Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: macbupda trong 12 Tháng Năm, 2012, 10:07:14 am



Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 12 Tháng Năm, 2012, 10:07:14 am

(https://www.quansuvn.net/index.php?action=dlattach;topic=31677.0;attach=23296;image)

Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định
Năm xuất bản: 1992
Số hóa: macbupda

Chỉ đạo nội dung:
THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY
ĐẢNG BỘ, BỘ CHỈ HUY QUÂN SỰ TỈNH BÌNH ĐỊNH

Người viết:
Trung tá NGUYỄN HOÀI AN

Hoàn chỉnh bản thảo
Đại tá VÕ PHI HỒNG
Thiếu tá HOÀNG HỮU KHÓA

Sưu tầm và xác minh tư liệu:
BAN TỔNG KẾT LỊCH SỬ QUÂN SỰ BỈNH ĐỊNH

MONG BẠN ĐỌC GÓP Ý KIẾN PHÊ BÌNH

(http://nm2.upanh.com/b5.s26.d1/9eae8f0b7faf0620a94970eb592e833c_44621022.tuongdai.jpg)

Tượng đài chiến thắng Quy Nhơn


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 12 Tháng Năm, 2012, 10:08:38 am
LỜI NÓI ĐẦU

Bình Định là một trong những tỉnh đất rộng, người đông ở Trung Trung bộ - Việt Nam; nơi có giá trị chiến lược quan trọng cả về kinh tế và quốc phòng trong chiến tranh giải phóng cũng như chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.

Trải qua hàng nghìn năm đấu tranh với thiên nhiên để tồn tại phát triển, nhân dân các dân tộc ở Bình Định đã hun đúc nên tinh thần thượng võ, ý chí quật cường và lòng quả cảm; liên tục vùng lên chống lại áp bức bất công của các tập đoàn phong kiến trong nước và giặc ngoại xâm.

Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, lãnh đạo cách mạng Việt Nam; Đảng bộ Bình Định được thành lập đã nhanh chóng phát triển tổ chức, lãnh đạo nhân dân trong tỉnh vùng lên tiến hành đấu tranh cách mạng, cùng nhân dân cả nước làm cuộc cách mạng Tháng Tám thành công.

Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Đảng bộ Bình Định nắm vững quan điểm bạo lực cách mạng của Đảng, dựa vào dân tổ chức lãnh đạo nhân dân trong tỉnh phát huy truyền thống quật khởi, tự lực, tự cường, bền bỉ tiến hành Cuộc chiến tranh nhân dân ở địa phương, góp phần cùng nhân dân cả nước đưa sự nghiệp cách mạng của Đảng đến thắng lợi mùa xuân 1975 lịch sử - mở ra một thời kì mới của cách mạng Việt Nam - thời kì cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Để ghi lại chặng đường lịch sử đã qua, Đảng ủy - Bộ chỉ huy quân sự tỉnh tổ chức biên soạn cuốn “Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm” nhằm phản ánh cuộc chiến tranh giải phóng mà Đảng bộ đã tổ chức lãnh đạo nhân dân trong tỉnh tiến hành lâu dài, đầy hi sinh gian khổ nhưng cũng đầy thắng lợi vẻ vang, xứng đáng với truyền thống quê hương người anh hùng áo vải Quang Trung - Nguyễn Huệ.

Nhân dịp này, chúng tôi chân thành cảm ơn Bộ Tư lệnh Quân khu V, các đồng chí lãnh đạo Khu ủy V, các đồng chí lãnh đạo Tỉnh ủy, chỉ huy qua các thời kì, các đồng chí Bộ chỉ huy sư đoàn 3, phòng lịch sử Quân khu V đã đóng góp nhiều ý kiến quý báu để cuốn sách được ra mắt bạn đọc. Tuy người viết có nhiều cố gắng nhưng không sao tránh khỏi nhưng thiếu sót, mong các đồng chí và bạn đọc chân thành góp ý để cuốn sách đạt chất lượng cao hơn.


Ủy viên Trung ương Đảng
Bí Thư Tỉnh Ủy

(http://nm3.upanh.com/b3.s26.d2/6dcd96345993eaff3b2d601d13eb4660_44620563.chuki.jpg)

NGUYỄN TRUNG TÍN


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 12 Tháng Năm, 2012, 10:11:15 am
Chương mở đầu

BÌNH ĐỊNH - VÙNG ĐẤT THƯỢNG VÕ
MANG TRUYỀN THỐNG QUẬT KHỞI

I - ĐỊA LÍ TỰ NHIÊN - ĐIỀU KIỆN KINH TẾ - XÃ HỘI(1):

Tỉnh Bình Định nằm vào khoảng giữa Trung Bộ - Việt Nam, ở 13o03’ đến 14o42’ vĩ bắc; 108o36’ đến 109o22’ kinh đông. Phía Bắc giáp tỉnh Quảng Ngãi; phía Nam giáp tỉnh Gia Lai; phía Đông giáp biển Đông; cách Hà Nội 1065km, cách thành phố Hồ Chí Minh 649km.

Từ xa xưa, Bình Định là một vùng đất hoang sơ, nơi cư trú của các bộ tộc bản địa. Cộng đồng các dân tộc trên là những người khai sơn phá thạch, đấu tranh với thiên nhiên xây dựng nên vùng đất náy. Người Chăm với sự lãnh đạo của các lãnh tụ của mình đã xây dựng vùng đất này thành một quê hương trù phú và một nền văn hóa rực rỡ với những quần thể tháp đôi, tháp ba, những thành quách kì vĩ mãi với thời gian.

Về sau, qua những biến thiên của lịch sử, người Kinh từ miền Bắc lần lượt tiến vào phương Nam đứng lại mảnh đất trù phú này, góp phần cùng các dân tộc bản địa anh em từng bước xây dựng thành những xóm làng sầm uất, phồn thịnh.

Phủ Quy Nhơn từng là căn cứ địa của phong trào Tây Sơn. Đến năm 1773, sau khi đánh tan tập đoàn chúa Nguyễn Đàng trong, các lãnh tụ Tây Sơn cho sửa lại thành Chà Bàn(2) để cơ quan Trung ương đóng và gọi là thành Hoàng Đế. Như vậy dưới triều Tây Sơn, vùng đất này đã từng là kinh đô của cả nước. Sau khi Nguyễn Huệ mất, Nguyễn Ánh dựa vào thực dân Pháp đánh chiếm Quy Nhơn (1802), đổi thành Bình Định dinh, đến năm 1806 đổi Bình Định dinh thành Bình Định trấn. Năm 1826, Minh Mạng đổi thành phủ Quy Nhơn. Đến năm 1832, chia đặt các tỉnh, đổi lại thành tỉnh Binh Định. Năm 1853, đổi Phú Yên làm đạo, gộp vào tỉnh Bình Định; đến năm 1864 lại đặt riêng đạo Phú Yên như cũ. Và, từ đó về sau vùng đất này mang tên Bình Định.

(http://nm4.upanh.com/b6.s28.d3/19d20b96882ad7c50337c39df08893ed_44620564.ditich.jpg)

Di tích thành Bình Định (Cửa Đông)

Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, tháng 10 năm 1975, hai tỉnh Bình Định và Quảng Ngãi hợp nhất và gọi là tỉnh Nghĩa Bình. Cuối tháng 6 năm 1989 lại tách ra và mang tên riêng như cũ. Tỉnh Bình Định có 11 huyện và thành phố, gồm: An Lão, Hoài Nhơn, Hoài Ân, Phù Mỹ, Phù Cát, An Nhơn, Tuy Phước, Vân Canh, Tây Sơn, Vĩnh Thạnh và thành phố Quy Nhơn; trong đó có 3 huyện miền núi (Vân Canh, Vĩnh Thạnh, An Lão). Tỉnh lị đóng ở thành phố Quy Nhơn.


(1) Phần này có sử dụng một số tư liệu quyển Nước non Bình Định của Quách Tấn.
(2) Xưa là kinh đô của người Chiêm Thành, còn gọi là thành Đồ Bàn.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 12 Tháng Năm, 2012, 10:11:51 am
Tỉnh Bình Định là một trong những tỉnh lớn và trù phú ở Trung bộ - Việt Nam, với diện tích 4047,2 ki lô mét vuông, chiều dài 110km, chiều ngang 55km.

Dãy Trường Sơn chạy từ Bắc vào Nam, đến địa phận Bình Định hình thành một vòng cung lớn, ôm cả ba mặt Bắc, Tây, Nam với những vùng rừng núi bạt ngàn. Có nhiều dãy núi nhô ra sát tận biển, như:

- Ở phía Bắc tỉnh có dãy núi Đá Lửa, núi Lo, núi Ông O nối liền nhau, doi ra sát biển ở vùng Trường Xuân.

- Phía Nam Bồng Sơn có núi Lại Khánh, núi Đầu Trường nối liền với núi Cây Diếp đến làng Hà Ra, Phú Thứ, Lộ Diêu.

- Ở địa phận huyện Phù Mỹ (cách thị trấn Phù Mỹ 7km về phía bắc) có nùi Gò Chai, Chó Vung, Cột Cờ nồi liền với Núi Lớn, núi Ông Táo giáp tận đầm vịnh Nước Ngọt ở làng Xuân Bình.

- Phía Nam tỉnh có dãy núi Đồng Song kéo dài đến sát biển vùng phía nam Bãi Xếp.

Địa hình Bình Định phân bố thành ba vùng rõ rệt: đồng bằng ven biển, trung du và rừng núi mà những tên làng, tên núi, tên sông… đã gắn liền với những cuộc khởi nghĩa tiếng tăm vang dội của cha ông và những chiến công oanh liệt của quân dân Bình Định trong suốt ba mươi năm chiến tranh giữ nước và giải phóng đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Rừng núi trong tỉnh có diệt tích 208,065 héc ta, địa thế hiểm trở, nổi liền với rừng núi Gia Lai ở phía tây, Ba Tơ - Quảng Ngãi ở phía bắc và Phú Yên ở phía nam, hình thành vùng căn cứ địa kháng chiến liên hoàn giữa các tỉnh, là chỗ đứng chân của nghĩa quân suốt trong các giai đoạn lịch sử.

Trong hệ núi rừng ở tỉnh nổi lên ngọn núi Bà ở Phù Cát cao 1.100 mét là ngọn núi cao nhất tỉnh. Núi Bà Phù Cát đã đi vào lịch sử kháng chiến chống Mỹ của quân dân Bình Định với những chiến công oanh liệt. Ở phía nam tỉnh, cao nhất là ngọn núi Ông còn gọi là núi Dương An ở Vân Canh cao 1.000 mét. Bên cạnh núi Ông có núi Bà Cương hay Bà Phong, nhân dân địa phương cũng gọi là núi Bà (chú ý phân biệt với núi Bà Phù Cát). Núi Bà Cương là ngọn núi cao nhất ở phía bắc hệ Nam Sơn nhưng so với núi Ông thì chỉ mới “tới cổ”. Do đó trong dân gian có câu:

Hòn Ông đứng với hòn Bà
Chồng cao vợ thấp thật là xứng đôi

Ngoài ra trong tỉnh còn có các ngọn núi khác: Núi Kim Sơn ở Hoài Ân cao 800 mét, núi Gò Mít và Hòn Cau ở Hoài Nhơn cao xấp xỉ 650 mét, núi Chóp Chài ở Phù Mỹ cao 650 mét, v.v… Khắp trong địa bàn tỉnh, xen kẽ các vùng đồng bằng, rải rác nổi lên những núi đồi, gò nổng có rừng rậm hoặc rừng chồi bình độ từ năm mươi đến bốm, năm trăm mét là những địa hình có giá trị trị lớn trong việc vận dụng chiến thuật tác chiến du kích cũng như tác chiến tập trung.

Núi rừng Bình Định có nhiều loại gỗ quý như ké, kiền kiền, trắc, lim, giáng hương, bằng lăng, căm xe, chò… Ngoài ra còn có cây dầu rái, mây, tre, gió, nhiều loại cây làm thuốc như sa nhân, thạch xương bồ, hà thủ ô… và nhiều loại thứ quý.

Bình Định có nhiều sông suối nằm theo chiều đông tây nên thường không dài. Lòng sông nhiều khúc bị cát bồi, màu nắng nước cạn, mùa mưa ghe thuyền mới đi lại được, nhưng nước chảy xiết. Trong tinh có hai con sông lớn là sông Kôn và sông Lại Giang.

Sông Kôn dài 150 ki lô mét, bắt nguồn từ suối Say tỉnh Gia Lai, chảy qua các huyện Vĩnh Thạnh, Tây Sơn, An Nhơn, Tuy Phước và đổ ra đầm Thị Nai. Sông Kôn có một phụ lưu lớn là sông Đà Hàng dài khoảng 10 ki lô mét bắt nguồn từ núi Bà và suối Đồng Le hợp thành, chảy ra phía tây Phú Phong. Từ Phú Phong trở xuống, lòng sông Kôn được mở rộng, có độ sâu khá, thuyền bè đi lại dễ dàng.

Sông lớn thứ hai ở Bình Định là sông Lại Giang gồm hai phụ lưu lớn bắt nguồn từ An Lão và Kim Sơn hợp lại mà thành. Nguồn Kim Sơn và nguồn An Lão gặp nhau ở cuối thôn Phú Văn hợp thành sông Lại xuôi dòng hướng đông bắc đổ ra cửa An Dũ.

Dòng chảy của sông Kôn và sông Lại có những đặc điểm trái ngược nhau. Sông Kôn mùa mưa nước mới khỏa tràn bờ, nhưng sông Lại mùa nắc nước vẫy đầy ắp. Do đó, nhân dân Bình Định có câu:

Nước Lại Giang mênh mông mùa nắng
Dòng sông Kôn lai láng mùa mưa

Nắm vững đặc điểm đó, lực lượng vũ trang trong tỉnh vừa phát huy tác dụng vừa khắc phục trở ngại của hai dòng sông trong hoạt động tác chiến.

Ngoài ra, Bình Định có bốn con sông nhỏ với nhiều nhánh, suối là sông An Tương ở An Nhơn, sông Hà Thanh ở Tuy Phước, sông La Tinh ở Phù Cát, sông Tam Quan ở Hoài Nhơn.

Những con sông nhỏ trong tỉnh là nguồn nước quan trọng cho nền nông nghiệp địa phương phát triển, đồng thời cũng gây nhiều khó khăn trong việc cơ động lực lượng vũ trang trong hành quân tác chiến, nhất là cơ giới.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 12 Tháng Năm, 2012, 10:12:22 am
Bờ biển Bình Định dài khoảng 134 ki-lô-mét chạy từ cửa Tam Quan vào đến chân đèo Cù Mông, khi dốc, khi bằng, có chỗ lõm vào thành vũng, thành cửa, có chỗ lồi ra thành mũi, thành ghềnh. Bờ biển Bình Định có nhiều cửa lớn nhỏ như các cửa Tam Quan, An Dũ, Hà Ra, Đề Gi và Thị Nại hay là hải cảng Quy Nhơn. Trong lịch sử, Thị Nại - Quy Nhơn là cửa biển quan trọng nhất của tỉnh. Qua các triều đại, ở đây luôn luôn có bố trí binh lực lớn để phòng giữ và Quy Nhơn là cửa ngõ quan trọng xâm nhập bằng đường biển của những đội quân xâm lược. Đặc biệt, từ khi có đường 19 nối Quy Nhơn với Tây Nguyên thì ý nghĩa về chiến dịch, chiến lược của hải cảng và thành phố Quy Nhơn càng trở nên quan trọng. Quy Nhơn là đầu cầu triển khai binh lực và tiếp tế khi quân xâm lược thực hành tiến công lên Bình Định và Tây Nguyên.

Với con mắt người Bình Định, bãi biển Thị Nại - Quy Nhơn có hình chiếc lưỡi liềm dài, luôn được sóng biển mài cọ cho sáng ánh. Mũi Tấn là mũi liềm, Gành Ráng là cán liềm. Đó là cách nhìn rất hình tượng của người địa phương.

Bình Định có bán đảo Phương Mai còn gọi là bán đảo Triều Châu từ Hưng Long đến tận vùng Mũi Yến và Hải Khẩu ở đông bắc cảng Quy Nhơn có tác dụng cản những con sóng dữ về mùa biển động, do đó vịnh Quy Nhơn là nơi ẩn nấp an toàn cho tàu bè. Ngoài giá trị kinh tế, bán đảo Phương Mai còn có giá trị lớn về mặt quân sự, từ đây có thể quan sát và khống chế cả vùng biển rộng lớn phía đông nam. Trong các triều đại trước, trên bán đảo này được xây dựng thành những thành lũy kiên cố và có quân canh phòng để chống lại kẻ thù xâm nhập.

Ven bờ và biển khơi Bình Định có lượng hải sản lớn: chim, thu, nhụ, đé, tôm, cua, mực đánh bắt mỗi năm hàng ngàn tấn phục vụ xuất khẩu và sử dụng trong tỉnh. Dọc ven bờ có các đầm như Trà Ổ, Đạm Thủy, Thị Nại… có giá trị nuôi trồng các loại thủy sản lớn và nhiều ruộng muối. Muối ở ven biển Bình Định có chất lượng cao, mỗi năm thu hoạch hàng mấy chục ngàn tấn, đủ đáp ứng nhu cầu về muối ăn trong tỉnh và các tỉnh Tây Nguyên, đặc biệt là trong công nghiệp háo chất. Ở các ghềnh núi ven biển có đặc sản quý là yến sào, số lượng không nhiều nhưng có giá trị cao.

Ngoài khơi Quy Nhơn, cách 22 hải lí có đảo Cù Lao Xanh là một xã thuộc thành phố Quy Nhơn. Về mặt quân sự, Cù Lao Xanh là vị trí tiền tiêu ngày đêm canh giữ bầu trời và mặt biển, phát hiện sự xâm nhập kẻ thù.

Vùng đồng bằng Bình Định có diện tích canh tác 75.000 héc ta. Số điền thổ lại tốt và khá ước tỉnh chiếm khoảng 70%, trong đó lúa khoai chiếm 3/4 các loại hao màu khác chiếm 1/4.

Đồng bằng Bình Định là một vùng đồng bằng lớn ở Trung bộ Việt Nam. Ngoài những cánh đồng lớn ở vùng đông Hoài Hơn, Hoài Ân, Phù Mỹ, Phù Cát, An Nhơn, Tuy Phước, Tây Sơn, ở các huyện miền núi còn có những cánh đồng nhỏ mà tên gọi đã thành địa danh có từ lâu đời như Đồng Vuông, Đồng Dài, Đồng Di, Đồng Dốn, Đồng Đế, Đồng Hươu, Đồng Vụ, Đồng Le, Đồng Hào, Đồng Tre, Đồng Bầu, v.v… Ruộng trồng lúa, thổ trồng màu. Ruộng thì có ruộng rộc, ruộng gò. Nông dân Bình Định có câu ca dao:

Ra đi cha mẹ dặn dò
Ruộng rộc thì cấy, ruộng gò thì gieo

Nghề trồng lúa ở đây có từ rất sớm. Với ruộng đất phì nhiêu, với sức lao động cần cù và thông minh, người dân Bình Định hằng năm đã làm ra sản lượng lúa và màu tương đối lớn đủ dùng và còn thừa. Bình Định ít khi bị thiếu đói, kể cả những năm có khó khăn về thiên tai, địch họa, là địa bàn chiến lược quan trọng lại có sẵn lương thực, thực phẩm, điều đó giải thích vì sao Bình Định đã từng là những căn cứ lớn của nghĩa quân Tây Sơn và là căn cứ vững chắc của lực lượng vũ trang cách mạng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.

Ngoài lúa là chủ yếu, các hoa màu phụ và cây công nghiệp ở đây cũng phong phú như khoai lang, mì, đậu phụng, đậu nành, mía đường, dâu tằm, bông, thuốc lá… Kèm theo đó là công nghệ sản xuất và chế biến. Bình Định là nơi chế biến ra nhiều loại bánh, bún từ mì có tiếng. Ở Phú Phong có nhà máy dệt lụa bằng tơ tắm từ năm 1902 (xưởng dệt Dơ-li-nhông). Trong kháng chiến chống Pháp, nghề dệt vải phát đạt, tập trung ở Đập Đá, Bồng Sơn, sản xuất ra vải xi-ta nổi tiếng cùng với phong trào trồng bông dệt vải trong cả tỉnh đã bảo đảm vai mặc cho nhân dân và bộ đội.

Bình Định còn nổi tiếng là một trong xứ sở của dừa. Các vườn dừa bạt ngàn của Tam Quan, Tài Lương, Bồng Sơn, Hoài Ân, Phù Mỹ… đã làm giàu, đẹp và thơ mộng cho vùng đất trù phú này. Trước đây, Tam Quan là nơi có nhiều dừa nhất nên có câu ca dao:

Công đâu công uổng công thừa
Công đâu gánh nước tưới dừa Tam Quan

Ngày nay thì cả Bình Định đang trở thành một vùng dừa lớn, tổ chức hiệp đồng xuất khẩu sang các nước bản. Nhiều dừa là có nhiều sản phẩm về dừa: dầu dừa, thảm dừa, dây dừa… và từ dầu dừa, xà phòng và các loại sản phẩm khác ra đời. Rừng dừa có có giá trị trong cơ động lực lượng, hành quân, trú quân bí mật của lực lượng vũ trang, đặc biệt là chiến trường thuận lợi cho tác chiến du kích.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 12 Tháng Năm, 2012, 10:13:46 am
Nhìn chung, vùng đồng bằng phía nam Bình Định, từ nam Phù Cát, đông An Nhơn - Tuy Phước đến bắc Quy Nhơn, về mùa mưa lũ nước từ thượng nguồn sông Kôn và sông Hà Thanh đổ về làm ngập cả một khu vực rộng lớn, ảnh hưởng trực tiếp đến việc cơ động lực lượng và thực hành chiến đấu.

Về giao thông bộ, Bình Định có nhiều đường chiến lược quan trọng. Quốc lộ 1 chạy dọc theo chiều dài của tỉnh từ Đèo Bình Đê đến đèo Cù Mông. Song song với đường Quốc lộ 1 có đường sắt xuyên Việt. Đường chiến lược số 19 từ cầu Bà Di (trên đường 1) nối thẳng với Quy Nhơn, lên An Khê, Pleiku, cắt đường 14 chạy qua Xtung-treng của nước bạn Cam-pu-chia. Đường 19 có ý nghĩa quan trọng cả về chiến dịch và chiến lược vì nó là con đường nối liền Quy Nhơn với Tây Nguyên và Cam-pu-chia, vừa là một hướng chiến dịch quan trọng ở miền Trung, vừa chia cắt chiến dịch và chiến lược chiến trường Việt Nam và Đông Dương ra làm đôi. Nó là trục cơ động của lực lượng vũ trang tập trung và binh đoàn cơ giới của ta và cả của địch trong các chiến dịch tiến công và phản công. Trong chống Pháp, nhất là trong chống Mỹ, đường 19 là nấm mồ vùi thây quân Pháp, quân Mỹ - ngụy và quân Nam Triều Tiên. Đường 19 đã đi vào lịch sử oai hùng của quân dân Bình Định trong suốt cuộc chiến tranh nhân dân 30 năm.

Ngoài ra, trong tỉnh còn có tỉnh lộ số 3 từ Lại Khánh (Hoài Nhơn) đi Kim Sơn (Hoài Ân) dài 70 ki-lô-mét. Đường số 5 từ Bồng Sơn đi An Lão dài 30 ki-lô-mét. Đường Chợ Gồm - Đề Gi. Đường số 6 từ Diêu Trì qua Vân Canh đi La Hai (Phú Yên). Các đường liên huyện liên xã trong tỉnh tuy không lớn nhưng có thể cơ động lực lượng quân sự khi hành quân tác chiến và giao lưu kinh tế giữa các vùng. Do có nhiều sông suối, nên các đường quốc lộ và tỉnh lộ có đến 204 cầu cống lớn nhỏ, chiều dài cầu cống tổng cộng đến 5.586 mét, mùa mưa ảnh hưởng đến vận chuyển và cơ động bộ đội.

Đường biển, từ Quy Nhơn, tàu thuyền lớn nhỏ có thể đi đến các cửa biển trong tỉnh, trong cả nước và ra quốc tế. Đường hàng không có sân bay Phù Cát và Quy Nhơn. Phù Cát là sân bay lớn sử dụng cho cả hàng không dân dụng và máy bay quân sự.

Cũng như các tỉnh miền Trung, Bình Định nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, khô, ẩm, chia hai mùa rõ rệt. Mùa nắng bắt đầu từ tháng 3 đến tháng 8. Mùa mưa cũng là mùa có bão và áp thấp nhiệt đới. Nhiều độ trung bình trong năm là 27oC. Lượng mưa trung bình cả năm là 1.077 mi-li-mét. Cao nhất là 3.081 mi-li-mét, thấp nhất là 856 mi-li-mét. Số ngày mưa trung bình trong năm là 107 ngày. Độ ẩm không khí khoảng 71,90%. Những năm mưa thuận, gió hòa, thời tiết khí hậu ở Bình Định cơ bản thuận lợi cho nông nghiệp phát triển.

Về dân cư, Bình Định là một tỉnh có dân số đông so với các tỉnh ở Trung bộ - Việt Nam. Theo số liệu thống kê, đến tháng 6 năm 1982 tỉnh có số dân 1.153.101 người gồm bốn dân tộc Kinh, Ba Nam, Chăm, H’rê và một số Hoa kiều. Người Kinh có 1.136.312 người, người Ba Na 9.295 người, người H’rê 4.311, người Chăm 2.171, người Hoa và một số đồng bào Mán có 1.012 người. Mật độ dân số ở Quy Nhơn là 1.078 người/ki-lô-mét vuông, ở đồng bằng là 296 người/ki-lô-mét vuông, ở đồng bằng là 296 người/ki-lô-mét vuông, ở miền núi 41 người/ki-lô-mét vuông.

Dưới sự áp bức, thống trị hà khắc của vua quan phong kiến và thực dân Pháp, nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã đoàn kết đấu tranh chống lại chúng. Về mặt xã hội và giai cấp, là vùng đất chủ yếu sinh sống bằng nông nghiệp, nông dân chiếm 95% dân số. Nhưng ruộng đất hầu hết lại tập trung trong tay các địa chủ, nhà thờ, tư sản và lộc điền của của “công thần” triều đình. Chỉ tính ở Hoài Nhơn, nhà thờ Quy Thuận (Hoài Châu) chiếm hàng trăm mẫu, lộc điền của Đào Duy Từ tại Hoài Hảo ngót 50 mẫu, lộc điền của Trần Đức Hòa ở Hoài Sơn cũng gần trăm mẫu. Ở huyện Bình Khê chỉ tính riêng hai tên tư sản thực dân Đơ-li-nhông và Ba-ri đã chiếm trên 40 nghìn mẫu (cả Bình Khê - An Khê)… không có ruộng hoặc có quá ít, nông dân phải lĩnh canh của địa chủ, nhà thờ… với mức tô từ 50 đến 70%. Mâu thuẫn đối kháng giữa nông dân và địa chủ hình thành và phát triển ngày càng gay gắt.

(http://nm5.upanh.com/b5.s29.d1/4c6bd82fd6d7da24b0c35f59452b4f10_44620565.laubaodai.jpg)

Lầu Bảo Đại tại Ghềnh Ráng, nơi nghỉ mát, ăn chơi của ông vua cuối cùng Triều Nguyễn
(được xây dựng năm 1927, đến năm 1949 thì bị phá)


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 12 Tháng Năm, 2012, 10:14:38 am
Từ khi thực dân Pháp sang xâm chiếm nước ta, chúng lập ra các đồn điền, xưởng máy, đắp đường bộ, mở đường sắt nói là để khai hóa nhưng thực chất là bóc lột sức lao động và vơ vét tài nguyên. Người nông dân quá cực khổ phải bỏ làng vào làm trong các cơ sở mang tính chất công nghiệp thuộc địa của thực dân Pháp. Cũng như trong cả nước, tầng lớp công nhân ở Bình Định, tuy số lượng không lớn, nhưng từng bước được hình thành. Và, cũng từ đó mâu thuẫn giai cấp giữa chủ và thợ phát sinh.

(http://nm6.upanh.com/b2.s28.d1/e25d296d5abb2159444329b60847592b_44620566.nhaga.jpg)

Nhà ga Quy Nhơn thời Pháp thuộc

Về tôn giáo, đạo Phật vào Bình Định từ thời Trịnh - Nguyễn phân tranh. Chùa Thập Tháp, chùa Quang Hòa là những ngôi chùa đầu tiên trên đất Bình Định. Tiếp sau là chùa Linh Phong ở Phù Cát và chùa Long Khánh ở Quy Nhơn. Từ đó, đạo Phật phát triển ra toàn tỉnh, đến nay có khoảng 60% đồng bào theo đạo Phật. Tuyệt đại bộ phận đồng bào theo đạo Phật đều có lòng yêu nước, căm thù đế quốc, thực dân và ủng hộ cách mạng, tham gia kháng chiến.

Đạo Thiên chúa vào Bình Định cùng thời gian với đạo Phật, khoảng cuối thế kỉ 16. Qua những bước thăng trầm, đến khi thực dân Pháp đặt được nền thống trị trong cả nước thì việc truyền giáo được tự do. Tín đồ Thiên chúa ở Bình Định phát triển khá nhanh. Nhiều nhà thờ lớn được xây dựng như nhà thờ Lòng Sông, Kim Châu, nhà thờ Đá, nhờ thờ Chính Tòa Quy Nhơn… Đa số giáo dân là người lao động, nên đều có lòng kính chúa, yêu nước, nhưng đồng bào thường bị bọn phản động, bọn gián điệp đội lốt cha đạo dùng thần quyền giáo lí mê hoặc, dụ dỗ nên trong lịch sử, có nơi có lúc, có bộ phận ngộ nhận chống lại Tổ quốc, chống lại nhân dân. Trước chủ trương tự do tín ngưỡng của Đảng và Nhà nước ta, đồng bào ngày càng hòa hợp với đại gia đình dân tộc, tham gia kháng chiến, ủng hộ cách mạng.

Cao Đài là một tôn giáo mới được lập ra từ năm 1926 ở Nam bộ. Đạo Cao Đài vào Bình Định từ năm 1935 do một số đồng bào vào Nam làm ăn chuyển về và từng bước phát triển ra. Số đồng bào theo Cao Đài không nhiều nhưng có bốn phái là Tòa thánh Tây Ninh, Chơn Lí Cầu Kho, Chính Đạo Bến Tre và Minh Chơn Lí Định Tường (ở Nam bộ có tất cả 12 phái). Đồng bào theo đạo Cao Đài vốn chỉ do tín ngưỡng, nhưng khi phát xít Nhật vào Đông Dương, chúng chủ trương thống nhất các giáo phái thân Nhật vào “Việt Nam phục quốc đồng minh hội”. Từ chỗ tín ngưỡng tôn giáo, họ trở thành tổ chức hoạt động chính trị ủng hộ thuyết “đại Đông Á” của Nhật. Tuy vậy, về cơ bản họ vốn là người lao động, do tín ngưỡng mà bị giặc Nhật lợi dụng nên dần dần nhận thức ra, hòa hợp trong cộng đồng nhân dân.

Tổng hợp các yếu tố về địa lí tự nhiên, về dân cư, kinh tế… Bình Định là một địa bàn chiến lược quan trọng cả về kinh tế và quốc phòng. Trong lịch sử đấu tranh dân tộc, trong chiến tranh giữ nước và giải phóng đất nước, với thế hiểm của các vùng rừng núi liên hoàn, với thế mạnh của nền kinh tế nông nghiệp và cộng đồng dân cư đông đúc, Bình Định từng là căn cứ của nghĩa quân và là căn cứ địa kháng chiến vững mạnh trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 12 Tháng Năm, 2012, 10:15:23 am
2 - CON NGƯỜI VÀ TRUYỀN THỐNG

Để tồn tại và phát triển, trải qua hang nghìn năm lịch sử, cộng đồng các dân tộc ở Bình Định đã đoàn kết chặt chẽ với nhau thành một khối thống nhất để xây dựng và bảo vệ quê hương.

Tuy mỗi dân tộc có phong tục, tập quán cổ truyền, sắc thái khác nhau nhưng cùng sống chung trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam nên người Bình Định đều có cung tính cách của người Việt Nam là chất phác, đôn hậu, cần cù lao động, trọng nhân nghĩa khí tiết. Trong quan hệ xã hội lấy chữ tín làm gốc, đối với Tổ quốc lấy chữ trung làm đầu. Trong những đức tính đó nổi lên ở người Bình Định truyền thống thượng võ, tự rèn luyện mình thành người có sức mạnh để chống lại mọi cường quyền, áp bức, sống có thủy chung trong tình làng nghĩa xóm và đặc biệt là đoàn kết đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bảo vệ quê hương, đất nước.

Bình Định từ xưa đã là một vùng đất thượng võ. Đến thời Tây Sơn, khi Nguyễn Huệ tập hợp nghĩa quân, rèn đúc vũ khí, luyện tập võ nghệ, dựng cờ khởi nghĩa, thì nền võ học của Bình Định nổi lên như một ngôi sao sáng và phổ cập trong quảng đại quần chúng. Chưa nói đến việc kế thừa di sản nghệ thuật quân sự quý báu của tổ tiên, chỉ nói riêng ở góc độ võ thuật, Nguyễn Huệ là người có công lớn trong việc tập hợp và phát triển những tinh hoa của những dòng võ trong nước và nước ngoài để lập nên phái võ Tây Sơn - Bình Định và được truyền bá cho đến ngày nay. Bình Định - miền đất võ là niềm tự hào của người dân trong tỉnh qua các thế hệ. “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”, không chỉ có nam giới giỏi võ mà cả nữ giới cũng giỏi võ. Trong ca dao Bình Định có câu:

Ai về Bình Định mà coi
Con gái Bình Định múa roi đi quyền

Tiêu biểu cho giới nữ của Bình Định trong thời Tây Sơn nổi lên nữ tướng Bùi Thị Xuân, người phụ nữ kiệt xuất cả về phẩm chất, tài năng và võ nghệ. Và, biết bao chị em phụ nữ Bình Định đã phát huy truyền thống thượng võ trong đánh Pháp, đánh Mỹ.

Bình Định còn là đất hiếu học, khoa cử. Trường thi tỉnh Bình Định được xây dựng từ 1851 ở tây nam thành Bình Định. Người Bình Định giữ ngôi thủ khoa ba kì vào các năm 1955, 1858 và 1861. Khoa 1885, Bình Định có tám người thi đều đỗ cử nhân, trong đó có Mai Xuân Thưởng. Đặc biệt họ Nguyễn ở Vân Sơn (An Nhơn) là một hiện tượng văn học toàn gia. Cả năm cha con đều nổi tiếng thơ văn.

Trong dân nhân văn hóa, Bình Định có cụ Đào Tấn người làng Vinh Thạnh, phủ Tuy Phước nổi lên như một ngôi sao trong lịch sử sân khấu Việt Nam. Tuy làm quan nhưng cụ yêu dân, yêu nước. Suốt đời, cụ dành cho sự nghiệp tác gia sân khấu tuồng. Cụ là tác giả của hơn 40 vở tuồng hát bội và gần 1000 bài thơ, từ. Hàng trăm năm đã trôi qua, những tác phẩm của Đào Tấn đã để lại trong lòng nhân dân những ấn tượng không thể phai mờ về tính điển hình của những nhân vật khẳng khái, bất khuất đối với kẻ thù, trung hiếu với dân, với nước, nghĩa tình trong quan hệ gia đình, bầu bạn. Đào Tấn đã đưa lên sân khấu những bức tranh sinh động phản ánh hiện thực xã hội đương thời, trong đó bật lên “nỗi đau của đất nước” - nỗi đau mà suốt cuộc đời cụ vẫn không nguôi.

*   *
*

Trong lịch sử đấu tranh của dân tộc Việt Nam không có thời kì nào là không có phong trào khởi nghĩa của nông dân. Chế độ phong kiến càng suy vong thì phong trào khởi nghĩa của nông dân càng nhiều, càng mạnh. Bước sang thế kỉ XVIII, khởi nghĩa của nông dân Việt Nam lại càng sôi động.

Lúc bấy giờ là thời kì suy vong của triều đình phong kiến Việt Nam. Đất nước ta rơi vào tình trạng bế tắc do hậu quả của việc tranh giành quyền lực giữa các tập đoàn phong kiến thống trị. Lấy sông Gianh (Quảng Bình) làm giới hạn, nước ta bị phân chia làm hai miền. Bọn vua Lê, cháu Trịnh thống trị ở Đàng ngoài, bọn chúa Nguyễn cát cứ ở Đàng trong. Cả ở Đàng ngoài và Đàng trong, bọn vua chúa đều ở trong tình trạng thối nát, xa hoa, trụy lực đến cực độ. Chúng càng tăng cường bóc lột, cướp đoạt để ăn chơi bao nhiêu thì dân tình càng khổ cực, điêu đứng bấy nhiêu. Tất cả đều đè nặng lên vai, lên lưng người nông dân. Nhưng có áp bức là có đấu tranh - một chân lí phổ biến trong lịch sử tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam.

Cùng lúc với những cuộc khởi nghĩa ở Đàng ngoài, năm 1695, nông dân và thương nhân ở Bình Định (phủ Quy Nhơn cũ) nổi dậy khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của Linh Vương và Quảng Phú.

Ở vùng Tây Sơn (Bình Định), để chống lại áp bức, bất công và trừng trị bọn tham quan, ô lại, năm 1769, chàng Lía (Võ Văn Don) tập hợp một số người tinh thông võ nghệ, lấy Truông Mây làm căn cứ, xây dựng lực lượng nghĩa quân. Từ Truông Mây, nghĩa quân nhiều lần xuất quân trừng trị bọn quan lại gian ác, lấy của cải chia cho dân nghèo, khiến bọn thống trị ở địa phương hết sức hoảng sợ. Chúng nhiều lần đem quân bao vây Truông Mây nhưng đều bất lực. Chúng xoay sang âm mưu li gián nội bộ phong trào, phục rượu bắt chàng Lía. Để giữ trọn khí tiết, Lía đã tự sát và từ đó căn cứ Truông Mây tan vỡ.

Đến năm 1770 lại diễn ra cuộc khởi nghĩa lớn, chống lại bọn vua quan triều Nguyễn của đồng bào các dân tộc ít người ở miền Tây Bình Định.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 12 Tháng Năm, 2012, 10:16:16 am
Những cuộc khởi nghĩa như trên nổ ra liên tiếp nhưng đều không thành công. Phải đến năm 1771, trước tình hình mọi quyền lực đều tập trung vào tay Trương Phúc Loan, một quyền thần hết sức tham lam, tàn bạo, ở vùng đất phía Tây tỉnh Bình Định, ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ xây dựng căn cứ, tập hợp nghĩa quân, dựng cờ khởi nghĩa. Từ người Kinh đến người Thượng đều nhiệt liệt hưởng ứng. Anh em Tây Sơn lấy Tây Sơn thượng đạo và Tây Sơn hạ đạo (hai huyện Tây Sơn và An Khê ngày nay), một vùng rừng núi hiểm trở, có đường độc đạo từ phủ thành Quy Nhơn lên An Khê, nơi tập trung đông người Kinh, người Chăm, người Ba Na… Nguồn nhân lực quan trọng và là vùn kinh tế phì nhiêu có sẵn voi lớn, ngựa khỏe, lương thảo đầy đủ để lập căn cứ, rèn luyện quân sĩ, chiêu mộ nhân tài.

Đầu năm 1773, cuộc khởi nghĩa mở rộng ra nhiều vùng thuộc phủ Quy Nhơn. Nghĩa quân Tây Sơn đã lên đến hàng vạn người, gồm đủ các thành phần dân tộc và giai cấp. Một phong trào nông dân trong thời phong kiến mà có được nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều thành phần tham gia như thế có thể nói là hiếm thấy trong lịch sử khởi nghĩa của dân tộc ta.

Giữa năm 1773, lá cờ đỏ của nghĩa quân Tây Sơn đã phấp phới tung bay trên các thành lũy của bọn vua quan phong kiến ở các phủ thành Quy Nhơn, Quảng Ngãi, Phú Yên, Bình Thuận, báo hiệu thắng lợi của phong trào nông dân Tây Sơn.

Trong những năm 1774-1775, với lực lượng còn đông và mạnh, quân Nguyễn và quân Trịnh đánh ép từ hai đầu, phạm vi của nghĩa quân bị thu hẹp về Quy Nhơn, Quảng Ngãi. Tình thế đó đặt nghĩa quân Tây Sơn trong cái thế “lưỡng đầu thọ địch”. Không gỡ được thế bị bao vây, nghĩa quân có nguy có bị tiêu diệt. Trong tình hình muôn vàn khó khăn đó, Nguyễn Huệ với thiên tài quân sự kiệt xuất đã đứng ra đảm nhiệm trọng trách, quyết định vận mệnh sống còn của nghĩa quân.

Mới 23 tuổi, Nguyễn Huệ đã khéo léo kết hợp tiến công ngoại giao với tiến công quân sự, phát huy yếu tố bất ngờ, chỉ huy nghĩa quân tiêu diệt và làm tan rã 2 vạn quân của Tống Phúc Hiệp, lấy lại tỉnh Phú Yên, đẩy lùi quân Nguyễn xuống phía Nam. Trận Phú Yên đã gây tác động lớn đến quân Trịnh, làm chúng phải chùn bước, vĩnh viễn ngăn chặn bước tiến của chúng xuống phía Nam và làm suy yếu hẳn lực lượng quân Nguyễn, mở đường cho sự phát triển thắng lợi của nghĩa quân ra cả nước.

Từ đây, Nguyễn Huệ trở thành linh hồn của phong trào Tây Sơn, người chỉ huy trăm trận trăm thắng trong ngót hai mươi năm sau với những chiến công hiển hách ở Rạch Gầm - Xoài Mút, diệt 5 vạn quân Xiêm (do chúa Nguyễn cầu cứu), tiêu diệt hoàn toàn chế độ cát cứ ngót hai trăm năm của chúa Nguyễn. Tiếp đó, Nguyễn Huệ đánh chiếm Phú Xuân và đem quân ra Bắc tiêu diệt chúa Trịnh. Vậy là sau hơn hai thế kỉ bị phân chia bởi các bè phái phong kiến, nền thống nhất đất nước được khôi phục. Đây là một thành tựu vĩ đai của phong trào cách mạng nông dân Tây Sơn, mà vinh quang thuộc về nhân dân ta và người anh hùng kiệt xuất Nguyễn Huệ.

Sau đó, nhà Thanh đưa quân sang xâm chiếm nước ta. Từ Phú Xuân, Nguyễn Huệ tổ chức cuộc hành quân thần tốc và chỉ trong vòng 10 ngày đầu xuân Kỷ Dậu (25 tháng Chạp đến mồng 5 tháng Giêng) đã đánh tan 29 vạn quân Thanh, giải phóng kinh thành Thăng Long, giải phóng toàn bộ đất nước, lập nên chiến công hiển hách trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc.

Tất cả những thành tích và chiến công hiển hách trên, tự nó đã nói lên Bình Định là vùng đất quật khởi mang truyền thống thượng võ - cái nôi sản sinh ra nghĩa quân Tây Sơn và người anh hùng Nguyễn Huệ, một trong những tướng lĩnh tài giỏi bậc nhất của dân tộc Việt Nam. Bình Định có vinh dự lớn là đã đóng góp cho lịch sử dựng nước và giải phóng đất nước người con ưu tú nhất của mình cùng với đội nghĩa quân, sau đó đã trở thành đội quân bách chiến, bách thắng.

Phong trào nông dân Tây Sơn với tính chất cách mạng xã hội, thể hiện sức sống mãnh liệt của dân tộc cố vượt qua đêm dài trung cổ, nhưng cuối cùng không thành, do cái chết đột ngột của Nguyễn Huệ (mới 39 tuổi). Triều đại Tây Sơn tồn tại quá ngắn, chưa tạo được những điều kiện cần thiết để thoát khỏi quỹ đạo của hệ phong kiến trung cổ.

Giữa nghĩa quân Tây Sơn và anh hùng Nguyễn Huệ có mối quan hệ biện chứng. Không có nông dân Tây Sơn - Bình Định và nông dân cả nước nổi dậy cuối thế kỉ XVIII thì không thể có Nguyễn Huệ xuất hiện trong lịch sử như một lãnh tụ của nông dân, một anh hùng cứu nước vĩ đại của dân tộc. Ngược lại, nghĩa quân Tây Sơn, sau đó là quân đội Tây Sơn, nếu không có được người thao lược như Nguyễn Huệ không thể trở thành đội quân vô địch như lịch sử đã diễn ra. Phong trào nông dân Tây Sơn cũng như lãnh tụ của phong trào không thể tránh khỏi những hạn chế về mặt giai cấp và thời đại. Đó là không xóa bỏ được giai cấp phong kiến, không đưa được xã hội Việt Nam tiến lên một bước phát triển mới của lịch sử. Những hạn chế đó mang tính tất yếu khách quan của lịch sử và thời đại.

Nguyễn Huệ cùng đội quân bách chiến bách thắng của ông luôn sống mãi với non sông đất nước, xứng đáng và làm rạng rỡ truyền thống của quê hương Bình Định, của Tổ quốc Việt Nam thân yêu.

*   *
*

Sống trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, nhân dân Bình Định qua hàng ngàn năm đấu tranh với thiên hiên và xã hội đã xây dựng quê hương mình thành một vùng trù phú, phồn thịnh.

Là một vùng đất mang truyền thống thượng võ và quật khởi, trong lịch sử đấu tranh giữ nước và giải phóng đất nước, Bình Định đã góp phần xứng đáng của mình vào sự nghiệp chung của Tổ quốc Việt Nam. Với những đặc điểm và thế mạnh của địa bàn về chính trị, quân sự và kinh tế, về tính cách và truyền thống, nhân dân Bình Định có đủ các yếu tố và điều kiện để giành thắng lợi trong cách mạng Tháng Tám và suốt 30 năm chiến tranh giải phóng.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 12 Tháng Năm, 2012, 10:19:23 am
Chương I

TỪ CÁC PHONG TRÀO YÊU NƯỚC
ĐẾN THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG THÁNG TÁM

I - NHỮNG PHONG TRÀO YÊU NƯỚC TRƯỚC VÀ SAU KHI CÓ ĐẢNG LÃNH ĐẠO:

Sau khi Quang Trung mất, Nguyễn Ánh được sự giúp đỡ của thực dân Pháp, lên làm vua, lập ra triều Nguyễn (1802) với chế đội cai trị khắc nghiệt, dã man thời trung cổ, bị nhân dân rất căm ghét.

Nửa đầu thế kỉ XIX, nông dân trong cả nước kế tục tinh thần quật khởi của nông dân Tây Sơn - Binh Định, nhưng cũng như thời Tây Sơn, chưa có một giai cấp mới ra đời, nên chưa có điều kiện xóa bỏ chế độ phong kiến. Thời ki này, thực dân Pháp ngày càng bám sâu vào nước ta, công cụ đắc lực là “Hội truyền giáo nước ngoài” (MEF).

Sau khi triều đình Huế kí hiệp ước 1883 đầu hàng thực dân Pháp, nước ta trở thành một nước nửa thuộc địa, nửa phong kiến chịu sự áp bức bóc lột của thực dân cai trị Pháp và vua quan nhà Nguyễn.

Năm 1885 vua Hàm Nghi - một vị vua yêu nước, kiên quyết chống Pháp, xuống chiếu Cần Vương hô hào nhân dân ra sức phò vua, cứu nước. Phong trào Cần Vương được các sĩ phu yêu nước trong cả nước nhiệt liệt hưởng ứng.

Ở Bình Định, nhiều văn thân yêu nước vận động nhân dân, tổ chức nghĩa quân đứng lên khởi nghĩa. Ngày 21 tháng 7 năm 1885, trong lúc Đào Doãn Địch lãnh đạo các sĩ phu và nhân dân nổi dậy chiếm thành Bình Định thì ở vùng rừng núi phía tây Bình Định, Mai Xuân Thưởng người thôn Phú Lạc, huyện Bình Khê (nay là huyện Tây Sơn) cũng bắt đầu chiêu mộ nghĩa quân, xây dựng cơ sở kháng chiến chống Pháp.

Trong khi Mai Xuân Thưởng chiêu mộ nghĩa quân thì Tăng Bạt Hổ (tức Tăng Doãn Văn) người Ân Tường, phủ Bồng Sơn (nay là huyện Hoài Ân) cũng chiêu mộ nghĩa quân chống giặc.

Ngày 1 tháng 9 năm 1885, tướng Roussel Decourcy tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp tại Trung và Bắc Kỳ trực tiếp chỉ huy, mở cuộc hành quân đánh chiếm lại thành Bình Định(1). Ngày 2/9 nghĩa quân của Đào Doãn Địch đã chặn đánh quân Pháp quyết liệt tại cầu Úc, diệt một số tên, nhưng vì sức yếu nghĩa quân đã phải rút lui để bảo toàn lực lượng. Ngày hôm sau (3/9) quân Pháp chiếm được thành Bình Định.

Sau khi rút khỏi thành Bình Định, nghĩa quân Đào Doãn Địch đến Bình Khê phối hợp với nghĩa quân Mai Xuân Thưởng để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến tiếp theo.

Sau khi Đào Doãi Địch bị bệnh mất, Mai Xuân Thưởng cho xây dựng nhiều căn cứ trên đất Tây Sơn, lấy vùng Lộc Đồng làm căn cứ trung tâm để lãnh đạo phong trào. Để thống nhất lực lượng nghĩa quân trong tỉnh, ông cử người liên lạc với Tăng Bạt Hổ (lúc này nghĩa quân Tăng Bạt Hổ hoạt động ở huyện Hoài Ân, Hoàn Nhơn). Sau khi liên kết lực lượng nghĩa quân trong tỉnh, Mai Xuân Thưởng còn cử người liên lạc với nghĩa quân các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận để mở rộng địa bàn hoạt động và chi viện cho nhau.

Tháng 10 năm 1885, trong lễ ra mắt nhân dân tại bãi cây Muồng thôn Phú Lạc, Mai Xuân Thưởng tuyên bố: “Nhận sứ mạng của nhân dân và tướng sĩ, lòng tôi cũng chỉ vì dan, cứu nước. Làm dân một nước phải đóng góp cho vẹn chí trung, trọng nghĩa cả”. Ông được tôn là Bình Tây Đại Nguyên Soái. Sau đó nghĩa quân kéo xuống vây thành Bình Định, buộc Pháp phải đưa quân từ Quy Nhơn lên cứu viện. Quân địch bị nghĩa quân phục kích chặn đánh lớp chết, lớp bị thương phải bỏ chạy về Quy Nhơn. Tháng 11-1885, nghĩa quân Mai Xuân Thưởng phối hợp với nghĩa quân Quảng Ngãi tiến công đồn Lão Thuộc, bắt đề đốc sơn phòng Đinh Hội; tháng 4-1885 đánh chiếm phủ Ninh Thuận.

Trước tình hình lớn mạnh nhanh chóng của nghĩa quân, cuối tháng 2 năm 1887, quân Pháp cùng quân triều đình mở cuộc tiến công lớn vào các căn cứ của nghĩa quân. Sau một số trận chiến đấu quyết liệt ở Nam Trại, Bầu Sấu và Hương Sơn, nghĩa quân không chống cự nổi phải lui về Lộc Đồng. Mai Xuân Thưởng và gia đình ẩn náu ở nguồn sông Đá Hàng bị bọn phản động chỉ điểm cho giặc bắt tại làng Con Vut ngày 4 tháng 5 năm 1887. Ông bị bọn thực dân Pháp đem hành hình cùng 12 người trong nghĩa quân.

Trước khi lên đoạn đầu đài, ông khẳng khái đọc bài thơ trước mặt kẻ thù:

         Chết nào sợ chết, chết như chơi
         Chết biết vì dân, chết bởi thời
         Chết hiếu chi nài xương thịt nát
         Chết trung bao quản cổ đầu rơi
         Chết nhân tiếng để vang ngàn thuở
         Chết nghĩa danh thơm rạng mấy đời
         Thà chịu chết vinh hơn sống nhục
         Chết nào sợ chết, chết như chơi


Tấm lòng trung trinh, nghĩa khí, yêu nước, cao cả của người Bình Định mà ông là tiêu biểu tưởng đến thế là cùng.

Cũng trong thời gian này, quân Pháp và quân Nam Triều mở nhiều cuộc hành quân ở phía bắc tỉnh, nghĩa quân Tăng Bạt Hổ chặn đánh quyết liệt ở Bồng Sơn, Kim Sơn, nhưng vì thế giặc quá mạnh nghĩa quân tan vỡ. Không nao núng trước thất bại, Tăng Bạt Hổ tích cực hoạt động, tìm đường sang Thái Lan, Trung Quốc, Nhật Bản liên lạc với Việt Kiều tìm cách khôi phục đất nước. Sau đó ông về nước cùng với Phan Bội Châu vận động phong trào Đông kinh nghĩa thục (1905-1908)(1), nhưng việc chưa thành thì ông bị bệnh qua đời ở Huế, lúc ấy ông tròn 50 tuổi. Với tấm lòng yêu nước, thương dân, Tăng Bạt Hổ đã cống hiến cả đời mình cho sự nghiệp chống giặc cứu nước.


(1) Theo LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ BÌNH ĐỊNH - tập 1.
(2) Theo LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ BÌNH ĐỊNH - tập 1.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 12 Tháng Năm, 2012, 10:20:40 am
Năm 1908, các sĩ phu Bình Định hưởng ứng phong trào cách tân, vận động nhân dân cắt tóc ngắn, bỏ khăn đơn, áo dài, mặc áo ngắn, gọi nhau là “đồng bào” để bày tỏ sự đồng tâm hiệp lực chống áp bức, bất công. Cũng trong năm ấy, hưởng ứng phong trào chống thuế của các tỉnh miền Trung, hàng vạn nhân dân trong tỉnh đã kéo vào thị xã, thị trấn đòi bọn cai trị thực dân Pháp và quan lại triều Nguyễn phải giảm thuế.

Ngày 16 tháng 4 năm 1908, hàng ngàn đồng bào Hoài Nhơn tiến vào phủ lị Bồng Sơn, nhân dân Bình Khế kéo vào thị trấn Đồng Phó, truy bắt bọn quan lại, sau đó theo sông Kôn xuôi về tỉnh lị Bình Định cùng nhân dân các huyện Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Phu Cát, An Nhơn vây chặt thành Bình Định trong nửa tháng. Cuộc đấu tranh diễn ra quyết liệt, lan rộng khắp nơi. Thực dân Pháp phải điều quân từ Hà Nội, Hải Phòng về Bình Định để đàn áp nhân dân, làm nhiều người chết và bị thương.

Phong trào này tạm lắng, phong trào khác lại nổi lên. Đồng bào Ba Na nhiều làng ở Vĩnh Thạnh liên tục nổi dậy chống lại việc địch cướp đất lập đồn binh, lập đồn điền, chống sưu thuế và chống bắt lính. Tiểu biểu là cuộc nổi dậy kéo dài hàng chục năm của nhân dân các làng Kon Klót, Kon Yong, Kon Plo, Tà Lăng (thuộc xã Vĩnh Kim và Vĩnh Hảo ngày nay). Nghĩa quân các làng trên đã đánh thắng địch nhiều trận, lớn nhất là trận đánh địch ở làng Kon Klót. Quân giặc không đóng được đồn, phải rút về. Sau đó tích cực tham gia phong trào “nước thần”, “xu đỏ”… một phong trào chống Pháp của nhiều dân tộc ở bắc Tây Nguyên và hưởng ứng phong trào chống thuế ở đồng bằng. Hình thức “chạy làng” đã lôi cuốn hàng chục làng như Hà Ri, Tà Điệt, Kon Yong, Nước Trú, Nước Giáp, Kon Hai, Kon Pót, v.v…

Đồng bào dân tộc ở An Lão, Vân Canh cũng tổ chức đấu tranh bất hợp tác với địch từ năm này sang năm khác. Đồng bào các làng Nước Giáp, Nước Đinh, Đá Lửa… ở An Lão đã giữ vững cuộc đấu tranh hàng chục năm trời, đánh bại tên Mác-voa trong âm mưu chiếm vùng Đồng Vuông làm đồn điền.

*   *
*

Nhân dân Bình Định cũng như nhân dân cả nước bị thực dân Pháp và triều Nguyễn bóc lột, giam hãm trong cảnh sốt tôi tăm, nô dịch với chính sách ngu dân. Chúng đàn áp mọi xu hướng cách mạng, kể cả duy tân ôn hòa. Cho đến lúc đó, tất cả các phong trào yêu nước ở Bình Định tuy có gây được nhiều ảnh hưởng trong quần chúng nhân dân, nhưng vẫn không giành được thắng lợi vì thiếu một tổ chức cách mạng chân chính lãnh đạo, thiếu một đường lối đúng đắn, phù hợp với yêu cầu của thời đại.

(http://nm8.upanh.com/b1.s27.d2/1da4569b9805fd2ee65f1c1ae39ea063_44620568.nhaphat.jpg)

Khu nhà phạt, nơi giam cầm, hành hạ, tra tấn những người dân yêu nước

Trong lúc cả nước “tình hình đen tối như không có đường ra” thì người thanh niên Việt Nam - Nguyễn Tất Thành sau khi rời Tổ quốc đi tìm đường cứu nước và bằng những hoạt động của mình đã xuất hiện trên vũ đài chính trị, đáp ứng nhu cầu cấp thiết của Cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ, đưa sự nghiệp cứu nước ra khỏi cuộc khủng hoảng kéo dài về đường lối, hướng nó vào con đường cách mạng vô sản, trong đó vấn đề giải phóng dân tộc được đặt lên hàng đầu.

Trên đường từ Bắc vào Nam, Nguyễn Tất Thành đến Bình Định vào khoảng trung tuần tháng 5/1909 và lưu lại ở Quy Nhơn. Trong thời gian lưu lại ở Quy Nhơn, Nguyễn Tất Thành có đến thăm cha đang làm tri huyện Bình Khê - Một tri huyện hết mực liêm khiết, bênh vực và vận động nhân dân chống thuế nên được nhân dân địa phương yêu quý. Ngoài Quy Nhơn và Bình Khê, Nguyễn Tất Thành còn đi với cha đến Trường Thi, lưu lại một thời gian ngắn ở thị trấn Bình Định. Và, có vài lần Nguyễn Tất Thành cùng với cha đến làng Vinh Thạnh (Tuy Phước) thăm cụ Đào Tấn. Đến đầu năm 1910 người thanh niên Nguyễn Tất Thành tiếp tục cuộc hành trình tìm đường cứu dân, cứu nước(1).


(1) Theo NGUYỄN TẤT THÀNH Ở BÌNH ĐỊNH.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 12 Tháng Năm, 2012, 10:22:08 am
*   *
*

Trong lúc phong trào đấu tranh ở Bình Định đang sôi động những cuộc đấu tranh bãi khóa của học sinh Quy Nhơn, tưởng niệm Mai Xuân Thưởng, ủng hộ cụ Phan Bội Châu, thì ảnh hưởng và khuynh hướng cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã đến với người dân lao động và trí thức trong tỉnh qua sách báo cách mạng từ nước ngoài gửi về: Báo Người cùng khổ ([/i]Leparia[/i]) do Nguyễn Ái Quốc sáng lập tại Pa-ri, Việt Nam hồn, Việt Nam vong quốc sử, v.v… Từ đó trong phong trào cách mạng ở Bình Định mang một sắc thái mới.

Chiến tranh thời gian lần thứ nhất kết thúc, thực dân Pháp thực hiện việc khai thác thuộc địa trên quy mô lớn. Các giai tầng xã hội Việt Nam tiếp tục phân hóa. Giai cấp tư sản dân tộc hình thành. Giai cấp công nhân ngày càng lớn mạnh và chuyển từ đấu tranh tự phát sang tự giác - yếu tố cực kì quan trọng để tiếp thu sự đổi mới trong đường lối, phương pháp và tổ chức của đấu tranh giải phóng dân tộc. Ở Bình Định vào những năm 1897-1974 lực lượng công nhân xí nghiệp xuất hiện(1). Tầng lớp công nhân không nhiều nhưng qua tác động của phong trào công nhân trong nước, công nhân ở xưởng dệt Dơ-li-nhông, đề pô xe lửa Diêu Trì, công nhân nhà máy đèn Quy Nhơn, công nhân đồn điền và chế biến dừa ở Hoài Nhơn đã đoàn kết đấu tranh với chủ, đòi tăng lương, giảm giờ làm.

Phong trào đấu tranh đồi cải cách xã hội phát triển khá rộng vào những năm 1925-1927. Một số nhà nho yêu nước ở Hoài Nhơn lập “Hoài Châu thương quản” nhằm cổ động dùng hàng nội hóa, chấn hưng công nghiệp, làm chỗ dựa của phong trào yêu nước và các tổ chức nghĩa đoàn. Ở Quy Nhơn có hội Phước An v.v…

Tháng 6 năm 1925, sau khi đến Quảng Châu, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tập hợp một số thanh niên yêu nước thành lập Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội - một tổ chức cách mạng mới có xu hướng Mác-xít. Từ đó, Thanh niên Cách mạng đồng chí hội được tổ chức khắp các vùng trong nước.

Ở Bình Đinh, chi bộ Thanh niên cách mạng đồng chí hội đầu tiên gồm ba đồng chí do đồng chí Nguyễn Trân làm bí thư được thành lập ở thôn Cửu Lợi, xã Tam Quan, huyện Hoài Nhơn. Tiếp đó, các chi bộ Thanh niên ở An Đỗ (Hoài Sơn), Tài Lương (Hoài Thanh) được thành lập và lan rộng ra nhiều nơi trong huyện Hoài Nhơn như Đại Hóa, An Thái, Dĩnh Thạnh, Cự Lễ, Châu Đê, Chương Hòa, Tường Sơn, Hi Văn, An Sơn, Tấn Thạnh… Cuối tháng 12 năm 1928, huyện bộ Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội Hoài Nhơn được thành lập do đồng chí Nguyễn Trân làm bí thư.

Thời gian này, thực hiện chủ trương của Tổng bộ Tân Việt Cách mạng đảng - một tổ chức chính trị của những trí thức tiểu tư sản yêu nước - đồng chí Ngô Đức Đệ đã xây dựng được những cơ sở đầu tiên ở Quy Nhơn (Nhà máy đèn, cảng, ga ra Trần Sanh Thại, bệnh viện…). Ngoài ra ở Phù Mỹ, Bồng Sơn, Bình Định cũng có cơ sở về sau phân hóa theo chủ nghĩa quốc gia nên bị các hội viên phản đối rời bỏ hàng ngũ chuyển sang gia nhập Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội.

Những tháng cuối năm 1929, phong trào cách mạng trong nước rất sôi động ở cả thành thị và nông thôn. Tình hình đó đòi hỏi phải có chính đảng của giai cấp công nhân đứng ra lãnh đạo cách mạng. Nhưng do sự bất đồng ý kiến trong Đại hội toàn quốc lần thứ nhất của Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội họp ở Hồng Kông, ba tổ chức cộng sản lần lượt ra đời là Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản liên đoàn. Huyện bộ thanh niên Hoài Nhơn quyết định không tham gia tổ chức cộng sản nào mà tổ chức nhóm “Ủng hộ Cộng sản”.

Trước tình hình cách mạng đang sôi động, việc thống nhất ba tổ chức cộng sản thành một chính đảng cách mạng duy nhất của giai cấp công nhân đang là một đòi hỏi bức thiết của cách mạng Việt Nam. Ngày 3 tháng 2 năm 1930, thay mặt Quốc tế Cộng sản, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc triệu tập và chủ trì. Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản họp tại bán đảo Cửu Long (Hồng Kông). Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức được thành lập.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng nước ta. Nó chứng tỏ giai cấp vô sản Việt Nam đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng, là cái mốc đánh dấu việc chấm dứt thời kì khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo cách mạng kéo dài suốt hai phần ba thế kỉ từ khi đế quốc Pháp xâm lược nước ta.

Tin này đến với nhân dân Bình Định, đặc biệt là từng lớp công nhân và các đồng chí trong nhóm “Ủng hộ Cộng sản” ở Tam Quan như một liều thuốc hồi sinh, như nắng hạn gặp mưa rào. Tháng 3 năm 19030, chi bộ cộng sản Việt Nam đầu tiên của Bình Định ở nhà máy đèn Quy Nhơn được thành lập. Tháng 8 năm 1930, chi bộ cộng sản thứ hai được thanh lập ở Cửu Lợi. Và, đến tháng 10 năm 1930, chi bộ Đảng tứ ba được thành lập ở trường Quốc học Quy Nhơn. Cơ sở Đảng và cơ sở quần chúng phát triển nhanh ra các huyện khác trong toàn tỉnh như Hoài Ân, Phù Mỹ, Phù Cát…

Là một vùng đất mang dòng máu quật khởi với truyền thống thượng võ từ thời Nguyễn Huệ, người dân Bình Định giờ đây được Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo như người đi trong đêm tối được ánh đuốc dẫn đường, được giác ngộ về đấu tranh dân tộc và giai cấp theo đường lối đúng đắn của Đảng đã vùng dậy tích cực tham gia mọi phong trào cách mạng.

Trong cao trào cách mạng của những năm 1930-1931, các từng lớp nhân dân Bình Định, dưới sự lãnh đạo của các chi bộ Đảng, làn đầu tiên tổ chức kỉ niệm ngày Quốc tế Lao động (1 tháng 5 năm 1930). Cờ đỏ búa liềm được treo ngay giữa ngã ba ga Quy Nhơn và nhiều nơi ở thành Bình Định, Phù Cát, Phù Mỹ, Bồng Sơn… Truyền đơn rải khắp thành phố Quy Nhơn và các thị trấn… Tiếp theo cờ Đảng và truyền đơn lại xuất hiện ở Quy Nhơn, Bình Định, Phù Cát, Phù Mỹ trong ngày kỉ niệm chống chiến tranh đế quốc (1/8). Các cuộc mít tinh nhỏ được tổ chức ở Quy Nhơn để tố cáo chính sách bóc lột nặng nề của thực dân Pháp.


(1) Theo LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ BÌNH ĐỊNH - tập 1.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 12 Tháng Năm, 2012, 10:22:39 am
Như những đợt sóng nối tiếp nhau, đêm 5 rạng ngày 6 tháng 11 năm 1930, truyền đơn kêu gọi công nhân, nông dân đứng lên đấu tranh đòi quyền lợi thiết thân để chào mừng cách mạng Tháng Mười Nga thành công lại được tung ra trên các đường phố, các công sở ở Quy Nhơn. Cờ Đảng lại tung bay trên cột cờ ngã ba Công quán (Quy Nhơn), đèo Phủ Cũ (Hoài Nhơn).

Sau những đợt hoạt động và đấu tranh sôi nổi trong toàn tỉnh suốt năm 1930, thực dân Pháp và bọn tay sai phong kiến lo sợ tìm mọi cách đàn áp, khủng bố. Nhiều cán bộ, đảng viên bị địch bắt. Đảng bộ Bình Định bị mất liên lạc với Xứ ủy nhưng không vì vậy mà phong trào bị sa sút. Nhân ngày Lao động quốc tế năm 1931, một đợt đấu tranh sôi động mới lại được phát động, đòi chấm dứt khủng bố trắng, thả người bị bắt, v.v…

Cuộc họp liên tịch giữa các Đảng bộ Quy Nhơn, Hoài Nhơn và Sông Cầu (Phú Yên) quyết định mở cuộc đấu tranh chống khủng bố trắng, ủng hộ phong trào Nghệ Tĩnh, Quảng Ngãi, tổ chức tuần hành vũ trang đưa quần chúng vào huyện lị đấu tranh.

Thực hiện quyết định trên, trong khi Đảng bố Hoài Nhơn triển khai chuẩn bị mọi mặt thì Đảng bộ Quy Nhơn và Sông Cầu bị địch khủng bố dữ dội, Đảng bộ Hoài Nhơn quyết định huy động quần chúng đấu tranh sớm hơn dự kiến. Cuộc đấu tranh được tổ chức làm ba cánh, có tổ chức chỉ huy chặt chẽ. Để bảo vệ cuộc đấu tranh, ngay từ tối ngày 22 tháng 7 năm 1931, các tổ tự vệ được thành lập.

17 giờ ngày 22 tháng 7, cánh thứ nhất kéo lên đường số 1, đến thôn Phụng Du (Hoài Hảo) gặp lính khố xanh chặn lại. Quần chúng hô vang khẩu hiệu và tiếp tục tiến lên. Bọn lính xả súng bắn vào đoàn biểu tình làm bốn người chết và bị thương. Cánh thứ hai tiến ra Chương Hòa hợp điểm với cánh Hoài Châu, vừa đến làng Huân Công bị đoàn phu ra cản đường. Để mở đường, lực lượng tự vệ đâm trọng thương tên lí trưởng.

Cánh thứ ba đông đảo nhất tiến vào Tài Lương. Nhân dân ở Tài Lương, Ngọc An, Trường Lâm cũng kéo đến địa điểm tập trung tham gia đấu tranh. Hơn 3.000 quần chúng, cờ Đảng giương cao, tiếng trống, tiếng la, tiếng mõ giục giã, khí thế hằng hực, ngút trời, làm náo động cả huyện. Thật là:

         Cờ phấp phới Tài Lương An Thái
         Trống vang lừng Cự Lễ, Thành Sơn


Quần chúng đốt trụi các điểm canh dọc đường, đánh trả quyết liệt bọn đoàn phu, đoàn thập, đốt cháy một ô-tô và bắt luôn hai tên chánh tổng An Sơn và Trung Yên khi chúng định chạy về huyện báo cáo.

Khi đến ki-lô-mét 7 (Tài Lương) đoàn biểu tình giáp mặt một đơn vị do tên Pa-tô, công sứ Bình Định đích thân chỉ huy cùng với tổng đốc Ưng Bàng và án sát Mai Hữu Lang. Sự kiện quan trọng đến mức, kẻ thù đã phải xuất lực với những tên quan đầu tỉnh. Gặp lực lượng địch lớn, đoàn biểu tình không nao núng, càng xiết chặt đội ngũ, kiên quyết tiến lên. Lập tức, địch xả súng vào đoàn biểu tình tay không. Sáu người đi đầu ngã xuống tại chỗ, hàng chục người khác bị thương và bị bắt.

Sau ngày 23 tháng 7 đẫm máu đó, địch tăng viện binh lính mở các đợt lùng sục khủng bố trong toàn huyện. 500 đảng viên và quần chúng cách mạng ở Hoài Nhơn bị bắt, Đảng bộ Hoài Nhơn bị một tổn thất nặng nề.

Qua những bước tập dượt từ thấp đến cao, đây là cuộc đấu tranh được huy động lớn nhất, quyết liệt nhất của Đảng bộ Hoài Nhơn và toàn tỉnh trong cao trào cách mạng 1930-1931. Cuộc đấu tranh tuy chưa thắng lợi, nhưng đã biểu thị truyền thống kiên cường, bất khuất của người dân vùng đất thượng võ, thà hi sinh chứ nhất định không lùi một ước trước súng đạn của quân thù. Nó làm rung chuyển cả một bộ máy cai trị của thực dân, phong kiến từ cơ sở đến huyện, tỉnh.

Thành quả lớn nhất của phong trào 1930-1931 là chống lại cuộc khủng bố trắng của kẻ thù dân tộc và giai cấp, nó khẳng định thực tế quyền lãnh đạo và năng lực lãnh đạo cách mạng của Đảng bộ Bình Định - bộ phận tiên phong của giai cấp vô sản, đã đem lại cho giai cấp công nhân niềm tin vững chắc vào giai cấp vô sản, đồng thời đem lại cho đông đảo quần chúng nhân dân lòng tự tin vào sức mạnh khi đã đoàn kết thành một khối vững chắc.

Sau cuộc đấu tranh, đảng viên cũng như quần chúng cách mạng nhận thức được rằng khi tương quan lực lượng còn nghiêng về phía kẻ thù thì đấu tranh chưa thắng lợi, bị tổn thất là lẽ đương nhiên. Vấn đề được đặt ra là không vì thất bại mà chùn bước, phải xây dựng, củng cố chuẩn bị lại lực lượng, rút kinh nghiệm cho cuộc đấu tranh mới.

Cuối năm 1932, chi bộ Đảng ở Cửu Lợi được khôi phục. Cuối năm 1936, chi bộ Hồng Lĩnh ở phía nam tỉnh được thành lập, tạo cơ sở hoạt động ở các huyện phía nam.

Trong thời kì Mặt trận Bình dân cầm quyền ở Pháp (1936-1939) theo chủ trương của Trung ương Đảng, Đảng bộ lãnh đạo nhân dân toàn tỉnh đấu tranh công khai, hợp pháp trên nhiều mặt với nhiều hình thức phong phú, nâng cao lòng yêu nước, vạch rõ bản chất kẻ thù, tổ chức và tập dượt cho quần chúng đấu tranh. Các thành công quần chúng cách mạng được xây dựng rộng rãi dưới các hình thức công khai hợp pháp như hội tương tế, tương ái, đá bóng, hội đi săn, hội trợ tang v.v…

Như vậy là sau sáu năm, tính từ khi tổ chức Đảng ở tỉnh Bình Định ra đời, trải qua nhiều đợt khủng bố dữ dội của thực dân, phong kiến, tổ chức Đảng bị tổn thất nặng nề, nhưng như một cây đại thụ bị chặt cành, chặt cành nào thì lập tức những chồi non tiếp tục mọc lên, vươn cao xanh tốt. Đó là quy luật phát triển lực lượng của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 12 Tháng Năm, 2012, 10:23:28 am
(http://nm6.upanh.com/b1.s27.d2/840e93695000a955ac7d4732711eaa7a_44620576.quynhon1932.jpg)

Toàn cảnh Quy Nhơn năm 1932

Nhân cơ hội chính phủ Mặt trận Bình dân cử một phái đoàn nghị viện sang nghiên cứu tình hình ở Đông Dương, Đảng ta chủ trương mở một đợt đấu tranh đòi triệu tập Đông Dương đại hội để thu thập nguyện vọng quần chúng, đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, Đảng bộ Bình Định hưởng ứng rất tích cực. Khi phái đoàn Gô-đa đến Quy Nhơn, vượt qua sự cấm đoán, khủng bố của kẻ thù, gần 300 quần chúng phần đông là công nhân, thợ thủ công thay mặt cho nhân dân toàn tỉnh trao cho Gô-đa bản yêu sách đòi nhà cầm quyền Pháp phải đáp ứng những nhu cầu bức thiết về tự do, dân chủ và dân sinh. Số lượng quần chúng không lớn nhưng đây là lần đầu tiên nhân dân lao động Bình Định đấu tranh trực tiếp với đại diện của chính phủ Pháp.

Để đáp ứng những đòi hỏi mới của tình hình, Trung ương Đảng ta chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất Dân chủ Đông Dương, gọi tắt là Mặt trận Dân chủ Đông Dương, tập hợp tất cả các giai cấp, đảng phái, dân tộc, tổ chức chính trị, xã hội và tôn giáo vào cuộc đấu tranh. Đây là sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta trong việc kết hợp đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp vào hoàn cảnh cụ thể của nước nhà.

Thực hiện chủ trương của Trung ương, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, khắp các huyện trong tỉnh sôi nổi tuyên truyền, vận động tham gia thành lập Mặt trận Dân chủ Đông Dương ở địa phương.

Để thu hút lực lượng trẻ vào trận tuyến đấu tranh cách mạng, lợi dụng các hình thức tổ chức hợp pháp, Tỉnh ủy lâm thời quyết định thành lập Đoàn thanh niên Dân chủ An Bình (An Nhơn - Bình Khê) dưới hình thức một đội bóng đá. Cùng mục đích trên các “hội bóng đá” Tấn Thạnh - Tam Quan, An Đỗ, An Sơn, Cự Lễ (Hoài Nhơn), Vạn Phú, Tân Ốc, Trà Quang (Phù Mỹ) cũng được thành lập.

Vào những năm 1936-1938, phong trào đấu tranh đòi tự do dân chủ tiếp tục phát triển. Đặc biệt nhiều cuộc đấu tranh của công nhân, thợ thủ công, học sinh, thanh niên… ở thành phố Quy Nhơn và các vùng lân cận phát triển mạnh, buộc địch phải chấp nhận một số yêu sách như tăng lương, giảm giờ làm… Ngoài những cuộc đấu tranh của công nhân, học sinh… ta còn tổ chức vận động các chủ hiệu sách phát hành một số báo chí công khai của Đảng. Đồng thời lập nhóm Thái Dương văn đoàn, xuất bản một số tiểu phẩm đề cập đến việc đòi cải cách dân chủ. Qua đó, đường lối chính sách của Đảng đã đến được và bám chặt vào các tầng lớp nhân dân trong tỉnh.

Cũng trong năm 1938, khắp nơi trong toàn tỉnh đã dấy lên cuộc đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân đòi quân cấp công điền. Song song với phong trào đấu tranh của nông dân, phong trào đấu tranh của công nhân bắt đầu được phát động và có những tiến bộ rõ rệt. Hơn 5.000 công nhân dệt ở An Thái (An Nhơn) đồng loạt bãi công đấu tranh đòi tăng lương, chống đánh đập và sa thải công nhân. Bọn chủ phải chấp nhận yêu sách và hứa giải quyết. Phong trào đấu tranh trong công nhân xe lửa ở Diêu Trì cũng như các ga khác trong tỉnh có bước phát triển vững chắc. Phối hợp với công nhân đề pô Diêu Trì, toàn ngành đường  sắt thời gian này còn liên tiếp tổ chức nhiều cuộc bãi công và phá hoại trên tuyến đường sắt và một số nhà ga gây cho nhà cầm quyền Pháp nhiều thiệt hại.

Trong năm 1939, được sự lãnh đạo của các tổ chức Đảng, khắp nơi trong tỉnh liên tiếp nổ ra nhiều cuộc đấu tranh của công nhân phá âm mưu chiếm đoạt ruộng đất của bọn cường hào. Phong trào đấu tranh của công nhân, học sinh ở Quy Nhơn cũng phát triển mạnh, vận động thanh niên học chữ quốc ngữ, giúp đỡ người nghèo, đọc báo chí của Đảng…

Trong thời kì 1936-1939, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Bình Định, thắng lợi to lớn nhất của phong trào là đã biết triệt để lợi dụng những khả năng hợp pháp để động viên, giáo dục và tổ chức quần chúng đấu tranh trong Mặt trận dân chủ rộng rãi, kết hợp chặt chẽ đấu tranh hợp pháp và nửa hợp pháp với hoạt động bí mật và không hợp pháp, từng bước đưa phong trào tiến lên. Mặt khác trong thời kì này, Tỉnh ủy lâm thời đã tranh thủ củng cố, xây dựng và phát triển nhiều chi bộ Đảng ở một số vùng mà trước đó chưa có điều kiện xây dựng.

Cơ sở Đảng được xây dựng, củng cố, phong trào công nhân, nông dân phát triển đều, lực lượng quần chúng được phát động, những yếu tố đã tạo nên lực mới, thế mới cho cao trào chống Nhật cứu nước và thắng lợi của Cách mạng tháng Tám vào năm 1945.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 12 Tháng Năm, 2012, 10:25:15 am
2 - CAO TRÀO CHỐNG NHẬT CỨU NƯỚC - TỔNG KHỞI NGHĨA THÁNG 8 NĂM 1945.

Tháng 9 năm 1939, chiến tranh thế giới thứ hai bắt đầu bùng nổ. Bọn thực dân Pháp ở Đông Dương nhanh chóng phát xít hóa bộ máy cai trị. Chúng giải tán các tổ chức quần chúng trong thời kì Mặt trận bình dân, tước đoạt các quyền tự do, dân chủ tối thiểu của quần chúng vừa mới giành được, ra sức cướp của, bắt lính để phục vụ cho chiến tranh bên chính quốc.

Chỉ hai tháng sau khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp ra Nghị quyết Trung ương lần thứ sáu. Nghị quyết nhấn mạnh: “Cuộc khủng hoảng chính trị - kinh tế gây nên bởi chiến tranh thế giới lần này sẽ nung nấu cách mạng Đông Dương nổ bùng… một thế giới quang minh rực rỡ thay cho cái thế giới tối tăm, mục nát này”(1).

Tháng 6 năm 1940 nước Pháp bại trận. Lợi dụng tình hình đó, phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương. Đế quốc Pháp thấy không đủ sức chống lại nên đành chịu làm đầy tớ cho Nhật. Nước ta và cả Đông Dương lúc này thực chất đã bị đặt dưới ách thống trị của Pháp lẫn Nhật.

Nhân dân ta rơi vào cảnh “một cổ hai tròng”, đã cơ cực càng thêm điêu đứng, đói khổ. Không thể chịu nổi trước cảnh nước mất, nhà tan, nhân dân Bình Định cùng nhân dân cả nước đứng lên chống lại cả Pháp lẫn Nhật.

Ở Bình Định nhiều cuộc đấu tranh liên tiếp nổ ra. Đáng chú ý là đầu năm 1942 cuộc đấu tranh bãi công của hơn 500 nữ công nhân diệt hãng Dơ-li-nhông đòi tăng lương, làm không quá 10 giờ, không được đánh đập, cúp phạt thợ. Trước sức đấu tranh mạnh của chị em bọn chủ phải nhượng bộ, chấp nhận một số yêu sách của công nhân. Suốt trong những năm qua, đây là “lần đầu tiên công nhân hãng Dơ-li-nhông tổ chức đấu tranh và giành thắng lợi.

Để chống lại chính sách “kinh tế thời chiến” của địch, nhân dân các làng chuyên chế biến dầu dừa, dầu phộng ở các huyện hoài Nhơn, Phù Mỹ, Bình Khê đấu tranh quyết liệt chống bọn “liên nông thương đoàn” trắng trợn cướp không các sản phẩm của họ. Thợ dệt thủ công ở Bình Khê, An Nhơn, Hoài Ân, Phù Cát phản đối tăng thuế môn bài và chống lại việc thu mua tơ lụa với giá rẻ mạt. Nhân dân các xã có nhiều dứa thuộc huyện Hoài Nhơn, Hoài Ân, Phù Mỹ đoàn kết đấu tranh chống lại việc cướp dừa của bọn đại lí tuần sai. Bằng nhiều hình thức đấu tranh với mức độ khác nhau, nhân dân khắp nơi trong tỉnh đã vạch trần bộ mặt thật về chính sách “kinh tế thời chiến” của thực dân Pháp và bọn quan lại tay sai.

Phát xít Nhật giở thủ đoạn tuyên truyền mị dân là bênh vực quyền lợi của nhân dân ta, giúp thoát khỏi ách thống trị của thực dân Pháp. Chúng ráo riết tạo nên một phong trào thân Nhật, phục Nhật, sợ Nhật. Cùng thực dân Pháp, chúng bóc lột nhân dân ta đến tận xương tủy. Trong khi nông dân ta thiếu ăn, chúng dùng gạo nấu rượu cồn thay xăng, đốt thóc thay than để chạy các nhà máy điện.

Trước tình hình đó, Ban chấp hành Trung ương Đảng họp ra Nghị quyết lần thứ bảy. Hội nghị quyết định đổi Mặt trận Thống nhất Dân tộc phản đế Đông Dương thành Mặt trận Dân tộc thống nhất chống phát xít Pháp - Nhật và nêu rõ: “Một cao trào cách mạng nhất định sẽ nổi dậy. Đảng phải chuẩn bị để gánh lấy cái sứ mạng thiêng liêng lãnh đạo các dân tộc lãnh đạo các dân tộc Đông Dương để áp bức vũ trang bạo động, giành lấy quyền tự do, độc lập”(2).

Dưới ách thống trị tàn bạo của cả Pháp lẫn Nhật, nhân dân trong cả nước đã vùng dậy đấu tranh. Cuối năm 1940 đầu năm 1941 liên tiếp nổ ra các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ và binh biến Đô Lương - những tiếng súng báo hiệu cuộc khởi nghĩa toàn quốc sắp xảy ra.

Tháng 12 năm 1940, sau những năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở vền ước trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Sau một thời gian nghiên cứu, tình hình cách mạng trong nước, Bác Hồ thay mặt Quốc tế Cộng sản triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ tám. Sau khi phân tích sâu sắc tình hình thế giới và trong nước, Hội nghị khẳng định: giương cao hơn nữa ngọn cờ giải phóng dân tộc, đánh đổ Pháp - Nhật và lực lượng phản cách mạng tay sai của chúng. Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh thay cho Mặt trận Dân tộc thống nhất chống Pháp - Nhật.

Một trong những vấn đề quan trọng nhất là Hội nghị quyết định khởi nghĩa vũ trang để đập tan ách thống trị của phát xít Phát - Nhật giành độc lập, chủ quyền dân tộc, phát triển mạnh cơ sở cách mạng ở nông thôn, các vùng đồng bào dân tộc ít người, thành lập tự vệ cứu quốc và các đơn vị du kích…

Hội nghị Trung ương lần thứ tám có ý nghĩa cực ki quan trọng. Nó bổ sung hoàn chỉnh các Nghị quyết Trung ương sáu và bảy, nó có ý nghĩa quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám sau này.

Đầu năm 1943, trong không khí sôi động đánh Pháp, đuổi Nhật của cả nước, ở Bình Định, chi bộ nhà lao Quy Nhơn được thành lập do đồng chí Võ Xán (được địch đưa từ nhà tù Sơn La về) làm bí thư.

Tuy chưa nhận được tinh thần Nghị quyết tám của Trung ương nhưng chi bộ nhà lao Quy Nhơn qua liên lạc với bên ngoài, nắm được tin tức về chiến tranh thế giới thứ hai, phong trào đấu tranh chống Pháp - Nhật và những hoạt động của Mặt trận Việt Minh ở các nơi, đã xây dựng được một số quần chúng cảm tình, chuẩn bị cơ sở cho những hoạt động tới. Thông qua các cơ sở này, chi bộ tìm cách bắt mối với các đảng viên còn lại sau những đợt khủng bố của địch để liên lạc với tổ chức.

Cuối năm 1944, tình hình thế giới có những chuyển biến quan trọng. Trong nước, hai khu căn cứ Cao Bằng và Bắc Sơn - Võ Nhai hình thành, ngày càng mở rộng với những hoạt động vang dội của cứu quốc quân cùng những tin tức về hoạt động sôi nổi của Mặt trận Việt Minh trong cả nước. Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân - tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập. Ở Bình Định, trước tình hình đó, các đảng viên ở Hoài Nhơn, An Nhơn đã liên lạc được với nhau, bàn kế hoạch hoạt động.

Đầu năm 1945, cuộc chiến tranh xâm lược của phát xít Đức đang bước vào giai đoạn chót cùng với việc Hồng quân Liên Xô tiến đánh Béc-lin, sào huyệt cuối cùng của Hít-le. Trước tình hình quân Đồng minh sắp vào Đông Dương, phát xít Nhật xúc tiến âm mưu diệt Pháp.

Đúng như dự kiến sáng suốt của Đảng ta, ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp trên toàn Đông Dương.

Ở Quy Nhơn, đêm 9 tháng 3, quân Nhật nổ súng tiến công đánh chiếm các đồn quân Pháp trong thị xã và sau đó tất cả các đồn binh ở Vân Canh, An Lão… cũng bị đánh chiếm. Quân Pháp hạ vũ khí đầu hàng một cách nhục nhã. Tỉnh Bình Định cũng như cả nước rơi vào tay phát xít Nhật.

Quân Nhật chiếm đóng những vị trí quan trọng ở Quy Nhơn, Đập Đá, Phú Phong, Bồng Sơn, Tam Quan, v.v… Chúng sử dụng bộ máy cai trị tay sai Pháp để áp đặt ách thống trị. Các đảng phái, tổ chức chính trị quân Nhật ra đời như ủy ban quốc dân, thanh niên thân Nhật. Hung hăng hơn cả là một số phản động trong lãnh đạo Cao Đài. Tất cả bọn này ra sức cổ động cho thuyết “Đại Đông Á” của Nhật.


(1) VĂN KIỆN ĐẢNG (1930-1975), Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương, Hà Nội, 1977, t. 3, trang 53.
(2) Văn kiện Đảng (1930-1945), Ban nghiên cứu lịch sử Đảng TW, Hà Nội 1977, t.3, tr. 142.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 12 Tháng Năm, 2012, 10:26:18 am
Trong đêm 9 tháng 3, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng và ngày 12 tháng 3 ra chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng, Mặt trận Việt Minh và lực lượng vũ trang cách mạng trong cả nước.

Một cao trào cách mạng mới bắt đầu: cao trào chống Nhật cứu nước, chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa giành chính quyền.

Sau ngày Nhật đảo chính Pháp, bộ máy ngụy quyền tay sai của Pháp rệu rã, bộ máy ngụy quyền của Nhật chưa ổn định, các từng lớp trung gian hoang mang, dao động. Phong trào cách mạng của quần chúng biến chuyển thuận lợi. Ở Quảng Ngãi, nhân thời cơ đó, Tỉnh ủy Quảng Ngãi quyết định cho chi bộ căng an trí Ba Tơ đứng lên khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa của Ba Tơ thắng lợi, đội du kích Ba Tơ ra đời. Thắng lợi của khởi nghĩa Ba Tơ là niềm tự hào chung của các tỉnh miền Nam Trung bộ. Nó có tác động to lớn đối với phong trào cách mạng ở các tỉnh phía nam, đặc biệt là đối với Bình Định - tỉnh kế cận và từ lâu phong trào cách mạng của hai tỉnh đã có sự gắn bó, hỗ trợ cho nhau.

Ở Bình Định, các đồng chí ở nhà lao Quy Nhơn tổ chức vượt ngục về ngay địa phương, dựa vào cơ sở bắt liên lạc với Đảng, với Mặt trận Việt Minh.

Cuối tháng 3 năm 1945 các đồng chí Trần Quang Khanh, Đinh Trung nối được liên lạc với Ủy ban vận động cứu quốc tỉnh Quảng Ngãi.

Không để chậm trễ, giữa tháng 4 năm 1945, tạo làng Bình Định, xã Hoài Mỹ, huyện Hoài Nhơn, Ủy ban vận động cứu quốc tỉnh Bình Định được thành lập gồm các đồng chí Trần Quang Khanh, Ngô Đức Đệ, Đinh Trung… Đến cuối tháng 5 năm 1945, đại biểu các nhóm Việt Minh ở Phú Phong, Phú Lạc, Vĩnh Lộc và các đảng viên cũ ở Thủ Thiện… họp tại hãng dệt Dơ-li-nhông (Phú Phong), lập Ủy ban vận động Việt Minh, do đồng chí Võ Xán làm bí thư(1).

Ủy ban vận động cứu quốc và Ủy ban vận động Việt Minh tỉnh Bình Định chủ trương dựa vào các đảng viên vừa ra tù ở các huyện nhanh chóng tuyên truyền, vận động, tổ chức quần chúng vào các đoàn thể cứu quốc của Mặt trận Việt Minh. Khắp các huyện trong tỉnh từ thị trấn, đồng bằng nông thôn đến các vùng miền núi, nhân dân hồ hởi, phấn khởi tham gia các đoàn thể công nhân cứu quốc, nông dân cứu quốc, thanh niên, phụ nữ cứu quốc, v.v… Sôi nổi và mạnh nhất là phong trào ở Hoài Nhơn, số hội viên cứu quốc lên đến 3.000 người. Các đoàn thể hoạt động gần như công khai, không khí khẩn trương chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa được xúc tiến mạnh mẽ. Các đội “tự vệ sắt” được thành lập, có làng tổ chức đến trung đội.

Tại Hoài Ân, cơ sở Việt Minh lan nhanh khắp các làng xã, lôi cuốn cả một số địa chủ trong vùng. Ở bắc Phù Mỹ, hàng ngàn đồng bào đổ ra đường bao vây từng toán lính Nhật sục vào làng khủng bố nhân dân, Việt Minh An Nhơn tích cực hoạt động trong đồng bào theo đạo Phật và nắm chắc các phái võ. Những nơi có phong trào công nhân như Diêu Trì (Tuy Phước), Phú Phong (Bình Khê) đã tổ chức các đội “Tự vệ cứu quốc”. Riêng hãng dệt Dơ-li-nhông, công nhân cứu quốc gần như làm chủ các xưởng dệt và tổ chức được một đại đội “Tự vệ cứu quốc”. Ở Quy Nhơn, cơ sở Việt Minh phát triển mạnh trong công nhân, dân nghèo thành thị, học sinh, viên chức, tiểu thương, tiểu chủ. Phong trào ở Phù Cát, Tuy Phước vươn lên mạnh mẽ, đẩy mạnh xây dựng các đoàn thể cứu quốc và vận động tranh thủ những phân tử tiến bộ trong tổ chức thanh niên thân Nhật.

Trong tất cả các phong trào yêu nước từ trước chưa có phong trào nào và cũng chưa có thời kì nào được quần chúng nhân dân tham gia đông đảo và rộng rãi như thời kì này. Các đội “Tự vệ sắt” ở Hoài Nhơn, Phú Phong, Diêu Trì là những tổ chức vũ trang cách mạng đầu tiên của tỉnh Bình Định. Tuy tổ chức còn giản đơn, trang bị vũ khí thô sơ nhưng nó được xác định là những đội tiền thân của lực lượng vũ trang nhân dân Bình Định sau này.

Trong hai tháng 6 và 7 năm 1945, Ủy ban vận động cứu quốc tỉnh mở liền hai cuộc họp tại Trường An (Hoài Thanh)(2) để nhận định tình hình và đề ra nhiệm vụ chuẩn bị khởi nghĩa. Cũng trong trung tuân tháng 6, tại hãng dệt Dơ-li-nhông, Ủy ban vận động Việt Minh họp(3) đề ra nhiệm vụ chuẩn bị khởi nghĩa.

Vào khoảng trung tuần tháng 7-1945, Ban cán sự Đảng tỉnh Bình Định được thành lập do đồng chí Trần Lương làm bí thư. Ban cán sự chủ trương trước mắt cần thống nhất các lực lượng Việt Minh trong tỉnh, chống sự chia rẽ làm yếu phong trào, tăng cường cán bộ cho các nơi còn yếu, xúc tiến việc thành lạp Ủy Ban Việt Minh huyện, xây dựng các đội “Tự vệ sắt”, v.v…

Thực hiện các chủ trương trên, phong trào Việt Minh trong tỉnh tiếp tục phát triển mạnh mẽ, thu hút ngày càng đông các tầng lớp nhân dân tham gia. Các đội “Tự vệ cứu quốc”, “Tự vệ sắt”(4) và các đội tuyên truyền lợi dụng thời cơ thuận lợi đã biến các cuộc mít tinh do bọn thân Nhật tổ chức và đột nhập những nơi tập trung đông dân như Tam Quan, thị trấn Phù Mỹ, An Sơn, An Thường, Đập Đá, Chợ Gò Chàm, hội quán Quy Nhơn… để giới thiệu chương trình cứu nước của Mặt trận Việt Minh và kêu gọi quần chúng chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa.

Trong mọi công tác chuẩn bị khởi nghĩa, việc xây dựng các đội “Tự vệ sắt” và “Tự vệ cứu quốc” - lực lượng vũ trang cách mạng thời kì tiền khởi nghĩa của Bình Định được Đảng bộ và các Ủy ban Việt Minh đặc biệt quan tâm. Phong trào luyện tập quân sự được tổ chức sôi nổi. Các môn võ Tây Sơn gồm roi, kiếm, thảo bộ được các chiến sĩ luyện tập ngày đêm. Các lò rèn khắp nơi trong tỉnh đỏ lửa từ sáng sớm đến đêm khuya, hối hả rèn giáo, mác, dao, kiếm để trang bị cho tự vệ và nhân dân.


(1) Theo Lịch sử Đảng bộ Bình Định tập 1.
(2), (3) Theo LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ BÌNH ĐỊNH tập 1 - trang 131 - 132.
(4) Theo LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ BÌNH ĐỊNH trang 132.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 12 Tháng Năm, 2012, 10:29:21 am
*   *
*

Mùa thu năm 1945 - một mùa thu thật đẹp và sôi động cả trên thế giới và trong nước. Trên thế giới, ở Châu Âu phát xít Đức - Ý đầu hàng Hồng quân Liên Xô và quân Đồng minh. Ở Châu Á, Hồng quân Liên Xô đánh tan đạo quân Quan Đông - chủ lực của phát xít Nhật. Ngày 14 tháng 8, Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng Đồng minh không điều kiện. Trong nước, cao trào chống Nhật cứu nước, chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa đã lên đến đỉnh cao.

Hội nghị Toàn quốc của Đảng do Bác Hồ chủ trì đang họp ở Tân Trào (13-8-1945). Trong không khí cuộc hội nghị đang diễn ra khẩn trương, được tin phát xít Nhật đầu hàng, Hội nghị quyết định: Phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước, với ba nguyên tắc: tập trung, thống nhất, kịp thời.

Ngay đêm 13 tháng 8 năm 1945, Ủy ban khởi nghĩa do Tổng bộ Việt Minh thành lập ra Quân lệnh số một hạ lệnh cho cả nước vùng dậy cướp chính quyền.

Ở Bình Định, khi nhận được tin Nhật đầu hàng Đồng minh, tại An Sơn (Hoài Châu) Ban cán sự Đảng và Ủy ban vận động cứu quốc tỉnh họp quyết định:

- Chuyển Ủy ban vận động cứu quốc tỉnh thành Ủy ban khởi nghĩa tỉnh, Ủy ban Việt Minh các huyện cũng chuyển thành Ủy ban khởi nghĩa để chuẩn bị lật đổ chính quyền cũ, thành lập chính quyền mới.

- Phát động nơi nào chuẩn bị chu đáo, đủ điều kiện thuận lợi thì có thể cướp chính quyền song phải thận trọng(1), không để mắc mưu địch và gây kích động đối với quân Nhật. Cần thăm dò phản ứng của quân Nhật để có biện pháp đối phó kịp thời, đồng thời tích cực vận động bọn ngụy quyền tỉnh, huyện giao chính quyền cho Việt Minh, khống chế nghiêm ngặt bọn thân Nhật.

Nhận được quyết định trên, các phủ, huyện, thị đến cơ sở khẩn trương họp bàn kế hoạch tiến hành khởi nghĩa.

Tin tức về thủ đô Hà Nội khởi nghĩa thắng lợi (19-8-1945) cùng việc giành chính quyền ở các tỉnh bạn đang nổ ra dồn dập càng thôi thúc công cuộc khởi nghĩa trong tỉnh.

Tại thành phố Quy Nhơn, sau khi cử người đi liên lạc với Ủy ban khởi nghĩa tỉnh để bàn kế hoạch phối hợp hành động nhưng không thành, chiều ngày 21-8-1945, Ủy ban khởi nghĩa (thuộc Ủy ban vận động Việt Minh) huy động hàng ngàn quần chúng tham gia cuộc mít tinh tại bến ô-tô thành phố, nhằm tập dợt quần chúng, thăm dò phản ứng của Nhật và chính quyền bù nhìn tỉnh. Mặt khác, các đội tự vệ cứu quốc tập trung ráo riết luyện tập quân sự để chuẩn bị cướp chính quyền(2).

Tối ngày 21-8-1945, Ủy ban khởi nghĩa (thuộc Ủy ban vận động Việt Minh), gồm các đồng chí Võ Xán, Lê Văn Nhiễu, Giáp Văn Cương, Nguyễn Chơn… họp khẩn cấp và quyết định kế hoạch khởi nghĩa chiếm thành phố tỉnh lị vào ngày 23-8-1945.

Sáng ngày 23-8-1945, cả thành phố Quy Nhơn bừng bừng khí thế cách mạng. Hơn một vạn quần chúng Quy Nhơn và Phú Phong, Diêu Trì phối hợp từ các hướng kéo về sân ga Quy Nhơn. Sau khi chào cờ và đọc tuyên bố lật đổ chính quyền tay sai Nhật ở tỉnh lị, cuộc mít tinh chuyển thành cuộc tuần hành thị uy với hơn 200 chiến sĩ tự vệ cứu quốc, có các đội tự vệ Phú Phong, Diêu Trì dẫn đầu tiến lên chiếm dinh tổng đốc, tòa đốc kí, v.v…

Tại dinh tổng đốc, trước sức mạnh áp đảo của quần chúng, tỉnh trưởng Phạm Phú Tiết (đã có liên lạc với ta từ trước) và án sát Nguyễn Học Sĩ giao nộp ấn tín, vũ khí và toàn bộ hồ sơ cho cách mạng. Sau đó, tự vệ và quần chúng kéo đi chiếm tòa đốc lí, sở mật thám, đồn cảnh sát, ngân khố, bưu điện, nhà lao… Riêng ở trại bản an binh, trại trưởng Huỳnh Ngọc Du (quản khố xanh thời Pháp) không chịu hạ vũ khí giao đồn. Trước uy thế của cách mạng và sức ép của binh lính là cơ sở cách mạng được tổ chức từ trước cộng với sự giải thích của tỉnh trưởng Phạm Phú Tiết, cuối cùng y mới chịu hạ vũ khí đầu hàng. 500 lính bảo an giao nộp vũ khí, đứng về phía cách mạng.

Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Nguyễn Huệ (tên mới của tỉnh Bình Định) được thành lập gồm sáu đồng chí, do đồng chí Võ Xán làm chủ tịch(3).

Cuộc khởi nghĩa ở Quy Nhơn - tỉnh lị Bình Định đã diễn ra nhanh, gọn, không đổ máu. Quy Nhơn là dinh lũy của kẻ thù, là nơi có nhiều quân Nhật đóng giữ, lực lượng bảo an, cảnh sát đông nhưng nhờ sự lãnh đạo, vận động khôn khéo của Ủy ban khởi nghĩa (Ủy ban vận động Việt Minh) đã được đông đảo quần chúng cách mạng tham gia, đặc biệt là sự nhạy bén, nắm thời cơ, tính năng động cách mạng của các đồng chí Võ Xán, Lê Văn Nhiễu, Giáp Văn Cương, Nguyễn Chơn… nên Quy Nhơn là nơi đầu tiên cướp chính quyền thắng lợi trong toàn tỉnh.

Sáng ngày 24-8-1945, hơn 3.000 quần chúng yêu nước gồm công nhân Delignon, nhân dân một số làng thuộc các tổng Phú Phong, Vĩnh Thạnh… có tự vệ cứu quốc dẫn đầu, sôi sục tiến về huyện lị. Quần chúng chiếm huyện đường, buộc tri huyện Bình Khê giao ngay chính quyền cho Việt Minh. Sau khi thu ấn tín, sổ sách và các công sở của chính quyền tay sai Nhật, quần chúng biểu tình thị uy. Tại sân vận động Trinh Tường (Bình Tường), Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời huyện Bình Khê được thành lập, gồm công nhân cứu quốc hãng Delignon và cán bộ Việt Minh các làng(4).

Ở Phù Mỹ, từ cuối trung tuân tháng 8, các tổ chức Việt Minh đều đẩy mạnh công tác vũ trang tuyên truyền và tích cực phá rã các tổ chức thanh niên thân Nhật. Chiều ngày 24 tháng 8, Ủy ban khởi nghĩa ở phía nam Phù Mỹ huy động hàng ngàn quần chúng tập trung về sân vận động thị trấn tổ chức mít tinh, công bố lệnh khởi nghĩa và tuần hành thị uy tiến về phủ đường. Viên tri phủ Phù Mỹ chờ sẵn để giao nộp chính quyền cho cách mạng. lễ ra mắt Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời được tổ chức ngay trước cổng phủ, do đồng chí Nguyễn Đăng Đệ làm chủ tịch.

Như vậy, đến ngày 24, thành phố Quy Nhơn, hai huyện Bình Khê và Phù Mỹ đã cướp chính quyền. Trước đó (22-8-1945), Ủy ban vận động Việt Minh đã vận động quần chúng chiếm phủ lị và bắt giữ một số tay sai đắc lực thân Nhật, trong đó có tên Trần Ngọc Liễn, phủ trưởng Tuy Phước có nhiều tội ác với nhân dân, thành lập lực lượng vũ trang nhân dân do đồng chí Giáp Văn Cương phụ trách, phái cán bộ và lực lượng đi tước vũ khí các đồn bảo an ở Vân Canh, Định Quang…

Ban lãnh đạo Quy Nhơn có thành công lớn là qua tiếp xúc với Nhật đã lấy được 1000 khẩu súng (trong đó có khẩu pháo mất kim hỏa) mà chúng đã tước của quân Pháp trước đó. Số vũ khí này có giá trị lớn trong việc trang bị cho lực lượng vũ trang cách mạng.


(1), (2) Theo LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ BÌNH ĐỊNH tập 1 - trang 139, trang 140.
(3) Theo LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ BÌNH ĐỊNH tập 1, trang 140, trang 142.
(4) Theo LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ BÌNH ĐỊNH, tập 1.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 12 Tháng Năm, 2012, 10:32:29 am
Tại An Nhơn, ngày 24 tháng 8, Ủy ban Việt Minh thành Bình Định công khai huy động quần chúng tổ chức mít tinh, treo cờ đỏ sao vàng tại thị trấn. Sáng ngày 25 tháng 8, quần chúng được huy động kéo vào thành Bình Định bắt tri phủ An Nhơn giao nộp ấn tín cho cách mạng. Từ ngày 25 tháng 8, chính quyền tay sai ở An Nhơn bị xóa bỏ. Ngày 26, Việt Minh ở thị trấn lại huy động quần chúng xuống đường biểu tình thị uy, kéo đến ga Bình Định buộc đơn vị lính Nhật giữ ga giao vũ khí cho cách mạng. Ngày 3 tháng 9 năm 1945 Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời được thành lập do đồng chí Nguyễn Thành Mẫn làm chủ tịch.

Ở Tuy Phước, sau thắng lợi của khởi nghĩa ở Quy Nhơn, đặc biệt là sau khi bắt tri phủ Trần Ngọc Liễn, chính quyền bù nhìn phủ bị tê liệt hoàn toàn. Tại Đề pô Diêu Trì đã thành lập đội tự vệ trong công nhân xe lửa. Tại nhiều nơi, nhất là các làng thuộc tổng An Định, Thiều Quang, Dương An… thanh niên yêu nước tự động nổi dậy phá rã các tổ chức thanh niên thân Nhật, làm chủ thôn, xã, nhân dân Gò Bồi và Thiều Quang nổi dậy chiếm nhà bang tá Gò Bồi, thành lập chính quyền cách mạng. Về thực chất từ ngày 22 tháng 8, chính quyền tay sai đã bị xóa bỏ. Ngày 3-9-1945, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời phủ Tuy Phước được thành lập do đồng chí Đoàn Như Khương làm chủ tịch.

Tại Hoài Ân, từ đầu tháng 8, Việt Minh đã làm chủ một số vùng nông thôn trong huyện. Ngày 22 tháng 8, hơn 2.000 quần chúng được huy động tiến hành biểu tình thị uy từ Kim Sơn đến An Thường. Ngày 24 tháng 8, đại biểu Việt Minh Hoài Ân đột nhập huyện đường, buộc tri huyện Phạm Ngọc Lâm giao chính quyền cho cách mạng. Đến ngày 26 tháng 8, một cuộc mít tinh lớn chính thức được tổ chức tại An Thường gồm hàng ngàn đồng bào các tổng Kim Sơn, An Thường, An Lão để làm lễ ra mắt Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời huyện do đồng chí Huỳnh Đăng Thơ làm chủ tịch.

Huyện Hoài Nhơn, nơi có cơ quan lãnh đạo tỉnh đóng, nơi phong trào cách mạng từ lâu đã phát triển khá mạnh. Giữa tháng 7 năm 1945, các vùng giữa và phía bắc huyện hầu như do nhân dân làm chủ. Giữa tháng 8, tri phủ Hoài Nhơn Nguyễn Trà xin gặp Việt Minh để giao nộp chính quyền. Lúc này, đại đội tự vệ - đơn vị vũ trang tập trung của huyện được thành lập cùng tự vệ các xã ngày đêm tuần tra, canh gác đề phòng mọi hành động chống đối của bọn phản cách mạng. Tối ngày 26 tháng 8, hơn 15 nghìn quần chúng có tự vệ sắt dẫn đầu biểu tình tuần hành thị uy trong toàn huyện.Cùng đêm, trung đội bảo an ở Tam Quan rút chạy về Bồng Sơn bị trung đội tự vệ chặn lại tước vũ khí, thu 13 súng trường. Đến ngày 29-8, Ủy ban khởi nghĩa huyện huy động gần 8 nghìn quần chúng tiến vào phủ đường ở Bồng Sơn, tuần hành thị uy chiếm các công sở. Tri phủ Nguyễn Trà đã sẵn sàng từ trước, đem giao nộp ấn tín và vũ khí, tài liệu cho cách mạng. Cùng ngày 29 tháng 8, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời huyện do đồng chí Trịnh Hồng Hì làm chủ tịch làm lễ ra mắt nhân dân.

Ở Phù Cát, tuy xây dựng lực lượng muộn, nhưng đến đầu tháng 8 năm 1945, phong trào Việt Minh Phù Cát đã có bước phát triển nhảy vọt, các làng Cát Hanh, Cát Nhơn, Cát Hiệp, Cát Thịnh, nhân dân đã thực sự làm chủ xóm làng. Điểm nổi bật ở Phù Cát là các nhóm Việt Minh đã đoàn kết thống nhất làm một, không còn tình trạng hoạt động riêng rẽ. Ngày 25 tháng 8, Ủy ban khởi nghĩa Phù Cát được thành lập. Hàng ngàn quần chúng được huy động tham gia cuộc biểu tình tuần hành thị uy từ sân vận động Phước Lộc đến chợ Phù Ly, đồng thời tước vũ khí bọn lính tuần sai trang bị cho đội tự vệ sắt của huyện vừa được thành lập. Ngày 31 tháng 8 năm 1945, Ủy ban khởi nghĩa buộc tên tri huyện Tôn Thất Quỳnh giao ấn tín, sổ sách. Tuy là huyện cuối cùng cướp chính quyền địch trong toàn tỉnh, nhưng Phù Cát là huyện tiêu biểu trong toàn tỉnh Bình Định về đoàn kết thống nhất giữa các nhóm Việt Minh. Ngày 3 tháng 9, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời huyện do đồng chí Trương Chánh Hân làm chủ tịch tuyên thệ trước cuộc mít tinh tại sân vận động thị trấn trước hàng ngàn quần chúng tham dự.

Trong chín ngày, từ 23 đến 31 tháng 8 năm 1945, cuộc khởi nghĩa trong toàn tỉnh đã giành được thắng lợi rực rỡ. Từ nay nhân dân Bình Định thoát khỏi cảnh sống của dân nô lệ, trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình.

Thắng lợi của cách mạng tháng Tám ở Bình Định không ngoài những nguyên nhân chủ quan, khách quan mà Đảng ta đã tổng kết. Đó là sự lãnh đạo hết sức đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta mà biểu hiện củ thể là chủ trương chiến lược được bổ sung ngày càng hoàn chỉnh trong các Nghị quyết sáu, bảy, tám của Trung ương và “Chỉ thị Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, là sự chỉ đạo tổ chức lực lượng cách mạng chặt chẽ, hùng hậu với phương pháp đấu tranh phong phú, linh hoạt trong một tình hình quốc tế hết sức thuận lợi, v.v…

Ở Bình Định, việc giành chính quyền thắng lợi trong cách mạng tháng Tám có mấy điểm cần nhấn mạnh. Đó là:

Quần chúng cách mạng được Đảng giáo dục, giác ngộ, được tập dượt đấu tranh qua các hình thức từ thấp đến cao trong các cao trào 1930-1931, 1936-1939 và 1939-1945. Qua đấu tranh, lực lượng quần chúng tham gia ngày càng đông đảo, ngày càng đoàn kết, gắn bó thành đội quân chính trị hùng hậu trong Mặt trận Việt Minh, tạo nên bạo lực cách mạng áp đảo kẻ thù. Trong khởi nghĩa, tuy có lực lượng tự vệ hỗ trợ, xung kích đi đầu nhưng Bình Định giành thắng lợi chủ yếu bằng bạo lực cách mạng của quần chúng và không đổ máu. Đạt được điều đó là thành tích của quá trình 15 vận động cách mạng kiên trì, bền bỉ của Đảng.

Yếu tố quan trọng nữa là vai trò tổ chức, lãnh đạo của các chi bộ Đảng và toàn Đảng bộ trong suốt 15 năm đấu tranh từ khi Đảng bộ được thành lập. Qua các thời kì cao trào cũng như thoái trào, đảng viên cộng sản ở Bình Định luôn luôn giương cao ngọn cờ tiên phong lãnh đạo của Đảng, không chùn bước trước khó khăn, tổn thất. Nhiều đồng chí bị hi sinh ngay trong các cuộc đấu tranh, bị kết án tử hình hoặc tù đày trong các nhà tù đế quốc, nhiều lúc cơ sở Đảng bị tan vỡ tưởng chừng không thể khôi phục được, nhưng lớp này ngã xuống, lớp khác tiến lên. Các đồng chí ở tù ra lại móc nối hoạt động, gây dựng lại cơ sở, xây dựng lại phong trào, từ những đóm lửa nhỏ lan dần thành đám cháy lớn, tiếp tục lãnh đạo quần chúng đấu tranh.

Quán triệt chủ trương của Đảng trong tổ chức bảo vệ quần chúng, cán bộ, bảo vệ phong trào, trên cơ sở những mầm mống tự vệ được tổ chức năm 1930, những đội ”Tự vệ sắt”(1) tập trung ở Hoài Nhơn, Diêu Trì, Phú Phong đã ra đời. Hình thức đơn giản, trang bị thô sơ nhưng đó chính là những đơn vị vũ trang đầu tiên của phong trào cách mạng Bình Định - tiền thân của lực lượng vũ trang nhân dân sau này. Trong giai đoạn chuẩn bị khởi nghĩa, các đội “Tự vệ sắt” được nhân ra khắp các vùng trong tỉnh, là lực lượng xung kích, trấn áp bọn phản cách mạng trong những ngày khởi nghĩa bùng nổ.

Khi Trung ương phát lệnh khởi nghĩa, các tỉnh bạn đã đứng lên giành chính quyền, Bình Định có ưu điểm là đã nhanh chóng đột phá và dinh lũy của kẻ thù, thành phố Quy Nhơn - tỉnh lị của Bình Định, nơi tập trung các cơ quan đầu não của địch làm trung tâm điểm nổ ra các phủ khác. Như vậy, phương pháp khởi nghĩa ở Bình Định là tổ chức khởi nghĩa ở thành thị trước rồi mới lan dần ra nông thôn. Phương pháp này hay ở chỗ khi các cơ quan đầu não trong tỉnh của địch đã bị tiêu diệt thì tay chân của chúng ở các phủ, huyện cũng sẽ nhanh chóng tan rã.

Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, nhân dân Bình Định phấn khởi đem sức lực và trí tuệ góp phần cùng cả nước xây dựng và bảo vệ thành quả cách mạng.

Gần nửa thế kỉ đã trôi qua, nhưng những ngày tháng sôi động của quê hương trong Cách mạng tháng Tám đã để lại trong lòng người dân Bình Định niềm tự hào to lớn về Đảng, về nhân dân người làm nên sự nghiệp vĩ đại của cách mạng.


(1) Theo LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ BÌNH ĐỊNH - tập 1.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 12 Tháng Năm, 2012, 10:34:50 am
Chương II

BƯỚC VÀO CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP
- ĐÁNH ĐỊCH BẢO VỆ VÀ XÂY DỰNG VÙNG TỰ DO

I - XÂY DỰNG CỦNG CỐ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG - CHUẨN BỊ LỰC LƯỢNG KHÁNG CHIẾN

Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Bác Hồ và Trung ương Đảng, chỉ trong vòng 15 ngày, nhân dân trong cả nước đã đứng lên giành chính quyền thắng lợi.

Lần đầu tiên nhân dân một nước thuộc địa nhỏ yếu được Đảng tổ chức lãnh đạo đã vùng lên tự giải phóng khỏi ách thống trị của đế quốc và tay sai. Trong lịch sử cách mạng các dân tộc thuộc địa, đây cũng là lần đầu tiên một Đảng Cộng sản mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công và nắm chính quyền, mở ra một kỉ nguyên mới cho dân tộc - kỉ nguyên độc lập, tự do, tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Ngày 02 tháng 9 năm 1945, tại Thủ đô Hà Nội, Chính phủ cách mạng lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ra mắt quốc dân đồng bào. Bác Hồ trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập. Người nói: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy”(1). Tuyên ngôn Độc lập của Bác cũng là quyết tâm sắt đá của toàn dân tộc.

Ở Bình Định, trước đòi hỏi cấp bách phải nhanh chóng thống nhất các lực lượng Việt Minh trong tỉnh, ngày 31 tháng 8 năm 1945, dưới sự chủ trì của đồng chí Trần Lương, một cuộc hội nghị quan trọng được tổ chức tại Diêu Trì có đủ đại biểu Việt Minh các vùng tham dự. Hội nghị nhất trí quyết định:

- Thống nhất các lực lượng Việt Minh trong toàn tỉnh.

- Củng cố Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời huyện Bình Khê và Phù Mỹ.

- Đưa Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Nguyễn Huệ làm nhiệm vụ Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời thành phố Quy Nhơn, do đồng chí Lê Văn Nhiễu làm chủ tịch.

- Quyết định nhân sự ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh và lấy tên là tỉnh Tăng Bạt Hổ(2).

- Huy động lực lượng toàn tỉnh tham gia cuộc biểu dương lực lượng tại Quy Nhơn vào ngày 3 tháng 9 năm 1945, ra mắt Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh.

Việc thống nhất các lực lượng Việt Minh trong tỉnh đã đáp ứng nguyện vọng của nhân dân Bình Định - nơi truyền thống đoàn kết gắn bó, sống chết có nhau được vun đắp từ lâu đời. Đoàn kết, gắn bó là niềm tự hào của mọi người dân Bình Định.

Sáng ngày 3 tháng 9, cả thành phố Quy Nhơn đỏ rực trong băng, cờ. Nhân dân nườm nượp kéo về sân vận động với tư thế người dân một nước độc lập. Một đoàn tàu lửa đưa đại biểu các đoàn thể, các đội tự vệ và nhân dân các huyện trong tỉnh, về dự trong không khí của ngày hội lớn.

Buổi lễ được tiến hành trang nghiêm với đội ngũ đông đảo các đội tự vệ sắt và tự vệ cứu quốc là lực lượng vũ trang cách mạng ra đời trong cách mạng Tháng Tám, là đội quân của nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Tuy mới tổ chức nhưng đã đảm nhiệm chức năng là công cụ chuyên chính của chính quyền cách mạng, với đông đảo các tầng lớp nhân dân tập hợp thành từng khối, biểu thị sức mạnh to lớn của bạo lực cách mạng.

Sau lời kêu gọi đại diện Mặt trận Việt Minh tỉnh, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh được giới thiệu ra mắt nhân dân. Ủy ban gồm 11 người do đồng chí Trần Quang Khanh làm Chủ tịch(3).

Trước thắng lợi của cách mạng Việt Nam, chủ nghĩa đế quốc thế giới không thể ngồi nhìn một khâu trọng yếu trong hệ thống thuộc địa của chúng ở Đông Nam Á bị chặt đứt. Chúng đã tìm trăm phương nhìn kế nhằm tiêu diệt chế độ dân chủ cộng hòa non trẻ ngước ta.

Ở phía Bắc, gần 20 vạn quân Tưởng dưới danh nghĩa Đồng Minh vào tước vũ khí quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16 trở ra. Nhưng thực chất là thực hiện mưu đồ xâm lược nước ta.

Ở phía nam, quân đội Hoàng gia Anh cũng mượn tiếng giải giáp quân đội Nhật kéo vào, nhưng kì thật là làm chỗ dựa cho quân Pháp cướp lại nước ta lần thứ hai. Quân Nhật tuy đã đầu hàng nhưng còn nguyên vẹn vũ khí sẵn sàng theo lệnh quân Đồng Minh chống lại cách mạng nước ta.

Trong lịch sử, chưa có thời kì nào cùng một lúc nhân dân ta phải đối phó với nhiều kẻ thù hung bạo, xảo quyệt như vậy.

Khó khăn chồng chất khó khăn.


(1) HỒ CHÍ MINH TOÀN TẬP, Nhà xuất bản Sự thật Hà Nội, 1983, t. 3, tr. 386.
(2) Theo LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ BÌNH ĐỊNH tập 1.
(3) Danh sách UBNDCM lâm thời tỉnh gồm:
1 - Trần Quang Khanh: Chủ tịch
2 - Trần Lung
3 - Nguyễn Tráng
4 - Ngô Đức Đệ
5 - Trần Hoài Ân
6 - Nguyễn Kha
7 - Phạm Sanh
8 - Nguyễn Hoàng
9 - Giáp Văn Cương
10 - Huỳnh Đăng Bảng
11 - Bùi Sĩ An


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 12 Tháng Năm, 2012, 10:35:47 am
Vận mệnh của Tổ quốc như nghìn cân treo sợi tóc. Ngày 25 tháng 11 năm 1945, Ban chấp hành Trung ương Đảng họp ra chỉ thị “kháng chiến kiến quốc”. Trước tình hình khó khăn, phức tạp của đất nước, chỉ thị kháng chiến kiến quốc của Đảng có giá trị như một cương lĩnh hành động của cách mạng nước ta.

Ở Bình Định, sau khi chính quyền được chấn chỉnh, củng cố, Đảng bộ tập trung vào việc xây dựng thực lực cách mạng, vì chỉ có thực lực mới quyết định được thắng lợi của cách mạng.

Qua kinh nghiệm, các cấp ủy Đảng đều nhận thức được vai trò của quần chúng cách mạng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong công tác bảo vệ chính quyền, trong kháng chiến cũng như kiến quốc. Đó là đội quân chính trị hùng hậu bao gồm các tầng lớp quần chúng rộng rãi, được tập hợp trong Mặt trận Việt Minh - mặt trận dân tộc thống nhất lấy công nông liên minh làm nền tảng, do giai cấp công nhân lãnh đạo. Đó thực sự là khối nhân dân cách mạng, khối đoàn kết toàn dân chung quanh Đảng và Bác Hồ, là cơ sở vững chắc để xây dựng, phát triển lực lượng mọi mặt của cách mạng, là nền tảng để thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang nhân dân. Từ nhận thức đó, các cấp bộ Đảng ra sức xây dựng, củng cố và phát triển các đoàn thể cứu quốc, tập hợp mọi tầng lớp nhân dân yêu nước.

Tự hào là người dân của một nước độc lập trên vùng đất có truyền thống thượng võ, nhân dân Bình Định tự sắm sửa vũ khí trang bị cho mình. Với khẩu hiệu “vũ khí bất li thân”, “mỗi người dân là một chiến sĩ”, từ cụ già đến thanh niên đều tham gia học tập quân sự, rèn luyện võ nghệ. Ở các vùng miền núi, thanh niên và đồng bào các dân tộc cũng hào hứng luyện tập quân sự với sở trường riêng của mình.

Trên cơ sở toàn dân vũ trang, lực lượng tự vệ ở thôn xã được xây dựng, chấn chỉnh. Tổ chức tự vệ là lực lượng vũ trang ở cơ sở, là thành phần quan trọng của lực lượng vũ trang của Đảng, đảm đương nhiệm vụ bảo vệ chính quyền, giữ gìn trật tự trị an trong thôn xóm, tham gia trấn áp bọn phản cách mạng, bảo vệ các cơ sở kinh tế, quốc phòng, các đường giao thông quan trọng, làm nòng cốt cho phong trào toàn dân đánh giặc và là lực lượng hậu bị hùng hậu bổ sung cho bộ đội địa phương và bộ đội chủ lực.

Song song với việc xây dựng lực lượng tự vệ, Tỉnh ủy hết sức quan tâm xây dựng lực lượng vũ trang tập trung. Ngày 4 tháng 9 năm 1945, tại thành phố Quy Nhơn, chi đội Giải phóng quân đầu tiên của tỉnh mang tên chi đội Phan Đình Phùng được thành lập ra mắt nhân dân. Chi đội có 3 phân đội(1) là Nguyễn Huệ, Tăng Bạt Hổ, Mai Xuân Thưởng và một trung đội nữ, do các đồng chí Nguyễn Xuân Giáo làm chi đội trưởng, Nguyễn Bá Phát chi đội phó, Nguyễn Chính Cầu chính trị ủy viên. Ngoài ra còn có chi đội Hoàng Hoa Thám từ Quảng Ngãi vào đóng ở Bình Định (còn gọi là chi đội 3).

Chi đội Phan Đình Phùng ra đời là niềm tự hào lớn lao của nhân dân toàn tỉnh vì đây là quân đội của nhân dân mang bản chất giai cấp công nhân, chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân.

Để bảo vệ thành phố Quy Nhơn, “đại đội phòng thủ” được thành lập gồm hai trung đội nam, một trung đội nữ, do đồng chí Phạm Văn Nhân làm đại đội trưởng.

Tháng 9 năm 1945, do yêu cầu của tình hình và để đối phó với quân Tưởng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị nhanh chóng chấn chỉnh mở rộng Giải phóng quân và đổi tên Giải phóng quân thành Vệ quốc đoàn.

Lúc này tình trạng vũ khí, trang bị của chi đội Phan Đình Phùng và các đơn vị tự vệ rất thiếu thốn. Ngoài số súng lấy được của Nhật và bảo an trong khởi nghĩa, các đơn vị trang bị chủ yếu bằng gươm, dao. Để khắc phục tình trạng thiếu vũ khí trước mắt và chuẩn bị cho cuộc chiến đấu lâu dài, Tỉnh ủy chủ trương tập trung thợ cơ khí, công nhân và lấy máy móc các xưởng máy của Pháp thành lập hai công binh xưởng đầu tiên của tỉnh là: công binh xưởng Quang Trung và Cao Thắng. Hai công binh xưởng trên đã sản xuất được mìn, lựu đạn và tiểu liên Xten. Tỉnh ủy còn phát động phong trào thu nhặt vũ khí của Pháp, Nhật và tìm nguyên vật liệu cho công binh xưởng. Ban sưu tầm vật liệu tỉnh được thành lập.

Cùng với việc xây dựng lực lượng vũ trang, công an nhân dân tỉnh Bình Định được thành lập. Cơ quan công an nhân dân lúc này được gọi là ti trinh sát gồm hai ban: ban điều tra và ban trật tự, do đồng chí Trần Hoài Ân làm trưởng ti, sau đó đồng chí Phạm Sanh phụ trách. Hệ thống trinh sát được tổ chức đều khắp các huyện, thành. Cuối năm 1945, ti thành lập thêm ban tư pháp và ban căn cước. Ban trật tự lúc này được trang bị đồng phục. Tỉnh còn xây dựng một đơn vị cảnh vệ làm nhiệm vụ bảo vệ các mục tiêu, địa bàn trọng điểm, canh gác trại giam và tham gia chiến đấu bảo vệ thành phố Quy Nhơn khi có giặc.

Thi hành sắc lệnh 63/SL ngày 23 tháng 11 năm 1945, ti trinh sát đổi thành ti công an. Ti công an Bình Định lúc này do đồng chí Cao Kế làm trưởng ti.

Vừa ra đời, công an Bình Định đã bắt tay ngay vào cuộc đấu tranh, phát hiện và bắt giữ một số tên phản động ngay khi chúng vừa đặt chân lên địa bàn tỉnh. Khi được tin quân Tưởng kéo vào nước ta, một số đặc vụ Quốc dân đảng cũ trong tỉnh bắt đầu hoạt động trở lại. Một số chức sắc phản động Cao Đài, số cha đạo xấu trong Thiên chúa giáo cũng tuyên truyền chống Đảng và Chính phủ… Tất cả những hoạt động đó được công an theo dõi giám sát và ngăn chặn.

Thực hiện chức năng chính quyền dân chủ nhân dân, Ủy ban hành chính các cấp trong tỉnh thi hành nghiêm chỉnh các chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ ban hành như bãi bỏ các thứ thuế, thực hiện quyền tự do dân chủ, tự do tín ngưỡng, quyền bình đẳng giữa các dân tộc, tịch thu ruộng đất của thực thực dân Pháp và bọn Việt gian chia cho nông dân thiếu ruộng. Công điền được chia lại cho nông dân một cách công bằng hợp lí, thực hiên giảm tô, giảm tức và tuyên bố xóa các món nợ lâu đời của nông dân đối với địa chủ, ban hành luật lao động ngày làm tám giờ, bảo vệ quyền lợi cho công dân trong quan hệ giữa chủ và thợ.

Hưởng ứng phong trào tăng gia sản xuất do Bác Hồ phát động, các Đảng bộ và chính quyền địa phương vận động nhân dân đẩy mạnh khai hoang, vỡ hóa, cấy lúa, trồng hoa màu và các loại rau ngắn ngày. Chỉ sau một thời gian ngắn, màu xanh của lúa, của mì, của rau, khoai phủ kín mắt đất. Đẩy mạnh sản xuất được tiến hành song song với thực hành tiết kiệm.

Những quyền lợi về tự do, dân chủ, về cải thiện đời sống do Đảng và chính quyền cách mạng đem lại làm cho nhân dân ngày càng thêm gắn bó với cách mạng. Mọi lời kêu gọi của Đảng, mọi chính sách của Chính phủ đề ra được mọi người hưởng ứng và tự giác chấp hành. Trước một nền tài chính hầu như kiệt quệ do hậu quả của Pháp - Nhật để lại, Bác Hồ và Chính phủ tổ chức “Tuần lễ vàng”, “Quỹ độc lập”, kêu gọi đồng bào cả nước góp sức xây dựng Tổ quốc. Nhân dân trong toàn tỉnh, nhất là chị em phụ nữ, nhiệt liệt hưởng ứng, đóng góp được 25 ki-lô-gam vàng, khối lượng tương đối khá so với các tỉnh bạn. Có chị đi chợ về, đến điểm quyên vàng, đứng lại tháo hết nữ trang ủng hộ “Quỹ độ lập”. Cảm động hơn, có chị sắp đến ngày cưới cũng đem toàn bộ nữ trang đi đóng góp. Bà Phan Thị Đỉnh ở An Đỗ (Hoài Nhơn) đóng góp toàn bộ nữ trang chuẩn bị làm của hồi môn cho ba cô con gái sắp lập gia đình, chị Nguyễn Thị Khoa ở xã Mỹ Quang (Phù Mỹ) vận động gia đình góp toàn bộ tự trang quý giá cho Quỹ độc lập. Bà Võ Thị Thiềm xã Phước Thắng (Tuy Phước) góp tám chỉ vàng và mấy bộ tam sự, ngũ sự bằng đồng, v.v… Trong mọi công việc, vai trò của phụ nữ có ý nghĩa to lớn.

Thực hiện hoàn thiện chế độ dân chủ cộng hòa Việt Nam là chế độ của dân, vì dân và do dân; Đảng và Chính phủ tổ chức phổ thông đầu phiếu trong cả nước, bầu ra Quốc hội đầu tiên. Ngày 6 tháng 1 năm 1946, nhân dân Bình Định không phân biệt nam, nữ, từ 18 tuổi trở lên đều tham gia bầu cử. Ngày 6 tháng 1 đúng là một ngày hội lớn của toàn dân. Mọi người đều tự hào lần đầu tiên trong lịch sử tự mình đi bầu những người thay mặt dân đảm nhiệm trọng trách của Tổ quốc giao phó.

Lần đầu tiên quyền bình đẳng dân tộc, bình đẳng nam nữ được thực hiện, cũng là lần đầu tiên người dân Bình Định nhận thức rõ về quyền lợi và nghĩa vụ công dân của mình đối với Tổ quốc.


(1) Đơn vị tương đương tiểu đoàn.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 12 Tháng Năm, 2012, 10:37:10 am
*   *
*

Trong lúc quân dân cả nước đang tập trung xây dựng cuộc sống mới thì ngày 23 thang 9 năm 1945 quân Pháp được quân Anh giúp sức trắng trợn nổ súng tiến công đánh chiếm Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai. Chiến sự lan nhanh ra cả Nam Bộ.

Cuộc kháng chiến anh dũng của đồng bào Nam Bộ diễn ra ngày càng quyết liệt. Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp chủ trương phải đánh mạnh quân Pháp và quyết định động viên cả nước chi viện sức người, sức của cho đồng bào Nam Bộ, lập ngay các độ quân Nam tiến và tăng cường cán bộ cho Nam Bộ.

Các đoàn quân Nam tiến trong cả nước lần lượt tiến vào Nam chiến đấu. Ở Bình Định, trung đội Đỗ Trữ thành lập từ tháng 8 năm 1945 tại Quy Nhơn được lệnh sát nhập với hai trung đội của Quảng Ngãi thành đại đội B lên đường vào chiến đấu trên mặt trận cầu Bến Phân - Lái Thiêu, Thủ Dầu Một ở miền Đông Nam Bộ. Không khí sẵn sàng chiến đấu, tồng quân giết giặc diễn ra sôi động.

Công tác chuẩn bị kháng chiến xúc tiến với nhịp độ ngày càng khẩn trương. Chi đội 2 Vệ quốc đoàn Quảng Ngãi (sau này đổi thành trung đoàn 94) được điều vào Bình Định, sẵn sàng đối phó với mọi tình thế. Đầu tháng 11 năm 1945, tiểu đoàn Tăng Bạt Hổ tuyển quân bổ sung thành ba đại đội hoàn chỉnh: Huỳnh Lịch, Huỳnh Mậu và Cao Thắng. Sau đó, đại đội Cao Thắng bổ sung quân số thành tiểu đoàn và được lệnh vào tăng cường cho Phú Yên, sẵn sàng đánh địch từ đèo Cả ra và Đắc Lắc xuống.

Ở thành phố Quy Nhơn, từ sau ngày tổng khởi nghĩa vẫn còn một trung đội quân Nhật gồm 50 tên đóng ở nhà băng Đông Dương. Dưới sự chỉ huy của phái bộ quân Anh ở Nha Trang, ngày 10 tháng 12 năm 1945(1), một tàu chiến chở 150 lính Nhật tiến vào đảo Cù Lao Xanh với âm mưu phối hợp cùng trung đội lính Nhật đóng ở nhà băng Đông Dương tiến công đánh chiếm thành phố, lập đầu cầu cho quân Pháp đổ bộ lên Quy Nhơn.

Bọn Nhật trên tàu chiến xin chính quyền tỉnh cho chúng lên Quy Nhơn để liên hệ với số quân đóng ở nhà băng. Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh đề cao cảnh giác nên chỉ cho một sĩ quan và ba tên lính được lên bờ nhưng không mang theo vũ khí. Chúng buộc phải chấp hành mệnh lệnh của ta.

Về phía lãnh đạo tỉnh, căn cứ vào diễn biến chiến sự do quân Pháp mở cuộc tiến công ra các tỉnh bạn, tình hình khẩn trương đặt ra là phải giải quyết dứt điểm số quân Nhật ở nhà băng được khẩn trương triển khai chuẩn bị. Đại đội Phan Đình Phùng được tăng cường một khẩu pháo 75mm, mất kim hỏa nhận nhiệm vụ tiến công nhà băng. Đại đội Ngô Quyền cùng lực lượng tự vệ bố trí sẵn sàng đánh địch đổ bộ. Trận đánh do hai đồng chí Lê Hương và Nguyễn Chính Cầu chỉ huy.

Trước tình hình quân Nhật có lợi thế dựa vào tường nhà kiên cố bằng bê tông lại có hỏa lực mạnh, trong lúc quân ta chỉ có một số súng trường, lựu đạn và vũ khí bạch binh, khẩu pháo 75 được tăng cường có đạn nhưng không có kim hỏa. Tình thế thật khó khăn trước nhiệm vụ nặng nề.

Ngay trong đêm 12 tháng 12 năm 1945, đại đội Phan Đình Phùng triển khai đội hình bao vây quân Nhật. Với khẩu pháo 75 - hỏa lực quan trọng nhưng không có kim hỏa. Đồng chí Nguyễn Bá Phát có sáng kiến dùng đinh chữ T và búa để thay kim hỏa.

Chuẩn bị chiến đấu xong, lệnh nổ súng được phát ra. Các chiến sĩ đồng loạt bắn vào các cửa nhà băng. Quân Nhật có công sự kiên cố đánh trả quyết liệt. Thấy đã đến lúc cần phải sử dụng hỏa lực, chiến sĩ Từ Công Kế cầm đinh chữ T đặt đúng hạt nổ rồi dùng búa đập mạnh vào đinh. Pháo nổ, quả đạn lao vào bức tường, phá một mảng lớn. Thấy đã thành công, anh bắn tiếp quả thứ hai rồi thứ ba. Khi bức tường kiên cố bị pháo ta bắn sập, quân Nhật bắt đầu dao động. Chỉ huy trận đánh ra lệnh xung phong. Các chiến sĩ Phan Đình Phùng tràn vào, vừa bắn vừa gọi hàng. Quân nhật kéo cờ trắng xin hàng. Kết quả, ta diệt và bắt toàn bộ 50 tên Nhật, cả tên quan từ vừa ở tàu lên cũng bị thương nặng, thu toàn bộ vũ khí, đạn dược và bảy triệu đồng Đông Dương.

Phát huy thắng lợi, các chiến sĩ quay nòng pháo bắn vào chiếc tàu chiến đang đậu ngoài khơi mấy phát liền. Tuy không trúng tàu, nhưng bọn chỉ huy hoảng sợ, cho tày chạy về phía Nam.

Trận đánh nhà băng Đông Dương Quy Nhơn thắng lợi đã đập tan âm mưu xảo quyệt của thực dân Pháp trong việc dùng quân Nhật lập đầu cầu tiến công để đánh chiếm Bình Định. Trận đánh mở đầu thắng lợi đã biểu hiện tinh thần dũng cảm, sáng tạo của cán bộ, chiến sĩ ta. Chiến thắng nhà băng Đông Dương do nhiều nhân tố hợp thành, nhưng vai trò chủ yếu là ý chí quyết tâm giành chiến thắng và lòng quả cảm của cán bộ chiến sĩ ta là có ý nghĩa quyết định.

Tin Vệ quốc đoàn Quy Nhơn đánh thắng Nhật ở nhà băng bay đi khắp nơi càng cổ vũ quần chúng Bình Định phấn khởi đẩy mạnh công tác chuẩn bị kháng chiến.

Trong lúc quân dân trong tỉnh khẩn trương chuẩn bị chiến đấu, thì đồng chí Võ Nguyên Giáp, đặc phái viên của Trung ương Đảng và Chính phủ vào các tỉnh Nam Trung Bộ truyền đạt chủ trương: Tích cực chuẩn bị kháng chiến, triển khai mọi mặt sẵn sàng ứng phó khi địch đánh rộng ra các tỉnh Nam Trung Bộ.

Đến Bình Định, nghe báo cáo về tình hình chuẩn bị kháng chiến của tỉnh và kết quả trận đánh thắng quân Nhật, đồng chí thay mặt Đảng và Chính phủ biểu dương tinh thần chiến đấu dũng cảm, mưu trí và sáng tạo của các chiến sĩ tham gia trận đánh. Đồng chí truyền đạt chủ trương trường kì kháng chiến của Đảng, hướng dẫn một số ý kiến về cách bố trí phòng thủ và vận dụng cách đánh, đặc biệt nhấn mạnh cách đánh du kích và công tác phá hủy để kháng chiến.

Phong trào tòng quân giết giặc vốn đã sôi nổi càng thêm náo nức, nhiều nam nữ thanh niên xung phong vào bộ đội. Nhiều đơn vị mới được thành lập. Tại Quy Nhơn đã thành lập đơn vị thủy quân Bạch Đằng với hơn 100 chiến sĩ sẵn sàng tham gia chiến đấu. Tỉnh tổ chức một số đơn vị mạnh tham gia các đoàn quân Nam tiến vào chiến đấu ở mặt trận Khánh Hòa và Tây Nguyên.

Tháng 1 năm1946, Ủy ban kháng chiến miền nam Việt Nam được thành lập. Một loạt công tác quân sự được chấn chỉnh. Ở Bình Định, các lớp bồi dưỡng cán bộ trung đội được mở ở Phú Phong, Tam Quan. Cán bộ huyện, xã được tỉnh tổ chức bồi dưỡng về quân sự, chính trị. Hệ thống chỉ huy quân sự ở địa phương được kiện toàn. Ủy ban các cấp đều cử ra một ủy viên quân sự chuyên trách công tác dân quân tự vệ và lo việc bố phòng trong địa phương. Đồng chí Trịnh Văn Duy được cử làm trưởng ban dân quân tỉnh. Lực lượng dân quân tự vệ được xác định làm một lực lượng chiến lược.

Các lớp y tá, cứu thương đầu tiên được tổ chức ở Phú Phong, thành Bình Định. Khi chiến sự xảy ra ở Buôn Ma Thuột, một hệ thống bệnh xá từ Pleiku, An Khê đến Phú Phong, Bồng Sơn được thành lập. Hệ thống dân y viện và quân y viện được tổ chức song song, kết hợp chặt chẽ với nhau. Công binh xưởng Quang Trung và Cao Thắng, tổ chức ca kíp làm việc ngày đêm, mở rộng việc sản xuất, sửa chữa vũ khí.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công việc chuẩn bị kháng chiến, hệ thống tổ chức Đảng từ cơ sở đến huyện được khôi phục(2). Các ban cán sự huyện được thành lập.

Về tổ chức chính quyền, tháng 3 năm 1946, theo chủ trương của Đảng và Chính phủ, các xã sáp nhập thành xã lớn, bỏ cấp tổng, đổi phủ thành huyện và lấy tên Ủy ban hành chính thay cho Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời. Các đoàn thể cứu quốc được kiện toàn thành hệ thống từ cơ sở đến tỉnh, tiểu biểu là thanh niên cứu quốc, Hội phụ nữ cứu quốc.

Trước âm mưu đánh nhanh, giải quyết nhanh của quân viễn chinh Pháp ra các tỉnh Nam Trung Bộ, quân dân Bình Định không một chút lơi lỏng cảnh giác, ra sức tiếp tục kiên toàn mọi công tác chuẩn bị kháng chiến.


(1) Theo CHIẾN TRANH DU KÍCH TRÊN CHIẾN TRƯỜNG BÌNH ĐỊNH, phần chú thích, ta nổ súng 21 giờ 30’ ngày 8/12/1945.
(2) Từ khi giành được chính quyền đến tháng 3 năm 1946, mọi công việc đều do các Ủy ban Việt Minh lãnh đạo.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 12 Tháng Năm, 2012, 10:39:09 am
2 - KẾT HỢP XÂY DỰNG VỚI CHIẾN ĐẤU ĐÁNH BẠI KẾ HOẠCH LẤN CHIẾM CỦA ĐỊCH Ở VÙNG PHÍA TÂY TỈNH

Cuối tháng 2 năm 1946, kế hoạch thôn tính miền Nam trong mấy tuần lễ của thực dân Pháp bị thất bại. Hiệp ước Pháp - Hoa được bí mật kí kết, thỏa thuận cho quân Pháp vào miền Bắc nước ta, không kể gì đến chủ quyền dân tộc của Việt Nam.

Tình thế cực kì phức tạp, chúng buộc ta phải đánh với nhiều kẻ thù cùng một lúc. Trước tình hình đó, Bác Hồ và Trung ương Đảng chủ trương “hòa để tiến” và Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946 được kí kết giữa ta và Pháp. Chủ trương “hòa để tiến” là một chủ trương đúng đắn của Đảng ta nhằm gạt quân Tưởng, tập trung vào kẻ thù chủ yếu của thực dân Pháp, đồng thời tạo điều kiện tranh thủ thời gian tiếp tục chuẩn bị lực lượng cho cuộc kháng chiến lâu dài.

Ở Bình Định, lợi dụng thời gian hòa hoãn, quân dân toàn tỉnh ra sức tranh thủ củng cố, xây dựng lực lượng làm cơ sở phát triển chiến tranh du kích. Lúc này, lực lượng chủ lực được xây dựng trên quy mô lớn. Các đại đội chủ lực ra đời(1). Đại đoàn 23 gồm các trung đoàn 94, 95 và 97 đứng chân trên địa bàn Bình Định phụ trách mặt trận Tây Nguyên.

Ngày 22 tháng 5 năm 1946 theo sắc lệnh số 71/SL của Chính phủ, Vệ quốc đoàn chính thức đổi thành quân đội quốc gia của nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa(2) thống nhất biên chế trong các đơn vị trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội (thay cho chi đội, phân đội). Toàn quốc được chia thành 12 chiến khu. Miền Nam Trung Bộ có hai chiến khu 5 và 6. Tỉnh Bình Định thuộc chiến khu 5.

Tăng cường Đảng lãnh đạo quân đội, hệ thống tổ chức Đảng và công tác chính trị được tổ chức thống nhất từ trên xuống dưới, thành lập chi bộ Đảng trong các đơn vị quân đội. Từ cấp trung đội đến trung đoàn đều có chính trị viên đảm nhiệm công tác Đảng và công tác chính trị trong đơn vị. Công tác huấn luyện quân sự được đẩy mạnh. Về đảm bảo hậu cần, lúc bấy giờ việc nuôi dưỡng bộ đội hoàn toàn dựa vào dân. Bộ đội đóng nơi nào, chính quyền đoàn thể và nhân dân ở đó lo việc cung cấp lương thực, thực phẩm. Hội phụ nữ thay phiên nhau lo việc ăn uống cho bộ đội. Nhân dân dành dụm, quyên góp tiền gạo để nuôi quân. Tình cảm quân dân thật đậm đà, thắm thiết. Có gia đình chỉ ăn khoai để dành cơm cho bộ đội.

Công ơn của nhân dân đối với bộ đội thật vô cùng to lớn và sâu nặng. Bộ đội cũng hết lòng vì nhân dân. Không có việc gì của dân mà không có bộ đội tham gia. Anh bộ đội ở đâu cũng thực hiện kính già, yêu trẻ, nhà sạch, nước đầy. Chăm sóc các cháu là công việc bình thường của bộ đội khi đóng quân trong nhà dân. Anh bộ đội Cụ Hồ - cái tên gọi cao quý và trìu mến của các chiến sĩ là do nhân dân ưu ái đặt cho. Suốt các thế hệ người lính không ngừng phấn đấu để giữ trọn niềm tin của Bác, của Đảng, của dân. Nhân dân ta mãi mãi tự hào về quân đội của mình, về anh bộ đội Cụ Hồ, những người mà họ đặt trọn niềm tin và lòng yêu thương!

Tháng 5 năm 1946, Chính phủ ban hành chế độ “đảm phụ quốc phòng” để toàn dân thực hiện. Hệ thống tài chính, quân nhu chuyên lo nuôi dưỡng, cung cấp cho bộ đội được tổ chức từ trên xuống dưới. Công tác hậu cần tuy vẫn phải dựa vào nhân dân, nhưng từ đó được xây dựng từng bước đi vào nền nếp.

*   *
*

Trong lúc cuộc đàm phán ở Phông-ten-nơ-blô sắp sửa khai mạc thì ngày 21 tháng 6 năm 1946, quân Pháp mở cuộc hành quân lớn tiến công ra các tỉnh Tây Nguyên. Các trung đoàn chủ lực ta kết hợp với dân quân du kích và đồng bào các dân tộc thiểu số ngăn chặn địch quyết liệt.

Tháng 5 năm 1946, trung đoàn 95 (tức chi đội Phan Đình Phùng) đã có mặt ở An Khê. Khi quân địch mở cuộc tiến công từ Buôn Ma Thuột, phá vỡ phòng tuyến Buôn Hồ, đánh rộng ra Pleiku và An Khê, trung đoàn 95 hành quân lên Buôn Huỳnh bắt liên lạc và phối hợp với chi đội 5 Gia Lai và chi đội 2 Nam tiến đánh vào Buôn Tung Thang (25.6.1946). Trận đánh không dứt điểm vì bị lộ, nhưng cán bộ, chiến sĩ trung đoàn 95 đã thể hiện tinh thần chiến đấu quả cảm và bước đầu rút ra được một số kinh nghiệm về tổ chức, chỉ huy chiến đấu.

Do so sánh lực lượng địch ta quá chênh lệch, cuộc chiến đấu ở Tây Nguyên chưa được chuẩn bị, hơn nữa về tác dụng chiến thuật, về tổ chức chỉ huy chiến đấu, cán bộ ta còn non yếu chưa có kinh nghiệm nên phải rút lực lượng khỏi An Khê ngày 8 tháng 4 năm 1946.

Địch chiếm An Khê. Miền Tây của tỉnh bị uy hiếp. Các đơn vị thuộc trung đoàn 95 kết hợp với đại đội du kích tập trung huyện Bình Khê cùng nhân dân các xã Bình Giang, Bình Quang, Bình Tường khẩn trương xây dựng phương án tác chiến, lập trận địa phòng thủ chặn địch ở nam - bắc đèo An Khê.


(1) Sau một thời gian, tổ chức đại đoàn không phù hợp với tình hình và điều kiện mọi mặt lúc đó nên được giải thể.
(2) Theo LỊCH SỬ QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM - Nhà xuất bản Quân đội tr. 234.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 12 Tháng Năm, 2012, 10:40:32 am
Nhận thức được tầm quan trọng của con đường 19 - trục cơ động tác chiến bằng cơ giới và bộ binh địch từ An Khê xuống Bình Định, phối hợp với lực lượng trung đoàn 95, dân quân du kích và nhân dân trong toàn huyện Bình Khê không kể ngày đêm, khẩn trương phá bỏ các cầu cống lớn nhỏ và đào hố, đắp ụ trên suốt con đường. Đặc biệt là đoạn từ Vườn Xoài đến Phú Phong. Các tuyến chiến đấu được thiết lập(1). Tuyến 1 từ Vườn Xoài sang Truông Ổi, Tiên Thuận, Định Quang đến đèo Bồ Bồ, có các vọng tiêu Hang Dơi, Định Nhì. Tuyến 2 từ đèo Đất Đỏ (cuối xã Bình Giang) đến Núi Ngang, Núi Một, Bình Tường và đầu xã Bình Thành. Tích cực chuẩn bị chiến đấu trên vùng đất nóng bỏng này, các thị trấn đông dân như Phú Phong, Đồng Phó, cả xưởng dệt Phú Phong được tổ chức tản cư và di chuyển sang phía bắc Sông Côn.

(http://nm2.upanh.com/b2.s27.d2/d6a15d87dc0dcd676de222ab81938819_44620972.xuongdet.jpg)

Xưởng dệt của công ti dệt Thắng Lợi ở Đập Đá trong kháng chiến chống Pháp

Tháng 11 năm 1946, đồng chí Phạm Văn Đồng, đại diện Trung ương Đảng và Chính phủ cùng cụ Huỳnh Thúc Kháng, Bộ trưởng Nội vụ vào miền Nam Trung Bộ kiểm tra tình hình, chuẩn bị kháng chiến. Đồng chí Phạm Văn Đồng được Đảng và Chính phủ cử làm đại diện phụ trách miền Nam Trung Bộ. Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam được giải thể. Ban quân sự các tỉnh được thành lập. Đồng chí Vi Dân, trung đoàn trưởng trung đoàn 95 được chỉ định làm trưởng ban quân sự tỉnh Bình Định.

Trung đoàn 95 nguyên là chi đội Phan Đình Phùng, cũng là chi đội 3 - con em ruột thịt của nhân dân Bình Định qua thử thách trong chiến đấu những ngày đầu đã có bước tiến bộ. Qua củng cố, bổ sung, đơn vị từng bước trưởng thành, đảm nhiệm nhiệm vụ bảo vệ quê hương trên vùng đất nóng bỏng ở phía tây của tỉnh.

Công việc tổ chức chuẩn bị chiến đấu vừa xong thì ngày 21 tháng 12 năm 1946, quân Pháp từ An Khê lần đâu tiên chia làm nhiều cánh vượt núi kéo xuống Vườn Xoài, Đồng Phó (Bình Giang) và Vĩnh Thạnh (Bình Quang) nhằm đánh phá hậu phương kháng chiến của ta, tạo thế an toàn cho chúng ở An Khê, đồng thời thăm dò lực lượng ta để nếu có điều kiện thì lập đầu cầu tiến công đánh xuống vùng trung châu của tỉnh.

Các đơn vị thuộc trung đoàn 95 cùng du kích địa phương dựa vào các tuyến chiến đấu chặn đánh địch quyết liệt ở Vườn Xoài, Đồng Phó, Vĩnh Thạnh. Trung đoàn còn sử dụng một tiểu đoàn thọc sâu hoạt động du kích chung quanh căn cứ An Khê và đoạn đường 19 từ Thượng An đến ngã ba An Khê đi Cửu An, Tú Thủy, đánh vào phía sau của địch.

Bị đánh mạnh ở cả phía trước và căn cứ hậu phương, quân địch vội vã đốt một số nhà dân rồi tổ chức rút lui. Trong trận này, địch bắn phá làm chết một số dân, 63 ngôi nhà bị đốt.

Ngay trên đầu đèo An Khê, chúng đặt một khẩu pháo 155 thường xuyên bắn phá vào các xã Bình Giang, Bình Tường, Bình Quang, nặng nhất là các vùng Đồng Tre, Đồng Tràm, Đồng Vắt, Đồng Hào, Định Quang, Vĩnh Thạnh, Vĩnh Phúc. Nhiều đồng bào bị chết, nhiều trâu bò bị giết vì khẩu pháo này. Có trường hợp cả gia đình đang ăn cơm bị pháo bắn không còn một ai sống sót.

Sau trận chống càn đầu tiên thắng lợi, các đơn vị rút kinh nghiệm trận đánh, nghiên cứu các đường mòn địch hành quân, bố trí chông, mìn trên tất cả các dốc Định Nhì, Suối Sem, Tà Mun, Dốc Vắn, Kon Roi, v.v…

Một năm đã trôi qua tính từ ngày khởi nghĩa thắng lợi, tuy quân Pháp lần đầu đặt chân lên đất Bình Định đã bị quân dân trong tỉnh đánh bại và cuộc kháng chiến thực sự đã bắt đầu.


(1) Thời gian này, ta chưa có kinh nghiệm chiến đấu nên bố trí phòng thủ dưới hình thức phòng tuyến.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 12 Tháng Năm, 2012, 10:41:18 am
*   *
*

Tháng 11 năm 1946, tình hình trên cả nước càng khẩn trương hơn khi quân Pháp đổ bộ lên Đà Nẵng, Đồ Sơn, Cát Bà. Đặc biệt nghiêm trọng là việc chúng đánh chiếm Hải Phòng và Lạng Sơn (20.11.1946).

Ngày 18 và 19 tháng 12, Ban chấp hành Trung ương Đảng họp mở rộng bất thường dưới sự chủ tọa của Bác Hồ, quyết định phát động cả nước đứng lên kháng chiến, đồng thời đề ra những vấn đề cơ bản về đường lối kháng chiến. Đó là cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.

Đêm 19 tháng 12, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ.

Sáng ngày 20 tháng 12, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Hai ngày sau (22.12.1946), Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị “toàn dân kháng chiến” - cương lĩnh cách mạng của Đảng và dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Tháng 1 năm 1947, Bác Hồ gửi thư cho đồng bào cả nước kêu gọi “phá hoại để kháng chiến” và “kiên quyết tản cư”.

Theo lời kêu gọi của Bác, Tỉnh ủy và Ủy ban kháng chiến tỉnh họp quyết định: trước mắt phải tập trung phá hủy thành Bình Định, thị xã Quy Nhơn, xưởng dệt Phú Phong, đề pô xe lửa Diêu Trì, v.v… là những nơi có thành lũy, nhà cửa kiên cố, địch có thể dựa vào đó xây dựng các căn cứ quân sự khi tiến công chiếm đóng. Các đường chiến lược như đường 1, đường 19 phải phá bỏ các cầu cống, đào hào, đắp ụ… Đối với cầu Bồng Sơn, trường hợp khẩn cấp có lệnh mới phá.

Thành Bình Định đồ sộ, rộng lớn là vậy nhưng chỉ một thời gian ngắn đã bị san bằng. Xưởng dệt Phú Phong, đề pô xe lửa Diêu Trì theo kế hoạch đều được phá hủy triệt để.

Ở Quy Nhơn, trừ phố Gia Long hầu hết là nhà của Hoa kiều và tòa giám mục được để lại, còn tất cả các công sở, cơ quan và những ngôi nhà lớn kiên cố đều được phá vỡ hoặc đánh sập. Ai có mặt ở thị xã thời kì này mới thấy hết được sự hi sinh của nhân dân. Quy Nhơn to lớn biết chừng nào! Không có lòng yêu nước nồng nàn, không có ý chí, quyết tâm cao khó có thể làm được.

Quyết tâm kháng chiến của người dân Bình Định là như vậy! Đó còn là biểu hiện lòng tin tuyệt đối của nhân dân vào Đảng, vào Bác Hồ, tin tưởng tuyệt đối và thắng lợi của cuộc kháng chiến.

Chuẩn bị đánh địch không chỉ có phá hủy, thực hiện “vườn không nhà trống” mà còn phải tổ chức sẵn các tuyến chiến đấu, với trận địa, công sự, hầm hào, vật chướng ngại ỏ những vùng xung yếu. Dựa vào địa thế thuận lợi, lực lượng vũ trang và nhân dân trong tỉnh tổ chức nhiều trận địa hiểm hóc ở các vùng chợ Gồm, đèo Phủ Cũ, đèo Nhông, đèo Bình Đê, Núi Ngang - Núi Một, Hòn Sưng… Các trận địa ở Tam Bình được bổ sung củng cố.

Ở Quy Nhơn, phương án tác chiến được tiến hành song song với việc cấu trúc công sự ven biển, ven đầm Thị Nại đánh quân đổ bộ. Các tường nhà phố Gia Long được đục thông, tạo thành hành lang cơ động chiến đấu khi có chiến sự.

Các vùng ven biển trong tỉnh đều được chuẩn bị sẵn sàng đánh quân đổ bộ đường biển. các bãi trống, gò nổng địch có thể nhảy dù đều được cắm cọc nhọn và xây dựng các ổ chiến đấu đánh quân dù.

Việc xây dựng làng chiến đấu bước đầu được triển khai, đặc biệt là ở các vùng miền núi. Đồng bào Ba Na ở các làng Sò Đo, Kon Hai, Kon Dơn, Kon Lò, Cha O, Tà Điệt, v.v… ở Vĩnh Thạnh và các làng ở An Lão, Vân Canh với sở trưởng sử dụng vũ khí thô sơ thực hiện rào làng bằng hệ thống chông thò, cạm bẫy đã phát huy tác dụng lớn trong đánh địch càn quét sau này. Một số vùng xung yếu như Quy Nhơn, Phú Phong Đồng Phó… được tổ chức tản cư triệt để hoặc có mức độ theo diễn biến của tình hình.

Thế trận chiến đấu tại chỗ từng bước được hình thành.

Guồng máy kháng chiến sôi động, hối hả.

Tháng 2 năm 1947, Bộ Quốc phòng ra thông tư quy định mọi công dân từ 18 đến 45 tuổi đều được tổ chức và dân quân tự vệ, đồng thời quy định nhiệm vụ của dân quân, tự vệ và du kích. Cùng lúc, Bộ Tư lệnh Khu 5 ra chỉ thị về củng cố hệ thống tổ chức, chỉ huy lực lượng vũ trang địa phương thống nhất từ tỉnh đến huyện, xã. Các cơ quan quân sự tỉnh đội, huyện đội, xã đội được thành lập. Ban chỉ huy tỉnh đội Bình Định do các đồng chí Lê Văn Đức làm tỉnh đội trưởng, Lê Bôi chính trị viên, Chung Hưởng tỉnh đội phó.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 12 Tháng Năm, 2012, 10:42:25 am
Lúc này ở mỗi xã, ngoài lực lượng dân quân đều tổ chức từ một đến hai trung đội du kích. Mỗi huyện có từ một đến hai đại đội du kích tập trung. Ở Hoài Nhơn có đại đội vũ trang tập trung Võ Liệt, hình thức tổ chức bộ đội địa phương đầu tiên trong tỉnh. Trung đoàn dự bị bổ sung và đại đội Tây Sơn trực thuộc tỉnh được thành lập, đội bạch đầu quân, thiếu niên quân, hội mẹ chiến sĩ ra đời hoạt động khắp thôn xóm.

(http://nm0.upanh.com/b6.s27.d1/9b2ddf3225e7ebe68bc93c1a616c83f6_44620560.bachdauquan.jpg)

Đội bạch đầu quân luyện tập tham gia đánh giặc bảo vệ vùng tự do – 1950

Lúc bấy giờ bộ đội chủ lực ở Bình Định có trung đoàn 94 (chi đội 2) và trung đoàn 95 (chi đội 3). Trung đoàn 95 do các đồng chí Vi Dân làm trung đoàn trưởng, Nguyễn Văn Minh chính trị viên phụ trách mặt trận Tam Bình và phía nam tỉnh. Trung đoàn 94 do các đồng chí Trương Cao Dũng làm trung đoàn trưởng, Nguyễn Lịnh chính trị viên phụ trách phía bắc và các vùng ven biển.

Thực hiện đánh quân địch ngay từ trong hậu phương chúng, ban chỉ huy trung đoàn 94 và 95 đưa một số đơn vị luân phiên hoạt động sâu trong vùng địch. Đây còn là nhiệm vụ của Bộ Tư lệnh Khu 5 giao cho hai trung đoàn trong mối quan hệ giữa hai tỉnh Gia Lai và Bình Định.

Dựa vào núi rừng hiểm trở, các đơn vị được lệnh tổ chức căn cứ ngay trên địa bàn An Khê để đánh địch. An Khê được coi là chiến trường hoạt động, tác chiến thường xuyên của lực lượng vũ trang Bình Định. Căn cứ Xóm Ké trong núi Ông Bình cách đồn Thượng An, Cửu An chỉ mấy ki-lô-mét, được xây dựng và duy trì suốt cuộc kháng chiến chống Pháp mà quân địch không làm gì được.

Bộ đội chủ lực ở Bình Định lên An Khê hoạt động còn có ý nghĩa đánh phá bàn đạp, nơi xuất phát các cuộc hành quân càn quét của địch xuống vùng giáp ranh, thường xuyên uy hiếp, gây mất ổn định trong hậu phương địch, đồng thời tạo điều kiện phát triển chiến tranh du kích ở địa phương.

Phương châm hoạt động tác chiến của các đơn vị là dựa vào dân, vận dụng cách đánh du kích trên địa bàn rừng núi, thực hiện tiêu hao địch rộng rãi. Khi có điều kiện thì tập trung lực lượng tổ chức các trận đánh quy mô cấp đại đội, tiểu đoàn.

Trên phương hướng đó, đêm 29 tháng 12 năm 1946, quân ta bao vây quấy rối các cứ điểm Thượng An, Cửu An, An Thạch… Ngày hôm sau (30/12), một đơn vị thuộc trung đoàn 95 phục kích chặn đánh một đoàn xe cơ giới và 70 tên địch. Cứ thế những trận đánh nhỏ lẻ liên tiếp diễn ra. Phong trào chiến tranh du kích ở An Khê ngày càng phát triển.

Để gây chấn động lớn trong vùng, sau khi nghiên cứu, ban chỉ huy tiêu diệt 95 hạ quyết tâm tiến công tiêu diệt cứ điểm Tú Thủy.

Tú Thủy là một cứ điểm kiên cố đại đội tăng cường nằm trong hệ thống cứ điểm vòng ngoài của căn cứ An Khê - Một căn cứ xuất phát hành quân của địch mỗi khi chúng càn xuống Đinh Quang, Vĩnh Thạnh. Thực hiện quyết tâm, trung đoàn tổ chức một đại đội quyết tử do trung đoàn trưởng Vi Dân trực tiếp tổ chức chiến đấu và chỉ huy trận đánh.

Đêm 14 tháng 3 năm 1947, khi bộ đội triển khai đội hình tiếp cận, do không giữ được bí mật, quân địch phát hiện và cho quân ra vị trí. Khi ta nổ súng, chúng dùng các loại hỏa lực ngăn chặn quyết liệt. Mặc dù mất yếu tố bí mật, bất ngờ, cán bộ, chiến sĩ quyết tử vẫn lao lên xung phong với tinh thần dũng mãnh vô song. Đơn vị bị thương vong nặng. Trung đoàn trưởng Vi Dân hi sinh. Trận đánh không đạt, nhưng đã để lại một ấn tượng sâu sắc về tinh thần anh dũng tuyệt vời của người chiến sĩ Việt Nam trong nhân dân toàn tỉnh. Ngay quân địch cũng hết sức khâm phục hành động chiến đấu hi sinh của các chiến sĩ quyết tử. Số tử sĩ trong đó có trung đoàn trưởng Vi Dân không đưa ra được, quân địch tổ chức chôn cất theo nghi lễ quân sự. Đối với đồng chí Vi Dân, chúng xây mộ và dựng bia trân trọng tỏ lòng khâm phục người chỉ huy anh dũng của Việt Minh.

Trận thất bại ở Tú Thủy đem lại nhiều kinh nghiệm quý cho trung đoàn về vận dụng chiến thuật và tổ chức trận đánh. Thực ra cho đến lúc đó, bộ đội ta còn ấu trí về nhiều mặt, thiếu vũ khí, hỏa lực, non yếu cả về tổ chức, chỉ huy. Bộ đội ta chỉ có một thứ, đó là ưu thế tuyệt đối về tinh thần chiến đấu so với quân địch. Đánh địch trong công sự vững chắc, ta đang trong thời kì ấu trĩ cả về vũ khí - kĩ thuật và phương pháp tác chiến.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 12 Tháng Năm, 2012, 10:42:59 am
Sau trận Tú Thúy, trung đoàn 95 được bổ sung quân số kiện toàn thành 3 tiểu đoàn: Tiểu đoàn 1 do đồng chí Đức Thanh làm tiểu đoàn trưởng, tiểu đoàn 2 do đồng chí Mộng Dựt tiểu đoàn trưởng, tiểu đoàn 3 đồng chí Nhiều tiểu đoàn trưởng. Đồng chí Võ Văn Dật được quyết định bổ nhiệm trung đoàn trưởng thay đồng chí Vi Dân cùng các đồng chí Trần Lương chính ủy, Võ Thứ trung đoàn phó chỉ huy trung đoàn.

Lợi dụng lúc ta đang củng cố, địch tổ chức nhiều cuộc hành quân càn quét xuống vùng giáp ranh Bình Định.

Từ cuối tháng 6 năm 1947, chúng tập trung từ Tây Nguyên về An Khê hơn 1.500 quân. Ngày 27 tháng 6, chúng đưa ra Cửu An, Eo Gió, An Thạch gần 1.000 quân, ra Thượng An hơn 500 quân với hai xe tăng chuẩn bị tiến công xuống Bình Định.

Mờ sáng ngày 2 tháng 7 năm 1947, với sự chi viện tối đa của máy bay và pháo binh bắn dọn đường, quân địch chia làm ba cánh vượt đèo tiến xuống Bình Định.

Cánh thứ nhất từ Cửu An đánh xuống Định Nhì, Định Quang.

Cánh thứ hai cũng từ Cửu An, Eo Gió tiến xuống Đồng Hào, Tiên Thuận và đèo Bồ Bồ.

Cánh thứ ba - cánh chủ yếu - theo đường 18 từ Thượng An, đầu đèo xuống Vườn Xoài, Đồng Phó, Phú Phong, Kiên Mỹ.

Trước tình hình địch mở tiến công lớn, các ban chỉ huy trung đoàn 94, 95 và ban chỉ huy tỉnh đội Bình Định được tình báo và trinh sát qua tin tức của cơ sở báo cáo về, đã thống nhất kế hoạch đối phó:

- Sử dụng lực lượng bộ đội và du kích tại chỗ đánh mạnh từng phân đội nhỏ tích cực ngăn chặn địch ngay từ đầu, thực hiện tiêu hao, tiêu diệt từng tốp nhỏ quân địch.

- Tổ chức cho nhân dân lánh cư, bảo đảm an toàn tính mạng và tài sản cho đồng bào ở mức cao nhất, đồng thời thực hiện “vườn không nhà trống”, không địch địch cướp bóc.

Trung đoàn 95, lực lượng chủ yếu ở Tam Bình triển khai ngay phương án chiến đấu.

Tiểu đoàn 3 cơ động do tiểu đoàn trưởng Nhiều và trung đoàn phó Võ Thứ chỉ huy nhanh chóng vận động lên Kiên Mỹ chiếm lĩnh trận địa chuẩn bị đánh địch.

Tiểu đoàn 2 do trung đoàn trưởng Võ Văn Dật trực tiếp chỉ huy đánh địch tại khu vực đèo Bồ Bồ.

Tiểu đoàn 1 cùng đại đội Tây Sơn (tỉnh đội Bình Định) nhanh chóng theo đường núi qua đèo An Khê đánh địch chốt giữ hành lang đường 19.

Mệnh lệnh chiến đấu được nhanh chóng truyền đạt khắp các đơn vị, địa phương.

Cánh quân đi giữa của địch vừa đến Tiên Thuận đã gặp ngay các chiến sĩ đại đội 7 tiểu đoàn 53 trung đoàn 94 và tiểu đoàn 2 trung đoàn 95 bố trí chặn đánh diệt nhiều tên. Chúng dừng lại củng cố. Sáng ngày 3, chúng vượt sông Hà Riêu (sông Côn) tiến lên đèo Bồ Bồ định càn xuống Thuận Ninh. Chúng không ngờ đại đội 10 thuộc trung đoàn 95 đã bố trí trận địa phục kích gần đỉnh đèo. 8 giờ sáng, khi chúng vừa lọt vào trận địa, các chiến sĩ giật mìn và nổ súng, đồng loạt xung phong. Bị đánh bất ngờ, cánh quân này tan rã phải tháo chạy trở lại, 150 tên bỏ xác tại đỉnh đèo.

Cánh chủ yếu của địch theo đường 19 từ Vườn Xoài qua Đồng Phó xuống Phú Phong, đi đến đâu cũng bị bộ đội và dân quân du kích bám đánh, phần bị vấp mìn làm nhiều tên chết và bị thương. Chúng vào Phú Phong với cảnh đổ nát “nhà không vườn trống” không một bóng người, sục vào xóm thì bị vướng mìn, sa hố chông càng thêm khiếp đảm. Cánh quân sang Kiên Mỹ gặp tiểu đoàn 3 cơ động của trung đoàn vừa hành quân lên đánh cho tan tác phải rút về Phú Phong, cùng bọn này rút qua Hoành Sơn về Đồng Tràm.

Cánh quân xuống Định Nhì, Định Quang bị các đơn vị thuộc trung đoàn 94 chặn đánh ở Vĩnh Phúc, Vĩnh Cử, Định Nhì gây cho chúng nhiều thiệt hại cũng phải rút luôn.

Trong khi các cánh quân càn quét phía trước bị đánh tan thì hành lang đường 19 từ đầu đèo lên ngã ba Thượng An bị tiểu đoàn 1 và đại đội Tây Sơn gài mìn đánh xe tiếp tế, đánh quân chốt đồng và các toán tuần tiễu làm chúng nơm nớp lo sợ.

Qua bốn ngày, quân Pháp với máy bay, pháo binh và 1.500 quân tiến công định chiếm đóng vùng phía tây làm bàn đạp đánh ra toàn tỉnh, đã không thực hiện được ý định, phải rút về với thiệt hại tương đối lớn. Về phía tay, tuy chưa thực hiện được những trận đánh tiêu diệt, nhưng các đơn vị và dân quân du kích đã vận dụng cách đánh du kích đều khắp, rộng rãi, diệt được địch, bảo vệ được tính mạng, tài sản của nhân dân.

Sau ngày 6 tháng 7, vùng giáp ranh Tam Bình không còn bóng một tên xâm lược. Đồng bào phấn khởi trở về tiếp tục xây dựng cuộc sống mới.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 12 Tháng Năm, 2012, 10:44:12 am
*   *
*

Quán triệt Nghị quyết Hội nghị cán bộ của Trung ương Đảng tháng 4 năm 1947, nhằm thực hiện “Toàn dân đoàn kết, kháng chiến lâu dài… vừa kháng chiến vừa kiến quốc và lập nền kinh tế tự túc… vừa kháng chiến, vừa dựng lên một nền văn hóa mới… nắm vững và rèn luyện bộ đội. Cương quyết chuyển sang du kích vận động chiến”(1), cùng với sự chỉ đạo của đồng chí Phạm Văn Đồng và Khu ủy, Tỉnh ủy Bình Định, song song với lãnh đạo chiến đấu không lúc nào xem nhẹ việc xây dựng vùng tự do.

Quân Pháp sau những tháng tiến công ồ ạt phải dừng lại củng cố. Tham vọng thì lớn nhưng khả năng của chúng có hạn. Chúng muốn đánh chiếm cả các tỉnh miền Nam Trung Bộ, nhưng nhiều lần tiến công thất bại phải dừng lại đèo Cả ở phía nam, An Khê ở phía tây và Hương An ở phía bắc. Vùng tự do rộng lớn - hậu phương chiến lược trực tiếp của miền Nam Trung Bộ gồm phần phía nam tỉnh Quảng Nam và các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên.

Bình Định - một địa bàn chiến lược cả về kinh tế và quân sự, là một tỉnh tự do trọn vẹn của Khu 5, là một vùng hậu phương quan trọng chẳng những đối với cuộc kháng chiến trong tỉnh mà còn đối với cả miền Nam Trung Bộ, trực tiếp là Gia Lai - Kon Tum.

Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, dưới sự chỉ đạo của Khu ủy, đầu năm 1947, Đảng bộ Bình Định mở đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ nhất tại thành Bình Định. Đồng chí Phạm Văn Đồng đại diện Trung ương Đảng và Chính phủ tham gia lãnh đạo Đại hội. Đại hội thảo luận quán triệt đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính của Trung ương và đề ra những chủ trương trước mắt và lâu dài, tập trung vào hai nhiệm vụ chủ yếu là chiến đấu bảo vệ và xây dựng vùng tự do. Đại hội bầu ra Ban chấp hành Đảng bộ gồm 13 đồng chí thay cho Tỉnh ủy lâm thời trong cách mạng Tháng Tám do đồng chí Trần Lê làm bí thư.

Về chính quyền, theo chủ trương của Trung ương, bên cạnh Ủy ban hành chính các cấp, lập thêm hệ thống Ủy ban kháng chiến. Sau đó hợp nhất hai hệ thống thành Ủy ban hành chính kháng chiến các cấp từ tỉnh đến cơ sở.

Hưởng ứng phong trào “Thi đua ái quốc”, “Diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm” do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi xưởng, Tỉnh ủy phát động phong trào tăng gia sản xuất để phục vụ kháng chiến.

Phong trào “tự cấp tự túc” diễn ra sôi nổi trên mọi hoạt động kinh tế trong toàn tỉnh. Trong hoàn cảnh chiến trường bị chia cắt, muốn kháng chiến thắng lợi phải “tự cấp tự túc”. Với truyền thống lao động cần cù, với thế mạnh của thiên nhiên, người dân Bình Định tin tưởng sẽ tự cấp tự túc được để kháng chiến thắng lợi.

Từ quảng canh, nhân dân chuyển sang thâm canh, phong trào mạnh mẽ tiểu thủ nông. Mọi gia đình đều phát triển trồng bông chung quanh vườn. Có bông, ngành diệt vải thủ công truyền thống trong tỉnh phát triển. Toàn tỉnh có hơn 5.000 khung dệt thủ công sản xuất hơn một triệu mét vải mỗi năm. Vải xi ta sợi chiếc, sợi đôi, chỉ đánh vừa đẹp vừa bền, được bộ đội và nhân dân ưa chuộng.

Nghề làm giấy phát triển. Hàng chục xưởng giấy thủ công được xây dựng ở Hoài Nhơn, An Nhơn, Hoài Ân… Toàn tỉnh có 43 xưởng, mỗi tháng sản xuất được năm đến bảy tấn bông đủ dùng trong tỉnh. Các cơ sở ép dầu, nhất là dầu dừa cung cấp đủ dầu ăn cho nhân dân và sản xuất xà phòng.

Phong trào thi đua học văn hóa, xóa nạn mùa chữ dấy lên sôi nổi. Các lớp bình dân học vụ được tổ chức khắp các thị trấn, thôn xóm. Chưa có thời kì nào mà phong trào học chữ trở thành phong trào quần chúng sâu rộng như thời kì này. Đầu năm 1949, toàn tinh đã thanh toán xong nạn vụ chữ. Hệ thống trường phổ thông được xây dựng khắp các vùng trong tỉnh. Xã có trường cấp 1, một số huyện có trường cấp 2, tỉnh có trường cấp 3. Các huyện miền núi có các lớp cấp 1.

Phong trào văn hóa, văn nghệ cũng rất sôi nổi. Trong kháng chiến ác liệt và kham khổ nhưng ai cũng thấy tâm hồn mình trong sáng cao đẹp trong một không khí vui tươi, lành mạnh với những lời ca tiếng hát hào hứng, ân tình. Tính thập thể, tình đồng chí, nghĩa đồng bào chiếm địa vị chủ đạo trong cuộc sống và trong mọi mối quan hệ xã hội. tính ích kỉ, bon chen, tự tư tự lợi, biết mình không biết người bị đẩy lùi. Con người thời kháng chiến sao mà đẹp. Tất cả cho kháng chiến, cho bộ đội, mình vì mọi người và mọi người vì mình. Văn nghệ kháng chiến, hình thức tuy thô sơ nhưng nội dung phong phú, sống động. Chủ nghĩa nhân văn, chủ nghĩa anh hùng cách mạng được biểu dương, ca ngợi, chủ nghĩa cá nhân, kích kỉ được phân tích, phê phán. Văn nghệ kháng chiến đã góp một phần không nhỏ trong xây dựng nếp sống mới, con người mới, nền văn hóa mới.

Để tăng cường chất lượng chiến đấu, hai trung đoàn 95 và 94 được sáp nhập thành trung đoàn 120 do các đồng chí Võ Văn Dật làm trung đoàn trưởng, Nguyễn Lịnh chính ủy, Nguyễn Văn Thuận trung đoàn phó. Trung đoàn có nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ tỉnh tự do Bình Định và hoạt động tác chiến, gây cơ sở phát triển chiến tranh du kích trên chiến trường Gia Lai. Sau khi hai tỉnh Gia Lai, Kon Tum sáp nhập, trung đoàn phụ trách luôn cả Gia Lai - Kon Tum. Trung đoàn sắp xếp lại biên chế gồm bốn tiểu đoàn 50, 51, 52, 53 và các đại đội trực thuộc 10, 13, 18 và hai đại đội cảm tử là đại đội 51A và 51B. Đại đội 51A do Quách Tử Hấp làm đại đội trưởng. Đại đội 51B do Lương Trung làm đại đội trưởng.

Vào cuối năm 1947, quân Pháp ở An Khê quay về càn quét để ổn định vùng chúng chiếm đóng. Dựa vào dân, các đại đội chủ lực liên tiếp tổ chức phản kích bẻ gãy nhiều cuộc càn quét của địch, hỗ trợ cho phong trào chiến tranh du kích phát triển.

Thời gian này, đại đội 51A cảm tử được lệnh lên An Khê chiến đấu. Sau khi nắm được kế hoạch hành quân của địch, đại đội 51A hạ quyết tâm tổ chức một trận vận động phục kích ở khu vực cầu Suối Vối - Rộc Dừa. Trước khi xuất quân, đại đội trưởng trình bày phương án tác chiến trước đại đội và đề xuất cần có một chiến sĩ cảm tử ôm bom lao vào đội hình địch. Cả đại đội đều giơ tay xung phong. Đại đội trưởng phân vân chưa biết chọn ai và ra lệnh bỏ tay xuống, chiến sĩ Ngô Mây vẫn đưa cánh tay thẳng với thái độ kiên quyết và tha thiết xin được nhận nhiệm vụ.

Cuối cùng, Ngô Mây được vinh dự nhận nhiệm vụ quyết tử trước sự tin yêu của toàn đại đội. Đêm hôm đó, anh viết thư cho mẹ ở xã Cát Chánh, huyện Phù Cát. Trong thư có đoạn “Thưa mẹ, không có gì đáng buồn cả, con của mẹ đã chọn một cái chất xứng đáng, một cái chết vinh quang nhất của người chiến sĩ quân đội cách mạng…”. Trước ngày ra trận, anh đem đồ dùng cá nhân của mình chia cho đồng đội, còn lại đôi dép cao su cũng trao lại cho bạn trước giờ xuất quân.

Trong trận đánh quân Pháp ở cầu Suối Vối - Rộc Dừa ngày 12/11/1947, khi trận đánh gặp khó khăn, Ngô Mây ôm bom ở lại yểm hộ cho đơn vị thu quân. Quân Pháp ào tới, tưởng đã nắm chắc phân thắng, vừa tiến vừa hô: “Việt Minh đâu! Việt Minh đâu!”. Từ vị trí ẩn nấp, Ngô Mây cổ quàng khăn đỏ bật dậy lao thẳng vào giữa đội hình dày đặc của địch hô lớn “Việt Minh đây!”. Cùng với tiếng nổ vang trời dậy đất, hơn một trung đội lính Âu Phi tan xác.

Năm ấy, Ngô Mây vừa tròn 23 tuổi đời và bảy tháng tuổi quân. Trước sự nghiệp chiến đấu giải phóng quê hương đất nước, anh đã không ngần ngại dâng hiến tuổi xuân của mình cho Tổ quốc. Ngô Mây trở thành bất tử. Tiếng bom Ngô Mây và chiếc khăn quàng đỏ của anh mãi mãi đi vào lịch sử kháng chiến của Bình Định và của cả dân tộc Việt Nam như một biểu tượng cao đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Ngô Mây đã làm rạng rỡ thêm truyền thống yêu nước, truyền thống bất khuất của vùng đất thượng võ và quật khởi. Nhân dân Bình Định mãi mãi tự hào về anh. Anh xứng đáng với danh hiệu Anh hùng quân đội - người chiến sĩ đầu tiên của Liên khu 5 được Quốc hội và Chính phủ truy tặng.


(1) Nghị quyết Hội nghị cán bộ Trung ương làn thứ hai, tháng 4.1947.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 12 Tháng Năm, 2012, 10:45:21 am
TRẬN ĐÈO BỒ BỒ

(http://nm2.upanh.com/b5.s29.d3/3789306ed9b67a765695a9dca5b75fee_44620562.bobo.jpg)


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Năm, 2012, 02:28:34 pm
3 - ĐÁNH THIỆT HẠI NẶNG QUÂN ĐỊCH NHẢY DÙ XUỐNG PHÙ LY - PHÙ MỸ VÀ ĐỔ BỘ LÊN TAM QUAN - CHỢ CÁT

Bước sang năm 1948, tình hình trong cả nước có nhiều chuyển biến quan trọng. Sau thất bại lớn trong thu đông Việt Bắc, quân viễn chinh Pháp từ chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” chuyển sang đánh kéo dài, quay về “bình định” vùng chúng chiếm đóng và tiếp tục lấn chiếm vùng tự do, thực hiện chủ trương “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”. Về phía ta, sau chiến thắng Việt Bắc, cuộc kháng chiến của nhân dân ta chuyển sang một giai đoạn mới - giai đoạn giằng co quyết liệt giữa ta và địch.

Để tăng cường chỉ đạo chiến tranh, Trung ương Quyết định sáp nhập các chiến khu thành liên khu. Ở miền Nam Trung Bộ, khu 5, khu 6, khu 15(1) được sáp nhập thành Liên khu 5, do đồng chí Nguyễn Thế Lâm quyền tư lệnh, Nguyễn Chánh làm chính ủy.

Đầu tháng 4 năm 1948, Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ tư họp đề ra công tác vùng địch tạm chiếm, phát triển vũ trang tuyên truyền, thực hiện đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung, luyện quân lập công v.v… Bộ Tư lệnh Liên khu 5 phát động một phong trào luyện quân lập công rầm rộ sôi nổi trong toàn liên khu. Trung đoàn 120 cùng với ban chỉ huy tỉnh đội Bình Định thống nhất kế hoạch triển khai ngay chương trình huấn luyện quân sự.

Từ sau cách mạng Tháng Tám, việc huấn luyện quân sự được dặt ra tích cực và thường xuyên nhưng chưa được huấn luyện cơ bản, đặc biệt về chiến thuật thì huấn luyện chắp vá cả Tây lẫn Nhật, v.v… Lần này lực lượng vũ trang được huấn luyện cơ bản, vó hệ thống theo chương trình, giáo án thống nhắt. Cán bộ, chiến sĩ từ chủ lực đến địa phương hào hứng, say sưa trong học tập.

Các lớp bồi dưỡng cán bộ xã đội, trung đội dân quân, du kích được mở ra ở chùa Thập Tháp (Nhơn Hưng, An Nhơn).

Qua học tập, huấn luyện trình độ cán bộ, chiến sĩ được nâng lên một bước cơ bản.

Lực lượng vũ trang phát triển đòi hỏi trang bị, vũ khí ngày càng nhiều, càng có chất lượng. Công binh xưởng Cao Thắng, Quang Trung và một số cơ sở sản xuất, sửa chữa vũ khí tuy đã cố gắng rất cao nhưng vẫn không đáp ứng được do thiếu nguyên vật liệu và hóa chất. Tỉnh ủy và ban chỉ huy tỉnh đội phát động phong trào sưu tầm nguyên vật liệu cung cấp cho các công binh xưởng. Sắt thép, ống nước, phân dơi… được đồng bào trong tỉnh tìm kiếm, thu nhặt đưa về tỉnh. Các đội thợ lặn được thành lập để mò tìm sắt, thép ở các tàu của Pháp, Nhật chìm dưới biển trước đây. Đội lặn do đồng chí Đinh Trung chỉ huy lập được nhiều thành tích với những gương lao động tiêu biểu, trong đó nổi lên tấm gương của đồng chí Lê Phược.

(http://img521.imageshack.us/img521/8416/xuongquankhi.jpg)

Xưởng quân khí Cao Thắng (Hoài Ân)

Về trang phục, anh bộ đội Cụ Hồ ở Bình Định (cũng như ở Liên khu 5) đã bắt đầu có sự thống nhất tương đối trong đơn vị. Hình ảnh anh bộ đội với bộ quần áo xi ta chỉ đánh màu xám tro, nút áo bằng xương bò hoặc sọ dừa, thắt lưng bằng mây bện, với biđông ống tre, chén gáo dừa, đầu đội mũ tre đan bọc vải xi ta, chân mang dép cao su vừa dung dị, vừa đẹp - cái đẹp của người chiến sĩ Liên khu 5 thời chống Pháp - cái đẹp của toàn dân lo cho anh, biểu hiện sự thành công của phong trào “tự cấp tự túc” của tỉnh và Liên khu.

Thực hiện chủ trương đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung, Đảng ủy, ban chỉ huy trung đoàn 120 cùng Thường vụ Tỉnh ủy Bình Định thống nhất lên phương án kế hoạch phân bố. Các đại đội của trung đoàn làm nhiệm vụ đại đội độc lập ở các huyện trong tỉnh.


(1) Khu 15 được thành lập tháng 8 năm 1947.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Năm, 2012, 02:32:32 pm
*   *
*

Trước những hoạt động, tác chiến ngày càng mạnh mẽ của ta, quân Pháp một mặt càn quét vùng bị chiếm và vùng giáp ranh, đồng thời tăng cường không quân, hải quân đánh phá các đường giao thông chiến lược, các tụ điểm dân cư, bắn pháo, cho quân đổ bộ vùng ven biển, đốt phá ghe mành nhằm phá hoại hậu phương, làm giảm sút tiềm lực kháng chiến của ta.

Đặc biệt, ngày 10 tháng 5 năm 1948, quân Pháp từ An Khê chia làm hai cánh đánh xuống Định Quang và Phú Phong. Dựa vào thế trận đã lập sẵn, du kích các xã Bình Quang, Bình Giang, Bình Tường phối hợp cùng với bộ đội địa phương, chặn đánh liên tục cả ngày lẫn đêm, gay cho địch nhiều thiệt hại. Tiêu biểu là trận đánh ở Định Nhì (Bình Quang) trận đánh diễn ra ác liệt, súng hết đạn, chiến sĩ chiến sĩ du kích xung phong ôm vật với lính Âu Phi. Điển hình là chiến sĩ Bùi Thanh Độ, bộ đội địa phương huyện Bình Khê. Trước sự chiến đấu dũng cảm của du kích và bộ đội ta, sáng ngày 11.5.1948, địch vội vã tháo chạy về An Khê, bỏ lại 20 xác chết đồng bọn(1).

Nghiêm trọng hơn, lần đầu tiên chúng kết hợp cả đường bộ, đường biển và đường không nhảy dù vào giữa hậu phương ta ở Phù Ly - Phù Mỹ, nhằm gây chấn động về chính trị và quân sự, lên dây cót tinh thần cho sĩ quan, binh lính chúng, đồng thời uy hiếp tinh thần, phá thế ổn định trong hậu phương kháng chiến của ta.

Khu vực được chúng chọn để nhảy dù và hợp điểm các cánh quân là khu vực Phù Ly - Phù Mỹ.

Thôn Phù Ly thuộc xã Cát Hanh và thị trấn Phù Mỹ là hai khu vực của hai huyện Phù Cát và Phù Mỹ nằm trên đường số 1 cách nhau khoảng 10 ki-lô-mét, cách cửa biển Đề Gi chừng 20 ki-lô-mét, nơi tiếp giáp của hai đường quốc lộ 1 và tỉnh lộ, hình thành trục tam giác Phù Mỹ - Chợ Gồm - Đề Gi - một khu vực có mật độ dân cư tập trung và giao lưu kinh tế thuận lợi.

Để đánh lạc hướng phán đoán của bộ đội ta vào khu vực trọng điểm, ngày 20 tháng 7 năm 1948, từ tàu chiến chúng đổ quân nghi binh lên Vĩnh Tuy, một thôn ven biển thuộc xã Phổ Thanh huyện Đức Phổ, Quảng Ngãi sát chân đèo Bình Đê - bị bộ đội địa phương và du kích chặn đánh phải rút xuống tàu.

Ngày 30 tháng 7 năm 1948, Bộ chỉ huy Pháp cho tàu chiến đổ bộ một đại đội lên khu 2 thị xã Quy Nhơn. Cùng ngày, một cánh quân khác từ An Khê thọc xuống Định Nhì, vùng giáp ranh phía Tây Bình Định, nghi binh tạo thế bất ngờ để ngày sau chúng tiến công lên khu vực trọng điểm.

8 giờ sáng ngày 31 tháng 7, nhiều tàu chiến địch từ ngoài khơi cửa biển Đề Gi bắn pháo lớn vào khu vực tam giác Phù Mỹ - Chợ Gồm - Đề Gi. Sau đó, với 10 chiếc máy bay đa-cô-ta, chúng cho 120 tên nhảy dù xuống cánh đồng thôn Khánh Lộc, xã Cát Hanh tiến về chợ Phù Ly. Cùng lúc, 100 tên nhảy dù xuống cánh đồng An Lạc, xã Mỹ Hòa và sân vận động thị trấn Phù Mỹ. 10 giờ cùng ngày, từ tàu chiến, chúng cho 2 đại đội đổ bộ lên Đề Gi theo đường tỉnh lộ lên Chợ Gồm (thôn Vĩnh Tường, xã Cát Hanh). Một cánh khác khoảng một đại đội từ Đề Gi lên chợ An Lương (xã Mỹ Chánh) với ý định hợp điểm tại Phù Ly.

(http://img171.imageshack.us/img171/2872/thondoimihoa.jpg)

Thôn đội dân quân du kích thôn Mỹ Hóa (xã Cát Hanh)

Trong khi địch triển khai các mũi trên các hướng, tiểu đoàn 50 chủ lực cơ động thuộc trung đoàn 120 do tiểu đoàn trưởng Nguyễn Lập chỉ huy đang luyện quân ở xã Mỹ Hiệp. Nhận được lệnh chiến đấu của trung đoàn trưởng Võ Văn Dật, 12 giờ trưa, đại đội 51A của tiểu đoàn 50 do đại đội trưởng Quách Tử Hấp chỉ huy được lệnh cấp tốc hành quân từ Vạn Thiên qua sông Phù Ly đến thôn Xuân Hội chia thành nhiều mũi nổ súng tiến công quân địch tại chợ Phù Ly. Đại đội 51B do đồng chí Lương Trung chỉ huy đánh thẳng vào miếu đầu cầu Phù Ly. Cùng lúc, đại đội Tây Sơn trực thuộc tỉnh đội Bình Định do đồng chí Nguyễn Đạt chỉ huy được lệnh vận động từ An Trinh lên Bình Long vượt qua cầu Phù Ly phối hợp với đại đội quyết tử tiêu diệt quân địch ở An Tân, Khánh Lộc, Phù Ly (Cát Hanh).

Dân quân, du kích các xã trên phối hợp với bộ đội cùng sát cánh chiến đấu. Trong lúc cơ động chỉ huy du kích chiến đấu, Bùi Thanh Độ, xã đội trưởng xã Mỹ Hiệp bị địch bắt đi khiêng dù còn rải rác trên cánh đồng. Lợi dụng thời cơ khi quân ta nổ súng, địch hoang mang, hỗn loạn, Bùi Thanh Độ dùng đòn khiêng đánh chết tên quan hai chỉ huy toán quân dù rồi chạy thoát vào xóm. Lúc này tiếng súng tiến công của đại đội quyết tử và đại đội Tây Sơn nổ ran khắp các hướng. Một cánh của đại đội quyết tử xung phong mãnh liệt đùng vào sở chỉ huy hành quân của địch ở chợ Phù Ly. Thực hiện đánh gần, tiểu đội trưởng Thanh dùng lê đâm chết tên quan tư, chỉ huy trưởng cuộc hành quân.

Bị đánh bất ngờ đúng vào sở chỉ huy, sĩ quân đầu não bị diệt, bọn địch như rắt mất đầu, tinh thần hoang mang, đội hình rối loạn. Bị ta đánh mạnh, hai cánh quân dù không liên lạc được với nhau. 14 giờ, máy bay địch chở tên quan năm nhảy dù xuống thay tên quan tư, tiếp tục chỉ huy cuộc hành quân, nhưng bị quân ta ráo riết tiến công nên chỉ quanh quẩn tại bãi đổ quân. Cánh quân từ biển lên bị du kích tiêu hao phải dừng lại. trong đêm ở Gò Me, Vĩnh Thành, An Lương. Kế hoạch hợp điểm tại Phù Ly của các cánh quân địch không thực hiện được.

Thế thất bại đã hiện rõ, sáng ngày 1 tháng 8 năm 1948, tất cả các cánh quân địch được lệnh rút xuống Đề Gi lên tàu cút thẳng. Mưu đồ càng lớn thì thất bại càng đau, tổ chức đánh sâu vào vùng tự do của ta, địch mong muốn giành thắng lợi lớn, nhưng mục tiêu về chính trị cũng như quân sự đều không đạt, lại bị quân dân Bình Định đánh đau phải rút chạy.

Với tinh thần cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu cao, bộ đội cũng như du kích với phương án tác chiến tại chỗ, dựa vào nhân dân, đã kịp thời nổ súng tiến công địch khi chúng vừa đặt chân lên quê hương. Kết quả trận đánh 30 tên địch bị diệt trong đó có tên quan tư chỉ huy cuộc hành quân và tên quan hai. Ta thu 15 súng, 88 chiếc dù, nhiều đạn dược và đồ dùng quân sự. Địch định đánh ta bất ngờ nhưng chính chúng đã bị bất ngờ. Trận Phù Ly tuy diệt địch không nhiều nhưng ý nghĩa thắng lợi lớn vì đây là lần đầu tiên ta bẻ gãy cuộc hành quân quy mô kết hợp cả hải, lục, không quân của địch ngay trong lòng hậu phương kháng chiến.


(1) Theo CHIẾN TRANH DU KÍCH TRÊN CHIẾN TRƯỜNG BÌNH ĐỊNH, tr. 52-53.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Năm, 2012, 02:34:17 pm
TRẬN PHÙ LY

(http://img515.imageshack.us/img515/4786/phly.jpg)


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Năm, 2012, 02:35:07 pm
*   *
*

Sang năm 1949, phương thức hoạt động đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung đã phát huy tác dụng lớn. Vừa có lực lượng chủ lực cơ động chiến đấu, vừa có lực lượng tại chỗ dìu dắt lực lượng vũ trang cơ sở trưởng thành. Các đại đội độc lập phụ trách các huyện phát huy tốt vai trò và nhiệm vụ của mình vừa bố phòng sẵn sàng đánh địch, vừa cùng huyện đội xúc tiến công tác quân sự ở địa phương, được Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tin yếu.

Tháng 2 năm 1949, Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ hai đại diện cho 4.000 đảng viên trong tỉnh họp ở Mỹ Lộc, Phù Mỹ kiểm điểm tình hình lãnh đạo trong hai năm qua, đề ra chủ trương công tác mới và bầu Ban chấp hành Đảng bộ mới gồm 19 đồng chí do đồng chí Nguyễn Văn làm bí thư.

Tháng 4 năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí sắc lệnh thành lập bộ đội địa phương tỉnh và huyện, rút các đại đội độc lập về tập trung xây dựng đơn vị mạnh. Từ sau sắc lệnh này, lực lượng vũ trang ta đã hình thành hai thứ quân một cách hoàn chỉnh gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích.

Ở Bình Định, sau một thời gian chuẩn bị đã xây dựng được bảy đại đội bộ đội địa phương ở bảy huyện là Hoài Nhơn, Hoài Ân, Phù Cát, Phù Mỹ, An Nhơn, Bình Khê, Tuy Phước, thị xã Quy Nhơn có một trung đội. Trung đoàn 120 là chủ lực của Liên khu nhưng làm nhiệm vụ địa phương, hoạt động tác chiến gắn liền với hai tỉnh Bình Định và Gia Lai - Kon Tum. Do đó, sau khi bộ đội địa phương huyện được thành lập, các đại đội độc lập vẫn tiếp tục làm nhiệm vụ ở huyện, lúc nào cần trung đoàn sẽ rút về tập trung. Cũng trong tháng 4 năm 1949, tiểu đoàn 50 chủ lực cơ động của trung đoàn 120 được Bộ Tư lệnh Liên khu điều về làm nòng cốt thành lập trung đoàn 210 chủ lực cơ động của Liên khu. Cơ quan tỉnh đội được kiện toàn. Đồng chí Võ Văn Dật được ử làm tỉnh đội trưởng, đồng chí Chung Hường chính trị viên tỉnh đội. Cuối năm 1949, đồng chí Chung Hường được cử ra Bắc học kinh nghiệm xây dựng bộ đội địa phương về phổ biến cho cán bộ tỉnh, huyện, củng cố thêm một số các đơn vị bộ đội địa phương trong tỉnh.

Trong chiến dịch Bắc Tây Nguyên, tháng 6 năm 1949, ban chỉ huy tỉnh đội Bình Định cử hai đại đội địa phương lên phối hợp hoạt động, tạo điều kiện cho cán bộ, chiến sĩ rèn luyện, thử thách trong chiến đấu và làm công tác gây cơ sở cách mạng trong vùng đồng bào các dân tộc.

Thời gian này địch tăng cường không quân và hải quân đánh phá vùng ven biển. Lực lượng vũ trang địa phương và nhân dân tổ chức báo động, tuần tra, canh gác nghiêm ngặt để địch vào là biết và tăng cường công tác bố phòng đánh địch, nhất là các vùng xung yếu.

Để giảm bớt áp lực của ta trong chiến dịch Bắc Tây Nguyên, đồng thời đánh phá vùng tự do, phá hoại phương tiện giao thông, kho tàng, quân Pháp chủ trương đổ bộ lên Tam Quan - một khu vực trù phú có ga và đề pô xe lửa, chỉ cách bờ biển chừng hai ki-lô-mét, rất thuận lợi cho việc đổ bộ và rút xuống tàu.

Khoảng 1 giờ sáng ngày 20 tháng 7 năm 1949, địch cho tàu chiến đổ một tiểu đoàn lên Bãi Ngang thuộc xã Hoài Thanh, cách cửa Tam Quan chừng ba ki-lô-mét. Cánh quân này tiến qua các thôn Lâm Trúc, Gò Tháp, Tăng Long, Đại hóa rồi vượt quốc lộ 1 lên Chợ Cát, xã Hoài Hảo dừng lại cấu trúc công sự dã chiến (Chợ Cát cách ga Tam Quan khoảng hai ki-lô-mét về phía tây - nam). Đây là cánh quân chủ yếu của địch trong cuộc hành quân này. Lấy ga Tam Quan làm hợp điểm, cánh quân này có nhiệm vụ cảnh giới, ngăn chặn lực lượng ta tập kích vào ga Tam Quan từ phía tây và tây nam.

Cánh thứ hai, một đại đội đổ bộ lên Vĩnh Tuy, chiếm đèo Bình Đê rồi thọc xuống ga Chương Hòa, đốt phá một số đầu máy, toa xe rồi tiến vào thôn Tân Định, Tân Thanh (nay thuộc Tam Quan Bắc).

Về phía lực lượng vũ trang và nhân dân, ngay từ lúc nửa đêm, các đài quan sát theo dõi địch đã báo động chiến đấu. Nhân dân trong vùng được lệnh tổ chức lánh cư theo kế hoạch. Lực lượng vũ trang tại chỗ có đại đội 8 độc lập thuộc trung đoàn 120, đại đội địa phương huyện Hoài Nhơn và dân quân du kích các xã Tam Quan, Hoài Hảo, Hoài Châu, Hoài Thanh.

Theo phương án tác chiến đã chuẩn bị, đại đội 8 độc lập do đồng chí Võ Hồng Loan chỉ huy và đại đội 8 địa phương do huyện đội trưởng Trần Bút chỉ huy cùng du kích các xã tổ chức thành từng phân đội nhỏ phân tán đánh địch khắp nơi, gây cho chúng nhiều thiệt hại, nhất là ở các thôn Tân Thành, Phước Lộc và thị trấn Tam Quan.

Lúc này, tiểu đoàn 50 thuộc trung đoàn chủ lực 210 vừa hành quân từ Bắc Tây Nguyên về đến xã Hoài Xuân được tin vội vã tổ chức cấp tốc hành quân tiến ra đánh địch. Đại đội 51B quyết tử do đại đội trưởng Lương Trung chỉ huy từ Hoài Xuân theo đường liên xã ra Hoài Tân, Hoài Hảo đụng độ quân địch tại Chợ Cát.

Tuy so sánh lực lượng chênh lệch nghiêng về phía địch (địch một tiểu đoàn, ta một đại đội), quân địch có hỏa lực mạnh lại chiếm được địa hình có lợi và bố trí sẵn, nhưng với tinh thần quyết chiến, quyết thắng, đại đội trưởng Lương Trung chỉ huy đại đội lợi dụng các gốc dừa, gò mối, hào giao thông vừa nổ súng vừa tiếp cận địch. Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt ngay từ phút đầu.

Không chịu nổi các đợt xung phong của các chiến sĩ quyết tử, sau một giờ chiến đấu, tiểu đoàn địch phải rút về cụm lại ở ga Tam Quan. Trận này, tiểu đoàn địch bị ta đánh thiệt hại nặng nhưng đại đội quyết tử cũng bị thương vọng nặng. Đại đội trưởng Lương Trung hi sinh trong khi chỉ huy đơn vị chiến đấu.

Tối ngày 20, ta tổ chức pháo kích vào cụm trú quân của địch ở ga Tam Quan làm chúng thương vong thêm một số. Bị đánh liên tục, sáng ngày 21, pháo hạm từ tàu chiến bắn dữ dội vào các khu vực chung quanh ga Tam Quan và hai bên đường từ cổng xe lửa đi Thiện Chánh, bảo đảm hành lang cho toàn bộ quân địch rút xuống tàu kết thúc cuộc hành quân. Khi lực lượng lớn của trung đoàn chủ lực 210 đến Hoài Hảo thì quân địch đã rút hết xuống tàu, bỏ lỡ một cơ hội tiêu diệt lớn quân địch.

Trận Tam Quan - Chợ Cát kết thúc thắng lợi tiêu diệt gần 200 tên địch, bẻ gãy cuộc hành quân đánh phá vùng tự do ven biển của địch.

Cùng với chiến thắng Phù Ly, chiến thắng Tam Quan - Chợ Cát đánh dấu sự trưởng thành và tiến bộ rõ rệt của quân dân Bình Định trong sẵn sàng chiến đấu và bảo vệ vùng tự do của tỉnh. Trong trận này, cả ba thứ quân đã phối hợp hiệp đồng chiến đấu tốt. Mỗi thứ quân đều sử dụng cách đánh sở trường của mình nên đạt hiệu quả chiến đấu khá. Dựa vào địa hình làng mạc được che khuất dưới vườn dừa, các chiến sĩ đại đội 8 độc lập, đại đội địa phương huyện và du kích đã phát huy lối đánh du kích nhỏ lẻ từng tổ, từng phân đội nhỏ, kết hợp với chông, mìn, thực hiện tiêu hao, tiêu diệt địch rộng rãi. Bộ đội chủ lực của Liên khu tuy tham gia trận đánh chỉ có đại đội quyết tử, nhưng ngoài tinh thần dũng cảm tuyệt vời đã sử dụng chiến thuật vận động tiến công - cách đánh sở trường của chủ lực ở dã ngoại nên đã đánh thiệt hại và đẩy lùi một tiểu đoàn địch.

Vai trò của nhân dân trong trận đánh có ý nghĩa quan trọng. Việc lánh cư được tổ chức có trật tự, không bị bất ngờ, nhờ hệ thống báo động tốt của dân quân. Trong chiến đấu, các đoàn thể cứu quốc, đặc biệt là các mẹ, các chị đã lo toan cơm nước, tiếp tế, bảo đảm cho bộ đội và du kích chiến đấu. Việc chăm sóc, nuôi dưỡng thương binh đều do các mẹ, các chị ở các xã Hoài Hỏa, Hoài Châu, Tam Quan, Hoài Thanh đảm nhiệm. Nhân dân còn tự nguyên tham gia khắc phục hậu quả của trận đánh, khôi phục lại nhà ga, đường sắt ở các ga Tam Quan, Chương Hòa. Chỉ sau hai ngày, tàu lửa ta lại chạy thông suốt, trong khi quân địch cho rằng ta phải mất hàng tháng mới khôi phục được.

Tại Tam Quan - Hoài Nhơn, xứ sở của ca dao, hò vè, chỉ mấy ngày sau trận đánh đã lưu truyền:

            Hai mươi giặc đến Tam Quan,
            Phụng Du, Chợ Cát, Vệ quốc đoàn đánh ngay.
            Giặc đến ta đánh giặc đi.
            Toàn dân kháng chiến, giặc gì cũng tan.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Năm, 2012, 02:35:53 pm
TRẬN TAM QUAN - CHỢ CÁT

(http://img694.imageshack.us/img694/1056/tamquanchocat.jpg)


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Năm, 2012, 02:37:43 pm
*   *
*

Quân dân Bình Định bước sang năm 1950 trong tình hình cuộc kháng chiến cả nước đang trên đà phát triển mạnh mẽ. Trong không khí phấn khởi của toàn dân, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ ba họp ở Tân Hóa, Cát Hanh. Đại hội biểu dương quân dân vùng Tam Bình, Phù Ly - Phù Mỹ, Tam Quan, Hoài Hảo, Hoài Châu… trong thành tích bẻ gãy các cuộc càn quét của địch, bảo vệ vững chắc vùng tự do của tỉnh. Đại hội đã chỉ ra những khuyết điểm trong lãnh đạo như nặng động viên nhân dân đóng góp mà nhẹ bồi dưỡng sức dân. Động viên chưa đúng với phương hướng: “Tất cả để đẩy mạnh chiến tranh nhân dân”.

Căn cứ vào nghị quyết của Trung ương và của Liên khu ủy, Đại hội đề ra nhiệm vụ của toàn Đảng bộ là: Đẩy mạnh mọi mặt công tác, đẩy mạnh chiến tranh nhân dân, động viên nhân tài vật lực phục vụ tiền tuyến, đồng thời ra sức cải thiện đời sống nhân dân v.v… Đại hội bầu ra Ban chấp hành Đảng bộ mới gồm 19 đồng chí, do đồng chí Nguyễn Văn làm bí thư.

Về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong năm 1950, khi trung đoàn 120 tập trung làm nhiệm vụ chủ lực, Ban chỉ huy tỉnh đội đã xây dựng hoàn chỉnh tiểu đoàn 50 bộ đội địa phương tỉnh gồm bốn đại đội 101, 102, 103 và 104. Lực lượng vũ trang cơ bản được kiện toàn về số lượng và chất lượng theo phương hướng mỗi xã có hai trung đội đủ điều kiện tác chiến, nhất là các vùng xung yếu như Quy Nhơn, Gò Bồi, Đề Gi, Tam Quan và các xã giáp ranh vùng Tam Bình. Các huyện còn chuẩn bị sẵn lực lượng bổ sung cho chủ lực và bộ đội tỉnh. Hoài Nhơn đã thành lập tiểu đoàn bổ sung, các huyện khác tổ chức đại đội hoặc trung đội. Đến tháng 10 năm 1950, toàn tỉnh đã bổ sung cho chủ lực 2.140 dân quân du kích.

Cuối năm 1950, toàn tỉnh có 165.037 dân quân du kích, trong đó dân quân nam 140.596, dân quân nữ là 22.221, dân quân miền núi là 2.220.

(http://img94.imageshack.us/img94/237/nudanquan.jpg)

Đội nữ dân quân luyện tập sẵn sàng đánh giặc - 1949

Trường huấn luyện quân sự tỉnh được mở thường xuyên ở Cát Trinh, Phù Cát đào tạo cán bộ trung đội, tiểu đội du kích và xã đội. Hội nghị chiến tranh du kích đầu tiên trong tỉnh được triệu tập để tổng kết phong trào xây dựng và chiến đấu, rút kinh nghiệm đưa phong trào tiến lên.

Sau ngày cách mạng Tháng Tám thành công, chỉ với hai bàn tay trắng, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Bác Hồ, trực tiếp là Liên khu ủy và Bộ Tư lệnh Liên khu 5, Đảng bộ và dân quân Bình Định đã xây dựng, cũng cố chính quyền, xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang. Quân dân trong tỉnh đã từng bước trưởng thành, vững vàng bước vào những năm đầu tiên của cuộc kháng chiến trường kì với thắng lợi trên tất cả các mặt trận xây dựng hậu phương, đặc biệt là đánh bại tất cả các cuộc hành quân càn quét lấn chiếm của địch, bảo vệ vững chắc quê hương.

Qua 5 năm kháng chiến - một chặng đường không phải là ngắn, với nhiều tình huống khó khăn, phức tạp, nhưng quân dân Bình Định phát huy truyền thống quý báu của mình đã vượt qua, quyết cùng quân dân Liên khu 5 và cả nước đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Năm, 2012, 02:38:55 pm
Chương III

BẢO VỆ VỮNG CHẮC HẬU PHƯƠNG CHIẾN LƯỢC
CÙNG CẢ NƯỚC KẾT THÚC THẮNG LỢI
CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP (1951-1954)

1 - KIỆN TOÀN TỔ CHỨC, NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG MỌI MẶT CÔNG TÁC ĐẨY MẠNH CUỘC KHÁNG CHIẾN TIẾN TỚI

Sau chiến thắng chiến dịch Biên giới, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta đã chuyển sang một giai đoạn mới. Bước sang năm 1951, nước ta được khai thông, nối liên với các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Trong Liên khu, sau nhiều chiến dịch tiến công Bắc Tây Nguyên giành thắng lợi, quân dân ta đã đẩy quân địch vào thế bị động, lúng túng, từng bước giành lại thế chủ động chiến trường. Vùng tự do rộng lớn của Liên khu 5 được giữ vững và xây dựng ngày càng vững mạnh.

Tháng 2 năm 1951, một sự kiện lớn làm nức lòng quân dân cả nước: Đại hội toàn quốc lần thứ hai của Đảng được triệu tập ở chiến khu Việt Bắc - Đại hội đầu tiên của toàn Đảng trong kháng chiến chống Pháp. Trong đại hội quan trọng này, Bác Hồ đã chỉ rõ: “Nhiệm vụ thứ nhất, nhiệm vụ cấp bách của Đảng ta ngày nay là phải đưa kháng chiến đến thắng lợi. Các nhiệm vụ khác đều phải phụ thuộc vào đó”(1).

Đại hội khẳng định “Cuộc kháng chiến của ta là một cuộc chiến tranh nhân dân, để giành lấy thắng lợi hoàn toàn… Phải xây dựng một quân đội nhân dân mạnh mẽ, chân chính”(2).

Nghị quyết Đại hội lần thứ hai của Đảng như một luồng sinh khí mới mang lại cho quân dân cả nước một sức mạnh mới đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi.

Sau thất bại ở biên giới, thực dân Pháp thấy không hể một mình theo đuổi cuộc chiến tranh xâm lược nên phải cầu cạnh sự chi viện của Mỹ. Cùng với thực dân Pháp, can thiệp Mỹ trở thành kẻ thù cụ thể của nhân dân ta.

Đờ Lát đờ Tát-xi-nhi được cử sang Đông Dương với kế hoạch bốn điểm, trong đó điểm thứ tư là phá hoại các vùng tự do bằng biệt kích, gián điệp, dùng không quân, hải quân đánh phá, chiến tranh tâm lí, bao vây kinh tế, v.v…. Âm mưu cơ bản của Đờ Lát là thực hiện triệt để “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”, đẩy mạnh thực hiện “bình định cấp tốc và phản công quyết liệt”.

Ở Bình Định, thực hiện việc phá hoại hậu phương kháng chiến, suốt trong năm 1951, địch dùng máy bay tàu chiến tăng cường đánh phá các trục đường giao thông chiến lược, các thị trấn đông dân, các vùng ven biển. Các cầu xe lửa, nhà ga Chương Hòa, Bồng Sơn, Phù Ly, Nhà Đá, Phù Mỹ, Phù Cát… bị chúng đánh đi đánh lại nhiều lần. Các thị trấn, các vùng đông dân như Phù Mỹ, Đập Đá, Trung Lương, Lại Khánh, An Vinh, Mỹ Đức, Phú Lạc, Kiên Mỹ, An Thái… bị địch ném bom phá, bom na pan tàn phá nhà cửa, thiêu cháy xóm làng. Các vùng miền núi như làng Kon Trot, làng Mặc thuộc xã Vĩnh Châu (Vĩnh Thạnh) cũng bị chúng ném bom.

Ở ven biển, chúng dùng pháo hạm bắn phá nhà cửa, ghe mành, cho quân đổ bộ lên đốt phá, bắn giết nhân dân rồi rút như ở Quy Nhơn, Hương Xuân, Đề Gi, Tân Phụng, Hưng Lạc, Vĩnh Lợi, An Dũ…

Chúng tung gián điệp xuống vùng giáp ranh như Tam Bình, móc nối với số phản động đội lốt cha đạo ở nhà thờ Kim Châu. Bọn này tổ chức trốn về vùng địch nhưng bị ta bắt ở Cát Chánh (Phù Cát) tháng 7 năm 1951. Ở Vĩnh Thạnh, chúng mua chuộc một số già làng và một số thanh niên ở làng Kon Che Rẽ, lập ổ vũ trang phản động (goum). Đặc biệt ngày 15 tháng 8 năm 1951, 300 quân Pháp từ An Khê, mở cuộc càn quét xuống Bình Quang bị bộ đội địa phương và du kích chặn đánh, giết và làm bị thương hàng chục tên, phải rút về.

Trong năm 1951, địch đã gây cho nhân dân trong tỉnh nhiều thiệt hại: 314 người chết, 15 người bị thương, 1.292 ngôi nhà bị phá hủy, 450 ghe thuyền bị đốt, hàng trăm trâu bò bị giết, 5 toa xe lửa và hàng ngàn mét đường ray bị phá hỏng.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang, Thường vụ Tỉnh ủy Bình Thuận phân công Tỉnh ủy viên và Ủy viên Thường vụ gồm các đồng chí Chung Hường, Phan Ảnh, Lê Đài, trực tiếp phụ trách công tác quân sự. Đồng chí Nguyễn Bảy Tỉnh ủy viên được cử giữ chức trưởng ban chính trị tỉnh đội. Các cơ quan quân sự tỉnh, huyện được kiện toàn theo đúng phương hướng “tăng thành phần chiến đấu cho đơn vị, giảm chính cơ quan gọn nhẹ”. Cơ quan tỉnh đội từ 300 người giảm xuống còn 180 người vẫn bảo đảm công tác đạt chất lượng. Lực lượng vũ trang ở cơ sở được tổ chức thành hai loại rõ rệt: Dân quân là lực lượng rộng rãi, du kích là lực lượng nòng cốt được tổ chức chặt chẽ, trang bị huấn luyện khá hơn. Chất lượng các đơn vị du kích tập trung được nâng lên, vừa có thể phối hợp với bộ đội địa phương, vừa có thể độc lập tổ chức đánh địch càn quét bảo vệ tài sản và tính mạng của nhân dân. Nhiều đội viên du kích chiến đấu dũng cảm được bầu là chiến sĩ thi đua của Liên khu 5. Tiêu biểu là đồng chí Lê Thừa, du kích xã Mỹ An (Phù Mỹ) dùng lựu đạn đánh vào tốp địch đang đốt phá ghe mành của ngư dân, giết và làm bị thương nhiều tên.


(1), (2) Văn kiện toàn quốc đại biểu đại hội lần thứ hai của Đảng tháng 2 năm 1951.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Năm, 2012, 02:42:06 pm
Trong năm 1951, các đại đội tập trung ở Hoài Nhơn, Phù Cát, Phù Mỹ… được tỉnh đội cử luân phiên ra chiến trường Quảng Nam vừa giúp bạn vừa học tập kinh nghiệm chiến đấu.

Sau khi ổn định tổ chức, biên chế, ban chỉ huy tỉnh đội triển khai thực hiện kế hoạch “rèn cán chỉnh quân” đợt hai trong các lực lượng vũ trang tỉnh, nhằm nâng cao giác ngộ giai cấp và dân tộc, nâng cao lập trường chính trị, lấy việc rèn luyện tư tưởng làm nhiệm vụ và là trọng tâm công tác xây dựng Đảng trong lực lượng vũ trang. Qua học tập, trên cơ sở thấu suốt đường lối cách mạng, đường lối kháng chiến lâu dài, gian khổ nhưng nhất định thắng lợi, những biểu hiện bi quan, mơ hồ, hữu khuynh, tiêu cực từng bước được khắc phục.

Công tác phòng tránh máy bay, pháo hạm địch qua kinh nghiệm thực tế được chấn chỉnh. Hầm ẩn nấp chống bom pháo cho từng gia đình, hố cá nhân dọc đường đi, nơi công cộng, chợ búa, trường học, nơi hội họp đông người được đào đắp đúng quy cách, có nắp che. Những nơi dân cư đông đúc được phân tán rộng ra, người già, trẻ em có gia đình ở nông thôn tạm rời thị trấn, thị xã để giảm bớt mật độ thương vong khi bị oanh tạc. Tàu, xe chuyển sang chạy ban đêm, chợ họp về đêm. Đầu máy xe lửa ban ngày đưa vào hầm đèo Bình Đê, các trang bị của bộ đội và nhân dân được quy định không dùng màu trắng, màu sáng, không được đội nón trắng. Làm ngoài đồng phải ngụy trang, trâu bò cũng được ngụy trang để tránh máy bay phát hiện bắn phá.

(http://img577.imageshack.us/img577/5128/diadao.jpg)

Miệng địa đạo chống máy bay oanh tạc của xã Đập Đá trong kháng chiến chống Pháp

Các đài quan sát, hệ thống thông báo, báo động, chế độ tuần tra, canh gác ở vùng ven biển được củng cố nghiêm mật. ghe thuyền, chài lưới có kế hoạch bảo vệ thường xuyên. Ghe thuyền có lù dưới đáy. Khi có báo động tàu địch, tất cả các ghe thuyền lập tức được rút lù nhận chìm, chài lưới được đưa vào hầm hoặc chôn giấu. Nhờ đó đã hạn chế được thiệt hại. Trong việc bảo vệ ghe thuyền, chài lưới ở cửa biển Đề Gi xã Cát Khánh nổi lên tấm gương tiêu biểu của bà má Mỉn, một lão du kích. Khi có báo động tàu địch vào bờ má đã nhận chìm trên một trăm chiếc ghe thuyền và cất giấu chài lưới không để rơi vào tay giặc. Với thành tích xuất sắc trên, má Nguyễn Thị Mỉn được Đại hội thi đua Liên khu 5 (1950) bầu là chiến sĩ thi đua toàn Liên khu.

Để đẩy mạnh cuộc kháng chiến tiến tới, cuối năm 1951, thực hiện chính sách thuế khóa thống nhất(1) của Chính phủ, Đảng bộ và chính quyền các cấp đã lãnh đạo thực hiện đúng các quy định về thuế một cách công bằng, hợp lí. Đặc biệt trong việc thực hiện thuế nông nghiệp, nhờ sự chỉ đạo chặt chẽ của Liên khu ủy, Đảng bộ đã uốn nắn được những lệch lạc hữu khuynh của cán bộ cơ sở đối với giai cấp địa chủ trong thủ đoạn khai man diện tích và sử dụng sản lượng, phân tán ruộng đất để trốn thuế và dây dưa việc nộp thuế.

Nhờ thực hiện thuế nông nghiệp thu bằng hiện vật, ta nắm được một khối lượng thóc cần thiết vừa đáp ứng nhu cầu kháng chiến, vừa ổn định thị trường, đồng thời phản ánh rõ nét đường lối giai cấp của Đảng ở nông thôn. Với cách thu thuế theo lũy tiến, thuế nông nghiệp đánh nặng vào giai cấp địa chủ mà giảm nhẹ mức đóng góp của nông dân lao động, ổn định mức thuế trong ba năm, không tính mùa phụ để khuyến khích thâm canh, tăng vụ, phát triển lúa tứ quý, tăng năng suất, quan tâm các gia đình đông người, ưu đãi đối với gia đình liệt sĩ, bộ đội…

Qua thực hiện thuế nông nghiệp, lập trường giai cấp của cán bộ, đảng viên được nâng cao, khối liên minh công nông được củng cố, tổ chức nông hội và chính quyền cơ sở được chấn chỉnh một bước.


(1) Ngày 1-5-1951, Chính phủ ra sắc lệnh cải tiến chế độ thuế khóa, xây dựng chế độ đóng góp công bằng hợp lí.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Năm, 2012, 02:43:56 pm
Thực hiện việc giảm chỉnh biên chế cơ quan. Tỉnh ủy chỉ đạo các cơ quan dân, chính, đảng các cấp thực hiện theo nguyên tắc “kiện toàn tỉnh, đơn giản huyện, tăng cường xã” với phương châm “kiện toàn chất, đơn giản lượng”. Thực hiện chủ trương này, bộ máy các ngành đều gọn nhẹ, năng suất tăng, tệ quan liêu giấy tờ giảm bớt. Diện cán bộ thoát li thu hẹp, lực lượng cán bộ ở cơ sở được tăng cường.

(http://img834.imageshack.us/img834/4280/huyendoiphucat.jpg)

Huyện đội Phù Cát trước khi thực hiện tinh giảm biên chế (30-10-1952)

Trên mặt trận sản xuất nông nghiệp, thực hiện tốt các biện pháp quản lí nguồn nước, đưa giống lúa mới vào đồng ruộng, vận động làm các loại phân, tăng diện tích lúa tứ quý, v.v… toàn tỉnh đã giải quyết được nhu cầu về lương thực cho nhân dân và cung cấp một phần cho bộ đội, cán bộ và các cơ quan của Liên khu 5 đóng trên địa bàn tỉnh(1).

Tổng diện tích lúa tứ quý toàn tỉnh năm 1949 mới có 3.400 mẫu, thu 400 tấn thóc. Năm 1951 tăng lên 21.500 mẫu thu được 15.000 tấn thóc. Bông từ 2.000 mẫu tăng lên 4.000 mẫu, nâng tổng sản lượng từ 200 tấn lên 400 tấn bông sạch. Nghề dệt vải, dệt tơ lụa, nghề làm giấy không ngừng phát triển. Trong sản xuất nông nghiệp cũng như tiểu thủ công nghiệp, vai trò của phụ nữ giữ vị trí hết sức quan trọng.

Nhờ vậy, nền kinh tế, của Bình Định ngày càng phát triển vững chắc, bảo đảm thực hiện ”tự cấp tự túc” trong toàn tỉnh. Năm 1952, hầu hết các tỉnh ở miền Nam Trung Bộ vừa bị địch phá hoại vừa bị thiên tai nặng, mùa màng nhiều nơi bị mất trắng, nhân dân lâm vào cảnh thiếu đói nhưng toàn tỉnh đã tránh được nạn đói trầm trọng và kéo dài. Số vùng thiếu đói khắc phục được nhanh.

Về trật tự an toàn xã hội, năm 1951-1952 là những năm xảy ra nhiều vụ việc. Lợi dụng tình hình khó khăn do thiên tai, địch phá hoại và sinh hoạt thời chiến, bọn tội phạm hình sự cấu kết nhau hoạt động mạnh. Chúng gây ra hàng loạt những vụ trộm cắp, cướp của, giết người làm cho tình hình trật tự xã hội không an toàn.

Trước tình hình phức tạp đó, Tỉnh ủy và Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh chủ trương kịp thời khám phá những vụ án lớn đưa ra xét xử và trừng trị điển hình bọn lưu manh đầu sỏ, đồng thời tổ chức hội nghị trị an từ tỉnh đến cơ sở nhằm giáo dục thống nhất quan điểm về công tác trị an trong cán bộ với phương châm lấy nhân dân thực hiện công tác trị an làm căn bản.

Chấp hành chủ trương trên, lực lượng công an tỉnh triển khai thực hiện đồng bộ các biện pháp, mở các đợt truy quét bọn tội phạm hình sự. Được quần chúng nhân dân và công an cơ sở hỗ trợ, công an tỉnh đã bắt giữ nhiều tên cầm đầu nguy hiểm, nắm được toàn bộ tổ chức đường dây hoạt động của bọn chúng và đưa ra truy tố trước pháp luật. Những tên có nhiều hành vi táo bạo gây nhiều tội ác với nhân dân như Lý Tấn Huân, Nguyễn Kỳ Tây, Trần Điền, Trần Miên, Nguyễn Tường… đã bị tòa án nhân dân Liên khu 5 kết án tử hình.

Để đấu tranh chống bọn tội phạm hình sự một cách có hiệu quả, công an tổ chức nhiều hội nghị học tập trị an ở các cấp để cán bộ, nhân dân học tập và “bình nghị” phát hiện bọn lưu manh ở cơ sở, ngăn chặn mọi mầm mống dẫn đên tội phạm hình sự. Số được nhân dân phát hiện tùy theo nặng nhẹ mà đưa ra truy tố hoặc giáo dục cải tạo quản lí tại địa phương dưới sự giám sát của nhân dân. Kết quả là suốt một thời gian dài, tự thị trấn đến nông thôn nhân dân được sống trong trật tự, an toàn, không phải nơm nớp lo bọn lưu manh quấy phá.

Đây là một hình thức, một kinh nghiệm quý trong công tác trật tự trị an, bảo vệ an toàn xã hội. Thực hiện toàn dân làm công tác trị an lấy lực lượng công tác làm nòng cốt đã mang lại hiệu quả tốt trong đấu tranh chống bọn tội phạm hình sự, củng cố khối đoàn kết toàn dân.

Dưới sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, dựa hẳn vào nhân dân, phát huy sức mạnh của toàn dân thì không có việc gì không vượt qua được, không có việc gì không làm được. Kinh nghiệm thành công này vừa là quan điểm vừa là phương pháp, đồng thời là quy luật giành thắng lợi của mọi công tác cách mạng và kháng chiến.

Càng gần thắng lợi, càng gay go quyết liệt, ở Bình Định, mức độ càn quét và phá hoại của địch tăng hơn nhiều so với các năm trước. Trong năm 1952, ở vùng giáp ranh Tam Bình và các vùng ven biển trong tỉnh, địch mở tổng cộng 25 cuộc càn quét gây cho ta một số thiệt hại.

Tháng 3 năm 1952, tàu chiến Pháp cho ca nô đổ quân lên khu hai thị xã Quy Nhơn cướp phá ghe thuyền, chài lưới của nhân dân bị một bộ phận của đại đội 101 tỉnh phối hợp với dân quân du kích chặn đánh diệt một số. Chúng phải rút xuống tàu.

Tháng 7 năm 1952, địch từ An Khê mở hành quân càn quét xuống Bình Giang. Tiến qua Đồng Phó đến Chợ Sạn, chúng đốt một số nhà và cướp hàng trăm trâu bò của dân. Lúc này lực lượng của trung đoàn 120 ở khu vực Phú Phong có đại đội 54 và đại đội 82. Được tin địch xuống càn quét, đồng chí Nguyễn Tuấn Tài trung đoàn phó trung đoàn 120 trực tiếp chỉ huy hai đại đội vận động lên đánh địch. Đại đội 54 được giao nhiệm vụ theo bờ sông Đá Hàng đi vòng thành một mũi vu hồi từ Đồng Le, Đồng Vu tiến ra đường 19 đánh vào sườn và sau lưng địch. Đại đội 82 do đại đội trưởng Cao Hùng chỉ huy theo hướng chính diện từ Hạnh Lâm vận động theo đường 19 lên núi Một đánh quân địch tại Chợ Sạn.


(1) Số lượng bộ đội, cán bộ, cơ quan đóng trên địa bàn tỉnh cuối năm 1951 là 42.000 người.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Năm, 2012, 02:46:03 pm
Lúc bấy giờ là 11 giờ. Đại đội 82 ra đến đường 19, chạy hết tốc lựa giữa nắng trưa, trên trời có một chiếc L.19 lượn vòng quan sát. Bất chấp tất cả, các chiến sĩ 82 lên đến Chợ Sạn, gặp địch đã nổ súng tiến công. Kèn xung phong của chiến sĩ thông hiệu gióng giã từng hồi kết hợp với tiếng súng máy và đạn vòng cầu trông-lông(1) làm quân địch hốt hoảng bỏ chạy. Đại đội 82 nhanh chóng chuyển sang truy kích địch từ Chợ Sạn lên đến Vườn Xoài. Chúng bỏ lại tài sản và hàng trăm trâu bò cướp của dân. Ta diệt một số địch, thu một máy vô tuyến điện và đồ dùng quân sự.

Đại đội 54 vì đường vòng quá xa lại đi xuyên núi nên không đến kịp trong khi địch chạy quá nhanh.

Kết quả, ta đã bẻ gãy trận càn của địch, lấy lại được tài sản, trâu bò cho nhân dân, bảo vệ vững chắc vùng tự do phía tây của tỉnh.

Trong những cuộc càn khác ở vùng giáp ranh và ven biển tuy địch có gây cho nhân dân ta một số thiệt hại về nhà cửa, tài sản nhưng đều bị bộ đội địa phương và du kích đánh trả phải rút quân. Vùng tự do của tỉnh được bảo vệ vững chắc.

Ngoài việc cho quân càn quét, địch đẩy mạnh chiến tranh gián điệp nhằm chia rẽ khối đoàn kết toàn dân, phá hoại kháng chiến. Chúng lôi kéo các tôn giáo phản động xúc tiến việc lập ”Liên tôn chống cộng”, móc nối với bọn Quốc dân đảng, bọn phản động đội lốt thầy tu, tuyên truyền xuyên tạc đường lối chính sách của Đảng, nhất là chính sách thuế nông nghiệp. Chúng tung bạc giả gây rối thị trấn, phao tin đồn nhảm lung lạc tinh thần quần chúng.

Trước tình hình địch tăng cường hoạt động quân sự và chiến tranh gián điệp, Tỉnh ủy Bình Định chỉ đạo tập trung xây dựng làng chiến đấu và đẩy mạnh việc bố phòng đánh địch ở các vùng xung yếu giáp ranh và ven biển. Trong phòng gian bảo mật, thực hiện ba không (không nghe, không biết, không thấy). Cơ quan, bộ đội đóng ở đâu phải giữ bí mật, triệt để ngăn cách, v.v… Nhờ áp dụng những biện pháp đồng bộ trên, đời sống của nhân dân được ổn định, vùng tự do trong tỉnh được giữ vững trước những âm mưu và hành động xảo quyệt của địch.

Tháng 4 năm 1952, Đại hội Đảng bộ lần thứ tư được triệu tập ở Đức Long, Ân Đức huyện Hoài Ân đưa Đảng bộ ra hoạt động công khai mang tên Đảng bộ Đảng Lao động Việt Nam tỉnh Bình Định. Đại hội tiến hành kiểm điểm công tác, đề ra chủ trương lãnh đạo mới và bầu Ban chấp hành Đảng bộ mới gồm 19 đồng chí do đồng chí Trần Quang Khanh làm bí thư.

(http://img138.imageshack.us/img138/5614/tqkg.jpg)

Đồng chí Trần Quang Khanh

Sau Đại hội, toàn Đảng bộ tiến hành sinh hoạt chính trị trong Đảng (chỉnh Đảng), cả trong lực lượng vũ trang và các ngành. Mục đích của cuộc sinh hoạt chính trị là làm cho tất cả cán bộ, đảng viên thống nhất quan điểm kháng chiến lâu dài và tự lực cánh sinh, khắc phục tư tưởng hữu khuynh, thực hiện tự phê bình và phê bình.

Đây là cuộc vận động học tập và tự phê bình tập trung nhất, rộng lớn nhất từ khi Đảng ra đời.

Qua các đợt sinh hoạt chính trị, qua kiểm điểm, lí luận liên hệ với thực tế, hầu hết cán bộ, đảng viên, chiến sĩ đều nhận thức được khuyết điểm của mình về tư tưởng hữu khuynh, dao động trước khó khăn, còn mang nặng tư tưởng nông dân, cục bộ chưa thấy rõ vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, còn mơ hồ với giai cấp địa chủ, thiếu cảnh giác đối với địch, v.v… Lập trường tư tưởng, ý thức phục vụ nhân dân, tinh thần chấp hành nghị quyết, chấp hành mệnh lệnh được xác định, đề cao, khắc phục tư tưởng bi quan cho trường kì kháng chiến là vô hạn độ. Qua sinh hoạt hoạt chính trị, mọi công tác xây dựng và chiến đấu, công tác kháng chiến được đẩy mạnh một bước cơ bản.


(1) Súng phòng lựu.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Năm, 2012, 02:47:21 pm
2 - THAM GIA CHIẾN DỊCH TIẾN CÔNG ĐÔNG XUÂN 1952-1953 TRÊN CHIẾN TRƯỜNG AN KHÊ

Cuối năm 1952, từ sau Đại hội Đại biểu Đảng bộ toàn Liên khu lần thứ hai, tình hình mọi mặt các tỉnh trong Liên khu đều có chuyển biến mạnh mẽ. Vùng tự do được xây dựng và bảo vệ vững chắc.

Trước tình hình phát triển thuận lợi, Liên khu ủy họp hội nghị lần thứ ba quyết định một số chủ trương quan trọng cho thời gian tới. Về phương châm tác chiến, Liên khu khẳng định “du kích chiến là chính, học tập đánh vận động trong điều kiện thuận lợi”.

Căn cứ vào tình hình địch trên chiến trường và sự lớn mạnh của khối chủ lực liên khu, Liên khu ủy thông qua phương hướng và kế hoạch tác chiến của Đảng ủy và Bộ tư lệnh liên khu: mở một đợt hoạt động mạnh trên chiến trường toàn liên khu trong đông - xuân 1952-1953 để phối hợp với chiến trường toàn quốc, trong điểm là chiến trường An Khê.

Tháng 12 năm 1952, Bộ chỉ huy chiến dịch An Khê được thành lập do đồng chí Nguyễn Chánh, tư lệnh kiêm chính ủy liên khu trực tiếp làm tư lệnh kiêm chính ủy chiến dịch. Lực lượng tham gia chiến dịch gồm trung đoàn 108, trung đoàn 803, tiểu đoàn 40 chủ lực liên khu và trung đoàn 120 địa phương.

An Khê là bình phong án ngữ đường chiến lược số 19 là đầu cầu tiến công, càn quét xuống vùng giáp ranh Tam Bình và đồng bằng tỉnh Bình Định. Các cứ điểm Thượng An, Cửu An, Tú Thủy với hai tháp canh Đầu Đèo và Eo Gió hình thành một vòng cung vừa là tuyến phòng thủ vững chắc vòng ngoài, vừa là hệ thống cứ điểm cầm đầu trong vùng du kích phía đông sông Ba, đồng thời là nơi xuất phát hành quân càn quét của địch.

Mở chiến dịch An Khê, ngoài mục đích tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta, đẩy mạnh và hỗ trợ phong trào chiến tranh du kích ở Tây Nguyễn, đối với Bình Định còn có ý nghĩa quan trọng là đập nát bình phong án ngữ đường 19 - con đường chiến lược quan trọng cắt ngang tỉnh từ Quy Nhơn lên Tây Nguyên và diệt tận gốc bàn đạp xuất phát hành quân càn quét của địch xuống địa bàn tỉnh từ phía tây.

Đối với Đảng bộ và quân dân Bình Định, đặc biệt đối với các địa phương Bình Khê, Vĩnh Thạnh nơi trực tiếp chịu hậu quả những trận càn quét của địch, khi được biến Liên khu mở chiến dịch An Khê, mọi người hết sức hào hứng, phấn khởi.

Tham gia chiến dịch, tỉnh có nhiệm vụ mở đường bảo đảm hành lang cho bộ đội bí mật hành quân từ phía bắc vào; huy động lực lượng dân công vận chuyển lương thực, đạn dược phục vụ chiến dịch, tổ chức các tuyến quân dân y chăm sóc, nuôi dưỡng thương binh. Lực lượng vũ trang tỉnh chuẩn bị sẵn sàng phương án đánh địch phối hợp với chiến dịch. Các vùng giáp với An Khê như Bình Khê, Vĩnh Thạnh nhân dân được hướng dẫn cất giấu tài sản, đào thêm hầm trú ẩn đề phòng địch phản ứng khi chiến dịch nổ ra.

Lực lượng công an, dân quân, công nhân đường sắt, đường bộ và thanh niên được huy động sửa chữa cầu cống, đường sắt và đường bộ từ đèo Bình Đê trở vào. Qua một thời gian ngắn hàng trăm cầu cống, hàng chục ki-lô-mét đường sắt, đường bộ bị địch oanh tạc hư hỏng được sửa chữa, tu bổ. Trước đây, ta phá đường để cản giặc, nay kháng chiến lớn mạnh, ta làm đường để đi đánh giặc, đúng với câu nói đầy ý nghĩa “Lật thuyền là dân, nâng thuyền cũng là dân”. Sức mạnh của nhân dân quyết định tất cả. Cầu hỏng, ta bắc cầu phao. Ban ngày tháo cầu cất giấu che mắt địch, ban đêm lắp lại cho xe qua, cho bộ đội hành quân. Ô tô không có xăng, ta cải tiến dùng than củi. Xe lửa thiếu, ta làm cam-nhông-ray, gòn đẩy tăng cường sức vận chuyển. Đêm đêm cả một hệ thống vận chuyển hàng vạn người hoạt động hối hả, chuẩn bị cho ngày mở màn chiến dịch.

(http://img267.imageshack.us/img267/5983/dapda.jpg)

Đại đội dân quân du kích xã Đập Đá trong kháng chiến chống Pháp


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Năm, 2012, 02:47:54 pm
Bảo đảm cho hành lang vận chuyển bí mật, an toàn có công sức của ngành công an tỉnh. Các đội công an tiền phương, các đồn trạm công an bảo vệ được xây dựng, hoạt động và ngày càng tăng cường trên suốt tuyến hành lang Hoài Nhơn - Hoài Ân - An Lão - Phù Mỹ - Phù Cát - An Nhơn - Bình Khê - Vĩnh Thạnh. Việc giáo dục tuyệt đối giữ bí mật chiến dịch, giữ bí mật hành lang và hoạt động vận chuyển được tiến hành chặt chẽ. Ý thức bảo mật phòng gian được phổ biến quán triệt trong tất cả các lực lượng.

Trước ngày chiến dịch mở màn, tỉnh đã huy động 32.500 dân công vận chuyển lương thực, khí tài, súng đạn… cho chiến dịch. Hàng nghìn dân công hỏa tuyến gồm du kích và thanh niên dũng cảm, hăng hái cùng hành quân bám sát các đơn vị chủ lực.

Để đánh lạc hướng phán đoán của quân địch, Bộ tư lệnh liên khu triển khai một kế hoạch nghi binh cả về cơ động của chủ lực và vận chuyển chiến dịch. Lâu nay, quân Pháp thường căn cứ vào nhịp độ vận chuyển của ta để phán đoán hướng chiến dịch. Trong lúc hành lang vận chuyển lên An Khê hoạt động khẩn trương thì dân công các tỉnh Phú Yên, Quảng Ngãi, Quang Nam cũng triển khai mở đường, gồng gánh lương thực, đạn dược vào Khánh Hòa, lên Đắc Lắc, Công Tum, ra Quảng Nam… Trong lúc các trung đoàn 108, 803 bí mật xuất phát hành quân vào khu vực tập kết thì ngay tại nơi trú quân đã có lực lượng khác thay thế học tập huấn luyện như khi chủ lực còn ở đó.

Địch tuy có phán đoán ta sắp mở chiến dịch nhưng vẫn không biết ta sẽ mở ở đâu. Trong lúc chúng huy động cả bộ máy gián điệp kết hợp với máy bay trinh sát căng mắt dò tìm thì 1 giờ ngày 13 tháng 1, quân ta nổ súng mở màn chiến dịch. Ngay trong đêm, cứ điểm Cửu An, Tú Thủy và Tháp Canh, Eo Gió bị diệt. Quân địch ở đồn Kon Lía hốt hoảng tháo chạy. Ngày 17, trung đoàn 108 phục kích diệt tiểu đoàn sơn chiến số 8 có xe bọc thép chi viện định ra chiến lại Cửu An.

Giữa lúc quân địch còn đang lúng túng thì mờ sáng ngày 21 tháng 3, chủ lực ta quật tiếp một đòn diệt cứ điểm Thượng An và lô cốt Đầu Đèo án ngữ đường 19 trên đỉnh đèo An Khê. Cả một vòng cung lớn gồm bốn cứ điểm và hai tháp canh, lô cốt tiền tiêu chỉ trong chín ngày bị quân ta tiêu diệt. Quân dân Bình Định, nhất là quân dân Bình Khê đặc biệt hồ hởi phấn khởi. Khẩu pháo 155 ở lô cốt Đầu Đèo suốt mấy năm liền làm mưa làm gió trên làng mạc, ruộng đồng các xã Tam Bình nay đã về tay bộ đội ta. Hai nghìn người tự nguyện xung phong lên Đầu Đèo kéo pháo về. Sau bảy ngày đêm, khẩu pháo được đưa về Gò Găng (An Nhơn) cất giấu an toàn.

Các cứ điểm phòng thủ vòng ngoài bị diệt, đường phía đông và phía bắc An Khê bị trống huyếch. Tuyến phòng thủ trên đèo Mang Giang trực tiếp bị uy hiếp. Địch tăng viện cho An Khê ba tiểu đoàn và cho tàu sân bay A-rê-măng-sơ đến đậu ngoài khơi Quy Nhơn. Thấy thời cơ diệt địch vẫn còn, Bộ chỉ huy chiến dịch lệnh cho các đơn vị ấp sát đường 19 đánh tan rã tiểu đoàn 1 ngụy diệt hai đại đội. Ngày 5, quân ta chặn đánh 25 xe, diệt 5 chiếc và một đại đội dù ngụy.

Để vớt vát thể diện, Bộ chỉ huy quân viễn chinh Pháp phải ném thêm sáu tiểu đoàn tăng cường phòng thủ An Khê và điều gấp một hạm đội đặc nhiệm gồm sáu tàu chiến lớn đến bờ biển Quy Nhơn.

Đúng như dự kiến của ta, ngày 29 tháng 1, sáu tiểu đoàn quân Pháp có máy bay, pháo hạm chi viện đổ bộ lên Quy Nhơn nhằm kéo chủ lực ta về đồng bằng, giảm áp lực tấn công của quân ta ở An Khê. Thực ra khi cân nhắc các mặt lợi hại, Bộ chỉ huy đã ra lệnh kết thúc chiến dịch từ ngày 28 tháng 1.

Quân địch đặt chân lên Quy Nhơn liền gặp phải bộ đội tỉnh, huyện và du kích phối hợp, liên tục chiến đấu. Địch bị sập hầm chông, hố chông, bị trúng tên ná tẩm thuốc độc của du kích Vân Canh, tinh thần càng dao động, hốt hoảng. Sau bảy ngày, từ 29 tháng 1 đến 5 tháng 2 năm 1953, bị diệt hàng trăm tên, chúng vẫn không mở rộng được đầu cầu, phải lặng lẽ rút xuống tàu kết thúc cuộc hành quân bị động.

Chiến thắng An Khê trong đông - xuân 1952-1953 là chiến thắng lớn nhất của quân và dân ta ở miền Nam Trung Bộ. Nó đánh dấu bước trưởng thành của lực lượng vũ trang Liên khu, đặc biệt là sự lớn mạnh về tổ chức, chỉ huy, về trình độ kĩ thuật, chiến thuật đánh công sự vững chắc và sức mạnh chiến đấu của khối chủ lực. Đối với lực lượng vũ trang và nhân dân Bình Định, đây là lần đầu tiên, một lực lượng lớn được trực tiếp tham gia phục vụ chiến dịch tiến công ngay sát địa bàn tỉnh với quy mô tương đối lớn, đồng thời phối hợp tác chiến làm thất bại cuộc hành quân bị động của chúng lên Quy Nhơn. Cùng với thắng lợi to lớn của chiến dịch diệt tận gốc các căn cứ xuất phát hành quân càn quét của địch xuống Bình Định, qua việc tham gia phục vụ chiến dịch từ cán bộ, chiến sĩ đến nhân dân đều thấy mình được rèn luyện, thử thách trong thực tế kháng chiến lớn mạnh và tự hào đã góp phần nhỏ bé thắng lợi của chiến dịch.

Đánh giá thắng lợi chiến dịch An Khê, Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp trong thư khen có đoạn: “Thắng lợi này chứng tỏ các đồng chí đã tiến bộ về chính trị cũng như về kĩ thuật sau thời kì chỉnh huấn, đặc biệt về kĩ thuật đánh điểm nhỏ, viện nhỏ…”.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Năm, 2012, 02:48:50 pm
*   *
*

Tháng 1 năm 1953, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tư họp quyết định những vấn đề lớn của đất nước. Trong hội nghị Bác Hồ đọc một báo cáo rất quan trọng. Để duy trì cuộc kháng chiến và đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn, Bác nhấn mạnh: “Một là lãnh đạo kháng chiến và chính sách quân sự, hai là phát động quần chúng triệt để giảm tô, tiến tới cải cách ruộng đất”(1).

Nền tảng của vấn đề dân tộc là nông dân vì nông dân chiếm đại đa số trong cộng đồng dân tộc. Nền tảng của cách mạng dân chủ cũng là nông dân vì nông dân là lực lượng cách mạng chống đế quốc và phong kiến đông nhất. Do đó, muốn kháng chiến thắng lợi phải thiết thực nâng cao quyền lợi kinh tế và chính trị của nông dân, phải chia ruộng đất cho nông dân.

Tháng 4 năm 1953, Liên khu ủy Liên khu 5, trực tiếp chỉ đạo tiến hành thí điểm phát động quần chúng thực hiện cải cách ruộng đất trong toàn Liên khu ở xã Ân Tín, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định. Sau cuộc đấu tranh điển hình thắng lợi, từ Hoài Ân phong trào đấu tranh của nông dân lan nhanh ra các huyện khác. Những sai lầm ở đây phần lớn các cuộc đấu tranh đều do tự phát, thiếu lãnh đạo, thiếu tổ chức, đấu tranh không đúng đối tượng, làm sai đường lối giai cấp của Đảng ở nông thôn.

Phát hiện được sai lầm, Tỉnh ủy tổ chức uốn nắm lại, có lãnh đạo, tổ chức chặt chẽ chủ yếu là đấu tranh đòi triệt để giảm tô, tình hình nông thôn được ổn định, có khí thế.

Về thực hiện quy chế lĩnh canh, Đảng bộ đã lãnh đạo thực hiện đúng sắc lệnh của Chính phủ. Nhờ vậy chỉ trong mấy tháng đầu năm 1953, nông dân trong tỉnh đã đấu tranh đòi truy canh 60 vụ đều thắng lợi. Việc chia lại ruộng đất công cũng tiến hành theo tinh thần mới: ai thiếu thốn nhiều chia nhiều, ai thiếu ít chia ít không chia bình quân theo đơn vị xã, 53.800 mẫu ruộng đất công và 1.248 mẫu nửa công nửa tư (trong tổng số 165.000 mẫu công và tư toàn tỉnh) được chia hết cho nông dân. Ruộng đất của thực dân Pháp và Việt gian cũng được chia hẳn cho nông dân.

Thực hiện một loạt vấn đề về chính sách ruộng đất, Đảng đã nâng cao uy thế chính trị của nông dân, mang lại quyền lợi thiết thực về kinh tế cho nông dân. Các vùng nông thôn trong tỉnh tràn ngập không khí phấn khởi, hăng hái sản xuất, tích cực đóng góp và tham gia công tác kháng chiến.

Cùng với công cuộc phát động quần chúng thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng. Tháng 3 năm 1953, Tổng quân ủy ra Nghị quyết về sinh hoạt chính trị (chỉnh quân chính trị) nhằm nâng cao trình độ giác ngộ giai cấp, nâng cao sức chiến đấu của bộ đội một bước.

Trước khi bước vào sinh hoạt chính trị, ban chỉ huy tỉnh Bình Định đã rút một số đại đội bộ đội địa phương tỉnh bổ sung cho chủ lực, rút cán bộ xã đôi, du kích xã lên xây dựng bộ đội tỉnh, huyện và các đơn vị chủ lực của khu. Các đại đội 100, 101, 102 và 103 được tập trung thành lập tiểu đoàn 80, do các đồng chí Kiều Mậu làm tiểu đoàn trưởng, Nguyễn Phong chính trị viên. Mỗi huyện kiện toàn một đại đội, Quy Nhơn có hai trung đội. Dân quân du kích xã được củng cố, kiện toàn.

Sau đợt chấn chỉnh tổ chức, biên chế, lực lượng vũ trang trong tỉnh bước vào đợt sinh hoạt chính trị với tài liệu: “Quân đội nhân dân Việt Nam kháng chiến trường kì gian khổ, tự lực cánh sinh, nhưng nhất định thắng lợi”.

Qua học tập, liên hệ nhận thức, những cán bộ, chiến sĩ xuất thân từ nông dân lao động đã vươn lên mạnh mẽ về tư tưởng, phát huy tinh thần làm chủ, xóa bỏ mọi ảnh hưởng tự ti. Những cán bộ, chiến sĩ xuất thân từ thành phần bóc lột kiên quyết vứt bỏ ảnh hưởng tư tưởng của giai cấp cũ, đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân để cải tạo mình thành cán bộ, chiến sĩ tốt của quân đội.

Sau dợt sinh hoạt chính trị lực lượng vũ trang Bình Định bước vào đợt học tập quân sự (chỉnh huấn quân sự), nhằm nâng cao trình độ kĩ thuật, nâng cao sức chiến đấu lên một bước mới. Thao trường được coi như chiến trường, huấn luyện được coi như chiến đấu. Huấn luyện quân sự được tiến hành tích cực, khẩn trương như khi ra trận.

Sau hai tháng huấn luyện quân sự, trình độ kĩ thuật, chiến thuật, tác phong chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ được nâng cao một bước rõ rệt.

Cuối năm 1953, tỉnh đội tuyển chọn chiến sĩ trong các đơn vị thành lập một phân đội đặc công. Tỉnh còn xây dựng thêm hai đại đội bổ sung cho khối chủ lực Liên khu, mở trường đào tạo cán bộ tiểu đội, trung đội bổ sung cho các đơn vị của tỉnh. Hàng chục cán bộ chỉ huy trung đội đào tạo ở trường chính quy được Liên khu bổ sung về làm nòng cốt củng cố các đơn vị.

Qua sinh hoạt chính trị, huấn luyện quân sự, kiện toàn biên chế, lực lượng vũ trang tập trung trong tỉnh đã có bước trưởng thành toàn diện, sức chiến đấu được nâng cao, sẵn sàng đáp ứng yêu cầu về tác chiến trong đông - xuân 1953-1954.


(1) LỊCH SỬ QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM, Nhàn xuất bản Quân đội nhân dân Hà Nội, 1974, t.1, tr.510-511.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Năm, 2012, 02:50:04 pm
*   *
*

Quân địch bị thất bại nặng nề ở An Khê, chúng áp dụng lại biện pháp dùng máy bay đánh phá vùng tự do, cho quân đổ bộ một số vùng xung yếu ven biển càn quét đốt phá nhà cửa, ghe mành hòng phá hoại tiềm lực kháng chiến, gây tình hình khổng ổn định ở hậu phương của ta. Chúng cho quân đổ bộ lên Quy Nhơn, Phước Hải, Đề Gi, Tam Quan, Chương Hòa… đồng thời đón bắt dân trên các thuyền đánh cá ngoài khơi. Chúng gây nhiều thiệt hại về người và của cho nhân dân trong tỉnh: 1.734 người chết và bị thương, 1.608 người bị bắt, đánh hỏng 1.064 nóc nhà, phá hoại đầu máy xe lửa, 12 toa xe, 143 mét đường ray, 32 cầu cống…

Trong những cuộc đổ bộ các vùng ven biển, đáng kể nhất là lần chúng lên Tam Quan. Năm 1949, chúng đã bị thất bại ở Tam Quan, Chợ Cát, nhưng cúng cho là lần đó có chủ lực Việt Minh còn lần này chúng nắm chắc chỉ có du kích. Chúng quyết định dùng ba tiểu đoàn đổ quân. Một cánh lên Vĩnh Tuy chiếm đèo Bình Đê tiến xuống Chương Hòa; một cánh đổ quân ở Thiện Chánh lên Tam Quan; một cánh ở Bãi Ngang Hoài Thanh lên đường số 1. Các nơi đổ bộ và hướng tiến quân của địch không có gì mới. Chúng lặp lại y như trận càn năm 1949. Về phía địch, với địa hình vùng này, đây là phương án tốt nhất.

Lực lượng vũ trang địa phương đã dự kiến chính xác hướng tiến quân của địch nên ngay từ khi tàu địch vừa cặp bờ, đại đội 101 bộ đội tỉnh phối hợp với đại đội 26 tỉnh Quảng Ngãi cùng du kích địa phương tổ chức bám địch. Lần này tuy không có bộ đội chủ lực, nhưng công tác bố phòng được gia tăng gấp bội so với năm 1949. Hầm chông, hố chông, mìn tự động, mìn giật được bố trí dày đặc những nơi địch đổ quân và trên đường tiến của chúng, kết hợp với từng tổ du kích, từng tiểu đội bộ đội địa phương phân tán bắn tỉa, đánh nhỏ gây cho địch nhiều hại. Quân Pháp đi tới đâu cũng sa vào trận địa chông mìn gài sẵn. Chúng rất sợ lối đánh này.

(http://img269.imageshack.us/img269/8563/danhkeng.jpg)

Bà mẹ mù hai mắt đánh kẻng báo động khi giặc Pháp
đến để du kích biết (Quy Nhơn 1953)

Sau sáu ngày (26/5 - 1/6/1953), bị sa hố chông, vướng mìn, bị du kích và bộ đội tỉnh hiệp đồng tiến công địch chết 119 tên, bị bắn rơi một máy bay, một ca nô bị bắn chìm, chúng phải rút quân xuống tàu, kết thúc cuộc hành quân.

Qua trận chống càn thắng lợi chứng tỏ lực lượng địa phương (gồm bộ đội địa phương kết hợp với du kích) thực hiện công tác bố phòng cẩn mật, đặc biệt phát huy việc sử dụng mìn, hầm chông, cạm bẫy… góp phần quan trọng đánh bại quân địch càn quét, bảo vệ vững chắc địa bàn.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Năm, 2012, 06:59:29 am
3 - ĐÁNH BẠI CUỘC HÀNH QUÂN ÁT-LĂNG CỦA ĐỊCH,
CÙNG CẢ NƯỚC KẾT THÚC THẮNG LỢI CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP


Sau bảy năm sa lầy trong cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương, thực dân Pháp và can thiệp Mỹ vẫn chưa tìm được lối thoát. Bị thua trên khắp các chiến trường, đặc biệt là bị đánh đau ở chiến trường chính Bắc Bộ, quân Pháp càng bị động, lúng túng.

Đâm lao phải theo lao, thực dân Pháp xin thêm viện trợ Mỹ, tập trung mọi cối gắng đẩy mạnh chiến tranh, hòng tìm một “lối thoát danh dự” bằng thắng lợi quân sự. Tháng 5 năm 1953, được sự thỏa thuận của Mỹ, tướng Na-va được cử làm tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương.

Trung tâm của kế hoạch Na-va là dựa vào viện trợ Mỹ, bằng mọi cách bòn mót quân trên chính quốc, các thuộc địa, ra sức xây dựng quân ngụy, tổ chức một lực lượng cơ động ứng chiến mạnh thực hành tiến công chiến lược bằng hai bước, nhằm kết thúc chiến tranh trong thế thắng.

Bước một, trong thu đông 1953 và xuân 1954, giữ thế phòng ngự chiến lược, tránh quyết chiến ở miền Bắc, thực hành tiến công chiến lược, chiếm đóng các tỉnh vùng tự do Liên khu 5 và vùng Hậu Giang Nam Bộ.

Bước hai, vào đông - xuân 1954-1955, với khối chủ lực cơ động được xây dựng gồm 27 binh đoàn cơ động sẽ tập trung quyết chiến với chủ lực ta trên chiến trường chính Bắc Bộ, giành thắng lợi quyết định, kết thúc chiến tranh.

Kế hoạch Na-va là sự nỗ lực cao nhất và cũng là cố gắng cao nhất của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ có thể làm được trong cuộc chiến tranh xâm lược lúc bấy giờ.

Tháng 9 năm 1953, Bộ chính trị Trung ương Đảng họp phân tích cụ thể những âm mưu mới của Pháp - Mỹ và khẳng định: Kế hoạch Na-va tuy có gây cho ta những khó khăn mới nhưng bản thân kế hoạch đó chứa đầy mâu thuẫn không thể khắc phục được. Vấn đề đặt ra cho ta là khoét sâu những mâu thuẫn đó, buộc chúng phải phân tán, tạo thời cơ cho ta tiêu diệt. Ta phải vừa tác chiến trên chiến trường chính diện, vừa tác chiến trên chiến trường sau lưng địch, buộc chúng phải phân tán đối phó. Cần nhấn mạnh phương châm “Tích cực chủ động, cơ động, linh hoạt”.

Kế hoạch tác chiến chiến lược trong đông - xuân 1953-1954 được Bộ chính trị quyết định là:

Ở mặt trận chính diện, tiêu diệt địch ở Lai Châu, giải phóng Tây Bắc, cùng bộ đội Pa Thét Lào giải phóng Phong-Sa-Lỳ.

Phối hợp với Pa Thét Lào và quân giải phóng Cam-pu-chia tiêu diệt địch ở Trung Lào, Hạ Lào, Đông bắc Cam-pu-chia, mở thông đường chiến lược Bắc - Nam đến vùng sau lưng Sài Gòn.

Giành địa bàn chiến lược Bắc Tây Nguyên, phá âm mưu chiếm đóng và “bình định” miền Nam của địch.

Ở mặt trận sau lưng địch, đẩy mạnh chiến tranh du kích và các mặt đấu tranh khác, phá kế hoạch xây dựng quân ngụy, mở rộng vùng tự do, phối hợp đắc lực với các cuộc tiến công trên mặt trận chính diện.

Ở Liên khu 5 từ mùa hè năm 1953, địch ráo riết tăng cường lực lượng đưa tổng số quân lên 50 ngàn trong đó có 25 tiểu đoàn cơ động. Tháng 12 năm 1953, chuẩn bị mở cuộc hành quân Át-lăng, đánh chiếm các tỉnh tự do Liên khu 5, chúng đưa các binh đoàn số 10, 100, 11, 21 cùng với các binh đoàn 41, 42 hình thành một lực lượng lớn gồm 40 tiểu đoàn.

Cuộc hành quân Át-lăng được chúng chia làm ba bước: bước 1 đánh chiếm thị xã Tuy Hòa và tỉnh Phú Yên. Bước 2 đánh chiếm thị xã Quy Nhơn và tỉnh Bình Định. Bước 3, tập trung lực lượng từ bốn phía, lấy thị xã Quảng Ngãi làm hợp điểm tiến công, hoàn thành đánh chiếm bốn tỉnh tự do Liên khu 5.

Sau khi cân nhắc các mặt giữa việc giành địa bàn chiến lược Bắc Tây Nguyên với chiến đấu bảo vệ vùng tự do Liên khu, Tổng quân ủy hạ quyết tâm chiến lược và được Bộ chính trị duyệt y. Đó là: Đông xuân này, Liên khu 5 phải tập trung lực lượng tiến công Tây Nguyên, phát triển tiến công Tây Nguyên được coi là nhiệm vụ quan trọng bậc nhất. Nhiệm vụ bảo vệ vùng tự do là nhiệm vụ quan trọng thứ hai(1).

Chấp hành nghiêm chỉnh chỉ thị của Trung ương và mệnh lệnh của Bộ Tổng tư lệnh, trong khi tập trung toàn bộ lực lượng chủ lực tiến công Tây Nguyên, Liên khu ủy và Bộ Tư lệnh Liên khu giao nhiệm vụ bảo vệ vùng tự do cho lực lượng địa phương các tỉnh. Trước mắt kiểm tra lại toàn bộ phương án tác chiến từng vùng, khẩn trương xây dựng, củng cố lực lượng và tăng cường công tác bố phòng. Địch đến địa phương nào, địa phương đó tự lực đối phó, kìm chân tiêu hao, tiêu diệt địch, hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại do địch gây ra.


(1) Theo báo cáo Tổng Quân ủy tình Bộ Chính trị ngày 27 tháng 11 năm 1953.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Năm, 2012, 06:59:59 am
Đứng trước âm mưu địch, thực hiện chỉ thị, mệnh lệnh của Liên khu, trong cuộc hội nghị bắt đầu tháng 1 năm 1954, Ban chấp hành Tỉnh Đảng bộ quyết định huy động sự nỗ lực cao nhất của Đảng bộ và quân dân trong tỉnh ra sức chiến đấu bảo vệ vùng tự do, đồng thời phục vụ đắc lực cho thắng lợi của chiến dịch Bắc Tây Nguyên. Tỉnh ủy quyết định đẩy mạnh phong trào chiến tranh nhân dân ở địa phương, tăng cường bố phòng, nhất là các vùng ven biển Quy Nhơn và giáp ranh An Khê, đẩy mạnh việc xây dựng và củng cố lực lượng vũ trang ba thứ quân trong tỉnh.

Đầu năm 1954, tỉnh đội đã hoàn thành việc củng cố tiểu đoàn tập trung 80 do các đồng chí Nguyễn Hiệp làm tiểu đoàn trưởng, Nguyễn Khang chính trị viên và bảy đại đội địa phương của bảy huyện. Dân quân du kích các xã được kiện toàn. Lực lượng dân công tiếp vận được chuẩn bị tổ chức sẵn từ xã đến tỉnh, có ban chỉ huy do cấp ủy viên từng cấp phụ trách. Để bảo đảm cho lực lượng dân công yên tâm phục vụ, tỉnh còn hướng dẫn thành lập các tổ hỗ trợ sản xuất ở cơ sở. Việc sơ tán dân, cất giấu tài sản ở những vùng có thể xảy ra chiến sự được các cấp ủy và chính quyền hướng dẫn chuẩn bị theo kế hoạch.

Về mặt tác chiến, ban chỉ huy tỉnh đội làm tham mưu cho Tỉnh ủy chia tỉnh thành hai khu vực tác chiến lớn. Khu vực phía bắc gồm các huyện Phù Mỹ, Hoài Ân, Hoài Nhơn, do các đại đội địa phương huyện cùng du kích các xã đảm nhiệm chiến đấu phối hợp với lực lượng vũ trang Quảng Ngãi, và tiểu đoàn 30 chủ lực liên khu cơ động ở Nam Quảng Ngãi - Bắc Bình Định. Khu vực phía nam gồm các huyện Phù Cát, An Nhơn, Tuy Phước, cả Quy Nhơn và Bình Khê là khu vực trọng điểm, do tiểu đoàn 80 chủ lực tỉnh và các đại đội địa phương huyện cùng du kích đảm nhiệm chiến đấu, phối hợp với lực lượng vũ trang Phú Yên và một bộ phận của chủ lực cơ động chiến đấu ở phía nam.

Chuẩn bị đánh địch theo phương án tác chiến, nhân dân các vùng dự kiến xảy ra chiến sự như Phước Hưng, Phước Quảng huyện Tuy Phước, Nhơn Hạnh, Nhơn Phong huyện An Nhơn, Cát Thắng huyện Phù Cát và thị xã Quy Nhơn… đều triệt để tản cư thực hiện vườn không nhà trống. Chỉ có lực lượng chiến đấu và phục vụ chiến đấu ở lại sẵn sàng đánh địch. Tiểu đoàn 80, các đại đội 111, 115, 116 cùng bộ đội huyện và du kích phân công vị trí chiến đấu, sửa sang công sự, hầm hào chiến đấu, bố trí chông, mìn, cạm bẫy… Công tác bảo đảm hậu cần tiếp tế, tải thương, tổ chức đội phẫu và các tuyến điều trị thương binh được triển khai chuẩn bị. Ban địch vận tỉnh in truyền đơn, áp phích, chuẩn bị kế hoạch binh địch vận.

Vừa chuẩn bị chiến đấu khẩn trương, nhân dân trong tỉnh vừa dồn sức vào công tác vận chuyển phục vụ chiến dịch. Từ đầu tháng 12 năm 1953, đêm đêm các đoàn xe goòng trên đường sắt không lúc nào ngừng chạy. Trên các tuyến đường ngang, đủ các loại phương tiện từ xe ngựa, xe bò, ngựa thồ, xe đạp thồ, từng đoàn dân công Hoài Nhơn, An Lão, Hoài Ân… gồng gánh vận chuyển lương thực, đạn dược trèo đèo lội suối tiến về Tây Nguyên.

Mọi công việc đang được xúc tiến khẩn trương thì ngày 20 tháng 1 năm 1954, quân Pháp bắt đầu cuộc hành quân Át-lăng với 22 tiểu đoàn đánh ra Phú Yên. Với thế trận bố trí sẵn, quân dân Phú Yên tổ chức đánh trả địch quyết liệt.

Mặc dù địch đã đánh ra Phú Yên, ta vẫn giữ vững quyết tâm và ý định chiến lược giành địa bàn Bắc Tây Nguyên. Ngày 17 tháng 1 năm 1954, chiến dịch Bắc Tây Nguyên mở màn nổ súng tiến công tiêu diệt một loạt cứ điểm Mang Đen, Mang Bút, tiếp theo là Đắc Tô, Đắc Lây… Chỉ sau bảy ngày, toàn bộ vùng bắc Công Tum được giải phóng. Chiến dịch phát triển mạnh vào phía nam ở khu vực tam giác Plây Cu - Cheo Reo - An Khê, nhằm đánh vào sau lưng cụm quân địch trên đường 19. Một bộ phận chủ lực đồng thời được lệnh tiến vào Phú Yên, cùng địa phương đánh địch không cho phát triển về hướng Bình Định. Như vậy, trong thế trận chung của chiến dịch, cả hai hướng tây và nam của tỉnh đều có lực lượng chủ lực của Liên khu ngăn chặn uy hiếp địch từ xa.

Trước ngày địch tiến vào địa bàn tỉnh, chúng tăng viện lực lượng cho An Khê và cho biệt kích nhảy dù xuống Đồng Sim, Đồng Le, đèo Bồ Bồ thuộc khu vực các xã Tam Bình để thăm dò lực lượng ta. Ngày 10 tháng 4, quân địch từ sông Cầu và La Hai thành hai cánh theo đường số 1 và số 6 đánh ra Bình Định. Hai cánh quân này vừa đến địa phận Bình Định bị bộ đội địa phương (đại đội 100 cùng đại đội 101 thuộc tiểu đoàn 80) và du kích lợi dụng địa hình hiểm trở của núi rừng bám đánh liên tục, tiêu hao, tiêu diệt nhiều địch. Do đó mãi đến chiều ngày 11 hai cánh quân địch mới gặp nhau ở Diêu Trì (Tuy Phước).

Cạnh sườn đã có quân bảo vệ, mở sáng ngày 12 tháng 3 năm 1954, quân Pháp dùng tám tiểu đoàn nòng cốt là binh đoàn cơ động số 10 đổ bộ lên Quy Nhơn. Từ phía An Khê, bốn binh đoàn 11, 21, 100 và dù kéo ra chiếm đầu cầu Thượng An, chuẩn bị đánh xuống Bình Khê, Bình Định để nối với cánh quân từ Quy Nhơn lên. Ngày 13 tháng 3, chúng đổ bộ một bộ phận lên Phước Hải, đầm Thị Nại (Bắc Quy Nhơn), thì cũng là lúc chủ lực của Bộ nổ súng tiến công Điện Biên Phủ làm cho quân địch càng thêm bị động, lúng túng. Địch phải điều ngay binh đoàn dù từ An Khê về Hà Nội.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Năm, 2012, 07:00:43 am
Ngày 20 tháng 3, hai cánh quân Quy Nhơn và Cù Mông gặp nhau ở đoạn giữa Quy Nhơn và Diêu Trì. Ở khu vực đông - nam tỉnh, quân địch có khoảng bốn trung đoàn, 230 xe quân sự, có 5 xe tăng, bốn tiểu đoàn công binh, 48 tàu chiến và 13 máy bay… Chúng rải quân ra chiếm đóng Quy Nhơn, Lòng Sông, Trường Úc, Vân Hà, Phù Mỹ, Cầu Đôi, cầu Sông Ngang, Phước Hải và Phú Tài.

Với thế trận chiến tranh nhân dân đã bày sẵn, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy và sự chỉ đạo, chỉ huy trực tiếp của Ban chỉ huy tỉnh đội, ngay từ đầu khi giặc Pháp vừa đặt chân lên đất Bình Định đã bị lực lượng vũ trang tỉnh chặn đánh quyết liệt. Chỉ trong ba ngày đầu, bộ đội địa phương tỉnh, huyện và du kích đã loại khỏi vòng chiến đấu 530 tên địch, trong đó có gần 300 tên chết vì sa hầm chông và mìn.

Tiểu đoàn 30 chủ lực của Liên khu do các đồng chí Mộng Dựt tiểu đoàn trưởng, Hồ Quý Ba chính trị viên theo kế hoạch được chuyển một bộ phận vào chiến đấu ở Quy Nhơn. Mặt trận Quy Nhơn được thành lập để thống nhất chỉ huy các lực lượng. Được tăng cường một đại đội của tiểu đoàn 30, khí thế chiến đấu của quân dân Quy Nhơn, Tuy Phước càng nâng cao. Từ ngày 28 đến 30 tháng 3, tiểu đoàn 80 (tỉnh) và du kích đã tổ chức phục kích ở cầu Sông Ngang, diệt 80 tên. Ngày 2 tháng 4, các đại đội địa phương 111, 115, 116 đã phối hợp với đại đội 1 của tiểu đoàn 30 quân khu tổ chức phục kích tại Diêu Trì, diệt và làm bị thương 250 tên. Đêm 3 tháng 4, một bộ phận đặc công do đại đội trưởng Lục Đức Đèn chỉ huy bí mật lót từ trước trong thị xã Quy Nhơn tổ chức tập kích nhà hát Trung Hoa hí viện trên đường Phan Bội Châu, nơi tập trung sĩ quan và lính lê dương, diệt 200 tên.

Những ngày đầu mới chiếm đóng, quân Pháp dựa vào hỏa lực và cơ giới hung hăng tổ chức càn quét, cướp bóc, móc nối với bọn phản động nội địa tiến hành chiêu an, gây cơ sở gián điệp, đặc biệt ráo riết móc nối với bọn phản động đội lốt cha đạo trong đạo thiên chúa ở nhà thờ Lòng Sông, Diêu Trì hòng lôi kéo giáo dân theo chúng chống lại kháng chiến. Chúng đưa tên Việt gian Tạ Chương Phùng về làm tỉnh trưởng bù nhìn, lập tề ở Quy Nhơn và Phước Hải. Chúng cho công binh sửa chữa cầu đường. Bắt hơn 300 thanh niên theo đạo Thiên chúa ở Vân Hà (Phước Hậu), Quảng Vân (Phước Thuận), Phú Tài (Phước Long) huyện Tuy Phước đi lính cho chúng.

Được sự hỗ trợ của bộ đội chủ lực với những trận đánh đau vào sau lưng và bên sườn địch, thế trận chiến tranh nhân dân trên địa bàn đông - nam tỉnh càng thêm mạnh mẽ. Dưới sự chỉ huy năng động, nhạy bén và sâu sát của Ban chỉ huy tỉnh đội, bộ đội tỉnh, huyện và du kích Quy Nhơn, Tuy Phước phát huy nhiều cách đánh phong phú, sáng tạo liên tục ngày đêm không cho chúng mở rộng diện chiếm đóng, khoét sâu mâu thuẫn giữa cơ động càn quét và lập đồn bót chiếm đóng của chúng. Du kích Phước Hậu, Phước Long áp sát cầu Đôi, Chợ Dinh thực hành bắn tỉa tiêu hao địch. Kết hợp tiến công quân sự với binh vận, ta đã kêu gọi được 20 binh sĩ mang 20 súng ra hàng. Các chiến sĩ đại đội 115, 116 làm nòng cốt cùng du kích quần đánh địch ở khu 6, Gành Ráng (Quy Nhơn) diệt hàng trăm tên. Có lần du kích Quy Nhơn lợi dụng đêm tối bò vào đặt bàn chông vào công sự địch. Sáng ra địch bước xuống công sự bị thương vì chông của du kích. Chiến sĩ du kích Nguyễn Xuân Đài phát huy sáng kiến lấy ống nước làm nòng súng, nhồi thuốc, mảnh chai và sắt vụn làm đạn ghém đã sát thương một lúc hàng chục tên địch.

Bị đánh mạnh khắp nơi lại phải rút bớt lực lượng đi đối phó ở các chiến trường khác, ngày 4 tháng 4, quân Pháp phải rút bỏ tất cả các đồn bót mới đóng ở phía đông Tuy Phước, đưa lực lượng về cố thủ thị xã Quy Nhơn.

Trong lúc bọn địch ở Quy Nhơn bị đánh mạnh phải co về phòng giữ, cánh quân địch trên đường 19 sau khi chiếm Thượng An phải dừng lại, vì binh đoàn dù bị rút đi, binh đoàn 100 mất sức chiến đấu phải lo củng cố. Khả năng nối liền đường 19 từ An Khê đi Quy Nhơn của địch không còn nữa. Hai trung đoàn 108 và 96 của ta được lệnh tiến công Thượng An, tiến tới đập nát cánh quân phía tây của địch. Bị uy hiếp mạnh, toàn bộ quân địch ở An Khê tháo chạy về Plây Cu. Dự kiến trước tình huống này, Bộ chỉ huy chiến dịch lệnh cho trung đoàn 96 do đồng chí Nguyễn Minh Châu (tức Năm Ngà) làm trung đoàn trưởng chỉ huy tổ chức phục kích trên đường 19 đoạn An Khê đi Mang Giang. Toàn bộ GM 100 và tiểu đoàn pháo 105 bị quân ta tiêu diệt. Đây là trận đánh thắng lớn nhất từ trước đến nay của chủ lực Liên khu.

Từ giữa tháng 5 năm 1954, đường chiến lược 19 hoàn toàn do ta làm chủ. Cánh quân lên Quy Nhơn bị thế trận chiến tranh nhân dân tiêu hao, tiêu diệt kìm giữ phải co về cố thủ, cánh quân trên đường 19 An Khê bị đập nát, thắng lợi to lớn của quân và dân ta đã đẩy quân địch từ chỗ hùng hổ ban đần phải lui về thế phòng ngự bị động. Quyền chủ động chiến dịch hoàn toàn nằm trong tay quân ta.

Chiến dịch Át-lăng - một con chủ bài của kế hoạch Na-va nhằm thôn tính toàn bộ vùng tự do Liên khu 5 hoàn toàn bị thất bại. Trong chiến thắng chung của toàn Liên khu, quân dân Bình Định có phần đóng góp quan trọng.

Tính từ khi quân Pháp đổ bộ lên Quy Nhơn đến 18 tháng 6 năm 1954, sau hơn 3 tháng phối hợp chiến đấu với thế trên chiến tranh nhân dân được bố trí sẵn, phát huy cách đánh sở trường của từng thứ quân, quân dân Bình Định đã loại khỏi vòng chiến đấu 2.673 tên địch, trong đó có 1.400 tên bị diệt, hơn một nghìn tên khác bị bắt thương, 30 tên ra hàng, 51 tên bị bắt làm tù binh. Ta thu 45 súng các loại, có 25 súng máy, đánh hỏng sáu xe quân sự, có 2 xe tăng. Thắng lợi của quân dân Bình Định không chỉ có tiêu hao, tiêu diệt địch, buộc chúng phải rút bỏ các vị trí chiếm đóng ở đông Tuy Phước về cố thủ Quy Nhơn, phá tan âm mưu nhanh chóng chiếm phía nam tỉnh mà còn bảo vệ được tính mạng, tài sản của nhân dân ở các vùng có chiến sự. Khi địch đánh rộng ra Tuy Phước, ta đã kịp thời huy động lực lượng lấy các tổ hỗ trợ sản xuất làm nòng cốt tranh thủ đêm tối gặt hơn 2.700 mẫu ruộng lúa chín ở nam Tuy Phước và di chuyển được 1.800 tấn lúa ra vùng an toàn, không rơi vào tay địch.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Năm, 2012, 07:01:44 am
Về chiến đấu, tuy lực lượng chủ lực của Liên khu tăng cường chỉ có một đại đội của tiểu đoàn 30 nhưng lực lượng vũ trang tỉnh gồm tiểu đoàn 80, 3 đại đội địa phương và dân quân du kích, thực hiện việc phối hợp chặt chẽ giữa ba thứ quân, giữa các lực lượng trên nền của cuộc chiến tranh toàn dân đã phát huy tác dụng và hiệu quả tiêu hao, tiêu diệt địch to lớn. Các lực lượng đã vận dụng cách đánh du kích nhỏ lẻ, sử dụng triệt để các loại vũ khí thô sơ, mìn, hầm chông, cạm bẫy đến quấy rối, tập kích, phục kích, vận động tiến công và cách đánh đặc công làm cho quân địch tuy đông hơn ta gấp 10 lần, chiếm ưu thế tuyệt đối về hỏa lực, phi pháo và cơ động mà phải về cố thủ.

Thắng lợi trong đông - xuân 1953-1954 của Đảng bộ và quân dân Bình Định còn là dồn sức ở mức cao nhất cho chiến trường Tây Nguyên đánh to thắng lớn. Trong sáu tháng đầu năm 1954, Bình Định đã huy động hơn 200 nghìn dân công trong bảy đợt, trong đó có hơn mười nghìn là nữ. Không chỉ có nữ thanh niên mà các mẹ, các chị cũng hăng hái lên đường tham gia vận chuyển lương thực, đạn dược… phục vụ chiến dịch. Riêng huyện Hoài Nhơn đã có 22 nghìn lượt người đi dân công tiếp vận, trong đó phụ nữ chiếm 30%. Các đội dân công hỏa tuyến Hoài Nhơn, Phù Mỹ phục vụ chiến trường ba tháng liền. Hết hạn xung phong phục vụ thêm một tháng nữa, được Ban dân công Mặt trận tuyên dương khen thưởng. Chị Thành ở Phù Cát với thành tích xuất sắc trong phục vụ chiến dịch được bầu là chiến sĩ thi đua dân công tiếp vận toàn Liên khu.

Nhân dân Bình Định còn đóng góp hàng chục ngàn tấn thóc, gạo và thực phẩm, chiếm 80% tổng số huy động lương thực toàn Liên khu. Tỉnh còn động viên hàng chục ngàn thanh niên khỏe mạnh bổ sung cho chủ lực, bộ đội tỉnh, huyện và các đơn vị thanh niên xung phong của tỉnh và Liên khu.

Trong khi ở phía nam tỉnh, quân dân Bình Định đang tiếp tục thi đua giết giặc lập công, bao vây giam chân địch trong thị xã Quy Nhơn và ở các vùng hậu phương, nhân dân đang đẩy mạnh công tác bố phòng, tăng gia sản xuất, phục vụ tiền tuyến tiếp tục đánh to thắng lớn thì ngày 7 tháng 5 năm 1954, quân ta mở cuộc đại tiến công vào khu trung tâm Mường Thanh, bắt sống tướng Đờ-cát-tri, kết thúc toàn thắng chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ.

Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã thắng lợi rực rỡ. Kế hoạch Na-va - trong đó cuộc hành quân Át-lăng là một bộ phận quan trọng do thực dân Pháp và can thiệp Mỹ thiết kế nhằm xoay chuyển tình thế chuyển bại thành thắng trong cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương đã hoàn toàn phá sản. Thắng lợi vĩ đại này diễn ra trong lúc Hội nghị Giơ-ne-vơ đang họp như một nhát búa tạ đánh vào đầu bọn cuồng chiến đế quốc ở bàn hội nghị và cả trong nước. Thắng lợi trên chiến trường quyết định thắng lợi trên bàn hội nghị. Ngày 20 tháng 7 năm 1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương được kí kết chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ ở ba nước Đông Dương.

Tin thắng trận ở Điện Biên Phủ, tiếp theo là tin Hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết truyền về làm nức lòng quân dân toàn tỉnh.

Sau chín năm kháng chiến cực kì gian khổ và anh dũng, dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Bình Định cùng với nhân dân các tỉnh miền Nam Trung Bộ và cả nước được sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em và nhân dân tiến bộ trên thế giới, đã đánh thắng thực dân phản động Pháp và can thiệp Mỹ, giành độc lập tự do cho một nửa nước, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, nhưng miền Nam trong đó có Bình Định đang còn nằm trong sự thống trị của đế quốc.

Cuộc kháng chiến chống Pháp đã kết thúc thắng lợi, nhưng kẻ thù của dân tộc vẫn còn đó. Trong Hội nghị Trung ương lần thứ sáu mở rộng (15-7-1954) Bác Hồ chỉ rõ: “Sau chiến dịch Điện Biên Phủ, âm mưu và kế hoạch của Mỹ cũng thay đổi… Để hất cẳng Pháp, chiếm ba nước Việt Nam, Cam-pu-chia, Lào; Mỹ không những là kẻ thù của nhân dân thế giới, mà Mỹ đang biến thành một kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Việt Nam, Cam-pu-chia, Lào”(1).

Trước khi Hiệp định được kí kết, Bác đã tiên đoán Mỹ sẽ hất cẳng Pháp tiếp tục tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược đối với nước ta. Và lời nói tiên đoán của Bác đã trở thành hiện thực.

Thắng lợi tuy lớn nhưng chưa trọn vẹn, với những kinh nghiệm của chín năm đánh Pháp, với những thành quả mà cách mạng đã đem lại, nhân dân Bình Định quyết cùng nhân dân miền Nam và cả nước dù gian khổ đến mấy, hi sinh ác liệt đến đâu cũng quyết đưa cuộc chiến tranh giải phóng đến toàn thắng.

Lịch sử đã sang trang, một giai đoạn cách mạng mới đã bắt đầu.


(1) Báo cáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị Trung ương lần thứ sáu mở rộng, ngày 15 tháng 7 năm 1954.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Năm, 2012, 07:02:50 am
Chương IV

ĐẤU TRANH ĐÒI THI HÀNH HIỆP ĐỊNH GIƠ-NE-VƠ
TIẾN TỚI VŨ TRANG KHỞI NGHĨA - TIẾN CÔNG ĐỊCH Ở ĐỒNG BẰNG
(1954-1960)

1 - KẺ THÙ MỚI - NHIỆM VỤ CÁCH MẠNG MỚI:

Thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ vĩ đại đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp, mở ra một trang sử mới cho dân tộc Việt Nam. Đế quốc Pháp buộc phải kí Hiệp định Giơ-ne-vơ lập lại hòa bình ở Đông Dương, thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Cam-pu-chia và Lào, rút hết quân đội Pháp về nước. Mỗi nước Đông Dương sẽ tổ chức tổng tuyển cử tự do để thực hiện thống nhất đất nước.

Đế quốc Mỹ ngoan cố không chịu kí vào bản tuyên bố chung của hội nghị, nhưng cuối cùng cũng phải tuyên bố riêng cam kết tôn trọng Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương.

Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam quy định lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời để lực lượng hai bên tập kết. Quân đội nhân dân Việt Nam tập kết ở phía bắc. Quân đội liên hiệp Pháp ở phía nam. Giới tuyến quân sự chỉ có tính chất tạm thời, không có giá trị là ranh giới chính trị hay lãnh thổ. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, miền Nam tạm thời đặt dưới sự quản lí của đối phương.

Ngày 1 tháng 8 năm 1954, lệnh ngừng bắn có hiệu lực trên toàn miền Nam Trung Bộ. Tỉnh Bình Định từ đèo Cù Mông đến bờ nam sông Lại Giang là khu vực tập kết 200 ngày. Quy Nhơn là hải cảng để bộ đội tập kết xuống tàu ra Bắc.

Những điều khoản của Hiệp định Giơ-ne-vơ được phổ biến đến cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và nhân dân trong tỉnh. Phấn khởi trước thắng lợi của kháng chiến, sau chín năm gian khổ nay chiến tranh đã chấm dứt, hòa bình được lập lại, nhưng mọi người không khỏi có những băn khoăn, day dứt vì miền Nam, trong đó có Bình Định đang còn nằm trong sự kiềm tỏa của đối phương. Tuy hiệp định quy định vĩ tuyến 17 chỉ là giới tuyến quân sự tạm thời và sau hai năm phải tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất nước nhà, nhưng với bản chất phản động, ngoan cố và hiếu chiến chắc gì bọn địch đã nghiêm chỉnh thi hành hiệp định? Huống chi, đế quốc Mỹ - kẻ thù mới của dân tộc - từ lâu đã âm mưu từng bước thay chân Pháp ở Việt Nam, cả Lào và Cam-pu-chia, mà biểu hiện rõ rệt là Đa-lét, đại diện Mỹ ở Hội nghị Giơ-ne-vơ không dự phiên cuối cùng của hội nghị vì Mỹ chống lại quyết liệt việc tiến hành tuyển cử tự do có giám sát để chọn một chính phủ duy nhất cho toàn Việt Nam. Theo Mỹ, nếu cuộc tổng tuyển cử đó xảy ra thì không có điều gì nghi ngờ là Cụ Hồ Chí Minh chắc chắn sẽ thành lập một chính phủ Cộng sản thống nhất cho cả Việt Nam(1). Bắt đầu quá trình đó, Mỹ đã thành công trong việc cử Ngô Đình Diệm làm thủ tướng dưới quyền của Bảo Đại. Tiếp đó tháng 9 năm 1954, Mỹ đã lôi kéo Anh, Pháp và một số nước chư hầu lập khối Đông Nam Á, đặt ba nước Việt Nam, Cam-pu-chia, Lào vào khu vực bảo hộ của khối đó.

Tình hình trên khiến Đảng bộ và quân dân Bình Định vừa mừng, vừa lo. Mừng vì Pháp đã thua, đã chịu rút quân, nhưng lo vì âm mưu mới của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, còn lo vi bộ đội phải tập kết ra Bắc, nếu kẻ thù tráo trở, lật lọng thì nhân dân chỉ có hai bàn tay trắng đối phó với chúng.

Suốt trong chín năm chống Pháp, Bình Định là một trong những tỉnh tự do của Liên khu 5, Đảng bộ công khai lãnh đạo kháng chiến, các tổ chức cách mạng đều bộc lộ, đã thực hiện một phần chính sách ruộng đất như giảm tô, giảm tức, chia công điền, tạm cấp ruộng đất vắng chủ v.v. Cuộc đấu tranh giai cấp giữa địa chủ và nông dân, đấu tranh giam giữ và cải tạo bọn phản động chính trị, bọn tội phạm hình sự đã diễn ra gay gắt. Ở miền núi đã thực hiện một số cải cách dân chủ… Nay cả tỉnh giao cho địch quản lí, quân đội rút đi, chính quyền không còn, Đảng bộ rút vào hoạt động bí mật, địch sẽ thiết lập sự thống trị phục thù giai cấp với tất cả những phần tử phản động, bọn địa chủ, bọn tội phạm hình sự, lưu manh, côn đồ để trả thù kháng chiến, trả thù cách mạng.

Đặc điểm của giai đoạn cách mạng mới là từ đấu tranh vũ trang, nhân dân trong tỉnh chuyển sang đấu tranh chính trị đòi đối phương phải thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ rong thế tương quan lực lượng tại chỗ nghiêng về phía địch. Tuy vậy, nhân dân Bình Định, với truyền thống yêu nước, có tinh thần thượng võ và quật khởi, qua kháng chiến chống Pháp, được Đảng đem lại những quyền lợi thiết thực, trình độ giác ngộ về dân tộc được củng cố vững chắc, đặc biệt là lòng tin tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Bác Hồ, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc và Ban chấp hành Trung ương Đảng, khó khăn tuy rất lớn, nhưng không phải không có những yếu tố cơ bản để đấu tranh với Mỹ - Diệm.


(1) Theo Giô-dép Am-tơ trong LỜI PHÁN QUYẾT VỀ VIỆT NAM, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1985, trang 42.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Năm, 2012, 07:03:28 am
Là khu vực tập kết 300 ngày nên Bình Định có điều kiện thuận lợi hơn một số nơi về thời gian để tiến hành chuẩn bị các mặt cho công việc đấu tranh mới.

Chấp hành nghiêm chỉnh hiệp định về ngừng bắn và chuyển quân tập kết, các lực lượng vũ trang trong tỉnh và Liên khu sắp xếp lại lực lượng, chuyển quân về đồng bằng học tập, củng cố. Sau tháng 8 năm 1954, các đơn vị vũ trang tỉnh, huyện và một số du kích được điều về tổ chức thành sư đoàn chủ lực của Liên khu. Riêng bộ đội địa phương miền núi sáp nhập với các đơn vị ở Tây nguyên tổ chức thành trung đoàn 120 độc lập.

Sau khi ổn định biên chế mới, một bộ phận được tổ chức thành những phân đội sẵn sàng chiến đấu, phái đến hoạt động ở một số vùng xung yếu, vừa tuyên truyền, hướng dẫn chủ trương, chính sách mới của Đảng cho nhân dân, vừa khống chế ngăn chặn bọn phản động, côn đồ ngóc đầu dậy gây rối, giữ gìn an ninh trật tự và giữ thế với địch cho đến phút chót.

Qua học tập Nghị quyết Bộ Chính trị, lời kêu gọi của Bác Hồ về tình hình, nhiệm vụ mới, cán bộ, chiến sĩ đã thông suốt về nhiệm vụ chuyển quan ra Bắc xây dựng quân đội mạnh, làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh giải phóng của đồng bào miền Nam và góp phần xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Số cán bộ, chiến sĩ được phân công ở lại cùng nhân dân đấu tranh dưới sự lãnh đạo của cấp ủy được tổ chức thành từng tổ để bảo vệ cơ quan, cán bộ. Một số ở lại dưới dạng giải ngũ, chuyển vùng, bố trí vào các ngành nghề sống hợp pháp hoạt động ở những vùng xung yếu. Một số vũ khí, đạn dược được chôn giấu để sau này sử dụng. Số các đồng chí ở lại bám giữ phong trào là hạt nhân nòng cốt xây dựng cơ sở chính trị, xây dựng các đơn vị vũ trang đầu tiên tại chỗ và trực tiếp chỉ huy chiến đấu. Một số đồng chí đảm nhận trọng trách trong các ngành của Đảng.

Ngày 20 tháng 9 năm 1954, Bộ tư lệnh Liên khu tổ chức lễ mừng chiến thắng và biểu dương lực lượng tại Hòa Hội, Phù Cát có hàng vạn cán bộ, chiến sĩ và nhân dân tham dự với hàng trăm xe, pháo và vũ khí chiến lợi phẩm thu được trong kháng chiến chống Pháp. Đây là cuộc mừng công thắng Pháp và là cuộc biểu dương lực lượng lớn nhất của quân dân Liên khu và các tỉnh suốt trong chín năm đánh Pháp. Ngoài ra, các địa phương trong tỉnh còn tổ chức các cuộc mít tinh mừng chiến thắng, gây niềm tin trong nhân dân trước cuộc đấu tranh với kẻ thù mới.

Chấp hành Nghị quyết sáu của Trung ương và Nghị quyết 7 năm 1954 của Liên khu ủy, Tỉnh ủy Bình Định tập trung lãnh đạo hai công tác trước mắt là hoàn thành tốt việc chuyển quân tập kết theo thời hạn 300 ngày và chuẩn bị mọi mặt về tư tưởng và tổ chức cho Đảng bộ và nhân dân để nhanh chóng chuyển sang đấu tranh chính trị đòi địch thi hành hiệp định và giữ gìn lực lượng, giữ gìn phong trào, đưa cách mạng tiến lên.

Trước khi chuyển quân ra Bắc, hưởng ứng “chiến dịch dân vận” của Bộ tư lệnh Liên khu phát động cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang tích cực tuyên truyền, giáo dục quần chúng nhân dân về đường lối, chủ trương của Đảng đồng thời bỏ ra hàng vạn ngày công và 50 tấn lúa để đắp lại con đê ngăn nước mặn ở Tuy Phước dài 35 ki-lô-mét do giặc Pháp phá hoại trong cuộc hành quân Át-lăng, xây dựng nghĩa trang liệt sĩ Quy Nhơn, đem hài cốt chiến sĩ hi sinh ở các mặt trận tụ tập lại để khỏi thất lạc, tỏ lòng biết ơn với những người đã ngã xuống vì độc lập, tự do của Tổ quốc… Những việc làm đầy tình nghĩa này đã để lại ấn tượng sâu sắc, không thể phai mờ về anh bộ đội Cụ Hồ, về Quân đội nhân dân Việt Nam trong lòng người dân Bình Định.

Đồng chí Nguyễn Minh Vỹ được Liên khu ủy và Bộ Tư lệnh Liên khu 5 chỉ định phụ trách chỉ huy khu vực tập kết 300 ngày. Cuộc chuyển quân tập kết được tổ chức chặt chẽ đúng kế hoạch thời gian. Tháng 10 năm 1954, các đơn vị trong khu vực 80 ngày (bắc sông Trà Khúc) rút quân xuống tàu. Tháng 11 năm 1954, quân ta rút khỏi khu vực 100 ngày (bắc sông Vệ). Tháng 3 năm 1955, các lực lượng trong khu vực 200 ngày (bắc sông Lại Giang) bắt đầu rời cảng. Ngày 16 tháng 5 năm 1955, trung đoàn chủ lực 803 đơn vị cuối cùng rút khỏi Quy Nhơn. Việc chuyển quân được tiến hành tốt nhờ có các tàu thủy của Liên Xô và Ba Lan giúp đỡ.

Những buổi tiễn đưa đầy lưu luyến, xúc động đã diễn ra trong suốt các đợt ở bến cảng giữa những người ở lại và những người ra đi. Dù hiểu rằng kẻ thù không dễ dàng gì chấp nhận sau hai năm có tổng tuyển cử nhưng ai cũng mong hai năm sau người thân sẽ trở về và đoàn tụ. Trong những lời gửi gắm, dặn dò, nhân dân Bình Định ai cũng muốn gửi lòng mình ra Bắc thưa với Bác Hồ và hứa với Bác dù có hi sinh gian khó đến đâu cũng tiếp tục cuộc đấu tranh cho đến thắng lợi.

Người ra đi quyết học tập, xây dựng quân đội lớn mạnh và sẽ trở về tham gia giải phóng quê hương. Lòng tin của những người ở lại được củng cố và xác định.

Cuộc chuyển quân được Tổng Quân ủy đánh giá tốt “đã động viên tích cực cán bộ, chiến sĩ đề cao cảnh giác, công tác chuẩn bị và lãnh đạo tư tưởng bộ đội chu đáo, kế hoạch tỉ mỉ, đầy đủ, bộ đội tích cực giúp đỡ nhân dân…”.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Năm, 2012, 07:05:50 am
(http://img705.imageshack.us/img705/3379/tapket1.jpg)

Mít tinh mừng chiến thắng tại sân bay Phù Cát – Bình Định, tháng 8-1954

(http://img221.imageshack.us/img221/2221/tapket2.jpg)

Nhân dân Quy Nhơn lưu luyến tiễn đưa cán bộ, bộ đội tập kết ra Bắc

(http://img600.imageshack.us/img600/3521/tapket3.jpg)

Chủ tịch Ủy ban hành chánh Quy Nhơn, Phan Ảnh bắt tay trung tướng Magella (Canada)
trong Ủy ban Quốc tế giám sát đình chiến tại Việt Nam

(http://img543.imageshack.us/img543/7196/tapket4.jpg)

Bộ đội xuống tàu tại cảng Quy Nhơn chuyển quân tập kết (10-1954)


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Năm, 2012, 07:07:09 am
*   *
*

Với âm mưu nhanh chóng hất cẳng Pháp, độc chiếm quyền thống trị ở miền Nam, đàn áp phong trào cách mạng và áp đặt chủ nghĩa thực dân mới, phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam thành pháo đài của Mỹ ở Đông Nam Á, tháng 11 năm 1959, Mỹ cử tướng Cô-lin sang làm đại sứ Mỹ ở Nam Việt Nam.

Trước sức ép của Mỹ, ngày 2 tháng 12 năm 1954, Pháp phải chấp nhận kí một hiệp định với Mỹ về việc rút quân Pháp ra khỏi miền Nam và thỏa thuận một kế hoạch tổ chức quân ngụy theo phương hướng của Mỹ. Mỹ hứa viện trợ cho Diệm 300 triệu đô-la trong năm 1955. Đế quốc Mỹ trực tiếp can thiệp sâu vào miền Nam nước ta như thế là đã rõ.

Tháng 3 năm 1955, trước những chuyển biến mới của tình hình địch, Ban chấp hanh Trung ương Đảng họp hội nghị lần thứ bảy xác định: “Kẻ thù cụ thể trước mắt của toàn dân ta hiện nay là đế quốc Mỹ, phái thực dân Pháp phản hiệp định và bọn Ngô Đình Diệm. Đế quốc Mỹ là kẻ thù đầu sỏ và nguy hại nhất”. “Tính chất cuộc đấu tranh của hòa bình, thống nhất độc lập, dân chủ của ta là lâu dài gian khổ, phức tạp nhưng nhất định thắng lợi”(1).

Hội nghị đề ra nhiệm vụ cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân là: Đấu tranh đòi thi hành hiệp định, củng cố miền Bắc về mọi mặt, giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam, v.v…

Quán triệt Nghị quyết Trung ương lần thứ bảy và trước yêu của tình hình nhiệm vụ mới, Tỉnh ủy tổ chức hàng chục cuộc mít tinh ở các huyện và triển khai đợt học tập về tình hình nhiệm vụ, nhằm làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nắm vững tính chắt cuộc đấu tranh trong giai đoạn cách mạng mới đối với kẻ thù Mỹ - Diệm. Các đoàn thể quần chúng được giải thể. Các tổ chức quần chúng biến tướng như hội vần công, đổi công, hội đá bóng, hội đình, hội chùa, hội săn bắn… được thành lập. Việc chuẩn bị cho cán bộ đảng viên ở lại lãnh đạo quần chúng đấu tranh được Tỉnh ủy chuẩn bị chu đáo, chặt chẽ theo nguyên tắc bảo đảm bí mật. Số đồng chí được phân công cùng với những đồng chí tự nguyện ở lại được giao phụ trách từng vùng trong huyện chỉ Bí thư Huyện ủy biết, trong tỉnh chỉ Bí thư Tỉnh ủy biết, liên lạc bằng hộp thư bí mật.

Ngày 10 và 11 tháng 5 năm 1965, Tỉnh ủy Bình Định triệu tập cuộc hội nghị cuối cùng trước khi địch tiếp quản tại thôn Tân Hóa xã Cát Hanh, huyện Phù Cát, dưới sự chủ trì của đồng chí Hồng Châu, Bí thư Tỉnh ủy để quán triệt phương châm và phương pháp đấu tranh trong giai đoạn cách mạng mới, đồng chí triển khai việc chuyển hướng tổ chức Đảng vào hoạt động bí mật.

Về hình thức đấu tranh, hội nghị xác định: Phải tổ chức quần chúng đấu tranh hợp háp, nửa hợp pháp và bất hợp pháp, có lí, có lợi, có chừng, từng bước đưa phong trào tiến lên. Về phương châm công tác, phải khéo léo kết hợp công tác nửa hợp pháp và không hợp pháp, khéo che dấu lực lượng. Tranh thủ và bám sát quần chúng, bảo tồn lực lượng, bảo tồn cơ sở, tích trữ lực lượng hoạt động lâu dài. Về sách lược đấu tranh, tập trung mũi nhọn vào kẻ thù trước mắt, cô lập, phân hóa cao độ Mỹ - Diệm, đoàn kết bất cứ ai có thể đoàn kết được, bám vào quần chúng cơ bản.

Hội nghị quyết định tổ chức lại hệ thống Đảng gọn nhẹ, bí mật, thành lập các chi bộ chuyển hướng, chỉ định các Huyện ủy và cán bộ phụ trách.

Đối với các huyện miền núi, hội nghị chủ trương: Tập trung xây dựng cơ sở, nhất là đào tạo cán bộ địa phương. Nắm chắc các tầng lớp quần chúng cơ bản, đồng thời tranh thủ, đoàn kết với tầng lớp trên, tập hợp mọi lực lượng chống Mỹ - Diệm.

Tỉnh ủy chọn vùng từ Hà Nho (Vĩnh Hòa) đến Ruộng Nước (Vĩnh Hiệp) huyện Vĩnh Thạnh làm khu căn cứ của tỉnh, xác định khu căn cứ của các huyện đồng bằng, dự trữ lương thực, thuốc men và những nhu cầu thiết yếu của cán bộ ở lại hoạt động. Các huyện miền núi có điều kiện phải trì hoãn bằng mọi cách việc địch lập chính quyền thôn xã.

Tỉnh ủy bí mật gồm 11 đồng chí do đồng chí Hồng Châu làm Bí thư. Sau cuộc họp này, mọi công tác đều được tiến hành bí mật theo đường dây liên lạc riêng giữa các đầu mối.

Tiếp theo Tỉnh ủy họp ở xã An Toàn huyện An Lão học tập Nghị quyết lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên Xô và nghe phổ biến một số chủ trương của Khu ủy do đồng chí Lê Vụ, Liên khu ủy viên hướng dẫn, nhằm hướng cho Tỉnh ủy lãnh đạo đấu tranh chính trị mà ngăn ngừa tư tưởng đấu tranh vũ trang.


(1) CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC 1954-1975 - Những sự kiện quân sự - Nhà xuất bản QĐND, Hà Nội, 1980, trang 17.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Năm, 2012, 07:07:45 am
*   *
*

Ngay từ những ngày địch chưa tiếp quản, bọn phản động ở một số nơi trong tỉnh đã ngóc đầu dậy nói xấu cách mạng, ra sức tuyên truyền xuyên tạc Hiệp định Giơ-ne-vơ, móc nối với nhau, chuẩn bị nhảy ra làm việc cho địch để trả thù cách mạng.

Ngày 1 tháng 3 năm 1955, địch tiếp quản Bồng Sơn, ngày 28 tháng 3 tiếp quản Cát Hanh, ngày 12 tháng 5 tiếp quản Đồng Phó, và ngày 16 tháng 5 tiếp quản Quy Nhơn. Toàn tỉnh Bình Định từ đây nằm trong sự kìm kẹp của địch. Tiếp quản đến huyện nào, chúng sử dụng ngay bọn phản động địa phương và người của chúng thiết lập ngay bộ máy ngụy quyền tay sai gồm quận trưởng, quận phó, nhân viên cơ quan khoảng 45 tên, mỗi huyện có một đại đội bảo an, một chi đội cảnh sát gồm những tên phản động, phục thù giai cấp, có nhiều tội ác chống nhân dân trong kháng chiến chống Pháp.

Giữa những ngày tháng 6 năm 1955, ngay từ khi mới đến tiếp quản, Mỹ - Diệm đã tập trung bọn tay sai phản đội tại chỗ và lưu vong cùng với những đơn vị quân ngụy hung ác mở đầu cuộc đàn áp, khủng bố nhân dân. Chúng ra sức đánh phá phong trào cách mạng một cách toàn diện, trả thù cá nhân, nhất là ở thôn xứ. Chúng đề ra khẩu hiệu: “giết lầm hơn bỏ sót”, lập danh sách đảng viên và gia đình có người đi tập kết. chúng tập trung đánh vào hai đối tượng chính là cán bộ, đảng viên và những người kháng chiến cũ. Chúng truy quỹ kháng chiến, truy thuế, truy tô, tịch thu gia sản cán bộ kháng chiến v.v… Khắp xóm làng, thị trấn chìm ngập trong không khí đàn áp, khủng bố. Chúng quyết đánh phủ đầu để uy hiếp quần chúng nhân dân và cắt đứt mọi mầm mống cách mạng chống lại chúng.

Ngay trong tháng 5 năm 1955, vừa đến tiếp quản Bồng Sơn, chúng đã tàn sát điển hình một lúc 60 người yêu nước ở nhà thờ Thác Đá thuộc xã Hoài Đức, chôn sống 40 người ở bãi cát An Đông, Bồng Sơn huyện Hoài Nhơn. Chúng không từ một thủ đoạn nào, từ quản thúc, quản lí bắt ngủ tập trung đến buộc li khai, tù đày và thủ tiêu bí mật hàng loạt những người chúng nghi là ta bố trí ở lại. Ở Ân Hòa, huyện Hoài Ân, tháng 8 năm 1955, chúng bắt 21 người bỏ vào bao tải ném xuống giếng, xuống sông. Ở Ân Đức, Ân Phong, Ân Tường, chúng thủ tiêu hàng chục người. Ở Ân Hòa, An Hảo, những tên phản động khét tiếng hung ác như Đoàn An, Trần Trọng Nghĩa, Bùi Tá Xông… thẳng tay đàn áp nhân dân trả thù cá nhân và phong trào cách mạng. Tại Mỹ Tài, huyện Phù Mỹ, địch đưa đi thủ tiêu 20 thanh niên, v.v…

Ngoài việc dùng bạo lực phản cách mạng để đàn áp, khủng bố, giết chóc, chúng còn dùng tiền bạc, địa vị mua chuộc dụ dỗ truy tróc tiêu diệt cán bộ ta như mua chuộc tên Phan Xuân phản bội lại cách mạng dẫn địch đi bắt một số cán bộ, đảng viên và cơ sở cách mạng ở Ân Hòa, Ân Hảo huyện Hoài Ân.

Ngoài đồn phủ đầu trên, để truy quét tận gốc lực lượng cách mạng, chúng tiến hành phân loại quần chúng. Những đảng viên cốt cán trước đây được chúng xếp vào loại đặc biệt. Số còn lại chia theo ba loại: Loại A gồm cán bộ đảng viên trong kháng chiến chống Pháp (trừ loại đặc biệt), loại B gồm những người có quan hệ với cách mạng như thân nhân những người đi tập kết, những người tích cực tham gia kháng chiến, loại C gồm những người nghi ngờ hoặc ít nhiều có quan hệ với các loại trên. Loại đặc biệt và loại A, chúng bắt mang hai chữ CS (cộng sản) trước ngực và tha hồ cho chúng bắt bớ, tra tấn, tù đày hoặc thủ tiêu, loại B bị quản thúc chặt chẽ, ban đêm phải ngủ tập trung, có lính canh gác. Loại C quản thúc tại nhà lúc nào cũng có thể tra hỏi, trình diện đi đâu phải xin phép. Đình chùa, trường học biến thành nhà tù, nơi tra tấn. Già, trẻ, giá trai đêu bị bắt, bị giam cầm tra tấn, đánh đập. Phụ nữ bị chúng hiếp. chúng muốn hại ai, trả thù ai liền gán cho người ấy có liên quan với cộng sản, giữ quỹ, giữ vũ khí, che giấu cán bộ, v.v…

Cuối năm 1955, Mỹ - Diệm thi hành chính sách khủng bố đàn áp. Chúng tập trung dân, bắt tố cáo đảng viên cộng sản. Đêm đêm, chúng bắt đảng viên không được ngủ mà phải đứng trước “bàn thờ quốc gia” và ảnh Diệm nhìn thẳng vào ngọn đèn để sám hối, tinh thần bị dồn nén đến cùng cực, thân thể bị đau đớn đến kiệt quệ. Chúng bắt xé cờ Đảng, xé ảnh Bác Hồ, làm giấy li khai. Với những người có người thân đi tập kết, chúng bắt làm giấy từ bỏ cha, mẹ, chồng, con, cam kết không liên hệ với cộng sản. Với phụ nữ có chồng đi tập kết, chúng bắt lấy ác ôn, lính ngụy, v.v…

Chúng chà đạp lên mọi quyền sống tối thiểu của con người: cấm đi lại, cấp hội họp; giỗ chạp, ma chay phải xin phép và bị giám sát ngặt nghèo. Trong các cuộc đàn áp, càn quét, bọn phản động ác ôn tàn sát quần chúng nhân dân với những thủ đoạn cực kì man rợ: mổ bụng moi gan đem xào nhắm rượu, uống tiết, chặt đầu cắm cọc, chôn sống. Chúng làm cho cha không tin con, vợ không tin chồng, bà con thân thuộc nghi kị lẫn nhau. Có thể nói, chúng đã gây tội ác đến mức độ “trời không dung, đất không tha, người người đều căm giận”.

Nhưng nợ máu phải trả bằng máu, tội ác nào rồi cũng phải đề trả thích đáng. Đó là lời thề từ tâm can của những cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân bị địch hành hạ, khủng bố. còn sống thì còn trả, chết rồi sẽ có bạn bè, đồng chí, đồng bào trả thay.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Năm, 2012, 07:10:01 am
Trong những cuộc “tố cộng, diệt cộng” ở các huyện, hàng trăm đồng chí đã thét vào mặt kẻ thù rồi tự vẫn để giữ tròn khí tiết. Trong đó, nữ đồng chí Hồ Thị Hoàng Anh, Huyện ủy viên An Nhơn là một tấm gương tiêu biểu. Chị bị địch tra tấn rất dã man nhưng chị không khai một lời nào, chỉ cười rồi lại khóc. Địch hỏi vì sao cười rồi lại khóc. Chị trả lời “Cười vì thấy người Việt Nam lại đánh người Việt Nam, còn khóc là vì nhiệm vụ của Đảng giao, chưa làm tròn đã bị bắt”. Tấm gương hi sinh của chị và cánh anh như Lê Hồng Phong ở Nhơn Phúc (An Nhơn); Lê Đình Giao ở Tuy Phước, đồng chí Thu ở Phù Mỹ, Võ Đông ở thị xã Quy Nhơn, đồng chí Tiến quê Nghệ An, Nguyễn Bắc, Lương Gia ở Bình Quang, Bùi Kỳ ở Bình Giang, Trần Châu, Nguyễn Hương, Trần Khắc Minh huyện Bình Khê v.v… và hàng chục anh chị me khác được lan đi nhanh chóng cổ vũ tinh thần đấu tranh và giữ vững khí thế của cán bộ, đảng viên, quần chúng trung kiên trong tỉnh.

(http://img405.imageshack.us/img405/5922/hontuong.jpg)

Núi Hòn Tượng - căn cứ địa của An Nhơn trong những năm đầu kháng chiến chống Mỹ

Đây là một thời kì đen tối nhất của phong trào cách mạng Bình Định. Đảng bộ bị tổn thất nặng nề. Nhiều đảng viên bị bắt, bị giết. Có nơi không còn chi bộ hoặc bị đánh bật ra ngoài. Trước sự giết chóc khủng bố dã man của Mỹ - Diệm, tuy có một số người hoang mang, dao động, mất tinh thần, thâm chí đầu hàng phản bội nhưng tuyệt đối đa số đảng viên, cơ sở trung kiên, quần chúng cách mạng đều một lòng, một dạ trung thành với Đảng, với Bác Hồ, thà chết chứ không chịu khuất phục. Số cán bộ, đảng viên còn lại dựa vào cơ sở nhân dân, nắm vững phương hướng, nhiệm vụ cách mạng, dựa vào pháp lí Hiệp định Giơ-ne-vơ lãnh đạo quần chúng tiếp tục đấu tranh.

Những cuộc đấu tranh giữa một bên là quần chúng tay không với một bên là bộ máy đàn áp gồm chính quyền, quân đội, công an, cảnh sát, mật vụ, chỉ điểm của địch đã nổ ra quyết liệt. Với nhiều hình thức mít tinh, biểu tình, đình công, bãi thợ; với thế hợp pháp dựa vào các điều khoản của hiệp định, nhân dân đấu tranh đòi tự do, dân chủ, đòi hiệp thương tổng tuyển cử, chống khủng bố đàn áp, chống trả thù những người kháng chiến cũ. Đặc biệt là phong trào đấu tranh đòi hiệp thương diễn ra rầm rộ, sôi nổi trong toàn tỉnh. Có nơi kéo dài hàng tuần lễ.

Ở An Nhơn, truyền đơn được rải ngay trong phân chi công an Nhơn Thọ và các xã Nhơn Lộc, Nhơn phúc. Sau đó toàn huyện phát động phong trào đấu tranh mang tên “Phong trào Lê Hồng Phong” (đồng chí Lê Hồng Phong, phó Bí thư huyện ủy An Nhơn, bị địch bắt tra tấn dã man nhưng đồng chí không chịu khuất phục, địch đem đi thủ tiêu), nhằm phản đối chính sách khủng bố trả thù của Mỹ - Diệm và vạch trần trò hề trưng cầu dân ý… Điển hình là cuộc đấu tranh của nông dân Nhơn Mỹ chống địa chủ đòi lại ruộng đất, thu tô nặng.

Ở Hoài Nhơn, hơn hai ngàn đồng bào Bồng Sơn kéo vào quận lị đấu tranh trực diện vạch trần tội ác hai tên Đặng Đức Ân và Võ Hoàng cầm đầu ngụy quyền, ngụy quân đã gây ra vụ thảm sát ở An Đông, Thác Đá. Trước những tang chứng rành rành, bọn chúng phải câm họng. Đồng bào huyện Tuy Phước kéo vào phối hợp với đồng bào thị xã Quy Nhơn đấu tranh chống địch phá nghĩa trang liệt sĩ, đòi hiệp thương, đòi tự do, dân chủ… Truyền đơn khẩu hiệu được rải dán khắp nơi trong thị xã.

Trong đấu tranh, bất chấp mọi thủ đoạn dã man, tàn ác của Mỹ - Diệm, nhân dân vẫn tìm mọi cách che dấu, bảo vệ đảng viên, cán bộ kháng chiến cũ, giúp đỡ gia đình có người đi tập kết. Chị em phụ nữ có chồng đi tập kết cương quyết đấu tranh vạch trần bộ mặt đểu cáng trong trò hề cưỡng ép li hôn của địch. Nhiều chị em đã nói thẳng vào mặt bọn ác ôn: “Có chồng đi kháng chiến chống Pháp là niềm tự hào, có chết cũng không li hôn”.

Trước yêu cầu bức xúc của cách mạng, tháng 8 năm 1955, ở xã Cát Hanh (Phù Cát), Bình Quang, Bình Giang (Bình Khê), Mỹ Hiệp (Phù Mỹ); Hoài Sơn (Hoài Nhơn) đã bí mật tổ chức “Đoàn thanh niên yêu nước chống Mỹ”. Đặc biệt ở Cát Hanh phong trào thanh niên yêu nước chống Mỹ phát triển mạnh, sau đổi thành “Đoàn thanh niên yêu nước Ngô Mây”, đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống địch bằng mọi hình thức. Số lượng đoàn viên đã lên đến 2.000 chia làm 10 phân đoàn trong toàn xã. Sau hai tháng bí mật hoạt động, phân đoàn thôn Khánh Phước quyết định thủ tiêu tên Đặng Trần Đôn, một ấp trưởng ác ôn vì nếu không diệt nó, đoàn sẽ khó hoạt động và phong trào sẽ bị đánh phá. Tên Đôn bị phân đoàn bắt trừng trị ở Gò Ông Đốc làm rúng động bọn phản động trong vùng. Ở Hoài Sơn, huyện Hoài Nhơn, không chịu nổi trước cảnh bọn giặc tự do chém giết nhân dân, 42 thanh niên bất chấp nguy hiểm, bất chấp sự rình mò của địch đã kéo nhau luồn rừng tìm gặp bằng được cán bộ cách mạng xin thành lập lực lượng vũ trang đánh địch.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Năm, 2012, 07:12:38 am
Tuy có rất nhiều khó khăn, nhưng nắm vững công tác xây dựng cơ sở là công tác hàng đầu, số cán bộ, đảng viên còn lại kiên trì bám đất, bám dân, xây dựng phát triển cơ sở quần chúng cách mạng, đặc biệt là “cơ sở bảo vệ” (cơ sở giác ngộ cách mạng, trong nhà có hầm che giấu, nuôi dưỡng cán bộ). Không có cơ sở này, cán bộ không bám được trong dân, không chỉ đạo kịp thời. Nhờ đó các đồng chí Tỉnh ủy vẫn bám trụ ở cơ sở vùng ven phía tây các huyện đồng bằng để chỉ đạo phong trào. Ở vùng ven các huyện Phù Cát, Bình Khê, Hoài Ân, Phù Mỹ, cán bộ đảng viên vẫn bám trong dân. Huyện ủy Hoài Nhơn vẫn bám được ở đồng bằng và liên lạc chỉ đạo hầu hết các xã. Ở Bình Khê, một số thôn ở các xã Bình Khang, Bình Giang, Bình Tường, Bình Thành, Bình Phú, Bình An, Bình Hòa, Bình Tân, Bình Thuận đều có cơ sở cách mạng đơn tuyến. Ở Hoài Ân, các xã Ân Hòa, Ân Hảo, Ân Hữu, Ân Nghĩa, Ân Đức, Ân Phong đều có cơ sở hoạt động mạnh. Ở Phù Mỹ, các xã Mỹ Hiệp, Mỹ Đức có phong trào mạnh. Phù Cát có Cát Hanh, Cát Hiệp, An Nhơn có Nhơn Lộc, Nhơn Mỹ, Tuy Phước có Phước Sơn là những nơi có cơ sở mạnh, phong trào khá.

(http://img337.imageshack.us/img337/2028/rungnuicatson.jpg)

Rừng núi Cát Sơn (Phù Cát), hậu cứ của Tỉnh ủy

(http://img513.imageshack.us/img513/7916/hamoi.jpg)

Hầm bí mật, một trong những căn cứ vùng ven của Tỉnh ủy và Thị ủy Quy Nhơn tại nhà cụ Nguyễn Tân, cơ sở cách mạng thôn Hưng Thạnh (nay là tổ 46, khu vực 9, phường Đống Đa - Quy Nhơn).

Thời gian này, Khu ủy 5 có chủ trương đưa cán bộ Đảng ra sống hợp pháp và hoạt động hợp pháp. Một số cán bộ về đồng bằng tìm cách ra hoạt động nhưng không có điều kiện.

Sau khi tạm ổn ở đồng bằng, địch tập trung lực lượng đánh lên miền núi. Trước hết nhằm vào các xã vùng thấp và quanh quận lị. Ở Vân Canh chúng chỉ hoạt động ở vùng thấp nhưng vẫn chưa mua chuộc và uy hiếp được quần chúng cách mạng. Đầu năm 1956, chúng tung mật vụ nấp dưới dạng thương lái móc nối với một số người lên xuống mua bán để mua chuộc, dụ dỗ, dọa dẫm nhân dân. Cuối năm 1957, địch ra sức dựng tề ở các xã vùng thấp như Canh Sơn, Canh Hòa, Canh Giao, Canh Tân, Canh Phước, Canh Thịnh, Canh Lãnh. Đối với vùng cao chủ yếu dùng biện pháp mua chuộc như cấp vải, muối, sữa bột… Nhưng nhân dân vùng cao vẫn luôn hướng về cách mạng. Cán bộ, đảng viên vẫn trụ bám trong dân và được dân nuôi giấu để hoạt động. Việc lập tề của chúng ở vùng thấp cũng không dễ dàng. Được Huyện ủy lãnh đạo, nhân dân viện cớ này, cớ nọ trì hoãn kéo dài việc lập tề như Canh Phong, Canh Tông, Canh Tất, Canh Phước. Cán bộ hoạt động địch đến thì lánh, địch đi thì ta lại làm chủ. Đến năm 1959, địch vẫn không nắm được dân ở vùng cao.

Ở Vĩnh Thạnh, đến tiếp quản, địch đưa ngay bộ máy kìm kẹp hàng mấy trăm tên gồm những tên ác ôn nặng đầu óc hằn thù giai cấp và kì thị dân tộc lên đóng ở Bình Quang. Chúng biết Vĩnh Thạnh là vùng nhân dân có truyền thống đấu tranh bất khuất từ thời chống Pháp, là địa bàn quan trọng của tỉnh Bình Định nên chúng quyết đánh bật gốc cách mạng ở vùng này để nắm dân.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Năm, 2012, 07:13:17 am
Thông qua bọn thương lái xấu, địch dùng vật chất mua chuộc lôi kéo các chủ làng cũ, nhất là những người bất mãn với ta trong kháng chiến. Chúng tổ chức “đại hội ăn thề” và cưỡng bức đồng bào Ba Na xuống núi tham dự để tận mắt nhìn thấy sức mạnh của “quân lực Việt Nam cộng hòa” và “chính nghĩa quốc gia”, v.v… Nhưng ngay lần chạm mặt đầu tiên này, nhân dân Vĩnh Thạnh đã nói vào mặt chúng: “Chúng tôi chưa biết quốc gia tốt như thế nào, nhưng hễ bắt xâu, thu thuế, lấy lính là chúng tôi chống”.

Sau đó, chúng tập trung lực lượng càn quét để truy tróc cán bộ Kinh bám trong nhân dân, phát hiện cơ quan của tỉnh, của các huyện đồng bằng và kho tàng. Phát hiện được kho tàng ở Hà Rí xã Vĩnh Hiệp (số thóc này là của chính quyền cách mạng chi viện cho dân lúc bị bệnh đậu mùa và gửi thêm vào đó hai tấn), địch đem ngựa tới xúc chở về quận. Được Huyện ủy lãnh đạo, đồng bào các làng Hà Rí, Tà Lốc, Tà Léc, với vũ khí thô sơ trong tay kéo xuống quận lị đấu tranh đòi lại thóc. Trước khí thế đấu tranh quyết liệt và lí lẽ sắc bén của quần chúng, lại được đồng bào Kinh ở đây đồng tình ủng hộ, nhất là thấy đồng bào mang theo tên ná, giáo mác, khí thế ngút trời, địch hoảng sợ phải trả lại thóc đã cướp cho nhân dân. Trận đầu thắng lợi, đồng bào càng tin vào sự lãnh đạo của Đảng và sức mạnh của chính mình.

Phát hiện làng Hóc Điều xã Vĩnh Bình là đầu mối xuống đồng bằng mua hàng tiếp tế cho cách mạng của nhân dân, địch đưa quân lên càn quét lùng sục. Lúc này một số đồng bào đi chợ bị công an xã Ân Nghĩa nghi ngờ bắt giữ trong đó có con rái và rể Bók Tới, chủ làng Hóc Điều. Được tin, Bók Tới huy động hết dân làng, mang theo tên ná, giáo mác kéo xuống đấu tranh. Giữa đường gặp địch lên càn. Chúng giở trò đàn áp. Bók Tới hi sinh. Từ đó làng Hóc Điều chạy vào rừng lập làng chiến đấu chống địch.

Cùng thời gian này, nhiều cuộc đấu tranh của đồng bào Ba Na chống địch càn quét nổ ra ở phía Kim Sơn và Bình Khê.

Cuối năm 1958, địch tập trung đánh phá miền núi quyết liệt, trọng điểm là Vĩnh Thạnh, nơi chúng nghi là căn cứ của tỉnh và các huyện đồng bằng. Chúng chọn Vĩnh Hiệp và Vĩnh Hảo là hai xã vùng thấp làm bàn đạp tiến lên vùng cao. Ở vùng cao, địch nhằm vào làng Kon Klot xã Vĩnh Châu - một làng đông dân, trù phú, nổi tiếng trong chống Pháp. Chúng vừa dùng quân sự, vừa mua chuộc để lôi kéo các chủ làng và già làng. Chúng giở trò “tố cộng”, “diệt cộng” như ở đồng bằng. Chúng lùa dân vào nhà rông để tra tấn, đánh đập và thanh lọc. Đồng bào cắn răng chịu đựng không khai báo nửa lời. Đồng bào nhắc nhau: “Phải kín miệng, đừng nói bậy mà hại cả làng!”. Sau hơn mười ngày đêm giở đủ mánh khóe, đánh đập hàng trăm người, gây thương tật hàng chục người, không uy hiếp nổi tinh thần đồng bào Ba Na, không phát hiện được đảng viên, cán bộ, chúng đành chịu thất bại rút về.

Phát huy thắng lợi chống “tố cộng”, Huyện ủy Vĩnh Thạnh do đồng chí Nguyễn Trung Tín làm Bí thư đã lãnh đạo phát động tư tưởng quần chúng, dựa vào phong tục tập quán, nhất là tục kiêng cữ, chặn đứng được một số thủ đoạn đánh phá kìm kẹp của Mỹ - Diệm. Dưới hình thức cắm chông, gài bẫy chống thú rừng, nhân dân đã chặn không cho địch vào rẫy phát hiện dấu vết hoạt động của cán bộ. Dựa vào tục “kiêng ma”, đồng bào chống lại chủ trương chụp ảnh làm thẻ căn cước, v.v… Đồng bào đặt nhiều bài hát để động viên, nhắc nhở nhau chống Mỹ - Diệm:

            Địch cho gạo như gài mang cung
            Địch cho muối như gài bẫy
            Cho giấy học như rấp đường
            Địch cho rựa như giết mình
            Đồng bào ai chớ lầm âm mưu địch


Sau một thời gian, trước sự đấu tranh vừa kiên quyết vừa khôn khéo của nhân dân, địch không lập được chính quyền ở thôn, xã. Mấy xã vùng tháp như Vĩnh An, Vĩnh Hỏa, Vĩnh Hiệp, chúng chỉ đặt ở mỗi nơi một đại diện. Nhưng số này là người của ta đưa ra, được quần chúng nhân dân giám sát. Một vài tên tay sai như Đinh On ở Hà Ri, Bá Lỡ ở Kon Klót chỉ nhận tiền bạc, quà cáp của địch chứ không dám trở mặt với nhân dân.

Sau hai năm đánh phá quyết liệt, địch không lập được bộ máy kìm kẹp tại chỗ để đánh phá cách mạng, đặc biệt là không chốt được một cứ điểm quân sự nào trên đất Vĩnh Thạnh. Cái gọi là cơ quan quận của địch, chúng phải đóng ở làng Định Quang xã Bình Quang huyện Bình Khê. Toàn huyện Vĩnh Thạnh vẫn do cách mạng làm chủ.

Ở An Lão, hoạt động của Mỹ - Diệm giống như ở Vĩnh Thạnh, Vân Canh. Năm 1956, chúng thực hiện bao vây kinh tế, cấm không cho nhân dân xuống đồng bằng mua bán, sợ tiếp tế cho cách mạng. Ở các xã vùng thấp, chúng lập được tề ngụy, nhưng hầu hết là người của ta đưa ra nên âm mưu của chúng không thực hiện được. Chúng không tin vào bộ máy thôn xã chúng lập ra, nên bí mật điều hai tên mật vụ từ đồng bằng lên dưới dạng thương lái để phát hiện cơ sở của cách mạng ta ở các xã An Tường, An Quý, An Toàn. Hai tên này bị cơ sở cách mạng phát hiện và bí mật thủ tiêu. Bọn địch ở quận vừa tức tối vừa khiếp sợ.

Cùng với phong trào ở đồng bằng, cả ba huyện miền núi của tỉnh, với truyền thống bất khuất, kiên cường đã làm thất bại bước đầu âm mưu địch, là chỗ dựa vững chắc, là căn cứ địa cách mạng của nhân dân toàn tỉnh.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Sáu, 2012, 09:01:25 am
2 - TÍCH CỰC XÂY DỰNG CĂN CỨ ĐỊA MIỀN NÚI
- KẾT HỢP ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ VỚI ĐẤU TRANH VŨ TRANG,
TỪNG BƯỚC ĐƯA PHONG TRÀO CÁCH MẠNG TIẾN LÊN.


Sau hai năm kể từ ngày Hiệp định Giơ-ne-vơ có hiệu lực, cuộc đấu tranh của nhân dân Bình Định cũng như cả miền Nam với kẻ thù Mỹ - Diệm diễn ra vô cùng quyết liệt. Nhiều nơi, cơ sở Đảng bị tổn thất nặng. Mỹ - Diệm ra sức phá hoại hiệp định, phá hoại hiệp thương tổng tuyển cử, dùng quân ngụy đàn áp phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng. Trước đòi hỏi phải có sự chỉ đạo phù hợp, tháng 6 năm 1956, Bộ chính trị ra Nghị quyết về “Tình hình nhiệm vụ cách mạng miền Nam”. Nghị quyết nhấn mạnh: “Vấn đề hết sức quan trọng là phải tranh thủ xây dựng lực lượng cách mạng”. Tuy “hình thức đấu tranh của ta trong toàn quốc hiện nay là đấu tranh chính trị…” nhưng “như thế không có nghĩa là không dùng vũ trang tự vệ trong những hoàn cảnh nhất định”. Phải “củng cố các lực lượng vũ trang, bán vũ trang và xây dựng các căn cứ làm chỗ dựa. Đồng thời xây dựng cơ sở quần chúng vững mạnh làm điều kiện căn bản để duy trì và phát triển lực lượng vũ trang” (1).

Nắm vững chỉ thị của Bộ Chính trị, trước tình hình địch tiến hành “tố cộng”, “diệt cộng” khốc liệt, Liên khu ủy họp đề ra một số yêu cầu về thực hiện phương châm đấu tranh ở các vùng.

Ở đồng bằng phải khôi phục và xây dựng cơ sở, xúc tích lực lượng. Kết hộp giữa đấu tranh hợp pháp, nửa hợp pháp với bất hợp pháp một cách linh hoạt. Xây dựng căn cứ địa, tạo thế mở rộng địa bàn hoạt động ở trung châu.

Đối với miền núi, phải dựa vào rừng núi hiểm trở xây dựng căn cứ địa làm chỗ dựa mở rộng địa bàn. Về phương châm hoạt động, nắm vững đấu tranh chính trị đồng thời phải kết hợp với đấu tranh vũ trang tự vệ hỗ trợ cho đấu tranh chính trị, v.v…

Nhận thức được vấn đề xây dựng cơ sở là vấn đề sống còn của cách mạng, trước tình hình địch đánh phá cơ sở cách mạng khốc liệt, Tỉnh ủy và các Huyện ủy chủ trương bám đất, bám dân, móc nối phục hồi lại cơ sở, gây dựng lại phong trào. Dựa vào những cơ sở hoạt động đơn tuyến còn lại ở nhiều vùng, nhiều cán bộ đã nắm bờ ngủ bãi, đi sát nhân dân, móc nối, tuyên truyền, giác ngộ từng bước khôi phục và phát triển cơ sơ. Ngoài việc bồi dưỡng, phân tích của cán bộ, các cơ sở quần chúng trung kiên đã tự bồi dưỡng cho nhau về dũng khí cách mạng, sẵn sàng chịu đựng tra tấn của địch khi bị chúng bắt, nếu cần phải hi sinh để bảo vệ cán bộ, bảo vệ cách mạng, chứ nhất thiết không đầu hàng, khai báo. Qua hoạt động gây dựng cơ sở, nhiều đảng viên, cán bộ đã rút được kinh nghiệm là phải thường xuyên động viên tư tưởng và hướng dẫn đấu tranh cho cơ sở quần chúng. Nếu địch bắt, khai báo thế nào phải chuẩn bị trước, giữ vững lòng tin sắt đá với Đảng, với Bác. Nhiều nơi cơ sở bị tổn thất nặng, nhưng qua thời gian sống chết trụ bám, cơ sở lại từng bước được khôi phục và phát triển.

Dựa vào cơ sở chính trị từng bước được phục hồi, trước yêu cầu bức xúc của phong trào cách mạng ta chủ trương cho thanh niên chạy lên rừng lánh địch, lập các trại bí mật, ghép lại thành từng tổ công tác vài ba người. Số thanh niên này được học chính trị, văn hóa, canh gác bảo vệ cơ quan, đưa cán bộ đi công tác, làm liên lạc và vận động quần chúng. Huyện nào cũng có thanh niên chạy ra rừng thành lập các trại bí mật. Trại bí mật của thanh niên biến thành nơi đào tạo cán bộ cốt cán cho phong trào cách mạng và chính là nguồn để xây dựng lực lượng tự vệ, tiền thân của lực lượng vũ trang trong kháng chiến chống Mỹ của tỉnh Bình Định.

Qua ngày 20 tháng 7 năm 1956, Mỹ - Diệm tổ chức ăn mừng việc phá được hiệp thương tổng tuyển cử. Chúng tuyên truyền rùm ben để củng cố tinh thần bọn ngụy quân ngụy quyền và lung lạc tư tưởng quần chúng. Chúng mở chiến dịch tuyên truyền “củng cố miền Nam, chuẩn bị Bắc tiến, lấp sông Bến Hải”. Trước kia một số còn dè chừng nhưng khi thấy không có tổng tuyển cử, chúng ra mặt làm việc cho địch và chống lại ta quyết liệt. Mỹ - Diệm liên tiếp mở các đợt “tố cộng”, “diệt cộng” truy bắt đảng viên, cán bộ, có sở quần chúng cách mạng. Nhà tù các loại mọc lên như nấm. Nhà giam ở xã thường xuyên có từ 200 - 300 người, ở quận, tỉnh từ 500 - 1.000 người.

Thâm độc hơn, chúng đưa ra chính sách “dinh điền” nhằm tập trung đưa đi xa những người, những gia đình chúng cho là có đầu óc cộng sản để cắt đứt mối quan hệ của số này với đông đảo nhân dân, với cách mạng. Ở An Nhơn chúng xây dựng khu dinh điền An Trường (Nhơn Tân) xung quanh có rào kẽm gai và lính gác ngày đêm. Chúng còn ráo riết bắt thanh niên đi quân dịch.

Đầu năm 1957, địch gây ra vụ thảm sát Gò Vàng ở xã Mỹ Hòa, huyện Phù Mỹ, chôn sống một lúc 129 người yêu nước. Ở các xã Hoài Châu, Hoài Hương, Hoài Hảo, Bồng Sơn, Tam Quan, huyện Hoài Nhơn, chúng bắt hơn 3.000 người để đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân đòi dân sinh dân dân chủ, đòi hiệp thương tổng tuyển cử.

Những chính sách và thủ đoạn tàn bạo nói trên của địch có gây cho phong trào cách mạng ở đồng bằng thêm khó khăn. Nhưng càng đàn áp, khủng bố thì sức vùng dậy của quần chúng nhân dân càng mãnh liệt. Đầu năm 1957, ở các xã Nhơn Phong, Nhơn Phúc, Nhơn Thọ, Đập Đá huyện An Nhơn đã xuất hiện những nhóm thanh niên yêu nước chống Mỹ - Diệm. Các nhóm này đã rai truyền đơn, dán áp phích đả đảo chế độ phát xít Ngô đình Diệm. Một số chị em là cơ sở cách mạng ở Đập Đá cũng rải truyền đơn tố cáo tội ác của bọn ngụy quyền địa phương, kêu gọi phụ nữ và đồng bào đoàn kết đấu tranh. Trong khí thế đấu tranh chung của huyện, nhân dân Đập Đá đã đấu tranh thắng lợi buộc địch phải từ bỏ việc thử máu học sinh để lấy máu cho lính ngụy bị thương ở trường Phương Danh.

Ở huyện Hoài Nhơn, phong trào đấu tranh chống đi quân dịch, chống đi dinh điền đã nổ ra sôi động ở nhiều nơi. Hàng ngàn đồng bào ở Tài Lương (Hoài Thanh), Tam Quan đấu tranh đã xảy ra xô sát với bọn ác ôn, nằm cản đầu xe không cho tàu chạy, lôi kéo thanh niên xuống tàu, đã giành được hàng trăm thanh niên khỏi bị bắt lính. Hàng ngàn quần chúng ở chợ Ân không chịu nổi sự áp bức, cướp giật của bọn ngụy quyền đã vùng dậy dùng đòn gánh đánh lại bon chúng. Đồng bào An Lộc xã Hoài Thanh đấu tranh với bọn ngụy quyền xã trích 40% ruộng công điền, v.v…


(1) CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC 1954-1975 - Những sự kiện quân sự. Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 1980, trang 28.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Sáu, 2012, 09:02:34 am
*   *
*

Đối với miền núi, sau hai năm đánh phá ác liệt, nhất là huyện Vĩnh Thạnh, địch bị thất bại trong âm mưu lập tề ngụy ở cơ sở và cài cấy mạng lưới điệp báo người địa phương. Cuối năm 1957, chúng chuyển sang chủ trương dồn dân. Ở An Lão, chúng đưa dân các xã vùng cao xuống Gò Dài. Ở Vân Canh, chúng dồn dân các xã vùng rìa núi xuống sát đường sắt. Ở Vĩnh Thạnh, chúng âm mưu dồn dân xuống quận lị. Trong âm mưu dồn dân vùng miền núi, chúng sử dụng các biện pháp vừa quân sự, chính trị vừa kinh tế nhằm trực tiếp khống chế, kèm kẹp, cắt đứt mọi quan hệ giữa quần chúng nhân dân với cán bộ cách mạng, từ cô lập dẫn tới tiêu diệt các cơ quan lãnh đạo cách mạng ở địa phương.

Ở Vĩnh Thạnh, nơi nhân dân “cứng đầu” nhất, chúng làm từng bước, có chuẩn bị, tổ chức chặt chẽ các mặt. Trước mắt là dồn cho được dân các xã vùng thấp lấy Vĩnh Hiệp, Vĩnh Hảo làm trọng điểm. Sau đó mới dồn các xã vùng cao. Biện pháp chính vẫn là cái trò cũ rích, vừa đe dọa, vừa mua chuộc, chủ yếu là chủ làng và già làng. Để mở đầu kế hoạch, chúng triệu tập các “đại diện” xuống cho ăn uống, cho tiền bạc, hàng hóa và ba hoa tuyên truyền về “cuộc sống quốc gia”, nào sung sướng, nào thịnh vượng, ăn ngon, mặc đẹp, được đi đây đi đó, vân vân và vân vân. Ngay cả các “đại diện” của chúng cũng không tin nổi những điều chúng nói. Họ nói: “Từ xưa đến nay, kể cả Pháp và Nhật không ai bắt người Ba Na bỏ làng, bỏ mồ mả ông bà mà đi”. “Người Ba Na không sống được ở đồng bằng”. “Phải về hỏi dân làng đã!”, v.v…

Mùa thu năm 1958, chúng gọi các chủ làng xuống thúc ép một lần nữa, nhưng vẫn được trả lời: “Đã hỏi dân làng rồi, không ai chịu bỏ làng đâu!” “Quốc gia có giết hết cả làng, cả huyện, người Ba Na Vĩnh Thạnh cũng không thể bỏ làng, bỏ mồ mả ông bà được!” “Nếu quốc gia bức quá thì dân sẽ chạy làng”.

Dụ dỗ mấy lần không được, chúng quay sang dùng quân sự. Hàng đoàn công an, mật vụ và bảo an, dân vệ yểm trợ kéo lên bao vây hai xã Vĩnh Hiệp, Vĩnh Hảo nhằm kìm kẹp tại chỗ. Chúng tiết quân luật cấm dân không được ra khỏi làng và bắt đầu cuộc đàn áp khủng bố. Tình hình đó gây dao động trong một số già làng, nhưng tuyệt đại bộ phận nhân dân, nhất là thanh niên thì kiên quyết giữ vững ý kiến: “Dù thế nào cũng không đi đâu hết, dù chỉ là đi tạm. Vì đi là mất quê hương, đi là sa vào âm mưu giặc, đi là xa cán bộ, xa Đảng, đi là sống cũng như chết”. Tấm lòng người Ba Na Vĩnh Thạnh là như vậy.

Không khí toàn huyện Vĩnh Thạnh căng như một sợi dây đàn vặn hết cỡ mà Vĩnh Hảo, Vĩnh Hiệp là đầu mối.

Trước tình hình đó, Tỉnh ủy chỉ đạo cho huyện Vĩnh Thạnh giải thích cho quần chúng nhận rõ hơn nữa ý đồ thâm độc của Mỹ - Diệm, cố gắng đấu tranh giằng co, trì hoãn vừa giữ cho được thế trực diện, thế hợp pháp, vừa tích cực chuẩn bị vũ trang tự vệ, nhưng phải tiến hành thật bí mật.

Chấp hành sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Huyện ủy họp mở rộng phân tích: Việc chống địch dồn dân đối với Vĩnh Thạnh là vấn đề sống còn của nhân dân, của dân tộc Ba Na, Vĩnh Thạnh là lương tâm và trách nhiệm đối với toàn Đảng, toàn dân Vĩnh Thạnh là: Không một ai xuống khu dồn, không để địch cướp một người dân nào. Về biện pháp, Huyện ủy chủ trương một mặt ra sức phát động quần chúng ráo riết chuẩn bị bố phòng chống địch, dự trữ lương thực, thực phẩm, một mặt phát động nhân dân toàn huyện dấy lên phong trào đấu tranh chính trị quyết liệt chống dồn dân để giằng co, trì hoãn, tranh thủ thời gian chuẩn bị. Đối với địch, đưa yêu sách: Đang mùa rẫy, phải để cho dân chăm sóc mùa màng, xong mùa dân mới dời làng được. Để cho dân đi lại chăm sóc rẫy, thăm viếng nhau, được xuống đồng bằng, mua bán để ổn định đời sống. Không được khủng bố, bắt người và trả tự do cho những người bị bắt vô cớ. Được như thế thì dân sẽ dời làng xuống ở với quốc gia.

Yêu sách trên được đưa tới tên quận trưởng. Địch hi vọng có thể kéo được dân nên nhượng bộ chấp nhận các yêu sách trên và rút quân về. Nhưng chúng bắt chủ làng phải cho người xuống nhận chỗ, phát quang mặt bằng và dời tài sản xuống trước. Nhân dân lại co kéo: “Dân ở đâu thì tài sản ở đó, lúa thóc đang ở trên rẫy chưa thu hoạch, còn phát quang thì dễ, lúc nào làm cũng được, v.v…”. Địch phải nhượng bộ một lần nữa.

Phát huy thắng lợi bước đầu, nhân dân tích cực chuẩn bị cho kế hoạch tiếp theo.

Trong khi đó, ở An Lão, bọn địch cũng giở trò mua chuộc những hương lí chúng lập ra. Chúng cho ăn uống, quà cáp để thuyết phục bọn này bắt dân làm xâu, xây trụ sở ngụy quyền tại xã An Bình, bắt thanh niên vào dân vệ làm nhiệm vụ tuần tra, canh gác. Hương lí đa số là người của ta nên đều trả lời chúng: “Ở đây không làm trụ sở, không cần canh gác vì qua hai đợt “tố cộng” các ông có phát hiện được ai là cộng sản đâu”. “Ở đây đi bói cũng không ra cộng sản”. Bọn địch vẫn bắt phải làm trụ sở, giao hẹn 12 ngày phải làm xong và rút về. Số hương lí thống nhất với nhau về hỏi dân làng thì dân trả lời kiên quyết không làm, không để thanh niên vào dân vệ. Làm trụ sở và để thanh niên vào dân vệ là đi vào chỗ chết.

Các già làng và hương lí họp bàn kế hoạch đối phó và giết heo lấy máu ăn thề, kiên quyết chống lại âm mưu địch. Trở về làng, các già làng và hương lí lại chích máu ăn thề một lần nữa với đồng bào. Sau đó, mọi người lo chuẩn bị bố phòng, cắm chông, gài mang cung, bẫy đá, chuẩn bị tên ná và lập hệ thống báo động dây chuyền từ xa.

Quân địch không nghĩ là đồng bào An Lão chuẩn bị quyết chiến với chúng. Đến hẹn, tên quận trưởng Đoàn An dẫn một đại đội bảo an và bọn công an, mật vụ kéo lên. Dân báo động, 30 thanh niên xã An Bửu có cả các già làng cầm vũ khí ra chặn thì chúng đã vượt qua. Đến An Bình chúng gặp ông Nhứt một mình kéo lưỡi mác xông vào, chúng giựt mác, ông kêu cứu, thanh niên và dân làng ùa ra. Chúng bắn hai bên đường và ào tới thì đụng phải bẫy đá, đứa vỡ đầu, đứa gãy tay, què chân kêu la inh ỏi. Địch chùn lại không dám tiến lên. Lúc này đồng bào từ An Tường, An Phú, An Quý, ào ạt đến An Bình với tất cả vũ khí trong tây vừa hú, vừa “tét” vây chặt bọn địch lại. Trước hàng ngàn đồng bào vũ trang, kẻ thù núng thế, run sợ. Tên quận trưởng đứng xa xoa dịu: “Đồng bào về đi, có gì đâu mà tập trung đông vậy! Quốc gia lên thăm đồng bào thôi! Mời các vị chức sắc ở lại để ta bàn công việc”. Đồng bào nắm được âm mưu địch nên không ai về mà giãn đi phục các ngà đường.

Chúng bắt anh Nĩ trói lại, đánh và hỏi ai xúi giục không làm trụ sở, không vào dân vệ. Anh Nĩ không khai, chúng bắn anh chết tại chỗ. Căm phẫn đến cao độ, cả thanh niên cả già làng, hương lí ùa vào đấu tranh, lên án vạch mặt kẻ giết người: Đồng bào bên ngoài la hú vang động cả núi rừng. Thấy tình hình căng thẳng sợ xảy ra xô xát lớn không lợi, Huyện ủy kịp thời lãnh đạo nhân dân dùng lí lẽ, dựa vào phong tục tập quán, đấu tranh chính trị hợp pháp với địch. Được hỉ đạo, nhân dân đưa ra yêu sách: Không bắt dân làm xâu vì đang mùa rẫy, không bắt thanh niên vào dân vệ vì ở đây không có cộng sản. Không đánh đập nhân dân. Việc giết người vừa rồi phải phạt vạ hai con trâu và một số muối để cúng ma theo phong tục. Suốt ba ngày đêm, đồng bào dùng lí lẽ mềm dẻo kiên trì đấu tranh. Cuối cùng chúng phải chấp nhận tất cả các yêu sách của đồng bào, đền hai con trâu và 30 ki-lô-gam muối.

Cuộc đấu tranh của đồng bào năm xã An Bửu, An Bình, An Tường, An Phú, An Quý thắng lợi làm nức lòng nhân dân An Lão và các huyện kế cận. Sau cuộc đấu tranh này, Huyện ủy chỉ đạo thành lập đội tự vệ.

Đến tháng 9 năm 1958, cả ba huyện miền núi Vĩnh Thạnh, An Lão, Vân Canh qua đấu tranh thắng lợi đã chuẩn bị lực lượng tăng cường bố phòng, cất giấu tài sản, dự trữ lương thực, chuẩn bị đấu tranh bất hợp pháp với kẻ thù Mỹ - Diệm.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Sáu, 2012, 09:03:11 am
*   *
*

Trong những năm 1957-1958, địch liên tiếp mở các cuộc càn, nhất là các vùng gần đồn, gần các trục đường, dọc sông. Chúng mở nhiều đường dọc ngang, cắt ra thành từng ô đánh phá, cắm chốt đi đôi với bắt dân tập trung quanh đồn, chung quanh quận, hòng diệt cơ sở, cán bộ, cắt đứt mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng. Trong năm 1958, trọng điểm của địch là đánh phá các vùng miền núi, hi vọng với tiền của, vật chất cùng với khủng bố chúng có thể nắm được đồng bào các dân tộc. Vì chúng hiểu rằng đồng bào ác dân tộc và núi rừng hiểm trở là căn cứ, là chỗ dựa vững chắc của cách mạng, của kháng chiến, nhưng kết quả đã hoàn toàn ngược lại sự mong muốn của chúng.

Lúc địch tập trung đánh phá miền núi, Đảng ủy càng bám chặt quần chúng ở đồng bằng, ra sức tuyên truyền, giáo dục, xây dựng cơ sở chính trị trong quần chúng, dựa vào quần chúng, khống chế, trừng trị bọn ác ôn tề điệp. Cơ quan lãnh đạo của Đảng vẫn đứng vững. Hành lang vẫn thông suốt. Liên lạc từ tỉnh xuống huyện, xã sau một thời gian bị đứt đã được chấp nối lại (trừ Quy Nhơn và Tuy Phước). Sự gắn bó giữa Đảng với quần chúng ngày càng chặt chẽ, tạo nên sức mạnh chính trị to lớn. Mặt trận nhân dân chống Mỹ - Diệm được phát triển và củng cố.

Hòa nhịp với thắng lợi của phong trào đấu tranh chính trị có kết hợp với vũ trang tự vệ của đồng bào các dân tộc miền núi, phong trào đấu tranh ở đồng bằng được phục hồi và phát triển. Ở Hoài Nhơn, nhờ cán bộ luôn bám chắc cơ sở nên phong trào khôi phục nhanh, nhất là các xã Hoài Sơn, Hoài Châu, Hoài Thanh, Tam Quan… Trong quá trình đấu tranh với địch, cán bộ, đảng viên và quần chúng ngày càng nhận thấy không thể cứ tay không mà chống chọi mãi với kẻ thù được trang bị súng đạn đến tận răng. Thanh niên càng sôi sục muốn xin Đảng cho đánh chứ không thể chịu mãi thế này được. Từ đó phong trào thanh niên thoát li lên núi càng mạnh.

Rõ ràng là địch khủng bố khốc liệt phong trào nhân dân, nếu không vũ trang tự vệ thì không sống được. Tuy chưa có ý kiến của Đảng, nhưng số thanh niên chạy ra rừng tập hợp lại thành những nhóm hoạt động bất hợp pháp, lúc đầu còn lẻ tẻ sau dần thành phổ biến ở các huyện Bình Khê, Phù Cát, Phù Mỹ, Hoài Ân, Hoài Nhơn, An Nhơn. Các cấp ủy Đảng địa phương trước tình hình đó đã kịp thời chỉ đạo tổ chức tập họp thanh niên thoát li thành từng toán, từng trại và hướng dẫn sinh hoạt như lực lượng vũ trang cơ sở. Trong thực tế đấu tranh đã xuất hiện một lực lượng mới: lực lượng bất hợp pháp, có vai trò thúc đẩy phong trào tiến lên theo một xu thế mới.

Giữa lúc tình hình khách quan đang đòi hỏi phải có những chủ trương lãnh đạo và phương pháp đấu tranh cách mạng mới thì mùa hè năm 1958 Tỉnh ủy Bình Định nhận được tài liệu “Đường lối cách mạng miền Nam” của đồng chí Lê Duẩn, ủy viên Bộ chính trị đang công tác ở Nam Bộ khởi thảo và Nghị quyết của Khu ủy khu 5 về kết hợp đấu tranh vũ trang bộ phận với đấu tranh chính trị.

Dưới ánh sáng của văn kiện “Đường lối cách mạng miền Nam” và chỉ thị của Khu ủy về chuẩn bị vũ trang tự vệ ở miền núi, Tỉnh ủy họp tại Đắc Mang (Vĩnh Thạnh) quyết định: Lấy vùng cao An Lão, nhất là từ An Toàn trở vào và các vùng cao Vĩnh Thạnh làm căn cứ trung tâm của tỉnh. Đối với miền núi, để đẩy mạnh công tác xây dựng căn cứ địa, cần chú ý phát triển mạnh mẽ các đoàn thể quần chúng, vận động phong trào sản xuất tự túc, dự trữ lương thực, thực phẩm, nhất là muối, nông cụ, xúc tiến công tác bố phòng chống địch lùng sục, vây ráp. Hết sức chú ý lãnh đạo quần chúng chống địch dồn dân. Đối với đồng bằng, tập trung mọi cố gắng vào việc khôi phục và xây dựng lại phong trào, hướng vào lớp trẻ để phát triển cơ sở.

Trước tình hình phong trào cách mạng trong tinh đang đòi hỏi có sự chuyển biến về chủ trương lãnh đạo, nhất là các vùng miền núi, Nghị quyết của Tỉnh ủy đã đáp ứng phần nào nguyện vọng bức xúc của nhân dân.

Thời kì địch tiến hành cuộc “chiến tranh một phía” sắp qua, một thời kì mới của cách mạng đang được nhen nhóm hình thành.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Sáu, 2012, 09:05:41 am
3 - CUỘC KHỞI NGHĨA CỦA ĐỒNG BÀO BA NA VĨNH THẠNH(1)

Bước vào năm 1959, phong trào cách mạng ở Bình Định cũng như trên toàn miền Nam lại phải đương đầu với những thử thách quyết liệt mới. Chính quyền Diệm ra luật số 91, còn gọi là luật 10-59 đặt mọi hành vi, tư tưởng chống đối chung vào “tội cộng sản”, kéo máy chém đi khắp nơi thẳng tay chém giết những người yêu nước. Ở huyện Hoài Nhơn, chúng thủ tiêu hàng trăm người ở Hy Văn (Hoài Sơn), Đá Bàn (Hoải Hảo), bãi cát Đồng Chu (Hoài Châu), Định Bình (Hoài Đức). Ở nhà lao Bồng Sơn hàng trăm người bị thủ tiêu một lúc, v.v… Đích thân Ngô Đình Diệm trực tiếp đến Tam Quan chỉ đạo bọn ác ôn tiến hành “tố cộng”. Rõ ràng Mỹ - Diệm đã đẩy nhân dân miền Nam vào một tình thế bức bách, buộc nhân dân phải chọn một trong hai con đường: vùng lên đánh đổ Mỹ - Diệm hoặc chịu khuất phục.

Tình hình mới đặt ra một chác hết sức bức xúc đối với toàn Đảng, toàn dân. Tháng 1-1959, Ban chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 15 mở rộng xác định đường lối và phương pháp cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới. Hội nghị đã kiểm điểm tình hình, phân tích khoa học sâu sắc các mặt và xác định: “Con đường phát triển cơ bản của cách mạng miền Nam là dùng bạo lực… lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang hoặc nhiều, hoặc ít, tùy tình hình để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng nên chính quyền cách mạng của nhân dân”(2). Hội nghị còn dự kiến: “Trong những điều kiện nào đó, cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam cũng có khả năng chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang trường kì… và thắng lợi cuối cùng nhất định về ta”(3).

Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 15 có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc đưa phong trào cách mạng miền Nam phát triển thành cao trào cách mạng rộng lớn. Lúc bấy giờ, Tỉnh ủy Bình Định tuy chưa nhận được Nghị quyết 15, nhưng trên cơ sở yêu cầu khách quan của phong trào cách mạng và tinh thần văn kiện “Đường lối cách mạng miền Nam” và chỉ thị của Khu ủy, Tỉnh ủy khẩn trương chỉ đạo xây dựng những đơn vị tự vệ, du kích ở các vùng miền núi.

Ở Vĩnh Thạnh, sau cuộc đấu tranh chống dồn dân thắng lợi ở Vĩnh Hiệp, Vĩnh Hảo, Huyện ủy đã chỉ đạo các xã rút thanh niên xây dựng các tiểu tổ du kích bí mật.

Việc dự trữ lương thực, thực phẩm ở căn cứ và cả cho dân được tiến tiến hành bằng nhiều biện pháp như xây dựng các cơ sở mua hàng từ các thị trấn trong vùng địch kiểm soát, tổ chức các cửa khẩu ở vùng giáp ranh Vĩnh Phúc (Vĩnh Thạnh). Lượng dự trữ bảo đảm từ một đến hai năm.

Mỹ - Diệm tưởng rằng với chính sách đàn áp, khủng bố dã man, chúng có thể dìm phong trào cách mạng của nhân dân trong biển máu nhưng chính là lúc bão tố của cách mạng sắp nổi lên quật đổ chúng.

Sau cộc đấu tranh dồn dân thắng lợi ở Vĩnh Hảo, Vĩnh Hiệp bằng cách trì hoãn, kéo dài thời gian, Huyện ủy phát động toàn huyện vừa tích cực làm mùa, dự trữ lương thực, nhu yếu phẩm, vừa cử người lên núi cao, vào rừng sâu,tìm chọn địa điểm xây dựng làng bí mật và nơi cất giấu tài sản. Trong công cuộc chuẩn bị này, đồng bào Kinh các xã Bình Quang, Bình Giang (Bình Khê), Ân Nghĩa (Hoài Ân), Tứ Thủy, Cửu An (An Khê) đã góp phần quan trọng.

Để tăng cường lực lượng đánh địch, Đảng bộ Vĩnh Thạnh chủ trương củng cố và phát triển các đội du kích làm nòng cốt cho phong trào toàn dân bố phòng chống địch. Các già làng có kinh nghiệm nghiên cứu tẩm tên thuốc độc. Phụ nữ và trẻ em vót các loại chông. Các già làng am hiểu địa hình cùng du kích triển khai các tuyến bố phòng, cắm chông, gài mang cung, bẫy đá… Mọi công việc được triển khai khẩn trương, bí mật.

Sau một thời gian ngắn, hay nói cách khác là qua một mùa rẫy, hoa màu tươi tốt khắp núi đồi, sắp vào mùa thu hoạch, cũng là một mùa toàn Đảng bộ và đồng bào Ba Na Vĩnh Thạnh đang độ chín tới cả về chính trị và vũ trang, chuẩn bị bước vào thời kì gặt hái thành quả cách mạng. Trận địa cách mạng không những được giữ vững và phát triển ở các xã vùng thấp mà còn triển khai mạnh mẽ và chiếm lĩnh cả vùng cao. Vùng cao dần dần trở thành chỗ dựa tin cậy, là căn cứ địa của phong trào địa phương và của cả tỉnh. Với thế và lực đó, Vĩnh Thạnh đang nung nấu ý chí cách mạng, tạo thời cơ và nắm thời cơ khởi nghĩa.

Khi lúa trên rẫy bắt đầu chín, đề phòng địch cướp lúa, Huyện ủy huy động lực lượng toàn dân nhanh chóng gắt hái và cất giấu trong rừng sâu. Vĩnh Hảo, Vĩnh Hiệp là xã vùng thấp, trọng điểm dồn dân của địch, tài sản được dời đi trước vào những làng bí mật. Sắp đến ngày hẹn dời làng xuống khu dồn của địch, Huyện ủy họp quyết định:

- Kiên quyết lãnh đạo quần chúng, vũ trang khởi nghĩa đánh bại âm mưu dồn dân của địch. Không để một làng nào, thậm chí một người nào bị địch lùa xuống khu dồn.

- Đến thời gian quy định xuống khu dồn, làng nào bị địch cưỡng bức phải kịp thời đưa dân lánh ngay vào rừng. Các làng khác sẵn sàng trong tư thế nổi dậy chống địch, nhưng kín đáo, giữ thế hợp pháp đồng thời phát động phong trào đấu tranh chính trị trong toàn huyện phản đối địch dồn dân và ủng hộ việc chạy bất hợp pháp của làng bị dồn. Kết hợp chặt chẽ các hình thức hợp pháp, nửa hợp pháp.

- Thông qua cơ sở cách mạng vùng đồng bào Kinh ở Bình Khê và Hoài Ân, nhất là xã Bình Quang, nơi địch đặt cơ quan quận Vĩnh Thạnh, tung dư luận tạo nên làn sóng phản đối âm mưu dồn dân của địch.


(1) Theo thông tin tạp chí số 2 của Viện Lịch sử quân sự.
(2), (3) Nghị quyết 15 của Ban chấp hành Trung ương Đảng tháng 11 năm 1959.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Sáu, 2012, 09:08:59 am
Ngày 5 tháng 2 năm 1959, năm ngày trước hạn dời làng, tên quận trưởng Thái Quới trực tiếp chiêu đãi các “đại diện” một bữa tiệc linh đình, biếu quà tết, gửi biếu cả dân làng gạo, rượu, dầu hỏa và quy định dứt khoát hai xã Vĩnh Hảo và Vĩnh Hiệp ngày 11 tháng 2 phải đưa toàn bộ dân và tài sản xuống khu dồn. Trước sự cưỡng bức trắng trợn của địch, dựa vào Nghị quyết của Huyện ủy, cán bộ và nhân dân Vĩnh Hảo, Vĩnh Hiệp thống nhất quyết định lập tức rời làng trước khi địch đưa quân lên thúc ép.

Ngày 6 tháng 2 năm 1959(1), nhân dân làng Tà Lốc, Tà Léc và Hà Ri xã Vĩnh Hiệp; Tà Điệt, Kon Rong, Kon Don, Kon Hrao, Con Gít, Pơ Mang xã Vĩnh Hảo đồng loạt vũ trang khởi nghĩa mở đầu sự bùng nổ của cơn lốc cách mạng ở Vĩnh Thạnh. Các ông bà già, phụ nữ, trẻ em cùng những đồ đạc còn lại được đưa lên làng bí mật trong rừng sâu. Thanh niên, du kích hạ cây rào làng, rấp tất cả lối di, cắm thêm chông, gài thêm mang cung, bẫy đá, hình thành làng chiến đấu chống địch. Không khí khẩn trương, kiên quyết, tất bật như đêm trước của một trận đánh lớn. Thế trận chiến tranh nhân dân đã bày sẵn.

Được tin nhân dân Vĩnh Hảo, Vĩnh Hiệp khởi nghĩa, bọn địch ở quận hoang mang, lúng túng. Chúng báo về tỉnh xin viện binh, sợ du kích kéo xuống đánh úp quận lị.

Sáng ngày 7 tháng 2, địch cho một đơn vị bảo an do Đinh On, tên phản bội người Hà Ri dẫn đường kéo lên khủng bố làng mình. Đã chuẩn bị từ trước, du kích phát loa, kêu gọi: “Dân phải chạy làng là tại quốc gia cưỡng ép, không phải dân chống lại quốc gia. Anh em đừng vào làng, nếu vào là chết uổng mạng”. Bọn lính rất ngán kiểu đánh của người Ba Na, chúng dè dặt nhưng bọn chỉ huy thúc phải tiến. Bộ phận đi đầu bị du kích dùng tên thuốc độc bắn, chúng tản ra, bị mang cung phóng, bị chông đâm, chết và bị thương một số trong đó có tên Đinh On phản bội, chúng hoảng sợ phải rút lui.

Hỗ trợ cho Vĩnh Hảo, Vĩnh Hiệp, các xã Vĩnh Hòa, Vĩnh Kim, Vĩnh Châu lợi dụng thế hợp pháp mở một đợt tấn công dư luận: “Dân chạy là sợ quốc gia, chạy rồi mà quốc gia còn đuổi là xấu hơn cả Tây! Nói thương người Thượng làm thế mà là thương hay sao!”. Đồng bào Kinh còn đưa tin hù dọa: “Không thông thạo đường rừng mà lên chỉ có ăn chông, thò, v.v…”.

Sau khi ổn định tinh thần binh lính, tháng 3 năm 1959, địch cho một đại đội bảo an mở hành quân càn quét đánh phá làng Tà Lốc.

Vào làng quân địch sa vào trận địa phục kích, năm tên trong đó có một sĩ quan bị bắn gục tại chỗ. Bị đánh phủ đầu chúng chạy tán loạn, sa vào bãi chông và hệ thống mang cung liên hoàn với bẫy đá làm chết và bị thương hàng chục tên khác. Từ 10 giờ đến 16 giờ, du kích và đồng bào Tà Lốc chiến đấu đẩy lùi bốn đợt tấn công của địch, bẽ gãy hoàn toàn cuộc càn quét. Địch cay cú cho máy bay ném bom và bắn phá đốt cháy làng Tà Lốc.

(http://img265.imageshack.us/img265/2289/vinhthanh1.jpg)

Suối Nước Ló (làng Tà Lốc, Vĩnh Thạnh) nơi diễn ra trận chống càn thắng lợi tháng 3-1959
sau cuộc khởi nghĩa Vĩnh Thạnh tháng 2-1959

Kết quả trận này, nhân dân và du kích Tà Lốc loại khỏi vòng chiến đấu hơn 30 tên địch, thu một súng trường và nhiều đạn dược. Chiến thắng Tà Lốc là trận đánh đầu tiên của du kích và nhân dân vũ trang, cũng là trận thắng đầu tiên của nhân dân Bình Định trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Khẩu súng thu được trong trận đánh là khẩu súng chiến lợi phẩm đầu tiên của lực lượng du kích trong tỉnh.

Càng thua càng cay cú, tháng 4 năm 1959, địch lại cho lực lượng tiến công vào làng Tà Lốc. Nhưng mới mon men đến suối Tấn, chúng đã bị du kích chặn đánh phủ đầu với trận địa chông thò tầng tầng lớp lớp. Địch không vào được làng mà hơn chục tên phải bỏ mạng, trong đó có một sĩ quan, chúng lại phải nhẫn nhục rút lui.

Ba lần đem quân càn quét, cả ba lần đều thất bại, binh lính địch hoang mang, đặc biệt là rất khiếp sợ trước các trận địa mang cung liên hoàn chông, bẫy. Trước thế trận chiến tranh nhân dân của đồng bào dân tộc, bọn địch quay lại biện pháp chiêu dụ. Lợi dụng thế lùi của địch, Huyện ủy chỉ đạo các làng chuyển sang đấu tranh hợp pháp nhưng địch vẫn giở trò đe dọa. Nhân dân thấy rõ địch đang dùng biện pháp “mềm để cứng”, âm mưu cơ bản vẫn là tiếp tục dồn dân. Nên đầu tháng 4, nhân dân lại vũ trang nổi dậy một lần nữa. Lần này quy mô lớn hơn, gần như toàn huyện. Cả 14 làng vùng thấp và vùng cao đều nổi dậy dời làng, bố phòng đánh địch. Ngoài các làng Tà Lăng, Sò Đo (Vĩnh Kim), hai làng Kon Klót, Kon Póp Vai và Kon Dót Krong (Vĩnh Châu). Các làng khác ở Vĩnh Hòa, Vĩnh Trường, Vĩnh Kim cũng rục rịch lập làng chiến đấu, nhất tề chuyển vào đấu tranh bất hợp pháp. Qua thời gian tiếp xúc với địch, đồng bào Ba Na khẳng định: Chỉ có đi con đường vũ trang mới đánh bại được chúng và mới giành được thắng lợi.


(1) Có tài liệu nói khởi nghĩa Vĩnh Thạnh ngày 7-2-1959, nhưng ở đây chúng tôi dựa vào Thông tin tạp chí 2-1990 của Viện Lịch sử quân sự là Vĩnh Thạnh khởi nghĩa ngày 6-2-1959.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Sáu, 2012, 09:11:55 am
Mỹ - Diệm như điên cuồng khi được tin toàn dân Vĩnh Thạnh vũ trang nổi dậy chống lại chúng. Lần này, chúng mua chuộc Đinh On, tên phản bội ở làng Hà Ri dẫn đường đưa quân luồn rừng tập kích làng Kon Klót, bắn chết hai người và bắt bảy người khác.

Đòn phản kích hèn nhát của địch không làm nao núng nhân dân Vĩnh Thạnh. Chiến đấu có được, có mất, đồng bào càng tăng cường cảnh giác, tăng cường bố phòng chặt chẽ hơn, dày đặc hơn. Việc tuần tra, canh gác, báo động, cảnh giới được bố trí cẩn mật. Trừ xã Vĩnh Bình phía Kim Sơn gồm bốn làng địa hình trống trải, lại làm lúa nước nên phải duy trì thế hợp pháp còn tất cả các làng trong huyện đều nổi dậy lập làng chiến đấu chống địch.

Giữa tháng 7 năm 1959, Mỹ - Diệm huy động một lực lượng lớn, cả quân cộng hòa, tập trung đánh vào Tà Lốc - Tà Léc với ý đồ chiếm hai làng này làm bàn đạp, chốt quân dài ngày, lùng sâu vào rừng đánh phá các làng bí mật và xúc tác dân, nhưng chúng không thu được kết quả nào. Vùng giải phóng xã Vĩnh Hiệp và toàn huyện vẫn được giữ vững. Tháng 12 năm 1959, địch còn mở một cuộc hành quân càn quét vào Tà Léc định chiếm đóng lâu dài, nhưng chỉ sau ba ngày bị du kích vừa đánh vừa tiến hành binh vận, bị tiêu hao lực lượng, chúng phải rút.

Ngày 9 tháng 12 năm 1959, tiểu đội du kích tập trung của huyện Vĩnh Thạnh được thành lập tại suối Kờ Nhơm, gồm chín chiến sĩ, trang bị hai tiểu liên, hai súng trường và vũ khí thô sơ. Đây là đơn vị vũ trang tập trung đầu tiên của tỉnh Bình Định.

Từ sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, với bản chất cực kì phản động và ngoan cố, với âm mưu cơ bản là thôn tính miền Nam Việt Nam, xây dựng pháo đài chống cộng ở Đông Nam Á, Mỹ - Diệm đã tiến hành cuộc “chiến tranh một phái” bằng tất cả các biện pháp quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa thâm độc, tàn bạo và xảo quyệt. Cùng với nhân dân toàn miền, nhân dân Bình Định đã trải qua một thời kì đầy khó khăn quyết liệt chưa từng có trong lịch sử. Đây là một thời kì mà “lực lượng cách mạng ở miền Nam có thể bị tan rã, phong trào yêu nước có nguy cơ bị đè bẹp không sao gượng nổi”(1).

Tình hình đó đặt ra cho Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Định hai con đường: Đưa phong trào cách mạng tiến lên hoặc dừng lại chờ thời cơ. Nắm vững quan điểm bạo lực cách mạng, Đảng bộ và nhân dân cũng xác định: không bó tay chờ chết, bất kể hi sinh tổn thất đến đâu cũng kiên quyết đoàn kết đứng lên đấu tranh chống lại bạo lực phản cách mạng. Trong hiệp đầu đọ sức với Mỹ - Diệm, với hai bàn tay không và chỉ bằng tinh thần, bằng ý chí quyết tâm cách mạng, nhân dân Bình Định dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ đã dám đương đầu với súng đạn sắt thép và những âm mưu cực kì hiểm độc, quỷ quyệt của địch.

Tuy tình hình nhiều khó khăn như “Nghìn cân treo sợi tóc”, trừ một vài đảng viên không chịu nổi thử thách đã phản bội đầu hàng nhưng số đảng viên, cấp ủy còn lại lúc nào cũng giương cao ngọn cờ đấu tranh. Đặc biệt là quần chúng nhân dân, với truyền thống bất khuất của một vùng đất thượng võ và quật khởi, đã tập hợp chung quanh Đảng, kiên quyết đấu tranh tới cùng với kẻ thù. Biết bao tấm gương trung hiếu của đảng viên, quần chúng đã xuất hiện.

Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, từ đấu tranh chính trị đơn thuần, hợp pháp đòi địch thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ, đòi dân sinh, dân chủ đã tiến lên kết hợp với vũ trang tự vệ có mức độ, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh hợp pháp và không hợp pháp, chính trị với vũ trang.

Thắng lợi của Vĩnh Thạnh trong suốt 5 năm qua mà đỉnh cao là năm 1959 là thắng lợi quyết định của cuộc đấu tranh chống âm mưu dồn dân, lập ngụy quyền cơ sở để kìm kẹp dân của địch.

Từ sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, chính quyền cách mạng không còn, các đoàn hể quần chúng giải thể. Đảng rút vào hoạt động bí mật. Ta chỉ còn tổ chức ban cán sự quần chúng làm một phần chức năng chính quyền tự quản ở cơ sở. Từ khi địch tiếp quản cho đến năm 1959, chúng không thiết lập được chính quyền xã kể cả các xã vùng thấp. Chúng chỉ có chính quyền quận nhưng không đặt được trên đất Vĩnh Thạnh mà là “đặt nhờ” ở Bình Quang, một xã ở Bình Khê. Âm mưu của chúng là bằng mọi giá dồn cho được dân xuống đồng bằng mới có thể thiết lập được ngụy quyền ở cơ sở, mới kìm kẹp được nhân dân. Đảng bộ đã vạch rõ âm mưu ấy, động viên quyết tâm của nhân dân chống lại và cuối cùng đồng loạt nổi dậy vũ trang khởi nghĩa, biến toàn huyện từ vùng làm chủ thành vùng căn cứ.

Từ vũ trang khởi nghĩa chống địch dồn dân, quần chúng cách mạng đã chuyển sang phát động chiến tranh du kích đánh địch tiến công càn quét. Vĩnh Thạnh là nơi đã diễn ra chiến tranh du kích - cuộc chiến tranh toàn dân - đầu tiên trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở Bình Định, với đội vũ trang tập trung đầu tiên và những trận đánh ác liệt thu vũ khí đầu tiên trong tỉnh, góp phần đưa phong trào cách mạng trong tỉnh phát triển lên những bước mới - tiến công địch ở đồng bằng.

(http://img109.imageshack.us/img109/4281/vinhthanh2.jpg)

Các chiến sĩ du kích Vĩnh Thạnh kể lại cuộc khởi nghĩa ngày 6-2-1959


(1) Trích bài nói chuyện của đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Hội nghị TW lần thứ 19, ngày 17-3-1973.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Sáu, 2012, 09:16:06 am
4 - TIẾN HÀNH XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG - NHỮNG TRẬN ĐÁNH ĐẦU TIÊN Ở NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG

Giữa lúc cuộc vũ trang khởi nghĩa của đồng bào các dân tộc Vĩnh Thạnh đang sôi động thì Tỉnh ủy Bình Định nhận được Nghị quyết 15 của Ban chấp hành Trung ương Đảng. Tháng 7 năm 1959, tại khu căn cứ trung tâm của tỉnh ở vùng cao Vĩnh Thạnh, Tỉnh ủy họp để quán triệt và triển khai Nghị quyết của Trung ương.

Qua học tập Nghị quyết, không khí phấn khởi, hào hứng tràn ngập hội nghị Tỉnh ủy. Liên hệ tinh thần của Nghị quyết với những chủ trương và chỉ đạo của Tỉnh ủy trước đây ai cũng thấy như được Đảng chắp thêm đôi cánh. Những suy nghĩ, hành động của Đảng bộ và nhân dân Bình Định hoàn toàn phù hợp với Nghị quyết 15 của Trung ương. Phong trào cách mạng của tỉnh được Nghị quyết Trung ương soi sáng càng phát triển mạnh mẽ.

Chấp hành Nghị quyết của Trung ương và sự chỉ đạo cụ thể của Khu ủy, Tỉnh ủy thống nhất chủ trương:

Kiên quyết giữ vững và phát triển thắng lợi các cuộc vũ trang nổi dậy của đồng bào Vĩnh Thạnh. Các huyện miền núi cần đẩy mạnh hơn nữa công tác sản xuất tự túc và phát triển lực lượng du kích ở làng xã, tiến tới thành lập chính quyền tự quản.

Ở đồng bằng, phát động phong trào đấu tranh chống bầu cử “quốc hội” của địch. Tích cực rút thanh niên xây dựng các đơn vị vũ trang của huyện và tỉnh.


Nghị quyết 15 của Trung ương và Nghị quyết của Tỉnh ủy được phổ biến rộng rãi trong Đảng bộ các huyện miền núi và đồng bằng như một luồng gió mới thổi vùng lên ngọn lửa cách mạng lâu nay vẫn được cháy âm ỷ. Ai cũng thấy mở cờ trong bụng. Đã qua rồi cái thời kì băn khoăn, day dứt, địch đánh mà cứ phải chịu, “Đảng đã cho đánh trả rồi!”. Nhiều vui lớn tràn ngập trong lòng cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng.

Từ cuối năm 1959, tuy chưa thành lập chính quyền cấp xã, nhưng thông qua ban cán sự quần chúng, nhân dân đã thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng ở cơ sở. Đầu năm 1960, Đại hội đại biểu nhân dân toàn huyện được tổ chức ở Con Vó xã Vĩnh Châu. Hơn 200 đại biểu đại diện cho nhân dân toàn huyện đã về dự. Đó là những cán bộ lãnh đạo chủ chốt của phong trào, là những người cầm đầu nghĩa quân trong thời chống Pháp. Đông đảo nhất là những cốt cán trẻ trưởng thành trong đấu tranh chống Mỹ - Diệm. Đại hội biểu dương thành tích của quân dân Vĩnh Thạnh trong suốt 5 năm qua, đặc biệt là thắng lợi chống dồn dân của hai xã Vĩnh Hiệp, Vĩnh Hảo và kêu gọi xiết chặt khối đoàn kết toàn dân xung quanh Đảng bộ, kiên quyết chống Mỹ - Diệm cho đến ngày hoàn toàn thắng lợi. Đại hội bầu ra Ủy ban nhân dân tự quản toàn huyện gồm 15 người do đồng chí Yin làm chủ tịch.

Sau Đại hội huyện, các xã và thôn mở Đại hội đại biểu nhân dân bầu ủy ban nhân dân tự quản xã và thôn. Về tổ chức Đảng, từ chỗ chỉ có hơn 10 đảng viên năm 1955 đến đây đã có 150 đảng viên. Từ chỗ chỉ có một vài chi bộ cơ quan nay xã nào cũng có chi bộ cơ sở lãnh đạo quần chúng. Dựa chắc vào nhân dân và cùng nhân dân đấu tranh, Đảng bộ Vĩnh Thạnh đã tồn tại và phát triển ngày càng vững mạnh trong những năm thử thách quyết liệt.

Thực hiện Nghị quyết của Đảng, cuộc vũ trang khởi nghĩa của các làng ở Vĩnh Thạnh như một làn sóng cuồn cuộn dâng cao. Ở An Lão, Vân Canh dấy lên phong trào quần chúng tham gia công tác bố phòng lập làng chiến đấu chống âm mưu dồn dân của địch. Các đội du kích được củng cố, phát triển. Ở đồng bằng, phong trào được phục hồi, kể cả các huyện phía nam tỉnh, cơ sở chính trị trong quần chúng được khôi phục và phát triển.

Trên đà phát triển của phong trào cách mạng toàn tỉnh, tháng 10 năm 1959, khung cán bộ quân sự đầu tiên của Bộ tăng cường cho Bình Định đã về đến căn cứ. Đoàn gồm 10 đồng chí do đồng chí Lê Thành Văn và đồng chí Huỳnh Trân phụ trách.

Những tháng cuối năm 195, đầu năm 160, phong trào cách mạng ở miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ dưới tác động của Nghị quyết 15 đã diễn ra cực kì sôi động. Sau Vĩnh Thạnh, cuộc khởi nghĩa ở Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi đã nổ ra và giành thắng lợi rực rỡ. Tiếp theo là cuộc đồng khởi ở Bến Tre và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đã thực sự chuyển phong trào cách mạng miền Nam sang thế tiến công. Bộ máy ngụy quyền của địch bắt đầu rung chuyển, nhất là ở thôn xã. Phạm vi kiểm soát của địch bị thu hẹp. Chế độ Mỹ - Diệm đi vào con đường phát xít hóa không chứng tỏ chúng mạnh mà chính là đã bộc lộ thế yếu trước phong trào của nhân dân ta.

Để chỉ đạo kịp thời phong trào cách mạng trong tình hình mới, vào đầu năm 1960, Tỉnh ủy thành lập ban cán sự Khu Đông, do đồng chí Phong (tức An) phụ trách để lãnh đạo, xây dựng phong trào ở phía nam Phù Cát, đông An Nhơn, Tuy Phước. Đồng thời tổ chức 1 tiểu đội vũ trang do ban cán sự Khu Đông chỉ đạo làm nòng cốt xây dựng phong trào(1).

(http://img534.imageshack.us/img534/6474/nuiba.jpg)

Núi Bà, căn cứ Khu Đông

Cùng với việc đánh địch càn quét, phá vỡ kế hoạch dồn dân của Mỹ - Diệm, tháng 3 năm 1960 du kích tập trung huyện Vân Canh đã có sáng kiến đánh giao thông bằng cách dùng ống điếu nhôm, đập bẹp vừa bằng chiếc e cu để mở ốc đường ray, và dùng dây mây biện để kéo đường ray. Khi tàu vừa đến đoạn đường Mục Thịnh, 4 chiến sĩ du kích dồn sức, kéo bậc thanh đường ray, đầu tàu lao xuống vực kéo theo 16 toa, làm chết 100 tên lính ngụy, phá hủy hàng chục tấn hàng quân sự(1).


(1) Theo CHIẾN TRANH DU KÍCH TRÊN CHIẾN TRƯỜNG BÌNH ĐỊNH.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Sáu, 2012, 09:17:25 am
*   *
*

Tháng 6 năm 1960, trước yêu cầu phát triển của phong trào cách mạng, Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ nhất (trong kháng chiến chống Mỹ) tỉnh Bình Định họp tại làng Tu Cơ Rông huyện Vĩnh Thạnh kiểm điểm sự lãnh đạo của Tỉnh ủy trong năm qua, nhất là rút kinh nghiệm phong trào miền núi mà đỉnh cao là cuộc vũ trang khởi nghĩa ở Vĩnh Thạnh. Đại hội chủ trương: Tiếp tục phát động phong trào đấu tranh khởi nghĩa và tiến hành chiến tranh du kích mạnh mẽ ở miền núi nhằm củng cố, bảo vệ và mở rộng căn cứ địa miền núi. Đẩy mạnh hoạt động vũ trang tuyên truyền, phát động quần chúng diệt ác, trừ gian, khôi phục, phát triển cơ sở ở đồng bằng, xây dựng bàn đạp vùng giáp ranh và các lõm đồng bằng đẩy phong trào đồng bằng lên một bước mới lấy hai huyện Hoài Nhơn, Hoài Ân làm trọng điểm. Khẩn trương xây dựng lực lượng vũ trang tập trung tỉnh, huyện, các đội vũ trang công tác, đẩy mạnh hoạt động vũ trang hỗ trợ mạnh mẽ hơn nữa phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng. Tổ chức ban quân sự bên cạnh cấp ủy, trực tiếp chỉ huy các lực lượng vũ trang ở địa phương.

Đại hội bầu ra Ban chấp hành Đảng bộ mới gồm 11 đồng chí do đồng chí Mai Dương làm bí thư, hai đồng chí Trần Quang Khanh và Võ Văn Đinh phó Bí thư.

(http://img571.imageshack.us/img571/9900/bche.jpg)

Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh trong Đại hội Đảng bộ tháng 6-1960

(http://img856.imageshack.us/img856/3317/62930244.jpg)

Đồng chí Mai Dương

Sau Đại hội, ban quân sự tỉnh được thành lập. Đồng chí Đặng Thành Chơn là trưởng ban, đồng chí Lê Thành Văn phó ban, đồng chí Huỳnh Xuân chính trị viên. Ngày 2 tháng 9 năm 1960, tại làng O3 Cà Tung xã Tu Cơ Rông huyện Vĩnh Thạnh, đội vũ trang tập trung đầu tiên của tỉnh ra đời gồm 35 đồng chí, do đồng chí Trần Quang Giáo làm đội trưởng, đồng chí Đinh Bá Tòng, chính trị viên. Trung đội được trang bị một trung liên, tiểu liên, súng trường đầy đủ. Để kỉ niệm ngày ra đời của đơn vị trùng với ngày Quốc khánh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, đội mang tên đội 2-9. Tháng 10 năm 1960, các phân đội đặc công - trinh sát, thông tin, công binh của tỉnh được thành lập.

Ở Vĩnh Thạnh, từ một tiểu đội ban đầu đã phát triển thành một trung đội. Ở An Lão, trên cơ sở đội từ đầu năm 1959 đã phát triển thành một trung đội. Cùng thời gian này, ở Hoài Nhơn, đội vũ trang huyện gồm 13 người do đồng chí Diên An làm đội trưởng được thành lập. Các đội vũ trang ở một số xã phía bắc huyện cũng ra đời. Ở Hoài Ân, từ tổ vũ trang 5 chiến sĩ cuối năm 1959 đến nay đã tổ chức thành đội vũ trang tập trung 12 đồng chí. Các xã phía nam huyện đều có đội vũ trang công tác. Ở Bình Khê có một đội gồm 12 người do các đồng chí Thanh và Kim Anh chỉ huy. Ở An Nhơn, Tuy Phước, Phù Cát, Phù Mỹ mỗi huyện đều thành lập đội vũ trang từ 9 đến 15 người. Các đội trên được trang bị một ít súng còn lại là vũ khí thô sơ. Cán bộ, chiến sĩ đều là những người đã được rèn luyện, thử thách trong phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng, có trình độ giác ngộ dân tộc và giai cấp cao.

Sự ra đời cùng một lúc các đơn vị vũ trang tỉnh, huyện và một số xã ở cả miền núi và đồng bằng tuy còn nhỏ đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển của phong trào cách mạng Bình Định, làm niềm tự hào của nhân dân toàn tỉnh, là lực lượng hỗ trợ mạnh mẽ cho đấu tranh chính trị, thực hiện đấu tranh chính trị, vũ trang song song.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Sáu, 2012, 09:18:29 am
Trong khi các đơn vị vũ trang tập trung của tỉnh và các huyện đồng bằng đang tranh thủ ổn định tổ chức, học tập, huấn luyện thì tháng 7 năm 1960 bộ đội địa phương huyện và du kích Vĩnh Thạnh triển khai đánh địch càn quét tại ngã ba sông Kôn và sông Trinh. Lợi dụng nước lũ ngầu đục, du kích bí mật dùng chông cắm xuống lòng sông, nơi địch sẽ lội qua. Khi quân địch xuất hiện bên kia sông, một vài du kích khiêu khích, bọn địch mắc mưu lập tức lội sông. Nhưng bất hạnh cho chúng, du kích phục sẵn trên bờ đã buông tên đồng loạt và đội hình địch. Vừa bị tên bắn vừa bị chông đâm, 3 tên chết tại chỗ, nhiều tên khác bị thương, phải rút lui không thực hiện được kế hoạch càn quét. Trận đánh nhỏ, nhưng đã thể hiện tinh thần dũng cảm và mưu trí, sáng tạo trong đánh du kích của con em dân tộc Ba Na.

Đơn vị vũ trang tập trung 2-9 của tỉnh sau một tháng huấn luyện, được ban quân sự tỉnh cho ra quân chiến đấu trận đầu. Nghiên cứu kĩ tình hình địch, ban quân sự tỉnh cho đơn vị thọc sâu xuống đồng bằng tập kích trụ sở ngụy quyền xã Hoài Tân, huyện Hoài Nhơn cách quận lị Bồng Sơn 4 ki-lô-mét về phía bắc. Yêu cầu của trận đánh là phát huy uy thế chính trị, đập tan luận điệu tuyên truyền của địch “Cộng sản chỉ là cái bóng ma lẩn quẩn trên núi”, gây lòng tin và hỗ trợ phong trào đấu tranh của quần chúng ở đồng bằng, đồng thời lấy vũ khí địch để trang bị cho ta. Từ yêu cầu đó, đơn vị vận dụng thủ đoạn chiến thuật bí mật tập kích, tiềm nhập sát mục tiêu, bất ngờ xung phong áp đảo bắt sống địch, buộc địch đầu hàng giao nộp vũ khí. Sau đó tuyên truyền giải thích và phóng tích tại chỗ, gây tác động lớn trong hàng gũ địch, tạo thuận lợi cho công tác binh vận.

Việc ra quân trận đầu của đội được nghiên cứu, chuẩn bị chu đáo các mặt, chỉ bằng một trận đánh thắng mà đạt ý nghĩa cả về quân sự, chính trị và binh vận trong vùng sâu đồng bằng. Từ hậu cứ, đơn vị hành quân qua nhiều vùng có đồn bót địch mất tám đêm mới đến vị trí tập kết cuối cùng.

Trụ sở ngụy quyền xã Hoài Tân nằm bên đường số 1 do một trung đội dân vệ đóng giữ. Đêm 23 tháng 9 năm 1960, lợi dụng triệt để yếu tố bí mật bất ngờ, ta triển khai tiếp cận. Trinh sát phát hiện quy luật canh gác của địch có thay đổi, không gác một tên như thường lệ mà ba tên. Giữ vững quyết tâm, đồng chí chỉ huy trận đánh phân công ba cán bộ bất ngờ diệt ba bên lính gác, tiếp tục phương án đã định.

Nhận được tín hiệu, cùng lúc ba cán bộ xông vào bóp cổ ba tên lính cũng là lúc toàn đội xông vào chĩa súng buộc địch đầu hàng. Sau 30 phút, trung đội dân vệ bị bắt gọn, ta thu 22 súng các loại và đạn dược. Sau khi giải thích, giáo dục, ta phóng thích tại chỗ. Trận đánh thắng lợi giòn giã, gây tiếng vang lớn suốt dải đồng bằng. Bọn địch trong vùng rất lo sợ.

Cùng đêm 23 tháng 9, phân đội đặc công tỉnh phối hợp với đội vũ trang huyện Hoài Ân tập kích trụ sở ngụy quyền xã Ân Nghĩa bắt gọn một trung đội dân vệ, thu 25 súng.

Cả hai trận đánh của hai đơn vị bộ binh và đặc công tỉnh lần đầu ra quân đã thực hiện đánh nhanh, diệt gọn. Đặc biệt, hai trận đánh đều chọn mục tiêu ở đồng bằng, gây niềm tin và phấn khởi lớn trong nhân dân, chấm dứt thời kì địch cho đồng bằng là vùng an toàn của chúng. Hai trận đánh còn có ý nghĩa xây dựng kinh nghiệm trong việc tổ chức chỉ huy, nắm địch, vận dụng chiến thuật, tiêu diệt lực lượng địch, bồi dưỡng lực lượng ta.

Cay cú vì bị đòn tấn công bất ngờ của ta ở đồng bằng, tháng 11 năm 1960, địch mở cuộc càn quét, gây ra vụ tàn sát đẫm máu ở làng Đá Bàn (An Lão), giết sạch 32 người dân vô tội(1). Đến cuối tháng 12 năm 1960, địch dùng một tiểu đoàn lính HRé do tên Đinh Ngô chỉ huy, từ Quảng Ngãi vào càn quét, cướp bóc, đốt phá các xã An Dân, An Lạc, An Vinh (An Lão. Đơn vị 2-9 đã phục kích vận động ở Đất Dài, diệt một tiểu đoàn, thu hai súng, buộc địch phải rút lui. Thừa thắng, ta phá khu tập trung Gò Nĩ (Đất Dài), giải phóng vùng phía tây sông An Lão (từ An Dân trở lên).

Tháng 11 năm 1969, tiểu đội vũ trang Bình Khê tiến công trung đội dân vệ ở trụ sở xã Bình Tân, nhưng không dứt điểm.

Được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, nhiều cuộc biểu tình, mít tinh đã nổ ra khắp nơi trong tỉnh. Nhân ngày 20 tháng 12 năm 1960, ngày thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, đội vũ trang huyện An Nhơn tổ chức một cuộc vũ trang tuyên truyền tại An Trường, tuyên truyền cương lĩnh của Mặt trận gây tiếng vang lớn trong toàn huyện. Cùng với mục đích trên, ngày 21 tháng 01, đội vũ trang huyện Bình Khê tổ chức mít tinh tại chợ Kiên Mỹ xã Bình Thành có hàng trăm người dự, được quần chúng nhiệt liệt hoan nghênh, hưởng ứng. Ngay sau cuộc mít tinh, nhiều thanh niên tự nguyện tham gia bộ đội.

Năm 1960 kết thúc, phong trào chính trị trong tỉnh đang trên đà phát triển. Qua những cuộc vũ trang nổi dậy ở miền núi, lực lượng chính trị của quần chúng lớn mạnh vượt bậc. Lực lượng vũ trang tỉnh, huyện ngày càng phát triển, chiến đấu đạt hiệu quả khá. Đấu tranh chính trị và vũ trang cùng phát triển, hỗ trợ lẫn nhau. Tuy vậy, thực lực địch ở đồng bằng còn mạnh, chúng còn sử dụng được bộ máy thống trị, nhất là ở xã thôn để khống chế phong trào. Ở miền núi, địch còn tiếp tục đánh phá ác liệt, nhưng ta đủ thế và lực để bảo vệ phong trào. Tổng hợp chung toàn tỉnh, tình hình đang bắt đầu chuyển biến có lợi cho cách mạng.


(1) Theo CHIẾN TRANH DU KÍCH TRÊN CHIẾN TRƯỜNG BÌNH ĐỊNH


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Sáu, 2012, 09:19:44 am
Chương V

PHÁT ĐỘNG CHIẾN TRANH DU KÍCH, GIẢI PHÓNG NÔNG THÔN
ĐỒNG BẰNG, ĐÁNH BẠI “CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT”
(1/1961-6/1965)

Tháng 1 năm 1961, Bộ chính trị họp ra Nghị quyết và phương hướng và nhiệm vụ công tác trước mắt. Nghị quyết nhấn mạnh: “Thời kì tạm ổn định của chế độ Mỹ - Diệm đã chấm dứt và thời kì khủng hoảng triền miên đã bắt đầu… Đến nay, do lực lượng so sánh đã thay đổi, cần phải chuyển phương châm đấu tranh: Đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh chính trị, đồng thời đẩy mạnh đấu tranh vũ trang lên song song với đấu tranh chính trị, tiến công địch bằng cả hai mặt chính trị và quân sự”(1). Bộ Chính trị đề ra phương châm công tác ba vùng: Ở rừng núi, lấy đấu tranh quân sự làm chủ yếu. đồng bằng, đấu tranh quân sự và đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị có thể ngang nhau. Ở các vùng đô thị, lấy đấu tranh chính trị làm chủ yếu.

Nghị quyết trên là sự vận dụng cụ thể một bước của Nghị quyết Trung ương 15, trong những điều kiện mới, đề ra những vấn đề cơ bản về đường lối và phương pháp cách mạng cho miền Nam trong giai đoạn mới, soi sáng và thúc đẩy phong trào cách mạng trong tỉnh.

Lúc này, lực lượng vũ trang trong tỉnh cũng như trên toàn miền phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng. Tuy vậy, tổ chức, tên gọi mỗi nơi một khác. Bộ Chính trị chủ trương thống nhất các lực lượng vũ trang miền Nam thành “Quân giải phóng miền Nam”, chuyển Ban quân sự miền Nam thành Bộ chỉ huy Quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Ở Khu 5, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 được thành lập thay cho Ban quân sự khu.

Bộ Chính trị xác định: Quân giải phóng miền Nam là một bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam, là lực lượng vũ trang cách mạng của các dân tộc miền Nam Việt Nam do Đảng sáng lập, xây dựng giáo dục và lãnh đạo. Đường lối chính trị, đường lối quân sự của Đảng là nhân tố quyết định sự thắng lợi của nó. Quân giải phóng kế thúc truyền thống anh dũng, tinh thần quật khởi và đoàn kết chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Quân giải phóng miền Nam gồm ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích.

Việc thống nhất các lực lượng vũ trang cách mạng trong toàn miền, trong tỉnh tạo niềm phấn chấn lớn trong Đảng bộ và cán bộ, chiến sĩ. Anh giải phóng quân - anh bộ đội Cụ Hồ - người lính của Đảng, của dân tộc Việt Nam anh hùng có nhiệm vụ làm nòng cốt cho cuộc chiến tranh của nhân dân đánh thắng Mỹ - Diệm, giải phóng quê hương, Tổ quốc. Đó là vinh dự, là trách nhiệm, làm tỉnh cảm thiết tha, là nguyện vọng duy nhất của mọi cán bộ, chiến sĩ trong tỉnh.

Lực lượng vũ trang giải phóng tỉnh Bình Định đến đây đã hình thành:

- Bộ đội tỉnh: Có đại đội Tây Sơn (từ đội 2-9 phát triển, thành lập ngày 8/2/1961 tại làng Kon Truk, xã Lơ Pin - Vĩnh Thạnh), một đội đặc công, ba tiểu đội trinh sát, thông tin, công binh.

- Bộ đội huyện: Vĩnh Thạnh có hai trung đội là Bok Tới 1 và Bok Tới 2; An Lão có hai trung đội Nhân Mỹ 1 và Nhân Mỹ 2, Vân Canh, Hoài Nhơn, mỗi huyện một trung đội, Hoài Ân có hai tiểu đội; Bình Khê, Phù Mỹ, Phù Cát, An Nhơn, Tuy Phước mỗi huyện có một tiểu đội.

- Dân quân du kích: Ở các xã đều có từ 1 đến 2 tiểu đội tập trung hoặc là đội công tác.

Cũng trong thời gian này, tỉnh đội Bình Định còn chi viện cho tỉnh Khánh Hòa một trung đội có đầy đủ quân số và trang bị.

Lực lượng vũ trang giải phóng Bình Định tuy quy mô còn nhỏ, nhưng vừa thành lập đã ra quân đánh thắng trận đầu, chặng đường đi lên còn nhiều khó khăn nhưng tiền đồ của nó rất sáng lạn.


(1) CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC 1954-1975 Những sự kiện quân sự - Nhà xuất bản QĐND - Hà Nội 1988 tr 74-75


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Sáu, 2012, 09:20:37 am
I - ĐẨY MẠNH CHIẾN TRANH DU KÍCH,
ĐÁNH ĐỊCH CÀN QUÉT, GOM DÂN LẬP “ẤP CHIẾN LƯỢC”


Sau những thất bại dồn dập trong năm 1960 và đầu năm 1961 ở miền Nam, tháng 1 năm 1961, Ken-no-di thay Ai-xen-hao làm Tổng thống, dấn thêm vào con đường xâm lược vũ trang quy mô lớn. Ken-nơ-di đề ra chiến lược quân sự mới: chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, lấy miền nam Việt Nam làm thí điểm đầu tiên.

Thực hiện ”chiến tranh đặc biệt”, Mỹ tiến hành một hình thức chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới, dùng người Việt đánh người Việt, sử dụng lực lượng tay sai ngụy quân, ngụy quyền, với vũ khí, trang bị, phương tiện chiến tranh, tài chính Mỹ, do Mỹ chỉ huy. Để mở đầu thực hiện chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, Mỹ đề ra kế hoạch Xta-lây - Tay-lo nhằm “bình định” miền Nam trong 18 tháng.

Mỹ - Diệm ngoan cố lao vào cuộc “chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam làm cho chiến tranh mở rộng và kéo dài. Cách mạng gặp thêm nhiều khó khăn, nhưng chúng không thể cứu vãn được thế nguy khốn của chúng trước tinh thần quật cường của nhân dân ta.

Thực hiện chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, Mỹ - Diệm lấy càn quét, gom dân lập “ấp chiến lược” làm biện pháp chiến lược chủ yếu, nhằm tách lực lượng cách mạng ra khỏi nhân dân.

Thực hiện kế hoạch “Xta-lây - Tay-lo”, ở Bình Định, ngoài 13 đại đội bảo an, 96 tổng đoàn dân vệ, chúng còn đưa về đây hai trung đoàn cộng hòa đứng chân dọc rìa núi để đối phó với ta. Địch tăng cường sửa sang đường sá, nhất là đường chiến lược 19, mở rộng quân cảng Quy Nhơn. Chúng ráo riết bắt lính, đôn quân, đưa dân vệ lên bảo an, đưa thanh niên cộng hòa lên dân vệ. Trước mỗi xã chỉ có một trung đội dân vệ, nay có nơi tăng lên một đại đội như Hoài Ân. Ở Hoài Nhơn, chúng tổ chức mỗi thôn một tiểu đội thanh niên chống du kích.

Mỹ - Diệm tiếp tục bắt ép nhân dân rào núi, phát quang những nơi nghi ta phục kích. Tăng cường xây dựng công sự, cắm chông, gài mìn những đường hẻm từ núi ra, tạo một vành đai trắng giữa vùng giáp ranh và đồng bằng. Chúng dồn dân ở những xóm lẻ, đặc biệt là cưỡng bức dân đi dinh điền. Ở An Nhơn, Bình Khê, Phù Mỹ chúng dùng quân đội trắng trợn bắt đồng bào đi dinh điền và khủng bố những người tình nghi. Ở Nhơn Lộc (An Nhơn), chúng bắt 21 người đem về tra tấn dã man. Ở Phù Cát chúng bắn chết người rồi chặt tay, chân ném ra ngoài gò. Ở Ân Nghĩa (Hoài Ân), chúng mổ bụng người bị bắt, lấy gan uống rượu. Ở Quy Nhơn địch khủng bố, truy tróc làm lực lượng cán bộ của ta ở cơ sở bị tổn thất nặng.

Thời gian này, địch liên tiếp mở 25 cuộc hành quân vào các khu căn cứ của ta ở Vĩnh Thạnh, An Lão, Vân Canh.

Tháng 2 năm 1961, địch dùng hai tiểu đoàn cộng hòa đánh phá huyện Vĩnh Thạnh. Đại đội Tây Sơn cùng với bộ đội huyện Vĩnh Thạnh và du kích địa phương triển khai đánh địch suốt bốn ngày đêm, nhiều trận đánh diễn ra ác liệt ở các làng Giá Mây, Kon Là, Kon Hai. Chiến sĩ ta đã dùng lưỡi lê báng súng diệt địch, đánh lui nhiều đợt tiến công của chúng, giết 80 tên, buộc địch phải bỏ dở trận càn. Lúc này ở Vĩnh Thạnh mỗi xã chỉ có một trung đội du kích nửa thoát li, đã hình thành xã chiến đấu liên hoàn, bố phòng trên một triệu cây chông, 8.725 mang cung, 1.625 hầm chông, 218 bẫy đá… Đến tháng 3 năm 1961, bộ đội địa phương và du kích các huyện Vĩnh Thạnh, An Lão, Vân Canh liên tục đánh địch càn quét, diệt 137 tên, làm bị thương 168 tên, thu hai trung liên, bảy tiểu liên, súng trường và nhiều đạn dược. Ở An Lão, ta giải phóng khu tập trung dân Đất Dài. Đến tháng 10, kết hợp tiến công với nổi dậy, ta đã giải phóng chín thôn phía tây sông An Lão gồm Hưng Nhơn, Thanh Sơn, Thuận An, Thuận Hòa, Vạn Xuân, Tân Xuân, Tân Sơn, Vạn Trung, Vạn Tín, được 4000 dân.

Ở đồng bằng, đêm 16 tháng 7 năm 1961, hai trung đội của đại đội Tây Sơn cùng bộ đội địa phương huyện Hoài Nhơn tập kích đồn dân vệ Hoài Sơn, diệt một trung đội và bọn chỉ huy tổng đoàn dân vệ gian ác. Sáng hôm sau, địch cho một trung đội đến tiếp viện. Đến Bầu Đưng xã Hoài Châu nghe súng nổ, bọn lái xe hốt hoảng húc vào nhau làm ba xe lật nhào. Nhân cơ hội đó, đơn vị chặn viện nổ súng tiến công. Địch chết 53 tên, bị thương 18 tên, 13 tên bị bắt. Ta thu 45 súng các loại, trong đó có ba trung liên, sáu tiểu liên, 3.000 viên đạn. Đây là trận đánh có tác động lớn ở đồng bằng, diệt nhiều địch, thu nhiều vũ khí, mở đầu cho việc phá bung “ấp chiến lược” ở vùng rìa núi (vùng giáp ranh) trong toàn tỉnh. Ta đã vận dụng tốt chiến thuật đánh điểm diệt viện. Phát huy thắng lợi, ta tiếp tục tiến công trụ sở ngụy quyền xã Hoài Châu, diệt hơn 100 tên, thu toàn bộ vũ khí.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Sáu, 2012, 09:22:35 am
Được lực lượng vũ trang của trên hỗ trợ, du kích và nhân dân nhiều nơi nổi dậy diệt ác phá kèm như: diệt tên ác ôn Nguyễn Nhì ở Hoài Sơn, Trần Quang Diệm Hoài Thanh, tên Trịnh Hường ở Hoài Hảo (Hoài Nhơn); các tên Vĩnh Trường, Võ Huật, Lê Định Đào là những tên khét tiếng hung ác, gian xảo ở Cát Hanh (Phù Cát). Cuối năm 1961, Hoài Nhơn đã mở ra mộ số vùng tranh chấp và làm chủ như An Đỗ (Hoài Sơn), Ngọc Sơn (Hoài Thanh), Lộ Diêu (Hoài Mỹ), Định Bình (Hoài Đức). Lực lượng vũ trang huyện đã phát triển thành hai trung đội. Mỗi xã đều có đội vũ trang công tác từ 7 đến 12 đồng chí, hoạt động đều khắp đưa phong trào trong huyện phát triển lên một bước.

Ở An Nhơn, đêm 27 tháng 9 năm 1961, lực lượng vũ trang huyện phối hợp với tiểu đoàn 30 chủ lực khu (trên đường hành quân vào Khánh Hòa) và đơn vị vũ trang huyện Vân Canh tiến công trụ sở ngụy quyền xã Nhơn Lộc và bố trí đánh viện binh địch. Trụ sở ngụy quyền xã bị diệt. Sáng hôm sau, địch từ quân lị và xóm Mới kéo đến ứng cứu, sa vào trận địa phục kích của ta, bị ta đánh thiệt hại nạng phải rút về. Kết quả hai trận đánh trên ta diệt một trung đội dân vệ (có tên tổng đoàn trưởng), hai trung đội bảo an, bắt 11 tên, thu 40 súng các loại và 3 trung liên, làm chủ đoạn đường 19 suốt một ngày.

Ở Hoài Ân, tháng 5 năm 1961, ta tổ chức đánh trụ sở xã Ân Nghĩa lần thứ hai, kết hợp chặn viện diệt một đại đội bảo an ở bờ xe nước Kim Sơn. Tháng 7 ta diệt một trung đội dân vệ ở Vạn Trung và tiến công địch ngay giữa ban ngày ở bãi Vạn Trung, diệt nhiều bảo an, dân vệ. Sau đó đội vũ trang huyện tổ chức đột nhập vũ trang tuyên truyền tại chợ Hà Đông xã Ân Hữu lúc 8 giờ sáng ngày 7 tháng 11 năm 1961, bắt dân vệ tước súng, giáo dục và phóng thích tại chỗ. Những hoạt động trên gây tiếng vang lớn trong toàn huyện. Nhân đà thắng lợi, ta đột nhập thôn Bình Sơn xã Ân Nghĩa diệt bốn tên ác ôn. Được hoạt động vũ trang hỗ trợ, các lực lượng đấu tranh hợp pháp được củng cố và phát triển lên một bước.

Đặc biệt ngày 6 tháng 10 năm 1961, lần đầu tiên, lực lượng vũ trang tỉnh tổ chức phục kích một đoàn tàu lửa quân sự. Sau khi nghiên cứu quy luật chạy tàu quân sự của địch, ta tổ chức phục kích tại đoàn đường sắt Đá Huê cách Vân Canh ba ki-lô-mét. 11 giờ 30 ngày 6 tháng 10, một đoàn tàu quân sự địch 23 toa tiến vào trận địa. Bộ đội ta nổ súng tiến công. Sau ba giờ chiến đấu ác liệt, ta loại khỏi vòng chiến đấu 100 tên, thu một trung liên, một số súng trường, phá hủy một đầu máy và một số toa xe. Trận đánh gây chấn động lớn trong hàng ngũ địch và tạo niềm phấn khởi trong nhân dân toàn tỉnh.

Cũng trong thời gian này, địch tiến hành mở tuyến đương An Lão đi Ba Tơ, nhưng đã bị bộ đội huyện An Lão cùng với du kích địa phương đánh phá liên tục, buộc chúng phải bỏ kế hoạch(1).

(http://img266.imageshack.us/img266/1478/dongbaoanlao.jpg)

Quân và dân An Lão xây dựng làng chiến đấu bảo vệ căn cứ

Qua thắng lợi ngày càng rộ của quân dân trong tỉnh, tinh thần bọn bảo an, dân vệ dao động mạnh. Bọn nhân viên ngụy quyền bỏ việc, thanh minh với dân diễn ra phổ biến ở các huyện Hoài Ân, Hoài Nhơn, Bình Khê, Phù Mỹ, Phù Cát. Hai tổng đoàn dân vệ ở An Lão tan rã, 21 tên nằm ỳ, 36 tên xin thôi việc. Một nửa số dân vệ ở các xã Cát Tài, Cát Hanh, Cát Minh, Cát Khánh (Phù Cát), Mỹ Hiệp (Phù Mỹ) xin nghỉ việc. Trong tháng 11 năm 1961, quận An Lão xin đổi quận trưởng ba lần. Quận trưởng Tuy Phước, Vân Canh xin từ chức. Tuy vậy vẫn còn một số tên phản động và ngoan cố ra mặt đàn áp, khủng bố nhân dân.

Ở đồng bằng, ta đã phát động quần chúng phá vỡ được hệ thống kìm kẹp của địch ở một số vùng, 20 thôn được giải phóng. Bộ máy thống trị của địch ở nông thôn, nhất là cơ sở bị rung chuyển mạnh. Ta đã giành và đang xây dựng một số bàn đạp làm chỗ đứng chân ở một số vùng sâu đồng bằng. Đường lối, chính sách của Đảng dần dần thâm nhập vào quần chúng. Qua đấu tranh thắng lợi, quần chúng tự tin vào khả năng và sức mạnh của mình. Lực lượng vũ trang qua hoạt động ở đồng bằng, có lúc thọc sâu xuống phía đông quốc lộ 1 ở Phù Mỹ, Phù Cát, đã rút được nhiều kinh nghiệm trụ bám, phát động quần chúng, vận dụng có hiệu quả cách đánh du kích và tranh thủ cơ hội đánh những trận vận động nhỏ đạt hiệu suất chiến đấu cao. Tuy vậy việc vận dụng phương châm, phương thức ở đồng bằng còn lệch, như nặng phát triển chiều rộng mà nhẹ đi vào củng cố chiều sâu, công tác ở xã nhiều nơi còn yếu, xây dựng, huấn luyện chưa làm được bao nhiêu, v.v…


(1) Theo CHIẾN TRANH DU KÍCH TRÊN CHIẾN TRƯỜNG BÌNH ĐỊNH.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Sáu, 2012, 09:06:21 pm
*   *
*

Bước vào năm 1962, sau những thất bại ở Bình Định cũng như trên toàn miền, Mỹ - Diệm đẩy mạnh việc thực hiện kế hoạch Xta-lây - Tay-lo, chủ yếu là tăng quân càn quét lập “ấp chiến lược”. Chúng đề ra kế hoạch cụ thể cho từng vùng:

- VÙNG ĐỎ: Vùng giải phóng hoặc vùng ta làm chủ: quân sự tự do hành động với chính sách đốt sạch, phá sạch, giết sạch.

- VÙNG HỒNG: Vùng tranh chấp thì kết hợp càn quét khủng bố với chiêu an dồn dân lập ấp.

- VÙNG XANH: Vùng địch kiểm soát: dùng biện pháp hành chính kết hợp với “tố cộng” lập “ấp chiến lược”.

Kế hoạch được nhấn mạnh là thực hiện dồn dân đại quy mô, rào làng, lập “ấp chiến lược”, nhằm cắt đứt mọi quan hệ giữa cách mạng và quần chúng, giữa miền núi với đồng bằng, đánh bật lực lượng và cơ sở cách mạng ra khỏi quần chúng, làm cho cách mạng hông còn chỗ dựa để hoạt động. Đồng thời tăng cường càn quét, đánh phá miền núi, chặn phá hành lang, tung gián điệp, biệt kích thọc sâu vào căn cứ của cộng sản nhằm giành lại quyền chủ động, tiêu diệt lực lượng vũ trang cách mạng và cơ quan lãnh đạo kháng chiến. Bao vây kinh tế vùng cộng sản làm chủ.

Đẩy mạnh kế hoạch Xta-lây - Taylo ở Bình Định là biểu hiện sự hốt hoảng của Mỹ - Diệm trước sự tiến công của phong trào cách mạng trong tỉnh. Chúng đem toàn lực ra đánh phá hoàng dập tắt phong trào cách mạng đang sôi sục trong quần chúng. Chúng dùng biện pháp quân sự là chủ yếu kết hợp với các biện pháp khác, ráo riết thực hiện quốc sách “ấp chiến lược”. lực lượng địch lúc này ở Bình Định có sư đoàn 9 bộ binh, trung đoàn 47, 4 tiểu đoàn 12 đại đội chủ lực. Bảo an có 23 đại đội, 36 trung đội. Mỗi xã có 1 trung đội (xã đoàn) dân vệ.

Lực lượng vũ trang cách mạng trong tỉnh lúc này có 2 đại đội tập trung là Tây Sơn và Trần Hưng Đạo. Các huyện miền núi Vĩnh Thạnh, An Lão, Vân Canh mỗi nơi kiện toàn 2 trung đội, Hoài Nhơn 2 trung đội; các huyện Hoài Ân, Phù Mỹ, Phù Cát, Bình Khê mỗi nơi 1 trung đội tăng cường (4 tiểu đội); An Nhơn, Tuy Phước mỗi huyện 1 trung đội. Tỉnh có các trung đội đặc công, trinh sát, vận tải, thông tin có 2 tiểu đội, công binh 2 tiểu đội. Lực lượng chính trị toàn tỉnh mạnh gáp bội so với trước.

So sánh lực lượng, địch hơn ta khoảng 50 lần, về vũ khí hơn ta hàng vạn lần. Địch chiếm ưu thế tuyệt đội về hỏa lực phi pháo và sức cơ động cao. Ta có sự giác ngộ chính trị sâu sắc, có sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhan dân, có ưu thế tuyệt đối về chính trị và tinh thần.

Trước tình hình Mỹ - Diệm dồn sức chuẩn bị đánh phá phong trào cách mạng trong tỉnh, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 ra mệnh lệnh số 1 cho Ban chỉ huy quân sự Bình Định với nội dụng: Ra sức tiêu hao, tiêu diệt địch trên khắp các vùng, hỗ trợ và kết hợp với phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, phá tan kế hoạch dồn dân, lập “ấp chiến lược” của Mỹ - Diệm. buộc địch phân tán lực lượng, làm cho địch bị động khắp nơi. Ra sức xây dựng lực lượng vũ trang nhanh chóng, vững chắc…

Cụ thể là phá thế kìm kẹp đồng bằng, phát động vùng Hoài Ân, Hoài Nhơn nối liền với tây Phù Mỹ, Phù Cát và Bình Khê. Lấy bắc sông Lại Giang trở ra làm trọng điểm của tỉnh. Đồng thời phát động vùng đông quốc lộ 1, tiến tới nối liền với phía tây. Xây dựng căn cứ đông quốc lộ 1. Phát động một số vùng ở An Nhơn, Tuy Phước, tây Vân Canh ra sát đường 19 và sông Phú Phong nối với tây Bình Khê, đảm bảo hành lang qua lại đường 19. Đẩy mạnh xây dựng cơ sở vùng trung, đông Vân Canh và vùng ven biển, tạo bàn đạp xây dựng cơ sở vào Quy Nhơn… Tăng cường đánh giao thông theo khả năng từ nhỏ đến lớn, nhất là trên đường 19, đường lên An Lão. Bao vây, bức rút hoặc tiêu diệt các cứ điểm An Lão, Bình Quang, Kim Sơn, Phù Mỹ, Phù Cát. Vây điểm diệt viện. Phát triển cao độ lối đánh du kích bằng vũ khí thô sơ bằng chông, cạm bẫy, phá hoại đường sá, cầu cống, kho tàng(1).

Chấp hành mệnh lệnh của Quân khu, quân dân Bình Định quyết nỗ lực vượt bậc vươn lên giành thắng lợi, từng bước đập tan âm mưu nham hiểm của địch.

Từ tháng 3 năm 1962, Mỹ - Diệm bắt đầu mở hành quân càn quét vào An Lão, Vĩnh Thạnh, gây nhiều thiệt hại về người và tài sản cho nhân dân. Ở đồng bằng, chúng mở nhiều cuộc càn quét và không từ một thủ đoạn nào, chúng quyết đạp lên oán hờn để thực hiện bằng được việc gom dân lập ấp.

Quân dân Vĩnh Thạnh, An Lão với thế trận chiến tranh nhân dân được củng cố, với hệ thống làng chiến đấu liên hoàn, thiên la địa võng của hầm chông, mang cung, bẫy đá và mìn đã kiên trì bền bỉ phối hợp đánh địch, gây cho chúng nhiều tổn thất. Quân địch phần lớn sa vào hầm chông, mang cung bị chết hàng trăm tên.


(1) Theo mệnh lệnh số 1 của Bộ Tư lệnh Quân khu 5 gửi Ban chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định đầu năm 1962.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Sáu, 2012, 09:07:22 pm
Ở đồng bằng, mở đầu cho đợt phá động quần chúng vùng dậy phá thế kìm kẹp của địch, ngày 3 tháng 3 năm 1962, đội dặc công tỉnh. phối hợp với lực lượng địa phương huyện và dựa vào nhân dân tổ chức tiến công chốt điểm Núi Bé xã Hoài Sơn là vị trí tiền tiêu của địch ở tây - bắc Hoài Nhơn. Sau 30 phút chiến đấu, ta tiêu diệt gọn một trung đội vừa bảo an vừa dân vệ, thu 27 súng các loại, có một trung liên, một tiểu liên. 9 giờ sáng ngày hôm sau, địch đưa quân lên tiếp viện, ta diệt thêm 6 tên. Chiến thắng Núi Bé mở đầu cho việc tiến công tiêu diệt địch trong công sự vững chắc ở Bình Định.

3 giờ sáng ngày 15 tháng 3, trong khi địch đang đi càn ở tây sông An Lão, ta đột nhập tập kích đồn dân vệ Hội Long và trụ sở xã An Hảo huyện Hoài Ân, diệt một số ác ôn,bắt 20 tên dân vệ và nhân viên ngụy quyền, thu 21 súng. 9 giờ, địch từ Bồng Sơn lên chi viện, ta chặn đánh diệt ba xe, loại khỏi vòng chiến đấu 20 tên. Tại Hội Văn, sau ba ngày càn quét vùng này, ngày 21 tháng 3, địch phát hiện vị trí đóng quân của một đơn vị ta. Chúng liền cho hai đội đội đến tiến công. Lực lượng vũ trang ta tổ chức phản kích quyết liệt từ sáng đến trưa. Địch bỏ lại trận 30 xác chết. Ta thu 21 súng. Địch bị thua đau, phải rút. Tối đến, ta trở lại làm chủ tình hình, tiếp tục phát động quần chúng đấu tranh chống địch. Ngày 27 tháng 3, ta tổ chức tập kích đồn dân vệ Thanh Lương xã Ân Tín và bót gác Vạn Hội. Địch đưa hai trung đội bảo an đến tiếp viện. Lực lượng vũ trang huyện chặn đánh diệt 21 tên, bắt 17 tên, thu 21 súng. Sang tháng, ta tiến công đồn Hưng Nhơn diệt một đại đội bảo an và ba trung đội dân vệ. Đồng bào thôn Thạch Khê, Ân Tường nổi dậy diệt mâm tề, phá thế kèm ở đây.

Những trận đánh mở đầu tuy nhỏ, nhưng đã thực hiện đánh là thắng. Một vấn đề nữa là lực lượng vũ trang địa phương đã vận dụng có hiệu quả cách đánh đồn diệt viện nhỏ.

Trong năm 1962, địch tổ chức “ấp chiến lược” thành từng cụm một, cán bộ, lực lượng ta bị bật ra ngoài không bám được dân. Phong trào cách mạng lại trải qua ngày đầy khó khăn.

Ở các xã Cát Hanh, Cát Trinh, Cát Tài từ năm 1961 đã xây dựng đội vũ trang công tác liên xã do các đồng chí Lê Vinh làm đội trưởng, Huỳnh Bày đội phó. Sang năm 1962, trước yêu cầu hỗ trợ tích cực cho quần chúng đấu tranh, mỗi xã đều tổ chức một đội vũ trang công tác. Đội vũ trang xã Cát Hanh 15 người do đồng chí Hồ Phẩm là đội trưởng. Cát Hanh là một trong những xã trọng điểm xây dựng “ấp chiến lược” ở đồng bằng ven đường quốc lộ 1 của địch, nhằm ngăn chặn con đường thâm nhập của lực lượng vũ trang và cán bộ ta xuống vùng đông. Chúng ráo riết gom dân lập ấp. Nhân dân Cát Hanh kiên quyết đấu tranh chống lại và co kéo, trì hoãn. Ban ngày cũng bắt dân rào ấp, đào hào. Ban đêm được đội vũ trang hỗ trợ, đồng bào lại phá rào, dẫn đường, bảo vệ cho cán bộ vào hoạt động. Nhiều cơ sở quần chúng trung kiên được xây dựng, phát triển. Khi cán bộ, đội vũ trang vào hoạt động, đồng bào không treo đèn. Đến khi phá ấp xong, lực lượng du kích, cán bộ rút ra, đồng bào mới đánh bõ báo động. Bọn địch sợ hãi co lại, không dám ra, nhân dân được thế càng ra sức phá ấp. Sáng ra, bọn địch tra hỏi, dân nói: “Cộng sản vào phá ấp, chúng tôi báo động, các ông có súng mà sợ không dám ra, dân tay không làm sao chống lại được!”. Cứ thế, cảnh ngày làm đêm phá diễn đi diễn lại từ lẻ tẻ đến đồng loạt trong toàn xã. Có ấp phá đi phá lại đến 30 lần trong vòng 5 tháng, như ấp Vĩnh Kiên. Kẻ địch đành khoanh tay không sao lập được. Cuối cùng chúng gọi ấp Vĩnh Kiên là “ấp Bác Hồ”. Trong việc phá ấp, giành dân, chị em phụ nữ Cát Hanh giữ vai trò đặc biệt quan trọng.

Phát huy tinh thần liên tục, chủ đông tiến công, lực lượng vũ trang tỉnh phối hợp với lực lượng địa phương mạnh dạn thọc sâu xuống đồng bằng, nơi chưa có cơ sở để phát động quần chúng nổi dậy phá ấp, phá kềm, đồng thời tiêu diệt địch, bồi dưỡng lực lượng ta. Mục tiêu được chọn là trụ sở ngụy quyền thôn Tùng Chánh xã Cát Hiệp. Địch ở đây có hai trung đội biệt kích và dân vệ đóng giữ. Đêm 19 tháng 7 năm 1962, ta tiếp cận bí mật, nổ súng tiến công. Sau nửa giờ chiến đấu, ta diệt 28 tên, bắt 13 tên, thu 16 súng và hàng ngàn viên đạn. Đánh xong, ta phóng lửa đốt hai cơ quan ngụy quyền xã Cát Hiệp và Cát Sơn, làm chủ khu vực Thuận Phong, Long Định và toàn bộ xã Cát Sơn một tuần lễ. Năm cuộc mít tinh với hàng ngàn người dự được tổ chức trong không khí hào hứng, phấn khởi của thắng lợi. Nhiều thanh niên xin gia nhập lực lượng vũ trang giải phóng.

(http://nn7.upanh.com/b2.s27.d1/05139fc11bda25772b73ff414e30e500_45908017.thanhnien.jpg)

Thanh niên các dân tộc tình nguyện tham gia Quân giải phóng


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Sáu, 2012, 09:08:19 pm
Cũng trong tháng 7 năm 1962, để kịp thời chỉ đạo phong trào của Khu Nam tỉnh, Tỉnh ủy và Ban cán sự tỉnh đội tổ chức đơn vị 117B vào lập căn cứ ở huyện Vân Canh, tạo bàn đạp để mở rộng vùng giải phóng ở phía nam tỉnh(1).

Chấp hành mệnh lệnh đánh giao thông chiến của Bộ Tư lệnh Quân khu, ngày 17 tháng 8 năm 1962, lực lượng vũ trang tỉnh, huyện tổ chức phục kích một đoàn tàu quân sự gần ga Mục Thịnh, huyện Vân Canh. Mìn nổ, đoàn tàu bị lật nhào, địch phải dùng máy bay lên thẳng và ba toa xe lửa để chở xác lính và đồ dùng quân sự bị hỏng. Trận đánh làm rung động tinh thần binh lính địch.

Những trận đánh trên đã có tác dụng thúc đẩy phong trào chiến tranh du kích phát triển và phong trào đấu tranh chính trị phá ấp giành dân lan rộng cả ở đồng bằng và miền núi. Ở An Lão chỉ tính ba tháng cuối năm 1962, quân dân trong huyện đã đánh địch càn quét diệt 150 tên.

Trong khi lực lượng vũ trang ta nỗ lực diệt địch, phát động quần chúng, phong trào đấu tranh của đồng bào các huyện đồng bằng nổi dậy chống địch gom dân, lập ấp, phá thế kìm kẹp của địch cũng diễn ra sôi động.

Ở Phù Mỹ, ta tổ chức 10 cuộc mít tinh phát động quần chúng nổi dậy có hơn 5.000 lượt người tham dự. Huy động quần chúng tham gia cuộc biểu tình trương băng, cờ, đánh trống, hô khẩu hiệu đi hàng 5 ki-lô-mét. Du kích diệt 23 tên ác ôn, bắt 94 tên tề điệp đưa ra xét xử công khai trước quần chúng. Cờ Mặt trận phấp phới tung bay suốt 5 ngày liền ở nơi nhân dân nổi dậy phá thế kìm kẹp của địch. Ở Chánh Trạch xã Mỹ Thọ, 50 đồng bào bị địch bắt đi dinh điền đã đấu tranh giằng co với địch chờ đêm có lực lượng giải vây đã thu được thắng lợi. Ở Mỹ Đức, khi địch đến khủng bố, quần chúng chạy bất hợp pháp đòi chúng để đồng bào đi biển, đi mua sắm, làm ăn, địch phải chấp nhận.

Ở Phù Cát, ta tổ chức diệt 3 tên ác ôn, hạ uy thế 90 tên tề điệp, giáo dục chúng quay về với nhân dân. Một số tề điệp ở Long Định, Đại Khoan xin từ chức, đem giấy tờ ra đốt trước nhân dân và cúng cháo ăn mừng quay về với cách mạng. Tại Tân Hóa xã Cát Hanh, đồng bào mang cờ, ảnh Diệm trả cho địch. Có đồng bào công giáo đem treo cờ Mặt trận ngang cờ ngụy và nói với bọn tề: “Tôi treo cả hai lá cờ vì chưa rõ ai thắng, nếu ai mạnh vào cho là mình thắng thì cứ đến đó mà gỡ cờ của đối phương”. Bọn tề không dám gỡ cờ Mặt trận. Ở Cát Sơn, cờ giải phóng tung bay suốt 15 ngày mà không tên địch nào dám đến gỡ. Uy thế của cách mạng đã hạ uy thế địch.

Ở Hoài Ân, lực lượng địa phương đi sâu củng cố các vùng đã được phát động nổi dậy, diệt 21 tên ác ôn có nợ máu với nhân dân, mở rộng diện nổi dậy. Ở Hội Văn xã Ân Hữu, quần chúng được chi bộ địa phương lãnh đạo đã đấu tranh chống dồn dân thắng lợi, tước 5 súng của thanh niên chống du kích.

Huyện Hoài Nhơn là trọng điểm đánh phá của địch, cũng là trọng điểm chống đánh địch của tỉnh nên cuộc đấu tranh diễn ra rất quyết liệt. Mỹ - Diệm sử dụng lực lượng sư đoàn 9 cùng một đại đội bảo an mở chiến dịch “Đồng tiến” càn quét đánh phá các thôn ta làm chủ. Chúng dùng trực thăng đổ quân đánh phá sâu vào hậu cứ và các thôn xã dọc bìa núi, bắt dân rào ngăn cánh giữa rừng núi và rừng giáp ranh, nhằm ngăn chặn lực lượng ta đột nhập. Nhưng chứng làm sao có thể rào được lòng dân Hoài Nhơn - những người kế thừa truyền thống cách mạng kiên cường. Nhiều cuộc mít tinh nhỏ vẫn được tổ chức. Bảy tên ác ôn, trong đó có tên chi phó công an quận bị diệt. Chín tên tề điệp bị cảnh cáo, giáo dục quay về với nhân dân. Hàng ngàn mét rào bị nhân dân đốt cháy và phá hủy. Đồng bào ở Ngọc An, Ngọc Sơn (Hoài Thanh) xé cờ, ảnh Diệm. Số đồng bào côn giáo vừa xé cờ vừa nói với bọn tề: “Quốc gia nhận thua đi để chúng tôi theo Cộng sản”. Trong một cuộc lùng bắt dân đi dinh điền ở Hoài Thanh, đồng bào đấu tranh quyết liệt, níu theo tài xế, níu kéo người chúng bắt đưa lên xe và hô: “Đả đảo chế độ độc tài bất công!” khi một số người bị chúng bắt đi.

Ở các huyện Tuy Phước, Bình Khê, An Nhơn, Vân Canh, lực lượng vũ trang ta cũng đột nhập vào các “ấp chiến lược”, vũ trang tuyên truyền, tổ chức mít tinh, diệt ác ôn, cảnh cáo tề điệp, phát động quần chúng mở ra một số vùng làm chủ.

Chỉ trong đợt phát động quần chúng nổi dậy chống địch gom dân, lập ấp đầu tiên ở đồng bằng toàn tỉnh, ta đã giành quyền làm chủ 26 thôn trong 12 xã với số dân 51 nghìn người. Cụ thể: Phù Cát bốn thôn trong hai xã; Phù Mỹ 10 thôn trong 4 xã; Hoài Nhơn 8 thôn thuộc 3 xã; Hoài Ân 3 thôn trong 2 xã; Bình Khê 1 thôn. Đặc biệt, ở các huyện Hoài Nhơn, Hoài Ân, Phù Mỹ, Phù Cát, Bình Khê, nhân dân đã đóng góp hàng trăm tấn lương thực cung cấp cho lực lượng vũ trang. Chỉ riêng một đợt, xã Bình Quang huyện Bình Khê đã huy động được 11 tấn thóc gửi vào quỹ nuôi quân chống Mỹ.

Khuyết điểm của ta lúc đầu phá “ấp chiến lược” là không dựa vào dân nên không thành. Bộ đội, du kích về phá, chúng bắt dân làm lại. Một vấn đề được rút ra là chỉ có nhân dân được Đảng phát động, đoàn kết đứng lên, có sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang mới phá được “ấp chiến lược”.


(1) Theo CHIẾN TRANH DU KÍCH TRÊN CHIẾN TRƯỜNG BÌNH ĐỊNH.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Sáu, 2012, 09:09:27 pm
Trước những thắng lợi bước đầu của hoạt động vũ trang và phát động quần chúng nổi dậy trong toàn tỉnh, địch phản ứng quyết liệt. Đối với những trận đánh chốt điểm, chúng dùng trực thăng chở quân nhanh chóng chi viện. Với những vùng quần chúng nổi dậy, chúng mở hành quân từ đại đội đến tiểu đoàn kết hợp vừa khủng bố, đàn áp, vừa chiêu an, mị dân. Chúng tiến hành chiến tranh tâm lí, tung dự luận về sức mạnh của Mỹ, hăm dọa ném bom tiêu diệt vùng làm chủ của ta. Trong sáu tháng đầu năm 1962, chúng đã xây dựng được “ấp chiến lược” ở một số vùng thuộc các huyện Bình Khê, Phù Mỹ, Hoài Ân.

Những tháng cuối năm, địch ráo riết dồn dan lập ấp, ta kiên quyết chống lại bằng cả đấu tranh chính trị và vũ trang. Phong trào phá “ấp chiến lược”, nhất là phá rào rộ lên ở khắp các huyện. Ở Hoài Nhơn, quân dân địa phương đã phá đi phá lại nhiều lần các ấp ở Thành Sơn, Tân An (Hoài Châu), An Đỗ, Cẩm Hậu (Hoài Sơn), Ngọc Sơn (Hoài Thanh). Tổng cộng các lần đã đốt 8.000 mét rào. Ở Hoài Ân, lực lượng vũ trang huyện và xã đã đánh nhiều trận diệt quân địch đi gom dân ở suối Bà Nhò, Bình Hòa (Ân Hòa). Ở Phù Mỹ, ta đốt rào và treo cờ Mặt trận ở Hội Khánh xã Mỹ Hòa. Địch đến khủng bố, ta đánh địch chết và bị thương 21 tên. Toàn huyện đã đốt hơn 10 nghìn mét rào, bắt cải tạo 181 tên tề. Ở Phù Cát, ngoài việc đánh phá rào, phá ấp, lực lượng hậu cần địa phương đã thọc xuống Hoa Đại, Hội Vân xã Cát Hiệp phát động quần chúng, thu mua 3,5 tấn lúa. Ở Vân Canh, Tuy Phước, du kích và nhân dân đã phá hàng ngàn mét đường sắt gây trở ngại cho cơ động lực lượng bằng đường sắt của địch.

Bước vào năm 1963, năm nước rút của kế hoạch Xta-lây - Tay-lo, Mỹ - Diệm vừa tập trung sức đối phó với phong trào tiến công và nổi dậy ở đồng bằng, vừa đẩy mạnh đánh phá căn cứ miền núi, hòng thực hiện kì được “quốc sách ấp chiến lược”. Chúng tăng quân ngụy lên 20 lần, tăng cố vấn Mỹ, riêng ở Bình Định có khoảng 1.000 tên, đưa một bộ phận không quân và hải quân vào trực tiếp tham chiến. Chúng thẳng tay bắn giết những ai cưỡng lại. chúng uy hiếp, khủng bố tinh thần nhân dân. Hàng trăm người già, phụ nữ, tẻ em bị địch bắn chết. Hàng vạn quần chúng bị đày đọa trong các “ấp chiến lược” - những địa ngục trần gian của Mỹ - Diệm.

Từ cuối năm 1962, đầu năm 1963, phong trào cách mạng ở Bình Định gặp khó khăn, nhất là một số huyện đồng bằng. Từ giữa năm 1961 cho đến năm 1963, địch đã lập được ở Bình Định 261 “ấp chiến lược” và 192 ấp chiến đấu tập trung, chủ yếu ở các vùng ven rìa núi (ấp chiến lược được tăng cường công sự, hỏa lực và vật chướng ngại).

Trước sự đánh phá ác liệt của địch ở vùng giáp ranh, không những lực lượng vũ trang ta không thể đứng chân hoạt động được, mà một số cơ sở cũng lên căn cứ.

Trước yêu cầu bức xúc của tình hình, nắm vững Nghị quyết của Quân ủy Trung ương về nhiệm vụ và phương hướng công tác năm 1963, tháng 4 năm 1963 Tỉnh ủy Binh Định đã họp kiểm điểm tình hình lãnh đạo phong trào, nhất là kiểm điểm sự lãnh đạo của các cấp ủy trong công tác phát động quần chúng. Đồng thời đề ra nhiều biện pháp cụ thể về xây dựng hầm bí mật để bám dân, xây dựng cơ sở trong “ấp chiến lược” và phát động tư tưởng quần chúng. Tỉnh ủy phân tích nhấn mạnh tình hình địch, ta ở từng địa phương, đánh giá đúng khả năng cách mạng của quần chúng, phát động quần chúng nổi dậy phá ấp. Hội nghị nghiêm khắc phê phán quan điểm lệch lạc: thiếu tin tưởng quần chúng, chưa tích cực trụ bám trong dân, ỷ lại vào lực lượng vũ trang v.v… Tỉnh ủy quyết nghị: Toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ra sức đẩy mạnh phong trào hai chân, ba mũi giáp công, chống địch càn quét, chống địch gom dân lập ấp, tích cực xây dựng, phát triển cơ sở ở đồng bằng, thị xã, thị trấn, tiến lên nắm phong trào thanh niên, học sinh và Phật giáo.

Những ngày đầu tháng 1 năm 1963, một tiểu đoàn địch có máy bay và trọng pháo yểm trợ mở hành quân càn quét hai xã Ân Tín và Ân Hòa (Hoài Ân). Tại Ân Tín, lực lượng ta đã đánh lui bốn đợt tiến công của địch, diệt 24 tên, ở Ân Hòa diệt 20 tên, bẻ gãy cuộc càn của địch. Đêm 23 tháng 1, ta tổ chức phục kích một đoàn tàu quân sự tại đèo Phủ Cũ cách Bồng Sơn 5 ki-lô-mét, lật nhào một đầu máy và 11 toa. Tiếp theo, ngày 6 tháng 2, một đoàn tàu quân sự bị ta đánh lật nhào tại đèo Bình Đê. Địch phải điều xe vận tải đến chở hàng trăm tên chết và bị thương. Ngày 9 tháng 2, đội đặc công Đ10 phối hợp với một trung đội địa phương huyện Phù Mỹ tiến công vào tổng đoàn dân vệ và đoàn xây dựng “ấp chiến lược” của địch ở Mỹ Thọ (Phù Mỹ). Đây là một trận đánh diễn ra ở vùng sâu. Khi ta tiềm nhập tiếp cận bị lộ, địch ở lô cốt bắn ra như mưa. Trận đánh gặp khó khăn. Trước tình hình đó, chi ủy kêu gọi đảng viên, đoàn viên xông lên hoàn thành nhiệm vụ diệt địch. 23 chiến sĩ nhất loạt lao lên như những mũi tên. Đồng chí Nguyễn Kim(1) đạp phải một bàn chông sắt của địch. Trong giây phút quyết định, đồng chí mang cả bàn chông, ôm bộc phá lao vào trận nội diệt lô cốt, dập tắt hỏa điểm, tạo điều kiện cho đơn vị xung phong tiêu diệt địch. Kết quả trận đánh, ta diệt 61 tên, bắt 5 tên, thu 25 súng. Trận Mỹ Thọ là trận phá “ấp chiến lược” đầu tiên ở vùng sâu đồng bằng toàn tỉnh.

Tính đến tháng 3 năm 1963, lực lượng vũ trang trong tình đã đã đánh 70 trận lớn, nhỏ, diệt 310 tên địch, trong đó có 3 cố vấn Mỹ, 1 thiếu tá và 1 trung úy ngụy, làm bị thương 271 tên, bắt 31 tên, bắn rơi 4 máy bay, đánh nhào 5 đoàn tàu quân sự.

Để chỉ đạo phong trào phá “ấp chiến lược” của địch có hiệu quả hơn, tháng 4 năm 1963 Tỉnh ủy họp đánh giá tình hình và đề ra nhiệm vụ “Toàn Đảng, toàn quân, toàn dân phá ấp chiến lược bằng hình thức quần chúng nổi dậy 3 mũi giáp công”.


(1) Năm 1965, đồng chí Nguyễn Kim được Quốc hội và Nhà nước ta phong danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Sáu, 2012, 09:10:22 pm
Phát huy thắng lợi, ngày 26 tháng 5, lực lượng vũ trang tỉnh tổ chức tập kích vào khu quân sự Phú Tài, nơi đóng quân của sư đoàn bộ, sư đoàn 9 địch, diệt 60 tên, thiêu hủy toàn bộ nhà cửa và phương tiện chiến tranh, làm hàng ngũ địch náo động.

Cũng trong tháng 5, trong khi lực lượng vũ trang hoạt động mạnh để hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chống địch dồn dân lập ấp thì ở vùng sâu Phù Mỹ đã diễn ra một cuộc đấu tranh lớn, đánh phá “ấp chiến lược” của địch.

Thôn An Giang xã Mỹ Đức là nơi Mỹ - Diệm chọn làm một trong ba điểm để xây dựng “ấp chiến lược” trong toàn xã, nhằm kìm kẹp nhân dân và khống chế các vùng xung quanh. Từ tháng 1, địch chở đến đây 10 tấn dây kẽm gai, chưa kịp rào ấp thì bị du kích và nhân dân đột nhập lấy mất 5 tấn, làm hỏng kế hoạch của chúng. Giữa tháng 3, địch đưa đến đây một tiểu đoàn tiến hành càn quét, khủng bố nhân dân. Sau đó, chúng để lại trong thôn 1 đại đội và 30 tên chuyên môn xây dựng “ấp chiến lược”. Tên tỉnh trưởng Bình Định và quận trưởng Phù Mỹ cũng đến trực tiếp chỉ huy xây dựng ấp, chứng tỏ việc xây dựng ấp An Giang quan trọng như thế nào! Chúng gom dân, bắt 200 người tra tấn để truy lùng cơ sở cách mạng.

Với tất cả căm hờn và uất ức, nhân dân thôn An Giang xã Mỹ Đức quyết vùng dậy sống mái với quân thù. Với lí lẽ khôn khéo, nhân dân đã đấu tranh hợp pháp giằng co với địch trong suốt 50 ngày. Đồng bào đã thuyết phục tranh thủ nhiều binh lính địch đồng tình ủng hộ. Nhiêu binh lính bất bình trước việc khủng bố, bắt nhân dân vào ấp của bọn chỉ huy ác ôn. Ở đây địch không thực hiện được dồn dân, lập ấp đúng theo thời hạn quy định.

Đêm 4 tháng 5 năm 1963, du kích đột nhập giết 3 tên ác ôn hung hãn nhất ngay giữa ấp và bắn bị thương hai tên khác. Địch đóng trên đồi có công sự kiên cố cũng bị du kích bao vây bắn tỉa chết một số tên làm chúng hoang mang, dao động. Thừa lúc địch sơ hở và có sự chuẩn bị từ trước, đêm 5 rạng sáng ngày 6 tháng 5, nhân dân được du kích hỗ trợ đã vùng dậy phá “ấp chiến lược”. Sau ba tiếng đồng hồ, nhân dân đã phá banh 4.000 mét dây kẽm gai, nhổ 3.000 cọc sắt, lấp 1.500 mét hào, trừng trị bảy tên gian ác, trong đó có tên đoàn trưởng đoàn xây dựng “ấp chiến lược”.

Đêm hôm sau, hơn ba ngàn đồng bào tổ chức mít tinh, thị uy hô vang các khẩu hiệu “Đả đảo Mỹ Diệm”, “Hoan nghênh Mặt trận Dân tộc giải phóng”. Sau đó, nhân dân tản ra tiếp tục phá rào, lấp hố. Toàn bộ “ấp chiến lược” An Giang bị phá banh.

(http://nn3.upanh.com/b1.s26.d2/dd18a0a2755b660072b13310ad6f6c9d_45908003.mtdtgp.jpg)

Đoàn Chủ tịch cuộc mít tinh kỉ niệm 3 năm ngày thành lập
Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (12-1963)

Đây là cuộc đấu tranh phá ấp lớn nhất trong toàn tỉnh Bình Định kể từ khi địch bắt đầu thực hiện dồn dân lập áp. Cuộc đấu tranh biểu thị tinh thần cách mạng kiên cường của nhân dân Mỹ Đức, ban lãnh đạo xã đã kết hợp khéo léo giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang và binh vận, thực hiện ba mũi giáp công, tạo nên sức mạnh tổng hợp đánh thắng kẻ thù.

Thắng lợi của cuộc đấu tranh ở Mỹ Đức thúc đẩy phong trào chiến tranh du kích phát triển và là tấm gương về phá “ấp chiến lược” do nhân dân trong tỉnh tiến lên đánh bại âm mưu địch.

Phong trào chiến tranh du kích phát triển khá đồng đều ở cả miền núi và đồng bằng, tiêu biểu là ở Vĩnh Thạnh. Lực lượng địa phương đã anh dũng chống càn quét, tiêu hao, tiêu diệt địch, giữ vững vùng căn cứ. Trong đánh địch xuất hiện nhiều gương chiến đấu, như cụ BRăng 83 tuổi, lão du kích ở làng Kon Trút đã lập chiến công xuất sắc. Trong trận đánh địch càn vào làng, cụ đã dùng tên tẩm thuốc độc giết hai tên địch, bắn bị thương hai tên khác. Nhiều “ấp chiến lược” được nhân dân cải tạo xây dựng thành “làng chiến đấu”. Ở các vùng miền núi, đồng bào dân tộc đã xây dựng nhiều “làng chiến đấu” nổi tiếng, quân địch đi càn về mỗi lần nhớ tới là khiếp sợ. Cả một trận địa liên hoàn chông bẫy được giăng thành nhiều tuyến khắp núi rừng. Riêng chông đã có nhiều loại, nguyên vật liệu tại chỗ, ông bà già, phụ nữ, trẻ em đều làm được. Có thể nói địch vào đây là gặp cả một núi chông: chông lá lúa, chông dài, chông ngắn, chông thụt, chông thò, chông lê, chông đòn, chông hom, chông bay bằng tre nứa, bằng sắt có ngạnh. Chông được bố trí, ngụy trang khéo léo thành nhiều dạng: chông cắm trên mặt đất, dưới nước, chông cột, chông treo, chông sập, hầm chông, hố chông v.v… Chông bao giờ cũng được bố trí kết hợp với mang cung, bẫy đá tự động liên hoàn. Một lúc có thể phóng ra hàng chục mũi sắc nhọn và mạnh đến mức xuyên qua người và có thể gây thương vong hàng tiểu đội, trung đội địch trên đoạn đường gấp khúc hàng trăm mét. Trận địa liên hoàn chông bẫy ngày càng được nghiên cứu bố trí tinh xảo kết hợp có người điều khiển, nửa tự động, hoặc hoàn toàn tự động. Chỉ cần một tên địch đụng vào sợi dây hoặc một cái bẫy là một dãy trận địa liên hoàn hàng trăm mét chuyển động đâm, phóng, đổ vào đội hình địch. Chông bẫy được bố trí kết hợp với mìn, lựu đạn càng gây khủng khiếp với địch. Nhiều khi bị một viên đạn của du kích bán chúng không sợ bằng nhìn thấy mũi mang cung xuyên từ bên này sang bên kia bụng động bọn của chúng. Hãng thông tấn UPI đã đưa tin: “Trong thời đại vũ khí hạt nhân, du kích Việt Nam vẫn dùng loại vũ khí cổ xưa, thô sơ nhất của loài người nhưng với họ, loại vũ khí đó đã phát huy tác dụng rất lớn”.

Cho đến giữa năm 1963, với những hoạt động mạnh ở đồng bằng, ta đã giải phóng và làm chủ một số vùng. Phong trào ở chín thôn tây sông An Lão; Hoài Sơn, Lộ Diêu (Hoài Mỹ, huyện Hoài Nhơn), Mỹ Thọ, Mỹ Đức huyện Phù Mỹ; Đại Khoan (Cát Hiệp), Cát Hanh, Cát Chánh huyện Phù Cát là những điển hình và ba mũi giáp công đánh phá “ấp chiến lược”. Các đột công tác Hoài Nhơn, Hoài Ân, Phù Mỹ, Bình Khê bị bật khỏi thôn xóm đã quay về bám đất, bám dân hoạt động. Nổi bật là cuộc đấu tranh của hơn 600 gia đình hai thôn Phú Thư và Phú Hà xã Mỹ Đức trong 3 tháng liền kết hợp ba mũi giáp công, đẩy lùi một tiểu đoàn địch và giữ quyền làm chủ.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Sáu, 2012, 09:11:19 pm
2 - ĐẨY MẠNH TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY, ĐÁNH PHÁ “ẤP CHIẾN LƯỢC”
GIẢI PHÓNG PHẦN LỚN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG


Từ mùa thu năm 1963, do yêu cầu phát triển của chiến tranh, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 quyết định cho tỉnh xây dựng tiểu đoàn tập trung để đẩy mạnh tiến công địch. Tháng 8 năm 1963, tại xã Ân Hữu tiểu đoàn 50 do các đồng chí Nguyễn Riềng làm tiểu đoàn trưởng, Đinh Bá Lộc chính trị viên được thành lập.

Như vậy, lực lượng vũ trang giải phóng tỉnh lúc này có một tiểu đoàn tập trung (gồm ba đại đội bộ binh, một đại đội trợ chiến) và hai đại đội độc lập. Ở miền núi và Hoài Nhơn, Hoài Ân mỗi huyện có hai trung đội, các huyện khác mỗi nơi một trung đội…

Thực hiện sản xuất tự túc một phần lương thực, các đơn vị đều nỗ lực vỡ hoang, phát rẫy, trồng tỉa hoa màu. Qua thu hoạch sản lượng, trong năm 1963, các đơn vị tự túc được 6 tháng kể cả lúa khoai, mì và bắp. Về thịt, kể cả chăn nuôi, đánh cá và săn bắn bình quân mỗi chiến sĩ được 11 ki-lô-gam mỗi năm.

Thực hiện vừa xây dựng vừa chiến đấu, tranh thủ giữa hai đợt chiến đấu và thời gian cho phép các đơn vị đã tiến hành huấn luyện cho các chiến sĩ về kĩ thuật và chiến thuật chiến đấu từ cá nhân đến trung đội, nhất là chiến thuật phục kích, tập kích. Các phân đội binh chủng kĩ thuật cũng được sắp xếp tập huấn để nâng cao trình độ chuyên môn, kĩ thuật và nghiệp vụ trong chiến đấu.

Sau thời gian xây dựng, củng cố, Thường vụ Tỉnh ủy và Ban chỉ huy quân sự tỉnh quyết định mở đợt hoạt động thu - đông 1963, nằm đánh phá hàng loạt “ấp chiến lược”, tiêu hao, tiêu diệt địch làm tan rã một mảng lớn ở bắc Phù Cát, đại bộ phận Phù Mỹ, một bộ phận Hoài Ân, đại bộ phận Hoài Nhơn. Thực hiện ba mũi giáp công gắn liền với thôn xã chiến đấu, phát triển giao thông chiến, đưa phong trào chiến tranh du kích lên một bước mới, đồng thời mở rộng cơ sở đến khắp ở vùng sâu, thị xã, thị trấn.

Mở màn đợt hoạt động thu - đông, đêm 13 tháng 9 năm 1963, đại đội đặc công tỉnh tiến công trụ sở ngụy quyền xã Cát Sơn, đánh sập trụ sở xã, diệt 34 tên, phát động quần chúng nổi dậy phá tan ba “ấp chiến lược” Phát Nhất, Phát Nhì thôn Thạch Bàn (Cát Sơn) và Long Định (Cát Hiệp). Sáng ngày 14, để cứu ngụy, địch cho hai đại đội biệt động đến chi viện bị tiểu đoàn 50 chặn đánh diệt hai trung đội, đánh thiệt hại nặng một đại đội, loại khỏi vòng chiến đấu 90 tên, bắt bảy tên. Tiếp đó, một đoàn xe quân sự chở quân từ đường 1 lên đến thôn Tân Hóa xã Cát Hanh bị du kích đánh mìn lật nhào một xe M.113 và một xe GMC. Toàn bộ quân địch trên xe đều bị chết và bị thương. Trong các trận đánh trên ta thu hơn 100 súng, bốn máy bộ đàm, nhiều đồ dùng quân sự

Đêm 7 tháng 10, đại đội 3 tiểu đoàn 50 tập kích trụ sở ngụy quyền xã Ân Tường (Hoài Ân) diệt một trung đội địch. Cùng đêm, nhân dân nổi dậy phá tan năm “ấp chiến lược” là Phú Khương, Tân Thạnh, Lộc Giang, Long Giang, Trí Tường, truy bắt cảnh cáo 40 tên tề điệp. Ngày 8, địch cho ba cánh quân đến tiếp viện. Cánh thứ nhất có bảy xe bọc thép M.113 từ Gia Chiểu lên. Cánh thứ hai gồm 13 xe M.113 từ Phù Mỹ qua đèo Màng Lăng lên và một tiểu đoàn đổ bộ bằng trực thăng nhằm bao vây tiêu diệt lực lượng ta. Trước thế uy hiếp từ nhiều phía của địch, các chiến sĩ tiểu đoàn 50 vẫn bình tĩnh chiếm địa hình có hợi, kiên cường đánh lui nhiều đợt tiến công của địch, bắn cháy ba xe M.113, đánh hỏng nặng ba xe khác, bắn rơi một máy bay lên thẳng, diệt và làm bị thương hàng trăm tên địch.

Đây là trận thắng lớn của bộ đội lu tỉnh, có tác động thúc đẩy phong trào quần chúng nổi dậy phá ấp, phá kèm. Đồng bào xã Ân Tường phấn khởi lo nấu cơm nước mang ra tận nơi tiếp tế cho bộ đội.

Sơ kết đợt 1 thu - đông 1963, từ 13 tháng đến 31 tháng 10, quân dân Bình Định đã diệt 900 tên, bảy xe M.113, bắn rơi một máy bay lên thẳng, phá bay 92 “ấp chiến lược”, vận động làm tan rã một trung đội bảo an và một trung đội “thanh niên chiến đấu”.

Ngày 1 tháng 11 năm 1963, Mỹ lật đổ Diệm và giết anh em Diệm - Nhu, đưa Dương Văn Minh lên thay. Lợi dụng tình hình rối loạn do cuộc đảo chính gây ra, đợt 2 thu - đông được triển khai với khí thế càng sôi động. Lực lượng vũ trang tỉnh và các huyện đã hỗ trợ cho hàng vạn quần chúng nổi dậy phá ấp, phá kèm, giải tán bộ máy ngụy quyền ở thôn xã. Phong trào phá “ấp chiến lược” trở thành phong trào quần chúng rộng lớn, nhất là ở các huyện Hoài Nhơn, Hoài Ân, Phù Mỹ. Nhân dân trong toàn tỉnh đã bung ra diệt ác ôn, phá banh hàng loạt “ấp chiến lược” giải phóng một lúc nhiều mảng rộng lớn cho vùng tây sông An Lão, thung lũng Kim Sơn (Hoài Ân), nam Hoài Nhơn, đông Phù Mỹ, tây Phù Cát nối liền với đông bắc Bình Khê. Ở Khu Đông, quần chúng tự động nổi dậy diệt ác ôn, rầm rộ biểu tình đòi phá “ấp chiến lược” ở Cát Hanh, Cát Cánh, Cát Khánh (Phù Cát). Ở các huyện phía nam, phong trào được khôi phục. Điều quan trọng là phong trào phá “ấp chiến lược” đã gắn liền với xây dựng và củng cố chính quyền ở cơ sở, tạo được vùng giải phóng liên hoàn giữa các huyện đồng bằng và miền núi.

Cuối năm 1963, toàn tỉnh có 283 thôn đồng bằng được bộ phận với 182.928 người dân, trong đó có bốn xã hoàn toàn giải phóng là Hoài Sơn (Hoài Nhơn), Ân Nghĩa, Ân Hữu (Hoài Ân) và Cát Sơn (Phù Cát). Ta phá 238 ấp, trong đó có 161 ấp bị phá sạch, chiếm tỉ lệ 84% trong toàn bộ số ấp do địch lập ra. Tháng 11 năm 1963 là tháng nhân dân Bình Định nổi dậy giành quyền làm chủ cao nhất trong toàn Quân khu lúc bấy giờ.

Cuộc chiến đấu quyết liệt và bền bỉ của quân dân Bình Định đã cùng quân dân toàn miền làm thất bại một bước chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ - Diệm. Kế hoạch Xta-lây - Tay-lo tuy đã kéo dài thêm một năm vẫn chưa thực hiện được.

Sau ngày Diệm - Nhu bị đảo chính, nội bộ tay sai Mỹ càng thêm lục đục trầm trọng. Những cuộc tranh giành quyền lực giữa bọn chúng bằng đảo chính và phản đảo chính liên tiếp nổ ra. Mỹ thay thế kế hoạch Xta-lây - Taylo bằng kế hoạch Mắc Na-ma-ra, thực chất là kế hoạch Xta-lây - Tay-lo được sửa đổi cho phù hợp với tình hình mới, nhằm “bình định” miền Nam trong hai năm với những thủ đoạn đánh phá ác liệt hơn về mặt quân sự để tiếp tục gom dân lập ấp. Bình Định là một trong những tỉnh trọng điểm “bình định” của chúng ở Khu 5.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Sáu, 2012, 09:12:29 pm
3 - PHONG TRÀO ĐỔNG KHỞI CỦA QUÂN DÂN BÌNH ĐỊNH NĂM 1964-1965

Trước tình hình đế quốc Mỹ ngày càng đẩy mạnh cuộc chiến tranh xâm lược, Ban chấp hành Trung ương mở Hội nghị lần thứ 9, phân tích cuộc “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ và quyết nghị: “Cần phải và có khả năng kiềm chế địch trong “chiến tranh đặc biệt” và thắng địch trong loại chiến tranh ấy” và cần phải “quán triệt phương châm đánh lâu dài, đồng thời tranh thủ thời cơ giành thắng lợi trong thời gian tương đối ngắn… Đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang đều đóng vai trò quyết định trực tiếp”(1).

Tiếp theo, ngày 27 tháng 3 năm 1964, theo Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ Cộng hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt tại thủ đô Hà Nội. Người đọc một bản báo cáo quan trọng kiểm điểm tình hình trong 10 năm qua, biểu dương cuộc đấu tranh anh dũng của đồng bào miền Nam và tỏ thái độ của nhân dân ta trong âm mưu xâm phạm miền Bắc của đế quốc Mỹ và tay sai.

Hội nghị chính trị đặc biệt thể hiện ý chí sắt đá đoàn kết chiến đấu của toàn dân tộc kiên quyết bảo vệ miền Bắc, chi viện cho miền Nam đánh thắng Mỹ - ngụy, là “Hội nghị Diên Hồng” của thời đại Hồ Chí Minh.

Được Nghị quyết 9 Trung ương soi sáng và lời kêu gọi của Bác Hồ trong Hội nghị chính trị đặc biệt cổ vũ quân dân Bình Định bước vào đợt hoạt động xuân 1964 với khí thế phấn khởi mới. Căn cứ vào yêu cầu quan trọng của địa bàn, dựa vào phương án tác chiến đã được xác định, Ban chỉ huy tỉnh đội bố trí tiểu đoàn 50 chủ lực tỉnh và đại đội đặc công Đ10 đứng chân ở đông Phù Mỹ, một đại đội chủ lực tỉnh đứng ở Bình Khê, Vĩnh Thạnh, một đại đội đứng ở Hoài Nhơn, Hoài Ân.

Thời gian này, trung đoàn 2 chủ lực Quân khu đứng chân ở nam Quảng Ngãi, bắc Bình Định, thực hiện tác chiến tiêu diệt địch, hỗ trợ phong trào địa phương.

Thế trận đã chuẩn bị, bước vào đầu năm 1964 một bộ phận của tiểu đoàn 50 phục kích tại cầu Cương xã Mỹ Hiệp (Phù Mỹ) diệt gọn một trung đội dân vệ, thu 20 súng. Đại đội đặc công Đ10 tiến công tiêu diệt một trung đội dân vệ, thu 28 súng. Sau đó, một bộ phận chủ lực tỉnh tổ chức đánh viện làm thiệt hại một đại đội bảo an. Cùng lúc quần chúng ở các huyện nổi dậy diệt ác, phá kèm, phá “ấp chiến lược”. Ở các huyện Hoài Ân, Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Phù Cát, Bình Khê được lực lượng vũ trang hỗ trợ, nhân dân đã nổi dậy phá hàng chục “ấp chiến lược”, giải phóng một số thôn xã.

(http://nn5.upanh.com/b3.s27.d1/b2ebfb3015028a6fe9655ee133f16e4b_45908005.nuthanhnien.jpg)

Nữ thanh niên xung phong chuyển hàng ra mặt trận

Tháng 6 năm 1964, thực hiện ý đồ chiến lược mới, Mỹ đưa Oét-mo-len sang thay Ha-kin dẫn đầu Bộ chỉ huy quân sự Mỹ ở Sài Gòn. Ngụy quyền Sài Gòn sau một hồi lật đổ nhau, Nguyễn Khánh được Mỹ ủng hộ lên nắm quyền lực càng hung hăng đánh phá phong trào cách mạng. Bình Định là một trong bốn tỉnh vùng trọng điểm xây dựng “ấp tân sinh” của Khánh - Mắc Na-ma-ra. Để thực hiện ý đồ này, chúng ra sức tập trung càn quét đánh phá ác liệt đi đôi với hoạt động ráo riết của các đoàn “xây dựng nông thôn” nhằm “bình định” vùng đồng bằng, lấy Hoài Ân, Hoài Nhơn, Phù Mỹ làm trọng điểm. Chúng tăng cường phòng thủ các thị xã, thị trấn và trục giao thông chiến lược đường 1, đường 10. Từ tháng 3 đến tháng 7 năm 1964 ở Bình Định, chúng đã mở 243 trần càn quét lớn, nhỏ, lấn chiếm 43 thôn, lập được 35 ấp, xúc tác 30.000 dân, gây cho ta những khó khăn mới. Tuy vậy âm mưu và thủ đoạn của địch không thể làm đảo ngược xu thế phát triển của phong trào cách mạng trong tỉnh.

Đầu tháng 7 năm 1964, chấp hành chỉ thị của Trung ương Cục, Quân ủy miền Nam và mệnh lệnh của Bộ tư lệnh miền về liên tục, chủ động tiến công địch trên khắp các chiến trường, phá kế hoạch “bình định” của Mắc Na-ma-ra trên toàn miền. bộ Tư lệnh Quân khu 5 chủ trương mở đợt hoạt động thu 1964 trên cả chiến trường miền núi và đồng bằng.

Phối hợp với chiến trường Quân khu, Tỉnh ủy và Ban chỉ huy tỉnh đội chủ trương mở đợt hoạt động lớn trong toàn tỉnh lấy trọng điểm là phía đông các huyện Phù Mỹ, Phù Cát và Tuy Phước.

Đầu tháng 7, tiểu đoàn 93 chủ lực Quân khu sau khi đánh thắng lớn trên đường 19 đoạn tây An Khê được chuyển xuống hoạt động ở tây Bình Định cùng lực lượng địa phương tỉnh diệt kèm mở mảng, giành dân.


(1) CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC 1954-1975 - NHỮNG SỰ KIỆN QUÂN SỰ. Nhà xuẩt bản QĐND, Hà Nội 1980, tr. 91.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Sáu, 2012, 09:13:37 pm
Thực hiện chủ trương trên, Thường vụ Tỉnh ủy chỉ đạo đưa một đại đội của tiểu đoàn 50 và một phân đội đặc công của tỉnh xuống Khu Đông để làm nòng cốt hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy, mở rộng vùng giải phóng. Với lực lượng trên, vấn đề đặt ra cho các đồng chí Thường vụ Tỉnh ủy mà trực tiếp chỉ đạo là đồng chí Nguyễn Trung Tín, làm thế nào phát huy tốt đòn tiến công quân sự, hợp đồng với bộ đội huyện và các đội vũ trang tuyên truyền ở các địa phương hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy diệt ác, phá kèm, giành quyền làm chủ và bồi dưỡng lực lượng ta để tiếp tục phát triển, mở rộng địa bàn.

Sau khi nghiên cứu cụ thể tình hình địch ở trong vùng, mục tiêu được ta chọn để tiến công diệt địch và mở ra đầu tiên là Càng Rang. Càng Rang là một thôn nhỏ thuộc xã Cát Thắng (Phù Cát), phía đông nối liền với Núi Bà, phía tây bắc đến tây và nam là một con sông chảy thành hình vòng cung, ôm lấy thôn Càng Rang. Phía ngoài con sông (tính từ Càng Rang) là đồng ruộng trống trải có nơi sình lầy xung quanh làng là bờ tre bao bọc. Do đó, sau khi tiến công tiêu diệt địch ở đây, địa hình trên cho phép lực lượng ta trụ lại để đánh địch phản kích. Mặt khác, quân địch ở đây rất chủ quan, mất cảnh giác vì từ trước đến nay, trên địa bàn khu Đông chưa xảy ra trận đánh nào. Những yếu tố trên là cơ sở để xây dựng quyết tâm chiến đấu giành thắng lợi.

Quyết tâm tiêu diệt địch ở Càng Rang, mở đầu cho phong trào đồng khởi Khu Đông được ban lãnh đạo xác định và giao nhiệm vụ cho đại đội 3 của tiểu đoàn 50 thực hiện.

Nhận thức được tầm quan trọng của trận đánh, cán bộ, chiến sĩ đại đội 3 tiểu đoàn 50 khẩn trương chuẩn bị chiến trường. Đềm 5 rạng ngày 6 tháng 7 năm 1964, trung đội dân vệ đóng giữ Càng Rang bị đại đội 3 của tiểu đoàn 50 tập kích, diệt gọn và thu toàn bộ vũ khí, làm chủ chiến trường, phát động quần chúng nổi dậy truy bắt ngụy quyền địa phương. Cũng trong các ngày sau đó, được sự hỗ trợ của các đội vũ trang tuyên truyền, hàng ngàn quần chúng thuộc các xã đông nam Phù Cát, đông An Nhơn, Tuy Phước nổi dậy phá “ấp chiến lược”, bao vây uy hiếp bọn dân vệ, diệt ác ôn. Như một phản ứng dây chuyền, lan nhanh khắp vùng Khu Đông, khí thế quần chúng càng dâng cao, xông vào đập phá cơ quan hội đồng thôn xã của địch, cờ Mặt trận dân tộc giải phóng được kéo lên phấp phới tung bay trên khắp vùng. Các đơn vị du kích xã, thôn khẩn trương được thành lập để bảo vệ vùng giải phóng.

Hoảng hốt trước nguy cơ sụp đổ của ngụy quyền địa phương, mất cả vùng Khu Đông rộng lớn, sáng ngày 9 tháng 7 năm 1964, địch dùng 1 tiểu đoàn cộng hòa, có pháo binh và xe bọc thép M.113 yểm trợ, mở phản kích cố chiếm lại Càng Rang. Các chiến sĩ đại đội 3 của tiểu đoàn 50, dựa vào địa hình có lợi và công sự trận địa đã chuẩn bị sẵn, kiên cường đánh trả quyết liệt, đẩy lùi nhiều đợt phản kích của địch, diệt hàng chục tên. Mặt khác ta đã hướng dẫn, tổ chức cho quần chúng đấu tranh hợp pháp với địch, cuộc phản kích bị thất bại, buộc chúng phải rút lui. Tức tối vì thua đau một số trận ở vùng đông, bọn chỉ huy địch xua quân càn quét vào khu vực xã Phước Lý (Tuy Phước), đốt phá ghe mành và cướp bóc tài sản của nhân dân. Căm phẫn trước hành động phá hoại của kẻ thù, cấp ủy Đảng địa phương đã kịp thời huy động hơn 3.000 đồng bào xã Phước Lý kéo vào Quy Nhơn đấu tranh, đòi địch phải bồi thường tài sản. Cuộc đấu tranh diễn ra quyết liệt, bọn ngụy quyền tỉnh hoảng hốt phải báo cho Nguyễn Khánh (lúc đó Nguyễn Khánh là Thủ tướng ngụy quyền) đích thân đến tận nơi nắm tình hình và tìm cách xoa dịu. Cuộc đấu tranh chính trị của đồng bào xã Phước Lý ở Quy Nhơn đã mở màn cho phong trào nhập thị của Khu 5.

Choáng váng vì bị đòn tiến công quân sự, chính trị và binh vận, bọn chỉ huy địch lồng lộn, tập trung quân càn quét vào xã Cát Khánh. Liên tiếp từ ngày 5 đến 15 tháng 10, bộ đội địa phương cùng với du kích xã Cát Khánh đã chặn đánh quyết liệt, diệt hàng chục tên, đánh hỏng hai xe M113, thu 4 máy thông tin PRC 10, 10 máy điện thoại và nhiều quân trang quân dụng khác, buộc địch phải rút lui.

Qua nhiều đợt phản kích để chiếm lại những vùng đã mất không thành công, tinh thần binh lính địch và ngụy quyền địa phương càng thêm suy sụp. Nắm lấy thời cơ, ta tiếp tục phát động quần chúng nổi dậy diệt ác, phá kèm. Chỉ trong tháng 7 và 8-1964, toàn bộ ngụy quân, ngụy quyền các xã ở vùng đông nam Phù Cát và đông Tuy Phước, một số xã An Nhơn đã bị quần chúng nổi dậy quét sạch. Vùng giải phóng của ta ở Khu Đông được mở rộng, với hơn 10 vạn dân, uy hiếp trực tiếp cơ quan đầu não ngụy quyền tỉnh ở thị xã Quy Nhơn. Chỉ tính riêng trong tháng 7 năm 1964, quân dân Bình Định đã tiêu diệt hơn 500 tên địch, làm tan rã 84 trung đội dân vệ và thanh niên chiến đấu.

Ở vùng giải phóng, nhân dân bầu ra ban Tự quản xã thôn; các đội du kích được thành lập, khẩn trương huấn luyện và cùng nhân dân xây dựng làng xã chiến đấu, sẵn sàng đánh địch càn quét, bảo vệ vùng giải phóng.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Sáu, 2012, 09:14:34 pm
Trước phong trào đang chuyển mạnh, tháng 8 năm 1964, Tỉnh ủy họp quyết nghị: Động viên mọi lực lượng khẩn trương liên tục tiến công địch, ra sức phá “ấp chiến lược”, diệt kẹp, giành dân ở vùng đồng bằng tạo ra một số mảng làm chủ tương đối rộng tương đương hai đến ba huyện. Đồng thời xây dựng vùng giải phóng, lập làng chiến đấu, tích cực phát triển lực lượng ba thứ quân, đẩy mạnh đấu tranh chính trị và binh vận, chống càn quét lấn chiếm. Trong đó, cần nắm vững ba mục tiêu chủ yếu là: Phá hàng mảng “ấp chiến lược”, làm chủ phần lớn nông thôn đồng bằng, tích cực tiêu diệt sinh lực địch; củng cố và phát triển mạnh lực lượng ta. Được Nghị quyết Tỉnh ủy thúc đẩy, tháng 9 năm 1964 nhân dân Phù Mỹ, với bạo lực quần chúng là chủ yếu có sự hỗ tợ của lực lượng vũ trang địa phương đã thực hành tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công, giải phóng một loạt 10 xã ven biển.

Ngoài ra, dưới danh nghĩa đồng bào Phật giáo chống Mỹ - ngụy, ta huy động hàng chục vạn đồng bào nông thôn phối hợp với nhân dân các thị xã và thị trấn tiến công vào bọn ngụy quyền từ huyện đến tỉnh. Chỉ trong 20 ngày đầu tháng 8 năm 1964, toàn tỉnh đã có hơn 300 cuộc mít tinh và biểu tình tuần hành với hơn 25 nghìn lượt người tham gia. Trong đợt chống chế độ độc tài của Nguyễn Khánh, ngày 25 tháng 8 ở thị xã Quy Nhơn có hơn 10 nghìn quần chúng bao vây dinh tỉnh trưởng. Từ 20 đến 27 tháng 9, hơn 20 nghìn đồng bào Tuy Phước và Quy Nhơn tổ chức liền ba cuộc đấu tranh lớn với bọn ngụy quyền tỉnh, có hai lần quần chúng chiếm đài phát thanh của địch.

(http://nn9.upanh.com/b6.s26.d2/d653879592fd22016ba49a14fce732f5_45908009.phattu.jpg)

Đồng bào Hoài Nhơn, Hoài Ân, Phù Mỹ xuống đường đấu tranh
chống địch giết hại phật tử Huỳnh Thị Hiền

Tháng 10 năm 1964, ta lại bồi tiếp một đòn mở ra các xã đông An Nhơn mở đầu bằng cuộc nổi dậy cướp chính quyền của nhân dân Thuận Thái xã Nhơn An và xã Nhơn Lộc, thu 80 súng.

Cũng trong tháng 10 năm 1964, trước tình hình tiến công và nổi dậy dồn dập của quân dân Bình Định, bọn thủy quân lục chiến, lực lượng tổng dự bị chiến lược của quân ngụy Sài Gòn được điều ra Bình Định để chi viện cho quân tại chỗ, gây áp lực cho phong trào cách mạng đang bùng lên như nước vỡ bờ. Hai tiểu đoàn thủy quân lục chiến có xe bọc thép chi viện hành quân đến Long Hậu - Cát Thắng bị lực lượng địa phương gồm tiểu đoàn 50, bộ đội huyện và du kích chặn đánh quyết liệt. Chúng bị thiệt hại nặng phải tháo lui. Lúc này, lực lượng địa phương mới chỉ được trang bị súng trường K44. nhưng các chiến sĩ vẫn kiên quyết đánh. Các chiến sĩ phổ biến với nhau: K44 không bắn thủng được xe tăng địch, nhưng cứ bắn, chúng sẽ rêm đầu, không chịu nổi. Kinh nghiệm đó không có ý nghĩa thực tiễn, nhưng nó phản ánh tinh thần tiến công tiêu diệt địch trong tình hình trang bị ta còn yếu kém.

Đây là trận đầu lực lượng địa phương đánh với lực lượng tổng dự bị chiến lược của địch, mở ra khả năng đánh thắng quân chủ lực cơ động chiến lược của địch.

Tiến công và nổi dậy như một đợt sóng thần cuồn cuộn từ phía đông tràn lên phía tây. Đêm 10 tháng 11 năm 1964, ta mở mảng hoạt động cao điểm ở Hoài Ân bằng các trận đánh vào đồi và ấp Phú Hữu. Lợi dụng yếu tố bí mật bất ngờ, một phân đội đặc công tiến công chốt điểm địch đóng trên đồi Phú Hữu. Một lực lượng khác cùng lúc tiến công ấp Phú Hữu diệt gọn năm trung đội dân vệ, loại khỏi vòng chiến đấu 170 tên, bắt 300 tên, thu nhiều súng đạn, phá banh các khu dồn ở các xã Ân Tường, Ân Hữu, Ân Nghĩa và một phần xã Ân Đức. Cùng thời gian này, ở Bình Khê, lực lượng vũ trang địa phương tiến công ấp Vân Tường, xã Bình Hòa diệt một trung đội dân vệ. Ở Phù Mỹ, ta tiến công ấp Trung Hội xã Mỹ Trinh diệt năm trung đội dân vệ, thu 94 súng. Đặc biệt ngày 25 tháng 11 năm 1964, hơn 1.700 đồng bào các xã Phước Hòa, Phước Thắng, Phước Sơn (Tuy Phước) và Cát Chánh, Cát Thắng (Phù Cát) đã dùng 220 thuyền đột nhập vào thị xã Quy Nhơn đấu tranh đòi địch chấm dứt càn quét, khủng bố. Địch phải huy động máy bay lên thẳng và hải thuyền đến đối phó.

Cho đến tháng 11 năm 1964, tuy phải trải qua một trận lụt lớn gây tác hại cho nền kinh tế kháng chiến và ảnh hưởng đến hoạt động đấu tranh và tác chiến của các lực lượng ta, nhưng nhờ khắc phục được nên phong trào cách mạng trong toàn tỉnh vẫn diễn ra sôi động với những đợt tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công liên tục từ miền núi đến nông thôn đồng bằng, vùng ven biển cả trong thị xã, thị trấn. Đấu tranh vũ trang được đẩy mạnh, tác chiến đạt hiệu quả, hiệu suất chiến đấu cao. Đấu tranh chính trị được dấy lên cao trào đặc biệt sôi động ở thị xã Quy Nhơn và các thị trấn An Nhơn, Tuy Phước do những điều kiện nhất định từ trước phong trào còn yếu, nhưng từ tháng 7 đến tháng 11 năm 1964, phong trào hai huyện đã phát triển mạnh mẽ mở ra nhiều vùng giải phóng liên hoàn.

Phong trào tiến công và nổi dậy đang tiếp tục phát triển trong trong toàn tỉnh.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Sáu, 2012, 09:05:20 am
4 - LIÊN TỤC TIẾN CÔNG, LIÊN TỤC NỔI DẬY
GÓP PHẦN ĐÁNH BẠI “CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT” CỦA MỸ - NGỤY,
CHIẾN THẮNG AN LÃO, ĐÈO NHÔNG


Giữa những ngày sôi động cuối năm 1964, Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ Bình Định lần thứ hai họp từ ngày 20 đến 25 tháng 11 năm 1964 tại thôn Nghĩa Nhơn xã Ân Nghĩa huyện Hoài Ân. Sau khi đánh giá phong trào toàn tỉnh trong 5 năm qua, nhất là thắng lợi của đợt hoạt động mở Khu Đông, Đại hội nhận định: “Thế địch đang trên đà suy sụp, những điều kiện thuận lợi và khả năng thực tế giành thắng lợi lớn sắp đến xuất hiện ngày càng rõ. Tiến hành tiến công và nổi dậy trên toàn bộ nông thôn tiến tới cướp chính quyền ở quận, tỉnh là điều có thể làm được…” Sau khi vạch ra phương hướng và nhiệm vụ chung cho thời kì tới, Đại hội nêu ra mục tiêu chủ yếu phải quyết tâm giành cho kì được trong thời gian trước mắt là Nhanh chóng giành quyền làm chủ toàn bộ nông thôn đồng bằng, nắm quyền lãnh đạo thị trấn, thị xã, tạo điều kiện cướp chính quyền ở quận và tỉnh. Tiêu diệt và làm tan rã từng bộ phận quân địch, tạo điều kiện và làm tan rã phần lớn quân ngụy, khẩn trương xây dựng và phát triển thực lực ta mạnh mẽ.

Đại hội bầu Ban chấp hành Tỉnh Đảng bộ mới gồm 13 đồng chí, do đồng chí Trần Quang Khanh làm Bí thư.

Thực hiện sự chi viện của Trung ương và miền Bắc đối với miền Nam, một tàu vận chuyển vũ khí của hải quân từ miền Bắc vượt sóng khơi và hàng rào chiến hạm ngăn chặn của địch đã cập vào bến ngang Lộ Diêu xã Hoài Mỹ (Hoài Nhơn) ngày 11 tháng 11 năm 1964 với gần 30 tấn vũ khí. Như nắng hạn gặp mưa rào, số vũ khí trên được trang bị ngày cho lực lượng vũ trang tỉnh và các đơn vị Quân khu. Sức mạnh hỏa lực của các đơn vị được nâng cao rõ rệt, một yếu tố quan trọng trong những chiến thắng sắp tới.

Thắng lợi dồn dập của quân dân Bình Định cùng với các tỉnh miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ đã làm cho kế hoạch Mắc Na-ma-ra vừa triển khai đã bị một đòn choáng váng. Trước nguy cơ thất bại của “chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam, để gỡ thế bổ sung, đế quốc Mỹ gây ra sự kiện “Vịnh Bắc Bộ” dùng không quân đánh phá miền Bắc, dấn sâu thêm một bước trên con đường phiêu lưu của chúng trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Trong lịch sử dân tộc, đồng bào miền Nam, miền Bắc đều là anh em ruột thịt trong một nhà. Qua mười năm đấu tranh quyết liệt và gian khổ với Mỹ - ngụy, đồng bào miền Bắc, hậu phương lớn của tiền tuyến miền Nam đã hết lòng chi viện với mọi khả năng và sức lực cho miền Nam chiến đấu. Miền Nam gọi, miền Bắc trả lời. Miền Bắc gọi, miền Nam xông tới. Mỹ - ngụy dám đụng đến miền Bắc, miền Nam sẽ đánh mạnh để chia lửa với hậu phương.

Với tinh thần đó, trên đà thắng lợi của các cao trào tiến công và nổi dậy, phá ấp, giành dân, đầu tháng 12 năm 1964, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 mở đợt hoạt động Đông trên toàn chiến trường, trọng điểm là An Lão (Bình Định).

An Lão là huyện miền núi ở phía tây - bắc tỉnh Bình Định, khoảng 15 nghìn dân, là một thung lũng nằm dọc theo lưu vực sông An Lão, chiều rộng 4 ki-lô-mét, dài 22 ki-lô-mét. Địch tổ chức An Lão thành một chi khu quân sự then chốt trong hệ thống kìm kẹp án ngữ vùng giáp ranh và căn cứ miền núi của tỉnh, là bàn đạp cho bọn biệt kích xâm nhập quấy phá vùng giải phóng, đồng thời là tuyến phòng thủ phía tây che chở cho thị trấn Bồng Sơn và vùng đồng bằng phía bắc tỉnh. Chúng cấu trúc một hệ thống cứ điểm gồm chi khu quân sự quận lị An Lão, điểm cao 193, Đồi Mít, Hội Long và mười tám “ấp chiến lược” hợp thành thế bố trí liên hoàn yểm trợ chặt ché cho nhau suốt chiều dài 10 ki-lô-mét và chiều ngang một ki-lô-mét theo tỉnh lộ từ quận lị An Lão xuống thị trấn Bồng Sơn với hơn 900 quân đóng giữ.

Về phía Quân khu và tỉnh, đây là chiến dịch tiến công đầu tiên do lực lượng chủ lực Quân khu tổ chức có lực lượng địa phương tỉnh tham gia, nhằm tiêu diệt lực lượng địch, giải phóng khu vực. Lực lượng Quân khu có trung đoàn 2 bộ binh, tiểu đoàn 409 đặc công. Lực lượng tỉnh có đại đội 8 bộ binh, đại đội huyện Hoài Ân và hai trung đội huyện An Lão.

1 giờ 05 phút ngày 7 tháng 12 năm 1964, cùng một lúc tiểu đoàn 409 đặc công, đại đội 8, tiểu đoàn 93 trung đoàn 2 và lực lượng địa phương An Lão đồng loạt tiến công vào ba cứ điểm và mười tám “ấp chiến lược”, đồng thời bao vây uy hiếp chi khu quận lị An Lão. Bị tiến công bất ngờ, manh liệt trên toàn tuyến, địch không tài nào ứng cứu được cho nhau. Sau 30 phút chiến đấu đại đội 8 do đại đội trưởng Võ Phi Hồng chỉ huy đã tiêu diệt hoàn toàn quận lị An Lão (cũ) với 176 tên địch, thu 70 súng. Trong khi đó cao điểm 193, Gò Mít, Hội Long cũng bị các chiến sĩ đặc công 409 tiêu diệt. Mười tám “ấp chiến lược” bị lực lượng tiểu đoàn 93 trung đoàn 2 san bằng. Chiến thuật phòng ngự kết hợp cứ điểm với hệ thống “ấp chiến lược” của địch bị phá vỡ.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Sáu, 2012, 09:06:21 am
Đòn tiến công bất ngờ chớp nhoáng của ta vào An Lão làm cho bọn địch ở tiểu khu Bình Định và cả sư đoàn 22 ngụy hoang mang, lo sợ phải bỏ kế hoạch càn quét dọc đường 19 và cấp tốc điều quân giải tỏa.

Với vị trí quan trọng của điểm cao 193 khống chế toàn bộ khu vực, địch cho trực thăng bất ngờ đổ quân đánh chiếm bị thất bại, chúng cho máy bay ném bom suốt ngày hòng tiêu diệt trận địa chốt giữ của ta. Sáng ngày 8 tháng 12, hàng trăm lượt máy bay lên thẳng có phản lực yểm trợ đổ quân xuống chân điểm cao 193 nhưng bị trung đoàn 2 kiên quyết đánh trả, chúng phải đổ dạt về phía đông 5 ki-lô-mét. Không lấy lại điểm cao khống chế, chúng thúc cánh quân đường bộ từ Bồng Sơn liều mạng tiến lên. Khi một tiểu đoàn cộng hòa có sáu xe M.113 dẫn đầu vừa mò đến xóm Hội Long đã bị diệt ngay ba chiếc, hai chiếc khai bị thương. Chiếc thứ sáu trong lúc hốt hoảng quay đầu tháo chạy rơi luôn xuống suối. Không còn cơ giới, bọn bộ binh mất tinh thần dẫm chân tại chỗ rồi tháo lui. Bọn địch ở chi khu bị ta vây ép căng thẳng sau một thời gian cũng phá đồn bỏ chạy. Quận lị An Lão hoàn toàn giải phóng.

Trong chiến thắng An Lão, đại đội 8 của tỉnh, bộ đội địa phương An Lão và Hoài Ân đã đóng góp phần quan trọng vào chiến công chung. Hai trung đội huyện Hoài Ân đã tham gia đánh địch từ suối Bà Nhỏ đến Mỹ Thành lập chiến công xuất sắc được tặng thưởng huân chương chiến công giải phóng hạng hai. Đặc biệt có chiến sĩ Huỳnh Chí dũng cảm chiến đấu diệt nhiều địch, thu nhiều súng được tặng thưởng huân chương chiến công giải phóng hạng ba.

Chiến thắng An Lão đánh dấu một bước trưởng thành của bộ đội ta, trong một thời gian ngắn, trên một địa bàn hẹp đã liên tiếp đánh địch bằng nhiều hình thức chiến thuật tập kích, phục kích, vận động tiến công, đánh bại được một số thủ đoạn chiến thuật cơ bản của địch. Lực lượng vũ trang ba thứ quân đã phối hợp hiệp đồng tốt, thực hiện tiêu diệt lớn về chiến dịch chiến thuật. “Lần đầu tiên trên chiến trường Khu 5 đã xuất hiện phương thức tác chiến mới của bộ đội chủ lực kết hợp bộ đội địa phương và dân quân du kích dưới hình thức chiến dịch quy mô trung đoàn. Chiến thắng An Lão đã làm cho quân dân ta càng thêm tin tưởng và phấn khởi”(1).

Phát huy thắng lợi lớn ở An Lão, nhân dân huyện Hoài Nhơn với bạo lực quần chúng là chủ yếu có lực lượng vũ trang địa phương hỗ trợ đã tiến công diệt 50 tên địch ở Đức Hựu (xã Tam Quan Nam) tiến hành binh vận làm rã ngũ 200 tên thanh niên chống du kích. Đặc biệt ngày 22 tháng 10 năm 1964 được sự giác ngộ của ta ba trung đội dân vệ ở xã Tam Quan đã nổi dậy làm binh biến, mang theo 68 súng các loại, 6 máy thông tin PRC 10, 3 máy điện thoại và toàn bộ quân trang quân dụng trở về, tuyên thệ gia nhập vào lực lượng vũ trang cách mạng, chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng quê hương. Lợi dụng thời cơ thuận lợi đồng bào nổi dậy diệt ác ôn, giải phóng một lúc hàng chục thôn trong bảy xã. Quân địch tan tác phải dồn về co cụm ở Đồi Mười (Hoài Châu), thị trấn Tam Quan và Bồng Sơn. Hàng vạn người lại tiếp tục kéo vào thị trấn Tam Quan, Bồng Sơn tổ chức tiến công chính trị và binh vận, làm quân địch càng thêm hoang mang dao động.

(http://nn7.upanh.com/b5.s29.d3/e272b266be4abe62635109ddeed4eab7_45907987.doimuoi.jpg)

Phụ nữ Hoài Nhơn đấu tranh trực diện với lính ngụy trên cứ điểm Đồi Mười

Kết thúc năm 1964, theo con số thống kê chưa đầy đủ, quân dân Bình Định đã đánh 875 trận lớn nhỏ, số địch bị diệt, bị thương, bị bắt, đào rã ngũ tổng cộng là 9.558 tên, thu 1.665 súng. So với năm 1963, số địch bị diệt tăng gấp bốn lần, số trận đánh tăng gấp ba lần, số vũ khí thu được tăng sáu lần. Số “ấp chiến lược” bị phá là 249, giải phóng và làm chủ khoảng 300 thôn với số dân là 405.000 người chiếm một nửa số thôn và số dân trong toàn tỉnh.

Trong năm 1964, quân dân trong tỉnh đã thu được nhiều thành tựu: vùng căn cứ miền núi được củng cố vững chắc, vùng giải phóng ở nông thôn đồng bằng đã mở rộng liên hoàn thôn liền thôn, xã liền xã, huyện liền huyện, tạo thế bao vây, uy hiếp thị trấn, thị xã. Đường số một, đường sắt, ta đã kiểm soát nhiều đoạn, nhiều đồn bót lẻ của địch bị cô lập, phong trào chiến tranh du kích, chiến tranh nhân dân phát triển mạnh. Làng chiến đấu nhiều nơi ở An Lão, Vĩnh Thạnh, Vân Canh, đông Phù Cát, đông Phù Mỹ, Hoài Ân, Hoài Nhơn được xây dựng thành trận địa tiến công, phản kích địch. Vũ khí thô sơ được sử dụng phổ biến, ngày càng tinh xảo và đã đạt đến trình độ nghệ thuật cao. Tiến công quân sự, chính trị và binh vận mang tính chất quần chúng rộng rãi trên ba vùng chiến lược. Ba mũi giáp công đã trở thành phổ biến trong tiến công và nổi dậy. Cả ba thứ quân hoạt động, tác chiến đều được tổ chức cân đối và sử dụng cách đánh thích hợp. Các đơn vị vũ trang nữ được thành lập ở các huyện và tham gia chiến đấu tốt như đơn vị nữ Bình Khê do đồng chí Huỳnh Thị Đào chỉ huy.


(1) Kết luận của đồng chí Chính ủy Quân khu 5 tại hội nghị tổng kết chiến dịch, ngày 22-8-1966.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Sáu, 2012, 09:07:30 am
*   *
*

Bước vào năm 1965, trước nguy cơ sụp đổ hoàn toàn của ngụy quyền mở miền Nam, sau khi thắng cử, tổng thống Mỹ Giôn-xơn lao sâu thêm vào bước đường trực tiếp xâm lược nước ta. Chúng tăng cường lực lượng Mỹ ở miền Nam, nhằm ngăn chặn mọi sự chi viện từ bên ngoài vào miền Bắc và từ miền Bắc vào miền Nam, phá hủy tiềm lực kinh tế, quốc phòng và uy hiếp tinh thần, làm lung lay quyết tâm chống Mỹ của nhân dân ta. Nhưng chúng đã bị quân dân hai miền đánh trả đích đáng.

Ở Bình Định, chúng tăng số cố vấn Mỹ lên gấp đôi, tập trung mở càn quét đánh phá dữ dội hòng gỡ lại thế thua trong năm 1964, giành lại thế chủ động chiến trường. Nhưng tháng đầu năm 1965, chúng đã mở 830 trận càn quét lớn nhỏ, trong đó có 135 cuộc càn từ tiểu đoàn trở lên. Có lúc chúng điều quân từ Nam Bộ ra, từ Gia Lai xuống ra sức càn quét lấn chiếm khu vực Hoài Nhơn, nối lại và bảo vệ đường giao thông, đóng chống ở Phù Ly, Đèo Nhông, đèo Phủ Cũ, Tài Lương, Ga Tam Quan, cấm Hang Dơi, v.v… Chúng đánh phá quyết liệt các vùng ta mới mở ở Bình Khê, An Nhơn, đông Phù Cát, đông Phù Mỹ và tăng cường phi pháo triệt phá điển hình ở An Đỗ (Hoài Nhơn), Hưng Nhơn (Hoài Ân), Thuận Ninh (Bình Khê), Vinh Quang, Huỳnh Giảng (Tuy Phước) và dọc vùng giáp ranh căn cứ ở An Lão, Hoài Ân gây cho ta nhiều tổn thất. Đối với thị xã Quy Nhơn, chúng tăng cường phòng thủ ở ngoại vi và nhất là phía đầm Thị Nại và vùng núi tây nam Đèo Son.

Tuy địch có phản ứng mạnh, nhưng thế và lực của phong trào cách mạng lúc này không phải như những năm trước. Bạo lực cách mạng của quần chúng đang trong thế phát triển. Đầu năm 1965, thực hiện ý định chiến lược của Trung ương và phối hợp với chiến trường toàn miền, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 quyết định mở chiến dịch xuân 1965, nhằm tiêu diệt một bộ phận chủ lực địch và địa phương quân, mở rộng hơn nữa cao trào tiến công và nổi dậy ở nông thôn. Tỉnh Bình Định là một trong bốn trọng điểm tác chiến của Quân khu.

Căn cứ vào kế hoạch tác chiến của Quân khu trên chiến trường tỉnh, Thường vụ Tỉnh ủy và Ban chỉ huy tỉnh đội sử dụng tiểu đoàn 50 và đại đội đặc công Đ10 đứng chân hoạt động ở đông An Nhơn, bắc Tuy Phước và nam Phù Cát là vùng trọng điểm của tỉnh. Các huyện khác sử dụng toàn bộ lực lượng phối hợp chiến đấu theo kế hoạch.

Đêm 6 rạng ngày 7 tháng 2, chiến dịch xuân bắt đầu. Tiểu đoàn 409 đặc công Quân khu phối hợp với lực lượng địa phương tiến công cứ điểm Gia Hựu xã Hoài Châu (Hoài Nhơn) cách Tam Quan bảy ki-lô-mét.

Trận tiến công Gia Hựu tình huống diễn biến phức tạp, nhưng các chiến sĩ ta vừa dũng cảm vừa phát huy mưu trí, sáng tạo cuối cùng đã tiêu diệt hoàn toàn cứ điểm, 200 tên địch bị diệt và bị bắt. Được lực lượng vũ trang hỗ trợ, nhân dân ở ba “ấp chiến lược” Gia Hựu, Ga An và Bình Khê đã nổi dậy phá ấp trở về làng cũ.

Cùng đêm, đại đội 72 do đại đội trưởng Mai Xuân Diễn chỉ huy phối hợp với một tiểu đoàn của trung đoàn 2 chủ lực Quân khu tiến công tiêu diệt cứ điểm Dương Liễu nằm sát quốc lộ 1 thuộc xã Mỹ Lợi cách Phù Mỹ 10 ki-lô-mét về phía bắc, diệt một đại đội bảo an, bốn trung đội dân vệ. Cứ điểm Dương Liễu bị diệt, ta dự kiến thế nào quân địch ở Phù Mỹ cũng phải đưa quân ra cứu viện nên chọn địa hình có lợi đoạn Đèo Nhông tổ chức một trận vận động phục kích.

Đèo Nhông là đoạn đường số 1 dài hơn 5 km chạy qua hai dãy núi Chóp Vung và núi Nùng cách phía bắc quận lị Phù Mỹ bốn ki-lô-mét. Đoạn đường này quanh co, hai bên đường là những quả đồi nhấp nhô xen kẽ ruộng lầy, hóc núi và rừng cây rậm rạp.

Bị tiến công một lúc ở nhiều nơi, bọn chỉ huy sư đoàn 22 không dám hành động vội vã. Ngày 7 tháng 2, chúng cho một đại đội bảo an đi thăm dò tình hình khu vực Đèo Nhông và đã bắn nhau lẻ tẻ với phân đội trinh sát cảnh giới tuần tiễu của ta trong buổi sáng.

Đêm đó, Ban chỉ huy đánh viện quyết định cho đơn vị bố trí phía đông đường hướng Phù Mỹ lui về phía sau, mở đường cho địch tiến vào, tạo cho địch chủ quan khi thấy trận địa bỏ trống.

Đúng như dự kiến của ta, sáng ngày 8 tháng 2, hai tiểu đoàn quân ngụy có một chi đoàn M.113 yểm trợ từ Phù Mỹ tiến ra giải tỏa, bọn địch sục sạo kĩ từng đoạn, dừng lại chờ M.113 lên mới tiến tiếp theo kiểu sâu đo. 13 giờ 30 phút, chúng phát phát hiện đường dây điện thoại của đơn vị chặn đầu vội vã chiếm các mỏm đồi và bắn xối xả ra hai bên. Nhưng quân địch đã đưa mình vào đất chết. Với những tính toán chính xác từ trước, tất cả hỏa lực của ta dồn dập trút đạn vào đội hình dày đặc của địch trên các mỏm đồi. Giữa lúc đó, các chiến sĩ vận động nhanh chóng đánh bật quân địch xuống lề đường.

Bị đánh mạnh, địch cụm lại quanh các xe bọc thép liều chết chống trả, nhưng các xe M.113 lần lượt bị các chiến sĩ B.40 tiêu diệt. Trung đội trưởng Bùi Xuân Bình đã xông lên bắt sống một xe M.113 đang nổ máy. Với khẩu hiệu “bám thắt lưng địch mà đánh”, “bắt sống xe M.113” các chiến sĩ kiên cường thực hiện đánh gần với quân địch. Do đó, bốn khẩu pháo 105 ở Phù Mỹ và sáu máy bay đến yểm trợ đều không dám bắn vì sợ đánh vào quân chúng. Sau một thời gian ngắn, hai tiểu đoàn chủ lực và 10 xe bọc thép của địch hoàn toàn bị quân ta tiêu diệt.

Chiến thắng Đèo Nhông nêu một kỉ lục mới về tiêu diệt chủ lực địch ngoài công sự, thể hiện tinh thần dũng cảm tuyệt với của bộ đội ta và tài tổ chức, chỉ huy của cán bộ trong việc tạo thời cơ và nắm chắc thời cơ làm cho trận đánh thắng lợi giòn giã.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Sáu, 2012, 09:08:42 am
Cùng với chiến thắng An Lão, chiến thắng Gia Hựu, Dương Liễu - Đèo Nhông làm nức lòng nhân dân trong tỉnh, tạo điều kiện và khí thế cho quân dân Bình Định tiếp tục đẩy mạnh cao trào nổi dậy và tiến công. Đặc biệt, trong đợt hoạt động ở An Lão và Đèo Nhông, chủ lực ta đã thu hút, kìm chân và tiêu diệt chủ lực địch, tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho quân dân các huyện phía đông và phía nam tỉnh phát động tiến công và nổi dậy, mở mảng, giành dân.

Ở xã Cát Hanh, huyện Phù Cát, được sự hỗ trợ, chi viện của bộ đội chủ lực và du kích xã bất ngờ tập kích hai chốt điểm địch ở ga Kánh Phước và trụ sở xã diệt một đại đội bảo an. Cùng lúc, một bộ phận khác phối hợp với đội công tác tiến công ấp Hòa Hội, đánh bật trung đội dân vệ đóng giữ ấp diệt 30 tên, kết hợp với nổi dậy của đồng bào phá ấp bung về làng cũ. Cùng đêm, thừa lúc bọn địa phương quân dao động, đồng bào nổi dậy phá banh các ấp Chánh An, Tân Hóa, Vĩnh Trường, Khánh Phước, Mỹ Hóa, Vĩnh Kiên giải phóng hoàn toàn xã Cát Hanh. Chính quyền thôn xã được thành lập. Cát Hanh giải phóng, hành lang kháng chiến từ phía tây sang phía đông được khai thông. Đêm đêm, đồng bào và du kích bám đường đưa đón cán bộ, bộ đội, vận chuyển vũ khí, thuốc men xuống vùng đông, hỗ trợ các xã vùng đông tiến công và nổi dậy giải phóng quê hương.

Tiếp theo, lực lượng chủ lực Quân khu phối hợp với lực lượng địa phương tập kích cụm điểm chốt ở Đồi Mười - hang ổ cuối cùng của bọn tàn quân các xã phía bắc Hoài Nhơn cụm lại - diệt hai đại đội bà toàn bộ bọn ác ôn. Thừa thắng, 20 nghìn đồng bào các xã phía bắc huyện kết hợp với lực lượng vũ trang huyện, xã thực hiện ba mũi giáp công kéo vào Tam Quan, diệt hai trung đội dân vệ, hỗ trợ cho quần chúng bên trong nổi dậy. Chỉ trong vòng năm ngày, kết hợp đấu tranh của quần chúng với bao vây, bức hàng, bức rút, phá rã bọn phụ quân, ta giải phóng toàn bộ các xã Hoài Châu, Hoài Thanh, Tam Quan Nam, Tam Quan Bắc (có thị trấn Tam Quan). Bọn địch rút chạy về Đệ Đức, ta tổ chức tiến công Đệ Đức, trụ sở xã Hoài Tân, Hoài Xuân nâng tổng số xã giải phóng toàn huyện lên 10 xã là Hoài Sơn, Hoài Hảo, Hoài Châu, Tam Quan Bắc, Tam Quan Nam, Hoài Thanh, Hoài Hương, Hoài Mỹ, Hoài Xuân, Hoài Tân. Bọn ngụy quyền, ác ôn vô cùng hoang mang lo sợ, một số chạy vào Quy Nhơn, số lớn bỏ việc.

Những ngày cuối tháng 2 năm 1965, phong trào tiến công và nổi dậy ở Hoài Nhơn dồn dập, sôi động, toàn huyện như sống lại những ngày khởi nghĩa tháng Tám 20 năm về trước.

Quy Nhơn cũng không còn là nơi an toàn của địch. Ngày 10 tháng 2 năm 1965 một tổ ba chiến sĩ đặc công (Đ10) kết hợp với cơ sở nội thị, cải trang hợp pháp dùng xe xích lô chở thuốc nổ tiếp cận đánh sập khách sạn Việt Cường, diệt hàng chục tên cố vấn Mỹ. Trong hồi kí của Oét-mo-len, y đã thừa nhận: “Một vụ nổ đã phá hủy một khách sạn dùng làm cư xá cho quân Mỹ. Toàn bộ khách sạn đổ sập, giết chết 23 người, làm bị thương 21 người và những người khác bị kẹt trong đống đổ nát. Đây là số thương vong nhiều nhất của Mỹ xảy ra trong riêng một sự kiện”(1).

(http://nn8.upanh.com/b6.s28.d1/5e6d5c34cd3cf50328cc4bbe8de780bb_45907998.khachsan.jpg)

Quan thầy Mỹ cay cú trước xác chết lính Mỹ
ở tòa nhà 4 tầng bị ta đánh sập (Quy Nhơn 1965)

Phối hợp với trận đánh khách sạn Việt Cường, ngày 11 tháng 2 năm 1965, nhân dân các vùng xung quanh Quy Nhơn kéo vào thị xã đấu tranh. Để trả thù, địch đã hèn hạ tàn sát gần 300 người.

Phát triển thế tiến công và trừng trị hành động dã man của địch đối với đồng bào, đêm 11 rạng ngày 12 tháng 2, tiểu đoàn 50 tỉnh và đại đội đặc công Đ10 tập kích chi khu quân sự Gò Bồi (Tuy Phước) diệt một đại đội bảo an và một số dân vệ, biệt kích. Phối hợp với lực lượng huyện và du kích, nhân dân nổi dậy giải phóng các xã Phước Sơn, Phước Hậu (Tuy Phước), Cát Chánh (Phù Cát) và một số xã đông An Nhơn. Ngày 13, tiểu đoàn 50 và đại đội Đ10 lại đánh tiếp bọn địch đóng trong nhà thờ Đại Ân (Phù Cát) kết hợp với nổi dậy của đồng bào giải phóng các xã Cát Nhơn (Phù Cát), Nhơn Hạnh, Nhơn Phong, Nhơn An, ép địch lên đường số 1. Đồng thời, tiến công địch ở Cẩm Vân, Đập Đá, giải phóng thêm các xã Nhơn Phúc, Nhơn Mỹ - Nhơn Lộc, một số xã phía tây An Nhơn và toàn bộ khu vực đông - bắc Bình Khê, hình thành mảng giải phóng liên hoàn từ đầm Thị Nại qua Phước Thắng, Cát Chánh, Nhơn Mỹ, Bình Tân, Bình Thuận của ba huyện Tuy Phước, An Nhơn, Bình Khê.

Tính đến tháng 6 năm 1965, toàn tinh Bình Định đã giải phóng 49 xã, hai quận lị Vĩnh Thạnh, An Lão và các thị trấn Tam Quan, An Lương, An Thái, Gò Bồi, Đồng Phó với số dân 578.773 người. Diệt 8.064 tên địch, có 137 tên Mỹ, thu 1.287 súng các loại. Ta đã kiểm soát hoàn toàn gần 100 ki-lô-mét bờ biển nối liền từ nam đến bắc tỉnh. Đường số 1, đường sắt, đường 19 đều bị triệt phá, cắt đứt từng đoạn. Trong xuân - hè 1965, quân dân Bình Định đã phá 124 trên 228 “ấp chiến lược”, bộ máy kìm kẹp của địch ở nông thôn tan rã hàng mảng lớn, phạm vi kiểm soát của địch bị thu hẹp. Các quận lị, thị trấn còn lại đều nằm trong thế bị bao vây, uy hiếp.

Tranh thủ thắng lợi về quân sự và chính trị, ta đẩy mạnh mũi tiến công binh vận làm tan rã hàng ngũ địch. Trong mấy tháng đầu năm 1965, đã có 663 tên đào rã ngũ mang gần 200 súng về với cách mạng, trong đó có 5 trung đội dân vệ bị bức hàng nộp 68 súng, 2 vụ binh biến của một trung đội dân vệ xã Hoài Tân và hai tiểu đội lính nghĩa quân xã Phước Nghĩa, mang 22 súng về với nhân dân.


(1) HỒI KÍ OÉT-MO-LEN, TƯỜNG TRÌNH CỦA MỘT QUÂN NHÂN.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Sáu, 2012, 09:09:12 am
*   *
*

Trải qua năm năm bền bỉ và kiên trì đấu tranh chống kẻ thù Mỹ - ngụy, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu, Tỉnh ủy Bình Định đã lãnh đạo quân dân trong tỉnh giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, đặc biệt là thắng lợi nửa đầu năm 1965. Quân dân Bình Định đã góp phần cùng quân dân toàn miền đánh bại kế hoạch Xta-lây - Tay-lo, đánh bại về cơ bản kế hoạch Mắc Na-ma-ra, làm thất bại hoàn toàn chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ.

Qua nhiều đợt tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công liên tục, dồn dân, quân dân Bình Định đã đánh bại hàng trăm cuộc càn quét lớn nhỏ của địch, mở rộng và nối liền hoàn chỉnh các căn cứ địa miền núi với vùng giải phóng rộng lớn ở đồng bằng, kể cả các vùng sâu phía đông, vùng ven biển, áp sát các thị trấn và thị xã Quy Nhơn, tạo nên thế dựa vững chắc, hỗ trợ cho nhau.

Hai lực lượng căn bản của phong trào cách mạng là lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang ngày càng được xây dựng và phát triển lớn mạnh, cùng phát huy tác dụng và hiệu quả to lớn trong phương châm đấu tranh chính trị, quân sự song song. Quân dân Bình Định đã vận dụng linh hoạt, nhuần nhuyễn phương châm hai chân, ba mũi, ba vùng, nhiều trường hợp đã đạt đến trình độ nghệ thuật, phát động được chiến tranh du kích phát triển mạnh ở cả miền núi và đồng bằng, bước đầu đưa chiến tranh vào đô thị, phát huy được sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân, từng bước đánh bại quốc sách “ấp chiến lược” và mọi âm mưu, thủ đoạn tàn bạo về quân sự và chính trị của kẻ thù.

Cuộc đấu tranh ở cả ba vùng chiến lược phát triển đồng đều theo đúng phương châm hoạt động của mỗi vùng. Căn cứ miền núi được củng cố vững chắc. Diện giải phóng và làm chủ ở đồng bằng mở rộng, nhiệm vụ giành giữ dân căn bản hoàn thành. Phong trào đấu tranh chính trị ở nông thôn và đô thị dâng lên như vũ bão.

Lực lượng vũ trang địa phương phát triển mạnh mẽ cân đối, làm nòng cốt cho đấu tranh chính trị và thúc đẩy phong trào cách mạng trong tỉnh. Về quân sự, đã tiến bộ về tổ chức chỉ huy và vận dụng chiến thuật, tác chiến độc lập được, tác chiến trong đội hình chủ lực được. Đỉnh cao của tác chiến là lực lượng vũ trang Bình Định đã phối hợp với các đơn vị chủ lực Quân khu lần đầu tiên thực hành tác chiến chiến dịch quy mô nhỏ, giành thắng lợi. Một thành công lớn nữa ở đây là tận dụng thời cơ khi chủ lực địch bị chủ lực ta thu hút ra phía bắc tỉnh, Ban chỉ huy tỉnh đội đã chỉ đạo lực lượng vũ trang tỉnh kết hợp với nhân dân diệt địch, mở mảng, mở vùng thắng lợi ở phía đông và nam tỉnh.

Một thành công quan trọng trong năm năm qua là hoạt động tác chiến tiêu hao, tiêu diệt địch của lực lượng vũ trang luôn luôn gắn liền với tiêu diệt hệ thống kìm kẹp của địch, phá “ấp chiến lược”, giành và giữ dân. Tất nhiên để hỗ trợ quần chúng nổi dậy phá ấp, phá kèm được coi là nhiệm vụ chính trị hàng đầu của lực lượng vũ trang trong tỉnh.

Thắng lợi to lớn của quân dân Bình Định nửa cuối năm 1964 và 6 tháng đầu năm 1965 đã mở ra một cục diện mới, tạo thế và lực mới cho phong trào cách mạng của tỉnh trong giai đoạn cách mạng tiếp theo, thế chủ động chiến trường hiện đang ở trong tay quân và dân ta. Trong phạm vi Bình Định, quân địch không còn đủ sức đối phó với chủ lực ta, với cao trào tiến công và nổi dậy của quân dân trong tỉnh.

Chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ đã thất bại về cơ bản nhưng với bản chất cực kì phản động và ngoan cố, chúng đang tìm cách mở rộng chiến tranh xâm lược với việc đưa quân Mỹ và quân chư hầu vào miền Nam tiến hành chiến lược “chiến tranh cục bộ” đẫm máu.

Một giai đoạn quyết liệt mới sắp bắt đầu.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Sáu, 2012, 09:11:43 am
Chương VI

PHÁT HUY SỨC MẠNH TỔNG HỢP CỦA CHIẾN TRANH NHÂN DÂN
ĐÁNH THẮNG “CHIẾN TRANH CỤC BỘ”
(7/1965 - 12/1968)

1 - CHUẨN BỊ MỌI MẶT, RA QUÂN QUYẾT ĐÁNH, QUYẾT THẮNG QUÂN MỸ XÂM LƯỢC

Sau những thất bại từ nửa cuối năm 1964 đầu năm 1965, chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ về cơ bản đã bị đánh bại. Để cứu vãn, tổng thống Mỹ quyết định leo thêm một nấc thang mới của cuộc chiến tranh xâm lược. Trong tháng 2 năm 1965, không quân Mỹ với các chiến dịch “Mũi tên rực cháy” và “Sấm rền” đã liên tục đánh phá miền Bắc nước ta. Và 8 tháng 3, lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ đầu tiên đổ bộ lên Đà Nẵng. Tiếp theo, nhiều đơn vị chiến đấu Mỹ tiếp tục đổ quân lên Chu Lai, Đà Nẵng, Cam Ranh… đến tháng 7 năm 1965 số quân Mỹ đổ bộ vào miền Nam đã lên đến 72.800. Riêng Khu 5, chúng đã đưa 12 trên 16 tiểu đoàn, chiếm 70% số quân Mỹ và chưa hầu trong toàn miền Nam. Cùng với quân chiến đấu, một khối lượng lớn vũ khí, phương tiện chiến tranh cũng ùn ùn được đưa vào miền Nam.

Đế quốc Mỹ đã chính thức phát động cuộc chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc nước ta và đang từng bước chuyển cuộc chiến tranh xâm lược của chúng ở miền Nam từ “chiến tranh đặc biệt” sang “chiến tranh cục bô” với hai lực lượng chiến lược là quân ngụy và quân viễn chinh Mỹ, lấy quân Mỹ làm lực lượng nòng cốt và là chỗ dựa cho quân ngụy.

Đầu tháng 7 năm 1965, tổng thống Mỹ quyết định đưa số quân Mỹ ở Việt Nam lên 44 tiểu đoàn vào cuối năm 1965 và thông qua kế hoạch của Oét-mo-len, nhằm giành thắng lợi ở miền Nam trong vòng hai năm đến hai năm rưỡi với biện pháp chiến lược “Tìm diệt và bình định”.

Ở Bình Định, từ tháng 4 năm 1965, 2.000 quân chiến đấu Mỹ đổ bộ lên Quy Nhơn(1) cộng với gần 1.000 tên cố vấn có từ trước, tất cả khoảng 3.000 tên. Tháng 7 năm 1965, Mỹ đưa một lữ đoàn thuộc sư đoàn không vận số một vào An Khê, chiếm đóng dọc đường 19 đến Quy Nhơn. Cuối tháng 7 năm 1965, sư đoàn “Mãnh Hổ” Nam Triều Tiên đến lập căn cứ ở Phước Thành (Tuy Phước), rải quân dọc quốc lộ một, từ trục đường 19 đến sông La Tinh ở Phù Ly, kết hợp với hai tiểu đoàn Bạch Mã Nam Triều Tiên từ Phú Yên ra khống chế các huyện phía nam tỉnh từ Phù Cát đến đèo Cù Mông(2).

Tất cả những diễn biến đó không ngoài dự kiến của Đảng ta. Trong Hội nghị lần thứ 11 Ban chấp hành Trung ương Đảng tháng 3 năm 1965, Trung ương đã xác định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng nước ta là “… tập trung lực lượng của cả nước giành thắng lợi quyết định ở miền Nam trong thời gian tương đối ngắn, đồng thời sẵn sàng đối phó và quyết thắng cuộc ”chiến tranh cục bộ” ở miền Nam…”(3).

Ngay từ khi quân Mỹ đặt chân lên đất miền Nam Trung Bộ, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu 5 đã chủ trương: tranh thủ thời gian, tiến công tiêu diệt và làm tan rã phần lớn quân ngụy, buộc quân Mỹ mới vào đã ở trong thế bị động, lúng túng đối phó ngay từ đầu. Đồng thời khẩn trương xây dựng lực lượng, xây dựng và củng cố thế trận chiến tranh nhân dân, phát động phong trào quyết đánh, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược.

Hội nghị chiến tranh du kích toàn khu được triệu tập để bàn kế hoạch củng cố quân dân du kích, xây dựng làng chiến đấu, tổ chức vành đai du kích diệt Mỹ và phát động phong trào thi đua đạt danh hiệu “Dũng sĩ diệt Mỹ” theo các chỉ tiêu do Quân khu quy định.

Thực hiện chủ trương tăng cường xây dựng lực lượng vũ trang của Quân khu, tiểu đoàn 50 chủ lực tỉnh được kiện toàn, bổ sung quân số, vũ khí đủ theo quy định, xây dựng thành tiểu đoàn mạnh của tỉnh. Đồng thời, ngày 19 tháng 5 năm 1965, Ban chỉ huy tỉnh đội quyết định rút ba đại đội trực thuộc tỉnh cùng với hai đội hỏa lực trợ chiến được Quân khu tăng cường thành lập một tiểu đoàn mới mang phiên hiệu tiểu đoàn 52 tại Soi Quyên xã Cát Hiệp (Phù Cát). Tiểu đoàn 52 do đồng chí Thái Sơn làm tiểu đoàn trưởng, đồng chí Đinh Bá Lộc chính trị viên tiểu đoàn 50 được điều về làm chính trị viên.

Đại đội đặc công Đ10 được bổ sung quân số, trang bị, thành năm trung đội mạnh. Các huyện đồng bằng mỗi nơi xây dựng một đại đội tập trung đầy đủ quân số, trang bị. Các huyện miền núi cứ mỗi huyện hai trung đội. Từ mùa thu năm 1965, tất các các đơn vị đã ổn định biên chế, tổ chức và huấn luyện bổ sung. Các đại đội, tổ, đội chuyên môn công binh, trinh sát, đặc công nước, săn máy bay được kiện toàn. Du kích và tự vệ bán thoát li toàn tỉnh sau khi củng cố có 24.919 người - lực lượng quan trọng trong diệt kẹp giành dân ở cơ sở.


(1) Theo Tư liệu của quân đội ngụy thì ngày 12-9-1965, các đơn vị đầu tiên của sư đoàn không vận số 1 vào Quy Nhơn.
(2) Theo Tư liệu quân đội ngụy thì ngày 22-10-1965, sư đoàn Mãnh Hổ vào Quy Nhơn.
(3) CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC 1954-1975 - Những sự kiện quân sự, Nhà xuất Bản QĐND, Hà Nội 1980, trang 114.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Sáu, 2012, 09:12:12 am
Chuẩn bị đánh quân viễn chinh Mỹ, quân ngụy và chư hầu, theo phương hướng bố trí của Quân khu, các đơn vị vũ trang tỉnh được bố trí như sau:

- Tiểu đoàn 50 đứng chân ở huyện Tuy Phước và nam Phù Cát, cơ động đánh địch quanh căn cứ Quy Nhơn.

- Tiểu đoàn 52 đứng chân ở tây An Nhơn đến bắc Bình Khê, cùng lực lượng chủ lực Quân khu và bộ đội huyện, du kích tác chiến dọc đường chiến lược 19 và các thị trấn.

- Các đại đội tập trung Hoài Nhơn, Hoài Ân, Phù Mỹ và du kích địa phương phối hợp với chủ lực Quân khu tác chiến trên phạm vi huyện mình.

- Đại đội đặc công Đ10 có nhiệm vụ cơ động đánh những đòn hiểm, sâu trong hậu cứ địch.

Tỉnh ủy và Ban chỉ huy tỉnh đội chủ trương tổ chức vành đai Quy Nhơn gồm các xã Phước Hậu, Phước Hòa, Phước Sơn, Phước Lý thuộc huyện Tuy Phước. Chủ trương này không thực hiện được vì bị quân địch phản kích mạnh, và chúng tập trung xây dựng các chốt điểm để bảo vệ các cơ quan đầu não, bến cảng, sân bay, căn cứ hậu cần ở thị xã Quy Nhơn.

Cùng với chuẩn bị về lực lượng, thế trận, việc chuẩn bị về tinh thần, tư tưởng dám đánh và quyết đánh Mỹ cho đảng viên, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang và nhân dân được Tỉnh ủy và Ban chỉ huy tỉnh đội tiến hành chu đáo. Chỗ mạnh, chỗ yếu của quân Mỹ bước đầu được phân tích: Tuy chúng có mạnh về hỏa lực, trang bị và sức cơ động nạnh, nhưng là đội quân xâm lược, chúng không có lí tưởng chiến đấu, không có chính nghĩa nên tinh thần chiến đấu dễ sa sút, lại không quen thời tiết, khí hậu nhiệt đới, không am hiểu địa hình, v.v… Quân dân ta kém chúng về vũ khí, phương tiện, nhưng ta có ưu thế tuyệt đối về tinh thần, lại chiến đấu trên địa hình quen thuộc để bảo vệ quê hương, đã có kinh nghiệm đánh Pháp, đánh ngụy nhất định sẽ đánh được quân Mỹ và chư hầu. Vấn đề phải chuẩn bị tinh thần, tư tưởng, xây dựng ý chí, quyết tâm cao. Tiêu diệt được quân Mỹ, đánh thắng chúng không chỉ có giá trị về chiến thuật, chiến dịch mà còn có ý nghĩa về chiến lược, không chỉ có ý nghĩa trong việc giải phóng đất nước mà còn có ý nghĩa quốc tế lớn lao.

Không khí chuẩn bị đánh Mỹ được phát động sôi nổi trong toàn tỉnh. Tuy vậy, do chưa có thực tế đánh Mỹ, những biểu hiện gờm sợ Mỹ đã xuất hiện trong một số bộ phận lực lượng vũ trang và nhân dân.

Về mặt quân sự, Tỉnh ủy xác định: Ra sức tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, kể cả quân Mỹ và quân Nam Triều Tiên, đẩy mạnh chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích đều khắp, rộng rãi, mạnh mẽ. Tích cực chống địch càn quét lấn chiếm, lùa xúc dân, lập vành đai trắng “bình định” nông thôn, kiên quyết giữ vững và khôi phục vùng giải phóng… Phát động mạnh mẽ phong trào bố phòng, xây dựng, nâng cao chất lượng thôn xã chiến đấu…

Chủ trương của Tỉnh ủy được nhanh chóng thực hiện. Từng đoàn cán bộ được phái xuống các đơn vị, địa phương triển khai công việc chuẩn bị. Thôn xã chiến đấu trong tỉnh được củng cố. Một số xã chiến đấu được xây dựng hoàn chỉnh, vững chắc như Hoài Châu, Hoài Thanh (Hoài Nhân), Mỹ Hiệp (Phù Mỹ), Cát Hanh, Cát Tài (Phù Cát), Nhơn Mỹ (An Nhơn), Bình Giang (Bình Khê), Phước Hòa, Phước Sơn (Tuy Phước). Nhiều thôn xã được xây dựng liên hoàn, tạo điều kiện cho lực lượng vũ trang cơ động đánh địch. Riêng xã Phước Sơn đã hình thành tuyến rào quy mô ngăn cách giữa mặt đầm Thị Nại với đất liền, chống tàu thuyền Mỹ từ biển đột nhập vào. Trên khắp các huyện, nhất là ở các vùng xung yếu, nhân dân và du kích ngày đêm đào hào giao thông, hầm địa đạo, xây dựng ổ chiến đấu như ở Cát Chánh (Phù Cát), Hoài Thanh (Hoài Nhơn), Bình An (Bình Khê). Hàng ngàn thanh niên vùng giải phóng, cả trong vùng địch kiểm soát tự nguyện xung phong gia lực lượng vũ trang lên đường đánh Mỹ.

Trong lúc quân dân toàn tỉnh chuẩn bị đánh Mỹ thì ngày 20 tháng 7 năm 1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh long trọng nói lên quyết tâm sắt đá chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta: “Đứng trước nguy cơ giặc Mỹ cướp nước, đồng bào miền Bắc và đồng bào miền Nam đoàn kết một lòng kiên quyết chiến đấu, dù phải chiến đấu 5 năm, 10 năm, 20 năm hay lâu hơn nữa chúng ta kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn”.

Lời kêu gọi của Bác càng cổ vũ quân dân Bình Định cùng quân dân cả nước sục sôi đánh Mỹ. “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. “Tìm Mỹ mà đánh, tìm ngụy mà diệt” trở thành quyết tâm của mọi đảng viên, cán bộ, chiến sĩ và đồng bào trong tỉnh.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Sáu, 2012, 09:12:37 am
*   *
*

Sau khi quân Mỹ đổ bộ lên Quy Nhơn, chúng chiếm đóng các vị trí xung yếu phía nam tỉnh như các cụm núi xã Phước Thành, núi Kỳ Sơn, Xuân Phương, Vinh Quang (Phước Sơn) núi Xương Cá (Phước Thuận), thị trấn Gò Bồi và Hựu Thạnh (Phước Hòa), Tháp Bánh Ít (Phước Lộc). Chúng ra sức củng cố công sự phòng ngự, tăng cường bảo vệ các trục giao thông chiến lược đường số 1, đường 19, các quận lị, thị trấn, nhất là cảng Quy Nhơn, đồng thời mở các cuộc hành quân càn quét đối phó với các hoạt động của ta, đẩy lực lượng ta ra khỏi vùng bàn đạp thị xã Quy Nhơn, tích cực chuẩn bị cho kế hoạch phản công mùa khô của chúng.

Từ ngày 28 tháng 4 năm 1965, một tiểu đoàn lính thủy đánh bộ ngụy cùng với quân địa phương, hơn 1.000 tên mở hành quân càn quét vào hai thôn Trung Lương và Phú Hậu xã Cát Chánh (Phù Cát) nhằm tạo một vành đai trắng quanh thị xã Quy Nhơn.

Các chiến sĩ tiểu đoàn 50 chủ lực tỉnh được chuẩn bị kĩ về tư tưởng và phương án tác chiến đã phối hợp với du kích xã Cát Chánh, dựa vào thế trận bày sẵn kiên quyết phản kích tiêu diệt địch. Đại đội hai, mũi phản kích chủ yếu của tiểu đoàn nổ súng tiêu diệt gọn phân đội quân ngụy đi đầu khi chúng vừa được trực thăng đổ xuống. Cuộc chiến đấu quyết liệt của tiểu đoàn 50 với quân ngụy diễn ra suốt ngày 28. Dưới làn hỏa lực phi pháo địch, các chiến sĩ 50 kiên cường bẻ gãy nhiều đợt tiến công của địch, diệt 80 tên, bắn rơi sáu máy bay.

Sang tháng 8, tiểu đoàn 50 phối hợp với du kích tập kích diệt gọn một đại đội bảo an, tiến công trụ sở ngụy quyền xã Nhơn Phong (An Nhơn) diệt một trung đội dân vệ, đánh tan rã hai trung đội thanh niên chiến đấu, kết hợp với nhân dân nổi dậy trừng trị bọn ác ôn, giải phóng xã Nhơn Phong. Cùng lúc, các xã kế cận cũng vùng dậy diệt kèm, phá ấp, hình thành mảng giải phóng liên hoàn năm xã ở đông An Nhơn, bốn xã đông - nam Phù Cát và bảy xã đông Tuy Phước, tạo thế uy hiếp từ phía bắc căn cứ quân sự Quy Nhơn. Sau một thời gian, không thể để lực lượng cách mạng hoạt động sát căn cứ quân sự, địch cho hai tiểu đoàn lính thủy đánh bộ đến giải tỏa, đánh chiếm lại khu vực này, khôi phục lại ngụy quyền cơ sở.

Ngày 10 tháng 8 năm 1965, tiểu đoàn 52 lại tập kích diệt một đại đội bản an, giải phóng ấp Kiên Mỹ (Bình Khê). Liều sau đó, một tiểu đoàn Nam Triều Tiên kéo đến giải tỏa. Tiểu đoàn 52 chặn đánh diệt gần 100 tên, số còn lại tháo chạy. Cay cú bị đòn đau, ngày 11 tháng 8, một trung đoàn Nam Triều Tiên kéo đến ứng cứu, đánh chiếm các thôn An Vinh, Nhơn Thuận (Bình An) bắn giết hàng trăm người, phần lớn là người già và trẻ em. Nhiều chị em bị chúng làm nhục. Để trả thù cho đặc biệt bị chúng sát hại, tiểu đoàn 52 và du kích địa phương tổ chức tiến công quân Nam Triều Tiên ở Sông Cạn, Nhơn Thuận suốt ba ngày, diệt 340 tên.

Qua những trận đầu đánh thắng quân Mỹ và quân Nam Triều Tiên, quân dân Bình Định tự tin vào khả năng của mình có thể đánh bại quân Mỹ và chư hầu. Những kinh nghiệm chiến đấu với quân Mỹ, quân Nam Triều Tiên được phổ biến trong các đơn vị.

Ngày 23 tháng 8, đại đội đặc công Đ10 và lực lượng vũ trang huyện Phù Cát nổ súng tiến công chốt điểm Lường Cày xã Cát Hanh diệt một đại đội bảo an, san bằng chốt điểm.

Thời gian này, tuyến vận chuyển chiến lược từ miền Bắc vào Khu 5 được củng cố và mở rộng. mức độ chi viện về mọi mặt của Trung ương cho Khu 5 được tăng lên. Các tiểu đoàn, trung đoàn hỏa lực, bộ binh cùng một khối lượng lớn vận chuyển kĩ thuật, khí tài của Trung ương chi viện cho Khu 5 đang trên đường vào. Hàng ngàn thanh niên ở Bình Định đang nô nức tòng quân đánh Mỹ. Hàng vạn tấn gạo, thực phẩm cung cấp cho các đơn vị chủ lực được dân công Bình Định chuyển đến các kho trạm dự trữ trên căn cứ.

Để đáp ứng với nhiệm vụ tác chiến trên chiến trường, Thường vụ Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu 5 quyết định thành lập các sư đoàn chủ lực.

Điều kiện hình thành các sư đoàn chủ lực của Quân khu đã chín muồi. Ngày 2 tháng 9 năm 1965, tại khu rừng Bà Bơi xã Ân Nghĩa huyện Hoài Ân, sư đoàn 3 Sao Vàng (gồm các trung đoàn 2, 12, 22 và các tiểu đoàn binh chủng) được thành lập. Cùng lúc, ở phía bắc sư đoàn 2 cũng ra đời. Hai sư đoàn chủ lực của Quân khu được thành lập đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của lực lượng vũ trang và phong trào cách mạng ở Khu 5 sau 5 năm bền bỉ đấu tranh với kẻ thù Mỹ - ngụy, cũng là sự phát triển tất yếu khách quan của lực lượng vũ trang trong chiến tranh giải phóng dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Sư đoàn 3 Sao Vàng được bố trí hoạt động tác chiến ở Bình Định và nam Quảng Ngãi. Từ đây, trong cuộc chiến đấu chống quân Mỹ, ngụy và chư hầu, quân dân Bình Định luôn luôn được sự phối hợp, hỗ trợ mạnh mẽ, đắc lực của sư đoàn 3 Sao Vàng. Những chiến thắng của quân và dân Bình Định luôn luôn gắn chặt với sự phối hợp chi viện của sư đoàn 3. Ngược lại những chiến công của sư đoàn 3 cũng là nhờ dựa vào sức người, sức của và ưu ái của đồng bào Bình Định và thế trận chiến tranh nhân dân ngày càng phát triển của nhân dân toàn tỉnh. Nói cách khác, Bình Định là chiếc nôi ra đời của sư đoàn, là bà mẹ nuôi dưỡng và tạo điều kiện thuận lợi cho sư đoàn từng bước trưởng thành, lớn mạnh. Giữa sư đoàn 3 và quân dân Bình Định có mối quan hệ máu thịt, thắng lợi cùng hưởng, khó khăn cùng chia.

Sư đoàn 3 ra đời và lấy Bình Định làm địa bàn hoạt động tác chiến chủ yếu còn nói lên vị trí quan trọng của tỉnh, là một hướng chiến dịch của Quân khu.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Sáu, 2012, 09:13:25 am
*   *
*

Tháng 9 năm 1965, sư đoàn không vận số 1 Mỹ đổ bộ lên Quy Nhơn. Việc đầu tiên đặt ra với chúng là phải khai thông các con đường chiến lược từ đồng bằng đi Tây Nguyên lấy An Khê làm căn cứ để triển khai lực lượng Mỹ giao cho ngụy khai thông đường số 21 từ Quy nhơn đi Quảng Ngãi, đường 19 Mỹ đảm nhiệm.

Trong lúc cả quân Mỹ lẫn quân ngụy đang dồn sức giải tỏa các đường chiến lược thì Bộ Tư lệnh Quân khu ra mệnh lệnh số 1 về chiến dịch Đông 1965: Tiến hành tiến công kết hợp với nổi dậy của quần chúng, tranh thủ tiêu diệt ngụy quân, ngụy quyền, triệt chỗ dựa của quân Mỹ, đồng thời kiên quyết đánh phủ đầu quân Mỹ. Với bộ đội chủ lực phải tập trung tiêu diệt chủ lực địch, hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy. Thực hiện đánh điểm diệt viện, lấy đánh địch ngoài công sự là chính.

Bộ chỉ huy Mặt trận Bình Định được thành lập gồm Bộ Tư lệnh sư đoàn 3, đồng chí Trần Quang Khanh, Bí thư Tỉnh ủy, đồng chí Chủ tịch làm Chủ tịch hội đồng chi viện tiền phương. Phương án tác chiến chiến dịch của chủ lực, địa phương được triển khai nghiên cứu, xác định.

(http://nn5.upanh.com/b5.s29.d1/764d8a19644985d90f1757f6694c7500_45908015.saovang.jpg)

Đồng chí Trần Quang Khanh nguyên bí thư Tỉnh ủy, đồng chí Huỳnh Hữu Anh nguyên Tư lệnh Sư đoàn 3 - Sao Vàng, cùng các đồng chí lãnh đạo địa phương và chỉ huy sư đoàn thăm địa điểm thành lập sư đoàn tại khu vực Dốc Bà Bơi (Hoài Ân)

Đội hình các đơn vị được điều chỉnh theo phương án: Trung đoàn 2 đứng chân ở Phù Cát, Bình Khê. Trung đoàn 22 vào tây Hoài Nhơn. Trung đoàn 12 xuống đứng chân ở Phù Mỹ. Các tiểu đoàn 50, 52 ém sát đường số 1. Một thế trận dài hơn 50 ki-lô-mét được hình thành kéo dài từ bắc Hoài Nhơn đến nam Phù Cát.

Theo phương án tác chiến, lực lượng sư đoàn 3 sẽ mở đợt hoạt động đánh quân ngụy giải tỏa giao thông trên đường số 1 đoạn Bồng Sơn đi Phù Cát. Các tiểu đoàn 50, 52 chủ lực tỉnh hoạt động từ nam Phù Cát trở vào, chủ yếu kéo lực lượng sư đoàn 22 ngụy ra khu vực trọng điểm. Bộ đội địa phương huyện, du kích xã hỗ trợ cho quần chúng đấu tranh bao vây quận lỵ Bồng Sơn chi khu Gò Bồi (Tuy Phước) và quận lị Phù Mỹ. Đối tượng tác chiến của sư đoàn 3 là quân ngụy, chưa phải quân Mỹ.

Trong khi ta điều chỉnh đội hình, quân địch đánh hơi thấy sự di chuyển của lực lượng ta. Trinh sát mặt đất và máy bay trinh sát điện tử xác nhận: Lực lượng đối phương đang ấp sát các đường chiến lược và đang ẩn náu ở trong thung lũng Thuận Ninh, có thể làm phương hại đến việc chuyển quân của ta (Mỹ).

Thuận Ninh là một thôn nhỏ nằm gọn trong một thung lũng dài và hẹp thuộc xã Bình Tân huyện Bình Khê. Sau khi kiểm tra lại nguồn tin, bọn chỉ huy Mỹ cho đổ quân bất ngờ nhằm bao vây “cất vó” đơn vị Việt Cộng.

Theo phương án đánh quân đổ bộ đường không và được chuẩn bị từ trước, tiểu đoàn 2 thuộc trung đoàn 2 sư đoàn 3 cùng du kích Thuận Ninh lập tức triển khai chiến đấu.

Sáng ngày 18 tháng 9 năm 1965, sau khi dùng không quân và pháo binh đánh phá, Ki-na, Tư lệnh sư đoàn không vận số 1 ra lệnh cho 60 máy bay trực thăng đổ hơn 2.000 lính dù xuống khu vực Thuận Ninh, đây là cuộc hành quân đường không đầu tiên của quân Mỹ ở Bình Định.

Lực lượng ta ít hơn địch nhiều lần nhưng nhờ dựa vào địa hình có lợi, đã kiên cường nổ súng đánh trả quân Mỹ quyết liệt, bộ đội và du kích tổ chức xung kích nhỏ diệt từng phân độ Mỹ. Cuộc chiến đấu diễn ra đến chiều tối. bị đánh đau, quân Mỹ phải kết thúc cuộc hành quân với hơn 200 tên Mỹ bị diệt, 11 máy bay bị bắn rơi, 40 chiếc khác bị trúng đạn. Bị thất bại, bọn Mỹ phải thú nhận: “Quân giải phóng và du kích ở thung lũng Thuận Ninh đánh rất giỏi, được tổ chức tốt và có kỉ luật”.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Sáu, 2012, 09:14:18 am
Trận đụng đầu với sư đoàn không vận ở Thuận Ninh diễn ra ngoài dự kiến của Bộ chỉ huy Mặt trận. Dự kiến của ta là: sau khi quân ngụy bị đánh đau ở đường số 1, quân Mỹ phải nhảy vào cứu. Lúc đó các trận đánh Mỹ mới có thể bắt đầu. Quân Mỹ định dùng yếu tố bất ngờ đổ quân tiêu diệt lực lượng ta, phá kế hoạch tiến công của ta, nhưng với tinh thần sẵn sàng chiến đấu cao, tình huống nào cũng tranh thủ chuyển thế bị động thành chủ động đã làm cho quân Mỹ bị từ bất ngờ này đến bất ngờ khác.

Phương án tác chiến cơ bản của chiến dịch vẫn không thay đổi. Đêm 22 rạng 23 tháng 9, một bộ phận lực lượng sư đoàn 3 có lực lượng vũ trang tỉnh phối hợp cùng một lúc tiến công hai đồn bảo an chốt giữ đèo Phủ Cũ và cầu Phù Ly trên trục đường số 1. Sau bốn giờ chiến đấu quyết liệt, lực lượng vũ trang ta hoàn toàn làm chủ mục tiêu. Tin chiến thắng ở Phủ Cũ, Phù Ly lan nhanh vào các thị trấn, thôn xóm dọc đường số 1 làm đồng bào càng phấn khởi tham gia phục vụ chiến dịch.

Phát huy thắng lợi, những ngày 23, 24, lực lượng vũ trang huyện và du kích Hoài Nhơn liên tục đánh địch, cắt giao thông từ Bồng Sơn đi Phủ Cũ. Phối hợp với tiến công quân sự, lực lượng đấu tranh chính trị của quần chúng đông hơn 20 nghìn người từ các xã kéo về thị trấn Bồng Sơn vây chặt các đồn bảo an, dân vệ đưa yêu sách đấu tranh và gọi binh lính trở về với vợ con, gia đình. Bọn địch hoảng sợ cho lính bắn xả vào nhân dân. Số người đi đấu tranh anh dũng hi sinh, một cụ già ở Hoài Thanh trước khi tắt thở còn khoác tay hô to “Tất cả hãy xông lên đòi nợ máu”. Đồng bào tiếp tục xông tới. Bọn địch khiếp sợ phải chùn bước. Tên quận trưởng phải đứng ra nhận tội, bồi thường những người bị thiệt mạng. Mặt khác, chúng cho máy bay ném bom vào các vị trí đã mất. Chúng hiểu rằng chỉ có đẩy lùi được các mũi tiến công quân sự mới có thể dập tắt được các mũi đấu tranh chính trị.

(http://nn3.upanh.com/b5.s28.d2/5d6b9024f3f2024ba28acddee77b489f_45908013.phunuphumy.jpg)

Phụ nữ Phù Mỹ xuống đường đấu tranh chính trị - binh vận

Đang giữa cuộc hành quân giải tỏa giao thông lại bị cắt giao thông, bọn chỉ huy Mỹ - ngụy lồng lộn điên cường. Mất đèo Phủ Cũ, hai huyện Hoài Ân, Hoài Nhơn bị cô lập. Mất cầu Phù Ly, huyện Phù Mỹ bị chia cắt. Nửa tỉnh phía bắc Bình Định đông dân, nhiều của có nguy cơ rơi vào tay cách mạng. Bằng mọi giá, chúng phải tung quân đi giải tỏa. Ngày 23 tháng 9, hai tiểu đoàn cộng hòa và một chi đoàn xe bọc thép từ Phù Cát ra, từ Bồng Sơn vào được tung đi cứu viện. Nhưng cả hai cánh quân địch đều bị đánh buộc phải quay về.

Sau năm ngày dùng máy bay, pháo binh đánh đi đánh lại các vùng từ Phủ Cũ, Đèo Nhông đến Phù Ly, Chợ Gồm, rải chất độc hóa học vùng giáp ranh, chúng ra lệnh cho tiểu đoàn biệt động số 22 “Cọp đen” một đơn vị khét tiếng hung ác mới điều từ Phú Phong về di hành quân ứng cứu. Tại ấp Diên Khánh tiểu đoàn “Cọp đen” bị tiểu đoàn 6 trung đoàn 12 sư đoàn 3, có du kích địa phương phối hợp tiêu diệt.

Tiếp theo, kết hợp tiến công của lực lượng vũ trang với nổi dậy của quần chúng, đầu tháng 10, địch buộc phải rút bỏ hàng loạt vị trí dọc quốc lộ 1 từ Đệ Đức, Thánh Giá, Tân Ốc, Bình Dương đến Chóp Vung, Núi Nùng, Chợ Gồm… Quận lị Hoài Nhơn và Phù Mỹ hoàn toàn bị cô lập nằm chơ vơ giữa vùng giải phóng.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Sáu, 2012, 09:15:04 am
Tình hình đó buộc quân Mỹ phải nhảy vào tham chiếm. Chúng đánh vào thung lũng Hội Sơn ở tây - bắc Phù Cát, nơi chúng nghi lực lượng ta trú quân. Nhưng trớ trêu thay, vào Hội Sơn quân Mỹ không thấy chủ lực Việt Cộng đâu mà vấp phải một đối thủ kì lạ lúc ẩn, lúc hiện như bóng ma với những trận đánh nhỏ lẻ, đánh nhanh rút nhanh quần lộn với chúng. Đối thủ kì lạ đó chính là lực lượng vũ trang huyện Phù Cát, du kích Hội Sơn, Long Định và một tiểu đoàn chủ lực phân tán, áp dụng cách đánh du kích linh hoạt.

Sau 5 ngày (10-10 - 15-10-1965), biết đã phạm sai lầm, quân Mỹ phải lui quân với thiệt hại 433 lính chết, 17 trực thăng bị bắn rơi, 23 chiếc khác bị trúng đạn. Phóng viên AFP đi theo trận này phải thú nhận; “Cuộc hành quân ở suối La Tinh (Hội Sơn) chứng tỏ du kích Việt Cộng cơ động hơn nhiều so với lính Mỹ…”.

Sau trận Thuận Ninh và Hội Sơn, lực lượng vũ trang Bình Định đã có thể khẳng định: Quân Mỹ không có gì đáng sợ như chúng tuyên truyền huyênh hoang.

Phát huy thắng lợi đợt đầu chiến dịch Đông, ngày 6 tháng 11 năm 1965, tiểu đoàn 50 chủ lực tỉnh tiến công thị trấn Đập Đá (An Nhơn) diệt một đại đội bảo an, phát động quần chúng nổi dậy diệt ác ôn. Ngày 22 tháng 11 năm 1965, tiểu đoàn 50 lại tiến công diệt một đại đội Nam Triều Tiên ở Tân Giảng (Tuy Phước). Ngày 3 tháng 12, lực lượng vũ trang huyện và du kích tổ chức tập kích diệt nhiều lính Nam Triều Tiên đang gây tội ác giữa ban ngày ở Bình Thành (Bình Khê).

Đợt hai chiến dịch Đông của Quân khu chuyển trọng tâm ra Quảng Ngãi, sư đoàn 3 được lệnh hành quân ra Quảng Ngãi tiếp tục đánh địch.

Quân Mỹ và Nam Triều Tiên vào Bình Định gây cho ta nhiều khó khăn, mức độ ác liệt của chiến tranh tăng lên gấp nhiều lần. Càng bị đánh đau, chúng càng tàn bạo, giết hai nhân dân. Đến cuối năm 1965, toàn tỉnh đã có 1.394 đồng bào bị chết, 1.522 người bị thương, 9.114 nhà bị cháy, sập, 2.544 trâu bò bị giết, bị cướp, hơn 1.400 tấn lúa bị cướp, bị đốt. Trước tình hình địch đánh phá ác liệt, nhân dân một số vùng chạy vào núi, bỏ bê sản xuất, lo sợ phi pháo, chất độc hóa học. Một số bàn đạp ở ven thị xã Quy Nhơn gặp khó khăn. Chúng lấn chiếm lại 34 thôn và 4 xã, xúc 30.000 dân, nặng nhất là hai huyện phía nam. Trong thời gian đó, ta phá banh 15 “ấp chiến lược”, mở ra và giành quyền làm chủ ở 15 thôn ở đồng bằng và dứt điểm năm xã vùng thấp Vân Canh cộng 15.000 dân. Rõ ràng, ta có gặp khó khăn ác liệt nhưng thắng lợi ngày càng lớn hơn.

(http://nn1.upanh.com/b1.s28.d3/ad9506ef81845f962fef00bf2b9a3e70_45908001.latvat826.jpg)

Quân Nam Triều Tiên tiến hành cuộc hành quân tìm diệt tại Quy Nhơn, tháng 6-1967

Chung trong toàn tỉnh, đến cuối năm 1965, ta đã có 450.000 dân cả vùng căn cứ và vùng giải phóng ở đồng bằng, 160.368 lượt người đấu tranh chính trị trực diện với Mỹ - ngụy trong 1.506 cuộc, 5.973 binh lính rã ngũ, 5 vụ binh biến, 5 vụ nội ứng, mang về 132 súng các loại, phóng thích 1.093 tù hàng binh. Về tác chiến đã loại khỏi vòng chiến đấu 2.041 tên Mỹ và Nam Triều Tiên.

Quân Mỹ không thực hiện được sợ trường của chúng mà buộc phải đánh một cách bị động để đối phó với ta. Chúng không cứu vãn được quân ngụy mà quân ngụy tỏ ra sa sút hơn.

Bị tiêu diệt ngày càng nhiều, tinh thần lính Mỹ và Nam Triều Tiên bắt đầu có biểu hiện bạc nhược.

Qua hơn nửa năm đánh Mỹ và chư hầu có thể khẳng định quân dân Bình Định hoàn toàn có khả năng đánh bại từng đơn vị quân Mỹ, quân Nam Triều Tiên trong điều kiện chúng có ưu thế tuyệt đối về binh khí kĩ thuật. Tuy ta có tổn thất về người và của, nhưng phong trào cách mạng đánh Mỹ, diệt ngụy có hiệu lực.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Sáu, 2012, 04:07:58 pm
2 - THAM GIA ĐÁNH BẠI CUỘC PHẢN CÔNG CHIẾN LƯỢC MÙA KHÔ CỦA ĐẾ QUỐC MỸ (1965-1966)

Đến cuối năm 1965, mặc dù liên tiếp bị thất bại và tổn thất nặng nề, nhưng với bản chất hết sức ngoan cố, đế quốc Mỹ vẫn tiếp tục đẩy mạnh và mở rộng cuộc “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam và leo thang đánh phá miền Bắc.

Tháng 12 năm 1965, Ban chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ 12, phân tích sâu sắc tình hình qua nửa năm đọ sức với quân Mỹ và đề ra những kết luận mới hết sức quan trọng: Mặc dầu đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân viễn chinh, lực lượng so sánh giữa ta và địch vẫn không thay đổi lớn. Nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta hiện nay là kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất cứ tình huống nào. Nghị quyết nêu rõ hai nhiệm vụ của lực lượng vũ trang là “Tiêu diệt và tiêu hao đại bộ phận quan trọng quân đội Mỹ, làm cho nó bị tổn thất nặng không thể ngăn chặn được sự tan vỡ của ngụy quân, ngụy quyền. Tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận quân ngụy, tới mức nó không còn là lực lượng mà đế quốc Mỹ có thể dựa để tiếp tục cuộc chiến tranh”(1). Nghị quyết khẳng định nhân dân ta có thể đánh bại và có cách đánh bại được tên đế quốc đầu sỏ của chủ nghĩa đế quốc thế giới.

Cuối năm 1965, với 20 vạn quân chiến đấu Mỹ và quân chư hầu, với những phương tiện chiến tranh hiện đại nhất, Bộ chỉ huy quân sự Mỹ ráo riết chuẩn bị cho cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất (1965-1966). Trong cuộc phản công này, chúng chọn năm hướng tiến công. Trên chiến trường Khu 5, chúng chọn ba hướng. Hướng thứ nhất ở nam Phù Yên, hướng thứ hai ở nam Quảng Ngãi, hướng thứ ba quan trọng nhất đánh vào bắc Bình Định với dự kiến mở ba cuộc hành quân lớn. Hai mũi còn lại nhằm vào đông - bắc Sài Gòn và Củ Chi. Điểm then chốt của cuộc phản công là “tìm diệt” bẻ gãy xương sống Việt Cộng để giành lại thế chủ động chiến trường.

Mỹ hết sức chú trọng vùng bắc Bình Định vì đây là vùng trọng yếu tiếp giáp giữa Quân khu 1 và Quân khu 2 ngụy. Con đường số 1 qua Tam Quan, vượt đèo Bình Đê ra Quảng Ngãi là đoạn đường dễ bị cắt đứt nhất ở miền Trung. Bắc Bình Định còn là nơi đứng chân, là hậu cứ của sư đoàn 3, “tìm diệt” được sư đoàn 3, quân Mỹ có thể “tìm diệt” các lực lượng vũ trang khác của tỉnh Bình Định và bảo đảm giữ được tuyến hành lang chiến lược đường 19 từ Quy Nhơn đi Tây Nguyên, con đường huyết mạch, cái cuống họng để rót tiếp tế cho lực lượng Mỹ, ngụy ở Tây Nguyên.

Trước khi khai diễn cuộc phản công màu khô lần thứ nhất, lực lượng địch ở Bình Định có: hai lữ đoàn thuộc sư đoàn không vận số 1 Mỹ, sư đoàn Mãnh Hổ Nam Triều Tiên có hai trung đoàn, hai trung đoàn 41, 42 thuộc sư đoàn 22 ngụy, một chiến đoàn ngụy, 13 đại đội pháo 70 khẩu các loại, năm chi đoàn thiết giáp. Địa phương quân có 26 đại đội bảo an, biệt kích, 20 trung đội biệt kích và 118 trung đội dân vệ. So với đầu năm 1965, quân ngụy tăng hơn hai lần, quân Mỹ và chư hầu tăng chín lần. Quân Mỹ, Nam Triều Tiên chiếm đóng phần lớn các vị trí then chốt ở phía nam tỉnh và là lực lượng cơ động chủ yếu trong tỉnh. Quân chủ lực chủ yếu đóng giữ các huyện phía bắc và một số vị trí xung yếu trên dọc quốc lộ 1.

Như vậy, quân Mỹ đã hình thành ba hệ thống cứ điểm. Hệ thống cứ điểm quân Mỹ bao quanh hải cảng Quy Nhơn, hệ thống cứ điểm quân Nam Triều Tiên bố trí dọc đường chiến lược 19, hệ thống cứ điểm quân ngụy chủ yếu ở các huyện phía bắc và án ngữ quốc lộ 1.

Điểm nổi bật hoạt động của địch thời gian này là tập trung lực lượng lớn của Mỹ, ngụy, Nam Triều Tiên phối hợp với cơ giới, pháo binh, không quân và hải quân tiến công ào ạt, sử dụng phổ biến chiến thuật “trực thăng vận” với sự chi viện tối đa của pháo binh. Chúng kết hợp giữa quân sự, chính trị với cướp phá kinh tế, giữa càn lớn với càn vừa và nhỏ, giữa tiêu diệt lực lượng ta với “bình định” lấn chiếm, xúc tác dân. Chúng rải chất độc hóa học nhiều nơi nhằm phá hoại hậu phương kháng chiến, hủy diệt hàng trăm thôn xóm, làm thiệt hại hàng nghìn mẫu lúa và hoa màu, làm cho đời sống nhân dân trong tỉnh gặp nhiều khó khăn.

(http://farm6.staticflickr.com/5198/7377984014_f6ec12e2c5_z.jpg)

Bom đạn, chất độc hóa học Mỹ đốt cháy ruộng vườn của nhân dân (Hoài Nhơn 1966)


(1) Nghị quyết Ban chấp hành TW Đảng lần thứ 12, tháng 12-1965.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Sáu, 2012, 04:09:29 pm
Trước âm mưu của địch, Khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 quyết định mở chiến dịch Xuân 1966, đánh bại các cuộc hành quân “tìm diệt” của địch, lấy quân Mỹ làm đối tượng tác chiến chủ yếu. Khu vực bắc Bình Định do sư đoàn 3 và quân dân Bình Định đảm nhiệm. Bắc Bình Định được xác định là một trong những địa bàn trọng điểm có thể diệt được nhiều quân Mỹ nhất.

Tháng 1 năm 1966, Bộ chỉ huy Mặt trận Bình Định được thành lập do các đồng chí Giáp Văn Cương, Tư lệnh sư đoàn 3 làm chỉ huy trưởng, Trần Quang Khánh, Bí thư Tỉnh ủy làm chính ủy.

Vào lúc này các huyện Hoài Nhơn, Hoài Ân, Phù Mỹ còn xanh rợp bóng dừa. Vừa chuẩn bị ăn tết, đồng bào vừa khẩn trương chuẩn bị cho chiến dịch. Đêm đêm, du kích và trinh sát điều tra đồn bót địch, chôn mìn, dựng chướng ngại, phá cầu, đường đoạn Bồng Sơn đi Sa Huỳnh. Lực lượng sư đoàn 3 có lực lượng vũ trang huyện và du kích phối hợp được bố trí theo hình chân vạc rộng, trung đoàn 2 ớ Hoài Ân, trung đoàn 12 ở bắc Phù Mỹ, trung đoàn 22 ở Hoài Nhơn. Với thế bố trí này, cả ba trung đoàn đều có thể cơ động theo trục đường số 1 tiến đánh quận lị Phù Mỹ và dễ dàng khống chế địch, thực hiện chia cắt chiến dịch; đồng thời kết hợp chạt chẽ với lực lượng quân sự và chính trị của ba huyện để đánh địch, bảo vệ nhân dân, lại có địa thế thuận lợi và lương thực bảo đảm nếu cuộc chiến kéo dài.

Ba huyện bắc Bình Định là vùng đồng bằng ven biển trù phú, là một địa bàn quan trọng cả về quân sự, chính trị và kinh tế trong tỉnh. Từ đầu năm 1965, các vùng Tam Quan, Gia Hựu, nam bắc Bồng Song, Đèo Nhông, An Lão đã được giải phóng, phong trào chiến tranh du kích phát triển mạnh, đều khắp, uy hiếp những đồn bót địch còn lại nằm chơ vơ như những ốc đảo.

Quân Mỹ, sau khi thiết lập căn cứ trung gian ở Hòa Hội (Phù Cát) đưa quân Nam Triều Tiên, quân ngụy ra án ngữ quốc lộ 1 bảo đảm hành lang từ Quy Nhơn đến Bồng Sơn. 8 giờ sáng ngày 28 tháng 1 năm 1966, sau những loạt bom B.52 và pháo bầy, từng đàn trực thăng bay đến đổ lữ đoàn 3 thuộc sư đoàn không vận số 1 xuống các khu vực Chợ Cát (Hoài Hỏa), Bình Đê, Chương Hòa (Hoài Châu), Trường Xuân, An Thái (Tam Quan Bắc), Cầu Lợi (Tam Quan Nam), Tài Lương (Hoài Thanh).

“Mũi tên” lớn nhất của Mỹ trong cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất đành vào bắc Bình Định với cuộc hành quân “Cái chày” bắt đầu khai diễn.

Tại Chợ Cát, khi toán quân đầu tiên của địch đổ xuống đã bị tiểu đoàn 9 trung đoàn 22 và du kích Hoài Hảo bao vây tiêu diệt. Bị đòn đánh phủ đầu, quân Mỹ cho ba tiểu đoàn khác tiếp tục đổ quân. Một trận đánh dữ dội của lực lượng vũ trang ta và quân Mỹ đã diễn ra trên bãi cát gần thôn Cự Tài. Gần một nửa tiểu đoàn Mỹ bị tiêu diệt.

Ở khu vực Gia Hựu, Trung Hòa, những trận đánh quyết liệt của tiểu đoàn 7 và du kích với quân Mỹ diễn ra suốt buổi sáng ngày 28. Dùng trực thăng và xe bọc thép không đột phá được trận địa ta, một tiểu đoàn Mỹ và hai tiểu đoàn ngụy xảo quyệt bắt nhân dân đi trước đội hình cho chúng. Để hỗ trợ, các chiến sĩ được lệnh bắn chỉ thiên cho đồng bào chạy về phía sau. Lúc này, tất cả hỏa lực của ta mới trút vào đội hình địch nằm trơ ra trên mặt ruộng. Trên Đồi Mười, các chiến sĩ ta nhiều lần đánh giáp lá cà với địch.

(http://farm8.staticflickr.com/7105/7377983590_418f3a299d_b.jpg)

Du kích Hoài Châu tiến công địch tại Đồi Mười (1966)


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Sáu, 2012, 04:10:14 pm
Ở khu vực An Thái, Cứu Lợi, các chiến sĩ tiểu đoàn 8 và du kích chờ quân Mỹ vào thật gần mới nổ súng rồi đồng loạt xung phong, đánh giáp lá cà với địch. Lính Mỹ rất sợ lối đánh này. Phóng viên Nữu ước thời báo đi theo quân Mỹ mô tả: “Tại làng An Thái, lính Mỹ đã phải sống trong những giờ phút hãi hùng nhất trong đời họ. Việt Cộng xông vào quá gần, nếu dùng hỏa lực phi pháo sẽ gây thương vong cho lính Mỹ”.

Trong các trận chiến đấu của các chiến sĩ Sao Vàng luôn luôn có sự phối hợp chiến đấu chặt chẽ của các đơn vị chủ lực tỉnh, bộ đội địa phương huyện Hoài Nhơn, du kích và nhân dân các xã Hoài Châu, Hoài Hảo, Tam Quan, Hoài Thanh… Quân dân Hoài Nhơn ngày đêm trụ bám đánh địch. Nhiều du kích, đồng bào hi sinh cùng với cán bộ, chiến sĩ chủ lực trong một ngách hào, công sự. Mới có bốn ngày, đồng bào Hoài Nhơn đã phải chịu bao tổn thất do giặc Mỹ gây ra. Hàng trăm người chết, hàng ngàn người bị dồn vào các khu tập trung.

Điều quan trọng đối với nhân dân lúc này là hàng trăm thương binh còn nằm trong các làng xóm bị địch bao vây; phải tìm mọi cách đưa anh em về khu an toàn. Trong một căn hầm ở thôn Liễu An xã Hoài Châu, trước tình trạng một chiến sĩ đang kiệt sức vì mất máu và vì đói khát, chị Hai Nhàn đã vắt kiệt hai bầu sữa của mình ra mảnh sọ dừa rồi đổi từng thìa nhỏ cho anh. Ở Quy Thuận, đồng bào đã đặt thương binh vào trong chum to đổ khoai lên trên rồi đàng hoàng khiêng qua trước mặt địch, đưa anh em vào trạm phẫu an toàn. Bằng nhiều mưu mẹo, sáng tạo, bằng tất cả tấm lòng thương yêu đùm bọc, đồng bào xã Tam Quan, Hoài Hảo, Hoài Châu đã chuyển hết thương binh vượt vòng vây địch về hậu cứ an toàn. Có thể nói trong những ngày này, cả Hoài Nhơn là một bệnh viên trong lòng đất cứu chữa thương binh.

Qua bốn ngày chiến đấu quyết liệt, quân dân Hoài Nhơn cùng lực lượng chủ lực đã tiêu diệt hơn một ngàn quân Mỹ, ngụy, bắn rơi gần 50 máy bay các loại.

Trong lúc quân Mỹ bị đánh tơi tả ở Hoài Nhơn thì ngày 2 tháng 2 năm 1966, quân ta tổ chức pháo kích vào sân bay Hòa Hội (Phù Cát) phá hủy nhiều máy bay lên thẳng. Đêm 3 tháng 2, ta lại pháo kích trận địa pháo địch ở Đèo Nhông (Phù Mỹ) làm tê liệt trận địa pháo này và đánh địch đi càn ở Mỹ Đức diệt hơn trăm tên thuộc trung đoàn 41 ngụy.

Ngày 4 tháng 2, 10 chiến sĩ công binh đánh sập một nhịp cầu Bồng Sơn, làm tắc nghẽn giao thông địch trên đường số 1.

Thời gian này thấy ta chỉ đánh nhỏ, bọn chỉ huy Mỹ cho là chủ lực ta đã rút về phía sau. Chúng huy động một lực lượng lớn gồm hai vạn tên mở cuộc hành quân tìm diệt mang tên “Cánh trắng” vào thung lũng An Lão, nơi chúng nghi sư đoàn 3 đang trú quân. Nhưng trớ trêu cho chúng là lúc này sư đoàn 3 đang chuẩn bị những trận đánh ở khu vực khác. Trung đoàn 22 vẫn đứng ở bắc Bồng Sơn. Đối đầu với hai vạn quân Mỹ ngụy chỉ có một đại đội công binh, bộ đội địa phương huyên và du kích An Lão. Đường số 5 từ Bến Muồng đến quận lị dày đặc lính Mỹ, ngụy luôn luôn bị tập kích, phục kích. Tiến vào hẻm núi, khe suối nào, chúng cũng vấp phải chông, mìn, cạm bẫy giăng dày đặc khắp núi rừng. Các đơn vị du kích địa phương thông thuộc địa hình, giỏi sử dụng vũ khí thô sơ lúc ẩn, lúc hiện luôn là mối lo sợ đối với bọn lính Mỹ - ngụy.

Không gặp chủ lực, chúng trút mọi bực tức vào đồng bào An Lão, cả Kinh lẫn Thượng. Xóm làng xơ xác và một cuộc xúc tác dân tàn bạo đã diễn ra. Hàng ngàn người bị đưa đi các khu dồn ở Phú Tài, An Khê, Plây Cu… Một nhà báo Phương Tây đã nhận xét: “Cuộc hành quân Cánh Trắng khổng lồ ở thung lũng An Lão chủ yếu đánh vào những người dân tay không. Đó là cuộc hành quân đê tiện và bỉ ổi nhất”.

Hai cuộc hành quân “Cái chày” và “Cánh trắng” không tìm diệt được chủ lực lại bị thất bại nặng, địch tức tối mở cuộc hành quân “Cánh trắng 2” vào thung lũng huyện Hoài Ân - nơi hai trung đoàn 12 và 2 đang triển khai kế hoạch đón đánh chúng.

Quân Mỹ ào ạt đổ quân xuống các khu vực Nhơn Tịnh, Xóm Đèo, Hội Vân, Kim Sơn và ngay cả khu vực dốc Bà Bơi. Đến đâu chúng cũng gặp bộ đội và du kích đánh trả quyết liệt. Ngày 11 tháng 2, đại đội tập trung huyện Hoài Ân đánh địch ở Vạn Trung, Vạn Tín nhiều trận, diệt hàng trăm tên. Du kích bắn rơi hai máy bay. Từ ngày 11 đến 14, bộ đội và du kích đánh địch ở vườn Thơm Nhơn Tịnh diệt 127 tên, bắn rơi ba máy bay… Nhưng ác liệt và dai dẳng nhất là cuộc chiến đấu của sư đoàn 3 và lực lượng địa phương ở khu vực suối Đá Tượng.

Phát huy sở trường đánh vào sau lưng đội hình hành quân của địch, đêm 18 tháng 2 ta tổ chức thành nhiều mũi tập kích vào hai đại đội ở thôn Lộc Giang xã Ân Tường. Một tiểu đoàn Mỹ đổ quân xuống cánh đồng Phú Ninh để giải vây bị diệt thêm 480 tên.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Sáu, 2012, 04:10:52 pm
Trong lúc ở thung lũng Hoài Ân chiến sự diễn ra quyết liệt thì đêm 18, ta tổ chức tập kích quân Mỹ ở tây - nam Bồng Sơn diệt gần hết một đại đội. Chúng phải điều hai tiểu đoàn ngụy và 20 xe bọc thép đi giải tỏa. Để cho địch lọt vào trận địa phục kích, bộ đội giải phóng Bình Định xung phong diệt 300 tên và năm xe bọc thép.

Ở khu vực Hoài Nhơn, trung đoàn 22 sau một tuần củng cố, xốc lại đội hình gấp rút trở lại Hoài Châu, Hoài Hảo bẻ gãy các cuộc hành quân “bình định” của hai trung đoàn 41, 42 ngụy. Trong một trận đánh tại Hy Văn (Hoài Châu), bộ đội và du kích diệt 420 tên ngụy. Ngày 20 tháng 2, ta đột nhập thị trấn Tam Quan, diệt 250 tên và pháo kích sở chỉ huy tiền phương Mỹ ở Bồng Sơn, phá hủy 11 máy bay lên thẳng.

Trong khi quân Mỹ mở cuộc càn quét lớn ở phía bắc tỉnh thì ở phía nam hàng ngàn tên lính Nam Triều Tiên mở cuộc càn quét lớn vào huyện Bình Khê, mà tập trung nhất là xã Bình An, ngày 26-2-1966, chúng đã tàn sát hơn 1000 người dân vô tội ở xã này.

Phối hợp với trọng điểm phía bắc tỉnh, lực lượng tỉnh, huyện, du kích đã chặn đánh bọn lính Nam Triều Tiên và quân ngụy trên đường số 1 từ Phù Mỹ đến Phù Cát diệt hàng trăm tên, cắt đứt nhiều đoạn đường giao thông.

Cùng thời gian, đội đặc công Quân khu cùng bộ đội địa phương An Khê tập kích sân bay An Khê phá hủy nhiều máy bay lên thẳng, diệt hàng trăm tên Mỹ.

Bị thất bại nặng nề sau ba cuộc hành quân “tìm diệt”, bọn chỉ huy Mỹ thấy không thể kéo dài cuộc chiến, ngày 6 tháng 3 năm 1966, chúng ra lệnh kết thúc cuộc hành quân “Cánh Trắng 2”, chấm dứt mũi tên lớn nhất của cuộc phản công chiến lược mùa khô lân thứ nhất vào bắc Bình Định sau bốn mươi ngày đêm chiến đấu quyết liệt. Chỉ tính riêng lực lượng vũ trang tỉnh, huyện, du kích và nhân dân đã diệt 2.284 tên, có 485 tên Mỹ, 400 tên Nam Triều Tiên, bắn rơi 49 máy bay, thu 85 súng các loại. Bình Định là tỉnh bắn rơi nhiều máy bay địch nhất năm 1966 trong toàn Quân khu. Riêng lực lượng địa phương bắn rơi 127 chiếc. Dũng sĩ đâm lê đạt thành tích cao nhất là đồng chí Phạm Tường, du kích Hoài Nhơn. Trong trận chống càn đầu năm ở bắc Bồng Sơn, đồng chí đánh giáp lá cà với Mỹ, cùng lưỡi lê, báng súng diệt bảy tên, bắn chết 28 tên khác, bắn rơi một trực thăng, hai lần đạt danh hiệu “Dũng sĩ diệt Mỹ” cấp ưu tú và “Dũng sĩ diệt máy bay”.

Chiến thắng vang dội của lực lượng vũ trang và nhân dân Bình Định ở ba huyện Hoài Nhơn, Hoài Ân, Phù Mỹ là trận chống càn lớn nhất, là trận tiêu diệt nhiều quân Mỹ nhất, bắn rơi nhiều máy bay nhất từ trước tới nay. Quân dân Bình Định không chỉ đánh từng trận, từng đợt, từng đơn vị lẻ tẻ mà đánh theo quy mô chiến dịch, liên tục, không chỉ đánh phía trước mà đánh cả phía sau đội hình hành quân và hậu cứ của chúng. Chiến thắng 40 ngày đêm của quân dân Bình Định là một điển hình về sự hiệp đồng chiến đấu giữa bộ đội chủ lực với lực lượng vũ trang tỉnh, huyện, du kích và nhân dân địa phương. Nhiều vùng quân Mỹ đánh lướt qua rồi giao cho quân ngụy tiến hành “bình định” nhưng lập tức bị lực lượng vũ trang địa phương kết hợp với phong trào nổi dậy của quần chúng giáng trả. Quân ngụy đã tỏ rõ sự bất lực trong “bình định” nông thôn ngay từ mùa khô thứ nhất làm cho bọn chỉ huy Mỹ thêm đau đầu.

Một trong những yếu tố dẫn đến thắng lợi ở bắc Bình Định cần phải nói đến là công tác bảo đảm hậu cần với sự kết họp nhuần nhuyễn hai phương thức hậu cần nhân dân và hậu cần đơn vị, trong đó vai trò hậu cần nhân dân, hậu cần tại chỗ giữ vị trí quan trọng. Trong chiến đấu ác liệt, liên tục, bộ đội vẫn có đủ gạo ăn, đủ súng đạn là nhờ nhân dân đã triển khai một mạng lưới kho tàng hậu cần tại chỗ dưới lòng đất khắp nơi. Tiếp tế, tải thương… tất cả đều do Đảng bộ, chính quyền địa phương và nhân dân lo liệu. Có thể nói nhân dân Bình Định là bà đỡ của mọi thắng lợi của lực lượng vũ trang giải phóng trong tỉnh.

Phát huy thắng lợi lớn của quân dân Bắc Bình Định, ngày 19 tháng 3 năm 1966, tiểu đoàn 50 chủ lực tỉnh chặn đánh quyết liệt một trung đội Nam Triều Tiên ở Cát Thắng (Phù Cát) đang gây tội ác với nhân dân. Từ ngày 23 đến 27 tháng 3, lực lượng vũ trang tỉnh cùng bộ đội huyện và du kích chặn đánh các cánh quân Nam Triều Tiên đang hành quân càn quét ở Tuy Phước, Phù Cát, An Nhơn diệt 600 tên, bắn rơi hai máy bay.

Bị thua nặng ở Hoài Nhơn, sư đoàn không vận số 1 Mỹ cay cú mở hành quân càn quét vào căn cứ Vĩnh Thanh bị du kích và đồng bào Ba Na dựa vào làng chiến đấu liên hoàn, trong hai ngày đầu diệt 25 tên, hơn trăm tên khác bị thương. Nhiều lính Mỹ bị xóc chông, mang cung, làm chúng rất khủng khiếp phải bỏ dở cuộc càn.

Những trận đánh thắng của lực lượng vũ trang địa phương và nhân dân ở phía nam và phía tây tỉnh có ý nghĩa quan trọng trong việc giữ thế chiến trường thường xuyên uy hiếp địch, không cho chúng rảnh tay củng cố.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Sáu, 2012, 04:11:37 pm
*   *
*

Sau những thắng lợi vang dội đánh bại cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất, phối hợp với chiến dịch đường 9 - bắc Quảng Trị, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 ra chỉ thị về chiến dịch Hè - Thu nhằm tiếp tục tiêu diệt quân Mỹ.

Không đạt được mục tiêu “tìm diệt” và “bình định” trong mùa khô thứ nhất, Mỹ tăng quân từ 20 vạn lên gần 40 vạn, mở phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai. Mục tiêu chủ yếu của cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai là miền Đông Nam Bộ. Ở chiến trường Khu 5, chúng chủ trương kìm thế công cho ta đánh lớn. Bình Định là một trong những tỉnh trọng điểm “bình định” của chúng.

Mỹ - ngụy ra sức đánh phá vùng giải phóng, vùng căn cứ và giáp ranh các huyện Hoài Ân, Hoài Nhơn, tây Phù Cát, tây Vĩnh Thạnh… Chúng kết hợp đánh phá ác liệt với chiến tranh tâm lí, gián điệp, chiêu hồi, chiêu hàng, nhằm thực hiện một đợt xúc tát dân hết sức thâm độc và tàn bạo. Chúng dùng trực thăng xúc đi từng làng, từng xã, kết hợp với cày ủi, san bằng nhà cửa, vườn tược làm cho dân không thể quay lại sinh sống nơi làng cũ. Chúng lập vành đai trắng ở vùng giáp ranh và tổ chức những cuộc hành quân nhỏ nhưng dai dẳng ở các cửa khẩu vùng giáp ranh mà nhân dân gọi là “Mỹ lết”. Chúng nối lại được giao thông trên đường số 1, đường 19, lấn được một số xã thôn, nhất là ở phía nam tỉnh. Đặc biệt là chúng gây nhiều vụ tàn sát đẫm máu điển hình ở Tân Giảng (Tuy Phước) Bình An, Kiên Mỹ, Phú Lạc (Bình Khê). Chúng sát hại gần 600 đồng bào ta ở Kim Tài (An Nhơn), giết và làm bị thương 150 người ở Gò Quánh (Phù Cát). Hàng ngàn ngôi nhà bị thiêu hủy. Hàng ngàn trâu bò bị giết hại. Thủ đoạn càn quét hủy diệt man rợ của địch gây căm phẫn cực độ trong nhân dân, thôi thúc toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trong tỉnh xông lên quyết chiến với kẻ thù Mỹ - ngụy, trả thù cho đồng bào bị chúng sát hại.

Bước vào chiến dịch Hè - Thu, hướng hoạt động ban đầu của sư đoàn 3 là diệt quân Mỹ ở Vĩnh Thạnh nhưng do kế hoạch bị lộ, sư đoàn linh hoạt thay đổi phương án lật cánh xuống đánh cắt giao thông địch trên đường số 1 ở phía bắc Phù Mỹ, tây Phù Cát và tăng cường hoạt động giam chân Mỹ, ngụy ở Hoài Nhơn.

Lúc này những trận đánh ở bắc Hoài Nhơn vẫn diễn ra dữ dội giữa chủ lực, du kích với lữ đoàn 3 không vận Mỹ. Tám lần tiến công vào thôn Tường Sơn xã Hoài Sơn, quân Mỹ đều bị bộ đội và du kích đánh bật ra khỏi bìa làng. Chiến đấu đến tối, quân ta bí mật di chuyển sang xóm 2 Thành Sơn cách Tường Sơn ba ki-lô-mét. Sáng ra quân Mỹ kéo vào làng chỉ gặp hơn chục bà mẹ đứng bó dưới những ngôi nhà cháy, la liệt bò, heo bị địch bắn chết… Một cuộc đấu tranh chính trị mềm dẻo nhưng sắc sảo đã diễn ra. Qua tên thông ngôn, các mẹ tố cáo tội ác của chúng và đòi chúng bồi thường, không bắn pháo vào làng. Quân Mỹ phải chấp nhận. Đây là một trong những cuộc đấu tranh chính trị đầu tiên trực diện với quân chiến đấu Mỹ trên chiến trường Bình Định.

Quân Mỹ điều thêm bốn tiểu đoàn đến bao vây thôn Thành Sơn nhằm tóm gọn tiểu đoàn chủ lực của ta. Trận đánh không cân sức diễn ra suốt ngày. Tối đến, ta lại luồn phá vây, những thương binh nặng phải để lại trong làng. Sáng hôm sau, quân Mỹ mang theo chỉ điểm vào chó béc giê vào làng lùng sục. Cúng bắt hàng chục ông bà già đánh đập, tra khảo, nhưng không ai hé miệng. Trong lúc đó, các thương binh được đồng bào băng bó, chăm sóc dưới hầm bí mật. Nói sao hết được tấm tấm lòng đồng bào Thành Sơn đối với bộ đội. Sau đó cả 18 thương binh được đồng bào bằng nhiều các hợp pháp và không hợp pháp đưa về hậu cứ an toàn.

Giữa lúc quân Mỹ ra sức tìm kiếm chủ lực ta ở Hoài Sơn thì các chiến sĩ tiểu đoàn 9 cùng bộ đội huyện Hoài Nhơn và du kích tập kích ở Tam Quan, Hoài Hảo, diệt 230 tên Mỹ, phá hủy 12 trực thăng; hai ngày sau lại tập kích bãi đậu trực thăng ở Tân An (Hoài Châu) phá hủy 15 trực thăng.

Ở phía nam, lực lượng vũ trang Bình Định phối hợp với một số đơn vị hỏa lực của chủ lực pháo kích vào căn cứ chỉ huy tiền phương của sư đoàn không vận ở Núi Một Phù Cát. Ngay từ loạt đạn đầu, Núi Một đã bốc cháy như một núi lửa, sáng rực cả một vùng. 60 trực thăng, 4 pháo 105, 70 xe quân sự và gần 500 lính Mỹ bị diệt. Trận tập kích hỏa lực vào Núi Một làm suy yếu hẳn sư đoàn không vận số 1 Mỹ.

Cùng thời gian trên, ta đã tổ chức một trận đánh xuất sắc vào thôn Vạn Định xã Mỹ Lộc (Phù Mỹ). Đây là trận đánh không được chuẩn bị. Khi thấy địch co cụm, bộ đội ta vừa hành quân vừa tổ chức chiến đấu. Quân địch không phải chỉ có một tiểu đoàn như trinh sát báo cáo lúc đầu mà có đến hai tiểu đoàn và một chi đoàn xe bọc thép. Nhưng do ta vận dụng triệt để yếu tố bí mật, bất ngờ, áp dụng lối đánh gần chớp nhoáng theo kiểu “súng nổ chẳng kịp bưng tai” diệt 300 tên thuộc trung đoàn 41 ngụy, làm cho quân địch ở rất gần xung quanh mà không sao ứng cứu được.

Thừa thắng, chủ lực ta chuyển quân đánh địch ở bắc Đèo Nhông, câu viện từ Bồng Sơn vào diệt và trụ lại đánh viện binh địch một lần nữa tại Dương Liễu.

Trong lúc chủ lực ra sức tiến công tiêu diệt địch, tiểu đoàn 50, 52 đánh quân địch càn quét và chặn viên từ nam Phù Mỹ đến Phù Cát. Tại thôn Khánh Phước xã Cát Hanh, tiểu đoàn 52 tỉnh phục kích diệt 140 tên Nam Triều Tiên và đánh đoàn xe Mỹ chở vũ khí ở bắc Phù Mỹ đi Chợ Gồm, đánh thiệt hại nặng một đại đội Mỹ đi hộ tống, bắn cháy bảy xe GMC, thu 13 súng, có một đại liên, hai máy PRC 25. Phối hợp với tiểu đoàn 52, tiểu đoàn 50 tập kích một đại đội bảo an làm nhiệm vụ bảo vệ giao thông đường số 1 tại chợ Gồm. Đại đội đặc công Đ10 tiến công diệt đại đội bảo an số 28 tại Lường Cày xã Cát Hanh.

Tiếp tục chiến dịch Hè - Thu đại đội 2 tiểu đoàn 52 đã lập một chiến công xuất sắc ở Thuận Hạnh.

Thuận Hạnh là một thôn nhỏ thuộc xã Bình Thuận huyện Bình Khê đã được giải phóng từ đầu năm 1965. Đại đội 3 tiểu đoàn 52 tỉnh được điều về đây học tập, huấn luyện, cùng du kích và nhân dân xây dựng làng chiến đấu, xây dựng công sự, địa đạo, chuẩn bị đánh địch, bảo vệ vùng giải phóng.

Phát hiện được mọt lực lượng nhỏ của ta trú quân ở đây, lữ đoàn 101 không vận Mỹ quyết bao vây cất vó đại đội 2. Ngày 22 tháng 8 năm 1966, sau khi các trận địa pháo ở Bình Nghi, Gò Quánh, Phú Phong, An Xuân dội lửa vào thôn Thuận Hạnh vừa dứt, 46 máy bay trực thăng chở lữ đoàn 101 không vận gồm 1.500 quân từ nhiều hướng bao vây tiến công Thuận Hạnh.

Được chuẩn bị sẵn từ trước, khi cánh quân lớn nhất của địch gồm hơn một tiểu đoàn tiến công vào vùng suối Đực, chờ cho chúng lọt hết vào trận địa, đại đội phó Võ Lai, chỉ huy đơn vị, dùng cối 60 và đại liên bắn mãnh liệt vào đội hình dày đặc của địch rồi phát lệnh xung phong, diệt 150 tên Mỹ, bắn rơi tại chỗ bốn trực thăng. Một cánh khác cũng bị các chiến sĩ đại đội 2 và du kích đánh bật ra khỏi làng diệt gần trăm tên.

13 giờ, quân địch tức tối cho đổ thêm quân đánh sâu vào các làng. Các chiến sĩ từ địa đạo, công sự vọt lên đánh địch. Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt đến 17 giờ 30. Tất cả các chiến sĩ anh nuôi, liên lạc đều cầm súng đánh địch. Đồng chí Võ Lai, người chỉ huy quả cảm vừa chỉ huy, vừa nổ súng diệt hàng chục tên địch. Khi bị thương vẫn bình tĩnh chỉ huy đơn vị, thực hiện tốt chính sách thương binh, tử sĩ.

Trong trận Thuận Hạnh, quân địch đông hơn ta gấp 15 lần, hỏa lực rất mạnh, lại chủ động tiến công cả về thời gian và địa điểm, ta chỉ có một đại đội không đủ quân số và du kích địa phương nhưng đã đánh thắng địch oanh liệt. Được như vậy là nhờ dựa vào thế mạnh của làng chiến đấu được xây dựng công sự, địa đạo vững chắc, là tinh thần dũng mãnh tuyệt vời của cán bộ, chiến sĩ sử dụng cách đánh thích hợp, sáng tạo là công tác tổ chức chỉ huy chiến đấu của cán bộ, v.v… Lần đầu tiên một đơn vị nhỏ bộ đội tỉnh đã đánh thắng giòn giã quân Mỹ đông hơn gấp nhiều lần. Năm 1967, đồng chí Võ Lai người chỉ huy tài trí trong trận Thuận Hạnh được Quốc hội và Chính phủ tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Sáu, 2012, 04:12:37 pm
Ở phía đông nam Bình Định, Núi Bà là một dãy núi lớn, nằm giữa vùng đồng bằng ven biển huyện Phù Cát có nhiều hang đá lớn, là căn cứ vững chắc của lực lượng địa phương tỉnh và huyện trong nhiều năm qua, cũng là căn cứ xuất phát tiến công của chủ lực, bộ đội tỉnh và huyện vào vùng đông. Suốt 5 năm nay, máy bay, bom pháo, chất độc hóa học Mỹ không ngừng trút xuống căn cứ hiểm trở này, nhưng vẫn không sao phá hủy được. Núi Bà là đối thượng thường xuyên càn quét của sư đoàn Nam Triều Tiên, nhưng căn cứ Núi Bà vẫn sừng sững như cái gai nhọn đâm vào tim, vào mắt quân địch.

(http://farm8.staticflickr.com/7242/7377983354_ba44af8c2f_z.jpg)

Hang đá Nhảy (Núi Bà), một trong những nơi đóng cơ quan chỉ đạo tiền phương của Tỉnh ủy

Ngày 17 và 18 tháng 9 năm 1966, địch huy động một lực lượng lớn gồm sư đoàn “Mãnh hổ”, 1 bộ phận sư đoàn Bạch Mã (Nam Triều Tiên), một lữ đoàn không vận Mỹ và hai trung đoàn của sư đoàn 22 ngụy mở cuộc càn quét vào khu vực Núi Bà. Địch nham hiểm ở chỗ chưa tiến công Núi Bà ngay mà chúng rải quân càn vào các khu vực xung quanh từ Mỹ Chánh, Mỹ Tài, Cát Tài, Cát Minh, Cát Khánh, Phước Hiệp, Phước Hòa, Phước Thắng, Phước Quang… một cách khốc liệt, nhằm dồn cả cán bộ, du kích và đồng bào các vùng xung quanh khu vực Núi Bà để tiêu diệt. Địch dùng tất cả hỏa lực tới mức tối đa. Khi đồng bào, du kích, cán bộ cơ sở chạy dồn vào chân núi, chúng dùng trực thăng thả dây thép gai xung quanh núi, kết hợp với bao vây bằng bộ binh, cơ giới từ bốn phía.

Lúc này trên căn cứ Núi Bà, có một bộ phận lực lượng của sư đoàn 3, tiểu đoàn 50, Đ10, một số phân đội vũ trang của Phù Cát, Quy Nhơn, Tuy Phước, An Nhơn, bệnh xá tỉnh và trạm xá của ba huyện. Ngoài ra còn có cán bộ cơ sở, du kích và đồng bào các xã bị địch càn chạy vào núi. Tất cả hơn một vạn người. Sau khi vây chặt chân núi, chúng cho máy bay phát loa kêu gọi chiêu hàng. Thấy lực lượng cách mạng trên núi không nao núng, sáng ngày 22 tháng 9, từng đợt B52 và máy bay phản lực bay đến ném bom dữ dội toàn bộ vùng căn cứ Núi Bà. Sau đó máy bay trực thăng đổ quân chiếm các điểm cao, kết hợp với bộ binh từ dưới đánh lên. Khẩu hiệu của chúng là “Lật đá bắt cộng sản”. Chúng lùng sục từng hang đá, ném lựu đạn, dùng xăng đốt, thả chất độc hóa học. Cán bộ, chiến sĩ ta trên núi đã đánh trả kiên cường, nhưng lâm vào thế bất lợi, nhiều bộ phận đã chiến đấu đến người cuối cùng và anh dũng hi sinh. Nhiều đơn vị đã phân tán thành từng tổ quần lộn đánh nhỏ lẻ và duy trì cuộc chiến đấu nhiều ngày.

Quyết diệt bằng được căn cứ Núi Bà, quân địch không từ một hành động dã man nào không đem ra áp dụng. Những ngày ấy vùng Núi Bà như ngập trong máu. Cuộc tàn sát của địch kéo dài hàng tháng trời. Sau một tháng quân Mỹ và quân ngụy rút đi, nhưng quân Nam Triều Tiên ở lại chiếm giữ, lùng sục thêm một tháng nữa mới rút về hậu cứ.

Trong những ngày đầy hi sinh gian khổ này đã xuất hiện nhiều tấm gương sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Đồng chí Xứ nữ y tá một mình chống chọi làng hàng chục tên Nam Triều Tiên. Hết đạn, lựu đạn, đồng chí luồn lạch tránh địch, thoát ra khỏi vòng vây của chúng. Đội du kích xã Phước Quang, sau khi chiến đấu, hi sinh hết chỉ còn đồng chí Lẹ một mình tìm cách tự nuôi sống và chiến đấu hàng tháng trời với địch. Và còn biết bao tấm gương chiến đấu oanh liệt của cán bộ, chiến sĩ khác.

Tiến công càn quét các vùng phụ cận và căn cứ Núi Bà, quân Mỹ, ngụy và Nam Triều Tiên đã gây tội ác “trời không dung, đất không tha” đối với quân dân Bình Định. Lực lượng cách mạng và nhân dân các huyện phía nam chịu một tổn thất nặng nề nhất trong lịch sự cuộc chiến tranh nhân dân 30 năm của tỉnh. Hàng ngàn người bị thiệt mạng. Đây cũng là cuộc tàn sát lớn nhất của kẻ thù, đặc biệt là quân Nam Triều Tiên đối với đồng bào Bình Định. Món nợ máy này nhất định phải được đền trả xứng đáng.

Với trách nhiệm của mình, sau tổn thất ở Núi Bà, Tỉnh ủy, Ban cán sự và Ban chỉ huy tỉnh đội “Bình Định đã nghiêm khác tự kiểm điểm: Thỏa mãn với những thắng lợi ở phía bắc tỉnh, thiếu cảnh giác, không nắm vững bản chất và âm mưu, thủ đoạn tàn ác của địch, đặc biệt là đối với bọn lính Nam Triều Tiên, từ đó thiếu chỉ đạo tổ chực cụ thể cho nhân dân và lực lượng địa phương các huyện phía nam tích cực chuẩn bị phương án đối phó với các cuộc càn quét lớn của địch. Khuyết điểm để xảy ra tổn thất này còn nghiêm trọng ở chỗ đây là thời điểm thế và lực của ta đang phát triển lớn mạnh, không như những năm trước khi lực lượng lượng cách mạng còn non yếu.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Sáu, 2012, 04:14:54 pm
(http://farm9.staticflickr.com/8024/7377983844_0e0659beec_b.jpg)

Lính thủy đánh bộ ngụy càn quét bị trúng chông tại một làng ở Hoài Nhơn (1965)

(http://farm8.staticflickr.com/7231/7377984212_6dcf922cb1_b.jpg)

Làng xóm, nhà cửa bị Mỹ ngụy đột sạch nhưng nhân dân vẫn kiên quyết trụ bám (Tam Quan 1965)

(http://farm9.staticflickr.com/8013/7377984634_97d355cccc_b.jpg)

Đấu tranh trực diện, không cho địch đốt phá nhà cửa (Tam Quan 1966)
 
(http://farm6.staticflickr.com/5197/7377982940_f891780a66_b.jpg)

Sư đoàn kị binh số 1 Mỹ càn vào thung lũng An Lão bị ta bao vây (Mùa khô 1966)


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Sáu, 2012, 04:17:31 pm
3 - QUÂN DÂN BÌNH ĐỊNH GÓP PHẦN ĐÁNH BẠI
CUỘC PHẢN CÔNG CHIẾN LƯỢC MÙA KHÔ LẦN THỨ HAI CỦA MỸ - NGỤY


Trước tình hình đế quốc Mỹ liều lĩnh, ngoan cố mở rộng chiến tranh xâm lược miền Nam và tiến hành những bước leo thang mới hết sức nghiêm trọng, mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc, đầu tháng 7 năm 1966 Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố lệnh động viên cục bộ và kêu gọi toàn dân chống Mỹ, cứu nước, trong đó có đoạn: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn…”(1)

Không có gì quý hơn độc lập tự do - chân lí sáng ngời của Bác đề ra đã đi vào lịch sự, có sức động viên, cổ vũ to lớn quân dân miền Nam xông lên tiến công giặc Mỹ xâm lược, đánh bại cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai của chúng.

Tháng 8 năm 1966, bộ Tư lệnh Quân khu 5 ra chỉ thị phát động cuộc vận động “Luyện quân lập công, quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược”, nhằm động viên toàn thể cán bộ, chiến sĩ ra sức thi đua rèn luyện học tập nhằm nhanh chóng khắc phục những nhược điểm, khuyết điểm trong xây dựng, chiến đấu, đẩy mạnh phong trào “Tìm Mỹ mà đánh, tìm ngụy mà diệt” giành thắng lợi trong giai đoạn mới của chiến tranh.

Thực hiện chỉ thị trên lực lượng vũ trang trong tỉnh sôi nổi tổ chức học tập, rèn luyện và tổ chức đợt sinh hoạt chính trị ngắn nhằm nâng cao giác ngộ giai cấp, mục tiêu lí tưởng chiến đấu. Qua một thời gian ngắn học tập, xây dựng, củng cố, lực lượng vũ trang trong tỉnh từ các đơn vị tập trung tỉnh, huyện đến du kích ở cơ sơ đều được kiện toàn, trình độ và chất lượng mọi mặt được nâng lên một bước, sẵn sàng phối hợp với sư đoàn 3 bước vào hoạt động Đông - Xuân 1966-1967.

Mở đầu Đông - Xuân 1966-1967, một trận đánh của trung đoàn 12 cùng du kích với quân Mỹ đã nổ ra tại hai thôn Long Giang, Lộc Giang huyện Hoài Ân.

Long Giang, Lộc Giang trước đây là một vùng trù phú, xanh tươi, sau những trận ném bom tàn phá, càn quét, xúc dân của địch giờ chỉ còn là cảnh tượng hoang toàn xơ xác, chỉ còn lại mấy cụ già sống trơ trọi trong những chiếc lều hoặc những căn hầm sụt lở cách nhau hàng trăm mét. Các chiến sĩ du kích bị bật lên núi vừa quay về cùng các chiến sĩ chủ lực đứng trước cảnh này càng thấm nỗi đau để mất dân và thấy trách nhiệm của mình càng nặng nề.

Các cụ cho biết về những hoạt động gần đây của Mỹ, cán bộ chỉ huy trung đoàn 12 lên phương án triển khai phục kích quân Mỹ tại khu vực Long Giang - Lộc Giang.

Khi quân Mỹ tiến vào trận địa phục kích, hai tiêu diệt chủ lực của ta và lực lượng du kích địa phương nổ súng tiêu diệt bốn đại đội, đánh thiệt hại các đại đội khác, bắn rơi 12 máy bay lên thẳng.

Sau Long Giang - Lộc Giang, lực lượng vũ trang ta chuyển sang tiến công tiêu diệt căn cứ pháo binh dã chiến Mỹ ở Xuân Sơn. Chỉ sau 15 phút chiến đấu, các chiến sĩ giải phóng hoàn toàn làm chủ chiến trường. Trận địa pháo dã chiến của Mỹ ở Xuân Sơn hoàn toàn bị tiêu diệt.

Chiến thắng Xuân Sơn cùng với Long Giang - Lộc Giang mở đầu cho Đông - Xuân quyết thắng giặc Mỹ xâm lược, cũng là trận kết thúc năm 1966 của quân dân Bình Định, trận Xuân Sơn đã giáng một đòn nặng nề vào chiến thuật “điểm tựa”, “đống chốt” để càn quét dai dẳng của quân Mỹ.

Sau những trận đánh trên, địch phản ứng mạnh. Từng tiểu đoàn địch luân phiên nhau càn quét sâu, liên tục vào các vùng đồng bằng đông dân và vùng giáp ranh. Bằng những thủ đoạn tàn bạo nhất, địch đã xúc tát dân vào các khu dồn và lập được ngụy quyền ở nhiều cơ sở. Ở những vùng địch tạm thời kiểm soát trung bình cứ ba người dân có một tên lính trực tiếp kìm kẹp. Những làng mạc dọc đường giao thông, thị trấn, thị xã trở nên chật chội vì dân ở các vùng nông thôn bị dồn về. Hàng trăm khu dồn mới được thành lập. Đồng bào phải sống chui rúc sau các hàng rào kẽm gai. Ở những vùng giáp ranh, trước đây là làng mạc sầm uất giờ đây chỉ còn lơ thơ vài bụi cây, gốc dừa cháy sém. Lính Mỹ, Nam Triều Tiên “chài lết” dai như đỉa. Nhiều xã đã phải chịu đựng hàng trăm tấn bom đạn địch như Ân Tín (Hoài Ân); Hoài Châu, Hoải Hảo (Hoài Nhơn); Mỹ Hiệp (Phù Mỹ); Cát Hanh (Phù Cát)… Nhưng đồng bào vẫn kiên quyết đấu tranh “một tấc khôn đi, một li không rời”. Vùng rừng núi thì bị B52 rải thảm và bị chất độc hóa học phá trụi. Bộ đội chủ lực hoạt động ở địa bàn tỉnh lâm vào cảnh thiếu đói, bệnh tật. Đây là một thời kì nhiều khó khăn đối với quân dân Bình Định. Tuy vậy được những chiến thắng trong năm 1966 cổ vũ, dựa vào sự nuôi dưỡng, đùm bọc của nhân dân, lực lượng vũ trang trong tỉnh vẫn kiên trì bám đất, ám dân, vừa xây dựng, củng cố, vừa tích cực hoạt động giữ thế chiến trường. Cũng trong tháng 12 năm 1966, sau một thời gian củng cố huấn luyện, tiểu đoàn 50, đại đội đặc công Đ10 cùng với lực lượng huyện Ân Nhơn, Tuy Phước trở lại chiến trường trọng điểm Khu Đông(2).

Ngày 17 tháng 1 năm 1967, du kích xã Cát Hanh chặn đánh bọn lính Nam Triều Tiên đi càn quét diệt nhiều tên, bẻ gãy cuộc càn của chúng. Riêng em Lê Đức Cường 16 tuổi với khẩu súng các bin đã đánh địch ở hang đá Vĩnh Trường từ sáng đến tối, diệt 13 tên Nam Triều Tiên. Bị thương nặng, súng hết đạn, em lấy máu viết vào khăn tay: “Khi Đảng cần tôi sẵn sàng hi sinh, chúc các anh đánh thắng giặc để trả thù cho đồng bào”. Em đập gãy súng rồi bò ra miệng hang rút chốt quả lựu đạn cuối cùng đặt dưới bụng. Bọn chúng đến lật em lên, lựu đạn nổ giết thêm một số địch. Gương hi sinh giết giặc cứu nước của Lê Đức Cường mãi mãi là niềm tự hào của nhân dân xã Cát Hanh và quân dân Bình Định trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Ngày 6 tháng 1 năm 1967, đại đội đặc công Đ10 tập kích căn cứ Đệ Đức (Hoài Nhơn), diệt gần 300 tên Mỹ, phá hủy 50 máy bay, 6 khẩu pháo, đốt cháy hai kho xăng. Đánh xong đại đội rút về đứng chân ở xã Mỹ Thắng (Phù Mỹ) bảo vệ cho nhân dân địa phương ăn tết. Một tiểu đoàn Mỹ từ Đèo nhông mở hành quân xuống bị cách chiến sĩ Đ10 bố trí chặn đánh diệt một đại đội, đánh thiệt hại một đại đội khác.

Từ 9 đến 17 tháng 2, quân địch mở càn vào các vùng Hoài Ân, An Lão bị lực lượng vũ trang huyện và du kích phối hợp với chủ lực liên tục phản kích đánh địch diệt gần một ngàn tên, bắn rơi nhiều máy bay các loại. Ngày 6 tháng 3, lực lượng vũ trang giải phóng Bình Định lại diệt một đại đội Mỹ ở thôn Châu Trúc xã Mỹ Đức.

Cùng với hoạt động vũ trang, phong trào chống phá “bình định” cũng hết sức gay gắt. Đồng bào vừa trụ bám, vừa đấu tranh vạch mặt bọn “bình định”, tẩy chay các buổi học tập, tẩy chay trò hề “cứu trợ tai nạn”, "cứu trợ xã hội”, “tái thiết nông thôn” của chúng. Các đội “bình định”, các toán “phượng hoàng” đi đến đâu cũng bị du kích chặn đánh, nhiều toán bị tiêu diệt sạch. Tề điệp một số nơi chạy trốn. Không tìm được tay chân lập tề, bí quá chúng phải đưa lính Mỹ ra làm đại diện xã như ở Mỹ Thắng (Phù Mỹ). Kế hoạch “bình định” mục tiêu chiến lược thứ hai của Mỹ - ngụy trên chiến trường Bình Định từng bước bị thất bại.

Sau một thời gian gặp khó khăn về hậu cần, sư đoàn 3 chủ trương đưa lực lượng thọc sau xuống đồng bằng dựa vào sự nuôi dưỡng, đùm bọc của nhân dân để tồn tại và hoạt động, đồng thời hỗ trợ cho phong trào chiến tranh du kích và đấu tranh chống phá “bình định” ở địa phương.


(1) CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC 1954-1975 - Những sự kiện Quân sự Nhà xuất bản QĐND, Hà Nội `1980, trang 150.
(2) Theo CHIẾN TRANH DU KÍCH TRÊN CHIẾN TRƯỜNG BÌNH ĐỊNH.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Sáu, 2012, 04:18:20 pm
*   *
*

Đầu tháng 5 năm 1967, được biết chủ trương chiến lược của Trung ương trong năm 1968 (qua sự truyền đạt của các đồng chí Khu ủy viên), để vừa giữ thế chiến trường, vừa gây thế và lực, tạo bàn đạp cho hoạt động chiến lược khi có thời cơ, Tỉnh ủy và Ban chỉ huy tỉnh đội quyết định ở đợt hoạt động Hè - Thu, sử dụng lực lượng vũ trang tỉnh tiến công các căn cứ bàn đạp, đồng thời đẩy mạnh chiến tranh du kích, đặc biệt là các vùng ven thị xã, thị trấn.

Mở đầu Hè - Thu 67, đêm 10 tháng 5 các chiến sĩ đặc công Đ10 tiến công khu kho xăng Quy Nhơn đốt cháy hơn 10 triệu lít xăng. Ở phía bắc tỉnh, đêm 16-6, Đ40 đặc công mật tập thọc sâu căn cứ Đệ Đức (bắc Bồn Sơn) tiêu diệt 600 tên Mỹ, phá hủy 21 trực thăng, 20 khẩu pháo, 4 kho quân trang, vũ khí. Ngày 20 tháng 8, bộ đội địa phương Phù Mỹ và du kích xã Mỹ Thắng chặn đánh quân Mỹ đi càn diệt 50 tên.

Ngày 21 tháng 8, sư đoàn không vận số 1 Mỹ tổ chức càn lớn vào thung lũng Cát Sơn (Phù Cát) bị lực lượng sư đoàn 3, bộ đội huyện và du kích chặn đánh quyết liệt diệt gần 200 tên, bẻ gãy cuộc càn. Thừa lúc quân địch hoang mang, ngày 25 tháng 8, lực lượng sư đoàn 3 và lực lượng địa phương lật cánh tiến công chi khu quận lị Phù Mỹ, trận đại pháo và sân bay dã chiến Đèo Nhông diệt trên 200 tên Mỹ, ngụy. Cùng thời gian trên, du kích xã Cát Sơn bắn cháy 2 xe M.113 của địch.

Lúc này, đồng chí Nam Bình (tức Nguyễn Xương) được trên điều về làm tỉnh đội trưởng thay đồng chí Bình Minh (Thái Văn Mao) đi nhận công tác khác. Ban chỉ huy tỉnh đội có các đồng chí Nguyễn Xương tỉnh đội trưởng, Lê Thành Văn chính trị viên, Lê Ngưu tỉnh đội phó, Đinh Bá Lộc chính trị viên phó. Phối hợp với chiến trường Quân khu trong đợt hoạt động chuẩn bị cho 1968, cuối tháng 8 năm 1967, Tiểu đoàn 53 bộ đội tỉnh cùng lực lượng huyện Hoài Nhơn tiến công thị trấn Bồng Sơn và Tam Quan diệt hàng trăm tên. Cùng lúc, bộ đội địa phương huyện, các phân đội đặc công đánh địch ở Quy Nhơn và nhiều nơi khác trong tỉnh. Ngày 5 tháng 12, lực lượng vũ trang địa phương táo bạo đột nhập trường huấn luyện Gò Trạm, tiêu diệt 150 tên sĩ quan và học viên sĩ quan, đồng thời tiến công thị trấn Đập Đá diệt gọn một trung đội dân vệ, bắt sống một trung đội khác. Chiến sự lan ra nhiều nơi, uy hiếp trực tiếp phía bắc và tây - bắc thị xã Quy Nhơn.

Sau khi địch rút khỏi Núi Bà, ta xây dựng củng cố lại căn cứ. Phát hiện một lực lượng ta ở Núi Bà (cơ quan trung đoàn bộ và bệnh xá trung đoàn 12) bọn lính Nam Triều Tiên liền kéo đến bao vây định tiêu diệt bộ phận này.

Ngày 24 tháng 2, một trận đánh chớp nhoáng giữa một đại đội chủ lực ta với một tiểu đoàn Nam Triều Tiên đã diễn ra ở dưới chân Núi Bà. Trận đánh nhanh đến mức các trận địa pháo Nam Triều Tiên ở Phù Cát, An Nhơn đã có sẵn tọa độ cũng không kịp bắn một phát. Kết quả trận đánh xuất sắc đó, một đại đội ta đã đánh tan tác một tiểu đoàn địch, trong đó một đại đội Nam Triều Tiên bị diệt gọn.

Sau đó đại đội 52 (tiểu đoàn 5 trung đoàn 12 sư đoàn 3) đại đội lập công oanh liệt ở Núi Bà - được nhân dân Triều Tiên gửi tặng lá cờ thêu dòng chữ “Mặt trận Tổ quốc Triều Tiên gửi tặng đơn vị khá nhất tiêu diệt bọn lính đánh thuê Pắc Chung Hy”.

Cũng trong tháng 12 năm 1967, lực lượng vũ trang huyện Hoài Nhơn và một bộ phận chủ lực cùng du kích tiến công địch ở thị trấn Tam Quan diệt hai trung đội dân vệ và 20 tên ác ôn khét tiếng gian ác. Nhà tù Tam Quan bị du kích phá, giải thoát hàng trăm cán bộ và đồng bào yêu nước bị địch giam giữ. Địch tức tối đưa một tiểu đoàn Mỹ đến giải tỏa bị chủ lực ta đánh thiệt hại nặng.

Đầu tháng 1 năm 1968, ta tổ chức tiến công Đập Đá lần thứ hai. Mất Đập Đá là Quy Nhơn bị uy hiếp. Do đó, ba ngày sau, một trung đoàn Nam Triều Tiên, bốn đại đội bảo an với 32 xe tăng, xe bọc thép được không quân, pháo hạm chi viện kéo đến ứng cứu. Cuộc chiến đấu ác liệt chung quanh làng Phương Danh Nam diễn ra suốt năm ngày đêm giữa một tiểu đoàn thuộc sư đoàn 3 và bộ đội địa phương An Nhơn với quân địch đông hơn gấp nhiều lần. Một trận đánh không cân sức diễn ra với tỉ lệ 20 rồi 50. Đến ngày thứ năm, khi mười xe tăng của địch xông vào, đạn chống tăng hết, thủ pháo không còn một quả, những chiến sĩ quyết tử còn lại, đứng cả dậy xông vào quân địch và chiến đấu đến người cuối cùng.

Tinh thần hi sinh chiến đấu cao cả của các chiến sĩ chủ lực ở Phương Danh Nam làm xúc động đồng bào vùng phụ cận Quy Nhơn và trong toàn tỉnh. Bọn lính Nam Triều Tiên có mặt trong trận chiến đấu sau hàng tháng vẫn chưa hết kinh hoàng trước tinh thần dũng mãnh và chịu đựng đến kì lạ của lực lượng vũ trang giải phóng Bình Định. Một đất nước có những chiến sĩ như vậy nhất định đất nước đó sẽ chiến thắng.

Cũng vào thời gian này, ta tổ chức tiến công vào quận lị Tuy Phước, đánh mở các thôn vùng ven như Vinh Quang, Tư Cung, Tư Thiện, Phước Sơn, Phước Thuận giành thắng lợi lớn. 100 trong số 114 thôn địch coi như đã “bình định” xong đã mất sạch, quyền làm chủ đã thuộc về tay nhân dân, tạo bàn đạp cho kế hoạch tiến công vào thị xã Xuân 1968. Các huyện Hoài Nhơn, đông Phù Mỹ chống “bình định” thắng lợi, giữ vững vùng giải phóng. Xã “Thành đồng quyết thắng” Hoài Châu là một trong những xã điển hình về trụ bám đánh bại kế hoạch “bình định” của địch ở huyện Hoài Nhơn và toàn tỉnh Bình Định.

Qua hai mùa khô, mặc dù địch có gây cho ta nhiều tổn thất về người và của nhưng quân dân Bình Định đã thắng rất lớn, đặc biệt là trong đợt hoạt động Hè - Thu 1967 - đợt hoạt động chuẩn bị cho phương án tác chiến chiến lược năm 1968. Quân địch đã bị động càng thêm lúng túng, bế tắc cả về quân sự và chính trị, cả chiến lược và chiến thuật, đặc biệt là sự sa sút nghiêm trọng về tinh thần và chất lượng chiến đấu. Về phía ta, lực lượng chính trị và vũ trang lớn mạnh hơn hẳn mọi năm, đặc biệt là sự trưởng thành về chất lượng, trình độ vận dụng phương châm đấu tranh và phương thức tác chiến. Thế và lực của ta đều phát triển mạnh mẽ, vững chắc, là cơ sở giành thắng lợi trong tết Mậu Thân 1968.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Sáu, 2012, 04:20:18 pm
4 - TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY ĐỒNG LOẠT TẾT MẬU THÂN 1968 TRÊN CHIẾN TRƯỜNG BÌNH ĐỊNH

Sau những thắng lợi to lớn của quân và dân miền Nam trong hai mùa khô 1965-1966 và 1966-1967, tháng 12 năm 1967, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp và ra Nghị quyết lịch sử “chuyển cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam của ta sang một thời kì mới - thời kì giành thắng lợi quyết định… Nhiệm vụ trọng đại và cấp bách của ta là động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên một bước phát triển cao nhất bằng phương pháp tổng công kích - tổng khởi nghĩa…”.

Nghị quyết nêu rõ các mục tiêu chiến lược phải đạt, dự đoán khả năng phát triển của tình hình và nhiệm vụ quân sự của cuộc tổng tiến công chiến lược.

Quán triệt Nghị quyết Bộ chính trị và Nghị quyết Khu ủy, Tỉnh ủy soát xét đánh giá tình hình ta, địch đề ra nhiệm vụ cho quân dân toàn tỉnh: “Động viên toàn Đảng bộ, toàn quân, toàn dân trong tỉnh nỗ lực phi thường, quyết tâm cao độ thực hiện tổng tiến công và nổi dậy trên toàn chiến trường bằng ba mũi giáp công thật mạnh mẽ, phối hợp với toàn khu, toàn miền”. Tỉnh ủy xác định nhiệm vụ quân sự, các mục tiêu quân sự phải đánh chiếm và triển khai mọi kế hoạch chuẩn bị chiến trường, xây dựng lực lượng cả chính trị và vũ trang.

Chiến trường trọng điểm được xác định là thị xã Quy Nhơn và quận lị Phù Mỹ. Bộ chỉ huy Mặt trận Bình Định được thành lập. Đồng chí Nguyễn Chánh, Phó Tư lệnh Quân khu được bổ nhiệm làm Tư lệnh. Đồng chí Đoàn Khuê, Phó chính ủy Quân khu làm Chính ủy. Trong Bộ chỉ huy còn có các đồng chí chỉ huy sư đoàn 3, Thường vụ Tỉnh ủy và Ban chỉ huy tỉnh đội. Riêng phía nam tỉnh, Khu ủy quyết định thành lập Mặt trận Quy Nhơn do đồng chí Nguyễn Văn Hữu, Thường vụ Khu ủy phụ trách và các đồng chí Đặng Thành Chơn, Võ Văn Đồng, Trương Huấn, Võ Hải Ninh, Nguyễn Đình Trọng phái viên Khu ủy. Đồng chí Nguyễn Xương, tỉnh đội trưởng Bình Định trực tiếp chỉ huy lực lượng vũ trang tiến công thị xã.

Theo phương hướng tác chiến của Quân khu, sư đoàn 3 được giao nhiệm vụ đánh chiếm quận lị Phù Mỹ, một trung đoàn đứng ở Tuy Phước cùng với tiểu đoàn 52 sẵn sàng đánh địch trung du, đồng thời cơ động đánh địch hỗ trợ cho quần chúng nhập thị. Tiểu đoàn 50 cùng với tiểu đoàn đặc công “Liên ấp 3”(1) kết hợp với biệt động, tự vệ mật tiến công đánh chiếm những mục tiêu then chốt hỗ trợ cho quần chúng bên trong nổi dậy, quần chúng bên ngoài kéo vào cướp chính quyền. Tiểu đoàn 405 đặc công Quân khu tiến công khu kho Đèo Son. Các lực lượng vũ trang huyện và du kích tiến công các mục tiêu theo phương án cắt phá giao thông địch trên đường số 1, hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy giành chính quyền ở huyện, xã, giải phóng toàn bộ nông thôn.

Phương án đấu tranh chính trị được tổ chức chỉ đạo chặt chẽ. Cán bộ được gấp rút tăng cường cho các hướng trọng điểm. Các Tỉnh ủy viên nữ được điều vào tăng chường cho thị xã Quy Nhơn. Ở những nơi phong trào mạnh như Hoài Nhơn, Phù Mỹ, xã Cát Hanh (Phù Cát), một số xã ở An Nhơn, Tuy Phước, quần chúng được tổ chức thành từng đội 100 người. Đội quân chính trị lớn lao trong toàn tỉnh có 590 đội gồm 272 nghìn người, từ tháng 12 năm 1967 đã tổ chức xong, có bố trí lãnh đạo, chỉ huy chặt chẽ. Đường dây liên lạc từ tỉnh đến huyện, xã được tăng cường.

Công tác chuẩn bị bảo đảm hậu cần như lương thực, đạn dược, dân công phục vụ chiến trường được tiến hành khẩn trương.

Thời gian này, lực lượng cơ động Mỹ, ngụy và Nam Triều Tiên trên chiến trường Bình Định còn 21 tiểu đoàn, so với trước giảm 1 lữ của sư đoàn không vận số 1 Mỹ. Địa phương quân số có tăng chút ít: 35 đại đội bảo an, 159 trung đội dân vệ, 51 đoàn “bình định”. Hành động của địch sau Hè - Thu đã chuyển vào phòng ngự. Chúng tăng cường càn quét ở vùng đông và phía nam, nhất là khu vực Núi Bà và các xã bàn đạp. Ở Quy Nhơn, chúng tăng cường lực lượng nhỏ lùng sục, thăm dò. Khi phát hiện lực lượng ta, chúng đổ quân tập kích chớp nhoáng hoặc dùng phi pháo triệt hạ từng thôn xóm. Bọn Nam Triều Tiên thường xuyên phục kích và tung biệt kích lùng sục vùng giáp ranh đánh phá hành lang ta, nhất là hành lang đông - tây. Chúng dồn các đoàn “bình định” vào khu vực trọng điểm nam Phù Mỹ trở vào, đẩy bọn cộng hòa, bảo an mở thêm các chốt sâu hơn ở vùng đông, tiếp tục thực hiện kế hoạch “Bình Định”, tiếp tục củng cố tề ngụy ở cơ sở.

Những hoạt động của địch gây cho ta nhiều khó khăn trong quá trình chuẩn bị tổng tiến công và nổi dậy, đặc biệt là việc động viên nhân tài vật lực phục vụ tiền tuyến. Hành lang đi lại gặp trở ngại nhất là từ tây sang đông. Lương thực dự trữ không có, bàn đạp bị co hẹp, v.v…

Tuy vậy, quân dân trong toàn tỉnh vẫn nỗ lực khắc phục, chạy đua với thời gian, gấp rút chuẩn bị cho ngày N. Có thể nói toàn tỉnh từ cơ quan lãnh đạo, chỉ huy, đơn vị vũ trang đến các ngày, các giới như một guồng máy chạy hết công suất. Chưa có mùa xuân nào, chiến dịch nào mà không khí chuẩn bị ra quân lại hào hứng, phấn khởi và trần ngập tin tưởng như mùa xuân 1968.

Trong dịp năm mới đến, Bác Hồ làm thơ chúc tết đồng bào cả nước:

            Xuân này hơn hẳn mấy Xuân qua
            Thắng trận tin vui khắp nước nhà.
            Nam - Bắc thi đua đánh giặc Mỹ
            Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta.


Lời thơ Bác càng động viên sĩ khí quân dân trong tỉnh tiến lên giết giặc lập công.


(1) Tiểu đoàn đặc công “Liên ấp 3” mới thành lập gồm các đại đội Đ10, 30, 117B, 598 sáp nhập lại


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Sáu, 2012, 04:21:39 pm
Để tạo bàn đạp trực tiếp tiến công quân địch ở thị xã Quy Nhơn, đêm 22-12-1967, đặc công Đ10 (thuộc Liên ấp 3) bí mật tập kích quận lị Tuy Phước. Kết quả diệt gọn một đại đội lính bảo an, một đại đội nghĩa quân, 50 tên Mỹ và Nam Triều Tiên, loại khỏi vòng chiến đấu 500 tên, giết hàng chục tên ngụy quyền cấp huyện, giải thoát 150 đồng bào ta bị địch giam giữ, phát động quần chúng phá banh khu dồn trở về làng cũ. Tiếp đó, ta tiến công quân địch ở Chợ Đình, Vịnh Quang, Tư Cung, Dương Thiện (Phước Sơn, Phước Thuận). Trước đó (6-12) một phân đội đặc công của tỉnh tập kích quân địch ở ấp Tình Giang (Phước Hiệp), diệt 50 tên, bắt 18 tên, thu 20 súng các loại. Như vậy trong tháng 12-1967, ta đã tạo được bàn đạp phía đông bắc thị xã Quy Nhơn(1).

Những ngày giáp tết, không khí chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy càng sôi động. ngày N được ấn định là đêm 29 rạng ngày 30 tháng 1 năm 1968. Nhưng khi các đơn vị đang triển khai chiếm lĩnh thì nhận được lệnh hoãn ngày N lại, dời sang đêm 30 rạng ngày 31 tháng 1.

Lệnh hoãn đến với trung đoàn 2 trong khi đơn vị đã cắt xong lớp rào thứ hai, chuẩn bị nổ súng tiến công quận lị Phù Mỹ đúng vào giờ G. Một tình huống quá bất ngời, nếu rút ra sẽ bị lộ và đêm sau khó có thể chiếm lĩnh an toàn, nhưng nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh cấp trên, đơn vị rút ra khỏi khu vực Bình Trị trước khi trờ sáng. Quân địch phát hiện, lập tức chúng cho trung đoàn 41 ngụy ra triển khai bao vây quanh quận lị Phù Mỹ và bám theo dấu vết quân ta đến tận thôn Bình Trị. Trung đoàn 2 phải chuyển sang đánh địch phản kích ngoài căn cứ.

Ở phía nam theo kế hoạch hiệp đồng, đến ngờ nổ súng, cơ sở trong Quy Nhơn sẽ đưa ô-tô và lực lượng quần chúng ra đón bộ đội tỉnh nhập thị. Nhưng lại một tình tình huống ngoài dự kiến đã xảy ra. Sắp đến giờ nổ súng, đồng chí Nguyễn Khuông (Biên Cương) Thường vụ Tỉnh ủy, Bí thư Tỉnh ủy Quy Nhơn bị địch bắt. Kế hoạch hiệp đồng với bên ngoài không thực hiện được. Trong tình huống đột xuất này, Thường vụ Tỉnh ủy chỉ định đồng chí Tô Đinh Cơ ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy phụ trách hướng tiến công Quy Nhơn.

Không còn cách nào khác, ngày 29-1-1968 các đơn vị bộ đội tỉnh, huyện và trung đoàn 12 nổ súng tiến công đánh mạnh phía An Nhơn. Lực lượng tỉnh vượt đầm Thị Nại xóa sạch một loạt đồn bót, mở toang cánh cửa phía bắc Quy Nhơn. Các chiến sĩ du kích đã chiến đấu kiên cường để thu hút, kìm giữ quân địch ho lực lượng tỉnh đột nhập tiến công Quy Nhơn. Cũng trong thời gian này để hỗ trợ cho lực lượng vũ trang tỉnh Bình Định tiến công Quy Nhơn, một bộ phận của trung đoàn 10 từ bắc Phú Yên thọc ra đèo Cù Mông án ngữ phía nam thị xã.

Trong khi địch dồn quân đối phó ở vòng ngoài thì tiểu đoàn 50 và tiểu đoàn đặc công “Liên ấp 3” cùng biệt động, tự vệ mật từ các vị trí giấu quân ở thôn Hưng Thạnh (xã Nhơn Bình) - một căn cứ lõm, một bàn đạp vững chắc của lực lượng vũ trang tỉnh ra vào hoạt động trong thị xã - được tự vệ mật và cơ sở cách mạng dẫn đường luồng lách vào trung tâm thị xã, áp sát các mục tiêu tiến công. Các chiến sĩ đặc công do tiểu đoàn trưởng Ngô Văn Mười chỉ huy đánh chiếm đài phát thanh, quân vụ thị trấn, bắt hơn 200 tên địch, giải thoát 22 đồng chí cán bộ và cơ sở của ta, trong đó có đồng chí Nguyễn Khuông; đồng thời tiến công dinh tỉnh trưởng. Các đơn vị bộ binh tiểu đoàn 50 đã hoàn thành nhiệm vụ đánh chiếm các mục tiêu bến xe, lầu Bà Đệ, nhà ga, diệt gọn một trung đội cảnh sát; bắt 30 tên cộng hòa, bảo an và trụ lại đánh địch phản kích. Trong khi xung phong đánh vào đồn cảnh sát Bạch Đằng, Quy Nhơn, đồng chí Nguyễn Văn Sĩ thuộc tiểu đoàn 50 trong tình huống chiến đấu khó khăn đã lấy thân mình làm thang mê cho đơn vị vượt rào đánh vào trận nội. Đại đội 598 (đặc công nước) do đồng chí Nguyễn Đồng tham mưu trưởng tỉnh đội chỉ huy dung hai xuồng máy từ Phước Hải tiến vào Quy Nhơn, đến giữa đầm Thị Nại gặp địch, hai bên nổ súng đánh nhau. Ta bắn chìm hai bo bo địch. Các chiến sĩ ta đi chiếc xuồng đầu nhảy xuống nước bơi vào bờ để kịp tiến công các mục tiêu quy định. Nhưng do nước thủy triều ròng, cuốn 3 đồng chí đến tận khu vực Gành Ráng, chỉ một đồng chí bơi vào được khu hai (đường Nguyễn Huệ), diệt một tên ác ôn, hai đồng chí còn lại bị dạt vào Xuân Lãnh (Phú Yên) được cơ sở chăm sóc và tìm về được đơn vị. Tiểu đoàn 405 đặc công Quân khu tiến công khu kho Đèo Son, ngay từ phút đầu đã làm tê liệt hầu hết các hỏa điểm, lô cốt địch, phá hủy nhiều kho đạn dược và phương tiện chiến tranh của chúng.

Sáng hôm sau (30-1), địch dùng một tiểu đoàn từ Cầu Đôi đánh xuống và đổ thêm quân xuống sân bay tổ chức hàng chục đợt phản kích, cố chiếm lại những vị trí đã mất. Các chiến sĩ ta chiến đấu kiên cường, đẩy lùi các đợt phản kích của địch. Tối hôm ấy, đại bộ phận tiểu đoàn 50 hết đạn và được lệnh rút ra nên phải rời khỏi Quy Nhơn chỉ để lại 20 đồng chí tiếp tục chiến đấu.

Cũng trong ngày 30 tháng 1, một tiểu đoàn lính Nam Triều Tiên mở bốn đợt phản kích vào đài phát thanh, nhưng đều bị các chiến sĩ Liên ấp 3 đánh bại, diệt hàng chục tên.

Ngày 31 tháng 1 năm 1968, địch tiếp tục dùng máy bay trực thăng vũ trang, pháo bắn thẳng đánh phá ác liệt vào khu vực nhà ga Quy Nhơn và tổ chức 7 đợt phản kích, nhưng đã bị 20 đồng chí của tiểu đoàn 59 đánh trả quyết liệt, diệt hàng chục tên. Đến tối hôm ấy, các chiến sĩ ta chủ động rời thị xã.


(1) Theo CHIẾN TRANH DU KÍCH TRÊN CHIẾN TRƯỜNG BÌNH ĐỊNH.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Sáu, 2012, 05:20:13 pm
Từ ngày 31 tháng 1 đen 7-2, các chiến sĩ tiểu đoàn đặc công đã chiếm giữ đài phát thanh và một số nhà cao tầng ở khu 1, khu 2, chiến đấu rất ngoan cường và hi sinh đến người cuối cùng, trong đó có đồng chí Nguyễn Khuông đánh bại hàng chục đợt phản kích của địch, làm chủ đài phát thanh 7 ngày liền(1).

(http://farm8.staticflickr.com/7211/7377983092_5c9cdf819e_z.jpg)

Đài phát thanh Quy Nhơn bị Quân giải phóng đánh sập
trong cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968

Cùng thời gian trên, tiểu đoàn 52 với nhiệm vụ đánh kiềm chân địch ở vòng ngoài đã tiến công quân ngụy ở Tây Định (Phước Hậu) và bọn Tân Tây Lan ở Lộc Trung (Phước Sơn). Một bộ phận của trung đoàn 12 đánh chiếm trận địa pháo địch ở Kỳ Sơn.

Ở phía tây nam Quy Nhơn, cũng vào thời điểm ấy, trung đoàn 10 (Quân khu đánh chiếm đèo Cù Mông, tiêu diệt gọn một đại đội Mỹ, cắt đứt giao thông trên quốc lộ 1.

Cùng với tiến công quân sự, lực lượng chính trị của quần chúng trong toàn tỉnh lấy “đội quân tóc dài” làm lực lượng xuất kích đã nổi dậy áp đảo quân địch ở hầu hết các thị trấn, quận lị.

Gần ba vạn đồng bào ở Hoài Nhơn kéo đến bao vây các thị trấn Tam Quan, Bồng Sơn. Lực lượng đặc công Đ40 đánh vào căn cứ Đệ Đức diệt nhiều địch, phá hủy 13 máy bay. Du kích các xã trong huyện tiến công các chốt điểm diệt trên 200 địch. Một bộ phận của Đ40 đặc công tập kích quân địch ở Tài Lương (Hoài Thanh) diệt 160 tên, hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy. Ở Đồi Mười xã Hoài Châu, mặc cho địch xả súng vào quần chúng, đoàn biểu tình vẫn cứ tiến lên. Quân địch quăng lựu đạn, anh Ngô Bàn nằm đè lên lựu đạn, giành lấy cái chết về mình để nhân dân khỏi thương vong. Chị Liên giật súng địch bắn địch. Chúng bắn lại, chi anh dũng hi sinh. Má Nhung cầm cờ đi đầu xông thảng vào bọn địch, nắm nòng súng địch giơ lên cao cho đạn không trúng đồng bào. Cuộc đấu tranh của nhân dân Hoài Châu ở Đồi Mười diễn ra vô cùng quyết liệt. Nhiều tấm gương hi sinh cao cả của các mẹ, các chị đã tô thắm thêm truyền thống cách mạng kiên cường của quê hương Hoài Nhơn, Bình Định.

Hàng ngàn các mẹ, các chị ở Phù Mỹ mang gậy tre, dao, liềm cùng du kích kéo vào áp đảo bọn bảo an, dân vệ ở nhiều chốt điểm và “ấp chiến lược” thuộc xã Mỹ Đức, Mỹ Lợi. Hàng vạn đồng bào Cát Hanh, Phù Cát, An Nhơn, Bình Khê, Vĩnh Thạnh sôi sục xuống đường đấu tranh đòi lật đổ ngụy quyền.

Khắp các địa phương sôi động trong không khí tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt. Chỉ trong thời gian từ 30 tháng 1 đến 29-2, quân dân Bình Định đã loại khỏi vòng chiến đấu 4.317 tên địch, có 830 tên Mỹ, 608 tên Nam Triều Tiên và 300 tên tề điệp ác ôn. Trong đó, chủ lực diệt 1.288 tên, bộ đội địa phương và du kích diệt 3.029 tên. Ta đã bắn rơi và phá hủy 33 máy bay các loại, phá hủy 163 xe quân sự, có 31 xe bọc thép, 12 pháo cối, 61 trung, đại liên, phá hủy 12 kho đạn gồm 70 tấn, chín vạn lít xăng, thu 96 súng các loại. Ta đã giải phóng 41 thôn với trên hai vạn dân, buộc quân địch rút bỏ 20 cứ điểm. Vùng nông thôn ở Khu Đông và Khu Nam được mở rộng tạo thế bàn đạp của ta ở vùng này.

Nhận xét về cuộc tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Xuân 1968, báo Lơ Phi-ga-rô ngày 2-2-1968 viết: “Lần tiến công đầu xuân này, Mặt trận Dân tộc giải phóng đã thắng lớn về chính trị… chứng tỏ họ có thể đánh vào nơi nào và lúc nào cũng được…”.

Qua đợt tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968, tuy ta chưa đạt được những mục tiêu đề ra do nhiều nguyên nhân bao gồm cả nhược điểm và khuyết điểm, nhưng đây là thắng lợi lớn nhất từ trước đến nay, tạo được một thế trận mới trong tỉnh, làm phá sản kế hoạch “bình định” của địch, góp phần cùng quân dân toàn miền giành thắng lợi quan trọng, làm chuyển biến cục diện chiến tranh, đẩy Mỹ - ngụy lún sâu hơn nữa vào thế bị động, bế tắc.


(1) Phần diễn biến chiến đấu ở khu vực Quy Nhơn dựa vào cuốn CHIẾN TRANH DU KÍCH TRÊN CHIẾN TRƯỜNG BÌNH ĐỊNH trang 155, 156.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Sáu, 2012, 05:21:55 pm
*   *
*

Sang mùa hè năm 1968, ngày 24-4 Bộ Chính trị họp Hội nghị nhận định đợt hoạt động tết Mậu Thân và ra Nghị quyết về phương hướng nỗ lực mới, nhằm đi tới giành thắng lợi quyết định.

Chấp hành Nghị quyết Bộ Chính trị, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 quyết định mở chiến dịch hè 1968, nhằm tiêu diệt và làm tan rã một bộ phận lớn ngụy quân, ngụy quyền, phá hủy và làm tê liệt các căn cứ, kho tàng, tiêu diệt một bộ phận quan trọng quân chiến đấu Mỹ, cắt đứt giao thông, giải phóng một bộ phận nông thôn đồng bằng, làm chủ từng phần cơ sở trong nội thành…

Trong lúc ta chuẩn bị bước vào chiến dịch Hè - Thu thì quân Mỹ sau những thất bại nặng nề tết Mậu Thân lo thay quân và điểu chỉnh lại lực lượng. Sư đoàn không vận số 1 Mỹ bị đánh thiệt hại nặng ở Bình Định lại phải điều gấp ra ứng cứu cho chiến trường Trị Thiên. Thay vào đó là lữ đoàn “kỵ binh thiết giáp” 173 (nguyên là lữ dù được trang bị thêm xe thiết giáp cho phù hợp với yêu cầu tác chiến) được điều từ Phú Yên ra, có khoảng 100 xe tăng, xe bọc thép, là đơn vị có sức đột kích mạnh trên chiến trường miền Nam Trung Bộ lúc bấy giờ.

(http://farm9.staticflickr.com/8003/7377984456_a2be0a03f0_b.jpg)

Quân Mỹ - ngụy tiến công vào làng dân Bình Định

Vừa đến Bình Định, lữ đoàn 173 đã phối hợp với quân Nam Triều Tiên, quân ngụy tung hàng trăm xe thiết giáp ra tổ chức phản kích nhằm ngăn chặn quân ta tiến công vào thị trấn, thị xã. Theo chỉ thị của Quân khu muốn tiêu diệt chiến thuật “thiết xa vận” của bọn này tốt nhất là kéo chúng ra xa thành phố, chặn chúng lại và vây chặt bằng vận động phục kích và vận động tiến công, tập kích, diệt từng tiểu đoàn tiến tới đánh quỵ cả lữ đoàn.

Thực hiện chiến trường trên, sư đoàn 3 sử dụng hai trung đoàn nghiên cứu nắm quy luật địch và chuẩn bị cho trận đánh. Khu vực ba xã Mỹ Lộc, Mỹ Trinh, Ân Tường tiếp giáp giữa hai huyện Phù Mỹ, Hoài Ân được chọn làm quyết chiến điểm.

0 giờ 30 phút ngày 5 tháng 5 năm 1968, phối hợp với chiến trường toàn Quân khu, lực lượng tỉnh, huyện, du kích cùng với một bộ phận chủ lực tiến công tám cứ điểm địch trên đường số một dài hơn mười ki-lô-mét từ cầu Ông Diệu đến Phù Mỹ, nhằm kéo lữ 173 đi giải tỏa.

Đúng như dự kiến, đoàn xe địch, có máy bay, pháo binh và bộ binh đi chùng ào ạt từ phía nam tiến đúng vào trận địa ta đã chuẩn bị. Trong một ngày đêm, lực lượng vũ trang giải phóng Bình Định đã diệt 32 chiếc, bắt sống hai chiếc, giáng đòn phủ đầu đích đáng vào lữ đoàn 173 Mỹ. Ba đại đội cơ giới cùng hai đại đội bộ binh địch bị loại khỏi vòng chiến đấu.

Không dừng lại với thắng lợi đã đạt được, nằm đúng hành động địch, ta thiết kế một trận đánh nữa trên cánh đồng Trịnh Vân xã Mỹ Trinh, lừa xe địch vào diệt 11 chiếc. Trong mười ngày, lữ 173 đã mất gần 50 xe trong tổng số hơn 100 xe của chúng.

Cũng trong ngày hôm ấy, tiểu đoàn 53 tổ chức đánh quân Mỹ đổ bộ đường không ở thôn Trường Lâm (Hoài Thanh) - đẩy lùi nhiều đợt phản kích, diệt 130 tên, bắn rơi một máy bay lên thẳng.

Phát huy thắng lợi, sáng ngày 23 tháng 5, một bộ phận chủ lực kết hợp với lực lượng vũ trang tỉnh, huyện và du kích đồng loạt tiến công vào trận địa pháo Đèo Nhông, Mồ Côi, Gò Loi, các “ấp chiến lược” chốt điểm ở tây tây - bắc quận lị Phù Mỹ, buộc lữ đoàn 173 một lần nữa phải kéo ra giải tỏa. Sáng ngày 25, một đoàn xe 26 chiếc hỗn hợp của lữ đoàn 173 và một chi đoàn thiết giáp ngụy tiến vào xã Mỹ Trinh bị chủ lực phối hợp với bộ đội huyện và du kích diệt 26 chiếc.

Với những trận thắng oanh liệt đó, mùa hè 1968 trở thành mùa hè diệt xe tăng Mỹ của lực lượng vũ trang giải phóng Bình Định, đánh quỵ lữ 137 với chiến thuật “thiết xa vận” của chúng.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Sáu, 2012, 05:25:45 pm
Trong lúc chiến công diệt xe tăng đang nở rộ thì lực lượng đặc công của tỉnh (Đ10) tập kích diệt hai đại đội Mỹ ở Gò Ông Thường xã Hoài Thanh huyện Hoài Nhơn, du kích Hoài Châu diệt một trung đội bảo an gác cầu Ông Tự ở Tam Quan. Ngày 22-7-1968, tiểu đoàn 53 phục kích đánh địch trên đoạn đường từ cầu sắt Tam Quan đi Chợ Cát diệt 205 tên Mỹ, ngụy, bắn cháy 15 xe, có bốn xe bọc thép, bắn rơi hai máy bay, phá hủy hai pháo 105, thu 20 súng. Cùng đêm hôm ấy, Đ10 đặc công tập kích cứ điểm Tháp Bánh Ít diệt 30 tên địch, đánh sập 8 lô cốt, đốt cháy hai kho xăng.

Chiến công nối tiếp chiến công, ngày 10 tháng 6, trong khi quân Nam Triều Tiên xua quân đi càn quét xã Cát Thắng, tiểu đoàn 50 cùng du kích triển khai đánh địch diệt 170 tên. Chiến tranh du kích được đẩy mạnh hỗ trợ cho nhân dân chống phá kế hoạch “bình định” khắp vùng đồng bằng toàn tỉnh.

Giữa mùa thu năm 1968, Bộ Chính trị họp và quyết định tiếp tục đẩy mạnh tổng tiến công và nổi dậy, đồng thời sẵn sàng đánh thắng Mỹ nếu chúng kéo dài và mở rộng chiến tranh.

Thực hiện chủ trương trên, ta lại mở chiến dịch Thu 1968 đẩy mạnh cuộc tiến công trên khắp chiến trường.

Sau thất bại Xuân 1968, Oét-mo-len bị cách chức cùng với sự phá sản của biện pháp “tìm diệt và bình định”. A-bram lên thay với biện pháp chiến lược mới: “quét và giữ”. Ở Bình Định, Mỹ - ngụy tăng cường các cuộc hành quân càn quét đánh phá hành lang vùng giáp ranh căn cứ và đồng bằng, mở càn quét lớn, dài ngày ở vùng Núi Bà Phù Cát và tây - nam Phù Mỹ. Song song với hành quân càn quét, chúng mở nhiều cuộc hành quân cảnh sát khủng bố phong trào cách mạng của quần chúng ở thị xã, quận lị, đồng thời thực hiện âm mưu bắt lính để bổ sung quân số. Chúng tiến hành kế hoạch “bình định cấp tốc”. ở các vùng nông thôn, ngoại vi thị trấn.

Giữa lúc Mỹ - ngụy ra sức “quét và giữ”, “phòng ngự từ xa” thì đêm 11 tháng 8, Đ10 đặc công đánh địch ở Lộc Tượng, Phước Sơn, tiến công vào thị xã Quy Nhơn, diệt 253 tên, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của chúng. Tiểu đoàn 50 đánh bọn Nam Triều Tiên ở Núi Bà diệt hàng trăm tên.

Đặc biệt trong hoạt động Thu, lực lượng công binh phối hợp với bộ đội địa phương huyện và du kích tổ chức đánh cắt đường 19, đường số một làm cho giao thông địch tắt nghẽn nhiều ngày. Du kích, tự vệ mật trong thị xã, thị trấn cũng táo bạo đánh địch làm chúng mất ăn, mất ngủ. Du kích mật huyện An Nhơn trong tháng 8 đã diệt 165 tên địch. Có trận chỉ có tổ du kích mật đánh với một đại đội bảo an, diệt 27 tên tại xã Nhơn Khánh. Du kích mật xã Cát Hanh hỗ trợ cho nhân dân thực hiện hai chân, ba mũi giáp công, giành quyền làm chủ ở các thôn Tân Hóa, Chánh An, Vĩnh Long, Vĩnh Trường, Vĩnh Kiên, góp phần cùng quân dân trong tỉnh đánh bại kế hoạch “bình định cấp tốc” của Mỹ - ngụy. Tự vệ mật Quy Nhơn, du kích Mỹ Hiệp liên tục đánh cả Mỹ - ngụy, Nam Triều Tiên và bọn tề điệp ác ôn, diệt hàng trăm tên. Có trận diệt hàng trung đội như trận Tân Dân xã Mỹ Hiệp (8-1969), v.v…

Ngày 9-10-1968, tiểu đoàn 53 bộ binh của tỉnh, bằng chiến thuật vận động phục kích diệt một đại đội lính cộng hòa và một trung đội pháo binh thuộc trung đoàn 40 ở khu vực Tam Quan, giết 154 tên, bắt ba tên, thu 21 súng, bắn rơi 7 máy bay trực thăng (trong đó có bốn chiếc bị đạn súng cối của ta phá hủy ở Đệ Đức), bắn cháy hai xe M.113, phá hủy hai pháo 105mm. Ngày 10-0, du kích xã Vĩnh Hiệp (Vĩnh Thạnh) chống càn, diệt 20 tên Mỹ, bắn rơi ba máy bay trực thăng. Trong tháng 10-1968, một trung đội du kích Ân Tường tập kích một đại đội biệt kích Mỹ, giết 59 tên, thu ba súng, bắn rơi một máy bay trực thăng. Cũng thời gian này, du kích hai xã Hoài Hảo, Tam Quan Nam phục kích đoạn cầu sắt đi Tam Quan, diệt hàng chục tên(1).

Giữa không khí thắng lợi của tiến công và nổi dậy trên khắp các địa phương toàn tỉnh, tháng 11 năm 1968, Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ lần thứ ba trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước được triệu tập họp tại suối Kà Xôm (Vĩnh Thạnh). Đại hội đánh giá những thắng lợi và tồn tại trong nhiệm kì, đặc biệt là đánh giá thắng lợi của tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt trong ba đợt Xuân, Hè. Thu 1968 và đề ra nhiệm vụ cho Đảng bộ và quân dân toàn tỉnh trong những năm tiếp theo. Đại hội bầu Ban chấp hành Tỉnh Đảng bộ mới gồm 11 đồng chí do đồng chí Đặng Thành Chơn làm Bí thư.

(http://farm6.staticflickr.com/5112/7377983234_5fec90c535.jpg)

Đồng chí Đặng Thành Chơn Bí thư Tỉnh ủy từ 1968-1972
(từ trần 1992)


(1) Theo CHIẾN TRANH DU KÍCH TRÊN CHIẾN TRƯỜNG BÌNH ĐỊNH.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Sáu, 2012, 05:26:37 pm
*   *
*

Năm 1968 kết thúc với thắng lợi to lớn của cuộc tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt của quân dân toàn tỉnh, góp phần cùng toàn miền và cả nước đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ.

Trong suốt gần bốn năm tiến hành “chiến tranh cục bộ” nói chung và năm 1968 nói riêng, có thể nói đế quốc Mỹ đã huy động mọi khả năng mà chúng có thể huy động được cho cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Nhưng kết quả là chúng ngày càng lún sâu vào thế phòng ngự chiến lược chắp vá, bị động, đơn phương xuống thang chiến tranh và buộc phải ngồi vào bàn hội nghị.

Chiến trường Bình Định luôn là một trong những chiến trường trọng điểm của Mỹ - ngụy cả “tìm diệt” và “bình định”. Chỉ tính riêng trong năm 1968, chúng đã mở trên địa bàn này tất cả gần 600 cuộc càn quét lớn, nhỏ. Trong đó có chín trận càn lớn dùng lực lượng từ một đến hai trung đoàn hoặc lữ đoàn với 100 đến 350 xe tăng thiết giáp, đánh cả đồng bằng và lùng sâu vào các vùng căn cứ. Bom pháo các loại được dùng với mức tối đa, kể cả B.52 và pháo 175mm. Chất độc háo học được rải đi rải lại nhiều lần hầu khắp tất cả các huyện, nặng nhất là ba huyện miền núi, phía tây các huyện đồng bằng, khu vực Núi Bà, dọc sông Kôn. Chúng gây ra nhiều cuộc tàn sát cực kì dã man, làm chết hàng ngàn người, làm bị thương hàng ngàn người khác. Về thủ đoạn chính trị, Mỹ - ngụy không kém phần thâm độc, xảo quyệt, thực hiện mọi biện pháp đánh ta ằng kinh tế, văn hóa và tổ chức xã hội.

Tuy địch có gây cho quân dân Bình Định rất nhiều khó khăn, tổn thất, nhưng phong trào cách mạng vẫn được giữ vững và phát triển. Bằng sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân, kết hợp chặt chẽ giữa hai lực lượng, a thứ quân; giữa tác chiến du kích và tác chiến tập trung của bộ đội chủ lực; giữa đấu tranh vũ trang, đấu tranh chính trị với công tác binh vận; vận dụng linh hoạt phương châm lấy ít thắng nhiều, lấy nhỏ thắng lớn với tập trung lực lượng họp lí từng lúc trên từng khu vực lựa chọn; vừa kéo quân cơ động địch ra vòng ngoài để tiêu diệt, vừa thọc sâu, đánh hiểm ngay trong sào huyệt địch; vừa chủ động tiến công, vừa thực hành phản kích, ta đã đánh bại các cuộc càn quét, kế hoạch “bình định của địch.

Trong năm 1968, bộ đội tỉnh, huyện và dân quân du kích đã đánh 2.060 trận, diệt 16.436 tên địch (có 4.609 tên Mỹ, 1.278 tên Nam Triều Tiên) bắt 625 tên, thu 779 súng, bắn rơi và phá hủy 132 máy bay, phá hỏng và bắn cháy 493 xe quân sự, đốt cháy 100 triệu lít xăng, v.v…

Kết hợp tiến công với nổi dậy, quân dân Bình Định đã diệt ác phá kèm, giành quyền làm chủ với mức độ khác nhau ở 114 thôn trong 45 xã với số dân khoảng 117.770 người, huy động 924.450 lượt người tham gia đấu tranh chính trị trực diện với Mỹ - ngụy, nổi nhất là các xã Hoài Châu, Hoài Hảo, Hoài Hương (Hoài Nhơn), Mỹ Thắng, Mỹ Đức (Phù Mỹ), Cát Hanh (Phù Cát), Phước Thắng (Tuy Phước). Công tác binh vận kêu gọi đào rã ngũ 1.707 tên, rũa ngũ tập thể xóa phiên hiệu 2 đại đội, 9 trung đội bảo an, biệt kích, nghĩa quân và 8 đoàn “bình định”.

Trong chiến đấu ác liệt, Tỉnh ủy và Ban chỉ huy tỉnh đội vẫn tích cực bổ sung quân số và được sự chi viện của trên đã không ngừng tăng cường xây dựng lực lượng vũ trang. Về bộ binh, từ 2 tiểu đoàn nâng lên 3 tiểu đoàn. Lực lượng huyện, một số huyện đồng bằng từ 1 đại đội nâng lên 2 đại đội, huyện miền núi 2 trung đội thành 1 đại đội. Đặc công từ 1 đại đội đã tiến lên xây dựng tiểu đoàn. Các phân đội binh chủng kĩ thuật đều được tăng cường. Dân quân du kích ở cơ sở cuối nă m1968 đã có 14.000 đội viên có 2.370 nữ du kích. Ngoài ra đã tổ chức du kích đặc công, du kích công binh, du kích chuyên bắn. Tổng số du kích so với dân số giải phóng chiếm 6,57%. Sau năm 1968, tiểu đoàn 405 đặc công được lệnh chuyển hẳn về tỉnh đội Bình Định.

Toàn tỉnh đã xây dựng được 46 xã chiến đấu. Trong đó ba xã được đánh giá khá nhất, được tặng cờ “xã chiến đấu khá nhất” là Hoài Châu (Hoài Nhơn), An Mỹ (An Lão) và Nhơn Hậu (An Nhơn). Sáu xã được công nhận loại khá là Cát Hanh, Mỹ Thọ, Ân Thạnh, Phước Thắng, Bình Giang, Kon Kring (Vĩnh Thạnh).

Trong cuộc chiến đấu năm 1968, lực lượng vũ trang tỉnh, huyện hi sinh 681 đồng chí, bị thương 409, bị bắt 99 đồng chí. Du kích hi sinh 200 đồng chí, bị thương 66, bị bắt 41 đồng chí. Số súng bị mất tất cả là 574 khẩu.

Tất cả những con số trên nói lên một điều là dù quân địch có tăng bao nhiêu quân và vũ khí hiện đại, với những biện pháp chiến lược, chiến thuật tân kì, tàn bạo, với những thủ đoạn chính trị thâm độc, lực lượng cách mạng Bình Định vẫn giành được thắng lợi ngày càng lớn và ngày càng vững mạnh về mọi mặt. Vấn đề ở đây không chỉ làn hững con số biểu hiện thành tích và sự trưởng thành, mà đằng sau những con số đó là biết bao điều kì diệu nói lên sự nỗ lực phi thường, sự hi sinh, chịu đựng, bằng máu, mồ hôi và nước mắt của hàng vạn đảng viên, cán bộ, chiến sĩ và đồng bào toàn tỉnh. Tất nhiên, chiến tranh càng ác liệt thì sự hi sinh, tổn thất của cách mạng càng lớn, nhược điểm, khuyết điểm cũng không phải là ít và cũng chưa thể khắc phục được hết. Hàng ngàn đồng bào, chiến sĩ đã ngã xuống để cho ngày thắng lợi hoàn toàn của cách mạng, của kháng chiến càng đến gần.

Con đường đi tới của nhân dân Bình Định chưa phải đã hết gian nan, nhưng với thắng lợi to lớn của tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt trong toàn tỉnh và trên toàn miền trong năm 1968 là một cái mốc lớn đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của quân và dân ta, là tiền đề để tiến tới “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” trong thời gian tới.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Sáu, 2012, 05:28:33 pm
Chương VII

ĐÁNH BẠI CHIẾN LƯỢC “VIỆT NAM HÓA CHIẾN TRANH”
- TIẾN CÔNG CHIẾN LƯỢC NĂM 1972
(1969-1972)

I - KẾT HỢP TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY,
BƯỚC ĐẦU ĐÁNH BẠI KẾ HOẠCH “BÌNH ĐỊNH” CỦA MỸ - NGỤY


Trước những thất bại ngày càng nặng nề của đế quốc Mỹ ở Việt Nam, ngày 1 tháng 11 năm 1968, Giôn-xơn phải tuyên bố chấm dứt hoàn toàn các cuộc ném bom, bắn phá miền Bắc nước ta, chấp nhận cuộc đàm phán bốn bên ở Pa-ri.

Chỉ một ngày sau (2-11-1968), Chính phủ ta tuyên bố về thắng lợi của cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên miền Bắc với lời kêu gọi nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 3 tháng 11. Bác nói: “.. Hơn một triệu quân Mỹ, quân ngụy và quân chư hầu còn đang hằng ngày gây ra biết bao tội ác dã man đối với đồng bào miền Nam ta. Vì vậy, nhiệm vụ thiêng liêng của toàn dân ta lúc này là phải nâng cao tinh thần quyết chiến quyết thắng, quyết tâm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc… Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi…”(1)

Giôn-xơn đổ, Ních-xơn lên thay làm Tổng thống nước Mỹ. Ngay từ những ngày đầu bước vào Nhà Trắng, Ních-xơn long trọng hứa với nhân dân Mỹ sẽ rút dần quân đội Mỹ về nước, giao toàn bộ công việc cho quân đội Sài Gòn đảm nhiệm. Đó cũng chính là nội dung cơ bản của “học thuyết Ních-xơn” về chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.

Việc Mỹ cam kết rút dần quân Mỹ về nước, kết thúc “chiến tranh cục bộ” và thay đó bằng chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” là một bước thụt lùi về huấn luyện, là một thất bại hết sức cay đắng của đế quốc Mỹ. Bốn năm trước, để cứu vãn ngụy quân, ngụy quyền khỏi sụp đổ, Mỹ phải ào ạt đưa quân chiến đấu vào miền Nam nước ta và gây ra cuộc chiến tranh phá hoại ở miền Bắc. Nay cả đội quân kêu cứu và đội quân ứng cứu đều bị đánh tan tác thì khi chỉ còn một mình quân ngụy - dù là được tăng cường, củng cố - làm sao có thể tồn tại và đứng vững trong khi lực lượng cách mạng vẫn không ngừng lớn mạnh và phát triển!

“Việt Nam hóa chiến tranh” của Ních-xơn được thực hiện với nội dung:

- Hiện đại hóa quân ngụy, xây dựng quân ngụy với quy mô lớn, làm cho quân ngụy đủ sức đương đầu với lực lượng cách mạng.

- Ra sức “bình định” nông thôn, đánh bại lực lượng cách mạng ở thôn, xã, xây dựng cơ sở xã hội cho bọn tay sai, củng cố ngụy quyền lớn mạnh.

- Bao vây, triệt phá kinh tế, đánh phá hành lang.

“Bình định” nông thôn được Mỹ - ngụy đánh giá như chiếc “chìa khóa” thắng lợi của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.

Theo bọn cầm đầu Mỹ - ngụy, muốn “bình định” có kết quả phải tập trung và nỗ lực thực hiện đồng bộ nhiều chính sách, biện pháp về quân sự, chính trị và kinh tế, mà tất cả đều phải xoay quanh mục tiêu chủ yếu là tìm diệt cho được cơ sở chính trị của đối phương - nguồn gốc chiến tranh du kích - mới tạo được thế ổn định lâu dài.

Tướng Rô-bốc Tôm-xơn, cố vấn đặc biệt của Tổng thống Mỹ về chống chiến tranh nổi dậy luôn luôn nhấn mạnh vai trò của mật vụ, tình báo, coi đó là biện pháp hàng đầu trong công cuộc “bình định”, đánh bại chiến tranh du kích. Theo Tôm-xơn, chiến tranh du kích tồn tại, phát triển được là nhờ vào tổ chức cơ sở chính trị bí mật ở nông thôn. Muốn đánh bại đối phương trước hết phải ưu tiên tập trung đánh bại các hoạt động lật đổ chính trị chứ không phải quân du kích. Tổ chức bí mật ở cơ sở không bị đánh vỡ thì các đơn vị quân du kích và chủ lực đối phương cũng không bị đánh bại. Để thọc sâu tận gốc tổ chức chính trị cộng sản, thì phải tổ chức tình báo.

Qua sáu năm “bình định” miền Nam với nhiều biên pháp, kế hoạch, nhưng chúng đã thất bại, tuy có nơi, có lúc đã đạt được một số kết quả nhất định. Tiến hành “Việt Nam hóa chiến tranh”, từ những kinh nghiệm thất bại, chúng thay đổi quan niệm và phương pháp tiến hành. Trước đây, trong một thời gian ngắn, chúng tập trung lực lượng càn quét ồ ạt, tiêu diệt, tiêu hao lực lượng đối phương kết hợp với đàn áp khủng bố gắt gao rồi rào làng, bịt ngõ nay chủ trương tiến hành lâu dài, từng bước, có trọng điểm. Biện pháp quân sự được coi là “đòn bẩy” có ý nghĩa ở giai đoạn đầu. Biện pháp trung tâm quyết định toàn bộ vấn đề là xây dựng, phát triển mạng lưới tình báo, mật vụ rộng rãi ở nông thôn, nhằm tiêu diệt cơ sở chính trị đối phương đồng thời kết hợp với các biện pháp kinh tế, chính trị khác để chia rẽ, cô lập cách mạng với quần chúng.

Tổ chức tình báo, mật vụ của Mỹ - ngụy thời nào cũng giống nhau, nhưng lần này khác trước là nó được đặt lên nhiệm vụ hàng đầu trong “quốc sách bình định”. Điểm mới nhất là chúng tổ chức ra “ủy ban phượng hoàng” để thống nhất chỉ huy các tổ chức tình báo, mật vụ thành hệ thống từ quận đến Trung ương, lấy công an - cảnh sát làm mũi tiến công chính. Các “ủy ban phượng hoàng” áp dụng nhiều thủ đoạn, biện pháp, đặc biệt chú trọng hai biện pháp chủ yếu là “đoàn ngũ hóa” và “vô hiệu hóa”(2).

Về xây dựng quân ngụy, chúng dự định đưa quân số lên một triệu 10 vạn tên, tổ chức thành hai lực lượng chiến lược, lực lượng chính quy cơ động và lực lượng an ninh diện địa (tại chỗ). Các trung đoàn, sư đoàn chủ lực ngụy được tập trung lại thành các đơn vị xung kích cơ động để đối phó và “quét” chủ lực đối phương. Quân bảo an được nâng biên chế thành liên đội (tương đương tiểu đoàn), liên đoàn (tương đương trung đoàn) làm nhiệm vụ tác chiến tại địa phương. Lực lượng dân vệ được mở rộng tổ chức dưới hình thức trung đội, làm nhiệm vụ phòng thủ ấp xã và cơ động trong vài ba xã. Mỹ - ngụy còn tổ chức lực lượng phụ quân bán thoát li và phòng vệ dân sự hoặc nhân dân tự vệ, v.v…, cùng cảnh sát, mật vụ tiêu diệt cơ sở chính trị cách mạng.

Đế quốc Mỹ do thất bại buộc phải xuống thang chiến tranh nhưng vẫn tiếp tục chiến tranh xâm lược dưới hình thức mới với công thức: bộ binh ngụy + vũ khí, hỏa lực, chỉ huy Mỹ. Trước khi bắt đầu lần lượt rút quân Mỹ, chúng ra sức bắt lính, đôn quân, tăng cường xây dựng quân ngụy, nhất là bảo an, dân vệ, tăng cường trang bị vũ khí cho quân ngụy; đồng thời huy động toàn bộ lực lượng dồn sức phản kích quyết liệt, tiến hành “bình định” tiêu diệt hạ tầng cơ sở cách mạng.

Ở Bình Định, đầu năm 1969, lực lượng cả Mỹ, ngụy, chư hầu thất cả có 97.100 tên. Chúng ra sức phòng thủ thị xã, hậu cứ, giải tỏa vùng ven bàn đạp, các đường giao thông chiến lược số 1, số 19 và lấy các huyện phía bắc tỉnh làm trọng điểm “bình định”. Chúng lấy một số xã như Ân Thạnh, Hoài Mỹ, thôn Chánh Khoan, Tân Phụng làm thí điểm “bình định” theo các biện pháp mới. Chúng mở chiến dịch xúc tác dân trên quy mô lớn, xúc dân vùng giáp ranh đổ xuống vùng ven thị xã, thị trấn, thiết lập những khu dồn hàng vạn người. Những thủ đoạn tàn ác, xảo quyết nhất được đem ra áp dụng. Chúng cố gắng tạo nên sự tương phản giữa hai vùng: một bên là chết chóc, bom đạn, đói khổ, một bên là yên tĩnh, no đủ, đi đến xóa sạch thế “da báo” ở đồng bằng, tiến tới tiêu diệt tận gốc rễ phong trào cách mạng. Chúng gây ra những vụ khủng bố điển hình ở Mỹ Lộc, Tân Phụng, Cát Hanh, Hoài Mỹ, Hoài Thanh, Hoài Châu, Ân Thạnh…

Hoài Nhơn là huyện có phong trào quần chúng rất mạnh từ trước đến nay, chúng cắt đôi làm hai quận để dễ bề khống chế. Sáu xã phía bắc thuộc quận Tam Quan, sáu xã phía nam thuộc quận Hoài Nhơn. Đích thân Nguyễn Văn Thiệu và tên tướng Ngô Du ra Bồng Sơn, Tam Quan để động biên binh lính, hò hét tiến hành “bình định”. Chúng đã xây dựng 92 chốt điểm cả Hoài Nhơn, Tam Quan.


(1) CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC 1945-1975 - NHỮNG SỰ KIỆN QUÂN SỰ, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1980, tr. 185-186.
(2) “Đoàn ngũ hóa” là tất cả mọi người dân, không từ một ai phải vào các tổ chức phản động của địch, qua đó để kiểm soát, giám sát, khống chế, cách li khỏi ảnh hưởng của cách mạng. Ai không vào coi như theo cộng sản, chống quốc gia.
“Vô hiệu hóa” là vừa bắt giết cán bộ quần chúng cách mạng vừa để cán bộ, cơ sở sống tại địa phương, nhưng không còn tác dụng, bị quần chúng xa lánh tiến tới biến họ thành tay sai.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Sáu, 2012, 05:29:16 pm
*   *
*

Trước âm mưu mới và hành động của địch, trên cơ sở nhận thức nông thôn là địa bàn chiến lược trọng yếu, tháng 12 năm 1968, Tỉnh ủy Bình Định ra Nghị quyết: “Động viên sự nỗ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân… ra sức diệt kẹp, phá kèm, giành dân, mở rộng vùng làm chủ ở nông thôn, củng cố, giữ vững và phát triển vùng giải phóng. Ra sức phát triển thực lực, tăng cường lực lượng chính trị, vũ trang và kinh tế, xây dựng Đảng vững mạnh, nhất là ở cơ sở, đánh bại các âm mưu, thủ đoạn “bình định” nông thôn, đánh phá mạnh giao thông và phương tiện chiến tranh của địch…”.

Mở đầu chiến dịch Xuân 1969, phối hợp với chiến trường toàn miền và toàn khu, giáng đòn phủ đầu khi Ních-xơn vừa mới lên cầm quyền, làm hậu thuẫn cho đấu tranh ngoại giao, đêm 22 rạng ngày 23 tháng 2, lực lượng vũ trang tỉnh cùng lúc tiến công vào 125 mục tiêu kho tàng, sân bay, thị xã, thị trấn, vùng ven và sở chỉ huy địch.

Trong đêm 22, lực lượng đặc công tỉnh và khu kết hợp với lực lượng thị xã Quy Nhơn tiến công bảy mục tiêu trong thị xã. Sở chỉ huy sân bay quân Nam Triều Tiên ở Phước Thành, hậu cứ địch ở Phú Tài, Truông Rà Đờn, kho đạn khu Sáu đều bị lực lượng ta tiến công. Quân địch bị diệt tất cả 420 tên, có 200 tên Mỹ, 120 tên Nam Triều Tiên, phá hủy 48 nhà kho với 43.000 tấn bom, đạn.

Ngày 23, lực lượng đặc công tỉnh, tự vệ mật tiếp tục tiến công sân bay Quy Nhơn, đốt cháy kho xăng địch, lửa cháy sáng rực bầu trời thị xã. Một bộ phận của đại đội 2 tiểu đoàn 405 đặc công tiến công khu kho Đèo Son, phá 21 kho, phá hủy 9 xe quân sự. Ngày 10 tháng 3, tiểu đoàn 405 lại tập kích khu kho Miếu Lỡ, đốt cháy 16 kho. Tiểu đoàn 50 tập kích trụ sở Phước Long diệt gọn đoàn “bình định” 40 tên. Tiểu đoàn 52 đánh địch ở Phụ Ngọc, Nhơn Thọ diệt hai trung đội dân vệ hỗ trợ phong trào chiến tranh du kích phía tây - nam phát triển. Đêm 30 tháng 3, đặc công ta tiến công khu kho Đá Đen lần thứ hai, đánh bồi vào kho Miếu Lở, làm cháy sáu kho thuốc nổ, diệt 110 tên, có 70 tên nhân viên kĩ thuật Mỹ. Cùng ngày, tiểu đoàn 50 phục kích đánh giao thông ở ga Diêu Trì diệt 44 tên Mỹ, phá hủy 16 xe quân sự.

Cùng thời gian này, lực lượng vũ trang huyện Hoài Nhơn và du kích đánh địch ở Tam Quan, Bồng Sơn, tập kích địch ở căn cứ Đệ Đức, diệt 500 tên, phá hủy 19 máy bay lên thẳng. Tiểu đoàn 53 vận động tiến công diệt một đại đội pháo binh Mỹ ở Tam Quan Nam, phá hủy 16 xe quân sự.

Ở An Lão, bộ đội huyện và du kích trong một ngày đánh một tiểu đoàn Mỹ đi càn, diệt một trung đội, bắn rơi bốn trực thăng, bẻ gãy cuộc càn, giữ vững vùng giải phóng. Bộ đội huyện Phù Mỹ tiến công ấp Trung Tường xã Mỹ Chánh, diệt nhiều bảo an, dân vệ. Du kích các xã trong huyện hỗ trợ cho đồng bào nổi dậy diệt hàng trăm tên địch, phá rã hàng mảng “ấp chiến lược”.

Cùng với đặc công, bộ binh đánh địch ở khắp nơi, lực lượng công binh tỉnh cùng một bộ phận của trung đoàn 12 sư đoàn 3 dùng bom mìn cải tiến đánh xe địch trên đường 19 đoạn Đồng Phó - Vườn Xoài, Quy Nhơn - Gò Quánh, diệt 20 xe quân sự, phá ống dẫn dầu trên đường 19, cắt giao thông địch ở Cầu Dài, cầu Lò Gốm, cầu Đồng Phó, Đồng Sim, diệt hàng trăm tên dân vệ gác cầu.

Song song với tiến công quân sự lực lượng du kích cùng đồng bào khắp nơi trong tỉnh liên tục nổi dậy tiêu diệt lực lượng kìm kẹp của địch, phá ấp, phá khu dồn, giành quyền làm chủ. Nắm được âm mưu “bình định” của địch là dựa vào bọn tình báo, mật vụ, các nhóm “phượng hoàng”, các đoàn “bình định” để đánh bật cơ sở cách mạng, ta chủ trương phát động nhân dân phát hiện bọn mật vụ, tình báo để tiêu diệt và đánh mạnh vào các đoàn “bình định” xây dựng nông thôn.

Ở xã Cát Hanh huyện Phù Cát, du kích mật tiến vào các khu đồn thực hiện “gặp Mỹ là đánh, gặp ngụy là diệt” và phát động phong trào “săn ác ôn”. Có lần du kích cải trang lọt vào khu dồn Hòa Hội diệt được tên Phạm Ngọc Quy, một mật vụ két tiếng gian ác. Một lần khác hai chiến sĩ du kích Hoài và Nhân đột nhập vào căn cứ Núi Một diệt hai tên Mỹ rồi rút lui an toàn. Kiểu hoạt động tác chiến như du kích Cát Hanh diễn ra phổ biến khắp thôn xã đồng bằng trong tỉnh.

Trong chiến dịch Xuân 1969, quân dân Bình Định đã loại khỏi vòng chiến đấu 2.936 tên địch, có 599 tên Mỹ, 403 Nam Triều Tiên, diệt 170 ác ôn, bắt 300 tên, thu 291 súng, bắn rơi 27 máy bay, phá hủy 85 kho với 13.200 tấn đạn, phá 33 “ấp chiến lược”, 6 khu dồn.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Sáu, 2012, 05:30:00 pm
Thắng lợi có ý nghĩa quan trọng của chiến dịch xuân trên địa bàn tỉnh là trong khi quân địch triển khai thực hiện kế hoạch “Việt Nam hóa chiến tranh” thì quân dân Bình Định mở tiến công đồng loạt đánh phủ đầu vào giữa cao điểm “bình định” kẹp dân của chúng. Tuy vậy ta còn có khuyết điểm là diệt lực lượng kìm kẹp địch ở cơ sở chưa mạnh, tác chiến của du kích mật chưa phát huy mạnh mẽ. Địch đã chuyển trọng tâm vào đánh phá nông thôn đồng bằng nhưng Tỉnh ủy chỉ đạo chuyển hướng chưa kịp thời, còn chậm. Công tác binh vận còn yếu.

Sang mùa hè năm 1969, thực hiện chỉ thị của Quân khu là tập trung diệt Mỹ, diệt lực lượng kìm kẹp và phá hủy phương tiện chiến tranh của địch, ngày 11 tháng 5 năm 1969, bộ đội huyện và du kích tiến công quận lị Phù Mỹ đánh vào chi công an - cảnh sát, nhà hội đồng diệt một trung đội dân vệ và một đoàn “bình định”. Du kích Mỹ Hiệp phục kích diệt một toán ác ôn trên quốc lộ 1, thu vũ khí. Cùng thời gian, du kích Hoài Hảo phục kích diệt một trung đội bảo an đi lùng sục, thu sáu súng. Tiểu đoàn 50 diệt một đoàn “bình định” ở Phước Hậu, đánh địch ở Tân Mỹ, Lộc Thuận, Nhơn Mỹ diệt 20 tên, có 15 tên Nam Triều Tiên. Trong tháng 5, bộ đội huyện và du kích An Lão đánh 32 trận, diệt 250 tên địch, bắn rơi 13 máy bay lên thẳng. Du kích Bình Quang, Bình Thuận diệt một trung đội bảo an, một trung đội dân vệ.

Ở Phù Cát, nhằm đánh bại kế hoạch “bình định” ở Thái Phú xã Cát Tài, đêm 16 tháng 5, đại đội 1 Phù Cát tiến công tiêu diệt một trung đội dân vệ, thu toàn bộ vũ khí. Bị thua đau, địch điều về Thái Phú một trung đội dân vệ và một trung đội thanh niên chiến đấu để kẹp chặt khu dồn này. Bọn này ban ngày bung ra đánh phá khủng bố đồng bào, ban đêm co lại phân tán từng tổ ngủ trong dân. Nắm được quy luật của địch, được nhân dân trong ấp hết lòng giúp đỡ, đêm 19 tháng 8, đại đội 1 huyện Phù Cát chia thành nhiều tổ bò sát vào từng vị trí địch, bất ngờ nổ súng làm quân địch không kịp trở tay. Các ổ hỏa lực, các bãi mìn của địch đều mất tác dụng. Sau 10 phút chiến đấu, ta hoàn toàn làm chủ trận địa, diệt gọn hai trung đội địch, thu 15 súng, có ba trung liên. Lực lượng ta hoàn toàn vô sự. Thôn Thái Phú được giải phóng. Trận đánh phá ấp Thái Phú có tác dụng đánh phá kế hoạch “bình định cấp tốc” của địch gây tiếng vang lớn trong vùng, làm bọn địa phương quân và tề điệp ở cơ sở dao động. Sau trận đánh, đại đội 1 được tặng thưởng huân chương chiến công hạng ba.

Ngày 20 tháng 6, tiểu đoàn 52 đánh địch ở Nhơn Phúc, Nhơn Khánh, diệt hàng trăm tên, đồng thời tổ chức phục kích trên đường 19 diệt đoàn xe 15 chiếc. Du kích Phú Phong diệt 45 tên ác ôn “bình định”.

Ở huyện Hoài Ân, địch tập trung lực lượng đánh phá, tiến hành “bình định” rất khốc liệt. Ngoài lực lượng bảo an, dân vệ tại chỗ, chúng tăng cường một lực lượng lớn của lữ 173 Mỹ và 11 đoàn “bình định”. Chúng vẫn truy tróc đánh phá các cơ sở chính trị bên trong vừa lấn chiếm lại các vùng ta đã giải phóng như xã Ân Thạnh, các thôn Long Quang, Long Mỹ. Chúng xây dựng Long Mỹ thành ấp kiểu mẫu. Bọn Mỹ tăng cường đánh phá vòng ngoài chiếm các đồi cao lập chốt điểm ở Năng An, đồi Bà Dương, đồi B52, đồi Trầm Vạn Hội, cầu Bến Muồng, Mỹ Thành, v.v…. Bọn bảo an, dân vệ truy tróc cán bộ, cơ sở, tiến hành “bình định”.

Lúc đầu, Huyện ủy và Đảng bộ đánh giá địch chưa đúng nên chủ quan, khi bị địch đánh, hầu hết cơ sở bị bật ra ngoài, lương thực không dự trữ nên gặp khó khăn về kinh tế, Huyện ủy bị bật ra xa, một số cán bộ thôn, xã hi sinh, du kích mất sức chiến đấu. Liên lạc giữa xã và huyện bị đứt. Sau khó khăn buổi đâu, Thường vụ Huyện ủy chuẩn bị lại tư tưởng cho cán bộ, nhân dân, xác định phương thức hoạt động của bộ đội huyện là dùng mũi nhỏ, thọc sâu tiêu diệt lực lượng kìm kẹp, gây rối loạn từ bên trong. Trận đầu tiên, bộ đội huyện diệt một trung đội bảo an đang hỗ trợ cho bọn “bình định” đánh phá ta ở Gò Cấm Thế Thạnh; tiếp đến, diệt một đoàn “bình định” ở Long Mỹ - nơi chúng cho là đã xây dựng xong ấp kiểu mẫu - thu bảy súng. Ở Ân Thạnh, kết hợp binh vận với vũ trang hỗ trợ và nội ứng bên trong, ta đánh tan một trung đội phòng vệ dân sự. Số bị bắt được phóng thích tại chỗ, gây hoang mang trong hàng ngũ địch. Với khẩu hiệu “tìm diệt bọn bình định”, lực lượng địa phương lại tập kích diệt một đoàn “bình định” ở Thanh Tú. Ở Ân Tường, khi bọn địch định đưa dân về phía đông, chúng sục sạo xuống Lộc Giang liền bị bộ đội huyện đánh phủ đầu, diệt gần một đại đội bảo an. Cùng lúc đơn vị A 10 địa phương tiến công chốt điểm Hội Yên diệt một trung đội Mỹ, đánh thiệt hại nặng một trung đội bảo an, thu bốn súng, san bằng chốt điểm, làm bọn địch rất hoang mang.

Từ đầu năm 1969, qua hai đợt hoạt động Xuân, Hè, lực lượng vũ trang Bình Định đã cùng nhân dân đương đầu với “kế hoạch bình định” tàn khốc của địch. Với kinh nghiệm đánh địch trong đợt xuân, quân dân Bình Định thực hiện đánh nhỏ nhưng đạt hiệu quả lớn vì đã đánh đúng vào lực lượng kìm kẹp gồm bảo an, dân vệ, bọn “bình định”, tình báo, mật vụ, tề ngụy ác ôn ở cơ sở và lực lượng yểm trợ cho chúng là lính Mỹ và Nam Triều Tiên, diệt hàng nghìn tên, phá banh hàng chục “ấp chiến lược”, khu dồn, làm thất bại bước đầu “kế hoạch bình định” của chúng.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Sáu, 2012, 05:30:59 pm
*   *
*

Không thực hiện được “bình định” như kế hoạch Mỹ - ngụy đã vạch ra, lại còn bị đánh thiệt hại, tháng 8 năm 1969 Mỹ đưa hai lữ đoàn thuộc sư đoàn 4 bộ binh Mỹ từ Gia Lai xuống mở hành quân đánh phá các vùng căn cứ của tỉnh ở Bình Khê, Vĩnh Thạnh, Hoài Ân, An Lão. Chúng cho rằng nếu không diệt được các căn cứ cơ quan đầu não kháng chiến của tỉnh thì không thể “bình định” được vùng đồng bằng. Mặt khác, chúng sử dụng quân ngụy kết hợp với quân Mỹ, Nam Triều Tiên tiếp tục đánh phá, gom dân kết hợp chốt điểm kẹp dân tại chỗ, trọng điểm nhằm các huyện Hoài Nhơn, Phù Mỹ và vùng ven thị xã Quy Nhơn.

Thực hiện giành, giữ dân, làm chủ và mở rộng vùng giải phóng, tiếp tục đánh bại một bước quan trọng âm mưu “bình định” của Mỹ - ngụy, Quân khu quyết định mở chiến dịch Thu. Ngày 11 tháng 8, lực lượng địa phương các huyện Vĩnh Thạnh, Hoài Ân, An Lão dựa vào làng chiến đấu đánh trả các cuộc hành quân càn quét của địch, diệt nhiều tên, bắn rơi nhiều máy bay, bảo vệ vùng căn cứ. Bộ đội huyện Vĩnh Thạnh dùng cối 60 kết hợp với bộ binh, tiến công diệt gần hết một đại đội Mỹ ở làng Kon Kring. Cùng ngày, bộ đội huyên Hoài Nhơn và du kích tiến công diệt gọn một đoàn “bình định” và nhiều tên mật vụ, tình báo ở xã Hoài Mỹ, lực lượng huyện Hoài Ân diệt một ban chỉ huy tiểu đoàn bảo an tại Ân Tường, diệt một mâm tề ở xóm Gò, hai cha con tên hội đồng xã Ân Hậu, phá lỏng kèm, đưa xóm Mới, xóm Gò lên vùng làm chủ. Ngày 17 tháng 8, du kích xã Hoài Hương diệt một số cảnh sát, mật vụ. Cùng ngày, bộ đội huyện Hoài Nhơn đánh địch ở Hoài Châu, Tam Quan, Hoài Thanh, diệt ba trung đội bảo an, san bằng nhiều chốt điểm.

Thời gian này, bộ đội huyện và du kích Phù Mỹ đánh địch ở Mỹ Thọ, Mỹ Trinh, Mỹ Thắng, Mỹ Hiệp, diệt 584 tên, đánh cháy 8 xe, có 5 xe bọc thép, bắn rơi một máy bay, diệt gọn một đoàn “bình định” ác ôn. Một bộ phận đặc công tập kích khu công binh Mỹ và kho xăng Quy Nhơn, diệt 160 tên Mỹ, đánh sập năm nhà kho, đốt cháy hàng chục triệu lít xăng.

Giữa lúc chiến dịch Thu 1969 đang hoạt động rộ trên khắp chiến trường trong tỉnh thì ngày 3 tháng 9 năm 1969 quân dân Bình Định nhân được tin đau buồn nhất trong cuộc đời của mỗi người: Bác Hồ muôn vàn kính yêu của toàn dân tộc đã qua đời. Tin Bác đi xa làm mọi đảng viên, cán bộ, chiến sĩ và đồng bào như bị hẫng giữa cuộc chiến đấu đang phát triển.

Suốt mấy chục năm chiến đấu cực kì gian khổ và anh dũng, hết đánh Pháp rồi đánh Mỹ, tuy hầu hết chiến sĩ, đồng bào trong tỉnh chưa một lần được gặp Bác nhưng lúc nào cũng cảm thấy như có Bác ở bên cạnh. Lúc thắng lợi cũng như khi khó khăn, ác liệt nhất, trong tình huống hiểm nghèo của một trận đánh hay trong vòng rào địa ngục của “ấp chiến lược”, khu dồn, những lúc tư tưởng có những diễn biến phức tạp trước cái chết đang đe dọa, nghĩ đến Bác Hồ là tinh thần vững vàng, tâm trí ổn định. Bác là nguồn cổ vũ, động viên lớn lao trong cuộc sống và chiến đấu của mỗi người. Bác đi xa là một tổn thất lớn lao không gì bù đắp được. Tuy có Bộ Chính trị, có Ban chấp hành Trung ương Đảng, nhưng Bác vẫn luôn luôn là linh hồn của cuộc kháng chiến, là lòng tin yêu tuyệt đối, là tình cảng thiêng liêng nhất trong mỗi con người gửi gắm nơi lãnh tụ kính yêu.

Những lúc cách mạng gặp khó khăn có lúc vận mệnh Tổ quốc như nghìn cân treo sợi tóc, những chỉ thị, những lời kêu gọi của Bác như kim chỉ nam vạch hướng đi cho dân tộc. Đã thành lệ, không có mùa xuân nào mà Bác không có thơ chúc Tết gửi đồng bào, chiến sĩ. Và cũng thành lệ, cứ sắp đến Tết là đồng bào, chiến sĩ mong ngóng để được đón thư Bác với những niềm xúc động bồi hồi. Giờ đây, đâu còn được nghe giọng nói ấm áp của Bác những lần xuân đến! Ai cũng thấy ân hận chưa làm trọn được điều Bác mong muốn suốt đời là giải phóng miền Nam để đón Bác vào thăm.

(http://farm9.staticflickr.com/8022/7407004114_2161c0c238_b.jpg)

Cán bộ, chiến sĩ và nhân dân vùng giải phóng vận chuyển gỗ quý ra Hà Nội xây lăng Bác


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Sáu, 2012, 05:31:52 pm
Được tin Bác mất, từ già đến trẻ, từ vùng giải phóng đến vùng địch tạm chiếm, không ai cầm được nước mắt. Bàn thờ Bác - bàn thờ Tổ quốc được dựng lên ở khắp nơi, ngay cả trong “ấp chiến lược”, khu dồn, thị xã, thị trấn trước con mắt xoi mói của kẻ địch.

Đối với cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang, qua học tập Di chúc của Bác, mọi người đều liên hệ tư tưởng, hành động của mình, thấy chưa xứng đáng với Bác và tự hứa với lòng mình phải nỗ lực chiến đấu, công tác để đền đáp công ơn của Bác.

Quyết biến đau thương thành sức mạnh, sau tuần tang Bác, các chiến sĩ đính băng tang trước ngực, súng khoác vai, lặng lẽ hành quân vào chiến dịch. Nỗi đau trở thành niềm tin và sức mạnh trong mỗi cán bộ, chiến sĩ.

Đêm 11 tháng 9 năm 1969, lực lượng vũ trang tỉnh tập kích khu kho Miếu Lỡ lần thứ năm, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, hai kho xăng, đồng thời tiến công vào Long Vân, Phước Long (Tuy Phước) diệt bọn ác ôn, kìm kẹp, đánh vào khu nhân viên kĩ thuật Mỹ ở Ngọc Châu, diệt nhiều tên, phá sập bốn nhà.

Ngày 23 tháng 9, hai nữ du kích thôn Vĩnh Kiên xã Cát Hanh, lợi dụng phiên chợ đang đông trà trộn mang theo lựu đạn tiến vào chỗ bọn bảo an, “bình định” ác ôn đang cờ bạc, nhậu nhẹt, diệt 28 tên gần chợ Tân Dân, làm bọn chúng rung động. Tháng 10 năm 1969, du kích và đồng bào phá banh khu dồn Hòa Hội và Chợ Gồm bung về làng cũ. Ở xã Mỹ Đức, hai em Bùi Chiến và Nguyễn Tư trong khi chống đò chở tên Ngô Vận, một ấp trưởng ác ôn qua đầm Châu Trúc, đã dùng chèo đập chết tên này vứt xuống đầm.

Đêm 4 tháng 11, ta tổ chức tập kích đánh bọn Mỹ ở suối Tiên. Ngày 14 tháng 12, ta tập kích khu vực Nam Triều Tiên lần thứ tư, ngày 17 tháng 12, tiến công vào Phú Tài. Qua các trận trên ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 433 tên Mỹ, ngụy và Nam Triều Tiên, đánh sập bốn nhà, phá hủy sáu xe.

Ở Hoài Ân, những tháng cuối năm 1969, lực lượng địch tăng lên chín đại đội bảo an, 29 trung đội dân vệ và trên 700 phòng vệ dân sự. Với lực lượng đó, chúng tiếp tục nống lấn, thực hiện kế hoạch trài dân ở Mỹ Thành, Năng An, Xe Miễu, Gia Đức, Tân Thạnh, Hà Tây, Phú Khương và một số thôn phía đông Ân Tường. Chúng phát tôn cho dân về làm nhà tại làng cũ nhưng phải tập trung ở địa điểm chúng quy định (hình thức kẹp tại chỗ). Được sự lãnh đạo của cán bộ, nhân dân Năng An, Mỹ Thành, Gia Đức về cất lại nhà trên nền cũ. Địch tức tối bắt dân các thôn còn lại tập trung thành lập khu dồn Gò Dê, Gò Thị. Ta tổ chức móc nối xây dựng cơ sở chính trị bên trong khu dồn, tạo điều kiện hoạt động vũ trang đánh diệt lực lượng kìm kẹp, các thôn Mỹ Thành, Năng An, Gia Đức đến cuối năm nâng lên thành vùng tranh chấp mạnh.

Năm 1969 là năm quân dân Bình Định gặp nhiều khó khăn do địch đánh phá, “bình định” khốc liệt, nhân dân lâm vào cảnh thiếu đói do không sản xuất được lại bị bom đạn, chất độc hóa học tàn phá mùa màng, đặc biệt là sau tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, lực lượng vũ trang bị hao hụt chưa kịp bổ sung, củng cố, cả quân số, trang bị vũ khí và bảo đảm hậu cần (Mỗi đại đội tỉnh, huyện trung bình chỉ có 15 tay súng). Nhưng phát huy truyền thống của quê hương, khắc phục mọi khó khăn, thiếu thốn, quân dân Bình Định qua ba đợt hoạt động Xuân, Hè, Thu đã loại khỏi vòng chiến đấu hàng ngàn tên Mỹ và Nam Triều Tiên. Thành công lớn trong tác chiến tiêu diệt địch là ta đã đánh trúng, đánh đau vào lực lượng kìm kẹp, “bình định”, “phượng hoàng” của Mỹ - ngụy. Trong năm 1969, lực lượng vũ trang đã trụ bám vững chắc các địa bàn trọng điểm hoạt động tác chiến liên tục, hỗ trợ quần chúng nổi dậy, phá ấp, diệt kèm. Về vũ khí ngoài số lượng trên cung cấp, chủ yếu là lấy súng đạn của địch diệt địch. Ngoài ra tỉnh đã tự lúc sản xuất trong năm 1969 gần 12.000 lựu đạn, gần 3.000 quả thủ pháo và các loại mìn cải tiến. Hoài Nhơn và Phù Mỹ là hai huyện sản xuất vũ khí khá nhất trong các huyện.

Thắng lợi của Đảng bộ, quân và dân tỉnh Bình Định trong các chiến dịch năm 1969 đã bước đầu đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ trên địa bàn tỉnh. Những thắng lợi ấy được Bộ Tư lệnh Quân khu đánh giá là: Năm 1969, Bình Định mở các chiến sĩ tiến công địa phương trên địa bàn toàn tỉnh, phối hợp với toàn Quân khu, Bình Định hoạt động tốt và có bài bản”(1).

Tuy phong trào chiến tranh du kích có phát triển nhưng chưa mạnh, có nơi, có lúc còn yếu, lực lượng địa phương phát huy hết khả năng đánh địch để hỗ trợ cho phong trào quần chúng trước sức tiến công mãnh liệt của địch. Một số vùng còn để mất đất, mất dân. Đánh phá giao thông địch còn yếu, đánh tiêu diệt còn thấp. Khuyết điểm của lãnh đạo là chưa đánh giá đúng âm mưu “Việt Nam hóa chiến tranh” của địch nên việc chuẩn bị và chuyển hướng chống phá “bình định” chậm, do đó nhiều nơi bị tổn thất. Ta chưa đối phó có hiệu quả với “kế hoạch bình định” của địch. Tư tưởng hữu khuynh, tiêu cực, ngại hi sinh xuất hiện.


(1) Theo CHIẾN TRANH DU KÍCH TRÊN CHIẾN TRƯỜNG BÌNH ĐỊNH trang 171


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Sáu, 2012, 08:20:42 am
2 - KIÊN TRÌ TRỤ BÁM, QUYẾT TÂM ĐÁNH BẠI CÁC THỦ ĐOẠN “BÌNH ĐỊNH” CỦA ĐỊCH

Do tình hình có nhiều khó khăn, đặc biệt, do những thiếu sót của ta, nên Mỹ - ngụy đã thành công ở mức độ nhất định trong việc “bình định” nông thôn đồng bằng. Dân số vùng giải phóng, vùng làm chủ và tranh chấp sụt xuống mức thấp nhất so với những năm 1967-1968. Lực lượng du kích giảm sút, lực lượng tập trung thiếu quân số, lương thực thiếu thốn, sức khỏe giảm. Có thể nói đây là một trong những thời kì khó khăn nhất trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Được sự chỉ đạo của Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu, song song với việc xây dựng, củng cố lực lượng vũ trang ba thứ quân, đầu năm 1970, Thường vụ Tỉnh ủy và Ban chỉ huy tỉnh đội tổ chức đợt sinh hoạt chính trị đấu tranh tư tưởng hữu khuynh tiêu cực trong lực lượng vũ trang. Qua sinh hoạt, những mặt mạnh, mặt yếu của từng người được đem ra phân tích, xây dựng. Những biểu hiện cầu an, dao động, sợ gian khổ, hi sinh, thiếu kiên định đường lối bị đẩy lùi. Lòng yêu nước, căm thù địch, ý chí quyết tâm chiến đấu được nâng lên một bước. Mặt khác, các lực lượng đã tích cực tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, kết hợp với sự chi viện của trên, khai thác của địa phương, đặc biệt là sự đùm bọc san xẻ, giúp đỡ của nhân dân, những khó khăn về vật chất từng bước được giải quyết. Trên cơ sở đó, nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trong tỉnh được xác định là phải đánh bại “kế hoạch bình định” của Mỹ - ngụy. Với quyết tâm đó, phong trào được đẩy lên với nhịp độ mới.

Lúc này, sư đoàn 3 sau một năm đánh địch ở Quảng Ngãi được lệnh trở lại hoạt động trên chiến trường Bình Định, là một thuận lợi lớn cho phong trào cách mạng của tỉnh(1). Lúc này tỉnh đang rất cần có lực lượng chủ lực mạnh làm nòng cốt cho phong trào địa phương đánh phá “kế hoạch bình định” của địch. Đánh bại được “kế hoạch bình định” giữ vững địa bàn Bình Định là giữ vững được thế chia cắt chiến dịch, chiến lược đối với địch trên toàn chiến trường Khu 5. Nhân dân Bình Định mãi mãi là nguồn tiếp sức vô tận đối với sư đoàn. Nhiệm vụ của sư đoàn trước hết là phải thọc xuống đồng bằng cùng quân dân Bình Định đánh bại cho được “kế hoạch bình định” của Mỹ - ngụy.

Mục tiêu chủ yếu của quân dân Bình Định cùng với sư đoàn 3 trong chiến dịch Xuân - Hè 1970 là tiêu diệt lực lượng kìm kẹp, đánh bại các thủ đoạn “bình định” của địch, mở rộng vùng giải phóng.

Từ tháng 1 năm 1970, những trận đánh của bộ đội địa phương liên tiếp diễn ra, buộc địch phải rút khỏi các cửa khẩu suối Son, Dốc Dài, Mỹ Hiệp… Ngày 3 tháng 1, chốt điểm Gò Ú Hoài Nhơn bị đặc công ta tiêu diệt. Các tiểu đoàn thuộc trung đoàn 22 hoạt động sâu, giam chân địch ở Hoài Nhơn, tạo điều kiện cho các nơi khác đánh địch. Ở phía nam, ta bất ngờ tiến công bọn Nam Triều Tiên ở Bình Khê, Vĩnh Thạnh, phá toang một mảng “ấp chiến lược” hai bên trục đường 19.

Cuối tháng 1, phong trào đánh phá khu dồn, “ấp chiến lược”, tiêu diệt chốt điểm, đánh phá giao thông, diệt “bình định” ác ôn được phát động rầm rộ khắp nơi trong toàn tỉnh.

Tháng 2 năm 1970, do tình hình có nhiều khó khăn, để tăng cường lực lượng cho các tỉnh, Quân khu quyết định phân tán trung đoàn 22 sư đoàn 3, Tiểu đoàn 8 được điều về bổ sung cho tỉnh đôi Bình Định.

Trong đợt cao điểm tháng 3 và tháng 4, Thường vụ Tỉnh ủy, Ban chỉ huy tỉnh đội cùng với Bộ Tư lệnh sư đoàn 3 thống nhất phương án tác chiến diệt kẹp, giành dân, khôi phục phong trào cách mạng ở Phù Mỹ, Hoài Nhơn và một số khu vực ở khía nam tỉnh với phương châm: “Kìm Mỹ, diệt ngụy, phá kẹp giành dân”.

Cứ điểm Núi Lá ở tây Phù Mỹ được chọn làm mục tiêu diệt điểm để câu viện. Núi Lá là nơi đứng chân của tiểu đoàn 3 ngụy để tiến hành “bình định” ở Phù Mỹ.

Đêm 31 tháng 3, đặc công ta nổ súng tiến công Núi Lá. Sau 30 phút chiến đấu, tiểu đoàn đặc công sư đoàn 3 đã tiêu diệt toàn bộ tiểu đoàn 3 ngụy và một trung đội thuộc trung đoàn 41 ngụy. Cùng với Núi Lá, một loạt 15 cứ điểm, trận địa pháo, quận lị bị các đơn vị tỉnh, huyện tiến công dồn dập. Ngày 5 tháng 4, một tiểu đoàn Mỹ thuộc lữ đoàn 173 đổ xuống rừng dầu Cát Sơn và đồi tranh Mỹ Hiệp thực hiện giải tỏa từ xa bị lực lượng ta kiềm chân tại chỗ. Trong khi đó, hai tiểu đoàn chủ lực cùng bộ đội huyện thọc xuống đông Phù Mỹ tiến công một loạt “ấp chiến lược” ở các xã Mỹ Đức, Mỹ Chánh, Mỹ Thọ… diệt và bắt hàng trăm tên bảo an, dân vệ, “bình định”. Ngày 8 tháng 4, địch cho một đại đội và một chi đoàn xe bọc thép đi cứu viện, nhưng vừa đến vùng giáp giới giữa hai xã Mỹ Chánh - Mỹ Thọ đã bị chủ lực ta tiêu diệt. Bọn “bình định”, tề ngụy xã, ấp lo sợ. Nhiều tên bỏ trốn hoặc ban đêm chạy vào các quận lị, thị trấn.

Hiệp đồng với các huyện phía bắc, lực lượng đặc công tỉnh tập kích khu kho Gành Ráng, Đèo Sơn, thị xã Quy Nhơn. Du kích xã Cát Trinh (Phù Cát) diệt một trung đội thanh niên chiến đấu. Đại đội 2 tiểu đoàn 52 phục kích diệt một trung đội bảo an ở Phước Thuận. Tiểu đoàn 50 tập kích diệt gọn một đại đội bảo an và một trung đội dân vệ tại Quán Cầu, Phước An (Tuy Phước). Một đại đội của tiểu đoàn 52 tập kích diệt một trung đội bảo an, một tiểu đội dân vệ tại Đập Đá.

Ở huyện Hoài Nhơn, đại đội đặc công Đ40 tiến công diệt một trung đội thanh niên cộng hòa ở Công Thạnh, một đoàn “bình định” và một số ác ôn ở thị trấn Tam Quan. Bộ đội huyện diệt một trung đội bảo an ở Định Công xã Hoài Mỹ.

Trong tháng 4, khi các lực lượng chủ lực Quân khu và tỉnh tiếp tục đánh bọn cộng hòa, bảo an, dân vệ, “bình định” thì lực lượng huyện và du kích xã hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy diệt kèm, phá ấp, giành quyền làm chủ.


(1) Trong chương này, những chi tiết liên quan đến sư đoàn 3 là dựa vào KÍ SỰ SƯ ĐOÀN SAO VÀNG


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Sáu, 2012, 08:22:01 am
Sư đoàn 3 sau khi tổ chức một số trận đánh tập trung cấp tiểu đoàn, nhận thấy phải tổ chức và cách đánh thích hợp để trừng trị bằng được lực lượng kìm kẹp của địch ở thôn, xã, hỗ trợ đặc lực cho phong trào nổi dậy phá ấp, giành quyền làm chủ của nhân dân. Vì ngoài bọn hoạt động công khai, còn các loại chỉ điểm, điệp ngầm dày đặc cài kín trong dân dưới nhiều hình thức. Bọn này rất nguy hiểm và thâm độc thường được gọi là “kẹp của kẹp”.

Qua nghiên cứu, các đơn vị được phân tán từng đại đội phối hợp với địa phương và du kích thọc sâu vào lòng địch, khi cần có thể phấn tán đến từng tổ vừa tìm diệt cho được bọn kìm kẹp ác ôn, vừa làm công tác vận động quần chúng. Mặt khác, sư đoàn vẫn dành lại một lực lượng cơ động tác chiến quy mô cấp tiểu đoàn để đánh địch giải tỏa.

Với phương thức hoạt động đó, đêm 4 tháng 6, một tổ ba chiến sĩ đột nhập nhà hội đồng xã Mỹ Hòa, diệt gọn một mâm tề xã 11 tên. Với cách đánh thần kì đó, năm chiến sĩ diệt gọn một trung đội bảo an ở giữa ấp Gò Dưa, xã Mỹ Hiệp. Một tổ khác gồm 2 du kích và một tiểu đội trưởng của chủ lực (đồng chí Đỗ Văn Đạo) đột nhập vào giữa “ấp chiến lược” xã Mỹ Đức, bắt tên thượng sĩ ác ôn, đưa ra ngoài nhân dân lập phiên tòa trừng trị. Một lần khác, Đỗ Văn Đạo chỉ một mình dùng mưu bắt bảy tên ác ôn mật vụ, chỉ điểm đang trốn trong một căn hầm. Ở quận lị Phù Cát, đại đội trưởng đặc công Bùi Đức Sơn đã cải trang diệt tên Hiếu, cảnh sát ác ôn ngay giữa ban ngày. Với những hoạt động như trên, cả bộ đội chủ lực, bộ đội tỉnh, huyện và du kích đều diệt được bọn ác ôn kìm kẹp dân ở cơ sơ. Ở các xã đều thành lập đội “diệt ác” được nhân dân nhiệt liệt tham gia hưởng ứng.

Ở xã Hoài Thanh có đội “Chim Én” - đội “diệt ác” của các em thiếu niên. Trong xã có tên Hoàn khét tiếng thâm hiểm, độc ác. Em Đào, một em gái được phân công giết tên Huân. Em đón đường chờ tên Huân đến gần ném lựu đạn diệt nó. Nhưng em bị dân vệ bắt. Em bị tra tấn đánh đập vẫn không khai nửa lời. Cuối cùng, chúng giết em, rồi buộc em vào xe ô tô rồi cho xe chạy. Cả xã truy điệu và để tang em. Tấm gương hi sinh cao đẹp của em Đào gây xúc động lớn trong đồng bào Hoài Nhơn.

Em Võ Thị Huy, đội viên đội “Chim Én” huyện, sau hai ngày theo dõi tên Lại, ấp trưởng khét tiếng gian ác ở thôn Phụng Du xã Hoài Hảo, em xin ý kiến huyện và quyết định diệt tên này. Ngày 16 tháng 3 năm 1970, em giấu khẩu K59 trong người, cải trang đi xay bột. Đến nơi thì gặp tên Lại vừa đi trốn ngủ đêm về. Em rút súng bắn hai phát vào đầu, tên ác ôn gục tại chỗ rồi rút nhanh. Phát hiện em, tên Bình, cũng một ấp trưởng ác ôn chạy theo bắt em. Em quay lại bắn nhưng đạn không nổ, tên Bình sợ bỏ chạy. Sau đó được đồng bào cho biết tên Bình ác ôn đáng tội chết, em quyết định giết luôn tên này. Mấy ngày liền, em tìm tên Bình nhưng không gặp. Huyện đội sợ lộ, nguy hiểm, rút em về nhưng em xin ở lại diệt cho được tên này vì để nó sống rất nguy hại cho dân. Một hôm vừa đến Tài Lương, bất ngờ gặp tên Bình. Vừa qua khỏi, em quay lại bắn hai phát nhanh đến mức nó chưa kịp rút súng thì đã bị giết. Em thu một súng ngắn, rút về an toàn. Sau đó, em diệt tiếp tên Mai, cảnh sát ác ôn xã Hoài Thanh. Một thời gian ngắn em đã diệt liền năm tên ác ôn. Tuổi nhỏ, chí lớn, căm thù địch sâu sắc, em Võ Thị Huy là một điển hình xuất sắc trong phong trào diệt ác ôn huyện Hoài Nhơn.

Ở xã Hoài Châu có em Nguyễn Thị Lang, đội viên đội quyết tử xã, được huyện đội giao nhiệm vụ diệt bọn ác ôn ở Gia An, Quy Thuận và Bình Đê. Như thường lệ, đến 17 giờ chiều, Lang cũng ôm mền, chiếu cùng nhân dân đến ngủ tập trung bên cạnh chốt dân vệ. 20 giờ em bò dậy đi kiểm tra lại mục tiêu. 24 giờ, với hai quả lựu đạn, em tiếp cận mục tiêu. Vừa bò đến hàng rào, gặp bọn lính đi tuần, em lợi dụng bụi cỏ nằm im chờ chúng đi qua rồi nhanh chóng bò đến lô cốt đánh liền hai quả lựu đạn vào lỗ châu mai. Về đến chỗ ngủ, em la lên “Bà con ơi! Cách mạng đánh quốc gia, về nhà mau không nếu lạc đạn chết hết”. Cả 60 đồng bào cùng em chạy ùa về nhà. Kết quả, em đã giết bốn tên: một ấp trưởng, một ấp phó, một cảnh sát và một xóm trưởng đều là bọn có nợ máu với nhân dân. Từ đó, địch không bắt dân ngủ tập trung nữa. Và, còn biết bao tấm gương đầy dũng cảm, mưu trí và sáng tạo diệt ác ôn của các tầng lớp nhân dân diễn ra trên khắp địa bàn tỉnh. Phong trào diệt ác ôn phát triển mạnh làm bọn tề điệp ở cơ sở hoang mang, dao động. Nhiều tên xin thôi việc, xin chuyển vùng. Thế kìm kẹp của địch ở các xã phía bắc lỏng dần, tạo điều kiện cho quần chúng đấu tranh phá ấp, bung về làng cũ.

Nhằm diệt tận gốc bọn chỉ huy kìm kẹp, ta chủ trương dùng lực lượng đặc công tập kích trường sĩ quan dân vệ ở Gò Trạm huyện Phù Cát. Đúng 23 giờ 45 phút, đêm 3/6, 32 chiến sĩ đặc công của trung đoàn 2 (sư 3) chia làm sáu mũi bí mật tiếp cận vị trí địch. Sau 15 phút chiến đấu, 405 tên sĩ quan và học viên sĩ quan dân vệ bị loại khỏi vòng chiến đấu. Đây là một tổn thất nặng nề về lực lượng trong chương trình “bình định nông thôn” của Mỹ - ngụy.

Phát triển đánh giao thông trên đường 19, con đường chiến lược huyết mạch của địch từ Quy Nhơn đi Tây Nguyên, tiểu đoàn 6 trung đoàn 12 cùng lực lượng huyện An Nhơn, Bình Khê đã diệt ba đoàn xe, phá hủy 104 chiếc GMC. Xác xe, xác lính rải đầy đường. Lực lượng vũ trang ta còn tổ chức nhiều trận đánh thọc sâu vào các cứ điểm và “ấp chiến lược” thuộc xã Cát Hanh, Cát Hiệp (Phù Cát), Nhơn Mỹ (An Nhơn) diệt 10 trung đội bảo an, dân vệ và hai đoàn “bình định”.

Trong hoạt động Xuân - Hè, lực lượng quần chúng được phát động trên một chiều rộng 53 xã với 250 nghìn lượt người tham gia, đấu tranh giành quyền làm chủ. Đưa số dân làm chủ trên 61 thôn có 90.000 người, trong đó Hoài Nhơn 60.000. Ở Tuy Phước, Bình Khê số dân làm chủ còn ít. Với thắng lợi Xuân - Hè 1970, quân dân Bình Định bước đầu đánh vỡ một số mắt xích chủ yếu trong hệ thống kìm kẹp của địch ở đồng bằng. Ta đã phát triển thế tiến công trên cả ba vùng, diệt nhiều lực lượng kìm kẹp, mở rộng vùng làm chủ, thu hẹp vùng kẹp dân của địch. Ở các huyện phía bắc, ta đã khôi phục được thế làm chủ và chuyển thành thế bao vây tiến công địch mạnh mẽ. Ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 11.000 tên trong đó có 7.000 tên thuộc lực lượng kìm kẹp. So với Xuân - Hè 1969, ta có nhiều mặt nhảy vọt: Loại địch khỏi vòng chiến đấu tăng bốn lần, diệt ác ôn hai lần, diệt xe cơ giới tăng năm lần, thu vũ khí gấp ba lần rưỡi(1).


(1) Số liệu so sánh này lấy tư liệu trong báo cáo chính trị của Đại hội đại biểu Đảng bộ Bình Định lần thứ 5 tháng 10 năm 1973.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Sáu, 2012, 08:23:20 am
*   *
*

Cuối tháng 6 năm 1970, căn cứ vào nhiệm vụ trọng tâm trước mắt và nhiệm vụ chiến đấu lâu dài, được sự chỉ đạo của Quân khu, Thường vụ Tỉnh ủy và Ban chỉ huy tỉnh đội chủ trương bổ sung quân số, kiện toàn lực lượng vũ trang trong tỉnh theo nguyên tắc tăng cường cho cán bộ huyện và du kích đủ mạnh để diệt kẹp giành dân, đồng thời củng cố các tiểu đoàn tập trung đủ sức diệt địch từng đại đội, tiểu đoàn.

Mặt khác, trong Xuân - Hè, ta đã thành công một bước trong việc tiêu diệt lực lượng kìm kẹp, phát động phong trào diệt ác ôn đạt hiệu quả cao, nhưng để giành thắng lợi triệt để trong chống phá “bình định”, giải phóng nông thôn đồng bằng, phải có tổ chức và chiến thuật, kĩ thuật cần thiết để tiêu diệt các chốt điểm của địch.

Để thay thế sự thiếu hụt về tác chiến do quân Mỹ rút đi, ngăn chặn lực lượng ta tràn xuống đồng bằng, đồng thời làm chỗ dựa vững chắc tiến hành “bình định”, kìm kẹp nhân dân, Mỹ - ngụy rất chú trọng xây dựng và phát triển hệ thống chốt điểm. làng xã nào, điểm cao nào chúng cũng xây dựng chốt điểm. Chốt điểm mọc lên dày đặc, san sát như nấm độc. Một vấn đề được đặt ra là phải nghiên cứu diệt cho được chốt điểm địch. Những lần hoạt động trước, tuy ta có diệt được nhiều địch nhưng dân trong các “ấp chiến lược”, khu dồn không bung ra được bao nhiêu là do ta chưa diệt được nhiều chốt điểm địch, mà diệt chốt là hình thức đánh địch trong công sự vững chắc, đòi hỏi phải có cách đánh thích hợp. Từ đó, qua nghiên cứu, ta chủ trương phải “tinh nhuệ hóa” một phần lực lượng, phải vận dụng cách đánh đặc công.

Trong việc bổ sung, kiện toàn lực lượng, tỉnh tập trung xây dựng và tăng cường lực lượng đặc công. Các đơn vị đặc công Đ10, Đ30 được bổ sung cán bộ, quân số, trang bị, thành đại đội mạnh. Mỗi huyện phát triển thành hai đến ba đại đội tập trung, có một đại đội đặc công. Mỗi xã có một trung đội du kích mạnh và một đội đặc công từ 12-14 chiến sĩ. Đặc công huyện và xã được trang bị và huấn luyện thành thục đủ sức tiêu diệt chốt điểm cỡ trung đội và liên trung đội hoặc đoàn “bình định”.

Ổn định tổ chức, biên chế xong, tỉnh tổ chức tập huấn cho cán bộ và chiến sĩ. Đồng thời rút kinh nghiệm chiến đấu, nâng cao trình độ tổ chức chỉ huy, chiến thuật, kĩ thuật cho cán bộ, đơn vị và triển khai một đợt sinh hoạt chính trị học tập Nghị quyết 10 của Khu ủy. Trên cơ sở đó làm cho đảng viên, cán bộ, chiến sĩ có chuyển biến mới về nhận thức, xây dựng quyết tâm, chuẩn bị cho đợt hoạt động mới.

Thế trận trong tỉnh được điều chỉnh lại: Tiểu đoàn 50 đứng chân ở đông - bắc Quy Nhơn, tiểu đoàn 52 ở tây An Nhơn đến Bình Khê dọc đường 19, tiểu đoàn 53 ở Hoài Ân, nam Hoài Nhơn, tiểu đoàn 8 đứng ở bắc Hoài Nhơn, Đ10, Đ30 đặc công cơ động từ Phú Tài đến Quy Nhơn. D405 phụ trách chủ yếu ở khu vực Quy Nhơn.

Tháng 7 năm 1970, do điều kiện chiến trường và những khó khăn thực thế, Quân khu quyết định tạm thời giải thể sư đoàn 3. Hai trung đoàn 2 và 12 được kiện toàn và vẫn hoạt động ở địa bàn cũ(1).

Sau đợt củng cố, Tỉnh ủy quyết định mở đợt hoạt động Thu - Đông nhằm giữ vững và phát triển những thắng lợi của Xuân - Hè, kiên quyết đánh bại kế hoạch “bình định đặc biệt” của Mỹ - ngụy.

Từ đầu tháng 7 đến cuối tháng 10, lực lượng vũ trang tỉnh tiến công địch đều khắp, đánh cắt giao thông từ Phú Mỹ đi Phù Cát, đánh địch càn ở Vĩnh Thạnh, diệt bảo an ở chợ Dinh, đánh bọn Nam Triều Tiên ở Vân Canh, Phước Thành. Trọng tâm của đợt hoạt động là nhằm diệt các chốt điểm địch.

Ở Hoài Ân, trong đợt hoạt động này, lực lượng huyện và du kích đã đánh 43 trận, diệt 176 tên, có 13 tên ác ôn, bắn cháy hai “tàu rọ”, hai xe M.113 phá hủy một kho đạn ở Gò Loi.

Tháng 9 năm 1970, du kích Mỹ Đức tập kích lính Mỹ đi càn ở rìa núi Quang Nghiễm, diệt 15 tên. Ngày 11 tháng 12 năm 1970, nắm được quy luật hoạt động của một tiểu đoàn biệt kích Mỹ, du xã Mỹ Trinh sáu đồng chí chia làm hai tổ bố trí phục kích diệt gọn tiểu đội Mỹ, bắt tên ngụy phiên dịch, thu 5 súng AR15, một M18 và hai máy PRC.25. Đây là trận diệt gọn đơn vị Mỹ đầu tiên trong xã. Ở Hoài Nhơn, ta tập kích diệt một số chốt điểm. Du kích xã Tam Quan Bắc nắm được bọn thanh niên chiến đấu ở Thiện Chánh gồm hai trung đội, ban đêm đi phục kích, ban ngày ra biển đánh cá, cử sáu đồng chí bí mật vào nằm dưới đáy hai chiếc thuyền máy của chúng. Ra khơi, du kích vọt lên bắt gọn hai trung đội địch. Tên trung đội trưởng ngoan cố, du kích diệt ngay tại chỗ. Ở An Nhơn, ta tập kích diệt đoàn “bình định” ở Nhơn Phong, đánh nhá máy điện Đập Đá lần thứ ba.


(1) Theo KÍ SỰ SƯ ĐOÀN SAO VÀNG.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Sáu, 2012, 08:25:37 am
Sôi nổi nhất là cuộc đấu tranh của hàng vạn học sinh và nhân dân ở Quy Nhơn. Từ ngày 7 đến ngày 10 tháng 12 năm 1970, phản đối lính Mỹ bắn chết em học sinh Nguyễn Văn Minh ở trường Tây Sơn. Khi em Minh bị bắn chết, cơ sở hợp pháp của ta đã kịp thời vận động lực lượng học sinh và thầy cô giáo các trường Cường Để, Bồ Đề, sư phạm, trường công nhân kĩ thuật… đông gần 4 vạn người xuống đường đấu tranh khiêng xác em Mỹ, tuần hành trên đường phố, hô vang các khẩu hiệu “đả đảo đế quốc Mỹ xâm lược”, “lính Mỹ phải cút khỏi Quy Nhơn, cút ngay về ngước”.

(http://img835.imageshack.us/img835/1395/nvmc.jpg)

Học sinh và đồng bào Quy Nhơn xuống đường đấu tranh chống Mỹ
giết hại học sinh Nguyễn Văn Minh

16 giờ ngày 7, đoàn biểu tình đến gặp tên tỉnh trưởng Bình Định Nguyễn Mông Hùng đưa yêu sách và hô vang khẩu hiệu. Trước áp lực đấu tranh của học sinh, tên tỉnh trưởng hứa để sáng hôm sau giải quyết. Đêm hôm đó, học sinh và các thầy cô giáo vẫn bao vây khu vực dinh tỉnh trưởng. Sáng ngày 8, địch huy động cảnh sát đến ngăn chặn, giải tán lực lượng đấu tranh, nhưng chúng không đập tắt nổi. Hỗ trợ cho cuộc đấu tranh, Thị ủy Quy Nhơn đã huy động gần 1/4 quần chúng ở thị xã tham gia tiếp tục cùng lực lượng học sinh đấu tranh. Quần chúng đi đến đâu gặp xe Mỹ, đều chặn lại đập phá, làm cả thị xã rối loạn.

Cuộc đấu tranh đã lan nhanh trong giới sinh viên học sinh và đồng bào Phật giáo ở Sài Gòn, Cần Thơ, Huế và số thành phố khác, làm cho địch hết sức hoảng hốt(1).

Thấy lực lượng quần chúng quá đông và đấu tranh quyết liệt, bọn lính Mỹ và Nam Triều Tiên cấm trại, không dám phản ứng. Tên tướng, Tư lệnh quân đoàn 2 cấp tốc tìm gặp Nguyễn Văn Thiệu để tìm cách đối phó. Thiệu vội vã gặp tên toàn quyền Bân-cơ để xin chỉ thị và Bân-cơ vội cử tên tướng Mỹ A-bram đích thân đến Quy Nhơn để dàn xếp(2).

Cùng thời gian này, đồng bào huyện An Nhơn kéo đến đấu tranh đòi bồi thường nhân mạng việc lính Nam Triều Tiên giết em Nguyễn Văn Hòa và em Nguyễn Thị Am ở Nhơn Lộc. Hàng ngàn đồng bào kéo đến quận lị, sân bay Gò Quánh đấu tranh đòi địch không được bắn phá bừa bãi vào làng, đòi bồi thường thiệt hại.

Ngày 20 tháng 12 năm 1970, đại đội 3 thuộc trung đoàn 2 chủ lực tổ chức tập kích diệt chốt điểm Cầu Cương (Mỹ Hiệp) trên đường số 1. Chỉ sau năm phút, toàn bộ quân địch ở chốt Cầu Cương bị diệt gọn.

Trong không khí sôi động của quân dân toàn tỉnh diệt chốt, phá kèm, đánh bại kế hoạch “bình định đặc biệt” của địch, Hội nghị chiến tranh du kích và Đại hội thi đua tỉnh Bình Định được triệu tập để đúc kết kinh nghiệm và biểu dương những gương chiến đấu tập thể, cá nhân trong năm 1970.

Hội nghị chiến tranh du kích nhấn mạnh: Phải tập trung sức đánh bại kế hoạch “bình định” đặc biệt của địch, phải giành cho được dân, giành quyền làm chủ về tay nhân dân. Dân là cái trục, là gốc rễ của mọi phong trào. Hội nghị còn chỉ rõ cách đánh của từng loại quân trong đánh phá “bình định”, những kinh nghiệm nắm địch, thực hiện bốn bám (Đảng bám dân, dân bám đất, du kích bám địch, trên bám dưới), cách chống lại chiến tranh tâm lí, các thủ đoạn gom dân, thanh lọc cơ sở, chiêu hồi, chiêu hàng… của địch. Hội nghị còn xác định: Bình định và chống phá bình định lặp đi lặp lại mang tính quy luật trong “Việt Nam hóa chiến tranh”, cuộc đấu tranh đó càng diễn ra gay go, quyết liệt so với bất cứ thời kì nào, kể cả thời Diệm. Chỉ đến khi nào quân địch bị thất bại hoàn toàn thì quy luật ấy mới chấm dứt và quân dân trong tỉnh mới được coi là hoàn thành nhiệm vụ.

Trong Đại hội chiến sĩ thi đua toàn tỉnh, nhiều gấm gương chiến đấu tập thể và cá nhân trong năm 1970 đã thể hiện truyền thống bất khuất, kiên cường và chủ nghĩa anh hùng cách mạng cao đẹp của quân dân Bình Định.

Chiến sĩ du kích Bình Răng, dân tộc Ba Na ở Vĩnh Thạnh đã đánh 25 trận diệt 83 tên địch, luôn luôn sống chết với nhân dân, với buôn làng. Chiến sĩ Cao Hồng Vinh du kích xã Mỹ Thắng tuổi nhỏ nhưng chí lớn, đánh trên 20 trận, diệt 60 tên địch, xuất sắc nhất là trận đánh ở thôn 8 diệt 25 tên Mỹ và một tên ác ôn (tên Sử) có nhiều nợ máu với nhân dân. Ba lần bị địch bắt, ba lần thoát khỏi tay giặc. Một lần em dụ địch vào bãi mìn diệt một trung đội rồi chạy thoát. Nữ chiến sĩ vận tải Đặng Thị Xuân Phương ngày đêm lặn lội với tuyến đường vận tải thồ hàng ra tiền tuyến. Chiến sĩ nuôi quân Nguyễn Thị Tài hết lòng chăm lo nuôi dưỡng thương bệnh binh. Nguyễn Thị Phúc người chỉ huy dũng cảm, mưu trí, linh hoạt trong đấu tranh lúc hợp pháp, lúc bất hợp pháp và chỉ huy du kích diệt địch ở thị trấn Phù Mỹ, v.v…

Các ngọn cờ tập thể có tiểu đoàn 50, huyện Hoài Nhơn, tiểu đoàn 405, Đ30 thị xã Quy Nhơn, đại đội 12 tiểu đoàn 8, đại đội Vĩnh Thạnh, xã Hoài Thanh, xã Mỹ Thắng, xã Lơ Giang (Vĩnh Thạnh), xã Ân Hòa, bệnh xã K 200, đại đội 2 Phù Mỹ, Đ10 đặc công, v.v…

Những tấm gương tiêu biểu trong Đại hội là hình ảnh cô đọng nhất về bản chất, truyền thống, là tinh hoa của tinh thần yêu nước và trí tuệ của nhân dân Bình Định trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước.


(1), (2) Theo CHIẾN TRANH DU KÍCH TRÊN CHIẾN TRƯỜNG BÌNH ĐỊNH.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Sáu, 2012, 08:26:57 am
*   *
*

Sang năm 1971, với tham vọng cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh, ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc đối với miền Nam, đồng thời thể nghiệm sức mạnh của quân ngụy trong chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, ngày 8 tháng 2 năm 1971, Mỹ - ngụy ồ ạt đưa quân ra đường 9 - Nam Lào. Sư đoàn 22 và 23 ngụy cũng mở hành quân lên vùng ba biên giới. Một thời cơ hết sức thuận lợi cho lực lượng vũ trang Bình Định tiến công vào chương trình “bình định” của Mỹ - ngụy.

Nắm vững Nghị quyết của Khu ủy về nhiệm vụ quân sự năm 1971, Tỉnh ủy Bình Định họp ra Nghị quyết: Động viên nỗ lực cao nhất của ba thứ quân, diệt gọn từng đơn vị địch, nhất là lực lượng “bình định”, kìm kẹp, làm giảm 2/3 lực lượng phụ quân, diệt bằng được từng mâm tề, từng nhóm ác ôn, nhất là những tên đầu sỏ… Diệt và nhổ chốt điểm, khôi phục vùng giải phóng liên mảng phía bắc, mở rộng vùng làm chủ liên mảng ở phía nam. Chiến trường Bình Định được chia làm hai trọng điểm: bắc Hoài Nhơn và đông bắc Phù Mỹ.

Ở bắc Phù Mỹ, quân ngụy đóng 117 chốt điểm kẹp dân. Sở chỉ huy trung đoàn 41 ngụy đóng ở Trà Quang, quân dù Mỹ đóng ở Đèo Nhông và đèo Phủ Cũ. Quân Mỹ đánh phá vòng ngoài để các liên đội bảo an đánh phá vòng trong kết hợp với hệ thống chốt điểm kìm kẹp dân tại chỗ.

Mở màn chiến dịch Xuân - Hè, ở phía nam, trung đoàn 12 ra quân giành thắng lợi giòn giã: pháo kích sân bay Gò Quánh, diệt 120 tên giặc lái và nhân viên kĩ thuật, phục kích trên đường 19, phá hủy 25 xe, diệt 60 tên Nam Triều Tiên đi hộ tống trong các ấp ven đường bị quét từng trung đội, tiểu đội, phải bỏ chạy vào căn cứ. Nhân lúc chủ lực ta đánh địch ở vòng ngoài, lực lượng tỉnh, huyện tiến công diệt các chốt Vạn Định, Tân Ốc, Vạn Phú (Mỹ Lộc), Mỹ Trang, Vạn Thiết (Mỹ Châu), trụ sở Mỹ Thắng, chốt thôn 4, 11 Mỹ Thắng, Mỹ Hội 1 (Mỹ Tài), Trung Xuân (Mỹ Chánh) làm cho bọn “bình định” ác ôn mất chỗ dựa.

Ở Hoài Ân, hai chốt điểm Gò Hiệu, Gò Dê bị đặc công tiêu diệt. Các chốt điểm ở thị trấn Tam Quan, Bồng Sơn, Phù Cát, Đập Đá bị lực lượng huyện và du kích đặc công liên tục tiến công.

Trong tháng 3 và tháng 4, lại một loạt chốt điểm nữa bị tiêu diệt: Quy Thuận (Hoài Nhơn), Trung Thứ, Cầu Cương, Gò Hang, hội đồng xã Mỹ Chánh (Phù Mỹ)… Hiệp đồng với tiếng súng diệt chốt điểm, tiếng mõ tre, thanh la, thùng thiếc khắp các làng xã nổi lên thanh viện, áp đảo quân địch làm cho bọn tề ngụy trải qua những giờ phút hãi hùng.

Bị mất hàng loạt chốt điểm, chỗ dựa vững chắc của lực lượng kìm kẹp, “bình định”, một tiểu đoàn thuộc trung đoàn 41 ngụy được lệnh đi giải tỏa ở Phù Mỹ. Chúng vừa đến xã Mỹ Lộc bị một bộ phận chủ lực cùng bộ đội huyện và du kích chặn đánh tiêu diệt. bọn địch ở chốt điểm Gò Kế khiếp sợ bỏ chốt tháy chạy. Một cánh quân giải tỏa khác vừa vượt đường số 1 cũng bị lực lượng ta chặn đánh diệt hai đại đội, bắn cháy chín xe M.113. Bọn địch sống sót với ba chiếc M.113 còn lại chạy thoát thân về căn cứ Trà Quang.

Trung đoàn 2 chủ lực Quân khu(1) chỉ để một tiểu đoàn và lực lượng cao xạ kìm chân Mỹ ở phía tây tỉnh, số đơn vị còn lại tung hết xuống đông Phù Mỹ, phân tán cùng lực lượng địa phương tiến công các chốt điểm, khu dồn, “ấp chiến lược” hỗ trợ phong trào diệt ác, phá kèm, giành dân, giành quyền làm chủ.

Cùng thời gian, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, một cuộc biểu tình khổng lồ đã nổ ra ở thị xã Quy Nhơn. Hơn 30.000 người kéo đến bao vây dinh tỉnh trưởng và đập phá 30 xe quân sự, làm rung chuyển cả hệ thống ngụy quyền trong thị xã. Cuộc đấu tranh kéo dài suốt sáu ngày đêm mới chấm dứt.

Giữa lúc cuộc tiến công và nổi dậy đang dồn dập khắp trong tỉnh thì Tỉnh ủy nhận được điện của Bộ Tư lệnh Quân khu: “Mỹ - ngụy đang sa lầy trên chiến trường Nam Lào, ở Khu 5 chúng có nhiều sơ hở. Các cấp ủy Đảng phải nhận rõ trách nhiệm, nỗ lực khắc phục khó khăn, khẩn trương tiến công mạnh, không kể nhiều ít, thừa thắng xông lên phối hợp chiến trường…”. Bức điện nhấn mạnh: “Còn vận dụng tốt phương thức tác chiến, phá vỡ thủ đoạn chốt điểm của địch, giải phóng từng mảng nông thôn”.

Mệnh lệnh của Quân khu được truyền đạt nhanh xuống các địa phương, đơn vị. Từ Bình Khê, An Nhơn, Phù Cát đến Phù Mỹ, Hoài Ân, Hoài Nhơn, không đêm nào lực lượng vũ trang ta từng tiến công, không ngày nào vắng các đội vũ trang công tác phát động quần chúng diệt ác phá kèm. Không kể lực lượng nào, trong phương án tác chiến đều kết hợp chặt chẽ với phá động quần chúng nổi dậy.

Giữa tháng 3, tin quân ngụy bị thất bại nặng ở đường 9 - Nam Lào dội về càng làm cho bọn ngụy quân, ngụy quyền trong tỉnh thêm rời rã. Nhân cơ hội đó, lực lượng vũ trang ta tiếp tục tiến công diệt các chốt điểm ở các xã Mỹ Thắng, Mỹ Tài, Mỹ Trinh, khu vực đông và tây huyện Phù Mỹ. Trung đoàn 12 chủ lực Quân khu tiếp tục kìm chân bọn Nam Triều Tiên và bọn Mỹ đi giải tỏa ở khu vực đường 19. Các nơi khác như Hoài Nhơn, một phần huyện Phù Cát, Bình Khê, Vĩnh Thạnh, lực lượng tỉnh, huyện và du kích cũng đang bao vây tiến công quân địch.


(1) Từ lúc sư đoàn 3 giải thể, hai trung đoàn 2 và 12 trực thuộc Quân khu vẫn hoạt động ở Bình Định, trung đoàn 12 chuyên trách đường 19, trung đoàn 2 cơ động ở các huyện phía bắc.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Sáu, 2012, 08:28:20 am
Trong không khí áp đảo đó, Ban chỉ huy tỉnh đội cùng Huyện ủy Phù Mỹ chủ trương tiêu diệt chốt điểm Gò Cớ ở xã Mỹ Đức, huyện Phù Mỹ bằng ba mũi giáp công.

Gò Cớ là một chốt điểm mạnh và kiên cố của quân ngụy thuộc thôn Phú Thứ xã Mỹ Đức, do một đại đội bảo an đóng giữ để kìm kẹp, khống chế nhân dân trong vùng. Nhổ được chốt Gò Cớ, các chốt điểm nhỏ xung quanh sẽ rút chạy hoặc đầu hàng. Đồng chí Tòng, chính trị viên tỉnh đội được phân công cùng Huyện ủy Phù Mỹ bàn bạc hạ quyết tâm tiêu diệt bằng được chốt Gò Cớ, thực hiện ba mũi giáp công, phát động phong trào tiến công và nổi dậy trong toàn huyện.

Với khẩu hiệu “Dân Phù Mỹ kiên cường bất khuất, quyết xuống đường giải phóng quê hương”, hơn 2.000 quần chúng được huy động bao vây chốt Gò Cớ. Hậu thuẫn cho mũi đấu tranh chính trị là hai đại đội đặc công của trung đoàn 2 và của tỉnh.

Ban đầu ta dùng loa kêu gọi và tuyên truyền chính sách của Mặt trận. Địch dùng cối và đại liên bắn ra. Ta tuyên bố: “Nếu các anh ngoan cố, cách mạng sẽ trừng trị”. Ta chuyển sang dùng cối, ĐKZ, B40 bắn vào dồn dập kết hợp với bao vây thanh viện và tiếp tục kêu gọi. Địch bắn trả làm chết một đồng bào. Ta huy động hàng ngàn đồng bào khiêng xác người chết lên đồn đấu tranh, bắt chúng bồi thường nhân mạng. Chúng phải chấp nhận.

Phát huy thắng lợi bước đầu, quần chúng được lực lượng vũ trang hỗ trợ, tổ chức bao vây chặt căn cứ, không cho địch ra lấy nước, đồng thời ta gửi thư cho tên trung úy Xuân chỉ huy chớt điểm và ra điều kiện: Phải bảo đảm tính mạng cho binh sĩ, đứng để anh em chết vô ích; bỏ chốt trả đất cho dân sẽ được cách mạng đối xử tử tế. Lúc này ta vẫn dùng cối bắn cầm canh kết hợp với thanh viện uy hiếp. Sau bảy ngày đêm liên tục tiến công bằng cả vũ trang, chính trị và binh vận, quân địch không chịu nổi đã bỏ chốt, dùng thuyền tháo chạy. Du kích chặn đánh bọn này tại đầm Châu Trúc diệt một số tên.

(http://img7.imageshack.us/img7/9770/goiloa.jpg)

Chiến sĩ binh vận gọi loa vào đồn, chốt địch

Cùng với Gò Cớ, 2 chốt điểm khác cũng bị quân dân Phù Mỹ bao vây áp đảo theo kiểu đó. Hàng chục Ban chỉ huy tổng hợp gồm: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, huyện đội, xã đội, cán bộ đấu tranh chính trị, binh vận được hình thành. Chỉ trong mấy ngày, các chốt điểm ở đông và tây Phù Mỹ cũng rút chạy và đầu hàng. Thừa thắng, đồng bào các xã Mỹ Thành, Mỹ Hiệp, Mỹ Chánh, Mỹ Thắng trang bị gậy gộc, giáo mác kết hợp với bộ đội và du kích nổi dậy phá rã hàng loạt “ấp chiến lược”.

Tháng 5 năm 1971, hàng ngàn đồng bào xã Mỹ Đức lại vây ép chốt điểm Gò Dê. Quân địch trong đồn nống ra bị du kích đánh trả bật vào. Quân địch từ nơi khác đến cứu viện bị bộ đội huyện tiêu diệt. Hốt hoảng trước sức tiến công của ta, bọn địch ở Gò Dê phải bỏ chốt tháo chạy. Ở chốt Tân Phụng xã Mỹ Thọ, má Dần đã tiếp ức, rỉ rả nói chuyện với binh lính, dựa vào tâm trạng chán nản của chúng đã vận động tiểu đội này diệt chỉ huy, mang toàn bộ vũ khí về với nhân dân.

Ở Hoài Nhơn, nhân dân các xã Hoài Sơn, Hoài Châu, Hoài Hảo, Tam Quan, Hoài Thanh, Hoài Hương… được lực lượng vũ trang hỗ trợ đã nổi dậy phá các khu dồn Thiện Đức, Nhuận An, Thiện Chánh… đuổi đánh bọn “bình định”, tề ngụy ác ôn, phá đường số 1, bao vây bức rút các chốt điểm Núi Bé, Lộ Diêu, Diêu Quang, Quy Thuận, tổng cộng diệt tám chốt, bức rút 28 chốt điểm, giải phóng gần một vạn dân.

Nhân dân các xã Cát Hanh huyện Phù Cát cùng du kích nổi dậy, phá tan các khu dồn Vĩnh Kiên, Khánh Lộc, Khánh Phước, phối hợp với chủ lực diệt một đại đội bảo an ở Tân Hóa và chặn đánh quân viện tại Chánh An diệt 29 tên, bắt hai tên Nam Triều Tiên.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Sáu, 2012, 08:30:03 am
Ở An Nhơn, đồng bào Nhơn Mỹ tước súng một trung đội dân vệ. Đấu tranh chính trị được đẩy mạnh, tiêu biểu là cuộc đấu tranh kéo dài 15 ngày liền tại sân bay Gò Quánh của hàng trăm đồng bào đòi bồi thường thiệt hại, đòi quân Mỹ, quân Nam Triều Tiên rút về nước.

(http://img72.imageshack.us/img72/6324/goquanh.jpg)

Đồng bào Phù Cát, An Nhơn bao vây cổng sân bay Gò Quánh đòi địch trả đất, bồi thường thiệt hại

Ở Hoài Ân, ta đã vây ép buộc địch rút sáu chốt điểm ở đồi Bà Dương, đồi Xả, đồi Gò Bằng, đồi Cây Sơn và đồi Núi Mây.

Tháng 9 năm 1971, Đại hội đại biểu Đảng bộ Bình Định lần thứ tư họp tại suối Tà Lăng (Vĩnh Thạnh) từ ngày 5 đến 21 đánh giá tình hình chung trong nhiệm kì và đề ra nhiệm vụ mới: “… Tranh thủ thời gian, tạo thời cơ trực tiếp, nắm lấy thời cơ lớn, phát triển thế tiến công mới trên khắp ba vùng chiến lược bằng ba mũi giáp công, phát động ba cao trào thi đua quyết thắng giặc Mỹ xâm lược: cao trào diệt và làm tan rã lớn quân ngụy, cao trào tiến công và nổi dậy, giành và làm chủ nông thôn, cao trào cách mạng ở thành thị, đánh bại về cơ bản kế hoạch “bình định” của địch, góp phần đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.

Đại hội bầu Ban chấp hành Đảng bộ với gồm 15 đồng chí do đồng chí Đặng Thành Chơn làm Bí thư.

Đánh giá thắng lợi của chiến dịch Xuân - Hè và cả năm 1971, đến cuối tháng 11, quân dân Bình Định đã loại khỏi vòng chiến đấu 15.000 tên địch, trong đó diệt được 235 tên ác ôn có nợ máu, bắn rơi 23 máy bay, phá hủy 296 xe quân sự, lật đổ 9 đoàn tàu lửa, đốt cháy 30 kho hơn 85.000 tấn dụng cụ chiến tranh và tám triệu lít xăng. Thực hiện tiến công và nổi dậy, quân dân trong tỉnh ta phá banh hàng chục khu dồn, “ấp chiến lược”, diệt và bức rút 104 chốt điểm, giải phóng hoàn toàn 60 thôn gồm 32.750 người, nâng vùng làm chủ lên 78 thôn với 81.880 người, mở ra vùng giải phóng liên hoàn xã liền xã, huyện liền huyện.

Thế chiến trường căn bản được giữ vững và phát triển khá hơn năm 1970, nhất là trong Xuân - Hè. Thế tiến công trên ba vùng phát triển đồng đều. Lực lượng vũ trang trong tỉnh diệt nhiều ác ôn, diệt và bức rút nhiều chốt điểm, khu dồn, đánh đúng lực lượng kìm kẹp “bình định”, hỗ trợ quần chúng nổi dậy, nổi nhất là ở hai trọng điểm Phù Mỹ, Hoài Nhơn.

Thành tích chung so với năm 1970 tuy có thấp hơn, song tỉ lệ diệt lực lượng kìm kẹp và phá hủy phương tiện chiến tranh đạt cao. So với chỉ tiêu, căn bản đạt yêu cầu. Tuy vậy, thành tích đạt được chưa tương xứng với khả năng và thời cơ xuất hiện trên chiến trường. Hiệu suất chiến đấu các loại quân còn thấp, đánh chưa đều, chưa liên tục, đánh tiêu diệt còn kém. Một số đơn vị chưa hoàn thành nhiệm vụ. Quần chúng ở Phù Mỹ nổi dậy mạnh, địch rút chạy, nhưng lực lượng ta không thực hiện được diệt gọn mà nặng về đánh xua đuổi. Giải phóng được đất đai, nhưng tiêu diệt địch còn ít. Do đó, địch còn nống lấn được một số vùng trong tỉnh.

Tuy ta còn một số nhược điểm, khuyết điểm, nhưng năm 1971 là năm quân dân Bình Định đã đánh bại một bước rất cơ bản chương trình “bình định” của địch. Tờ Thông tin diễn đàn quốc tế Mỹ phải thú nhận: “Tỉnh Bình Định là một tỉnh dân số đông, diện tích lớn, là cái trụ cho bất cứ kế hoạch nào của chính phủ nhằm kiểm soát phần giữa của Việt Nam. Nhưng tỉnh Bình Định từ ba năm nay vẫn tồi tệ như bất cứ lúc nào trước đây, do sự kém cỏi của chính quyền và quân đội địa phương (quân ngụy). Nó được xếp thứ 44 trong số 44 tỉnh ở Việt Nam về mức độ bình định. Hiện nay, đối phương tha hồ tung hoành ở nông thôn, nơi đầy rẫy những người vốn có tình cảm với Cộng sản”.

Lời nhận xét trên đã nói lên thắng lợi của quân dân Bình Định trong đánh phá kế hoạch “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ - ngụy.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Sáu, 2012, 08:31:21 am
3 - THAM GIA TIẾN CÔNG CHIẾN LƯỢC NĂM 1972 - GIẢI PHÓNG BẮC BÌNH ĐỊNH

Trong hai năm 1970-1971, đế quốc Mỹ đã tập trung sức lực đẩy “Việt Nam hóa chiến tranh” đến đỉnh cao, nhưng chúng đã không đạt được mục đích. Đặc biệt là sau thất bại nặng nề trên chiến trường đường 9 - Nam Lào, công thức bộ binh ngụy, hỏa lực Mỹ đã tỏ ra không thể đứng vững trước những đòn đánh đau của chủ lực Quân giải phóng và bão táp tiến công và nổi dậy của quân dân miền Nam. Tuy nhiên, do số lượng còn đông, còn bắt được lính bổ sung nhanh và còn được chi viện hỏa lực mạnh nên chúng còn chiếm giữ được nhiều vùng đất đai quan trọng, đông dân, nhiều của. Chúng cố sức giữ cho hình thái chiến trường khỏi xấu đi cho đến ngày bầu cử Tổng thống Mỹ vào tháng 11 năm 1972.

Về phía quân Mỹ và chư hầu, năm 1969, chúng đã rút quân thí điểm: năm 1970 rút từng đơn vị có chọn lọc, năm 1971 rút đại trà. Trên chiến trường Khu 5, đến giữa năm 1971 chỉ còn lại lữ đoàn 173 Mỹ và sư đoàn “Mãnh Hổ” Nam Triều Tiên.

Trên chiến trường Bình Định, cuối năm 1971, lực lượng chiến đấu Mỹ cơ bản rút hết, chỉ còn lại một tiểu đoàn công binh ở Quy Nhơn và một số cố vấn Mỹ. Sư đoàn “Mãnh Hổ” Nam Triều Tiên có sáu tiểu đoàn và một tiểu đoàn của sư “Bạch Mã” chủ yếu chốt giữ trục đường 19. Quân ngụy có hai trung đoàn 40 và 41, 4 tiểu đoàn pháo, 3 tiểu đoàn công binh, 125 xe cơ giới, 120 máy bay các loại. Bảo an có 10 liên đội, 41 đại đội độc lập. Dân vệ có 425 trung đội, thanh niên chiến đấu có 166 trung đội và 5.340 tên phòng vệ dân sự. Số quân ngụy phân bổ đóng ở 119 chốt điểm, 286 vị trí trài, 44 “ấp chiến lược”, 29 khu dồn.

Tháng 12 năm 1971, căn cứ vào Nghị quyết Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương về cuộc tiến công chiến lược năm 1972, Thường vụ Khu ủy Khu 5 họp đề ra nhiệm vụ quân sự của các lực lượng vũ trang Quân khu trong năm 1972 là “Đẩy mạnh ba quả đấm: chủ lực, tổng hợp nông thôn và tiến công đô thị, nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng lực lượng cơ động quân chủ lực ngụy. Thực hành chiến dịch tổng hợp ở nông thôn đồng bằng và vùng giáp ranh, kết hợp tiến công và nổi dậy, tiêu diệt một bộ phận quan trọng lực lượng cơ động quân chủ lực ngụy, đánh vỡ phòng tuyến cơ bản của địch ở Tây Nguyên, tiêu diệt và làm tan rã lớn địa phương quân, phụ quân, phá vỡ hệ thống chốt điểm, kìm kẹp, đánh bại cơ bản chương trình “bình định” của địch, giành quyền làm chủ, giải phóng đại bộ phận nông thôn đồng bằng… Đẩy mạnh phong trào đô thị…”.

Trong tiến công chiến lược năm 1972, Bộ Tư lệnh Quân khu quyết định tập trung lực lượng chủ lực trên ba hướng: bắc Kon Tum, bắc Bình Định và Quảng Nam, đồng thời tập trung lực lượng của các tỉnh trong từng hướng trọng điểm của địa phương.

Sư đoàn 3 Sao Vàng được quyết định của Quân khu thành lập lại từ tháng 6 năm 1971 gồm 3 trung đoàn 2, 12, 21 (thay cho trung đoàn 22 trước) và ba tiểu đoàn binh chủng, do các đồng chí Huỳnh Hữu Anh làm sư đoàn trưởng, Mai Tân chính ủy. Sư đoàn sẽ lại sống chết với quê hương Bình Định - cái nôi hai lần ra đời của mình và sẽ cùng quân dân Bình Định lập nên những chiến công oanh liệt(1).

Trong chiến dịch Xuân - Hè 1972, theo phương hướng chung toàn chiến trường Quân khu, chiến trường Bình Định được chia thành hai trọng điểm: Trọng điểm phía bắc tỉnh gồm bảy xã bắc Phù Mỹ, hai huyện Hoài Ân, Hoài Nhơn - chủ phía nam gồm các xã nam Phù Mỹ và các huyện Phù Cát, An Nhơn, Bình Khê, Tuy Phước - chủ yếu là Đập Đá, đông Tuy Phước. Từng trọng điểm hình thành tổ chức chiến dịch tổng hợp, phát huy sức mạnh cao nhất của chủ lực và địa phương, thực hiện tiêu diệt địch, giải phóng nông thôn đồng bằng.

Sư đoàn 3 tập trung lực lượng chủ yếu vào các huyện Hoài Ân, với nhiệm vụ phá vỡ hệ thống phòng ngự cơ bản của địch, cùng lực lượng tỉnh giải phóng huyện Hoài Ân, trung đoàn 12 (thiếu) đánh đường 19, cắt đứt vận chuyển của địch từ Quy Nhơn lên Tây Nguyên.

Ban chi viện tiền phương tỉnh được thành lập. Các ban dân vận, địch vận, đấu tranh chính trị sôi nổi khẩn trương triển khai công việc, làm dấy lên trong nhân dân khí thế ra quân đầy tin tưởng, hào hứng.

Trong lúc guồng máy quân, dân, chính, Đảng trong tỉnh đang hăng hái chuẩn bị cho những công việc cuối cùng của chiến dịch thì nhận được điện của Bộ Chính trị (số 182 B ngày 30-3-1972) chỉ thị về mối quan hệ giữa tiêu diệt địch và đánh bại kế hoạch “bình định” của chúng. Bức điện viết: Không tiêu diệt được chủ lực ngụy thì không làm chuyển biến được cục diện, nhưng chỉ tiêu diệt chủ lực mà không đánh bại được kế hoạch “bình định” thì cũng không làm đảo lộn được thế bố trí của địch, không đánh bại được về cơ bản chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của chúng… Tiêu diệt sinh lực địch và đánh phá “bình định” là hai mặt trong chiến lược của ta. Nếu đòn chủ lực đánh mạnh mà đòn đánh phá “bình định” yếu thì như vậy ta sẽ bỏ mất một mặt của chiến lược…”.

Được chỉ thị của Bộ Chính trị, mọi cán bộ lãnh đạo, chỉ huy càng sáng tỏ thêm mục đích, yêu cầu và phương hướng của cuộc tiến công chiến lược 1972, càng ra sức thực hiện quyết tâm chiến dịch.


(1) Theo KÍ SỰ SƯ ĐOÀN SAO VÀNG.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Sáu, 2012, 08:31:57 am
*   *
*

Chiến dịch tiến công tổng hợp Xuân 1972 ở bắc Bình Định theo lược đồ sẽ nổ ra sáu trận đánh chính. Gò Loi là trận mở màn, Hòn Bồ là trận then chốt, trận đánh kết thúc là quận lị Hoài Ân…

Gò Loi là một quả đồi không cao lắm, nhưng vị trí cực kì quan trọng, án ngữ phía tây nam quận lị Hoài Ân và con đường Phù Mỹ đi Kim Sơn. Do vị trí chiến thuật và chiến dịch quan trọng đó, từ năm 1966, quân Mỹ đã xây dựng Gò Loi thành cứ điểm kiên cố vào bậc nhất ở bắc Bình Định. Nó có 3 tầng lô cốt và 14 lớp rào bao quanh, gài dày đặc các loại mìn. Phía ngoài có các bãi mìn và chướng ngại rộng hàng trăm mét, cứ điểm có sân bay lên thẳng và một hệ thống hầm ngầm để được cả xe cơ giới, lương thực dự trữ đủ ăn hàng tháng nếu bị bao vây. Trước đây, ta đã nhiều lần tiến công, nhưng không thành công vì không đủ điều kiện. Tên Ngô Huỳnh, chỉ huy liên đội bảo an đứng trên cứ điểm huyênh hoang “Bao giờ nước sông Kim Sơn chảy ngược, Việt Cộng mới lấy được Gò Loi”. Đối với chúng Gò Loi là bất khả xâm phạm.

Trong lúc ta đang chuẩn bị tiến đánh Gò Loi thì địch tăng viện thêm cho cứ điểm một đại đội thám báo, chuẩn bị càn quét vùng này theo quy luật thông thường của chúng. Không thay đổi quyết tâm, để đảm bảo chắc thắng trận mở màn quan trọng, một tiểu đoàn đặc công và ba tiểu đoàn bộ binh được sử dụng vào trận đánh. Nếu tiểu đoàn đặc công bị lộ, không dứt điểm được thì ba tiểu đoàn bộ binh tiếp tục thực hành bao vây tiến công.

Đêm 8 rạng ngày 9 tháng 4 năm 1972, trận đánh Gò Loi bắt đầu. Cứ điểm bốc cháy ra rung chuyển dữ dội trong tiếng bộc phá và hỏa lực của ta. Các chiến sĩ đặc công lao lên như những mũi tên bật khỏi dây cung. Sau 20 phút chiến đấu quyết liệt, lá cờ giải phóng đã tung bay trên đỉnh chiếc lô cốt ba tầng.

Cùng đêm, quân địch từ chốt Đồi Đá, Bàu Sen, Phú Khương đến Gò Thị, Đồng Bịch, Gò Dê và cầu Bến Vách bị quét sạch. Số địch còn lại bị dồn vào ngã ba Tân Thạnh và bị tiêu diệt ở đó.

Gò Loi mất, cánh cửa phía tây - nam chiến dịch được mở toang. Liên tiếp trong hai ngày 11 và 12, bọn địch ở quận lị nhiều lần tung các đại đội bảo an đi giải tỏa nhưng đều bị tiêu diệt với 12 trực thăng bị bắn rơi. Thấy tình hình nguy ngập, địch phải thành lập chiến đoàn đặc nhiệm 40 gồm hai tiểu đoàn bộ binh và một chi đoàn xe bọc thép tiến lên Gò Loi.

Thấy địch đã trúng kế, một mặt ta thiết kế trận đánh lớn thứ hai tiêu diệt chiến đoàn 40 tại điểm quyết chiến Hòn Bồ bằng chiến thuật vận động bao vây tiến công liên tục, một mặt bố trí lực lượng đánh chiếm núi Lại Khánh và cầu Giáo Ba, cắt đứt đường tiến, lui của địch từ Bồng Sơn lên, Hoài Ân xuống.

Trận đánh ở Hòn Bồ bắt đầu từ sáng ngày 15 tháng 4 và kết thúc vào chiều tối cùng ngày. Chiến đoàn đặc nhiệm 40 bị ta xóa sổ.

Đêm 14 tháng 4, ở Hoài Nhơn, đặc công và bộ đội huyện đánh thiệt hại nặng chi khu quân sự Tam Quan và căn cứ Đệ Đức, nơi đặt sở chỉ huy trung đoàn 40 ngụy làm cả hệ thống ngụy quân, ngụy quyền bắc Bình Định náo động.

Mất Gò Loi, Hòn Bồ, Lại Khánh bị vây cắt, quân địch ở quận lị Hoài Ân như cá nằm trên thớt. Cố vấn Mỹ, ác ôn đầu sỏ lo sợ vội lên trực thăng chạy về Quy Nhơn để tránh cái chết đang tới gần. Tranh thủ thời cơ, Huyện ủy Hoài Ân chỉ đạo cán bộ cơ sở phát động quần chúng phá khu dồn, bung về làng cũ.

Hiệp đồng với phía bắc, lực lượng vũ trang tỉnh, huyện và du kích ở trọng điểm phía nam tiến công một loạt chốt điểm kẹp dân, giải phóng hoàn toàn năm xã ở Bình Khê (Bình Thành, Bình Phú, Bình Thuận, Bình An, Bình Quang), 30 thôn ở Tuy Phước. Trung đoàn 12 từ ngày 11 tháng 4 đã cắt đứt hoàn toàn con đường chiến lược 19, giam chân toàn bộ các tiểu đoàn Nam Triều Tiên ở đó.

Trở lại trọng điểm phía bắc, theo lược đồ chiến dịch, đến trận thứ sáu ta mới dứt điểm quận lị Hoài Ân, nhưng trước thời cơ thuận lợi, sau khi xin ý kiến Quân khu, Bộ chỉ huy Mặt trận Bình Định hạ quyết tâm tiến công giải phóng quận lị Hoài Ân. Hội đồng chi viện tiền phương tỉnh được lệnh ưu tiên cung cấp và tạo điều kiện thuận lợi cho các lực lượng chủ lực và địa phương thực hiện phương án.

Khu vực xung quanh quận lị những đêm này sôi động trong công tác chuẩn bị cho trận đánh quyết định - trận đánh quyết chiến chiến dịch. Mọi công việc được triển khai hết sức khẩn trương.

Đêm 18 rạng ngày 19 tháng 4, cả chủ lực, địa phương, cả bộ binh, pháo binh, đặc công, công binh theo phương án tác chiến của từng đơn vị, đã nổ súng tiến công một loạt các chốt điểm ngoại vi và “ấp chiến lược” xung quanh quận lị như đồi 75, Đồi Tranh, Núi Một, Truông Sỏi, nhằm bóc toàn bộ cái vỏ cuối cùng của địch. Nhiều trận đánh diễn ra hết sức quyết liệt, dai dẳng. Nhận thức được giá trị của những chốt điểm ngoại vi này, bọn địch đã đem hết sức lực ra chống cự. Mất các chốt điểm hiểm yếu cuối cùng này, quận lị Hoài Ân coi như đã nằm trong tay Việt Cộng. Trong khi ở một vài chốt điểm, ta và địch còn đang giành nhau từng trận địa, mô đất thì lực lượng ta đã áp sát phía nam và đã chiếm lĩnh phía đông - bắc quận lị. Quân địch cho máy bay ném bom dữ dội xuống các vị trí vừa bị mất.

Nửa đêm ngày 19, trong quận lị bỗng bùng lên những đám cháy. Trinh sát theo dõi thì biết là quân địch đang đốt tài liệu, kho tàng và dồn ra phía đông chuẩn bị bỏ quận lị rút chạy. Pháo, cối ta được lệnh nã dồn dập vào những mục tiêu trong quận lị và siết chặt vòng vây. Tên quận trưởng dùng một đoàn xe bọc thép và bộ binh mở đường máy tháo chạy về phía đông, nhưng vừa nhô đầu ra đã bị ta đánh phải quay trở lại. Địch cho máy bay ném bom sát hàng rào quận lị và ra lệnh cho lính tháo chạy. Gần một ngàn tên lính và 11 xe M.113 chạy dồn ra cánh đồng. Toàn bộ lực lượng ta được huy động ra bao vây, tiêu diệt địch, cả chiến sĩ anh nuôi, vận tải, y tá, quyết không cho tên nào chạy thoát khỏi thung lũng.

Cầu Giáo Ba bị đánh sập từ mấy ngày trước, không có lối thoát, quân địch dồn cục lại trên con đường độc đạo, hai bên là ruộng nước, chúng trở thành bia sống cho các loại hỏa lực của bộ đội và du kích. Lực lượng vũ trang ta, như những làn sóng vừa xáp tới, vừa gọi loa kêu gọi địch đầu hàng. Không còn con đường nào khác, khi chúng đang đứng giữa một biển lửa. Cách mạng đã mở cho chúng con đường sóng, không dại gì phải chết vô ích, chúng lần lượt hạ súng xin hàng.

Từ 11 giờ trưa ngày 19 tháng 4 năm 1972, huyện Hoài Ân hoàn toàn giải phóng. Cũng từ buổi trưa này, hơn ba vạn đồng bào huyện Hoài Ân đã vĩnh viễn thoát khỏi ách kìm kẹp của địch hơn chục năm qua.

Huyện Hoài Ân là huyện đầu tiên ở Khu 5 được giải phóng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Hoài Ân trở thành căn cứ và bàn đạp tiến công hết sức quan trọng của chiến trường Bình Định và Khu 5 trong những năm sau này.

Chiến thắng Hoài Ân chứng minh sự trưởng thành vượt bậc của lực lượng vũ trang giải phóng Bình Định, trong đó nòng cốt là sư đoàn 3 Sao Vàng. Chiến thắng Hoài Ân còn chứng minh sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân, sự phối hợp chặt chẽ trên tất cả các mặt của lực lượng chủ lực và địa phương, đã giải quyết tốt mối quan hệ giữa tiêu diệt địch và đánh phá “bình định”, giành quyền làm chủ, là khả năng nắm bắt thờ cơ nhanh, rút ngắn giai đoạn chiến dịch của Bộ Chỉ huy Mặt trận, là sự vận dụng chiến thuật linh hoạt với tốc độ nhanh của các lực lượng tham gia, v.v…


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Sáu, 2012, 08:32:39 am
*   *
*

Trong lúc quân địch đang lo sợ về việc Hoài Ân bị mất thì lực lượng vũ trang huyện và đồng bào Vĩnh Thạnh đã bao vây bức rút quận lị Vĩnh Thạnh. Quận lị An Nhơn bị bao vây uy hiếp mạnh. Các nơi khác trong tỉnh, bộ đội địa phương tỉnh, huyện và du kích đang dồn dập tiến công hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy.

Sau khi giải phóng Hoài Ân, khả năng giải phóng Hoài Nhơn trở thành hiện thực. Bộ Chỉ huy Mặt trận điện xin Quân khu tiếp tục giải phóng Hoài Nhơn. Nhưng Quân khu trả lời: “Chỉ dùng một lực lượng vây ép Bồng Sơn, còn nhanh chóng tập trung lực lượng diệt Bình Dương, giải phóng bắc Phù Mỹ trước”. Nghiên cứu kĩ mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh Quân khu, Bộ Chỉ huy Mặt trận Bình Định càng thấy sự chỉ đạo của Quân khu là đúng đắn và sắc sảo. Giải phóng bắc Phù Mỹ trước chẳng những có giá trị về chiến thuật, chiến dịch mà còn giáng một đòn cân não vào bọn chỉ huy và binh lính địch, đồng thời tạo điều kiện cho việc giải phóng Hoài Nhơn thuận lợi hơn.

Chấp hành mệnh lệnh của Quân khu, một bộ phận của chủ lực sư đoàn 3 hành quân lật cánh sang phái đông Phù Mỹ đến bờ đầm Châu Trúc xã Mỹ Đức. Ở đây đơn vị được hàng trăm thuyền mảng của đồng bào đợi sẵn đưa bộ đội qua đầm. Trong đêm tối, đầm Châu Trúc rộng mênh mông như nuốt lấy từng con thuyền mỏng mảnh. Ngoài nam du kích, cả cán bộ xã, thôn, các cụ ông đều xung phong đưa bộ đội qua đầm. Các mẹ, các chị lo tiếp tế cơm nước. Cả một trung đoàn và pháo cối đến mờ sáng đã qua đầm an toàn. Đây là cánh quân vu hồi lợi hại trong những trận chiến đấu ở đông bắc Phù Mỹ sắp tới.

5 giờ sáng ngày 25 tháng 4, lực lượng vũ trang Bình Định cùng lực lượng sư đoàn 3 tiến công hơn 20 đồn bót địch ở nam Bồng Sơn đến bắc Đèo Nhông. Sau khi làm chủ các “ấp chiến lược” Vân Tường, Vĩnh Bình, Dương Liễu, lực lượng ta tổ chức vây lấn căn cứ Bình Dương.

Cũng như Gò Loi, Bình Dương là một căn cứ khá kiên cố do một tiểu đoàn cộng hòa đóng giữ, là điểm tựa vững chắc cho quân địch ở bắc Phù Mỹ hoạt động. Nhổ được Bình Dương, các chốt khác sẽ đổ theo, tuyến phòng cơ bản trên đường số 1 của địch bị phá vỡ, trung đoàn 40 và quận lị Bồng Sơn sẽ bị cô lập, sự chi viện giữa nam và bắc tỉnh của chúng bị cắt đứt.

Trước khi bao vây, tiến công Bình Dương, đặc công ta tổ chức tập kích nổng Mồ Côi cách Bình Dương về phía bắc khoảng 2 ki-lô-mét và trận địa pháo Đèo Nhông. Nhưng do bị lộ nên không đánh được Đèo Nhông. Ở nổng Mồ Côi, ta diệt được một đại đội bảo an, nhưng không dứt điểm được. Do không dứt điểm được nổng Mồ Côi và trận địa pháo Đèo Nhông nên việc vây lấn Bình Dương gặp khó khăn.

Thấy Bình Dương bị uy hiếp, địch vội điều một tiểu đoàn từ Trà Quang về tăng viện. Bọn bảo an, dân vệ ở các chốt Gò Thủ, Vạn An, Vạn Định… căng co về chi viện cho Bình Dương. Lúc này, lực lượng ta làm nhiệm vụ vây ép Bồng Sơn đã làm chủ Lại Khánh, Văn Cang, Trung Lương, Thiết Đính, kìm chặt quân địch không cho chúng tăng viện Bình Dương.

Bình Dương đang bị quân ta bao vây tiến công. Quân địch trong cứ điểm đang trải qua những ngày đêm hãi hùng, căng thẳng. Giữa lúc chúng không chịu đựng nổi, đang chuẩn bị rút chạy, bộ đội được lệnh xung phong dứt điểm, 480 tên địch trong căn cứ Bình Dương và các chốt xung quanh bị dồn đến cánh đồng Vĩnh Bình nơi ta bố trí một cái túi, chờ chúng vào hết là thắt miệng túi lại - tất cả đều bị bắt ở đó.

Mất Bình Dương, quân địch rơi vào cảnh rối loạn. Số tàn quân các nơi chạy về nổng Mồ Côi càng làm cho bọn đóng ở Mồ Côi hoang mang, dao động. Đồng bào Phù Mỹ vô cùng hân hoan, phấn khởi khi được Huyện ủy Phù Mỹ đứng ra trực tiếp huy động đi bao vây bức rút quân địch ở nổng Mồ Côi.

Hơn một ngàn quần chúng được du kích bảo vệ kéo đến vây chặt căn cứ trong tiếng súng, tiếng mõ vang trời. Sau mỗi đợt bắn và thanh viện, tiếng loa địch vận lại nổi lên vừa kêu gọi, vừa hù dọa. Nửa đêm hôm ấy, địch trong căn cứ Mồ Côi lặng lẽ rứt chạy ra Phủ Cũ, kéo luôn bọn này chạy về Bồng Sơn. Nhưng vừa xuống chân đèo, chúng đã sa vào trận địa phục kích của ta, chỉ thoát được một số.

Biết tàn quân địch còn lẩn trốn, nhân dân đã phát hiện và dẫn bộ đội, du kích truy lùng, bắt gần 500 tên. Đây là đợt bắt nhiều tù binh nhất từ trước tới nay.

Bảy xã phía bắc huyện Phù Mỹ được giải phóng. Đường số 1 phía bắc Phù Mỹ do ta hoàn toàn làm chủ. Tỉnh Bình Định bị cắt làm đôi. Quân địch ở Hoài Nhơn cuộc sống của chúng đang được tính từng ngày.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Sáu, 2012, 08:33:21 am
Và điều đó đã thực sự diễn ra vào sáng ngày 29 tháng 4, khi lực lượng vũ trang ta áp sát nổ súng vào quận lị Bồng Sơn. Mặc dù chúng đã dốc sức phòng thủ từ trước, nhưng khi tinh thần đã dao động và trước sức đột phá như vũ bão của quân ta, chúng buộc phải bỏ các vị trí ngoại vi rút vào trung tâm quận lị.

11 giờ trưa hôm ấy lá cờ ba que trước cổng đồn bị vứt bỏ và thay bằng lá cờ giải phóng. Sau những đợt tiến công liên tục, lực lượng ta đã hoàn toàn làm chủ thị trấn. Tên thiếu tá quận trưởng tháo chạy bị bắn chết ngay giữa cầu Bồng Sơn.

Thị trấn Bồng Sơn hoàn toàn được giải phóng. Cờ Mặt trận xuất hiện làm đỏ rực các mái nhà và ngọn dừa. Giữa lúc đó, bỗng có một đoàn biểu tình độ 200 người từ trung tâm quận lị tiến về phía cầu Bồng Sơn, vừa đi vừa hô khẩu hiệu “Hoan hô Quân giải phóng”. Thấy hiện tượng lạ, cán bộ ta theo dõi thì thấy số này phần đông là thanh niên, mặt mày hốc hác, nhớn nhác. Ta xác định: đây chỉ là bọn lính ngụy cải trang dùng mẹo lừa ta để chạy trốn. Màn kịch vụng về đó bị ta phát hiện và toàn bộ “đoàn biểu tình” bị các chiến sĩ tóm gọn.

Tin thắng lợi ở Bồng Sơn lan nhanh khắp các vùng trong huyện Hoài Nhơn. Như một phản ứng dây chuyền của ngòi nổ tức thì, hàng vạn đồng bào các xã Hoài Châu, Hoài Hảo, Tam Quan, Hoài Thanh, Hoài Hương… có du kích làm nòng cốt bao vây bức rút các chốt điểm ở Đồi Đảnh Hội Phú, Cự Lễ, Mỹ Bình, Cự Tài và phá banh các “ấp chiến lược” quanh thị trấn Tam Quan.

Trong đó nổi nhất là trận bao vây bức rút chốt điểm Đồi Đảnh ở thôn Trường Lâm xã Hoài Thanh. Lực lượng địch ở chốt Đồi Đảnh có một đại đội lính cộng hòa. Trong khí thế thắng lợi của Xuân - Hè 1972, hàng ngàn đồng bào xã Hoài Thanh trang bị gậy gộc, giáo mác đã nổi dậy cùng du kích bao vây phong tỏa chốt Đồi Đảnh, không cho chúng ra ngoài lấy nước uống, đồng thời dùng loa kêu gọi chúng trở về với nhân dân. Cuộc đấu tranh chính trị và tiến công binh vận căng thẳng, quyết liệt kéo dài suốt mấy ngày đêm. Lúc đầu bọn địch giở trò đàn áp, nhưng không một ai lùi bước, vòng vây càng siết chặt. Tên trung úy đồn trưởng đồn ra đứng trước đồng bào hùng hổ tuyên bố: “Bà con biết đây là đại đội 3 tiểu đoàn 2 của trung đoàn 40 cộng hòa chứ không phải đơn vị nào khác chứ!”. Liền lúc đó, một cụ già đứng trước giơ tay chỉ thẳng vào mặt nó trả lời đanh thép: “Đây là dân Trường Lâm, Hoài Thanh chứ không phải dân nào khác, ông biết chứ!”. Đúng là “bốn chín gặp năm mươi”. Cuộc nổi dậy bao vây kéo dài đến ngày thứ bảy, phần lương thực, nước uống đã cạn, phần bị đồng bào liên tục tiến công mạnh mẽ, cả đại đội lính cộng hòa cuối cùng chịu thua xin ra hàng và giao nộp vũ khí. Sức mạnh tinh thần, sức mạnh tiến công chính trị và binh vận của quần chúng là thế! Những ai không hiểu được chiến tranh nhân dân Việt Nam, sức mạnh Việt Nam thấy gần như là vô lí, nhưng trên mảnh đất Bình Định quật khởi này đó là sự thật trăm phần trăm.

Quân địch bị đánh tan tác khắp trên địa bàn huyện. Số sống sót phần lớn ra hàng, số ngoan cố chạy dồn về cụm lại ở căn cứ Đệ Đức và thị trấn Tam Quan. Đệ Đức và thị trấn Tam Quan lúc này như hai hòn đảo chơ vơ lọt thỏm giữa biến cả của chiến tranh nhân dân.

Ngày 30 tháng 4, một tiểu đoàn chủ lực của sư đoàn 3 được lệnh hành quân ra phối hợp với bộ đội huyện và du kích Hoài Nhơn bao vây tiến công giải phóng thị trấn Tam Quan. Sáng sớm ngày 1 tháng 5, tiểu đoàn chủ lực tập kích đồn An Thái phía đông thị trấn, tiêu diệt hoàn toàn quân địch. Thừa thắng, bộ đội và du kích bao vây thị trấn Tam Quan. Quân địch hoảng sợ rút chạy về căn cứ Đệ Đức. Tam Quan giải phóng, lực lượng ta được xe tải, xe lam của đồng bào đưa vào Đệ Đức tham gia tiến công căn cứ này.

Và trận đánh cuối cùng vào căn cứ Đệ Đức giải phóng hoàn chỉnh toàn bộ phía bắc tỉnh chính thức diễn ra khi ta dùng hai khẩu pháo 105 lấy được của địch bắn chính xác vào căn cứ. 5 giờ 30 phút ngày 2 tháng 5, lực lượng vũ trang giải phóng Bình Định nổ súng tiến công căn cứ Đệ Đức dưới sự chi viện đắc lực của đội pháo binh cơ giới vừa được thành lập. Cuộc chiến đấu kéo dài suốt ngày hôm ấy, đến gần tối mói dứt điểm. Một bộ phận gồm 10 xe M.113 cùng với một số bộ binh mở đường máu bung ra đường số 1 tháo chạy về phía đông. Bọn này bị ta vây diệt ở khu vực Núi Kho giáp biển. Trong trận này, má Đề ở thôn Thiện Đức xã Hoài Hương đã lập thành tích xuất sắc trong tiến công binh vận. Thấy quân địch tháo chạy, tinh thần suy sụp, chớp thời cơ, má Đề tiến ra dùng lời lẽ khéo léo thuyết phục lôi cuốn cả một trung đội cộng hòa 36 tên với 31 súng trở về với nhân dân.

17 giờ 40 phút ngày 2 tháng 5 năm 1972, Đệ Đức - căn cứ cuối cùng của địch ở bắc Bình Định hoàn toàn bị tiêu diệt. Đồng bào, chiến sĩ ôm chầm lấy nhau trong niềm hân hoan cao độ. Với những ống pháo sáng lấy của địch, các chiến sĩ phóng lên sáng rực cả bầu trời Bồng Sơn - Đệ Đức. Quân dân bắc Bình Định đang thực sự sống trong những ngày giải phóng.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Sáu, 2012, 09:21:57 am
*   *
*

Trong chiến dịch Xuân 1972, chiến thắng Bồng Sơn, Tam Quan, Đệ Đức có thể nói là một kì công cả về quy mô, thời gian và tốc độ.

Giải phóng Hoài Ân, bắc Phù Mỹ đã là một kỉ lục, vượt kế hoạch dự kiến. Nhưng Hoài Ân phải mất 11 ngày, bắc Phù Mỹ bốn ngày. Để giải phóng Hoài Nhơn, nơi địch còn lực lượng rất đông, với hai thị trấn chi khu và một căn cứ lớn, ta chỉ cần bốn ngày. Được như vậy là nhờ sức mạnh tổng hợp giữa chủ lực và địa phương được phát huy đến đỉnh cao, sự kiết hợp chặt chẽ giữa tiến công và nổi dậy đã đạt đến độ nhuần nhuyễn có nghệ thuật. Nếu ở Hoài Ân, chủ yếu là dùng những đòn tác chiến mạnh của chủ lực, ở bắc Phù Mỹ, đòn chủ lực đi trước một bước thì ở Hoài Nhơn, hai đòn tiến công và nổi dậy được tiến hành đồng thời cùng một lúc, cái nọ hỗ trợ bổ sung cho cái kia. Trong số 78 chốt điểm ở Hoài Nhơn, chủ lực chỉ diệt 15 chốt điểm then chốt, 63 chốt điểm khác đều do bộ đội địa phương, du kích cùng quần chúng tiêu diệt bức hàng, bức rút.

Trong thắng lợi rực rỡ ở Hoài Nhơn, phải nói đến sự chỉ đạo chiến dịch tài giỏi của Bộ Tư lệnh Quân khu trong việc hạ quyết tâm đánh chiếm và giải phóng bắc Phù Mỹ trước và kiên quyết chỉ đạo lực lượng ta ở phía nam bằng mọi giá phải chiếm giữ đường 19, không cho quân Nam Triều Tiên rảnh tay đi ứng cứu sau khi phía bắc bị tiến công. Nhưng trong chỉ đạo dù sáng suốt, tài giỏi đến đâu, những mệnh lệnh chính xác đó cũng chỉ nằm trong văn bản và những bức điện. Vấn đề đặt ra rong thực tiễn là lực lượng vũ trang ta trên đường 19 đã thực hiện mệnh lệnh đó như thế nào? Trong chiến đấu, có nhiều lúc mệnh lệnh rất chính xác nhưng khi thực hiện lại không như mong muốn. Ở đây thì khác, mệnh lệnh của Quân khu và Bộ Chỉ huy Mặt trận Bình Định được các đơn vị chủ lực và địa phương trên mặt trận đường 19 thực hiện một cách xuất sắc. Con đường 19 trở thành con đường chết đối với sư đoàn “Mãnh Hổ” Nam Triều Tiên. Mặt trận đường 19 trong Xuân - Hè 1972 cũng là trận chiến đấu cuối cùng giữa quân dân Bình Định với bọn lính Nam Triều Tiên.

Trong suốt 18 ngày đêm chiến đấu trên đèo Thượng Giang đường 19, trung đoàn 12 chỉ hai tiểu đoàn bộ binh và mấy đại đội trợ chiến, quân số thiếu hụt nghiêm trọng nhưng được sự giúp đỡ hết lòng của nhân dân Bình Khê, An Nhơn và lực lượng công binh của tỉnh đội phối hợp đã đánh và nhốt chặt một sư đoàn Nam Triều Tiên có máy bay, xe tăng, pháo lớn yểm trợ cùng với bọn địa phương quân. Sau đòn Xuân - Hè này, sư đoàn “Mãnh Hổ” mất sức chiến đấu, phải “án binh bất động” cho đến lúc rút khỏi địa bàn Bình Định.

Phát huy thắng lớn ở phía bắc tỉnh, Thường vụ Tỉnh ủy và Ban chỉ huy tỉnh đội chủ trương tập trung lực lượng mở tiến công ở phía nam, tiến công thị trấn Đập Đá và các xã chung quanh thị trấn. Lực lượng tham gia có các tiểu đoàn 50, 8, 52, 56, Đ10, đại đội trợ chiến 73, đại đội công binh 19 và bộ đội huyện Sở chỉ huy tiền phương gồm các đồng chí Lê Thành Vân tỉnh đội trưởng, Võ Phi Hồng tham mưu trưởng trực tiếp chỉ huy.

Để đánh lạc hướng mục tiêu tiến công của ta, sở chỉ huy tiền phương tỉnh giao nhiệm vụ cho tiểu đoàn 50 đánh địch trên hướng đông - bắc Tuy Phước. Đêm 27-5-1972, tiểu đoàn 50 đã bí mật tập kích, tiêu diệt một đại đội bảo an chốt giữ trụ sở xã Phước Quang, thu toàn bộ vũ khí. Cũng trong đêm hôm ấy, tiểu đoàn 50 di chuyển về trú quân tạm dừng ở thôn Nho Lâm (Phước Hưng). 14 giờ 30 ngày 28 tháng 5, đại đội thám kích Nam Triều Tiên từ núi Đất hành quân về phía thôn Nho Lâm nhằm phát hiện lực lượng ta để tiêu diệt. Với tinh thần cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu cao, trinh sát của tiểu đoàn phát hiện địch từ xa, được sự chỉ đạo của tiền phương tỉnh, trên cơ sở đội hình trú quân tạm dừng, tiểu đoàn phó Đỗ văn Ni cùng với chính trị viên tiểu đoàn Nguyễn Văn Chương đã tổ chức trận địa phục kích tại thôn Nho Lâm, sau 30 phút chiến đấu ta tiêu diệt gọn đại đội này, giết tại chỗ 66 tên, thu 30 súng các loại. Sau trận đánh này, tiểu đoàn 50 hành quân về đứng trong đội hình của tỉnh để chuẩn bị tiến công Đập Đá.

Từ hai trận đánh trên cùng với các hoạt động của du kích địa phương, bọn chỉ huy ở tiểu khu Bình Định phán đoán ta sẽ đánh lớn vào khu vực Tuy Phước - Quy Nhơn nên chúng tập trung phòng giữ trên hướng này. Trước khi mở cuộc tiến công vào Đập Đá, Ban chỉ huy tiền phương ra lệnh cho Đ10 (đặc công) phối hợp cùng cơ sở nội tuyến, đánh sập trung tâm sở chỉ huy hành quân tiểu khu Bình Định, giết 40 tên sĩ quan.

Trong lúc địch đang tập trung đối phó ở khu vực đông bắc Quy Nhơn thì 5 giờ sáng ngày 5-6-1972, bằng chiến thuật bao vây đánh lấn, tiểu đoàn 52 nổ súng công kích chốt điểm Ngãi Chánh, đến 8 giờ địch tháo chạy, ta chốt giữ và đánh địch phản kích. Sáng hôm sau (6-6), địch dùng đại đội bảo an từ chi khu An Nhơn chia làm hai cánh ra giải tỏa Ngãi Chánh, tiểu đoàn 52 và tiểu đoàn 50 của ta bao vây diệt gọn. Đến 15 giờ chiều cùng ngày, hai tiểu đoàn bảo an 209 (tăng cường) và 201 (thiếu) từ hướng Phù Cát chia làm hai cánh hành quân vào giải tỏa Ngãi Chánh bị ta chặn đánh phải dừng lại trong thị trấn Đập Đá.

Theo đúng kế hoạch, đêm ngày 6 rạng ngày 7-6, Ban chỉ huy tiền phương ra lệnh cho các đơn vị đồng loạt nổ súng tiến công, đánh chiếm các mục tiêu trong thị trấn Đập Đá và các chốt điểm từ cầu Bá Canh đến cầu Ông Chết; đồng thời pháo kích vào quận lị An Nhơn và trận địa pháo địch ở Tháp Bánh Ít. Trong ngày hôm ấy, nhiều trận đánh diễn ra hết sức ác liệt, ta với địch giành giật từng căn nhà, đường phố. Đến 15 giờ cùng ngày, tiểu đoàn 209 và 201 bảo an không chống cự nổi sức tiến công của ta phải tháo chạy sang phía nam sông Đập Đá. Ở đây, tiểu đoàn 8 của ta bố trí sẵn, cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt, đến 17 giờ 30 thì quân địch bị tiêu diệt hoàn toàn, ta làm chủ trận địa. Kết quả, diệt gọn tiểu đoàn 209 (thiếu) và đại đội 211, đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn 201 bảo an, thu 312 súng các loại, phá hủy hai xe quân sự, đánh sập hai cầu (Cẩm Vân và Đập Đá), bắn rơi một máy bay rực thăng. Ta làm chủ thị trấn Đập Đá ba ngày và cùng với du kích địa phương hỗ trợ đồng bào sáu xã Nhơn An, Nhơn Khánh, Nhơn Hậu, Nhơn Mỹ, Nhơn Phúc, Nhơn Phong nổi dậy diệt ác phá kèm, giành quyền làm chủ. Như vậy vùng làm chủ của ta liên mảng từ đông - tây An Nhơn nối liền đến đông bắc huyện Bình Khê. Những ngày tiếp theo sau đó, lực lượng ta liên tục tổ chức đánh địch phản kích, diệt hàng trăm tên địch, đặc biệt ngày 16-6 tiểu đoàn 50 đã tổ chức phục kích, diệt gọn một đại đội bản an, thu toàn bộ vũ khí và quân trang quân dụng(1).


(1) Dựa theo CHIẾN TRANH DU KÍCH TRÊN CHIẾN TRƯỜNG BÌNH ĐỊNH.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Sáu, 2012, 09:25:47 am
*   *
*

Chiến dịch Xuân - Hè kết thúc. Sau một thời gian củng cố các lực lượng vũ trang và xây dựng thế trận phòng thủ bảo vệ vùng mới giải phóng, theo kế hoạch chung của Quân khu, Tỉnh ủy Bình Định tiếp tục mở chiến dịch Thu. Sau Xuân - Hè, sư đoàn 3 được Quân khu điều ra hoạt động ở Quảng Ngãi, chỉ còn lại trung đoàn 12 đứng chân hoạt động trên đường 19.

Trong lúc lực lượng vũ trang giải phóng Bình Định chuẩn bị bước vào chiến dịch Thu, địch tập trung toàn bộ sư đoàn 22, hai liền đoàn biệt động, ba tiểu đoàn bảo an, bảy chi đoàn xe bọc thép do tên chuẩn tướng Phan Đình Niệm chỉ huy nhằm phản kích đánh chiếm lại những vùng đã mất. Lực lượng ta lúc này chỉ có hai tiểu đoàn chủ lực, hai tiểu đoàn địa phương. Trung đoàn 12 còn ở đường 19 chưa ra kịp.

Một cuộc họp liên tịch giữa các đơn vị với tỉnh đội và các huyện đội Phù Mỹ, Hoài Ân, Hoài Nhơn được triệu tập để xác định phương án tác chiến. Một trận địa phòng ngự được hình thành kéo dài từ đèo Phủ Cũ lên phía tây tới đèo Ông Bộ, Hòn Bồ, phía đông qua núi Chóp Chài đến Phú Thứ. Bộ đội huyện Phù Mỹ đánh phía sau và bên sườn đội hình địch. Các đơn vị khác tổ chức đánh địch tại chỗ, đề phòng địch đổ quân phía sau Hoài Ân, Hoài Nhơn. Đây là một phương án đúng, nhưng do thời gian quá gấp chưa hoàn chỉnh được hệ thống trận địa, nên khi quân địch tiến công ồ ạt đã không ngăn chặn được.

(http://farm8.staticflickr.com/7266/7464331868_fe0cdcbc7e_b.jpg)

Một ca mổ thương binh trong bệnh xá dân y tỉnh

Được thế, quân địch đánh ào ạt ra Hoài Nhơn. Ngày 17 tháng 7, chúng chiếm lại Bồng Sơn. Ngày 23 tháng 7 chúng chiếm thị trấn thị trấn Tam Quan và huyênh hoang tuyên bố sẽ “tái chiếm Hoài Ân trong hai tuần lễ”. Tuy chúng chỉ chiếm được các vùng ven đường số 1, còn hầu hết các vùng giải phóng vẫn được giữ vững, nhưng ta cũng đã thấy khuyết điểm và rút được bài học thấm thía về không xây dựng thế trận phòng giữ, để quân địch nhanh chóng giải tỏa đường số 1.

Được tin này, Quân khu lệnh cho sư đoàn 3 quay về bắc Bình Định với nhiệm vụ cùng lực lượng tỉnh kiên quyết giữ vững huyện Hoài Ân, vì đây là bàn đạp rất quan trọng cả trước mắt và lâu dài. Phương án bảo vệ Hoài Ân lập tức được triển khai. Thế trận vững chắc của chiến tranh nhân dân trên địa bàn Hoài Ân được hình thành, làm thất bại đợt phản kích thứ nhất của địch. Mặt khác, ta đưa lực lượng đánh mạnh vào phía sau lưng địch ở bắc Phù Mỹ buộc chúng phải rút lực lượng về giải tỏa.

Thực hiện đánh địch phản kích tái chiếm Hoài Ân trong đợt 2 một cách có hiệu quả nhất, Bộ Tư lệnh sư đoàn 3 thống nhất với Thường vụ Tỉnh ủy và Ban chỉ huy tỉnh đội một phương án phối hợp chung toàn tỉnh. Sư đoàn chỉ để lại trung đoàn 12 - một đơn vị có kinh nghiệm chiến đấu phòng ngự - tổ chức phòng ngự Hoài Ân, các trung đoàn 2 và 21 được điều vào phía nam phối hợp với lực lượng tỉnh đánh vào hậu phương địch.

Trong khi lực lượng sư đoàn 3 và lực lượng vũ trang địa phương đánh địch phản kích đợt 2 ở Hoài Ân, Ban chỉ huy tỉnh đội Bình Định ra lệnh cho toàn tỉnh nổ súng phối hợp. Đặc biệt, ở phía nam, theo phương án thống nhất, các tiểu đoàn 50, 8, 52 tỉnh cùng bộ đội các huyện và du kích đồng loạt nổ súng tiến công các vị trí địch từ Phù Cát đến An Nhơn, Tuy Phước, giáp Quy Nhơn cùng với tiểu đoàn 8 tổ chức tiến công, tiêu diệt đại đội bảo an 448. Ngày 19 tháng 7, Đ40 (đặc công) tập kích quân địch ở điểm cao Xuân Mỹ (bắc núi Kỳ Sơn), diệt gọn đại đội bảo an 182. Trong các ngày 17, 18, 19 tháng 8, tiểu đoàn 50 cùng với tiểu đoàn 8 và tiểu đoàn 52, tiến công quân địch ở các xã Phước Hòa, Phước Quan, Phước Hưng, diệt một đại đội thám kích và hai đại đội của tiểu đoàn 217 bảo an. Tiếp đến, này 31 tháng 8, tiểu đoàn 8 cùng tiểu đoàn 50 tiến công, diệt gọn một đại đội bảo an thuộc tiểu đoàn 214 ở Háo Đức - Dương Lăng. Sau đó (1-9) lại tiếp tục tiến công tiêu diệt đại đội 3 và 3 trung đội của tiểu đoàn 209 ở An Cửu, Biểu Chánh (Tuy Phước). Tiếp những ngày sau đó ta liên tục tiến công địch ở khu vực Phước Hiệp, Phước Nghĩa, diệt 3 trung đội bảo an. Cùng thời gian trên, bộ đội huyện cùng với du kích khắp nơi trong tỉnh phối hợp hoạt động rất tốt, tiêu diệt hàng chục đoàn “bình định” và nhiều trung đội dân vệ, hỗ trợ quần chúng nổi dậy phá khu dồn, giành quyền làm chủ(1). Những hoạt động trên của bộ đội tỉnh, huyện và du kích địa phương đã thu hút chủ lực địch, làm giảm áp lực phản kích của chúng ở Hoài Ân, tạo điều kiện cho quân dân Hoài Ân phòng giữ. Đồng thời, ở phía bắc, lực lượng vũ trang huyện được lệnh phối hợp với lực lượng chính trị tiến công các xã Hoài Thanh, Hoài Hảo, Hoài Châu uy hiếp thị trấn Tam Quan nhằm phân tán thêm lực lượng địch.


(1) Theo CHIẾN TRANH DU KÍCH TRÊN CHIẾN TRƯỜNG BÌNH ĐỊNH.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Sáu, 2012, 09:27:13 am
Với sự chỉ đạo phối hợp chiến đấu một cách có nghệ thuật giữa chủ lực và địa phương, giữa phía trước và phía sau, trận địa phòng ngự ở Hoài Ân được giữ vững, quân chủ lực ngụy bị dàn mỏng và bị tiêu hao nặng.

Đầu tháng 10, sư đoàn 22 ngụy cay cú lại huy động toàn lực phản kích “tái chiếm” Hoài Ân” một lần nữa với quy mô lớn hơn, nhưng cuối cùng sau gần ba tháng dốc toàn lực với mọi thủ đoạn chiến thuật chúng đã bị lực lượng sư đoàn 3 và bộ đội địa phương cùng du kích phối hợp đánh bật ra khỏi địa bàn.

Cho đến ngày kí kết Hiệp định Pa-ri, vùng giải phóng huyện Hoài Ân - niềm tự hào của quân dân toàn tỉnh và Khu 5 căn bản được giữ vững.

(http://farm9.staticflickr.com/8161/7453295496_98ca107547_b.jpg)

Nữ chiến sĩ súng cối bộ đội huyện Hoài Ân

Trải qua bốn năm chiến đấu từ sau tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, quân dân Bình Định đã trải qua một thời kì đầy khó khăn, ác liệt, nhưng với những nỗ lực phi thường của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, cho đến giữa năm 1971, đặc biệt là trong Xuân - Hè của cuộc tiến công chiến lược năm 1972, phong trào cách mạng trong tỉnh đã khởi sắc.

Chỉ riêng trong Xuân - Hè 1972, ta đã giải phóng hoàn toàn hai huyện, bốn chi khu quận lị, 19 xã, 139 thôn với trên 281.000 dân, đưa vùng làm chủ lên 55 thôn với 43.000 dân, phá banh 12 khu dồn, 32 “ấp chiến lược”, đưa hàng chục nghìn đồng bào trở vè làng cũ, loại khỏi vòng chiến đấu 14.640 tên địch, trong đó gần 5.000 tên bị bắt và ra hàng, diệt gọn trung đoàn 40, hai tiểu đoàn của trung đoàn 41, ba liên đội, 15 đại đội bảo an, 50 trung đội dân vệ, “bình định”, cảnh sát và sở chỉ huy tiểu khu Bình Định.

Cuối năm 1972, địch cố sức chiếm lại những vùng đã mất nhưng toàn bộ huyện Hoài Ân, một số khu vực ở Phù Mỹ, Hoài Nhơn, đông - bắc Bình Khê vẫn được giữ vững.

*   *
*

Thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược năm 1972 trên chiến trường Bình Định là kết quả phát huy thắng lợi từng bước của những năm 1966-1972, là thắng lợi của sự kết hợp chặt chẽ giữ đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, giữa tiến công và nổi dậy, giữa tiêu diệt sinh lực với đánh phá “bình định” giành quyền làm chủ. Đó còn là thắng lợi của sự phối hợp hiệp đồng chiến đấu chặt chẽ, hết lòng của sư đoàn Sao Vàng với các lực lượng vũ trang và đồng bào toàn tỉnh.

Thắng lợi trong năm 1972, đặc biệt là trong thắng lợi Xuân - Hè bắc Bình Định là thắng lợi của loại hình chiến dịch tiến công tổng hợp điển hình của Quân khu 5 trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước. Thắng lợi của quân dân Bình Định trong năm 1972 không thể tách rời với chiến công và sự hỗ trợ của các chiến trường bạn trên toàn miền, trực tiếp là chiến trường Khu 5. Với những chiến công rực rỡ ở bắc Bình Định và trong toàn tỉnh, quân dân Bình Định xứng đáng được tuyên dương là ngọn cờ đầu toàn miền về tiến công và nổi dậy trong Xuân - Hè và sư đoàn 3 Sao Vàng được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng nhất.

Thắng lợi to lớn của cuộc tiến công chiến lược năm 1972 trên toàn miền Nam cùng với thắng lợi đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai trên miền Bắc, đặc biệt là chiến thắng oanh liệt 12 ngày đêm của quân dân Hà Nội, Hải Phòng đánh gãy cánh B.52 Mỹ ở thắng lợi trên mặt trận ngoại giao đã làm cho chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ cơ bản bị đập tan. Chúng buộc phải kí kết Hiệp định Pa-ri, chấm dứt chiến tranh xâm lược, đơn phương rút quân về nước.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Sáu, 2012, 09:31:06 am
(http://farm9.staticflickr.com/8147/7453297452_3dc1448126_b.jpg)

Đồi Kiên Cường (Hòn Chè, Cát Sơn) nơi tiêu diệt nhiều lính Mỹ và Nam Triều Tiên
bảo vệ an toàn cho cơ quan lãnh đạo của tỉnh

(http://farm9.staticflickr.com/8002/7453297162_fb6c92fb10_b.jpg)

Các đồng chí trong Thường vụ Tỉnh ủy Bình Định nghiên cứu chỉ đạo
chiến dịch tiến công tổng hợp Xuân Hè 1972

(http://farm9.staticflickr.com/8013/7453296942_1c621e1d82_b.jpg)

Đồng bào Hoài Nhơn xuống đường đấu tranh chính trị (1972)

(http://farm9.staticflickr.com/8155/7453296854_0515bbee76_b.jpg)

Các chiến sĩ Sư đoàn Sao Vàng phối hợp với các lực lượng vũ trang địa phương
bảo vệ vùng giải phóng bắc Bình Định trước ngày kí Hiệp định Pa-ri


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Sáu, 2012, 09:32:19 am
DIỄN BIẾN CHIẾN DỊCH XUÂN HÈ 1972
CHIẾN TRƯỜNG BÌNH ĐỊNH (TỪ 8-4 ĐẾN 10-7-1972)


(http://farm9.staticflickr.com/8150/7453296720_34456ebf61_b.jpg)


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Sáu, 2012, 09:34:39 am
Chương VIII

ĐÁNH ĐỊCH PHÁ HOẠI HIỆP ĐỊNH PA-RI - TỔNG TIẾN CÔNG
VÀ NỔI DẬY, GIẢI PHÓNG TOÀN TỈNH
(1973-1975)

1 - KIÊN QUYẾT ĐÁNH ĐỊCH NỐNG LẤN, BẢO VỆ VÙNG GIẢI PHÓNG

Trong khi trên chiến trường miền Nam và cả nước liên tục sôi động trong khí thế đánh Mỹ từ sau cuộc tổng tiến công chiến lược năm 1968 thì ở Pa-ri, cuộc Hội nghị thương lượng về hòa bình ở Việt Nam vẫn kéo dài. Tính đến tháng 10 năm 1972, Hội nghị Pa-ri đã kéo dài bốn năm, do sự lật lọng và ngoan cố của đế quốc Mỹ.

Trong thế thua phải chịu ngồi vào bàn Hội nghị, Mỹ - ngụy vẫn cố tìm một thắng lợi trên chiến trường để giành thắng lợi trong Hội nghị với những điều khoản có lợi cho chúng. Nhưng tất cả những nỗ lực cao nhất của chúng, kể cả dùng B.52 ném bom rải thảm vào Hà Nội, Hải Phòng đều bị quân dân ta đánh bại. Ngày 27 tháng 1 năm 1973, đế quốc Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn buộc phải hạ bút kí vào Hiệp định Pa-ri với nội dung:

- Mỹ phải tôn trọng độc lập, chủ quyền và thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.

- Mỹ phải rút hết quân Mỹ và chư hầu, cam kết không dính líu quân sự hoặc can thiệp vào nội bộ miền Nam Việt Nam, nhân dân miền Nam sẽ tự quyết định tương lại của mình.

- Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn phải công nhận Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, công nhận trên thực tế ở miền Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát.

- Mỹ phải bồi thường chiến tranh.

Với Hiệp định này, điều cay cú nhất đối với Mỹ - ngụy là thừa nhận quân đội miền Bắc không rút khỏi miền Nam, công nhận sự tồn tại và địa vị hợp pháp của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.

Với Cách mạng Việt Nam, Hiệp định Pa-ri được kí kết là thắng lợi rực rỡ của đồng bào và chiến sĩ trên cả hai miền đất nước gần hai chục năm qua. Với thắng lợi của Hiệp định Pa-ri về Việt Nam, cách mạng miền Nam, trong đó có phong trào cách mạng ở Bình Định đã bước sang một giai đoạn mới. Một cục diện mới đã xuất hiện ở miền Nam, một sự thay đổi hết sức quan trọng để so sánh lực lượng cả thế về lực đã làm nghiêng hẳn cán cân giữa ta và địch, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân miền Nam tiến lên hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.

Đế quốc Mỹ buộc phải chấp nhận giải pháp chính trị, nhưng chúng vẫn chưa chịu từ bỏ âm mưu bám giữ miền Nam. Ý đồ chiến lược của đế quốc Mỹ là chấm dứt sự tham chiến trực tiếp về quân sự của quân viễn chinh Mỹ và chư hầu, đồng thời giữ vững và tăng cường ngụy quân, ngụy quyên, tìm mọi cách làm cho cách mạng dần dần yếu đi, tiếp tục thực hiện “Việt Nam hóa chiến tranh”, thực hiện chủ nghĩa thực dân mới lâu dài trên đất nước ta.

Trước khi Hiệp định được kí kết và trước ngày ngừng bắn có hiệu lực (28-1-1973), Mỹ - Thiệu tập trung lực lượng dồn sức phản kích quyết liệt, cố giành lại trạng thái chiến trường trước khi cuộc tiến công chiến lược 1972 mở ra, đồng thời chuẩn bị kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ”, cắm cờ lấn đất, hòng lấn chiếm vùng giải phóng, giành lợi thế khi Hiệp định có hiệu lực.

Từ ngày 5 đến 10 tháng 1, địch tập trung hai trung đoàn 40 và 47 với hỏa lực yểm tối đa mở hành quân pháo kích (lần thứ 9) định chiếm lại quận lị Hoài Ân. Nhưng cuộc hành quân của địch bị sư đoàn 3 và lực lượng địa phương bắc Bình Định đánh quyết liệt gây thiệt hại nặng cho chúng. Quận lị Hoài Ân được giữ vững.

Song song với đánh bại cuộc hành quân phản kích của địch, ta tổ chức tiến công đồng loạt vào các chốt điểm, khu dồn, “ấp chiến lược” dọc quốc lộ 1, các cửa biển, chiếm lĩnh nhiều địa bàn trọng yếu: Bồng Sơn - Phủ Cũ, Bồng Sơn - Tam Quan, Vạn An - Bình Dương. Trong đợt hoạt động này ta vừa chống đánh địch hành quân phản kích, giữ vững vùng giải phóng, vừa tiêu diệt sinh lực địch, mở thêm vùng làm chủ, giành thêm dân, tạo điều kiện thuận lợi đưa phong trào tiến lên.

Ngay trong ngày ngừng bắn có hiệu lực (28-1-1973), Tỉnh ủy Bình Định nhận rõ kẻ thù không thi hành Hiệp định nên đã điện xin Khu ủy tiếp tục tiến công địch, chống “bình định”, càn quét nống lấn nhưng không được chấp nhận. Cũng trong ngày hôm ấy, Ban cán sự tỉnh đội gồm các đồng chí Kim Anh tỉnh đội trưởng, Đinh Bá Lộc chính trị viên, Nguyễn Trưng tỉnh đội phó, Võ Phi Hồng tham mưu trưởng, Nguyễn Hữu Dụng chính trị viên phó tỉnh đội họp ra quyết định: “khẩn trương hình thành thế đứng chân vững chắc, cảnh giác cao độ, kiên quyết đánh trả mọi sự nống lấn, khiêu khích của địch, bảo vệ và giữ vững vùng ta, đồng thời tranh thủ thời gian xây dựng về mọi mặt, giữ vững ý chí chiến đấu làm hậu thuẫn cho nhân dân đấu tranh…”.

Thực hiện Hiệp định, ngày 29 tháng 3, quân Mỹ làm lễ cuốn cờ rút những đơn vị Mỹ cuối cùng về nước. Cũng trong ngày 29, sư đoàn “Mãnh Hổ” Nam Triều Tiên rút khỏi địa bàn tỉnh Bình Định. Việc quân Mỹ và quân Nam Triều Tiên rút khỏi miền Nam, chấm dứt sự có mặt của quân đội xâm lược trên đất nước ta. Quân dân ta đã “đánh cho Mỹ cút” và đang tiếp tục “đánh cho ngụy nhào”.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Sáu, 2012, 09:35:19 am
Hiệp định Pa-ri đã có hiệu lực, nhưng chiến trường Bình Định chưa một ngày ngưng bắn. Ngay từ sáng 28 tháng 1, Thiệu ra lệnh cho quân ngụy ồ ạt thực hiện chiến dịch “tràn ngập lãnh thổ” nhằm lấn chiếm vùng giải phóng và tiếp tục thực hiện chương trình “bình định”. Chúng mở nhiều cuộc hành quân vừa và nhỏ trên nhiều khu vực. Thực hiện lấn chiếm và “bình định” với nhiều thủ đoạn tàn bạo, trọng điểm nhằm vào vùng đồng bằng đông dân, nhiều của, các trục đường chiến lược số 1, số 19, quanh các căn cứ và bến cảng. Ở những nơi ta có lực lượng mạnh chúng có lính dựng “nhà hòa hợp”, sẵn sàng tiếp xúc với ta, gắng giữ không để xảy ra tác chiến ở những khu vực đó.

Với âm mưu và hành động trên, địch phản kích lấn chiếm các vùng Mỹ Tài, Mỹ Cát, Mỹ Lợi, Mỹ Đức, Mỹ Chánh (Phù Mỹ), Cát Khánh, Cát Chánh, Cát Tài (Phù Cát), đông - bắc Bình Khê, khu vực đông và nam Bồng Sơn, khu vực Núi Chéo. Ở phía bắc, chúng lấn chiếm các xã Hoài Châu, Hoài Hảo, nhưng bị ta chặn đánh quyết liệt nên chỉ chiếm được Đồi Chín, Đồi Mười xã Hoài Châu và thôn Thiện Chánh, Tam Quan Bắc. Sau đó, chúng lấn chiếm tiếp hai xã Hoài Hương, Hoài Mỹ, dùng phi pháo san bằng nhiều thôn, ta tổ chức đánh lui nhiều đợt tiến công của địch giữ vững trận địa.

Đi đôi với tiến công lấn chiếm, chúng sử dụng bảo an, dân vệ, cảnh sát tiến hành “bình định” vùng kiểm soát cũ và các vùng mới lấn chiếm bằng những thủ đoạn thanh lọc, cải cấy gián điệp, bôi nhọ quần chúng, mua chuộc, bắt vào đảng dân chủ của Thiệu… Nhằm tiêu diệt cơ sở chính trị ở thôn xã. Chúng dồn mọi sức lực, lấy “bình định”, lấn chiếm làm biện pháp chiến lược chủ yếu, thực hiện một cuộc “chiến tranh giành dân” cực kì tàn khốc. Chúng thực hiện đánh phá có trọng điểm, dùng chiến thuật chốt điểm kết hợp với quân trài làm thủ đoạn cơ bản, tiến tới xóa vùng lõm, đẩy lực lượng ta ra xa. Âm mưu nham hiểm của Mỹ - Thiệu trong thời kì này là: “Trên hòa bình, dưới chiến tranh, bên ngoài hòa hoãn, bên trong bình định”.

Không thể để Mỹ - ngụy chà đạp Hiệp định - cái gì có lợi thì chúng thực hiện, cái gì không có lợi thì phá hoại - quân dân Bình Định kiên quyết đánh trả, trừng trị chúng đích đáng. Lực lượng vũ trang ta liên tục chiến đấu đánh địch phản kích ở Cát Khánh (Phù Cát), khu vực Phù Mỹ. Ngày 6 tháng 2, tiểu đoàn 50 phục kích diệt một đại đội biệt động quân ở khu vực Đề Gi - Chánh Lợi thu một đại liên, một cối 60, sau đó, tiếp tục đánh địch phản kích từ 6 đến 9 tháng 2, diệt 116 tên. Ngày 11 tháng 4, lực lượng vũ trang địa phương diệt một đại đội thám báo ở khu vực phía bắc Phù Mỹ. Ngày 22 tháng 5, tiểu đoàn 50 đánh địch lấn chiếm ở Vạn Ninh xã Mỹ Tài, diệt 37 tên. Tiểu đoàn 53 bộ đội huyện và du kích Hoài Nhơn liên tục đánh địch phản kích nống lấn các vùng ven đường số 1. Lực lượng sư đoàn 3 đánh địch phản kích ở khu vực núi Lại Khánh, Cầu Dợi, giành đi giật lại với địch ở điểm cao 200 v.v…

Trong lúc những trận đánh ác liệt đang diễn ra ở nhiều khu vực trong tỉnh thì ở Đồi Chín, Đồi Mười (Hoài Nhơn), Núi Chéo, Du Tự (Hoài Ân) diễn ra những cuộc tiếp xúc giữa ta và địch. Ở đây, chiến sĩ và đồng bào đã dùng pháp lí của Hiệp định đấu tranh với địch, thuyết phục được binh lính địch. Chỉ sau một thời gian ngắn, trước chính nghĩa và lẽ phải, bọn lính chốt ở những khu vực trên ngán ngẩm, bỏ bê công việc. Bọn chỉ huy địch lo lắng, vội vã đổi các đơn vị khác lên thay.

Khắp nơi trong tỉnh, song song với đánh phản kích lấn chiếm, nhân dân dựa vào cơ sở pháp lí của Hiệp định tiến hành đấu tranh chính trị và binh vận, đòi địch thi hành Hiệp định, đòi quyền dân sinh, dân chủ, tự do đi lại làm ăn giữa hai vùng, chống cướp bóc, hãm hiếp, chống bắn pháo vào làng v.v… hằng ngày có từ 10 đến hàng trăm lượt quần chúng trực diện đấu tranh với địch. Qua đấu tranh, ta đã giành được một số thắng lợi, giữ thế đấu tranh hợp pháp của quần chúng. Để hỗ trợ cho mũi đấu tranh chính trị, nhiều hệ thống truyền thanh được đưa lên phía trước, thường xuyên phát đi tiếng nói chính nghĩa của nhân dân.

Càng về sau, các cuộc đấu tranh được tổ chức quy mô, liên tục như những vụ đấu tranh chống địch đánh phá, xúc tác dân và bao vây kinh tế ở Hoài Nhơn, Phù Mỹ, đông An Nhơn, Tuy Phước, thị xã Quy Nhơn, buộc ngụy quyền quận phải chấp thuận để đồng bào cày cấy và mua gạo, hàng hóa từ vùng địch sang vùng ta.

Về tác chiến, tính từ đầu năm đến giữa tháng 6 năm 1973, lực lượng vũ trang trong tỉnh đã đánh hơn 1.000 trận, diệt gần sáu nghìn tên địch, diệt gọn 2 đại đội, 32 trung đội, đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn, 9 đại đội, 14 trung đội, thu 275 súng, phá hủy 129 xe quân sự. Điểm nổi bật là các đơn vị đã kiên chường trụ bám đánh địch phản kích nống lấn từ tháng này sang tháng khác. Nhiều đơn vị vận dụng khá tốt binh vận, như các tiểu đoàn 50, 53, 55, 405, công binh 2 và lực lượng vũ trang huyện Hoài Nhơn, Phù Cát, Bình Khê. Phong trào ở phía nam, tuy bị đánh phá, nhưng cán bộ ta vẫn bám trong dân, tạo được khí thế đấu tranh. Bộ đội tỉnh, huyện được bổ sung, du kích một số nơi phát triển.

Thời gian này ta cũng bộc lộ khá rõ nhiều khuyết điểm. Do chưa nhận rõ âm mưu địch, nên phần lớn lực lượng ta chỉ chiến đấu tự vệ, chống đỡ. Địch đánh nơi nào, nơi đó đánh trả, chiến đấu phòng giữ lúng túng, ít hiệu quả, nặng tiêu hao, phòng giữ đơn thuần, nhẹ tiến công tiêu diệt và trừng trị địch ngay nơi xuất phát hành quân của chúng. Mặt khác, trong một số cán bộ, địa phương xuất hiện tư tưởng tư tưởng hòa bình chủ nghĩa, muốn hòa hoãn, không dám tiến công, sợ vi phạm Hiệp định, sợ căng thẳng ác liệt. Trong cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang cũng có những biểu hiện hòa bình chủ nghĩa, lỏng lẻo ý chí chiến đấu, muốn nghỉ ngơi, xả hơi, mức độ có khác nhau nhưng phổ biến là ý thức tổ chức kỉ luật lỏng lẻo, tự do tùy tiện… Điều chi phối lớn nhất là cán bộ các cấp chưa lường hết âm mưu, thủ đoạn thâm độc, tính chất quyết liệt của địch nên chủ trương đối phó chưa phù hợp, lúng túng về phương châm, phương thức hoạt động, thiếu chủ động trong kế hoạch đánh bại âm mưu, thủ đoạn địch. Đặc biệt nghiêm trọng là trong lúc quân địch đang âm mưu xóa thế “da báo” thì ta lại chủ trương rút lực lượng ở vùng sâu và vùng tranh chấp ra vùng giải phóng và vùng căn cứ để xây dựng củng cố.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Sáu, 2012, 09:36:51 am
*   *
*

Ngày 1 tháng 6 năm 1973, Quân ủy Trung ương đề ra nhiệm vụ quân sự trong giai đoạn cách mạng mới. Về tác chiến, Nghị quyết nhấn mạnh: “Giữ vững và phát triển chiến tranh nhân dân địa phương ở những vùng địch tiếp tục hành động lấn chiếm, chủ yếu là đồng bằng Khu 5… Tập trung lực lượng, chuẩn bị tốt đánh địch những đòn tương đối giòn giã ở những nơi có điều kiện. Những địa phương khác thì duy trì và phát triển tác chiến du kích”(1).

Tiếp tục Nghị quyết Quân ủy Trung ương và trước tình hình diễn biến phức tạp, Ban cán sự tỉnh ra chỉ thị về công tác chính trị tư tưởng trong lực lượng vũ trang. Do đặc điểm, tính chất của giai đoạn cách mạng mới, vừa hòa bình, vừa chiến tranh, vừa thi hành Hiệp định, vừa tích cực trừng trị ngoan cố lấn chiếm, tư tưởng cán bộ có những diễn biến phức tạp. Phải thường xuyên, liên tục giáo dục cho đơn vị về tình hình nhiệm vụ mới, kiên định đường lối, đồng thời nhận rõ bản chất âm mưu xảo quyệt của kẻ thù, không ngừng nâng cao giác ngộ giai cấp, không lợi lỏng mất cảnh giác đối với kẻ địch. Nắm vững chức năng, nhiệm vụ của lực lượng vũ trang, quán triệt và tận dụng tốt phương châm, phương thức, tư tưởng chỉ đạo tác chiến v.v…

Qua sáu tháng hoạt động, trừng trị quân địch “bình định”, lấn chiếm, các đơn vị trong tỉnh được củng cố, kiện toàn về mọi mặt, công tác Đảng - công tác chính trị được đẩy mạnh. Những biểu hiện tư tưởng hòa bình chủ nghĩa, cầu an, sa sút ý chí chiến đấu, tự do tùy tiện được phân tích, phê chuẩn. Đi đôi với công tác bổ sung biên chế(2), công tác chính trị tư tưởng, công tác bảo đảm hậu cần cũng được xúc tiến mạnh mẽ nhằm nâng cao chất lượng mọi mặt cho bộ đội tiếp tục hoạt động. Mặt khác, thời gian này tỉnh được Trung ương chi viện một khối lượng lớn hàng các loại bao gồm vũ khí, đạn dược, thuốc men. Từ sự chi viện hết lòng của hậu phương lớn, các đơn vị tỉnh, huyện và du kích được tăng cường binh khí kĩ thuật, cải tiến một phần trang bị, đáp ứng yêu cầu tác chiến ngày càng cao.

Lực lượng du kích, tự vệ được xây dựng, củng cố, lực lượng du kích ở vùng sâu phát triển khá. Bốn chế độ quy định của du kích, tự vệ gồm: chế độ sẵn sàng chiến đấu, chế độ huấn luyện, chế độ quản lí vũ khí, trang bị, chế độ công tác, sinh hoạt được ban hành và thực hiện có nền nếp trong toàn tỉnh.

Ban chỉ huy tỉnh đội còn dồn sức cho công tác thiết bị chiến trường, trước hết là xây dựng tuyến đường cơ giới nối liền với hành lang chiến lược của Quân khu và Trung ương, làm thêm các tuyến đường ngang, nhất là một chặng đường chiến dịch trên tuyến Quân khu như An Lão - Kim Sơn, An Lão - Hoài Nhơn. Ngoài ra còn tham gia xây dựng tuyến đường từ Kim Sơn ra tây - nam Quảng Nam.

Cùng với xây dựng củng cố về mặt quân sự, công tác xây dựng thực lực cách mạng trong toàn tỉnh cũng đạt kết quả. Phong trào khai hoang, phục hóa, làm thủ lợi tăng gia sản xuất được đẩy mạnh. Mặc dù hạn hán, bão lụt, địch đánh phá liên tiếp, nhân dân trong tỉnh vẫn giữ vững thế mạnh về sản xuất nông nghiệp, đời sống nhân dân được ổn định. Tình trạng đói, đau, lạt muối ở một số vùng được giải quyết. Việc giữ vững và mở thêm cửa khẩu giao thông hàng hóa giữa hai vùng mang lại hiệu quả lớn. Công tác giáo dục, y tế, xã hội có bước phát triển mới, an ninh, trật tự được giữ vững. Uy tín chính quyền cách mạng ngày càng cao. Các đoàn thể quần chúng được củng cố thêm một bước. Thế và lực của ta ngày càng vững mạnh. Vùng giải phóng có nhiều biến đổi, ngày càng có sức hấp dẫn đối với nhân dân vùng địch còn tạm thời kiểm soát.

Tháng 10 năm 1973, Hội nghị Trung ương lần thứ 21 họp và ra Nghị quyết về “Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và nhiệm vụ của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới”.

Trung ương nhất trí với nhận định Quân ủy Trung ương về hai khả năng: hoặc do đấu tranh tích cực của ta trên ba mặt chính trị, quân sự, ngoại giao mà ta có thể từng bước buộc địch phải thi hành Hiệp định, hòa bình được lập lại hoặc ta phải tiến hành chủ trương cách mạng gay go, quyết liệt để đánh bại địch, giành thắng lợi hoàn toàn. Trung ương khảng định: “Con đường cách mạng của miền Nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình hình nào ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công”(3). Về phương châm hoạt động quân sự, Trung ương vạch rõ: “Phải kiên quyết tiến công và phản công, giữ vững và phát huy thế chủ động về mọi mặt của ta nhằm đánh bại kế hoạch “bình định” và lấn chiếm của địch, đặc biệt là vùng đồng bằng và vùng giáp ranh”.


(1) Nghị quyết Quân ủy Trung ương, tháng 6 năm 1973
(2) Tiếp thu nguồn bổ sung anh em chiến thắng trở về được 2.126 đồng chí, bổ sung cho đơn vị chiến đấu 1.326 đồng chí số còn lại bổ sung cho các đơn vị, cơ quan phía sau.
(3) CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC 1954-1975 - NHỮNG SỰ KIỆN QUÂN SỰ, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân - Hà Nội trang 270-271.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Sáu, 2012, 09:37:38 am
Hội nghị Trung ương lân thứ 21 là một trong những hội nghị có ý nghĩa lịch sử quan trọng. Trên cơ sở tổng kết và rút ra những quy luật chủ yếu để giành thắng lợi sau 18 năm kháng chiến, Trung ương đã đề ra quyết tâm lớn hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ ở miền Nam. Nó có giá trị chỉ đạo rất cơ bản làm chuyển biến tình hình và cục diện chiến tranh ở miền Nam nước ta.

Quán triệt Nghị quyết Trung ương lần thứ 21, Tỉnh ủy quyết định triệu tập Đại hội Đại biểu Đảng bộ lần thứ năm họp tại Bình Sơn, Ân Nghĩa, Hoài Ân (11/1973) để kiểm điểm, đánh giá sự lãnh đạo của Đảng bộ và đề ra nhiệm vụ trong những năm tới. Trong báo cáo chính trị, Đại hội đã khái quát lại tình hình trong 19 năm qua và đi sâu đánh giá phong trào cách mạng trong lịch sử cuối năm 1971 đến tháng 10 năm 1973. Sau khi nêu ưu, khuyết điểm của Đảng bộ trong lãnh đạo, Đại hội đã đề ra nhiệm vụ: “Ra sức đánh bại chiến lược “bình định”, giành dân, giữ dân, mở rộng quyền làm chủ, phát triển lực lượng ta”. Về nhiệm vụ quân sự Nghị quyết chỉ rõ: “Ra sức xây dựng, củng cố ba thứ quân ngày càng vững mạnh làm hậu thuẫn cho quần chúng đấu tranh, tham gia xây dựng căn cứ, vận động quần chúng làm kinh tế, đồng thời đánh bại địch nếu chúng liều lĩnh gây chiến tranh trở lại”.

Đại hội bầu ra Ban chấp hành Đảng bộ mới gồm 15 đồng chí, do đồng chí Nguyễn Trung Tín làm Bí thư.

Sau Đại hội một khí thế mới đầy hào hứng phấn khởi được dấy lên trong toàn tỉnh.

Từ tháng 8 đến cuối năm 1973, quân địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu “bình định” các vùng mới lấn chiếm, tiếp tục đánh phá các lõm giải phóng và hành quân nống lấn vùng giải phóng. Trong kế hoạch “bình định” mới, chúng ráo riết thực hiện quy trình bảy bước gồm: Đánh phá hạ tầng cơ sở của ta; củng cố, xây dựng bộ máy ngụy quyền cơ sở; đánh bật, tiêu diệt lực lượng ta; phát triển tình báo gián điệp; phát hiện, thu, phá hủy vũ khí của ta, đôn quân bắt lính; phòng thủ, bảo vệ và kiến thiết xây dựng nông thôn. Chúng đã hành quân nống lấn ở vùng đông Phù Mỹ, đông, tây Hoài Nhơn. Chúng lấn được một số nơi như Mỹ Châu, Mỹ Lợi, Mỹ Lộc (Phù Mỹ), Hoài Hương, Hoài Thanh, Hoài Mỹ và một phần Hoài Hảo, Hoài Châu (Hoài Nhơn), một số thôn ở đông An Nhơn, đông - bắc Tuy Phước và hai xã đông - bắc Bình Khê. Địch tăng cường biệt kích, gián điệp sâu vào vùng giải phóng, vùng giáp ranh và căn cứ.

Thời gian này sư đoàn 3 đã có thể đứng khá vững chắc trên địa bàn phòng ngự ở Hoài Ân và các vùng giải phóng bắc Bình Định (trung đoàn 21 được giải thể và thay bằng trung đoàn 141).

Đầu tháng 8, địch đơn phương tuyên bố cắt đứt tiếp xúc với ta ở Hoài Nhơn. Qua phân tích, ta kết luận; địch bỏ tiếp xúc khu vực nào là chúng chuẩn bị lấn chiếm khu vực ấy. Ở Hoài Ân, toàn bộ quân chủ lực ngụy đang chốt giữ được lệnh rút ra, giao cho bọn bảo an và tập trung về căn cứ Đệ Đức. Máy bay trinh sát hằng ngày bay lượn trên bầu trời bắc Hoài Nhơn. Rõ ràng là chúng đang chuẩn bị nống lấn khu vực bắc Hoài Nhơn.

Sáng ngày 7 tháng 8, trung đoàn 41 và thiết đoàn 14 mở cuộc phản kích lên Quy Thuận xã Hoài Hâu để giải tỏa thị trấn Tam Quan, tạo bàn đạp đánh bật trung đoàn 12 sư đoàn 3 ra khỏi tây - bắc Hoài Nhơn. Trong những ngày đó, chúng mở nhiều đợt tiến công, tăng cường bom pháo, nhưng vẫn không đánh bật được lực lượng ta khỏi Quy Thuận, trái lại chúng bị tổn thất rất nặng nề. Chỉ một thô Quy Thuận, chúng sử dụng hàng ngàn quả pháo, hàng chục tấn bom nhưng vẫn không mang lại hiệu quả. Cuộc chiến đấu kéo dài đến tháng 9, trung đoàn 41 quá rệu rã, chúng phải điều trung đoàn 47 vào thay. Lần này chính Nguyễn Văn Thiệu ra Bồng Sơn, Tam Quan trực tiếp ra lệnh và động viên quân ngụy chiếm cho được nhà thờ Quy Thuận. Nhưng một tháng nữa trôi qua, với 860 tên chết và bị thương mà nhà thờ Quy Thuận - dù chỉ còn một bức tường - vẫn do bộ đội và du kích làm chủ.

Trung đoàn 47 không làm nên trò trống gì, liên đoàn biệt động số 4 được điều vào thay trong tâm trạng lo sợ trước tinh thần chiến đấu dũng cảm kì lạ và thế trận chiến tranh nhân dân thành đồng vách sắt của đối phương ở tây - bắc Hoài Nhơn. Thời gian này Hoài Nhơn mưa lụt lớn, nước tràn về ngập các cánh đồng. Đồng bào Quy Thuận, Gia An quyết sống chết, trụ bám cùng bộ đội và du kích bảo vệ từng thước đất của quê hương. Đồng bào đã huy động đến cây tre và tấm ván cuối cùng trong nhà cho bộ đội và du kích xây dựng trận địa, hầm hào, quyết “một tấc không đi, một li không rời”.

Trong những ngày cuối tháng 10, liên đoàn biệt động số 4, đã ba lần thay đổi hướng tiến công nhưng vẫn không sao tiến lên được, mà số thương vong ngày càng lớn, số đào rã ngũ ngày càng nhiều. Giữa lúc tinh thần binh lính ngụy rệu rã, Huyện ủy Hoài Nhơn quyết định đánh bồi bằng mũi đấu tranh chính trị và binh vận. Theo kế hoạch, nhiều toán đồng bào các xã Hoài Châu, Hoài Hảo, Hoài Thanh đi sâu vào thị trấn Tam Quan, căn cứ Đệ Đức, dọc đường số 1 chặn xe chở lính, chở thương binh, tuyên truyền vận động phản chiến. Tinh thần đang ngao ngán lại được các mẹ, các chị dùng tình cảm thuyết phục, bọn sĩ quan, binh lính càng thêm chán nản. Chỉ trong mười ngày đầu tháng 10 đã có 56 binh lính, sĩ quan ngụy mang súng trở về với nhân dân, hàng trăm tên khác bỏ trốn hoặc tự thương. Sự xuất hiện đúng lúc, kịp thời của đội quân chính trị và binh vận có tác dụng như một mũi vu hồi lợi hại.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Sáu, 2012, 09:38:47 am
Sau ba tháng không mang lại kết quả, sư đoàn 22 ngụy lặng lẽ lui quân. Vùng giải phóng bắc Hoài Nhơn được bảo vệ. Đây là thắng lợi của sự phối hợp chiến đấu giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích, giữa tiến công quân sự với đấu tranh chính trị và binh vận, sự đùm bọc gắn bó hết lòng của nhân dân đối với bộ đội. Trong cuộc chiến đấu ở Quy Thuận, các chiến sĩ Sao Vàng đã xác định: Đồng bào ở bên cạnh chúng ta, dẫu có chết cũng nằm lại chiến hào mà chết”. Còn đồng bào thì nói với nhau rằng: “Trận địa còn, bộ đội còn thì đồng bào vẫn còn, quê hương còn”. Một quân đội như vậy, một nhân dân như vậy, làm sao không đánh bại được quân địch.

Qua việc đánh bại cuộc hành quân lấn chiếm của sư đoàn 22 ngụy ở Quy Thuận, nhân dân Bình Định có thể khẳng định: Giai đoạn khó khăn nhất đã qua rồi, từ đây, quân dân Bình Định có đủ khả năng đánh bại những cuộc phản kích lớn của địch, bảo vệ quê hương, tiến lên giành thắng lợi mới.

Phối hợp với đánh phản kích thắng lợi ở phía bắc, ngày 27 tháng 9 năm 1973, một bộ phận của tiểu đoàn 50 tập kích quân địch tại trụ sở xã Nhơn An huyện An Nhơn diệt gọn một trung đội dân vệ, một trung đội thanh niên chiến đấu và 60 tên ác ôn, cảnh sát, thu một đại liên, bốn máy PRC 25. Ngày 22 tháng 10, đại đội 2 tiểu đoàn 50 tập kích diệt hai trung đội vệ ở Trung Lý (An Nhơn). Ngày 24 tháng 10, quân địch dùng máy bay trực thăng đổ quân xuống Cát Chánh (Phù Cát) định chụp lực lượng ta. Với phương án chiến đấu tại chỗ, đơn vị đánh trả quân địch, diệt 30 tên, bắn rơi hai trực thăng.

Bằng những trận đánh nhỏ lẻ, du kích trong toàn tỉnh đã chủ động tiến công địch điều khắp. Ngày 25 tháng 10, du kích thôn Ngọ Sơn đánh bọn thám báo ở đồi 192, diệt một tên, bắt sáu tên. Đêm 3 tháng 11, du kích tập kích một trung đội bảo an gần đường xe lửa ở ga Ngọc An, diệt 20 tên, thu bảy súng, một PRC 25. Ngày 20 tháng 11, du kích Hoài Hỏa đánh bọn bảo vệ trài ở Chợ Cát diệt 13 tên. Trong đánh địch nống lấn, du kích Hoài Hảo diệt năm trung đội, đánh thiệt hại nặng một đại đội cộng hòa, bắn cháy bốn xe tăng v.v…

Chỉ trong vòng bốn thắng, nhất là hai tháng cuối năm 1973, lực lượng vũ trang toàn tỉnh đã đánh 413 trận, loại khỏi vòng chiến đấu 4.193 tên, diệt gọn hai đại đội, 29 trung đội, đánh thiệt hại nặng bốn đại đội, thu 226 súng. Nhìn chung những tháng cuối năm, bộ đội địa phương nhất là du kích chiến đấu đạt hiệu suất khá, tỉ lệ thương vong thấp, vận dụng phương châm, phương thức có nhiều tiến bộ, kết hợp chặt hai chân ba mũi giáp công trong chiến đấu, cài được thế, chủ động tiến công, từng bước đánh bại các cuộc hành quân lấn chiếm, “bình định” của địch, buộc chúng phải rút bỏ một số chốt điểm ở vùng giải phóng.

Về đấu tranh chính trị, quần chúng vẫn giữ được thế đấu tranh thường xuyên, buộc địch phải thi hành Hiệp định Pa-ri. Hằng ngày, có hàng chục đến hàng trăm đồng bào kéo đến đồn bót đấu tranh đòi địch không được càn quét khủng bố, đòi về làng cũ làm ăn, v.v… Qua đấu tranh, đồng bào đã giữ được thế trụ bám “một tấc không đi, một li không rời” như Hoài Nhơn, Mỹ Trinh, Mỹ Lộc, Mỹ Châu, Mỹ Lợi, Mỹ Tài, Mỹ Hiệp, Mỹ Chánh (Phù Mỹ), Cát Hanh (Phù Cát). Quân địch càng tàn ác thì những cuộc đấu tranh nổ ra càng lớn như ở Phù Cát, Bình Khê, động An Nhơn, Tuy Phước. Ngay trong thị xã Quy Nhơn, nhân dân lao động, học sinh, thương phế binh cũng xuống đường đấu tranh đòi tự do, dân chủ, đòi hạ giá gạo, v.v… Nổi nhất là sau khi ta đánh trụ sở Nhơn An, hàng ngàn đồng bào trong đó có gia đình binh sĩ kéo đến trụ sở ngụy quyền tố cáo địch vi phạm Hiệp định, đòi chồng con, đòi về làng cũ. Cuộc đấu tranh kéo dài ba ngày liền. Trước sức đấu tranh mạnh mẽ của quần chúng, địch buộc phải chấp nhận yêu sách.

(http://farm9.staticflickr.com/8012/7453295298_16a0ee3bb1_b.jpg)

Nhân dân Quy Nhơn xuống đường đấu tranh chống Mỹ - Thiệu phá hoại Hiệp định Pa-ri (1973)

Trong năm 1973, ta đã giáo dục và phát động 25.000 quần chúng, trong đó có 10.000 gia đình binh sĩ tham gia tiến công binh vận. Kết quả, quần chúng đã phá rã 15 trung đội cả dân vệ, thanh niên chiến đấu, phòng vệ dân sự và 252 tên gồm cộng hòa, bảo an, mang về ba súng, 1.000 lựu đạn. Phong trào binh vận có tiến bộ, nhưng không đều, mảng phía nam còn yếu.

Cho đến cuối năm 1973, riêng lực lượng vũ trang tỉnh đã đánh 1.693 trận lớn nhỏ, loại khỏi vòng chiến đấu 12.800 tên, thu 622 súng. Ngoài những chốt điểm bị ta tiêu diệt, bức hàng, bức rút, tổng số chốt điểm nống lấn trái phép của địch trong tỉnh là 130 chốt và 44 vị trí trài trong dân.

Thắng lợi của quân dân Bình Định trong năm 1973 tuy lớn, nhưng còn nhiều vấn đề đặt ra để giải quyết trong năm 1974.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Sáu, 2012, 09:41:25 am
(http://farm9.staticflickr.com/8160/7453295776_c067198223_b.jpg)

Cửa hàng mậu dịch Vĩnh Thạnh trong vùng căn cứ giải phóng

(http://farm9.staticflickr.com/8014/7453296050_ac971a9fc2_b.jpg)

Nông dân vùng giải phóng Hoài Ân khai hoang, phục hóa

(http://farm9.staticflickr.com/8012/7453296306_566cc3fd2f_b.jpg)

Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 9 (11/1973 tức lần thứ 5 trong kháng chiến chống Mỹ)

(http://farm8.staticflickr.com/7138/7453296406_6d7581dd68.jpg)

Đồng chí Nguyễn Trung Tín, Bí thư Tỉnh ủy (từ 1973-1975)


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Bảy, 2012, 06:42:58 am
2 - ĐẨY MẠNH TÁC CHIẾN TIÊU DIỆT ĐỊCH, TẠO THẾ, TẠO LỰC
CHO BƯỚC PHÁT TRIỂN MỚI CỦA CHIẾN TRANH - CHIẾN DỊCH HÈ - THU 1974


Tháng 12 năm 1973, thực hiện cuộc vận động “Nâng cao chất lượng chiến đấu và trình độ sẵn sàng chiến đấu” do Quân khu ủy phát động, các đơn vị bộ đội tỉnh, huyện để lại một bộ phận cùng du kích hoạt động giữ thế chiến trường, thay phiên nhau ra vùng giải phóng xây dựng, rèn luyện kĩ năng chiến đấu, tích cực hưởng ứng cuộc vận động với phương châm vừa chiến đấu, vừa xây dựng. Cuộc vận động nhanh chóng trở thành phong trào quần chúng mạnh mẽ, góp phần tạo nên sức mạnh chiến đấu mới trong các lực lượng vũ trang toàn tỉnh.

Trong giai đoạn giữ thế chiến trường, lực lượng địa phương tỉnh đã đánh một số trận xuất sắc: Đêm 22 tháng 3, đội đặc công nước 598 đánh chìm một tàu quân sự trọng tải 10.000 tấn tại khu vực cảng quân sự Quy Nhơn. Ngày 25 tháng 3, đại đội 1 Phù Cát dùng chiến thuật vận động phục kích diệt trung đội dân vệ số 53 ở Liêm Trì xã Cát Nhơn, thu chín súng. Ngày 27 tháng 3, tiểu đoàn 19 (công binh tỉnh) phục kích đánh giao thông trên đường 19, phá hủy 19 xe chở đầy vũ khí, đạn dược, lương thực. Đêm 29 tháng 3, Đ30 đặc công tập kích đồi 79 trên bán đảo Phương Mai, diệt gọn hai trung đội bản an, một trung đội cối 81, làm chủ trận địa, thu vũ khí. Ngày 30 tháng 3, du kích xã Mỹ Chánh phục kích diệt gọn một trung đội bảo an ở An Hoan, thu tám súng. Đêm 31 tháng 3, chỉ sáu du kích xã Hoài Hảo đã tập kích diệt một trung đội bảo an ở chốt đường sắt Phụng Du.

Đầu tháng 4 năm 1974, Đảng ủy Quân khu 5 họp đánh giá chất lượng chiến đấu của các lực lượng vũ trang sau thời gian củng cố và đề ra nhiệm vụ quân sự của các lực lượng vũ trang năm 1974. Về phương châm chỉ đạo tác chiến lấy tiến công làm chủ yếu, phản công có hiệu quả, phòng ngự là cần thiết nhưng phải vững chắc. Đánh nhỏ, đánh vừa là chủ yếu, có một vài trận tương đối lớn, đánh cả phía trước, phía sau, tạo thế cài, căng kéo, vây ém địch. Kết hợp chặt chẽ ba mũi giáp công ở thôn, xã, kết hợp giữa tác chiến diệt địch và giành giữ dân, giữa tác chiến và xây dựng, phát triển thực lực.

Trong kế hoạch tiến công Hè - Thu, chiến trường Bình Định là một trong những hướng tiến công quan trọng của Quân khu do sư đoàn 3 làm lực lượng nòng cốt.

Để giành thế chủ động và tạo ưu thế về lực lượng trong từng trận chiến đấu, Thường vụ và Tỉnh ủy, Ban chỉ huy tỉnh đội và Bộ Tư lệnh sư đoàn 3 thống nhất chủ trương dùng lực lượng chủ lực kéo địch ra hai phía nam và bắc tỉnh rồi nhanh chóng tập trung lực lượng đánh vào khu trọng điểm.

Lực lượng vũ trang Bình Định mở khu vực tác chiến riêng lấy đông nam huyện Phù Mỹ và bắc Phù Cát làm trọng điểm. Bình Khê - đường 19, Hoài Nhơn, An Nhơn, Tuy Phước, Vân Canh, thị xã Quy Nhơn là khu chiến phối hợp, vừa căng kéo địch trong đợt rộ vừa đánh đệm giữa thế chiến trường khi sư đoàn 3 vận động chiến dịch.

Phương án tiến công và nổi dậy được xác định: Đồng bào trong các khu vực chiến đấu chủ yếu tham gia phục vụ lực lượng vũ trang chiến đấu tại chỗ. Đồng bào các khu vực kế cận thực hành tiến công và nổi dậy kết hợp với binh vận bức rút các chốt điểm, phá “ấp chiến lược”, khu dồn. Đồng bào trong thị trấn, thị xã chủ yếu đấu tranh chính trị, gây rối loạn hậu phương địch.

Chiến dịch tiến công tổng hợp Hè - Thu chia làm hai đọt: đợt Hè 21 tháng 4 đến 10 tháng 6, đợt Thu 17 tháng 7 đến 2 tháng 9. Giữa hai đợt là một đợt đệm. Quân dân Bình Định bước vào chiến dịch Hè - Thu 1974 với một niềm phấn chấn, hào hứng, tin tưởng vào thắng lợi.

Trong khi các đơn vị địa phương tỉnh khẩn trương triển khai chuẩn bị cho ngày N ở khu vực trọng điểm và các khu vực phối hợp thì trung đoàn 2 sư đoàn 3 bí mật rời căn cứ Hoài Ân luồn vào đông Bình Khê theo kế hoạch kéo địch ra hai đầu nam, bắc tỉnh. Dựa vào chiến trường đã được chuẩn bị, lực lượng chủ lực và địa phương bất ngờ nổ súng tiến công một loạt chốt điểm, “ấp chiến lược” chung quanh sân bay Gò Quánh và bắc thị xã Quy Nhơn, nơi được coi là vùng trọng điểm “bình định” của địch. Sân bay Gò Quánh hàn toàn tê liệt bởi những trận pháo kích dồn dập của ta. Tiểu đoàn 52 của tỉnh tập kích diệt cứ điểm Truông Ổi ở Tiên Thuận, xã Bình Giang, diệt một đại đội bảo an, thu vũ khí.

Trước hoạt động này, bọn chỉ huy địch cho là ta đã mở chiến trường ở phía nam nên vội vàng điều liên đoàn biệt động số 4 từ bắc Hoài Nhơn vào đối phó. Nhưng liên đoàn biệt động số 4 vừa rút đi thì khu vực bắc Hoài Nhơn lập tức nổ súng. Lực lượng trung đoàn 12 cùng bộ đội tỉnh, huyện và du kích đồng loạt tiến công, thu hồi toàn bộ tuyến chốt điểm địch đóng trái phép sau Hiệp định từ Cự Tài Đông lên An Phú đến Quy Thuận, áp sát thị trấn Tam Quan, vây chặt Đồi Chín, Đồi Mười, uy hiếp đường số 1 từ Tam Quan đến Bình Đê. Ở Hoài Thanh, ngày 28 tháng 4, bộ đội tỉnh dùng chiến thuật tập kích hiệp đồng binh chủng, diệt gọn một đại đội bản an đóng trái phép ở Đồi A, thu 22 súng các loại. Đội du kích Hoài Châu, với những quả pháo lép của địch, cải tiến thành vũ khí lợi hại, đánh diệt ba trung đội của địch.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Bảy, 2012, 06:47:18 am
Giữa lúc quân địch bị căng ra ở hai đầu, tiếng súng trên khu vực trọng điểm đông nam Phù Mỹ và bắc Phù Cát của tỉnh bắt đầu nổ dồn dập ở các khu vực Mỹ Tài - Mỹ Chánh, Cát Tài và Mỹ Cát - Cát Minh. Ngay trong đêm 15 tháng 5, tiểu đoàn 50 tổ chức tập kích hiệp đồng binh chủng vào cứ điểm Đồi Tranh, Trung Thư. Cùng đêm, đại đội 3 Phù Mỹ cũng tập kích bí mật tiến công Núi Mun, đại đội 3 tiểu đoàn 55 được cối 82 của tiểu đoàn 73 trợ chiến (mới thành lập) kìm địch ở Núi Dài, đánh địch giải tỏa giữ sườn phía đường và làm dự bị cho tiểu đoàn 50. Trong lúc đó tiểu đoàn 8 và đại đội 2 Phù Mỹ dùng chiến thuật vận động phục kích chặn địch ở Vĩnh Phú (Mỹ Hội) Vạn Lộc, Nhà Đá, Dẹo Hòn Thang.

Chiến sự cùng một lúc diễn ra trên một khu vực rộng ở đông nam Phù Mỹ, bắc Phù Cát.

Ở Gò Dông, sau 35 phút chiến đấu, tiểu đoàn 50 hoàn toàn làm chủ trận địa, đến mờ sáng đã triển khai xong đội hình đánh quân giải tỏa ở Dẹo và Cát Tài sang. Chiều ngày 16 tháng 5, đồng bào ở hai khu dồn Gò Dông và Dẹo đốt khu dồn bung về làng cũ. Sáng ngày 16, cứ điểm Đồi Tranh bị bao vây tiến công phải bỏ chạy. Tiểu đoàn 55 cho một bộ phận chốt lại và triển khai đội hình đánh quân địch giải tỏa ở Trung Thành xuống. Trung đội dân vệ ở Núi Mun bị đánh, bỏ chốt tháo chạy về Trung Thành.

Bị mất liền ba cứ điểm Gò Dông, Đồi Tranh và Núi Mun, nhưng chúng chưa điều chỉnh được lực lượng iể giải tỏa, chỉ dùng quân tại chỗ thăm dò vì chúng rất sợ ta đánh chiếm để câu viện ra diệt. Ở Núi Mun, địch dùng bom pháo đánh phá dữ dội kế hợp cho bộ binh tiến công. Quân ta giành đi giật lại với địch chốt điểm này. Đên 14 giờ ngày 20 tháng 5, địch chiếm lại Núi Mun thì 2 giờ đêm ngày 22, đại đội 2 Phù Mỹ tiến công chiếm lại.

Lúc này, Ban chỉ huy tiền phương tỉnh do các đồng chí Vũ Tấn Hạt tỉnh đội trưởng, Đinh Bá Lộc chính trị viên, đồng chí Lê Đình Thọ phó tham mưu trưởng, đồng chí Mai Xuân Diễn phó tham mưu trưởng trực tiếp chỉ huy, nhận định: Do mâu thuẫn giữa cơ động và chốt giữ, rút quân để cơ động thì thiếu quân chốt giữ, mặt khác đi giải tỏa sợ ta diệt gọn, nhưng do bị mất một mảng lớn, nên địch sẽ phản kích chiếm lại, hướng chủ yếu là trục Trà Quang, Mỹ Chánh. Từ nhận định trên, kết hợp với thế chiến trường đang phát triển thuận lợi cả hai mũi chính trị và binh vận, Ban chỉ huy tiền phương điều chỉnh lại đội hình và sẵn sàng đánh quân địch giải tỏa.

8 giờ sáng ngày 25, địch chia làm 2 cánh xuống Trung Thành, Mỹ Hội và thọc lên sườn Thu Me nhưng đều bị quân ta chặn đánh, diệt một số, phải dừng lại. Đêm 25, tiểu đoàn 55 nổ súng tiến công trụ sở ngụy quyền xã Mỹ Chánh, tiêu diệt toàn bộ quân địch và nhân viên ngụy quyền, sau đó phát triển sang Thái An, Chánh An quét tàn binh địch. Bọn địch ở Núi Dài bị ta pháo kích bỏ chốt tháo chạy. Ta đưa lực lượng chốt giữ Núi Dài.

1 giờ đêm ngày 27, đại đội 2 tiểu đoàn 50 tiêu diệt chốt Hòa Hiệp, Đ10 diệt chốt Thái Thuận, đại đội 1 và đại đội 2 Phù Cát hình thành thế bao vây tiến công trụ sở xã Cát Tài. 8 giờ sáng ngày 28, tên đại úy Thuận quận phó Phù Cát chỉ huy ba trung đội từ Chợ Gồm xuống giải tỏa bị tiểu đoàn 50 khép chặt đội hình diệt gọn toàn bộ quân địch, cả tên Thuận quận phó. Bọn địch ở Cát Tài khiếp sợ bức chạy về Cát Minh bị đại đội 3 tiểu đoàn 50 tiêu diệt một số. Quân ta hoàn toàn làm chủ khu vực Cát Tài.

Trước sức tiến công dồn dập của quân dân ta, địch ở Cát Minh, Mỹ Cát dao động. Được Thường vụ Tỉnh ủy và Sở chỉ huy cơ bản tỉnh chỉ đạo, Sở chỉ huy tiền phương tỉnh lệnh cho tiểu đoàn 8 diệt địch ở Trinh Khánh, phát triển ra An Mỹ, một mũi thọc ngang Xuân An không cho địch ở Cát Minh rút chạy. Tiểu đoàn 55 đứng ở Đồi Trung Thứ chặn đánh quân địch từ Trà Quang xuống. Tiểu đoàn 50 và đại đội 1 Phù Cát từ Cát Tài dùng hai mũi thọc thẳng vào tiêu diệt địch ở Cát Minh.

Các trận đánh diễn ra đúng như mệnh lệnh của Sở chỉ huy tiền phương: trụ sở Trinh Khánh bị diệt, chốt An Mỹ rút chạy, xã Mỹ Cát hoàn toàn giải phóng. Quân địch ở Gia Lạc vượt đồi 338 chạy về Cát Khánh, 12 giờ ngày 30 tháng 5, xã Cát Minh được giải phóng. Năm xã vùng đông - nam Phù Mỹ - bắc Phù Cát hoàn toàn giải phóng.

Trong đợt một ở trọng điểm chiến dịch tiến công tổng hợp Hè - Thu của tỉnh nổi lên gương chiến đấu 31 ngày đêm chốt giữ kiên cường ở Núi Mun của đại đội 2, bộ đội địa phương huyện Phù Mỹ như một ngôi sao sáng của quân dân Bình Định.

Núi Mun là vị trí tiền tiên, một điểm cao án ngữ phía đông - nam chi khu quận lị Phù Mỹ và căn cứ trung đoàn 41 ngụy ở Trà Quang. Đêm 19 tháng 5, hiệp đồng chiến đấu trong chiến dịch, bộ đội địa phương huyện Phù Mỹ tiến công diệt Núi Mun. Địch phản kích chiếm lại. Qua đêm sau, ta tiến công đánh bật địch ra ngoài và xây dựng trận địa, kiên quyết giữ Núi Mun.

Mất Núi Mun là mối đe dọa nặng nề đối với chi khu quân sự Phù Mỹ và căn cứ Trà Quang. Do đó, quân địch tập trung lực lượng với sự yểm trợ tối đa của phi pháo để chiếm lại Núi Mun. Trung bình mỗi ngày có 12 chiếc máy bay thay nhau ném bom, bắn rốc két, còn pháo binh thì liên tục bắn suốt ngày đêm vào chốt. Bộ binh địch đã dùng mọi thủ đoạn, đánh ban ngày không được, chuyển sang đánh ban đêm, nhưng đều bị đại đội 2 Phù Mỹ chỉ với 12 chiến sĩ đã đánh lui hết đợt này đến đợt khác.

Trong trận đánh chốt giữ 31 ngày đêm này nổi lên tấm gương chiến đấu anh dũng ngoan cường của tiểu đội trưởng Nguyễn Văn Trung, một mình một súng vẫn tiến công địch. Trong gian khổ, ác liệt, đồng chí vẫn lạc quan, tin tưởng, vừa đánh địch vừa ca hát, động viên anh em cùng chiến đấu. Khi bị thương, đơn vị cử người thay, đồng chí xin được ở lại cùng anh em tiếp tục chiến đấu và đồng chí đã hi sinh anh dũng để lại một tấm gương sáng ngời về chủ nghĩa anh hùng cách mạng và niềm tiếc thương vô hạn của động đội và nhân dân Phù Mỹ. Liệt sĩ Nguyễn Văn Trung được trên truy tặng huân chiến công giải phóng hạng hai.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Bảy, 2012, 06:47:38 am
Trải qua 31 ngày đêm chiến đấu giữ chốt Núi Mun, tập thể cán bộ, chiến sĩ đại đội 2 Phù Mỹ đã đánh lui tất cả 35 đợt tiến công của địch, diệt và làm bị thương 211 tên, bắn rơi ba máy bay, có 2 máy bay phản lực chiến đấu AD.6.

Bị một đòn quá đau, để nối lại đường Chợ Gồm - Đề Gi, ngày 3 tháng 6, trung đoàn 47 ngụy sử dụng hai tiểu đoàn cùng một chi đoàn M.113 chia làm hai cánh tiến xuống giải tỏa Mỹ Chánh. Cánh tiểu đoàn 2 ngụy xuống Xuân An bị lực lượng Phù Cát chặn đánh phải dừng lại. Cánh tiểu đoàn 1 ngụy xuống Hòa Hiệp, Thái Thuận rơi đúng vào trận địa vận động phục kích của tiểu đoàn 50. Sau một giờ chiến đấu, các chiến sĩ 50 diệt 120 tên, làm bị thương 45 tên, chỉ còn 37 tên chạy thoát về Lường Cày, Cát Hanh (theo lời khai của tù binh). Qua trận đánh thắng lợi, ta đã bẻ gãy đợt phản kích thứ nhất dùng quân chủ lực cơ động của địch.

Suốt trong những ngày đầu tháng 6-1974, địch sử dụng lực lượng trung đoàn 47 cùng với quân bảo an, dân vệ có máy bay, pháo binh và xe thiết giáp yểm trợ, mở hàng chục đợt phản kích cố chiếm lại những khu vực đã mất, nhưng ta đánh trả quyết liệt nên chúng chưa thực hiện được ý định. Đặc biệt, 9 giờ sáng ngày 23 tháng 6, địch dùng 2 chi đoàn xe M.113 (thuộc thiết đoàn 19) cùng với hai đại đội biệt động quân và hai đại đội của tiểu đoàn 1 thuộc trung đoàn 47 (cộng hòa) từ Trà Quang đánh xuống khu vực Mỹ Chánh. Xe tăng và bộ binh đến Gò Rộng thì địch chia làm hai cánh:

- Cánh thứ nhất, một chi đoàn M.113 cùng với hai đại đội biệt động quân từ Gò Rộng theo đường mòn qua Trung Thuận - Trung Thứ - Chánh Thiện.

- Cánh thứ hai, một chi đoàn cùng với hai đại đội cộng hòa từ Gò Rộng vào Mỹ Hội 5.

11 giờ 30 phút cùng ngày, cánh quân thứ nhất của địch lọt vào trận địa phục kích của tiểu đoàn 50, tiểu đoàn trưởng Nguyễn Hồng Quang cùng với chính trị viên Hồ Thanh Nhàn lệnh cho tiểu đoàn khép chặt đội hình, dùng ĐKZ 82, B40, B41 bắn cháy từng chiếc một. Bị đánh phủ đầu, đoàn tăng cụm lại chống trả quyết liệt, đến 13 giờ ta bắn cháy 9 chiếc, bắn hỏng 2 chiếc khác, bộ binh địch sống sót bỏ chạy về hướng cao điểm 102, bị đạn cối 82 của tiểu đoàn tiêu diệt gần hết. Để cứu nguy cho cánh quân ngày, bọn chỉ huy địch điều toàn bộ xe tăng và bộ binh cánh thứ hai từ Mỹ Hội 5 quay lại, tiến về hướng Chánh Thiện. Lúc này tiểu đoàn 50 đang củng cố đội hình và chờ nhận đạn bổ sung. Ban chỉ huy tiền phương lệnh cho đại đội 2 của tiểu đoàn 55 vận động về phía tây Trung Thuận đánh chặn đoàn tăng, bắn cháy một chiếc và bắn hỏng 1 chiếc khác. Bị đánh, đoàn tăng dừng lại dùng hỏa lực chống trả và rẽ sang phía nam đường tiếp tục chạy xuống Chánh Thiện. Sau khi nhận bổ sung đạn, tiểu đoàn 50 đã vận động chặn đánh đoàn tăng thứ hai, bắn cháy tại chỗ 3 chiếc và hỏng 2 chiếc khác. Bị tiến công, xe tăng và bộ binh địch dừng lại và lui về Trà Quang. Thấy không thể xuyên thủng được hướng chính diện của ta, ngày 28, 29 tháng 6 địch dùng hai tiểu đoàn 2 và 3 của trung đoàn 47 cùng tiểu đoàn 207 bảo an tập trung phản kích vào khu vực An Lương, Thái An (Mỹ Chánh), Mỹ Cát, bị đại đội 1 của tiểu đoàn 52 cùng đại đội 1 tiểu đoàn 8 chặn đánh quyết liệt, tiêu diệt hàng chục tên, buộc chúng phải rút lui. Cũng trong thời gian này, các khu chiến phối hợp tiến công địch đều khắp, diệt và bức rút nhiều đồn bót địch. Ở Bình Khê, ngày 18-5, đại đội 2 thuộc tiểu đoàn 52 tập kích chốt Truông Ổi, diệt 1 đại đội thiếu thuộc tiểu đoàn 216 bảo an. Sau đó dùng chiến thuật vận động tập kích kết hợp chốt đánh quân giải tỏa. Tiếp đến, đêm 19-5 một đại đội của tiểu đoàn 52 lại tập kích quân địch ở Đồng Phó (Bình Giang) diệt một trung đội dân vệ. Ngày 30-5, tiểu đoàn 19 công binh, phục kích giao thông trên đường 19, đánh cháy 9 xe và bắn hỏng 7 xe vận tải quân sự. Ngày 4-6, bộ đội huyện Bình Khê tập kích, diệt một trung đội dân vệ ở Phú Xuân (Bình Phú) và tiếp theo những ngày sau đó đột nhập vào Đồng Phó, Vườn Xoài (Bình Giang) phát động quần chúng nổi dậy phá khu dồn trở về làng cũ.

Ở khu vực An Nhơn, Tuy Phước và Quy Nhơn, đêm 19-5, đặc công Đ.30 tập kích chốt Huỳnh Giảng diệt gọn 1 trung đội bảo an, tiểu đoàn 405, dùng đạn H12 pháo kích vào sân bay Quy Nhơn, kho xăng Phú Hòa gây cho địch nhiều thiệt hại. Ngày 24-5, đại đội 58 tập kích địch ở Vinh Quang diệt một trung đội bảo an, 1 trung đội dân vệ và nhiều tên ác ôn. Từ ngày 4 đến ngày 17-6, bộ đội huyện An Nhơn và Tuy Phước bằng chiến thuật tập kích đã diệt gọn 4 trung đội bảo an, dân vệ và nhiều đoàn bình định. Ở khu vực này, cùng với tiến công vũ trang, quần chúng tiến hành 350 lượt đấu tranh trực diện với địch, tiến hành binh vận làm tan rã 3 trung đội thanh niên chiến đấu.

Ở khu vực Hoài Nhơn, cùng đêm 19 tháng 5, bộ đội chủ lực tiêu diệt một đại đội bảo an ở Cự Tài Đông, Đ60 (đặc công nước tỉnh) đánh sập cầu số 99 trên đường số 1, diệt hai trung đội bảo an và dân vệ. Tiếp đó, ngày 20-5 bộ đội huyện cùng du kích Hoài Thanh tập kích địch ở Đồi Tùng và Đồi Ấm diệt 3 trung đội bảo an, thu toàn bộ vũ khí. Phối hợp với tiến công quân sự, nhân dân xã Hoài Thanh bao vây bức rút chốt ngã ba Ngọc An. Đặc biệt ngày 24-5, hơn 1.500 quần chúng các xã được tổ chức thành đội ngũ vũ trang biểu tình, vây ép các chốt điểm, đấu tranh trực diện với địch, buộc chúng phải chấp nhận những yêu sách của nhân dân đưa ra.

Kết thúc đợt một của chiến dịch Hè - Thu, các lực lượng vũ trang tỉnh đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 2.465 tên địch, diệt gọn một tiểu đoàn, và 4 đại đội cộng hòa; diệt 6 đại đội bảo an, 18 trung đội dân vệ. Đánh thiệt hại nặng 6 đại đội và 16 trung đội khác. Diệt gọn một chi đoàn M.113, đánh thiệt hại nặng một chi đoàn khác, bắn cháy 13 xe M.113 và 9 xe quân sự, bắn hỏng 5 xe M.113 và 7 xe quân sự khác. Thu trên 554 súng các loại, diệt và bức rút 45 chốt điểm. Giải phóng hoàn toàn 5 xã với 22.000 dân.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Bảy, 2012, 06:48:04 am
*   *
*

Trở lại hoạt động của sư đoàn 3 Sao Vàng. Sau khi kéo căng quân địch ra hai phía nam, bắc tỉnh cho khu vực tác chiến tác chiến trọng điểm của tỉnh ở đông - nam Phù Mỹ, bắc Phù Cát tiến công giải phóng năm xã đồng bằng, trung đoàn 12 lặng lẽ rút khỏi bắc Hoài Nhơn, luồn xuống đông Phù Mỹ. Trung đoàn 2 lật cánh trở lại Hoài Ân chuẩn bị đánh địch ở tây Phù Mỹ. Trung đoàn 141 từ phòng ngự chuyển sang tiến công đẩy lùi trận địa phòng ngự của địch sang phía đông hai con sông Kim Sơn và An Lão.

Ngày 17 tháng 7, đợt hoạt động Thu trên chiến trường Quân khu nổ súng, lúc này, lực lượng vũ trang Bình Định vẫn tiếp tục đánh rất mạnh ở trọng điểm đông nam Phù Mỹ - bắc Phù Cát. Quân địch ở Bình Định vẫn chưa phán đoán được hướng tiến công chủ yếu của sư đoàn Sao Vàng, thì đùng một cái, rạng sáng ngày 26 tháng 7, 10 vị trí trên tuyến phòng thủ của chúng ở Hoài Ân, tây Phù Mỹ bị các đơn vị sư đoàn 3 tiêu diệt cùng một lúc. Các cứ điểm Trực Đạo, Núi Nùng, Du Tự bị san bằng.

Hoảng loạn trước một đòn phủ đầu quá bất ngờ, tiểu khu Bình Định kêu cứu nhưng bọn chỉ huy Quân khu 2 ngụy đang bị mắc kẹt khắp nơi nên không chi viện ngay được. Không còn cách nào khác, bọn địch phải bỏ dở cuộc giải tỏa ở đông - bắc Phù Cát, rút liên đoàn biệt động số 4 và thiết đoàn 19 về Phù Mỹ đánh từ phía nam ra và lệnh cho liên đoàn biệt động số 6 đánh từ phía bắc vào.

Thời cơ đánh trận then chốt đã xuất hiện, để thúc địch giải tỏa mạnh, hỏa lực trợ chiến của ta được lệnh đánh uy hiếp địch ở Đèo Nhông, Mồ Côi, Bình Dương. Địch ở Phù Mỹ sống trong lo sợ và căng thẳng đến tột độ, đòi tiểu khu Bình Định phải giải tỏa gấp.

Sáng ngày 27 tháng 7, liên đoàn biệt động số 4 cùng một chi đoàn xe bọc thép từ Trà Quang kéo ra chia làm hai cánh đánh vào Núi Nùng và Trực Đạo. Ta chủ trương bỏ ngỏ cả hai vị trí trên lừa quân địch vào đó để tiêu diệt. Những trận đánh lớn liên tiếp diễn ra và cuối cùng bọn này bị chủ lực ta tiêu diệt sạch, chỉ tên trung tá phó liên đoàn trưởng biệt động nhờ cải trang đã chạy thoát về Phù Mỹ.

Thừa thắng, lực lượng sư đoàn 3 tiến công tiêu diệt cứ điểm Chóp Vung trên đỉnh Đèo Nhông. Trận địa phòng ngự cơ bản của địch dài hơn 10 ki-lô-mét ở bắc quận lị Phù Mỹ hoàn toàn bị phá vỡ

Phối hợp với hướng trọng điểm của sư đoàn 3 ở bắc Phù Mỹ, các tiểu đoàn 8, 50, 52, 55, 73 trợ chiến, bộ đội huyện Phù Mỹ, Phù Cát cũng tiến công dồn dập quân địch ở trọng điểm tác chiến của tỉnh. Nửa đêm ngày 27 tháng 7, Đ20 đặc công tiến công điểm cao 338, diệt một đại đội của tiểu đoàn 232, thu toàn bộ vũ khí, 8 giờ sáng cùng ngày, tiểu đoàn 8 diệt chốt điểm Gành, khu vực Trinh Khánh, An Mỹ (Phù Cát), diệt một đại đội bảo an và 5 trung đội dân vệ. Số còn lại của hai tiểu đoàn bảo an 232, 233 và bọn dân vệ tháo chạy lên đường số 1 bị bộ đội huyện và du kích Phù Cát chặn đánh ở Cát Tài diệt thêm một đại đội, đánh thiệt hại một đại đội khác và bốn trung đội dân vệ.

Thừa thắng trong các ngày 12, 13 tháng 8, tiểu đoàn 50, tiểu đoàn 8 cùng bộ đội huyện và du kích Phù Cát phát triển tiêu diệt 13 trung đội dân vệ và bọn ác ôn ngụy quyền hai xã Cát Nhơn, Cát Thắng. Sau đó, các đơn vị triển khai đánh địch phản kích diệt nhiều địch, bắn cháy sáu xe M.113, bắt một chiếc. Đồng bào các khu dồn Hưng Mỹ, Càng Rang, An Nông, Mỹ Long nổi dậy phá khu dồn về làng cũ.

Ở phía tây - bắc tỉnh, các cứ điểm Núi Chéo, Phú Văn, điểm cao 82, Long Quang, Đồi 30 Thiết Đinh bị quân ta tiêu diệt. Sở chỉ huy sư đoàn 2 ngụy ở Tháp Bánh Ít bị tiểu đoàn 405 đặc công tiến công. Các địa phương khắp nơi trong tỉnh thừa thắng kết hợp tiến công với nổi dậy giành quyền làm chủ một số thôn, xã.

Kết thúc chiến dịch tiến công tổng hợp Hè - Thu, qua 94 ngày đêm tiến công liên tục, lực lượng vũ trang tỉnh đã đánh 962 trận, có 615 trận chủ động tiến công, loại khỏi vòng chiến đấu 6.619 tên địch, diệt gọn hai tiểu đoàn, 13 đại đội, 58 trung đội, một chi đoan xe bọc thép, thu 826 súng các loại. Trong chiến dịch, quân dân Bình Định đã diệt 34 chốt điểm, 26 vị trí trài, bao vây bức rút 28 chốt, phá banh 14 khu dồn, giải phóng hoàn toàn năm xã là Mỹ Cát, Cát Chánh, Cát Minh, Cát Thắng, Cát Nhơn và gần hết hai xã Cát Tài, Mỹ Tài với 18.000 dân và 29.000 dân vùng làm chủ. Ta hi sinh 216 đồng chí, bị thương 311 đồng chí. Đến cuối năm 1974, toàn tỉnh đã có ba huyện giải phóng là Hoài Ân, Vĩnh Thạnh, An Lão gồm 35 xã và 17 xã, 50 thôn ở các huyện đồng bằng.

Trong Hè - Thu 1974, ta đã kết hợp chặt chẽ giữa tiến công quân sự với nổi dậy và binh vận nổi nhất là Phù Mỹ và Hoài Nhơn.

Vấn đề tổ chức lớn trong mối quan hệ hiệp đồng chiến dịch giữa chủ lực và địa phương là sư đoàn Sao Vàng đã thu hút, kìm giữ hầu hết lực lượng cơ động quân ngụy ở Bình Định, tạo điều kiện cho lực lượng tỉnh thực hiện tiến công và nổi dậy thắng lợi ở khu vực tác chiến trọng điểm và các khu vực phối hợp của tỉnh. Ngược lại những hoạt động, tác chiến của lực lượng vũ trang và nhân dân, đặc biệt là khả năng bảo đảm không điều kiện về hậu cần của Đảng bộ và nhân dân toàn tỉnh cho sư đoàn là những yếu tố cực kì quan trọng để sư đoàn đánh thắng địch.

Thắng lợi của chiến dịch tiến công tổng hợp Hè - Thu trên chiến trường Bình Định đã khẳng định được nhiều vấn đề cơ bản về xây dựng, tác chiến và đấu tranh của quân dân toàn tỉnh. Qua đó, lãnh đạo đã thấy được chỗ mạnh, chỗ yếu của ta để phát huy và khắc phục, đặc biệt là thấy rõ những suy yếu của địch trong khả năng phòng ngự, giải tỏa, từ đó xây dựng quyết tâm và chuẩn bị thực lực đánh bại hoàn toàn quân địch.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Bảy, 2012, 06:52:16 am
3 - THAM GIA TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN 1975, GIẢI PHÓNG TỈNH BÌNH ĐỊNH

Sau gần hai năm (1973-1974) đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ trong thời kì mới sau Hiệp định Pa-ri, cục diện chiến trường ngày càng có lợi cho ta. Thế và lực ta ngày càng mạnh lên, thế và lực địch ngày càng yếu đi. Cán cân so sánh lực lượng nghiêng hẳn về phía cách mạng khi các quân đoàn chủ lực cơ động chiến lược và binh đoàn tương đương quân đoàn ra đời đứng chân trên các địa bàn quan trọng.

Sau khi mất một loạt căn cứ quan trọng, đặc biệt là khi mất tỉnh Phước Long, quân ngụy suy sụp tới mức không còn khả năng giải tỏa với quy mô lớn để chiếm lại những vùng đã mất. Theo sự xác nhận của Bộ tổng tham mưu ngụy, thời gian này về lục quân: đạn dược chỉ đạt 58%, nhiên liệu 71%, phụ tùng thay thế 33%; về không quân: không thám giảm chỉ còn 25%, bay đêm không còn khả năng yểm trợ trực tiếp chỉ 50%, vận chuyển 50%, máy bay còn dùng được chỉ 45%, về hải quân suy giảm trầm trọng… về lực lượng trù bị thì sư đoàn thủy quân lục chiến sa lầy ở Quảng Trị, sư dù mặc kẹt ở Thượng Đức. Trước tình hình rối ren của quân ngụy, Mỹ đành phải làm ngơ vì nội bộ lục đục và làn sóng đấu tranh của nhân dân Mỹ ngày càng mạnh. Tuy vậy chúng vẫn còn dựa vào quân số đông, còn chiếm được những địa bàn chiến lược quan trọng, đông dân, nhiều của, có điều kiện bổ sung quân số nhanh nên chúng còn hi vọng có thể cầm cự kéo dài cuộc chiến.

Chiến tranh đang bước vào giai đoạn cuối cùng. Ta mạnh lên, địch yếu đi. Thời cơ lớn đang đặt ra cho ta tính toán và chuẩn bị giải phóng miền Nam.

Trong hai cuộc họp tháng 10 năm 1974 và cuối tháng 12 đầu tháng 1 năm 1975, Bộ Chính trị sau khi phân tích, đánh giá toàn diện về ta, về địch đã kết luận: “Chúng ta đang đứng trước thời cơ chiến lược lớn, chưa bao giờ ta có điều kiện đầy đủ về quân sự và chính trị như hiện nay, có thời cơ chiến lược to lớn như hiện nay để hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam”(1). Bộ Chính trị hạ quyết tâm: “Động viên nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, trong thời gian 1975-1976 đẩy mạnh đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh ngoại giao… tiến hành tổng công kích - tổng khởi nghĩa, tiêu diệt và làm tan rã ngụy quân, đánh đổ ngụy quyền từ Trung ương đến địa phương, giành chính quyền về tay nhân dân, giải phóng miền Nam Việt Nam…”(2). Bộ Chính trị còn dự kiến phát triển tình hình và chuẩn bị một phương hướng cực kì quan trọng: “Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975”(3).

Hai cuộc Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10 năm 1974 và tháng 1 năm 1975 có ý nghĩa lịch sử trọng đại trước thời cơ lớn. Nó mở ra con đường dẫn đến mùa xuân 1975 đại thắng, giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Chấp hành quyết tâm chiến lược của Bộ chính trị, Quân ủy Trung ương quyết định tập trung lực lượng chủ lực mạnh mở chiến dịch tiến công quy mô lớn, chủ yếu ở Nam Tây Nguyên, lấy trận đánh mở đầu vào Buôn Ma Thuột làm then chốt, giải phóng tỉnh Đắc Lắc, sau đó giải phóng toàn bộ Tây Nguyên, phát triển xuống Phú Yên, Khánh Hòa thực hiện chia cắt chiến lược.

Sự chỉ đạo của Bộ với các chiến trường được truyền đạt, triển khai nhanh chóng. Cả nước đang dồn sức vào cuộc tổng tiến công chiến lược.

Ở Chiến trường Khu 5, thực hiện Nghị quyết của Khu ủy, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu xác định nhiệm vụ quân sự của lực lượng vũ trang và quyết định mở chiến dịch tiến công tổng hợp Xuân - Hè 1975 trên toàn địa bàn Quân khu trong mối quan hệ chặt chẽ với chiến dịch Tây Nguyên do Bộ trực tiếp chỉ đạo.

Dựa vào nhiệm vụ của Quân khu giao, Tỉnh ủy Bình Định đề ra cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân nhiệm vụ Xuân - Hè 1975 là sử dụng toàn bộ lực lượng ba thứ quân kết hợp với lực lượng chính trị mở chiến dịch tiến công tổng hợp Xuân - Hè 1975 nhằm:

- Tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực, phương tiện chiến tranh, phá vỡ một bộ phận hệ thống phòng ngự cơ bản và kìm kẹp, đánh bại một bước cơ bản kế hoạch “bình định”, lấn chiếm đất đai, giải phóng đại bộ phận nông thôn đồng bằng, đẩy mạnh vùng tranh chấp lên sát đường số 1, đường 19, ven quận lị, thị xã.

- Khẩn trương phát triển thực lực chính trị, vũ trang, nhất là ở cơ sở vùng ven thị xã, giữ vững vùng giải phóng phía bắc, thu hồi và đưa lên giải phóng hoàn chỉnh, chuyển phong trào thành thị lên một bước mới.

- Phối hợp với chiến trường Quân khu và sự chi viện căng kéo địch của lực lượng trên, tranh thủ thời cơ thuận lợi đẩy mạnh tốc độ tiến công toàn diện đều khắp.

- Hỗ trợ quần chúng nổi dậy đấu tranh, kết hợp chặt chẽ tiến công quân sự với đấu tranh chính trị, thực hiện ba mũi giáp công, bức hàng, bức rút, phá lỏng kẹp, giải tán ngụy quyền, thành lập chính quyền tự quản.

Phương châm tác chiến: táo bạo, vững chắc, đánh phải thắng, diệt gọn, tốc độ nhanh, chất lượng cao, thương vong thấp, tiêu thụ đạn dược ít, càng đánh càng mạnh, đạt hiệu suất cao.

Trong chiến dịch lấy nam Phù Cát, đông An Nhơn, đông - bắc Tuy Phước làm trọng điểm 1. Khu vực trọng điểm 2 là đông - bắc Bình Khê, tây An Nhơn. Khu vực phối hợp là Hoài Nhơn, Phù Mỹ nam Tuy Phước và Vân Canh.

Lực lượng vũ trang tỉnh được phân bố như sau;

- Trọng điểm 1 có các tiểu đoàn 50, 8, tiểu đoàn trợ chiến 73, Đ20 đặc công, đội 598 đặc công nước, bộ đội huyện và du kích địa phương.

- Trọng điểm 2 có các tiểu đoàn 52, 51, Đ10, bộ đội huyện và du kích.

- Hoài Nhơn có tiểu đoàn 53, Phù Mỹ - bắc Phù Cát có tiểu đoàn 55, Hoài Ân có tiểu đoàn 75.

- Tiểu đoàn công binh 19, đại đội 2 Bình Khê phối hợp với sư đoàn 3 đánh cắt đường 19, Đ30, D405, đặc công chuyên trách hậu cứ địch.

Ban chỉ huy tỉnh đội lúc này có các đồng chí Vũ Tấn Hạt tỉnh đội trưởng, Đinh Bá Lộc chính trị viên, Nguyên Trưng, Võ Phi Hồng tỉnh đội phó, Nguyễn Hữu Dụng chính trị viên phó và Lê Đình Thọ tham mưu trưởng. Thường vụ Tỉnh ủy và Ban chỉ huy tỉnh đội phân công chỉ đạo, chỉ huy ở Sở chỉ huy cơ bản và Sở chỉ huy tiền phương.

Sư đoàn 3 Sao Vàng đứng chân hoạt động trên địa bàn Bình Định được Bộ Tư lệnh Quân khu giao đảm nhiệm hướng chiến dịch quan trọng của Quân khu, nằm trong thế trận của chiến dịch Tây Nguyên. Sư đoàn 3 có nhiệm vụ đánh cắt đường 19 chiến lược dài ngày, thực hiện chia cắt chiến lược, không cho quân địch ở đồng bằng lên ứng cứu Tây Nguyên hoàn thành nhiệm vụ chiến dịch lịch sử, vừa kìm chân chủ lực địch, hỗ trợ tốt cho lực lượng vũ trang và nhân dân Bình Định tiến công địch ở khu vực trọng điểm. Bộ Tư lệnh Quân khu cử một bộ phận tiền phương Quân khu do đồng chí Nguyễn Nam Khánh, Phó chính ủy Quân khu phụ trách hướng tiến công của sư đoàn 3 trên đường 19.

Trong khi ta đang dồn sức chuẩn bị mọi mặt cho ngày N của cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, thì bọn đầu sỏ ngụy quyền, ngụy quân Sài Gòn họp để phán đoán hướng tiến công của ta và tìm cách đối phó. Bọn chúng cho rằng ta có thể đánh với quy mô lớn hơn năm 1974, nhưng không được như năm 1968 và cũng không bằng năm 1972. Chúng phán đoán hướng tiến công chủ yếu của ta là Tây Ninh, vè thời gian, chúng cho là ta sẽ tiến công vào trước hoặc sau tết âm lịch. Ở Khu 5 chúng dự kiến Công Tum, Plây Cu và bắc Bình Định sẽ là chiến trường trọng điểm.

Từ nhận định đó, bọn chỉ huy quân khu 2 ngụy quyết định dùng bốn trung đoàn của sư đoàn 22 vào bắc Bình Định để phá chuẩn bị của ta và tiêu hao, tiêu diệt sư đoàn Sao Vàng và lực lượng vũ trang Bình Định, đồng thời bảo vệ con đường 19 bằng mọi giá. Sau đó, chúng phát hiện việc vận chuyển của ta trên con đường ngang từ Gia Lai, nối với đường số 5, bọn chỉ huy sư đoàn 22 ngụy càng khẳng định hướng tiến công chủ yếu của sư đoàn Sao Vàng trong Xuân 1975 là bắc Bình Định.

Như vậy, phán đoán của địch sai lầm về cơ bản, nhưng chúng rất chú ý đến con đường huyết mạch số 19.


(1), (2), (3) CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC 1954-1975, NHỮNG SỰ KIỆN QUÂN SỰ, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1980, trang 281.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Bảy, 2012, 06:53:10 am
*   *
*

Sau những ngày đánh địch phản kích quyết liệt ở Núi Chéo, điểm cao 82, 174… với ba trung đoàn của sư đoàn 22 ngụy, sư đoàn 3 bí mật hành quân vào thiết kế phương án đánh cắt đường 19. Ở khu vực tác chiến cũ, một kế hoạch nghi binh chiến dịch rất hiệu quả lập tức được triển khai làm cho địch yên trí là hướng tiến công chủ yếu của đối phương.

Trong chiến dịch Tây Nguyên, Ngày N là 10 tháng 3, thì ngày 5 tháng 3, sư đoàn Sao Vàng được lệnh nổ súng đánh cắt đường 19.

Cắt đường 19, tạo thế chia cắt chiến lược là vấn đề đầu tiên được đặt ra với Bộ chỉ huy chiến dịch Tây Nguyên. Con đường chiến lược quan trọng này không chỉ là con đường tiếp tế, tiếp viện chủ yếu mà còn là con đường rút lui nhanh chất của địch xuống đồng bằng khi Tây Nguyên bị thất thủ. Do ý nghĩa quan trọng đó, bọn địch xác nhận: “bằng mọi giá phải giữ cho được đường 19”.

Nhận thức được nhiệm vụ quan trọng của mình, sư đoàn 3 đã khắc phục mọi khó khăn sử dụng cả bốn trung đoàn vào nhiệm vụ đánh chắt đường đúng ngày mệnh lệnh của Quân khu quy định.

Theo đúng kế hoạch hiệp đồng từ trước, đúng 5 giờ 7 phút ngày 5 tháng 3 năm 1975, tiểu đoàn 19 công binh của tỉnh bằng xung hỏa lực kết hợp, tập kích tiêu diệt trung đội dân vệ và đánh sập cầu 12 (cầu Dài). Tiếp theo, trên một tuyến đường dài 30 ki-lô-mét từ đèo Thượng Giang xuống Bình Khê trong phút chốc vang lên những tiếng nổ dồn dập và bùng lên những đám lửa của đạn pháo. Các chốt điểm hai bên đường 19 từ nam Cây Rui, Chóp Nón đến Hòn Kiềng, Cột Cờ, Truông Ổi, Che chẽ, Đồi Đá, Lăng Mai Xuân Thưởng… bị đồng loạt tiến công. Cùng lúc, một lực lượng mạnh của sư đoàn tổ chức tiến công sáu đại đội cơ động của địch từ Truông Ổi đến Định Quang.

Phương án đánh chắt đường 19 dài ngày của sư đoàn 3 chia làm hai bước: bước 1 diệt các chốt địch trên đường và lập các cụm chốt vững chắc của ta, đồng thời diệt quân cơ động giải tỏa trực tiếp của địch, bước hai mở chốt núi Quán Ngang cho quân tiếp viện vào trận địa chuẩn bị để tiêu diệt.

Đường 19 bị đánh tơi bời, bọn chỉ huy địch lúc bấy giờ mới ngớ ra là đã phán đoán sai, vội điều sư đoàn 22 từ phía bắc vào để “phản kích tái chiếm đường 19”.

Ngày 10 tháng 3, quân ta nổ súng và chỉ sau hai ngày đã làm chủ hoàn toàn Buôn Mê Thuột và Đức Lập. Ngày 11 tháng 3, Bộ Chính trị họp nhận định: “Thắng lợi ở Buôn Mê Thuột - Đức Lập, đường 19 và các hướng khác, chứng tỏ ta có khả năng giành thắng lợi to lớn với nhịp độ nhanh hơn dự kiến”(1).

Mặt trận Tây Nguyên của địch đang vỡ lớn. Thiệu ra lệnh cho quân chúng ở Tây Nguyên rút về giữ đồng bằng, sư đoàn 22 từ “phản kích tái chiếm” đường 19 được lệnh chuyển sang “chống đỡ ngăn chặn” lực lượng ta từ Tây Nguyên xuống Quy Nhơn.

Trong khi trên mặt trận đương 19, sư đoàn 3 đang chiến thắng giòn giã quân địch, Thường vụ Tỉnh ủy và Ban chỉ huy tỉnh đội Bình Định theo đúng dự kiến chính xác từ trước, tranh thủ thời cơ chung, tạo ra thời cơ trực tiếp, hạ lệnh nổ súng tiến công địch.

Ở khu vực trọng điểm 2 (đông - bắc Bình Khê - tây An Nhơn). Đêm 5 rạng ngày 6 tháng 3, suốt một ngày sau khi sư đoàn 3 nổ súng - đội đặc công Đ10 mở màn bằng trận đánh tập kích vào chốt Núi Thơm xã Bình Hòa, diệt hai trung đội dân vệ.

Sáng ngày 6, tiểu đoàn 51 (thiếu) do đồng chí Trần Minh Hoàng (Khánh) tiểu đoàn trưởng; Lê Hữu Duyệt chính trị viên chỉ huy, tiểu đoàn 52 do đồng chí Nguyễn Hải Hồ làm tiểu đoàn trưởng và đồng chí Ba làm chính trị viên chỉ huy, cùng đại đội 1 Bình Khê theo đúng kế hoạch, thực hành vận động bao vây tiến công liên tục vào các chốt ở các thôn Kiên Thạnh, Mỹ Yên, Vĩnh Lộc, diệt gọn quân địch, tảo trừ và hình thành thế đánh địch phản kích.

Bị đánh, chi khu Bình Khê kêu cứu. 7 giờ ngày 7, tiểu đoàn bảo an 266 từ sân bay Gò Quánh tiến lên Bình An giải tỏa, vừa đến chợ Mỹ Yên, chúng bị tiểu đoàn 51 và đại đội 1 Bình Khê vận động chặn đánh diệt 103 tên, thu nhiều súng đạn. Ngày 8, chúng cho tiểu đoàn 263 lên lấy xác nhưng bọn này sợ không dám lên. Thừa thắng, ta phát triển đánh tiếp diệt bọn dân vệ còn lại, giải phóng hoàn toàn hai xã Bình Hòa, Bình An.

Cùng thời gian, đội công tác Bình Tân đột nhập khu dồn Phú Hưng diệt bọn ngụy quyền ác ôn, phát động quần chúng phá khu dồn bung về làng cũ, xã Bình Tân được giải phóng.

Ngày 9, Thường vụ Tỉnh ủy và Ban chỉ huy tỉnh đội ở Sở chỉ huy cơ bản nhận định: Sau ba ngày nổ súng ở đường 19, quân địch bị đánh đau, quân cộng hòa bị hút vào khu chiến sư đoàn 3, khu chiến của tỉnh có điều kiện thuận lợi để diệt địch và giải phóng đất đai. Cần tranh thủ thời cơ, phát triển tiến công tây An Nhơn.


(1) CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC 1954-1975, NHỮNG SỰ KIỆN QUÂN SỰ, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1980, trang 289.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Bảy, 2012, 06:53:57 am
Lập tức các tiểu đoàn 51, 52 và Đ10 đặc công được lệnh chuyển vào tây An Nhơn tiếp tục các mục tiêu theo kế hoạch đã chuẩn bị. Đêm 9 rạng 10, Đ10 diệt chốt điểm cầu Phụ Ngọc, hai tiểu đoàn 51, 52 tiến công trụ sở Nhơn Phúc và thị trấn An Thái, diệt nhiều địch, giải phóng hoàn toàn xã Nhơn Phúc và thị trấn An Phúc. 14 giờ ngày 11, tên chi khu phó An Nhơn, đưa bốn trung đội dân vệ và thám kích từ thành Bình Định lên phản kích, bị tiểu đoàn 52 chặn đánh diệt 32 tên; bọn còn lại tháo chạy về chi khu. Cùng lúc, một tiểu đoàn của trung đoàn 41 và một chi đoàn xe bọc thép từ đường 19 nống ra giải tỏa Nhơn Phúc để bảo vệ hành lang đường 19, bị tiểu đoàn 52 diệt 40 tên, bắn cháy 2 xe M.113.

Thừa thắng, 18 giờ ngày 13, tiểu đoàn 52 vận động bao vây tiến công diệt trụ sở Nhơn Khánh và quân địch ở phố Cây Bông. Đêm 14, Đ10 tập kích trụ sở xã Nhơn Mỹ. Đồng bào khu dồn Thiết Tràng phá khu dồn bung về làng cũ. Đồng bào hai xã Nhơn Mỹ, Nhơn Khánh đã đào hầm trụ bám cùng bộ đội truy quét tàn binh địch.

Trong 9 ngày từ 6 đến 15 tháng 3, ở khu vực trọng điểm 2, lực lượng tỉnh, huyện đã đánh 29 trận lớn nhỏ, loại khỏi vòng chiến đấu 513 tên địch (có 17 sĩ quan và ác ôn), giải phóng hoàn toàn sáu xã thành một mảng liên hoàn ở đông - bắc Bình Khê - tây An Nhơn.

Trên cơ sở thuận lợi của tình hình, sư đoàn 3 đang kìm chặt bọn cộng hòa, địch chưa có khả năng giải tỏa khu vực này, Ban chỉ huy tỉnh đội quyết định dùng các đại đội Bình Khê, An Nhơn và du kích phòng giữ khu vực mới mở và táo bạo lệnh cho Đ10 thọc sâu vào tây thành Bình Định, án ngữ sườn phía tây cho trọng điểm 1. Tiểu đoàn 51 thọc xuống Phước Long, Phước An, Phước Thành làm cánh vu hồi cho trọng điểm, nằm trong đội hình của trung đoàn 93 do các đồng chí Nguyễn Thanh Lành trung đoàn trưởng Nguyễn Hữu Dụng chính ủy chỉ huy, Nguyễn Hồng Quang làm tham mưu trưởng, Phan Trọng Thể làm chủ nhiệm chính trị, trung đoàn 93 vừa được thành lập trước khi bước vào chiến dịch.

Trong khi mặt trận đường 19, khu vực trọng điểm 2 trên khắp các vùng nổ súng, quân địch bị căng kéo, dàn mỏng để đối phó thì khu vực trọng điểm 1 (nam Phù Cát - đông An Nhơn, đông bắc Tuy Phước), 3 giờ ngày 9 tháng 3, đội đặc công Đ20 tiến công diệt chốt Núi Đất, đội 598 đặc công nước đánh cầu Cẩm Văn trên đường số 1. Cùng đêm tiểu đoàn 50 do đồng chí Nguyễn Hồng Sơn làm tiểu đoàn trưởng, đồng chí Huỳnh Đăng Vũ chính trị viên trực tiếp chỉ huy tiến công chốt Thanh Giang xã Nhơn Phong, diệt một đại đội bảo an và một trung đội dân vệ, tiểu đoàn 8 do đồng chí Hồ Quốc Thúc làm tiểu đoàn trưởng, đồng chí Nguyễn Kim là chính trị viên trực tiếp chỉ huy, tập kích diệt hai trung đội dân vệ và bọn ngụy quyền xã Nhơn An, lực lượng huyện Phù Cát tiến công trụ sở xã Cát Tường. Bộ đội huyện An Nhơn, Tuy Phước cùng du kích triển khai đánh địch đều khắp.

Trong ngày đầu mở màn ở khu chiến trọng điểm, quân địch bị đánh tơi tả. Hai xã Nhơn An, Nhơn Phong hoàn toàn giải phóng.

Thừa thắng ta phát triển thế tiến công kết hợp với nổi dậy của quần chúng giải phóng luôn ba xã Cát Tường, Cát Nhơn, Cát Thắng. Lực lượng vũ trang tỉnh triển khai đội hình sẵn sàng đánh quân địch giải tỏa, nhưng hai ngày trôi qua, địch vẫn chưa dám ra mặt.

Ngày 11 tháng 3, đại đội 108 thám kích ngụy từ chi khu Phù Cát xuống định giải tỏa ba xã bị mất, nhưng vừa đến Cát Tường bị bộ đội huyện Phù Cát nổ súng diệt gọn cả đại đội. Ba xã giải phóng được giữ vững. Đêm 11 tháng 12, đại đội du kích Cát Hanh - Cát Hiệp đánh khu dồn Hòa Đại và ấp Nhà Thờ đưa dân về làng cũ, ép địch xuống sát đường số 1.

Ngày 14, địch điều đại đội 1 tiểu đoàn bảo an 232 vào tiếp tục giải tỏa ba xã nam Phù Cát lại bị bộ đội Phù Cát diệt gọn, thu toàn bộ vũ khí. Như vậy, chỉ trong mấy ngày, với hai trận đánh, bộ đội Phù Cát đã diệt gọn liền hai đại đội địch.

Không ngừng thế tiến công, đêm 16, tiểu đoàn 8 và bộ đội huyện Tuy Phước tiến công Lộc Ngãi (Phước Hưng), Đinh Thiện (Phước Quang), diệt và bắt 150 tên, giải phóng hai xã Phước Hưng, Phước Quang. Đêm 21, ta tập kích trận địa pháo Trường Úc, phá hủy bốn khẩu pháo 105, 155, hai cối 81, hai kho đạn, diệt toàn bộ bọn pháo thủ và một đại đội bảo an. Đại đội 2 tiểu đoàn 50 tiến công trụ sở xã Phước Hiệp, san bằng trụ sở, diệt 44 tên, thu toàn bộ vũ khí. Cùng đêm, đại đội 3 tiểu đoàn 50 tiến công thôn Xuân Mỹ - Phước Sơn. Trận địa pháo Trường Úc, trụ sở Phước Hiệp bị diệt, con đường từ quận lị Tuy Phước đi Gò Bồi bị cắt đứt, đồng bào khu dồn Trường Úc phá khu dồn trở về làng cũ. Xã Phước Hiệp được giải phóng mở ra mảng giải phóng liên hoàn Tuy Phước - An Nhơn - Phù Cát.

Trước sự thất bại nhanh chóng và bị uy hiếp nặng nề ở vòng cung ngoại vi Quy Nhơn, địch vội vã điều tiểu đoàn 1 trung đoàn 42 và một chi đoàn xe bọc thép trên đường 19 về Tháp Bánh Ít nhằm giải tỏa đông - bắc Tuy Phước và củng cố tinh thần bọn địa phương quân.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Bảy, 2012, 06:54:23 am
Đêm 21 tháng 3, tiểu đoàn 8 và lực lượng Tuy Phước tiến công Chợ Huyện nhưng bọn địch đã bí mật rút về quân lị Tuy Phước, ta đánh sập trụ sở, phát động quần chúng nổi dậy giành quyền làm chủ. Sáng ngày 23, một đại đội thám kích ở tiểu khu ra giải tỏa bị tiểu đoàn 8 chặn đánh diệt 80 tên. Sau đó, đại đội cộng hòa và một chi đoàn xe bọc thép tiếp tục đi giải tỏa nhưng chúng chỉ lởn vởn rồi rút về Tháp Bánh Ít nên ta không diệt gọn được. Từ ngày 23, hai tiểu đoàn 8 và 50 tập kích chốt Hương Sơn, vây đánh quân trài ở Phước Sơn, Phước Thuận, ép sát quận lị Tuy Phước và cô lập Gò Bồi.

Từ 19 đến 23 tháng 3, ở khu vực tác chiến trọng điểm, lực lượng vũ trang tỉnh đã loại khỏi vòng chiến đấu 1.200 tên địch, diệt gọn 5 đại đội, tám trung đội, thu trên 500 súng các loại, giải phóng căn bản 10 xã nối liền Phù Cát, An Nhơn, Tuy Phước với đông - bắc Bình Khê.

Phối hợp với mặt trận đường 19 và hai khu vực trọng điểm của tỉnh, ở Hoài Nhơn đêm 7 tháng 3, công binh huyện tập kích diệt chốt Cây Lê xã Hoài Thanh, du kích đặc công Hoài Thanh tiến công trung đội ảo an ở xóm 8 Ngọc An, đánh chiếm ga Ngọc An, cắt đường số 1. Tiểu đoàn 53 (thiếu) tiến công tiêu diệt một đại đội của tiểu đoàn bảo an 234 chốt ở xóm 5 Tấn Thạnh xã Hoài Hảo, phát triển diệt tiếp một trung đội chốt ở máy gạo Ông Tuận (Hoài Hảo) và chốt cắt đường số 1. Đêm 8 rạng ngày 9, du kích đặc công xã Tam Quan Bắc tiến công Đồi Bồ diệt gọn một trung đội bảo an. Khắp các xã trong huyện, du kích đều nổ súng tiến công địch.

Hiệp đồng với tiến công quân sự, từ ngày 7 đến ngày 10, gần 5.000 đồng bào ở các xã Hoài Châu, Hoài Hảo, Hoài Thanh, Tam Quan Nam, Tam Quan Bắc, Hoài Hương nổi dậy cùng du kích bao vây tiến công quyết liệt kết hợp với tiến công binh vận các chốt điểm, buộc địch bức rút các chốt Động Bà Hoàng (Tam Quan), Đồi Tranh, Ngọc An, Gò Đá, Đồi Tùng (Hoài Thanh), Gò Ông Ninh (Hoài Hảo) và bao vây ém địch ở Đồi Ấm, Đồi Nghiêm, Trung Hóa, An Thái, Chợ Cát, xóm 2 An Quý.

Sau đó, tiểu đoàn 53 cùng bộ đội huyện tiếp tục bao vây tiến công các vị trí của các tiểu đoàn bảo an 215 ở Hoài Thanh, 234 ở Hoài Hảo, 217 ở Hoài Mỹ, 273 ở Tam Quan. Đường số 1 bị cắt làm nhiều đoạn. Ngày 24, một tiểu đoàn cộng hòa (trung đoàn 47) từ Hoài Đức ra giải tỏa bị các đại đội 6 và 7 Hoài Nhơn diệt gần hết một đại đội, thu 20 súng. Số còn lại phải tháo chạy về căn cứ.

Ở huyện Phù Mỹ, đêm 6 rạng ngày 7 tháng 3, đại đội 2 và đại đội 4 Phù Mỹ bằng chiến thuật xung hỏa lực kết hợp đã diệt gọn đại đội 2 tiểu đoàn 201 bảo an tại Đồi Miếu; tiểu đoàn 55 diệt trụ sở ngụy quyền xã Mỹ Chánh, đại đội 3 đặc công huyện diệt một trung đội dân vệ chốt cầu Suối Son (Mỹ Bình).

Phát huy thắng lợi, đêm 7, tiểu đoàn 55 do đồng chí Nguyễn Hồng Khánh làm tiểu đoàn trưởng, đồng chí Phạm Thanh chính trị viên chỉ huy thực hành bao vây tiến công chốt Cầu Đá, diệt gọn bọn địch, bắt sống ban chỉ huy đại đội, thu toàn bộ vũ khí. Du kích Mỹ Bình, Mỹ Hiệp phục kích các đoàn xe vận tải từ phía bắc theo đường số 1 tiến vào, diệt một số. Hàng ngàn đồng bào xã Mỹ Lợi, Mỹ Tài dùng gậy gộc, dao, rựa kéo đến bao vây các chốt địch, phá khu dồn Vạn Ninh. Cùng thời gian, lực lượng huyện phát triển tiến công địch ở Thái An, An Xuyên, địch phải rút chạy Núi Dài.

Ngày 16, tiểu đoàn 55 và bộ đội huyện đánh quân trài ở Trung Thuận, Trung Thứ, diệt chốt “Clay Mo”. Bọn địch ở Chà Rang, Ngô Trang tháo chạy lên Mỹ Quang. Ta giải phóng toàn bộ xã Mỹ Chánh. Du kích xã Mỹ Trinh diệt chốt Gò Cối, cùng quần chúng phá khu dồn Diêm Tiêu. Du kích Mỹ Châu diệt một trung đội bảo an ở Ngô Trang. Đặc công và lực lượng an ninh đột nhập diệt bọn ác ôn, cảnh sát trong thị trấn Phù Mỹ. Quần chúng xã Mỹ Quang và du kích bao vây tiến công chốt Tân An, diệt hai trung đội dân vệ, thanh niên chiến đấu, giải phóng thôn Tân An.

Từ 12 đến 18 tháng 3, đại đội 1 tiểu đoàn bảo an 219 kéo ra phản kích bị tiểu đoàn 55 tổ chức vận động phục kích, tiêu diệt nhiều địch.

Ở phía bắc, đặc công nước, Đ60 đánh sập cầu Ông Diệu trên đường số 1, diệt trung đội dân vệ gác cầu. Đồng bào các xã Mỹ Châu, Mỹ Lợi, Mỹ Lộc, Mỹ Hiệp đồng loạt nổi dậy bao vây bức rút các chốt điểm cao 74, Núi Ngang, Vạn Phước, Vạn Thiện, giành quyền làm chủ.

Trong 17 ngày từ 7 đến 24 tháng 3, quân dân Phù Mỹ đã loại khỏi vòng chiến đấu gần 1.000 tên địch, diệt gọn ba đại đội, tám trung đội, thu 150 súng, giải phóng căn bản ba xã, mở rộng diện làm chủ sáu xã.

Ở Vân Canh, ta kết hợp đánh nhỏ với phát động quần chúng phá một số khu dồn, đưa dân về làng cũ.

Kết thúc đợt 1 chiến dịch tiến công tổng hợp Xuân - Hè, trên cơ sở thế áp đảo của chiến dịch Tây Nguyên đại thắng, sư đoàn 3 thu hút kìm chân đại bộ phận chủ lực ngụy ở mặt trận đường 19 nên trên chiến trường Bình Định, đặc biệt là ở hai khu vực tác chiến trọng điểm, tình hình diễn ra thuận lợi gần sát với phương án dự kiến. Ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 4.050 tên địch, diệt gọn 10 đại đội, thu 800 súng, giải phóng 20 xã.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Bảy, 2012, 06:55:55 am
*   *
*

Thời gian này, trên khắp các chiến trường miền Nam, cuộc tổng tiến công và nổi dậy của quân ta đang diễn ra vô cùng sôi động. Ở Tây Nguyên, sau chiến thắng Buôn Mê Thuột, quân địch bỏ toàn bộ Tây Nguyên rút chạy về đồng bằng, nhằm co cụm, cố thủ. Nhưng đến ngày 24 tháng 3, chúng đã bị tiêu diệt toàn bộ ở đường số 7. Ở Nam Bộ, ta đã giải phóng đường 20, đường số 3, chiếm nhiều bàn đạp quan trọng quanh Sài Gòn ở phía tây - bắc và đông - bắc. Ở Khu 5, đường 19 bị cắt, phần lớn vùng giáp ranh Quảng Nam - Quảng Ngãi được giải phóng. Ở Trị Thiên, ngày 18, quân địch ở Quảng Trị bị đánh rút chạy. Từ ngày 21, quân ta triệt đường rút chạy của địch trên đường số 1 đi Đà Nẵng, chốt chặt các cửa biển Thuận An, Tư Hiền, hình thành bao vây chiến dịch thành phố Huế. Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Huế - Đà Nẵng - chiến dịch lớn thứ hai sau chiến dịch Tây Nguyên - tạo điều kiện cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, kết thúc toàn thắng cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Ngày 25 tháng 3, Bộ Chính trị họp nhận định: “Thời cơ chiến lược lớn đã tới. Trong suốt 20 năm chống Mỹ, cứu nước, chưa bao giờ thuận lợi bằng lúc này”, do đó cần “Nắm vững thời cơ chiến lược mới, tranh thủ thời gian cao độ, nhanh chóng tập trung lực lượng vào phương hướng chủ yếu, hành động táo bạo, bất ngờ, làm cho địch không dự kiến kịp và không kịp trở tay, hoàn thành nhiệm vụ giải phóng miền Nam càng sớm càng tốt”(1), trên cơ sở đó, Bộ Chính trị hạ quyết tâm hoàn thành giải phóng Sài Gòn và miền Nam trước mùa mưa (tháng 5 năm 1975).

Cả nước rạo rực niềm vui, dồn hết sức lực cho ngày toàn thắng.

Trở lại chiến trường Bình Định, trên mặt trận đường 19 sau những ngày đánh cắt, chốt chặn đường 19 thắng lợi, sư đoàn 3 nhận được mệnh lệnh của Quân khu: “dùng một trung đoàn giải phóng An Khê. Lực lượng còn lại nhanh chóng dồn về phía đông chặn đánh sư đoàn 22 ngụy, cùng lúc lực lượng Bình Định giải phóng Quy Nhơn, giải phóng toàn tỉnh”.

Chấp hành mệnh lệnh đó, chỉ sau một ngày chiến đấu, trung đoàn 12 đã hoàn toàn làm chủ An Khê. Ở phía đông, sư đoàn đang triển khai chuẩn bị phương án tiến công Lai Nghi - cụm đề kháng chủ yếu của sư đoàn 22 ngụy.

Những ngày cuối tháng 3 lịch sử như một đêm hội trước ngày toàn thắng đối với quân dân Bình Định. Không còn nghi ngờ gì nữa, giải phóng toàn tỉnh, toàn miền đang trở thành hiện thực chứ không còn là khả năng nữa. Núi sông Bình Định, miền đất thượng võ và quật khởi đang chứng kiến những giờ phút trọng đại của lịch sử sau bao năm ngột ngạt dưới ách thống trị của Mỹ - ngụy. Bước vào đợt 2 chiến dịch, quân dân Bình Định càng hào hứng, phấn khởi, cảm thấy không khí giải phóng, không khí tự do trên bầu trời toàn tỉnh đang đến gần.

Ngày 24 tháng 3, Ban chỉ huy tỉnh đội nhận được thông báo tình hình của Bộ Tư lệnh Quân khu và mệnh lệnh: “… tranh thủ thời cơ chung, nỗ lực tạo thơ cơ trực tiếp, tiến công liên tục, giải phóng toàn bộ Khu 5 trong thời gian ngắn nhất”.

Những ngày sau, tin chiến thắng đến dồn dập từ các nơi đưa về cổ vũ quân dân Bình Định nhanh chóng xốc tới. Ngày 25, thị xã Quảng Ngãi giải phóng. Ngày 20, giải phóng cố đô Huế, quân đoàn 1 ngụy ở Đà Nẵng đang rơi vào cảnh hỗn loạn, chuẩn bị tháo chạy v.v…

Trong không khí sôi động đó, Thường vụ Tỉnh ủy, Ban cán sự và Ban chỉ huy tỉnh đội họp nhận định: Quân địch trong tỉnh đang hoang mang, đã xuất hiện tan rã về tổ chức. Trong đợt 1, ta đã giành thắng lợi giòn giã, hiệu suất chiến đấu cao, thương vong thấp, lực lượng ta sung sức.

Thường vụ và Ban chỉ huy tỉnh đội quyết định: dùng lực lượng hiện có trong tỉnh tranh thủ thời cơ giải phóng toàn tỉnh. Dùng trung đoàn 93 nhanh chóng dứt điểm chi khu Gò Bồi, quét địch ở Phước Nghĩa, Phước Lộc, đánh chiếm Phước Hậu, tạo bàn đạp cho trung đoàn 93 vào vây ép thị xã Quy Nhơn. Tiểu đoàn 51, D405 đánh chiếm Phước An, Phước Long và một số căn cứ phía tây Quy Nhơn làm cánh vu hồi cho trung đoàn 93.

Trung đoàn 92 khẩn trương được thành lập do các đồng chí Lê Đình Thọ làm trung đoàn trưởng, Nguyễn Học Thức làm chính ủy, Trần Minh Nhẫn làm tham mưu trưởng, Nguyễn Duy Quý làm chủ nhiệm chính trị. Trung đoàn 92 được giao nhiệm vụ đánh cắt Đèo Nhông, Núi Nùng, cắt đường số 1, đánh địch tháo chạy từ phía bắc, tiến tới diệt quận lị Phù Mỹ, căn cứ Trà Quang, cắt đường Chợ Gồm - Đề Gi, không cho quân địch tháo chạy ra biển.

Lực lượng ở các huyện cùng du kích và nhân dân kết hợp tiến công với nổi dậy, bao vây tiến công quân địch ở địa phương tiến tới tiêu diệt chi khu quận lị, giải phóng toàn huyện.

Chủ trương được biến thành mệnh lệnh cụ thể truyền đạt nhanh chóng đến khắp các đơn vị địa phương.


(1) CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC 1954-1975, NHỮNG SỰ KIỆN QUÂN SỰ, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1980, trang 292, 293.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Bảy, 2012, 06:31:14 am
Bước vào đợt 2 - đợt tiến công giải phóng toàn tỉnh, ở Hoài Nhơn, đêm 24 tháng 3, đại đội 3 và đại đội công binh huyện chuyển lực lượng ra Tam Quan Bắc, diệt chốt Đồi Bồ, thôn Trường Xuân lần thứ hai, cùng quần chúng vây lấn bứt rút các chốt điểm Mõm Cửa, Miễu Phó Vuông, Cẩm Trưởng. Ở Hoài Châu, du kích và nhân dân bức rút các chốt Quy Thuận, Gia An, An Quý, Chương Hòa, bao vây Đồi Chín, Đồi Mười. Đêm 25, địch ở Đồi Chín, Đồi Mười hoảng sợ tháo chạy về phía chi khu Tam Quan, đến Mỹ Lộc bị du kích Hoài Châu phục kích đánh tan rã hai đại đội, thu 22 súng các loại.

Cùng đêm 25 háng 3, tiểu đoàn 53, đại đội 6, đại đội 7 cùng du kích và nhân dân bao vây tiến công các vị trí của hai tiểu đoàn bảo an 215, 234. Sau nột số trận đánh, ta diệt gần hết tiểu đoàn 215 và một bộ phận tiểu đoàn 234. Số còn lại tháo chạy về Đệ Đức. Cũng trong đêm 25, đại đội 2 huyện và du kích phục kích ở Tân Thành, chốt Cầu Mới, Thiện Chánh, tiến công chốt cầu Nghị Trân, chốt Mã A Sầu, diệt gần hết hai đại đội bảo an, dân vệ. Thừa thắng, công binh huyện và du kích Mỹ Lộc bao vây tiến công tiểu đoàn bộ tiểu đoàn bảo an 273, diệt bọn chỉ huy, thu vũ khí. Du kích Tam Quan Bắc cùng 500 quần chúng tiến công binh vận một trung đội bảo an ở chốt Cầu Trung, 23 tên, có một trung úy, một chuẩn úy mang súng trở về với nhân dân.

Chi khu Tam Quan hoàn toàn bị cộ lập. Hơn hai vạn đồng bào địa phương tổ chức bao vây chi khu này không cho địch chạy vào Đệ Đức và ra biển. 21 giờ đêm 26 tháng 3, lực lượng huyện và du kích Tam Quan Bắc nổ súng tiến công. Sau một giờ chiến đấu ta chiếm thị trấn và chi khu, diệt và bắt gần hết bọn còn lại của các tiểu đoàn 264, 273 bảo an, dân vệ và nhân viên ngụy quyền từ ấp đến quận, thu bốn pháo 105, hàng trăm súng các loại, nhiều đạn dược, máy móc, xe cộ. Số địch lẩn trốn bị ta truy lùng, bắt 163 tên, số chạy về phía nam bị các đại đội 6, 7 và du kích các xã Hoài Thanh, Hoài Hảo diệt, bắt hơn phân nửa.

Quận Tam Quan (của địch) hoàn toàn giải phóng lúc 23 giờ ngày 26 tháng 3 năm 1975.

Ở phía nam huyện, cũng trong đêm 25, tiểu đoàn 53 cùng du kích và nhân dân tiến công tiêu diệt, bức rút các chốt Đồi Bà Hóa, Đôi Mít, Đồi 34, trụ sở Hoài Xuân, giải phóng xã Hoài Xuân. Sau đó, tiếp tục giải phóng xã Hoài Hương, Hoài Mỹ. Lúc này, tiểu đoàn 53 được lệnh hành quân về đội hình trung đoàn 92. Lực lượng huyện hình thành vây ép quận lị Bồng Sơn và căn cứ Đệ Đức. Ngày 28 tháng 3, toàn bộ quân địch ở đây rút chạy về phía nam. Phát huy thế tiến công đặc công và công binh huyện đánh địch ở Cầu Dợi, đèo Phủ Cũ, chiếm lĩnh toàn bộ khu vực này.

Toàn bộ huyện Hoài Nhơn được giải phóng lúc 7 giờ ngày 29 tháng 3.

Ở khu vực Phù Mỹ, lúc 4 giờ ngày 27 tháng 3, tiểu đoàn 75 trung đoàn 92 đánh cắt nam Đèo Nhông đến Núi Nùng, chốt giữ một đoạn trên đường số 1 dài hai ki-lô-mét. 6 giờ ngày 27, tiểu đoàn 55 đánh chiếm trụ sở xã Mỹ Lộc, cắt đường số 1 và diệt bọn tàn quân địch từ Hoài Nhơn chạy vào. Đồng bào các xã Mỹ Lộc, Mỹ Lợi, Mỹ Châu nổi dậy bao vây bứt rút các chốt điểm ở phía bắc Phù Mỹ. Toàn bộ bọn địch ở bắc Phù Mỹ và số còn lại của Hoài Nhơn hơn 1.000 tên tháo chạy hỗn loạn về phía nam. Đến Đèo Nhông, chúng bị tiểu đoàn 75 diệt và bắt gần 200 tên, bắn cháy 15 xe, bắt 6 chiếc, thu hơn 200 súng các loại, 40 máy PRC 25. Số địch chạy xuống phía đông bị đồng bào bắt 50 tên.

Cùng thời gian, đồng bào các xã phía nam huyện nổi dậy cùng bộ đội, du kích bao vây các cụm chốt Núi Dứa, Núi Dài, Núi Giầu, Núi Se Sẽ. Địch hoảng hốt tháo chạy. Những cuộc chiến đấu ở nam Phù Mỹ có bộ đội Vĩnh Thạnh tăng cường tham gia. Ngày 29, tiểu đoàn 55 thọc sâu cắt đường số 1 ở nam Trà Quang, tiểu đoàn 53 ép từ Mỹ Hòa xuống, tiểu đoàn 75 từ phía bắc ép vào, hình thành thế bao vây chi khu quận lị Phù Mỹ và căn cứ Trà Quang.

Sáng ngày 30 tháng 3, quân địch ở Phù Mỹ mở đường tháo chạy về phía nam. Lực lượng ta tiến vào chiếm lĩnh quận lị và căn cứ Trà Quang. Huyện Phù Mỹ hoàn toàn giải phóng.

Ở khu vực Phù Cát, từ 26 đến 30 tháng 3, du kích Cát Hanh, Cát Hiệp cùng đại đội công binh huyện đánh ép địch lên đường số 1. Đêm 28, bị đại đội 2 huyện và du kích đánh mạnh, bọn địch ở ba xã Cát Tài, Cát Minh, Cát Khánh bí mật rút chạy. Đại đội 2 tập kích đồn hải quân Đề Gi nhưng địch đã rút chạy, ta thu hai pháo 105, hai cối 81 và toàn bộ vũ khí.

Ngày 30, tiểu đoàn 55 trung đoàn 92 phát triển lên đường số 1 đánh cánh quân địch từ Phù Mỹ chạy vào cụm lại ở Chợ Gồm diệt một số, thu 10 pháo 105, 155, chiếm lĩnh đoạn đường từ Phù Ly vào Chợ Gồm. Đêm 31 tháng 3, một bộ phận lực lượng chủ lực thuộc sư đoàn 968 của Bộ tiến công sân bay Gò Quánh kết hợp với tiểu đoàn 55 đánh ép từ phía bắc, ép quân địch từ Hòa Hội, trường huấn luyện Gò Trạm, chi khu Phù Cát, sân bay Gò Quánh tháo chạy về phía nam. Trung đoàn 92 dùng xe thu được của địch hành quân cùng bộ đội Phù Cát vào chiếm lĩnh các khu vực trên, bắt trên 100 tù binh, thu toàn bộ vũ khí, trang bị, phương tiện chiến tranh.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Bảy, 2012, 06:31:37 am
Ở khu vực Vân Canh, liên tiếp từ ngày 25 đến 30-3, bộ đội huyện cùng với du kích đánh địch trên đường Gò Sau, pháo kích vào quận lị,vây hãm chốt Hòn Lúp, buộc địch phải tháo chạy (có một đại đội bảo an kéo cờ trắng đầu hàng). Quần chúng nổi dậy cùng với bộ đội và du kích chiếm đồn bót, quận lị, truy bắt ác ôn.

Quân khu 5 đang trong cao trào tiến công và nổi dậy. Rung động bởi những đòn tiến công dồn dập áp đảo của các binh đoàn chủ lực, ngày 29 tháng 3, 10 vạn quân ngụy ở Đà Nẵng tan vỡ, tháo chạy. Đà Nẵng - một căn cứ liên hiệp quân sự lớn của Mỹ - ngụy ở miền Nam rơi vào tay quân giải phóng và nhân dân Đà Nẵng. Trên mặt trận đường 19, ngày 21 tháng 3, căn cứ Lai Nghi của sư đoàn 22 ngụy bị sư đoàn Sao Vàng tiêu diệt. bọn địch ở hậu cứ An Sơn rút chạy. Cùng ngày, trung đoàn 95 sư đoàn 968 từ Tây Nguyên thọc xuống tổ chức tiến công cụm trung đoàn 41 ngụy từ Núi Một đến cầu Phú Phong. Quân địch hoảng loạn mạnh tên nào tên ấy chạy. Quận lị Bình Khê thất thủ.

Trong lúc lực lượng chủ lực thực hiện đánh tiêu diệt lớn ở Bình Khê, ở khu vực trọng điểm của tỉnh, đêm 26 rạng 27-3, tiểu đoàn 52 tiến công địch ở Bình Lâm, Kim Tây (Phước Quang) và đại đội 1, tiểu đoàn 50 đánh chiếm Xuân Phương (Phước Sơn) diệt và làm tan rã ba trung đội dân vệ, sau đó bao vây uy hiếp chi khu Gò Bồi. Đêm 29-3, địch ở chi khu Gò Bồi phá trận địa pháo và bỏ chạy.

6 giờ sáng ngày 30, đại đội đặc công Đ30 phục kích vận động diệt 1 trung đội dân vệ tại Tây Định (Phước Hậu). Sau đó liên tục đánh phản kích giữ vững bàn đạp cho ta đưa lực lượng vào giải phóng Quy Nhơn. Lúc 10 giờ ngày 31 tháng 3, tiền phương lệnh cho các huyện nhanh chóng đánh chiếm quận lị, địch ở An Nhơn, Tuy Phước vội rút chạy, một số sĩ quan, công chức ở Quy Nhơn cũng rút chạy và Nha Trang.

Trước thời cơ vô cùng thuận lợi, Thường vụ Tỉnh ủy và Ban chỉ huy tỉnh đội phát lệnh đưa lực lượng vây ép tiến tới tiêu diệt quân địch, giải phóng Quy Nhơn.

Đêm 30 tháng 3, chấp hành mệnh lệnh của Bộ chỉ huy, trung đoàn 93 hành quân triển khai lực lượng, chiếm lĩnh bàn đạp Phước Hậu. 8 giờ ngày 31 tháng 3, Sở chỉ huy tiền phương gồm các đồng chí Vũ Tấn Hạt tỉnh đội trưởng, Đinh Bá Lộc chính trị viên tỉnh đội và Ban chỉ huy trung đoàn 93 họp xác định phương án tiến công Quy Nhơn:

- Tiểu đoàn 52 đánh chiếm bàn đạp khu 5.

- Tiểu đoàn 8 phát triển vào một phần khu 5, chiếm khu 4 và khu 1, liên lạc với đại đội 598 đặc công nước đánh chiếm toàn bộ cảng.

- Tiểu đoàn 50 cùng Đ20, Đ30 liên lạc với biệt động tiến công dinh tỉnh trưởng, khu 2, một phần khu 3, phát triển lên sân bay, chiếm toàn bộ khu 6, liên lạc với tiểu đoàn 405 và tiểu đoàn 51.

- Tiểu đoàn 73 pháo binh hình thành một cụm hỏa lực tại Núi Một, núi Bà Hỏa, bắn phá hoại các mục tiêu, chi viện cho bộ binh và bắn chặn không cho địch thoát ra biển.

Được tin quân ngụy trên đường 19 hoàn toàn tan vỡ đang tháo chạy tán loạn, Sở chỉ huy tiền phương hạ lệnh cho các đơn vị thực hành vận động tiến công trong hành tiến giữa ban ngày.

13 giờ ngày 31, tiểu đoàn 52 tiến đánh Chợ Dinh và khu 5 làm bàn đạp cho trung đoàn tiến đánh thị xã. 15 giờ, tiểu đoàn 8 đánh chiếm Cầu Đôi. Cùng ngày, quân địch ở khu vực Phú Tài, Đá Đen, ngã ba Thanh Long bị tiểu đoàn 405 và tiểu đoàn 19 công binh đánh phải tháo chạy về Quy Nhơn, đến Cầu Đôi bị lực lượng của ta ở đây tiêu diệt gần hết.

Từ bàn đạp khu 5, tiểu đoàn 8, phát triển tiến công vào khu 4, đến nhà thờ Nhọn gặp địch chống trả quyết liệt. Sau 3 giờ chiến đấu, ta đánh chiếm khu vực nhà thờ Nhọn, tiêu diệt một số mới phát hiện đây là bộ tham mưu và hậu phương sư 22 cụm lại. Số còn lại chạy xuống khu 1, nhà tên tướng Ngô Du. Ta phát triển đánh tiếp, đến 6 giờ, quân địch ở đây tan rã. Tiểu đoàn 8 phối hợp cùng với 598 và lực lượng du kích ở Mũi Tấn nổ súng tiến công, chiếm thương cảng và quân cảng Quy Nhơn.

Theo đúng kế hoạch hiệp đồng, 18 giờ ngày 31 tháng 3, đội biệt động Quy Nhơn đánh chiếm dinh tỉnh trưởng, phá nhà lao, giải thoát hơn 1.000 đồng bào, cán bộ và cơ sở của ta bị địch giam giữ. Trong lúc ấy, tiểu đoàn 40 cùng với Đ20, Đ30 (đặc công) và đại đội 2 Phù Cát phát triển đánh chiếm sân bay, tiểu khu Bình Định, liên đoàn 6 công binh, liên đoàn 3 thiết vận và toàn bộ Khu 6. Đại đội 2 tiểu đoàn 50 cùng với đội biệt động Quy Nhơn cắm cờ trên dinh tỉnh trưởng lúc 24 giờ ngày 31-3-1975. Cũng trong thời gian này, tiểu đoàn 405 đánh chiếm núi Bà Hỏa, lầu Bảo Đại; Đ20 đánh chiếm trạm viễn thông (núi Vũng Chua); tiểu đoàn 51 hình thành hai cánh, đánh chiếm vào kho Đèo Son. Đánh chiếm đâu ta cắm cờ đền đó - 6 giờ sáng hôm sau (1-4), cờ giải phóng phất phới tung bay trên khắp các căn cứ, cơ quan, công sở địch.

Tuy vậy cuộc chiến đấu chưa chấm dứt. Theo phán đoán của Sở chỉ huy và các nguồn tin từ phía tây báo về, sư 22 ngụy mới bị đánh tung tóe, bọn ở hậu cứ An Sơn rút chạy từ đường số 6 ra, thiết đoàn 14, một chi đoàn của thiết đoàn 19, số còn loại của các trung đoàn 41, 42, 47, sư bộ 22 và bọn tàn quân các liên đoàn bảo an theo đường 19 chạy xuống. Chúng tập hợp ở cầu Bà Di trên 6.000 tên và 300 xe các loại định xuống Quy Nhơn thoát bằng đường biển.

Các đơn vị được lệnh của Sở chỉ huy tiền phương triển khai đánh địch quyết không để chúng chạy thoát. Để bảo đảm tiêu diệt toàn bộ quân địch mà không ảnh hưởng đến phố phường đông đúc, ta chủ trương phá cầu Sông Ngang và bố trí tiểu đoàn 52 chặn đánh quân địch ở đây buộc chúng phải theo đường Quang Trung nơi có địa hình thuận lợi và dàn sẵn lực lượng tiêu diệt lớn quân địch.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Bảy, 2012, 06:35:31 am
Đúng như dự kiến, quân địch đến cầu Sông Ngang, cậu sập lại bị tiểu đoàn 52 đánh mạnh phải dồn đội hình quay lại đường Quang Trung. Khi toàn bộ đội hình địch đến khu vực Đèo Son - khu 6, lọt vào trận địa phục kích của đại đội 2 (Phù Cát), Đ30, Đ20 nổ súng. Tiểu đoàn 51 vận động theo đường Quang Trung tiến công vào phía sau đội hình địch, diệt một số và bắt sống 1 xe M.113. Chúng quá đông nên vượt qua được khu 2 định thoát ra biển. Nhưng ở đây đã có tiểu đoàn 8, tiểu đoàn 50 cùng thị đội Quy Nhơn bao vây chặn đánh.

Lúc này, ngoài Quy Nhơn có khoảng 30 tàu thuyền địch, chúng đang cho xà lan, bo bo vào bờ để rút bọn này. Lập tức trận địa pháo 105, cối 120 của tiểu đoàn pháo binh 73 dưới sự chỉ huy trực tiếp của đồng chí Trần Văn Tước tiểu đoàn trưởng và đồng chí Võ Hành chủ nhiệm pháo binh tỉnh đội, hỏa lực trợ chiến của các tiểu đoàn 8, 50 dội đạn tới tấp, chính xác vào đoàn tàu của hải quân địch, 13 chiếc chìm tại chỗ, số còn lại bỏ chạy. Cuộc chiến đấu quyết liệt trên bờ kéo dài suốt bảy tiếng đồng hồ. Các đơn vị khép chặt vòng vây, đánh phía trước, chặn phía sau, thọc ngang sườn, vừa đánh vừa gọi địch đầu hàng. Địch rất ngoan cố, tàu biển đón chúng đã bị đánh tan tác, con đường thoát cuối cùng không còn nữa, nhưng chúng chưa hết hi vọng nên vẫn cố sức chống cự đến cùng. Đó là tự chúng mua lấy cái chết nhục nhã. Nhiều trận đánh dữ dội liên tiếp nổ ra. Chúng chạy về phía nào cũng gặp hỏa lực mạnh mẽ của quân ta. Xác xe tăng, xác pháo, xe cộ, súng ống cùng với xác lính ngụy nằm ngổn ngang trên đường phố, vỉa hè, bãi biển. Nhiều xe tăng, xe thiết giáp chạy ào ra biển, chết gục dưới làn nước ngần sóng. Đến lúc chiếc xe bọc thép có tên thiết đoàn trưởng thiết đoàn 14 bị các chiến sĩ B40 bắn nổ tung trước dinh tỉnh trưởng, sức chống cự của địch mới giảm. Và đến 16 giờ ngày 1 tháng 4, tiếng súng mới hoàn toàn chấm dứt.

Trận đánh thắng oanh liệt cuối cùng đã thực sự kết thúc số phận bi thảm của sư đoàn 22 ngụy và bọn địa phương quân đã bao năm làm mưa, làm gió, gây đau thương chết chóc trên mảnh đất này.

Cho đến lúc này cả thị xã là một rừng cờ. Trong buổi hoàng hôn của ngày đầu giải phóng, không còn có thể phân biệt đâu là màu đỏ của cờ hay màu đỏ của hoa giấy và hoa phượng vĩ. Và, làm sao có thể viết hết được những nỗi mừng vui, niềm tự hào, những giây phút xúc động, những tìm cảm thiêng liêng cao quý của đồng bào, chiến sĩ trong những ngày lịch sử này: chỉ biết tất cả như ùn ra, bùng lên, nhưng lại rất lắng đọng, sâu sắc đến cùng.

Những ngày đầu giải phóng biết bao công việc bề bộn: truy quét tàn binh, đăng kí sĩ quan, binh lính ra trình diện, tổ chức bộ máy quân quản, thành lập hệ thống chính quyền các cấp, ổn định đời sống nhân dân v.v… Nhưng công việc không chỉ có vậy. Cuộc chiến đấu trên các chiến trường phía Nam còn đang tiếp diễn. Bình Định cùng các tỉnh giải phóng trước được lệnh chi viện mọi mặt cho cuộc chiến đấu giải phóng hoàn toàn phía Nam, sư đoàn Sao Vàng lại chuẩn bị lên đường tham gia trận quyết chiến chiến lược cuối cùng - chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Tỉnh huy động hàng trăm xe các loại thu được của địch đưa sư đoàn vào mặt trận phía Nam.

Trải qua 35 ngày đêm chiến đấu liên tục từ 6 tháng 3 đến 10 tháng 4, lực lượng vũ trang Bình Định (không tính sư đoàn 3) đã đánh 410 trận, diệt hơn 7.000 tên, vừa bắt, làm tan rã 11.000 tên, tổng cộng đã loại khỏi vòng chiến đấu 26.000 tên, trong đó có 1.290 sĩ quan từ chuẩn úy đến đại tá, thu 19.000 súng các loại, có 46 khẩu pháo 105, 155, thu 191 xe quân sự, có 13 xe M.113, phá hủy 200 xe, có 58 xe bọc thép, 8 pháo 105, bắn chìm 13 tàu thuyền chiến đấu, bắn rơi 8 máy bay lên thẳng, giải phóng toàn tỉnh.

Với thắng lợi của cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 trong tỉnh, Đảng bộ và quân dân Bình Định đã nỗ lực vượt bậc hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của Đảng và chỉ thị, mệnh lệnh của Khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu, Thường vụ Tỉnh ủy và Ban chỉ huy tỉnh đội đã khắc phục mọi khó khăn, tận dụng thời cơ chung, nỗ lực tạo nên thời cơ trực tiếp, phát huy công tác chỉ đạo, chỉ huy, xử trí nhanh chóng nhiều tình huống đặt ra trong chiến đấu. Sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân được phát huy đến mức tối đa, tiến công và nổi dậy được kết hợp chặt chẽ, trong đó lấy tiến công quân sự làm chủ yếu, đánh bại lực lượng quân sự địch.

Trên khu vực tác chiến trọng điểm của tỉnh cũng như các khu vực phối hợp, lực lượng vũ trang gồm các đơn vị tỉnh, huyện và du kích địa phương đã phát huy tinh thần tự lực chiến đấu giải phóng quê hương không ỷ lại vào lực lượng cấp trên. Trong khi đó sư đoàn 3 đảm nhiệm một khu chiến riêng trên đường 19 - có lực lượng tỉnh tham gia, đã thu hút gần như toàn bộ lực lượng chủ lực cơ động của sư đoàn 22 ngụy, là sự nỗ lực trực tiếp hết sức quan trọng, tạo điều kiện cho lực lượng tỉnh hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt địch, giải phóng toàn tỉnh.

Trong chiến đấu, lực lượng vũ trang tỉnh đã nêu cao quyết tâm khắc phục khó khăn, giữ được bí mật, bất ngờ, vận dụng chiến thuật tốt, nổ súng đúng thời gian, đúng mục tiêu, đúng đói thượng, diệt gọn, dứt điểm từng mục tiêu, từng khu vực, liên tục tiến công, phục kích, không ngại gian khổ, thương vong nên đạt hiệu suất chiến đấu cao, hiệu quả chiến dịch lớn. Các đơn vị binh chủng đặc công, công binh, pháo binh đều lập công xuất sắc, đặc biệt là trong trận đánh cuối cùng diệt tàu thuyền địch, pháo binh đã phát huy hiệu suất, hiệu quả chiến đấu lớn.

Thắng lợi Xuân 1975 ở Bình Định không thể không nói đến vai trò hết sức to lớn của các tầng lớp nhân dân trong tỉnh. Vai trò của nhân dân - trong đó vai trò của phụ nữ chiếm địa vị chủ yếu - không phải chỉ trong đấu tranh chính trị, tiến công binh vận, nổi dậy mà trong tất cả mọi lĩnh vực từ tiếp tế hậu cần, bảo đảm chiến đấu, phục vụ chiến đấu đến trực tiếp chiến đấu.

Thắng lợi Xuân 1975 ở Bình định ngoài những yếu tố trên còn phải nói đến một vấn đề cực kì quan trọng là thế tiến công áp đảo cả về chiến dịch và chiến lược của các binh đoàn chủ lực cơ động của Bộ và các chiến trường. Không có chiến dịch Tây Nguyên đại thắng, không có chiến dịch Huế - Đà Nẵng, cao trào tiến công và nổi dậy trên toàn miền, trực tiếp là các tỉnh bạn Quảng Ngãi, Phú Yên, v.v… thì quân dân Bình định không thể thu được thắng lợi như thực tế đã diễn ra. Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu trong từng thời điểm chiến dịch cũng là một yếu tố không thể thiếu được để giành thắng lợi.

Thắng lợi của tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 ở Bình Định là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố tạo thành. Nó vừa là quan điểm, nguyên tắc, vừa là thực tế sinh động trong cuộc chiến tranh nhân dân Việt Nam vô địch dưới sự lãnh đạo của Đảng.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Bảy, 2012, 06:37:58 am
(http://farm9.staticflickr.com/8018/7586528022_397fdd85d0_b.jpg)

Dân công Bình Định mở đường phục vụ chiến dịch Xuân 1975

(http://farm9.staticflickr.com/8155/7586528252_1eaedc3995_b.jpg)

Bộ đội Trung đoàn 93 vượt Cầu Đôi đánh chiếm thị xã Quy Nhơn trong chiến dịch tổng tiến công Xuân 1975

(http://farm9.staticflickr.com/8153/7586528486_9abdcbce95_b.jpg)

Tiểu đoàn bộ binh 50 Bình Định tiến công dinh tỉnh trưởng trong chiến dịch Xuân 1975

(http://farm9.staticflickr.com/8168/7586526372_23078e76c6_b.jpg)

Xe tăng và xác lính ngụy trên bờ biển Quy Nhơn 1975


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Bảy, 2012, 06:39:03 am
DIỄN BIẾN CHIẾN DỊCH XUÂN 1975 (TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY)

(http://farm9.staticflickr.com/8005/7586526766_8014d999c8_b.jpg)


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Bảy, 2012, 06:40:00 am
Chương IX

KÉT LUẬN

Từ thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến mùa xuân đại thắng 1975, nhân dân Bình Định đã trải qua chặng đường chiến đấu 30 năm bền bỉ, gian lao và vô cùng anh dũng. Nhân dân Bình Định đã góp phần cùng nhân dân toàn miền và cả nước đem lá cờ trăm trận trăm thắng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến đích cuối cùng, kết thúc toàn thắng cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước có một không hai trong lịch sử, mở ra kỉ nguyên mới - kỉ nguyên độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc và tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Dưới sự lãnh đạo đúng đắn, tài giỏi của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, trong 30 năm qua, cách mạng Việt Nam đã giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Nhân dân Bình Định vô cùng tự hào là người con của đất nước được sống trong một thời đại đầy bão tố cách mạng và thắng lợi oanh liệt - thời đại Hồ Chí Minh.

Là một trong những tỉnh lớn ở miền Trung Trung Bộ, đông dân, có thế mạnh về nông nghiệp từ lâu đời, có rừng núi hiểm trở rất thuận lợi cho việc lập căn cứ kháng chiến, có thành phố cảng Quy Nhơn, có sân bay hiện đại nối liền với Tây Nguyên bằng đường chiến lược số 19, nối với các tỉnh đồng bằng bằng đường sắt Việt và quốc lộ 1… Bình Định là một tỉnh có vị trí chiến lược cả về kinh tế và quốc phòng. Những thế núi hiểm trở từ đèo An Khê kéo dài ra Vĩnh Thạnh - An Lão, phía đông dọc theo đường 19 đến Vân Canh - đèo Cù Mông, núi Bà Hỏa, bán đảo Phương Mai án ngữ Quy Nhơn ra Núi Bà Phù Cát… chẳng những có giá trị về chiến thuật, chiến dịch cực kì quan trọng mà cả về chiến lược trong cuộc chiến đấu lâu dài từ thời Nguyễn Huệ, Mai Xuân Thưởng trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.

Nằm trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, Bình Định là mảnh đất mang truyền thống thượng võ và quật khởi, truyền thống đoàn kết chống giặc cứu nước từ lâu đời. Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn cùng với những chiến công hiển hách của đội quân Tây Sơn dưới sự chỉ huy thiên tài của Nguyễn Huệ đánh tan quân Trịnh, Nguyễn, tiêu diệt những đội quân lớn của Xiêm, Thanh, thống nhất đất nước là một trong những biểu hiện rực rỡ của truyền thống thượng võ, quật khởi, đoàn kết chống giặc của nhân dân Bình Định dưới thời phong kiến. Đến khi có Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam, truyền thống quý báu đó càng được giữ gìn và nhân lên gấp bội.

Từ những yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”, chiến trường Bình Định là địa bàn vừa thuận lợi cho chiến tranh du kích phát triển vừa thuận lợi cho tác chiến tập trung của các binh đoàn chủ lực.

Và chính cũng từ vị trí chiến lược, đặc điểm của địa bàn mà hết Pháp đến Mỹ, Bình Định luôn là mục tiêu trọng điểm tiến công đánh chiếm và “bình định” của quân giặc cướp nước.

Trong kháng chiến chống Pháp, Bình Định là một trong những tỉnh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ xây dựng hành quân chiến lược trực tiếp, cung cấp sức người, sức của cho cuộc kháng chiến ở Liên khu 5 và chiến đấu bảo vệ vững chắc vùng tự do với những trận nổi tiếng đánh quân địch nhảy dù ở Phù Ly - Chợ Gồm, đổ bộ ở Tam Quan - Chợ Cát và vùng giáp ranh An Khê.

Trong kháng chiến chống Mỹ, từ những năm đầu đen tối của cuộc “chiến tranh một phía” dưới chế đội Mỹ - Diệm, quân dân Bình Định đã vùng lên quật khởi với cuộc vũ trang khởi nghĩa của đồng bào Ba Na - Vĩnh Thạnh, tiến lên cùng quân dân toàn miền đánh bại các chiến lược “chiến tranh đặc biệt”,”chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam hóa chiến tranh”, làm cho Mỹ phải cút, ngụy phải nhào. Cuộc vũ trang khởi nghĩa ở Vĩnh Thạnh có giá trị như một ngòi nổ đầu tiên trên các vùng miền núi ở miền Nam Trung Bộ về phát động đấu tranh vũ trang trên quy mô toàn huyện trước khi có Nghị quyết Trung ương lần thứ 15, cuộc chiến đấu chống Mỹ cực kì ác liệt và gian khổ, là sự thử thách cao nhất đối với quân dân Bình Định trên tất cả các bình diện. Và, chính từ trong gian khổ, ác liệt, đã nảy nở những phẩm chất quý giá và cao đẹp tiềm tàng trong mỗi đảng viên, cán bộ, chiến sĩ, mỗi người dân Bình Định. Trong cuộc chiến đấu một mất một còn với kẻ thù dân tộc và giai cấp, bản chất anh hùng của dân tộc Việt Nam được thể hiện rõ nét ở mỗi người dân Bình Định.

Câu nói “Ra ngõ gặp anh hùng” là có cơ sở thực tiễn từ bản chất và hành động anh hùng của nhân dân Bình Định - cũng như trên toàn miền Nam và cả nước - những anh hùng có tên và biết bao anh hùng không tên đã ngã xuống hoặc đang tiếp tục chiến đấu cho sự nghiệp cách mạng của Tổ quốc.

Thắng lợi của cuộc chiến tranh nhân dân 30 năm trên địa bàn tỉnh Bình Định cũng như ở nhiều tỉnh khác trên toàn miền Nam là thắng lợi tổng hợp của nhiều yếu tố tạo thành, bắt nguồn từ đường lối chiến lược, sự chỉ đạo về phương châm, phương pháp cách mạng đúng đắn và sáng tạo của Đảng, kết hợp sức mạnh của dân tộc được phát huy cao độ với sức mạnh của thời đại trong cuộc chiến tranh nhân dân vô địch mang đầy đủ bản sắc và tính cách Việt Nam. Xuất phát từ vị trí, đặc điểm của địa bàn, từ âm mưu, hành động cụ thể của địch, từ phong trào cách mạng và hoạt động, tác chiến của quân dân trong tỉnh qua các giai đoạn, trong những kinh nghiệm đúc kết được trên nhiều mặt, Đảng bộ và quân dân Bình Định nhận thức được một số vấn đề có giá trị chỉ đạo sâu sắc dưới đây, coi đó là những kinh nghiệm lớn, những bài học quý báu dẫn tới thắng lợi trong chiến tranh.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Bảy, 2012, 06:40:52 am
Đường lối cách mạng, đường lối quân sự của Đảng là kim chỉ nam, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi trong chiến tranh. Nhưng đường lối chỉ có hiệu quả và phát huy sức mạnh thực sự khi nó được vận dụng đúng đắn và sáng tạo sát với tình hình địa phương, được tổ chức thực hiện một cách tích cực và kiên định. Qua 30 năm chiến tranh, các thế hệ Tỉnh ủy và Đảng bộ từ nhận rõ vị trí đặc điểm của địa bàn đã phát huy thế mạnh về truyền thống đoàn kết đấu tranh, tinh thần thượng võ và quật khởi của nhân dân trong việc vận dụng đường lối chiến lược của Đảng, phát động tổ chức cuộc chiến tranh toàn dân trên địa bàn tỉnh.

Việt Nam đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ chính là do nhân dân ta đã vận dụng một cách đúng đắn và kiên định đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng. Đề ra đường lối chiến tranh nhân dân chính là Đảng ta đã căn cứ vào những yếu tố, những điều kiện của đất nước ta, dân tộc ta trước một kẻ địch mà lực lượng quân sự của chúng hơn ta gấp bội.

Ở Bình Định, dựa vào vị trí, đặc điểm của địa bàn, những thế mạnh trên các mặt về chính trị, truyền thống, địa bàn hoạt động quân sự, về nền kinh tế nông nghiệp phong phú - cơ sở để tiến hành chiến tranh nhân dân - cấp ủy tỉnh đã phát huy những yếu tố đó, phát động thành công cuộc chiến tranh toàn dân trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Suốt hai cuộc kháng chiến, tính chất toàn dân trong chiến tranh thể hiện chẳng những rất rõ nét mà còn diễn ra vô cùng sinh động và phong phú trên khắp cá địa bàn tỉnh.

Trên cơ sở lòng yêu nước nồng nàn, khát khao độc lập, tự do, sau thắng lợi cách mạng tháng Tám, người dân Bình Định nhận thức sâu sắc chỉ có Đảng mới đem lại được quyền lợi cho họ. Theo tiếng gọi của Đảng và Bác Hồ, toàn dân đã đứng lên tham gia chống giặc. Chiến tranh toàn dân chỉ có thể thực hiện được khi nhân dân có trình độ giác ngộ dân tộc và giai cấp cao, đoàn kết thành một khối vững chắc, lấy liên minh công nông làm nòng cốt, được tổ chức, chỉ đạo chặt chẽ dưới sự lãnh đạo của Đảng.

30 năm qua, biết bao tấm gương hi sinh chiến đấu quên mình của các tầng lớp nhân dân diễn ra hằng ngày trên mảnh đất này mà lịch sử không thể nào ghi hết được. Chưa nói đến lực lượng vũ trang là con em ruột thịt của nhân dân, từ nhân dân mà hình thành, chỉ nói ở góc độ người dân, cả ở vùng giải phóng và vùng địch tạm thời kiểm soát, cả người Kinh và người Thượng từ cụ già, các mẹ, các chị đến thanh thiếu niên… Tuyệt đại bộ phận đều tập trung được thành tích xuất sắc trong cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc: Tham gia du kích trực tiếp cầm vũ khí chiến đấu, tay không đấu tranh trực diện với súng đạn của kẻ thù, tay không mà hạ được đồn bót giặc; diệt ác ôn, đi dân công tiếp vận; xây dựng công sự, làng chiến đấu, chắt chiu từng hạt gạo, củ khoai nuôi dưỡng bộ đội, chăm sóc thương bệnh binh v.v… Không có việc gì trong chiến tranh mà nhân dân không tham gia. Có trường hợp một trung đội địa phương ở xã Hoài Thanh bị bom B57 đánh thương vong nặng. Sáng hôm sau các cụ, các mẹ đưa ngay con em mình tới đề nghị thành lập trung đội mới để có lực lượng nòng cốt tiếp tục chiến đấu. Cao quý biết bao những người cha, người mẹ đã không hề tính toán đối với cách mạng. Nhân dân Bình Định là như vậy! Điều này hết sức vĩ đại và quan trọng. Nhân dân vừa là lực lượng cụ thể trong từng trận đánh, từng cuộc đấu tranh, vừa là nguồn bổ sung vô tận cho lực lượng vũ trang. Không phát động được chiến tranh toàn dân thì lực lượng vũ trang không thể mạnh. Cái độc đáo nhát, tài giỏi nhất của Đảng ta nói chung, đảng bộ Bình Định nói riêng là đã phát động được cuộc chiến tranh toàn dân. Khi toàn dân triệu người như một, đứng lên trực tiếp tham gia chiến đấu thì không một lực lượng tàn bạo nào có thể đánh bại được. Điều này đã trở thành chân lí. Kẻ thù của dân tộc không thể nào hiểu được và chúng không thể có quan điểm và khả năng để hiểu điều này. Trong chiến tranh, chúng chủ yếu căn cứ vào số lượng quân đội hai bên và trình độ trang bị, vũ khí để tính toán.

Suốt 30 năm, trên dải đất Bình Định, nhất là trong chống Mỹ, không lúc nào số lượng lực lượng vũ trang ta bằng số lượng lực lượng địch. Trang bị, vũ khí kém chúng rất xa. Có thể lấy một số dẫn chứng - lúc mà lực lượng vũ trang tỉnh đã lớn mạnh - vào thời điểu cuối 1965 đầu 1966: Địch có sư đoàn “không vận” số 1 Mỹ, sư đoàn “Manh Hổ” Nam Triều Tiên, sư đoàn 22 ngụy và hàng vạn bảo an, dân vệ, chưa nói đến các binh chủng kĩ thuật và phương tiện chiến tranh. Tỉnh chỉ có hai tiểu đoàn 50 và 52, mỗi huyện đồng bằng có một đại đội, huyện miền núi có hai trung đội, du kích toàn tỉnh chưa được hai ngàn, sư đoàn Sao Vàng chủ lực Quân khu đang trong quá trình thành lập (phụ trách Bình Định và Quảng Ngãi). Quân số đơn vị địch đầy đủ theo biên chế chính quy, quân số ta trong một đại đội chỉ có 30-40 tay súng, tiểu đoàn chỉ hơn 100. Nếu tính theo kiểu của địch thì chúng thôn tính tỉnh Bình Định từ lâu rồi.

Địch gây cho ta nhiều khó khăn rất lớn, chiến tranh kéo dài, nhưng cuối cùng chiến tranh nhân dân ở Bình Định đã thắng.

Ở Bình Định, cuộc chiến tranh toàn dân đã diễn ra toàn diện trên tất cả các mặt quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội với tinh thần tự lực, tự cường cao. Dựa vào thế mạnh của nền nông nghiệp, cấp ủy và Đảng bộ không lúc nào ngừng lãnh đạo phong trào tự túc, tự cấp, điều đó đã thực hiện thành công chẳng những trong kháng chiến chống Pháp mà cả trong kháng chiến chống Mỹ.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Bảy, 2012, 06:43:10 am
Chiến tranh nhân dân là hình thức cao nhất của bạo lực cách mạng. Để tiến hành chiến tranh nhân dân thắng lợi, cấp ủy và Đảng bộ luôn luôn nắm vững quan điểm bạo lực cách mạng, từng bước xây dựng thực lực lớn mạnh, bao gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc trên ba vùng chiến lược, thực hiện ba mũi giáp công, giành thắng lợi từng bước, tiến tới đánh bại hoàn toàn quân địch.

Để tiến công đánh chiếm tỉnh Bình Định, địch dùng bạo lực phản cách mạng với cả một bộ máy ngụy quân, ngụy quyền, công an mật vụ, tình báo, cả quân sự và chính trị để đánh vào nhân dân. Tất nhiên ta phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại. Quan điểm bạo lực cách mạng là quan điểm cơ bản xuyên suốt của Đảng ta trong đấu tranh cách mạng và tiến hành chiến tranh giải phóng. Nơi nào, lúc nào lơ là hoặc buông lỏng bạo lực cách mạng thì nơi đó gặp khó khăn, thậm chí thất bại.

Bạo lực gồm bạo lực cách mạng lực chính trị của quần chúng và lực lượng vũ trang với hai hình thức đấu tranh là đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang.

Nắm vững những vấn đề then chốt về xây dựng thực lực cách mạng, cấp ủy và Đảng bộ không ngừng chăm lo giáo dục tinh thần yêu nước, xây dựng khối đoàn kết toàn dân, làm cho nhân dân nhận rõ tình hình, nhiệm vụ cách mạng, trên cơ sơ đó mà thành công lãnh đạo quần chúng đấu tranh với địch từ thấp đến cao. Trong kháng chiến chống Mỹ, Bình Định là nơi có phong trào đấu tranh chính trị rất mạnh, chẳng những đối với nguy quân, ngụy quyền mà cả đối với quân Mỹ và quân Nam Triều Tiên. Từ phong trào đấu tranh đòi địch thi hành hiệp định, đòi dân sinh, dân chủ đã tiến lên đấu tranh cản đầu xe không cho địch càn vào tàn phá xóm làng, cày ủi hoa màu. Một hình thức đấu tranh cao hơn, đạt hiệu quả lớn là quần chúng tiến hành bao vây đồn bót, đấu tranh trực diện, kết hợp với binh vận buộc địch bức rút nhiều đồn bót trong tỉnh. Trong nhiều trường hợp, kết hợp với tác chiến của bộ đội và du kích, mũi đấu tranh chính trị của quần chúng xuất hiện đúng lúc có giá trị như một mũi vu hồi của trận đánh làm quân địch tan rã… Cùng với tiến công quân sự và chính trị, Đảng bộ Bình Định luôn chú trọng lãnh đạo nhân dân toàn tỉnh tiến công địch bằng binh vận và mũi tiến công binh vận đã góp phần xứng đáng vào thắng lợi của từng trận đánh, từng chiến dịch đã làm cho hàng chục đơn vị địch làm binh biến, hàng ngàn binh lính địch bỏ ngũ trở về với nhân dân.

Lực lượng đấu tranh chính trị và binh vận được tổ chức thành từng đội chặt chẽ, có lãnh đạo, chỉ huy. Trong một cuộc đấu tranh có nhiều phương án như một trận chiến đấu thực sự, có lực lượng chủ yếu, thứ yếu, lực lượng dự bị, trong đó vai trò của các mẹ, các chị chiếm địa vị chủ yếu. Quân địch rất sợ các “đội quân tóc dài” này.

Nhiều lúc chúng đuối lí lẽ, nổ súng đàn áp, nhưng càn đàn áp, quần chúng đấu tranh càng mạnh, không một ai lùi bước trước súng đạn của quân thù. Chúng phải chịu thua, chấp nhận yêu sách. Chúng đã nói: “Chừng nào chưa đánh quỵ được đòn tiến công quân sự thì chưa dẹp được mũi chính trị của đàn bà, con gái này!”. Nhưng sức mấy mà chúng đánh quỵ được những đòn tiến công thiên biến vạn hóa của bộ đội và du kích,. Ba mũi chính trị, vũ trang và binh vận kết hợp nhau, đan cài nhau như ba mũi tên lúc nào cũng chọn chỗ hiểm, chỗ yếu nhất của địch mà lao tới.

Đấu tranh trị và binh vận của quần chúng với kẻ thù tàn bạo, khát máu, là nét đặc trưng độc đáo của chiến tranh nhân dân ở Bình Định.

Trên cơ sở phát động cuộc chiến tranh toàn dân, lực lượng chính trị lớn mạnh, cấp ủy và Đảng bộ không ngừng chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang. Ý thức xây dựng mỗi người dân là một chiến sĩ được Đảng bộ đặt ra một cách nghiêm túc. Một thanh thiếu niên nhập ngũ là chiến đấu được ngay, vì họ đã là chiến sĩ khi chưa gia nhập bộ đội. Những năm đầu, ràng buộc bởi Hiệp định Giơ-ne-vơ, nhân dân Bình Định tay không đương đầu với giặc trong những chiến dịch tàn sát đẫm máu. Tình thế đó được chấm dứt khi cuộc vũ trang khởi nghĩa của đồng bào Ba Na ở Vĩnh Thạnh nổ ra, nhất là sau Nghị quyết Trung ương lần thứ 15. Từ một tiểu đội ban đầu, Tỉnh ủy chủ trương nhanh chóng phát triển thành trung đội, đại đội rồi tiểu đoàn tập trung, các huyện từ một - hai trung đội đã tiến lên tổ chức đại đội. Các xã có tiểu đội, trung đội du kích. Cho đến năm 1975, tỉnh đã có hai trung đoàn tập trung, các đơn vị binh chủng kĩ thuật, mỗi huyện có từ một đến ba đại đội v.v… Tuy số lượng là quan trọng nhưng điều muốn nói ở đây là chất lượng và hiệu quả chiến đấu.

Được giáo dục và rèn luyện từng bước theo phương châm vừa xây dựng vừa chiến đấu, xây dựng trong chiến đấu, lấy chiến đấu làm mục tiêu xây dựng, cả ba thứ quân gồm bộ đội tỉnh, bộ đội huyện và dân quân du kích đều trưởng thành nhanh chóng, đánh độc lập tốt, đánh phối hợp với chủ lực tốt, kết họp tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng, thực hiện tiêu diệt địch để giành quyền làm chủ, giành quyền làm chủ để tiêu diệt địch được coi là nhiệm vụ chính trị thường xuyên. Điểm thành công nổi bật trong chỉ đạo tác chiến trên chiến trường Bình Định là đã chỉ đạo, chỉ huy thống nhất các lực lượng, giữa chủ lực Quân khu với lực lượng vũ trang tỉnh, tạo nên sự phối hợp tuyệt đẹp trong tất cả các chiến dịch, các đợt hoạt động. Trong từng thời điểm, lực lượng chủ lực Quân khu đã chiến đấu, kìm chân, thu hút chủ lực địch cho lực lượng vũ trang tỉnh mở mảng, mở vùng. Ngược lại, lực lượng vũ trang tỉnh đã sáng tạo ra hình thức chiến dịch mới “Chiến dịch tiến công tổng hợp của địa phương”(1) từ Thu - Đông năm 1961, các lực lượng vũ trang tỉnh Bình Định chiến đấu liên tục tạo thế chiến trường, giữ địa bàn, tạo điều kiện chủ lực Quân khu đánh lớn. Trong nhiều trường hợp, nhờ hoạt động tập trung liên tục của lực lượng địa phương, làm quân địch không phán đoán được hướng tiến công chính, tạo thuận lợi cho chủ lực Quân khu tiêu diệt lớn quân địch.

Lực lượng vũ trang tỉnh thường xuyên được giáo dục và quán triệt ý thức tự lực tự cường, tự mình chiến đấu giải phóng quê hương; sự phối hợp chiến đấu của chủ lực Quân khu là hết sức quan trọng nhưng không được ỷ lại.

Trong chiến đấu, du kích xã vừa đánh lẻ tẻ đã tiến lên diệt gọn chốt điểm cỡ trung đội địch, dựa vào làng chiến đấu đánh phản kích tốt. Bộ đội huyện thành tạo đánh phục kích, tập kích bí mật, đánh chốt điểm đã tiến lên diệt gọn từng đại đội địch ngoài công sự. Bộ đội tỉnh thành thạo chiến thuật tiến công kết hợp chốt, tập kích hiệp đồng binh chủng, xung hỏa lực kết hợp, nhất là bao vây tiến công đánh lấn, đạt hiệu suất chiến đấu cao. Các lực lượng vũ trang Bình Định đã trực tiếp đánh thắng tất cả các đối tượng tác chiến, như Mỹ, ngụy (kể cả quân chủ lực và chư hầu (Nam Triều Tiên). Đã có trận một tiểu đoàn tỉnh diệt một tiểu đoàn cộng hòa (đông Phù Mỹ, 1974), hoặc diệt gọn một đại đội Nam Triều Tiên (trận Nho Lâm - 25-8-1972) hoặc diệt một đại đội Tân Tây Lan - ở Tây Định trong Tết Mậu Thân 1968.


(1) Theo CHIẾN TRANH DU KÍCH TRÊN CHIẾN TRƯỜNG BÌNH ĐỊNH.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Bảy, 2012, 06:45:24 am
Dựa vào giá trị chiến thuật, chiến dịch của từng địa bàn, Thường vụ Tỉnh ủy và Ban chỉ huy tỉnh đội căn cứ vào tình hình địch và yêu cầu nhiệm vụ từng thời gian đã bố trí được thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc trên cả ba vùng chiến lược. Đặc công, trinh sát, công binh bám sát các hậu cứ, bến cảng, đường 19 và số 1. Bộ đội huyện và du kích trụ bám cùng nhân dân đánh địch càn quét. Bộ đội tỉnh cơ động tiêu diệt địch, hỗ trợ phong trào chiến tranh du kích ở những trọng điểm. Đồng thời vừa đảm nhiệm một hướng hoặc tham gia trực tiếp vào các chiến dịch tiến công tổng hợp, hoặc độc lập tác chiến mở những chiến dịch tiến công của địa phương theo chỉ đạo của Quân khu và Tỉnh ủy. Một thành công lớn ở Bình Định là đã tổ chức thành công chiến dịch tiến công tổng hợp và chiến dịch tiến công của địa phương, huy động mọi lực lượng, kết hợp từng quả đấm nhỏ, vừa và lớn đều khắp, thực hành hai chân, ba mũi giáp công, đạt hiệu quả lớn như chiến dịch tiến công tổng hợp Đông - Xuân 1964-1965, Xuân - Hè 1972, Hè Thu 1974 và Xuân 1975.

Nắm vững bạo lực cách mạng với hai lực lượng, hai hình thức đấu tranh, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc trên cả ba vùng chiến lược, thực hành ba mũi giáp công là những vấn đề cơ bản dẫn tới đánh bại lực lượng quân sự địch.

Trong âm mưu tiến hành chiến tranh xâm lược thực dân mới ở nước ta, Mỹ - ngụy dồn sức thực hiện “chương trình bình định”, coi đó là “quốc sách” đánh bại chiến tranh du kích của nhân dân ta. Nhận rõ âm mưu nham hiểm của Mỹ - ngụy, Tỉnh ủy và Đảng bộ ra sức đánh bại mọi chương trình, kế hoạch “bình định” của địch, coi đây là nhiệm vụ trung tâm trước mắt và lâu dài của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, thực hiện giành dân, giành quyền làm chủ, giành sức người, sức của, địa bàn hoạt động để tiến hành chiến tranh.

Tiến hành “bình định” là một âm mưu cực kì nham hiểm của Mĩ - ngụy. chúng cho rằng dưới ảnh hưởng của Cộng sản trong bao năm, nhân dân không dễ gì đứng về phía chúng, dù chúng có đánh chiếm được đất đai, dù có ngụy trang, mị dân dưới hình thức nào. Mà không chiếm được dân, không chiếm được lòng dân thì Cộng sản vẫn có cơ sở để phát động “chiến tranh nổi dậy” chống lại chúng.

Từ đầu năm 1962, Diệm - Nhu đã dốc bao công sức, mời chuyên gia nước ngoài để lập kế hoạch “bình định”. Chúng tổng hợp kinh nghiệm tổ chức đại xã ở Đông Quan, Bùi Chu - Phát Diệm của Đờ Li-na-rét, Lê Hữu Từ, Hoàng Huỳnh, kinh nghiệm xây dựng ấp tự vệ ở Ma-lai-xi-a, nông trang Do Thái ở I-xra-en, giao cho tên Nguyễn Lạc Hóa linh mục phản động người Hoa tổ chức thí điểm ở Hải Yến, Vị Thanh, Hỏa Lựu (Tây Nam Bộ). Sau đó, chúng tuyên bố thực hiện “quốc sách ấp chiến lược” trên toàn miền Nam, “ấp chiến lược là thiên đường của quốc gia”. Nhưng dù chúng tuyên truyền thế nào, “ấp chiến lược” vẫn là “địa ngục trần gian” đối với những người dân Bình Định. “Bình định” và “ấp chiến lược” không có gì khác hơn là thực hiện âm mưu giành dân, tách dân ra khỏi cách mạng, vô hiệu hóa, tiến tới phản động hóa đến từng người, đánh vào hạ tầng cơ sở của cách mạng. Sau Xuân Mậu Thân, Mỹ - ngụy coi “ấp chiến lược” là vấn đề chủ chốt hàng đầu, “là xương sống của chiến lược Việt Nam hóa, “bình định” thắng lợi hay thất bại, về lâu dài quyết định số phận của Nam Việt Nam”… Tỉnh Bình Định suốt cả các thời kì đều là một trong những trọng điểm “bình định” của Mỹ - ngụy.

Ngay từ đầu được sự lãnh đạo của trên, cấp ủy và Đảng bộ Bình Định đã nhận thấy được âm mưu hiểm độc và lâu dài của “ấp chiến lược”, quyết định cho sự sống còn của Mỹ - ngụy, đồng thời cũng quyết định sự thành công hay thất bại của phong trào cách mạng. Tiến hành “bình định” đối với địch, thực chất là một chiến tranh giành dân. Đối với phong trào cách mạng Bình Định, mất dân là mất tất cả. Có dân là có tất cả, có dân mới xây dựng được lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang mạnh, mới tiến hành đấu tranh hai chân, ba mũi, mới có chỗ đứng chân và địa bàn hoạt động, mới có nguồn bổ sung lực lượng vũ trang, bảo đảm tiếp tế hậu cần tại chỗ, v.v…

Để đánh bại chương trình “bình định” một cách cơ bản, cấp ủy chủ trương trước hết quần chúng phải được giáo dục, giác ngộ cách mạng, phải có cơ sở chính trị mạnh trong dân. Xây dựng cơ sở chính trị, tỉnh chủ trương xây dựng, phát triển du kích và du kích mật, xây dựng làng chiến đấu, phản kích đánh bại các cuộc càn quét, kết hợp với đấu tranh chính trị, không cho địch xúc tát dân, kiên quyết trụ bám quê hương. “Một tấc không đi, một li không rời”. Dân bị lùa vào ấp, nhiều trường hợp ta chủ trương để cán bộ, du kích mật, cả đảng viên vào ấp phát động đấu tranh, kết hợp tiến công quân sự diệt ác với nổi dậy phá bung về làng cũ.

Trong công cuộc phá ấp, giành dân, giành quyền làm chủ ở Bình Định, diệt ác ôn là một yêu cầu bức xúc và cơ bản. Bọn ác ôn bao gồm bọn tề xã, tề ấp, cảnh sát, bọn “bình định”, “phượng hoàng”, tình báo, mật vụ, chỉ điểm… Bọn này rất nguy hiểm trong việc dò tìm, phát hiện cơ sở chính trị, cơ sở du kích mật, đánh phá hạ tầng cơ sở của ta. Từ xác định đó, tỉnh phát động một phong trào diệt ác ôn trong toàn tỉnh. Các đội diệt ác ôn, đội “Chim Én”, “Quyết tử” được thành lập, dựa vào tai mắt của nhân dân hoạt động với nhiều mưu trí, sáng tạo ở khắp các xã, huyện. Từ các em thiếu niên, các cụ phụ lão, đến du kích xã, bộ đội huyện, tỉnh, an ninh, đặc công, cả bộ đội chủ lực đều tham gia lùng diệt ác ôn. Ác ôn bị diệt, địch run sợ co lại, ta phá ấp, đưa dân trở về.

Trong chiến đấu, lực lượng vũ trang luôn luôn gắn chặt nhiệm vụ tiêu diệt địch với giành giữ dân, giành quyền làm chủ. Tác chiến thắng lợi mà để mất dân coi như không hoàn thành nhiệm vụ.

Địch xây dựng “ấp chiến lược” đến đâu, ta phá đến đó. Địch tiếp tục xây, ta tiếp tục phá. Xây ấp và phá ấp, “bình định” và chống phá “bình định” diễn đi diễn lại theo quy luật ừ năm này sang năm khác hết sức quyết liệt theo xu thế số ấp, số khu dồn bị phá ngày càng nhiều, số ấp, số khu dồn địch lập lại ngày càng ít cho đến ngày cách mạng toàn thắng.

Vấn đề được nhận thức sâu sắc trong phá ấp, giành dân, giành quyền làm chủ, đánh bại âm mưu “bình định” của địch là vai trò của nhân dân, sự giác ngộ cách mạng của quần chúng, từ đó mà xây dựng cơ sở chính trị mạnh, lực lượng chính trị, vũ trang mạnh. Dù hành động quân sự tàn bạo đến mấy, âm mưu, thủ đoạn chính trị xảo quyệt đến đâu, cuối cùng kẻ địch cũng phải chịu thất bại trước sức mạnh của quần chúng nhân dân. Ai đàn áp quần chúng kẻ ấy sẽ sụp đổ.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Bảy, 2012, 06:47:54 am
Xây dựng căn cứ địa, xây dựng hậu phương tại chỗ là một nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi của chiến tranh. Nắm vững quan điểm đó, cấp ủy tỉnh không ngừng ra sức xây dựng căn cứ địa vững mạnh, trước hết là ở miền núi sau đó phát triển xuống đồng bằng. Xây dựng căn cứ địa - hậu phương tại chỗ được coi là một nhiệm vụ chiến lược xuyên suốt để giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến.

Tiến hành chiến tranh nhân dân, trước hết, phải có địa bàn đứng chân của các cơ quan lãnh đạo, chỉ huy, nơi xây dựng huấn luyện lực lượng vũ trang tập trung, có cơ sở vật chất bảo đảm cho các lực lượng, phải có tiềm lực quân sự và kinh tế. Địa hình nước ta dài và hẹp, trong chiến tranh dễ bị chia cắt, hậu phương chiến lược ở xa, do đó, việc xây dựng căn cứ địa - hậu phương tại chỗ càng trở nên quan trọng, bức thiết.

Trong kháng chiến chống Pháp, cả tỉnh Bình Định là vùng tự do, là hậu phương chiến lược trực tiếp của cuộc kháng chiến ở Trung Trung Bộ. Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy và Đảng bộ, quân dân Bình Định đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ xây dựng hậu phương vững mạnh bảo đảm mọi mặt cho cuộc kháng chiến trong tỉnh và chi viện cho các tỉnh bạn trong Liên khu với tinh thần tự túc, tự cấp, tự lực, tự cường. Nếu Liên khu 5 là nơi xây dựng được truyền thống tự túc, tự cấp về mọi mặt để kháng chiến thắng lợi thì Bình Định là một trong những tỉnh đóng góp quan trọng.

Song song với việc xây dựng hậu phương vững mạnh, quân dân Bình Định đã hoàn thành tốt nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ vùng tự do của Liên khu 5. Hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ hậu phương được đặt song song, tích cực trong mối quan hệ hữu cơ, gắn bó lẫn nhau.

Sau năm 1954, toàn tỉnh nằm trong sự quản lí của đối phương. Trong tình hình của cuộc đấu tranh mới, kẻ thù mới, dựa vào sự chỉ đạo của Bộ chính trị và Khu ủy, ngay từ năm 1956, Tỉnh ủy đã ra Nghị quyết về xây dựng căn cứ địa miền núi, làm chỗ đứng chân mở rộng địa bàn.

Dựa vào thế hiểm của núi rừng, các căn cứ địa bàn miền núi ở Vĩnh Thạnh, An Lão, Vân Canh được hình thành. Các căn cứ địa miền núi, nhất là căn cứ Vĩnh Thạnh, có thể đứng rất vững chắc. Núi rừng trùng điệp, liên hoàn, từ đây có thể tiến ra khắp các vùng trong tỉnh; đồng bào dân tộc thuần khiết, có truyền thống cách mạng kiên cường chống giặc đến cùng, không chịu khuất phục từ thời Pháp thuộc cả trong kháng chiến chống Pháp, có nền kinh tế nương rẫy và kinh tế rừng, tự túc, tự cấp được. Đây là vùng đất tiến có thể công lui có thể giữ của phong trào cách mạng Bình Định.

Kẻ thù Mỹ - ngụy hiểu rõ điều đó, nên chúng không tiếc sức đánh phá căn cứ miền núi bằng mọi thủ đoạn quân sự, chính trị, kinh tế. Qua hàng chục năm đánh phá dai dẳng, căn cứ miền núi của tỉnh chẳng những đứng vững mà ngày càng phát triển mở rộng xuống đồng bằng.

Với điều kiện địa hình thuận lợi: rừng núi, đồng bằng xen kẽ, đặc biệt là lòng dân đối với cách mạng, các huyện đều có căn cứ riêng của mình. Vùng giải phóng phát triển đến đâu, ở đó là căn cứ hậu phương tại chỗ. Nhiều căn cứ lõm xuất hiện. Có những căn cứ lóm bốn bề là địch, nhưng vẫn tồn tại và hoạt động trước mắt kẻ thù. Chúng biết rõ nhưng đành bất lực. Trong chống Mỹ, Bình Định có nhiều căn cứ lõm ở địa hình đồng bằng trống trải. Đó là những “căn cứ trong dân”, “căn cứ lòng dân”. Những “căn cứ lòng dân” này có khi là nhiều xã, một xã, một thôn, thậm chí một xóm. Yếu tố cơ bản nhất có tính chất quyết định của căn cứ lõm ở đồng bằng là lòng dân. Sự thuần khiết, một lòng một dạ với cách mạng, với kháng chiến ở căn cứ lõm đồng bằng là tuyệt đối, tính tới từng người. Cái lớn lao nhất là ở đó. Không như vậy làm sao bảo đảm được cho các đơn vị từ tiểu đội, trung đội, đại đội, thậm chí cả tiểu đoàn có thể nằm bí mật trong dân để hoạt động mà kẻ địch chung quanh không hề hay biết. Các căn cứ lõm ở Phước Hậu (ven Quy Nhơn), Phước Long, Phước Thắng, Phước Sơn (Tuy Phước), Bình An (Bình Khê), Nhơn Mỹ (An Nhơn), các xã đông Hoài Nhơn, đông Phù Mỹ, Phù Cát… chính là những “căn cứ lòng dân” tình sâu nghĩa nặng đối với cán bộ, bộ đội trong những năm tháng chống Mỹ.

Đặc biệt sau thắng lợi Xuân - Hè 1972, huyện Hoài Ân hoàn toàn giải phóng đã trở thành vùng căn cứ địa hậu phương tại chỗ, nơi đứng chân và là bàn đạp quan trọng của lực lượng vũ trang tiến công giải phóng đồng bằng. Căn cứ Hoài Ân nối liền với căn cứ Vĩnh Thạnh, An Lão và căn cứ ở các huyện đồng bằng thành thế liên hoàn rộng lớn hỗ trợ cho nhau. Vấn đề nổi bật nhất ở Bình Định là cả vùng đông rộng lớn dọc đồng bằng ven biển của các huyện đều trở thành căn cứ hậu phương vững mạnh.

Trong kháng chiến chống Mỹ, nhân dân Bình Định phát huy truyền thống tự lực, tự cường, với những thế mạnh của mình, đã bảo đảm về ăn, mặc cho lực lượng vũ trang và nhân dân trong tỉnh. Những năm thiên tai, địch họa dồn dập, một số tỉnh bạn thiếu đói, ở Bình Định tuy có khó khăn nhưng chỉ ở một số vùng và được khắc phục nhanh, không có tình trạng thiếu đói kéo dài. Về sức người, trừ một số cán bộ, chiến sĩ binh chủng kĩ thuật được trên chi viện còn hầu hết cán bộ, chiến sĩ ba thứ quân trong tỉnh là lấy nguồn bổ sung đào tạo tại chỗ. Về vũ khí, suốt trong thời gian đầu cuộc kháng chiến là lấy nguồn của địch và tự sản xuất tại chỗ (mìn, lựu đạn, chất nổ, vũ khí thô sơ). Từ năm 1965 về sau mới được trên cung cấp vũ khí mới và vũ khí kĩ thuật binh chủng. Ngoài những xưởng quân giới của tỉnh, huyện nào cũng có xưởng sản xuất vũ khí. Nhiều xã có tổ sản xuất vũ khí.

Tin tưởng vào tấm lòng dân, dựa chắc vào nhân dân, Tỉnh ủy tổ chức nhiều hành lang và cửa khẩu khai thác vật chất, hàng hóa quý hiếm từ trong vùng địch cung cấp cho nhu cầu kháng chiến. Đây là một nguồn bổ sung không kém phần quan trọng.

Tất cả điều đó nói lên sự thành công trong lãnh đạo xây dựng căn cứ địa hậu phương tại chỗ của cấp ủy, Đảng bộ và sức mạnh tiềm tàng, sự nỗ lực cao độ của quân dân toàn tỉnh.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Bảy, 2012, 06:52:23 am
Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của phong trào cách mạng và chiến tranh giải phóng ở Việt Nam. Xác định được vị trí và trách nhiệm lớn lao của mình, cấp ủy tỉnh và Đảng bộ không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong các giai đoạn chiến tranh, ra sức xây dựng Đảng bộ vững mạnh cả về tư tưởng và tổ chức, kiên định đường lối, phương châm, vận dụng sát với tình hình địa phương, đưa kháng chiến đến thắng lợi.

Thắng lợi của chiến tranh nhân dân trong 30 năm qua trên địa bàn Bình Định suy cho cùng là thắng lợi của sự lãnh đạo của Đảng bộ trong việc giáo dục, giác ngộ quần chúng, đoàn kết, tổ chức quần chúng, lãnh đạo, phát huy sức mạnh của quần chúng về mọi mặt quân sự, chính trị, kinh tế. Sức mạnh của Đảng không có gì khác hơn là sức mạnh của quần chúng được tập hợp, được tổ chức và lãnh đạo chặt chẽ theo đường lối chiến lược, phương châm, phương pháp cách mạng đúng đắn, sát với yêu cầu cách mạng trong từng giai đoạn lịch sử của tỉnh.

Quán triệt quan điểm quần chúng là người làm nên lịch sử, cấp ủy tỉnh và Đảng bộ luôn luôn tin tưởng quần chúng, dựa chắc vào quần chúng, lãnh đạo quần chúng tiến hành chiến tranh. Khi quần chúng được giác ngộ, chính quần chúng là người biến đường lối cách mạng của Đảng thành sức mạnh đánh bại kẻ thù.

Đâng tin tưởng quần chúng đồng thời làm cho quần chúng tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng mới phát huy được sức mạnh. Thực tế cuộc chiến tranh nhân dân 30 năm trên dải đất Bình Định, kể cả những năm tháng đen tối nhất, đã thể hiện sự tin yêu, gắn bó giữa Đảng bộ với nhân dân, giữa nhân dân với Đảng bộ. Vấn đề được đặt ra là làm sao để dân tin! Qua đúc kết thắng lợi của hai cuộc kháng chiến, Đảng bộ thấy có hai vấn đề cơ bản sâu sắc:

Trước hết, bằng sự quán triệt, vận dụng đường lối, tin tưởng, phương châm, phương pháp cách mạng của Đảng một cách kiên định, sát với địa phương, làm cho nhân dân nhận thức đúng đắn về nghĩa vụ và quyền lợi của mình. Tổ chức thực hiện một cách có hiệu quả đường lối của Đảng chính là để giải phóng quê hương, đất nước, giải phóng nhân dân thoát khỏi ách thống trị của kẻ thù, là giành lại độc lập, tự do, công bằng xã hội.

Trước hết, bằng sự quán triệt, vận dụng đường lối, tư tưởng, phương châm, phương pháp cách mạng của Đảng một cách kiên định, sát với địa phương, làm cho nhân dân nhận thức đúng đắn về nghĩa vụ và quyền lợi của mình. Tổ chức thực hiện một cách có hiệu quả đường lối của Đảng, chính là giải phóng quê hương, đất nước, giải phóng nhân dân thoát khỏi ách thống trị của kẻ thù, là giành lại độc lập, tự do, công bằng xã hội.

Vấn đề thứ hai là bản thân cấp ủy, cán bộ, đảng viên luôn giương cao được ngọn cờ tiên phong, gương mẫu, đồng cam cộng khổ cùng sống cùng chết với nhân dân. Trong chiến đấu một mất, một còn với quân địch, biết bao đảng viên, cán bộ cùng quần chúng lăn lộn đấu tranh, nhiều người đã ngã xuống nêu tấm gương hi sinh dũng liệt. Qua sàng lọc, thử thách trong chiến tranh ác liệt, không tránh khỏi có đảng viên thoái hóa, biến chất, cầu an, sợ chết, thậm chí phán bội đầu hàng, nhưng tuyệt đại đa số đảng viên của Đảng bộ đều xứng đáng là hạt nhân lãnh đạo, là những chiến sĩ cách mạng kiên cường, là chỗ dựa tin cậy vững chắc của nhân dân. Trong chiến tranh ở Bình Định gần như không có biểu hiện quần chúng xông lên đấu tranh mà đảng viên đứng sau hô khẩu hiệu, nhân dân thiếu đói mà đảng viên no đủ; hoàn toàn không có biểu hiện đặc quyền đặc lợi.

Từ hai vấn đề cơ bản trên, các cấp ủy thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng bộ vững mạnh cả về tư tưởng và tổ chức, mà hạt nhân lãnh đạo nòng cốt là xây dựng chi bộ cơ sở. Trong những thời kì địch đánh phá cơ sở Đảng dữ dội, lực lượng lãnh đạo bị tổn thất nặng, nhiều xã không còn chi bộ Đảng, nhưng lớp trước ngã, lớp sau tiến lên, cơ sở Đảng từng bước được phục hồi, phát triển. Hầu hết các xã đều có chi bộ Đảng lãnh đạo.

Trong chỉ đạo chiến tranh ở địa phương, Tỉnh ủy quan tâm chỉ đạo toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, đặc biệt thường xuyên chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị cả về tư tưởng, tổ chức, chỉ đạo đấu tranh, hoạt động, tác chiến. Trong chỉ đạo lực lượng vũ trang, Tỉnh ủy và Ban cán sự tỉnh đội thường xuyên chú trọng nâng cao chất lượng chiến đấu cho các lực lượng, tiến hành công tác Đảng - công tác chính trị có nền nếp. Phong trào xây dựng chi bộ mạnh, chi bộ “bốn tốt” được phát động trong các đơn vị tập trung. Các đồng chí có năng lực lãnh đạo, chỉ huy, có kinh nghiệm chiến đấu được đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt lên các cương vị. Mặt khác, Tỉnh ủy còn cử nhiều cán bộ Đảng có phẩm chất, năng lực sang chỉ đạo, chỉ huy các đơn vị. Được Đảng lãnh đạo, giáo dục, hòa mình trong cuộc kháng chiến của toàn dân, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang trong tỉnh đều phấn đấu trở thành những chiến sĩ chiến đấu giỏi, vận động quần chúng tốt, công tác tốt.

Một thành công nữa của lãnh đạo là luôn chăm lo lợi ích quần chúng, đời sống của quần chúng. Huy động sức dân luôn đi đôi với bồi dưỡng sức dân. Những năm 1961-1962 ở vùng giải phóng đã thực hiện chia ruộng đất cho nông dân.

Trong chỉ đạo chiến tranh ở địa phương, trong một số thời điểm cụ thể, khi quân địch có âm mưu, thủ đoạn mới, Tỉnh ủy có khuyết điểm là không dự kiến được trước nên không chuẩn bị được về tư tưởng cho đảng viên, cán bộ, quần chúng, không chỉ đạo kịp thời. Do đó, lúc đầu thường bị động, lúng túng và tổn thất. Phải sau một thời gian mới khắc phục được và đẩy phong trào tiến lên.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 đã kết thúc toàn thắng cuộc kháng chiến chống Mỹ - cứu nước vĩ đại, đồng thời cũng kết thúc cuộc chiến tranh nhân dân 30 năm của toàn dân tộc. Nhân dân Bình Định tự hào đã đóng góp phần nhỏ bé của mình vào thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.

Nhìn suốt chặng đường 30 năm với những thắng lợi đã giành được trên chiến trường Bình Định, nhân dân trong tỉnh càng thấy công lao của Đảng, của Bác Hồ là vô cùng to lớn, sâu nặng. Trong những năm dài đằng đẵng đó, hàng chục vạn đồng bào, chiến sĩ, đảng viên, cán bộ đã chung lưng đấu cật, chịu đựng gian khổ, hi sinh và hàng ngàn người đã ngã xuống để có thắng lợi ngày nay. Cùng chiến đấu trên chiến hào chống Pháp rồi chống Mỹ, nhiều người còn sống được hưởng vinh quang của độc lập, tự do càng thấm thía công ơn của những liệt sĩ đã cống hiến tuổi xuân của mình cho sự nghiệp giải phóng quê hương, Tổ quốc.

Để có thắng lợi này còn là sự hi sinh chiến đấu vô cùng to lớn của sư đoàn 3 Sao Vàng, các đơn vị bạn, sự phối hợp chia lửa của quân dân các tỉnh Quảng Ngãi, Phú Yên, Gia Lai - Kon Tum, sự giúp đỡ ruột thịt của tỉnh Hà Tĩnh kết nghĩa, đặc biệt là sự chi viện hết lòng của đồng bào miền Bắc ruột thịt, hậu phương lớn xã hội chủ nghĩa, sự lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy trực tiếp của Khu ủy, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh quân khu 5.

Tất cả những vấn đề trên là cơ sở khoa học để chứng minh lịch sử đã diễn ra trên vùng đất quật khởi này - cái nôi của phong trào Tây Sơn - quê hương của người anh hùng dân tộc Quang Trung - Nguyễn Huệ - cũng là nơi mồ chôn binh đoàn chủ lực GM 100 của Pháp và hàng vạn quân Mỹ, chưa hầu cùng với sư đoàn bộ binh ngụy số 22. Bình Định là nơi mà mọi kẻ thù đổ nhiều công sức để “bình định” nhưng không thể nào “bình định” được. Đó cũng là những bài học cho bất cứ kẻ thù nào nuôi ảo vọng ngông cuồng, muốn thôn tính dân tộc Việt Nam nói chung và quê hương Bình Định nói riêng, nhất định sẽ bị thất bại nhục nhã như lịch sử đã từng ghi nhận.

Trong giai đoạn mới của cách mạng, Đảng bộ và nhân dân Bình Định hiểu rằng tuy đã có nhiều kinh nghiệm trong chiến tranh nhưng xây dựng chủ nghĩa xã hội là vấn đề rất mới đối với Đảng ta, nhân dân ta. Nó có quy luật riêng, rất khác với quy luật chiến tranh. Cuộc đấu tranh chống nghèo đói, lạc hậu không dễ gì có thành quả ngay được, nhất là đất nước vừa trải qua cuộc chiến tranh 30 năm bị tàn phá nặng nề.

Tuy vậy, từ những vấn đề cơ bản trong chiến tranh, Đảng bộ và nhân dân nhận thức rằng khi có được hai yếu tố cơ bản là Đảng tin dân, dựa hẳn vào dân, thường xuyên chăm lo đời sống của nhân dân và nhân dân tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng thì nhất định không có khó khăn nào không vượt qua được. Dĩ nhiên trong cách mạng xã hội chủ nghĩa có rất nhiều công việc mới mẻ, không ít khó khăn, phức tạp, nhưng hai yếu tố trên là cái gốc của mọi thắng lợi, trong chiến tranh đã vậy, trong xây dựng chủ nghĩa xã hội càng phải như vậy.

Lịch sử đã sang trang, công việc xây dựng chủ nghĩa hội và bảo vệ đất nước đang được toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ra sức thực hiện. Nhân dân Bình Định quyết cùng nhân dân cả nước giương cao ngọn cờ cách mạng, xây dựng và bảo vệ thành công Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Bảy, 2012, 06:52:53 am
PHỤ LỤC

ĐƠN VỊ VÀ ĐỊA PHƯƠNG ĐƯỢC TUYÊN DƯƠNG
ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN

1. Lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Bình Định.

2. Lực lượng vũ trang nhân dân huyện Hoài Nhơn.

3. Lực lượng vũ trang nhân dân huyện Phù Mỹ.

4. Lực lượng vũ trang nhân dân huyện Vĩnh Thạnh.

5. Lực lượng vũ trang nhân dân xã Hoài Thanh, huyện Hoài Nhơn.

6. Lực lượng vũ trang nhân dân xã Hoài Hảo, huyện Hoài Nhơn.

7. Lực lượng vũ trang nhân dân xã Hoài Châu, huyện Hoài Nhơn.

8. Lực lượng vũ trang nhân dân xã Hoài Sơn, huyện Hoài Nhơn.

9. Lực lượng vũ trang nhân dân xã Tam Quan Bắc, huyện Hoài Nhơn.

10. Lực lượng vũ trang nhân dân xã Cát Hanh, huyện Phù Cát.

11. Lực lượng vũ trang nhân dân xã An Quảng, huyện An Lão.

12. Lực lượng vũ trang nhân dân xã Mỹ Hiệp, huyện Phù Mỹ.

13. Lực lượng vũ trang nhân dân xã Mỹ Tài, huyện Phù Mỹ.

14. Lực lượng vũ trang nhân dân xã Vĩnh Hiệp, huyện Vĩnh Thạnh.

15. Tiểu đoàn 50 bộ binh.

16. Đại đội 1 thuộc tiểu đoàn 405 đặc công.

17. Đại đội 2 huyện Hoài Nhơn.

18. Đại đội 30 đặc công.

19. Đại đội 598 đặc công nước.

 20. Đại đội 19 công binh.

CÁN BỘ VÀ CHIẾN SĨ ĐƯỢC TUYÊN DƯƠNG
ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN

Trong kháng chiến chống Pháp:

- Liệt sĩ Ngô Mây.

Trong kháng chiến chống Mỹ:

- Liệt sĩ Ngô Văn Quý

- Liệt sĩ Phạm Thị Đào

- Liệt sĩ Đinh Ruối

- Liệt sĩ Võ Lai

- Liệt sĩ Trần Bá

- Liệt sĩ Đinh Tôn

- Liệt sĩ Ngô Lê Tân

- Liệt sĩ Đinh Tào

- Bùi Đức Sơn

- Thái Anh Kin

- Nguyễn Kim

- Nguyễn Hữu Quang

- Nguyễn Hồng Nhị

- Nguyễn Thị Phúc

- Võ Thị Huy

- Trương Diệu


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Bảy, 2012, 06:53:19 am
HUÂN CHƯƠNG CÁC LOẠI TẶNG CHO
TẬP THỂ VÀ CÁ NHÂN

Tập thể

- 01 Huân chương Hồ Chí Minh.

- 01 Huân chương thành đồng quyết thắng hạng nhất.

- 10 Huân chương Quân công hạng nhất.

- 9 Huân chương Quân công giải phóng hạng nhất.

- 6 Huân chương Quân công giải phóng hạng nhì.

- 8 Huân chương Quân công giải phóng hạng ba.

- 39 Huân chương chiến công giải phóng hạng nhất.

- 122 Huân chương chiến công giải phóng hạng nhì.

- 212 Huân chương chiến công giải phóng hạng ba.

Cá nhân:

- 6 Huân chương độc lập.

- 7664 Huân chương Quân công và chiến công.

- 33899 Huân chương chiến công và chiến sĩ giải phóng.

- 7437 Huân, Huy chương vì nghĩa vụ quốc tế.

SỐ LIỆT SĨ TRONG HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN

- Liệt sĩ 29.598

- Gia đình liệt sĩ: 20.915

- Gia đình có 1 liệt sĩ: 16.418

- Gia đình có 2 liệt sĩ: 3.649

- Gia đình có 3 liệt sĩ: 714

- Gia đình có 4 liệt sĩ: 122

- Gia đình có 5-6 liệt sĩ: 12


Tiêu đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Bảy, 2012, 06:55:23 am
(http://farm9.staticflickr.com/8002/7586527090_2dc2ca6254_b.jpg)

Bằng danh hiệu anh hùng LLVT ND Bình Định
do Chủ tịch Tôn Đức Thắng kí tặng năm 1978

(http://farm9.staticflickr.com/8429/7586527390_c002ccdb8c_z.jpg)

Anh hùng Nguyễn Thị Phúc (Bình Định, bên phải) và anh hùng La Thị Tám (Hà Tĩnh, bên trái)

(http://farm8.staticflickr.com/7270/7586527590_756218cc3a.jpg)

Liệt sĩ VÕ LAI - Anh hùng quân đội

(http://farm8.staticflickr.com/7260/7586527774_edd7e550ca.jpg)

Liệt sĩ PHẠM THỊ ĐÀO -  Anh hùng LLVT nhân dân