Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Văn học chiến tranh => Tác giả chủ đề:: crawling0805 trong 23 Tháng Sáu, 2012, 10:18:50 am



Tiêu đề: Tôi chết, bắt đầu một thế giới sống
Gửi bởi: crawling0805 trong 23 Tháng Sáu, 2012, 10:18:50 am
 
(https://cdn0.fahasa.com/media/catalog/product/cache/1/image/9df78eab33525d08d6e5fb8d27136e95/t/o/toi_chet_bat_dau_mot_the_gioi_song_1_2018_07_09_13_53_37.JPG)

Tôi chết, bắt đầu một thế giới sống...
(Chuyện kể 20 năm đi tìm đồng đội)
Thể loại: Ký sự
Tác giả: Nguyễn Thị Ngọc Hải
Nhà xuất bản: Hải Phòng, Trẻ
Người thực hiện: crawling0805, Kun.

Đôi lời giới thiệu
Phan Hiển

Không biết khi cuốn sách kể chuyện hai mươi năm đi tìm đồng đội này đến tay mọi người, nhất là những cán bộ được Đảng và Nhà nước giao trách nhiệm thực hiện chính sách đối với thương bình, liệt sĩ và các gia đình được Tổ quốc ghi công, những cha mẹ có con nằm lại ở khắp các chiến trường thì niềm cảm xúc, ý thức trách nhiệm sẽ được khơi dậy như thế nào?

Trước khi viết cuốn sách này, Nguyễn Thị Ngọc Hải đã viết nhiều bài đăng trên một số tờ báo được dư luận đặc biệt chú ý, có bài viết đã được giải thưởng cao. Trong dịp kỷ niệm ngày thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, các đồng chí nguyên là cán bộ Đoàn Thanh niên hoạt động ở Hải Phòng nay về hưu hay công tác tại thành phố Hồ Chí Minh đã cùng nhau viết một cuốn hồi ký về một số sự việc và con người đã từng hoạt động ở quê hương Hải Phòng, và đã từ Hải Phòng vào miền Nam đánh giặc, nay vẫn tiếp tục cống hiến. Tên sách là "Một thời trai trẻ" do Nhà Xuất bản Trẻ TP Hồ Chí minh xuất bản tháng 3 năm 1996. Một anh bạn thân của tôi, đã từng giúp việc đồng chí Tổng bí thư Đỗ Mười, trong chuyến vào Nam để tìm hài cốt của con trai anh ở một đơn vị chủ lục, hy sinh tại vùng Dầu Tiếng. Tôi đã tặng anh cuốn sách "Một thời trai trẻ". Nửa đêm hôm ấy, tiếng chuông điện thoại reo vang, từ đầu dây bên kia anh bạn tôi gọi:

- Ông Hiền ơi (chúng tôi đều đã có cháu nội cháu ngoại nên không gọi nhau bằng mày tao như hồi trước), tôi đọc cuốn sách ông cho buổi chiều mà đêm nay không sao ngủ được!

- Ông mất ngủ vì đọc bài nào?

- Tôi đọc bài của Nguyễn Thị Ngọc Hải viết về một đồng chí bác sĩ quân y và tập thể còn sống sót của tiều đoàn Cát Bi đi tìm đồng đội. Ngày nay vẫn còn những con người nghĩa tình như thế! Có người bảo: bây giờ cứ có tiền thì cái gì cũng mua được, nhưng tôi vẫn nghĩ rằng: có một cái không tiền nào mua được, đó là tình người, tình đồng bào, đồng đội, đồng chí. Trần Văn Bản và đồng đội của anh, như cổ Hải kể lại, đã chứng minh cho ý nghĩ của tôi. Đấy là tôi mới đọc có một mẩu chuyện thôi, chưa được đọc các mẩu chuyện của hai mươi năm! Ông nên sưu tập cho đầy đủ, gửi ra Hà Nội, báo cáo với Bộ chính trị và Chính phủ, đề nghị xét duyệt tặng danh hiệu anh hùng cho những con người âm thâm, lặng lẽ, kiên trì làm một công việc đầy tình nghĩa như vậy...

Nay thì Nguyễn Thị Ngọc hải đã viết xong một tập bản thảo, rút ra một số chuyện từ những cuốn sổ tay chị ghi chép nhiều năm qua với nhiệt tình của một nhà văn, nhà báo cách mạng. Hai nhà xuất bản "Trẻ" và "Hải Phòng" mong muốn có một cuốn sách không chỉ để kỷ niệm ngày thương binh liệt sĩ 27 tháng 7, mà nêu lên một vấn đề lớn trong chính sách của Đảng và Nhà nước, trong tình cảm sâu nặng và niềm tự hào bất diệt của nhân dân ta.

Bác Hồ đã dạy: hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin là phải làm tròn nhiệm vụ Tổ quốc và nhân dân giao phó, phải sống với nhau, với nhân dân, với đồng bào, đồng chí của nghĩa có tình... Hàng chục triệu nhân dân ta, hàng triệu chiến sĩ ta đã thực hiện lời dạy đó, làm nên sự nghiệp lớn, viết nên trang sử vẻ vang mà các thế hệ hôm nay và mai sau mãi mãi tự hào. Các nhà xuất bản muốn có nhiều cuốn sách nói lên những sự việc và con người thể hiện bằng việc làm tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Mong muốn của nhà xuất bản đã thôi thúc tác giả Nguyễn Thị Ngọc Hải hoàn thành bản thảo, mặc dù chị biết rằng đồng chí Trần Văn Bản và đồng đội của anh không muốn kể nhiều, không muốn được sách báo đề cao những việc làm mà các anh cho là nhỏ bé so với biết bao công việc to lớn của cách mạng và kháng chiến, của xây dựng trong hoà bình.

Tôi đã say mê và xúc động đọc một mạch bản thảo, nhiều đoạn phải dừng lại để lau nước mắt cứ tự nhiên trào ra. Trước mặt tôi như một cuốn phịm ghi lại cuộc chiến đấu ở một trong những mặt trận ác liệt nhất, vùng đất thép Củ Chi và một số căn cứ kháng chiến chung quanh Sài Gòn, những địa danh nổi tiếng của Tổ Quốc Việt Nam. Một số sự việc kể lại hôm nay gợi lại hình ảnh cả nước kề vai sát cánh, các thế hệ thanh niên lần lượt xông ra tuyến lửa , không ngại hy sinh gian khổl hình ảnh các bà mẹ Việt Nam, coi chiến sĩ và cán bộ như con ruột của mình; hình ản biết bao bậc cha mẹ tiễn những đứa con yêu quý nhất ra trận, chấp nhận hy sinh cho Tổ quốc sống còn, khi hoà bình lập lại vẫn tiếp tục cuộc sống gian khổ khi hàng triệu bảng vàng Tổ quốc ghi công được treo cao trong những căn nhà đơn sơ ở khắp mọi miền đất nước. Tôi đặc biệt xúc động khi đọc những đoạn Trần Văn Bản và đồng đội lặng lẽ và kiên trì trở lại chiến trường xưa làm những việc theo mệnh lệnh của trái tim người cộng sản, tìm được hơn một ngàn hài cốt đồng đội, viết hàng trăm thư từ báo tin cho các gia đình, không đủ công sức đem hài cốt đồng đội và các kỷ vật còn lại trong lòng đất về quê hương trao tận tay cho những người mẹ, người cha... Và cuộc tìm kiếm không chỉ dừng lại 20 năm, đến nay vẫn còn đang tiếp tục. Đây là một "chuyện lạ" mà vẫn có thật ở nước ta. Cuốn sách chỉ nói được một phần.

Bên cạnh niềm tự hào, niềm cảm xúc, tôi nghĩ rằng nội dung cuốn sách còn khơi dậy sự ân hận và cả sự xấu hổ nữa, nếu lâu nay tôi được Đảng và Nhà nước giao trách nhiệm mà không làm tròn trong việc xây dựng và thực hiện chính sách đối với những người có công với cách mạng, đối với thương binh liệt sĩ và các gia đình xứng đang được Tổ quốc ghi công.

Với những ý nghĩ nói trên, tôi nhiệt liệt hoan nghênh sự nhạy bén của hai nhà xuất bản và nhiệt tình của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Hải.

Các cuốn sổ tay của chị còn nhiều sự việc và câu chuyện xúc động mà một số bài báo và cuốn sách này chưa nói hết được. Tôi lại được biết một điều khiến tôi thêm kính trọng việc làm của tác giả, có thể "trích ngang" một câu về lý lịch như sau: Nguyễn Thị Ngọc Hải là con gái ruột đồng chí đại tá Nguyễn Chất (đã mất), nguyên là Phó tư lệnh một sư đoàn chủ lực quân đội nhân dân Việt Nam, Thành đội trưởng - thành đội Hải Phòng, người đã chỉ huy các lực lượng vũ trang bảo vệ vùng trời Hải Phòng, đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ. Tác giả mang dòng máu của bộ đội cụ Hồ, là "con nhà lính" mà không có "tính nhà quan".


Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống... - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 23 Tháng Sáu, 2012, 11:21:05 am
1.

Bảy giờ kém mười tàu vào ga Hàng Cỏ. Bản chờ cho khách xuống bớt, mới xách túi đi chậm phía sau. Đang loay hoay tìm nơi mua vé để chuyển tàu về Hải Phòng ngay, thì có tiếng gọi. Đấy là anh Công, người phiên dịch. "Sao biết tôi đi tàu này?" Hỏi xong thì Bản chợt thấy ngay các ống kính đang chĩa vào mình. Đó là các phóng viên Nhật của hãng NDN (Nippon Denpa News L.t.d) đang quay toàn bộ cảnh anh xuống tàu với chiếc túi xách. Họ đã biết trong túi có gì rồi. Trời mưa lạnh. Mãi hai giờ chiều mới có tàu Hải Phòng. Họ mời Bản về nghỉ tại văn phòng của toà báo. Họ sẽ còn theo anh về quê tận Vĩnh Bảo, để theo cái túi tới tận nhà người nhận.

Bản hỏi thẳng thắn trước lúc về văn phòng:

- Các ông biết tôi có mang theo hài cốt, vậy có sợ không?

- Không! Khong sợ! - Họ trả lời.

Hỏi như vậy là vì anh nhớ lại nỗi bàng hoàng của họ cách đây ít ngày tại Củ Chi. Chính họ đã đi cùng đội xung kích Chữ thập đỏ của quận Tân Bình, TP Hồ Chí Minh, để đào lên năm bộ hài cốt liệt sĩ. Lúc đó, anh đòi họ phải cho biết rõ là quay cảnh gì. Dù công tác nhân đạo cũng phải đủ giấy phép của Bộ Văn hoá, ngoại vụ - Nghe đoàn nhà báo Nhật đặt vấn đề đi theo quay cảnh công việc bình thường của đội xung kích Chữ thập đỏ, Bản đòi hỏi phải đầy đủ giấy tờ. Anh đã từng đi cùng với người của MIA trong việc tìm hài cốt lính Mỹ, anh sợ nước ngoài quay phim rồi so sánh. Các anh làm hoàn toàn thủ công với cuốc xẻng. Bản còn ra điều kiện: "Chúng tôi đi tìm đồng đội, không phải đóng phim. Tuyệt đối đề nghị các ông không thiệp gì." Họ giữ lời hứa. Suốt ngày đầy nắng giữa ruộng họ chỉ dám một lần yêu cầu làm chậm chút cho kịp quay cận cảnh lúc Bản cầm cái nhíp gắp tờ giấy nhỏ viết tên họ liệt sĩ, nhét trong lọ péniciline...

Tắm rửa xong, còn lại một mình với cái túi trong văn phòng toà báo Nhật, Bản lấy cam, xoài đem theo suốt dọc đường bày lên thắp hương, thầm thì: "Tới Hà Nội rồi. Chiều sẽ về Hải Phòng, về nhà".

Rồi Bản tranh thủ chợp mắt. Đang lơ mơ, như có tiếng fecmơtuya cái túi mở ra - Bản bật dậy. Tới ba lần như thế. Thôi, dù chỉ là nỗi ám ảnh thì cũng cứ ôm vào lòng mà ngủ là yên. Bản chồm dậy, mở fecmơtuya cái túi, ôm vào lòng, ngủ tiếp. Đây đâu phải lần đầu tiên anh làm việc này... Mấy năm trước, anh đã đưa Kiên về. Vậy là cái tổ ba người - mà rộng ra cả xã 29 người đợt ấy "đi B" vào Nam chiến đấu, chỉ còn mình anh về.. Có phải dễ dàng tìm thấy các bạn đâu. Riêng với bộ hài cốt của Hoà, người bạn đang nằm trong cái túi đem theo đây, Bản đã đi, lại khảo sát tới mười ba lần, mới có được buổi ra quân năm mươi đội viên xung kích Chữ thập đỏ bữa ấy cho nhà báo Nhật đi cùng. Bọn anh tập kết bằng xe máy cá nhân xuống Phú Hoà Đông, đi bộ tới bốn, năm km vào đến ruộng lúa, thuê xuồng lớn chở ba chuyến qua lạch Lán The giáp Trung An, luồn lách về ấp Bốn Phú. Tới đó còn đi bộ trên ruộng mía mênh mông. Nơi này vào tháng 6-1969 tiểu đoàn anh đánh nhau dữ dội với sư 25 nổi tiếng của Mỹ. Nhà báo Nhật Bun-dô (Bunyo-Ishikawa) tác giả cuốn sách ảnh "Cuộc chiến tranh giải phóng Việt Nam" trước đây đã từng đi theo sư đoàn 25 đến vùng này, chụp rất nhêìu ảnh quý về chiến tranh Việt Nam, nay ông cũng đi trong đoàn của hãng truyền hình NDN xuống Trung An. Phải thừa nhận là các nhà báo nước ngoài do tranh thủ dịp may được tiếp cận với tài liệu sống khá lạ kỳ của một dân tộc khác nên họ chịu cực không thể tả! Nắng chang chang không mũ nón suốt ngày, họ chọn chỗ, kê máy, cả hai nhà quay phim Hisato và Naoki Shima cũng nhanh thoăn thoắt, bắc hai máy. ông Bun-dôthì ngã lộn cả xuống hố đầy nước, một cành cây cừ nhọn người ta đắp bờ, xuyên thủng cả áo. Hai chiếc máy chụp ảnh nghe đâu tới mười bảy ngàn đô rơi xuống hố, khều mãi mới vớt lên được. Khi quanh vào ấp Bốn Phú xe không vào được. Bản chở người quay phim, một hội viên khác chở ông Bun-dô. Đến chỗ đi bộ đường trơn, ông ngã xuống hố, suýt nữa thì cành cây đã xuyên vào sườn ông. Bản lịch sự: "Thành thật xin lỗi ông về sự không may". "Không sao, không sao." - Bun-dô nói cho Bản hiểu, đây là dịp may mắn của đời ông. Suốt những năm 1965, 1966, 1967, 1968 ông đều ở vùng Củ Chi, Trảng Bàng (Tây Ninh), theo chân sư 25 của Mỹ. "Vì thế tôi đã có niềm vui sướng không bao giờ ngờ được: Khi Việt nam chiến tranh, tôi đã chụp được những tấm ảnh sự thật hiếm có, nay tôi lại được chứng kiến những sự thật sau chiến tranh"...


Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống... - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 23 Tháng Sáu, 2012, 06:55:31 pm
Khu vườn hôm đó họ tới, trước đây là vườm chôm chôm, xoài, măng cụt. Khi chiến tranh xảy ra, mảnh đất hết chịu bom xăng cháy, lại đến bom đìa phá hầm. Nay thì cả trăm mẫu mía bạt ngàn, không còn mốc nào để nhận ra. Khi khảo sát lần thứ mười ba theo trí nhớ, Bản hồi tưởng lại lúc anh chôn Hòa xong, quay đầu ra rạch có cây xăng đá sát bìa rạch. Nay có một cây rất to. Có phải cây cũ còn lại hay cây mới mọc sau này? Bà con cho biết nó là cây cũ, lớn rất chậm. Nếu thế thì bên phải còn một cây xăng đá nữa, phải tìm cho ra. Nếu không có cây đó, nghĩa là anh đã chọn lầm địa điểm này. Tìm mãi, Bản thấy trong cỏ che phủ, một dấu vết cây cũ đã bị cưa đi, còn nhô lên 15cm. Nhưng mà ai cưa?

Mảnh đất này trước là vườm nhà ông Út Đủ. Hỏi mãi mới biết là chính con ông Út Đủ đã cưa nó.

Vậy thì đây rồi, Bản có thể vẽ ra sơ đồ và xăm thử. Vườn mía đất đen mềm, xăm xuống hễ "kịch kịch" là rễ cây, ấn xuống nghe "sịt sịt, xẹc xẹc" là vào sắt. "Kịch" mà "cứng ngắc" lại, ấy là xương. Đá thì sao? Đá thì xoay tứ phía, cọ cọ, sẽ có tiếng động "xạc xạc" còn xương giống như cây khô, xiên mạnh không vào, không xốp. Nếu thọc tay đụng xương sẽ thấy tròn, miết nhẵn, lần theo thấy dài. Xương sườn dẹp, cong trơn. Xương sọ thì dễ nhất: lâu bị tiêu hủy, vùng chẩm sắc nhọn, cạ cạ thấy cạnh...

Giờ đây những việc phân biệt như thế, đội viên Chữ thập đỏ của anh đã khá rành. Họ chọc chọc, lấy cây ém xuống. Đất khô nên áp tai nghe tiếng cây chọc rõ như ống nghe bác sĩ anh vẫn nghe hàng ngày vậy.

Sau những lần đi tìm công phu như thế, đội xung kích của anh mới bắt tay vào việc bốc lên. Cảnh tìm được Hòa, được các nhà báo Nhật quay thành một cuốn phim dài với sự kinh ngạc. Họ ngạc nhiên đủ thứ. Đi đến đâu, dù không báo trước mà bà con vẫn kéo ra thật đông đảo - Không phải đi xem mà để mang bánh tráng, rau, trái cây ra tiếp. Chủ tịch, bí thư, cán bộ xã cũng đi theo, có việc gì làm nấy.

"Sao ai cũng hỏi chuyện ông như người thân? Ai ông cũng quen?" - Bun-dô hỏi "Để xe đây không ai trông, đi vào xa tít trong làng, nhỡ ra...?"...

"Đừng lo gì hết. Để xe đây các ông yên trí đi: Trầy xước nhỏ tôi đền." - Bản trả lời.

Cả trăm người đông nghẹt. Cờ Chữ thập đỏ cắm lên tung bay. Ba tốp chia nhau đào theo sơ đồ. Khi đụng xương, họ bứng hết mía. Phải lấy hết đất ra, vì đụng xương là sẽ đụng nước. Tám, chín giờ nước lên trên các kinh rạch sẽ tràn vào ruộng mía. Họ lấy các lóng xương to - Những lóng xương nhỏ sẽ được bốc lên cùng với sình và rửa bằng rổ.

Bộ hài cốt đầu tiên lấy lên là Hòa. Bản lấy được thắt lưng còn nguyên màu đỏ. Khóa đồng bị sét đi nhiều. Quần áo mục nát. Hai mươi sáu năm còn gì? Anh em lấy lên cái sọ vỡ đôi. "Lọ péniciline trong đó" - Bản khẳng định - nhưng nhấc chiếc sọ lên, moi từ nửa sau ra, không thấy lọ đâu cả.

"Không được. Nhất định phải có lọ" - Nó sẽ nổi trong nước". Mười phút sau thì chiếc lọ được vớt lên, rửa sạch bên ngoài. Bọc ni-lon còn, dây cột vẫn chắc - nhìn còn chữ bên trong. Khi cái lọ được mở ra, đó là phút duy nhất các nhà báo yêu cầu Bản làm chậm lại. Dòng chữ trên tờ giấy do chính tay anh viết. Anh lấy nhíp kéo mẩu giấy ra, dùng mùi xoa chùi sạch, chữ còn đọc rõ: "Nguyễn Bá Hòa sinh 1949, nhập ngũ 25-5-1967. Quê quán Hùng Tiến, Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Hy sinh 5-1969 cấp bậc tiểu đội trưởng trinh sát..."

Camera quay sát chiếc lọ, mẩu giấy. Nếu Hòa nằm đây - Bản quay mặt về phía Lán The để nhớ - thì tay trái sẽ là Trần Tăng Quạt, tay phải là anh Nguyễn Văn Đoài, quê Thái Bình". Bởi ngày đó anh chồn hàng cách  hàng 1m và một cách mộ 50cm. Các xương sọ có cái bể nát. Còn một túi đựng thuốc rê, sợi thuốc ngấm nước vẫn còn hình thù, không mùi. Bản cũng dám nhẩm cả vào viên thuốc chống sốt rét, thấy vẫn còn hơi đắng...

Người Nhật ngạc nhiên nhiều thứ. Trước nắm xương đã gần ba mươi năm của những chàng trai quê miền Bắc, nơi các má dù chưa một lần tới, vẫn thắp hương, khóc như khóc đứa con vừa mất.

- "Ai báo cho bà biết tìm thấy con ở đây để bà đến khóc?" Nhà báo hỏi.

- Không phải con má đâu. Má quê ở miền Nam này, còn anh bộ đội quê tận miền Bắc.

- Vì sao bà má khóc?

Biết trả lời sao cho hết được? Các bà mẹ Việt Nam đã từng hóc thương các con biết bao lần, hay nói đúng hơn là con đi đánh giặc xa, rồi không bao giờ trở lại, nước mắt đau thương má đã ôm giấu suốt đời, suốt những đem khuya lặng lẽ... Đến bộ xương đào lên để ngoài nắng, bà con không bằng lòng, bắt đem vào bóng mát để, thắp hương cẩn thận kẻo tội nghiệp... Trải miếng tăng lớn, cho anh em nằm nghỉ. Đốt năm cây đèn cầy. Xương được thấm khô, xịt nước thơm. Mọi người nghỉ tay ăn cơm... Những câu hỏi phỏng vấn - người ta biết công việc của nhà báo là vậy - nhưng hôm ấy thì không phải chỉ là việc cho bài vở mà nó là sự tha thiết muốn "giải tỏa" cả trăm ngàn thắc mắc của người phóng viên.


Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống... - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 23 Tháng Sáu, 2012, 07:21:30 pm
"Tại sao anh lại ghi tên vào cái lọ? Thật đơn giản mà hết sức khoa học. Chúng tôi biết lính Mỹ hiện đại thế cũng chỉ nghĩ ra cách trang bị là đeo thẻ bài theo người. Như vậy còn dễ bị rơi, thất lạc khi chết. Bản giải thích - Thời gian đầu chiến tranh, khi chon anh em, chúng tôi chưa có kinh nghiệm, nên rất nhiều người trở thành vô danh. Sau đó tôi nghĩ ra cách phải có cái gì đó để khi hết chiến tranh mà tìm. Chúng tôi nghĩ đục tên vào mảnh lon hộp sữa, bỏ vào chai xị, bịt nilon chôn theo. Sau thì nghĩ ra viết vào giấy, gói nilon cho vào túi. Lúc đầu tôi thử viết bút bi, sợ phai màu. Nhưng thử cho miếng giấy vào dầu ăn, treo lên ngọn cây qua mưa, thấy vẫn còn. Nghĩ là bỏ trong túi cho chắc, nhưng khi cuốc có khi vỡ mất. Chỉ có bỏ vào miệng, tìm thấy xương sọ thì thế nào cũng có lọ.

- Sao các anh lại có lọ này? Đi bộ đội được phát?

- Quân y viện trong rừng, thiếu gì!

- Đây là việc làm phi thường mà tất cả các cuộc chiến tranh không ai làm được. Thẻ bài của lính Mỹ có tên họ, nhóm máu, có hồ sơ lưu trữ rất công phu. Nhưng chỉ cần nó rơi ra khỏi người đeo là chịu. Cái lọ của các ông đơn giản mà chính xác...

Các phóng viên Nhật xem đây là một ý tưởng khoa học rất đơn giản mà hiệu quả tốt nhất. Làm sao Bản có thể kể hết mọi chuyện trong một vài câu trả lời ngắn được? Ngay từ năm 1969 - 1970 trong một hội nghị chiến sĩ thi đua toàn miền tại Bố Hòa, Tây Ninh, kinh nghiệm này đã được phổ biến tới tất cả các quan y mặt trận đóng dày đặc, tới các đơn vị chiến đấu. Các sư đoàn 7, 9 đều đã làm rất nhiều. Các khu vực quân y đều có tới ba, bốn căn cứ và mỗi căn cứ lại có tơi hai, ba nơi chôn cất liệt sĩ. Anh không biết chính xác các số thống kê, chỉ làm một con tính nhẩm: Nếu chỉ tính năm quân y thành mười căn cứ, như vậy phải có tới con số ngàn. Chiến trường Tam giác sắt này có phải là nơi chiến sĩ hy sinh nhiều nhất, hay là Quảng Trị? Anh không có con số nào chính xác, nhưng chắc tin một điều: Cả chiến trường Tam giác sắt mãi mãi là một tượng đài oanh liệt của chiến tranh...

Nhà báo Nhật đề nghị anh kể lại trận đánh mà các liệt sĩ anh lấy hài cốt này đã chiến đấu, hy sinh. Anh kể vắn tắt:

"Lính xuống từ lộ lớn, từ đồng cao. Đó là năm 1969 Mỹ cử ba đại đội của sư 25 từ phía bốt Trung An xuống. Chúng cho bom, pháo dội tan nát rồi mới đổ quân. Bộ đội ngụy trang công sự kín, bám trụ chiến đấu, chờ địch đi sát vừa tầm bắn mới nổ súng. Khi có thương vong quân Mỹ rút ra, bắn trái pháo màu để phân tuyến, gọi hỏa lực dội bom pháo phía bộ đội. Cứ khi nào pháo ngưng là đào hầm cho sâu xuống. Tranh thủ hút thuốc không sợ lộ vì bom đạn khói tùm lum. Lúc đó cả Hòa và Quạt đều chưa sao cả. Năm giờ sáng chúng dội bom xăng, lân tinh phốt pho, cháy cả mặt nước. Bị khói, ngạt thì nhảy lên chui xuống gốc các bụi khóm.

- Tối vậy làm sao anh ghi được tên vào giấy?

- Nhờ pháo sáng của giặc. Sau này chúng tôi chuẩn bị sẵn, các chiến sĩ đều có tên tuổi cho vào lọ cột, bỏ vô túi. Hy sinh thì đồng đội sẽ lấy chôn cất.

- Không ảnh hưởng tới tinh thần sao? Đeo cái lọ tên mình khi ra trận?

Bản ngại ngần vì sự giải thích sẽ thuộc về "lý luận", sách báo nói nhiều rồi - Anh lặng lẽ bộc bạch: "Đây là quê hương chúng tôi. Mỹ được trang bị tới tận răng. Đánh Mỹ phải chịu đựng bom pháo kinh khủng. Chúng tôi chỉ có cây súng và một thứ nữa ông biết không? Lòng dũng cảm.". Một câu hỏi cho giữa trưa hôm đó, khi ngồi nghỉ dưới gốc cây bên cạnh năm bộ hài cốt:

- Ông là bác sĩ, đi làm thế này sao không đeo găng tay?

Bản cười. Anh nghĩ đến có lúc kiếm được xương dưới lớp đất sâu, anh còn cho cả xương anh em vào túi áo vì chưa kịp đem lên. "Tôi là bác sĩ, cùng chiến đấu với anh em. Nay tôi còn sống, anh em hy sinh còn chả tiếc. Nếu tôi lo cho bản thân, mang găng tay, tôi sẽ không còn cảm giác khi sờ phải xương. Như vậy sẽ để sót xương anh em, mà bỏ sót là phải tội. Tôi lớn tuổi rồi, còn anh em hy sinh giữa tuổi xuân...".


Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống... - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 24 Tháng Sáu, 2012, 06:47:26 pm
2.

Chính vì thế mà các nhà báo Nhật biết Bản sẽ đem hài cốt của Hòa ra Bắc, như anh đã hứa với Hòa trước lúc bạn chết. Nhưng làm sao biết là chuyến tàu nào để rình chộp, thì họ hoàn toàn bí mật để có được cảnh thật. Không những thế, từ sau lần cùng đi Củ Chi đó, biết được gia đình, quê quán Bản, họ đã về tận Vĩnh Bảo để thăm.

Trước khi về Hải Phòng, Bản lại ra điều kiện với nhóm phóng viên: họ sẽ phải qua các thủ tục cần thiết, đến Sở Ngoại vụ, vào báo cáo chủ tịch huyện, và anh sẽ về xã trước. Phải làm sao thật gọn nhẹ êm thấm, không được xe cộ ì ùng, không được làm rùm beng cho dân kéo đến quá đông.

Ông Vụ, phó chủ tịch huyện Vĩnh Bảo chẳng phải ai xa lạ, chính là thầy dạy toán của Bản hồi ở trường cấp hai. Họ vẫn nhớ ngày xưa Bản được đi thi học sinh giỏi miền Bắc. Còn ông chủ tịch xã chính là em họ Hòa.

Khi xe của Bản về đến cái cầu nhỏ ở làng, anh ngoắc tay cho chiếc xe chở nhà báo, ra hiệu đã đến lúc họ phải kín đáo, có quay phim phải đặt máy ngoài ruộng, trong chỗ khuất lùm cây.

Anh Hợp, người anh cùng cha khác mẹ của Hòa đang ở ngoài vườn. Có những hai bà mẹ. Bản cầm túi để lên bàn thờ, đi xuống bếp. Mẹ của anh Hợp gọi mừng "Hợp ơi, Bản về".

- Tớ công tác ghé qua, có chuyện muốn thưa với hai cụ. Cậu đi kêu bà mẹ đẻ anh Hòa về đi.

Bà mẹ chạy về tới nơi, Bản mới vẫy tay cho các nhà báo, trong lúc dân đã kéo đến khá đông - Họ nghe tin Bản về thì ghé chơi, thích nghe anh kể chuyện ngày xưa đã cùng các liệt sĩ con em họ chiến đấu ra sao. Bản kể kỷ niệm ngày xưa còn ở làng cùng với Hòa đi chăn trâu, đánh giậm, bơi dưới ao hồ, cùng đi học nhóm. Đời chiến đấu thì có vô số chuyện vui của lính, khi có lệnh "lội" qua suối sâu ngập đầu, Hòa cười rộ: sâu thế này mà bảo lội!

- Anh kiếm được dấu vết nào của cháu chưa? - Bà mẹ đã biết tiếng Hội Chữ Thập đỏ Tân Bình của Bản đang tìm dấu vết các liệt sĩ, cùng với số anh em trong đơn vị còn sống tại TP. Hồ Chí Minh, nên hỏi.

- Con đã đưa Hòa về Củ Chi rồi. Bà có vào thăm không để con đưa đi...

Bản không muốn sự đột ngột quá sức đến với hai người mẹ, một người 79 người kia 81 tuổi. Bà mẹ run run hưởng ứng câu chuyện nghe như để mà chơi:

- Muốn đi theo anh thăm con lắm nhưng sức yếu. Tiền bạc đâu.

- Bây giờ hai bà vào không được, nếu mà Hòa về thì hai bà thưởng gì nào?

- Vàng bạc châu báu trên đời cũng không trả được - Bà mẹ cười buồn: Mà bà già còn gì mà thưởng đây?

Không ai để ý cái túi vẫn để trên bàn thờ. Bà mẹ đâu biết con đang nằm đó, còn đằng sau vườn nhà mình có người nước ngoài đang quay cảnh nhà mình. Bản không muốn làm ì xèo như cuộc quay phim phô trương. Đây là phút giây hệ trọng. Một mẹ đẻ, một mẹ kế - Hai bà mẹ già như muốn sụm xuống, khô héo bao ngày, nay sắp nhận xương con.

- Bây giờ mời hai bà đứng lên con nói - Bản đứng giữa đỡ hai bà mẹ - Con biết hai mẹ già vào Nam không được. Hôm nay con đem Hòa về đây này.

Bản xách túi xuống, kéo nghiêng cái túi cho mẹ nhìn. Hai bà mẹ và người làng đang vui ngồi chật nhà, bị bất ngờ lặng đi. Khi hai bà mẹ khóc òa lên "Con ơi, con tôi về rồi"... thì Bản thấy cả một sân người khóc nức nở. Và nước mắt chảy ròng ròng trên má Bun-dô, trên má các nhà báo của hãng NDN. Hẳn giờ đây họ đã biết thêm, vì sao các bà má Củ Chi khóc bên những bộ xương đào lên hôm nào.

Bản trải tấm vải trắng muốt đưa hài cốt ra. Anh giục hai bà mẹ thắp nhang, miệng cố vui đùa an ủi:

- Mấy hôm rày bà có thấy gì khác không?

- Từ hơn tháng nay mơ thấy nó về. Nó bảo sẽ ở nhà không đi nữa. Tôi nóng ruột lắm - mẹ đáp.

Bản bàn với địa phương tổ chức truy điệu, anh còn mời bà con buổi tối tới xem cuốn phim quay về cảnh đội Chữ Thập đỏ đi lấy Hòa về như thế nào. Buổi tối đó, gần 700 người ngồi tràn cả ra đường, để xem phim. Đoạn đầu là cảnh xe chạy, còn có tiếng xì xào "Đường miền Nam đẹp quá". Bắt đầu cảnh đào thấy xương, im ắng không một tiếng động. Đến đoạn anh mở cái lọ, chùi giấy đọc tên, hai bà mẹ khóc to lên thành tiếng và ngất đi trong tiếng khóc của dân làng.

Trên tờ báo của Nhật đầu năm 1995 có bài của nhà báo Bun-dô nói về chuyến đi, kèm theo rất nhiều hình ảnh. Có tấm ảnh Bản đang ôm cái túi, ngồi nhìn ra ngoài cửa sổ toa tàu. Ảnh anh đang lấy xương đồng đội, và một tấm hình anh nhỏ xíu đứng hồi tưởng trong vườn mía để xác định phương hướng. Có cả những tấm ảnh gợi cảm về ngôi nhà ở làng Việt Nam: nhà của Hòa ẩn mình sau bụi tre, nơi mà khi chỉ còn lại nắm xương, người chiến sĩ mới trẻ về nhà... Trong đợt kỷ niệm 20 năm giải phóng miền Nam, các nhà báo hãng NDN đã phát trên vô tuyến truyền hình Nhật chương trình ba đêm liền vang động Tokyo. Người dân Nhật đã được xem toàn bộ cảnh đi tìm đồng đội, thấy tận mắt các bộ hài cốt được bốc lên với những cái lọ péniciline và cảnh Hòa được đưa về với hai người mẹ. Cho đến những ngày sau này, thỉnh thoảng lại có khách từ Nhật đến Hội Chữ Thập đỏ quận Tân Bình TP. Hồ Chí Minh. Hai cô nữ sinh nghèo đến tận nơi chào, chỉ có năm đô la biếu mua hương thắp cho liệt sỹ - Họ đến với niềm xúc cảm tha thiết, để có thể thấy tận mắt con người đặc biệt đã gây ấn tượng mạnh từ chương trình ti vi. Hơn nữa, các cô bé ấy còn nhìn tận mắt ở phòng làm việc của người bác sĩ có chiêc tủ kính. Rất nhiều thứ đào lên được cùng với các bộ xương chiến sĩ vô danh: một người y tá - chắc chắn vậy - còn cả túi cứu thương với các cây kim tiêm. Chiếc khăn rằn không rõ xứ nào dệt mà vẫn còn bền chắc. Đôi dép cao su. Một cái ví với các tấm hình nhòe nhoẹt. Còn đây chắc chắn là của vị chỉ huy: khẩu súng lục và cái dây đeo còn chắc. Một lọ dầu thơm của một nữ chiến sĩ. Mấy chục năm chôn sâu dưới đất vẫn còn, mở ra ngửi vẫn ngát mùi thơm...


Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 25 Tháng Sáu, 2012, 06:43:50 pm
3.

Sau cái ngày đi đào hài cốt ấy, ông Bun-dô vẫn còn những điều không hiểu. Ông đã lăn lộn bao năm chiến tranh để có được nhiều hình ảnh lính Mỹ và cuộc sống làng quê Việt Nam dưới đạn bom: cả những tấm ảnh cận cảnh không thể chối cãi tội ác của quân xâm lược: mổ bụng, bêu đầu... Vậy mà hôm nay, 20 năm sau, ông vẫn còn nhiều điều chưa được giải thích, nên xin gặp Bản để hỏi chuyện. "Tôi hẹn ông lên địa đạo Bến Đình Củ Chi". "Sao anh không chọn Bến Dược?" "Vì ở Bến Đình còn một số địa đạo chưa tu sửa, giữ nguyên dấu tích. Ở đó còn có một khu trò chơi thử tài vượt chướng ngại vật cho các khách thăm quan du lịch" - Anh Bản nghỉ - và hẹn gặp Bun-dô vào lúc sáng sớm.

Họ bắt đầu xem các bức ảnh Bun-dô chụp tại đây, hơn 20 năm trước.

- Nếu tôi không lầm, ông chụp tấm này ở cánh đồng Chà Dơ, còn gọi là cánh đồng chó ngáp. Có thể đây là xe tăng, lính Mỹ dàn ra đi càn, cách căn cứ Đồng Dù khoảng 3-4km.

- Đúng - Bun-dô kinh ngạc xác nhận.

- Còn tấm này ông phải chụp từ năm 1966 trở về trước.

- Sao ông biết?

- Vì ông thấy đấy: còn nhà dân. Trước 1966 chưa có Ấp chiến lược giặc mới vào càn, đốt phá, giết chóc dân như thế này. Sau 1967, bình định nông thôn không còn nhà cửa này nữa.

- Đúng - Ông Bun-dô lại xác nhận, rồi hỏi: Sao lúc đó chúng tôi đang đi trong đội hình lính Mỹ, có tiếng súng các ông, lính Mỹ quay lại bắn phá kinh khủng bằng M79... Vậy mà khi xả hỏa lực xong, đến đó lại không có gì hết. Chúng tôi nhìn thấy vết máu Việt cộng các ông bị thương, nhưng tìm hoài không có. Vậy các ông đi đằng nào?

- Xin mời ông ra đây.

Bản nói với anh Thành, giám đốc khu Bến Đình để xin tới một căn hầm bí mật.

- "Ông Bun-dô hãy đứng đây nhé. Khi nào nghe tiếng tôi hú, mời ông đi lại tìm xem tôi ở đâu. Khi không thấy, ông nói, tôi sẽ xuất hiện". Bun-dô ngồi xuống chỗ cũ. Bản đi đến căn hầm bí mật chui xuống và hú một tiếng. Bun-dô nhanh chóng lao về phía bụi rậm tìm. Giữa chỗ trống thế này, ắt phải ở bụi rậm thôi. Nhưng kiếm hoài ở gốc cây không được, ông công nhận:

- Tôi không thấy.

Bản nghe được ngay: anh đội miệng hầm nhô lên cách nơi ông đứng khoảng một mét.

- Thôi tôi hiểu rồi - Ông không cần giải thích. Nhưng xin ông làm lại cho tôi quay phim. Có điều tôi xin hỏi: miệng hầm nhỏ xíu thế này lúc vội vã, người mập, làm sao chui xuông?

- Ông biết không, người Việt Nam chúng tôi có câu: Đầu xuôi đuôi lọt. Người Mỹ - Nhật tội không rõ, còn người Việt Nam, đường chéo đầu 21cm. Bề ngang căn hầm này người Việt Nam lọt tuốt.

Họ lại đến chỗ vượt chướng ngại vật. Bản giải thích:

- Hồi chiến tranh thì không thể biết được chỗ nào giặc cài mìn để dò dẫm. Nhưng bây giờ báo trước với ông là chúng tôi có gài, cho ông tìm cách không vướng vào mìn. Nào bây giờ ông bước đi!

Bun-dô chăm chú phát hiện ra sợi dây cước nhỏ, ông thận trọng bước qua thì nghe cái "đẹt". Nổ đâu vậy?

- Ông vướng mìn rồi đấy.

- Tôi bước qua nó, không dẫm vào cơ mà?

- Khi ông chăm chú nhìn xuống để bước qua cái dây cước nghi binh đó, đầu ông va ngay vào dây mìn thật trên cây ngang đầu ông. Thôi bây giờ cho ông bước tránh mình ở mặt đất quang đãng không cây cối này vậy.

Nhìn thấy mấy chiếc lá nằm trên mặt đất, Bun-dô quyết tránh những chỗ đất đầy nghi ngại, bước dẫm lên chiếc lá cho chắc ăn lại nghe tiếng "đốp". Ông ngơ ngác, Bản chỉ ngay vào cái lá:

- Ông dẫm ngay trái đấy: Mìn lá.

- Bây giờ xin hỏi: sao lính Mỹ tìm vào đến chiến hào rồi cũng không thấy các ông ở đó?

Bản giải thích các loại hầm hào, chiến hào, công sự, ụ chiến đấu. Ông Thành đem tới cuốc xẻng, Bản cầm lấy:

- Tôi sẽ đào cho ông xem thao tác như thế nào. Rồi anh giải thích tiếp cho nhà báo Nhật hiểu cách làm sao có thể tạo ra một cái hầm địa đạo.

- Đầu tiên phải đào cái miệng thí đã, nghĩa là một cái miệng sâu xuống, thí dụ địa đạo này là 1m5, cộng với chiều cao lên nữa, phải đào sâu 2m2. Xuống sâu, đào khoét ngang. Phải có hai người đào từ hai phía lại gặp nhau, thông nhau rồi mới lấp miệng phía trên lại, vì vậy gọi nó là cái miệng thí, bỏ. Thông hơi phải chéo, dưới to, trên nhỏ.

Bản cởi trần, mặc quần đùi, đội mũ tai bèo. Người quay phim đề nghị anh ráng đào sâu 1m để có thể xuống quay. Trong lúc đó ông Bun-dô quan sát, phát hiện điều cần hỏi:

- Đất này ông đổ đi đâu?

- Dễ lắm. Có ba khu vực có thể: đổ xuống hố bom pháo vừa đánh lộn nhào. Đổ trên mặt đất thì phải nện cho chắc và quét rác, rải lên trên một lớp rác dày tự nhiên. Nơi thứ ba có thể đổ thoải mái là đổ thành ụ bên cạnh tổ mối. Mối sẽ sang làm tổ liền, đất sẽ "cũ" ngay lập tức.

- Thế còn người ta nói bếp Hoàng Càm là thế nào?

- Nay người ta lấp đi khá nhiều rồi. Nhưng tôi sẽ vẽ lại cho ông thấy sơ đồ nguyên lý của bếp. Khói nặng sẽ luồn theo các hố chứa khói để ra hố thùng có chứa nhiều cành cây. Tôi sẽ nhúng củi vào nước rồi mới đem đốt cho ra thật nhiều khói, và rồi sẽ sơ tán khói cho ông thấy.

- Sao có tên Hoàng Cầm?

- Đó là tên người phát minh ra. Lúc đầu bếp đơn giản, sau bộ đội "khôn" lên, cải tiến hoàn chỉnh nhiều hầm chứa khói. Đầu tiên có hai bếp, một to một nhỏ, rồi dần dần hai bếp to giao lưu sang. Khói sẽ đi "dích dắc".

- Vâng, còn tôi có nghe câu chuyện tiểu đoàn 268 các ông có gương chiến sĩ đánh xe tăng bằng thủ pháo. Nắp xe tăng như vậy làm sao ông nhét vào?

- Nào mời ông ra đây, ở đây còn chiếc tăng M41 của Mỹ để làm di tích.

Bản trèo lên chiếc xe - Ông Bun-dô giơ tay:

- Nhưng lúc đó xe chạy, ông leo lên cách nào?

- Chúng tôi trèo qua cái xích này. Lúc đầu cũng có thương vong vì leo lên không biết cái nắp, đứng sẽ bị gạt xuống. Sau chúng tôi lên, ôm lấy cái nòng súng này, tha hồ xoay. Tưởng Việt cộng bị rớt xuống rồi, xe tăng kín nắp, họ phải mở nắp ra. Đó là lúc thủ pháo được nhét vào. Nếu quân địch hốt hoảng đậy ụp nắp lại thì càng nổ to.

- Một điều kỳ lạ là khi tôi đi hành quân cùng sư 25 quân Mỹ, tìm không thấy các ông đâu cả, vậy mà vừa ngồi xuống là bị các ông đánh liền.

- Có gì đâu. Các ông ngồi ăn trưa ngay trên nắp hầm của chúng tôi. Mỹ cũng chẳng dễ biết được chúng tôi chủ lực hay du kích, vì chúng tôi có khi trang bị giống nhau bằng vũ khí lấy được của địch. Chắc ông hồi đó có nghe trận bom đạn Mỹ hủy diệt Trảng Cỏ. Báo chí Sài Gòn lúc đó cũng lên tiếng phản ứng việc trút vào đó tới ba mươi ngàn tấn bom. Con số chắc các ông biết rõ hơn tôi.

- Tôi nhớ rồi.

- Hôm ấy chúng tôi có một tiểu đội đánh lại một tiểu đoàn Mỹ trong suốt một ngày. Chúng phải mang hỏa lực dội xuống. Khi Mỹ cụm lại, chúng tôi đánh ngay, họ phải rút về Đồng Dù...

Ông Bun-dô nhớ lại rồi. Tuy vậy còn một câu hỏi cuối:

- Các ông không một lúc nào thấy sợ sao?

- Ai mà lại không sợ chết hả ông? Nhưng đây là quê hương. Sợ cũng không được. Nếu mà đào ngũ cũng đâu có chạy sang Mỹ mà sống được? - Bản mỉm cười - Cho nên buộc phải không sợ. Sợ mà ngồi im thì bom pháo nó cũng dội chết. Thế là đánh không biết sợ, mà biết chiến đấu đó ông...

Trong cái ngày cả thế giới nhắc lại chiến thắng của người Việt Nam, hàng trăm nhà báo tới Việt Nam, tới Sài Gòn để dự mít tinh mừng ngày lễ, họ quan tâm đến một Việt Nam mở cửa. Những ngày đó, tại Củ Chi, vẫn còn nhiều điều tìm hiểu chuyện ngày qua.


Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 26 Tháng Sáu, 2012, 06:37:57 pm
4.

Năm 1989.

Khi đoàn xe cả chục chiếc, vừa xe du lịch vừa jeep chở những người trong đoàn tìm kiếm lính Mỹ mất tích (MIA) theo lộ 13 đúng hẹn lên ngã ba Rạch Bắp, thì Bản đã chờ sẵn ở đó rồi. Anh được yêu cầu đi chỉ giúp địa điểm để xác nhận thêm dù họ đã có bản đồ. Bản vẫn như mọi ngày: anh đi Honda, mang theo xẻng, cuốc, bao nilon... Đoàn MIA, tất nhiên với những anh lính trẻ măng mà Bản chắc là họ chẳng biết gì về cuộc chiến này. Những anh chàng được trang bị kiến thức, các phương pháp chuẩn xác, kèm theo cả video, chụp hình với các bản đồ chi tiết. Bản không chỉ đến đây giúp họ xác định nơi viên phi công rơi. Anh cũng có công việc của mình ở đó: tìm những đồng đội mà anh đã đi thăm dò nhiều lần ở khu vực này.

Hai anh chàng Mỹ trắng, tám Mỹ đen và số người đi theo anh vào rừng cao su Tân Tiến ở Bến Cát. Rừng mát rượi không có ánh sáng do các cành cao su rậm rạp, dù lúc vào đến nơi đã mười giờ trưa. Họ đi theo đường lô cao su, mỗi lô rộng ước chừng 500m2. Anh chỉ: chỗ này. Họ giở bản đồ ra, xác nhận đúng tọa độ đó. Bản dẫn người đại diện nông trường tới. Ông ta cũng xác nhận trước đây có máy bay rơi tại đây, có phi công chết - Bản không chú ý lắm khi nghe họ trao đổi về giá đền bù cây cối. Loáng thoáng hình như nếu hư cây sẽ đền hai triệu. Anh liếc nhìn vào đồ nghề của họ. Ngoài cuốc, xẻng, cưa, những cái sàng cát có hàng loạt hộp sơn xanh nắp rất đẹp. Chăng dây một vùng rất rộng vì họ nói sợ xương cốt có thể văng ra xa. Hết tới mấy chục ngàn đô chứ chẳng ít - Bản thầm đoán - Thế này là dễ quá rồi còn gì, chỉ cho tận nơi mà đào, đâu phải kiếm tìm đi lại hàng mấy năm trời, hàng mấy chục bận như Bản và đồng đội của anh vẫn làm.

Họ mằn mò kỹ lắm, nhặt lên cái gì cũng lấy. Bản cười hỏi: "Cái lọ thuốc vớ vẩn của Việt Nam, lấy chi vậy?". Họ cười.

Đào thấy xương, mảnh máy bay, khúc súng gãy, dây điện ở máy bay, viên đạn... họ sàng ở đó tới ba ngày. Nhìn cả những túi thức ăn khô, cái muỗng được đào lên, Bản nhớ lại ngày trước, chính đơn vị anh đã ở đây, họ đã chiến đấu và diệt chiếc máy bay này. Không thể có ai hình dung được khu rừng này trước đây đạn bom ngút trời giờ đã thành quê rồi với các thảm rừng xanh mát, trẻ con đi nhặt cành khô đang kéo lê củi trên đường lô, vui vẻ chỉ trỏ xúm vào xem những người Mỹ đang ra sức sàng đất.

Còn ngày xưa, ì đùng khói lửa, không một ngày nào yên. Mùi bom cháy, lửa cháy cả lá tươi - Anh không thể nào tả được mùi chiến tranh pha quyện đủ thứ. Đây là "vùng trắng": địch không cho bất cứ thứ gì mọc lên. Có những vùng anh biết, giờ đây tất cả cái gì có trên mặt đất đều bắt đầu từ sau giải phóng. Kẻ địch có hai thứ để hoàn thành ý đồ vùng trắng: rải chất độc, và sau là dùng B52 rải thảm.

Khu vực Bến Cát - Sông Bé tới hai phần ba là rừng. Trên này Thanh An, Thanh Tuyền, Rạch Kiến, Bưng Còng, rồi tới Rạch Bắp... đông nghẹt các đơn vị của ta. Mỗi lần chúng đi một tốp ba chiếc, một lần đánh phải chọi với hai tốp, sáu chiếc máy bay. Chúng rải hạt cỏ cho mùa mưa mọc lên um tùm, để mùa khô dùng bom xăng đốt trụi. Vùng tự do oanh kích, lúc nào bắn thì bắn. Những năm 1965, 1966, 1967 và đặc biệt sau Mậu Thân 1968 tình hình thật sự khốc liệt. Các anh chỉ có hai kiểu sống: Nếu ở rừng thì có hai loại hầm. Hầm ngủ đào lớn như một căn phòng, có cây to gác phủ đất cỏ, giống như hầm phẫu thuật, hầm ăn. Loại thứ hai là hầm bí mật để trốn khi giặc càn. Căn cứ nào cũng có. Cách sống thứ hai, thí dụ như ở Củ Chi, vùng giành giật nó luôn lấn ra, chiến sĩ phải sống dưới hầm bí mật và địa đạo. Ban ngày, lính tràn ra bên trên, đêm rút về bốt. Trừ đơn vị chiến đấu, còn hậu cần, quân y quân giới ngày ở hầm, đêm lên...

Hai mươi năm qua rồi mà hố bom vẫn còn - Bản nghĩ - ác liệt đến nỗi chẳng lấy ra cái gì để mà san hố bom cho xuể. Có khi hai, ba hố chồng lên nhau, chẳng còn đất đâu ra mà lấp. Nhưng bám trụ - có nghĩa là không rút đi đâu cả. Một ngàn mà còn vẫn thắng. Họ đã quen thuộc với quy luật của địch, biết nó đang ở đâu, tối nay rút ngả nào, con số bao nhiêu. Ở quan y của các anh có ba bộ phận: lực lượng chuyên môn y bác sĩ, số hậu cần, và anh em bảo vệ. Lúc đó Bản mứoi là y sĩ, sau hòa bình anh mới được học hành để trở thành bác sĩ. Nhưng lúc đó khi có chiến sựu thì bất kể hậu cần hay chuyên môn đều phải làm nhiệm vụ bảo vệ! Vừa đánh, vừa chuyển thương binh xuống hầm, di chuyển thực phẩm. Khi bị bao vây, phải bám đường đưa thương binh ra căn cứ khác. Đào hầm liên tục, vì có thể sau đợt B52 thì tan nát hết cả những hầm hào cũ... Trong những ngày mưa, mùng màn thương binh bằng vải xô phơi lâu khô. Sau này họ tìm cách lập mẹo "xin" địch ít pháo dù, bằng cách mò gần căn cứ Bến Cát, lấy cối 60 bắn mấy trái. Pháo sáng địch bắn vội tứ tung, ta chỉ việc ra nhặt. Màu pháo 103 dù lớn đẹp lắm. Chính vì những việc phơi phóng này mới dẫn đến việc viên phi công Mỹ nằm lại đất này, đến hôm nay đang được kiếm tìm.

"Các quân y C10, C12 phơi mùng bằng dù, thường bị máy bay cá rô phát hiện (máy bay trinh sát gọn nhẹ, có khi còn được gọi là Cán gáo). " Anh Bản kể lại - Đang bay, tự nhiên nó có thể đứng lại. Như con cá rô nhỏ, lách nhanh, đuôi có cánh quạt, thổi gió lật ngược cây cối. Hầm hố, đường đi được rải lá ngụy trang, sẽ lòi ra hết nếu làm không kỹ. Người dân đi trên đường kể là có khi nghe "é" một cái, nó đứng lại hỏi giấy tờ. Để chống lại nạn máy bay trinh sát phát hiện căn cứ, quân ta phát động chiến dịch "bắt cá rô".

Chiếc máy bay hôm nay không còn dấu vết - Viên phi công đang được sàng khỏi mặt đất những mảnh xương vụn - Ngày đó đơn vị anh giăng bẫy bằng một miếng vải phơi, dưới có mìn định hướng dòng dây điện. Khi nó phát hiện ghé xuống, quân ta bấm mìn - Tría mìn bữa đó bứng cả ngọn cây, viên phi công trúng miểng chết. Chính các anh đã hạ nó tại đây và suốt mấy đêm liền sau đó còn nghe máy bay quần trên trời kiếm tìm.


Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 27 Tháng Sáu, 2012, 06:19:18 pm
5.

Bản hỏi người Mỹ trẻ tuổi: "Sao bỏ tiền lớn vậy đi tìm hài cốt?". Người Mỹ trẻ chắc chắn không hề biết gì về chiến tranh, kể cho anh nghe là đã qua các phiếu điều tra biết được những áp lực của thân nhân. Chả rõ thực hư thế nào, Bản cũng có chút tò mò - Anh hỏi: "Nhìn lại sau 20 năm chiến tranh, các ông có hình dung ra sự ác liệt thời kỳ đó không?". Người Mỹ trẻ tuổi nói như thanh minh: "Hồi đó chúng tôi được thông tin cách khác, tưởng là Việt Nam phải ra nước chứ không sống được. Bom pháo trút như vậy mà.".

- Rừng cao su này - Bản chỉ - dù các ông trút bom pháo, dưới hầm hào vẫn đông nghẹt người. Trúng đạn thì chết, còn nếu ai không thì cứ sống, làm việc. Chai lọ, ống thuốc đào lên vẫn còn đó. Vậy là ngay cả khi ác liệt, chúng tôi vẫn sống ở đây.

- Bạn bè, bà con chúng tôi đi chiến trường Việt Nam về vẫn nói rằng đi kiếm các ông không ra mà hễ ngưng kiếm là bị đánh.

Bản cười hiền hậu:

- Bây giờ thì ông thấy đó. Tôi không nói về chính trị vội, nội cách đánh thôi - Đánh chính quy với rừng là thua - mà lại là rừng của người dẫn giữ lấy đất mà sống. Ông thấy đấy, các hầm hố dày đặc sự sống quanh đây.

Họ biếu Bản năm trăm đô, nhưng anh không nhận. "Nếu các ông tặng cho Hội Chữ thập đỏ để làm từ thiện thì chúng tôi xin cảm ơn.".

Công việc hôm nay của Bản diễn ra cách chỗ họ đào, hơn một cây số. Hôm nay anh em sẽ tìm sáu người trong tiểu đội điều trị chết vì bom B52. Đó là các cô gái miền Nam quê Gò Môn - Hóc Môn tên là Tuyết, Hương, Thuận, Thu, Mai. Họ là những tay phụ mổ, giữ bộ đại phẫu.

Đâu phải dễ dàng anh biết phải đào lên chỗ nào giữa đất đai mênh mông nhường ấy. Suốt cả năm, anh đi xác định vị trí, và suốt một năm đó mất phương hướng. Bản nhớ rằng ngày trước khi moi được các cô lên, chôn xong, anh ngồi nhìn về hướng Tây, trời chiều hắt bóng anh xuống hố bom. Như vậy bọn họ nằm phía Đông. Những hố bom bị che khuất bởi rừng, khiến anh cứ đi tìm quanh quẩn. Ngày xưa khi bom vùi họ xong, đơn vị anh cũng đã phải khốn khổ mãi mới moi được thi thể lên để chôn cất. Ngày đầu tiên, các anh moi tứ tung giữa đất đá ngổn ngang. Thường thì người chết ngày thứ ba sẽ bốc hơi lên. Bản dùng tay sờ khắp mặt đất, như một người phát cuồng: Anh là tổ trưởng tổ phẫu này, và anh mất bốn đứa một lúc. "Có lẽ chúng nó nằm đây" - Bản sờ tay áp đất thấy nóng. Anh em đơn vị xúm vào đào. Càng đào càng nóng. Thì ra bốn cô gái bị vùi dưới sâu, đất xô lệch dồn họ vào một góc. Rõ ràng họ chết trong lúc ngủ, bị bốn cái võng trùm lên. Bom đạn làm người họ mềm, dù bắt đầu trương sình mặt mày, vẫn nhận ra được. Suốt đêm ấy, đơn vị tìm cách chôn cất các cô gái: gói họ trong nilon. Tên ghi tren giấy nhứng dầu ăn, bỏ vào lọ và cho trong miệng họ. Cả bốn người đều đeo đồng hồ Seiko mà sau này đào lên vẫn còn.

Bản còn nhớ từng người. Cô Tuyết, tức Tuyết Hương, da trắng, vui tính và có lần đã tự ái cự nự anh, chỉ vì dùng từ ngữ khác biệt của người Bắc. Đi đánh trận xong, Bản động viên cô "hãy cố ăn" - Anh đâu biết nói thế chẳng khác nào bảo cô tham ăn. Cô vùng vằng mách với bác sĩ chủ nhiệm - Bản kêu toáng: "Trời ơi! Động viên nó cố ăn mà nó giận tôi sao?" Cô giậm chân: "Đấy, bây giờ vẫn cứ nói cố ăn là sao"... À, thôi anh biết rồi, phải nói là cô em ráng ăn lấy sức...

Còn một cô Hương nữa, da ngăm đen, hay mặc bộ đồ bà ba màu sẫm, có thương một anh bộ đội. Anh bộ đội đã tặng cô cái nhẫn. Bản nhớ cô bé không nhí nhảnh như cô Tuyết, làm việc rất giỏi - Anh còn nhớ giây phút đào tìm được xác cô, anh đã tháo chiếc nhẫn trao lại cho anh bộ đội làm kỷ vật đau thương - Còn Thuận thì cao, khỏe, đi lấy củi chỉ thích vác cây lớn...

Hôm nay nay đi cùng người của MIA lên vùng này, anh đã quyết định đào thăm dò để tìm những cô gái ấy một lần nữa, chỉ có khác lần trước là sau ba ngày tìm được để chôn cất họ. Nay thì sau hai mươi năm, với bao nhiêu công phu, anh đã xác định được khoảng đất này. Khi người của MIA đang đãi từng hạt sỏi và nhặt nhạnh từng thứ cho vào những chiếc hộp xanh đẹp đẽ, thì bọn anh cũng sẽ đào tìm đồng đội, xem đích xác họ nằm ở chỗ nào trong khoảng rừng này.

Anh kiếm ra căn hầm ăn, vẫn còn hình thù. Cây cầy nay to hàng sáu - bảy người ôm có tán lớn. Nếu đây là căn cứ Quân y C10 thì chệch mười mét sang phía Đông sẽ lần ra hầm ăn của thương binh... Và cuối cùng anh đã tìm ra những ngôi mộ trước đây chôn cách nhau sau mươi cm như vẫn thường làm...


Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 28 Tháng Sáu, 2012, 04:29:14 pm
6.

"Một mình tôi chắc sẽ không làm nên được" - Bản vẫn nói thế. Cùng với những đồng đội sống sót sau chiến tranh - mười tám người ở TP HCM, giờ đây họ có một tập thể, dựa vào sự tiếp sức của Hội Chữ thập đỏ nơi anh Trần Văn Bản làm chủ tịch Hội - họ đã tìm ra tới cả con số hàng ngàn hài cốt liệt sĩ. Còn trước đây, những năm khởi đầu, Bản âm thàm làm một mình. Anh chẳng có ý thức tích cóp các thống kê những việc làm được, trừ việc lên sơ đồ, gửi cho một số Sở TB-XH địa phương biết để cùng góp sức. Sau chiến tranh, nhà nước và các đơn vị quân đội đã bắt đầu các chiến dịch gắng sức truy tập các liệt sĩ về nghĩa trang. Chính Bản đã băn khoăn khi thấy nhiều nơi đào, đưa về nghĩa trang toàn là liệt sĩ vô danh. Ai cũng đau xót, mà chẳng thể làm gì hơn. Riêng Bản cứ bị cắn xé trong lòng. Từ ngày còn sống dưới đạn bom, khi chôn cất liệt sĩ xong, Bản tự nhủ: thế nào rồi cũng phải tìm lại những con người này. Anh vẫn tiếc hùi hụi và tự nhủ sẽ phải cố công tìm ra cái hòm đạn của anh. Đó là cái thùng đạn đại liên có chứa ghi chép của anh, cái "cặp" lưu giữ nhiều điều. Trong một trận càn, anh phải quăng nó nấp xuống một hố bom ở vùng An Phú. Anh nhớ là hố thứ hai, bởi còn phải nhảy qua một hố thứ ba nưa. Nhưng mà hố bom thì có gì là cố định, nếu như đó là vùng chà đi sát lại, bom chồng lên bom? Mà cách tìm thì ngày càng khó, để lâu không được... Địa hình này thay đổi từng ngày. Nơi thì làm rẫy, nơi ủi làm rừng trồng cao su. Đã có lần Bản lang thang thấy người ta ủi ào ào, anh xót ruột chạy vào ngăn không cho ủi. Người ta đâu biết anh là ai, suýt thì thì còn bị rầy rà.

"Trên hai trăm đồng đội của tiểu đoàn chúng tôi chưa tìm ra. Hết mùa mưa, mùa khô tới sẽ đi lấy một trăm ba mươi anh ở Trảng Bàng. "Bản đã khóc cả trước mặt người lạ khi được hỏi thăm chuyện đó. Các anh không sao quên được anh em đồng đội. "Đau khổ nhường nào khi người ta không biết cả ngày giỗ chồng con người ta. "Bản thường tự nhủ: Mình còn sống, còn sức, còn cố đi tìm kiếm. May mắn còn sống sau khi đã qua cuộc chiến tranh cực kỳ gian nguy, thì không còn gì gọi là cực nhọc so với những ngày qua.

Giai đoạn đầu từ năm 1978 đến 1986, là thời kỳ ủi đất trồng cao su, thời kỳ Bản âm thầm làm một mình, cho tới gian đoạn sau, từ 1986 gặp lại số anh em ở tiểu đoàn và anh bắt đầu có một tập thể cùng đi tìm đồng đội. Ngày đầu tiên ấy, anh còn thiếu kinh nghiệm. Anh cầm trong tay tờ giấy giới thiệu của Uỷ ban phường 17 làm giấy tờ "phòng thân". Biết đâu được với xã hội đã bắt đầu có những kẻ lợi dụng tiếng từ thiện? Báo chí còn đăng cả vụ án về một tay Nhạn nào đó dám đào ăn cắp cả hài cốt. Rồi tiếng tăm về ông thày này nọ, khi tin khi ngờ... Tất cả làm Bản buồn rầu và càng âm thầm công việc. Về xã, anh cẩn thận trình cả giấy giới thiệu với má Năm nơi anh vào nghỉ trưa nhờ má nấu cơm cho ăn, ở ấp 3 xã Tây Nam Bến Cát.

- Mày đi đâu vậy?

Bản nói chung chung:

- Con kiếm mấy ông liệt sĩ. Con có giấy giới thiệu đàng hoàng đây má.

Bỗng nhiên anh thấy bà má lặng lẽ bỏ đi, rất lạnh nhạt. Từ sớm giờ má vẫn theo dõi mấy anh săm soi cật lực ngoài nắng, má thương. Vậy mà đưa tờ giấy giới thiệu ra, má lại không bằng lòng. Anh nhìn giấy: dấu đỏ của Ủy ban phường 17 với chữ ký đầy đủ của ông Sáu Chiến. Có gì sai đâu: "Ủa -  Sao mà kỳ vậy má?" Hay bà mẹ đến tuổi, giở tính ốm đau sắp chết sao? Là một bác sĩ, Bản vội xua ngay những ý nghĩ vẫn cứ ập đến. Anh ngồi xuống bên mép giường. Thấy thương, má bèn ngồi dậy:

- Tao tưởng đâu mày tìm chúng nó, xuất phát từ tấm lòng, chứ còn nhà nước phân công trách nhiệm, thì thôi cứ đi mà làm, giấy tờ chi, tao biết chữ đâu mà đọc.

Thôi chết rồi. Anh thật không lường hết mọi sự ở đời. Anh chỉ nghĩ đến cái cạnh khía của sự nghi ngại, đề phòng với tiêu cực, mà không nghĩ đến xa hơn. Anh còn tiếp tục phạm thêm lỗi lầm nữa. Sau khi đã xác định được chỗ nằm của liệt sĩ anh lấy cuốc ra hăng hái đào. Má đứng bên, hỏi như người vừa từ đâu đến:

- Mày đào gì?

- Ơ hay má biết rồi. Con đào hài cốt liệt sĩ.

- Này tao bảo, chúng mày "cách mạng" vừa vừa thôi.

Bản giật mình trước lời xỉ vả nặng nề ấy, chưa kịp hiểu ra: "Má nói gì kỳ cục?".

- Việc mày làm thì được. Nhưng cách làm không được. Thế con vào nhà ai con có phải hỏi chủ nhà không?

- Có chứ.

- Nó chết đây. Nhà nó đây, mày chả nói gì với nó, cứ thế cầm cuốc mà bổ là sao?

Bản chợt hiểu, vò đầu gãi tai:

- Khổ quá - Má ơi, bạn con nó thông cảm, con đi xa, chăm chăm lo lắng, tìm trúng con mừng quá - Con có chuẩn bị gì đâu, có biết chắc từ trước gì đâu mà chuẩn bị.

- Thế nhà tao không có hả? Tao không có tổ tiên ông bà, không cúng bái gì hả? Trái cây vườn thiếu gì. Nó không chín thì lấy trái xanh, gọi tên tuổi nó lên. Mày xách bộ hài cốt nó về thế hả?

Bản bây giờ vẫn nhắc lại với bạn bè, anh ghi nhận "bị một cú ở Bưng Còng" như thế. Anh còn qua lại vùng đó sau này thân quen như một người con. Từ nay thì mỗi lần qua nhà má, dù có biếu trầu cau, hộp bánh, phải nhớ thắp nhang rồi mới đưa mời má. Những bà má ở đây, nhà nào chẳng có con hy sinh, con bộ đội? Lúc đó đâu đã có lệnh phong bà mẹ Việt Nam anh hùng như sau này má nhận được. Chồng con má là liệt sĩ, má ở với người cháu. Bây giờ mỗi lần anh lên, kêu "má" thì câu chào trả lời như một cách trách móc, thương nhớ, giận vui đủ cả:

- Ủa con nhớ lên hả? Tao tưởng mày chết. Mày đường nhựa Sài Gòn đâu thiết gì đây.

- Khổ quá má ơi - Bản cố kể lể - con ở đó khổ tâm lắm chứ sướng gì đâu.

- Mày xạo. Mấy lần lên kiếm liệt sĩ, lần lên ngã ba Rạch Bắp mày có ghé không? Từ Bưng Còng tao nghe nói mày dẫn anh em lên, tao đi bộ lên Thanh An xem chúng mày lấy ra sao. Lâu lắm không thấy, tao muốn xem tụi mày. Lên tới nơi thì mày lại xuống Bến Súc mất rồi. Phải ghé vào đây chút xíu chớ, xe cộ chúng mày đi mấy hồi? Đi bộ tao còn đi được.

Chết rồi - bận túi bụi, lại xa nữa bọn anh đâu có ngờ, không ghé vào thì bà mẹ 72 tuổi lóc cóc lên tận nơi tìm không gặp - Bản dỗi:

- Ghé có chuyện nhờ chút xíu. Chửi thì về.

- Tổ cha mày, không đúng sao? Ghé đây sợ không có gì cho mày ăn hả?

Bà vốc gạo ra, tức là sắp đi bắt gà, còn dỗ dành:

- Mày coi con nào, bắt con nào?

- Thôi ăn chửi no rồi!

Có lúc anh đùa:

- Má có xem giấy giới thiệu không má?

- Tổ cha mày nhớ dai.

Kết thúc cuộc gặp gỡ, thế nào Bản cũng hỏi một câu gì đó, má biết - thí dụ hôm đó Bản hỏi: "Dưới Rạch Bắp, má biết có chỗ nào nhô ra gọi là Gò Sỏi không?. - Anh vẫn phải dựa vào bà con để tìm kiếm.

Còn má thì không quên dặn và tiếp tục mắng:

- Lần sau có đi đâu cũng phải ghé qua. Tao đi bộ còn đi...

Lại phải viện lý do rất vu vơ, Bản lỡ lời:

- Thì con còn mang theo hài cốt, ghé vào sao được.

Tức là anh đã sai phạm một điều thứ ba.

- À, à mày sợ đem mấy thằng vô đây tao khó dễ hả?...

- Thôi thôi má ơi, đâu có gì đâu. Xe cộ ầm ầm nên phải vọi. Sợ phà tối nó không chạy...


Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 30 Tháng Sáu, 2012, 10:54:08 pm
7.

 Không phải chỉ đào trên đất ruộng vườn, mà có lần đội du kích của Chữ Thập đỏ Tân Bình kết hợp với địa phương bốc lên nhiều hài cốt liệt sĩ từ những giếng sâu đã bị lấp chặt. Vào tháng 3 năm 1994 họ đã đào lên hai mươi cái giếng ở phường 15 quận Tân Bình, đào lên được 43 bộ hài cốt đưa về nghĩa trang liệt sĩ.

Đào giếng thật không đơn giản, rất rễ xảy ra tai nạn, bởi khi địch vứt xác các chiến sĩ xuống, lấp đất lên, ném cả đầu đạn, sắt thép cùng gạch ngói. Rất rễ gặp đầu đạn M79. Nhân dân còn nhớ từng nơi giặc đã bắn anh em mình vứt xác xuống giếng.

Bây giờ ở tủ kính của Hội Chữ Thập đỏ Tân Bình vẫn còn hình ảnh cuộc khai quật nổi tiếng này. Liệt sĩ  Phạm Hưng Sánh quê Gia Định, sinh 1906 và hy sinh 6-9-1946 trong kháng chiến chống Pháp. Nay đã cách 50 năm rồi, nửa thế kỷ người liệt sĩ nằm dưới giếng sâu bị trói vào đá thả xuống, còn bị nén thêm 25 cục đá tảng, nhân dân vẫn còn nhớ rõ. Từ trước đến nay đã đào hai lần không được, giếng sâu hiểm hóc. Người dân đành phải biến nơi đó thành mộ ông, xây bên trên nó một cái miếu thờ. Nhưng để liệt sĩ nằm dưới đó bị trói, vùi dập vậy làm sao đành? Đội xung kích chữ thập đỏ của Bản cùng địa phương và nhân dân quyết tâm suốt ba ngày, phá bỏ miếu để đưa hài cốt lên truy điệu. Đào sâu xuống lớp đất, họ dùng dây xích kéo đất lên. Mang được cục đá tảng thứ 26 lên thì đụng dây điện kẻ địch dùng để trói liệt sĩ Sánh. Người anh của liệt sĩ, nay là một cụ già tóc bạc, khóc ngất trên miệng giếng. Cũng giống như vậy, các anh đã đào lên 24 liệt sĩ ở một giếng gần bốt Phú Hòa Đồng, Củ Chi vào ngày tháng 6-1992. Giờ đây đội xung kích của Bản đã trở nên dạn dày kinh nghiệm, gần như một đội chuyên môn cao.

Anh Bản kể vừa rồi trong cuộc họp của Cựu cán bộ Đoàn của anh dự giao ban tại Quận hội, họ đã hết sức ngạc nhiên khi thấy anh đưa kế hoạch đi lấy hài cốt hai liệt sĩ ở Củ Chi, cần mười người tùy ý xung phong, không cử ai cả. Anh đề nghị ai rảnh, bố trí được thì đi, như nhiều lần họ vẫn làm. Vậy mà tất cả xung phong hết, kể cả nữ. “Ăn cơm nhà, mang xe honda nhà, vừa đi vừa về 170 km, nắng nôi cực nhọc, vậy mà họ đòi đi. Tôi không giải thích nổi”, khách ngạc nhiên – Bản ngẫm nghĩ và tạm lý giải cho khách: “Anh em thanh niên xung kích không gọi việc này là gian khổ. Nhiều lần đi, chúng tôi đã trò chuyện, tôi có nói: một ngày nào chưa đưa anh em về nghĩa trang thờ cúng, còn để họ nằm đâu đó bụi tre bụi rậm là có tội, có nợ lớn, mà không phải nợ tiền. Nợ tình nợ nghĩa không trả được. “Anh sợ một ngày nào đó yếu đi, sẽ không đi được nữa. Sau chiến tranh công việc bộn bề, có phải ai cũng có thể làm được đâu? Anh đã thấy những điều cảm động về sự chăm lo của Đảng, của dân với liệt sĩ. Nhưng chính anh cũng thấy cả ở một số nơi sự trì trệ, lối hành chính đơn sơ khiến bao việc thiêng liêng bị “bỏ xó” một cách bất ngờ, chưa ai tổ chức lo cho chu đáo. Anh suy nghĩ thấy hệ thống công tác thương binh – xã hội dù có ý thức đến đâu cũng còn nhiều việc chưa thể làm được, đôi khi là việc đơn giản hết sức. Thương binh – xã hội quản lý về mặt chính sách với đối tượng nhưng không phải nơi nào cũng báo được cho gia đình liệt sĩ biết chồng con anh em họ đang nằm ở đâu. Thậm chí anh biết có trường hợp gia đình ở Củ Chi nhưng không biết con đã được đưa ngay về nghĩa trang liệt sĩ Củ Chi. Nghĩa trang các nơi có danh sách liệt sĩ, nhưng không có nội dung công việc nào quy định báo về cho gia đình biết liệt sĩ hiện ở chỗ nào. Thật đơn giản hết sức, nếu danh sách liệt sĩ ở nghĩa trang nào cũng được gửi về Sở Thương binh – Xã hội các Tỉnh thành, để từ đó báo về các địa phương. Có rất nhiều liệt sĩ chưa được tìm thấy hài cốt, mồ mả, nhưng cũng có rất nhiều liệt sĩ đang nằm ở một nghĩa trang nào đó do địa phương truy tập về, dân địa phương chăm nom, viếng thăm các ngày lễ tết, trong khi đó ở gia đình vẫn chỉ có tờ báo tử ngày xưa với dòng chữ “Đã an táng tại mặt trận”…

Nhìn thực trạng đó, Bản thấy sốt ruột và lo ngại. Đấy là chưa kể có những vùng xa xôi hẻo lánh có lần đi công tác qua, Bản ghé vào xã hỏi xem họ có nhận được các công văn anh gửi yêu cầu báo tin cho thân nhân các liệt sĩ mà các anh tìm được chưa? Đến nơi có người còn lục trong hộc bàn: cái công văn còn nằm nguyên đó. Thậm chí có cái đến sau còn chưa kịp bóc. Bao nhiêu điều thấy sốt cả ruột. Buồn vô cùng, không thể tưởng tượng được, anh hỏi lý do thì câu trả lời cũng rất đơn giản: “ở đây không có người để làm”… Chính vì vậy Bản đã gợi ý đưa hội viên Chữ Thập đỏ của anh vào các hoạt động mà ngày anh mới chuyển công tác về đây, có người còn không thông lắm với việc đi tìm liệt sĩ. Họ cho đó là công việc Thương binh – Xã hội phải lo. Bây giờ không có một cuộc pic nic cắm trại của ai tổ chức lại chọn nghĩa trang liệt sĩ như đội của anh. Họ có hai mục đích: thứ nhất là viếng và sửa mộ nếu cần, sau nữa từng tổ ba người: một đọc, một ghi, một nhìn kiểm tra đối chiếu trên bia mộ, để rồi tập hợp danh sách các địa phương, báo về cho gia đình liệt sĩ biết.

Công việc vừa có tính chất hoạt động vui chơi dã ngoại này đem lại những niềm vui bất ngờ: rất nhiều gia đình viết thư mừng rỡ cảm ơn. Vậy là họ chưa hề được ai báo tin con nằm ở đâu.


Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 01 Tháng Bảy, 2012, 10:16:51 pm
8.

Vào tháng 6-1992 đội xung kích được anh đưa đi chuyến thử đầu tiên – lúc đó thì anh đã đi một mình cả chục năm rồi. Lần này để các em đi thử xem, chỉ lấy lên một liệt sĩ thôi, tại Củ Chi. Anh cho một chuyến xe buýt lên đó, dẫn cả đoàn vào một vườn điều xanh tốt và chỉ chỗ đào. Nơi đó anh đã đi thăm dò trước, đánh dấu bằng một ngon tre tầm vông.

- Ồ, sao đào giữa vườn điều, không có mộ?

Các em ồ lên thắc mắc. Nhưng anh Bản không nói gì vội, hướng dẫn đào tiếp. Khi đụng bọc nilon, Bản báo tin là “đến xương rồi đó, để tôi xuống làm”. Còn có em sợ, khi nghe thế thì nhảy lên – Bản đưa xương liệt sĩ lên, cả quần áo súng ống vẫn còn.

- Ủa. Sao không có hòm? Sao không bọc gói liệm gì, cả người chỉ có quần đùi là sao?

Mấy em thắc mắc, chỉ dám thì thào vì bác sĩ Bản vẫn đang chăm chú hướng dẫn. Bây giờ các em mới hiểu vì sao trước khi đi, phổ biến mang quốc xẻng thì hiểu rồi, sao còn mang cả dao nhỏ xíu, cả nhíp nữa – “Mang đi chi?” Lúc ở nhà các em buồn cười, nay thì đã rõ: dao nhỏ dùng để xén tỉ mỉ cẩn thận từng rễ cây li ti bám vào xương, bọc cả trong sọ. Nếu không khéo bể sọ ngay. Các em phải nhẹ nhàng cứa bớt rễ cây, đổ nước vào sương sọ để moi đất, cắt rễ cây, dùng cả nhíp và kéo nhỏ - Nhìn Bản nín thinh làm, các bạn trẻ cũng lặng lẽ tăm tắp làm theo. Lúc đầu đào đất, các em còn trò chuyện bông đùa. Từ lúc thấy được xương cốt liệt sĩ, không ai nói câu nào. Bản thử xem các em phản ứng ra sao. Anh đưa cả xương sọ cho các em đặt lên nilon xem chúng có dám cầm không. Nhưng các em lặng lẽ làm, xúc động chẳng nói nên lời trước cảnh các lóng xương đang được đãi ra trong đất – Đến lúc từng loại xương đã xếp trong miếng vải trắng sạch sẽ, Bản mới trò chuyện những điều các em chưa hiểu:

“Tại sao không có mộ? Trước kia đây là vùng trang chấp ta địch xen kẽ. Các em thấy xung quanh đây vẫn còn hố bom. Bom gì đây? B52 rải. Sao mà nhiều thế? B52 đi mỗi lần 3 chiếc, mỗi chiếc 250 trái bom, các em nhẩm nhân thử thì biết chứ gì? Một đợt là 750 trái bom. Mỗi đợt khoảng mười phút – Và thường B52 đi hai đợt. Ác liệt đến chừng nào! Khi ở xen kẽ ta địch, không thể xây mộ lên được. Ngày ỏ hầm, đêm mới lên. Chôn liệt sĩ xong phải phủ cỏ như bình thường. Nếu địch biết thì sẽ đào mộ lên, có nhiều khi chúng gài trái ở dưới người liệt sĩ, khi ta kéo đem chôn cất, trái nổ tan xác luôn. Vậy nên không có mộ. Tại sao không gói liệm? Ở chiến trường tất cả gia tài chỉ có chiếc ba lô: một bộ quần áo, võng, nilon che mưa, đèn pin, ngoài ra là súng đạn. Bản căng võng ở cây xoài – anh chỉ: “mười phút thôi, nhà của người bộ đội đấy”. Nhưng đó chỉ là khi ở căn cứ. Còn vì sao anh bộ đội này lại mặc quần đùi thôi? Khi đi ra trận thì thế này: Không có ba lô - Ở thắt lưng có tất cả: võng cuốn, nilon, bình toong, ca muỗng “Gia tài” của anh đó. Thêm đôi dép, cái mũ tai bèo. Đánh nhau mùa mưa, công sự ngập nước, anh phải cởi quần dài, lấy hai ống quần thắt ở cổ giữ cho quần khô, đêm tối mặc ấm, khỏi muỗi. Khi hy sinh anh vẫn nguyên như vậy. Anh bộ đội này còn là may mắn lắm.

Bản chỉ từng thứ mảnh còn sót lại, chỉ cho các em. Tấm nilon mà đồng đội lấy gói cho lúc hy sinh chính là tấm nilon che mưa của anh ấy đây. Dép còn. Võng còn. Người chiến sĩ giải phóng hy sinh giữa trận mạc không bao giờ có hòm. Còn tờ giấy viết tên tuổi quê quán liệt sĩ đây, sao viết nguệch ngoạc vậy? Các cháu hàng ngày trên công văn giấy tờ thấy chú viết đẹp chứ gì? Vậy mà khi viết tờ giấy này sao xấu thế? Vì tối như mực, phải chờ pháo sáng lên. Mà có phải ổn định như đèn điện ở nhà đâu? Pháo sáng rơi tụt tụt loang loáng, mỗi quả pháo viết được vài chữ là cùng. Còn tờ giấy này, các cháu nhìn xem. Đó là vỏ bao thuốc lá ARA. Chú nhớ hồi đó bộ đội chỉ hút các loại Rubi, loại xanh là của lính do tiếp vụ phát, loại đỏ là của dân. Chú nhớ hình như còn loại SALEM con lạc đà. ARA thì từ Miên về có ký hiệu con két”.


Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 02 Tháng Bảy, 2012, 11:23:55 pm
Các đội viên xung kích nhìn chăm chú vào mẩu giấy thuốc lá có tên liệt sĩ Hưng quê tận Thái Bình – Các em còn hỏi lấy mỡ ở đâu mà bỏ vào bảo quản trong lọ. “Các chú lấy ở băng AK có mỡ bò chống sét rỉ - Còn tại sao phải cho lọ vào trong sọ? Chiến đấu ác liệt như thế, thi hài nằm xuống đất đâu có được yên. Các cháu hình dung xem, có hài sốt nằm sâu dưới đất mà còn vỡ cả xương sọ. Giặc ủi tới ủi lui, bom pháo tơi bời, nhiều bộ hài cốt nằm sâu mà còn xoay cả hướng nằm. Vì vậy bỏ vào miệng là giữ được chắc chắn nhất.

Hồi nãy chú bảo các cháu lấy tay lùa nhẹ trong rổ, thì đây, chúng ta đã lấy ra đây. Đây là xương đùi, đây là xương trụ. Còn xương hông đây, các cháu sẽ thấy xương đùi nó khớp với xương hông như thế nào. Các cháu cố gắng quan sát để ta còn có kinh nghiệm sau này. Mọi khi chú giảng về y tế, về phương pháp cấp cứu, chỉ được xem hình vẽ thôi, còn bây giờ mọi thứ ở trước mặt.

Cái xương sườn này là sườn thứ mấy? Thứ nhất, vì sao? Vì nó rất ngắn, rất cong. Xương số tám, số chín đây to dài. Xương sườn cụt: có khớp ăn vào đốt sống, đầu nhẵn nhụi, để phân biệt với đầu thô ráp của xương gãy…
Nghe Bản giảng với một giọng nghiêm túc, trầm buồn, các em lặng lẽ ngồi nghe. Có đứa vừa rửa xương vừa khóc thầm, rồi trách: “Sao chú không nói trước ở nhà để chúng cháu đem sổ ghi chép, để còn làm sau này cho không phạm một sai sót nào với hài cốt liệt sĩ”.

- Không ghi – Bản nói – mà phải nhập tâm, thuộc lòng. Chúng ta sẽ còn làm rất nhiều.

Những đội viên xung kích của anh bây giờ đạt đến trình độ thành thạo. Giờ đây Bản đã có thể giao cho một đội nào đó thuộc năm, sáu tổ của Hoàng Anh Tú, Châu Quốc Hữu, Hải Đăng, Tài, Nguyễn Văn Mười, Hồ Văn Tiêu, Trương Văn Thái…Họ có thể chủ động lấy hài cốt một cách đầy đủ, an toàn. Đó là chưa kể tới có cả những người lớn tuổi như ông Nguyễn Thành Bút hầu như lần nào đi cũng có mặt. Tất nhiên những người làm tại Hội của Bản nữa, từ bác sĩ Tin, cô Dung… Họ có thể biết khu việc nào Bản giao, sẽ đào và quyết định bảo vệ xương cốt khỏi hỏng, sót trong lúc ấy. Bản còn nhớ một lần họ đào giếng ở phường 15. Nhân dân kể lại có bốn liệt sĩ dưới đó. Bọn anh moi lên chỉ thấy hai bộ xương. Đào thêm xuống nữa gặp cát nguyên thủy, tầng cuối sâu của các lớp đất. Theo kinh nghiệm của Bản, đất đào lên mà đủ mọi thứ là đất đổ xuống. Còn đến lớp cát không bên dưới sâu thì có thể đã đào hết rồi. Bản băn khoăn – nếu không đào, bỏ sót thì tội nghiệp, tiếc công, và nhân dân sẽ phê bình không lấy kỹ - bà con đã bảo có bốn liệt sĩ tất cả chứ không phải hai. Có tiếp tục đào nữa không? Đến lúc đó rất may, anh Tài trong nhóm Xung kích nhờ các bài học kinh nghiệm Bản truyền – đã phát hiện trong một bộ hài cốt, hai xương đùi lại là xương của cùng một bên. Lấy xương hông lên ráp thấy ngay. Vậy tức là không chỉ có hai bộ hài cốt ở đây.

Có những hài cốt liệt sĩ từ hồi chống Pháp, xương đã mủn ra thành đất, nhưng đội xung kích của anh vẫn phân biệt được. Hai cục đất đều đen cả, nhưng họ vẫn nhận ra – Nếu là đất, miết thử nhẹ thấy mịn dính nhau. Nếu là xương thì màu đen hơn một chút (mà chỉ có bọn anh mới nhận ra cái độ đen hơn một chút đó thôi, người xúm quanh không ai phân biệt nổi). Khi miết cũng thấy giống cát mà không phải cát: cát mịn hơn một chút, tròn hơn. Còn tế bào xương dù là rất nhỏ, có vẻ dài hơn.

Một lần nhóm của Tài, Hữu, Bông và hai mươi hội viên đi lấy liệt sĩ Huỳnh Văn Chọi hy sinh từ năm 1943 tại khu vườn lài phường 17, Bản thử giao cho anh em làm một mình. Đại biểu Ủy ban, Đảng ủy, Mặt trận, Công an… đến tham dự. Khi đào lên chỉ có đất không. Vậy mà đụng đến, anh em phát hiện ngay. Có cả cựu chiến binh đến tham dự, quay phim nhưng nhìn đất không nhận ra. Vậy mà anh em lấy hết lên, so sánh phân tích. Gần trưa Bản xuống xem sao. Ông chủ tịch Cựu chiến binh xuýt xoa: “Ông huấn luyện quân ông sao, chúng tôi phục sát đất. Nó biết cái nào là xương, thật là giỏi.” Bản thầm nghĩ: Vậy là tập thể của anh đã đạt được hai điều: họ chú lắng nghe những lần anh hướng dẫn nên mới làm thành thạo. Sau nữa họ có tình cảm rất sâu sắc, mới có thể làm như vậy. Trường hợp liệt sĩ Sánh còn khó hơn nhiều, khi lấy lên bùn sình đen thui một màu với nhau được cho vào các thùng thiếc đưa lên. Bà con bữa đó cũng phục lăn khi thấy họ, bằng tay, bằng mắt thường, vẫn cẩn thận chọn đúng xương cốt người liệt sĩ giờ đây chỉ còn như một miếng quặng đen.

Nếu có ai trò chuyện với một người trong bọn họ, sẽ còn được nghe nhiều chuyện lạ lùng. Anh Tài, chủ tịch Hội chữ thập đỏ phường 15 nói rằng “không kể xiết” nếu ta hỏi anh số lượng liệt sĩ họ đã kiếm tìm. Đấy là Tài chỉ tham gia giai đoạn sau này. Anh có thể kể về các vỉa đất, giống như người làm địa chất. Dễ nhất là nhìn đất mà phán đoán. Đất lộn xộn là đất đã được đào lên lấp xuống một lúc nào đó. Thường là đất thịt, xong đến đất sét và cuối nữa là cát thuần nhất. Khi nào đào tới lớp đất thịt mà có đất cát lẫn đất sét thì phải nghi ngờ. Nhìn một vùng cây cối, nếu hàng hàng cao su đang đều nhau mà có chỗ cây còi cọc đi hàng dài, tức là ngày trước chỗ đường mòn, đất nén chặt, cây lên không xanh tốt bằng chỗ khác. Nếu ở một mặt ruộng, muốn tìm miệng giếng thì phải để ý vùng cỏ nào xanh mơn mởn hơn. Khi san bằng, vạt hết lớp đất bên trên, dội nước sễ thấy hiện lên một vòng tròn: nơi miệng giếng nước sẽ ngấm nhiều hơn. Anh Bản thường cảm động thấy sự trưởng thành của cán bộ mình. Hơn thế nữa – anh rất mong muốn truyền tình cảm biết ơn cho hết thế hệ trẻ. Khi những cán bộ Quận Đoàn cùng kết hợp các chuyến đi như thế, họ kết luận: “Giáo dục thế này thật hết xảy, không thể có lời nói nào hơn được nhìn thấy tận mắt. Dù các anh đã hy sinh mấy chục năm, chỉ cần bốc lên đất đá, dây trói thì đủ hình dung sự tàn bạo của kẻ thù. Những đồ vật đơn sơ đào lên chứng minh một cuộc sống, cảnh sinh hoạt thật gian khổ, và có người còn lộ rõ cả tư thế nằm lúc hy sinh…


Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 03 Tháng Bảy, 2012, 06:04:47 pm
Sau những chuyến đi như thế, công tác xã hội của các em biến đổi hẳn. Các em nhớ lời Bản: Thử hình dung xem người thân mình mà nằm vùi thế này mấy chục năm không ai biết đến, trâu bò, xe cộ vô tình dẫm chà lên trên... Chính các em chứng kiến có lần phải đào hẳn một chái bếp, chuồng heo của một nhà trong làng để đưa lên người liệt sĩ. Đau thương biết là chừng nào!

Khi đi lên Củ Chi, Bản thường dẫn đội của anh ghé vào nhà bà mẹ liệt sĩ. Không phải chỉ để chào bà, mà anh cho các em được chứng kiến tình cảm mà bà má đón anh như thế nào, nghe má mắng mỏ trách móc vì lâu không ghé lên như thế nào. Đấy là máu mủ ruột thịt chứ đâu phải mối quan hệ giao tiếp hàng ngày chào hỏi xã giao rồi đi như công việc tiếp xúc trong thế giới hiện đại, thế giới công việc ngày nay đâu.

Các em thấm thía điều gì nữa - cách nhìn của chúng với cuộc sống - gặp một đám ma, các em nhớ lời anh Bản: Mất một người thân, thấy ma tang đưa rước khóc than, làm đến bao nhiêu là nghi lễ vẫn chưa nguôi đau khổ. Thử nghĩ người lính chịu đói khát chết dập dưới bụi tre mấy chục năm sau mới đào lên, có người còn nằm lại đâu đó không ai biết được. Người bình thường và người chiến sĩ như thế, chết cho Tổ quốc, chết xa gia đình, các em thử so sánh hai cái chết, xem ai đáng được phải có tang lễ trọng thể hơn?

Bản dẫn các em vào thăm nhà các bà má liệt sĩ cô đơn. "Thấy không các em: trời mưa, một mình má cô quạnh. Nhà thì dột, trong khi các em nhìn xem nhà bên xây to đẹp..." Bà má đang buồn co ro trong cảnh mưa, thấy đoàn các em vào má vui hẳn lên...

Khi Bản tổ chức công tác của Hội, vận động nuôi chăm các cụ cô đơn, tình cảm các em khác hẳn. Trước đây do phân công thì phải đến, nay chúng đến không phải giờ giấc quy định: mưa, tối, hễ rảnh là đến. Riêng một quận của anh đã có tới gần năm mươi cụ cô đơn, chưa kể đến thương binh nặng, con em gia đình liệt sĩ. Quận anh mấy chục trường học, nhiều giáo viên cũng chưa biết hố bom và hố pháo ra sao.

Mỗi lần đi không hề đơn giản, dễ dàng, dù là việc đã trở thành quen. Anh rất "mệt cái đầu" mỗi lần tổ chức. Đủ thứ lo: làm sao xe honda không hư dọc đường (đấy là đã qua cái giai đoạn gia đình các em không cho mang xe nhà đi làm việc dính đến hài cốt) - làm sao không xảy ra tai nạn. Khi về không đứa nào bệnh. Đi đây là gian khổ, nắng mưa, lội bưng lội đồng chứ đâu như phóng xe vèo vèo xuống Quận 5, Quận 10 trong thành phố rồi về. Nơi xa nhất có lúc vài trăm km. Nếu đi Bến Cát còn phải qua Bến Súc, qua phà.

Hôm làm lễ truy điệu ở Củ Chi, Bản dẫn các em tham quan địa đạo. Anh làm "hướng dẫn viên du lịch kỳ lạ": đường mòn không "cho" đi, "vào đây cơ, đây mới là đường bộ đội phải đi. Đường bộ đội là thế này". Đám trẻ vừa sợ vừa thích thú theo anh đạp ào ào lên gai góc. Đã thấm gì. Bản kể là trước đây còn chằng chịt nữa, mà vào chiến trận mấy anh chạy được hết. Anh chỉ cho các em phân biệt hố nào hố bom, hố nào pháo. Hố pháo nhỏ hơn, cạn hơn. Bom sâu hơn, hố vẫn còn khá lớn, tàn tích chém ghim trên cây cối vẫn còn có thể thấy. Anh hướng dẫn tỉ mỉ từng thứ: xe tăng gì, pháo quay làm sao, ủi sao, sập hầm thế nào và nhất là cách đánh. Vì sao gọi là "không vận", lỗ thông hơi muốn tránh chó đánh hơi thì làm gì, và nhất là cái tên loại lá "trung quân" - Anh không hiểu tên bên khoa học và lâm nghiệp gọi bằng gì, nhưng nó trung thành với bộ đội: dù khô vẫn không cháy, dùng để lợp hầm, bộ đội được chở che.

Sau rất nhiều lần đi như thế - khi tham quan, bốc hài cốt, lúc đem hàng trăm ghế đá đi tặng kê vào các vườn của nghĩa trang... các em học sinh viết văn ở nhà trường được điểm cao, có đứa cầm tới khoe với Hội...


Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 04 Tháng Bảy, 2012, 08:50:16 pm
9.  

Cái lần Bản đi tìm hài cốt của Nguyễn Văn Kiên, chưa biết có phải là lần vất vả nhất hay chưa, anh không dám khẳng định. Kiên là bạn nối khố cùng quê, cùng học một trường, cùng nhập ngũ đi B một ngày, cùng sống chết với nhau ở chiến trường. Giờ đây mỗi bận ngồi tàu hỏa đi xuyên đất nước, anh thường nhìn ra các làng xóm, các dãy núi mờ xa kia và tự nhủ không biết cớ thể “chiếu” qua núi để biết được đó là đoạn nào của đường các anh chèo núi vượt Trường Sơn cách nay đã ba chục năm. Ngày ấy họ là tổ ba người, cũng là một tổ văn nghệ luôn: Hòa kéo nhị, Bản sáo trúc, Kiên hacmonica. Kiên nhỏ, vui tính, lém lỉnh. Trên đường hành quân vào Nam, nó là hạ sĩ, A phó, hay phải đeo nồi cho đơn vị. Theo quy định, những đít nồi đều bịt kín bằng ni-lon. Kiên nghịch ngợm khi đeo nồi, cậu cố tình nghếch các cạnh nồi sang các bụi lá hai ven đường. Lá đầy nhọ phật vào mặt  các anh chàng đi sau. Họ cứ yên chí không việc gì, để rồi đến nơi dừng chân tất cả đều lăn ra cười. Rồi hạ nồi xuống, hạ ba lô xuống là tổ văn nghệ bắt đầu đàn hát. “Kiên nhỏ hơn tôi bốn tuổi”. Bản nhẩm tính: “Nó chết năm 1969, lúc hai mươi tuổi tròn, trong trận đánh ở ấp Ba Cụm xã Cỏ Ống, Trảng Bàng, Tây Ninh”. Hôm đó đơn vị anh đánh xe tăng, bọn địch không đi trên đường mà đi ủi đất ruộng để lủi xuống, ta bắn không được. Bộ đởội gọi đó là đánh xe âm. Phải dùng thủ pháo dù hoặc thả bộc phá. Kiên bị thương nặng ở bụng, chân và phổi. Bản vẫn nhớ hình ảnh Kiên nằm trên võng mất máu nhiều, mặt toàn sình. Trong bom đạn khói mù mịt, cứu thương cáng chạy vào rừng Cỏ Ống để băng tạm. Bản nhớ ánh mắt của Kiên lúc nắm tay anh: “Chắc tao chết”. “Cố đi, về đến đội phẫu sẽ cấp cứu” – Bản an ủi, nhưng anh biết Kiên khó lòng sống được. Về đến nơi, Kiên hấp hối dặn lại “Nếu mày còn sống sau này cố đem tao về cho mẹ tao”… Kiên mồ côi cha. Nó chỉ còn mẹ và một người em gái ở lại quê, bao năm không tin tức…

Làm sao Bản có thể sống yên sau những chuyện như thế. Riêng một đợt đi B ở một xã nhỏ quê anh lần ấy hai mươi chín người, anh còn nhớ hôm xã liên hoan tiễn đưa, mỗi mâm ngồi năm người. Mâm anh chỉ có bốn lính, thêm anh Nhượng chủ tịch xã là năm. Sau hòa bình trong số đó chỉ còn một mình anh trở về.

Suốt bốn năm ròng, từ năm 1980 đến 1984, Bản đi đi về một mình, cố tìm xem Kiên nằm ở đâu. Rõ ràng hồi đó Bản đánh dấu bằng cây cột của một gia đình bị bom, anh chôn cột kèm theo. Nhưng bao nhiêu năm đã thay đổi. Nay là ruộng, vườn điều. Thỉnh thoảng rừng bị chất độc hóa học không cây cối. Ngày trước thì giặc dùng bom, pháo quần nát tan. Xe tăng ủi tới ủi lui. Cái sọ của Kiên chôn sâu vậy mà vẫn bị vỡ. Ngày ấy chôn trên đất nhà bà Tám Kiến, nhưng chiến tranh ác liệt, nhà bị cháy, bà cũng bỏ đi phiêu bạt sống ở nơi nào không ai biết rõ. Mỗi lần đi tìm đồng đội nào ở khu vực này, Bản đều rẽ qua, gặp ai anh cũng hỏi. Khi tình cờ gặp được, bà Tám cũng phải vất vả lắm mới cùng Bản vẽ lại được sơ đồ mảnh đất ngày xưa của nhà mình. Sau rất nhiều lần đi về, Bản xác định được cái mốc đầu tiên là bờ ruộng, bên kia đối diện một bụi tre – Tất nhiên, thật khó xác định ra bụi tre khi chính nó cũng không còn gì trên mặt đất.  “Bụi tre” chỉ là hình ảnh trong sơ đồ của trí tưởng tượng của cảnh vật lùi xa cách đây cả hai mươi năm với bao biến đổi. Trước bụi tre, nay là một đường mòn. Nhưng Bản kiên trì vì anh biết cây tre là thứ cây kỳ diệu nhất – Anh phát hiện ra gốc của nó dưới đất. Rất lạ, cái cây tre Việt Nam. Dù bao năm khô đi, củ tre vẫn còn. Dường như nó không bao giờ chết. Dù có mục bên trong vẫn còn vỏ. Màu nâu, các đường gờ xung quanh đâm rễ ra, như lưỡi liềm dính vào củ mẹ. Từ gốc tre ấy, Bản đo đạc, tính toán rồi quyết định đào xuống. Lần này đã là lần đào thứ bao nhiêu không rõ, vì trước đó anh đã xăm đào thử tới hơn hai mươi chỗ không thấy. Đến khi xác định được gốc tre, Bản đào xuống và anh biết chắc đã được đền bù: Anh đụng ngay cái bọc nilon không sâu lắm. Anh lấy võng, vải gói bạn lại, đem về nhà bí mật đưa lên gác xép để ba ngày chờ đem ra Bắc, về quê.



Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 04 Tháng Bảy, 2012, 08:52:39 pm
Anh đến ngay nhà Kiên khi về tới làng. Những lần về trước, anh đã chứng nhận cho một số gia đình được hưởng chính sách gia đình liệt sĩ và xã xây mộ tượng trưng ở nghĩa trang xã nhà. Trong danh sách đó có cả Kiên, và cũng có một cái mộ giả của Kiên ở nghĩa trang xã.

Anh đi về làng, không nói cho ai biết về bộ hài cốt đang xách đi cùng. Dù chiến tranh đi qua đã lâu rồi, nhưng nỗi thương đau của người thân có bao giờ phai lạt. Sự thương đau ấy cứ âm ỉ cháy vì sau bao năm, việc biết chính xác con mình nằm ở đâu ngày càng mờ mịt. Bản đã có kinh nghiệm của chính bà mẹ anh. Đó là một câu chuyện dài. Bây giờ phải tìm cách nói thế nào với mẹ Kiên. Sẽ không kể hết vội, nhất là cái đoạn Kiên mặt đầy sình, kiệt sức đang nói lời trăng trối.

Lúc Bản đến nhà, mẹ Kiên đi vắng. Chỉ có cô em gái đang ngồi đan rổ. “Đây có phải nhà anh Kiên không? Bà cụ còn sống không?” Cô gái ngỡ ngàng nói mẹ đi làm đồng. Bản giục cô đi tìm mẹ về. Anh ngồi lại trong ngôi nhà vắng, tiếp tục đan cái rổ cô gái cô gái bỏ dở, vừa nghĩ cách. Bà mẹ khắc khổ, chân lấm tay bùn, áo gụ quần đen ống thấp ống cao từ cánh đồng chạy về, nghĩ rằng về để tiếp khách từ xa tới thăm.

- “Chú đi đâu thế này?”

- Thế bác có biết bà Hán ở bên Xuân Hùng không?

- Có chứ. Bà cụ vẫn đi chợ với tôi. Bây giờ bà cụ vào Nam với con trai rồi.

- Cháu là con trai bà Hán đây này. Thế bác có biết anh Bản đi B cùng với Kiên không? Cháu là Bản đây này, cháu con bà Hán đây!

Bà cụ mừng rỡ cảm ơn, vì lần trước tuy không gặp được anh, bà vẫn biết anh về xã chứng nhận cho rồi. Bà cảm ơn:

- Nhờ anh lần đó xác nhận các trường hợp hy sinh do anh chôn cất, chứng kiến nên gia đình đã được công nhận theo chính sách nhà nước rồi.

Bản hỏi vòng vo chuyện làm ăn, hỏi thăm sức khỏe cho bà mẹ bớt hồi hộp. Anh an ủi: “Kiên hy sinh rồi, bà cũng gắng đừng nghĩ nhiều hại sức khỏe”.
Anh kể những hình ảnh tốt đẹp về người bạn nằm lại mãi tuổi hai mươi. Còn anh bây giờ đã bốn mươi bảy tuổi rồi, trải bao nhiêu thăng trầm buồn vui cuộc đời. Và anh chỉ nhớ đến một hình ảnh mà anh muốn kể cho bà mẹ. Đó là việc Kiên gan dạ đánh xe tăng như thế nào. Bà mẹ vừa nghe chuyện, vừa lặng lẽ nhìn ra xa tít cánh đồng để ngăn nước mắt. Bà không thể nào ngờ đứa con đi biền biệt để bao thương nhớ, lại đang nằm ngay ở cái phản, trong chiếc túi du lịch đơn sơ của người khách.
Lúc này Bản mới từ tốn:

- Chính con chôn Kiên, nhưng chưa tìm được nó nên không dám nói. Hôm nay con tìm được rồi, đưa Kiên về với mẹ đây.

Vừa nói xong, Bản tính để túi lại cái chõng nhưng chưa kịp thì bà cụ đã quỳ thụp xuống vái lạy anh. Bản cuống quýt đỡ bà cụ dạy. Họ mở cái túi. Bản vừa xếp xương cho bà mẹ nhìn, vừa an ủi:

- Tiếc là xương sọ không giữ được nguyên vì xe tăng ủi. Nó bị gãy xương đùi trái. Đây là xương ngón tay. Chỗ đất nâu này là do xương mủn ra, con hốt hết đầy đủ cho thằng Kiên nó về…

Bà cụ cầm trên tay từng khúc xương con, lặng lẽ khóc: “Nào tôi có thể tưởng tượng được có ngày nó về thế này. Cách đây một năm xã đã làm lễ truy điệu, một trăm viên gạch xây mộ, làm bia chứ xương cốt làm gì có… Đúng con đây rồi Kiên, hồi nhỏ con bị gãy xương đùi trái…” Họ thắp hương khấn. Ngày mai xã sẽ làm lễ truy điệu. Xã còn tới hai mươi bảy anh em đợt ấy chưa về, chỉ có mộ tượng trưng ở nghĩa trang. Ngày mai xã làm lễ truy điệu sẽ có đông đủ bà con, có đủ cả hai mươi chín gia đình của đợt đi B ngày ấy. Bản thức thâu đêm viết kể lại trường hợp Kiên hy sinh để mai đọc trước bà con. Những chữ thông thường không còn đủ sức chứa các ý nghĩa. Nhận về một đau khổ mà vẫn còn là một niềm an ủi và may mắn. Từ mai, ở nghĩa trang trong bao nấm mộ, có đứa con của làng đã về thực sự giữa đất quê.


Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 05 Tháng Bảy, 2012, 07:26:38 pm
10.

Có  nhiều trường hợp giống như những bài toán đố, mà các anh phải lần mò khá vất vả, đôi khi công việc còn tắc lại đó.
Có liệt sĩ như Trương Tấn Tài đang được chuẩn bị đi lấy về, thì được biết giấy tờ chưa hoàn chỉnh, chưa có giấy công nhận liệt sĩ. Gia đình thân nhân chỉ còn người chị họ bà con đứng ra lo. Khi chết không ai chứng nhận, đơn vị thì giải tán, không biết tìm nguồn gốc ở đâu. Như vậy vẫn còn có thể bốc lên, nhưng đưa về nghĩa trang liệt sĩ phải đủ thủ tục – Trường hợp này nhiều lắm, ngay ở các quận huyện của thành phố: Thủ Đức, Tân Bình, Bình Chánh… và khắp các tỉnh miền Nam. Nhiều gia đình đành chịu, xin cứ giải quyết theo dạng mất tích, bởi gia đình nhận được giấy báo tử, nhưng sống trong vùng giặc chiếm đóng, đâu có treo lên thờ được. Rồi chiến tranh bom đạn lưu lạc, đôi khi đem chôn giấu, trở về nhà xưa hoang tàn không còn dấu vết.

Bản và nhóm công tác của anh, cùng những đồng đội cũ lại phải làm một cuộc đi tìm. Họ vào quân khu 7 tìm danh sách người hy sinh, hy vọng vào cuốn sổ gốc mà không phải bao giờ cũng đầy đủ được vì hoàn cảnh thời chiến. Nhiều nơi các anh đã phải chịu trước câu trả lời: không còn sổ gốc, đơn vị giải tán đã lâu. Không có lẽ đơn vị hy sinh hết không còn một ai? Những người sống sót, biết sự việc bây giờ ở đâu? Các anh chạy tìm manh mối để nhờ người biết xác nhận. Nếu không thì các gia đình sẽ phải bó tay: Có người chữ A chữ B không biết, tiền không có, biết đi đâu, hỏi ai?

Có trường hợp các anh đã xác minh được địa điểm chôn liệt sĩ, nhưng chưa kịp đưa về nghĩa trang thì đến ít lâu sau, chủ đất san hố bom làm ruộng, đã tự động đưa hài cốt liệt sĩ đem an táng ở chỗ khác. Tìm đến ông chủ đất thì ông ta đã chết. Người ta chỉ ông này biết, bà kia biết, thế là lại bổ đi tìm một trận nữa. Họ tìm ra được người biết chuyện là ông ba Tố ở xã Trung Lập  Thượng – Ông Ba Tố dẫn ra khu vực sau hố bom – Vẫn còn dấu vết của hố bom, vì không đủ đất lấp, nên họ nhận ra được khu vực trước đây liệt sĩ nằm. Vậy người chủ đất có thể chuyển đi chôn ở đâu trong địa hình của khu ruộng? Nhìn hai bụi tre kế bên, Bản nghĩ có thể chỉ đưa về hàng tre, vì nó có rãnh đào ngăn rễ tre lan ra ruộng, khu vực đó riêng biệt khỏi chỗ trồng trọt. Lúc đó đã hai giờ chiều. Đào thăm dò được một nửa vùng đất thì đã bốn giờ chiều. Vẫn chưa thấy. Vợ của người chủ sang đất nói rằng hồi còn sống, ông hay lúi húi lom khom ở bụi tre này, có lẽ đấy chính là nơi ông chôn hài cốt liệt sĩ. Đào xuống rãnh tới nửa mét, sâu một mét vẫn chưa thấy.
Đó là những trường hợp tuy về không, nhưng còn có quyền hy vọng ở lần đào tiếp.

Đôi khi Bản tiếp khách tới tìm anh ở Hội chữ thập đỏ. Công việc của anh đâu phải chỉ chuyên một việc đi tìm hài cốt. Hội chữ thập đỏ còn nhiều việc cho lớp học tình thương nuôi trẻ mồ côi, huấn luyện cho các đội cấp cứu và phòng khám bệnh từ thiện, tuyên truyền y tế phòng chống bệnh AIDS, các chương trình tiêm chủng, vệ sinh môi trường… Vậy mà thỉnh thoảng Bản phải bỏ hàng giờ tiếp những người khách đem đến cho anh những dữ kiện mơ hồ nhờ đi tìm thân nhân. Có lần khách đưa ra một bản khai, một bản tuyên dương công trạng của liệt sĩ Ngô Luật Tân trung đoàn 84 mà người ký lệnh từ 1953, mất giất báo tử. Thỉnh thoảng trong các dòng lời khai, có lóe sáng một điều nào đó. Chẳng hạn: “Có người cầm các di vật về.” Vậy người đó ở đâu? “Người đó chết rồi” – Thế còn câu “đã đưa về tuyến sau” – Tuyến sau của trận đánh đó ở Phú Yên. “Đã ra Phú Yên chưa?” Chỉ ra Đắc Lắc nơi trung đoàn đóng. Tìm gặp được ông trung đoàn phó đã 98 tuổi, nhớ không được bao nhiêu. Một người chỉ ở Măng Giang, mà Măng Giang lại là tên của hai nơi. Đèo Măng Giang ở An Khê, tỉnh Gia Lai, còn dốc Măng Giang thì ở Phú Yên. Ấy là người ta nói thế thì biết thế, chứ người của gia đình đã bao giờ lên đến tận những nơi ấy! Người phụ nữ - vị khách hôm đó – đưa ra những thông tin còn rất mơ hồ.

- Một mặt chị tiếp tục nhờ cựu chiến binh của trung đoàn 84 tìm hộ - Bản khuyên – Còn tôi sẽ liên lạc với ngoài đó xem sao.

Anh kể lại câu chuyện để nuôi thêm hy vọng cho vị khách, mà cũng là cho chính mình. Có một nữ bác sĩ có chồng hy sinh, tìm được ra bốn người đã từng chôn cất. Nhưng bốn người ấy nói bốn kiểu khác nhau, ai cũng đưa ra những tư duy khá chặt chẽ. Bản nói chị ra đó chụp hết những khu vực mà cả bốn vị kia mô tả, đồng thời anh đặt 18 câu hỏi để đưa riêng cho từng người, không ai biết là người kia cũng trả lời câu hỏi đó. Khi họ trả lời xong, chị bác sĩ đem tất cả vào. Bản xem sơ đồ và chỉ chỗ đào. Cuối cùng đào lên, lấy được ba hài cốt liệt sĩ, trong đó có chồng của chị. “Người ta cứ tưởng tôi có tài như ông Năm Chiến, nhưng không phải”. Bản nói, anh chỉ có rất nhiều kinh nghiệm mà thôi.


Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 06 Tháng Bảy, 2012, 09:35:02 pm
11.

Vậy bác sĩ Trần Văn Bản là ai? Anh không đi tìm như một nhà ngoại cảm, anh hoàn toàn không có tài như thế. Một mình anh đã làm rất nhiều, có thể nói anh đã nuôi ý định đó, âm thầm làm, giấu cả vợ con để lang thang Củ Chi, Bến Cát, Trảng Bàng không biết bao nhiêu lần. Suốt giai đoạn đầu năm 1978 – 1988 còn đầy khó khăn ấy, còn ăn bo bo, đất nước chưa bước vào mở cửa, anh chưa biết dựa vào đâu. Anh nghĩ tới chiếc thùng đạn của anh cất tài liệu còn chưa tìm ra. Rồi lời hứa, lời trăng trối, kỷ niệm bạn bè đồng đội thời chiến tranh, anh ôm lấy một mình trong nỗi nhớ và cả nỗi cô đơn. Lúc đó anh về khu vực rừng Bưng Còng nhiều nhất, còn đi trên chiếc xe đạp hiệu “Chiến Thắng” mua bằng giấy giới thiệu.

Đạp xe lọc cọc chiều thứ bảy lên Củ Chi, có khi nghỉ đêm ở đó để sống lại phút trăng lên – không phải để thưởng thức lúc trăng lên thơ mộng, mà là để nhớ lại phương hướng ngày xưa hiện lên dưới ánh trăng như thế nào. Đi về, tiền hết, sức lực không còn. Làm sao biện minh được với vợ anh về sự sao nhãng ở gia đình? Vợ anh có lúc đã đặt dấu hỏi: Hay là anh phải lo cho cho một cuộc sống khác ở đâu đó? Mãi đến khi chị lục tìm thấy cuốn sổ tay chi chít các sơ đồ, tên tuổi, các câu hỏi đầy ắp sổ, từng cột mốc ngày tháng – chị mới hiểu chồng. Cuối cùng thì hai vợ chồng cùng đi. Nếm trải qua một số việc, vợ anh cảm động: “Anh coi thường em quá. Vì sao việc thiêng liêng như vậy lại giấu cả vợ con? Vợ anh là chị Huỳnh Thị Phượng cũng là một quân nhân nhập ngũ năm 1965, làm y tá, quê ở Tân Sơn Nhì – Gia Định. Bản giãi bày: “Không phải anh coi thường em đâu. Sao lại dám coi thường, khi anh biết chúng mình cùng chiến đấu ở rừng về, hai bàn tay trắng, lương không đủ sống. Cả hai lại cùng công tác, con còn nhỏ. Nếu anh nói ra, nhỡ em chưa hiểu lại ngăn cản thì thật khó. Anh phải bỏ nhà đi đêm ngày như vậy vì nhiều đồng đội đã nhắn gửi, trăng trối. Mình đã hứa, bây giờ mặc kệ sao yên? Mà làm việc này đâu phải ngày một ngày hai, một tuần, một tháng, một năm mà xong đâu? Nếu mình không làm thì ai làm thay mình được?” Nhất là lúc đó ngành y tế với phong trào năm dứt điểm (trạm y tế, sinh đẻ có kế hoạch,… ) anh suốt ngày bận rộn. Anh cũng không bao giờ nghĩ đến báo chí – Người thân anh còn giấu nữa là. Một hôm có nhà báo của tờ Sài Gòn Giải Phóng đến tìm anh ở trạm y tế phường 17 – lúc đó anh chưa về Quận Hội Tân Bình – Nhà báo muốn gặp anh để viết về phong trào năm dứt điểm, nhưng anh đi vắng nên ông ta tìm đến nhà ngồi chờ. Về đến trạm, nhân viên báo tin đó, Bản tức tốc về nhà. Anh không nôn nóng gặp nhà báo, mà anh sợ nhà báo đến nhà, cái bí mật trên gác xép của anh có thể bị phát hiện.

Về đến cửa anh đã hỏi vợ ngay: “Có nhà báo đến tìm anh phải không? Sao không thấy? Về rồi à?”. Và anh thất kinh khi nghe vợ báo tin nhà báo đang ở trên gác xép. Anh bổ lên, thấy nhà báo đang chụp hình liền cự nự: “Không được sự đồng ý của tôi, sao anh dám làm thế này. Đề nghị anh cho tôi xin lại tất cả những gì anh đã ghi chép và chụp tại đây”.

Thì ra là đến nhà, anh vẫn chưa về, nhà báo khai thác vợ anh – một người cũng trong ngành y tế. Đầu tiên câu chuyện chỉ xung quanh công tác y tế, rồi người vợ buột miệng kể là anh rất bận “mai còn đi Củ Chi để lấy hài cốt liệt sĩ về”. Nhà báo liền xoay ngay vào đề tài lúc đó còn là một việc hiếm hoi chưa mấy ai làm. “Đó, lúc này có hai đồng đội đang nằm thờ trên gác xép” – “Đầu đuôi câu chuyện là thế” – nhà báo xin lỗi, nhưng quay lại thuyết phục anh – “Đây là chuyện lớn, không nghe ai làm thế bao giờ, anh ầm thầm cả chục năm như thế, sẽ không có ai giúp anh, nếu như không ai biết. Anh làm như vậy mới chỉ được nửa việc. Làm sao anh báo tin cho gia đình người ta?”… Bản nghe ra, nhưng anh đề nghị đừng nói gì đến tên anh. Hình như sau đó có một bản tin trên báo về người âm thầm đi tìm đồng đội. Cho đến nay, báo chí đã bắt đầu viết nhiều – kể cả báo nước ngoài và cuốn phim truyền hình ba đêm rung động lòng người Tokyo – nhưng Bản thú nhận là anh không giữ lại một bài báo nào viết về mình. Bây giờ cả nhà nước, các tổ chức xã hội, đoàn thể, quân đội đều đang làm việc quy tập hài cốt liệt sĩ trên khắp đất nước. Còn ngày ấy, việc mới lạ quá, đến mẹ vợ anh, mẹ đẻ anh đều sợ. Họ sợ biết bao nhiêu điều linh thiêng, nhưng đầy những bí ẩn về thế giới bên kia. Năm 1986 sau lần đầu đưa hài cốt hai người về gác xép để thờ trước khi đem lên nghĩa trang liệt sĩ, gia đình anh gặp đại hạn. Vợ anh đang có thai, giữa bữa cơm bỗng chị bị ra máu chở đến bệnh viện xác định “nhau tiền đạo” phải đi mổ. Làm ngành y anh biết bệnh này rất dễ chết, vì chỉ cứu được một trong hai người, hoặc là mẹ, hoặc là con, và nếu không nói là 100% thì cũng phải xấp xỉ tỉ lệ đó – ai mắc bệnh này đều cầm chắc cái chết – hoặc cứu được con hoặc mẹ, khó ai song toàn. Cùng lúc đó thằng con trai trèo ổi ngã gãy tay. Trong nhà kiệt quệ không còn gì để bán. Người nhà bắt đầu lo lắng, hay là Bản đã vô tình phạm phải điều gì thiêng liêng bí ẩn trong lúc đi tìm hài cốt? Bản nghĩ: Không đời nào đồng đội lại hại anh. Vô lý! Dù sống, dù chết, không bao giờ đồng đội lại cư sử như vậy nếu như thật sự có một thế giới linh hồn ở đâu đó. Quả nhiên, vợ anh qua khỏi, con anh lành lặn. Lúc ấy anh mới thì thầm với bà mẹ: “Mẹ cứ đi hỏi tất cả mọi người xem, phụ nữ bị bệnh đó có mấy người qua khỏi, sống cả mẹ cả con như vậy không? Thằng con trai vẫn khỏe, nó đi tập võ hàng ngày…” – Bây giờ bà mẹ anh yên lòng, thỉnh thoảng khi Bản đivề, bà còn hỏi thăm “hôm nay mày kiếm được mấy đứa?”

Về bà mẹ của anh – người mà các nhà báo Nhật đã xuống tận quê Vĩnh Bảo để quay phim, chụp ảnh lúc Bản còn ở miền Nam, sắp sửa mang hài cốt của Hòa ra Bắc. Về người mẹ này – liên quan đến các chuyện mà chúng ta sẽ bắt đầu ở các chương sau này, liên quan đến câu chuyện một nấm mộ hiện nay còn ở nghĩa trang liệt sĩ Củ Chi. Bản nhớ ngôi mộ đó từ cổng đi vào nằm phía phải, hàng thứ mười hai, ngôi thứ ba. Vào khoảng năm 1979, 1980 gì đó anh nhớ không kỹ, trong một lần lang thang cùng các đội viên xung kích của anh lên nghĩa trang, Bản đã phát hiện ra ngôi mộ của chính mình. Mộ mang tên anh, có ngày sinh và quê quán, có cả ngày anh hy sinh tháng 6 năm 1968.




Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 07 Tháng Bảy, 2012, 07:48:47 pm
12.

Nhưng trước khi vào câu chuyện đó, phải trở lại năm 1986 , giai đoạn hai của cuộc kiếm tìm, khi mà anh đã tìm lại được những đồng đội của tiểu đoàn đã hy sinh (tới 530 người) Còn lại 18 người sống ở thành phố Hồ Chí Minh  trong tổng số 70 người còn sống rải rác ở khắp các địa phương trong cả nước. Những người sống ở thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận đã trở thành một tập thể trong việc đi tìm hài cốt liệt sĩ. Trong bảy năm, họ đã phát hiện và phối hợp các địa phương bốc được hơn một trăm hài cốt về các nghĩa trang. Họ cũng kết hợp với đại tá Hai Nhơn, nguyên chủ nhiệm hậu cần phân khu 1 tìm kiếm và cùng địa phương đưa được hàng ngàn hài cốt đồng đội vào các nghĩa trang.

Họ là ai vậy? Ông Mai Văn Hiệu, tiểu đoàn trưởng, bây giờ đã nghỉ hưu, mở cửa hàng giải khát tại Quận 5 TP HCM – ông Phạm Hùng Ca, cán bộ đại đội nay làm việc ở công ty VISSAN. Ông Viết, ở tại Phú Hòa Đồng, Củ Chi, ông Náp ở Nhuận Đức, Củ Chi – ông Thi đại đội trưởng đại đội 1, về nghỉ hưu ở Trảng Bàng, Tây Ninh – Ông Nguyễn Quốc Giản, quản lý của đại đội nay làm ở nhà máy đường Khánh Hội. Ông Lê Thanh Tùng trung đội phó , nay làm việc ở trung tâm nghiên cứu khoa học Ngân Hàng – ông Vũ Văn Vinh, tiểu đội trưởng, nay làm việc ở Công An thành phố v v… Vậy là công tác hiện nay của họ không dính líu tới việc đi tìm hài cốt. Cái gì đã thúc đẩy họ trở thành một tập thể, hễ có ngày nghỉ là rong ruổi đi tìm đồng đội trên chiến trường xưa? “Chúng tôi có rất nhiều cái CÙNG – Cùng chiến đấu ở chiến trường Tam Giác sắt với đồng đội quê khắp ba miền đất nước, đó là “Cùng” lớn lao nhất. Trong số đó có nhiều người cùng quê, cùng đi học, cùng xa gia đình đi B”. Đó là lời giải thích của cả nhóm mười tám người này.

Hơn sáu trăm người, bây giờ còn bảy mươi. Vì sao tiểu đoàn hy sinh nhiều đến vậy? Có thể nói là hy sinh gần hết?

Đó là đơn vị mang phiên hiệu D342 E42 F350 từ cán bộ tiểu đoàn đến chiến sĩ toàn là người quê ở Hải Phòng được huấn luyện đặc biệt để điều vào chiến trường khu vực Đông Bắc Sài Gòn, Củ Chi, Bến Cát, Trảng Bàng – còn gọi là khu Tam giác sắt. Đơn vị được đổi tên là D2, E268, FK1 mà nhân dân ở Củ Chi, Trảng Bàng thường gọi với cái tên trìu mến, quen thuộc là K2. Khác với những đơn vị bộ binh được huấn luyện chung, đây là đơn vị ngay từ đầu đã nhận nhiệm vụ rõ ràng: là một tiểu đoàn hoàn chỉnh được huấn luyện các kỹ chiến thuật tổng hợp: đánh đổ bộ đường không, đánh phản kích phòng ngự, công kiên diệt đồn, đánh tập kích… Họ được đưa lên núi Yên Tử ở Quảng Ninh cho giống với hoàn cảnh thật của cuộc vượt Trường Sơn. Họ sẽ là quân địa phương trụ bám giữ vùng Tam giác sắt. Họ được mang tên là tiểu đoàn Cát Bi – tên trận đánh sân bay Cát Bi cắt nguồn tiếp viện Điện Biên Phủ - chiến thắng lẫy lừng của Hải Phòng thời chống Pháp. Tiểu đoàn đã chiến đấu tám năm tại chiến trường Tam giác sắt – mà chủ yếu đánh nhau với quân Mỹ, những sư đoàn được nhắc đến như lực lượng tinh nhuệ nhất trang bị tới tận răng như Sư Anh Cả đỏ, Sư 25… Họ cùng với E26, E Gia Định, bộ đội địa phương, du kích trụ bám ở đó, sống trong thế xen kẽ “da beo” với địch, với bom pháo dội mà không được rút bỏ trận địa.

Họ đều là học sinh mới lớn, chắc chắn còn nhiều đêm khóc nhớ mẹ cha, gia đình, bạn bè, người yêu. Thậm chí rất nhiều người cho đến khi ngã xuống chưa biết yêu là gì!... Kể từ ngày ấy, họ đã sống trong tình thương yêu, nuôi nấng của đồng bào Nam Bộ. Cho đến khi chết, cũng là do đồng đội và nhân dân Nam Bộ chôn cất, thờ cúng. Đến hôm nay, họ vẫn sống cùng nhân dân Nam Bộ.

Từ ngày 16-11-1967, họ đi bộ hoàn toàn gần nửa năm trời. Từ núi Yên Tử, xuôi Hải Dương, Hưng Yên – Nam Định – Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh rồi rẽ lên đường Trường Sơn. Đi trong khí hậu khắc nghiệt của rừng núi, của đạn bom đánh phá. Có tiểu đoàn bạn vào đến trong này là phải xếp súng lại để vào bệnh viện, có tiểu đoàn hy sinh rất nhiều dọc đường đi. Đơn vị của họ là tiểu đoàn bảo đảm được quân số cao nhất trong cuộc hành quân Nam tiến. Họ đã đi qua những dốc ba thang, năm thang nổi tiếng của Trường Sơn. Trong bảo tàng quân đội có tảng đá lõm vào hình bàn chân. Đó là vì bất cứ chiến sĩ nào muốn qua dốc đều phải đặt chân lên tảng đá ấy.

Ngày 3-4-1968 đơn vị vào đến phía Bắc Sài Gòn – Gia Định lúc gần sáng – Họ tới Dầu Tiếng, để đêm hôm sau vượt sông Sài Gòn sang Củ Chi với ba lô quần áo buộc nilon làm phao. Họ lên ngay quãng gần Bến Dược. Khu di tích bây giờ, lúc đó là rừng. Vào một ngày đầu tháng 5-1968 khi vừa hành quân đến ấp Phước An, Phước Thạch, Củ Chi, chưa được bổ sung vũ khí tác chiến, thì đánh trận đầu tiên tại Nam bộ.


Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 08 Tháng Bảy, 2012, 11:11:02 pm
13.

Đi dọc Trường Sơn, vào trụ ở Tam giác sắt, chủ yếu đánh nhau với các sư đoàn tinh nhuệ Mỹ. Họ đã từng tham gia những trận diệt tới hai lữ đoàn Mỹ, bắn máy bay, xe tăng, tàu thủy. Có lần một tiểu đoàn của địch có xe tăng yểm trợ đã đánh nhau suốt ngày với một tiểu đội của tiểu đoàn Cát Bi tại Đồng Lớn. Tiểu đoàn của họ đã đánh nhau với hai chiến đoàn tại Bầu Me, Gia Lộc. Cuối cùng, tiểu đoàn Cát Bi đã hy sinh gần hết tại vùng Tam giác sắt này. Có thể nói đấy là tiểu sử thu gọn của họ. Điều đó giải thích vì sao đến hôm nay, mười tám người này ăn không ngon, ngủ không yên, vẫn cùng địa phương tìm kiếm các chiến sĩ, mà thậm chí ngay cả danh sách của tiểu đoàn cũng chưa ai cung cấp được.

Phải tìm người sống, cộng lại, lấy tổng số trừ đi, họ mới biết số thương vong. Để cho việc tìm kiếm được kết quả, hàng năm vào ngày 16-11 (nay chuyển ngày gặp mặt là 1-5) số anh em còn lại ở các tỉnh miền Nam thường họp mặt – Không phải chỉ họp mặt thăm nhau, mà là họ phải nhớ lại các trận đánh, để tìm thêm chi tiết, nhớ lại trường hợp chiến sĩ đã hy sinh như thế nào, ở đâu, để có hy vọng cho việc tìm kiếm.

Bây giờ nếu làm cuộc ghi âm một trong những buổi họp mặt hồi tưởng của họ thì có thể xem đó như tài liệu hoặc phụ lục về những gì cần tìm kiếm – Gần đây nhất là cuộc gặp mặt không đầy đủ, chỉ có bảy người vào tháng 5-1996. Họ đã nhớ được những gì?

Ông Mai Văn Hiệu (tiểu đoàn trưởng):

Trong quân số tiểu đoàn đi lúc đó, có đồng chí Phạm Khắc Nghi, đại đội trưởng, là người trực tiếp dự trận Cát Bi lịch sử mà tiểu đoàn mang tên. Những lúc dừng chân nghỉ, tiểu đoàn thường yêu cầu Nghi kể lại trận Cát Bi, trận thắng lớn của quân dân Hải Phòng diệt bốn mươi máy bay. Lúc đó tôi là chiến sĩ đang đánh ở Điện Biên Phủ, từng chứng kiến cảnh hàng ngày máy bay vận tải hai thân thả dù tiếp tế, vậy mà sau trận Cát Bi, hàng tuần lễ địch lúng túng chưa bù đắp được số máy bay. Đồng chí Nghi đã hy sinh trong trận đánh bốt Cầu Ván.

Ông Trần Văn Bản:

Anh Nghi sinh 1932, vào Đảng 10-1959 nhập ngũ 7-1953 xuất ngũ 1-1954 tái ngũ 4-1965, quê Tiên Lãng, Hải Phòng. Mộ hiện nay ở hàng số ba, mộ thứ hai, nghĩa trang Lộc Hưng Trảng Bàng. Khi đánh bốt Cầu Ván, đại đội của anh Nghi đánh chủ công, chiếm được trung tâm.

Ông Mai Văn Hiệu:

Bốt Cầu Ván suốt thời Pháp cho đến thời Mỹ, nhiều lần ta đánh không được. Đánh công kiên mà thất bại, chúng tôi gọi là “phơi áo”. Địa hình rất hiểm trở, khó tấn công.

Ông Vũ Văn Minh: (thiếu tá Sở Công an TPHCM)

Nếu từ Củ Chi – Trảng Bàng lên, nó nằm ở giữa. Chúng tôi rằng co bốn, năm giờ sáng, rút ra giải quyết thương binh tử sĩ. Chúng còn sót bảy, tám tên phải cải trang thành người đi làm, kéo xe bò bốt chạy, nhưng cũng bị du kích tiêu diệt. Vậy là du kích cũng góp phần với tiểu đoàn hai chúng tôi xóa Cầu Ván. Ở mũi tôi đánh góc chính diện – có ba cây cầy cao cách lô cốt chừng 60m. Ta lợi dụng mô đất cây cầy này để nấp bắn. Anh Phiêu lúc đó là chính trị viên trưởng chỉ huy. Lúc đó tôi là chiến sĩ đánh B41. Anh Phiêu bị đạn cạc-bin gục ngã. Chính tôi đặt anh xuống. Sau đó tôi cũng bị thương ở chân, phải đưa ra.

Bác sĩ Trần Văn Bản:

Ta dùng hai thê đội trong đó có một thê đội dự bị. Sau này nó dùng bom hủy diệt. Chúng tôi rút ra phía sau gần đấy trong rừng Bời Lời. Có người trúng bom không chết: bom bứng nửa hầm ếch lên, nó chừa anh ấy lại.

Ông Phạm Văn Trụ: (nay công tác ở Tổng Công ty lúa gạo miền Nam)

Tôi phụ trách đại liên, nằm chếch phía ngoài khi chúng tôi đi vào, có lệnh nằm im vì có pha đèn của xe jeep chạy ở lộ 6. Chúng tôi tiếp cận hàng rào. Trong lô cốt tháp canh còn ca nhạc. Có lệnh rải dây thông tin để nối các đại đội chờ phát lệnh.

Ông Phạm Hùng Ca: Lúc qua đê rồi, sao tôi vô không thấy anh Phiêu?

Ông Vinh: Thấy sao được? Nếu còn sống thì sao đến lượt thê đội 2 vô? Lúc đó anh Phiêu chết ngay trên tay tôi.

Ông Ca: Tôi thấy hai ông, ông và anh Phiêu nấp sau cây cầy, nghiêng người cầm khẩu K54. Lúc đó tôi ở thê đội 2 nằm chờ trên bờ đê. Tôi với anh Huyên thấy hỏa lực vào rõ như xem trên phim. Tôi và anh Oánh vào hướng chính – bên cạnh có anh Ngoạn, anh Nhận tiểu đội trưởng – Hàng rào bùng nhùng, móc dính vào chân té, phải đưa bộc phá sào lên. Đạn từ lỗ châu mai bắn ra. Các mật hiệu bị thương của quân ta hô lên báo cho nhau: “xe đạp” – Tôi bị thương vào đầu, phải rút ra tuyến sau.

Ông Nguyễn Quốc Giản: (nay công tác Nhà máy đường Khánh Hội):

Sáng hôm sau, nó bắn vào khu vực chúng tôi đóng quân ở rừng Chồi. Mùa mưa nên quân ta rút lui để lộ dấu vết. Nó bắn pháo, bom dữ dội. Tối đến tôi cùng một số đi vào bốt nơi chiến trận xảy ra để làm công tác chôn cất tử sĩ. Vào vẫn thấy cháy, xác ta địch lẫn lộn – Vì đã ba, bốn ngày, xác đã sình lên. Chúng tôi gói ghém vào, không thể đem đi đâu được nên đã chôn  tại chỗ, ngay tại bốt. Sau trận đó, địch cũng không lên thu dọn chiến trường, mà dùng pháo dập luôn bốt đó để hủy diệt hết. Sau này chúng xây một bốt khác ở gần đó.


Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 09 Tháng Bảy, 2012, 09:21:31 pm
14.

Ông Giản nói tiếp:

- Chúng tôi đã cùng nhau đi tìm hài cốt anh em đánh trận này. Đã về đó tất cả bốn lần. Đường mở mũi tiến công chính vào tháng 8-1968 đó, nay là Ủy ban nhân dân xã Lộc Hưng – Phía sau là lô cốt chính của bốt ngày xưa. Suối nay vẫn còn – Cầu sắt bị hư -  ba cây cầy rất to, phải ước ba, bốn mươi năm và thân cây hai, ba người ôm mới xuể. Nhìn cây cầy đó cũng đủ thấy dấu vết khủng khiếp của chiến tranh. Mỗi cây cao gần hai mươi mét, chỉ phía trên còn lá. Cây cầy còn được gọi là cây cám, vì da nó mịn như có cám trộn nước miết lên. Nhìn kỹ nó vẫn còn nhiều lỗ, đầy thương tích. Có chỗ mất hẳn vỏ, đùn ra những cục lồi như vết sẹo của người. Chỉ phía trên còn lá. Nó phản ánh thời gian ở chỗ: tầm bị thương tích lúc trước ở thấp nay cây lớn lên, chỗ bị thương lên cao tới gần năm thước.

Khu vực hai phía đầu nhà Ủy ban, nay trồng chuối, nơi chúng tôi đã lấy lên được anh Nghi và người liên lạc không rõ tên gì. Lúc đó chưa biết làm lọ peniciline. Quanh chỗ này, nhân dân còn lấy lên được năm anh em đưa về nghĩa trang, dạng vô danh. Kế bên cây cầy, nhân dân đã xây miếu thờ. Ruộng phía xa nay thành ruộng đậu phộng. Chúng tôi xác định chắc chắn anh em còn ở đó nhiều. Chúng tôi sẽ cố gắng vẽ lại và kết hợp bên Thương binh – Xã hội để khảo sát tiếp.

Ông Hiệu: Sở dĩ biết chính xác đó là đồng chí Nghi vì nhân dân bốc lên có khẩu súng ngắn. Ở trận Cầu Ván này anh em đã đem một số tử sĩ chôn ra bìa rừng. Nhưng mà bìa rừng là chỗ nào? Một số anh em còn sống ở cả nước đã cùng góp sức bằng cách nhớ lại được gì thì viết thư vào. Một đồng chí ở Hải Phòng viết thư có nói khi mình bị thương nằm bìa rừng, thấy chôn liệt sĩ tại đó. Nhưng xác định bây giờ, đó là chỗ nào, thì còn mất nhiều công lắm.

Ông Ca: Trước khi đánh trận, ta có liên hệ địa phương, du kích chuẩn bị tới ba mươi cái huyệt và có dân công, tải thương. Bây giờ cần tìm ra những người đó.


Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 09 Tháng Bảy, 2012, 09:22:16 pm
15.

Ông Hiệu: Chúng tôi đã đánh thắng trực thăng hai trận vào năm 1969 và 1970. Cá lẹp, đầu đỏ là hai loại trực thăng chiến đấu. Trên chiếc “đầu đỏ” đã có đại liên bốn nòng. Khi nó oanh tạc, mật độ dày, sát thương lớn. Có thể nói cú 2-3cm là chạm phải đạn nó rải đầy. HU1A đổ bộ. Còn Cá rô thì trinh sát. Sở dĩ phải “đi không dấu – nấu không khói – nói không to” là thế. Ban đêm quân ta đi lại, sáng phải lấy lá cây rải phủ các đường mòn. Nhưng Cá rô thổi gió xoáy cây rừng dạt ra như gặp bão. Lá rải bay hết, lộ ra con đường mòn, chỉ trừ lá có mối ăn tự nhiên. Khi đã lộ ra con đường vào cứ, nó sẽ theo đó mà xoáy tung lên.

Có hai trận đánh Cá rô. Giữa rừng Bời Lời gần quân y C7, căn cứ của trung đoàn. Bữa đó Cá rô “thổi” vào đến tận trung tâm căn cứ, phát hiện từng cái hầm. Tiểu đoàn hạ lệnh phải hạ cho được tên trinh sát nguy hiểm này, không cho nó kêu máy bay oanh tạc tới dập căn cứ. Lúc nó xoáy thổi, không khí cũng khó thở, rất căng thẳng. Ta bắn nó rớt. Khi chiếc Cá rô rớt, đám trực thăng vội lao theo nơi Cá rô rớt, để bắn thành hàng rào xung quanh, không cho quân ta đến gần. Một Cá rô chỉ có khẩu đại liên thò ra cứ, hai lính Mỹ đỏ lòm thò ra chỉ tay bắn hoặc vụt cả lựu đạn xuống hầm. Nó nhẹ, nhỏ như cái tắc xi, có thể đứng một chỗ. Trinh sát thì hiệu quả, nhưng có thế yếu là ta bắn rất dễ. Lần sau ở rừng Suối Nhánh, năm 1970 cây thưa, anh em khoảng mười người đang uống nước thì nó “é” tới. Mọi người giải tán xuống hầm. Nó vòng quay lại, hai lính Mỹ đỏ lòm lăm lăm súng, đang chỉ tay xuống. Tôi hạ lệnh anh Hai Kẽm bắn tiểu liên lên. Nó loạng choạng cháy ra xa. Lũ phản lực bay theo để bảo vệ Cá rô. Anh em tránh xa vào rừng sợ nó quay lại ném bom. Trận đó anh Hải Kẽm được thưởng huân chương chiến công hạng 3.

Ông Ca: Nếu mặt đất không cây, Cá rô sà xuống có thể bay theo từng đường mòn, có thể hạ xuống cách công sự 3-4m. Gió mạnh lắm. Hồi đó có phong trào các đơn vị thi đua săn Cá rô. Đại đội tôi ở rừng Bời Lời. Mỗi đại đội có một tổ đi săn Cá rô. Tôi bố trí hai khẩu AK: đồng chí Kháng, đồng chí Hán phụ trách, sáng sớm đã ra bìa rừng đón “cá”. Ngày đầu nó bay cao, tổ phải về không. Sang ngày thứ hai cũng vậy. Ngày thứ ba chúng tôi cắm cây, đội nón bù nhìn để nhử nó tới. Khoảng chính, mười giờ sáng đó, nó theo hướng từ Đồng Dù vào đến bìa rừng. Tôi ở một công sự chỉ huy – hai đồng chí kia ở một công sự, hai mũi súng chĩa ra hai hướng – Tôi hô: “Nó tới. Chuẩn bị”. Tôi bắn K54 lên để hỗ trợ thôi, nghe công sự bên nổ một loạt AK. Nó bay khoảng năm mươi mét thì xịt khói và đến suối Bà Tươi thì lửa bùng lên. Tôi bò lên cùng hai đồng chí kiểm tra súng xem từ khẩu nào đã hạ máy bay, thấy chính khẩu của đồng chí Kháng. Vậy là chúng tôi đã hạ được Cá rô. Đơn vị đề nghị huân chương cho đồng chí Kháng. Còn như tôi chỉ huy sẽ chỉ được bằng khen thôi, nhưng đến nay vẫn chưa có.

Ông Hiệu (cười): “Ngày 12-11-1969 – trận phục kích tàu thủy trên sông Sài Gòn tại rừng Bà Nhã. Lực lượng ta đóng quân trên vùng Dầu Tiếng mở chiến dịch. Địch dùng mọi biện pháp ngăn chặn, sử dụng sông Sài Gòn để rải lực lượng ngăn các khu rừng liên tiếp ven sông. Chúng dùng bốn tàu đi tuần tiễu từ hướng Bến Cát lên Dầu Tiếng không cho ta qua sông vận chuyển. Trước lúc tàu đi, thường có máy bay hai, ba chiếc đi trước dò đường, bay khá thấp. Những con tàu có khi mở máy lớn, có lúc tắt máy êm ả thả trôi theo dòng một cách bí mật lặng lẽ để rình chộp bất ngờ bộ đội vận chuyển hoặc vượt sông. Trên mỗi tàu đều có súng 37 ly. Lệnh của tiểu đoàn là diệt bốn tàu này. Ta sử dụng hai cây DK2, một trung đội với hỏa lực chủ yếu B40, B41 với AK yểm trợ”. Họ ém quân ở khúc quanh của sông, ở phía bên hoắm vào gần bờ cho tàu phải đi sát. Đào hai tuyến hầm: một sát bờ sông, một sâu phía trong một khoảng một trăm mét, chờ đánh lúc tàu quay về cho biết chắc chắn là bao nhiêu cái. Họ bắn cháy chiếc đi đầu và chiếc đi sau cùng. Điều này khá quan trọng, đẩy hai chiếc đi giữa ở vào tình thế nhìn trước nhìn sau đều bị đánh cả. Sự chống cự trên tàu khá sơ sài. Nhưng chắc chắn sẽ có hỏa lực yểm trợ hoặc quân đổ bộ được điều đến. Và quả đúng như hướng phục kích đã dữ đoán: quân Mỹ đổ bộ xuống đã bị tiêu diệt gọn. Đây là trận đánh thắng lợi, diệt nhiều lực lượng địch, quân ta không có thương vong. Đây cũng là trận đánh đem lại phần thưởng cao nhất của tiểu đoàn: Huân chương quân công hạng 3.

Trận đánh xe tăng ở Bầu Điều xã Phước Hiệp, Củ Chi là một trận đánh chặn việc của địch. Lệnh cấp trên yêu cầu tiểu đoàn dàn trận đón đường đánh chặn. Hai đại đội bộ binh hành quân xuống lúc mười hai giờ đêm, đào công sự ngụy trang xong thì vừa sáng. Anh em ăn cơm nắm xong, chuẩn bị vào trận. Vì đánh xe tăng có hỏa lực mạnh, nên phải đánh gần. Xe đến cách công sự khoảng ba mươi mét thì bộ đội nổ súng. Chúng không đi trên đường mà đi cặp dưới ruộng. Đến gần làng, chúng triển khai xe lên hàng ngang chuẩn bị qua làng. Bộ đội nổ súng, cháy ba xe tại chỗ. Chúng dùng phái xe tăng 90 ly, 12 ly 7 bắn trả dữ dội, kêu máy bay tới bắn hỏa tiễn vào phòng tuyến. Đại liên bộ đội hạ một máy bay. Chúng tiến công đợt hai, cháy thêm hai xe nữa. Đợt ba chúng phá thủng phòng tuyến nơi có thương vong, chọc vào gần chỉ huy sở của tiểu đoàn đang dùng một nhà dân làm đài quan sát.

Ông Hiệu: Tôi vạch ngói mái nhà nhỏ lên quan sát, thấy xe tăng tiến gần. Đồng chí Nguyễn Văn Binh trung đội trưởng cùng anh em trong trung đội dùng B40 vận động ra theo các bụi tre, từng căn nhà đến sát xe tăng đánh thủ pháo dù. Quân ta diệt thêm bốn xe nữa. Nó không dám tiến sâu vào vì tiêu hao quá nhiều. Chiều xuống, xe chúng cụm lại giữa đồng, dùng hỏa lực bắn rất dữ dội. Kết quả trận đó ta diệt mười hai xe và hai máy bay. Tôi nghĩ cậu Binh trong chiến công này lẽ ra đáng phong anh hùng. Cậu đã hy sinh rất dũng cảm. Với hai đại đội, quân ta đã chặn 70-80 xe tăng của địch suốt một ngày.


Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 10 Tháng Bảy, 2012, 10:23:40 pm
16.

Trận Bầu Me – Gia Lộc: một tiểu đoàn của ta đọ sức vơi hai lữ đoàn (chiến đoàn) quân tinh nhuệ Mỹ. Đây cũng là thời gian bộ đội đánh trận liên tiếp: trong bảy ngày đánh tới hơn chục trận.

Ông Giản: Chúng tôi rút quân về Bàu Me – Gia Lộc, Trảng Bàng, sáng hôm sau bị lộ, bộ đội đang nghỉ ở nhà dân, thì hai chiến đoàn quân Mỹ đã vây tròn ngoài làng. Trời mưa lất phất, pháo bắn dữ dội. Chúng tôi có cối 82, đại liên 12 ly 8, B40, B41. Khi địch vào gần, cối 82 ta bắn. Máy bay đầy trời. Anh em ta bắn, để khỏi lộ địa điểm, một người bắn, một người giữ khói: lấy bồng (ba lô) chụp lại cho khói tiêu đi dần. Đến khẩu đại liên, đồng chí Hùng tiểu đội trưởng có sáng kiến vừa bắn, vừa có người lôi lại. Lúc rút quân, rất tiếc lá lần đó phải chôn súng lại vì phải phá vây. Ở hướng đại đội 2 đã phải đánh ráp lá cà với những tên Mỹ to tướng, lỉnh kỉnh trang bị súng ống. Chúng tôi cầm cự được là nhờ trời mưa. Trận ấy đồng chí liên lạc bị hy sinh – chúng tôi được lệnh tập kết về Trảng Nguồn, mỗi người tùy địa hình mà phá vây rút về điểm tập trung.

Ông Lê Thanh Tùng: Tôi nhớ trận Bầu Me – Gia Lộc hình như khác các trận khác, nó không phi pháo ngay từ đầu. Tôi nhớ phía mũi quân của tôi: ruộng khô nứt nẻ - Xích tới bên này là trảng, có thể nhìn thấy đường đất đỏ. Sau khi nổ súng, bên tôi khá yên tĩnh. Chỉ thấy bom đạn phía sau lưng. Tôi biết cả tiểu đoàn lần này đánh nhau to. Đụng ác liệt với Mỹ rồi. Bên tôi lúc đó chưa có bóng dáng thằng nào, nó chưa vây khép phía này. Khoảng một tiếng rưỡi sau mới bắt đầu. Thế là suốt từ chín giờ ba mươi đánh đến tối luôn. Từng đoàn trực thăng nối nhau đổ thêm quân, cách khoảng hai trăm mét. Giá lúc đó bọn tôi chủ động đánh thì ngon. Nhưng “ngu”đến bốn giờ là thông minh rồi, vì thấy đến lúc đó nó vẫn đổ thêm rất nhiều quân để đủ bọc kín vòng vây. Chúng tôi nghĩ: nó chọc sườn đánh mình – Cứ ngồi đây không được, bèn rời công sự, bọc lại đánh chắn đầu nó luôn. Chúng tôi đụng Mỹ ngay giáp mặt – Ven làng, khoảng nửa tiếng sau tôi chỉ thấy lửa của trái M79, vai ê không cử động được. Đồng chí Oánh đại đội trưởng nói tôi lui vào, dù không có công sự. Bắn nhau hai chập nữa thì tối. Nó êm. Chúng tôi tìm lối rút ra, nhưng không có đường, vì ra lối nào cũng đụng chúng còn bao vây. Lúc đó tới hai trung đội bộ đội rút vào một nhà, có hầm khá to. Nhưng pháo bắt đầu dội ác liệt, phải rút nhanh. Chúng tôi bảo: có một cách không đụng tụi Mỹ, đó là cứ chui luồn vào các bụi cây mắc cỡ Tây cao hơn đầu người mà luồn ra. Tới lộ đất đỏ, chúng tôi quặt qua lộ và vào đến vườn dưa leo – Lúc đó mới thoát. Tôi được chở đến trạm y tế bằng một chiếc xe bò.

Ông Trụ: Trận này bọn tôi mang đại liên phía mé Trảng Bàng. Đánh dữ dội tới tối, lệnh đại đội rút lúc nào chúng tôi không biết. Năm đứa nằm lại dưới hầm đợi lệnh – Mãi không thấy gì, bèn đi theo công sự vào nhà đại đội tìm, thấy vắng hoe, không biết rút đi đâu. Lúc đó nghe tiếng Mỹ xì xồ - chúng tôi chui ngay vào cái nhà đang cháy dở, rúc sâu xuống hầm lớn, nghe từng tảng que, cột gỗ cháy rơi  xuống kêu lục bục. Lính Mỹ thấy toàn bộ nhà cửa đều cháy rụi do bom xăng không thể có ai sống sót nên không lùng sục mà rút ra cụm lại ở cánh đồng cách trận địa chừng hơn một km. Trời sáng rõ, như tất cả mọi trận đã thành lệ, một số nhân dân chạy về xem anh em K2 chiến đấu và xem có gì cần giúp. Khi thấy anh em từ dưới hầm lên, nhiều người ôm lấy chúng tôi khóc: “Tụi bay còn sống à? Anh em có thương vong nhiều không? Thôi mau rút ra rừng đi, có đứa nào bị thương đưa đây tụi tao lo”.

Ông Hiệu: Những năm 1969, 1970, 1971, giặc dùng biệt kích Mỹ len lỏi vào rừng rình đón bắn từng bộ đội đi lẻ. Rừng càng lớn, biệt kích càng nhiểu. Nó gài mìn clay-mo có chứa bi lớn khi nổ sát thương rất rộng. Bộ đội rút kinh nghiệm cắt rừng đi tránh, đánh dấu kín đáo lối về. Nhưng có thời kỳ hầu hết khi về đều đụng bọn biệt kích Mỹ dưới công sự nhô lên bất ngờ. Tôi đụng biệt kích ỏ xóm Sóc-Trảng Bàng, Tây Ninh. Hôm đó tôi rời tiểu đoàn, về công tác ở hậu cần đường hai mở đường hậu cần lên miền để chuyển vũ khí. Sáu giờ tối tôi ra tới – bên kia chỉ cách vài trăm mét là có lực lượng ta. Tôi sách cái túi trong bóng chiều đang đổ, lóp ngóp một mình băng qua cánh đồng. Bỗng có tiếng hỏi: “Ai?”. Tôi tưởng anh em mình nên lên tiếng: “Hai Hiệu đây chứ ai”. Nghe “Đù mẹ, Hai Hiệu là thằng nào” thì tồi biết ngay. Vẫn cố điềm tĩnh: “Hai Hiệu là Hai Hiệu chứ còn thằng nào”. Cách năm, sáu mét tôi thấy súng chĩa ra. “Khoan, đừng bắn” – tiếng thằng chỉ huy. Nó cùng một thằng bảo vệ bước lên. Lệnh của nó khoan bắn, như vậy chắc chắn có giây phút lơi lỏng súng. Tôi đứng trên bờ cao. Chúng phục kích trong ruộng, trong bóng tối sẫm dần. Tôi lật úp mình lăn sang bên, chú ý tư thế tay đỡ. Tôi thấy mờ mờ bóng đống rạ của một đồng lúa ban ngày dân đập còn để đó, cố lết nhanh tới “Đù mẹ, nó chạy đằng nào rồi!”. Tiếng bọn giặc nháo nhác, nhưng bủa theo hướng khác. Tôi tháo cái đài SONY Nhật, đeo trên người dúi vào đống rạ, rồi bò sang phía bên kia, nơi có công sự cũ của anh em mình đào. Tôi nằm đó tới khuya, thấy ướt lạnh ở mông, biết máu ra nhiều. Đến đêm, anh em ra đón về kể rằng họ đang nấu cơm gần đó nghe tiếng tôi “Hai Hiệu là Hai Hiệu chứ còn thằng nào” thì biết là tôi bị phục kích nên bủa đi tìm. Mấy ngày sau làm mùa, bà con nhắn với tôi vào nhận lại cái đài vùi trong đống rạ.

Chúng tôi sống trong tư thế “da beo” như vậy. Khi còn ở tiểu đoàn là thời kỳ bọn Mỹ trực tiếp lái xe ủi rừng trong cả tháng ròng. Cây cối vàng úa, quang hết cả rừng. Xe tăng, xe ủi chạy rầm rầm cả ngày. Rừng Bời Lời đâu có lớn, diện tích chỉ vài cây số vuông. Vậy mà bộ đội vẫn ở đó “chung” với cả bọn ủi rừng để chống phá bọn chúng ủi rừng. Chúng tôi ở ngay chỗ chúng vừa ủi xong. Dựng những cái cây vàng khô ấy lên làm chòi, đào hầm hào mà ở ngay đó. Có lần tôi dẫn mười anh em đi điều nghiên chiến trận về đến mé rừng, tất cả mệt quá, nằm lăn ra ngủ lấy sức ngay gốc cây. Trúng ngay đám rừng chúng sắp ủi tới. Nghe tiếng í ới, máy chạy, nhòm qua lùm cây thấy tên Mỹ lái xe ủi, cởi trần, da đỏ lòm. Chúng tôi bảo nhau cứ vận động theo rừng, bứt ra. Thấy máy bay thì nằm dưới gốc cây khô. Nó đi, lại luồn mà ra khỏi vùng nó sắp ủi.


Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 11 Tháng Bảy, 2012, 08:18:29 pm
17.

Đấy là một vài nét rất sơ lược về tiểu đoàn Cát Bi của bác sĩ Trần Văn Bản. Đó cũng là lý do vì sao anh đã âm thầm gần hai mươi năm đi tìm đồng đội. Nếu không phải là một người đã từng vào sinh ra tử, gắn bó với vùng chiến trường này, thì có thể anh đã không bị thôi thúc bởi quãng đời chiến đấu ngày xưa. Và nếu không là người của tiểu đoàn, không là quân y sỹ trực tiếp vừa chiến đấu vừa điều trị thương binh, chôn cất tử sĩ, thì có lẽ anh cũng khó lòng tìm ra được nhiều như thế.

Ngay khi mười tám người sống sót của tiểu đoàn sống tại thành phố Hồ Chí Minh tập hợp nhau lại, Bản đã có thêm lực lượng cùng đi tìm. Ngoài ra anh còn có một nhánh hoạt động rất hiệu quả - đó là nột dung hoạt động của Hội Chữ Thập đỏ do anh làm Chủ tịch. Mười tám anh em tập hợp với nhau. Họ cố rong ruổi tìm về nơi chiến trường xưa, vẽ lại sơ đồ, nhớ lại từng người. Việc làm trước tiên là họ cùng nhau nhớ lại những gia đình cơ sở, đi tìm lại các du kích địa phương, những ai có liên quan tới những gì có thể làm mốc cho cuộc tìm kiếm. “Muốn tìm người chết, phải tìm được người sống trước đã”. Mặc dù đã mấy chục năm chiến tranh ly tán, người mất,người còn, những người lính tiểu đoàn hôm nay vẫn nhớ rất rõ về người dân cưu mang họ thuở nào. Tìm lại để thăm nom, tỏ lòng biết ơn, và cũng để hy vọng tìm kiếm thêm nơi các liệt sĩ đã yên nghỉ. Như riêng bác sĩ Bản nhớ thì có nhiều má như má Tám Lúc ở Củ Chi, má Bảy ở Trảng Bàng, chị Mười Xị ở Xóm Trại khi biết anh em đã hy sinh, họ đem xác anh em về chôn ngay trong nhà mình để tụi Mỹ không phát hiện mà đào lên được. Hôm nay các anh còn vui vẻ nhắc lại cái tình thế ngang trái của tình thương các má dành cho bộ đội. Đêm trước nhân dân đón tiếp quân về, lo mọi thứ chu đáo, nhưng tảng sáng ngày mai thì người già, trẻ em, trâu bò… được di chuyển ngay. Họ biết làng mình sẽ thành chiến địa. “Con đi má nhớ má buồn. Con về má chịu chuồn chuồn, ca nông” – Các má thường nói vui với đàn con bộ đội của mình như vậy.

Nhiều anh bộ đội quê ở miền Nam thường đùa tị nạnh: “Nó cũng bộ đội giải phóng, con cũng bộ đội giải phóng, mà các má, các chị thương lính Bắc Kỳ không hà”. Các má bẹo tai anh đó: “Bố mẹ nó sinh ra mang nặng đẻ đau, nuôi lớn giao vào đây đánh giặc, chúng tao đùm bọc trông nom. Còn các con quê đây, má cũng thương, nhưng lâu lâu các con còn móc nối về qua gia đình…”

Các anh còn nhớ ông Năm Kiên ở Tầm Ninh Bố Heo, theo đạo Cao Đài, ông làm ăn giỏi, có tới mấy cái sa cá. Không những ông tham gia giúp bộ đội mà con gái, vợ ông cũng tham gia phát thuốc cho bộ đội. Lính tiểu đoàn hơn sáu trăm người không một ai chưa ăn cơm, hút thuốc ở nhà ông. Lúc nào nhà cũng có nồi cá to sẵn sàng. Có lúc ông chở cả xe bò cá về nhà, không bán, để nuôi bộ đội.

Còn nhà má Năm Ầm, má cô Hận trụ lại ở khu Trảng Cỏ cạnh rừng Bời Lời hầu như đêm tối xuống là bộ đội đầy nhà. Nhà má là nơi mua hàng từ ấp chiến lược về tiếp tế. “Người ta giúp như thế hàng năm giời chứ không phải một lúc”. Những chiến sĩ tiểu đoàn xác nhận. Vào năm 1969, đúng lúc bộ đội đang ở đó thì máy bay lên “đánh điểm” do có mật báo. Máy bay quần cả một vùng, bộ đội rút dần ra rừng. Nó bắn điểm, chọn đúng nhà để bắn đạn rốc két. Má Năm chết ngay tại đó và một đứa con trai nhỏ bị thương.

Anh Giản kể: Sau mỗi trận đánh, bà con ở các nơi đều đến tìm xem anh em còn sống hay chết, mang quà cáp đến cho. Hồi đó tôi ở nhà chị Hai Đúng, Ấp Mới An Tịnh. Bộ đội miền Bắc vào kháo nhau: “Sao nghe nói miền Nam có trái sầu riêng mà đi trong vườn không biết cây nó ra sao”. Chồng chị Hai nghe nói thế, lẳng lặng không nói gì. Ông từ An Tịnh lên Lái Thiêu mua về cho bộ đội biết quả sầu riêng Nam bộ. Sau trận Cỏ Ống – là trận Mỹ hủy diệt cả một làng bằng bom đạn mà chính báo chí Sài Gòn lúc đó còn lên tiếng phê phán sự dã man – Nó bắn tới mười lăm ngàn năm trăm quả pháo – Tôi về đến Trảng Nguồn là nằm lăn ra không còn sức. Hai đứa con chị sang kêu “Cậu Hai” – biết tôi còn sống chúng ôm khóc ròng, rồi tiếp tế cà phê, cá mòi – Nhưng ở đây là vùng trắng, dân đi li tán hết, nay trở lại đó chúng tôi ít kiếm được người xưa. Chúng tôi tìm đến nhà ông Năm Kiên thì ông mất rồi. Sau này chúng tôi có gặp được ba cô Hận.


Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 11 Tháng Bảy, 2012, 08:18:49 pm
Anh Phạm Hùng Ca còn nhớ vùng Trảng Cỏ có nhiều gia đình nữa: Ông Tám Đời, Ba Điều, bà Hai Thí. Có lần anh ở trong Ban chỉ huy, xuống các ấp đóng quân, đã đến giờ về tiểu đoàn, do không có đồng hồ nên đồng chí Chén, đồng chí Sập hốt hoảng nhìn thấy trời xâm xẩm đoán sai mất nửa giờ. Một người dân, tên là Trường tháo luôn đồng hồ tặng (Thời kỳ đó một chiếc đồng hồ khá nhiều tiền), Khi sống ở ấp trong nhà dân, ở hầm, phải nhờ lực lượng địa phương đi mua rau. Nhiều khi chưa đến vụ thu hoạch người ta không bán. Nhưng khi biết bộ đội cần thì non già nhổ tất, có khi cho chẳng lấy tiền.

Các anh bây giờ vẫn còn nhắc câu của ông Năm Kiên, người đã chở cá, chở bánh tét bằng xe bò cho bộ đội. Anh Ca kể: “Ông còn hăng hái xin đạn để nếu cần, ông cũng đánh Mỹ - Tôi cho ông cả mười viên cơ số đạn thừa. Vì việc này tôi suýt bị kỷ luật – có lần tôi hỏi ông: “nhà tới ba, bốn cái sa, mỗi sa trong một đêm được tới bốn, năm chục ký cá – ông bỏ sa cho vợ con đi theo bộ đội chi vậy? Ông bảo trước đây có lần đi dân công hỏa tuyến, thấy anh em giải phóng sống khổ quá. “họ bỏ cha bỏ mẹ anh em vợ con vào đây đánh giặc, tao ở nhà làm giàu sao được”. Sau trận Cỏ Ống, đơn vị ém quân ở rừng chồi thấp một đêm một ngày. Trên đường rút qua các ấp, dân báo có địch phục kích. Cùng với trinh sát của du kích các ấp xã, ông Năm Kiên nhận dẫn đường cho bộ đội vượt qua tuyến phục kích. Giờ đây ông cũng mất rồi, về lại chốn xưa, những người lính của tiểu đoàn Cát Bi vẫn nhớ câu ông nói hôm đó: “Tụi mày yên chí tao sống tụi mày sống” – Bà con nghe tin đơn vị đi chiến đấu, nhiều khi mua nhang cúng những ai hy sinh, rồi sau đó lại mừng phát khóc khi thấy số người tưởng chết lại lù lù về. Có một anh thương binh bị thương nhẹ, ở ngay nhà dân để chữa chạy ở bệnh viện dân y. Ban ngày có địch càn, anh ở hầm, tối đến y tá của địa phương tới tiêm chích. Có một đồng chí bị pháo bắn, lòi cả ruột. Nếu chuyển theo tuyến của bộ đội sẽ khó lòng sống được. Bà con đã nhận là con của gia đình, các bà má dặn không được nói năng gì để lộ. Các má nhận làm con, chạy tiền cho anh vào năm  quân y của Mỹ, nằm cùng lính Mỹ tại Đồng Dù. Khi anh khỏi, phải thanh toán viện phí, dân đã quyên góp hai mươi ngàn để chi cho quận trưởng Trảng Bàng để xin trả anh về Anh Tịnh cho dân.

Đến nay, nhóm chiến sĩ của tiểu đoàn đã xác định được hơn ba trăm hài cốt chiến sĩ, trong đó khoảng một trăm người của tiểu đoàn. Biết bao nhiêu người của các đơn vị hy sinh tại đây. Chiến trường Tam giác sắt rất gần Sài Gòn, vậy mà ta vẫn đứng vững, nhờ có ba trung đoàn chủ lực của quân khu, đều trở thành những trung đoàn nổi tiếng Trung đoàn 16, Trung đoàn Gia ĐỊnh, Trung đoàn 268 (trong đó có tiểu đoàn Cát Bi). Ở các quận đều có vài C bộ binh, pháo binh. Xã có du kích. Vào các đợt chiến dịch còn có các sư 9, 7, 5, 1… của miền xuống tham gia. Người dân hy sinh cũng nhiều. Họ “trụ lại” không phải đơn giản. Những năm 1969, 1970, 1971 không còn nhà, dân sống giống bộ đội. Nhà có hầm: Cột nhà được dỡ ra, chuyển thành cây đà, phủ ván, lấp đất, biến thành hầm. Khu vực Trảng Cỏ 100% dân ở như bộ đội. Đó là khoảng thời gian ác liệt nhất. Nay nhiều đơn vị đã giải thể, việc tìm kiếm liệt sĩ gặp rất nhiều khó khăn.


Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 12 Tháng Bảy, 2012, 07:53:55 pm
18.

Con người ta khi chết rất lạ kỳ: chôn càng sâu, càng có nước, xương càng đẹp. Bác sĩ Bản nghĩ: có lẽ oxy hóa ít, phân hủy khó, vì ở dưới sâu đất chặt, vi khuẩn, mối kiến ít hơn. Trong suốt thời gian đi tìm kiếm, anh có thêm nhiều phát hiện: Nếu thi hài nằm ở chỗ có ổ mối, thì đến đôi dép râu cũng bị mối ăn. Thời gian luôn đủ sức xóa đi tất cả, nhất là xóa đi ký ức trí nhớ con người.

Bản và đồng đội anh luôn gặp những "thế cờ" bí: Cùng nhau chôn cất liệt sĩ, nhưng người thì nói trước là bờ tre, người khăng khăng rõ ràng là ruộng lúa. Bản bận trăm công ngàn việc, những đêm đến, anh sống "rất cũ kỹ" - nghĩa là như ngày xưa. Đêm đêm anh hồi tưởng từ con lộ ngày nay, xưa nó là đường mòn như thế nào. Cái rãnh nước khoảng mấy chục cm ngày xưa có phải là con suối ngập đầu lúc chiều anh qua? Bản không nhớ tới những kỷ niệm dĩ vãng thơ mộng hay đau thương, cũng không nhớ như một thời đầy công trạng. Anh cần dĩ vãng phải chi tiết như một tấm bản đò. Ở đầu giường của Bản luôn để sẵn một ngọn đèn, một cây bút, một cuốn vở. Trong đêm nằm chợt lóe ra điều gì, anh chộp ghi ngay. Nếu không, sáng mai ra, chính trí nhớ lại phản lại trí nhớ. Rời mỗi khi cần xác định một địa điểm còn tranh cãi, Bản phát đi bảng câu hỏi, rồi gom lại phân tích. Thí dụ hôm chôn cất liệt sĩ, cúi xuống đào đất, khi ngẩng lên thấy gì, ngọn núi trước mặt, hay bầu trời quan đãng? Mặt trời lúc đó ở đâu? Bóng của mình đổ phía trước hay sau? Lúc đó ban đêm hay là rạng sáng? Đất ở đó thế nào? đào có khó không? hay vướng vật gì? sỏi đá hay rễ tre, dừa, chuối? Khi đặt liệt sĩ xuống quay đầu hướng nào, có chôn theo vật gì không? Làm xong, rửa tay ở đâu? v.v...

Chính những câu hỏi này nhiều khi đem lại kết quả bất ngờ. Bởi có người đã quên hết không còn nhớ gì, nhưng chợt hiện ra lúc xuống sông rửa tay, thì bên kia sông là một vườn dừa đang sẫm dần trong bóng tôi như cứa vào lòng một nỗi đau khổ không thể nào quên. Bản có thể dùng các kinh nghiệm phánd đoán của anh, khá chính xác: Đất đỏ là gần bờ sông, nếu hình ảnh đồng lúa thì ruộng bằng phẳng.

Con người ta là những thể chất lạ kỳ. Họ chết nằm trong lòng đất, xe ủi, bom dội đủ kiểu, có mộ xoay ngang quay cả hài cốt - Mọi thứ đều bị phân hủy, nhưng con người thì xương cốt vẫn còn rất lâu bền. Anh tin là có một thế giới tâm linh rất thiêng liêng. Nhiều người biết và chứng kiến chuyện nấm mồ anh tìm được nơi gốc cây khế ở Bến Cát. Bao năm trôi qua, chủ nhà đã lập nghiệp xây dựng lại, xây nhà, láng sân rất đẹp. Vậy mà cây khế khẳng khiu, loe nghoe rụng lá chỉ tổ phải quét, sao không bị chặt đi? Chủ nhà bảo chính ông cũng không biết nữa, không hiểu vì sao khi dọn dẹp chặt đi tất cả, đến cây khế thì tự nhiên không. Mà chẳng phải ông cố ý gì. Tự nhiên như vậy thôi, ông cũng không để ý. Hôm nay thì mới biết là một người con của Thái Bình đã yên nghỉ bên dưới. Cũng như vậy ở Hố Bò - Của Chi, bà cụ chủ nhà bảo: "Không rõ sao, cây găng chỉ toàn gai không thôi, mấy lần tôi dẫm cả gai, cứ nghĩ là sẽ chặt đi, mà rồi vẫn không chặt. Có bận cháu tôi chặt mà cây vẫn không chết, lại xanh trở lại, dù là trông cằn cỗi hơn. Hóa ra nay mới biêt đó là nơi các con bộ dội chúng nó nằm.".

Bận ấy, Bản đi kiếm thằng bạn anh nhớ khi chôn ở đầu dốc có bụi mây. Trong lúc chiến trận, anh đâu có quan sát được bức tranh toàn cảnh, chỉ nhớ là ở cái dốc vùng này. Hôm nay trở lại hóa ra là những hai cái dốc ở gần nhau. Anh phải vượt qua cái dốc đầu tiên vì nhớ rằng vị trí phải ở dốc bên kia, nơi tận cùng không còn phải qua đèo nào nữa. Nhưng đi đi lại lại mãi vẫn không tìm ra. Chiếc xe chết nằm ì mỗi khi phải qua cái đỉnh đèo đầu tiên. Đi mãi không có kết quả, Bản khấn: "Mày ứng cho tao nhé. Mai xe chết chỗ nào, tao đào chỗ đó.". Quả nhiên hôm sau đúng vậy, bạn anh nằm đúng nơi xe chết máy.


Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 13 Tháng Bảy, 2012, 10:22:59 pm
Có những chuyện khó giải thích. Niềm tin thiêng liêng, những mơ ước khắc khoải cháy bỏng... có thể trở lên một nỗi ám ảnh, hay đó là điều gì còn bí ẩn? Bác sĩ Lê Văn Tin hiện là phó chủ tịch thường trực Hội Chữ thập đỏ Tân Bình băn khoăn về một câu chuyện bắt buộc một người làm khoa học như anh phải suy nghĩ. Anh nguyên là phó giám đốc bệnh viện huyện Tân Phú tỉnh Đồng Nai, về cơ quan của bác sĩ Bản phụ trách phòng khám từ thiện của Hội.

"Tôi lớn lên ở Sài Gòn, tốt nghiệp đại học Y Dược TPHCM, từ nhỏ tới lớn chỉ ăn học và làm chuyên môn ngành y, chưa bao giờ làm một việc gì khác. Vừa làm bác sĩ, tôi vừa biết lái xe nên trở thành người đi rất nhiều cùng anh Bản, khi anh về Hội và đưa công tác tìm hài cốt liệt sĩ thành một trong những công tác quan trọng của Hội. Tôi và anh Bản là 2 cuộc đời hoàn toàn trái ngược nhau: Tôi ăn học làm tại bệnh viện, trong khi anh ấy vào sinh ra tử, sống chết đã từng...".

Bác sĩ Tin giống như một thầy thuốc trí thức được "trồng trong nhà kính", anh chỉ từng trải với con bệnh, với điều kiện trong phòng mổ và điều trị, hầu như chẳng có cuộc sống nào khác ở ngoài đời. Bây giờ bác sĩ Tin bắt đầu nhập cuộc với những tình cảm khác Bản: Bản với tình đồng đội của người chiến sĩ, Tin thì thấy niềm vui của gia đình liệt sĩ khi có tin báo về đã tìm được dấu vết người thân. "Thấy cảnh vậy, nếu bảo tôi có cảm giác hạnh phúc thì không chính xác lắm, nhưng có một cái gì đó...". Bác sĩ Tin kể lại lần anh trực tiếp đi cùng bác sĩ Bản tìm hài cốt người liệt sĩ hai lần được phong anh hùng; có cả một cuốn sách nói về anh: anh Ba Kiên tức Nguyễn Tấn Lực, sinh năm 1924, thượng tá trung đoàn trưởng trung đoàn 16, phân khu phó khu Sài Gòn - Gia Định. Tin biết "lý lịch" đó là do anh hỏi chuyện người con của anh Ba Kiên khi con anh cùng đi tìm hài cốt cha hy sinh 4.6.1970, quê anh ở Can Lộc tỉnh Hà Tĩnh.

Đó là ngày 30 tháng 7 năm 1993, con gái anh Ba Kiên từ ngoài quê vào. Họ đi gặp chị Thanh người con nuôi của anh Ba Kiên trong thời kỳ chiến tranh là y tá ở Củ Chi. Trước đây chị Thanh cùng ở quân y C5 với anh Bản, nhưng thời kỳ anh Ba Kiên hy sinh, Thanh đang đi học y sĩ nên không biết. Họ cố gắng tìm ra tất cả những ai có liên quan nhiều đến trường hợp của người anh hùng hy sinh đã hai mươi ba năm chưa tìm được mộ. Bản may mắn là người trực tiếp chăm sóc khi anh Ba Kiên bị thương vào đùi, hy sinh do mất máu quá nhiều.


Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 14 Tháng Bảy, 2012, 06:08:32 pm
Bác sĩ Tin nhớ lại trường hợp không giải thích nổi: "Ngày 30-7-1993 anh Bản hẹn mọi người tập trung trên đó. Như thường lệ tôi lái xe đưa anh lên Củ Chi. Lên đó chúng tôi thấy có khá đông đủ: Các cán bộ thương binh xã hội Củ Chi, bí thư, chủ tịch xã Phú Mỹ Hưng. Chúng tôi lái xe vào rừng. Hôm đó mưa, sình trên con đường mới nên anh em xuống đi bộ để tôi đánh xe không, đi theo con đường khác để vào rừng. Anh Bản đã vào tới nơi, gọi vọng ra cho tôi biết chỗ. Theo đó, tôi lái vào nơi cao ráo, để xe ở đó. Lúc này đến vườn bà Tám Neo, người chủ vườn điều nơi chôn anh Ba Kiên. Các anh lấy mốc là con suối nghe nói xưa chỉ là con rạch nhỏ. Mọi người bắt đầu nhìn quanh tìm kiếm. Nói là đi bốc hài cốt anh về, là do đã dày công xác định được chính xác khoảng vườn này, nhưng không phải đã biết đích xác ở chỗ nào trong vườn để đào. Ông chủ tịch xã khẳng định trước đây đã có đợt quy tập hài cốt liệt sĩ ở khu vực này, như vậy ông tin là có đào ở đây cũng sẽ không có vì đã đào hết rồi. Anh Bản nhất định không chịu. Nếu đã đào lên, nhất định phải có anh Ba Kiên, vì anh có lọ peniciline chôn theo. Vì sao đến nay vẫn chưa ai thấy anh ở nghĩa trang nào? Điều vô lý là nếu đã đào lên một người hai lần anh hùng (một thời chống Pháp, một lần anh hùng chống Mỹ) thì chẳng lẽ không ai biết sao?

Anh Bản không chịu, một mực đi tìm, xem xét. Anh đang trao đổi với chúng tôi, thì bà Tám Neo đi chợ về. Bà bảo: "Dưới còn không, không biết. Nhưng người gác vườn điều, và cả bà con đi chơi khuya về đều vẫn nghe như có tiếng hành quân rầm rập. Trước đây cũng có người đến đào sơ sơ rồi thôi, chưa lấy lên. Bây giờ nếu đúng là có anh em mình thì phải đào lên mà thờ cúng thôi, để thế sao đành?". Vườn điều đang xanh tốt, bà bảo nếu cần thì chặt phá bao nhiêu cũng được. Bà đã trải qua bao năm bám trụ ở mảnh đất này, biết giá trị của đất đai, nhưng giá trị của những chiến sĩ lớn lao hơn hết.

Tất cả chúng tôi đều cảm động và mừng rỡ. Tiếng hành quân rầm rập kia có không, chưa ai trả lời được. Nhưng có điều chắc chắn là những chuyện chiến đấu, hành quân của bộ đội dù cách đây mấy chục năm vẫn còn in đậm, còn dư âm trong trí tưởng tượng của bà con. Biêt đâu trong đêm thanh vắng đi qua đây, bà con vẫn còn nhớ lại nơi các anh đánh trận, nơi các anh nằm lại. Các anh vẫn còn trong tâm trí mọi người, cho dù đối với họ những niềm tin thiêng liêng vẫn mang vẻ lạ kỳ, bí ẩn.

Anh Bản đi một vòng nhìn ngó để xác định con rạch. Chúng tôi thậm chí không muốn cất tiếng nói to, khi thấy anh ra xa, cách chừng năm mươi mét thì nhắm mắt lại, cứ thế bước và đếm số bước chân, về hướng tay trái. Rồi anh bừng mở mắt, ngoắc tay cho tôi chạy tới.

Tôi nhảy xuống hố bụi tre, thấy ở phía bụi tre, nơi khá sâu, có dấu vết của nilon. "Đúng, có lẽ đây là phòng mổ của bọn tôi ngày xưa" - Bản nói. Các anh thường căng nilon trên trần để tránh mưa và bụi bậm rơi xuống phòng mổ. Nếu đúng thì đây chính là quân y C5 của mật khu Hố Bò. Bản đã nhớ ra, chính ở chỗ này, anh đã tiếp nhận anh Ba Kiên bị thương nặng đưa về.

Anh Bản chiếu từ chỗ phòng mổ của quân y, đi ngược trở lại, anh bảo khi chôn anh Ba Kiên, anh nhớ là đi về hướng mặt trời mọc. Và như vậy sẽ có một hàng mộ nữa gần đó.

Bác sĩ Tin nhắc lại: năm đó anh bốn mươi lăm tuôi, anh đã từng cấp cứu, tiếp xúc với bao bệnh nhân chết vì bệnh tật, không phải xa lạ gì. Nhưng trường hợp của anh Ba Kiên thì anh không sao giải thích nổi về mặt khoa học. Chị Thanh làm đúng theo phong tục bà con dân gian thường xin keo, lật đồng tiền sấp ngửa.


Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 14 Tháng Bảy, 2012, 10:12:14 pm
Chính mắt tôi nhìn chị xin keo, thắp hương xin xác định vị trí, nhưng xin ở chỗ đầu tiên, hai đồng sấp một đồng ngửa. Qua chỗ anh Bản chỉ, cả ba lần gieo, cả ba đồng tiền đều sấp. Lúc đó tôi cũng chưa nghĩ gì nhiều. mọi người đem nhang và đồ cúng ra cúng, không kịp làm hôm nay, cả đoàn hẹn ngày 7, tức là sau đó bốn ngày sẽ lên đào. Chị Thanh nói mời mọi người ra uống nước. Lúc ấy, mọi người nói với nhau, nhưng dường như nói với cả anh Ba Kiên. Bản nói to: “chúng tôi hứa là chúng tôi sẽ lên”. Tôi còn đùa: “Mọi người về đi, còn tôi ở lại đây giữ chỗ cho anh ấy”. Chị Thanh tưởng thật, nhìn quanh: “Ai vô đây mà phải giữ?” Uống nước xong, anh Bản dẫn anh em đi bộ ra trước, còn tôi lái xe băng ra bìa rừng. Và đây là điều tôi không bao giờ nghĩ tới. Trước khi đi bao giờ tôi cũng chuẩn bị xe cộ cẩn thận. Tôi lên xe nổ máy, sang số de, quay đầu ra, máy nổ ngon lành. Vậy mà khi lên ga, giống như có ai nhấc bổng đít xe lên, bánh vẫn quay tít. Trả số, tôi xuống xem xe có gì hư chăng. Thật ra kiểm tra vậy thôi chứ tôi biết mình đã chuẩn bị kỹ lắm. Tính tôi rất cẩn thận. Tôi cũng đã tốt nghiệp lái xe có bằng của trường kỹ thuật nhà nghề, đâu phải tay ngang? Thậm chí đi lái xe đón tiếp khách cùng anh Bản, có nhiều vị khách xuýt xoa” “gớm, Hội có anh lái xe cẩn thận quá” – Họ tưởng tôi là lái xe – “Không có đâu! Ông bác sĩ Viện phó Viện nay phó hội trưởng của tụi tôi đấy” – Anh Bản giải thích – Tôi nói thế để dẫn đến điều không giải thích được hôm đó: Xe không hư, máy nổ ngon lành, vị trí khô ráo bằng phẳng, mà xe cứ như bị ai nhấc lên, không sao chạy được. Sang số de, rồ máy, bánh xe quay tít tới năm phút không đi được. Mọi người chờ ngoài bìa rừng như đã sốt ruột. Làm lại tới lần thứ năm vẫn như vậy, người tôi vã hết mồ hôi, không phải do vất vả đùn đẩy gì, tôi chỉ ngồi xe nổ máy thôi, mà trong đời chưa bao giờ tôi nhiều mồ hôi như bữa đó, toàn thân còn lạnh toát. Tôi sực nhớ - Chết cha! Lúc nãy tôi đã nói với anh Ba kiên là tôi ở lại… tôi bèn xuống xe. Ngoài rừng đã có tiếng hú gọi của anh Bản: “Anh Tin ơi sao lâu thế, nghe máy nổ mãi không thấy ra?” Tôi xuống, lau mồ hôi, quay về phía mộ khấn xin anh cho tôi về. “Anh giữ em đâu có được đâu. Mai mốt em lên”.

Tôi lên xe, không đạp ga, vậy mà xe de một cái ngon lành. Anh Bản và mấy người chờ mãi tưởng tôi hư xe nên chạy vào xem có phải giúp đùn đẩy gì không. Sao lâu thế? Hay dính sình? Đất khô ran thế này, sình gì? Bộ nãy giờ đẩy xe sao mồ hôi dữ vậy? mặt mày xanh mét, áo ướt hết? Tôi không nói gì, bảo chờ tí xíu, đi bộ vô tới bên phần mộ anh Ba Kiên, nói thầm lời cảm ơn. Tôi nghĩ: ai bảo mấy ông Việt Cộng không thiêng? – Thấy nhánh tầm vông trên mộ anh, tôi cầm ra xe. Anh Bản vẫn không rõ chuyện gì kêu trời: Tưởng nhặt cái gì – tầm vông mọc thiếu gì… Lúc đó tôi mới kể lại – Tôi là bác sĩ, không phải người không biết gì về khoa học, nhưng vừa rồi tôi không giải thích được. Trưa đó giữa đường xe đang chạy yên lành, bỗng tôi dựng tóc gáy lên khi nhìn thấy chiếc xe ngược chiều cứ thế đâm thẳng vào tụi tôi. Trời ơi thằng lái xe nó ngủ thì phải! Chỉ còn chút xíu nữa… thì may sao nó tỉnh lại, xe xẹt qua rợn người. Thôi thì chuyện đó không có gì lạ cả. Thế còn câu chuyện tiếp sau đây thì sẽ giải thích ra sao.

Về đến thành phố, chúng tôi lại lao vào trăm ngàn việc thường ngày. Hôm ấy anh Bản bảo tôi lấy xe đi cùng chỗ anh xuống phường 16 xem xét cái nhà tình nghĩa, rồi tiện thể đưa anh thương binh nặng bị lao phổi, vào viện Phạm Ngọc Thạch.

Trên đường về phường 16, xe hư tới mười lần. Anh Bản càu nhàu: “Sao bảo quản xe dở quá vậy?”. Kỳ thật! Xe nổ máy rất êm, thế mà có lúc xe đến giữa ngã tư đông đúc thì ì ra. Vào đến nhà ông thương binh đã muộn, ông ấy đi mất tiêu. Hai anh em chúng tôi đánh xe về. Từ đường Hoàng Hoa Thám đến quận Hội đi chậm cũng chỉ mười phút, mà bữa đó chúng tôi đi cà giựt mất một tiếng. Anh Bản bảo tôi phải mang xe đi sửa. Tôi đem xe ra người thợ sửa xe tên là ông Năm Mập để xe đó rồi về quận Hội. Vừa ngồi được một lúc thì ông Năm Mập đánh xe lên trả, nói rằng đã kiểm tra kỹ lắm thấy không hư gì, cho nên ông không sửa mà đem tới trả.

Tôi báo cho anh Bản. Anh vẫn không nghi ngờ gì, đến khi ngồi vào bàn nhìn lên tờ lịch bàn, thấy cái khoanh đỏ chói khoanh tròn vào con số ngày tháng, Bản kêu lên: “anh Tin ơi chết rồi! Hôm nay là ngày mình hẹn lên mộ anh Ba Kiên”. Một lúc sau thì điện thoại Củ Chi réo về: “mọi người tể tựu đủ cả mà chưa thấy các anh lên”.

Bây giờ nếu ai có dịp ghé thăm Quận Hội Chữ thập đỏ Tân Bình, ghé phòng bác sĩ Tin sẽ thấy anh lập một bàn thờ đặc biệt không giống những bàn thờ ở các gia đình. Trên một nóc tủ cao, cành tầm vông đã khô có lá xanh leo lên. Anh lấy được quả đào tiên còn gọi quả trường sinh làm gốc. Bác sĩ Tin nói: “Tôi thờ anh Ba Kiên, cũng như một đền thờ tưởng niệm liệt sĩ. Nếu không có cành tầm vông tượng trưng cho người chiến sĩ đã hy sinh – nếu không có cành xương khô ấy thì lá xanh ngày nay không leo lên được”. Tôi là người công giáo. Cuộc đời tôi bình yên như tờ giấy trắng, trước giải phóng còn là sinh viên – Tôi không được trui rèn trong lò lửa Cách mạng. Nhưng tôi được đọc lại cuốn lịch sử sống của chiến tranh qua việc tham gia đi tìm hài cốt các anh”.


Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 15 Tháng Bảy, 2012, 10:28:54 am
19.

Sau khi tìm ra được hài cốt liệt sĩ Nguyễn Văn Chử sinh năm 1943, trung đội trưởng cùng D2 E268 của Bản, hy sinh tháng 6 – 1969 tại Củ Chi, Hội chữ thập đỏ Quận Tân Bình gửi lá thư  báo tin cho gia đình liệt sĩ. Việc này đã thành nề nếp; rất nhiều thư gửi đi và rất nhiều thư gửi về cảm ơn. Nhưng lá thư của anh Nguyễn Văn Hồng, con trai liệt sĩ Chử gửi đi từ xã Đại Thắng, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng khiến cho bao người giật mình thương cảm.

“Kính gửi Hội Chữ Thập đỏ quận Tân Bình TP Hồ Chí Minh và bác sĩ Trần Văn Bản… Cháu đã nhận được thư của Hội gửi về cho gia đình cháu. Cháu xin nói để Hội và các bác biết là gia đình cháu khổ lắm, nhất là mẹ cháu, ra đường không dám nhìn ai. Hai anh em cháu phải thôi học sớm vì không chịu nổi những lời khinh bỉ của bạn bè. Ở quê cháu người ta đồn rằng bố cháu không phải liệt sĩ mà đào ngũ bỏ đơn vị trốn sang Campuchia lấy vợ. Mẹ cháu khổ quá vì nghe tin đồn, liền ra xã đề nghị chính thức xác nhận và điều tra tin này nhưng cũng không ai có cách gì thẩm tra được…”

Vậy là bao nhiêu năm, khi anh Chử còn nằm dưới gốc tre bên bờ đường xe bò qua lại ở xã An Phú Củ Chi, thì vợ con anh ở quê không chỉ đau nỗi đau mất người mà còn nhục nhã là gia đình của kẻ đào ngũ bỏ đơn vị. Còn biết bao gia đình như thế trên đất nước này, do việc không kiếm được hài cốt, vẫn đang ở dạng mất tích, trong khi các anh chính là liệt sĩ đang nằm đâu đó chưa tìm ra! Lá thư của con anh Chử còn cho biết gia đình ở nông thôn hiện nay quá nghèo nên chưa thể vào thăm mộ cha được

Bác sĩ Bản và Hội Chữ Thập đỏ Tân Bình đã trích quỹ từ thiện, gửi tiền tầu xe ra cho gia đình liệt sĩ – Hai người con liệt sĩ Nguyễn Văn Chử đã vào đến Củ Chi . Do Bản đã xin phép sở Lao Động Thương binh xã hội thành phố và phòng Lao Động Thương binh xã hội Củ Chi, nên hai người con trai đã được đem hài cốt của cha về an táng tại quê nhà.

Ngày 2-5-1994 Bản cùng hai người con trai đem hài cốt liệt sĩ Chử, lên tàu Bắc Nam để về quê. Bản nhớ lại: “Đến xã nhà, chúng tôi ôm bộ hài cốt đi bộ giữa trời nắng gắt của mùa hè miền Bắc. Tôi được cháu Hồng chỉ cho một ngõ nhỏ và bước vào nhà.” Bao nhiêu xúc cảm trong lòng: cùng với anh Chử đi B vào Nam, chiến đấu ở chiến trường, vậy mà bây giờ anh sắp bước vào ngôi nhà bao nhiêu năm người liệt sĩ vẫn mong ước trở về.

Bản nhớ khi anh cùng các đồng đội còn sống, về Củ Chi hỏi tìm. Cả anh Ca, anh Láp và Bản biết anh Chử hy sinh trong trận đánh ở đây. Về xã hỏi một số du kích xưa như anh Ba, anh Sáu Cù, được biết vẻn vẹn tin tức sau: “Hồi đó đúng đơn vị các anh có xuống đây, sau trận đánh, bà con nói có chôn một số liệt sĩ phía bụi tre gần con đường mòn nhỏ”.
Các anh đào, tìm thấy các hài cốt đều có lọ peniciline. Những người chôn cất, những đồng đội liệm gói anh, bỏ những dòng chữ tên tuổi quê quán này vào lọ peniciline cho anh – những người đó cũng đã hy sinh hết rồi…

Bây giờ anh và Chử  sắp bước vào ngôi nhà, sắp sửa gặp lại người vợ đã bao năm chịu đau thương oan trái.
Mặc dù đã biết trước do Hồng điện về trước lúc lên tàu, chị Chử vẫn đứng khựng lại nhìn Bản, người đàn ông lạ mặt bước vào. Chị nhìn nhớn nhác không rõ trong số ba người này (ông khách và hai con chị) ai là người đang mang chồng chị trên tay. Bản nói trước: anh chính là người đã viết thư cho chị.

Bản nói với bà con lúc đó đứng chật ba gian nhà, đầy cả trước sân, lời chia buồn của Quận Hội Tân Bình và anh em cùng tiểu đoàn còn sống ở TP.HCM. Anh nhận thiếu sót là cho đến nay sau gần ba mươi năm  anh Chử hy sinh anh dũng tại chiến trường Củ Chi, mới tìm được để đưa về quê nhà. Khi Bản nói: “Tôi xin trao lại anh Chử cho chị và gia đình cùng bà con trong họ mạc”, và mở túi đưa chiếc hộp trong đựng hài cốt được gói cẩn thận, đặt lên bàn thờ, thì những tiếng gào khóc cất lên. “Anh ơi, em chịu đựng cực khổ để nuôi con những mong hòa bình anh trở lại. Nhưng sao anh không về. Mẹ con em chờ anh hết nước mắt, anh có biết không anh…” “Bố ơi sao bây giờ bố mới về…”…


Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 15 Tháng Bảy, 2012, 12:07:03 pm
Những tiếng khóc ấy đã phải nén lại gần ba mươi năm, hôm nay mới bật ra… Bản càng thấu hiểu nỗi đau thương của sự mất mát này sẽ không bao giờ cũ. Anh đứng lặng yên, giữ đôi vai gầy ướt đẫm mồ hôi, run bần bật của người vợ khóc chồng, hai hàng nước mắt anh chảy dài trong yên lặng. Khi đoàn đại diện của Huyện ủy, Ủy ban, Thương binh xã hội, Mặt trận Tổ quốc của Huyện và xã đến thăm viếng, mọi người lại cùng nghe câu chuyện về liệt sĩ Chử do Bản kể lại. Địa phương đã bàn, lên kế hoạch tổ chức lễ truy điệu và giải oan cho liệt sĩ và gia đình.

Cũng một người liệt sĩ khác, Nguyễn Xuân Đích, quê ở Tiên Cường, Tiên Lãng, Hải Phòng – được các anh tìm thấy trong đợt tổ chức đi tìm kiếm, Bản viết thư về báo cho xã. Ít lâu sau, Bản nhận được lá thư chữ viết rất nguệch ngoạc của một người ít được học hành. Lá thư của người con trai liệt sĩ. Ngoài những lời xúc động cảm ơn như hầu hết các lá thư gửi lại cho anh, là lời lẽ vội vàng, vắn tắt không có giải thích về điều kiện hiện nay. Con trai liệt sĩ báo tin là hiện nay không thể vào thăm mộ cha được, vì điều kiện khó khăn, nhà cửa không có phải ở trong chiếc lô cốt của Pháp xây từ hồi kháng chiến chống Pháp ven đê. Thư viết đơn giản: “Bao giờ có điều kiện cháu sẽ vào thăm mộ cha”. Sao lại có lô cốt ở đâu đó nhỉ? Bản nhớ lại đường về quê anh xem ở chỗ nào có chiếc lô cốt ấy? Hình như ở phía tay trái, gần bến đò Quý Cao?

Bản viết ngay lá thư trả lời. Anh trích quỹ Hội gửi tiền tàu ra cho Thực. Bản lấy làm lạ cho hoàn cảnh con em một gia đình liệt sĩ, anh đề nghị báo Thanh Niên có bộ phận thường trú tại Hải Phòng xác minh giùm hộ trường hợp này. Báo Thanh Niên đã trả lời là đúng có chuyện như vậy, nhưng Bản thực không muốn báo đăng lên câu chuyện thương tâm quá như vậy.

Khi thực có tiền nhận được, lấy vé lên tàu vào Nam, Bản dẫn cháu lên thăm mộ bố nó. Anh còn lân la tìm hiểu xem có phải nó quậy phá hoặc có khuyết điểm gì nên địa phương không cho ở!. Thực thề danh dự là không gây chuyện gì xấu, kể hoàn cảnh của mình: Năm 1968 khi còn nhỏ, hai mẹ con ở cùng bà nội thì nhận báo tử của bố. Mẹ đi lấy chồng. Thực ở với bà nội. Bà bị ho lao, đau ốm suốt nên bao nhiêu tiền tiêu hết cho thuốc thang. Bệnh bà không qua được, nhà cửa ruộng vườn đã gán hết. Thực không nơi nương tựa, phải về ở với mẹ và dượng.

Tuy người thanh niên không kể chuyện gì cụ thể, nhưng Bản vốn sinh ra lớn lên ở nông thôn, đi B chiến đấu cũng sống cùng nhân dân, anh hiểu nhiều số phận – Nghe thế cũng biết là đời một chú bé cha đi chiến đấu hy sinh, mẹ lấy chồng, bà chết bệnh tật, mất hết nhà cửa… làm sao có thể bình thường được, nói chi đến sung sướng! Lớn lên Thực đi công nhân quốc phòng ba năm ở Quảng Ninh, rồi lo đất lo nhà để cưới vợ. Xã cấp cho chỗ đất mà nếu đổ đất xây được nhà ở cũng rất nhiều tiền, thế là Thực đành ra lô cốt, che mái để sinh sống. Bản viết công văn về địa phương đề nghị giúp đỡ và anh còn vận động  xin tiền quyên góp được một triệu bảy trăm ngàn đồng gửi về cho Thực. Năm 1995 anh về thấy xã đã cấp đất và vận động bà con giúp xây tạm một căn nhà cho Thực.

Trên báo chí, cũng như qua chính mắt thấy, Bản biết còn bao nhiêu bà mẹ già, vợ con gia đình liệt sĩ còn sống vô cùng vất vả. Các phong trào và sự quan tâm của xã hội đã tiến bộ rất nhiều, nhưng anh biết, khó khăn của họ trong đời sống hàng ngày vẫn còn chồng chất.


Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 16 Tháng Bảy, 2012, 06:15:17 pm
20.

Vào khoảng năm 1979-1980 (anh nhớ cũng không thật chính xác) một ngày bác sĩ Bản cùng các đội viên xung kích nhân dịp đi tìm dấu vết của các liệt sĩ hi sinh, đã rẽ vào viếng nghĩa trang Củ Chi.

Lang thang giữa các hàng bia mộ, bỗng Bản sững sốt. Tên tuổi quê quán liệt sĩ là “Trần Văn Bản sinh 1944… hi sinh 6-1968”… Ủa. Sao lại là mộ của mình thế này? Anh suy nghĩ chốc lát, tự giải thích được ngay: Không hề vô lý…

Đó là vào tháng 6-1968, đơn vị anh được lệnh đi chiến đấu đánh bốt Phú Hòa Đông ở Củ Chi. Anh nhớ đó là vào 7-5 âm lịch, trận đánh cực kỳ ác liệt do kế hoạch bị lộ, địch tăng cường và chuẩn bị lực lượng. Anh được giao đánh bộc phá khối. Mãi tận khi tiếp cận hàng rào thép gai bốt địch, anh mới biết kế hoạch bị lộ nhưng không thể lui được nữa – Đơn vị quyết tâm chiến đấu trong tình thế khó khăn. Địch đã đề phòng và di chuyển chỗ của các ổ đề kháng. Các anh biết chắc là nếu địch có sự chuẩn bị, nghĩa là sẽ có dội pháo, do vậy càng không thể lùi ra: sẽ rơi ngay vào trọng điểm của pháo dội. Vì vậy đơn vị quyết tâm cứ tiến lên. Đây là một bốt khá kiên cố. Ngoài có bốt tiền tiêu, có hào bao bọc xung quanh. Bộ đội chọn đường vào là mở đường ngay hàng rào kẽm gai dầy tới một mét đan chéo. Hết rào phía ngoài, đến hào, rồi lại rào. Ngay cả mái nhà cũng có rào. Hàng rào kẽm gai bùng nhùng không thể nào chui được. Bình thường trong trường hợp thế này khi “mở cửa” phải dung bộc phá sào đánh thành một đường khá dài. Nhưng ngay khi bộc phá nổ, chiến sĩ ta hi sinh. Phải dung mìn định hướng để phá rào. Bản nhớ năm đó anh được giao đánh vào lô cốt chính, không phải chiếc lô cốt đầu cầu. Lô cốt chính có vị trí khá kiên cố: nó chìm một nửa dưới hào, và có nhiều lỗ châu mai bắn từ trong ra. Khi mở được đường qua rào, Bản nhớ hình như là chiến sĩ tên Chư mang 5kg bộc phá đánh bốt đầu cầu, nhưng bị thương. Anh Toản, chính trị viên đại đội chỉ huy lệnh cho Bản chạy lên lấy bộc phá của Chư để đánh tiếp. Bộc phá mỗi miếng khoảng hai lạng gói sẵn, có một kíp chính, phải làm sao áp vào lô cốt. Lúc giật, phải chú ý đúng chiều thì sức công phá mới mạnh. Bản đánh bay, mở một khoảng lớn, rồi bò vào trong lúc hai trung liên yểm trợ và lửa đỏ ở trên đầu. Anh cảm thấy người choáng váng vì sức ép. Anh bò ra chỗ hàng rào nhận thêm bộc phá để tiến sâu vào trong mở đường tiếp. Phải cần có nhiều thời gian để chạy ra sau khi đã điểm hỏa, bởi vì phải bò qua nhiều hào, mất tới mười mấy phút. Anh tra kíp vào dây cháy chậm thấy mềm bóp thử thấy thuốc rơi ra hết chỉ còn vỏ bọc, liền cởi thắt lưng ráp thêm ba quả lựu đạn vào sát cái kíp. Như vậy anh đã chọn phương án đánh quyết tử: lựu đạn sẽ nổ rất nhanh, khó lòng mà chạy kịp. Vừa mới hô cho an hem tránh và giật cho nổ, Bản chỉ kịp nhìn thấy toàn bộ xung quanh anh là lửa trùm lên. Anh cũng không nghe được tiếng nô, và không còn biết gì nữa. Bây giờ ngồi nhớ lại, anh cũng chỉ thấy hình ảnh duy nhất là mình lom khom chạy giữa một biển lửa. Không biết nằm thế bao lâu, mở mắt thì trời đã sáng rất lâu rồi, phải vào khoảng tám giờ. Như vậy anh nằm đây từ mười một giờ đêm hôm qua. Đây là đâu? Không sao biết được vì xung quanh anh toàn dây thép gai và cỏ Mỹ cao ngút. Bản thấy khó thở, rờ lên tai thấy máu ra. Mũi miệng cũng ộc máu. Chiếc mũ tai bèo giờ chỉ còn là một vành tròn ở cổ. Băng đạn không còn. Khẩu AK bên người đã chạy hoặc long rồi rớt đâu hết, còn mỗi khung sắt cong veo. Dây đeo không đứt. Quần áo rách tua ra hết. Hai sợi kẽm gai thòng vướng như chit lấy cổ. Bản tỉnh dần và mừng rỡ thấy mình không hề bị gãy xương. Nhưng đây là đâu? Bỗng anh nghe tiếng người nói – Tiếng chửi thề. “Đã chuẩn bị trước vậy mà vẫn còn bị” “Tụi Việt Cộng này có kinh nghiệm rồi”… “Xác lính Bắc Kỳ chết đây, cho tụi đào binh mang về Ấp chiến lược…” Ra là anh vẫn nằm đâu đó trong bốt, còn bọn địch thì đang thu dọn. Bản khẽ kéo kẽm gai xiết nơi cổ, tìm cách bò ra. Khẩu súng và chiếc mũ tai bèo không còn hình thù, Bản cởi ra vứt đó và cố lết ra xa nơi có tiếng người. Được một lát, anh đến bên một cái giếng cạn đã bỏ từ lâu, chỉ sâu độ hai mét. Nhảy xuống giếng, nằm im một lúc thấy đã yên ắng, anh lại nghĩ cần phải đi sớm, không nên nằm lâu vì dù sao đó cũng là bốt địch, và chúng có thể đổ quân đến bất kỳ lúc nào. May sao, chúng không dội bom pháo như những trận các anh đánh đồn. Như vậy cũng có thể là chúng còn lực lượng ở đây. Phải bò ra được để xác định phương hướng.

Bản loay hoay trèo lên. Lúc này anh thật sự lo lắng vì một điều không lường được từ trước. Cái giếng nở hậu, trên bé dưới rộng dần, không thể bám vào đâu, nhảy xuống thì dễ, mà lên không được, nhất là người anh còn mệt và sáng nay không ăn uống gì. Anh nằm yên dưới giếng nghĩ cách. Nhìn lên cao, thấy ánh nắng chiếu vát qua miệng giếng và bóng cây, Bản đoán đã phải ngả chiều rồi. Anh vẫn không sao lên được. Lại có tiếng người. Lần này là tiếng phụ nữ. Khi nghe câu chuyện họ nói, anh biết là dân. “Đêm qua đánh lớn ở đây”. “Xem kĩ xem còn thương binh không, đem người ta ra…”. Vậy không phải dân bình thường, mà là dân các vùng quân ta vẫn xuống mỗi khi mở trận. Bản mừng rỡ bám lấy mấy cây cỏ Mỹ khua khua cho thành một đám lay động trên miệng giếng. Hai người chạy đến nhòm xuống, kêu lên một tiếng rồi bỏ chạy. Thôi phen này chết rồi. Nếu địch đến kéo lên thì sẽ dung võ đánh thật lực mà bỏ chạy – Lính miền Bắc cất tiếng nói là nó biết liền. Anh ngồi im, sờ lại các vết thương, chuẩn bị chờ đợi. Nhưng đây là vận may nhất của đời anh. Khoảng xâm xẩm chiều, có một ông già tới. Ông đưa cây xuống cho Bản bám leo lên. “Chú ở đơn vị nào?”. “Vâng, ở đơn vị chiến đấu bị thương” – Anh trả lời theo nguyên tắc không nói đơn vị, vì chưa biết sẽ phải gặp những gì tiếp theo, anh không được nói tên đơn vị. Nhưng ông già bảo: “Có phải ở K2 của 268 không?” – Bản vẫn chỉ dạ thưa chung chung. “Nếu có máy bay, chú phải theo sát tôi” – Ông già nói, rồi dẫn anh ra đường lộ 15 để xuống bưng của bờ song Sài Gòn. “Cứ nằm đây, tối nay sẽ có ghe đến đón qua sông. Chú có ăn gì không?”. Bản nói anh chỉ khát, và nhào ngay xuống uống ừng ực nước dưới ruộng. Ông già đi rồi, Bản tìm ruộng cỏ phía xa để nằm nghĩ. Anh không nằm dưới bụi tre vì biết Cá rô rất hay rình các bụi tre để thả trái xuống.

Suốt buổi tối chờ, không có chiếc ghe nào tới, chỉ có hai tàu Mỹ đi lên để sáng mai về. Chắc vì thế mà xuồng mình không đến được. Suốt đêm Bản nằm trong cỏ. Bên kia sông là vùng của quân ta đóng. Nhìn qua đồng, những chiếc L.19 (đầm già) quần đảo, bắn pháo màu chỉ vị trí cho bốn chiếc phản lực bắn dữ dội phía bên kia bờ sông. Bản thấy rõ cả đồ đạc bắn tung lên cao. Anh định đợi cho nó ném xong hai đợt, sẽ bơi sang.

Vừa đói mệt, vừa bị thương, Bản bám vào đám lục bình, bơi sang sông. Ra đến giữa sông thì lù lù chiếc đầm già L.19 tới, hình như nó đến quan sát trận địa sau khi dập hỏa lực. Nó phát hiện, kêu hỏa lực đánh bom. “Nhưng trong cái rủi có cái may”. Bây giờ nếu có dịp kể lại, Bản vẫn nói rằng nhờ nó đánh bom mà anh sống. Nếu không có bom thì chắc chắn anh đã chết mất xác trên sông Sài Gòn. “Hình như bom nổ sát bờ, dìm hẳn tôi xuống tận lớp sình bùn, rồi lại đẩy lên cao. Cảm giác như có cái gì to lớn thoi vào bụng, không biết là ruột đã ra chưa”. Nhưng may là chính bom đã cuộn thành con sóng với bước tiến khổng lồ, đẩy anh tới bờ thật nhanh. Trái thứ hai là Bản tới bờ. Thấy lúp xúp cây, Bản bò lết vào, đến thẳng chỗ địch vừa đánh phá. Theo kinh nghiệm chiến đấu, nơi nào địch tập trung hỏa lực như vậy là có lực lượng của ta. Sau mỗi trận như vậy thế nào cũng có cứu thương. Bản nhìn thấy anh thanh niên. “Anh ơi!” Chỉ kêu lên được tiếng thế rồi Bản ngã xuống ruộng. “Anh ở đâu ra thế này, nhanh nhanh lên”. Người thanh niên vội vã xốc Bản xuống một cái xuồng ở con suối, đã có bốn, năm người bị thương trong đó. Chiếc xuồng nhanh chóng chèo đi, đến chỗ có bụi rậm liền tấp vào đó băng bó tạm. Sau này Bản mới biết ở chân mình có một lỗ thủng, có con đĩa no căng dính chặt, đến khi rút được nó ra rồi mới chảy máu. Buổi chiều họ tiếp tục cho thuyền men theo sông lớn, cặp bờ. Lúc bò lên, Bản mới thấy toàn thân đau đớn không thể tả. Mà còn phải bò qua cả một cái bãi rộng đất sỏi, vào rừng cao su. Anh đã đến được địa điểm của quân y C10. Đến khi khỏi hẳn, anh tạm được thu nhận vào tiếp tục chiến đấu ở đơn vị mới.

Vậy là đơn vị anh không ai biết Bản còn sống sót. Lẽ ra ngày 5-5 trước trận đánh này, đơn vị kết nạp anh vào Đảng – “Nhưng ông Toản nói để hoàn thành trận đánh này sẽ làm lễ ngay tại trận cho thật đặc biệt” – Không ngờ sau khi quân rút, không ai thấy Bản đâu nữa. Anh Chư và Biển, hai tay trung liên yểm hộ lúc Bản bò vào, tin là anh đã chết. “Thấy người cậu ấy tung lên trong lửa, không rõ xác văng vào đâu” – “Phải kiếm xác, đưa nó ra” – Anh Toản và các đội viên cho tổ trinh sát đi tìm nhưng không thấ. Tối thứ hai, họ mò vào được đúng chỗ Bản nằm, nơi anh tỉnh dậy tháo cái vòng mũ tai bèo và khẩu súng vứt lại. Như vậy chắc chắn là Bản rồi, số hiệu ở khẩu súng là một đảm bảo chắc chắn. Nhưng xác anh đâu?

Đơn vị vào nhà dân gần ấp chiến lược hỏi thăm thì được biết sau trận đánh, địch gom được một số xác chiến sĩ ta, lấy một xác cắt đầu, bêu ở ngã ba, kêu dân ra xem. Khi giặc đi khỏi, có một nhà dân gần đấy đã nhặt xác và đầu chiến sĩ đem chon cất rồi. Trinh sát bò hẳn vào Ấp chiến lược hỏi đích xác người đã chôn cất. Ông cho biết là có rất nhiều xác chiến sĩ ta bị giặc ném xuống giếng.

Đơn vị đã làm lễ kết nạp Đảng cho anh, treo vành mũ và khẩu súng trong lễ kết nạp. Tháng 8-1969 thì báo tử về quê anh ở miền Bắc.

Tháng 9-1969 tại quê anh xã Hùng Tiến, Vĩnh Bảo, Hải Phòng đã diễn ra lễ truy điệu tại gia đình. Sau này anh được nghe kể lại, người ta đưa tiền tuất liệt sĩ, mẹ anh không chịu nhận. Bà cụ bảo: Tôi chỉ có mình nó là con trai – Nó chết rồi thì thôi, tôi không lấy tiền làm gì cả” – Bà cụ lập bàn thờ, phóng ảnh và cúng giỗ cho con.

Chính vì vậy mà ở nghĩa trang liệt sĩ Củ Chi có nấm mộ của anh. Ai nằm bên dưới mộ đó? Bây giờ không ai biết được. Vậy là ở phía cổng nghĩa trang đi vào, phía tay phải, hàng thứ mười một, ngôi thứ ba, ngôi mộ mang tên anh đó, bên dưới là một chiến sĩ vô danh. Lần nào có dịp ghé qua, Bản vẫn cùng đội viên của anh thắp hương cho người nằm dưới. Anh vẫn thường chỉ cho các đội viên trẻ tuổi: “Mộ chú đây này!” – Trên báo Sài Gòn giải phóng có bài “Câu chuyện ngôi mộ của tôi” chính là chuyện kể lại sự trùng hợp thật kỳ lạ trong cuộc đời người chiến sĩ Trần Văn Bản.


Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 16 Tháng Bảy, 2012, 06:17:39 pm
21.
Sau giải phóng, tháng 12-1975 Bản về làng, không một tin báo trước. Bốn giờ chiều anh tới đầu thôn, lòng lặng đi khôn tả. Làng anh khác đi nhiều. Người ta đào đường, đào kênh. Cây cối xanh rậm rì, nhưng Bản vẫn nhận ra ngõ nhỏ rẽ vào nhà anh Nhung hàng xóm. Hồi nhỏ Bản hay vào đây chơi, anh Nhung thường gọi ông cụ anh bằng bố. Bố anh đã chết từ năm 1958. Khát nước quá, Bản rẽ vào nhà anh Nhung, vừa là xin nước uống, vừa muốn nhanh chóng gặp người làng để biết tin tức… Không ngờ vừa nhìn thấy, anh Nhung kêu ầm lên: “Trời ơi, thằng Bản con sống nó về”…

Chẳng mấy phút, từ nhà anh Nhung đã hình thành một đoàn người đưa Bản về nhà. Hai người em Bản chạy ra, cả em gái lẫn em rễ, kêu khóc ầm lên. Người mà anh hồi hộp mong thấy – mẹ anh – lại đi vắng. Mẹ ra thôn gần đó thăm con gái. Em rể Bản phóng ngay đi tìm mẹ về. Sau này Bản biết được là mẹ nghe tin, chết sững người nhưng không tin là thật. Con đường đắp to bằng phẳng, xe chạy được mà mẹ anh ríu chân, không bước nổi. Mẹ anh đã 64 tuổi rồi, chắc đã héo hắt đi bao năm trước bàn thời chồng, con. Người con rể phải cõng mẹ chạy về trên đường làng.

Căn nhà chật ních những người. Họ tránh ra cho bà cụ vào. “Mẹ ơi, con về!” – Nghe Bản cất tiếng, bà như muốn ngất đi – Mặc cho tiếng chào hỏi khóc cười của hàng xóm, suốt từ lúc đó đến đêm, mẹ không nói được lời nào. Bản hoảng quá, cố săn đón hỏi han, nhưng mẹ không trả lời. Mọi người dỗ dành, bà vẫn im lặng. Các em anh lo nấu nước, Bản thì ngồi tiếp dân làng, mẹ anh vẫn lặng lẽ.

Khi hàng xóm đã về hết, Bản lại nói: “Mẹ ơi con là Bản thật đây, con về…” nhưng mẹ anh lẳng lặng đi nằm. Là bác sĩ, Bản rất lo. Anh biết khi con người bị sốc, có người đã câm luôn. Không biết làm sao cho mẹ nói được. Cụ khóc cũng không được – Chưa hề khóc từ lúc thấy con. Đến đêm Bản nằm cái chõng nhà ngoài, không sao ngủ được. Mẹ ở buồng trong vẫn lặng im. Nửa tiếng sau, thấy mẹ đốt đèn bước ra, anh vội nhắm mắt giả vờ đang ngủ. Mẹ cầm cây đèn dầu, đến bên con, sờ hết đầu mình chân tay anh, lại cầm đèn đi vào. Hết một lúc, bà lại ra soi. Cứ như vậy đến lần thứ ba thì mẹ đốt đèn ra ngõ, đóng cổng, vào bếp, vào nhà. Vậy là sao? Không lẽ cụ bị sốc tới mức không còn biết gì nữa? Bản vừa nằm xuống thì mẹ vào thắp ba nén nhang cắm lên bàn thờ chồng. Nghe tiếng mẹ lầm rầm khấn vái, Bản mới đỡ sợ. Vậy là cụ không bị câm. Thấy Bản ngồi dậy ở chõng, mẹ đến bên để đèn xuống, lại rờ khắp người con, lúc này mới nói trong tiếng nức cố nén kiềm. Mẹ vẫn dùng lỗi xưng hô ngày xưa khi anh còn nhỏ:

“Tao cứ tưởng mày hiện hồn về…”. “Không hồn hung gì đâu. Con thật đây”. Mẹ mới kể cho con nghe ngày báo tin tử mẹ đã ngất đi như thế nào. Bà đã làm tất cả những gì có thể: đi xem bói, đi cúng các chùa chiền, tham gia Hội mẹ chiến sĩ, đi tìm khắp các khu thương binh điều trị… Đã hoàn toàn hết hi vọng, thì con về.

Có phải chính vì nghe kể lại câu chuyện này mà sau khi gặp Bản ở cuộc đào hài cốt ở Củ Chi, khi trở ra Bắc, các nhà báo Nhật đã tìm về tận làng quê, đến nhà Bản để chụp ảnh và phỏng vấn người mẹ chịu bao thương đau ấy?


Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 16 Tháng Bảy, 2012, 06:19:47 pm
22.

Cũng như mọi lần, hôm nay Bản lại đưa các đội viên Chữ thập đỏ của anh lên Củ Chi. Đó là sáng 12-4-1996. Hôm nay họ sẽ lấy hai hài cốt mà Bản đã xác định được tại ấp Thái Mỹ xã Phước Thạnh. Chương trình cần mười người, còn lại họ sẽ chia thêm một nhóm đi di dời hài cốt liệt sĩ Huỳnh Văn Trọi sinh năm 1920, quê ở Tân Sơn Nhì – Gia Định, hi sinh 1943, hiện chôn tại phường 17 để đưa về nghĩa trang thành phố. Khi Bản lấy tinh thần xung phong (anh thường yêu cầu xung phong tự nguyện) thì cả mười bốn người đều muốn theo đoàn lên Củ Chi. Họ đi từ sáu giờ sáng trên bảy chiếc xe Honda, đi đầu là xe bác sĩ Bản chở anh Đoàn Mười. Anh Mười là một đội viên xung kích tích cực, là thương binh chiến đấu ở chiến trường Campuchia, thường xuyên tham gia các chuyến đi. “Tôi cũng có một người anh trai hi sinh chưa tìm thấy xác. Tôi cố gắng đi cùng các hội viên để qui tập hài cốt liệt sĩ. Biết đâu trong những chuyến đi đó tôi lại tìm thấy anh tôi”.

Mỗi xe họ đi hai người, với lá cờ chữ thập đỏ giương cao. Chiếc Bonus của Bản và anh Mười đang đi với tốc độ nhanh, khi tới gần thị trấn Củ Chi thì một chiếc xe đò chở khách Tây Ninh – Sài Gòn từ phía đường bên trái bỗng chuệnh choạng lao nhanh sang bên phải. Bản lách vội vào lề, nhưng chiếc xe đò đã đánh vào tay lái, đánh đuôi xe quay ra bung đèn xi nhan, chiếc xe lộn xuống vệ đường và chỉ dừng lại khi đâm sầm vào gốc mít, cách nhà dân chừng ba mươi mét! Bản và anh Mười bị quẳng xuống hàng dâm bụt. Dân hai bên đường xô xa. Nhất định phải có người chết vì sự va quệt quá mạnh. Người lái xe đò cũng tin rằng có người chết, nên đã bỏ chạy. Người phóng viên nhiếp ảnh Nhật của hang NDN được phép đi theo chụp ảnh, ngồi trên ô tô thấy thế, cũng gần ngất xỉu. Công an Củ Chi đến hiện trường. “Nghe điện thoại báo chỗ xảy ra tai nạn bọn tôi biết thế nào cũng chết. Vậy mà không tưởng tượng nổi hai ông còn sống. Mấy ông liệt sĩ đỡ cho các ông đó”. “Cái mạng các ông lớn quá” – Không đội mũ bảo hiểm, chỉ đội mũ Chữ thập đỏ, lăn đi mấy vòng cả xa cả người, vào trung tâm cấp cứu, anh Mười máu me đầy người, ai cũng tưởng gặp nguy. Dân túa ra giữ chiếc xe đò lại.

Bệnh viện Củ Chi băng bó vết thương, kiểm tra X-quang. May mắn là họ không hề bị gãy xương hoặc chấn thương sọ não. Xe cấp cứu của Tân Bình cũng vừa lên tới. Tuy vết thương ở mông, bàn chân còn đau nhiều, nhưng Bản vẫn đề nghị được ra phòng Cảnh sát giao thông làm biên bản và xin cho chiếc xe đò được tiếp tục chở khách. Bản muốn giải quyết nhanh, vì lúc đó đã hơn mười giờ trưa.

Trong đoàn xe cấp cứu ở Tân Bình lên có cả vợ của bác sĩ Bản vì chị cũng làm việc trong ngành y, lên theo để chăm sóc và đón chồng về. Tất cả đoàn đếu ngao ngán trước việc đi không thành: Bản là trưởng đoàn, hơn nữa anh lại là người biết rõ công việc sắp tới. Vì vậy mà tất cả đều ngạc nhiên thấy Bản “bàn giao” cho vợ đem anh Mười về chăm sóc, mọi chi phí Quận Hội sẽ thanh toán sau. Còn anh? Phải đi tiếp thôi. Lần trước khi đi khảo sát, anh đã hứa sẽ lên bốc. Bây giờ cả đoàn lên tới, chỉ vì anh bị tai nạn mà cuộc đi phải bỏ sao? Cứ đi. Mình đi, an hem sẽ ổn định tinh thần. Số anh em đi làm hôm nay hoàn toàn do xung phong tình nguyện, không có tiền bồi dưỡng. Họ lấy xe nhà đi làm việc nghĩa. Phải cố gắng lên. Bản tự nhủ.

Người phóng viên Nhật; anh Kazuma Momoi của hãng NDN đi trên ô tô phía sau, nhìn thấy toàn bộ tai nạn xảy ra. Anh đã ngất đi khi nhìn người ta khiêng hai người đầy máu me. Ngạc nhiên hơn cả là chiếc xe đò kia được Bản yêu cầu tha cho tiếp tục chở khách. Người phóng viên hỏi xem xe đò bị phạt bao nhiêu – Anh ta lại ngạc nhiên hơn khi biết số tiền phạt tương đương năm mươi đô la. “Ở Nhật mà gây tai nạn như vậy là mất nghiệp luôn”. Bản giải thích: “Anh biết đấy, Việt Nam còn nghèo lắm. Khi Công an quyết định phạt số tiền mà theo anh là ít đó – thì người lái xe cũng đâu có đủ để nộp? Họ phải vay của Công an Củ Chi ba tram ngàn mới chung đủ đó thôi. Thế là cũng khốn khổ lắm rồi. Tha cho họ đi làm ăn, vì mình tuy bị thương mà không chết người”. Người Nhật bèn hỏi:

- Có phải hôm nay vì có tôi đi theo nên ông phải cố gắng đi tiếp để giúp tôi hoàn thành công việc không?

- Không. Anh có đi hay không, tôi vẫn đi – Chúng tôi đã khấn bữa trước với liệt sĩ. Và anh em trong toàn đội đã sẵn sang. Có cả các cô gái nữa, họ cũng không nản lòng. Nếu tôi lên xe cấp cứu về thành phố, an hem sẽ mất tinh thần.

Rồi Bản quay ra hỏi hai đội viên nữ là Sương và Hằng: “Xe tôi còn đi được không? Cong hết chân đạp rồi”.

Đó là một trong những chuyến đi gian khổ của họ. Vài ngày sau, nhà báo Ban-dô có dịp đến thành phố, đã xuống Quận Hội Tân Bình tìm bác sĩ Bản. Ông muốn tặng một ít hình ảnh do những lần trước chụp được. Tới nơi, ông vẫn thấy bác sĩ Bản còn phải chống nạng do gãy xương ngón út bàn chân trong chuyến đi gặp nạn vừa rồi.


Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 17 Tháng Bảy, 2012, 02:57:59 pm
23.   

Thư ngỏ:

TP Hồ Chí Minh 2-9-1995.

Ban liên lạc tiểu đoàn Cát Bi.

Nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày CMT8 và Quốc khánh 2-9, toàn thể anh em của Ban liên lạc tiểu đoàn Cát Bi tại thành phố Hồ Chí Minh xin chân thành gửi đến gia đình, thân nhân và an hem thuộc tiểu đoàn Cát Bi hiện còn sống đang công tác hoặc đã nghỉ hưu tại Hải Phòng lời thăm hỏi chân tình nhất của những người đã cũng sống và chiến đấu tại Đất Thép Thành Đồng.

Trong những năm qua để tưởng nhớ đến các đồng chí của tiểu đoàn Cát Bi đã chiến đâu và anh dũng hy sinh trên chiến trường “Tam giác sắt” đặc biệt là Củ Chi, Trảng Bàng, toàn thể an hem chúng ta kể cả số anh em đã trở về quê và số an hem hiện còn sống đang công tác hoặc nghỉ hưu tại thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức các buổi họp mặt, sinh hoạt, đồng thời suy nghĩ tìm ra tên tuổi những anh em của tiểu đoàn đã hy sinh. Riêng anh em trong Ban liên lạc đã tổ chức rất nhiều đợt trở về những trận địa mà đơn vị đã chiến đấu để tìm hiểu, truy tìm, qui tập hài cốt các liệt sĩ của tiểu đoàn đã hi sinh, đồng thời lập danh sách những anh em đã hy sinh để có tư liệu viết về lịch sử của tiểu đoàn.

Tính từ tháng 5-1981 đến nay chung tôi đã tổ chức mười hai lần đi truy tìm và qui tập liệt sĩ, trong đó đã cùng với địa phương tổ chức qui tập được trên ba tram hài cốt, trong đó có hơn tám mươi liệt sĩ thuộc tiểu đoàn Cát Bi. Qua khảo sát tại các chiến trường Củ Chi, Trảng Bàng, Bến Cát và mặt trận Sài Gòn thì hầu hết các hài cốt liệt sĩ của tiều đoàn số (đã xác định được) đã được qui tập về Nghĩa trang liệt sĩ nhưng đa số là không có tên tuổi. Đây là sự mất mát và thiệt thòi lớn cho gia đình và bản thân các anh em đã hy sinh. Hiện nay tại khi di tích lịch sử Bến Dược thuộc xã An Nhơn Tây huyện Củ Chi TPHCM, Đẳng và Nhà nước đã xây dựng một khu đài tưởng niệm các anh hung liệt sĩ trên cả nước đã chiến đấu và hi sinh trên đất Củ Chi, Trảng Bàng, trong đó có chiến sĩ thuộc tiểu đoàn Cát Bi với tên tuổi, đơn vị, quê quán và năm hy sinh được khắc vào bia đá để tôn thờ mãi mãi cho đời sau. Để đáp ứng yêu cầu này, thấy được trách nhiệm của những người còn sống, nhiều năm qua an hem chúng tôi đã cố gắng đi tìm, hồi tưởng và nhớ lại để lập danh sách nhưng cho đến nay với sự cố gắng rất lớn mới chỉ ghi lại tên tuổi quê quán của 172 liệt sĩ của Tiểu đoàn Cát Bi trên tổng số 500 đồng chí đã hi sinh (Trong số 172 người này, nhiều người cũng chỉ có tên, chưa tìm được hài cốt). Số còn lại, ngay tên tuổi cũng chưa xác định được.

Vì những lý do trên, chúng tôi nghĩ rằng chỉ có anh em còn sống của tiểu đoàn hiện nay mới có khả năng làm được việc này qua sự hồi tưởng nhớ lại những đồng chí, đồng đội của mình đã cũng nhau chiến đấu và hy sinh.

Ban liên lạc Tiểu đoàn Cát Bi tại thành phố Hồ Chí Minh xin gửi đến an hem còn sống của tiểu đoàn, phiếu phát hiện và rất mong các đồng chí hồi tưởng lại, ghi vào phiếu phát hiện và xin gửi đến địa chỉ: Ông Mai Văn Hiệu số nhà 169 đường Hải Thượng Lãn Ông phường 13 quận 5 TP Hồ Chí Minh.

Thời gian tạc bia đá tại Đền thờ Bến Dược sẽ tiến hành trong năm 1995 vì vậy rất mong anh em khi nhận được thư này cố gắng nhớ lại và ghi chép theo mẫu (nhớ được phần nào ghi phần đó) và gửi vào gấp.

Một lần nữa tập thể anh em trong Ban liên lạc Tiểu đoàn Cát Bi tại thành phố Hồ Chí Minh kinh chúc sức khỏe an hem còn sống của Tiểu đoàn, cùng gia đình mạnh khỏe, hạnh phúc.

    
TM. Ban liên lạc tiểu đoàn Cát Bi tại TPHCM.

    Trưởng ban: Mai Văn Hiệu”

Kèm theo lá thư ngỏ gửi về cho các chiến sĩ còn sống rải rác ở các miền đất nước, có cả phiếu phát hiện gồm 8 cột: ngoài họ tên, năm sinh, quê quán, tháng, năm hy sinh, chức vụ trước lúc hy sinh, nơi hy sinh, nơi chôn cất, có những ai biết việc đó v.v… Đáp lại lá thư ngỏ, ông Mai Văn Hiệu đã nhận được thư cho biết thêm danh sách 183 đồng chí hy sinh. Trong một lá thư khác gửi tới Thành ủy và Ủy ban nhân dân TP Hồ Chí Minh, gửi Đại hội Đảng thành phố Hồ Chí Minh, ông Hiệu đề xuất nhiều vấn đề thời cuộc, các chính sách với thương bệnh binh. Ngoài ra, lá thư của ông bày tỏ rất nhiều ý kiến quanh việc tiềm hài cốt liệt sĩ, bởi vì cho đến ngày hòa bình, đơn vị ông hy sinh bao nhiêu cũng không năm được. Sauk hi Mỹ rút, chuyển hướng chiến tranh ngay từ cuối năm 1972, nhiệm vụ thay đổi, cả E268 bị giải thể, cán bộ chiến sĩ còn lại được điều đi các đơn vị khác. Hòa bình lập lại do không còn tổ chức nên không có ai đứng ra lo việc tìm liệt sĩ.

Thư ông viết: “… Bảy năm liên tục chúng tôi đã phát hiện 100 liệt sĩ gồm các địa chỉ như sau: Phú Hòa Đông 29. Ấp Trung Hưng, Trung Lập Thượng 24. Xã Trung An 26. Hố Bò 2. Thạnh An, Dầu Tiếng 2. Ấp Lộc Thuận, Trảng Bàng 28. Ấp Bố Heo, An Tịnh, Trảng Bàng 2… Chúng tôi còn bàn với đồng chí Trần Văn Bản trước đây là cán bộ của D2 nay là Chủ tịch Hội chữ thập đỏ Tân Bình cìn đương chức, lại làm công tác xã hội từ thiện, đồng chí cố gắng huy động hội viên tham gia. Đồng chí Bản đã nhiều năm đi về huyện Củ Chi, Trảng Bàng, Dầu Tiếng, Bến Cát, Tân Uyên, Tây Ninh trực tiếp phát hiện, bốc và tham gia cùng các phòng Lao động Thương binh xã hội các địa phương trên, bốc được hàng ngàn liệt sĩ từ năm 1989 tới nay. Trong quá trình đi về các địa phương, nhân dân còn kể lại hiện nay liệt sĩ ta nằm rải rác nhiều nơi chưa bốc như: Trung Hưng 10. Trung Lập Thượng 23. Hố Bò 27… Đơn vị D2 còn một số trận đánh lớn chưa tìm được liệt sĩ như: trận Cầu Ván, Cỏ Ống, hai trận Trảng Nguồn, trận Cây Dương. Ở rừng tre D3 E268 bị xe tăng vây đánh hủy diệt, hàng tram liệt sĩ còn nằm đó và phân khu Một có bảy quân y lo cấp cứu thương bệnh binh, quân y nào cũng có một, hai nghĩa trang chôn hàng trăm thương binh tử vong vẫn còn nằm đó, chưa kể đó là nơi bao nhiêu đơn vị xóa đi lập lại. Nay liệt sĩ của D1, D3 và cơ quan trung đoàn bộ cũng chưa có tổ chức nào đứng ra tìm”. Thư ông cho biết đến thời điểm đó, đã khắc tên được 314 liệt sĩ của tiểu đoàn vào bia đá của đền thờ Bến Dược.

Tại sao họ làm được những việc mò kim đáy bể đó? Vì họ đã trực tiếp chỉ huy và chiến đấu trong từng trận đánh, về các địa phương, dựa vào dân, vào du kích đã đùm bọc họ, dựa vào chính quyền địa phương. Cả đất nước, từ người lãnh đạo cho tới dân thường, ai cũng tha thiết, mong mỏi việc qui tập hài cốt các liệt sĩ sau chiến tranh mau hoàn thành.

Riêng với bác sĩ Bản, ngoài tấm lòng tuyệt vời thủy chung ra, anh có thêm hai điều kiện: Anh đang công tác ở lĩnh vực từ thiện – xã hội và được tập thể Quận hội Chữ thập đỏ Tân Bình hết lòng ủng hộ. Sau nữa, thời kỳ chiến tranh, anh không chỉ chiến đấu thông thuộc chiến trường, mà còn là cán bộ quân y luôn theo sát thương binh, tử sĩ. Sở dĩ an hem của ban liên lạc “tiểu đoàn Cát Bi” phát huy được trong việc này, cũng do sáng kiến của anh Bản vào đầu năm 1993 sau nhiều năm một mình di tìm kiếm, các anh bắt đầu có một tập thể nhỏm dựa vào nhân dân và các cơ quan, chính quyền các địa phương , các cơ quan quân sự. Bác sĩ Bản có thể tìm ra nhiều liệt sĩ, ở nhiều đơn vị khác nhau, không chỉ riêng đồng đội của đơn vị anh. Bởi vì có thời kỳ trong chiến tranh, khoảng 1969-1971 sau khi bị thương, anh được điều về quân y C10, và tiếp tục làm việc ở quân y phân khu Một còn gọi là Quân y T4. Một đồng chí làm công tác thống kê, tài vụ của quân y hy sinh, Bản được cử làm thay. Suốt những năm đó, anh đã có dịp đi nắm quân số thương binh, tử sĩ để dự trù tài chính, phải ghi chép, thống kê và đi các quân y C2, C4, C5, C6, C7, C10, C12 và một số dân y Củ Chi, Bến Cát, Trảng Bàng. Bác sĩ Bản đã trực tiếp tham gia chôn cất nhiều liệt sĩ. Hơn nữa, đến các đơn vị, anh thường quan tâm hỏi từng nơi chôn cất, xin dẫn ra nơi chôn và mình anh tự vẽ những sơ đồ, cất vào thùng đạn đại liên của Mỹ mà sau này trong một trận càn đã lạc mất. Cho đến nay anh vẫn khắc khoải đi tìm dấu vết của thùng tài liệu quí báu đó. Bản nhớ mỗi căn cứ quân y đều có hai, ba khu vực chôn, bởi vì không thể chôn một khu vực rộng, đào bới cây cối dễ bị lộ. Sau giải phóng, lúc còn âm thầm đi một mình, chính là những năm Bản kiếm ra nhiều nhất. Ở khu rừng Bưng Còng, những năm từ 1978 tới 1985, lúc đó chưa có những đợt vận động lớn của Đảng và nhà nước như sau này. Bản nghĩ tới việc phải tập hợp lực lượng, vì anh biết tuy đã chuyển sang công tác thời bình, nhưng tất cả các chiến sĩ, cán bộ còn sống, ai cũng mong muốn việc này. Anh tìm đến các đồng chí: chị Sáu Vân lúc đó là chủ tịch quận Tân Bình – chỉ có một số tiền để tổ chức một hội nghị toàn thể những người của quân y T4 còn sống. Bản tìm tới anh Lộ, bác sĩ trưởng khoa của C12 ngày trước, anh hung Tám Lê trưởng ban quân y phân khu Một tức quân y T4, rồi bác sĩ Trọng, chị Thiệu, Mười Liên…

Sauk hi giấy mời được phát đi, đăng trên báo và phát trên truyền hình, hơn 260 người ngày trước là bác sĩ, y tá, bảo vệ, hộ lý… ở T4 đã gặp mặt tại Ủy ban nhân dân quận Tân Bình. Trong buổi họp mặt đó, Bản đã phát ra cho mỗi người một phiếu phát hiện, có kèm theo cả phong bì dán tem sẵn đề địa chỉ Quận Hội Tân Bình. Bản muốn hai việc: thứ nhất là nhờ các đồng chí nhớ lại, phát hiện tất cả thông tin nào còn nhớ về các liệt sĩ đã hy sinh. Sau nữa, Bản muốn tích lũy một số tư liệu cho lịch sử quân y T4, một đơn vị nhiều chiến công, trong đó có tới 3 C được phong đơn vị anh hung (C5, C12, C4) và tới sáu cá nhân được phong anh hùng – mà đến nay chưa có lịch sử quân y. Sau đợt ấy, Bản nhận được hơn 100 phiếu, tìm ra 175 liệt sĩ gồm cả y tá, bác sĩ, thương binh hy sinh. Anh cũng cùng Ban liên lạc quân y T4, cùng các anh Trọng, Quang, Xệ, cô Thiệu… tổ chức đi tìm.

Đọc các phiếu phát hiện này thôi, cũng đã hiện lên phần nào hình ảnh về cuộc kháng chiến đã qua. Trong phiếu của đồng chí Nguyễn Kim Thùy, trước ở quân y C6 trong rừng Thanh Tuyền có ghi:

Những người còn sống, ngày trước học cùng khóa ở C6 có: Hồng Phúc (nữ, em gái bác sĩ Liên) – Hồng Tâm, Bình, Tư, Nguyệt, Bảy (không biết giờ ở đâu) – Dược sĩ Tôn Hưng (đã sang Mỹ) dược sĩ Hồng (về Bắc) dược sĩ Tư Râu (Quận 3) Cổ Thị Hoàng dược tá (không biết giờ ở đâu), dược tá Phạm Văn Tảng, Huy Thống (đã về Bắc), Nguyễn Huy Đệ (chồng của Hồng Tâm, nhà ở quận 10) Vũ Văn Bát (không rõ nơi ở).

Trong phần phát hiện liệt sĩ có ghi một số tên: Ngô Tiếp, năm 1970 nghe tin đã hy sinh tại ấp Đồng Lớn xã Trung Lập Thượng, Củ Chi, trong tình trạng chống càn bị địch khui hầm bí mật bắn chết. Khi rút ra hầm bí mật, một người bị pháo bắn bị thương, anh Tiếp quay lại đón ra hầm. Do để lại vết máu, địch phát hiện ra hầm…

Cũng trong đợt gặp mặt này, các anh còn phát hiện ra được một khu vườn của má Hai xã Thanh An huyện Bến Cát tỉnh Sông Bé – Khu vườn của má khoảng 2000 m2 sau bao năm chiến tranh đi qua, mọi khu vườn đều được san lấp, trồng trọt thì vườn má giữ nguyên. Má có người con gái là quân y T4 đã chiến đấu và hy sinh ngay tại vườn nhà, nhưng đến nay vẫn chưa tìm được xác. Thế là má để y nguyên cả khu vườn trong đó con má nằm đâu đó – như một khu tưởng nhớ đứa con. Khu vườn ngoài một số cây điều má trồng xen vào chỗ trống, còn thì hầu như nguyên trạng hình ảnh chiến trường xưa. Cây rừng vẫn mọc nguyên chỗ của nó, không bị chặt. Bên ngoài là ngôi nhà má ở hiện nay, nhưng đi sâu vào là thấy hầm bảo vệ. Dù lâu ngày đất đã xệ xuống nhưng hầm và cây đã chống, miệng hầm, vách khoét phía trong vẫn còn nguyên. Đi sâu vào chút nữa, đụng cái giếng nước ăn ngày xưa, nay má vẫn múc lên tưới cây. Hầm bếp ăn của thương binh vẫn còn dấu ấn bếp Hoàng Cầm, đường ống đã sập nhưng hầm chứa khói vẫn còn. Những chiếc ghế vẫn nhận ra được hình dáng. Những hầm ngủ của thương binh rất dài, cứ cách 10-20-30 mét lại có một hầm đi chữ chi tránh bom B52…

Ở đây là căn cứ của quân y C2, trước nữa là đồn điền cao su thời Pháp, còn có cả con đường dầu (chưa rải đá) – Một số khu vực chôn cất liệt sĩ đã được qui tập sau này, nhưng cũng có khu do không biết, nhân dân đã sang bằng để trông điều. Con gái của má Hai vẫn còn đâu đó trong vườn, vì vậy đây là mảnh vườn duy nhất do người mẹ giữ lại tưởng niệm con, còn đến hôm nay. “Biết bao hình ảnh của hoạt động quân y thời chiến còn nguyên đó, tôi rất muốn làm sao giữ lại và biến thành di tích lịch sử” – Anh Bản nói – “nhưng thật khó khăn vì kinh phí, sau nữa đó là một nơi tương đối hẻo lánh không gần các khu đường lớn tiện lợi cho du lịch – Sẽ rất tiếc, nếu như không làm cách gì được…”

Công việc sẽ vô cùng khó khăn. Cuộc sống trong thời kinh tế thị trường, không phải không bị tác động. Người quyết tâm tìm kiếm thì không có kinh phí, người được giao trực tiếp đi làm lại là người mới lớn lên sau này, chưa hề hình dung nổi các điều kiện sống và chiến đấu, không am hiểu địa thế chiến trường.

Theo ý kiến họ, việc làm này phải lâu dài, không thể ra hạn định, vì rất khó khả thi. Sau nữa cần có trách nhiệm tham gia của ba cơ quan: Sở Lao động Thương binh xã hội, Bộ Chỉ huy quân sự, Hội Cựu chiến binh. Phải có cuộc họp với cán bộ Trung, tiểu đoàn và cán bộ các C quân y đã giải thể và các cán bộ chủ chốt của các phòng tham mưu, chính trị của phân khu Một trong chiến tranh đã trực tiếp với chiến trường. “Thế hệ chúng tôi mà qua đi rồi, chết đi rồi, thì sau này sẽ không còn ai tìm được, dù có muốn tìm”. Đó là nỗi băn khoăn lớn lao của họ. Liệu có quá không, khi họ nói vậy? “Không. Chúng tôi tin rằng Đảng, nhà nước và dân tộc Việt Nam với truyền thống uống nước nhớ nguồn, sẽ không bao giờ quên ơn tổ tiên và anh hùng liệt sĩ giữ nước. Rồi có thể kinh phí khá lên, có thêm phương tiện tìm kiếm. Nhưng điều đó còn phải chờ đợi thời gian. Và chúng tôi nghĩ có nhiều trường hợp nếu không phải người trong cuộc, thì rất khó tìm”. Ngay việc kiểm điểm lại con số của một tiểu đoàn như tiểu đoàn Cát Bi này thôi, xem ai sống, ai hy sinh, cũng không dễ dàng. Vậy sổ gốc đâu, phiên hiệu, con số đâu? Câu hỏi đơn giản mà ai cũng bật ra hỏi ngay này, đâu dễ trả lời? Chiến tranh qua đi đã mấy chục năm – Các đơn vị giải thể - Các trụ sở, địa bàn đóng quân dời đi, các cán bộ phụ trách các vẫn đề, người còn người mất, người đổi sang việc khác…

Ngay việc trở ra Hải Phòng để tìm danh sách của tiểu đoàn trước khi vào chiến trường, cũng không tìm được. Ráp nối mãi mới được danh sách chưa đầy đủ về cán bộ khung. Sau hòa bình, họ phải tìm cho ra số người còn sống, rồi lấy con số tiểu đoàn 600 người, làm con tính trừ, mới biết là 530 người đã hy sinh. Có thể nói là tiểu đoàn đã hy sinh gần hết.


Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 17 Tháng Bảy, 2012, 02:59:21 pm
24.

Đi tìm liệt sĩ, là công việc đòi hỏi tận tâm, nhiều sáng kiến, nhẫn nại, đôi khi có cả may, rủi.

Bác sĩ Bản kể:

“Tôi sẽ quay lại kể về một thí dụ ở phường 14 và phường 15 quận Tân Bình. Chúng tôi kết hợp với địa phương cụ thể là Đảng ủy, Ủy ban nhân dân, Mặt trận tổ quốc, Ban thương binh xã hội của phường, nhờ sự phát hiện của nhân dân, chúng tôi phát hiện còn nhiều hài cốt liệt sĩ thuộc tiểu đoàn 8 Long An, trung đoàn 16 và trung đoàn 1 của sư 5 hy sinh khi tấn công sân bay Tân Sơn Nhất tết Mậu thân 1968. Giặc ủi xác anh em xuống giếng nước tưới rau của nhân dân”. Anh nhắc lại trường hợp của liệt sĩ Phan Hưng Sánh hoạt động địch hậu bị giặc bắt đem ra trước cửa đình bắn và trói bằng dây điện thoại vào một tảng đá nặng trên 20kg vứt xuống giếng. Xong lại vứt theo 25 tảng đá, dùng một tấm sắt đút ngược xuống giếng và lấp lại, không cho ai lấy lên được. Ở giếng của trường cấp 2 bây giờ (trường Đặng Trần Côn phường 14) ngay trong sân trường cũng có xác hai liệt sĩ một nam một nữ là Bùi Văn Phụng và chị Huệ quê ở Bến Tre.

Bác sĩ Bản nói: “Nếu chỉ quyết tâm thôi cũng không đủ. Tình cảm thôi chưa đủ. Hằng ngày nhìn các cụ, các cháu thiếu niên đến thắp nhang, chúng tối rất áy náy. Giặc giết đồng chí mình ném xuống đó, còn bị trói, gạch đá dập vùi, không đưa lên để thế sao đành lòng. Thân nhân liệt sĩ mỗi khi đến thắp hương, hẳn lòng ai cũng ước ao bốc hài cốt lên đưa về nghĩa trang liệt sĩ?

Tình cảm và quyết tâm chưa đủ. Còn phải tính đến khả năng hy sinh tính mạng vì giặc thảy cả lựu đạn, mìn, đầu đạn M79, dây kẽm gai. Nếu dùng xà beng hoặc cuốc mà cuốc thì sẽ thương vong, như hiện nay thỉnh thoảng bà con làm ruộng vẫn cuốc phải và cầm chắc cái chết.

Chúng tôi đào các phần trên, lấy nước đổ cho mềm lớp đất đá, dùng xà beng nậy từ từ rồi dùng tay hốt đất bỏ vào thùng cho người phía trên kéo lên. Thật gian khổ. Phía trên đất cứng, dưới sâu lại có nước. Thành một thứ bùn loãng, được kéo lên từ độ sau 10-12 mét. Đào ba ngày như thế, chúng tôi lấy lên từ một giếng sáu bộ hài cốt cùng hai khấu B40, một khẩu AK, sau băng đạn AK, hai quả đạn B40 và bốn cái bóp cá nhân. Ngoài ra còn có ba đôi dép cao su, một cái khăn, lược chải đầu, đồng hồ đeo tay, một chai dầu thơm, một cuộn băng keo, ổng tiêm và hộp thuốc – Đây là vật dụng của một chị y tá, trong bóp có hình của chị chụp bán thân đội mũ tai bèo, thả tóc xõa vai với nụ cười rất tươi. Trong cái bóp màu đen có hình một thanh niên và một tờ giấy còn hình thù như giấy bạc của miền Bắc mang đi làm kỷ niệm. Chiếc đồng hồ đeo tay nữ hiệu Seiko chỉ 2 giờ 12 phút – và còn có bốn đầu đạn M79 chưa nổ. Những di vật này, rất tiếc là vẫn chưa biết địa chỉ quê quán, tên tuổi liệt sĩ ở đâu. Chúng tôi vẫn lưu giữ tại tủ kính cơ quan”. Ở giếng đình phường 14 còn khó khăn kiểu khác. Đào đến ngày thứ tư, nước trào lên – phải dùng máy bơm bà con cho mượn để hút nước lên. Ở giếng của trường Đặng Trần Côn họ lấy lên hai bộ hài cốt một nam một nữ mà bà con nhân dân còn nhớ tên là Phụng và Huệ, quê Bến Tre. Hai bộ xương này gãy vụn từng khúc, không xương nào nguyên vẹn, kể cả xương sọ cũng bể ra từng mảnh. Vỡ sau này, hay do địch đập nát đầu vứt xuống giếng? Tất cả nỗi đau bao nhiêu năm bị chôn giấu, bây giờ phơi bày. Nhân dân xunh quanh thắp nhang, ngậm ngùi tưởng nhớ, Lúc lôi lên được tảng đá thứ 26 chúng tôi lấy được sợi dây điện trói liệt sĩ Sánh – đã 40 năm – Vậy mà vẫn còn người thân của liệt sĩ bao năm đau khổ giờ nghẹn ngào đến bên miệng giếng. Cầm lấy cuộn dây điện, một cụ ông tên là Lành ôm vào ngực khóc nức nở: “Đúng cuộn dây nó trói anh năm nào đây anh Sánh ơi. Em già sắp chết rồi anh em còn được gặp nhau anh Sánh ơi!”. Dù mọi người đỡ cụ vào nhà, cụ vẫn chạy ra đòi nhìn xuống giếng.

Khoảnh khắc ấy được coi là phút giây anh em “gặp mặt” nhau sau bao năm trời ly biệt.

Có lền họ đào giếng ở khu nhà anh Hai Tiên phường 15. Trước đây là đất vườn, anh mua lại làm nhà ở. Bây giờ họ phải làm sao đào tìm ra miệng giếng (vì không ai biết cái giếng nằm ở chỗ nào, nhân dân chỉ nhớ là khu vực đó có giếng, giặc vứt xác anh em chiến sĩ xuống đó). Suốt một ngày đào bới không tìm thấy giếng trong khu vườn, hôm sau phải đào tung hết sân nhà. Chủ nhà chứng kiến cái nhà của mình bị đào lên, nhưng họ vẫn sẵn sang. Ngày thứ tư, đào vòng ra phía chuồng heo và tìm ra được. Bảy liệt sĩ được lấy lên từ đáy giếng sâu 12 mét, cùng các kỷ vật: dây đeo súng ngắn, dép cao su, bi đông nước, đèn tự tạo, thắt lưng, tấm ni lon, võng, quần áo. Từ kỷ vật này, bác sĩ Bản xác định có ba liệt sĩ cấp bậc đại đội trở lên. Hai trong số ba chiếc ví có hai tấm ảnh rất mờ của hai thanh niên trẻ chừng 18 tuổi. Cũng như nhiều trường hợp, họ không để lại tên tuổi quê quán của mình. Gói từng bộ xương các anh mà không biết gọi tên các anh là gì, không biết quê quán các anh ở đâu, gia đình các anh còn đang trông ngóng nơi đâu, những người đi qui tập hôm đó không ai nói lời nào, chỉ lặng lẽ gói, và nước mắt cứ lặng lẽ rơi.

Trông thấy cảnh làm việc như thế, nhân dân như có một sự thúc đấy sâu sắc trong lòng, họ chỉ thêm cho 15 giếng nữa, chỉ trong một phường 15. Các anh dựa vào chính quyền địa phương để có thể tiếp tục. Bác sĩ Bản còn nhớ cảnh buổi chiều ngày 21-3-1993, anh Bảy Luận, một bác sĩ quân y đã nghỉ hưu, dẫn bác sĩ Bản ra khu ruộng rộng cả mẫu cà nói trong khu vực này có ba giếng nhà dân, sau khi địch vứt xác anh em xuống, chúng đã lấp kín và san bằng toàn bộ khu vực. Cả một mẫu ruộng lô nhô gốc rạ, không còn  dấu tích gì. Làm thế nào để xác định được miệng giếng? Không lẽ phải đào toàn bộ mẫu ruộng? Cuối cùng họ quyết định thuê xe ủi đất, ủi một đường dài sâu hết lớp đất màu bên trên, để đụng lớp đất sét. Theo tính toán, nếu là miệng giếng thì ở đó có đất khác lấp xuống – lớp đất khác này pha trộn cả đất màu, đất sét, và như vậy màu của đất chỗ đó sẽ xốp và đen hơn. Họ ủi đến đường thứ ba thì miệng giếng xuất hiện đúng như dự đoán. Dịp đó, làm việc liên tục 18 ngày, họ đã đào hai mươi giếng được 43 hài cốt liệt sĩ, chỉ có tám người có tên tuổi quê quán. Trong bài điếu văn của đồng chí phó bí thư Quận ủy Tân Bình có những lời xúc động: “Các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống để đất nước ta độc lập tự do. Nhưng mãi đến hôm nay chúng ta mới đưa các anh từ những giếng sâu lên là chúng ta có tội nhiều với các anh. Việc làm của Hội Chữ thập đỏ Tân Bình là nghĩa cử cao đẹp mà chỉ với trách nhiệm thôi thì không thể làm được công việc to lớn này. Dựa vào dân, cảm hóa dân bằng những việc làm cụ thể, Hội đã làm được một việc cả Quận ủy cũng không ngờ.”


Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 17 Tháng Bảy, 2012, 03:03:03 pm
25.   

Ngày nay, vùng Củ Chi với hệ thống địa đạo có từ năm 1948 dạng sơ khai cất giấu tài liệu, vũ khí, trú ém cán bộ hoạt động địch hậu, tới năm 1965, một số xã hoàn chỉnh xương sống địa đạo. Cho tới thời kỳ 1966 địa đạo phát triển mạnh nhất. Năm 1967 địa đạo trở thành hệ thống khoảng 200 km. Các khách du lịch tới Củ Chi, thường có ấn tượng mạnh nhất khi chui khu địa đạo, và khu viếng nghĩa trang liệt sĩ có tới hơn 8500 ngôi mộ. Trong đó có gần một nửa là không có tên tuổi. Sẽ không bao giờ họ hình dung ra mảnh đất này trong các cuộc hành quân nổi tiếng như cuộc hành quân Crimp (cái bẫy) với 3000 quân có cơ giới, xe tăng, pháo binh và không quân yểm trợ mà thương vong quá nửa. Cuộc hành quân Sedarfall (bóc vỏ trái đất) 12000 quân với yểm trợ… Khách du lịch cũng không bao giờ ngờ được tất cả cây cối, nhà cửa, nghĩa là tất cả những gì có trên mặt đất đều mới chỉ bắt đầu mọc từ sau 1975. Giờ đây Củ Chi là tên địa danh nổi tiếng trong nước và thế giới. Việt Nam mở cửa, đi lên hiện đại hóa, công nghiệp hóa… nhưng cái tinh của đất nước vẫn sâu nặng ở nơi này. Xây dựng một thành phố mới, đất nước mới, nhưng ở đây, không điều gì bị lãng quên.

Khách du lịch đi theo qui trình du lịch được hướng dẫn, có thể vẫn gặp cảnh người khắp nơi đến viếng, thắp hương ở đền thờ liệt sĩ, ở nghĩa trang. Có cả những người đi tìm kiếm.

Trong bếp ăn, khi khách đang nếm thử món cơm vắt muối mè, củ mì luộc, sống lại sinh hoạt của bộ đội ở Củ Chi, thì có một ông già quên ở Rạch Gía, có ba người em hy sinh, ông đi khắp các nghĩa trong ở miêng Nam để tìm kiếm.

Nhìn ông già, thấy ngay vẻ mộc mạc của người dân quê Nam bộ. Ông mặc bộ đồ bốn túi kiểu ký giả, đầu đội nón vải trắng, đi tay không. Hình như ông vào cùng không ai hỏi vé. Ông cũng không đi theo qui trình giới thiệu cho khách tham quan. Ông đi ngược tua: lẽ ra bếp ăn là nơi cuối cùng của lịch trình, thì ông vào đó trước. Vừa ngồi ăn củ mì, ông vừa chất phác kể chuyện mình. Khách du lịch cũng còn được tận mắt đọc tờ giấy giới thiệt của ông. Ông 75 tuổi, vẫn dùng những ngày cuối cùng cuộc đời đi tìm. “Một đứa em du kích địa phương, hy sinh ở quê. Hai đứa kia là bộ đội chủ lực miền, một bị pháo bắn mất xác, còn mốt có người chôn cất báo cho ông, nhưng cho đến bây giờ ông vẫn chưa tìm thấy”.

Nếu trở lại bên bàn làm việc của bác sĩ Bản mà lật giở từng lá thư – trong đống thư cao đến nửa mét – sẽ thấy hình ảnh một đời sống tình cảm tiềm tàng trong lòng người dân - Ở đâu đó khắp nơi trên đất nước…

“Từ ngày tôi được Hội Chữ thập đỏ Tân Bình báo tin tìm thấy đứa con trai độc nhất của tôi đã hy sinh, tôi thật sự đạt được nguyện vọng từ bấy lâu nay mong ước tìm mộ con, không biết nó nằm ở nghĩa trang hay còn đang nằm tại dãy Trường Sơn hùng vĩ. Tôi xin hết lòng biết ơn. Tôi muốn vào tận nghĩa trang Đồng Phú thăm con và cảm ơn Hội. Nhưng tôi năm nay 75 tuổi, hai mắt mù lòa, đau ốm luôn, chân đi không vững. Thêm vào đó đời sống gặp khó khăn, không có tiền để đi lại theo ý nguyện được. Lúc nào có điều kiện tôi sẽ vào thăm Hội.

   
Mẹ đẻ cháu Nguyễn Xuân Nụ,

    Lê Thị Ngòi – Thôn Cam – Cổ Bi – Gia Lâm – Hà Nội”.

Đơn xin bốc mộ ký tên bà Nguyễn Thị Sâm mẹ của bốn liệt sĩ – Bà hiện ở phường 13 Quận Tân Bình.

“Bốn con của tôi đã hy sinh, mộ của mỗi đứa nằm mỗi nơi. Sau 30-4-1975 phòng LĐTBXH đã bốc hai mộ của Trần Văn Khóm và Trần Văn Hiền về nghĩa trang của xã An Nhơn Tây Củ Chi, còn hai ngôi mộ chưa bốc được vì thất lạc, hiện biết ở ấp Đồn, xã Trung Lập Hạ - Củ Chi…” Bà làm đơn xin tìm và bốc mộ hai người con đó về một nghĩa trang An Nhơn Tây Củ Chi.

Lá thư ký tên Đỗ Văn Hiển (con trai của liệt sĩ) thôn Tiến Xã 1 xã Cẩm Xá huyện Mỹ Vân – Hải Hưng, sau khi bày tỏ lòng biết ơn khi nhận được thư báo tin của Hội Chữ thập đỏ Tân Bình cho biết đã tìm được mộ của liệt sĩ Đỗ Văn Nhiều, sinh năm 1943 nhập ngũ tháng 9-1966, hi sinh 27-6-1969, lá thư còn xin tìm hộ mộ liệt sĩ Đỗ Văn Ít, em của liệt sĩ Nhiều, nhập ngũ tháng 8-1967, hy sinh 12-3-1970 “tại mặt trận phía Nam”. Thư của chị Nguyễn Thị Sinh, giáo viên trường phổ thông cơ sở xã Vĩnh Phú huyện Phong Châu tỉnh Vĩnh Phú. Sauk hi cảm ơn đã tin được mộ liệt sĩ Nguyên Ngọc Chư hy sinh 2-5-1969, chị sinh cho biết: “Chúng tôi rất muốn vào ngay để thăm viếng, nhưng gia đình chúng tôi rất khó khăn. Bố mẹ tôi sinh được hai con trai là chồng tôi và em Chư. Cả hai đều tham gia quân đội. Em Chư hy sinh năm 1969 khi em vừa tròn 21 tuổi. Còn chồng tôi cũng phục vụ quân đội tới lúc nghỉ hưu. Chẳng may chồng tôi bị bệnh ung thư vừa qua đời. Bố mẹ tôi cũng đã mất. Cả gia đình chỉ còn mình tôi, chị dâu duy nhất của em Chư…”

Anh Trần Văn Chua, em của liệt sĩ Trần Văn Chanh ở xã Đạo Đức, huyện Tam Đảo Vĩnh Phú bày tỏ: “Thưa bác sĩ Bản, hơn hai chục năm qua gia đình chúng tôi không biết được người thân của mình nằm nơi đâu, có bao giờ được ai thắp cho nén hương nào không. Nay được tin báo này, thật không gì quí bằng. Vậy là xương thịt máu mủ của gia đình vần còn và nguyên vẹn…”

Ông Phan Xuân Đống quê ở xã Tần Lộc huyện Cau Lộc, Hà Tĩnh, chờ tin em bao năm. Nay ông đã 70 tuổi. Gia đình đã ngóng tin về người em liệt sĩ Phan Xuân Thành. Chờ đợi tới lúc cha mẹ đều già, chết vần không có tin. Nay người anh cả đã chờ đến lúc 70 tuổi thì bỗng có một lá thư đề địa chỉ Hội Chữ thập đỏ Tân Bình báo tin đã tìm thấy Thành. Mỗi lá thư một kiểu – Rất nhiều thư chắc là nhờ học sinh viết hộ - Không có văn chương bày tỏ nhiều lời, nhưng bác sĩ Bản biết đó là tấm lòng thành của bao người thức thâu đêm ngọn đèn dầu - ở bao làng quê xa, gửi tới anh và Hội. Có nhiều lá thư khá đặc biệt. Thư của Vũ Văn Sỹ 43 Hai Bà Trưng quận Hoàn Kiếm Hà Nội sau lời cảm ơn còn cho biết: lá thư của Hội gửi về đúng địa chỉ của gia đình, nhưng tên lại không đúng với tên liệt sĩ của gia đình. Qua việc đi tìm danh sách rà soát lại thời kỳ nhập ngũ, gia đình biết đích xác đó là con em mình, vì mọi thứ đều đúng: Vũ Văn Dũng sinh năm 1945 nhập ngũ tháng 9-1966 hy sinh 30-8-1967. Chỉ có cái tên báo về lại là Vũ Văn Quảng. Gia đình đã xem toàn bộ danh sách và thấy đợt đó không có ai tên là Quảng. Như vậy có thể chính tên liệt sĩ Vũ Văn Dũng, hai chữ viết hoa của Q và D rất có thể đã giống nhau nên bị lầm. Gia đình xin xác minh lại.

Có lá thứ nhờ tìm mộ liệt sĩ còn cung cấp cả sơ đồ và thông tin cần thiết: “Trong trận đánh trên đường 13, chú Tắc trúng đạn vào đầu, đưa về trạm xá tiền phương, chết lúc năm giờ ba mươi ngày 30-5-1971 (trận này quân ta đánh từ 28-30/5/1971 giành toàn thắng). Mộ chôn ở nghĩa trang của sư 5 ở gần ngã ba Sanoun đường đi Campuchia…

Trên lề mỗi lá thư, có chữ của bác sĩ Bản. Anh ghi: “đã xem”, “cần tìm”, “thư này xin ảnh chụp mộ liệt sĩ”, “xin tìm thêm liệt sĩ khác”, “con trai độc nhất hy sinh”, “đã giải quyết xong bốc hai mộ đưa về nghĩa trang liệt sĩ Củ Chi”… Không còn lời nào cần giải thích thêm, vì sao đến hôm nay, tức là đã hơn hai mươi năm, bác sĩ Bản vẫn đi tìm đồng đội.


Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 17 Tháng Bảy, 2012, 03:04:35 pm
26   

Sau khi một số bài báo viết về bác sĩ Trần Văn Bản và cuốn phim Hội Chữ thập đỏ Tân Bình do anh dẫn đầu đi bốc hài cốt liệt sĩ, được các nhà làm phim Nhật Bản chiểu trên truyền hình Tokyo, vẫn còn nhiều điều người đọc chưa hình dung nổi. Không phải chỉ các tổ chức nhà nước, đoàn thể và thông tin báo chí bắt đầu tích cực trong việc tìm hài cốt liệt sĩ. Nhiều năm nay, nhân dân cũng tự tìm kiếm theo các dấu vết, tài liệu mình có. Nhiều hiện tượng bí ẩn đã được phản ánh trên các báo chí về các nhà ngoại cảm thành công và không thành không, thậm chí có cả nhiều chuyện mê tín dị đoan bị phê phán. Chính vì thế, chuyện may rủi, đã thổi lên biết bao hy vọng. Không ai có thể nói, đến bao giờ thì người dân nước ta sẽ hoàn thành và chấm dứt việc tìm kiếm này, bởi chắc chắn có những trường hợp không thể tìm được. Chiến đấu hy sinh trên khắp mọi miền đất nước núi rừng hiểm trở và sông biển bao la. Chiến tranh đi qua đã lâu, con người và địa hình thay đổi… Tìm được hài cốt một người phải bỏ ra biết bao công phu, tiền bạc, thời gian và tâm lực. Vậy mà có một người vẫn âm thầm làm công việc ấy trong mấy chục năm, tìm ra hàng ngàn hài cốt liệt sĩ – Làm sao anh có thể tìm ra nhiều đến vậy? Nếu không biết rõ về hoàn cảnh một chiến sỹ quân y trực tiếp chiến đấu, nhiều lần trực tiếp tham gia chôn cất đồng đội, nếu không có một con người giữ chất bộ đội Cụ Hồ và một tấm lòng nhân ái đầy ắp nghĩa tình của một người Việt Nam như bác sĩ Bản, thì không thể làm được một công việc phi thường lớn lao như thế.

Đây là chuyện đụng chạm đến mối quan tâm của cả dân tộc. Đảng và Nhà nước, Quân đội, cùng các ngành liên quan đang dốc sức cho việc này – Công việc còn đòi hỏi công sức, thời gian và chính sách cụ thể. Anh rất mong ngành TB-XH và Quân đội có những đại hội hiến kế, thì sẽ có nhiều người tâm huyết góp sức vào. Trong quá trình đi làm việc này, anh Bản biết khắp nơi không thiếu những tấm lòng. Khi anh về xã Phú Hòa Đông, đặt vấn đề với chính quyền, thì từ Bí thư, Chủ tịch, Ủy ban LĐTBXH bàn ngay, phân công ngay theo yêu cầu của anh. Ở xã Trung An Củ Chi, Bí thư, Chủ tịch xuống tận nơi đào, các anh còn biết bài cho phát thanh trong xã, yêu cầu bà còn giúp đỡ phát hiện – Những lần sau anh xuống, bà con nói anh mới biết. Xã Phú Mỹ Hưng, ngoài việc đi tìm và cùng góp sức qui tập, các cuộc họp hành quan trọng được tổ chức nơi khác, dành hội trường tổ chức lễ truy điệu liệt sĩ hôm đó đào được. Họ còn mời anh Bản về nói chuyện với thanh niên. Phòng LĐ-TB-XH Củ Chi, trước kia là anh Tám Trung, nay là anh Út Cưng, thương binh mà theo đi lội suối lội bưng cùng tìm. Phòng LĐ-TB-XH Đồng Phú Sông Bé còn lo chỗ ăn ở cho thân nhân liệt sĩ. Từ các bộ Ủy ban, Quận ủy, cho đến những người dân như chị Thanh, cô Hường, ông Tám… luôn được thân nhân liệt sĩ nhắc nhở và cảm kích. Với các địa phương ở xa để tìm những hài cốt liệt sĩ mà anh không biết rõ, anh gửi công văn, thifcacs tỉnh thành trong cả nước như Hải Phòng, Hà Nội, Hà Nam Ninh, Bà Rịa Vũng Tàu, huyện Bình Chánh đều tích cực tìm kiếm và có công văn trả lời, trao đổi.

Đây là chuyện đụng tới tâm tư, tình cảm của nhiều người. Chưa nói tới biết bao gia đình liệt sĩ. Trong đợt anh Bản được mời ra dự lễ 65 năm thành lập Đoàn TNCS tại Hải Phòng, anh chứng kiến bao cảnh cảm động. Bí thư thành ủy Lê Danh Xương, các đồng chí trong thường trực và các ngành đã dự lễ, xem hình ảnh và nghe báo cáo về việc này. Quận Kiến An đã cử người vào cùng các anh xin được kết nghĩa với Quận Hội Chữ thập đỏ Tân Bình, kết hợp làm công tác qui tập hài cốt liệt sĩ. Đặc biệt anh Bản chứng kiến cảnh thân nhân liệt sĩ xếp hàng xin gặp anh ở khách sạn. Anh không cần thống kê để báo cáo thành tích. Bản thành tích mà thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu anh báo các trong hội nghị người tốt việc tốt của thành phố, anh cũng chỉ nói tóm tắt. “Nói thì sao mà nói hết được” – Bác sĩ Bản quan niệm vấn đề ở đây không chỉ là nhiều quá không thể kể hết trong khoảng thời gian eo hẹp của hiễn đàn hoặc một vài bài báo cáo. Ý nghĩa của nó chính là ở bản thân cuộc đời và công việc của toàn Đảng toàn dân đang tha thiết và ráo riết kiếm tìm. Đặt chuyện thành tích và báo cáo số đếm ở đây, như một tội lỗi đáng xấu hổ - bác sĩ Bản quan niệm như vậy. Nếu anh còn lưu giữ hồ sơ tên tuổi, các sơ đồ, là để tiếp tục tiến hành tốt công việc, để báo tin cho gia đình liệt sĩ, báo cho các phòng ban LĐTBXH của các cơ sở cùng theo dõi và kết hợp. Tháng 3-1995 tại đại hội Chữ thập đỏ toàn quốc, anh đưa ra danh sách 420 liệt sĩ các tỉnh phía Bắc nhờ Hội các tỉnh gửi tin báo cho gia đình liệt sĩ. Mỗi lần tìm xong một đợt, anh đều làm danh sách và sơ đồ gửi về các cơ quan chức năng của địa phương. Đó chính là nơi biết rõ và lưu giữ những điều cần thiết, và âm thầm, không hể xuất hiện trong báo cáo nào. Chúng ta hãy nhìn một chút xíu vào công việc hôm nay của bác sĩ Bản và Quận Hội Tân Bình của anh.

Vào giữa tháng tư năm 1996, nhà báo Nhật Bun-dô – giờ đây như một người bạn thân của bác sĩ Bản, lại tới TP Hồ Chí Minh. Ông Bun-dơ đem đến cơ quan tặng anh những tấm hình ông chụp và các bài báo đã đăng ở Nhật, do ông và các bạn cùng đi viết về công việc này. Ông Bun-dô đến giữa lúc bác sĩ Bản còn chống nạng do tai nạn khi đi tìm hài cốt liệt sĩ – “Đây là một trong 7 dôi nạng mới toanh người ta tặng cho công tác từ thiện giúp người khuyết tật, chưa kịp phát cho ai thì tôi mở hàng luôn” – Câu nói đùa này ông Bun-dô cùng không nghe được, bởi hôm nay khong đi tắc-xi xuống một mình, không có phiên dịch tiếng Nhật. Với vốn tiếng Anh không nhiều của cả chủ và khách, ông cho biết hôm nay ông chỉ ghé qua TP Hồ Chí Minh vài ngày. Lần này ông không đi với tư cách nhà báo, mà là hướng dẫn viên du lịch cho một đoàn Nhật tới Củ Chi. Ông quá thông thuộc vùng này mà, kể từ những năm 60 ông đã tới vùng này với các sư 25, Anh Cả đỏ khét tiếng của Mỹ.

Bác sĩ Bản, với vẻ chất phác còn nguyên của người nông dân đồng bằng Bắc Bộ - chống nạng đi cà nhắc, cùng không kể cho ông Bun-dô nghe về tai nạn. Bác sĩ Bản chỉ cười, đùa với mấy người bạn của anh vô tình có mặt hôm đó. Còn ông Bun-dô, với máu nghề nghiệp , chỉ ghé qua vài phút – tắc-xi vẫn chờ ở cổng – lại tranht hử hỏi điều ông không hình dung ra được: ý ông muốn biết trên đường từ Bắc vào Nam chiến đấu, bộ đội ăn thực phẩm gì. Bun-dô hỏi đột ngột khiến mọi người trong phòng lúc đó không kịp hiểu ông đang tìm hiểu về cuộc sống cách nay 30 năm, tưởng lầm ông quan tâm về món ăn Việt Nam. Một người vui vẻ kể: người Việt Nam cũng ăn thực ăn của thế giới hiện đại, cùng thịt gà, thịt lợn chế biến ngon khác nào bíp-tết và hambuger! Đến khi hiểu ra, mọi người mới bật cười.

Ông Bun-dô bữa đó cũng không biết bác sĩ Bản đang lo toát mồ hôi vì còn hai ngày nữa, anh sẽ lên sân khấu làm chủ hôn cho một đám cưới tới 10 đôi dâu rể. Quận Hội Chữ thập đỏ Tân Bình, xưa nay ông chỉ mải miết đi theo trong các hoạt động tìm mộ liệt sĩ. Cũng biết ở đây có lớp học tình thương, có phòng khác bệnh từ thiện cho người nghèo,… nhưng còn việc làm đám cưới tập thể như vậy, thì ngay đối với người dân thành phố cũng còn là một sự kiện độc đáo, huống hồ là ông, khách ngoại quốc. Không phải bác sĩ Bản cố tìm tòi cho các hoạt động nổi của Quận Hội. Khi công tác ở các cơ sở, anh đã thấy đến tận cùng cái nghèo đủ dạng, nhưng không hình dung đến mức các thanh niên nam nữ đăng ký kết hôn trước pháp luật và chính quyền, họ đã là vợ chồng nhưng không về chung sống với nhau vì nghèo quá, không làm đám cưới được. “Các cháu vì giữ phong tục tập quán mà phải vậy – Nghèo đâu có phải một cái tội” – Anh cho đăng ký sơ sơ xem có bao nhiêu đôi như vậy và hết hồn luôn vì đợt đâu đã có tới 20 đôi! Nhìn vào danh sách, tên tuổi, nghề nghiệp, thấy có nhiều đôi khá lớn tuổi. Có người là bộ đội xuất ngũ chưa có việc làm ổn định. Có người là con liệt sĩ, cố gắng tần tảo kiếm sống nuôi gia đình nhưng vẫn không đủ sống. Có người mồ côi cha mẹ từ nhỏ, ông bà nội ngoại thay nhau nuôi dưỡng. Khi cháu lớn lên, ông bà đã già. Hai bên gia đình đều quá nghèo. Họ cố gắng xoay xở, quyết lo làm ăn đủ sống mới dám xây dựng gia đình để còn lo con cái sau này. Nhưng điều kiện quá khó khăn, tuổi xuân cứ thế trôi qua… Bác sĩ Bản và Quận Hội bèn đứng ra tổ chức đám cưới để cho các đôi thanh niên đỡ tủi phận, phải làm sao tiết kiệm để có tiền dành sau đó, mặt khác đám cưới cũng phải đảm bảo tối thiểu các thủ tục. “ Nếu mình vung tiền cho tiệc liên hoan mời đông như để tuyên truyền thì sẽ không còn tiền lo làm ăn sau này. Vì vậy mỗi cặp sẽ được 20 thiệp mời cho gia tộc thân quyến. Mỗi cặp sẽ ngồi chung gia đình hai mâm, sẽ có số bàn qui định cụ thể khách của từng cặp. Có cả trao nhẫn cưới, và 2 triệu để may quần áo mới, thuê áo cưới loại trung bình… “Nghe bác sĩ Bản dặn dò, nhiều đôi thanh niên ngồi khóc. Đời họ đâu dám mơ tới một đám cưới đông vui, có váy đầm áo cưới, có nhẫn trao, còn được một phong bì 5 triệu đồng. Ngoài ra là các món quà tặng. Bất ngờ hơn nữa là cả 10 cặp, sau đám cưới sẽ được chở ra Vũng Tàu nghỉ một ngày, ở tại khách sạn. Chương trình sẽ nghỉ ở khách sạn một đêm, đi tắm biển, xem danh lam thắng cảnh. Bác sĩ Bản đã phải vận động khách sạn Hoàn Mỹ cố gắng có cả trang trí phòng cho đẹp. Ông giám đốc khách sạn ngạc nhiên: Đã giảm cho phân nửa tiền phòng rồi, chưa thấy ông khách nào đòi hỏi “quá đáng” vậy. Thôi, ông cố gắng giúp cho con em đỡ tủi phận. Nghèo thế có bao giờ đặt chân tới khách sạn đâu. Vũng Tàu cũng nhiều đứa chả biết…” Sau đám cưới sẽ có bữa cơm “lại mặt” tại Hội, được tặng an-bum ảnh cưới. Quan trọng hơn cả, Hội đã vận động được tài trợ (có người như bà Bé phường 18 ủng hộ 5 triệu đồng) của các doanh nhân trong ngoài nước, mười doanh nghiệp và công ty may Việt Tiến đỡ đầu công ăn việc làm sau này trong cuộc sống.

Làm thế nào biết được thế nào là nghèo để được Hội tổ chức cho? Số tiền tài trợ một trăm triệu, bác sĩ Bản và Quận Hội làm thế nào?

Không ai giàu có mà hôn thú để đấy, muốn cưới về sống với nhau không được. Đó là lẽ giản đơn của suy luận. Sau nữa, họ phải có xác nhận của địa phương, ở trong diện xóa đói giảm nghèo. Có cả xác nhận của Công an cho biết đã đăng ký kết hôn chưa – Có đôi lên ngồi khóc: Ra công an xin chứng nhận đây là kết hôn lần đầu, bị mắng: Lần đầu đâu mà lần đâu. Kết hôn lần trước, cách đây ba năm rồi”. Họ đâu có biết là vẫn cái đôi ấy, đăng ký ba năm rồi có cưới được đâu.

“Tôi để vào bao thư cho mỗi cặp năm triệu đồng – Công khai tất cả chi phí. Người nhận ký vào, tôi photo gửi cho những người ủng hộ tài trợ” – Bác sĩ Bản nói là anh làm như kinh nghiệm hồi 1978 khi còn ở trạm y tế phường 17. Những năm đó hạt gạo quý lắm, phải ăn bo bo, anh đứng ra quyên gạo cho bà con nghèo ăn trong mấy ngày Tết. Anh để từng bọc gạo, có đề số kg. Ngày phát cho đồng bào, anh yêu cầu người nhận vào bê bất cứ bọc nào đặt lên bàn cân. Hãy kiểm tra giúp chúng tôi – Cách làm và lời nói này không ngờ đạt một hiệu quả lớn. Từ ba tạ, anh nhận thêm tới hai tấn sáu. Thì ra nhiều người muốn cho, còn chờ quan sát xem dạo đến tay người nhận cách nào đã. Người ta tin cậy. đem gạo đến ùn ùn. “Tôi tin thế nào cũng có người cho” – bác sĩ Bản nói – Thế nào các cô dâu chú rể cũng sẽ được nhiều quà. Trời sinh voi, sinh cỏ - Có người nghèo khổ, không ma, thế nào cũng có tấm lòng cứu giúp. Miễn là mình đừng bỏ túi, thì sao cũng có người cho.” – Trong cái thời kinh tế thị trường, quảng cáo này, đến danh tiếng anh cũng chẳng cần.


Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 17 Tháng Bảy, 2012, 03:05:35 pm
27    

Sau những lá thư gửi đi từ Hội chữ thập đỏ Tân Bình, nhiều gia đình đã vào thành phố, và hậu hết đều có nguyện vọng đem hài cốt liệt sĩ về quê. Các địa phương quản lý nghĩa trang cũng đứng trước việc khó giải quyết: nhà nước chưa có một qui định nào về việc này, do đó không có cơ sở về chính sách để giải quyết. Sau nữa, để ở nghĩa trang liệt sĩ cũng là điều có ý nghĩa lớn. Đồng thời nguyện vọng của gia đình được đem người thân về quê hương để tiện chăm sóc gần gũi, cũng rất cần được giúp đỡ. Trong tình trạng đó, bác sĩ Bản lại phải đứng ra giúp gia đình đi phép từng trường hợp. Ở thành phố Hồ Chí Minh, bác sĩ Bản gặp khá nhiều thuận lợi. Anh Hai trưởng phòng chính sách, anh Tư Cang giám đốc Sở LĐTBXH cũng là người hết lòng giúp đỡ, tuy tuổi lớn nhưng họ cũng nhiều lần cùng bác sĩ Bản đi quy tập hài cốt liệt sĩ Bến Cát, Củ Chi, Trảng Bàng. Nhưng còn có một số địa phương xa, không can thiệp được, có gia đình lận lội đường xa tìm đến lại buồn tủi ra về.

Chứng kiến cảnh các gia đình khi đi bốc mộ liệt sĩ rồi ra tàu xe về luôn hoặc có khi nằm chờ ở bến tàu – bác sĩ Bản thấy không yên tâm. Cứ như thế, xương cốt lần đất cát đem về quê hương mở ra, gia đình người thân sao tránh khỏi bị sốc. Anh lại phải quyết định lấy hài cốt liệt sĩ đưa về Quận Hội của anh, làm lễ truy điệu trong lúc gia đình cũng ăn ở tại đây chờ đem ra tàu.

Bên trong, anh rải tấm vải trắng, xếp xương vào, gói lại – Rồi đến lượt vải đỏ gói bên ngoài và sau cùng được bọc ni lon tránh nước mưa. Tất cả được bỏ vào một hộp giấy có dán giấy đỏ viền vàng và hai ngôi sao vàng ở phía đầu và phía trên nắp hộp. Trông vừa uy nghiêm, bảo quản tốt, vừa là đánh dấu giúp gia đình biết đừng lật úp cái hộp. Anh biết, họ mang cái hộp đi trong tình trạng buồn thương, mệt nhọc và lo sợ. Nếu chủ các phương tiện xe cộ biết được, nhiều người không chịu chở. Từ miền Bắc, miền Trung, từ các tỉnh đồng bằng Nam bộ đi xa, nếu không có sự chuẩn bị kỹ của Quân Hội, gia đình cho vào túi nhỏ, ôm ém giấu giếm dọc đường, xương liệt sĩ có khi vỡ cả, thật tội nghiệp – Anh đã đào lên, gói ghém trước mặt người thân của gia đình liệt sĩ. Rồi anh tổ chức lễ truy điệu. Bây giớ nhân dân khu phố bên cạnh Hội Chữ thập đỏ Tân Bình đã biết, không đợi mời, bà con hễ thấy bác sĩ Bản làm lễ là tự động lên thắp hương long trọng. Như vậy người nhà liệt sĩ cũng thấy được an ủi rất nhiều.

“Tình đồng đội” – chỉ có mấy từ đó thôi, nó phải thể hiện từ trong việc nhỏ nhất – yêu thương đồng chí, tiễn đưa với tất cả sự chu đáo.

Vậy mà vẫn có trường hợp bất ngờ anh Bản chưa bao giờ trải qua, vẫn phải đi giải quyết. Có ông cụ đã được giúp đỡ chu đáo, đem con lên xe rồi, lại để mất cắp cả hài cốt của con.

Năm 1991, anh nhớ hình như tháng ba, tháng tư gì đó, vì vào mùa khô. Cụ Tiến, quê Quảng Nam – Đà Nẵng nhận được thư báo tin, đã tìm vào để lấy hài cốt con là liệt sĩ Hoàng Kim Thắng ở tiểu đoàn 8 pháo binh, hy sinh tháng 12-1968 đã được đưa về nghĩa trang liệt sĩ Củ Chi. Đây là người con trai duy nhất của cụ Tiến. Cụ có người con gái lấy chồng ở mãi Hà Nội, cụ bà đã mất, mình cụ sống ở quê với một đứa cháu ngoại. Ông cụ 73 tuổi đó nghéo đến mức chỉ đủ tiền mua đúng một vé xe và hai chiếc bánh mì ăn trong hai ngày. Đường xa, sức yếu, vào đến nơi ông cụ như muốn xỉu, anh Bản phải cho mua cháo cho cụ ăn. Xong xuôi mọi việc, anh lo vé cho cụ trở ra. Anh dặn: “Ông đừng quá chú ý vào cái túi, kẻ cắp nó để ý”.

Tưởng mọi việc xong xuôi. Hôm sau anh đang khám bệnh (lúc đó anh còn ở phòng khám của phương 17) thì nghe kêu khóc từ ngoài cổng. Tưởng là người nhà của bệnh nhân cấp cứu nào đó hoảng sợ kêu khóc, anh bước ra. Nhìn thấy ông cụ, anh hiểu ngay cơ sự, chân tay rụng rời. “Ông ơi tôi mất con rồi”. – Ông cụ run lẩy bẩy khóc không thành tiếng. “Mất ở đâu?” “Giữa đường. Ông ơi, ông làm phúc cho trót, ông đi tìm hộ…”. Ông cụ không ăn uống gì được. Lo sợ quá, anh Bản cũng không biết làm cách nào. Từ bé đến giờ anh chưa gặp chuyện tương tự. Nhưng không lẽ bỏ mặc ông cụ già đau khổ ân hận như sắp chết kia? Thế là anh và ông cụ lên đường đi tìm.

Anh hỏi kỹ đầu đuôi. Ông cụ kể là không dám rời cái túi một phút, ông cứ ngồi ôm chặt cái túi không dám xuống mua gì ăn uống cả. Có một thanh niên lên dọc đường quãng Phan Rang – Phan Rí. Gã mời cụ uống nước, đưa khăn ướt cho cụ lau mặt, rồi cụ ngủ thiếp đi. Đến Nha Trang, cụ thức dậy thì tên đó cùng cái túi của cụ đã biến mất.

Nếu là tiền bạc thì chắc chắn không thể tìm thấy. Nhưng bộ hài cốt, thì có thể kẻ cắp sẽ bỏ lại bên đường ngay sau khi mở ra. Vậy phải tìm suốt dọc hai bên đường, và phải nhớ chính xác từ đoạn đường nào ông cụ được tên kẻ cắp cho uống nước và lau mặt. Anh và ông cụ xuống xe đúng đoạn đường cụ nhớ - Anh vào tìm chính quyền địa phương trình bày. Bây giờ anh không còn nhớ hết tên những con người nhiệt thành của mấy xã ven đường đã huy động dân quân du kích rà tìm hết cả độ dài con đường qua xã. Cuối cùng họ đã thấy bộ hài cốt còn nguyên trạng thái mở ra trong cái hộp, để dưới lùm cây. Thật là may mắn, mừng đến phát khóc. Bây gườ anh không dám để mình ông cụ đi nữa. Anh mua vé xe, đưa cụ về đến tận làng, chỉ kịp đứng giữa sân trả lời sự thăm hỏi, lời cảm ơn của dân làng, rồi quay ra mua vé xe để về lại thành phố, nơi mà lúc đi vội vã anh đã phải nhờ anh Phượng y ta trông nom trạm hộ anh.


Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 17 Tháng Bảy, 2012, 03:07:39 pm
28    

Tháng 4-1995 sau khi đem hài cốt của Hòa về Vĩnh Bảo – tổng cộng anh Bản đã đưa bốn người về tận nhà như thế. Càng đi, bác sĩ Bản càng thấy sự khắc khoải chờ đợi như thế nào trong các gia đình. Đôi khi anh thấy nỗi thương đau chờ mong sự biệt tăm không tin tức về chồng con cha anh, đã trở thành một tình cảm mong ước duy nhất trước lúc chết. Nhiều người đã chết đi trong niềm khắc khoải đó.

Lần này anh Bản đi sáu tỉnh miền Bắc. Anh đi đến các địa phương để bàn kết hợp với chính quyền tiến hành hợp tác trong việc tìm kiếm. Sau nữa, anh kết hợp đem theo một số kỷ vật của liệt sĩ đã tìm được trong quá trình tìm được và bốc hài cốt các anh về nghĩa trang.

Theo địa chỉ của liệt sĩ Hoàng Tùng Nghị, sinh năm 1952, nhập ngũ năm 1969, hi sinh 1974 tại Đồng Lớn Củ Chi, anh Bản tìm về thôn Thông Tống Xuyến, xã Thái Hưng, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Anh biết liệt sĩ Nghị chiến đấu phối hợp cùng chiến trường, nhưng Nghị ở tiểu đoàn 8 pháo binh. Có một người cùng đơn vị còn sống về quê, nhớ là anh Nghị hy sinh ở Đồng Lạc Củ Chi. Gia đình viết thư nhờ anh Ba Hạc lúc đó làm phó giám đốc Công an thành phố Hồ Chí Minh, nhờ tìm giúp. Trong một cuộc họp, anh Ba Hạc đưa thư đó cho anh Bản, nhờ giúp đỡ. Cầm lá thư Bản đã ngờ ngợ ngay: Củ Chi nơi anh chiến đấu chỉ có Đồng Lớn, làm gì có Đồng Lạc? Có thể nhầm lẫn ở chỗ này chăng: ở Củ Chi không có địa danh tên Đồng Lạc, nhưng mà lại rất nhiều đồng lạc (đậu phộng) của dân trồng. Củ Chi nổi tiếng về đậu phộng. Chính điều này khiến người báo tin nhớ nhầm. Theo hướng đó, anh Bản đã tìm dần ra anh Nghị. Hôm nay anh Bản đã đưa anh Nghị về nghĩa trang, và anh đem theo kỷ vật gồm một bật lửa, đôi dép cao su và một dây thắt lưng, tim về Thái Bình.

Tìm về tới quê anh Nghị, thì dân làng cho biết là gia đình rất neo đơn, đã bán nhà đi rồi. Dân làng chỉ biết một địa chỉ này: gia đình anh Nghị ra Hà Nội. Còn ở phố nào thì của Hà Nội thì không ai biết.

Bác sĩ Bản trở ra Hà Nội. Anh lúng túng, tìm đến Sở Công an, vì nghĩ rằng Công an quản lý hộ khẩu, may ra tìm được dấu vết gì chăng. Nhưng rồi Công an làm sao biết được ai, gia đình nào trong hàng vạn gia đình Hà Nội có liên quan với liệt sĩ Nghị. Họ hỏi tên cha mẹ anh Nghị là gì, để có thể cố gắng tìm chăng. Anh Bản làm sao biết được – Công an chỉ cho anh sang sở LĐTBXH, nơi quản lý các gia đình chính sách. Nếu họ chỉ quản lý theo tên hộ gia đình thôi, mà không có tên liệt sĩ, thì cũng chịu. Rất may là anh đã lấy được địa chỉ ông Hoàng Văn Nhẫm, bố liệt sĩ Nghị hiện ở 52 Trần Xuân Soạn phường Ngô Thời Nhiệm quận Hai Bà Trưng. Nhưng đến đó, anh vẫn chưa gặp được ông Nhẫm. Ngời con gái tên là Hoàng Thị Kim Liên sau khi hỏi người khách “thưa chú là ai?” và biết được đây chính là người đã tìm ra anh mình thì cô òa lên khóc – Theo chân cô Liên, anh Bản lại phải tới một địa chỉ khác ở khu tập thể Đống Đa. Đến đúng nơi rồi, ông Nhẫm lại đi vắng sang nhà hàng xóm. Hình như ngày hôm qua đó số phận trớ trêu bắt người bác sĩ lếch thếch xách túi đi từ Hà Nội – Thái Bình – Hà Nội, qua ba, bốn địa chỉ - Còn ông Nhẫm thì hình như trời đất cho “trốn” đến cùng. Để đến khi nhận được tin, nỗi mừng tủi mới lên đến tột độ. Ông hoàn toàn bất ngờ. Khi nghe con gái kêu “bố ơi, có bác sĩ Bản ở miền Nam ra, người đã kiếm ra anh Nghị”, ông kêu khóc, kể rằng ông đã viết tới cả trăm lá thư, gửi tới bất cứ địa chỉ nào liên quan đến chính sách, nhưng thư đi không có thư về, không ai trả lời anh một câu. Có lẽ là những lá thư như thế quá nhiều, và người nhận cũng chưa tìm ra được dấu vết gì để trả lời. Ông sống để viết những lá thư gửi đi mà không còn trông đợi hồi âm. “Thế mà đùng một cái” – Ông cầm các kỷ vật, ôm vào ngực gọi tên con và khóc lặng đi. Anh Bản đưa cho ông một lá thư. Đó là chiếu phong bì địa chỉ nơi gửi là Hội Chữ thập đỏ Tân Bình – những lá thư báo tin của các anh thường gửi cho gia đình sau khi đã tìm được hài cốt liệt sĩ – Nhưng ở phong bì có ghi “trả lại người gửi gì ở Thái Bình không có người nhận”. Sau khi nghe anh Bản kể lại việc anh tìm ra ông như thế nào, người cha liệt sĩ ngồi chết lặng. Ông ngắm nhìn người khách lạ, miệng lẩm bẩm: “Trời ơi, thời buổi này còn có một người như vậy sao? Ông không phải một người bình thường, có lẽ ông là một ông thánh. Tôi xin mời ông ở lại đây để tôi mời họ hàng đến tạ ơn ông…”. Bác sĩ Bản xin khất, anh an ủi ông cụ và nói rằng việc làm này lẽ ra toàn thể mọi người có thể làm được nếu phải làm, bây giờ mới tìm ra hài cốt liệt sĩ là có tội, vì đã quá lâu rồi. Anh Bản chỉ vào đồ đạc: “Đây này ông xem, cháy còn mấy bọc phải giao cho các gia đình. Họ cũng như ông, đang khắc khoải chờ đợi và không hay biết gì. Cháu không có quyền kéo dài giây phút đau khổ đó, khi mà tin tức và kỷ vật có đây rồi. Cháu phải đến ngay, đến nhanh nhất. Cháu không còn thời gian”. Thắp nén hương trên bàn thờ, rồi anh xin phép đi.

Hành lang khu tập thể bắt đầu chật nhưng người. Hàng xóm nghe tin kéo đến, thấy ông cụ vẫn đang có kéo khẩn khoản mời người khách lạ. Bà con cũng khóc theo ông, và thật bất ngờ: cả một xấp mỏng các giấy báo tử được gom lại gửi cho anh, nhờ tìm hộ. “Trời ơi, tất cả giấy báo tử chỉ ghi: đã hy sinh tại mặt trận phía Nam” – Anh Bản thầm kêu lên trong lòng – Đó là tất cả những gì người ruột thịt biết về con em mình. Chuyện này anh đã gặp nhiều rồi, hôm nay giữa Thủ đô Hà Nội, sau mấy chục năm hòa bình, anh vẫn còn tiếp tục nhận được những tờ giấy báo tử hoen ố vì thời gian và nước mắt…

Cũng thời gian đó, anh còn trải qua một sự trùng hợp kỳ lạ hơn. Anh đi tìm nhà của liệt sĩ, cũng tên là Nghị - Vũ Tiến Nghị. Anh Vũ Tiến Nghị, cũng quê ở Thái Bình. Anh lặp lại cuộc hành trình giống nhau như đúc: từ Hà Nội anh về Quỳnh Phụ Thái Bình, người làng lại cho biết gia đình anh Nghị cũng đã dọn ra Hà Nội ở. Từ Thái Bình, Bản lại xách cái túi có kỷ vật của anh Nghị gồm một dây thắt lưng, một vỏ hộp sữa gui-gô, một cuộn băng keo và nắp hộp dụng cụ y tế (anh Nghị là y tá) để trở lại Hà Nội, tìm ra người em của liệt sĩ là anh Vũ Tiến Minh công tác tại Công an Hà Nội. Thật là một sự trùng hợp hy hữu: Hai anh Nghị ở Thái Bình, và hai vòng đi: Hà Nội – Thái Bình – Hà Nội.

Chuyến đi tìm về nhà liệt sĩ Đỗ Văn Đông về xã Nhân Hòa, Vĩnh Bão, Hải Phòng, anh không có nhiều kỷ vật để trao lại cho gia đình của người bạn cùng nhập ngũ với anh một ngày. Anh chỉ có một lọ peniciline và mảnh giấy viết tên họ, quê quán nhét phía trong.

Tiếng là bạn cùng quê, nhưng họ biết nhau nhiều ở chiến trường, hơn là hồi còn ở quê nhà. Anh Bản đến tìm mà không biết sẽ gặp ai – bố mẹ Đông còn mất, nhưng thường đúng như phong tục Việt Nam, anh còn lo mua đường sữa – đề phòng các cụ già yếu. Bước vào nhà người liệt sĩ, chỉ có cô em gái – Cô đi gọi mẹ về. Ngồi một mình, nhìn lên bàn thờ, anh Bản giật mình. Trong Bảng Tổ quốc ghi công, có tên liệt sĩ, nhưng tên là Đỗ Văn Phồng. Không lẽ anh đã đến nhầm nhà? Rõ ràng trong tờ giấy ghi liệt sĩ Đỗ Văn Đông sinh năm 1949, quê quán đúng đây rồi. Hay là trong lúc bốc hài cốt đã bị nhầm lẫn cái lọ peniciline này chăng? Nếu không phải, để gia đình mừng hụt thì tội vô cùng. Bản bồn chồn. Anh quyết định không đưa cái lọ ra vội. Nếu như nhầm, thì coi như đây là một cuộc viếng thăm gia đình thôi. Anh Bản cất cái lọ vào trong túi.

Bà cụ hớt hải chạy về, quần xắn ống thấp ống cao, loang lổ ướt. Hình như mẹ đi hái rau muống. Bà hỏi người lạ: “Chào anh. Anh là ai?” Anh Bản biết rằng nói tên anh ra, mẹ sẽ chẳng có khái niệm gì. Kinh nghiệm bao nhiêu lần nói với các mẹ ở trong làng, tốt nhất anh hỏi xem bà có biết mẹ anh không. Ở làng quê, thanh niên đi xa lâu ngày có thể các mẹ không nhớ. Nhưng nếu nói con nhà ấy, nhà ấy,… thì rất có hy vọng – “Bác có biết bà Hán…?” “Bà Hán vẫn đi chờ cùng – Bà hay sang chợ huyện bán rau…” Thế này là như người nhà rồi. Anh có thể hỏi. “Sao bảng Tổ quốc ghi công lại có tên Đỗ Văn Phòng là sao hở mẹ?”.

Bà cụ ngớ ra, quay lại giục con gái: “Mày vào lấy giấy ra cho anh xem, con”. “Chính mày gửi giấy này, sao quên rồi à?”

Anh nhận ran gay cái thư quen thuộc của Hội Chữ thập đỏ Tân Bình báo tin đã tìm ra liệt sĩ. “Chết rồi. Chính chữ con ký, con gửi, sao gia đình không gửi thư cho con để báo tin đã nhận?”. Bà mẹ bắt đầu kể: “Tao tính cố gắng làm lụng dành dụm ít tiền rồi vào đó luôn thăm thằng Phồng, nên không viết thư. Nghĩ là đằng nào cũng sẽ vào cảm ơn Hội, cảm ơn anh. Vậy mà rồi chưa đi được. Phải tốn nhiều quá, tính phải dành tới mấy tạ gạo mới đủ thêm vào tiền tàu xe.” Thì ra là liệt sĩ Đỗ Văn Phồng con của mẹ, cũng do Hội của anh tìm ra. Chuyện của liệt sĩ Đỗ Văn Đông chắc là nhầm lẫn gì đây. Bản đành im lặng không dám nhắc gì đến cái lọ trong túi. Anh quay qua hỏi thăm chuyện liệt sĩ Đỗ Văn Phồng, mà bây giờ anh mới nhớ ra. Chính liệt sĩ Phồng, còn có một tấm hình do ông Bun-dô chụp – Tất nhiên là chụp chiếc quan tài phủ vải đỏ trong lễ truy điệu – Anh nhớ rõ tấm hình, trong đó có cái biển chữ rất to “Liệt sĩ Đỗ Văn Phồng”.

“Hôm xã đem giấy báo tin vào, mẹ mừng quá con ạ. Không bao giờ ngợ lại có may mắn đến thế. Xã bao nhiêu người đi, mà rất ít ai tìm được…” Rồi anh giật mình khi nghe mẹ hỏi: “Còn thằng Đông đi sau đó, cùng đợt với mày, giờ ra sao rồi con có biết không?” “Ủa. Thế là mẹ có hai con đi bộ đội sao? Anh Đông và anh Phồng là hai anh em sao?”. Anh Bản mừng mừng tủi tủi khi thấy bà mẹ bắt đầu nức lên khóc: “Chết hết con ạ” – Anh đỡ lấy mẹ - anh bắt đầu lấy chiếc lọ peniciline – “Con kiếm được cả anh Đông rồi. Đây là tờ giấy con ghi đây, con mang cả cái lọ về cho mẹ. Chúng con đã đưa anh Đông vào nghĩa trang liệt sĩ. Khi nào mẹ có điều kiện vào thăm cả hai anh…”


Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 17 Tháng Bảy, 2012, 03:16:22 pm
29.   

Những chuyến đi gian khổ nhất lần ấy là đi về Hà Tĩnh. Anh Bản không ngờ trong thời kỳ thị trường này miễn có tiền, không thiếu gì các dịch vụ - Khách hàng đã được gọi là thượng đế - vậy mà lần đi này của anh thì không – Anh đã lội bộ đến rách hết cả giày, tìm nhà liệt sĩ Nguyễn Viết Thắng ở một vùng xa miền núi giáp nước bạn Lào.

Anh đi ô tô hàng, bắt đầu từ Vĩnh Bảo quê anh. Công an ở một thị xã thổi còi, nhưng người lái xe với lý lẽ xe tuyến Bắc-Nam chỉ chịu ba trạm kiểm soát theo đúng qui định, nên không chịu dừng xe. Thế là anh ngồi trên xe, chịu cuộc đuổi bắt. Anh bực bội hết sức khi chiều xuống rồi, xe lại hư. Qua thanh minh tháng tư rồi, nhưng thời tiết miền Trung vẫn rét, lại mưa nữa. Tám giờ ba mươi tới anh mới tới thị xã Hồng Lĩnh. Anh không có áo mưa. Hai bộ quần áo thay đổi thì một bộ trên người, một bộ ở ba lô giờ đây ướt sung. Anh lang thang kiếm quán ăn, hỏi thăm đường sá để về Hương Sơn. Người ta nói đi 45 km tới trung tâm, lại còn phải đi bộ. Địa chỉ anh tìm ở tận đội 3 Sơn Lĩnh. Bản đành ngủ trọ lại một đêm, hôm sau đi sớm. Sáng nay anh hỏi xem ô tô nào vào Sơn Lĩnh, mới biết ở đây có xe ôm thồ. Đường xa hơn 30 km, mà khi anh hỏi giá chỉ có bảy ngàn đồng. “Trời ơi hơn 30 km mà bảy ngàn. Cực rẻ.” Bản chưa hiểu sao có giá bất ngờ như vậy, vì anh nghĩ đến xe ôm ở các đô thị. Bản đưa chiếc ba lô ướt sũng, trong đó có hơn một triệu đồng cho người lái xe treo phía tay lái. Đi đường vắng, xứ lạ, cứ cẩn thận đã. Anh bảo: Treo ba lô lên phía trước đi, chẳng có gì trong đó hết, có đọc bộ quần áo ướt. Có ít tiền đi đường thì nhét túi áo rồi…

Sau này nghĩ lại, Bản mới biết là anh đã bị nhiễm thói cảnh giác thường trực trong đời sống đô thị, nhưng đem về áp dụng ở đây là quá lo xa. Vùng núi hoang sơ này còn nghèo, nhưng khá trong lành, cả về mặt con người.

Bốn giờ chiều, anh đi tiếp, bụng đói meo. Thấy một nhà có treo các gói mì để bán, anh rẽ vào xin ít nước nóng, mua mì ăn tạm, tính ăn xong có sức sẽ lên đường ngay. Không ngờ đi tìm địa chỉ đó anh đã mất tới hần hai ngày đường. Bây giờ chỉ còn lại chặng cuối, ở sâu trong miền núi. Cầm bát mì lên ăn, Bản không sao nuốt được. Mì hôi không thể tả. Nếu cho anh xác định thời gian sản xuất gói mì này thì nhất định anh sẽ nói là nó được sản xuất từ… trước giải phóng cũng không ngoa. Bản còn “phát sốt rét” lên khi đối thoại với bà chủ của gói mì độc đáo:

- “Bà ơi vào đội 3 còn xa không?”. “Gần lắm, sắp đến rồi, chỉ đi bộ thôi không có xe nào vào đến đó.” “Đi bộ khoảng bao xa?” “Nếu đi nhanh chỉ mất ba giờ đồng hồ.”. “Bà ơi có ai đi vào trong đó không” – Bản tính đi theo. “Giờ này không ai vào đó nữa. Chờ sáng mai người ta đi làm thì đi theo”.

Bây giờ mới bốn, năm giờ chiều, chả lẽ chịu đựng ở đây chờ đến tận sáng mai? Bản quyết định đi lên đường, sau khi ngở lời với một bà già ở nhà bên cạnh. Anh xin bà dẫn đi rồi sẽ bồi dưỡng tiền cơm cho bà.

Họ lên đường. Người đàn bà đi trước, Bản theo sau với chiếc ba lô ướt và đôi giày đây bùn, dính nhem nhép dưới chân. Bà dẫn đường đưa cho anh một tàu lá cọ làm ô che. Đôi giày dưới chân Bản oạc oạc nước theo mỗi bước chân, rồi bục rách. Thấy Bản đã mệt, uống nước lã ùng ục, bà già lấy chiếc ba lô của anh đeo, rồi cắm cúi đi. Bản không ngờ trong các làng quê xa ở miền Trung vẫn có những con người như thế này. Bà già nhưng đi lại quen, nên bước khá nhanh. Ít nói, chân thật như người sống hoang sơ, không biết cả xã giao tối thiểu. Lúc qua suối, bà cũng chẳng ý tứ gì, Bản phải nấp vào bụi rậm chờ cho bà qua trước rồi anh mới ra. Vậy mà không biết ý, bà cứ réo gọi ầm ầm như sợ anh lạc đi đâu mất.

Lội qua được con suối, Bản quyết định liệng đôi giày giờ đã banh ra không bước nổi. Anh đi chân đất. Chín giờ tối, mới tới nơi – Làng xóm thưa thớt gần biên giới, tối thui không đèn đóm, như tất cả chìm vào đêm sâu. Đến đội 3 rồi, bà lại còn phải lội bộ trở về trong đêm. Bản xót xa, đưa biếu tiền. Bà cầm đồng bạc soi dưới đèn hỏi: “Cái chi?”. “Hai mươi ngàn biếu bà gọi là.”. “Cái ni mần chi?”. Thì ra là bà chưa hề biết mặt tờ giấy hai chục ngàn. Anh giải thích, bà vẫn không nghe, chỉ biết đó là món tiền lớn quá chưa ai trả bà cho bất cứ việc gì tới ngần ấy. Bà bảo chỉ lấy năm ngàn, đã là rất nhiều rồi. Giá mà bà biết anh đi vào đây làm gì, chắc chắn sẽ không chịu lấy tiền. Nhưng suốt dọc đường đi, anh không tiết lộ điều này.

Từ đây lên nhà liệt sĩ Thắng, còn phải đi bộ leo qua 3 km vườn, đồi, không người dẫn đường. Bản đành ngủ lại ngôi nhà gần nhất. Anh căng võng, và lại qua một đêm trên vùng núi lặng thầm. Ở đây nhà dân thưa thớt. Gọi là đến đội 3 rồi, nhưng đi từ nhà này sang nhà kia cũng phải vài km.

Sáng hôm sau, anh leo qua vườn đồi để tìm đến nhà có hai vợ chồng ông cụ già – bố mẹ liệt sĩ Thắng – Bà cụ òa khóc, ôm lấy anh: “Tôi không thể tưởng tượng nổi anh đi như vậy. Tôi biết lấy gì đền đáp ơn này”… Cũng như những nơi anh đến, bà mẹ giữ lại. Nhưng chuyến đi này, anh đâu chỉ làm một việc. Bản còn ra làm việc với Sở Thương binh Xã hội Tỉnh, với các huyện – Mà anh đã mất hai ngày rồi. Bản phải chờ chiều mới ra xã báo được, vì họ chỉ làm việc từ hai đến bốn giờ. Khi anh ra xã, tất cả mọi người đều sửng sốt hết. Ngoài cái việc tuyệt vời anh tìm ra liệt sĩ, thì ngay cái việc anh lặn lội xuất hiện ở nơi này cũng đủ làm cho họ kinh ngạc.

Sau này về lại thành phố Hồ Chí Minh, Bản nhớ lại vùng núi ấy – “Tôi rất muốn ở lại đó sống với bà con vài ngày. Đó là một thế giới trong lành khác hẳn. Nhưng mà không có thì giờ” – Đó là anh nói về chuyến đi đến nhà liệt sĩ Nguyễn Đức Hiền, quê cũng ở vùng núi Hương Sơn này.

Trong một chuyện về Củ Chi thường lệ, Bản tìm được sáu bộ hài cốt, có cả sáu cái lọ peniciline, nên Hội Chữ thập đỏ Quận Tân Bình đã gửi thông báo về cho phòng LĐTBXH huyện Hương Khê, nhờ ngoài đó báo tin cho gia đình liệt sĩ.

Nhưng vào tháng 11-1993 anh nhận được công văn  trả lời của phòng LĐTBXH huyện Hương Khê báo tin họ đã tra cứu hồ sơ nhưng không có tên liệt sĩ thứ sáu là Nguyễn Đức Hiền vì không phải người của địa phương, chỉ đúng năm trường hợp.

Bác sĩ Bản nhớ lại khi đào lên sáu cái lọ, trong đó có một lọ giấy bên trong bị mờ, nơi quê quán hình như chỉ còn đoán được chữ “Tĩnh” – May là cả nước ta chỉ có một tỉnh Nghệ Tĩnh, chứ nếu chữ đó là Bình thì sẽ không biết Bình nào – Thái Bình hay Bình Định, Bình Trị Thiên, Ninh Bình… Hoặc đó là chữ Hà, sẽ không biết Hà Bắc, Hà Nội, Hà Tây hay Hà Tiên… Giờ đây chắc chắn phải tìm từ Hà Tĩnh. Anh gửi hai công văn đếu không có trả lời. Cho đến đợt đi này, Bản quyết định cầm cả mảnh giấy mờ nhạt đó theo. Bản gặp ông trưởng phòng chính sách, đưa tờ giấy và kính lúp đem theo, nhờ mọi người cùng xem. Họ lục trong hồ sơ, mất hơn ba tiếng đồng hồ mới tìm ra: Liệt sĩ Nguyễn Đức Hiền cũng quê ở Hương Sơn.

Đó là sau ngày Bản tới nhà liệt sĩ Thắng ở đội 3, Sơn Lĩnh, đến rách cả đôi giày. Anh đi bộ từ đó thêm hai giờ nữa thì tới nhà của liệt sĩ Hiền. Lúc đó khoảng mười giờ sáng. Anh bước vào ngôi nhà vắng nằm trên một đồi cỏ yên tĩnh và đầy nắng. Ngôi nhà trống vắng, trông cũng thấy cảnh nghèo nàn. Nhà không có cửa để đóng – Chỉ có một tấm phên đan, đêm kéo xuống, ban ngày chống lên – Vậy là một xứ không hề có trộm cắp. Anh bước vào nhìn ngắm ngôi nhà: như tất cả các căn nhà nông dân, một bộ bàn ghế cũ, phía trên có bàn thờ. Anh đọc trong Bảng Tổ quốc ghi công, thấy đúng tên liệt sĩ Nguyễn Đức Hiền sinh năm 1958. Bản còn biết rõ anh Hiền hy sinh ngày 30-10-1980, đơn vị F367… nhờ có mảnh giấy trong lọ. Anh ra sân, không biết gọi ai. Nhờ không có chó, xung quanh êm ắng cả. Anh lần theo con đường mòn, đi khoảng 30 mét đến gần một nhà khác thì có bà cụ hỏi anh đi đâu. “Cháu vào nhà này không ai ở nhà…” Bà cụ chỉ cho anh lối ra cánh đồng. Người cha của liệt sĩ đang làm đồng ngoài đó.

Lòng anh se lại khi nhìn thấy ông cụ tới 80 tuổi mặc quần đùi, cái áo xanh rách lưng, đang lặng lẽ dãy cỏ ở giữa đồng vắng. Khi nghe Bản hỏi “Thưa chú có phải là cha của anh Nguyễn Đức Hiền không?”, ông cụ gầy đen, ngước mắt lên dưới vành nón rách. Ông như cảnh giác, hoặc như có chút phản ứng gì đó vì bỗng nhiên một người lạ mặt nói ra tên con ông, cái tên từ lâu lắm chỉ là nỗi đau lặn sâu trong lòng, cái tên sẽ không bao giờ gọi ra hàng ngày nữa. “Hỏi chi rứa? Nó chết mất rồi”. Sau phút đường đột, ông cụ nói trong lúc nước mắt bắt đầu rơi. Khi Bản giới thiệu anh ở ngoài tỉnh vào (nói miền Nam thì cụ chắc chả hình dung) – anh đã tìm được hài cốt của Hiền, ông cụ đột ngột bỏ luôn cái cào cỏ, nắm lấy tay Bản kéo anh về nhà. Ông chỉ chỗ mời ngồi, rồi đi pha trà. Nhìn cái ấm, Bản nghĩ có dễ tới cả năm rồi chưa có người pha. Bản theo ông cụ ra giếng, nơi cụ hái chè tươi rửa sạch, không vò nát mà xắt nhỏ cho vào ấm tích – rồi ông đi đun nước, lặng lẽ không nói gì nhiều. Để người khách ngồi chờ, ông đi một lúc rồi về.

Lúc nãy hàng xóm vắng ngắt vậy mà bây giờ người ta kéo đến đông đầy nhà. Ông cụ giới thiệu: “Anh này đã tìm được thằng Hiền rồi”.

Lúc ông bước vào nhà lấy nhang thắp, Bản giật mình thấy có lỗi. Ông cụ thắp nén nhang đầu tiên lên bàn thờ Bác Hồ riêng biệt, mà lúc nãy Bản không thấy, nên chỉ thắp trên bàn thờ liệt sĩ. Rồi ông thắp nhang trên bàn thờ vợ, lẩm nhẩm báo cho vợ biết đã tìm thấy con rồi. Sau đó ông mới cắm nén nhang nữa vào nén cháy dở lúc nãy Bản thắp. Xong việc thắp nhang, ông mới quay ra hỏi anh tên tuổi. Bản giở hồ sơ, giấy tờ của liệt sĩ Hiền cho ông xem. Ông ôm Bản khóc. Đã bao lần Bản ở trong các vòng tay của cho mẹ liệt sĩ già nua run rẩy như thế này, lòng anh đau đớn lặng đi, nó như một cục đá nuốt chửng sâu vào ruột, nằm ở đó không tan đi được, nhưng cùng không lộ ra dấu hiệu gì bên ngoài được. Anh mà còn như thế, huống hồ cha mẹ của liệt sĩ… Bản lựa lời an ủi. Anh kể lại chuyến đi. Ông cụ nghe và dần rõ mọi sự, chỉ có điều ông chưa hiểu vì sao có một người lạ đi làm việc này. “Vì sao anh đi thế này, tôi thật không hiểu” – Còn bà con thì nói với Bản: ở vùng này xưa nay chưa bao giờ có chuyện như thế. Buổi chiều, Bản cũng ra làm việc với xã – Người cán bộ xã cũng đưa giấy tờ, nhờ Bản tìm hộ một người em của ông, mà đến nay Bản vẫn chưa tìm được. “Các anh ở xã cố tạo điều kiện cho ông cụ vào thăm mộ con. Trông ông ấy tội nghiệp quá. Nếu các anh có khó khăn thì cố lo cho cụ tiền lúc vào. Còn chuyến cụ ra để chúng tôi lo cho.”

Vậy mà đến hôm nay, sau hai năm trời, Bản vẫn chưa thấy ông cụ ấy vào. Không rõ vì lý do gì, thiếu tiền hay là yếu đau – Cụ còn hay mất… Ngay đến tên ông cụ là gì Bản cũng không còn nhớ nữa. Nhưng anh không bao giờ quên được cái làng quê xa thẳm trên miền núi biên giới ấy. Ở đó có cái gì khác hẳn với nhưng miền anh đã đi qua. Cả một vùng dân cư ấy, nhà nào cũng có con liệt sĩ, hầu hết họ đều không có một tin tức nào về con cái mình ra đi từ ngày ấy. Nhà nào cũng có bàn thờ Bác Hồ. “Người ta nghèo vô cùng. Tờ giấy bạc mười ngàn có người chưa biết, chưa bao giờ họ có tờ giấy bạc lớn. Nhiều người đi làm công chỉ để có cơm ăn hai bữa, chứ không có tiền. Đất đai rất nghèo nàn. Suối sâu. Chỉ trồng trọt nhờ vào mùa mưa, vì ruộng bậc thang trên đồi từng nấc nhỏ xíu. Ruộng lúa vô cùng ít ỏi, đất đá nhiều, họ trồng cọ, đậu phộng, đậu xanh, sắn. Điện vẫn không có. Ở xã người ta nói đang cố gắng nhà nước và dân cùng làm. Nhưng nhà nào cũng nghèo, cuối cùng vẫn chịu cảnh tối om…”

Bác sĩ Bản nhớ lại hình ảnh trẻ em đi học toàn đi chân đất. Quần áo còn vá, nhàu nát, làm gì có chuyện ủi, điện không có. Nhưng cô gái nào cũng đẹp. Họ mà được ăn mặc như con gái thành phố thì khỏi phải nói.


Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 17 Tháng Bảy, 2012, 03:18:51 pm
30.   

Đã đi và sống nhiều vùng đất nước, vì sao Bản nhớ mãi vùng quê ấy? Họ nghèo đến bất ngờ, nhưng các mối quan hệ hàng xóm thân thiết với vẻ ruột thịt chẳng hề giống các thành phố anh qua. Gặp nhau người ta mừng rỡ như gặp người ruột thịt quí hóa. Sống chân chất, thật thà, mình nói sao họ tin vậy. Khi anh rời làng, gần như là cả một đám đông, không phải tiễn chân đến cổng làng, mà cứ lũ lượt đi theo như thế phía sau anh, tới cả tiếng đồng hồ không rõ là họ sẽ đi theo tới đâu nữa. Nhiều lần Bản khẩn khoản: “Thôi các cụ, các bác, anh chị về đi để cho tôi đi” – Nhưng khi ngoái lại, anh vẫn thấy đám đông lặng lẽ đi theo sau. Họ không nỡ rời người khách. Thật ra chỉ đi bộ khoảng hai tiếng là tới nơi, nhưng hôm đó tám giờ tối Bản mới ra đến thị xã Hồng Lĩnh để sáng hôm sau phải ra Vinh, lên tàu Bắc Nam. Đây là tỉnh cuối cùng trong lộ trình của anh. Ngày đã hết, tiền đi đường cùng cạn, anh phải về, mặc dù, anh rất muốn sống ở đó thêm ít ngày. Bản đã qua cả cuộc chiến tranh tàn khốc và anh dũng, nay bước vào tuổi 50, anh mới hiểu thế nào là khói lam chiều, nhờ vào khung cảnh làng quê đó của người liệt sĩ mà anh không hề quen biết ở đó, Bản đã thấy cảnh đẹp của núi và mây chiều phủ xuống, bên dưới là làng quê xanh lá cây. Khói từ các mái bếp bay lên, nhưng không tới được chân mây. Vì thế nó cùng với mây chia đôi một khoảng không trong veo. “Ngày nhỏ đi học, cứ đọc như con vẹt về khói lam chiều. Đây chính là khói lam chiều ấy đây”.

Một làng quê hiền hòa yêu dấu, với người xa lạ đến mấy còn thấy lòng thổn thức vấn vương. Chắc chắn hình ảnh quê nhà đầy thương nhớ này đã theo các anh bộ đội ra chiến trường. Nó chính là nỗi nhớ thương quê – mà các anh, thực chất mới chỉ là học sinh rời ghế nhà trường – trong ấy có mang theo bao nhiêu nỗi nhớ thương cha mẹ, xóm làng… Bản thấy cái cục đau thương nuốt sâu trong lòng ấy như muốn phá tan vẻ bình thản bên ngoài, khi anh hình dung ra các buổi chiều trong xóm nhỏ ấy, bàn tay mẹ cha thắp ngọn lửa trong khói lam chiều cho bữa ăn tối, lòng họ cũng như ngọn lửa. Biết hướng về nơi nào để nhớ thương đứa con ra đi không trở lại, không biết đang nằm ở nơi nào, trên dãy Trường Sơn hùng vĩ, hay ở một làng quê nào đó, làng quê phương Nam, mà người dân quê ở đây chưa một lần biết tới.

“Đừng nói tôi đã làm được gì” – Bác sĩ Trần Văn Bản thường nghiêm sắc mặt lại khi có ai hỏi đến việc làm của anh. Đôi lông mày quá đen bỗng tạo cho anh vẻ khác thường. Anh như bỗng nhiên bị đau đớn ở đâu đó trong người: “Tất cả chiến sĩ của đơn vị tôi còn sống sót rất ít đến hôm nay, tất cả đều là thương binh,  và rất tích cực tham gia việc tìm kiếm đồng đội. Làm sao cho mọi người không quên, hãy đi tìm kiếm.”

Đảng và Nhà nước đang phát động việc làm này. Còn rất nhiều người có làng quê, tên tuổi, cha mẹ họ hàng, mà vẫn vô danh. Họ nằm trên rừng xa, trong thung lung vắng, một sườn đồi không người qua lại, hoặc có người đi qua hàng ngày mà không biết. Tất cả điều này không phải chỉ vì bản thân họ xứng đáng được đem về nơi thờ cúng, được khắc trong bia đá, được viết trong lịch sử… Mà còn vì tình thương nhớ của người thân vẫn tiềm tang sâu sắc trong im lặng – Đó chính là một trạng thái tâm hồn của cả dân tộc không quên quá khứ. Những linh hồn chỉ sống khi đời không quên họ. Cũng giống như tổ tiên sống trong sự thờ cúng của con cháu. Đó là phần quan trọng trong đời sống tâm linh của một dân tộc, của nhân loại đang ngày càng phải sống trong một thế giới nhiều lý tính.

TP Hồ Chí Minh tháng 6-1996.


Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 21 Tháng Bảy, 2012, 10:43:14 am
PHỤ LỤC

DANH SÁCH LIỆT SĨ ĐÃ ĐƯỢC QUY TẬP (TRÍCH)

Người lập danh sách: Bác sĩ TRẦN VĂN BẢN

(Mọi người có thể tải file word dưới đây để xem, yêu cầu phải đăng nhập)


Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 02 Tháng Tám, 2012, 06:28:43 pm
Một số hình ảnh trong cuốn sách.

(do được chụp bằng điện thoại nên chất lượng ảnh không được tốt lắm, mọi người thông cảm.)

(http://i1093.photobucket.com/albums/i427/crawling0805/Photo-2201.jpg)


Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 02 Tháng Tám, 2012, 06:29:13 pm
(http://i1093.photobucket.com/albums/i427/crawling0805/Photo-2202.jpg)


Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 02 Tháng Tám, 2012, 06:29:35 pm
(http://i1093.photobucket.com/albums/i427/crawling0805/Photo-2203.jpg)


Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 02 Tháng Tám, 2012, 06:30:12 pm
(http://i1093.photobucket.com/albums/i427/crawling0805/Photo-2204.jpg)


Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 02 Tháng Tám, 2012, 06:30:31 pm
(http://i1093.photobucket.com/albums/i427/crawling0805/Photo-2205.jpg)


Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 02 Tháng Tám, 2012, 06:30:49 pm
(http://i1093.photobucket.com/albums/i427/crawling0805/Photo-2206.jpg)


Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 02 Tháng Tám, 2012, 06:31:08 pm
(http://i1093.photobucket.com/albums/i427/crawling0805/Photo-2207.jpg)


Tiêu đề: Re: Tôi Chết, Bắt Đầu Một Thế Giới Sống - Nguyễn Thị Ngọc Hải
Gửi bởi: crawling0805 trong 02 Tháng Tám, 2012, 06:31:52 pm
(http://i1093.photobucket.com/albums/i427/crawling0805/Photo-2208.jpg)