Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tự dịch => Tác giả chủ đề:: danngoc trong 11 Tháng Bảy, 2008, 01:07:01 pm



Tiêu đề: Sự hình thành OMSBON – Lữ đoàn môtô hóa đặc nhiệm độc lập trong WW2
Gửi bởi: danngoc trong 11 Tháng Bảy, 2008, 01:07:01 pm
Đêm ngày 30 tháng Bảy năm 1943, cư dân thị trấn Osipovichi bị đánh thức bởi một tiếng nổ mạnh khác thường, liền ngay sau đó là vụ nổ thứ hai. Những thùng chứa nhiên liệu lỏng bốc cháy và bùng nổ giữa nhà ga đường sắt. Những lưỡi lửa lan nhanh sang đoàn tàu gần đó đang chở tăng Tiger và bom cho máy bay. Một cơn bão lửa khủng khiếp thổi tung những thùng nhiên liệu và bom đạn lên trời. Ngọn lửa lan qua nhà ga và trong khoảng khắc nó chỉ còn là những bức tường đen xạm. Hốt hoảng, bọn phát xít tưởng nhầm rằng đó là một đợt không kích và báo cáo về Berlin rằng quân Nga đang ném bom dữ dội nhà ga. Chỉ sau đấy quân Đức mới xác định đươc là nhà ga cùng đoàn tàu chở xe tăng, kho xăng dầu và bom máy bay đã bị phá hủy do có phá hoại. Thiệt hại này đối với bọn chỉ huy Quốc xã trở nên càng nặng nề vào thời điểm đó, bởi đang trong thời gian diễn ra những trận đánh lớn tại vòng cung Kursk. Chiến dịch này dẫn tới một kết quả khác không ngờ trước: vào đêm xảy ra vụ nổ, lực lượng canh gác của một trại tập trung gần Osipovichi hoảng sợ bỏ chạy khi nghe tiếng bom nổ, và các tù binh – người Nga, người Belorussia, Ba Lan, Hungary và Bulgary – nhận thấy mình được tự do, họ liền nhập với đội du kích. Đấy mới chỉ là một trong vô số những hoạt động tài tình của các chiến sĩ của Lữ đoàn xạ thủ môtô hóa đặc nhiệm độc lập (Otdel''''naya Motostrel''''kovaya Brigada Osobogo Naznacheniya- OMSBON) thuộc NKVD, một lực lượng đặc biệt của Quân đội Xôviết, góp phần trong chiến thắng nước Đức phát xít. Những tác phẩm văn học ngày nay viết về OMSBON và các thành viên của nó, theo một quy định, ca ngợi những chiến công của một đơn vị hay một nhóm đặc nhiệm cụ thể, hoặc về một trong những chến sĩ của lữ đoàn. Để xác định ngày tháng, vẫn chưa có một cuộc nghiên cứu khảo sát hoàn chỉnh đầy đủ về điều này. Bài viết dưới đây chỉ là một nỗ lực nhỏ để tóm lược lịch sử của lữ đoàn.

Ngày 29 tháng Sáu năm 1941, Ủy Ban Trung Ương Đảng và Sovnarkom (Hội đồng Dân ủy Liên Xô) ban hành một chỉ thị đối với đảng và các tổ chức Xôviết liên quan tới việc phát triển trên khắp đất nước cuộc chiến chống lại quân xâm lược phát xít. Chỉ thị này bao gồm một chương trình tổ chức và tiến hành những hoạt động du kích và bí mật trong vùng bị tạm chiếm. Nhưng sự tổ chức một nhóm đặc biệt của các đơn vị NKVD ưu tiên cho các hoạt động trinh sát và nghi binh trong vùng hậu phương phát xít đã bắt đầu tại Maskva từ ngày 27 tháng Sáu năm 1941. Tháng Chín năm 1941, hai lữ đoàn được thành lập từ các thành viên của nhóm. Những lữ đoàn này về sau được tổ chức thành hai trung đoàn và sau đó hợp nhất thành đơn vị OMSBON. Lữ đoàn hoạt động trong suốt chiến tranh dưới tên gọi này (ngọai trừ thời gian từ mùa thu năm 1943 tới đầu năm 1944, khi nó được gọi tên là Đơn vị đặc nhiệm độc lập [Otdelnyy otryad osobogo naznacheniya]). Lữ đoàn thực hiện những nhiệm vụ như sau: hỗ trợ phát triển họat động du kích quy mô lớn; giúp đỡ các tổ chức đảng họat động bí mật; trinh sát tòan diện; phát hiện các kế họach của bộ chỉ huy phát xít; giúp đỡ Hồng quân bằng mọi biện pháp trinh sát, nghi binh và tham gia chiến đấu; mở rộng họat động phá họai trong hậu phương phát xít; tiến hành các chiến dịch phản gián và các họat động trừng phạt đối với những kẻ hợp tác với bọn Quốc xã hay phản bội Tổ quốc Xôviết.

(còn tiếp)


Tiêu đề: Re: Sự hình thành OMSBON – Lữ đoàn môtô hóa đặc nhiệm độc lập trong WW2
Gửi bởi: danngoc trong 11 Tháng Bảy, 2008, 01:07:57 pm
Việc thành lập lữ đòan bắt đầu vào cuối tháng Sáu năm 1941, tại sân vận động Dynamo ở Maskva. Lữ đòan trưởng P. M. Bogdanov lập tức lãnh trách nhiệm giám sát công tác này. Nhiệm vụ đặc biệt này của lữ đoàn có thể hiểu rằng trách nhiệm đòi hỏi đối với mỗi thành viên đều tăng lên. Các cấp chỉ huy buộc phải có kinh nghiệm về quân sự và về công tác của Cheka, bao gồm chiến tranh du kích và hoạt động bí mật. Những người tuyệt đối tận tụy với Tổ quốc, kiên định, dũng cảm, cương quyết, có khả năng họat động độc lập trong các điều kiện phức tạp, thể chất vững chắc dẻo dai được gọi vào lữ đòan này. Các nhân viên của tổ chức NKVD trung tâm cùng huấn luyện viên và học viên của Trường Trung tâm huấn luyện NKVD và Trường Biên phòng Cao cấp trở thành nòng cốt của lữ đòan. Từ năm 1941 tới 42, trên 1.500 đảng viên, nhiều người trong số đó là cựu binh từ Cách Mạng tháng Mười và thời nội chiến, đã được các nhân viên tuyển dụng gửi đến lữ đòan. Trong tháng Sáu năm 1941, Ủy Ban Trung Ương Đoàn Komsomol thông qua nghị quyết "Về việc động viên các Đòan viên Komsomol vào lực lượng đặc biệt dưới sự hướng dẫn của NKVD Liên bang Xôviết". Các công nhân của Nhà máy đồng hồ số 1 Maskva, Nhà máy ôtô Maskva và các nhà máy xí nghiệp khác của thủ đô, cùng khoảng 800 Đòan viên Komsomol từ 14 vùng của RSFSR (Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Nga Xôviết) cũng gia nhập OMSBON. Nhà văn nổi tiếng hiện nay Z. I. Voskresenskaya cũng giúp đỡ Ủy Ban Trung Ương Đoàn Komsomol trong việc thành lập lữ đoàn.

Trên 800 vận động viên, được tuyển chọn bởi các hội đồng trung ương của các hội thể thao tình nguyện "Dynamo", "Spartak", "Lokomotiv", và nhiều nơi khác cũng tham gia lữ đoàn. Trong số họ rất đông là những vận động viên công huân và là những huấn luyện viên, tài năng thể thao, nhà vô địch Liên Xô, vô địch Châu Âu và vô địch thế giới như: cặp anh em vận động viên điền kinh S. I. và G. I. Znamenskiy, vận động viên trượt băng A. K. Kapchinskiy, các võ sĩ đấm bốc N. F. Korolev S. và S. Shcherbakov, đô vật G. D. Pylnov, vận động viên trượt tuyết L. V. Kulakova, vận động viên bơi thuyền A. M. Dolgushin, các thành viên của đội bóng đá "Dynamo Mynsk", 150 học viên và huấn luyện viên của Học viện Trung tâm Quốc gia Văn hóa Thể chất, cũng như các học viên của các hội Lưu trữ sử học, Chế biến gia công Da thuộc, Địa chất mỏ, Máy công cụ và Y dược Maskva, và Học viện Lịch sử, Triết học và Văn học (MIFLI). Bản lĩnh chính trị vững vàng là điểm nổi bật của các chiến sĩ thuộc “đại đội các triết gia”, một nhóm tác chiến được đặt biệt hiệu như vậy do có các chiến sĩ từng tham gia học viện triết học. Họ là các phụ tá đáng tin cậy của các chỉ huy và chính trị viên ngoài mặt trận và trong việc hoàn thành các nhiệm vụ đặc biệt. Hơn 300 phụ nữ đã trở thành các điệp viên, điện đài viên và y tá trong đơn vị OMSBON, cũng như hàng trăm tình nguyện viên từ nhiều nhóm tỵ nạn chính trị chống phát xít thuộc nhiều dân tộc: người Tây Ban Nha, Bulgaria, Đức, Áo, Ba Lan, Séc, Serbia, Pháp, Nam Tư và Hungaria, tạo thành tiểu đoàn quốc tế của lữ đoàn.

Lữ đoàn được bổ sung lực lượng trong suốt các giai đoạn chiến tranh. Tổng cộng lực lượng của nó lên tới 10.500. Từ tháng Mười 1941, lữ đoàn được chỉ huy bởi Đại tá M. F. Orlov; chính ủy ban đầu là Thiếu tá A. A. Maksimov, về sau là A. S. Maysuradze, là đại biểu của Xôviết Tối cao Liên Xô; chỉ huy bộ phận chính trị là Trung tá L. A. Studnikov. OMSBON bao gồm các ban chỉ huy, hai trung đoàn xạ thủ môtô hóa, các đội hậu cần y tế và nhảy dù, các trường huấn luyện (chỉ huy cấp thấp, điện đài viên và huấn luyện viên chất nổ), và một bộ phận hàng không. Các đơn vị độc lập được thành lập từ những thành viên của lữ đoàn cho các chiến dịch tại mặt trận (có thể lên đến 1000-1200 chiến sĩ), cũng như các đơn vị đặc nhiệm (từ 30 tới 100 chiến sĩ) và các nhóm đặc nhiệm (từ 3 tới 10 người) cho các hoạt động tại hậu phương kẻ thù.

Chương trình huấn luyện chiến đấu bao gồm học tập tác xạ nhiều loại vũ khí khác nhau, chiến thuật chiến đấu, đo vẽ địa hình, kỹ năng định hướng, kỹ năng sử dụng chất nổ, kỹ năng giáp lá cà, tự vệ tay không, nhảy dù, liên lạc điện đài, lái ôtô và môtô và sơ cấp cứu. Ưu tiên đặc biệt là kỹ năng tồn tại và chiến đấu trong điều kiện vùng du kích gian khổ, và khả năng hoạt động độc lập. Việc rèn luyện thể lực cho chiến sĩ được dành khá nhiều thời gian. Việc huấn luyện chỉ huy cấp thấp, huấn luyện viên chất nổ (đã có 534 chuyên viên huấn luyện chất nổ và 5.255 chuyên viên gây nổ được đào tạo), lính nhảy dù (hơn 3.000 người được huấn luyện kỹ thuật nhảy dù), điện đài viên và chuyên viên đặt mìn được tổ chức chặt chẽ.

Việc đưa các đơn vị đặc nhiệm OMSBON vào vùng hậu phương địch được thực hiện bởi các phi công của Trung đoàn không quân tầm xa số 101, do Anh hùng Liên Xô V. S. Grizodubova [phụ nữ] chỉ huy. Họ đã tiến hành hạ cánh trên các sân bay của du kích, vận chuyển thương binh, phụ nữ và trẻ em, tài liệu đọat được của quân Đức do các điệp viên và tình báo viên hoạt động bí mật, và các tù binh sĩ quan Đức về Maskva. Đối với phi công của trung đoàn này và bộ phận không quân của OMSBON, việc thực hiện các chuyến bay vượt chiến tuyến dài hơn 1.000 kilômét là chuyện bình thường. Trường điện báo và đại đội thông tin liên lạc huấn luyện các điện đài viên nam nữ cho công tác duy trì liên lạc điện đài với Trung tâm và các sở chỉ huy phương diện quân và thực hiện các nhiệm vụ độc lập. Theo cách đó, một cựu học viên của ban sử học của học viện MIFLI, điện đài viên G. N. Yefimova, đã thực hiện các nhiệm vụ trong suốt một năm tại vùng Novorossiysk đang bị bọn phát xít chiếm giữ.

Công tác chuẩn bị về tư tưởng chính trị chiếm vị trí lớn trong quá trình học tập huấn luyện của các thành viên OMSBON. Tờ báo của lữ đoàn “Chiến thắng về tay Chúng ta” được xuất bản. Số đầu tiên ra đời ngày 7 tháng Mười Một năm 1941. Tổng biên tập là A. G. Trugmanov, một nhà báo làm việc cho các tờ “Izvestiya” (Tin tức) và “Komsomolskaya Pravda” (Sự thật Komsomol), và trên đài phát thanh Toàn Liên bang. Phụ trách mục thi ca của OMSBON - S. P. Gudzenko và Yu. D. Levitanskiy, phần bài viết là I. Yu. Davidov, và tranh minh họa là O. I. Tsinovskiy (về sau là nghệ sĩ công huân của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xôviết Nga) cùng các đầu đề do các nhà thơ của lữ đoàn đặt được in trên tờ báo. Các tranh biếm họa của họ rất nổi tiếng. Nhiều bức đã xuất hiện trên các tờ báo sư đoàn được tái đăng trên bảng tin của Thông tấn xã TASS, thậm chí một số còn được đưa lên các ấn phẩm đặc biệt. V. M. Kozhevnikov, A. A. Surkov, A. T. Tvardovskiy, I. G. Ehrenburg, và D. Ibarruri đã xuất hiện trên các trang báo này. Các chiến sĩ, chỉ huy và sĩ quan chính trị của lữ đoàn là các phóng viên chính của tờ báo. Ngày 12 tháng Hai năm 1942, tờ "Pravda" (Sự thật) đã đặc biệt ghi nhận kinh nghiệm đạt được của tờ báo Hồng quân “Chiến thắng về tay Chúng ta”.

(còn tiếp)


Tiêu đề: Re: Sự hình thành OMSBON – Lữ đoàn môtô hóa đặc nhiệm độc lập trong WW2
Gửi bởi: danngoc trong 11 Tháng Bảy, 2008, 01:08:36 pm
Cuối tháng Tám năm 1941, OMSBON bắt đầu đưa các đơn vị đặc nhiệm và các nhóm đặc nhiệm vào hậu phương quân địch. Đơn vị chiến đấu của V. L. Neklindov là một trong những đơn vị đầu tiên vượt qua chiến tuyến. Bắt đầu gần như đồng thời là một cuộc đột kích vào hậu phương địch của đơn vị có tên Mitya của D. N. Medvedev, kéo dài suốt nhiều tháng. Việc thành lập vùng du kích Bryansk về sau này đã được đặt nền móng bởi chính các họat động chiến đấu và chính trị tư tưởng của đơn vị này (chính ủy G. N. Kulakov). Đơn vị đã tiến hành hàng chục chiến dịch tác chiến thành công, và vào tháng Giêng năm 1942, sau khi đã phát triển gấp mười lần, đã trở về Maskva. Ngày 12 tháng Hai cùng năm, tờ Pravda đã đăng: "Đơn vị du kích do D. Medvedev chỉ huy đã trờ về từ sâu trong hậu phương địch. Đơn vị này đã di chuyển vùng lãnh thổ do kẻ thù chiếm đóng trong suốt bốn tháng trời, và trong thời gian này đã hoàn thành nhiều chiến công vẻ vang”. Những người tham gia cuộc đột kích này về sau đã thành nên nòng cốt đơn vị mới của D. N. Medvedev - "Pobediteli" [Những người chiến thắng] dẫn dắt bởi chính ủy S. T. Stekhov, hoạt động tại Ukraina trong suốt hai năm. Sau đó, vị chỉ huy đã thuật lại họat động của cả hai đơn vị này trong cuốn sách của mình "Silnyye dukhom" (Tâm hồn xanh-LTD) và "Eto bylo pod Rovno" (Nơi đây đã từng là Rovno-LTD). Điện viên huyền thọai N. I. Kuznetsov đã hòan thành các nhiệm vụ Tổ quốc giao cho khi là thành viên của đội Pobediteli thời kỳ 1942-44. Việc thành lập các đơn vị và các nhóm khác cũng được thực hiện vào mùa thu năm 1941.

Tháng Mười năm 1941, khi Maskva bị tuyên bố là đang trong tình trạng bị phong tỏa, OMSBON tạm thời trở thành thành phần của vành đai phòng thủ thủ đô và tham gia chiến đấu ở ngoại ô Maskva. Vào đêm 16 tháng Mười năm 1941, cả hai trung đòan của OMSBON, lúc này đóng ở hai quận Mytishchin và Pushkin, được đặt trong tình trạng báo động và tái bố trí tại Maskva. Sở chỉ huy lữ đòan nhận được lệnh "Chuẩn bị phòng thủ các khu vực Quảng trường Sverdlov, Red, Mayakovskiy và Pushkin..., bảo vệ trật tự cách mạng tại các khu phố xung quanh”. Chiến sĩ của lữ đòan đã chuẩn bị để phòng thủ các khu vực: từ Quảng trường Dzerzhinskiy (tức khu Lubyanka, nơi có trụ sở NKVD – LTD) tới khu nhà ga "Maskva-3" thuộc tuyến đường sắt Yaroslav; và khu từ Quảng trường Pushkin tới nhà ga Krasnaya Presnya thuộc tuyến đường sắt phía Tây. OMSBON đã tiến hành tuần tiễu, tham gia xây dựng tuyến phòng thủ, chuẩn bị các phương tiện quan trọng để phá nổ và tiến hành trinh sát và các họat động nghi binh trong khu vực Maskva, Kalinin, Tula và Ryazan.

Cũng trong tháng Mười 1941, Hội đồng Dân ủy của Quân khu Maskva đã thông qua một quyết định liên quan tới việc xây dựng một khu rào chắn liên tục tại vùng ngoại vi Maskva. OMSBON đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện điều này. Chi đội hỗn hợp của Thiếu tá M. N. Shperov gồm 1.100 người (gồm 11 đơn vị) được phối thuộc vào Phương diện quân phía Tây và tham gia thực hiện các bãi mìn tại khu vực Mozhaysk, Naro-Fomin, Tula, Podolsk, Volokalamsk, và vùng lưỡi liềm Ostapov, khu vực phía nam của Phương diện quân Kalinin, và tại những vùng từ Klin tới Solnechnogorsk và từ Rogachev tới Dmitrov. Từ tháng Mười tới tháng Mười Một năm 1941, OMSBON đã hoàn tất việc chuẩn bị phá hoại 67 kilômét quốc lộ và 19 chiếc cầu, gài 12.000 quả mìn chống tăng và 8.000 quả mìn chống bộ binh, cùng 160 khối bộc phá cỡ lớn. Ba mươi xe tăng địch, hai mươi xe thiết giáp, sáu mươi tám xe chở lính, mười chín ôtô chở sĩ quan và năm mươi ba môtô đã nổ tung bởi các chướng ngại vật này. Ngày 7 tháng Mười Một năm 1941, các lực lượng của lữ đoàn tham gia diễu binh trên Quảng trường Đỏ. Từ đây, con đường của các đơn vị hỗn hợp một lần nữa lại tiến thẳng ra mặt trận.

Trong tháng Mười Một, bọn phát xít tiếp tục tiến công theo hướng Maskva, đơn vị Shperov đã làm nổ tung tuyến quốc lộ Leningrad đoạn từ Zavidov tới Yamuga, cây cầu bắc qua Biển Maskva, và rồi là đoạn từ Yamuga tới Solnechnogorsk. "Đó hoàn toàn là bất ngờ lớn đối với quân thù đang tiến công. Bọn phát xít tiến chậm lại và ùn tắc trên đường". Tái xuất hiện tại khu vực Kênh Maskva-Volga, các đơn vị đặc nhiệm dựng lên các cụm phòng thủ dọc bờ phía đông ngay dưới làn đạn kẻ thù. Các đơn vị xe tăng Đức đang cố gắng chọc thủng tới vùng Kashira cũng lọt vào các bãi mìn do chiến sĩ của OMSBON gài. Trong mùa đông 1941-1942, các chiến sĩ OMSBON đã mở những lối đi giữa các bãi mìn cho xe tăng và bộ binh tấn công và dọn sạch các chướng ngại vật. Các chiến sĩ trượt tuyết OMSBON tại khu vực Sukhinichi – gồm các đơn vị đặc nhiệm của Đại úy N. A. Vasin và N. S. Gorbachev, Thượng úy K. Z. Laznyuk và M. K. Bazhanov, tổng cộng 315 người, cùng chiến đấu với các đơn vị Hồng quân khác tại mặt trận và tiến hành trinh sát trong vùng địch hậu.

Ngày 21 tháng Giêng, đơn vị Laznyuk đã nhận nhiệm vụ quét sạch quân địch khỏi làng Khludnevo (vùng Kaluga). Các chiến sĩ của đơn vị đã đánh bật quân phát xít khỏi ngọn đồi bị chúng chiếm giữ, nhưng không được các đơn vị Hồng quân hỗ trợ theo như kế hoạch. Đêm đến, quân địch với lực lượng vượt trội, có xe tăng yểm trợ, đã tấn công ngọn đồi. Các chiến sĩ trượt tuyết đã lập tuyến phòng thủ vòng tròn và chấp nhận trận chiến không cân sức kéo dài hơn bốn tiếng đồng hồ. Những thương binh vẫn chiến đấu tới hơi thở cuối cùng. Khi chỉ còn L. Kh. Papernik, anh đã rút chốt lựu đạn và cho nổ tung bản thân và quân phát xít. Đơn vị Vosin lúc đó đang bảo vệ khu dân cư Popkovo (quận Sukhinichi). Ngày 23 tháng Hai, các chiến sĩ của đơn vị đã phá hủy năm xe tăng phát xít và tiêu diệt gần 150 tên Đức. Trong trận đánh này, người chỉ huy dũng cảm của dơn vị và là vận động viên nổi tiếng G. D. Pulnov cũng ngã xuống tử thương. Đơn vị Gorbachev phòng thủ các khu dân cư kế đó là Chvanovo và Sorochki. Chỉ huy đơn vị đã hy sinh trong trận đánh với quân phát xít, nhưng kẻ thù không thể lọt qua vị trí phòng thủ. Đơn vị Bazhanov nhận nhiệm vụ phải phá hủy một đoạn đường ray trong hậu phương địch cùng với các cây cầu và đường dây thông tin liên lạc. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, đơn vị tiến sâu vào hậu phương địch để thực hiện nhiệm vụ đặc biệt được giao. "Các nhiệm vụ được giao bởi tư lệnh Tập đoàn quân số 10 đã được hoàn thành một cách tài tình, cương quyết và can đảm bởi chiến sĩ của các đơn vị, mặc dù phải vượt qua nhiều khó khăn và mất mát," M. F. Orlov nhận xét. "Tất cả các đơn vị đã nhiều lần phải đối mặt với kẻ thù đông đảo gấp bội”. Họ đã tiêu diệt khoảng 600 binh lính và sĩ quan địch. Lữ đoàn cũng phải chịu tổn thất đáng kể đầu tiên trong những trận đánh nêu trên: chính ủy của lữ đoàn, A. A. Maksimov, bị tử thương; chỉ huy phó lữ đoàn, V. I. Tretyakov, hy sinh; năm mươi tám chiến sĩ và sĩ quan hy sinh, ba mươi lăn người bị thương và ba mươi bảy người mất tích. Hai mươi hai chiến sĩ của đơn vị Laznyuk và Gorbachev được nhận Huân chương Lênin còn L. Kh. Papernik trở thành chiến sĩ OMSBON đầu tiên được phong Anh hùng Liên Xô.

Truyền thống chiến đấu của OMSBON được hình thành lần đầu quanh Maskva. Sau đó, tư lệnh các phương diện quân liên tiếp đề nghị với NKVD hay liên hệ trực tiếp tới sở chỉ huy lữ đoàn để gửi cho họ các đơn vị đặc nhiệm và các nhóm đặc nhiệm. Hoạt động của họ được đánh giá rất cao. Dưới đây là những gì G. K. Zhukov đã viết về đơn vị của V. A. Karasev: "Đơn vị đã tiến hành những cuộc đột kích táo bạo vào các sở chỉ huy, đội hậu cần và các đơn vị độc lập của quân Đức. Trong một cuộc đột kích như vậy, toàn bộ sở chỉ huy của cả một quân đoàn Đức đang hoạt động trên một vùng rộng đã bị tiêu diệt”. Sự kiện này đã xảy ra trong Trận đánh Maskva. Tới cuối tháng Mười Một năm 1941, tại quận trung tâm của thành phố Ugodskiy Zavod (nay là Zhukovo), tám nhóm du kích đã đột nhập và tiêu diệt sở chỉ huy của Quân đoàn Đức số XII thuộc Tập đoàn quân dã chiến số 4. Đơn vị Karasev đã giết được trên 600 lính Đức, đốt cháy gần 100 xe môtô và bốn xe tăng, thu được nhiều tài liệu chứa các thông tin có giá trị. Chiến dịch này đã được thuật lại trong bản tổng kết của Sovinformburo (Có lẽ là Văn phòng Thông tin Xôviết, tiền thân của Thông tấn xã TASS – LTD). Mùa hè năm 1942, một đơn vị hỗn hợp (1.000 người) được gửi tới Phương diện quân phía Tây để xây dựng các bãi mìn và tuyến chướng ngại vật. "Độ chính xác và sự tổ chức tài tình thể hiện qua việc hoàn thành nhiệm vụ được mặt trận giao phó,” thông báo của tư lệnh công binh mặt trận ghi rõ, "là đặc điểm nổi bật của OMSBON. Công tác của OMSBON là sự hỗ trợ to lớn cho mặt trận.”


Tiêu đề: Re: Sự hình thành OMSBON – Lữ đoàn môtô hóa đặc nhiệm độc lập trong WW2
Gửi bởi: danngoc trong 11 Tháng Bảy, 2008, 01:11:09 pm
Trong mùa hè và mùa thu năm 1942, lữ đoàn hoạt động tại Phương diện quân Ngoại Kavkaz. "Liên hệ với điều kiện địa hình tại khu vực Bắc Kavkaz,” Thiếu tướng V. V. Gridnev viết, "tháng Tám năm 1942, các đơn vị của quân đội cần phải có các chuyên gia, chủ yếu là chuyên gia leo núi, có khả năng hoạt động tại địa hình đồi núi và huấn luyện cho các chiến sĩ tại đây ... Lữ đoàn trưởng Đại tá M. Orlov được gửi tới khu vực “nóng” này cùng nhóm chiến sĩ của chúng tôi”. Các đơn vị đặc nhiệm OMSBON đã chứng tỏ năng lực của mình tại các vùng phòng thủ Ordzhonikidze, Groznyi và Makhachkalin, cũng như tại các ngọn đèo của dãy Đại Caucasus. Các chiến sĩ leo núi của Lữ đoàn đã giám sát việc huấn luyện binh lính cho các chiến dịch tiến hành trong điều kiện núi non hiểm trở. Đầu năm 1943, gần 1.000 binh lính và sĩ quan của lữ đoàn đã được gửi đến Tập đoàn quân 70 đóng quanh khu vực Kursk. Sau đó, OMSBON đã hoàn thành nhiệm vụ dọn sạch mìn và chất nổ tại các thành phố vừa được Hồng quân giải phóng, trong đó có Kiev, Kharkov và Gomel.

Tuy nhiên, ngay từ đầu tháng Giêng năm 1942, lữ đoàn đã chuyển hướng ưu tiên qua việc tổ chức và thâm nhập các đơn vị đặc nhiệm, các nhóm đặc nhiệm và các điệp viên đơn lẻ vào vùng địch hậu. Nhiều nhóm như vậy đã hoạt động trong suốt hơn hai năm hoặc một năm rưỡi. Ngày 23 tháng Hai năm 1942, đơn vị "Vẻ vang" của Đại úy A. P. Shestakov đã vượt qua chiến tuyến và quay về vào hai mươi tám tháng sau. Mãi sau đó nhiều năm, bác sĩ của đơn vị I. Yu. Davidov, mới kể lại về các trận đánh của đồng đội mình. Tháng Ba năm 1942, đơn vị của P. G. Lopatin ("Chú Kolya") được chuyển tới vùng Minsk. Đơn vị đã xây dựng ở đây cơ sở cho đội du kích của vùng Borisov (1942-44). Vào tháng Tư cùng năm đó, đơn vị đặc nhiệm của Thiếu tá S. A. Vaupshasov (Gradov), cũng trở thành hạt nhân của một đội du kích, bắt đầu tiến hành nhiệm vụ của mình tại khu vực Logoysk thuộc vùng Minsk. Trong hai năm, đội du kích này, bao gồm mười phân đội và một lữ đoàn, đã làm trật đường ray 186 đoàn tàu chở người và trang thiết bị của kẻ thù, giết chết hơn 14.000 tên phát xít, tiêu hủy 32 bồn chứa nhiên liệu, 11 xe môtô, 69 xe tăng, 28 khẩu pháo và 6 xe thiết giáp, giết chết 16 sĩ quan cảnh sát, 31 tỉnh trưởng và 1 thị trưởng. Các đội du kích đã thực sự tái lập chính quyền Xôviết trong vùng địch hậu.

Các đơn vị OMSBON sử dụng phổ biến sự hỗ trợ từ dân cư địa phương. Tin tức về sự xuất hiện đội “Những người Maskva” lan nhanh tới những khu rừng và các ngôi làng kế cận. "Sự táo bạo, dũng cảm, đáng tin cậy tuyệt đối và kỷ luật của các chiến sĩ và sĩ quan của đơn vị Chekist đó gây ấn tượng mạnh mẽ đối với dân làng”. Đầu tháng Chạp năm 1942, gần ngôi làng Krevniki thuộc vùng Polotsk, nhóm chất nổ của Ye. A. Teleguyev đã chạm trán với một ổ phục kích của bọn phát xít gần đường ray xe lửa. Đấu súng nổ ra, và các chiến sĩ OMSBON buộc phải rút lui. Họ cố gắng thiết lập căn cứ tại một khu vực khác, nhưng lại đụng phải một tổ tuần tra. Một người dân địa phương đã tới giúp họ. Anh ta dẫn họ tới một khu vực được canh gác lỏng lẻo trên tuyến đường sắt gần một nhà ga lớn và sau đó báo cho họ kết quả của cuộc phá hoại. Mười sáu toa trần chở xe môtô bị phá hủy trong vụ nổ. Một nhóm chất nổ khác dưới sự chỉ huy của một chiến sĩ người Tây Ban Nha lưu vong, Trung úy F. Eskribano (đơn vị đặc nhiệm của Thượng úy D. I. Kuznetsov) cũng gặp tình huống tương tự vào tháng Năm năm 1944. Ba lần nhóm chất nổ cố gắng tiếp cận tuyến đường sắt, và lần nào họ cũng đụng phải bọn phát xít. Và rồi một người địa phương dẫn họ tới gian nhà chính của nhà ga Talka (tuyến Minsk-Bobruysk), vốn không được canh gác cẩn mật như tuyến đường sắt hoặc các chiếc cầu. Trong phút chốc, hai quả mìn (một quả loại chạm nổ và một là loại hẹn giờ) được gài lại. Quả đầu tiên không nổ. Binh nhì Ya. P. Fokin, người đã gài quả mìn này, quay trở lại vào đêm hôm sau để kiểm tra. Nhóm chiến sĩ gây nổ đi tới nhà ga theo đúng con đường cũ, và chuyên gia gây nổ đã sửa lại được sai lầm của mình. Tới rạng đông, hai tiếng nổ dữ dội nối tiếp nhau. Hai đầu máy, mười sáu toa trần chở pháo dã chiến cùng mười bốn toa trần khác chở xe tăng bị phá hủy.

Như thành thông lệ, những thanh niên địa phương nào được biết về sự xuất hiện của đơn vị “Những người Maskva” đều cố gắng bắt liên lạc hoặc gia nhập đội. Do nhiệm vụ cho phép thực hiện điều này, đơn vị mau chóng lớn mạnh thành một đội du kích. Theo cách đó, đơn vị của Thượng úy I. M. Kuzin, vốn thâm nhập hậu phương địch từ tháng Giêng năm 1942 và hoạt động trong quận Borisov thuộc vùng Minsk suốt 8 tháng trời, đã phát triển từ 36 người thành một đơn vị 900 người. Ban chỉ huy của nó đã thiết lập liên lạc với tổ chức bí mật vùng Orsha, và nhóm của K. S. Zaslonov tiếp tế vũ khí đạn dược cho đội và giúp đội xây dựng liên lạc với Maskva. Việc bố trí các đơn vị OMSBON được lập kế hoạch trước hết để đảm bảo việc tiến hành thành công các chiến dịch của họ. Lấy ví dụ, đơn vị của Đại úy G. M. Khvostov, “Nhà cải cách”, được bố trí trên vùng địa hình đặc biệt Uznosh-Mokh (tam giác Smolensk-Vitebsk-Orsha), và chi phối các tuyến đường sắt và quốc lộ quan trọng. Cũng đóng tại chính khu vực này là sở chỉ huy của Army Group Center, sở chỉ huy địa phương của Đội 103 thuộc Tình báo quân đội Đức Abwehr đóng quanh cầu Krasnyy Bor và trường đào tào điệp viên và chuyên viên phá hoại đóng tại nhà ga Katyn. Đơn vị này cung cấp thông tin vô cùng giá trị cho Sở chỉ huy Phương diện quân Phía Tây và Maskva, đồng thời các chuyên viên chất nổ của đội thường xuyên làm gián đoạn liên lạc của kẻ thù.

(ct)


Tiêu đề: Re: Sự hình thành OMSBON – Lữ đoàn môtô hóa đặc nhiệm độc lập trong WW2
Gửi bởi: danngoc trong 11 Tháng Bảy, 2008, 01:12:54 pm
Từ mùa xuân năm 1942, các chiến dịch của lữ đoàn bắt đầu được tiến hành môt cách có hệ thống hơn, trên những vùng lãnh thổ quan trọng. Những cuộc đột kích vào hệ thống giao thông liên lạc của địch gia tăng đáng kể về quy mô. Theo đó, từ 28 tháng Ba tới 10 tháng Năm năm 1942, 7 đơn vị OMSBON với tổng cộng 259 người đã hoạt động trên tuyến đường sắt từ Dorogobuzh tới Smolensk, từ Smolensk tới Vitebsk và từ Smolensk tới Orsha, gài đặt 70 quả mìn, phá hủy tuyến đường tại 18 đoạn, phá nổ 3 cây cầu, làm lật 11 đoàn tàu, và làm gián đo ạn giao thông đường sắt trong suốt 20 ngày. Đánh giá cao các hoạt động này, Tư lệnh Phương diện quân Phía Tây, G. K. Zhukov, đã giao cho bộ chỉ huy lữ đoàn các nhiệm vụ mới: đánh phá một số tuyến đường sắt, xác định lực lượng địch được vận chuyển trên những tuyến đường này để tập trung trước Phương diện quân Phía Tây và trinh sát lực lượng địch bố trí giữa vùng Minsk, Bobruysk, Vitebsk, và Gomel. Các đơn vị của f S. A. Vaupshasov, A. M. Rabtsevich, P. G. Shemyakin, A. P. Shestakov, A. N. Shikov, S. A. Kaminskiy, và N. D. Matveyev đã hòan thành thắng lợi các nhiệm vụ này.

OMSBON đã tham gia các chiến dịch du kích quan trọng nhất của thời kỳ 1943-44. Trong số đó có một địa điểm đặc biệt từng được chọn trong cuộc “chiến tranh đường sắt” năm 1943, khi hầu hết các những tuyến đường sắt có tính quan trọng chiến lược của địch tại Byelorussia và Bắc Ukraina bị vô hiệu hóa ngay trước khi bắt đầu trận Kursk. Tại một số khu vực, hoạt động phá hoại còn đi kèm việc tiêu diệt những đồn bót phát xít. Theo cách đó, đơn vị của Ye. I. Mirkovskiy, sau khi tiêu diệt lực lượng địch tại nhà ga Radcha (tuyến Chernigov-Ovruch), đã tiếp tục phá hủy nhà ga và một đoạn đường sắt. Các đơn vị của S. A. Kaminskiy, N. D. Matveyev và A. N. Shikhov đã giành được những thắng lợi tương tự, phá hủy các trung tâm đường sắt tại Gomel và Unecha. Sau đó, Tư lệnh mặt trận K. K. Rokossovskiy đã đề nghị Dân ủy Nội vụ Liên Xô "hỗ trợ nhiều hơn cho Phương diện quân Byelorussian bằng cách gửi những đơn vị trinh sát-phá hoại vào hậu phương địch để phá hoại mạng lưới giao thông và phá hủy những tuyến đường sắt vận chuyển quan trọng.” Và các đơn vị của A. N. Shikhov (lần thứ hai), D. I. Kuznetsov, và D. P. Raspopov, vốn đã tham gia hỗ trợ phương diện quân vào năm 1944 trong thời gian tiến hành Chiến dịch Bagration, đã mau chóng được gửi tới. Sau đó, K. K. Rokossovskiy tóm tắt các hoạt động của đơn vị của A. P. Shestakov như sau: "Đơn vị đóng tại vùng có tuyến đường sắt Bryansk-Gomel, và trong suốt một thời gian đã khủng bố tinh thần bọn Đức tại khu vực này và cung cấp những thông tin rất có giá trị cho chúng tôi.” G. K. Zhukov cũng hết sức ca ngợi hoạt động của đơn vị của V. A. Karasev.

Kinh nghiệm của cuộc “chiến tranh đường sắt” đã được khai thác trong mùa hè năm 1944. Trong các đêm 19-20 tháng Sáu, các chiến sĩ du kích đã khiến hầu hết các tuyến đường sắt tại Byelorussia phải ngưng hoạt động. Các chiến sĩ chất nổ của OMSBON thuộc các đơn vị của M. S. Prudnikov, A. P. Shestakov, I. F. Zolotar, S. A. Vaupshasov, A. N. Shikov, D. I. Kuznetsov, D. P. Raspopov, F. F. Ozmitel và B. L. Galushkin đã tham gia chiến dịch này trên các tuyền đường sắt từ Baranovichi tới Minsk và Borisov, từ Minsk tới Osipovichi và Bobruysk, từ Brest tới Baranovichi, từ Brest tới Pinsk, và từ Polotsk tới Vitebsk. Các nhóm hoạt động bí mật do đội Gradov thành lập tại các thành phố của Byelorussia đã tiến hành năm mươi hai hoạt động phá hoại quy mô lớn. Trong thời gian từ tháng Giêng tới tháng Bảy năm 1944, đơn vị “Khó bị bắt” đã làm lật 103 chuyến tàu, phá nổ 10 cây cầu và tiêu diệt 5.000 tên Đức. Chúng ta chỉ đề cập một trong những hoạt động của các điệp viên của lữ đoàn. Đon vị của P. G. Lopatim, trong khi tham gia hoạt động bí mật đầu mùa hè năm 1943, đã bắt cóc K. Krug, thành viên của phòng tình báo thuộc ban tham mưu không quân của Cụm Tập đoàn quân Trung tâm. Viên sĩ quan này đã cung cấp thông tin về kế hoạch tấn công của bọn phát xít tại khu vực vòng cung Orel-Kursk, và nơi bố trí của ba mươi hai sân bay tiền phương và trạm radio điều phối các phi vụ ném bom. Các chiến sĩ của chính đơn vị này đã bắn hạ một máy bay, trên đó có viên đại diện của chính Hitler đang bay tới mặt trận mang theo mệnh lệnh về chính chiến dịch này.

Các thành viên OMSBON cùng chia sẻ tất cả nỗi vất vả thiếu thốn khi cùng sống trong rừng với các chiến sĩ du kích: đói, lạnh, bị bao vây, bị ném bom và bệnh tật. Nhiều người đã bị bệnh sốt nóng, bị nấm chàm đầm lầy và bị giá rét rụng mũi và chân tay. Ở đấy thậm chí không có đủ điều kiện sơ đẳng cho việc chữa trị, không có thuốc mê hay thuốc sát trùng và thiết bị giải phẫu. Mặc dù thế, I. Yu. Davidov, bác sĩ của đơn vị A. P. Shestakov, đã tiến hành nhiều ca phẫu thuật phức tạp. Đặc biệt là cuộc phẫu thuật đã cứu sống binh nhì A. I. Zevelov (hiện là giáo sư và tiến sĩ sử học). Chỉ huy của đơn vị, K. P. Orlovskiy, đã thể hiện sự dũng cảm tuyệt vời. Trong một trận đánh, một quả đạn cối nổ tung trong bàn tay anh và anh cụt mất một đoạn tay cho đến khủyu và tòan bộ cánh tay kia. Cần tiến hành phẫu thụât khẩn cấp, nhưng dụng cụ duy nhất có được là một chiếc rìu. Để khuyến khích người bác sĩ, chính Orlovskiy đã ra lệnh : "Chặt!" Về sau, người chiến sĩ Chekist dũng cảm đó và là Anh hùng Liên Xô đã trở thành chủ tịch một nông trang tại Byelorussia, và trở thành một Anh hùng Lao động Xã hội chủ nghĩa.

Thường là các chiến sĩ OMSBON được giao phó các nhiệm vụ nguy hiểm nhất. Họ phải yểm hộ cho các đơn vị rút lui, bảo vệ những chỗ vượt sông và là nòng cốt cho những nhóm đột kích. Do đó, khi mô tả một trận đánh chống càn trong mùa hè năm 1943 tại vùng rừng Bobruysk, I. F. Zolotar đã viết những dòng sau đây: "Sự hỗ trợ của các xạ thủ súng máy Maskva thuộc các đơn vị của Ozmitel và Galushkin đặc biệt hữu ích trong trận đánh này.” Một năm sau, tháng Sáu năm 1944, cả hai đều chỉ huy những trận đánh they chống càn trong thời kỳ bọn phát xít bao vây vùng chiến khu du kích. Trung úy B. L. Galushkin từng tham gia bảo vệ Leningrad và Maskva, và hai lần đi thực hiện nhiệm vụ đặc biệt trong hậu phương địch giai đoạn 1942-1943. Trong nhiệm vụ thứ ba của mình, anh đã được phân công giữ chức chỉ huy một đơn vị. Trong vùng rừng quanh Bobruysk, anh đã chỉ huy một nhóm đột kích và yểm trợ cuộc phá vây của đơn vị xuyên qua vòng vây của địch. Bị tử thương, anh đã ngã xuống như một anh hùng trong chính trận đánh đó. Thượng úy F. F. Ozmitel cũng chỉ huy một nhóm đột kích trong trận phá vây tại vùng rừng Narovlyan. Làm cho kẻ thù rối loạn, anh đã hai lần chọc xuyên vòng vây và lại chủ động quay trở lại vòng vây, thu hút lực lượng địch ra xa chủ lực của đội du kích. Bị thương, anh đã tự cho nổ tung quả lựu đạn bên mình để tránh bị bắt sống.

Trong khoảng tháng Năm tới tháng Sáu năm 1944, quân địch đã cố gắng tiêu diệt đội du kích trong vùng tam giác Minsk-Slutsk-Osipovichi. Lực lượng đột kích của tuyến phòng thủ du kích là đội của Gradov, nhận được tiếp viện từ Maskva gồm đơn vị đặc nhiệm của M. Kuznetsov (bốn mươi xạ thủ tiểu liên). Họ bảo vệ điểm vượt sông Ptich trong khi chủ lực của du kích và dân địa phương di chuyển khỏi trận cần, và đẩy lùi thành công những đợt tấn công đột ngột của kẻ địch. Ngày cuối cùng của cuộc bao vây của bọn phát xít tại khu vực này là mùng 6 tháng Sáu. Sau khi đẩy lùi mười hai đợt tấn công, các xạ thủ súng máy bắt đầu chọc thủng vòng vây. "Tôi dẫn nhóm xạ thủ súng máy của Dmitriy Kuznetsov đến địa điểm chọn sẵn để phá vây,” Gradov nhớ lại. "Chúng tôi chạm trán kẻ thù mặt đối mặt, và bắn trả lập tức. Quân địch không chịu nổi đòn đánh của chúng tôi và cuốn chạy.” Phần đông những người bị bao vây dồn về khoảng trống vừa được tạo ra và rút lui vời gần như không có thiệt hại.

(ct)


Tiêu đề: Re: Sự hình thành OMSBON – Lữ đoàn môtô hóa đặc nhiệm độc lập trong WW2
Gửi bởi: danngoc trong 11 Tháng Bảy, 2008, 01:14:11 pm
Chặng đường chiến đấu của đội du kích tên gọi danh dự Alexandr Nevskiy, có nòng cốt là đơn vị của V. A. Karasev, chiến đấu tại Ukraina, Byelorussia, Ba Lan, Tiệp Khắc và Hungary, rộng khắp 12.000 kilômét vuông. Đơn vị được gửi đến Ba Lan theo đề nghị của ban lãnh đạo Đảng Công nhân Ba Lan và hoạt động tại đây với sự phối hợp của các đơn vị của Quân đội Nhân dân (Ba Lan) và tổ chức bí mật. Thiếu úy M. M. Petrov đã hy sinh như một anh hùng vào mùa hè năm 1944 tại vùng rừng Janovsky (ngoại ô Lublin). Bọn phát xít liên tiếp tấn công và ném bom vị trí của đội du kích, và rồi đốt cháy cả khu rừng. Sau khi đẩy lùi đợt tấn công thứ mười sáu của kẻ thù, các chiến sĩ của Petrov đã vùng lên đấu lê và chọc thủng vòng vây. Nhưng người chỉ huy đã ngã gục vì một loạt đạn súng máy. Tháng Tám năm 1944, đội của V. A. Karasev được gửi đến Tiệp Khắc của hỗ trợ cuộc khởi nghĩa của người Slovak. Đơn vị cũng chiến đấu cùng đội du kích Hungary của I. Fabra vào đầu năm 1945.

Nhóm hoạt động mười lăm người “Dữ dội” được nhảy dù xuống vùng Berlin vào một đêm tháng Giêng năm 1945. Mỗi thành viên của đội đã có kinh nghiệm trong các chiến dịch trong hậu phương địch. Nhưng giờ đây họ phải hoạt động trong những điều kiện đặc biệt phức tạp, ở ngay ngoại ô của thủ đô quân phát xít. Cuộc xâm nhập của họ tiến hành mà không bị phát hiện. Trước rạng đông, nhóm đã tới được khu rừng gần nhất, tại đây họ trải qua ngày đầu tiên trên đất Đức. Khi trời tối dần, đội tiến sâu hơn vào rừng, nơi có một ngôi nhà đơn độc. Bao vây xung quanh và chỉ tới khi tin chắc rằng chỉ có những dân thường hiền lành sống bên trong, các điệp viên liền tiến vào nhà. Điện đài viên của đơn vị V. G. Rikhter nhớ lại, "Ngồi quanh bàn là rất nhiều phụ nữ, đang dùng bữa. Sự xuất hiện bất ngờ của chúng tôi làm họ phát hoảng. Điều này hoàn toàn dễ hiểu nếu biết được những gì người Đức thường mô tả về quân ta và lối tuyên truyền của Goebbel nhằm thấm sâu sự sợ hãi trong nhân dân Đức đối với sự chiếm đóng của Hồng quân. Và chúng tôi đứng đó, ngay trên ngưỡng cửa... Những người phụ nữ đã bình tĩnh lại đôi chút. Chúng tôi xác định được tọa độ của mình, và mọi chuyện trở nên dễ dàng.” Nhóm đã nhảy dù xuống quận Althorst, cách Berlin 100 kilômét về phía đông bắc. Tại đây nhóm đã hoạt động thành công vào mùa xuân năm 1945, khi mặt trận đã tiến đến gần kề. Trong suốt thời gian, các điệp viên đã chuyển tin qua điện đài về sở chỉ huy về sự bố trí quân địch, vị trí các căn cứ quân sự và việc xây dựng hệ thống phòng thủ trên đường tới Berlin. Một nhóm lớn chiến sĩ OMSBON khác cũng đón mừng Ngày Chiến thắng [Mùng 9 tháng Năm 1945] tại thủ đô Berlin đã bị hạ gục.

Các chiến sĩ của lữ đoàn Bđóng vai trò nổi bật trong cuộc chiến chống bọn dân tộc tư sản ở Ukraina và vùng Baltic. Trong khi tiến hành một nhiệm vụ đặc biệt, đơn vị mang tên danh dự Bogdan Khmelnitskiy (do V. V. Lebed chỉ huy) phải liên tục chiến đấu với bọn phỉ Banderov tại khu vực quanh thành phố Rovno và Polesye. Một nữ điệp viên của đơn vị đã thâm nhập vào bộ chỉ huy của quân Banderov dưới lốt đại diện của một tổ chức thanh niên có khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa và trong suốt một thời gian dài đã thông báo những thông tin về hoạt động dự kiến của các nhóm vũ trang.

Mùa hè năm 1945, ban chỉ huy của OMSBON đã tổng kết kết quả các hoạt động chiến đấu của lữ đoàn trong thời kỳ 1941-1945. Các chiến sĩ của lữ đoàn đã làm lật 1.415 đoàn tàu vận chuyển và 5 đoàn tàu bọc thép của kẻ thù, phá hủy 1.232 đầu máy, 13.181 toa tàu, 145 xe tăng và xe bọc thép, 2.177 xe bánh hơi, máy kéo và xe môtô, phá nổ 148 kilômét đường ray, 335 cầu xe lửa và đường quốc lộ, bắn hạ 51 máy bay, phá hủy 122 đồn lũy và sở chỉ huy, phá hủy 700 kilômét đường diện thoại và điện báo, thực hiện hơn 400 hoạt động phá hoại khác, đối đầu với kẻ thù trong 1.084 trận đánh, giết chết khoảng 137.000 binh lính và sĩ quan địch, xóa sổ 87 tên đại diện chiếm đóng quan trọng và 2.045 tên điệp viên và cộng tác phát xít. Đấy là chưa kể kết quả các hoạt động trinh sát hoặc các đóng góp của OMSBON đối với việc tổ chức các hoạt động du kích.

Hơn 1.000 chiến sĩ và sĩ quan của lữ đoàn đã hy sinh trong khi thực hiện nhiệm vụ. Tổ quốc luôn ghi nhớ những ký ức thiêng liêng về họ. Đường phố của nhiều thành phố Xôviết được đặt theo tên của D. N. Medvedev, N. I. Kuznetsov, L. Kh. Papernik, B. L. Galushkin, và các chiến sĩ Cheka khác. Các tượng đài được dựng tại Maskva cho các vận động viên của OMSBON là D. N. Medvedev và L. V. Kulakov, tại Lvov cho N. I. Kuznetsov, trên cánh đồng Malov (vùng Borisov) cho F. F. Ozmitel và B. L. Galushkin, và tại ngôi làng Khludnevo (vùng Kaluga) cho hai mươi ba chiến sĩ trượt tuyết anh hùng. Một đài kỷ niệm cho P. F. Pilyugin và A. V. Malyugin dựng tại làng Privolye (vùng Smolensk), và một trụ kỷ niệm được dựng trên mộ của A. M. Dolgushin tại Gomelshchina. Tên tuổi của một số anh hùng của lữ đoàn đã trở thành bất tử theo tên của các xí nghiệp, trường học, tổ hợp thể thao, các trụ mốc biên giới và các bảo tàng triển lãm.

Chiến công của các chiến sĩ Cheka được Tổ quốc trân trọng. Danh hiệu Anh hùng Liên Xô được trao tặng cho S. A. Vaupshasov, B. L. Galushkin, V. A. Karasev, N. I. Kuznetsov, P. G. Lopatin, D. N. Medvedev, Ye. I. Mirkovskiy, F. F. Ozmitel, K. P. Orlovskiy, L. Kh. Papernik, N. A. Prokopyuk, M. I. Petrov, M. S. Prudnikov, A. M. Rabtsevich, và A. N. Shikov. Các huân huy chương được trao tặng cho 5.172 chiến sĩ của lữ đoàn, 3.934 người trong số đó là Đảng viên hoặc Đoàn viên Komsomol. Nhiều người được thưởng các huân huy chương của Bulgaria, Cộng hòa Dân chủ Đức, Ba Lan, Tiệp Khắc và Nam Tư. Tờ báo “Chiến thắng về tay Chúng ta” đã viết ngày 27 tháng Sáu năm 1945, "Đơn vị của chúng ta ra đời cùng thời với Cuộc Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại. Đơn vị được thành lập tháng Sáu năm 1941, và cùng hành tiến trên chặng đường vĩ đại từ Maskva tới Berlin. Các nhiệm vụ mà chiến sĩ, hạ sĩ quan và sĩ quan của chúng ta đã tiến hành thật khó khăn và đặc biệt. Trong khi hoạt động sâu trong hậu phương địch, gài mìn trên các con đường dẫn về thủ đô, tiến hành trinh sát ngoài mặt trận, thành lập các đội du kích, họ luôn thể hiện lòng dũng cảm và chủ nghĩa anh hùng, là những mẫu mực tiêu biểu về sự thuần thục quân sự, sức chịu đựng, sự táo bạo... Những đứa con của Đảng của Lenin đã ra trận ngay trong những thời khắc khó khăn nhất của trận đánh. Họ đã dẫn dắt những thanh niên yêu nước vào trận đánh và tới thắng lợi cuối cùng.”

Các cựu chiến binh OMSBON ngày nay vẫn làm việc [bài viết được thực hiện cách đây 25 năm]. Trong số họ có các công nhân, nông trang viên, nhà khoa học, giám đốc các xí nghiệp và cơ quan nhà nước, nhà báo và nhà văn. Nhiều người đã dâng hiến đời mình cho hoạt động của Cheka. Nhiều người được trao tặng huân huy chương vì hành động anh hùng trong lao động, và chuyên gia chất nổ trước đây của đơn vị mang tên danh dự Aleksandr Nevskiy, D. I. Chervyakov, người làm việc trong xưởng máy của Minsk, đã được tặng Danh hiệu Anh hùng Lao động Xã hội Chủ nghĩa. Thậm chí trong thời bình, các chiến sĩ OMSBON vẫn nối tiếp được truyền thống vẻ vang của lữ đoàn mình.


Nguồn :F. L. Kurlat, L. A. Studnikov, "Voprosy istorii", Số 10 năm 1982;
Dịch ra tiếng Anh: James F. Gebhardt
Dịch ra tiếng Việt : Danngoc