Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: satthat trong 23 Tháng Bảy, 2008, 10:25:23 pm



Tiêu đề: Một thời rừng Sác
Gửi bởi: satthat trong 23 Tháng Bảy, 2008, 10:25:23 pm
Tôi vừa về thăm lại chiến khu rừng Sác, địa danh gắn với các chiến sỹ đặc công Đoàn 10, chứng kiến một phần nào cuộc sống của các chiến sỹ qua sự tái hiện cũng như lời kể của bác cựu chiến binh đặc công Đoàn 10 Nguyễn Văn Tám tôi rất xúc động và muốn làm một điều gì đó để những chiến công, những sự hi sinh gian khổ của các chiến sỹ đặc công đoàn 10 cùng quân dân rừng Sác được mọi người nhớ đến. Tôi xin gửi đến các bạn hồi ký của Đại tá Lê Bá Ước nguyên Đoàn trưởng đoàn 10 đặc công Rừng Sác - MỘT THỜI RỪNG SÁC.


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác
Gửi bởi: satthat trong 23 Tháng Bảy, 2008, 10:28:00 pm
LỜI TÁC GIẢ
Là một trong những người chỉ huy đơn vị đặc công đã cùng với quân dân Rừng Sác anh hùng bám trụ, chiến đấu nơi đây suốt thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, vượt qua bao ác liệt hiểm nghèo, lập nên những chiến công đánh phá mục tiêu kho tàng bến cảng như: kho bom Thành Tuy Hạ, kho xăng Nhà Bè, pháo kích Dinh Độc Lập, toà đại sứ Hoa Kỳ nơi sào huyệt của bộ máy chiến tranh xâm lược, đánh cháy, chìm hàng trăm tàu giặc các loại trên sông Lòng Tàu, nơi bến cảng. Trung đoàn 10 đặc công lập được những chiến công làm nức lòng nhân dân Nam Bộ và quân dân cả nước, mãi mãi là nỗi kinh hoàng cho quân xâm lược và đồng bọn. Nhưng những chiến công ấy cũng phải trả giá bằng máu của bao anh chị em, cán bộ chiến sỹ ở khắp mọi miền của Tổ Quốc, họ chấp nhận hy sinh cho độc lập tự do và mãi mãi nằm lại trên mảnh đất sình lầy sông nước này, cho đến bây giờ vẫn còn hơn năm trăm hài cốt liệt sỹ chưa tìm thấy, đã trôi dạt ra biển cả hoặc làm mồi cho cá sấu, cua kình. Tất cả những điều đó đã thôi thúc tôi cầm bút ghi lại đôi dòng về cuộc sống chiến đấu của quân dân rừng Sác.
Hơn hai mươi năm qua có một vài bộ phim, quyển sách, bài báo viết về rừng Sác, nhưng sự thực cũng chưa nói hết được tất cả những gì cần phải nói về một chiến trường mênh mông sông nước quanh năm mặn đắng, vô cùng khó khăn khốc liệt mà người lính phải ngày ngày phơi mình dưới bom đạn, chịu sự chà xát của B52 rải thảm, của chất độc hoá học, về sự dũng cảm tuyệt vời, lòng yêu nước sắt son vô bờ bến của cán bộ chiến sỹ đặc công, của những ông cha, bà má, người chị, em gái nơi mảnh đất vùng ven thân thương này.
Qua tập hồi ký MỘT THỜI RỪNG SÁC , dù không phải là người cầm bút chuyên nghiệp, tôi chỉ xin được ghi lại đôi điều, một số kỷ niệm, sự việc, chiến công của đồng chí, đồng bào. Sức mình có hạn, chắc chắn không thể nào phản ánh được đầy đủ những chiến công, kỷ niệm  sâu sắc của đồng bào đồng chí rừng Sác, những mong anh chị em bè bạn bổ sung cho bản ANH HÙNG CA RỪNG SÁC thêm hoàn chỉnh, để cho các thế hệ mai sau lưu truyền và hình dung được phần nào về một thời cha anh đã đánh giặc. Là một người lính được hưởng cuộc sống và hoà bình, hạnh phúc từ sự hi sinh của đồng đội và nhân dân rừng Sác, tôi xin có mấy vần thơ để nói lên tình cảm của mình:
Bâng khuâng tấc dạ niềm thương nhớ
Lộng gió trên sông đẹp bóng cờ
Mãi mãi hiên ngang Rừng Sác đứng
Mỗi người ngã xuống một bài thơ
LÊ BÁ ƯỚC


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác
Gửi bởi: satthat trong 23 Tháng Bảy, 2008, 10:48:12 pm
CHIẾN KHU RỪNG SÁC
Địa bàn rừng Sác sình lầy, ngập mặn quanh năm, sông rạch chằng chịt từ sông Soài Rạp vắt ngang qua quốc lộ 15 ( nay là quốc lộ 51), từ Nhà Bè theo con sông Lòng Tàu chảy ra đến của biển Vũng Tàu, với diện tích hơn ngàn cây số vuông toàn là rừng đước, chà là, bần, mắm. Ngoài số ngư dân trong các ấp chiến lược bung ra bằng ghe xuồng làm ăn sinh sống với nghề hạ bạc theo dòng thuỷ triều lên xuống, hầu như không có sự sống của con người. Là một trận địa sát nách Sài Gòn- Gia Định về hướng đông nam, nơi cơ quan đầu não , sào huyệt của bộ máy chiến tranh xâm lược với con sông Lòng Tàu là cổ họng vận chuyển tiếp tế hậu cần cho hàng triệu quân Mỹ- ngụy, mà Đoàn 10 đặc công được Bộ chỉ huy Quân giải phóng miền Nam phân công làm nhiệm vụ thọc sâu áp sát, bám trụ bằng mọi giá chiến khu rừng Sác để tiến công liên tục vào kho tàng, bến cảng từ Cát Lở, Rạch Dừa đến Nhà Bè, Cát Lái, Thành Tuy Hạ, đánh sâu vào nôi đô. Khống chế ngăn chặn con sông chiến lược này, đương nhiên phải chấp nhận đương đầu với 5 tiểu khu quân sự: Gò Công, Long An, Gia Định, Biên Hoà, Phước Tuy và 2 Đặc khu Vũng Tàu, Nhà Bè. Chúng thường xuyên được sự chi viện đắc lực của lực lượng không quân dã chiến 3 Mỹ, sau là Quân đoàn II nguỵ kể cả các trận địa pháo lớn, pháo nòng dài của hạm đội 7 từ ngoài khơi bắn vào, sự phối thuộc của các lực lượng hải quân, các lữ đoàn lính thuỷ đánh bộ thiện chiến hành quân đánh phá. Một cuộc sống và chiến đấu của hàng ngàn chiến sỹ hoàn toàn trên mặt nước sình lầy, phải tự lưc mọi bề, người này ngã xuống, người khác tiếp tục tiến lên, chiến công nối tiếp chiến công làm vang động cả một vùng thời đánh Mỹ. Sau hai mươi năm giải phóng, các đoàn tham quan của lãnh đạo, báo chí, của lớp trẻ khi ngồi trên tàu chạy ngược dòng sông nước mênh mông, nghe kể lại những câu chuyện rừng Sác, anh em đã phải thốt lên một cách chân tình " Thật không hiểu nổi hồi đó các anh, các cô các chú Đoàn 10 sống như thế nào mà đánh thắng địch. Thật là anh hùng".


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác
Gửi bởi: satthat trong 24 Tháng Bảy, 2008, 08:34:49 pm
Tướng Oétmôlen đã viết trong bản tường trình người lính: “ Ở đây (rừng Sác) lính Mỹ đã phải trải qua những điều kiện gay go và khác thường mà chưa một người lính Mỹ nào đã phải trải qua. Vì binh lính Mỹ phải đi tuần tra hàng giờ trong nước nên các đại đội phải thay đổi thường xuyên, luân phiên nhau để tránh các bệnh ở chân và ở da, binh lính ngủ trên các đệm bơm không khí và đặc biệt trong lúc thuỷ triều lên cao, họ phải thức để khỏi bị ngập nước. Những cái sàn bằng gỗ cao hơn mặt nước thuỷ triều dùng làm bãi cho trực thăng đổ bộ, đây là một cuộc chiến đấu kỳ lạ trong một cuộc chiến tranh kỳ lạ…”. Nói về các lữ đoàn lính thủy đánh bộ, Oétmôlen đã viết:: “ Ba lính, thường mới chọn được một, những tên lính đã lừng danh trong những cuộc đổ bộ ở Thái Bình Dương và châu Âu trong chiến tranh thế giới thứ hai…”. Và một đoạn nói về Việt Cộng rừng Sác: “ Từ lâu tôi vẫn sợ Việt Cộng đánh chìm những chiếc tàu lớn dọc đoạn đường bốn mươi dặm của sông Sài Gòn nhằm chặn con đuờng thuỷ huyết mạch từ Sài Gòn ra biển. Con đường chính này, chảy qua một vùng rộng 50 dặm vuông gồm toàn đầm hồ, cây sú, cây vẹt và có hàng ngàn phụ lưu, một vùng gọi là rừng Sác, được coi là căn cứ lý tưởng cho Việt Cộng sử dụng đánh tàu bè…”.
   Sau tết Mậu Thân 1968, Mỹ tổ chức phản kích, tập trung lực lượng hải quân với hàng trăm tàu các loại lớn nhỏ từ bo bo, khinh tốc cho đến thập ác hạm tàu chở lữ đoàn 199 đổ quân tiến vào sông Ông Kèo, bao vây diệt Sở chỉ huy Đoàn 10 đóng cách Sài Gòn khoảng 15 cây số đường chim bay. Để đảm bảo an toàn, vào đem tối trước đó bắt đầu từ 19 giờ cho đến 7 giờ sáng tất cả sáu lượt “B” xanh- căng-dơ (B52 theo cách nói của dân Sài Gòn) từ đảo Guam đến rải thảm bom toạ độ dọc từ Ông Kèo xuống Tắc Chợ, Bà Bông đến Ba Voi thành vệt dài trên toàn bộ đội hình của trung đoàn. Thật khủng khiếp, trong nội đô rung rinh tiếng chấn động, cứ khoảng cách hai loạt bom B.52 vừa dứt thì chiếc máy bay hai thân OV10 ì ì trên bầu trời, mở máy phát kêu gọi liên hồi: “Tử thần, tử thần, cán binh Đoàn 10 hãy chiêu hồi, chiêu hồi” kèm theo tiếng đờn cò rên rỉ, tiếng trẻ nhỏ gọi “Ba ơi, Ba ơi”, tiếng vợ kêu thảm thiết “anh ơi, về đi anh ơi…”. Anh chị em đơn vị dưới này vẫn bình thường, vui vẻ coi như được nghe một đoạn hài kịch. Lê Bảy ngồi xem đồng hồ, hễ sắp đến loạt bom, dùng điện thoại thông báo cho tất cả toàn tuyến vào hầm trú ẩn đắp nổi khỏi mặt đất (vì không có chỗ nào cao ráo) sình lầy. Dứt đợt sóng xung kích, lại chui ra ngồi uống trà dưới ngọn đèn dầu leo lét coi như chẳng có chuyện gì xảy ra. Qua trận oanh kích này phía không quân Mỹ với 6 đợt B.52 chỉ làm hy sinh 2 chiến sỹ Ban quân y vì đi bắt cá để cải thiện, về hầm không kịp.



Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác
Gửi bởi: satthat trong 24 Tháng Bảy, 2008, 08:36:05 pm
Mờ sáng bắt đầu cuộc tiến công vào Ông Kèo, tưởng rằng theo lý thuyết quân sự Hoa Kỳ thì sau khi B.52 rải thảm chỉ cần cử sỹ quan tác chiến mang sổ tay vào ghi chiến tích, nhưng chúng đã lầm to, bị sự chống trả quyết liệt của Đoàn 10 từ trong khói lửa đạn bom vùng dậy. Sau 20 ngày bị vây đánh, đơn vị đã bắn cháy, chìm 40 tàu chiến các loại có chở bộ binh. Tên chuẩn tướng lữ trưởng lữ 199 bị gãy cột sống khi trực thăng hạ cánh trên chiếc tàu thập ác, hứng một loạt đạn B41 của đại đội 12, hàng trăm xác Mỹ chìm sâu xuống dòng sông Ông Kèo làm mồi cho cá sấu đã từng nổi tiếng từ lâu. Bắt đầu với tiền lệ này, cá sấu rừng Sác quen mùi thịt sống, hễ nghe tiếng sung nổ là lao vào tìm mồi. Cá sấu đã quật đuôi nhe hàm răng nhọn, nhai gọn hai Trung đội trưởng đặc công Nguyễn Nghĩa và Trần Khét, những cán bộ dũng cảm bơi lôi như rái cá, và người chỉ huy đơn vị phải ra lệnh cấm chiến sỹ lội qua đoạn sông này để bảo đảm an toàn.
   Rừng Sác một thảm đước xanh tồn tại hàng trăm năm qua với nhiều thân cây rễ chằng chịt, cao vút, tàn lá phủ xanh kín mặt sông đến nỗi hành quân ban ngày bằng ghe xuồng qua các tắc Chảng Hảng, Ông Thọ… phải đốt đuốc lên mới thấy đường. Nhưng sau những thất bại nặng nề trên sông Lòng Tàu, các bến cảng, địch phản kích điên cuồng dùng máy bay rải chất độc hoá học nặng liều xuống toàn bộ khu rừng, mà đài BBC lúc bấy giờ bình luận: “Mỹ sử dụng chất độc nồng độ cao để có thể đến 25 năm sau, cây rừng Sác mới hồi phục…”. Chỉ còn lại cây đứng nguyên hình rụng lá, anh em phải đắp hầm nổi, nguỵ trang bằng màu cây khô để trú ẩn, đến lúc cây mục ngã rụi xuống còn trơ mặt nước mênh mông, thì tìm những chòm cay mới mọc cao đến đâu, đưa công sự lên theo đến đó. Làm sạp trên mặt nước, ăn ở sinh hoạt. Không như sự tính toán của Mỹ, chỉ vài ba năm  thì cây đước đã hiên ngang trồi lên. Màu xanh lại tiếp tục che phủ cho bộ đội chớ không cần chờ đến một phần tử thế kỷ?.



Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác
Gửi bởi: satthat trong 25 Tháng Bảy, 2008, 08:59:48 pm
Bốn năm phản kích ác liệt từ 1969 đến 1972 địch hòng “trục xuất” lực lượng đặc công Việt Cộng ra khỏi rừng Sác. Với ưu thế máy bay, tàu chiến, trực thăng, đầm già quần đảo oanh kích suốt ngày đêm, hễ phát hiện ra vật gì nổi trên mặt nước, hoặc ban đêm có vệt trắng bọt nước dấu hiệu của xuồng ghe đi qua thì lập tức bắn phá suốt cả tiếng đồng hồ vào một khu vực. Anh em phải nhận chìm ghe cho qua cơn lửa đạn, lại lắc xuồng chèo đi tiếp. Trong mỗi cuộc càn có đến hàng trăm tàu hải quân đủ loại quần nhau khắp sông rạch làm mặt nước nổi bọt như cơm sôi. Đến năm 1970 toàn bộ phương tiện di chuyển của đơn vị bị phá huỷ, tất cả đều phải hành quân bộ trên sình lầy, gặp sông rạch thì bọc ny-lông vượt qua, cả dìu thương binh hàng chục cây số cũng chỉ bằng tấm ny-lông nóc dài hai mét năm, túm hai đầu với hai chiến sỹ bơi lội giỏi kéo về trạm xá cấp cứu. Đơn vị phát động một đợt thi đua bắn máy bay bay thấp, qua một tháng hạ 12 trực thăng, Ong ruồi (OV6) buộc chúng phải nâng tầm bay lục soát lên cao, nhưng ta vẫn phải chấp nhận thương vong hơn 30 đồng chí vì bị phản ứng nơi trận địa sình lầy không đường rút.
   Mỗi khi thuỷ triều lên, để đưa tàu vận tải quân sự hàng vạn tấn lù lù từ Vũng Tàu vào Nhà Bè, thì mờ sáng các loại tàu rà, tàu quét gầm rú ầm ĩ chạy cặp hai bên bờ sông nhằm cắt đứt tất cả dây điện thuỷ lôi của Việt Cộng. Đề phòng bị phục kích, đầm già, trực thăng rà sát yểm trợ cho tàu đổ bộ chốt quân án ngữ các nơi nguy hiểm, rồi pháo bắn dọn đường vào các nơi nghi vấn…ngày nào cũng như ngày nào “ bài ca án ngữ” này vẫn cứ thực hiện đầy tốn kém, thế mà tàu chiến, tàu vận tải vẫn bị chìm liên tục, làm đau đầu Lầu Năm Góc.
   Biết rằng Việt Cộng sẽ phải hành quân từ phía sau lên áp sát Sài Gòn tiến công vào Dinh Độc Lập, toà đại sứ Mỹ nên địch triển khai người nhái, biệt kích, các loại tàu sắt tắt máy thả trôi, ém trước ở các vàm tắc như Rạch Lá, Tắc Hông, Tắc Cò, Bà Bông… gây khó dễ cho anh em rừng Sác và cũng đã làm tổn thất khá nhiều về người, vũ khí. Tỷ lệ thương vong trong hành quân tác chiến thường cao gấp chục lần một trận đánh đặc công vào kho tang, bến cảng.
   Toàn bộ rừng ngập mặn, quanh năm không có nước ngọt ăn uống cũng là bài toán tính bằng xương máu. Anh em phải chèo ghe ban đêm luồn lách tránh biệt kích, máy bay, đột vào các ấp chiến lược Bà Bông, Bảy Giả, vào Cần Thạnh, Lý Nhơn… chở từng can, từng phuy nước giếng. Nếu gạo hết có thể nhịn được năm ba ngày, chớ nước thiếu thì thật gay go. Về sau, địch biết rõ, tiến hành phục kích án ngữ các miệng giếng, bờ ao. Nhiều dòng máu chiến sỹ đã đổ để đổi lấy thùng nước ngọt. Vào thời kỳ căng thăng nhứt không còn cách nào bám đất liền, đơn vị phát huy sáng kiến lấy thùng phuy nấu nước mặn chảy ra từng giọt như kiểu nấu rượu, cứ hai chiến sỹ nấu ngày đêm thì cũng đủ ăn uống cho một trung đội. Phải giữ khói, che lửa đối với máy bay quan sát từ xa, hoặc dùng nồi nhôm nấu cơm lật ngược nắp đậy, bỏ vào trong một cái dĩa nổi nấu nước mặn cũng có thể chống khát được qua ngày cho từng tiểu đội.
   Để bám trụ và đánh được giặc, theo chỉ tiêu trên giao, phải có đủ lương thực nuôi quân, trong lúc Nguyễn Văn Thiệu cứ gào thét “Tử hình, tử hình cho ai đem ra một ký gạo tiếp tế Việt Cộng”. Bọn bình định, phượng hoàng bám sát các cửa ấp, người dân ra rừng đem theo một gô cơm cũng bị làm khó dễ, xét hỏi găt gao. Nếu ở rừng giồng có thể đi đào củ chụp, củ mài, hái lá bép, rau tảu bay như trung đoàn Q4 có lúc nhờ vào rẫy chuối rừng hoang Hưng Nghĩa. Còn ở rừng Sác, duy nhứt chỉ có đọt cây chà là gai là ăn được, dưới sông nhiều tôm cua cá nhưng nấu ngót (toàn cá) không có gạo ăn chỉ ăn chống đói, cao lắm là hai ngày là “chảy re”. Bộ đội phải nhờ vào số bà con cơ sở chí cốt dũng cảm chấp nhận tù đày khi bị lộ, dùng ghe vận chuyển từ Cà Mau, Bến Tre, Châu Đốc… đưa về mỗi lần hàng chục tấn gạo khéo nguỵ trang bằng lá dừa nước đậy khẳm qua mắt địch, tìm con đường đi thuật lợi nhứt, cả bố trí lực lượng yểm trợ tác chiến từ xa. Nhiều lần hậu cần cấp trên rót tiền xuống chậm phải vận đông mượn vàng trong ấp mua gạo nuôi quân, phát động đơn vị thành phong trào “Thi đua bắt cua mua gạo”, được mấy ngày, có một du kích địa phương ra chiêu hồi khai với giặc, lập tức bọn tâm lý chiến chớp thời cơ cho trực thăng bay trên bầu trời phát loa inh ỏi “Hỡi các cán binh Đoàn 10, các bạn bị đói phải bắt cua đổi gạo, hãy ra chiêu hồi Quốc gia…”. Nhờ bám vào dân và khéo tổ chức tuyến hậu cần nên qua thời kỳ ác liệt nhứt chỉ phải ăn cháo đôi ba ngày, đơn vị hầu như chưa khi nào bị đói.
Là đơn vị thọc sâu, việc tiếp tế vật chất khí tài có nhiều khó khăn, phải vượt qua các tuyế án ngữ từ biên giới Campuchia về đến rừng Sác, với khẩu hiệu đề ra CÓ LỊNH LÀ ĐI, HOÀN CẢNH NÀO CŨNG ĐÁNH, ĐÃ ĐÁNH LÀ THẮNG, dù còn một khẩu sung, một viên đạn cũng tấn công. Trong phương thức tác chiến, đặc công xưởng có máy tiện, máy khoan trên sạp đước sình lầy, khi địch càn, phải dấu dưới sông. Thật vô cùng khó khăn, anh em đã khắc phục sáng tạo sản xuất các loại ĐH10, ĐH5…mỗi trái với 500 viên bi bằng những cây sắt phuy 5 chặt nhỏ xù xì mà Mỹ rất sợ, nguy hiểm hơn nhiều so với mìn clay-mo từ Hoa Kỳ đưa sang. Một hôm có tiểu đội Mỹ da đen hành quân hàng dọc theo con lạch tiến công Sở chỉ huy ta gần Bà Bông (Vũng Gấm) chỉ chấm điện 1 trái ĐH10 diệt gọn gần hết, mấy khẩu AR15 bỏ lại chiến trường bị gãy nát. Hết thuốc TNT, C4, tổ chức tìm bom đạn lép, cũng may chiến trường sình lầy hễ bom lép theo quán tính chúng đều trồi lên trên mặt đất, ta đem về cưa ra, lấy thuốc nổ sản xuất trái. Các loại kíp hẹn giờ M18 Chê-rô Tiệp, cả đồng hồ hẹn giờ Liên Xô hiện đại vẫn chưa bảo đảm đúng thời gian, làm mất an toàn. Người chỉ huy và kỹ sư mày mò, sản xuất thành công loại ngòi phèn chua hẹn giờ mà chiến sỹ đặc công thuỷ rất tin tưởng, không bao giờ xảy ra nguy hiểm khi đánh.


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác
Gửi bởi: satthat trong 25 Tháng Bảy, 2008, 09:01:14 pm
Mỗi khi ta đánh chìm một tàu, hay pháo kích vào nội đô theo quy luật, địch tập trung phản ứng càn quét ngay tức khắc, nên tất cả đơn vị lúc này phải nấu cơm ăn đêm trước trời sáng, tránh khói lửa, ém nồi niêu chén bát dưới bùn sâu chuẩn bị chống càn cho đến tối mịt.Khi máy bay mỏi cánh về căn cứ, pháo nóng nòng ngưng phần tử, tàu, bộ binh cụm lại và màn đêm buông xuống, anh em mới leo lên sạp, quần áo ướt sũng, dưới đèn dầu, kiểm tra lại chiến tích. Mỗi chiến sỹ đặc công khi xuất kích phải bơi lội dưới nước hàng hai chục cây số, chân không đụng đất, phải ém lại dưới hầm bí mật ngập nước ở các gò ô môi, gò bình bát xã Phú Hữu, Phước Long, chỉ nhờ duy nhất vào túi gạo rang, bình toong nước, bọc ny lông dán bằng dầu muỗi của Mỹ làm phao, cả thân chui vào chống lạnh chịu được từ ba đến năm ngày đêm mới rút về hậu cứ. Trong tay chỉ tự vệ bằng quả lựu đạn, cây dao găm, mấy miếng võ thuật sở trường, cổ đeo lủng lẳng chiếc ống thở để lặn sâu áp sát mục tiêu. Trong tác chiến, nếu có hy sinh là chuyện bình thường, nhưng anh em rất sợ bị thương phải để cho đồng đội mang vác, điều động về tuyến sau trên sông nước, mà cũng không an toàn vì địch đánh phá quyết liệt. Nơi sình lầy, sông nước mênh mông, đã có 4 bác sỹ quân y liên tiếp hy sinh trong mấy năm bám trụ (các BS Răng, Luân, Quang, Ba).
Qua mười năm bám trụ tại chiến khu rừng Sác, trong điều kiện vô cùng khó khăn ác liệt, Đoàn 10 đặc công đã đánh cháy và chìm hơn 500 tàu chiến các loại của hải quân Mỹ-nguỵ, nhận chìm, đánh cháy gần 200 tàu vận tải quân sự từ sáu ngàn đến vạn tấn trên sông Lòng Tàu và các bến cảng, bắn rớt hàng chục trực thăng. Đơn vị pháo đặc công, phóng đạn liên tục vào nơi sào huyệt ở nội đô Sài Gòn-Gia Định, tiêu diệt hơn ngàn tên địch đa số là lính kỹ thuật, phá huỷ 90 phần trăm kho bom thành Tuy Hạ năm 1972, thiêu huỹ hãng SHELL, kho xăng Nhà Bè thiệt hại 250 triệu lít năm 1973. Trung đoàn được tuyên dương anh hùng lực lượng vũ trang năm 1973, nhưng cũng phải chấp nhận hy sinh mất mát gần 800 cán bộ chiến sỹ, trong đó có gần 500 đồng chí chỉ còn tên trong danh sách, hài cốt bị chìm sâu dưới lòng sông hoặc trôi ra biển cả. Cho đến bây giờ, hơn hai mươi năm trong hoà bình, qua cuốn phim Bông hoa rừng Sác, một số bài báo và hình ảnh có ghi lại đôi điều, cũng chưa thể nào nói hết được những gian khổ, ác liệt và hy sinh tỏng cuộc chiến đấu trên mặt trận sông nước sình lầy của quân và dân rừng Sác anh hùng.
MỘT CHUYẾN GẠO
   
Tang tảng sáng, nước lớn ngập tràn rừng Sác mênh mông. Tiếng máy đuôi tôm, máy dầu rền vang trên sông nước xen lẫn tiếng gõ be xuồng đều đều của dân vây bắt cá đối ở xa xa.


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác
Gửi bởi: satthat trong 25 Tháng Bảy, 2008, 10:56:31 pm
Mặt trời vừa ló dạng, ánh nắng ban mai toả xuống trên những thảm rừng đước, chà là gai. Gió mát rượi miền duyên hải. Có tiếng nổ đều của chiếc máy kô-le quen thuộc từ xa vẳng lại. Biên- chiến sỹ trinh sát bảo vệ Sở chỉ huy ngồi hút thuốc rê trên sạp đước nói với trung đoàn trưởng Lê Bảy:
- Đúng là tiếng máy của ông già em, từ Quán Chim ra.
Tiểu đội trinh sát của Đoàn 10 đặc công này hầu như đã quen hơi tiếng của các loại ghe máy đi lại làm ăn trên sông Thị Vải, của ai, ở đâu tới, loại nào F5, F10 đến cônlintông… Hễ khi nghe tiếng máy lạ xuất hiện, lập tức họ phân công nhau nổ máy đuổi theo kiểm tra. Đã có vài lần họ tóm gọn lũ thám báo ác ôn từ các ấp chiến lược An Thị, Lý Nhơn…cải trang thành dân chài trà trộn đột nhập vào “lõm sông nước giải phóng ” này.
   Tiếng máy kô-le nhỏ dần, sau động tác nhấc bổng chân vịt, rụ máy ba lần làm ám hiệu, mũi ghe lường của ông Năm Mạt Cưa đã vào đến tận sạp ngủ của anh em cơ quan chỉ huy. Lê Bảy vui vẻ bước ra nắm dây mũi, cột ghe vào gốc mắm mà máy bay không tài ào thấy được.
-   Chào anh Năm, chị Năm. À, cả cô bé Cát nữa
-   Ờ chào chú Bảy, chú Tám. Chào anh em. Chào các cháu
Ông già nông dân da xạm nắng có nét mặt chất phác, mặc bộ bà ba trắng ngả màu cháo lòng, tay phải cầm chai rượu đế còn đọng bọt cườm trên cổ, tay trái xách bịch thuốc rê to tướng, vừa chào hỏi vừa bước lên rồi ngồi xếp bằng tròn ngay giữa sạp. Chị Năm gọn ghẽ trong chiếc quần lãnh đen, khăn rằn quấn cổ, dáng người nhỏ nhắn, lấy từ giỏ mây ra bọc kẹo đậu phộng, mấy gói Rubi, lạng thuốc rê và vài tập giấy quyển đưa cho Biên- con trai lớn- chiến sỹ ở đây. Còn cô bé Cát mới tuổi 12 đã là giao liên công khai thường mang thơ từ Phước Thái lên một tiệm may giữa chợ Long Thành, đó là trạm đầu cầu của hai nữ chiến sỹ nội tuyến Đoàn 1, Hai Điệp và Chín Tién.
Trên sạp cao cách mặt nước lớn chừng ba mươi phân, quây quần với tiểu đội vệ binh là một gia đình ngư dân chí cốt từ ấp chiến lược nghẹt thở ra, được gặp mặt anh em giải phóng, họ vui như chim sổ lồng.
- Bữa nay rảnh sao mà anh chị Năm ra sớm vậy? Lê Bảy mở đầu câu chuyện.
- Ờ, rảnh rang chi. Có lịnh chú Bảy tụi tui ra liền. Nè chú thấy không? Qua vịnh Cây Trường, đụng bọn cánh dơi biệt kích Long Thành xét ghe, còn hỏi: “Bộ đem rượu ra cho Việt Cộng rừng Sác hả?...”.
- Nhờ tôi lanh tay đem theo ốp nhang nói gạt là đi Bà Bông cúng cơm, qua mặt tụi ác ôn đó gọn hơ.- Chị Năm chen vô
- Mẹ Cát lấy mấy con cua luộc rồi ra nhậu ít ly với mấy chú chớ. Anh Năm nhắc vợ. Rượu vào lời ra, mặt hồng đỏ, họ kể chuyện dân, chuyện địch ngoài ấp, rồi chuyện chài lưới, thông báo tin chiến thắng đường 9 Nam Lào… Nước ròng xuống dần, Biên đã ba lần lùi ghe vì sợ mắc cạn, ông Năm vẫn tiếp tục:
- Uống nữa chú Bảy, không sao đâu, hễ còn nước trong lòng lạch là tui nổ máy chạy được thôi, lâu lâu mới gặp an hem. Thiệt tui không muốn về chút nào.
- Thôi anh em cứ vui tiếp đi. Nước sắp cạn rồi, mời anh Năm bước qua ta bàn chút việc riêng. Lê Bảy nói
Đoạn hai người bước qua sạp ngủ cách đó ba nhịp cầu chà là.
- Tôi biết chú Bảy nhắn ra là có việc cần, tôi sẵn sàng. Có chi chú cứ giao.
- Nói thiệt với anh Năm, gạo ăn cho toàn trung đoàn chỉ còn đôi ba ngày. Trên sông nước mặn này, địch lại bao vây chặt các cửa khẩu, phong toả ngặt nghèo, mỗi ngày vô vài ba chục lít, có khi lính ta bị đói mất . Kỳ này nhờ anh Năm xuất tướng nghen.
- Cái gì chớ công tác thì chú yên trí, cứ giao cho tôi.
Ông Năm chậm rãi hớp ngụm trà đậm, quấn điếu thuốc rê Bàu Hàm bằng ngón tay cái, bật ống quẹt zippo hít hơi dài, nét mặt vẫn bình thản.
- Bữa nay vào ấp anh đi ngay lên Cai Lậy, Mỹ Tho kiếm nhà anh Bảy Dừa Khô nói giùm một câu: “Đúng rằm tháng này lên gặp tôi đi cúng đình Phước Hoà”.
- Có nói thêm gạo thóc chi không?
- Anh chỉ nói gọn vậy là hoàn thành nhiệm vụ. Tuyệt đối không nói chi khác. Dặn ảnh bằng mọi giá không sai hẹn.Tôi mong lắm.
Lê Bảy chấm ngón tay vào chung trà vẽ lên mặt bàn chỉ đường đến Cai Lậy, đi xe ôm tới nhà cơ sở, hướng dẫn xử trí vài tình huống có thể xảy ra dọc đường, rồi họ chia tay nhau. Ông già nông dân không biết đến chữ nhứt, lúc nào cũng cặp nách gói thuốc rê, đã nhiều lần ra vô Sài Gòn với nhiệm vụ mật mà màng lưới công an mật vụ địch dày đặc không hề ngờ tới. Lần này nếu không có 20 tấn gạo đến kho thì toàn bộ chỉ tiêu tác chiến R giao, kể cả nhiệm vụ bám trụ rừng Sác của Đoàn 10 sẽ gặp nhiều khó khăn.
Ngày rằmg tháng 7 công 3 theo qui ước là ngày 18 hôm nay. Lật tờ lịch, Lê Bảy quay lại hỏi chủ nhiệm hậu cần Bảy Biên:
- Anh Bảy đã chuẩn bị người bốc gạo chưa? Định điều tào vào ụ nào?
- Báo cáo anh, sẽ huy động toàn bộ anh chị em hậu cần với quyết tâm và có khả năng giải phóng tàu trước nứoc ròng. Cho tàu vào kho 2 tăc Cây Mắm kín đáo hơn, tuy gần địch nhưng bất ngờ.
- Phải có 20 tấn gạo để chúng mình dóc hết toàn sức lên tuyến 1 bám kho bom Tuy Hạ, kho xăng Nhà Bè, cả các mục tieu như Bộ tư lịnh hải quân nguỵ. Bữa nay nếu cơ sở không đến kịp thì gay go lắm. Thuỷ triều hai ngày nữa là nghịch rồi, mất thời cơ cho đặc công thuỷ bám bàn đạp.
Quay sang tổ điện đài PRC25 do Vui, Hùng phụ trách, Lê Bảy chỉ thị thêm:
- Báo cho các chốt B41 ngã ba Đồng Tranh, Thiềng Liềng, Tắc Hông, Thạch An và trên sông Lòng Tàu, từ giờ cho đến lúc có lịnh mới bám sát tàu tuần tiễu địch, tuyệt đối không được nổ sung. Chờ khi có tín hiệu tàu cơ sở ta vượt qua thì bằng mọi giá phải đánh bật các loại tàu Mỹ- nguỵ ra, bảo vệ cho mục tiêu ta vận chuyển an toàn.
Không khí Sở chỉ huy căng thẳng. Mỗi người một việc đều tập trung theo dõi qua hệ thống điện đài để điều khiển tiếp đón chuyến tàu chở gạo, giống như một trận đánh trên sông Lòng Tàu.
Chiến sỹ thông tin Hùng thổi phù phù vào óng nói điện đài ba lần:
-   Đại bàng, đại bàng nghe rõ trả lời?
- Ngỗng trời xuất hiện đúng kế hoạch. Mặt lộ 15 yên tĩnh- Tiếng đáp đầu kia.
Sông rộng mênh mông. Bằng ống dòm, chốt tiền tiêu đã nhận dạng rõ một tàu vạn chuyển chở khẳm lừ, đang rẽ sóng lao từ cửa biển Vũng Tàu vào hướng sông Thị Vải. Đặc biệt mũi tàu cắm 2 lá cờ ba que mới nguyên, tung bay trước gió, trong lúc tàu hải quân Mỹ- nguỵ dăng dăng dập dìu qua lại, đồn bót tứ bề, trực thăng, đầm già rà qua đảo lại.
Chính uỷ Tám Lập vẻ mặt hiền từ, hội ý chớp nhoáng với trung đoàn trưởng.
 - Anh Bảy theo dõi ở căn cứ, để tôi lao xúông Bàn Thạch đón tàu, có gì xử trí tại chỗ cho chắn ăn.
Chiếc xuồng lường nổ máy rẽ sóng hoà vào tốp thuyển chài xuôi ngược trên sông mặc cho máy bay trinh sát địch trên trời vẫn dòm ngó.
Chiếc tàu mũi quớt cao, đóng đúng kiểu đồng bào di cư với cặp mắt sơn đỏ trông thật dữ dằn, chất lớp lớp ngang dọc toàn lá dừa nước dằn cẩn thận lên trên đống dừa tươi vài trăm trái nằm lăn lóc. Anh Bảy Dừa Khô đội nón nỉ đen, kiếng đen, mặc sơ mí trắng ngồi ngất nghểu trong buồng lái trên mui tàu, hướng thẳng mũi vào Quán Chim- Phước Thái như là đem lá dừa nước vào đổi củi chở về Bến Tre như mọi khi.


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác
Gửi bởi: satthat trong 26 Tháng Bảy, 2008, 11:15:17 am
Sau khi vượt qua 4 chốt B41 bí mật cảnh giới trên sông Thị Vải, đến vàm Phú Mỹ tàu giảm tốc độ dẫn quay mũi qua phải vào Tắc Trũng. Đi trước là chiếc ghe máy dầu nhỏ máy F5 chở đầy lưới, có ba người ngồi, thoạt nhìn tưởng là dân chài, nhìn kỹ thì ra Mười Chuột cán bộ cửa khẩu ngồi mũi. Ba Bạch Yến phó ban hậu cần cầm lái, Tư Khuê cặp khẩu AK ngồi giữa giống như tàu hải quân nguỵ dẫn đường cho tàu vận tải trên sông Lòng Tàu tiến vào cảng Sài Gòn.
   Quanh qua quanh lại 4 lần vào sâu trong hà lảng, tàu tắt máy từ từ cặp bờ êm ả, chui vào đoạn lạch khuất dưới lùm cây mắm đen. Lập tức hàng chục nam nữ chiến sỹ ào ra vui vẻ, thành thạo, nhanh nhẹn bóc dỡ lớp lá dừa nguỵ trang dày đến cả thước tây. Hai Dân chiến sỹ có cánh tay khoẻ nhứt nói vui với chủ ghe:
   - Chà, lúc rày Bến Tre lá hạ giá hay sao mà anh Bảy chở đầy quá vậy?
   - Vậy mà khi qua bót Bình Đại, thằng lính ác ôn đem chỉa xăm gặp sống lá chen khít khong xuống tới gạo. Chuyến này chở tới 12 tấn, tôi phải mua dừa tươi dằn thêm để qua mắt tụi nó, chớ chở lá sao lại khẳm lù. Anh Bảy Dừa Khô vui vẻ kể lại.
   Từng bao chỉ xanh 100 ký xếp đều, đầy ắp khoang. Các chiến sỹ bốc vác cứ hai người nâng một chuyển sang ghe nhỏ, đầy rồi nổ máy chở đi rất khẩn trương.Trong lúc tai mọi người vẫn nghe tiếng còi  ô tô trên lộ 15, thi thoảng một loạt sung máy nổ rền, bởi kho gạo không xa bót địch là bao, và cũng không có chỗ nào kín hơn nơi vùng ven ác liệt này.
   Bên kia rạch, dưới mái ny-lon của chốt cửa khẩu, Bảy Dừa Khô ngồi trên sạp, phấn khởi uống trà, báo cáo tường tận chuyến đi thắng lợi với ban chỉ huy Đoàn 10. Tuy địch phong toả nguồn tiếp tế quyết liệt, sử dụng cả biện pháp tù đầy thế mà 12 tấn gạo đến được với chiến khu ngập đày sông nước quanh năm mặn đắng trong vòng vây phong toả tứ bề, thật là vô cùng quí giá. Chở gạo cũng coi như ngang với thuốc nổ, bất chấp nguy hiểm tù tội, người dân yêu nước đã góp phần công lao không nhỏ cùng anh em tham gia dánh Mỹ. Đối diện với Bảy Dừa Khô là Lê Bảy, có thêm Bảy Biên, Sáu Sang tham mưu phó điểu khiển cuộc bảo vệ vừa về tới. Người chủ ghe kể rành rọt như thuộc lòng:
   - Xin báo cáo lại anh Bảy và các anh, được ông Năm Mạt Cưa báo tin, chuyển mật khẩu từ Mỹ Tho, tôi tốc liền xuống Bến Tre ghé ăn gạo ở nhà máy xay chị Tư như lần trước.
   - Thái độ chủ nhà máy thế nào? Lê Bảy cắt ngang- Anh Bảy nói rõ lại xem, nhứt là những người chung quanh có quan hệ
   - Theo tôi được biết, chồng chị Tư làm nghề dạy học nhà chỉ có máy xay xát nhỏ. Chị đặt mua lá dừa nguỵ trang giúp tôi. Với lại chắc chắn qua mấy lần ăn gạo, gia đình biết tôi chở cho anh em đàng mình, nên thái độ vui vẻ, kín đáo, giá cả phải chăng. Vác gạo xuống ghe toàn là con cháu họ cả.
   - Anh kể tiếp lúc vận chuyển dọc đường ra sao?
   Quay sang Sáu Sang, Lê Bảy dặn:
   - Anh Sáu điểm đường đi trên bản đồ để đối chiếu với lần trước nghen.
   - Dạ lần này gặp hải quân nguỵ một lần, nó cặp tàu đòi xét, tôi tắp luôn cho thằng chỉ huy trăm ngàn, nhưng nó lại bắt phải mua hai phuy dầu “tình nghĩa”. Qua bót Lý Nhơn như thường lệ, tôi cặp giấy bạc 500 vào giấy phép vận chuyển, nó đóng mộc cái cộp liền hà. Mà thiệt rủi, nó gởi 2 tên lính quá giang say mèm, mình lại phải lai rai với tụi nó hơn lít. Tính sẵn trong bụng, êm thì thôi, còn dở quẻ tôi và thằng nhỏ, hai cha con phân công rồi, đủ sức dứt luôn cho nó trôi sông. Bỏ đứt luôn con đường này. Anh quơ tay kể tiếp:
   - Chà lần này qua bót Đồng Hoà chi khu Quảng Xuyên (Cần Giờ) găng quá, gặp thằng thiếu uý mới đổi ác ôn quá cỡ, đòi tốc ghe lên nghi là chở gạo. Nó điểm huyệt mình trúng y, nói ghe chở gạo cho Việt Cộng chớ lá gì mà khẳm tới be gió. Tôi tưởng “măc cạn” rồi, phải mời đi uống cà phê đút nhẹ 20 ngàn vẫn không êm, sau nâng lên 50 ngàn qua tay một tên khác mới chịu nhận.
   Hớp qua ngụm nước anh kể tiếp:
   - Qua bót Bà Nghĩa thì lại ngon, tên xếp bót rủ tôi lên nhậu, tôi chuẩn bị sẵn cho y gói khô mực, nó ghé tai khoe nhỏ: Rượu này là toa rượu Bác Hồ bổ lắm. Tên này chắc có họ hàng gì đó tham gia cách mạng nên thái độ coi bộ dễ chịu . Nói chung đường đi nhiều khó khăn, cũng hồi hộp lắm. Tôi chuẩn bị con bài sẵn 200 ngàn đây, có gì đắp luôn vào miệng tụi nó. Với lại nguy hiểm gì thì nguy hiểm, chớ để anh em mình đói thì đâu có nỡ. Nhứt là ở cái xứ rừng Sác này không có một củ mì, củ chụp gì ráo như rừng giồng, chẳng có thứ gì ăn đỡ đói được.
   Lê Bảy suy nghĩ, lấy bút chì đỏ vẽ lên bản đồ đường đi tàu gạo rồi nhẹ nhàng kết luận:
   - Chuyến này anh Bảy làm ăn như vậy là khá, xử trí dọc đường trót lọt hết, nhưng phải tính tới cái bót Đông Hoà với tên thiếu uý mới, nó đã đánh hơi rồi đó. Tôi có ý kiến thế này, nước tới anh về chở chuyến lá dừa chất dừa tươi  như cũ thật khẳm. Không chở gạo, chịu lỗ một lần đi không, gặp tàu nguỵ thì liệng dừa tươi làm quen, hút dầu của nó, đút lót chút chút cũng được. Đặc biệt tên thiếu uý ác ôn , khích cho nó ra lịnh khui ghe, cứ neo đôi ngày không sao. Xong anh vuốt lưng cho thêm một mớ, mát ruột nó tin là anh buôn bán thật thà không phải Việt Cộng, để mua luôn khúc sống này, ráng tranh thủ anh em binh sỹ trong đồn.
   


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác
Gửi bởi: satthat trong 29 Tháng Bảy, 2008, 08:47:27 am
- Ờ, ờ anh nói phải. Chớ cái bót này nhất định mình còn phải đi qua dài dài khống có con đường nào né được. Bảy Dừa Khô chen vô
- Còn cái bót Bà Nghĩa hôm về, anh ghé tặng vợ xếp bót vài bao cám. Anh Ba Yến bảo bác sỹ Tư Tiến đưa theo lít rượu thuốc uống với anh ta, anh nói nhỏ: đây mới là toa thuốc Bác Hồ chính hiệu. Nếu anh ta hỏi ở đâu có thì anh trả lời sao cho trôi? Lê Bảy gợi mở
- Dễ thôi, tôi nói đi buôn qua vùng giải phóng, mấy ông Việt Cộng cho. Với lại xem qua cách anh này không chống đối ta, hoặc lính kiểng, hay ít nhất cũng có cảm tình với cách mạng chớ không ghét kháng chiến.
- Tính toán đường đi vậy thôi.Lê Bảy chuyển sang ý khác.- Các anh hậu cần đề ra nhiệm vụ tới đi
Trần Biên trưởng ban hậu cần ghi một dọc các món cần thiết, dặn thêm:
- Chuyến tới ngoài gạo, anh ráng chạy thêm 500 lố pin điện đài, có được pin PRC25 nhà binh thì hay hơn, như kỳ trước vậy, hai ngàn mét vải ny-lon, 500 đôi giày bắt cua cao cổ anh em rất cần để lội sinh tác chiến chống gai chà là, rễ đước và hai trăm ngàn thuốc tây. Nhứt là máu khô và nước biển cho thương binh. Kế hoạch này anh Bảy nhắm kham nổi không?
Bóp bóp trán suy nghĩ, chủ ghe trả lời:
- Chà khó nhứt là pin nhà binh và thuốc tây, phải chạy nhờ anh em sỹ quan nguỵ cảm tình giúp một tay, còn giấu trong gạo thì cũng vậy thôi, loại hàng quốc cấm thuộc nhà binh thì ở tù ngang như gạo. Nói chơi vậy chớ các anh yên trí, dễ gì phát hiện được ghe tôi, mình cũng phải trăm phương ngàn kế. Với lại lúc này mình đánh mạnh khắp chiến trường tinh thần tụi nó xuống dữ lắm, thuận lợi cho việc làm ăn nhiều của bà con.
Họ tiếp tục thêm chuyện thời sự, tình hình Mỹ-nguỵ thua to, lòng dân vùng bị chiếm đóng luôn hướng về cách mạng. Anh Bảy Dừa Khô sai con ra ghe xách vô hai con vịt quay ( của vợ vái cúng thiên địa, anh chị em khuất mày khuất mặt phù hộ cho chuyến đi an toàn) cùng can rượu nếp than bồi dưỡng anh em. Nhìn mức thuỷ triều xuống thấp, Lê Bảy gút lại:
- Chuyến gạo này trót lọt công nhờ anh Bảy khôn khéo, luồn lách giỏi, giữ đúng thời gian hợp đồng theo mật khẩu, anh Bảy về nói lại với gia đình thân thuộc: anh chị em quân giải phóng rừng Sác tụi tôi gởi lời thăm hỏi với lòng biết ơn. Nhớ nhắn giùm anh Sáu Ăn Chay, anh chị Tư Mập, ông già Ma-du, báo các ghe kia cũng sẵn sàng nhận thông tin tháng tới. Anh nhớ đóng cho được cái dấu tỉnh Phước Tuy để về Mỹ Tho khỏi bị làm khó dễ.
Họ bắt tay, ôm hôn nhau rồi cho ghe nổ máy rẽ sóng trong lúc trực thăng đầm già liên hồi soi mói trên đầu. Rừng đước thấm đậm màu xanh. Sông nước vẫn cứ mênh mông phẳng lặng dường như cũng vui lây với chiến sỹ đặc công rừng Sác, cùng với cơ sở chiến thắng sau trận đánh thầm lặng này. Đến bây giờ Lê Bảy cũng chưa biết rõ tên thật, nơi ở chính xác của những người con yêu nước đó. Những cái tên Bảy Dừa Khô, ông Ma-du, ông Sáu Ăn Chay chỉ là tên tự đặt ra để che giấu đề phòng bị lộ...họ chỉ cộng tác với nhau bằng niềm tin yêu của tấm lòng yêu nước, cùng nhau chống giặc ngoại xâm.


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác
Gửi bởi: satthat trong 29 Tháng Bảy, 2008, 08:50:45 am
SẤU DỮ RỪNG SÁC
Chiến khu Rừng Sác, một vùng đất ngập mặn, sông rạch chằng chịt. Thuỷ triều lên, chỉ nhìn thấy mênh mông sông nước hoà lẫn trong thảm đước xanh. Con sông Lòng Tàu uốn khúc nối liền Vũng Tàu đến thành phố Hồ Chí Minh, nơi đây là căn cứ của trung đoàn 10 đặc công bám trụ suốt thời kỳ đánh Mỹ ở hướng đông nam Sài Gòn – Gia Định, đơn vị lập được nhiều chiến công về nhận chìm tàu giặc đủ loại. Cán bộ chiến sỹ đặc công thuỷ luôn phải lặn hụp ngày đêm trong sông nước. Muốn đánh được một trận tại bến cảng thì chân phải không đạp đất, bơi lội hàng mấy chục cây số, phải chịu đựng ác liệt với tất cả các loại máy bay tàu chiến kể cả B52 rải thảm và các cỡ pháo nòng ngắn nòng dài. Chưa đủ, đơn vịi còn phải lo đối phó với một loài cá dữ không kém phần gay go nguy hiểm là cá sấu Rừng Sác.
Trong một lần hành quân bằng xuồng đến ngã ba Thiềng Liềng lúc ban đêm, một tổ chiến đấu đang vượt sông thì biệt kích Mỹ trên bờ bắn xối xả, anh em phải đạp xuồng lặn sâu thoát khỏi vòng vây của lưới lửa. Chiến sỹ Nguyễn Đức Chương bị một con cá sấu lao tới nhe hai hàm răng nhọn hoắt quặp vào bên vai phải dìm xuống sâu, với phản ứng tự nhiên, anh dùng tay trái còn lại sờ soạng với hết tầm tay gặp phải mắt nó, anh móc mạnh vào, có lẽ sấu bị nhột nên thả con mồi ra. Chương trồi lên mặt nước thở hơi dài lập tức lại bị nó lao đến lần hai gắp vào vai trái lôi đi. Anh hết sứ bình tĩnh nhớ đến cây dao găm, một kỷ vật của ông bố ở Nam Định trao cho khi bắt đầu vượt Trường Sơn vào Nam chiến đấu. Rút dao ra khỏi vỏ, dùng hết sức mạnh còn lại của bàn tay phải đâm một nhát vào mắt nó vọt máu tươi. Sấu đành nhả con mồi lặn mất. Anh cố sức bơi vào bờ trườn lên bãi nằm bất tỉnh. Ngay trong đêm khi ngớt tiếng súng, đồng đội tìm được anh, dùng chiếc xuồng chèo với thêm 3 dầm hoả tốc lướt nhanh về bệnh xá trung đoàn ở sông Thị Vải, mãi bốn tháng sau, Chương mới ra viện với nhiều vết sẹo do răng sấu kéo dài trên thân thể.
Trên sông Ông Kèo, Trung đội trưởng Khét, quê ở Long An cùng một chiến sỹ đang lội dưới nước kéo cá cải thiện cho đơn vị, một con sấu từ khúc quanh của vịnh hẳm đứng, lao tới quật đuôi ngang, gắp Khét đi chưa kịp kêu lên tiếng nào, chiến sỹ bảo vệ trên bờ chỉ còn biết bắn mấy loạt AK cảnh cáo theo dòng nước. Một tổn thất bất ngờ của đơn vị.
Cũng trên đoạn sông này trung đội trưởng Nghĩa, một chiến sỹ đặc công thuỷ bơi giỏi như rái cá, đã từng bị tàu quét mìn lôi vướng vào răng cào, vẫn tìm cách thoát ra còn cướp được khẩu AR15 giết 3 tên giặc phục ở ngã ba Đồng Tranh. Một hôm anh nhận được lệnh của trung đoàn mang bọc tiền và công văn hoả tốc vượt sông Lòng Tàu qua khu B, vì chiến trường chia cắt ác liệt, nếu đi bằng thuyền thì không qua nổi tàu tuần tiễu án ngữ dày đặc, đã có nhiều đồng đội thương vong, nên đơn vị quy định phải bơi sang để bảo đảm an toàn.
Như thường lệ, sau khi bắ tay đồng chí tiễn mình ra tận bờ sông, Nghĩa bình tĩnh, ung dung xuống nước thi hành nhiệm vụ, nhẹ nhàng bơi sải dài trên mặt sông, bỗng một con sấu không rõ lớn cỡ nào lao thẳng vào gắp ngang người, chỉ nghe tiếng quậy nước và rồi im lặng, anh đã mất hút trong đêm thanh vắng. Sau 3 ngày tìm kiếm chỉ vớt lên được sợi dây thắt lưng to còn nguyên vẹn gói bạc, tài liệu và chiếc bình toong, lại thêm một tổn thất đau lòng, đơn vị mát đi một anh hùng sông nước.
Trong một trận đánh tàu ở khu vực Độ Hoà trên sông lòng tàu, khi rút về bị máy bay truy kích quyết liệt nene lạc đội hình, một mình đại đội phó Lương Đình Mướt với cây chà là nhọn vác trên vai để sỏ mang con cá chép to tướng vừa bắt được. Đến bờ sông Đồng Tranh, nhìn bên kia là căn cứ của đại đội 5 của mình, anh từ từ xuống nước. Đặc công thuỷ mà lao vào sóng nước cũng như người đi dạo bước vào vườn hoa. Vừa ngập đến đầu gối thì một con cá sấu với cặp mắt đỏ lừ lao thẳng tới, hai hàm răng sắc nhọn quặp ngay vào đầu gối, tiện tay anh đâm thẳng vào mắt nó không rõ vì đau hay vì đã gắp được con cá chép tuột ra, nên hắn lặn mất. Nhưng Mướt bò lên bờ chân đau nhức, máu ra đầm đìa theo vết răng, vết thương sưng to phát sốt ngay và nằm mê man bất tỉnh giữa rừng chà là rậm rạp. Có lẽ hàm răng nó dơ dáy đầy chất độc, đã gây nhiễm trùng cho vết thương.
Ở đơn vị, anh em bủa ra đi tìm 2 ngày không thấy Mướt đâu và đã điện báo về trung đoàn chuẩn bị làm lễ truy điệu. Qua ngày thứ 3 dần dần tỉnh lại, nghe được tiếng chuống nhà thờ ngân vang hướng lộ 19 quận Nhơn Trạch, anh mừng rỡ biết mình còn sống. Không còn cách nào khác hơn, và cũng may có một chiếc bình tông cỡ lớn của tàu Mỹ bị đánh chìm trôi dạt vào bờ, anh nắm lấy làm phao hỗ trợ cho một chân tê, đau nhức, cũng phải rợn mình từ từ xuống nước lội đứng nhẹ nhàng vượt sông về đơn vị.
Một mình mang điện khẩn từ Sở chỉ huy lên tuyến tiền phương Ông Kèo, chiến sỹ vệ binh Mười Mót lái chiếc xuồng máy kô – le 4, ban đêm trà trộn với dân chài lưới vượt qua bót Vũng Gấm, khi vừa đến vàm Rạch Lá đụng ngay hoả lực tới tấp của biệt kích Nhà Bè mai phục, anh đạp ghe máy lặn xuốn nước mấy hơi qua khỏi vòng lưới lửa, thì con sấu từ đâu lao tới gắp ngay vào đùi, định tha chạy giỡn với con mồi cho đến khi tắt thở mới ăn thịt. Nhớ ngay đến kinh nghiệm Đức Chương đâm mắt cá sấu thoát nạn, nhưng anh lại không có dao găm, chỉ còn cây đèn nghéo (loại đèn pin nhà binh) dắt ngang thắt lưng, tiện tay rút ra đút thẳng vào miệng nó đang mở rộng. Có lẽ cá sấu vướng cổ tạm thời nhả mồi ra, Mướt vớ ngay được cành bần xoà mặt nước, níu lấy trườn lên bờ. Thế là sau hai tháng nằm viện điều trị, anh về còn rõ mấy vệt răng kéo dài bên đùi phải.
Trước tình hình phải đối phó với loại sấu hung dữ đã quen mùi thịt người này, anh em rất căm tức và ũng có phần ngán ngại, vì không biết chúng có mắt ở chỗ nào. Nhiệm vụ đặc công là phải lao xuống nước đi tìm tàu giặc nơi bến cảng, ban chỉ huy Đoàn phát động đợt thi đua đánh trả cá sấu.
Đại đội 14 mua ngay một con vịt bầu béo mượt, cặp hai bánh thuốc nổ gắn kíp liền với dây trên bờ vào bên đôi cánh, thả cho vịt lội bập bềnh trên mặt sông Ông Kèo. Đến nửa đêm, con sấu mò tới gắp ngay miếng mồi bơi đi, một tiếng nổ ấm, vang trong đêm đen, dòng máu loang ra, nó bị chìm sâu, luồng nước chảy xiết đã cuốn đi theo một thằng “giặc dữ”. Mãi về sau này dân phát hiện một cá sấu trôi dạt và tan rã ngoài sông xa.
Từng tổ phân nhau đi lục tìm những bầy sấu con nở trứng trong các hố bom đìa B52, vừa lớn khoảng cườm tay, chúng táp hỗn như chó cón. Anh em có sáng kiến cởi quần dài, quấn vào cánh tay quơ qua quơ lại ở hố bom, sấu con háu đá lao vào cắn, răng sữa nhọn dính ngay vào vải, bắt lên từng con một đem về kho nghệ. Tiếc là thịt của chúng còn nhão, ăn chưa ngon, nhưng cũng được bữa cải thiện.
Đã diệt thì phải diệt từ trong trứng, tìm ở các bãi sình lầy, có hôm đại đội 12 hốt gọn một ổ hơn 30 quả, hình dáng như hột vịt hơi tròn hơn và nhỏ hơn, khi nấu chín lòng trắng vẫn bầy nhầy không bao giờ đặc, ăn vào rất béo. Sau bữa tiệc nhậu trứng sấu với rượu đế, anh em dành lại 6 trứng tối đó tổ chức đột ấp chiến lược Quới Thạnh, đến gõ cửa từng nhà như ông Năm, bác Tám, chú Sáu… những gia đình cơ sở hậu cần của đơn vị, thân tặng món nhậu đặc sản. Ông Năm vui vẻ nói: “Tao sống ở đất Ông Kèo này cả đời vậy mà chưa thấy được trứng sấu, cám ơn mấy thằng con giải phóng…”.


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác
Gửi bởi: satthat trong 29 Tháng Bảy, 2008, 08:51:28 am
Một buổi sáng tinh sương, trung đội phó Hùng từ căn cứ vác khẩu súng AK đi tuần tra qua tắc Bào Thai dọc theo sông Ông Kèo, đề phòng biệt kích Nhà Bè vào quấy phá. Anh dừng lại vàm tắc Xay Lúa, nơi cách đây mấy tháng một tiểu đoàn biệt động quân nguỵ hành quân qua, một chú lính đi sau cùng níu cành cây thả chân quậy nước rửa sình, bất thình lình con sấu phục đâu sẵn và cũng có thể ngay vào nơi ở dưới bờ hẳm của nó, quật đuôi ngang một cái, chú lính văng xuống sông rồi mất hút. Và cách đó mấy trăm thước, một phụ nữ trong ấp chiến lược lộ 19 xuống bắt cua, lội ra tắm ban ngày, chỉ nghe một tiếng quẫy nước rồi mất xác. Hùng đang miên man suy nghĩ về con thú dữ này trên sông nước Ông Kèo, Rạch Lá, thì bỗng anh dừng lại khom mình nhìn vào gốc bụi chà là rậm rạp, sợ mắt mình mờ anh đưa tay áo dụi dụi mấy cái, nhìn kỹ lại là con cá sấu dài khoảng năm sáu mét, da mốc xù xì như khúc gỗ mục đang đói mồi nằm im phục kích. Không chần chừ, anh mở khoá an toàn, đưa đường ngắm lên, xiết nguyên băng đạn. Cá sấu từ từ lặn xuống mép rạch, đầu chìm sâu vẫn còn lại khúc đuôi. Không để cho nó thoát, Hùng buông súng lao tới hai tay nắm chặt, miệng cắn phụ, lần lưng rút chốt lựu đạn ném vào đầu đan ghìm sâu dưới nước, nhưng không nổ, không thấy sấu phản ứng (về sau mới biết xương sống nó bị trúng đạn), anh ném thêm quả thứ 2, bị kích động hai trái cùng nổ tung toé nước. Một tiếng rền vang, ầm cả khu rừng.
Đại đội trưởng Ngọc ở nhà nghe tiếng súng và lựu đạn tưởng là đụng biệt kích lập tức cho tổ trinh sát bám ra, thì thấy Hùng vẫn ghì chặt đuôi sấu, thêm chiếc lưỡi lê nhọn xuyên ngang tạo thế. Anh em vui mừng đưa ngay chiếc xuồng be nhứt ra, không làm sao dìu nổi sấu lên ghe. Sau phải nhận chìm đưa sấu nằm gọn vào rồi tát cạn nước chở về căn cứ. Cả đại đội tập trung dao, búa xẻ thịt, lột da treo đầy vách lá, cả trên giường ngủ. Riêng cái đầu phải hai người khiêng mới nổi. Trinh sát Đức Inh đem ra sông rạch cái bao tử xem có gì? Một heo rừng con vừa bị nuốt và còn cả một mớ tóc đen khi ăn thịt người chưa tiêu hết, quyệt cùng mớ lưới dây giăng cá. Anh em lấy ghe máy cắm cờ ba que nguỵ, công khai chở thịt đi phân phối đến các chốt tiền tiêu Rạch Tràm, Bà Bông, Tắc Trũng… cả trung đoàn được bữa ăn ngon. Thịt cá sấu già ăn dai và ngọt giống như thịt heo rừng, nhưng điều phấn khởi là đã đánh trúng được thằng giặc không tên này trả thù cho đồng đội.
Câu chuyện cá sấu Rừng Sác gắn liền với cuộc chiến đấu vô cùng anh dũng, trung đoàn đặc công anh hùng phải đối đầu với quân thù tàn bạo và cả cá sấu hung dữ, chấp nhận hy sinh tổn thất và mất mát để giành thắng lợi vẻ vang cho sự nghiệp.
Kết thúc một cuộc chiến tranh chống xâm lược, về phần những người lãnh đạo chỉ huy vẫn còn phải suy nghĩ vè đồng đội của mình đang còn mất tích hài cốt chưa lo trọn vẹn. Và cũng phải chấp nhận những tổn thất, mất mát chìm sâu dưới lòng sông, trôi ra biển cả. Chẳng những ở chiến khu Rừng Sác này và cả trên các trận đại núi rừng khác của khắp chiến trường. Người ta không thể nào đếm số lượng nấm mồ, hoặc túi ny lông người chết ở nghĩa trang để đối chiếu cân bằng với sổ sách quân lực khi điểm số lúc hành quân khởi đầu cuộc chiến.
Ngày 25 tháng 9 năm 1992, đại tá phó chỉ huy trưởng Tỉnh đội Đồng Nai, nguyên là trung đoàn trưởng Đoàn 10 trong một dịp tiếp xúc với 4 sỹ quan quân lực Hoa Kỳ phái đoàn MIA tại khách sạn Đồng Nai, theo yêu cầu của đoàn, muốn tìm tin tức về hài cốt của 2 lính Mỹ mất tích tại chiến trường Rừng Sác. Sau khi xác định ở hai toạ độ thuộc Bình Khánh và Tắc Hông. Vị đại tá đã nhin nhận đơn vị đặc công đã đánh chìm 2 tàu tuần tiễn, trong đó có 2 anh bạn Goot – giơ và Veo – rơ – vơ, cả 2 người này đều tử trận, không phải mất tích, và cuối cùng đã chìm sâu dưới lòng sông, hoàn toàn không còn hài cốt. Ông cựu trung đoàn trưởng này cũng đã phát biểu thêm với các thành viên đoàn MIA.
- Chúng ta rất đau lòng về những hài cốt chưa tìm thấy. Lương tâm và trách nhiệm của người quân nhân, phía chúng tôi cũng rất ray rứt là đơn vị bám trụ 9 năm ở Rừng Sác hồi chiến tranh chấp nhận hy sinh hơn 800 người, và cho đến nay chỉ mới tìm đưa về nghĩa trang được hơn một phần ba. Còn về phía các ông, là người chỉ huy chiến trường tôi biết rất rõ rằng trên mấy trăm tàu chiến bị đánh cháy và chìm mà các đơn vị tham chiến bị tổn thất, thì ít nhất cũng mấy trăm người thiệt mạng nơi Rừng Sác. Sự mất mát đó, tôi tin là các ông chỉ có đủ tên trong sổ sách, còn thực trạng thì là người lính chiến, chúng ta hiểu rằng ở đặc điểm chiến trường mênh mông sông nước này, nhiều sinh mạng sau khi tử trận đã phải làm mồi cho cá sấu hoặc trôi ra biển cả, không thể nào tìm được. Nếu nói con số hơn 2000 mà phía các ông đang tìm, thì tôi xin phép được đề nghị phái đoàn nên báo cáo lại với ông Bush (đương là Tổng thống Hoa Kỳ) nên trừ bớt đi, con số có thể là trên dưới 500 của riêng chiến trường này mà tôi đã đảm trách 10 năm, trước ngày hoà bình lập lại.
Việc cá sấu quen ăn thịt người, cũng như cọp ba móng miền Đông thời kỳ đánh Pháp, chúng là loại thú dữ không hề biết ai là bạn, ai là thù. Anh em chiến sỹ đặc công Rừng Sác đã lập được chiến công trong việc diệt cá sấu để bảo vệ mình, ít nhất cũng đã ghi lại đôi điều kỷ niệm với lịch sử câu chuyện về cá sấu, mà sau này có thể sẽ không bao giờ còn hoàn cảnh cụ thể nào lập lại những sự kiện đau lòng này.


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác
Gửi bởi: satthat trong 29 Tháng Bảy, 2008, 08:53:43 am
TÌM GIỌT MÁU RƠI
Chiếc xe honda từ ngoài ngõ chạy vào, chở hai người khách lạ mặc sắc phục công an. Sau khi dừng xe, họ bước vào nhà, lễ độ hỏi chào:
- Xin lỗi, cho chúng tôi hỏi thăm, đây có phải là nhà anh Bảy Rừng Sác?
Nhìn thái độ, Lê Bảy cũng đoán biết là người từ xa mới đến và có lẽ muốn tìm hiểu việc gì đó có liên quan đến cái tên mà anh em trìu mến đặt cho mình, với tay rót tách nước mời khách, Lê Bảy mời:
- Mời hai đồng chí ngồi uống nước, rồi có gì anh em ta trao đổi. Tôi là Bảy Rừng Sác đây.
Sau một tuần nước, một ông khách mở đầu câu chuyện:
- Thưa anh, tôi từ Hà Nội vào, gốc quê ở xã Tây Tiến, Tiền Hải, Thái Bình. Nguyên gia đình tôi có hai anh em, anh tôi đi vào Nam chiến đấu ở lực lượng đặc công, ở nhà nhận được báo tử là đã hy sinh thời kỳ đánh Mỹ tại chiến khu Rừng Sác. Nhưng có một điều ray rứt là mẹ tôi từ lâu nay ở dưới quê, vợ chồng tôi mời mãi về Hà Nội chung sống để dễ bề phụng dưỡng, mà cụ không chịu, bảo tôi làm sao tìm được hài cốt anh tôi về chôn cất nơi quê nhà thì mới chịu đi. Tôi nghe các anh cán bộ Đoàn 10 xuất ngũ kể lại là phải vào đây tìm anh Bảy Rừng Sác thì có thể biết được. Nay được gặp, xin đề nghị anh vui lòng giúp đỡ cho. Tôi tên Nguyễn Đức Vượng, thiếu ta công an đang công tác ở một cơ quan - Bộ Nội Vụ.
Lê Bảy chăm chú nghe, bỗng ganh dừng lại hỏi:
- Có phải liệt sỹ Nguyễn Đức Inh không, nhìn cái miệng anh nói tôi đã thấy ngờ ngợ giống Đức Inh như đúc.
Thế rồi không kềm được lòng mình, người chỉ huy già thấy nóng lên từ khoé mắt, nước mắt từ đâu trào ra, anh cúi đầu không nói được làm cả ba người đều sụt sùi thương cảm. Những hình ảnh thân thương sống dậy thật đậm nét. Cách đây đã lâu, hơn hai mươi năm, từ một chiến sỹ vượt Trường Sơn về, bổ sung trong đội hình chiến đấu của Đoàn 10, Đức Inh là xạ thủ bắn tỉa rất giỏi, người lính đặc công thuỷ bơi lội như rái, lại khoẻ mạnh nên được chọn làm lính bảo vệ Sở chỉ huy. Rồi trưởng thành lên cán bộ Trung đội, Inh luôn sát cánh cùng trung đoàn trưởng Lê Bảy suốt thời kỳ bám trụ ác liệt nhất.
Những kỷ niệm một thời gian khổ, gắn bó cùng Đức Inh hiện lên rõ rệt như in trong đầu, Lê Bảy chậm rãi kể lại, Đức Vượng đứa em trai duy nhất của Inh ngồi nghe, liên tục dùng khăn tay chấm nước mắt chảy quanh, Đức Vượng nhỏ nhẹ hỏi thêm:
- Thưa anh, thế anh Inh của em hy sinh trong trường hợp nào. Hài cốt hiện nay có còn không?...
- Cuối năm 1974, trong một trận tổ chức bao vây đồn Vũng Gấm dọc lộ 19 xã Phước An, huyện Nhơn Trạch, lúc này Inh phụ trách Trung đội trưởng chỉ huy tác chiến. Với khẩu súng bắn tỉa trong tay, hàng ngày bám sát đồn giặc, Inh đã làm cho quân thù hoảng sợ không dám ló đầu ra hàng chục ngày liền. Vào một buổi sáng như thường lệ, Đức Inh ra bám chốt, do một động tác sơ xuất kỹ thuật nhỏ, anh đi lạc một bước chân, vấp phải dây mìn địch gài từ lâu. Một tiếng nổ tung người lên, Đức Inh đã hy sinh. Anh em đem về chôn cất ở Gò Cát Bà Bông, sau ngày giải phóng bộ phận tìm kiếm hài cốt trung đoàn đã bốc cốt đưa về nghĩa trang liệt sỹ huyện Long Thành nằm chung với đồng đội.
- Thế bây giờ gia đình muốn xin đưa hài cốt về quê, có được không ạ?
Lê Bảy suy nghĩ, một câu hỏi khó giải đáp. Một đàng là gia đình còn bà mẹ già ngày đêm tha thiết mong tìm cho được hài cốt đứa con liệt sỹ yêu thương của mình, đưa về gần gũi để an ủi tuổi già đang như ngọn đèn leo lét trước gió, một đàng theo chủ trương của ngành Thương binh xã hội từ lâu nay không cho ai bốc mộ liệt sỹ di dời chỗ khác. Vì rằng liệt sỹ là điều thiêng liêng của cả dân tộc, phải giữ gìn khi đã đưa vào nghĩa trang. Lê Bảy trả lời:
- Việc này khó thật, nhưng giải quyết thế nào để tôi còn hỏi lại địa phương và bàn với anh em trung đoàn 10, rồi sẽ gặp lại các anh trong sáng chủ nhật này.
Họ lưu luyến tiễn nhau.
Sáng nay ở văn phòng Ban chỉ huy trung đoàn 10, đóng quân cặ thoe xa lộ Biên Hoà thuộc Thủ Đức thành phố Hồ Chí Minh có cuộc họp thân mật, trung đoàn Trưởng đương nhiệm Nguyễn Hồng Thế (anh hùng quân đội) người còn sống trong 8 dũng sỹ đánh kho xăng Nhà Bè cùng khoảng 10 sỹ quan dưới quyền còn trẻ măng, cùng tham gia có Lê Bảy người chỉ huy năm xưa, Tư Văn cán bộ đồng cấp với Đức Inh, giờ là Hiệu trưởng trường Công an Thủ Đức, thêm ông chú ruột Đức Inh, cán bộ nghỉ hưu ở Sông Bé, Đức Vượng em trai của liệt sỹ. Họ quây quần xung quanh ấm trà, bàn bạc câu chuyện thân tình về liệt sỹ Nguyễn Đức Inh. Lê Bảy tóm tắt ý kiến chung:
- Thể theo nguyện vọng của bà mẹ, chúng ta đã có liên hệ với các cơ quan chức năng địa phương theo quy định lẽ ra không được di chuyển hài cốt liệt sỹ, nhưng xét về mắt khác cũng phải thấy rằng một bà mẹ đã mang nặng đẻ đau, sinh ra đứa con, nuôi cho đến khôn lớn trưởng thành và động viên con đi chiến đấu. Giờ này đã anh dũng hy sinh không còn được trở về như những người khác, thì hài cốt này với người mẹ là điều thiêng liêng, chúng ta không thể để cho bà mẹ cứ mỏi mòn trông đợi. Những năm tháng cuối đời của bà cần được yên ổn. Theo ý kiến các đồng chí đề xuất thì chúng ta tổ chức đi “lấy cắp hài cốt” đem về cho mẹ. Nói đúng ra, có vi phạm đến quy định chung, nhưng chúng ta làm được phần chính với lương tâm, đạo nghĩa và trách nhiệm với mẹ.


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác
Gửi bởi: satthat trong 29 Tháng Bảy, 2008, 08:54:23 am
Anh em vui vẻ chuẩn bị lên đường, coi như “vào trận” thời xưa. Bốn chiếc honda chở 7 người, ăn mặc quân phục tề chỉnh, đầy đủ nghi lễ do Hồng Thế chỉ huy, còn giành chỗ trống phía sau cho hài cốt liệt sỹ.
Ở căn cứ trung đoàn, Lê Bảy và anh em xem lại các cuốn băng ghi hình truyền thống đơn vị nhân ngày kỷ niệm 22 tháng 12 hàng năm ở Nhà Bè, ai cũng nhấp nhổm chờ đợi, không biết có việc gì xảy ra mà đã quá nửa đêm chưa thấy trở về. Lê Bảy nói vui:
- Anh Thế này chỉ huy trận đánh bốc lửa kho xăng Nhà Bè thì hoàn thành xuất sắc, không khéo trận đánh “đặc công” trong hoà bình này lại thua.
Mãi đến một giờ sáng mới nghe tiếng honda rền vang. Mọi người hồi hộp chờ đón, thấy Cộng – phó chỉ huy chính trị khệ nệ bưng chiếc tiểu vào đặt nghiêm chỉnh giữa bàn đã chuẩn bị sẵn đèn nhang toả khói hương trầm nghi ngút. Tấm vải đỏ được phủ lên. Một không khí trang nghiêm ắng lặng đầy xúc cảm. Không ai bảo ai, dường như mọi người đều thấy hình bóng Đức Inh người bạn chiến đấu hiện về với nụ cười đôn hậu đáng mến, nét mặt sắc lạnh khi đang cầm khẩu B41 ngắm vào tàu giặc trong những trận chống càn khốc liệt. Mọi người sụt sùi ứa lệ. Ông chú già run run, tay thắp nén hương đầu tiên, tiếp đến Đức Vượng và Lê Bảy cầm nhang khấn vái:
- Đồng chí Đức Inh yêu thương, chúng tôi làm việc này biết là có lỗi với quy định hiện hành, nhưng không thể nào khác hơn được vì tình cảm yêu thương quý mến đối với mẹ già, hàng chục năm qua bà vẫn ngày đêm mong đợi hài cốt của con trai và mong muốn đưa con mình về mảnh đất quê cha đất tổ gần gũi, ấm cúng trong tình thân của xóm làng. Chắc chắn đồng chí cũng vui lòng…
Một tháng sau, Đức Vượng lại trờ vào gặp Lê Bảy tại nhà riêng:
- Trước tiên, mẹ em kính lời cám ơn anh và các anh trong đơn vị. Ngày đưa hài cốt về quê vừa đến ga Nam Định, nhờ có điện trước nên cơ quan cho xe đón và chở thẳng về quê. Thật là mừng rỡ không thể tả được, xóm làng cờ trống, họ hàng chen chúc, đốt hương và đèn nến, đón anh Inh em về an nghỉ nơi nghĩa trang liệt sỹ của địa phương. Mẹ em thì thật là mãn nguyện. Nhưng còn điều này, mẹ bảo vào thưa thêm với anh…
- Có gì chú cứ trình bày, nếu trong khả năng của mình làm được, thì sẽ hết sức cố gắng, đó là trách nhiệm phải làm đối với mẹ và Đức Inh.
- Mẹ em nghe nói lại có một lần anh Inh bị kỷ luật không rõ là việc gì sai sót trong chiến đấu hay như thế nào? Và nghe đâu có để lại một giọt máu rơi trong miền Nam, bà cụ cứ băn khoăn thương tiếc mãi. Nếu đúng như vậy đề nghị các anh giúp tìm để cụ được yên tâm.
Lê Bảy nhìn lên trần nhà, gõ gõ trán suy nghĩ, ôn lại trong đầu những ký ức xa xưa thời chiến ở Rừng Sác, xem có còn dấu vết gì không. Anh hẹn với Đức Vượng một tuần sau gặp lại để có thời gian tìm hỏi chu đáo.
Sự thật thì vào thời kỳ sau Mậu Thân 68, địch phản kích liên tục, chiến trường trở nên vô cùng ác liệt. Bị bao vây phong toả tứ bề, sự tiếp tế hỗ trợ chỉ còn dựa vào các gia đình cơ sở làm nghề cá tôm chài lưới từ trong các ấp chiến lược, nhất là Phước Thái. Hàng ngày, dân công khai ra mò cua bắt ốc đưa lương thực tiếp tế, trong số này có gia đình ông Chín Bi, một xã đội phó hồi 9 năm thường xuyên ra vào móc nối với cách mạng, do vậy trong một đám hát cúng đình làng, lính nguỵ tổ chức ném lựu đạn ám hại ông. Gia đình có mấy cô con gái và cậu con trai vẫn tiếp tục làm nhiệm vụ theo đường cha đã đi cho đến ngày giải phóng hoàn toàn.
Trong cặp bài trùng này, cô Nương là chị, cô Nga là em thường hay lủi ghe vào Sở chỉ huy báo cáo tình hình, tiếp tế hậu cần cho trung đoàn. Người được phân công móc nối với 2 cô là Đức Inh và Hùng chiến sỹ thông tin khá “bô” trai. Hai chiến sỹ rất vất vả ngày đêm chờ đợi, tiếp đón làm nhiệm vụ được giao, đặc biệt trong mối quan hệ giúp đỡ cơ sở làm ăn, tạo điều kiện sinh sống. Đêm đêm họ phải lặn hụp sình lầy, chài tôm đăng cá, chịu đựng muỗi mòng, luồn lách trực thăng soi đèn bắn phá, hoặc tàu thuyền hải quân phục kích, tìm mọi cách để có con cua, con cá làm bằng chứng qua mắt địch đem về ấp, bán lấ tiền nuôi gia đình và mua gạo cho bộ đội.
Tình quân dân cá nước mặn nồng ngày càng trở nên thâm tình như anh em một nhà. Nhưng ngoài nhiệm vụ chiến đấu và công tác ra, họ vẫn còn nhịp đập của bốn trái tim ở lứa tuổi đôi mươi, gần gũi yêu thương, gắn bó với niềm mơ ước tốt đẹp về hạnh phúc tương lai trong tình thương của gia đình đối với hai thằng con miền Bắc xa xôi lặn lội vào Nam chiến đấu thiếu thốn bàn tay ấm áp của mẹ cha. Lính Hùng yêu Nga tha thiết, đôi trai gái này thật xứng đôi vừa lứa. Đến sau 30 tháng 4 năm 1975 chiến sỹ Hùng quê tận Gia Lâm Hà Nội được xuất ngũ về với Nga ấm cúng trong túp lều tranh tại xã Phước Thái, tham gia công tác địa phương làm nghề chài lưới nuôi con.
Riêng Đức Inh và Nương hoàn cảnh thật éo le, làm anh chị lo vun đắp cho hai em, họ cũng đã tính đến hạnh phúc của mình. Nhưng vào những ngày sóng gió lửa đạn cuối năm1974, trong một bức thư gửi ra ấp chiến lược cho Nương, mà mẹ của Nương, bà Chín Bi còn giấu dưới đít bàn thời hai chục năm qua, có đoạn ghi tuy nhoè chữ, vẫn còn đọc rõ: “Anh vẫn còn phải chiến đấu ngoài này, đã nhận được đôi quần đùi của em may gởi ra. Anh dặn em ráng giữ gìn thai nhi, nếu sau này sinh con trai thì đặt tên Tuấn, con gái tên Hồng theo họ Nguyễn Đức của Anh. Còn việc kỷ luật của anh, em yên tâm, chỉ vì tụi mình chưa chính thức báo cáo với tổ chức kịp thời , chớ về gia đình thì đã rõ tình cảm của đôi ta và nhất trí chờ đến ngày độc lập. Nhưng “chuyện ấy” xảy ra ngoài dự định nên anh phải gánh chịu phần cảnh cáo, điều đó em đừng lo ngại anh sẽ lập công nhiều hơn nữa để chuộc lại…”.
Phải chăng bức thư đó là lời trăn trối cuối cùng. Mấy tháng sau trong trận bao vây đồn Vũng Gấm, Đức Inh mãi mãi nằm xuống, còn Nương sinh một cháu gái. Theo lời dặn xưa, chị đặt tên con là Hồng. Ai có hỏi thì chị trả lời tự nhiên là con anh bộ đội Rừng Sác chưa về. Thời gian bé Hồng khôn lớn cắp sách đến trường, học hết lớp 9 vẫn mang nỗi niềm là con không cha vì chưa chưa chính thức cưới hỏi, chấp nhận thoe pháp lý nên nhức nhối là mẹ con Nương chưa được hưởng chính sách gia đình liệt sỹ như mọi người. Có đôi lần, Nương âm thầm dắt con qua thăm mộ Đức Inh ở Vũng Gấm lúc chưa bốc về nghĩa trang.
Thế rồi với cuộc đời còn quá trẻ, cô phải đi bước nữa, Nương dọn nhà về Xuyên Mộc với người chồng mới tiếp tục hạ sinh thêm 3 đứa con. Gia đình yên ấm vì anh chồng này cũng mến thương bé Hồng coi như con mình. Hàng ngày anh đi biển câu mực, con gái lớn ở nhà với mẹ, chăm sóc đàn em lo việc vá may. Thế là họ đành an phận qua ngày tháng cho quên đi quá khứ một thời.
Nghe Lê Bảy kể lại chuyện mẹ ruột liệt sỹ Đức Inh cho người em trai của Inh từ miền Bắc vào tìm giọt máu rơi – là cháu nội của mình, bà Chín Bi, một bà mẹ miền Nam giàu độ lượng, ngồi gạt nước mắt, không chút băn khoăn oán trách mà vui vẻ lên xe đò xuống Xuyên Mộc bàn bạc với con gái đón cháu Hồng về gặp mặt Đức Vượng tại ngôi nhà riêng của Đại tá Lê Bảy. Đứa cháu gái khá xinh xắn, mơn mởn với cái tuổi 17 hôn nhiên vô tư, liến thoắng ngồi bên ông chú trò chuyện. Nhìn hai cái miệng chú cháu của họ thật y khuôn với nụ cười của Đức Inh. Có lẽ do dòng máu thiêng liêng nên họ dễ dàng gắn bó tình thâm ngay khi mới gặp nhau.
Sau đó bà ngoại Chín Bi nén lòng, lau nước mắt dặn dò cháu ngoại: “Về ngoài Bắc ráng động viên an ủi bà nội thay cho bố đã hy sinh và nhớ lâu lâu, gởi thơ vô hoặc có điều kiện trở lại thăm quê ngoại trong này”.
Hai chú cháu dắt tay nhau lên xe. Mọi người thân xung quanh chi tay họ với tâm tư lẫn lộn niềm vui của cảnh hội ngộ và nỗi thương cảm xót xa cho một mối tình chung thuỷ bị trắc trở do lửa đạn chiến tranh.


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác
Gửi bởi: satthat trong 29 Tháng Bảy, 2008, 08:56:08 am
CHÂN DUNG NỮ LIỆT SỸ
Bộ ghế đá đặt cạnh bờ ao, trên lưng dựa một băng dài có khắ sâu mấy vần thơ:
Bâng khuâng tấc dạ niềm thương nhớ
Lộng gió trên sông đẹp bóng cờ
Mãi mãi hiên ngang Rừng Sác đứng,
Mỗi người ngã xuống, một bài thơ.
Bé Hùng Việt lên 7 tuổi ngồi đánh vần ê a từng chữ, rồi ngước mặt hỏi mẹ là bác sỹ Kim Hương:
- Mẹ à, ông ngoại, bà ngoại, bố mẹ cùng đi bộ đội đánh giặc, sao chỉ có mình bà ngoại được là liệt sỹ, mà bố và ông ngoại không được làm liệt sỹ?
Câu hỏi ngộ nghĩnh của trẻ thơ làm cả nhà đều cười. Ông ngoại chậm rãi giải thích cho cháu:
- Bà ngoại con đi đánh giặc ngoại xâm, đã anh dũng hi sinh ngoài chiến trường nên mới được truy tặng là liệt sỹ.
Bé lại liến thoắng hỏi: “Anh dũng hy sinh là thế nào, ngoại kể chuyện đặc công Rừng Sác đi ngoại…”
Những hình ảnh của một thời chiến tranh ác liệt như hiện rõ mồn một trước mắt anh Lê Bảy, nay đã có cháu ngoại.
Trong những ngày đầu năm 1965, sau khi dựng lên sự kiện Ma - đốc ở vịnh Bắc Bộ, giặc Mỹ cho máy bay ném bom vào thành phố Nam Định bắt đầu mở rộng chiến tranh bằng không quân ra miền Bắc hậu phương. Và ở miền Nam, chiến lược “chiến tranh đặc biệt” bị phá sản, quân xâm lược Hoa kỳ chuyển thành chiến tranh cục bộ quy mô bằng sức mạnh của một siêu cường. Cả nước sôi lên, hừng hực khí thế chống xâm lược. Hai miền Nam - Bắc đều hành quân ra trận.
Trên đồi cọ của đất Vĩnh Phú, nơi sơ tán một bộ phận của bệnh viện Việt – Xô, ông Hoàng Minh Chấp, một đ ảng viên của Nam Kỳ khởi nghĩa 1940 ngồi dặn dò hai cháu:
- Tao giờ già rồi, gần cả cuộc đời hai lần bị nhốt xà lim Côn Đảo, giờ không làm gì được, chỉ ngày Bắc đêm Nam. Hai đứa bây còn trẻ, nếu được phân công đi B góp sức cùng miền Nam đánh Mỹ thì cứ lên đường, để con Hương, thằng Hùng lại, tao và bà mày nuôi dạy. Dù sao tao vẫn phải làm tròn bổn phận một chiến sỹ c ộng s ản già.
Đại uý Lê Bảy và vợ là chuẩn uý Nguyễn Kim Mến, quân y sỹ mới ra trường dắt hai xe đạp xuống đồi, ra ga Chí Chủ để trở về Hà Nội. Bé Hương vừa lên 4, bé Hùng được 2 tuổi ngồi trên vỉa hè vẫy tay dặn mẹ: “Tết, ba má về với tụi con nhé”.
Suốt mấy tháng trường mang vác nặng tập hành quân từ Hoà Bình đến Thanh Hoá, với ba lô gạch đầu tiên chỉ 10 viên, nâng dần trọng lượng lên đến 25 rồi 30 và sau cùng thay vào đầy đủ trang thiết bị, tăng võng, ny lông, lương thực súng đạn để rồi đoàn người âm thầm lặng lẽ trên đường Nam tiến vượt Trường Sơn theo tiếng gọi của non sông. Khi vượt qua ngọn đồi cao 1001 mét gặp bạn bè ngược chiều, Lê Bảy chỉ kịp ghi vội mấy dòng qua bao thuốc lá gửi ra miền Bắc: “Nếu em có vượt Trường Sơn nên cắt ngắn mái tóc dài đến tận gót đi sẽ khỏi bận bịu trên đường đầy gai góc. Hẹn sẽ lại gặp nhau…” Vì anh còn nhớ rõ trong buổi chia tay lần cuối cùng ở ga Hàng Cỏ để lên đường về Nam, Kim Mến đã ứa lệ qua vai, nói khẽ một câu đầy quyết tâm: “Em cũng sẽ sắp xếp 2 con gởi lại miền Bắc, theo gót anh vượt Trường Sơn vì mình là đứa con của miền Nam tập kết…”
Năm 1967 Lê Bảy đang cùng anh em trung đoàn đặc công bám trụ chiến trương Rừng Sác thì được điện anh Năm, nhắn phòng cán bộ: “R quyết định bổ sung về Đoàn 10 quân y sỹ Kim Mến, đang trên đường giao liên xuống vùng ven…”.
Nhiều đêm chờ đợi khó ngủ, một buổi sáng mờ sương, Hoàng một mắt, chiến sỹ giao liên trạm Bà Bông, Phước An cắt rừng từ Phước Thọ đưa xuống tận căn cứ Rạch Tràm một phụ nữ vai mang ba lô con cóc, mặc bộ bà ba đen, tóc ngắn ngang vai, đúng là tân binh C mới bóc tem nói theo ngôn ngữ chiến trường, từ hậu phương lớn chi viện vào, và R tăng cường về chiến khu rừng ngập mặn này. Đó chính là Nguyễn Kim Mến, người đã từ chối quyết định cử đi đại học lấy bằng bác sỹ với lý do đơn giản: “Tôi tự nguyện về Nam chiến đấu, sẽ đi học sau cũng được”. Nước mắt lưng tròng mừng rỡ không phải vì được găp mặt lại người chồng thương yêu mà còn vì thương nhớ hai đứa con thơ đang ở cách xa vạn dặm gửi lại ông bà cùng tập kết, còn ở lại miền Bắc.
Vừa đến đơn vị, đang còn nước da mét vàng do sốt rét trong những ngày Trường Sơn, ngay hôm sau chị Mến đã đề nghị được mổ cho chiến sỹ Chu Văn Khí bị một đầu đạn ép tay xuyên cổ, còn cộm dưới da, vừa trở về đơn vị sau 25 ngày đêm đói khát vì bị thương, lạc đội hình trong trận đánh trên sông Lòng Tàu, toàn thân suy kiệt mình đầy thương tích, chỉ còn cặp mắt sáng, sống cầm hơi bằng đọt chà là và con vọp sống. Do điều kiện thiếu thốn của chiến trường, chỉ với lưỡi dao lam, chai thuốc đỏ, chị đã bạo tay rạch da cổ, gắp viên đạn ra, rửa sạch đưa cho Khí làm kỷ niệm.


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác
Gửi bởi: satthat trong 29 Tháng Bảy, 2008, 08:56:42 am
Và từ thành tích bé nhỏ ban đầu này, người nữ quân y đã nhanh chóng hoà nhịp cùng đội hình trung đoàn đặc công, lặn lội khắp nơi, từ tiền phương Ông Kèo đến tuyến sau Thị Vải. Những đêm thức trắng kéo cá nuôi thương binh, đột vào ấp chiến lược rut gạo nuôi quân, đội bom đạn phản kích ác liệt năm Mậu Thân 1968. Sáu lần trong đêm bị B52 cầy xới, chị và quản lý Ba Hùng một xuồng vượt khói lửa về Sở chỉ huy tại Tắc Chợ, báo cáo tình hình.
Nơi nào có mặt chị Tư Mến là nơi đó có niềm vui an ủi động viên chiến sỹ từ vết thương sấu cắn, đến nồi cháo cá thòi lòi… Chị đã cùng hoà hơi thở, nhuộm màu da đen nước mặn với chiến sỹ Rừng Sác anh hùng, vẫy vùng lập chiến công.
Trong những ngày ác liệt năm 1969, chị lại sinh thêm một cháu trai sau 15 ngày đã phải gởi vào ấp chiến lược cho một cơ sở là ông Bảy đóng ghe trong Phước Thái rồi chỉ 3 tháng sau, chị Tư Mến hy sinh.
Hôm đó tại căn cứ quân y ở Tắc Kỳ Quang trên bờ sông Thị Vải, chiếc trực thăng OH6 (thường gọi là Ong Ruồi) rà qua rà lại phát hiện dấu vết lạ, nó ném xuống mặt sình lầy 2 quả pháo màu xanh, đỏ chỉ điểm rồi vút bay đi. Đại đội phó Tư Mến liền báo cho đơn vị:
- Các chú thương binh mau chóng thoát ra khỏi khu vực này ngay.
- Chị Tư chạy trước đi “cá lẹp” tới giờ. - Một thương binh nói.
- Yên trí! Chị thu dọn dụng cụ một chút, sẽ đi ngay.
Chưa đầy 3 phút sau, từng cặp trực thăng phóng pháo thân dẹp lao tới. Hàng loạt hoả tiễn 90 ly tuôn xuống như mưa, cả khu căn cứ xác xơ, hầm hố tan tành khét lẹt mùi lá xanh quện với sình lầy cùng thuốc súng. Chị Tư Mến nằm úp mặt sóng soài, với một chân gẫy nát, bên vai vẫn còn nặng trĩu túi cứu thương, chiếc khăn rằn quấn cổ, chiếc ba lô cá nhân rách nát tung toé. Vẫn còn nhận được hình dáng từng mảnh của ba chiếc áo gối nhiều màu sắc với đường kim mũi chỉ thêu khá đẹp, văng dính lên đọt chà là, cành cây đước. Anh Lê Bảy nhớ lại cách đây vài tháng có lẽ là lần gặp nhau cuối cùng ở căn cứ hậu cần, vào một đêm nước lớn ngập rừng, trăng soi qua kẽ lá, nằm gối tay nhau trên sạp đước chị đã tâm tình bên vai anh: “Em còn ít vải trắng và chỉ mua từ Hà Nội, đã thêu cho 3 con 3 mặt áo gối khá đep. Tuy chiến tranh còn ác liệt nhưng chúng mình tin tưởng ngày thắng lợi sẽ gặp lại vì đã đặt tên con là Lê Toàn Thắng, phải không anh…”.
Từ lòng chảo Nhơn Trạch một đêm se lạnh của mùa gió bấc, Lê Bảy nhận được tin sét đánh ấy. Không dằn được lòng mình, anh Bảy đã chui xuống hầm địa đạo trước ánh sáng ngọn đèn cầy khóc âm thầm, ôn lại hình ảnh người vợ thân yêu đã không còn nữa. Đọc lại dòng chữ nguệch ngoạc của chính trị viên phó Hùng, gởi đến: “Em đã chôn cất chị tử tế dưới gốc chà là, chỉ còn duy nhất chiếc nhẫn kỷ vật gởi lại. Mong anh bớt đau buồn…”.
Một tổn thương quặn đau chưa nguôi, thì 5 ngày sau một tin buồn khác lại đến: “Chính trị phó quân y Hùng đã anh dũng hy sinh trong chiến đấu chống càn, để bảo vệ thương binh tại Tắc Kỳ Quang...”.
Bốn tháng sau đó, có quyết định của R. gọi đồng chí quân y sỹ Nguyễn Kim Mến đi học bổ túc bác sỹ. Sự thực cái gì phải đến thì nó đã đến, người phụ nữ miền Nam tập kết ra Bắc, rồi vượt Trường Sơn về Nam, là người vợ thuỷ chung, người mẹ hiền rất đỗi nhớ thương 3 đứa con của mình hơn ai hết đã lao ra trận với niềm tin chiến thắng, và hôm nay đã trở thành liệt sỹ Rừng Sác. Cùng trong trận đánh này, có bác sỹ Tư Quang và y tá Phương Linh, đã ngã xuống để bảo vệ thương bệnh binh.
Anh Lê Bảy lúc này là trung đoàn trưởng, trong nỗi đau riêng cùng với mất mát chung của đơn vị, anh tạm quên đi, cùng anh em lao vào chiến đấu ngày đêm không nghỉ. Từ khu A lội sông Lòng Tàu qua khu B, chỉ huy tác chiến và đơn vị liên tiếp vang dậy những chiến công nhận chìm tàu giặc nơi bến cảng Rạch Dừa, Cát Lái, Nhà Bè. Đốt cháy nhiều kho xăng, nổ tung nhiều kho đạn, hết chiến công này đến chiến công khác có lẽ anh Bảy cũng làm vui lòng người vợ thân thương và bao đồng chí đang vĩnh viễn nằm sâu dưới sông nước, sình lầy.


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác
Gửi bởi: satthat trong 29 Tháng Bảy, 2008, 08:58:09 am
CÂU CHUYỆN MỘT GIA ĐÌNH

Một đêm ba mươi trời tối đen như mực, lâu lâu một tiếng súng nổ lạc lõng từ bót phân, chi khu trên cầu Quán Chim. Cả ấp chiến lược chìm sâu trong giấc ngủ đầy nỗi lo âu trong bộ máy kềm kẹp và hàng rào kẽm gai của Mỹ - nguỵ, bỗng một phát pháo sáng loé lên từ hướng chi khu Long Thành. Trong ánh lửa chập chờn, nhận rõ hai chiếc ghe chèo đang nép mình bên bụi đước vàm Phước Thái. Tuyết Vân, người lính hậu cần nhanh tay bế cháu bé Lê Toàn Thắng vừa mới sinh được 15 ngày mà đã hai lần phải tắm mình dưới sông nước mặn tránh phi pháo, đặt vào chiếc thúng giữa ghe đậy lại bằng tấm lưới đăng. Ngồi trước mũi là người mẹ Nguyễn Kim Mến, đại đội phó quân y Đoàn 10, đầu đội khăn rằn tay cầm dầm ngoảnh lại nhìn đứa con trai đang yên giấc nằm gọn trong thúng sau lần cho bú cuối cùng. Đại đội trưởng trinh sát Phạm Kế Tiếp hai tay cầm chèo đang khom người sau lái là chồng của Tuyết Vân hôm nay cùng tổ trinh sát đưa đứa bé vào ấp chiến lược gởi cho ông Bảy đóng ghe, một cơ sở chí cốt của đặc côn Rừng Sác, nhà nằm sát mép nước bến Hồ Nam. Không còn cách nào khác hơn, bởi nơi chiến trường sông nước này sau tấn công Mậu Thân 68, địch tập trung phản kích ác liệt cả ngày lẫn đêm, hầu như không lúc nào ngớt tiếng gầm rú của động cơ máy bay, tàu chiến, bom đạn. Không còn một căn cứ nào an toàn, cả đơn vị phải lo dốc sức đối phó.
Lê Bảy kề tai dặn nhỏ Tám Tiếp:
- Chú Tám giúp anh cùng chị đưa cháu vào gởi trong ấp, mọi việc đã bàn với ông Bảy. Chờ nước lớn, lách qua tắc tránh Vịnh Cây Trường địch thường hay phục kích, coi chừng cháu khóc lộ đường đi.
Vẫn nét mặt vui tươi bình thản của anh lính trinh sát như khi bước vào trận chiến, Tám Tiếp nói vui:
- Anh Bảy yên chí, em bảo đảm cùng chị lo an toàn cho thằng “Việt C ộng con” này, đột nhập gài sâu ém sẵn vào lòng địch, chờ ngày nổ súng…
Mái chèo nhẹ nhàng lướt đi để lại phía sau từng vệt ánh sao lấp lánh trên mặt nước, trông vui mắt. Họ mất hút vào đêm đen sau đó vài phút.
Thế rồi ba tháng sau, thằng bé cứ lớn lên như thổi. Một sáng lành lạnh gió đông, ông nội nuôi sai cô Bảy Lợi theo ghe lưới đem ra rừng chiếc ảnh màu mới chụp với đôi mắt tròn xoe bụ bẫm ngồi dựa lưng vào ghế mây. Các cô chú Giải Phóng chuyền tay nhau xem gần khắp cả, Ban Hậu cần đóng quân bên bờ sông Thị Vải trầm trồ thèm khát được một lần hôn lên đôi má thằng bé thơm sữa đang sống trong vòng tay của gia đình cơ sở.
Lúc này Kim Mến đang lo chăm sóc thương bệnh binh ở trạm xá tại tắc Kỳ Quang, chỉ cách xa căn cứ vài trăm mét thì một chiếc trực thăng Ong Ruồi loại OV6 rà sát đọt cây phát hiện căn cứ, nện ngay hai quả pháo màu chỉ điểm. Biết là tình huống nguy hiểm sẽ xảy ra, chị liền điều động sơ tán hết thương binh ra xa. Lập tức từng cặp cá lẹp trực thăng phóng pháo lao tới… Oàng đùng… Oàng đùng… hoả tiễn 90 ly nổ tung, mịt mù khói lửa. Người nữ quân y sỹ trúng đạn nằm sóng soài trên mặt sình lầy khét lẹt thuốc súng. Một chân chị gãy lìa, dập nát, trên vai vẫn còn mang nặng túi cứu thương với khăn rằn quấn cổ. Chiếc ba lô tung toé, áo quần bay dính lên ngọn mắm, vẫn còn nhận rõ mấy mặt áo gối với đường kim mũi chỉ thật khéo tay mà chị đã tranh thủ may thêu với niềm hy vọng ngày về trao tặng ba đứa con thơ. Chị quê ở tận huyện Gò Quao, tỉnh Rạch Giá, tập kết ra Bắc rồi vượt Truờng Sơn về Nam năm 1967. Từ R được chị Ba Định – Phó Tư lịnh Quân Giải phóng Miền, ký quyết định điều về phục vụ tại trung đoàn 10 đặc công. Chị hy sinh đúng ngày 20 tháng 01 năm 1970 trong lúc tấm hình đứa con trai yêu quý vừa mới lọt lòng đã phải xa mẹ, chưa đến được tay chị. Đứa bé cũng chẳng bao giờ được nhìn thấy mặt mẹ từ đây…
Thuỷ triều cứ ngày hai buổi xuống, lên. Địch vẫn tăng cường chà xát quyết liệt hòng trục lực lượng “đặc công nguy hiểm” ra khỏi địa bàn. Nhưng tàu vận tải quân sự trên sông Lòng Tàu vẫn chìm tại bến cảng, kho xăng bốc lửa, kho đạn nổ tung… người này ngã xuống người khác tiếp tục lao lên phía trước… Hơn một năm sau đúng vào ngày 19 tháng 5, đại đội 12 hành quân tác chiến bằng xuồng lên tuyến Phú Hữu khi qua ngang Rạch Lá – Ông Kèo đụng địch phục kích án ngữ. Hai bên nổ súng dữ dội mấy phút, người đại đội trưởng Tám Tiếp trúng đạn ngã xuống dòng rạch cùng với mấy chiến sỹ bị thương trong tiếng pháo đạn chát chúa, tiếng máy bay tiếp viện vang động một vùng. Anh là con đồng chí bí thư Chi bộ xã Mỹ Lộc, huyện Cái Ngang, tỉnh Vĩnh Long. Người bí thư đã lãnh đạo khởi nghĩa 1940, bị Pháp bắt đi tù Côn Đảo khi Tám Tiếp vừa mới sinh được ba ngày, phải nằm với mẹ ngoài chuồng trâu, sau nhờ ông cậu nuôi dưỡng, đưa đi tập kết năm 54 cùng vượt Trường Sơn với Lê Bảy nay lại tiếp tục ra đi. Trong lúc này thì Tuyết Vân ở trạm xá đang chuyển bụng và một thằng bé trai ra đời đúng vào cái ngày mà cha nó hy sinh. Lê Bảy nhận được báo cáo, nổ máy đuôi tôm chạy xuôi xuống Bàn Thạch nơi đơn vị quân y đang đóng cùng với quân y sỹ Hai Diệp yên lặng đứng nhìn người mẹ đang mệt mỏi nằm thiêm thiếp chờ đợi chồng về để cùng đặt tên cho con. Anh em bàn với nhau đừng vội đưa tin dữ này đến sản phụ, đợi một ngày nào thuận lợi hơn.


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác
Gửi bởi: satthat trong 29 Tháng Bảy, 2008, 08:58:59 am
Vài năm sau, cái gì đến rồi nó cũng đi qua theo thời gian. Trong hai cặp vợ chồng cùng là đồng đội, đồng chí ở Rừng Sác đã gãy mất một cành để lại mỗi bên 3 đứa con. Đứa thì cha hy sinh và đứa thì mẹ là liệt sỹ. Họ tìm gặp nhau trong cùng cảnh ngộ, xác định cùng nhau gánh vác trách nhiệm thay người đã mất khi hết chiến tranh, tuy trong lửa đạn ác liệt tình yêu của đôi trái tim còn lại vẫn nảy nở cùng nhịp đập và sau một bữa cơm thân mật trước mặt mươi anh chị em đơn vị trên chiếc sạp đước nơi Rừng Sác, anh em vui vẻ đọc lên vần thơ kháng chiến trở thành ca dao: “Thủ trưởng nhìn em thủ trưởng cười. Em xin đồng ý thủ trưởng ơi…” một sự lắp ghép mới vào mái ấm của tình thương trong chiến tranh. Đơn giản mà sâu nặng nghĩa tình.
Sau khi giải phóng miền Nam, Lê Bảy thường nói vui: “Thằng Mỹ rút quân còn mình thì phải đi gom quân…” Anh bay ra Hà Nội đón hai đứa con cùng Kim Mến. Xuống Quán Chim, qua Cần Giuộc vào Sài Gòn… tìm gom tất cả 6 con liệt sỹ mà ba của chung từng gởi cơ sở gia đình nuôi khi còn chiến tranh về chung sống trong một tổ ấm bao gồm ba phe, hai phái có con của anh, con của em và con của chúng ta. Tuyết Vân là một thương binh tự nguyện sớm phục viên ở nhà chăm lo gánh vác mọi bề nội trợ để cho chồng mình cùng với con gái, con rể, con trai tự nguyện tham gia trong quân ngũ ra biên giới phía Tây Nam thoe yêu cầu của Tổ Quốc. Chỉ bằng đồng lương sỹ quan cùng khoản trợ cấp chính sách khiêm tốn thời kỳ bao cấp, lại được anh em bạn bè hỗ trợ, còn chủ yếu là chăn nuôi, hai vợ chồng cố gắng xoay xở nuôi dưỡng bầy con 9 đứa khôn lớn dần với thời gian, được học hành chu đáo, tạo công ăn việc làm và dựng vợ gả chồng, cháu nội cháu ngoại nối nhau ra đời… Một ngày 27 tháng 7, Tuyết Vân ra dự lễ ngoài phường về đưa cho chồng hai chiếc bánh bao “Đây là tiêu chuẩn thêm cho hai liệt sỹ, mà mình giờ đến ba đứa cháu nhỏ hơi khó chia”.
17 năm sau giải phóng Lê Bảy mới tìm được liên lạc với bên nội gia đình ruột Tám Tiếp vì hoàn cảnh ly tán thất lạc của chiến tranh, bà nội 86 tuổi vẫn còn sống tỉnh táo, một sự trùng hợp khá lý thú là cứ hàng năm vào ngày 12 tháng 2 âm lịch thì phía cầu Ông Thìn, Long An bà ngoại ra nghĩa trang cúng cơm ông ngoại liệt sỹ đánh Pháp, còn ở cầu Chà Và, bà nội làm mâm cơm giỗ ông nội hy sinh nằm ngoài Côn Đảo, hai người chết khác năm lại cùng ngày cùng tháng, thế mà hai bà xuôi gia chỉ cách nhau vài mươi cây số mấy chục năm qua nay mới mừng mừng tủi tủi gặp lại nhau. Đón bà nội lên nhà nhân ngày giỗ Tám Tiếp, bà ôm đầu Lê Bảy kề má nhăn nheo qua nước mắt chỉ nói được một câu:
- Giờ con thay thằng Tám của má, con là con ruột của má...
Cậu Sáu, nguyên là cán bộ Quốc gia Tự vệ cuộc thời 45 nay 76 tuổi đã nuôi dạy Tám Tiếp lúc nhỏ, chậm rãi phát biểu mấy câu đầy ý nghĩa:
- Cậu mới đến nhà 2 cháu lần đầu, xin có 3 nhận xét. Một là, là người chỉ huy mà cháu thuỷ chung lập bàn thờ hơn 800 chiến hữu của mình điều này rất quý. Hai là, nhìn lên bằng Tổ quốc Ghi Công của Tám Tiếp thấy nhiều bụi màng nhện đóng, chứng tỏ tuy chưa tìm được bên nội mà hai cháu vẫn cho con thờ cúng từ lâu nay. Ba là, tên họ mấy đứa nhỏ trong khai sanh lấy hai họ Lê Phạm ghép lại để nhớ gốc gia tộc, cậu xin cám ơn và hoan nghênh hai cháu, đứa cháu dâu và cháu dượng...
Cả nhà vui mừng cảm động khi thấy được bằng Bà mẹ Việt Nam Anh Hùng Trần Thị Bích, tiêu chuẩn của 3 liệt sỹ, chồng hy sinh ngoài Côn Đảo năm 1942, người con thứ tư tập kết về bị Mỹ bắn tại Tây Ninh năm 1970 và Tám Tiếp con trai út ra đi năm 1972 tại Rừng Sác. Trong sự mất mát đau thương đó, con cháu vẫn thấy được niềm vinh hạnh lớn lao. Sau này, vợ chồng Lê Bảy và các con thường xuyên đến thăm nom bà nội ở Sài Gòn.
Một hôm từ Kiên Giang phía bên ngoại chỉ còn duy nhất cậu Chín Lộc du kích xã Vĩnh Hoà Hưng bị Mỹ bắt trong chiến đấu làm tù binh trại Phú Quốc sau được trao trả ở Thạch Hãn, khi ra miền Bắc, cậu hỏi thăm khắp nơi hi vọng tìm thấy người chị thứ Tư đi tập kết, nhưng anh có biết đâu Kim Mến đã cùng đồng đội vượt Trường Sơn về Nam và đã anh dũng hy sinh tại Rừng Sác. Cậu Chín bùi ngùi lặng lẽ và rất đỗi tự hào, lấy từ trong cặp ra trình cùng con cháu trong gia tộc bằng Bà Mẹ Việt Nam Anh Hùng, bà Nguyễn Thị Nhiễm là bà ngoại của 4 liệt sỹ, người anh thứ 2, chị Tư Mến, người anh thứ năm và đứa em trai út. Riêng người anh thứ hai, huyện uỷ viên bị giặc mổ bụng thả trôi sông Cái Đước, Giồng Riềng không còn xác.
Vậy là trên bàn thờ gia đình Lê Bảy, dưới chân dung Bác Hồ lồng kính có viết hai chữ nho sơn vàng “TRUNG, HIẾU” làm nội dung giáo dục truyền thống cho cháu con, hình ảnh ông bà nội ngoại, hai bên hai bằng Tổ quốc ghi công có ảnh Tư Mến, Tám Tiếp, bây giờ lại được thêm hai bằng Bà Mẹ Việt Nam Anh Hùng, qua hương khói nghi ngút trong ánh mắt sâu lắng của cháu con ẩn hiện hình bóng của tám liệt sỹ, những giòng máu trong gia tộc đã đổ ra trong chiến đấu hoà cùng sự nghiệp chung.
Cứ mỗi lần đám giỗ, đại tá Lê Bảy vị sỹ quan về hưu với mái đầu bạc trắng ngồi nhấp cốc rượu nồng cho vơi bớt nhớ thương bùi ngùi, kể lại câu chuyện hy sinh từng người cho gia đình nghe và đi đến kết luận là cha ông đã làm tròn đạo hiếu trung, giờ đây con cháu phải trọn nghĩa trung hiếu.
Trong mùa tuyển quân năm 1990, Lê Bảy gọi Lê Phạm Dũng ra ngồi đối diện, chậm rãi nói cho con nghe:
- Theo luật định thì con được miễn dđ nghĩa vụ qu ân sự vì đã có 2 năm học thiếu sinh quân, nhưng theo nguyện vọng của con và gia đình, cô chú ở phường đã lập danh sách, mà dã đi thì không phải chỉ hai năm trở về, sau huấn luyện sẽ bổ sung vào lực lượng công an tự nguyện cống hiến lâu dài cho sự nghiệp bảo vệ đất nước. Con suy nghĩ kỹ chưa?
- Thưa ba, con đã nghĩ kỹ, xin hứa làm theo lời ba.
Lê Bảy đưa ống quẹt ga và nói:
- Con vào đốt nén nhang hứa hẹn trước bàn thờ liệt sỹ, ba ruột của con, nhớ ngày 19 tháng 5 với nhiều ý nghĩa, ngày sinh của con và ngày tử của cha.
Phấn đấu mấy năm liền hiện nay Phạm Dũng đang làm nhiệm vụ ở huyện Nhơn Trạch trên mảnh đất mà Tám Tiếp đã vĩnh viễn nằm xuống trong sự đùm bọc yêu thương của cô chú và đặc biệt có tấm lòng của má Hai Điệp, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc huyện, nguyên là mẹ nuôi lúc chị làm cơ sở biệt động đặc công của Rừng Sác tại thị trấn Long Thành. Chị bị địch bắt đày đi Côn Đảo đến khi giải phóng 30 tháng 4 mới được trở về. Một phụ nữ khi rất trẻ đã cực khổ bồng bế đứa con của liệt sỹ khi còn chiến tranh.
Và tiếp theo, một hôm Lê Toàn Thắng đứa bé ra đời đã mồ côi mẹ tại Rừng Sác nay tốt nghiệp Đài trưởng Hàng Hải đến thỏ thẻ với ba:
- Thưa ba nay con đã khôn lớn, giờ xin việc làm cũng khó, xuống tàu viễn dương thì gia đình ta không có khả năng chạy... Vậy ba cho phép con tự nguyện xin vào lực lượng Công an đường thuỷ, sẽ phát huy nghề nghiệp mình hơn.
- Ba rất tán thành nơi đây con có điều kiện cống hiến nhưng phải hiểu, vào làm lính lực luợng võ trang thì gian khổ đó, lương bổng chẳng là bao, nhưng con sẽ có dịp trở về dòng sông Thị Vải nơi mẹ ruột con đã nằm xuống dưới gốc đước ở tắc Kỳ Quang. Nhiệt tình tuổi trẻ phải biết hoà cùng dòng máu người mẹ và cô chú đã hy sinh trên sông nước Rừng Sác.
Hiện nay Thắng và Dũng đang phấn đấu từng bước trưởng thành trong vai người lính công an bảo vệ đất nước thời bình và cũng vừa được kết nạp vào Đ ảng c ộng sản Việt Nam.
Điểm lại trong cái tổ ấm bé nhỏ này đã kinh qua cuộc chiến tranh gần nửa thế kỷ, Lê Bảy với Tuyết Vân là hai thương binh còn đang sống, nhận hưởng được vinh dự của hai Bà Mẹ Việt Nam Anh Hùng nội ngoại, trong sự ra đi mất mát của tám người thân. Nhưng hiện nay tất cả dâu, rể, gái, trai đều đang theo con đường của người đi trước từng bước trưởng thành. Có hai sỹ quan dự bị, hai sỹ quan công an, hai bác sỹ, một thiếu tá, mười người đã qua được trình độ tú tai, cử nhân. Sinh sôi nảy nở thêm được tám cháu nội, ngoại thì rõ ràng trong sự hy sinh mất mát phải chấp nhận đó vẫn thấy phần được lại cũng khá nhiều. Tuy họ khó có thể trở nên giàu có, nhưng họ sống với đồng lương, bằng trí tuệ và lao động chân chính của mình thất thảnh thơi trong niềm tự hào to lớn của dòng tộc. Họ động viên dìu dắt lẫn nhau để phấn đấu xứng đáng với người đã khuất.
 



Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác
Gửi bởi: satthat trong 29 Tháng Bảy, 2008, 09:42:39 am
TẠI BẾN GÒ DẦU
Chiếc xuồng lường chạy máy đuôi tôm từ phía hạ lưu sông Thị Vải ngược nước rẽ sóng về phía vàm Phước Thái. Ngồi trước mũi xuồng là Lê Bảy người chỉ huy Đoàn 10 đặc công rừng Sác cải trang bằng chiếc áo lính nguỵ cũ mèm, đầu quấn khăn rằn giả làm ngư dân đánh cá, một cuộn lưới nằm giữa, sau lái là Biên, chiến sỹ bảo vệ đầu đội chiếc nón bắt cua, miệng ngậm điếu thuốc rê Bàu Hàm to tướng đang cầm lái, nổ máy chạy đều đều. Ghe vừa áp sát bến Gò Dầu thì đã thấy thấp thoáng trên bờ có hai người đang trò chuyện, họ vẫy tay gọi:
- Ông chài ơi, có cá không ghé mua một mớ.
Người vừa lên tiếng là ông Phạm Mỹ một trí thức tư sản, giám đốc một xí nghiệp ống cống ở Thủ Đức, hoạt động trong lực lượng thứ ba ở Sài Gòn. Nước da ông ngăm đen, đầu hói cao, thân hình vạm vỡ, lúc nào trên môi cũng có điếu thuốc lá con mèo loại mười điếu. Ông lại là một cơ sở biệt động nội thành của Đoàn 10, theo hẹn hôm nay đưa nhân vật cao cấp trong nguỵ quyền Sài Gòn ra để Lê Bảy có dịp tiếp xúc thăm hỏi.
Anh ngư dân Lê Bảy cột chặt dây mũi, bước đến bắt tay luật sư Trần Ngọc Liễng, người có dáng dấp to cao khoẻ mạnh, niềm nở, cổ đeo chiếc huy hiệu dây chuyền vàng, đương là nghị sĩ Quốc hội thời Nguyễn Văn Thiệu làm tổng thống. Được biết ông ta có nhiều cảm tình với phía bên trong, theo như sự giới thiệu của ông Phan Mỹ.
Sau mấy câu chào hỏi xã giao, Lê Bảy đi thẳng vào câu chuyện:
- Thưa ông, ông có biết chúng ta đang đứng ở đây là đâu không?
- Đây là Gò Dầu xã Thái Thiện, trên đường đi nghỉ mát Vũng Tàu, có dịp tôi rẽ qua, thật là một khu vực trống trải do hậu quả chiến tranh. Sự tàn phá của chất độc hoá học nên không còn cây cỏ gì cả. Ông Liễng nói.
- Vâng thưa ông, trải qua cuộc chiến tranh dai dẳng, ở địa điểm này diễn biến một quá trình lịch sử mà người Việt Nam chúng ta ai cũng biết, trong thế chiến hai phát xít Nhật đã có mặt ở đây, lập sân bay dã chiến Phước Biên(Lê Bảy đưa tay chỉ phía trước mặt) và cũng đã rút chạy sau khi thua quân Đồng Minh.Qua 9 năm kháng chiến trường kỳ, giặc Pháp thua trận cũng đã xuống tàu tại đây. Lực lượng Việt Minh từ Gò Dầu qua Cắp-xanh-jắc tập kết ra Bắc, đặc biệt quân đội của Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ không thắng được bằng chiến tranh cục bộ, buộc phải xuống thang rút lui trong danh dự, thực hiện nguỵ hoá cuộc chiến, cũng phải tập kết lực lượng gồm sư Anh Cả Đỏ, lữ Kỵ Binh Bay...để xuống tàu ra biển tại đây. Hôm nay tôi và ông, chúng ta là người Việt Nam vẫn sống còn, được gặp nhau ở đây.
Đến lúc này có lẽ ngài nghị sỹ quốc hội đã biết quá rõ người đối diện không phải là anh ngư dân chân lấm tay bùn nữa, ông vui vẻ gợi chuyện.
- Tháng rồi các ông diệt gọn một đại đội ông Thiệu ở Đất Đỏ hay quá
- Thưa ông, sự thực nếu chúng tôi diệt được một tên xâm lược thôi, mà cô bác nội thành có lời khen ngợi thì xin nhận. Còn diệt một đại đội nguỵ Sài Gòn là điều vạn bất đắc dĩ. Chúng tôi thấy rất đau lòng trong âm mưu thay màu da trên xác chết của Mỹ.
Ông Liễng mỉm cười, gật đầu biểu thị sự đồng tình, nói tiếp:
- Vừa qua ông có theo dõi sinh viên Huỳnh Tấn Mẫm được trao trả ở Lộc Ninh ? Anh ta không quay lưng đi luôn, mà quay mặt đòi được trở về Sài Gòn thì quả rất hay.
Lê Bảy cảm thấy lòng mình vui vui, vì nhớ tới trước đây bà Tư Kiểng vợ của giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, một cơ sở của trung đoàn từ nội thành ra báo cáo tình hình có nói "Đề nghị các anh cho ý kiến, Huỳnh Tấn Mẫm nên xử trí thế nào khi được trao trả tại Lộc Ninh sắp tới?". Không còn thời gian để xin ý kiến cấp trên, nên Lê Bảy đã mạnh dạn chỉ đạo:" anh Mẫm cần phải quay lại Sài Gòn vì Mỹ-nguỵ bắt lúc anh là sinh viên đấu tranh cho hoà bình của đất nước chớ không phải là Việt Cộng. Phải đòi trở lại với phong trào sinh viên". Nay được một thông tin để kiểm nghiệm lại ý kiến đề xuất của mình, Lê Bảy vui vẻ nói:
- Sinh viên Huỳnh Tấn Mẫm xử trí vậy rất đạo lý, anh được trở về trong vòng tay của sinh viên và nhân dân Sài Gòn-Gia Định là phải
Tiếp tục chuyện trò thân mật và sau cuộc gặp gỡ để tìm hiểu nhau, họ chia tay với niềm suy tư riêng của mỗi người trong cuộc. Lúc này ông Phan Mỹ đã ngồi vào tay lái, lòn tay đưa cho Lê Bảy mảnh giấy ghi vội mấy dòng: " 10 giờ ngày đưa ông Táo về trời, tôi sẽ chuyển ít quà của bà con nội thành gởi các anh. Đón tôi tại đây".


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác
Gửi bởi: satthat trong 29 Tháng Bảy, 2008, 10:10:32 am
Hôm nay gió bấc lành lạnh thổi, ở Sở chỉ huy trung đoàn đóng tại Tắc Trũng một vùng rừng lõm chằng chịt rễ đước, cuộc hội nghị tổng kết tất niên, chuẩn bị cho phương án tác chiến sắp tới, hơn 50 cán bộ đại đội, tiểu đoàn từ Cần Giờ xa xôi cách trở,từ Ông Kèo, Cát Lái..lội sông, chèo xuồng, cắt rừng, nổ máy về dự đông vui đầy đủ, với nét mặt mọi người rạng rỡ hẳn lên sau một loạt trận đánh thắng vang dội ở rừng Sác. Chuẩn bị khai mạc hội nghị, chủ nhiệm hậu cần Cù Bạch Yến đến gặp Lê Bảy:
- Xin báo cáo với anh, tối qua đơn vị đi chài và đăng cá được vài chục ký, bà con trong ấp gởi ra chục cân thịt, rau cỏ nhưng còn thấy hẻo quá, đề nghị anh cho xuất chi thêm tiêu chuẩn để anh em ăn Tết luôn.
Lê Bảy suy nghĩ một chút rồi chậm rãi nói:
- Tạm vậy thôi anh Ba, tiền qũy đơn vị còn ít, phải tập trung cho kế hoạch tác chiến sau Tết rất căng thẳng, nguồn tài chính trên R rót xuống chưa kịp.
Nói vậy chớ trong bụng anh cũng đã có dự tính một bài toán mà chưa dám công bố còn đang giữ kín, e rằng có trục trặc kỹ thuật. Đến 8 giờ, anh nói:
- Anh Sáu Tao, trung đoàn phó thay tôi điều khiển hội nghị, tôi xin vắng mặt một lát có việc gấp.
Thế là anh xuống ngay chiếc ghe máy chỉ huy trực tiếp cầm tay lái, ngồi trước mũi là Tư Tiên Phó ban hậu cần, rẽ nước lao lên Gò Dầu. Từ xa đã thấy chiếc xe Jeep ca bô cao, sơn màu trắng của Phan Mỹ, mũi ghe vừa cặp sát mé với lá cờ ba que nguỵ trước gió phất phơ, dường như đang vẫy gọi, khiêu khích tốp trực thăng, đầm già đang quần đảo tuần tra quanh khu vực. Phan Mỹ nhanh chóng chuyển xuống ghe nào bọc, nào xách, nào giỏ đựng chục cây thuốc ba số, chục bánh chưng, bánh tét các loại lớn, chục chai rượu Wisky, lạp xưởng, dưa hấu, thèo lèo đủ cả..ông vui vẻ nói:
- Biết là sắp tết bà con nội đô gởi tặng anh em quân giải phóng rừng Sác dùng lấy thảo. Chúc anh em đánh thắng nhiều hơn. Ờ nè anh Bảy, đơn vị nào đánh cháy kho xăng Nhà Bè đã dữ vậy?
- Chính anh tham gia đánh cháy còn gì nữa mà hỏi. Lê Bảy nói vui
- Đừng giỡn cha nội, sao lại có tui vào đó
- Anh không nhớ à, chính cách đây mấy tháng chiếc xe này anh đã chở đổ tại Gò Dầu này chục tấm tôn, chục cuộn dây thép gai để đặc công trung đoàn tập luyện đánh kho, vậy là công anh khá lớn đó.
- Thiệt vậy sao? Tôi sẽ đến người bạn Ngô Công Đức nhà báo, xin nguyên một tập báo lưu thời gian cháy xăng để anh nghiên cứu.
- Tạm biệt anh. Nhớ chuyển giùm lời cảm ơn của chúng tôi đến bà con và hẹn gặp lại nhau tại Sài Gòn ở một mùa xuân đại thắng.
Thực ra Sở chỉ huy chỉ cách Gò Dầu non năm cây số đường chim bay, xe chạy đường 15 bóp còi nghe rõ, cách nhà thờ khu giáo dân Phú Hà vài trăm thước, nếu lộ chỉ cần một tốp trực thăng phóng pháo, hoặc một loạt B57 đánh bom tấn xuống, hay là giao hội ba cụm pháo nòng dài của chi khu, tiểu khu thì lõm rừng này xác xơ ngay. Nhưng hôm nay sau hội nghị, anh chị em được hưởng một bữa Tết ngoài dự kiến, đầy đủ hương vị ngày xuân, ấm lòng người lính. Mỗi miếng ăn, mỗi ly rượu chứa đựng tình quân dân cá nước vùng ven và trong vòng tay bảo vệ đùm bọc, che chở của nhân dân các xã Phước Thái, Phú Mỹ, Phước Hoà...Cứ mỗi năm mùa Tết đến, tuy chiến trường có nhiều lúc vô cùng căng thẳng ác liệt nhưng sống với dân hầu như năm nào anh em cũng được hưởng cái Tết đầy ý nghĩa.


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác
Gửi bởi: satthat trong 31 Tháng Bảy, 2008, 09:48:20 am
NỔ TUNG KHO BOM THÀNH TUY HẠ
Sau khi dự hội nghị tổng kết chiến dịch tổng hợp ở R, biết được tình hình tổng thống Mỹ Ních-xơn không chịu ký hiệp định đúng thời gian thoả thuận với Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng miền Nam. Mỹ đang ráo riêt chuẩn bị tập kích chiến lược bằng không quân ra miền Bắc. Nhận lịnh trực tiếp của tướng Năm Ngà- Tham mưu trưởng Miền, Đoàn trưởng kiêm Chính uỷ Lê Bảy, qua một tháng băng rừng lội suối từ Lộc Ninh về đến Sở chỉ huy trung đoàn đóng trên bờ sông Thị Vải. Có mặt đầy đủ Ban chỉ huy và cấp uỷ, anh thông báo mọi công việc và đề nghị:
- Xin các đồng chí cho một quyết nghị phân công tôi lên phía trước cùng anh em tổ chức điều nghiên, chỉ đạo tác chiến mà mục tiêu là kho bom Thành Tuy Hạ. Phải thật khẩn trương cho nổ tung, để phối hợp chiến trường chung.
Các sỹ quan tham mưu, chính trị, hậu cần cùng với đại đội trưởng C32 nhanh chóng triển khai lực lượng bám sát mục tiêu. Thực ra trong quá trình hoạt động, anh em đã biết khá rõ tình hình bố trí, phòng thủ của địch. Khu kho này được Pháp xây dựng từ xưa, đến nay Mỹ mở rộng qui mô nhằm dự trữ cho cả chiến trận nam Đông Dương.
Với hàng chục lớp rào tông hợp bằng dây thép gai đủ loại, rào đơn, rào kép, bùng nhùng, mái nhà, cao 2 mét 5, cơ động cố định...còn thêm hệ thống mìn trái, lựu đạn, pháo sáng dầy đặc rải từ xa. Một bờ đập cao 3 mét dựng đứng như bức tường, chân đê có hào sâu ngập nước. Phía trong là hai lớp rào. Chó bẹc giê, ngỗng trắng cùng với hệ thống đèn sáng đủ cỡ. Khoảng trăm mét, xây một tháp canh. Chưa thật yên tâm, chúng bố trí thùng đại liên đổ dầu ma-dút cứ ba mét một,đốt cháy sáng. Cạnh sát kho là quân cảng được canh gác ngày đêm. Toàn bộ hệ thống bố trí này tưởng chừng như một con mèo cũng khó lọt qua.
Đại đội trưởng Hai Quyết sinh ra tại xã Phú Hữu từ nhỏ đến lớn nên đã biết ít nhiều địa thế ngoại vi, trực tiếp chỉ huy điều nghiên. Vấn đề là nếu lọt qua hàng trăm mét rào mìn trái, ánh sáng, lính canh này coi như cầm chắc thắng lợi trong tay.
Đêm 12 tháng 10 năm 1972, tổ điều nghiên đột phát hướng tây khỏi vòng rào thứ 3 đạp phải pháo sáng, địch phát hiện nên lùi ra.
Đêm 13 tháng 10 đột hướng đông nam qua 11 lớp rào đụng bộ binh địch.
Đêm 20 tháng 10 vào hướng Bắc gặp bãi mìn cố định dày đặc không vượt được, phải nằm ém lại trong rào để dò xét. Đêm sau tiếp tục qua 6 lớp rào, địch phát hiện lùi ra. Một chiến sỹ rớt lại một dép râu, lộ hướng.
Qua 6 đêm đột 4 hướng không tìm ra được kẽ hở. Ban chỉ huy nhận định " Vì đã lộ ý định, địch tăng cường đối phó, giờ phải tìm một hướng thật bất ngờ mới lọt vào được".
Đêm 7 tháng 11, hai tổ ra đi, hai đồng chí vào hướng tây-tây bắc sát nách quân cảng, chui qua 8 lớp rào, ém lại một ngày giữa rào bùng nhùng, đêm sau lọt được vào khu kho. Riêng tổ phía nam, đụng địch. Lúc ra đồng chí Bèo, vấp trái nổ, đứt cả hai chân, cõng ra đến ngoài thì tắt thở.
Vậy là qua 8 lần đột nhập, một chiến sỹ hi sinh, nhưng đã soi được một lỗ hở nhỏ. Ban chỉ huy quyết định phải đánh ngay, để lâu sợ chúng thay đổi quy luật tuần tra bố trí.
Đêm 11 rạng 12 tháng 12 một đêm trời tối đen như mực, chỉ lấp lánh ánh sao giữa trời mây. Hệ thống đèn mặt đất vẫn rực sáng, lâu lâu một tràng súng bắn vu vơ vang lên, đạn xé không trung rồi im bặt. Pháo sáng chốc chốc loé lên làm rõ mặt những chú chuột cống vênh râu ngơ ngác nằm im.Tổ trưởng Hoà chỉ huy 3 chiến sỹ cùng 16 khối thuốc nổ âm thầm, lặng lẽ từ từ nhích lên từng bước một theo hướng và con đường đã bò qua khi tiềm nhập. Cả một không gian căng thẳng, lặng im với 8 cặp mắt sáng xuyên qua đêm tối. Tám cánh tay không ngoan mò mẫm, cùng với 4  con tim bình tĩnh nhịp đều, họ qua tất cả các lớp rào, các loại chướng ngại, vô hiệu hóa mìn trái, đến được bờ tường kho. Vui mừng xiết kể, không ai bảo ai theo kế hoạch đã thực tập từ nhà, nhanh như sóc tất cả khối thuốc nổ đã an bài vào vị trí, bấm kíp hẹn giờ và tuần tự rút lui.
Bên ngoài hàng rào, người chỉ huy đã đón họ, ôm hôn nhau và xuống sông về căn cứ Rạch Lá. Tất cả đều hồi hộp không ai ngủ, mong chờ khối thuốc nổ "hét" lên. Khoảng 4 giờ sáng, những tiếng nổ rền vang, lửa rực sáng cả một góc trời. Đám cháy khổng lồ loé mắt, bùng lên. Từng cuộn khói đen bốc cao cháy suốt cả hai ngày đêm liền. Tại căn cứ đại đội 5, Lê Bảy cùng Tham mưu trưởng Sáu Sang, chỉ huy phó Thanh Tao và Hai Quyết bàn bạc "Tham mưu nhanh chóng liên lạc với quân báo xác định thêm tin tức bên trong. Qua hai ngày rực lửa, thắng lợi rất lớn, nhưng vấn đề đặt ra là chưa nghe tiếng nổ dữ dội, tại sao kho bom vẫn im tiếng...".
Qua mấy ngày sau, nguồn tin nội bộ báo cáo ra, anh em chỉ mới đánh trúng khu thuốc nổ và bom napan, thiêu huỷ 23 nhà kho chứa thuốc nổ tương đương 23.000 mét khối và 9 nhà kho bom napan khoảng 20.000 quả. Đơn vị phấn khởi nhận điện của R, khen thưởng Huân chương chiến công hạng nhất.
Sau nửa tháng nghỉ ngơi cho lại sức, trung đoàn chỉ đạo đại đội 32 đi điều nghiên tiếp hướng quân cảng, mỏng thế bố phòng hơn, tổ chức bám sát mấy ngày liền.
Ngày 4 tháng 12 năm 1972, tổ điều nghiên do Hai Quyết làm mũi trửong Hoà mũi phó cùng 3 chiến sỹ: Sáng, Chữ và Thắng xuất phát. Đêm 8/12 chọc thủng vào đến khu kho thì trời vừa sắp sáng không lùi ra kịp, phải cùng nhau ém lại giữa ban ngày với gạo rang cơm nắm chừo tối sục sạo thêm, rồi rút lui. Cuộc hội nghị cấp tốc mở ngay tại trận địa, Lê Bảy nhận định " Ta vừa đánh, địch chưa kịp hoàn hồn, còn sơ hở, chúng cũng không nghĩ rằng đặc công lại dám đánh trận thứ hai trong vòng 1 tháng. Với tiền lên, đã ém được ngày đêm là rất tốt, cần chớp thời cơ đánh vào kho bom". Hai Quyết và anh em đều biểu lộ quyết tâm phải tìm cho bằng được kho bom mới đánh. Sau cùng quyết định đêm 11/12 đột phá.


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác
Gửi bởi: satthat trong 31 Tháng Bảy, 2008, 01:49:11 pm
Lê Bảy hẹn với Hai Quyết tối 10/12 gặp nhau tại bến Bắc rừng báo cáo quyết tâm lần chót và nhận khí tài, trang bị. Đúng hẹn, xưởng trưởng Tư Tiên đã hoàn thành sản xuất 25 trái mìn dạng lõm, gọn nhẹ mà hiệu suất công phá mạnh hơn. Lê Bảy cùng với tham mưu, chính trị, hậu cần đến kiểm tra, động viên anh em trước khi xuất kích. Vấn đề mới phát sinh ngoài dự kiến, do một chiến sỹ đề xuất: Thủ trưởng cho tụi em ít gừng cay, nằm đêm ém giữa ruột kho bom, nếu ho là lộ ngay, thuốc ho không ăn thua.
Suy nghĩ một lát, không còn thời gian nữa, đêm nay phải lên tuyến cho kịp con nước thuỷ triều, thuận lợi bơi ém cảng, Lê Bảy bảo chờ một tiếng, quay máy đuôi tôm chạy về Ban tham mưu nằm tại Tắc Cò, vừa ghé mũi ghe anh đã hỏi:
- Y tá Sáu Hồng đâu?
- Dạ, anh Bảy hỏi gì em? Sáu Hồng khệ nệ mang bầu bước ra mí sạp
- Chừng nào cô sinh, đưa cho anh mượn gói mứt gừng, mai gởi trong ấp mua trả lại được không?
 Y tá Hồng e thẹn, vui vẻ trao tay người chỉ huy nửa ký mứt gừng mà chị chuẩn bị cho ngày sinh nở nơi sông nước lạnh lẽo này.
Thế là tổ chiến đấu 5 người lên đường với đầy đủ khí tài vật chất.
Trước 4 giờ sáng ngày 12/12 tất cả đã lọt vào giữa ruột khu kho, Hai Quyết một mũi, Hoà một mũi, thọc sâu vào tung thâm tìm đúng kho bom thì trời vừa sắp sáng, tình thế đúng như dự kiến phải ém lại qua ngày, họ qui ước với nhau:" Hễ lộ thì quyết tử cho nổ ngay kho bom, thà hy sinh tất cả không để bị bắt sống".Trong ánh sáng mờ mờ, hiện lên một đám tranh cao lúp xúp đầu người lọt thỏm giữa khu kho, nằm đây cũng chưa chắc thật an toàn kín đáo nhưng được cái gần sát, họ có thể lao vào đánh ngay khi bị lộ. Năm người nằm đấu chân, đầu toả ra năm hướng quan sát, chỉ biết dùng ám hiệu thay cho lời nói. Trời sáng dần, khu vực kho rầm rập tiếng nổ của hàng chục máy xúc làm công việc dọn dẹp hậu quả trận đánh trước. Đến khi xế chiều có tiếng rú ga gần, một chiếc xe đang lù lù về phía bãi tranh định xúc đống sắt vụn bên tổ đặc công đang ém. Phải ra tay sớm không thì bị lộ hết, Hoà nháy máy xin ý kiến mũi trưởng, bắt đầu hành động. Lưng giắt quả thủ pháo, anh khom khom người đứng dậy đón đầu xe xúc, tên lính bất thần định nhảy chạy, nhưng Hoà kịp thời ra hiệu bảo nó ngồi yên, một tay đưa lên miệng, một tay chỉ vào quả thủ pháo, tên lính vội hiểu ra:" câm mồm, nếu không thì chết". Hoà chọn nơi che khuất ngồi giám sát, nó vẫn căm cụi làm việc bình thường, thỉnh thoảng đôi mắt lấm lét của hắn bắt gặp cái nhìn nghiêm khắc của Hoà. Khoảng 8 giờ tối, theo lệnh của Hoà tên lính chưa dám rời xe,trong lúc anh em đã chia nhau toả ra khu vực kho. Hoà ở lại trèo lên xe, tên lính toát mồ hôi, đôi môi run lập cập " Dạ thưa ông, tha cho em, em có vợ, 9 con...".
- Muốn sống về với vợ con, anh cứ làm việc bình thường, sau 9 giờ sẽ ra về theo tốp lính thợ, thấy gì để yên đó, không được nói với một ai. Hoà dặn
Xong lao tiếp theo anh em, nơi có tháp nước cao. Một dãy nhà lù lù xuất hiện, Hoà sung sướng đến nỗi không thể tin vào mắt mình nữa, kho bom chồng chất, những quả bom trần trụi, đen bóng. Mỗi kho đếm rõ 8 dãy, dài 6 trái, cao 6 trái. Tất cả mải miết cắn kíp hẹ giờ, tìm quả bom nằm dưới cùng, thọc sâu trái mìn vào giữa ruột cho chắc ăn, nếu có tình huống lộ thì quân thù vẫn phải chịu thua, vì nổ một quả sẽ kích động cả kho cùng nổ một lúc.
Tất cả rời kho lúc nửa đêm, sau khi tìm cách giải thoát cho người lính Sài Gòn.
2giờ 55 phút khi tổ đặc công về đến Bàu Sen thì lửa đỏ rực trời. Tiếng nổ dây chuyền của hàng ngàn quả bom, đạn pháo rung chuyển mặt đất, kéo dài như sấm liên hồi. Kho bom Tuy Hạ bị dìm dưới những quầng lửa khổng lồ. Nổ và cháy suốt cả 3 ngày 3 đêm liền, tung toé cả một vùng mấy cây số vuông, làm cho phần nhiều cửa kính cao tầng nội đô Sài Gòn rạn nứt, tất cả chướng ngại vật, mìn trái bị quét sạch gần hết, 1 tiểu đoàn bảo an, 1 tiểu đoàn quân cụ, cùng với 1 đại đội quân khuyển hơn 100 chó béc-giê tan nát.
Ngày sau, Lê Bảy ngồi trên vòng cách xa hàng chục cây số theo dõi tiếng nổ. Bỗng một cột khói dựng lên y như chiếc nấm khổng lồ cao mấy trăm mét, quyện vào nhau mấy chục phút chưa tan, giống như quả cầu lửa bom nguyên tử được xem qua ảnh. Tiếp theo là một tiếng nổ khủng khiếp kéo dài, làm anh em lăn ra mặt đất rồi bật dậy mở máy truyền tin PRC25 ra theo dõi tin kỹ thuật. Đàng xa, oang oang tiếng gọi:
- Đại bàng đây. Đại bàng đây. Chi khu nghe rõ trả lời. Tụi bây coi kho bom CBU quí giá có còn không?
- Alô, alô, không biết được, nổ tứ tung, cha ai mà mò vô tới...
Sau này mới biết đó là cả ngàn trái bom đặc biệt CBU nổ cùng lúc gây tiếng nổ và quầng khói bốc cao như quả cầu nấm. Mà một sỹ quan cao cấp Mỹ Frank-Snep trong sách " Khoảng cách thời gian vừa phải" có viết như sau:" Còn CBU là loại bom khủng khiếp hơn (so với bom Daisy Culter) nó ở độ cao đã định trước, tạo ra một đám mây lỏng có đường kính đến 100 mét và dày đến hơn 2 mét. Gặp lửa, đám mây này toả ra một nhiệt lượng lớn và áp lực mạnh thốc xuống mặt đất nặng tới hàng tấn trên centimét vuông, có thể phá tan mọi thứ. Con người dầu thoát ra khỏi vòm lửa này cũng vẫn bị chết ngạt sau tiếng nổ của trái bom, vì nó tạo ra một khoảng chân không lớn. Trong kho vũ khí của Mỹ, bom CBU là một trong những loại sát thương tàn ác nhất, ngoài vũ khí hạt nhân...".
Các dũng sỹ đặc công Đoàn 10 đã lập được chiến công vang dội, theo tài liệu lưu trữ thì số thiệt hại là tổng cộng 80 kho bị phá huỷ sạch chứa khoảng 60.000 trái bom tương đương 18.000 tấn, riêng kho bom CBU đựng kín trong thùng của 15 kho với khoảng 33.000 mét khối, loại đạn pháo 105 ly chứa trong 17 nhà kho hơn 100.000 quả, toàn bộ kho Thành Tuy Hạ bị phá huỷ 60% và riêng khu bom, thiệt hại 80%.
Lực lượng đặc công rừng Sác trong vòng một tháng đã đánh 2 trận liền vào một mục tiêu, giành thắng lợi to lớn làm chấn động đến lầu Năm Góc và dư luận Sài Gòn. Thật là một chiến tích hiếm có.


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác
Gửi bởi: satthat trong 05 Tháng Tám, 2008, 10:17:50 am
PHÁO KÍCH VÀO NỘI ĐÔ
Ban chỉ huy Đoàn 10 ngồi vây quanh bản đồ tác chiến, thỉnh thoảng lại chuyền cho nhau bức điện Miền gửi xuống:" Đoàn 10 được phối thuộc tăng cường một tiểu đoàn pháo của E274, tổ chức pháo kích ngay vào Dinh Độc Lập, toà Đại sứ Mỹ và Bộ tư lịnh hải quân nguỵ". Một mệnh lệnh ngắn gọn thôi thúc, rạo rực lòng người.Gương mặt người chỉ huy tỏ vẻ đăm chiêu. Nhiều ý kiến phát biểu sôi nổi, phân tích tình hình, nhận định thuận lợi, khó khăn cuối cùng Ban chỉ huy kết luận: Bằng mọi giá, phải tiếp nhận, đưa được hai tấn rưỡi đạn ĐKB trút vào hang ổ kẻ thù. Hướng chủ yếu của trận đánh do Lê Bảy được phân công phụ trách, và hướng thứ yếu kềm chế trận địa pháo địch ở đặc khu Nhà Bè và nghi binh đánh lạc hướng- do Tham mưu trưởng Cao Thanh Tao chỉ huy, sử dụng 2 khẩu ĐKZ75 với 50 quả đạn nổ.
Cuộc họp khẩn trương kết thúc. Bên bình trà đậm dưới lán nhỏ, trên sạp đước nơi rừng Sác các đồng chí vẫn tiếp tục bàn luận quanh những biện pháp tổ chức hành quân, luồn lách địch, làm sao đưa được 50 quả đạn ĐKB từ bên kia rừng giồng vượt lộ 15, vận chuyển bằng ghe thuyền lên đến trận địa, cách trung tâm Sài Gòn 10 cây số nằm giữa vòng vây tứ phía của quân thù là coi như nắm chắc phần thắng lợi. Nhận được nhiệm vụ nặng nề vẻ vang này, đơn vị đầu tiên được sử dụng loại pháo phản lực xuất hiện từ hướng đông nam, quân thù sẽ hết sức bất ngờ và kinh hoàng trước đòn tiến công này. Đó là niềm vui thôi thúc, cổ vũ đơn vị quyết tâm hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ cấp trên giao.
Vào một đêm cuối tháng 8 năm 1968, từng đợt chớp còn rớt lại sau trận mưa xối xả giữa mùa, loé lên soi rõ mặt sông đang có hàng chục lùm cây từ từ trôi ngược dòng nước chảy. Chỉ cần đứng xa vài chục mét, không ai tưởng tượng được đó là hàng chục chiếc ghe đầy ắp súng đạn và  người, xuất phát từ bến Bắc rừng xã Phước An đang âm thầm lặng lẽ rẽ nước. Những mái dầm, mái chèo khua nước hối hả bằng những cánh tay cật lực làm thành những vệt sáng, loé lên của dòng nước mặn. Đoàn ghe vẫn khéo léo luồn lách qua Bà Bông, Rạch Lá, Tắc Chợ lên sông Ông Kèo. Hàng chục họng pháo từ An Thịt, Tuy Hạ, Nhà Bè...chốc chốc lại gầm rít rung chuyển cả hai bên mép rạch. Các tốp tuần tiễu của hải quân trên sông Lòng Tàu, Đồng Tranh hầm hì xé nước chạy đi chạy lại, liên tiếp khạc lửa như điên vào các lùm cây, những đám lục bình trôi. Trên trời, máy bay hai thân tì tì dai dằng như xoi mói xuống màn sương đêm. Những toán biệt kích, người nhái lẩn lút trong rừng, nơi mép rạch, bởi lẽ đây là một vùng sát nách Sài Gòn- Gia Định cái gọi là thủ đô Việt Nam Cộng Hoà cần phải bảo vệ nghiêm ngặt.
Với trọng trách là người chỉ huy trưởng trận đánh, hầu như thâu đêm Lê Bảy không chợp mắt chút nào. Anh cứ ngồi trước mũi xuồng căng mắt quan sát và không ngừng dự kiến xử trí các tình huống xấu nhất có thể xảy ra. Anh lại nhớ tới trận pháo kích đầu tiên của Đoàn 10 bằng ĐKZ75 vào phía sau Nhà Thờ Đức Bà lúc 7 giờ sáng ngày 01 tháng 11 năm 1966 Quốc khánh của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu do Hai Nga đại đội phó trực tiếp chỉ huy. Lúc ấy, địch đang tổ chức duyệt binh để diễu võ dương oai. Với 20 quả đạn trúng đích đã tiêu diệt hàng trăm tên địch đa số là tướng lĩnh. Đạt được chiến thắng đó, cả một tiểu đội pháo thủ phải cải trang thành lính địch, luồn sâu, lách địch dầm mình dưới sông nước hàng tháng trời để tìm, đo đạc và đến trận địa chỉ cách mục tiêu hơn năm cây số bắn theo lối "gián xạ". Pháo đạn cõng trên vai, đội trên đầu, phải nhịn đói nhịn khát. Không phải đánh lén rồi rút lui ban đêm, mà đằng này tất cả quyết tâm lắp đạn sẵn, vặn đài bán dẫn theo dõi, khi tướng Nguyễn Cao Kỳ được giới thiệu bắt đầu duyệt binh giữa buổi sáng thanh thiên bạch nhật, đằng này mới phát hoả. Bằng mắt thường quan sát, thấy khói bốc cao mù mịt nơi mục tiêu. Đương nhiên là chấp nhận sự phản ứng điên cuồng, Mỹ sử dụng tất cả các loại binh chủng truy đuổi. Nhưng anh em đã dũng cảm đẩy xuồng vượt qua, vẫn còn khẩu pháo 75 nguyên vẹn, đưa về tận Bà Bông, Vũng Gấm an toàn. Thật là một trận đánh kiên gan, sáng tạo. Rất đỗi anh hùng.
Nhưng còn lần này cũng lặp lại kiểu ấy, mà là loại pháo mới, uy lực sát thương mãnh liệt hơn, kẻ thù sẽ phải sửng sốt, kinh hoàng. Nhân dân nội đô vui sướng biết chừng nào khi tận mắt nhìn thấy Mỹ-nguỵ bị trừng trị ngay tại nơi mà chúng cho là an toàn nhất. Liệu trận này có thể làm được theo kế hoạch hay không? Lê Bảy miên man suy nghĩ, rất tin ở cán bộ chiến sỹ của mình, gian khổ ác liệt họ không nản, đã từng chịu cảnh hàng tháng trời thiếu cơm, nhịn nước, lấy bụi cây làm nhà, ngủ trong bùn nước. Oái ăm thay rừng Sác chẳng thuận lợi cho "con nhà pháo" chút nào, toàn là sình lầy sông rạch. Qua nghiên cứu trinh sát, chỉ có một trận địa  duy nhất ở bờ đập Phước Lương, tiến lên nữa thì vướng sông Nhà Bè, lùi lại thì tầm bắn không tới. Xung quanh toàn sình lầy,lưa thưa lá dừa nước mà pháo địch đã cày xơ xác. Một đồn bảo an đóng cách vài trăm mét, dân vệ dày đặc trong ấp, chỉ cần một tiếng ho, hay một va chạm mạnh...tai hoạ sẽ ập đến ngay, nguy hiểm biết chừng nào. Công việc đo đạc trinh sát cũng không dễ dàng, phải nhờ tấm lòng của bà con nơi ấp chiến lược Phước Khánh, Phú Hữu, lợi dụng thế hợp pháp dẫn đường đưa đón, bỏ tiền ra mua rượu cho tụi lính chốt tập trung nhậu nhẹt, tạo kẽ hở cho chiến sỹ đột nhập qua vòng vây.
Lê Bảy vừa căng mắt ra quan sát vừa suy nghĩ nhiều điều, trán anh nhiều lúc vã mồ hôi giữa đêm lạnh, trời khuya. Một chiến sỹ bảo vệ ghé sát vào tai: " Sao thủ trưởng không chợp mắt đi một chút". Anh em có biết đâu, trong lòng người chỉ huy chỉ lo làm sao đừng mất 50 quả đạn pháo vô cùng qúi giá đã trên vai  người dân công vượt hàng ngàn cây số mới đến tận vùng ven này. Và làm sao đánh được mà sinh mạng anh em bảo đảm an toàn vế đến căn cứ.Có lúc nóng ruột thấy dòng nước ngược, anh cầm dầm bơi phụ với lính.


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác
Gửi bởi: satthat trong 05 Tháng Tám, 2008, 01:46:52 pm
Bốn đêm liền thức trắng, người, pháo đạn len lỏi qua tất cả các tuyến bố phòng dày đặc, ban ngày chui vào gốc ráng, ô rô tránh né trực thăng, đầm già liên tục soi mói, rà sát. Đêm nay đúng theo ngày N qui định, cả đội hình đến gò Ô Môi xã Phú Hữu, theo hiệp đồng giờ G là 24 giờ nổ súng. Đã 22 giờ mà nước vẫn ròng, cạn sát, đội hình bí mật lọt đúng vào giữa hệ thống đồn bót Phước Khánh, Giồng Ông Đông, Cát Lái, Nhà Bè... chỉ cần một sơ xuất nhỏ gây tiếng khua động mạnh thì lập tức hàng trăm quả pháo cối rót xuống ngay. Đáy xùông cạn sát lòng rạch, không ai bảo ai, từ chỉ huy đến pháo thủ, đặc công đều xuống sình đẩy những ghe đạn.
23giờ 50 phút, trên hướng thứ yếu, tham mưu trưởng Thanh Tao ngồi giữa 2 khẩu ĐKZ, sau lưng ấp chiến lược Phước Khánh. Anh đang suy nghĩ tính sao cho bắn xạ tốc thật chậm đều, hết cơ số đạn để kiềm chế pháo địch trong vòng 60 phút cho trận địa ĐKB hướng chủ yếu trút hết hai tấn rưỡi đạn vào sào huyệt kẻ thù và rút lui an toàn. Bỗng nhiên một chớp lửa xanh loé lên và tiếp sau những tiếng nổ rền hướng Cát Lái, trinh sát liền báo cáo là trận địa chính đã nổ.Thanh Tao vỗ vai khẩu đội trưởng Đức Đa, một mệnh lệnh rít qua kẽ răng:" Bắn". Tiếp theo là những tiếng oành...đùng, oành đùng liên hồi, lửa chớp nháng lên. Đám cháy bùng nổ trong căn cứ hải quân Nhà Bè. Các pháo thủ Soạn, Nết, Năm, Chiến... bình tĩnh nạp từng phát đạn theo chỉ lịnh. Sau hàng chục phút câm lặng, im ắng, bọn địch hoàn hồn và bắt đầu xối xả nhả đạn lung tung vào các tọa độ nghi ngờ, nhích dần về phía trận địa ĐKB. Máy bay trực thăng, OV10, IL19 cũng nhào lên trút đạn xuống mặt đất. Các cỡ pháo sáng bắt đầu nổ lụp bụp trên không, sáng rực bầu trời. Hoàn thành nhiệm vụ xạ kích trong vòng một tiếng theo hợp đồng, anh Bảy ra lịnh cho pháo thủ băng qua lửa đạn rút lui.
Thực ra tiếng nổ lúc 24 giờ là của trung đoàn đặc công 113 đánh vào kho đạn Long Bình nổ tung, chớp lửa chứ chưa phải của trận địa chính, mà sự thực anh em Đoàn 10 cũng chưa bao giờ được nghe, thấy " pháo phản lực" bắn nên có sự nhầm lẫn đáng tiếc này. Hướng chủ yếu của Lê Bảy đã gian khổ, giờ lại chịu thêm ác liệt, người và đạn đang ì ạch giữa dòng, những ghe đạn nguỵ trang kỹ trông như những mô đất di động. Nước ròng sát kiệt, người kéo, người đẩy trông như những cọc bùn biết đi. Nhoài dần, nhích dần từng thước một tiến đến trận địa, mặc cho pháo đạn, máy bay chiu chíu qua đầu. Hàng chục tiếng đồng hồ dầm mình trong bùn nước, cái lạnh tưởng chừng như cắt da, rứt thịt, cái đói cào xé ruột gan, khái khô cả cổ họng... Những hơi thở nồng ấm thỉnh thoảng lại thì thào bên tai nhau:" ráng lên. Ráng lên...sắp tới đích rồi". Chiếc đồng hồ dạ quang trên tay Lê Bảy đã chỉ vào con số 2, anh rất lo lắng, như vậy đã muộn với giờ G hai tiếng.
Nước sông đang lên dần và đoàn ghe cũng vừa cặp bến. Quên cả mệt nhọc mọi người lao ngay vào công việc của mình: vác đạn lên bờ, chuẩn bị thước tầm, độ hướng... những hàm răng đánh vào nhau cầm cập, quần áo ướt sũng, bùn đất nhầy nhụa khắp người, công việc vẫn cứ thoăn thoắt.
Trần Phùng, Lê Đào cán bộ tiểu đoàn bám sát các chiến sỹ đo đạc, dựng pháo, dựng chống và kiểm tra tầm hướng. Những quả đạn ghếch đầu lên chạc ứng dụng với cự ly 10 cây số đúng vào tim Dinh Độc Lập. Mãi đến gần sáng trận địa vẫn chưa triển khai xong, một nửa số đạn vẫn còn nằm dưới ghe chưa chuyển lên kịp, chưa lắp kíp đầu nổ...
Một cuộc hội ý chớp nhoáng với các cán bộ chỉ huy được gấp rút triệu tập. Đại đội trưởng Trần Sung nói:" Tôi đề nghị cho ém toàn bộ đạn súngvà người tối mai đánh, vì bây giờ trời sắp sáng nổ súng không tài nào thoát khỏi vòng vây của địch". Chính trị viên Lê Chính:" Tôi đề nghị phải nổ súng đêm nay vì là mệnh lệnh hợp đồng phải thực hiện dù có phải hi sinh". Lê Bảy điềm tĩnh dằn mạnh từng lời nói: " Tham khảo ý kiến các đồng chí, bằng mọi giá phải hoàn thành nhiệm vụ bắn hết số đạn vào mục tiêu theo mệnh lệnh cấp trên, theo kế hoạch hợp đồng. Nếu ém lại ngày mai, có thể mất súng đạn là điều không thể chấp nhận. Đánh xong, tôi cùng tất cả anh em sẽ ém tại các mép lá, sẵn sàng chống càn bảo vệ mình đến tối, chấp nhận có thể bị thương vong, sẽ rút lui điều động nhau ra khỏi vòng vây sau. Đồng chí Thắng đại đội phó trinh sát đâu, đi nghiên cứu vị trí bố trí ém quân, đánh trả ngày mai". Sau giây phút suy nghĩ, yên lặng mọi người đều đưa nắm tay lên biểu thị sự đồng tình với người chỉ huy của mình. Lê Bảy vui vẻ mỉm cười sau một quyết định dứt khoát trước quyết tâm của cấp dưới, ra lịnh:
- Mọi công tác chuẩn bị phải thật khẩn trương, đúng 5 giờ sáng nổ súng
Công việc lại được chuẩn bị hết sức khẩn trương, không còn biết ai là pháo thủ, ai là chỉ huy, tất cả đều vác đạn, tất cả đều biết lắp đầu nổ, đều biết dựng pháo...Từng bó cây đước non làm chạc dựng thay cho nòng pháo đã chuẩn bị từ ở nhà, đạn được vác lên bờ rải theo vị trí qui định. Có đồng chí vác một lúc hai quả chạy ọp ẹp trên bùn. Thỉnh thoảng lại phải lăn ra né tránh sau một loạt đạn pháo địch nháng lửa xé đất xung quanh. Những tiếng thở è è ráng nâng từng trái đạn 50 ký lô lên khỏi bùn nước theo đôi chân run lẩy bẩy vì nặng nhọc vào các mô đất...


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác
Gửi bởi: satthat trong 06 Tháng Tám, 2008, 08:32:46 am
5 giờ kém 15 sáng, Lê Bảy đi kiểm tra lại một lượt trận địa 1, 30 quả đã lên giá hoàn chỉnh, 2 nòng pháo dài đã nghếch lên thẳng hướng, còn lại 2 quả chưa lắp đầu nổ do bùn đất,sét rỉ nhiều. Trận địa 2 cách đó vài trăm thước chưa chỉnh xong hướng tầm. Anh quyết định đưa 2 quả đạn xuống ghe và ra lịnh: " Trận địa 1 bắn". Lập tức những vệt lửa nháng lên sáng rực một góc trời, tiếp theo là những tiếng rít xé không khí lao về hướng mục tiêu . Nội đô Sài Gòn hực lên màu vàng, hồng kèm theo những tiếng nổ ầm vang. Xong xuôi, trận địa 1 được lịnh rút lui, anh em nhanh như sóc thu dọn trận địa và xuống ghe rạp mình đạp nước vun vút xuôi dòng nhờ mức nước thuỷ triều đã lên cao. Một trời pháo sáng của địch vàng vọt toả lên chơi vơi, soi rõ từng hàm răng cắn chặt vào môi, những cánh tay sải ra khua mạn thuyền thoăn thoắt đẹp như cuộc đua ghe ngo khi gần đến đích. Đồng bào các ấp chiến lược đều được đánh thức, họ reo hò, hoan hô, các chú bé chạy tung tăng, nhẩy cẩng lên hét to: " Ráng lên các chú ơi, nó không đuổi theo kịp đâu". Một chiến sỹ bỏ dầm bơi, đứng thẳng trên ghe, chiếc mũ tai bèo lật nghiêng rớt xuống nước, anh loạng choạng bụm tay vào miệng làm loa: "Cô bác xuống hầm ẩn nấp ngay đi, địch sắp phản kích đó...".
5 giờ kém 7 phút, một loạt đạn khác gần 20 quả của trận địa 2 lại như những con rồng lửa phóng lên, tiếp nối những vầng mây hồng nhạt rực lửa phía Sài Gòn. Sau mấy phút bất ngờ  choáng váng, quân địch đã xác định được hướng pháo kích, các loại phi cơ, các loại tàu chiến lại sôi nước, ầm trời phản kích. Có cả hàng bầy trực thăng hạ cánh đổ quân vì trời đã sáng tỏ. Trong lúc đoàn ghe đang lao vun vút về hướng Ông Kèo. Trận địa 2 chỉ chậm sau có 8 phút, không tài nào vượt qua được lưới bủa vây của bộ binh địch án ngữ và được sự yểm trợ tối đa của các loại hoả lực từ các cụm pháo. Chính trị viên tiểu đoàn Lê Đào ra lịnh nhận chìm ghe, giấu dụng cụ, toàn bộ lực lượng ém sâu vào những đám lá dừa nước mọc cao cặp theo mép rạch trong vòng vây của giặc, sẵn sàng chiến đấu khi có lịnh. Lính Mỹ đổ quân rải ngang, cắt từ Phước Khánh qua Quới Thạnh, lộ 19. Từng đoàn tàu hải quân tới tấp truy tìm, điên cuồng bắn loạn xạ.
Gần 6 giờ, lại 2 quả đạn bất thần xé trời lao vào mục tiêu, hai cụm khói màu da cam cuộn lên lơ lửng ngay nơi trận địa 1. Địch lập tức điều động lực lượng quay ngược trở lại, các toán lính Mỹ, nguỵ đổ bộ lên bờ la hét loạn xạ: "Vi xi, Vi xi, Việt cộng,xung phong...". Hàng trăm tên đổ bộ lên lùng sục,soi bới khắp nơi, nhưng chẳng tìm được gì ngoài những vết đạn cháy xém của hoả tiễn vừa phóng đi. Bọn sỹ quan lại tức tối thúc giục lính lùng sục, chúng cho rằng Việt Cộng dù có cánh cũng không tài nào thoát khỏi nơi đây khi cụm khói vẫn còn lơ lửng. Nhưng quân thù có biết đâu rằng chiến sỹ pháo đặc công Đoàn 10 đã có sáng kiến dùng đồng hồ hẹn giờ để chập mạch pin điện lắp vào 2 quả đạn, khi ta rút lui sau 1 tiếng, đúng giờ theo ý định, đạn tự động vút lên, lao vào mục tiêu làm địch bất ngờ, tức tối, bị động không làm sao đối phó được.
Khi nghe hai quả đạn nổ bay đi, Lê Bảy nhìn đồng hồ mỉm cười đắc chí " Thật khớp, bây giờ thì cho chúng mày cấu xé nhau". Anh cho dừng đội hình lại trên bờ sông Ông Kèo, gọi xã đội trưởng Ngọc đến giao nhiệm vụ:
- Đông chí cải trang luồn lại Phú Hữu, tổ chức trinh sát công khai liên lạc với anh em trận địa 2 đang kẹt trong vòng vây, vận động bà con tiếp tế cơm nước và dùi đường trở về đây.
Ngọc nói "rõ" một tiếng dứt khoát, không yêu cầu gì thêm, băng mình vào cánh rừng cỏ chằng chịt những gai góc của mảnh đất hoang.
Một ngày, hai ngày, rồi ngày thứ ba, vào lúc 2 giờ sáng Lê Bảy cùng vài đồng chí đang thao thức trên chiếc võng ni lông, từng đốm thuốc lá cháy đỏ trên môi. Hai ngày qua, chỉ có tiếng phi cơ và trực thăng, không nghe tiếng súng AK  nào nổ, các anh đã có phần nào vững dạ hơn. Và Lê Bảy cũng đã tổ chức thêm đội trinh sát quay lại Gò Me, Gò Bình Bác tìm đón anh em. Lúc này tại trạm phẫu thuật tiền phương bố trí ở tắc Xay Lúa do nữ quân y sĩ Tư Mến phụ trách với y sỹ Đào đang giải quyết một ca trọng thương. Đồng chí và anh em đang hồi hộp chờ đợi. Bỗng nhiên có tiếng chân lội ráng ào ào từ xa vang lại, mọi người nhảy xuống võng ở tư thế chiến đấu sẵn sàng. Út Xuân, Trọng Văn là chiến sỹ bảo vệ nhanh nhẹn xốc AK lao ra lùm cây sát bờ sống cảnh giới. Ba tiếng vỗ tay khe khẽ lặn vào đêm. Hai tiếng vỗ tay đáp lại, tiếp theo là bìm bịp kêu hai tiếng một. Lát sau 4 du kích cười nói rì rầm trogn đêm tối do Ngọc dẫn đầu, trong đó có cô Bảy Loan, một nữ du kích gan dạ dũng cảm của xã Phú Hữu. Họ ùa đến ôm chầm lấy Lê Bảy trong những bộ quần áo còn ướt sũng. Mừng vui trào ra nước mắt: Báo cáo anh, toàn bộ đội hình trận địa 2 vượt vòng vây an toàn cả nòng pháo ĐKB, không mất mát một thứ. Như sực nhớ điều gì, Ngọc cởi khăn rằn  quấn ngang đầu đưa cho Lê Bảy tờ giấy nhàu nát mà giao liên công khai của anh Mười Tâm cụm trưởng quân báo nội thành gởi ra. Anh bấm đèn pin lướt nhanh qua một lượt rồi đọc to cho mọi người cùng nghe " pháo ta bắn rất chính xác, một số quả trúng nóc Dinh Độc Lập, toà đại sứ Mỹ. Nhiều tên giặc Mỹ bị chết, bị thương, có hai tên là khách của Thiệu. Địch rất hoang mang, lo sợ. Hàng ngàn tên Mỹ bung ra càn xuống hướng các anh. Nhân dân phấn khởi bàn tán xôn xao. Mọi chi tiết tôi sẽ  thông báo sau...".
Tiếng sột soạt của võng ny lông rộ lên, không ai bảo ai, mọi người dậy gấp võng chuẩn bị tư trang trong tiếng cười, tiếng xôn xao bàn tán. Một chiến sỹ reo lên: " À, thủ trưởng ơi, tôi còn một túm gạo rang, mình sẽ làm một bình trà đặc biệt để liên hoan mừng chiến thắng cho ấm bụng rồi tiếp tục hành quân". Lê Bảy gật gù: " Ừ, được đấy". Anh ngắm những gương mặt, nụ cười đang rạo rực vây quanh bếp lửa bập bùng, lòng tràn niềm vui với chiến sỹ.
3 giờ sáng, đoàn ghe xuôi về tuyến 2, từng luồng gió biển mặn mà của dòng sông Đồng Kho, Thị Vải... vuốt nhẹ lên gương mặt các chiến sỹ Đoàn 10 vừa thắng trận. Họ im lặng lướt nhìn tạm biệt những lùm cây đen sẫm hai bên bờ, lòng lâng lâng kiêu hãnh và suy nghĩ miên man về những chớp lửa vút lên, phóng thằng vào sào huyệt đầu não của kẻ thù...


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác
Gửi bởi: satthat trong 08 Tháng Tám, 2008, 03:18:34 pm
BỐC CHÁY KHO XĂNG NHÀ BÈ
Lúc hội nghị ba bên đang gặp nhau ở trại Da-vid trong sân bay Tân Sơn Nhất giữa ba phía Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam và Việt Nam Cộng Hoà trong xu thế đế quốc Hoa Kỳ đang tìm con đường xuống thang chiến tranh trong danh dự, thì Nguyễn Văn Thiệu tổng thống cái gọi là Việt Nam Cộng Hoà lại hết sức ngoan cố, không thi hành hiệp định, liên tiếp tổ chức hành quân lấn chiếm vùng giải phóng gây thêm tội ác. Do vậy trung đoàn đặc công rừng Sác nhận được chỉ thị của cấp trên phải cho bốc lửa kho xăng Nhà Bè để làm hạ bớt nhiệt độ " cái đầu nóng" của tên Thiệu xuống.
Ban chỉ huy rất phấn khởi họp bàn gồm có Chỉ huy trưởng Lê Bảy, các chỉ huy phó Sáu Tao, Năm Hải, Chính uỷ Trần Thành Lập, phó chính uỷ Trần Nhâm với quyết tâm tập trung chỉ đạo một trận đánh hết sức quan trọng trong khi đang có hiệp định. Cái khó là làm sao đánh địch thật đau, chiến thắng nhưng không để lại dấu vết, bằng chứng để địch kiếm chuyện tố cáo ta vi phạm.
Với mục tiêu kho xăng Nhà Bè, thì trung đoàn đã thường xuyên tổ chức đeo bám điều nghiên nắm được khá chắc từ một năm nay. Cảng và kho xăng chỉ cách Sài Gòn có 8 cây số về hướng đông nam. Từ một thương cảng, Mỹ biến thành quân cảng lớn tiếp nhận nhiên liệu xăng dầu phục vụ cho chiến tranh xâm lược với một hệ thống bố trí hoàn chỉnh của 3 hãng Caltex, Shell, Esso, mà Shell là kho lớn nhất, rộng 14 ha, có 72 bồn chứa hàng trăm triệu lít xăng dầu, cung ứng cho 60% nhu cầu xăng quân sự cho miền Nam. Được bố phòng cẩn mật, chặt chẽ giống như các cụm kho tàng khác của Mỹ, có khác là thêm hàng rào sắt, hàng rào chẻ ba bùng nhùng cao 3,5mét khó cắt và vượt. Cũng chó, ngỗng, mìn trái, ánh sáng, đèn pha, tháp canh, còn tường cao 2 mét 5, có đường cho các loại xe hon đa, ô tô, xe đạp chạy quanh tuần tra thuận lợi. Đăc biệt là lực lượng liên phòng hỗn hợp bảo vệ từ trên không, dưới nước, đất liền dưới quyền chỉ huy của trung tá Nguyễn Đắc Di quận trưởng, kiêm chi khu trưởng, có thiếu tá Quách Vĩnh Chung ác ôn khét tiếng, từng nhận 3 huân chương " anh dũng bội tinh" chỉ huy tiểu đoàn địa phương quân 835. Dưới nước có giang thuyền số 30 với 11 tàu tuần tiễu, còn được lực lượng bảo vệ Bộ Tổng tham mưu và không quân Quân đoàn 3 sẵn sàng ứng cứu chi viện. Bên cạnh còn cảng hải quân, là căn cứ Đặc khu rừng Sác có hai liên đội bảo an gồm 10 đại đội chốt giữ do tên đại tá Hà Hữu Nhân chỉ huy, lại còn hai phi đội HU1A, 1 máy bay chỉ huy, đơn vị pháo 4 khẩu 105, 2 khẩu 155, giang thuyền 16 chiếc...
Cách tổ chức ra vào của công nhân hết sức gắt gao, mỗi người có thẻ nhận dạng do Shell cấp, sau khi cảnh sát quốc gia thẩm tra lý lịch kỹ càng, vào 100 mét phải có giấy phép đặc biệt của cảnh sát yếu khu. Tại khu bơm xăng, 7 công nhân dưới sự giám sát cảu 13 tên an ninh đều là thân cận của tên Võ Hoài Nam, giám đốc...
Trung đoàn liền điều động đại đội 5 đặc công thuỷ bộ về giao nhiệm vụ tổ chức một đại đội quyết tử gồm 8 đồng chí được chọn lọc: đại đội phó Hà Quang Vóc, trung đội trưởng Nguyễn Hồng Thế, trung đội phó Nguyễn Công Bao, cán bộ tiểu đội Nguyễn Văn Rực, Trần Ngọc Sỹ, Hoàng Hữu Hinh, Đỗ Hải Quân, Phạm Văn Tiềm. Tất cả do đại đội trưởng Cao Hồng Ngọt phụ trách, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Lê Bảy. Họ liên tục tổ chức nhiều đợt bám sát điều nghiên, mỗi tổ 2 hoặc 3 người vượt sông Nhà Bè rộng 1300 mét. Không thể trở về căn cứ kịp trong đêm nên phải ém lại tại các đám lá dừa nước đã bị chặt phát quang nhiều lần chỉ còn lại gốc. Mọi hầm sát rào, có khi ngay giữa rào, phải dùng bọc ny lon dán kín chui vào chị đựng cả ngày với túi gạo rang, bình toong nước để rồi đến đêm lại mò mẫm trinh sát tiếp. Một sơ hở nhỏ là không có lối thoát, chỉ duy nhất chiến đấu đến viên K54 cuối cùng. Nhưng sức con người có thể chịu nổi đến 3 đêm ngày là cùng, phải vượt sông trở về bàn giao lại cho tổ khác. Qua 14 chuyến vô cùng gian khổ, đã có nhiều lần thoát chết vì đụng địch lấn càn phát trống địa hình, anh em đã tiến hành trinh sát khắp vòng 3 mặt và 1 mặt cảng, nắm chắc địa hình bên ngoài, nhưng vẫn còn khó khăn là mặt rào bùng nhùng bên trong cao 3,5 mét chưa vượt qua được.
Về sau, trong một cuộc họp hiến kế, cả tổ nhận định rằng ở góc phải sát mép nước có bót canh, thực ra là toàn lính kiểng con ông cháu cha, vì sợ đẩy ra vùng 1 chiến thuật ác liệt nên chui vào đây, lại là dân chuyên ăn chơi, gặp trăng thanh gió mát chỉ ngủ gà ngủ gật, cứ đột thẳng nơi đó, vượt qua rồi từ bên trong cắt rào ngược ra đưa đội hình vào.
Một mặt, đơn vị liên lạc được với công nhân nội tuyến chuyển ra một sơ đồ bố trí trong kho đầy đủ làm cơ sở nghiên cứu đắp một sa bàn kho Shell gần đúng như thật, để huấn luyện anh em và thông qua phướng án tác chiến ngay trên bờ sông Ông Kèo.


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác
Gửi bởi: satthat trong 08 Tháng Tám, 2008, 04:14:33 pm
Vấn đề phải giải quyết là khí tài, đánh một bồn xăng cao 20 mét, đường kính là 15 mét thì bao nhiêu ký thuốc nổ mới thủng,đơn vị chưa có kinh nghiệm. Nếu thuốc nổ nhiều sẽ ảnh hưởng đến đội hình chiến thuật. Không thể đưa vào hàng trăm đặc công,đánh trận nội đô như thế. Lê Bảy bàn với Tư Tiên trưởng xưởng làm thử loại mìn lõm chỉ nặng 1 ký lô đưa áp vào vỏ quả bom đìa lép đã cưa, lấy thuốc đánh thử, rất phấn khởi về sức xuyên phá cả hai lớp vỏ. Nhanh chóng sản xuất ngay 50 quả cho nhiêm vụ.
Phát huy dân chủ bàn về kỹ thuật chiến thuật đặt trái, bấm kíp, thông thường là đánh theo lối cuốn chiếu, nhưng anh em nói ở đây cho chắc ăn, và không cho địch có thể dập tắt, thì mỗi người 6 quả cùng vào, phân công vị trí xong, bấm kíp đồng loạt cho nổ, kiểu này có nguy hiểm nhưng địch không tài nào cấp cứu nổi khi xăng đã bốc cháy cùng lúc.
Mấy tháng trời tập trung chuẩn bị các mặt, điều nghiên, khí tài, tư tưởng với 11 phương án dự kiến, chỉ có tiến công bằng mọi giá, không có rút lui, đến bây giờ đã đến độ chu đáo, chín muồi. Ban chỉ huy Đoàn 10 báo cáo quyết tâm lên trên đề nghị cho đêm 2 rạng 3/12 năm 1973 "bốc lửa".
Đơn vị nhận được điện số 205/ZN ngày 27/11/1973 của R do anh Tư Nguyễn ký, và số 270/ZN ngày 29/11 do anh Ba Kính- Phó tư lệnh Đoàn 27( sư đoàn 27 đặc công) phê duyệt phương án tác chiến của đoàn.
Sau lễ tuyên thệ tổ chức đơn giản, trang nghiêm trong căn chòi lá của đại đội 5 nằm ngay Rạch Lá, cách ấp chiến lược Qưới Thạnh không xa, có chân dung Bác Hồ, cờ Tổ quốc ngay giữa nổi bật trên nền vải đỏ hàng chữ vàng: " Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh", " Ra quân mang chiến thắng trở về", mũi trưởng Hà Quang Vóc hạ quyết tâm: " chưa đốt cháy kho Shell chưa trở về". Sau khi phát biểu căn dặn, động viên lần cuối, Lê Bảy ôm hôn 8 dũng sỹ, chụp chung nhau tấm ảnh kỷ niêm quý giá trước giờ xuất kích, cùng Cao Hồng Ngọt tiễn đưa anh em đến sát mép nước.
Đơn vị lại nhận được điện kiểm tra lần chót của anh Tư Chi ( tướng Trần Văn Trà) nội dung vắn tắt: " các anh đã rờ được bồn xăng chưa, có chắc thắng không, ai chỉ huy trận đánh?", Đoàn nhanh chóng báo cáo lại: " Đội hình 8 đồng chí đã chuẩn bị chu đáo, hạ quyết tâm bốc lửa. Người chỉ huy, trung đoàn trưởng Lê Bảy.
Vào một đêm tối trời lạnh, dòng thuỷ triều từ cửa biển Vũng Tàu theo con sông Lòng Tàu chảy xiết vào Nhà Bè. Bập bồng trên mặt nước, đội hình 8 dũng sỹ như những thiên thần ẩn hiện, gắn bó với nhau bằng sợi dây liên kết, thả trôi từ từ trong đêm tối hướng về kho Shell, với kỹ thuật điêu luyện họ dễ dàng lọt qua tất cả các loại tàu tuần tiễu, qua mặt cảng hải quân như người quen đi chợ.
Đến 21giờ 30 phút tất cả đã leo lên bờ sát mép hàng rào ngoài kho xăng, âm thầm tỉnh táo cùng nhai ngấu nghiến nắm cơm vắt cho chắc bụng trước khi bước vào trận. Nắm chặt tay họ nhìn nhau qua ánh mắt và thủ thỉ câu dặn dò cuối cùng: " Đồng chí nào về được, nhắn lời thăm anh em ở nhà và bà con rừng Sác". Nguyễn Hồng Thế lên đầu vị trí mũi nhọn, đến Vóc, Sỹ, Quân, Rực, Hinh, Tiềm, Bao mũi phó đi sau cùng. Mất 30 phút trước rào chống B40, Thế vừa đưa kéo cắt đến mắt thứ 6, thì có tín hiệu báo động của Vóc, phải lùi lại. Ba tên lính đang đi tuần tra tự nhiên dừng:
- Xẹt, xẹt, xẹt... ba quả pháo sáng vụt ra khỏi ống phóng trên tay, bung dù sáng rực cả một vùng. Tiếng hô to: Việt cộng, dừng lại.
Tất cả im lặng, nhưng đã sẵn sàng phương án thứ 6: bộc phá quét rào, xung phong đồng loạt, đánh bằng kíp nụ xoè theo kiểu " gió lốc". Nhưng vài phút sau chúng nó lại lững thững bước đi. Thì ra đây là thủ đoạn, hù hoạ của bọn lính đi tuần.
Tranh thủ thời cơ, Thế nhanh tay cắt tiếp, 5 phút sau rào B40 đã bị thủng. Toàn đội hình vuợt khỏi rào, đến khoảng trống 200 mét, thì toán lính đi xe đạp đến cách 10 mét. Tất cả nằm xuống yên lặng, chúng vừa khuất lưng đi qua lại lao lên. Thế, Vóc, Quân vừa vượt rào thứ 5 thì một vệt sáng đèn pha quét ngang, tốp lính tuần tra có hai honđa đến ngang chỗ Thế nằm, bỗng thắng két lại một chiếc, Quân sẵn sàng bộc phá ống, nhưng không thấy gì, chúng lại đi tiếp. Thế lại đặc kềm lên mặt rào cuối cùng cắt ráo riết.
0 giờ. Tất cả đã nhảy khỏi mặt tường xuống giáp mép bồn xăng. Tám dũng sỹ nhìn nhau không nói nên lời, mà chỉ đọc rõ niềm vui sướng qua từng ánh mắt long lanh. Lần chót, Vóc nhắc nhở lại nhiệm vụ như thì thầm, cho từng số, mục tiêu khu butagaz giao cho Thế, xong tổ 1 lao vào, Vóc chỉ rõ cho Hinh 6 bồn, Quân 7 bồn, Rực 6 bồn. Riêng tổ 2 gặp địa hình phức tạp, nhưng nhờ rất thuộc ở sa bàn nên cũng cùng đặt trái, điểm hoả đúng theo kế hoạch dã hợp đồng.


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác
Gửi bởi: satthat trong 08 Tháng Tám, 2008, 09:03:13 pm
0 giờ 20 phút. Bảy dũng sĩ đã áp trái đúng ngay điểm đặt với yêu cầu phải sát " co" ống dầu mép chân bồn, lần lượt ra khỏi rào 3,5mét. Riêng Quân phải né tránh tốp lính gác, nên chậm lại một lúc không kịp ra cửa đúng hẹn.
0 giờ 35 phút kho Shell bùng nổ. Còi báo động rú lên inh ỏi, liên hồi. Trung liên, M79 bắn xối xả vào khu cửa mở. Tàu, xuồng chiến chạy hỗn loạn trên sông. Trên bầu trời không còn yên tĩnh bởi trực thăng, đầm già, phản lực gầm rú ầm ĩ nhả xuống từng cột lửa đỏ nối đuôi nhau. Có nghe thấy tiếng thét nơi giữa sông: " bắt lấy nó, bắt lấy nó". Trong lúc Bao và Tiềm vượt sông đầu tiên lọt vào vòng vây của tốp tàu địch. Tốp thứ hai Sỹ, Hinh, Rực ra đên một phần ba sông bị địch phát hiện bắn súng, ném lựu đạn hàng loạt, anh em nhanh trí tháo dây liên kết, mỗi người thoát ra mỗi ngả. Lúc này Quân vẫn còn trong vòng nhốn nháo, nhanh chân vọt ra dưới ánh sáng như ban ngày, ra đến sông đụng một ghe máy, chúng bắn anh bị thương nhẹ nơi chân, lập tức một quả lựu đạn ném trả nổ tung. Quân chạy thoát. Vóc và Thế đón đồng đội ở cửa mở ra sau cùng., đến bờ sông quan sát thấy địch phong toả tứ bề không sao xuống nước được. Với kinh nghiệm dày dặn, hai anh lùi lại tìm chỗ ém an toàn ngay sát chân rào suốt ngày hôm sau mới tìm cách vượt sông thoát về căn cứ.
Trong kho xăng lúc này gần 50 tiếng nổ lục bục liên hồi, bốc lên từng cột khói, tiếp theo những vừng hồng nổi lên như cơn bão lửa càng lúc càng thêm dữ dội sáng rực cả bầu trời. Quan sát theo dõi từ xa cách 20 cây số vẫn thấy lửa khói rực trời. Suốt những ngày hôm sau, khói đen phủ kín cả bầu trời Sài Gòn- Gia Định. Đám cháy kéo dài 12 ngày đêm mù mịt. Địch tập trung tất cả các phương tiện chữa cháy hiện đại của Tổng trấn Sài Gòn, hải quân, lục quân, kể cả máy bay rải phủ chất hóa học cũng không dập tắt nổi. Cuối cùng, phải bằng cách xả ống các bồn dầu gần kề để chống lây lan của kho Caltex làm cho dầu chảy tràn xuống sông Sài Gòn, trôi qua Soài Rạp, chảy tới Vàm Láng, Gò Công hàng trăm ngàn tấn ra biển cả. Người nông dân ven triền sông phấn khởi chạy ra khua vết dầu loang bao vào chân gốc lúc của ruộng cấy đang xanh.
Địch phải thú nhận qua các đài UPI,Manila, AFP và báo chí công khai vì không che giấu được sự thật là kho xăng Shell hoàn toàn bị thiêu huỷ, cháy 35 triệu ga lông, khoảng 250 triệu lít, 12 bồn butagaz, cơ sở trộn nhớt, khu nhà lính cháy trụi, và chiếc tàu Hà Lan trong tải 12 ngàn tấn bị cháy lây. Thiệt hại tương đương 20 triệu mỹ kim.
Đến hai ngày sau thì 6 dũng sỹ đã cắt rừng, lội sông về đến Sở chỉ huy an toàn. Duy có hai đồng chí Bao và Tiềm theo tin địch và bà con kể lại bị 7 chiếc tàu vây bắt, khi áp sát thì hai trái lựu đạn quyết tử nổ tung. Hàng chục tên giặc chết và cùng chìm luôn theo hai anh dưới lòng sông.
Báo chí Sài Gòn, như Đại Dân Tộc, Độc Lập, Đông Phương sôi nổi đưa tin, bình luận, nhất là nói về nạn thiếu hụt xăng dầu trầm trọng. Nguyễn Văn Thiệu pảhi ra lịnh ngưng cuộc hành quân lên Kiến Đức, huỷ bỏ kế hoạch đánh phá vùng giải phóng. Quân thù điên đầu không rõ Việt Cộng đánh cách nào, ở đâu... có tờ báo cho là bị Việt Cộng pháo kích. Mãi cho đến sau này khi vào tiếp quản cơ quan Bộ Quốc phòng Nguỵ phát hiện hồ sơ vụ án kho Shell chất đầy 4 tủ sắt, qua hàng trăm câu hỏi, với kết luận trong biên bản mang ký hiệu 0481/TTLQ/ĐT:" Đây là một trận đánh do nội tuyến kết hợp với đặc công Việt Cộng thực hiện".
Trận đánh ngày 3 tháng 12 năm 1973 đã được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng nhì. Tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang cho hai đồng chí: Hà Quang Vóc và Nguyễn Hồng Thế/. Tuyên dương hành động anh hùng hai đồng chí: Nguyễn Công Bao, Phạm Văn Tiềm và tặng thưởng huân chương chiến công hạng hai cho 4 đồng chi: Sỹ, Rực, Hinh, Quân. Đơn vị cũng nhận được bức thư từ trong nội đô:
" Kính gửi đơn vị Quân giải póng đốt kho xăng Nhà Bè,
 Anh em công nhân chúng tôi vô cùng phấn khởi được chứng kiến cảnh hỗn loạn của đô thành Sài Gòn ngày 3 tháng 12 năm 1973 khi các anh đốt cháy kho xăng.
Vô cùng khâm phục và ngưỡng mộ lòng dũng cảm, tài trí của anh em, bằng cách nào mà lọt được vào khu vực kho với sự phòng ngự tối tân của Mỹ, Anh ở một khu chứa nhiên liệu quốc phòng lớn ở miền Nam. Anh em công nhân Sài Gòn chúng tôi xin nguyện đoàn kết đấu tranh chống bất công của chánh quyền Thiệu, cùng Quân giải phóng, buộc chúng phải thi hành đúng hiệp định Paris.
Sau đây, chúng tôi có món quà 500 đồng gởi tặng các anh trong ngày vui chiến thắng.
Thay mặt anh em công nhân Sài Gòn.

TƯ CÔNG NHÂN

Kính nhờ tỉnh Biên Hoà chuyển giùm cho đơn vị nào đốt kho xăng Nhà Bè"


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác
Gửi bởi: satthat trong 23 Tháng Tám, 2008, 12:12:37 pm
PHÁT ĐẠN B40
Sau thất bại Mậu Thân 1968 đến thời kỳ 69-72 trong chủ trương xuống thang, nguỵ hóa cuộc chiến, quân Mỹ dồn về khu vực quốc lộ 15 khá đông đúc để chuẩn bị rút xuống tàu về nước. Khu lòng chảo Nhơn Trạch trở thành điểm nóng với rừng chồi thưa thớt, diện tích trên dưới 50 cây số vuông, nơi đã từng là căn cứ địa cách mạng che giấu các cơ quan lãnh đạo, lực lượng võ trang địa phương bám trụ làm bàn đạp đánh phá các chi khu Long Thành, Nhơn Trạch và tiến công vào nội đô Sài Gòn- Gia Định từ hướng đông nam. Đoàn 10 rừng Sác cũng triển khai lực lượng ở đây bám kho bom Thành Tuy Hạ, kho xăng Nhà Bè, bến cảng Cát Lái.
Do vậy vùng này đã chịu đựng bom đạn ác liệt suốt ngày đêm. Các loại phi cơ, đại bác thi nhau nhả đạn mở đường cho xe tăng thiết giáp của Sư 1 Anh cả đỏ từ Long Thành qua Phước Thiền, Phước Lai thành đội hình hàng ngang càn sập cỏ cây. Lực lượng cách mạng phải xuống địa đạo hoặc lách ra xa, chui vào các ấp chiến lược, thật là khó trăm bề.
Trong một đêm tối trời của những ngày hanh hanh gió bắc, Lê Bảy đã điều động lực lượng, ém quân xuống mép rừng Sác dọc sông Ông Kèo để đối phó với đợt ủi phá rừng ngày mai mà anh em gọi là “ Úp lòng chảo” đã tiến sát đến sát mép giếng nước huyện uỷ. Vấn đề gay go nhất là còn trong tay 25 thương binh sau thời gian bám trụ chông càn chưa đưa về tuyến sau được, trong lúc rừng Sác mênh mông nước ngập không một chỗ nào gọi là an toàn. Nếu điều về rừng Giồng, phải vượt qua quốc lộ 15 dầy đặc quân thù. Còn đang chờ liên lạc với đại đội quân y chị Tư Mến dưới sông Thị Vải, tất cả khiêng vác, dắt díu nhau, mờ sáng mới đến đường ủi Bàu Lồng Sở Ông Cố. Trực thăng đầm già bắt đầu hoạt động, bộ binh địch cũng bắt đầu hành quân. An hem thương binh chỉ với 4 tay sung bảo vệ nằm gọn trong vòng vây giữa khu lòng chảo do chính uỷ Lê Bảy trực tiếp chỉ huy. Vừa may, đến được ba căn hầm của Đại đội 240  còn nguyên vẹn đang là vô chủ, mọi người cùng chia nhau xuống tạm trú ẩn nguỵ trang lại cẩn thận, ăn gạo rang, uống nước bình toong, sẵn sàng chịu đựng một ngày để tối lại mới tiếp tục hành quân.
Tất cả im lặng hồi hộp từng phút theo dõi mọi động tĩnh xung quanh. Bỗng có tiếng động…rắc…cây kho bị đạp gãy ở hai phía rồi im bặt. Đức Inh, chiến sỹ trinh sát bò vào báo cáo: “ Một đại đội biệt kích Mỹ nằm án ngữ vô tình sát sau lưng, cách miệng hầm 50 mét, chúng chưa phát hiện được ta”.
Lê Bảy cho triển khai mỗi miệng hầm một quả ĐH10, một quả mìn mo căng dây điện luồn vào trong, vỏn vẹn chỉ còn sáu quả mìn chờ quyết tử cộng với khẩu B40 và 3 khẩu AK.
Trực thăng quần đảo sát ngọn cây, quạt trống từng cụm cây bụi cỏ nhưng nhờ nguỵ trang tốt nên chưa bị lộ hầm. Một chiến sỹ đưa mũi sung AK rà theo thằng giặc lái mắt xanh trên đầu. Chỉ cần một phát đạn thôi là kết liễu đời thằng giặc Mỹ hung hăng. Lê Bảy lại phải truyền lịnh khẽ: “ Tuyệt đối không được nỏ súng khi chưa có lệnh”, đề phòng anh em tức quá đánh trả thì nguy hiểm, chỉ cần một tiếng động nhỏ lập tức bộ binh Mỹ tràn vào hầm ngay.
Chờ đợi và chờ đợi.
8 giờ 10 giờ, 12 giờ vẫn căng thẳng… đến 14 giờ tiếng xích xe tăng ủi rừng nghe rõ dần, rõ dần.. từ hướng Phước Thọ dội vào. Chúng tiến quân đúng hướng 3 hầm thương binh đang trú ẩn. Hai Quyết, đại đội trưởng kề sát tai Lê Bảy nói nhỏ : “ Chỉ còn 2 viên đạn B40, anh cho xuất kích đánh trước khi chúng tới để bảo vệ an hem”.
Trực thăng rà sát quạt mát cả tóc, một tình huống hết sức khó xử trí. Thực ra bắn 2 phát đạn cháy được 2 chiếc xe tăng trong hàng mấy chục chiếc đang ò ạt tiến công, không cứu vãn được tình thế rồi bộ binh tràn qua, cả đội hình bị tiêu diệt ngay.
Người chỉ huy kiên trì chờ đợi 15 giờ, tiếng xích sắt nghiến cây ngã ào ào. Rõ ràng chúng tới sát miệng hầm, đã thấy đất chuyển động theo tiếng động cơ của thiết giáp nặng nề. Lúc này nếu nổ hàng loạt đạng AK vào xe tăng thì không có ý nghĩa gì.
Không ai bảo ai tất cả dồn mắt ra phía miệng hầm chờ đợi. Số thương binh mệt dựa lưng vào thành đất nhắm mắt hồi hộp. Lê Bảy, Hai Quyết ngó đầu lên quan sát mồ hôi trán vã ra, cả thân người ướt đẫm không vì nóng bức mà vì thần kinh căng thằng tột độ.
Đến 16 giờ chiều, chỉ còn 10 thước nữa, đụng chiếc xe tăng đi đầu. Nhìn kim đồng hồ chỉ 16 giờ 15 phút, chỉ chờ có vậy vì kinh nghiệm cho hay rằng quy lụât họat động của sư đoàn Mỹ này cứ đến chiều phải co cụm lại theo điều lịnh chính quy. Không còn do dự dược nữa, Lê Bảy đưa tay vỗ vào vai Quyết. Hiểu ý, anh thúc cùi chõ vào Cường, với động tác của chiến sỹ đặc công, nhanh như chớp cặp nách khẩu B40 vọt ra khỏi hầm thì còn cách xe tăng chưa đầy 5 mét, nhờ còn rừng thưa che mắt địch nên tiếp cận sát mà chúng không hay. “ Đoàng” một tiếng nổ chat chúa chắc nịch vang lên, đich không còn phân biệt được, tưởng xe bị trúng mìn Vi-xi. Chiếc xe tăng đi đầu trúng đạn. Cường bò trở lại hầm, máu me đầy mặt. Thế là thành 26 thương binh.
Chúng gọi trực thăng quay trở lại rà sát, yểm trợ toán lính thợ sửa chữa chiến xích bị cháy đứt tung ra. Xong việc, chúng lịnh cho lùi xe về đội hình co cụm vì không dám ngủ ban đêm. Cả chiếc xe hỏng cũng được kéo theo, tiếng gầm rú xa dần, xa dần.
Trực thăng mỏi cánh bay về sân bay Biên Hoà. Các khẩu pháo nóng nòng mệt mỏi im tiếng. Đại đội biệt kích rút lui từ bao giờ. Đến lúc này an hem mới thở phào nhẹ nhõm. Mặt trời vừa khuất bóng, cho thương binh nhai tạm nắm gạo rang, hớp ngụm nước dự trữ cuối cùng, đội hình lại dìu dắt nhau xuống bến. Đã có chiếc thuyền đại đội quân y chờ đón, xuôi dòng về hướng sông Thị Vải. Gió lùa mát lạnh, rừng Sác mênh mông…


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác
Gửi bởi: satthat trong 23 Tháng Tám, 2008, 12:13:17 pm
CẢ NHÀ ĐI BỘ ĐỘI
Không chịu nổi ách kìm kẹp của Mỹ-nguỵ lại nghe tin rằng ở ngoài rừng đước có cách mạng về, ông Năm Hổ cùng 3 con trai, vào một đêm tối trời từ xã Cần Thạnh bỏ nhà, bỏ tất cả xé rào đẩy ghe bơi vào sông Tiều, Cá Nháp tìm đường cứu nước và tự cứu mình. Vậy là Đoàn 10 khi mới hình thành đến nay được bổ sung vào quân số 4 chiến sỹ tân binh người địa phương.
Suốt mấy năm liền với cây súng bá đỏ trên vai, tay chèo tay chống họ lặn lội khắp nơi sông rạch cùng anh em đánh tàu trên Lòng Tàu, chống địch lấn càn, đột phá chi khu Quảng Xuyên, đánh chìm tàu Mỹ ở Lôi Giang diệt hơn trăm tên…Họ luôn có mặt và lớn lên cùng với chiến công thành tích của trung đoàn.
Nhưng trong chiến trận có ai biết được đường bay của làn tên mũi đạn rủi may. Trong một trận đánh trên sông Lòng Tàu, tiểu đội trưởng Hùng trúng đạn hy sinh đúng vào cái tuổi gần 30, hài cốt được gói trong bọc ny lông đưa về bến bắc rừng. Ba Năm đến xem cũng chưa biết là con mình. Lần đầu tiên, ba Năm Hổ lau nước mắt tiễn con về nơi an nghỉ để tiếp tục lao vào trận chiến.
Và một năm sau, đại đội ĐKZ phục kích bắn chìm 3 tàu giặc trên sông Đồng Tranh. Khi vác nòng pháo lội sình rút lui, một viên đạn mồ côi, bay lạc trúng đầu trung đội phó Phước, anh ngục ngã dưới gốc chà là. An hem đưa về chôn cất ở gò cát Bà Bông. Lần này đơn vị chưa dám báo tin dữ đến cho ông Năm. Dần dần ba Năm cũng biết. Lòng quặn đau thương tiếc, nhưng trong suy tư cũng có niềm tự an ủi là do chiến trường quá ác liệt, căng thẳng, không riêng 2 đứa con của mình, mà có hàng trăm con em từ miền Bắc hậu phương lớn xa cha mẹ, vượt Trường Sơn chi viện vào, cũng đổ máu trên sông nước rừng Sác này. Tuy mất con nhưng đơn vị đánh được nhiều tàu, giết được nhiều giặc có làm dịu bớt đi phần nào nỗi đau riêng của tấm lòng người cha già.
Dự kiến trước tình hình, Lê Bảy bàn cũng ban chỉ huy rằng còn tiểu đội trưởng Hiệp con trai độc nhứt của ông Năm, phải giữ gìn cho giọt máu cuối cùng này, nên điều động anh về đơn vị trinh sát bảo vệ, hạn chế phân công Hiệp đi tác chiến nơi xa và điều ba Năm về văn phòng Ban chỉ huy để cha con gần gũi hơn.


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác
Gửi bởi: satthat trong 23 Tháng Tám, 2008, 09:19:32 pm
Địch tiếp tục bao vây phản kích quyết liệt sau Mậu Thân,chiến trường căng thẳng ngày đêm, từ người chỉ huy đến chiến sỹ đều phải vác súng đi tuần tra cảnh giới, bám đánh địch ngoài công sự.Hai trận tuyến cách nhau không đầy trăm mét. Một tình huống ác liệt lại xảy ra, A trưởng trinh sát Hiệp vác ĐH10 với cuộn dây điện bám đánh địch, đã nổ một quả tiêu diệt nhiều tên tại Bờ Tràm. Khi di chuyển, Hiệp vấp ngay vào trái mìn clây-mo Mỹ gài sẵn đã nổ tung, tan xác tại Ông Trúc cùng một số anh em khác. Sau khi địch rút, và mãi cho đến bây giờ cũng không tìm được hài cốt, vì vung vãi ra khắp đồi cát mênh mông.
Cuộc đời ba Năm trở nên trầm lặng. Nếp nhăn trên khuôn mặt hằn sâu hơn, nụ cười trên đôi môi già bớt tươi đi.Cái tuổi 70 nó đến, nhưng ba vẫn còn rất khoẻ, dần dần cũng nguôi cơn sầu não, vì tất cả cán bộ chiến sỹ trung đoàn như một gia đình đã trân trọng kính yếu, thân gọi là ba Năm với tất cả tấm lòng thực sự coi như cha ruột của mình. Và ngược lại, ba cũng thương yêu bầy con trẻ như 3 đứa con mình đã hi sinh, nên ba vui vẻ, cởi mở hoà mình với đơn vị, quên cả tổn thất riêng tư.
Tại Sở chỉ huy ba Năm thường cùng Lê Bảy chạy ghe máy đi móc ráp cơ sở hậu cần trong nội thành ra. Nét mặt thật thà chất phác,giọng nói nhẹ nhàng hiền hậu làm cho ông bà cơ sở dễ làm quen, bắt chuyện và kết nghĩa sẵn sàng cho gạo muối tiếp tế cho bộ đội. Còn vì một lẽ khác hơn là ông già vậy mà còn làm được lính giải phóng, động viên người khác tham gia. Họ có niềm tin rằng ba Năm không khi nào phản bội, đầu hàng giặc với ba đứa con hi sinh, vì người dân lúc này tiếp xúc với cách mạng họ không hề sợ giặc, nhưng tâm lý chung là rất sợ bọn đi chiêu hồi khai báo, gây thiệt hại cho bà con bên trong.
Ba là một ngư dân chân lắm tay bùn, quen với sông nước miền duyên hải nên có biệt tài về "lội cua, mò sò huyết", tuy cấp chỉ huy quy định hạn chế ba đi lội rừng, trời giá lạnh nguy hiểm, khổ nỗi ông già không chịu ngồi yên. Ông thường nói : " Một ngày tao không đi rừng lội sình là tao bị bịnh ngay". Trời vừa sáng, còn giá lạnh đã thấy ba cột ngang lưng mấy sợi lạt dừa, tay xách hai cây móc, một dài một ngắn nhẹ nhàng bước xuống sình, ngoảnh lại dặn với thằng con bảo vệ: " Mày nói với thằng Bảy thủ trưởng, tao đi lội cua một lát. Nghe bữa nay tụi nó họp đảng uỷ, cần bồi dưỡng cho bây một bữa". Thật vậy, chỉ vài tiếng đồng hồ đã thấy ba vui vẻ xách xâu cua đủ cỡ hơn năm ký lô và bao sò huyết về, ngồi rửa chân trên sàn, ba ngoảnh đầu cười : " Thằng Tám thủ trưởng đừng phê bình tao. Ba cũng tham gia với tụi bây giờ đánh trận đây".
Bom đạn rền vang, máy bay tàu chiến ầm ĩ, mặc kệ.
Đời ba giờ chỉ có thú vui với điếu thuốc rê quấn bằng giấy nhựt trình, ngồi trên sạp nước mấp mé, nước thuỷ triều dâng lên, nhâm nhi chén rượu đế với con khô đối, bên cạnh chiếc đài bán dẫn Sony nghe tin tức thời sự và lâu lâu, lội xuống rừng cho khoẻ tuổi già.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng được tin đứa con dâu vợ của Hùng gặp nhau trên rừng cũng hi sinh trên rừng giồng. Có lẽ đơn vị cũng không rõ tên tuổi thật của ba vì đâu có khai sanh lý lịch gì. Khi làm quyết định xuất ngũ phục viên, xét công lao thành tích xứng đáng phong cấp hàm thượng sỹ. Cái tên mới thượng sỹ của ba Năm được ghi thêm khi ba về với gian nhà tình nghĩa tại địa phương, do huyện Cần Giờ xây tặng. Lâu lâu thấy nhớ, leo lên xe đò về Nhà Bè thăm đơn vị, đến nhà thằng Bảy, thằng Tám thủ trưởng chơi đôi ngày. Hoặc ngược lại, anh em đi công tác ghé qua thăm hỏi đồng chí thượng sỹ ba Năm Hổ của mình.


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác
Gửi bởi: satthat trong 29 Tháng Tám, 2008, 08:27:04 am
HỘI ANH CHIẾN SỸ
Sáng tinh sương, không khí lành mạnh của màu đông tràn ngập, toả khói mờ mờ trên mặt sông rừng Sác. Lê Bảy, trung đoàn trưởng Đoàn 10 đặc công, khoác ngoài chiếc áo sỹ quan nguỵ cũ mèm, đầu đội nón nỉ đen bạc màu, ngồi trên mui phía sau lái chiếc ghe lắp máy dầu F5, thong chân trái giữ dây ga, chân phải ngoắc ra phía sau kềm đòn tay lái dài đến tận mui, để còn thừa hai cánh tay sử dụng chiếc ống nhòm quân dụng quan sát hải quân địch từ xa, khẩu AK bá xếp kẹp dưới đầu gối phủ lên đoạn lưới nguỵ trang đề phòng trực thăng rà thấp, không tốc lên được. Đàng trước mũi ghe, Đức Inh và Ba Chiến hai chiến sỹ bảo vệ đội nón lá thủ khẩu AK và túi lựu đạn mi ni, họ chạy khắp sông rạch trên sông nước rừng Sác cả ngày lẫn đêm với phương án tác chiến đã chuẩn bị sẵn : “ Nổ máy lướt sóng bình thường dưới tầm quan sát soi mói của trực thăng đầm già vì đã có lá cờ sọc ba que ( cờ nguỵ quyền Sài Gòn) phất phới tỏ vẻ là trung thành với chế độ Việt Nam Cộng Hoà. Hoặc khi phát hiện tàu hải quân Mỹ-nguỵ thì nhanh chóng luồn rạch vào các tắc, rạch nhỏ chằng chịt, nhưng nếu tao ngộ bất ngờ không còn con đường nào khác, nhứt thiết không thể bỏ ghe nhảy xuống nước hứng hang loạt đạn xối xả hay lựu đạn dồn dập nổ  tung, chỉ còn cách ga-răng- ty từ từ tiến về phía tàu chiến giả như ghe ngư dân chấp nhận xét hỏi, nhanh tay tung lựu đạn hàng loạt qua tàu địch và nai khẩu AK quét trên boong, nhảy qua đánh địch. Họ tự xác định với nhau là sẽ vinh dự đón huân chương chiến công, bảo tồn mình hoặc là cầm chắc trong tay ba bằng liệt sỹ “ Tổ Quốc Ghi công”. Do vậy, họ rất yên tâm bình thản băng băng trên sông nước giữa vòng vây của máy bay tàu chiến địch.
Vừa đến vàm Tắc Hông, gặp ghe máy ông Ba Râu từ ấp chiến lược Tam Thôn Hiệp chạy ra đi đánh cá, họ mừng rỡ ngoắc tay nhau và áp sát hai ghe vào bờ níu tàn bụi mắm.
- Chào chú Ba, sao bữa nay ra sớm vậy? Lê Bảy hỏi trước
- Ờ, các cháu, mấy ngày nay mong gặp anh em quá, giờ mới đụng đầu.
Rồi hai người ngồi trên sạp, ông Ba mặt đỏ rần bất ngờ hỏi vui
- Chú Bảy có coi hát bội không?Vậy chú thấy trên sân khấu, mặt xanh thì trung hay mặt đỏ trung?
- Dạ có chớ. Thông thường mặt đỏ là tôi trung, mặt xanh là nịnh thần, ai cũng biết.
- Vậy chú coi tui là mặt xanh hay mặt đỏ? Tụi tui sống trong sự kềm kẹp của ấp chiến lược nhưng lúc nào cũng trung thành với Cụ Hồ, với quân giải phóng đàng mình.
Còn chú Bảy mày mặt xanh dờn kìa
- Nói thiệt với chú, sang giờ chạy máy sương lạnh quá sao không xanh, tái nữa là đàng khác.
Lê Bảy cười đưa tay đón một chén nhỏ rưọu đế cho chú Ba vừa rót trong can ra, bọt cườm còn đóng vòng quanh miệng, làm cạn một hơi không cần mồi. Người dân làm nghề cua cá trên sông nước ở đây, thông thường có thói quen, bên phải can xăng thì bên trái can rượu nhằm chống chọi với muỗi mòng gió lạnh thâu đêm, vả lại cũng sẵn có mồi cua cá.
Ông Ba nói tiếp:
- Đó thấy chưa, chú mày thiệt là trung chánh hiệu rồi đó. Giờ thì trung nói chuyện với trung, có gì chú cháu mình bàn coi.
- Bữa nay theo ngày hẹn, làm sao triệu tập anh chị em mình họp mặt “ Hội Anh Chiến Sỹ”thường kỳ, địa điểm như cũ khoảng 9 giờ. Với lại lúc này tụi nó vây chặt các cửa khẩu, đơn vị hết gạo nhờ bà con mua giúp cho một ít.
- Cái gì chớ cái đó dễ thôi, tôi quay vô một lát, y hẹn địa điểm cũ nhé.
Nói đoạn, chú giựt máy quay ghe trở vào ấp chiến lược. Lúc sáng ra đi còn ngán tụi ác ôn thám báo theo dõi sát nút, khi có chút hơi men lại thêm gặp anh em đàng mình tiếp hơi, ông già Ba này đậu ghe ngay tại chợ bước lên bờ gặp số bà con cơ sở của mình kề tai thông báo như chuyện công khai: “ 9 giờ sáng này, Ban 2 Nhà Bè có trát đòi gấp không được vắng mặt nghe hôn”. Sự thật đây là mật khẩu cô bác đã ngầm qui ước với nhau: Ban 2 là anh em Đoàn 10, Nhà Bè là địa điểm họp ở Bà Bông, họ khôn ngoan nguỵ trang tránh địch theo dõi. Trong hoàn cảnh chiến trường ác liệt này ngư dân đi làm ăn phần đông là đàn ông, có ít phụ nữ, nên không thể tổ chức “ Hội mẹ chiến sỹ” như các nơi. Anh em có sáng kiến thành lập “ Hội anh chiến sỹ” để vận động tinh thần yêu nước, ủng hộ chăm sóc trung đoàn đặc công nơi rừng Sác. Mỗi người đi làm đều có giấy chứng nhận giấu theo, có gặp khó khăn, anh em đơn vị giúp đỡ bảo vệ an toàn.
Cách vàm Bà Bông chừng vài trăm thước vào trong ngọn rạch, có một gò đất nhỏ, chất độc hoá học đã làm cho rừng cây khô héo, trơ trụi thân cành, nước vừa lớn ngập tràn chỉ còn độc nhất cây mắm đen có tàn đứng chơ vơ. Dưới gốc cây, quây quần độ hai chục anh chị em bà con cơ sở từ trong ấp chiến lược An Thịt, được báo tin vừa chạy đến bằng đủ loại ghe xuồng, đủ thứ máy móc hơn chục chiếc ghim mũi bào bờ rạch, trên mỗi chiếc đều có cắm cờ ba que rũ rượi trước sự theo dõi của trực thăng, đầm già qua lại trên đầu. Hầu như trong những cuộc họp này ít khi vắng mặt các nhân vật nòng cốt như ông Bảy Cốc phó chủ tịch Hội, Hai Cam, Tư Trong, Hai Ngon, cô bé Bảy Thương... tất cả với nét mặt hớn hở như mở cờ trong bụng, họ chào hỏi nhau tay bắt mặt mừng và cùng im lặng nghe như nuốt lấy từng câu vọng cổ với giọng hát quen thuộc của Ngọc Hoa- Thanh Hùng, đài phát thanh Giải phóng, âm thanh lảnh lót bay bổng trầm nơi rừng tự do mà trong ấp chiến lược nghẹt thở họ rất thèm khát


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác
Gửi bởi: satthat trong 29 Tháng Tám, 2008, 08:28:29 am
Tiếp đến, bản tin Đài tiếng nói Việt Nam từ thủ đô Hà Nội thân thương, Lê Bảy tắt máy chiếc đài bán dẫn, vui vẻ nói:
- Xin chào tất cả bà con anh chị em trong ấp vừa mới ra. Sao tình hình giá cả tôm cua con nước này có khá không? Và anh bắt đầu kể lại mấy nét tình hình trong nước, trên thế giới, nào là nhân dân Mỹ ủng hộ ta đấu tranh cho hoà bình, đến chiến thắng Khe Sanh Quảng Trị... động viên bà con tin tưởng ở thắng lợi cuối cùng, ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam còn không xa...
Bà con phấn khởi nghe. Ông Bảy Cốc chen vào:
- Nhân dân mình rất phấn khởi, ta đánh lớn nên bọn ác ôn trong ấp lúc này cũng thun đầu bớt,bà con dễ thở hơn. Bữa nay cô bác gởi ủng hộ anh em Đoàn 10 gần hai tạ gạo, ít thực phẩm và thuốc hút dùng lấy thảơ, đó là tấm lòng của bà con.
Tiếng nói cười râm ran. Họ vừa hút thuốc, ăn trầu nhâm nhi truyền tay nhau ly rượu với mấy con khô, tâm tình cởi mở cùng với mấy anh em chiến sỹ Quân Giải phóng. Thật là một cuộc sống thoải mái, thâm tình trên lõm sông nước tự do.
Đột nhiên nghe tiếng súng nổ phía đối diện bên Gò Cát dưới vàm Bà Bông. Ngang bờ sông chỉ rộng hơn trăm mét, Lê Bảy dùng ống dòm quan sát kỹ, thấy rõ khoảng 10 tên lính chắc là từ bót Vũng Gấm hành quân xuống mép Sác lùng sục, trang bị cả bộ đàm thông tin, M79, đại liên đuôi cá đang chỉ trỏ qua phía bên này. Có lẽ chúng muốn sang kiểm tra là dân hay Việt cộng mà xuồng ghe đông đúc. Xung quanh đều là rừng trống trơn lại nằm trong tầm hoả lực bắn thẳng, nếu chạy vào trong cũng vẫn bị trực thăng phát hiện tác xạ và gọi phi pháo ngay. Đã có vài chị có vẻ hơi nhốn nháo gói mo trầu, đội nón lên đầu bước xuống ghe.
Lê Bảy bình tĩnh nói:
- Bà con yên trí không có gì đâu, cứ sinh hoạt bình thường. Với lại nếu tụi nó có qua thì mình là dân mò cua bắt ốc, làm ăn lương thiện có đủ giấy tờ. Còn chuyện đối phó, để bọn tôi tính.
Anh quay sang hội ý với Đức Inh một chiến sỹ đặc công thuỷ bơi lội giỏi như rái: “ Đồng chí lấy móc, giả người đi bắt cua nhanh chóng tiếp cận bờ sông đón sẵn, nếu bên kia bọn lính đi ghe máy qua làm bộ đón mũi xuồng nhận úp luôn cho tụi nó trôi chìm trên sông Đồng Kho đang chảy xiết, để cô bác kịp thời phân tán”. Đức Inh hiểu ý, nhanh nhẹn dắt dao găm, súng ngắn vào hông, lách mình một cái đã mất hút trong bụi chà là trước mặt.
Và lúc đó trong vàm Bà Bông có một chiếc ghe lắp máy đuôi tôm chở đầy lưới từ từ rẽ nước hướng mũi vào cụm ngư dân đang hội họp. Bọn lính bắn liền 2 phát kêu lại, buộc ghe phải chuyển hướng bên Gò Cát.
Ông Bảy Cốc nói:
- Chết rồi, ghe con Ba Tràu đó, nó đi giăng trong Tắc Chợ Rạch Tràm ra, không biết con nhỏ xử trí sao? Ông có vẻ lo lắng. Trên đầu, máy bay đầm già vẫn liên tục dòm ngó. Không khí im lặng, căng thẳng.
Cô Ba Trầu, cái tên anh em Đoàn 10 đặt cho, thực ra cũng không biết rõ tên thật là gì, một nông dân quê ở Hiệp Phước vùng đám lá tối trời nổi tiếng thời ông Trương Định vị danh tướng triều đình chỉ huy bám trụ đánh Pháp thời thực dân, dốt đặc cán mai một chữ không biết, vẫn chưa có chồng mà lại nghiền trầu nặng lúc nào cũng nhóp nhép. Thường mỗi con nước là cô có mặt đều trên khắp sông rạch rừng Sác này, đặc biệt rất gan dạ, bất cứ nhiệm vụ gì như liên lạc, trinh sát, ém súng đạn dưới lường ghe chở qua sông Lòng Tàu, mua gạo, mua thuốc Tây cho đơn vị, hễ giao đâu làm đó chẳng biết sợ là gì. Có lẽ cũng còn một động cơ nữa về mặt tình cảm, cô đang có người yêu chung thuỷ, trung đội phó Ba Chiến, đại đội 3, Đoàn 10 nên càng gắn bó thân thương sống chết với anh em hơn.
Không còn cách nào khác, cô đã phải ghim mũi ghe vào tốp lính, nhanh tay tắt máy, bọn lính xuống ghe chỉ bảo phải đưa sang đám ngư dân đang tụ tập. Bên này anh em theo dõi hồi hộp chờ đợi, chiếc ghe từ từ dang ra khỏi bờ. Ba Trầu dốc sức giựt dây quay. Năm lần bảy lượt máy vẫn im lìm không nổ. Nước chảy xuôi đua dần tốp lính về đuôi Gò Cát. Cuối cùng tên sỹ quan chỉ huy nổi giận chửi thề: “ Đ.m. Ghe cộ máy móc cái con c.gì, giựt hoài không nổ. Bộ mày muốn cho tụi tao trôi ra Vũng Tàu hả. Ghé vô.” Thế là chúng lại trèo lên bờ, tức mình siết vài băng đạn nổ vang trời, hành quân đi thằng về Vũng Gấm.
Từ phía Tắc Cò lại chiếc ghe khi nãy nổ máy giòn tan chạy ngược lên hướng chỗ bà con đang hội họp. Cột dây mũi xong, cô Ba bước lên tay xách gói thuốc rê, miệng cười toe toét.
- Tui ngu gì chị chết chùm với tụi nó. Nhờ mau tay khoá chặt chốt xăng, giựt đến rằm Tây cũng không nổ. Với lại cái máy tòng tọc con chó ghẻ này thấy phát ớn, tụi nó sợ chìm nên cũng đỡ.
Họ tiếp tục bàn tán râm ran vui vẻ. Anh Tư móc từ trong bóp ra quơ quơ đọc to tờ yết thị: “
Kể từ tháng 9 năm 1966, Nha Cảnh sát Đô thành trân trọng thông báo treo thưởng 10.000 đồng cho nhân viên nào bắt hay giết được 1 tên Việt Cộng có võ trang để bảo vệ cho ngày Quốc khánh 1 tháng 11. Các quân nhân kể cả địa phương quân và nghĩa quân, ngoài giờ hành quân trong đơn vị, nếu bắt được Việt Cộng đặc công trong Thủ Đô cũng lãnh thưởng nói trên. Ngoài ra với tư cách Uỷ ban an ninh hỗn hợp Sài Gòn- Gia Định, Trung tá giám đốc cảnh sát Đô Thành cũng lưu ý đồng bào nào tự tay hạ sát hay chỉ cho cơ quan an ninh bắt được Việt Cộng đặc công, sẽ được tặng thưởng từ 50.000 đến 100.000 đồng.
         Sài Gòn, ngày 18 tháng 10 năm 1966
Giám đốc cảnh sát quốc gia Đô thành Sài Gòn
Trung tá Nguyễn Văn Luận
”.
Rồi anh nói vui:
- Anh chị em thấy không, nó ra giá mua đứt con em đặc công Đoàn 10 của mình cả trăm ngàn đồng tương đương hàng chục lượng vàng đó, lính mình đen đúa vậy mà có giá dữ ha.
Họ đều cười nói vui vẻ rất thân tình như câu chuyện gia đình và sau đó từ giã nhau cùng nổ máy bung ra các sông rạch mỗi người mỗi ngả, mỗi nguời một nghề cua cá. Duy chỉ có anh Bảy Cốc người gốc Bến Tre là dân 9 năm vì tránh né luật 10/59, bỏ xứ trốn đi nhập vào cái cù lao Tam Thôn Hiệp lại này vẫn chưa chịu ra về. Ông nói:
- Thôi tôi ở lại đây chơi với các chú thêm chút nữa, nhậu lai rai vài ly chớ về trỏng nhớ lắm. Lâu lâu mới được gặp mặt.
- Anh còn phải kiếm mớ cua, mớ ốc là nồi gạo cho chị và các cháu ngày hôm nay nữa chớ. Tôi đề nghị thế này, đồng chí Chiến trinh sát, chớ câu cua cũng cừ lắm, lấy ghe bác Bảy chạy đi rập với em nhỏ, chú Bảy ở lại đây anh em mình tâm sự thêm.
Anh chủ tịch và phó chủ tịch “ Hội Anh Chiến sỹ” rừng Sác bàn công việc của Hội, tinh thần đồng bào đồng chí trong ấp, nhất là gút lại tổ chức mạng lưới trinh sát bám sát mục tiêu Đặc khu Nhà Bè, khu kho xăng chuẩn bị cho phương án đánh tiếp, khẩn trương cho nhiệm vụ tổng công kích, tổng khởi nghĩa mà thời cơ đã chín muồi...
Nước lớn vừa ngập rừng thì Chiến và em bé trai đã quay trở lại đưa lên giỏ cua mới rập còn tươi rói chừng năm ký. Thế là họ sắp xếp dụng cụ cua cá để rồi nổ máy ngược dòng sông về Sở chỉ huy ở Tắc Trũng để tiếp tục nhiệm vụ của mình.



Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác
Gửi bởi: satthat trong 30 Tháng Tám, 2008, 09:41:57 pm
TÌNH ĐỒNG ĐỘI
Ôm chặt chiếc vô lăng nhả thắng dần dần, Lê Bảy cho chiếc xe Jeep thả dốc trên con đường đất đỏ từ chợ Phú Mỹ xuống đến tận mép rừng Sác trên bờ sông Thị Vải. Anh đang suy nghĩ đến người bạn chiến đấu, người cán bộ chỉ huy dưới quyền của mình năm xưa- Tám Vĩnh, Đại đội trưởng trinh sát của trung đoàn đặc công đã từng vùng vẫy khắp trên sông nước chiến trường, được anh cho phép xây dựng gia đình với cô Út Cưng, một cơ sở giao liên tiếp tế trên sinh sống trong ấp chiến lược An Thịt trước ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Cặp uyên ương này chữ nghĩa thì ít, nhưng thành tích cũng khá nhiều.
Sống với nhau rất đầm ấm. Họ xuất ngũ về địa phương làm ăn đâu tận xứ Trà Vinh sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Không hiểu tại sao lại có tin vợ chồng Tám Vĩnh dắt con cái trôif đầu lên từ vùng vựa lúa đồng bằng sông Cửu Long để chui vào chỗ nước mặn quanh năm, chỉ toàn cây đước vẹt cằn cỗi, vì hậu quả của chất độc hoá học hồi chiến tranh, không một tấc đất cắm dùi. Sau 13 năm xa cách, người chỉ huy cũ quyết tâm tìm cho bằng được người chiến hữu năm xưa với tất cả tấm long.
Xe vừa dừng ở đoạn cuối đường, đã có mấy đứa nhỏ tuổi xấp xỉ nhau, mình trần trùng trục vây quanh chỉ trỏ. Đằng xa, một anh ngư dân nước da đen bong đầu trần, khăn rằn quấn cổ, một tay cầm cây móc bắt cua đang từ mép Sác lội lên, nheo nheo đôi mắt và hết sức bất ngờ la lên:
- Trời ơi, anh Bảy đi đâu đến đây?
- Đi tìm chú Tám mày chớ đi đâu.
Hai người chạy tới ôm chầm lấy nhau thân thiết mừng rỡ.
- Nhà chú ở đâu, ta về nhà nói chuyện đi. Lê Bảy hỏi
- Mời anh vào đây- Tám Vĩnh chỉ tay trước đầu xe
Nói là nhà, thực ra chưa đúng nghĩa chút nào, cái chòi lợp lá dừa nước thấp lè tè, phải hơi khom đầu để bước qua cửa, vách thì trống trước trống sau. Bàn ghế chỉ là cột lại mấy cây đước dọc ngang thành chỗ ngồi, chiếc chõng tre phía trong được trải manh chiếu cũ thủng nát. Không có nước mời khách, chỉ có gói thuốc rê quán với giấy nhựt trình. Vài cái chai lít cấn cặn đen dựng đứng dưới chân giường, rõ rang cái tật “ ba xị đế của anh chàng này vẫn còn giữ nguyên cùng tập quán của người lính trinh sát hồi xưa. Họ bắt đầu câu chuyện.
- Sao cuộc sống gia đình thế nào chú Tám kể lại nghe coi?
- Xin báo cáo anh Bảy vầy, vợ em là Út Cưng đó, anh còn nhớ không. Giấy quyết định cho phép thành lập gia đình hồi chiến tranh của trung đoàn cấp do anh ký tên, vợ em vẫn còn cất kỹ làm kỷ niệm, coi như tờ hôn thú. Nhà em đang đi bắt ốc len, đào chem chép ngoài rừng, nước lớn chút về giờ. Còn con, thì trời cho cũng kha khá, thằng thứ hai lớn nhất mười ba tuổi, tiếp theo ( Tám Vĩnh xoè năm ngón tay ra) cả thảy năm đứa, mà nhóc nhóc không thôi. Chỉ có đứa lớn biết đi bẫy gà nước, làm mướn kiếm gạo qua ngày, đứa nhỏ nhất mới lên ba.
- Chà, chú phá kế hoạch nhà nước qui định, quá mức ghi vôi rồi đó
- Kệ nó, biết sao giờ anh. Người ta nói “ Trời sinh voi sinh cỏ” sợ chi. Đông con thì có cực thiệt nhưng có đứa giữ em, coi nhà, đứa phụ chạy gạo. Khó bề này dễ bề kia. Với lại, vợ em nó mang bầu liền liền chớ có ai muốn đâu. Cảnh nghèo đèn đuốc không có, chẳng xe cộ đi đâu có lẽ vậy mà ru rú ở nhà riết nên càng đẻ dữ.
Tám Vĩnh cười hồn nhiên, quay ra sau, ngoái cổ ới một tiếng, đúng là mấy ông tướng con bu quanh xe lúc nãy chạy ào ào vào khoanh tay thưa, chào bác Bảy lia lịa. Sắc mặt trẻ tinh khôn nhưng mét mét xanh, rõ rang không phải là bác sỹ, Lê Bảy cũng thấy dấu hiệu của cuộc sống thiếu dinh dưỡng.
- Chú nói thử nghe coi, tại sao lại bỏ quê hương Trà Vinh chạy về đây?
- Giấu gì anh, đi chiến đấu về hai bàn tay trắng, với mấy đồng tiền xuất ngũ thời bao cấp. Đầu tiên chỉ mới có hai con nhỏ, cũng tưởng về xứ sở với sức lao động sẵn có, sợ gì ruộng rẫy, sẽ sống ngon lành. Nhưng cuộc đời lại không đơn giản như chiếc ba lô anh bộ đội, làm ăn càng ngày càng không sống nổi với mấy hột lúa thất mùa, con lại mỗi năm them một đứa. Tính nước cùng, dù sao cũng quen chiến trường cũ chạy về rừng Sác tá túc dù sao còn có con cua con ôc, con tép con tôm, cũng tạm có gạo có cháo qua ngày.
Lê Bảy gợi ý:
- Có một nguyên nhân mà chú chưa thấy rõ, có lẽ vì chú thím qúa đông con, bảy miệng ăn rồi mặc, rồi học hành, rồi ốm đau, đẻ chửa…trăm thứ, trong lúc đồng vốn không có thì làm sao sống nổi, dù cho ở đất nào cũng vậy. Đây rồi còn đẻ dài dài, chớ có chịu thôi đâu.
- Đúng anh nói đúng. Tụi em cũng thấy cái chính là ở chỗ đó.Mà chung qui cũng tại mình cả,chớ tụi nhỏ sin hra có lỗi gì với cái sự nghèo đói này.
Vừa lúc đó, vợ Tám Vĩnh vóc người ốm yếu với năm lần sinh nỏ trong cảnh nghèo đói, đầu đội bao ốc len đang đi lên, rửa chân ngoài ao xong bước vào nhà.Tám Vĩnh thử hỏi vợ:
- Má mày biết ai đây không?
Út Cưng ngờ ngợ khẽ cúi đầu chào.
- Anh Bảy rừng Sác đó, tìm đến thăm tụi mình- Tám Vĩnh cười
Chị vợ mừng quýnh chạy lại nắm tay, hỏi thăm ríu rít. Anh chồng ra “ chỉ thị” cho vợ con, ý như phân công tác chiến khi xưa:
- Thằng Tài chạy qua quán bên mua cho ba một lít rượu ngon. Má mày luộc mau mấy con cua lột, mớ ốc len. Mười ba năm rồi, dứt khoát phải nhậu với anh Bảy mình máy ly nghĩa tình, ôn lại cuộc chinh chiến. Khổ gì thì khổ, có rượu vô sẽ giúp cho mình quên đi hết. Sau rồi tiếp tục khổ nữa cũng được.


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác
Gửi bởi: satthat trong 30 Tháng Tám, 2008, 09:42:30 pm
Tám Vĩnh cười khà khà với câu triết lý sặc mùi men đế, mà cũng là tâm trạng thực của người nông dân lâm vào cảnh nghèo túng, đông con. Chuyền tay nhau không phải là ly, mà cái chén sành. Hai người tâm sự hết chuyện chung đến việc riêng, vui vẻ cởi mở. Có chất men vào coi như trên đời này chỉ có riêng họ với nhau bất cần mọi sự.
Nhưng trong đầu óc người chỉ huy cũ- Lê Bảy đang suy tính một nước cờ, vì tỏng lòng anh đang nhức nhối trước cảnh ngộ của Tám Vĩnh, cũng đi chiến đấu gần súôt cả cuộc chiến tranh, công lao cống hiến không phải là nhỏ, mà cuộc sống hiện tại lại quá cơ cực và rồi ngày mai đây, tương lai sẽ ra sao, trong lúc vẫn có số anh em đồng chí khác cũng đi tham gia cách mạng về có điều kiện khách quan thụân lợi nào xe cộ, nhà cửa tiện nghi.. . Nguyên nhân của sự giàu nghèo trong xã hội đua chen thì nhiều, nhưng đối với bầy con Tám Vĩnh thật là bài toán nan giải. Kết thúc buổi gặp gỡ, Lê Bảy mỉm cười đưa tay chỉ vào chòi, nói:
- Bây giờ thế này nhé, anh bàn với chú thím, thôi dẹp bỏ cái lều này đi. Ở chỗ này làm sao mà sống, con ốc con cua cũng ngày càng cạn kiệt, rồi còn việc học hành của con cái nữa. Chú thím sắp xếp ngày chuyển cái “ gánh nát” này về Gò Dầu- Phước Thái, cách đây có mấy cây số, rồi sẽ tạo điều kiện tổ chức lại cuộc sống, có anh có em, có bạn có bè…vẫn hơn.
Nét mặt vợ chồng Tám Vĩnh thoáng chút băn khoăn, sau thì rất phấn khởi vì thấy không còn có con đường nào khác hơn. Với lại vốn sẵn đã có niềm tin ở người chỉ huy cũ của mình.
Tiễn Lê Bảy r axe, Tám Vĩnh bảo hai con:
- Tụi bây đổ vào xe bác Bảy rổ khoai lang gởi bác gái, các anh các chị ăn chơi.\
- Khoai chú trồng ở đâu mà củ coi khá quá vậy? Lê Bảy hỏi khẽ.
- Anh biết không, tụi nhỏ đi đẩy xe ba gác mướn chuyển khoai từ rẫy xuống bến, họ trả công ăn độn đó.
 Lại them một nhức nhối nữa trong long, Lê Bảy móc bóp nhét vào túi mấy đưa nhỏ ít tiền, sự thân không phải trả tiền khoai mà muốn giúp cho nồi gạo buổi chiều nay của các cháu.
Năm sau, vợ chồng Lê Bảy có dịp qua, ghé xe lại Gò Dầu đến thăm Tám Vĩnh, gian nhà lá của họ bây giờ tươm tất hơn, có sạp có giường, có bàn thờ tuy dơn giản cũng tạm gọi là đàng hoàng. Vợ vẫn lội ốc, nhưgn có được chiếc ghe nhỏ chèo bơi khỏi phải đi ghép cùng người khác.Con đã có đứa cắp sách tới trường. Tám Vĩnh giờ là công nhân bảo vệ một xí nghiệp có đồng lương tàm tạm.
Hai người đàn ông ngồi với nhau “sương sương” vài ly, thì cô Út Cưng cũng vừa đi bán ốc về. Đã thấy chị mang them cái bụng khá nặng nề, Lê Bảy hỏi ngay:
- Ủa thím Tám lại chuẩn bị sanh, chừng nào đó?
Tám Vĩnh hơi nhăn nhó trả lời:
- Nói thiệt với anh chị, cũng lỡ sao đó, mẹ nó lại mang bầu, với lại vợ chồng tính với nhau đã có bốn thằng và một con, thôi kệ rang kiếm đứa út gái nữa đời sống vẫn khó khăn, lương em đâu có là bao, gần ngày mà mẹ nó vẫn phải lội ốc lội cua.
Tuyết Vân, vợ Lê Bảy cũng là người bạn chiến đấu cùng đơn vị với Tám Vĩnh ở chiến trường, nhanh miệng hỏi:
- Thím định sanh ở đâu đó, đi kiểm tra thai chưa, và có tính kế hoạch không? Tám Vĩnh đỡ lời vợ:
- Tụi em tính chắc là tuần này,hễ khi nào chuyển bụng, chở xe đạp ra nhà hộ sinh xã gần đây. Với lại mẹ nó sanh lần này là lần thứ sáu chắc là dễ thôi, như gà đẻ chớ gì. Còn cái “ kế hoạch” gì đó có nghe báo chí nói tới nói lui thì biết vậy, chớ anh chị nghĩ coi, tiền bạc đâu mà “đi cắt, đi thiến”
Lê Bảy im lặng suy nghĩ, rồi hội ý qua với vợ, xong anh nói vừa vui vừa nghiêm nghị:
- Bây giờ không còn bàn cãi gì nữa, chú biết tính anh rồi, coi như là lịnh thời chiến đó nghen, chỉ có chấp hành nghiêm chỉnh thôi. Việc sinh nở không thể đơn giản như chú Tám vừa nói, dứt khoát lần này phải đưa về bịnh viện Biên Hoà. Sẵn có xe đây, thím chuẩn bị rồi cùng anh chị lên đường cho kịp. Còn việc thứ hai, phải đi vào “kế hoạch” không thể để cho ông bà tự do nữa rồi. Sáu đứa là quá đủ. Cứ đẻ riết như gà lấy chi mà sống. Rồi đói khổ suốt đời. Nghe anh, kỳ này khoá sổ luôn. Anh nói vậy chú thím thấy sao?
Tám Vĩnh gãi gãi đầu trả lời:
- Kế hoạch của anh vạch ra thì hay, nhưng đơn chiếc quá, đi xa ai trông nom. Với lại chưa chuẩn bị tiền bạc gì. Còn đi lại ăn uống, thiệt là gay go anh Bảy.
- Chú thím yên trí, về trên đó ở nhà anh, sinh nở có chị đây là chuyên viên nuôi đẻ cho con gái, con dâu và cũng là người xung phong triệt sản từ khi sanh thằng Út Long, có kinh nghiệm ít nhiều. Mọi tổn phí anh chị sẽ cố gắng phụ. Chú chỉ ở nhà làm nhiệm vụ gà trống nuôi con, chăm lo mấy đứa nhỏ, đừng bỏ đi nhậu về là bị thím rầy đó (Đoạn anh rút giấy ra ghi vội). Còn điều quan trọng đây, chú phải ký tên vào tờ cam kết này, đồng ý cùng vợ tiến hành phẫu thuật triệt sản, nếu không ở trên đó không ai có thể thay chú được về khoản này.
Thế là chị vợ Tám Vĩnh xếp gọn tờ cam kết vào túi cẩn thận, xách chiếc bọc ny lon chưa có đủ tả lót, vì tưởng là sanh tại gia thì quần áo cũ bỏ ra cũng tạm đủ, từ giã chồng lên xe bắt đầu cuộc du lịch đặc biệt đầy lo âu.
Những ngày sau đó, trong hai mươi bốn giờ liền tại khoa sản bệnh viện Đồng Nai, sản phụ Út Cưng nằm mê man quằn quại, rên rỉ, cào cấu với


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác
Gửi bởi: satthat trong 30 Tháng Tám, 2008, 09:43:44 pm
những cơn đau giật liên hồi suốt cả đêm, đã đến lúc kiệt sức nhưng bào thai chưa chịu xổ.
Chị Tuyết Vân súôt đêm trực trắng bên giường sản phụ, chạy tới chạy lui mua dịch chuyền, thuốc kích dục theo toa bác sỹ và động viên an ủi Út Cưng, với tư cách là người thân thay mặt chồng sản phụ.
Sau cùng các bác sỹ phải tiến hành phương án tác động tích cực, gần nửa ngày sau, cháu bé gái nặng ba ký lô hai mới ra đời. Cả khoa sản thở phào nhẹ nhõm. Chị Tuyết Vân mừng ra nước mắt khi thấy vợ con Tám Vĩnh thoát khỏi tai nạn hiểm nghèo. Và theo đơn đề nghị, tới ngày thứ ba khi đã ổn định sức khoẻ, sản phụ được thực hiện tiếp bước phẫu thuật để triệt sản.
Bốn ngày sau, nhờ xe người bạn chở về khi “mẹ tròn con vuông”, cô Út Cưng ẵm đứa con gái xinh xắn, tường thuật lại cả quá trình gian khổ đớn đau nguy hiểm cho chồng nghe và cũng không quên khoe với Tám Vĩnh xếp tiền một trăm ngàn đồng bồi dưỡng theo chế độ nhà nước khuyến khích về triệt sản do bệnh viện cấp.
Lúc này Tám Vĩnh mới tỉnh người, rơm rớm nước mắt, tâm tình với vọ:
- Chà, nếu tụi mình không nghe lời anh chị Bảy đẻ sanh ở nhà, lần này chắc hai mẹ con đi đứt rồi. Giờ thì yên trí cái mục đẻ, chửa. Ráng chăm lo nuôi dạy không lớn sáu đứa là quá đã rồi. Biết ơn anh chị Bảy quá chừng.
Bốn năm sau, vào ngày Tám Vĩn hlàm đám giỗ bà nội sắp nhỏ, vẫn không quên gởi thơ mòi anh Bảy. Vợ chồng Lê Bảy tự lái chiếc xe Citroen đời cổ từ Biên Hoà xuống dự. Xe vừa tắt máy trước nhà, vợ chồng Tám Vĩnh vui vẻ đón mừng, kêu con: “Út Hoà đâu, ba má nuôi mày xuống kìa, chạy ra chào đi con”. Con bé khá xinh gái đã biết đọc chữ, mũm mĩm đến bên Lê Bảy khoanh tay cúi đầu chào. Thật là vui vẻ, cuộc sống gia đình ngày nay đã khác hẳn lúc xưa. Vợ chồng Tám Vĩnh không phải đi bắt ốc nữa, có quán nước bán cho công nhân nên trắng trẻo ra. Thằng Tài đi học nghề thợ tiện. Thằng Lực đi học sửa xe máy. Bốn đứa nhỏ đều đi học trường làng. Bạn bè bữa đó độ chừng vài chục người chuyền tay nhau ly rưọu trong tiếng nhạc của chiếc máy cassette cũ để cạnh chiếc ti vi trắng đen 14inches còn mới.
Có lẽ bây giờ Tám Vĩnh, hơn ai hết mới thấy thấm thía nguyên nhân sâu xa của cái nghèo vì sanh đẻ quá mức. Tuy làm kế hoạch có muộn nhưng vẫn còn kịp để có được ngày hôm nay.


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác
Gửi bởi: satthat trong 15 Tháng Chín, 2008, 03:53:29 pm
ĐÁNH TRẢ
Khi Mỹ bắt đầu cuộc chiến tranh cục bộ ở miền Nam, Đoàn 10 đặc công rừng Sác đã góp phần bằng cuộc đụng độ thử sức đầu tiên với các lữ đoàn lính thuỷ đánh bộ 196, 199 sừng sỏ vừa chân ướt chân ráo vào trận chiến, với chiến tích nhận chìm một tàu đổ bộ LCM chở theo hàng trăm lính Hoa Kỳ ở sông Giàng Xây và đánh tan cuộc phản kích 20 ngày đêm đưa xuống đáy sông Ông Kèo 40 tàu với khoảng hơn 200 lính Mỹ chánh cống. Khi quân Mỹ xuống thang chiến tranh, lại đụng sự chà xát quyết liệt của sư Anh Cả Đỏ, lữ 1 kỵ binh bay tập trung “ lật úp” khu lòng chảo Nhơn Trạch, phát quang địa hình toàn tuyến sông Thị Vải dọc quốc lộ 15, bảo đảm an toàn cho đầu cầu tập kết xuống xe tăng đại bác tại bến Gò Dầu chúng rút quân ra biển Đông, quay về đất mẹ.
Quần nhau mấy tháng trời với địch quanh khu địa đạo Phước An, giếng nước huyện uỷ Nhơn Trạch, Sở chỉ huy trung đoàn tạt xuống phía bắc rồi đến Ông Trúc.., địa hình bị chất độc hoá học khai quang, bom đạn tơi bời không còn chỗ nào có chút cây xanh tạm an toàn để đứng chân, nên Đoàn 10 đành phải đưa nhau về ém quân ngay tại khu Cá Tán, bên cạnh bến Gò Dầu và ấp chiến lược Phước Thái trong tầm cối 60 ly. Ở đây tiếng còi xe chạy trên đường 15 nghe rõ bên tai, ban chỉ huy vẫn triển khai công việc rừng Sác của mình.
Một ngày đầu tháng 6 năm 1971, Đảng uỷ Đoàn vừa họp xong. Tất cả cán bộ chỉ huy tranh thủ ngay trong đêm bí mật lội qua sông Thị Vải quay về các phân đội, thì mờ sáng địch tập trung vây đánh vào lõm cù  lao Cá Tán. Trên thì trực thăng đầm già quần đảo bắn phá, dưới sông bo bo, khinh tốc, tàu há mồm đổ quân vây càn bốn phía. Tình thế cực kỳ nguy hiểm. Toàn bộ nằm trong vòng vây không còn đường nào rút thoát, chỉ gom lại một số công sự cố thủ trên mặt sình lầy, bố trí mìn claymo, ĐH10, hoả lực B40 chuẩn bị đánh trả, ráng kéo dài thời gian cho đến tối mới có thể mở đường máu rút lui.
Lê Bảy trung đoàn trưởng bàn với chính uỷ Tám Lập:
- Chúng ta phải bám công sự đến tối sẽ tổ chức vượt sông, kiên quyết tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giờ tôi còn giữ cho hậu cần 300 ngàn đồng tiền mua gạo, nếu không may có bề gì thì mất hết, đơn vị bị đói. Vậy chia ra trong ban chỉ huy, anh Tư Hương, anh và tôi mỗi người cột ở cổ một trăm ngàn. Anh Tư Hương tranh thủ điều động bộ phận nặng ra bờ sông ém trước.
Trung đoàn phó Tư Hương nét mặt vẫn vui vẻ như ngày thường đang chùi khẩu AK, đề xuất:
- Anh cho tụi tôi tham gia nổ một chập đã, rồi hãy lùi ra
 Trước ý kiến đầy tính chiến đấu của người chỉ huy cấp phó, Lê Bảy không biết nói sao đành làm thinh trở về hầm mình sau một vòn đi kiểm tra trận địa. Trời vừa đứng bóng, tiếng giày lội sình đạp cành cây không từ hướng chính diện đã nghe rõ dần. Quan sát thấy tốp Mỹ da đen tay cầm mã tấu chặt rễ đước cắt rừng dọn đường tiến sát dần vào hầm. Lê Bảy khoát tay ra hiệu chấm điện... ầm...ầm... tiếng ĐH10 gầm lên, tiếng AK, AR15, B40 đại liên đuôi cá của cả hai bên nổ liên hồi, sình lầy tung tóe, cây rừng cành lá xác xơ. Hàng loạt hoả tiễn từ trực thăng loại 40 ly xối xả phóng chặn phía sau, đầm giá ném pháo màu chỉ điểm, bom đìa từ phản lực F5 nện xuống các nơi nghi có hầm trú ẩn. Các trận địa pháo nặng Phước Hoà, Bầu Sen bắn chặn cấp tập vào các hướng rút lui. Cả hai bên đành chịu đựng mấy tiếng đồng hồ nằm im tại chỗ bắn nhau không phía nào tiến lên được. Một đằng chờ phi pháo càn nát công sự để tiến vào. Một phía đánh kéo dài chờ cho trời tối, bám sát địch để hạn chế phi pháo. Đến xế chiều ngơi dần tiếng súng, Lê Bảy cho lịnh từng bộ phận lùi dần, lách ra các hướng tổ chức nhỏ le vây trở lại tiếp tục quần nhau với địch trên cù lao, bám sát bộ binh mà đánh chẳng còn thiết ăn uống gì. Sau hai ngày đêm, cuộc chiến mới giãn ra dần. Địch lui quân sau khi không thực hiện được mục đích đề ra, xuống tàu xuôi dòng về căn cứ hải quân Nhà Bè. Đơn vị thiệt hại mất đồng chí Chỉ huy phó, Tư Hương, bác sỹ Ba, chủ nhiệm quân y mới từ chiến trường Thủ Đức điều động về thay bác sỹ Quang hi sinh,trung đội trưởng Lý, cơ yếu viên Nhàn, chiến sỹ bảo vệ Dạo, Phu... tất cả thương vong hơn chụ người. Điện đài bị bom nổ văng mất, đứt hẳn liên lạc với R và T7 ( Bộ Chỉ huy Miền và Quân khu 7). Một cảnh cảm động nhất là Lê Bảy và Tám Lập chính uỷ mỗi người chỉ còn bám sát mình một chiến sỹ bảo vệ Biên và Thâm. Từ xa đã nhận ra nhau, họ gặp lại trong tư thế khắp cả mình mẩy đầy bùn chỉ còn khẩu súng ngắn cầm tay và đôi mắt sáng. Họ ôm nhau thắm thiết để xác nhận là thực sự còn sống qua cơn khói lửa đạn bom. Cùng phân công nhau đi tìm liên lạc với các bộ phận khác đang như những con cá thòi lòi lăn lộn ngày đêm, chui vào rễ đước, cụm chà là gai, ém dưới lòng lạch, bực sông hiểm trở...


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác
Gửi bởi: satthat trong 15 Tháng Chín, 2008, 03:55:25 pm
Đêm đó đơn vị lại cắt rừng, ôm bọc ny-lon vượt sông thả xuôi theo dòng Thị Vải, về khu Tắc Trũng đắp hầm làm sạp với các đơn vị hậu cần trinh sát về phụ Sở chỉ huy cũng vẫn nằm sát lộ 15, cách cụm quân Mỹ Gò Dầu, đường chim bay không đầy năm cây số.
Sau khi rút kinh nghiệm họ lại bàn nhau cách đánh trả thù, Lê Bảy phân tích tình hình, địch tuy vậy không phải mạnh, đang ở thế rút quân, nhịp độ chiến trường các nơi qua tin tức vẫn tiến công đều khắp. Ta phải khắc phục khó khăn, nổ súng sâu vào nội đô để dãn địch ra ở khu vực này. Sau cùng anh quyết định:
- Còn 4 quả ĐKB đang ém ở Rạch Lá, cho bộ phận đặc công nhanh chóng vớt lên hai quả luồn sâu lên sát tuyến Phú Hữu rót ngay vào dinh Độc Lập, tuy mục tiêu này chưa có lịnh nhưng lấy tiếng súng để báo cáo với cấp trên nhanh nhất là Đoàn 10 vẫn còn, Đại đội 5 cho xuất kích bằng trái mìn 100ký thuốc C18, Tư Tiên vừa sản xuất, cặp mạn đánh chìm tại chỗ chiếc tàu vận tải vạn tấn tới Nhà Bè. Phải lấy chiến thắng củng cố tinh thần anh em và bà con cơ sở.
Hai ngày sau, được báo cáo từ tuyến trên về kế hoạch đã được các phân đội thực hiện thắng lợi, đạn rót ngay vào nội thành, tàu dầu chìm tại bến, Sở chỉ huy vui mừng phấn khởi, nhân có ba Năm thượng sỹ già chỉ còn mình ba một tay lội cua nổi tiếng vừa bắt về hơn chục ký cua kình, cua gạch son và ông Năm Mạt Cưa cha đẻ của chiến sỹ Biên- bảo vệ từ Phước Thái ra thăm con đem theo can rượu đế. Thế là quân dân cùng leo lên sạp luộc cua, nâng ly vui vẻ tay bắt mặt mừng với bữa tiệc liên hoan nhẹ nhàng đầy ý nghĩa.
Trong khi đó ở Sở chỉ huy T7 ( quân khu 7) trên rừng lá Mây Tào, tư lịnh Hai Hồng Lâm ngồi bàn bạc với Mười Thà, phó chỉ huy phân khu 4 vừa về họp đã nghe tin qua đài.
- Ai ra lịnh đánh vào Dinh Độc Lập và đơn vị nào đánh đó anh Mười?
- Báo cáo với anh, mấy ngày nay điện đài liên lạc với Đoàn 10 rừng Sác bị đứt hoàn toàn. Tin kỹ thuật cho biết, rừng Sác chống càn quyết liệt, có lẽ máy thông tin không còn sử dụng được, mà đánh hướng Đông Nam vào Sài Gòn chỉ có Lê Bảy, chắc là anh em lấy tiếng súng báo cáo đó, tôi đã cho trinh sát dùi đường đưa máy dự bị xuống từ hai ngày qua.
Bởi lẽ thông thường hễ muốn đánh một quả đạn vào nội đô theo qui định phải có lịnh của từ R hoặc T7, đàng này Đoàn 10 cũng biết là chỉ có đánh sâu như vậy là cách báo động nhanh nhất để cấp trên hiểu rõ mình nên tự động phá rào một lần, sau này chẳng những không bị khiển trách mà còn được cấp trên biểu dương là có quyết tâm đánh trà và sáng tạo.
Sự thực đây chỉ là một trường hợp, một trận càn, một lần đánh của hàng ngàn trận, hàng trăm lần mà cán bộ chiến sỹ trung đoàn đặc công thọc sâu chấp nhận phải đánh trả để bảo tồn mình và chịu đựng tổn thất hy sinh trong muôn vàn khó khăn ác liệt để hoàn thành nhiệm vụ trên giao qua 10 năm bám trụ chết sống nơi mảnh đất rừng Sác thân thương này.


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác
Gửi bởi: satthat trong 15 Tháng Chín, 2008, 03:58:29 pm
MỘT ĐÁM GIỖ
Trong ý đồ xuống thang chiến tranh, thực hiện Việt Nam hoá cuộc chiến thay màu da trên xác chết, quân xâm lược Mỹ khẩn trương triển khai kế hoạch kinh tế thời hậu chiến, tổ chức các cuộc hành quân hỗn hợp chà đi xát lại liên tục, tập trung xe ủi đất phá quang địa hình, biến rừng thành rẫy, nhằm đầy lùi lực lượng cách mạng vào sâu bảo vệ hành lang vận chuyển của chúng theo trục quốc lộ 15. Mỹ- nguỵ đã điều động dân cư từ miền Trung vào, từ trong nội đô ra, các tổ chức tôn giáo xây cất nhà thờ, chùa chiền. Trong lúc đó, số anh chị em tri thức lực lượng thứ ba chống Mỹ- Thiệu từ Sài Gòn- Gia Định cũng tranh thủ trà trộn bung ra, kiếm đất cất chòi sản xuất để tự giải toả tình trạng ngột ngạt căng thẳng trong vòng rào kềm kẹp bao năm qua của địch và cũng tìm cách bắt liên lạc móc nối với cách mạng.
Trên đoạn đường quốc lộ 15 từ Gò Dầu, Phước Thái đến Phú Mỹ, Phước Hoà, ven bờ sông Thị Vải bắt đầu hình thành nhiều cụm dân cư đủ mặt các tầng lớp trong xã hội, từ kỹ sư bác sỹ đến lái xe. Đương nhiên chế độ Sài Gòn không quên cài cắm theo bộ máy Phượng Hoàng, mật vụ. Trước tình hình này, anh em lực lượng đặc công trung đoàn 10 cũng bị ủi lấn bàn đạp bám trụ nên đã có chủ trương bám sát dân để tiếp xúc, phát động bà con tham gia góp sức vào sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, một mặt cũng để tổ chức hàng rào tai mắt bảo vệ mình.
Trời vừa chạng vạng tối, theo lời mời của bà con, Lê Bảy, Tám Lập, Sáu Tao những cán bộ chỉ huy đơn vị cắt rừng từ mép sông Thị Vải đến căn chòi ông Năm thầu khoán, người gốc xứ Huế có vợ người Long An, một gia đình trí thức nằm cách bót bảo an không xa trong vùng chúng kiểm soát ban ngày, đêm thì lực lượng cách mạng vào làm chủ. Đã có đôi lần hai bên đụng độ nhau trong tuần tra phục kích tại đây.
Bước chân vào gian nhà lợp tôn nhựa, đã ngửi thấy mùi khói hương nghi ngút từ trên một bàn thờ. Qua ánh đèn dầu leo lét, nhìn rõ chiếc bàn gỗ bày biện các món ăn, thêm chai rượu cúng. Những người xung quanh đều ăn mặc không sang trọng, chỉnh tề. Một nhà sư trụ trì chùa Hộ Pháp kế cận khoác áo cà sa. Vợ chồng ông Năm với cặp kiếng cận nặng độ làm chủ lễ, bà Tư Kiếng vợ giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, ông Phan Mỹ nhà tư sản công nghiệp yêu nước, ông Sáu xe lam với cái giọng Huế trầm, sẵn sàng đọc một lèo năm bảy bài thơ Đường của các cụ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, ông Sáu Râu một tay anh chị đao búa bị tù Côn Đảo về, giờ cạo trọc đầu, mặc áo vàng theo cách mạng và một số bà con xung quanh, khoảng hơn chục người.
Lê Bảy kề tai nói nhỏ với Sáu Tao:
- Anh cho trinh sát cảnh giới bí mật từ xa hướng lộ 15, có gì báo động rút êm, hết sức tránh chạm súng để bảo vệ cơ sở và bàn đạp. Bữa nay chắc là cô bác mời tụi mình dự đám giỗ đây.
Sau khi tay bắt mặt mừng họ thì thầm thăm hỏi nhau như người ruột thịt lâu ngày mới gặp.
Ông Năm Thầu, xe xe tay nói rõ lý do:
- Thưa các anh Đoàn 10, đêm nay chúng tôi không trở về Sài Gòn, cùng rủ nhau ở lại để được gặp mặt các anh em đàng mình cho thoả mãn lòng mong mỏi lâu nay và có tổ chức bữa cơm cúng chiến sỹ, vì trong Mậu Thân 1968 có một tổ 3 anh Giải phóng Quân hy sinh ngay trước thềm nhà tôi bên cạnh một giếng nước. Không rõ tên họ quê quán ở đâu, cứ hàng năm đến ngày rằm, chúng tôi đều âm thầm tổ chức đám giỗ như thế này. Năm nay rất vui mừng được móc nối với các anh, cùng nhau thắp nén hương để tỏ tấm lòng thành của bà con nội đô.
 Thế rồi không ai bảo ai, mỗi người tự mình thành kính đốt nén nhang thơm và trân trọng cúi đầu cắm vào chiếc bình tạm làm lư hương.
Ông Phan Mỹ nói thêm:
- Thật ra cúng lễ bên cách mạng thế nào không rõ nhưng chúng tôi nghe nói lại, cúng anh em phải có thịt rừng nướng, nên sáng nay qua chợ Long Thành cố tìm mua cho bằng được miếng thịt heo rừng mong anh em chứng giám cho.


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác
Gửi bởi: satthat trong 15 Tháng Chín, 2008, 04:02:18 pm
Thật bất ngờ và trong không khí đầy xúc động chẳng ai nói nên lời. Có lẽ trong bóng tối đôi mắt mỗi người đều hoe đỏ rưng rưng dòng lệ chảy quanh tự đáy lòng mình. Hình ảnh 3 chiến sỹ Mậu Thân với những chiến tích anh hùng rực lửa năm xưa lại hiện rõ trong ký ức mỗi người. Một điều thêm xúc cảm là ta càng thấy rõ tấm lòng của người dân nội đô, mặc dù kẻ thù tàn bạo không chế thế nào đi nữa vẫn không thể nào kềm kẹp được lòng yêu nước, tình thương đối với anh bộ đội Cụ Hồ của người dân Sài Gòn- Gia Định. Sau cùng, họ cùng nhau quây quần vui vẻ quanh chiếc bàn nhỏ, cởi mở kể cho nhau nghe bao chuyện bên trong, bên ngoài...
Bà Tư Kiếng phản ánh tình hình:
- Ngày hôm qua lực lượng thứ ba tổ chức cuộc họp do tướng Dương Văn Minh chủ trì tại một khách sạn ở Chợ Lớn kết quả khá tốt, có mặt cả luật sư Ngô Bá Thành, ni sư Huỳnh Liên cùng một số nhân vật nổi tiếng khác, đều thống nhất quan điểm chống Mỹ- Thiệu độc tài, đấu tranh cho hoà bình hoà hợp dân tộc.( Rồi bà lấy từ trong ví ra một bức thư cuộn rất nhỏ trên mảnh giấy po-luya mỏng đưa cho Lê Bảy). Đây là báo cáo của anh Khánh từ trong nhà lao Chí Hoà, cán bộ tham mưu R bị địch bắt vẫn kiên cường bất khuất không hề khai báo, nhờ tôi chuyển ra, hôm với danh nghĩa Đoàn từ thiện đến thăm tù chính trị. Và có tin chính xác giáo sư Lê Quang Vịnh tuy bị kết án tử hình nhưng vẫn còn sống, hiện bị giam cầm cố ở Phòng 22 ngoài Côn Đảo, đề nghị các anh lên tiếng bảo vệ, đòi trao trả.
Bà là một giáo già, thân người nhỏ gọn, lanh lợi, vợ giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ bị trục xuất ra phía Bắc cùng với nhà báo Cao Minh Chiến độ nọ. Bà hoạt động rất nhiệt tình trong phong trào bảo vệ tù chính trị và hiện đang là cán bộ quân báo biệt động thông minh, tháo vát, ra vào thành phố như con thoi, móc nối với Đoàn 10 rừng Sác.
Nhà sư trẻ trụ chì chùa Hộ Pháp kể:
- Hôm tôi đi xe riêng vào thành phố đưa cháu Thành, con một chiến sỹ đặc công gởi vào gia đình nuôi dưỡng, thế mà vừa trở ra đến Hàng Xanh, cảnh sát Sài Gòn chặn lại hỏi ngay: “ Ông chở con Việt cộng xâm nhập, giao đi đâu rồi?”. Tôi trả lời là người tu hành thấy trẻ nhỏ dọc đường, cần giúp đỡ, nên đã cho mẹ con họ xuống chợ Bến Thành rồi. Qua mặt luôn dễ dàng.
Đúng là cô bác đã nguỵ trang làm một đám giỗ tạo điều kiện họp mặt nhau, nhưng lại là đám giỗ thật để truy điệu chiến sỹ Giải phóng quân. Như là đại diện cho nhiều tầng lớp nhân dân đang ngày đêm chiến đấu, cuộc họp mặt bàn việc nước, việc dân trong không khí hết sức đầm ấm của tấm lòng những người Việt Nam yêu nước quyết tâm cùng nhau chống Mỹ. Trước khi chia tay, Lê Bảy nói với ông Phan Mỹ nhờ chuyển lời đến ông Sỹ Tấn, một sỹ quan nguỵ Sài Gòn đang ủi chiếm hàng chục mẫu đất sát đường 15 cách đó chừng vài trăm thước:
- Nhờ anh Ba nói giùm với ngài trung tá nếu ông ta muốn yên ổn trồng tỉa ở địa bàn này thì phải chấp hành mọi qui định của cách mạng, không được ỷ thế ức hiếp dân. Ông ta không thể nào bố trí nổi mỗi gốc mãng cầu, gốc xoài một trái mình clay-mo hay một tên lính thì không nên chống lại Đoàn 10.
Tiếng ghe máy nổ giòn và xa dần trên sông Thị Vải giữa đêm khuya thanh vắng. Cô bác trong bóng đêm chắc vẫn còn luyến tiếc ngoảnh nhìn theo.


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác
Gửi bởi: satthat trong 15 Tháng Chín, 2008, 04:06:07 pm
Đầu năm 1976, vẫn còn một số tàn quân Mỹ-nguỵ chưa thông hiểu chính sách khoan hồng của chính quyền cách mạng, lỡ sa chân vào con đường tội lỗi tụ tập thành từng nhóm trong khu vực Tóc Tiên núi ông Trịnh, Thị Vải cướp phá gây rối trật tự đời sống dân cư. Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Đồng Nai tổ chức lực lượng truy lùng tiếp tục quét sạch tàn dư phản động này, kêu gọi anh em trở về với cộng đồng xã hội. Đại tá Ngọc, Chỉ huy trưởng Sở chỉ huy tại căn cứ Vạn Kiếp liên lạc bộ đàm với Trung tá Lê Bảy, nguyên trung đoàn trưởng Đoàn 10 rừng Sác thời chiến tranh, nay là Phó chỉ huy trưởng, đang điều khiển hành quân trên chiếc trực thăng quần đảo bầu trời Thị Vải dẫn dắt bộ binh cắt rừng tiếp cận mục tiêu.
Vào lúc 15 giờ, Lê Bảy liên lạc về Sở chỉ huy:
- Báo cáo đại tá, để kết thúc ngày hành quân tôi cho trực thăng hạ cánh trên mặt lộ 15 cây số 80 và đặt Sở chỉ huy phía trước tại đây.
Cánh quạt quay chậm dần, và chiếc trực thăng hạ cánh an toàn giữa chốt cảnh giới ở hai đầu. Lê Bảy cùng anh em xuống đường chỉ tay vào căn nhà rộng rãi nằm giữa vườn xoài, chỉ thị:
- Tất cả vào đây xin tạm trú, bố trí điện đài nhanh chóng bắt liên lạc với cấp trên.
Thực ra ngồi trên trực thăng quan sát từ độ cao, anh đã thấy rõ rừng được ven sông Thị Vải nối liền với khu chùa Hộ Pháp, xóm ông Năm Thầu khoán ở xã Phú Mỹ này. Bao nhiêu kỷ niệm thời chiến tranh được nhớ lại, vào ngày nào, những hình ảnh thân thương của các cơ sở mà thường đêm anh em lặn lội vào tiếp xúc giao nhiệm vụ. Anh cũng muốn nhân dịp này thăm hỏi bà con mà sau ngày giải phóng vì bề bộn bao công việc, chưa có dịp về thăm.
Vợ chồng anh chị chủ nhà trông dáng khoẻ mạnh, cũng luống tuổi, hết sức thân tình niềm nở tiếp đón anh em bộ đội, chỉ cho chỗ cao dựng cột ăng-ten, bày biện nước nôi trà lá và mời bữa cơm tối.
Lê Bảy mở đầu câu chuyện làm quen, thăm hỏi gia đình:
- Xin lỗi anh chị quê gốc ở đâu, về đây cư ngụ lúc nào, rẫy vườn ra sao?
- Thưa quý anh, tụi tôi về đây khai phá rẫy trước 75 được vài mươi mẫu, làm ăn lương thiện, thiệt ra hồi đó nếu mà tôi xấu thì anh Bảy rừng Sác, đặc công Đoàn 10 đã trị rồi. Nay gặp anh em mình, vui quá chừng.
Lê Bảy bấm tay anh Chín Ngộ, phó chỉ huy quân sự huyện địa phương, ngầm ra hiệu đừng tiết lộ, anh nhớ ra đúng là “ngài” trung tá năm xưa mà đã có lời cảnh cáo qua ông Phan Mỹ, nay mới được tận mặt.
Đêm hôm đó một cuộc gặp gỡ không được hẹn trước mà thành. Anh chị em con cháu báo tin tụ họp quây quần trước ngọn đèn dầu không leo lét âm thầm như lúc còn chiến tranh mà sáng sủa, nhộn nhịp vui tươi trong tình quân dân cá nước của những con người đã chiến thắng sau 30 tháng 4, tất nhiên cả gia đình chủ nhà, người sỹ quan chế độ cũ không đi di tản theo hạm đội 7 Hoa Kỳ mà tự nguyện ở lại với đồng bào, quê cha đất tổ.


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác
Gửi bởi: satthat trong 15 Tháng Chín, 2008, 04:08:21 pm
MÁ HAI TRẦU- ĐẠI ĐỘI PHÓ
Quê gốc ở xã Phước Thọ huyện Nhơn Trạch, gia đình má Đỗ Thị Trị có người con thứ hai, Nguyễn Văn Na hoạt động nội thành, bị địch bắt giam đày ngoài Côn Đảo, còn lại 3 trai, 1 gái và bản thân má đều tự nguyện tham gia đầu quân vào đơn vị đặc công rừng Sác từ thời cố thiếu tướng Lương Văn Nho làm Tư lịnh đặc khu sông nước này.
Dáng người nhỏ nhắn, lanh lợi hoạt bát có lẽ nhờ mấy miếng võ phòng thân được luyện khi còn son trẻ. Má ra vào công khai các thành phố Sài Gòn- Gia Định, Biên Hoà như cơm bữa, với giỏ trầu lúc nào cũng có trên tay,nên anh em đặt thêm cái tên thân thương má Hai Trầu cũng là biệt danh làm bình phong hoạt động. Có hôm má ăn mặc như một bà lão quê mùa, đầu đội nón lá, miệng nhai trầu bỏm bẻm, có lần lại áo dài sang trọng tha thướt, nước hoa thơm phức bảnh bao như dân thành phố dạo chơi để đi nắm địch tình. Bởi lẽ nhiệm vụ đơn vị giao khá nặng nề, cần cải  trang nghi binh luồn lách sâu mới hoạt động có hiệu quả. Phải móc nối xây dựng cơ sở nội thành, quan hệ với lớp người “ tai to mặt lớn” trong nguỵ quyền. Ngoài việc thu thập tin tức, tình hình địch ra, còn chủ yếu là vận động tổ chức màng lưới cung ứng hậu cần, với yêu cầu những mặt hàng chiến lược quan trọng phục vụ cho tác chiến, như lương thực, thực phẩm, đồ quốc cấm...Nhiều lần má nhờ cả mấy viên sỹ quan Sài Gòn có tinh thần yêu nước trực tiếp ngồi xe áp tải cam nhông đầy ắp hàng, cả ngàn thước dây điện đánh trái, pin quân sự PRC25, thuốc tây, nước chuyền máu khô cho thương binh...Có thể nói không một trận đánh trên sông Lòng Tàu, nơi kho tàng bến cảng, hầu như đều có bàn tay của má góp phần. Là một chiến sỹ giao liên công khai, là cán bộ hậu cần giỏi giang tháo vát. Là cán bộ quân báo có kinh nghiệm, má đã đóng góp công lao không nhỏ cho chiến thắng.
Một lần má phải xắn quần, xuống thế tấn, tung mấy cú đá vào mặt chúng nó tại chợ Bến Thành mới thoát khỏi vòng vây. Nhưng không thể nào suôn sẻ mãi “ đi đêm lắm ắt có ngày gặp ma”. Đúng như vậy, má đã phải năm lần sa lưới, rơi vào tay giặc. Từ nhà giam Hàng Xanh, đến trại nhốt Long Bình, nhà tù Quân đoàn 3, vẫn còn in đậm hình ảnh một bà cụ già, mái tóc hoa râm, mang số tù chính trị cứng đầu cứng cổ.
Trước nhiều đòn tra tấn dã man, từ đổ nước xà phòng vào mũi, cho đi máy bay, tàu lặn, lộn mề gà, thả rắn chui ống quần, ngồi đèn cực sáng...thôi thì má nếm đủ mùi không còn thiếu thứ gì. Vậy mà có lần trong trại tù Long Bình, biết là đơn vị cần, má lấy cốt trầu vẽ vào giấy nhựt trình bản sơ đồ bố trí, đường xá nội khu quân sự chuyển ra ngoài cho chỉ huy. Mỗi lần bị bắt, má hết sức kiên cường, chịu đựng cực hình không hề khai báo một lời. Cơ sở nội thành luôn bảo toàn nguyên vẹn. Má còn thuyết phục số giám thị, tay sai bằng lời lẽ chính trực và bằng thái độ yêu nước của mình. Sau nhiều đòn tra tấn, địch buộc phải thả ra vì bà già cứng đầu, đủ lý không có bằng chứng cụ thể kết tội. Theo dõi bắt lại, rồi thả ra. Thế nhưng má vẫn tiếp tục hoạt động không hề hoang mang sợ hãi. Với công lao đó, và niên hạn phục vụ quân sự đơn vị đã quyết định phong cấp hàm Đại đội phó cho một nữ quân nhân Quân giải phóng.
Phần má Hai Trầu là như vậy.


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác
Gửi bởi: satthat trong 15 Tháng Chín, 2008, 04:10:36 pm
Má động viên tất cả 4 đứa con còn lại vào bộ đội rừng Sác cầm súng trực tiếp chiến đấu. Nguyễn Văn Nết, Nguyễn Văn Năm, 2 đứa con trai vào chiến khu phát huy dòng máu cách mạng của mẹ già tham gia hoạt động chiến đấu.Một là trung đội trưởng, một là trung đội phó đại đội 3 pháo đặc công, cùng dự đánh nhiều trận vào lực lượng Hoàng gia Thái đóng tại Bầu Điều...Một lần, Năm vác B41 chặn bắn xe tăng tại Đồng Lớn, Nhơn Trạch, chịu một loạt đạn xối xả, anh bị trúng 1 viên xuyên phổi, sau thời gian  điều trị lại tiếp tục vào trận cho đến ngày toàn thắng. Thằng Út khi mẹ bị bắt, đơn vị đón vào lúc tuổi 14, tập sự làm giao liên trinh sát, sau về Sư đoàn 2, bị tai nạn nổ mìn hỏng một mắt.
Đặc biệt lần má bị địch bắt sau cùng. Quân thù không thể để yên cho bà già Việt Cộng này tự do bảy nhảy nữa. Đau đớn nhất là cô Chín Tiến, đứa con gái tuổi chưa tới đôi mươi, với vẻ thư sinh trắng trẻo, theo gót mẹ làm giao liên công khai, cùng với cô Hai Điệp ( hiện là Chủ tịch Mặt trận tổ quốc huyện Nhơn Trạch) mở tiệm may bình phong làm chốt đầu cầu bí mật ở thị trấn Long Thành, nối liền rừng Sác và nội đô. Trong một chuyến hai chị em vận chuyển hàng bằng đường sông, khi đi qua bót An Thịt, địch phát hiện bắt được cả hai đem về tra tấn, giam cầm, thâm độc hơn tổ chức hãm hiếp Tiến trước mặt mẹ già, buộc má phải nhận tội khai báo mới thả con ra. Má chỉ cắn răng chịu đựng, đau điếng người chớ không chịu hé răng một lời. Thời gian sau, cô Tiến bị loạn tâm thần, mê man điên dại, chúng mới thả ra. Vài tháng sau khi hoà bình lập lại, một cơn co giật đã cướp mất đi cuộc đời con gái ngây thơ của cô.
Má Hai Trầu bị đày ra Côn Đảo cùng với cô Hai Điệp, vì không khai thác được gì ở hai tù nhân chính trị cứng cổ này. Cái tội yêu nước chống Thiệu- Kỳ, tham gia đánh Mỹ thì quá rõ ràng không chối cãi vào đâu, chúng chỉ còn con đường đày ra Côn Sơn cho rục xương hai mẹ con mới hả dạ lũ bạo tàn.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chỉ huy trưởng Lê Bảy đưa chiếc xe Jeep xuống Vũng Tàu tìm đón ở chuyến tàu từ Côn Đảo chở anh chị em tù chính trị chiến thắng trở về. Gặp lại má Hai và cô Hai Điệp, họ ôm nhau, nước mắt dâng trào. Bao nỗi đắng cay tủi nhục, đau đớn giờ này coi như là đã giũ sạch.
Quây quần chung quanh tổ ấm hôm nay, dưới mái tóc bạc màu của má Hai Trầu, đại đội phó Quân giải phóng, chỉ vắng mặt em Chín Tiến. Còn thì Na, Nết, Năm, Út đầy đủ, tuy trong cơ thể sức khoẻ mỗi người không còn nguyên vẹn do bị hằn sâu vết tích bom đạn, tù đầy  nhưng thực sự được bù đắp bởi một mùa Xuân tươi sáng dưới ánh nắng ban mai.
Riêng má Hai Trầu, bàn tay già đã run rẩy trở lại khoác chiếc áo cà sa ngồi tụng niệm tại gia trước bàn thờ Phật cho êm giãn lại cuộc đời. Má tiếp tục cầu nguyện, cùng đất, trời cho văn minh, công bằng xã hội theo ý niệm riêng của má cùng của nhà Phật.



Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác - Đại tá Lê Bá Ước
Gửi bởi: satthat trong 06 Tháng Mười Một, 2008, 11:14:57 pm
BA MƯƠI THÁNG TƯ ĐẠI THẮNG
[/b]
Trong những ngày đầu tháng tư năm 1975 rực lửa ở chiến trường Xuân Lộc, cánh cửa thép của nguỵ quyền Sài Gòn bị Quân đoàn 4 của ta chọc thủng, thì cánh quân Quân đoàn 2 thần tốc từ miền Trung như chẻ tre tiến vào vừa kịp lúc.
Tại Sở chỉ huy cánh Đông đóng tại một lõm rừng thưa Bình Sơn, cách Chi khu Long Thành vài ba cây số, được điện của anh Tư Chi ( tướng Trần Văn Trà) tư lịnh Quân giải phóng Miền Nam chỉ thị cho sư đoàn 2 đặc công ở cánh Đông dừng phương án hợp đồng với Quân đoàn 4, mà đến nhận lịnh trực tiếp phối thuộcvới Quân đoàn 2, trong lúc toàn bộ lực lượng đặc công biệt động của Mặt trận gồm 3 trung đoàn đặc công, hai đơn vị biệt động Z1 và Z2 lữ 316, tiểu đoàn 81 Thủ Đức do sư phó Tống Viết Dương kiêm chỉ huy trưởng mặt trận đã đièu động vượt lộ 15 qua Tam An, ép sát vào cầu Rạch Chiếc, triển khai đánh chiếm Bộ Tư lịnh hải quân nguỵ mở cửa cho Quân đoàn 4 thọc sâu vào Sài Gòn.
Lê Bảy trung đoàn trưởng Đoàn 10 rừng Sác được điều động về phụ trách Chính uỷ Sư 2 đặc công kiêm chính uỷ mặt trận cánh Đông cùng với chiến sỹ Đằng trên chiếc xe hon đa chiến lợi phẩm luồn rừng, lách hố bom chạy về ngã ba Tân Phong nơi đám cao su non mà Bộ tư lịnh Quân đoàn 2 vừa mới đặt chân đang rộn rịp triển khai tác chiến. Sau khi bắt tay Phó tư lịnh Hoàng Đan ngoài ngõ, Lê Bảy vào thẳng Sở chỉ huy có mặt đầy đủ Tư lịnh Nguyễn An, chính uỷ Lê Linh cùng các cấp chỉ huy sư, lữ binh chủng hợp thành và cơ quan tác chiến vây quanh bản đồ chiến dịch.
Nhìn về phía Lê Bảy, Tư lịnh An giao nhiệm vụ:
- Bộ Tư lịnh đặc công biệt động cánh Đông có nhiệm vụ đúng ngày N, giờ G phải tổ chức đánh chiếm cầu Đồng Nai, cầu Rạch Chiếc, cầu sông Sài Gòn bảo đảm trục đường cho lực lượng Quân đoàn đột phá thẳng vào Dinh Độc Lập. Ở cánh thứ yếu, đánh chiếm bến phà Cát Lái cho mũi vu hồi vượt sông, các anh thấy thế nào?
- Thưa đồng chí Tư lịnh, tuy thời gian rất là khẩn trương, trong khả năng tác chiến của mình, chúng tôi xin chấp hành nghiêm chỉnh, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ Quân đoàn giao- Lê Bảy trả lời.
- Các anh có đề nghị gì không?
- Chỉ yêu cầu mục tiêu cảng Sài Gòn cho đánh chiếm N+1, chiếm sớm có khả năng thiệt hại vì quá sâu, xin cho 1 xe ô tô chuyển Sở chỉ huy theo đội hình và Quân đoàn cho biết thời gian chiếm giữ, tín ký hiệu hợp đồng.
- Sau N trong vòng 24 tiếng, tăng sẽ đến cầu Đồng Nai, đồng ý cầu Sài Gòn chiếm giữ N+1, tín hiệu hợp đồng, phòng tác chiến phổ biến. Đồng chí Đoá tác chiến, giao xe ngay cho đặc công. Đồng chí có thể về được.
Về đến Sở chỉ huy một mặt truyền lịnh, phổ biến nhiệm vụ bằng điện đài vô tuyến cho phía trước, cho rừng Sác, cánh E 113, Lê Bảy phân công tham mưu trưởng Bảy Nhuận tìm mọi cách soi đường vượt lộ 15 cả ban ngày qua các chốt soi đường vượt lộ 15 cả ban ngày qua các chốt dày đặc của lính nguỵ, tàn binh án ngữ, để truyền đạt kế hoạch tác chiến mới cho Tư lịnh Năm Dương kịp thời gian quy định.
Theo mệnh lệnh hợp đồng đúng ngày N ( mở màn chiến dịch Hồ Chí Minh), thì vào lúc 20 giờ 26/4 trung đoàn đặc công 116 tổ chức chiến đấu, tiểu đoàn 19 đánh chiếm và chốt giữ đầu cầu Đồng Nai, tiểu đoàn 25 và tiểu đoàn 40 bao vây giải phóng khu vực xã Long Hưng, An Hoà ( Bến Gỗ), giải tán tề nguỵ thu hàng trăm súng các loại, làm bàn đạp cho các đoàn phía sau.
Ngày 27/4 phát triển đánh chiếm nam kho Long Bình và đã chiến đấu kiên cường suốt ngày đêm với bọn tàn quân rút chạy từ Long Khánh và Long Thành dồn dập về theo hướng Sài Gòn.
Sáng 28/4 có 5 tầng địch từ cổng số 9 mở đường máu chạy ra Long Bình Tân định vượt cầu xa lộ, trên thế trận đã bố trí sẵn, anh em sử dụng B40, B41 diệt gọn không cho thoát một xe nào.
Hai ngày đêm liên tục địch phản kích quyết liệt bằng hàng vạn quả pháo từ các nơi bắn tới. Y, bác sỹ Giải phóng phải tập trung lo bằng bó cho dân bị thương khu vực Lò Phấn, đầu cầu xa lộ. Trong lúc này thì đặc công thuỷ vượt sông đánh chiếm đầu cầu phía Nam.
Ở hướng rừng Sác, trung đoàn 10 triển khai toàn bộ đội hình bố trí đánh chiếm các địa bàn xung yếu, khoá chặt con sông Lòng Tàu chặn đường rút chạy ra biển, một bộ phận chiếm giữ bến phà Cát Lái sẵn sàng đón mũi vu hồi của Quân đoàn 2.
Đơn vị đã cạn dần lượng đạn dự trữ mang theo vì phải đối phó với những đợt phản kích liên tục, do không chốt nổi lâu dài với tàn quân ngày càng dồn xuống đông đặc, Lê Bảy điện báo cáo tình hình với Quân đoàn, được Chính uỷ Lê Linh động viên " Quân đoàn đang tiến quân, các đồng chí cố gắng giữ chặt chốt đầu cầu".


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác - Đại tá Lê Bá Ước
Gửi bởi: satthat trong 07 Tháng Mười Một, 2008, 09:14:42 pm
Ngày 29/4 địch phá sập cầu sông Buông ngăn chặn xe tăng của ta, lữ đoàn 203 tăng pháo tự hành phải khắc phục tiến dần theo quốc lộ 15 đến Bến Gỗ, vừa chạy vừa bắn quét xối xả đạn 12 ly 8 ra hai bên đường, ngay cả vào đội hình 116 đang chiếm giữ. Trong lúc đó pháo binh địch dồn dập các hướng tập trung vào đoạn đường này từ 2 giờ sáng đến 3 giờ sáng, buộc số tăng đi đầu phải tạm dừng lại. Hai bên vẫn chưa nhận ra được nhau vì trời còn tối không rõ màu cờ, tại ngã ba Bến Gỗ, nhà thờ Tin lành, bên đặc công hỏi khẩu hiệu " HỒ CHÍ MINH" bên tăng đáp " 19 tháng 5" ( vì anh em nhớ nhầm khẩu lệnh ở Ninh Thuận) tưởng không phải xe ta, tổ B40 bắn hai phát liền, nhưng may mà không trúng. Khi hỏi lại " HỒ CHÍ MINH" đáp " MUÔN NĂM".
Lúc này hai bên mừng rõ nhảy ra khỏi công sự, xuống xe tăng ôm chầm lấy nhau. Tư lịnh Năm Dương cùng với Tám Sỹ E trưởng, Sáu Trực chính uỷ E đến gặp lữ trưởng tăng 203 tại cổng số 9.
- Ý kiến Quân đoàn thế nào xin cho biết? Năm Dương hỏi.
- Trong nội một ngày, xe tăng phải đến Dinh Độc Lập, nhưng bộ binh chưa đến kịp, địch tình phía trước, chưa nắm chắc, đường sá mới biết qua bản đồ. Lữ trưởng Tài trả lời
- Tôi trước kia là quân báo đã hoạt động công khai nhiều năm ở Sài Gòn, đường đi rất rành, địch tình có nắm được, vậy ta nên tiến công ngay. Tôi cho trung đoàn đặc công thay bộ binh bám theo tăng.
Suy nghĩ một chút, Lữ trưởng Tài đồng ý tổ chức hành tiến.
Gần 100 tăng thiết giáp các loại, được đơn vị 116 chỉ để lại một đại đội đặc công thuỷ giữ cầu đề phòng địch phá, còn lại tất cả leo lên xe tăng. Tám Sỹ E trưởng ngồi vào xe số 3, Tư lịnh Năm Dương ngồi cùng xe thứ 6 với lữ trưởng Tài và chủ nhiệm chính trị Minh.
6 giờ 30/4 toàn bộ đội hình vượt qua cầu xa lộ đến ngã ban Tân Vạn.
8 giờ 30/4 số xe đi đầu đến ngã tư Thủ Đức đụng với lực lượng kháng cự cố thủ ở Liên Trường bắn ra xối xả, lữ đoàn phải điều tăng đi vòng lại Chợ Nhỏ, số khác tạt xuống mé ruộng đánh lướt sườn, cùng lúc chớp thời cơ dân quân du kích xã Tăng Nhơn Phú tự động phối hợp vây đánh địch, sau 30 phút trở ngại đội hình tiếp tục phát triển, địch rút chạy. Bên ta 3 xe pháo cao xạ 37 ly bị xẹp lốp tại thung lũng Suối Cát vì đạn địch, 8 chiến sỹ hi sinh, 2 bị thương nhẹ.
Xe đến cầu Rạch Chiếc nhận được báo cáo của đồng chí Trần Văn Thinh tiểu đoàn 81 Thủ Đức cùng với biệt động đã đánh bại tiểu đoàn địch chiếm giữ cầu từ đêm 27/4 chấp nhận thương vong gần 50 đồng chí.
10 giờ 30 phút 30/4 đến gần bể tắm An Phú địch bắn vào ta, đặc công bộ binh xuống vây đánh tiêu diệt, bắt sống một số, tăng ta bắn trúng một tăng M48, đạn dược trên xe nổ tung đến 10 phút, 1 tiểu đoàn trưởng của ta hy sinh vì đạn lạc.
Cùng lúc 2 máy bay A37 từ phía trái vòng lên phía đông trút xuống 2 loạt bom nhằm phá sập cầu xa lộ và chặn đường tiến tăng pháo của ta, nhưng lùi ném chệch xuống nhà dân, làm 2 tăng ta lùi tránh bom bi, sa vào bãi lầy.
Đội hình tiếp tục chạy qua cầu Thị Nghè, đến đường Nguyễn Bỉnh Khiêm rẽ trái, đụng lộ lớn chay thẳng đến Dinh Độc Lập, chỉ vài chiếc đi đầu vượt quá đà rồi cũng quay lại mục tiêu. Ngồi trên xe thứ 6 Năm Dương, và lữ trưởng đã nhìn thấy xe đầu húc cồng sắt tràn vào, E truởng Tám Sỹ tổ chức vây bắt số lính bảo vệ , được hơn 30 tên gom lại gần bãi cỏ phía trước Dinh.
Đúng 11 giờ 20 bộ phận tăng 3 đồng chí, có đồng chí Bùi Quang Thận vác lá cờ giải phóng lao vào cổng chính, và bộ phận đặc công do 2 cán bộ Phạm Duy Đô, và Phạm Huy Nghệ vác cờ chay qua phía trái, mấy phút sau thấy cờ nguỵ Sài Gòn bị vứt xuống tơi tả, và 5 đồng chí phất cao 2 lá cờ Mặt trận giải phóng tung bay trước gió đúng 11 giờ 30 phút.
Trong lúc lực lượng đang triển khai bao vây lục soát, thì một bộ phận cán bộ chỉ huy gồm có lữ trưởng Tài, tư lịnh đặc công Năm Dương, chủ nhiệm Minh, chính uỷ Tùng và một số anh em bước vào thềm Dinh Độc Lập gặp ngay Đại đội trưởng đặc công Phạm Huy Đô chạy xuống hướng dẫn đi lên vào phòng có chiếc bàn hình bầu dục mà cả nội các nguỵ Sài Gòn đang còn như nguyên vẹn, tất cả đều đứng dậy. Tổng thống Dương Văn Minh ở phía đầu bàn bên trong nói:
- Tôi chờ các ông đến để bàn giao...
- Các ông không phải bàn giao. Phải đầu hàng vô điều kiện. Bùi Quang Thận trả lời.
Bên ngoài lúc này các cánh quân khắp năm hướng đang tràn ngập Sài Gòn- Gia Định trong tiếng vỗ tay reo hò vang dội, hoan hô quân Giải phóng dưới sự hướng dẫn của cơ sở nội thành, khẩu hiệu, băng cờ rực rỡ khắp nơi, nhân dân đủ các thành phần xã hội, đủ màu sắc áo quần, các nhà báo của nhiều nước vây quanh Dinh Độc Lập phấn khởi, chờ đợi, đón mừng...Sau nhưng phút ngỡ ngàng hồi hộp lo âu, nhiều binh lính Sài Gòn chạy theo sau xe tăng chào mừng, hoan hô cỏ vũ. Trong lòng những người lính này cũng dậy lên đôi chút niềm tự hào dân tộc, thôi thúc họ nhanh chóng hoà nhập cùng dòng người chiến thắng.
Trong giờ phút thiêng liêng này, Lê Bảy rưng rưng nghĩ đến bao người thân yêu như Kim Mến, Tám Tiếp, Đức Inh và những anh hùng liệt sĩ như đám con trai ông già Ba Năm, họ anh dũng đón nhận hy sinh để hôm nay họ không về kịp giữa Sài Gòn...Còn bao đồng chí, đồng bào cơ sở ở khắp Biên Hoà- Rừng Sác, Sài Gòn- Gia Định, miệt Vườn Thơm, Bà Vụ, xuống lộ 4...không sao kể xiết những hương hồn đã bỏ mình vì nước. Đứng trong Dinh Độc Lập nhìn ra bầu trời trong vắt, tự trong lòng Lê Bảy thắp một nén nhang... Ngoài kia, biển người của ngày chiến thắng vĩ đại vẫn trào lên như sống...


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác - Đại tá Lê Bá Ước
Gửi bởi: satthat trong 13 Tháng Mười Một, 2008, 07:49:56 am
PHỤ LỤC
[/b]
TÔI GẶP ĐẠI TƯỚNG
[/b]
Đoàn cán bộ lão thành tỉnh Đồng Nai dược Ban tổ chức Tỉnh uỷ cho ra miền Bắc đến nghỉ mát ở Đầm Vạc- Vĩnh Yên và đi thăm một só di tích lịch sử. Khi ngang qua thủ đô Hà Nội, dược biết ngày 26 tháng 8 năm 1996 là kỷ niệm sinh nhật lần thứ 85 của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, tôi nghĩ mình là một cựu chiến binh đã gần nửa thế kỷ chiến đấu dưới Quân kỳ, từ lúc còn là chiến sỹ thời đánh Pháp đã nghe nói đén Đại tướng, nhưng vì hoàn cảnh ở chiến trường miền Nam xa xôi nên mãi cho đến nay vẫn chưa được một lần gặp mặt, điều đó thôi thúc tôi tìm đến căn nhà số 30 Hoàng Diệu với quân phục chỉnh tề.
Các đoàn, các tổ chức đến thăm Đại tướng đều có hoa, có trướng kính tặng, riêng tôi chỉ với trái tim người lính chiến trường đến chúc mừng. Cảm tháy đôi chút bỡ ngỡ khi bước chân vào phòng khách, chưa biết Đại tướng sẽ tiếp mình ra sao.
Sau khi tiễn một doàn khách ra về, Đại tướng bước vào phòng khách với mái tóc bạc trắng như bông, đi khoan thai , nét mặt dịu hiền phúc hậu. Đồng chí đại tá bí thư riêng giới thiệu:
- Báo cáo Đại tướng ,đây là đại tá Lê Bá Ước nguyên là trung đoàn trưởng Đoàn 10 đặc công rừng Sác, đơn vị đã lập được chiến công vang dội thời kỳ đánh Mỹ.
Đại tướng đến siết chặt tay tôi, chỉ ghế đối diện mời ngồi và bắt đầu thăm hỏi. Thực sự tôi hết sức xúc động, không còn thấy rõ quân hàm đại tướng trên vai ông,mà chỉ thấy trước mặt mình là người Anh cả thân thương kính mến. Tôi nhìn rõ vào mắt, vào nước da đã trổ đồi mồi trên gương mặt vị chỉ huy, người Anh cả.
Tôi xin giới thiệu thêm:
- Xin được báo cáo với anh, tôi một cựu chiến binh, sỹ quan đặc công, nguyên là người chỉ huy Đoàn 10, đơn vị đã phá huỷ kho bom Thành Tuy Hạ, đánh cháy kho xăng Nhà Bè, nhận chìm nhiều tàu giặc trên sông Lòng Tàu, bến cảng, đã được Đảng, Nhà nước tuyên dương là trung đoàn anh hung trong lúc đánh Mỹ. Tôi từ Đồng Nai ra, xin phép được đến chúc mừng sức khoẻ Đại tướng.
Nét mặt Người vui hẳn lên, chậm rãi nói:
- Tôi đã đến Đoàn 10, đến rừng Sác sau ngày giải phóng miền Nam. Tình hình đơn vị hiện nay ra sao?
- Thưa Đại tướng. Đơn vị lập được thành tích trên nhưng cũng phải chấp nhận hi sinh hơn 800 cán bộ chiến sỹ.Chúng tôi có lập bàn thờ riêng tại nhà để hàng năm anh chị em đến họp mặt tưởng niệm. Mấy trăm anh em còn lại thì chuyển ngành, nghỉ hưu, thương tật về địa phương.Một số đồng chí trưởng thành đang làm việc. Hiện nay trung đoàn đóng quân tại Nhà Bè.
- Quân số bao nhiêu mà hi sinh nhiều vậy?
- Trung đoàn đặc chủng thường trên dưới một ngàn. Hao hụt thì miền Bắc bổ sung, từ miền Nam gia nhập, vẫn đủ quân số chiến đấu cho đến ngày giải phóng miền Nam.
Quay sang đồng chí Bí thư riêng, Đại tướng dặn:
- Ghi rõ địa chỉ hôm nào họp mặt báo tôi fax vào thăm anh chị em. Và Đại tướng dặn thêm tôi:
- Anh về viết lại những trận đánh ở rừng Sác gửi ra cho tôi.
Đại tướng đứng dậy cùng tôi đến chụp ảnh kỷ niệm trước tượng đài Bác Hồ đặt ngay trong phòng và tiễn ra trước cửa nhà, đến cạnh cây thiên tuế, tôi phát biểu lời từ giã:
- Kính thưa Đại tướng, tôi cũng như một số đông anh em cựu chiến binh ở phía Nam, gần cả cuộc đời mình dưới quyền chỉ huy của Đại tướng, nhưng chưa một làn gặp mặt người Anh Cả- đồng chí Tổng tư lệnh kính mến. Hôm nay tôi rất sung sướng chẳng những được Đại tướng tiếp, mà còn ân cần thăm hỏi đến trung đoàn.Xin được báo cáo thêm là chúng tôi ở phía Nam thường xuyên theo dõi, rất vui mừng khi thấy hình ảnh Đại tướng xuất hiện trên truyền hình, nghe giọng nói còn khoẻ mạnh. Kính chúc anh sống lâu với chúng tôi. Xin thành thực cám ơn Đại tướng.
Đại tướng bước đến ôm và hôn tôi. Trong ánh mắt ông, tôi dễ nhận ra những tình cảm yêu thương chân thành và sự nhớ ơn các cán bộ, chiến sỹ rừng Sác và bao đồng bào, đòng chí nơi vùng sông nước ác liệt đã anh dũng hi sinh cho hoà bình, thống nhất đất nước.
Bước chân ra về, tôi thấy long mình cứ lâng lân nguồn xúc cảm qua buổi gặp gỡ ngắn ngủi đầy tình đồng đội, đồng chí người Anh Cả lực lượng vũ trang.


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác - Đại tá Lê Bá Ước
Gửi bởi: satthat trong 20 Tháng Mười Một, 2008, 10:36:26 pm
DANH SÁCH LIỆT SỸ TRUNG ĐOÀN 10 ĐẶC CÔNG RỪNG SÁC ANH HÙNG( 1965- 1975)
STT   Họ và tên   Năm sinh   Ngày hi sinh   Quê quán
1. HÀ NỘI
1   Nguyễn Việt Lạc   1947   27/2/1970   Dương Quang, Gia Lâm
2   Nguyễn Anh Lê   1942   12/2/1970   Xã 44A đường 158
3   Vũ Tiến Lực   1938   13/3/1967   Châu Quỳ, Gia Lâm
4   Vũ Văn Phận   1940   11/12/1970   Lệ Thi, Gia Lâm
5   Bùi Văn Miên   1940   18/11/1970   Gia Lâm
6   Đặng Văn Nhu   1940   4/2/1968   Gia Lâm
7   Nguyễn Mạnh Quyền   1948   17/9/1968   Phú Thuỷ, Gia Lâm
8   Phạm Văn Soạn   1948   17/9/1968   Kim Lam, Gia Lâm
9   Nguyễn Như Thể   1938   2/10/1970   Đại Mạch, Đông Anh
10   Lê Hồng Tư   1947   30/9/1968   Quỳnh Châu, Gia Lâm
11   Lê Văn Thuyết   1947   26/11/1970   Tiến Bộ, Gia Lâm
12   Nguyễn Xuân Trinh   1947   28/12/1970   Thạch Bàn, Gia Lâm
13   Đinh Văn Thiết   1947   1/7/1970   Kiêu Kỵ, Gia Lâm
14   Nguyễn Văn Từ   1947   7/9/1968   Nội Xá, Gia Lâm
15   Nguyễn Văn Đồng   1948   1/3/1968   Tam Quý, Gia Lâm
16   Nguyễn Mạnh Hùng   1930   13/10/1969   Long Biên
17   Nguyễn Quốc Hưong   1947   17/5/1971   Châu Quỳ, Gia Lâm
18   Trần Văn Khanh   1945   21/10/1967   Quốc Tử Giám
2. HÀ TÂY
1   Nguyễn Văn Thái   1945   13/10/1967   Lưu Hoàng, Ứng Hoà
2   Đặng Văn Phú   1945   16/10/1970   Tân Hồng, Quốc Oai
3   Lê Văn Phẩm   1939   21/10/1970   Thuận Mỹ
4   Nguyễn Văn Thỉnh   1948   28/11/1971   Cự Thần, Thanh Oai
5   Đỗ Văn Sắc   1948   4/2/1968   Phù Hưng, Quốc Oai
6   Phùng Văn Tiến   1947   4/1/1971   Phú Mỹ, Quảng Oai
7   Bùi Xuân Tiến   1940   5/5/1971   Thanh Châu, Quốc Oai
8   Lê Văn Thân   1939   30/12/1967   Tân Lập, Quốc Oai
9   Từ Văn Tánh   1938   9/6/1968   Hồng Quang, Thường Tín
3. VĨNH PHÚ
1   Nguyễn Phú Bình   1948   28/4/1975   Hà Thạch, Lâm Thao
2   Cao Minh Chuyên   1948   27/8/1968   Bằng Giá, Hạ Hoà
3   Phạm Quang Định   1938   28/6/1970   Văn Lang, Hạ Hoà
4   Chu Văn Khí   1938   13/11/1969   Đồng Xuân, Thanh Ba
5   Nguyễn Văn Cử   1938   18/1/1967   Võ Toanh, Hạ Hoà
6   Đặng Cao Cân   1938   15/2/1970   Phú Khánh, Hạ Hoà


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác - Đại tá Lê Bá Ước
Gửi bởi: satthat trong 20 Tháng Mười Một, 2008, 10:37:13 pm
7   Vũ Văn Chu   1940   13/3/1970   Văn Hội, Tam Dương
8   Dương Văn Chinh   1940   26/9/1969   Hậu Bổng, Hạ Hoà
9   Trần Văn Đo   1940   28/5/1970   Dương Viên, Hạ Hoà
10   Nguyễn Hồng Diên   1940   21/10/1969   Bồ Sao, Vĩnh Tường
11   Hà Văn Huấn   1940   28/1/1973   Võ Miếu, Thanh Sơn
12   Chu Văn Khai   1940   5/3/1972   Hùng Long, Đoan Hùng
13   Lương Viết Khai   1940   10/2/1965   Tiên Hưu, Lâm Thao
14   Nguyễn Ngọc Luân   1940   7/4/1968   Xuân Huy, Lâm Thao
15   Lê Văn Linh   1940   14/1/1970   Khải Xuân, Thanh Ba
16   Đỗ Tiến Lý   1949   28/1/1973   Bắc Sơn, Đa Phúc
17   Đỗ Văn Kham   1949   17/9/1968   Võ Toanh, Hạ Hoà
18   Trương Văn Ngãi   1949   19/1/1971   Văn Lang, Hạ Hoà
19   Nguyễn Văn Trụ   1946   27/7/1969   Bằng Giả, Hạ Hoà
20   Nguyễn Văn Tín   1946   27/6/1970   Võ Toanh, Hạ Hoà
21   Trần Văn Quang   1946   19/1/1967   Kim Long, Tân Dương
22   Nguyễn Văn Tế   1945   27/6/1970   Thạch Hà, Thanh Ba
23   Nguyễn Văn Toan   1945   4/2/1968   Thanh Vân, Thanh Ba
24   Nguyễn Huy Tưởng   1945   7/4/1968   Tam Hợp, Bình Xuyên
25   Đoàn Văn Tham   1945   21/10/1969   Túc Lưu, Hạ Hoà
26   Nguyễn Văn Thiên   1945   4/2/1968   Minh Côi, Hạ Hoà
27   Dương Văn Thân   1945   2/6/1969   Minh Côi, Hạ Hoà
28   Đặng Tất Thắng   1949   3/5/1968   Bằng Giả, Hạ Hoà
29   Nguyễn Văn Thấu   1949   17/9/1968   Trung Nguyên, Yên Lạc
30   Nguyễn Văn Đỉnh   1940   10/8/1969   Tấn Phượng, Hạ Hoà
31   Vũ Văn Thưởng   1945   18/11/1967   Văn Lãng, Hạ Hoà
32   Nguyễn Xuân Yên   1947   16/6/1968   Đoan Hùng
33   Nguyễn Văn Bồi      24/4/1969   Vĩnh Phú
4. THÁI BÌNH
1   Bùi Văn Thứ   1950   25/1/1973   Phú Xuân, Vũ Thư
2   Nguyễn Văn Tiến   1952   14/1/1972   Hồng Tiến, Kiến Xương
3   Nguyễn Đức Huấn   1946   6/10/1970   Hồng Lịnh, Hưng Hoà
4   Võ Văn Thanh   1956   3/5/1975   Đông Hoàng, Tiền Hải
5   Trần Văn Thân   1948   7/11/1974   Hoàng Diệu, Đông Quang
6   Đỗ Cao Trí   1951   11/4/1975   Đồng Lâm, Tiền Hải
7   Trần Huy Toàn   1952   14/8/1974   Trà Giang, Kiến Xương
8   Hoàng Anh Loan   1938   13/10/1970   Vũ Thắng, Vũ Thư
9   Trần Ngọc Sỹ   1953   15/3/1975   Tán Thuật, Kiến Xương
10   Nguyễn Ngọc Xuyến   1953   28/5/1974   Minh Tân, Kiến Xương
11   Vũ Yết Kiêu   1948   14/6/1971   Chí Hoà, Hưng Hà


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác - Đại tá Lê Bá Ước
Gửi bởi: satthat trong 20 Tháng Mười Một, 2008, 10:38:33 pm
12   Nguyễn Đức Inh   1948   4/4/1975   Tây Tiến, Tiền Hải
13   Trần Quốc Phòng   1948   25/2/1970   Đồng Lâm, Tiền Hải
14   Lưu Văn Dát   1938   15/6/1971   Ninh Hưng, Kiến Xương
15   Đỗ Đức Được   1938   12/10/1969   Vũ Nghĩa, Vũ Thư
16   Lương Ngọc Đính   1942   6/8/1968   Quyết Tiến, Kiến Xương
17   Tạ Mai Huyền   1946   22/2/1968   Tây Giang, Tiền Hải
18   Đinh Văn Hoàng   1946   25/4/1968   Thái Bình
19   Nguyễn Văn Khảm   1946   22/2/1968   Quỳnh Thái, Quỳnh Phụ
20   Nguyễn Văn Khấu   1942   25/1/1968   Quỳnh Thái, Quỳnh Phụ
21   Nguyễn Văn Ngọ   1944   5/8/1968   An Ninh, Kiến Xương
22   Nguyễn Văn Quý   1945   4/3/1968   Thái Mỵ, Thái Thuỵ
23   Trần Văn Quang   1947   2/3/1968   Độc Lập Duyên Hà
24   Trần Văn Lễ   1952   15/6/1969   Quyết Thắng, Tiền Hải
25   Phí Văn Láng   1952   11/3/1970   Thái Thành, Thái Thuỵ
26   Nguyễn Chắt Xê   1952   15/5/1971   Nguyên Xá, Kiến Xương
27   Bùi Ngọc Tường   1952   9/9/1971   Trọng Toan, Đông Hưng
28   Vũ Văn Tiến   1952   27/2/1968   Minh Tân, Tiền Hải
29   Nguyễn Văn Tiến   1952   14/11/1972   Hồng Tiến, Kiến Xương
30   Vũ Văn Tiêu   1948   27/2/1968   Minh Tân, Kiến Xương
31   Trịnh Mạnh Tân   1948   20/10/1969   Hồng Toàn, Đông Hưng
32   Phạm Ngọc Thành   1948   1/6/1971   Vũ Thư
33   Nguyễn Đình Vy   1948   7/7/1968   Thuỷ Hải, Thuỵ Anh
34   Nguyễn Văn Vượng   1948   25/8/1973   An Đình, Hưng Hà
35   Lê Đức Vượng   1948   18/11/1967   Thuỵ Hải, Thuỵ Anh
36   Lê Văn Bảo   1948   30/4/1972   Nam Thắng, Tiền Hải
37   Nguyễn Văn Sung   1951   1/3/1972   Thuỷ Vân, Thuỵ Anh
38   Bùi Xuân Vân   1949   15/8/1972   Thuỷ Dương, Thái Thuỵ
5. HÀ BẮC
1   Trần Văn Cát   1949   21/7/1973   An Hoà, Hiệp Hoà
2   Đoàn Bắc Bình   1954   10/5/1969   Phú Hoà, Gia Lương
3   Võ Văn Đạt   1954   27/2/1971   Hà Bắc
4   Hoàng Xuân Dũng   1954   24/4/1974   Bình Định, Gia Lương
5   Nguyễn Văn Tuấn   1940   9/2/1972   Vũ Hoà, Tân Yên
6   Phạm Văn Ngư   1943   24/5/1974   Bình Định, Gia Lương
7   Nguyễn Văn Tiền   1946   17/9/1971   Tiền Phong, Yên Thế
6.QUẢNG BÌNH
1   Trần Ngọc Lâm      1/2/1973   Hạ Trạch, Bố Trạch
2   Đặng Văn Sơn   1954   22/10/1973   Đức Ninh, Quảng Ninh
3   Lê Quang Xúi   1954   26/9/1974   Quảng Thuận, Quảng Trạch


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác - Đại tá Lê Bá Ước
Gửi bởi: satthat trong 20 Tháng Mười Một, 2008, 10:39:22 pm
4   Trần Quang Vinh      1/5/1974   Lộc Ninh, Quảng Ninh
5   Nguyễn Gia Khánh   1952   8/4/1974   Tiền Hoá, Tuyên Hoá
6   Tràn Quốc Trực   1947   2/10/1966   Mỹ Thuỵ, Lệ Thuỷ
7   Phạm Xuân Việt   1949   16/6/1972   Đồng Hới, Quảng Ninh
8   Tưởng Vấn   1947   8/8/1968   Võ Tâm, Quảng Trạch
9   Đinh Xuân Liêm   1942   27/1/1968   Lâm Hoá, Tuyên Hoá
7. THANH HOÁ
1   Nguyễn Đình Bính      29/10/1973   Quảng Tân, Quảng Xương
2   Trịnh Ngọc Bính   1953   30/4/1975   Nga Thủy, Nga Sơn
3   Mai Xuân Bình   1954   20/6/170   Nga Thanh, Nga Sơn
4   Đinh Văn Dư   1952   14/10/1974   Nga Vịnh, Nga Sơn
5   Nguyễn Văn Ngọc      23/5/1974   Xuân Hoà, Thọ Xuân
6   Bùi Văn Nghĩa   1950   24/4/1972   Xuân Hoà, Thọ Xuân
7   Nguyễn Danh Minh   1954   28/1/1973   Hoàng Anh, Hoằng Hoá
8   Nguyễn Xuân Thảo   1956   28/4/1975   Hoàng Giang, Hoằng Hoá
9   Lê Đình Xuân   1954   28/4/1975   Quảng Lợi, Quảng Xương
10   Lưu Văn Khanh   1950   16/10/1974   Nga Thắng, Nga Sơn
11   Trần Văn Kền   1952   26/9/1974   Tùng Lâm, Tĩnh Gia
12   Lưu Hồng Quân   1952   3/12/1974   Yên Nhân, Thọ Xuân
13   Trương Lệnh Quy   1948   25/1/1975   Thiệu Phú, Thiệu Hoá
14   Nguyễn Tế Vệ   1950   25/1/1975   Thiệu Vân, Thiệu Hoá
15   Vũ Viết Bình      10/4/1975   Hoàng Long, Hoằng Hoá
16   Nguyễn Phong Ba   1945   10/6/1969   Hoàng Hợp, Hoằng Hoá
17   Trần Văn Cát      23/8/1971   Tòng Hải, Hà Trung
18   Nguyễn Quốc Cường   1945   26/5/1970   Hải Thanh, Tĩnh Gia
19   Phạm Văn Chính      14/1/1975   Minh Lộc, Hậu Lộc
20   Lê Văn Thọ      21/2/1975   Ninh Hải, Tĩnh Gia
21   Vũ Văn Đồng      9/9/1972   Hải Nhân, Tĩnh Gia
22   Phạm Hùng Đăng   1943   19/5/1971   Hà Ngọc, Hà Trung
23   Lê Văn Đỏ      1/9/1970   Hồng Phong, Hoằng Hoá
24   Trịnh Văn Giới   1952   1/9/1970   Ba Đình, Nga Sơn
25   Lê Văn Huyên   1943   12/11/1971   Tĩnh Hải, Tĩnh Gia
26   Mai Ngọc Hảo   1948   24/12/1974   Nga Sơn
27   Đỗ Văn Hải      4/7/1974   Quảng Ninh, Quảng Xương
28   Hoàng Viết Bình   1950   28/3/1972   Thái Hoà, Triệu Sơn
29   Hồ Bửu Huấn      25/8/1971   Trinh Tuấn, Vĩnh Lộc
30   Phạm Văn Ứng      19/8/1974   Hải Bình, Tĩnh Gia
31   Quách Công Kỳ      29/6/1969   Thạch Quảng, Thạch Thành
32   Nguyễn Văn Khấu      15/6/1969   Hải Thanh, Tĩnh Gia


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác - Đại tá Lê Bá Ước
Gửi bởi: satthat trong 12 Tháng Giêng, 2009, 10:26:49 pm
33.Lê Công Nghĩa    hy sinh 30/11/1969  Quê quán: Xuân Phong, Triệu Sơn
34. Bùi Văn Nam      hy sinh 04/12/1968  QQ: Thạch Sơn, Thạch Thành
35. Phan Đức Nghiêm   hy sinh 09/12/1972 QQ: Thạch Hà, Thạch Thành
36. Nguyễn Văn Quân   hy sinh 13/01/1968 QQ: Quảng Sơn, Quảng Xương
37. Bùi Văn Quảng     hy sinh 08/10/1970  QQ: Phú Lộc, Hậu Lộc
38. Bùi Văn Sinh      hy sinh 03/01/1969  QQ: Thạch Sơn, Thạch Thành
39. Phạm Văn Thủ    hy sinh 22/02/1970  QQ: Thiệu Tân, Thiệu Hoá
40. Bùi Duy Thao      hy sinh 14/07/1973 QQ: Thiệu Giao, Thiệu Hoá
41. Đỗ Viết Trọng     hy sinh 09/09/1971 QQ: Thiệu Quang, Thiệu Hoá
42. Phạm Văn Tiềm   hy sinh 03/12/1973  QQ: Bình Minh, Tĩnh Gia
43. Nguyễn Thôn      hy sinh 03/10/1965  QQ: Hải Ninh, Tĩnh Gia
44. Nguyễn Phương Trình   hy sinh 24/12/1970  QQ: Hoàng Đức, Hoằng Hoá
45. Nguyễn Văn Vang    hy sinh 08/05/1968  QQ: Thạch Sơn, Thạch Thành
46. Nguyễn Tồn Long     hy sinh 14/02/1968  QQ: Thạch Cẩm, Thạch Thành
47. Nguyễn Văn Lịch      hy sinh 05/03/1972   QQ: Thành Công, Thạch Thành
48. Tống Văn Phát       hy sinh  14/11/1969   QQ: Hà Sơn,Hà Trung
49. Bùi Văn Nghĩa     hy sinh 24/02/1972  QQ: Xuân Hòa, Thọ Xuân
50. Bùi Quý Mùi       hy sinh 28/10/1970  QQ: Thành Minh, Thạch Thành
8. NGHỆ TĨNH
1.Đặng Đình Chiểu   hy sinh 26/01/1975  QQ: Kỳ Ninh, Kỳ Anh
2. Lại Xuân Chính    hy sinh 22/12/1975  QQ: Cẩm Quang, Cẩm Xuyên
3. Nguyễn Bá Châu  hy sinh 25/10/1973  QQ: Lưu Thành, Yên Thành
4. Trần Văn Dần     hy sinh 10/6/1971   QQ: Phú Xuân, Nghi Xuân
5. Phan Thế Đinh    hy sinh 7/11/1974   QQ: Nghi Thọ, Nghi Lộc
6. Nguyễn Bá Hòa   hy sinh 28/4/1975  QQ: Thạch Hải, Thạch Hà
7. Phạm Ngọc Hà    hy sinh 26/9/1974  QQ: Quỳnh Lộc, Quỳnh Lưu
8. Lê Minh Hân       hy sinh 8/5/1970   QQ: Bắc Sơn, Đô Lương
9. Hoàng Minh Hoạt  hy sinh 19/5/1974  QQ: Nghi Quang, Nghi Lộc
10. Hồ Sĩ Hùng     hy sinh 6/3/1974  QQ: Ngọc Sơn, Đô Lương
11. Nguyễn Thanh Hoàng    hy sinh 30/4/1975  QQ: Hùng Tín, Nam Đàn
12. Nguyễn Đình Huyên     hy sinh 28/1/1973  QQ: Thanh Khương, Thanh Chương
13. Trần Đình Hùng       hy sinh 25/6/1975  QQ: Nam Liên, Nam Đàn
14. Đặng Đình Nhâm      hy sinh 28/1/1973  QQ: Thạch Vĩnh, Thạch Hà
15. Hoàng Sĩ Nhiên       hy sinh 4/11/1972   QQ: Thạch Thắng, Thạch Hà
16. Nguyễn Đình Nguyên  hy sinh 10/3/1973  QQ: Thanh Dương, Thanh Chương
17. Nguyễn Thanh Minh    hy sinh 22/7/1971  QQ: Quỳnh Thắng, Quỳnh Lưu
18. Lê Quốc Thể             hy sinh 21/11/1974   QQ: Kỳ Phương, Kỳ Anh
19. Hà Chí Thanh        hy sinh 28/1/1973  QQ: Diễn Hải, Diễn Châu
20. Trần Văn Thái       hy sinh 30/4/1975  QQ: Hùng Tín, Nam Đàn
21. Phạm Văn Ty        hy sinh 21/11/1974  QQ: Lưu Mỹ, Lưu Sơn
22. Dương Văn Quyết   hy sinh 12/4/1974   QQ: Cẩm Hưng, Cẩm Xuyên
23. Hồ Trong Oanh      hy sinh 28/1/1973    QQ: Quỳnh Bảng, Quỳnh Lưu
24. Nguyễn Xuân Yên   hy sinh 28/1/1973  QQ: Xuân Đàn, Nghi Xuân
25. Lê Xuân Phương     hy sinh 28/4/1975  QQ: Nghi Hoà, Nghi Xuan
26. Nguyễn Đức Cát     hy sinh 4/11/1971  QQ: Thạch Ngọc, Thạch Hà
27. Nguyễn Tiến Diễn    hy sinh 12/12/1973  QQ: Cẩm Linh, Cẩm Xuyên
28. Nguyễn Văn Đàm    hy sinh 11/11/1972  QQ: Cẩm Sơn, Cẩm Xuyên
29. Phạm Hồng Dung    hy sinh 28/1/1973   QQ: Nghi Tân, Nghi Lộc
30. Trần Văn Đại         hy sinh 16/2/1967  QQ: Diễn Kim, Diễn Châu
31. Đặng Văn Hợi        hy sinh 2/2/1968  QQ: Xuân Giảng, Nghi Xuân
32. Đào Xuân Hậu       hy sinh 9/12/1972  QQ: Cẩm Duệ, Cẩm Xuyên
33. Vũ Văn Hành        hy sinh 11/11/1973  QQ: Diễn Lợi, Diễn Châu
34. Nguyễn Văn Hưng  hy sinh 11/5/1972  QQ: Nghệ Tĩnh
35. Nguyễn Gia Khánh   hy sinh 14/1/1975  QQ: Kỳ Phú, Kỳ Anh
36. Nguyễn Văn Mỹ    hy sinh 13/5/1966 QQ: Diễn Xiêm, Diễn Châu
37. Nguyễn Tấn Nghinh   hy sinh 9/3/1967   QQ: Kỳ Ninh, Kỳ Anh
38. Lê Văn Quý            hy sinh 17/12/1972  QQ: Kỳ Thịnh, Kỳ Anh
39. Lê Sĩ Quyết            hy sinh 8/7/1969   QQ: Cẩm Nhượng, Cẩm Xuyên
40. Nguyễn Tiến Quang   hy sinh 8/6/1967  QQ: Xuân Long, Nghi Xuân
41. Nguyễn Trung Quảng  hy sinh 13/4/1972  QQ: Diễn Phúc, Diễn Châu
42. Hồ Thanh Sơn         hy sinh 1/6/1970 QQ: Quỳnh Nghĩa, Quỳnh Lưu
43. Phạm Văn Thụ         hy sinh 1/6/1971  QQ: Hưng Phú, Hưng Nguyên
44. Nguyễn Quang Tuyên   hy sinh 15/8/1973   QQ: Diễn Mỹ, Diễn Châu
45. Lê Văn Tuyên        hy sinh 15/8/1973  QQ: Diễn Mỹ, Diễn Châu
46. Nguyễn Đình Tứ      hy sinh 4/11/1972  QQ: Quỳnh Dị, Quỳnh Lưu
47. Bùi Đình Thuyên      hy sinh 26/6/1974  QQ: Diễn Liên, Diễn Châu
48. Trần Anh Tuấn        hy sinh 15/6/1972   QQ: Xuân Long, Nghi Xuân
49. Nguyễn Quang Tỉnh   hy sinh 10/11/1972 QQ: Lâm Sơn, Cẩm Xuyên
50. Hoàng Bá Thành       hy sinh 2/5/1969     QQ: Cẩm Long, Cẩm Xuyên
51. Trần Văn Tấu          hy sinh 16/8/1972  QQ: Nghệ Tĩnh
52. Phùng Văn Tỉnh       hy sinh 24/8/1968  QQ: Kỳ Phương, Kỳ Anh
53. Nguyễn Đức Thiêm   hy sinh 9/6/1968   QQ: Thạch Châu, Thạch Hà
54. Lê Xuân Lý             hy sinh 13/10/1970   QQ: Lý Thành, Yên Thành
55. Võ Minh Oanh         hy sinh 9/3/1970   QQ: Cẩm Nhượng, Cẩm Xuyên
56.Lê Hồng Phong        hy sinh 13/6/1971  QQ: Thanh Minh, Thanh Chương
57. Nguyễn Minh Phương    hy sinh 19/8/1974  QQ: Xuân Tiền, Nghi Xuân
58. Lê Văn Phượng           hy sinh 28/4/1975  QQ: Nghi Hoà, Nghi Lộc
59. Hoàng Xuân Dũng       hy sinh 24/4/1974   QQ: Cẩm Quang, Cẩm Xuyên


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác - Đại tá Lê Bá Ước
Gửi bởi: satthat trong 12 Tháng Giêng, 2009, 10:40:46 pm
9. HẢI PHÒNG
1. Nguyễn Văn Canh   hy sinh 10/10/1974  QQ: Thủy Đường, Thủy Nguyên
2. Vũ Minh Khoa    hy sinh 4/2/1970   QQ: Minh Tân, Kiều Thuỷ
3. Võ Xuân Quý     hy sinh 5/12/1971  QQ: Lạch Tray
4. Nguyễn Hải An   hy sinh 13/4/1968  QQ: Thống Nhất, Hồng Bàng
5. Lương Văn Dương   hy sinh 20/8/1972  QQ: Đằng Hải, An Hải
6. Nguyễn Hữu Đông   hy sinh 1/11/1975  QQ: Đồ Sơn
7. Nguyễn Việt Hùng   hy sinh 27/4/1975 QQ: Đằng Giang,Cát Hải
8. Phạm Văn Kháng   hy sinh 10/10/1969   QQ: Từ Sơn, Kiến Thuỷ
9. Vũ Bá Nhật        hy sinh 28/6/1967  QQ: Quốc Tuấn, An Lão
10. Vũ Thanh Nhàn  hy sinh 15/6/1971  QQ: Tiên Linh, Tiên Lãng
11. Nguyễn Thế Sinh  hy sinh 6/8/1971  QQ: Nguyễn Đức Cảnh, Lê Chân
12. Cao Xuân Sơn     hy sinh 17/7/1968  QQ: Trường Thọ, An Lão
13. Vũ Tín Thiêu       hy sinh 25/6/1969  QQ: Chân Châu, Cát Bà
14. Nguyễn Văn Thịnh  hy sinh 28/11/1973  QQ: Cấp Tiên, Tiên Lãng
15. Cao Xuân Vĩnh     hy sinh 17/7/1970  QQ: Trường Thọ, An Lão
16. Nguyễn Hồng Linh  hy sinh 19/5/1971  QQ: Gia Lộc, Cát Hải
9. QUẢNG NNH
1. Vũ Công Đủ     hy sinh 2/11/1972 QQ: Yên Đông, Yên Hưng
2. Nguyễn Văn Tuấn   hy sinh 6/2/1973  QQ: Yên Vị, Yên Hưng
3. Đỗ Mạnh Kiều       hy sinh 26/9/1974 QQ: Yên Giang, Yên Hưng
4. Hà Quang Vóc      hy sinh 2/2/1974  QQ: Quảng Hà, Đầm Hà
5. Lê Quang Vinh      hy sinh 1/3/1974  QQ: Hưng Đạo, Hưng Triều
6. Nguyễn Công Bao   hy sinh 3/12/1973  QQ: Cẩm La, Yên Hưng
7. Trần Trọng Cán    hy sinh 9/9/1971 QQ: Tân Duyệt, Đông Triều
8. Nguyễn Đức Đắc   hy sinh 14/11/1966  QQ: Cẩm La, Yên Hưng
9. Nguyễn Văn Hiền   hy sinh 21/11/1974 QQ: Bàng Sen, Cẩm Phả


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác - Đại tá Lê Bá Ước
Gửi bởi: satthat trong 13 Tháng Giêng, 2009, 10:47:15 pm
10. HÀ NAM NINH
1. Đỗ Thanh Oai  hy sinh 30/10/1971      QQ: Hải Hà, Hải Hậu
2. Vũ Công Phấn  hy sinh 13/4/1972   QQ: Xuân Tân, Xuân Thuỷ
3. Mai Vĩnh Phúc  hy sinh 20/7/1974  QQ: Giao Yến, Xuân Thuỷ
4. Nguyễn Văn Giám  hy sinh 30/4/1972  QQ: Hải Cát, Hải Hậu
5. Nguyễn Quang Mịch hy sinh 29/8/1966  QQ: Tiên Minh, Duy Tiên
6. Đoàn Văn Mai     hy sinh 24/2/1968  QQ: Giao Hải, Xuân Thuỷ
7. Mai Văn Ngợi     hy sinh 8/3/1975 QQ: Yên Nhân, Yên Mô
8. Phạm Văn Nhiên  hy sinh 28/1/1969 QQ: Khánh Hoà, Yên Khánh
9. Nhiếp Văn Minh hy sinh 28/1/1973  QQ: Thanh Hưng, Thanh Liêm
10. Trần Kim Quy   hy sinh 5/3/1975  QQ: Trung Lương, Bình Lục
11. Vũ Văn Dưỡng  hy sinh 9/6/1968  QQ: Giao Thắng, Xuân Thuỷ
12. Ngô Duy Tích   hy sinh 4/5/1973  QQ: Xuân Nghiệp, Xuân Thuỷ
13. Trần Văn Thi    hy sinh 11/12/1969   QQ: Hợp Hưng, Vụ Bản
14. Nguyễn Văn Diệp  hy sinh 8/4/1974   QQ: Bạch Long, Xuân Thuỷ
15. Nguyễn Văn Huyền   hy sinh 2/12/1973  QQ: Giao Lâm, Xuân Thuỷ
16. Trần Văn Nhu      hy sinh 14/4/1974   QQ: Xuân Phú, Xuân Thuỷ
17. Nguyễn Văn Tý    hy sinh 28/1/1973  QQ: Hải Tiến, Hải Hậu
18. Võ Thanh Tâm     hy sinh 16/10/1974  QQ: Giao Tân, Giao Thuỷ
19. Nguyễn Văn Tân   hy sinh 26/9/1974  QQ: Giao Phong, Giao Thuỷ
20. Mai Duy Tiệp      hy sinh 25/2/1975  QQ: Giao Lâm, Xuân Thuỷ
21. Nguyễn Đức Long  hy sinh 2/10/1971  QQ: Nguyên Lý, Lý Nhân
22. Nguyễn Đình Chiến  hy sinh 28/5/1974  QQ: Phú Xuân, Xuân Thủy
23. Nguyễn Hữu Chấn   hy sinh 25/1/1975  QQ: Ý Hồng, ý Yên
24. Nguyễn Mạnh Cư    hy sinh 5/1/1974  QQ: Hải Hùng, Hải Hậu
25. Nguyễn Văn Đức    hy sinh 3/6/1969  QQ: Quang Thiện, Kim Sơn
26. Phạm Văn Đơn      hy sinh 15/1/1973  QQ: Yên Khánh, Ý Yên
27. Vũ Văn Yên       hy sinh 18/6/1973  QQ: Trung Thành, Vụ Bản
28. Nguyễn Văn Cương    hy sinh 1/2/1974 QQ: Lưu Phượng, Kim Sơn
29. Nguyễn Thanh      hy sinh 5/6/1967   
30. Đỗ Hải Quân       hy sinh 1/2/1974  QQ: Nghĩa Hùng, Nghĩa Hưng
31. Nguyễn Văn Cừ   hy sinh 15/11/1971  QQ: Hải Thanh, Hải Hậu
32. Phạm Hồng Căn    hy sinh 10/10/1974  QQ: Quang Triệu, Kim Sơn
33. Lã Hữu Yên        hy sinh 10/2/1974   QQ: Khánh Thịnh, Yên Mô
11. HẢI HƯNG
1. Nguyễn Văn Ban    hy sinh 28/1/1973   QQ: Văn Đức, Chí Linh
2. Vũ Văn Hoa          hy sinh 25/6/1969   QQ: Hiệp Hoà, Kinh Môn
3. Nguyễn Đình Mang   hy sinh 17/9/1971  QQ: Bình Xuyên, Bình Giang
4. Nguyễn Thế Tâm    hy sinh 28/1/1975  QQ: Gia Chính, Gia Lộc
5. Nguyễn Hữu  Triệu   hy sinh 28/1/1973  QQ: Long Mai, Kim Động
6. Đặng Quang Vinh    hy sinh 8/1/1975  QQ: Việt Hoà, Khoái Châu
7. Nguyễn Đức Bảy    hy sinh 12/9/1974  QQ: Hồng Quang, Thanh Miện
8. Phạm Văn Bệ       hy sinh 10/5/1969   QQ: Bình Xuyên, Bình Giang
9. Đào Xuân Thiêu   hy sinh 13/3/1968   QQ: Anh Sinh, Kinh Môn
10. Phạm Hồng Thính    hy sinh 20/10/1969 QQ: Thúc Kháng, Bình Giang
11.Phạm Đình Thấu    hy sinh 8/7/1969 QQ: Tân Hồng, Bình Giang
12. Phùng Ngọc Dung   hy sinh 4/4/1973  QQ: Phú Yên, Yên Mỹ
13. Trần Văn Diện       hy sinh 7/1/1973  QQ: Hà Thanh, Tứ Kỳ
14. Đào Quang Định    hy sinh 9/9/1971  QQ: Quảng Lạng, Ân Thi
15. Nguyễn Văn Điều   hy sinh 26/6/1969  QQ: Thái Thịnh, Kinh Môn
16. Vũ Văn Đồng       hy sinh 27/2/1971  QQ: Bình Khê, Bình Giang
17. Vũ Đình Học       hy sinh 28/1/1973  QQ: Tân Việt, Bình Giang
18. Nguyễn Ngọc Ngà   hy sinh 5/3/1971  QQ: Tân Việt, Bình Giang
19. Phạm Đức Nghiêm   hy sinh 14/6/1971  QQ: Bạch Đằng, Ân Thi
20. Trần Trung Nguyên  hy sinh 4/4/1970  QQ: Song Mai, Kim Động
21. Hoàng Văn Nước   hy sinh 22/12/1971 QQ: Hiệp Hòa, Kinh Môn
22. Hà Đình Quyên      hy sinh 21/1/1970  QQ: Vịnh Hồng, Bình Giang
23. Đỗ Quang Sáng     hy sinh 26/11/1970 QQ: Đông Kinh, Khoái Châu
24. Nguyễn Thanh Tỉnh   hy sinh 10/9/1970 QQ: Dân Chủ, Tứ Kỳ
25. Nguyễn Tấn Thanh    hy sinh 1/6/1970  QQ: Tráng Kiệt, Bình Giang
26. Nguyễn Xuân Tình     hy sinh 18/9/1972 QQ: Bình Minh, Khoái Châu
27. Phạm Văn Tỉnh        hy sinh 18/9/1972  QQ: Ngọc Châu, Nam Sách
28. Vũ Đình Thiêu        hy sinh 10/3/1970 QQ: Hải Hưng
29. Nguyễn Văn Tuy     hy sinh 25/4/1969 QQ: Hải Hưng
30. Nguyễn Thành Vũ   hy sinh 27/1/1966  QQ: Hùng Thắng, Tiên Lữ
31. Phạm Duy Vượng    hy sinh 15/11/1967  QQ: Phú Cường, Kim Động
32. Nguyễn Khắc Lọt    hy sinh 7/4/1970  QQ: Thái Hoà, Bình Giang
33. Trần Văn Lưỡng      hy sinh 17/4/1968  QQ: Nhân Huệ, Chí Linh
34. Hoàng Lợi              hy sinh 14/10/1969  QQ: Bình Lệ, Bình Giang
35. Lê Đình Việt           hy sinh 7/3/1972   QQ: Đồng Lạc, Nam Sách
36. Bùi Đức Bình          hy sinh 26/5/1974   QQ: Thanh Bình,Thanh Hà
12. LẠNG SƠN
1. Bùi Trung Thế    hy sinh 28/1/1973  QQ: Tri Phương, Tràng Định
13. Lào Cai
1. Nguyễn Tài Cừ   hy sinh 15/6/1971  QQ: Thái Niên, Bảo Thắng


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác - Đại tá Lê Bá Ước
Gửi bởi: satthat trong 19 Tháng Giêng, 2009, 10:10:37 pm
15. LONG AN
1. Phạm Văn Bầy   hy sinh 29/7/1969      QQ: Đông Thạnh, Cần Giuộc
2. Phạm Văn Đực   hy sinh 14/10/1970    QQ: Đông Thạnh, Cần Giuộc
3. Võ Văn Liên       hy sinh 6/8/1969       QQ: Tân Lân, Cần Giuộc
4. Nguyễn Hoàng Nhã    hy sinh 2/8/1969   QQ: Tân Tập, Cần Giuộc
5. Nguyễn Văn Hùng      hy sinh 1/12/1966   QQ: Cần Giuộc
6. Hồ Văn Keo           hy sinh 7/7/1968   QQ: Long Định, Cần Đước
7. Nguyễn Hiền Thê    hy sinh 24/8/1974   QQ: Đông Thạnh, Cần Giuộc
8. Trương Văn Xiểm    hy sinh 16/10/1968   QQ: Đông Thạnh, Cần Giuộc
9. Hồ Trọng Hiếu       hy sinh 26/2/1971   QQ: Long Phụng, Cần Giuộc
10. Trần Văn Điển     hy sinh 24/6/1968    QQ: Tân Lân, Cần Giuộc
11. Lê Văn Điển       hy sinh 8/61968      QQ: Trường Bình, Cần Giuộc
12. Trần Văn Có      hy sinh 19/10/1969   QQ: Đông Thạnh, Cần Giuộc
13. Nguyễn Văn Bê   hy sinh 15/4/1967    QQ: Tân Tập, Cần Giuộc
14. Nguyễn Văn Ánh  hy sinh 12/10/1969   QQ: Tân Kim, Cần Giuộc
15. Nguyễn Văn Sáng  hy sinh 13/2/1968   QQ: Cần Giuộc
16. Đặng Văn Điệt     hy sinh 26/5/1970   QQ: Phước Lại, Cần Giuộc
17. Nguyễn Tấn Nhã  hy sinh 2/8/1969 QQ: Tân Tập, Cần Giuộc
18. Phạm Văn Cần    hy sinh 28/6/1968  QQ: Phước Vĩnh Tây, Cần Giuộc
19. Lê Văn Á           hy sinh 15/6/1971   QQ: Tân Lân, Cần Giuộc
20. Nguyễn Hoàng Ân   hy sinh 3/10/1969  QQ: Mỹ Lộc, Cần Giuộc
21. Nguyễn Văn Bót     hy sinh 27/7/1969 QQ: Đông Thạnh, Cần Giuộc
22. Trần Văn Bảy        hy sinh 2/1/1968  QQ: Tân Lân, Cần Đước
23. Phạm Văn Bọt       hy sinh 16/1/1969 QQ: Tân Kim, Cần Giuộc
24. Hồ Văn Cội          hy sinh 12/10/1970  QQ: Phước Lý, Cần Giuộc
25. Bùi Văn Chính      hy sinh 26/5/1967  QQ: Tân Kim, Cần Giuộc
26. Nguyễn Văn Cao   hy sinh 20/1/1968  QQ: Long Hoà, Cần Giuộc
27. Trần Văn Minh    hy sinh 28/1/1973  QQ: Đông Thạnh, Cần Đước
28. Lại Văn Chính      hy sinh 8/5/1968  QQ: Phước Lý, Cần Giuộc
29. Võ Hồng Của      hy sinh 29/7/1967  QQ: Tân Phước Tây, Tân Trụ
30. Hồ Thị Dung       hy sinh 20/1/1970  QQ: Đông Thạnh, Cần Đước
31. Võ Thị Dung       hy sinh 13/10/1970  QQ: Phước Hậu, Cần Giuộc
32. Phạm Văn Dực    hy sinh 7/2/1971  QQ: Tân Tập, Cần Giuộc
33. Nguyễn Minh Đực   hy sinh 4/1/1971  QQ: Long Định, Cần Đước
34. Nguyễn Văn Đực     hy sinh 8/5/1968  QQ: Mỹ Lệ, Cần Đước
35. Lê Văn Đúng         hy sinh 14/10/1970  QQ: Tân Tập, Cần Giuộc
36. Đỗ Văn Đầy          hy sinh 8/1/1969  QQ: Đông Thạnh, Cần Giuộc
37. Nguyễn Văn Đen    hy sinh 19/5/1970   QQ: Mỹ Thạnh, Đức Hoà
38. Võ Văn Giám        hy sinh 9/5/1970   QQ: Vĩnh Đông, Cần Giuộc
39. Nguyễn Văn Nga   hy sinh 11/7/1969  QQ: Tân Tập, Cần Giuộc
40 Nguyễn Văn Hùng   hy sinh 14/5/1966 QQ: Long Phụng, Cần Đước
41. Nguyễn Văn Hai    hy sinh 10/7/1971 QQ: Đông Thạnh, Cần Giuộc
42. Nguyễn Minh Hoàng  hy sinh 10/7/1971  QQ: Thuận Thành, Cần Giuộc
43. Lê Bá Hùng      hy sinh 25/2/1970  QQ: Long Hoà, Cần Đước
44. Phùng Văn Hạnh   hy sinh 28/12/1967 QQ: Phước Lân, Cần Giuộc
45. Đặng Văn Hoàng   hy sinh 10/10/1974   QQ: Trường Bình, Cần Giuộc
46. Nguyễn Văn Hoàng hy sinh 3/5/1968 QQ: Tân Tập, Cần Giuộc
47. Nguyễn Văn Hùng   hy sinh 15/6/1971  QQ: Tân Tập, Cần Giuộc
48. Nguyễn Văn Khỏe   hy sinh 26/6/1972 QQ: Đông Thạnh, Cần Giuộc
49. Nguyễn Văn Kỉnh    hy sinh 26/10/1970  QQ: Đông Thạnh, Cần Giuộc
50. Nguyễn Văn Khoắn  hy sinh 13/10/1970  QQ: Tân Tập, Cần Giuộc
51. Nguyễn Văn Khét   hy sinh 28/6/1969 QQ: Tân Tập, Cần Giuộc
52. Nguyễn Văn Mơi    hy sinh 10/7/1969 QQ: Tân Tập, Cần Giuộc
53. Hồ Hùng Minh      hy sinh 15/1/1966  QQ: Long Thượng, Cần Giuộc
54. Võ Văn Mọi        hy sinh 26/6/1969  QQ: Long Hựu, Cần Giuộc
55. Nguyễn Văn Ngư  hy sinh 26/6/1969  QQ: Tân Tập, Cần Giuộc
56. Dương Văn Năm   hy sinh 20/10/1971  QQ: Long Phụng, Cần Giuộc
57. Lê Văn Ngò        hy sinh 10/6/1970  QQ: Long Phụng, Cần Giuộc
58. Trần Văn Ngon   hy sinh 10/6/1970  QQ: Long Hựu, Cần Đước
59. Võ Bá Minh      hy sinh 28/8/1970  QQ: Mỹ Lộc, Cần Giuộc
60. Lê Văn Nghiêm   hy sinh 12/6/1971  QQ: Cần Giuộc
61. Lê Văn Núi    hy sinh 8/6/1967 QQ: Tân Tập, Cần Giuộc
62. Nô Văn Nghĩa   hy sinh 10/3/1969  QQ: Đông Thạnh, Cần Giuộc
63. Nguyễn Văn Nguyên   hy sinh 24/7/1970 QQ: Phước Lâm, Cần Giuộc
64. Trần Văn Tiên       hy sinh 2/12/1967  QQ: Trường Bình, Cần Giuộc
65. Lê Văn Thao      hy sinh 9/6/1968  QQ: Vĩnh Tây, Cần Giuộc
66. Mai Văn Trung    hy sinh 15/6/1966  QQ: Phước Hậu, Cần Giuộc
67. Bùi Thị Thương   hy sinh 19/6/1970 QQ: Long Phụng, Cần Giuộc
68. Dương Công Thương   hy sinh 17/4/1970  QQ: Phước Lại, Cần Giuộc
69. Nguyễn Văn To     hy sinh 3/12/1969  QQ: Vĩnh Đông, Cần Giuộc
70. Võ Văn Tấn      hy sinh 10/1/1968  QQ: Phước Hậu, Cần Giuộc
71. Nguyễn Văn Trác   hy sinh 25/61969  QQ: Long Hựu, Cần Giuộc
72. Huỳnh Văn Tốt  hy sinh 12/10/1970  QQ:Lý Nhơn, Cần Giuộc
73. Nguyễn Văn Tư   hy sinh 8/51968  QQ: Cần Giuộc
74. Lê Minh Thiên     hy sinh 27/1/1968  QQ: Bình Nhật, Thủ Thừa
75. Phạm Thanh Phong    hy sinh 9/10/1967  QQ: Long Định, Cần Đước
76. Nguyễn Văn Lô     hy sinh 25/5/1967  QQ: Tân Kim, Cần Giuộc
77. Nguyễn Văn Lẻ   hy sinh 5/1/1970  QQ: Bình An, Cần Giuộc
78. Nguyễn Văn Liễu   hy sinh 14/10/1970  QQ: Tân Lân, Cần Đước
79. Phạm Văn Lành     hy sinh 10/3/1970  QQ: Trường Bình, Cần Giuộc
80. Trần Văn Lân        hy sinh 28/2/1970  QQ: Phước Vĩnh Đông, Cần Giuộc


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác - Đại tá Lê Bá Ước
Gửi bởi: satthat trong 19 Tháng Giêng, 2009, 10:29:34 pm
81. Đặng Văn Lập       hy sinh 26/11/1970  QQ: Long Hựu, Cần Đước
82. Lê Văn Niệm         hy sinh 15/1/1971  QQ: Long Đước, Cần Giuộc
83. Nguyễn Văn Lập   hy sinh 16/71970  QQ: Lý Nhơn, Cần Giuộc
84. Đặng Văn Lượng     hy sinh 14/10/1970 QQ: Long Hựu, Cần Giuộc
85. Trần Văn Lẹ        hy sinh 10/1/1968  QQ: Long Hựu, Cần Giuộc
86. Trần Văn Lục    hy sinh 12/3/1968 QQ: Tân Lân, Cần Đước
87. Nguyễn Văn Lớn   hy sinh 8/12/1967  QQ: Phước Hậu, Cần Đước
88. Đỗ Văn Lửng     hy sinh 15/6/1972   QQ: Đông Thạnh, Cần Giuộc
89. Trương Văn Sang   hy sinh 11/12/1969  QQ: Hưng Long, Cần Giuộc
90. Nguyễn Văn Sắn    hy sinh  10/10/1970 QQ: Tân Tập, Cần Giuộc
91. Võ Thành Song    hy sinh 8/12/1967  QQ: Tân Ân, Cần Giuộc
92. Trần Minh Sung   hy sinh 9/1/1969 QQ: Lý Nhơn, Cần Giuộc
93. Dương Văn Sương  hy sinh 4/11/1968  QQ: Trường Bình, Cần Giuộc
94. Nguyễn Văn Xê     hy sinh 23/1/1967 QQ: Phước Đông, Cần Giuộc
95. Võ Anh Xuân      hy sinh 13/10/1970  QQ: Tân Ân, Cần Giuộc
96. Đặng Văn Xăng    hy sinh 12/1/1971  QQ: Trường Bình, Cần Giuộc
97. Đặng Văn Út      hy sinh 4/4/1967  QQ: Thuận Mỹ, Thuận Châu
98. Đặng Văn Rương   hy sinh 10/12/1966  QQ: Tân Tập, Cần Giuộc
99. Nguyễn Văn Rồi    hy sinh  4/12/1968 QQ: Tân Chánh, Cần Đước
100. Võ Văn Dẻo  hy sinh 25/12/1966  QQ: Tân Lân, Cần Đước
101. Đặng Văn Dực    8/1/1969 QQ: Mỹ Lệ, Cần Đước
102. Nguyễn Văn Tưởng    hy sinh 3/2/1966  QQ: Trường Bình, Cần Giuộc
103. Vũ Miên   hy sinh 6/8/1969   QQ: Thụân Thành, Cần Giuộc
104. Trần Văn Núi    hy sinh 4/11/1966  QQ: Đông Thạnh, Cần Giuộc
105. Nguyễn Văn Xướng   hy sinh 15/6/1969  QQ: Tân Tập, Cần Giuộc
106. Dương Văn Thượng   hy sinh 10/7/1971  QQ: Long Hựu, Cần Đước
107. Nguyễn Văn Tám      hy sinh 31/12/1967  QQ: Long Thạnh, Cần Đước
108. Hồ Trường Tam        hy sinh 31/12/1967 
109. Nguyễn Xuân Tịnh     hy sinh 12/10/1968  QQ: Tân Kim, Cần Giuộc
110. Lê Hữu Thịnh      hy sinh 12/10/1968  QQ: Phước Vĩnh Đông, Cần Giuộc
111. Nguyễn Văn Thân     hy sinh  12/10/1968  QQ: Đức Hoà
112. Hoàng Văn Quý       hy sinh 25/2/1969  QQ: Tân Thành, Cần Đước
113. Nguyễn Văn Dũng   hy sinh 1/1/1973  QQ: Tân Kim, Cần Giuộc
16. ĐỒNG NAI
1. Phạm Văn Bình    hy sinh 15/6/1971   QQ: Phước Long, Long Thành
2. Nguyễn Văn Minh    hy sinh 16/1/1970   QQ: Phú Hữu, Nhơn Trạch
3. Nguyễn Văn Lá      hy sinh 10/1/1971  QQ: Phước Khánh, Nhơn Trạch
4. Đặng Hoàng Oanh   hy sinh 9/8/1968  QQ: Phú Hội, Nhơn Trạch
5. Huỳnh Hữu Cảnh    hy sinh 27/7/1969  QQ: Phú Hữu, Nhơn Trạch
6. Nguyễn Văn Lượng   hy sinh 16/10/1966  QQ: Phước An, Nhơn Trạch
7. Phạm Văn Lượng     hy sinh 13/10/1967  QQ: Phước Tân, Long Thành
8. Phan Văn Hùng      hy sinh 5/11/1972  QQ: Long Phước, Long Thành
9. Nguyễn Minh Hùng    hy sinh 24/11/1968  QQ: Phú Hội, Nhơn Trạch
10. Trương Văn Trào    hy sinh 11/11/1966  QQ: Tân An, Long Thành
17. BÀ RỊA- VŨNG TÀU
1. Phạm Văn Dũng      hy sinh 18/11/1967  QQ: Ngãi Giao, Châu Đức
2. Nguyễn VĂn Nở      hy sinh 4/2/1968  QQ: Long Sơn, Châu Đức
3. Trần Văn Của        hy sinh 26/4/1966  QQ: Long Tân, Long Đức
4. Dương Văn Hùng     hy sinh 10/4/1969  QQ: Bình Ba, Châu Đức
5. Huỳnh Văn Bảy       hy sinh 13/11/1967 QQ: Long Sơn, Châu Đức
6. Trần Văn Dũng       hy sinh 21/11/1967   QQ: Bình Ba, Châu Đức
7. Phạm Văn Đấu        hy sinh 7/1/1971  QQ: Bình Ba, Châu Đức
8. Lê Văn Mười          hy sinh 26/4/1970  QQ: Hội Mỹ, Đất Đỏ
9. Nguyễn Văn Năm    hy sinh 13/8/1969 QQ: Long Sơn, Châu Đức
10. Nguyễn Văn Tống   hy sinh 7/1/1975   QQ: Ngãi Giao, Châu Đức
11. Đoàn Phi Hùng        hy sinh 10/11/1969   QQ: Long Sơn, Châu Đức
12. Trần Văn Thái        hy sinh 28/1/1968    QQ: Số 1 Trương Công Định, Thắng Tam
13. Lê Văn Lâm           hy sinh 15/5/1971   QQ: Bình Giã, Châu Đức
14. Mai Văn Sơn          hy sinh 4/12/1968    QQ: Phước Hải, Đất Đỏ
18. TIỀN GIANG
1. Nguyễn Văn Bảy      hy sinh 2/7/1971  QQ: Long Khánh, Cai Lậy
2. Phạm Ngọc Bảy       hy sinh 28/5/1967   QQ: Bình Trung, Châu Thành
3. Nguyễn Văn Mới      hy sinh  25/2/1968  QQ: Tân Lý Đông, Châu Thành
4. Huỳnh Văn Phát      hy sinh 15/11/1967  QQ: Văn Lãng, Gò Công
5. Huỳnh Văn Ry         hy sịnh  5/9/1968  QQ: Bình Ân, Gò Công
6. Nguyễn Văn Quốc    hy sinh 10/1/1968  QQ: Hữu Đạo, Châu Thành
7. Nguyễn Văn Oanh    hy sinh 13/9/1970  QQ: Bình Trưng, Châu Thành
8. Nguyễn Văn Thôi      hy sinh 18/11/1967  QQ: Nhị Quý, Cai Lậy
9. Nguyễn Văn Phước   hy sinh 18/6/1970  QQ: Châu Thành
10. Phạm Văn Nam      hy sinh 10/5/1969  QQ: Tân Thành, Châu Thành
11. Phạm Văn Lực       hy sinh 12/3/1968  QQ: Phước Hiệp, Gò Công


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác - Đại tá Lê Bá Ước
Gửi bởi: satthat trong 30 Tháng Giêng, 2009, 09:04:51 pm
12. Lê Văn Bạc    hy sinh 30/6/1969  QQ: Tân Phú Đông, Cai Lậy
13. Trương Văn Bèo   hy sinh 5/11/1972  QQ: Tân Liên Đông, Gò Công
14. Nguyễn Văn Ba    hy sinh 23/1/1969  QQ: Phú Thạnh Đông, Gò Công
15. Cao Văn Cậy    hy sinh 14/11/1969  QQ: Phú Thạnh Đông, Gò Công
16. Nguyễn Văn Danh   hy sinh 13/10/1970   QQ: Bình Trưng, Châu Thành
17. Hồ Văn Đời     hy sinh 22/3/1967   QQ: Tân Liên Đông, Gò Công
18. Phạm Văn Đôn    hy sinh 15/10/1966   QQ: Thạnh Đông, Gò Công
19. Phan Văn Đấu     hy sinh 14/11/1969  QQ: Mỹ Thạnh Đông, Gò Công
20. Nguyễn Văn Đực   hy sinh 14/2/1970  QQ: Bình Châu, Châu Thành
21. Nguyễn Văn Nhu    hy sinh 13/10/1970   QQ: Mỹ Long, Cai Lậy
22. Nguyễn Lữ        hy sinh 23/2/1967  QQ: Bình Luông, Tây Hòa Đông
23. Nguyễn Văn Lớn   hy sinh   28/10/1966  QQ: Bình Ân, Gò Công
24. Nguyễn Văn Lưu    hy sinh 31/1/1969   QQ: Tân Niệm, Gò Công
25. Nguyễn Văn Mạnh   hy sinh 16/3/1968   QQ: Long Hữu, Đồng Hoà
26. Trần Quốc Thắng   hy sinh 14/11/1969   QQ: Bình Ân, Gò Công
27. Trương Văn Tấn     hy sinh 8/6/1967  QQ: Phú Thạnh Đông, Gò Công
28. Đỗ Văn Tư     hy sinh 14/10/1970  QQ: Phú Thạnh Đông, Hòa Đồng
29. Hồ Văn Thấy   hy sinh 10/9/1966   QQ: Tân Hòa, Châu Thành
30. Huỳnh Văn Thế   hy sinh 19/5/1968  QQ: Mỹ Long, Chợ Gạo
31. Nguyễn Văn Tấn    hy sinh 17/9/1968  QQ: An Hoà, Gò Công
32.Đỗ Văn Tấn     hy sinh 4/10/1970   QQ: Bình Tây, Gò Công
33. Nguyễn Văn Phu   hy sinh 13/10/1970   QQ: Mỹ Long, Cai Lậy
19. Bến Tre
1. Lê Văn Cụi    hy sinh 29/6/1967   QQ: Đồng Rú, Chợ Lách
2. Phạm Văn Đức   hy sinh 25/5/1967  QQ: Tân Hòa Tây, Ba Tri
3. Nguyễn Văn Đảnh   hy sinh 10/10/1967  QQ: Mỹ Chánh, Ba Tri
4. Đoàn Minh Hà     hy sinh 5/8/1969  QQ: Hương Mỹ, Mỏ Cày
5. Trần Văn Sính    hy sinh 5/8/1969 
6. Phạm Tấn Thành    hy sinh 15/12/1967    QQ: Mỹ Khánh Hoà, Ba Tri
7. Phạm Văn Thọ    hy sinh 2/9/1971   QQ: Bình Đài, Bình Đại
8. Lê Văn Biên     hy sinh  12/10/1970   QQ: Hiệp Hưng, Giồng Trôm
9. Huỳnh Thành Công   hy sinh 11/12/1969   QQ: Thuận Điền, Giồng Trôm
10. Phạm Văn Còn    hy sinh 25/11/1968   QQ: Lương Hoà, Giồng Trôm
11. Lê Văn Dân   hy sinh 26/10/1971   QQ: Nhân Trạch, Giồng Trôm
12. Nguyễn Văn Được  hy sinh 17/1/1969  QQ: Trạch Phú, Thạnh Phú
13. Nguyễn Văn Hoàng  hy sinh 25/2/1968  QQ: Phú Lễ, Ba Tri
14. Trần Văn Hòa    hy sinh 26/11/1970   QQ: Nhơn Thạnh, Thạch Phú
15. Mai Văn Nhiều   hy sinh 27/4/1970   QQ: Châu Thành, Giồng Trôm
16. Đoàn Văn Nhàn   hy sinh 27/10/1972  QQ: Châu Thành, Giồng Trôm
17. Võ Văn Ngay     hy sinh 8/11/1969   QQ: Phước Long, Giồng Trôm
18. Huỳnh Văn Nhất   hy sinh 18/9/1970   QQ: Thủ Đức,Bình Đại
19. Nguyễn Văn Ngừa   hy sinh 23/9/1969  QQ: An Nhơn, Thạnh Phú
20. Phạm Thành Lập   hy sinh 26/10/1971   QQ: Thuận Điền, Giồng Trôm
21. Nguyễn Văn Lình    hy sinh 8/8/1969   QQ: Tân Thanh, Giồng Trôm
22.Nguyễn Văn Lẹo    hy sinh 13/11/1967  QQ: Hiệp Hưng, Giồng Trôm
23.Phạm Văn Lùn     hy sinh 25/11/1968  QQ: Nương Hoà, Giồng Trôm
24. Huỳnh Văn Môn   hy sinh 10/2/1969  QQ: Phước Hoà, Mỏ Cày
25. Huỳnh Văn Sáu   hy sinh 27/10/1967   QQ: Vĩnh Hoà, Mỏ Cày
26. Lê Văn Chữ     hy sinh 29/9/1969   QQ: Bàng Long, Châu Thành
27. Võ Quốc Thanh   hy sinh 17/6/1968   QQ: Long Hoà, Giồng Trôm
28. Nguyễn Quốc Văn   hy sinh 29/12/1969   QQ: Hưng Mỹ, Mỏ Cày
29. Hồ Văn Phèn    hy sinh 26/11/1967   QQ: Tân Hoà, Giồng Trôm
30. Trịnh Văn Ren    hy sinh 20/6/1967   QQ: An Định, Mỏ Cày
31. Huỳnh Châu Lịnh   hy sinh 9/3/1967   QQ: Hưng Khánh Trung, Mỏ Cày
32.Đỗ Hoàng Dân    hy sinh 20/6/1967  QQ: Bảo Thạch, Ba Tri
20.CẦN THƠ
1. Nguyễn Văn Ba  hy sinh 25/9/1970  QQ: Trường Long, Ô Môn
2. Nguyễn Thanh Đời    hy sinh   10/3/1970   QQ: Thới Đông, Ô Môn
3. Nguyễn Văn Thanh   hy sinh 25/3/1970   QQ: Thới Đông, Ô Môn
4. Đặng Minh Hương    hy sinh 26/11/1973   QQ: Thới Đông, Ô Môn
21. SÓC TRĂNG
1. Trần Ngọc Mới    hy sinh  11/2/1971   QQ: Gia Hoà, Thạnh Trị
2. Trần Văn Cao      hy sinh 24/1/1970   QQ: Gia Hoà, Thạnh Trị
3. Nguyễn Khắc Hai   hy sinh 25/6/1971   QQ: Kế An, Kế Sách
4. Nguyễn Văn Hải    hy sinh 26/11/1971   QQ: Kế An, Kế Sách


Tiêu đề: Re: Một thời rừng Sác - Đại tá Lê Bá Ước
Gửi bởi: satthat trong 30 Tháng Giêng, 2009, 09:06:29 pm
22. TRÀ VINH
1. Lương Hoàng Chuyển    hy sinh  15/11/1967   QQ: Long Vĩnh, Duyên Hải
2. Phùng Văn Đặng    hy sinh 13/3/1970    QQ: Nhị Long, Càn Long
3. Nguyễn Văn Ngoan   hy sinh 13/1/1968   QQ: Đại Phước, Càn Long
4. Nguyễn Thị Trinh   hy sinh 28/12/1968   QQ: Long Hoà, Cầu Ngang
23. BẠC LIÊU
1. Nguyễn Văn Bé    hy sinh 13/10/1970    QQ: Phong Thạnh Đông, Gia Rai
2. Võ Văn Tư    hy sinh  20/1/1968   QQ: Phong Lạc, Trần Thời
3. Nguyễn Thành Vũ    hy sinh 27/1/1968    QQ: Vĩnh Thuận, Hồng Dân
4. Dương Trọng Nghĩa   hy sinh 15/11/1967   QQ: Phú Mỹ, Trần Thời
24. TÂY NINH
1. Nguyễn Văn Kèo    hy sinh 13/1/1968   QQ: An Trinh, Trảng Bảng
2. Nguyễn Văn Dạo    hy sinh 25/11/1970   QQ: Lôc Hưởng, Trảng Bảng
3. Nguyễn Văn Phu     hy sinh 23/5/1967     QQ: Lộc Hưởng, Trảng Bảng
4. Lê Thanh Sơn        hy sinh   15/11/1970   QQ: Hiệp Thạnh, Gò Dầu
25. VĨNH LONG
1. Phạm Kế Tiếp     hy sinh 20/5/1972    QQ: Mỹ Lộc, Cái Ngang
2. Nguyễn Văn Hiểu   hy sinh 3/7/1971   QQ: Ngãi Tư, Tam Bình
3. Võ Văn Tâm     hy sinh 15/11/1969   QQ: Bình Hoà Phước, Cái Nhum
26. BÌNH DƯƠNG
1. Nguyễn Thị Hiệp   hy sinh 17/7/1968   QQ: Vĩnh Tường, Châu Thành
2. Nguyễn Văn Cheo   hy sinh   10/11/1969   QQ: Thạch An, Dầu Tiếng
27. QUẢNG NAM 
1.Nguyễn Tấn Bửu      hy sinh 7/4/1968   QQ: Diên An, Điện Bàn
2. Nguyễn Văn Lợi      hy sinh 8/7/1967   QQ: Điện Phong, Điện Bàn
28. RẠCH GIÁ
1. Nguyễn Thị Kim Mến    hy sinh 20/1/1970   QQ: Vĩnh Hoà Hưng, Gò Quao
29. SA ĐÉC
1. Trần Ngọc Quang    hy sinh   20/1/1970   QQ: Tam An, Cao Lãnh

GHI CHÚ: Bản Danh sách liệt sỹ này được tác giả cung cấp từ bản gốc quân lực Đoàn Rừng Sác những năm 1965-1975 , nhưng có những tỉnh, thành có ít liệt sỹ, căn cứ vào tình hình thực tế trên cơ sở có thể được , tác giả đã phân theo địa danh như hiện nay để bạn đọc tiện theo dõi như Hà Tây, Quảng Bình, Đồng Nai…v.v… Trong lời tác giả nói có hơn 800 liệt sỹ, là bởi có hơn 200 liệt sỹ là con em của đồng bào 10 xã địa bàn trực thuộc Đoàn Rừng Sác lúc đó ( 1965-1968). Đoàn Rừng Sác có 621 liệt sỹ
 

NHƯ VẬY SATTTHAT TÔI ĐÃ HOÀN THÀNH XONG CUỐN SÁCH “ MỘT THỜI RỪNG SÁC “ CỦA TÁC GIẢ- ĐẠI TÁ LÊ BÁ ƯỚC. MONG QUÝ BẠN ĐỌC THÔNG CẢM VÌ BẬN NHIỀU VIỆC NÊN KHÔNG THỂ GỬI BÀI LIÊN TỤC
TRÂN TRỌNG CẢM ƠN BAN QUẢN TRỊ ĐÃ CHO TÔI THỂ HIỆN TẤM LÒNG THÀNH KÍNH CỦA MÌNH ĐỐI VỚI NHỮNG NGƯỜI ANH HÙNG RỪNG SÁC.