng rãi khắp cả nước… Chúc các đồng chí thắng lợi.

Một tuần sau, bản huấn lệnh đã được chính thức thông qua, đề ngày 14-11-1947. Các phái viên tham mưu lần lượt lên đường. Sau này nhiều anh vẫn chưa quên buổi sáng hôm đó. Mọi người háo hức mong chóng về tới địa phương với lòng tin sâu sắc rằng mình đang đem về cho cơ sở một cẩm nang thúc đẩy phong trào dân quân du kích, đáp ứng yêu cầu của phương châm chiến lược lúc này là: Du kích chiến là chính, vận động chiến là phụ trợ.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Mười Một, 2012, 05:52:13 pm
VIII

Trước khi trở lại mặt trận đường số 3, đồng chí Tổng Tham mưu trưởng đến thăm mấy phòng, ban thuộc bộ phận A đang có mặt ở Tràng Xá. Đúng là anh em phải vượt nhiều khó khăn để bảo đảm guồng máy công tác chạy đều trong những ngày trú quân ở Nà Chế - Tràng Xá. Bộ phận quản lý của anh Nguyễn Văn Trang phải cố gắng lắm mới bảo đảm mức sinh hoạt cần thiết cho toàn cơ quan trên một địa bàn hẻo lánh, xa chợ, trong thời chiến. Anh Thái động viên mọi người cùng nhau đoàn kết khắc phục khó khăn trước mắt trong những ngày trú quân ở đây. Anh cùng anh Trang và bộ phận quản lý bàn những biện pháp cụ thể nhằm khắc phục hiện tượng thiếu thốn hiện nay về lương thực, thực phẩm, đảm bảo mức sinh hoạt của anh em, kể cả việc bồi dưỡng sức khỏe những cán bộ trực ban tác chiến. Trước khi lên đường, anh Thái dành một buổi cùng các đồng chí phụ trách tác chiến và tình báo soát xét lại tình hình chiến sự chung trong cả nước và trước hết là trên chiến trường Việt Bắc.

Những ngày hành quân ồ ạt ban đầu của địch đã kết thúc. Cuộc hội quân của chúng ở Đài Thị không thực hiện được. Sắp tới, địch sẽ làm gì? Chúng không gặp chủ lực của ta ở quy mô lớn, cũng chưa thực hiện được ý đồ “chộp bắt” Chính phủ kháng chiến. Việc lùng sục sâu vào căn cứ địa của ta vẫn còn là một mục tiêu quan trọng của cuộc hành binh. Nhưng yếu tố bất ngờ đã không còn. Chúng có thể dựa vào tin tức gián điệp, cho quân nhảy dù xuống phía đông đường số 3 - vùng Võ Nhai, cũng có thể từ hướng Bắc Kạn, Chợ Mới lùng sục xuống phía nam Chợ Chu. Các đơn vị bảo vệ Trung ương Đảng và Chính phủ sẵn sàng cơ động chiến đấu hơn lúc nào hết. Cơ quan tham mưu cần bám sát mọi tin tức, kịp thời phán đoán, kịp thời cơ động di chuyển để tránh tổn thất. Các mặt trận đường số 4 và nhất là hướng sông Lô - đường số 2 cần đánh mạnh để tiếp tục kéo căng lực lượng địch; mặt trận đường số 3 phải kịp thời cơ động lực lượng đánh địch, làm thất bại các mũi hành quân càn quét của chúng tiến sâu vào vùng có các cơ quan lãnh đạo.

Thực tế những ngày sau đó đã chứng minh những phán đoán trên đây là chính xác.

Từ đầu tháng 11, tướng Pháp Xalăng đã thấy cần chuyển hướng cuộc tiến công mà Bộ Chỉ huy Pháp gọi là bước thứ hai của cuộc hành binh. Quân Pháp bị đánh ở nhiều nơi, nhất là trên các trục đường cơ động tiếp tế và đều chưa đạt được, vậy mà quân Pháp đang làm cho tình thế khó khăn cả về tiếp tế, về sức khỏe và binh lực bị dàn mỏng. Kế hoạch “Lêa” đã không thành công. Bộ Chỉ huy Pháp quyết định thu hẹp đội hình chiến dịch, bỏ bản Thi, Yên Thịnh, Chợ Đồn, Chợ Rã, Ngân Sơn. Địch chuyển dần quân xuống phía nam, lùng sục trong vùng “hình quả trám” Tuyên Quang, Thái Nguyên - Việt Trì - Phủ Lạng Thương. Chúng phán đoán chủ lực của ta và bộ máy lãnh đạo kháng chiến đã lui về vùng Đại Từ - Tam Đảo, trung tâm của khu tứ giác nói trên. Thực tế, đây là cuộc hành binh vừa lùng sục, vừa thu quân, lui dần xuống phía dưới, phía Bắc Ninh - Hà Nội.

Trước những triệu chứng mới của địch, ta phán đoán chúng sẽ tiến quân và càn quét phía tây đường số 3 trước, sau đó sẽ chuyển sang phía đông con đường này, đi đôi với nhảy dù xuống Đại Từ, Võ Nhai và Thái Nguyên. Do phán đoán đúng, nên không những ta cơ động kịp thời cả hai bộ phận A và B tránh các mũi lùng sục của địch(1) mà còn ra lệnh cho bộ đội chặn đánh địch trên đường chúng cơ động lùng sục. Riêng trên trục Bắc Kạn - Thái Nguyên, do phán đoán sai hướng lui quân của địch (cho rằng địch từ Bắc Kạn sẽ chuyển lên hướng Cao Bằng) nên ta bỏ nhiều cơ hội diệt địch khi chúng chuyển từ Bắc Kạn xuống Thái Nguyên hay từ Phú Minh qua Đèo Khế sang Thiện Kế. Điều đáng tiếc là, từ trung tuần tháng 11, trên các hướng Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, kể cả trên những trục đường có nhiều khả năng địch hành quân qua như Bình Ca - Đèo Khế - Văn Lãng hay Chợ Chu - Phú Minh, các đơn vị đều đã được lệnh bám đánh địch trên đường chúng càn quét lùng sục. Mệnh lệnh của Bộ nhấn mạnh: Chống khuynh hướng “tham ăn to”; phải đánh địch rộng khắp, khiến chúng một bước lui quân là một bước bị tiêu hao. Nhưng do phương tiện thông tin hạn chế và thiếu kinh nghiệm bám và phán đoán địch, cơ động lực lượng chậm chạp trong khi địch lại rất xảo quyệt trong hành động nghi binh, nên rất nhiều cơ hội diệt địch bị bỏ qua.

Một ngày sau khi bộ phận A rời Tràng Xá trở về phía tây đường số 3, địch nhảy dù xuống Võ Nhai. Chúng sục vào Nà Chế, nơi có một số tài liệu chưa kịp di chuyển. Sợ tài liệu lọt vào tay địch, một cán bộ Ban quản lý đã đốt lán. Nhiều tài liệu quý bị thiêu hủy.

Cơ quan trở về khu vực đóng quân cũ ở tây nam Chợ Chu chỉ ít ngày trước khi địch từ Bắc Kạn tiến về Chợ Chu và từ Chợ Đồn tiến xuống Chợ Chu, Quán Vuông về hướng Đại Từ - Thái Nguyên. Khi địch lùng sục vào phía trong Quán Vuông, cơ quan phải phân tán sâu vào chân Núi Hồng, tổ chức lực lượng sẵn sàng chiến đấu bảo vệ người và tài liệu đề phòng trường hợp địch vượt Đèo De sang Tân Trào. Suốt mấy ngày, từ 25 đến 28-11, chúng bắn nhiều pháo và súng cối vào hướng Yên Thông, bản Bắc, Lục Rã và chân Đèo De. Một chiến sĩ liên lạc của Bộ Tổng tham mưu, em Ma Khánh Vàng đã hy sinh vì đạn súng cối của địch, khi đang chuyển công văn trong khu căn cứ. Nhưng rồi địch cũng không dám tiến sâu vào khu vực Núi Hồng mà tiến dần xuống phía nam. Ngày 1-12, một bộ phận đã lọt vào trận địa phục kích của Tiểu đoàn 103 ở Quán Ông Già(2). Sau này qua tài liệu của đối phương chúng ta được biết, hoạt động của cánh quân địch dọc trục đường Chợ Chu - Quán Vuông - Phú Minh - Đại Từ cũng chỉ nhằm bảo vệ sườn cho cánh quân Bôphrơ (Beaufre) từ Bắc Kạn theo đường số 3 rút về Thái Nguyên.

Cơ quan đã ổn định nơi ở và làm việc quanh khu vực Lục Rã, vào những ngày cuối của chiến dịch Việt Bắc. Trung tuần tháng 12, anh Thái đã trở về cơ quan, sau trận Đèo Giàng ngày 15-12. Anh cùng một số cán bộ chủ chốt của Bộ Tổng tham mưu kiểm điểm lại những diễn biến lớn và mấy bài học đầu tiên rút ra từ thu đông 1947 - đồng thời nghiên cứu khả năng và phương hướng hoạt động sắp tới của địch sau khi chúng lui quân khỏi Việt Bắc. Khu 4 là một hướng đáng chú ý. Những kinh nghiệm đầu tiên của Việt Bắc được tóm tắt và chuyển cho Khu 4 vận dụng chuẩn bị đánh địch. Đó cũng là những kinh nghiệm đã được anh Thái báo cáo tại Hội nghị 16-12-1947, trước một số cán bộ chủ chốt của Bộ và các đồng chí chỉ huy các khu 1, 10, 12, 2 và 11, chuẩn bị cho cuộc họp của Tổng Quân ủy đầu năm 1948.


(1) Bộ phận B lui sâu hẳn vào sát chân Núi Hồng trong khi địch lùng sục ở phía ngoài Yên Thông, Đồng Đau; bộ phận A kịp thời cơ động từ phía đông sang phía tây đường số 3 trước khi địch nhảy dù xuống Võ Nhai.
(2) Quán Ông Già là một địa danh xuất hiện từ mùa hè năm 1947, sau khi các cơ quan Trung ương lên Việt Bắc. Nơi này - giữa đường Phú Minh lên Quảng Nạp - có một cái quán của một ông già người địa phương, bán nước và những thứ lặt vặt như chuối, kẹo vừng… Chẳng bao lâu thành một cái tên quen thuộc đối với những ai qua lại con đường này thời kháng chiến chống Pháp.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Mười Một, 2012, 05:54:00 pm
Tại Hội nghị ngày 16-2(1), đồng chí Tổng Chỉ huy vạch rõ hai khuyết điểm lớn nhất của ta trong chỉ đạo và thực hành chiến dịch thu đông. Đó là: 1 - Chủ quan trong phán đoán địch nên chỉ đạo công tác chuẩn bị chiến đấu và bố trí binh lực sơ sài, nhất là ở Bắc Kạn; 2 - Việc chỉ đạo phối hợp giữa chủ lực với địa phương trước khi bước vào mùa khô cũng như trong bước 1 cuộc hành binh của địch thiếu chặt chẽ. Sau khi biểu dương thành tích chiến đấu của bộ đội từng khu, của lực lượng vũ trang trên từng mặt trận, Tổng Chỉ huy Võ Nguyên Giáp đã chỉ ra những yếu kém về mặt tổ chức chỉ huy của cán bộ: sử dụng binh lực (phân tán hay tập trung lúc nào cho phù hợp với điều kiện cụ thể), công tác quân báo, trinh sát, liên lạc, trình độ sử dụng vũ khí kỹ thuật của bộ đội, v.v.

Báo cáo về công tác tham mưu trong hội nghị quân sự đặc biệt này, trước hết Tổng Tham mưu trưởng đi sâu phân tích công tác nắm địch và nghiên cứu về địch, những bài học rút ra từ công tác tình báo trinh sát. Anh Thái nói về kế hoạch hành quân và sự hoạt động của ăn khớp giữa các cánh quân của địch, cách đánh táo bạo bất ngờ, kế hợp hành quân với hoạt động nghi binh đánh lừa đối phương. Điểm yếu nổi lên về phía địch là chủ quan, đánh giá thấp đối phương nên mạo hiểm; binh lực và phương tiện không đủ cho một cuộc hành binh trên một chiến trường rừng núi quá rộng; điều kiện tiếp tế khó khăn và thời tiết thượng du khiến cho tinh thần binh sĩ sớm sa sút… Nhận xét về ta, báo cáo của Tổng Tham mưu trưởng nêu rõ thuận lợi của ta là tinh thần, truyền thống cách mạng của nhân dân các dân tộc Việt Bắc, là địa hình rừng núi thuận lợi cho cách đánh của ta, là bước tiến bộ của cán bộ và bộ đội ta trong thực tế chiến đấu. Bài học đối với ta là đánh giá địch, do chủ quan nên kế hoạch tác chiến và cách bố trí binh lực không phù hợp; hậu phương chuẩn bị sơ khoáng. Trong quá trình chiến đấu, xuất hiện những yếu kém và tinh thần chấp hành mệnh lệnh (chủ nghĩa địa phương và ý thức kỷ luật trong việc điều động lực lượng). Quá trình diễn biến chiến dịch cũng là quá trình cơ quan Bộ cố gắng khắc phục những khó khăn và nhược điểm về trinh sát, thông tin liên lạc (tin tức và mệnh lệnh chuyển đạt chậm), về chỉ đạo phối hợp giữa bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương, về sức khỏe bộ đội…

Khác với hội nghị quân sự đặc biệt, hội nghị Tổng Quân ủy họp mấy ngày đầu tháng 1-1948 đã đi sâu phân tích cụ thể hơn sự lãnh đạo của Tổng Quân ủy và của Bộ Tổng chỉ huy. Những bài học rút ra từ hội nghị này có ý nghĩa chỉ đạo chiến lược toàn quốc. Trong bản báo cáo trình bày tại hội nghị Tổng Quân ủy, đồng chí Bí thư Võ Nguyên Giáp lược lại mục đích cuộc hành binh của địch, lực lượng sử dụng, kế hoạch từng bước của cuộc hành binh, những điểm đạt được và không đạt được của địch và nguyên nhân thành bại từng mặt của chúng.

Nhận xét về ta, sau khi nêu lên bước tiến bộ và phán đoán địch (trong bước 2 của cuộc hành binh), về kế hoạch bảo vệ cơ quan lãnh đạo, sự trưởng thành của bộ đội, sự phát triển bước đầu của phong trào chiến tranh du kích ở một số địa phương… dẫn đến thắng lợi sau hơn hai tháng chiến đấu, đồng chí Bí thư Tổng Quân ủy đã nghiêm khắc kiểm điểm những thiếu sót trong lãnh đạo của Bộ.

Lúc đầu ta bị thất bại ở Bắc Kạn vì chủ quan trong phán đoán khả năng của địch, cho rằng chúng không dám mạo hiểm đánh sâu vào căn cứ địa. Trong các hội nghị quân sự, chúng ta nêu “du kích chiến là chính” nhưng không đề ra biện pháp cụ thể để phát động chiến tranh du kích, do đó khi địch nhảy vào căn cứ địa, hậu phương nhanh chóng biến thành tiền phương thì ta lúng túng (hồi cuối tháng 5), khi bàn kế hoạch, do chưa đánh giá đúng trình độ bộ đội, nên nhấn mạnh nhiều về tập trung, khi mà trình độ cơ động và khả năng tác chiến tập trung của bộ đội còn hạn chế. Khi bước vào chiến dịch, điều đáng quan tâm là ở một số đơn vị xuất hiện hiện tượng chấp hành mệnh lệnh không triệt để, không khẩn trương (như những mệnh lệnh đầu tiên điều động binh lực lên tác chiến ở Bắc Kạn, Chợ Mới, Chợ Đồn và mệnh lệnh về công tác phá hoại). Thực tế chiến đấu cho thấy tổ chức chỉ huy còn nặng về hình thức, quan liêu, phương tiện thông tin liên lạc lại thiếu, nên mệnh lệnh, chỉ thị, báo cáo không thông suốt kịp thời từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên. Công tác chính trị không kịp nhiệm vụ quân sự, không biết kịp thời phát huy chiến quả về mặt quân sự.

Hàng loạt vấn đề được đồng chí Bí thư Tổng Quân ủy đặt ra nhằm củng cố và phát huy thắng lợi chiến dịch Việt Bắc: kiện toàn cơ quan tình báo, trinh sát; bồi dưỡng cán bộ về phương châm chiến lược và tư tưởng chiến thuật, về tinh thần trách nhiệm và kỷ luật quân đội, củng cố về tổ chức và cán bộ đại đội; tổ chức lại bộ đội cho gọn nhẹ; tiến hành luyện quân lập công nhằm trước hết vào ba kỹ thuật lớn; cải tiến phương pháp công tác chính trị sao cho thiết thực, kịp thời thích ứng với trình độ bộ đội; có kế hoạch cụ thể phát động chiến tranh du kích rộng rãi; quân sự hóa các cơ quan lãnh đạo và chỉ huy, tổ chức lại hệ thống chỉ huy cấp khu, chống bệnh quan liêu giấy tờ.

Sau khi nêu lên phán đoán về âm mưu sắp tới của địch, đồng chí Bí thư nêu lên mấy nhiệm vụ cấp bách trước mặt để Tổng Quân ủy thảo luận như củng cố căn cứ địa Việt Bắc (trước hết là về mặt chính trị); tác chiến đi đôi với vũ trang tuyên truyền; địch vận ở vùng địch mới chiếm đóng; đối phó với các cuộc càn quét của địch ở đồng bằng và với chiến thuật vết dầu loang của chúng; đẩy mạnh vận động gia đình có con em đi lính địch, hạn chế khả năng phát triển ngụy binh..

Theo chỉ thị của đồng chí Bí thư Tổng Quân ủy, Tổng Tham mưu trưởng sẽ dựa vào báo cáo và kết luận của hội nghị quân sự đặc biệt vừa qua, hội nghị Tổng Quân ủy hôm nay và các hội nghị tổng kết chiến dịch Việt Bắc và hội nghị Trung ương sẽ họp trung tuần tháng 1, để chỉ đạo biên soạn thành bản dự thảo Huấn thị Vận dụng kinh nghiệm chiến dịch Việt Bắc để gửi đi các địa phương, nhất là Bình - Trị - Thiên, Khu 5 và Nam Bộ.

Với các chiến trường, bản huấn thị sẽ giúp cho các cấp hiểu biết thêm về địch, về cách phán đoán và đối phó với các hình thức chiến thuật của chúng, đánh giá chỗ mạnh và chỗ yếu của quân đội Pháp trong một cuộc hành binh quy mô lớn. Bản huấn thị cần phân tích mặt mạnh, mặt yếu của bộ đội ta và phương hướng bổ khuyết về cách đánh, về kỷ luật, về công tác chính trị và các tổ chức bảo đảm chỉ huy (trinh sát, thông tin liên lạc). Cũng từ kinh nghiệm Việt Bắc, bản huấn thị cần nêu lên những kinh nghiệm về công tác chỉ đạo chuẩn bị chiến đấu của ủy ban kháng chiến các cấp, trong đó nổi lên là những việc mà các cấp chính quyền và đoàn thể cần làm là chỉ đạo dân quân du kích, nhất là ở cơ sở. Hội nghị Trung ương sắp tới sẽ chỉ ra phương hướng chiến lược chung sau chiến thắng Việt Bắc. Theo phương hướng đó, bản huấn thị cần cụ thể hóa thêm một bước đối với các chiến trường.


(1) Hồi đó gọi cuộc họp này là hội nghị quân sự đặc biệt, họp ít ngày trước khi những đơn vị cuối cùng của Pháp rút khỏi Việt Trì - Vĩnh Yên (ngày 22-2-1947 - ngày được coi là chiến dịch kết thúc) nhằm đánh giá sơ bộ chiến dịch Việt Bắc, chuẩn bị cho cuộc họp của Tổng Quân ủy sắp tới.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Mười Một, 2012, 05:55:30 pm
CHƯƠNG VIII

THÊM MỘT BƯỚC TRƯỞNG THÀNH

I

Chiến dịch Việt Bắc vừa kết thúc, anh Thái nhắc anh Trường và các đồng chí phụ trách tổ học tập nghiên cứu một chương trình học tập mới cho cán bộ trong cơ quan. Các phái viên ở các địa phương, các đơn vị đang lần lượt trở về. Ta có điều kiện để học tập trở lại bình thường, đều đặn. Vấn đề đặt ra là học cái gì? Theo Tổng Tham mưu trưởng, trước mặt cần làm cho anh em nắm được những bài học sốt dẻo rút ra từ thu đông vừa qua. Ta chưa có điều kiện để tổ chức tổng kết chiến dịch một cách đầy đủ, nhưng không nên chờ đợi.

Anh Thái định dành một ngày để nói lại với một số cán bộ và với tổ học tập những vấn đề cơ bản đã được khẳng định mà anh tiếp thu trong các cuộc họp vừa qua của Tổng Quân ủy. Anh quyết định làm việc này vào ngày 4-1-1948.

Mở đầu cuộc họp, Tổng Tham mưu trưởng nói ngay:

- Hôm nay là chủ nhật. Làm việc thế này là “du kích”. Nhưng công việc nhiều quá, không thể lui sang ngày khác được. Dự hôm họp nay có các đồng chí phụ trách các phòng Tác chiến và Tình báo, các tổ trưởng các tổ nghiệp vụ của Phòng Tác chiến và các thành viên tổ học tập. Tôi sẽ nói lại những vấn đề chính thức được nêu lên và kết luận trong hội nghị quân sự đặc biệt họp vào những ngày chót của chiến dịch Việt Bắc và hội nghị Quân ủy Trung ương mới họp hôm vừa qua. Phòng Tác chiến sẽ dựa vào những vấn đề tôi sắp nêu lên hôm nay và nội dung hội nghị tổng kết chiến dịch Việt Bắc và hội nghị Trung ương sắp tới để biên soạn thành tài liệu chính thức, thành một bản huấn thị, do đồng chí Tổng Chỉ huy duyệt rồi gửi đi các đơn vị, các địa phương. Trước khi diễn ra các hội nghị tổng kết chiến dịch và hội nghị Trung ương, chúng ta tranh thủ nghiên cứu trước.

Rồi Tổng Tham mưu trưởng lần lượt phát biểu về mấy vấn đề lớn.

1. Trước hết là vấn đề nắm địch. Chúng ta đã phán đoán âm mưu và khả năng của địch như thế nào?

Bước vào mùa khô, ta phán đoán Bắc Bộ sẽ là chiến trường chính; rằng nếu địch không mạo hiểm thì chúng sẽ tiến công ở đồng bằng, nếu mạo hiểm chúng sẽ mở cuộc hành binh lên Việt Bắc. Chính vì phán đoán chủ quan như vậy nên việc chỉ đạo chiến đấu ở căn cứ địa sơ sài, nhất là phía trên các thị xã Tuyên Quang, Bắc Kạn và Thái Nguyên.

Sau khi có trong tay bản kế hoạch của địch, ta nắm vững các bước hành binh của chúng và chủ động đối phó, chủ động đánh địch.

Tại hội nghị quân sự đặc biệt (họp ngày 16-12-1947), Tham mưu có nêu lên ba ưu điểm của địch: 1- Kế hoạch sâu, hoạt động của các cánh quân của chúng được thống nhất và ăn khớp; 2- Đánh táo bạo bất ngờ; 3- Biết nghi binh, làm ta khó phán đoán, nhằm cô lập và kiềm chế các đơn vị của ta.

Nhìn lại kết quả thực hiện kế hoạch của địch, ta thấy: 1- Mặt Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, về cơ bản địch thực hiện được kế hoạch đã vạch ra; 2- Bên hướng Tuyên Quang, do cánh quân Commuynan (Commnal) bị đánh mạnh trên sông Lô, nên việc gặp gỡ ở Đài Thị và cánh quân từ hướng Chợ Đồn sang không thực hiện được; 3- việc càn quét vùng Chợ Chu dự định vào ngày 15-10 cũng chỉ thực hiện được chậm hơn một tháng so với kế hoạch.

Cũng tại hội nghị quân sự đặc biệt, báo cáo của Tham mưu nhận xét rằng địch chủ quan, đánh giá thấp lực lượng của ta; quân số và phương tiện của chúng (kể cả lực lượng mặt đất - bộ binh cơ giới - và máy bay vận tải) không đủ để mở một cuộc tiến công trên một chiến trường quá rộng. Vì vậy, trên hướng Chợ Mới, Bắc Kạn, Nguyên Bình, Cao Bằng, địch phải nhảy dù đánh chiếm từng bước trên hướng sông Lô, ngày 12-10-1947 chúng mới tiến lên được Tuyên Quang.

Đánh giá kết quả cuộc hành binh của địch trên Việt Bắc, báo cáo của đồng chí Tổng Chỉ huy tại hội nghị Tổng Quân ủy nhận xét rằng: địch đã cắt đường tiếp tế của ta ở biên giới, đã phá được một số kho tàng, đã chiếm đóng một số nơi (ngoài thị xã Bắc Kạn, Cao Bằng, còn một số vùng đồng bào người Dao đỏ ở Nguyên Bình, Lào Cai, người Nùng ở Lạng Giai…). Chúng đạt được kết quả đó là vì có mạng lưới gián điệp giúp chúng nắm tương đối chính xác và nhằm thẳng vào chỗ yếu và sơ hở của ta. Chúng dùng chiến thuật táo bạo, nhảy sâu vào hậu phương ta và đạt được yếu tố bất ngờ

Nhưng địch không đạt được những mục tiêu chủ yếu của chiến dịch, nhất là không phá được bộ máy đầu não kháng chiến. Nói chung chúng không có cơ sở trong nhân dân; chiến thuật càn quét của địch ở vùng rừng núi không đạt được kết quả. Ngoài nguyên nhân quan trọng là tính chủ quan của tướng lĩnh Pháp, địch thất bại vì: 1- Ý thức cách mạng và tinh thần căm thù địch của đồng bào Việt Bắc; 2- Tuy kế hoạch của ta chưa cụ thể, có mặt chưa sát, nhưng các cơ quan kháng chiến, bộ đội và nhân dân đã được chuẩn bị tư tưởng đầy đủ; 3- Địch đưa một lực lượng lớn lên một chiến trường xa căn cứ ở đồng bằng, nên việc tiếp tế khó khăn; chủ trương thực hiện “vườn không nhà trống” đã góp phần khoét sâu khó khăn này của địch. Cần nói thêm rằng, sau những ngày đầu bất ngờ và bị động, ta đã chọn được cách đánh phù hợp với lực lượng so sánh, với trình độ tác chiến của bộ đội, phù hợp với điều kiện địa hình Việt Bắc; một địa hình có lợi cho ta, không lợi cho địch.

Bài học rút ra về công tác tình báo, về nắm và phán đoán địch, là bài học quan trọng đầu tiên đối với tham mưu. Chúng ta cần chú ý kết luận của đồng chí Tổng Chỉ huy là ta có nhiều điểm phán đoán sai vì còn thiếu hiểu biết đầy đủ. Nhưng có một điều cần phải chú ý là khi chưa biết địch thì phải cho là chúng hết sức mạnh và mạo hiểm, hoặc phải có nhiều giả thuyết để chủ động đối phó.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Mười Một, 2012, 05:56:03 pm
2. Chúng ta đánh giá cán bộ và bộ đội ta như thế nào qua chiến dịch mùa khô vừa qua?

Một điều nổi lên trong thời gian qua là sự tiến bộ của bộ đội, cả về kỹ thuật và tinh thần chiến đấu. Nhưng rõ ràng là chiến dịch Việt Bắc cũng chứng minh những nhược điểm mà ta cần khắc phục. Ví dụ: do thiếu phương tiện thông tin liên lạc nên tin tức và mệnh lệnh đến chậm; bộ đội đau yếu, thiếu thốn cả về thuốc chữa bệnh và quân trang, cán bộ trung đội, tiểu đội kém về kỹ thuật và bỏ lỡ nhiều thời cơ xung phong diệt địch.

Cấp khu cũng bộc lộ những điểm yếu kém cần khắc phục. Trong hội nghị quân sự đặc biệt, đồng chí Tổng Chỉ huy đã dẫn ra một ví dụ: “Khu 1 không nắm chắc được tình hình của các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Phúc Yên. Do đó các tỉnh không được sự chỉ đạo giúp đỡ của khu… Việc báo cáo, thỉnh thị từ tỉnh lên khu, khu về Bộ cũng không làm được, chứng tỏ ý thức tổ chức kỷ luật còn lỏng lẻo, nên xảy ra tình trạng từng địa phương tự động làm theo chủ quan của mình, thiếu sự thống nhất lãnh đạo chung. Ví dụ: Phúc Yên có đài mà địch đến không báo cáo; khi khu biết, cho người đi tìm bộ đội thì không tìm được, v.v.”.

Trong tài liệu viết về khởi nghĩa Việt Bắc gửi cho các đơn vị, cần nói rõ mấy điểm yếu kém dưới đây của cán bộ chỉ huy và của bộ đội mà đồng chí Tổng Chỉ huy đã kết luận: 1- Không biết địch: không biết rõ vị trí, số lượng, vũ khí, tinh thần, ý định, v.v. của chúng. Chúng ta thiếu những trinh sát viên giỏi. Cần nói thêm rằng yếu kém đó thuộc trách nhiệm của ngành tham mưu chúng ta. 2- Không biết mình: Chưa biết rõ khả năng của bộ đội và vũ khí của mình; không hiểu rõ ưu điểm nào cần phát huy; khuyết điểm nào cần bổ cứu; 3- Bộ đội còn non kém về mọi mặt: liên lạc, trinh sát kém, kỹ thuật kém, không biết tiết kiệm đạn dược, không biết thu vũ khí của địch…; 4- Cán bộ thiếu kế hoạch, thiếu quyết tâm, thiếu bình tĩnh.

Về phương hướng khắc phục; cần chú ý kết luận của đồng chí Bí thư Tổng Quân ủy trong hội nghị đầu tháng 1 vừa qua, trong đó có những điểm sau đây trực tiếp quan hệ đến chức năng của Bộ Tổng tham mưu:

a) Nắm chắc địch: Cần khẩn trương kiện toàn cơ quan tình báo, trinh sát, tăng cường chất lượng và bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ và nhân viên để giúp cho các cấp chỉ huy nắm địch và phán đoán đúng;

b) Về tư tưởng chiến lược, chiến thuật: Tiến hành học tập về phương châm du kích chiến là chính, vận động chiến là phụ, nâng cao tư tưởng của cán bộ về tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta…

c) Về cán bộ: Để khắc phục trình độ cán bộ còn non kém, ý thức tổ chức kỷ luật còn lỏng lẻo, cần phải chỉnh đốn trường lục quân, mở trường bổ túc cho cán bộ đại đội về chiến thuật, kỹ thuật; kiên quyết loại trừ những cán bộ xấu và tiêu cực, mạnh dạn đề bạt cán bộ có năng lực, có tinh thần trách nhiệm; giáo dục cán bộ về ý thức trách nhiệm và tinh thần kỷ luật, duy trì một kỷ luật nghiêm minh trong quân đội.

d) Về bộ đội: Tiến hành huấn luyện theo chương trình luyện quân lập công nhằm vào ba kỹ thuật lớn để nâng cao trình độ kỹ thuật cho bộ đội; tổ chức biên chế phải gọn nhẹ, điều động một số nhân viên không cần thiết tăng chường cho thành phần chiến đấu…

e) Về công tác dân quân: Phát động du kích chiến tranh rộng rãi (Cục Dân quân phải có kế hoạch tích cực hơn); có kế hoạch phá hoại đầy đủ, tiến hành đôn đốc và kiểm tra việc thực được tốt, có kết quả.

Về phương hướng tác chiến sắp tới, đồng chí Tổng Chỉ huy đã chỉ thị nghiên cứu âm mưu mới của địch hướng vào chiến trường nào. Khu 4 hay trung châu Bắc bộ; theo dõi kế hoạch càn quét của chúng ở Nam Bộ; kế hoạch mở rộng vùng kiểm soát bằng chiến thuật “vết dầu loang” nhằm phục vụ chính sách “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh - dùng người Việt đánh người Việt”. Tham mưu phải nghiên cứu phương sách đối phó nhằm làm thất bại âm mưu chiến lược mới của địch. Đồng chí Tổng Chỉ huy cho biết những vấn đề trên đây sẽ được đem ra thảo luận tại hội nghị Trung ương dự kiến họp vào trung tuần tháng này.

Trả lời câu hỏi về “tham mưu phải đi bằng hai chân”, anh Thái nói:

- Đó là tham mưu phải quan tâm chỉ đạo cả hai lực lượng, hai phương thức tác chiến du kích và chính quy. Chức năng và nhiệm vụ của tham mưu chúng ta là phải luôn nhớ hai mặt đó, cả trong chỉ đạo xây dựng và chỉ đạo tác chiến. Do trình độ của bộ đội hiện nay và cả trong mấy năm tới, chúng ta phải nắm vững phương châm du kích chiến là căn bản, vận động chiến là phụ trợ, phải luôn quan tâm đến cả hai lực lượng: lực lượng vũ trang tại chỗ, gồm dân quân du kích và một số đại đội độc lập (mới được phái về một số châu, huyện trong chiến dịch Việt Bắc và đang hoạt động ở các địa phương) và lực lượng cơ động (tức là các tiểu đoàn tập trung hiện nay. Cho đến khi dân quân du kích trưởng thành, các đại đội độc lập được tập trung về và bộ đội chủ lực được xây dựng lớn mạnh hơn, hai lực lượng tại chỗ và cơ động vẫn cùng tồn tại. Tham mưu phải coi trọng cả hai lực lượng này trong chỉ đạo xây dựng và tác chiến của mình…

Suốt tháng 1-1948, các vấn đề trên đây trở thành nội dung học tập chủ yếu mà tổ học tập hướng dẫn cho cán bộ Bộ Tổng tham mưu nghiên cứu, thảo luận. Các phái viên từ các đơn vị trở về cơ quan, với thực tế chiến trường mà các anh thu hoạch được trong suốt mùa khô vừa qua, đã phát huy tác dụng tốt, giúp đỡ cho các anh em khác tiếp thu những vấn đề học tập dễ dàng hơn bằng những điều tai nghe mắt thấy ở địa phương, đơn vị.

Đầu tháng 2, sau khi đã bổ sung những kết luận trong hội nghị tổng kết chiến dịch Việt Bắc và nhất là tinh thần cơ bản của hội nghị Trung ương (trong đó nổi lên là nhiệm vụ phát động chiến tranh du kích), cơ quan tham mưu đã hoàn thất bản huấn thị theo sự hướng dẫn của Tổng tham mưu trưởng. Bản huấn thị nhan đề Về việc củng cố bộ đội và học tập kinh nghiệm của chiến dịch Việt Bắc được Tổng Chỉ huy cho ý kiến bổ sung, sửa chữa và cuối cùng được phê duyệt và gửi xuống các địa phương, đơn vị.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Mười Một, 2012, 05:57:02 pm
II

Sau chiến thắng Việt Bắc, cơ quan Bộ Tổng tham mưu lui xuống đóng ở Lưu Quang, sát đường Phú Minh lên Quán Vuông.

Vào khoảng giữa tháng 1, mỗi khi có việc ra đường, điều khiến anh em chú ý là thường gặp nhiều cán bộ từ phía Quán Ông Già đi ngược lên hướng Quảng Nạp, Yên Thông. Số đông là đi xe đạp, nhưng cũng có người đi bộ hay đi ngựa. Khá nhiều người bận áo bludông chiến lợi phẩm. Với con mắt nhạy bén của người cán bộ làm việc trong cơ quan Tổng hành dinh, anh em biết đó là những cán bộ ở các địa phương, các chiến trường, được triệu tập về. Anh em rỉ tai nhau: chắc có cuộc họp quan trọng ở Bộ hoặc bên Trung ương.

Mấy hôm nay anh Thái thường vắng mặt ở cơ quan khiến anh em càng khẳng định là có cuộc họp quân sự hơn là cuộc họp về Đảng. Có người tỏ ra am tường, nói rõ thêm: anh Thái chưa phải là ủy viên Trung ương, nên chắc chỉ là hội nghị quân sự. Một người bác đi, giọng quả quyết:

- Mình cho rằng Trung ương họp, anh Thái có thể được mời dự một hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương mở rộng bàn về phương hướng nhiệm vụ quân sự sau một thắng lợi quan trọng như Việt Bắc…

Câu chuyện rỉ tai nhau đến cuối cùng rồi cũng lắng xuống. Lúc này, vấn đề “bem” (tức là nguyên tắc giữ bí mật) được mọi người tuân thủ nghiêm túc.

Cho đến một ngày hạ tuần tháng 1, sau khi trở về cơ quan được vài hôm, Tổng Tham mưu trưởng triệu tập cuộc họp các cán bộ đầu ngành. Anh muốn truyền đạt lại một số nội dung của hội nghị Trung ương có liên quan đến nhiệm vụ trước mắt của Bộ Tổng tham mưu(1).

Sau khi nhắc lại sự phân tích của Hội nghị Trung ương về tình hình thế giới và trong nước bước vào năm 1948, anh Thái nói rõ sự đánh giá của hội nghị về cục diện chiến trường sau chiến dịch Việt Bắc. Lực lượng so sánh giữa ta và địch chuyển biến và còn chuyển biến ngày càng sâu sắc hơn. Đã đến lúc địch không thể tự do tung lực lượng ra chiếm đất của ta một cách dễ dàng như trong những tháng hè 1947, hay trong mùa khô vừa qua. Sự đánh giá này rất quan trọng. Nó nói lên thế và lực của địch đã giảm sút, sau thất bại ở Việt Bắc. Nếu ta tích cực và mau lẹ phát triển ưu điểm, sửa chữa nhược điểm và khuyết điểm thì chiến thắng Việt Bắc là một cái đà để cuộc kháng chiến bước sang giai đoạn mới. Trung ương nhận định rằng, năm 1948 là một năm có nhiều triển vọng nhưng cũng là một năm cuộc kháng chiến sẽ rất gay go, gian khổ…

Rồi Tổng Tham mưu trưởng nói về chủ trương chiến lược của Trung ương: mở rộng phong trào dân quân, phát triển chiến tranh du kích khắp nơi trong vùng địch kiểm soát đi đôi với tập trung đánh vận động tiêu diệt địch, quét những đồn lẻ của chúng, buộc địch phải thu hẹp địa bàn chiếm đóng… Mùa khô tới, nếu địch tiến công lên Việt Bắc một lần nữa, hoặc tiến công vào Khu 4, ta phải chuẩn bị chu đáo để phá tan các cuộc hành binh của chúng, đồng thời phá kế hoạch càn quét của chúng ở Nam Bộ. Phải đuổi địch ra khỏi Việt Bắc, trước hết ra khỏi Bắc Kạn, Cao Bằng và Lào Cai. Để nâng cao trình độ của bộ đội, bảo đảm cho bộ đội thực hiện tốt chủ trương chiến lược trên đây, Trung ương quyết định phát động phong trào luyện quân lập công, gây một phong trào học tập kinh nghiệm chiến đấu của Việt Bắc trong bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương. Về mặt trang bị, trong chiến dịch Việt Bắc, súng badôca và súng cối cỡ nhỏ đã phát huy tác dụng tốt. Trung ương nhận thấy cần có kế hoạch tích cực sản xuất lựu đạn và các loại vũ khí thô sơ để trang bị rộng rãi cho dân quân du kích, đi đôi với sản xuất vũ khí cải tiến, kể cả badôca, súng cối cỡ lớn và các loại vũ khí công đồn để trang bị cho các tiểu đoàn tập trung tiến công vào vị trí địch. Tham mưu sẽ cùng các đồng chí bên quân giới bàn cụ thể vấn đề này.

Một vấn đề quan trọng đối với Bộ Tổng tham mưu là làm thế nào thực hiện tốt một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong năm 1948 là phát động chiến tranh du kích rộng rãi. Vấn đề đặt ra là tìm nguyên nhân vì sao trong cả năm 1947, kể cả trong thu đông vừa qua, chiến tranh du kích ở nhiều nơi chưa được đẩy mạnh? Ai cũng thấy huấn lệnh về phát động chiến tranh du kích ban hành ngày 14-11 chưa phát huy tác dụng thì chiến dịch Việt Bắc đã kết thúc. Và ai cũng thấy phương hướng đề ra trong huấn lệnh đó và chủ trương sử dụng hai lực lượng (đại đội độc lập và tiểu đoàn tập trung) là chủ trương đúng đắn, nhằm thúc đẩy cả chiến tranh du kích và tác chiến tập trung quy mô nhỏ cùng phát triển.

Trở lại vấn đề phát triển chiến tranh du kích trong năm 1948, anh Thái cho biết Trung ương đã chấp thuận đề nghị của Quân ủy Trung ương, đó là đề nghị về một biện pháp chiến lược bắt nguồn từ kết quả và kinh nghiệm sử dụng đại đội độc lập trên chiến trường Việt Bắc trong thu đông 1947. Bộ quyết định sẽ phân tán khoảng một phần ba bộ đội chủ lực trong toàn quốc thành các đại đội độc lập, làm nòng cốt cho phong trào chiến tranh du kích, nhằm thực hiện một chủ trương chiến lược được gọi là biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta. Các đại đội độc lập sau này không chỉ hoạt động trong và giáp vùng địch tạm chiếm mà cả trong vùng tự do, nhất là ở những huyện miền núi mà cơ sở chính trị chưa thật mạnh, cần được củng cố vững chắc, như Đồng Văn (Hà Giang), Chiêm Hóa (Tuyên Quang)…


(1) Sau này được biết, đây là hội nghị Trung ương mở rộng, họp từ ngày 15 đến ngày 17-1-1948, bản về phương hướng lãnh đạo khi cuộc kháng chiến chuyển sang giai đoạn mới, sau chiến thắng Việt Bắc.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Mười Một, 2012, 05:58:22 pm
Phát động chiến tranh du kích, biến hậu phương địch thành tiền phương ta, nhằm làm thất bại chiến lược bình định của địch, là một trong những chủ trương lớn đã được ghi thành nghị quyết hội nghị Trung ương. Phòng Nhân sự cùng với Phòng Tác chiến rà soát lại các đơn vị chủ lực, làm bản kế hoạch đề đạt chuyển thêm những đơn vị vào thành đại đội độc lập và đưa về những địa phương nào, trước hết là các địa phương trong vùng địch tạm chiếm. Phương hướng chung là chừng 1/3 tổng số các đại đội (gồm cả những đại đội đã về các địa phương trong thời kỳ đang diễn ra chiến dịch Việt Bắc). Về phạm vi địa bàn hoạt động, lấy huyện (châu, phủ) làm đơn vị cho từng đại đội. Phương thức hoạt động như trong thu đông vừa qua nhưng tùy tình hình cụ thể từng địa bàn mà xác định hình thức và quy mô hoạt động cho phù hợp. Nơi phong trào còn yếu thì lấy hình thức ban xung phong công tác (hoặc đội vũ trang tuyên truyền) nhằm xây dựng cơ sở chính trị vững chắc làm nền tảng tiến lên xây dựng các đội vũ trang bí mật. Nói nào cơ sở chính trị đã tương đối vững, có thể lấy quy mô đại đội để hoạt động, nhằm hỗ trợ cho phong trào chiến tranh du kích và chuẩn bị chiến trường cho các tiểu đoàn tập trung về tác chiến. Ở các huyện trong vùng tự do mà cơ sở chính trị chưa mạnh, lấy việc động viên chính trị đi đôi với tổ chức huấn luyện dân quân du kích làm nhiệm vụ chính trong hoạt động của đại đội độc lập…

Trong giờ giải lao, có đồng chí hỏi anh Thái về việc còn được coi là “bem”, chưa công bố mà cũng có thể là không công bố. đó là việc Chính phủ quyết định phong quân hàm cấp tướng cho một số cán bộ cao cấp trong quân đội, trong đó có Tổng Tham mưu trưởng. Anh Thái có phần ngạc nhiên, không hiểu vì sao mà anh em biết được tin này. Và anh em đã hỏi, anh thấy cũng không nên giấu, nhưng anh chỉ nói qua loa rồi vui vẻ thêm: Trên đã có chủ trương sau khi phong quân hàm cấp tướng, sẽ lần lượt phong tiếp cho cán bộ các cấp dưới, ở cơ quan là cấp cục, cấp phòng… Nhưng không được vì có quân hàm mà quên phương châm du kích chiến là căn bản đấy…

Mọi người cười, và cuộc họp tiếp tục. Anh Thái nghe các phòng báo cáo về tình hình chuẩn bị triển khai cuộc vận động “Luyện quân đội - Lập chiến công”, gọi tắt là “Luyện quân - lập công”.

Sau khi có chỉ thị của Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy, đã có cuộc họp liên tịch giữa các phòng nghiệp vụ của Bộ Tổng tham mưu với bên quân huấn(1). Hai bên đã cùng nhau thống nhất về nội dung huấn luyện, về tổ chức ban luyện quân ở bộ và khu. Một kế hoạch đã được xây dựng và đã được Bộ thông qua, bao gồm:

- Đợt 1 của cuộc vận động sẽ diễn ra trong xuân hè năm 1948 và kết thúc vào trung tuần tháng 6 nhân dịp kỷ niệm 1.000 ngày kháng chiến. Do có thêm thực tế chiến đấu cuối năm 1947 nên nội dung huấn luyện cũng được điểu chỉnh và bổ sung cho sát với yêu cầu chiến đấu, sát với trình độ bộ đội. Nội dung tập trung vào những vấn đề kỹ thuật chiến đấu cơ bản của chiến sĩ, các chiến thuật đánh phục kích, đánh giao thông và chiến thuật công đồn các tiểu đoàn tập trung.

- Đợt 2 dự tính sẽ chia làm hai bước: hè thu 1948 và xuân 1949. Hai bước này có thể sẽ xê dịch, tùy theo diễn biến của tình hình mùa khô 1948 này.

Để hướng dẫn anh em thảo luận và vận dụng vào nghiệp vụ cụ thể, Tổng Tham mưu trưởng nhấn mạnh: Cần gắn cuộc vận động luyện quân lập công với việc triển khai các đại đội độc lập và tiểu đoàn tập trung. Hai phòng Nhân sự và Tác chiến cần phối hợp chặt chẽ để sau khi danh sách các đại đội độc lập được thông qua, việc huấn luyện các đại đội này phải được tiến hành khẩn trương để kịp đưa về các địa phương trước mùa hè. Tổng Tham mưu trưởng còn lưu ý các phòng cần vận dụng chế độ phái viên vào việc giúp đỡ các đơn vị triển khai cuộc vận động luyện quân như đã làm trong tác chiến mùa khô vừa qua. Khi nghe báo cáo dự kiến cử những phái viên nào xuống các đơn vị, anh Thái nhắc các phòng nên tập trung trước hết vào các khu có những trung đoàn trình độ tổ chức huấn luyện tương đối yếu, đồng thời cũng cần có những phái viên đi sát giúp đỡ mấy đơn vị chủ lực của Bộ. Rồi anh cho ý kiến về chế độ báo cáo của các phái viên. Từ kinh nghiệm chiến dịch Việt Bắc, anh nhắc các phòng nên xác định trách nhiệm của anh em phái viên trong việc phát hiện vấn đề cần được giải quyết kịp thời trong quá trình theo dõi triển khai cuộc vận động.

Trả lời một vấn đề được nêu lên về tổ chức huấn luyện chiến thuật đánh đồn, Tổng Tham mưu trưởng chỉ rõ: Cá tiểu đoàn chủ lực của ta hiện nay có ít nhiều kinh nghiệm đánh phục kích, đánh giao thông, nhưng kinh nghiệm đánh đồn còn rất hạn chế. Phòng Tác chiến cần bàn với các phòng nghiệp vụ bên Cục Quân huấn và anh Trương Cao Phong nên tổ chức huấn luyện một tiểu đoàn chủ lực mẫu của Bộ để rút kinh nghiệm. Mục tiêu là một vị trí do một trung đội tăng cường hoặc nhiều nhất là một đại đội địch chiếm giữ. Cần xây dựng một đồn với những kiến trúc, những chướng ngại và mạng lưới hỏa lực như thật. Nên dùng một số binh sĩ (vốn là tù - hàng binh người nước ngoài) trong đơn vị đặc biệt của anh Trương Cao Phong đóng vai đối kháng(2) để bộ đội luyện tập cho sát thực tế.

Do muốn hoàn tất việc thảo luận các nội dung đề ra nên cuộc họp kết thúc hơi muộn. Hôm nay lại gần ngay Ông Táo về chầu Ngọc hoàng nên trời tối sớm, nhất là thời tiết Việt Bắc. Năm Đinh Hợi sắp qua, xuân Mậu Tý sắp tới. Dưới ánh đèn dầu mới được thắp lên, anh Thái nói kết thúc một ngày làm việc khẩn trương.

- Trách nhiệm của Bộ Tổng tham mưu chúng ta triển khai nghị quyết của hội nghị Trung ương là rất nặng nề. Chúng ta mới bàn được hai việc lớn nhất và cũng là quan trọng nhất đối với chúng ta trong năm nay là giúp trên chỉ đạo phát động phong trào chiến tranh du kích và cuộc vận động huấn luyện quân đội. Như vậy là chúng ta đã đi đúng hướng, là quan tâm cả chiến tranh du kích và xây dựng bộ đội chủ lực, chuẩn bị cho những trận đánh tập trung ở quy mô nhỏ. Sắp tới, còn nhiều vấn đề cần được nghiên cứu tiếp, trong đó có vấn đề rất quan trọng mà hai phòng Tình báo và Tác chiến cần hợp lực cùng làm, đó là nghiên cứu về âm mưu chiến lược sắp tới của địch, về dự kiến kế hoạch tác chiến mùa khô này của chúng. Trước mắt, chúng ta cần tập trung theo dõi sự chuyển biến của phong trào chiến tranh du kích, nhất là sau khi các đại đội độc lập đã bén rễ ở các địa phương. Chiến tranh du kích là vấn đề có tầm quan trọng lớn lao về chiến lược, nhất là trong năm nay, năm thực hiện chủ trương biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta


(1) Lúc này cơ quan quân huấn vẫn là một cục trong Bộ Quốc Phòng - Tổng Chỉ huy. Mãi đến hội nghị tham mưu - quân huấn (tháng 2-1950) ta mới có điều kiện khắc phục những điều bất hợp lý khi hai cơ quan tham mưu và quân huấn tách biệt nhau. Tuy nhiên, phải 5 tháng sau, khi có Sắc lệnh 121 (ngày 11-7-1950) đổi Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy thành Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội quốc gia và dân quân Việt Nam, Cục Quân huấn mới chính thức trở thành một cục trong Bộ Tổng tham mưu.
(2) Sau này, trong huấn luyện diễn tập, ta quen gọi là “quân xanh”.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 14 Tháng Mười Hai, 2012, 09:21:05 am
III

Gần đến ngày Tết, hai cán bộ tham mưu được cử đi theo đồng chí Tổng chỉ huy xuống Liên khu 10(1). Anh Văn muốn xuống thăm hỏi và trực tiếp kiểm tra việc chuẩn bị lên đường của các đội vũ trang tuyên truyền xung phong Tây Bắc. Được phân công theo dõi vùng Tây Bắc từ lâu, hai cán bộ tham mưu của chúng ta rất am tường địa bàn chiến lược quan trọng này ở miền Tây Tổ quốc.

Chiến trường Tây Bắc đã được Tổng Quân ủy quan tâm từ những ngày trước kháng chiến toàn quốc.

Nhớ lại hồi tháng 8-1945, lá cờ cách mạng như ánh sáng mặt trời xua tan bòng tối bao phủ trên mảnh đất miền Tây Bắc thì kẻ thù từ nhiều hướng đã ập tới. Quân Tưởng kéo vào Lai Châu, Thuận Châu, Điện Biên Phủ. Quân Pháp (thất trận và tháo chạy từ hồi đảo chánh của Nhật) từ phía Côn Minh - Trung Quốc, vượt qua biên giới vào Sơn La, Mộc Châu, Nghĩa Lộ, tới giáp sông Hồng. Chính quyền thổ ty, tay sai của Pháp lần lượt mọc lên, núp dưới chiêu bài xứ Thái tự trị, xứ Mường tự trị, với những Đèo Văn Long ở Lai Châu, những Bạc Cầm Quý ở Sơn La… Các cứ điểm của quân Pháp, như vết dầu, cứ loang rộng mãi ra. Cuộc đời người dân Tây Bắc trở lại tăm tối hơn những ngày trước Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945.

Phải tiến lên giải phóng Tây Bắc! Tây Bắc đau thương đang mong chờ quân cách mạng! Theo tiếng gọi đó, mùa xuân năm 1947 Trung đoàn Tây tiến lên đường.

Trong thư đề ngày 1-2-1947 gửi bộ đội Tây tiến, đồng chí Võ Nguyên Giáp viết:

“… Miền Việt - Tây đối với nước ta có một vị trí chiến lược rất quan trọng. Hùng cứ được vùng đó, không những quân địch ở vào thế cứ cao lâm hạ, có thể uy hiếp hậu phương của chúng ta, mà chúng lại mong thực hiện âm mưu độc ác dĩ Việt chế Việt, chia rẽ các anh em thiểu số, lập bộ đội người Việt thiểu số để tiến đánh chúng ta…

… Mỗi một tấc đất miền Tây là một tấc đất của Tổ quốc Việt Nam, chúng ta không thể để cho địch dễ dàng giẫm lên được. Mỗi một đồng bào miền Tây là một người dân nước Việt, chúng ta không thể không bảo vệ quyền lợi của đồng bào, không thể để đồng bào ta bị quân địch giày xéo hay lung lạc. Hơn nữa, bảo vệ được lãnh thổ và nhân dân miền Tây, tức là gián tiếp bảo vệ được đại hậu phương của chúng ta, giúp một phần quan trọng vào thắng lợi cuối cùng…”.

Trung đoàn Tây tiến, với Tiểu đoàn 212, gồm những chàng trai Hà Nội, ra đi từ ngày đó. Vượt sông Mã xong, bước đường vạn dặm đầy gian lao cuối cùng cũng đưa các anh đến được mảnh đất miền Tây trùng điệp của Tổ quốc. Những khó khăn thử thách không ngừng tăng lên: địch, đói, rách, sốt rét… Bệnh binh nhiều hơn thương binh. Thiếu súng đạn, thiếu gạo muối, thiếu thuốc chữa bệnh. Những chàng trai tráng kiện buổi lên đường nay chỉ còn là một “đoàn quân không mọc tóc”. Mỗi khi tiếng cồng quân y vang lên, nhân dân địa phương biết đó là tin báo một chiến sĩ vừa qua đời, thường là sau một cơn sốt ác tính. Cuối cùng, toàn trung đoàn được lệnh trở lại đất Hòa Bình.

Nếu Trung đoàn Tây tiến không đủ sức vượt qua khó khăn để bám trụ trên địa bàn miền Tây thì Trung đoàn Sơn La lại bất khỏi mảnh đất này vì những sai lầm về chính sách dân vận.

Đến cuối năm 1947, không còn một đơn vị lực lượng vũ trang cách mạng nào bám trụ được trên địa bàn rừng núi Tây Bắc rộng lớn. “Phó vương” họ Bạc, “vương” họ Đèo, dựa vào quân Pháp, mặc sức lộng hành. Sĩ quan Pháp nói thạo tiếng Thái cùng với bọn tay sai thạo tiếng Pháp câu kết với nhau củng cố bộ máy thống trị hà khắc chưa từng thấy.

Hạ tuần tháng 1-1948, vào dịp Liên khu 10 được thành lập, Bộ Tổng chỉ huy ra chỉ thị về việc xây dựng căn cứ địa Tây Bắc. Sau khi khẳng định vùng rừng núi Tây Bắc “là một địa vực hết sức quan trọng về chiến lược trong thời kỳ kháng chiến cũng như về sau này…, vì vậy vấn đề giải phóng cho đồng bào Tây Bắc và xây dựng căn cứ địa Tây Bắc là một vấn đề quan trọng trong công cuộc giải phóng dân tộc”, bản chỉ thị đã nêu lên phương châm và nguyên tắc chính như sau: 1- Phải mở rộng và củng cố cơ sở nhân dân; 2- Phải biết vận dụng vũ trang tuyên truyền; 3- Về quân sự, phải giúp đỡ xây dựng các tổ chức du kích người địa phương, giúp đỡ các đội du kích trưởng thành, tiến dần lên thành những đại đội độc lập; 4- Phải coi trọng việc đào tạo và sử dụng cán bộ người địa phương…

Khi hai cán bộ tham mưu theo Tổng Chỉ huy xuống Liên khu 10 thì hai ban xung phong Tây Bắc đang chuẩn bị lên đường, lấy mục tiêu là tiến vào Điện Biên Phủ. Ban Xung phong Quyết tiến, do đồng chí Bạch Luân và đồng chí Hồng Quân chỉ huy, tiến theo hướng Quang Huy; Ban Xung phong Trung dũng, do các đồng chí Lê Thanh và Xích Vân chỉ huy, tiến theo hướng Xiêng Khương. Tiếp theo sẽ là các ban xung phong Quyết Thắng, Tây Bắc, Tây tiến (Tiểu đoàn 212 cũ) lần lượt lên đường.

Nói chuyện với cán bộ các ban xung phong Quyết tiến và Trung Dũng, đồng chí Tổng Chỉ huy chỉ rõ những gian nan, thử thách đang chờ đợi anh em. Nhưng “sự hiểm nghèo, khổ sở không thể chinh phục được lòng dũng cảm của những thanh niên hăng hái, không thể chinh phục được ý chí của mỗi dân tộc… Chỉ một việc cất chân lên đường xung phong tiến về hướng tây đã chứng tỏ chí hy sinh và lòng kiên nghị của các đồng chí”… Chỉ vẽ cho anh em về phương hướng hoạt động, đồng chí Tổng Chỉ huy nói: “Các đồng chí cần phải ăn ở rất tốt, lấy nói năng, cử chỉ, giúp đỡ hằng ngày mà chứng minh rằng chúng ta là đồng bào một nước, bao giờ cũng thương yêu nhau như anh em ruột thịt… Phải có sáng kiến và kiêm tâm trong việc vận động nhân dân cũng như trong việc tiến đánh địch… Phải ra sức giữ gìn sức khỏe, không bao giờ quên những nguyên tắc vệ sinh thường thức, không ăn quả xanh, không uống nước lã, phải luôn luôn vận động, luôn luôn vui vẻ…”.

Khi các phái viên về báo cáo lại buổi lên đường của hai ban xung phong Quyết tiến và Trung dũng, Tổng tham mưu trưởng rất xúc động. Từ kinh nghiệm bản thân hoạt động trong đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân năm xưa, anh Thái hiểu rất rõ: các chiến sĩ Tây tiến đang vượt hàng trăm kilômét đường rừng, qua những vùng trắng do địch kiểm soát. Anh em đang và sẽ còn phải đương đầu với những khó khăn thử thách trong những ngày sống và chiến đấu gian khổ, hiểm nghèo sắp tới, những thử thách mà lúc này anh em chưa hình dung hết…

Tổng Tham mưu trưởng dặn Phòng Tác chiến theo sát diễn biến sắp tới trên hướng Tây Bắc. Công việc Tây tiến về lâu dài vẫn là một cuộc đấu tranh gay gắt giữa ta và địch nhằm giành đất, giành dân. Trước hết, trong năm 1948 này, các đội Tây tiến đi đến đích và bước đầu bám trụ được đã là thành công quan trọng bước đầu của chủ trương chiến lược: Biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta.


(1) Ngày 25-1-1948, Chính phủ ra sắc lệnh sáp nhập các khu lại thành các liên khu như đã dự kiến hồi đầu tháng 10-1947. Liên khu 10 gồm hai khu cũ: 10 và 14.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 14 Tháng Mười Hai, 2012, 09:21:34 am
IV

Bộ Tổng chỉ huy quyết định triệu tập hội nghị dân quân toàn quốc vào tháng 4. Bộ Tổng tham mưu có nhiệm vụ phối hợp với Phòng Dân quân Cục Chính trị chuẩn bị nội dung. Việc nắm lại tình hình phong trào chiến tranh du kích trong phạm vi cả nước là một việc các anh Hoàng Văn Thái và Lê Liêm đề ra cho các phòng chuẩn bị từ hồi đầu năm.

Chiến tranh du kích mới được phát động. Nhiều đại đội độc lập mới bắt đầu về bám đất, bám dân trên các địa bàn được phân công. Tổng hợp tình hình dân quân du kích trong toàn quốc không những có tác dụng giúp Tổng Quân ủy xác định trọng tâm chỉ đạo hội nghị, mà qua thực tế tình hình, Bộ tổng tham mưu còn thấy rõ hơn hướng hoạt động cụ thể cần chú ý trong chỉ đạo các đại đội độc lập trên từng địa bàn cho sát đúng hơn.

Liền trong mấy ngày hạ tuần tháng 3, đồng chí Lê Liêm và một số cán bộ Phòng Dân quân sang làm việc với Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái và mấy trưởng phòng thuộc Bộ Tổng tham mưu. Đây là lần đầu tiên có cuộc họp liên tịch, với thành phần rộng rãi giữa tham mưu và dân quân, cũng là lần đầu tiên cán bộ hai cơ quan cùng nhau nghe tình hình cụ thể của phong trào dân quân trong cả nước để thống nhất đánh giá tình hình. Chuẩn bị cho mấy cuộc họp liên tịch hôm nay, cán bộ hai cơ quan đã cùng nhau làm việc nhiều ngày để tổng hợp tình hình, làm cơ sở cho các đồng chí lãnh đạo rút ra những bài học chỉ đạo phong trào. Cuộc họp liên tịch đã rà soát lại phong trào từng địa phương.

Tại Nam Bộ: Sau chiến thắng Việt Bắc, đồng chí Lê Duẩn đánh giá rằng Bắc Bộ đang trở thành chiến trường chủ yếu thu hút lực lượng địch. Vì vậy, ở Nam Bộ, quân địch khó tránh khỏi bị sơ hở. Nếu ta biết triệt để ấp dụng chiến lược, chiến thuật du một cách có hiệu quả hơn để căng kéo địch ra, giam chân và uy hiếp chúng khắp nơi, thì khả năng giành lại quyền chủ động sẽ sớm xuất hiện và duy trì được.

Đặc điểm nổi lên ở Nam Bộ trong thời gian qua là phong trào đấu tranh ở đô thị, trước hết là ở Sài Gòn - Chợ Lớn.

Âm mưu của địch là xây dựng thành phố thành hậu phương an toàn của chúng. Chúng củng cố chính quyền tay sai xuống tận khóm, phường; tăng cường lực lượng cảnh sát mật vụ; áp dụng mọi biện pháp an ninh hòng đè bẹp mọi tổ chức chống đối. Chúng tìm mọi thủ đoạn hòng tiêu diệt cơ quan lãnh đạo kháng chiến, triệt phá cơ sở chính trị và vũ trang ở cả nội và ngoại thành.

Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn và Xứ ủy Nam Bộ coi việc duy trì và phát triển phong trào đấu tranh ở đô thị là một công tác hàng đầu. Các tổ chức mang nhiều tên khác nhau (ban trinh sát, ban quân báo, ban hành động, ban công tác, công an xung phong, v.v.) trong các thành phố đều được kiện toàn. Từ đầu năm 1948, các lực lượng này được thống nhất thành 10 ban công tác thành. Riêng ở vùng ven đô, các mặt hoạt động đều được phân công theo dõi từng địa bàn, nhằm xây dựng dân quân, phát triển cơ sở kháng chiến trong các tổ chức quần chúng bí mật sát đô thành. Các hoạt động vũ trang của các ban công tác thành làm cho địch luôn không ổn định. Chúng phải thường xuyên đối phó, hòng hạn chế ảnh hưởng của kháng chiến đang không ngừng lan rộng trong nội thành.

Tại Nam Trung Bộ và Tây Nguyên: Bằng biện pháp càn quét, bình định, phát triển mạng đồn bốt, nhất là ở vùng giáp ranh giữa miền núi và đồng bằng, đi đôi với chính sách chia rẽ gây hằn thù dân tộc, khủng bố đi đôi với mua chuộc bằng kinh tế, địch ra sức củng cố vùng tạm chiếm và chia cắt giữa các chiến trường rừng núi phía tây với đồng bằng ven biển.

Từ cuối năm 1947 đầu năm 1948, bộ đội chủ lực các khu 5 và 6 đã sớm phân tán thành các đội vũ trang tuyên truyền, tỏa về hoạt động ở các địa phương. Việc xây dựng cơ sở tại vùng ven biển và hai bên các đường 19, 7 và 21 đã tạo điều kiện tác chiến cho bộ đội chủ lực, trong đó nổi lên là các trận đánh của chủ lực và dân quân du kích Hòa Vang và Điện Bàn đầu năm 1948 vừa qua.

Một điểm đáng chú ý ở Liên khu 5 là lãnh đạo đã sớm nghĩ đến việc đưa lực lượng đi gây cơ sở, mở đường phát triển sang vùng rừng núi phía tây, trên nhiều hướng. Hướng nam Tây Nguyên, ngược sông Ba, phát triển lên Cheo Reo, Buôn Hồ, hướng nữa là sang Măng Đen, Đắc Đoa; hướng bắc thọc một mũi lên phía núi Ngọc Linh, vào rừng Mường Hoong, Đắc Lây, nhằm bắt liên lạc với cánh quân từ Quảng Nam - Đà Nẵng đang phát triển lên hướng tây, tới biên giới Việt - Lào.

Như vậy, việc phát triển cơ sở trên vùng rừng núi miền Tây đang được coi trọng, đang được xúc tiến khẩn trương.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 14 Tháng Mười Hai, 2012, 09:22:44 am
Trên chiến trường Bình - Trị - Thiên: Giữa những ngày Bình - Trị - Thiên gặp khó khăn, hội nghị cán bộ cấp tỉnh họp, đề ra chủ trương “cán bộ trở về làng”. Đó là cuộc họp có ý nghĩa quan trọng hạ tuần tháng 3-1947. Từ căn cứ Hòa Mỹ lan rộng dần ra, nhiều “chiến khu” hình thành ở cả Quảng Trị và Quảng Bình. Trải qua chừng 10 tháng phục hồi cơ sở chính trị và vũ trang, bộ đội cùng dân quân du kích đẩy mạnh hoạt động, buộc địch phải co hẹp phạm vi kiểm soát của chúng lại. Các trận diệt đồn Đất Đỏ, đột nhập thành phố Huế, phục kích ở Cẩm Phổ, Chợ Cầu… đã gây tiếng vang lớn, động viên tinh thần kháng chiến của nhân dân. Trong khi chính quyền tay sai địch dao động thì chính quyền bí mật của ta nhiều nơi được phục hồi, dân quân du kích phát triển nhanh. Riêng huyện Lệ Thủy đã xây dựng được 5 trung đội.

Bài học của Bình - Trị - Thiên là bài học kiên quyết bám đất, bám dân, từ xây dựng cơ sở chính trị lên vũ trang đánh địch, phối hợp hỗ trợ giữa chủ lực và địa phương.

Lúc này, Bộ Chỉ huy địch ở Trung Trung Bộ đang triển khai kế hoạch càn quét mới, nhằm bình định vùng tạm chiếm. Quân và dân Bình - Trị - Thiên đang đứng trước những khó khăn mới do những cuộc càn quét lớn của địch gây ra (như cuộc càn vào các chiến khu Hòn Linh và Hòa Mỹ tháng 3-1948). Khó khăn lớn hiện nay là thiếu lương thực và thuốc chữa bệnh. Nhưng, như đồng chí Nguyễn Chí Thanh nói, quân dân địa phương sẽ vượt qua, vì đã đi đúng hướng.

Mặt trận đường 5 - Hà Nội - Hải Phòng: Vai trò quan trọng của hai thành phố lớn và của đường 5 đủ giải thích vì sao từ hè 1947 địch cố gắng bình định nhằm làm chủ con đường chiến lược này. Hệ thống cứ điểm nhỏ, nhất là ở các nút giao thông và các cầu, cùng với lực lượng ứng chiến tại chỗ và bộ máy tề ngụy… Tất cả đều nhằm phục vụ cho chính sách “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”. Cuộc đấu tranh giữa ta và địch trên mặt trận đường 5 thường xuyên diễn ra ác liệt. Trong cả năm 1947, nhiều trận phục kích, đánh giao thông, không ngừng diễn ra dọc con đường này, mà nổi lên là hoạt động của du kích Cẩm Giàng, Kim Thành và du kích xã Ái Quốc.

Điểm yếu của phong trào là thiếu sự chỉ đạo, chỉ huy thống nhất trên suốt cả tuyến đường, thiếu kế hoạch chung cả về xây dựng và tác chiến nên phong trào không đều. Địch sớm phát hiện những nơi cơ sở của ta còn yếu, tập trung đánh phá, nên phong trào những nơi đó xuống, có nơi cả bộ đội và du kích phải bật khỏi địa phương. Từ sau hội nghị Trung ương tháng 1-1948, Liên khu ủy 3 đã kịp thời uốn nắm, vạch ra phương hướng khắc phục những thiếu sót trên, nhấn mạnh nhiệm vụ bám địa phương, xây dựng cơ sở chính trị và vũ trang từ thấp lên cao, phối hợp nhiều hình thức, nhiều lực lượng (Vệ quốc đoàn, du kích tập trung, biệt động) cùng đánh địch. Đến nay, chiến tranh du kích dọc đường 5 đã dần dần phát triển trở lại, đều hơn, không còn hiện tượng “làng trắng”. Phổ biến là các xã đều có tổ du kích, tiểu đội du kích. Từ đầu năm 1948, nhiều trận đánh mìn, phá giao thông (cả đường sắt và đường bộ) lại liên tiếp diễn ra. Đáng chú ý là du kích An Dương (Hải Phòng), Kim Thành, Cầm Giàng (Hải Dương), Văn Lâm (Hưng Yên), Gia Lâm (Bắc Ninh).

Tại Hà Nội: Hội nghị cán bộ thành tháng 3-1948 đã đề ra chủ trương tập trung vào việc đánh phá âm mưu địch lập “phòng tuyến thứ ba”(1). Cụ thể là giữ vững cơ sở Đảng và cơ sở chính trị quần chúng vùng giữa các tuyến đang bị khủng bố, càn quét; phá tề, trừ gian, đi đôi với phát triển cơ sở chính trị ở cả nội và ngoại thành, nhất là tại những địa bàn yết hầu của địch; phát triển dân quân du kích rộng khắp; xây dựng ngoại thành làm bàn đạp xâm nhập tiến công nội thành… Thực hiện nghị quyết trên đây, một số cán bộ từ ngoài vùng tự do được đưa về làm bám đường phố, bám dân, xây dựng cơ sở quần chúng. Mỗi quận đã xây dựng được một trung đội vũ trang tuyên truyền, xây dựng được cơ sở quần chúng tại các khu lao động. Lực lượng kháng chiến, từ công nhân, dân nghèo, học sinh, sinh viên, tiểu thương, tiểu chủ, đang phát triển dần sang nhân sĩ và trí thức yêu nước. trên cơ sở chính trị phát triển ngày càng sâu rộng, các đội biệt động đang có thêm điều kiện chuẩn bị lực lượng và kế hoạch để khi có lệnh, đánh các cơ sở kinh tế và quân sự của địch.

Tại Hải Phòng: Phong trào ở Hải Phòng vừa trải qua những ngày khó khăn. Đến cuối năm 1947, 4/5 đất liền tỉnh Hải Kiến (Hải Phòng - Kiến An) là vùng địch tạm chiếm. Chúng lập ra tiểu khu Hải Phòng (gồm Hải Phòng, Đồ Sơn, Kiến An) nằm trong khu duyên hải. Hàng loạt đồn bốt được dựng lên, nhất là ở những trung tâm trọng yếu.

Trước tình hình đó, hội nghị liên tỉnh ủy Hải Phòng - Kiến An họp cuối tháng 2 đã ra Nghị quyết về xây dựng căn cứ hậu phương và phát triển cơ sở ngay trong vùng địch kiểm soát, nhằm đánh địch khắp nơi và về mọi mặt. Ban cán sự nội thành được thành lập để thống nhất chỉ đạo phong trào kháng chiến ngay trong lòng địch, theo phương châm “phục hồi và phát triển cơ sở đi đôi với diệt tề trừ gian”. Các tổ đội công tác hướng vào các xí nghiệp, các xóm lao động để gây dựng và phát triển phong trào. Ở vùng ven ngoại thành và nhiều vùng tự do quanh thành phố Hải Phòng, nhất là ở Tiên Lãng, các mặt công tác phục vụ cho hoạt động quân sự như phá hoại cầu đường, đắp ụ, canh gác, sẵn sàng phối hợp chiến đấu chống địch càn quét,… đã dần đi vào nền nếp.


(1) Địch lập phòng tuyến, nhằm mục đích phân vùng để có chủ trương và thủ đoạn cụ thể bình định đối phó với từng vùng từng tuyến:
Phòng tuyến 1: Nhật Tân - Bưởi - Cẩu Giấy - Ngã Tư Sở - Ngã Tư Vọng - Mai Động - Vĩnh Tuy.
Phòng tuyến 2: Chèm - Đại Mỗ - thị xã Hà Đông - Thanh Liệt - Văn Điển - Đông Trạch.
Phòng tuyến 3: Phùng - Giá - Mai Lĩnh - Thạch Bích - Chùa Trầm.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 14 Tháng Mười Hai, 2012, 09:23:39 am
Sau khi nghe báo cáo tổng hợp, Tổng Tham mưu trưởng nhắc hai anh em cán bộ tham mưu và dân quân cần bổ sung thêm mấy vấn đề, như chống càn, lập làng chiến đấu, xây dựng căn cứ du kích. Và anh phát biểu luôn ý kiến của mình về các vấn đề trên để “gợi ý” các đồng chí nghiên cứu, bổ sung vào bản báo cáo chung”.

Như nhận định của hội nghị Trung ương hồi tháng 1, sau thất bại Việt Bắc, địch quay về bình định vùng tạm chiếm. Để phục vụ cho chính sách “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”, địch coi càn quét bình định là biện pháp chiến lược chủ yếu của chúng trong lúc này. Chủ trương của Quân ủy đưa các đại đội độc lập vào vùng sau lưng địch, nhằm biến hậu phương địch thành tiền phương ta, chính là nhằm phá âm mưu chiến lược mới của địch, chống địch càn quét, bảo vệ cơ sở nhân dân. Sắp tới và lâu dài, càn quét và chống càn quét sẽ còn diễn ra quyết liệt giữa ta và địch, nhằm giành và giữ đất, giành và giữ dân.

Như ở Nam Bộ, cùng với việc lập hệ thống tháp canh, địch tiến hành những cuộc hành binh càn quét nhằm triệt phá cơ sở kháng chiến, tiêu diệt hoặc đánh bật chủ lực ta ra xa, tách bộ đội với nhân dân. Có những cuộc càn nhỏ, chà đi xát lại, nhưng cũng có những cuộc càn lớn, như ở Đồng Tháp Mười hồi tháng 2-1948. Nhiệm vụ chống càn không chỉ là việc của chủ lực mà chủ yếu là của lực lượng vũ trang tại chỗ, của nhân dân, với những làng chiến đấu, nhưng căn cứ du kích, như Đồng Tháp Mười, U Minh, Chiến khu Đ…

Quân và dân Bình - Trị - Thiên từ đầu năm 1948 thường xuyên đánh trả các cuộc hành quân càn quét bình định của địch vào các căn cứ du kích, nhất là ở Hòn Linh, Hòa Mỹ. Cuộc chống càn ở Cự Nẫm đầu tháng 3-1948 là một bằng chứng về vai trò quan trọng của làng chiến đấu trong nhiệm vụ chống địch càn quét bình định.

Bắc Bộ, mà chủ yếu là vùng đồng bằng sông Hồng, trở thành một chiến trường trọng điểm, nơi địch đang tập trung lực lượng để giành giật với ta. Lũy tre, gò đống, mương lạch, ruộng vườn, hồ ao…, nếu được cải tạo sẽ thành địa hình địa vật rất có lợi cho ta cơ động chiến đấu, đồng thời cũng là những chướng ngại vật thiên nhiên, ngăn cản quân địch khi chúng tiến vào làng. Muốn vậy, phải mở rộng thành phong trào xây dựng làng chiến đấu. Những Vật Lại (Sơn Tây), Đình Bảng (Bắc Ninh), cần được nhân lên, góp phần thiết thực phá âm mưu càn quét bình định của địch, góp phần biến hậu phương địch thành tiền phương ta.

Anh Lê Liêm nêu lên những ý kiến phân tích hiện tượng lệch lạc trong chỉ đạo phong trào dân quân du kích đang tồn tại ở một số địa phương. Theo anh Liêm, đây là những ý kiến mà anh đã suy nghĩ và chuẩn bị để viết một bài trên tờ báo Đảng, nhằm góp phần khắc phục một số thiếu sót hiện nay của phong trào.

Trước hết, các địa phương cần thấy rõ tính chất phong phú, toàn dân của chiến tranh du kích. Dù chỉ là một hành động nhỏ, nhưng đều là tinh hoa, là mầm mống của chiến tranh du kích đang trên đà phát triển cần được động viên khuyến khích và phổ biến. Anh dẫn ra mấy ví dụ: Củ chuối hay quả bưởi sơn đen làm mìn giả trên đường 5 hay thả trôi làm thủy lôi giả trên sông Lô; nhát cuốc bất ngờ bổ xuống đầu giặc của một nông dân Võ Nhai (Thái Nguyên), mưu trí lừa địch của đội trưởng du kích người Mán trắng ở Hồng Ân (Bắc Kạn), v.v chưa được đánh giá đúng mức, chưa được động viên thành phong trào. Và anh Lê Liêm kết luận: Muốn mở rộng phong trào du kích, lãnh đạo địa phương cần hiểu chân giá trị của chiến thuật du kích, đánh giá đúng khả năng chiến đấu muôn màu muôn vẻ của người dân địa phương đánh địch tại chỗ, bằng mọi thứ vũ khí thô sơ có trong tay, cần thiết phát hiện và nhân rộng mọi sáng kiến dù nhỏ của quần chúng trong chiến đấu.

Một thiếu sót khác mà anh Liêm thấy cần sớm khắc phục là hiện tượng đưa lực lượng vũ trang thoát ly địa phương khi địch đánh đến. Theo anh, trong từng địa phương cụ thể, khi chuẩn bị kế hoạch cũng như trong chiến đấu, cần dự kiến và tạo điều kiện cho các đội du kích ở lại, vừa sản xuất vừa chiến đấu bảo vệ dân, theo khẩu hiệu “động vi binh, tĩnh vi dân”. Ngay cả ở trong những nơi địch còn mạnh, cũng cần bí mật đưa từng đội viên, từng tiểu tổ vũ trang trở lại, bám dân, làm hạt nhân cho cơ sở quần chúng cách mạng (kể cả các tổ vũ trang bí mật) tồn tại, phát triển và hoạt động rộng rãi sau này. Chỉ có tổ chức và duy trì các tổ du kích bí mật, hòa vào dân ngay trong vùng địch kiểm soát, kịp thời trừng trị bọn tề ngụy ngay khi chúng mới mọc mầm, mới làm cho địch không thể gây dựng được chính quyền tay sai của chúng ở cơ sở, không thể bình định được vùng chúng kiểm soát để trở thành hậu phương an toàn(1)

Cuối cùng cuộc họp liên tịch tham mưu - dân quân đi đến nhất trí về mấy bài học bước đầu được rút rút ra qua thực tế chỉ đạo phong trào dân quân hơn một năm qua:

1- Trên từng địa bàn nhất định, cần có sự chỉ đạo thống nhất, có sự phối hợp giữa lực lượng cả trong xây dựng và tác chiến, cả về quân sự và các mặt khác;

2- Dù tình hình khó khăn thế nào, cán bộ địa phương cũng phải bám cơ sở, bám địa bàn, duy trì các tổ đội vũ trang làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc;

3- Coi trọng việc gây dựng cơ sở chính trị cả ở vùng nông thôn, vùng ven đô và nội thành làm nền tảng phát triển lực lượng kháng chiến, làm chỗ đứng chân để các đội du kích hoàn được vào trong dân;

4- Trên cơ sở chính trị đã được củng cố và phát triển, kịp thời gây dựng các tổ đội vũ trang từ bí mật lên công khai, từ hoạt động vũ trang tuyên truyền, diệt tề trừ gian đến tác chiến với quy mô và hình thức thích hợp;

5- Tác chiến về quân sự phải nhằm phục vụ duy trì và phát triển cơ sở chính trị. Tránh mọi trận đánh “vang dội” dẫn đến cơ sở chính trị bị tan vỡ, khi lực lượng quân sự không đủ sức bảo vệ các tổ chức chính trị trước những cuộc càn quét, tàn sát của địch…

Kết thúc cuộc họp, Tổng Tham mưu trưởng nói:

- Ba ngày làm việc đạt kết quả tốt, chứng tỏ việc chuẩn bị cho cuộc họp là chu đáo. Các đồng chí đã nêu lên được tình hình thực tế giúp cho anh Liêm và tôi nắm tình hình chung chắc hơn và có cơ sở đề xuất những vấn đề cần thiết trong hội nghị dân quân sắp tới. Qua ý kiến thảo luận, các đồng chí phân công nhau viết lại, đưa cho chúng tôi xem, trước khi chuyển sang Văn phòng Bộ…


(1) Tại cuộc tọa đàm do Bộ Tổng tham mưu tổ chức năm 1979, đồng chí Lê Liêm nói thêm rằng, sau này, trong kháng chiến chống Mỹ, khẩu hiệu “Bám địch - bám đất - bám dân” trở thành khẩu hiệu hành động phổ biến ở nhiều địa phương miền Nam. Còn trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp, ở một số vùng lực lượng so sánh không có lợi cho ta, để thực hiện chủ trương bám đất giữ làng là cả một quá trình đấu tranh gian khổ, phải kiên trì từng bước”…


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 14 Tháng Mười Hai, 2012, 09:23:58 am
V

Thấm thoắt, thu đông đã đến, Tổng Tham mưu trưởng chuẩn bị lên đường xuống Thái Nguyên. Tháng 8-1948, Bộ Tổng chỉ huy quyết định thành lập mặt trận Trung du (bí danh là mặt trận 3) và chỉ định anh Thái làm Chỉ huy trưởng.

Rút kinh nghiệm thu đông năm trước, năm 1948 ta triển khai kế hoạch mùa khô sớm hơn để giành quyền chủ động.

Ngày 4-9, Tổng Tham mưu trưởng triệu tập cuộc họp cán bộ các phòng nghiệp vụ nhằm đánh giá lại kết quả hoạt động hè thu vừa qua, chuẩn bị cho các bộ phận lên đường ra phía trước. Trong những ngày sắp tới, anh Thái vắng mặt ở cơ quan. Anh Vũ Hiển lên thay anh, quán xuyến công việc tham mưu ở phía sau. Anh Hiển mới được điều từ Liên khu 10 lên làm Tổng Tham mưu phó. Cuộc họp hôm nay cũng là một dịp để anh Hiển nắm được cục diện chung cả nước và tình hình cơ quan.

Báo cáo của Tổng Tham mưu trưởng trước cuộc họp được mọi người thảo luận và nhất trí, với những ý kiến bổ sung chứng minh nhận định tổng hợp mà Tổng Tham mưu trưởng nêu lên.

Suốt thời gian qua, địch đứng trước những khó khăn mới về quân số. Viện binh sang (khoảng 7.000 tên) không những không đủ bù đắp vào số quân bị tổn thất và hồi hương, càng không đủ đáp ứng nhu cầu mở rộng và củng cố vùng chúng kiểm soát. Mấy ví dụ: Vùng Cao - Bắc - Lạng, từ 68 vị trí đầu năm 1948 đã tăng lên 79 vị trí vào giữa năm, với số quân chiếm đóng tăng từ 2.500 lên 6.900 tên; vùng Đông Bắc và Tây Bắc, địch đóng thêm trên 100 vị trí; Liên khu 3 thêm 52 vị trí, với quân số tăng từ 12.000 lên 25.000 tên. Để khắc phục một phần nạn khủng hoảng quân số, địch ra sức phát triển quân ngụy, nắm Cao Đài, Hòa Hảo và Bình Xuyên, nâng tổng số quân ngụy từ 43.000 tên (đầu năm 1948) lên hơn 70.000 tên, chiếm khoảng hơn 40 phần trăm tổng quân số địch ở Việt Nam.

Điểm nổi lên trong hoạt động hè thu của địch là những triệu chứng lui dần về phòng ngự chiến lược. Kế hoạch bình định của địch diễn ra bằng những cuộc càn quét vào căn cứ của ta, nhất là ở Nam Bộ, đi đôi với phát triển hệ thống đồn bốt ngày càng dày đặc. Đó là hệ thống cứ điểm nhỏ, phát triển theo chiến thuật “vết dầu loang”, hình thành bên cạnh lực lượng ứng chiến tại chỗ, nhằm đối phó với hoạt động của ta, trước hết là với phong trào du kích. Đến nay, chúng ta chưa nắm được triệu trứng rõ rệt chuẩn bị cho cuộc hành binh mùa khô của địch.

Điều đáng chú ý là khi các trận đánh đồn của các tiểu đoàn tập trung trong các chiến dịch nhỏ tăng lên thì địch lo củng cố công sự của chúng, từ những lôcốt cao chúng xây thấp hơn, từ những lôcốt bằng gỗ, đất, chúng chuyển sang kiên cố, có hàng rào thép gai và bãi mìn bao bọc.

Kết quả xây dựng và củng cố bộ đội chủ lực của ta trong hè thu đã đạt được kết quả rất khả quan. Đến giữa năm 1948, quân số bộ đội chủ lực so với cuối năm 1947 đã tăng 17%. Mỗi liên khu, từ Nam Trung Bộ trở ra, đều có một trung đoàn chủ lực hoặc ít nhất là 2 tiểu đoàn mạnh (như Liên khu 1). Sau khi quyết định tạm hoãn xây dựng đại đoàn, bộ đội của của Bộ vẫn gồm hai trung đoàn, trong đó có Trung đoàn 308 là trung đoàn mạnh với 5 tiểu đoàn bộ binh và 2 đại đội trợ chiến.

Nhìn chung, trang bị của chủ lực vẫn còn thiếu nhiều. Liên khu 10 được trang bị khá hơn mà cũng chỉ đạt 52% quân số, Liên khu 4 trang bị thấp hơn - 30% quân số. Trung đoàn 308, gọi là trung đoàn mạnh, cũng chỉ 41% quân số được trang bị. Riêng trung đoàn 15 (bảo vệ cơ quan trung ương) được trang bị khá nhất, đạt 90% quân số. trong điều kiện trang bị hạn chế như vậy, trước yêu cầu tiêu diệt cứ điểm nhỏ của địch, theo kế hoạch chung của Bộ, các trung đoàn đều xây dựng một đại đội xung kích. Mặc dù đã tập trung trang bị cho các đại đội này những vũ khí mạnh đáp ứng yêu cầu công đồn, nhưng trong đại đội vẫn còn một trung đội trang bị mác búp đa (còn gọi là mác xung kích). Các đại đội công binh xung kích cũng được thành lập ở các trung đoàn chủ lực để tham gia đánh đồn. Các liên khu đều xây dựng các đội đặc biệt (phá giao thông, đánh mìn, đội thiện xạ…).

Cái mới trong chỉ đạo huấn luyện của tham mưu và quân huấn trong đợt hè thu năm 1948 là tổ chức diễn tập ở Chợ Mới để cán bộ tham mưu tham quan rút kinh nghiệm. Phong trào luyện quân trong cả nước khá sôi nổi, rầm rộ, nhất là cuộc “đại hội tập” ở Liên khu 4. Ngoài ba kỹ thuật lớn (bắn súng, đâm lê và ném lựu đạn), huấn luyện chiến thuật của đơn vị đều hướng vào khoa mục đánh cứ điểm nhỏ.

Về tác chiến của bộ đội chủ lực, một vấn đề đáng rút kinh nghiệm đối với sự chỉ đạo của Bộ Tổng tham mưu là lần đầu tiên bàn bạc và giúp đỡ các liên khu mở các chiến dịch nhỏ (trên hướng Nghĩa Lộ, Yên Bình Xã và đường số 3). Mặc dù chỉ mới là những chiến dịch nhỏ, yếu tố du kích còn nhiều, nhưng chỉ một trận công đồn như trận Phủ Thông, đã giúp cho Bộ Tổng tham mưu thấy cần phải làm gì và làm như thế nào để chỉ đạo chuẩn bị và thực hành một chiến dịch của bộ đội chủ lực, từ quy mô nhỏ trở lên.

Nói đến chiến thuật đánh vận động trong hè thu vừa qua, Tổng Tham mưu trưởng nhất trí với Phòng Tác chiến là cần tìm hiểu kinh nghiệm hai trận La Ngà (3-1948) và Tầm Vu (4-1948). Đây là những kinh nghiệm đánh giao thông đầu tiên có hiệu suất cao ở trong Nam, nhất là trận Tầm Vu diễn ra trên một chiến trường nhiều kênh rạch ở miền Tây Nam Bộ. Về chống càn, cần nghiên cứu kinh nghiệm của trận Láng Le (4-1948) của một trung đoàn chủ lực ngay ở ngoại ô Chợ Lớn, bảo vệ an toàn nơi đứng chân của Thành ủy Sài Gòn.

Phong trào chiến tranh du kích đã có chuyển biến rõ rệt sau khi Quân ủy quyết định đưa thêm gần 100 đại đội độc lập về đứng chân ở các địa phương, nhất là từ Nam Trung Bộ trở ra, làm nòng cốt cho dân quân du kích trong vũ trang tuyên truyền gây dựng cơ sở chính trị và trong xây dựng và tác chiến. Đáng chú ý là kết quả hội nghị dân quân toàn quốc (tháng 4) và hội nghị rút kinh nghiệm hoạt động của mặt trận đường 5 (tháng 5) đã tác động rất mạnh đến phong trào dân quân du kích từ mùa hè đến nay. Việc gây cơ sở trên chiến trường Tây Bắc và trên đất bạn Lào đang tiến triển tốt. Cơ sở kháng chiến quanh và trong các đô thị, kể cả ở Hà Nội, Hải Phòng và Sài Gòn, đều được duy trì và mở rộng. Mấy trận đánh bất ngờ của biệt động vào Hà Nội và Hải Phòng hồi tháng 8-1948 cũng như mấy tháng trước đã gây tiếng vang rộng khắp, khiến địch phải đối phó lúng túng. Tại vùng nông thôn, nhiều làng chiến đấu vẫn đứng vững và đương đầu một cách hiệu quả trước các trận càn quét của địch, như Cự Nẫm, Cảnh Dương (Quảng Bình), Chi Lăng (Lạng Sơn), Xi Tơ (Tây Nguyên). Nhiều khu du kích ra đời và được củng cố như Lang Tài (Bắc Ninh), Cộng Hòa, Kinh Môn (Hải Dương), Chợ Cạn (Quảng Trị), Hòn Đá (Bình Thuận), Bác Ái (Ninh Thuận)…


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 14 Tháng Mười Hai, 2012, 09:24:35 am
Rõ ràng là chỉ mới mấy tháng hè và đầu thu, phong trào chiến tranh du kích do các đại đội độc lập làm nòng cốt cùng với các trận đánh giao thông và đánh đồn của các tiểu đoàn chủ lực đã làm cho hậu phương địch không còn an toàn, chủ trương chiến lược bình định vùng tạm chiếm của chúng, cả ở ngoài Bắc và trong Nam, cả ở vùng rừng núi và đồng bằng, đứng trước những khó khăn mới. Thực tế đã chứng minh: chủ trương biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta là hoàn toàn đúng đắn. Mùa khô 1948 hoạt động của ta trên các chiến trường càng được đẩy mạnh hơn lên, càng buộc địch phải bị động đối phó ngay trên những địa bàn được chúng coi là an toàn nhất.

Về tình hình cơ quan tham mưu, Tổng Tham mưu trưởng nhất xét rằng các bộ phận đều tiến bộ rất nhiều so với thu đông năm 1947.

Mấy chục cán bộ từ các chiến trường hoặc mới tốt nghiệp ở các trường bổ túc được điều về cơ quan làm cho việc phân công quán xuyến mọi mặt công tác được thuận lợi lớn. Riêng Phòng Tác chiến với quân số gấp đôi năm 1947, đã có điều kiện xuống giúp đỡ các địa phương, các đơn vị và nắm tình hình được chắc hơn.

Với Đại hội chi bộ lần thứ nhất, với cấp ủy mới được bầu, với các tổ Đảng được bổ sung về tăng cường trong từng phòng nghiệp vụ, với việc thành lập các ban Công tác chính trị (lúc này vẫn do Tổng Tham mưu trưởng trực tiếp chỉ đạo), Ban Kế hoạch (Phòng Tác chiến), Ban Quân y (Phòng Hành chính), v.v., tất cả đều nói lên bước trưởng thành của cơ quan, cả về tổ chức, về các mặt công tác Đảng, công tác chính trị, nghiệp vụ chuyên môn và công tác hành chính quản lý, góp phần bảo đảm các mặt sinh hoạt trong cơ quan được tốt hơn. Tờ Quân sự tập san (sau đổi thành Quân chính tập san) do Bộ tổng tham mưu đảm nhiệm cả về nội dung và quản lý trị sự, ra số đầu tiên vào tháng 5-1948 đánh dấu một mốc về sự quan tâm của lãnh đạo đối với nền khoa học quân sự Việt Nam ngay trong khói lửa chiến tranh.

Sau hội nghị tham mưu toàn quân hồi tháng 3, tiếp đến là lớp đào tạo sĩ quan tham mưu đầu tiên do Bộ Tổng tham mưu tổ chức hồi tháng 6 và các lớp nghiệp vụ trinh sát, thông tin, v.v. ngắn hạn do các phòng mở liên tiếp, đã góp phần thiết thực vào bước trưởng thành của ngành tham mưu cấp liên khu và trung đoàn.

Kiểm điểm việc chấp hành huấn lệnh về kế hoạch mùa hè của Bộ Tổng chỉ huy, Tổng Tham mưu trưởng nhận xét rằng Bộ Tổng tham mưu đã tập trung dứt điểm mấy công tác do trên đề ra là: 1- Tổ chức các đơn vị hỏa lực tập trung mạnh, được huấn luyện thuần thục để đáp ứng yêu cầu đánh tiêu diệt; 2- Nghiên cứu và tổ chức huấn luyện, diễn tập đánh cứ điểm nhỏ; 3- Chỉ đạo hoạt động của các đại đội độc lập, nhất là ở những địa bàn cần đẩy mạnh vũ trang tuyên truyền, gây dựng và phát triển cơ sở; 4- Tổ chức ban chỉ đạo chuẩn bị kế hoạch thu đông, gồm đại diện các cơ quan Bộ và liên khu, nhằm giúp Bộ triển khai sớm kế hoạch mùa khô…

Báo cáo của Tổng Tham mưu trưởng cho thấy, nhìn lại hoạt động thực tế hè thu vừa qua của Bộ Tổng tham mưu, rõ ràng là còn nhiều điểm yếu kém mà các bộ phận cần nghiên cứu khắc phục, nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Đó là những nhược điểm của các phòng, đồng thời cũng là của ngành dọc cấp dưới, trong đó có những điểm yếu kéo dài từ năm trước. Tổng Tham mưu trưởng nêu lên mấy ví du: 1- Đánh giá âm mưu và khả năng của địch. Cho đế nay tham mưu vẫn chưa có điều kiện hình thành được một mạng tình báo có khả năng tìm hiểu và phán đoán kế hoạch thu đông của Bộ Chỉ huy Pháp; 2- Nghiên cứu và nắm chắc chỗ mạnh, chỗ yếu của từng trung đoàn trong tác chiến, xây dựng và huấn luyện. Tham mưu chưa cùng quân huấn có biện pháp hữu hiệu để khắc phục được hiện tượng thiếu thống nhất trong huấn luyện giữa các đơn vị, kể cả nội dung và phương pháp. Điều này bộc lộ khá rõ trong cuộc vận động luyện quân vừa qua; 3- Tham mưu chưa thực hiện được việc điều chỉnh trang bị của các đơn vị chủ lực (của Bộ và nhất là của khu) cho phù hợp, trong điều kiện đạn bộ binh thiếu, súng cũ, xuống cấp, ảnh hưởng đế hiệu suất chiến đấu, v.v.

Về phương hướng tác chiến mùa khô sắp tới, Tổng Tham mưu trưởng cho biết: trên dự kiến địch có thể sẽ tiến công lên Việt Bắc lần nữa, nhằm mấy mục tiêu chiến lược sau đây: 1- đánh thông đường 1 Hà Nội - Lạng Sơn; 2- Khép chặt biên giới Cao Bằng - Hà Giang - Lao Cai; 3- Nối liền đường số 3, chiếm đóng Thái Nguyên làm trung tâm hoạt động ở vùng trung du; 4- Đánh vào cơ quan đầu não và chủ lực của ta.

Kế hoạch của ta thế nào? Tổng Tham mưu trưởng đã cùng Phòng Tác chiến nghiên cứu mệnh lệnh ngày 10-8 của Bộ Tổng chỉ huy. Bộ đội đang khẩn trương chuẩn bị chiến dịch trên hướng Đông Bắc. Kế hoạch tác chiến ở trung du sẽ được bàn vào những ngày sắp tới tại Sở Chỉ huy mặt trận 3. Trong cuộc họp hôm nay, Tổng Tham mưu trưởng nhấn mạnh bộ phận ở lại căn cứ địa phải chú ý đảm bảo thông tin chỉ huy các chiến trường toàn quốc, trước hết là trên hướng Đông Bắc, đường 4; chú ý bảo vệ cơ quan, vừa bảo đảm công tác liên tục, vừa sẵn sàng di chuyển an toàn, nhất là trong trường hợp địch nhảy dù xuống Thái Nguyên, Chợ Chu, Sơn Dương và khi chúng từ Bắc Kạn tiến xuống hòng nối liền đường 3, giữ liên lạc thường xuyên với bộ phận phía trước…

Từ mấy hôm trước, khi được lệnh chuẩn bị người đi cùng Tổng Tham mưu trưởng ra phía trước, từng phòng đã bàn bạc và thông báo danh sách người đi, người ở. Vậy mà trong cuộc họp này, mọi người vẫn không khỏi hồi hộp được biết ai sẽ đi cùng Tổng Tham mưu trưởng xuống mặt trận Trung du, “Đi ra phía trước”, đó là nguyện vọng của mọi người. Vì vậy, thật dễ hiểu vì sao đanh sách vừa công bố xong, cuộc họp ồn ào hẳn lên. Những người sắp ra đi thì nghĩ ngay đến việc chuẩn bị cho kịp ngày lên đường. Chưa ai hình dung hết những gì sẽ diễn ra trong mùa khô này.

Người cập rập nhất có lẽ là anh Lý Thủy Thọ. Sau lớp bổ túc cán bộ tham mưu khóa 1 (do anh và anh Vũ Văn Hoán phụ trách), anh Thọ đang chuẩn bị bế mạc lớp huấn luyện trinh sát ở Sói Mít thì được gọi về phụ trách. Ban Tình báo mặt trận trung du. Điều lo lắng nhất của anh lúc này là làm sao cùng Cục Tình báo của Bộ Tổng chỉ huy và các ban tình báo các liên khu trên địa bàn trung du triển khai công tác nắm địch và hoàn thành công tác binh yếu địa chí trong khu vực trước khi chiến dịch mùa khô bắt đầu.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 14 Tháng Mười Hai, 2012, 09:25:13 am
VI

Ban Chỉ huy mặt trận 3 đặt Sở Chỉ huy ở vùng Quán Chu, sát chân phía đông bắc của dãy Tam Đảo. Anh Thái quyết định họp Ban Chỉ huy và cán bộ đầu ngành của mặt trận vào sáng thứ ba ngày 7-9-1948. Sau này hỏi lại, anh cũng không nghĩ rằng đã chọn đúng ngày thành lập cơ quan Tổng Tham mưu tròn ba năm trước. Sau ba năm cùng nhau qua một chặng đường thử thách, anh Thái và các cán bộ trong cơ quan đã trưởng thành một bước khá dài.

Dự họp sáng nay, có anh Lâm Kính, Chỉ huy phó mặt trận 3, các đại diện Ban Chỉ huy Liên khu 1 và 10, các cán bộ đầu ngành của mặt trận: anh Trần Văn Lư, Trưởng ban Tham mưu mặt trận, các anh Hoàng Mười, Trưởng ban Chính trị, các anh Lý Thủy Thọ và Thọ Sơn, Trưởng và Phó ban Tình báo, anh La Tuynh, Trưởng ban trang bị cấp dưỡng. Lần đầu tiên Bộ Tổng chỉ huy tổ chức ra cơ quan chỉ huy tiền phương. Với tập thể này, đây cũng là một dịp tập dượt, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, kể cả kinh nghiệm về quan hệ chỉ đạo, chỉ huy với các liên khu, các tỉnh, các lực lượng vũ trang trên địa bàn mặt trận. Là một mặt trận do cán bộ Bộ Tổng chỉ huy phụ trách nhưng chủ yếu là sử dụng lực lượng và cơ sở hậu cần của các liên khu 1 và 10. Bởi vậy, ngoài các đồng chí chỉ huy mặt trận và cán bộ phụ trách đầu ngành, cán bộ giúp việc trong ba cơ quan tham mưu, chính trị và cung cấp của mặt trận đều là cán bộ của Liên khu 1.

Mở đầu hội nghị, sau khi nói về nhiệm vụ của mặt trận Trung du, đồng chí Chỉ huy trưởng Hoàng Văn Thái truyền đạt mệnh lệnh của Bộ cho đại diện Liên khu 1 và 10. Về nhiệm vụ tác chiến và bố trí lực lượng, mệnh lệnh chỉ rõ:

- Trung đoàn sông Lô hoạt động trên địa bàn Việt Trì, Phú Thọ và Tuyên Quang.

- Tiểu đoàn 410 pháo binh sông Lô hoạt động từ Phan Lương đến ngã ba sông Gâm.

- Tiểu đoàn 696 phối hợp với lực lượng địa phương hoạt động trên địa bàn Vĩnh Yên.

- Trung đoàn 36 hoạt động từ Bắc Ninh, Đáp Cầu, Bắc Giang lên tới Kép. Riêng Tiểu đoàn 478 của Trung đoàn 36 đứng chân giữa khu vực sông Cầu và sông Thương, sẵn sàng cơ động chiến đấu khi có lệnh.

- Trung đoàn 121 hoạt động trên địa bàn từ Lưu Xá (Thái Nguyên) đến hết địa hạt Phúc Yên.

Mệnh lệnh còn quy định: 1- Việc phối hợp giữa mặt trận Trung du với các lực lượng khác trên địa bàn của hai liên khu 1 và 10; 2- Các mặt công tác chuẩn bị và bảo đảm chiến đấu: tiếp tục chương trình củng cố và huấn luyện bộ đội, điều tra địa hình, công tác phá hoại, liên lạc, chế độ báo cáo…

Vấn đề nắm và phán đoán ý đồ của địch như thế nào, là vấn đề hội nghị quan tâm. Đồng chí Trần Hiệu, Cục trưởng Cục Tình báo Bộ Quốc phòng, đã bố trí đồng chí Thọ Sơn ở Phố Cò từ nhiều ngày trước, nhưng mạng lưới trinh sát của Cục Tình báo ở đây chưa rút ra được kết luận gì về ý đồ tác chiến của địch trên địa bàn mặt trận 3 - Một số học viên của lớp trinh sát vừa bế mạc được tăng cường giúp các anh Lý Thủy Thọ và Thọ Sơn, phối hợp với ban Tình báo Liên khu 1 về công tác nắm địch.

Sau cuộc họp, bộ máy mặt trận bắt đầu hoạt động.

Cũng từ đó, Chỉ huy trưởng Hoàng Văn Thái ít khi có mặt ở Quân Chu. Anh thướng đến làm việc với Bộ Chỉ huy Liên khu 1, xuống các đơn vị hoặc về phía sau để báo cáo đồng chí Tổng chỉ huy và theo dõi công việc của Bộ Tổng tham mưu. Một hôm, từ cơ quan Bộ trở về Quân Chu, anh Thái báo một tin vui: anh Trần Văn Trà, trong phái đoàn từ Nam Bộ ra, sẽ xuống thăm cơ quan chỉ huy mặt trận 3 một ngày gần đây. Rồi anh Thái kể lại, cuộc đón tiếp ở hội trường Phủ Chủ tịch mà anh có mặt.

Phái đoàn Nam Bộ, do anh Trà dẫn đầu, gồm ông Trần Bửu Kiếm, một linh mục và một số vị khác. Họa sĩ Diệp Minh Châu, thành viên của đoàn, mang ra biếu Chủ tịch Hồ Chí Minh một bức tranh “Bác Hồ với ba cháu thiếu nhi Trung - Nam - Bắc” mà anh đã vẽ bằng máu của mình. Kể từ ngày phái đoàn chị Nguyễn Thị Định ra Bắc hồi mùa hè 1946, hơn hai năm qua mới có một phái đoàn từ Nam Bộ ra Bắc.

Đoàn qua thị trấn Vân Đình vào trung tuần tháng 9-1948. Địa phương đón tiếp rất trọng thể. Có lẽ vì thế mà bị lộ, nên ngày 20-9 địch nhảy dù xuống thị trấn, nhưng đoàn đã rời khỏi Vân Đình trước đó mấy ngày.

Tới Việt Bắc, đoàn được Bác Hồ và các vị trong Mặt trận Liên Việt và Quốc hội, như các cụ Tôn Đức Thắng, Phan Kế Toại, Linh mục Phạm Bá Trực và đồng chí Hoàng Quốc Việt đón tiếp thân tình và trọng thể. Lần đầu được gặp Bác, nghe Bác ân cần hỏi thăm sức khỏe và hỏi han về nỗi vất vả suốt mấy tháng trên đường ra Bắc, mọi người hết sức cảm động. Đồng chí Trần Văn Trà báo cáo vói Bác về tình hình Nam Bộ từ sau Hiệp định 6-3-1946 và nhất là từ ngày kháng chiến toàn quốc đến nay và nói lên nguyện vọng của đồng bào và chiến sĩ Nam Bộ sớm được đón Bác vào thăm.

Anh Trà dành nhiều thời gian đến thăm và làm việc với cơ quan Bộ Tổng Tham mưu ở Lưu Quang. Thật là một dịp hiếm có để các phòng trong Bộ Tổng tham mưu tìm hiểu nhiều điều chưa nắm được về một chiến trường xa đã trải qua 3 năm ròng chiến đấu trong điều kiện hết sức khó khăn, xa Trung ương.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 14 Tháng Mười Hai, 2012, 09:26:34 am
Là Khu trưởng Khu 8, trực tiếp chỉ huy chiến đấu từ những ngày đầu quân Pháp trở lại, anh Trà nói lại cho cán bộ tham mưu về chính sách bình định của địch, về hệ thống hàng ngàn đồn bốt của tướng Đờ la Tua (Boyer de la Tour), về quân Bình Xuyên, về quân giáo phái… anh say sưa nói về phong trào chiến tranh du kích làm cho lực lượng của địch bị căng kéo khi đối phó khắp nơi, kể cả trong nhiều khu phố nội thành Sài Gòn. Giải thích nguyên nhân chiến tranh du kích phát triển, anh Trà nói:

Trước hết phải nhắc đến tinh thần và kinh nghiệm chiến đấu của nhân dân. Nhân dân Nam Bộ đã trải qua những thử thách gay gắt nhất hồi cuối năm 1945, đã có kinh nghiệm nổi dậy từ giữa năm 1946, sau Hiệp định sơ bộ. Chỉ có yếu tố nhân dân mới giải thích được vì sao ở một địa bàn như Hóc Môn ngay sát Sài Gòn đã sớm xuất hiện những đường ngầm dưới đất (sau này ta gọi là địa đạo) với tổng chiều dài hàng chục kilômét, không chỉ nối liền nhà này sang nhà khác mà nối liền thôn này sang thôn khác. Ngày đêm nhân dân đứng chân ở đây để chiến đấu với địch. Cũng chỉ có yếu tố nhân dân mới giải thích được vì sao ở một nơi bộ máy đàn áp của địch gồm hàng vạn tên cảnh sát, mật vụ như thành phố Sài Gòn mà phong trào kháng chiến vẫn duy trì được ngay trong nội đô và các căn cứ kháng chiến vẫn tồn tại và phát triển ngay ở cửa ngõ thành phố.

Hai là việc lãnh đạo quán triệt phương châm tác chiến chiến lược của trên. Trong giai đoạn này, chiến tranh du kích là căn bản trong phạm vi cả nước thì tại Nam Bộ, phương châm đó càng được vận dụng triệt để. Trong các hội nghị của xứ và của khu, vấn đề chiến tranh du kích là vấn đề chiến lược, lực lượng dân quân là lực lượng chiến lược, luôn được thảo luận và khẳng định.

Ba là yếu tố về địch. Hệ thống đồn bốt của địch càng ken dày thì lực lượng của chúng càng bị căng mỏng, tính chất cơ động càng bị hạn chế, vì binh lực bị giam chân trong hàng ngàn vị trí. Lực lượng địch càng bị căng mỏng, quân ứng cứu càng hạn chế, càng tạo nên những sơ hở mà dân quân du kích có thể lợi dụng để phát triển lực lượng và duy trì một cuộc chiến đấu bền bỉ và có hiệu quả.

Điều cần nói thêm là lãnh đạo vừa coi trọng chiến tranh du kích nhưng lại vừa đấu tranh chống lại cái gọi là “chủ nghĩa du kích”, nhất là ở những địa bàn nào có thể đẩy vận động chiến tiến tới. Chính vì vậy mà có những trận đánh giao thông như La Ngà đầu tháng 3 và Tầm Vu trung tuần tháng 4 vừa qua, cùng ngày với trận chống càn ở Láng Le.

Bài học của hai trận phục kích trên đây, nhất là trận La Ngà, là gì? Là nắm quy luật hành quân của địch và chọn trận địa phục kích, là bố trí binh lực đi đôi với phá hoại giao thông làm chậm bước tiến của chúng, là chọn thời cơ nổ súng khi địch lọt vào trận địa phục kích, là nhanh chóng thu dọn chiến trường và chấp hành chính sách tù hàng binh, gây ảnh hưởng lớn về chính trị và tâm lý sau thắng lợi quân sự.

Bài học của trận chống càn ở Láng Le ngay sát Chợ Lớn là gì? Là quyết tâm đánh thắng mà Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn, đồng chí Nguyễn Văn Mườ(1)  đã nhấn mạnh khi giao nhiệm vụ cho Trung đoàn Phạm Hồng Thái; là trình độ bộ đội thông thuộc địa hình, mưu trí ứng phó với những tỉnh huống bất ngờ nhất; là cách đánh không vỗ mặt quân địch khi cơ giới địch tiến vào mà từ nhiều hướng, chia cắt đội hình của chúng, khiến địch bị đánh cả phía trước, cả ngang sườn, cả phía sau, chúng không sao khép được vòng vây, buộc phải quay ra bị động đối phó…

Đầu tháng 11, anh Trà xuống thăm anh Thái và Bộ Chỉ huy mặt trận 3. Anh em được chứng kiến cuộc gặp gỡ thân tình giữa những người cầm quân ở hai miền đất nước lần đầu gặp mặt.

Anh Thái thông báo với anh Trà về diễn biến mới nhất trên chiến trường cả nước, trước hết là trên hướng biên giới, nơi ta đang mở chiến dịch Đông Bắc. Anh nói vì sao trong trận An Châu ngày 8-10 vừa qua quân ta không dứt điểm được, cũng như trước đó vài tháng, quân ta gặp khó khăn trong trận Phủ Thông. Nhiều vấn đề đặt ra với người chỉ huy và lãnh đạo trên bước đường từ đánh du kích tiến lên đánh tập trung quy mô vừa và nhỏ. Không chỉ là những kinh nghiệm tổ chức một chiến dịch nhở ở xa hậu phương mà là một loạt vấn đề về trang bị, huấn luyện bộ đội, về tổ chức thông tin liên lạc, về trình độ chỉ huy chiến đấu của cán bộ.

Các anh trao đổi ý kiến nhiều về đại đội độc lập và tiểu đoàn tập trung, về phương thức hoạt động và tác động qua lại giữa hai lực lượng cơ động và tại chỗ trong nhiệm vụ phát triển phong trào chiến tranh du kích và trong tác chiến của bộ đội chủ lực. Các anh cũng nhất trí cho rằng chỉ khi nào lực lượng vũ trang tại chỗ trưởng thành và lớn mạnh mới nên rút các đại đội độc lập về để phát triển bộ đội quy mô lớn.

Một chuyện khó quên được anh trả kể lại về tinh thần khắc phục khó khăn của lực lượng vũ trang Nam Bộ trong điều kiện thiếu thốn về trang bị. Trong khi ở chiến trường miền Bắc ngành quân giới đã bước đầu sản xuất được súng cối, S.K.Z., badôca và cả “bom bay”, thì ở miền Nam có câu chuyện điển hình về sáng kiến của ngành quân giới trước yêu cầu về vũ khí trang bị. đó là “công binh xưởng” Lò Chén trong vùng Chiến khu Đ đã dùng cao lanh vùng Đất Quốc để sản xuất vỏ mìn và vỏ đạn bằng cách nung lên. Mặc dù phạm vi và mức độ sát thương hạn chế, mìn và đạn vỏ sành đã có tác dụng nhất định trong tác chiến, trong hoàn cảnh các nguồn tiếp tế vận tải từ ngoài vào Chiến khu Đ bị địch phong tỏa.

Ngân một buổi làm việc, anh Thái báo tin: trong những ngày anh Trà đang trên đường ra Bắc, tiểu đoàn chủ lực đầu tiên của Khu 8 đã ra đời. Đó là Tiểu đoàn 307, thành lập ngày 5-7. Vừa ra đời, tiểu đoàn đã lập công trận đầu ở Mộc Hóa (Tân An) tháng 8 vừa qua.

Vào dịp anh Trà lưu lại làm việc với anh Thái ở Sở Chỉ huy mặt trận 3, chiến trường trung du có biến động, không phải trên đường số 3 mà là hướng Sơn Tây - Việt Trì. Ngày 7-11, địch mở màn cuộc tiến công mùa khô, bắt đầu bằng cuộc hành binh lên hướng Việt Trì, Lập Thạch (Vĩnh Yên) và Phú Cường (Sơn Tây). Tiếp đó chúng chiếm đóng một số vị trí dọc sông Hồng từ Hà Nội lên Việt Trì và dọc sông Đà đến Hòa Bình. Một hành lang đông tây nối liền Hà Nội với Hòa Bình đang dần hình thành rõ nét. Với hành lang đó, địch lộ ý đồ cắt liên lạc giữa Việt Bắc với miền Xuôi. Đồng chí Tổng Chỉ huy đã hạ lệnh tác chiến cho bộ đội Sơn Tây - Việt Trì, cho hướng đông bắc và các chiến trường phối hợp đánh mạnh nằm phá cuộc hành binh của địch.

Theo dõi cuộc hành binh Odine của quân Pháp ở hướng Sơn Tây - Việt Trì, đến giữa tháng 11, thực tế chiến trường đã cho phép Bộ Tổng tham mưu rút ra kết luận: Quy mô tiến công của địch trong thu đông này rõ ràng là nhỏ hơn nhiều so với năm trước. địa bàn hành binh của chúng cũng không nhằm hướng Bắc Bắc(2) - Thái Nguyên để lên căn cứ địa Việt Bắc như ta dự kiến. Thực tế chứng tỏ cuộc tiến công của địch trong mùa khô này không nhằm mục tiêu chiến lược như thu đông năm trước mà chỉ nhằm đối phó với hoạt động của chủ lực ta, đồng thời nằm củng cố thế chiếm đóng của chúng. Nếu không có thêm chuyển biến gì lớn, thì Odine có thể được coi là cuộc hành binh lớn nhất của địch vào vùng tự do của ta trong thu đông này.

Tổng Tham mưu trưởng đã nhận được chỉ thị của Tổng Chỉ huy: Nếu sau hội nghị của quân ủy (dự kiến họp vào hạ tuần tháng 11), chiến trường hướng này không có gì biến động lớn thì giao mặt trận 3 cho Bộ Chỉ huy Liên khu 1 và anh Thái trở về Bộ để tham gia vào công việc chỉ đạo chung.


(1) Tức Mười Cúc - Nguyễn Văn Linh, sau này là Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
(2) Bắc Bắc: Bắc Ninh, Bắc Giang.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Giêng, 2013, 07:31:49 am
CHƯƠNG IX

CHUẨN BỊ ĐÓN THỜI CƠ CHIẾN LƯỢC

I

Chiến dịch Đông Bắc vừa kết thúc. Cuộc hành binh Odine của địch lên vùng Việt Trì - Sơn Tây đã chững lại. Do thiếu binh lực, địch đang phải thu quân, bỏ những vị trí cô lập rải rác dọc hai bờ sông Hồng và sông Đà. Cũng có thể chúng thu quân để có lực lượng mở cuộc hành binh khác. Sức mạnh tiến công của địch rõ ràng là đã yếu đi nhiều so với mùa khô năm trước.

Tổng Quân ủy quyết định họp hội nghị mở rộng vào mấy ngày cuối tháng 11-1948, tại Quân Chu (Đại Từ - Thái Nguyên).

Trái với nhiều nơi khác trên vùng tiếp giáp giữa thượng du và trung du, những ngày này ở khu vực Tam Đảo trời mưa như trút nước. Các đại biểu đội mưa, dò từng bước qua những con suối chảy xiết để đến hội nghị. Đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh đã có mặt.

Dự hội nghị Quân ủy Trung ương mở rộng lần này có nhiều cán bộ chỉ huy liên khu từ Bình - Trị - Thiên trở ra. Quân ủy muốn thảo luận với các chiến trường để có cơ sở đề đạt với Trung ương về phương hướng chiến lược tại Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ năm có thể sẽ họp vào trung tuần tháng 1-1949. Kể từ chiến thắng Việt Bắc, cuộc kháng chiến đã bước sang một giai đoạn mới được một năm. Tình hình quốc tế đang có những chuyển biến quan trọng có thể ảnh hưởng đến cuộc kháng chiến của ta. Đã đến lúc cần xác định những bước đi mới để tạo thế, tạo lực, đón thời cơ chiến lược.

Mấy cán bộ nghiên cứu của Phòng Tác chiến Bộ Tổng tham mưu được cử đến hội nghị để tiếp thu nội dung những vấn đề hội nghị thảo luận, ghi chép và chuẩn bị bản dự thảo đề án đưa lên Quân ủy để đưa ra hội nghị cán bộ Trung ương vào đầu năm tới. Đó là đề án Chiến lược cầm cự và nhiệm vụ chuẩn bị tổng phản công.

Tổng phản công, một vấn đề mới quá, lớn quá, vượt trên tầm suy nghĩ và hiểu biết của mấy cán bộ tác chiến được gọi xuống Quân Chu theo dõi hội nghị. Các anh nói đây là một dịp học tập, tiếp thu những điều mới mẻ. Những vấn đề do đồng chí Bí thư Tổng Quân ủy Võ Nguyên Giáp đề ra để thảo luận, những gợi ý của Tổng Bí thư Trường Chinh, những bản tham luận của các đồng chí Hoàng Minh Thảo, Trần Văn Quang, Nguyễn Khang, Hoàng Anh, những ý kiến tranh luận đôi khi khá gay gắt của đồng chí Nguyễn Sơn, những cuộc trao đổi ý kiến tay đôi, tay ba trong giờ giải lao, trong giờ ăn, tất cả đối với mấy cán bộ tham mưu đều rất bổ ích.

Cứ sau mỗi ngày làm việc của hội nghị, Tổng Tham mưu trưởng lại cùng mấy cán bộ Phòng Tác chiến làm việc đến khuya. Anh Thái hướng dẫn anh em tổng hợp những ý chính trong khi các bản tham luận và những ý kiến thảo luận về tình hình và phương hướng chiến lược sắp tới. Dù thống nhất hay trái ngược nhau, các ý kiến đó đều cần thiết, làm cơ sở để nghiên cứu sâu sắc các khía cạnh của vấn đề trong quá trình soạn thảo phương hướng nhiệm vụ chuẩn bị tổng phản công đưa lên trình Quân ủy.

Chỉ mới một năm sau chiến dịch Việt Bắc, cục diện chiến trường đã thay đổi khá rõ. Ở miền Nam, những tiểu đoàn, trung đoàn chủ lực đã được củng cố qua thực tế chiến đấu. Những trận đánh giao thông, những trận chống càn quy mô lớn chứng minh bước trưởng thành mới của bộ đội. Cơ sở kháng chiến vùng ven các đô thị, những trận đánh của du kích, biệt động ngay trong thành phố, phong trào quần chúng đấu tranh chống âm mưu của Pháp lập chính quyền Bảo Đại, tất cả nói lên bước chuyển biến mới của chiến trường miền Nam. Một năm thực hiện chủ trương chiến lược phát động chiến tranh du kích, biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta, đã làm thay đổi rõ rệt cục diện chiến trường Bắc Bộ. Nhiều nơi trước đây lâu ngày vắng tiếng súng, như những vùng hẻo lánh ở Tây Bắc, Đông Bắc, nay không còn là phía sau an toàn của địch. Vượt qua muôn vàn gian lao thử thách, các chiến sĩ Tây tiến đã đem được lá cờ cách mạng vào tới địa bàn Điện Biên Phủ. Nét đặc sắc của phong trào chiến tranh du kích phát triển ở trung du và đồng bằng ở những làng chiến đấu, những “lõm” du kích, xuất hiện ở nhiều nơi. Trên tấm bản đồ hình thái chiến lược của Phòng Tác chiến, những chấm đỏ xuất hiện ngày càng nhiều và không ngừng lan nhanh, mở rộng trong vùng sau lưng địch. Bên cạnh đó là những trận đánh các cứ điểm nhỏ của các tiểu đoàn tập trung, với trang bị còn hạn chế và với kết quả chiến đấu chưa đều, chưa chắc, đã cho phép rút ra nhiều bài học bổ ích đối với việc chỉ đạo tác chiến và xây dựng của bộ đội chủ lực trên bước đường trưởng thành.

Qua các bài tham luận, nhiều đại biểu thống nhất nhận định rằng mặc dù quân số địch đã tăng lên tới 16 vạn (gần 1/2 là quân ngụy), nhưng lực lượng của chúng đã bị căng mỏng. Bị động đối phó cùng một lúc với cả chiến tranh du kích và cả với các trận đánh của chủ lực, địch không còn đủ sức mở một cuộc tiến công quy mô lớn như mùa đông năm trước. Hai phần ba các cuộc hành binh với binh lực trên 1.000 quân của địch trong năm qua đều diễn ra trong vùng tạm chiếm, dưới hình thức những trận càn. Trong khi đó ta đã chủ động mở chiến dịch (tuy nhỏ và còn mang nặng tính du kích) trên những địa bàn và vào những thời điểm do ta chủ động lựa chọn. Về mặt binh lực, trải qua một năm vừa tác chiến vừa xây dựng, ngoài mạng lưới lực lượng vũ trang địa phương mở rộng, bộ đội chủ lực đã phát triển lên xấp xỉ chủ lực của địch, với những đại đội độc lập sắp được rút về sau thời gian trưởng thành trong phát động chiến tranh du kích, phát động quần chúng và với những tiểu đoàn chủ lực bước đầu có kinh nghiệm đánh tập trung quy mô nhỏ.

Trên đất Lào, dưới sự giúp đỡ và phối hợp hoạt động của các liên khu 10, 4 và 5, cơ sở cách mạng nước bạn đã phát triển ở nhiều nơi, nhất là ở Thượng Lào. Các đội vũ trang tuyên truyền của quân tình nguyện Việt Nam và các chiến sĩ yêu nước Campuchia đã phát triển cơ sở chính trị và vũ trang ở nhiều vùng thuộc Tây Bắc, Tây Nam và Đông Nam Campuchia.

Theo đường Nam hạ, Giải phóng quân Trung Quốc đang giành những thắng lợi lớn ở Hoa Trung, với các chiến dịch Tế Nam, Liêu Thẩm, Thẩm Dương - Doanh Khẩu và Từ Châu (Hoài Hải). Hồng quân Trung Hoa đang tiến nhanh về phía sông Dương Tử. Cùng với sự phát triển của cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, Giải phóng quân Trung Quốc Nam hạ đang trở thành một mối lo mới đối với giới quân sự Pháp ở Đông Dương.

Một cục diện mới đã mở ra một năm sau chiến thắng Việt Bắc. Khó khăn lớn nhất lúc này là cơ sở vật chất. Những thiếu thốn về trang bị cấp dưỡng đang ảnh hưởng nhiều đến sức chiến đấu và hiệu quả chiến đấu của bộ đội. Không ít đơn vị vẫn còn một số phân đội phải dùng “mác búp đa” trong các trận đánh đồn.

Vấn đề đặt ra với Bộ thống soái là phải làm gì và làm như thế nào để dẫn dắt đoàn quân vươn lên đón thời cơ chiến lược, trước những chuyển biến rất nhanh, rất cơ bản. Đó chính là nội dung những bản tham luận trong hội nghị và cũng là nội dung mà Bộ Tổng tham mưu cần đề cập trong bản dự thảo kế hoạch Chuẩn bị tổng phản côngơ mà Quân ủy sắp đưa ra hội nghị cán bộ Trung ương.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Giêng, 2013, 07:32:07 am
II

Đầu tháng 12, sau khi trở về địa điểm của Bộ Tổng tham mưu ở Kê Tâm, một vấn đề Tổng Tham mưu trưởng quan tâm là cùng với Chi ủy bàn kế hoạch lãnh đạo ổn định tư tưởng của cán bộ, đảng viên. Trong những ngày ở Sở Chỉ huy mặt trận 3 đã xảy ra một sự kiện được gọi là “Vụ Hatxăngvanhđơ” (H.122). Từ việc nghi ngờ và bắt giam một chiến sĩ chăn ngựa (giám mã) ở Liên khu bộ Liên khu 1 đã dẫn đến việc bắt giam lan rộng sang cơ quan Ban Chỉ huy mặt trận 3. Trong số những đồng chí bị tình nghi, bắt giam có cả một số cán bộ phụ trách đầu ngành của Bộ Tổng tham mưu. Việc bắt bớ không một lời giải thích, ngoài lý do “vì có vấn đề chính trị”. Nửa đầu tháng 11, lúc vụ H.122 đang diễn ra bằng những cuộc bắt bớ tràn lan cũng là những ngày tâm trạng của cán bộ Bộ Tổng tham mưu công tác ở mặt trận 3 cũng như ở phía sau hết sức căng thẳng. Nhiều người nơm nớp lo rằng có thể đến lượt mình bị bắt bất cứ lúc nào. Mãi đến cuối tháng 11, do sự phát hiện và can thiệp của trên, việc bắt bớ mới chấm dứt, nhưng những người bị bắt vẫn chưa được tha. Anh em cán bộ, đảng viên tin ở lãnh đạo, không đặt vấn đề vì sao xảy ra sự kiện đáng tiếc này. Trong cuộc đấu tranh với một kẻ địch hết sức xảo quyệt, ta đã bị chúng ly gián, đánh vào nội bộ. Chúng ta đã phải trả giá cho sự ấu trĩ. Đó là điều dễ hiểu. Điều mà anh em mong đợi là những lời giải thích, những lời minh oan cho những người bị bắt. Họ là những cán bộ, những đảng viên một lòng theo Đảng, theo kháng chiến. Không nên để dấu ấn của sự việc - mà những người bị bắt là nạn nhân - tồn tại mãi trong cuộc đời chính trị của họ và liên lụy lâu dài đến gia đình.

Được sự lãnh đạo của chi bộ, tinh thần tư tưởng của cán bộ, đảng viên dần dần ổn định trở lại. Sự việc lắng xuống. Mọi người tập trung vào công việc. Riêng mấy đồng chí ở Phòng Tác chiến được biết nội dung những vấn đề thảo luận tại Hội nghị Quân Chu, đang tập trung theo dõi hồi âm của bản kế hoạch Chuẩn bị tổng phản công mà Quân ủy trình bày trong hội nghị cán bộ Trung ương họp trung tuần tháng 1-1949. Anh em hy vọng rằng sau khi anh Thái đi dự hội nghị về, chắc chắn sẽ được nghe những vấn đề mới, có liên quan đến nhiệm vụ sắp tới của cán bộ Tổng Tham mưu.

Được biết, trong hội nghị cán bộ Trung ương lần này, đồng chí Bí thư Quân ủy Võ Nguyên Giáp đã đọc một bản báo cáo quan trọng về quân sự. Đồng chí dẫn ra những thực tế về chủ trương và hoạt động của ta và của địch trên chiến trường để khẳng định: sau Việt Bắc, cuộc kháng chiến đã bước sang giai đoạn mới. Đặc điểm chiến trường một năm qua cho thấy một hiện tượng mới, nổi bật, đó là phần lớn các cuộc hành binh của địch chỉ diễn ra trong vùng chúng kiểm soát; địch không mở được một chiến dịch tiến công nào có ý nghĩa chiến lược quan trọng vào vùng tự do của ta, trong khi đó thì chúng ta đã đẩy mạnh chiến tranh du kích phát triển sâu trong vùng địch kiểm soát. Bí thư Quân ủy nhận định: biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta, đó là thành công lớn nhất của ta trong năm 1948. Không bình định được vùng tạm chiếm là thất bại lớn nhất của địch trong thời gian đó. Phải nói rằng việc chiếm đóng Sơn Tây, Việt Trì và kiểm soát con đường thủy từ Hà Nội lên Hòa Bình là thành tích đáng kể nhất của địch trong năm qua. Do những thắng lợi của ta trong năm 1948, do tình hình quốc tế (khó khăn nhiều mặt của chính quyền Pari, thắng lợi của cách mạng Trung Hoa…), giai đoạn mới của cuộc kháng chiến tuy vẫn còn gay go nhưng rất có thể rút ngắn lại. Và ngay bây giờ, trong chiến lược cầm cự, nhiệm vụ chuẩn bị tổng phản công cần được sớm đề ra.

Bản báo cáo của đồng chí Võ Nguyên Giáp đề ra những nhiệm vụ cần kíp của thời kỳ chuẩn bị tổng phản công. Đó là những nhiệm vụ được ghi thành Nghị quyết Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ sáu và có liên quan trực tiếp đến chức năng, nhiệm vụ của Bộ Tổng tham mưu: 1- Xây dựng bộ đội chủ lực lớn mạnh nhằm thực hiện nhiệm vụ đẩy vận động chiến tiến tới; 2- Phát triển lực lượng vũ trang địa phương, nhất là trên các địa bàn chiến lược quan trọng, những trung tâm chính trị và kinh tế của địch; 3- Rèn luyện cán bộ theo yêu cầu của nhiệm vụ mới, yêu cầu của đánh vận động, tiến dần từ quy mô nhỏ là lên; 4- Kiện toàn cơ quan chỉ huy các cấp để sự chỉ huy được tập trung, thống nhất, nhanh chóng đặc biệt chú trọng các bộ phận tình báo, thông tin liên lạc, địch vận; 5- Xây dựng nền lý luận quân sự Việt Nam. Muốn vậy phải gây thành phong trào tổng kết kinh nghiệm, cần soạn và xuất bản những tài liệu về quân sự đáp ứng yêu cầu học tập của cán bộ và bộ đội.

Trong khi hội nghị cán bộ Trung ương đang họp thì Bộ Tổng tham mưu nhận được chỉ thị chuẩn bị gấp cho cuộc họp quân sự cấp cao, dự định vào ngày 22-1-1949. Quân ủy thấy rằng sau hội nghị cán bộ Trung ương cần bàn sâu thêm về mặt quân sự, để trước khi trở về đơn vị, cấp chỉ huy các chiến trường quán triệt sâu sắc hơn và triển khai thuận lợi hơn kế hoạch chuẩn bị tổng phản công. Không ai nghĩ rằng cuộc họp của các liên khu tưởng lại đúng dịp Ông Táo lên chầu Trời.

Các phòng phân công khẩn trương vẽ bàn đồ, biểu đồ, thống kê, nhằm giúp cho các đại biểu thấy rõ hơn cục điện chiến trường, cả về phía ta và phía địch.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Giêng, 2013, 07:33:08 am
Các biểu đồ, thống kê cho thấy trong năm qua, quân số chủ lực đang trong quá trình biến động từ phân tán về các địa phương đang dần dần tập trung về chủ lực. Quân chủ lực đã lên tới trên 13 vạn người, với hơn 60 trung đoàn và một số tiểu đoàn độc lập. So với cuối năm trước thì các loại vũ khí đều tăng từ 20 đến 27%. Riêng súng cối, tính từ Liên khu 4 trở ra, tăng gấp 4 lần. nhưng rõ ràng là còn rất thiếu thốn so với yêu cầu nhiệm vụ mới. Tổ Chiến sự của Phòng Tác chiến lo thể hiện sao cho bản đồ phản ánh đúng cục diện chiến trường sau một năm chiến tranh du kích được đẩy mạnh, cũng là năm các đơn vị chủ lực học tập đánh tập trung quy mô nhỏ. Những tấm bản đồ, với những chấm đỏ rải rác trong vùng địch tạm chiếm ở Tây Bắc, Đông Bắc, Hòa Bình, phụ cận đường 5, Bình - Trị - Thiên, Tây Nguyên và quanh nhiều thành phố và thị trấn ở Nam Bộ, đã nói lên thắng lợi có ý nghĩa chiến lược trong năm 1948. Đó là thắng lợi của chủ trương phát động chiến tranh du kích, động viện nhân dân vùng địch tạm chiếm nổi dậy diệt tề trừ gian, xây dựng chính quyền mới, xây dựng các khu du kích.

Cũng qua những tấm bản đồ hình thái chiến lược, các đại biểu dự hội nghị thấy được rõ nét cục diện mới trên các chiến trường bạn Lào và Campuchia, thấy được tính đúng đắn của phương châm được đề ra từ những ngày đầu: Đông Dương là một chiến trường. Những chấm đỏ, to có, nhỏ có, và những vùng được tô màu hồng nhạt, cho thấy cơ sở cách mạng và kháng chiến lan rộng, lan nhanh trong một năm qua. Trên đất Lào, chính quyền kháng chiến đã được thành lập ở Khăm Muộn, Xavanakhét, Xiêng Khoảng. Từ Xiêng Khoảng, đại đội độc lập phát triển về hoạt động ở Mường Mộc, Xam Chê, Mương Ngâu. Quân tình nguyện Việt Nam đang cùng bạn mở rộng cơ sở ở cao nguyên Trần Ninh. Một số đơn vị Lào - Việt từ Mường Long đang phát triển xuống nam Huổi Xai. Căn cứ du kích đã ra đời ở vùng núi Pha Đeng. Mấy đơn vị vũ trang liên quân khác đang mở rộng cơ sở ở vùng Mường Phương, Nậm Tồn, đường 13, tây bắc Viên Chăn. Ở Sầm Nưa, đội vũ trang tuyên truyền của Liên khu 4 đang phối hợp với bạn xây dựng cơ sở, từ Hứa Mường phát triển về Mường Lý, Mường Dương, trong khi một đơn vị khác hoạt động ở Sầm Tơ. Đội công tác 55 (cũng của Liên khu 4) đang cùng bạn phát triển cơ sở ở vùng Xavanakhét, cực tây đường 9. Ở vùng Hạ Lào, chỉ mới qua ba tháng, 3 trung đội vũ trang tuyên truyền của Liên khu 5 sang phối hợp với bạn đã xây dựng được cơ sở ở vùng núi Tà Ngo, Đak Chưng, Đak Sum, Xê Không.

Trên chiến trường Campuchia, những vùng được tô màu hồng ở tây nam, tây bắc và đông nam nói lên các “lõm” chính trị ở vũ trang đã hình thành trong đó có những vùng được tô đậm hơn như Báttamboong, Puốcxát, Kampốt, Kôngpôngxpư. Từ tháng 9 năm trước, vũ trang tuyên truyền được đẩy mạnh ở vùng tây bắc và tây nam. Riêng ở tây bắc, 150 hội làng (hình thức chính quyền tự quản của quần chúng cách mạng) đã thu hút được hơn 4 vạn dân. Cũng từ tháng 9 và chỉ trong vòng hai tháng, đội vũ trang tuyên truyền từ Khu 8 sang hoạt động ở vùng đông nam Campuchia, đã nối được hành lang giữa hai vùng tây nam và đông nam. Nhờ nhành lang này mà sự liên lạc giữa Ban hải ngoại của Nam Bộ với nhà yêu nước Sơn Ngọc Minh ở vùng tây nam được thường xuyên chặt chẽ hơn.

Những bản đồ, biểu đồ, thống kê, với những số liệu và sự kiện mới nhất, căng kín hai bức vách nứa hai bên hội trường, đã giúp cho các đại biểu những luận cứ để diễn đạt những ý kiến trong bản phát biểu của mình.

Nhiều bản báo cáo và tham luận đã chứng minh khả năng hạn chế của địch vào đầu năm 1949, khi mà lực lượng cơ động của chúng chỉ còn chừng 10 phần trăm tổng số binh lực; chứng minh phương châm chiến lược “du kích chiến là chính, vận động chiến là phụ trợ, nhưng cần đẩy mạnh vận động chiến tiến tới”, và bao trùm lên tất cả, chứng minh chủ trương chiến lược chuẩn bị tổng phản công là đúng đắn. Cũng có ý kiến của một vị chỉ huy chiến trường cho rằng chưa đến lúc đặt vấn đề chuẩn bị phản công. Viện lẽ rằng ta mới bắt đầu sản xuất được mấy khẩu S.K.Z., mấy quả “bom bay”(1), những thứ đó chưa tác động đến chiến trường bao nhiêu. Dù cách mạng Trung Quốc có thành công thì cũng còn lâu bạn mới viện trợ vũ khí cho ta, trong khi trình độ trang bị và trình độ tác chiến của bộ đội và chỉ huy của cán bộ còn rất kém. Đồng chí đó đưa ra một dẫn chứng: trong trận Phố Lu hay Phố Ràng, bộ đội phải xung phong đến lần thứ 11. Như vậy chỉ đáng khen về tinh thần dũng cảm của người chiến sĩ chứ không có gì để nói về nghệ thuật chỉ huy của người cầm quân. Về cơ sở vật chất, ngay đến gạo bộ đội còn thiếu ăn. Cụ Hồ phải lấy danh nghĩa Chủ tịch nước mua gạo khao quân, vậy thì “tổng tổng cái gì”? Vị chỉ huy này cũng chính là tác giả câu nói nổi tiếng trong hội nghị quân sự trước khi bước vào thu đông năm 1947: “Hãy coi chừng, không khéo thằng địch nó nhảy dù lên đầu chúng ta cho mà xem”.

Những cuộc thảo luận trong hội nghị, với nhiều ý kiến khác nhau, là một dịp để cán bộ tham mưu dự họp có thêm điều kiện suy nghĩ về nghiệp vụ của mình, giúp cho anh em có thói quen lật đi lật lại các khía cạnh của từng vấn đề, do đó xây dựng được tác phong nghiên cứu một cách thận trọng, chín chắn, trước khi đề đạt với trên.

Hội nghị kết thúc sau khi đã nhất trí với chủ trương và kế hoạch của Bộ, hướng mọi suy nghĩ vào nhiệm vụ chuẩn bị đón thời cơ chiến lược. Trước mắt, cần rút dần các đại đội độc lập về để xây dựng và mở rộng bộ đội chủ lực đồng thời triển khai kế hoạch mở chiến dịch trên hướng chính là Đông Bắc trong những ngày sắp tới.


(1) Tên hồi đó thường dùng để gọi một loại đạn súng cối cỡ lớn. Anh em quân giới thường dùng chữ tắt là O.F (obus-fusée). Đây là phát minh của Kỹ sư Trần Đại Nghĩa. O.F được sản xuất và bắn thử ở Liên khu 4, rồi trang bị cho một số đơn vị. Qua thực tế sử dụng trong một số trận đánh công đồn, thấy trọng lượng đạn quá nặng, tốn nhiều thuốc súng, mức chính xác hạn chế nên sau khi nghe anh Nghĩa báo cáo, Bộ quyết định đình chỉ sản xuất.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Giêng, 2013, 07:34:07 am
III

Xuân về, đúng vào dịp lương thực, thực phẩm trong khu căn cứ đang khan hiếm. Cơ quan mới chuyển về Đồng Đau được chừng một tháng. Cơ sở tăng gia mới gây dựng, chưa cho phép tổ chức một cái Tết rôm rả như năm trước. Tuy vật chất hạn chế, nhưng về mặt tinh thần, anh em cán bộ Bộ Tổng tham mưu đã cùng đồng bào địa phương vui một cái Tết thắm đượm tình quân dân. Đáng ghi nhớ nhất vẫn là đêm liên hoan văn nghệ. Mấy “cây vui nhộn” Tôn Thất Phán, Xuân Trình, với những tiết mục “cây nhà lá vườn” đã đem lại cho mọi người những trận cười thoải mái giữa ngày xuân.

Ngày vui Tết qua nhanh nhất là đối với nhiều anh em đang dồn tâm sức vào theo dõi các địa phương, đơn vị, khẩn trương chuẩn bị cho chiến dịch xuân hè. Ngày 11-2-1949, Bộ thống soái ra mệnh lệnh mở chiến dịch Cao - Bắc - Lạng và chiến dịch phối hợp ở vùng mỏ Đông Bắc (gọi chung là chiến trường Đông Bắc - mang mật danh mặt trận 7). Mặt trận 7 gồm đường số 4 - Cao Bằng (mặt trận 1), Bắc Kạn (mặt trận 1 bis) và một mặt trận phối hợp ở vùng mỏ (mặt trận 2). Mục đích chủ yếu của chiến dịch xuân hè trên vùng biên giới Đông Bắc là lam tê liệt đường số 4, triệt đường tiếp tế của địch trên các trục đường số 3 và số 4, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch và buộc chúng phải rút khỏi Bắc Kạn.

Anh Đào Văn Trường được cử làm Chỉ huy phó và anh Phan Phác được cử làm Tham mưu trưởng mặt trận 7. Nhiều phái viên tham mưu cũng đã lên đường ra mặt trận, trước hay ngay sau Tết. Đã hơn một năm, từ trong chiến dịch Việt Bắc, anh Đặng Văn Việt - cán bộ Phòng Tác chiến - coi như đã đi hẳn khỏi Bộ Tổng tham mưu đã trở thành Trung đoàn trưởng Trung đoàn 174 - Cao Lạng.

Tin vui sớm bay về cơ quan Tổng Tham mưu. Đó là tin thắng lợi của trận phục kích trên quãng đường Cao Bằng - Đông Khê và của trận diệt đồn phá cầu bản Trại. Có lúc giao thông của địch trên đường số 4 bị gián đoạn. Cùng với các trận đánh giao thông của các tiểu đoàn chủ lực là hoạt động của lực lượng vũ trang địa phương Cao - Bắc - Lạng, uy hiếp các vị trí địch dọc đường số 4, là các trận bắn pháo vào các thị trấn Na Sầm, Thất Khê, Lạng Sơn, Cao Bằng…

Đợt 1 của chiến dịch kết thúc vào trung tuần tháng tháng 4. Mệnh lệnh bổ sung ngày 19-4 của Bộ Tổng tư lệnh(1) vừa được gửi đi thì ít ngày sau tin chiến thắng lại dội về. Đó là thắng lợi của trận phục kích trên đoạn đường giữa Bông Lau và Lũng Phầy, ngày 25-4, được coi là thắng lợi lớn nhất trên đường số 4 trong thời gian gần đây. Và chính những đòn đau liên tiếp diễn ra trên con đường số 4 nên địch đã đặt cho con đường huyết mạch này những cái tên mới: Con đường chết chóc, Con đường máu, Con đường lửa, những cái tên nói lên thảm trạng của quân viễn chinh trên vùng biên giới Đông Bắc.

Đúng vào dịp này, một nhiệm vụ đột xuất đến với Bộ Tổng tham mưu, đó là cử phái viên đi Liên khu 1, mang theo lệnh của Bộ Tổng tư lệnh về việc sang phối hợp và giúp bạn mở rộng vùng giải phóng ở Biên khu Việt Quế và Điền Quế.

Trên đà phát triển của cách mạng Trung Quốc, quân đội Tưởng Giới Thạch bị đẩy xuống Hoa Nam, nhiều khu du kích của bạn ở biên giới Việt - Trung gặp khó khăn. Tháng trước, Trung ương Đảng bạn cử người sang yêu cầu Trung ương Đảng ta cho quân đội sang giúp khôi phục, xây dựng và củng cố Biên khu Điền Quế, Việt Quế. “Giúp bạn như giúp mình”, đó là chỉ thị của Thường vụ Trung ương và của Bác Hồ đối với quân đội ta.

Mệnh lệnh ngày 23-4-1949 của Bộ Tổng tư lệnh gửi bộ Tư lệnh Liên khu 1 chỉ rõ nhiệm vụ phối hợp với bạn, “giúp Giải phóng quân xây dựng một khu giải phóng ở vùng Ung - Long - Khâm nối liền với biên giới Đông Bắc của ta, thông ra biển, gây cơ sở và khuếch trương lực lượng để đón đại quân Nam hạ”. Đồng chí Lê Quảng Ba, Chỉ huy trưởng mặt trận Đông Bắc, được giao nhiệm vụ làm Tư lệnh các lực lượng sang giúp bạn. Lực lượng này gồm một số đơn vị đang tham gia chiến dịch trên mặt trận đường số 4.

(http://image.qdnd.vn/Upload//cnnguyenhoa/2012/5/12/6412171120120512161504886.jpg)

Bác Hồ căn dặn đồng chí Lê Quảng Ba (bên phải) trước khi lên đường
sang Thập vạn đại sơn giúp bạn, với dòng chữ tự tay Người viết:
“Cẩn thận, bí mật, đoàn kết, hữu nghị, thắng lợi”, ghi tháng 5-1949


(1) Từ ngày 12-3-1949, Chính phủ ra sắc lệnh đổi Bộ Tổng chỉ huy thành Bộ Tổng tư lệnh. Bộ chỉ huy các liên khu được đổi thành bộ tư lệnh liên khu. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều văn kiện của Bộ vãn dùng tên cũ.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Giêng, 2013, 07:34:35 am
Thời gian chuẩn bị rất gấp, nhưng yêu cầu đề ra với phái viên tham mưu là làm sao cùng đơn vị hoạt động khẩn trương để hoàn thành bằng được nhiệm vụ đột xuất. Điều quan trọng không chỉ là chuẩn bị về mặt vũ khí trang bị mà phải làm cho bộ đội quán triệt nhiệm vụ, quán triệt tinh thần quốc tế “giúp bạn như giúp mình”. Đầu tháng 6, bộ đội xuất phát theo hai hướng: Long Châu (Biên khu Điền Quế) và Khâm Châu (Biên khu Việt Quế). Tổ chiến sự thuộc Phòng Tác chiến mở thêm một hướng theo dõi diễn biến trên mặt trận đột xuất này. Chiến trường xa, rừng núi trùng điệp, liên lạc vô tuyến điện hạn chế. Phòng Tác chiến phải cùng Phòng Thông tin vượt qua mọi trở ngại để theo sát được bước đi của bộ đội trên đất bạn. Cơ quan tham mưu sớm nắm được những khó khăn sớm xuất hiện ngay khi bộ đội vượt sang bên kia biên giới: chiến trường lạ, ngôn ngữ bất đồng, đối tượng tác chiến mới…

Giữa lúc Cơ quan tác chiến bám sát bước đi của bộ đội trên chiến trường Thập vạn đại sơn thì Cục Tình báo báo cáo anh Thái tin tức về tướng Rơve (George Revers - Tổng Tham mưu trưởng quân đội Pháp) sắp từ Pháp sang thanh tra chiến trường. Lại có tin Bảo Đại sắp về nước. Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái chỉ thị Phòng Tình báo và Phòng Tác chiến phối hợp theo dõi sát động tĩnh của địch trước hai sự kiện này, các phòng Nhân sự và Trang bị - Cấp dưỡng tập trung theo dõi việc chuẩn bị thành lập đại đội chủ lực.

(http://nu1.upanh.com/b6.s35.d2/eff1fe075ef4d0fcf82b5ac131181fb8_52791831.kgrhqvpsezmpqybptrujz4vg6057.jpg)

Tướng George Revers

Từ mùa hè năm 1949, việc chuẩn bị thành lập đại đoàn chủ lực đầu tiên của Bộ là một công việc liên quan đến nhiệm vụ của nhiều phòng trong Bộ Tổng tham mưu. Nhớ lại việc thành lập đại đoàn độc lập đã được đề ra từ giữa năm 1947, nhưng không những khi ấy điều kiện chưa cho phép mà còn do cuộc tiến công thu đông của địch lên Việt Bắc. Hai năm đã qua, tình hình thay đổi. Đã đến lúc có thể tập trung bộ đội, chuẩn bị đánh lớn hơn, theo tinh thần “đẩy mạnh vận động chiến tiến tới’”. Bộ Tổng tham mưu được chỉ thị khẩn trương xúc tiến mọi công tác chuẩn bị cần thiết để đại đoàn có thể được thành lập vào mùa thu năm nay. Đó là thời điểm các thành viên tương lai của đại đoàn đã được tôi luyện thêm trong chiến dịch xuân hè sắp mở trên hướng Lao Cai - Hà Giang (Lao - Hà) và sau khi hoàn thành nhiệm vụ giải phóng Bắc Kạn.

Từ trung tuần tháng 4, hai tiểu đoàn 11 và 54 đã lên đường chuẩn bị tham gia chiến dịch sông Thao (Sơn La - Yên Bái). Tiểu đoàn 11 được củng cố sau trận Phủ Thông. Tiểu đoàn 54 (Trung đoàn Thủ đô) đã được củng cố và thu gọn biên chế từ sau mùa khô 1947.

Đầu tháng 5, Phòng Tác chiến đang theo dõi bước đi của bộ đội lên hướng Yên Bái thì được tin địch nhảy dù xuống Phú Lạc (Phú Thọ), rồi Đoan Hùng, sau đó chúng ngược dòng sông Lô lên Tuyên Quang. Đài Con nhạn của quân viễn chinh Pháp rêu rao “bước tiến quân mau lẹ” của cuộc hành binh lên hướng Phú Thọ - Tuyên Quang. Tổng Tham mưu trưởng nêu lên để các phòng Tình báo và Tác chiến trao đổi ý kiến. Ý đồ chiến lược của địch là gì? Quấy rối hậu phương ta? Thu hút lực lượng của ta trên hướng Tây Bắc về? Gây thanh thế trước việc tướng Rơve sang thanh tra và việc “cựu hoàng Bảo Đại hồi loan”? Các anh thống nhất nhận định: Dù chúng lên Tuyên Quang với mục đích gì, tình thế không cho phép địch đứng chân lâu ở thị xã này. Rõ ràng là cả hai hướng Đông Bắc và Tây Bắc đã và đang tạo nên sức ép quá nặng đối với chúng. Rồi đây, phòng tuyến sông Thao bị hiếp, địch sẽ buộc phải rút quân về đối phó.

Hai tiểu đoàn 11 và 54 tiếp tục hành quân lên hướng sông Thao theo kế hoạch. Trong khi đó, theo mệnh lệnh ngày 9 và 16-5 của Bộ, Ban Chỉ huy chiến dịch sông Lô được thành lập, gồm các đồng chí Bằng Giang, Vương Thừa Vũ và Lâm Kính. Lực lượng tham gia chiến dịch gồm 6 tiểu đoàn chủ lực của Bộ và 3 tiểu đoàn thuộc Liên khu 10. Phòng Tác chiến bớt hẳn nỗi lo âu khi thấy 3 tiểu đoàn vừa hoàn thành nhiệm vụ trên hướng Đông Bắc đã hành quân về kịp theo kế hoạch tác chiến mới.

Từ tháng 5, trên cả hai hướng sông Thao và sông Lô, các đơn vị thi đua lập công mừng thọ Bác Hồ và cũng là để có thêm thành tích trước khi đứng vào đội hình đại đoàn.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Giêng, 2013, 07:35:02 am
Tin Tiểu đoàn 54 diệt đồn Đại Bục sớm bay về Bộ Tổng tham mưu. Tiếp ngay sau đó là tin Tiểu đoàn 11 diệt đồn Đại Phác. Rồi liên tiếp thêm những vị trí to nhỏ, từ Phố Ràng đến Khe Phìa, Ngòi Mác, lần lượt bị tiêu diệt. Toàn bộ tiểu khu Phố Ràng thuộc phân khu Lao Cai của địch (được thành lập từ mùa khô 1947) bị san bằng. Một mảng quan trọng trên phòng tuyến sông Thao của địch bị vỡ trên chiều dài 30 kilômét từ Bảo Hà đến Bắc Cuông. Đến tháng 7, khi chiến dịch sông Thao kết thúc, phòng tuyến của địch bị vỡ thêm một mảng lớn, đến tận Ba Khe.

Lúc này, Phòng Tác chiến đã biết cuộc hành binh của địch trên hướng sông Lô (Phú Thọ - Đoan Hùng - Tuyên Quang) mang tên Pômôn (Pomone). Đài Con nhạn của quân viễn chinh Pháp không ngừng lớn tiếng ca tụng chiến tích của quân đội viễn chinh Pháp trong cuộc hành binh này.

Đúng như ta dự đoán, quân địch chỉ dừng chân ở thị xã Tuyên Quang được ba tuần. Ngày 24-5, chúng rút khỏi thị xã. Trận truy kích diễn ra trên hai bờ sông Lô, nhất là bên hữu ngạn. Có đơn vị đuổi kịp và đánh tốt ở Tràng Sắc, Lệ Mỹ, Tiên Du. Nhưng rồi vất đề chỉ huy ngày càng gặp khó khăn, chủ yếu vì thiếu phương tiện thông tin vô tuyến để điều quân trước yêu cầu khẩn trương của chiến dịch truy kích. Trận đánh then chốt quyết định theo kế hoạch đã không diễn ra. Từ đánh công đồn quy mô nhỏ chuyển lên đánh tập trung vận động lớn, rất nhiều vấn đề về tổ chức, trang bị và chỉ huy đặt ra với bộ đội ta. Các đồng chí chỉ huy chiến dịch sông Lô đã thấy rõ điều đó. Trao đổi với phái viên Bộ Tổng tham mưu, đồng chí Vương Thừa Vũ nói:

- Vừa qua ở sông Lô, ta chưa đánh được trận nào lớn. Nhưng từ ưu khuyết điểm về tổ chức chỉ huy, về thông tin liên lạc, ta có thể rút ra những bài học quý báu, từ đó mà tiến lên vững chắc.

Khi chỉ thị cho cơ quan tác chiến chuẩn bị hội nghị tổng kết hai chiến dịch sông Lô và đường số 4, Tổng Tham mưu trưởng lưu ý anh em những điểm giống nhau và khác nhau giữa hai chiến dịch và phải từ những điểm giống nhau và khác nhau đó rút ra những bài học về chỉ đạo, chỉ huy chiến dịch và chiến đấu:

- Chiến dịch đường số 4 (Cao - Bắc - Lạng - tức mặt trận 7) là chiến dịch được ta chuẩn bị chu đáo trong một thời gian dài để chủ động tiến công địch, còn chiến dịch sông Lô là chiến dịch đánh lại quân địch tiến công vào căn cứ địa của ta.

- Chiến dịch đường số 4 giúp ta rút ra những kinh nghiệm để chuẩn bị cho những chiến dịch tiến công mới, ở chiến trường rừng núi, xa hậu phương, còn kinh nghiệm của chiến dịch sông Lô là làm thế nào để điều động binh lực nhanh chóng để đối phó với một cuộc hành binh đã được chuẩn bị của địch tiến công vào vùng tự do của ta.

- Kinh nghiệm của chiến dịch đường số 4 là kinh nghiệm những trận đánh đồn và phục kích, trái lại trong chiến dịch sông Lô (trừ trận phục kích quân địch ở Phủ Đoan), không có trận đánh đồn hay phục kích nào như trận Lũng Phầy hay Thất Khê trên đường số 4…

Trước khi lên đường đi dự hội nghị tổng kết chiến dịch sông Lô và đường số 4, Tổng Tham mưu trưởng làm việc với Cục 2, trao đổi có kết luận và mục đích cuộc kinh lý của tướng Pháp Rơve. Sau chuyến tranh tra này, liệu ý đồ chiến lược của địch có thay đổi? Cần tìm hiểu để nắm được nội dung kế hoạch chiến lược mới của địch. Liều sắp tới địch sẽ tập trung nỗ lực vào đồng bằng hay miền núi? Sức ép sắp tới của Giải phóng quân Trung Quốc và hoạt động mạnh của ta trên hướng Đông Bắc có ảnh hướng đến chủ trương chiến lược sắp tới của địch không?

Ngay lúc đó, những câu hỏi tương tự được đặt ra nhưng chưa có lời đáp. Chỉ biết ngay sau khi Rơve về nước, mấy cuộc hành binh của địch liên tiếp diễn ra. Bắt đầu là vì trận càn lớn vào Đồng Tháp Mười (6-1949), tiếp đến là hai trận tấn công lên Bắc Bắc (7-1949) và Vĩnh Phúc (8-1949). Một sự kiện quan trọng cũng diễn ra trong tháng 8, đó là quân Pháp rút khỏi thị xã Bắc Kạn. Nhiều đơn vị chủ lực của Bộ trên mặt trận 1 bis, được giao nhiệm vụ chuẩn bị tiến công Bắc Kạn, coi như mất mục tiêu. Thật vậy, ý định tiến công giải phóng Bắc Kạn lấy thành tích mừng ngày thành lập đại đoàn đã không có thời cơ để thực hiện.

Một đoàn cán bộ tác chiến, tình báo, dân quân và công binh, do các anh Lý Thủy Tho và Tuấn Kiệt dẫn đầu, được cử lên ngay Bắc Kạn với nhiệm vụ nghiên cứu các vị trí địch và quy luật hoạt động của chúng trên suốt dọc đường số 3, từ Bắc Kạn lên Cao Bằng. Chúng ta còn hiểu biết quá ít về cách bố trí của địch ở những vị trí lớn như Bắc Kạn. Tổng Tham mưu trưởng dặn các anh ghi chép, vẽ sơ đồ thật đầy đủ để Bộ có tài liệu nghiên cứu kỹ hơn về địch, chuẩn bị cho các trận đánh lớn sắp tới.

Đoàn cán bộ khẩn trương lên đường. Một công việc thích thú, hấp dẫn đang chờ các anh.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Giêng, 2013, 07:36:04 am
IV

Cuối cùng, Bộ Tổng tham mưu cũng nắm được nội dung bản báo cáo của tướng Rơve sau cuộc kinh lý Đông Dương. Từ bản báo cáo, viên tướng được lệnh viết thành bản kế hoạch chiến lược mang tên ông ta - kế hoạch Rơve. Cùng với việc thảo chỉ định của Tổng Tư lệnh gửi mặt trận 3 (Trung du) đánh địch hành binh lên Bắc Bắc, Vĩnh Phúc và đề phòng địch lên Thái Nguyên, Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái tổ chức một nhóm nhỏ nghiên cứu bản kế hoạch Rơve. Qua nghiên cứu, các anh rút ra mấy nội dung chính sau đây: Sau khi chứng minh thế và lực ngày càng bất lợi của quân đội viễn chinh Pháp suốt một năm qua trên chiến trường Đông Dương, viên Tổng Tham mưu trưởng Pháp đề đạt một kế hoạch chiến lược gồm mấy điểm: 1- Đưa cuộc chiến tranh Đông Dương và khuôn khổ chiến lược của Mỹ, câu kết với Mỹ để có điều kiện tăng cường và hiện đại hóa trang bị của quân đội viễn chinh Pháp; 2- Tổ chức chính quyền tay sai ở cả ba miền, nhân nhượng cho Bảo Đại một số quyền lợi, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển quân bản xứ với sự giúp đỡ của Mỹ cả về trang bị quân sự và tài chính; 3- Xin thêm viện binh, đưa một số tướng tá có năng lực cả về quân sự và chính trị sang để điều hành cuộc chiến tranh; 4- Tập trung nỗ lực vào miền Bắc Đông Dương, biến Bắc Kỳ “thực sự thành một pháo đài”. Muốn vậy, phải: 1- Rút ngắn phòng tuyến biên giới phía bắc, tăng cường phòng thủ từ Lạng Sơn đến Móng Cải; 2- Tổ chức tuyến đề kháng tại trung du và trung châu; 3- Càn quét, tiến tới diệt các ổ đề kháng trong vùng quân Pháp kiểm soát ở đồng bằng sông Hồng.

Điểm mới trong kế hoạch Rơve là gì? Là công khai chính thức xin viện trợ của Mỹ, mở đường cho Mỹ can thiệp vào cuộc chiến tranh Đông Dương.

Tin tức cho biết, trong nội bộ tướng lĩnh Pháp ở Đông Dương có người không ủng hộ kế hoạch Rơve, nhất là không tán thành chủ trương rút ngắn phòng tuyến Đông Bắc (Zône Frontière Nord-Est - ZENE), phản đối việc rút khỏi Cao Bằng, Đông Khê, Thất Khê, chỉ giữ từ Lạng Sơn trở xuống. Viên tướng chống đối mạnh nhất chủ trương rút ngắn phòng tuyến đường số 4 là Alếchxanđri (Alecssandri), Chỉ huy quân Pháp ở Bắc Bộ. Mặc dù vậy, trong lúc thảo luận, các thành viên của nhóm nghiên cứu của Bộ Tổng tham mưu đều thống nhất nhận định rằng kế hoạch Rơve thâm độc và đầy tham vọng, mặc dù viên tướng đã phải thừa nhận một thực tế là thế và lực của quân viễn chinh Pháp đã suy yếu. Có đồng chí nêu lên một nhận xét:

- Vô tình đang hình thành một cuộc “chạy đua ngắn” giữa ta và địch. Quân Pháp dựa vào kế hoạch Rơve, mong sự tiếp tay của Mỹ hòng lật ngược thế cờ. Còn ta thực hiện kế hoạch chuẩn bị tổng phản công, tạo thế mới, lực mới, tiến lên đánh lớn, giành thắng lợi quyết định.

Suốt mùa hè, cơ quan tham mưu dồn sức vào việc xây dựng lực lượng mà trước hết là chuẩn bị thành lập đại đoàn chủ lực của Bộ. Tháng 4, Chính phủ ra sắc lệnh thành lập bộ đội địa phương. Lần đầu tiên, với sự ra đời chính thức của bộ đội địa phương, lực lượng vũ trang của ta đã hình thành hoàn chỉnh ba thứ quân ở sáu cấp: bộ đội chủ lực của Bộ và của liên khu, bộ đội địa phương của tỉnh và huyện, dân quân du kích ở xã và thôn. Ba thứ quân, quan hệ gắn bó trong tác chiến và trong xây dựng, trên cơ sở vị trí chiến lược, chức năng nhiệm vụ được xác định rõ ràng cho từng thứ quân. Chiến tranh du kích đã trưởng thành ở nhiều địa phương. Ở nhiều tỉnh và huyện, bộ đội địa phương đã trở thành nòng cốt của chiến tranh du kích, tạo điều kiện cho việc rút phần lớn các đại đội độc lập về xây dựng bộ đội chủ lực của khu và của Bộ. Đã qua rồi những ngày bộ đội chủ lực phải phân tán về các địa phương để hỗ trợ và làm nòng cốt cho phong trào dân quân du kích. Giờ đây, việc đánh địch bảo vệ làng bản do lực lượng vũ trang tại chỗ, gồm bộ đội địa phương và dân quân du kích đã trưởng thành đảm nhiệm. Bộ đội chủ lực lớn mạnh xứng đáng với chức năng tác chiến quy mô lớn và vai trò cơ động chiến lược của nó mà không còn phải gắn với một địa bàn cụ thể nào.

Đã gần đến ngày tổ chức lễ thành lập đại đoàn chủ lực. Nghị định đã được ký từ tháng 4. Việc bổ nhiệm cán bộ chỉ huy đại đoàn đã được quyết định từ tháng 6. Chỉ huy trưởng kiêm Chính ủy là đồng chí Vương Thừa Vũ, người mà cơ quan Tổng Tham mưu rất quen biết và quý mến. Chỉ huy phó là đồng chí Cao Văn Khánh, mới từ Liên khu 5 xa xôi ra Bắc đầu mùa hè. Trước mắt, đại đoàn chỉ mới bao gồm hai trung đoàn bộ binh 88 và 102, một số đơn vị pháo binh trợ chiến. Trung đoàn 36 vẫn “bám” chiến trường Bắc Ninh - Bắc Giang.

Ngày 28-8, một số cán bộ tham mưu đi theo Tổng Tham mưu trưởng dự lễ thành lập Đại đoàn 308 ở thị trấn Đồn Du, huyện lỵ Phú Lương, sát đường 3, bên trên thị xã Thái Nguyên chừng 20 kilômét. Dọc đường các anh trao đổi những suy nghĩ về đại đoàn chủ lực đầu tiên của quân đội, về cái tên Quân Tiên phong mà trên quyết định đặt cho đại đoàn. Đúng là con chim đầu đàn của lực lượng vũ trang cả nước, mà chức năng, nhiệm vụ đã được trên xác định là “đi tiên phong trên con đường tiêu diệt sinh lực địch, con đường chính quy hóa”. Dù là cán bộ tham mưu tác chiến, nhân sự (quân lực) hay trang bị cấp dưỡng, các anh đều tự hào đã được theo dõi bước trưởng thành của đại đoàn từ những ngày nó còn là những đơn vị nhỏ bé của một quân đội mà Bác Hồ gọi là “thơ ấu”. Các anh tin rằng, rồi đây, trên tấm bản đồ chiến sự của Bộ Tổng tham mưu, ký hiệu của Đại đoàn 308 xuất hiện ở đâu là cục diện chiến trường nơi đó chuyển biến có lợi cho ta, không lợi cho địch. Và để tạo thế mới, lực mới, đón thời cơ chiến lược, trước yêu cầu tác chiến quy mô ngày càng lớn trong giai đoạn phản công chiến lược, trong tay Bộ thống soái phải có một lực lượng dự bị mạnh, gồm nhiều đại đoàn. Đó là yêu cầu tất yếu khách quan của chiến trường trên bước đường tiến lên của cuộc kháng chiến.

Về mùa thu năm 1949 này, ngoài Đại đoàn 308, Bộ còn có hai trung đoàn chủ lực: Trung đoàn sông Lô (209) và Trung đoàn Cao Lạng (174). Các khu 7, 8, 9 của Nam Bộ và các liên khu từ Nam Trung Bộ trở ra đều đã xây dựng được những đơn vị chủ lực của mình(1). Các binh chủng pháo binh, công binh, thông tin, tuy trang bị còn thiếu thốn nhưng đã có được những cơ sở ban đầu, đang từng bước trưởng thành trong thực tế chiến đấu, từng bước được bổ sung và cải tiến trang bị kỹ thuật, do ta sản xuất và nhất là do nguồn chiến lợi phẩm. Lực lượng bổ sung và phối hợp chiến đấu với khối chủ lực lớn mạnh này là cả mạng lưới bộ đội địa phương và dân quân du kích rộng khắp cả nước.


(1) Ở Đông Bắc: Trung đoàn 98; ở trung du: Trung đoàn 36 (Bắc Bắc, sau sẽ về đội hình Đại đoàn 308); Liên khu 4: các trung đoàn 9 và 57; Liên khu 10: các trung đoàn 165 và 148; Liên khu 3: các trung đoàn 66 và 42; Liên khu 5: các trung đoàn 803 và 108; Nam Bộ có nhiều tiểu đoàn mạnh, mà đầu đàn là Tiểu đoàn 307.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Giêng, 2013, 07:36:50 am
Sau khi dự lễ thành lập Đại đoàn 308, từ Đồn Du trở về địa điểm cơ quan ở Đồng Đau, Tổng Tham mưu trưởng cùng một số trưởng phòng nghiệp vụ nghe báo cáo tổng hợp tình hình chiến trường Thập vạn đại sơn trên đất bạn.

Trung tuần tháng 6 bộ đội hướng Long Châu nổ súng, diệt 2 vị trí Thủy Khẩu và Hạ Đống, trong khi một lực lượng khác phối hợp tiến công địch từ Bằng Tường xuống Nam Quan. Địch co về, biến Long Châu thành cụm cứ điểm mạnh. Phòng Tác chiến truyền lệnh của Bộ: Chuyển sang vây hãm Long Châu, đánh viện, chặn đường tiếp tế, tiến công Ninh Minh và Thượng Kim, phối hợp với bạn mở rộng và củng cố vùng mới giải phóng quanh Long Châu.

Qua theo dõi bước đi của bộ đội, Phòng Tác chiến thấy rất rõ hướng ở Việt Quế khó khăn hơn. Thập vạn đại sơn, đúng như tên của nó, là một vùng rừng núi trùng điệp, địa hình hiểm trở, chạy gần như song song với biên giới Đông Bắc của ta. Bộ đội phải qua gần một tháng hành quân, trèo đèo lội suối, dưới nắng hè gay gắt. Được tin bộ đội Việt Nam đến, quân Tưởng rút bỏ nhiều vị trí, co về các thị trấn lớn như Nà Lường, Phòng Thành, Đông Hưng. Mãi đến đầu tháng 7, quân ta mới nổ súng trận đầu, tiến công Trúc Sơn, một thị trấn lớn ở gần Đông Hưng do 4 đại đội quân Tưởng đóng giữ. Địch từ Trúc Sơn, Nà Lường tiếp tục co về Phòng Thành, Đông Hưng. Bộ đội ta phối hợp với bạn củng cố vùng giải phóng đã mở rất rộng ở khu vực Thập vạn đại sơn, đánh địch càn quét, tiễu phỉ ở vùng Khâu Châu.

Đến tháng 10, khi lực lượng vũ trang của bạn ở hai biên khu Điền Quế và Việt Quế đã liên lạc được với địa quân đang trên đường Nam hạ, bộ đội ta nhận được lệnh về nước. Trung tuần tháng 10, trong báo cáo gửi về Bộ Tổng tư lệnh, Chỉ huy trưởng Lê Quảng Ba nhận xét về kết quả hoạt động của bộ đội những ngày trên đất bạn như sau: “Thắng lợi về quân sự đã quan trọng, nhưng thắng lợi về chính trị còn to lớn hơn nhiều”.

Một ngày trung tuần tháng 10, Tổng Tham mưu trưởng nhận được điện của bên Văn phòng Trung ương mời sang làm việc. Tới nơi, anh Thái được các anh Trần Đăng Ninh và Lê Văn Lương cho biết: Trung ương giao cho Bộ Tổng tham mưu nhiệm vụ tổ chức chuyến đi của Bác ra nước ngoài. Cán bộ được giao nhiệm vụ này trước hết phải là đồng chí tin cậy, không những biết tiếng nước ngoài mà còn phải biết phong tục tập quán của bạn, bảo đảm chuyến đi bí mật an toàn. Anh Thái nghĩ ngay đến anh Lý Thủy Thọ. Anh báo cáo và được anh Ninh, anh Lương chấp nhận. Được biết anh Thọ đang đi nghiên cứu về địch ở hướng Bắc Kạn - Cao Bằng, các anh nói cho gọi về ngay để kịp nhận nhiệm vụ và chuẩn bị.

Lúc này, đoàn cán bộ do các anh Lý Thủy Thọ và Tuấn Kiệt phụ trách đang nghiên cứu các vị trí địch trên vùng núi Thanh Minh - Cốc Thuộc. Đoàn đang dự tính tiếp tục nghiên cứu một số vị trí địch trên đường số 4 thì nhận được điện gọi anh Thọ “về ngay để nhận nhiệm vụ mới”.

Vài ngày sau, anh Thọ đã về đến cơ quan. Dọc đường anh không khỏi suy nghĩ “nhiệm vụ mới” là gì? Không lẽ lại mở thêm lớp sĩ quan tham mưu mới khi mà khóa 2 (do Lý Thủy Thọ và Trần Trọng Trung phụ trách) vừa bế mạc cách đây vài tháng? Vừa về tới Đồng Đau, để nguyên quần áo đầy bụi đường, anh Thọ sang gặp Tổng Tham mưu trưởng. Vừa thấy Lý Thủy Thọ, anh Thái vui vẻ hỏi ngay:

- Anh nhận được điện lâu chưa?

- Báo cáo anh, nhận được điện hôm trước thì hôm sau tôi họp anh em, thống nhất nhận định tình hình công việc, sau đó bàn giao lại cho anh Tuấn Kiệt rồi về đây ngay.

Tổng Tham mưu trưởng nhận tập tài liệu mà anh Thọ trao cho, đọc lướt bản sơ kết công tác của đoàn rồi nói với anh Thọ:

- Tôi sẽ giao toàn bộ tập tài liệu này cho anh em các phòng Tác chiến và Tình báo nghiên cứu. Những bản vẽ và thuyết minh sẽ rất có ích trong việc nghiên cứu cách đánh cứ điểm mà anh em đang tiến hành. Bây giờ nói với anh nhiệm vụ mới. Anh sang ngay Văn phòng Trung ương, gặp các anh Trần Đăng Ninh và Lê Văn Lương, các anh sẽ nói rõ nhiệm vụ. Anh lưu ý: Đây là nhiệm vụ đặc biệt, phải được hết sức giữ bí mật, không nói lộ ra với bất cứ ai…

Ngay sau đó, anh Thọ sang Văn phòng Trung ương. Vừa trông thấy anh, An Trần Đăng Ninh đã nói vui:

- Lại gặp “nhà tình báo đại tài” của mặt trận Trung du đây rồi.

Lý Thủy Thọ thoáng chột dạ. Anh nhớ lại vụ “H.122” năm trước. Được biết anh Trần Đăng Ninh đã phát hiện và “gỡ” vụ này. Nghe nói hồi đó anh Ninh có ý định đưa một số người ra tòa án binh, trong đó có Lý Thủy Thọ và Thọ Sơn. Vậy mà bây giờ chính anh Ninh lại là người giao “nhiệm vụ đặc biệt” cho mình. Anh Thọ chăm chú nghe.

- Trung ương Đảng giao cho Bộ Tổng tham mưu tổ chức việc liên lạc với các đồng chí Trung Quốc ở vùng biên giới Phục Hòa - Thủy Khẩu để chuẩn bị cho phái đoàn của Trung ương do Bác làm trưởng đoàn sang thăm và làm việc ở Trung Quốc và một vài nước anh em. Đây là chuyến đi đầu tiên của Bác ra nước ngoài sau ngày kháng chiến toàn quốc. Bộ Tổng tham mưu cử anh làm việc này. Tôi đã báo cáo và Bác đã đồng ý. Anh cần làm gấp hộ chiếu và lên ngay gặp Tỉnh ủy Cao Bằng bàn kế hoạch tiến hành…

Mọi thứ giấy tờ được hoàn thành chóng vánh. Trước khi anh Thọ lên đường, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp căn dặn; Phải bằng mọi cách bảo đảm bí mật, an toàn cho chuyến đi của Bác. Nhân chuyến đi này, anh Văn còn giao cho anh Thọ làm mấy việc: nghiên cứu kế hoạch xin viện trợ của Bộ và tìm hiểu khả năng giúp đỡ của bạn về vũ khí; kiếm một số sách quân sự của nước ngoài mà ta có thể nghiên cứu, tham khảo…

Anh Thọ khẩn trương chuẩn bị lên đường, mang theo nỗi lo về nhiệm vụ nặng nề, nhưng lại phấn khởi trước một chuyến đi xa với bao điều mới lạ mà anh chưa thể hình dung(1).

Có điều mà Lý Thủy Thọ không thể ngờ tới lừ chuyến đi xa lần này lại trở thành bước ngoặt trong cuộc đời cách mạng của mình. Từ ngành tình báo, anh được chuyển sang làm công tác đối ngoại, cụ thể là công việc tiếp xúc với người nước ngoài, mà hồi đó ta thường gọi là công tác giao tế.


(1) Chuyến đi của Chủ tịch Hồ Chí Minh sang Trung Quốc và Liên Xô diễn ra từ đầu tháng 1 đến đầu tháng 4-1950.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Hai, 2013, 06:12:47 pm
V

Theo tin tức từ báo chí nước ngoài thì kế hoạch Rơve đã bị lộ. Tổng Tham mưu trưởng G. Rơve - tác giả của kế hoạch - bị thải hồi. Báo chí Pháp nói rõ: đây là kết quả cuộc đấu đá nội bộ giới tướng lĩnh ở Pari. Nhưng vấn đề đặt ra đối với hai cơ quan Tác chiến và Tình báo của ta là vì sao trên thực tế hoạt động của địch trên chiến trường cho thấy nhiều nội dung cơ bản của kế hoạch Rơve vẫn được địch ra sức thực hiện.

Phòng Tình báo chú ý đến một cụm từ lượm được trong những bản tin mật của địch. Đó là chương trình “vo tròn vùng đồng bằng có ích” (arrondir le delta utile). Địch sẽ làm gì ở vùng châu thổ sông Hồng? Còn vùng rừng núi thì sao, trước hết là vùng biên giới Đông Bắc, vào thời điểm mà Giải phóng quân Trung Quốc đang tiến ngày càng gần xuống những vùng đất cuối cùng của Hoa Nam? Một chủ đề “hấp dẫn” thường được anh em tác chiến và tình báo trao đổi ý kiến, đó là: liệu địch có rút ngắn phòng tuyến đường số 4 như Rơve trù liệu không?

Đúng là hoạt động của Trung đoàn 174 và các tiểu đoàn địa phương cũng như chiến tranh du kích phát triển mạnh trên chiến trường đường số 4 đã gây rất nhiều khó khăn cho địch. Nhiều đồn bốt bị dân quân du kích uy hiếp, từ Bông Lau, Lũng Phầy đến Chè Cáng, Bình Nhi. Du kích bám đường, đánh mìn, bắn tỉa, phá cầu, nhất là trên quãng đường Na Sầm - Thất Khê. Trong khi đó những trận phục kích của bộ đội chủ lực, điển hình là trận Lũng Phầy hồi tháng 4, buộc địch phải tăng cường việc bảo vệ các đoàn xe tiếp tế đi trên đường số 4 - “con đường lửa”. Thực tế cho thấy, trên con đường Lạng Sơn - Cao Bằng dài chừng 135 kilômét, một đoàn xe đi về phải khoảng nửa tháng, tốn kém và không có gì bảo đảm an toàn. Nhưng liệu địch có dám bỏ Cao Bằng, Đông Khê, Thất Khê, khi mà chúng muốn ngăn chặn chúng ta liên lạc với thế giới dân chủ? Và nếu rút Cao Bằng thì liệu địch có đánh chiếm Thái Nguyên như dự kiến của Rơve hay không?

Không ít ý kiến dẫn ra thực tế để chứng minh địch sẽ thực hiện rút khỏi Cao Bằng và để “bù lại”, chúng sẽ xây dựng phòng tuyến trung du như tướng Rơve đã từng trù tính. Viên tướng này vừa về nước thì địch tiến hành hai cuộc hành binh BastillesCanigou, đánh chiếm Bắc Bắc và Vĩnh Phúc. Thế là 4 trong 6 tỉnh trung du có địch, chỉ còn lại Phú Thọ và Thái Nguyên, mà việc đánh chiếm Thái Nguyên đã được Rơve đề cập trong kế hoạch. Chúng lập đồn bốt và càn quét liên tiếp 4 tỉnh trung du để bắt lính cho Bảo Đại. Còn phía dưới đồng bằng thì tháng 10 vừa qua, bằng cuộc hành binh Arthracite, chúng chiếm vùng Công giáo Bùi Chu, Phát Diệm, rồi lại càn quét, bắt lính, lập vệ sĩ cho Lê Hữu Từ. Chẳng phải tất cả các thủ đoạn đó đều nhằm phục vụ mục đích chiến lược “vo tròn đồng bằng” sao?

Hai ý kiến đối lập nhau trong lúc tranh luận (địch rút hay giữ Cao Bằng) chỉ dừng lại ở đó. Sau tranh luận, ai cũng thấy cần có thêm thực tế để khẳng định lập luận của mình. Ngay trong các chỉ lệnh gửi các địa phương và đơn vị biên giới, kể cả bức thư Quân ủy gửi Tỉnh ủy Cao Bằng cũng như mệnh lệnh gửi Đại đoàn 308 và Trung đoàn 174 Bộ thống soái cũng để ngỏ, không khẳng định địch rút hay không rút khỏi Cao Bằng. Bộ Chỉ thị phải có kế hoạch đẩy mạnh hoạt động theo cả hai khả năng, nhưng nhấn mạnh khả năng địch có thể bỏ Cao Bằng (và Lao Cai) và khả năng quân Tưởng tràn qua biên giới. Còn Tổng tham mưu trưởng thì luôn nhắc anh em đi sâu nghiên cứu, theo dõi địch thực hiện kế hoạch Rơve như thế nào trong thu đông này.

Đúng là có những việc địch nhanh chân hơn ta. Việc rút khỏi Bắc Kạn là một ví dụ. Bộ đội vừa từ hướng sông Thao về, đang diễn tập theo phương án tiến công địch trong thị xã Bắc Kạn. Một vài hàng binh từ thị xã ra cho biết từ tháng 7, bọn địch trong đó rất nao núng. Điều đó giải thích vì sao Bộ Tổng tư lệnh chỉ thị đánh Bắc Kạn cáng sớm càng tốt. Anh Vương Thừa Vũ đang ráo riết chuẩn bị trận đánh, lập thành tích trước ngày đại đoàn ra mắt, thì địch rút khỏi Bắc Kạn. Đối với Bộ Chỉ huy quân viễn chinh Pháp, đó là việc cực chẳng đã. Vì là một vị trí ở ngay trung tâm căn cứ địa của ta, nên Bắc Kạn quá cô lập. Tiếp tế cho Cao Bằng đã khó, cho Bắc Kạn lại càng khó hơn. Trong khi đó, càng mở rộng vùng kiểm soát ra trung du và đồng bằng, nạn thiếu quân càng trầm trọng. Tháng 8, cố gắng lắm Pari mới quyết định tăng thêm hai vạn quân sang Đông Dương. Nói “cố gắng lắm” là theo cách nói của tờ báo Pháp France d’abord. Hồi tháng 7, tờ báo này phản ánh một sự thật: Sau khi Rơve về, Chính phủ Pháp đã dùng những biện pháp gay gắt nhất để bắt lính sang Việt Nam. Bất cứ ai, đến lượt là phải đi, người trẻ đi trước. Sĩ quan, nhất là cấp đại úy, một số lớn đã bị chỉ định sang Đông Dương. Việt Nam đã trở thành khâu chính trong chiến lược chung Mỹ - Pháp ở Á Đông.

Để chuẩn bị cho bộ đội chủ lực bước vào mùa khô này, Tổng Tham mưu trưởng nhắc các phòng nghiệp vụ không quên theo dõi phong trào chiến tranh du kích. Phần lớn các đại đội độc lập đã rút khỏi các địa phương. Địch đang có âm mưu chiến lược mới ở vùng đồng bằng. Nếu lực lượng vũ trang tại chỗ không đủ sức tiêu hao và căng kéo địch, bảo vệ địa phương thì chủ lực sẽ khó rảnh tay cơ động đánh tập trung trong thu đông này.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Hai, 2013, 06:13:14 pm
Anh Hoàng Văn Thái và anh Lê Liêm đã cùng anh em nghiên cứu bản Chỉ thị ngày 18-8 vừa qua của Thường vụ Trung ương. Đó là bản chỉ thị về xây dựng bộ đội địa phương và phát triển dân quân trong giai đoạn chiến lược mới. Bản chỉ thị đã khẳng định lại vai trò chiến lược của lực lượng vũ trang địa phương trong giai đoạn được gọi là “tích cực cầm cự, chuẩn bị tổng phản công” này. Tầm quan trọng của lực lượng vũ trang tại chỗ không chỉ là bảo vệ địa phương, mà còn chức năng quan trọng nữa là “lực lượng hậu bị trực tiếp của quân chủ lực”. Thường vụ đã chỉ ra những khuyết điểm chính của các địa phương, do chưa nhận rõ vai trò quan trọng đó, cho nên chưa có kế hoạch cụ thể và chưa tập trung lãnh đạo xây dựng bộ đội địa phương và phát triển dân quân. Bản chỉ thị đã nêu rõ các cấp bộ đảng và chính quyền, trong và ngoài quân đội cần làm gì và làm thế nào để phát huy vai trò chiến lược của lực lượng vũ trang địa phương trong giai đoạn hiện nay.

Anh Thái và anh Liêm nhắc hai cơ quan Tác chiến và Dân quân cần đặc biệt theo dõi sự phát triển và những kinh nghiệm của phong trào dân quân du kích trung du. Từ kết quả tiêu diệt sinh lực địch khi chúng đánh lên Phúc Yên, Bắc Bắc, trung du đã nổi lên về sức mạnh toàn dân đánh giặc, nổi lên kết quả của sự phối hợp giữa lực lượng vũ trang của tỉnh, huyện và xã. Phụ nữ và phụ lão của làng chiến đấu Võng La, đội nữ du kích tập trung ở Phủ Lỗ, Đại Tân, Cổ Loa, Chi Đống, Đình Bảng,… đã đánh hàng trăm trận, với các hình thức khác nhau. Xuống nghiên cứu tình hình chiến đấu thực tế của Phúc Yên và Bắc Ninh, cán bộ Bộ Tổng tham mưu và Cục Dân quân đã rút ra được những kinh nghiệm hay, rất bổ ích, đối với việc chỉ đạo phong trào chung. Thực tế cho thấy, muốn vũ trang nhân dân, phát động toàn dân đánh giặc, lãnh đạo hai tỉnh đã thực sự quan tâm đến quyền lợi của dân (vận động sản xuất, tự túc, chống đói, thực hiện giảm tô, mở rộng dân chủ trong làng xóm). Trong chỉ đạo xây dựng lực lượng, đã biết kịp thời đưa đội du kích tập trung lên làm nhiệm vụ bộ đội địa phương, đưa bộ đội địa phương tỉnh và huyện lên bổ sung cho chủ lực khu. Do bảo vệ được dân, bảo vệ được mùa màng, lực lượng vũ trang địa phương được nhân dân nuôi, cùng bà con xóm làng đánh giặc. Trên cơ sở dựa vào dân mà phối hợp giữa ba thứ quân ở ngay trong địa phương, cả trong xây dựng và trong chiến đấu.

Vào dịp này, sự chỉ đạo phong trào dân quân du kích Nam Bộ cũng có nhiều nét mới. Từ cuối năm trước, phái đoàn anh Lê Đức Thọ đã vào Nam, mang theo những tài liệu về đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung, về phương châm và phương pháp xây dựng ba thứ quân. Mùa xuân năm nay, phái đoàn anh Trần Văn Trà đã trở về Nam Bộ. Trong những ngày lưu lại Việt Bắc, anh Trà đã dành nhiều thời gian nghiên cứu việc xây dựng lực lượng vũ trang trong quá trình vận dụng phương châm “du kích chiến là căn bản, vận động chiến là phụ trợ”. Sự có mặt của hai phái đoàn Lê Đức Thọ và Trần Văn Trà đã góp phần vào bản báo cáo của đồng chí Lê Duẩn trong cuộc họp Xứ ủy tháng 9 vừa qua. Tham mưu đã nhận được điện từ Nam Bộ cho biết nội dung tóm tắt cuộc họp quan trọng này.

Bản báo cáo của Bí thư Xứ ủy Lê Duẩn trong hội nghị đã đề cập nhiều vấn đề có tầm chiến lược quan trọng đối với chiến trường Nam Bộ. Sau khi phân tích mối quan hệ tác động giữa chiến trường miền Bắc với Nam Bộ trước và sau chiến dịch Việt Bắc, bản báo cáo lược lại những nét chính về cục diện chiến trường từ đầu năm 1948 đến hè 1949.

Hơn một năm qua, địch kiểm soát chặt chẽ được một số vùng và chế ngự được một phần các đường giao thông tiếp tế của ta bằng “chiến thuật mạng nhện” (hệ thống bốt dày đặc của tướng Pháp Đờla Tua). Đều đó giải thích vì sao Pháp dám trao cho quân đội tay sai đóng giữ tới 60% đồn bốt (324/580). Về phần ta, mặc dù đã có một số ít trận đánh vận động quy mô nhỏ, đại đa số những trận đánh còn lại đều mang tính chất thuần túy du kích. Điều đáng chú ý là những trận du kích đó, đáng ra phải do du kích đảm nhiệm thì lại do Vệ quốc đoàn tiến hành.

Từ thực tế đó, bản báo cáo của anh Ba Duẩn rút ra kết luận: 1- Chiến trường Nam Bộ lúc này vẫn trong tình trạng một chiến trường chiến tranh du kích thuần túy; 2- Ta đã có điều kiện đưa vận động chiến lên, nhưng Vệ quốc đoàn “bám” lấy nhiệm vụ của du kích địa phương, đi vào “chủ nghĩa du kích” một cách vô ý thức. Thực tế đó lý giải vì sao bộ đội địa phương không trưởng thành, chiến tranh du kích không phát triển mà Vệ quốc đoàn cũng không đánh được trận vận động nào có ý nghĩa tiêu diệt chiến.

Đã một thời thấy cần thiết phải đưa các đại đội độc lập xuống các địa phương, nhưng chưa nhận thức rõ là về địa phương để hỗ trợ cho chiến tranh du kích phát triển, rồi du kích phải thay thế bộ đội độc lập bảo vệ địa phương để cho các đại đội độc lập trở lại thành chủ lực. Thế nhưng vẫn còn không ít đại đội độc lập cứ nằm lại địa phương, đóng vai trò bộ đội địa phương, khiến cho bộ đội địa phương không thực sự phát huy vai trò địa phương của nó, còn các đại đội Vệ quốc đoàn cũng không phát triển để làm đúng chức năng của chủ lực. Mà đã không có chủ lực mạnh để đánh vận động, đánh tiêu diệt thì mãi mãi chiến trường Nam Bộ chỉ dừng lại là chiến trường du kích, không có chủ lực lớn mạnh, đủ sức quyết định chiến trường. Và bản báo cáo kết luận: “Không ngần ngại gì nữa, chúng ta phỉ tổ chức ba thứ quân theo nhu cầu chiến lược, chiến thuật của từng địa phương, từng khu và toàn Nam Bộ. đã đến lúc phải kiện toàn bộ máy chỉ huy, làm sao cho tư tưởng thống nhất, trình độ quân sự và chuyên môn ngang hàng với chức trách nhiệm vụ; các cơ quan chỉ huy, nhất là tình báo và thông tin liên lạc phải được kiện toàn, phải tinh thông nghiệp vụ”.

Đánh giá phong trào dân quân du kích trước khi bước vào mùa khô, Bộ Tổng tham mưu và Cục Dân quân thống nhất nhận định: Nhìn chung lại, sau khi phần lớn các đại đội độc lập (từ Khu 5 trở ra) rút khỏi địa phương, tuy chiến tranh du kích trong cả nước còn phát triển chưa đều, nhưng phong trào dân quân du kích đã đi đúng hướng cả trong tác chiến và xây dựng, theo tinh thần chỉ đạo của Thường vụ Trung ương, nhằm tạo thế mới, lực mới, đón thời cơ chiến lược.

Điều quan tâm của Bộ Tổng tham mưu lúc này là triển khai kế hoạch tác chiến của chủ lực trong thu đông 1949.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Hai, 2013, 06:13:43 pm
VI

Sau một buổi làm việc ở chỗ Bộ Tổng Tư lệnh, anh Thái mang về cơ quan một tập tài liệu nhan đề Ba giai đoạn chiến lược. Mấy anh trong tổ học tập được triệu tập đến và được biết đây là bản dự thảo một tài liệu do anh Văn viết. Anh Văn chỉ thị cơ quan tham mưu tổ chức cho anh em nghiên cứu trước, vừa để nắm được hướng chiến lược sắp tới của Tổng hành dinh vừa góp ý kiến bổ sung để anh Văn hoàn chỉnh trước khi công bố. Anh Thái nói thêm: Đây là một tài liệu cơ mật về chủ trương chiến lược nên việc tổ chức học tập trước hết nên làm hẹp trong các cán bộ chủ chốt của cơ quan. Chúng ta đang trong những ngày chuyển tiếp giữa giai đoạn 2 và giai đoạn 3 và những nội dung nói về giai đoạn 3 tuy chỉ mới là dự kiến nhưng là những vấn đề cơ mật. Tuy nghiên cứu và thảo luận toàn bộ tài liệu nhưng việc học tập nên tập trung vào giai đoạn 3 để phục vụ cho nhiệm vụ sắp tới.

Việc nghiên cứu được triển khai ngay vài hôm sau và do Phó Tổng tham mưu trưởng Đào Văn Trường điều khiển.

Về nội dung giai đoạn thứ nhất (hồi đó gọi là giai đoạn phòng ngự) được mọi người nhất trí trên một số vấn đề cơ bản:

1. Về mốc thời gian, giai đoạn 1 bắt đầu từ Nam Bộ kháng chiến và kết thúc với chiến dịch Việt Bắc.

2. Trong giai đoạn 1, ta đã thành công trong việc tiêu hao lực lượng địch đi đôi với bảo toàn được lực lượng của ta và cố gắng ngăn chặn chiến sự lan rộng.

3. Chính vì ta bảo toàn được lực lượng, kiên trì cuộc kháng chiến lâu dài nên tuy địch chiếm được một phần đất đai, các đô thị và đường giao thông quan trọng nhưng chúng thất bại trong chủ trương chiến lược đánh nhanh giải quyết nhanh - chiến lược bắt đầu ở miền Nam và kết thúc ở miền Bắc.

4. Mấy bài học thành công trong giai đoạn 1 là:

- Trước âm mưu xâm lược của địch, đấu tranh vũ trang là con đường sống còn duy nhất của các dân tộc nhược tiểu.

- Chủ trương Hòa để tiến và ký Hiệp định sơ bộ là đúng nhưng đến ngày 19-12, trước mưu đồ mở rộng chiến tranh xâm lược toàn cục của địch, quyết tâm phát động kháng chiến toàn quốc là đúng.

- Đối với một nước nhỏ yếu, khi bắt đầu chiến tranh, nhiệm vụ bảo toàn lực lượng là một nhiệm vụ căn bản. Có giữ được lực lượng mới duy trì được kháng chiến, cho nên dù có mất đất cũng không ngại. Mất đất nhưng không mất dân - nhân dân vùng tạm bị chiếm vẫn hướng về cách mạng, về kháng chiến.

- Tinh thần nhân dân là một yếu tố vô cùng quan trọng. Thực tế cho thấy, tinh thần nhân dân Nam Bộ là yếu tố quyết định việc gây dựng lại lực lượng vũ trang và cứu vãn tình hình Nam Bộ sau thời kỳ khó khăn thử thách ban đầu.

5. Tổ học tập nhất trí với bốn kinh nghiệm và bài học không thành công của ta trong giai đoạn 1, đó là:

- Ngoài chiến lược đúng, phải có hình thức tác chiến đúng, nhất là trong điều kiện ban đầu so sánh lực lượng giữa ta và địch rất chênh lệch.

- Tư tưởng trận địa chiến đã dẫn đến nhiều trận thất bại. Đối với một quân đội nhỏ yếu, trang bị kém hơn địch, tư tưởng trận địa chiến là “một tư tưởng vô dụng, nguy hiểm”.

- Bài học những ngày đầu kháng chiến của Nam Bộ cho thấy, xây dựng lực lượng vũ trang phải theo đúng tư tưởng và đường lối chiến lược, chiến thuật của chiến tranh nhân dân mới bảo đảm thắng lợi trong chiến tranh.

- Trong chỉ đạo chiến tranh phải hiểu rõ âm mưu toàn cục của địch. Do thiếu quan điểm Đông Dương là một chiến trường ngay từ đầu nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến cục diện chung.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Hai, 2013, 06:14:12 pm
Về giai đoạn thứ hai (hồi đó gọi là giai đoạn cầm cự), tổ học tập tập trung thảo luận những nội dung chủ yếu sau đây:

1. Giai đoạn hai bắt đầu sau chiến thắng Việt Bắc và hiện còn đang tiếp diễn. Chiến thắng Việt Bắc đánh dấu thất bại của địch trong chủ trương chiến lược “bắt đầu từ Nam - kết thúc ở Bắc”.

2. Năm 1948 là năm địch chuyển hướng mạnh về chiến lược (thế phòng ngự ngày càng rõ); còn ta thực hiện phương châm tiến mạnh sang giai đoạn mới. Năm 1949, địch phải cố gắng vượt bậc để đối phó với sự trưởng thành của ta trong khi ta chủ trương tích cực chuẩn bị tổng phản công. Trong năm 1949, ngày càng thấy rõ tình hình thế giới thuận lợi cho ta, bất lợi cho địch.

3. Mục đích của ta trong giai đoạn thứ hai là làm cho lực lượng của ta lớn mạnh dần lên, làm cho lực lượng của địch ngày càng suy yếu, làm cho tương quan lực lượng giữa ta và địch thay đổi có lợi cho ta, để tiến tới giai đoạn thứ ba. Để đạt mục đích ấy, ta đề ra phương châm du kích chiến là chính, vận động chiến là phụ với chủ trương đại đội độc lập - tiểu đoàn tập trung, phát triển dân quân và kiện toàn bộ đội địa phương, xây dựng bộ đội chủ lực.

4. Giai đoạn thứ hai đang tiếp diễn nhưng đã thấy rõ hai kinh nghiệm thành công của ta là:

- Phát động chiến tranh du kích. Bài học quan trọng là ở chỗ: có chủ trương đúng nhưng phải có phương châm đúng và biện pháp cụ thể. Chủ trương “biến hậu phương địch thành tiền phương của ta” thành công là nhờ quyết tâm triển khai phương châm đại đội độc lập trên một phạm vi rộng và trong một thời gian ngắn.

- Quan niệm đúng về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, thể hiện trong sự liên hệ giữa xây dựng bộ đội chủ lực với kiện toàn bộ đội địa phương và phát triển dân quân.

5. Hai kinh nghiệm và cũng là bài học không thành công trong giai đoạn hai là:

- Vận động chiến phát triển chậm. Nguyên nhân là chủ trương đúng nhưng phương châm tổ chức bộ đội, phương châm tác chiến chưa được nghiên cứu tỉ mỉ và quán triệt cụ thể cho bộ đội.

- Công tác vận động ngụy binh còn kém. Nguyên nhân chủ yếu là do chưa đứng trên quan điểm chiến tranh nhân dân, chưa huy động được lực lượng nhân dân để triển khai công tác ngụy vận.

Thời gian tổ học tập dành cho việc nghiên cứu thảo luận giai đoạn chiến lược thứ ba dài bằng nửa tổng số thời gian học tập dự kiến, tức là một ngày rưỡi.

Một trong những nội dung thảo luận sôi nổi đầu tiên là tên gọi giai đoạn thứ ba: giai đoạn phản công hay giai đoạn tổng phản công. Ai cũng có lý lẽ để bảo vệ quan điểm của mình. Cuối cùng, dù có ý kiến bảo lưu nhưng số đông vẫn tán thành ý kiến viết trong dự thảo của Tổng Tư lệnh. Ông viết:

Chúng ta dùng danh từ với ý nghĩa nhìn suốt giai đoạn mà nói. “Tổng” là chỉ công cuộc phản công trong cả giai đoạn cho đến thắng lợi hoàn toàn. Tổng phản công không có nghĩa là cuộc phản công của ta sẽ tiến hành một lúc khắp các mặt trận…, lại càng không có nghĩa là tiến hành một lúc như Cách mạng Tháng Tám. Trái lại, vì nhiều điều kiện khách quan và chủ quan, giai đoạn tổng phản công của ta có thể rất khó khăn, có thể kéo dài và sẽ tiến hành từng đợt, giải quyết từng chiến trường, cho đến khi kết thúc với sự thất bại hoàn toàn của giặc, thắng lợi hoàn toàn của ta.

Mọi người dễ thống nhất về mục đích chiến lượcđiều kiện để chuyển sang giai đoạn thứ ba. Tuy nhiên, về chi tiết cũng không khỏi có những tranh luận. Ví dụ:

- Về mục đích tiêu diệt sinh lực địch. Đồng ý mục đích tiêu diệt là đúng về chiến lược mà nói, nhưng liệu có thể và có nhất thiết phải tiêu diệt toàn bộ lực lượng của địch mới kết thúc chiến tranh hay không?

- Về điều kiện ưu thế quân sự, thế nào là ưu thế quân sự? Có nhất thiết là phải có một binh lực mạnh tuyệt đối so với binh lực của Pháp mới là ưu thế quân sự để tổng phản công hay không?

- Về điều kiện viện trợ quốc tế, thế nào là chủ quan, ỷ lại. Anh em đồng tình với tài liệu: dựa vào sự giúp đỡ của nước ngoài là chủ quan, ỷ lại nhưng chối cãi sự quan trọng của viện trợ quốc tế lại là không đúng.

- Về những khó khăn của ta, anh em thảo luận nhiêu và cuối cùng nhất trí với bản dự thảo của Tổng Tư lệnh nói rằng phản động quốc tế có thể giúp Pháp tích cực hơn. Chúng ta cần đề phòng, không nên chủ quan. Vì sự can thiệp của Mỹ có thể tăng thêm sức mạnh cho quân đội Pháp. Do đó giai đoạn tổng phản công có thể kéo dài, thậm chí phải chia thành hai thời kỳ lớn: một thời kỳ giải quyết chiến trường miền Bắc và một thời kỳ giải quyết chiến trường miền Nam.

Về yếu tố lãnh đạo chỉ đạo, anh em trao đổi và phân tích cụ thể nội dung được viết trong bản dự thảo: chúng ta cần nhận thấy tầm quan trọng của sự chỉ đạo và sự cố gắng chủ quan. Sự chỉ đạo cần sáng suốt, sát thực tế, khai thác hết khả năng, mạnh bạo, kịp thời. Sự cố gắng cần phải vượt bực, không chỉ lúc mới chuyển sang tổng phản công mà suốt cả giai đoạn tổng phản công cho đến thắng lợi hoàn toàn…


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Hai, 2013, 06:14:34 pm
Do tình hình khẩn trương và gần cuối năm công việc của từng bộ phận rất nhiều nên đợt học tập kết thúc sau ba ngày. Nguyễn Đình Chuẩn (Phòng Tác chiến) được phân công tổng họp ý kiến anh em và báo cáo Tổng Tư lệnh. Vì kết quả thảo luận không để lại nhiều ý kiến cần giải đáp ngay, nên anh Văn dặn sẽ gắn những ý kiến “bảo lưu” của anh em để nói chuyện trong một dịp thuận tiện sẽ bố trí sau. Anh còn dặn thêm: nên tranh thủ thời gian cuối năm để sớm mở rộng diện nghiên cứu tới những cán bộ thuộc bộ phận nghiệp vụ trực tiếp liên quan đến chỉ đạo của tham mưu.

Khoảng giữa tháng 9-1949, Phòng Tình báo nhận được tin tướng Cácpăngchiê (Michel Carpentier) sang thay Bledô (Henri Blaizot) làm Tổng Chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Địch tổ chức ra Khu vực hành quân Bắc Kỳ (Zone opérationnelle du Tonkin - ZOT) do tướng Alétxăngđơri phụ trách. Rõ ràng Bắc Bộ đối với địch ngày càng trở thành chiến trường trọng yếu. Hành lang đông tây (nối Móng Cái - Tiên Yên - Đình Lập - An Châu - Lục Nam qua Bắc Bắc - Phủ Lỗ - Vĩnh Phúc - Việt Trì) xuống Hòa Bình) được củng cố. Địch muốn cắt chiến trường Bắc Bộ ra làm đôi. Những cuộc hành quân càn quét tiếp diễn ở đồng bằng sông Hồng. Càn quét đi đôi với lập chính quyền tay sai các cấp và bắt lính. Các cứ điểm được ken dày thêm dọc các đường giao thông lớn. Ở miền núi, kể cả ở Cao Bằng, địch rút thêm nhiều cứ điểm nhỏ, co về củng cố những vị trí lớn. Về binh lực, nhìn toàn cục, lực lượng cơ động chiến lược của địch không tăng, vẫn trên dưới 10% tổng quân số.

Tình hình bên Hoa Nam chuyển biến nhanh. Khoảng trung tuần tháng 8, Giải phóng quân Trung Quốc chỉ còn cách Quảng Châu chừng 100 kilômét. Theo phán đoán, sang tháng 9 hoặc chậm lắm là tháng 10, Giải phóng quân Trung Quốc sẽ tiến gần biên giới Việt - Trung. Ta không loại trừ khả năng tàn quân Tưởng có thể tràn vào đường số 4, từ Cao Bằng đến Tiên Yên.

Sau hai trận phục kích lớn trên các đoạn đường Bông Lau - Lũng Phầy và Bố Củng - Lũng Vài, một câu hỏi lớn vẫn chưa có lời đáp trong các phòng nghiệp vụ Bộ Tổng tham mưu: Địch có rút khỏi Cao Bằng không? Bởi vậy, trong nhận định và chủ trương tác chiến của Bộ cũng như trong việc chuẩn bị chiến trường của các đơn vị đều dự kiến hai khả năng: Một là nếu địch không rút khỏi Cao Bằng, ta mở chiến dịch đường số 4, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta, hoặc địch rút khỏi Cao Bằng, Cao Bằng giải phóng, ta có điều kiện khai thông và mở rộng biên giới. Hai là nếu địch rút khỏi Cao Bằng và đánh thông đường số 1, thì các đơn vị phối hợp tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, ngăn chặn và làm chậm bước rút quân của chúng, buộc chúng phải bỏ lại vũ khí trang bị trên đường rút lui; tiếp đó, ta mở chiến dịch Đông Bắc, tiêu diệt sinh lực địch, bao vây, cô lập và buộc địch rút khỏi Lạng Sơn.

Trên hướng trung du, tin tức cho biết sau khi chiếm đóng Vĩnh Yên và Phúc Yên, nối liền đường Phúc Yên - Vĩnh Yên - Phủ Lỗ và đường Phúc Yên - Châu Phan, địch củng cố các vị trí trong hai thị xã Vĩnh Yên và Phúc Yên và những vị trí chính trên hai trục đường đó. Chúng ta thấy cần đề phòng địch có thể phối hợp thủy - lục - không quân, tiến công chiếm đóng tây nam Phú Thọ, nối Phú Thọ - Việt Trì - Vĩnh Yên. Đồng thời cũng cần đề phòng chúng tiến quân lên hướng Tuyên Quang. Bởi vậy, trong mệnh lệnh trung tuần tháng 9 gửi Trung đoàn sông Lô (209) Bộ quy định: nhiệm vụ chính của trung đoàn là tham gia chuẩn bị chiến dịch Lê Lợi (trên địa bàn Chợ Bờ - Hòa Bình), nhiệm vụ phụ là chuẩn bị đánh địch khu chúng lên Phú Thọ - Tuyên Quang.

Việc chuẩn bị mở chiến dịch Lê Lợi được đề ra từ đầu trung tuần tháng 9. Tiếp đó, trong mệnh lệnh đề ngày 13-9, gửi các bộ tư lệnh các liên khu 3, 10 và 4 và Ban Chỉ huy Trung đoàn 209, sau khi khái quát những diễn biến chính trên chiến trường Bắc Bộ, Bộ thống soái nhận định; Giải phóng quân Trung Quốc sẽ tiến vào địa giới Quảng Đông, Quảng Tây, quân địa phương đã nổi dậy chiếm Côn Minh. Trong khi đó, phản động quốc tế đang tìm cách câu kết để đối phó với tình hình ở Trung Quốc và Đông Nam Á. Chủ trương mở chiến dịch Lê Lợi nhằm mở ra một cục diện mới, tạo điều kiện phối hợp với Giải phóng quân Trung Quốc. Chiến dịch Lê Lợi là chiến dịch có nhiều bộ đội chủ lực tham gia đông nhất từ tước đến nay. Chỉ huy chiến dịch là các đồng chí Hoàng Sâm, Lê Quang Hòa, Lê Trọng Tấn. Bộ Tư lệnh Liên khu 3 được giao nhiệm vụ triệu tập hội nghị thảo luận kế hoạch tác chiến. Bộ quy định đến cuối tháng 10, mọi công tác chuẩn bị phải xong.

Tiếp theo mệnh lệnh ngày 13-9 là những chỉ lệnh bổ sung của Bộ Tổng tham mưu về công tác phá hoại đường 5, về phối hợp của các liên khu 10, 3, 4 trong quá trình đánh địch.

Chừng hai tuần trước khi mở màn chiến dịch Lê Lợi, cùng với nhận định “tình hình Giải phóng quân Trung Quốc đã đến Quảng Đông - Quảng Tây và trong một thời gian sẽ tiến sát biên giới Trung - Việt”, ngày 10-11-1949 Tổng Quân ủy ra một chỉ thị quan trọng về tình hình và nhiệm vụ trên toàn chiến trường Biên giới, từ Tây Bắc đến Đông Bắc. Sau khi nêu lên phương hướng “ứng xử” với quân Pháp, với bọn thổ ty, bản chỉ thị nhấn mạnh những công việc cần kíp: Ráo riết củng cố biên giới; chuẩn bị kế hoạch đối phó với tàn quân Quốc dân Đảng (nếu chúng vượt qua biên giới vào đất ta), chuẩn bị phối hợp với Giải phóng quân Trung Quốc, chuẩn bị chiến trường để chủ lực lên tác chiến.

Chiến dịch Lê Lợi mở màn chậm chừng ba tuần so với kế hoạch. Trên hướng đường số 6, ta tiêu diệt hai vị trí Đồn Bến và Đầm Huống nhưng không thành công trong việc tiêu diệt vị trí Mát. Trên hướng sông Đà, ta tiêu diệt hai vị trí Mỏ Hẻm, Suối Rút, bao vây Chợ Bờ và đánh địch tăng viện cho Chợ Bờ. Trên hướng đường 12, do hoạt động muộn hơn nên mất yếu tố bất ngờ. Sau khi hai vị trí Tử Nê và Đồi Bóng bị tiêu diệt, địch rút bỏ nhiều vị trí nhỏ, co về giữ các vị trí lớn và xung yếu.

Ngày 27-12, nhận thấy bộ đội đã mệt mỏi sau một thời gian tác chiến, Bộ quyết định kết thúc chiến dịch Lê Lợi và ra lệnh cho Bộ Tư lệnh Liên khu 3 và Ban Chỉ huy Trung đoàn 209 tiếp tục chuẩn bị chiến trường trên hướng Hòa Bình, tạo điều kiện hoạt động vào trung tuần tháng 1-1950.

Trước tình hình chiến dịch Lê Lợi không đạt kết quả mong đợi, Phòng Tác chiến được Tổng Tham mưu trưởng giao nhiệm vụ nghiên cứu và kết luận về bài học rút ra từ chiến dịch này: chọn hướng chiến dịch, lực lượng huy động, phối hợp về thời gian và lực lượng giữa các hướng để tạo nên sự uy hiếp chung, hạn chế khả năng địch tập trung đối phó.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Hai, 2013, 06:15:05 pm
VII

Trong những ngày trung tuần tháng 2, giáp Tết Canh Dần, Tổng Tham mưu trưởng triệu tập cuộc họp các cán bộ đầu ngày để kiểm điểm công tác năm 1949 và bàn kế hoạch năm 1950 nhằm triển khai chủ trương chiến lược mới.

Hội nghị toàn quốc lần thứ ba của Đảng vừa họp từ cuối tháng 1 đến đầu tháng 2-1950 và đề ra chủ trương hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị, chuyển mạnh sang tổng phản công. Chính phủ cũng đã ra sắc lệnh tổng động viên. Bộ máy kháng chiến các cấp tăng nhịp độ hoạt động theo khẩu hiệu được đề ra trong hội nghị toàn quốc là “Tất cả cho tiền tuyến - Tất cả để chiến thắng”.

Trong cuộc họp cán bộ đầu năm 1950 này, Tổng Tham mưu trưởng và anh em đều thấy: để tiếp tục thế mới, lực mới, chuẩn bị đối thời cơ, tiến tới tổng phản công chiến lược, theo tinh thần nghị quyết hội nghị toàn quốc, còn quá nhiều việc phải khẩn trương triển khai ngay từ đầu năm.

Mở đầu cuộc họp, anh Thái cùng các cán bộ phụ trách Phòng rà soát lại hoạt động của địch trên từng chiến trường trong năm qua để thống nhất đánh giá làm cơ sở phán đoán âm mưu chiến lược sắp tới của địch.

Trên chiến trường thượng du với trung du miền Bắc, địch đã củng cố biên giới và vùng Đông Bắc; mở rộng phạm vi chiếm đóng lên trung du; câu kết với Quốc dân Đảng Tưởng Giới Thạch, tổ chức cho chúng rút lui vào biên giới và thu dung được một số tàn quân Tưởng để khuếch trương quân số. Nhưng địch đã buộc phải rút lui khỏi Bắc Kạn và nhiều địa bàn quanh các thị xã Cao Bằng, Hòa Bình, Yên Bái. Cần khẳng định rằng việc rút lui khỏi Bắc Kạn là một thất bại lớn của địch. Nó nói lên sự phá sản về chiến lược chiếm đóng của địch nhằm tạo thế uy hiếp trung tâm căn cứ địa Việt Bắc.

Trên chiến trường đồng bằng Bắc Bộ, địch chủ trương mở rộng phạm vi chiếm đóng, củng cố hành lang đông tây, củng cố khu chữ nhật lệch (Hà Nội - Lạng Sơn - Mỏng Cái - Hải Phòng); ra sức vơ vét sức người sức của của ta, nhất là lợi dụng đồng bào Công giáo (từ sau cuộc hành binh Anthractie - 10-1949). Mâu thuẫn không tránh khỏi của địch trong vùng đồng bằng sông Hồng là càng mở rộng chiếm đóng thì càng gặp khó khăn trong việc xây dựng khối lực lượng cơ động.

Trên chiến trường Bình - Trị - Thiên, địch buộc phải rút khỏi nhiều vị trí nhưng chúng vẫn cố gắng củng cố vùng tạm chiếm, giữ vững đường liên lạc Đà Nẵng - Huế - Lào.

Tại Nam Trung Bộ, địch càn quét vùng tự do của ta và thực hiện được một phần quan trọng kế hoạch củng cố Tây Nguyên và vùng cực nam. Nhưng do khủng hoảng binh lực, chúng buộc phải thu hẹp phạm vi chiếm đóng ở Quảng Nam, Bình Thuận.

Trên chiến trường Nam Bộ, địch tiếp tục củng cố vùng tạm chiếm bằng kế hoạch Đờla Tua, nhất là vùng Sài Gòn - Chợ Lớn, vùng gạo, vùng cao su và các đường giao thông lớn; đánh phá thu hẹp căn cứ Đồng Tháp Mười và mở nhiều cuộc càn quét vào các khu du kích của ta, đặc biệt là ở miền Đông; ra sức cắt đường giao thông liên lạc của ta giữa các khu và tăng cường phong tỏa biên giới Campuchia - Việt Nam; ra sức nắm khối ngụy binh Cao Đài, Hòa Hảo và tích cực phát triển ngụy binh người Khmer và Công giáo.

Trên chiến trường Lào và Campuchia, về cơ bản, tình hình địch ít biến chuyển. Địch chưa vượt ra khỏi mấy khó khăn lớn: binh lực thiếu, đa số là quân ngụy, bố trí sơ hở. Riêng tại Lào, địch còn gặp thêm khó khăn về tiếp tế.

Cuộc họp chuyển sang thảo luận về âm mưu mới của địch. Trong năm mới, chúng sẽ làm gì?

Pháp đã chính thức yêu cầu Mỹ viện trợ, khả năng chuyến vũ khí đầu tiên sẽ đến Việt Nam vào mùa hè này. Điều đáng chú ý là, từ khi Bảo Đại về nước và từ khi tướng Rơve đề nghị đặt vấn đề chiến tranh Đông Dương vào khuôn khổ chiến lược Hoa Kỳ thì mâu thuẫn giữa Pháp và Bảo Đại, giữa Pháp và Mỹ, giữa hai loại tay sai của Pháp và của Mỹ, đã sớm nảy sinh. Nhất định các loại mâu thuẫn đó sẽ tác động lẫn nhau và ngày càng sâu sắc.

Về quân sự, địch sẽ cố gắng bắt lính nhằm phát triển binh lực, nhưng do phạm vi chiếm đóng mở rộng nên lực lượng cơ động chiến lược sẽ chỉ dừng lại trong phạm vi 10% tổng quân số. Thành phần quân ngụy (hiện xấp xỉ 50% tổng số binh lực của địch) sẽ tiếp tục tăng lên hơn nữa. Chiến trường Bắc Bộ vẫn là chiến trường chủ yếu của địch. Mọi nỗ lực của địch sẽ dồn vào kế hoạch mở rộng phạm vi chiếm đóng vùng đồng bằng sông Hồng, nối Hà Nội - Nam Định, chiếm Ninh Bình, chia cắt chiến trường Liên khu 3 và Liên khu 4 của ta. Chúng sẽ củng cố vùng tạm chiếm ở trung châu Bắc Bộ, Tây Nguyên, Nam Bộ (mà trọng tâm là vùng Khu 7), củng cố các đô thị, các đường giao thông quan trọng. Riêng đối với miền Nam Đông Dương, địch sẽ tăng cường đánh phá vùng tự do Liên khu 5, tăng cường chính sách chia rẽ dân tộc, nhất là ở Lào và Campuchia; sẽ tăng cường phong tỏa biên giới Campuchia - Nam Bộ.

Một vấn đề cũ lại được đặt ra để thảo luận: Địch có rút ngắn phòng tuyên biên giới Đông Bắc hay không? Còn có một vài ý kiến về khả năng địch rút khỏi Cao Bằng, nhưng nhiều ý kiến cho rằng địch sẽ củng cố thế phòng thủ trên đường số 4. Giải phóng quân Trung Quốc sẽ dừng lại bên kia biên giới, do đó sức ép của họ không còn là mối lo đối với Bộ Chỉ huy Pháp như hồi cuối năm 1949.

Sau khi thảo luận và đi đến nhất trí nhận định và phán đoán về ý đồ chiến lược sắp tới của địch, Tổng Tham mưu trưởng phổ biến chủ trương chiến lược chung và trên từng chiến trường. Như anh Thái nói, mọi cán bộ đầu ngành nghiệp vụ phải nhớ và quán triệt vào nhiệm vụ cơ bản của mình trong năm 1950 này, năm được coi là chuyển mạnh sang tổng phản công.

Tổng Tham mưu trưởng nhắc lại những nhiệm vụ chiến lược có liên quan trực tiếp đến chức năng chỉ đạo, chỉ huy của cơ quan tham mưu chiến lược.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Hai, 2013, 06:15:28 pm
Sau hội nghị toàn quốc của Đảng hồi đầu năm, Bộ Tổng tham mưu đã làm một bản kế hoạch công tác. Nhưng so với các huấn lệnh gần đây của đồng chí Tổng Tư lệnh gửi các chiến trường và đơn vị thì kế hoạch đó cần được bổ sung để giúp trên chỉ đạo triển khai những nhiệm vụ quan trọng dưới đây trong năm 1950, cả về xây dựng và tác chiến.

1. Phát triển rộng hơn nữa cơ sở chính trị trong những vùng sâu ở Tây Bắc, Tây Nguyên, cực nam Trung Bộ. Riêng trên chiến trường Lào và Campuchia, nếu những năm trước đây ta nêu phương châm chính trị trọng hơn quân sự thì bước sang thời kỳ này, phương châm phải là chính trị và quân sự đi đôi. Phải nắm vững phương châm đó để vừa giúp bạn mở rộng cơ sở chính trị trong nhân dân đồng thời với xây dựng lực lượng vũ trang.

2. Phát triển chiến tranh du kích sâu rộng hơn nữa trên khắp các chiến trường. Riêng với Liên khu 3, đây là nhiệm vụ hàng đầu. Liên khu 3 là chiến trường trọng điểm mà địch đang tiến hành những cuộc tiến công mở rộng phạm vi chiếm đóng mà những cuộc hành binh càn quét, hòng biến đồng bằng sông Hồng thành hậu phương vững chắc của chúng nhằm thực hiện chính sách “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”. Huấn lệnh của Bộ Tổng tư lệnh nhấn mạnh: Chỉ có phát triển chiến tranh du kích cao độ, nhất là ở mặt trận đường 5, đường 6, các vùng phụ cận sông Hồng và các thành phố lớn, Liên khu 3 mới phá được âm mưu địch, mới đảm bảo kế hoạch tổng động viên, chuẩn bị đón thời cơ chiến lược.

3. Xây dựng bộ đội chủ lực của Bộ và của Khu. Riêng ở Bộ, điều Trung đoàn 36 về Đại đoàn 308 đủ ba trung đoàn; xây dựng thêm Đại đoàn 304 gồm hai trung đoàn của Liên khu 3 và một trung đoàn của Liên khu 4; xây dựng Trung đoàn 174 và Trung đoàn 209 thành hai trung đoàn chủ lực mạnh của Bộ. Ở các khu và liên khu, đi đôi với kiện toàn các trung đoàn chủ lực, phải phát triển bộ đội địa phương, củng cố dân quân du kích, huấn luyện quân dự bị, đồng thời phát triển cơ sở chính trị và xây dựng các đội quân ngầm ở các đô thị lớn.

4. Tiếp tục cuộc vận động rèn luyện cán bộ - chấn chỉnh quân đội. Bộ và liên khu mở thêm trường bổ túc và đào tạo cán bộ. Về huấn luyện, nội dung huấn luyện bộ đội chủ lực phải hướng vào đánh vận động. Riêng với chủ lực của khu và liên khu, huấn luyện đánh vận động phải nhằm yêu cầu tiêu diệt các đội quân địch đi lưu động càn quét.

5. Các liên khu đều phải chuẩn bị chiến trường cho tác chiến của bộ đội chủ lực. Đối với các liên khu 3, 4 và Việt Bắc, nhiệm vụ chuẩn bị chiến trường là nhiệm vụ rất quan trọng của giai đoạn này.

6. Giữ vững và mở rộng đường liên lạc giữa các liên khu, từ Việt Bắc đến các chiến trường miền Nam, giữa Thượng, Trung và Hạ Lào, giữa các chiến trường Lào với các liên khu được phân công giúp bạn, giữa căn cứ chính (Tây Nam) với các căn cứ khác (Đông Nam, Tây Bắc) của Campuchia, giữa Campuchia với Nam Bộ.

7. Mở đường liên lạc với quốc tế và chuẩn bị sẵn sàng kế hoạch tiếp nhận viện trợ và kế hoạch bảo vệ giao thông chuyên chở từ biên giới vào nội địa, từ Việt Bắc đến Liên khu 4, qua Bình - Trị - Thiên vào Liên khu 5 và Nam Bộ.

8. Các liên khu Việt Bắc, 4, 5 và các khu thuộc Nam Bộ cần có kế hoạch đề phòng địch mạo hiểm tiến công vào căn cứ địa, vào vùng tự do của ta.

Ngoài những nhiệm vụ chung trên đây, Bộ đã chỉ thị riêng cho Nam Bộ về xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang địa phương; đã có chỉ thị riêng cho Liên khu Việt Bắc và các đơn vị chủ lực của Bộ về chuẩn bị chiến trường Đông Bắc nhằm phối hợp với hướng Lào Cai.

Tổng tham mưu trưởng và các đồng chí phụ trách các phòng đều nhất trí nhận định rằng các nhiệm vụ trên đây của toàn quân và riêng Bộ Tổng tham mưu là rát nặng nề và lớn lao. Chỉ có hoàn thành những nhiệm vụ đó mới thực sự tạo nên thế mới, lực mới, tạo nên bước ngoặt của cuộc kháng chiến.

Trong phần kết luận hội nghị, Tổng Tham mưu trưởng nhận xét rằng, trong hai năm qua, nhất là năm 1949, toàn cơ quan đã tiến bộ một bước rất quan trọng, cả về nghiệp vụ chuyên môn, về xây dựng cơ quan, về giữ vững và cải thiện đời sống tinh thần và vật chất cho cán bộ và chiến sĩ trong điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn. Để hoàn thành nhiệm vụ nặng nề sắp tới, các phòng cần dựa vào kết quả công tác năm qua và nhiệm vụ năm 1950, đánh giá đúng những tiến bộ và những yếu kém cần khắc phục của từng bộ phận, từng ngành và bàn phương hướng khắc phục. Trên cơ sở đó mà phân công triển khai kế hoạch công tác mới. Trong phân công, cần dự kiến người thay thế các phái viên xuống đơn vị, ra phía trước. Cần động viên mọi người thi đua theo tinh thần “Tất cả cho tiền tuyến - Tất cả để chiến thắng”.

Xuân Canh Dần đang về. Hội nghị kết thúc với không khí hồ hởi của một mùa xuân đầy hứa hẹn những chiến công mới của quân và dân cả nước.

Đúng vào những ngày giáp Tết này, điều khiến Bộ Tổng tham mưu chú ý là tình hình biên giới Đông Bắc chuyển biến phức tạp và khẩn trương. Sau trận phục kích của Trung đoàn 174 ở bản Nầm, giao thông của địch trên đường số 4 bị gián đoạn nhiều ngày. Chúng phải dùng đường hàng không tiếp tế cho Cao Bằng. Trung đoàn 174 vừa về tập kết ở Nước Hai chuẩn bị bước vào đợt huấn luyện thì nhận được lệnh tiêu diệt quân Tưởng tràn qua biên giới. Trung đoàn triển khai gấp lực lượng đánh địch trên hai hướng: chặn địch ở cửa khẩu Hà Quảng và phục kích trên đoạn đường Bông Lau - Lũng Phầy.

Từ đầu tháng 1-1950, ròng rã 10 ngày, bộ đội trên hướng Hà Quảng chiến đấu liên tục ở Nà Giang, Cốc Sâm. Quân Tưởng không thực hiện được ý đồ thọc sâu xuống Mỏ Sắt, Nước Hai - Cao Bằng. Khi chúng tạt qua phía Nậm Nhũng, Lục Khu, hòng tràn vào Trà Lĩnh và Cao Bằng, quân ta lại cấp tốc đến đèo Mã Phục và đèo Canh Phác để chặn địch.

Trước tình hình địch bị chặn lại ở hướng Hà Quảng, bộ phận phục kích ở phía dưới Đông Khê rời khu vực phục kích Bông Lau - Lũng Phầy cấp tốc ngược lên Quảng Uyên để cùng bộ đội trên hướng đó đánh địch. Khi Quân Giải phóng Trung Quốc tiến xuống Long Châu, bắt liên lạc với ta thì hàng vạn tên lính Tưởng Giới Thạch còn lại đã bị quân ta đánh bật sang bên kia biên giới ở hướng Bình Nghi. Đường số 4 sạch bóng quân Tàu trắng.

Càng về cuối năm 1949, cục diện chiến trường biên giới Đông Bắc càng cho phép khẳng định: giao thông của địch trên đường số 4 liên tục bị ta uy hiếp nhưng quân Pháp không rút khỏi Cao Bằng. Chúng hy vọng hốt được ít nhiều tàn quân Tưởng để bổ sung vào quân số đang thiếu hụt. Giải phóng quân Trung Quốc đang tiến xuống vùng đất tận cùng của Hoa Nam và có nhiều khả năng sẽ dừng lại ở bên kia biên giới.

Yêu cầu chiến lược nóng bỏng đặt ra với ta lúc này vẫn là khai thông đường liên lạc quốc tế, phá thế bao vây của địch trên biên giới phía Bắc.

Theo nhận định của Bộ thống soái, nhìn suốt chiều dài biên giới, Tây Bắc vẫn là chiến trường địch yếu và sơ hở. Đông Bắc là chiến trường quan trọng với ta cũng như đối với địch trong những năm sắp tới, nhưng trước mắt quân địch trên hướng Đông Bắc (cụ thể là trên đường chiến lược số 4) vẫn mạnh hơn trên hướng Lào Cai - Hà Giang. Tổng hành dinh dự kiến trong kế hoạch tiến công chiến lược sắp tới sẽ vẫn chọn hướng Tây Bắc để khai thông biên giới.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Hai, 2013, 07:55:46 pm
CHƯƠNG X

RA QUÂN ĐÁNH LỚN KHAI THÔNG BIÊN GIỚI

I

Khoảng giữa tháng 11-1949, Tổng Tham mưu trưởng triệu tập một nhóm cán bộ có trình độ nghiên cứu để giao nhiệm vụ chuẩn bị bản báo cáo của Tổng Tư lệnh tại Hội nghị toàn quốc lần thứ ba của Đảng, dự kiến sẽ họp cuối tháng 1-1950 và hội nghị hành chính kháng chiến, họp đầu tháng 2. Sau bản Dự thảo báo cáo tại Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ sáu đầu năm 1949, đây là lần thứ hai Bộ Tổng tham mưu được Tổng Tư lệnh giao chuẩn bị một văn kiện quân sự quan trọng. Dù anh em đã trải qua một lần biên soạn tài liệu ở tầm chiến lược, nhưng anh Thái vẫn đề nghị anh Văn dành thời gian nêu lên để nhóm nghiên cứu nắm được tư tưởng chủ đạo và phác ra cái “sườn” gồm những nội dung chủ yếu của bản báo cáo đồng thời gợi ý cách viết. Sau đó, trong quá trình nghiên cứu, biên soạn, anh Văn đã nhiều lần cho ý kiến để anh em hoàn chỉnh bảo dự thảo bản báo cáo nhan đề: Nhiệm vụ quân sự chuyển sang tổng phản công.

Đây thực chất là một bước đánh giá tình hình và tổng kết sự chỉ đạo chiến lược của Tổng hành dinh trong hai năm (mà hồi đó gọi là) tích cực cầm cự và chuẩn bị tổng phản công, đặc biệt là nhận định về tương quan lực lượng trên chiến trường, làm cơ sở để đề ra phương hướng chỉ đạo cuộc kháng chiến chuyển sang giai đoạn mới.

Về sự chuyển hóa về thế và lực giữa ta và địch trên chiến trường trong hai năm 1948-1949, bản báo cáo nhận xét: thế cầm cự diễn ra ngày càng khẩn trương, với những hình thái ngày càng có lợi cho ta. Cụ thể là: Sau thất bại của sự cố gắng vượt bậc trong thu đông năm 1947, địch đã lại cố gắng một lần nữa bằng các tập trung quân ra Bắc và mở rộng thêm vùng tạm chiếm ở trung du và đồng bằng. Nhưng những cố gắng mới của địch diễn ra trong tình thế nước Pháp đứng trước rất nhiều khó khăn về kinh tế tài chính. Chiến lược của chúng đã phụ thuộc vào chiến lược chung của Mỹ và đã nặng về phòng ngự rõ rệt. Riêng năm 1949, quân Pháp đã không được nghỉ ngơi trong mùa hè, sang thu đông cũng không mở được cuộc tiến công nào lớn, trong khi ta đã tiến tới những chiến dịch tiến công với binh lực ngày một tập trung hơn, đã tiêu diệt những bộ phận sinh lực quan trọng của địch. Quân Pháp cố mở rộng thêm phạm vi chiếm đóng tại những vùng nhiều nhân lực vật lực của ta, nhưng ta cũng khôi phục lại nhiều đất đai, mở rộng được căn cứ địa Việt Bắc. Ta gặp nhiều khó khăn về kinh tế nhưng Pháp cũng đứng trước rất nhiều vấn đề không vượt qua nổi cả về quân sự, kinh tế và chính trị. Thêm nữa, chiến thắng vĩ đại của cách mạng Trung Quốc lại là một chuyển biến lớn lao có lợi cho ta, không lợi cho địch.

Kiểm điểm lại sự chỉ đạo chiến lược của Tổng hành dinh trong hai năm, bản báo cáo nhận thây:

1- Quan niệm về đường lối chiến tranh nhân dânquân đội nhân dân đã rõ rệt và cụ thể hơn, nhưng chưa được thấm nhuần đầy đủ đến cán bộ quân - dân - chính các cấp.

2- Phương châm du kích chiến là chính, vận động chiến là phụ là đúng đắn và đã đưa lại nhiều thắng lợi lớn. Nhưng phương châm ấy chưa được quán triệt sâu sắc đến các chiến trường.

3- Thực tế tổ chức lực lượngchỉ huy các đánh cho thấy: bước tiến bộ về trình độ tổ chức và trình độ chiến thuật còn thấp hơn và chậm hơn đường lối chiến lược, chưa bảo đảm được sự thành công của đường lối chiến lược; trình độ tổ chức chưa bảo đảm thực hiện đường lối chính trị của Đảng.

Về tình hình và nhiệm vụ chung khi cuộc kháng chiến bước sang năm thứ 5, bản báo cáo nhận định:

1- Sau hai năm tích cực cầm cự và chuẩn bị tổng phản công, quân và dân ta đã thu được nhiều thắng lợi to lớn đồng thời cũng đứng trước nhiều khó khăn thử thách mới. Về phía địch, những thất bại trên chiến trường Đông Dương ngày càng đẩy thực dân Pháp phải đối mặt với những khó khăn hơn trước. Phong trào phản chiến của nhân dân Pháp và cuộc đấu tranh đòi độc lập của các nước thuộc địa Pháp ở châu Phi tiếp tục phát triển. Tuy nhiên, để tiếp tục theo đuổi cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương, sau khi được Pari tăng viện và câu kết được với tàn quân Quốc dân Đảng Trung Hoa, địch đang áp chính sách chiến tranh tổng lực, ra sức củng cố thế và lực trên chiến trường Bắc Bộ, củng cố chính quyền và quân đội tay sai, vận dụng chính sách “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”. Kế hoạch Rơve lộ rõ ý đồ của thực dân Pháp từng bước đưa cuộc chiến tranh Đông Dương và khuôn khổ chiến lược toàn cầu của đế quốc Mỹ, dựa vào viện trợ Mỹ để củng cố lực lượng, tăng cường và hiện đại hóa quân đội. Trên thực tế, thực dân Pháp đã trở thành tay sai của đế quốc Mỹ.

2- Thắng lợi của cách mạng Trung Quốc là thành công lớn nhất của cách mạng thế giới kể từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga. Thắng lợi đó sẽ ảnh hưởng to lớn đến cục diện thế giới, Đông Nam Á và đặc biệt là với Đông Dương. Trung Quốc, Liên Xô, các nước dân chủ nhân dân công nhận nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, thể hiện thái độ ủng hộ cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân ta. Sự kiện đó sẽ ảnh hưởng to lớn đến tiền độc cuộc chiến tranh cách mạng của Việt Nam nói riêng và cục diện Đông Nam Á nói chung(1).

3- Thế lực phản động quốc tế, đứng đầu là đế quốc Mỹ, đang hoạt động ráo riết để can thiệp vào cuộc chiến tranh Đông Dương, khống chế các nước phụ cận, hòng biến Đông Nam Á thành “khu thịnh vượng chung” của chương trình Truman.


(1) Lúc này Chủ tịch Hồ Chí Minh đang công cán tại Trung Quốc và Liên Xô. Thắng lợi ngoại giao ban đầu “ở nhà” được thông báo là Liên Xô và Trung Quốc chấp nhận viện trợ cho cuộc kháng chiến của ta trên cơ sở công nhận nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Bước đột phá thắng lợi về chính trị đối ngoại sẽ tạo đà cho việc khai thông biên giới trên thực địa.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Hai, 2013, 07:58:44 pm
Trước tình hình đó, bản báo cáo xác định: năm 1950 là một năm chuyển hướng chiến lược(1). Dựa trên cơ sở phân tích dưới đây, bản báo cáo khẳng định Giai đoạn thứ ba sẽ bắt đầu:

1- Sau hai năm 1948-1949 (hai năm tích cực cầm cự - chuẩn bị tổng phản công), lực lượng của ta được tăng cường và phát triển, đã lớn mạnh khá nhanh nhưng vẫn còn yếu hơn địch. Lực lượng quân sự của địch tuy bị tổn thất, tinh thần suy yếu đi nhiều, nhưng vẫn còn mạnh hơn ta. Sự chuyển hóa tương quan lực lượng giữa tà địch thể hiện cụ thể trên các mặt sau đây:

- Về mặt tổ chức, phần lớn các đại đội độc lập của ta đã trở về tập trung thành các tiểu đoàn chủ lực trong đội hình của các trung đoàn - đại đoàn chủ lực. Điều đó không chỉ chứng tỏ sự trưởng thành của bộ đội chủ lực mà còn nói lên sự phát triển nhanh chóng của bộ đội địa phương và dân quân du kích cũng tức là sự phát triển của phong trào chiến tranh du kích nói chung. Với bước đầu thực hiện nghĩa vụ quân sự, với sự ra đời của bộ đội địa phương, lực lượng vũ trang của ta đã lớn mạnh và phân hóa rõ rệt thành ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích, với vị trí, chức năng, nhiệm vụ chiến lược được xác định rõ rệt.

- Riêng bộ đội chủ lực, sự trưởng thành và tiến bộ không chỉ về mặt tập trung của các trung đoàn (đại đoàn) mà các mặt kỹ thuật và chiến thuật, kinh nghiệm và tinh thần chiến đấu đều tiến bộ sau hai cuộc vận động luyện quân lập công và đợt đùa cuộc vận động rèn luyện cán bộ - chấn chỉnh quân đội (rèn cán - chỉnh quân). Lực lượng hậu bị của chủ lực cũng được tăng thêm. Trong khi chủ lực của ta ngày càng tập trung thì quân Pháp, từ tập trung ở quy mô sư đoàn ngày khởi chiến, phân tán dần thành lữ đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn cho đến đại đội, trung đội trong các cứ điểm nhỏ (mãi gần đây ở Bắc Bộ mới dần dần tập trung trở lại).

- Về số lượng, nếu tính cả bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương thì ta trội hơn địch, hậu bị của ta dồi dào hơn trong khi nhân lực tại chỗ của địch thiếu thốn, khả năng tăng viện từ Pháp sang ngày càng hạn chế(2).

- Điểm yếu của ta cần khắc phục là: so với địch, ta còn kém về số lượng bộ đội chủ lực, về trang bị vũ khí và phương tiện chỉ huy. Một điểm yếu quan trọng của ta là cán bộ tiến không kịp nhiệm vụ.

2- Binh lực của địch đã đứng trước những khó khăn sau 5 năm chiến tranh xâm lược:

- Trong hai năm 1948 và 1949, trên toàn chiến trường Đông Dương, dù bị thiệt hại năng(3), nhưng chúng được tăng viện mỗi năm chừng 20 tiểu đoàn cùng trang bị vũ khí và phương tiện chiến tranh. Dự kiến trong năm tới, ngoài khả năng tăng viện từ Pháp sang (có thể hạn chế hơn năm 1949), địch có thể điều lực lượng từ Bắc Phi sang, phát triển quân đội tay sai, lợi dụng tàn dư quân Quốc dân Đảng Trung Hoa. Về trang bị, Pháp có thể được Mỹ viện trợ.

- Địch ngày càng bộc lộ những nhược điểm về binh lực. Cụ thể là: 1- Cơ cấu thành phần phức tạp, tinh thần chiến đấu kém (đây là nhược điểm lớn nhất của địch)(4); 2- Bố trí phân tán; 3- Khả năng bổ sung hạn chế; 4- Tiếp tế khó khăn.

Tóm lại, trước tình hình đó, vấn đề đặt ra là phải phát huy mọi khả năng của ta, lợi dụng những nhược điểm của địch để từng bước tiến lên giành ưu thế quân sự để chuyển sang giai đoạn ba. Nhiệm vụ quân sự của ta là vừa chiến đấu tiêu diệt sinh lực địch vừa gấp rút bồi dưỡng và xây dựng lực lượng của ta để trong năm nay thực hiện đầy đủ điều kiện chuyển mạnh sang tổng phản công.


(1) Báo cáo tại Hội đồng Chính phủ cuối năm 1949, sau khi phân tích tương quan lực lượng giữa ta và địch, cả về vật chất và tinh thần, cả trong và ngoài nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh kết luận; Trong năm 1950, chiến tranh sẽ chuyển sang tổng phản công, giai đoạn cầm cự kết thúc, giai đoạn thứ 3 sẽ bắt đầu (Dẫn theo đồng chí Võ Nguyên Giáp trong bài Nhiệm vụ quân sự trước mắt - chuyển mạnh sang tổng phản công, đăng trên Quân chính tập san tháng 1-2-1950).
Sau này, trải qua nhiều cuộc hội nghị và hội thảo do Tổng hành dinh tổ chức, cuối cùng khái niệm về giai đoạn 3 được xác định là giai đoạn “giữ vững và phát huy quyền chủ động chiến lược, phát triển tiến công và phản công, làm phá sản nỗ lực chiến tranh cao nhất của Pháp và Mỹ, chấm dứt chủ nghĩa thực dân cũ trên bán đảo Đông Dương”.
(2) Viện trợ từ Pháp sang: năm 1947: 25 tiểu đoàn; năm 1949: 20 tiểu đoàn (sang nhỏ giọt).
(3) Theo thống kê của tham mưu, trong hai năm địch bị loại khỏi vòng chiến đấu chừng 5 vạn tên. Bản tường trình đầu năm 1951 của Williams Bullit (Trợ lý Bộ trưởng bộ Ngoại giao Hoa Kỳ) cho biết: trung bình mỗi năm nước Pháp mất vào cuộc chiến tranh Đông Dương ít nhất 450 triệu đô la, 7.000 lính Pháp và Âu Phi, 400 sĩ quan (bằng tổng số sĩ quan mà nước Pháp đào tạo hằng năm).
(4) Bước sang năm 1950, thành phần quân đội tay sai bản xứ tăng dần, chiếm khoảng trên 50% tổng số binh lực Pháp. Trải qua ba năm (1947-1949), binh lính người Pháp chính cống từ 65% tụt xuống 17%. Theo nhận xét của tướng Rơve (sau khi sang kinh lý Đông Dương), tỷ lệ lính Pháp giảm sút là một nguy cơ rất lớn đối với địch. Một tiểu đoàn lính Bắc Phi, nếu chỉ có dưới 150 lính Pháp làm nòng cốt thì sức chiến đấu sẽ giảm sút nhiều; một tiểu đoàn quân ngụy, nếu chỉ có dưới 200 lính Pháp thì không còn sức chiến đấu. Đó là chưa nói đến tinh thần phản chiến đang nảy nở trong hàng ngũ binh lính Pháp.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Hai, 2013, 07:59:07 pm
Đề cập đến chiến lược phản công, bản báo cáo phân tích mục đích chiến lược phản công, đặc điểm giai đoạn phản công và điều kiện của giai đoạn tổng phản công. Gia đoạn tổng phản công bắt đầu và tiếp tục diễn ra trong điều kiện sự chỉ đạo của ta ngày càng vững chắc hơn, sự chỉ đạo của địch ngày càng bế tắc. Về phía ta: kinh nghiệm của ta và của bạn khiến cho sự chỉ đạo của ta sẽ tiến bộ, sáng suốt và vững chắc. Về phía địch: cấp chiến lược ngày càng đứng trước nhiều mâu thuẫn, đó là mâu thuẫn giữa bọn phản động hiếu chiến và nhân dân Pháp; giữa ý đồ chiến lược của bọn chỉ huy với tinh thần của binh sĩ. Chúng sẽ đứng trước nhiều yếu tố bất ngờ; sự trưởng thành vượt bậc của quân đội ta, tinh thần kháng chiến của nhân dân trong vùng tạm bị chiếm, sự giúp đỡ của quốc tế đối với ta. Trước đây, cấp chiến lược của địch luôn tỏ ra do dự, chủ quan, thiển cận thì rồi đây, do không có chủ định, chúng sẽ tiếp tục do dự, chủ quan, thiển cận.

Về vận dụng các hình thức tác chiến chiến lược, bản báo cáo xác định phương châm Vận động chiến là chủ yếu - Du kích chiến là thứ yếu - Trận địa chiến là phụ.

Vận động chiến là hình thức tác chiến chủ yếu, trước hết vì vận động chiến có thể phát huy và lợi dụng đến cùng nhân tố tinh thần và sở trường chiến đấu để thắng giặc, lại vì trong giai đoạn tổng phản công, chỉ có đánh vận động mới tiêu diệt được địch ở tầm chiến lược (nhất là các đội quân lưu động - ứng chiến mạnh của địch) và mới hạn chế được tổn thất do đánh công kiên trong điều kiện trang bị còn hạn chế của ta.

Du kích chiến là thứ yếu nhưng vẫn có một vị trí chiến lược quan trọng, vì nhiệm vụ tạo địa bàn cho chủ lực đánh vận động, phối hợp với chủ lực tiêu hao và kiềm chế binh lực địch, khuếch trương chiến quả, tham gia phá hoại đường sá, phối hợp đắc lực với vận động chiến và tạo thêm điều kiện cho vận động chiến phát triển. Du kích chiến là một hình thức tác chiến phát huy được tinh thần chiến đấu cao, huy động được đông đảo nhân dân tham gia đánh địch một cách rộng khắp trên các chiến trường khác nhau. Du kích chiến thích hợp với điều kiện trang bị và trình độ kỹ thuật còn hạn chế của đông đảo lực lượng vũ trang địa phương.

Trận địa chiến sẽ xuất hiện nhiều trong thời kỳ cuối của cuộc chiến tranh, nhưng khi mới bước vào giai đoạn 3 thành phần trận địa chiến chỉ xuất hiện lẻ tẻ trong các chiến dịch. Trận địa chiến đòi hỏi một trình độ trang bị kỹ thuật rất cao trong khi quân ta còn kém về phương diện đó. Cho nên cần ra sức tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch khi chúng còn phân tán, khi chúng đang vận động, để hạn chế khả năng tập trung của địch để giảm bớt trận địa chiến, đồng thời cũng là tạo thêm điều kiện thuận lợi một khi phải tiến hành trận địa chiến. Về chỉ đạo chiến lược, chiến thuật, phải ra sức hạn chế những trận đánh bằng trận địa chiến, hạn chế được phần nào là thành công phần đó.

Phần khó nhất đối với nhóm biên soạn là Dự kiến giai đoạn tổng phản công sẽ chuyển biến như thế nào? Do đó Tổng Tham mưu trưởng thường nêu lên nhưng vấn đề để anh em thảo luận trước khi biên soạn.

- Có nhất thiết là giai đoạn tổng phản công phải bắt đầu bằng một chiến dịch có ý nghĩa quan trọng về chiến lược hai không? (hồi đó gọi là trận quyết định hay trận căn bản).

- Cũng có thể giai đoạn tổng phản công bắt đầu bằng một trận căn bản làm so sánh lực lượng thay đổi hẳn, như chiến dịch Việt Bắc mở đầu giai đoạn 2.

- Cũng có thể có một thời kỳ quá độ giữa giai đoạn 2 và giai đoạn 3, trong đó diễn ra một số trận thắng lớn, kết quả một số chiến dịch quan trọng cộng lại, làm cho lực lượng so sánh từng bước thay đổi một cách cơ bản.

Một vấn đề cụ thể khác, đó là giai đoạn tổng phản công diễn ra dài hay ngắn? Nhóm nghiên cứu đồng tình nêu lên hai giả thuyết:

- Có thể rút ngắn do các yếu tố chính trị tinh thần tạo nên khả năng tiến bộ vượt bậc của lực lượng vũ trang và của toàn dân, sự phát triển đột biến của cuộc chiến tranh trong vùng sau lưng địch, khả năng đột biến về động viên nhân vật lực, khả năng giúp đỡ quốc tế… Ngoài ra còn có thể dự kiến giai đoạn tổng phản công rút ngắn do những sai lầm về chỉ đạo chiến lược của Bộ Tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp, khả năng tan rã trong hàng ngũ quân đội tay sai, khả năng phát triển của phong trào phản chiến của binh lính Pháp hoặc trong nhân dân Pháp, khả năng rối ren trong nội bộ giới cầm quyền Pari và phong trào đấu tranh giành độc lập của các nước còn dưới chế độ thuộc địa của Pháp…

- Có thể kéo dài do những khó khăn và nhược điểm của ta về trang bị kỹ thuật, phải cần một thời gian dài mới có thể khắc phục được, trong bối cảnh giúp đỡ của quốc tế hạn chế, cũng có thể do điều kiện địa lý chiến trường của ta dài và hẹp, có thể địch chịu thất bại trên chiến trường chính miền Bắc, nhưng kéo về miền Nam để tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược; một yếu tố quan trọng có thể giúp Pháp duy trì cuộc chiến tranh lâu dài, đó là sự viện trợ của các nước đế quốc, trước hết và trực tiếp là đế quốc Mỹ.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Hai, 2013, 08:00:04 pm
Từ hai giả thiết trên, hai vấn đề được tập thể nhóm nghiên cứu nhất trí khẳng định trong Dự thảo Báo cáo, đó là:

1- Nếu giai đoạn tổng phản công kéo dài thì chiến trường miền Nam sẽ gặp khó khăn. Do đó, về chỉ đạo chiến lược cần chú ý đặc điểm của điều kiện địa lý chiến lược để hạn chế khả năng quân Pháp lợi dụng đặc điểm đất nước ta dài và hẹp để tạo ra những thuận lợi về chiến lược cho chúng. Cụ thể là: không nên chỉ tập trung sự chỉ đạo chiến trường chính miền Bắc mà sao nhãng các chiến trường khác; trong khi tập trung lực lượng để tiêu diệt địch trên chiến trường chính thì không để cho địch có điều kiện và thời gian để củng cố thế và lực của chúng ở miền Nam (và cả trên hai chiến trường bạn Lào và Campuchia) để tiếp tục kéo dài chiến tranh.

2- Yếu tố quyết định giai đoạn tổng phản công rút ngắn hay kéo dài là sự chỉ đạo và những cố gắng chủ quan của ta. Giai đoạn tổng phản công diễn biến thuận lợi nếu sự chỉ đạo của Tổng hành dinh sáng suốt, linh hoạt, sát thực tế, mạnh bạo, kịp thời khai thác hết mọi khả năng của ta, lợi dụng và khoét sâu mọi điều kiện khó khăn của địch. Sự cố gắng của toàn dân, toàn quân - không những khi bắt đầu bước vào giai đoạn tổng phản công mà trong suốt giai đoạn đó - phải liên tục, vượt bậc, cho đến thắng lợi cuối cùng.

Một nội dung khác được nêu lên để nhóm biên soạn thảo luận, đó là cần làm gì để chuyển sang tổng phản công? Sau khi thảo luận, anh em không đồng tình với ý kiến chỉ tập trung vào yêu cầu nắm vững 10 nguyên tắc chỉ đạo tác chiến chiến lược(1), mà phải đề cập đến các nội dung cụ thể và toàn diện, gồm cả tác chiến, xây dựng các binh đoàn chủ lực, xây dựng bộ đội địa phương, phát triển dân quân, xây dựng cơ sở trong lòng địch, binh vận, địch vận, củng cố căn cứ địa, xây dựng hậu phương, đào tạo cán bộ và tiếp tục triển khai cuộc vận động rèn luyện cán bộ - chấn chỉnh quân đội.

Tập thể thảo luận và đồng tình nhấn mạnh hai điểm:

1- Phải nhận định cho rõ chuẩn bị lực lượng để chuyển sang tổng phản công là một công cuộc to lớn, đòi hỏi ở quân đội và nhân dân một sự hy sinh, cố gắng phi thường, lớn hơn sự hy sinh, cố gắng mấy năm kháng chiến vừa qua. Nhận định như vậy để tránh chủ quan khinh địch, để nỗ lực kịp thời, lãnh đạo kịp thời.

2- Cần tiếp tục nắm vững và quán triệt sâu sắc đường lối chiến tranh nhân dân, nhận rõ phương châm Tất cả vì tiền tuyến - tất cả để chiến thắng. Đó là điều kiện căn bản để năm 1950 trở thành một năm chuyển hướng chiến lược.

Ngay từ lần đầu cho ý kiến vào bản dự thảo, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã nhấn mạnh thêm hai vấn đề: Kiện toàn lãnh đạo chiến tranh của Đảng và tổng động viên toàn lực để chuyển sang tổng phản công.

Trải qua hơn ba tuần, bản dự thảo mới được thông qua lần cuối. Mặc dù vậy, sau này anh em được biết có những phần, những đoạn Tổng Tư lệnh phải tự viết lại. Dù sao với Bộ tổng tham mưu, đây lại thêm một bước trưởng thành quan trọng, nâng dần “tay nghề” để giúp trên biên soạn những vấn đề ở tầm chiến lược của Tổng hành dinh.


(1) Mười nguyên tắc chỉ đạo tác chiến gồm:
1- Tập trung binh lực cao độ, thực hiện ưu thế trong các chiến dịch và từng trận chiến đấu, đồng thời buộc địch giữ hiện trạng phân tán, tạo điều kiện để tiêu diệt từng bộ phận quan trọng sinh lực địch khi chúng còn phân tán.
2- Tiêu diệt các vị trí đồng thời với các đội quân ứng chiến, tập đánh các vị trí nhỏ rồi đánh những vị trí lớn, tiến lên đánh các đô thị; tập đánh các đội ứng chiến nhỏ, tiến lên đánh các đội quân cơ động lớn.
3- Nghi binh, đánh lạc hướng địch, táo bạo, bất ngờ, triệt để lợi dụng yếu tố tinh thần.
4- Phối hợp tác chiến với binh vận, địch vận.
5- Chủ lực cần có bộ phận đánh, bộ phận nghỉ để giữ liên tục chiến đấu trong các chiến dịch.
6- Đánh phá giao thông và cơ sở vật chất của địch; chống địch càn quét, bảo vệ kinh tế của ta, phá hoại kinh tế địch.
7- Phát triển chiến tranh du kích, nhất là trong các vùng chiến lược quan trọng, tổ chức các đội quân ngầm để phối hợp tác chiến với chủ lực.
8- Tăng cường chỉ đạo các chiến trường phối hợp, tạo điều kiện tập trung lực lượng trên chiến trường chính.
9- Phối hợp chiến lược trên cả ba chiến trường Đông Dương.
10- Tăng cường chỉ đạo tổng kết, phổ biến kinh nghiệm, tăng cường chỉ đạo học tập chiến thuật, kỹ thuật.
Quá trình phát triển của hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, những nguyên tắc này từng bước được nâng cao, hoàn chỉnh, sát với từng đối tượng tác chiến (Pháp, Mỹ), với yêu cầu thực tế của chiến trường và trong từng giai đoạn chiến lược.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Hai, 2013, 08:01:53 pm
II

Trong khi bộ phận nghiên cứu tập trung vào việc soạn thảo văn kiện cho Tổng Tư lệnh thì Phòng Tác chiến theo dõi việc chuẩn bị triển khai kế hoạch chiến dịch trên hướng Tây Bắc.

Sau mệnh lệnh sơ bộ ngày 22-12-1949 của Bộ Tổng tư lệnh, ngày 6-1-1950, Thường vụ Trung ương chính thức ra chỉ thị mở chiến dịch Tây Bắc (sau gọi là chiến dịch Lê Hồng phong I) đồng thời chuẩn bị chiến trường Đông Bắc. Mục đích đề ra cho chiến dịch Lê Hồng phong I là phối hợp với bạn tiêu diệt tàn quân Quốc dân Đảng nếu chúng tràn qua biên giới Tây Bắc; tiêu diệt một số vị trí địch; làm tan rã khối ngụy quân người Thái. Mức cao nhất là giải phóng thị xã Lao Cai, mở thông đường quốc tế. Hướng chính của chiến dịch là Lao Cai, hướng phụ là Điện Biên Phủ và Sầm Nưa, hướng nghi binh là Sơn La. Thời gian tác chiến dự kiến từ cuối tháng 1 đến cuối tháng 3-1950. Lực lượng tham gia chiến dịch ngoài 1 trung đoàn và 1 tiểu đoàn chủ lực, một số đơn vị trợ chiến của Bộ, lực lượng chủ yếu là bộ đội và dân quân du kích các tỉnh Tây Bắc. Chiến dịch do các đồng chí Bằng Giang, Song Hào và Cao Văn Khánh chỉ huy.

Ngày 7-2-1950, chiến dịch Lê Hồng phong I bắt đầu. Các cuộc tiến công của Trung đoàn 102 vào thị trấn Phố Lu (từ ngày 8 đến ngày 12-2 và của Trung đoàn 165 vào vị trí Nghĩa Đô (từ ngày 7 đến ngày 23-2), tuy giải phóng được Phố Lu và buộc địch phải rút khỏi Nghĩa Đô nhưng ta bị thiệt hại năng. Sau trận Phố Lu, Trung đoàn 102 phải dừng lại củng cố, không tiếp tục tiến công vào Lao Cai như đã dự kiến. Mục tiêu đề ra không đạt được. Điều đó giải thích vì sao chỉ sau đợt 1, Bộ Chỉ thị kết thúc chiến dịch.

Điều mà Phòng Tác chiến thấy cần nghiên cứu và rút ra kết luận về chỉ huy chiến đấu trong chiến dịch này là vấn đề sử dụng pháo binh, hợp đồng bộ pháo, dự kiến đánh quân dù tăng viện, đánh quân địch rút lui… Nhưng chưa đủ. Các đồng chí còn được Tổng Tham mưu trưởng cho xem bức điện đề ngày 20-3 của tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp gửi các đồng chí chỉ huy chiến dịch Lê Hồng phong I, nhận xét và nghiêm khắc phê bình những sai sót về phương thức chỉ huy tác chiến của quân ta, về kết quả và nguyên nhân không thành công của chiến dịch.

Qua nghiên cứu bức điện của Tổng Tư lệnh, được biết sau khi nhận được báo cáo của các đồng chí Bằng Giang, Song Hào và Cao Văn Khánh, ngày 20-3 đồng chí Tổng Tư lệnh kiêm Tổng Chính ủy chỉ thị các đồng chí trong Bộ Chỉ huy chiến dịch kiểm điểm nghiêm khắc hơn về các vấn đề nắm địch, về chỉ huy tác chiến và nhất là về dự kiến mức thương vong tổn thất của ta. Đồng chí Võ Nguyên Giáp đã thắng thắn chỉ ra những thiếu sót của bộ Chỉ huy chiến dịch về “cách dùng binh thiếu cân nhắc, về sự tiêu hao sinh lực của ta, mua những chiến công oanh liệt với một giá quá đắt”.

Trong khi đó, trên đường số 4, để chuẩn bị chiến trường theo tinh thần Chỉ thị ngày 6-1-1950 của thường vụ Trung ương, ngày 25-3 Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái ký bản dự thảo kế hoạch tác chiến chiến dịch biên giới Đông Bắc. Mục đích chung của toàn mặt trận là phá thế bao vây của địch từ Cao Bằng đến Na Sầm, do đó khu vực hoạt động thứ nhất là từ Cao Bằng đến Đồng Đăng, khu vực thứ hai là từ Đồng Đăng đến Tiên Yên. Hai mục tiêu chính của hai đợt là Cao Bằng và Thất Khê. Lực lượng sử dụng là hai trung đoàn 174 và 88, tiểu đoàn 426 (của Liên khu Việt Bắc) và lực lượng địa phương Lạng Sơn và Cao Bằng. Yêu cầu đặt ra là chuẩn bị khẩn trương để có thể hoạt động càng sớm càng tốt (khoảng hạ tuần tháng 4), trước khi Pháp được Mỹ viện trợ và trước khi địch củng cố phòng tuyến biên giới. Bản dự thảo kế hoạch cũng nêu lên khả năng, từ khoảng nửa cuối tháng 4 đến đầu tháng 5, hai trung đoàn có thể được thay đổi trang bị và sẽ có các cố vấn Trung Quốc (trong dự án gọi là các “huấn luyện viên chuyên môn”) hướng dẫn cách đánh bộc phá (khi đó gọi là bộc lôi) trước khi bước vào chiến dịch(1).

Từ thực tế của các đơn vị lúc này, tham mưu dự kiến Trung đoàn 174 có thể chuẩn bị xong sớm và không loại trừ khả năng nổ súng trước Trung đoàn 88.

Tại mặt trận Tây Bắc, sau kết quả hạn chế của chiến dịch Lê Hồng phong I, theo chỉ thị của Tổng Tư lệnh, ngày 22-4 Bộ Tổng tham mưu chỉ thị cho Bộ Tư lệnh mặt trận Tây Bắc, Bộ Tư lệnh Đại đoàn 308 và Ban Chỉ huy Trung đoàn 209, khẳng định chủ trương tiếp tục chiến dịch Tây Bắc, nhằm giải phóng thị xã Lao Cai và phân khu Lao Cai, mở thông đường quốc tế, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch. Theo nhận định của Bộ Tổng tư lệnh, nhìn chung trên toàn chiến trường Bắc Bộ lúc này, hướng yếu nhất của địch vẫn là Tây Bắc.


(1) Chỉ thị của bộ Tổng tham mưu liên quan đến chuyến đi của chủ tịch Hồ Chí Minh sang Trung Quốc và Liên Xô. Cụ Hồ rời Tân Trào đầu tháng 1-1950 và trở về đến căn cứ địa Việt Bắc đầu tháng 4. Các cơ quan Tổng hành dinh đã được thông báo trước về khả năng viện trợ và học tập kinh nghiệm của bạn nên Bộ Tổng tham mưu chuẩn bị kế hoạch phối hợp với Giải phóng quân Trung Quốc trong việc tiếp nhận trang bị mới và được bạn giúp huấn luyện chiến thuật công kiên (tức đánh công sự vững chắc bằng bộc phá).


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Hai, 2013, 08:03:01 pm
Công việc chuẩn bị chiến trường phải được xúc tiến khẩn trương để bộ đội có thể bắt đầu hoạt động vào khoảng trung tuần tháng 6-1950.

Tổng Tham mưu trưởng thấy cần cử ngay cán bộ tác chiến và tình báo xuống cùng phái viên tham mưu đã theo dõi chiến dịch từ đầu, giúp Bộ Chỉ huy trong công tác tổng kết chiến dịch Lê Hồng phong I. Tổng Tham mưu trưởng còn gửi thư riêng cho các đồng chí Bằng Giang, Song Hào và Cao Văn Khánh, nhắc lại những điều anh Văn đã dặn cần làm rõ để rút ra được những bài học bổ ích cho những chiến dịch sau này.

Như vậy là sau chiến dịch Lê Hồng phong I, suốt mùa hè năm 1950 Bộ Tổng tham mưu chỉ đạo triển khai kế hoạch tác chiến trên cả hai hướng Đông Bắc và Tây Bắc nhằm thực hiện chủ trương của Thường vụ Trung ương khai thông biên giới, trong đó hướng Tây Bắc là chủ yếu vì là hướng địch yếu hơn.

Về mặt xây dựng lực lượng, trước tình hình trong và ngoài nước chuyển biến mạnh mẽ, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chuyển mạng sang tổng phản công, đầu tháng 4 năm 1950 Bộ Tổng tham mưu tổ chức hội nghị tham mưu - quân huấn toàn quân(1). Mục đích hội nghị do Tổng Tư lệnh đề ra là góp phần quán triệt phương châm chiến lược, chiến thuật của Tổng hành dinh, đồng thời thống nhất thêm một bước nhận thức về nhiệm vụ của cơ quan tham mưu và quân huấn các cấp trong tình hình mới.

Phát biểu trong hội nghị, Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái nhấn mạnh: Hội nghị phải thảo luận phương hướng và biện pháp khắc phục những yếu kém tồn tại từ hội nghị tham mưu - quân huấn cách đây hai năm, đó là: 1- Cán bộ các cấp, nhất là trong bộ đội chủ lực, chưa nhận thức đầy đủ mối quan hệ giữa huấn luyện với tác chiến, giữa thao trường với chiến trường; 2- Tổ chức, chức trách, nhiệm vụ chỉ đạo huấn luyện ở các cấp từ Bộ xuống liên khu, đại đoàn, tỉnh đội chưa được xác định rõ rệt nên có việc các cơ quan chồng chéo lên nhau nhưng có việc không có bộ phận nào phụ trách; 3- Thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan chỉ đạo huấn luyện ngay tại các tổ chức nghiệp vụ Tổng hành dinh (Bộ Tổng tham mưu, Cục Quân huấn thuộc Bộ Quốc phòng, Cục Chính trị, các cơ quan phụ trách binh chủng…) nên các mặt chỉ đạo huấn luyện (mục đích, yêu cầu, nội dung, tổ chức và phương pháp huấn luyện…) thường không ăn khớp. mặt khác các cơ quan lại không thống nhất một kế hoạch chung về tài chính và vật chất huấn luyện nên gây khó khăn cho việc huấn luyện của bộ đội địa phương và hệ thống các trường các liên khu…

Nói chuyện với hội nghị, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp nói về tình hình mới đòi hỏi bước phát triển mới về nhiệm vụ quân sự; tình hình công tác tham mưu - quân huấn và nhiệm vụ đề ra cho tham mưu và quân huấn trong tình hình mới. Tổng Tư lệnh chỉ rõ hướng đi sắp tới của công tác tham mưu - quân huấn là phải góp phần quan trọng vào việc xây dựng các binh đoàn chủ lực mạnh, có thể tác chiến dài ngày, có khả năng tác chiến cả trong đánh công kiên và vận động, đáp ứng yêu cầu mở các chiến dịch lớn, tiêu diệt ở tầm chiến lược.

Một tháng sau hội nghị tham mưu - quân huấn, Bộ Tổng tham mưu triệu tập Hội nghị cán bộ bộ đội địa phương và dân quân du kích lần thứ 5 họp trung tuần tháng 5 để xác định phương hướng xây dựng lực lượng vũ trang địa phương và quân hậu bị trong tình hình mới mà trực tiếp là phối hợp với chủ lực trong mùa khô sắp tới.

Phát biểu tại hội nghị, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã biểu dương thành tích của lực lượng vũ trang địa phương trong cả nước trong hai năm qua và phân tích phương hướng nhiệm vụ xây dựng và chiến đấu trong tình hình mới. Đồng chí nhận mạnh yêu cầu công tác chính trị và giáo dục tư tưởng, kiện toàn cơ quan lãnh đạo từ khu, tỉnh đến huyện xã, công tác cán bộ, vấn đề trang bị và huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật, công tác địch vận và nhất là ngụy vận, giải phóng tốt vấn đề cấp dưỡng và quyền lợi của bộ đội địa phương.

Ông nhấn mạnh: Hội nghị phải đứng trên quan điểm chiến tranh nhân dân mà kiểm điểm, mà thảo luận. Phải luôn nhớ rằng cuộc chiến tranh của ta là cuộc chiến tranh nhân dân nên không thể coi thường lực lượng bộ đội địa phương và dân quân du kích vì lực lượng vũ trang địa phương trực tiếp đưa quảng đại quần chúng lên con đường đấu tranh vũ trang.


(1) Lúc này, hệ thống tổ chức quân huấn các cấp vẫn tách rời hệ thống tham mưu trong toàn quân. Tính bất hợp lý đó được phát hiện từ hội nghị tham mưu - quân huấn năm 1948 nhưng chưa được khắc phục. Phải đến khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh 121 (11-7-1950) xác định các thành phần tổ chức Bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh, quân huấn mới trở thành một cục trong Bộ Tổng tham mưu và hệ thống quân huấn trong toàn quân mới quy vào một mối thuộc cơ quan tham mưu các cấp.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Hai, 2013, 08:03:31 pm
Trung tuần tháng 5, trong một cuộc họp bàn kế hoạch mùa khô 1950, các đồng chí phụ trách ba cơ quan tham mưu, chính trị và cung cấp được Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp thông báo về hướng chỉ đạo chiến dịch trong mùa khô sắp tới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đi công cán nước ngoài đã về. Chuyến đi của Người đã đem lại kết quả to lớn. Sau Liên Xô, Trung Quốc, đến lượt Triều Tiên và các nước dân chủ mới ở Đông Âu lần lượt công nhận nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Thắng lợi của cuộc đột phá về ngoại giao sẽ tạo đà và điều kiện thuận lợi cho việc khai thông biên giới. Trong cuộc hội đàm trung tuần tháng 2 vừa qua giữa Xtalin - Mao Trạch Đông - Hồ Chí Minh, ba nhà lãnh đạo đã thống nhất phương hướng chung trong việc viện trợ quân sự cho Việt Nam và phân công cho Trung Quốc trực tiếp đảm nhiệm. Vì Việt Nam và Trung Quốc có địa lý sát kề, tình hình hai nước có nhiều điểm tương đồng, nên Xtalin nêu lên một “nguyên tắc” là Trung Quốc viện trợ vũ khí cho Việt Nam bao nhiêu thì Liên Xô sẽ hoàn lại cho Trung Quốc theo tỷ lệ 1/1.

Theo thỏa thuận ban đầu, Liên Xô trang bị cho Việt Nam một trung đoàn pháo cao xạ 37mm, một số xe vận tải Môlôtôva, một số thuốc quân y. Trung Quốc trang bị vũ khí và giúp huấn luyện cho một số trung đoàn bộ binh và pháo binh, đồng thời đảm nhiệm vận chuyển hàng viện trợ của Liên Xô quá cảnh sang Việt Nam. Giữa ta và Trung Quốc thỏa thuận cụ thể thêm về viện trợ vật tư quân sự, cử đoàn cố vấn quân sự sang giúp Việt Nam, về kinh nghiệm chỉ đạo, chỉ huy tác chiến, xây dựng lực lượng và đồng ý để Việt Nam đưa Trường Lục quân sang Vân Nam để tiếp tục đào tạo cán bộ. Lúc này, Trung Quốc chưa có điều kiện giúp ta về súng chống tăng và pháo cao xạ.

Sau khi phân tích và cân nhắc đặc điểm chiến trường biên giới trên cả hai hướng Tây Bắc và Đông Bắc, nghiên cứu hướng vào của hàng viện trợ, tình hình cầu đường và khả năng hạn chế trên hướng Tây Bắc trước yêu cầu huy động nhân lực, vật lực phục vụ một chiến dịch lớn, Thường vụ Trung ương quyết định chuyển hướng mở chiến dịch khai thông biên giới sang Đông Bắc, cụ thể là trên đường số 4, từ Cao Bằng đến Thất Khê. Tây Bắc trở thành hướng phối hợp. Trước mắt, ba cơ quan tham mưu, chính trị và cung cấp chuẩn bị cho 5 trung đoàn sang bên kia biên giới nhận trang bị và huấn luyện, chiến thuật đánh công kiên, đồng thời khẩn trương nghiên cứu dự án mở chiến dịch trên đường số 4. Để giữ bí mật và đánh lạc hướng địch về hướng tiến công chiến lược, tham mưu vẫn chỉ thị cho Bộ Tư lệnh Tây Bắc tiếp ục triển khai chuẩn bị hướng Lao Cai, vừa nhằm nghi binh chiến lược vừa chuẩn bị phối hợp với hướng Cao Bằng. Cơ quan cung cấp nghiên cứu kế hoạch khẩn trương sửa đường số 1 và đường số 3, vừa phục vụ triển khai chiến dịch vừa tạo thuận lợi cho việc vận chuyển hàng viện trợ sắp tới. Về tổ chức lực lượng, nên lệnh ngay cho mặt trận Trung du để Trung đoàn 36 rời Bắc Bắc về đội hình của đại đoàn, để Đại đoàn 308 có đủ ba trung đoàn trước khi bước vào mùa khô.

Chỉ vài ngày sau, tin kỹ thuật cho biết địch nói về cứ điểm Đông Khê bị tiến công. Anh Thái chỉ thị cho Phòng Tác chiến hỏi vì sao được biết trận đánh của Trung đoàn 174 diệt cứ điểm Đông Khê diễn ra ngày 25-5. Ngay chiều hôm đó, khi quân ta đã rút đi, địch ném một tiểu đoàn xuống chiếm lại. Sau khi nắm được chi tiết trận đánh, anh Thái báo cáo anh Văn và nói thêm rằng Trung đoàn 174 đánh theo kế hoạch ngày 25-3 của Bộ. Theo kế hoạch đó, sau khi chuẩn bị xong, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 174 có báo cáo xin ý kiến phái viên của Bộ và được anh Phan Phác đồng ý. Tiểu đoàn lê dương 3/3REI ở trong cứ điểm bị tiêu diệt, ta thu 2 pháo 105mm, 2 pháo 57mm, 10 đại liên và súng cối.

Tổng Tư lệnh không nghĩ đến việc Trung đoàn 174 đã “đánh động” quân Pháp trên đường số 4 và trận đánh sẽ làm ảnh hưởng đến chiến dịch sắp tới, vì trên con đường này, địch không chỉ một lần nếm đòn của Trung đoàn 174. Tuy nhiên, Tổng Tư lệnh nói với Tổng Tham mưu trưởng rằng có thể địch sẽ củng cố phòng tuyến vững chắc hơn. Đó là điều cần dự kiến.

Sau bức điện ngày 30-5 của Tổng Tư lệnh biểu dương Trung đoàn 174, Trung đoàn trưởng Đặng Văn Việt được gọi về Bộ để báo cáo cụ thể trận đánh Đông Khê và tình hình mới nhất trên đường số 4. Anh Văn nói với anh Thái cho gọi thêm mấy cán bộ tình báo và tác chiến cùng nghe Trung đoàn trưởng 174 báo cáo và anh nhấn mạnh: Những kinh nghiệm trong trận công kiên này rất quan trọng đối với đơn vị trong những trận đánh cứ điểm lớn sắp tới. Tham mưu cần nghiên cứu và chỉ đạo vận dụng, trong đó có bài học quan trọng là đánh điểm mà không dự kiến đánh viện nên bỏ lỡ thời cơ tiểu đoàn tiểu đoàn địch nhảy xuống chiếm lại phân khu Đông Khê ngay chiều 25-5.

Báo cáo xong, trước khi trở lại chiến trường, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 174 lại đề nghị được giao nhiệm vụ tiến công Đông Khê lần thứ hai nếu Bộ quyết định mở chiến dịch sắp tới trên đường số 4. Đặng Văn Việt cho rằng trận tiến công Đông Khê ngày 25 là một bước tập dượt của trung đoàn để tham gia chiến dịch sắp tới.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Hai, 2013, 08:04:22 pm
III

Sau khi có chủ trương của Bộ thống soái chuyển hướng chiến dịch giải phóng biên giới từ Đông Bắc sang Tây Bắc, ngay từ đầu tháng 7, Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái trực tiếp chỉ đạo việc làm dự án kế hoạch sơ bộ chiến dịch Biên giới - mang mật danh chiến dịch Lê Hồng Phong II. Ý tưởng của tham mưu lúc này là cố tranh thủ mở chiến dịch sớm trước khi địch củng cố phòng tuyến biên giới.

Trong phần nhận định tình hình địch, dự án viết; “Nhìn chung ở Bắc Bộ, một mặt địch chú trọng phát triển ở đồng bằng nhưng một mặt chúng cố gắng tăng cường ở biên giới để phong tỏa đường liên lạc quốc tế của ta. Riêng mặt biên giới, sau trận Đông Khê, địch điều thêm binh lực cố chiếm lại; tăng quân ở Cao Bằng; điều quân ứng chiến rải trên các cứ điểm phía bắc Lạng Sơn; càn quét, như là chung quanh Cao Bằng để phá đường viện trợ của ta…”. Chủ trương của ta là tiêu diệt một phần sinh lực địch ở khu biên giới, giải phóng biên giới từ Cao Bằng đến Thất Khê, mở đường giao thông quốc tế để làm đà cho công cuộc chuẩn bị tổng phản công.

Bản dự án chia chiến dịch thành ba thời kỳ. Thời kỳ 1: Tiêu diệt Cao Bằng, kiềm chế Đông Khê và Thất Khê; Thời kỳ 2: Bao vây Đông Khê, tiêu diệt Thất Khê, kiềm chế Lạng Sơn; Thời kỳ 3: Tùy tình hình cụ thể mà khuếch trương chiến quả. Binh lực dự kiến: Đại đoàn 308, hai trung đoàn 174 và 209, Tiểu đoàn 426 Liên khu Việt Bắc, hai tiểu đoàn bộ đội địa phương Lạng Sơn và Cao Bằng. Chiến dịch do Bộ Tổng Tư lệnh trực tiếp chỉ huy và có thể bắt đầu vào tháng 8-1950(1).

Ngày 7-7, Tổng Tư lệnh chính thức ra mệnh lệnh mở chiến dịch biên giới. Về công tác chuẩn bị, bản mệnh lệnh nhấn mạnh trọng tâm là ở Cao Bằng, thứ đến Thất Khê rồi đến Đông Khê và Na Sầm. Dự kiến chiến dịch mở màn trung tuần tháng 8 và có thể kéo dài trong hai tháng nhưng cố gắng rút ngắn thời gian.

Ba ngày sau, Tổng Tham mưu trưởng trình Tổng Tư lệnh kế hoạch tác chiến chiến dịch Lê Hồng Phong II. Kế hoạch được thông qua với mục tiêu mở màn chiến dịch là Cao Bằng. Tổng Tư lệnh chỉ thị cho tham mưu bổ sung một số chi tiết: nghi binh Lạng Sơn trong đợt 1; có thể đánh Đông Khê hay Na Sầm với cách đánh “vây thành công viện” trong đợt 2 và 3; về các chiến trường phối hợp, Tổng Tư lệnh nhấn mạnh: mặt trận Tây Bắc có nhiệm vụ đánh lạc hướng phán đoán của địch, giành bất ngờ cho chiến trường chính…, lệnh ngay cho Trung đoàn 209 (lúc này vẫn đang ở Tây Bắc) về để kịp nhận nhiệm vụ mới…

Để tạo điều kiện thuận lợi cho bộ máy quân sự Tổng hành dinh hoàn thành nhiệm vụ giúp Bộ Tổng tư lệnh triển khai lần đầu ra quân đánh lớn trên chiến trường biên giới Đông Bắc, ngày 1-7-1950 Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Sắc lệnh 121 ấn định các cơ quan chức năng thuộc Bộ Tổng tư lệnh Quân đội quốc gia và dân quân Việt Nam, xác định tổ chức và nhiệm vụ của ba cơ quan Bộ Tổng tư lệnh là Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị và Tổng cục Cung cấp. Tiếp đó là các sắc lệnh bổ nhiệm người đứng đầu các cục và tổng cục thuộc Bộ Tổng tư lệnh. Hai ngày sau, Bộ trưởng Quốc phòng - Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp ra thông tư quy định tổ chức mới của ba tổng cục. Theo đó, Bộ Tổng tham mưu gồm các cục; Tác chiến, Quân báo, Quân huấn, Dân quân, Thông tin liên lạc, Quân lực và ba phòng độc lập: Chính trị, Hành chính quân trị và Bí thư. Bộ Tổng tham mưu còn có trách nhiệm chỉ đạo hoạt động của các cục Công binh và Pháo binh.

Cùng ngày 11-7, đoàn cán bộ Bộ Tổng tham mưu lên đường đi biên giới chuẩn bị chiến trường(2).

Khó khăn đầu tiên của bộ phận tiềm trạm chuẩn bị chiến trường là vấn đề nắm địch. Lúc này, tuy mới có Sắc lệnh 121, về cơ cấu tổ chức Bộ Tổng tư lệnh nhưng vì sắc lệnh vừa được công bố, các tổ chức ở cơ sở chưa kịp thay đổi. Tổ chức tình báo vẫn còn chia làm hai bộ phận: Phòng Tình báo của Bộ Tổng tham mưu và Cục Tình báo của Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy (cũ). Các tỉnh đội chưa có tổ chức quân báo riêng mà chỉ có chi tình báo của tỉnh do Cục Tình báo thuộc Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy (cũ) chỉ đạo. Các chi tình báo hai tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn lại chưa có tổ chức trinh sát chuyên nghiệp mà chỉ nắm tình hình địch qua các cơ sở quần chúng chung quanh cứ điểm của chúng. Một khó khăn khác là phương tiện thông tin liên lạc, vốn đã thiếu thốn từ trước chưa được khắc phục. Yêu cầu tổ chức thông tin trên một chiến trường chiều dài khoảng 135 kilômét (Cao Bằng - Lạng Sơn), khó khăn đó lại càng lớn, trong khi phương tiện thông tin viện trợ của bạn chưa đến. Rất nhiều trường hợp phải dựa vào đường dây của bưu điện địa phương nên khó giữ bí mật mà chạy chân thì mất rất nhiều thời gian.


(1) Trong hội nghị cuối tháng 7-1950, một lần nữa Thường vụ Trung ương lại khẳng định và nhấn mạnh yêu cầu phải thực hiện bằng được nhiệm vụ giải phóng biên giới Đông Bắc. Trên cơ sở đó, Bộ Tổng tư lệnh xác định quyết tâm “tập trung ưu thế binh hỏa lực nhanh chóng tiêu diệt quân địch ở Cao Bằng”. Cũng trong hội nghị này, Thường vụ quyết định thành lập Đảng ủy mặt trận Biên giới gồm các đồng chí Võ Nguyên Giáp (Bí thư kiêm Chỉ huy trưởng) và các ủy viên Trần Đăng Ninh, Hoàng Văn Thái, Lê Liêm và Bùi Quang Tạo (ủy viên Liên khu ủy Việt Bắc).
(2) Đoàn gồm có (chức danh mới theo Sắc lệnh SL/121): Nguyễn Đình Chuẩn - Phó phòng Tác chiến Cục Tác chiến; Cao Pha - Trưởng phòng Trinh sát Cục Quân báo; Hoàng Đạo Thúy - Cục trưởng Thông tin liên lạc; Phan Ngươn Đang - Trưởng phòng Trang bị Cục Quân lực; Vũ Văn Thềm - Phó phòng Hành chính quản trị.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Hai, 2013, 08:06:44 pm
Ngày 28-7, trong quyết định các thành viên phụ trách các phòng của mặt trận bộ, Tổng Tư lệnh xác định Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái làm Tham mưu trưởng chiến dịch; Phái viên Bộ Tổng tư lệnh Phan Phác làm Tham mưu phó chiến dịch. Tiếp đó, ngày 31 Đảng ủy mặt trận họp nghe ba cơ quan báo cáo tình hình chuẩn bị và vẫn khẳng định: hướng chính là Cao Bằng, sau khi giải quyết Cao Bằng sẽ chuyển xuống tiêu diệt Đông Khê…(1)

Sau khi phương hướng chiến dịch đã được xác định, Tham mưu trưởng chiến dịch Hoàng Văn Thái khẩn trương chuẩn bị lên đường ra mặt trận, mọi công việc cơ quan tham mưu ở căn cứ địa do Phó Tổng tham mưu trưởng Đào Văn Trường đảm nhiệm. Hai anh Hoàng Văn Thái và Đào Văn Trường bàn và thống nhất công việc bộ phận “ở nhà”, ngoài việc theo dõi các chiến trường phối hợp để thông báo lên Chỉ huy sở tiền phương của Bộ, cần tập trung vào việc ổn định các cục theo tổ chức mới và đặc biệt là theo dõi và chỉ đạo địa phương và Trung đoàn 246 tác chiến trong trường hợp địch tiến công lên hướng Tuyên Quang hoặc Thái Nguyên.

Tới Cao Bằng, trung thành với phương hướng tác chiến chiến dịch được xác định trong cuộc họp cuối củng của Đảng ủy và sau khi đi trinh sát thực địa, Tổng Tham mưu trưởng chỉ đạo việc xây dựng kế hoạch tác chiến mở màn chiến dịch bằng trận tiến công thị xã Cao Bằng, đồng thời triển khai lực lượng đánh quân tăng viện của địch cả bằng đường bộ và đường không từ Cao Bằng đến Thất Khê. Ngày 2-8, Đảng ủy họp mở rộng, tiếp đó Đảng ủy triệu tập hội nghị cán bộ các trung đoàn, đại đoàn tham gia chiến dịch, nghe Tham mưu trưởng chiến dịch phổ biến kế hoạch tác chiến sơ bộ (tiến công Cao Bằng và kế hoạch đánh viện) để các đơn vị tranh thủ thời gian chuẩn bị. Trong lúc hội nghị cán bộ đang họp, chiều ngày 3-8 Bí thư Đảng ủy kiêm Chỉ huy trưởng chiến dịch Võ Nguyên Giáp lên tới Sở Chỉ huy lâm thời. Đại tướng chỉ nói thêm với cán bộ về điều kiện thuận lợi và khó khăn của chiến dịch, chỉ ra phương hướng nỗ lực khắc phục những khó khăn đó, để cán bộ nhanh chóng trở lại đơn vị hoàn thành việc chấn chỉnh tổ chức, tiếp tục kế hoạch huấn luyện bổ sung và chuẩn bị chiến trường…

Sau khi nghe anh Thái báo cáo tình hình, anh Văn phân vân, vì thấy tình hình địch đã thay đổi, việc chọn Cao Bằng làm mục tiêu đột phá mở màn chiến dịch có thể vượt quá sức của bộ đội. Bộ đội ta chưa có kinh nghiệm đánh một cứ điểm hai tiểu đoàn Âu - Phi. Tuy nhiên, vì là người đến sau chưa có cơ sở để phát biểu nên trong hai ngày 5 và 6-8 Chỉ huy trưởng dẫn một đoàn cán bộ đi trinh sát thị xã Cao Bằng(2). Kết luận rút ra là: Không thể chọn Cao Bằng làm điểm đột phá mở màn chiến dịch vì khó bảo đảm nguyên tắc đánh thắng trận đầu. Lý do chủ yếu không chỉ là vì binh lực địch đông(3), mà còn vì địa hình vừa trống trải vừa hiểm trở, nhiều khả năng quân ta không những phải đối phó với xe tăng địch ngay trong thị xã, mà còn cả với quân dù và hỏa lực máy bay, đại bác của địch. Trận đánh đòi hỏi phải giải quyết nhiều vấn đề về chiến thuật, từ hành quân vượt sông tiếp cận mục tiêu đến hợp đồng chiến đấu trong tung thâm, là những vấn đề mà bộ đội ta chưa có kinh nghiệm.

Cuộc họp ngày 7-8 của Đảng ủy diễn ra khá sôi nổi do ý kiến khác biệt chung quanh vấn đề chọn mục tiêu mở màn chiến dịch. Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái và các thành viên khác của Đảng ủy vẫn giữ ý kiến tấn công Cao Bằng vì cho rằng đánh Đông Khê và Thất Khê trước rồi trở lại đánh Cao Bằng khi lực lượng địch ta đã bị tiêu hao lại đứng trước một cụm cứ điểm địch đã tăng cường, chiến dịch sẽ kéo dài. Mặt khác lúc này mọi công tác chuẩn bị trên hướng Cao Bằng đều đã và đang triển khai trong khi dưới Đông Khê chưa được chuẩn bị, mọi việc phải làm lại từ đầu, từ trinh sát thực địa, làm binh yếu địa chí, làm lại kế hoạch tác chiến, làm công tác chính trị tư tưởng và nhất là phải chuyển toàn bộ hệ thống hậu cần xuống phía dưới trong điều kiện đường sá không thuận tiện Thay đổi kế hoạch, chiến dịch sẽ chậm lại. Chỉ huy trưởng Võ Nguyên Giáp chỉ ra những khó khăn trong việc tiến công giải phóng Cao Bằng như tổ chức vượt sông, binh lực địch đông, vấn đề đối phó với quân địch nhảy dù tăng viện trong chiến đấu, vấn đề hợp đồng bộ - pháo trong tung thâm… Hơn nữa, quân ta mới được thay trang bị, vừa được học tập chiến thuật mới, lại lần đầu tiên đánh một chiến dịch lớn do Bộ Tổng tư lệnh trực tiếp chỉ huy. Nếu đánh Cao Bằng không thắng lợi sẽ ảnh hưởng lớn đến lòng tin tưởng của bộ đội.

Cuối cùng, hội nghị kết luận: Ta chưa có thể nói chắc chắn bảo đảm thắng lợi nếu đánh Cao Bằng, nên đề nghị lên xin ý kiến của Thường vụ Trung ương và Chủ tịch Hồ Chí Minh cho đánh Đông Khê trước.


(1) Sau này, báo cáo tổng kết chiến dịch nói rõ: Sở dĩ lúc này Bộ Tổng tư lệnh quyết tâm tiến công Cao Bằng trước bởi vì Cao Bằng là một cụm cứ điểm mạnh mà mục đích của ta là phải giải phóng từ Cao Bằng đến Thất Khê, trong đó Cao Bằng là mục tiêu chủ yếu. Vì vậy ta phải dùng lực lượng nguyên vẹn lúc đầu tiến công Cao Bằng mới có thể giành thắng lợi. Nếu tiến công Đông Khê trước rồi mới đánh Cao Bằng, khi lực lượng đã bị tiêu hao, ta không đủ sức tiêu diệt cụm cứ điểm Cao Bằng. Thị xã này luôn là mục tiêu chính của chiến dịch.
(2) Gồm Tham mưu phó chiến dịch Phan Phác, Trưởng tiểu ban trinh sát mặt trận biên giới Cao Pha, Cụm trưởng trinh sát mặt trận Cao Bằng Trần Quốc Trung và một số cán bộ chỉ huy các đơn vị tham gia chiến dịch.
(3) Trước khi bắt đầu chiến dịch, binh lực địch trong thị xã Cao Bằng gồm hai tiểu đoàn Âu - Phi và một số phân đội quân ngụy. Sau đó địch còn ném xuống thêm một tiểu đoàn lính Marốc (tabor).


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Hai, 2013, 08:11:21 pm
Ngày 15 có ý kiến của Thường vụ Trung ương chấp thuận chuyển mục tiêu xuống Đông Khê. Ngay hôm sau hội nghị mở rộng của Đảng ủy mặt trận được triệu tập, gồm cả một số trưởng phòng chủ chốt của ba cơ quan mặt trận bộ. Mặc dù đã có điện chấp thuận của Thường vụ, vấn đề chọn Đông Khê hay Cao Bằng vẫn được đặt ra để trao đổi. Các ý kiến ngả dần sang chọn Đông Khê, tuy vẫn thấy khó khăn là mọi công tác chuẩn bị phải làm lại từ đầu. Riêng việc làm binh yếu địa chí và công tác nắm địch phải tiến hành trên cả chiều dài hơn 60 kilômét Thất Khê - Cao Bằng. ngoài ra tham mưu còn đứng trước một số khó khăn khác cần khắc phục: phương tiện thông tin thiếu, quân số bổ sung cho các đơn vị chưa đủ, ngay công việc phòng không khu vực cơ quan tham mưu chiến dịch cũng chưa tổ chức xong. Mặc dù vậy, đánh thắng trận đầu vừa là nguyên tắc vừa là yêu cầu cao nhất có tác dụng quyết định thuyết phục mọi người chấp nhận chủ trương thay đổi kế hoạch, thay đổi mục tiêu tiến công mở màn chiến dịch. Ông Trần Canh, Trưởng đoàn cố vấn Trung Quốc, (vừa từ căn cứ địa Việt Bắc ra đến Sở chỉ huy chiến dịch) cũng tán thành chuyển mục tiêu xuống Đông Khê.

Đảng ủy họp lại ngày 21-8 để nghe tin chuẩn bị của các cơ quan mặt trận. Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái báo cáo phương án tác chiến mới: đánh Đông Khê, Thất Khê rồi chuyển lên Cao Bằng. Phương án được Đảng ủy thông qua, gồm những điểm cụ thể sau đây:

1- Dùng 2 trung đoàn đánh Đông Khê, 3 trung đoàn sẵn sàng đánh viện ở giữa Đông Khê và Thất Khê, 2 tiểu đoàn địa phương triển khai đội hình đánh quân dù tăng viện ở phía bắc Đông Khê.

2- Giải quyết Đông Khê xong, chuyển xuống Thất Khê. Nếu ở Thất Khê nhiều quân tiếp viện thì đánh viện binh xong rồi quay lại tiến công Thất Khê. Dự kiến đánh Đông Khê và Thất Khê mất 15 ngày.

3- Sau khi đã nghỉ ngơi và bổ sung (dự kiến 15 ngày) sẽ chuyển lên tập trung lực lượng tiến công, giải quyết bằng được Cao Bằng. Ở phía dưới (từ nam Thất Khê đến Lạng Sơn) chỉ để các tiểu đoàn địa phương hoạt động kiềm chế địch.

4- Nhiệm vụ các đơn vị: các trung đoàn 174 và 209 tiến công Đông Khê; 2 trung đoàn 88 và 102 (của Đại đoàn 308) bố trí đánh viện giữa Đông Khê và Thất Khê; riêng Trung đoàn 36 (Đại đoàn 308) bố trí đánh quân dù tiếp viện cho Đông Khê, đồng thời đánh quân địch từ Đông Khê chạy về phía nam.

5- Sau khi Đông Khê bị tiêu diệt, nếu địch từ Cao Bằng rút chạy về phía nam, các trung đoàn 174, 209 và 36 có nhiệm vụ vận động tiêu diệt. Các trung đoàn 102 và 88 đánh viện binh địch từ phía Thất Khê lên.

Sau đó Đảng ủy bàn và quyết định thời gian hoàn thành công tác huấn luyện, kế hoạch quân số bổ sung, thông qua thành phần đảng ủy các trung đoàn…

Sau khi được thông qua, phương án tác chiến được cơ quan tham mưu chiến dịch biên soạn thành quyết tâm của Bộ Tổng tư lệnh, trong đó xác định: 2 trung đoàn 174 và 209 cùng các lực lượng phối hợp tiến công cụm cứ điểm Đông Khê. Đồng chí Hoàng Văn Thái, Tổng Tham mưu trưởng làm Chỉ huy trưởng, đồng chí Lê Liêm, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, làm Chính ủy, đồng chí Lê Trọng Tấn làm Chỉ huy phó kiêm chỉ huy cánh Tây Nam Đông Khê - hướng tiến công của Trung đoàn 209.

Hội nghị cán bộ chiến dịch diễn ra trong hai ngày 24 và 25-8. Lần đầu tiên trong lịch sử quân đội có một cuộc hội nghị hợp đồng tác chiến lớn giữa nhiều đơn vị bộ binh và binh chủng. Từ khi phương án tác chiến được chính thức thông qua, anh Vũ Duy Trác (Ban 5 Phòng Tham mưu chiến dịch) chỉ có 4 ngày nên phải dồn toàn bộ lực lượng bộ đội và dân công có trong tay để hoàn thành hội trường bằng nứa lá đủ cho hội nghị gần trăm con người.

Tại hội nghị đông đủ cán bộ tham gia chiến dịch lần này, Chỉ huy trưởng Võ Nguyên Giáp giải thích vì sao thay đổi phương án tác chiến, giải đáp các thắc mắc chung quanh sự thay đổi này để cán bộ “thông tư tưởng”. Ông đi sâu phân tích các nguyên tắc chỉ đạo tác chiến đánh tiêu diệt, tập trung ưu thế binh hỏa lực, đánh cứ điểm nhỏ trước, đánh cứ điểm lớn sau, tinh thần đoàn kết hợp đồng tác chiến…) và nêu rõ những điều kiện tất thắng và những khó khăn cần khắc phục. Cuối cùng ông đề ra những yêu cầu cần tiếp tục khẩn trương chuẩn bị để bảo đảm thắng lợi.

Thời gian đến ngày nổ súng không nhiều nên Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái - Tham mưu trưởng chiến dịch kiêm Chỉ huy trưởng trận Đông Khê dồn sức chuẩn bị cho trận đánh then chốt mở màn chiến dịch. Để khắc phục điều kiện thời gian eo hẹp, nhiều cán bộ tham mưu chủ chốt của Sở Chỉ huy mặt trận được phái xuống giúp Ban Chỉ huy trận Đông Khê khắc phục những khó khăn về thông tin, trinh sát, hậu cần.

Trong quá trình chuẩn bị cho trận đánh, Chỉ huy trưởng Hoàng Văn Thái thường trao đổi, tham khảo ý kiến ban chỉ huy các trung đoàn, nhất là Trung đoàn 174 đã từng tiêu diệt vị trí Đông Khê hồi tháng 5. Anh coi trọng việc phối hợp với các cơ quan chính trị, cung cấp chiến dịch, cùng chính quyền và các đoàn thể trên địa bàn tìm kiểu để có cơ sở thực tế vững chắc xây dựng kế hoạch cho trận tiến công Đông Khê. Lần đầu tiên anh Thái trực tiếp chỉ huy một trận đánh lớn, lại là trận then chốt, mở màn chiến dịch.

Lúc này, mọi việc điều hành cơ quan tham mưu mặt trận do Tham mưu phó Phan Phác phụ trách.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Ba, 2013, 03:46:14 pm
IV

Ngày 3-9, Chỉ huy trưởng trận Đông Khê Hoàng Văn Thái cùng Chỉ huy phó Lê Trọng Tấn và cán bộ chủ chốt các đơn vị tham gia trận đánh đi trinh sát cụm cứ điểm Đông Khê. Từ trên đỉnh núi Nà Rỵa, vừa quan sát toàn cảnh thị trấn Đông Khê, Chỉ huy trưởng vừa nghe trinh sát viên báo cáo. Anh Thái lưu ý mọi người về những điểm quan trọng trong cụm cứ điểm, nhất là khu vực pháo đài mà trinh sát của ta quen gọi là Đồn to. Rõ ràng là chỉ huy bộ đội tiếp cận bám đầu cầu phải hết sức chú ý vì địa hình trống trải, địch đã ngả hết cây và phát quang quả đồi hướng bắc. Khi tổ chức hiệp đồng trên sa bàn, Chỉ huy trưởng gợi nhiều ý kiến để các trung đoàn trưởng Đặng Văn Việt, Lê Trọng Tấn và Tiểu đoàn trưởng pháo binh Doãn Tuế phát biểu về hợp đồng bộ - pháo. So với trước, đây là lần đầu tiên hợp đồng bộ - pháo chuẩn bị cho một trận đánh lớn nên có những vấn đề cần trao đổi kỹ, nhất là khi vào chiến đấu trong tung thâm.

Kế hoạch trận đánh Đông Khê được phổ biến trong hội nghị cán bộ họp hai ngày 9 và 10-9. Hội nghị bước sang ngày thứ hai thì Chủ tịch Hồ Chí Minh bất ngờ xuất hiện, trước sự ngỡ ngàng nhưng vô cùng phấn khởi của mọi người. Sự có mặt của Bác đủ nói lên tầm quan trọng của chiến dịch này. Một trong những câu Bác nói khi giải thích vì sao phải thay đổi kế hoạch tác chiến cho mọi người rất khó quên, đó là: “Trong quân sự phải kiên quyết và bạo dạn. Bạo dạn, dũng cảm không phải là liều. Liều là dại, dũng cảm là khôn”.

Đêm 15-9, trước ngày nổ súng, dù cơn sốt bất ngờ ập đến, Chỉ huy trưởng Hoàng Văn Thái vẫn gắng gượng dùng điện thoại kiểm tra tình hình bộ đội vào chiếm lĩnh trận địa, kể cả Trung đoàn 36 bố trí ở Nà Pá, chặn đánh địch rút chạy từ Đông Khê xuống. Ông nhắc Chỉ huy phó Lê Trọng Tấn theo dõi và giúp đỡ khắc phục khó khăn của đơn vị pháo phối thuộc 209 hành quân bị lạc không kịp chiếm lĩnh trận địa theo kế hoạch.

Sáu giờ sáng ngày 16-9, Trung đoàn 209 chưa chiếm lĩnh xong trận địa, Trung đoàn 174 vẫn được lệnh nổ súng theo kế hoạch(1). Sau khi chiếm lĩnh xong ba vị trí vành ngoài, Trung đoàn 174 ba lần mở đột phá khẩu tiến công Đồn to nhưng đều bị bật ra. Trên hướng phối hợp, Trung đoàn 209 mãi đến 18 giờ mới chuẩn bị chiến đấu xong. Sau khi đánh chiếm mấy vị trí ngoại vi thì trung đoàn được lệnh mở một mũi phối hợp với Trung đoàn 174 tiến công vào Đồn to. Nhưng chuẩn bị chưa xong thì trời đã sáng. Chỉ huy trưởng Hoàng Văn Thái ra lệnh tạm ngừng chiến đấu để chấn chỉnh lực lượng, rút kinh nghiệm và tổ chức họp đồng lại thật chu đáo để đêm 17 tiếp tục tiến công địch. Khi Trung đoàn 209 rút ra, địch bám theo khiến thêm một số chiến sĩ bị thương vong. Chỉ huy trưởng cử phái viên tác chiến xuống nắm tình hình, bổ sung quân số, trang bị, cùng các đơn vị rút kinh nghiệm và chuẩn bị cho trận đánh sắp tới.

Đêm thứ hai (17-10), sau khi tổ chức hợp đồng lại giữa bộ binh và pháo binh,pháo bắn thẳng vận động lên gần Đồn to trước lúc trời tối để nổ súng sớm, tạo điều kiện cho bộ binh có thêm thời gian giải quyết trận đánh. Mặt khác, Trung đoàn 174 chuyển hướng tiến công từ hướng bắc sang hướng đông bắc đánh xuống, Trung đoàn 209 đưa tiểu đoàn dự bị vào chiến đấu, có một mũi đánh vào phía sau pháo đài và dùng khối bộc phá lớn đánh vào hầm ngầm góp phần dứt điểm mục tiêu cuối cùng là Đồn to. Viên đại úy Allioux, chỉ huy cụm cứ điểm Đông Khê, định chạy trốn, nhưng vừa ra khỏi đồn thì bị bắt. Hai tiểu đội địch ở Nà Cúm và Khâu Áng chạy thoát được về Thất Khê.

Đến 10 giờ sáng ngày 18, quân ta làm chủ hoàn toàn thị trấn Đông Khê sau 52 giờ chiến đấu. Trận đánh diễn ra với thời gian gấp đôi dự kiến và số thương vong cũng cao hơn. Ta tiêu diệt gần 1 tiểu đoàn địch. Phòng tuyến đường số 4 bị cắt đứt giữa Cao Bằng và Thất Khê.

Sau khi hoàn thành nhiệm vụ giải phóng Đông Khê, theo lệnh của bộ Chỉ huy chiến dịch, từ 0 giờ ngày 21-9 Ban Chỉ huy trận Đông Khê giải thể. Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái trở về Sở Chỉ huy chiến dịch. Toàn mặt trận hướng đông suy nghĩ về nhiệm vụ đánh viện binh địch. Vấn đề đặt ra trước cơ quan tham mưu chiến dịch lúc này là địch sẽ đối phó như thế nào và ta phải triển khai lại đội hình chiến dịch như thế nào để có thể tiêu diệt được quân cơ động của địch, dù đó là lực lượng cứu trợ từ Thất Khê lên hay quân địch từ Cao Bằng về, hay quân dù được thả xuống.

Theo tin kỹ thuật của tình báo chiến dịch, trong và sau trận Đông Khê, đối phó của địch có mấy điểm đáng chú ý: 1- Ngày 16 địch thành lập Binh đoàn Bayard do Đại tá Lơpagiơ (Marcel Lepage) chỉ huy, gồm 3 tiểu đoàn 1 và 11 tabor, Tiểu đoàn 1/RTM. Ngày 17 binh đoàn này lên Thất Khê. Dọc đường bị ta phục kích; 2- Cùng ngày, thêm một tiểu đoàn dù lê dương (1er BEP) được thả xuống Thất Khê để gia nhập binh đoàn Bayard; 3- Ngày 20 địch tăng cường cho Trung tá Sáctông (Pierre Charton) chỉ huy ở Cao Bằng 1 tiểu đoàn Marốc (3RTM); 4- Cùng ngày địch bắt đầu dùng máy bay chuyển bớt dân ở Cao Bằng về Lạng Sơn và Hà Nội.


(1) Sở dĩ không đợi pháo binh của hướng Trung đoàn 209 đến và chuẩn bị xong mới hạ lệnh nổ súng vì lúc 5 giờ 30 toán tuần tiễu của địch chạm súng với ta ở ngoại vi Đông Khê. Chúng chạy về đồn, ngay sau đó phao địch từ trong đồn bắn mạnh về hướng tiến công của Trung đoàn 174.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Ba, 2013, 03:46:59 pm
Cơ quan tham mưu phán đoán địch có thể từ Thất Khê lên phối hợp với quân dù chiếm lại Đông Khê, nên đề nghị với Bộ Chỉ huy hạ quyết tâm tiêu diệt một bộ phận quan trọng viện binh của địch (chứng 2 tiểu đoàn). Khu vực quyết chiến là đoạn đường từ Đông Khê đến Lũng Phầy.

Trong mệnh lệnh ngày 21-9, Bộ Chỉ huy chiến dịch quyết định:

- Đại đoàn 308 (có hai tiểu đoàn 11 và 428 phối thuộc) bố trí ở khu tam giác Lũng Chả - Bình Xiên - Nà Pá, có nhiệm vụ đánh địch từ Thất Khê lên.

- Trung đoàn 174 bố trí ở phía bắc thị trấn Đông Khê, có nhiệm vụ đánh quân dù nhảy xuống Đông Khê và vùng phụ cận.

- Trung đoàn 209 làm lực lượng dự bị chung của toàn mặt trận.

- Ở mặt trận phía nam, các lực lượng vũ trang địa phương tạm ngừng mọi hoạt động (phá đường, phục kích, quấy rối) từ Lạng Sơn lên Thất Khê, để dụ địch lên.

Một tuần lễ trôi qua, viện binh địch không xuất hiện. Những tàu lá chuối lợp lán của bộ đội bắt đầu ngả màu vàng. Thời tiết đường số 4 những ngày này lúc nắng lúc mưa, tạo nên môi trường rất thích hợp cho vắt xanh và muỗi vàng hoạt động. Thêm vào không khí căng thẳng trên trận địa phục kích là gạo trong kho các đơn vị đã bắt đầu cạn.

Nhưng rồi suốt mấy ngày cuối tháng 9 đầu tháng 10, không khí ở Sở Chỉ huy chiến dịch mỗi ngày một thêm khẩn trương, căng thẳng, nhất là trong Phòng trực ban tác chiến, khi hàng loạt tin tức dồn dập bay đến gần như đồng thời: tin địch đánh lên Thái Nguyên, tin bốn tiểu đoàn quân Pháp do Lơpagiơ chỉ huy từ Thất Khê lên và đặc biệt là tin Đại đoàn 308 để địch lọt qua trận địa phục kích(1). Mấy ngày sau lại thêm tin ba tiểu đoàn quân Pháp, do Sáctông chỉ huy từ Cao Bằng rút chạy theo đường số 4 về phía nam.

Cuộc hành binh của quân Pháp lên Thái Nguyên đã trong dự kiến của Bộ Tổng tư lệnh và đã có kế hoạch ứng phó nên cơ quan tham mưu tập trung suy nghĩ giúp Bộ Chỉ huy chiến dịch chỉ đạo đánh hai binh đoàn Lơpagiơ và Sáctông. Vô luận ý định của địch như thế nào, chúng điều quân lên hướng Đông Khê là hoàn toàn có lợi cho ta. Sau khi nghe báo cáo, Cụ Hồ động viên: Cơ hội rất tốt đã xuất hiện, không được bỏ lỡ.

Lúc này trên đoạn đường trên 60 kilômét, có hai binh đoàn địch đang vận động ngược chiều nhau: bốn tiểu đoàn từ Thất Khê lên, ba tiểu đoàn từ Cao Bằng rút về. Chỉ huy trưởng Võ Nguyên Giáp lệnh cho Đại đoàn trưởng 308 cho người đi gọi ngay bộ đội về triển khai chiến đấu và dặn thêm: Nếu Binh đoàn Lơpagiơ không chiếm lại được Đông Khê, chúng có thể dồn sang khu vực Khâu Luông - Cốc Xá. Cần chú ý khu vực này. Đồng thời ông lệnh cho Trung đoàn 209 hành quân cấp tốc lên hướng Quang Liệt ngăn chặn, tiêu hao và làm chậm bước tiến của Binh đoàn Sáctông đang từ Cao Bằng rút về. Lúc này cơ quan tham mưu chiến dịch đứng trước một tình hình hết sức khẩn trương và phức tạp. Binh đoàn Lơpagiơ bị tiến công liên tục nên buộc phải bỏ đường cái và dạt sang phía tây Đông Khê, trong khi Binh đoàn Cao Bằng về đến Nậm Nang còn nguyên vẹn vì không gặp Lơpagiơ lên đón như kế hoạch nên cũng bỏ đường cái theo đường mòn từ Quang Liệt tiến về phía tây.

Cả Sở Chỉ huy quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Bộ Chỉ huy chiến dịch lúc này là quyết không cho hai binh đoàn địch hội quân, không cho chúng tạo thành sức mạnh yểm trợ nhau để cùng rút về Thất Khê.

Tiếp đó lại có tin từ Lạng Sơn, Bộ Chỉ huy Khu biên thùy Đại tá Côngstăng (Constans) lệnh cho hai binh đoàn gặp nhau ở khu vực được chúng gọi là Ouest calcaire (phía tây dãy núi đá vôi - ý nói triền núi Cốc Xá). Ta đã phán đoán đúng ý đồ của địch.


(1) Sau này được biết, sau hơn một tuần chờ viện không thấy, gạo trong kho đã hết, mà nếu dùng dân công vận chuyển thì lộ kế hoạch phục kích chờ địch, Đại đoàn 308 huy động 2/3 quân số khỏe đi lấy gạo ở Tà Lùng (sát biên giới - đi và về mất hai ngày). Chỉ những người yếu mệt ở lại trông coi vũ khí. Một số cán bộ lại đi trinh sát trận địa để sẵn sàng đánh Thất Khê như dự kiến trong bước 2 của kế hoạch. Ở khu vực phục kích của đại đoàn, không có đơn vị nào hoàn chỉnh và sẵn sàng đánh địch. Khi binh đoàn Lơpagiơ đi qua, suốt trận địa đánh viện của Đại đoàn 308 bỏ ngỏ. Tình huống này có phần thiếu sót của cơ quan tham mưu chiến dịch, vì đã không bám sát tình hình các trận địa đánh viện. Chiều tối ngày 1-10, Trung đoàn 209 là đơn vị đầu tiên chạm súng với Binh đoàn Bayard khi chúng đã lên gần thị trấn Đông Khê. Quân ta đã bỏ lỡ một cơ hội đánh viện binh địch bằng một trận phục kích được chuẩn bị công khu.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Ba, 2013, 03:47:58 pm
Bài toán cấp bách đặt ra với ta lúc này là chọn đối tượng nào để tiêu diệt trước. Chỉ huy trưởng đồng ý với đề nghị của tham mưu: chọn Binh đoàn Thất Khê vì: 1- Đây là những tiểu đoàn cơ động chiến lược của địch, nếu bị tiêu diệt không những sẽ tác động trực tiếp đến Binh đoàn Sáctông mà còn ảnh hưởng đến cả phòng tuyến đường số 4; 2- Đến Đông Khê, bị tiến công liên tục nên lực lượng của Lơpagiơ đã bị tiêu hao, tinh thần đã dao động vì không chiếm lại được Đông Khê cũng không thực hiện được kế hoạch đón Sáctông ở Nậm Nàng và đang dạt sang khu Cốc Xá; 3- Một bộ phận của Đại đoàn 308 đã tiếp cận được binh đoàn này, có điều kiện triển khai chiến đấu nhanh. Phòng Tham mưu chuyển lệnh của Chỉ huy trưởng động viên bộ đội khẩn trương tiêu diệt Binh đoàn Lơpagiơ trước, đồng thời kiềm chế, ngăn chặn và tạo thế, chuẩn bị tiêu diệt nốt binh đoàn Sáctông. Bộ Chỉ huy hạ quyết tâm: dù lực lượng ta có bị tiêu hao cũng kiên quyết tiêu diệt cho kỳ được hai binh đoàn địch. Với quyết tâm đó, ta đã đi nước cờ quyết định số phận của cả bảy tiểu đoàn Âu - Phi tinh nhuệ của địch.

Về cách đánh, trong điều kiện chiến trường rất rộng, địa hình phức tạp, thời tiết xấu, khả năng trinh sát và phương tiện thông tin hạn chế, nên Bộ Chỉ huy chiến dịch chỉ thị cơ quan tham mưu giao nhiệm vụ cho các trung đoàn đồn đốc từng tiểu đoàn bám sát đánh địch và chia cắt, phá vỡ đội hình của chúng. Thực tế cho thấy cách dùng binh đó đã giúp cho tham mưu nắm địch tốt nhất. Điều đó lý giải vì sao trong điều kiện chiến trường chuyển biến hết sức mau lẹ mà từ chiều ngày 15-10 và trong suốt quá trình quân ta tiến công và tiêu diệt Binh đoàn Lơpagiơ, cơ quan tham mưu chiến dịch vẫn theo dõi được bước chuyển động của địch và hoạt động của quân ta. Tuy nhiên, qua báo cáo của tham mưu do các phái viên đốc chiến báo về, điều khiến Bộ Chỉ huy quan tâm là bắt đầu xuất hiện những khó khăn của bộ đội, nhất là về thể lực. Anh em chiến đấu liên tục ngày đêm trong điều kiện trời mưa, sương mù, đèo cao vực sâu. Do vừa hành quân, vừa tìm đường, tìm địch, nên có đơn vị có đêm chỉ cơ động được một kilômét. Chỉ huy trưởng nới với Chủ nhiệm chính trị mặt trận Lê Liêm nhắc các đơn vị: Hơn lúc nào hết, công tác chính trị cần quán triệt chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Ta mệt một thì địch mệt mười, phải ráng sức trước giờ tới đích, quyết tâm tiêu diệt địch cho kỳ hết để giành lấy toàn thắng.

Đêm 7-10, nghe báo cáo của trực ban tác chiến, Bộ Chỉ huy đứng trước một tình huống ngoài dự kiến: Cánh quân Lơpagiơ về cơ bản đã bị tiêu diệt nhưng viên chỉ huy thì đang tìm đường lẩn trốn. Ngược lại, Binh đoàn Sáctông quân số còn đông nhưng viên chỉ huy đã bị bắt. Lại thêm “đội quân cứu hỏa” của De la Beaume từ Thất Khê lên đang bị Trung đoàn 174 chặn đánh ở Lũng Phầy, không sao tiến tới điểm hẹn ở Nà Cạo. Chỉ huy trưởng gọi điện cho Đại đoàn trưởng 308: Cố thu xếp cho Lơpagiơ sớm gặp Sáctông(1) và chỉ thị thêm: địch đã đưa Binh đoàn De la Beaume lên Lũng Phầy để đón Lơpagiơ và Sáctông. Đại đoàn 308 phải phối hợp với các đơn vị bạn hoàn thành nốt nhiệm vụ tiêu diệt binh đoàn này…

Sau khi Binh đoàn Sáctông tiến vào khu vực điểm cao 477 (chiều tối ngày 6-10), quân ta từng bước khép chặt vòng vây. Một bộ phận địch phản kích còn số đông tháo chạy nhưng cuối cùng, chiều hôm sau binh đoàn đã cơ bản bị tiêu diệt hoặc bị bắt, một số nhỏ tàn quân đang lẩn lút trong rừng. Đó cũng là thời điểm “cánh quân cứu hỏa De la Beaume” đằng sau quay và tháo chạy. Sau hai ngày lẩn trốn, chiều ngày 9, đến lượt Lepage bị bắt cùng với một số sĩ quan tùy tùng. Tối hôm đó, tại trại tù binh, cuộc hội ngộ Lơpagiơ - Sáctông được báo chí Pháp sau này gọi là một cuộc hẹn hò kỳ lạ (un étrange rendez-vous).

Cả hai binh đoàn địch đã bị tiêu diệt sau 8 ngay chống đỡ trong tuyệt vọng. Phòng tham mưu chuyển lệnh cho các đơn vị gấp rút củng cố lực lượng để xuống cùng với Trung đoàn 174 chuẩn bị tiến công Thất Khê. Chỉ một bộ phận nhỏ ở lại truy lùng tàn binh của Sáctông. Đây được coi là đợt 3 của chiến dịch.

Nhưng sáng ngày 10-10 có tin kỹ thuật báo cáo: địch đã rút khỏi Thất Khê (cùng ngay với việc rút khỏi Thái Nguyên). Sau Thất Khê là cả một cuộc tháo chạy dây chuyền liên tiếp khỏi Na Sầm (14-10), Đồng Đăng (17-10), Lạng Sơn - Lạng Giai (18-10), Lộc Bình - Đình Lập (20-10), An Châu (23-10). Chỉ trong vòng hơn một tuần lễ, tuyến phòng thủ của địch trên đường số 4 bị rút ngắn thêm trên 100 kilômét. Do tinh thần địch hoảng loạn sau khi hai binh đoàn bị tiêu diệt, cuộc tháo chạy đã diễn ra hoàn toàn ngoài dự kiến của cơ quan tham mưu chiến dịch. Địch tháo chạy nhanh hơn nhiều so với đôi chân (chạy bộ) của quân ta. Điều đó giải thích vì sao các đơn vị bỏ lỡ nhiều cơ hội diệt địch, điểu hình là sáng ngày 10-10. Hôm đó, địch vừa ra khỏi Thất Khê thì hàng ngàn tên đã bị dồn đống ở bắc sông Kỳ Cùng mấy tiếng đồng hồ, vì cầu bản Trại vừa bị công binh Đại đoàn 308 phá đêm trước.

Nhận thấy bộ đội đã trải qua gần nửa tháng vận động chiến đấu liên tục trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt, địa hình phức tạp, sức khỏe đã giảm sút nhiều, khả năng truy kích hạn chế, Tham mưu trưởng chiến dịch Hoàng Văn Thái báo cáo và đề nghị Chỉ huy trưởng và Bộ Chỉ huy chiến dịch cho kết thúc chiến dịch vào ngày 14-10.


(1) Ý nói sớm đưa cả hai viên chỉ huy binh đoàn gặp nhau ở trại tù binh.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Ba, 2013, 03:49:16 pm
Chiến dịch Biên giới kết thúc thắng lợi sau gần một tháng chiến đấu khẩn trương liên tục.

Trên các hướng khác, sau khi buộc phải tháo chạy khỏi Thái Nguyên, do sức ép của quân ta trên các chiến trường phối hợp, địch rút chạy khỏi cả các thị xã Lao Cai, Hà Giang và Hòa Bình.

Sau 5 năm đầu kháng chiến chống Pháp, lần đầu tiên cơ quan tham mưu Tổng hành dinh giúp Bộ thống soái chỉ huy một chiến dịch tiến công quy mô lớn, huy động khoảng 4,5 vạn người (bộ đội và dân công). Số lượng hàng vận chuyển phục vụ chiến dịch lên tới 4.000 tấn. Quân ta đã hoàn thành vượt mức kế hoạch cả về tiêu diệt sinh lực địch, khai thông biên giới, giải phóng đất đai và mở rộng căn cứ địa Việt Bắc.

Riêng trên đường số 4, ta đã tiêu diệt và bắt trên 8.000 tên địch, trong đó có 7 tiểu đoàn Âu - Phi và 1 tiểu đoàn ngụy bị diệt gọn. Số quân Âu - Phi bị diệt chiếm 55% lực lượng cơ động chiến lược của địch ở Bắc Bộ (5/9 tiểu đoàn) tức 41% lực lượng cơ động chiến lược trên toàn Đông Dương (5/12 tiểu đoàn). Điều đáng chú ý đối với cơ quan tham mưu là chất lượng các đơn vị địch bị tiêu diệt. Lính tabor và lính dù là những lực lượng cơ động hàng đầu của quân viễn chinh Pháp(1). Cùng với lực lượng được coi là thiện chiến bị diệt, số sĩ quan và hạ sĩ quan bị giết và bị bắt cũng lớn chưa từng thấy: 90 sĩ quan, 200 hạ sĩ quan, cả trường huấn luyện hạ sĩ quan dù BEP đi thực tập, cả bộ máy chỉ huy cụm cứ điểm Đông Khê và của hai binh đoàn, trong đó có Trung tá Sáctông được mệnh danh là “người hùng lê dương”, Trung tá Lơpagiơ (mới được đưa từ châu Phi sang) được coi là cánh tay phải của Tổng Chỉ huy Cácpăngchiê (Michel Carpentier)… Tổn thất trên đây của địch không chỉ là về mặt binh lực mà còn là một đòn đánh mạnh vào tinh thần quân viễn chinh Pháp và bộ máy điều hành chiến tranh của Pháp từ Pari đến Sài Gòn và Hà Nội. Từ sự kiện quân Pháp vội vã tháo chạy khỏi một căn cứ lớn ở Lạng Sơn để lại rất nhiều đạn dược và phương tiện chiến tranh, báo chí Pháp nhắc lại một thất bại điển hình của quân Pháp ở Lạng Sơn 65 năm trước để chứng minh rằng lần thứ hai quân da trắng bị người da vàng đánh bại trên mảnh đất biên giới này(2).

Về giải phóng đất đai trên đường số 4, ta đã hoàn thành vượt mức gấp ba lần kế hoạch dự kiến giải phóng biên giới(3), đã hoàn thành nhiệm vụ khai thông đường giao lưu quốc tế và mở rộng căn cứ địa Việt Bắc.

Trên các hướng phối hợp, nhất là vùng núi Tây Bắc và Hòa Bình, ta đã buộc địch phải rút khỏi khu Lao - Hà, co về Sơn La, Lai Châu, phải bỏ “xứ Mường” Hòa Bình; địch còn phải bỏ hàng loạt vị trí ở đồng bằng sông Hồng và vùng châu thổ sông Cửu Long, co về các cứ điểm lớn. Ở phía nam căn cứ địa Việt Bắc, cuộc hành binh Phoque lên Thái Nguyên của 5 tiểu đoàn bộ binh và dùng các binh chủng hỏa lực đã không phát huy tác dụng “đỡ đòn” cho phòng tuyến biên giới. Sau khi nghe tin về số phận hai binh đoàn trên đường số 4, ngày 10-10, quân Pháp phải bỏ thị xã Thái Nguyên, rút chạy về xuôi.

Nhìn lại cả 5 năm đầu kháng chiến chống Pháp, lần đầu tiên chỉ trong một mùa khô, trên chiến trường toàn quốc, quân ta đã diệt và bức hàng, bức rút 217 cứ điểm, giải phóng 17 thị trấn và nhất là 5 thị xã có tầm quan trọng khác nhau về chiến lược: Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Lao Cai, Hòa Bình. Riêng trên vùng rừng núi Bắc Bộ, với kết quả tiêu diệt và bức rút 110 vị trí lớn nhỏ, ta đã giải phóng 2/3 biên giới Việt - Trung (750/1.150 kilômét). Căn cứ địa kháng chiến được mở rộng thêm chừng 4.000 kilômét vuông với khoảng 35 vạn dân.

Thắng lợi có tầm quan trọng về chiến lược của chiến dịch Lê Hồng Phong II đã làm thay đổi hẳn cục diện chiến trường, nhất là chiến trường chính Bắc Bộ, tạo nên bước ngoặt chiến lược. Quân và dân ta đã thoát khỏi vòng vây của các thế lực đế quốc và phản động quốc tế. Cuộc kháng chiến chống Pháp chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn tiến công và phản công chiến lược.


(1) Các đơn vị tabor đã từng nổi danh ở Bắc Phi, Tulông, Mácxây và là những đơn vị đầu tiên vượt sông Ranh vào tham gia giải phóng nước Pháp (1944). Lính dù (cả BEP và BCCP, nhất là BCCP - toàn người Pháp) là những đơn vị được coi là tinh nhuệ bậc nhất trong lực lượng viễn chinh Pháp. Lính lê dương vốn có kinh nghiệm và khả năng chiến đấu cao nên ngay từ đầu cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương lần thứ hai, lực lượng này là chỗ dựa chủ yếu của tướng lĩnh Pháp.
(2) Ngày 28-3-1885, sau khi bị đánh thiệt hại nặng ở Kỳ Lừa, một lữ đoàn quân Pháp do thiếu tướng Đờ Nêgơriê (De Négrier) chỉ huy đã phải vứt toàn bộ xe pháo, đạn dược, quân trang, lương thực và 130.000 đồng bạc trắng xuống sông Kỳ Cùng để tháo chạy thoát thân về Chũ.
(3) Kế hoạch ban đầu: giải phóng từ Cao Bằng đến Thất Khê 66 kilômét. Kết quả giải phóng từ Cao Bằng đến Đình Lập 191 kilômét.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Ba, 2013, 03:50:14 pm
V

Sau ba năm tích cực cầm cự và chuyển mạnh sang tổng phản công, mùa khô năm 1950 đánh dấu một bước tiến bộ vượt bậc của cơ quan tham mưu Tổng hành dinh. Bộ Tổng tham mưu đã vượt lên chính mình cả trong quá trình chuẩn bị và thực hành chiến dịch lớn đầu tiên trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Đây cũng là lần đầu tiên Bộ Tổng tham mưu trực tiếp làm chức năng một cơ quan tham mưu chiến dịch, lại là một chiến dịch đánh điểm diệt viện, diễn ra trên một chiến trường dài hàng trăm kilômét.

Kể từ khi có quyết tâm mới cùng chuyển hướng tiến công chiến lược sang chiến trường Đông Bắc cho đến khi mở màn chiến dịch Lê Hồng Phong II, thời gian chỉ hơn hai tháng. Trong khoảng thời gian đó, cùng với việc đưa lực lượng sang bên kia biên giới để huấn luyện và thay đổi trang bị, việc nghiên cứu chiến trường và xây dựng kế hoạch tác chiến diễn ra trong điều kiện rất khó khăn do hệ thống nắm địch chưa quy vào một mối, phương tiện thông tin quá thiếu thốn, lại do phải thay đổi mục tiêu mở màn chiến dịch nên thời gian chuẩn bị chiến đấu càng eo hẹp.

Trận Đông Khê mở màn chiến dịch là trận đánh lớn đầu tiên do Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái trực tiếp chỉ huy, lại cũng là lần đầu tiên bộ đội đánh công kiên theo chiến thuật mới vừa được huấn luyện, tiến công một cụm cứ điểm mà cả hệ thống phòng thủ đã được địch tăng cường củng cố cả về binh lực, hỏa lực và công sự sau trận ngày 25-5 của Trung đoàn 174. Cùng với tinh thần chiến đấu dũng cảm của bộ đội, trình độ chỉ huy quyết đoán của cán bộ trực tiếp cầm quân, thắng lợi của trận Đông Khê còn có sự đóng góp của cơ quan tham mưu từ bước chuẩn bị kế hoạch tác chiến đến suốt quá trình diễn biến của hơn 50 giờ chiến đấu quyết liệt để giành thắng lợi trong trận then chốt mở màn chiến dịch.

Sau trận đầu thắng lợi, cơ quan tham mưu mặt trận đã giúp Bộ Chỉ huy chiến dịch nắm được các tình huống cơ bản để chỉ huy kịp thời suốt quá trình đánh địch trong vận động. Đó là những ngày nói lên sự trưởng thành của cơ quan tham mưu trong cuộc đối đầu với địch trong những tình huống hết sức khẩn trương căng thẳng để góp phần đưa chiến dịch đến thắng lợi trọn vẹn.

1- Sau khi cụm cứ điểm Đông Khê bị tiêu diệt, trên cơ sở phán đoán địch sẽ lên chiếm lại Đông Khê hoặc lên đón quân từ Cao Bằng rút về, cơ quan tham mưu đã đề nghị kiên trì chờ viện mà chưa vội đánh Thất Khê. Mười ngày chờ viện không chỉ là những ngày “sốt suột” đối với bộ đội trên trận địa phục kích, những ngày vượt qua mọi khó khăn thử thách đối với bộ máy hậu cần tiếp tế các cấp, mà còn là những giờ phút căng thẳng ở cơ quan tham mưu chiến dịch. Các cuộc trao đổi tranh luận sôi nổi diễn ra hầu như hàng ngày về khả năng viện binh địch xuất hiện hay không, nhất là khi có tin hàng vạn quân tiến lên chiếm Thái Nguyên. Đề bạt chủ trương kiên trì chờ viện là một cách xử lý tình huống chính xác của cơ quan tham mưu chiến dịch.

2- Khi Binh đoàn Lơpagiơ lên đón đồng bọn ở Cao Bằng rút về, cơ quan tham mưu đã khẩn trương triển khai quyết tâm của Bộ Chỉ huy chiến dịch điều động kịp thời lực lượng kiềm chế Binh đoàn Cao Bằng ở Nậm Nàng để tập trung lực lượng diệt Binh đoàn Thất Khê của Lơpagiơ trước, sau đó sẽ chuyển sang diệt nốt Binh đoàn Sáctông. Thực tế cho thấy, nếu điều kiện thông tin đầy đủ hơn, cơ quan tham mưu nắm được tin Binh đoàn Sáctông rút sớm hơn (chức không phải ba ngày sau khi chúng rời thị xã) thì việc triển khai phục kích binh đoàn này còn chủ động và thuận lợi hơn nhiều, so với thực tế chỉ biết khi chúng đã về đến Nậm Nàng.

3- Bộ máy quân báo kỹ thuật đã sớm nắm được và báo cáo tình hình địch ở Thất Khê nao núng vào có triệu chứng rút quân (dân dao động, quân Pháp đốt phá…), cho nên, mặc dù lúc này lực lượng của Sáctông vẫn còn, Bộ Chỉ huy chiến dịch đã kịp thời ra lệnh cho bộ đội phía dưới đánh bản Ne, bản Trại, phá cầu qua sông Kỳ Cùng, một mặt vừa để một bộ phận bộ đội tiếp tục diệt tàn quân của Sáctông, còn bao nhiêu vận động xuống Thất Khê bao vây tiêu diệt. Theo tham mưu tính toán, thời gian cơ động lực lượng khá đầy đủ nhưng cán bộ chỉ huy thấy bộ đội mệt mỏi và vì nhiều nguyên nhân khác khiến bộ đội xuống chậm nên bỏ lỡ thời cơ trong khi địch vô cùng bối rối, mất tinh thần, nhất là sáng ngày 10 chúng phải mất 6 tiếng đồng hồ mới qua được sông Kỳ Cùng.

4- Tuy nhiên, sau khi hai binh đoàn bị tiêu diệt, do địch hoảng loạn, các tình huống địch tháo chạy đều diễn ra ngoài dự kiến của ta. Khi địch rút khỏi Thất Khê và Binh đoàn De la Beaume chạy thoát, quân ta truy kích chậm nên khi bộ đội đến Na Sầm thì địch đã rút trước đó hai giờ. Do phương tiện thông tin hạn chế, các cấp chỉ huy trực tiếp có báo cáo nhưng cơ quan tham mưu không nắm được kịp thời, việc điều động bộ đội kém dần, nếu không quân ta còn phát huy chiến quả nhiều hơn nữa.

Tóm lại, trong chiến dịch Lê Hồng Phong II cơ quan tham mưu đã nắm vững những nguyên tắc chỉ đạo tác chiến cơ bản để giúp Bộ Chỉ huy điều hành chiến dịch, cả trong các tình huống gay go khi đánh cụm cứ điểm Đông Khê cũng như những tình huống hết sức khẩn trương phức tạp trong đánh vận động tiêu diệt hai binh đoàn địch. Tuy nhiên thiếu sót nổi bật của tham mưu chiến dịch là đã không dự kiến và kịp thời phát hiện sự suy sụp đột biến về tinh thần của binh sĩ và sĩ quan địch khi hai binh đoàn bị tiêu diệt. Nhìn rộng trong phạm vi cả nước, những sai lầm liên tiếp trong chỉ đạo chiến lược của Bộ Chỉ huy Pháp dẫn đến đột biến về chiến lược trên chiến trường toàn quốc và trạng thái hoảng loạn dây chuyền từ biên giới đến các cấp chỉ huy của địch ở Hà Nội, Sài Gòn và cả Pari, tất cả những tình huống đó diễn ra đều ngoài tầm phán đoán không chỉ của Bộ Tổng tham mưu mà cả Bộ thống soái của ta.

Ngày 28-11-1950, trong báo cáo tại hội nghị tổng kết chiến dịch Lê Hồng Phong II tổ chức tại xã Tổng Quận (Chợ Đồn - Thái Nguyên), Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái nhận định: “Chiến dịch Biên giới là một bước ngoặt lịch sử trên chặng đường trưởng thành của Bộ Tổng tham mưu”.

Đó là bước trưởng thành của một cơ quan tham mưu chiến lược đang trong quá trình bộ đội phát triển từ tác chiến quy mô nhỏ, từ những chiến dịch còn mang nặng dấu ấn của chiến tranh du kích tiến lên tập trung đánh lớn, trong một chiến dịch bước đầu có sự hợp đồng binh chủng quy mô lớn hơn trước. Lần đầu tiên giúp Bộ thống soái chỉ đạo một chiến dịch đánh tập trung bước đầu mang tính chất chính quy với một binh lực tương đối đông (tương đương hai đại đoàn), Bộ Tổng tham mưu đã phải vượt qua nhiều khó khăn, khắc phục những hạn chế do đội ngũ cán bộ tham mưu còn thiếu về số lượng và yếu về trình độ nghiệp vụ, cơ sở vật chất thiếu thốn trước yêu cầu của một chiến dịch đánh điểm diệt viện trên một địa bàn rộng, tình huống diễn biến khẩn trương và phức tạp.

Để góp phần vào chiến dịch này, cơ quan tham mưu đã dồn tâm huyết vào việc chuẩn bị chiến trường, xây dựng kế hoạch tác chiến chiến dịch, trước hết nhằm bảo đảm giành thắng lợi trong trận đánh then chốt mở màn chiến dịch, trận đánh do Tổng Tham mưu trưởng trực tiếp chỉ huy. Sau đó, trong quá trình vận động tiến công của các đơn vị, cơ quan tham mưu chiến dịch đã giúp Bộ Chỉ huy mặt trận chỉ đạo kết hợp giữa bộ binh với các binh chủng khác, nhất là pháo binh, kết hợp giữa chủ lực với lực lượng vũ trang địa phương, kết hợp giữa hoạt động tiến công ở khu vực quyết chiến với các hoạt động ngăn chặn, kiềm chế các địa bàn khác của chiến dịch, kết hợp giữa chiến trường trọng điểm với các chiến trường phối hợp trên toàn quốc”(1).

Công tác tham mưu chiến dịch đã hình thành và phát triển bắt đầu từ bước nghiên cứu địa hình và địch tình, xây dựng kế hoạch tác chiến đến trận đánh công kiên mở màn chiến dịch rồi các bước biến động hết sức khẩn trương trong đánh vận động tiêu diệt hai binh đoàn địch, trong đánh chặn Binh đoàn De la Beaume và trong truy kích. Trong đánh công kiên (trận Đông Khê), công tác tham mưu hướng vào yêu cầu hợp đồng bộ pháo, yêu cầu phối hợp giữa hai hướng đông bắc (hướng chủ công) với hướng phối hợp tây nam, hướng vào yêu cầu đánh từ ngoại vi đến phát triển vào tung thâm nhằm tiêu diệt địch trong một cụm cứ điểm rải ra trên một không gian bao gồm cả vùng đồi núi và dưới thung lũng (Đông Khê phố). Đánh vận động tiêu diệt hai binh đoàn địch là cả một quá trình cơ quan tham mưu chiến dịch theo dõi và chỉ đạo cuộc chiến đấu liên tục cả ngày lẫn đêm trong suốt gần 10 ngày trên một địa bàn rộng, địa hình phức tạp, thời tiết khắc nghiệt, với nhiều loại hình chiến thuật và thủ đoạn tác chiến, từ bao vây chia cắt chiến dịch đến bao vây chia cắt chiến thuật trong từng trận chiến đấu cụ thể.


(1) Đó là hoạt động của bộ đội trên các mặt trận Lao Cai và Hòa Bình, của Trung đoàn 246 và lực lượng vũ trang Thái Nguyên, của Đại đoàn 304 và các lực lượng vũ trang địa phương đồng bằng Bắc Bộ, là các chiến dịch Phan Đình Phùng và Hoàng Diệu ở miền Trung, các chiến dịch Trà Vinh, Bến Cát, Long Châu Hậu ở Nam Bộ…


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Ba, 2013, 03:51:17 pm
Từ bước trưởng thành của Bộ Tổng tham mưu trong chiến dịch Biên giới có thể rút ra những kinh nghiệm (thành công và thiếu sót) sau đây:

1- Quán triệt chủ trương chiến lược của Bộ thống soái về mở đường giao lưu quốc tế, kế hoạch tác chiến do Bộ Tổng tham mưu xây dựng đã nhắm đúng vào mục đích lấy tiêu diệt sinh lực địch làm chính, lấy yếu tố quyết định để đạt tới mục đích giải phóng đất đai, khai thông biên giới, phá thế bao vây chiến lược của địch.

Xuất phát từ dự kiến về bước phát triển của cách mạng Trung Quốc tác động đến cuộc kháng chiến của Việt Nam, suốt thời gian từ cuối năm 1949 đến đầu năm 1950, Bộ thống soái kiên trì chủ trương khai thông bằng được biên giới Việt - Trung. Quán triệt chủ trương chiến lược đó, Bộ Tổng tham mưu đã tổ chức và chỉ đạo các chiến dịch trên cả hai hướng biên giới Đông Bắc và Tây Bắc. Khi Bộ thống soái quyết định chuyển hẳn hướng sang Đông Bắc, Bộ Tổng tham mưu đã vượt qua mọi khó khăn về thời gian, trình độ và phương tiện kỹ thuật để chuẩn bị chiến trường, chuẩn bị cho kịp thời gian mở một chiến dịch lớn.

Nắm vững mối quan hệ giữa tiêu diệt sinh lực địch với giải phóng đất đai (cụ thể ở đây là khai thông biên giới), từ kinh nghiệm của trận đánh tháng 5-1950 của Trung đoàn 174 (không sẵn sàng đánh viện binh địch nên địch nhanh chóng chiếm lại thị trấn Đông Khê), kế hoạch chiến dịch do Bộ Tổng tham mưu chuẩn bị luôn quán triệt phương châm đánh điểm - diệt viện, quán triệt yêu cầu coi việc tiêu diệt sinh lực địch là mục đích đầu tiên. Có tiêu diệt được sinh lực địch mới giải phóng được đất đai, mới khai thông được biên giới.

Trong điều kiện trang bị vũ khí nặng của ta còn thiếu, kinh nghiệm và trình độ đánh công kiên của ta còn hạn chế, Bộ Tổng tham mưu đã nhằm đối tượng cần tiêu diệt là lực lượng địch đã thoát ly cứ điểm, dù đó là lực lượng cơ động chiến lược của địch. Chọn đối tượng này là nhằm triệt để lợi dụng điều kiện chiến trường rừng núi (nơi địch khó phát huy ưu thế về phi cơ, pháo binh), triệt để phát huy khả năng và sở trường đánh gần, đánh đêm, tạo điều kiện thuận lợi để quân ta có thể đạt hiệu suất chiến đấu cao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch và hạn chế được thương vong. Nắm vững phương châm đánh điểm diệt viện và để thực hiện được phương châm đó, trận then chốt (đánh công kiên tiêu diệt cụm cứ điểm Đông Khê) mở màn chiến dịch chỉ là trận (đánh điểm) khơi mào để thu hút viện binh địch. Trận đầu tiên diễn ra với quyết tâm phải thắng, không những để xây dựng lòng tin cho bộ đội mà chủ yếu là để kéo được quân ứng chiến (cấp chiến dịch, chiến lược) của địch ra để tiêu diệt.

2- Dựa vào nhân dân và các đoàn thể quần chúng địa phương, tận dụng kinh nghiệm của các đơn vị tại chỗ để khắc phục những hạn chế về trình độ nghiệp vụ và trang bị kỹ thuật của ta.

Lê Hồng Phong II là chiến dịch đầu tiên của Bộ Tổng tham mưu đối mặt với một đối tượng tác chiến đông về số lượng và thiện chiến về khả năng phòng ngự. Lần đầu tiên giúp trên chuẩn bị và thực hành chiến dịch lớn, những khó khăn lớn của Bộ Tổng tham mưu dường như lại nhân lên trong điều kiện tổ chức nắm địch chưa ổn định, trình độ nghiệp vụ trinh sát hạn chế, trang bị thông tin chỉ huy vừa thiếu vừa lạc hậu. Nhưng chức năng đồi hỏi và bản lĩnh chính trị đã cho phép từng thành viên trong Bộ Tổng tham mưu vượt lên chính mình để hoàn thành nhiệm vụ.

Với tinh thần thực sự cầu thị, chịu học hỏi, không giấu dốt, các bộ phận trinh sát và thông tin đi chuẩn bị chiến trường đã xác định hướng khắc phục là dựa vào dân và các đoàn thể quần chúng tại chỗ, dựa vào những đơn vị có kinh nghiệm về chiến trường đường số 4 (như Trung đoàn 174, Tiểu đoàn địa phương 426…) để tìm hiểu về địch, làm binh yếu địa chí, đã biết dựa vào đường dây của bưu điện tại chỗ để khắc phục những khó khăn về báo cáo tin tức về địch…

3- Chọn mục tiêu mở màn chiến dịch phải phù hợp với khả năng thực tế của bộ đội, bảo đảm trận đầu chắc thắng, tạo đào cho toàn chiến dịch.

Việc Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái chọn Cao Bằng làm mục tiêu tiến công mở màn chiến dịch là theo dự án ban đầu của Bộ Tổng tư lệnh. Tuy nhiên, trong việc đề đạt mục tiêu tiến công mở màn chiến dịch, sở dĩ mục tiêu Cao Bằng không được Chỉ huy trưởng chiến dịch chấp nhận là vì cơ quan tham mưu chiến dịch đã không làm tốt chức năng trong quá trình nghiên cứu chiến trường và chuẩn bị kế hoạch để có cơ sở đề đạt chính xác mục tiêu tiến công đầu tiên của chiến dịch. Cụ thể là: 1- Trong việc trinh sát thực địa, tham mưu đã không nhạy bén phát hiện đầy đủ những thay đổi về cách bố phòng của địch trên phòng tuyến đường số 4 nói chung, ở Cao Bằng nói riêng, nên không đánh giá đầy đủ tình hình đã thay đổi sau trận tiến công Đông Khê ngày 25-5 của Trung đoàn 174: địch tăng cường binh lực, hỏa lực và công sự trên toàn tuyến phòng thủ đường số 4. Công tác trinh sát thực địa đã không phát hiện đầy đủ những điểm mạnh trong cách bố phòng của địch ở Cao Bằng, như địa hình phức tạp (nhất là hai con sông bao quanh thị xã), khả năng cơ động của xe tăng địch, khả năng quân dù tăng viện, công sự, binh lực… của địch; 2- Cơ quan tham mưu đã không đánh giá đúng khả năng hạn chế của bộ đội chủ lực trong đánh công kiên. Quân ta chưa đủ sức tiêu diệt một cụm cứ điểm do hai tiểu đoàn địch đóng giữ. So với trước, trình độ đánh công kiên của bộ đội đã được nâng lên do được học tập kinh nghiệm của Quân giải phóng Trung Quốc, nhưng việc học tập chưa được thực nghiệm trong thực tế chiến đấu. 3- Cơ quan tham mưu chiến dịch đã không thấy hết tầm quan trọng của trận mở màn chiến dịch, không quán triệt đầy đủ yêu cầu đánh thắng trận đầu. Nếu mở màn không chắc thắng, bị “sượng”, sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ chiến dịch, nhất là Biên giới lại là chiến dịch đầu tiên do Bộ Tổng tư lệnh trực tiếp chỉ đạo, chỉ huy.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Ba, 2013, 03:51:35 pm
4- Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan bạn, tạo thành sức mạnh tập thể, tổng hợp, hỗ trợ đắc lực và kịp thời cho các đơn vị vượt qua những thử thách trong những tình huống khẩn trương phức tạp để giành thắng lợi.

Một đặc điểm tình hình là mới đến tháng 7-1950 cơ quan Tổng hành dinh mới thay đổi cả về mặt tổ chức và về nhân sự. Điều đó liên quan trực tiếp đến sự chỉ đạo chuẩn bị và điều hành chiến dịch Biên giới. Từ khi Thường vụ Trung ương quyết định chuyển hướng tiến công chiến lược sang Đông Bắc, thời gian chuẩn bị chiến dịch của ba cơ quan Bộ Tổng tư lệnh rất eo hẹp. Sau đó, khi quyết định chuyển mục tiêu mở màn chiến dịch từ Cao Bằng xuống Đông Khê, thời gian chuẩn bị chỉ chừng một tháng rưỡi. Trong điều kiện thời gian gấp rút như vậy, sự hạn chế về vật chất trang bị (phương tiện đi lại và vận chuyển, phương tiện thông tin, trinh sát…) càng làm cho việc chuẩn bị và thực hành chiến dịch thêm khó khăn. Nhưng do có sự phối hợp chặt chẽ giữa ba cơ quan tham mưu, chính trị và cung cấp chiến dịch nên đã tạo thành sức mạnh tập thể, giúp cho từng bộ phận vượt qua những khó khăn trong quá trình chuẩn bị cũng như trong những tình huống hết sức khẩn trương trong chiến đấu của bộ đội. Nhờ có sự phối hợp chặt chẽ với tham mưu mà hậu cần xác định quanh khu vực lập kho trạm khi chuyển hệ thống hậu cần từ Cao Bằng xuống Đông Khê và sau đó là hướng tiếp tế cho bộ đội trong từng tình huống đánh vận động. Nhờ có sự phối hợp chặt chẽ với tham mưu mà cơ quan chính trị biết cụ thể hơn những khó khăn gian khổ của bộ đội chiến đấu liên tục trong thời tiết khắc nghiệt, địa hình phức tạp, để có cơ sở động viên bộ đội quyết tâm tiêu diệt địch, nhất là các mũi bao vây tiến công địch trong khu vực Cốc Xá - 477 và những đơn vị truy kích địch.

Đúng như Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái đã nói trong hội nghị tổng kết. chiến dịch Biên giới là một bước ngoặt lịch sử trên chặng đường trưởng thành của Bộ Tổng tham mưu. Từ đây, trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Pháp đã thoát khỏi thế bao vây của địch, những kinh nghiệm thu hoạch được trong chiến dịch Lê Hồng Phong II sẽ tạo đà để Bộ Tổng tham mưu tiếp tục vươn tới những bước trưởng thanh mới trong các chiến dịch tiếp theo trong những năm còn lại của cuộc kháng chiến chống Pháp.

5- Nắm địch một cách toàn diện, thấy cả mặt mạnh và mặt yếu của chúng, theo quan điểm phát triển và trong mối quan hệ giữa binh khí kỹ thuật và tinh thần chiến đấu của địch, giữa những tình huống thông thường và tình huống đột biến, giữa chiến trường chính và các chiến trường phối hợp.

Ngay từ trước khi Bộ thống soái quyết định chuyển hướng chiến dịch sang Đông Bắc, Bộ Tổng tham mưu vẫn xác định: so với hướng Tây Bắc thì quân địch trên đường số 4 mạnh hơn. Đó là những đơn vị Âu - Phi thiện chiến, đứng trong công sự đang được củng cố ngày càng vững chắc. Ta phán đoán: một khi phòng tuyến bị tiến công, địch có thể tăng viện, đưa lực lượng của chúng trên đường số 4 lên tới 20 tiểu đoàn, tức là tương đương với số bộ đội chủ lực tham gia chiến dịch của ta. Nhưng đồng thời, Bộ Tổng tham mưu cũng phát hiện chỗ yếu cơ bản của chúng là lực lượng bị rải ra trên một phòng tuyến rất dài, vị trí nọ cách vị trí kia hàng mấy chục kilômét đường rừng hiểm trở, thời tiết mùa đông, một khi bị tiến công, việc ứng chiến rất khó khăn.

Một cái bệnh cố hữu của quân viễn chinh xâm lược là ỷ vào vũ khí, vào sức đề kháng của công sự. Thực tế trận Đông Khê cho thấy, một khi sức mạnh của xi măng - sắt thép đã không cứu được quân đồn trú trong cụm cứ điểm thì thất bại đó sẽ tác động rất lớn đến tinh thần và tư tưởng của lực lượng ứng cứu (thoát ly công sự) một khi phải đối mặt với quân ta. Điều đó lý giải vì sao cánh quân Lơpagiơ sớm bị dao động ngay trong trận chạm súng đầu tiên với Trung đoàn 209. Không những Binh đoàn Bayard của Lơpagiơ đuối sức trước yêu cầu chiếm lại Đông Khê mà còn bỏ cả nhiệm vụ lên Nậm Nàng để đón Binh đoàn Sáctông. Binh đoàn Bayard thủ tiêu chiến đấu, dạt sang phía tây đường cái. Trong khi đó, rút chạy từ Cao Bằng xuống đến Nậm Nàng không gặp Lơpagiơ lên đón là một sự hụt hẫng lớn về tinh thần của Binh đoàn Sáctông. Sau này hồi ký của viên trung tá này cho thấy, theo đường Quang Liệt, càng tiến sâu vào phía tây đường số 4, giữa cảnh rừng núi bạt ngàn, luôn bị đối phương ngăn chặn, càng làm cho tinh thần hắn dao động, suy sụp. Điều đó được thể hiện cụ thể bằng hành động của viên sĩ quan viễn chinh được mệnh danh là “anh hùng lê dương”: bỏ rơi cả binh đoàn trong cơn hoạn nạn để hòng chạy thoát thân.

Nhìn trong phạm vi cả nước, Bộ Tổng tham mưu cũng khẳng định và báo cáo với Bộ Chỉ huy chiến dịch rằng khả năng ứng cứu của địch đối với đường số 4 là rất hạn chế. Trong tay Tổng Chỉ huy Cácpăngchiê chỉ có 9 tiểu đoàn cơ động chiến lược trên toàn Bắc Bộ, 12 tiểu đoàn cơ động chiến lược trên toàn Đông Dương, vậy mà ông ta buộc phải ném xuống tăng cường cho Cao Bằng 1 tiểu đoàn, dùng 5 tiểu đoàn để mở cuộc hành binh Phoque lên Thái Nguyên, giao cho Lơpagiơ (Binh đoàn Bayard) 4 tiểu đoàn, tất cả nói lên sự cố gắng tột đỉnh của Bộ Chỉ huy Pháp trong bối cảnh còn phải rải quân ra ứng phó với các chiến trường phối hợp của đối phương đang hằng ngày không ngừng chia lửa với chiến trường chính Cao - Lạng. Điều đó giải thích vì sao cuối cùng địch buộc phải bỏ một phòng tuyến quan trọng như đường số 4, dù biết rằng khu biên thùy Đông Bắc (ZFNE) bị đánh sập, quân Pháp sẽ đứng trước một cục diện chiến lược hết sức bất lợi, nhất là sau khi cách mạng Trung Quốc đã thành công.

Tuy nhiên, việc nắm địch trong điều kiện từng binh đoàn lần lượt bị dồn vào bước đường cùng, các tình huống chiến dịch diễn biến hết sức mau lẹ, là điều hết sức khó khăn đối với bộ phận quân báo, trinh sát, cả trong quá trình tiến đánh hai binh đoàn cũng như sau khi chúng bị tiêu diệt. Điều đó lý giải vì sao cơ quan tham mưu chiến dịch đã không dự kiến kịp thời suy sụp đột biến của tinh thần địch. Việc không điều động kịp thời Trung đoàn 174 xuống phía dưới Thất Khê, không ra lệnh kịp thời cho Trung đoàn 98 lên “đón lõng” phía nam đường số 4, v.v. bắt nguồn từ sự thiếu nhạy bén dự kiến tinh thần hoảng loạn của địch và dự kiến cuộc tháo chạy dây chuyền của chúng trên tuyến đường mấy trăm kilômét. Thiếu sót đó đã hạn chế tầm vóc thắng lợi của chiến dịch Lê Hồng Phong II.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Ba, 2013, 03:51:55 pm
(http://img213.imageshack.us/img213/378/bttm001.jpg)

Đồng chí Hoàng Văn Thái, Tổng Tham mưu trưởng đầu tiên
của Quân đội nhân dân Việt Nam

(http://img96.imageshack.us/img96/8863/bttm002.jpg)

Cán bộ Phòng Nhân sự (phòng 1) - Bộ Tổng tham mưu, năm 1946

(http://img560.imageshack.us/img560/4220/bttm003.jpg)

Một số cán bộ, nhân viên, chiến sĩ đầu tiên của Ban Mật mã - Bộ Tổng tham mưu

(http://img708.imageshack.us/img708/3971/bttm004.jpg)

Các cán bộ đầu tiên của ngành Bản đồ quân sự - Bộ Tổng tham mưu


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Ba, 2013, 03:53:08 pm
(http://img580.imageshack.us/img580/1889/bttm005.jpg)

Cán bộ Phòng Tác chiến - Bộ Tổng tham mưu ở Chiến khu Việt Bắc, tháng 2-1947

(http://img32.imageshack.us/img32/9725/bttm006.jpg)

Cán bộ Bộ Tổng tham mưu xuống cơ sở huấn luyện du kích bắn súng

(http://img706.imageshack.us/img706/8072/bttm007.jpg)

Đồng chí Võ Nguyên Giáp và cán bộ Bộ Tổng tham mưu kiểm tra
Xưởng sản xuất vũ khí Giang Tiên, Thái Nguyên

(http://img96.imageshack.us/img96/6124/bttm008.jpg)

Đồng chí Trần Hiệu (người mặc áo nâu) - phụ trách tình báo và một số cán bộ
Phòng Tình báo - Bộ Tổng tham mưu ở Nà Mộc, Thái Nguyên


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Ba, 2013, 03:53:46 pm
Lời cuối sách

Người viết muốn dành những trang cuối của cuốn sách nhỏ này để tôn vinh anh Hoàng Văn Thái và những đồng sự của anh, những người đã cùng anh đặt những viên gạch đầu tiên làm nền móng vững chắc cho Bộ Tổng tham mưu và cho ngành tham mưu toàn quân.

Bộ Tổng tham mưu ra đời và bắt đầu sự nghiệp bằng hai bàn tay trắng theo yêu cầu của cách mạng, của cuộc kháng chiến thứ nhất, vào thời điểm nóng bỏng, khi quân thù đã rình rập trở lại xâm lược hòng thủ tiêu thành quả cách mạng mà nhân dân ta vừa giành được. Qua những cuốn sách của phía bên kia viết về cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam, do thiếu sự hiểu biết cần thiết nên các tác giả ít nói đến cơ quan chỉ huy của Tổng hành dinh. Họ khó mà hình dung nổi Bộ Tổng tham mưu Việt Nam đã khó khăn như thế nào khi vừa lọt lòng đã phải đối mặt với bộ máy chỉ huy già đời của một đội quân viễn chinh có kinh nghiệm hàng trăm năm chiến tranh xâm lược thuộc địa. Do đó họ càng không thể cắt nghĩa nổi Bộ Tổng tham mưu đã làm gì và làm thế nào để giúp Bộ thống soái tối cao dẫn dắt “đội quân thơ ấu” đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác ngay từ những năm tháng kháng chiến đầu tiên.

Ôn lại bước đi chập chững từ buổi ban đầu của Bộ Tổng tham mưu mới thấy cầm nang vừa làm vừa học - có chí thì nên mà Chủ tịch Hồ Chí Minh giao cho Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái thật là kỳ diệu.

Mỗi thành viên trong Bộ Tổng tham mưu thời ấy đều biết anh Thái là người “ít chữ”, học vấn chỉ mới đạt trình độ sơ học yếu lược thời Pháp. Từ một nông dân vùng lúa Tiền Hải - Thái Bình rồi một công nhân vùng mỏ Đông Bắc, anh đến với cách mạng từ rất sớm. Khi được giao trọng trách làm Tổng Tham mưu trưởng của một quân đội non trẻ, lại ở vào thời điểm “đêm trước” của cuộc chiến tranh vệ quốc, vốn liếng quân sự của Hoàng Văn Thái chỉ là kiến thức thu hoạch được từ lớp huấn luyện quân sự (bí mật) ở Hiệp Hòa (Bắc Giang) đầu những năm 40, của mấy tháng chiến tranh du kích ở Võ Nhai - Tràng Xá sau cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn và “có bài bản” hơn cả là lớp quân sự sơ cấp ở Điền Đông (Trung Quốc); tiếp đến là kinh nghiệm điều hành một khóa Quân chính kháng Nhật ở Tân Trào và cuối cùng là kinh nghiệm mấy cuộc nổi dậy giành chính quyền trong cao trào Tổng khởi nghĩa ở Yên Bái và Tuyên Quang.

Ghi tạc lời dạy vừa làm vừa học của Cụ Hồ, anh đã hành động thực sự và cũng học tập thực sự trong thực tế hành động.

Nhìn vào một quân đội đã dày dạn chiến trận như Quân đội nhân dân Việt Nam ngày nay, nhìn vào một cơ quan chỉ đạo chiến lược bề thế như Bộ Tổng tham mưu ngày nay, thật khó mà hình dung nổi người Tổng Tham mưu trưởng đầu tiên của quân đội đã xoay xở như thế nào khi mà cơ quan chỉ huy quân sự cấp trung ương chưa hình thành, chiến sự đã nổ ra ở miền Nam! Ít ngày sau khi nhận nhiệm vụ, trong tay không một phương tiện thông tin liên lạc, không một phương tiện đi lại, chỉ biết dựa vào sự giúp đỡ hết mình của các địa phương để tổ chức được từng đoàn, từng đoàn quân Nam tiến theo tiếng gọi của chiến trường miền Nam ngay sau khi quân Pháp gây hấn, là một thành tích đầu tay của Tổng Tham mưu trưởng. Sau từng công việc cụ thể như vậy, là cả một quá trình từng bước rút kinh nghiệm và từng bước trưởng thành.

Cấp trên trực tiếp của Hoàng Văn Thái hồi đó là Võ Nguyên Giáp, được Đảng phân công đặc trách công tác quốc phòng và an ninh. Nhưng anh Văn bận rất nhiều công việc của một Bộ trưởng Nội vụ trong bối cảnh đất nước đòi hỏi phải ổn định để đứng vững trước mọi cơn giông tố cả bên trong và bên ngoài. Những lời chỉ bảo của Võ Nguyên Giáp đối với Hoàng Văn Thái là những điều rất cơ bản của ngành tham mưu bắt đầu từ con số không. Phải tổ chức ngay đường dây liên lạc để nắm được tình hình chiến trường miền Nam; phải dựa vào Tổng bộ Việt Minh mà chọn người đáng tin cậy để đưa vào cơ quan; phải tạo nên sự đoàn kết gắn bó giữa mọi thành viên, tạo nên sức mạnh tập thể để vượt lên những khó khăn ban đầu… Tất cả những ý kiến đó đều rất quý đối với người Tổng Tham mưu trưởng khi đó mới 30 tuổi đời.

Một điều kiện đồng thời cũng là một yếu tố rất quan trọng, đó là những cán bộ được giới thiệu về Bộ Tổng tham mưu những ngày đầu đều là những người tâm huyết. Các anh thuộc mọi thành phần xã hội, từ nhân sĩ trí thức, viên chức, cựu binh chế độ cũ, đến học sinh, sinh viên, công nhân… hầu hết mới đến với cách mạng từ cao trào Tổng khởi nghĩa Tháng Tám. Các anh thuộc đủ mọi lứa tuổi, từ Tổng huynh trưởng Hướng đạo sinh tuổi 45 đến anh thanh niên vừa rời ghế nhà trường. Tuy nhiên, tất cả những khác biệt đó không hề cản trở tinh thần hăng say và ý thức cộng tác của các anh trong những ngày bắt tay vào đặt những viên gạch đầu tiên trong điều kiện thiếu thốn mọi bề. Khí thế cách mạng của cả nước trong và sau những ngày Tổng khởi nghĩa, tiếp đến là không khí sôi sục của toàn dân bước vào cuộc kháng chiến toàn quốc, tất cả trở thành những nguồn động viên kỳ diệu, giúp các anh vượt lên tất cả.


Tiêu đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Ba, 2013, 03:54:23 pm
Tình thế đòi hỏi phải sớm hình thành một bộ máy chỉ đạo chỉ huy để giúp Bộ thống soái điều hành toàn quân chuẩn bị chuyển sang thời chiến; lực lượng vũ trang đang chuẩn bị đối mặt với quân thù đòi hỏi một sự dẫn dắt đúng đắn kịp thời; sự có mặt của đội quân viễn chinh Pháp, với ưu thế về binh lực và kinh nghiệm chiến trường đã có mặt trên cả hai miền đất nước, đòi hỏi một cơ quan đầu não quân sự đủ sức mạnh để cản phá âm mưu xâm lược của chúng… Tất cả thực tế đó thúc bách từng thành viên trong Bộ Tổng tham mưu ngay từ những ngày đầu phải vượt lên chính mình, phải khắc phục mọi khó khăn thiếu thốn, từ kiến thức tham mưu đến cơ sở vật chất, nhằm đáp ứng bằng được những yêu cầu khách quan của tình thế nước sôi lửa bỏng. Khi bước vào mấy năm đầu kháng chiến toàn quốc, cái rét thấu xương của mùa đông 1947 ở Chiến khu Việt Bắc, những bữa thiếu ăn trong ngày giáp hạt năm 1949, những hoạt động quân sự thể hiện sự ưu thế về binh lực và thủ đoạn thâm độc của địch…, tất cả đều là những thử thách quyết liệt đối với các anh.

Cuộc kháng chiến càng phát triển, yêu cầu của quân đội và của chiến trường càng cao, âm mưu và thủ đoạn của Bộ Chỉ huy quân viễn chinh Pháp càng thâm độc, càng đòi hỏi Bộ Tổng tham mưu phải tiến sao cho kịp, cho xứng với tầm vóc và vị thế của một cơ quan chỉ đạo, chỉ huy chiến lược. Từng thành viên và tập thể nhỏ bé ban đầu đó đã đứng vững là lớn lên từng ngày và mỗi bước trưởng thành đều thể hiện bản lĩnh cách mạng, xứng đáng với lòng tin cậy của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân.

Mỗi bước lớn lên về chính trị và chuyên môn của từng cán bộ, mỗi chặng đường trưởng thành về tổ chức và nghiệp vụ của toàn cơ quan, đều mang dấu ấn của Tổng Tham mưu trưởng. Với chức năng một cán bộ quân sự, một cán bộ tham mưu, nhưng trong Hoàng Văn Thái, con người chính trị đi trước con người quân sự. Trước hết, anh quan tâm đến sự thống nhất về tinh thần và ý chí, đến tinh thần đoàn kết nội bộ cơ quan, coi đó là những điều kiện quan trọng hàng đầu để cùng nhau chung lưng đấu cật hoàn thành mọi nhiệm vụ. Anh không chỉ quan tâm nâng dần trình độ chuyên môn của ừng cán bộ, của từng phòng nghiệp vụ, mà còn rất chú trọng công tác xây dựng Đảng, công tác chính trị. Từ một tổ Đảng chỉ có 3 đảng viên ngày cơ quan mới thành lập, khi “thiên đô” lên Việt Bắc, số đảng viên trong Chi bộ đã phát triển lên gấp 10 lần, đạt tỷ lệ lãnh đạo 1/3. Đó là một trong những công lao đầu tiên của Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái trong việc xây dựng cơ quan. Những năm đầu kháng chiến, việc học tập chính trị chưa thành nền nếp, tài liệu chính trị chưa được soạn thảo thống nhất nhưng anh đã biết phát huy tác dụng của tổ học tập, biết dựa vào những bài báo của Tổng Bí thư Trường Chinh để giúp anh em hiểu những điều cơ bản về đường lối kháng chiến. Về nghiệp vụ tham mưu, những ấu trĩ ban đầu là tất yếu, dễ hiểu, nhưng quá trình mò mẫm cũng là quá trình kịp thời rút kinh nghiệm, học hỏi lẫn nhau, học hỏi cả những cách làm của địch để tiến từng bước vững chắc, thiết thực. Tổng Tham mưu trưởng luôn khẳng định: để tồn tại những yếu kém của ngành nào đó trong công tác tham mưu của các trung đoàn và các khu là trách nhiệm của Bộ Tổng tham mưu. Cơ quan tham mưu Tổng hành dinh phải vươn lên, xứng đáng là đầu tàu cho tham mưu toàn quân, cùng tham mưu toàn quân hoàn thành nhiệm vụ phục vụ chỉ đạo, chỉ huy các cấp, các chiến trường. Bản thân Tổng Tham mưu trưởng là một mẫu mực của tinh thần và thái độ “không giấu dốt”. Anh tranh thủ mọi điều kiện hoàn cảnh để học, từ một chữ tắt về phiên hiệu của địch đến một văn kiện lý luận về chiến lược quân sự của Đảng và đặc biệt là những kinh nghiệm cụ thể rút ra qua từng mặt công tác, từng bước công tác, từng giai đoạn chiến lược.

Lịch sử Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây là lịch sử những sự kiện về công tác tham mưu diễn ra xen kẽ giữa những bước mò mẫm tìm tòi với những kiến thức sơ đẳng “chưa thành văn”, dẫn đến những kết quả nhờ tinh thần cách mạng và bản lĩnh chính trị nhiều hơn là lý luận cơ bản về nghiệp vụ công tác tham mưu. Do đó, thành công và trưởng thành là cơ bản và vấp váp thiếu sót cũng không phải là không có. Trải qua 6 năm (1945-1950), vào thời điểm khai thông biên giới, tức là khi bắt đầu có điều kiện học hỏi kinh nghiệm của bạn bè quốc tế, cũng là thời điểm Bộ Tổng tham mưu đã đứng vững trên đôi chân của chính mình, đã vượt qua những bước thử thách quyết liệt và đã có đủ điều kiện chủ quan để tiếp thu kinh nghiệm nghiệp vụ tham mưu của bạn. Mấy năm sau đó, khi tổ chức quyết định anh Hoàng Văn Thái bàn giao chức danh Tổng Tham mưu trưởng cho anh Văn Tiến Dũng, cũng là lúc Bộ Tổng tham mưu đã “đủ lông đủ cánh”, đã là một cơ quan tham mưu chiến lược với bề dày kinh nghiệm xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân lớn mạnh và bề dày kinh nghiệm trực tiếp giúp trên điều hành gần một chục chiến dịch quy mô nhiều đại đoàn sau chiến dịch Biên giới. Vào thời điểm bàn giao đó (11-1953), với trình độ trưởng thành về mọi mặt, từ hành chỉnh về cơ cấu tổ chức đến bảnh lĩnh chính trị, trình độ nghiệp vụ, Bộ Tổng tham mưu đang chuẩn bị bước vào cuộc đọ sức quyết liệt nhất (cũng là cuộc đọ sức cuối cùng) với bộ máy chỉ đạo, chỉ huy quân viễn chinh Pháp trong chiến dịch Điện Biên Phủ (mà Hoàng Văn Thái là Tham mưu trưởng chiến dịch) và cuối cùng, toàn ngành tham mưu đã góp phần quan trọng cùng toàn quân, toàn dân làm nên chiến thắng “lừng lẫy năm châu - chấn động địa cầu”.

Lịch sử Bộ Tổng tham mưu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và những năm xây dựng trong hòa bình, là lịch sử cơ quan tham mưu chiến lược kế thừa và phát huy truyền thống và kinh nghiệm của lớp cán bộ tham mưu đi trước mà con chim đầu đàn là Hoàng Văn Thái, vị Tổng Tham mưu trưởng đầu tiên mà tên tuổi đã ghi đậm nét trong sổ vàng lịch sử tham mưu quân đội cách mạng Việt Nam.