Lịch sử Quân sự Việt Nam

Máu và Hoa => Một thời máu và hoa => Tác giả chủ đề:: Trongc6 trong 25 Tháng Ba, 2012, 11:01:46 am



Tiêu đề: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Trongc6 trong 25 Tháng Ba, 2012, 11:01:46 am
Cùng các bác CCB và các bạn,

Hồi ức này của tôi đang ở vào giai đoạn cuối năm 1973 ở nam Lào. Chiến sự bình yên và cuộc sống thanh bình. Có lẽ phải viết rất dài hoặc bỏ cách viết mà nhảy cóc, chấm phá thì mới góp chuỵện khác được.

Nói vậy vì bên topic "Lính Tây nguyên" của bác NguyenTrongLuan, bác ấy đang đuổi địch trên đường 7B, hòa cùng khí thế "xuống đồng bằng" tại Huế của bác Tânvinh ở "Chuyện của một thời" sôi nổi và rôm rả quá.

Đầu nửa cuối tháng 3/1975, E64 của bác NTL cắt đường chặn địch ở Đông Nam Cheo reo thì chúng tôi khóa đuôi ở Tây Bắc Cheo reo. Địch tan rã, phía sau toàn bọn rơi rớt đi lẫn cùng dân hoặc lũ tụt tạt tan hàng thì không phải đánh nhau. Chủ yếu thu xếp cho dân quay trở lại Pleiku. Đến khi đơn vị bác Luân đuổi đánh địch qua hướng Củng Sơn rồi áp vào phía Bắc thị xã Tuy Hòa thì chúng tôi cũng theo đường 7B vòng xuống phía Nam Thị xã Tuy hòa, đánh vào từ phía cầu Đà Rằng, Nhạn Tháp.

Đi theo đường 7B phía sau bác Luân, chúng tôi phải giải quyết công tác dân vận và tù hàng binh nhiều. Khi bác Luân đuổi địch ào ào trên đường 7B, rất nhiều tốp địch cùng dân chạy tạt vào rừng. Đói khát khiến cả dân lẫn địch phải tìm cách mò ra tìm quân giải phóng. Chúng tôi phải dừng lại giải quyết nhiều vụ.
 
Tại đây, tôi đã gặp một tay chuẩn úy BĐQ của liên đoàn 22 ra hàng, rồi nửa năm sau run rủi thế nào lại gặp tại nơi đóng quân mới, lại được em gái anh ta yêu mà tôi không dám yêu.

Đấy chính là cô nữ sinh trung học 18 tuổi với kỷ niệm ở cánh rừng cà phê Buôn Ma Thuột mà có lần tôi đã nhắc tới trong topic của bác NTL đấy.

Chuyện thì dài lắm, mà sở dĩ tôi dám nhắc lại là vì cũng đã xin được phép vợ kể lại câu chuyện đó như một kỷ niệm vừa lãng mạn, vừa buồn cho vợ và bạn bè nghe.

Ở Tuy Hòa cũng có nhiều kỷ niệm, giống như các bác CCB vào Thành phố vậy.
Bây giờ viết lại, thấy vừa xao xuyến, vừa nao nao, lại bồn chồn thế nào ấy. Ký ức cứ òa nhập rồi lại ngắt, lại dừng. Chưa thể một lúc mà kết nối liền mạch được.

Mấy lời tâm sự bột phát. Xin dừng lại để nghé sang bên Topic của bác NTL, để sống lại những cảm xúc của "Ba mươi mấy..." năm qua.
--------------------------

(Mời bác Trọng tiếp tục nhé - mõ baoleo)



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Trongc6 trong 27 Tháng Ba, 2012, 10:32:27 am
       (Muốn đuổi theo bác NTL cho kịp khí thế đại thắng Xuân 1975, nhưng mệt quá, chắc không theo kịp. Thôi thì đằng nào cũng mang tiếng chậm chân, rơi rớt sau đội hình, tôi lại quay trở về hơn một năm trước, tháng 11/1073 với chiến trường Nam Lào vậy...)


   Sau chuyến công tác lẻ thứ hai của tôi ít hôm, Trung đoàn chúng tôi được xả hơi, đón lãnh đạo sư đoàn về thăm và có cả văn công (còn gọi là đội tuyên văn) của sư đoàn về biểu diễn. Một khu vực nương của bản La Vang được trung đoàn mượn và sửa soạn thành một bãi đất rất lớn phục vụ cho tập trung đông người.

   Cuộc đón tiếp phó chính ủy sư đoàn 968 Hồ Sĩ L. mộc mạc và đơn giản hơn rất nhiều so với lần tiểu đoàn huấn luyện chúng tôi đón đại tướng tổng tư lệnh về thăm ở Bãi Nai hồi tháng 12/1971. Không cần phải bí mật hay hành quân nghi binh. Chúng tôi được phổ biến cuộc thăm từ trước cả mấy ngày. Ba D bộ binh được tổ chức riêng thành 3 lần, các C trực thuộc thì chia ra ghép vào cùng dự với các tiểu đoàn.

   Toàn tiểu đoàn K18, thêm mấy D hỏa lực, trinh sát được đón tiếp trước. Chúng tôi đến bãi đất, hàng ngũ chỉnh tề theo từng C. Súng ống vẫn đầy đủ, bất ly thân. Khẩu AK của tôi vẫn lên nòng sẵn 1 viên như mọi khi. Không có quy định khắt khe đặc biệt gì. Phó Chính ủy cùng đoàn tùy tùng và văn công đi trên mấy cái xe Commangca và Motolova đến từ hôm trước, nghỉ chân tại D bộ. Lúc này cấp trên cũng đi bộ ra bãi đất như chúng tôi. Cuộc viếng thăm không có gì đặc biệt lắm, ngoài hai điều đáng kể.

   Một là về phó chính ủy sư đoàn. Ông ấy người khu Bốn, dáng nhỏ con nhưng khỏe khoắn. Ông ấy nói chuyện nhiều, khen ngợi thành tích và động viên chúng tôi. Ông ấy còn đọc thơ tự sáng tác, rồi hỏi chúng tôi "thơ có hay không?".  Vài tiếng "có" lác đác. "Hay thế thì phải vỗ tay chứ?"- Nghe ông ấy bảo thể chúng tôi mới chợt nhớ ra là mình đã quên mất phép xã giao. Thế là vỗ tay rào rào. Cao hứng lên, ông ấy lại lôi truyền thống trung đoàn chúng tôi ra nói chuyện và kể về gương của anh hùng Cù Chính Lan diệt xe tăng Pháp ở đường số 6 trong chiến dịch Hòa Bình năm xưa. Chuyện này chúng tôi nghe mãi rồi, có đợt tân binh mới vào nào mà lại không cùng ôn lại nên chúng tôi còn biết rõ là anh hùng Cù Chính Lan năm xưa biên chế thuộc C2 D1 (tức K15 bây giờ) của trung đoàn 9B. Phó chính ủy khoe là người cùng quê và năm xưa cũng nhập ngũ cùng anh Cù Chính Lan. Ông bảo "Tiếc là anh ấy hy sinh chứ không bây giờ thì cũng bằng như tôi". (!)

       Thằng Khiêm hỏa lực trung đoàn, không hiểu nghĩ thế nào đột nhiên ngứa ngáy buột miệng:

   - "Hơn chứ làm gì đến ạ".

   Không ngờ nó ngồi ngay gần hàng đầu, nói hơi to nên phó chính ủy nghe thấy. Ông ấy gọi luôn nó lên trước hàng quân rồi hỏi nó, sao dám phát biểu lung tung vậy. Thằng Khiêm trấn tĩnh một lúc rồi thưa là không có ý gì. Nó nói:

   - Thưa thủ trưởng, em chỉ nghĩ là ngày ấy anh Cù Chính Lan đã là anh hùng có tiếng tăm rồi, còn thủ trưởng thì chả ai biết đến, nên nếu còn sống thì bây giờ anh Cù Chính Lan phải chức to hơn thủ trưởng chứ sao chỉ bằng ạ.

   Cả đám lính chúng tôi cười vang to tán thưởng, quả có lý thật. Cũng vì lính tráng cả đống cùng cười nên thằng Khiêm mới không bị mắng gì thêm. Nó về hàng quân nhưng biết ý lủi dần ra sau rồi cuối cùng chuồn sang chỗ C tôi. Mấy thằng cùng đoàn Hà Nội chúng tôi lừa lúc mọi người không chú ý cùng chuồn sang nương khác. Bây giờ chúng tôi mới thỏa sức cười vang và tán chuyện tiếu lâm.

   Buổi chiều là chương trình văn công. Dân Lào ở bản La Vang cũng đến xem. Văn công sư đoàn chỉ hát và tấu nói, không có múa. Mấy cô văn công gày, nhỏ bé, da xanh rớt vì sốt rét nên giọng hát cũng không được khỏe. Chúng tôi chỉ háo hức vì đã lâu không nhìn thấy con gái Việt nên nhòm ngó thôi chứ thực là vừa nghe hát mà vừa thương. Nghe nói các cô văn công này cũng không phải trường lớp ra mà chủ yếu được chọn từ TNXP, các binh trạm hay các đơn vị thông tin lên. Mấy người dân Lào xem văn công cho vui thôi chứ họ không hiểu tiếng Việt. Họ cũng bàn tán, bảo con gái Việt không bằng con gái Lào. Trai Lào lấy vợ Lào phải "biền tu khoai" (đổi trâu, một hình thức dẫn cưới), nếu lấy gái Việt thế này thì chỉ "biền tu cay" (đổi gà) thôi. Nghe mà thấy thương cho các đồng đội nữ văn công của chúng tôi, phận nữ nhi mà cũng phải vào chiến trường, hy sinh cả tuổi thanh xuân cho đất nước, để nhan sắc chóng nhạt phai.

   Chương trình của văn công sư đoàn khá đơn điệu. Nửa cuối chương trình có phần sôi nổi hơn nhờ hình thức giao lưu. Lính trong tiểu đoàn chúng tôi cùng lên tham gia trình diễn văn nghệ. Không có tập tành gì nên đơn ca là chính. Thế mà nhiều thằng hát hay, văn công cũng phải thừa nhận. Đám lính Hà Nội mấy thằng còn lên độc tấu ghi ta, độc tấu sáo. Về sau trong một vài lần ở tĩnh tại, chúng nó cũng được rút lên để thành lập đội văn nghệ Trung đoàn, tham gia hội diễn…

   Chừng hơn tuần sau, trung đoàn chúng tôi lại nhận thêm một đoàn tân binh Hà Tây. Quân số đơn vị tăng lên trông thấy. Các A, B phải biên chế đủ, không ghép như trước nữa nên tôi được giao làm A trưởng một A. Tiểu đội tôi lúc này có 8 người. Chúng tôi phải nhanh chóng mở rộng thêm lán trại. Tiếp theo là gấp rút học tập về các loại vũ khí địch được dùng trong đơn vị như cối cá nhân M79, Rốc két 66 (M72). Sau đó là học công binh, tôi tự nhiên lại thành giáo viên về môn này trong C. Sau đó chúng tôi còn tập trung thao diễn quy mô cả tiểu đoàn nữa. Chúng tôi phát cả những cánh rừng rất rộng để làm bãi tập chiến thuật.

   Chỉ sau chừng mươi ngày tập linh tinh pha trộn các món, chưa ra đâu vào đâu cả thì chúng tôi lại nhận lệnh ra đường 23 làm đường. Đường chỉ là đường đất cũ thôi, nhưng có một số đoạn phải san lấp hố bom có từ trước, mở rộng  thêm đường, nhất là có một số đoạn đi qua các bãi đá. Chúng tôi lên xưởng cơ khí của C công binh nhận về đủ các loại dao, cuốc xẻng. Lúc không đánh nhau, ngoài việc huấn luyện gì đó của họ thì C công binh quay ra rèn các loại dụng cụ cho các tiểu đoàn bộ binh. Bễ lửa và lò rèn thổi lửa suốt ngày. Sắt thép do bộ binh tìm từ các trận địa về, đủ loại. Cuốc xẻng công binh trung đoàn tôi rèn rất tốt, nhưng nặng. Bộ binh chúng tôi chỉ thích xẻng Liên-xô đem từ ngoài Bắc vào. Nó to bản, mỏng, nhẹ nhưng rất cứng. Đào đất cao nguyên thì chỉ một tiếng đồng hồ là xong cái hầm cá nhân. Xẻng Liên-xô khi đào hầm mà gặp rễ cây thì xắn rất ngọt, "sụt" một cái là đủ đứt cái rễ cây to bằng ngón chân cái. Nhưng nói về dao tông thì dao của công binh trung đoàn chúng tôi rèn từ nhíp xe ô-tô là vô địch. Dao tông ngoài Bắc, dao quắm dân tộc hay dao tông của Mỹ cũng không sánh bằng. Dao tông Mỹ tuy cứng, nhẹ nhưng khi chặt hay bị lạng. Phát cây vớ vẩn có khi lia cả vào chân. Còn chặt cây to thì chật vật lắm.

   C công binh cử người ra đường xác định mốc giới, chỉ định những vị trí vướng đá phải dùng bộc phá, rồi giao cho bộ binh chúng tôi. Phần nổ mìn phá đá thì những thằng đã được học công binh trên trung đoàn chịu trách nhiệm. Cả tiểu đoàn rải ra gần hai chục cây số đường. Kiểu sửa đường như thế này chỉ thích hợp cho xe chạy mùa khô. Mùa mưa chắc lại hỏng hết.

   Thời gian làm đường được ăn uống đầy đủ. Thực phẩm chủ yếu là thịt hộp và giò hộp. Rau hái ở các nương gần đó, nhưng nhiều nhất vẫn là chuối, từ cây, hoa đến thân đều được sử dụng. Làm đường được chừng gần ba tuần thì xong, tất cả lại rút về hậu cứ.

   Đơn vị quay ra huấn luyện tân binh. Lần này tập trung vào xạ kích và các loại vũ khí mà tân binh ngoài Bắc chưa được dùng. Chúng tôi chỉ tập bài một và hai, còn bài ba ban đêm thì bỏ, vì thực tế chúng tôi cũng có đánh đêm kiểu vây ép bao giờ đâu. Bọn tân binh Hà Tĩnh và Hà Tây đều mới qua huấn luyện chỉ vài tháng nên coi thường chuyện xạ kích. Chúng nó không tin rằng trong đánh nhau, chúng tôi có khi quỳ bắn đấy mà bắn dăm điểm xạ AK vẫn không trúng mục tiêu dù chỉ ở khoảng cách hai, ba chục mét.

   Gần nửa đầu tháng 11, chúng tôi đi bắn đạn thật. Mùa khô đã đến rồi, những con đường đất đỏ vùng cao nguyên lại bụi mù mịt (Nơi này thuộc Saravan, nhưng liền sát cao nguyên nên cùng chung thổ nhưỡng đất đỏ badan). Kết quả bắn đạn thật đạt toàn khá giỏi, điều đó cũng dễ hiểu. Chúng tôi còn được bắn đạn thật các loại B40, B41 và M79, M72. Thực ra không phải bắn kiểm tra mà là lính cũ được chỉ định bắn trình diễn cho tân binh xem để làm quen. Phần ném lựu đạn cũng vậy. Lựu đạn US của Mỹ sử dụng đơn giản nên không phải thử. Chúng tôi chỉ trình diễn ném mươi quả lựu đạn chày do tân binh mang vào cho có khí thế thôi. Thú thực đến lúc ấy ném quả lựu đạn chày cũng còn chưa thật thành thục, thầm nghĩ nếu quân đội ta mà cứ trang bị toàn loại này thì cũng chán thật.

   Ngày 16/11/1973, đại đội chúng tôi được chuyển hậu cứ. C tôi vốn ở sâu trong rừng nhất. Trong đó rừng rậm, không có dẻo đất rộng mà bằng phẳng để phát thao trường lớn. Lợi thế chỉ có mỗi món măng đủ loại, mà lúc này lại sang mùa khô mất rồi. Chúng tôi hành quân ra hẳn đến vùng bản La Vang, vượt qua bên kia đường 23 tới hơn cây số mới hạ trại. Chỗ ấy là một cánh rừng già, bằng phẳng và có một con suối rộng hiền hòa chảy qua. Từ đường cái vào rừng toàn là lau lách, cao ngút đầu. Được cái là phát đường đi qua bãi lau lách cũng dễ, phát xong thì đường đi lối lại quang quẻ ngay. Chúng tôi chia vị trí và tổ chức làm nhà. Bây giờ quân số đông rồi nên mỗi A phải làm một nhà, kiểu nhà nổi chứ không làm hầm thùng. Đặc biệt là không phải đào hầm chữ A, nhàn nhưng có cái dở là bọn tân binh không được thực hành đào để biết lợi hại của hầm chữ A như thế nào.

   Chúng tôi dựng nhà gỗ và lợp tranh. Gỗ rừng không thiếu, đi xa độ hai cây số cũng có tre, bương. Chỉ có cỏ tranh dùng lợp nhà là phải đi xa độ bốn cây số mới có. Lính tráng kể cả tân binh nhiều thằng cũng từng làm nhà kiểu này nên mọi việc rất chạy. Sau mười ngày thì tất cả đã làm xong nhà. Đường đi lối lại trong đại đội cũng được phát quang, sạch sẽ. Vì là rừng già nên toàn bộ doanh trại của đơn vị vẫn được ngụy trang bởi những tán cây rừng. Nhà cửa sạch sẽ, thơm phức.

   Ở rừng đối với lính đồng bằng thì không bị tật nọ cũng chịu tật kia. Trong hậu cứ bản Tùm Nho thì đường đi nhỏ và dốc, dù phát quang thế nào cũng không tránh được vắt. Vắt nâu, vắt xanh luôn là chủ của rừng rậm mùa mưa, nhất là loại rừng tre, nứa. Chẳng ai ở rừng mà thoát khỏi vắt cắn. Tuy thế, không nguy hiểm dù cho có mất chút máu. Ra ngoài hậu cứ mới (chúng tôi gọi là hậu cứ La vang) vào mùa khô, hết nạn vắt thì lại gặp nạn bọ, ve của rừng lau lách. Lúc đầu chúng tôi không chú ý. Ra bãi tập hay nghỉ ngơi, cứ tiện thể lăn vào đám lau sậy khô mà nằm, lại còn nhẩn nha bóc nõn lau ra nhai cho đỡ buồn mồm. Nhưng lại bị con ve (kiểu như bọ chó) chui vào người lúc nào không hay. Đặc biệt, chúng không cắn ngay gây đau ngứa như bọ mèo mà nhẹ nhàng lần vào nơi vừa kín vừa ẩm trên cơ thế. Đến lúc thấy ngứa, vạch ra thì con ve đã cắn chặt, chui cả cái đầu vào thịt mình rồi. Chịu khó nhờ nhau, lấy cái kim châm vào mình con ve rồi dùng bật lửa hơ cho nó thấy nóng mà nhả ra thì cái nốt sần ấy chỉ ngứa một tháng là lành. Nhưng lúc đầu chúng tôi chưa biết, chưa có kinh nghiệm nên có thằng hấp tấp thấy ngứa quá là cấu giằng con ve vứt ra. Kết quả là chỉ có cái mình con ve to gần bằng hạt đỗ xanh đứt rời ra, còn cái đầu của nó vẫn chìm sâu trong da thịt mình. Dùng kim gai nhể thế nào cũng không ra được hết. Cái nốt ấy như một cái nốt chai nổi, cứng, sần sùi và lúc nào cũng ngứa. Phải một năm sau thì da thịt ta mới lại thật là của ta. Trong đại đội tôi hầu như ai cũng bị cái nạn này. Bây giờ nhớ lại vẫn thấy ghê. Đúng là rừng luôn có những điều lạ và bất ngờ.






Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Đậu Thanh Sơn trong 29 Tháng Ba, 2012, 04:25:32 pm
Chào bác Trongc6
Theo dõi bài của bác rất là hấp dẫn, nhất là bác viết về chiến trường Lào.
Thanh Sơn góp ý với bác một chút nhỏ thôi, bác nên dùng từ "anh em tân binh" thì hay hơn là từ "bọn tân binh" nghe nó sao sao ấy, giống như phân biệt đối xử quá. Nhất là Thanh Sơn lại là người Hà Tĩnh. "Bọn tân binh Hà Tĩnh và Hà Tây đều mới qua huấn luyện chỉ vài tháng nên coi thường chuyện xạ kích. Chúng nó không tin rằng trong đánh nhau, chúng tôi có khi quỳ bắn đấy mà bắn dăm điểm xạ AK vẫn không trúng mục tiêu dù chỉ ở khoảng cách hai, ba chục mét".
     Chuyện bị ve rừng đốt Sơn cũng có kể bị ve đốt trong bài. Vì không có kinh nghiệm nên cũng rứt nó ra, thế rồi chổ đó nó sưng lên rồi thối thịt. Mãi mấy tháng sau Sài Gòn giải phóng nó mới lành, nhưng vẫn để lại nốt sần...

     Chúc bác mạnh khỏe, tiếp tục hành quân để cho anh em thấy được ở sự gian khổ, ác liệt ở chiến trường Lào của đơn vị bác.
     Thanh Sơn f341


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: anhtho trong 29 Tháng Ba, 2012, 07:20:50 pm
Anh Trongc6 ơi! Anh kể chuyện hành quân chiến đấu ở Lào nghe liền mạch mà hấp dẫn lắm, nhất là chuyện huấn luyện và đóng quân trong rừng. Em thì thuộc loại sinh sau đẻ muộn, chỉ được nếm mấy trận tập kích vào cứ ở Công Pông Chàm, nhưng cũng nhớ đời. Tuy em phát hiện ra giây phút KHÔNG xao lòng của người chiền sĩ như anh trước bóng hồng đáng yêu nhưng em cũng thắc mắc : Chuyện bây chừ mới kể của ngày xa xửa xa xưa ấy thì mần răng có áp lực chi lớn có khả năng tác động tới CHỊ của em mô mà anh rụt rè không kể lớn lên cho các anh khác thèm. ngay Vetran của em tính tình khá đỏng đảnh, giám trêu gái ngay trước mặt em trong thời gian yêu nhau nặng rồi, nhưng em vẫn không tỏ ra phản ứng chi cả. Tối, sau khi sinh hoạt ban 5, em nói nhỏ: Em thì không ghen mô khi chưa cướn chắc, nhưng khi đã rồi thì em chỉ dùng đao cưa của mấy chị bán nước đá thôi chứ em không giám dùng đao sắc sợ mấy chị đó đau. Còn anh kể về  chuyện ve cắm, làm em cứ gai gai người mần răng đó. Sau này em có nghe anh họ em ở rừng quốc gia Nam Cát Tiên Lâm đồng nói về con ve hút máu, em lại càng sợ và cảnh giác mỗi khi đi rừng chơi, nếu trúng số bị một con ve cắm vào mặt mà mãi đến một năm sau mới lành mà để lại thẹo thì tàn đời hoa anh ơi!
 cũng như anh nói: phải bình tĩnh xử lý con ve theo qui trình anh diễn giải thì cũng là chuyện phải bản lĩnh và kinh nghiệm lắm, bởi vì cái phản xạ của con người thường xảy ra rất nhanh theo phản ứng tự vệ nên rất khó bình tĩnh được khi bị một mũi kim cắm kèm theo vaccin độc. Cũng như vậy trong bài học về côn trùng chúng em tìm hiểu: Nếu anh phát hiện một con muỗi (kể cả muỗi Alofene mang kí sinh trùng sốt rét) cắm vào mình, thì hãy bình tĩnh để nó hút no máu thì rút kim bay đi, thậm chí no quá thì lăn quay rơi tại chỗ thì mọi chuyện không xay ra dù ngứa hay nhiễm kí sinh trùng vì: khi cắm vào da thịt mình, muỗi thường tiết ra một chất làm mềm da, chất này gây ngứa cực kì, hoặc muỗi Alofene thì truyền KST từ tuyến nước bọt vào dưới da mình. Nhưng cũng đồng thời nó sẽ tới công đoạn hút máu thì tất cả các chất độc ngứa và KST lại trở ra theo vòi hút về dạ dày muỗi. Ngược lại, nếu anh bổ  chết muỗi ngay thì các chất đó tồn dư trong đa mình và gây sưng ngứa vô cùng và cũng đồng nghĩa là mình giữ mầm bệnh sốt rét trong máu chờ ngày phát tác. Em gái xin ti toe mấy chữ mong các bác dừng bước hành quân tạm nghỉ cho đỡ căng thẳng trước khi bác TrongC6 phát lệnh hành quân tiếp. kính anh


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Trongc6 trong 01 Tháng Tư, 2012, 09:32:16 am
@Đậu Thanh Sơn:

     Tôi viết lại chuyện xưa, dùng nguyên lối nghĩ và cách nói lính tráng ngày đó vậy thôi chứ không có ý phân biệt nặng nề như bạn nói đâu. Chúng tôi gọi nhau là "bọn" bình thường thôi mà, như kiểu gọi "bọn mày, bọn tao" rồi "bọn thằng A, bọn thằng B..." vậy thôi. Lính tráng trong đơn vị bình đẳng như nhau cả thôi, quan hay lính cũng vậy. Ngay cả quan mà xấu chơi với lính, thiệt thân có ngày. Trong trung đoàn tôi có chuyện, tôi đã kể ra trên đây rồi đó.

        Mà nhiều lúc rỗi hơi, chúng tôi vẫn "mày tao" chí chóe, rồi kê kích nói xấu địa phương nhau đủ chuyện thêu dệt theo kiểu tiếu lâm lính, làm cho có thằng phát cáu lên, nhưng anh em lại khoái chí cười vui. Thằng nào càng tự ái càng bị trêu nhiều. Nhưng rồi sau lại vui vẻ, hòa cả làng chứ có ai để bụng gì đâu. Đến lúc ra trận lại sẵn sàng sống chết vì nhau ấy mà, bạn Thanh Sơn ạ. Mà tôi nghĩ cái trò trêu chọc này hầu như đơn vị lính nào cũng thế, chứ không riêng đơn vị bọn tôi đâu.

    Nhưng dù sao cũng cảm ơn bạn góp ý, tôi sẽ chú ý sửa cách gọi trong các phần viết sau.

    Mà chuyện của tôi cũng gần kết thúc rồi, vì tôi đang kể đây là ở thời điểm tháng 12/1973. Cuối tháng 1/1974 chúng tôi đã rời đất Lào về miền Nam rồi, nên câu chuyện sẽ kết thúc. Bạn muốn xem chiến trường Lào ác liệt tới đâu, phải đọc quay về phần đầu topic "ngày này 34 năm trước" (phần 1) của tôi.

    Thân ái và chúc Thanh Sơn cùng gia đình mạnh khỏe, hạnh phúc.

@Anh Thơ:

  Cảm ơn AnhTho góp ý và kể thêm kinh nghiệm chống muỗi, ve ở chiến trường. Còn chuyện khác của tôi, sẽ kể dần dần.

  Tôi vẫn giữ nguyên ý kiến, AnhTho và VeTran là đôi bạn lính tuyệt vời trên VHM này đấy. Cái hay là cả hai đều cùng viết được bài, kể lại chuỵện lính và chuyện TÌNH của mình nên độ THẬT rất cao và hấp dẫn. Hai bạn qua đó cũng hiểu thêm nhau và càng YÊU nhau hơn, đúng không?

   Chúc BẢN TÌNH CA của hai bạn luôn ngân vang.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: nguyentrongluan trong 01 Tháng Tư, 2012, 10:13:54 am
@ Trongc6 ;
có điều không muốn vạch áo cho người xem lưng , nhưng hôm qua gặp bác ... Tôi thấy chúng ta có điiểm giống nhau .  Chuyện tình người lính là đề tài kéo dài hàng vài chục năm nữa chưa đến hồi kết đâu . Bạn đã về tận miền trung du lấy vợ , vợ là em gái một đồng đội cũ đã từng sống chết với nhau từ chiến trường Lào , rồi về Tây nguyên .
Bác chả viết ra đó thôi . Dù không viết tôi cũng hiểu . Bởi vợ tôi cũng lại là em vợ của một đồng đội của tôi ở Tây Nguyên , mà tôi đã viết trong chuyện Nước mắt của Thép .
    Chiến tranh được vẽ lại không phải chỉ có chiến công hay thất bại , không phải chỉ có trận chiến và người lính . Chiến tranh được viết hay nhất lại là gương mặt đàn bà và viết về chiến tranh sâu sắc nhất lại là ở phía sau trận tuyến .
Vì thế , hồi ức chiến hào là rất cần thiết ,chúng ta những người lính đang làm việc chiến hào ,  nhưng để thành công viết và xuy ngẫm về chiến tranh về chiến tranh thì lại ở các chuyện tưởng như ngoài cuộc . ấy là những cuộc tình như Anh Tho đó , như Hiệu trưởng nhỏ đó bạn nhỉ . Mà có phải ai cũng có dũng cảm kể lại đâu hở bạn của tôi ? Trọngc6 





Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: thanhh63 trong 01 Tháng Tư, 2012, 10:22:15 am
@ Trongc6 ;
có điều không muốn vạch áo cho người xem lưng , nhưng hôm qua gặp bác ... Tôi thấy chúng ta có điiểm giống nhau .  Chuyện tình người lính là đề tài kéo dài hàng vài chục năm nữa chưa đến hồi kết đâu . Bạn đã về tận miền trung du lấy vợ , vợ là em gái một đồng đội cũ đã từng sống chết với nhau từ chiến trường Lào , rồi về Tây nguyên .
Bác chả viết ra đó thôi . Dù không viết tôi cũng hiểu . Bởi vợ tôi cũng lại là em vợ của một đồng đội của tôi ở Tây Nguyên , mà tôi đã viết trong chuyện Nước mắt của Thép .
    Chiến tranh được vẽ lại không phải chỉ có chiến công hay thất bại , không phải chỉ có trận chiến và người lính . Chiến tranh được viết hay nhất lại là gương mặt đàn bà và viết về chiến tranh sâu sắc nhất lại là ở phía sau trận tuyến .
Vì thế , hồi ức chiến hào là rất cần thiết ,chúng ta những người lính đang làm việc chiến hào ,  nhưng để thành công viết và xuy ngẫm về chiến tranh về chiến tranh thì lại ở các chuyện tưởng như ngoài cuộc . ấy là những cuộc tình như Anh Tho đó , như Hiệu trưởng nhỏ đó bạn nhỉ . Mà có phải ai cũng có dũng cảm kể lại đâu hở bạn của tôi ? Trọngc6 

Thưa bác Luân, bác Trọng: Người ta hay bảo : chơi với bạn mà lấy em gái bạn ... là thằng có hạng ... các bác ạ, cánh hậu bối tụi em cũng nhiều chú y chang, ra quân ... thường xuyên lui tới thăm nhau vậy là bập luôn em gái bạn là chuyện bình thường, nhiều ông còn cao thủ hơn: chấp nhận gọi bạn = anh luôn trong thời còn khoác áo lính khi biết bạn còn em gái. Sau này có em gái thì "gọi bạn - anh vợ" rất thành kính, nhưng khi không có vợ, nhất là có dăm ba xị thì bố vợ nhiều khi còn là thằng ... huống chi anh vợ ( bạn mình ) ... bởi vậy ông bà mình cho là có hạng cũng phải  ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: lexuantuong1972 trong 01 Tháng Tư, 2012, 10:35:32 am
@NTL, Trongc6...: Hôm qua bác chẳng thấy anh em chia sẻ: toàn những thằng ngồi ở đây thuộc diện cá biệt nên phải lấy cô giáo để rèn cặp. Cô giáo dạy cấp 3, cấp 4 còn đỡ, cấp 1, 2 thì thôi rồi. Bác Hiền phệ còn bất hạnh vì vợ là cô giáo cấp 2 mà lại em gái bạn thì hết chỗ để nói. Bác Lê Cường nói với Hiền phệ: mày ăn cơm mòn đũa nhà tao, mà may em gái tao không lấy mày. Niềm may mắn đó thì thằng P gánh ;D ;D ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Trongc6 trong 08 Tháng Tư, 2012, 11:47:01 am
Hai lần gặp hổ

   
Trong kháng chiến chống Mỹ, bom đạn của Mỹ nhiều như thế, nhưng cũng chỉ có thể tập trung đánh theo trọng điểm, dù là dày đặc, tập trung vào các cung đường vận chuyển huyết mạch của ta. Rừng Trường Sơn rộng lớn quá nên sau bao năm chiến tranh vẫn có những cánh rừng bạt ngàn còn như nguyên sinh, không hề có dấu chân người.

   Những cánh rừng Lào nằm ở phía Tây Trường Sơn cũng vậy. Dân số Lào quá ít, đất nước lại rộng bao la nên làm sao mà người dân có thể đi khắp nơi được. Người Lào không có tập tục du canh du cư nên nương rẫy của họ gần như là cố định, thiên nhiên ưu đãi nên nhiều vùng đất rất phì nhiêu. Có thể nói rừng tái sinh ở Lào rất ít, chỉ như muối bỏ bể so với những cánh rừng già. Có khi bộ đội chúng tôi lại sục sạo nhiều hơn cả người dân Lào trên chính vùng đất của họ ấy chứ. Chúng tôi đã gặp những cánh rừng hoang vu có khi chỉ cách bản của người dân Lào chỉ dăm cây số.

   Khi chúng tôi đóng quân ở hậu cứ Tùm Nho thì cái bản dân chưa đến hai chục nóc nhà ấy nằm cách hậu cứ đại đội tôi chỉ một giờ đi đường. Thế mà chỗ chúng tôi đóng quân đã là rừng già rậm rạp. Chúng tôi chính là những người đầu tiên phát rừng thành đường đi vào đó và cũng là người hạ những cây gỗ rừng đầu tiên trong đó để làm nhà. Không có dấu vết gì của người dân trước đó. Xung quanh hậu cứ chúng tôi, bên này suối đá là rừng già đầy rẫy cây cổ thụ, còn bên kia suối là rừng tre, bương. Đi xa hơn vào đó thì lại là rừng già.

   Con đường từ hậu cứ đại đội chúng tôi lên tiểu đoàn bộ phải đi ngang qua nương dân của bản Tùm Nho. Chỗ ấy, nương dân nằm sát rừng già. Dọc theo con đường chúng tôi đi có nhiều đoạn dốc, qua nhiều suối nhỏ.

   Một lần tôi cùng anh Thiết quản lý lên Tiểu đoàn bộ nhận thực phẩm cho đại đội. Chả có gì nhiều, chỉ là một cái hũ mắm tôm khô, mình tôi cùi là đủ. Lúc đi hai người nhưng lúc về, anh Thiết lại bảo tôi về trước, anh ấy còn nán lại hậu cần tiểu đoàn tán chuyện gạ xin cấp thêm ít thịt hộp. Chả nghĩ gì nhiều, tôi cùi hàng và khoác súng ra về. Đoạn đường từ đại đội tôi lên tiểu đoàn, tôi đã đi mãi rồi, thời gian này lại đang đình chiến, mấy tháng trời yên ổn nên tôi cũng không lo chuyện gặp địch. Vả lại thằng lính cứ hễ có súng trong tay thì yên tâm tăng lên gấp đôi rồi. Chỉ phải cái trời mưa to quá, đi một mình hay buồn và phải cẩn thận lúc qua suối.

   Qua khỏi nương bản Tùm Nho chừng một cây số, tôi dừng lại nghỉ và ngồi lên một cái rễ cây nổi trên một đầu dốc, che áo mưa quấn một điếu thuốc sâu kèn châm lửa hút. Trời mưa lành lạnh thế này có điếu thuốc thấy ấm lòng lắm. Vừa thả khói vào trong làn mưa dày trước mặt, tôi vừa lơ đãng nhìn xuống phía cuối dốc.

   Bỗng thoáng một bóng đen gì đó nhoáng qua đường phía cuối dốc. Thám báo! Tôi vội nhè ngay mẩu thuốc hút dở, xoay người nép vào gốc cây và bật nhanh chốt an toàn khẩu AK. Tôi căng mắt nhìn xuống phía dốc, dỏng tai nghe ngóng chờ bóng tên thám báo thứ hai. Địch nó cũng phải đi theo tốp ba tên, chí ít cũng hai tên chứ không chỉ có một. Bắn luôn hay theo dõi đã? Chờ một lúc lâu nữa vẫn không thấy thêm động tĩnh gì, tôi đâm phân vân. Đi tiếp về đại đội hay quay lại tiểu đoàn báo cáo xin người lùng sục tìm địch. Ôi giá có anh Thiết đi cùng lúc này thì hay biết bao nhiêu. Mọi khi anh em trong đại đội nếu có đi công tác lẻ vẫn đi cùng nhau, hôm nay dở hơi thế nào mà anh Thiết lại bỏ tôi một mình thế này.

   Chờ khá lâu vẫn không thấy thêm động tĩnh gì, tôi lại tự dằn vặt mình. Làm quái gì có thám báo ở đây nhỉ. Chỗ này cách khu vực địch xa lắm, lại có cái thế quân sự gì đâu mà địch nó mò vào đây. Bây giờ quay lại tiểu đoàn bộ báo tin, quân ta ra lùng sục không có gì lại gán cho tôi "mắt to hơn người" thì quá tội. Thôi, cứ lên đường tiếp tục về đại đội cho xong. Thế là tay lăm lăm AK, thận trọng từng bước tôi mò xuống dốc. Tới cái chỗ thoáng thấy bóng đen lúc trước, tôi cẩn trọng hơn và cố quan sát tìm dấu vết. Tôi phát hiện thấy hình như có dấu chân mờ của một con thú nào đó trên nền đất ướt cạnh đường. Tôi thoáng nghĩ nhanh tới hổ. Bỏ mẹ, rừng già mà đi trong mưa thế này chỉ có hổ thôi chứ còn con gì khác nữa. Phần bụng dưới của tôi như cứng lại. Tôi bước vượt nhanh qua đó, quay súng lại đi lùi một đoạn rồi xoay người đi như ma đuối về hướng đại đội. Trong một khoảng thời gian rất ngắn lúc đó, cảm giác như có ai đuổi theo. Tôi về đến đại đội, thời gian đi tốn ít hơn thì phải.

   Tôi trả hũ mắm tôm cho nhà bếp và kể lại chuyện gặp hổ với anh nuôi Châu. Anh ấy cười độ lượng, an ủi tôi, nhưng tôi nghĩ anh ấy không tin là có hổ. Anh ấy bảo, mày cứ ngồi đây cho ấm, chờ lát nữa thằng Thiết về khắc biết ngay thôi.

   Anh Thiết về đến đại đội sau đó không lâu. Nghe tôi kể lại chuyện, anh ấy cười vang, bảo tôi giàu trí tưởng tượng. Anh ấy bảo, thế qua đó mày có ngửi thấy mùi gì không. Làm sao mà tôi ngửi thấy mùi gì được vì trời đang mưa, hơn nữa con hổ chỉ đi vèo qua thì làm sao có mùi đọng lại được. Tóm lại là không ai tin khiến tôi cũng phân vân.

   Mấy hôm sau tôi lại có chuyến đi cải thiện lên hướng tiểu đoàn. Qua cái chỗ hôm nọ, tôi tìm kỹ lại dấu chân mà tôi cho là hổ, nhưng chẳng thấy dấu tích gì, có lẽ mưa đã xóa sạch rồi. Chuyện con hổ thế là cho qua, không ai nhắc lại nữa, kể cả tôi. Tuy thế nhưng tôi vẫn để bụng chuyện này.

   Nửa tháng sau, tôi được tháp tùng đại trưởng Chèo lên tiểu đoàn họp. Thằng liên lạc đại đội bị cái nhọt đau chân nên anh Chèo lấy tôi đi cùng, chả gì cũng có thời gian tôi từng làm liên lạc.

   Hôm ấy trời quang mây tạnh. Gần trưa hai thầy trò lên đường trở về đại đội. Qua cái dốc cạnh cái chỗ hôm trước tôi nghĩ gặp hổ, tự nhiên đại trưởng lại đi vượt lên trước tôi. Gần đến đỉnh dốc, tôi bỗng thấy đại trưởng dừng phắt lại khiến tôi suýt va vào anh ấy. Trên đầu dốc, hiện lên giữa khoảng trời trong là một con hổ khá to. Nó đi ngang qua đường và thấy chúng tôi nên nó đứng lại, quay đầu nhìn chúng tôi. Lúc này nó đứng ngang nên cũng chỉ là quan sát đối phương chứ không phải tư thế đối đầu săn mồi. Hai anh em tôi đứng im gần như không cử động. Anh Chèo đặt tay lên bao khẩu K54, nhưng  chưa dám bật nắp rút ra. Khẩu AK của tôi cũng đang chúc mũi xuống đất, tay đặt vào lẫy nhưng tôi cũng chưa dám bật chốt an toàn. Hai bên gần như bất động. Thời gian trôi qua hết sức nặng nề. Tôi không xác định được bao lâu, nhưng có lẽ cũng khá lâu, con hổ đột nhiên quay đầu lững thững đi vào rừng. Có vẻ như nó cũng coi thường, không thèm đếm xỉa đến chúng tôi. Phải đến mấy phút sau, thày trò chúng tôi mới bừng tỉnh. Hai anh em lau vội mồ hôi trán rồi khẩn trương rút lui. Lúc đầu còn thỉnh thoảng ngoái đầu lại nhìn, về sau thì cắm cổ mà đi cho nhanh. Về đến sân đại đội mới dám thở phào.

   Bây giờ thì chuyện có con hổ ở vùng này là có thật. Ai cũng cho là chúng tôi gặp may hôm đó. Mấy anh lính dân tộc thì bảo cách xử trí hôm đó của đại trưởng Chèo là rất chính xác. Giải thích thêm, các anh ấy bảo, bình thường hổ nó không tấn công người. Nếu mình hoảng mà nổ súng trước là nó tấn công ngay. Điều thứ hai là những con thú rừng có một bản năng nào đó là luôn tránh xa người. Chúng không hiểu rõ người là cái giống gì nên thường tránh xa. Con hổ này có lẽ chưa ăn thịt người bao giờ nên nó lảng. Thôi thế cũng may chứ gặp con hổ đã từng ăn thịt người, nó quen mui thì chưa chắc chúng tôi thoát. Về sau trong đơn vị tôi không ai gặp lại con hổ ấy nữa, có lẽ nó cũng chỉ quá giang qua vùng này thôi,

   Hành động đứng im của hai thày trò tôi khi gặp hổ hôm đó, được coi là hành động "mình không cắn nó thì nó cũng không cắn mình", một chân lý có tính quy luật hết sức đơn giản của rừng già.

   Tôi nghiệm ra chân lý ấy luôn luôn đúng. Về sau này khi về đời thường, tôi yêu em thằng bạn lính mấy năm rồi xin cưới. Ông thày lấy số xem rồi bảo là không hợp, vì xung tuổi, vợ sẽ cắn chồng. Tôi đem chuyện gặp hổ năm xưa kể lại, cũng bảo "mình không cắn nó, làm sao nó cắn mình" khiến thày cũng phải giơ hai tay lên trời chào thua.

   Mà đúng thế thật. Bao năm trời sống với nhau, vợ tôi chỉ đôi lần "cắn yêu" chồng chứ cũng chưa cắn thật lần nào./.



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: vetran trong 09 Tháng Tư, 2012, 06:49:05 am
Hai lần gặp hổ

   
Trong kháng chiến chống Mỹ, bom đạn của Mỹ nhiều như thế, nhưng cũng chỉ có thể tập trung đánh theo trọng điểm, dù là dày đặc, tập trung vào các cung đường vận chuyển huyết mạch của ta. Rừng Trường Sơn rộng lớn quá nên sau bao năm chiến tranh vẫn có những cánh rừng bạt ngàn còn như nguyên sinh, không hề có dấu chân người.

   
   Hành động đứng im của hai thày trò tôi khi gặp hổ hôm đó, được coi là hành động "mình không cắn nó thì nó cũng không cắn mình", một chân lý có tính quy luật hết sức đơn giản của rừng già.

   Tôi nghiệm ra chân lý ấy luôn luôn đúng. Về sau này khi về đời thường, tôi yêu em thằng bạn lính mấy năm rồi xin cưới. Ông thày lấy số xem rồi bảo là không hợp, vì xung tuổi, vợ sẽ cắn chồng. Tôi đem chuyện gặp hổ năm xưa kể lại, cũng bảo "mình không cắn nó, làm sao nó cắn mình" khiến thày cũng phải giơ hai tay lên trời chào thua.

   Mà đúng thế thật. Bao năm trời sống với nhau, vợ tôi chỉ đôi lần "cắn yêu" chồng chứ cũng chưa cắn thật lần nào./.



 Xin kính chào nhà Lào học (researcher learn about Laos). Tôi rất khoái theo dõi bài của bác vì đối với tôi (đất nước triệu voi) là một kho bí ẩn cả về văn hóa, chính trị, xã hội, kinh tế và cả nhân chủng, nhưng xin cứ âm thầm theo dõi bài và học hỏi nâng cao tri thức về quốc gia anh em này qua bài viết của bác. Nay tôi xin trao đổi với bác vào phần cuối mạch bài của bác vừa qua. Vâng tôi rất phục quan điểm của bác: ta không đụng đến mi thì hà cớ chi mi đụng đến ta. nhưng tôi thì phải cẩn thận lắm cho nên hơn ba mươi năm nay mới không bị (vồ) lần nào, mặc dù như anh Tranphu341 nói: Con cọp đã tính vồ một chàng trai Hà Thành, nhưng lại vồ phải trai Thành Nam. Tại vì tôi chọc cọp mới bị cọp vồ, lúc đầu cũng hơi hoảng, nhưng đọc mấy chữ người xưa dạy thì yên tâm hơn. Chắc bác sống nhiều niên kỉ hơn tôi nhưng có thể  Cọp bác đang chăm sóc thì bằng em Cọp nhà tôi, nên tôi mạn phép tâm sự mấy dòng cho buổi sáng nay thêm sôi động: Theo tri thức cổ thì người xưa có khái niệm không gian chúng ta đang sống là không gian THIÊN-ĐỊA-NHÂN, và không gian ấy với vạn vật tồn tại trong thời gian THỜI SINH HỌC hay còn gọi là thời gian lặp. vậy Cọp 1962 là Nhâm Dần, Nhâm là một vị trí không gian, trong (thập Thiên can). Dần là một vị trí là thời gian trong (nhị thập địa chi). Không gian, thời gian này gặp nhau sinh ra Nhâm Dần, có cung phi ngũ hành là Kim nhưng Kim này gặp Nhâm là tuyệt và qua tới Quí mơi bắt thai nghen cho ra (Kim bạch Kim) khác với (Kiếm phong Kim)(Bạch lạp Kim)( Thoa trâm kim).v.v. Kim của bác rất tôn quí, dùng chế tác các vật phẩm trang trí nơi cung đình đền thờ miếu mạo, ai cũng thích nhưng khó sở hữu. Nhưng xét về mặt Âm Dương tương sinh, tương khắc, tương thôi giữa các hành trong ngũ hành thì Kim này yếu ớt lắm không đủ năng lượng khắc chế được mệnh khác, cho nên Cọp này không vồ bác mà chỉ cưng nựng bác thôi. Chứ bác mà sở hữu cọp (Bính Dần) là Nga hổ, hổ đói. Hoặc (Giáp Dần), (Mậu Dần).v.v Thì quan điểm trên của bác có thể không bảo toàn Long thể, chí ít cũng trầy vi tróc vảy. Xét về mặt sinh học và tâm lý thì đúng, vì dù là mãnh thú nhưng khéo nuôi, khéo chiều, và luôn tỏ ra bản lĩnh thì cũng chế ngự và dùng được, dù là Cọp. Tuy nhiên bản chất rừng xanh vẫn không bao giờ ngủ hẳn trong mãnh thú, dù đã thuần dưỡng, phải hết sức cảnh giác vì vũ trụ vẫn xoay vần trong không gian thời gian vĩnh hằng, biết đâu vào một ngày đẹp trời nào đó tính hoang dã trở về thì tôi với bác có chạy đằng trời. Hiện tại, chúng ta oai hơn các bác khác là giám sống hòa bình với cọp. Xin chào bác, chúc bác luôn khỏe mạnh thành đạt và AN TOÀN bên cạnh cọp


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Trongc6 trong 10 Tháng Tư, 2012, 11:06:23 am
Cảm ơn bác VeTran đã giảng giải cho tôi về các tuổi hổ.

Hóa ra số mình quá may mắn mà mình không biết. Tôi cứ tưởng hổ thì con nào cũng như con nào, hóa ra không phải. Bác vừa phân tích, lại vừa có hổ thật giống tôi để minh chứng thì tôi tin sái cổ rồi.

Thôi thế cũng mừng bác ạ. Tôi cứ nghĩ mình ở hiền gặp lành, thế mà hóa ra đúng thật. Thánh nhân đãi kẻ khù khờ nên ban cho mình con hổ "hiền" nhất trong loài hổ.

Tò mò hỏi thêm: Bác VeTran về sau này mới có kiến thức về loài hổ (tức là cũng vô tình mà gặp may như tôi), hay là lúc tìm hổ ngày xưa bác đã biết để mà chọn con hiền nhất rồi.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: vetran trong 10 Tháng Tư, 2012, 03:05:52 pm
Cảm ơn bác VeTran đã giảng giải cho tôi về các tuổi hổ.
Tò mò hỏi thêm: Bác VeTran về sau này mới có kiến thức về loài hổ (tức là cũng vô tình mà gặp may như tôi), hay là lúc tìm hổ ngày xưa bác đã biết để mà chọn con hiền nhất rồi.

Vâng ! Chào bác Trongc6, Trước khi trả lời câu hỏi của bác, tôi xin phán đoán hoàn cảnh vì sao bác gặp cọp hai lần mà vẫn bình yên: Trước hết, khi ở rừng núi Ai Lao, lúc đó chiến tranh mở rộng, cả nước hạt gạo cắn ba, quân đội cũng quá đói thì nhìn cái cơ thể gầy dơ mấy chục cái xương sườn của bác thì dù đói mấy cọp cũng lắc đầu. Còn lần thứ hai thì như tôi trình bày bài trên, tức là bác gặp may, và không loại trừ công tu luyện của tiền kiếp. Tuy nhiên mệnh số có trường tồn không còn tùy thuộc vào quá trình tu luyện cho (Đắc Đạo). Còn việc bác hỏi thì tôi xin thưa: Đúng là gặp may bác ạ, nhưng thật ra đầu tiên là tôi bị ( vồ ) vì ngày yêu nhau thì nàng nói: Em tuổi Quí Mão. Mèo thì dễ thương quá còn gì. Hơn nữa lại kèm theo cái câu các cụ chúng nó nói (Trai Nhâm, gái Quí) thì gì bằng. Khi kiểm tra lý lịch quân nhân thì có ghi sinh 1963, nên tạm yên tâm cho tình nảy nở. Nhưng khi đã yêu nặng rồi, về Thanh Hóa thăm bố mẹ người yêu, và chỉ còn có hai ngày nữa là tiến hành đám cưới. Một buổi sáng tôi nghe bà nhạc nói chuyện: Gái Thơ cùng tuổi với cô Nụ, cô Dần, mấy đứa tuổi ấy đều lấy chồng xa ngái cả. Hoảng hồn tôi gặng hỏi thì bà nói sinh năm Nhâm Dần. Ối giời ơi là giời. Bác giám từ hôn không, bác Trongc6? mà hơn tất cả, tôi lại tuổi Kỷ Hợi mới là nguy chứ. Thôi ngậm đắng nuốt cay chờ ngày nên thớt vì cọp ăn lợn là bình thường theo số xắp đặt của tạo hóa mà, và rồi tôi luôn an ủi mình "Đức năng thắng số". mà đúng thật, tôi thắc mắc sao Cọp này hiền lành dễ thương, hay khóc mà lại chiều lợn thế, càng ngày lợn càng lười nhác và biểu hiện đủ mười tính xấu của lão Trư trong đó có: lười nhác, ỉ lại, thích ngủ và...ham gái nữa chứ. Nhưng Cọp vẫn bình thường. Đến một hôm, do nghe kẻ địch xúi bẩy cái vụ gái gú gì đấy. Khi các con của (Cọp mẹ vĩ đại) đi vắng thì nàng nhẹ nhàng nói: Em nói thật với anh, em không có tính ghen bóng ghen gió đâu, nhưng nếu có thật mà em "thực mục sở thị" thì em hay dùng con dao cưa của mấy người bán đá cây chứ em không giám dùng dao sắc sợ mấy chị ấy đau. Tôi rùng mình co lại thế thủ theo phản xạ. Nhưng bác cứ nghĩ kĩ xem, đôi khi thực tế khác với phát ngôn, Nàng vẫn chiều, vẫn chịu đựng tính hâm của lão Trư, cho nên tôi phải tầm sư học đạo tìm chân lý, và may mắn đến đúng lúc, vì trong học phần (Triết học duy vật biện chứng) tôi phải tìm hiểu về (triết học Đông phương), trong đó có KINH DỊCH là một trong 6 bộ kinh cổ của Trung Hoa cổ đại cùng với( kinh thi, thư, lễ, nhạc và kinh Xuân Thu) nói về sự biến dịch của vũ trụ và con người trong không gian THIÊN ĐỊA NHÂN theo thế giới quan phương Đông, và tôi hét lên Eureka ( nhưng không sexi chạy ngoài đường như Archiemed) khi tìm ra mệnh số nữ (Nhâm dần) và từ đó ung dung ngẩng cao đầu sống nốt những ngay đáng yêu nhất. Cũng hơn ba mươi năm rồi, con cháu xôm tụ, gia cảnh thoải mái đủ đầy rồi, nếu bây giờ, nói theo các cụ quê tôi (Bùi Chu - Nam Định) : Nếu Chúa có gọi thì cũng an lòng Amen. Xin chúc bác khỏe. À bữa trước tôi có nhắn tin cho bác, có đọc không mà sao không hồi âm cho tôi biết.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: lexuantuong1972 trong 10 Tháng Tư, 2012, 03:40:22 pm
Cảm ơn bác VeTran đã giảng giải cho tôi về các tuổi hổ.

Hóa ra số mình quá may mắn mà mình không biết. Tôi cứ tưởng hổ thì con nào cũng như con nào, hóa ra không phải. Bác vừa phân tích, lại vừa có hổ thật giống tôi để minh chứng thì tôi tin sái cổ rồi.

Thôi thế cũng mừng bác ạ. Tôi cứ nghĩ mình ở hiền gặp lành, thế mà hóa ra đúng thật. Thánh nhân đãi kẻ khù khờ nên ban cho mình con hổ "hiền" nhất trong loài hổ.

Tò mò hỏi thêm: Bác VeTran về sau này mới có kiến thức về loài hổ (tức là cũng vô tình mà gặp may như tôi), hay là lúc tìm hổ ngày xưa bác đã biết để mà chọn con hiền nhất rồi.

@Trongc6 & VeTran:

Mạn phép bác Trongc6 xin ké nhà bác 1 chút để nhờ lảo sư VT phán cho tôi cái tuổi của tôi mà tại sao nguyenhuuluanc17 nói rằng tôi và ông là thứ rồng đất (giun đất) nên mới được về với mẹ còn rồng khác thì thăng từ lâu rồi. Tôi tuổi Nhâm Thìn sinh 23/5 duơng (30/4 âm có lẽ vậy). Bác phán cho tôi vài đường cơ bản để hết tháng 5 về cầm sổ hưu suy ngẫm lại chặng đường đã qua. Cám ơn bác.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: vetran trong 10 Tháng Tư, 2012, 07:05:59 pm
Cảm ơn bác VeTran đã giảng giải cho tôi về các tuổi hổ.



@Trongc6 & VeTran:

Mạn phép bác Trongc6 xin ké nhà bác 1 chút để nhờ lảo sư VT phán cho tôi cái tuổi của tôi mà tại sao nguyenhuuluanc17 nói rằng tôi và ông là thứ rồng đất (giun đất) nên mới được về với mẹ còn rồng khác thì thăng từ lâu rồi. Tôi tuổi Nhâm Thìn sinh 23/5 duơng (30/4 âm có lẽ vậy). Bác phán cho tôi vài đường cơ bản để hết tháng 5 về cầm sổ hưu suy ngẫm lại chặng đường đã qua. Cám ơn bác.
Xin phép bác Trongc6, tôi xin được trao đổi vài ý mọn với bác Lexuantuong1972, Trước hết bác và bác Trongluan. Tranduong. Tranphu341 mang chữ NHÂM là một trong những tọa độ không gian của (Thập thiên can) và gặp địa chi THÌN, là một tọa độ thời gian, thời sinh học, thời gian lặp của một GIÁP (thập nhị địa chi)  để đạt được LỤC THẬP HOA GIÁP (sáu mươi năm lặp lại).
*Mặc định:Bác Lexuantuong. Can chi thuộc (Nhâm Thìn) Sinh năm: 1952. Mệnh Trường Lưu Thủy. Rồng (là linh vật thần thoại duy nhất trong mười hai con giáp). Đây là tuổi (hô phong hoán vũ), nói Đông chết Tây, con người đầy đủ tri thức, hiểu biết hơn người. Tri Hành trong cuộc sống, sự nghiệp thành công. Tính tình sống ngay thẳng, trọng hiếu nghĩa. Nhưng gia trưởng, coi trời bằng vung, thích thể hiện uy lực của mình và luôn phấn đấu đi lên.
 *CUỘC SỐNG
Bác có nhiều hy vọng tốt đẹp về vấn đề tình duyên và tương lai về cuộc sống, có phần tốt đẹp về tình cảm và tài lộc, vào trung vận và hậu vận thì được nhiều tốt đẹp về hạnh phúc, công danh có phần lên cao.
Tóm lại: Cuộc sống nhiều tươi đẹp về phần hậu vận( bốn mươi về sau) và có phần tốt đẹp về bổn mạng cũng như về cuộc sống tình cảm.
Tuổi bác hưởng thọ trung bình từ 56 tuổi đến 80 tuổi là mức tối đa, Tuy nhiên giống như tôi nói với bác Trongc6 là “Đức năng thắng số” nếu mình tu tốt thì cuộc sống kéo dài
 *TÌNH DUYÊN
tuổi của bác về tình duyên có ba giai đoạn như sau:
Nếu sanh vào những tháng này, cuộc đời có ba lần thay đổi về tình duyên và hạnh phúc, đó là tuổi Nhâm Thìn sanh vào những tháng: 4, 8 và 12 Âm lịch. Nếu bạn sanh vào những tháng này thì cuộc đời bạn sẽ có hai lần thay đổi về vấn đề tình duyên và hạnh phúc, đó là bạn sanh vào những tháng 1, 2, 3, 5 và 10 Âm lịch. Nếu bạn sanh vào những tháng này thì cuộc sống được hoàn toàn hạnh phúc, không thay đổi về vấn đề tình duyên, đó là bạn sanh vào những tháng 6, 7 và 11 Âm lịch.
  *GIA ĐẠO, CÔNG DANH
Phần công danh có kết quả tốt. Phần gia đạo được yên hòa vào trung vận, cuộc sống về gia đình và công danh, có nhiều tốt đẹp sau này.
Sự nghiệp được thành tựu mau lẹ, tiền bạc đầy đủ và có phần sung túc vào thời trung vận, có thể tạo nên hoàn toàn tốt đẹp về hai vấn đề này.
  *NHỮNG TUỔI HợP  cho bác LÀM ĂN và thuận vợ thuận chồng
với tuổi: Nhâm Thìn, Bính Thân, Mậu Tuất.
  *NHỮNG TUỔI ĐẠI KỴ
Tuổi Nhâm Thìn đại kỵ với những tuổi này, nếu kết duyên hay hợp tác làm ăn thì bị tuyệt mạng hay biệt ly vào giữa cuộc đời, đó là các tuổi: Giáp Ngọ, Ất Mùi, Canh Tý, Bính Ngọ, Đinh Mùi và Mậu Tý.
 *NHỮNG NĂM KHÓ KHĂN NHẤT
Tuổi Nhâm Thìn trong cuộc đời có những năm khó khăn nhứt, đó là những năm mà bạn ở vào số tuổi 19, 28 và 32t tuổi. Những năm này nên đề phòng tai nạn hay bệnh tật.
  *NGÀY GIỜ XUẤT HÀNH hợp NHẤT
Tuổi Nhâm Thìn có những ngày giờ hạp nhứt là ngày chẵn, giờ chăn và tháng chẵn. Xuất hành theo những giờ đó có phần thắng lợi về tài lộc, như cuộc đời.
  *NHỮNG DIỄN TIẾN TỪNG NĂM
Từ 20 đến 25 tuổi: 20 tuổi nhiều triển vọng tốt đẹp cho cuộc sống. 21 tuổi hy vọng được thành công về công danh. 22 và 23 tuổi, hai năm này có nhiều phúc đức và hy vọng được phước lộc và tài lộc. 24 và 25 tuổi, hai năm này nên làm ăn hay đi xa thì có nhiều lợi to.
 Từ 26 đến 30 tuổi: 26 tuổi, nhiều tốt đẹp về tài lộc và công danh có phần lên cao. 27 và 28 cũng còn nhiều tốt đẹp, cuộc sống hoàn toàn lý tưởng và gặp nhiều may mắn về tài lộc, tiền bạc dồi dào và có nhiều chuyên hay đẹp bất ngờ. 29 và 30 tuổi, hai năm này làm ăn được phát đạt và có nhiều tốt đẹp về vấn đề tình duyên và hạnh phúc.
 Từ 31 đến 35 tuổi: 31 tuổi, năm này làm ăn nên phát triển, có tài lộc và có cơ hội tạo lấy sự nghiệp và cuộc đời. 32 và 33 tuổi, hai năm này có hơi xấu nên cẩn thận về tiền bạc cũng như về làm ăn. 34 và 35 tuổi, hai năm này trở lại khá tốt, nên phát triển việc làm ăn hay đi xa có nhiều thắng lợi hơn.
 Từ 36 đến 40 tuổi: 36 tuổi, năm hoàn thành sự nghiệp và cuộc đời. 37 và 38 tuổi, may mắn thành công hoàn toàn trong cuộc sống. 39 và 40 tuổi, vào những tháng cuối năm, những tháng đầu năm hơi xấu. Kỵ điều tiếng thị phi.
 Từ 41 đến 45 tuổi: 41 tuổi có nhiều hay đẹp. 42 và 43 tuổi, nhiều tốt đẹp trong cuộc sống, có hy vọng thành tựu về tài lộc cũng như tình cảm. 44 và 45 tuổi, có nhiều ảnh hưởng tốt đẹp trong sự làm ăn cũng như về gia đạo, công danh.
 Từ 46 đến 50 tuổi: 46 tuổi nhiều triển vọng tốt đẹp, tiền bạc dồi dào. 47 và 48 tuổi, hai năm này lại quá xấu, không nên đi xa hay giao dịch về tiền bạc, 49 và 50 tuổi, trở lại có nhiều tốt đẹp trong vấn đề công danh và sự nghiệp.
Từ 51 đến 55 tuổi: Khoảng thời gian này, không được tốt cho bổn mạng, cuộc sống có phần bị đảo lộn tình cảm cuộc đời. Nên cẩn thận đề phòng sự rủi ro và hao tài tốn của trong những năm này.
Từ 56 đến 60 tuổi: Khoảng thời gian này không được tốt lắm, nên cẩn thận việc làm ăn, đừng phung phí tiền bạc, cố gắng tạo lấy sự vui tươi cho gia đình, để con cháu được vui vẻ sum họp.
Có một điều hôm nay anh em ta nhờ qua nhà bác trongc6 nên tôi không giám diễn giải nhiều, sợ mất tài nguyên nhà bác ấy.  Nếu bác muốn trao đồi về xắp xếp phong thủy không gian sống, làm việc để kích hoạt sinh khí, chấn trừ sát khí để tụ tài tụ lộc, phát triển nhân đinh, phát tiển trạch thổ thì bác PM cho tôi. Lúc nào cũng sẵn sàng phục vụ vì trách nhiêm thành viên cộng đồng VMH.
 *Theo bát trạch minh kinh trong phong thủy học liệt, bác tương sinh cung Chấn Mộc, thuộc chính Đông là Đông tứ trạch. vậy phương Đông, Chấn Mộc. Đông Nam, Tốn Mộc. Bắc, Khảm thủy. Nam, Ly Hoả, là các phương CÁT trạch để bác dùng mở cổng, cửa chính của nhà, hướng ngồi trong bàn ăn, hướng làm việc, tiếp khách, gối đầu ngủ để kích hoạt sinh khí chấn trừ sát khí. khi ngủ huyệt Bách Hội trên đỉnh đầu bẩm thụ khí tiền thiên để bản thân đủ năng lực, trí tuệ trong cuộc sống, tụ tài, phát lộc, phát điền địa, phát nhân đinh. Bác theo dõi đồ hình phía dứơi, tất cả ô chữ đỏ là các hướng trong "bát trạch" tốt cho mệnh của bác. các hướng có ô xanh là cực xấu
Tuy nhiên nếu bác cung cấp cho tôi hướng chính, hướng sau trạch ốc của bác, thời gian bác làm chủ trạch ốc đó, thời gian sinh của bác chi tiết tới (giờ) thì tôi sẽ theo vận hành của các tinh tú (Phái phi tinh) xác định được vị trí tốt xấu trong ngôi nhà bác đang ở nhằm điều chỉnh phong thủy nội thất trạch ốc để đạt "trạch mệnh tương phối" thì tuyệt vời tới ba đời sau. Thiên can nơi sinh ra bác là Nhâm, thuộc Dương cho nên bác mang mệnh của thiên Long chứ không phải địa Long (giun đất) do vậy bác cứ yên tâm sống một cuộc sóng an nhàn đầy ý vị nhân sinh và xum vầy thuận thảo với tử tôn như những tiên ông giáng thế. Tuy nhiên trăm cây trăm hoa, trăm nhà trăm cảnh. Hơn sáu tỷ con người trên trái đất này không ai có mệnh số giống nhau, tùy hoàn cảnh mà chọn lựa ở tuổi mà theo câu quyết của Khổng Tử là: Lục thập nhi nhĩ thuận ( sáu mươi tuổi, chỉ nghe những điều nói phải) thì bác tiếp tục nhập thế hay xuất thế tùy hoàn cảnh. Xin mấy dòng mạo muội với các bậc Tiên chỉ. Xin lỗi bác trongc6 vì vào nhà bác lâu quá. Thôi, Đệ tẩu. kính


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Trongc6 trong 12 Tháng Tư, 2012, 11:49:56 am
          Gửi thêm một bài bích báo nữa, viết ở hậu cứ Tùm Nho. Lúc này chưa có nhiều bận rộn, đơn vị đang say sưa với tổng kết công tác và chiến đấu năm qua. Khí thế đang lên, ăn uống đầy đủ.


Hành quân Nam Lào

Tôi hành quân những đêm dài trên nước bạn,
Suốt hai mùa mưa nắng tiếp theo nhau.
Đường chúng tôi đi xanh ngát một màu,
Màu chiến thắng, màu núi sông hùng vĩ.
Ôi những đêm mưa hành quân không nghỉ
Vượt suối đèo, ta chắc súng trong tay.
Đạn lên nòng, giữ vững dải đất này
Như canh giữ trái tim của Tổ quốc.

Có những chiều đường hành quân thanh vắng,
Nhìn mẹ Lào, ta thấy nhớ mẹ ta
Căm cụi trên nương trong ánh nắng chiều tà
Như nhắn gọi giục ta thêm vững bước.
"Mẹ biết không, trên phần Nam đát nước,
Từ Mường Phìn vào đến Cao nguyên,
Chúng con đã đi diệt địch khắp miền,
Vùng giải phóng nối liền thành một dải".

Suốt chặng thời gian chúng tôi còn nhớ mãi:
Đông Ba, phù Pha Súc, Cao nguyên
Đường "hai ba" vào sát đến Phù Chiêng
Bao giặc Thái và ngụy Lào phơi xác.
*
Em gái Lào ơi, trong gió xuân ngào ngạt
Hoa Chăm pa thơm ngát đã nở rồi
Hãi múa đi em, vui điệu múa Lăm tơi,
Mừng chiến thắng, mừng quê hương giải phóng.

(Tùm Nho 10/1973)



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: nguyenhuuluanc17 trong 17 Tháng Tư, 2012, 06:08:56 pm
          Gửi thêm một bài bích báo nữa, viết ở hậu cứ Tùm Nho.

Hành quân Nam Lào

Tôi hành quân những đêm dài trên nước bạn,
Suốt hai mùa mưa nắng tiếp theo nhau.
.....
*
Em gái Lào ơi, trong gió xuân ngào ngạt
Hoa Chăm pa thơm ngát đã nở rồi
Hãi múa đi em, vui điệu múa Lăm tơi,
Mừng chiến thắng, mừng quê hương giải phóng.

(Tùm Nho 10/1973)


@Trongc6,
   Xin hoi  Bac Trongc6 : Da cam tay mua LamVong hay Lamtoi voi em Gai Lao nao chua? Ke cho A-E nghe - dau di lam gi ? .... (Khong biet sao  may tinh  nay  khong danh dau tieng Viet  - da dat mod TELEX roi. Quan tri mang & Bac Trongc6 bo qua cho )


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Trongc6 trong 18 Tháng Tư, 2012, 09:27:00 am

   Trời Hà Nội đang có những trận mưa nhỏ đầu mùa. Lại một mùa hè, một mùa giông bão sắp đến. Bây giờ làm việc ngồi trong phòng là chính. Có phải đi đâu cũng chỉ đi ào một lúc, áo mưa đầy đủ không mấy ngại. Sinh hoạt mưa gió cũng bình thường, kể cả lúc có bão cũng không phải phòng bị nhiều.

   Nhưng quả thật cứ ngồi trong nhà nhìn ra mái hiên lúc trời mưa to, sấm chớp đùng đùng, nhẩn nha uống chén trà nóng thì lòng lại nhớ về Trường Sơn khi xưa với những cơn mưa rừng dai dẳng, không khí ẩm mốc. Một đợt gió lạnh tràn qua khiến người nổi gai ốc, tê tê.

   Rừng không thiếu nước. Mùa mưa lại càng tràn trề nước. Mưa rừng làm nước suối đổ về bất chợt, có khi lúc đi yên ổn, mà lúc về thì không thể qua suối, phải căng võng nằm lại giữa rừng. Chỗ hậu cứ bản Tùm Nho của chúng tôi, sau lưng B5 là một suối đá rất to, ngăn cách rừng già với rừng tre bương xanh rậm bạt ngàn. Đêm nằm nghe nước lũ đổ về réo sôi rầm rĩ. Được cái suối đá rất sạch. Nước chảy mạnh quá nên thời gian ở đó chúng tôi không được ăn cá lần nào. Muốn tìm một cái hủm to lặng nước nào đó để mà đánh cá cải thiện cũng không có, thực phẩm cải thiện chỉ là thịt thú rừng.

   Cảnh suối đá thú nhất là không phải vào ngày lũ. Trời có nắng lại càng tuyệt. Những mùa đông miền Bắc ứng với mùa khô trong đó, Trường Sơn không có những cơn lạnh cắt da cắt thịt. Về đêm cũng có lạnh, nhưng quần áo lính mặc kín vào, chui xuống hầm có rải ít cỏ tranh hay lá khô nằm thì cũng chịu được. Nếu là hầm thùng thì kiếm củi, đốt đống lửa giữa nhà như người dân tộc là xong.

   Mùa khô, chúng tôi chỉ ra suối tắm vào những lúc trưa nắng. Không hiểu sao lúc đó, sức chịu đựng của con người mạnh mẽ đến vậy. Thường thì một tuần mới tắm giặt một lần. Quần áo lúc nào cũng đóng bộ, nên người ta bảo vào lính "quần áo mặc suốt ngày" cũng đúng. Sao lúc đó chẳng ai thấy hôi, thấy bẩn như bây giờ, mặc cái sơ-mi có hai ngày vợ đã kêu "áo có mùi chua, cổ bị là cháy". Tất nhiên lúc đó có muốn cũng không thể tắm giặt nhiều được, thời gian đâu và cũng phải để cho quần áo giặt xong nó khô đã chứ. Chỉ có cái đợt đi làm đường, cuốc đất đá thì bẩn nhanh hơn. Ra suối đá tắm rất thích vì ở đó có rất nhiều tảng đá to, bằng phẳng. Mối thằng chiếm cứ một tảng, quần áo giặt chủ yếu là dấp đậm nước rồi lấy cành cây đập cho nó bở đất ra chứ làm gì có xà phòng. Tôi có một miếng xà phòng Liên-xô 72% màu đen, hôi nhưng giặt quần áo thì rất bền, vì nó lâu tan. Miếng xà phòng đem từ ngoài Bắc vào mà qua bao mùa mưa nắng, giặt bao nhiêu lần mà nó chả mòn bao nhiêu. Chỉ bé như cái lưỡi mèo mà đem quệt vài lần vào cổ áo là đủ giặt. Nhưng lính tráng vùng nông thôn hay dân tộc cũng khéo lắm. Chúng nó tìm được loại cây lá gì đó có quả mềm như quả mâm xôi trong rừng, vò ra có bọt như xà phòng, giặt quần áo rất hiệu nghiệm.

   Hậu cứ bản Tùm Nho, trong cả một vùng rộng lớn không có dân. Chỉ có lính với nhau nên chúng tôi toàn tắm tiên. Cả một lũ lồng ngồng, giặt quần áo xong, đứng trên những tảng đá vừa kỳ cọ, vừa hong nắng và nghêu ngao hát. Một điều đặc biệt trong chiến trường là không có một thằng lính nào trong chúng tôi bị mấy cái bệnh như ghẻ lở, hắc lào hay nấm ngoài da. Dù là mặc quần áo ướt, âm ẩm như thế nhưng cũng chẳng làm sao. Có lẽ khi ở ngoài Bắc thằng nào chịu đựng kém đã bị ghẻ lở hắc lào, chữa xong người được đề kháng miễn bệnh rồi cũng nên. Còn nếu bị gai cào hay gì đó mà sứt chân tay thì chỉ bôi ít thuốc tím là khỏi. Ngày đó trong quân đội có thuốc tím tốt thế mà nay không thấy ai dùng hay nói đến.

   Tắm tiên kiểu ấy, một lần đang chổng mông sưởi nắng, tôi thấy trên cái mông tròn trịa, trắng hồng của thằng Phú có hai ba nốt đen đen, nhìn kỹ ra không phải nốt ruồi, cũng không phải cái bớt. Hỏi thì nó bảo ngày còn ở nhà đi học có một lần xóm nhà nó bị máy bay Mỹ thả bom bi. Nó ngồi trong cái hầm chữ A nổi, chổng mông ra ngoài thế nào mà bị trúng mấy viên bi. Vì bị vào phần mềm nên chỉ chảy ít máu chứ không làm sao. Lên trạm xá, người ta bảo không mổ được vị bi nó "chạy", cứ để thế cũng không sao. Rồi nó đi bộ đội, mấy cái vết thương đó không được xét giảm thương tật. Nó khỏe như vâm. Nó kể hình như mấy cái viên bi bọc mỡ ấy cũng có chạy trong mông nó thì phải. Thỉnh thoảng nó lại nổi lên gần da, ngưa ngứa. Quả có thế thật vì sau đó mấy hôm có một viên nổi lên sát da ở mông nó đen sậm. Sờ vào thấy rõ viên bi cứng. Nó nhờ chúng tôi lấy gai nhể cho nó. Cậy mãi rồi viên bi cũng bật ra, chỗ đó chảy nước vàng. Rồi cũng chỉ sau vài lần bôi thuốc tím là khỏi hẳn chỗ đó.

*

   Những ngày mưa rừng buồn nhất với tôi không phải ở hậu cứ Tùm Nho, mà là ở dãy núi Tây Bắc huội Chăm Pi, chỗ đi ra trận địa bản Xoan ở đường 231 trên Cao nguyên. Khi đó là mùa mưa đầu tiên với tôi. Trung đội chúng tôi nằm bên này huội, làm nhiệm vụ tiếp tế gạo, đạn cho đại đội. Chẳng may gặp lúc mưa lũ không thể nào qua suối. Trinh sát tiểu đoàn một lần hành quân qua huội Chăm Pi để ra phía trước, cậy đi lẻ và bản lĩnh cao, bơi giỏi nên đã liều lĩnh vượt suối. Ba thằng bám dây bơi qua, vật lộn mãi chẳng những không qua được suối, phải quay lại mà còn đánh mất một khấu AK báng gấp dưới lòng suối. Tất nhiên là phải chịu kỷ luật rồi.

   Anh em trong trung đội bộ binh chúng tôi ai cũng biết bơi, nhưng là bơi sông hồ chứ không ai đủ tài bơi qua suối lũ. Vì thế cấp trên chẳng ai dám bắt chúng tôi bơi qua suối mà còn lại phải đèo theo cả một cùi gạo, hay ít đạn cối. Thế là có gần hai tuần khi đó, cả trung đội chỉ nằm chơi dài ở khu tập kết tạm trên đỉnh đồi. Tất nhiên vẫn phải đào hầm chữ A, đào hầm thùng để nấu ăn nghiêm chỉnh. Chỉ có cơm nếp ăn với muối thôi, bữa nào cũng như bữa nào, rất nóng trong ruột. Cả ngày chỉ có mỗi một việc là xuống bếp lấy cơm (nấu sáng, ăn cho cả ngày) rồi chui vào hầm ngồi co ro nhìn mưa rơi trắng trời, tối đất. Cảnh vật trong rừng già lúc nào cũng tối sầm sầm. Nước  mưa cứ chảy tràn nhưng chúng tôi ở trên đỉnh đồi nên hầm không bị ngập. Chỉ đào rãnh và che tăng kín các rãnh là hầm đủ khô. Một việc nữa tuy vất vả nhưng cũng cần phải làm là mỗi ngày một lần đi xuống phía dưới dốc đào một cái hố mèo. Cứ thế thôi, ngồi và nhìn mưa mà thấy buồn não cả ruột. Thời gian dư dả nhưng chẳng biết làm gì. Tôi nghĩ vẩn vơ đủ thứ chuyện cổ tích để giết thời gian. Thấy cảnh mình ướt át lại nghĩ không hiểu những con thú rừng thì nó tránh vào đâu và kiếm ăn như thế nào trong cảnh mưa rừng đến người còn bó tay như thế này.

   Một lần trời ngớt mưa và hửng nắng độ hai hôm, A trưởng Nghị liều dẫn thêm hai thằng lọ mọ đi kiếm thêm cái ăn. Rừng già mưa thối đất thối cát thì đừng mong có nấm hay mộc nhĩ. Của đó gặp mưa nhiều cũng thối nhũn nát hết. Rừng cây gỗ nên không có măng. Nhưng đi thì cứ đi, nhỡ lọ mọ kiếm được cái gì ăn được thì sao. Thế là cả tốp cứ men ngược theo bờ huội Chăm Pi mà đi sang quả đồi khác. Đang vạch cây rồi rẽ đám lá rừng lúp xúp mà đi tới thì bất chợt cả nhóm lao ra một bãi rừng trống to bằng hai chiếc chiếu. Tất cả đứng sững lại như trời trồng. Ba thằng thám báo đang ngồi quanh đống lửa nhỏ nướng một cái gì đó. Súng kê bên đùi, chúng ngây ra nhìn chúng tôi, lúc đó cũng ngây ra không kém với ba nòng AK khoác trên vai đang chúc xuống đất. Không bên nào chủ động giương được súng. Căng mắt nhìn nhau thủ thế như vậy độ hơn một phút thì chúng tôi từ từ lùi dần, rất chậm rãi và thận trọng. Tư thế cầm súng trước thế nào thì nay vẫn giữ thế. Nếu chúng tôi nâng súng bật chốt an toàn, chắc tụi địch cũng lăn ra mà vơ lấy súng quạt lại. Cứ như vậy, hai bên đều chọn con đường tránh nhau là hơn. Lùi được một đoạn đủ khất sau hàng cây lúp xúp, chúng tôi cùng quay ngược đầu co chân chạy. Được một đoạn xa, cả ba mới dừng lại nép sau mấy gốc cây to và mới giương được súng lên. Một lát, anh Nghị phán đoán lại tình hình rồi dẫn chúng tôi trở lại cái bãi trống ban nãy theo một hướng khác. Lúc này thì súng ống sẵn sàng rồi. Dò dẫm được tới nơi thì bãi trống chẳng còn ai ngoài đống lửa đang tắt. Bọn thám báo chắc cũng bật dậy chuồn ngay sau đó cho chắc ăn. Bên đống lửa, chẳng tìm thấy cái gì khả dĩ ăn được. Có lẽ địch đã kịp mang đi hoặc có khi chúng nó cũng chả có gì mà nướng cũng nên. Chúng tôi cũng ngay lập tức rút lui.

   Về đến chỗ trú quân, chúng tôi kể lại chuyện. B trưởng Quân đoán bọn này là thám báo, chắc cũng vì lũ mà kẹt không qua được suối như chúng tôi. May là cả hai bên đều bất ngờ và đều chọn giải pháp tránh cho nó lành, chứ nếu cứ nổ súng, chưa chắc bên nào đã thắng. Lại vì rừng già đang trong mùa mưa, nên cũng chẳng thể nghĩ đến chuyện tìm lại được bọn thám báo ấy ở đâu. B trưởng Quân cho kết thúc chuyện ở đây, chẳng trách cứ ai điều gì.

   Mấy chục năm rồi, giờ đây nếu mấy người thám báo đó mà còn sống, chắc họ cũng nghĩ như chúng tôi khi nhớ lại chuyện này: Ở đời, may hơn khôn.




Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: lixeta trong 18 Tháng Tư, 2012, 10:36:08 am
Theo kinh nghiệm bản thân và qua chuyện của bạn bè trên khắp các chiến trường thì "vô địch" về lượng mưa cũng như thời gian của mùa mưa là ở vùng Tây Nam Huế- khu vực Nam Đông, Khe Tre và A Lưới. Sau này, thằng bạn làm ở Khí tượng- Thủy văn cũng xác nhận như vậy. Lý do là tại cái đèo Hải Vân, nó chìa ngang ra chặn gió mùa đông bắc lại tạo thành một vùng quẩn ở đây. Trong khi đó gió biển mang rất nhiều hơi nước vào. Và thế là tèn tén ten ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: baoleo trong 19 Tháng Tư, 2012, 12:04:08 pm
         .......
"Mẹ biết không, trên phần Nam đát nước,
Từ Mường Phìn vào đến Cao nguyên,
Chúng con đã đi diệt địch khắp miền,
Vùng giải phóng nối liền thành một dải"............

Xin gửi 2 Bức ảnh về Mường Phìn, baoleo em chụp hồi 2006, để bác Trong C6 nhớ lại thời trai trẻ trên đất Lào.

Đường 9 đoạn cửa ngõ Mường Phìn

(http://i277.photobucket.com/albums/kk54/tuanbimphoto/P1050083.jpg)

Ngã ba Mường Phìn, nơi có nghĩa trang liệt sỹ quân tình nguyện VN

(http://i277.photobucket.com/albums/kk54/tuanbimphoto/P1050086.jpg)


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Trongc6 trong 23 Tháng Tư, 2012, 02:06:51 pm
...
    Tháng 11/1973...

   Sau khi làm hậu cứ mới xong, chúng tôi tập tành chiến thuật là chính. Phát thao trường đàng hoàng. Có cái may là không phải tập đêm. Riêng khâu gác thì nghiêm chỉnh. Mỗi B một vọng gác, cứ 3 đêm thì đến tiểu đội mình. Ngoài ra vẫn phải đi cùi lương thực, thực phẩm và cải thiện.

   Dần dà, chẳng mấy chốc mà tháng cuối cùng của năm đã tới. Thế là đã bước hẳn sang mùa khô rồi. Mùa khô là mùa vận chuyển và chiến đấu, nhưng kham khổ về thực phẩm, nhất là rau xanh. Bây giờ chiến sự đã ngưng thì lợi thế đánh nhau không còn, chỉ còn khoản rau xanh là vẫn lo như trước. Lúc này chúng tôi không thiếu gạo, muối. Ngoài ra vẫn có thịt hộp và đặc biệt nhiều là mắm tôm khô, đựng trong những cái hũ sành. Rau cải khô cũng chỉ có một thời gian ngắn thì hết, không được cấp nữa.

   Chúng tôi đi cải thiện, nhưng nương dân cũng chẳng còn gì. Ngay cả rau tàu bay vốn là đặc sản của Trường Sơn mà cũng hiếm. Mùa này rau tàu bay già, ngọn cây trổ bông hoa nở trắng, sợi bay tứ tung nhưng không còn lá. Bòn mót được mươi lá chỉ đủ cho hai thằng đi cải thiện "ca cóng" bữa trưa chứ không đủ cho cả C.  Chủ lực bây giờ chỉ là các sản vật của cây chuối tây, từ quả, hoa đến thân. Chuối cây nhiều lắm. Chỉ có món hoa chuối dễ ăn nhất, chúng tôi không chờ cây trổ xong buồng mà cứ nhằm cây có bắp-bi thò lên đầu cây chuối, chưa kịp ra nải là đốn luôn. Hoa chuối kiểu này (chúng tôi gọi là hoa chuối "chửa") chất lượng lắm, nhưng lấy mỗi hoa là phá hoại cả một cây. May mà chuối tây của Lào bạt ngàn nên không bị dân kêu. Dù vậy tuy được xếp loại vào rau, nhưng ăn mãi cũng chán.

   Nếu như trong Cao nguyên Boloven mùa mưa có những nương kiệu bạt ngàn ăn mãi không hết, thì mùa khô ở vùng La Vang này có một thứ đặc sản rất dễ chịu là củ đậu. Có rất nhiều bãi đất nhỏ rộng hàng vài trăm mét vuông cạnh đường, gần bản được dân trồng củ đậu um tùm. Cây củ đậu là loại dây leo, cho củ ăn ở phần rễ nằm trong đất. Trên thân cây cũng lủng lẳng khá nhiều quả đậu trông đẹp mắt. Thế nhưng quả đậu để già chỉ dùng làm giống thôi, chứ người mà ăn phải thì độc chẳng khác gì ăn lá ngón của người dân tộc. Rất may là chuyện này lính tráng rất nhiều thằng biết, truyền miệng nhau rất nhanh nên trong tiểu đoàn tôi không có ai bị ngộ độc. Lần theo dây củ đậu mà đào thì mỗi dây cho một củ đậu. Có điều lạ là củ đậu ở những bãi trồng tập trung thế này thường không to. Muốn đào củ to phải ra ngoài nương rộng mà tìm vì dân họ cũng trồng ở đó rất nhiều, tuy không thành bãi tập trung.

   Men theo rìa nương tìm những dây củ đậu săn chắc, già gần khô và nhỏ xíu, mặt đất có vết nứt mà đào thì chắc chắn thu được củ đậu rất to. Có củ to như cái bát ô-tô, phàm ăn như lính mà một thằng cũng chỉ xơi một củ như thế là no ách bụng, phải nằm chơi nửa giờ đồng hồ mới làm việc khác được. Chỉ đi cải thiện độ vài lần là học xong kinh nghiệm về tìm đào củ đậu. Điều này về sau khi ở Tây Nguyên chúng tôi cũng áp dụng để đào củ mài ăn cứu đói. Dây củ nhỏ, già và hơi khô thì thể nào củ mài ở gốc đó cũng rất to. Có những củ to như bắp tay, dài hàng mét rưỡi, đủ ăn cho cả trung đội.

   Củ đậu tuy nhiều, nhưng chỉ ăn chơi là thích hợp nhất vì nó mát, ăn chóng no nhưng cũng chóng đói như ăn cháo loãng vậy. Chúng tôi lấy củ đậu về, anh nuôi chỉ làm được mỗi món sào hoặc cho lính ăn chơi. Vì thế về sau, các nhóm đi cải thiện rất hạn chế lấy củ đậu. Cũng chính vì vậy mà chúng tôi thiếu rau, vẫn hoàn là thiếu rau.

   Toàn tiểu đoàn quyết định tổ chức tăng gia, trồng rau xanh ngắn ngày. Đại đội chúng tôi phát mấy dẻo đất dọc ven suối. Ở đó toàn cây bùng nhùng như cây "cứt chó" nên dễ phát, đốt được ngay, lắm tro. Đất khá tơi và màu mỡ, phù hợp để tăng gia. Đại đội chia đất tăng gia cho các A. Vừa phát đất xong thì đã có lệnh lên tiểu đoàn nhận hạt giống rau. Mùa này chỉ hợp trồng món cải xanh và cải trắng, vì nó dễ trồng, chóng thu hoạch. Lúc này tôi được biết là hạt giống rau được nhận từ hậu cần 559. Hóa ra ngành hậu cần của ta chu đáo thật, chiến tranh lâu dài nên đã lo cả hạt giống rau đưa từ ngoài Bắc vào để cấp phát cho những đơn vị dừng chân tĩnh tại, có điều kiện tăng gia. Khoản kỹ thuật trồng thì không phải lo vì quân ta chủ yếu là nông dân mặc áo lính. Phần chất bón cho rau thì lính ta tự túc được, A nào tự lo cho A đấy.

   Chỉ hai tuần sau là vườn rau của các tiểu đội đã lên xanh mướt, ra khu tăng gia nhìn thật thích mắt. Những vườn cải trắng có vẻ hợp thổ nhưỡng hơn nên phát triển nhanh, bẹ cây rất to. Từ đó, chiều nào chúng tôi cũng có một giờ nghỉ sớm để tăng gia. Thế là chỉ sau vài tuần, chúng tôi hầu như đã tự túc được rau xanh. Các B cung cấp rau theo lượt vòng tròn cho bếp ăn của đại đội. Lúc này chúng tôi vẫn lấy cơm về ăn theo A chứ không ăn tập trung cả C vì chúng tôi không làm hội trường. Phần đi cải thiện ngoài nương dân bây giờ chỉ còn lác đác mỗi khi đơn vị muốn đổi món.

   Thừa thắng xông lên, chúng tôi còn ra bản dân đổi lấy gà con về nuôi. Dân bản vùng này cũng không giàu lắm nên phải đổi, bất cứ thứ gì của lính họ cũng lấy, nhưng đắt hàng nhất vẫn là kim chỉ, quần áo và đá lửa. A nào cũng nuôi, ít nhất là 3 con. Gà thả rông trong khu doanh trại, lúc chiều gà của A nào về chuồng A ấy, không nhầm lẫn. Cảnh tượng đầm ấm chẳng khác gì làng quê, chỉ thiếu tiếng phụ nữ và trẻ con. Tiểu đội anh nuôi còn hứng chí nuôi cả một con chó. Người Lào không ăn thịt chó nên đổi cũng dễ. Có điều chính họ cũng ít nuôi chó, nên kiếm được một con chó bé đem về nuôi cũng khá kỳ công vì phải tìm ở một bản xa. Thời gian ở đây chúng tôi cũng chỉ mới đổi được gà chứ chưa đổi được chó để làm thịt lần nào.

   Dịp 22/12, chúng tôi được nghỉ và tổ chức liên hoan. Bây giờ người đông, trung đội nào cũng cử người xuống giúp anh nuôi. Anh nuôi C tôi lần này tổ chức thêm hai món tuy kỳ công nhưng rất hấp dẫn. Đó là tráng bánh cuốn và làm bánh rán. Gạo nếp có sẵn, giã nhỏ, rây kỹ trộn cùng bột gạo tẻ là có bột làm bánh. Chúng tôi kiếm được một ít đỗ xanh nấu làm nhân. Món bánh rán này tôi ăn thấy ngon chẳng kém gì bánh rán ở quê, có khi còn ngon hơn ấy chứ. Riêng món bánh cuốn thì phải nói là kỳ công. Chày cối giã bột thì như tôi đã kể, trong rừng tận dụng các gốc cây khô, cưa và khoét làm cối. Vải làm khuôn thì đã có vải dù đủ loại. Khó nhất là khoản ngâm ủ bột như thế nào đó cho nó giống bột xay nước, và khi tráng phải đủ mỏng, thế mà lính ta làm cũng thạo như làng nghề. Những người đã từng ăn thì không nói làm gì, nhưng có những thằng từ bé chưa được ăn bao giờ thì luôn mồm tấm tắc khen ngon. Còn phải nói. Thử tưởng tượng tráng đủ một bữa bánh cuốn ăn no cho gần trăm con người không phải là chuyện đùa.

   Tối hôm đó chúng tôi còn được đốt lửa trại, quây quần cả đại đội hò hát văn nghệ. Không khí náo nhiệt, thật vui vẻ. Nếu cán bộ đại đội không phát lệnh đi nghỉ thì chắc chúng tôi còn hát suốt đêm.

   *

   Thời gian này, tự nhiên tôi được làm một việc không có biên chế trong quân đội ta. Số là anh Mỵ, chính trị viên C tôi là người dân tộc, văn hóa chưa hết cấp hai. Vì là cán bộ chính trị nên trong phần việc của anh ấy có mục nói chuyện thời sự hàng tuần. Tin tức phổ biến qua giao ban tiểu đoàn thì chậm, nên nội dung chủ yếu thu được qua nghe đài (Lúc này đại đội tôi được phát một chiếc đài bán dẫn của Nhật 3 băng rất nhỏ gọn, chất lượng tốt chứ không phải loại Orionton của Hung to đùng, nặng chịch, có thêm chức năng làm Ampli, phát cho các đại đội huấn luyện ngoài Bắc). Ngoài mục Văn nghệ tối thứ bảy cả đại đội tập trung lên sân đại đội nghe, còn lại anh Mỵ phải nghe tin tức rồi tổng hợp tình hình đem phổ biến thời sự cho lính nghe để sinh hoạt chính trị có khí thế. Lúc này trong C tôi có vài lính đã học hết lớp 10 phổ thông, trong đó có tôi. Có lẽ do tôi trẻ nhất, dễ sai bảo nên anh Mỵ gạ tôi giúp anh nghe đài rồi soạn lại tin tức để anh ấy nói chuyện lại trong đại đội.

   Việc này đối với tôi cũng đơn giản, vì ngày còn ở nhà, mỗi tối thứ 7 tôi cũng hay nghe chuyện cảnh giác. Nhà nào ở Hà Nội ngày đó cũng có cái loa truyền thanh (loa kim, mắc theo hệ thống loa truyền thanh của thành phố) để nghe tin tức. Chỉ có nhà giàu hoặc nhà có người đi nước ngoài mới có Radio (như kiểu Latvia hay Hồng Đăng, Thượng Hải) hoặc là đài bán dẫn XHCN thôi, mà phải qua đăng ký hải quan mới được dùng. Cái loa kim ở nhà tôi chỉ có một mức volumme, tiếng không được to lắm, mẹ tôi lại muốn sưu tầm các "chuyện cảnh giác" làm tài liệu. Thế là cứ 7 giờ 30 tối thứ bảy, tôi lại bắc cái ghế cao ngồi ghé sát tai vào cái loa, lăm lăm giấy bút nghe và ghi lại vài chi tiết chính như tên người, địa danh… Sau đó tôi dựa theo trí nhớ viết lại câu chuyện cảnh giác hôm đó vào một quyển vở, để lúc rỗi mẹ tôi xem. Cứ như thế nhiều tháng, rồi một hai năm, các cuốn vở ghi lại "chuyện cảnh giác tối thứ bảy" trong nhà tôi nhiều lên, các chuyện chép lại càng về sau càng sát nội dung với lời kể trên đài.

   Bây giờ tôi có dịp để giúp anh Mỵ, thấy không khó lắm mà cũng hay hay. Lên nghe đài cùng anh Mỵ để được thưởng thức thêm chè và thuốc tiêu chuẩn của BCH đại đội, nhiều thằng trong C muốn mà không được ấy chứ. Giấy bút lúc ấy quá sẵn. Tất nhiên phần nội dung tôi soạn ra, cuối cùng phải được anh Mỵ duyệt và sửa. Được cái anh Mỵ cũng tài, chỉ xem phần tôi ghi lại từ đài để lấy cái sườn rồi nói thôi, chứ không phải cầm giấy đọc nguyên văn. Về sau anh Mỵ đưa tôi vào BCH chi đoàn và nhiều lúc còn cho tôi nói về một chuyên đề nào đó với anh em trong đại đội nữa. Có thể nhờ đó mà sau này khi ra quân, tôi nói chuyện trên diễn đàn trước đám đông vài trăm người mà cảm giác vẫn tự nhiên như mấy thằng lính tán chuyện hàn huyên với nhau vậy thôi.

   Sau đợt liên hoan 22 tháng 12 năm 1973, chúng tôi được biết chính xác là chỉ một thời gian nữa thôi, E9B sẽ chuyển về chiến trường miền Nam. Về đâu thì chắc cán bộ trên D, E đã biết vì trung đoàn chúng tôi đã có những tốp tiền trạm lên đường. Lại nghe nói chỉ có trung đoàn chúng tôi thôi, còn bọn E19 và E39 vẫn ở lại giúp Bạn xây dựng cách mạng Lào. Trong E tôi, tất cả các anh nhập ngũ từ 1967 về trước mà không phải là cán bộ B trưởng trở lên đều được giải quyết ra quân. Nếu chế độ NVQS là 5 năm thì các anh ấy đều đã quá hạn rồi. Trong C tôi cũng có kha khá người, kể cả từ quản lý, y tá, anh nuôi đến B phó. Thế là lại lục tục liên hoan, chia tay. Quà cáp chả có gì, nhưng hầu như những cái gọi là vật dụng lấy được của địch qua các trận đánh, nếu các anh ấy thích gì là chúng tôi tập trung lại tặng cho các anh ấy hết.

   Cuộc sống bắt đầu từ sau tết dương lịch khá sôi động. Chúng tôi lại nhận thêm một đợt tân binh Vĩnh Phú nữa. Đa phần là lính già. C tôi có cả hai anh tuổi đã 34, đang làm cán bộ của cơ quan huyện mà cũng phải nhập ngũ. Các anh ấy đều được sắp xếp về bộ phận anh nuôi. Các anh ấy có vẻ mãn nguyện, vì anh nuôi C tôi hầu như không phải ra tuyến trước, khả năng hy sinh thấp hơn. Các anh đều có vợ con cả rồi, tính cách cũng không nhốn nháo như chúng tôi nên cái gì an phận được là tốt.

   Lúc này quân số C tôi khá mạnh. Tổng số cũng khoảng trăm người. Trừ ba đợt tân binh mới vào, tất cả chúng tôi kể từ đợt tân binh Nghệ An vào từ hồi ở Saravan 1972 đều được phát bổ sung quân trang. Mỗi người đủ hai bộ quần áo Tô châu, có cả áo cộc tay và quần đùi "chính ủy", giày, tất, khăn mặt và mũ cối. Thế là quần áo cũ được đem ra bản dân đổi gà và rượu. Cả đơn vị bây giờ quần áo súng sính cứ như lúc đang bắt đầu hành quân vào Nam. Chỉ khó chịu mỗi cái là quân trang phát xuống theo kiểu phát bừa, thằng nào được bộ cỡ nhỏ (vì lính ta toàn nhỏ con) thì mặc vừa, còn thằng nào vớ phải bộ to cũng đành chịu, đành phải nhờ nhau cắt sửa, khâu bóp các kiểu để thu nhỏ lại.

   Chúng tôi được bổ sung đầy đủ vũ khí. Đại đội có thêm nhiều khẩu B41, ưu việt hơn B40, tuy nó cồng kềnh hơn. Đặc biệt còn được phát thêm cả trung liên RPD. Loại này nằm bắn để chụp ảnh hay quay phim thì trông rất oai, chứ trang bị cá nhân thì chẳng ai muốn nhận. Nó nặng và rất cách rách khoản lắp đạn phải nối 4 dây cho đủ băng 100 viên rồi đút vào băng sắt tròn. Lúc bắn lại phải thu hồi dây giữ đạn để có cái dùng về sau, mới nghe đã đủ phát sợ. Nhưng đấy là bọn lính cũ sợ thôi, chứ mấy khẩu RPD ấy nhét vào tay mấy thằng lính mới to con thì ba cối băng cơ số với một khấu súng nặng chịch và dài ngoằng ấy chưa đủ thời gian kiểm chứng để làm chúng nó sợ.

   (Vậy mà, hỡi ôi, về sau trong một đợt chốt dài ngày trên cao điểm 631 ở Pleiku, tôi lại phải tình nguyện ôm cây súng hỏa lực này trong mấy trận đánh liền và suýt bỏ mạng vì nó thì có phải là trời bắt tội "ghét của nào trời trao của ấy" không?)



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: TANVINHprc25 trong 23 Tháng Tư, 2012, 02:50:45 pm
...
    Tháng 11/1973...

....
   Chúng tôi được bổ sung đầy đủ vũ khí. Đại đội có thêm nhiều khẩu B41, ưu việt hơn B40, tuy nó cồng kềnh hơn. Đặc biệt còn được phát thêm cả trung liên RPD. Loại này nằm bắn để chụp ảnh hay quay phim thì trông rất oai, chứ trang bị cá nhân thì chẳng ai muốn nhận. Nó nặng và rất cách rách khoản lắp đạn phải nối 4 dây cho đủ băng 100 viên rồi đút vào băng sắt tròn. Lúc bắn lại phải thu hồi dây giữ đạn để có cái dùng về sau, mới nghe đã đủ phát sợ. Nhưng đấy là bọn lính cũ sợ thôi, chứ mấy khẩu RPD ấy nhét vào tay mấy thằng lính mới to con thì ba cối băng cơ số với một khấu súng nặng chịch và dài ngoằng ấy chưa đủ thời gian kiểm chứng để làm chúng nó sợ.

   (Vậy mà, hỡi ôi, về sau trong một đợt chốt dài ngày trên cao điểm 631 ở Pleiku, tôi lại phải tình nguyện ôm cây súng hỏa lực này trong mấy trận đánh liền và suýt bỏ mạng vì nó thì có phải là trời bắt tội "ghét của nào trời trao của ấy" không?)



Chào bác, đúng là bác mà mang khẩu RPD thì vất vả rồi tuy trông có oai đấy. Tôi nhớ ngày huấn luyện tân binh, trung đội cũng có súng này đưa về tiểu đội tôi. Anh nào cũng ngại cồng kềnh và nặng, thế là có thằng bạn thân người to béo, khỏe mạnh cậu vui vẻ nhận khẩu RPD. Đi thao trường trông câu đeo khẩu trung liên này với băng đạn tròn ( và có chân giá súng ? ) trông hùng dũng lắm. Thằng bạn vào QT 72 ở C20 của E95 và hi sinh trong Thành cổ 15/8/72. Lúc này nó mang máy thông tin chứ không vác RPD nữa.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: haanh trong 23 Tháng Tư, 2012, 05:22:51 pm
@trongC6 : hehe vậy trước đó bộ đội mình dùng hỏa lực gì tương đương với RPD vậy bác ? Trước giờ em cứ tưởng cây RPD đi suốt thời chống Mỹ  ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: vanson307 trong 23 Tháng Tư, 2012, 06:42:07 pm
  @ haanh, cái khẩu RPD này hồi Ae mình ở tây nam thì có nhiều, Bác lethaitho trả nổi tiếng với nó ở Tổ tam tam đó mà. Đánh QT 72 cũng có nhưng trước đó thì trung liên RPK nhiều hơn, có phải không Bác TrongC6 ơi ???


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: lexuantuong1972 trong 23 Tháng Tư, 2012, 06:55:26 pm
  @ haanh, cái khẩu RPD này hồi Ae mình ở tây nam thì có nhiều, Bác lethaitho trả nổi tiếng với nó ở Tổ tam tam đó mà. Đánh QT 72 cũng có nhưng trước đó thì trung liên RPK nhiều hơn, có phải không Bác TrongC6 ơi ???

@vanson307: RPD có trước ở chiến trường từ những năm 60, đến đầu 70 RPK mới xuất xuất hiện nhiều.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: haanh trong 23 Tháng Tư, 2012, 07:07:38 pm
  @ haanh, cái khẩu RPD này hồi Ae mình ở tây nam thì có nhiều, Bác lethaitho trả nổi tiếng với nó ở Tổ tam tam đó mà. Đánh QT 72 cũng có nhưng trước đó thì trung liên RPK nhiều hơn, có phải không Bác TrongC6 ơi ???

hehe thời anh em mình thì đương nhiên rồi , mạnh thì 1 ak , 1 RPD , 1 B40 ; yếu thì 2 ak kèm 1 RPD hoặc B40 ( B41 nặng nên anh em không thích vác trả về trên hết ) .
Vì cây RPD là hỏa lực chủ yếu của tổ tam tam nên em mới ngạc nhiên khi thấy đơn vị bác trongC6 đến năm 73 mới được bổ sung . Cây RPK em thấy không ngon bằng cây RPD vì băng đạn chỉ có 40 viên .


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Trongc6 trong 24 Tháng Tư, 2012, 10:46:12 am
     Chào các bác:

      Khi tôi vào đến đơn vị ở chiến trường, không có một đợt nào tổng cấp phát vũ khí. Toàn bộ súng bộ binh đều là cũ. Khi đó mỗi A chỉ có 3 đến 4 người. Cứ có tân binh vào là về đại đội nhận súng, toàn súng cũ. Một B, hỏa lực gồm 2 B40 (hoặc sau này có thêm B41), 1 M79, còn lại toàn AK. Trong đại đội tôi không có một khấy RPD hoặc RPK nào (mặc dù huấn luyện ngoài Bắc, chúng tôi đã học cả về hai loại súng này). Để tăng cường hỏa lực, chúng tôi mang thêm rocket66 (M72), loại này thu của địch khá nhiều.

      Khi đó cũng vì là vũ khí cũ trang bị từ trước, nên C nào còn giữ được RPD thì cứ dùng, nhưng C tôi không còn khẩu nào. Tôi đã kể là hồi đi luồn sâu ở Nam đường 23 (mùa mưa 1972), chúng tôi có sang Atopo lấy về cho đại đội được 5 khẩu AK và một khẩu RPD mới toanh của TQ.

"Tới chiều ngày thứ ba thì chúng tôi tìm thấy kho súng đạn. Qua hai mùa mưa, cái nhà kho đã đổ ụp xuống rồi, chỉ còn cái hầm đất đào sâu đến bụng. Chúng tôi lôi ra được các thùng gỗ, tuy bẩn đầy đất, nhưng phá ra bên trong thì các bao nilon chứa súng còn nguyên cả mỡ bảo quản trong đó. Chúng tôi lấy một khẩu trung liên RPD và 5 khẩu AK, toàn súng của TQ. Thấy đạn rất nhiều chúng tôi nảy ra ý định thử súng. Anh Trịnh đồng ý, thế là hôm sau chúng tôi kéo nhau ra một bên dốc núi. Nhìn xuống suối sâu như cả một bờ vực. Thằng Tuân lắp cả một hộp đạn vào khẩu RPD rồi nằm chĩa xuống vực nghiến răng kéo cò. Khẩu súng rung lên bần bật. Nó kéo mấy loạt hết cả băng đạn 100 viên mới thôi. Mấy chúng tôi cũng chĩa AK phệt mỗi thằng một băng xuống vực. Có thử thế này mới thấy, có muốn kéo cò một lần cả băng AK cũng không được vì nó giật lắm. (Khác hẳn với khẩu AR15 của Mỹ mà sau này chúng tôi cũng lấy bắn chơi. Băng đạn 20 viên chỉ níu mạnh cò làm rẹt một cái đã hết. Đó là chưa kể nếu bấm vào cái nút Turbo của khẩu súng thì nó còn "rẹt" nhanh hơn). Tiếng nổ vang vọng thung lũng, nhưng ở cái chỗ này thì chỉ có chúng tôi nghe, chúng tôi biết mà thôi. Ngày hôm đó chúng tôi nghỉ lại, lau những khẩu súng mới cho hết sạch dầu mỡ và tranh thủ tắm giặt. Đêm đó mắc võng ngủ lại trong rừng mà cứ như ở nhà, chẳng gác sách gì. Hôm sau chúng tôi lên đường, mang theo 6 khẩu súng và một ít đạn. Về đến nơi tập kết của đại đội thì vừa hết một tuần."

http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php/topic,6323.440.html

Khẩu RPD đó về sau ra Saravan bị bom pháo cũng hỏng mất.

Lần này chúng tôi chuẩn bị về chiến trường miền Nam, tân binh lại nhiều nên được bổ sung vũ khí có tính chất tổng thể. Khẩu AK nào kém quá trả lại, thay khẩu mới của TQ. Có thêm nhiều súng B41 và RPD mới toanh còn dầu mỡ. Mà RPD mỗi C cũng chỉ có một khẩu thôi. Súng đã quen nên cũng không phải học lại, cứ thế mà dùng.




Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: nguyenhuuluanc17 trong 27 Tháng Tư, 2012, 02:53:34 pm
    Chào các bác:
......
  "... Chúng tôi lấy một khẩu trung liên RPD và 5 khẩu AK, toàn súng của TQ. Thấy đạn rất nhiều chúng tôi nảy ra ý định thử súng. Anh Trịnh đồng ý, thế là hôm sau chúng tôi kéo nhau ra một bên dốc núi. Nhìn xuống suối sâu như cả một bờ vực. Thằng Tuân lắp cả một hộp đạn vào khẩu RPD rồi nằm chĩa xuống vực nghiến răng kéo cò. Khẩu súng rung lên bần bật. Nó kéo mấy loạt hết cả băng đạn 100 viên mới thôi. Mấy chúng tôi cũng chĩa AK phệt mỗi thằng một băng xuống vực. Có thử thế này mới thấy, có muốn kéo cò một lần cả băng AK cũng không được vì nó giật lắm.     
...


@Trongc6,

Nghe Bác kể đoạn này mới biết là Mình chưa có " Kinh nghiệm" chơi cả băng AK bao giờ ?  Ấy thế mà đôi khi cũng  "vỗ ngực" là Cựu binh đã chinh chiến và bắn các kiểu  ;D. 
 Ờ, nhưng thực tế chiến đấu thì cũng chả bao giờ " Chơi cả băng " : Thứ nhất là còn phải dành đạn,  thứ 2 " Chơi cả băng" thì đủ thời gian để lĩnh đủ quả M79 hay  phản đòn có khi chưa hết băng đã " Toi " rồi  ???   Nếu lấy cái kinh nghiệm " chơi cả băng" bằng thực tế chiến đấu thật  chắc giá cũng đắt  mà có khi không kể lại được cho ai nữa
Dù sao thì vẫn  cần có kiến thức " kinh nghiệm " Bác Trongc6  nhể  ;)...


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Trongc6 trong 08 Tháng Năm, 2012, 10:48:03 am
….

   Những ngày đầu năm mới 1974 đã đến. Chúng tôi được nghỉ để tổ chức ăn tết Tây đàng hoàng. Bây giờ hậu cần tiểu đoàn ngoài chuyện phát thực phẩm đồ hộp hàng ngày thì thỉnh thoảng cũng tổ chức mua lợn trong dân Lào để cấp cho các đại đội ăn thực phẩm tươi như đợt tết Tây này. Rau xanh của chúng tôi tăng gia được nhiều nên tổ chức liên hoan cũng gần giống như ngoài Bắc. Lính mới vẫn có cảm giác như đang ở đơn vị huấn luyện.

   Sau đó, hàng ngày chúng tôi vẫn tập tành túc tắc và chuẩn bị tinh thần về miền Nam yêu dấu. Chiến đấu ở rừng núi, hay về đồng bằng bám dân ba cùng nhỉ? Chúng tôi mặc sức tha hồ mà tưởng tượng vì cỡ lính tráng lèm nhèm chưa được biết đích xác là đến địa bàn nào. Tiểu đoàn kiếm đâu ra được một lô Tạp chí Văn nghệ quân đội phát xuống cho các đại đội. Truyện ngắn trong tạp chí kể nhiều về chuyện chiến đấu ở các vùng giáp gianh, thậm chí cả ở vùng đồng bằng sông Cửu long với nhiều mối tình thơ mộng của lính ta với nữ du kích miền Nam khiến lắm thằng mơ mộng. Nhiều "quân sư quạt mo" còn phỏng đoán là chúng tôi sẽ vào B2, sát ngay Sài Gòn để tham gia một cuộc giống như "Tổng tiến công 1968" nữa.

   Đang yên ả như thế, một buổi trưa chúng tôi đang ngủ thì nghe tiếng súng nổ "đoàng" rồi tiếp theo hai điểm xạ AK nữa phía suối có vườn rau. "Có địch". Phản xạ ngay lập tức là thế, mặc dù lúc thường mà kể chuyện ở đây có thám báo Lào thì thật quá tiếu lâm. A tôi ở gần nhất nên được trung đội thúc ngay báo động chiến đấu và cho vận động nhanh ra hướng suối. Chúng tôi vượt qua cả vườn rau mà chưa thấy động tĩnh thêm gì. Tiểu đội tản ra ẩn nấp chờ trung đội tiếp ứng để vận động lên thăm dò tiếp tình hình. Phía trước, những hàng cây lúp xúp lay động vì có tiếng người vạch cây đi thẳng tới. Đang sẵn sàng chờ nổ súng thì lại nghe phía đó có giọng làu bàu bằng tiếng Việt: "Ngủ đ. gì mà chẳng có thằng nào ra tiếp ứng". Tôi nhận ra giọng thằng Tuấn, quản lý mới của đại đội. Thằng này trước cũng là A trưởng trong cùng B5 với tôi, lính Nam Hà. Tôi vội gọi to tên nó, vừa lúc cái mặt to phẹt của nó hiện rõ sau đám cây. Thế ra là quân ta cả. Chúng tôi cùng đứng dậy, cười vang hỏi chuyện nhau, trong lúc quân tiếp viện phía sau cũng lục đục mò tới. Đã có ngay việc để làm.

   Chả là vốn cũng có máu ca cóng, buổi trưa quản lý Tuấn xách súng AK lọ mọ vượt qua phía vườn rau, định sục sạo xem hướng đó có cái gì cải thiện được không. Mạn này đi sâu cũng là rừng, nhưng là rừng thưa và chủ yếu là tái sinh. Cây cỏ may lắm chỉ có cây lá chua. Nhưng điều kích thích thằng Tuấn là dạo trước lúc còn nhiều lính cũ dân tộc, có anh cũng đã làm bẫy, loại bẫy đơn giản bằng cần thòng lọng và đã bắt được một con nhím rất to, đủ cái thiện cho cả tiểu đội. Tôi được nếm đôi miếng, thấy rất ngon. Vì thế nên thằng Tuấn mới bỏ giấc ngủ trưa mà lọ mọ một mình ra đây. Điều không ngờ là nó được chứng kiến một con chó sói phục bắt một con lợn rừng. Nếu thế thì đây là lần đầu tiên chúng tôi biết vùng này có chó sói. Tôi cứ nghĩ chó sói sống và kiếm mồi ở những đồng cỏ hoang vu hay rừng sâu núi cao tuyết dày cơ, chứ những cánh rừng tái sinh hiền hòa cách bản dân có vài cây số thì làm gì có chó sói.

   Thấy con sói đang đè đầu cưỡi cổ con lợn rừng ở một gốc cây chỉ cách hai chục mét, quản lý Tuấn xoay AK trên vai bật nhanh chốt an toàn và nã luôn một phát tắc cú về phía con sói. Viên đạn trượt, con sói giật mình bỏ mồi chạy mất, còn lại con lợn bị thương đang loay hoay trên đất. Sợ mất nốt cả con lợn nên Tuấn ta bồi luôn 2 loạt AK. Lần này thì trúng đích và hạ gục con lợn tại chỗ.

   Đấy là quản lý Tuấn kể lại thế. Chúng tôi lần mò mấy trăm mét đến chỗ Tuấn chỉ, thấy xác một con lợn rừng rất to, lông đen dày. Chắc chắn là lợn rừng chứ không thể là lợn của dân chạy lạc đến đây. (các lính dân tộc sành lắm, chỉ nhìn kiểu mọc lông là cũng biết lợn rừng hay lợn nhà, dù là lợn nhà thả rông). Chúng tôi chặt đòn buộc dây khiêng về. Con lợn có lẽ phải gần tạ. Hai thằng khiêng thì quá nặng, bước đi chuệch choạc nên cuối cùng phải bốn thằng khiêng. Được con lợn to, nhưng bây giờ quân số đại đội đông hơn rồi nên C tôi giữ lại cho anh em liên hoan, không chia cho các C khác như dạo trước. Chiều đó, anh em được bữa chén thoải mái, no nê mà vẫn còn dư thịt cho hôm sau. Cánh lính mới Hà Tĩnh, Hà Tây, Vĩnh Phú hoan hỉ lắm vì đây là lần đầu tiên chúng nó được thưởng thức sản phẩm ca cóng của rừng. Chuyện cũ chuyện mới lại râm ran cả tối. Cuộc đời lính chiến trường lại được dịp lên hương.

   Tuy được ăn tươi và phải cảm ơn quản lý Tuấn, nhưng không phải tất cả  chúng tôi đều khen nó. Không phải vì khoản thịt lợn mà là vì câu chuyện nó kể. Lính tráng chúng tôi có đến gần một nửa nghi thằng Tuấn bốc phét chứ làm gì có chó sói ở vùng này. Đám còn lại đông hơn, trong đó có tôi thì lại tin lời quản lý Tuấn vì xem xét con lợn bị thương, thấy dấu vết là hai con mắt bị móc nát. Tôi đã đọc chuyện ở đâu đó thấy nói những con sói tấn công con vật khác nặng gấp nó vài lần thường dùng thủ đoạn nấp kín trên cao rồi bất ngờ phi ra đái dòng nước cay xè vào mắt đối phương. Trong khi con mồi cay mắt chưa kịp phản ứng thì con sói chồm lên đánh đòn hiểm là móc hai mắt của đối phương. Cuộc chiến đấu tiếp theo giữa một kẻ tấn công hung hăng và một nạn nhân mù thì tất nhiên là phần thắng nghiêng về con sói. Cũng nhờ con lợn rừng bị mù nên thằng Tuấn mới dễ hạ thủ chứ không chắc con lợn cũng kịp phi thoát vào rừng rồi.

   Câu chuyện bắn lợn rừng đúng là chưa dừng lại ở đó. Những ngày sau đi tăng gia, dù chỉ ra vườn ở khúc suối gần ngay hậu cứ, chúng tôi đều nhớ mang theo súng và không đi một mình. Nghe kể huyền thoại về chó sói, nhiều thằng lo nhỡ có chó sói thật mà nó không rình con thú khác, lại rình người thì sao? Tuy lo xa như thế, nhưng chuyện tiếu lâm do lính sáng tác và thêu dệt về việc thằng Tuấn gặp chó sói trong rừng thì ngày một phát triển, có lúc thành chủ đề chính những lúc giải lao. Thằng Tuấn ức lắm với biệt danh "cô bé quàng khăn đỏ có đôi mắt to hơn người(!)" do anh Hùng "cối" dân Thái Bình đặt cho. Tôi cũng tán chuyện, nhưng cứ nghĩ rồi nó sẽ trôi vào dĩ vãng thôi, như bao chuyện lính khác ấy mà.

   Không ngờ quản lý Tuấn để bụng và quyết tâm phục hận. Chúng tôi không mấy để ý, nhưng có người biết là thằng Tuấn vẫn bỏ giờ nghỉ trưa vác AK vào rừng làm gì đó. Chẳng cần đợi lâu, chỉ chừng độ chục ngày sau, cũng vào một buổi trưa nắng đẹp, chúng tôi lại được nghe tiếng súng.

    "Đoàng",…"đoàng",…"đoàng,…đoàng".

   Toàn tiếng nổ AK phát một, vẫn ở phía cánh rừng qua suối hướng vườn rau. Ngưng lại hồi lâu đến vài phút mới lại nghe ba loạt AK điểm xạ lên trời liên tiếp. Lần này chúng tôi không giật mình, không báo động, nhưng cũng nhanh chóng bật dậy xách AK chạy ra tiếp ứng. Hùng hục chạy đến nơi, xa hơn chỗ quản lý Tuấn bắn lợn bữa trước thì thấy anh ta đang một tay xách AK, một tay chống nạng đứng dạng chân cười ngạo nghễ ngay giữa đám cây lúp xúp trên bãi đất trống. Đập vào mắt chúng tôi là xác hai con thú gần đó. Một con chó sói lông màu xám nhạt nằm gục mõm ngay gần một con lợn rừng to gấp ba bốn lần nó. Thằng Tuấn quả là thiện xạ, bắn toàn trúng chỗ hiểm mới hạ gục được ngay hai con thú tại chỗ như thế này. Chúng tôi vừa thán phục quản lý Tuấn, vừa khoái chí trước hai chiến lợi phẩm nằm trên đất. Những thằng bữa trước nghi ngờ Tuấn, giờ bỗng thẹn thùng, mắt tròn mắt dẹt. Rồi chúng tôi hò nhau khiêng sói và lợn về. Những thằng đầu têu chuyện tiếu lâm bị quản lý Tuấn phân công khiêng con sói cho nó bõ ghét. Nhưng tự nhiên lại hóa ra nhàn vì hai thằng khiêng con sói thì nhẹ tênh, còn chúng tôi khiêng con lợn thì vẫn lặc lè như trước. Không hiểu sao ở vùng này có lắm lợn rừng to thế, hay con sói chỉ rình bắt lợn to thôi, còn con bé thì nó bỏ qua?

   Chiến lợi phẩm lần này phải liên hoan hai ngày mới hết. Thịt lợn không nói làm gì, nhưng thịt chó sói phải nói là ngon. Tôi không dám so sánh nó ngon hơn hay kém thịt chó nhà, nhưng cái món thịt chó sói om dừ với riềng và mắm tôm thì không đứa nào trong đại đội dám chê (Chúng tôi vốn vẫn còn nhiều mắm tôm khô được cấp từ trước, nay đem ra quấy nước nóng thì cũng thu được một loại mắm tôm lỏng, tuy không thể sánh với mắm tôm truyền thống, nhưng cũng đủ dậy mùi) . Chỉ cần một đứa chê là có dăm thằng khác xung phong ăn hộ ngay.

   Cuộc hàn huyên và tiếu lâm bây giờ lại quay mũi dùi sang anh Hùng "cối". Cái mác "đã tốt nghiệp lớp 10" và đọc nhiều sách của anh bây giờ bị gán thành "nhà bác học giả cầy". Anh Hùng đã phải lên tiếng xin lỗi quản lý Tuấn. Sau đó mọi chuyện lại bình thường vì chúng tôi, lính ấy mà.

   Sau hai vụ ăn thịt cải thiện ấy, trong C tôi còn có nhiều thằng còn đề nghị đại đội cho lập kế hoạch săn bắn tiếp, vì vùng rừng này chắc còn nhiều lợn rừng và chó sói. Thế nhưng may mắn đó không đến nữa vì tình hình đơn vị đã có nhiều thay đổi, nhanh đến chóng mặt khiến chúng tôi không còn kịp làm thêm gì nữa.

   Năm nay tết Nguyên đán đến sớm, chỉ vào độ cuối tháng 1 này thôi, nên chúng tôi xác định mình sẽ được ăn tết tại khu hậu cứ này. Mọi chuyện gì khác nếu có đến chắc phải sau tết. Vì thế trong các A đã rủ nhau tập tành văn nghệ. Chi đoàn thanh niên đã lên kế hoạch tổ chức vui chơi "hái hoa dân chủ". Bếp ăn đại đội dự định sẽ tổ chức gói bánh chưng vì cả C đã được cấp một con lợn. Ngoài gạo nếp vốn là sở trường của đất Lào, chẳng bao giờ thiếu, đơn vị cũng được cấp đỗ xanh, lạc và đường. Từ ngày 25 tết, không khí trong đơn vị đã nhộn nhịp lắm rồi. Cứ thỉnh thoảng lại có lệnh cử người lên tiểu đoàn, thậm chí lên thẳng kho Trung đoàn để lấy hàng. Nhu yếu phẩm Tết năm nay khá hơn Tết năm trước nhiều. Đủ mỗi đầu người một bao thuốc lá Trường Sơn hoặc Tam đảo. Có cả chè Ba Đình. Mỗi tiểu đội được hai hộp mứt loại nhỏ 250 gram. Kể ra cả tiểu đội có mười người mà hai hộp mứt như thế thì chẳng bõ bèn gì, nhưng dù sao cũng là quà miền Bắc, tinh thần là chính. Có hương vị tết là được rồi. Mà thực ra ở nhà thì tiêu chuẩn tem phiếu cũng đâu có hơn gì. Các trung đội đều dự định nấu kẹo lạc. Gì chứ cái món nấu kẹo lạc đổ ra vung rồi cắt miếng thì thằng lính nào cũng nấu được.

   Ngoài những món vật chất trên, chúng tôi còn tổ chức trang trí lán trại cho tăng khí thế đón xuân. Đại đội tổ chức đi lấy lá dong để chuẩn bị gói bánh chưng. Ở rừng thì lá dong có mà thiếu giống. Những khe núi ẩm ướt hay có suối đất thì hai bên thể nào cũng tìm được lá dong. Chúng tôi lấy về, toàn lá bánh tẻ xanh mướt, to tướng. Gói bánh chưng nửa cân chứ gói loại to hơn cũng không phải ghép lá. Đun bánh chưng bằng củi gộc là rền và ngon nhất nên lính tráng cũng vào rừng xa lấy củi. Người ta bảo "cây ngay không sợ chết đứng" nhưng thực tế trong rừng có những cây to chết đứng rất nhiều, thân còn chắc nịch, có lẽ do cây già mà chết. Tha hồ mà củi gộc. Mọi thứ đã chuẩn bị sẵn sàng. Phần trang trí lán thì cũng đủ loại và muôn màu muôn vẻ. Đất Lào có đủ các loại hoa có thể trang trí Tết, từ Đào phai, Mai vàng cho đến những cành mận rừng có hoa trắng nhỏ li ti cũng rất bắt mắt. Cầu kỳ thì đi xa hơn đến những cánh rừng già kiếm hoa Phong Lan. Thật ra chỗ nào có hoa, chúng tôi cũng đã ngắm nghía từ trước và đánh dấu sẵn trong đầu rồi, giờ chỉ còn đi lấy về thôi.

   Ngày 27 Tết, mọi thứ đã chuẩn bị xong. Không khí Tết tràn ngập đơn vị. Tập tành hay học hành chính trị cũng chỉ mang tính chiếu lệ. Từ bọn lính mới chờ đón cái tết chiến trường đầu tiên đến đám lính cũ, ai cũng náo nức chờ xuân.




Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Trongc6 trong 18 Tháng Năm, 2012, 09:55:41 am


   Tết Nguyên đán của Việt Nam không trùng với Tết của Lào. Tết của họ vào giữa tháng Tư dương lịch, ứng với thời gian cuối của mùa khô. Tôi vào chiến trường đã qua hai cái Tết Lào. Tết đầu tiên đang chốt giữ ngoài bản Phin, bản Soan ở phía đường 231, lúc đó chưa biết gì về Lào. Cái Tết thứ hai B5 chúng tôi phải đi chốt Keng Nhao, ở đó chỉ có cái bản bỏ đầy hoa quả mà không có dân. Đại đội đóng quân ở gần bản Noọng Bua phía sau nên có được hưởng một chút Tết Lào của dân. Bọn lính B khác cùi gạo ra chốt Keng Nhao có kể lại cho chúng tôi nghe về cái Tết năm mới, còn gọi là Tết té nước (Bun pi may - Bun hat nạm) của dân Lào. Họ vui Tết hết sức đơn giản. Ăn uống không có món riêng đặc sắc như kiểu bánh chưng của Việt Nam mà chỉ là các món ăn tươi so với hàng ngày. Hình như họ cũng không chú trọng lắm về ăn. Nhưng tinh thần thì thật thoải mái. Dù bản chỉ có ít dân, họ cũng ra suối lấy nước về rồi té lên người nhau tràn lan, bất kể dân hay bộ đội đi qua, cười vang thoải mái. Cũng chả cần phải chúc phúc điều gì, chỉ té dội nước lên nhau là đủ, càng ướt càng tốt. Đến tối thì lại tụ tập phòn (múa) cùng nhau, ai cũng ướt sườn sượt.

   Bây giờ chúng tôi chuẩn bị đón Tết, vì không có chủ trương giao lưu với dân nên việc ai nấy lo. Ra bản gặp dân cũng chỉ nhăm nhăm kiếm con gà hay bidong rượu. Mà dân ở thưa, cũng nghèo nên chả có mấy mà đổi chác. Lúc hì hục bận chuẩn bị Tết thì thôi, nhưng lúc xong việc ngồi nhàn lại thấy có gì đó bâng khuâng. Khung cảnh thanh bình, gần dân nhưng lính vẫn chỉ là lính ăn Tết với nhau. Chưa biết lúc nào, nhưng chúng tôi sắp chia tay đất Lào rồi. Về nước, về đất mẹ tuy có chút háo hức tò mò về chiến trường mới, nhưng rời xa mảnh đất đã nhiều ngày gắn bó và che chở cho mình thì không thể không thấy man mác buồn. Có một chút gì đó bồi hồi như trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu, khi đó quân ta được về Thủ đô, về nơi đô hội ồn ã, cuộc sống tốt hơn nhưng lại thấy nao nao nhớ rừng Việt Bắc với những bữa cháo bẹ canh măng, với những sắc áo chàm đã bao năm đùm bọc che chở cho mình.

   Dù trong đơn vị chẳng ai có mối tình nào với gái Lào như trong tiểu thuyết thường thêu dệt, nhưng thằng lính nào mà chả từng gặp dân xin rau củ, xin những nắm xôi trong tuýp cuối buổi chiều; từng tập tọe tán vài ba câu nào đó với phu sao Lào lúc đi công tác lẻ qua bản của họ…, thế cho nên có chút bâng khuâng tình quân dân cũng là điều tự nhiên dễ hiểu.

   Cái tình cảm ấy khi không nói ra thì thôi, nhưng nói hơi nhiều và say sưa một chút thì lại bị mang tiến ủy mỵ, tiểu tư sản. Bọn lính Hà Nội chúng tôi, nhất là những thằng đã học hết lớp mười mà nói năng văn thơ một chút, thường bị gán cho mác tiểu tư sản (trong khi gia đình mình ở nhà cũng như mọi gia đình khác, tem phiếu bao cấp chứ có cái gì hơn đâu mà tư với sản). Nói ra thì bảo sai lập trường, nhưng khi đó những thằng thuộc thành phần bần nông, hay "bần bần" cố nông được tin tưởng hơn. Đấy là nói lúc về hậu cứ, được cấp trên để ý cất nhắc, chứ lúc còn đang ở tuyến trước thì bình đẳng như nhau, ai cũng phải lao lên và ai cũng có quyền được hy sinh, bom đạn chẳng chê hay nhường thằng nào.

   Lại nói chuyện thằng Lễ (Nam Hà), cái thằng mà chỉ thích vác B40 phụt cho nó sướng, xung phong thì bụi tre gai cũng lao qua, mặc cho xây sướt hết cả mặt. Nó là thằng lên A trưởng nhanh nhất, mùa mưa năm 1973 được vào đối tượng đảng. Văn hóa thì tà tà thôi, nhưng thằng này thì gan kỳ và kiên định lập trường lắm. Thằng Thái Pi-tơ giễu nó ra mặt, thường bảo là Đảng mà có quần chúng toàn loại như thế này thì cách mạng phải thành công lâu rồi chứ không còn vất vả đến hôm nay. Thằng Thái thuộc loại bất cần, nó bảo chỉ mong giữ được cái gáo để về nhà, còn mọi chuyện khinh tạt hết.

   Một lần thằng Lễ đi học lớp cảm tình đối tượng gì đó về đảng trên trung đoàn, lúc về vênh vang lắm. Nó cứ làm như sau mấy ngày đi học ấy thì kiến thức của nó phải bằng cả chục năm người ta đi học không bằng ấy. Thấy nó vênh vang, tôi tò mò hỏi nó đi học, thế người ta dạy cái gì? Nó có vẻ kẻ cả bảo tôi, mày biết gì mà hỏi, chúng tao học về lịch sử, về đường lối của đảng, về thời cơ và kinh nghiệm cách mạng Việt Nam. Ra là thế, cũng to chuyện đấy nhỉ.

   Về sau tỉ tê thêm, nó khoe với tôi về chủ nghĩa cộng sản, về đảng ta thành lập mãi từ năm 1930, rồi là cách mạng tháng Tám thành công, rồi đường lối cách mạng hiện nay… Lúc đầu tôi cũng thấy hơi ù tai, sao thằng này học lắm thứ thế. Mãi sau nói chuyện nhiều thì ra có rất nhiều điều chúng tôi đã được học trong môn lịch sử từ năm lớp 10 rồi. Thế là tôi phản công lại, vì những điều nó học chỉ có mấy ngày, nhớ lõm bõm nên truy gắt một tý là lẫn lộn ngay, không còn phân biệt được Các Mác hay Lê-nin ông nào nhiều râu hơn. Thế là tôi liền kề cho nó nghe vanh vách từ chuyện Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Đảng CS Pháp, cách mạng tháng Mười, các thời kỳ cách mạng của đảng ta, ứng phó của Bác Hồ với Pháp và Tàu Tưởng từ sau cách mạng tháng Tám đến Toàn quốc kháng chiến, rồi đến hai lần kéo pháo vào đánh Điện Biên Phủ…tóm lại là đủ thứ trong môn lịch sử mà tôi học. Còn cái đoạn ba trào lưu cách mạng cho đến chuyện "Ta thắng lớn địch thua to, miền Bắc được mùa, miền Nam thắng lớn" mà năm nào chúng tôi cũng học chính trị thì tôi nói ào ào như thuộc sách. Bấy giờ thằng Lễ mới chịu xẹp xuống và nhìn tôi với con mắt khác.
 
   Khổ nỗi là những cuộc tranh luận hợp pháp ấy lúc to lúc nhỏ, nên đã đến tai đại đội. Chính trị Viên Mỵ thì khoái lắm vì thấy bọn học sinh lớp 10 tuy chẳng phải Đảng, Đoàn gì nhưng được học thế thì cũng coi như đã thấm nhuần chính trị, kiến thức gần bằng với cán bộ chính trị rồi, sau này tuyên truyền gì cũng dễ. Chỉ có Đại trưởng văn hóa lớp 5 là không thích bọn học cao hơn, nên lúc nào cũng muốn chụp mũ tiểu tư sản cho chúng tôi. Ông ấy còn khó chịu hơn khi tôi cãi rằng cách mạng Việt Nam do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, nhưng những lãnh tụ của Đảng đều là người có học mới lãnh đạo được, các Vị ấy chẳng có ai là bần cố nông mù chữ đâu ạ.

   Mùa mưa năm 1973 chúng tôi học chính trị khá nhiều vì những ngày mưa to không thể tập tành. Ngoài thời gian học tập trung trên hội trường đại đội, chúng tôi về thảo luận ở B. Lúc đầu trung đội chỉ có tám chín người, về sau có bổ sung thêm tân binh thì đông hơn, được hơn chục người. Các lán trung đội ở xa nhau lại vì trời mưa nên rất nhiều buổi chỉ có anh em trong B với nhau, không có cán bộ đại đội đi kiểm tra. Trung đội tôi thường rút ngắn phần thảo luận để nhường chỗ cho đọc sách. Sánh báo lúc đó anh em tân binh mang vào được một ít, còn lại do tiểu đoàn cấp xuống, chủ yếu là Tạp chí Văn nghệ quân đội. B trưởng của tôi cũng quen thân nhiều trên tiểu đoàn nên mượn thêm được cả tiểu thuyết. Tôi thích đọc sách và có giọng đọc khá truyền cảm nên thường được giao đọc cho cả B nghe. Có như vậy chúng tôi mới biết đến những chuyện ngắn như "Mảnh trăng giữa rừng" của Nguyễn Minh Châu. Một loạt các tiểu thuyết chiến tranh ra đời dạo đó, chúng tôi cũng được đọc như "Chiến sĩ" của Nguyễn Khải, "Đất trắng" của Nguyễn Trọng Oánh, "Mẫn và tôi" của Phan Tứ, hay "Thung lũng Cô tan"…

   Có một lần tôi đọc cuốn "Mẫn và tôi" đến đoạn gần cuối, khi cô Mẫn chia tay Tư Thiêm rồi lại chợt quay vội vào hầm và nói với Tư Thiêm trong hơi thở hổn hển: "Anh Thiêm! Hôn em đi. Chúng mình hôn nhau để từ biệt đi anh", có đến hai thằng trong trung đội nghe mùi mẫn quá xoay người ngã nhào từ trên sạp xuống đất. Từ đó tôi được trung đội mệnh danh là "giọng đọc Kim cúc" của trung đội.

   Có một lần chúng tôi mượn được cuốn "Đội cận vệ thanh niên" của nhà văn Liên - xô A. Pha-đê-ép, tập 2. Chỉ có mỗi một tập trong bộ tiểu thuyết 3 tập, nhưng đói sách nên chúng tôi vẫn đọc. Chỉ được mượn có một đêm trong lúc khách nghỉ tại đơn vị, nên suốt đêm hôm đó chúng tôi đốt lửa đọc cho nhau nghe. Cũng vì chỉ có một tập, nên tôi phải kể thêm phần nội dung của hai tập kia, vì lúc ở nhà tôi đã có đọc. Lại còn phải giải thích thêm cụm từ cận vệ. Đây là một danh hiệu vẻ vang (đội cận vệ, sĩ quan cận vệ…) được tặng cho những cá nhân hay đơn vị có thành tích đặc biệt mà chỉ ở Liên-xô mới có. Đọc xong trang cuối cùng thì cũng vừa lúc bình minh. Thế mà cả trung đội chăm chú nghe, chẳng ai ngủ gật. Chỉ mỗi tội hơi tốn nước "chè sâm rừng", món sâm rừng do chúng tôi tự kiếm và sao lên chế biến. Sản phẩm là rễ của sâm rừng, dáng từa tựa như những sợi giá đỗ.




Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: baoleo trong 18 Tháng Năm, 2012, 04:23:52 pm
Hồi bé có đọc quyển truyện thiếu nhi, dường như có tên là 'thú rừng Tây Nguyên'. Trong này, đã có bác nào đó nói đến rồi.
Chuyện kể về voi đi thàng đường phẳng lỳ, gấu ăn mật, về phong cảnh núi rừng Tây Nguyên và Lào. Đọc say mê lăm.
Nay, đọc các bài của bác, cũng có cảm xúc ấy.
 Bác viết về Lào, về cuộc sống và chiến đấu của lính ta ở Lào, hay lắm.
Ông chú thứ hai, sau bố em, là bộ đội ở Lào thời 9 năm, ông đã ngang dọc suốt vùng Nam Lào thời đó. Ông cũng đã mất rồi. Thật tiếc. Giá như em còn có thể in cho cụ đọc, các câu chuyện của bác về đất nước Lào. Đất nước của "mùa hoa chăm pa đây, đất Lào nở hoa. Mùng anh chiến sỹ, giữ yên làng quê...".
Ôi đất Lảo, một đất nước có quá nhiều duyên nợ với cá nhân em.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: lexuantuong1972 trong 18 Tháng Năm, 2012, 04:43:02 pm
Hồi bé có đọc quyển truyện thiếu nhi, dường như có tên là 'thú rừng Tây Nguyên'. Trong này, đã có bác nào đó nói đến rồi.
Chuyện kể về voi đi thàng đường phẳng lỳ, gấu ăn mật, về phong cảnh núi rừng Tây Nguyên và Lào. Đọc say mê lăm.
Nay, đọc các bài của bác, cũng có cảm xúc ấy.
 Bác viết về Lào, về cuộc sống và chiến đấu của lính ta ở Lào, hay lắm.
Ông chú thứ hai, sau bố em, là bộ đội ở Lào thời 9 năm, ông đã ngang dọc suốt vùng Nam Lào thời đó. Ông cũng đã mất rồi. Thật tiếc. Giá như em còn có thể in cho cụ đọc, các câu chuyện của bác về đất nước Lào. Đất nước của "mùa hoa chăm pa đây, đất Lào nở hoa. Mùng anh chiến sỹ, giữ yên làng quê...".
Ôi đất Lảo, một đất nước có quá nhiều duyên nợ với cá nhân em.

Đấy là những tác phẩm của nhà văn Vũ Hùng: Thú rừng TN, Con cu li của tôi, Mùa săn trên núi... Tôi mê mẩn với những áng thơ văn của tác giả viết về những người lính thông tin VN trên đất Lào trong những năm đánh Pháp. Chẳng hiểu vì lẽ gì ông ta lại xin tị nạn tại Pháp >:(


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Trongc6 trong 25 Tháng Năm, 2012, 09:22:50 am
 ...
      Trở lại với cái Tết 1974 sắp đến.
      Để chuẩn bị cho bài viết cuối cùng trên đất Lào, tôi gửi thêm một bài bích báo nữa.



Đêm giao thừa

Đêm nay ba mươi Tết
Giữa chiến trường, trong cánh rừng thưa
Lửa bập bùng sáng một vùng doanh trại
Chúng tôi quây quần chờ phút giao thừa.
Đón xuân mới, chi đoàn vui văn nghệ

Tiết mục hái hoa rộn rã vô cùng
Đủ cả tấu, chèo, thơ, ca liên tục,
Ta hát ta nghe mà ấm cúng quá chừng.
Vừa hát hò ta vừa nấu bánh chưng
(Bánh truyền thống của cha ông mình đấy).
Nước sủi rập rình như bài ca Tết vậy,
Thơm ngát rừng mùi hương nếp lá dong.

Vui liên hoan, ta có chè, thuốc, kẹo vừng.
Chè nước bạn hái từ cao nguyên hùng vĩ,
Thuốc của quê hương miền Bắc gửi vào,
Kẹo nấu lấy thêm đượm tình đồng chí,
Tình nghĩa hậu phương, tiền tuyến dạt dào.

Chờ phút giao thừa rộn rã làm sao,
Hàng câu đối như vẫy chào xuân mới,
Hoa Chăm-pa quện lẫn mùi hương chuối,
Trái bưởi vàng tô cảnh Tết thêm tươi.
*
Trên đất bạn, phút giao thừa đang chuyển,
Pháo nổ ran rộn rã cả gian phòng.
Tiếng nổ rộn từ chiếc đài bán dẫn,
Thay những tràng bom pháo Tết xưa.

Tết năm trước bên hàng rào cửa mở,
Ta đón xuân trong ánh sáng đèn dù
Và tiếng B52 mỗi giờ bốn đợt,
Khói bụi mù trời khét lẹt hơi bom
Cơm vắt muối vừng ta vẫn kiên gan,
Nổ súng tấn công, những chiến công kỳ diệu
Như những đóa hoa chào Xuân Quý Sửu,
Rộn lòng ta ngày giải phóng Pak Soòng.
*
Xuân năm nay ta đón Tết vui hơn
Im lặng ta nghe Bác Tôn chúc Tết.
lại một mùa xuân qua trong đoàn kết
Xuân Giáp Dần, xuân của thế tiến công.
Một mùa xuân rộn trong ánh nắng hồng
Và nhiệm vụ của quê hương đang gọi.
Rất nghiêm trang với chiến công vẫy gọi,

Mùa xuân này,
      Chúng tôi đang ở thế Xung phong.

(bài bích báo này viết theo phong trào vậy thôi, nhưng thực tế cái tết này với chúng tôi cũng vất vả chẳng kém gì tết trước.)



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: nguyenhuuluanc17 trong 26 Tháng Năm, 2012, 09:42:51 am
...
      Trở lại với cái Tết 1974 sắp đến.
      Để chuẩn bị cho bài viết cuối cùng trên đất Lào, tôi gửi thêm một bài bích báo nữa.



Đêm giao thừa

Đêm nay ba mươi Tết
Giữa chiến trường, trong cánh rừng thưa
Lửa bập bùng sáng một vùng doanh trại
Chúng tôi quây quần chờ phút giao thừa.
Đón xuân mới, chi đoàn vui văn nghệ

Tiết mục hái hoa rộn rã vô cùng
Đủ cả tấu, chèo, thơ, ca liên tục,
Ta hát ta nghe mà ấm cúng quá chừng.
Vừa hát hò ta vừa nấu bánh chưng
(Bánh truyền thống của cha ông mình đấy).
Nước sủi rập rình như bài ca Tết vậy,
Thơm ngát rừng mùi hương nếp lá dong.

Vui liên hoan, ta có chè, thuốc, kẹo vừng.
Chè nước bạn hái từ cao nguyên hùng vĩ,
Thuốc của quê hương miền Bắc gửi vào,
Kẹo nấu lấy thêm đượm tình đồng chí,
Tình nghĩa hậu phương, tiền tuyến dạt dào.

Chờ phút giao thừa rộn rã làm sao,
Hàng câu đối như vẫy chào xuân mới,
Hoa Chăm-pa quện lẫn mùi hương chuối,
Trái bưởi vàng tô cảnh Tết thêm tươi.
*



@Trongc6,

     Tết trên đất Lào , Bác  kể thấy có đủ các món  - Thế  còn nhảy  " Lăm vông"  và cầm tay các  Em Lào - đọc mãi  không thấy đâu ??  hay là bác còn đang dấu trong đoạn   " .... "  !  Đã kể thì cho " chót " đi, mà cái món " Lăm vông " mới  đích thực là  trên đất Lào đấy  ??? ;D (   hay vì đang ở vùng Việt nên không có lăm vông ? ).


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Trongc6 trong 28 Tháng Năm, 2012, 03:53:01 pm
          Bác Hữu Luân:

          Bác cứ bắt nọn nhau mãi. Làm gì có "mẩu" tình nào bên Lào mà tặng cái ảnh bé xíu, để đến bây giờ nó ố vàng trong tập thư của người ta như bác Luân đen.

         Tập truyện "Nó và tôi" của bác Như Thìn có một câu chuyện kể về thằng bạn ra đi lúc 19 tuổi, nhưng có cái an ủi là đã được nhìn thấy "Báu vật" của đời. Tôi mà có mối tình nào thì chả đến nỗi mãi đến ba mươi mấy tuổi mới được biết "Báu vật" nó như thế nào, bác ạ.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: nguyentrongluan trong 28 Tháng Năm, 2012, 04:41:19 pm
@Trongc6 : ngày đó bích báo mà viết như thế này thì tuyên huấn nó mất nghề a? Lão này viết khiếp thật đấy chứ.
Mà này còn cái đoạn mảnh tình bé tí nào thì ai mà tin ? Hôm nào phải phạt nặng lão thôi .
Dần dần đưa " Bích báo " lên nhá / Lính Hà nội hào hoa mà lị bác nhỉ


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: lexuantuong1972 trong 01 Tháng Sáu, 2012, 09:27:01 pm
@Trongc6: Ngày đầu tiên nghỉ hưu tôi giở lại tập Chuyện lính viết ra từ nhật ký mà bác đưa cho tôi hôm đến nhà tôi. Những bài này tôi đã đọc trong topic Truyện ngắn của lính... Tôi rất cảm động về những nhân vật trong truyện của bác đó là Hoàng, là Trịnh, là Bản & H'Lan, là Hà "thái giám"... và nhiều con người khác trong cơn lốc của cuộc chiến khốc liệt. Họ là những con người hiện thân cho 1 lớp người đã xả thân vì Tổ quốc nhưng những gì đến với họ nhất là sau cuộc chiến chua xót quá...

Như tôi đã nói với bác: nên tập hợp lại để ra 1 cuốn sách như ...  Nó và Tôi, Mây trên trời QT để làm phong phú thêm kho sách của CCB chúng ta. Tôi tin chắc đồng đội và anh em sẽ ủng hộ bác đấy.

"...Một mai đất nước tàn chinh chiến,
     Người lính về, ghi lại sử xanh..." 
   

Có phải thế không bác


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: ductung2510 trong 06 Tháng Sáu, 2012, 01:56:46 pm
(http://img710.imageshack.us/img710/8459/duong5a5b.jpg)
Đây là con đường 5A mà bác Trọng đã từng đặt chân chiến đấu. Con đường này phải đi qua làng Git Prông và giờ thuộc Làng Git Prông 2 (gọi là Làng Phang). Nơi đây ngày 15/07/1974 có 2 người đồng đội C6 của bác hy sinh.
(http://img716.imageshack.us/img716/8543/img0047do.jpg)
Đằng sau con đường 5A 5B này là Đường 19 chạm với dãy núi Chư Drông Drăng bác ạ. Bây giờ thuộc địa phận Huyện Đức Cơ tỉnh Gia Lai.

Mong bác tiếp tục hành quân đều đều ạ!


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: anhtho trong 07 Tháng Sáu, 2012, 06:58:44 am
         Bác Hữu Luân:

          Bác cứ bắt nọn nhau mãi. Làm gì có "mẩu" tình nào bên Lào mà tặng cái ảnh bé xíu, để đến bây giờ nó ố vàng trong tập thư của người ta như bác Luân đen.

         Tập truyện "Nó và tôi" của bác Như Thìn có một câu chuyện kể về thằng bạn ra đi lúc 19 tuổi, nhưng có cái an ủi là đã được nhìn thấy "Báu vật" của đời. Tôi mà có mối tình nào thì chả đến nỗi mãi đến ba mươi mấy tuổi mới được biết "Báu vật" nó như thế nào, bác ạ.

Cái đoạn tâm sự này của bác Trongc6 như rứa là chưa thật tình đâu nha. Vetran nhà em có nói với em là bác đã gặp (cọp) tới hai lần, mà còn làm chuyên gia Lào học thì phải hiểu nhiều lắm mọi mặt từ con người tới cuộc sống xã hôi trên đất nước triệu voi, mà tới ba mươi bác mới thấy nhúm thuốc lào của bác Nhuthin thì em chả tin.
Nhìn con đường đất đỏ bác Ductrung2510, em lại nhờ có thời đi qua Bình Long. Ôi màu đất đỏ quay quắt lòng người. Chúc bác Trongc6 và các bác tham gia topic vững bước hành quân


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Trongc6 trong 10 Tháng Sáu, 2012, 10:03:04 am
@DucTung2510:

       Cảm ơn bạn đã tặng bản đổ vùng đường 5a, 5b và ảnh con đường đất đỏ thân quen. Có điều hình như nhánh đường 5A nằm phía Bắc so với nhánh đường 5B cơ. Tôi cũng tìm bản đồ vùng này nhiều lần, nhất là cao điểm 631 mà không được. Cao điểm 631 nằm cách làng Bảo Đức (căn cứ Y3) hơn 2 cây số về phiá Nam. Nó chính là mắt pháo của địch để pháo kích chống lại ta trong trận Y3, gây nhiều thương vong cho bộ đội ta. Anh trai bạn cũng hy sinh trong trận Y3 ngày 15/7/1974 đó.

        Tôi rất tiếc và thật áy náy khi không giúp được gì cho bạn trong việc tìm lại hài cốt Ls Ánh, anh trai bạn. Người sát trong cuộc, cùng đơn vị anh Ánh như anh Lương hoặc ai đó cũng chỉ có thể kể lại cho bạn về tình huống  (trường hợp) hy sinh của anh bạn, còn sau khi mai táng thì không thể biết và theo dõi được.  Còn như Chính ủy Sinh thì cũng chỉ nắm được tình huống trận đánh, kết quả, khu chính sách tập trung ở đâu thôi. Đến bây giờ thủ trưởng cũng bó tay khi mà nơi trông cậy nhất là các bộ phận chính sách sau này lại làm quá đơn giản. Tôi cũng có hỏi lại thủ trưởng Sinh, thì thủ trưởng nói là do quy tập lại nhiều lần. Càng về sau, người làm càng tắc trách. Khi chuyển quy tập nghĩa trang, thuê người dân tộc thì họ cùi nhiều bộ hài cốt một lượt, lượt khác lại cùi một loạt bia nên khi đến nơi mới chẳng còn biết bia nào của bộ hài cốt nào. Từ đó "sai một ly đi một dặm" mà nhiều mộ trở thành không tên.

       Tôi cũng rất tiếc cho bạn, nhưng có một thiển nghĩ thế này. Do cái chuyện sai lạc bia mộ như trên, nên chuyện tìm lại cho đúng tên liệt sĩ không hề đơn giản, có thể vượt quá sức người. Chúng tôi cũng đau lòng thay, nhưng nghĩ dù sao theo danh sách QD3, ngôi mộ anh bạn cũng chắc chắn nằm trong nghĩa trang đó. Thôi thì anh bạn vẫn đang cùng nằm trong đội ngũ với đồng đội đã ngã xuống năm xưa, vẫn còn anh, còn em. Vả lại nơi nào trên nước ta cũng là "Đất Mẹ". Tuy nơi đó xa nhà, nhưng vong linh có cánh vẫn có thể vượt nghìn trùng về với gia đình mõi khi thắp hương cũng giỗ. Ở nơi đó, anh ấy vẫn được cả nước tiếc thương và cùng chung sức hương khói quanh năm, cũng ấm lòng.

Vài lời chia sẻ.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: quangcan trong 10 Tháng Sáu, 2012, 11:33:09 am
@DucTung2510:
       Cảm ơn bạn đã tặng bản đổ vùng đường 5a, 5b và ảnh con đường đất đỏ thân quen. Có điều hình như nhánh đường 5A nằm phía Bắc so với nhánh đường 5B cơ. Tôi cũng tìm bản đồ vùng này nhiều lần, nhất là cao điểm 631 mà không được. Cao điểm 631 nằm cách làng Bảo Đức (căn cứ Y3) hơn 2 cây số về phiá Nam. Nó chính là mắt pháo của địch để pháo kích chống lại ta trong trận Y3, gây nhiều thương vong cho bộ đội ta. Anh trai bạn cũng hy sinh trong trận Y3 ngày 15/7/1974 đó.     
đường 5A, đường 5B, làng Bảo đức 1 & 2, điểm cao 631, đường 19 ở phía Nam ( bản đồ hơi to và nặng, các bác thông cảm ;D):

(http://nn4.upanh.com/b6.s28.d2/1c813baec3565d120a983bbfdb1bb7df_45932904.bactrongc6.jpg) (http://www.upanh.com/bac_trongc6_upanh/v/arh5ax7ccuf.htm)


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: ductung2510 trong 10 Tháng Sáu, 2012, 10:06:00 pm
Trích dẫn
Thôi thì anh bạn vẫn đang cùng nằm trong đội ngũ với đồng đội đã ngã xuống năm xưa, vẫn còn anh, còn em. Vả lại nơi nào trên nước ta cũng là "Đất Mẹ". Tuy nơi đó xa nhà, nhưng vong linh có cánh vẫn có thể vượt nghìn trùng về với gia đình mõi khi thắp hương cũng giỗ. Ở nơi đó, anh ấy vẫn được cả nước tiếc thương và cùng chung sức hương khói quanh năm, cũng ấm lòng

Vâng, rất cảm ơn bác đã có lời chia sẻ thật tình cảm tới gia đình cũng như tới các đồng đội của bác đã ngã xuống. Mời bác tiếp tục hành quân về Đức Cơ để đỡ đứt mạch truyện.

Chúc bác và gia đình mạnh khỏe.   
 


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: nguyentrongluan trong 11 Tháng Sáu, 2012, 11:08:59 am
@quangcan
Chìm sâu trong kí ức về những địa danh Làng Dịt ( mà trên bản đồ Quang đưa lên ) 1,2,3 gì đó Ngày ấy Trung đoàn 64 đã chiến đấu suốt từ tháng 6/72 tới 12/74 mới rời đi thì bọn mình gọi là làng Ditj dông , Dịt phàng , Dịt de . Đó là một hệ thống giữ chốt của E 64 sau cắm cờ . Hai ngọn chư grông ràng và chư gôi là trận địa bọn mình suốt 73, 74 đấy . Con đường 5A luôn có những trận đánh của D8 . Bây giờ nhìn lại thấy nao nao Quang ạ . Cháu đi nghỉ về chưa?
À mà quên này Quang !
Trên bản đồ , Quang thấy đoạn Thanh bình có quả đồi ở ô 30 không ? Ngày ấy vào tháng 12/73 Chú viết bài thơ mà lính 64 rất biết : đó là bài

 Đồi 30

Cao điểm ấy nằm ở ô 30 trên bản đồ tác chiến
Khi chúng tôi đến
Ngọn đồi đã mang tên
Đồi Ba mươi

Đánh nhau có lắm tình cờ
Đêm ấy là đêm Ba mươi tết
Tổ chốt thức chờ sang canh trên trận địa
Bỗng súng nổ ba khẩu B40 phụt lửa
Giữa giao thừa địch bỏ xác ba mươi tên

Đêm ấy trời tối đen
Đêm ấy là đêm ba mươi tết


cám ơn Quang nhé , đưa bản đồ này lên , chú lại bồi hồi rồi đấy / Chú Luân
 


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: quangcan trong 11 Tháng Sáu, 2012, 11:43:26 am
. Cháu đi nghỉ về chưa?
À mà quên này Quang !
Trên bản đồ , Quang thấy đoạn Thanh bình có quả đồi ở ô 30 không ? Ngày ấy vào tháng 12/73 Chú viết bài thơ mà lính 64 rất biết : đó là bài  Đồi 30

Đồi ở Ô 30 phục vụ yêu cầu của người lính già đầu bạc - kể mãi chuyện Nguyên Phong ,  ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Trongc6 trong 11 Tháng Sáu, 2012, 03:10:03 pm
Cảm ơn QuangCan đã cho xem tấm bản đồ hay.

Có điều này thắc mắc: Tại sao cũng tỷ lệ mỗi ô là 2 cây số vuông, mà sao bản đồ quân sự khi xưa phát cho bọn mình nó rõ nét cực kỳ. Xem bản đồ mà đạp đường đi, so sánh với thực địa không khó khăn lắm. Thậm chí còn biết được nơi mình sẽ đến là rừng ây loại gì: Rừng già, rừng tái sinh, cây lúp xúp, hay đồi tranh...

Tiếc là khi hết chiến tranh, chẳng hề có ý nghĩ giữ lại làm kỷ niệm sau này như bác TichtuongNhule. (Bác ấy bây giờ còn nhiều tấm bản đồ quân sự quý lắm),


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: quangcan trong 11 Tháng Sáu, 2012, 03:33:30 pm
Cảm ơn QuangCan đã cho xem tấm bản đồ hay.

Có điều này thắc mắc: Tại sao cũng tỷ lệ mỗi ô là 2 cây số vuông, mà sao bản đồ quân sự khi xưa phát cho bọn mình nó rõ nét cực kỳ. Xem bản đồ mà đạp đường đi, so sánh với thực địa không khó khăn lắm. Thậm chí còn biết được nơi mình sẽ đến là rừng ây loại gì: Rừng già, rừng tái sinh, cây lúp xúp, hay đồi tranh...

bản đồ nào cũng có phần chú thích ở dưới, thể hiện các địa danh, cao độ, rừng, đường đi, suối, .... mờ bác. Nhìn cả mảnh ra ngay,  ;D; chỗ này em cắt góc nhỏ thôi mà,  ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: chienc3.1972 trong 12 Tháng Sáu, 2012, 10:59:19 am
Tự xoá vì lạc đề


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: nguyentrongluan trong 12 Tháng Sáu, 2012, 11:28:30 am
He he ! Chienc3 ơi
Chú xem lại bài viết của anh Luân đi :
Cao điểm ấy nằm ở ô 30 trên bản đồ tác chiến Nhá!
Vì thé nên bọn anh gọi luôn là đồi Ba mươi nghe chửa ? dám trêu lính chiến rồi !
Phạt 5 Phút ! ( chứ không phải phụt 5 phát ) Rõ là ngầu !


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Trongc6 trong 12 Tháng Sáu, 2012, 11:36:29 am
@AnhTho:

     Quả thật khi ở Lào cũng có ra ngoài dân tí chút để giao lưu, nhưng không dễ cầm tay con gái nhà người ta đâu bạn ạ. Còn múa (phòn) cùng dân thì ở Lào quá bình thường.

    Cũng như các nước phương Đông, Lào chỉ có múa chứ không có nhảy (Dance) như các nước phương Tây. Phương Tây họ nhảy nên chỉ cần điệu nhạc cất lên (bật nhạc hay tự ư ử trong họng) là hai người có thể ôm nhau dặt dìu rồi. Kiểu đó mới có nhiều phát sinh.

   Còn phòn thì thường là đông người, nhạc tự hát là đủ. Phòn dễ học, chỉ bước đi nhún nhảy và uốn lượn đôi tay, không có chạm vào người nhau được đâu.

   Lại còn chính sách dân vận khi đó, nên hầu như lính không có tư tưởng và được phép yêu đương dân. Muốn yêu phải là ta với ta cơ. Mà lại không có cảnh gần các đơn vị có nữ nên chẳng có tên nào có điều kiện sa chĩnh gạo như VeTran nhà bạn đâu.

   Nhưng lính cũng thuộc loại "nhất quỷ nhì ma..." nên cũng lắm chuyện lắm. Cũng tò mò, bậy bạ, nhưng điều kiện không đủ nên cũng chỉ được xem Báu vật như chuyện sau tôi đã kể (còn thua nhúm thuốc lào của bác Như Thìn ấy chứ":

     "... Lòng vả cũng như lòng sung. Lính tráng xa nhà mà gần dân, thế nào chẳng có điều trắc ẩn. Không ít thằng mong được nhìn trộm con gái tắm, nhưng bộ đội cách mạng đâu có thể làm ấu. Cầm tay con nhà người ta công khai thì chẳng sao, nhưng nhòm ngó lung tung thì không được. Thế là mấy ông tai quái (nơi nào chẳng có các bố ấy) tìm cách mò sang bờ suối bên kia phục kích. Bên đó là rừng rậm, lại muốn giữ bí mật (cả với "quân ta" và "quân địch") nên phải vờ đi rừng ở đoạn rất xa, đi một khoảng cũng rất xa rồi mới định hướng đạp rừng quay lại. Đầu têu là mấy anh dân Hà Bắc (cựu nhất trong đơn vị) rồi đến các anh Hà Tây. Cho đến một lần anh Trịnh cũng ngứa ngáy chân tay rủ tôi cùng đi. Phải nhân một buổi chiều được cử đi lùng sục chỉ có hai người. Chúng tôi chỉ mang AK cho gọn, nhưng không đi theo lộ trình đơn vị giao, mà nhanh chóng cắt đường đổi hướng. Đường dài và gian nan đến nỗi có nhẽ sau hai tiếng đồng hồ chúng tôi mới mò trở lại được bên kia suối. Lại định vị cho đúng khúc suối trong điều kiện chỉ được bò loặc lổm nhổm bốn chân. Bí mật được thì không sao, lộ ra thì coi như không còn gì để cãi. Chúng tôi chọn chỗ phục kích, cũng may là nơi đó toàn cây lúp xúp, bờ suối lại dốc đứng cao hơn lòng suối đến hơn chục mét nên khả năng bí mật được nâng cao. Chúng tôi còn phải nằm chờ rất lâu cho đến khi nắng chiều đã nhạt thì dân họ mới đi tắm (không như lính ta toàn phải đi tắm vào buổi trưa). Đang nằm im chờ thời cơ thì chúng tôi phát hiện chếch phía sau có tiếng động sột soạt. Chúng tôi nằm bẹp xuống, im re, không biết người hay thú dữ đây. Thú dữ cũng chết vì đâu dễ giải thích chuyện săn bắn ở vị trí này. Còn nếu là dân thì đúng là họ theo dõi bắt quả tang mình rồi. Thế thì đằng nào cũng chết. Cảm giác hồi hộp lúc này chẳng kém lúc phục kích địch thật là bao nhiêu. Dù sao chúng tôi cũng vẫn phải hơi xoay người chĩa mũi súng vào cái hướng loạt soạt ấy. Thật vô cùng bất ngờ khi tôi nhận ra một người đội mũ tai bèo đang bò đến, lính ta và không phải ai khác, chính là anh H. C viên phó của chúng tôi. Lúc này tôi muốn đái ra quần cho nó nhẹ người đi quá. Bị bố này bắt được thì coi như hết đường về quê mẹ rồi. Chắc phía sau còn có thằng liên lạc đi hộ vệ nữa. Tôi bấm tay anh Trịnh nằm im, không dám thở mạnh. Anh H. cứ chậm rãi bò dần tiến lên bờ suối, cách chúng tôi chỉ độ gần chục mét mà không phát hiện ra chúng tôi. Thế mới biết yếu tố bất ngờ quan trọng thật. Chẳng mấy chốc anh ấy cũng chọn xong chỗ để "quan sát". Không thấy thằng liên lạc đi cùng, hóa ra anh ấy cũng có mục đích giống hai chúng tôi. Cái khổ nhất đối với chúng tôi lúc này là vừa không được hút thuốc, vừa phải canh chừng thủ trưởng. Mãi sau thấy cứ thế này thì không ổn, anh Trịnh quyết định chủ động xuất cờ trước, lấy một hòn đất nhỏ ném về phía anh H. Anh ấy giật mình ngơ ngác. Đến khi nhìn thấy chúng tôi, vẻ mặt anh ấy khiến tôi dám chắc anh ấy muốn đái ra quần hơn cả tôi lúc nãy. Nhưng chỉ thoáng qua thôi, vì toàn là quân ta nên bắt liên lạc với nhau rất nhanh. Nói cho cùng, trong bụng ai chả có chất giống nhau, nên ba chúng tôi nhanh chóng hợp thành một đội.

   Chiều hôm ấy, từ khoảng cách gần bốn chục mét, ba chúng tôi được xem "phim cấm". Nhưng nói thật là mọi thứ cũng chỉ mờ mờ ảo ảo như trong tranh thủy mạc của họa sĩ Đổng Thìn Sinh mà thôi. Nhưng thế cũng là lên tiên rồi."


http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php/topic,6323.540.html


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: chienc3.1972 trong 12 Tháng Sáu, 2012, 12:08:12 pm
Tự xoá vì lạc đề


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Tanloc555 trong 12 Tháng Sáu, 2012, 04:40:48 pm
Kính các anh lính chiến: Cũng chỉ vì gọi tên cao điểm theo "Ô" và theo "cao độ" mà khối vụ choảng nhau đấy !
Tuy nhiên phổ biến hơn cả vẫn là gọi theo CAO ĐỘ !


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: vanthang341ht trong 12 Tháng Sáu, 2012, 09:05:40 pm
Kính các anh lính chiến: Cũng chỉ vì gọi tên cao điểm theo "Ô" và theo "cao độ" mà khối vụ choảng nhau đấy !
Tuy nhiên phổ biến hơn cả vẫn là gọi theo CAO ĐỘ !

    Lính bb chúng tôi thì đã là điểm cao bao giờ cũng chỉ nói độ cao  của điểm cao đó. Còn để chính xác hơn thì dùng tọa độ, chính xác hơn nữa thì dùng đến 9 ô trong tọa độ đó. Nếu không thế thì pháo sẽ bắn vào đầu bb(!)


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Trongc6 trong 13 Tháng Sáu, 2012, 11:53:42 am
Chào các bác:

       Tôi cho rằng Bác Cựu TS Luân đen gọi điểm cao ở "ô 30" là Cao điểm 30 chỉ để tiện làm bài thơ cho vui thôi, chứ lúc ấy đơn vị bác ấy cũng chả gọi thế đâu.

       Thường nhất là gọi Cao điểm X (theo đúng độ cao của nó), hoặc gọi tắt là Chốt x khi giao nhiệm vụ và thông báo tình hình. Nhiều khi còn gọi theo tên khác bằng địa danh (có khi do mình đặt ra, ví dụ Đồi ông Thanh, Chốt Bãi Đá...), còn độ cao thật thì hoặc là ngầm hiểu, hoặc chẳng cần biết chính xác nó cao bao nhiêu. Cái tên gọi định danh như trên, lính tráng cũng biết nó là ở đâu. (Chỉ huy, pháo hay trinh sát mới cần biết chính xác tọa độ).

  @QuangCan:

   Chú em đã cho cái bản đồ Cao điểm 631 rồi thì cho xin thêm mảnh vùng Chư Nghé (Căn cứ Lệ Minh) và đoạn nối đến đường 5A, 5B được không?

   Cảm ơn trước nhé.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: nguyentrongluan trong 13 Tháng Sáu, 2012, 12:34:11 pm
@trongc6 :
- thứ nhất bài viết của tôi không phải để cho vui vì trog đó có cả xương máu của anh em đơn vj tôi
- thứ hai : Khi quang cân đưa lên tấm bản đò đó tôi chợt nhận ra ô 30 quen thuộc mà chỉ những người trong cuộc hồi đó mới xúc động đến vậy . Nên tôi nói với Quangcan và đưa lên về bài viết hồi đó .
- thứ ba : về lí thuyết , tôi và nhiều CCB đều hiểu bản đồ .
nhưng có những ngọn đồi có cao điểm mà ta vẫn gọi hoặc địch vẫn gọi là đồi không tên đó thôi .!
- Đơn vị tôi gọi cái đồn địch   trên cao điểm đó là đồn 30 .Thế thôi !Tôi không bàn nữa /
Trích ở đây ít dòng như sau để Trongc6 và anh em  cùng rõ :
... 18/1/1973 Trung đoàn 64 được tăng cường tiểu đoàn 3 ( trung đoàn 48 ), 1 đại đội 12,7 ( 3 khẩu ) , 1 khẩu cối 120mm và được pháo sư đoàn chi viện ( 2 khẩu Đ74, 1 khẩu 105mm, 1 khẩu 160 mm, 1 khẩu 85 mm, tiến công tiêu diệt tiểu đoàn 81 biêt động quân ở điểm cao 431 ( chư bồ ) . Sau 35 phút chiến đấu , ta làm chủ hoàn toàn cứ điểm Chư bồ , diệt 220 địch , bắt 37 tên , thu 97 súng các loại , 12 máy VTĐ. Ta hi sinh 2 đc bị thương 17 đc
Đây là trận chiến đấu bao vây công kích bằng hiệp đồng binh chủng, tổ chức chặt chẽ phát huy hiệu quả của hoả lực , chiến thắng Chư bồ mở rộng thêm vùng giải phóng và tạo điều kiện cho sư đoàn  giải phóng cứ điểm ĐỨc Cơ và Đồn 30 trước khi có hiệp định Pa ri

( LỊch sử Đại ĐOàn Đồng Bằng -Biên niên sự kiện (1951-2011)
NXB quân đội Nhân dân 2011 trang 123, 124


Tôi chấm dứt phát biểu ở đây .


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: chienc3.1972 trong 13 Tháng Sáu, 2012, 05:58:40 pm
Trích dẫn
Đơn vị tôi gọi cái đồn địch   trên cao điểm đó là đồn 30
.
Tôi hiểu bài thơ của nguyentrongluan@ là cảm xúc thật của bác ấy. Chỉ là có ý văn nghệ tí cho vui.
Tôi không nghĩ sự việc diễn biến như thế này. Các bác gọi sao thì gọi tôi không có ý kiến gì thêm.
Xin lỗi bác chủ topic đã làm lạc mạch chuyện của bác.
Tôi đã tự xoá các bài viết lạc đề của mình trong topic này. Thành thật xin lỗi các bác và BQT diễn đàn.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Trongc6 trong 14 Tháng Sáu, 2012, 08:44:35 am
@Bác NguyenTrongLuan:

   Thằng em lại có lỗi với bác rồi. Thành thật xin lỗi và tạ tội với bác. Em cứ viết ào ào, không cân nhắc thành ra tưởng bình thường, hóa lại làm bác bực mình. Bác bỏ qua cho nhé. Em không bao giờ dám coi thường kiến thức trinh sát có nghề của bác đâu. Em ngày trước cũng chỉ có lên trinh sát một thời gian ngắn, ngưỡng mộ nghề trinh sát nên nhiều khi cứ hay bàn leo chuyện trinh sát với các bác thôi.

   Riêng về chuyện quân sự, em ngưỡng mộ bác nhiều lắm, cả cái cụ thể lẫn kho kiến thức quân sự. Đợt đi QT vừa rồi, em học hỏi được ở bác nhiều.

  Bác tha lỗi cho em thì em mới dám viết chuyện tiếp, vì em có viết gì về  Chuyện Tây nguyên thì cũng nằm trong tầm của bác thôi.

   Kính chúc bác luôn mạnh khỏe, tinh thần sảng khoái như trước và viết nhiều bài.

   Các bác CCB khác xin cũng bỏ quá cho sự tếu táo của tôi. Mọi sự là ý tốt chứ không có ý gì đâu.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: hungf10 trong 15 Tháng Sáu, 2012, 10:50:47 pm
Trích dẫn từ: Trongc6 link=topic=24226.msg381720#m

     [i
"... Lòng vả cũng như lòng sung. Lính tráng xa nhà mà gần dân, thế nào chẳng có điều trắc ẩn. Không ít thằng mong được nhìn trộm con gái tắm, nhưng bộ đội cách mạng đâu có thể làm ấu. Cầm tay con nhà người ta công khai thì chẳng sao, nhưng nhòm ngó lung tung thì không được. Thế là mấy ông tai quái (nơi nào chẳng có các bố ấy) tìm cách mò sang bờ suối bên kia phục kích. Bên đó là rừng rậm, lại muốn giữ bí mật (cả với "quân ta" và "quân địch") nên phải vờ đi rừng ở đoạn rất xa, đi một khoảng cũng rất xa rồi mới định hướng đạp rừng quay lại. Đầu têu là mấy anh dân Hà Bắc (cựu nhất trong đơn vị) rồi đến các anh Hà Tây. Cho đến một lần anh Trịnh cũng ngứa ngáy chân tay rủ tôi cùng đi. Phải nhân một buổi chiều được cử đi lùng sục chỉ có hai người. Chúng tôi chỉ mang AK cho gọn, nhưng không đi theo lộ trình đơn vị giao, mà nhanh chóng cắt đường đổi hướng. Đường dài và gian nan đến nỗi có nhẽ sau hai tiếng đồng hồ chúng tôi mới mò trở lại được bên kia suối. Lại định vị cho đúng khúc suối trong điều kiện chỉ được bò loặc lổm nhổm bốn chân. Bí mật được thì không sao, lộ ra thì coi như không còn gì để cãi. Chúng tôi chọn chỗ phục kích, cũng may là nơi đó toàn cây lúp xúp, bờ suối lại dốc đứng cao hơn lòng suối đến hơn chục mét nên khả năng bí mật được nâng cao. Chúng tôi còn phải nằm chờ rất lâu cho đến khi nắng chiều đã nhạt thì dân họ mới đi tắm (không như lính ta toàn phải đi tắm vào buổi trưa). Đang nằm im chờ thời cơ thì chúng tôi phát hiện chếch phía sau có tiếng động sột soạt. Chúng tôi nằm bẹp xuống, im re, không biết người hay thú dữ đây. Thú dữ cũng chết vì đâu dễ giải thích chuyện săn bắn ở vị trí này. Còn nếu là dân thì đúng là họ theo dõi bắt quả tang mình rồi. Thế thì đằng nào cũng chết. Cảm giác hồi hộp lúc này chẳng kém lúc phục kích địch thật là bao nhiêu. Dù sao chúng tôi cũng vẫn phải hơi xoay người chĩa mũi súng vào cái hướng loạt soạt ấy. Thật vô cùng bất ngờ khi tôi nhận ra một người đội mũ tai bèo đang bò đến, lính ta và không phải ai khác, chính là anh H. C viên phó của chúng tôi. Lúc này tôi muốn đái ra quần cho nó nhẹ người đi quá. Bị bố này bắt được thì coi như hết đường về quê mẹ rồi. Chắc phía sau còn có thằng liên lạc đi hộ vệ nữa. Tôi bấm tay anh Trịnh nằm im, không dám thở mạnh. Anh H. cứ chậm rãi bò dần tiến lên bờ suối, cách chúng tôi chỉ độ gần chục mét mà không phát hiện ra chúng tôi. Thế mới biết yếu tố bất ngờ quan trọng thật. Chẳng mấy chốc anh ấy cũng chọn xong chỗ để "quan sát". Không thấy thằng liên lạc đi cùng, hóa ra anh ấy cũng có mục đích giống hai chúng tôi. Cái khổ nhất đối với chúng tôi lúc này là vừa không được hút thuốc, vừa phải canh chừng thủ trưởng. Mãi sau thấy cứ thế này thì không ổn, anh Trịnh quyết định chủ động xuất cờ trước, lấy một hòn đất nhỏ ném về phía anh H. Anh ấy giật mình ngơ ngác. Đến khi nhìn thấy chúng tôi, vẻ mặt anh ấy khiến tôi dám chắc anh ấy muốn đái ra quần hơn cả tôi lúc nãy. Nhưng chỉ thoáng qua thôi, vì toàn là quân ta nên bắt liên lạc với nhau rất nhanh. Nói cho cùng, trong bụng ai chả có chất giống nhau, nên ba chúng tôi nhanh chóng hợp thành một đội.

   Chiều hôm ấy, từ khoảng cách gần bốn chục mét, ba chúng tôi được xem "phim cấm". Nhưng nói thật là mọi thứ cũng chỉ mờ mờ ảo ảo như trong tranh thủy mạc của họa sĩ Đổng Thìn Sinh mà thôi. Nhưng thế cũng là lên tiên rồi."[/i]

http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php/topic,6323.540.html


 ;D ;D bác TrongC6 cho hỏi tí nhá:sau khi xem phim cấm  xong "tổ tam tam" có "tự sướng" không? và về nhà mới "tự sướng" hay tự sướng" ngay tại bãi xem phim.Xin lỗi bác ,đọc trích đoạn của bác tôi cũng thấy "ngứa ngáy"  ;D ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: haanh trong 15 Tháng Sáu, 2012, 11:50:21 pm
hehe đúng là lòng vả cũng như lòng sung thật  ;D Giờ mới biết thế hệ đi trước cũng tinh nghịch như thế hệ đi sau bọn em  ;D Tại bàc trongC6 không ở lâu ở bản đấy chứ nếu ở lâu như bọn em bên K thì báu vật với nhúm thuốc lào nhìn riết đến ngán bác ạ  ;D Chị em bên K cũng vậy , cứ mang mỗi cái bao xe tự may bé xíu cho mát . Bọn em hồi mới sang k mắc cở chỉ dám nhìn lén , sau này chán quá không thèm nhìn  ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: chienc3.1972 trong 16 Tháng Sáu, 2012, 10:27:18 am
Trích dẫn
Bác tha lỗi cho em thì em mới dám viết chuyện tiếp, vì em có viết gì về  Chuyện Tây nguyên thì cũng nằm trong tầm của bác thôi.
@Trongc6: Có gì đâu anh bạn cùng tên, sao mà phải câu nệ quá vậy chứ. Tôi cũng nghĩ là nguyentrongluan@ cũng không đến nỗi xét nét bác quá thế đâu. Vả lại Tây Nguyên bao la trùng điệp, biết bao nhiêu thứ chuyện kể bao giờ cho hết. Bọn tôi đọc bác từ khi "thằng chả" (ý nói luân thép đen theo cách gọi của SG gai) còn chưa vào Diễn đàn này cơ mà bác ơi.
Bác cứ câu nệ thế người ta lại bảo bác..."không có lửa làm sao có khói" ;D
Mọi sự do tôi khơi mào, tôi đã xin lỗi rồi, xin mời bác tiếp tục mạch chuyện rất hay của mình. Nếu không thì thành ra lỗi của tôi nặng quá.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: quangcan trong 16 Tháng Sáu, 2012, 03:34:09 pm
Trích dẫn
...Mọi sự do tôi khơi mào, tôi đã xin lỗi rồi, xin mời bác tiếp tục mạch chuyện rất hay của mình. Nếu không thì thành ra lỗi của tôi nặng quá...

đậm: Phạt, chiều nay tổ chức phạt đê,  :D :D :D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Trongc6 trong 20 Tháng Sáu, 2012, 09:04:07 am
Viết nốt về cái Tết cuối cùng trên đất Lào,


   Đời thằng lính là "Đời thằng Mục, ăn cơm cục, uống nước đục…"

   Không biết cái điệp khúc ấy ai sáng tác ra và có từ bao giờ, nhưng lính tráng chúng tôi khi đó đều được truyền khẩu và ai cũng thuộc. Cứ lúc nào mệt nhọc quá hay bất mãn chuyện gì đó là lại làu bàu trong miệng. Mình nói, mình nghe mà sao khi nói ra được thì nó cũng tự an ủi mình được phần nào, cũng giống như cái câu "nước sông công lính" hoặc "cuốc xẻng từ dưới phát lên, đường sữa từ trên phát xuống" vậy.

   Đại đội dự định ngày 29 tết sẽ thịt lợn gói bánh chưng và nấu trong đêm để ngày 30 tết phát cho lính. Các tiểu đội cũng sẽ nhổ rau, thịt gà kết hợp vào ngày 30 tết để buổi tối có bữa liên hoan, rồi lửa trại văn nghệ. Ngày mồng 1 tết sẽ liên hoan bữa nữa và giao lưu chơi bời qua các trung đội. Sau ngày đó thì sẵn sàng chờ nhiệm vụ mới, không cần bàn đến nữa.

   Lính tráng chẳng ai nói trước được tương lai, số phận của mình.

   Sáng ngày 29 Tết, các tiểu đội cử người xuống giúp anh nuôi, làm thịt lợn, ngâm gạo, đãi đỗ và rửa lá dong chuẩn bị gói bánh chưng. Những thằng còn lại thì dọn dẹp lán trại và lau súng.

   Đùng một cái, 9 giờ sáng thì có thằng liên lạc tiểu đoàn hớt hải chạy xuống truyền lệnh: Toàn đại đội báo động hành quân di chuyển, ra vị trí tập kết của tiểu đoàn cách đó 10 cây số để lên xe hành quân về miền Nam. Phải có mặt lúc 2 giờ chiều. Cả trung đoàn sẽ cùng hành quân với sự hỗ trợ của cả trăm xe ô tô của vận tải đoàn 559.

   Từ BCH đại đội đến anh nuôi, tất cả đều nghệt ra, ngơ ngác nhìn nhau. Thế là hết cả Tết. Tất cả thừ người ra. Khó tin, nhưng quân lệnh vẫn là quân lệnh.

   Một lệnh mới được đại đội phát ra. Giải tán ngay tốp gói bánh chưng, dù gạo đã ngâm, lợn đã làm thịt và lá dong đã vớt. Cả một đống  thịt lợn lập tức được rang muối chia về các tiểu đội tự quản lý. Gạo đỗ đã ngâm rồi không thể cho vào bao, dù nhiều cũng đem đồ xôi hết để ăn trưa và chia ra làm khẩu phần ăn đường cho ngày sau. Ngoài chuyện quân tư trang và súng đạn, các tiểu đội khẩn trương cho thu hoạch tất cả mọi thứ để chuẩn bị lên đường. Chúng tôi có hai tiếng đồng hồ để chuẩn bị. 11 giờ trưa phải ăn cơm để 11giờ 30 xuất phát, kịp hành quân 10 cây số, đảm bảo đúng 2 giờ chiều có mặt tại vị trí tập kết của tiểu đoàn.

   Tất cả vắt chân lên cổ. Tiểu đội tôi, trừ thằng đang giúp anh nuôi, còn lại tất cả chuẩn bị đồ đoàn rồi chia nhau ra vườn nhổ hết rau đem về tự luộc làm một bữa chén đẫy, còn lại buộc đem theo hành quân. Ba con gà nhép cũng làm thịt luôn. May mà chưa ai kịp ra bản dân đổi rượu.

   Vì mọi thứ từ xôi đến rau, thịt rất nhiều không thể nào mang hết, vả lại cũng không để được lâu, nên các tiểu đội đều ra sức chén. Ăn thật lực, mọi thứ rất nhiều nhưng phải ăn khẩn trương, không khí trầm lắng.

   11 giờ 30, chúng tôi chất mọi thứ lên vai ra sân đại đội. Các A khác cũng vậy. Chúng tôi nhìn lán trại, nhìn những cành hoa và những thứ mình bỏ sức  trang trí đón Tết mà tiếc nuối. Có tiểu đội bức xúc còn đập bỏ lung tung trước khi đi. Chỉ còn thiếu nước chúng tôi đốt bỏ hậu cứ như những kẻ lục lâm. Đến giờ, chúng tôi lầm lũi lên đường.

   Sau hai giờ rưỡi hành quân, chúng tôi đến vị trí tập kết của tiểu đoàn. Chỉ có D bộ là ở gần vị trí này nhất, còn lại các C khác tuy gần hơn C tôi, nhưng cũng phải hành quân dăm bảy cây số. Tất cả cũng đang lục tục vào vị trí. Tiểu đoàn tổ chức cho các C kiểm tra quân số, vũ khí… rồi quán triệt nhiệm vụ. Sau đó là nghỉ tại chỗ chờ xe ô-tô. Chúng tôi phần bữa trưa ăn no, phần hành quân cũng thấm mệt, lại đang mùa khô nên cứ kềnh ngay cạnh ba lô, nằm nguyên trong đội hình mà tranh thủ ngủ.

   5 giờ chiều. Mãi chả thấy xe ô-tô đâu cả. Không biết hiệp đồng kiểu gì và phải chờ đến bao giờ. Thật là "ăn cơm gà gáy, xuất quân nửa ngày". Bây giờ thì chúng tôi đã nghỉ đủ lại sức và đang trong tâm trạng sốt ruột.

   Rồi cũng chẳng phải chờ lâu. Tiểu đoàn lệnh tập hợp lại, hàng ngũ nghiêm chỉnh. Tiểu đoàn trưởng Đoàn "vịt" nét mặt tươi cười tuyên bố đây là một cuộc báo động giả để kiểm tra tinh thần sẵn sàng lên đường chiến đấu của tiểu đoàn. Thủ trưởng khen ngợi tinh thần toàn thể cán bộ chiến sĩ, đảm bảo đủ 100% quân số, không có tụt tạt hay thoái thác nhiệm vụ…Anh em chúng tôi miễn cưỡng vỗ tay, còn mồm cười như…mếu nghe biểu dương. Cuối cùng là các đại đội giải tán cho anh em ai về nhà đấy nghỉ ngơi, chờ lệnh mới.

   Chúng tôi hành quân gấp trở lại hậu cứ La Vang. Bây giờ là cuối tháng nên cuộc hành quân này của chúng tôi chẳng khác gì cuộc hành quân đêm. Khỏi phải nói đại đội chúng tôi, từ quan đến lính chán nản và bực bội đến mức nào. Chúng tôi vừa đi vừa ca thán. Đến ngay cả CTV Mỵ hiền lành như thế mà bên cạnh chuyện động viên anh em khẩn trương trở lại hậu cứ, cũng phải tuôn ra một lô "đặc sản". Chúng tôi về đến hậu cứ cũng muộn, tất cả lấy cơm nắm và thịt nguội ra ăn bữa tối, cắt cử gác xong rồi lăn ra ngủ. Chán chả buồn nói chuyện gì nữa.

   Sáng hôm sau, đúng 30 tết. Chúng tôi dậy sớm. Đáng lẽ ra giờ này là đang tưng bừng vớt bánh chưng, tổ chức nấu nướng và trang trí đón bữa tất niên. Thế mà ngủ dậy thì đập vào mắt là cảnh doanh trại tan hoang. Lại một bữa xôi nguội thịt nguội nữa đang chờ chúng tôi, ăn làm sao cho hết cái thứ ấy để chuyển sang cơm nóng.

   Lệnh từ tiểu đoàn xuống, các đơn vị khẩn trương thu xếp lại và tổ chức cho bộ đội đón xuân sao cho thật đàng hoàng và vui vẻ. Cơ sở vật chất tan tành rồi, còn đâu mà đàng hoàng và vui vẻ. Thật là

    "Bắt phong trần, phải phòng trần,
   Cho ăn no mới được phần ăn no…"


   Bực và chán cũng chả giải quyết được gì. Thôi thì cố mà thu gom lại tổ chức ăn Tết, mình tự an ủi mình vậy. Đại đội khẩn trương cho ngâm lại gạo nếp và đỗ, dùng nước nóng cho nhanh. Tiểu đoàn phải mổ lợn tiếp và chia gửi xuống  cho các đại đội để có thịt tươi gói bánh chưng. Cũng chỉ có thế thôi và khoản này được ghi nợ để trừ vào thực phẩm cấp thời gian sau này. Đại đội vận động các tiểu đội còn bao nhiêu rau xanh đem góp chung cho cả đơn vị. Số rau ấy (có héo một chút) cũng không có nhiều. Chúng tôi ra vườn rau bòn mót nốt số lá rau bỏ lại hôm qua vì thừa thãi, vặt hết cả những cây rau mới bé bằng ngón tay. Anh nuôi xin cử người ra gấp ngoài vườn chuối của dân kiếm bắp-bi "bao tử" về làm thêm món nộm hoa chuối. Các tiểu đội vẫn nấu kẹo lạc.

   Vậy là cuối cùng, buổi chiều hôm 30 tết, chúng tôi vẫn có bữa ăn tất niên, có rau, có thịt và một chút rượu, hò hét chúc nhau om sòm. Tối đêm 30 chi đoàn vẫn tổ chức văn nghệ "cây nhà lá vườn", có chè, có kẹo, thuốc lá. Mấy cái thùng phuy nấu bánh chưng đêm đó vẫn đỏ lửa.

   Ngày mồng một Tết cả đại đội vui chơi tự do. Không thấy có thủ trưởng cấp trên xuống chúc tết. Chúng tôi tự chúc tết nhau vậy. Trong ngày mồng một, chúng tôi vẫn tự lo hai bữa ăn tươm tất. Tất cả món thịt rang được huy động ra để ăn hết. Sau tết có ăn muối vừng cũng được. Có A còn ra bản đổi được gà, nhưng số đó không nhiều. Chợt có thằng phát hiện ra một điều bất hợp lý. Tại sao mọi khi có thịt thú rừng ăn mà dịp tết này lại chẳng ai nghĩ đến chuyện đi săn nhỉ. Phán đoán lung tung, cuối cùng đổ cho chuyện sẵn sàng chiến đấu nên bị cấm trại. Chiều hôm đó, ai đó nêu sáng kiến, thế là chúng tôi tổ chức làm bánh rán. Cũng phải khẩn trương vì khoản giã bột tốn rất nhiều công sức. Nhờ có món bánh này mà không khí vui thêm được một ít.

   Chiều ngày mồng một tết, tiểu đoàn tổ chức họp giao ban. Thế là tối hôm đó chúng tôi biết đơn vị chuẩn bị lên đường về chiến trường miền Nam. Có lẽ đêm nay là đêm cuối cùng chúng tôi ngủ trên đất bạn Lào, trong cái doanh trại mới làm được chưa đầy 3 tháng, vẫn còn thơm mùi gỗ và tranh tre vì chưa có trận mưa nào. Đêm đó đại đội vẫn cho chúng tôi nghỉ và chơi.

   Mồng hai tết.

   Đại đội giao ban, sau đó tập trung toàn đơn vị. Đại trưởng Chèo trực tiếp phổ biến nhiệm vụ. Chúng tôi sẽ chuyển địa bàn, về chiến trường B3 Tây nguyên. Chúng tôi sẽ chiến đấu trong đội hình sư đoàn 320A, thế chân cho một trung đoàn của sư đoàn đó được điều đi nơi khác. Từ nay chúng tôi không còn thuộc sư đoàn 968 nữa. Chúng tôi có thời gian chuẩn bị rất dài, đến 4 giờ chiều mới phải hành quân đến nơi tập kết và sẽ di chuyển bằng ô-tô trong đêm.

   Vì chúng tôi vừa qua cuộc báo động di chuyển hai ngày trước đó, nên mọi thứ đã sẵn sàng rồi, khâu chuẩn bị không có gì, thừa rất nhiều thời gian. Chỗ nào cũng túm năm, tụm ba bàn tán.

   Vậy là chỉ có E9 chúng tôi đi chiến đấu, còn tụi 19 và 39 vẫn ở lại đất Lào. Xét về đời lính thì số chúng nó sướng thật. Đất Lào có hòa bình mà. Nhưng lúc đó chúng tôi cũng chỉ so sánh tí chút chứ không ganh tỵ, vì chính chúng tôi, trong đó đa phần là lính mới cũng rất đang háo hức chiến đấu. Lính mới thì tò mò và mơ mộng với chiến công sắp tới, còn lính cũ thì hình như mắc cái bệnh nghề nghiệp mất rồi, lâu không đánh nhau lại thấy ngứa ngáy, dù biết có thể có hy sinh và thương vong.

   Nhiều thằng muốn tìm đồng hương bên các E 19 và 39 để chia tay, nhưng chẳng ai biết cụ thể chúng nó đóng quân ở đâu, cách mình bao xa. Cũng chẳng ai nghĩ đến chuyện tụt tạt ở lại đất Lào. Thế là đơn vị lên đường đủ quân số một trăm phần trăm. Còn thời gian dài, chúng tôi chỉ vơ vẩn quanh doanh trại. Vài tốp mò ra suối ngồi chơi trên những tảng đá, ngắm nhìn vườn rau chỉ còn trơ những luống đất.

   Bốn giờ chiều, chúng tôi hành quân. Nếu như hai ngày trước khi báo động ra đi, có A còn đập phá tí chút, thì lần này chúng tôi lại xếp mọi thứ rất gọn ghẽ, cứ như là mình sẽ trở lại ấy. Những cành hoa đào, mai, mận vẫn tươi hoa, rực rỡ. Lính mới quyến luyến ít thôi, nhưng lính cũ thì nhiều tâm trạng.

   Chia tay nước bạn không kèn không trống vì chúng tôi không được tiếp xúc dân. Nhưng dù sao cũng có ít nhiều kỷ niệm rải rác trong các bản dân, nhất là trên Cao nguyên. Những tên bản Xăm-xi-núc, Phù Đin, Sen Vàng, Na-xịa, La Vang… vẫn còn âm vang trong lòng chúng tôi. Dù không có mối tình nào, nhưng hình ảnh người con gái Lào trắng trẻo, mặc váy mà trên ngực chỉ có mỗi cái "tùng chiêng", không áo, dáng đi uyển chuyển trên nhà sàn ở bản Phù Đin mới hơn mười tháng trước chợt lại hiện lên trong tôi, len lỏi trong những ý nghĩ mơ màng, chập chờn theo bước chân đều đều trên đường hành quân.

   Chúng tôi đi xa dần khỏi hậu cứ La Vang. Trong hàng quân bỗng thấy lao xao. Tôi vượt lên bám kịp nhóm anh nuôi. Ồ, trong đội hình của họ có một con chó nhỏ chỉ bằng bắp chân chạy lăng xăng. Nếu không có cái dây ở cổ bị anh nuôi Mậu nắm giữ, chắc nó phải vượt lên đầu hàng quân. Có lẽ con chó còn bé quá, không thể làm thịt được nên nó được sống sót và hội anh nuôi quyết đánh liều đem nó theo hàng quân. Cũng vui, vì đó là sinh vật sống duy nhất, dấu ấn của chiến trường Lào đi theo chúng tôi.

   Đêm đó, chúng tôi lên xe để hành quân. Những chiếc xe Zin kính cong Liên-xô của Đoàn 559 với những người lính lái xe trẻ măng đón và đưa chúng tôi về chiến trường miền Nam.

(Hết)


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: TichTuongNhuLe trong 20 Tháng Sáu, 2012, 11:35:27 pm
[
   Chúng tôi đi xa dần khỏi hậu cứ La Vang. Trong hàng quân bỗng thấy lao xao. Tôi vượt lên bám kịp nhóm anh nuôi. Ồ, trong đội hình của họ có một con chó nhỏ chỉ bằng bắp chân chạy lăng xăng. Nếu không có cái dây ở cổ bị anh nuôi Mậu nắm giữ, chắc nó phải vượt lên đầu hàng quân. Có lẽ con chó còn bé quá, không thể làm thịt được nên nó được sống sót và hội anh nuôi quyết đánh liều đem nó theo hàng quân. Cũng vui, vì đó là sinh vật sống duy nhất, dấu ấn của chiến trường Lào đi theo chúng tôi.


     Ở Lào cũng có La Vang à bác Trọng c6 ?


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Trongc6 trong 21 Tháng Sáu, 2012, 10:35:09 am
Chào bác Tichtuongnhule:

       Chỗ chúng tôi đóng quân trước khi về miền Nam là một cụm bản nằm bên đường 23 thuộc tỉnh Saravan có những cái tên là La Vang - Ca Đáp. Các bản này nhỏ, mỗi bản chưa tới hai chục nóc nhà dân. Họ theo phật giáo, không liên quan gì đến đạo Thiên chúa.

   Như vậy cái tên La Vang chẳng qua chỉ là trùng tên ngẫu nhiên với Thánh địa La Vang ở Quảng trị thôi bác ạ.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: nguyenhuuluanc17 trong 21 Tháng Sáu, 2012, 12:10:13 pm
Viết nốt về cái Tết cuối cùng trên đất Lào,

     …
   Lính tráng chẳng ai nói trước được tương lai, số phận của mình.

   Sáng ngày 29 Tết, các tiểu đội cử người xuống giúp anh nuôi, làm thịt lợn, ngâm gạo, đãi đỗ và rửa lá dong chuẩn bị gói bánh chưng. Những thằng còn lại thì dọn dẹp lán trại và lau súng.

   Đùng một cái, 9 giờ sáng thì có thằng liên lạc tiểu đoàn hớt hải chạy xuống truyền lệnh: Toàn đại đội báo động hành quân di chuyển, ra vị trí tập kết của tiểu đoàn cách đó 10 cây số để lên xe hành quân về miền Nam. Phải có mặt lúc 2 giờ chiều. Cả trung đoàn sẽ cùng hành quân với sự hỗ trợ của cả trăm xe ô tô của vận tải đoàn 559.

   Từ BCH đại đội đến anh nuôi, tất cả đều nghệt ra, ngơ ngác nhìn nhau. Thế là hết cả Tết. Tất cả thừ người ra. Khó tin, nhưng quân lệnh vẫn là quân lệnh.

            ....

   Mồng hai tết.

   Đại đội giao ban, sau đó tập trung toàn đơn vị. Đại trưởng Chèo trực tiếp phổ biến nhiệm vụ. Chúng tôi sẽ chuyển địa bàn, về chiến trường B3 Tây nguyên. Chúng tôi sẽ chiến đấu trong đội hình sư đoàn 320A, thế chân cho một trung đoàn của sư đoàn đó được điều đi nơi khác. Từ nay chúng tôi không còn thuộc sư đoàn 968 nữa.

   Đêm đó, chúng tôi lên xe để hành quân. Những chiếc xe Zin kính cong Liên-xô của Đoàn 559 với những người lính lái xe trẻ măng đón và đưa chúng tôi về chiến trường miền Nam.



  @trongc6,

   Thế là  " lính  tráng "  cơ bản  là đã được ăn Tết xong mới di chuyển đấy.    Việc điều chuyển quân  vào chiến trường  rất  hay  xảy ra  ngay trước Tết  để dễ dàng  giữ  " bí mất  quân sự "  mà .   Tôi  nghĩ  đáng nhẽ các " Bác "  đã phải chuyển quân trước Tết đấy  nhưng có thể do việc di chuyển  chuẩn bị  chưa kịp , hoặc nhường cho một bộ phận  quan trọng nào đó đi trước nên mới hoãn vài ngày  như vậy   ( chứ đã phát lệnh đi lại hoãn 3 ngày  là ít thấy ) .
    Còn may chán, được " vớt vát " cái Tết cuối cùng bên Lào trước khi chuyển quân.
    Bọn tôi Tết  1971- 1972 đang ở nhà dân vui vẻ thì đùng cái 29 Tết  di chuyển  ra rừng ở ( để  chuẩn bị đi B) - Thế là mất cả Tết nhưng cuối cùng là E18 đi   B  trước còn E 95 ở lại đến tháng 4/72 mới đi chiến đấu -
    Về tinh thần thì  " xỉu " hẳn, Tết mà có lệnh di chuyển thì chán  lắm lắm  :(  :'(
     Thế có cái Tết  vui   thì kể luôn đi  để nó bù cho cái Tết buồn này nhé !!!
   


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: nguyentrongluan trong 21 Tháng Sáu, 2012, 03:55:27 pm
@Trongc6
Khoảng tháng 3 hay tháng tư gì đó bọn tôi đã gặp lính E9 ở khu vực làng Á bên bắc đường . Tháng 10 /74 thì tôi lại gặp cả bên nam đường 19 . Sở dĩ tôi biết vì tình cờ tôi đi qua một chốt thông tin vừa đi dải dây xong về gặp một cậu người cùng làng . Khi hành quân về ban mê thuột thì E9 ăn tết ở đoạn nào ( tức là cái tết năm sau tết này ) ? Vì cuối tháng 1 /75 là sư đoàn di chuyển về Ban mê rồi .


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Trongc6 trong 22 Tháng Sáu, 2012, 09:53:11 am
Chào bác Trọng Luân:

      Cái tết nào trong lính cũng có một nét chung là cập rập và khẩn trương. Cập rập ngay cả những cái Tết không tác chiến, nhưng oái oăm là cấp trên cứ thích báo động hành quân thử thách lính; còn lính tráng thì lúc nào cũng tưởng thật (các Tham mưu con luôn bị ăn quả lừa, không biết đường nào mà phán. Còn sau khi sự đã rồi thì ai mà chả phán được, phải không các bác?).

  Chính vì cái tính chất quân sự bất ngờ nên dù Tết có chuẩn bị rồi thì vẫn không được ăn uống cho nó đàng hoàng. Kiểu gì rồi cũng vội.

   Tết năm 1975, E9 cũng ăn tết ở phía Tây đường 14 như các E khác của 320 thôi. E48 và E64 có lẽ rời Gialai đi trước vì phải vào sâu hơn (buôn Hồ). E9 cắt đường 14 ở đầu phía bắc nên đi gần hơn. Nói vậy vì cuối tháng 1/1975, khi hành quân xuống Đăk Lăc, chúng tôi có dừng chân nghỉ lại một hai đêm tại hậu cứ cũ của E48, bên một con sông rất lớn và sâu (Không nhớ chính xác là sông gì). Hậu cứ rất đẹp, bằng phẳng, phong quang trong một rừng cây Săng lẻ bạt ngàn. Không có dấu vết của bom đạn ở đó. Cảnh vật gợi nhớ nhiều đến binh trạm ở Tây Trường Sơn với những rừng cây săng lẻ và những đơn vị ô-tô vận tải giấu xe trong đó.

   Có lẽ chỉ đến đó thôi là trùng nhau, còn về sau chúng tôi cắt đường đi theo tuyến không trùng với E các bác (tuy là cùng hành quân về phía Nam). Nói vậy vì đoàn tiền trạm phải dùng bản đồ cắt rừng đi theo hướng do sư chỉ định của sư. Rừng nguyên sinh rất nhiều, không có dấu chân người. Muông thú cũng đủ loại.

       ".....Vốn là dân trinh sát, lại qua hơn 8 tháng trời thử thách chiến đấu trong đơn vị bộ binh, hoàn thành tốt nhiệm vụ, nên tôi và Trí lại được tham gia vào đoàn tiền trạm, đạp rừng tìm đường đưa bộ đội xuống Đăk Lăk. Đoàn tiền trạm xem bản đồ, cắt rừng đạp đường xuống phía Nam. Đi đến đâu, chúng tôi vạc vỏ cây đánh dấu đường đến đó. Chúng tôi đi tập trung theo đoàn. Thỉnh thoảng tại 1 vài điểm dùng chân, Đoàn trưởng cử các tốp nhỏ đạp đường ngang sang hai bên để kiểm tra tình hình.

         Dọc đường đi, chúng tôi thấy có rất nhiều khu rừng còn nguyên sinh. Có khi đi hàng ngày trời mà không thấy dấu tích của bom đạn. Rừng rậm, nhiều cây cổ thụ đủ loại. Muông thú, chim chóc rất nhiều. Có đoạn, chúng tôi đi dọc 1 suối đất cạn thì thấy trong lòng suối có cả một đàn lợn cỏ cỡ vài chục con đang sục kiếm ăn. Nếu không vì đang hành quân, thì chỉ cần có gậy gỗ thôi, xuống chặn hai đầu cũng đập được vài con. Ở những quãng rừng thưa, thỉnh thoảng lại thấy bóng nai, hoẵng chạy vụt qua. Có lần, ở bên cạnh một con suối cạn, thấy có mấy cái hố to như hố bom, cá quẫy dày đặc. Chúng tôi đoán, vào mùa mưa bọn cá từ suối bơi vào đây, đến khi nước rút không kịp bơi ra nên phải sống suốt mùa khô trong các hố đó. Đoàn trưởng tiền trạm linh động cho phép chúng tôi dừng lại chừng một tiếng. Chúng tôi lấy màn tuyn ra làm lưới. Chỉ vợt đi vợt lại dăm lần ngang hố, chúng tôi đã bắt được gần chục cân cá. Nhiều con to cỡ bàn tay. Tối hôm đó, cả đoàn được một bữa ăn tươi với cá luộc, và canh cá chua nấu với lá chua rừng.

   Chúng tôi đi tiếp. Một hôm, bên một bãi đất sát chân núi, chúng tôi còn gặp một lũ công đất. Những con công đen tuyền, to như những con ngỗng đang nhảy múa với nhau. Đến đêm, giữa rừng già sâu thẳm bên những đỉnh núi cao chót vót, chúng kêu lên từng tràng dài, nghe như tiếng trẻ con khóc kêu gọi mẹ trong đêm, thật não nùng..."


http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php/topic,3008.20.html

  Vị trí chúng tôi ăn Tết nằm cách Dãy 884 khoảng 2 cây số về phía Tây. Đoạn này nằm phía Bắc Cẩm Ga khoảng hơn 10 cây số, chỗ có 8 cái cống ngầm chui qua đường 14 ấy (Bây giờ tìm bản đồ mà không tìm ra vị trí đó).

   Cũng là một cái tết vội vã, nhưng không đến nỗi cập rập lắm vì vẫn gói được bánh chưng.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Trongc6 trong 22 Tháng Sáu, 2012, 10:03:14 am
Chào bác TichTuongNhuLe:

Trước hết, xin có lời hỏi thăm sức khỏe và chúc bác luôn đẹp và phong độ.

 Muốn nhờ bác chỉ dẫn một chút: Trong phần Chữ Ký ở bài của bác có các ô (phần Một, Phần hai...) trong đó bác gắn đường link đến các chủ đề đó của bác.

  Tôi cũng muốn làm thế ở phần chữ ký của mình để link chữ Phần một đến chủ đề cũ. Bác chỉ cách làm với.

  Cảm ơn bác.

(hộp thư của bác TTNL đã đầy nên tôi gửi qua đây, mong BQT thông cảm để đến khi bác TTNL đọc xong rồi xóa cũng được).


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: xuanxoan trong 26 Tháng Sáu, 2012, 12:10:14 pm
viết chưa hết ý, cuối năm 1974 sư 968 về Miền Nam, dọc đường hành quân các thùng phi 200 lít để dọc đường Trọng còn nhớ không (nếu không nhớ sau này mình sẽ nói); trung đoàn 19 bọn mình được lệnh vào thay ví trí F 10, F 320 và toàn bộ vô tuyến 2W tạm ngưng sử dụng nên mình được điều về hữu tuyến theo đại đội 3 đánh và giữ chốt ở bắc điểm cao 605, theo đại đội 2 đánh chiếm đồi không tên, đánh vào bãi đá giải phóng cứ điểm Thành Bình và huyện lỵ Thanh An - chứ không phải E19 ở lại Lào đâu ( E 39 mới ở lại Lào ).


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: linh thong tin trong 26 Tháng Sáu, 2012, 01:41:20 pm
@Trongc6
Khoảng tháng 3 hay tháng tư gì đó bọn tôi đã gặp lính E9 ở khu vực làng Á bên bắc đường . Tháng 10 /74 thì tôi lại gặp cả bên nam đường 19 . Sở dĩ tôi biết vì tình cờ tôi đi qua một chốt thông tin vừa đi dải dây xong về gặp một cậu người cùng làng . Khi hành quân về ban mê thuột thì E9 ăn tết ở đoạn nào ( tức là cái tết năm sau tết này ) ? Vì cuối tháng 1 /75 là sư đoàn di chuyển về Ban mê rồi .

Lính thông tin bọn em chỉ có đi rải dây chứ không đi dải dây bác ạ.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: xuanxoan trong 27 Tháng Sáu, 2012, 07:52:35 am
Trọng ơi, phần một của 34 năm này nằm ở đâu, mình muốn xem lại lính 4/9/1971 Thủ đô của E9 hội nhập chiến trường như thế nào. Riêng bên mình sau khi biên chế về D1, E 19 khoảng 1 tháng là xuống đánh ở đồng bằng Khôngsêđôn liên tục 128 ngày đêm và cũng nhiều chuyện muốn kể thời kỳ này.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Trongc6 trong 27 Tháng Sáu, 2012, 09:03:57 am
Chào Xuanxoan:

        Tôi tham gia viết bài ở trang VMH này vào tháng 4/2009, đang là không khí của kỷ niệm GPMN, nên bắt đầu viết về chuyện E9 tham gia đánh Đồng Dù trong đội hình của sư 320A.

       Sau đó nhẩn nha dông dài quay ra viết từ khi bọn mình học hết cấp III, rồi nhập ngũ 4/9/1971. Phần một kết thúc khi E9 chuẩn bị về chiến trường miền Nam.

   Bạn bấm vào đường link sau đây sẽ quay lại đọc được phần một.

    http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php/topic,6323.0.html

      Thân ái,


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: xuanxoan trong 27 Tháng Sáu, 2012, 08:07:54 pm
nè trọng ới, trọng ới; ngày mình tập kết trước khi đi B là ở Hòa xá và vũ khí mỗi thằng 1 khẩu AK chứ, Trọng nhớ không ( trên mạng lịch sự tý chứ mình hay gọi mày tao phải không ) ; nhớ ngày về phép đánh nhau với..(không viết ra đây kẻo bọn trẻ xem được nó nói ...eo ơi ba cũng hư hỉ ) trước của UBND thành phố Hà nội và sau đó tớ bị nhốt vào 33 Phạm ngũ Lão mất 1 ngày 1 đêm do gây rối trật tự mà Phong Quảng (mình có meo hỏi nhưng hình như Phong Quảng đã bỏ mạng- mạng thông tin đấy nhé) có nhắc nó chơi với thằng Phan Thế Hùng tức thằng Hùng "nhẩm" đó, nó ở Dbộ D1 với mình trong chiến trường, sau 1973 ra bắc học sĩ quan mà Trọng có nhắc tới trong bài vị đại tá.  Sau 1 ngày bị nhốt ở 33 Phạm Ngũ Lão và được thủ trưởng Nam Khánh huấn thị mà mình nhớ mãi: một đất nước trong vòng 24 tiếng đồng hồ không có quân đội thì nước mất; một đất nước trong vòng 24 tiếng đồng hồ không có công an thì trật tự xã hội bị xáo trộn, tính mạng người dân lương thiện bị đe dọa và trước khi thả bắt mình hứa khi vào chiến trường phải lập công, đánh dũng mãnh hơn sự quậy phá lúc về phép đi B và mình đã thực hiện được lời hứa.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: xuanxoan trong 03 Tháng Bảy, 2012, 09:10:39 am
  Mất tích đâu rồi trọng C6
 
  Đọc lính tây nguyên và hoa lủa thì mình dừng quân nghỉ ở Nghĩa Hương Quốc oai đó Trọng; Lính sư 2 từng đánh phối thuộc với mình ở Phù Nọng kin đông ở Paksong đấy - trong bài lính Tầu không số kể chuyện lính Tây nguyên bắn 34..máy bay là có thật những chưa đủ - đó phải là cả đơn vị pháo 12.7 mình đoán thế thôi ?.. mình xem trích dẫn cả trên báo mình chưa hiểu, nhưng thôi đó là chuỵện lính mình kể. báo có đăng. Nhưng đơn vị mình sư 968, pháo phòng không 12.7 của thằng Đài hiện ở Phùng Khắc Khoan(hiện ở tiệm vải Đài trang) chốt ở Phù Khống nó bấm cò bắn rơi 1 chiếc máy bay ném bom, mừng hú - nhưng khi báo cáo thành tích chính trị viên không đi chiến đấu, ở hậu cứ lại báo cáo bắn rơi L19 thế là cóc làm cò sơi, đơn vị khác báo đúng loại máy bay rơi được tặng thưởng huân chương chiến công giải phóng.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Trongc6 trong 03 Tháng Bảy, 2012, 02:28:01 pm
         Chào Xuanxoan và các bạn,

         Phần hồi ức chính thức (viết liền mạch theo thời gian) của tôi đã kết thúc ở thời điểm Trung đoàn 9 chúng tôi hành quân về chiến trường miền Nam B3 để chiến đấu trong đội hình sư 320A.

   Chiến trường Tây nguyên, các bậc đàn anh đã viết nhiều và có lẽ đủ để góp nên hình ảnh cho toàn chiến trường miền Nam khi đó rồi. Trung đoàn 9 chiến đấu và công tác cũng trong bối cảnh chung khi đó, nên chuyện không có gì đặc biệt.

   Tôi sẽ chờ Xuanxoan viết chuyện chiến đấu Nam Lào để cùng hồi tưởng và chia sẻ những chỗ tôi không nhớ, hay muốn khẳng định lại. Tôi sẽ theo bước chân của bạn. Tiếc là bạn ở Đà Nẵng, chứ nếu không gặp mặt, chắc chúng ta ôn được nhiều tình tiết.

   Khi nào đơn vị Xuanxoan về B3, tôi sẽ lại tiếp bước cùng bạn.

   Thân ái


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Trongc6 trong 04 Tháng Bảy, 2012, 02:53:55 pm
Chào Xuanxoan:

      Như vậy là qua bài bác viết, tôi mới biết là lúc chúng ta vào Nam Lào, E19 vẫn chưa thành lập, mà chỉ có K các bác là tiểu đoàn độc lập, sau đó mới thành lập E19 rồi đánh Không Sedon phải không?

      Lúc chúng tôi vừa vào đơn vị thì Tiểu đoàn trưởng K18 là thủ trưởng Lê Quang Huân (tôi cũng có nói trước đây đôi nét) được ra Bắc học. Sau đó thủ trưởng Huân lại vào làm E trưởng E19 cho mãi đến sau này (Thủ trưởng Huân nghỉ hưu mấy năm nay rồi). Chúng tôi vẫn tự hào K18 có D trưởng khi mới 22 tuổi đấy (có vẻ cũng trẻ gần như vị D trưởng Trương Hồng Anh của F2 cụ Chơn). Các Lính cũ kể là tai cao nguyên Boloven, 2 D trưởng này cũng đã từng phối hợp tác chiến cùng nhau.

   Cùng vào Cao nguyên nhưng E9 chủ yếu nằm ở Bắc đường, kéo từ vùng Kapo đến bản Xăm xi núc "may". Đơn vị các bác lại nằm quanh Păk sòng luôn, thành ra địa danh chúng mình thuộc không mấy trùng nhau. Sau này bác về Không sedon thực phẩm và gạo nước đầy đủ, nhưng E9 bọn tôi bập vào mùa mưa là thiếu mọi thứ.

   cái chuyện tôi kể mấy thằng lính Hà Nội C tôi được kéo lên D bộ đi mua lợn là sang vùng Không sedon đấy.

  Thân ái,


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: xuanxoan trong 04 Tháng Bảy, 2012, 03:43:12 pm

  Đúng như vậy, E 19 thành lập tháng 4/1972, đơn vị mình lúc đó là K3 tình nguyện trực thuộc mặt trận có máy liên lạc 15W riêng, sau khi thành lập bọn mình đi đánh Khôngsêđôn luôn. Còn Thủ trưởng Lê Quang Huân người của E9 đi học sĩ quan về bổ sung làm Trung đoàn trưởng E19 bọn mình chỉ huy trung đoàn tham gia chiến dịch Bắc Tây nguyên.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Trongc6 trong 08 Tháng Bảy, 2012, 09:48:57 am
Bạn lính

   Anh Nghi hơn tôi một tuổi, cả về tuổi quân và tuổi đời. Khi tôi vào đơn vị, anh mới vừa được phong Binh nhất, nhưng vẫn là chiến sĩ. Hiền lành, dễ gần và luôn nhiệt tình giúp đồng đội là điều nhận thấy ở anh chỉ sau ít ngày cùng sinh hoạt.

   Tôi thích mon men gần anh, vì anh giữ súng cối cá nhân M79 trong tiểu đội. Loại súng này lạ hoắc vì ngoài Bắc khi huấn luyện tôi chưa thấy bao giờ. Anh giải thích, đây là súng phóng lựu của Mỹ, bắn một viên đạn đi gần giống như ta ném một quả lựu đạn, nhưng bay xa và chính xác hơn. Ôi, thật là lợi hại. Nhìn những viên đạn to như củ khoai, đầu vàng chóe, tôi thích lắm.

   Lân la cạnh anh, rồi có lúc đánh trận, nhất là khi giữ chốt, anh cũng cho tôi bắn thử vài viên. Anh coi tôi như đứa em nhỏ của mình nên cũng chiều. Tôi mê lắm, đến nỗi về sau có thời gian tôi cũng xung phong được mang M79 trong tiểu đội. Ra trận với cơ số 40 viên đạn, thấy mình như mạnh mẽ và tự tin hơn. Có điều còn lâu tôi mới được như anh Nghi, vì anh bắn giỏi lắm. Quân ta ít có điều kiện bắn tập bằng đạn thật, nhưng như một cái khiếu hay sao ấy mà chỉ qua các trận đánh với tâm lý khẩn trương, anh vẫn luyện cho mình một khả năng thiện xạ. Ngồi chốt với anh cũng sướng, mà đánh vận động thì sự chi viện của anh đắc lực lắm. Nhanh thoăn thoắt và thoắt ẩn thoắt hiện. Có lẽ vì thể mà anh chẳng bị trúng đạn phản hỏa lực của địch bao giờ.

   Một trận đánh chốt cùng anh bên huội Chăm pi đã đưa anh ra khỏi biên chế tiểu đội tôi. Một quả pháo của địch nện trúng miệng căn hầm chữ A nhỏ bé của  hai chúng tôi. Tuy cùng ngồi khuất trong ngách hầm không ai trúng mảnh, nhưng anh ngồi trong sát vách nên chịu sức dội và bị sức ép nặng hơn. Tôi chỉ phải lên quân y tiểu đoàn nằm ba hôm, nhưng anh phải đi trạm phẫu Trung đoàn nằm mất một tuần. Khi về đơn vị, tai nghễnh ngãng, nghe cái gì cũng ù ù cạc cạc, nên anh được chuyển xuống làm anh nuôi. Anh buồn nhưng phải chấp nhận, vì lính chiến mà nghễnh ngãng thì độ nhanh nhạy kém hẳn, chiến trận sẽ thành gánh nặng.

   Anh Nghi hay được đi phối thuộc lẻ cùng trung đội tôi, nên những lúc hành quân hay ở cứ, tôi vẫn gần anh. Thời kỳ thiếu đói, đôi lúc anh vẫn để dành từ đâu đó cho tôi một mẩu cháy to bằng ngón chân, hay một mẩu sắn nhỏ như con chuột nhắt. Chỉ thế thôi, nhưng thật ấm lòng.

   Chiến tranh kết thúc.

   Cuối năm 1975, anh Nghi được ra quân.

   *

   Bây giờ ngồi buồn lại thấy nhớ anh.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: thaynhin trong 08 Tháng Bảy, 2012, 10:25:48 am
Đoc những dòng anh viết về tấm giấy gọi vào đại học của con gái đồng đội anh và em khóc đấy anh TrongC6 ạ.
Cuôc sống vốn phức tạp,những cái bước gian truân nhiều khi oái oăm quá!
Giá như những đứa dùng bằng giả,những đứa có bằng thật theo kiểu học giả (đẻ hợp lý hóa ghế ngồi)mà chúng đọc những dòng này...
Thật tiếc các anh ạ,lũ đấy không đọc đâu,mà có đọc có khi nó lại cười mỉa...ta đau hơn.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: lexuantuong1972 trong 08 Tháng Bảy, 2012, 10:42:53 am
...Chợt nhớ đến câu nói ước vọng của Người sáng lập ra nhà nước ta: "Suốt đời tôi, tôi chỉ có một mong ước. Mong ước tột bậc là nước ta được độc lập, dân ta được tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành".

   "Ai cũng được học hành". Ước nguyện đó tưởng thật là đơn giản, đơn giản như là một sự tất nhiên ở thời đại ngày nay, vậy mà, không phải vậy./.

@Trongc6: Những lời răn như thế giờ nó như là ở trong Kinh Thánh có phải thế không bác. Ngẫm về chuyện học hành mà cay đắng muôn phần. Trẻ con bị áp lực học hành nếu có ốm thì chỉ nôn ra toàn chữ. Vào lớp 1 thì phải học trước nếu không sẽ bị thua bạn, thua bè và bị coi là thiểu năng trí tuệ buộc bố mẹ phải đi xin giấy BS xác định là có vấn đề về thần kinh để cho cô giáo khỏi mất thi đua,  rồi học thêm bởi 2 luồng sức ép từ cha mẹ chỉ muốn con cái phải giỏi giang để có chỗ tiến thân sau này, luồng thứ 2 là sự vụ lợi của thầy cô giáo. Hàng năm vào dịp 20/11 các thế hệ học trò cũ đến thăm cô giáo tôi. Bao nhiêu chuyện chúng nó kể việc học hành của con, em chúng nó mà cảm thấy chán cho thế hệ làm thầy quá... Thế mới thấy thế hệ chúng ta cơm chẳng đủ no, áo chưa đủ ấm nhưng lại được thừa hưởng 1 nền giáo dục tuyệt vời.    


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: linhcnn72 trong 08 Tháng Bảy, 2012, 10:58:03 am

Cuôc sống vốn phức tạp,những cái bước gian truân nhiều khi oái oăm quá!
Giá như những đứa dùng bằng giả,những đứa có bằng thật theo kiểu học giả (đẻ hợp lý hóa ghế ngồi)mà chúng đọc những dòng này...
Thật tiếc các anh ạ,lũ đấy không đọc đâu,mà có đọc có khi nó lại cười mỉa...ta đau hơn.

Cái "lũ đấy" nó cũng chẳng bao giờ vào VMH mà đọc đâu, nghĩ đến chúng nó càng đau đầu thêm mà thôi. Thật đau lòng trước hoàn cảnh của bạn mình, người mong học thì lại chẳng được học, kẻ chẳng cần học vẫn cứ no đủ, phè phỡn.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: vanthang341ht trong 08 Tháng Bảy, 2012, 11:04:32 am

           Còn tấm giấy gọi đại học, anh tìm cái khung cũ đặt vào rồi cẩn thận treo lên, Anh bảo, đó vừa như kỷ niệm, vừa là niềm tự hào an ủi.

   Bây giờ thì con gái anh đã lấy chồng rồi, ở ngay cùng xã.

   Tôi ngồi nghe anh kể mà thấy não cả lòng. Phải chi tôi tìm được đến anh từ dăm năm trước, biết đâu…

   Chia tay anh ra về mà lòng tôi còn nặng trĩu. Chợt nhớ đến câu nói ước vọng của Người sáng lập ra nhà nước ta: "Suốt đời tôi, tôi chỉ có một mong ước. Mong ước tột bậc là nước ta được độc lập, dân ta được tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành".

   "Ai cũng được học hành". Ước nguyện đó tưởng thật là đơn giản, đơn giản như là một sự tất nhiên ở thời đại ngày nay, vậy mà, không phải vậy./.

    Quê tôi Hà Tĩnh, mấy năm trước đây hiện tượng đó khá nhiều, bạn ạ. Nhất là vùng nông thôn.
    Có câu nói đùa thế này: Con có biết 12 năm học tốn kếm của bố biết bao nhiêu không? Lần này đi thi mà không đậu đại học thì bố cho mày chết. ;D
    Khi con có giấy báo nhập học thì bố lại kêu: Thế này thì cả bố và mẹ cũng phải chết con ơi! :-\ :-\ :-\



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: linh thong tin trong 08 Tháng Bảy, 2012, 11:09:15 am
nè trọng ới, trọng ới; ngày mình tập kết trước khi đi B là ở Hòa xá và vũ khí mỗi thằng 1 khẩu AK.

Các bác ở Hòa Xá có được tặng chiếc gậy Trường Sơn không?


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: binhyen1960 trong 08 Tháng Bảy, 2012, 11:13:24 am
Đoc những dòng anh viết về tấm giấy gọi vào đại học của con gái đồng đội anh và em khóc đấy anh TrongC6 ạ.
Cuôc sống vốn phức tạp,những cái bước gian truân nhiều khi oái oăm quá!
Giá như những đứa dùng bằng giả,những đứa có bằng thật theo kiểu học giả (đẻ hợp lý hóa ghế ngồi)mà chúng đọc những dòng này...
Thật tiếc các anh ạ,lũ đấy không đọc đâu,mà có đọc có khi nó lại cười mỉa...ta đau hơn.

 Tôi vẫn biết rằng có học thì vẫn hơn, nhưng cũng không có nghĩa rằng cứ có học thì cái gì cũng biết. Giấy gọi vào đại học hay tấm bằng đại học thì cũng chỉ là học hoặc học xong cái chuyên ngành đó chứ không hẳn rằng cái gì anh cũng biết và cuộc sống luôn là muôn màu, thực tế cuộc sống nhiều người có học và cả học rất giỏi nhưng trước cuộc sống thì lại vô cùng thất bại.

 Xin kể cho bạn thaynhin nghe 1 chuyện về học khiến chúng tôi phải cười ra nước mắt.

 Khoảng 15 năm trước chúng tôi thi công 1 ngôi nhà nằm ngay sát nhà Thờ Lớn HN, căn nhà đó cho 1 nữ sinh viên đang theo học tại VN người Tokyo Nhật bản thuê, trước đó Đại sứ quán Mỹ định thuê nhưng vì không chịu nổi tiếng chuông của Nhà Thờ nên họ phá hợp đồng, trước khi ký hợp đồng đặt điều kiện thuê người Mỹ yêu cầu phải lắp điện 3 pha, chẳng phải ai xa lạ mà là chính cái ông phi công từng bị bắt làm tù binh trong chiến tranh ném bom phá hoại miền Bắc tại Hải Dương quê bạn đấy. Vì vậy phần điện ngôi nhà thi công theo yêu cầu của người Mỹ và họ không thuê nữa thì cô sinh viên người Nhật thuê ở trong thời gian theo học tại VN.

 Một hôm trong tiết trời mưa bão của HN, điện thoại gọi nháo nhào trong nhóm thi công chúng tôi kéo nhau tập trung đến công trình cũ giải quyết sự cố, chuyện chẳng có gì nhưng cũng thành chuyện cười ra nước mắt. Cô sinh viên người Nhật thấy ổ điện bị chập tóe lửa do kiến gặp mưa bão kéo vào làm tổ trong ổ điện và ống gen, chúng cắn chập cháy dây điện. Cô sinh viên người Tokyo Nhật Bản kia thấy lửa cháy thì vội múc nước dội vào ổ điện cho lửa tắt, tất nhiên là điện nó giật cho tóe khói ra rồi và chưa chết vì điện giật vẫn còn là may. Cô sinh viên ấy vô cùng ngạc nhiên cũng như không thể hiểu rằng tại sao điện mà dội nước vào thì lại bị nó giật. Đúng là người đời.

 Quay lại chuyện học. Học để làm gì? Học để áp dụng vào cuộc sống mang lại kiến thức cùng khoa học phát triển cho đời, học để áp dụng giảm sức lao động tăng hiệu quả và chất lượng cuộc sống cao. Nhưng có học mà không biết áp dụng vào cuộc sống thì xin lỗi rằng còn thua anh nông dân đi cày bằng kinh nghiệm thực tiễn của họ. Thực tế người giàu nhất Thế giới với khối tài sản khổng lồ cùng phát minh thiết thực cho cuộc sống toàn nhân loại hiện nay, hàng ngày chúng ta luôn sử dụng đến cũng từ người chưa tốt nghiệp đại học.

 Vì vậy có thể kết luận: Chuyện học cũng như tốt nghiệp đại học chỉ là 1 chuyện và nó không phải là tất cả. Có học thì tự ấm vào thân mình nhưng nó không phải là đẳng cấp để suốt ngày mang ra khoe chứng minh rằng tôi đã hơn ai đó vì cái sở học ấy của anh cũng chỉ là 1 góc rất nhỏ giữa cuộc sống muôn màu, muôn dạng.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: thaynhin trong 08 Tháng Bảy, 2012, 12:34:23 pm
Vì vậy có thể kết luận: Chuyện học cũng như tốt nghiệp đại học chỉ là 1 chuyện và nó không phải là tất cả. Có học thì tự ấm vào thân mình nhưng nó không phải là đẳng cấp để suốt ngày mang ra khoe chứng minh rằng tôi đã hơn ai đó vì cái sở học ấy của anh cũng chỉ là 1 góc rất nhỏ giữa cuộc sống muôn màu, muôn dạng.
 

 Anh Bìnhyên luận về cái sự học rất hay!Đồng ý với nhận định của anh.

Tuy vậy,vấn đề không được đi học và lũ học ĐỂU ở đây ta nhìn ở góc độ khác.Cô SV không đi hoc của anh Nghi biết đâu đó lại gặp một cuộc sông hạnh phúc,thanh đạt mà có khi đi học số ruồi lại rơi vào vòng...chơi bời???

Nhưng em dám chắc rằng:Với cùng một con người,nếu học tập (thực học) thì sẽ tốt hơn chính người đó.Cũng ý này không phaỉ cứ học hơn là anh hơn người kia,bởi còn nhiều yếu tố,như tố chất chẳng hạn.Bóng đá thể hiện rõ điều này.

   Sự học ngày nay...khó bàn thật,nghĩ đến là em muôn nổ lựu đạn lắm,chả hiểu do đâu mà ra thảm cảnh này???


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Trongc6 trong 08 Tháng Bảy, 2012, 01:12:17 pm

Xin cảm ơn


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: binhyen1960 trong 08 Tháng Bảy, 2012, 01:40:53 pm
Tiếc là cái chuyện tôi kể hàm một ý khác, hầu như các bác lại hiểu theo một ý khác.
Vậy thì kính đề nghị các bác không bàn thêm về "ý nghĩa của chuyện học hành" ở đây nữa để tôi còn có đất hành quân.

 Có phải ý bác muốn mọi người hiểu câu chuyện của bác theo ý này không ???

 

   Chia tay anh ra về mà lòng tôi còn nặng trĩu. Chợt nhớ đến câu nói ước vọng của Người sáng lập ra nhà nước ta: "Suốt đời tôi, tôi chỉ có một mong ước. Mong ước tột bậc là nước ta được độc lập, dân ta được tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành".

   "Ai cũng được học hành". Ước nguyện đó tưởng thật là đơn giản, đơn giản như là một sự tất nhiên ở thời đại ngày nay, vậy mà, không phải vậy./.

 Vậy thì BY nói để bác biết nhé.

 Chuyện cô bé kia con gái của đồng đội bác đã được nhà nước cho đi học, tạo điều kiện cho nhập học. Như vậy thì ý nguyện của Người sáng lập ra nhà nước ta đã không có điều gì sai trong cái ham muốn tột bậc ấy.

 Do hoàn cảnh gia đình khiến cô bé kia không nhập học thì điều đó là việc của cô bé ấy, bác cũng không thể nói Người sáng lập ra nhà nước ta đã nói vậy mà không phải vậy được. Đã bao giờ bác tự hỏi: Đã có hàng trăm ngàn cả triệu kỹ sư xuất thân từ nghèo khó hay người dân tộc thiểu số vùng sâu vùng xa khác không? Tại sao không có cô bé kia con gái của đồng đội bác? Phải chăng chính cô bé ấy hay chưa chịu vượt qua khó khăn...vv

 Vậy thì tại sao bác lại đổ trách nhiệm sang Người sáng lập nhà nước nói vậy mà không phải vậy? Ý bác định sao đây ???

 Bác muốn hành quân tiếp của ký ức đời lính của mình. Vậy thì tại sao bác lại đưa cái câu chuyện về tờ giấy gọi vào đại học của thế hệ hôm nay trong câu chuyện? Topic của bác mở để mọi người đọc và tham gia, bác chuyển tải thông tin để mọi người đọc song nó không phải là tài sản riêng của bác đâu nhé. BY khẳng định với bác điều đó.

Bác Trongc6 có 2 giờ đồng hồ để tự sửa bài của mình. Nhắc nhở bác lần thứ 1


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: haanh trong 08 Tháng Bảy, 2012, 03:47:43 pm
hehe cái ước nguyện đó giờ đã được Đảng và Nhà Nước thực hiện bằng Luật phổ cập giáo dục bậc tiểu học rồi bác Trong C6 ơi  ;D Các bác thử không cho con cháu vào học lớp 1 thì biết ngay , địa phương sẽ kéo đến làm việc với các bác liền  ;D Nhà Nước không thể bao cấp việc học suốt cả đời được  ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: xuanxoan trong 08 Tháng Bảy, 2012, 03:57:29 pm

  Gửi Bình yên
                                                             Sao lại thế!.

  Tôi đã đọc Trọng c6 trong 34 năm…về “tấm bằng đại học” thấy đây là thực trạng “bình thường” trong cái bình thường của xã hội hiện tại mà chúng ta đang sống. Tôi lấy ví dụ: Ngày 08/9/1945 Hồ chủ tịch đã ký sắc lệnh 19/SL và 20/SL về xóa nạn mù chữ, phát động phong trào Bình dân học vụ có nghĩa là chỉ sau 6 ngày Bác Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập nhưng tới nay theo cả nước có gần 1,7 triệu người mù chữ và theo   Vnexpress ngày 29/10/2008 đăng tin: Hà Nội dẫn đầu cả nước về số người mù chữ, với 235.000 người, vượt xa tỉnh/thành phố đứng thứ 2 là Thành phố Hồ Chí Minh với 90.000 người. Đây quả là điều đáng buồn khi thủ đô ngàn năm văn vật của chúng ta lại là nơi có nhiều người mù chữ nhất. Và đứng sau là thành phố mang tên Bác trung tâm kinh tế của cả nước. Xem xét kỹ hơn con số này, có thể thấy hầu hết phần "đóng góp" là của Hà Tây với 220.000 người mù chữ. Số mù chữ thực sự của Hà Nội cũ hẳn còn ít hơn 15000 người, vì ngoài Hà Tây còn có sự sát nhập một số huyện, xã của Vĩnh Phúc và Hòa Bình.

  Tôi nói là bình thường trong cái bình thường của thời kỳ ta đang sống vì ngày xưa thế hệ bọn tôi đi học là nhà nước nuôi, tốt nghiệp đại học và các trường chuyên nghiệp xong nhà nước phân bổ công tác chứ không phải lo công việc, mà thế hệ bây giờ gọi đó là thời kỳ bao cấp “nhà nước bao cấp từ A tới Z”; còn bây giờ ngay trẻ con từ mẫu giáo ( chưa nói hơn nữa ) nếu không có tiền thì không đi học là điều bình thường trong cái bình thường của “bình yên” đấy.

  Chẳng lễ đưa tin như vậy là có vấn đề ư?..; Theo tôi bài viết của Trọng c6 không có vấn đề mà vấn đề nằm ở người bình luận kèm theo. Nên chăng “bình yên 1960” nhắc nhở người bình kheo khéo  không kẻo bị trạng Quỳnh… “đá bèo” đấy.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: lexuantuong1972 trong 08 Tháng Bảy, 2012, 08:16:33 pm

  Gửi Bình yên
                                                             Sao lại thế!.

  Tôi đã đọc Trọng c6 trong 34 năm…về “tấm bằng đại học” thấy đây là thực trạng “bình thường” trong cái bình thường của xã hội hiện tại mà chúng ta đang sống. Tôi lấy ví dụ: Ngày 08/9/1945 Hồ chủ tịch đã ký sắc lệnh 19/SL và 20/SL về xóa nạn mù chữ, phát động phong trào Bình dân học vụ có nghĩa là chỉ sau 6 ngày Bác Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập nhưng tới nay theo cả nước có gần 1,7 triệu người mù chữ và theo   Vnexpress ngày 29/10/2008 đăng tin: Hà Nội dẫn đầu cả nước về số người mù chữ, với 235.000 người, vượt xa tỉnh/thành phố đứng thứ 2 là Thành phố Hồ Chí Minh với 90.000 người. Đây quả là điều đáng buồn khi thủ đô ngàn năm văn vật của chúng ta lại là nơi có nhiều người mù chữ nhất. Và đứng sau là thành phố mang tên Bác trung tâm kinh tế của cả nước. Xem xét kỹ hơn con số này, có thể thấy hầu hết phần "đóng góp" là của Hà Tây với 220.000 người mù chữ. Số mù chữ thực sự của Hà Nội cũ hẳn còn ít hơn 15000 người, vì ngoài Hà Tây còn có sự sát nhập một số huyện, xã của Vĩnh Phúc và Hòa Bình.

  Tôi nói là bình thường trong cái bình thường của thời kỳ ta đang sống vì ngày xưa thế hệ bọn tôi đi học là nhà nước nuôi, tốt nghiệp đại học và các trường chuyên nghiệp xong nhà nước phân bổ công tác chứ không phải lo công việc, mà thế hệ bây giờ gọi đó là thời kỳ bao cấp “nhà nước bao cấp từ A tới Z”; còn bây giờ ngay trẻ con từ mẫu giáo ( chưa nói hơn nữa ) nếu không có tiền thì không đi học là điều bình thường trong cái bình thường của “bình yên” đấy.

  Chẳng lễ đưa tin như vậy là có vấn đề ư?..; Theo tôi bài viết của Trọng c6 không có vấn đề mà vấn đề nằm ở người bình luận kèm theo. Nên chăng “bình yên 1960” nhắc nhở người bình kheo khéo  không kẻo bị trạng Quỳnh… “đá bèo” đấy.


@xuanxoan:Tôi cũng nhất trí với ý kiến của bác, câu chuyện của Trongc6 không đến mức nặng nề như thế đâu.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: binhyen1960 trong 08 Tháng Bảy, 2012, 09:58:23 pm
 Có lẽ các bác chưa thật hiểu cái phần mà BY đã trích dẫn mà tác giả muốn nói.

 

   Chia tay anh ra về mà lòng tôi còn nặng trĩu. Chợt nhớ đến câu nói ước vọng của Người sáng lập ra nhà nước ta: "Suốt đời tôi, tôi chỉ có một mong ước. Mong ước tột bậc là nước ta được độc lập, dân ta được tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành".

   "Ai cũng được học hành". Ước nguyện đó tưởng thật là đơn giản, đơn giản như là một sự tất nhiên ở thời đại ngày nay, vậy mà, không phải vậy./.


 Bác xuanxoan!

 BY không có ý kiến về vấn đề thực trạng thất học mù chữ sau sát nhập tỉnh Hà Tây về HN vì đó là con số thống kê mà nhà nước chính thức thông báo trên mọi phương tiện thông tin đại chúng.

 Vậy thì số người thất học mù chữ mà bác đưa lên ở đâu ra trong xã hội chúng ta hiện nay? Ở đâu sinh ra?

 Ai cấm họ đi học? Bác nào chứng minh được trong xã hội ta có ai đó là người cấm người khác đi học khiến họ phải mù chữ?

 Hay do chính họ không chịu đi học. Vậy thì ai đủ trình độ "nhồi" chữ và kiến thức vào đầu họ khi chính họ không muốn đi học và dẫn đến mù chữ.

 Người sáng lập ra nhà nước ta có nguyện vọng cho toàn dân được học hành song người dân không chịu học, dày ăn mỏng làm dẫn đến dốt nát mù chữ là việc của họ chứ. Tại sao lại mang ước nguyện của Người sáng lập ra nhà nước rồi lấy trường hợp của một số người không muốn đi học rồi cho rằng: Vậy mà không phải vậy?

 Bác nói chuyện cứ như BY không có con đang đi học không bằng. Chỉ có những học sinh chất lượng kém thì phải học trường tư, bán công hoặc trái tuyến mới phải đóng nhiều tiền, còn ở trường công thì xin lỗi bác tiền học của học sinh "bèo" hơn giá "bèo", học sinh PT Trung học trường công, trường có tên tuổi tại HN hạ tầng cơ sở tốt vào loại nhất nhì cũng chỉ có 30.000 đồng/tháng. Vậy thì xin mời bác cứ động viên con cháu học cho giỏi vào, thi đỗ vào trường công mà học nhưng hãy nhớ là phải vào được trường công nhé, nếu không thì tự bỏ tiền ra mà học.

 Thời nay, mỗi lúc nhắc lại thời bao cấp nhiều bác "giật mình" vì sợ đến mất ngủ. Nhưng lại thích được đi học mà nhà nước "bao cấp" cho thì mới đúng như ước nguyện đến tột bậc của Người sáng lập ra nhà nước thì thật lạ. Các bác không thấy đòi hỏi xã hội như vậy là sự vô lý sao?

Chẳng lễ đưa tin như vậy là có vấn đề ư?..; Theo tôi bài viết của Trọng c6 không có vấn đề mà vấn đề nằm ở người bình luận kèm theo. Nên chăng “bình yên 1960” nhắc nhở người bình kheo khéo  không kẻo bị trạng Quỳnh… “đá bèo” đấy.

 Phần tô đỏ ở trên là bác xuanxoan dọa BY đấy à? >:( Trạng Quỳnh cứ thử "đá bèo" xem.

 Bác xem bài trên BY nhắc nhở đã kheo khéo chưa?

 Nói thật với bác nhé, vì nể lính đàn anh từng nói: Bọn tao có chuyện gì thì PM, gọi điện nhắc nhở nhé, đừng làm chúng tao mất mặt, ngượng lắm. Rất lính, rất thẳng thắn và chân tình nên mới có chuyện BY "kheo khéo" chứ thẳng tưng theo nội quy diễn đàn thì gần đây ít nhất có 2 bác lính cựu "tạm nghỉ để suy ngẫm và có trách nhiệm với lời nói của mình" một thời gian trên diễn đàn rồi bác ạ.
 


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: sudoan5 trong 08 Tháng Bảy, 2012, 10:03:56 pm
   Học, người có bằng cấp cao sẽ có nhiều kiến thức hơn những người chưa qua song không nhất thiết lấy bằng cấp làm thước đo chuẩn mực nào cả, xã hội ta đã xóa nạn mù chữ từ lâu, tuy nhiên xét theo hướng tích cực thì có còn hơn không, nhưng vấn đề quan trọng nhất là lấy kiến thức lý thuyết đã học áp dụng vào thực tiễn  vận dụng sáng tạo cho phù hợp hoàn cảnh cụ thể dẫn đến thành công thì không phải tất cả ai cũng có tố chất này, nhiều người lính khi giã từ vũ khí về đời thường đã vượt lên chính mình tham gia sản xuất làm giầu cho bản thân và gia đình góp sức cùng xã hội bớt khó khăn, có nhiều doanh nhân trẻ đã thành công trong lĩnh vực kinh doanh, là anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới mà họ cũng chẳng sở hữu một bằng cấp cao nào cả, sở dĩ họ bứt phá được như vậy vì họ xác định “thương trường là chiến trường” nó tự thân vận động tính cạnh tranh lành mạnh, nhạy cảm, năng động trong “trường đời” lắm bon chen, đầy toan tính. Trong chiến đấu giảng đường của người lính là mặt trận, những bài học là chiến trận là bom, là đạn, là khoảnh khắc sinh tử buộc người lính phải hòa nhập thích nghi với môi trường càng nhanh càng tốt để bảo toàn tính mạng. Và đương nhiên xã hội được vững chắc thì hiền tài là nguyên khí Quốc gia, nên trong thời buổi loạn lạc thì người cầm súng, người cầm bút luôn được coi trọng và cùng nhau song hành.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: haanh trong 08 Tháng Bảy, 2012, 10:08:58 pm
 "Ai cũng được học hành". Ước nguyện đó tưởng thật là đơn giản, đơn giản như là một sự tất nhiên ở thời đại ngày nay, vậy mà, không phải vậy./.

hehe cái câu này dễ làm cho người ta hiểu tầm bậy tầm bạ dù đó không phải là ý của bác trongc6 và bác ấy cũng đã xóa rồi nên em mong các bác trích dẫn có câu này nên xóa luôn đi .
@mod : hehe bác xóa dùm em bài này luôn nhé .


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Trongc6 trong 09 Tháng Bảy, 2012, 11:56:02 am
Tháng Bảy mưa Ngâu

       Tháng Bảy là tháng nhớ về đồng đội đã hy sinh, dù rằng phần đông đồng đội cùng đơn vị tôi không hy sinh vào tháng bảy. Chẳng những về thời gian, mà không gian cũng rộng lớn vô cùng.

   Chỉ có một ngàn mấy trăm ngày chiến trận thôi, nhưng cùng đơn vị, tôi đã đi qua nhiều chiến trường, nhiều chiến dịch với những vùng đất rộng lớn trải dài hai bên bờ Đông Tây dãy Trường Sơn. Hầu như chiến dịch nào cũng có hy sinh, trận đánh nào cũng có tổn thất. Đồng đội tôi ngã xuống và nằm rải rác trên nhiều vùng đất.

   Một phần lớn đồng đội tôi hy sinh vẫn nằm lại Nam Lào, chưa được quy tập. Các đội quy tập liệt sĩ của Thanh Hóa, Nghệ An báo cáo danh sách quy tập nhiều, nhưng chủ yếu là các liệt sĩ hy sinh ở vùng Trung Lào, vùng Cánh đồng Chum. Chiến trường Nam Lào quá rộng lớn, tác chiến lại chỉ có mỗi sư đoàn 968 nên nghĩa trang nằm rải rác và không nghe nói sau chiến tranh quy tập về đâu. Một thực tế là vùng đất Atopo còn chồng chéo với tuyến đường vận tải Trường Sơn 559 (với rất nhiều con đường ngang dọc, nhiều binh trạm) nên hiện nay cũng còn nhiều liệt sĩ chưa được quy tập về, dù Nghĩa trang Trường Sơn đã có tới cả vạn ngôi mộ.

   Chúng tôi đến thăm những gia đình của liệt sĩ đồng đội mình, biết phần đông vẫn chưa đưa về được nghĩa trang liệt sĩ địa phương, đành an ủi với tâm niệm rằng nơi đâu thì cũng là Tổ quốc Việt Nam yêu dấu. Còn có đôi ba trường hợp đưa được về thì câu chuyện lại thật ly kỳ. Như liệt sĩ Nguyến Khả Nhật (lính cùng đoàn Hà Nội nhập ngũ cùng tôi, vào cùng đại đội) thì gia đình và đồng đội tìm được lại may mắn do gặp được người lính phía bên kia đã bắn anh và tự tay chôn cất anh. Run rủi thế nào, người lính đó lại định cư ngay tại nơi đó sau chiến tranh, cách mộ anh chỉ vài trăm mét, nên đã giúp được rất nhiều. Nguyễn Khả Nhật nay đã về yên nghỉ trong nghĩa trang Tây Tựu của Thành phố.

   Không tìm đến được tận nơi mộ của đồng đội đơn vị mình, chúng tôi đến nghĩa trang thành phố thắp nén hương chung. Thế cũng an ủi ít nhiều, vì ở dưới kia, các anh các chị vẫn là đồng đội, vẫn liên lạc được với nhau dễ hơn chúng tôi. Không biết đúng thật không, nhưng cứ nghĩ thế cho nó an lòng.

   Tháng bảy này chưa có mưa ngâu, vì là tháng bảy Tây; nhưng nước mắt của người thân và đồng đội đến nghĩa trang thắp hương cho liệt sĩ thì cũng đủ hợp lại thành mưa ngâu, có điều nó chảy vào trong.

   Đồng đội ơi. Đã mấy chục năm rồi các anh nằm xuống. Tuổi các anh mãi mãi đôi mươi, còn chúng tôi nay tóc cũng đã bạc gần hết rồi. Thế mà sao khi về thắp hương cho các anh, chúng tôi lại thấy mình cũng như trẻ lại, chúng mình lại cùng nhau tếu táo như ngày nào.

   Dẫu một năm chỉ có một ngày 27 của tháng bảy, nhưng chúng tôi không bao giờ quên các anh đâu, những đồng đội liệt sĩ ơi.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: anhtho trong 09 Tháng Bảy, 2012, 12:27:59 pm
Tháng Bảy mưa Ngâu

       Tháng Bảy là tháng nhớ về đồng đội đã hy sinh, dù rằng phần đông đồng đội cùng đơn vị tôi không hy sinh vào tháng bảy. Chẳng những về thời gian, mà không gian cũng rộng lớn vô cùng.

   Chỉ có một ngàn mấy trăm ngày chiến trận thôi, nhưng cùng đơn vị, tôi đã đi qua nhiều chiến trường, nhiều chiến dịch với những vùng đất rộng lớn trải dài hai bên bờ Đông Tây dãy Trường Sơn. Hầu như chiến dịch nào cũng có hy sinh, trận đánh nào cũng có tổn thất. Đồng đội tôi ngã xuống và nằm rải rác trên nhiều vùng đất.

   Một phần lớn đồng đội tôi hy sinh vẫn nằm lại Nam Lào, chưa được quy tập. Các đội quy tập liệt sĩ của Thanh Hóa, Nghệ An báo cáo danh sách quy tập nhiều, nhưng chủ yếu là các liệt sĩ hy sinh ở vùng Trung Lào, vùng Cánh đồng Chum. Chiến trường Nam Lào quá rộng lớn, tác chiến lại chỉ có mỗi sư đoàn 968 nên nghĩa trang nằm rải rác và không nghe nói sau chiến tranh quy tập về đâu. Một thực tế là vùng đất Atopo còn chồng chéo với tuyến đường vận tải Trường Sơn 559 (với rất nhiều con đường ngang dọc, nhiều binh trạm) nên hiện nay cũng còn nhiều liệt sĩ chưa được quy tập về, dù Nghĩa trang Trường Sơn đã có tới cả vạn ngôi mộ.

   Chúng tôi đến thăm những gia đình của liệt sĩ đồng đội mình, biết phần đông vẫn chưa đưa về được nghĩa trang liệt sĩ địa phương, đành an ủi với tâm niệm rằng nơi đâu thì cũng là Tổ quốc Việt Nam yêu dấu. Còn có đôi ba trường hợp đưa được về thì câu chuyện lại thật ly kỳ. Như liệt sĩ Nguyến Khả Nhật (lính cùng đoàn Hà Nội nhập ngũ cùng tôi, vào cùng đại đội) thì gia đình và đồng đội tìm được lại may mắn do gặp được người lính phía bên kia đã bắn anh và tự tay chôn cất anh. Run rủi thế nào, người lính đó lại định cư ngay tại nơi đó sau chiến tranh, cách mộ anh chỉ vài trăm mét, nên đã giúp được rất nhiều. Nguyễn Khả Nhật nay đã về yên nghỉ trong nghĩa trang Tây Tựu của Thành phố.

   Không tìm đến được tận nơi mộ của đồng đội đơn vị mình, chúng tôi đến nghĩa trang thành phố thắp nén hương chung. Thế cũng an ủi ít nhiều, vì ở dưới kia, các anh các chị vẫn là đồng đội, vẫn liên lạc được với nhau dễ hơn chúng tôi. Không biết đúng thật không, nhưng cứ nghĩ thế cho nó an lòng.

   Tháng bảy này chưa có mưa ngâu, vì là tháng bảy Tây; nhưng nước mắt của người thân và đồng đội đến nghĩa trang thắp hương cho liệt sĩ thì cũng đủ hợp lại thành mưa ngâu, có điều nó chảy vào trong.

   Đồng đội ơi. Đã mấy chục năm rồi các anh nằm xuống. Tuổi các anh mãi mãi đôi mươi, còn chúng tôi nay tóc cũng đã bạc gần hết rồi. Thế mà sao khi về thắp hương cho các anh, chúng tôi lại thấy mình cũng như trẻ lại, chúng mình lại cùng nhau tếu táo như ngày nào.

   Dẫu một năm chỉ có một ngày 27 của tháng bảy, nhưng chúng tôi không bao giờ quên các anh đâu, những đồng đội liệt sĩ ơi.


Hơn giờ ngọ. Vetran va cac con vừa lên lầu, Đọc tự sự của anh, nước mắt em lại nhòa cặp kính.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: nguyenquochung trong 09 Tháng Bảy, 2012, 02:35:47 pm
 Trích dẫn: Trong c6
 "Ai cũng được học hành". Ước nguyện đó tưởng thật là đơn giản, đơn giản như là một sự tất nhiên ở thời đại ngày nay, vậy mà, không phải vậy./.

Câu văn trên chỉ cần hiểu đơn giản là ngày xưa Bác Hồ mong muốn toàn dân ai cũng được học hành...Nhưng thực tế đến thời đại tiên tiến như ngày nay, nước ta vẫn còn nhiều người thất học, hoặc không có điều kiện học tới nơi tới chốn. Mù chữ thì đúng do lười không chịu học, còn những người vì hoàn cảnh quá khó khăn mà không thể tiếp tục học tập cũng không phải là ít (như lên đại học chẳng hạn).

Nếu quá để ý đến cách hành văn, lỗi chính tả, ngữ pháp thì rất nhiều câu trong các bài viết khác nhau trên diễn đàn sẽ bị hiểu sai, thậm chí theo nghĩa xấu.

Ngay như bác Mod khi viết "hồi kí" của mình cũng sai rất nhiều về chính tả, ngữ pháp, chấm phảy lung tung cả làm nhiều đoạn văn mang nghĩa khác hẳn. Nhưng, nếu người đọc tự suy luận theo hướng tích cực thì mọi sự ổn thoả cả.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: quangcan trong 09 Tháng Bảy, 2012, 04:36:09 pm
hì, chuyện đã xong rồi mà, "hiểu nhầm" trong câu chữ và cách hiểu thôi mà các bác, bác Trongc6 cũng đã "hành quân" tiếp rồi còn gì, thôi các bác nhé,  ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Dũng ú ớ trong 15 Tháng Bảy, 2012, 12:14:29 pm
Chào bác Trọng C6 K 18 E9 , tôi là người cùng đơn vị với bác thời huấn luyện ở ngoài Bắc và dọc đường hành quân vào Nam dọc đường Trường Sơn. Tôi muốn biêt số nhà và số điện thoại của bác để anh em mình gặp nhau tâm sự.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: xuanxoan trong 05 Tháng Mười Một, 2012, 10:29:47 am


      Trọng C6 E9 đâu rồi!

      Tiếp tục hành quân chứ, tớ vừa sang Lào về, đồng đội E9 cũng có mấy đứa đó...đồng đội xem ảnh thì ở trang Lạc trong đời thường ở mục quán nước trước cửa doanh trại đấy.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: themdilinh trong 07 Tháng Mười Hai, 2012, 12:18:34 pm
Chào các bác, các chú trong QSVN.
Cháu thuộc lớp sinh sau đẻ muộn. Tuy rằng hối nhỏ cũng được đi sơ tán, nằm tăng C đó nhưng chẳng có được hạnh phúc như các bác, các chú.
Năm nay cháu cũng 45 rồi. Nhiều lúc nghĩ cuộc sống bây giờ sao mà chán thế. Quanh năm suốt tháng chỉ lo cơm áo gạo tiền, chẳng bao giờ có khái niệm "lý tưởng" là gì. Đọc trên VMH mới thấy thời chiến tranh, lứa tuổi thanh niên các bác, các chú thật hào hùng và oanh liệt.
Cháu mới đọc được 2 topic của chú Như Thìn và chú Trọng C6 thôi, công nhận các chú có tài văn chương thật. Đọc hay hơn bất chứ cuốn tiểu thuyết nào vì đó là sự thật. Xưa nay chính sử về chiến tranh cháu cũng đọc nhiều, nhưng quả thực là tới giờ đối với cháu không có ý nghĩa nữa. Hôm qua cháu mới đọc thêm về D Lê Thị Riêng. Đọc rồi mới thấy những người như cô Quân thật là tuyệt vời. Trộm nghĩ nếu những người có chức tước địa vị mà có tấm lòng bằng nửa cô Quân thôi có lẽ đất nước VN mình sẽ không như bây giờ. Buồn thật.
Chú Trọng C6 đang hành quân phương nào mà 5 tháng rồi không thấy?


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Trongc6 trong 12 Tháng Tư, 2013, 10:17:26 am
…..
   Thế là cuộc hành quân trong đời lính trẻ của tôi mới đi hết chặng thứ nhất: Nam Lào.

   Phía trước còn rất dài và rất xa. Những tháng ngày chiến đấu trên chiến trường B3 trong đội hình của sư đoàn 320A và đi cùng nhau cho đến tận cùng chiến thắng. Rồi những tháng ngày tiểu trừ Fulro trên Cao nguyên miền Trung.

   Những người lính xuất phát cùng nhau trong đêm mồng 2 Tết năm 1974 ấy từ Căn cứ La Vang (Saravan) về chiến trường miền Nam đông đúc là thế, mà sau chiến thắng 30/4 chẳng còn lại bao nhiêu.

   Tôi trở về đời thường, có gặp lại đồng đội từ thuở khoác áo "Quân tình nguyện Nam Lào" ấy thì đa phần là các anh lính cũ, hơn tuổi mình. Năm tháng trôi qua, khi gánh nặng "cơm áo gạo tiền" đã lắng xuống thì mới có điều kiện lần mò tìm nhau để thăm hỏi và ôn lại những ngày cùng khoác áo lính.

   Trong một ngày cuối đông, tôi đã tìm đến nhà thủ trưởng đại đội cũ và các anh lính đàn anh ở Hà Bắc. Cuộc hội ngộ tổ chức đơn sơ nhưng đầm ấm.

   Lúc ôn chuyện cũ, lần mò theo thời gian từ trận đánh này qua trận đánh khác, đại đội trưởng đã cho tôi xem cuốn nhật ký (nặng tính thời sự của một cán bộ chỉ huy) năm xưa của anh. Tôi bồi hồi khi đọc một dòng nói về trận Đồng Dù:

   "… 2 giờ chiều, xốc lại đơn vị đột phá qua cửa mở đánh vào khu huấn luyện của địch…"

   Tôi cứ cầm cuốn nhật ký và nhìn mãi vào dòng chữ ấy. Ký ức tràn về. Trong đầu như còn vang tiếng súng nổ, lửa khói mịt mù và những người lính C6 chúng tôi đang ào ạt xông qua bãi mìn, qua đám hàng rào vướng chân mà lao vào cửa mở ở cái căn cứ Đồng Dù ngày 29/4/1975 ấy.

   Vậy là một lần nữa, có bằng chứng ghi lại để nói rằng trí nhớ của tôi vẫn đúng, dù đã hơn 34 năm rồi, khi tôi kể lại trận Đồng Dù dưới góc độ người lính mà mình tham gia (tôi đã viết ở đầu topic này-phần một).

   Tôi kể lại cho những đồng đội lớn tuổi của tôi nghe chuyện tôi đã viết hồi ức, về chuyện nhiều người thắc mắc về tính chính xác của thời gian trong trận đánh, về chuyện bây giờ sử sách họ tổng kết thế nào. Tôi kể cả chuyện anh Thịnh D viên phó tiểu đoàn tôi kể lại chuyện đáng Đồng Dù của tiểu đoàn cũng y như trong sách.

   Bây giờ chúng tôi đều đã già, nhưng có lẽ do cùng ngồi trên một chuyến tàu "thời gian" nên khi gặp lại nhau, chúng tôi có cảm nhận về nhau vẫn thế, vẫn như những ngày nào, vẫn người trên kẻ dưới, vẫn phân định chỉ huy và lính tráng. Trong mắt lính cũ, loại như tôi vẫn chỉ là "mầm non". Đại đội trưởng của tôi ngồi yên không nói gì. Có lẽ anh cũng không biết phải chia sẻ với tôi thế nào.

   Các anh lính khác lao xao mỗi người một ý. Sau cùng, anh Thắng "cối" bảo tôi:

     "Những cái chuyện đó bây giờ không còn quan trọng nữa rồi. Chú mày viết sao cũng vẫn được, nhưng anh nghĩ có lẽ nói thật quá nhiều khi cũng không hay. Trong lúc những thằng khác tô vẽ cho trang sử của đơn vị nó oai hùng thì mình lại viết thật, bình thường hóa chiến công và truyền thống của đơn vị mình. Nếu như trận Đồng Dù ấy, chú mày viết là "đơn vị ta đánh vào dứt điểm từ 10 giờ sáng rồi chờ đón hội quân cùng các mũi khác của sư đoàn trong cắn cứ" thì cũng có chết ai đâu, lại được tiếng cho trung đoàn mình".

   Tôi ngồi đần thộn ra một lúc lâu. Muốn cự nự anh đôi lời mà không nói ra được, đành phải nở nụ cười méo mó. Nghĩ lại có lẽ ý nghĩ của anh mới là đúng.

   Có thể tôi sẽ viết tiếp, cũng có thể không viết được nữa. Nhưng vì những điều mình viết ra đã quá nhiều, kể chuyện đơn vị đã quá nhiều, tôi muốn gửi lời xin lỗi đến các thủ trưởng cũ, đến đồng đội cũ trong Trung đoàn 9B và đồng đội C6 thân yêu năm xưa của tôi, nếu như những điều tôi viết ra đã làm đồng đội phật lòng và ảnh hưởng đến thanh danh, truyền thống của đơn vị như đã ghi theo sử sách.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: baoleo trong 12 Tháng Tư, 2013, 02:35:57 pm
Bác Trọng C6 cứ viết như đã viết.
Văn thì có nhiều, nhưng Sử thì chỉ có 1.
Kính bác.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: xuanxoan trong 12 Tháng Tư, 2013, 03:56:17 pm
         

         Trời biết, đất biết và ta biết…

         Trọng C6 chắc ở ngoài nớ thấm ý câu nói của các cụ dạy mà. Ví như mình viết trận ấy vì mình có tham gia, đồng đội cùng trận chiến đấy nhưng có người ở vòng ngoài, người ở vòng trong, người đã đánh vào trung tâm người còn nằm ở vị trí tập kết…hỏi rằng ai đúng ai sai…trời biết đất biết, ta biết mà, ta viết đây không thẹn lòng ta, hỡi người lính chiến 4.9.71 đánh trận Đồng dù, đã đi theo đảng hết đường tàu lửa mới về với mẹ như lời hứa trước lúc lên đường, Trọng C6 còn nhớ không ?- một lời hứa đơn giản vậy thôi và chúng ta đã trả bằng máu và nhiều năm dài mới thực hiện được mà.

        Đánh trận, đâu chỉ có tiếng kèn xung trận…chính sử đã viết nhiều rồi, ta viết ở đây là hồi ức của từng người lính chiến trực tiếp nằm ở chỗ đó, vị trí đó, giờ đó, ngày đó đã khóc ở đó…khi TrọngC6 viết…hỏi mấy anh lính xe tăng - bộ binh đã đánh thông cửa mở, sao không cho xe tăng tiến vào…nước mắt mình lại ứa ra khi Trọng lại viết tiếp…xác lính các ông nằm đầy cửa mở làm sao chúng tôi cho xe tăng tiến vào…ứa nước mắt vì đồng đội hy sinh nhiều quá khi đánh Đồng dù thông qua câu nói của người lính lái xe tăng; cái nhân văn của người lính lái xe tăng cũng là chỗ đó, là con người chứ không phải công cụ vô tri vô giác.

       Như mình từng viết chính sử thì đã có lịch sử sử đoàn, trung đoàn thậm chí cả tiểu đoàn nhưng đó chỉ là những sự kiện được tập hợp thông qua tư liệu - một ban do một cán bộ chỉ đạo lựa chọn tư liệu ( có thể do người thế hệ sau viết lại) viết theo quan điểm chính trị chỉ đạo. Còn ta viết đây chỉ có trời biết, đất biết và ta biết làm sao mà nó phải giống bài viết của ai đó mới là đúng. Bạn còn nhớ không ngày mở màn chiến dịch Tây Nguyên 1975 - được coi là ngày bắt đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, vẫn còn chưa được thống nhất trong các tư liệu lịch sử với việc đăng tải 3 ngày nổ súng mở màn chiến dịch Tây nguyên khác nhau, đầy mâu thuẫn, chưa thống nhất được ngày nào là ngày mở màn chiến dịch Tây Nguyên, nay xuanxoan còn tương thêm một ngày nữa là ngày 1/3/1975 cũng đã làm sóng gió trang mình viết đó thôi…kệ nó mà, trận đó ta tham gia, ta ở góc độ của ta; ta viết mà, chẳng nhẽ Trong C6 giờ cũng phải nghe ý kiến chỉ đạo phải viết như thế, như thế ..tớ chẳng thèm chơi với đồng đội nữa đâu nhé…hãy nói thẳng như người lính lái xe tăng mà Trọng C6 đã không quên đó..


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: tranphu341 trong 12 Tháng Tư, 2013, 04:36:59 pm
Bác Trọng C6 cứ viết như đã viết.
Văn thì có nhiều, nhưng Sử thì chỉ có 1.
Kính bác.


           Chào các bác! Vâng! Đúng là Tranphu341 rất đồng ý với bác babeo. Nếu chúng ta ở đây mà lại viết theo kiểu tổng kết chiến tranh của người viết sử thì Tranphu341 thấy nó :" Nhạt thèo lèo". Không còn ra cái thể thống gì nữa.

           Chúc các bác vui khỏe!

          


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: HaHoi trong 12 Tháng Tư, 2013, 06:43:06 pm
Chào bác TrongC6,
Lâu lắm mới lại được đọc truyện của bác. Rất mong bác tiếp tục hành quân  trên con đường của mình.

Có thể tôi sẽ viết tiếp, cũng có thể không viết được nữa. Nhưng vì những điều mình viết ra đã quá nhiều, kể chuyện đơn vị đã quá nhiều, tôi muốn gửi lời xin lỗi đến các thủ trưởng cũ, đến đồng đội cũ trong Trung đoàn 9B và đồng đội C6 thân yêu năm xưa của tôi, nếu như những điều tôi viết ra đã làm đồng đội phật lòng và ảnh hưởng đến thanh danh, truyền thống của đơn vị như đã ghi theo sử sách.

Em chưa thông với bác điểm này. Tất cả những điều bác viết đều chân thực và không hề ảnh hưởng gì đến truyền thống đơn vị như bác quá khiêm nhường mà đã viết vậy.
Lớp đàn em bọn em luôn tin tưởng vào lớp đàn anh như bác !


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: vt738@yahoo.com trong 12 Tháng Tư, 2013, 08:50:39 pm
   Bác Trong C6@ ! Như vậy đã 38 lần tháng 4 trở lại,kể từ tháng tư lịch sử năm ấy -Năm 1975-.Em vốn là người ít tuổi và vào quân sau bác,nhưng may mắn cũng được tham gia  trận đánh căn cứ Đồng dù (Củ chi) ngày 29/4/75...

  Lật giở lại phần đầu trong topic "Ngày này 34 năm trước...".Ở đó em được biêt rằng ,trong rạng sáng ngày 29/4 năm 75 ấy,áp sát căn cứ Đồng dù từ nhiều phía còn có cả đơn vị bác.

  Trận đánh cửa mở căn cứ Đồng dù,đơn vị em (C11-D3-E48) đánh vào từ phía tây bắc.(Sau giải phóng,đơn vị em về đóng tại Nhuận đức nên biết được rằng:Vị trí đơn vị em tiềm nhập căn cứ từ phía ấp Xóm mới,xã Trung lập hạ giáp với xã Nhuận đức).Khoảng 5 giờ 30 sáng,sau khi pháo dập vào trong căn cứ,ờ vòng ngoài bộ binh dùng bộc phá,B40,B41 đánh phá hàng rào thép gai.Em lúc đó là một tay lính mới,thú thực là lúc đầu rất sợ.Nhưng sau dần cũng quen với những tiếng nổ của súng B40,B41 do các bác cựu bắn công phá hàng rào.Nhưng phía trong lính ngụy được bảo vệ bằng hầm hào kiên cố,lại có hỏa lực mạnh, xe tăng,xe bọc thép yểm trợ nên quân ta đánh không lại và hy sinh rất nhiều.Tầm 6 giờ 30,bọn địch điều xe tăng ra hòng bịt cửa mở , bọn lính ngụy chạy theo phía sau.Súng trên xe bắn như vãi đạn,may mắn thay anh Ngọ (Nay ở Bắc cạn) xạ thủ B41.Nã trúng chiếc chạy đầu,khi nó đang quay ngang.Từ phía nào đó một xạ thủ B41 lại bắn trúng một chiếc nữa,khói đen bốc lên nhưng nó nằm đó như một vất che chắn cho bọn lính ngụy

  Trận đánh càng trở nên ác liệt,nhưng về phía quân ta thương vong càng nhiều ,thì các tay súng càng ít đi mà mới chỉ mở được 4 hàng rào.Phía trong lợi dụng hầm hào,xác xe cháy và tường đất bọn địch đôn quân ra chống trả mãnh liệt.Sau đó chỉ huy phải dùng B40 nã vào các ụ đất và cột đỡ để cuấn phăng các hàng rào còn lại .Súng cối,B40,B41 được tập trung đánh vào tuyên hào thứ nhất,kết hợp với sự hoang mang của quân ngụy nên khoảng hơn 7 giờ cửa mở phía trước quân ta đã chiếm được tuyến công sự thứ nhất.Bên trong, bọn ngụy tập trung ở tuyến công sự thứ 2 rất đông ,trên khoảng trống còn có cả xe tăng đứng sẵn.Ban đầu các loại súng của cả 2 bên nã vào nhau dồn dập,phía địch xe tăng nống ra hòng đẩy quân ta lùi lại phía sau.Hỏa lực của chúng từ trong căn cứ bắn ra ràn rạt.Nhưng ngay sau đó xe tăng bị hỏa lực ta bắn cháy,hàng quân phía trước bị thương vong.Ở các nơi trong căn cứ lại đang bị ta đánh dữ dội,có nơi đã bị chọc thủng tuyên phòng ngự.Nên địch hoang mang,bỏ chạy vào trong căn cứ.Khoảng 11 giờ ở hướng tây bắc căn cứ đã được giải phóng

  Ngày nay,trên vùng đất thép Củ chi.Trong nghĩa trang An nhơn tây,những người lính của C11-D3-E48 ngã xuống ở hàng rào căn cứ ngày 29/4/75 đang nằm đó ,các anh hy sinh khi ngày toàn thắng chỉ còn tính bằng giờ !


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: DangE48 trong 13 Tháng Tư, 2013, 06:55:19 pm
Chào các đồng đội. Chào vt738@yahoo.com. Như vậy là đồng đội cùng đơn vị với mình. Mình đi lính năm 72 là lính C11-D3-E48-F320B. Mình tham chiến từ Thành Cổ tới ngày 30/4. Mình ở Quỳnh Phụ - Thái Bình. Bây giờ già rồi, anh em đồng ngũ quanh đây rồi các bạn ở tỉnh khác nữa, thi thoảng cũng gặp nhau vui đáo để.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Trongc6 trong 13 Tháng Tư, 2013, 09:05:41 pm
Bạn vt738@yahoo.com:

      Trước ngày chiến thắng, sư 320A có nhận 2 đợt tân binh gần nhất, đó là:

      - Cuối tháng 11, đầu tháng 12/1974 nhận đoàn tân binh Vĩnh Phú. Số anh em ây thực chất toàn ở các huyện thuộc Phú Thọ bây giờ. Khi ấy sư 320A vẫn còn nằm ở Gia Lai, chưa hành quân xuống Đắc Lắc.

      - Giữa tháng 4/1975, tại Bình Dương có nhận đoàn tân binh Cao Bằng (trong đó có rất nhiều anh em người dân tộc Tày).

        Bạn là tân binh đoàn nào? Bạn nói trận Đồng Dù, bạn là lính mới à? Nếu bạn là tân binh đoàn Vĩnh Phú thì ở E 48, bạn đã phải tham gia đánh Cẩm Ga, Cheo Reo và Tuy Hòa rồi chứ. Còn nếu trận đồng Dù mới tham gia thì bạn ở đoàn Cao Bằng à?

         Hỏi thăm chút thôi chứ không có ý gì đâu. Cảm ơn bạn đã bổ sung thêm thông tin về trận Đồng Dù ở hướng E 48.

Bạn  DangE48:

      Bạn tham gia chiến dịch Thành Cổ 1972 thì bạn là ở Ẽ8 của sư 320B, không cùng đơn vị với vt738@yahoo.com đâu. Bạn vt738@yahoo.com cũng là E 48 nhưng thuộc sư 320A trong B3 - Tây Nguyên cơ và sư 320A không tham gia đánh Quảng Trị. Năm 1972, sư 320A vây ép KonTum không thành (vấp bọn E 45 VNCH ở đây đấy) và sau đó phải di tản sáng tân đất Căm Pu Chia tạm lánh và trồng sắn cứu đói gần năm trời.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: tai_lienson trong 14 Tháng Tư, 2013, 10:39:52 am
  Bác Trong C6@ ! Như vậy đã 38 lần tháng 4 trở lại,kể từ tháng tư lịch sử năm ấy -Năm 1975-.Em vốn là người ít tuổi và vào quân sau bác,nhưng may mắn cũng được tham gia  trận đánh căn cứ Đồng dù (Củ chi) ngày 29/4/75...

  Lật giở lại phần đầu trong topic "Ngày này 34 năm trước...".Ở đó em được biêt rằng ,trong rạng sáng ngày 29/4 năm 75 ấy,áp sát căn cứ Đồng dù từ nhiều phía còn có cả đơn vị bác.

  Trận đánh cửa mở căn cứ Đồng dù,đơn vị em (C11-D3-E48) đánh vào từ phía tây bắc.(Sau giải phóng,đơn vị em về đóng tại Nhuận đức nên biết được rằng:Vị trí đơn vị em tiềm nhập căn cứ từ phía ấp Xóm mới,xã Trung lập hạ giáp với xã Nhuận đức).Khoảng 5 giờ 30 sáng,sau khi pháo dập vào trong căn cứ,ờ vòng ngoài bộ binh dùng bộc phá,B40,B41 đánh phá hàng rào thép gai.Em lúc đó là một tay lính mới,thú thực là lúc đầu rất sợ.Nhưng sau dần cũng quen với những tiếng nổ của súng B40,B41 do các bác cựu bắn công phá hàng rào.Nhưng phía trong lính ngụy được bảo vệ bằng hầm hào kiên cố,lại có hỏa lực mạnh, xe tăng,xe bọc thép yểm trợ nên quân ta đánh không lại và hy sinh rất nhiều.Tầm 6 giờ 30,bọn địch điều xe tăng ra hòng bịt cửa mở , bọn lính ngụy chạy theo phía sau.Súng trên xe bắn như vãi đạn,may mắn thay anh Ngọ (Nay ở Bắc cạn) xạ thủ B41.Nã trúng chiếc chạy đầu,khi nó đang quay ngang.Từ phía nào đó một xạ thủ B41 lại bắn trúng một chiếc nữa,khói đen bốc lên nhưng nó nằm đó như một vất che chắn cho bọn lính ngụy

  Trận đánh càng trở nên ác liệt,nhưng về phía quân ta thương vong càng nhiều ,thì các tay súng càng ít đi mà mới chỉ mở được 4 hàng rào.Phía trong lợi dụng hầm hào,xác xe cháy và tường đất bọn địch đôn quân ra chống trả mãnh liệt.Sau đó chỉ huy phải dùng B40 nã vào các ụ đất và cột đỡ để cuấn phăng các hàng rào còn lại .Súng cối,B40,B41 được tập trung đánh vào tuyên hào thứ nhất,kết hợp với sự hoang mang của quân ngụy nên khoảng hơn 7 giờ cửa mở phía trước quân ta đã chiếm được tuyến công sự thứ nhất.Bên trong, bọn ngụy tập trung ở tuyến công sự thứ 2 rất đông ,trên khoảng trống còn có cả xe tăng đứng sẵn.Ban đầu các loại súng của cả 2 bên nã vào nhau dồn dập,phía địch xe tăng nống ra hòng đẩy quân ta lùi lại phía sau.Hỏa lực của chúng từ trong căn cứ bắn ra ràn rạt.Nhưng ngay sau đó xe tăng bị hỏa lực ta bắn cháy,hàng quân phía trước bị thương vong.Ở các nơi trong căn cứ lại đang bị ta đánh dữ dội,có nơi đã bị chọc thủng tuyên phòng ngự.Nên địch hoang mang,bỏ chạy vào trong căn cứ.Khoảng 11 giờ ở hướng tây bắc căn cứ đã được giải phóng

  Ngày nay,trên vùng đất thép Củ chi.Trong nghĩa trang An nhơn tây,những người lính của C11-D3-E48 ngã xuống ở hàng rào căn cứ ngày 29/4/75 đang nằm đó ,các anh hy sinh khi ngày toàn thắng chỉ còn tính bằng giờ !
Chào các bác :
   năm 79 có anh Thắng quê vĩnh Phú 1/ là phái viên của quân đoàn đi cùng c em  bác ấy kể :
    E 48  đánh Đồng dù ngay tại của mở  đã có khoảng trên dưới 50 chục bác hy sinh  ( không biết đây có phải là C 11 của bác Vt 738 không -con số đó là cực nhiều ) Sau đó xe tăng ta  vào đột phá ,vì cửa mở  vẫn còn 1 số  liệt sỹ  đang nằm nên xe tăng chần chừ .Không thể bỏ lỡ thời cơ ,nếu dùng dằng ở cửa mở tổn thất sẽ lớn hơn  nên  vẫn có lệnh : xung phong và các bác ấy đã  hy sinh lần hai . Nhờ kiên quyết ( nhưng đau đớn ) nên e 48  đột phá được vào trong . Chuyện các liệt sỹ hy sinh lần 2 có lẽ không trang sử nào  viết , chỉ có những người trong cuộc biết . Chiến tranh mà ....
   trái ngược với hướng E 95 của bác Trọng là xe tăng dùng dằng nên không vào được cửa mở
   Cũng trong trận đánh này  địch  ở sau Ta luy cao ,ta nằm bắn không được  có bác Sơn  người Vĩnh phú là atr đã  đứng thẳng dậy  dùng B40 bắn cháy  xe tăng địch, sau đó được phong Anh hùng ,
  . Năm 79  ( liên quan đến bài viết của bác Pho@ bên re :thời áo xanh....) Lúc F 320 ở Tà keo  địch dùng xe tăng phản kích , È 52 của Pho @ bỏ chạy , địch đến gần F bộ ,anh Sơn lúc đó là c phó vệ binh đã cầm súng ngăn lính không cho chạy, quyết tử thủ , kết quả địch bị chặn , f bộ không phải chạy


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: vt738@yahoo.com trong 15 Tháng Tư, 2013, 09:01:05 pm
 
Chào các bác :
   năm 79 có anh Thắng quê vĩnh Phú 1/ là phái viên của quân đoàn đi cùng c em  bác ấy kể :
    E 48  đánh Đồng dù ngay tại của mở  đã có khoảng trên dưới 50 chục bác hy sinh  ( không biết đây có phải là C 11 của bác Vt 738 không -con số đó là cực nhiều ) Sau đó xe tăng ta  vào đột phá ,vì cửa mở  vẫn còn 1 số  liệt sỹ  đang nằm nên xe tăng chần chừ .Không thể bỏ lỡ thời cơ ,nếu dùng dằng ở cửa mở tổn thất sẽ lớn hơn  nên  vẫn có lệnh : xung phong và các bác ấy đã  hy sinh lần hai . Nhờ kiên quyết ( nhưng đau đớn ) nên e 48  đột phá được vào trong . Chuyện các liệt sỹ hy sinh lần 2 có lẽ không trang sử nào  viết , chỉ có những người trong cuộc biết . Chiến tranh mà ....
   trái ngược với hướng E 95 của bác Trọng là xe tăng dùng dằng nên không vào được cửa mở
   Cũng trong trận đánh này  địch  ở sau Ta luy cao ,ta nằm bắn không được  có bác Sơn  người Vĩnh phú là atr đã  đứng thẳng dậy  dùng B40 bắn cháy  xe tăng địch, sau đó được phong Anh hùng ,
  . Năm 79  ( liên quan đến bài viết của bác Pho@ bên re :thời áo xanh....) Lúc F 320 ở Tà keo  địch dùng xe tăng phản kích , È 52 của Pho @ bỏ chạy , địch đến gần F bộ ,anh Sơn lúc đó là c phó vệ binh đã cầm súng ngăn lính không cho chạy, quyết tử thủ , kết quả địch bị chặn , f bộ không phải chạy
Chào bác tai_lienson ! Lâu lâu mới được giao lưu với bác,trận đánh vào căn cứ Đồng dù ngày 29/4/75.Trung đoàn 48 dùng 2 tiểu đoàn cùng lúc mở 2 cửa vào căn cứ bác ạ,tiểu đoàn 3 mở một cửa như tôi đã kể trên.Ngoài ra tiểu đoàn 1 còn mở một cửa khác nữa,tại cửa tiểu đoàn 1 mở,đại đội 3 phá được đâu 3-4 hàng rào hỗn hợp thì bị địch phát hiện.Nên chúng tập trung hỏa lực đánh trả ác liệt,làm cho đại đội này bị thương vong nặng nề ngay tại hàng rào đang mở dở dang.Xác định lực lượng tiểu đoàn 1 còn lại không thể mở được cửa mở ,nên trên điều tiểu đoàn 2 cùng 4 xe tăng đánh vào hướng tiểu đoàn 1 đang đánh dở.Nên việc có chuyện chiến sỹ ta hy sinh lần 2 (Do bị xe tăng chạy qua )thì chỉ có ở hướng của 2 tiểu đoàn này

  Còn số liệt sỹ hy sinh tại hướng tiểu đoàn 3 đánh,phần được mai táng tại nghĩa trang đơn vị tại ấp Đồng mả,xã Trung lập hạ.Ngày 27/7/75 chúng tôi đi sửa và viếng mộ cho các đồng đội,thì tôi thấy có đến ngót trăm mộ (Chưa kể số bị thương đưa đi phẫu và hy sinh,được mai táng ở chỗ khác).Tất cả số liệt sỹ kể trên,là toàn bộ hy sinh trong trận ngày 29/4/75.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Trongc6 trong 25 Tháng Tư, 2013, 10:50:38 am
Đến với Điện Biên

   Một ngày cuối tháng 4 sau ngày giải phóng Điện Biên 59 năm, tôi mới có dịp đến được với mảnh đất Mường Thanh-Điện Biên Phủ, mảnh đất mà năm xưa đã xảy ra những trận đánh ác liệt và then chốt cuối cùng của bộ đội ta với quân Pháp trước khi miền Bắc được giải phóng.

   Mảnh đất Điện Biên cách xa Hà Nội gần 500 cây số, nhưng lại rất thân thiết với gia đình bên ngoại tôi. Nơi ấy, ngày 28/3/1954 đã diễn ra một trận đánh không cân sức trên cánh đồng Mường Thanh giữa đại đội 78, thuộc tiểu đoàn phòng không 387, đại đoàn 308 với một tiểu đoàn bộ binh lính Âu-Phi. Cậu ruột tôi, đại đội trưởng Nguyễn Viết Quỳ và tất cả đồng đội đang trực chiến trên trận địa hôm ấy đã lần lượt ngã xuống sau nhiều giờ chiến đấu. Chỉ có duy nhất một người lính bị thương nặng về sau được cứu sống. Chuyện về trận chiến đấu ấy của đại đội cậu Quỳ tôi đã từng được kể lại và in trong tập truyện "Hàng rào cuối cùng" xuất bản từ năm 1964 nhân kỷ niệm 10 năm chiến thắng Điện Biên.

   Ông bà ngoại tôi có 9 người con trưởng thành. Cậu Nguyễn Viết Quỳ là em kề sát người chị cả là mẹ tôi.

   Phải mất tới 40 năm sau chiến thắng Điện Biên Phủ, tới năm 1994, bằng nhiều nỗ lực bền bỉ, đại gia đình chúng tôi mới tìm được phần mộ liệt sĩ. Cậu tôi yên nghỉ trong Nghĩa trang Đồi Độc lập, nghĩa trang lớn nhất trong 3 nghĩa trang liệt sĩ ở Điện Biên với 2432 ngôi mộ, trong đó chỉ có 56 ngôi mộ có danh tính.

   Suốt từ năm 1994, năm nào đại gia đình bên mẹ tôi cũng tổ chức đoàn lên Điện Biên, đến Nghĩa trang Đồi Độc lập để thắp hương cho cậu tôi và các đồng đội của cậu. Mẹ, chị và vợ tôi đã lên Điện Biên. Riêng tôi vì lý do công tác và sức khỏe nên mãi đến năm nay mới cùng Hòa-em ruột tôi- theo các Dì và em họ lên Điện Biên thăm cậu Quỳ.

   Mặc dù đã học và đã đọc nhiều về chiến dịch Điện Biên Phủ, nhưng lần đầu tiên được tới tận nơi, tôi vẫn choáng ngợp trước cảnh mênh mông của thung lũng Điện Biên với diện tích vài chục cây số vuông.

   Trong ba nghĩa trang liệt sĩ đánh Điện Biên Phủ thì Nghĩa trang Đồi Độc lập là lớn nhất, kể cả về diện tích và số mộ liệt sĩ. Cây xanh vừa tầm trong nghĩa trang rất nhiều, khiến đứng trong nghĩa trang không có cái cảm giác bỏng rát giữa trưa hè như trong nhiều nghĩa trang lớn miền Trung mà tôi đã từng đến thắp hương cho những đồng đội thuộc thế hệ đánh Mỹ chúng tôi.

   Mộ cậu Quỳ tôi nằm ngay đầu dãy thứ ba ngay bên phải cổng vào nghĩa trang. Tôi nhận ra ngay trên bia mộ tấm ảnh chân dung in trên đá, chụp cậu tôi lúc về phép cuối năm 1953, có lẽ do bố tôi chụp, vì ngày còn thanh niên, hai người đã là bạn thân, học cùng ở một trường cấp Ba hiếm hoi trên miền Bắc lúc bấy giờ. Tấm ảnh này trên bàn thờ nhà tôi cũng có, vì mẹ tôi tuy là phận gái, nhưng lòng nhớ thương người em tài hoa đã hy sinh cho Tổ Quốc quá lớn nên mẹ tôi đã thờ cả bố tôi và em ruột, mặc dù mẹ tôi vẫn còn hai người em trai nữa.

   Tôi thắp hương cho cậu tôi và quỳ xuống bên mộ cậu. Lần đầu tiên thắp hương trực tiếp cho cậu, mặc dù cố kìm nhưng tôi không thể ngăn được hai dòng nước mắt. Tôi đã khóc. Tôi khóc vì lòng tiếc thương của một người cháu đối với một người cậu ruột mà tôi chưa biết mặt vì khi cậu tôi hy sinh, tôi mới có bốn tháng tuổi. Cậu tôi là một thanh niên tài hoa, năm 1945 học dở tú tài thì bỏ học theo các mạng. Năm 1946, khi mới 17 tuổi, cậu tôi đã là học viên khóa I của Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn.

   Nước mắt chồng nước mắt. Tôi còn khóc với nỗi lòng của một người lính đối với một người lính, của một người đồng đội thế hệ sau với thế hệ của cậu tôi. Tôi là người lính thế hệ chống Mỹ. Dầu không cầm súng dài tới chín năm như cậu tôi, nhưng trong chiến tranh tôi cũng là một người lính bộ binh, trực tiếp chiến đầu tới vài chục trận trước ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng.

   Tôi nhớ ngày tôi nhập ngũ trong cái năm cả nước tổng động viên ấy, bà ngoại tôi xót thương cháu đã khóc rất nhiều. Bà dặn tôi một câu khá đặc biệt: " Nếu chỉ huy có bảo xung phong lên lấp lỗ châu mai thì đừng có lên, cháu nhé". Tôi không biết tại sao bà lại biết rằng lấp lỗ châu mai tức là sẽ hy sinh. Tôi chỉ biết là bà thương tôi và chắc có nghĩ rằng tôi cũng có thể sẽ hy sinh, không trở về như cậu Quỳ tôi. Nếu như vậy thì bà ngoại và mẹ tôi sẽ trở thành hai người đàn bà có chung số phận, vì tôi cũng có một chị gái.

   Bà tôi và chắc rất nhiều người không biết rằng, người lính khi ra trận sẽ hành động như thế nào. Bản năng người lính và tình thương đồng đội sẽ làm người lính quên đi bản thân mình trước hiểm nguy. Rất có thể khi gặp tình huống trong chiến đấu như anh hùng Phan Đình Giót, tôi cũng sẽ quên lời bà dặn mà hành động giống như anh. Nhưng có thể trong ước vọng của bà ngoại, còn có cả sự phù hộ của cậu tôi dành cho đứa cháu ruột là tôi khi ra trận, nên tôi đã không gặp phải tình huống gian nguy cần có người lấp lỗ châu mai. Tôi đã trở về sau chiến tranh với mẹ, với bà.

   Và hôm nay, tôi có mặt ở đây để thắp hương cho cậu tôi. Để cảm ơn cả số phận đã trả lại tôi về với mẹ tôi sau chiến tranh nữa. Tôi cứ chắp tay khấn cậu và nghĩ miên man như thế, mặc cho nước mắt rơi.

   Cùng các Dì và các em, tôi còn đi khắp nghĩa trang để thắp hương cho các liệt sĩ Điện Biên. Thật đau lòng là nơi đây cũng có nhiều phần mộ khuyết danh quá, chẳng khác phần lớn các nghĩa trang chống Mỹ là bao. Chỉ có một câu chung dành cho các liệt sĩ ghi nơi đài tưởng niệm của các nghĩa trang: " Vinh quang đời đời thuộc về các anh hùng liệt sĩ".

   Trong bốn ngày ở Điện Biên, đại gia đình chúng tôi còn đi thắp hương cho các liệt sĩ ở những nghĩa trang khác nữa, nhưng ngày nào cũng đến thắp hương cho phần mộ của cậu tôi và các đồng đội tại nghĩa trang Đồi Độc lập.

   Tôi cũng đi thăm di tích hầm Đờ-Cát, thăm đồi A1… Mỗi nơi, tôi đứng thật lâu, nhìn địa hình, đem chút kinh nghiệm lính trận của mình, đối chiếu với những điều đã ghi trong sách về chiến dịch Điện Biên Phủ năm xưa để hình dung ra những trận đánh dai dẳng và ác liệt của thế hệ cha chú mình với tụi lính  thực dân Pháp.

   Thật mãn nguyện và hài lòng vì mình đã có một chuyến đi thăm chiến trường xưa đầy ý nghĩa.

   Cùng đại gia đình trở về Hà Nội, tôi tạm biệt cậu Quỳ và mang theo lời dặn của các Dì. Sẽ lên thăm cậu nhiều hơn và khi sức khỏe các Dì các Cậu  của tôi đã yếu thì đám anh em con cháu chúng tôi sẽ tiếp quản đón nhận tình thương và tiếp tục tổ chức những chuyến đi Điện Biên, lên thăm cậu Quỳ. Chúng cháu không bao giờ quên ơn hy sinh của cậu và các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống cho độc lập tự do của Tổ quốc./.



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Trongc6 trong 13 Tháng Chín, 2013, 03:27:02 pm
Kể chuyện Tây Nguyên

   Chuyện kể ở đây không phải là tư liệu nghiên cứu về đồng bào Tây Nguyên. Chỉ là những hồi ức, những kỷ niệm kể lại cho các bạn. Các bạn sinh viên Đại học Văn hóa làm luận văn về văn hóa các dân tộc thiểu số ở Việt nam chớ có lấy đây làm tài liệu chính thống, người viết không chịu trách nhiệm về điểm luận văn của các bạn đâu nhé.

   Đồng bào dân tộc nói chung là khổ và có mặt bằng văn hóa thấp và hạn chế hơn so với người Kinh. Trong thời kháng chiến thì điều này càng rõ. Bộ đội chúng tôi đã khổ và thiếu thốn, người dân tộc Tây Nguyên ven dãy Trường Sơn còn khổ hơn. Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên, Tư lệnh bộ đội Trường Sơn một thuở đã phải than là đồng bào ven Trường Sơn nghèo xơ xác quá. Trẻ con thì trai hay gái đều ở truồng quanh năm. Khi lớn thì đàn ông ai cũng chỉ có mỗi một cái khố. Đi qua vùng dân tộc, tôi chưa bao giờ trông thấy một cái khố nào phơi trên dây hay sào tre quanh nhà. Có lẽ chẳng có ai có được tới hai chiếc khố. Phụ nữ cũng chẳng hơn nhiều lắm. Có thể là một thời thanh bình xa xưa nào đó, phụ nữ Tây Nguyên cũng dùng vải thật để may váy áo, nhưng những năm tháng chúng tôi ở Trường Sơn, chỉ toàn thấy họ mặc váy áo được khâu lại từ một thứ vải bao cát. Trong chiến tranh, quân Mỹ Ngụy lập các căn cứ thường dùng một loại túi vải thưa, sợi to như sợi đan áo, đổ đất vào đó rồi cột lại, chất lên nhau làm công sự, chúng tôi gọi là bao cát. Loại sợi này có pha ni-lon, rất lâu mới mục nát. Làm bao đựng đất làm công sự thì tốt, nhưng phải dùng nó để khâu váy áo thì chắc chỉ có đồng bào Tây Nguyên. Mặc nó chắc rất nóng, và nói thật là nó rất thưa, độ che kín không đủ trăm phần trăm. Những chiếc váy họ mặc không phủ kín đến đầu gối. Còn áo thì hơi ngắn, đứng thẳng người không sao, nhưng hơi nghiêng người là hở cả lưng cả bụng. Phụ nữ Tây Nguyên không mặc đồ lót. Trộm nghĩ, các ca sĩ ngày nay cố gắng mang trang phục hở đông hở tây khi biểu diễn để "khoe hàng", bất quá cũng chỉ như học lại cái trang phục bất đắc dĩ thời chiến tranh đầy thiếu thốn của phụ nữ Tây Nguyên mà thôi. Nhưng đố dám bắt chước bỏ cả "nội y" đấy, dù thứ đó của các nàng bây giờ nhiều khi chỉ bằng hai cái lá mít bánh tẻ chập lại.

   Người Tây Nguyên có nước da ngăm đen, không hẳn đen nhánh như người châu Phi, cũng không phải da màu như người Nam Mỹ. Chưa ai đo được da họ dày đến đâu, nhưng chúng tôi cũng chưa bao giờ nghe đến khái niệm đồng bào bị muỗi đốt. Ngay cả ở những vùng muỗi bay dày như vỏ trấu, đập cánh vù vù như tiếng sáo diều sông Bến Hải, thì đồng bào Tây Nguyên cũng không biết dùng màn. Tây Nguyên liền dãy Trường Sơn, bộ đội nhà ta không ai thoát khỏi sốt rét, nhưng muỗi A-no-phen lại phải tránh xa đồng bào. Những con muỗi rừng to như hạt thóc chiêm, vòi dài cả chục ly mà châm lính phát nào là chúng tôi nhảy dựng người lên phát đó, cũng chào thua lớp da người dân tộc. Ông Dac-Uyn sống lại chỉ cần nghiên cứu đoạn này cũng đủ hoàn thành thuyết Tiến hóa, khỏi cần phải mò ra một đảo hoang nào đó mãi ngoài Thái Bình Dương xa xôi để nghiên cứu lũ bướm đổi màu.

   Tư lệnh Trường Sơn đã từng nói, đồng bào dân tộc tắm suốt ngày. Thực ra thì không hẳn như thế, chính xác là cứ khi nào lội qua sông suối là họ tranh thủ tắm. Một ngày lội suối bao lần là họ tắm bấy nhiêu lần, bất kể mùa khô hay mùa mưa. Được cái mùa khô tuy ban đêm lạnh, nhưng ban ngày thường có nắng ấm. Khi qua suối, người dân tộc thường chọn chỗ nước sâu. Đàn ông lội qua suối đến giữa dòng thì ngồi thụp xuống rồi cởi khố và đưa tay khua loạn xạ, lục xục một hồi rồi mặc luôn lại chiếc khố vừa giặt đang còn ướt sũng. Khi lội lên bờ, nhô người đến đâu thì thì họ kỳ cọ đến đấy. Chỉ cần dăm phút lội suối, khi lên đến bờ thì đã tắm xong. Phụ nữ cũng gần như thế. Họ không tụt hết rồi lao xuống suối tắm như mấy cô thanh niên xung phong "giả" trong mấy bộ phim của mấy ông đạo diễn thích câu khách bằng cảnh tươi mát đâu. Họ cũng lội chìm xuống suối, ngồi ngập đến tận cổ rồi có làm gì thì làm. Có khuơ khoáng loạn xạ thì cũng vẫn kín đáo. Thông thường phụ nữ lội dịch ở đoạn phía dưới theo chiều bước chảy, hoặc nếu cùng khúc suối thì họ thường lội sau. Cái đó hình như đã thành một nếp, một tập tục rồi, rất có văn hóa. Chưa bao giờ chúng tôi thấy nam nữ đùa nhau khi tắm suối.

   Tất nhiên những điều tôi kể chỉ là sự nhìn theo kiểu trinh sát của lính tráng chúng tôi, chứ làm sao mà ngang nhiên nhòm ngó được. Bộ đội cơ mà.

   Bây giờ, sau bao năm chiến tranh, không biết cuộc sống của đồng bào Tây Nguyên có nhiều thay đổi không, nhưng những điều thuộc về tập tục, chắc không có gì khác.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: xuanv338 trong 13 Tháng Chín, 2013, 05:26:35 pm
     xuanv338 chào anh Trongc6. Chào tất cả các bác. lần đầu tiên xuanv338 đến nhà anh, cũng không lạ lắm phải không anh? mình đã gặp nhau vì đã có đôi lần anh tới nhà em. Hôm nay là ngày kỷ niệm 42 năm ngày em nhập ngũ. Tâm trạng cứ lâng lâng không viết được nổi bài theo mạch truyện. CB chuyền cành lang thang cho hết một ngày. Chợt thấy ngôi nhà đóng cửa từ lâu hôm nay chủ nhà trở về mở cửa lại thấy có hương sắc của vùng Tây Nguyên thật đằm thắm.

     Em chưa bao giờ được đến Tây Nguyên. Bóng cây KơNia và những mái nhà Rông của bản làng Tây Nguyên chỉ được nhìn qua hình ảnh. Hôm nay lại được anh Trongc6 kể chuyện Tây Nguyên về những tập tục văn hoá rất riêng của người Tây Nguyên và những cái nghèo khó thiếu thốn của người Tây Nguyên trong những năm dài chiến tranh. Tây Nguyên hiện về trên bài viết của anh như một bức tranh xưa của người Tây nguyên.

   Người Tây Nguyên họ bền bỉ dẻo dai, anh dũng. Đã có bao nhiêu bài hát, câu thơ và còn cả những trang dài tiểu thuyết của nhiều nhà văn mà vẫn chưa nói hết được cảnh đẹp hùng vĩ của núi rừng, sông , suối và những tấm lòng yêu nước giết giặc của người Tây Nguyên. Chắc anh Trongc6 là lính Tây Nguyên rồi.

     xuanv338 có một người bạn lớn hơn em 3 tuổi, người cùng làng tên là Trần Đình Phòng, anh ấy cũng là lính Tây Nguyên. Anh ấy đến Tây Nguyên từ năm 1970 cho đến hết cuộc chiến tranh. Anh ấy ở sư đoàn 320, là lính Thông tin. Rất tiếc anh ấy đã qua đời được mấy năm rồi. HT của anh Phòng ngày ở Tây Nguyên. 758.119.TB 20. và có lúc HT là 758.123.TB 20.  Anh Trọngc6 hay có anh lính Tây Nguyên nào có biết hòm thư của đơn vị này không ạ?

    lần đầu đến nhà anh được ngắm cảnh Tây Nguyên. bây giờ trời đã muộn xin phép anh em được trở lại nhà. xuanv338 chúc anh mạnh khoẻ vui vẻ, luôn nghĩ về Tây Nguyên để viết thêm những bài hay thế nữa. CB kính anh.

  


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Trongc6 trong 01 Tháng Mười, 2013, 11:39:32 am
Chiến trường B3

   Thế là cái đêm mồng 2 Tết Giáp Dần 1974 ấy, trung đoàn 9B chúng tôi chính thức chia tay chiến trường Nam Lào để chuyển địa bàn về miền Nam chiến đấu.

   Chúng tôi đi trong thầm lặng, không được chính thức chia tay cả dân Lào lẫn các bạn bè ở các trung đoàn khác trong cùng sư đoàn 968. Đối với chúng tôi thì việc về miền Nam là hiển nhiên, dù chưa biết chính xác về đâu, nhưng với dân và các đơn vị bạn thì giữ bí mật vẫn là điều cần thiết.

   Cảm giác không hẳng vui, không hẳn buồn. Có một chút bùi ngùi của lính cũ và niềm háo hức ra trận của mấy đợt tân binh chưa qua chiến trận. Có một nhà thơ đã viết:

“… Khi ta ở, đất chỉ là đất ở,
Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn…”


   Điều ấy hoàn toàn đúng và nó đánh vào đúng tâm trạng của những người lính đang phải từng bước hành quân rời xa vùng đất đã gắn bó với mình biết bao chuyện vui buồn, bao gian nan thử thách trong suốt cả một thời gian dài. Trung đoàn 9B chỉ tham chiến trên vùng đất Nam Lào, trên cao nguyên Bô Lô Ven có chưa đầy 4 năm trời, nhưng khoảng thời gian ấy trong chiến tranh là dài lắm, bởi có vô vàn đổi thay với cả đơn vị và với từng người lính. Đơn vị ghi dày thêm chiến công vào trang sử truyền thống, còn trong từng đơn vị thì có nhiều người đã ngã xuống, nhiều người bị thương trở về hậu phương, và những người lính còn trụ lại thì đã thành lính cũ dày dạn. Có người đầy ắp chiến công và đã trưởng thành lên nắm giữ những cương vị chỉ huy quan trọng, điều mà lúc vào chiến trường không hề nghĩ tới. Và còn có không ít những người lính quên lời thề số 1, bỏ ngũ tìm về hậu phương tìm cái sống nhưng đa phần là buồn hơn vui.

   Tôi còn nghĩ, mảnh đất nơi ta đã sống “… bỗng hóa tâm hồn” bởi nó chứa đựng những kỷ niệm riêng của từng người lính trong thời gian sống ở đó. Ở đó có tình người và người lính nào có chút lãng mạn hoặc có một mối tình nảy nở thì cái “hóa tâm hồn” ấy lại càng sâu đậm và da diết hơn.

   Với riêng tôi cũng vậy. Những chuyện buồn vui  chiến trường ở đây, tôi đã kể ra qua những trang viết trên đây rồi. Bây giờ lại xao xuyến qua từng bước chân trong hàng quân.

   Nhưng có lẽ tất cả những điều đó chỉ âm thầm diễn ra trong tâm tưởng của từng người, còn hàng quân khi đó vẫn đều bước theo mệnh lệnh của các cán bộ đại đội và trung đội.

   Chúng tôi hành quân có lẽ chừng độ ba bốn tiếng đồng hồ. Đủ để thâm mệt trong đêm hành quân. Đơn vị dừng lại, được lệnh nghỉ chờ đến sáng.

   Mùa khô, lại mệt mỏi nên chúng tôi rải nilon hoặc vun chút lá rừng, ngả lưng ngủ ngay tại chỗ dừng chân. Đội hình của cả một trung đoàn có lẽ lớn lắm và có lẽ cũng quá an toàn nên chẳng có gác sách gì. Chúng tôi hoàn toàn yên tâm với cánh rừng Trường Sơn chỉ có quân ta này.

   Sau Hiệp định Pari tháng 1 năm 1973 thì cả tuyến đường Trường sơn 559 thực sự trở thành tuyến vận tải hậu cần và là hậu phương của lính ta. Không còn bóng dáng những chiếc máy bay trinh sát OV-10 hai thân trắng toát bay tít trên nền trời cao vè vè suốt ngày rình rập. Không còn những đợt bom B52 rung chuyển núi rừng không đoán được trước, và ngay cả những tốp phản lực ném bom theo chỉ điểm trực tiếp của OV-10 cũng không còn. Rừng cây hồi sinh trở lại nhanh chóng qua mùa mưa 1973.

   Khung cảnh đêm càng yên tĩnh hơn. Lính tráng dễ ngủ, qua đợt hành quân mệt càng thêm dễ ngủ. Trong đêm, có lẽ chỉ thỉnh thoảng còn ánh đèn pin của các cán bộ chỉ huy quan tâm kiểm tra tình hình lính tráng.

   Đêm nay, chúng tôi đã đi vào dãy Trường Sơn, nhưng vẫn còn thuộc đất Lào.



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: nguyenhuuluanc17 trong 02 Tháng Mười, 2013, 03:06:51 pm

Chiến trường B3

   Thế là cái đêm mồng 2 Tết Giáp Dần 1974 ấy, trung đoàn 9B chúng tôi chính thức chia tay chiến trường Nam Lào để chuyển địa bàn về miền Nam chiến đấu.

   Chúng tôi đi trong thầm lặng, không được chính thức chia tay cả dân Lào lẫn các bạn bè ở các trung đoàn khác trong cùng sư đoàn 968.

   Cảm giác không hẳng vui, không hẳn buồn. Có một chút bùi ngùi của lính cũ và niềm háo hức ra trận của mấy đợt tân binh chưa qua chiến trận. Có một nhà thơ đã viết:

“… Khi ta ở, đất chỉ là đất ở,
Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn…”


   Điều ấy hoàn toàn đúng và nó đánh vào đúng tâm trạng của những người lính đang phải từng bước hành quân rời xa ...

   Với riêng tôi cũng vậy. Những chuyện buồn vui  chiến trường ở đây, tôi đã kể ra qua những trang viết trên đây rồi. Bây giờ lại xao xuyến qua từng bước chân trong hàng quân.

   Nhưng có lẽ tất cả những điều đó chỉ âm thầm diễn ra trong tâm tưởng của từng người, còn hàng quân khi đó vẫn đều bước theo mệnh lệnh của các cán bộ đại đội và trung đội.

   Chúng tôi hành quân có lẽ chừng độ ba bốn tiếng đồng hồ ...

   Đêm nay, chúng tôi đã đi vào dãy Trường Sơn, nhưng vẫn còn thuộc đất Lào.



 
    @ Trongc6,
 
   Đồng cảm và chia sẻ với Bạn về tâm trạng người lính  trong  thời khắc khó quên ấy :
 
  Đối với  người lính khi đó  đều rõ  nhiệm vụ  là sẽ vào Nam chiến đấu ( đi B) . Dù  vậy ,  thời điểm trước lúc lên đường vẫn  để lại những cảm xúc khó tả - không quên được -  Trong đêm, trước lúc lên đường, có những người lính đã thao thức,   với tâm trạng xao xuyến ... nhất là đối với những lính có  sự nhạy cảm và nhiều cảm xúc.
 Tôi nhớ đêm chuẩn bị đi B,  lủng củng chuẩn bị đến khuya. Nằm nhưng thao thức không ngủ được,  nghe  vọng  chương trình  TIẾNG THƠ đêm với lời thơ :

  Em Cutai ngủ trên lưng mẹ ơi
  Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ
  Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
  Mặt trời của Mẹ, con nằm trên lưng
 Ngủ ngon Akay ơi, ngủ ngon Akay hỡi ...

  Không hiểu vì bài thơ hay do tâm trạng của người lính trước lúc lên đường  mà tôi thao thức mãi  - " ngày mai ta sẽ xa nơi này, chào tạm biệt tất cả xóm làng trong đêm yên tĩnh" - tôi đã viết như vậy trong nhật ký .  Trong giấc ngủ chập chờn  vẫn văng vẳng  " Em cu tai ngủ trên lưng Mẹ ơi ". Khi vào chiến đấu rồi  đôi khi vẫn nhớ lại thời khắc ấy với những  lời thơ đã  gắn với kỷ niệm.
  Sáng sớm hôm sau , chúng tôi hành quân  ra  ga KÉP , trung đoàn điều cấp tốc đi B trước lúc Nicxon ném bom trở lại miền Bắc 4/1972.
  Chúng tôi vào chiến đấu tại Quảng trị - 1972.


 



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Trongc6 trong 03 Tháng Mười, 2013, 08:39:36 am
Chào bác Hữu Luân,

Cảm ơn bác đã chia sẻ.

Đúng là lúc ấy lính tráng, nhất là những người có nhiều cảm xúc thì tâm trạng lắm. Mà cũng lại chỉ được âm thầm thôi. Khó mà giải bày chia sẻ vì không phải ai cũng giống ai.

Thêm nữa là lúc ấy mà thể hiện ra là dễ bị CViên gán cho cái mác ủy mị - TTS lắm. Cái gì cũng nâng lên quan điểm mà.

Nhưng nói vậy chứ ở đơn vị bác đa phần là lính sinh viên, mặt bằng học vấn cao hơn các đơn vị bình thường nên chắc C Viên ở đó cũng phải trình độ hơn và tâm lý hơn, phải không bác?

Chúc bác luôn vui khỏe.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: nguyentrongluan trong 03 Tháng Mười, 2013, 08:56:04 am

Trongc6 thân mến .
Nhân bạn nói về cảm giác khi nghe tin hành quân về VN . Tôi bỗng nhớ cảm giác của mình . Vào tháng 5/73 sau hai tháng ở Căm Phu chia chúng tôi nhận lệnh hành quân vè Gia lai . Trong nhật kí của tôi và bè bạn đứa nào cũng viết : hành quân về đất mình để chiến đấu . Cái cảm giác chiều tối vượt sông ở biên giới vầ đất mình sao mà nó bâng lâng thế . Nói lại có thể nghe lên gân . Nhưng có lẽ phải là người trong cuộc mới hiểu được . Tôi cũng đã từng đọc nhật kí của anh em ở K khi nói về lúc bước qua biên giới về VN . Cái cảm giác nó bùng lên thế nào .
Cám ơn bạn nhé , E9 về chung một hướng với  E 64 mình suốt năm 74 đấy .


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: xuanv338 trong 03 Tháng Mười, 2013, 06:41:56 pm
   CB chào anh Trọngc6. Chào các bác đang cùng tham gia topis. Anh chủ nhà cũng là lính Tây Nguyên ơi!  Anh cũng thật mặn mà và luôn nhớ về Tây Nguyên nhiều thế?  Là lính thời đánh Mỹ mà chưa bao giờ em được đến Tây Nguyên. Nhưng mỗi khi nghĩ đến đại ngàn là tâm trạng CB thấy cứ nao nao không tả nổi. Có bạn trên diễn đàn thấy CB nói về Tây Nguyên, nghĩ về Tây Nguyên trên trang LTN của anh NTL đã ngợ ngợ PM cho nhau hỏi rằng. Có phải CB là lính Tây Nguyên? Cũng thật là tiếc. Nếu được là lính Tây Nguyên thì bây giờ CB có bao điều để viết.

 Vậy lý do gì đã khiến CB nhỏ thó luôn nhớ và yêu Tây Nguyên đến vậy! Thật đơn giản thôi mà! Đây là từng lý do đây ạ! Xin phép anh Trongc6 cho CB mượn anh một góc sân, trong một thời gian thôi để giãi bày được hết những lý do.

    Lý do thứ nhất.

 CB có một người thân trong dòng họ là lính Tây Nguyên tên là Trần Văn Lạc. Nhập ngũ 1964, vào Tây Nguyên từ giữa năm 1964. Sau hơn mười năm cho đến ngày thống nhất đất nước chú Lạc may mắn còn sống và được trở về với quê hương. ngày trở lại miền Bắc sau một tháng hoà bình chú Lạc được về an dưỡng tại đoàn 253 gần đò Hàn, Hải Hưng để an dưỡng. Tiêu chuẩn an dưỡng ngày ấy cho mỗi cán bộ chiến sỹ từ chiến trường ra là ba tháng.

    Vì xa quê quá lâu ngày. Chắc trong chú Lạc là nối nhớ nhà, nhớ quê hương đã đầy như muốn nổ. Về tới đoàn an dưỡng ổn định xong thủ tục chú Lạc xin về qua nhà thăm vợ con, họ mạc. Về nhà mới chỉ được hai ngày thì chú bị một cơn đau bụng dữ dội. Gia đình đưa chú ấy trở lại đoàn an dưỡng 253, tại đó chú đã được đưa tới QY viện 7 để mổ cấp cứu. Khi mổ ra đó là một khối u đầu Tuỵ và chú Lạc đã từ biệt cõi trần sau đó chưa đầy một tháng. Niềm vui chưa trọn thì mất mát thật lớn lao nhanh chóng đến với người vợ hiền, với các con với người thân trong dòng tộc họ Trần nhà CB.

   Gia đình CB đau đớn lắm nhưng số phận con người ai mà nói trước được điều gì. Dù sao gia đình CB cũng thấy ngậm ngùi bằng lòng và cũng thấy tự hào. Chú Lạc đã hoàn thành chức phận của một người lính cho đến ngày đất nước khải hoàn. Và đã được về quê gặp lại những người thân và vợ con.

     Sau hơn mười năm vắng đi hơi ấm của người vợ hiền, Những khát khao cháy bỏng, trong phút giây nồng nàn của hai ngày phép quý báu ấy, khi trong mình chú cũng đang mang nặng một căn bệnh hiểm nghèo gói lại từ chiến trường mang về đất Bắc. Chú vẫn  để lại cho Thím thêm một mầm sống.  Chín tháng sau một cậu con trai ra đời. Nhưng thật buồn. Cậu con trai ra đời đã không được hoàn thiện là một con người. Chú Lạc mất đi đã lại để thêm cho người vợ tần tảo thêm một gánh nặng đường đời. Hôm nay thím Lạc đã ngoài 70 tuổi. mà cậu con trai vẫn ngơ ngơ, ngác ngác vô tư chẳng biết là mình. Thật đau lòng nếu mai đây Thím ấy khuất núi.

***
   Lý do thứ hai.

 CB có một người bạn cùng làng, anh lớn hơn CB chừng ba, bốn tuổi thì phải. Anh ấy cũng là lính Tây Nguyên, là lính của sư đoàn 320 A. Từ năm 1970 cho đến ngày Giải phóng Tây Nguyên anh ấy là lính thông tin và chỉ gắn bó với đại ngàn Tây Nguyên. Lá thư vào tháng 4/1974 anh ấy gửi từ chiến trường Tây Nguyên ra miền Bắc cho CB, trong thư có hai mảnh đuôi con Công được bỏ vào cùng, em nhớ trên nền có một hình bán nguyệt màu xanh đen óng ánh đẹp tuyệt vời. Lần đầu tiên CB được nhìn thấy một hình ảnh trong một phần nhỏ bé của đuôi con Công. Ngày ấy chiến trường tây Nguyên xa xôi và ác liệt nhưng suốt mấy năm trời từ năm 1973 cho tới lúc hoà bình, tuy có lúc dán đoạn Hòm thư thay đổi nhưng CB không mấy khi vắng thư anh.

   CB rất trân trọng và quý mến anh hàng xóm ấy. Nhưng với CB anh ấy chỉ luôn là bạn, là anh hàng xóm đáng quý. Còn nếu không là ngộ nhận của CB thì trong trái tim của anh ấy CB lại là một cô hàng xóm rất đáng yêu và được anh ấy luôn nuôi trong mộng cho tới ngày Thống Nhất nếu còn sống được về làng. Phần cuối của toips này CB sẽ kể lại cậu chuyện về anh hàng xóm để mọi người được nghe, cũng là một cuộc đời .......

***
  Lý do thứ ba.

   Ngày công tác tại bệnh xá đoàn an dưỡng 581. Thương bình về an dưỡng chủ yếu là từ hai chiến trường B2 và B3. Vậy là lính Tây Nguyên nhiều lắm. Mỗi buổi sáng ngồi lấy máu cho bệnh nhân. CB thường được nghe nhiều chuyện về núi rừng Tây Nguyên, về mảnh đất , con người, những cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Các anh thương binh còn kể tên những trận đánh cam go trong những cánh rừng già, trên các buôn làng của Tây Nguyên. Và CB đã từng được chứng kiến những cơn sốt rét đến rung giường của anh lính Tây nguyên. Trông thật là thương. Đêm Đêm ngồi bên kính hiển vi trước ngọn đèn dầu mắt dõi nhìn sâu vào ống kính tìm cho ra những ký sinh trùng là thủ phạm gây những cơn sốt cho các anh.....Tất cả những gì về Tây Nguyên đã ăn sâu vào trong tiềm thức của CB. Dù chỉ mới là được nghe qua chuyện kể, qua hình ảnh.

  Hiềm nỗi là loài chim Chích Bông thì không biết hót,  nhưng lại rất yêu những bài ca mang âm hưởng của núi rừng. Có lúc vì quá yêu Tây Nguyên, CB đã tự mình hát ngêu ngao để nhớ về với "Bóng cây Kơnia, với hoa polang, với con chim kotia, chim Chơrao, với chàng Ađam, những con suối dài  và dòng thác dữ.... và còn thấy thất thần giật mình khi cảm như đang nghe thấy tiếng thét gầm của loài Hùm xám đầy hung dữ vọng xa làm rung chuyển cả Đại Ngàn. Khi ấy lại thấy gai ốc nổi lên, càng gợi nhớ về hình ảnh của người thân, người bạn, những thương binh được ghi trong hồ sơ bệnh án trong phần khai thác bệnh sử "chiến đấu tại chiến trường B3"  

   Hôm nay CB mượn sân nhà anh Trọngc6 hơi lâu một chút, thế mới đủ thời gian để nói được phần nào tâm trạng của mình luôn nghĩ về Tây Nguyên và cũng là để giải trình với số ít bạn mạng còn đang lăn tăn rằng. Liệu CB có phải là lính Tây Nguyên?  CB đã viết những dòng này trong nước mắt.

   CB chúc anh chủ và tất cả các bác có một buổi tối thật vui cùng gia đình.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Trongc6 trong 04 Tháng Mười, 2013, 09:32:29 am
Chào bạn Xuanv338,

Cảm ơn bạn tới thăm và chia sẻ.

Khi ra quân, trong lý lịch quân nhân của tôi có ghi dòng chữ: "Sở trường tác chiến trên địa bàn rừng núi". Phải chăng vì những năm tháng chiến đấu của tôi toàn ở vùng rừng núi thôi? Tây Nguyên cũng là mảnh đất gắn bó với tôi tới cả nữa thời gian chiến trận.

Nhưng nói về chuyện Tây Nguyên thì tôi phải đứng sau anh Nguyễn Trọng Luân (Luân "đen") bạn ạ. Không những anh ấy chiến đấu ở đấy lâu hơn, mà sau này anh ấy còn có nhiều dịp quay lại đấy để chiệm nghiệm nhiều điều.

Với tôi, rất tiếc là tôi xa Tây Nguyên từ năm 1977 cho tới nay, không có dịp được trở lại. Những chuyện của tôi sắp kể chỉ là quãng thời gian trung đoàn 9 chúng tôi về chiến trường đó tham gia tác chiến trong đội hình sư 320A (Anh Luân ở E 64 cũng thuộc sư 320A). Trong hình dung của tôi, Tây nguyên vẫn là rừng núi rậm rạp với những bản nghèo. Nhưng cũng có thể như thế mà chuyện tôi kể sẽ không bị lẫn vào khung cảnh hiện đại ngày nay.

Một lần nữa cảm ơn bạn đã dành nhièu tình cảm cho mảnh đất Tây Nguyên.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: nguyentrongluan trong 04 Tháng Mười, 2013, 12:35:36 pm
Trongc6 thân mến . Bạn nói quá đúng , hãy kể về Tây nguyên với TN hùng vĩ rậm rạp khi xưa . Phải kể về TN bằng tâm thế người lính binh nhì ngày xưa nó mới ra TN của lính . Nếu nói về lính theo tâm thế bây giờ thì sẽ không còn là lính nữa . Tây nguyên trong trí nhớ của mình vẫn như ngày xưa Trọng c6 nhỉ


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: xuanv338 trong 04 Tháng Mười, 2013, 03:44:08 pm
 Chào các anh lính Tây Nguyên. xin phép anh Trọngc6 em lại được ngồi nhờ nhà anh một chút kể thêm câu truyện cũng nói về một người lính Tây Nguyên.

   Làng em ngày ấy người đi bộ đội thì nhiều mà người được về thì ít lắm.  Cái sân kho cạnh nhà thờ cách nhà em chỉ một đoạn đường chừng 200 mét. Đó là nơi tụ tập của những con trai, con gái trong làng vào buổi tối. nói là con trai nhưng có mấy ai đâu. chỉ độ một hai chàng loai choai chờ ngày gọi đi lính. Thỉnh thoảng có anh lính được về phép trước khi đi Nam là tất cả các chị gái làng tụ tập vây quanh anh bộ đội, chúc tụng, tặng cho nhau những chiếc khăn tay, những tấm hình nhỏ bằng hai đầu ngón tay để giữ làm kỷ niệm. nhất là vào những đêm trăng sáng hay vào mùa gặt, tối đến trục lúa ở sân kho, cảnh đồng quê thật là vui

 Hè năm ấy vào năm 1968 là mùa hè CB chuẩn bị bước vào năm học mới, lớp sáu trường làng. Mùa hè ấy làng em có anh tên gọi là Vinh là bộ đội từ chiến trường Tây Nguyên về. Anh vinh có hàm răng màu nâu tây. Con trai lại là bộ đội xa quê lâu rồi mà anh vãn giữ đất lề quê thói. đến nhà các bà các cụ trong làng chơi là lại ăn một miếng trầu, hàm răng của anh lại càng dậy thêm màu nâu Tây. Nhưng nói đến giọng hát nhạc vàng của anh và tiếng đàn ghi ta khi trời đã về khuya bập bùng vọng từ phía sân nhà kho vào ngõ xóm thì ai cũng phải lắng tai nghe đến chết lịm.

   Tối đến ngồi cầu ao nhà, CB chỉ mong làm sao anh Vinh mang đàn ghi ta ra cổng kho phía gần nhà mình vừa đánh đàn vừa hát, một bài hát như kiểu nhạc vàng thì phải. Mỗi tối nghe thuộc vài câu rồi CB cũng bắt chiếc anh Vinh hát được một đoạn. lâu rồi hôm nay em ghi lại qua trí nhớ của mình thôi" Lời của một đoạn như sau.

  " Có ai biết không? em yêu người lính/lính yêu núi sông, yêu cả cô em/ôm súng hay là ôm em/ ai hỏi tên anh là lính/LÍNH LUÔN ĐA TÌNH MÀ ĐÁNG YÊU/ Em thương sao là thương/thương mũ anh lá rừng/thương ba lô nặng trĩu/hay người yêu trong đêm trường....

CB thấy hai anh lính Tây Nguyên có lời bàn với  nhau về từ ĐA TÌNH nên CB mang theo chủ đề này từ LTN về trang của anh Trọngc6 cũng không bị lạc lõng. Theo em thì mỗi một đời người, nhất là đời người lính sẽ có rất nhiều mối tình na ná yêu thôi, có thể là đơn phương hoặc mới chỉ xa xôi, ý tứ, tình cảm đó lại mãi mãi bay đi, thậm chí còn bị lãng quên.   Để rồi sau này có khi còn đến tận lúc tuổi già mình vẫn cứ thoảng thoảng nhớ về những kỷ niệm ấy. vậy mới có! Đáng nhẽ, giá kể, biết thế!  ;D. Có điều, có người thì dám nói ra và người thì chẳng dám nói ra.

   Bài hát, câu hát là một chứng mình cho câu nói của anh LTN là cụm từ ĐA TÌNH SẼ LÀ KHÔNG XẤU.
  CB cảm ơn anh Trọngc6 cho em diễn nhờ sân nhà anh buổi thứ hai trong ngày. Chúc các anh lính Tây nguyên mạnh khoẻ có nhiều câu truyện hay về những buôn làng.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Trongc6 trong 05 Tháng Mười, 2013, 03:13:12 pm
….
   Trời sáng, chúng tôi lục đục dậy thu dọn. Cơm nếp và thức ăn từ hôm trước vẫn còn, anh nuôi chưa phải nấu cơm. Sau khi xuống suối lấy đủ nước vào bi đông, chúng tôi lên đường.

   Chỉ đi chừng khoảng một giờ thôi, nhưng càng đi càng lên cao. Chỗ chúng tôi dừng chân là một cánh rừng rất rộng. Mặt đất chỉ có một ít đất nằm xen các khối đá lớn. Rừng thưa, toàn một loại cây lá nhỏ giống như cây Muồng hay cây Cơm nguội mọc nhiều ở đường Hoàng Hoa Thám, Hà Nội. Nơi này không cần làm đường, nhưng cũng không thể đào hầm vì toàn đá lớn.

   Một dãy xe ô-tô đã đỗ sẵn ở đó, có tới mấy chục chiếc, toàn là xe tải. Hầu hết là loại xe Zin kính cong, chỉ có rất ít là loại xe Giải phóng trùm bạt kín mít. Chúng tôi hành quân xe theo đội hình tiểu đoàn. Xe Giải phóng chở đồ hậu cần của tiểu đoàn, còn lính tráng được xếp lên thùng xe Zin, cứ 24 người một xe. Quân số của đơn vị chúng tôi lúc này khá sung túc. Mỗi trung đội có tới 31, 32 người. Toàn đại đội kể từ chỉ huy tới anh nuôi cũng đến hơn trăm. Chúng tôi lên thùng xe xếp ba lô xuống dưới rồi ngồi lên trên, thành 4 hàng dọc. Súng của ai dựa vai người đó.

   Tất cả các xe ô tô đều đánh số. Bọn lính lái xe trẻ măng, có khi còn trẻ hơn tôi. Mỗi xe một lính lái. Về sau hỏi chuyện thì biết, hầu hết chúng nó đều mới vào Trường Sơn từ sau Hiệp định Pari. Thời gian học lái xe chỉ có 3 tháng. Ngày trước khi máy bay Mỹ còn đánh phá tuyến đường Trường Sơn, hầu như chưa có mấy loại xe Zin kính cong này, mà toàn xe Gát với xe Giải phóng. Lính lái xe đều phải mặc áo giáp và đội mũ sắt. Bây giờ tôi thấy bọn lái xe toàn đầu trần và chỉ mặc trên người mỗi chiếc áo lót vải cộc tay.

   Cũng phải tốn khá  nhiều thời gian để sắp xếp lên xe. Lại còn phải dìn dìn chạy một lúc lâu mới chuyển thành đội hình hàng dọc và theo thứ tự. Vì đây không phải là tuyến đường nên những cây số đầu đi rất xóc. Mới đầu chúng tôi ngồi có vẻ chật, nhưng dằn theo xe một lúc, ép sát vào nhau nên thậm chí duỗi được cả chân. Lúc đầu đi có vẻ hàng lối vậy thôi, nhưng về sau do xe đã đánh số, không sợ bị lạc nên có những khoảng rừng rộng, có nhiều xe chẳng theo hàng lối mà cứ thế vòng vượt lên nhau, lính tráng lắc lư như những bao tải.

   Chạy được khoảng hai giờ, chắc cũng chưa được bao nhiêu thì chúng tôi dồn đội hình, giải lao chừng nửa giờ. Lúc lên xe, không hiểu sao anh nuôi C tôi để tuột dây buộc con chó. Thế là con chó con (Mà tôi đã kể từ lúc xuất quân ở Bản La vang, Ca đáp) có lẽ không quen tiếng xe ô tô nên nhảy phốc xuống đất và chạy thẳng vào rừng. Một anh nuôi nhảy xuống đuổi theo. Rừng thưa, đường gập gềnh toàn đá, nhưng con chó chạy rất nhanh. Đuổi đến hơn trăm mét mà không bắt được, đơn vị lại giục vì các xe khác đã xuất phát, anh nuôi đành phải quay lại. Thế là mất con chó. Chúng tôi ở xe đi sau nhìn rõ mọi chuyện, thấy con chó khi không còn người đuổi thì lại đứng lại nhìn. Chúng tôi đi xa dần còn thấy nó đứng trên mỏm đá nhìn theo. Chắc nó cũng chưa hiểu là nó đã bị bỏ lại giữa rừng. Xe đi khuất, tự nhiên tôi lại thấy có cảm giác như vừa mất một cái gì. Con chó ấy liệu có sống được giữa rừng già mênh mông không một bóng người ấy?. Nếu không bị thú lớn ăn thịt thì chắc nó cũng chết đói chứ không thẻ trở thành chó hoang được, vì nó còn quá bé.

   Hôm ấy chúng tôi dừng chân nghỉ sớm. Vẫn là những cánh rừng già của dãy Trường Sơn. Bây giờ mà có cho xuống xe đi bộ quay lại thì cũng chẳng thể nhận ra đường chúng tôi vừa đi. Chúng tôi nghỉ riêng, còn lính lái xe thì cũng nghỉ ngay gần đó theo đội hình xe.

   Vì hôm trước được nghỉ ngay từ chiều, nên mới quá nửa đêm chúng tôi được lệnh lên xe hành quân. Trên xe sẽ lại ngủ tiếp nên chúng tôi cũng chẳng phàn nàn gì. Chúng tôi chỉ được lệnh đeo sẵn khẩu trang chuẩn bị từ trước và đội mũ tai bèo cho khỏi sương đêm. Tại sao gần như thời bình, nơi này lại rất xa chiến trường mà chúng tôi vẫn phải đi đêm? Sau này chúng tôi đoán già đoán non là đơn vị không muốn cho chúng tôi biết rõ đường rừng từ Nam Lào chúng tôi đi sang đây nhập vào đường vân tải Trường Sơn từ chỗ nào.

   Chúng tôi tỉnh dậy trên xe khi trời bảnh sáng, cả đoàn xe đang dừng lại trên đường. Chúng tôi mở mắt nhìn nhau, phì cười vì thằng nào cũng bụi trắng đầy người. Khẩu trang, nơi có hơi nước thở qua miệng đầy đất. Một thằng phủi là bụi bay mù mịt tứ tung khắp xe. Có một vài lính, chủ yếu là cán bộ chỉ huy nhảy xuống đất nhưng chựng người lại ngay. Trên mặt đường là một lớp đất bột mịn dày đến hai, ba chục phân. Mỗi bước đi là lộp phộp bụi đến quá nửa ống chân. Thế là lại phải leo lên xe, kéo thêo bao nhiêu bụi. Sao lại dừng chân nghỉ giải lao ở cái chỗ giở hơi thế này, ai cũng kêu ca. Rồi có lệnh ăn sáng ngay trên xe. Cơm nắm có từ tối hôm trước rồi.

   Chúng tôi lên đường. Bây giờ mới biết đằng nào thì cũng phải nghỉ giải lao trên đường thôi, vì con đường vận tải này là độc đạo, nằm cheo leo trên những núi cao. Đi đến mấy chục cây số nữa mà con đường vẫn ngập bụi thế. Các xe ô tô giãn cách nhau khá xa, vậy mà trên con đường vẫn mù mịt bụi, như đốt khói. Tôi để ý thấy con đường này có được do xẻ núi đất mà thành, mặt đường chẳng có lát một thứ gì hết. Thế cho nên xe ô tô chạy qua cứ cày đất lên tạo cho lớp bụi ngày càng dày. Chắc rằng đến mùa mưa thì không thể đi trên con đường này vì mấy chục phân bụi kia đã hóa hết thành bùn. Tôi đoán rằng con đường này chắc là mới mở, chưa trải qua đạn bom.

   Có lẽ thế thật, vì khi đi quang qua một sườn núi bị bạt nào đó, chúng tôi đọc được dòng chữ “Tuổi trẻ kiên cường, mở đường thắng lợi” được khoét chìm vào vách núi đất bên đường. Mỗi chữ cái có lẽ phải cao độ trên 2 mét và sâu vào đất tới nửa mét, vì đi ở một khúc cong bên quả núi bên cạnh nhìn nó rất rõ. Thật khâm phục sức, ý chí và nghị lực của những con người thuộc đơn vị Thanh niên Xung phong trên tuyến đường này.

   Cũng chẳng phải chờ lâu, chỉ hơn chục cây số tiếp theo, chúng tôi đã gặp được một đơn vị TNXP và cũng được dừng xe. Có đến bốn chục nữ thanh niên xung phong, chẳng thấy bóng đàn ông nào. Họ tất nhiên còn trẻ, trạc tuối như chúng tôi. Chỗ này lớp bụi đường đã bớt nhiều nên thấy dễ chịu hơn. Thế là hỏi thăm nhau, tìm đồng hương tíu tít. Rồi lúc chia tay, các cô TNXP đồng loạt hỏi xin chúng tôi cùng một thứ: đó là nước. Các cô kể: “Đơn vị chúng em đóng quân quản lý cung đường này, nhưng rất thiếu nước. Có con suối rất to nhưng nằm cách đây tới 30 cây số. Mồi tuần một lần có xe binh trạm chở chúng em đến suối tắm giặt và lấy nước dùng cho một tuần, nên rất phải dè sẻn. Các anh cho chúng em nước đi, cố chịu khát vài tiếng là các anh lại đến sông, suối rồi”.


   Nhìn con đương lộp phộp toàn bụi, mỗi bước chân đi là bụi lùa qua khe hở vào người thế này thì bao nhiêu nước cho đủ. Chỉ riêng chuyện này thôi đã thấy thương cái sự gian nan vất vả cho phận nữ nhi nơi đèo heo hút gió này rồi. Lán của các cô cũng chỉ nằm ngay gần đường đây thôi. Thế là tất cả chúng tôi, bình tông dù còn đầy vơi bao nhiêu nước, nhưng cũng rẽ vào lán trút nước ra cho các cô.  Các cô TNXP đựng nước bằng những cái vỏ bao gạo đồ của Trung Quốc, chôn nửa chìm xuống đất và neo cọc để giữ. Đám lính lái xe cũng đem nước cho TNXP. Họ có những chiếc bi đông to đựng tới 5 lít nước, thật đáng nể. Có lẽ những việc làm như thế này cũng không phải lạ đối với lính lái xe Trường Sơn.

   Chúng tôi lại lên đường. Cuối chiều thì tới nơi dừng chân. Xe ô tô đỗ lại bên đường để chúng tôi xuống xe và hành quân thêm độ non cây số thì dừng lại. Đó là một cánh rừng già có rất nhiều cây Săng lẻ to hàng hai người ôm, nằm sát ngay bên một con sông to to.




Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Trongc6 trong 08 Tháng Mười, 2013, 01:56:10 pm

   Chúng tôi được nghỉ lại đây 3 ngày. Mắc võng hay nằm đất thì tùy, nhưng không phải đào hầm. Đây cũng chỉ là một cánh rừng do tiền trạm của trung đoàn chọn chứ không phải bãi khách của đường dây 559.

   Lâu không hành quân, được đi ô tô cũng sướng, nhưng qua 2 ngày đi xe cũng khá mệt mỏi. Chiều hôm đó và buổi tối, chúng tôi nghỉ là chính.

   Hôm sau là cả một lô việc. Thoạt đầu là báo động chiến đấu và kiểm nghiệm quân tư trang. Cái chuyện muôn thuở này tuy đã quen, nhưng quả tình không khoái. Từ lần kiểm tra trước ở bản La Vang trước khi hành quân đến lần kiểm tra này chỉ chưa đến chục ngày. Chắc cấp trên vẫn tưởng chúng tôi còn giấu diếm điều gì. Lính ta thường nói khi đánh nhau mà lấy vàng bạc gì đó thì rất hay đen đủi, dễ bị bom rơi đạn lạc, nên thực tình trận nào chiếm được cứ điểm địch, chúng tôi cũng chỉ nhăm nhăm lấy thứ ăn được chứ không để ý lục lọi thứ khác làm gì. Lấy những của đó về trước sau gì cũng phải đem nộp cấp trên, vừa mệt người mà còn để lại dấu vết nghi ngờ thì lấy làm gì. Tôi còn không thích hơn nữa là trong đoàn kiểm tra không phải chỉ có riêng cán bộ đại đội, mà còn có cả mấy ông trợ lý trên tiểu đoàn. Các ông ấy xăm soi rồi thản nhiên giở cả nhật ký của lính tráng ra xem. Đã có trường hợp nội dung trong đó bị ghi nhận lại rồi đem ra đánh giá lúc này, lúc nọ. Chính vì thế mà quyển nhật ký ghi chi tiết của tôi sau khi vào chiến trường chỉ sáu tháng sau đã phải bỏ. Nhật ký của tôi giờ chỉ còn cuốn sổ nhỏ, mỗi ngày chỉ ghi đôi ba dòng sự kiện là chính.

   Sau kiểm tra quân tư trang, chúng tôi về dọn dẹp chỗ trú quân. Vì dừng lại mấy ngày nên vẫn phải phát quang chỗ ở từng tiểu đội và căng dây đi đêm cho khỏi lạc. Buổi chiều chúng tôi được nghỉ ngơi tắm giặt.

   Con sông cạnh chỗ trú quân là một con sông to. Bây giờ là mùa khô mà ở chỗ ngang tiểu đội tôi hạ trại, chiều rộng con sông có dòng nước chảy cũng tới cả trăm mét. Tôi không rõ sông này tên gì. Nơi này vẫn thuộc đất Lào. Con đường đầy bụi chúng tôi đi hôm qua vẫn là thuộc nhánh Tây Trường Sơn.

   Xuống tắm giặt mới biết con đường đất bụi xe chạy hôm qua bẩn thật. Quần áo đỏ ngầu. Nhiều người còn phải giặt cả ba lô vì bụi nhiều quá. Có một cái hủm sát bờ, nước chảy quẩn trong đó rộng chừng hai chục mét, không sâu lắm và có nhiều bờ đá đẹp nên đa phần lính tráng tắm giặt quanh đó. Quần áo đem phơi ngay các bụi cây và tảng đá bên bờ. Rất may là nơi đây cách xa con đường xe, lại có rừng già chắn nên bụi không bay tới đây, không khí rất trong lành. Giặt quần áo xong, một số lính rủ nhau ra khúc sông rộng bơi cho thích. Tôi cũng theo tốp khoảng gần chục anh bơi ra sông. Vùng vẫy một hồi, chúng tôi rủ nhau bơi vượt sông.

   Có lẽ lâu ngày không bơi lội, nên ra đến giữa sông, dòng nước chảy mạnh hơn, tôi thấy hơi ngợp. Còn khoảng hai chục mét nữa tới bờ thì tôi thấy mệt. Đáng lẽ cứ bơi tiếp sang, nằm nghỉ ngơi, khi nào lại sức thì bơi về, tôi lại quyết định sai lầm, sợ sang đó thì không bơi về được. Thế là tôi bơi quay lại, trong khi các anh khác vẫn bơi tiếp sang bờ bên kia. Khi về ngang sông thì tôi thấy mệt hơn, nhất là lại phải chống lại dòng nước chảy mạnh. Tôi kêu to cầu cứu, nhưng bụng nghĩ chắc phen này mình nằm lại đáy sông rồi. Các anh trong đơn vị ở cả hai phía bờ đều cách xa tôi, khó mà bơi ra cứu được. Vừa bơi vừa trôi được thêm một đoạn thì tôi nghe anh Nhạn y tá kêu to.

   - Thả lỏng người đi, cứ để trôi theo dòng nước mà vào bờ dần.

   Tôi làm theo. Trôi được mấy chục mét nữa chả thấy ai, tôi lại hoảng. Tự nhiên lại nghĩ là thôi chết luôn cho xong. Nhưng muốn chết đuối phải uống no nước. Tôi chìm đầu xuống há mồm uống một ngụm to. Nhưng có lẽ do bản năng của người biết bơi nên tôi không nuốt nổi. Muốn chìm người xuống nhưng chân tay cứ khuơ nên vẫn không chìm. Một lúc sau nữa thì tôi bình tĩnh hơn, thôi kệ, cứ trôi, bao giờ kiệt sức chắc phải tự uống nước mà chết.

   Trôi được vài trăm mét gì đấy thì tới khu vực trú quân của bọn K15. Cũng có nhiều thằng đang tắm ở đó. Chỗ này dòng sông mở rộng ra và cạn hơn. Một thằng chắc phát hiện ra tôi bị trôi từ xa, vớ được một cành cây dài liền lội ra mé nước chìa sẵn. Đoạn này dòng sông uốn cong về phía đó, tôi trôi lại được gần bờ hơn. Thế là tôi cố sức vùng vẫy bơi vào và tóm được túm lá đầu cành. Tôi được mấy đứa kéo và dìu vào bờ. Nằm được một lúc thì anh em trong đại đội cũng men theo bờ chạy tới. Mọi người thở phào nhẹ nhõm, cảm ơn lính K15 rối rít rồi đưa tôi về. Thế là thần chết vẫn bỏ quên tên tôi.

   Về tới đơn vị, an toàn rồi anh em trong đơn vị mới chế riễu tôi rồi châm chọc đủ chuyện. Tôi chỉ ngồi im cười. Hoàn hồn ngồi nhớ lại chuyện xảy ra mới biết số mình vẫn còn may. Chết ở đâu không chết, lại chết đuối trên sông này do mình đi tắm và lại tự ý bơi thì thật quả là dở hơi.

   Sau cú bơi mệt lử, may mắn tối  đó chúng tôi được bồi dưỡng. Lúc chiều mấy thằng lính Hà Tĩnh trong trung đội tôi mò mẫm ra cánh rừng ven sông. Vốn nhiều kinh nghiệm đi rừng, chúng nó phát hiện ra dây củ mỡ. Nếu ở trong rừng sâu chắc đào ốm không ăn thua, nhưng may là dây củ mỡ này lại nằm trên một bờ đất ven sông. Thế là cả lũ hè nhau đào cả bờ đất đó đẩy xuống sông rồi chui xuống vỡ đất ra tìm củ. Vớ bở vì củ mỡ này rất to, tới khoảng năm cân. Anh Dũng B trưởng quyết định tập trung đường để nấu chè. Thế là buổi tối sinh hoạt B hôm đó, cả trung đội có món chè khoai xì xụp cải thiện.

   Cái “bài ca ống cóng này” là niềm vui của lính. Tết vừa rồi chúng tôi được phát mỗi người ba lạng đường, hầu như vẫn còn nguyên. Bát chè ngon khiến chúng tôi viễn tưởng về một cuộc sống tốt đẹp và nhiều lúc rất đầy đủ như bên Lào của vùng đất sắp đến. Chắc chúng tôi sẽ được sự chăm sóc của những bà má miền Nam hay những O du kích dễ thương. Không ai nghĩ rằng một chiến trường mới vô cùng khắc nghiệt đang chờ chúng tôi và những hạt đường cát là thứ xa xỉ đừng bao giờ nên mơ tới.




Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: quangcan trong 08 Tháng Mười, 2013, 02:06:16 pm
Sợ thật, các cụ nhà mình điều E9 từ lúc nào mà không hay. Nếu không có bác Trongc6 kể chuyện thì có khi còn ỏm tỏi là vẫn bên Lào đến đầu 1975. Ngay đến sử của F968 cũng mơ hồ/ không nhắc đến thời điểm E9 lẳng lặng về nước. Đùng một cái là xuất hiện. Hay -nếu ngẫm theo cách điều quân chiến lược,  ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Trongc6 trong 15 Tháng Mười, 2013, 10:35:02 am

   Ngày hôm sau, cả tiểu đoàn tập trung học chính trị. Nơi tập trung chỉ là một bãi đất rộng khá bằng phẳng và có nhiều cây to, tựa như một bãi xe. Cả mấy trăm con người chui vào đây. Tiểu đoàn có một cái đài Orionton của Hunggari có thêm chức năng phóng thanh nên nghe khá rõ. Nội dung không dài. Chủ yếu là một bài ca chính trị về nhiệm vụ đầy vinh quang mà trung đoàn sắp đón nhận. Sau đó, chúng tôi được nghe những thông tin cần thiết:

   Trên mặt trận B3 Tây nguyên hiện nay có sư đoàn 320A đóng quân. Sư 320A vốn có 3 trung đoàn: 48, 52 và 64. Do yêu cầu nhiệm vụ, trung đoàn 52 đã được điều đi chiến trường khác. Sư 320A khuyết một trung đoàn nên Bộ điều trung đoàn 9B thế chân vào đó. Trung đoàn 9B sẽ tác chiến ở phía Tây Thị xã Pleiku, từ đường 19 kéo lên phía Bắc. Trong sư 320A, E48 có truyền thống đánh công kiên, là E chủ công của Sư. E64 có truyền thống đánh vận động và phục kích. Còn E9 chúng tôi tuy là E chủ công của sư 968, nhưng khi nhập vào đội hình 320A sẽ làm nhiệm vụ chốt giữ và đánh lấn là chính.

   Đấy là những thông tin chính và hết sức cần thiết với lính tráng chúng tôi. Thực tình, tôi chưa hình dung ra cái Thị xã Pleiku với đường 19 là như thế nào. Qua sách báo và kiến thức cũ, tôi chỉ biết Pleiku là thủ phủ của tỉnh Gialai (và người dân tộc chủ yếu ở đó thì gọi là dân tộc GiaRai), nằm trên trục đường 14 giữa hai tỉnh là Kontum và Daklak. Tôi cũng biết đi qua Pleiku có con đường 19 chạy từ Bình Định lên và chạy thẳng ra biên giới, xuyên qua sân bay Đức Cơ. Trên đường 19, đoạn phía Đông có đèo An Khê. Nơi đây năm 1954, phối hợp với chiến trường Điện Biên Phủ, bộ đội khu 5 đã phục kích đánh tan Binh đoàn 100 của Pháp. Phía  Bắc Kontum có Thị trấn Đắc Tô-Tân Cảnh, có căn cứ Phượng Hoàng mà năm 1972 ta đã giải phóng. Còn sân bay Đức Cơ thì sau Hiệp định Pari đã được dùng làm nơi trao trả tù binh. Khu vực này đã thuộc vùng giải phóng.

   Vậy là về miền Nam, chúng tôi vẫn tác chiến trên vùng rừng núi giống như hồi bên Lào. Lại sống cùng những người dân tộc Tây Nguyên.  Không có những bà má miền Nam đôn hậu và cũng đừng mơ đến những cô du kích chít khăn rằn chèo xuồng trên kênh rạch nữa. Nhưng có lẽ thế cũng hay, vì sống giữa núi rừng, tự do và tự túc đã trở thành vốn sống đối với chúng tôi.

   Sau khi cuộc họp tiểu đoàn giải tán, chúng tôi về và tập trung theo từng đại đội. Lại một bài xác định trách nhiệm và quyết tâm với nhiệm vụ nữa của chính trị viên. Sau đó đại đội trưởng đọc quyết định phong quân hàm. Các cán bộ cấp đại đội đều được phong thiếu úy, nhưng trung đoàn đã công bố riêng từ hôm trước. Hôm nay chỉ có lính và hạ sĩ quan. Tất cả các B trưởng được phong thượng sĩ. Các A trưởng (trong đó có tôi) được phong trung sĩ. Vậy là một đám mấy thằng như tôi không phải qua nấc hạ sĩ ngày nào. Còn lại lính tráng dù cũ mới tất tần tật đều được phong binh nhất (nếu chưa được phong từ hồi Tết 1973).

   Đọc quyết định phong thế thôi chứ cũng chẳng có quân hàm quân hiệu gì. Mọi thứ kể cả tiêu chuẩn của quan lẫn lính, trước thế nào nay vẫn vậy.

   Điểm lại 6 thằng lính Hà Nội bọn tôi được bổ sung vào C6: Hai thằng mất tích ở Saravan, một thằng bị thương cũng ở đó rồi ra Bắc, nay còn lại 3. Chỉ có tôi làm A trưởng. Thằng Thái “pi tơ” (cái thằng có tài hát nhại theo văn công hồi ở Tân Lạc, Hòa Bình ấy) nay ở cùng B với tôi, về đến chỗ ở bên sông thì mò sang bắt tay tôi, chúc mừng “trung sữa”. Cái giọng nó kéo dài, cười cợt. Rồi nó bảo tôi:

   - Nếu sau này còn sống mà về thì học tiếp hay đi công nhân mà sống, chứ ăn đời ở kiếp với quân đội làm quái gì.

   Tôi gật đầu:

   - Thì tao cũng muốn thế. Nhưng bây giờ không làm A trưởng cũng không được. Mà A trưởng đã là cái gì đâu. Đầu binh, cuối cán ấy mà. Vất bỏ mẹ chứ sướng gì.

   Buổi trưa, tôi nằm võng, nhìn ra dòng sông rộng mênh mang mà chiều qua tôi còn đang chơi vơi ngoài đó, nghĩ đủ thứ chuyện.

   Trừ cán bộ đại đội và trung đội là lớp đàn anh lính cũ, còn trong mươi thằng A trưởng thì quá nửa là sàn lứa như tôi. Lính tráng trong đơn vị phải tới hai phần ba là lính thuộc mấy đợt tân binh bổ sung sau lúc đình chiến ở Lào.    Chiến trường mới lạ nước lạ cái, mình không còn trông chờ vào các anh lính cũ như trước được nữa, mà bây giờ lại là chỗ dựa cho lính mới nhìn vào. Thế là tự nhiên phải lên gân, tỏ ra cứng rắn. Lục trí nhớ ôn lại những trận chiến đấu đã tham gia ở Lào mà thấy cứ nao nao trong lòng.

   Tôi lại thấy nhớ nhà. Thư viết về nhà nhiều mà cái tới cái không. Còn thư nhà thì suốt gần năm trời ngừng chiến, tôi cũng chỉ nhận được có ba lá. Hôm trước Tết, tôi có viết thư về nhà, nhưng lúc ấy cũng chỉ báo được tin là sắp chuyển về miền Nam. Bây giờ về miền Nam thật rồi, hòm thư lại thay đổi thì chắc chẳng còn mong nhận được thư nhà nữa.

   Buổi chiều, chúng tôi nhận thêm thực phẩm. Xe ô tô chở đến giao hàng tại vị trí của từng tiểu đoàn. Lúc đầu chúng tôi tưởng đây là hàng của đường dây 559, về sau mới biết cũng là của trung đoàn chia xuống cho lính. Khi rời Nam Lào, sư đoàn ưu ái cho E9 khá nhiều thứ. Ngoài súng đạn đầy đủ thì gạo và thực phẩm cũng khá dồi dào. Lúc đầu trung đoàn chở tập trung, bây giờ lại đem chia tiếp cho lính. Chả gì cũng đã bốn ngày hành quân rồi còn gì. Nói chung ăn uống trên đường đi mấy ngày qua khá sung túc.

   Được nghỉ thêm non một ngày nữa chuẩn bị mọi thứ. Chiều tối chúng tôi hành quân ra đường lớn lên xe ô tô hành quân tiếp. Lần này toàn đi trong đêm. Đường không xóc, nhưng tốc độ đi khá chậm. Chẳng hình dung được là đi bao xa, nhưng mờ sáng thì chúng tôi dừng lại. Vậy là ngày nghỉ, đêm đi. Hôm đó, chúng tôi mắc võng nghỉ cả ngày trong rừng. Nghe cấp trên xì xào, chỗ này cách biên giới Việt-Lào chừng 10 cây số, ngang với tỉnh Kontum bên kia Việt Nam.

   Vẫn là ngày nghỉ, đêm đi. Đêm hôm ấy chúng tôi vượt biên giới vào Việt Nam và đi thêm một đêm nữa. Cái đêm vượt biên giới vào đất Kontum thật gian nan. Toàn đường đất xen đá tảng, gập ghềnh. Phần lớn con đường quanh co và đi xuống dốc là chính. Đêm tối mịt mùng, xe ô tô chạy đèn gầm chỉ soi được một quầng sáng nhỏ. Nhiều đoạn nhìn thấy một bên là vách núi, còn bên kia đen sì, không biết vực sâu đến đâu. Nhưng có lẽ không nhìn thấy lại hay, đỡ sợ. Cánh lính lái xe tuy trẻ măng nhưng thật can trường. Ô tô cứ bò bò chầm chậm vậy, nhiều lúc nghiêng ngả quá khiến chúng tôi tưởng như sắp rơi tuột, lăn qua hai bên thành xe, thậm chí là lăn qua nóc cabin mà rơi xuống đất phía trước xe khi nó xuống dốc. Hai tay cứ lên gân liên tục bíu vào thành xe, cong người uốn éo; vậy mà đêm ấy mấy chục xe vượt tuyến đường mà không có xe nào gặp nạn.

   Hai giờ sáng hôm sau, sau một chặng đường khá bằng phẳng, chúng tôi đến một vùng đất phẳng rộng mênh mông. Tất cả xuống xe, đây đã là chặng cuối cùng rồi. Có tiếng thì thào: “Sân bay Đức Cơ đấy”.




Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Trongc6 trong 22 Tháng Mười, 2013, 10:24:06 am


   Tôi đã xem nhiều truyện trên tạp chí Văn nghệ Quân đội dạo ở Lào, nên có biết chút ít về cái sân bay Đức Cơ này. Nhiều trận đánh đã xảy ra quanh đây từ thời còn quân Mỹ. Tôi cũng không hình dung nổi cái sân bay dã chiến này ngày xưa ra sao mà giờ lại hoang tàn như thế này. Trong đêm tối trăng mờ, mọi thứ nhìn không rõ lắm. Chỉ có cán bộ được soi đèn pin một cách hạn chế, còn lính tráng thì không được dùng. Mà thật ra có cho dùng thì đèn của chúng tôi cũng hết pin từ lâu rồi (vì nguồn pin của lính có được đều là chiến lợi phẩm tự túc). Chỉ có cán bộ cấp C trở lên được cấp pin theo hàng nhu yếu phẩm thôi.

   Sân bay chỉ hiện rõ nhất là một vệt đường mờ to mà đoàn xe ô tô của chúng tôi đang đỗ. Tôi sờ tay xuống đất, một thứ gì cứng chả hiểu đất nện hay đường nhựa. Hai bên còn nhiều khoảng rộng nữa, nhưng mọc xen đó toàn một thứ cây lúp xúp. Chắc sân bay bỏ hoang đã lâu, mấy mùa mưa đi qua nên cây cỏ hoang mọc lan tràn như thế. Bây giờ có lẽ chỉ còn dùng cho trực thăng đỗ được mà thôi.

   Chúng tôi lục đục xuống xe, thu dọn ba lô đồ đoàn rồi tập trung thành hàng lối gần đó. Sau khi kiểm tra đủ mọi thứ lần cuối, chúng tôi được lệnh hành quân. Đoàn ô tô vận tải 559 chỉ đưa chúng tôi đến đây là chặng cuối rồi chia tay, trở về tuyến đường Trường Sơn. Anh Điện, C phó đơn vị tôi đi tiền trạm từ gần hai tháng trước ra đón chúng tôi. Bây giờ tôi mới biết là anh ấy đi tiền trạm miền Nam, chứ khi trước cũng chỉ tưởng anh chuyển đơn vị khác. Anh Điện đi quanh, ghé sát mặt từng thằng lính, thăm hỏi. Anh cũng hơi ngỡ ngàng một chút khi biết tin có thêm một số anh lính cũ trong C đủ thâm niên đã ở lại Lào để ra quân. Khi mọi thứ đã ổn, anh Điện dẫn chúng tôi hành quân về hướng Nam, vòng vèo qua một ngọn đồi và một sườn núi khá cao, tới một khu rừng rậm cách nơi đổ quân chừng 3 cây số thì dừng lại. Trời vẫn chưa sáng. Chúng tôi được lệnh tản ra tìm chỗ mắc võng nghỉ nốt đêm.

   Tại vị trí dừng chân này, chúng tôi lại được nghỉ bốn hôm. Thoạt đầu là cùi gạo bổ sung. Thực chất là quay lại vị trí sân bay Đức Cơ để lấy nốt gạo và thực phẩm mà trung đoàn chia cho các tiểu đoàn, vì từ đây không còn ô tô nữa. Tất cả là cuốc bộ.

   Vị trí C tôi trú quân là một cánh rừng già bên một con suối đá. Cảnh vật hết sức thơ mộng. Tôi chưa bao giờ sang Liên Xô, nhưng nhìn cánh rừng này tôi lại thấy nó có nét gì đó giống như bức tranh Mùa thu nước Nga mà tôi đã được chị tôi cho xem khi còn ở nhà. Rừng già, cây to nhưng mọc thưa, toàn một thứ cây lá nhỏ bằng ba ngón tay. Lá vàng rụng đầy đất, còn trên cây chỉ lưa thưa chút lá, khiến nắng chiếu xuống làm vàng rực cả cánh rừng. Lá rụng ra tới sát bờ suối. Con suối khá rộng, bề ngang chừng gần hai chục mét (mùa khô đấy nhé). Dòng nước chảy khá mạnh, xen quanh những bờ đá to nhô ngang ra đến giữa lòng suối. Phía sát bờ suối có một ít cây con mọc lúp xúp. Bướm bay đầy lèn đá, chao qua chao lại từng đàn. Không hề có dấu vết bom đạn. Tôi nghĩ nơi này chắc chưa từng xảy ra chiến sự. Chiến tranh kéo dài và ác liệt vậy, nhưng núi rừng lại quá rộng nên không phải nơi nào cũng hứng chịu đạn bom. Đó chính là điều lý thú trong cuộc sống của lính tráng rừng núi chúng tôi. Gặp những nơi này nhiều khi có cảm giác ở đây chưa từng có dấu chân người, nhất là khi phát hiện những loài cây lạ chỉ có ở những khu rừng nguyên sinh. Những lúc như thế thấy thật bình yên và cảm giác thêm mến yêu cuộc sống. Trong lòng như có những khúc nhạc êm dịu trữ tình vang lên.

   Buổi sáng nơi đây trời hơi lạnh, nhưng đến trưa nắng to ra suối tắm rất ấm (dù nước vẫn mát lạnh). Chúng tôi lại được dịp tắm giặt cho sạch bụi đường Trường Sơn.

   Anh nuôi đào bếp ngay sát suối lấy nước nấu cơm. Nước đầu nguồn, lại là suối đá nên trong veo. Dịch xuống dưới một đoạn có nhiều bờ đá to như cánh phản. Chỗ này chắc xa địch, an toàn nên đại đội cho lính tráng tha hồ tắm giặt, hò reo. Đi ngược theo suối lên một đoạn khá xa, lại có một vạt đất ẩm mọc rất nhiều lá lốt. Trưa đó, anh nuôi hái lá lốt quấn giò hộp rán cho chúng tôi ăn. Món chả kiểu này từ ngày vào chiến trường đến nay mới được ăn. (Mà ngay cả hồi còn ở nhà, được ăn lúc nào tôi cũng chẳng nhớ, vì làm gì có nhiều thịt mà bày vẽ). Lạ miệng, lại tiêu chuẩn gạo đầy đủ, bữa ăn thật ngon. Chỉ có vài thằng kêu món này ăn như có mùi dầu hỏa.

   Hôm sau lại có lệnh phải đào hầm. Chỗ này đóng quân tạm mấy ngày mà vẫn phải đào hầm. Đại đội giải thích đề phòng bom pháo, nhưng lại chỉ bắt chúng tôi đào hầm bằng. Lính tráng chúng tôi nghĩ, nếu bon pháo thì mấy cái hầm này tan ngay, ăn thua gì. Chắc đây chỉ là bắt đào hầm khi trú quân cho thành thói quen, vì đã lâu lắm chúng tôi không đào hầm. Vì thế nên mấy cái hầm đào chỉ để cho có đào. Chúng tôi nghỉ và lấy tú-lơ-khơ đánh bài tiến lên là chính. Một thói quen khác khi đến nơi trú quân mới mà chúng tôi phải làm là đi lùng sục xung quanh, lần này cũng bỏ. Thế là chúng tôi cứ nghỉ, chơi và thưởng thức cảnh đẹp suối, rừng nơi đó, trong khi các cán bộ đại đội vẫn lên tiểu đoàn họp.

   Ngày nghỉ thứ ba, chúng tôi có buổi sinh hoạt đại đội. Nhiệm vụ phổ biến vẫn chỉ là chung chung, nhưng C phó Điện phổ biến cụ thể một số điểm khác cần chú ý ở chiến trường B3 này. Ở đây bom pháo nhiều hơn nên khi đến khu làm hậu cứ phải đảm bảo công tác bí mật và đào hầm cẩn thận. Phải lùng sục và canh gác nhiều hơn vì địch thường tung nhiều tốp thám báo vào sâu trong vùng đóng quân của ta. Thứ nữa là ở đây địch thường gài nhiều lựu đạn và mìn ở quanh căn cứ của chúng cũng như trên lối đi nên phải chú ý khi hành quân hoặc khi đánh địch. Điều thứ ba này đáng chú ý hơn vì nó khác hẳn vơi chiến trường Nam Lào. Bên đó bọn địch lười cài mìn và ít thủ đoạn hơn. Còn cài lựu đạn thì quả thật tôi chưa phải gỡ lần nào.

   Chúng tôi nghỉ thêm một ngày nữa. Đến đêm thì thu dọn để hành quân. Đó là một chặng đường khá vất vả so với những ngày hành quân trước. Chúng tôi phải đem theo cơm nắm cho một ngày trời. Nước lấy đủ một bi đông, dùng cho hai chặng đường hành quân. Chặng thứ nhất phải đi trong đêm, vượt qua hai dãy núi rất cao, nghỉ rất nhiều lần. Nếu không có dặn dò từ trước, chắc chúng tôi đã uống hết bi đông nước trong đêm, dù trời mát. Mờ sáng mới xuống đến chân dãy núi để nghỉ ngơi và ăn sáng. Thằng nào chót uống hết nhiều nước ráng chịu vì chỗ này không có sông suối gì.

   Mặt trời mọc và nhô dần lên cao, chúng tôi biết mình đang đi về phía Đông. Nghỉ ngơi chỉ hơn một tiếng đồng hồ lại hành quân tiếp. Đường đi khá bằng phẳng, qua nhiều cánh rừng đủ loại. Rừng già có mà rừng cây tái sinh, cây lúp xúp có, và thậm chí cả đồi cỏ tranh cũng có. Không khác rừng Lào bao nhiêu. Tới gần trưa thì chúng tôi đến nơi sẽ làm hậu cứ trú quân. Một cánh rừng già xanh um trên một dốc đồi, cũng không có dấu đạn bom. Nghe nói đây là rừng Chư Nghé.

   Hôm nay là ngày 5 tháng 2 năm 1974. Vậy là từ đêm bắt đầu rời bản La Vang, Ca Đáp bên Lào để lên đường thì cuộc hành quân chuyển chiến trường của chúng tôi kéo dài hết 13 ngày.




Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: tranphu341 trong 22 Tháng Mười, 2013, 11:35:33 am
               Chào bác Trongc6! Hay quá mấy dịp này Tranphu341 hay ghé thăm nhà bác.

               Chuyện bác kể về cuộc hành quân chuyển vùng thật hấp dẫn. Hình như con đường hành quân của đơn vị bác cũng giống đường hành quân của Sư đoàn 341 Tranphu. Cùng thời gian xuất phát nhưng Sư đoàn 341 là Từ Vĩnh Linh Quảng Trị và vào tút tận Lộc Ninh của Thây Ninh. Còn Các bác là vào Công Tum. Cũng phải qua những con đường đất đỏ gọi là ngã ba Đông Dương mà cát bột dầy cả gang tay bụi đỏ mù trời. Chính vì thế mà Tranphu cứ nghĩ là đơn vị của mình khi đọc bài của bạn.

              Tiếp tục đi bạn nhé. Hành quân rồi đấm đánh nữa. Tranphu341 và anh em đang chờ đón những bài tiếp thêo của bạn.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Trongc6 trong 03 Tháng Mười Một, 2013, 11:49:58 am

   Tiểu đoàn K18 đóng quân phía Đông căn cứ Chư Nghé.

   Đại đội tôi đóng quân trong một khu rừng già khá rộng. Từ một con đường đất đỏ (sau này tôi biết là đường 10) đi qua một bãi cỏ tranh rộng mọc thưa xen lẫn nhiều cây lúp xúp và rất nhiều ụ mối độ năm trăm mét thì tới bìa rừng. Vào sâu năm chục mét có một con suối đất nhỏ chảy ngang, chỉ rộng độ hơn mét, nước trong, sâu đến đầu gối. Qua suối là bắt đầu lên dốc thoai thoải. Đại đội tôi bắt đầu đóng quân từ đây trở lên. Khu vực sát suối bố trí bếp anh nuôi. Suối đất nên phải đào giếng bên cạnh để lấy nước ngấm qua. C bộ đóng ở lưng chừng dốc, các B khác chia ra hai cánh, còn B tôi nằm phía trên đỉnh dốc, cánh suối tới trăm rưởi mét.

   Trừ những lính canh gác, số còn lại chúng tôi được nghỉ hết ngày hôm đó. Hôm sau bắt đầu phân chia khu vực đóng quân cho các B và tổ chức đào hầm, lùng sục rồi làm nhà. Mỗi A làm một hầm thùng rộng sâu 1 mét, trên đó làm nhà lợp mái tranh. Trong lòng hầm làm sạp như doanh trại, đủ chỗ cho cả A nằm, chỗ để ba lô, giá súng và một khoảng rộng ở giữa để có thể đốt lửa. Hai phía đầu nhà đào hai cái hầm chữ A to, có ngách phụ để vừa có thể tránh bom pháo, vừa có thể tác chiến. Phía trước nhà mỗi A đều phải phát bãi làm sân. Đường đi đến các A và các B cũng phải phát thành lối. Nói tóm lại là cũng không khác mấy so với làm hậu cứ bên bản La Vang ở Lào. Chỉ khác mỗi đoạn bây giờ lại phải đào hầm chữ A và vị trí các nhà đều phải nằm kín dưới các tán cây rậm. Vùng rừng này may là đất đen (không phải đất đỏ) nên dễ đào. Rừng già, cây mọc rậm và dày nên gỗ làm hầm và làm nhà rất sẵn, kiếm ngay tại chỗ, to nhỏ gì cũng có. Chỉ cần chú ý chặt cây thưa ra mỗi nơi một ít để tránh bị héo lá quang cả một góc rừng, gây chú ý cho máy bay trinh sát của địch. Riêng cỏ tranh lợp mái, chúng tôi phải thông qua các đợt lùng sục và tìm bãi cỏ tranh để cắt. Hầu như phải đi xa tới hàng cây số mới có bãi cỏ tranh rộng, còn bòn mót ở những vạt nhỏ gần khu rừng này thì chỉ cắt được từng gánh.

   Gần sát vị trí đóng quân của B tôi có một con đường mòn, nhưng chắc rất ít khi có người qua. Chúng tôi đi lùng sục, thấy một nhánh đường đi sâu và rừng rồi nhạt dần. Ở đó có rất nhiều vết hố đào củ mài của dân. Nhánh kia đi khoảng nửa cây số, thấy nương rẫy của người dân tộc. Nương nhỏ hơn rất nhiều so với nương rẫy bên Lào. Sau hai ngày lùng sục, chúng tôi xác định được khu rừng mà đại đội tôi làm hậu cứ rộng khoảng non một cây số vuông, áp sát một khúc cong của đường 10.

   Một lần lùng sục rộng, chúng tôi vượt qua rẫy của đồng bào thì gặp một bản nhỏ, chỉ chục nóc nhà. Rìa bản có mấy cây mít, chứng tỏ bản này đã trụ lại ở đây khá lâu, nhưng không có tên trên bản đồ (Sau này chúng tôi biết, vùng Gia Lai này có rất nhiều bản dân kiểu như thế. Bản nhỏ, dân ít và chắc cũng chỉ định cư được hơn chục năm. Các bản lớn hơn, trù phú và có tên trên bản đồ thì thường chỉ còn lại nền nhà và cây cối). Nhà sàn rất bé, dựng bằng gỗ và tre, mái lợp tranh. Cả bản ở lộ thiên để khỏi bị ném bom nhầm. Ngoài mấy cây mít ra thì không còn thứ cây gì khác. Không có cây gạo truyền thống ở đầu bản. Trong bản chủ yếu là người già, phụ nữ và trẻ con. Có một vài người đàn ông có vẻ đứng tuổi nhưng trông cằn cỗi. Họ ăn mặc rất lôi thôi. Đàn ông đóng khố còn đàn bà mặc thứ váy bằng một loại vải gì đó trông như vỏ bao cát. Đa phần để ngực trần. Trông họ đen đúa và mốc thếch, cả trẻ con cũng vậy. Họ im lặng nhìn chúng tôi đi qua bản, không tỏ thái độ gì dù chúng tôi có chào. Về sau chuyện này quen thì cũng chẳng cần phải chào hỏi gì cả, việc ai nấy làm. Tôi có cảm tưởng trong những cái nhà sàn vách nứa bé tí kia, chẳng thể có một thứ gì đáng giá cho chúng tôi, nếu như dân có bỏ bản chạy giặc.

   Vượt qua bản, đi cong vòng theo hướng bên trái bám theo cánh rừng chúng tôi trú quân, có một con đường mòn khá rộng. Ở đây không thấy đường xe bò nối các bản như bên Lào. Đến một ngọn đồi có nhiều cây lúp xúp, chúng tôi bắt gặp dấu vết một trận địa chốt của bộ đội ta. Có nhiều hầm chữ A chia thành 3 cụm cách nhau vài chục mét. Về sau chúng tôi biết đây là một điểm “kiềng” của một đơn vị thuộc sư 320A lập ra khi chuẩn bị đánh căn cứ Chư Nghé. Đây cũng là một điểm khác biệt với bên Lào. Bên Lào, trận địa chốt của chúng tôi có bao nhiêu người thì đào bấy nhiêu hầm, thường chỉ là ba đến năm hầm bố trí hình cánh cung. Không có kiểu làm “kiềng” bao giờ.  Ở đây phải lập “kiềng” đến cả chục cái hầm, chứng tỏ mức độ đánh nhau có ác liệt hơn.

   Đi tiếp vài trăm mét, chúng tôi gặp đường 10 và căn cứ Chư Nghé bỏ hoang. Rồi chúng tôi vòng theo đường 10 về hậu cứ chứ không phải quay lại theo lối cũ nữa. Sau này có thời gian, chúng tôi hiểu thêm về căn cứ Chư Nghé này.

   Chư Nghé còn có tên là Lệ Minh. Căn cứ này do một tiểu đoàn lính Biệt động quân biên phòng (VNCH) trấn giữ. Nó là căn cứ tiền đồn của địch, cách thị xã Pleiku độ chừng hơn hai chục cây số về phía Tây Nam, và nằm ở phía Bắc đường 19. Từ phía thị xã Pleiku, không biết điểm xuất phát bắt đầu từ đâu, nhưng có hai con đường đất đỏ to gọi là đường 5A và đường 5B chạy từ Đông sang Tây. Đường 5A nằm phía Bắc, còn đường 5B nằm phía Nam. Hai con đường này kết thúc ở đường 10, cũng là một con đường ô tô chạy, nền đất. Căn cứ Chư Nghé chiếm giữ ba quả đồi rộng, dốc thoai thoải nằm bên đường 10. Còn con đường 10 chạy ngoằn ngoèo đi qua những đâu, tôi không rõ. Chỉ biết rằng nếu đi theo hướng Bắc sẽ ra vùng giải phóng của ta.

   Căn cứ Chư Nghé rất rộng, hàng rào các loại tới 5 lớp. Trong căn cứ còn có cả một trận địa pháo 105ly với 3 khẩu. (Về sau nghe nói có một nữ bộ đội của ta tên là Thanh, người Thanh Hóa bị thám báo bắt cóc khi ra tắm suối. Sau cô phải chấp nhận chiêu hồi, làm kế toán pháo binh cho trận địa này. Cô đã tử nạn khi căn cứ thất thủ). Hầm trong căn cứ khá kiên cố, có cả rào B40 bao quanh. Hệ thống giao thông hào chạy khắp căn cứ. Tháng 9 năm 1973, trung đoàn 48 của Sư 320A đã đánh chiếm toàn bộ căn cứ này, tiêu diệt cả một tiểu đoàn Biệt động quân. Quân ta kéo pháo 105 vào sát chân hàng rào, bắn thẳng nên mới trị được các hầm kiên cố có lưới B40 bảo vệ của địch. Tù binh bắt được rất nhiều, trong đó có con gái của Tỉnh trưởng Gia Lai, là người yêu của tay thiếu tá chỉ huy tiểu đoàn BĐQ trấn giữ căn cứ Chư Nghé này. (Câu chuyện về cô gái này có liên quan khá nhiều đến những người lính C6 chúng tôi, hồi sau sẽ kể).

   Thời điểm tháng 2 năm 1974 khi chúng tôi về đây, địch đã bị đẩy lùi xa về phía Pleiku tới hơn chục cây số. Căn cứ Chư Nghé hoang tàn, không còn mùi khói súng. Phía ngoài, nơi quân ta đào hầm chuẩn bị nổ súng, cỏ đã mọc đầy. Trong trận địa chỉ còn những căn hầm nát trên các bãi đất đỏ loang lổ hố pháo và những cây cọc sắt. Pháo 105 ly, vũ khí và những thứ lấy được, lính ta đã lấy hết. Bao cát cũng bị rỡ lấy đi rất nhiều. Chỉ còn lại nhiều nhất là đạn cối cá nhân, băng đạn AR15 hoen rỉ và những mảnh quần áo rách. Bây giờ quân ta tạo thành một lối đi mới, một đường mòn từ đường 10 xuyên qua căn cứ đi về phía Tây tới bờ sông Pa. Rải rác trong căn cứ có những bộ xương người. Từ khi E48 đánh căn cứ này tới nay mới có chưa đầy 5 tháng, mà những xác lính xấu số đã phân hủy gần hết. Trên mé hầm chỗ khu vực trận địa pháo có một bộ xương mà tôi đoán là của phụ nữ vì ở chỗ vùng kín của bộ xương có tới 5 quả cối cá nhân nằm ở đó. Chắc lính ta nhét vào khi chủ nhân của nó vừa tử nạn sau trận chiến.

   Lúc đầu có việc đi qua căn cứ, chúng tôi hay nghỉ chân ở bãi đất to chỗ sở chỉ huy trong căn cứ để còn có cớ mò mẫm xem xét. Về sau thì chán và có một cảm giác buồn chán thế nào đó. Chiến tranh, số phận những con người. Với những người nằm xuống thì mọi thứ là kết thúc, chẳng còn gì vương vấn. Còn với chúng tôi, cái gì sẽ chờ đợi? Những trận đánh và những người lính lại tiếp tục ngã xuống? Bao giờ thì đến lượt mình? Chiến tranh còn bao lâu? Liệu còn trở về, hay tất cả mọi kỷ niệm đều phải gán thêm trạng từ “lần cuối cùng”: trận đánh cuối cùng, lá thư cuối cùng, lần gặp nhau cuối cùng…?

   Tôi còn qua căn cứ này nhiều lần mà không hiểu sao lần nào cũng thấy nao nao, không gạt ra được cái ý nghĩ buồn buồn ấy.




Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: nguyentrongluan trong 03 Tháng Mười Một, 2013, 09:44:58 pm


@Trongc6
Ha ha , vậy là lúc E9 về đội hình F320 đã ở ngay Chư nghé hả bạn ? Chư Nghé bị E 48 đánh tiêu diệt hoàn toàn vào ngày 22/9/1973 . TRận ấy bạn lính SV bọn mình hi sinh mất 2 chú đấy . Một trận công kiên hoàn chỉnh và rất chóng vánh . Vào tháng 5 /74 bắt đầu mùa mưa rồi một hôm bọn mình qua đấy và thấy ở Chư Nghé rất nhiều đậu đũa mình lên hái và trong cửa hầm trung tâm đầy giày dép lính , mình còn thấy cả những đôi dép con gái .Sau này,  Mình hỏi Thân Như NGôn bạn mình Ngôn nói trận ấy có mấy lính Thiên Nga cũng " hi sinh " . 


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Trongc6 trong 08 Tháng Mười Một, 2013, 09:59:32 am

   Đại đội chúng tôi tập trung cả chục ngày để làm hậu cứ. C bộ và nhóm quản lý, anh nuôi được các B cử người hỗ trợ làm nhà và đào hầm. Nhà cửa kiểu nửa chìm vì có hầm thùng nhưng khá khang trang và hầm hố rất chắc chắn. Vẫn đang mùa khô nên mọi thứ đều sạch sẽ, khô ráo. Giống như những ngày còn chiến sự trên cao nguyên Boloven, ở đây chúng tôi không làm hội trường để ăn chung nữa mà chia cơm về theo tiểu đội. Cả đại đội vẫn nấu một bếp, nhưng anh nuôi thì đã phân công chuyên trách khi đi lẻ với các B.

   Quân đội đúng là một trường học lớn. Mỗi người một nghề, vào lính bảo nhau làm được tất cả; những chuyện như dựng cột, đục đẽo vì kèo, làm rui mè, hay đánh tranh lợp mái chúng tôi đều tự làm được hết. Dạo bên Lào, tiểu đoàn lập lò rèn và đã rèn đủ cho tất cả các trung đội trong tiểu đoàn, đơn vị nào cũng có đủ từ dao rựa, liềm, cưa đến các loại đục… Vì thế chúng tôi dựng nhà về cơ bản cũng không khác ở thôn quê là mấy. Cái khác là toàn nhà hầm 3 gian, không có chái.

   Xen kẽ những ngày này, chúng tôi tiếp tục cùi gạo và đạn cối để chuẩn bị cho tác chiến. Trung đoàn bộ và các kho vẫn nằm cách xa chúng tôi cả ngày đi đường.

   Một loạt các chuyện mới lạ đến với chúng tôi. Tất nhiên hầu hết mọi chuyện đều là rỉ tai từ cán bộ các cấp mà ra.

   Các thủ trưởng trung đoàn E9 được lên họp trên sư đoàn. Sư đoàn bộ vẫn ở cách xa các đơn vị và cách rất xa địch, giống như bên Lào. Mà có lẽ nơi nào cũng thế thôi. Thế cho nên nói chuyện cánh lính trên sư bộ không biết đến mùi thuốc súng là tất nhiên. Thủ trưởng trung đoàn 9 chỉ lên họp ở sư bộ 320A thôi mà đã nhận thấy sự đói khổ của chiến trường B3 rồi. Thế là sau khi về trung đoàn, các thủ trưởng E9 quyết định đem món quà duy nhất và độc đáo mà trung đoàn có là quân phục mới, đem tặng cho sư đoàn. Lúc trước Tết ở bên Lào, chúng tôi đã được sư 968 cấp bổ sung quân tư trang. Sư 968 vốn là sư bộ binh duy nhất của đường dây 559; E9 lại là trung đoàn duy nhất đi bổ sung cho chiến trường miền Nam nên có phần được ưu đãi. Sau khi cấp đủ cho lính mà còn dư tới 2000 bộ quần áo. Các thủ trưởng E9 quyết định không trả lại sư 968 mà đem theo về miền Nam, và bây giờ đem tặng sư 320A vì thấy lính tráng ở đây quần áo quá rách. Tất nhiên số quần áo này không đủ cấp hết cho các đơn vị của sư 320A, nhưng cũng là một món quà quý. Ngoài thứ đó ra, chúng tôi chẳng có gì khác lạ. Còn những thứ như gạo, muối hay súng đạn trong những tháng ngày sắp tới lại phải trông chờ hậu cần của sư 320A cấp.

   Chỉ sau khi chúng tôi nhập vào sư 320A được hơn một tuần, cơ số gạo mang theo đi đường đã hết. Chúng tôi được phổ biến là sẽ hưởng chế độ ăn như của B3. Gạo rút từ 7 lạng xuống còn 5 lạng một ngày cho mỗi lính. Đã thấy đói rồi. Một tháng sau thì lại rút tiếp chỉ còn 4 lạng. Không những thế, cấp trên thông báo chỉ cấp cho chúng tôi lương thực có 8 tháng trong một năm. Số còn lại các tiểu đoàn phải tự túc. Thế là không chỉ đói ngay mà còn nhìn thấy trước cái đói dài dài. Cán bộ chiến sĩ đều buồn. Thế là thời huy hoàng đã qua và cái đói sắp tới còn gay go hơn năm 1972 nhiều.

   Đã đói, tất nhiên lại hay bàn chuyên ăn. Chúng tôi ngỡ ngàng nhất là chuyện đơn vị chiến đấu mà còn phải tăng gia tự túc. Nhưng B3 là thế. Những câu chuyện về B3 được cán bộ cấp C, D và ngay cả những cán bộ được sư 320A bổ sung cho các đại đội chúng tôi sau đó, truyền miệng đến từng thằng lính chúng tôi. Tây nguyên B3 là một chiến trường có vị trí lưng lửng ở miền Nam, không như các chiến trường khác. Chiến trường B4, B5 gần hậu phương miền Bắc, lại không có đất mà tăng gia nên được miền Bắc cung cấp đủ theo chế độ “cơm Bắc, giặc Nam”. Chiến trường B2 tuy xa hậu phương nhưng gần dân và được cung cấp từ đồng bằng Căm-pu-chia nên cũng no đủ. Con đường vận tải của 559 tuy vào đến được B2, nhưng lại chỉ chạy được ở nhánh Tây Trường Sơn trên đất Lào và Căm-pu-chia. Đông Trường Sơn bị căn cứ Đăcpet ngoài Kontum án ngữ nên ta không mở được tuyến vận tải Đông Trường Sơn. Hôm chúng tôi về miền Nam cũng chỉ là theo một con đường nhánh chọc từ tuyến Tây Trường Sơn sang Kontum mà thôi.

   Lại thêm một tin nữa là các thủ trưởng B3 coi vùng đất này như Quốc gia riêng, quyết tâm với cấp trên là có thể tự cung tự cấp được, trừ súng đạn, nên lính tráng cũng phải theo.

   Thực tế, lính B3 đã có nhiều thời gian đói dài, nhất là năm 1972. Nhiều lúc những quả chuối xanh luộc cũng được coi là lương thực cấp cho lính. Sau đợt vây ép Kontum mùa mưa năm 1972 không thành, cả sư 320A phải rút qua biên giới, sang lánh nhờ ở tỉnh Rat-ta-ra-ki-ri bên đất Căm-pu-chia. Đấy là một tỉnh nghèo ở vùng Đông Bắc Căm-pu-chia, nên lính tráng cũng chẳng kiếm được gì, ngoài bài ca ăn sắn. Nhưng đấy là sắn của bạn cho ta. Khi quay về đất B3 là lại đói. Để cứu đói, một biện pháp được mặt trận B3 đưa ra là: Tất cả các đơn vị, hễ dừng chân ở đâu quá 10 ngày là phải tổ chức phát rẫy trồng sắn. Dù chỉ phát được mảnh đất ven rừng, cạnh bản cũ, nhỏ cỡ trên trăm mét vuông là trồng sắn được rồi. Trồng sắn chưa chắc đơn vị mình được ăn, nhưng đơn vị nào cũng trồng như thế thì khi chuyển quân qua lại, đơn vị nào cũng có thể gặp rẫy sắn để ăn. Lúc đầu hom sắn phải kiếm bên đất Căm-pu-chia gánh về. Sau này có cây rồi thì cứ thế nhân ra.

   Trung đoàn 9 chúng tôi về B3 cũng phải làm như thế. Chỉ sau khi đứng chân chưa được một tháng đã phải phát rẫy trồng sắn rồi. Chúng tôi đã làm được khá nhiều cái rẫy như thế. Có cái rộng cả héc-ta, nhưng nhiều cái chỉ hai ba trăm mét vuông. Chúng tôi cũng gặp nhiều rẫy sắn nhỏ lẻ như thế, của các đơn vị khác trồng từ rất lâu, đã đến kỳ thu hoạch. Gặp được rất ngẫu nhiên, bất ngờ vì chẳng có cái bản đồ chỉ dẫn nào cả. Chỉ tội những cái rẫy như thế, hoặc là ở mãi vùng Đức Cơ, hai là lại áp sát gần vùng thị xã Pleiku (chẳng hiểu sao lại có rẫy tập trung chủ yếu ở đó), nên mấy tháng đầu chúng tôi cũng không kiếm được sắn, phải chịu cảnh lúc nào cũng đói, thèm ăn.

   Thời gian làm hậu cứ, có lần tiểu đội tôi đi cắt cỏ tranh gặp một đôi vợ chồng người dân tộc đang làm rẫy. Rẫy của họ cũng bé teo, xơ xác chẳng có thứ cây gì ra hồn. Ven rẫy chỉ có độ chừng hơn hai chục gốc gắn. May mắn gần đó có một bãi cỏ tranh khá rộng. Chúng tôi hỏi thăm dân qua loa rồi tranh thủ cắt hết tất cả đám cỏ tranh đó để giữ phần vì nơi ấy khá gần hậu cứ chúng tôi. Được độ vài chục gánh. Chúng tôi gánh về một ít, hôm sau lại ra gánh tiếp theo khoán mỗi lính đủ một gánh một ngày là được, nên có thời gian để chơi và nghỉ ngơi. Đêm hôm ấy, không hiểu có thằng lính ở A nào trong C tôi đói quá đã mò ra cái rẫy của cặp vợ chồng nọ. Thằng này thấy mấy gốc sắn đìu hiu thì cũng không dám nhổ cả gốc, chỉ dám dùng dao găm bới men theo rễ lấy một củ thôi, rồi lấp đất lại. Vậy mà vợ chồng người dân tộc ấy vẫn biết. Họ cảnh cáo bằng cách châm lửa đốt hết mấy chục gánh tranh mà chúng tôi để dành, chưa kịp gánh về. Hôm ấy ra nhìn đám tro còn nguyên hình những gánh tranh trên bãi đất mà não hết cả lòng. Lúc đầu chưa biết nguyên nhân tại sao mới tìm dân gặng hỏi. Sau biết chuyện họ phát hiện thấy vết lính ta đào trộm sắn nên cảnh cáo, chúng tôi đành im lặng lủi thủi ra về, đi tìm bãi cỏ tranh khác.

   Tây Nguyên B3 là thế. Lính đói nhưng dân ở đây cũng nghèo, không có nương rẫy màu mỡ và trù phú như Cao nguyên Boloven bên Lào, có đủ thứ để cho lính tráng chúng tôi đến mùa là “chỉ xin một lần rồi lấy mãi - theo phong tục Việt nam(?!)”. Mà quả thật, nhìn cuộc sống người dân nơi đây thấy rằng nếu mình có lấy trộm của họ dù chỉ một chút gì đó thôi thì cũng thật là bất công, tàn nhẫn.

   Ở vùng này không có du kích hay bộ đội địa phương. Dân họ sống trung lập. Nhưng bản lĩnh của họ cũng không thể xem thường. Không thấy người dân đi rẫy mang theo súng hay nỏ bao giờ. Vậy mà họ cũng có nhiều biện pháp mạnh tay để răn đe lính ta làm bậy. Khi chúng tôi đã đóng quân ở đây lâu rồi, thấy ở nhiều rẫy sắn, người dân còn treo những quả lựu đạn lên những cây sắn to cảnh báo. Có chỗ, họ còn gài cả lựu đạn theo phương pháp đơn giản và thủ công tại những lối mòn nhỏ đi vào rẫy của họ. Còn trong bản, tuy chỉ có vài cây mít lưa thưa quả, họ cũng cài lựu đạn cả ở trên cây và dưới gốc. Chuyện gỡ những quả lựu đạn ấy ra đối với chúng tôi thật đơn giản, nhưng chúng tôi không hành động như thế. Đơn vị cũng phải quán triệt nhiều lần để lính ta không vi phạm. Lời thề thứ hai của những người lính cụ Hồ vì thế mà cũng được thực hiện thêm phần nghiêm túc.

   Nhưng người dân tộc cũng có những cái hay, cái lạ của họ. Tuy nghèo, nhưng họ cũng có tấm lòng thơm thảo, thương người. Có lần chỉ hái đâu đó được một ít rau tạp nham đủ loại, họ mang đến cho chúng tôi. Không nỡ nhận, chúng tôi tìm cách từ chối. Thế là họ cứ thẳng đường đất, vượt qua vùng chốt của ta, đi về phía địch. Địch cũng có điểm chốt, họ không bắn vào dân hiên ngang đi trên đường bao giờ. Thế là dân gặp địch và cho mấy nắm rau đó. Lính chốt thì bên nào mà chả thiếu thốn. Còn người dân thì giải thích chuyện đó hết sức đơn giản: “Bộ đội bên này không nhận, thì ta cho bộ đội bên kia thôi. Chúng nó cũng đói mà (!?)”



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Trongc6 trong 29 Tháng Mười Một, 2013, 09:41:40 am

   Cái thời làm nhà hòa hợp và hòa giải dân tộc, gặp gỡ giao lưu giữa lính tráng hai bên trên những vùng giáp gianh nhờ Hiệp định Pari đã qua lâu rồi. Trên Cao nguyên B3 không có nhiều vụ lấn chiếm “tràn nhập lãnh thổ” của lính VNCH như vùng dưới đồng bằng. Chẳng bên nào mạnh vượt trội hơn cả, nên cứ đóng chốt cầm canh. Phá “nhà hòa hợp” thì thôi, lính ta lại lùi lại làm những cái chốt sâu, bám sát rừng.

   Căn cứ Chư Nghé không phải do địch chiếm sau hiệp định Pari 1973. Nó đã có từ lâu rồi, sau Hiệp định thì địch giữ lại làm căn cứ tiền đồn. Tháng 9/1973, ta đánh giải phóng căn cứ đó là để phục vụ cho yêu cầu chiến lược, tạo hành lang vận chuyển ven Trường Sơn cho B3.

   Sau đợt đó, ta và địch lại lập chốt và đánh giằng co. Chỉ toàn những trận đánh nhỏ lẻ cấp C trở xuống.

   Nhưng trước đó, khi có dịp, quân ta cũng muốn ùng oàng. Lính cũ B3 kể, sau khi các “nhà hòa hợp” giải tán, một lần vào độ tháng 5 gì đó, Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu lên Cao nguyên và đi trực thăng đến úy lạo một đơn vị Biệt động quân đóng ngoài sân bay Cù Hanh. Tin trinh sát ta nắm được liền báo cho Sư đoàn. Các Cụ nhà ta lâu lâu không có chiến sự cũng thấy ngứa ngáy. Thế là đơn vị pháo 105ly của sư được lệnh giã cho đơn vị BĐQ đó vài trái, nhân thể hạ sát được Tổng thống đối phương thì tốt. Lính pháo nhà ta đem bản đồ ra căn, thấy từ chỗ đặt pháo của ta đến cái bãi đất đã căn tọa độ có địch tập trung đó, khoảng cách đúng 18 cây số. Chưa thể bắn được vì pháo 105ly của ta bắn hết liều, hết tầm cũng chỉ được 17 cây 8. Thiếu mất hai trăm mét. Thế là chỉ huy ra lệnh cho lính hò nhau kéo một khẩu pháo vượt suối sang quả đồi bên kia, cách đó đúng 200 mét để đủ tầm phát hỏa. Khổ nỗi lúc đó đã vào mùa mưa, đường sang quả đồi bên cạnh dù chỉ vượt qua có con suối nhỏ, nhưng dốc và trơn nên không thể dùng xe kéo. Lính pháo đành hò dô ta kéo bằng tay. Nhưng lại có một khó khăn khác là mọi lần khi đánh trận, những con voi thép ở xa thì có xe kéo, còn vào gần trận địa thì dùng sức bộ binh. Cả C mấy chục lính xúm vào mà kéo thì trước sau gì cũng phải tới đích. Bây giờ chỉ có nhõn lính pháo, mấy tháng trời ăn nghỉ thiếu tập tành nên sức có hạn, khi kéo được pháo lên đỉnh đồi bên kia thì sư đoàn báo Tổng thống Thiệu đã lên trực thăng rời đi từ mấy chục phút trước rồi. Thế là cha con nhà pháo lại kéo pháo về. Chỉ được mỗi bữa luyện tập vàng mắt, bở hơi tai.

   Khi chúng tôi về B3 thì hầu như là tiếp nhận lại các vị trí cũ của sư 320A đã có từ cả năm trước. Khu vực này cách xa tầm pháo 105ly của địch, nên tạm yên tâm. Chỉ còn lo máy bay mà thôi.

   Đấy là vùng hậu cứ. Nhưng cứ xuất phát ra vùng chốt là nằm trong tầm pháo địch. Ở bên Lào, chỉ khi yểm trợ hành quân hoặc phát hiện vị trí quân ta, chi viện cho căn cứ lúc bị tấn công, hay phản pháo sau khi ta gãi chơi mấy quả DKB, địch mới bắn pháo. Nói chung chúng bắn pháo có chủ đích. Ở B3 lúc này, không biết địch mạnh đến đâu, nhưng chúng bắn pháo nhiều và tùy hứng. Chỗ có chiến sự đã đành, chỗ chẳng có gì nhiều khi cũng bị nã pháo, dù chỉ là vài trái. Khó chịu nhất khi ra tuyến trước là có khi đang ngủ lúc ban đêm ở một chỗ mình cho là bí mật, chả liên quan đến địa hình địa thế quân sự gì cả, bỗng dưng lại nghe tiếng đề-pa, rồi "rầm" một trái nổ vào ngay gần nơi mình trú quân. Cha con lính ta nhỏm dậy căng tai đề phòng thì lại nghe nổ tiếp một trái nữa ở mãi tít đâu đó. Cái kiểu bắn vu vơ không định trước này gây tâm lý rất khó chịu. Mãi về sau mới biết cái kiểu bắn pháo này gọi là pháo "đĩ", do mấy thằng lính pháo của địch rỗi hơi ngủ với gái rồi cho chúng nó chỉnh tầm lung tung và giật cò súng. Lính cũ B3 kể bây giờ ít đi nhiều rồi, chứ ngày trước thì đêm nào cũng có. Mà không chỉ một trái, có khi tới mấy trái cấp tập rồi mới chỉnh lại tầm. Đã có trường hợp lính trinh sát và cả các bố hậu cần quân ta nằm phía sau bị chết oan kiểu "tên bay đạn lạc" này.

   Nằm ở khoảng giữa các con đường 5A và 5B là các con đường mòn mà trung đoàn chúng tôi thường hành quân ra phía trước. Cách hậu cứ của C tôi chừng hai giờ đi đường là một khu đồi rất lớn trải theo chiều Bắc Nam có cao độ đỉnh là 525 mét. Gần nơi này có một bản gọi là Lệ Kim. Không hiểu sao ở vùng này chúng tôi vẫn thấy gọi các làng của người dân tộc là bản, chứ không gọi là buôn như sau này hay gặp ở tỉnh Buôn Ma Thuột. Một điều lạ khác là nhiều bản ở vùng quanh Pleiku này thường có tên bắt đầu bằng Lệ (như Lệ Minh, Lệ Thanh, Lệ Kim, Lệ Ngọc…). Về sau thì biết vùng này những năm dưới chính quyền Ngô Đình Diệm, phu nhân của cố vấn Ngô ĐìnhNhu là Lệ Xuân đã lên đây thâm nhập vùng người dân tộc, tặng quà, làm các công tác xã hội và lấy họ Lệ của mình đặt tên mới cho chữ đầu của hàng loạt bản ở đây.

   Mang đặc tính cao nguyên, ở đây có đủ loại rừng cây xen kẽ nhau, nhưng nhiều nhất vẫn là cây lúp xúp và rừng tái sinh. Ở rừng tái sinh không thể làm nhà, nhưng làm nơi trú quân tạm hoặc lập chốt, đào hầm thì có gỗ làm hầm rất vừa tầm. Bản Lệ Kim mang tiếng là bản nhưng cũng chỉ còn là nền đất. Trên diện tích khá rộng toàn cây cỏ mọc hoang, chả có thứ gì tận dụng được. Tôi không hình dung được những cái nhà sàn ngày trước ở đây to bé như thế nào vì mọi thứ hoặc đã cháy trụi, hoặc đã được lính ta tận dụng từ trước hết rồi.

   Đặc biệt là ở gần bản Lệ Kim còn có một khu rừng cao su rất lớn, chiếm cả một khu đồi. Ngoài nó ra thì xung quanh vùng Tay Pleiku này không còn khu rừng cao su nào khác nữa. Khu rừng cao su này chắc đã khai thác được nhiều năm vì cây rất già và to, nhưng có vẻ như đã từ lâu không còn khai thác được nữa, chưa hẳn do chiến tranh, mà có thể do rừng đã quá già cỗi. Nhiều chỗ chỉ còn toàn gốc cây cháy hoặc chết khô. Xung quanh đồi rừng cao su là một lạch nước tụ thủy khá to, mọc toàn cây môn thục. Nước đen bẩn không dùng được, khi cần phải tiếp tế từ rất xa. Đỉnh đồi khá bằng phẳng và chạy dài theo chiều ngang. Cả đại đội tôi nhận lệnh đào hầm chốt ở ven đỉnh phía sườn bên này của đồi cao su. Sau đó chúng tôi đào một loạt giao thông hào và râu tôm phía sườn bên kia đồi, dựa vào các gốc cây cao su già để tiện quan sát. Mé bên kia về phía địch trơ trụi hơn, tầm quan sát rất xa. Địch đóng chốt ở quả đồi bên cạnh, nhưng xa tới mức nếu chúng tôi bị lộ thì chúng chỉ có thể bắn ĐK hoặc câu pháo mà thôi.

   Những đêm ở đây, chúng tôi được hưởng sự tấn công của một lũ muỗi có thân mình to như những cái kim đan len. Quần vải Tô Châu (Trung Quốc) dày là thế mà chúng vẫn cắm vòi xuyên qua được. Loại muỗi này châm phát nào là chúng tôi nhảy dựng người lên phát đó. Đau đến mức nó chưa kịp hút máu thì mình đã phát hiện ra rồi. Thành ra tuy không hẳn là đã bị đốt, nhưng đau và khó chịu đến mức không thể ngủ được. Cả đêm chỉ lo đập muỗi, nên không phải chỉ một thằng gác thức, mà là cả điểm chốt đều thức. Sáng ra thằng nào thằng nấy bơ phờ vì mất ngủ. Về sau chúng tôi phải liều nghĩ ra cách căng màn trên mặt đất, cứ 3 thằng một cái màn quay ngang, đêm nằm chui phần nửa trên người vào đó, còn từ thắt lưng trở xuống thì quấn nilon chống muỗi. Cách này tuy có bí và hạn chế ngọ nguậy, nhưng tỏ ra có hiệu quả. Rất may là ban ngày nắng lên lũ muỗi bay đi đâu hết, chứ nếu chúng tấn công cả ban ngày thì chúng tôi chắc chết. Một cái may nữa là khu rừng này khi chưa bị lộ chính xác vị trí chốt của ta thì địch chỉ bắn pháo vu vơ mỗi ngày ít quả, còn ban đêm chúng cũng nghỉ. Suốt thời gian cả tuần chúng tôi ở đây, địch không lẫn dũi lần nào. Mà thật ra địa hình ở đây tơ hơ thế này thì nếu có càn như ngày trước, chúng cũng phải có xe tăng mới tấn công được. Cái sườn đồi thoai thoải trước mặt chốt của chúng tôi quang quẻ tới mức quan sát được từ rất xa nên bên nào tấn công trước thì bên ấy sẽ tổn hại nặng nề trước.

   Có lẽ chính sự quang đãng của rừng cao su mà chúng tôi lập chốt đã tạo nên thế bất ngờ và đóng vai trò quan trọng trong việc ngụy trang. Suốt cả tuần chúng tôi ở đây không bị pháo địch bắn, cũng không bị địch tấn công. Ngày nào cũng có pháo nhưng nó ùng oàng vào phía sau lưng chúng tôi hoặc tít mãi ở đâu đó. Đặc biệt máy bay trinh sát L19 thì ngày nào cũng vè vè trên đầu, nhất là lúc trời nắng to. Buổi trưa và chiều tối thì nó nghỉ không bay. Một lần thằng L19 phát hiện nghi vấn ở một cánh rừng cách đó không xa. Chúng tôi thấy rõ nó nhào xuống bắn pháo khói. Nhanh hơn ở Nam Lào chỉ có máy bay T28 vè vè đến ném bom, ở đây là máy bay phản lực nên nó đến nhanh hơn. Những chiếc máy bay phản lực cánh bằng sáng lóa từ tít trên cao nhào xuống cắt bom. Tiếng của nó nghe rin rít ghê rợn hơn T28. Loại này không giống những chiếc Thần sấm F105 hay Con ma F4 mà tôi đã nhìn thấy ngoài Bắc. Đầu cánh của nó không nhọn. Về sau thì chúng tôi biết chúng là máy bay F5E, cũng là một loại phản lực hiện đại mới trang bị cho bên địch. Chúng cũng đến theo tốp hai chiếc một, ném nhiều loạt bom xuống cánh rừng phía xa đó. Chúng tôi lại được dịp xem phim trực tiếp. Về sau biết trận bom đó cũng chẳng trúng vào đơn vị nào của ta.



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: quangcan trong 29 Tháng Mười Một, 2013, 12:39:46 pm
Có phải cái bản gần thác Lệ Kim, nằm đoạn Ia Kha không chú?


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: vinaheart trong 29 Tháng Mười Một, 2013, 10:25:26 pm
  Bác Trong C6@ ! Như vậy đã 38 lần tháng 4 trở lại,kể từ tháng tư lịch sử năm ấy -Năm 1975-.Em vốn là người ít tuổi và vào quân sau bác,nhưng may mắn cũng được tham gia  trận đánh căn cứ Đồng dù (Củ chi) ngày 29/4/75...

  Lật giở lại phần đầu trong topic "Ngày này 34 năm trước...".Ở đó em được biêt rằng ,trong rạng sáng ngày 29/4 năm 75 ấy,áp sát căn cứ Đồng dù từ nhiều phía còn có cả đơn vị bác.

  Trận đánh cửa mở căn cứ Đồng dù,đơn vị em (C11-D3-E48) đánh vào từ phía tây bắc.(Sau giải phóng,đơn vị em về đóng tại Nhuận đức nên biết được rằng:Vị trí đơn vị em tiềm nhập căn cứ từ phía ấp Xóm mới,xã Trung lập hạ giáp với xã Nhuận đức).Khoảng 5 giờ 30 sáng,sau khi pháo dập vào trong căn cứ,ờ vòng ngoài bộ binh dùng bộc phá,B40,B41 đánh phá hàng rào thép gai.Em lúc đó là một tay lính mới,thú thực là lúc đầu rất sợ.Nhưng sau dần cũng quen với những tiếng nổ của súng B40,B41 do các bác cựu bắn công phá hàng rào.Nhưng phía trong lính ngụy được bảo vệ bằng hầm hào kiên cố,lại có hỏa lực mạnh, xe tăng,xe bọc thép yểm trợ nên quân ta đánh không lại và hy sinh rất nhiều.Tầm 6 giờ 30,bọn địch điều xe tăng ra hòng bịt cửa mở , bọn lính ngụy chạy theo phía sau.Súng trên xe bắn như vãi đạn,may mắn thay anh Ngọ (Nay ở Bắc cạn) xạ thủ B41.Nã trúng chiếc chạy đầu,khi nó đang quay ngang.Từ phía nào đó một xạ thủ B41 lại bắn trúng một chiếc nữa,khói đen bốc lên nhưng nó nằm đó như một vất che chắn cho bọn lính ngụy

  Trận đánh càng trở nên ác liệt,nhưng về phía quân ta thương vong càng nhiều ,thì các tay súng càng ít đi mà mới chỉ mở được 4 hàng rào.Phía trong lợi dụng hầm hào,xác xe cháy và tường đất bọn địch đôn quân ra chống trả mãnh liệt.Sau đó chỉ huy phải dùng B40 nã vào các ụ đất và cột đỡ để cuấn phăng các hàng rào còn lại .Súng cối,B40,B41 được tập trung đánh vào tuyên hào thứ nhất,kết hợp với sự hoang mang của quân ngụy nên khoảng hơn 7 giờ cửa mở phía trước quân ta đã chiếm được tuyến công sự thứ nhất.Bên trong, bọn ngụy tập trung ở tuyến công sự thứ 2 rất đông ,trên khoảng trống còn có cả xe tăng đứng sẵn.Ban đầu các loại súng của cả 2 bên nã vào nhau dồn dập,phía địch xe tăng nống ra hòng đẩy quân ta lùi lại phía sau.Hỏa lực của chúng từ trong căn cứ bắn ra ràn rạt.Nhưng ngay sau đó xe tăng bị hỏa lực ta bắn cháy,hàng quân phía trước bị thương vong.Ở các nơi trong căn cứ lại đang bị ta đánh dữ dội,có nơi đã bị chọc thủng tuyên phòng ngự.Nên địch hoang mang,bỏ chạy vào trong căn cứ.Khoảng 11 giờ ở hướng tây bắc căn cứ đã được giải phóng

  Ngày nay,trên vùng đất thép Củ chi.Trong nghĩa trang An nhơn tây,những người lính của C11-D3-E48 ngã xuống ở hàng rào căn cứ ngày 29/4/75 đang nằm đó ,các anh hy sinh khi ngày toàn thắng chỉ còn tính bằng giờ !
Chào các bác :
   năm 79 có anh Thắng quê vĩnh Phú 1/ là phái viên của quân đoàn đi cùng c em  bác ấy kể :
    E 48  đánh Đồng dù ngay tại của mở  đã có khoảng trên dưới 50 chục bác hy sinh  ( không biết đây có phải là C 11 của bác Vt 738 không -con số đó là cực nhiều ) Sau đó xe tăng ta  vào đột phá ,vì cửa mở  vẫn còn 1 số  liệt sỹ  đang nằm nên xe tăng chần chừ .Không thể bỏ lỡ thời cơ ,nếu dùng dằng ở cửa mở tổn thất sẽ lớn hơn  nên  vẫn có lệnh : xung phong và các bác ấy đã  hy sinh lần hai . Nhờ kiên quyết ( nhưng đau đớn ) nên e 48  đột phá được vào trong . Chuyện các liệt sỹ hy sinh lần 2 có lẽ không trang sử nào  viết , chỉ có những người trong cuộc biết . Chiến tranh mà ....
   trái ngược với hướng E 95 của bác Trọng là xe tăng dùng dằng nên không vào được cửa mở
   Cũng trong trận đánh này  địch  ở sau Ta luy cao ,ta nằm bắn không được  có bác Sơn  người Vĩnh phú là atr đã  đứng thẳng dậy  dùng B40 bắn cháy  xe tăng địch, sau đó được phong Anh hùng ,
  . Năm 79  ( liên quan đến bài viết của bác Pho@ bên re :thời áo xanh....) Lúc F 320 ở Tà keo  địch dùng xe tăng phản kích , È 52 của Pho @ bỏ chạy , địch đến gần F bộ ,anh Sơn lúc đó là c phó vệ binh đã cầm súng ngăn lính không cho chạy, quyết tử thủ , kết quả địch bị chặn , f bộ không phải chạy

Ngày cháu bé (khoảng đầu những năm 1980) nghe đọc chuyên trên VOV, không nhớ rõ là chuyện kể đại đội hay gì đó, câu chuyện về một đơn vị đánh của mở, các anh lái xe chần chừ khi thấy thi hài các các anh tổ cửa mở hy sinh còn nằm đó nhưng để giành thắng lợi các anh đã phải băng qua.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: crishalong trong 08 Tháng Tám, 2014, 03:48:12 pm
…..

   Có thể tôi sẽ viết tiếp, cũng có thể không viết được nữa. Nhưng vì những điều mình viết ra đã quá nhiều, kể chuyện đơn vị đã quá nhiều, tôi muốn gửi lời xin lỗi đến các thủ trưởng cũ, đến đồng đội cũ trong Trung đoàn 9B và đồng đội C6 thân yêu năm xưa của tôi, nếu như những điều tôi viết ra đã làm đồng đội phật lòng và ảnh hưởng đến thanh danh, truyền thống của đơn vị như đã ghi theo sử sách.


Sao bác Trọng lại yếu đuối thế. Những người trẻ như cháu đang cần bác viết tiếp


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: thientruong trong 14 Tháng Mười Hai, 2014, 12:35:41 pm
chú trọng chú cứ hãy viết tiếp hồi ký. chúng cháu là thế hệ trẻ chưa biết chiến tranh là gì. chỉ khi được đọc các hồi ký của các chú các bác ccb thì chúng cháu mới thấy hết được sự hy sinh gian khổ của thế hẹ cha a đi trước để có cuộc sống như bây giờ.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: saovang1 trong 14 Tháng Mười Hai, 2014, 07:44:11 pm
  Phải đấy ạ, bác Trọngc6 nên viết tiếp đi ạ, cháu đã thẽo dõi bài của bác từ những ngày đầu tiên, hồi ký của bác rất hay và ý nghĩa. Ai ủng hộ bác trọngc6 viết tiếp thì vào việt một bài ủng  hộ cho topic được lên đầu đi ạ.
 


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Trongc6 trong 16 Tháng Tư, 2016, 03:57:50 pm
Thân chào tất cả các bạn.

Tôi tham gia viết bài trên trang Máu và Hoa (trước kia là trang QSVN) đã lâu. Riêng Hồi ức "Ngày này 34 năm trước" này đã viết được nhiều kỳ và được nhiều bạn đọc đón đọc và cổ vũ. Đó là một điều hạnh phúc đối với người viết.

Trên trang MVH có nhiều CCB viết bài rất hay. Cũng như các đồng đội đó, tôi rất cảm ơn và biêt ơn những người đã lập nên trang Web này. Các bạn ấy đã tạo nên sân chơi cho các CCB, tạo nên điều bổ ích cho cả người viết và người đọc. Đội ngũ Admin rất nhiệt tình, nhiều giai đoạn rất bận rộn mà vẫn vui, chúng tôi ghi nhận điều đó.

Tôi dừng viết bài trên đây đã một thời gian khá dài. Lý do duy nhất là khi được nhiều bạn đọc cổ vũ, tôi quyết định viết Hồi ức thành một tập sách hẳn hoi, thì lại gặp một khó khăn duy nhất trên trang MVH: đó là sau vài ngày thì không sửa được bài nữa. Nếu lúc nào cũng yêu cầu Admin mở "khóa" cho sửa thì phiền quá.

Vì vậy, tôi đã mở Facebooks cá nhân và viết lại bài rồi đăng trên đó, lấy tên mới là "Hồi ức Lính". Xét về dung lượng thì 60% nội dung đầu của Hồi ức Lính đã được đăng ở trang MVH này, theo topic là "Ngày này 34 năm trước".

Sau khi Hồi ức lính hoàn thành một thời gian, qua một vài đồng đội giúp đỡ và giới thiêu, NXB Trẻ trong TP. HCM đã nhận xuất bản.

Theo thông báo mới nhất từ NXB Trẻ, họ sẽ gửi "Hồi ức Lính" ra giới thiệu lần đầu tiên tại Hội chợ sách 2016 tổ chức tại Công viên Thống nhất, Hà nội (từ 20-24/4/2016).

Mời các bạn quan tâm và có điều kiện đến dự Hội chợ sách.

Một lần nữa, chân thành cảm ơn bạn đọc và Admin của trang MVH.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: qtdc trong 16 Tháng Tư, 2016, 10:27:38 pm
Chúc mừng bác TrongC6, ra sách thế tuy có hơi chậm nhưng cũng tốt rồi.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: binhc6d5e2f9 trong 22 Tháng Tư, 2016, 02:16:19 pm
chào bác chủ . tháng 6/1976 sư 9 từ sài gòn thay chân sư 320 tại đồng dù, khi các bác rút đi đơn vị  đoàn đồng xoài f9 tiếp quản khu vực cổng chính , lính bên này còn vào hôi của kho mùng tuynh cũ hướng khu vực hàng rào gần khu vực nhà thờ bắc hà nhìn sang , về sau thì c6 d5 của mình chuyển xuống chỗ cửa mở gần khu vườn cao su chỗ ấp cây sộp , dư âm của cuộc chiến mà sư 320 đánh vần còn xác 2 chiếc xe tăng vẫn nằm chỗ khu vực cửa mở  , khu vực cử mở về sau thành thao trường tập xạ kích của d 5 E 2 tại đây đại đội mình bị một tai nạn do một vật nổ còn xót lại của cuộc chiến làm 3 lính bị thương , nhìn lại cuộc chiến mà sư 320 khi đánh đồng dù mới thấy hết sự ác liệt của cuộc chiến, các cọc sẳt của hàng rào kẽm gai khu vực cửa mở chi chít vết đạn  , mìn nhiều lắm  khi đơn vị mình gỡ mìn làm bãi tập  mìn râu tôm mìn díp lựu đạn gài . lính mình cũng bị phởi xác trên hàng rào khi mở nối mòn đi chơi. cuối những năm 1976 lính tráng bắt đầu phải tăng gia trồng sắn và trồng rau xanh , đi vào dân xin giống về trồng , họ cũng đói lắm lấy gì mà giúp bộ đội cạnh căn cứ đồng dù có khu nghĩa trang chôn số tử sỹ ( khu vườn cao su đi sang khi ta đi qua khu bờ đê )tham ra đánh đồng dù của sư 320 các ngôi mộ thời điểm đó đều có bia bằng gỗ gi rõ tên liệt sỹ đơn vị quê quán ngày hy sinh. rồi chiến tranh tây nam nổ ra , số mộ này huyện củ chi sau đó di chuyển về nghĩa trang an nhơn tây củ chi nhưng những sai xót do trình độ của những người làm công tác hồi đó còn hạn chế do vậy nhiều liệt sỹ của sư 320 mât tên  . trên trang mạng của người đưa đò nguyễn sỹ. hồ nhiều gia đình liệt sỹ có hỏi nơi chôn số liệt sỹ trận đồng dù  , mĩnh có chỉ tìm tại nghĩa trang an nhơn tây nhưng đều không tìm được vì họ có tên  do lỗi của người sống , họ bị mất tên thành vô danh . căn cứ đồng dù bây giờ sư 9 đóng quân  thay đổi nhiều lắm đẹp lắm 


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Trongc6 trong 28 Tháng Tư, 2016, 08:44:19 pm
Thông cáo báo chí về cuốn sách Hồi ức Lính

 
Thông tin về chương trình giao lưu cùng tác giả HỒI ỨC LÍNH:
NGÀN NGÀY SỐNG TRONG THỬ THÁCH CHIẾN TRANH

Hồi ức Lính bắt đầu từ những dòng chia sẻ về cuộc sống ở chiến trường thời chống Mỹ được đăng tải trên Facebook của Vũ Công Chiến từ cuối năm 2013 đến cuối năm 2014. Tác giả viết với một suy nghĩ đơn giản: "Nếu những người trong cuộc không viết ra thì làm sao để mọi người biết, trong chiến tranh, chúng tôi đã sống và chiến đấu thực sự như thế nào. Bởi vậy với tư cách cá nhân, với con mắt nhìn của một người lính bình thường, tôi viết lại Hồi ức Lính này, để kể lại những điều mình đã thấy, đã nghe, đã làm, cùng những suy nghĩ và cảm nhận khi đó..." Những dòng chia sẻ đó nhanh chóng được cộng đồng Facebook đón nhận nhiệt tình, và đặc biệt, không chỉ những người ở lứa tuổi tác giả mới quan tâm mà các bạn trẻ cũng đặc biệt hứng thú với những chuyện chiến trường của Vũ Công Chiến.
Nhân dịp cuốn sách Hồi ức Lính ra mắt bạn đọc, Nhà xuất bản Trẻ tổ chức buổi giao lưu cùng tác giả: Ngàn ngày sống trong thử thách chiến tranh.
Chương trình diễn ra vào hồi 15h ngày 29/4/2016 tại Laca café, tầng 2, 24 Lý Quốc Sư, Hà Nội.
Dẫn chương trình: Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên.
Khách mời: PGS. TS. Lưu Khánh Thơ.
Rất mong được đón tiếp!
***
Tác giả Vũ Công Chiến nhập ngũ tháng 9/1971. Từng là bộ đội Trường Sơn, chiến trường Nam Lào, Mặt trận B3 Tây Nguyên, Dak Lak. Sau khi giải ngũ, tác giả theo học Đại học Bách khoa Hà Nội. Hiện ông là cán bộ Viện Khoa học Việt Nam; Viện nghiên cứu Điện tử, Tin học, Tự động hóa, Bộ Công thương.
***
Lời giới thiệu cho cuốn sách Hồi ức Lính của PGS. TS. Lưu Khánh Thơ (Viện Văn học)
BỞI CHIẾN TRANH KHÔNG PHẢI TRÒ ĐÙA
-- Lưu Khánh Thơ

Tôi đã đọc Hồi ức lính từ khi mới chỉ là những mẩu nhỏ ghi chép về cuộc sống ở chiến trường thời chống Mỹ, được đăng tải trên Facebook một người đồng đội của anh trai tôi. Ngay lập tức, những suy nghĩ mộc mạc nhưng không kém phần sâu sắc và những kỷ niệm của một thời trận mạc máu lửa được kể lại bằng một giọng chân thành, sôi nổi, pha trộn vẻ tinh nghịch của một chàng thanh niên Hà Nội với sự điềm tĩnh của một người đàn ông từng trải, đã cuốn hút tôi. 
Tác giả của Hồi ức lính không phải là một nhà văn chuyên nghiệp. Anh viết tác phẩm của mình với suy nghĩ đơn giản: “Nếu những người trong cuộc không viết ra thì làm sao để mọi người biết, trong chiến tranh, chúng tôi đã sống và chiến đấu thực sự như thế nào. Bởi vậy với tư cách cá nhân, với con mắt nhìn của một người lính bình thường, tôi viết lại Hồi ức Lính này, để kể lại những điều mình đã thấy, đã nghe, đã làm, cùng những suy nghĩ và cảm nhận khi đó…” Không có gì khiến người ta tin và xúc động bằng suy nghĩ trách nhiệm, giầu tính nhân văn như thế.
Có thể với kho tư liệu đầy ắp vốn sống thực tế này khi “vào tay”một nhà văn có nghề nó sẽ trở thành bộ tiểu thuyết đồ sộ hấp dẫn người đọc với rất nhiều những thủ pháp nghệ thuật này khác. Nhưng ở đây, với những câu chuyện và chi tiết tươi ròng sự sống, được nhìn với cự ly sát gần của người trong cuộc, nó lại có sức lôi cuốn riêng. Nó chinh phục chúng ta bằng sức mạnh của sự chân thực, bằng những trải nghiệm cá nhân, rất riêng tư nhưng lại gắn liền với cả một thế hệ thanh niên mà ước chân đầu tiên của họ khi vào đời là cuộc sống quân ngũ. Họ đã trở thành người lính trước khi đủ tuổi công dân. Họ bước vào cuộc chiến như một sự lựa chọn không thể khác trước hiện tình nước sôi lửa bỏng của đất nước. Những người lính các anh đã hăm hở đi vào chiến trường, không tính toán băn khoăn. Có chăng chỉ là nỗi nhớ Hà Nội và những kỷ niệm của tuổi học trò. Nỗi buồn đau lớn nhất khi lên đường vào mặt trận là những giọt nước mắt của Mẹ ngày chia ly. Người lính trẻ chỉ day dứt với suy nghĩ anh “ra đi đã mang theo cả cuộc đời của Mẹ”…
Và chiến tranh không phải trò đùa. Cuộc chiến thật sự bắt đầu. Đâu phải chỉ bom rơi đạn nổ. Rồi trận đánh đầu tiên, những hy sinh mất mát đầu tiên. Đói rét, bệnh tật. Sự thức tỉnh cay đắng khi nhận ra giới hạn trong bản thân mình và những người chung quanh. Họ có thể là đồng đội, là cấp trên và có khi trong cả người lính ở chiến tuyến bên kia. Những hoang mang, thất vọng. Những âm mưu, toan tính. Hiện thực sát gần cụ thể và thế giới tâm linh vô thức. Những cuộc tình đẹp và buồn hơn nước mắt, mong manh trước sự tàn khốc của chiến tranh. Những cung bậc ấy đã hòa trộn, đan cài trong cái bề bộn ngổn ngang qua từng trang viết.
Trong quầng sáng của chiến tranh, dường như mọi giá trị thật giả đều phơi bầy một cách trần trụi nhất. Dũng cảm và đớn hèn. Yêu thương và thù hận. Tin tưởng và thất vọng. Dục vọng bản năng và lý trí. Tất cả những trạng thái tâm lý rất thật của người lính đã được phơi trải đến tận cùng, không né tránh. Không khí chiến trận đã được miêu tả qua hàng loạt những quan sát, ghi nhận của một người lính trung thực, đầy ấn tượng.
Anh tái hiện bộ mặt của chiến tranh không chỉ bằng khả năng ghi nhớ mà bằng sự cảm nhận của tất cả các giác quan, và điều quan trọng hơn là bằng sự từng trải của người lính. Những trang viết ở đây được đảm bảo bằng máu. Máu của anh và của đồng đội. Những người lính trở về chìm khuất trong xô bồ náo nhiệt của cuộc sống đời thường. Và thiêng liêng hơn là những người lính đã nằm lại trong những cánh rừng Tây Nguyên hoặc trên đất nước bạn Lào xa xôi.
Chiến tranh là một sự bất bình thường của lịch sử, bởi vậy con người ở trong đó cũng không thể sống cuộc sống bình thường. Bước vào một cuộc chiến tranh đã khó, bước ra khỏi nó còn khó hơn bội phần. Người lính Vũ Công Chiến thật may mắn. Anh đã đi vào cuộc chiến với tâm thế nhẹ nhàng của một cậu học sinh vừa rời mái trường phổ thông và đi ra khỏi nó toàn vẹn với một “linh hồn lành lặn” đúng như ước nguyện của người mẹ, và có thể còn sâu xa hơn như mong đợi của một người con gái: “Anh phải trở về để…lấy em”.
Với một độ lùi thời gian hơn 40 năm, những suy tư, chiêm nghiệm của người trong cuộc đã có sự đằm sâu hơn. Sáu năm trong cuộc đời quân ngũ, chỉ là một lát cắt trong cuộc sống của tác giả Hồi ức lính, nhưng đó là phần đời dữ dội, có sức ám ảnh rất lớn. Đó là “món nợ” tinh thần của anh đối với đồng đội. Nó buộc anh phải ghi lại và chia sẻ. Để những người lính thế hệ anh nhớ lại và tự hào về những năm tháng mình đã sống, đã hy sinh, chiến đấu vì đất nước. Để thế hệ sau có được một hình dung đầy đủ hơn chiến tích của một thời và cái giá của những ngày đang sống hôm nay. Phải chăng như thế, Vũ Công Chiến đã phần nào âm thầm thực hiện sứ mệnh của một nhà văn!

Nhận xét của bạn đọc trên Facebook:
“…Nếu những người trong cuộc không viết ra thì làm sao để mọi người biết, trong chiến tranh, chúng tôi đã sống và chiến đấu thực sự như thế nào… Đúng đấy Chiến ạ, năm tháng sẽ qua đi, lớp con cháu mình được đọc những trang viết này sẽ mãi mãi biết ơn các bạn, tự hào và sẽ sống tốt hơn.” (Phuong Nguyen)
“Hay quá anh Chiến ạ. Phục trí nhớ của anh. Em khoái nhất đoạn này “Thằng Tuyên chưa hi sinh, chưa thành anh hùng mà chỗ ngồi cũ trong lớp của nó đã được khoanh thành chỗ ngồi danh dự. Nhìn cái chỗ trống trong lớp ấy mà nhớ đến người anh hùng trong tương lai, thế thì đám con trai chúng tôi bị phân tán tư tưởng, học hành thòi thọp cũng phải thôi.”…” (Nguyen Kim Lien)
“Chú viết rất hay, sinh động, và rất thật! Không anh hùng lên gân quá, cũng không não nề buồn bã. Đọc một mạch đến đây, như được truyền lại một ít tinh thần của ngày đó!” (Chu Minh)
“Không phải những câu chuyện bình thường mà đây là những viên ngọc quý về kiến thức quân sự cho lính chiến đấu, những bài học quý giá qua từng câu từng chữ của VCC như cách tận dụng địa hình, tương quan vũ khí tạo ưu thế, xử lí chiến lợi phẩm vv… trong chiến đấu… Cảm ơn bạn Vũ Công Chiến.” (Nguyễn Anh)
“Cháu cảm ơn tập hồi ký về đời lính của chú. Với một thằng rất mê lịch sử quân sự và khoa học kỹ thuật như cháu thì đây chính là những gì cháu hằng tìm kiến trên Internet.” (Le Truong Son)
“Cháu thích đọc những dòng hồi ức chân thật, mộc mạc như bác Chiến viết, chứ không muốn đọc những gì người ta tô vẽ để che giấu sự tàn khốc của chiến tranh. Sau Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh thì hồi ký của bác Chiến là những hình ảnh chân thật nhất của chiến tranh mà cháu được đọc. Chúc bác Chiến dẻo tay viết tiếp cho bọn cháu hóng.” (Nguyen Manh Trung)
“Chào bác, mỗi lần cháu đọc xong một kỳ cháu lại thấy nuối tiếc… Tiếc vì hay quá, đọc hết rồi thì lấy gì mà đọc tiếp. Lại hồi hộp chờ ra kì tiếp theo. Cháu thấy nhật ký của bác hay chả kém gì Đặng Thùy Trâm cả :D” (Đào Nam Sơn)
“40 năm rồi mà vẫn ngậm ngùi khi đọc và nhớ lại xương máu, sức chịu đựng, sự thiệt thòi của người lính trong chiến tranh…” (Anton Tran)
““Chỉ cần con trở về được thế này là đã đủ, mẹ mãn nguyện rồi”, đọc tới đây thấy cay cay mũi, biết bao nhiêu bà mẹ của hai bên trong cuộc chiến đã không có được niềm vui này, thế mời thấy chiến tranh nó khắc nghiệt đến dường nào…” (Le Trung Thu)
“Chiến tranh đã kết thúc. Mọi thứ đã lùi lại phía sau cho những trang mới của tương lai… Nhiệm vụ của trai thời loạn thế là hoàn thành và của những người xây dựng đất nước mới chỉ bắt đầu.” (Fra Vie)



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: vietnamarc trong 30 Tháng Tư, 2016, 06:57:44 am
Chúc mừng chú Trongc6!
Cháu lang thang vô tình gặp truyện của chú và cứ tranh thủ đọc mỗi ngày từ phần 1, đến giờ này vừa xong cũng độ 1 tuần.
Truyện chú viết mộc mạc tự sự mà rất hấp dẫn, cảm giác như người đọc cũng lạc vào ko gian, thời gian theo tác giả. Cháu sinh 75, ko chứng kiến lửa đạn nhưng rất thích đọc về đề tài này, và cũng yêu Tây Nguyên vì đã vào đó theo công việc nhiều.
Thật tiếc là sáng nay, khi đọc đến đây mới biết lịch giao lưu vừa chiều hôm qua!
Xin hỏi chú là truyện mới xuất bản hiện có ở hiệu sách nào ạ?
Chúc chú mạnh khỏe!  :)


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Viet Trung 51 trong 30 Tháng Tư, 2016, 06:28:02 pm
Giới thiệu sách "Hồi Ức Lính" của a Trọng C6. Hanoi chiều 29 apr.
A Trọng C6 đang ký sách cho bạn đọc. Phía sau là các đồng đội 4971 - cùng nhập ngũ, những nguyên mẫu trong "Hồi ức Lính".


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: binhc6d5e2f9 trong 30 Tháng Tư, 2016, 11:10:05 pm
mình muốn mua một cuốn sách và có chữ ký của anh TRỌNG c6  cùng tấm hình có các nhân vật trong buổi ra mắt cuốn sách thì liên hệ thế nào nhỉ , nếu ở khu vực thành phố HỒ CHÍ MINH thì thủ tục thế nào


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Trongc6 trong 21 Tháng Bảy, 2016, 10:02:55 am
Thân chào các đồng đội và các bạn,

"Ngày này 34 năm trước" đã được NXB Trẻ xuất bản thành sách "Hồi ức lính" dịp 30/4 năm nay, được tổ chức Buổi ra mắt sách vào ngày 29/4/2016 tai LACA Cà phê 24  Lý Quốc Sư.

Sách hiện đang có bán tại các Nhà sách của FAHASA trên toàn quốc.

Xin phép Admin của trang MVH đưa bài viết của một số báo về cuốn sách này. Xin Cảm ơn.



Tác phẩm và dư luận  (20/5/2016)

“Hồi ức lính” làm sống dậy kỉ niệm của một thế hệ cầm súng

Từ những chia sẻ ban đầu trên facebook có sức lan tỏa, được bạn bè động viên, người lính chiến một thời Vũ Công Chiến đã tập hợp thành bản thảo để xuất bản cuốn “Hồi ức lính” đồ sộ hơn 700 trang vừa được Nhà xuất bản Trẻ ấn hành. Buổi ra mắt cuốn sách diễn ra đúng dịp kỉ niệm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước có tên “Ngàn ngày sống trong thử thách chiến tranh”.

Người lính chiến viết về cuộc đời lính trận

Tác giả Vũ Công Chiến sinh năm 1953, hiện là cán bộ của Viện Khoa học Việt Nam và Viện nghiên cứu Điện tử, Tin học, Tự động hóa Bộ Công thương. Nhập ngũ 4/9/1971, chỉ có 6 năm đời lính nhưng cho đến tận bây giờ, gần nửa thế kỉ trôi qua, lúc nào ông cũng nghĩ mình đang là lính. Những chiến trường đã đi qua, một phần đời tuổi trẻ, những dấu chân lùi lại phía sau nhưng tiếng vọng của nó còn vẳng đến hôm nay khiến cho trái tim tác giả không ngủ yên.

Những hồi ức vụn vặt được tác giả chia sẻ trên facebook đã nhận được sự chia sẻ của nhiều đối tượng bạn đọc và lọt vào con mắt xanh của nhà phê bình Lưu Khánh Thơ, vốn có người anh trai Lưu Quang Điền là bạn đồng ngũ với tác giả. “Khi đọc những gì anh Chiến chia sẻ trên facebook, tôi nghĩ chúng phải đến được với bạn đọc, nhất là người trẻ”, chị Lưu Khánh Thơ chia sẻ tại buổi ra mắt sách. Từ suy nghĩ ấy, nhà phê bình Lưu Khánh Thơ đã động viên tác giả tổ chức bản thảo để cuốn sách ra đời. Nhận xét về tập “Hồi ức lính” của tác giả Vũ Công Chiến, PGS.TS Lưu Khánh Thơ viết: “Trong quầng sáng của chiến tranh, dường như mọi giá trị thật giả đều phơi bày một cách trần trụi nhất. Dũng cảm và đớn hèn. Yêu thương và thù hận. Tin tưởng và thất vọng. Dục vọng bản năng và lí trí. Tất cả những trạng thái tâm lí rất thật của người lính đã được phơi trải đến tận cùng, không né tránh. Không khí chiến trận đã được miêu tả qua hàng loạt những quan sát, ghi nhận của một người lính trung thực, đầy ấn tượng”.

Thời gian trong quân ngũ chỉ chiếm 6 năm trong cuộc đời nhưng 6 năm ấy có ảnh hưởng lớn đến phần đời còn lại của tác giả. Vũ Công Chiến bộc bạch: “Cuộc đời quân ngũ của tôi chỉ có hơn 6 năm, chỉ là một phần của cuộc đời, Thế mà không hiểu sao cho đến bây giờ tôi vẫn luôn coi mình là người lính, sống và giữ mãi những phẩm chất tốt đẹp mà mình đã rèn luyện được trong quân ngũ. Quân đội thật đúng là một trường học lớn. Nó rèn luyện con người ta rất khắc nghiệt. Nhưng khi đã vượt qua rồi, tôi thấy mình thêm tin yêu cuộc sống, giàu lòng nhân ái và vị tha hơn, sẵn sàng hi sinh vì người khác”.

Anh Lưu Quang Điền, người bạn đồng ngũ với tác giả phát biểu tại buổi ra mắt sách: Khi anh Chiến xuất bản trên facebook, bạn bè có nói mày cố gắng thay chúng tao kể lại chuyện này, chỉ yêu cầu mày đừng “bịa”, đừng “bốc phét”, bọn tao đọc nhiều truyện, nhiều phim như thế rồi. “Mục đích viết là để bạn bè đồng đội và các con của chúng tôi đọc thôi, không có mong muốn gì lớn. Rất may anh ấy viết rất trung thực. Ví như động cơ đi bộ đội của chúng tôi, rất thật, rất đơn giản chứ không cao cả như viết đơn bằng máu. Anh Chiến có thể đi nước ngoài, nhưng anh ấy có 2 người em trai, dứt khoát nhà phải có người đi bộ đội, hai em của anh ấy vụng dại hơn, xác suất “chết” cao hơn nên anh ấy chọn nhập ngũ để các em được học. Tôi cũng thế, anh Vũ (nhà thơ Lưu Quang Vũ) thì phục viên rồi, ông anh cả của tôi thì đang ở nước ngoài, các em thì còn nhỏ, nên tôi đi, rất đơn giản thế thôi”, anh Lưu Quang Điền nói. Anh cũng cho rằng “hồi ức này không phải của riêng anh Chiến mà là hồi ức của chúng tôi”.

Đại diện cho lớp trẻ, con trai của tác giả chia sẻ: “Những trận chiến căng thẳng bố cháu kể khác rất nhiều so với các bộ phim cháu xem, những câu chuyện cháu đọc. Chiến tranh khốc liệt hơn rất nhiều”.

Sự lên ngôi của thể phi hư cấu?

Tại buổi ra mắt “Hồi ức lính” một số ý kiến đã nói về điều này. Một số người nhắc lại một số cuốn sách đã đánh động đến số đông độc giả thời gian gần đây như “Quân khu Nam Đồng” của Bình Ca, “Biên bản chiến tranh” của Trần Mai Hạnh, “Dĩ vãng phía trước” của Ngô Thảo hay như một số cuốn nhật kí chiến tranh của Nguyễn Văn Thạc, Đặng Thùy Trâm, Vũ Xuân... xuất hiện trước đó. Đó là những sự kiện lưu giữ kí ức của một thế hệ được người trong cuộc kể ra, nhận được nhiều đồng cảm.

“Hồi ức lính” được các nhà văn, nhà phê bình, nhất là những người từng khoác áo lính có mặt tại buổi ra mắt đánh giá cao. Dù rất kiệm lời và chẳng mấy khi chịu xuất hiện trên báo chí nhưng nhà văn Bảo Ninh đã dành cho Báo Tuổi trẻ TP Hồ Chí Minh hẳn một cuộc phỏng vấn về cuốn sách. Một trong những lí do Bảo Ninh thấy cuốn sách “thân thiết đến nhói lòng” đó là: “Không phải đời tôi, không phải đơn vị tôi, vậy mà đây cũng chính là cuộc đời tôi, là tổ ba người của tôi, là tiểu đội, trung đội, đại đội tôi. Tác phẩm làm sống dậy trước mắt tôi từng ngày tháng, từng chặng đường của thế hệ chúng tôi, của tuổi trẻ “đất thánh” Hà thành năm xưa lên đường ra trận”. Nhà văn Phạm Ngọc Tiến cũng đồng cảm với Bảo Ninh khi cảm nhận như đó chính là “cuốn sách của tôi, như tôi viết”.

Nhà phê bình Lưu Khánh Thơ lí giải về sức hút của “Hồi ức lính”: “Những câu chuyện và chi tiết tươi ròng sự sống, được nhìn với cự li sát gần của người trong cuộc có sức lôi cuốn riêng, nó chinh phục chúng ta bằng sức mạnh của sự chân thực, bằng những trải nghiệm cá nhân, rất riêng tư nhưng lại gắn liền với cả một thế hệ thanh niên mà bước chân đầu tiên của họ khi vào đời là cuộc sống quân ngũ. Anh tái hiện bộ mặt của chiến tranh không chỉ bằng khả năng ghi nhớ mà bằng sự cảm nhận của tất cả các giác quan, và điều quan trọng hơn là bằng sự từng trải của người lính”. Nhà thơ Hữu Việt cũng nói về sức hút của thể phi hư cấu trong đời sống văn học gần đây. Anh cho rằng, với những cuốn sách dạng này, người ta có thể dựa vào sự thật để soi rọi cuộc sống hôm nay.
Nhà phê bình Ngô Thảo gọi tác giả là “người viết ra những giấc mơ của người lính, viết ra những câu chuyện của đời lính”. “Tôi đi bộ đội năm 1965, đi qua nhiều chiến trường, và tôi tìm lại được mình trong cuốn sách của một người làm khoa học. Chúng tôi được sống trong một thế hệ đẹp, sống tử tế, ra trận với tấm lòng trong sáng”, ông nói. Ngô Thảo cho rằng, tác giả “Hồi ức lính” đã khai thác những mạch truyện mà các nhà văn chưa chạm đến, đã cung cấp một tư liệu thật nhất về chiến tranh.

Tác giả “Dĩ vãng phía trước” cũng bày tỏ trăn trở: Chúng ta chiến thắng không phải là giành độc lập là xong mà là thế hệ hôm nay xây dựng đất nước ấy như thế nào, điều hành đất nước như thế nào để thế hệ hôm nay làm được những điều như thế hệ chống Mĩ đã làm được, xây dựng một đất nước không còn bất công, thù hận, nếu không thì chiến thắng ấy cũng trở nên vô nghĩa.

Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên cũng là một người từng khoác áo lính, nói, nhà văn hay không phải nhà văn viết về chiến tranh đều đáng trân trọng. Vì trong chiến tranh mọi chuyện đều có thể xảy ra. Ông cho rằng “Hồi ức lính” là một trong những cuốn sách cần cho quá khứ, cần cho hiện tại và cần cho tương lai.

Dương Tử Thành (Quân đội nhân dân)





Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Trongc6 trong 31 Tháng Bảy, 2016, 09:45:21 am
Xin phép Admin cho đăng một bài nữa về Hồi ức Lính.

Hay như 'Hồi ức lính'

(07:11 ngày 07 tháng 05 năm 2016)

TP - Ra mắt dịp 30/4 năm nay, 700 trang “Hồi ức lính” của cựu chiến binh Vũ Công Chiến đầy sức công phá, là bất ngờ lớn nhất trong đời sống văn học những năm gần đây.

Sinh động, cuốn hút

Chưa đầy 18 tuổi, vừa tốt nghiệp phổ thông, anh thanh niên Hà Nội Vũ Công Chiến vào bộ đội. Huấn luyện ở miền Bắc rồi vào Trường Sơn, chiến đấu ở chiến trường Nam Lào, ở mặt trận B3 Tây Nguyên, Daklak, đánh đến tận cuối tháng 4/1975 giải phóng Tuy Hòa. Anh đã không bỏ phí một ngày nào trong 6 năm quân ngũ, bằng cách kể lại tất cả những gì mình và đồng đội đã trải một cách chân thực nhất có thể, sinh động lạ lùng. Hạnh phúc cho anh, và may mắn cho người đọc.

Là hồi ức nhưng có rất ít trữ tình ngoại đề, ít khoảng lặng trong sách. Các nhân vật cứ ào ào cuốn đi trong những cuộc tác chiến, lập chốt giữ chốt, trinh sát, tiềm nhập, diệt thám báo, đoạt chiến lợi phẩm, ca cóng... Luôn chân luôn tay làm cái gì đó, nói điều gì đó, bộc lộ tính cách, số phận, phơi trần những mảng hiện thực sáng tối của chiến tranh. Cả phía mình lẫn đối phương. “Biết có sống đến mai mà để củ khoai đến sáng”, nên không thể phí hoài.

Rất nhiều tình huống, sự kiện bi hài không chỉ trong chiến đấu. Liên tiếp những chi tiết đắt giá mà hẳn nhà tiểu thuyết nào cũng mơ. Hóa ra, hiện thực mạnh và phong phú hơn tưởng tượng rất nhiều.

Trong tiểu thuyết của E.Remarque, có nhân vật lính đi đến đâu cũng tìm được cái ăn, cho mình và đồng đội. Chuyện cơm nước tăng gia, cải thiện, săn bắt hái lượm trong Hồi ức lính thú vị hơn hẳn những câu chuyện cùng đề tài từng nghe và đọc. Hàng trăm nhân vật không ai lẫn vào ai, mà chẳng cần quá dụng công đặc tả.

Có một chương tên là "Vụ đảo ngũ tập thể ở đại đội". Những câu chuyện về người lính đào ngũ bất đắc dĩ như Trọng, hay cái chết oan của tay tù binh trẻ (phía đối phương), của con chó, hay quân ta bắn nhầm quân mình, hoặc lệnh rút lui không đến được tất cả khiến vài người sa vào tay địch, hay đồng đội làm giả giấy tờ để cứu cuộc đời Hùng "cối" (người yếu lòng đào ngũ phút chốc nhưng sau chiến đấu rất dũng cảm)… khiến người đọc sững sờ về cái giá của chiến tranh.

Trích chương "Vụ đảo ngũ tập thể ở đại đội": "Tôi không bao giờ dám nghĩ các anh hèn nhát. Nhưng chúng tôi cũng trách các anh, bởi trận đấu sắp bắt đầu rồi. Các anh nỡ bỏ đi, để lại chúng tôi mỏng manh yếu ớt trên cả trận địa chốt này. Nếu vì thế mà chúng tôi phải hy sinh tất cả, các anh có ân hận, đau lòng không?".

Nhìn cuốn sách dầy cộp in chữ nhỏ, tác giả không tên tuổi, dễ mà ngại. Nhưng bập vào thì không thể dứt ra. Tác giả có lối kể thản nhiên, cả khi mô tả những tình huống khốc liệt nhất, những chi tiết đắt nhất lột tả một tính cách. Tưởng như một thủ pháp nghệ thuật cáo cường. Nhưng tác giả giải thích rằng chỉ đơn giản là nhớ thế nào kể thế ấy, không rào đón, không chủ đích. Tuy vậy, cách mà anh chọn, anh nhớ, anh kể chi tiết đó, tình huống đó, ngôn ngữ đó, nó là tầm của nhà văn mất rồi.
 
Mong có nhiều "Hồi ức lính"

Nhập ngũ năm 1971, mãi 38 năm sau Vũ Công Chiến mới bắt đầu viết "loăng quăng" trên mạng về những kỷ niệm lính của mình. Bà chị và cô em họ đọc được, bảo "Chiến mà cũng đánh nhau cơ à, tưởng ai ấy chứ". Thế là anh bắt đầu suy nghĩ nghiêm túc: Nếu người trong cuộc không viết ra thì làm sao mọi người biết họ đã sống chiến đấu như thế nào.

Hỏi: "Sao anh nhớ chính xác mọi việc đến vậy, tất nhiên có ghi chép nhưng chắc không tỉ mỉ thế". Anh Chiến đáp: "Tôi có ghi chép nhưng chỉ ý chính. Còn thì không hiểu sao nhớ thế. Nhắm mắt lại tôi vẫn thấy mọi việc như vừa hôm qua. Giờ đã vào hè, trời nóng nhưng tôi vẫn nhớ chẳng hạn cảm giác ngồi ở chốt chờ địch trong mưa lạnh, đậu đội mỗi cái khăn mặt. Trời bắt đầu tối đen lại, những hạt mưa rơi từ nóc xuống rồi chảy vào vai qua sống lưng, ướt dần hai bên áo, chảy đến đâu người nổi gai đến đấy. Tôi không quên điều gì…"

Một cuốn sách đậm bản sắc lính nhưng nếu chỉ có thế, chưa chắc đã hấp dẫn đến vậy.
Đơn giản mô tả các cuộc chiến đấu nhưng Hồi ức lính cho thấy cả một cuộc chiến tranh. Rộng, sâu hơn nhiều so với cuộc chiến đấu. Và không xuôi chiều như đa số tác phẩm chiến tranh của ta trước giờ.

Giờ viết về chiến tranh mà chỉ toàn những chuyện "Đường ra trận mùa này đẹp lắm" thì ai đọc. Nhưng Hồi ức lính không phủ nhận ai cả, không cố làm ra vẻ cấp tiến. Như tác giả tuyên ngôn: Anh không có ý định tổng kết cuộc chiến, cá ngợi hay nói xấu ai, tuyên truyền cho điều gì mà chỉ hồn nhiên có sao viết vậy. Có đồng đội làm chứng cho anh.
Có lẽ sẽ có ý kiến cho rằng Hồi ức lính ra đời lúc này là muộn nhưng không thể sớm hơn. Nếu sớm, phải cắt gót nhiều. Bơi không thiếu bi kịch, tổn thất, sự thật nghiệt ngã được phơi bày trong scahs. Những nhân vật lính không phải đều sáng ngời theo quan điểm "chính diện" một thời, mà phức tapk hơn, người hơn.

"Bộ đội quen chết rồi" như đồng báo dân tộc nói trong Hồi ức lính, và bộ đội cũng quen sống tận khổ. Vẫn biết thế mà đọc thấy thương đời bộ đội, thương ngày tháng cũ, từng có lúc chúng ta đã sống vượt ngưỡng chịu đựng của con người.

Đã có một Nhật ký Đặng Thùy Trâm chấn động, chu du nhiều nơi trên thế giới. Một phần bởi giai thoại "đừng đốt". Hồi ức lính càng xứng đáng có cuộc chu du dài đến bất cứ đâu, để kể câu chuyện chiến trang không chút tô hồng hay bôi đen, không chút làm duyên dáng, chân thực đến đáy này.

Nó xứng đáng được trưng bày cất giữ trong các quân đoàn sư đoàn, các bảo tàng của quân đội, bảo tàng văn chương. Bởi tính chính xác lịch sử, tính khoa học, và giá trị nhân văn cao cả. Người ta sẽ hiểu hơn về người lính Việt Nam bên "thắng cuộc" với những mạnh yếu hay dở rất người ở thười loạn, gian khó hiểm nguy nhưng "nơi hầm tối là nơi sáng nhất".

Mong có thật nhiều Hồi ức lính, nhưng đâu dễ. Chiến tranh qua đã mấy chục năm, bao nhiêu nước chảy qua cầu rồi mà sao đốt đuốc giữa ban ngày vẫn khó bói tác phẩm địch thực. Các nhà văn nếu từng cẩn thận kiểm duyệt chính mình thì nay là thười cơ rồi đấy không thể chậm hơn. hay vốn sống, tài năng có hạn nên đánh bó tay. Các nhà điện ảnh cũng vậy, cứ mải hái hoa bắt bướm ở đâu?

Có thể có người chưa thỏa mãn với văn phong không có gì cách tân của Hồi ức lính, nhất là so với hành văn đẹp của Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh). Nhưng đọc Hồi ức lính, tôi nhớ người ta đã nói về văn chương của Alice Munro. Nobel văn học 2013 thế này: "Sự mô tả các tình huống, tâm trạng, diễn biến đi vào chi tiết và chính xác, vì chi tiết nên chính xác, và vì chính xác nên chi tiết. Chính vì vậy bà để mất một số độc giả không quen đọc truyện kiểu ấy, tuy đồng cảm nhưng không thương cảm bi ai, và ngược lại, trở thành nỗi quyến rũ không ngớt đối với nhiều người đọc khác, những người cũng đặt cược vào sự chính xác như bà".

Hồi ức lính không phải tiểu thuyết mà hoàn toàn phi hư cấu. 700 trang nếu chẻ nhỏ ra, sẽ được vô số truyện ngắn không đụng hàng bất cứ ai. Cả cuốn sách là chất liệu cho bất cứ bộ phim dài tập hấp dẫn nào.

Dương Phương Vinh (Báo Tiền phong)


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước... (phần 2)
Gửi bởi: Trinhsat trong 05 Tháng Mười Một, 2016, 04:21:10 pm
Hồi ức lính

"Lứa tuổi chúng tôi sinh ra trong những năm cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Pháp.

Chúng tôi được lớn lên trong những ngày hòa bình. Miền Bắc xây dựng xã hội chủ nghĩa, trong khi miền Nam bị chia cắt, nằm trong chính quyền Việt Nam Cộng hòa, dưới sự chi viện của Mỹ.

Chúng tôi đã sống trong thời kỳ bao cấp đầy gian khó, đã được học trong những ngôi trường mái ngói đỏ tươi mới xây dựng khi hòa bình được lập lại ở miền Bắc, và cả dưới những mái nhà tranh vách đất của những lớp học nơi sơ tán khi Mỹ leo thang chiến tranh, đưa máy bay ra đánh phá miền Bắc từ năm 1965.

Chúng tôi trưởng thành khi đất nước đang còn khói lửa ở cả hai miền. Với nghĩa vụ làm trai, lớp lớp chúng tôi đã lên đường cầm súng tiếp bước cha anh chiến đấu trong những năm cuối cùng của cuộc chiến tranh để thống nhất đất nước.

Chúng tôi đã làm tròn trách nhiệm của mình.

Nhưng rất nhiều năm sau, thế hệ sau và cả những bạn bè cùng người thân ñều muốn hỏi, tôi đã làm gì trong chiến tranh. Rất nhiều người vẫn nghĩ rằng cầm súng chiến đấu chắc là ở đâu đâu đó thôi, và với ai đó thôi, còn tôi chắc ngồi bàn giấy.

Điều đó cũng dễ hiểu, vì ngay cả trong lớp đại học của tôi có tới hai chục người lính về học, nhưng ngoại trừ tôi thì không có ai cầm súng ở chiến trường. Thế nên ai cũng nghĩ tôi cũng như họ, và người ở xa hơn thì lại càng hiểu khác vu vơ hơn.
Với suy nghĩ đơn giản, nếu những người trong cuộc không viết ra thì làm sao ñể mọi người biết, trong chiến tranh, chúng tôi đã sống và chiến đấu thực sự như thế nào. Bởi vậy với tư cách cá nhân, với con mắt nhìn của một người lính bình thường, tôi viết lại Hồi ức này.

Những trang viết được bắt đầu vào tháng 4 năm 2009, kỷ niệm 34 năm ngày chiến thắng 30\/4\/1975, nên Hồi ức của tôi mang tên

"Ngày này 34 năm trước..."


\/\/

Những lời đề tựa từ tận đáy lòng, của 1 người con miền Bắc, của 1 người lính đã kinh qua trận mạc, nơi sự sống và cái chết đôi khi chỉ cách nhau một lằn ranh mỏng.
Được đọc tập hồi ký này của chú - Vũ Công Chiến - từ khi quyển sách chưa thai nghén thành hình hài, mà chỉ là những note tản mạn khi chú muốn ghi lại đời lính của mình trên facebook. Rồi thỉnh thoảng nói chuyện với chú... tôi đã từng nghĩ, tập hồi ký này phải được xuất bản. Và nếu nó được xuất bản, sẽ không có cái tên nào hay hơn 3 chữ ngắn gọn: "Hồi ức lính". Và giờ đây, ý tưởng đó đã được thành hình bởi những người có tâm, có tình!

Chưa bao giờ, tôi đọc một quyển hồi ký nào nó thực đến thế. Những chặng đường, những trận đánh, những mẩu chuyện hành quân... mọi thứ đều đều như một cuốn phim chầm chậm lướt qua trong mạch ký ức của người lính năm ấy. Để rồi từ đó, tôi thấy sự sống, tôi thấy cái chết, tôi thấy tình đồng đội như máu thịt, và cũng thấy cả những tình yêu đôi lứa mới chớm nở... tất cả bừng sáng như những đoá hoa rừng. Tất cả đều rất thật, rất "NGƯỜI", cả phe Ta lẫn phe "Địch"!

Như tôi đã từng viết trong 1 bài khác:

Những chàng trai trẻ năm ấy, đầy nhiệt huyết và thanh xuân. Hẳn trong họ, mỗi người đều có những yêu thương của riêng mình. Vì ở cái tuổi ấy, họ chẳng biết gì đến những mưu đồ chính trị, phe phái đấu tranh. Họ chỉ biết 1 điều khi quê hương, gia đình bị tàn phá thì họ phải ra đi để bảo vệ cho những yêu thương ấy, giữ cho nó tồn tại và lớn mãi với thời gian…+

Đó là tấm lòng, là nhiệt huyết của tuổi trẻ!

Gửi đến mọi người một tác phẩm xứng đáng có trong tủ sách của bạn: "Hồi ức lính" - VŨ CÔNG CHIẾN

© son.leSaigon \/ 2016