Lịch sử Quân sự Việt Nam

Máu và Hoa => Một thời máu và hoa => Tác giả chủ đề:: quanvietnam trong 18 Tháng Mười Hai, 2011, 03:04:28 pm



Tiêu đề: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 18 Tháng Mười Hai, 2011, 03:04:28 pm

CUỘC TẬP KÍCH
          Sau khi hiệp định Pari về Việt nam được ký kết vào ngày 27 tháng 1 năm 1973,chiến sự ở chiến tuyến sông Thạch hãn mấy ngày đầu  lắng dịu hẳn.Ban ngày, hai bên cử những người có trách nhiệm tham gia vào ban Hòa hợp dân tộc và tổ chức gặp nhau ở những chiếc lều bạt được dựng lên ở khoảng giữa trận địa phòng ngự,dọc theo phòng tuyến này đôi chỗ cũng có những cuộc gặp không chính thức của binh sĩ hai bên.Ban đêm,cả hai bên im ắng không có tiếng súng nổ,thi thoảng mới có những quả pháo sáng ở đâu đó được bắn lên sáng rực cả bầu trời.Về đêm không gian im lặng đến khó hiểu.
          Đại đội C20,E95 đang phối hợp với bộ binh K4K5K6 của E95 đang chốt giữ phòng tuyến,từ thôn Đá đứng đến thôn Nhan biều. Gọi là phòng tuyến thế thôi nhưng thực sự : Nếu lấy sông Thạch hãn làm gianh giới,thì có chỗ địch đã đẩy bên ta sát bờ sông,nhưng lại có những chỗ bên ta cắm sâu tới hàng ngàn mét.Thế trận chiếm lĩnh chủ quyền đang ở thế da con Báo và phần nào đang bất lợi cho bên ta,vì sau lưng ta là sông Thạch hãn.
          Thời gian này cả hai bên đang án binh bất động,mọi hoạt động về quân sự đều đi vào bí mật.Tại các điểm sinh hoạt của Ban hòa hợp dân tộc diễn ra rôm rả,các câu chuyện diễn ra đều xoay quanh chủ đề gia đình vợ con, quê quán,thời gian quân ngũ,đồ dùng quân sự,nhu yếu phẩm. Đôi chỗ cũng có những cuộc tranh luận mang chủ đề chính trị,phe theo Liên-xô phe theo Mỹ.v.v.Tất cả những câu chyện ấy đều được tranh luận nhưng không có hồi kết,sau đó lại được chuyển sang những chủ đề khác.Không khí của cuộc đình chiến và tư tưởng tận hưởng hòa bình đã bắt đầu xuất hiện trong binh sĩ hai bên.Cũng đã nghe những câu chuyện phản đối hành quân của binh sĩ quân đội Việt nam cộng hòa,đây đó cũng bắt đầu có sự thuyên chuyển vị trí của các đơn vì này,vì lo sợ đã bị quân giải phóng Miền nam tuyên truyền thuyết phục.Cũng trong thời gian này,Ý thức cảnh giác và giữ dìn bí mật quân sự của bộ đội ta kém,mặt khác cũng do chủ quan xem thường quân địch và thật sự chưa hiểu đầy đủ về âm mưu diễn biến hòa bình của quân địch.Vì vậy địch đã lợi dụng vấn đề này cộng với tư tưởng tận hưởng hòa bình của bộ đội ta để đi sâu vào trận địa “Chốt”của ta để nghiên cứu và tìm hiểu.Việc này dẫn đến sau này chúng ta phải trả giá bằng máu.
          Với âm mưu diễn biến biến hòa bình của quân địch rất thâm độc. Chủ trương của Ban tham mưu trung đoàn 95 là phải bí mật để bắt sống được tối thiểu một tên thám báo của địch để khai thác thông tin.Nhiệm vụ này được giao cho C20 E95 thực hiện.
          Ban chỉ huy đại đội C20 cùng với lãnh đạo các đơn vị thuộc đại đội,họp bàn xây dựng phương án thực hiện.Phương án thực hiện được xây dựng trên nguyên tắc là lợi dụng lúc hai bên đang tham gia Ban hòa hợp dân tộc để phục kích bắt sống.Nhiệm vụ này,ban chỉ huy đại đội C20,thống nhất giao cho tổ ba người, là ba sinh viên trường ĐHXD,nghiên cứu địch tình,lên phương án chiến đấu,xây dựng quyết tâm thư trình lãnh đạo đơn vị phê duyệt,để triển khai.
          Tổ gồm có ba người,đồng chí Hoàng văn Xuân,sinh viên K13 Cầu đường,quê Đức thọ Hà tĩnh làm tổ trưởng.Đồng chí Phạm tề Tọa,sinh viên K15 Máy xây dựng,quê ở Thành Tô Hải phòng làm tổ viên(đồng chí Phạm tề Tọa đã hy sinh sau trận tập kích này ít hôm), Và tôi,sinh viên K13 Cầu đường,quê Yên mô Ninh bình làm tổ viên.Sau khi nhận nhiệm vụ,chúng tôi đã tổ chức mật phục,bí mật theo dõi quan sát mọi hoạt động của quân địch ở khu vực Như lệ.Cũng nhờ có sự kiện đàm phán hòa bình và hòa hợp dân tộc,nên cũng đã có lần chúng tôi theo chân quân địch lấn sâu vào vùng đất do địch chiếm giữ tranh thủ quan sát.Nơi chúng tôi tổ chức mật phục,là bờ ruộng, sau giặng tre gai chắn ngang dài khoảng 50 mét,phía trước là thửa ruộng bỏ hoang chạy dọc theo giặng tre gai.Bờ ruộng phía đối diện cũng có một số bụi tre mọc um tùm nhưng không nối liền vào nhau.Khoảng cách giữa hai bờ ruộng ước chừng 30 đến 40 mét.Phía sau những lùm tre mọc um tùm khoảng 35 đến 40 mét là một cây thân gỗ tương đối lớn,có nhiều cây mọc xung quanh tạo ra vật che khuất rất tốt,sau nữa là trận địa của địch.Quân địch lợi dụng địa hình địa vật này để tổ chức quan sát mọi hoạt động phía bên ta.Bằng cách,từ trận địa của chúng,chúng đi một nhóm đến tập kết ở lùm cây thân gỗ,sau hồi lâu chúng cử 1 đứa  lợi dụng những lùm cây làm vật che khuất tiền nhập lên lùm tre mọc um tùm trước mặt để tổ chức quan sát và thu thập thông tin.Nhóm này khi thì 2 đứa khi thì 3 đứa chưa khi nào chúng đi nhiều hơn.Những ngày mật phục để quan sát và nắm địch tình,cũng như làm quen với địa hình địa vật.Chúng tôi 3 người chia 3 hướng,ngay từ lúc 3 rưỡi đến 4 giờ sáng đã tiền nhập vào bờ ruộng có rặng tre gai chọn vị trí để quan sát và sẵn sàng nổ súng khi cần thiềt.Chúng tôi bắt đầu mật phục từ 4 giờ sáng và rút về sau “Chốt” bộ binh của ta vào khoảng 6 giờ 30 đến 7 giờ tối. Buổi trưa chúng tôi ăn bằng lương khô và bình tông nước đã mang theo.Tín hiệu và hiệu lệnh chỉ huy của chúng tôi,được quy định bằng cách bật thước ngắm của súng,bật hai lần khi nhìn thấy địch,bật bốn lần khi rút về sau “Chốt” bộ binh.Chúng tôi cũng đã hiệp đồng với bộ binh K4 của E95 sẵn sàng yểm trợ khi cần thiết.
                 (  Còn tiếp )





Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: thaiminhhung trong 19 Tháng Mười Hai, 2011, 11:01:36 am
Xin chào bác quanvietam :

Nhân dip bác xây nhà mới, kể chuyện c20 ẹ9 f325 em có " nhời chào người anh em" CCB SV ĐHXD. Bác đã làm rất nhiều thơ hay nhưng đăng ở bên quán nước cổng doanh trại nên giờ đây vãn chỉ là " binh nhì" mong bác tiếp tục viết để nhanh được thăng cấp và anh em được đọc những dòng hồi ức của bác. Chúc bác mạnh giỏi. :D ;D ;D


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: HaHoi trong 19 Tháng Mười Hai, 2011, 04:10:22 pm
Em chào bác! hay quá, thêm một CCB trinh sát của E 325 kể lại những câu chuyện thời đánh Mỹ ở QT.
Chúc bác sức khỏe !


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: chienc3.1972 trong 19 Tháng Mười Hai, 2011, 05:33:51 pm
Chúc mừng bác quanvietnam dựng nhà mới. Mong được đọc nhiều bài viết hay của bác.  Xin hỏi thêm bác về Đồng chí Phạm tề Tọa, sinh viên K15 Máy xây dựng, quê ở Thành Tô Hải phòng. Theo tôi hiểu thì Thành Tô là dùng để chỉ TP Hải Phòng mà (cũng như Thành Nam là để chỉ TP Nam Định, Xứ Đông chỉ Hải Dương, Xứ Đoài chỉ Sơn Tây...vậy có hay không địa danh Thành Tô Hải Phòng? Hay là ý bác định viết "...Thành Tô - Hải Phòng"?
Bọn tôi đã khổ vì đi tìm quê của LS Phạm Thanh Tú: người ta ở Phố Lâm Phước Thọ lại ghi thành Phố Lâm, Phúc Thọ thì có trời mà tìm ra. ;D


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: lexuantuong1972 trong 19 Tháng Mười Hai, 2011, 08:25:51 pm
Chúc mừng bác quanvietnam dựng nhà mới. Mong được đọc nhiều bài viết hay của bác.  Xin hỏi thêm bác về Đồng chí Phạm tề Tọa, sinh viên K15 Máy xây dựng, quê ở Thành Tô Hải phòng. Theo tôi hiểu thì Thành Tô là dùng để chỉ TP Hải Phòng mà (cũng như Thành Nam là để chỉ TP Nam Định, Xứ Đông chỉ Hải Dương, Xứ Đoài chỉ Sơn Tây...vậy có hay không địa danh Thành Tô Hải Phòng? Hay là ý bác định viết "...Thành Tô - Hải Phòng"?
Bọn tôi đã khổ vì đi tìm quê của LS Phạm Thanh Tú: người ta ở Phố Lâm Phước Thọ lại ghi thành Phố Lâm, Phúc Thọ thì có trời mà tìm ra. ;D

@chienc3: Hải Phòng những năm tiền khởi nghĩa và sau CM tháng 8 được gọi tên là thành Tô (thành phố mang tên người CS lỗi lạc Tô Hiệu) cũng như Hà Nội hồi ấy gọi là thành Hoàng Diệu.

@quanvietnam: Xin trân trọng kính chào bác Quân tây đen, người lính trinh sát của c20/e95/f325. Chúng ta lại tiếp tục được bổ sung khoảng trống của e95 trong những năm tháng ác liệt của chiến tranh. Bác quanvietnam cũng giống như TTNL, TV, NT đã đi đến tận cùng của cuộc chiến. Nếu không nhầm đợt quân 27/5/1972 của ĐHXD về c20/e75 có 4 người: Định, Lộc, Tọa và Quân thì Tọa hy sinh, Lộc bị thương ở Tích Tường, Như Lệ và ra Bắc luôn trong năm 1973, Định về sau lên a12 trinh sát kỹ thuật của sư đoàn và chỉ còn mình Quân đi từ QT vào Ban Mê Thuột, Cheo Reo, Phú Bổn, Xuân Lộc, Dầu Giây ...Chắc chắn chúng ta sẽ được bác Quân kể chuyện nhiều.   


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 19 Tháng Mười Hai, 2011, 10:06:26 pm
               Chào bạn quanvietnam. Tranphu341 xin có lời chào và chúc bác luôn vui khỏe. Bài viết của bạn rất hay. Kể về thời kỳ sau khi ký hiệp định Pari. Ta và quân của VNCH đang cài ở thế loang da báo. Nhất là ở vùng Sông Thạch Hãn. Chuyện kể rất gây ấn tượng, háo hức cho TP và ae trong VMH.

               Chúc bạn có nhiều sức khỏe và niềm vui, nhanh nhanh hành quân tiếp!


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tuaans trong 20 Tháng Mười Hai, 2011, 11:48:35 am
Hải phòng có Thành Tô.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: nguyenhuuluanc17 trong 21 Tháng Mười Hai, 2011, 05:19:59 pm
@ quanvietnam,
Chào mừng CCB  quanvietnam tham gia topic Một thời máu và hoa cùng với anh em CCB đã " oánh" Quảng trị. Mong đọc được nhều bài viết của Bác.


CUỘC TẬP KÍCH
         
          Đại đội C20,E95 đang phối hợp với bộ binh K4K5K6 của E95 đang chốt giữ phòng tuyến,từ thôn Đá đứng đến thôn Nhan biều. Gọi là phòng tuyến thế thôi nhưng thực sự : Nếu lấy sông Thạch hãn làm gianh giới,thì có chỗ địch đã đẩy bên ta sát bờ sông,nhưng lại có những chỗ bên ta cắm sâu tới hàng ngàn mét.Thế trận chiếm lĩnh chủ quyền đang ở thế da con Báo và phần nào đang bất lợi cho bên ta,vì sau lưng ta là sông Thạch hãn.
...
          Tổ gồm có ba người,đồng chí Hoàng văn Xuân,sinh viên K13 Cầu đường,quê Đức thọ Hà tĩnh làm tổ trưởng.Đồng chí Phạm tề Tọa,sinh viên K15 Máy xây dựng,quê ở Thành Tô Hải phòng làm tổ viên(đồng chí Phạm tề Tọa đã hy sinh sau trận tập kích này ít hôm), Và tôi,sinh viên K13 Cầu đường,quê Yên mô Ninh bình làm tổ viên.Sau khi nhận nhiệm vụ,chúng tôi đã tổ chức mật phục,bí mật theo dõi quan sát mọi hoạt động của quân địch ở khu vực Như lệ...

@ quanvietnam,
Bổ xung cho Bác  là bên bờ Nam Thạch hãn ta chỉ chốt được ven bờ, Tích tường thì chỉ ở  bãi bồi, " đồi chè" ở Như lệ đánh mãi - tổn thất nhiều chưa chiếm được, Đá đứng cũng tương tự.

Gửi  kèm cho Bác cái bản đồ Tích tường- Như lệ  ( Bác C20-325 cấp)để Bác diễn tả cho sinh động và CCb tiện theo dõi.
 
   (http://farm8.staticflickr.com/7012/6548164359_9a76064b47_b.jpg)[/url]
      Bản đô TT-NL (http://www.flickr.com/photos/63474876@N03/6548164359/)


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 24 Tháng Mười Hai, 2011, 02:11:49 pm


CUỘC TẬP KÍCH(tiếp)
          Sau thời gian 5 ngày bí mật theo rõi tình hình hoạt động của địch và nắm tương đối chắc quy luật hoạt động của chúng.Nhóm chúng tôi xây dựng phương án tác chiến và trình quyết tâm thư lên ban chỉ huy đại đội.Phương án của chúng tôi được đồng chí Hoàng văn Xuân tổ trưởng, trình bầy ngắn gọn: Chúng tôi chia thành ba mũi,mũi ở giữa bí mật tiền nhập thật sát khu vực lùm tre gai mà hàng ngày bọn địch vẫn nằm đây để quan sát và theo dõi mọi hoạt phía quân ta,nhiệm vụ của mũi này là áp sát để bắt sống tên địch ở đây,nếu địch có biểu hiện chống cự thì tiêu diệt luôn.Hai mũi còn lại vòng về phía sau,tập trung hỏa lực tiêu diệt địch ở khu vực cây cao thân gỗ,mục đích là không cho nhóm này chi viện cho tên địch đang quan sát ở phía trước.Nhiệm vụ quan trọng của hai mũi này là nhanh gọn chính xác,không cho bọn địch ở phía sau kịp phản ứng,sau khi xong nhiệm vụ thì quay lại mũi chính diện để khép gọng kìm bắt sống tên địch,nếu mũi chính giữa đã nổ súng tiêu diệt thì các mũi tự rút về sau “chốt”của bộ binh,kết thúc trận tập kích.
          Sau khi nghe chúng tôi trình bầy phương án tác chiến, có rất nhiều ý kiến của các đồng chí lãnh đạo các đơn vị tranh luận, cuối cùng đồng chí đại đội trưởng hỏi lại:
   -Tình huống thứ nhất,nếu hai mũi đánh vào gốc cây cao thân gỗ mà địch vẫn còn sống và chống cự,thì giải quyết thế nào?
   -Tình huống thứ hai,nếu địch ở phía sau nổ súng chi viện cho nhóm này thì giải quyết thế nào?
          Cả hai câu hỏi này chúng tôi cũng đã đề cập đến trong lúc xây dựng phương án,vì vậy chúng tôi đã giải thích cho đồng chí đại đội trưởng hiểu rõ và đồng chí đồng ý với phương án của chúng tôi.Đồng chí chỉ căn dặn thêm:Mọi tình huống đều có thể xảy ra,phương án tác chiến và quyết tâm thư chỉ là yếu tố chủ quan,cần hết sức thận trọng đề phòng các yếu tố khách quan tác động đến trong quá trình thực hiện,điều quan trọng nhất là yếu tố bí mật bất ngờ tiền nhập vào ém quân chờ địch đến để thực hiện phương án.Trận tập kích này tôi sẽ báo cáo với đồng chí tham mưu trưởng trung đoàn,để đồng chí chỉ đạo K4 phối hợp.
          Từ đầu đến lúc này đồng chí chính trị viên đại đội chỉ ngồi nghe,không đưa ra ý kiến nào.Lúc này đồng chí mới phát biểu:
   Tôi hoàn toàn đồng ý với phương án tác chiến của các đồng chí và ý kiến phát biểu của đồng chí đại đội trưởng,tôi chỉ xin bổ xung thêm ba ý kiến nhỏ:
   -Thứ nhất,các đồng chí phải trang bị hỏa lực mạnh nhưng gọn,như B40 hay B41,lựu đạn mỏ vịt điểm hỏa khi rơi xuống để tránh lộ điểm ném v.v.
   Thứ hai,tôi đề nghị đồng chí đại đội trưởng tăng cường thêm lực lượng hỗ trợ từ các trung đội.Đồng thời làm việc với đồng chí trung đoàn trưởng để K4 cử lực lượng yểm trợ khi cần thiết.
   Điều cuối cùng, mong các đồng chí hết sức bình tĩnh,bí mật bất ngờ tránh thương vong.Chúc các đồng chí hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
          Cuộc họp bảo vệ phương án tác chiến và trình quyết tâm thư đã kết thúc,chúng tôi vẫn tiếp tục tổ chức mật phục và chờ lệnh của cấp trên.
    Ngay buổi chiều hôm ấy,chúng tôi ngồi rà soát lại phương án hợp đồng tác chiến,thảo luận lại ý kiến của đồng chí đại đội trưởng và đồng chí chính trị viên đại đội.Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với ý kiến của đồng chí chính trị viên,riêng ý kiến của đồng chí đại đội trưởng chúng tôi đồng ý bổ xung vào phương án: Nếu bọn địch ở gốc cây cao thân gỗ chưa bị tiêu diệt và tổ chức chống cự,thì hai mũi kép chặt gọng kìm kiên quyết tiêu diệt nhóm này.Tình huống địch ở tuyến sau hỗ trợ cho nhóm này,chúng chỉ có thể nổ súng để thị uy chứ không giám tấn công,vì chúng hoàn toàn bị bất ngờ,hơn nữa ngoài chúng tôi ra còn có bộ binh của k4 đang giữ “chốt”.Nếu thực sự cần thiết sẽ đề nghị K4 nổ súng chi viện.
   Thời gian chờ đợi,chúng tôi thấy sao nó dài quá,chúng tôi cảm thấy nóng ruột,có phần lo lắng không biết kết quả sẽ ra sao? Liệu có gì bất trắc xảy ra không?Hàng ngàn hàng vạn câu hỏi cứ xoay quanh đầu ba đứa chúng tôi,chúng tôi cứ tự hỏi và cũng tự trả lời.
   Thế rồi cái gì đến nó cũng phải đến,đồng chí tham mưu trưởng trung đoàn đồng ý cho chúng tôi thực hiện theo phương án đã đề xuất,chọn thời gian thích hợp để thực hiện.
(Còn nữa)



Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 24 Tháng Mười Hai, 2011, 04:37:24 pm
                  Hồi hộp quá! Lại việc đi bắt sống địch để khai thác. Đại đội của Tranphu341 luồn sâu hơn 10km với nhiệm vụ không được tiêu diệt, chỉ được bắt sống bọn Pót ở Bavet 2 hồi đầu chiến tranh BGTN. khi hô " lớt đay lơn". Chúng giơ tay lên rồi....Ù té chạy, khi biết mình không bắn mà có ý định bắt sống. Rồi chúng chạy thì nhanh hơn mình. Vì mình luồn sâu cả đêm đã quá mệt, lại giầy dép, nó thì cứ chân đất chạy. ;D ;D ;D

                  Đến bây giờ TP vẫn nhớ mãi cái trận hôm đó.

                  Chúc các bạn khỏe, có nhiều niềm vui trong mùa Giáng sinh. Để tiếp tục mạch chuyện kỳ thú này!


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: TichTuongNhuLe trong 24 Tháng Mười Hai, 2011, 10:01:37 pm

CUỘC TẬP KÍCH(tiếp)


     Chúc mừng quanvietnam tham gia VMH, thêm một tay súng của 95 cùng với nguyenhuuluanc17, thêm một lính trinh sát. Thấy ấm gáy quá !


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: sonTH trong 25 Tháng Mười Hai, 2011, 06:37:01 pm
Chúc mừng bác quanvietnam dựng nhà mới. Mong được đọc nhiều bài viết hay của bác.  Xin hỏi thêm bác về Đồng chí Phạm tề Tọa, sinh viên K15 Máy xây dựng, quê ở Thành Tô Hải phòng. Theo tôi hiểu thì Thành Tô là dùng để chỉ TP Hải Phòng mà (cũng như Thành Nam là để chỉ TP Nam Định, Xứ Đông chỉ Hải Dương, Xứ Đoài chỉ Sơn Tây...vậy có hay không địa danh Thành Tô Hải Phòng? Hay là ý bác định viết "...Thành Tô - Hải Phòng"?
Bọn tôi đã khổ vì đi tìm quê của LS Phạm Thanh Tú: người ta ở Phố Lâm Phước Thọ lại ghi thành Phố Lâm, Phúc Thọ thì có trời mà tìm ra. ;D

@chienc3: Hải Phòng những năm tiền khởi nghĩa và sau CM tháng 8 được gọi tên là thành Tô (thành phố mang tên người CS lỗi lạc Tô Hiệu) cũng như Hà Nội hồi ấy gọi là thành Hoàng Diệu.
Mình xin phép được nói leo môt chút: Người ta có thể gọi Cần Thơ hoặc Tây đô, Huế hoặc Cố đô... chứ chưa nghe ai gọi Hà Nội là Hoàng Diệu, Hải Phòng là Thành Tô. Hải Phòng, ít nhất trong thập kỉ 80 của thế kỉ trước có địa danh Thành Tô, cụ thể là Nông trường Thành Tô, ở lân cân sân bay Cát bi.

@quanvietnam: Xin trân trọng kính chào bác Quân tây đen, người lính trinh sát của c20/e95/f325. Chúng ta lại tiếp tục được bổ sung khoảng trống của e95 trong những năm tháng ác liệt của chiến tranh. Bác quanvietnam cũng giống như TTNL, TV, NT đã đi đến tận cùng của cuộc chiến. Nếu không nhầm đợt quân 27/5/1972 của ĐHXD về c20/e75 có 4 người: Định, Lộc, Tọa và Quân thì Tọa hy sinh, Lộc bị thương ở Tích Tường, Như Lệ và ra Bắc luôn trong năm 1973, Định về sau lên a12 trinh sát kỹ thuật của sư đoàn và chỉ còn mình Quân đi từ QT vào Ban Mê Thuột, Cheo Reo, Phú Bổn, Xuân Lộc, Dầu Giây ...Chắc chắn chúng ta sẽ được bác Quân kể chuyện nhiều.   


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: chienc3.1972 trong 25 Tháng Mười Hai, 2011, 08:46:09 pm
@SonTH: im hơi lặng tiếng mãi, bây giờ mới quay trở lại mà toàn trích dẫn không hà, chửa biết bác định nói gì. Bọn tôi (tôi và tường cận) đang xú tiến tìm hiểu về quê hương, gia đình, người thân của LS Phạm Thanh Tú. Khi nào biết chắc chắn địa chỉ bọn tôi sẽ hú bác để bố trí đi thăm GĐ LS Tú bác chuẩn bị nhé. Thân.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 28 Tháng Mười Hai, 2011, 10:01:21 am

CUỘC TẬP KÍCH(tiếp theo)
          Buổi chiều hôm ấy,tổ chúng tôi họp lại để phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng người và thống nhất ngày giờ thực hiện.Đồng chí Xuân tổ trưởng,dùng hỏa lực B41,phụ trách cánh trái.Tôi,dùng hỏa lực B40,phụ trách cánh phải.Đồng chí Tọa,sử dụng AK,phụ trách chính giữa có nhiệm vụ áp sát tên địch càng gần càng tốt để bắt hạ vũ khí đầu hàng và bắt sống.Tất cả chúng tôi đều mang theo lựu đạn mỏ vịt US của mỹ,loại lựu đạn ném đi khi rơi xuống mới điểm hỏa để bí mật điểm tấn công. Chúng tôi thống nhất giờ xuất phát vào lúc 18h30,ngay buổi tối hôm ấy.Chúng tôi lao vào chuẩn bị súng ống đạn dược,lựu đạn,cần câu dò mìn,kéo cắt dây mìn v.v,để chuẩn bị xuất phát.
   Chiều,vào khoảng 16h00.Cả ba chúng tôi đã có mặt ở “chốt”bộ binh của K4 để hiệp đồng tác chiến với họ,bởi vì chúng tôi tập kích ở ngoài “chốt” của họ và cũng cần được sự bảo vệ của họ.Do phải mật phục và bí mật luồn sâu,vì thế tất cả chúng tôi đều phải ngụy trang bằng cỏ trông giống như bụi cỏ di động,bên tay trái mỗi người có quấn một băng trắng để khi pháo sáng của địch bắn lên thì nhận ra nhau.
   Ở “chốt” của bộ binh,chúng tôi tiếp tục dùng ống nhòm để quan sát,tình hình địch cũng chưa có gì thay đổi so với mấy hôm trước.Theo phản ảnh của nhóm mật phục thì địch có vẻ chủ quan hơn vì chúng đã hút thuốc ngay tại khu vực chúng quan sát.Chúng tôi đánh giá,tình hình đang diễn biến có lợi cho trận tập kích này.
   Thời gian hai tiếng rưỡi sao trôi đi chậm chạp quá,chúng tôi ngồi bên nhau hết nhìn đồng hồ rồi lại chuyền tay nhau chiếc điếu cày để hút thuốc lào,mọi khi hút là say nhưng hôm nay hút mãi cũng chẳng say,nõ điếu đã nóng ran nhưng chúng tôi vẫn hút.Ngồi dưới giao thông hào,chúng tôi nhìn nhau qua khói thuốc lào không ai nói với nhau điều gì,song ánh mắt đã nói lên tất cả.Chúng tôi im lặng để bước vào trận đánh…
   Lúc này đã là 18h50,hoàng hôn đã buông xuống,dãy đồi quân địch đóng trước mặt đang chuyển dần sang mầu tím.Chúng tôi sốt ruột vì nhóm mật phục chưa trở về để báo cáo tình hình,đây là thời điểm tốt nhất để chúng tôi tiền nhập,bởi vì nếu địch nhìn mắt thường thì không nhìn thấy vì quáng gà,nếu pháo sáng bắn lên cũng không nhìn được vì trời chưa thật tối.Mấy phút sau nhóm mật phục trở về, chúng tôi trao đổi để nắm lại tình hình.Đúng 19h05  tổ ba người chúng tôi xuất phát,trời lúc này gần như tối hẳn hút chúng tôi vào bóng tối sâu thẳm.Phía sau chúng tôi là “chốt” bộ binh đang căng mắt nhìn vào đêm tối và chờ đợi để sẵn sàng hiệp đồng tác chiến.
   Theo đúng quy định,từ “chốt” bộ binh ra khoảng 150m. Chúng tôi tiến theo hàng một theo tư thế đi khom.Đồng chí Tọa đi đầu,có nhiệm vụ vừa đi vừa dò mìn.Đồng chí Xuân đi giữa,có nhiệm vụ cảnh giới hai bên.Tôi đi sau cùng,có nhiệm vụ xóa dấu vết và cảnh giới phía sau. Mỗi người cách nhau từ 5-6 mét.Chúng tôi tiến rất chậm,vì vừa đi vừa phải dò mìn và quan sát nghe ngóng.Lúc này trời đã tối xẫm,thời gian này đang là đầu mùa khô,trời không có trăng nhưng rất nhiều sao,trời xanh đen,lặng gió,thời tiết se se lạnh.Chúng tôi lầm lũi tiến từng bước một.Vào khoảng thời gian này cho tới sáng,bọn địch thường xuyên bắn pháo sáng,nếu như mọi chuyện bình thường thì chúng bắn rải đều dọc phòng tuyến.Nếu chúng nghi ngờ có chuyện gì xảy ra,chúng bắn từng chùm.Đây là loại ánh sáng có công suất cực lớn chúng có thể soi rõ mọi hoạt động đang diễn ra ở dưới mặt đất.Những lúc giao thời của từng loạt pháo sáng,chúng tôi tranh thủ đi,khi nghe tiếng nổ bục bục trên đầu là chúng tôi dừng lại quan sát và nghe ngóng động tĩnh.Mọi việc diễn ra thuận lợi theo đúng dự kiến,đến điểm quy định đồng chí Tọa dừng lại và ra hiệu cho chúng tôi tiến lên,lúc này đã tương đối gần địch,chúng tôi chuyển sang tư thế bò toài như con thằn lằn.Khi tiếp cận được đồng chí Tọa,chúng tôi đã ngửi được mùi khai của các đầu mẩu thuốc lá vứt quanh đâu đó.Chỗ đồng chí Tọa lựa chọn,là bụi tre của bờ ruộng bỏ hoang.Điểm này,quan sát rất rõ vị trí tên địch ngồi quan sát,đồng thời lại có bụi tre vừa là vật che khuất lại là vật che đỡ rất thuận lợi cho mục đích phục kích để tấn công.Chúng tôi hội ý chớp nhoáng,thống nhất hai vấn đề: Một là,nếu gặp địch đi lùng sục thì không được nổ súng.Chỉ nổ súng khi nào bị lộ,nếu bị lộ sẽ chiến đấu đến hơi thở cuối cùng và không để cho địch bắt,bởi vì mỗi mạng sống của chiến sĩ trinh sát đánh đổi 10 mạng sống của lính thám báo và nhiều mạng sống của lính thủy quân lục chiến hay lính dù, chính vì thế bọn địch kiên quyết bắt sống các chiến sĩ AK báng gập(lính trinh sát) để khai thác tình hình bên ta.Tình huống nếu như bị bao vây,phải chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và để lại cho mình một quả lựu đạn,quyết không cho địch bắt sống,bởi vì nếu bị bắt sống chắc chắn sẽ chết,nhưng trước khi chết phải chịu bao cực hình tra tấn.Vì vậy cách tốt nhất là giành riêng cho mình một quả lựu đạn cùng với kẻ địch muốn xông vào bắt sống mình…Hai là,nếu xảy ra theo đúng phương án tác chiến thì bên nào phát hiện ra địch xuất hiện trước được nổ súng trước, bên còn lại chỉ nổ súng khi bọn địch ở gốc cây kháng cự,nếu khoảng từ 3-5 phút sau địch vẫn không nổ súng chống cự thì tiếp tục bồi thêm vào khu vực đó một quả đạn nữa nhầm tiêu diệt triệt để lực lượng địch ở đây,sau đó cả hai phía vừa cảnh giới địch tấn công vừa quay về hỗ trợ cho đồng chí Tọa.Riêng đồng chí Tọa,được phép nổ súng khi tên địch ở đây kháng cự hay bỏ chạy.
(Còn nữa)






Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 28 Tháng Mười Hai, 2011, 01:55:48 pm
             Chào các bác! Chuyện đang đến hồi gay cấn hay quá thì lại phải chờ đợi. Đừng để ae chờ lâu nhé bạn ơi!


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: vetran trong 28 Tháng Mười Hai, 2011, 06:36:18 pm
Các bác chiến binh cứ chơi trò nhâm nhi thế này thì mất hứng quá, mới qua mấy trận, người theo dõi đang máu thì lại chờ. Kể tiếp đi các bác.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 01 Tháng Giêng, 2012, 11:21:46 am

CUỘC TẬP KÍCH(tiếp theo và hết)
          Sau cuộc hội ý chớp nhoáng,đồng chí Xuân tản ra cánh trái,tôi cánh phải,đồng chí Tọa ở lại tìm địa vật củng cố công sự sao cho đảm bảo yếu tố bí mật bất ngờ.Kể từ giờ phút này trở đi,chúng tôi độc lập chiến đấu theo phương án tác chiến đã được thống nhất.Khi chia tay,Chúng tôi nắm tay nhau rất chặt và không nói gì.Không biết đồng chí Xuân,đồng chí Tọa nghĩ gì? Riêng tôi, tôi cảm thấy lo lắng và hồi hộp.Người tôi nóng lên,mồ hôi ướt đầm cả áo,mặc dù thời tiết về đêm cũng khá lạnh.Tôi rùng mình và tự trấn tĩnh lại mình,không cho phép mình mất tập trung.Thời gian lúc này còn sớm,tôi toài từng bước chắc chắn,lợi dụng lúc pháo sáng địch bắn lên,tôi quan sát xung quanh,quan sát về phía đồng chí Xuân xem vệt băng trắng đã tiến tới đâu để tôi điều chỉnh tốc độ cho phù hợp.Tôi cúi gằm mặt xuống sát mặt đất và nhìn ngước lên trời để phát hiện xem có dây mìn chăng ngang không,sau đó tôi dùng cần dò mìn(thực chất là bằng tre vót nhỏ thật mềm dùng để xuyên vào thảm cỏ sau đó nâng lên nếu thấy vướng thì dùng tay kiểm tra nếu là dây cỏ thì thôi nếu là dây đồng hay dây nhựa thì dùng kéo cắt đi) để kiểm tra lại lần nữa khi đó tôi mới bò tiếp.Tôi cứ tiến dần từng bước như vậy trong đêm,tôi bò tới đâu tiếng côn trùng im bặt tới đó.Đêm đã về khuya,không gian im lặng đến ghê người,thi thoảng lại nghe những tiếng nổ lục bục trên trời,địch tiếp tục bắn pháo sáng,mặt đất lại sáng rực lên soi rõ từng lùm cây bụi cỏ,thậm chí có thể nhìn được những con chuột chạy ở bãi trống.Những lúc như thế này tôi tranh thủ nghỉ ngơi và quan sát,tôi gục mặt xuống đất hít hít mùi thơm mốc của đất mùi thơm hăng hăng của cỏ,tôi hít thở thật sâu,không khí lạnh làm tôi tỉnh táo,tôi lấy lại bình tĩnh và tiếp tục bò…Tôi bò men theo bờ thửa ruộng bỏ hoang,lúc này tôi đã đến góc ngoặt của thửa ruộng.Dưới ánh đèn pháo sáng,tôi đã có thể quan sát thấy cây cao thân gỗ.Tôi căng mắt nhìn về phía trước cây cao thân gỗ ở phần thấp,thấy có bụi cây thấp lùn đen xì,không rõ là cây gì.Tôi tính toán trong đầu,chỗ này có thể mai phục được đây.Vì:Thứ nhất,lợi dụng lùm cây để làm vật che khuất để tìm cách quan sát.Thứ hai,khoảng cách từ bụi cây này đến gốc cây thân gỗ cũng không xa khoảng 25-30 mét vẫn phát huy hiệu quả của hỏa lực.Vấn đề còn lại là ở chỗ khi tập kích xong khi rút lui phải vượt qua bãi trống này,việc này chắc là phải thế vì xung quanh không còn chỗ nào tốt hơn và tôi quyết định bò qua bãi trống tiến về phía lùm cây trước mặt.Đến giữa bãi trống,địch lại bắn pháo sáng,tôi dừng lại để quan sát nhìn sang ngang xem đồng chí Xuân đã di chuyển tới đâu.Tôi nhìn thấy vệt trắng ở cách tôi khoảng 50-60 mét,có lẽ lúc này để tôi dễ quan sát,đồng chí Xuân đã chuyển băng trắng sang tay phải nên tôi nhìn khá rõ.Như vậy cả hai chúng tôi đang vượt qua bãi trống,lúc này tôi thấy vững tâm hơn và tiếp tục bò.Khoảng hơn tiếng đồng hồ sau,tôi đã tiếp cận được bụi cây thấp lùn,tôi quan sát và sờ vào bụi cây,dự đoán có thể là những cây Mua,tôi trườn người qua bụi Mua thì phát hiện ra ngay đấy có một ụ đất có thể là một ngôi mộ hay là tổ Mối gì đó.Gặp được ụ đất này thật là may mắn,đúng là trời đã giúp tôi.Tôi vừa có ụ đất là vật che đỡ,lại có những bụi Mua là vật che khuất, tôi quyết định chọn vị trí này để mai phục đêm nay.Lúc này,tôi nằm yên cố gắng lắng nghe những tiếng động,đêm đã về khuya cảnh vật im lặng,chỉ có tiếng côn trùng rỉ rả.Dưới ánh đèn của pháo sáng,tôi nhìn về phía đồng chí Xuân không thấy động tĩnh gì, tôi đoán có lẽ đồng chí Xuân cũng đã tìm được vị trí để mai phục.Tôi nhìn về phía địch,thấy những bụi cây lúp xúp đen xì giống như những tên địch cúi lom khom đang tiến về phía tôi.Bất giác tôi đặt tay vào cò súng.Sau ít phút không có chuyện gì xảy ra,tôi trấn tĩnh lại và thả lỏng người bắt đầu suy nghĩ miên man,tôi nghĩ nhiều lắm nhưng lung tung chẳng cái gì ra cái gì và cuối cùng lại trở lại với thực tại là tôi đang mai phục để tập kích địch.
          Thời gian cứ chậm chạp qua đi, đêm dài quá…Tôi đổi tư thế  nằm mai phục cho đỡ mỏi.Tôi nhìn lên bầu trời tìm sao để định hướng, và nhìn về phía chân trời đằng Đông đã thấy màu sáng nhạt.Tôi đoán lúc này khoảng 3-4 giờ sáng,tôi  lại nằm xuống quan sát và nghỉ ngơi.Bỗng tôi nghe được hai tiếng cạch cạch khi bật thước ngắm súng,đây là tín hiệu của chúng tôi dùng để liên lạc với nhau,tôi nghe ngóng một lát  rồi bật lại trả lời,thế là chúng tôi đã liên lạc được với nhau.
          Trời sáng rõ dần, những làn sương mỏng trắng đục bay là là trên các bụi cây,cảnh vật vẫn im lặng. Tôi quan sát lại chỗ mình mai phục xem đã yên tâm chưa,soát xét lại súng và lựu đạn xem có bất trắc gì.Tất cả đều đầy đủ,sẵn sàng chiến đấu.Tôi tập trung cao độ nhìn vào khu vực gốc cây cao thân gỗ,tôi thấy bụi cây phía sau động đậy,sau đó có ba tên địch mặc rằn ri xách AR15 lom khom chui vào gốc cây.Không hiểu lúc này hướng đồng chí Xuân có quan sát được không?Tôi tiếp tục chờ đợi xem có đúng như mọi khi hay không?Đúng như dự đoán,một tên địch xách súng AR15 rời khỏi gốc cây,lom khom đi theo lối mòn tiến về hướng  bụi tre gai nơi đồng chí Tọa phục kích,chỉ cần tên địch này vào vị trí thì tất cả mọi chuyện đều xảy ra theo phương án đã được tính trước.Quả đúng như vậy,tên địch này đã vào vị trí.Vấn đề còn lại bây giờ là nổ súng,ai bắn trước,tôi hay đồng chí Xuân.Tôi tiếp tục chờ đợi thêm mấy giây nữa,vẫn không thấy đồng chí Xuân nổ súng.Tôi ngắm đúng chỗ mấy tên địch đứng ở gốc cây cao thân gỗ và xiết cò.Một tiếng nổ chát chúa xé toang không gian tĩnh mịch buổi sáng,dưới gốc cây thân gỗ một cột khói xanh của thuốc súng và khói vàng của đất bốc lên. Tai tôi ù đặc có lẽ khi bắn tôi quên há mồm,sau lưng tôi là đám khói của súng B40 khi phóng quả đạn đi,tôi vội vàng di chuyển khỏi vị trí cũ, sang vị trí mới để tránh lộ mục tiêu.Hai,ba phút đã trôi qua,vẫn chưa thấy quân địch phản ứng gì có lẽ là quá bất ngờ đối với chúng nên chưa kịp đánh trả.Lúc này theo đúng hiệp đồng của phương án tác chiến,hướng đồng chí Xuân lại bồi tiếp một quả B41 vào gốc cây cao thân gỗ.Tôi thấy gốc cây bị xé toang,thân cây đổ gục,bụi khói súng lẫn đất bay mù mịt.Có lẽ bây giờ quân địch ở phía sau mới được lệnh nổ súng,chúng bắn M79 và AR15 xối xả về hướng chúng tôi.Khi đó,tôi đang băng qua bãi trống di chuyển về hướng đồng chí Tọa,tôi đã vượt qua rặng tre gai.Trời đã sáng rõ,tôi nhìn sang bên phải về phía sau,thấy đồng chí Xuân cũng đang tiến về hướng chỗ đồng chí Tọa và sắp tiếp cận được bụi tre gai.Địch bắn đuổi theo chúng tôi,đạn AR15 bay vèo vèo trên đầu,đạn cối M79 nổ chát chúa.Bỗng một loạt AK nổ đanh gọn vang lên át tất cả mọi tiếng nổ khác,tôi vội nhìn về hướng đó và chỉ kịp nhìn thấy bóng của tên địch mặc áo rằn ri đang cố tình chạy về,đổ vật xuống.Tiếp theo đó,một loạt đạn AK nữa vang lên cày tung đất chỗ xác tên địch nằm,cái xác vẫn bất động không nhúc nhíc.Lúc này cả ba chúng tôi đã rút về sau rặng tre gai,bọn địch vẫn bắn đuổi theo nhưng không giám xông lên,rặng tre gai là tấm lá chắn cho chúng tôi,bọn địch cứ bắn thoải mái chúng tôi cũng chẳng ảnh hưởng gì.Chúng tôi tập trung quan sát vào cái xác  ban nãy,thấy nó vẫn nằm nguyên không nhúc nhíc chắc là tên địch đã chết.Đồng chí Xuân ra hiệu cho chúng tôi rút về “chốt” bộ binh,tiếng súng của địch cũng thưa dần và chấm dứt.Phòng tuyến của cả hai bên trở lại im ắng,không gian còn vương lại mùi thuốc súng khét lẹt,Mặt trời đã lên cao khỏi lùm cây.
   Chúng tôi về tới “chốt” bộ binh an toàn,đồng chí Tọa kể lại cho chúng tôi và một số đồng chí bộ binh nghe tình huống phải nổ súng tiêu diệt tên địch.Đồng chí Tọa nói: Tôi nằm cách tên địch khoảng độ 15-16 mét hơi chéo về bên trái, tôi nhìn thấy nó nhưng nó không thấy tôi vì tôi ngụy trang bằng cỏ kín hết cả người.Khi nó lên nó vội vàng ngồi thụp xuống quan sát về phía “chốt” không để ý xung quanh.Phát súng thứ nhất,tên địch giật mình quay lại quan sát nhưng chưa hiểu ra chuyện gì,sau đó ít phút là phát súng thứ hai, theo phản xạ tên địch vùng lên bỏ chạy về phía chúng.Lúc đó tôi không kịp hô đứng lại thì tay tôi đã xiết cò,khẩu AK trong tay tôi rung lên và tên địch ngã xuống,sau đó tôi lại bồi tiếp một loạt nữa,chắc là tên địch đã chết.Bây giờ tôi nghĩ lại,tại sao tên địch không nằm im tại chỗ mà lại bỏ chạy về nơi chúng phòng ngự,cũng không quay về hướng súng nổ.Tôi đoán tên địch này hoàn toàn bị bất ngờ do đó theo phản xạ là chạy xa tiếng súng nổ và hướng về nơi có đồng đội trợ  giúp.Ngừng một lát,đồng chí Tọa nói tiếp:Chính vì lý do đó mà chúng ta không bắt sống được nó,như vậy đồng nghĩa với việc chúng ta chưa hoàn thành nhiệm vụ.Chúng tôi nghe xong chưa ai nói gì,mấy đồng chí bộ binh K4 nói ngay: Các ông trinh sát ơi!Bọn thám báo nó liều lắm,nó cũng giống như các ông, nó thà chết không bao giờ để bị bắt.
       Chúng tôi không nghĩ gì về câu nói đó,song thâm tâm cả ba chúng tôi đều buồn.Chiều nay cả ba chúng tôi báo cáo với ban chỉ huy đại đội kết quả trận tập kích.
                                                        Hà nội,tháng 12 năm2011.



Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: chienc3.1972 trong 01 Tháng Giêng, 2012, 12:49:56 pm
@quanvietnam: bác cũng dễ bị khích quá nhỉ, thế là làm một mạch cho xong rồi hạ cánh an toàn à. Theo tôi giai điệu đoạn cuối này có thể chia ra thành 3 đoạn ngoài ra thêm đoạn kiểm điểm nội bộ, cấp trên nhận xét, bình công báo công... ;D. Lại chuẩn bị viết tiếp đi chứ, chưa thôi được đâu bác ạ.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 02 Tháng Giêng, 2012, 10:13:52 pm
              Vâng! chào bạn quanvietnam. Đúng là nếu tiêu diệt địch thì bao giờ cũng dễ hơn là bắt sống địch. Năm 77 khi cuộc chiến tranh BGTN mới xẩy ra. Đ/v TP ĐÚNG RA LÀ CẢ ĐẠI ĐỘI 3. Có n/v luồn sâu cả đêm với quyết tâm là bắt sống 1 nhóm Pót. Bao công lao vất vả nhưng rời cũng không đạt được mục têu. LẠI CÒN BỊ HY SINH 1, BỊ THƯƠNG MẤY NGƯỜI NỮA. TP đã kể bài viết này.

              Cũng khoảng tháng 11/77 Trinh sát của bộ cũng rất thèm bắt được tù binh của Pót để khai thác. Qua theo dõi cũng thường thấy có 2 thằng Pót cứ đi xe đạp mang cơm, nước ra chốt. 2 Đ/c trinh sát kỳ cựu nhận n/v này. Cũng phục kích, dùng gậy chọc vào bánh xe. Dự định đánh chết 1 tên còn định bắt 1 tên. Nhưng sau khi bị ngã xe thằng Pót cũng rất nhanh lộn 2 vòng rồi rút k54 bắn chết 1 đ/c trinh sát rồi vụt chạy mất. Đồng chí Trinh sát thứ 2 bắn được 1 thằng rồi cõng đồng đội rút nhanh. Như vậy n/v cũng ko hoàn thành mà cũng còn bị tổn thất thật đáng tiếc.

                       CHÚC CÁC BẠN VUI KHỎE TIẾP TỤC HÀNH QUÂN VỚI NHỮNG CÂU CHUYỆN LÝ THÚ CỦA MÌNH!


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 07 Tháng Giêng, 2012, 01:41:45 pm


NỞ HOA TRONG LÒNG ĐỊCH
          Sau khi rút khỏi thành cổ Quảng trị,vị trí phòng ngự của ta ở phòng tuyến Sông Thạch hãn rất bất lợi.Dọc sông,từ phía Tây Bắc thành cổ lên đến Đá đứng,bên ta bị quân địch đẩy lùi đến sát bờ sông.Mọi hoạt động quân sự của bộ đội ta lúc này,chủ yếu là sát mép nước và những bãi bồi của sông Thạch hãn.Trong khi đó,âm mưu của quân địch là cương quyết đẩy lui quân ta qua sông về phía bắc sông Thạch hãn và lấy sông Thạch hãn làm giới tuyến tạm thời như sông Hiền lương của những năm1954.Trước tình hình đó,bộ chỉ huy của trung đoàn 95 sư 325,đã chỉ đạo cho các tiểu đoàn bộ binh K4K5K6 và các đại đội trực thuộc kiên quyết bám trụ giữ đất,đồng thời lợi dụng thời cơ để cải thiện vị thế của mình.
    Dạo ấy,tôi là chiến sĩ trinh sát thuộc trung đội 4,C20,E95,F325.Bây giờ,kể lại câu chuyện này.Tôi thực sự không nhớ được đầy đủ câu chuyện này xảy ra bắt đầu từ đâu,lý do như thế nào?Mà lại có cụm từ: Chiến dịch nở hoa trong lòng địch.Tôi chỉ hiểu được,tôi tham gia chiến dịch này nhằm cải thiện vị thế của ta trên dọc tuyến phòng ngự,tạo thành thế da con Báo,địch và ta đan xen nhau để ngăn chặn địch dùng máy bay ném bom B52 tiêu diệt lực lượng ta.Để đạt được ý đồ này, ban tham mưu trung đoàn thấy cần thiết phải cử lực lượng trinh sát luồn sâu vào lòng địch. Mục đích của chuyến luồn sâu này,là nghiên cứu địch tình ở khu vực ngã ba Phước môn.Trên cơ sở đó,sẽ có phương án đưa lực lượng của ta vào chốt giữ để chia cắt đội hình của địch và mở rộng địa thế của ta.Tạo ra thế nở hoa trong lòng địch.
     Nếu tôi không nhầm,thời gian ấy vào khoảng tháng 12 năm 1972. Khi đó,chiều nào chúng tôi cũng có mặt ở “chốt” bộ binh K5 để quan sát tìm kiếm và tổng hợp phân tích các hoạt động của địch ở đây.Rất nhiều ngày tổ chức quan sát,chúng tôi chưa phát hiện ra các hoạt động quân sự nào của địch, thi thoảng mới bắt gặp được vệt bụi vàng bốc lên ở phía ngã ba Phước môn chắc là khói bụi do xe của địch chạy.Tóm lại,rất im ắng và bí mật.Nghiên cứu trên bản đồ,chúng tôi thấy phía trước “chốt” của bộ binh K5 là những thửa ruộng do chiến tranh nên bị bỏ hoang,xa xa là dãy đồi bát úp bao bọc lấy cánh đồng.Khe Như lệ chạy ngoằn nghèo,thượng nguồn khe Như lệ rất gần với ngã ba Phước môn…
          Sau mấy ngày quan sát và nắm tình hình hoạt động của địch ở ngã ba Phước môn,chúng tôi trình phương án và quyết tâm thư lên ban chỉ huy đại đội để xin được luồn sâu vào ngã ba Phước môn.Phương án của chúng tôi nhanh chóng được thông qua,chỉ phải bổ xung thêm một vài  điểm nhỏ cho hoàn thiện.Đồng chí đại đội trưởng nói:
    Đây là nhiệm vụ rất quan trọng mà đồng chí tham mưu trưởng trung đoàn giao cho C20.Nhiệm vụ của các đồng chí là luồn sâu vào ngã ba Phước môn để nghiên cứu địch tình ở khu vực này,các đồng chí phải vẽ và mô tả được về địa hình địa vật,hệ thống công sự hầm hào,các điểm bố trí hỏa lực của địch.Các đồng chí sẽ là những người trực tiếp dẫn trinh sát  và cán bộ tham mưu tiểu đoàn 5 vào nghiên cứu để triển khai.Đi luồn sâu lần này,các đồng chí đặc biệt chú ý hai điểm sau:
     -Thứ nhất,chúng ta đang đi nghiên cứu để chuẩn bị chiến dịch nở hoa trong lòng địch.Vì vậy,chúng ta tuyệt đối giữ bí mật ý đồ,mọi thông tin chỉ trong tổ ba người được biết, thực hiện ba không: không lộ,không nói, không biết.
     -Thứ hai,đây là nguyên tắc và là bản lĩnh của người lính trinh sát.Đi luồn sâu đợt này,không cho phép bị lộ,nếu bị lộ không để bị bắt cho dù ở bất cứ tình huống nào.
     Đồng chí đại đội trưởng hỏi lại:
  - Các đồng chí có ý kiến gì không?
  Tất cả mọi người không ai có ý kiến,đồng chí đại đội trưởng nói tiếp:
   -Các đồng chí hãy chọn ngày lành tháng tốt,giờ đẹp để triển khai,chúc các đồng chí thành công.
          Chiều hôm ấy,thật là bất ngờ cơm đã không bị khê lại còn hơi sống.Ba đứa chúng tôi nhìn nhau,giường như đã hiểu được ý nhau và thống nhất chiều nay chúng tôi xuất phát. Trinh sát chúng tôi thường đi theo tổ tam tam,buổi chiều chúng tôi  cũng thường ăn cơm vào lúc 4h-4h30 để có thời gian khoảng hơn hai tiếng chuẩn bị vũ khí,lương thực và nước uống.Chúng tôi rất kiêng cơm khê,thực tình tôi cũng không lý giải được vì sao, chỉ ngẫm thấy rằng ăn cơm khê sẽ không gặp may mắn.Vì vậy hôm nay thấy cơm sống chúng tôi cảm thấy vui vẻ và chuẩn bị xuất phát ngay để tận dụng vận may này.
          Tổ chúng tôi gồm ba người,đồng chí Trần quốc Toản quê ở Vũ thư Thái bình, chức vụ tiểu đội trưởng là tổ trưởng.Đồng chí Lê hùng Mạnh quê Trần xuân Soạn Hà nội và Tôi là tổ viên.Cả ba chúng tôi thuộc loại cao to của đơn vị,thấp nhất là Tôi 1m70,còn lại Mạnh là cao nhất 1m78,Toản 1m75.Đối với lính trinh sát cao to là rất bất lợi cho việc luồn sâu,bởi vì thân hình kềnh càng không thu nhỏ được diện tích khổ nhất là việc đào hầm trú ẩn.Trong số chúng tôi có Toản là lính cũ được huấn luyện bài bản từ ngoài Bắc có nghiệp vụ trinh sát tinh thông,còn Tôi với Mạnh là lính mới sau này mới được bổ xung.Cả ba chúng tôi đều chưa có vợ,Tôi là sinh viên năm thứ 4 khoa Cầu đường trường Đại học xây dựng,Toản và Mạnh mới tốt nghiệp lớp10.
          Chiều hôm ấy,chúng tôi có mặt ở “chốt”K5 muộn hơn so với mọi khi,lúc đó trời đã lá lem tối,chúng tôi muốn khi xuất phát thì ít người biết nhất,kể cả bộ binh.Theo nguyên tắc,lính trinh sát đi luồn sâu là phải chuẩn bị đầy đủ vũ khí đạn dược,lương thực,nước uống đảm bảo có thể lưu lại từ 2-3 ngày.Ngoài ra,để bảo đảm bí mật nhất thiết phải ngụy trang bằng cách buộc cỏ vào người để khi luồn sâu ban đêm sẽ lẫn vào cỏ cây tránh bị phát hiện.
          Ra đến “chốt”,chúng tôi gặp đồng chí trung đội trưởng chỉ huy bảo vệ “chốt” hôm ấy,đồng chí Toản tổ trưởng nói:
   -Hôm nay,C20 tổ chức luồn sâu để nắm tình hình địch,chúng tôi có thể đi đến sáng mai thì về và cũng có thể chúng tôi ở lại trong đó tới tối ngày kia mới về.Khi chúng tôi về trước chốt,chúng tôi sẽ bật thước ngắm của súng ba lần,sau đó sẽ nhô cao mũ lên ba lần và nói mật khẩu “Tích tường” các đồng chí đáp lại “Tân mỹ”.Nếu đúng mật khẩu các đồng chí cho vào nếu không đúng thì các đồng chí tự giải quyết.Đồng chí Toản nói tiếp:Nếu có sự thay đổi hay thuyên chuyển gì xin các đồng chí nhớ bàn giao lại,vì vấn đề này nó liên quan đến tính mạng.
   Đồng chí trung đội trưởng bộ binh,trong nhá nhem tối nhìn chúng tôi với đôi mắt cảm thông và nói:
   - Đúng là lính trinh sát,các ông sống cuộc đời “giun dế bờ bụi”(ý muốn nói là sống chui rúc như con giun con dế).Thà rằng cứ đằng thằng đánh nhau như chúng tôi đây lại hay,sống chết còn có anh có em.Đằng này các ông lại cứ lần mò đêm hôm chui sâu vào trong lòng địch,nói gở mồm chứ có vấn đề gì xảy ra thì chịu chết chẳng có anh em nào ở đấy mà giúp đỡ.Bộ binh chúng tôi kính phục các ông lắm,các ông cứ yên tâm chúng tôi sẽ bảo vệ các ông.
          Chúng tôi bắt tay nhau để tạm biệt đồng chí trung đội trưởng bộ binh, và nói lời cám ơn.Trước khi xuất phát,đồng chí Toản đề nghị chúng tôi kiểm tra lại lần nữa bằng cách chạy tại chỗ để phát hiện những sai sót.Tất cả đều được chuẩn bị chu đáo.Bóng tối đã bao trùm lên trận địa “chốt”,đây đó đã có những quả pháo sáng được bắn lên,chúng tôi tiến vào đêm tối và được thứ ánh sáng ma quái của pháo sáng soi đường (Còn nữa)





Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 07 Tháng Giêng, 2012, 04:01:12 pm
                  Chào các bác! Chuyên kể của quankhivien thật hấp dẫn. Không ngờ mấy ông dân lính cậu Thủ Đô mà "cũng oánh, cũng chiến" ác nhỉ? Thế mà nhiều đ/v khi nhận lính Hà Nội là cứ chối đây đẩy.

                  Tranphu341 đọc bài bạn kể thật là thích và cảm phục vô cùng! Rất mong đọc tiếp bài của bạn.

                   CHÚC CÁC BÁC NIỀU SỨC KHỎE CÙNG NIỀM VUI TRONG MÙA XUÂN MỚI NÀY!


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: TichTuongNhuLe trong 07 Tháng Giêng, 2012, 09:34:50 pm

NỞ HOA TRONG LÒNG ĐỊCH


     Chào quanvietnam, người đồng nghiệp "giun dế - bờ bụi". Chuyện của bạn rất hay ! Bạn cố gắng kể chi tiết vào nhé !

     Đầu năm 1973, tôi cũng ở Như Lệ cho đến sau ngày ngừng bắn 28/1.

     Xin "su-pooc-te" cái bản đồ

(http://farm8.staticflickr.com/7005/6652872425_5a6e947f87_b.jpg)


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 11 Tháng Giêng, 2012, 01:53:03 pm

NỞ HOA TRONG LÒNG ĐỊCH(tiếp theo)
          Ra khỏi “chốt” của bộ binh chừng 70-80m,chúng tôi tiến rất nhanh bởi vì đây là vùng đất tranh chấp giữa ta và địch do vậy chúng tôi không sợ vướng phải mìn hay lựu đạn do bọn địch cài.Ngoài khoảng cách này là đã thuộc phạm vi đất của địch,chúng tôi tiến chậm hơn vì vừa đi vừa phải dò mìn.Theo phân công tôi đi đầu,có nhiệm vụ dò mìn và quan sát địch ở phía trước.Đồng chí Toản đi giữa,có nhiệm vụ cảnh giới địch ở bên trái và bên phải.Đồng chí Mạnh đi cuối cùng,có nhiệm vụ xóa dấu vết.Việc xóa dấu vết hết sức quan trọng cho công tác luồn sâu,bởi lẽ nếu như chúng tôi không xóa hết dấu vết,bọn địch sẽ phát hiện ra và lần theo dấu vết đến tóm gọn.Công tác xóa dấu vết được thực hiện cẩn thận và tỷ mỷ,phải vuốt lại tất cả những thảm cỏ mà chúng tôi đã bò qua sao cho không để bọn địch nghi ngờ.Rất may là về đêm khi sương xuống cây cỏ lại trở về vị trí và xóa đi các dấu vết mà chúng tôi đã bò qua.
          Kế hoạch của chúng tôi đặt ra: Nếu thuận lợi,đêm nay phải lọt qua trận địa của địch và tiếp cận được khe Như lệ.Sau đó sẽ đi ngược dòng lên gặp ngã ba khe Như lệ rẽ về bên trái đi theo khe suối cạn rồi tìm vị trí thuận lợi đào hầm bí mật nằm lại để quan sát và nghe ngóng tình hình hoạt động của địch ở khu vực ngã ba Phước môn.Vị trí này rất thuận lợi cho việc quan sát và nghe ngóng các hoạt động của địch.Trường hợp đêm nay chỉ vượt qua được trận địa của địch mà trời sáng,thì phải quay lại “chốt”của bộ binh và ngày hôm sau sẽ tiếp tục thực hiện lại từ đầu.Trong hai phương án này,chúng tôi tập chung phấn đấu cho phương án một,nếu vì lý do nào đó bất khả kháng khi đó mới chuyển sang phương án hai.Thực ra khi xây dựng phương án,chúng tôi đã chú ý phân tích chi tiết  các phương án và thấy rằng khả năng xảy ra ở phương án một nhiều hơn.Bởi vì: Nhìn địa thế,từ “chốt” của bộ binh vào hướng ngã ba Phước môn,thấy toàn đồng ruộng bằng phẳng,xa xa mới thấy dãy đồi bát úp thấp lè tè bao bọc.Khu vực này trước chiến tranh chắc là ruộng dãy của dân,khi chiến tranh xảy ra dân đành phải bỏ hoang hóa.Với địa hình này,kết hợp với cục diện của cuộc chiến ở khu vực này.Thì rõ ràng địch đang ở thế tấn công nhằm hất bộ đội ta qua sông Thạch hãn sang bờ bắc.Bộ đội ta đang cầm cự quyết giữ đất ở phía bờ nam.Khi bọn địch đang ở thế tấn công,thì chúng sẽ không có hầm hào công sự kiên cố.Bọn địch chủ yếu chiếm các cao điểm rồi dùng hỏa lực  để phong tỏa các khu vực mà chúng chiếm được,thậm chí có những vùng đất địch phải chấp nhận ban ngày là của chúng ban đêm là của ta.v.v.Xuất phát từ thực tế,chúng tôi nhận định địch sẽ không có các công trình phục kích ở khu vực này,mà chỉ là bố trí các lực lượng tuần tiễu.Vì vậy,việc gặp các trận địa phục kích của địch là ít có khả năng xảy ra,mà khả năng xảy ra nhiều hơn là gặp địch đi tuần và gặp các bãi mìn do địch cài để ngăn chặn trinh sát của ta đột nhập.Tất cả những vấn đề này nếu có xảy ra thì chúng tôi đã có phương án giải quyết, do đó chúng  lựa chọn phương án một và phương án này cũng đã được cấp trên đồng ý.
          Trời đã tối được một lúc khá lâu,chúng tôi  bò vượt qua bãi tha ma.Lúc này chúng tôi đã tiến khá sâu vào vùng địch kiểm soát.Trên trời ánh sáng pháo sáng của địch không bao giờ tắt,chỉ hơi lờ mờ thì lại bừng sáng.Chúng tôi cũng theo nhịp điệu này để tiến quân,sáng thì nghỉ tối thì đi.Chỉ còn vài chục mét nữa là chúng tôi sẽ ra tới thửa ruộng trước mặt, bỗng cần dò mìn của tôi nặng chĩu không nâng lên được.Tôi toài lên một nhịp nữa cho gần hơn để nhìn xem cần dò mìn của mình vướng phải cái gì?Lúc đầu,dưới ánh đèn pháo sáng,tôi nâng cao cần dò mìn lên để nhìn cho rõ,tôi thấy có cả cỏ và cây dây leo vắt qua.Tôi lần từng dây một để loại bỏ dần,cuối cùng còn lại là hai sợi dây,một được bọc nhựa,đường kính 3-5mm,một nữa là sợi dây trần bằng kim loại,đường kính1,5-2,0mm.Tôi lần theo chiều dài của dây thấy cũng có vẻ dài dài.Tôi đấu tranh tư tưởng và không giám cắt hai sợi dây này,một ý nghĩ thoáng qua trong đầu tôi: Có lẽ sợi dây bọc nhựa là đường dây hữu tuyến của địch,còn sợi dây kim loại là dây gì thì chưa đoán ra có thể là dây gì đó mà trước kia dân họ ở đây họ sử dụng bây giờ còn lại và vô tình chúng lại chạy song song với nhau.Tôi nằm rất lâu để suy nghĩ,tôi thấy tự tôi không thể quyết định được.Tôi ra hiệu cho đồng chí Toản bò lên,tôi nói suy nghĩ của tôi cho đồng chí Toản,đồng chí Toản nói nhỏ với tôi:
   -Bây giờ,anh bò lần theo sợi dây sang bên phải độ 10 mét để xem xét tình hình.Tôi cũng bò theo hai sợi dây sang trái như vậy,sau đó chúng ta gặp lại nhau để quyết định.
     Chúng tôi tản ra mỗi người một hướng.Tôi bò chậm rãi,vừa phải dò mìn vừa phải bám sát hai sợi dây,tôi thấy hai sợi dây này bắt đầu tách dần ra và chưa có chiều hướng buộc vào cái gì hay là kết thúc.Tôi bò thêm một đoạn nữa vẫn thấy thế,tôi tạm kết luận đây không phải là dây mìn,dây có bọc nhựa có thể là dây hữu tuyến.Như vậy cả hai dây này không ảnh hưởng đến việc luồn sâu vì thế không nên cắt hoặc làm mất dấu vết mà hãy tìm cách chống lên để chui qua sau đó trả lại vị trí cũ.Tôi quay lại và cũng là lúc đồng chí Toản quay lại,chúng tôi gặp nhau,đồng chí nói:
   -Hướng của anh thế nào? Tôi chưa kịp trả lời anh Toản tiếp:
   -Hướng của tôi vẫn thấy hai dây đi liền với nhau,có những lúc chúng còn quấn lấy nhau.Như vậy tôi nhận định đây không phải là dây mìn mà là dây gì đó không ảnh hưởng đến chúng ta.hãy chống chúng lên như chống hàng rào bùng nhùng dây thép gai.
     Tôi đồng ý với ý kiến nhận định của anh Toản và tôi gật đầu đồng ý, anh Toản lùi lại vị trí và vẫy anh Mạnh lên để trao đổi.Tôi thận trọng dùng những thanh chống bằng tre được chuẩn bị từ nhà ra để chống và tôi chui qua an toàn.Tôi ra hiệu để các anh làm theo tôi,anh Mạnh là người chịu trách nhiệm xóa dấu vết.
(Còn nữa)



Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: dathao trong 11 Tháng Giêng, 2012, 09:50:59 pm
Câu chuyện của bác quanvietnam viết về lính trinh sát hay quá!những kỷ năng của lính trinh sát được bác viết ra thật tỉ mĩ,chi tiết rất hay và dể hiểu.
Phải nói những chuyến luồn sâu của bác và ae trong tổ trinh sát quá là vất vả,nguy hiểm.Luồn sâu mà mà phải bò -trườn một chặng đường dài ,vừa cảnh giác địch lại còn phải lo dò mìn nửa .Bao nhiều đó cũng đủ để thấy công tác trinh sát thật là quá vất vả nguy hiểm.
Thời điểm nầy có phải là vào năm 1972-1973 không hả bác?Tôi còn nhớ hồi đó Ta và VNCH đánh nhau một trận rất lớn để giành lấy thành cổ Quảng trị,không nhớ được vào tháng mấy của năm 72.Cả hai bên đều có thương vong rất lớn.Hồi đó tôi ở Sài Gòn,biết được là có nhiều anh lính VNCH rất sợ bị đưa vào chiến trường Quảng TRị.Có nhiều những anh lính tự thương ở chiến trường để được về nhà bằng cách thò chân ra ngoài công sự và thả lựu đạn...!
Như vậy! bác là người lính tham gia chiến trường khu vực nầy sau trận thành cổ Quảng Trị?


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: vetran trong 12 Tháng Giêng, 2012, 10:04:36 am
Chào bác dathao và bác quanvietnam. các bác nhắc lại thời điểm đó, tôi còn là cậu nhóc học sinh, nhưng sau này tôi nghe người ta nhắc đến "cái cối xay thịt thành cổ Quảng trị" với những chi tiết lạnh người. Rồi cách nay 30 năm được ông bố vợ là sĩ quan hậu cần quân y viện 111 Thanh Hóa cho biết trong cái cối xay đó có xương thịt của người em trai duy nhất của ông, cho đến nay không tìm ra tung tích mộ chí. Xin kính chúc các bác khỏe, vững tay bấm phím cho anh em thưởng thức dòng chảy quá khứ hiện về


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 12 Tháng Giêng, 2012, 10:12:48 am


     Dathao thân mến! Xin được cám ơn Dathao,đã xem và có lời bình.Đúng như Dathao đã biết,sau khi thất thủ Quảng trị.Mỹ -Ngụy mở chiến dịch tấn công để tái chiếm Quảng trị.Chiến dịch bắt đầu từ ngày 28/6/1972 đến 16/9/1972.Câu chuyện mà tôi đang kể,xảy ra vào khoảng trung tuần tháng 12 năm 1972,thành thật xin lỗi Dathao vì tôi không còn nhớ chính xác.Cám ơn.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: nguyenquochung trong 12 Tháng Giêng, 2012, 12:01:16 pm
Bác Quanvietnam ở e95! Nếu được, xin bác kể nốt cả khoảng thời gian 81 ngày trong Thành cổ và quanh thị xã. Các bác sư 325 khác đã kể rất nhiều, nhưng khu vực đánh nhau của các bác ý nằm ở chỗ khác nên trong Thành cổ và thị xã vẫn còn thấy thiêu thiếu. Em cũng tha thiết đề nghị bác đừng ngâm tôm lâu quá để chuyện được liền mạch. Bác thì có thể không sao, còn người đọc thì bứt rứt, ngứa ngáy lắm.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: Đậu Thanh Sơn trong 12 Tháng Giêng, 2012, 02:12:46 pm
Chào bác quanvietnam
Đọc hồi ức của bác làm tôi nín thở, giống như đang đi trườn bò luồn sâu với bác vậy. Bác viết chi tiết và hay quá, các tình tiết thật gay cấn. Đúng là người chiến sỹ trinh sát có một tinh thần và ý chí bằng thép. Tôi cũng có một người bạn thân là lính trinh sát tên là Nguyễn Trịnh Ngọ, cao to đẹp trai, trong chiến đấu xông xáo dũng cảm. Đề bạt lên làm đại đội trưởng thì trong một lần đi trinh sát, bạn tôi đi trước mang ống nhòm, nên khi lọt vào ổ phục kích của bọn Pot trên đường 5 Puasat thì bị hy sinh...
Mong bạn viết nhanh viết đều cho anh em chúng tôi đọc nhé, đang hồi hộp đây.
Chúc bác vui khỏe.
Thanh Sơn F341 Sông Lam


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 14 Tháng Giêng, 2012, 10:30:54 am

                        NỞ HOA TRONG LÒNG ĐỊCH(tiếp theo)
          Lúc này chúng tôi đã ra khỏi làng Như lệ,dưới ánh sáng của pháo sáng và ánh trăng hạ tuần.Trước mắt chúng tôi là cánh đồng cỏ,hay nói đúng hơn là những thửa ruộng bỏ hoang cỏ mọc lút người.Nhờ ánh sáng của pháo sáng và ánh trăng hạ tuần,tầm nhìn xa của chúng tôi trong đêm cũng đạt tới 15-20m.Tôi cứ nhằm thẳng hướng đến suối Như lệ để tiến,bây giờ chúng tôi không bò mà đi khom nên tốc độ có nhanh hơn.Tuy nhiên,mặc dù đã chui sâu vào lòng địch nhưng chúng tôi vẫn phải duy trì việc dò mìn và  quan trọng hơn trong lúc này là công việc xóa dấu vết,đề phòng sáng mai bọn địch đi tuần sẽ phát hiện ra.
          Tôi đã đến sát mép suối Như lệ,đây là con suối tương đối to và sâu,về mùa này chỉ có nước tập trung ở dòng chính,ven hai bên bờ suối tôi quan sát thấy cây cối có chỗ mọc um tùm nhưng cũng có chỗ thưa thớt mấy bụi tre gai.Tôi dừng lại và ra hiệu cho mọi người  tiến lên,cả ba chúng tôi ngồi lại và quan sát hồi lâu.Đồng chí Toản vẫy chúng tôi cụm lại để trao đổi,anh nói:
   -Theo tôi,chúng ta vượt qua suối theo bờ bên kia đi lên gặp ngã ba suối rồi đi vào nhánh bên trái.Nếu chúng ta đi dọc suối phía bên này,tôi sợ rằng hàng ngày bọn địch thường ra đây đi bắt cá hay kiếm rau,nên chúng quen với các lối mòn,nếu chúng ta sơ ý xóa dấu vết không tốt thì chúng sẽ nghi ngờ và dễ bị lộ.Và cũng không loại trừ chúng đặt bẫy.
  Với suy nghĩ của tôi,tôi cho rằng nên đi theo dọc suối.Tôi đề nghị:
   -Chúng ta nên đi theo dọc suối,nước sẽ xóa đi dấu vết của chúng ta,đi theo dọc suối còn có khả năng sẽ tránh được những bãi mìn do địch cài.
   Đồng chí Toản cướp lời tôi và nói:

    -Trường hợp đi ở dưới lòng suối chỉ dùng khi chúng ta đi ở suối đá,hay là suối đất nhưng khi đó nước phải chảy và độ sâu đủ che được vết của những bước chân của chúng ta ở dưới bùn.Tình huống này không nên.
   Đồng chí Mạnh bổ xung thêm:
   -Đi bờ bên kia có thể là an toàn hơn,vì bờ kia là địch ít khi lội sang bởi vì chân đi giầy ngại cởi,nếu chúng bắt cá ở dưới suối thì chúng chẳng leo lên bờ bên ấy làm gì.
          Sau ít phút hội ý,chúng tôi quyết định lội qua suối để sang bờ bên kia.Tôi vẫn tiếp tục dẫn đầu,tôi tìm một chỗ tương đối thoải,không có cây cối chỉ có cỏ mọc ven bờ và tụt xuống.Đây là con suối đất,nước suối chỉ đủ ngập đến thắt lưng tôi,buổi tối nhìn không biết nước trong hay đục tôi dùng hai bàn tay sẽ vục lên nhìn dưới ánh đèn pháo sáng thấy nước cũng trong,lòng suối có cát lẫn bùn đúng như đồng chí Toản nhận định.Cả ba chúng tôi vượt qua suối Như lệ sang bờ bên kia,bờ bên này cỏ cây mọc tốt hơn nhiều mà chủ yếu là loại cỏ tranh.
          Chúng tôi cứ men theo bờ suối,đi lên phía thượng lưu.Tôi đi lom khom mà cỏ tốt ngập đầu,đôi chỗ phải đứng thẳng người để quan sát.Đi tới một khoảng đất rộng toàn cỏ tranh, nằm giữa hai  quả đồi thấp.Tôi dừng lại ra hiệu để đồng chí Toản lên,Tôi nói:
   -Đây có lẽ là thượng nguồn của con suối rồi,trông đất đai bằng phẳng,và cũng không còn những lùm cây  mọc ven suối nữa,sắp sửa chúng ta sẽ gặp đường ô tô.Bây giờ tôi đề nghị dừng lại tại đây,tôi sẽ tiếp tục bò lên đường ô tô.
          Đồng chí Toản ra hiệu cho chúng tôi ngồi nghỉ,rồi đồng chí lại men theo bờ suối đi tiếp.Khoảng 15-20 phút sau đồng chí Toản quay lại nói với chúng tôi:
   -Chúng ta còn cách đường ô tô chừng 200m,từ đây trở lên không còn suối mà chỉ là vệt suối cạn.Vì vậy lợi dụng địa hình khu vực này,chúng ta lùi lại và tụt xuống suối tìm vị trí đào hầm bí mật để ẩn nấp và nghe ngóng tình hình địch hoạt động ở ngã ba Phước môn.Ngày mai các đồng chí phải án binh bất động,không được ra khỏi hầm,mọi sinh hoạt đều ở trong hầm và tuyệt đối bí mật.Tối mai, chúng ta sẽ trinh sát hai quả đồi ở bên trái và bên phải của chúng ta.Việc đào hầm rất quan trọng,các đồng chí chú ý tìm vị trí để đảm bảo bí mất song vẫn có thể quan sát và cơ động được.
   Suy nghĩ một lát,đồng chí nói tiếp:
   -Khoảng cách các hầm khoảng 20-30m,tôi ở giữa đồng chí Quân bên phải,đồng chí Mạnh bên trái.Cần phải đặc biệt chú ý việc thải đất và xóa dấu vết,việc này chỉ cần sơ xuất nhỏ là hậu quả đáng tiếc...Có ai ý kiến gì không?
   Chúng tôi không ai có ý kiến,Đồng chí Toản tiếp:
   -Bây giờ cũng đã quá nửa đêm,vậy chúng ta bắt đầu triển khai.
          Chúng tôi quay lại khoảng 40-50m rồi tụt xuống suối, theo vị trí phân công tôi tìm được một vị trí khá ưng ý.Đoạn này là suối cạn,chỉ có một ít nước chẩy theo khe nhỏ ở phía bên tôi,phía bên kia là bãi cát hay đất gì đó và cũng có một số bụi cỏ mọc thưa thớt ở lòng suối.Từ lòng suối lên đến bờ,cao độ 2,0m.Trên bờ là bụi cây dây leo,không hiểu là cây gì.Mọc um tùm,trùm xuống tận suối.Vị trí này,quá ưng ý đối với tôi,nó đảm bảo được hai yếu tố:Bí mật và bất ngờ .Bất ngờ là tôi chọn đoạn suối khô,trống trải,không sợ bọn địch ra hái rau hay mò cua bắt cá.Bí mật là ở chỗ tôi có cả bụi cây dây leo um tùm che kín.Tôi quyết định chọn vị trí này để đào hầm bí mật.Một lát sau đồng chí Toản quay lại kiểm tra cũng đồng ý việc lựa chọn của tôi.
(Còn nữa)


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: dathao trong 17 Tháng Giêng, 2012, 09:54:29 pm
Bác quanvietnam ơi!
Đã ba ngày rồi không thấy bác lên đây viết bài!có lẻ mấy ngày cận tết khiến cho bác bận rộn quá phải không?Tranh thủ lên nghe bác .Tôi và một số ae đang trông bài viết của bác đây.
Bác viết bài rất chuẩn ,dể hiểu và mô tả tỉ mĩ từng sự việc nên đọc bài của bác viết dể nhập tâm.Vả lại đây cũng là một đề tài nói về chuyện chiến đấu của lính trinh sát,những người lính gan lỳ có kỷ năng chiến đấu rất chuyên nghiệp, ít người viết.Chắc chắn sẻ là một đề tài hấp dẩn!!!
Bác cố gắng lên nghe!tôi đang trông bài viết của bác đó.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 18 Tháng Giêng, 2012, 10:43:30 am

                    NỞ HOA TRONG LÒNG ĐỊCH(tiếp theo)
          Việc đào hầm bí mật của tôi bây giờ thật là đơn giản,tôi tìm cách nâng bụi dây leo lên và nhẹ nhàng chui vào trong bụi.Thấy động,hàng loạt các con vật trú ẩn ở đây bò ra để nhường chỗ cho tôi,có lẽ trên đời tôi sợ nhất là ma sau là trăn  rắn.Nhớ hồi tôi còn nhỏ,khoảng độ 9-10 tuổi gì đó.Có một hôm tôi học bài xong,lúc đó độ 8 hay 9 giờ tối,tôi ra đầu ngõ để tiểu tiện,không biết có đúng hay không đúng,tôi nhìn thấy có người đang đứng ở dưới gốc cây na.Tôi hô: Ai……Rồi chạy vào nhà mới bật ra được chữ: Đấy,đồng thời lúc đó không kìm được,tôi tè luôn ra nhà ướt hết cả quần,nghĩ lại tôi xấu hổ lắm.Hiện bây giờ thì tôi không sợ ma,vì chúng tôi có ba người,cả ba còn đang thức. Vậy thì không ma nào giám trêu chọc tôi cả,có lẽ bây giờ sợ nhất lại là trăn và rắn.Tôi cứ nghĩ đến cái mang của nó bành ra,cái lưỡi có ngạnh  của nó thò ra thụt vào,thổi phì phì,bổ tới tấp để tấn công đối phương là tôi đã lạnh cả người.
   Tôi định thần lại và để chắc ăn hơn,tôi lấy tay rung rung thêm một vài lần nữa,không còn thấy động tĩnh gì,tôi coi như là đã yên tâm và yên trí chui vào.Tôi khẽ khàng nâng từng sợi dây leo,tôi sợ nó bị đứt mai  lá sẽ bị héo khi đó sẽ gây nghi ngờ cho địch,nếu là một vài sợi thì không sao,còn làm đứt cả mảng thì chắc là phải di chuyển chỗ khác.Tôi đã chui hết toàn bộ thân hình tôi vào bụi dây leo, phía trong vẫn tối đen như mực,quay đầu nhìn lại vẫn thấy ánh sang mờ mờ.Tôi lại tiếp tục tiến thêm  chút  nữa gặp ụ đất tương đối cao và to,có lẽ rễ của bụi cây mọc từ ụ đất này,bây giờ tôi cảm thấy tạm được và bắt đầu công tác củng cố.Trong hoàn cảnh này,việc thiết kế một cái hầm kiên cố cho mình là không cần thiết,ở đây yếu tố bí mật vẫn là hàng đầu.Tuy nhiên nếu có được cái hầm vừa kiên cố lại vừa bí mật thì lại càng tốt hơn.Sau ít phút đấu tranh tư tưởng tôi quyết định không đào hầm mà chỉ khoét một chỗ trong ụ đất có thể ngồi lọt.Đất được khoét ra tôi để ngay trong bụi không đem ra ngoài,vì nếu đem ra ngoài lại phải có chỗ đổ thải,việc tìm chỗ đổ thải có thể nói là cực kỳ khó khăn.Vì,đất đào hầm là đất mới,đổ chỗ nào cũng dễ bị phát hiện,chúng tôi thường đổ xuống suối rồi dùng cỏ phủ lên và xóa sạch dấu vết.Hoặc là tìm được bụi cây tương tự như bụi này để đổ đất thải,đổ đất thải đã khó,chuyển đất thải lại càng khó hơn,đi lại nhiều sẽ làm cỏ chết không xóa được dấu vết, nếu để đất vương vãi thì lậy ông tôi ở bụi này sẽ bị phát hiện ngay,vì vậy chúng tôi thường dùng áo hay quần để gói đất và chuyển đi cho khỏi bị rơi,để bảo vệ cỏ không bị giẫm nát chúng tôi khoét thảm cỏ theo bước chân  rồi cất đi,xong việc thì trồng lại.
   Mọi công việc đã xong xuôi,tôi ngồi kiểm điểm lại xem còn phải bổ xung thêm vấn đề gì nữa không? Còn hai việc nữa phải làm,bây giờ có thể làm được một việc là đặt một vài cửa sổ để quan sát.Còn việc nữa tảng sáng mai mói có thể làm được,đó là chờ cho trời sáng để xóa dấu vết còn lại.Lúc nãy quay lại gặp tôi và để kiểm tra vị trí đào hầm,đồng chí Toản đã nhắc và tôi cũng tin là sáng mai đồng chí Toản sẽ kiểm tra tôi lần nữa.
   Bây giờ không biết là mấy giờ?Có lẽ đã quá nửa đêm về sáng.Tôi thấy thấm mệt,bụng cũng đã đói,tôi tựa vào căn hầm mới để hít thở thư giãn.Mùi ẩm mốc,mùi rễ cây thơm hăng hắc dễ chịu, có một giọt nước của một dễ cây nào đó nhỏ xuống cổ tôi chạy dọc theo sống lưng,lúc đầu còn lạnh sau ấm dần lên tạo cho tôi cảm giác buồn buồn sảng khoái.Tôi kiểm tra lại vũ khí trang bị mang theo xem có bị rơi rụng trong khi vận động hay không .Tất cả còn đầy đủ,tôi kiểm tra bình tông nước và túi gạo rang mang theo,đây là nước uống và lương thực cả ngày mai của tôi.Dạo này chẳng hiểu sao đơn vị tôi lại không có lương khô,đi luồn sâu lại phải mang gạo rang,nghĩ cũng buồn.
   Không biết bây giờ đồng chí Toản và đồng chí Mạnh đã xong chưa? Chắc là cũng sẽ cố gắng tìm được vị trí thuận lợi để tránh phải đào hầm, nếu hai ông này mà phải đào hầm thì chắc là chưa xong vì hai ông đều cao to.Nghĩ vậy,nhưng không thể giúp gì cho anh em,tôi tựa lưng vào hầm hai chân duỗi dài thoải mái,thật sự là nghỉ ngơi và lắng nghe tiếng động bên ngoài.
   Đêm đã về khuya,chỉ có tiếng côn trùng rỉ rả, mọi tiếng động đều làm cho chúng im bặt,sau đó lại vang lên đều đều.Theo cửa sổ quan sát nhìn ra ngoài,lúc nào cũng thấy ánh sáng lờ mờ,có lúc thấy rất sáng có lẽ lúc ấy bọn địch bắn pháo sáng ở ngay trên đầu.Tiếc thật, đêm nay lại không được nhìn bầu trời.Về mùa này, đang là mùa khô,trời rất cao,đen sẫm,sao sáng vằng vặc có thể nhìn rõ từng ngôi sao, ánh sáng của những vì sao,của ánh trăng hạ tuần lại điểm thêm ánh sáng của một vài quả pháo chiếu rọi xuống cánh đồng hoang vu của ngã ba Phước môn càng lung linh huyền ảo chứa đầy bí hiểm,chắc là trời đêm nay đẹp lắm…
          Bây giờ tôi không biết làm gì,ngoài việc dỏng tai nghe ngóng các loại tiếng động và phân tích xem nó là tiếng động gì?Tiếng của người hay tiếng của các con thú.Công việc đơn điệu làm tôi dễ  buồn ngủ,tôi ngồi dậy,chắp chân bằng tròn như ngồi thiền để nếu chẳng may có ngủ gật thì đổ ra còn biết lối mà dậy,nếu cứ nằm có khi mệt quá ngủ luôn đến sáng thì không biết chuyện gì sẽ xảy ra.Đêm nay và cả ngày mai nữa thời gian dài quá,lúc nào cũng ngồi ro ró thế này,thật là cực hình tra tấn.Biết làm sao được,đành chịu vậy thôi.Công tác luồn sâu là công tác  nguy hiểm,luôn luôn cận kề với cái chết.Mọi sai lầm đều phải trả giá thậm chí là giá đắt bằng cả tính mạng mình và của cả đồng đội.Vì vậy trong mọi tình huống không cho phép chủ quan coi thường địch.Khi còn ở ngoài cứ,các anh lãnh đạo đơn vị thường nhắc nhở chúng tôi: Lính trinhsát là tai mắt của thủ trưởng,họluôn luôn đi sát với thủ trưởng,thông qua các cuộc giao ban hội họp lính trinh sát hoàn toàn nắm được ý đồ tác chiến của lãnh đạo.Mặt khác,trinh sát bộ binh là người chuẩn bị các trận đánh,vì thế rất thông thuộc đường ra lối vào,lực lượng và hỏa lực bố trí v.v.Tóm lại,lính trinh sát nắm rất nhiều thông tin quan trọng,vì thế bọn địch rất quan tâm đến việc vây bắt lính trinh sát.Trong hoàn cảnh chẳng may bị lộ,lúc đó chúng ta phải chiến đấu đến hơi thở cuối cùng,cương quyết không để bị bắt,khi đã bị bắt cho dù chúng ta có biết hay không biết đều bị chúng tra tấn sau đó chúng đưa lên máy bay trực thăng bay trên đầu và dùng loa phóng thanh bắt xưng tên tuổi chức vụ ở đơn vị nào quê quán ở đâu và đọc một bài kêu gọi các chiến binh Bắc việt đầu hàng v.v. Kết cục xảy ra thế nào chắc mọi người tự hình dung ra.
(Còn nữa)



Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 18 Tháng Giêng, 2012, 11:23:15 am
              Chào bác chủ! Chuyện kể về "nở hoa trong lòng địch"Rất hay đang lôi cuốn cộng đồng. Bạn tả cảnh luồn sâu tiền nhập làm Tranphu341 ngỡ là như chính TP đang kể lại. Rất thực tế nguy hiểm và gian khổ.

              Giá như bây giờ trong sách giáo khoa cũng có những bài viết thế này cho các em đọc, con cháu ta đọc . Hoặc cho 1 vài Ông Bộ trưởng đọc thì ae mình chắc có chế độ đãi ngộ tốt hơn. Vì 1 giờ, 1 ngày ở chiến trường vô cùng dài. Trong khi đó cách tính chế độ thì 1 năm cũng vẫn là 1 năm. Trước kia trong cách tính còn được hệ số 1=1,5 nhưng bây giờ đã bỏ. Thật thiệt thòi cho lính mình!!!!

                CHÚC BẠN LUÔN VUI KHỎE VÀ TIẾP TỤC DÒNG CHẨY KÝ ỨC HÀO HÙNG, GIAN KHỔ CỦA MÌNH!


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: dathao trong 18 Tháng Giêng, 2012, 10:56:10 pm
Bài viết vừa rồi của bác quanvietnam hay quá!từng chi tiết của người lính trinh sát phải làm được bác viết rất tỉ mĩ.Kể cả những suy nghỉ rất thấu đáo về nhiệm vụ của một người lính trinh sát.
Đọc bài nầy của bác tôi mới thấy được sự gian khổ ,sức chịu đựng dẻo dai của người lính TS .Chỉ sức trẻ mới làm được điều nầy.Một đêm bò toài để đến được mục tiêu,tìm vị trí và làm chổ ẩn nấp.Mệt mỏi nhưng vẩn không được ngủ...!Sáng ra còn phải đi trinh sát mục tiêu...!Không có sức khỏe thì không cách gì hoàn thành nhiệm vụ.
Mong bác tiếp tục viết đều tay.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 21 Tháng Giêng, 2012, 10:36:18 am

                        NỞ HOA TRONG LÒNG ĐỊCH(tiêp theo)
          Tôi đang suy nghĩ những ý kiến của lãnh đạo căn dặn chúng tôi,tôi cũng hiểu được.Nhưng tôi chỉ sợ,khi bị lộ thì rứt khoát phải chiến đấu mà trong chiến đấu,vì lý do nào đó mà mình ngất đi và để bọn địch bắt được thì làm sao đây? Tôi rùng mình nghĩ đến tình huống này,Tôi cũng chưa đưa ra được phương án cụ thể, nhưng tôi nghĩ sẽ khó có khả năng xảy ra như vậy,bởi vì chúng tôi là lính trinh sát nên chúng tôi chủ động trong mọi tình huống,hơn nữa chúng tôi biết đang ở giữa lòng địch và đang bị bao vây khả năng thoát thân là khó xảy ra và chắc chắn sẽ bị tiêu diệt hoặc là bị bắt sống,như vậy chắc là chúng tôi giả vờ chết dụ địch vào để cùng chết.Còn nếu như bị ngất đi mà bị bắt lúc đó sẽ tùy cơ để ứng biến,cách tốt nhất vẫn là tự sát.
     Đang suy nghĩ miên man,có một con sóc hay con gì đó chạy ở phía trên đầu tôi để vào đòi tổ.Tôi giật mình,tập trung quan sát,trời tối tôi không nhìn thấy nó.Tôi rung rung bụi cây,thấy động con vật chạy ra ngoài.Không gian im lặng quá, mọi tiếng động trong đêm nghe rõ mồn một.Tôi đổi tư thế ngồi cho đỡ mỏi,tôi xắp xếp việc ngày mai nên làm việc gì trước việc gì sau để tự nhắc nhở mình.Việc đầu tiên cần làm cho sáng sớm ngày mai là chui ra khỏi hầm để xóa hết dấu vết mà đêm qua xóa chưa hết,tiếp theo là quan sát địa hình địa vật xung quanh chọn vị trí để chiến đấu khi cần thiết,sau đó chui vào hầm bí mật.Việc làm thứ hai của ngày mai là lắng nghe mọi hoạt động của địch ở khu vực này,định ra hướng cần phải trinh sát.Việc thứ ba,quan trọng nhất của ngày mai là trinh sát hai quả đồi thấp ở bên cạnh,sau đó sẽ trinh sát tiếp các quả đồi hiện địch đang đóng quân.Việc cuối cùng của ngày mai là tìm đường cũ để rút ra “chốt” của bộ binh.Sau chuyến luồn sâu này,chắc là chúng tôi sẽ rất vất vả và gấp gáp để hoàn thành báo cáo,trên cơ sở đó C20 sẽ báo cáo để trung đoàn còn triển khai các việc tiếp theo.v.v.Nói tóm lại là còn rất nhiều việc phải làm,trước mắt hãytập trung nhiệm vụ của ngày mai…
          Tôi sờ tìm túi gạo rang để ăn,tiếng động sột soạt cũng làm tôi khó chịu,tôi nhẹ nhàng bốc từng dúm gạo cho vào mồm rồi ngậm một lúc cho gạo mềm ra khi nhai nó sẽ kêu bé để còn có thể nghe được những tiếng động khác.Mùi gạo rang thơm phức,tôi sợ có ai ở bên ngoài cũng ngửi thấy,tôi nhai từ từ tận hưởng mùi thơm ngọt của từng dúm gạo rang.Bỗng nhiên tôi thấy nhớ nhà quá,người mà tôi nghĩ đến đầu tiên là mẹ tôi,rồi đến bố tôi sau đó mới đến anh chị em trong nhà.Tôi nhập ngũ cho tới nay mới được hơn 5 tháng gần 6 tháng,quê tôi chắc là chưa biết tôi đi bộ đội,vì tôi nhập ngũ từ trường đại học.Người đầu tiên của quê tôi trông thấy tôi mặc áo lính lại  là mẹ tôi.Bây giờ tôi không nhớ rõ ngày tháng lúc đó,nhưng tôi tin là vào khoảng cuối tháng 7 đầu tháng 8 năm 1972.Khi đó toàn đơn vị đang hành quân đi B,chẳng hiểu tốt số thế nào đơn vị lại dừng để nghỉ lại tại vùng quê thuộc huyện Yên khánh tỉnh Ninh bình.Vùng này rất gần quê tôi,cơm chiều xong tôi gặp đồng chí trung đội trưởng phụ trách,xin phép được về thăm gia đình đêm nay,đến 9h00 sẽ có mặt ở đơn vị.Thâm tâm thì đồng chí trung đội trưởng không đồng ý,bởi vì các đồng chí ấy rất sợ những tình huống khi xin phép được thì có lý do để tụt tạt,đến đơn vị muộn khi đó đơn vị đã rời khỏi nơi đóng quân,thì lại sinh ra việc đuổi theo và lạc đơn vị thôi thì v.v. Cuối cùng là đồng chí ấy phải chịu trách nhiệm trước Ban chỉ huy hành quân.Nhưng cũng may mắn cho tôi là được anh em nói thêm vào,trong đó có một câu mà tôi nhớ mãi: “Đồng chí trung đội trưởng cứ yên tâm, chúng tôi là những sinh viên của trường đại học Xây dựng,chúng tôi ý thức được  vinh dự và trách nhiệm của chúng tôi lúc này.Vì vậy mong đồng chí thông cảm và cho phép.”Tất nhiên,sau lúc đó đồng chí trung đội trưởng còn nói với tôi : “Tôi rất thông cảm với anh và đồng ý để anh về,nhưng mong anh hãy nghĩ đến tôi mà quay lại đơn vị đúng hẹn.”
          Lúc ấy vào khoảng 6h30 chiều, trời đã tạnh mưa nhưng nhìn bầu trời vẫn còn u ám sũng nước.Vùng này vừa mới trải qua những trận mưa lớn,ao chuôm đầy nước những cánh đồng mênh mông,nước trắng xóa.Từ đây về quê tôi,có thể đi theo hai hướng.Một hướng là đi theo đường tỉnh lộ lên gần thị xã Ninh bình rồi sang Yên mô, hướng thứ hai hai là cũng theo đường tỉnh lộ này xuống Kim sơn rồi sang Yên mô.Tóm lại là đi thành vòng tròn,cả hai đường đều dài khoảng 20- 25km.Còn một hướng nữa mà tôi chưa đi bao giờ đó là đi tắt theo đường dây cung,chiều dài khoảng độ từ 12- 15 km.Qua tính toán so chọn,tôi quyết định chọn phương án đi theo đường dây cung,tắt qua cánh đồng của hai huyện Yên khánh và Yên mô.Thật là một chuyến đi lịch sử có một không hai,tôi cứ nhằm thẳng hướng đất Yên mô mà tiến,có bờ ruộng thì đi theo bờ ruộng không có thì tôi lội ào ào dưới ruộng,gặp ao tôi lội qua ao.Khi đến con sông Vạc biên giới của Yên khánh với Yên mô,đây là thực sự là một thử thách lớn đối với tôi.Vượt qua bờ sông,trời thì tối đen,đồng nước thì trắng xóa không biết đâu là sông,đâu là ruộng.Con sông này cũng nhỏ thôi đã một vài lần tôi đi qua nhưng là đi qua cầu,bây giờ chẳng biết cầu ở chỗ nào,đêm tối làm sao tìm được.Nhìn quanh không thấy làng xóm nào ở gần để nhờ cậy,thời gian thì có hạn.chẳng còn cách nào khác là tôi quyết định bơi qua sông.Tôi cởi dép luồn vào dây lưng,để tiết kiệm sức tôi cứ dò dẫm ra đến chỗ nào nước sâu thì mới bơi,Tôi bơi cũng tàm tạm,năm 1966 chiến tranh phá hoại,quê tôi cũng là mục tiêu bắn phá của máy bay Mỹ.Cây cầu Bút bị sập,tôi là người chở đò đảm bảo giao thông lúc bấy giờ.Dân quê tôi chắc là không quên được hình ảnh người chở đò qua sông Bút,bến đò ngay cạnh cây cầu bị đánh sập.
        Mức nước lúc này đã ngang với cầm tôi,tôi cong người lấy đà nhoai ra dòng chảy,nước sông thì lớn nhưng chảy không xiết,tôi cứ bơi từ từ vừa bơi vừa đề phòng kẻo có vấn đề gì xảy ra.Lúc này đáng sợ nhất là chuột rút,Tôi cũng đã ngâm nước tới 5-6 tiếng đồng hồ rồi,người cũng đã cảm thấy hơi lạnh,các đầu ngón tay đã nhoăn nheo.
          Thế rồi,mọi lo lắng của tôi cũng đã qua đi,tôi đã sang được sông và thở phào nhẹ nhõm.Tôi cố gắng lội thật nhanh vào bờ sông để ngồi nghỉ và định hướng đi tiếp,trời vẫn tối như bưng,không có một ánh đèn,đã nghe thấy tiếng gà gáy xa xa.Bây giờ chắc chắn tôi đã sang đất của huyện Yên mô,ở đây thuộc phạm vi xã nào thì tôi không biết.Sau một lát nghỉ ngơi tôi lại tiếp tục đi, tôi cứ theo bờ sông tiến vào một khu làng ở phía trước mặt.Trên đường đi tôi gặp một trạm máy kéo ở ngay bờ sông, tôi thấy le lói ánh đèn ở trong nhà,tự nhiên tôi xông thẳng vào cổng.Thấy có người,lũ chó xông ra sủa ầm ĩ,lát sau mới có người từ trong nhà đi ra,có lẽ đây là người bảo vệ của trạm máy kéo.Nghe giọng nói của ông ta,tôi đoán là người đã có tuổi,ông hỏi tôi:
   -Ai đấy! đêm hôm thế này sao lại ra đây?
  Tôi tranh thủ trình bầy ngay,ông chăm chú lắng nghe và có phần cảm thông.Thấy thế tôi đánh liều hỏi may ra thì được:
   -Bác ơi! từ đây về chợ Bút còn xa không? Độ bao nhiêu cây số hả bác?
   Ông gãi gãi cái đầu rồi trả lời:
   -Ờ ờ,khoảng 7-8 km gì đó.
   Tôi nói ngay:
   -Bác ơi, bác có xe đạp không? Bác cho cháu mượn,cháu tranh thủ về thăm quê trên đường vào Nam đi chiến đấu.Sáng mai cháu sẽ trả lại bác, cháu xin hứa với bác cháu sẽ trả lại.Hay là bác chở cháu đi cháu sẽ gửi tiền.
   Thực ra,lúc này trong người tôi  ngoài bộ quần áo đang mặc,chẳng có cái gì có giá trị,để gửi lại ông làm tin.Nếu có nói thêm thì cũng không được cho nên tôi không nì nèo gì thêm.
   Ông già nói với tôi bằng giọng rất tình cảm và ấm áp:
   -Cháu ơi! cháu cũng như con bác,bác rất muốn giúp cháu.Hiềm một nỗi là ở đây không có xe đạp,nếu có bác sẽ cho cháu mượn.Việc cháu trả hay không,không thành vấn đề.Ở đời là phải làm phúc cho con cháu được nhờ.Nghĩ một lát rồi ông nói tiếp: Cháu cố đi thêm khoảng 3 km nữa sẽ gặp ngã ba,một đường lên đường số 1,một đường về cầu Bút,đến đó cháu có thể gặp những người đi chợ sớm rồi nhờ họ.
   Tôi cám ơn ông rồi tiếp tục đi.Lúc này trong thâm tâm tôi thấy rạo rực hẳn lên,tôi sắp được gặp mẹ tôi và mọi người ở trong nhà,tôi phấn khởi và đi như chạy. Chẳng mấy chốc,tôi đã về tới ngã ba,về đến đây việc đầu tiên là tôi rẽ vào chỗ bố tôi,bố tôi đang công tác tại phòng giao thông huyện Yên mô,cơ quan huyện đang sơ tán ở vùng này.Chẳng may cho tôi,khi tìm được chỗ bố tôi ở thì ông lại đang đi công tác không có nhà.Tôi hơi buồn,nhưng tôi chợt nhớ ra,tôi có ông chú ruột làm công tác phát hành sách báo cũng ở gần đây.Và tôi lần đến, nhìn thấy tôi là chú tôi đoán ra tất cả.Ông hỏi han vài câu qua loa rồi đưa xe cho tôi về.
          Tôi về đến nhà lúc đó khoảng độ 6h30-7h00 sáng,tôi chạy vào trong nhà,nhà vắng tanh,tôi vào trong buồng thấy màn vẫn buông,tôi vén màn lên thấy mẹ tôi ốm nằm đấy.Thấy tiếng tôi bà ngồi dậy,nhìn tôi từ đầu đến chân rồi bà nói:
   -Thế mà mọi người ở đây họ nói con không phải đi bộ đội,mà đang đi học.Thế hôm nay con đi đâu?
   Tôi ngồi kể tất cả mọi chuyện từ lúc tôi nhập ngũ,cho đến hôm nay đang trên đường hành quân đi chiến đấu,và tôi chỉ được phép về thăm nhà đến 9h00 phải có mặt tại đơn vị.
    Mẹ tôi buồn lắm,hai hàng nước mắt chảy dài lăn trên gò má.Mẹ tôi nói:
   -Tội nghiệp cho con tôi,mẹ thì ốm các em thì đi học,nhà chẳng còn một ai để nấu cho con một bát cơm.Thôi,để mẹ luộc cho con mấy quả trứng mang đi ăn đường cho đỡ đói.
   Tôi không muốn mẹ tôi buồn hơn,tôi đồng ý để mẹ tôi đi luộc trứng và gói cho tôi mang đi.Tôi tạm biệt mẹ,tôi đạp xe đi nhưng vẫn ngoái cổ nhìn lại,bóng mẹ tôi khuất dần sau lũy tre làng…(Còn tiếp)
   
         
         

         



Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 21 Tháng Giêng, 2012, 06:34:19 pm
               Chào bạn quanvietnam! Đọc bài của bạn mà Tranphu341 rất cảm động chẩy cả nước mắt! Thế hệ chúng ta thiệt thòi quá, dũng cảm quá và kỷ cương quá. Chúng ta hy sinh rất nhiều cả về ăc, về mặc và cao nhất là sự hy sinh về tình cảm.

                            Kkông thể nói gì hơn, TP chúc bạn cùng gia đình luôn có nhiều sức khỏe và niềm vui năm mới đang cận kề này

                            P/S Cho TP hỏi thăm 2 cụ nhà hiện giờ thé nào rổi?


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: Quân khí viên trong 21 Tháng Giêng, 2012, 07:41:32 pm
                  Chào các bác! Chuyên kể của quankhivien thật hấp dẫn.........
               Chào bạn quankhivien! Đọc bài của bạn mà Tranphu341 rất cảm động chẩy cả nước mắt! ...........
Trời ơi! Không phải em, anh Phú ơi! ;D ;D ;D ;D
Đây là bác quanvietnam mà! Anh có lộn không vậy? Tết nhứt sắp tới rồi anh ơi! Coi chừng người ta ném đá thằng em vỡ đầu, mất ăn tết;D ;D ;D ;D


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: dathao trong 21 Tháng Giêng, 2012, 11:33:43 pm
Bác TP ơi! Quankhivien là lính nhập ngủ sau bác Quanvietnam nhiều năm lắm!!!bác TP lầm nick của hai người rồi đó.
Đọc bài viết của bác quanvietnam thì được biết bác nhập ngủ từ trường Đại học xây dựng.Như vậy lúc đó bác đã khoảng 20 tuổi hoặc hơn rồi phải không?Cùng tuổi với bác TP rồi.Hồi đó nếu bác trúng tuyển nghỉa vụ thì khi đi ở trường chắc cũng phải gửi giấy báo tin về cho gia đình bác hay chứ?Tại sao gia đình lại không hề hay biết!Đọc đoạn bác viết về chuyến thăm gia đình đột xuất nầy ,rất cãm động...!cho tôi hiểu phần nào hoàn cảnh xã hội của miền bắc thời đó.
Thời gian nầy cũng là một giai đoạn mà chiến tranh chống phá miền bắc của quân đội Mỹ leo thang.Theo tôi nhớ không lầm thì cuối năm 72 Mỹ mở cuộc ném bom miền bắc hết sức khốc liệt !!!Sau nầy gọi là trận Diện Biên Phủ trên không?


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 22 Tháng Giêng, 2012, 11:41:57 am

         Nhân dịp đầu xuân Nhâm thìn,quanvietnam xin được gửi đến các CCB và gia đình các bạn lời chúc Tết chân thành nhất,sang năm mới dồi dào sức khỏe,tất cả đều gặp may mắn.
   Xin được cám ơn các CCB đã đọc bài của quanvietnam,song vì trình độ hạn chế,chưa qua một ngày học làm văn làm thơ,nhưng chỉ ham vui mà viết. Do vậy khi viết cũng còn nhiều thiếu sót,mong các CCB thông cảm và chiếu cố,để quanvietnam có dịp hồi tưởng lại một quá khứ đáng trân trọng của các CCB. Thời đó,chúng ta chỉ được những cái mà nhiều người không cần được và chúng ta toàn mất những cái nhiều người không muốn mất.
   Bác dathao à!Hồi đó năm nào tôi cũng được gọi nhập ngũ,có những năm tới 3-4 lần,lần nào cũng được nhà trường tổ chức tiễn lên đường,nhưng chỉ tập trung được vài ba hôm thì tôi lại bị trả về để tiếp tục theo học,tất nhiên là có lý do của nó,ở đây tôi không tiện nói ra.Đợt nhập ngũ tháng 5 năm 1972,tôi cũng nghĩ là như vậy chắc là lại bị trả về, vì thế tôi cũng không báo tin cho gia đình nữa mà tôi cũng đã báo tin quá nhiều lần rồi,còn việc nhà trường có báo cho địa phương hay không thì tôi không biết được.Nhập ngũ được khoảng hơn 01 tháng,mới bắn được 03 viên đạn và ném 01 quả lựu đạn thật là hành quân đi chiến đấu.Từ đó tôi bị cuốn hút vào cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc,tôi thấy không cần thiết phải báo tin cho gia đình nữa.May mắn cho tôi là còn được về thăm gia đình,còn biết bao nhiêu người khác làm sao có được diễm phúc ấy.
   Bác dathao à! Chiến dịch Điện biên phủ trên không,được diễn ra trong 12 ngày đêm bắt đầu từ 18 tháng 12 đến 29 tháng 12 năm1972. Thời gian này gần trùng với thời gian tôi kể câu chuyện Nở hoa trong lòng địch.
   Một lần nữa quanvietnam,xin được cám ơn.
 
   





Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 22 Tháng Giêng, 2012, 04:15:31 pm
                 Chào các bạn! Tranphu341 xin lỗi đã đánh máy nhầm quanvietnam thành Quân Khí Viên!

                                  CHAUCS CÁC BẠN NĂM MỚI THÊM NHIỀU SỨC KHỎE CÙNG NIỀM VUI MỚI!


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 22 Tháng Giêng, 2012, 07:13:26 pm

          Bác TP thân mến! Rất cám ơn bác đã có lời hỏi thăm đến các cụ thân sinh ra tôi.Tôi rất xúc động,tình cảm của những người lính cứ trào dâng mãi trong tôi.Đã lâu lắm tôi mới có được cảm xúc này,cái cảm xúc chỉ có ở người lính,đã từng cận kề giữa cái sống và cái chết, mà vẫn quan tâm đến đồng đội.Bác TP ơi,Ông thân sinh ra tôi đã mất,bây giờ tôi chỉ còn mẹ thôi.Cám ơn bác đã có lời hỏi thăm.Chuẩn bị sang năm mới,tôi kính chúc đại gia đình nhà bác sang năm mới sức khỏe,hạnh phúc và gặp nhiều may mắn.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: dathao trong 22 Tháng Giêng, 2012, 10:24:36 pm
Chào bác quanvietnam!
Thành thật mà nói rằng bác viết bài rất chuẩn.Từng câu -chử,chấm -phết kể cả dấu hỏi -ngã tôi chưa hề thấy có sai sót.Nên tôi  nghỉ  là bác khiêm tốn mà viết như vậy thôi.
Trong trang mạng nầy có rất nhiều CCB viết sai lổi chính tả,kể cả tôi .Văn viết thì ôi thôi đủ mọi trình độ!tôi cũng được liệt vào trong những thứ hạng như vậy.Thú thật, bác viết bài tốt như vậy là rất giỏi rồi!!!
Cũng xin cám ơn bác đã có bài viết trả lời cho tôi biết được những chi tiết mà tôi còn thắc mắc

        

    Thời đó,chúng ta chỉ được những cái mà nhiều người không cần được và chúng ta toàn mất những cái nhiều người không muốn mất.
  


Câu viết nầy của bác tôi đọc đi ,đọc lại mấy lần .Ngẫm nghỉ thì rất đúng với những gì mà một anh lính thời chiến phải chấp nhận "vô điều kiện".
Hoàn toàn đúng với những gì mà CCB mình phải trãi qua.

        May mắn cho tôi là còn được về thăm gia đình,còn biết bao nhiêu người khác làm sao có được diễm phúc ấy.
  




Điếu mà tôi thấy được trong bài viết của bác là:bác luôn luôn thấy mình vẫn còn may mắn hơn nhiều ae khác ở mặt nầy ,mặt khác .Một suy nghỉ rất tích cực của một người lính chiến trường để không bi quan trước mọi hoàn cảnh khắc nghiệt của cuộc sống gian khổ -ác liêt .

Rất trân trọng với những gì mà bác đã viết về cuộc đời lính của bác.

Nhân đây cũng sắp đến thời khắc giao hòa của năm củ và năm mới.Tôi xin chúc bác quanvietnam cùng gia đình được nhiều sức khỏe ,vạn sự như ý,phúc lộc dồi dào.Cũng xin chúc tất cả mọi người:các CCB,thành viên VMH,các Min Mod những điều tốt đẹp nhất.



Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: thaiminhhung trong 24 Tháng Giêng, 2012, 08:58:47 am
     Nhân dịp năm mói Nhâm Thìn , chúc Bác Quân mạnh khỏe, vui vẻ, trẻ mãi không già, để tiếp tục đạp xe đạp đến chung vui với anh em 19c, chắc tay phím đế có những câu chuyện hay và rất thật để anh em thưởng thức, qua đây gửi tới ngôi nhà của bác bức ảnh , để anh em trên diễn đàn chiêm ngưỡng được "long nhan" của CCB SV DHXD, cựu chiến sĩ trinh sát c20 E95, F325, người đã xây dựng nhiều nhà máy thủy điện cho đất nước. Trong ảnh bác Quân đứng thứ năm từ trái sang



Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: Trinhsat trong 24 Tháng Giêng, 2012, 09:22:22 am
Chào bác ThaiminhHung,

Đứng thứ tư từ trái sang chính là bác rồi mà. Chắc bác Quân đứng giữa bác và bác HuuLuan phải không bác.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 24 Tháng Giêng, 2012, 04:17:02 pm

                     NỞ HOA TRONG LÒNG ĐỊCH(tiếp theo)
         Từ đó cho đến hôm nay,tôi chưa nhận được tin tức của gia đình, không biết sức khỏe của mẹ tôi thế nào?chắc là mọi người ở nhà lo cho tôi lắm…
Đang mơ màng nghĩ đến gia đình,chợt tôi  thấy có luồng ánh sáng quét qua,cắt đứt dòng suy nghĩ của tôi.Luồng ánh sáng quét qua nhanh quá  tôi chưa kịp có phản xạ,nên chưa thể phán đoán được tình huống gì xảy ra.Tôi nghĩ,có thể là bọn địch đi tuần?Nhưng nếu đi tuần sao không thấy có tiếng nói,chả lẽ đi một người? Hay là lính thông tin đi nối dây,đi nối dây cũng không bao giờ đi  một người?Hay là có một tên lính nào đó ở trên đồi phát tín hiệu cho nhau.v.v.Rất nhiều câu hỏi xoay quanh trong đầu tôi,có một câu hỏi rất đơn giản mà tôi không nghĩ ra.Thật là kém thông minh,đó là ánh sáng của đèn ô tô.Đúng như vậy,ở đây chỉ cách đường ô tô khoảng hơn 100 mét,cách ngã ba Phước môn,độ 150-200 mét.Tôi có cảm tưởng là tôi nghe tiếng động cơ ì ì từ xa vọng lại,tôi định chui ra thì vừa lúc đồng chí Toản tới,và ra hiệu cho tôi tiến ra phía đường ô tô.Cả hai chúng tôi tiến ra đường ô tô và nằm cách đường chừng 50 mét,tôi và đồng chí Toản nằm cách nhau khoảng 20-25 mét dọc theo trục đường.Chúng tôi chờ đợi đoàn xe tiến lại phía chúng tôi,có lẽ đoàn xe này từ làng Phước môn đi ra.Tiếng động cơ rõ dần và cũng chỉ nhìn,thấy có hai luồng ánh sáng vàng đục chiếu về phía trước.Như vậy là chỉ có một xe, chắc là xe chở nặng nên đi rất chậm và  tiếng động cơ nổ gằn.
   Xe qua chỗ tôi và đồng chí Toản nằm,tôi tập trung quan sát.Đó là chiếc xe tải GMC loại lớn,chở thứ gì trên xe thì không rõ,nhưng không đầy xe.Trên xe có 2 hay 3 tên địch ngồi trên cabin,ở dưới thùng xe cũng có khoảng 3-4 tên ngồi,trời tối quá nhìn không rõ mà chỉ áng chừng chưa chắc đã chính xác.Xe cứ chậm chạp tiến về ngã ba Phước môn đến đó và dừng lại.Khoảng cách từ chỗ chúng tôi đến đó độ 50-60 mét, trời sáng mờ mờ không biết chúng đang làm cái gì chỉ thấy bọn chúng đóng mở cửa xe thùng xe và khuân vác những thùng  gì đó có vẻ nặng.Vào lúc này,chỉ có ánh trăng hạ tuần chiếu sáng cho nên nhìn không rõ  mong sao có quả pháo sáng bắn lên ở khu vực này để nhìn cho rõ.Đang mong   đợi có pháo sáng bắn lên,đúng lúc đó có tới 3 quả bắn lên, đúng là cầu được ước thấy.
   Sáng quá,tôi không giám ngọ nguậy sợ chúng phát hiện,tôi lo vậy thôi chứ làm sao có thể phát hiện ra chúng tôi,chúng tôi hòa lẫn trong bụi cỏ. Tranh thủ có ánh sáng,tôi tập trung quan sát. Bọn địch có 7-8 tên đang khuân vác các thùng từ trên thùng xe xuống,không hiểu là thùng sắt hay thùng gỗ,nhưng thùng nào cũng nặng,cứ phải hai thằng khiêng kệ nệ.Bọn chúng xếp thành 4 đống.Xong việc,3 thằng nhảy lên xe,xe quay về hướng La vang,còn 4 thằng ở lại.Có một điều kỳ lạ,là bọn chúng không hề nói với nhau điều gì cứ im như thóc.Chờ khoảng độ 10 phút bọn địch cứ ngồi yên trên đống hàng,trời lúc này đã sắp sáng.Đồng chí Toản ra hiệu cho tôi rút,chúng tôi lặng lẽ rút về mà lòng còn đầy nghi hoặc.Về tới hầm của tôi,Toản nói với tôi:
   -Mình phải rút về nhanh kẻo trời sáng rõ bọn địch nó dễ phát hiện,đống hàng ấy theo tôi là nhu yếu phẩm và đạn dược cung cấp cho các cao điểm ở xung quanh khu vực này.Một lát sau,Toản nói tiếp: Bây giờ anh kiểm tra và xóa sạch dấu vết,sau đó anh tìm một chỗ thuận lợi để tiếp tục theo dõi bọn này,Nên nhớ là phải hết sức thận trọng,có vấn đề gì chiều tối ta lại gặp nhau.
   Toản trở về hầm của anh ta,tôi quan sát quanh hầm của mình xem có chỗ nào đêm hôm qua chưa kịp xóa,nhìn đi nhìn lại vẫn thấy chưa thực sự yên tâm,tôi cố gắng nâng từng  đám cỏ bị vết dép dẫm lên cho nó về với gần tự nhiên.Để làm được việc này,phải làm giật lùi dấu vết cuối cùng được đưa vào trong bụi để dấu đi.Sau khi làm đi làm lại,cuối cùng thì cũng đành phải bằng lòng với việc xóa dấu vết của mình.
   Từ hầm của tôi không thể nhìn ra ngã ba Phước môn được,để tiếp cận  chỉ có cách thứ nhất là tụt xuống suối,đi ngược lên gặp đường ô tô thì chỉ cách ngã ba độ 50-60 mét,lúc đó quan sát tốt nhưng lại quá gần dễ bị phát hiện.Cách thứ hai là leo lên sườn đồi ngay bên cạnh để quan sát nhưng phải chấp nhận xa.Tôi chọn phương án leo lên sườn đồi,tuy có xa nhưng cũng đủ khả năng quan sát xem bọn địch làm gì.Tôi tìm được bụi cây ở sườn đồi,và đứng thẳng lên quan sát.Bọn địch bây giờ hình như đông hơn,trời cũng đã sáng hẳn nên nhìn cũng rõ hơn,chúng đang tháo dỡ hòm và chia nhau đưa vào gùi để cõng đi,chúng tản đi rất nhanh như sợ có ai theo dõi.Có lẽ là súng đạn và lương thực,nhưng tại sao chúng lại không chở tới tận nơi mà lại tập kết ở ngã ba Phước môn?Đây là một câu hỏi lớn?Chứng tỏ rằng khu bãi hoang này và mấy quả đồi lúp xúp kia không có lực lượng của địch,những thứ này chúng sẽ gùi lên các cao điểm…
   Tôi về hầm,đây là lần đầu tiên kể từ đêm hôm qua tôi được nhìn thấy căn hầm của mình.Trùm bên ngoài là mấy loại cây dây leo lá to,hình như còn có cả cây khoai lang rừng.Chui vào trong giống như một cái tổ,chỉ vẻn vẹn vừa chỗ cho tôi quay ra quay vào.Tối hôm qua nhìn ra ngoài không thấy gì,phải làm cửa quan sát,nhưng hôm nay có thể nhìn ra ngoài mọi góc tương đối thoải mái.Nhìn đống đất tôi đổ được vun gọn gẽ,đây chính là nơi cất dấu phế thải của tôi khi thật cần thiết,lúc ấy tôi lại không phải là giun là dế mà là mèo.Thôi thì đành vậy,mình là lính trinh sát mà.Tựa lưng vào vách hầm,mùi ẩm của đất mùi thơm hăng hăng của cỏ cây, làm tôi khoan khoái .Những câu hỏi ban nãy cứ luẩn quẩn trong đầu chắc là phải chờ hết ngày hôm nay may ra có thể trả lời được.
   Tôi lấy gạo rang ra ăn,vừa ăn vừa nghĩ ngợi.Như vậy cả ngày hôm nay mình phải ngồi trong hầm để trốn,đến chiều tối mới lại bò ra đi trinh sát.Không biết hôm nay có gì xảy ra không? Tình hình đêm qua yên ắng quá.
(Còn nữa)


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: chienc3.1972 trong 25 Tháng Giêng, 2012, 06:22:39 am
@quanvn: Bác viết rất hay, rất thật, rất khỏe. Cảm ơn bác về những bài viết rất có ý nghĩa.
Năm mới chúc bác mạnh khỏe, gia đình hạnh phúc.
Kiểu này em không hy vọng gì nhận được cái mũ rất đẹp của bác. Nhưng em chẳng buồn đâu bác ạ. Đời con người tài hoa như bác quý hơn ngàn vạn lần cái mũ ấy chứ bác nhỉ ;D. Hay là bác cho em rút lại lời đề nghị: Khi nào bác chết bác nhớ để lại cho em cái mũ bằng lời đề nghị nhân văn hơn, thiết thực hơn: bác chỉ cho em chỗ mua cái mũ giống như của bác với.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: Trinhsat trong 25 Tháng Giêng, 2012, 10:38:19 am
Lão ChienC3 khỏe như vâm, sao chứ dọa xin kỷ vật của bà con vậy?

Tết này lão LXTường được giải phóng rảnh rỗi đấy, sao không thấy hai lão rủ nhau cặp kè đi du lịch quanh Hà  Nội nhỉ. Nhớ quá thì mò đến nhà Lão chứ đòi Off mini sớm làm chi.

Chúc hai lão PD tết ra khỏe như rồng (đất) mà bay lượn tiếp trên các nẻo đường Tổ quốc nhé.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: chienc3.1972 trong 25 Tháng Giêng, 2012, 03:32:06 pm
@trinhsat: haiz xa thơm gần thum thủm bác ạ. Với lại em cũng chỉ còn được rỗi nốt hôm nay nữa thôi, mai + mốt về Thái Nguyên, mốt tê đi Ninh Bình, mốt tề đi Phú Thọ theo chương trình ọp của hội CB ĐHKTQS. Thế là hết Tết rồi còn đâu nữa hở bác.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: lexuantuong1972 trong 25 Tháng Giêng, 2012, 05:27:49 pm
Lão ChienC3 khỏe như vâm, sao chứ dọa xin kỷ vật của bà con vậy?

Tết này lão LXTường được giải phóng rảnh rỗi đấy, sao không thấy hai lão rủ nhau cặp kè đi du lịch quanh Hà  Nội nhỉ. Nhớ quá thì mò đến nhà Lão chứ đòi Off mini sớm làm chi.

Chúc hai lão PD tết ra khỏe như rồng (đất) mà bay lượn tiếp trên các nẻo đường Tổ quốc nhé.

@TS: Năm nay được nghỉ nhiều nên cảm thấy trống vắng quá, bình thường thì ngày mai là đi làm rồi đấy. Thứ bảy 13 tháng giêng (4/1) bác ra Tân niên cùng anh em nhé suốt từ 22/12 đến giờ. Hôm Tất niên đông vui là bác à. :D


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 27 Tháng Giêng, 2012, 03:00:57 pm

                           NỞ HOA TRONG LÒNG ĐỊCH(tiếp theo)
          Nhớ lại cách đây khoảng hơn nửa tháng, C20 cũng đã  tổ chức luồn sâu vào ngã ba Phước môn.Đợt ấy còn có cả du kích địa phương dẫn đường,khi vừa ra khỏi “chốt” của bộ binh khoảng 60-70 mét,đồng chí du kích địa phương dẫn đầu,bị trúng một quả cối cá nhân M79 của địch hy sinh ngay tại chỗ.Sau đấy,đơn vị và địa phương tổ chức vào lấy xác,nhưng không thể lấy được vì bọn địch đã gài mìn xung quanh xác của đồng chí du kích.Không biết giải quyết thế nào,các đồng chí vào lấy xác đành phải buộc dây vào dây lưng của đồng chí du kích để kéo ra, khi kéo mìn đã nổ và xác thì không lấy được.Thật tội nghiệp,chết không được toàn thây. Chiến tranh là như vậy, cái chết có thể xảy ra bất cứ lúc nào và vào bất cứ ai,làm sao có thể tránh được.Những người lính lại phải chia tay nhau,những giọt nước mắt chảy vào trong…
   Sau cái chết của đồng chí du kích,công tác luồn sâu tạm thời dừng lại mấy hôm để rút kinh nghiệm, thực chất là để giảm đi sự chú ý của địch,mãi tới hôm qua mới lại bắt đầu.Trước khi đi, các đồng chí trong ban chỉ huy đại đội đã dặn dò kỹ lưỡng các công tác kỹ chiến thuật,ngoài ra còn thêm một câu ngoại lệ rất hiếm gặp đó là: Các đồng chí chọn ngày lành tháng tốt…giờ đẹp. Tôi nghĩ,làm sao trong chiến đấu lại có thể chọn được ngày lành tháng tốt và giờ đẹp được,chẳng qua các đồng chí ấy thấy xuất kích đợt đầu không may mắn,để trấn an chúng tôi thì mọi người nói vậy thôi.Tất nhiên chúng tôi cũng hiểu và cũng coi là lời chúc may mắn,còn nhiệm vụ vẫn là nhiệm vụ.Đến bây giờ coi như đã qua đi một đêm trót lọt,còn ngày hôm nay và đêm nay nữa.Nhiệm vụ còn rất nặng nề,song cũng không kém phần nguy hiểm,bởi vì  hoạt động trong lòng địch chỉ cần một sơ xuất nhỏ là bị tiêu diệt hoặc bị bắt sống. Nhưng bây giờ còn quá sớm để lo lắng vấn đề này,vì giờ này chắc là bọn địch còn ngủ chưa dậy cho nên cứ yên trí nằm nhai gạo rang và chiêu từng ngụm nước để tận hưởng cái thơm cái bùi của hạt gạo rang.
   Buồn ngủ quá,hình như tôi cũng đã thiếp đi mặc dù trong mồm vẫn ngậm đầy gạo rang. Tôi nghĩ,nếu tôi cứ nằm thế này chắc chắn sẽ ngủ quên mất.Tôi ngồi hẳn dậy,những câu hỏi đêm qua mà tôi chưa trả lời được lại quay về tâm trí tôi,nhiều câu hỏi tại sao lại lần lượt được đặt ra,tôi cứ tự hỏi tự trả lời,và thấy điều nào cũng có lý.Nhưng theo tôi phỏng đoán thì khu vực ngã ba Phước môn này là vùng trũng,không có ưu thế về quân sự vì thế bọn địch không bố trí các công trình quân sự ở đây,để khống chế vùng này chúng đã bố trí hỏa lực ở các cao điểm xung quanh để bảo vệ,việc xây dựng công trình kiên cố ở ngã ba Phước môn là không cần thiết.Tôi cứ tạm cho là như vậy,tất nhiên còn phải chờ đợi xem các hoạt động của địch ngày hôm nay,và kết quả trinh sát đêm nay.
   Trời đã sáng rõ,ngồi trong hầm nhìn ra ngoài,tôi có thể bao quát cả một vùng rộng lớn phía trước mặt.Ở vị trí này, có thể nói là rất thuận lợi, phía trước có suối lớn ngăn cách,phía sau có quả đồi che đỡ,về địa thế mà nói tôi rất yên tâm,nếu không may mà bị lộ và phải chiến đấu thì đây là trận địa vững chắc,bọn địch chắc sẽ gặp phải sự chống trả quyết liệt của chúng tôi…Nói thì nói vậy để chủ động đưa ra phương án chiến đấu,việc bị lộ chắc là hiếm xảy ra,bởi vì chúng tôi là kẻ chủ động đi trốn,bọn địch là kẻ không chủ ý đi tìm,vậy thì làm sao có thể bị lộ được,vì thế phần nào tôi cũng yên tâm và không lo lắng gì.Bây giờ điều mà tôi cảm thấy bức bối nhất mà chúng tôi phải vượt qua,đó là ngồi trong hầm bí mật.Nếu có ai đã từng ngồi hầm bí mật thì dễ chia sẻ với chúng tôi lúc này,hết nằm lại ngồi,chân tay thì thừa thãi không biết làm gì.Điều cực nhất là phải thải đi các sản phẩm thừa của cơ thể,chẳng có cách nào khác là thải trong căn hầm khép kín,bắt chước con mèo,nó làm thế nào thì mình làm thế.
          Ngồi rồi,chẳng có việc gì để làm nên hay nghĩ ngợi lan man,hết chuyện nọ sang chuyện kia,chẳng chuyện nào ăn nhập với chuyện nào.Có một chuyện tôi cố tình không nghĩ đến nhưng nó cứ đến, nó đến một cách tự nhiên.Hình như,mọi việc tôi làm hàng ngày đều được pha trộn với hình bóng của nó,tôi cố gắng quên đi và tôi tìm đủ cách để lảng sang chuyện khác nhưng cuối cùng vẫn phải nghĩ về nó,đó là tình yêu và cuộc chia tay đầy kỷ niệm.
   Bây giờ tôi cảm thấy ân hận và tự trách mình.Tại sao? Hôm chia tay ở ga Hương Canh tôi lại không nói điều đó,để đến bây giờ có muốn nói cũng không biết nói bằng cách nào.Nếu hôm ấy tôi nói được,thì chắc tôi đau khổ lắm,nhưng có lẽ lương tâm tôi đỡ cắn rứt hơn,tôi cũng thanh thản hơn để bước vào trận chiến. Chiến tranh ngày càng  ác liệt,mọi sức người sức của đang tập trung hết cho chiến tranh này.Cuộc chiến tranh nào chẳng có sự hy sinh sương máu,biết đâu đó nó lại rơi đúng vào hoàn cảnh của tôi,lúc đó người yêu tôi sẽ ra sao?Nếu như hôm ấy mà nói được có phải tốt hơn không?Hôm ở ga Hương canh tôi cũng đã định nói,nhưng khi ngồi đối diện nhau mà nói chuyện ấy thì không được,bởi vì cả hai đang yêu nhau tha thiết có ai có lỗi lầm gì đâu mà lại nói chia tay nhau. Lý do để chia tay nhau là gì,chỉ có mỗi lý do,tôi đi chiến đấu,sợ em ở nhà phải chờ đợi…Lý do này chưa chắc đã chính đáng,bởi vì hàng triệu người phụ nữ Việt nam đang làm như vậy,và họ có chia tay nhau đâu?Hơn nữa lúc đó,mọi người đang sụt sịt nước mắt ngắn nước mắt dài trong cảnh tiễn người đi chiến đấu thì lại càng không nên nói đến việc này. Tôi cũng nghĩ,có thể mình cho rằng mình nói ra là để thể hiện sự cảm thông đối với chị em phụ nữ,nhưng biết đâu họ lại cho mình là hèn yếu,không tin tưởng vào họ,sợ chết.v.v.Thế là tôi quyết định không nói với người yêu tôi về vấn đề này nữa,tôi định là sẽ viết thư để dễ nói hơn.Trên đường hành quân từ Bắc vào Nam,tôi cũng tranh thủ viết thư,có thể nói là tôi viết rất nhiều thư và tìm đủ mọi cách để gửi về miền Bắc.Nhưng không hiểu người yêu tôi có nhận được không?Nếu em có nhận được,và viết thư cho tôi thì tôi cũng không thể nhận được,vì tôi đang trên đường hành quân,thay đổi binh trạm liên tục,vào đến chiến trường là bổ xung vào đơn vị đi chiến đấu ngay,và cho đến tận bây giờ.
(Còn nữa)



Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: dathao trong 28 Tháng Giêng, 2012, 10:33:18 am
Chiến tranh gây ra biết bao điều đau khổ -chia ly!!!có rất nhiều mối tình rất đẹp của người lính và người đi làm cách mạng.Nhưng cũng có nhiều đôi trai gái -vợ chồng gặp nghịch cảnh trong chuyện tình yêu-gia đình.
Tôi có một người cô ruột cũng là một trong số nầy.Năm 1954 ,dượng tôi đi tập kết ra Bắc.Để lại cô tôi ở quê nhà với đứa con gái hai tuổi.Lúc đó cô tôi chỉ hơn 20 tuổi.Vậy mà cho đến 21 năm sau,năm 75.Khi gặp lại chồng mình thì...dượng tôi dắt theo một bầy năm đứa con.Đứa lớn nhất chừng 10 tuổi.Trong khi đó cô tôi vẫn ở vậy nuôi con chờ ngày đoàn tụ với chồng,mặc dù không biết chồng mình còn sống hay đã chết!
Trong khoảng thời gian 21 năm chờ chồng đó có không biết bao nhiêu người đàng hoàng ,chưa vợ vì thương cái nết ,cái đẹp của cô tôi đến mở lời để cô tôi đi thêm bước nửa mà cô tôi vẫn không chịu.
Ở miền Nam thời đó có không ít những hoàn cảnh như vậy.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 30 Tháng Giêng, 2012, 04:06:20 pm

                      NỞ HOA TRONG LÒNG ĐỊCH(tiếp theo)
          Hình ảnh buổi tiễn đoàn sinh viên áo lính,ở ga Hương canh chắc là mãi mãi không bao giờ phai mờ trong tâm trí tôi.Một kỷ niệm không thể nào quên,mang đầy ý nghĩa nhân văn của những người ra đi và những người ở lại.
    Hôm đó,theo lệ thường.Những đoàn tầu quân sự ít khi dừng lại ở một ga xép như ga Hương canh,thế mà hôm ấy chẳng hiểu sao khi vào ga đoàn tầu lại từ từ dừng lại.Và cũng thật là lạ kỳ,sinh viên của trường đại học Xây dựng cũng đã đứng chật hai bên sân ga,giống như có sự chuẩn bị trước.Đoàn tầu dừng lại hẳn,các chàng sinh viên mặc áo lính tràn xuống sân ga.Trời tối đen như mực,sân ga thì chật ních toàn người,ánh đèn pin đã được bịt pha chiếu gầm xuống đất,ánh sáng đèn của nhà tầu lúc vàng ệch lúc xanh lét lúc đỏ ối,le lói đưa qua đưa lại để chỉ huy chạy tầu.Sân ga trở nên huyên náo và lộn xộn,tiếng gọi nhau í ới xen lẫn tiếng cười đùa,tiếng hỏi thăm bè bạn…Thế rồi,rất nhanh chóng họ tìm gặp được nhau và họ chia ra thành từng nhóm từng tốp,nhóm đứng nhóm ngồi,có nhóm,có đôi nhanh chóng chiếm được những vị trí kín đáo,có những nhóm cũng không còn chỗ kín đáo thì lấy đoàn tầu làm vật che khuất để tâm sự.Tôi cũng là một  trong số họ.
   Chúng tôi cũng gặp được nhau trong đám đông chật ních toàn người là người.Gặp nhau ở hoàn cảnh này chúng tôi chẳng biết nói gì với nhau,cho dù trước đó tôi đã cố gắng sắp sẵn những điều cần nói khi gặp nhau.Nhưng lúc này,chúng tôi chỉ còn biết ôm nhau và im lặng,quên đi tất cả những điều cần nói,tập trung tận hưởng những gì mà chúng tôi có.Chúng tôi ôm chặt lấy nhau,truyền cho nhau hơi ấm,truyền cho nhau cái khác lạ của hai cơ thể,mùi thơm của nước bồ kết gội đầu với mùi hoa bưởi, quyện với mùi thơm trinh nguyên toát ra từ cơ thể của người con gái,làm cho tất cả các tế bào của cơ thể tôi rạo rực chúng chỉ muốn phá tung những ràng buộc đang kìm hãm chúng để chúng được tự do.Đê mê và ngây ngất của tuổi đôi mươi…
   Lệnh hành quân đã bắt đầu,không khí trong ga nhốn nháo hẳn lên,tiếng gọi nhau,tiếng chào nhau í ới.Suốt chiều dài đoàn tầu,ánh đèn pin của chỉ huy hành quân và ánh đèn của chỉ huy chạy tầu chiếu loang loáng.Các chàng sinh viên mặc áo lính đang khẩn trương lên tầu,dưới sân ga còn nhiều đôi lưu luyến tiễn đưa chưa nỡ rời nhau.Đoàn tầu được lệnh chuyển bánh,tiếng còi tầu hú lên xé tan không gian im lặng của một vùng quê trọng điểm bắn phá của máy bay Mỹ,báo hiệu cuộc hành quân bắt đầu.Đoàn tầu nặng nề chuyển bánh,tiếng bánh sắt nghiến ken két vào đường ray nghe rợn người.Ở các ô cửa sổ của đoàn tầu,vẫn còn rất nhiều cánh tay của các chàng lính trẻ đưa ra để bạn gái đu vào và họ gồng mình lên cho hai đôi môi chạm nhau rồi họ hôn nhau.Nụ hôn của người ra trận gửi những người ở lại hậu phương.Đoàn tầu từ từ lao vào màn đêm sâu thẳm,để lại đằng sau là sân ga và những người ra tiễn.Tiếng còi tầu còn vọng lại xa xa…
   Mãi sau này tôi mới biết,vì sao chuyến tầu ấy lại dừng lại sân ga Hương canh.Nếu câu chuyện đúng như vậy,lại một lần nữa tô đậm ý nghĩa nhân văn của tình người.Mọi người kể lại là: Có một cô sinh viên của trường đại học Xây dựng,biết người yêu của mình hành quân trên chuyến tầu này và sẽ đi qua ga Hương canh.Cô đã rủ bạn bè trong trường ra tiễn,nhưng vì đây là đoàn tầu quân sự cho nên không được phép dừng lại và nhà ga cũng không đồng ý cho vào.Cô gái này đã vào tận trưởng ga trình bầy nhưng không ai giám đồng ý,thế rồi theo lẽ tự nhiên sinh viên trong trường ùa ra đứng chật ních sân ga để chờ đợi,cuối cùng thì nhà ga cũng đồng ý cho tầu dừng lại 10 phút,nhưng bất thành văn.
    Cuộc sống là như vậy đấy,rất đơn giản,song cũng rất phức tạp.Tất cả đều toát lên tính nhân văn của tình người.Những người đang ngồi trên tầu là những sinh viên,họ vừa rời ghế nhà trường để nhập ngũ. Họ đang nuôi nấng biết bao ước mơ,hoài bão,bao nhiêu kỷ niệm của thời sinh viên,kỷ niệm vui có buồn có…Nhưng rồi khi tổ quốc cần,họ chấp nhận gác bút nghiên cầm súng ra chiến trường bảo vệ tổ quốc. Tất cả ước mơ,hoài bão và những kỷ niệm ấy đều là hành trang mang theo của những chàng sinh viên mặc áo lính.Họ nhẹ nhàng bước vào trận đánh,mang theo cả sức mạnh của tình yêu đôi lứa.Họ cũng sẵn sàng chấp nhận hy sinh,mang theo hoài bão của một thời nghiên bút.Họ là những chàng trai sinh viên mặc áo lính,họ cần được hưởng những phút giây hạnh phúc ấy.
          Tôi cứ miên man với kỷ niệm,có những lúc mải mê quá quên đi những nguy hiểm đang rình rập mình.Tôi lắc lắc cái đầu cho tỉnh táo để đưa tôi trở lại với hoàn cảnh thực tại.Từ sáng đến bây giờ không thấy động tĩnh gì,thi thoảng mới nghe thấy có tiếng nổ ùng oàng ở đâu xa lắm vọng lại,toàn tuyến “Chốt” của ta và địch từ Đá đứng đến Tích tường đều im tiếng súng.Bây giờ khoảng độ 9-10 giờ sáng,giờ này nếu có động tĩnh gì thì mới có.Tôi ngả lưng vào vách hầm nghỉ ngơi và tập trung nghe ngóng động tĩnh,chẳng thấy động tĩnh gì tôi lại mơ màng lúc tỉnh lúc thức.Đúng lúc tôi mơ thấy mình đang bị bao vây,thì tôi nghe thấy tiếng người nói lúc xa lúc gần nghe không rõ, nhưng chắc chắn là giọng đàn ông,giọng nói miền trong nhưng không biết vùng nào.Tôi chú ý lắng nghe để xác định xem tiếng nói ấy từ hướng nào,Tôi nhìn ra phía đồng cỏ bỏ hoang để tìm kiếm xem có ai ở phía ấy không?Căng mắt nhìn nhưng không phát hiện được gì? Tôi nghĩ hay là bọn địch ở hai quả đồi sau lưng tôi?Tôi chú ý lắng nghe rất lâu nhưng không phải.Bẵng đi không còn nghe thấy động tĩnh gì nữa,tôi nghĩ rằng chắc là bọn địch đã chuyển sang hướng khác.Đột nhiên tôi nghe thấy: A!Đây rồi.Tiếng nói ở rất gần chúng tôi,tôi ngồi dậy ở tư thế sẵn sàng và tiếp tục quan sát xem tiếng nói từ chỗ nào? Chúng là ai? Chúng đã phát hiện ra cái gì?Chẳng lẽ chúng tôi để lộ dấu vết?
   Tôi vẫn chưa nhìn thấy chúng nó,nhưng chắc chắn chúng phải có từ hai đứa trở lên,chúng lại trao đổi gì với nhau,tôi nghe không rõ,nhưng tôi đoán chắc là chúng đang ở dưới suối.Trong tình huống này,phương án của chúng tôi đã được chuẩn bị là: Tuyệt đối giữ bí mật để không bị lộ,nếu bị lộ thì đồng nghĩa với việc làm lộ ý đồ chỉ đạo chiến dịch nở hoa trong lòng địch của cấp trên.Khi đã bị lộ,nếu bọn địch đông và không có con đường thoát thì bắt buộc phải nổ súng chiến đấu đến hơi thở cuối cùng,nếu bọn địch ít người hãy tìm cách bắt sống để đến đêm sẽ đưa về khai thác.
   Tôi chú ý quan sát chờ bọn địch đến gần,lúc này chỉ nghe thấy tiếng bước chân lội nước xa dần rồi mất hẳn.Chờ một hồi lâu không thấy động tĩnh gì,tôi nghĩ bọn chúng chắc đã đi xa,tôi thở phào nhẹ nhõm.Tôi đoán, có lẽ đây là bọn đi bẫy chim bẫy cá hay là kiếm rau gì đó…
   Mọi việc lại trở lại bình thường,tôi thu mình trong căn hầm nhỏ bé và tiếp tục quan sát nghe ngóng động tĩnh.Như vậy,suốt đêm hôm qua và cho tới giờ phút này,mọi hoạt động của địch diễn ra ở khu vực này,một lần nữa lại cho tôi nhận xét là khu vực này,kể cả 3 quả đồi lúp xúp ở khu vực ngã ba Phước môn,bọn địch không bố trí lực lượng trấn giữ,và như vậy đương nhiên cũng không có các công trình quân sự để phòng thủ.v.v. Không hiểu sự suy diễn của tôi có trùng với ý kiến của mọi người hay không?Chiều tối chúng tôi sẽ gặp nhau.
(Còn nữa)


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: lexuantuong1972 trong 30 Tháng Giêng, 2012, 04:49:56 pm

                     NỞ HOA TRONG LÒNG ĐỊCH(tiếp theo)
          
    ...Hôm đó,theo lệ thường.Những đoàn tầu quân sự ít khi dừng lại ở một ga xép như ga Hương canh,thế mà hôm ấy chẳng hiểu sao khi vào ga đoàn tầu lại từ từ dừng lại.Và cũng thật là lạ kỳ,sinh viên của trường đại học Xây dựng cũng đã đứng chật hai bên sân ga,giống như có sự chuẩn bị trước....  
  
... Mãi sau này tôi mới biết,vì sao chuyến tầu ấy lại dừng lại sân ga Hương canh.Nếu câu chuyện đúng như vậy,lại một lần nữa tô đậm ý nghĩa nhân văn của tình người.Mọi người kể lại là: Có một cô sinh viên của trường đại học Xây dựng,biết người yêu của mình hành quân trên chuyến tầu này và sẽ đi qua ga Hương canh.Cô đã rủ bạn bè trong trường ra tiễn,nhưng vì đây là đoàn tầu quân sự cho nên không được phép dừng lại và nhà ga cũng không đồng ý cho vào.Cô gái này đã vào tận trưởng ga trình bầy nhưng không ai giám đồng ý,thế rồi theo lẽ tự nhiên sinh viên trong trường ùa ra đứng chật ních sân ga để chờ đợi,cuối cùng thì nhà ga cũng đồng ý cho tầu dừng lại 10 phút,nhưng bất thành văn...  

@quanvietnam:  Bác xem lại chi tiết lên tầu ở ga HC nhé. Sau khi chúng ta được tiếp nhận ở Đạo Đức được 2 ngày và hành quân ra ga HC để lên tầu đi Phổ Yên để vào Phú Bình, Thái Nguyên nơi huấn luyện của d60/f304B.  Chính vì lên tầu ở HC nên cả trường mới ra ga để tiễn chúng ta.

Khi tầu bắt đầu chuyển bánh thì đột ngột dừng lại thì ra B học lớp hầm 14 từ khu C (Tiền Phong, Yên Lãng) đạp xe lên để tiễn B ở lớp cầu 12 đang ở trong đoàn quân. Vì không gặp được người yêu nên cô B đã đứng ra ngăn đoàn tầu lại để gặp B. Thật là 1 hành động dũng cảm của 1 người con gái với tình yêu giành cho người lính lúc lên đường. Rất tiếc sau này chuyện tình của họ cũng không đi đến đích cuối cùng. Cô B về sau về TEDI công tác còn anh B sau chiến trạnh lại về học nốt và về làm trợ lý cho ông Â, PCT UBND TP Hà Nội. Khi chúng tôi vào QT, B được giữ lại làm tuyên văn cho f304B vì đây là 1 cây accord có hạng của ĐHXD.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: nguyentrongluan trong 30 Tháng Giêng, 2012, 09:21:33 pm
dù thế nào thì cái sự dừng tàu ở ga Huơng Canh cũng là kì tích của DHXD . tuyệt vời , cho các nhà văn đương đại . cám ơn lính DHXD . hay thật


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: dathao trong 31 Tháng Giêng, 2012, 09:37:22 am
Những ký ức đã trôi qua gần 40 năm mà bác quanvietnam vẫn nhớ và viết lại thật chi tiết ,tỉ mĩ.Thật đáng khâm phục!bác có một trí nhớ rất tốt!!!
Chúc bác khỏe và viết đều.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 31 Tháng Giêng, 2012, 10:13:42 am
            Chào bạn quanvietnam cùng ae! Đầu năm Tranphu341 xin chúc ae có nhiều sức khỏe cùng nhiều niềm vui mới!

             Đầu năm mới, được đọc bài viết của bạn và của các bạn, thật hay và cũng thật cảm động của tình cảm, ý chí, tình yêu của các chàng trai cô gái, của lính sinh viên thời đó. Tất cả những tình yêu đó, nụ hôn say nồng thắm đó là sức mạnh để cho chúng ta làm tròn nhiệm vụ nặng nề của "trai thời loạn". Thật tuyệt vời vô cùng.

             TP nghĩ sao bộ phim "Mùi cỏ cháy" của đạo diễn Hoàng Nhuận Cầm vừa rồi không có cảnh quay này nhỉ?


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 02 Tháng Hai, 2012, 03:40:52 pm

NỞ HOA TRONG LÒNG ĐỊCH(tiếp theo)
          Thế là một ngày nằm hầm bí mật dài đằng đẵng đầy ức chế cũng qua đi.Khi hoàng hôn còn vương lại những tia nắng cuối cùng trên dãy đồi xa xa,tôi đã tìm cách chui ra khỏi hầm.Tôi quan sát xung quanh,xem có gì nguy hiểm không? Không gian của một chiều hoàng hôn sắp tắt,đang chuyển dần sang màu tím,nếu không có tiếng nổ từ phía xa xa vọng lại thì thực sự có một chiều hoàng hôn tuyệt đẹp.Tôi nhìn sang phía có hầm của anh Toản và anh Mạnh,vẫn chưa thấy các anh ấy có động tĩnh gì.Tôi nằm dài ra thảm cỏ,ngửa mặt lên trời, tranh thủ hít thở không khí trong lành, nhìn bầu trời cao xanh thi thoảng có những gợn mây trắng trôi bồng bềnh,bất giác tôi nghĩ bao giờ cho hết chiến tranh…Tôi không giám nghĩ tiếp,vội trở mình nằm úp áp tai xuống đất để nghe ngóng động tĩnh.
   Một lát sau cả ba chúng tôi gặp nhau,anh Toản hỏi tôi:
   -Toán địch và chiếc xe GMC sáng hôm qua,sau đó chúng đi đâu?
   Tôi nói:
   -Tôi thấy chúng dỡ hàng rồi chia thành từng phần, lát sau có thêm mấy thằng lính nữa đến mang đi,chúng tản về nhiều hướng.Theo tôi,đó là đạn dược và nhu yếu phẩm cung cấp cho các cao điểm xung quanh ngã ba Phước môn,còn chiếc xe quay lại hướng nhà thờ La vang.
   Anh Toản nhìn tôi và không nói gì,một lát sau anh hỏi tiếp:
   -Theo các anh,hôm qua có bọn địch lội dọc theo suối,chúng làm gì?Tại sao chúng không đi tiếp mà lại quay lại?
   -Theo tôi,anh Mạnh nói: Chúng nó đi thu bẫy thú hay bẫy cá gì đó,khi chúng phát hiện đối tượng bị dính bẫy thì chúng reo lên theo phản xạ tự nhiên:A!đây rồi.Còn việc chúng không đi tiếp nữa là do,phía trên là suối cạn chúng không đặt bẫy nữa vì thế chúng quay lại.
   Tôi cũng tiếp thêm vào ý của anh Mạnh:
   -Bọn này,chắc là đi thu bẫy chim bẫy cá thôi,chứ làm gì có bẫy thú ở đây,suốt ngày ầm ầm súng đạn,làm gì còn thú nào giám ở.Cũng may là chúng ta chọn vị trí độc đắc này nên rất bất ngờ,nếu chúng ta lui xuống một chút,chỗ suối sâu cây cối hai bên bờ tốt um tùm thì rất dễ bị lộ vì đấy chính là những địa điểm đặt bẫy lý tưởng.
   Anh Toản không hỏi gì thêm nữa và nhìn cả hai chúng tôi,rồi anh nói:
   -Tranh thủ trời đang lá lem tối,chúng ta trinh sát ba quả đồi gần sát với ngã ba Phước môn,để một lần nữa khẳng định chắc chắn các vị trí này là có địch hay không có địch.Còn lại các cao điểm xung quanh ngã ba Phước môn mà ở xa,ở đó không phải nhiệm vụ của chúng ta,ở đó chắc chắn có địch,cho nên không cần phải điều tra chỉ có điều không biết  lực lượng của chúng thế nào,loại hỏa lực gì?đêm qua có lúc tôi nhìn thấy ánh đèn pin lấp loáng ở trên đó.Bây giờ,chúng ta bò vào trinh sát hai quả đồi ở gần trước,chờ cho tối hẳn sẽ bò vào quả đồi ở phía xa kia.
   Đồng chí Mạnh nói:
 -Anh Toản ơi!Hai quả đồi hai bên chắc chắn là không có địch,cho nên suốt đêm qua và cả ngày hôm nay không thấy động tĩnh gì.Để cho nhanh,tôi đề nghị tôi và anh Quân trinh sát ở quả đồi bên phải,còn anh Toản trinh sát ở quả đồi bên trái,sau đó ta gặp nhau tại đây để trinh sát nốt quả đồi còn lại và rút ra.
   Anh Toản không đồng ý,anh nói:
   -Không được,rứt khoát phải đi ba người còn hỗ trợ cho nhau khi cần thiết.Mặt khác cũng còn phải bàn bạc khi gặp những tình huống ngoài dự kiến,nên không thể tách ra được.
          Trời cũng gần tối.Chúng tôi bò vào quả đồi bên phải trước,anh Toản phân công tôi đi đầu,anh Toản đi giữa ,anh Mạnh đi cuối,nhiệm vụ của từng người giống như mọi khi. Chúng tôi tiến rất nhanh vào điểm cao nhất của quả đồi, trên đồi không có bọn địch ở,tôi nhô lên nhìn bao quát xung quanh.Gọi là quả đồi cũng hơi quá,thực ra nó chỉ là một gò đất tương đối rộng nhô cao lên so với mặt bãi cỏ chừng từ 4-5 mét.Trên đồi chủ yếu là cỏ tranh,thi thoảng mới có một vài bụi cây lá to và một vài bụi Sim bụi Mua mọc lưa thưa.Chúng tôi quay lại tụt xuống vị trí cũ,tiếp tục bò vào quả đồi bên trái.Cũng giống như quả đồi bên phải,cũng không có địch ở,đồi này có vẻ cao hơn và to hơn đồi bên phải,tình trạng địa vật và cây cối tương đối giống nhau.Rất nhanh,chúng tôi kết thúc việc trinh sát hai quả đồi.
   Quả đồi cuối cùng ở xa hơn,nó ở phía cuối con đường cụt,cách ngã ba Phước môn khoảng 150-200 mét.Tôi lần ra phía đường,cách trục đường 40-50 mét,rồi ngược lên.Thời điểm này rất thuận lợi cho chúng tôi,trời cũng đã tối nhưng chưa tối hẳn,ánh sáng của pháo sáng chưa phát huy hết công suất nên nhìn không rõ.Mặt khác,quần áo chúng tôi lẫn với cỏ cây,nên việc di chuyển của chúng tôi rất thuận lợi,địch ở xa không thể phát hiện được.
   Tôi đã tiếp cận được chân quả đồi,và dừng lại quan sát.Đây là chân của quả đồi thấp nối liền với quả đồi cao phía trong bằng yên ngựa,hai đỉnh đồi cách nhau cũng không xa lắm.Tôi nghĩ,đỉnh thấp này địch sẽ không ở,mà chúng có ở thì ở đỉnh cao.Vì thế tôi cứ thẳng đỉnh đồi mà tiến,đúng như tôi nhận định,đỉnh này không có địch.Tôi vượt qua yên ngựa,tiến vào hướng bên trái của quả đồi cao phía trong.Tôi tiến từng bước chắc chắn,vừa đi vừa nghĩ,chắc là cũng không có địch ở,vì nếu có thì phải có biểu hiện gì về sự sinh hoạt của con người như là mùi khai mùi hôi thối,các vỏ đồ hộp các bao nilon vỏ bao thuốc lá v.v. Nghĩ thế nên tôi tiến nhanh hơn,và vòng về phía sau quả đồi.Tôi ra hiệu cho mọi người dừng lại rồi bò lên đỉnh đồi.Trời lúc này tối quá,một vài quả pháo sáng ở phía xa xa nên soi không đủ sáng.Tôi giật mình dừng lại,phía trước tôi là một bức tường được xếp bằng những bao cát.Tôi nằm im để nghe ngóng động tĩnh,nằm rất lâu nhưng vẫn chưa phát hiện được gì,lúc sau tôi lấy viên sỏi to,ném về phía trước bức tường để thăm dò phản ứng,chờ một lúc lâu sau cũng không thấy có động tĩnh nào.
   Tôi quyết định bò vào,đến sát bức tường bằng bao cát và nằm lại.Sau đó,tôi bám vào bức tường đứng lên nhìn vào trong,tôi vội vàng ngồi thụp xuống,trống ngực đập thình thình liên hồi,ngẹt thở.Tôi nhìn thấy một tên địch đang ngồi gác nhìn ra phía ngã ba Phước môn,ngoài ra chưa kịp phát hiện bên trong có những gì.Tôi nằm nép xuống chân tường lắng nghe tiếng động,tôi nghĩ mình phải chuyển vị trí quan sát.Tôi bò theo chân tường ra một vị trí khác,rồi men theo tường đứng lên,và nhìn vào tên địch ban nãy,vẫn thấy nó ở đó không nhúc nhích.Tôi lại ngồi xuống,lúc này đầu óc tôi căng thẳng,hàng loạt câu hỏi hiện ra:Có đúng là có địch đang ngồi gác không?Tại sao lúc nãy khi tôi ném viên sỏi để gây tiếng động lại không thấy nó phản ứng gì?Vì sao từ nãy đến giờ nó lại chỉ ngồi một tư thế?Ở đây chả lẽ chỉ có một tên gác hay sao???Tóm lại là có rất nhiều câu hỏi,câu hỏi nào cũng có lý,và tôi cũng chưa tự trả lời được câu hỏi nào.Bây giờ phải làm thế nào?Tôi thực sự lúng túng,chưa tìm ra cách giải quyết,tôi nghĩ cách tốt nhất là chờ thêm lát nữa xem tên địch có thay đổi vị trí gác hoặc là thay đổi tư thế ngồi không.Tôi quyết định chờ và nghe ngóng động tĩnh.
   Chờ khoảng 15-20 phút gì đó,vẫn không có động tĩnh gì.Tôi quyết định đứng lên nhìn vào phía trong tường lần nữa,điểm đầu tiên mà tôi chú ý là vị trí tên địch ngồi gác ban nãy,tên địch vẫn ngồi ở tư thế cũ,mặt hướng ra phía ngã ba Phước môn.Lần này tôi dừng lại rất lâu để tập trung quan sát tên địch và các thứ xung quanh nó,một phút rồi hai phút trôi qua tên địch vẫn ngồi im.Tôi chợt nghĩ,hay là hình nộm bọn địch tạo ra để đánh lừa.Nghĩ vậy,tôi nhặt viên sỏi ném về phía trước chỗ tên địch gác,vẫn không thấy nhúc nhích gì,tôi cho đây là hình nộm.Để chắc ăn,tôi lấy viên sỏi ném vào đúng chỗ đúng chỗ tên địch ngồi,vẫn ngồi im không nhúc nhích.Như vậy là không phải người,tôi ra hiệu để mọi người tiến lên và tản ra dọc tường,tôi tìm cách men theo tường để vào trong .Đây là một công sự nổi,tường của công sự được xếp bằng bao cát,xếp theo hình cánh cung,dài độ 5-6 mét,tường dày theo kiểu hình thang,đáy rộng khoảng 1,0-1,2 mét,đỉnh rộng 0,4 mét,tường cao khoảng 1,5-1,6 mét,dọc theo chiều dài tường, cách mặt đất độ 0,3-0,4 mét có bố trí 3 lỗ châu mai quay ba hướng.Chỗ mà tôi tưởng có tên địch ngồi gác,là một số các bao tải cát thừa,chúng xếp gọn lại để dự phòng,trong công sự này không có bất cứ vật dụng nào của địch để lại,ngoài mấy đồ rác thải.Ngồi trong công sự này có thể nhìn bao quát toàn bộ ngã ba Phước môn,khống chế một vùng rộng lớn của cánh đồng hoang.Tôi quay ra đón anh Toản và anh Mạnh vào, các anh xem xét một lúc,anh Toản nói:
   -Thôi được rồi,chúng ta kết thúc công tác trinh sát tại đây,bây giờ chúng ta quay ra.Đi ra,anh Mạnh đi đầu đi theo đường vào,anh Quân đi giữa,Tôi đi cuối để đánh dấu đường lần sau còn dẫn bộ đội vào.Các anh xem đã được chưa,có cần phải làm gì thêm nữa không?
          Chúng tôi không ai nói gì,theo thứ tự được phân công lặng lẽ quay ra.Lúc này,chắc là cũng đã nửa đêm về sáng,trăng hạ tuần đã lên cao,ánh trăng với ánh pháo sáng soi sáng vằng vặc cánh đồng bỏ hoang.Chúng tôi có mặt ở “Chốt” bộ binh khi trời tang tảng sáng.
 (Còn nữa)
   


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: dathao trong 02 Tháng Hai, 2012, 10:11:28 pm
Bác quanvietnam viết bài nầy rất hay,rất hấp dẩn-lôi cuốn.Thể hiện được tính cách chuyên nghiệp của người lính trinh sát:cẩn thận,nhanh trí và linh hoạt.Quả thật địch làm những hình nộm lính gác đó cũng làm cho ta mất thêm một ít thời giờ quý báu trong khi làm nhiệm vụ.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 06 Tháng Hai, 2012, 02:24:58 pm

                      NỞ HOA TRONG LÒNG ĐỊCH(tiếp theo)
          Chiều ngày hôm ấy,chúng tôi có buổi báo cáo với ban chỉ huy đại đội. Anh Toản trình bầy toàn bộ quá trình luồn sâu của tổ và đánh dấu hành trình những nơi tổ đã trinh sát lên bản đồ. Sau khi anh Toản trình bầy xong,tôi xin được bổ xung ý kiến của anh Toản.Tôi nói:
   -Điều đầu tiên,tôi muốn khẳng định xung quanh khu vực ngã ba Phước môn là không có địch,cũng không có một công trình quân sự nào.Tôi nói như vậy để chứng tỏ rằng: Đây là khu vực hiểm yếu, bọn địch đã có sự phòng bị từ xa,việc để trống khu vực này là có ý đồ,giống như chiếc bẫy gài sẵn,
   -Điều thứ hai,tôi cũng xin các anh chú ý:Nếu quân ta triển khai vào ngã ba Phước môn thì lành ít giữ nhiều.
   Nghe xong,các đồng chí trong ban chỉ huy đại đội,hỏi lại chúng tôi xem có ai bổ xung gì nữa không.Tôi nhìn các đồng chí để dò xét xem các đồng chí có phản ứng thế nào,nhưng không ai nói gì cả.Một lúc sau đồng chí đại đội trưởng nói:
   -Nếu không ai có ý kiến gì thì cuộc họp của chúng ta dừng lại tại đây,tổ của đồng chí Toản tranh thủ nghỉ ngơi,tối mai nhận nhiệm vụ mới.
   Mọi người lục đục đứng dậy ra về,tôi cũng ra theo,khi ra khỏi “hầm âm” vài ba bước chân,tôi tranh thủ nói thêm với đồng chí chính trị viên đại đội,tôi phân trần:
   -Báo cáo đồng chí chính trị viên,không phải là chúng tôi ngại khó khăn,nguy hiểm khi dẫn bộ đội vào.Điều mà  chúng tôi quan tâm là ở chỗ,đó là một cái bẫy,chui vào đó như tự mình chui vào thòng lọng.Anh thấy đó,ngã ba Phước môn nằm ở bãi trống,xung quanh là những dãy đồi bát úp bao bọc,phía trước là trận tuyến giữa ta và địch,nếu đưa bộ đội vào đấy cực kỳ nguy hiểm,tiến thoái đều không được.Đề nghị anh,khi báo cáo với tham mưu trưởng anh lưu ý vấn đề này.
   Đồng chí chính trị viên đại đội,vỗ vai tôi nói:
   -Đồng chí yên tâm,chúng tôi sẽ bàn kỹ vấn đề này.Bây giờ các đồng chí về nghỉ ngơi cho khỏe để mai lại tiếp tục.
   Tôi quay ra nhìn Toản và Mạnh,cả ba không nói gì với nhau nhưng tất cả đều ngầm hiểu đêm mai lại tiếp tục luồn sâu vào Phước môn.
          Chiều ngày hôm sau,chúng tôi nhận được lệnh dẫn đồng chí tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 5 vào trinh sát ngã ba Phước môn.Vẫn như mọi khi,chúng tôi có mặt ở “Chốt” bộ binh K5 khoảng 5 giờ chiều.Sau đó  một lát thì gặp đoàn của ông Hùng,tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 5.Dưới giao thông hào “Chốt” của tiểu đoàn 5,anh Toản dùng bản đồ báo cáo lại toàn bộ hành trình luồn sâu của chúng tôi cho ông Hùng nghe,nghe xong ông có hỏi anh Toản một và điều có liên quan đến việc luồn sâu tối nay như mật khẩu,số người,thời gian.v.v.Ông Hùng cũng không đề cập đến vấn đề mà tôi báo cáo lần trước.Tôi cứ suy nghĩ mãi không biết có nên nói không?Tôi đoán chắc chắn ông Hùng cũng biết,bởi vì ông là tiểu đoàn trưởng của một tiểu đoàn bộ binh cơ mà.Nghĩ thế,nên tôi cũng không nói đến vấn đề đó nữa.
     Khoảng độ hơn 6 giờ chiều,khi hoàng hôn đang khuất dần sau dãy đồi phía Tây,anh Toản báo cáo với ông Hùng cho xuất phát.Tổ chúng tôi có ba người,đoàn của ông Hùng khoảng 4-5 người,cả thảy là 7 hay tám người gì đó.Theo phân công,anh Toản đi trước,tiếp theo là một số cán bộ của tiểu đoàn 5 ,đến ông Hùng và công vụ,tiếp là tôi,sau đó lại là cán bộ của tiểu đoàn 5,đi cuối cùng là anh Mạnh.
     Đoàn chúng tôi đi rất thuận lợi,bám sát với vệt đường lúc vào.Chúng tôi chỉ phải bò mất một đoạn trước “Chốt”,vì đây là đoạn giáp gianh bọn địch rất hay để ý nên tiến độ tiến rất chậm,sau đó là đi lom khom vì vậy tốc độ khá nhanh.Những lần dẫn bộ binh vào bàn giao thực địa,là chúng tôi rất lo,bởi vì đi với bộ binh thường là đi đông,súng ống lủng củng không gọn nhẹ như bọn trinh sát chúng tôi,nên rất dễ bị lộ.Được cái lần này đi cũng ít người,gọn nhẹ,vì thế cũng đỡ lo hơn.
    Chúng tôi vượt qua khe Như lệ,dưới ánh sáng soi đường của pháo sáng. Đêm cũng đã về khuya,không gian tĩnh mịch,đoàn người đang rón rén lom khom bước đi từng bước,bỗng có ai đó buồn đi trung tiện do cố kìm lại nhưng không được mà tự phát ra,cộng với quần vừa lội nước bị ướt,tạo thành hộp cộng hưởng làm thành tiếng nổ vang vọng cả không gian im lặng.Có tiếng chửi nhỏ vừa đủ nghe nhưng giọng gằn lên giận dữ: Đ. Mẹ thằng nào ngu thế.Tôi buồn cười lắm nhưng không giám cười,tôi biết thủ phạm việc này là ai…
   Đoàn người cứ lầm lũi tiến vào hướng ngã ba Phước môn,anh Toản đã đưa đoàn của ông Hùng đi tất cả những điểm mà tổ chúng tôi đã trinh sát đêm hôm trước.Trong quá trình trinh sát,ông Hùng cũng thi thoảng dừng lại,nhìn về phía mấy cao điểm và lẩm bẩm một mình tôi nghe không rõ.Hình như,ông đang có ý định gì mà chúng tôi không biết.Khi đến quả đồi có công sự bỏ không,anh Toản báo cáo,đây là điểm cuối cùng.Ông Hùng,ngước lên nhìn các cao điểm xung quanh,nhìn ra hướng ngã ba Phước Môn,trầm tư suy nghĩ một hồi lâu.Sau đó ông nói với chúng tôi:Tốt rồi,ta rút ra thôi!
   Chúng tôi rút ra “Chốt” bộ binh an toàn,lúc này chắc khoảng 3-4 giờ sáng.Ông Hùng chia tay với chúng tôi,ông bắt tay từng người rất chặt,trời tối nên không nhìn rõ mặt ông Hùng và anh em cán bộ tiểu đoàn 5.Ba anh em chúng tôi chào mọi người,rồi quay lại đi xuống bờ sông Thạch hãn,về đơn vị…Bẵng đi một thời gian dài,câu chuyện nở hoa trong lòng địch tưởng như đã lãng quên.
    Sáng ngày 27 tháng 01 năm 1973,ngày ký kết hiệp định hiệp định Paris về chiến tranh Việt nam có hiệu lực.Từ sáng sớm,đã thấy rất nhiều cờ của Mặt trận dân tộc giải phóng Miền nam,được cắm lên chạy dọc tuyến phòng ngự của ta và địch,có những chỗ chúng ta bí mật cắm sát tận chân đồi mà bọn địch đóng,nhiều vùng đất giáp gianh giữa ta và địch trước kia, bây giờ cũng được cắm cờ của Mặt trận lên để thể hiện chủ quyền. Mấy ngày đầu,cả hai bên còn tôn trọng hiệp định.Nhưng sau đó ít hôm,bọn địch cay cú với việc cắm cờ xác định chủ quyền lãnh thổ của bên ta,nên bọn chúng tổ chức nhổ cờ,cố tình vi phạm hiệp định.
   Tôi không nhớ rõ hôm ấy là ngày bao nhiêu,lúc đó vào khoảng 4-5 giờ chiều,trên đài quan sát chúng tôi thấy bọn địch mò lên để nhổ cờ của ta.Chúng lợi dụng bờ ruộng và mồ mả để tiến đến vị trí cắm cờ, chúng bò thành nhiều nhóm,đi nhiều hướng đến các vị trí cắm cờ,cứ mỗi lần chúng nhô lên định nhổ lá cờ thì lập tức bộ binh ta lại  nổ súng,chúng vội vàng nằm xuống và không làm gì được.Cứ rền rứ như vậy rất lâu,có một vài lá cờ ở gần với vị trí của chúng thì chúng nhổ được.Đài quan sát của trinh sát báo cáo về trung đoàn,qua cáp tai của đồng chí thông tin tôi nghe được giọng của ai nói: “Lệnh của trung đoàn trưởng.Cờ là tổ quốc kẻ nào xâm phạm thì tiêu diệt”.Lệnh này được truyền đi đến các đồng chí chỉ huy tiểu đoàn để thực hiện.
   Cả hai bên giằng co nhau kéo dài hàng tiếng đồng hồ,Sau đó địch gọi pháo bắn vào đội hình của ta rất ác liệt,chúng bắn tương đối lâu.Bộ binh của ta phải rút xuống hầm,bọn địch đi cướp cờ tranh thủ thời cơ cướp cờ chạy về.Trong lúc pháo của địch bắn cấp tập xung quanh đài quan sát của chúng tôi,ở trong hầm tôi nghe mấy lần tiếng kêu cứu: “Anh ơi! cứu em với”.Đã hai ba lần tôi nhô ra nhưng lại phải thụt vào,vì pháo bắn gần quá.Tiếng kêu cứu lại rên rỉ,tôi nhoài người ra bò đến chỗ đồng chí bị thương,dùng hết sức kéo vào trong hầm trú ẩn.Ngay lúc đó,tôi không biết gì nữa.Sau trận pháo kích này,khi tôi tỉnh dậy,tôi thấy mình đang được chăm sóc ở dưới chân đồi trong giao thông hào,tôi chỉ bị sức ép và không nghe được.Sau đó,tôi được đơn vị,cho nghỉ ngơi tại chỗ.
     Một thời gian,khi tôi đã bình phục.Lần gặp anh Toản,anh kể,thời gian đó anh cùng trinh sát tiểu đoàn 5 đi cắm cờ ở ngã ba Phước môn và ở lại trong đó để bảo vệ cờ.Nhưng cũng không giữ được, vì bộ đội thì ít địch lại đông,sau phải báo cáo trung đoàn xin hỏa lực chi viện,trung đoàn có cho bắn mấy loạt H12,song cũng không giữ được.
   Khi anh Toản kể lại chuyện này,tôi liên tưởng đến việc đi luồn sâu vào ngã ba Phước môn để thực hiện chiến dịch: Nở hoa trong lòng địch. Lúc này,tôi mới thấy các nhà chỉ huy quân sự rất mưu lược,đã lường trước được tình huống xảy ra và chuẩn bị rất chu đáo kể cả từ những lá cờ mang vào cắm trong ngã ba Phước môn để thể hiện chủ quyền lãnh thổ,khi hiệp định Paris về Việt nam được ký kết.
                                                  HẾT


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 17 Tháng Hai, 2012, 04:03:43 pm

NHỮNG NGÀY Ở NẠI CỬU
          Khoảng cuối tháng 8 đầu tháng 9 năm 1973,trung đoàn 95 được lệnh bàn giao lại trận địa đang chốt giữ,cho bộ đội địa phương tỉnh Quảng trị, rút ra khu vực Nại cửu để làm công tác huấn luyện và dự phòng chiến đấu khi cần thiết.Hầu hết các đơn vị từ trung đoàn bộ,đến các đơn vị trực thuộc và các tiểu đoàn bộ binh đều đóng quân rải rác ở khu vực Nại cửu.
      Khi ra đến Nại cửu,C20 chúng tôi bắt tay vào công tác xây dựng doanh trại.Lúc này đã là đầu mùa mưa,hàng ngày chúng tôi chia thành nhiều nhóm tỏa đi khắp nơi để  tìm kiếm vật liệu về  xây dựng doanh trại.Nhóm ra căn cứ Ái tử,thu nhặt những phế tích chiến tranh,nhặt nhạnh tất cả những loại vật liệu có thể sử dụng đều được chúng tôi vận chuyển về để sử dụng vào việc xây dựng doanh trại,từ những cây cột điện bằng gỗ thông dầu,những thanh sắt,những đoạn dây điện,những tấm gi của đường băng,những tấm tôn vòm,thôi thì thượng vàng hạ cám cái gì có thể sử dụng được là thu nhặt mang về.Nhóm vào rừng chặt cây, chặt tre cắt cỏ tranh về để làm nhà.Nhóm thì chuẩn bị thao trường để luyện tập.vv.Việc xây dựng doanh trại đối với chúng tôi rất vất vả vì thiếu thốn dụng cụ,để có dụng cụ chúng tôi phải ra tận Đông hà,xuống tận Nham biều đi xa cả ngày đường vào nhà dân để mượn dụng cụ,có những cái không có,chúng tôi tự chế tạo…Thế rồi khoảng hơn tháng sau,với bàn tay khéo léo của anh bộ đội cụ Hồ,chúng tôi đã có một doanh trại khá đầy đủ các hạng mục,nào là nhà ở cho ban chỉ huy đại đội,nhà ở cho các trung đội,tiểu đội,nhà hội trường,nhà bếp,nhà kho,thao trường, chòi canh gác,sân bóng đá bóng chuyền .v.v.
     Có thể nói,cuộc đời đã bước sang một thời kỳ mới,đang từ chỗ hàng ngày đối mặt với kẻ thù,cái sống cái chết luôn luôn rình rập, cuộc sống thì chui rúc hầm hố,ăn uống thiếu thốn,sinh hoạt không giờ giấc.Bây giờ đã khác hẳn,có nhà cửa có doanh trại,được đi lại cười nói tự do,hàng ngày được học tập rèn luyện,ăn uống tương đối no đủ,sinh hoạt có giờ giấc,được tăng gia sản xuất để cải thiện nâng cao sức khỏe của bộ đội,được vui chơi thể dục thể thao bóng chuyền bóng đá.v.v.Tuy còn nhiều thiếu thốn,song toàn thể cán bộ chiến sĩ C20 cũng cảm thấy tạm bằng lòng với cuộc sống hiện tại,để yên tâm làm công tác huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu.
     Ra nghỉ ngơi làm công tác huấn luyện,mới được vài tháng.Do tư tưởng thoải mái,điều kiện ăn ở và sinh hoạt tốt.Nên bộ đội trông anh nào anh nấy béo tốt hẳn ra,tóc tai râu ria được cạo hớt,quần áo sạch sẽ gọn gàng,trông ai cũng thấy đẹp.Mỗi buổi tập trung đại đội,nhìn vào thấy một đội hình có một thể lực sung mãn,hừng hực khí thế,sẵn sàng nhận nhiệm vụ,ai cũng vui.Đây là lần đầu tiên,đơn vị tập trung đông đủ kể từ khi tham gia chiến dịch Quảng trị,nhiều anh em lần đầu tiên mới biết nhau,có nhiều anh em đã hy sinh trong thành cổ Quảng trị chỉ còn được nghe kể lại,nhiều anh em mới được bổ xung và cũng còn nhiều anh em đi công tác chưa về,vì vẫn phải đặt các đài quan sát để theo dõi tình hình hoạt động của địch ở những nơi trọng yếu để báo cáo về trung đoàn.Nói tóm lại,tuy rằng chưa thật sự đầy đủ về quân số,nhưng C20 đang thực sự hồi sinh và vươn lên mạnh mẽ…Sống ở C20 lúc này vui lắm,ngày nào cũng như ngày nào đều rèn luyện trên thao trường,chiều về thể dục thể dục thể thao,bóng đá bóng chuyền xà đơn xà kép,chủ nhật bộ đội được nghỉ ngơi tắm giặt,các đơn vị tổ chức bẫy chim bẫy thú bắt cua bắt cá cải thiện bữa ăn thêm vui vẻ đầm ấm.
     Công tác huấn luyện của C20 ở chiến trường,cũng khác với thời kỳ huấn luyện ở ngoài bắc,thời kỳ này C20 chủ yếu huấn luyện nghiệp vụ trinh sát và thông tin trinh sát.Công tác huấn luyện tuy không nguy hiểm nhưng lại rất vất vả,được cái anh em toàn là những người đã qua chiến đấu nên rất tự giác rèn luyện.Các nghiệp vụ trinh sát thì rất nhiều,nhưng anh em đặc biệt thích thú rèn luyện môn võ,môn bơi,môn tiền nhập. v.v.  Những môn này,được áp dụng ngay trong chiến đấu.Sau khi trực tiếp tham gia chiến đấu rồi rút ra huấn luyện,bây giờ tôi mới ý thức đầy đủ được câu nói: Đổ mồ hôi trên thao trường để chiến trường bớt đổ máu. Thật là thấm thía,có những hôm đi tập về người đau như bị ai đánh,hai cùi tay,hai đầu gối,da cơ bụng bỏng rát,rớm máu.Có những hôm rét run cầm cập vì ngâm nước nhiều quá,có những hôm thức thâu đêm tới sáng bụng đói meo,nhiều và nhiều lắm những khó khăn gian khổ,nhưng nghĩ lại thì có thấm vào đâu khi chúng tôi phải đối mặt với cái chết.Và như vậy tất cả anh em chúng tôi mím môi chịu đựng để vượt qua và hoàn thành tốt các bài tập theo giáo án.
     Trong quá trình huấn luyện,thi thoảng đơn vị tổ chức thực binh,hành quân dã ngoại. Hôm nay,đơn vị tổ chức dã ngoại luyện tập dài ngày ở vùng Đông hà Cam lộ,biết là phải hành quân xa vất vả,nhưng anh em rất phấn khởi ai cũng vui.Đã lâu rồi anh em xa quê,nhớ nhà nhớ quê hương, thèm được nhìn thấy lũy tre bến nước mái đình,thèm được nghe tiếng khóc của trẻ thơ,thèm nghe tiếng gà gáy tiếng chó sủa,muốn ngắm bình minh buổi sáng hoàng hôn buổi chiều,muốn nghe thấy sự chuyển động của một vùng quê yên ả cho đỡ nhớ nhà nhớ quê.Được ra vùng này để luyện tập,anh em phấn khởi thực sự.
     Do yêu cầu của đợt hành quân dã ngoại,đơn vị không được đóng quân trong khu vực dân cư. Đơn vị đã liên hệ với địa phương mượn được một khu vườn trồng toàn tre và mít,tương đối rộng gần khu vực cầu Đông hà,bên bờ sông Cam lộ,để đóng quân.Đặt ba lô xuống là bắt tay vào ngay những bài thực hành nào là đào bếp Hoàng cầm,đào hầm trú ẩn,tổ chức ăn ngủ cho bộ đội.Tất cả các công việc đều được diễn ra nhanh chóng,thuần thục.Bởi vì lính trinh sát đã quá quen với những việc này và họ đã từng làm không biết bao nhiêu lần có thể nói là không thể nhớ hết và cũng không thể đếm được…Do một ngày hành quân vất vả,tối hôm nay được lệnh đi ngủ sớm để mai dậy sớm đi địa hình.
     Tuy rằng rất mệt,nhưng nằm mãi cũng không tài nào ngủ được,phần thì lâu lắm mới lại nằm võng,phần thì đầu óc cứ nghĩ ngợi lung tung,phần thì những âm thanh lạ của làng quê cứ vọng tới đập vào suy tưởng.Trần trọc mãi,mệt quá ngủ thiếp đi.Tôi mơ thấy,có tiếng người con gái gọi tên tôi,tiếng thì đúng là tiếng của Vân,nhưng mặt thì tôi vẫn chưa nhìn rõ.Tôi cố nghển cổ lên nhìn cho rõ,xem có phải là Vân không?Nhưng không được,không hiểu tại sao đầu không nhấc lên nổi? Lại có tiếng gọi,lần này thì gần hơn thúc dục hơn,không phải giọng của Vân,nhưng là giọng của ai nghe quen quá.Mở mắt ra,tôi thấy đồng chí Mậu tiểu đội trưởng gọi tôi dậy đổi gác.Thật là tiếc,mắt cay xè,thèm ngủ quá… Sáng sớm hôm sau,toàn đơn vị đi địa hình để nghiên cứu địa hình ở những điểm sẽ là nơi kiểm tra sát hạch đánh giá kết quả rèn luyện của đơn vị.Mục tiêu rèn luyện hôm nay là: Tập bơi,thả trôi,đặt mìn phá cầu Đông hà; Đột nhập vào trụ sở làm việc của tỉnh đội Đông hà.Với mục tiêu này,yêu cầu các tổ ba người phải bí mật đặt được mìn vào trụ cầu Đông hà ở dưới sông mà không bị quân xanh phát hiện,quân xanh được trang bị đèn pha chiếu sáng.Tổ ba ngươi,phải đột nhập vào tầng ba của nhà ba tầng,trong khi quân xanh canh gác ở cầu thang lên xuống và đi tuần dọc theo cầu thang.Tất cả các tổ tự quyết định công việc của tổ,nếu bị phát hiện phải làm lại từ đầu.Thời kiểm ta sát hạch,bắt đầu từ 18h30 đến 05h00 hôm sau.Nhìn chung,công tác kiểm ta sát hạch của toàn đơn vị đều đạt yêu cầu,đạt loại khá loại giỏi rất nhiều.
     Sau đó,chúng tôi được nghỉ ngơi một ngày,đơn vị lại hành quân lên Đầu mầu,để thực hiện nốt hai chuyên mục: Đi phương vị cao điểm 241; Vẽ hiện trạng cao điểm 544.Những ngày hành quân dã ngoại tuy có vất vả nhưng rất vui,tâm tư nguyện vọng của bộ đội rất muốn hàng năm tổ chức hành quân dã ngoại từ hai đến ba lần,để vừa học tập vừa rèn luyện.(Còn nữa)
     









Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 23 Tháng Hai, 2012, 04:10:08 pm

                                 NHỮNG NGÀY Ở NẠI CỬU
          Những ngày huấn luyện ở Nại cửu,công bằng mà nói là vất vả nhưng thoải mái.Hàng ngày sau giờ tập luyện,các đơn vị thi đua nhau tổ chức tăng gia sản xuất,cải thiện đời sống.Nhìn những luống rau xanh,những giàn bầu giàn bí được tưới đẫm nước,đang rung rinh trước gió.Nhìn những chú lợn ụt ịt trong chuồng,những đàn gà đàn ngan đàn vịt lạch bạch ngoài sân,những chú chó tinh nghịch đùa rỡn với nhau,mới cảm nhận được mồ hôi và sức lực của bộ đội đổ ra để có những thành quả  này.Đất ở đây khô cằn toàn sỏi đá,chỉ có thứ cỏ tranh và những cây hoang dại sống được.Tuy rằng không phải hai sương một nắng,nhưng để có thể trồng được rau,chúng tôi phải cải tạo đất,đi kiếm từng bao tải cát đất mùn ở khắp mọi nơi mang về,chúng tôi tận dụng thực phẩm thừa hàng ngày để chăn nuôi gia cầm gia súc,lấy thịt để cải thiện mức sống của bộ đội,lấy phân để trồng trọt,tạo một vòng khép kín,chuyên nghiệp như những lão nông chi điền.
     Những ngày lễ ngày tết,đại đội đứng ra tổ chức liên hoan thì thật là vui,toàn đơn vị ồn ào náo nhiệt người nói người cười,tiếng lợn kêu,tiếng chày giã dò,tiếng giao thớt xoong nồi bát đĩa va chạm.Mùi mắm tôm giềng mẻ,mùi thịt nướng,mùi các loại rau thơm.Tất cả quện vào nhau,tạo nên không gian ẩm thực mùi vị ngầy ngậy thơm ngon khó tả nếu ai ngửi thấy đều phải chẩy nước miếng,chỉ mong được nếm thử. Ngày chủ nhật mà được nghỉ,hầu hết các đơn vị trong đại đội,đều tổ chức cải thiện,có trung đội thì làm thịt chó,trung đội thịt gà thịt vịt,có tiểu đội thì làm bún làm bánh cuốn,những hôm bẫy được con chim con thú,bắt được cua được cá đều tổ chức cải thiện và mời mọi người tham dự.Vào những buổi như thế,kiểu gì chúng tôi cũng kiếm được chút rượu,làm cho nhiều người mặt đỏ tía tai ngây ngất say,say cả rượu say cả tình đồng đội,C bộ luôn là khách mời của các đơn vị.Chúng tôi vui chơi thoải mái,buổi chiều thường là những trận thi đấu bóng chuyền giữa các đơn vị đóng xung quanh,chúng tôi  đang tận hưởng không khí hòa bình tuy rằng chưa trọn vẹn,vì chúng tôi vẫn đang ở chiến trường,kẻ thù còn đang ở phía trước.
       Những ngày này ở C20,toàn đơn vị đang hồ hởi phấn khởi đón nhận những lời biểu dương khen ngợi của cấp trên khi đạt được những thành tích cao trong công tác huấn luyện và xây dựng doanh trại.Trong không khí,sôi nổi và phấn khởi ấy,mọi người lại càng cố gắng học tập phấn đấu và rèn luyện để đạt được thành tích cao hơn nữa,những nụ cười rạng rỡ trên từng khuôn mặt đã thể hiện ý chí quyết tâm.Tuy nhiên,trong hoàn cảnh hiện nay chiến tranh vẫn đang hiện hữu từng ngày từng giờ,ở miền bắc bố mẹ,người thân,người yêu,anh em ruột thịt,bạn bè đang hàng ngày trông đợi,cho nên những nụ cười ấy,ở một góc độ nào đó đôi lúc cũng chứa đựng những nét ưu tư dễ hiểu.
          Tôi,thời gian ở Nại cửu,có những lúc tôi không hiểu tôi là ai,không biết mình đang vui hay đang buồn, dạo này tôi viết rất nhiều thư,viết rồi lại bỏ đi không gửi,tôi luôn tự mâu thuẫn với tôi,lúc có lúc không, lúc muốn gửi thư về sau lại không muốn gửi nữa,tôi sợ ngồi một mình vì lại nghĩ tới chuyện viết thư… Để che dấu nỗi niềm này,tôi luôn nhận và hoàn thành nhiệm vụ một cách nhanh nhất và tốt nhất, tôi không muốn có thời gian nhàn rỗi,có lẽ tôi đang cố quên đi một cái gì đó để tập trung vào việc hoàn thành nhiệm vụ cho thật tốt.Mấy tháng trước,khi vừa rút ra khỏi Như lệ được thời gian,đúng vào mùa mưa,dịch sốt rét tấn công.Tôi bị sốt rét ác tính thừa sống thiếu chết,đó là những ngày thật đáng nhớ đối với tôi,tôi rét run cầm cập đắp bao nhiêu chăn cũng không đủ ấm,tôi co ro run rẩy,rồi mồ hôi vã ra ướt đầm đìa,tôi sốt mê man bất tỉnh,trời đất là một mầu vàng ệch,chao đảo quay cuồng,mồm miệng đắng ngắt,các ven ở hai bắp tay vỡ choe choét tím bầm,hai bên mông thì sưng vù cứng đét nằm không thể trở mình được,lần giao thông hào dưới hầm âm đi từng bước run lẩy bẩy,đầu óc nhức như búa bổ,tai ù đặc chẳng nghe rõ ai nói gì.Nghĩ lại những trận sốt rét rừng,tôi rùng mình sợ hãi,mấy thằng bạn nó còn dọa tôi,uống và tiêm nhiều thuốc Quynine,Nivaquyne có khi còn ảnh hưởng đến cả đến đường con cái sau này…Tôi sợ.
          Thời gian tôi điều trị sốt rét và nghỉ điều dưỡng ở C24 quân y E95 có lẽ cũng phải tới hàng tháng,đây là khoảng thời gian buồn nhất đối với tôi,kể từ khi tôi vào chiến trường.Buồn là vì phải sống xa đơn vị,buồn là vì sức khỏe kém đi nhiều,buồn là vì chỉ có ăn rồi lại nằm,thời gian thì nhiều chẳng có việc gì làm chỉ tổ nghĩ ngợi lung tung.Nhưng cũng có cái hay,vì chính thời gian này bằng những lập luận và phân tích biện chứng,nhiều lần tôi khẳng định suy nghĩ của mình là đúng,trên cơ sở ấy tôi thấy tự tin hơn vì mình đã quyết định vấn đề đúng.
   Thực ra, những điều tôi nói đúng sai cũng chẳng có vấn đề gì ghê gớm,đối với mọi người cứ nói ra là xong,nhưng với tôi do con người đa cảm nên nó lại trở thành câu chuyện đáng nói.Chính vì câu chuyện này,mà đã từ lâu luôn làm lương tâm tôi day dứt,không thoát khỏi những mặc cảm của quá khứ,kiến cho tôi băn khoăn không biết mình làm thế đúng hay sai.Đó là câu chuyện,kể từ khi tôi vào Nam chiến đấu,tôi quyết định không viết thư gửi về cho gia đình và cho tất cả mọi người. Suy nghĩ của tôi về việc này rất đơn giản,việc tôi không viết thư về là để mọi người muốn nghĩ thế nào cũng được.Mọi người có thể cho rằng tôi có viết nhưng ở nhà chưa nhận được,nếu lâu quá ở nhà chưa nhận được thì mọi người lại nghĩ,có thể tôi vào sâu quá hoặc là chiến trường ác liệt quá hoặc là lý do gì đó nên chưa có thư về,điều xấu nhất có thể mọi người cho rằng tôi đã bị thương hoặc hy sinh nên không có thư về,như vậy cũng được.Tôi đã thấy những trường hợp,vừa viết thư gửi về gia đình ngày hôm trước thì hôm sau đã hy sinh,người nhận thư cứ căn cứ ngày tháng trong thư để mà vui để mơ ước,đâu có biết rằng khi lá thư này vừa chuyển khỏi tay người viết ít hôm thì người viết đã hy sinh. Chính vì như vậy nên tôi quyết định không viết thư,để mọi người nghĩ sao cũng được.
   Đối với bố mẹ tôi và gia đình tôi thì kết cục thế nào cũng phải chấp nhận, có thư về càng tốt,không có thư về thì chờ đợi.Xấu nhất là tôi đã hy sinh và gia đình nhận được giấy báo tử,khi đó gia đình tôi,bên trong là chôn chặt sự đau thương mất  mát,bên ngoài thì tự hào đã đóng góp cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước một người con thân yêu.Rồi từ đó vết thương của chiến tranh còn hằn sâu trong con tim của mọi người trong gia đình tôi,hình ảnh của tôi còn theo suốt cuộc đời họ.
   Còn đối với Vân,người yêu tôi sẽ không phải như vậy.Rất có thể vì quá yêu nhau nên Vân cứ chờ cứ đợi,rồi kết cục cũng giống như gia đình tôi,Vân sẽ trở thành hòn vọng phu,giống như bao hòn vọng phu khác vì chiến tranh tránh sao được hy sinh.Cũng nhiều khả năng,Vân vì hoàn cảnh nào đó nên không thể chờ tôi được mà đành rẽ bước sang ngang.Trong hoàn cảnh ấy,chỉ có trời biết và Vân biết.Như vậy liệu tôi không viết thư cho Vân có quá đáng không?Tôi nghĩ :Ở khía cạnh nào đó là quá đáng,vì can tội xem thường chị em phụ nữ,không muốn cho họ tham gia để chia sẻ gánh nặng cùng nam giới trong cuộc chiến tranh vĩ đại này,họ cũng là con người,họ có đầy đủ quyền lợi,quyền cống hiến hy sinh,quyền được hưởng hạnh phúc…Nhưng ở khía cạnh khác,việc tôi không viết thư cho Vân,tôi lại cho rằng tôi đã trả lại cho Vân tất cả những gì vốn có,Vân quyết định mọi vấn đề khi Vân cho là đúng…Lý thuyết thì là như vậy,nhưng ngồi nghĩ lại quá khứ từ buổi ban đầu chúng tôi yêu nhau tôi thật khó nói,cái nào là đúng cái nào là sai…
   Nhớ hồi còn đang đánh nhau ở Tích tường Như lệ,những lúc chờ xuất  kích,những thời gian đặt đài quan sát.Thời gian chờ đợi thì nhiều,sốt ruột,để quên đi thời gian chờ đợi,các em thường hay đề nghị tôi kể chuyện về thời kỳ tôi còn đang là sinh viên và tình yêu của tôi đối với Vân.Những lúc như vậy,tôi cũng thật thà kể cho các em nó nghe( đơn vị tôi,chỉ có mấy thằng sinh viên là thuộc loại lớn tuổi,còn lại các em chúng nó đều mới lớn chỉ độ mười chín đôi mươi).Những lúc như vậy tôi cũng hay thể hiện quan điểm của tôi về việc gửi thư về hay không gửi thư về,đa phần các em đều phản đối cho rằng sống chết có số nên đề nghị tôi cứ viết thư về.Cũng có một vài em lại đồng ý với tôi,thật là khó.
(Còn nữa)
   

         



Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: vetran trong 29 Tháng Hai, 2012, 01:56:04 pm
 

                                 NHỮNG NGÀY Ở NẠI CỬU
.
   Còn đối với Vân,người yêu tôi sẽ không phải như vậy.Rất có thể vì quá yêu nhau nên Vân cứ chờ cứ đợi,rồi kết cục cũng giống như gia đình tôi,Vân sẽ trở thành hòn vọng phu,giống như bao hòn vọng phu khác vì chiến tranh tránh sao được hy sinh.Cũng nhiều khả năng,Vân vì hoàn cảnh nào đó nên không thể chờ tôi được mà đành rẽ bước sang ngang.Trong hoàn cảnh ấy,chỉ có trời biết và Vân biết.Như vậy liệu tôi không viết thư cho Vân có quá đáng không?Tôi nghĩ :Ở khía cạnh nào đó là quá đáng,vì can tội xem thường chị em phụ nữ,không muốn cho họ tham gia để chia sẻ gánh nặng cùng nam giới trong cuộc chiến tranh vĩ đại này,họ cũng là con người,họ có đầy đủ quyền lợi,quyền cống hiến hy sinh,quyền được hưởng hạnh phúc…Nhưng ở khía cạnh khác,việc tôi không viết thư cho Vân,tôi lại cho rằng tôi đã trả lại cho Vân tất cả những gì vốn có,Vân quyết định mọi vấn đề khi Vân cho là đúng…Lý thuyết thì là như vậy,nhưng ngồi nghĩ lại quá khứ từ buổi ban đầu chúng tôi yêu nhau tôi thật khó nói,cái nào là đúng cái nào là sai…
  


Kính chào bác Quanvietnam. Tôi hân hạn được theo dõi những ký ức của bác  ghi lại những giai đoạn thăng trầm cùng đồng đội theo những bước chân chinh chiến trong một bối cảnh lịch sử của đất nước mà ngày đó dù còn nhỏ tôi cũng cảm nhận được sư thiệt thòi mất mát của một thế hệ các chị, các cô thiếu nữ Việt Nam.
Chúc bác quanvietnam tay cứng phím mềm, tiếp tục hành quân.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 01 Tháng Ba, 2012, 03:28:53 pm

NHỮNG NGÀY Ở NẠI CỬU
          Thời gian huấn luyện,tuy vất vả nhưng lại có nhiều thời gian được nghỉ ngơi,những lúc như vậy chúng tôi lại tụ tập nhau lại kể cho nhau nghe về chuyện gia đình,chuyện quê hương,chuyện mới nhận được thư,chuyện trên trời chuyện dưới đất,thôi thì đủ mọi chuyện…Đã lâu rồi,tối hôm nay chúng tôi mới lại có dịp ngồi với nhau,các em lại đề nghị tôi kể tiếp câu chuyện còn đang dở,tôi đồng ý rồi kể tiếp:
          Chúng tôi yêu nhau từ cuối mùa đông của năm thứ hai, hai đứa chúng tôi học chung một lớp,lớp 13 Cầu đường sắt.Ngày ấy khóa 13 khoa Cầu đường của trường đại học Xây dựng Hà nội,đang học sơ tán ở thôn Trúc ổ xã Mộ đạo huyện Quế võ tỉnh Hà bắc.Lúc đó,Hà bắc là gồm hai tỉnh Bắc ninh Bắc giang sáp nhập vào thành tỉnh Hà bắc.Nơi chúng tôi học là miền quê nghèo,vùng đồng chiêm trũng,sống ngâm da chết ngâm xương,chiêm khê mùa thối.Người dân ở đây cần cù chịu khó,làm lụng vất vả nhưng cũng chẳng đủ ăn,quanh năm nghèo đói,làng quê buồn hiu hắt.Sơ tán về những vùng này,chúng tôi chỉ còn biết học,ngoài ra cũng chẳng biết làm gì,cũng chẳng có nơi nào mà chơi,giá như có tiền cũng chẳng có quà bánh gì để ăn.
   Thời ấy chúng tôi yêu nhau không giám công khai,tất cả đều kín đáo, không khi nào nam nữ sinh viên ngồi gần nhau nói chuyện,thể hiện những cử chỉ yêu thương ở những nơi chỉ có hai người,hoặc là nơi thiếu ánh sáng. Những hành động đại loại như vậy đều được coi là sinh hoạt không lành mạnh,nếu bị phát hiện thế nào cũng bị các tổ chức nhắc nhở. Hồi đó,chỉ nói đến việc tổ chức gọi tên nhắc nhở là chúng tôi đã sợ lắm rồi,vì vậy hầu như các đôi yêu nhau rất bí mật không để ai biết,trừ bạn bè ở cùng nhà,còn những người khác chỉ đoán già đoán non không biết chắc chắn.
   Tôi hơn Vân hai tuổi,tôi là cán bộ đi học,còn Vân là học sinh,sau khi tốt nghiệp phổ thông là vào luôn đại học.Vân quê chính gốc nơi có làn điệu dân ca Quan họ Bắc ninh,từ đường quốc lộ 1A đến đồi Lim,rẽ qua đồi Lim đến chợ Sơn rồi vào thôn Hiên vân,đấy chính là nơi chôn rau cắt rốn của Vân,sinh ra ở thôn Hiên vân nên bố mẹ đặt tên là Vân.Vân có giọng hát dân ca quan họ Bắc ninh làn điệu cổ rất mượt mà đằm thắm đã có lần tôi gặng hỏi vì sao: Vân biết nhiều làn điệu và hát hay như vậy?Vân chỉ cười và nói: Em được bà và mẹ dậy hát từ nhỏ,cộng với ăn nước giếng thôn Hiên vân là ai cũng sẽ biết hát.Vân,nhìn tôi âu yếm nói đùa: Nếu anh làm rể thôn Hiên vân anh cũng phải tập hát để hát cho nhà gái nghe.Tôi cười và không nói gì.
   Tình yêu giữa tôi và Vân không biết bắt nguồn từ đâu. Dạo ấy chúng tôi ở trọ hai nhà gần nhau,chỉ cách nhau cái bếp,để đi ra đường chung của làng thì hai nhà phải đi qua sân của nhau.Ở đây gọi là cái nhà cho nó sang,vì nó có chủ nhà,có nhà có bếp có vườn có hàng rào,nhiều cái nó cũng có giống như những nhà khác về tên gọi nhưng quy mô và chất lượng thì hoàn toàn khác nhau. Thật công bằng mà nói thì những cái nhà này chỉ là những túp lều che tạm để ở. Nhà này là do hợp tác xã,kết hợp với bà con chòm xóm dựng lên cho,có tính chất giúp đỡ,nhà một gian hai trái,tổng diện tích khoảng 18m2, tường nhà được thưng xung quanh bằng những bức vách trát bằng bùn trộn rơm,do bị khô nên đã hở toác loác bên này nhìn thông sang bên kia,mùa đông gió lùa hun hút,nhà có một cửa bằng phên nứa,cửa thấp nên ra vào phải cúi rạp người để khỏi bị chạm đầu.Chủ nhân của hai nhà này,thuộc đối tượng đặc biệt của thôn.Một người là bà già đã hơn sáu mươi tuổi già yếu,có hai cô gái lấy chồng xa,theo chồng đi làm ăn để mẹ ở nhà một mình không nơi nương tựa,sống nhờ sự chu cấp của hợp tác xã và bà con chòm xóm.Một người là thanh niên hơn ba mươi tuổi,bị dị tật bẩm sinh khèo mất một chân ,đi lại bằng nạng,chưa có vợ,vẫn đang phải nuôi em trai đi học ở xa.
   Thấy chúng tôi đến đặt vấn đề xin ở nhờ,cả hai người mừng lắm, và đồng ý ngay,vì họ đỡ trống trải cô đơn,trong nhà lại thêm người thêm tiếng.Tôi và một anh bạn người Quảng bình ở nhà người thanh niên,Vân và cô bạn tên Lan người Yên bái ở nhà bà già.Từ đó,chúng tôi quan hệ với nhau,với hai gia đình vui vẻ đầm ấm. Cả hai bên đều quí trọng nhau,giúp đỡ lẫn nhau từ việc nhỏ đến việc lớn,khi quét dọn nhà cửa sân vườn,khi mùa màng cấy hái thu hoạch,tình cảm ngày càng thắm thiết mặn mà. Công việc học tập của chúng tôi rất thuận lợi,buổi sáng thì lên lớp buổi chiều buổi tối tự học ở nhà,nhà thì ở tách ra khỏi làng,lại không có trẻ con nên rất tĩnh,phù hợp cho việc học tập nghiên cứu.
   Thời kỳ đầu,khi mới dọn về,nhà nào biết nhà đấy,chúng tôi chăm chỉ học hành,rất ít gặp nhau,trừ những buổi lên lớp.Một thời gian sau,tôi thấy bên nhà Vân rất hay có các bạn cùng lớp đến chơi hay mượn mõ cái gì đó, con trai nhiều hơn con gái.Họ nói chuyện và cười đùa với nhau rất to,thời gian có khi mất cả tiếng đồng hồ,thậm chí còn hơn.Những lúc như thế tôi cũng bị phân tâm,không tập trung vào bài học mà chú ý nghe lúc được lúc không,câu chuyện đang diễn ra ở nhà bên.Dần dần tôi cũng biết được những người đến đó là ai,đến vì mục đích gì.Kể từ đó tôi bắt đầu chú ý hơn,đến hai người bạn gái hàng xóm của mình,khi vắng tiếng họ lại cảm thấy nhớ,đôi khi lại còn nghĩ về họ…
   Vânvà bạn gái,cứ như đôi chim lúc nào cũng quấn quít lấy nhau,không rời nhau nửa bước,nhìn thấy người này chắc chắn sẽ nhìn thấy người kia,họ còn đang tuổi ăn tuổi lớn,trông họ mơn mởn như hai bông hồng chúm chím khoe sắc dưới nắng ban mai.Nếu có đem so sánh cũng rất khó nói ai hơn ai,nhưng ở Vân người ta thấy có cái gì đó dễ gần hơn,hình giáng hấp dẫn hơn, nói hơi quá một chút thì trông thùy mỵ hơn.Nếu cho tôi đi chọn vợ thì cả hai người đều được,còn bảo thích ai hơn thì tôi thích Vân hơn.
   Thời gian cứ thế trôi đi,chúng tôi gần nhau hơn và thân nhau hơn,tôi đã nhập vào nhóm của Vân ra nhà bếp lấy cơm về ăn chung.Khi
 đã ăn cơm chung thì lại hay nghĩ ra cách cải thiện,nhưng hồi đó khổ lắm đất nước thì nghèo,gia đình nào cũng nghèo,thắt lưng buộc bụng lắm mới cho con được mấy đồng tiêu vặt cho cả năm,tiêu trước thì khỏi tiêu sau.Để có kinh phí cải thiện,chúng tôi nghĩ cách tiết kiệm:Ba người ăn hai xuất,những ngày chủ nhật được nghỉ thì đi chơi với bạn bè hay về nhà(nhà Vân ở  gần nơi sơ tán khoảng 20 km) để cắt cơm lấy tiền thanh toán,nhưng có lẽ quan trọng nhất vẫn là thân quen với các chị nhà bếp để xin mỡ,xin xì dầu v.v.Gọi là cải thiện nghe có vẻ tiệc tùng,thực ra có gì đâu,cơm hay cục mỳ luộc theo tiêu chuẩn lấy từ nhà bếp về,ở nhà nấu thêm một nồi canh,hôm thì canh cua hôm thì canh hến,hôm nào xôm lắm thì mới mua cá về rán,đầu đuôi thì nấu canh chua.Để có thực phẩm cải thiện,không phải chúng có sẵn ở trong làng,vì làng này nghèo lắm.Chúng tôi lại phải lặn lội ra mãi chợ Trì,cách đó hơn 3 km để mua, khi đi chợ tranh thủ  mang sách  để học,mua xong quay về mỗi đứa một túi,đứa thì rau sống,đứa rau thơm đứa thì trai hến,chỉ vậy thôi mà cũng thấy vui,cười đùa râm ran suốt cả quãng đường. Có những thời kỳ,cả thời gian dài,bếp tập thể sinh viên phải ăn mỳ luộc,thực ra là bột mỳ đem nhào lên rồi cho vào hấp,mỗi người được hai viên to bằng quả thị to,mầu nâu đất chắc như cục gạch.Ăn khỏe như tôi cũng chỉ ăn được dăm bữa,đói lắm thì cố nuốt,nuốt không được thì bê bát canh toàn quốc bằng rau muống nấu ở chảo gang mầu đen như nước cống để nuốt,nhiều hôm nghẹn ứa nước mắt.Những đợt như vậy,thường là chúng tôi lấy bột mỳ về nhào trộn rồi dùng vỏ chai cán mỏng,lấy dao cắt thành từng sợi nhỏ để nấu với canh cua hay canh hến cho dễ ăn,ngày ấy ở đó chưa biết cán mỳ sợi.
          Cuộc sống của sinh viên khóa 13 khoa Cầu đường thời kỳ sơ tán là như vậy,ngày lại ngày cứ lặng lẽ trôi.Tháng 9 năm 1970,tôi trúng tuyển nghĩa vụ quân sự và có giấy gọi nhập ngũ.
(Còn nữa)


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: linhcnn72 trong 03 Tháng Ba, 2012, 11:27:51 pm
 Chào bác.
Thế là trinh sát e95 đã xuất hiện,không biết có bác nào ở c20 e101 và e18 không, mời các bác tham gia cho đủ bộ.Bác chưa kể đoạn sau nhưng với thời gian không viết thư dài như vậy,mối tình của bác rất dễ...stop.Mong rằng không phải như thế, chúc bác tiếp tục câu chuyện đang hồi gay cấn.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: lexuantuong1972 trong 04 Tháng Ba, 2012, 08:38:01 pm
Chào bác.
Thế là trinh sát e95 đã xuất hiện,không biết có bác nào ở c20 e101 và e18 không, mời các bác tham gia cho đủ bộ.Bác chưa kể đoạn sau nhưng với thời gian không viết thư dài như vậy,mối tình của bác rất dễ...stop.Mong rằng không phải như thế, chúc bác tiếp tục câu chuyện đang hồi gay cấn.

@linhcnn72: c20/101 nhà mình có ông ĐTH đấy, mà ông ta nghề chính là làm báo cơ mà, chỉ sợ bây giờ ông ta làm to nhiều việc đại sự quốc gia chẳng thèm để ý gì những chuyện của mấy thằng chúng ta đâu >:(


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: linhcnn72 trong 04 Tháng Ba, 2012, 09:20:34 pm
Bác LXT,bác TTNL cũng có nhiều dịp gặp với c20 e101,có thể bác ấy biết nhiều chuyện.Mong bác TTNL bớt chút thời gian kể cho mọi người cùng nghe thì thật tốt,cám ơn trước.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 08 Tháng Ba, 2012, 01:42:04 pm

NHỮNG NGÀY Ở NẠI CỬU
          Đây là lần thứ hai,tôi được gọi nhập ngũ,cả lớp 13 Cầu đường đâu chỉ có 7 hay 8 người gọi đợt này.Thời gian gọi tập trung gấp quá, quê thì lại ở xa,nên không đủ thời gian về thăm nhà trước khi tập trung,tôi cũng muốn về, nhưng đường thì xa,chất lượng đường xá thì kém, nhất là vùng trọng điểm mà máy bay Mỹ hay ném bom còn đang phải sửa chữa lại cầu đường nên tầu xe đi lại khó khăn,có khi lại còn bị nhỡ tầu nhỡ xe,nếu mà bị chậm thì phiền phức lắm…Nghĩ đi nghĩ lại,tôi quyết định không về nữa,thực ra nếu có về thì lại phải vay tiền mà việc này thì tôi rất ngại,chưa bao giờ giám làm,mà cứ liều mà làm thì chưa chắc đã được vì khi đó tất cả bạn bè đều là sinh viên thì làm gì có tiền mà cho vay.
   Mấy ngày chờ tập trung,tôi buồn và chán thật sự,bạn bè thì đi học,chủ nhà đi vắng,nhà chỉ có mình chẳng biết làm gì,tôi cứ đi ra lại đi vào,hết đứng lên lại ngồi thở dài ngao ngán,lòng dạ bồn chồn.Tôi thu dọn gói gém đồ đạc,mấy quyển sách của thư viện thì chuyển sang để Vân mượn tiếp,còn quần áo chăn màn tôi gói gém lại đề địa chỉ rõ ràng nhờ Vân chuyển về quê.Xong việc tôi ngồi thừ người ra,tôi nghĩ biết được tin này chắc là cả nhà tôi buồn và thương cho cho tôi  lắm.Buồn ở chỗ là bao nhiêu công lao học hành bây giờ đành gác bút nghiên theo việc binh đao,thương cho tôi là ở chỗ lúc lên đường nhập ngũ lại không phải ở quê hương nên bố mẹ chẳng ai biết,anh chị em cũng chẳng ai hay,không có ai là người thân tiễn chân tôi lên đường nhập ngũ, nghĩ đến đấy,tôi thấy cổ họng se lại sống mũi cay cay. Đang suy nghĩ miên man,chợt nghe tiếng Vân và Lan ở nhà bên,tôi đang nghĩ sao hôm nay lớp tan học sớm vậy,thì đã nghe thấy tiếng Vân ngoài sân nhà tôi,nhìn thấy tôi Vân nói:
   -Hôm nay lớp được nghỉ sớm,chiều nay anh em mình đi chợ chơi và mua thực phẩm về  tối liên hoan tiễn anh lên đường nhập ngũ.
   Tôi cười nhưng chắc là bị gò bó nên trở thành tiếng cười gằn,trót lỡ như vậy sợ các em không vui,tôi nửa đùa nửa thật:
   -Em ăn trộm đâu ra tiền,mà có tiền đi chợ.
   Vân nhìn tôi rồi nháy mắt nhìn sang Lan,cười nói rất tự nhiên:
   -Hôm nọ chúng em thanh toán tiền ăn thừa tháng trước,được mấy đồng cộng với tiền người yêu Lan mới gửi cho Lan,mình cứ vay tạm sau này tính sau,thế là đủ tiền liên hoan thậm chí còn thừa.
   Tôi biết Vân nói đùa,vì tôi chưa bao giờ nghe thấy Lan nói về người yêu của Lan bao giờ,nhưng đã trót nói rồi đành phải tiếp tục.Tôi nhìn Lan,hỏi:
   -Có Phải thế không Lan?
   Lan có nước da trắng,trắng như người ta thường nói là trắng như trứng gà bóc,đôi lông mày đen sẫm cong tự nhiên,đôi mắt sáng long lanh,khuôn mặt tròn bầu bĩnh,má lúm đồng tiền,đôi môi đỏ mọng như tô son.Lan có mái tóc vừa dài vừa dầy lại đen nhánh,Lan chỉ phải cái hơi thấp,nếu cao lên chút nữa thì đẹp không thể chê vào đâu được.Thấy tôi và Vân nói thế,Lan chỉ cười mặt đỏ dựng để lộ hàm răng trắng muốt,Lan không nói gì.
          Chiều hôm ấy chúng tôi đi chợ,lượn đi lượn lại mãi ở hàng gà mới mua được con gà trống mới lớn có lẽ đang tập gáy, tôi trông thấy nó bé lắm, chợ vùng quê chỉ bán con chứ không bán cân,nhưng nếu có cân mà cân lên thì cũng chỉ suýt soát một cân.Thế là vui vẻ rồi,việc khó khăn nhất đối với túi tiền của sinh viên coi như đã được vượt qua,còn lại mua các thứ khác như rau dưa hành tỏi cà chua thì mua búa xua chẳng cần nghĩ ngợi nhiều.
   Bữa cơm liên hoan của chúng tôi tối hôm ấy còn có cả bà chủ nhà,nhìn bà lão mới hơn 60 tuổi mà lưng đã còng,đi đâu đều phải chống gậy,ngồi ăn cơm với chúng tôi,thấy bà vui lắm,có lẽ lâu lắm rồi bà mới được ngồi ăn như thế này.Bà nói với chúng tôi,mà có lẽ nói với tôi thì đúng hơn:
   -Các cháu sinh ra,phải thời giặc giã,con trai thì đi bộ đội con gái thì đi thanh niên xung phong,những người già như bà chẳng thể làm được gì chỉ biết ngồi nhà trông đợi.Ngày mai cháu đi,bà chúc cháu chân cứng đá mềm,hoàn thành nghĩa vụ thì lại về thăm bà nhé.Nói rồi,bà thò tay vào túi áo,lấy ra một gói giấy đưa cho tôi và lại nói tiếp: Bà chẳng có gì làm quà cho cháu trước lúc lên đường,cháu cầm lấy hộp dầu cao này để xoa cho nó ấm,phòng khi trái gió trở trời.
   Tôi đưa hai tay đỡ lấy gói giấy gói hộp dầu cao mà lòng nghẹn ngào nước mắt cứ chực trào ra,tôi nói:
   -Cháu xin,cháu cám ơn bà.Ở nhà bà nhớ giữ dìn sức khỏe,nếu có điều kiện cháu sẽ về thăm bà.
   Bữa liên hoan tối hôm ấy tôi thấy vui vẻ,quên cả nhớ nhà.Ăn xong,chúng tôi còn ngồi nói chuyện đến khuya.Tôi kể cho mọi người nghe về quê hương tôi về hoàn cảnh gia đình tôi,về tôi,về quá trình phấn đấu để vào đại học của tôi.Chuyện cứ rời rạc gãy khúc,ai hỏi đến đâu tôi lại kể đến đó…Thế mà cũng đã hơn 11 giờ đêm,bà và Lan lên giường nằm cho đỡ đau lưng,thi thoảng lại góp chuyện, một lát sau không thấy ai góp chuyện nữa chắc là đã chìm vào giấc ngủ.
   Lúc này,dưới chiếu chỉ còn lại tôi và Vân với ngọn đèn dầu,ánh sáng của ngọn đèn dầu cứ bập bùng lúc tỏ lúc mờ,tôi nhìn Vân thấy có gì khác mọi khi.Thường ngày tôi hay nói chuyện với Vân nhiều hơn với Lan,không hiểu vì sao,không phải tôi có cảm tình gì với Vân.Tôi nghĩ là Vân nhanh nhẹn linh hoạt hơn Lan,nên những vấn đề chung của Vân và Lan đều được Vân chủ động giải quyết,bao giờ Vân cũng là người nói trước,còn Lan là người thụ động thực hiện.Trong quan hệ giữa ba đứa chúng tôi,lúc nào tôi cũng xem Vân và Lan như những đứa em gái,chính vì như vậy cho nên những lúc tôi không vừa ý là tôi quát mắng ngay,Vân thì có vẻ không sợ tôi còn Lan thì rất sợ tôi mỗi khi tôi cáu.Tôi nhớ có lần,vào thời gian tháng 5 tháng 6,buổi tối trời mưa rào sấm chớp ầm ầm,sau khi tạnh mưa là tôi đi soi ếch,không hiểu sao ở vùng này rất nhiều ếch,tôi đi soi độ một vài tiếng là đã có một giỏ đầy ếch,mang về chia cho hai nhà ăn toái loái,còn thừa tôi nhốt lại để giành thì Lan lại quên đậy nắp nên nó ra hết.Tôi tức quá quát cho Lan một trận vì hai tội: Sợ ếch nên không giám làm thịt ếch; Quên không đậy nắp giỏ để ếch nhảy ra hết.Vụ ấy Lan giận tôi cả ngày không thèm ăn cơm,tôi và Vân giỗ mãi mới chịu,hôm ấy Vân cũng nói thật là Vân cũng không giám làm thịt ếch,lúc tôi phân công là lỉnh đi chỗ khác.Từ đấy mỗi khi tôi đi bắt cá bắt ếch về là tôi tự làm lấy,chỉ có cua thì Vân và Lan mới làm.Ngày còn bé ở nhà,tôi là dân cua cá nên rất thạo công việc này,bây giờ là sinh viên có nghề này cũng đỡ được ít tiền và có thực phẩm để cải thiện .
     Đêm cũng đã về khuya,làng xóm im lặng đang chìm vào giấc ngủ,lâu lâu lại nghe tiếng chó sủa phía trong làng.Chúng tôi ngồi rất lâu,không ai nói gì chỉ tập trung nhìn vào ngọn đèn dầu đang cháy,thi thoảng đầu bấc đèn lại nổ kêu tách tách,làm ngọn đèn rung rinh chao đảo.Tôi nghĩ,ngồi lâu quá trong lúc này là không nên,vì ngày mai Vân còn phải đi học,tôi thì đi sang Quế ổ tập trung.Nghĩ thế,nên tôi chủ động phá tan bầu không khí im lặng.Tôi hỏi Vân:
   -Từ nãy tới giờ sao không thấy em nói gì?Anh có cảm giác em có vẻ hơi buồn?Em đã chia tay với Thọ chưa(Thọ là người cùng huyện với Vân nhưng khác xã,Thọ cùng nhập ngũ với tôi đợt này).
   Vân nhìn tôi rồi lại nhìn vào ngọn đèn đang cháy,rồi từ từ nói:
   -Chiều nay em cũng đến chia tay Thọ,nhưng Thọ về quê chưa xuống.Nghĩ cũng buồn thật anh ạ!Anh em mình đã quen biết nhau một thời gian dài,cùng ăn với nhau một mâm,ngồi chung một lớp,bao nhiêu chuyện vui buồn có nhau.Ngày mai anh ra đi,biết bao giờ mới gặp lại anh,chia tay anh hỏi sao không buồn.
   Ngừng một lúc lâu,rồiVân lại tiếp tục,giọng nói có vẻ trầm đi:
   -Đất nước có chiến tranh anh em mình không thể khác được,lần trước đã mười mấy người đi,lần này các anh đi,sau các anh sẽ còn tiếp nữa,lớp mỗi ngày một vắng,đến lúc nào đó rồi cũng đến lượt chúng em.Chẳng cái gì có thể nói trước được,có khi anh em mình lại gặp nhau ở trường sơn,hay một nơi nào đó trong chiến trường.Ngày mai anh sang Quế ổ tập trung,bọn em phải lên lớp,không đi tiễn anh được.Hình như ngày mai chỉ có anh Đậu bí thư chi bộ đi tiễn các anh,còn cả lớp phải ở nhà học không ai được đi,nhưng em nghĩ sẽ có người trốn đi,nếu được mai em và Lan cũng đi.
   Vân đứng lên với tay trên gác sách,lấy quyển sổ tay bìa đen và một gói giấy hình chữ nhật bé bằng phần ba quyển sổ,nhưng mỏng hơn quyển sổ.Để ngay ngắn trước mặt tôi,trịnh trọng nói:
   -Em với Lan định để sáng mai mới tặng anh chút quà làm kỷ niệm,nhưng sợ sáng mai cập rập,bây giờ em gửi anh luôn,để em gọi Lan dậy chào anh,kẻo mai anh đi sớm.
   Tôi vội vàng xua tay,ngăn không cho Vân gọi Lan dậy.Tôi nói:
   -Rất cám ơn các em đã tặng quà kỷ niệm cho anh,kỷ niệm này nó sẽ theo anh suốt cả cuộc đời trận mạc.Mai cho anh gửi lời chào đến tất cả bạn bè trong lớp.Thôi bây giờ anh xin tạm biệt chúc em ngủ ngon.
   Tôi bước ra ngoài cửa,Vân kéo tay tôi lại,chúng tôi nắm chặt tay nhau rồi Vân nói:
   -Chúc anh lên đường mạnh khỏe gặp nhiều may mắn,lúc nào chúng em cũng ở bên anh.Gói giấy kia,chỉ khi nào anh lên đơn vị mới được mở.Thôi chúc anh ngủ ngon,mai dậy sớm.
   Tôi về nhưng cứ trần trọc không sao ngủ được,phần thì do dư âm của cuộc chia tay,phần thì do tò mò gói quà mà Vân nói.Mệt quá tôi ngủ thiếp đi.
            Sáng hôm sau chúng tôi có mặt ở điểm tập trung.
(Còn nữa)
         


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: nguyentrongluan trong 08 Tháng Ba, 2012, 05:11:54 pm
@quanvietnam:
Nghe bác kể chuyện tình báo ngày xưa mà thương phận mình ngày ấy cô đơn .
Tôi có quen một bạn cùng học ở Yên bái vào k13 cầu đường tên là Lê Lan Anh , xinh gái lắm . Nhưng tôi thân với cô em Lê Lan Hương hơn . 2 chị em đều xinh bác ạ . Bác có biết Lê Lan Anh không ?


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: linhcnn72 trong 08 Tháng Ba, 2012, 11:11:45 pm
@quanvietnam
Ngày đó sv lúc nào cũng đói,ăn bao nhiêu cũng không đủ,thế mà bác với hai cô bạn chỉ báo cơm có 2 suất,còn thì để dành. Chịu bác quá !


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 14 Tháng Ba, 2012, 04:15:13 pm

NHỮNG NGÀY Ở NẠI CỬU
          Sang đến địa điểm tập trung,sau khi nhận hai gói xôi mang theo để  đi ăn dọc đường,đến lúc điểm danh tôi lại không có tên,rất ngạc nhiên không hiểu vì sao?Tôi cho rằng có lẽ họ quên hoặc nhầm lẫn gì đấy,nhưng khi đọc lại lần thứ hai vẫn không có tên.Tôi đến tận nơi chỗ đồng chí bộ đội đọc danh sách hỏi lại,đồng chí giải thích là:Tuy tôi có giấy gọi nhập ngũ đợt này,nhưng lại không có tên trong danh sách đi đợt này là vì đợt này chỉ lấy số lượng như vậy,số chưa có tên trong đợt này sẽ ở lại đi đợt sau.Nghe giải thích như vậy nhưng tôi vẫn gặp anh Đậu bí thư chi bộ của lớp đi giao quân để hỏi lại,sau khi nghe anh Đậu nói lúc ấy tôi mới tin là tôi không được đi lần này.
     Trên đường trở về Trúc ổ,cảm giác buồn chán làm đôi chân nặng trĩu không muốn bước,tôi tìm đến bụi tre có bóng mát ven đường ngồi nghỉ.Gió từ ngoài cánh đồng phả vào mặt mát rượi làm cho tôi tỉnh táo, lúc này tự nhiên thấy đói cồn cào vì từ sáng tới giờ chưa được ăn gì,tôi thò tay vào túi lấy xôi ra ăn,tay chạm phải gói quà kỷ niệm của Vân và Lan tặng tôi kèm theo lời dặn dò lên đơn vị mới được mở.Tò mò, tôi lấy gói quà ra xem,ý nghĩ trong đầu là sẽ không mở mà mang về gửi lại cho Vân.Nhưng thật là không may,gói quà được gói cẩn thận và gián kín bây giờ đã bị bong ra,có lẽ do để gần hai gói xôi nóng nên bị hơi nước làm bong vết gián.
   Vừa ăn tôi vừa nghĩ,có nên xem hay không? Thực ra gói quà thì đã mở rồi,xem hay không chỉ có mình biết chứ ngoài mình ra còn ai đâu mà sợ có người khác biết.Nghĩ vậy,tôi quyết định mở ra xem.Bọc ngoài cùng là chiếc khăn mùi xoa mầu trắng,trong là 10 tờ tiền loại một đồng,cuối cùng là hai tấm ảnh,một tấm chụp chung của Vân và Lan,phía sau ảnh ghi dòng chữ:Tặng anh,kỷ niệm những ngày cùng học lớp K13 Cầu đường.Tấm còn lại là của Vân,Phía sau ghi:Nhớ thương anh nhiều.Em Vân.
     Tay run run cầm tấm hình,tôi cứ đọc đi đọc lại,đọc rất lâu,dòng chữ thì nhòe đi,nhưng mắt vẫn không rời tấm hình. Tôi đắn đo suy nghĩ không biết phải hiểu như thế nào đây?Tình cảm của Vân đối với tôi là thế nào?Là tình cảm của đôi trai gái yêu nhau,hay là tình cảm của người em gái đối với người anh trai?Tôi thấy phân vân thật sự,vấn đề tình cảm một khi hiểu không đúng sẽ trở thành ngộ nhận và thành trò cười cho thiên hạ thì xấu hổ lắm,nhưng nếu hiểu đúng thì mấy chữ này chưa đủ cơ sở khẳng định,bởi vì còn thiếu chữ yêu.Trong hoàn cảnh này tốt nhất là giả vờ không biết,tôi lại gói lại như cũ và để vào bên cạnh gói xôi,hơi nước sẽ làm ướt giấy gói,khi đó mọi người sẽ nghĩ do gói xôi làm bong vết gián chứ không có ai bóc ra xem…
          Đợt này lớp tôi có hai người phải ở lại để đi đợt sau,tôi và anh Thìn.Tôi thì không biết anh Thìn suy nghĩ thế nào,còn tôi thì tâm trạng chán trường mệt mỏi.Nghĩ về lâu về dài đất khi nước đang có chiến tranh,thì những người thanh niên như chúng tôi chắc chắn là phải lên đường nhập ngũ,ai cũng vậy không đi trước thì đi sau.Nhưng nếu được đi luôn thì tốt,đằng này cứ hoãn đi lại hoãn lại,nên tôi cảm thấy không vui mà cảm thấy mình là người có lỗi.Biết đâu đấy sẽ có ai đó đặt vấn đề: Tại sao người khác thì đi,còn nó thì cứ hoãn mấy lần rồi?Hay là lại xin sỏ để hoãn lại tìm chỗ tốt v.v.Đấy cũng là lý do làm tôi  không vui,nhưng cũng chỉ là thứ yếu.Điều chủ yếu làm tôi không vui là lý do tôi bỏ học rất nhiều ở những đợt khám nghĩa vụ quân sự.Thời gian bỏ lớp nhiều nên khi quay trở lại học rất khó khăn,không tiếp thu được bài,thiếu kiến thức nên sinh ra chán nản,lúc nào cũng ở tâm trạng căng thẳng nặng nề vì chuyện học hành.
     Sau khi đi bộ đội “hụt” về, mấy ngày đầu tôi tập trung vào viêc chép lại bài vở,do nghỉ nhiều nên mình tôi chép không xuể,tôi phải huy động cả Vân và Lan cùng làm.Việc chép lại bài thì dễ,việc hiểu được bài mới khó,cũng được cái may,cóVân là người được coi là học giỏi nhất trong ba đứa chúng tôi,vì vậy những chỗ nào chưa hiểu là tôi hỏi ngay.Dạo này tôi được các em chiều chuộng,không phải làm gì,tôi chỉ chuyên tâm vào chuyện học hành,nên tình hình cũng tốt lên nhiều.Tôi lại vui vẻ,và nếu có cơ hội là lại tìm cách đi kiếm thức ăn để cải thiện.Dạo này,lúa đã đỏ đuôi,nước trong ruộng đã cạn dần,các chú cá theo dòng nước tập trung về những chỗ trũng,nhất là những chỗ miệng gầu,ở đó còn có nước để sống.Tôi cứ đi xung quanh bờ ruộng,chỗ nào còn vũng nước là bắt được cá,chúng tôi lại cải thiện,bữa ăn lại đầy ắp tiếng cười.
     Câu chuyện gói quà của Vân tặng tôi hôm lên đường nhập ngũ và lời dặn dò lên đến đơn vị mới được mở, từ hôm tôi về cũng không thấy ai nhắc đến,tôi cũng giả vờ quên đi.Thực ra,tôi sẽ nhớ mãi.Mười đồng bạc,tuy không nhiều nhưng nó vô cùng ý nghĩa đối với tôi lúc ấy,kể cả về giá trị cũng như về tình cảm,nếu như tôi có ra đi từ quê thì hoàn cảnh gia đình tôi,mẹ tôi có thương tôi cũng chỉ cho năm đồng là cùng.Đằng này bạn gái cho những mười đồng,mà chắc là đi vay để chuẩn bị cho tôi lên đường,điều này làm tôi cảm động và suy nghĩ nhiều lắm.Phải chăng?Trong mấy đồng bạc ấy còn gửi gắm những vấn đề sâu xa khác?Hay đơn thuần chỉ là tình cảm của người em gái  tiễn anh lên đường nhập ngũ,chuyện này cứ làm tôi bâng khuâng và cảm thấy như bị nợ nần một cái gì đó…
     Những điều mà tôi còn băn khoăn chưa lý giải được,đã làm cho tôi chú ý hơn trong tình cảm cũng như cách cư xử với Vân,tôi cũng linh cảm Vân cũng nhận thấy điều ấy.Từ đấy,tôi tạo hoàn cảnh để  gần Vân nhiều hơn,quan tâm tới Vân nhiều hơn.Còn Lan,cũng đã phát hiện ra điều nhạy cảm ấy nên đã tạo mọi thuận lợi cho chúng tôi gặp nhau.
     Tôi cũng không còn nhớ rõ,thời gian mà tôi gọi là thời gian lửng lơ này kéo dài đến khi nào, tôi cứ để tự nó trôi đi.Thú thực, lúc ấy tôi chưa đủ bản lĩnh của đấng nam nhi,tôi tự mâu thuẫn với chính tôi,rất yêu Vân nhưng lại không giám đặt vấn đề cứ lần chần do dự.Nguyên nhân của việc chưa giám đặt vấn đề với Vân không phải tôi sợ Vân khước từ tình yêu của tôi,chuyện khước từ cũng có thể xảy ra,nếu như xảy ra,âu cũng là lẽ thường tình của những cuộc hẹn hò thành công hay không thành công của những đôi trai gái,tất nhiên là cũng buồn cũng chán,nhưng rồi nó cũng qua đi…
     Nhưng với tôi,nguyên nhân sâu xa của việc chần chừ này là tôi nghĩ cho Vân nhiều quá.Bởi vì hàng ngày hàng giờ,qua các phương tiện thông tin truyền thông,qua sách vở,và thực tế cuộc sống của quê hương của đất nước đang có chiến tranh,thì sự hy sinh của chị em phụ nữ lớn lao quá vĩ đại quá.Những phụ nữ ở chiến trường,họ chẳng tiếc máu xương,tuổi trẻ,họ lăn xả vào hiểm nguy nhận và hoàn thành nhiệm vụ,họ cũng mất mát hy sinh họ cũng lo cũng buồn,nhưng dẫu sao họ vẫn là người trực  tiếp sống mái với quân thù,sự ác liệt của cuộc chiến tranh làm họ tạm quên đi để lao vào trận chiến.Những phụ nữ ở hậu phươnghọ gồng mình chịu đựng những mất mát,tưởng như không thể vượt qua,họ tiễn chồng tiễn con tiễn người thân lên đường ra mặt trận. Ở lại quê hương họ lại lao vào các phong trào: Ba sẵn sàng; Ba đảm đang;Thóc không thiếu một cân,quân không thiếu một người v.v. Họ cứ âm thầm chờ đợi tin tức của người thân từ chiến trường gửi về,nhận được tin vui họ chia sẻ cùng nhau,nhận được tin buồn họ lại vỗ về động viên nhau quên đi những đau buồn,cố gắng sống xứng đáng với những người đã hy sinh,làm tròn bổn phận của người vợ hiền dâu thảo…Thật là vĩ đại,không có giấy bút nào có thể nói hết được công lao và sự hy sinh của những người phụ nữ trong các cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc.
     Vân cũng là phụ nữ,nếu Vân yêu tôi thì phải chấp nhận hoàn cảnh,người ở chiến trường người ở hậu phương,nếu Vân không nhận lời yêu tôi thì Vân còn có nhiều cơ hội lựa chọn.Bởi vì,không phải cứ có chiến tranh là tất cả nam giới ra trận,vẫn rất cần một lực lượng nam giới ở lại hậu phương.Hay nói xa hơn, vì tương lai của đất nước,cần có một lực lượng được đào tạo chính quy từ các nước anh em để đến khi kết thúc chiến tranh họ trở về xây dựng tổ quốc…Chính vì còn nhiều phương án lựa chọn,nên tôi chần chừ.
(Còn nữa)
   



Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: linhcnn72 trong 15 Tháng Ba, 2012, 09:20:15 pm
Lúc đó,tâm tư của bác cũng là suy nghĩ của rất nhiều anh em trước khi lên đường.Người con trai ra đi tuy có thể phải hy sinh nhưng lại cảm thấy nhẹ nhàng hơn người ở lại.Chính những người mẹ,người vợ,người yêu mới là những người phải chịu đựng,chờ đợi mỏi mòn.Mà biết đến khi nào chiến tranh mới kết thúc cơ chứ,5năm,10 năm,20 năm ...
Những người phụ nữ Việt nam thật là vĩ đại.
Khi phải dứt áo ra đi ,ta mới hiểu thêm nhà thơ Thâm tâm đã viết trong "Tống biệt hành" :
.....
Người đi? Ừ nhỉ .người đi thực !
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi,
Em thà coi như hơi rượu say.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 20 Tháng Ba, 2012, 04:08:06 pm
                         
NHỮNG NGÀY Ở NẠI CỬU
          Vào ngày chủ nhật, lúc này tiết trời đang về cuối thu,trời nắng đẹp sắc vàng rực rỡ . Cánh đồng trước nhà,lúa chín đang ngả màu vàng,thi thoảng lại có những cơn gió  đuổi nhau trên cánh đồng,tạo nên những đợt sóng nhấp nhô,các bông lúa va chạm vào nhau tạo nên âm thanh nghe vui vui.Nhìn cánh đồng lúa chín vàng,tự nhiên tôi thấy đẹp quá,tôi liền nghĩ ra cách để rủ Vân đi chơi.Tôi nói:
   -Hôm nay được nghỉ, trưa hôm nay chúng ta sẽ cải thiện món canh cua đồng nấu với rau cải.Anh phân công: Lan vì sợ đỉa nên ở nhà giặt quần áo,hái rau,ra nhà bếp lấy gạo về nấu cơm ở nhà.Anh và Vân sẽ đi bắt cua,nếu không bắt được thì phải mua đền.Các em có đồng ý không?
   Tất nhiên là Vân đồng ý ngay vì được đi chơi,không phải giặt quần áo,không phải nấu cơm,việc bắt được cua hay không bắt được lại là việc khác,còn Lan bắt buộc phải đồng ý vì Lan không biết bắt cua hơn nữa lại sợ đỉa,nên phải đồng ý.
     Ra đến ngoài đồng,tôi nói với Vân:
   -Bây giờ,em đứng trên bờ giữ chậu,có nhiệm vụ không cho cua và cá nhảy ra ngoài chậu,còn mọi việc khác cứ để anh lo.
   Tôi cứ chăm chú vào công việc bắt cua bắt cá,mấy vũng nước đầu,hết tát nước rồi lại mò cũng chỉ được mấy con đòng đong cân cấn.Tôi nghĩ trong bụng,hôm nay rủ con gái đi là xúi quẩy dễ về tay trắng,nghĩ thì nghĩ vậy nhưng tôi vẫn miệt mài với công việc.Tôi cứ đi theo bờ ruộng,mùa này heo may nắng vàng,cua đang chui vào bờ làm mà(tổ).Nhìn thấy mà cua,tôi dùng cái thuổng cậy bỏ mấy miếng đất ở ngoài là nhìn thấy chú cua đang nằm im,tôi bắt lấy bỏ vào chậu,chú cua tưởng được tự do,bò rất nhanh,chân cua gõ vào chậu kêu long cong nghe vui tai.
   Hồi còn nhỏ,ở nhà tôi rất ham cua cá,nhớ hồi còn học cấp 3 ở huyện Kim sơn tỉnh Ninh bình(Hồi đó huyện Yên mô của tôi chưa có trường cấp 3).Tôi với cô em họ,trường ở xa nên chúng tôi phải ở trọ,cô em họ học lớp 10,tôi học lớp 8.Hàng tuần,chúng tôi đi từ nhà ra đến trường,qua một cánh đồng rộng khoảng độ 5km,cứ qua cánh đồng này vào giữa trưa  hè, trời nắng như thiêu như đốt cua không chịu được nóng phải ngoi lên bờ,đi dọc theo các bờ ruộng là chúng tôi có thể bắt đầy hai giỏ cua,chúng tôi mang bán để lấy tiền mua rau mua củi,còn lại để rang muối mặn ăn dần.Bây giờ nghề ấy lại được phát huy,kể cũng hay,sinh viên đi bắt cua,thật thú vị.
   Đến một khoảnh ruộng khác,tôi gặp một vũng nước rộng đến 4-5 m2,nước đục ngầu,theo phản xạ nghề nghiệp thì vũng nước này có thể có rất nhiều cua cá,hoặc là có các chú rắn nước sống.Tôi mừng lắm,tìm cách tát cạn vũng nước,đúng như đã dự đoán,vũng nước này có rất nhiều cua cá,có cả một chú rắn nước nữa.Việc đầu tiên là phải vứt chú rắn đi chỗ khác,sau đó tóm từng chú cua chú cá cho vào chậu,những con cá rô cá riếc chỉ bé bằng hai đầu ngón tay,thi thoảng mới được những con cá chuối bằng ngón chân cái.Cua,cá nhốt chung vào với nhau,chúng tấn công nhau,giãy đành đạch,bùn nước bắn tung tóe.
   Lúc này,tôi mới để ý đến Vân.Quần xắn lên đến đầu gối,để lộ hai bắp chân thon dài trắng nõn nà,tuy đã bị che phủ bởi một số mảng bùn dính bám,song cũng không làm giảm đi cái đẹp của đôi chân người con gái mới lớn,vốn chỉ ăn trắng mặc trơn,không quen đồng ruộng,chưa bị nắng gió làm chai sạn.Nhìn vào mặt Vân,tôi cố nhịn cười,một khuôn mặt trắng trẻo tròn xoay thường ngày bây giờ đã biến mất,thay thế bằng khuôn mặt đỏ gay dính đầy bùn,mồ hôi nhễ nhại.Những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán,hai mảng tóc mai hai bên thái dương,mồ hôi tạo thành dòng,chảy qua má,xuống cổ,rồi chui vào mảng áo,che bộ ngực căng tròn cũng ướt đẫm mồ hôi. Vân đẹp quá, một nét đẹp bình dị nhưng đầy sức cuốn hút.Tạo hóa đã cho Vân sở hữu những đường cong tuyệt mỹ của một cơ thể hấp dẫn cân đối.Tôi thấy Vân đẹp,và thực sự tôi sợ mất Vân…
   Trên đường trở về nhà,hai đứa nghỉ lại một bóng mát ven đường.Tôi hỏi Vân:
   -Tình hình đất nước thế này,có bao giờ em nghĩ,em sẽ yêu một người nào đấy?
   Bị bất ngờ khi tôi hỏi,Vân cứ nhìn tôi.Tôi cũng chột dạ vì có phần chủ quan,mà lại hơi vô duyên,biết đâu Vân đã có người yêu rồi thì sao,tôi nhớ láng máng có một lần Vân kể về một người con trai,học sinh miền Nam tập kết ra Bắc đi học.Trót hỏi rồi,tôi chờ đợi câu trả lời của Vân.Vân cứ chăm chăm nhìn vào chậu,trong đó có những chú cua đang chen nhau bò lên miệng chậu để hy vọng trốn thoát,những chú cá giãy nhiều có vẻ cũng mệt bây giờ nằm yên để mặc kệ cho các chú cua bò qua bò lại.Một lúc lâu sau Vân mới trả lời,nhưng vẫn chăm chú nhìn vào chậu cá,như sợ chúng đi mất.Vân nói nhẹ nhàng đủ nghe,giọng đượm buồn:
   -Biết bao giờ kết thúc chiến tranh,năm năm,mười năm hay còn lâu hơn nữa,ai có thể biết trước được?Trong khi đó,đời người thì ngắn lắm,tuổi xuân của người con gái lại càng ngắn hơn,như những bông hoa sớm nở chiều tàn…
   Lúc này Vân thôi không nhìn vào chậu cá,mà nhìn tôi,rồi nhìn ra cánh đồng lúa đang chín rộ,tiếp tục nói:
   -Được cái,bây giờ cả nước có chiến tranh,mọi người từ già chí trẻ nam phụ lão ấu,đang dốc toàn tâm toàn lực cho công cuộc giải phóng Miền nam,thống nhất đất nước,nên cũng chưa có ai nghĩ đến cái riêng cho mình.Không biết những người phụ nữ khác thì sao? Với em,đôi khi em cũng có nghĩ tới,nhưng lại nghĩ luẩn quẩn,thế rồi lại cố xua đuổi những ý nghĩ ấy đi,mặc dù biết rằng những suy nghĩ ấy rất đúng,chỉ có điều là không phù hợp với hoàn cảnh,mà nặng về tưởng tượng…
   Suy nghĩ hồi lâu,Vân lại tiếp tục:
   Cuộc chiến đấu này còn lâu dài và gian khổ,theo em chuyện yêu đương cứ để nó phát triển tự nhiên,con trai con gái đến tuổi trưởng thành thì tìm hiểu rồi đi đến hôn nhân,cùng một lúc làm hai nhiệm vụ,nhiệm vụ của gia đình nhiệm vụ của đất nước,tuy hai mà là một.Tất nhiên đất nước đang có chiến tranh,mà cuộc chiến tranh nào tránh khỏi được sự hy sinh,chẳng may nó rơi vào ai,thì âu cũng là số phận,đành chấp nhận hy sinh cái riêng vì cái chung đó là Tổ quốc.Nhìn lại sự phát triển và trưởng thành của dân tộc,thời nào mà chẳng phải chấp nhận sự hy sinh ấy để có được ngày hôm nay.Quan điểm của em là như vậy.
     Tôi hết sức bất ngờ,về suy nghĩ của một người con gái,tuổi độ mười chín đôi mươi,suy nghĩ về cuộc chiến tranh và tình yêu đôi lứa.Suy nghĩ ấy,lại được chuyển tải qua giọng nói trẻ trung ngọt ngào nhỏ nhẹ,càng nghe tôi càng cảm phục,rồi chuyển dần sang cảm động.Tôi thấy sau gáy lành lạnh,sống mũi giật giật,có lẽ những giọt nước mắt yếu đuối của tôi sắp trào ra.Vội vàng tôi lấy tay dụi mắt,dụi rất mạnh cho đỏ mắt lên,thấy tôi dụi mắt,Vân hỏi tôi:
   -Bụi bay vào mắt anh à?
   May quá,Vân đã tìm cho tôi một lối thoát,tôi ừ ngay,nhưng vẫn tiếp tục dụi mắt.Vân giữ tay tôi lại nói:
   -Anh không được dụi,nhỡ bụi của hạt lúa bay vào mà cứ dụi là sẽ bị rách giác mạc.Để em thổi cho.
   Tôi chưa kịp phản ứng gì thì Vân đã gỡ tay tôi ra và ghé môi vào mắt tôi thổi phù phù. Từ hơi thở của Vân,tôi có cảm giác như có một cái gì đó rất khó tả lan tỏa khắp cơ thể tôi làm tôi rạo rực.Lúc này,tôi không còn làm chủ được bản thân,kèm theo một hành động bột phát thiếu suy nghĩ.Tôi đã ôm lấy Vân,đôi môi tôi đã tìm thấy đôi môi nóng bỏng của Vân,chúng tôi đã hôn nhau,tất cả xảy ra quá nhanh,không biết Vân có đồng ý hay không?
(Còn nữa)
     



Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: AKAVN trong 21 Tháng Ba, 2012, 12:43:32 am
Quá hay và hấp dẫn !


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 26 Tháng Ba, 2012, 02:25:03 pm

NHỮNG NGÀY Ở NẠI CỬU
          Tiết mục buổi tối kể chuyện của chúng tôi tạm dừng lại,vì mấy bữa nay C20,đang triển công tác kiểm tra tổng kết khoa mục: Đi địa hình và đặt đài quan sát.Tôi bây giờ là lính thông tin,được phân công cùng với một tổ trinh sát đi địa hình và đặt đài quan sát ở khu vực Cửa Việt.Theo tôi được biết ngoài khu vực Cửa Việt còn một số điểm đài khác nữa được bố trí ở Đông hà;Tích tường –Như lệ; Nham biều; Ba zơ và một số điểm khác,cứ mỗi điểm đài,được biên chế 3 trinh sát 2 thông tin trinh sát và một máy vô tuyến  2 woat.Mục tiêu của đợt kiểm tra này là: Đối với công tác trinh sát là phải đi được địa hình theo bản đồ,mô tả đặc thù địa hình địa vật của từng vùng,tập hợp tình hình và viết báo cáo gửi về sở chỉ huy.Đối với công tác thông tin trinh sát là phải mã hóa bản tin của trinh sát và gửi về sở chỉ huy,trong quá trình thu phát,sở chỉ huy sẽ đưa ra nhiều tình huống yêu cầu phải xử lý,nhưng vẫn phải đảm bảo nhanh gọn và chính xác…
     Tính đến thời điểm này,tôi cũng không nhớ được tôi đã chuyển sang tiểu đội thông tin trinh sát được bao nhiêu thời gian,nhưng có lẽ cũng chỉ độ 9-10 tháng.Tôi chỉ nhớ láng máng là sau trận sốt rét ác tính,sức khỏe của tôi kém hẳn đi,kết hợp với việc quân số của tiểu đội thông tin cũng đang bị thiếu,Anh Vũ Bình thì hy sinh trong thành cổ,anh Dũng sức khỏe yếu,anh Khải chuẩn bị đi học sĩ quan. Trong tình hình đó,các anh trong ban chỉ huy đại đội,điều tôi sang tiểu đội thông tin.
   Việc tôi được chuyển sang tiểu đội thông tin,anh em trong đơn vị chúc mừng tôi,tôi hỏi lại tại sao lại chúc mừng.Mọi người giải thích: Trước hết là tôi được chuyển sang binh chủng kỹ thuật vô tuyến điện,trông hào hoa nho nhã hơn,thứ hai là mức độ nguy hiểm sẽ được giảm đi so với lính trinh sát,vì không phải tiền nhập vào cứ điểm để điều tra nắm địch tình,không phải dắt bộ binh vào để bàn giao trận địa tránh được sự rủi ro nguy hiểm.Nghe vậy,để biết vậy,việc gì đến thì nó phải đến,ai biết đâu mà tránh,người tính sao bằng trời tính.Nghĩ thế,nên tôi quên hẳn việc đó đi để chuyên tâm vào học hành.
     Việc học ở chiến trường,để trở thành lính thông tin vô tuyến điện là vấn đề cực khó đối với tôi.Vốn dĩ đâu tôi có phải là con người thông minh hay có năng khiếu gì,tôi chỉ có ưu điểm là cần cù,có trình độ văn hóa,đang học dở năm thứ tư trường đại học Xây dựng.Đấy tất cả ưu điểm chỉ có thế,trong khi đó khối lượng công việc học tập thì đồ sộ cứ phải tiến hành theo từng bước,không thể đốt cháy giai đoạn được,có nhiều việc thậm chí tôi còn chưa hình dung ra,không biết bắt đầu từ đâu.Từ việc nhỏ nhất là gọt bút chì ba cạnh,đấu pin,áp cáp tai và bấm tổ hợp v.v. Cho đến khi thành thạo,trực tiếp đứng đài thu phát độc lập.Tất cả đều phải học phải hỏi và phải rèn luyện.
   Có một lần,anh tiểu đội trưởng kiểm tra,các kết quả kiểm tra làm anh không hài lòng.Anh nói với tôi giọng nửa đùa nửa thật:
   -Tôi thấy cậu thông minh,có năng khiếu chơi bóng chuyền cả làm thủ môn nữa,cậu chơi rất hay.Sao việc nâng cao trình độ thu phát mãi vẫn không đạt.Người ta thu phát trung bình từ 80-100 chữ/phút,cậu thì cứ lẹt đẹt ở con số 60-65 chữ /phút,cậu phải chịu khó rèn luyện thế nào để đạt yêu cầu,nếu không thì gay lắm…
   Tôi lặng im không nói gì,bởi vì những gì anh tiểu đội trưởng nói là đúng.Tất nhiên,nhiều đêm tôi đã suy nghĩ về vấn đề này để tìm ra nguyên nhân,tôi cũng chưa giám khẳng định,nhân tiện anh tiểu đội trưởng nói thế,tôi trình bầy luôn:
   -Vâng,tất cả những gì anh nói là đúng,xin anh cho tôi một thời gian nữa. Theo tôi nghĩ,việc nâng cao trình độ thu phát nó có quan hệ hữu cơ với nhau,đã nâng cao trình độ thu thì sẽ nâng cao trình độ phát.Việc này tôi chưa làm được,không phải tôi không cố gắng,tôi biết anh và mọi người đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi nhiều lắm.Tôi cũng có lòng tự trọng,tự ái nghề nghiệp,tôi không muốn mọi người phải bận tâm nhiều về tôi.Song hiện tại tôi chưa thể vượt qua được điểm liệt này,giải trình với anh vấn đề này,tôi không phải cố gắng ngụy biện để bao che cho yếu kém của mình,mong anh thông cảm.Tôi cho rằng nguyên nhân sâu xa mà tôi chưa thể vượt qua được điểm liệt,có hai nguyên nhân cơ bản.Một là tai tôi đã bị tổn thương do bị sức ép nên nghe tín hiệu kém,hai là tay tôi thường chơi bóng chuyền hàng ngày nên cổ tay bị cứng,chính vì cổ tay không linh hoạt nên thành tích phát cao nhất cũng chỉ được từ 60-65 chữ/phút.
   Anh tiểu đội trưởng nhìn tôi cười rất to và lâu,mãi sau anh nói:
   -Tuyệt!tuyệt!Hai nguyên nhân cậu nói là đúng,có ảnh hưởng đến thành tích thu phát,nhưng không phải là nguyên nhân chính,vì những cậu khác cũng giống như cậu sao họ không bị ảnh hưởng.Theo tôi nguyên nhân chính của cậu,là chưa thật sự khổ luyện.Thôi cố lên,thế nào cũng thành công.
   Sau lần kiểm tra ấy,đến mãi bây giờ anh chưa tổ chức kiểm tra tôi lần nào nữa.Anh độ 35-36 tuổi,có lẽ anh là người lớn tuổi nhất đại đội,ở tiểu đội thông tin,anh giống như một người anh cả,lúc nào cũng chăm lo dậy bảo cho đàn em từng đường ăn nét ở,cách đối nhân xử thế,anh góp ý cho chúng tôi nhiều vấn đề để cho chúng tôi trưởng thành.Công bằng mà đánh giá thì anh như một người chị cả trong tiểu đội,đôi khi đùa tếu chúng tôi gọi anh là bà mẹ chồng tốt bụng.
   Anh là cổ động viên tích cực của đội bóng chuyền C20 do tôi làm đội trưởng,anh có mặt ở tất cả các trận mà chúng tôi thi đấu,có những lần anh ra tận Đông hà xem thi đấu bóng chuyền với đội Cảng Đông hà,ra tận sân Tân vĩnh xem tôi làm thủ môn.Lúc nào anh cũng luôn theo sát tôi,bảo tôi phải thế này,phải thế kia.Anh lúc nào cũng chỉ muốn đội nhà chiến thắng,anh buồn và cáu khi đội nhà thua,cứ trận nào thua anh lại nói là chỉ tại tôi không nghe theo cách của anh,chúng tôi lại tranh luận nhau rất vui...Dần dần chúng tôi quen với sự có mặt của anh,và coi anh là ông bầu của đội.
     Chúng tôi xuất phát từ đơn vị lúc 5 giờ sáng,xuống tới khu vực Cửa việt lúc này là hơn 11 giờ trưa,như vậy là tốc độ hành quân là đã quá chậm,cần phải điều chỉnh nhanh hơn,cố gắng đến một khu dân cư nào đó nghỉ lại nấu cơm ăn rồi lại tiếp tục hành quân.Đường thì còn xa,thời tiết lại nóng nực,nhưng theo quy định thì cứ đầu giờ là các đài phải lên máy để liên lạc với nhau và báo cáo tình hình về sở chỉ huy.
     Từ khi vào chiến trường Quảng trị,tôi chỉ quen chiến đấu ở địa hình rừng rú, nay đi xuống biển thấy cái gì cũng khác.Đã giữa trưa,trời nắng như đổ lửa,trước mặt là những bãi cát trắng xóa trải dài ngút tầm mắt,thi thoảng mới nhìn thấy những cây phi lao,cây xương rồng cần cỗi mọc rải rác chẳng ra hàng lối nào.Cát trắng,nắng rát làm lóa cả mắt,lúc đầu chúng tôi đi dép đi trên cát nhưng rất khó đi và mỏi chân,sau chúng tôi bỏ dép đi chân không thấy dễ chịu hơn,nhưng bây  giờ thì không thể đi được bằng chân không nữa vì cát đã quá nóng,chúng tôi xỏ tất vào để đi trên cát.
   Gặp được mấy cây phi lao còn sót lại trên đồi cát,chúng tôi ngồi nghỉ tạm cho đỡ mỏi.Trời nắng chói chang,hơi nóng từ bãi cát bốc hầm hập,chúng tôi người nào người nấy mặt đỏ gay mồ hôi nhễ nhại, mệt quá chẳng cần biết sạch hay bẩn,nóng hay không cứ ngồi bệt xuống bóng mát của cây phi lao thở dốc.Cũng còn có cái may là ở đây đã rất gần biển nên thi thoảng có cơn gió thổi vào được trộn lẫn giữa nóng của cát và mát của biển cũng cảm thấy dễ chịu,nhưng cũng khó chịu vì những hạt cát theo gió bay vào người làm bức bối,ngứa ngáy.
   Ngồi nghỉ được một lát,tôi phóng tầm mắt quan sát một lượt xung quanh chỗ anh em ngồi.Rồi nói:
   -Này anh em ơi! Anh em hãy nhìn xung quanh mà xem, địa hình địa vật ở đây tất cả đều phẳng lỳ trần trụi,chẳng thấy có cây cối hay bụi rậm gì,lúc hai bên đánh nhau,khi rời khỏi công sự chẳng có vật che khuất hay che đỡ gì cả,chiến sự xẩy ra ở đây chắc sẽ ác liệt.Tôi nghe nói trung đoàn 101 của sư 325 ngày xưa chiến đấu ở đây rất oanh liệt,nhất là trận bọn  địch lợi dụng lúc thủy triều xuống,chúng men theo mép nước nống lên,để tiêu diệt quân ta.Ở trung đoàn ấy,tôi có rất nhiều bạn bè cùng học ở trường đại học Xây dựng,lại cùng ở tiểu đoàn 60 sư 304,thời huấn luyện ở Phú bình Bắc thái.Bây giờ chẳng biết ai còn ai mất,biết bao giờ mới lại được gặp bạn bè.Hy vọng mọi người đều bình an,để được gặp nhau ở trường cũ.
   Mọi người vừa đói vừa mệt,chẳng ai tham gia câu chuyện tôi gợi ý.
     Chúng tôi nghỉ được một lát,rồi lại tiếp tục hành quân,khoảng hơn 12 giờ trưa thì dừng lại ở một điểm dân cư  để nấu cơm ăn.Gọi là điểm dân cư cứ tưởng là đông dân,nhưng kỳ thực chỉ có 3-4 nóc nhà.Nhà của dân được làm toàn bằng vật liệu phế thải của chiến tranh,chẳng thấy có tre nứa gì,cột nhà làm bằng những thanh thép hình đủ loại,tròn có dẹt có,tóm lại là U,I có tất.Mái được lợp bằng tôn trông rỉ nghoèn,chắp vá,để cho chắc chắn khi có gió to,dân dùng giây thép buộc các tấm tôn vào với nhau và buộc vào đòn tay,ngoài ra trên mái nhà còn được chất hàng loạt bao cát để không cho gióbay mái tôn.Tường nhà thì đủ loại vật liệu,chỗ thì bằng gỗ gián,chỗ bằng tôn chỗ bằng những tấm gi của đường băng sân bay,chỗ che bằng nilon.Nền nhà bằng cát tự nhiên của bãi biển,nhà hình như chỉ có một gian còn xung quanh là trái,giữa nhà là nơi sinh hoạt chung của cả nhà nên nền nhà được đặt một tấm gỗ gián to bằng hai chiếc chiếu đôi,cát phủ đầy.Chúng tôi là khách,nên gia đình đồng ý cho dọn cơm ở giữa nhà để ăn.Trong bữa ăn,gió biển cứ thổi ào ào,cát bay rào rào,nhà thì trống trước hở sau không thể nào che được gió.Muốn ăn được cơm là phải chan nước rồi dùng đũa ngoắng cho cát lắng xuống dưới đáy bát để ăn cơm ở phía trên.Thật là một bữa ăn đáng nhớ.
     Tối hôm ấy,chúng tôi nghỉ lại một làng ở ven biển.Vì sợ tình hình an ninh không được tốt nên chúng tôi đến gặp đồng chí trưởng thôn, đề nghị được giúp đỡ.Thấy chúng tôi súng ống máy móc lỉnh kỉnh,đồng chí trưởng thôn bố trí chúng tôi nghỉ tại nhà của một cở sở cũ.
     Cơm nước xong,sau khi nghe phân công lịch gác đêm,chúng tôi mang võng ra mắc để đi nghỉ,kết thúc ngày dã ngoại đầu tiên.Theo kế hoạch chúng tôi sẽ đi dã ngoại vùng Cửa việt là 3 ngày, một ngày về,tất cả là 4 ngày,hôm nay mới là ngày đầu tiên.
(Còn nữa)   


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 29 Tháng Ba, 2012, 02:14:32 pm

NHỮNG NGÀY Ở NẠI CỬU
     Sau đợt đi dã ngoại ở Cửa Việt về, nhà của tiểu đội thông tin lại rộn rã tiếng cười, các đài đi về kể chuyện cho nhau nghe, khoe đặc sản của địa phương nơi mình đến, người thì rau rớn rau môn thục, người thì hoa chuối rừng, lá chua, người thì củ măng củ cọc rào v.v. Đài của chúng tôi từ Cửa Việt về có ba món đặc sản: Cá mực và cá cơm phơi khô, đặc biệt nhất là món mắm tôm xin được của dân, còn một món nữa anh tiểu đội trưởng tịch thu và không được kể với ai đó là một bình tông rượu.
     Chúng tôi mới xa nhau gần một tuần, thế mà ai cũng cứ tưởng là đã lâu lắm rồi, cứ hỏi thăm nhau rối rít. Buổi tối liên hoan, mổ hai chú ngan mái rất to, có món tiết canh ngan, ngan luộc ngan xáo măng, còn lại toàn đặc sản, của các đài mang về. Bắt đầu ăn thì tiểu đội trưởng tuyên bố có món đặc biệt, mỗi mâm được một cốc to. Bữa liên hoan vui quá, cứ kéo dài mãi, để chấm dứt được anh tiểu đội trưởng phải tuyên bố:
   -Buổi liên hoan kết thúc, thu dọn để nghỉ ngơi. Tối hôm nay đề nghị đồng chí Quân kể tiếp câu chuyện “Hôn trộm” hôm trước.
   Mọi người vỗ tay tán thành, rồi cùng nhau thu dọn để nghỉ ngơi. Tối hôm nay tôi lại kể tiếp câu chuyện lần trước:
          Tôi giống như kẻ có lỗi, ngồi im, chờ đợi những lời mắng mỏ của Vân, nhưng chờ đợi mãi vẫn không thấy Vân nói gì. Tôi cảm thấy hoang mang có chút lo lắng, không biết Vân định sử xự thế nào? Chả lẽ Vân lại làm to chuyện? Chả lẽ tất cả những tình cảm tốt đẹp từ trước đến nay tôi và Vân giành cho nhau lại không nói lên điều gì? Hay là Vân  không đồng ý?…
     Những hành động bột phát, đã đưa  tôi đến hoàn cảnh này, tôi lúng túng thật sự, tôi không còn con đường nào khác, đâm lao là phải theo lao. Nghĩ vậy, tôi trấn tĩnh lại và nói, tôi nói rất nhanh để xóa đi sự im lặng giữa hai người. Tôi nói:
   -Trước hết anh thành thật xin  lỗi em, vì quá yêu em anh đã không làm chủ được bản thân, nên có hành động như vậy. Em thông cảm và bỏ qua. Bây giờ anh hoàn toàn bình tĩnh và tỉnh táo, anh muốn nói với em một điều mà từ rất lâu rồi anh chỉ mong có điều kiện để nói với em: Anh đã rất yêu em, không biết em có đồng ý không?
   Vân, vẫn không nói gì, hai đứa chúng tôi lại chìm vào yên lặng. Mỗi người theo đuổi những suy nghĩ riêng. Thời gian cứ nặng nề trôi đi, chúng tôi không ai nói gì, chỉ nghe gió thổi và thoang thoảng mùi thơm của hương lúa.
   Tôi nín thở chờ đợi một câu trả lời, bất giác tôi ngẩng mặt lên trời: Một buổi sáng mùa thu đẹp trời, trời trong veo, nắng vàng rực rỡ, gió may hây hây thổi, không gian thoáng mát dễ chịu, nhưng sao tôi thấy ngột ngạt khó thở, hình như có bàn tay vô hình nào đó đang bóp chặt trái tim tôi. Tôi hồi hộp chờ một kết quả đã từ lâu tôi ấp ủ, mà kết quả ấy tốt hay không  nó lại không hoàn toàn phụ thuộc vào tôi, mà phụ thuộc vào Vân người đang ngồi bên cạnh tôi, vì thế tôi chỉ còn biết chờ đợi…
   Từ nhỏ tới giờ, chưa bao giờ có cảm giác này, tôi bắt đầu cảm thấy ân hận, giá như mình đừng làm thế có phải là tốt không, không có cái dại nào giống cái dại nào, tự nhiên lại đưa mình vào hoàn cảnh tiến thoái đều không được, đành phải ngồi chịu trận, tôi tự trách mình. Nghĩ lại, sự việc nó xảy ra quá nhanh, tôi cũng không làm chủ được tôi, bây giờ sự việc đã xảy ra thì ân hận cũng không thể cứu vãn được, thôi đành vậy. Nhưng nếu như tôi biết trước, việc thể hiện tình yêu của người con trai đối với người con gái mà khó khăn vậy thì chắc là tôi sẽ không giám làm, nếu có thì cũng làm cách khác, miễn là không trực tiếp…Thế mà người đời cứ nói: “Yêu nhau mấy núi cũng trèo, mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua.” Với tôi chắc là bỏ cuộc.
   Nghĩ đi rồi lại nghĩ lại, tôi thực sự bất ngờ khi thấy Vân không trả lời tôi, Vân không đồng ý tôi ở điểm nào? Về hoàn cảnh gia đình chăng? Chắc là không, vì đã nhiều lần tôi tâm sự với Vân về vấn đề này, Vân đã nói: Hoàn cảnh và điều kiện sống của gia đình anh thật là hạnh phúc, tôi nghĩ Vân nói cũng không quá, mà đúng như vậy: Bố tôi và các anh các chị lớn đều là cán bộ nhà nước thoát ly gia đình, cứ đến cuối tuần mọi người lại về, trong nhà lại rộn rã tiếng cười. Mẹ tôi ở nhà làm nông nghiệp nuôi các em tôi ăn học, tôi thì đi học. Về hoàn cảnh xã hội chăng? Cũng không phải, Vân vừa mới nói, sẵn sàng chấp nhận hoàn cảnh xã hội. Vì cuộc kháng chiến này còn lâu dài và gian khổ, những người ở lại hậu phương phải có nghĩa vụ, là hậu phương vững chắc cho tiền tuyến, đóng góp đầy đủ sức người sức của cho cuộc kháng chiến vĩ đại này. Vậy thì về vấn đề gì? Về sức khỏe? Không phải.Về xa quê hương? Chắc cũng không phải, thời buổi chiến tranh này làm sao có thể lựa chọn được. Chỉ còn một điểm nữa, mà có lẽ là đúng nên Vân không trả lời: Vân đã có người yêu. Tôi không giám tiếp tục suy diễn nữa…
     Cũng đúng lúc ấy,Vân nói với tôi:
   -Mình về nấu cơm ăn, kẻo Lan ở nhà nó chờ. Chuyện anh vừa nói với em, hãy cho em thời gian suy nghĩ, em sẽ nói với anh vào một thời gian thích hợp.
   Vậy là đã rõ. Trên đường về chúng tôi không ai nói với ai câu nào.
          Buổi chiều hôm ấy, tôi ngồi học bài nhưng không được một chữ nào vào đầu, chữ nghĩa thì nhảy múa, đầu óc thì quay cuồng. Buồn, chán xấu hổ, xâm chiếm tâm hồn tôi, tôi nghĩ nếu cứ kéo dài tình trạng này có thể tôi bị ốm. Tôi quyết định, không học bài nữa, mà đi chơi cho khuây khỏa. Tay cầm quyển sách để có cớ,tôi đi lang thang trên khắp cánh đồng, cứ chỗ nào đi được là đi, tôi nghĩ lung tung đủ mọi chuyện…Qua sự việc này, tôi mới thấy tôi thực sự là kẻ hiếu thắng, chỉ quen với chiến thắng chưa hề nếm mùi thất bại, mới gặp chút thất bại đã hoang mang, thiếu tự tin. Nếu như chuyện này lộ ra, bạn bè mà biết thì còn xấu hổ hơn nữa, nhiều khi lại thành câu chuyện để mọi người đàm tiếu. Nghĩ được như vậy, tôi tự lên gân: Phải lờ tịt đi coi như không có chuyện gì xảy ra,chắc chắn chuyện này Vân cũng sẽ không nói với ai, và như vậy chuyện sẽ không bị lộ cho người thứ ba. Tôi yên trí rảo bước về nhà, khi đã có bửu bối tháo gỡ bế tắc.
   Tối hôm ấy, bữa cơm có tới ba món: Canh cua nấu rau cải; Cá kho tương; Cá rô rang muối. Bình thường, nếu không xảy ra chuyện buổi sáng thì bữa cơm tối nay chắc là vui lắm, nhưng vì có chuyện sáng nay nên cũng kém vui và ăn cảm thấy không ngon. Đương nhiên chuyện này, Lan không hề hay biết, mà chỉ có Vân và tôi biết. Trong bữa cơm, tôi coi như chưa có chuyện gì xảy ra, tôi trêu chọc Vân và Lan để mọi người cười nói, xua tan những khoảng thời gian im lặng. Bữa cơm tối kết thúc nhanh hơn mọi khi, ai về nhà nấy chuẩn bị học bài.

     Tiết trời đã về cuối thu, mới độ 9 giờ tối mà trời hơi se lạnh. Tôi đang nằm trên giường nghĩ ngợi, anh bạn người Quảng bình đang ngồi học ở bàn, chợt nghe tiếng có người gọi, cả hai chúng tôi ngoảnh ra thì thấy Vân đang đứng trước cửa, anh bạn tôi mời Vân vào chơi nhưng Vân xin phép được gặp tôi. Tôi khoác thêm một chiếc áo khoác mỏng, rồi đi theo Vân sang nhà của Vân và Lan, tôi cứ tưởng Vân nhờ tôi chuyện gì, nhưng không phải, Vân nói với Lan, tôi cũng nghe rõ:
   -Lan ở nhà học một mình, tớ nhờ anh Quân dẫn vào làng có chút việc.
   Nói rồi Vân quay ra và đi ngay, không cả để ý đến chuyện tôi có đi theo hay không. Còn tôi cứ thế bám theo Vân, hôm nay vào khoảng cuối tháng âm lịch, trời không có trăng,nhưng nhiều sao, ánh sáng của các vì sao cũng đủ sáng để soi đường cho chúng tôi đi. Đến bãi cỏ, bỏ hoang ở gần nhà, chúng tôi tìm một chỗ để ngồi, mặt hướng ra cánh đồng. Ngồi cũng đã được một lúc, nhưng Vân vẫn chưa mở đầu câu chuyện, tôi cũng không sốt ruột, vì tôi đoán câu chuyện Vân nói tối nay chỉ liên quan đến những sự việc xảy ra buổi sáng, nên tôi bình tĩnh chờ đợi.
   Sau thời gian suy nghĩ để chuẩn bị, Vân nói:
   -Chuyện xảy ra sáng nay, thú thật là quá bất ngờ đối với em, em hoàn toàn  không kịp phản ứng gì, anh tạo ra hết bất ngờ này sang bất ngờ khác, thời gian thì quá ngắn em không kịp suy nghĩ nên em không thể trả lời anh được. Song em nghĩ, chuyện này không thể để kéo dài được, vì nó làm ảnh hưởng đến học tập, mặt khác em thấy, cũng cần phải nói với anh, biết đâu đấy nó lại tốt cho chúng ta.
   Thế rồi Vân kể cho tôi nghe chuyện của Vân.
(Còn nữa)


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: linhcnn72 trong 30 Tháng Ba, 2012, 02:02:12 pm
@quanvietnam
Món"mắm tôm" ở Cửa Việt được dân địa phương gọi là "mắm đuốc" được làm từ con "đuốc " hay còn gọi là con "ruốc", nó có vị khác với mắm tôm.Câu chuyện rất hấp dẫn, rất mong sớm được đọc tiếp.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 30 Tháng Ba, 2012, 03:01:32 pm
                 Chào bạn quanvietnam! Tranphu341 đọc bài viết của bạn mà thấy say sưa mê ly quá. Cái tuổi U60 của TP mà bỗng chốc có cảm tưởng như mình là người trong cuộc mới chết chứ. ;D ;D ;D

                 Bạn viết chuyện rất hay. Bạn tả về tình yêu, về chuyện đi bắt cá, bắt cua, bắt bắt được cả nụ hôn vụng dại mà mãnh liệt nữa. Thật tuyệt vời khi bạn tả về những cánh đồng lúa gió thổi làm lên nhưng con sóng vàng, rồi thì tiếng cua, tiếng cá gõ nhịp quẫy trong chậu. vv.....TP thấy bạn tả còn tỷ mỷ hay hơn cả nhà thơ TrầnĐăngKhoa tả ấy chứ. chuyện của bạn gửi cho báo " Văn Đội Quân Nghệ" ĐƯỢC ĐẤY. Chắc chắn lính ta thích đọc hơn nhiều chuyện khác.

                 Như vây bạn ở lính thông tin. TP chưa rõ là có phải là báo vụ không mà nói đến thu phát. TP hồi 13-14 tuổi cũng đã được học báo vụ. Dùng malip phát tín hiệu tịch tè...... Cũng đã được cấp bằng vận động viên cấp 3 về báo vụ. Thu và phát được từ 80 chữ cải trở lên.

                Chúc bạn tiếp tục hành quân cùng những trang viết rất hấp dẫn để TP cùng anh em VMH được thưởng thức!

                


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 02 Tháng Tư, 2012, 04:16:21 pm

   -Kính anh TP, cùng các đọc giả đã đọc bài viết của tôi.Trước hết tôi xin cám ơn tất cả mọi người, đã bớt chút thời gian quý báu của mình để đọc bài viết, sau là tôi xin có lời xin lỗi mọi người nếu như khi đọc bài viết mà có điều gì khó chịu.
    Cũng chẳng giấu diếm gì mọi người, Tôi như thằng điếc không sợ súng. Không một ngày học viết văn hay làm thơ, nhưng tôi cứ viết,viết đến khi nào mọi người chán quá bảo thôi thì thôi. Tôi chẳng bao giờ có tham vọng để mà đăng hay in ấn ở chỗ này chỗ khác.
     -Anh TP, tôi là lính thông tin trinh sát, máy 2 woat, được đào tạo tại chiến trường, từ chỗ học thu phát tạch tè bằng miệng, rồi tiến tới gõ Manip thu phát bằng máy, sau đó là đi phục vụ các đài quan sát của trinh sát. Trình độ thu phát tối đa của tôi là: 60-65 chữ/phút, trong khi vận động viên cấp 1 có lẽ là: 140-160 chữ/phút.
   Tạm biệt anh TP và tất cả đọc giả.
   
 


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 03 Tháng Tư, 2012, 02:54:15 pm

NHỮNG NGÀY Ở NẠI CỬU
         Theo Vân kể, Vân sinh ra trong một gia đình, có ba anh chị em. Chị cả, học hết cấp hai không đi thoát ly ở nhà lấy chồng ở làng bên, anh thứ hai đi bộ đội hiện đang học năm thứ ba học viện quân sự, ở gần thị xã Bắc ninh, anh đã lấy vợ và có hai con,một gái  một trai, vợ anh là giáo viên của trường cấp1 ở gần nhà. Bố Vân là ông giáo dậy trường làng, đã về hưu. Mẹ Vân ở nhà làm ruộng, chăm sóc các con,bây giờ là chăm sóc các cháu cả nội cả ngoại, ông bà tuổi cũng đã ngoài 60 mươi, Vân là con út trong gia đình.
     Vân lớn lên được sự nuông chiều của bố mẹ và các anh các chị, Vân là người duy nhất trong nhà được ăn học tới nơi tới chốn. Anh thứ hai tuy học ở học viện quân sự, nhưng là do đi bộ đội học giỏi nên được cử đi học.
     Bố Vân là trưởng dòng họ Nguyễn ở trong làng, người trong làng vẫn gọi bố Vân bằng ông giáo, với tấm lòng kính trọng, vì cả đời ông làm thầy giáo, và gần như ông dậy tất cả mọi người đến độ tuổi đi học ở trong làng khi ông còn là giáo viên, có những nhà đến mấy thế hệ đều học ông.
   Gia đình Vân, thuộc loại bình thường trong làng, không giầu cũng không nghèo, con cái đều trưởng thành có công ăn việc làm, anh chị lớn đều đã xây dựng gia đình. Chỉ còn Vân là nhỏ nhất đang đi học và chưa xây dựng gia đình.
   Vân kể: Cách đây hai năm, khi ấy em đã học năm thứ nhất. Một buổi chiều thứ bảy em từ trường về thăm nhà, về đến nhà em nhìn thấy chiếc xe đạp của anh trai dựng ở hè, trong nhà không có ai, chỉ nghe tiếng người nói ở ngoài vườn sau nhà. Em ra sau nhà, thấy bố mẹ, anh trai và một người nữa cũng mặc quần áo bộ đội, em đoán chắc là bạn của anh trai về chơi .Mọi người đang đứng xung quanh gốc cây xoan nói chuyện, em chào bố mẹ,chào anh trai và chào khách, rồi quay sang hỏi bố:
   -Nhà có khách sao bố không tiếp ở trong nhà mà lại ra cả ngoài vườn để nói chuyện, chắc bố có chuyện gì đặc biệt, đúng không ạ?
   Bố chưa kịp trả lời thì anh trai em đã nói:
   -Con xin lỗi bố, để con giới thiệu bạn con với cô út đã. Anh giới thiệu với em đây là anh Quảng, chú em học cùng tổ với anh, anh mời Quảng về chơi nhà, tiện thể ngày mai giúp anh chặt cây xoan để mang ra ao ngâm cho bố, một mình anh chắc không làm nổi, may quá hôm nay lại có em về hỗ trợ. Thật là tuyệt vời.
   Em nhìn anh Quảng, bắt gặp anh Quảng cũng nhìn em, anh Quảng giơ tay bắt tay em rồi nói:
   -Chào Vân! Nghe anh Hai giới thiệu nhiều về Vân, may mắn hôm nay mới được gặp.
   Bố nhìn tất cả mọi người rồi quay sang em nói:
   -Tháng trước bố có nói với anh con, nhà có cây xoan ở sau vườn, tuổi của nó cũng gần bằng tuổi con, chặt hạ xuống cho bố rồi mang ngâm để ít bữa bố thay thế một số tấm cửa gỗ của nhà thờ đã bị mọt.
   Nói rồi, bố em quay sang mẹ em:
   -Bà xem, tối nay nhà mình có các con nó về, lại có khách của con, bà bố trí cho bố con tôi một bữa ăn tươi, bà nhớ. Vân! Con xem cơm nước giúp mẹ.
   Mẹ em biết tính bố em, bà cười rất đôn hậu, thể hiện sự nhất trí cao, rồi quay sang nói với em:
   -Vân vào mẹ nhờ việc này.
   Không biết có tự bao giờ, em nghe, dân làng này vẫn khen mẹ em: Làng mình nhất bà giáo, đã khôn còn ngoan, đẹp người lại đẹp cả nết, nuôi con nuôi cháu đứa nào cũng ngoan ngoãn học giỏi nhất làng. Em cũng cảm thấy đúng như vậy, và ít nhiều cũng cảm thấy em có người mẹ tuyệt vời.
   Theo mẹ vào trong sân, mẹ vuốt mấy sợi tóc còn bết mồ hôi vương trên trán em, mẹ bảo:
   -Bây giờ cũng gần tối rồi, chẳng còn chợ búa gì được. Con chịu khó, đạp xe lên chị, bảo chị bán cho mẹ một con gà, rồi nói với chị sáng mai đi chợ hộ mẹ, cả hai chị em cùng đi, mua thức ăn trưa mai nhà có khách. Mẹ ở nhà chuẩn bị nấu cơm,con mang gà về là vừa.
   Em vâng dạ, rồi cất túi xách, lấy xe đạp của anh trai đi ngay.
   Chị gái lấy chồng ở xóm trên, nhà thì gần, nhưng em vẫn cứ đi xe đạp cho nhanh ,lên chị em gặp nhau còn trò truyện. Chị gái em cũng đã có hai cháu, con trai lớn 9 tuổi con gái 7 tuổi, các cháu đang đi học. Chồng chị gái em, làm thư ký ủy ban xã, anh suốt ngày đi vắng, chị em một mình lo công điểm với hợp tác xã, lo mảnh ruộng năm phần trăm để chăn nuôi lợn gà, lấy thịt, lấy phân đóng góp cho hợp tác xã. Chị em, quanh năm vất vả, được cái kinh tế gia đình cũng đủ ăn.
   Lên nhà chị, cũng vừa may gặp chị ở ngoài đồng vừa về tới nhà. Chị nhìn em, rồi nhìn chiếc xe đạp, chị hỏi:
   -Hôm nay, cả cậu Hai với dì cùng về à? Nhà mình chắc có việc gì nên cả hai anh em cùng về?
   Nhìn quanh thấy nhà cửa vắng tanh, em hỏi:
   -Anh chưa về à? Các cháu đi đâu sao chẳng thấy có ai?

   Chị nói:
   -Anh thì bao giờ cũng về rất muộn, thằng lớn chắc đi đá bóng ngoài sân kho, còn con Mai thì đang hái rau ở ngoài vườn, hai mẹ con vừa ở đấy, tôi về trước nó hái thêm ít rau nữa rồi về sau. Thế dì lên có việc gì vậy?
   Em trả lời:
   Em vừa về, anh Hai với bạn anh ấy ở trên trường về lúc nào em không biết. Về nhà đã thấy bố mẹ, anh Hai và bạn anh Hai đang đứng dưới gốc cây xoan bàn cách ngày mai chặt hạ cây xoan. Mẹ sai em, lên nói với chị bán cho mẹ một con gà, tối nay ở nhà có khách. Mẹ bảo, trời gần tối rồi chợ búa thì chẳng có, không biết mua đâu ra thức ăn cho khách, thôi lên nhờ chị vậy. À! Mẹ còn nói sáng mai hai chị em mình đi chợ để mua thức ăn, cho mẹ.
   Chị ra mở cửa chuồng gà, quay vào bếp bốc ít thóc còn sót lại trong cối xay, mang ra rắc trước cửa chuồng gà, vừa rắc thóc vừa gọi, trời cũng bắt đầu tối, đàn gà đang quanh quẩn quanh chuồng, chạy ào ra mổ thóc. Nhặt hết những hạt thóc, chúng nghiêng ngó nhìn bà chủ rồi kéo nhau vào chuồng. Chị đóng cửa chuồng gà,rồi thò tay vào bắt con gà trống to nhất. Vừa trói gà chị vừa nói:
   -Hôm nọ có 7 con, ủy ban có khách đã vào mua 2 con, còn 5 con. Tôi đã hứa cho thằng Thắng với con Mai mỗi đứa một con, để bán lấy tiền mua quần áo mới. Thằng Thắng nhận con gà trống to nhất, chắc là con này. Còn cái Mai nhận con gà mái to nhất sắp nhảy ổ, nó bảo để cho nó đẻ rồi bán trứng, để lấy tiền mua quần áo.
   Chị cho gà vào lồng, rồi bảo em ra vườn ngắt lá chanh, chị lại giàn mướp đã sắp tàn cắt mấy quả mướp, mướp cuối vụ quả nào cũng cong queo, được cái là quả nào quả nấy chắc như mướp bao tử. Xong xuôi các thứ, chị quay sang bảo em:
   -Thôi! Dì mang về cho mẹ làm kẻo muộn, sáng mai chủ nhật chị cho các cháu xuống chơi với ông bà.
   Em đã lên xe để về chị còn gọi lại, em tưởng là chị đưa thêm cái gì, nhưng không phải, mà chị gọi em lại gần rồi thì thào:
   -Dì đã biết khách của cậu Hai đưa về là ai chưa?
   Em thật thà,nói:
   -Là anh Quảng cùng học một lớp với anh Hai.
  Chị cười khì khì, rồi mắng yêu em:
   -Nỡm ạ! Tôi không hỏi cái đấy, mà tôi hỏi dì đã biết gì chưa?
   Em nghạc nhiên hỏi lại chị:
   -Chị bảo em biết gì là biết gì?
   Chị nói:
   -Lần trước gặp mợ Hai ở chợ, mợ có nói chuyện về anh này, mợ nói cái gì cũng tốt. Mợ nói với chị, là cậu Hai thích anh Quảng lắm, định là giới thiệu cho em. Hôm ấy chị đang vội chị cũng chưa kịp nói gì, tiện có em chị nói để em biết, nếu phải duyên phải số cũng tốt, còn không thì em vẫn là người quyết định.
   Em hơi bất ngờ, vội trả lời cho qua chuyện:
   -Còn đang bận tối tăm mắt mũi vào học hành, thời gian đâu mà yêu với đương, mà sao bây giờ lại còn cả mối lái nữa, chịu mấy ông mấy bà. Thôi em về đây, mai chờ em lên rồi cùng đi chợ.
(Còn nữa)

   
     
 




Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 04 Tháng Tư, 2012, 09:17:03 am
               Hay quá! Tranphu341 đọc bài viết kể chuyện của quanvietnam mà như là đọc chuyện trong cuốn sách nào đó. Bạn tả, bạn viết thật tỷ mỷ đĩnh đạc như nhà văn chuyên nghiệp vậy. Lôi cuốn mộc mạc và cuốn hút. TP chúc mừng bạn.

               CHÚC QUANVIETNAM CÙNG GIA ĐÌNH CÓ NHIỀU SỨC KHỎE CÙNG NHIÈU NIỀM VUI CUỘC SỐNG!


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 06 Tháng Tư, 2012, 02:08:38 pm

NHỮNG NGÀY Ở NẠI CỬU
          Từ những thông tin được chị gái cung cấp, trên đường về nhà,tự nhiên em cảm thấy vui vui.Không phải em vui vì em có bạn trai đến chơi nhà. Điều làm vui, là em đã biết được toàn bộ bí mật của câu chuyện sắp sửa diễn ra, những thông tin được chị cung cấp đã tạo điều kiện cho em nắm quyền chủ động, em sẽ giả vờ không biết để theo dõi chặt chẽ diễn biến của sự việc. Em nghĩ thầm, chắc là buồn cười lắm đây…
     Tối hôm ấy, sau khi cơm nước xong. Mọi người ngồi ngoài hè uống nước, nói chuyện. Em vừa rửa bát vừa cố gắng nghe trộm xem mọi người nói gì, nghe câu được câu chăng,nhưng toàn chuyện đâu đâu chẳng có chuyện nào liên quan đến em. Xong việc, em lên nhà, anh Hai gọi:
   -Cô vào uống nước! Hôm nay cô vất vả quá, cũng may có cô về, nếu không anh em tôi lại phải phụ với mẹ để nấu cơm, bây giờ chưa chắc đã được ăn. Cô ngồi đây, ngồi đây!
   Anh Hai chỉ chỗ cho em ngồi cạnh anh Hai, nhưng em sang ngồi cạnh mẹ, đối diện với anh Hai và anh Quảng. Mẹ em bảo:
   -Thôi anh để em nó ngồi đây với mẹ.
   Từ nãy tới giờ, bố em chưa nói câu nào, mà chỉ ngửa mặt lên trời nhả khói thuốc lá, thấy em đã ổn định chỗ ngồi, ông uống một hớp nước trà rồi quay sang hỏi em, vẫn những câu hỏi như mọi khi:
   -Con về chơi hay về có việc gì? Khi nào thì về trường? Về nhớ cho bố gửi lời thăm sức khỏe bà cụ chủ nhà nhé. À! Mà sao cái Lan lại không về với con, con cứ đi một mình bọn trẻ trâu chúng nó dễ bắt nạt.
   Biết tính bố, em vừa cười vừa nói:
   -Con về chơi thăm nhà thôi bố ạ! Con định 2 giờ chiều mai con sang trường, nếu bố mẹ,các anh các chị có gì cho thì tốt, con lại phải mang nặng, tuy phải mang nặng vất vả nhưng con cũng không từ chối, chịu khó mang nặng còn có cái ăn cho đỡ đói.
   Mẹ dí ngón tay vào trán em, mắng yêu:
   -Cha bố cô, chẳng có đâu mà khuân.
   Em cười chống chế, cho đỡ ngượng, rồi nói tiếp:
   -Bố ạ! Đợt này Lan nó phải ở lại để học bù không về được, nó cứ đòi về, con không cho nó về. Lúc chiều con đi qua cánh đồng, có bọn trẻ con chăn trâu, con sợ chúng nó bắt nạt, con phải chờ có người lớn đi để đi cùng. Bố cứ yên tâm đi, bây giờ con đã lớn rồi, con khắc biết lo.
   Nghe em nói thế, bố quay sang anh Hai hỏi:
   -Liệu hai anh buổi sáng có chặt xong không? Nếu xong, trưa nhờ người chuyển ra ao để ngâm, nếu chưa ngâm kịp thì ở nhà bố nhờ người ngâm hộ, đến giờ các anh phải về trường cho đúng kỷ luật quân đội.
   Bố lại quay sang em và tiếp tục nói:
   -Còn Vân, con cứ chủ động về trường sớm, không đi vào buổi tối. Thôi bây giờ tôi xin phép đi nghỉ cho đỡ đau lưng. Mọi người uống nước rồi đi nghỉ sớm để ngày mai làm việc.
   Anh Hai với anh Quảng nhìn nhau, như để thể hiện quyết tâm, rồi anh Hai nói:
   -Bố cứ yên tâm đi nghỉ, ngày mai chúng con cố gắng hoàn thành nhiệm vụ.
   Ngồi lại chỉ còn có mẹ em, anh Hai anh Quảng và em, anh Hai nói:
   -Ngày mai, chúng con đặt đồng hồ báo thức để dậy sớm chặt cho kịp, khi nào có ăn sáng thì gọi chúng con vào ăn rồi lại làm tiếp, bao giờ xong mới được ăn cơm trưa. Ăn trưa xong nghỉ ngơi một lát, Quảng đưa Vân sang trường giúp anh, rồi em quay về luôn đơn vị. Anh làm nốt những việc còn lại rồi sẽ về đơn vị sau. Thôi bây giờ xin phép mẹ, con đưa Quảng về nhà con ngủ, mai chúng con xuống sớm.
   Thấy anh Hai nói để anh Quảng đưa em sang trường,em nghĩ chắc đây là màn mở đầu đây, em vội vàng từ chối khéo:
   -Anh Hai với anh Quảng! Ngày mai không phải đưa em đi đâu, em đã nhờ đứa bạn đưa em sang trường rồi, các anh cứ ở nhà làm cho xong việc bố nhờ.
   Mẹ em nói:
   -Hai anh em ngủ đây cũng được, mẹ đã chuẩn bị rồi, khỏi phải đi đi về về, mai dậy sớm mà làm cho kịp. Mẹ con nhà nó thấy con muộn mà không về cũng đóng cửa đi ngủ, chắc là không chờ con về đâu.
   Nói rồi mẹ quay sang em:
   -Tối nay con ngủ với mẹ ở nhà trong, anh Hai với anh Quảng ngủ ở nhà ngoài với bố. Nếu chiều mai xong sớm thì nhờ anh Quảng, đưa em sang trường. Nếu xong muộn,thì Vân cứ đi với bạn. Thôi bây giờ thu dọn đi ngủ.
   Anh hai thấy mẹ nói vậy cũng không cãi lại, cũng không nói gì, chỉ nhìn em rồi vừa hỏi vừa cười:
   -Em nhờ bạn trai hay bạn gái đấy? Nếu có vấn đề gì thì phải báo cho anh biết đấy nhớ.
   Em trả lời:
   -Vâng ạ! Anh chỉ được cái nghĩ lung tung, em còn bận học, học mà dốt bố mẹ anh chị không yêu nữa thì biết nhờ cậy ai đây, ai là người chi viện. Nếu có gì em sẽ báo cáo và trình diện với anh.
     Thế rồi, mọi người thu dọn đi ngủ.
   Qua một đêm ngủ ngon, ngày hôm sau mọi việc diễn ra theo đúng dự kiến của anh Hai. Cây xoan vừa to lại vừa dài, bố phải mượn thêm 6- 7 người nữa mới chuyển ra ngoài ao được. Khoảng hơn 12 giờ trưa mọi việc kết thúc, mọi người nghỉ ngơi để ăn cơm trưa. Bữa cơm gia đình đông vui, tất cả con trai con gái, con dâu con rể, cháu nội cháu ngoại, đều có mặt. Nhà đông vui như tết.
   Đúng 2 giờ chiều em chuẩn bị sang trường, chị gái với chị dâu mỗi người xách một túi xách, mang ra xe bảo anh Quảng buộc vào xe để mang đi. Xong xuôi công việc, em với anh Quảng vào chào bố mẹ với các anh các chị, rồi chúng em lên đường. Mấy đứa cháu tiễn chú dì ra tận đường làng, mới chịu quay về.
   Dọc đường đi, anh Quảng là người chủ động gợi mở các câu chuyện, vừa đi chúng em vừa nói chuyện với nhau vui vẻ, kể hết chuyện nọ đến chuyện kia. Chuyện vui, đường xa cũng thành gần, chẳng mấy chốc đã đến nhà. Giờ này, không có ai ở nhà, mọi người đi đâu hết. Mời anh Quảng vào nhà uống nước, anh từ chối, lấy lý do là phải quay về đơn vị kẻo chậm giờ điểm danh. Em nghĩ, đấy là cái cớ để từ chối, thực chất theo em đoán thì anh Quảng ngại vì mọi người đi vắng hết chỉ có hai người ở nhà là không tiện, đây lại là lần đầu tiên.
   Chúng em chia tay nhau, anh Quảng về đơn vị, em thu xếp đồ đạc với các thứ mà mẹ với các chị nhét chặt vào hai túi lúc đi. Vừa làm vừa nghĩ ngợi về anh Quảng, em thấy rằng cũng chưa có gì đáng quan tâm. Nhìn bề ngoài anh cũng là con người lịch lãm, nhanh nhẹn hoạt bát, trông cởi mở dễ gần, nói năng lại có duyên, suốt cả chặng đường dài, vừa đạp xe vừa kể chuyện mà không biết mệt, chuyện kể thì hài hước dí dỏm.
   Ghép lại các câu chuyện anh Quảng đã kể, thì đại loại nhà anh Quảng đang sinh sống và buôn bán ở phố Từ sơn, nhà có xưởng mộc sản xuất các giường tủ bàn ghế đồ cổ. Bố mẹ anh Quảng, sinh được bốn người con, hai trai hai gái, anh trai cả đi bộ đội, anh nhập ngũ từ năm 1966 và vào chiến trường năm 1968, khi vào nam chiến đấu anh chưa kịp xây dựng gia đình. Chị gái và em gái anh Quảng đều đã xây dựng gia đình và đã có cháu. Anh Quảng thì đang học năm thứ ba học viện quân sự. Như vậy gia đình anh Quảng mới chỉ có cháu ngoại, chưa có cháu nội, bố mẹ anh Quảng, hai người cũng đã lớn tuổi, đều ngoài 60, nên đang thúc dục anh Quảng lấy vợ.
   Trong các câu chuyện, cũng có câu chuyện, anh Quảng xin phép từ nay được làm quen với em, coi gia đình em như gia đình anh để lấy chỗ đi lại. Chuyện này, em nói ngay với anh Quảng là: Từ trước tới nay anh quan hệ với anh Hai, và gia đình em như thế nào thì bây giờ cũng nên thế, không vì lý do gì lại làm thay đổi mối quan hệ này. Còn với em, em coi anh như anh Hai của em, anh đừng ngại.
   …Thế rồi thời gian cứ trôi đi, một năm,hai năm. Sau lần gặp nhau đầu tiên, sau đó chúng em còn gặp nhau một vài lần nữa, lúc ở quê lúc ở học viên quân sự. Rồi chẳng hiểu từ khi nào, mức độ quan tâm của anh Quảng đối với em cũng như gia đình em, càng nhiều hơn, cả về tình cảm lẫn vật chất. Lâu dần em cảm thấy sợ sự quan tâm của anh Quảng. Chuyện này không ai biết, có những thời gian em sợ không giám về nhà, vì về là phải nghe chuyện về anh Quảng, phải nhìn thấy quà của anh Quảng biếu. Cuối cùng, chuyện này anh Hai cũng phát hiện ra, và hỏi em. Em nói thật suy nghĩ của em, anh Hai không đồng tình và cho rằng em còn quá ngây thơ, chưa nhận thức được đầy đủ về tình yêu, về hoàn cảnh xã hội và điều kiện kinh tế trong tình hình đất nước hiện nay.
     Hai anh em bất đồng quan điểm. Em chuyên tâm vào học tập, và chú ý lắng nghe ý kiến của mọi người, bố mẹ em chưa có ý kiến gì…
(Còn tiếp)
   
   
   


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: thaiminhhung trong 06 Tháng Tư, 2012, 02:57:41 pm
    Chuyện của Bác Quân hấp dẫn quá. Mà sao bác nhớ từng chi tiết thế ? Tưởng những năm tháng đi làm Thủy Điện ở những miền rừng núi đã làm cho bác quên hết rồi , ai dè nhớ lâu quá . tiếp tục đi bác nhé he he


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 08 Tháng Tư, 2012, 02:05:36 pm

   *Cảm ơn anh TP đã có lời động viên  quanvn
   *Cảm ơn TMH và các đọc giả đã đọc bài của quanvn. Nhân TMH nhắc, quanvn mới nhớ. Thực ra, những năm tháng lần mò theo các dòng sông của đất nước để đi làm thủy điện. Quanvn lại càng nhớ những kỷ niệm xưa, nhớ và day dứt nhất vẫn là quãng thời gian trong quân ngũ, có rất nhiều kỷ niệm đẹp, song cũng không ít kỷ niệm buồn. May mắn cho quanvn là được đóng góp một phần sức lực nhỏ bé của mình vào cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, lại càng may mắn hơn khi quanvn được tham gia các chiến dịch: Quảng trị; Giải phóng thị xã Buôn mê thuột; Chọc thủng vành đai phòng thủ Long khánh Xuân lộc; Chiến dịch Hồ chí Minh giải phóng Sài gòn. Chiến thắng, quanvn quay trở lại trường cũ tiếp tục theo học, quanvn học về thiết kế các công trình thủy điện, ra trường quanvn theo các bậc tiền bối tham gia thiết kế và quản lý thi công một vài công trình thủy điện trên các dòng sông từ bắc vào nam. Những công trình thủy điện, đầy ắp những kỷ niệm của quá khứ chiến tranh và của hiện tại xây dựng.
  Đại đa số các công trình thủy điện được xây dựng trên các dòng sông có độ dốc tự nhiên lớn, lắm thác nhiều gềnh để lợi dụng thế năng của dòng chảy. Tìm được những vị trí này,  nó thường chỉ có ở những khu vực rừng sâu núi cao. Những khu vực này, trong các cuộc kháng chiến của dân tộc lại là những căn cứ địa vững chắc của lực lượng cách mạng. Vì vậy, có thể nói vị trí xây dựng các công trình thủy điện thường là gắn liền với các khu căn cứ địa. Nói đến khu căn cứ địa cách mạng, anh em CCB cũng đã hình dung nó có những gì và nó quan trọng như thế nào trong các cuộc kháng chiến.
   Nhìn chung, các công trình thủy điện đều phải có hồ chứa nước, không to thì bé, rất hiếm những công trình thủy điện không có hồ chứa. Đã gọi là hồ chứa thì cái bé nhất cũng phải từ vài trăm hecta, cái lớn nhất cũng vài trăm Km2. Như vậy những hồ chứa này, vô tình đã  bao trùm và nhấn chìm những khu căn cứ địa cách mạng, những chứng tích chiến tranh của một thời oanh liệt… Để lưu lại những giá trị lịch sử của nó, chỉ còn có cách các địa danh này được chép vào sử sách để lưu truyền mãi mãi
    Với chỉ hai đặc điểm này, chắc tất cả anh em CCB đã hình dung được quanvn đi làm thủy điện, ngoài kỹ thuật chuyên môn ra còn phải đi đến tận nơi để khảo sát, được nhìn thấy những đau thương mất mát,  được nghe những gương hy sinh và lòng quả cảm của các chiến sỹ cách mạng. Tất cả những chiến công hào hùng của dân tộc, đều được gắn liền với những địa danh lịch sử nóng bỏng đầy bom đạn. Những khu căn cứ địa cách mạng oai hùng một thời đã làm cho biết bao kẻ thù phải run sợ, để cách mạng đi đến thành công. Rồi những địa danh lịch sử ấy bây giờ lại gồng mình lên để gánh vác nhiệm vụ khác, nhiệm vụ xây dựng kinh tế của đất nước. Vẫn biết rằng ở dưới mặt đất, khi mở móng ra để xây dựng công trình, thường bắt  gặp những bộ hài cốt không rõ là của bên nào, nhưng đều có điểm chung là không biết tên tuổi quê quán… Chiến tranh đã qua đi  gần 40 năm, nhưng đã để lại biết bao nhiêu đau thương trên mặt đất,và còn mang đi biết bao nhiêu những điều bí mật ẩn sâu trong lòng đất.
    Không kể miền bắc, kể từ vĩ tuyến 17 trở vào, quanvn được tham gia thiết kế kế và Quản lý dự án 10  công trình thủy điện cả lớn và nhỏ:
   -Công trình thủy điện Trị an, tỉnh Đồng nai
   -Công trình thủy điện An điềm, tỉnh Quảng nam Đà nẵng.
   -Công trình thủy điện Đrayhlinh, tỉnh Đắc lắc.
   -Công trình thủy điện Vĩnh sơn, tỉnh Bình định.
   -Công trình thủy điện Sông hinh, tỉnh Phú khánh.
   -Công trình thủy điện Yaly, Tỉnh Gia lai Kontum.
   -Công trình thủy điện Rylinh, tỉnh Gia lai.
   -Công trình thủy điện Sê san 4, tỉnh Gia lai Kon tum.
   -Công trình thủy điện Pleykrong, tỉnh Kon tum.
   -Công trình thủy điện Rào quán(Quảng trị), tỉnh Quảng trị.
   Bất kể công trình nào quanvn cũng đều có ít nhiều kỷ niệm gắn với thời gian trong quân ngũ, rất tiếc thời gian và sức khỏe chưa cho phép viết ra mong các CCB thông cảm.
 


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: qtdc trong 08 Tháng Tư, 2012, 02:44:18 pm
Hơ..hơ...Chuyện chiến trường, trinh sát, tình báo-tình yêu của bác quanvietnam chuyện nào em cũng thấy hay cả, lại còn chuyện thủy điện thủy hại lang thang khảo sát thiết kế khắp rừng xanh núi đỏ nữa chứ. Theo em, trừ những năm về trường học tiếp, còn ngoài ra bác đâu đã ra quân, vẫn đi suốt thế thì khác gì bộ đội bác nhỉ. Chúc bác khỏe và viết tiếp cho chúng em mở mang tầm mắt.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 10 Tháng Tư, 2012, 02:16:24 pm

NHỮNG NGÀY Ở NẠI CỬU
          Kể đến đấy, Vân dừng lại quay sang nhìn tôi. Ánh sáng của một đêm không trăng  nhiều sao, không đủ sáng để soi rõ được hai khuôn mặt đang ngồi cạnh nhau, tôi không thể mường tượng được khuôn mặt của Vân lúc này thế nào, nhưng qua giọng kể của Vân tôi đoán là Vân đang xúc động. Vân khẽ xoay người, hai vai chúng tôi chạm vào nhau, một hơi thở ấm phả vào mặt tôi, lại tạo cho tôi một cảm giác râm ran khó tả như hồi sáng, lần này tôi bình tĩnh và chủ động hơn, tôi ngồi im không nhúc nhích.
   Một lúc sau, Vân lại nói tiếp:
   -Tóm lại, câu chuyện mọi người tạo điều kiện vun đắp cho em với anh Quảng là như vậy. Kể từ đó em và anh Hai rất ít gặp nhau, em tìm mọi cách để không gặp anh, vì nếu gặp là anh em lại đối đầu, tình cảm anh em lại thêm xa cách. Đối với anh Quảng, từ trước đến nay em cũng chưa nói gì khác ngoài những chuyện tình cảm anh em, còn chuyện giữa anh Hai và anh Quảng hai người nói với nhau thế nào em cũng không biết.
   Tôi vẫn ngồi yên, Vân hỏi tôi:
   -Anh thấy em làm vậy có gì quá đáng không? Chuyện sáng nay anh đặt vấn đề với em có liên quan đến chuyện này, nên em kể cho anh nghe. Theo anh em  phải làm như thế nào?
   Tôi vẫn im lặng, thực chất là tôi chưa tìm được câu trả lời. Theo tôi nghĩ, trong hoàn cảnh này. Nếu đúng như lời Vân kể thì tôi nghiêng về ý kiến của anh Hai, bởi vì xét trên mọi phương diện, anh Quảng là người có đầy đủ ưu thế, vấn đề ở chỗ là Vân có Yêu anh Quảng hay không?  Nếu như hai người thực sự yêu nhau, thì tôi cho là không có gì có thể tốt hơn thế. Nhưng vì sao Vân lại chưa đồng ý, tôi cố gắng lý giải nhưng chưa đủ thuyết phục.
   Thấy tôi cứ ngồi im, không trả lời. Vân dục:
   -Anh nói đi chứ, tại sao cứ ngồi im?
   Tôi nhoài người lên phía trước, bức mấy cộng cỏ, dùng ngón tay cái và ngón tay trỏ xoa nát, đưa lên mũi ngửi, mùi tinh dầu cỏ thơm hăng hắc dễ chịu. Tôi đưa cho Vân rồi nói:
   -Vân ngửi thử xem, thơm hăng hắc nhưng dễ chịu.
   Chúng tôi lại chìm vào im lặng. Lúc này không biết Vân nghĩ gì, còn tôi, tôi nghĩ: Nếu như tôi với Vân cứ ngồi lâu ở đây là hoàn toàn không lợi, mà nên về nhà để nói chuyện. Ngồi đây, nếu có người bắt gặp thì rất phiền phức cho tôi với Vân. Tôi nói với Vân:
   -Câu chuyện này còn dài, có khi nói hết đêm nay cũng chưa kết thúc. Anh nghĩ, hay là anh em mình về nhà ngồi nói chuyện. Giờ này chắc bà chủ và Lan đã đi ngủ, ngồi ngoài này khuya quá cũng không tiện, chẳng may có ai bắt gặp thì không thể thanh minh được,mặc dù chúng ta trong sạch. Về nhà, anh sẽ nêu quan điểm của anh,em đồng ý không?
   Vừa nói, tôi vừa nắm tay Vân kéo Vân đứng dậy. Về nhà, mọi người đã đi ngủ từ lâu,Vân vào trong nhà thắp đèn rồi mang chiếc trõng tre để giữa sân. Chúng tôi lại tiếp tục nói chuyện.Tôi nói với Vân:
   -Chuyện của em với anh Quảng, anh thật sự không muốn biết, vì đấy là chuyện của hai người. Nhưng em đã hỏi thì anh nói:
   Thấy tôi nói có vẻ to, Vân ra hiệu nói nhỏ lại. Tôi hạ giọng chỉnh lại âm lượng rồi lại tiếp tục:
   -Theo anh nghĩ, anh đồng ý với quan điểm của anh Hai. Nếu loại trừ tình yêu đôi lứa ra không nói đến ở đây, còn lại những vấn đề khác có liên quan đến đời sống kinh tế xã hội thì anh cho rằng quá tốt. Vì sao như vậy:
   Thứ nhất, nói về hoàn cảnh và điều kiện kinh tế của gia đình anh Quảng trong điều kiện hiện nay, ở miền bắc cũng không có nhiều.Có thể nói rất ít người có điều kiện và hoàn cảnh kinh tế tốt như vậy.
    Thứ hai, nói về hoàn cảnh xã hội. Gia đình anh Quảng rất căn bản, tham gia và chấp hành đầy đủ mọi chế độ chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước. Anh trai anh Quảng, đi bộ đội chiến đấu ở chiến trường miền nam, bản thân anh Quảng cũng là bộ đội đang học ở học viện kỹ thuật quân sự, ấy là còn chưa kể đến các anh rể và em rể cũng đang tham gia quân đội.
   Về bản thân anh Quảng, theo em nói thì cũng rất tốt. Như vậy, vấn đề còn lại là em và anh Quảng có yêu nhau không? Nếu hai người yêu nhau, theo anh là quá tốt, không còn mong gì hơn. Còn nếu hai người không yêu nhau, thì tất cả những điều anh nói nãy giờ đều không có ý nghĩa gì với em.
   Tôi dừng lại suy nghĩ rồi nói tiếp:
   - Bây giờ em hỏi anh em phải làm thế nào? Đây là câu hỏi khó.Trước hết anh phải hỏi lại em là em có yêu anh Quảng không? Em trả lời câu này anh sẽ có đáp án cho em.
   Vân cứ ngồi im lặng. Trời lúc này cũng đã về khuya, gà trong xóm đua nhau gáy, ngoài sân sương xuống nhiều, tôi mặc hai chiếc áo mà vẫn cảm thấy hơi lành lạnh. Chúng tôi di chuyển chiếc trõng tre vào ngồi dưới mái hiên cho đỡ sương, tiện tay tôi cởi chiếc áo khoác mỏng đưa cho Vân khoác cho đỡ lạnh. Vân không từ chối, Vân vừa khoác áo vừa nói:
   -Câu hỏi mà anh hỏi lại em, chính em đã hỏi em nhiều lần nhưng em vẫn chưa có câu trả lời rứt khoát, cuối cùng thường là em tặc lưỡi: “Thời gian còn dài vội gì”. Hôm nay anh hỏi em, em xin thú thật là em vẫn chưa có câu trả lời. Anh cũng biết đấy, thời gian em tiếp xúc với anh Quảng còn quá ít, em không có nhiều cơ hội để tìm hiểu về anh ấy. Song em nghĩ, giữa em với anh Quảng có một cái gì đó rất khó nói đang ngăn cách chúng em. Em cảm nhận, từ lời nói đến tình cảm đối xử của anh Quảng đối với bố mẹ em, cũng như mọi người ở gia đình em, có thể nói là rất tốt.  Nhưng em cảm thấy rất khác, có cái gì đó nó xa lạ, khách sáo. Tất nhiên là em vẫn hiểu, ở hoàn cảnh anh Quảng bây giờ phải như vậy, bao giờ thực sự là người của gia đình thì sẽ khác, nhưng liệu có thể khác được không?
   Ngừng một lát, Vân lại nói tiếp: Còn một vấn đề nữa mà em thấy nó làm sao ấy. Em cứ tự hỏi đấy có phải là tình yêu không? Theo em nghĩ, chắc chắn đấy không phải tình yêu, nếu là tình yêu thì hai con tim nó phải rung động và cộng hưởng khi hai người yêu nhau nghĩ về nhau, xa nhau thì thổn thức nhớ thương chỉ mong được gặp nhau, gần nhau thì quấn quýt lấy nhau đắm chìm trong hạnh phúc của tình yêu đôi lứa… Đằng này em thấy mình chẳng thổn thức hay rung động gì, vậy thì sao có thể gọi là tình yêu. Vậy liệu thời gian có là phương thuốc hữu hiệu cho căn bệnh này không? Em nghĩ chắc là khó. Nếu là anh thì anh có nghĩ vậy không?
   Trong nhà, lúc này bà chủ tỉnh giấc, hỏi vọng ra giọng còn ngái ngủ:
   -Ai ở ngoài đó? Giờ này vẫn chưa đi ngủ à, sao thức khuya vậy?
   Vân vội vàng chạy vào, ghé sát vào tai bà chủ nói:
   -Bà cứ ngủ đi! Cháu với anh Quân còn dở tý việc cho ngày mai,xong việc chúng cháu sẽ đi ngủ.
   Bà chủ nhà là người hiền từ phúc hậu,có lẽ bà là người cả đời vất vả, thấy bà sống rất hoàn cảnh nên chúng tôi thương bà lắm, coi bà như mẹ mình. Thấy Vân nói thế, bà không nói gì lại tiếp tục ngủ, nhưng chúng tôi đoán bà sẽ không ngủ say, cũng may bà lại bị điếc nên chắc là nghe được câu chuyện của chúng tôi. Còn Lan giờ này chắc là ngủ say, có khênh vứt xuống ao cũng không biết, nếu Lan có biết thì cũng chẳng sao, vì cũng đã nhiều lần chúng tôi thức khuya để nói chuyện với nhau hay học bài. Chúng tôi lại tiếp tục câu chuyện, Vân nói tiếp:
   -Còn chuyện này, em muốn nói với anh, không biết nó có đại diện cho tầng lớp phụ nữ hay không, cái đó em không giám chắc, nhưng chí ít nó cũng phản ảnh lên những tâm tư tình cảm của những người như chúng em. Anh ạ! Bất kỳ người phụ nữ nào cũng muốn mình có một gia đình hạnh phúc, có chồng có con, trong đó người chồng là trụ cột của gia đình, người chồng phải biết yêu vợ và thương con, sống chân thật giản dị, giầu lòng vị tha và sẵn sàng giúp đỡ mọi người, cho dù ở hoàn cảnh nào cũng luôn thể hiện mình là người có trách nhiệm, lo lắng cho công việc gia đình cũng như xã hội. Người chồng phải là điểm tựa vững chắc cho vợ và các con thực hiện trách nhiệm của mọi người, để cho gia đình hạnh phúc.
   Vân dừng lại, quay sang hỏi tôi:
   -Thế có nhiều quá không anh?
   Tôi trả lời Vân:
   -Biết bao nhiêu cho đủ. Nhưng anh không hiểu tại sao chúng ta đang nói chuyện về chúng ta, sao em lại chuyển sang đề tài này? Điều mà em mơ ước chỉ đúng khi đất nước đã hòa bình không còn chiến tranh, hoàn cảnh của chúng ta hiện tại không phải là như vậy. Hiện nay có đến triệu triệu người phụ nữ, đã tiễn chồng tiễn con tiễn người thân ra mặt trận, ở  hậu phương họ vẫn đảm đang thay chồng thay con làm những việc của nam giới, trong khi đó họ vẫn làm đầy đủ thiên chức làm mẹ, nuôi nấng và dậy giỗ con cái khôn lớn và trưởng thành, tuy có vất vả nhưng họ sẵn sàng chấp nhận gánh vác vì người thân của họ ở nơi xa, họ xứng đáng là những người vợ hiền dâu thảo.
   Vân vội vàng cắt lời tôi:
   -Anh nói rất đúng, nhưng cũng không thiếu những trường hợp, có những gia đình, có những người phụ nữ đang né tránh nhiệm vụ, một nhiệm vụ quan trọng mà cả nước đang chung vai gánh vác. Đã có người bảo em: Tại sao lại không đồng ý yêu và lấy anh Quảng, nếu lấy được anh Quảng thì tất cả mọi thứ đều tốt, nguyên cái chuyện không phải đi  chiến trường vì đã có anh trai đang chiến đấu ở trong đó, cũng đủ đánh đổi tất cả mọi thứ rồi v.v.
   Ngừng một lát,Vân lại tiếp tục:
   -Việc ấy không biết thực hư có hay không, đúng hay sai em cũng chưa biết nhưng em nghe nói thế em lại cảm thấy buồn,cảm thấy mình kém cỏi tìm cách né tránh,trong khi tất cả mọi người giám chấp nhận, kể cả phải hy sinh.
     Tôi bắt đầu lơ mơ đoán ra suy nghĩ của Vân, nếu sâu chuỗi lại thì tất cả câu chuyện Vân nói ở trên đều toát lên ý là Vân không yêu anh Quảng,hay nói đúng hơn là chưa yêu anh Quảng. Nghĩ vậy, nhưng chưa giám khẳng định điều mình nghĩ, tôi hỏi Vân thêm một câu để làm rõ hơn:
   -Nghe em nói từ đầu đến giờ, như anh hiểu thì em chưa thực sự chấp nhận việc vun đắp của mọi người cho em với anh Quảng. Anh hiểu thế không biết có đúng không? Vậy ý em thế nào?
   Vân im lặng không nói gì, có lẽ tôi đoán đúng. Bây giờ lại đến lượt tôi hệ thống lại tình cảm của Vân, đối xử với tôi từ khi chúng tôi biết nhau. Rất nhanh tôi có thể khẳng định lại được là không có vấn đề gì, nếu như không muốn nói là tốt. Tôi nghĩ, có lẽ đây là cơ hội tốt để tôi đặt vấn đề. Sự im lặng của Vân đang tạo điều kiện cho tôi,nếu không tận dụng được cơ hội này, kể như tôi lại bỏ qua một dịp may hiếm có mà Vân tạo ra.
   Sau thời gian im lặng kéo dài, tôi quàng vai Vân kéo về phía tôi, một tay nắm lấy tay Vân,Vân ngoan ngoãn phục tùng. Tôi nghĩ chắc đây là thời cơ chín muồi rồi, cần chớp lấy thời cơ. Tôi nói trong hồi hộp:
   -Sáng nay anh đã đặt vấn đề chính thức với em là anh yêu em, nhưng em vẫn chưa có câu trả lời, không biết em có đồng ý không? Như em nói lúc đầu, chuyện này nếu không rõ ràng thì sẽ ảnh hưởng đến học tập. Vậy anh rất muốn em nói luôn hôm nay, có được không em?
   Chờ đợi mãi Vân cũng chưa trả lời, thời tiết thì lạnh nhưng mặt tôi nóng bừng bừng, tai o o tiếng ve sầu. Tôi không đủ bình tĩnh chờ đợi, tôi lắc lắc vai Vân, giọng ngập ngừng thiếu bình tĩnh:
   -Em có yêu anh không?
   Vân gỡ tay tôi ra khỏi tay Vân, rồi nói:
   -Nếu anh yêu em, thì anh phải vượt qua rất nhiều áp lực, trong đó ví dụ như những chuyện mà em đã kể, không biết anh có đủ dũng cảm để vượt qua không? Em sợ rằng khi gặp khó khăn anh để em một mình, em đi cũng dở mà ở cũng dở. Ấy là chưa nói đến việc nay mai anh đi chiến trường, em lại vò võ chờ đợi. Em đủ kiên nhẫn chờ đợi để đi tới tận cùng, còn nếu như có chuyện gì bất khả kháng, thì âu cũng là số phận, em sẵn sàng chấp nhận. Em chỉ sợ sự phản bội.
   Nghỉ một lát Vân lại tiếp tục:
   -Để yêu được nhau đã khó, đến khi lấy được nhau lại càng khó hơn. Em thực sự bối rối không biết trả lời anh thế nào.
   Chúng tôi lại ngồi lặng đi. Tôi nghĩ, Vân nói thế  có vẻ cũng đã ngã lòng, chỉ cần mình thể hiện quyết tâm thêm chút nữa để khẳng định niềm tin cho Vân trong lúc này:
   -Em vẫn là người hay lo xa, chúng ta còn có thời gian để chúng ta chứng tỏ chúng ta có can đảm và nghị lực để vượt qua mọi thử thách. Điều quan trọng nhất của chúng ta bây giờ là: Hãy tin nhau và tin tưởng vào sức mạnh của tình yêu, có được điều này chúng ta sẽ có tất cả.
   Thời gian cứ lặng lẽ trôi, càng về khuya trời càng lạnh, bốn bề im lặng chỉ nghe tiếng côn trùng kêu rỉ rả. Tôi hồi hộp chờ đợi phản ứng của Vân, vẫn không thấy Vân có động tĩnh gì. Lúc này tôi không thể chờ đợi thêm được nữa, tôi chủ động ôm ghì lấy Vân, tay nắm lấy tay Vân. Vân thổn thức trong hơi thở gấp:
   -Em sợ lắm!
   Chúng tôi ôm nhau,hai đôi môi nóng bỏng gặp nhau, chúng tôi hôn nhau,cả hai không thở được. Chiếc trõng tre chúng tôi đang ngồi, cứ đung đưa kêu cọt kẹt, không hiểu nó phản đối hay nó vui sướng để chia vui với chúng tôi.
   Một đêm thức trắng, hương của nụ hôn đầu đời cứ phảng phất mãi trong tôi. Có lẽ sẽ không bao giờ quên được.
(Còn nữa)
   


   
   




Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: thaiminhhung trong 10 Tháng Tư, 2012, 04:45:53 pm
Hay quá Bác Quân ơi, đúng là tình yêu sinh viên, tình yêu của những năm tháng mơ mộng, nhưng rất rõ ràng và tinh khiết.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 10 Tháng Tư, 2012, 05:20:23 pm
              Chào bác quanvietnam! Tranphu341 đọc chuyện kể tình yêu của bạn, những lời nói, nhưng phân tích rất "ngày xưa" cùng nụ hôn của tình yêu, nụ hôn đầu đời của người yêu và được yêu- "Người chiến thắng".

              Chuyện của bạn thật hay, chân thật, mà cuốn hút đúng như chuyện của nhà văn chuyên nghiệp mà TP cũng đã từng được đọc. Đúng rồi tiểu thuyết "Vùng Trời" Lúc kể về tình yêu của cô giáo với chiến sỹ lái máy bay cũng có những nụ hôn vụng dại đầu hè, đầu đời như vậy. Tiếng chõng kêu, tiếng thở gấp gáp hổn hển và cơ thể của cô gái bừng nóng. Làm chàng phi công lại tưởng cô giáo bị ốm hay bị bệnh Tim mới chết chứ. ;D

              Hay thật hay quá! Chuyện của bạn đóng thành sách được đấy. TP sẽ đăng ký mua ngay loạt đầu xuất bản. Vì trái tim của ông cựu U60 VẪN ĐANG THỔN THỨC ĐÂY NÀY  ;D ;D ;D

             Tiếp đi bạn nhé! Rất nhiều anh em đang chờ đợi chuyện kể của bạn!


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: linhcnn72 trong 10 Tháng Tư, 2012, 09:43:44 pm
Câu chuyện thật hấp dẫn và chân thật ,đúng là tình yêu mãnh liệt,trong sáng của lứa sinh viên ngày ấy. Giờ đây ,sau hơn 40 năm, có khi lớp trẻ bây giờ không chắc đã tin có một thời người ta yêu nhau như thế ?
Chúc bác có nhiều thời gian để cho anh em được nghe tiếp .


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 11 Tháng Tư, 2012, 04:27:14 pm

     *Bác TP và TMH, Linhcnn, qtdt, cùng toàn thể anh em CCB đã đọc bài viết của quanvn, và có lời động viên. Quanvn chỉ biết nói lời cảm ơn đến tất cả mọi người.
     *BácTP kính mến! Trước hết là xin cảm ơn bác, sau là quanvn muốn tâm sự với bác là: Quanvn chưa bao giờ đọc tác phẩm Vùng trời gì đấy mà bác TP nói, nếu trong bài viết của quanvn có chỗ nào giống với tác phẩm ấy thì chắc là sự trùng hợp ngẫu nhiên, quanvn không cố ý sao chép. Mong bác TP thông cảm.
     *@Qtdt! Bài trước quanvn chưa cảm ơn qtdt đã có những chia sẻ với quanvn về nghề thủy điện. Quanvn thành thật cảm ơn qtdt, nhưng biết làm sao được, khi đã mang lấy nghiệp vào thân, quan trọng hơn cả nó lại là kế sinh nhai, cho bản thân cho gia đình. Nghĩ lại cũng có lúc thấy mủi lòng, quanvn làm bài thơ tặng những người làm thủy điện, là có hàm ý động viên mình. Qtdt chịu khó xem ở trang này, nhưng ở mục: Văn công –Quanvn. Xin cám ơn.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 12 Tháng Tư, 2012, 09:42:42 am

 
     *BácTP kính mến! Trước hết là xin cảm ơn bác, sau là quanvn muốn tâm sự với bác là: Quanvn chưa bao giờ đọc tác phẩm Vùng trời gì đấy mà bác TP nói, nếu trong bài viết của quanvn có chỗ nào giống với tác phẩm ấy thì chắc là sự trùng hợp ngẫu nhiên, quanvn không cố ý sao chép. Mong bác TP thông cảm.
   
                 Chào bạn quanvietnam! Chuyện của bạn thật hay. Thật hấp dẫn. Tranphu341 cùng anh em VMH đọc rất thích. TP đọc thật say mê. Còn chuyện TP nói chuyện yêu đương tỏ tình cùng những nụ hôn đầu đời vụng dại đó thật sự là quý giá.

                 TP không có 1 ý gì về vấn đề bạn nêu mà chỉ nhớ, rất nhớ câu chuyện tình yêu trong Tiểu thuyết đã được đọc hồi nhỏ. Những dòng viết của bạn, của nhà văn TP được đọc thật quý, thật giá trị. Thật đáng trân trọng. Như vây là bạn có ý chưa chuẩn về thành ý của mình rồi. Hoặc cũng có thể TP nói không rõ làm bạn nghĩ xa. Thì TP THÀNH THỰC XIN LỖI CÙNG SỰ RÚT KINH NGHIỆM.

                                           CHÚC BẠN LUÔN VUI KHỎE VÀ TIẾP TỤC BƯỚC HÀNH QUÂN.
                                         TP CÙNG ANH EM RẤT ĐANG HÁO HỨC NGHE CHUYỆN CỦA BẠN.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 13 Tháng Tư, 2012, 02:07:50 pm

NHỮNG NGÀY Ở NẠI CỬU
          Bẵng đi một thời gian dài, tôi không tiếp tục kể chuyện như mọi khi. Do yêu cầu công tác, ban chỉ huy đại đội biệt phái tôi lên C bộ làm công tác quản lý, giúp đồng chí Xuân ra bắc công tác một thời gian.(Đồng chí Xuân lúc đó là quản lý của đại đội, cũng là sinh viên trường ĐHXD) Công việc thì chẳng có gì khó đối với anh em sinh viên chúng tôi, vào đơn vị cùng đợt với tôi là 10 người, một vài anh đã hy sinh và bị thương, một vài anh chuyển công tác, vẫn còn lại  mấy anh nữa, nhưng tôi chẳng hiểu tại sao ban chỉ huy đại đội lại chỉ đích danh tôi. Trong quân đội, ở chiến trường, khi ban chỉ huy gọi lên nhận nhiệm vụ là không có quyền từ chối, tất nhiên là tôi sẵn sàng nhận nhiệm vụ, nhưng trong lòng thấy không vui. Lại một nhiệm vụ mới, tôi lại phải tốn công khổ luyện, tuy nhiên tôi cũng ý thức được đây là nguồn sống và là sức chiến đấu của toàn đơn vị. Vì vậy, dù công việc có dễ dàng, tôi cũng tốn khá nhiều thời gian để lo toan, cố gắng hoàn thành nhiệm vụ.
          Thời gian này, đang là cuối tháng 11 đầu tháng 12 năm 1974. Tình hình chiến sự chắc sắp có thay đổi, nhìn quang cảnh hoạt động của trung đoàn cũng thấy khang khác, trông bề ngoài có vẻ nhộn nhịp hơn. Ở đại đội, tôi thấy chính trị viên đại đội và đại đội trưởng thường xuyên lên trung đoàn bộ để họp. Các đài quan sát ở khu vực Nham biều, Tích tường Như lệ, Đá đứng cũng được gọi về, chỉ để lại một số đài ở khu vực động ông Do, Ba zơ tiếp tục hoạt động. Tình hình đơn vị cũng có nhiều biểu hiện cho công tác chuẩn bị, không cử chiến sĩ đi công tác ra khỏi khu vực trung đoàn đóng quân, gọi các chiến sĩ đang đi công tác ở xa quay lại đơn vị, củng cố và hoàn chỉnh quân số của các trung đội, tiểu đội, bổ xung quân trang, thường xuyên rèn luyện khoa mục báo động hành quân chiến đấu…
    Chỉ cần có những biểu hiện như vậy, anh em chiến sĩ đã rì rầm bàn tán, đoán già đoán già đoán non, đi chỗ này đi chỗ kia, cuối tháng đi rồi lại đầu tháng đi, tóm lại rất nhiều thông tin nhưng cũng chỉ toàn đoán mò. Nhưng cái chắc chắn nhất, có thể thấy được là chuẩn bị hành quân đi chiến đấu, còn đi đâu thì chưa ai biết.
   Sau một thời gian quen với công việc, cộng với việc đơn vị đang án binh chờ đợi nhận nhiệm vụ mới, tôi lại có thời gian rỗi, la cà chuyện trò với anh em, điều tất nhiên là anh em trong tiểu đội lại đề nghị tôi tiếp tục kể câu chuyện tình còn giang dở.
   Hôm nay, tiểu đội thông tin có tiết mục cải thiện, tôi tuy đã biệt phái lên C bộ, nhưng quân số vẫn thuộc tiểu đội, nên đương nhiên là có mặt. Sau cuộc đánh chén no nê, cộng thêm có chút hơi cay nên anh em trong tiểu đội trông ai cũng khí thế vui vẻ. Mở đầu đêm liên hoan là tiết mục hát chèo, tiểu đội tôi toàn anh em Thái bình, Nam định, Hưng yên, nên có nhiều anh em biết hát chèo, ai hát xong có quyền chỉ định, hôm ấy tôi bị chỉ định, tôi hát điệu: Đào liễu, anh em thấy tôi hát cũng được nên đề nghị tôi hát lại, tôi không hát lại nhưng kể cho anh em nghe về nguyên nhân tại sao tôi biết hát chèo.Tất nhiên là tôi bịa, chuyện là: Tôi nguyên là thành viên của đoàn chèo Ninh bình, nhưng vì can tội trai gái nên bị  đuổi. Mọi người nghe xong cứ bán tín bán nghi, còn tôi cứ tỉnh khô coi như là thật, nhưng thực chất đâu có phải, hồi đó tôi biết hát là do tôi học theo đài Tiếng nói Việt nam.
    Lại một buổi tối vui vẻ, ấm tình đồng đội trong thời gian mặt trận ngưng tiếng súng. Vẫn như những lần trước tôi lại tiếp tục câu chuyện:
       …Kể từ khi có nụ hôn nồng cháy đến ngẹt thở ấy, chúng tôi chính thức yêu nhau. Hồi ấy yêu nhau không giám công khai, đôi nào yêu nhau nếu chẳng may bị lộ thì cán bộ tổ chức của khoa gọi lên nhắc nhở ngay. Vì thế, tôi với Vân luôn phải giữ bí mật, được cái lúc ấy cả xã hội ai ai cũng đều như vậy nên cũng cảm thấy bình thường, mà không cảm thấy bị thiệt thòi gì. Tuy nhiên, lúc nào có cơ hội thuận lợi là chúng tôi thể hiện tình yêu thương cháy bỏng, bù lại quãng thời gian bị kìm nén.
   Một thời gian dài tôi sống trong hạnh phúc, sống trong tình yêu của người tôi yêu,và thật kỳ lạ cũng chính từ tình yêu ấy, đã giúp chúng tôi vượt qua bao khó khăn trong học tập, trong cuộc sống, trong tình yêu và gia đình. Chúng tôi hoàn thành được những ước mơ, biến những việc khó thành dễ, chúng tôi sát cánh bên nhau hỗ trợ nhau có đủ niềm tin và nghị lực để vượt qua mọi thử thách, kể cả việc hoạch định cho tương lai của đôi lứa khi mà đất nước còn chiến tranh.
   Tôi nói với anh em: Chuyện mà kể hết thì dài, mặt khác tình yêu của chúng tôi không phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió, nhiều lúc cũng gặp khó khăn. Nếu kể hết mọi chuyện để anh em nghe thì nhiều lắm, mà cũng thú thật với anh em là: Không đủ thời gian, hơn nữa tôi cũng không thể nhớ hết được và  cũng không thể hệ thống lại cho nó có trình tự thời gian cũng như những bối cảnh xuất phát của các câu chuyện.Vì vậy mong mọi người thông cảm, sau đây tôi xin kể từng mẩu chuyện nho nhỏ “Tôi ra mắt”. Tất cả anh em đều đồng ý, tôi bắt đầu kể:
          Thời gian ấy, vào khoảng cuối  năm 1970. Đã từ lâu tôi với Vân bàn nhau là sẽ về thăm quê của hai đứa, trước tiên là về quê Vân ở gần trước, sau đó sẽ về quê tôi ở xa sau. Kế hoạch này đặt ra lúc đầu rất hăng hái, nhưng mãi vẫn chưa thực hiện được, cũng đã nhiều lần chuẩn bị đi thì lại thay đổi, lần này tôi thấy Vân quyết tâm lắm. Tối hôm trước Vân nói:
   -Trưa mai thứ bảy, ăn cơm xong anh em mình về quê. Anh nhé!
  Tôi đồng ý và hỏi ngay:
   -Anh có phải chuẩn bị gì không? Về nhà anh phải làm gì? Nói năng thế nào? Là em phải dặn trước, nếu không là anh không biết đâu đấy nhé!
  Vân cười, nhìn tôi yêu thương trìu mến, rồi nói:
   -Đúng là ngố, anh cứ chuẩn bị như em đã dặn, về nhà cứ đi theo em rồi em gợi ý cho. Thế mà cũng phải hỏi.
   Cả hai đứa cùng cười, tràn đầy hạnh phúc…
   Do đã có ý định về quê Vân từ trước, nên khi nghe Vân nói tôi cũng không thấy bất ngờ lắm, mọi thứ cần thiết đã được tôi chuẩn bị theo đúng yêu cầu của Vân. Bộ quần áo mang về mặc ở nhà được Vân giặt sạch sẽ thơm tho, tôi gấp ngay ngắn trải dưới chiếu giường nằm để là bằng hơi ấm của người cho phẳng. Đôi xăng đan giả da, được chị gái mua tặng khi vào đại học, mới đi được thời gian nhưng đã bị đứt quai phải buộc bằng dây đồng lần này cũng được huy động, móng chân móng tay được cắt cẩn thận. Như vậy, kiểm điểm lại cũng tương đối tươm tất, chỉ còn băn khoăn mỗi một điều là đầu tóc hơi tốt chưa kịp chỉnh sửa, chắc là cũng được chiếu cố vì  sinh viên bận học nên chưa có thời gian. Còn về mặt hình thể chắc là chịu, vì bố mẹ sinh ra như vậy, không thể sửa được. Nhưng được cái cũng không đến nỗi lắm, dáng cao ráo dễ nhìn, phải cái là da thì lại ngăm ngăm đen, ưu điểm là không bị mối mọt. Tóm lại công tác chuẩn bị cũng tàm tạm, sẵn sàng về ra mắt.
   Chúng tôi về đợt này là đã có sự dọn đường trước của Vân, cách đây hơn một tháng, Vân với Lan về quê khi xuống tâm trạng vui vẻ lắm, khác với mọi lần, lần này Vân kể tôi nghe đủ mọi chuyện, trong đó có một chuyện là bố mẹ Vân mời tôi khi nào có thời gian thì về nhà chơi để biết nhà biết cửa. Sau khi nghe được thông tin này tôi nửa mừng nửa lo, mừng là vì tôi được mời nên không phải bịa ra lý do để đến thăm nhà, lo là vì sợ bị chê là xấu trai con nhà nghèo, rồi tìm cách ngăn cản tình yêu của tôi và Vân. Thấy Vân nói thế, tôi hỏi Vân:
   -Em giới thiệu anh với bố mẹ em thế nào để các cụ mời anh về chơi?
  Vân nhìn tôi cười rồi nói:
   -Chuyện dài lắm, không kể lại được. Chỉ biết rằng hôm ấy em với Lan nói với bố mẹ là: Chúng con có anh bạn thân cùng học, quê anh ấy ở xa lắm, ở mãi Ninh bình. Anh ấy học hành vất vả lắm, năm nào cũng được gọi nhập ngũ một đến hai lần, lần nào đi cũng lại hoãn chờ đi đợt sau. Cứ mỗi lần như vậy, do tư tưởng không ổn định, nên học hành sa sút, lại phải học thêm học bù. Những khi mọi người được nghỉ đi chơi, thì anh ấy lại phải học mới theo kịp.
  Hôm ấy, mẹ em chưa nói gì. Bố em thì gật gù:
   -Đúng thôi con ạ! Trai thời loạn mà… Học hành mà gián đoạn như vậy thì vất vả lắm, phải cố lên thôi biết làm sao được.
  Mẹ em tiếp thêm:
   -Thật tội nghiệp, hôm nào thư thả con mời anh ấy về chơi cho đỡ buồn.
  Bố em thấy mẹ em nói thế, cũng ủng hộ ngay:
   -Ừ phải đấy con ạ!
  Tối hôm ấy, do mẹ có nghi ngờ về tình cảm của anh với em nên mẹ cứ căn vặn em về chuyện em với anh Quảng bây giờ thế nào rồi. Em trả lời mẹ là chúng em không có chuyện gì. Mẹ bảo em, nếu có chuyện gì thì nói với anh Hai, đừng để mất lòng người lớn. Mẹ còn hỏi em,chuyện của anh, anh Hai đã biết chưa,  em nói là chưa, mẹ bảo có thế nào anh em lựa lời mà bảo ban nhau, bố mẹ chỉ biết tin vào các con.
  Tất cả những thông tin mà Vân kể cho tôi nghe về gia đình Vân, làm tôi tự tin hơn khi tôi về ra mắt.(Còn nữa)
   


     


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 18 Tháng Tư, 2012, 02:30:12 pm

                                   NHỮNG NGÀY Ở NẠI CỬU
          Chiều thứ 7, khoảng độ 4 giờ rưỡi tôi với Vân đã có mặt ở cổng.Vân gọi mẹ ra mở cổng, tôi thì đang hồi hộp về buổi ra mắt hôm nay, nhìn cái cổng làm tôi lại càng hồi hộp hơn, chẳng biết cổng được xây từ bao giờ nhưng nhìn nó cổ kính rêu phong bao phủ, cánh cổng bằng gỗ cũng đã bị bạc mốc bởi thời gian, nhưng tất cả đều được lau chùi sạch sẽ không vương chút bụi bặm. Tôi nghĩ thầm, chủ nhà này rất sạch sẽ và cẩn thận chắc là khó tính. Đang nghĩ miên man thì có tiếng mở chốt cửa, trước mắt tôi là một ông già dáng người bé nhỏ, râu tóc bạc phơ, có đôi mắt sáng dưới cặp kính trắng. Ông nhìn chúng tôi, ông nói:
    -Cháu vào đi! Vân, con mời anh vào trong nhà.
  Chúng tôi bước vào trong sân, ông vừa chốt cổng vừa hỏi:
    -Chỉ có hai anh em về thôi à? Sao không bảo cái Lan về cả cho vui? Hai anh em về vào giờ này trời còn nắng lắm, lần sau để muộn hơn tý nữa hẵng về cho mát.
  Chúng tôi theo ông vào trong nhà, nhà kiểu ngày xưa, thấp và lợp bằng ngói vẩy nên bước vào trong nhà khác hẳn ngoài sân, rất mát. Ông chỉ tôi ngồi vào bộ tràng kỷ kiểu cổ, đóng bằng gỗ lim hay gỗ gụ gì đấy, trông rất đẹp và chắc chắn. Ông quay sang nói với Vân:
    -Mẹ con chạy sang bên hàng xóm chắc cũng sắp về, con vào lấy đường với bình nước mơ ra pha nước hai anh em uống cho rồi nghỉ ngơi.
  Nghe ông nói thế, tôi hình dung ngay là chỉ có gia đình công chức, hoặc là giầu có mới có đường sữa dùng thường xuyên, còn những gia đình bình thường, chỉ khi nào có người ốm đau mới giám dùng đường sữa, ngay cả đến trẻ con cũng không có, nhiều khi chúng nhìn thấy đường sữa mà thèm thuồng, trông chúng thật tội nghiệp.
  Trong lúc Vân pha nước, ông nói với tôi:
    -Bác nghe Vân nói, cháu học hành vất vả lắm chẳng có thời gian nghỉ ngơi, thôi hôm nay về đây cứ nghỉ ngơi cho thoải mái rồi về lại tiếp tục học, bù lại những thời gian đi nhập ngũ. Trai thời loạn mà cháu, thôi cố lên.
  Tôi vâng vâng dạ dạ, cố ý chờ Vân lên để đỡ lời.
  Vân pha nước xong, bê lên ba cốc, ông một cốc, tôi một cốc và Vân một cốc. Ông mời tôi:
    -Cháu uống nước đi!
    -Vâng ạ! Tôi nhận lấy một cốc nước, nhìn cốc nước mơ vàng óng mầu mật ong tỏa hương thơm, tôi đã khát lại càng khát hơn. Khổ cho tôi là lúc này tôi lại thèm hút thuốc, ban nãy ở ngoài đầu làng tôi đã hút dự phòng hai điếu, bây giờ lại thèm, nhưng không giám hút.
  Thấy tôi cứ ngồi im nhìn cốc nước, ông lại dục tôi:
    -Cháu uống nước đi, về đây cháu cứ tự nhiên như về nhà mình, đừng khách sáo gì, cháu ạ!
  Như sợ tôi ngại không giám uống khi mà ông chưa uống, ông bê cốc nước mơ lên nhấm nháp:
    -Mơ này là chính gốc mơ Hương tích, của mấy ông bạn ở dưới đó mang lên cho, bác đã ngâm lâu lắm rồi, có nhẽ được đến hơn hai năm.
  Tôi bê cốc nước mơ lên định uống, chợt nghĩ ra, tôi vội vàng lễ phép mời:
    -Cháu mời bác xơi nước ạ!
  Cũng đúng lúc ấy có người gọi cổng, linh tính tôi đoán là bà giáo, mẹ Vân về. Đúng như dự đoán, ông giáo, bố Vân nói:
    -Con ra mở cửa cho mẹ!
  Vân chạy ra mở cổng cho mẹ, hai mẹ con vừa đi vừa nói chuyện với nhau, Vân  tranh thủ nói với mẹ là có tôi về chơi. Bà đi thẳng vào trong nhà, nheo nheo mắt nhìn tôi, tôi vội vàng đứng dậy lễ phép chào:
    -Cháu chào bác ạ! Cháu theo Vân về nhà chơi, chúng cháu cũng vừa về đến nhà, cháu đang nói chuyện với bác trai.
  Bà ra hiệu cho tôi ngồi xuống, bà đi vòng ra phía sau tràng kỷ chỗ  ông giáo ngồi, bà ngồi xuống chiếc giường được kê gần đó, chỉ cách bộ tràng kỷ một hàng cột. Bà cầm chiếc quạt, quạt phe phẩy. Bà nói với Vân nhưng là để cả nhà cùng nghe:
    -Mẹ sang nhà bà Ân để nhờ mua thóc giống cho chị cả, nhưng không có ai ở nhà, chắc là tối lại phải sang lại.
  Ban nãy từ ngoài sân vào, vì còn chói ánh sáng mặt trời nên bà nhìn tôi chưa rõ, bây giờ có điều kiện bà đang tập trung quan sát tôi. Tôi biết  vậy nên tôi nói với Vân, Vân đang ngồi bên cạnh bà:
    -Vân em đi pha nước mời bác gái uống nước.
  Bà xua tay rồi nói:
    -Bác không uống đâu, đừng pha nữa.
  Từ đầu tới giờ, tôi tập trung quan sát mẹ Vân. Bà người nhỏ nhắn, da trắng, mũi dọc dừa, bà ăn trầu răng đen nhánh, bà vấn khăn mỏ quạ. Nhìn bà, kết hợp với những chuyện mà Vân kể về bà, tự nhiên tôi cảm thấy bà hội tụ đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp của người con gái quê hương kinh Bắc, thùy mỵ nết na, mượt mà thấm đẫm tình cảm như những làn điệu dân ca quan họ. Dân làng này, mọi người đều kính trọng hai vợ chồng ông bà giáo, họ giành nhiều tình cảm tốt đẹp để nói về hai ông bà, nhất là bà.
  Lúc này,tôi đưa mắt ra hiệu cho Vân, ý muốn nói với Vân là giới thiệu tôi với bố mẹ, nhưng Vân không hiểu ý, tôi bực lắm nhưng không làm sao được, tôi đành đứng dậy lẽ phép nói:
    -Cháu xin phép hai bác, lẽ ra Vân phải giới thiệu cháu với hai bác, nhưng có lẽ là Vân quên. Vậy cháu xin được tự giới thiệu, cháu tên là…
  Mới nói đến đấy cả hai người đã cản lại, bà nhường lời cho ông, ông nói tiếp:
    -Cháu không phải giới thiệu đâu, cả nhà này ai cũng biết cháu tên là gì, quê quán ở đâu. Chỉ có điều là mọi người chưa được biết mặt, hôm nay thì đã nhìn thấy rồi. Thôi! Cháu ngồi xuống uống nước đi.
  Bà nhìn Vân rồi lại nhìn tôi, bằng giọng ấm áp của người làm cha làm mẹ, bà nói với tôi:
    -Cháu về thăm hai bác với gia đình, như thế này là quý hóa lắm rồi. Về đây cháu cứ tự nhiên, nghỉ ngơi cho thoải mái lấy lại sức để mà tiếp tục học tập. Cháu cứ coi ở đây như nhà mình vậy, cần gì bảo em nó giúp.
  Nói rồi bà quay sang Vân tiếp tục:
     -Lát nữa Vân đưa anh đi tắm rửa, nghỉ ngơi, rồi hai anh em dắt nhau sang thăm các anh các chị và chơi với các cháu. Mẹ ở nhà nấu cơm, nhớ về sớm ăn cơm.
          Tắm rửa nghỉ ngơi xong, tôi thay bộ quần áo mà Vân đã chuẩn bị trước, hai chúng tôi dắt nhau ra ngoài cổng. Vân bảo tôi đứng lại, rồi đi một vòng xung quanh tôi, nhìn chăm chú từ đầu đến chân rồi nói:
    -Về ra mắt thế này cũng tạm được, sinh viên còn nghèo chắc bố mẹ cũng thông cảm.
  Chúng tôi nhìn nhau âu yếm, tôi giơ tay vuốt nhẹ vào má Vân, giọng cảm động tôi nói:
    -Anh cảm ơn em nhiều lắm, em chuẩn bị chu đáo ngoài sức tưởng tượng của anh.
  Vân lườm tôi, một cái lườm đầy yêu thương, nhưng cũng có hàm ý trách móc vì sự ngô nghê của tôi, Vân nói:
    -Đã có gì đâu, đừng giầu trí tưởng bở nhé! Hãy đợi đấy, đừng vội mừng, về ra mắt đâu có dễ thế?
  Tôi cười, nói đùa với Vân:
    -Ai giám nói là dễ, nuôi nấng vất vả hơn hai mươi năm trời, bây giờ đã đến lúc gả chồng thì phải chọn chỗ nào tử tế chứ, chọn mà sai lầm thì bố mẹ ân hận, con gái vất vả cả đời… Nhưng em cứ yên chí đi, chọn được anh là tuyệt vời rồi, đúng không em?
  Vân quăng cho tôi một cái lườm sắc như dao, tuy vậy nhưng tôi vẫn cảm nhận được chứa chan tình yêu thương trong đó. Vân nói:
    -Đừng có mơ.
  Nói xong, Vân cứ chăm chăm đi trước, tôi vội vàng đi theo, Vân chờ tôi đuổi kịp rồi nói:
    -Anh em mình không sang nhà anh chị nữa, để mai sang thăm luôn. Bây giờ ra đầu làng xem có ai bán thức ăn không? ở đấy em thấy thi thoảng cũng có người bán thức ăn.
    -Có sợ mẹ mắng không? Tôi nói.
  Vân  nói:
    -Kệ mẹ, mắng thì mắng, đằng nào mai chả lên.
  Chúng tôi ra đến gốc đa đầu làng, ở đây không phải là chợ, có lẽ là điểm mua bán trao đổi của mấy làng ở xung quanh đây, vào những buổi chiều. Nhìn mấy túp lều siêu vẹo tiêu điều sơ xác, mấy bà bán cua cá quần áo nhem nhéch bùn đất, nón đội xùm sụp che lấp cả mặt đang ngồi bán hàng. Những mớ tôm lẫn tép do trời nắng nóng, chúng đã chết và bốc mùi đang chuyển mầu từ xanh xám sang nâu đỏ, đàn ruồi xô vào tấn công, mấy bà cầm nắm lá xua lấy xua để. Những chú cua chịu được nắng nóng nên vẫn còn sống, nhưng mệt mỏi nằm im trong chậu trông như những hòn đất.
   Chúng tôi đi một lượt, mấy bà cứ chào mời. Vân dừng lại ở chỗ bà bán đậu phụ, mua được mấy miếng. Các miếng đậu phụ được nướng bằng than, chỗ thì cháy đen chỗ mầu vàng do ám khói, trông cứ nhom nha nhom nhem. Vân ghé tai nói với bà bán hàng, bà xua tay chối đây đẩy:
    -Không có đâu, đấy là hàng quốc cấm, ai mà bán thì chính quyền bắt ngay.
  Vân mua thêm mấy quả trứng vịt rồi dục tôi về, ra đến ngoài chợ tôi hỏi:
    -Ban nãy em nói gì mà bà ấy chối ghê thế?
  Vân cười và giải thích:
    -Em hỏi mua thịt lợn bán chui, bà ấy sợ quá vội chối ngay. Quê em họ quản lý chặt lắm, không có chuyện thịt lợn bán tự do ngoài chợ đâu. Nhà nào cũng phải nuôi lợn để lấy thịt lấy phân nộp cho hợp tác xã, nếu nộp  đủ tiêu chuẩn rồi khi nào gia đình có việc như cưới treo ma chay gì đó, phải làm đơn xin phép hợp tác xã mới được mổ thịt, bóp mồm bóp miệng, gia đình dấu đi một ít mang bán chui để lấy tiền dùng vào việc khác.
   Tôi cười, nói với Vân:
    -Quê nào mà chả thế, không quản lý chặt chẽ thì lấy đâu ra thịt để cung cấp cho bộ đội, cho chiến trường.
  Tuy nói vậy, nhưng tôi cũng hiểu tâm lý của Vân. Chẳng mấy khi có tôi về chơi, Vân cũng muốn trong mâm cơm có tý thịt, chả lẽ lại toàn dưa cà mắm mặn. Nhưng thời buổi khó khăn này, biết kiếm đâu ra, đành chịu vậy.
 Tôi dục Vân:
    -Mình về nấu ăn, kẻo tối.
(Còn nữa)


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: vanson307 trong 18 Tháng Tư, 2012, 08:59:48 pm
  Kính Bác Quanvietnam, sư đoàn 307 của em chiến đấu ở chiến trường k( Preavihia) có một trung đoàn bb anh hùng trong kháng chiến chống Mỹ cũng mang tên 95( QK5), vậy nó có liên quan gì tới E95-  F325 không hả Bác. Kính mong Bác và các Bác cựu chỉ giáo giúp em.Thân VS307.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 19 Tháng Tư, 2012, 03:04:41 pm

   Chào bạn Vanson 307. Trung đoàn 95 sư 325, tham gia chiến dịch Hồ chí Minh, giải phóng Sài gòn xong, được điều về đóng quân ở thành Tuy hạ. Khoảng độ cuối tháng 7 đầu tháng 8 năm 1975, quavn là một trong số anh em sinh viên được quay ra Bắc trở về trường cũ tiếp tục theo học. Vì vậy, sau đó trung đoàn 95 sư 325 đi đâu nữa thì quanvn không biết, nhưng quanvn có nghe phong thanh là trung đoàn 95 sư 325 có đi chiến đấu ở BGTN. Rất xin lỗi Vanson vì quanvn không biết.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 21 Tháng Tư, 2012, 03:33:47 pm


                               NHỮNG NGÀY Ở NẠI CỬU
          Tối hôm ấy cả nhà đang ăn cơm rất vui vẻ, bữa cơm cũng sắp xong, thì có tiếng gọi mở cổng, Vân ra mở cổng, tiếng Vân và người ấy nói chuyện. Bà mẹ Vân nói với bố Vân, nhưng là để cả tôi cùng nghe:
    -Tiếng chồng cái cả là anh rể Vân, chắc là xuống hỏi chuyện thóc giống.
  Bước vào trong nhà, anh chào bố mẹ vợ rồi quay sang chào tôi, giọng anh oang oang:
    -Con chào ông bà, em mới về chơi à! Sao nhà mình hôm nay ăn cơm muộn thế. À! Chắc có khách nên phải làm nhiều món tiếp khách nên ăn muộn. Anh cười hì hì…
  Bố Vân cắt lời anh rể Vân, nói với tôi:
    -Đây là chồng chị cả, anh là thương binh, bộ đội phục viên, hiện đang làm thư ký cho ủy ban xã.
  Ông quay sang nói với anh rể Vân:
    -Còn đây là anh Quân bạn học cùng với Vân về chơi. Hai anh em làm quen với nhau đi.
  Anh giơ tay bắt tay tôi, chúng tôi bắt tay nhau, bốn mắt nhìn nhau, tôi thấy hơi ngờ ngợ, chắc là anh có điều gì nghi vấn nên mới nhìn tôi như vậy, tôi đoán chắc là Vân đã nói chuyện về tôi với anh. Sau khi chúng tôi bắt tay nhau, ông bố Vân mới hỏi anh rể Vân:
    -Anh đã ăn cơm trưa? Nếu chưa ăn thì ngồi đây ăn luôn? Anh xuống để hỏi chuyện thóc giống hay có việc gì khác?
  Bà thấy ông hỏi dồn anh con rể, bà ngăn ông lại:
    -Ông cứ hỏi dồn để anh ấy trả lời rồi hãy hỏi.
  Anh cười hiền từ rồi trả lời:
    -Con mời ông bà với các em cứ mời cơm, con ăn cơm rồi, hôm nay con phải tiếp khách ngoài ủy ban nên ăn từ sớm. Về nhà, nhà con bảo xuống hỏi bà đã mua hộ thóc giống chưa. Với lại, ngày mai là chủ nhật, vợ chồng con làm bữa cơm liên hoan để động viên cho cháu Mai cháu được công nhận học sinh giỏi, con xuống mời ông bà, gia đình cậu Hai và các em, tiện có cả anh Quân nữa, mai lên nhà ăn cơm cho cháu Mai nó vui.
  Bố Vân cười sảng khoái, rồi ông nói:
    Chúng tôi nhận lời mai lên ăn cơm, nhưng phải làm sớm để các em nó ăn nó còn sang trường kẻo tối.Còn chuyện thóc giống thì anh hỏi bà.
  Bà bảo:
    -Mẹ hỏi được rồi, lúc nào xuống mà lấy.
  Rồi bà quay sang hỏi ông:
    -Ông ăn xong chưa để con nó còn dọn.
  Ông lại cười rất vui vẻ, ông nói:
    -Xong rồi mời mọi người lên uống nước.
  Sau khi tiệc nước đã tàn, anh con rể xin phép bố mẹ vợ ra về. Bố Vân cũng đứng lên nói với mọi người:
    -Tôi đau lưng lắm rồi, tôi đi nghỉ đây. Rồi như sực nhớ ra ông lại tiếp: Tối nay, hai mẹ con bà ngủ bên ấy, tôi ngủ bên này, còn anh Quân ngủ bên nhà thờ.
  Nghe ông nói thế tôi phát hoảng, tôi thắc mắc tại sao lại đưa tôi sang nhà thờ, tôi cứ băn khoăn nhưng không giám hỏi.
  Ông đi nghỉ rồi, bà còn ngồi lại nói chuyện với tôi, trong khi chờ Vân đang chuẩn bị chỗ ngủ cho tôi bên nhà thờ. Nói chuyện với tôi, nhưng bà không nhìn tôi, bà nhìn ra ngoài sân trời tối đen như mực. Giọng bà nhẹ nhàng nhưng đầy sức truyền cảm, bà kể cho tôi nghe chuyện gia đình, chuyện các con, rồi cũng không quên nói lên điều mong muốn cô con gái út có một gia đình hạnh phúc. Cuối cùng bà hỏi về gia cảnh của tôi, tính tôi vốn thật thà nên có sao nói vậy, tôi kể tuốt tuồn tuột, tôi đang hăng hái kể, thì Vân về giục mọi người đi ngủ. Lúc này bà như sực tỉnh, bà bảo tôi:
    -Bác biết các cháu bây giờ học hành vất vả, nhất là cháu đã học hành vất vả thì chớ lại còn chuyện bộ đội bộ địa.
  Bà thở dài, rồi lại tiếp tục:
    -Thời buổi chiến tranh nó thế cháu ạ! Cháu phải cố gắng lên, con người có chí thì nên.
  Tôi thấy bà nói thế tôi cảm động lắm. Bà giục tôi về đi ngủ:
    -Thôi cháu về đi ngủ.
   Bà quay sang nhìn con gái rồi nói:
    -Vân, con dẫn anh sang bên nhà thờ, nhanh về mẹ nhờ việc này.
  Nghe bà nói thế tôi tủm tỉm cười, vì tôi đoán ý của mẹ Vân là không muốn cho Vân ở lâu bên ấy, sợ chúng tôi nói chuyện khuya.
  Nhà Vân ở trong khu nhà thờ họ, nhưng cách nhau bức tường, cổng vào đi chung với cổng nhà thờ họ, cổng từ nhà Vân sang nhà thờ là cổng riêng bé hơn cổng chính. Đi hết sân nhà thờ họ, bước vào trong nhà thờ, tôi thấy nhà xây theo kiểu chữ T, toàn bộ phần thờ cúng đều được bố trí ở phần thân chữ T, còn phần cánh của chữ T là dành cho hội họp, bầy cỗ. Có lẽ cánh chữ T phải kéo dài đến năm gian, nền nhà thờ được lát bằng gạch vuông mầu đỏ, lau chùi sạch sẽ, nóng như hôm nay nhưng nền nhà cứ mát lịm.
  Giường ngủ của tôi được bố trí bên trái cánh chữ T, sát với cửa ngách thông sang nhà Vân, chỉ có mỗi chiếc giường ngoài ra chẳng có đồ vật dụng gì khác.Vân dẫn tôi đi sâu vào gian thờ, tôi chẳng biết tượng nào với tượng nào, thấy bố trí cũng giống như ở các chùa triền mà thi thoảng tôi cũng có vào xem.
  Xem xét hết một lượt, tôi với Vân quay về chỗ giường ngủ của tôi ngồi. Bây giờ mới có cơ hội để chúng tôi ngồi riêng với nhau, tôi hỏi đùa Vân:
    -Sao anh chưa là con rể mà lại bắt anh canh nhà thờ?
    -Bắt anh canh nhà thờ là để thử thách xem có chịu được không? Vân cũng đùa lại tôi, rồi Vân lại thanh minh ngay:
    -Nhà em có khách đều đưa lên nhà thờ ngủ, vì nó thoáng mát, các cháu về chúng nó cứ đòi lên nhà thờ ngủ. Em với mẹ em hay nói chung là con gái là không được ngủ ở nhà thờ, anh là khách quý nên mới được ngủ ở nhà thờ.
  Thấy vân nói thế, tôi cũng không tranh luận gì thêm, để tận dụng thời gian, tôi hỏi ngay vào chủ đề chính:
    -Em thấy hôm nay thế nào?
  Vân giả vờ không hiểu hỏi lại tôi:
    -Thế nào là thế nào?
  Biết là Vân đùa, hai tay tôi bóp chặt hai tay Vân, Vân cố gắng vùng vẫy để thoát ra nhưng không được, đành phải đầu hàng và thú nhận ngay:
    -Cũng được. Nhưng mà còn ngày mai nữa mới có thể kết luận được. Thôi bây giờ anh đi ngủ đi để em bỏ màn cho, nhớ là phải ngủ cho ngoan đấy.
  Tôi ngoan ngoãn nghe theo lời Vân lên giường đi ngủ, Vân đang cẩn thận thả màn để không cho muỗi vào, cũng lúc ấy, tôi nghĩ ngay ra trò tinh nghịch, tôi gọi:
    -Vân ơi! Đây có con muỗi.
  Vân tưởng thật chui đầu vào, không bỏ cơ hội, tôi ôm lấy Vân, Vân ôm lấy tôi, hai cặp môi khao khát hương tình yêu tìm được nhau dưới ánh sáng nhập nhòe của ngọn đèn dầu. Chúng tôi hôn nhau quên cả thời gian, quên tất cả mọi thứ xung quanh, cho tới khi dây buộc màn bị đứt. Quá tiếc…
   Vân về rồi, mọi cảm giác đê mê sung sướng cũng nhanh chóng qua đi, chỉ còn lại tôi với ngọn đèn dầu cháy leo lét. Không gian im lặng quá, một mầu đen đặc quánh bao trùm nơi thờ tự, cảm giác sợ hãi hoàn toàn chế ngự tâm trí tôi. Tôi nằm im không cựa quậy, tập trung lắng nghe và phân tích tiếng động, xem tiếng nào là tiếng chuột đuổi nhau, tiếng nào là tiếng mèo vồ chuột, tiếng nào là tiếng động của các thần linh trên bàn thờ. Sao đêm dài thế, tôi chỉ mong trời sáng, thật là một đêm nhớ đời…
          Trưa hôm sau, ăn cơm ở nhà chị cả. Tất cả mọi người trong gia đình gần như có mặt đầy đủ, chỉ vắng anh Hai bận đi công tác là không về được, tôi nghĩ như thế cũng hay, nếu mà anh Hai có mặt hôm nay thì  chắc chắn tôi sẽ gặp nhiều khó khăn hơn. Trong bữa ăn mọi người cứ chú ý nhìn tôi, nhất là mấy đứa cháu. Lúc đầu tôi tôi rất lúng túng, nhưng vì được ngồi mâm trên với ông bà, cộng với sự tiếp khách nhiệt tình của anh rể, chả biết tôi uống bao nhiêu chén rượu nhưng tôi thấy mạnh bạo hẳn lên, nói năng hoạt bát, ứng đối trôi chảy hơn. Tôi thầm cảm ơn loài người đã sáng tạo ra loại nước uống, mà người ta gọi là rượu. Tuy vậy, đôi khi sợ mình lỡ mồm, quay sang Vân dò xét, nhưng không thấy Vân lườm nguýt gì thế là tôi yên tâm. Có được niềm động viên này tôi thấy  tự tin hơn.
   Chủ quan mà đánh giá về ra mắt đợt này, tôi nghĩ là mình “Đạt yêu cầu”. Kết quả cụ thể thế nào chờ đợt sau, khi Vân về mới có.
(Còn nữa)
 
 

   
 
 
   


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 25 Tháng Tư, 2012, 03:37:56 pm

                                NHỮNG NGÀY Ở NẠI CỬU
          Ở đơn vị, càng ngày không khí chuẩn bị hành quân càng khẩn trương. Hàng ngày tôi cứ trông ngóng đồng chí Xuân từ ngoài bắc vào, để tôi trao trả nhiệm vụ quản lý cho đồng chí Xuân rồi trở về tiểu đội, càng mong càng không thấy tăm hơi.  Đã có lần tôi gặp đồng chí đại đội trưởng để đề đạt ý kiến và trình bầy nguyện vọng, là tôi muốn quay về tiểu đội thông tin. Lúc đầu đồng chí còn động viên vỗ về, sau thấy tôi có vẻ quyết liệt khó lay chuyển, thì đồng chí đã phải dùng tới mệnh lệnh, đến lúc ấy tôi phải phục tùng, nhưng tôi vẫn cố tình níu kéo một điều kiện là: Đồng chí Xuân vào lúc nào thì tôi về tiểu đội lúc ấy, đồng chí đại đội trưởng đồng ý, chúng tôi ngoắc tay nhau ký kết.
  Bây giờ vào khoảng trung tuần tháng 12 năm 1974. Kể từ khi đơn vị nhận được thông tin chuẩn bị nhận nhiệm vụ mới, không khí sinh hoạt của đơn vị bắt đầu có sự thay đổi. Diễn biến tư tưởng của anh em trong đơn vị như thế nào, vui hay buồn, cũng còn khó nói. Nhưng cái có thể nhìn thấy được ngay là không khí sinh hoạt trong đơn vị không còn nhộn nhịp và sôi động như trước nữa, mà có một cái gì đó đang gấp gáp và khẩn trương.
  Thời gian trước, sau những giờ miệt mài trên thao trường, là toàn thể anh em của từng trung đội tiểu đội, người nào việc nấy, tăng gia sản xuất, người tưới rau, người quốc đất, người cho gà cho ngan ăn. Sau những công việc ấy là những trận thi đấu bóng chuyền, bóng đá, bên nào thua là phải chui qua háng bên được, lắm khi tức đến cay mũi vì có sự ăn gian, khi trọng tài can thiệp còn đuổi trọng tài, cãi nhau um cả sân bóng nhưng mà vui. Bây giờ vẫn còn chơi, nhưng thiếu lửa.
  Gia tài, của cải của đại đội trung đội tiểu đội cũng vơi dần đi, đàn lợn đàn ngan đàn vịt cũng đã bắt tỉa dần những con lớn để ăn thịt, thiếu đàn chúng cũng nhớn nhác tìm nhau. Những luống rau xanh non mơn mởn cũng đã được cắt đi ăn dần nhưng lại không tiếp tục trồng bổ xung, cây cỏ cũng đã chen vào sống chung với những cây rau. Bắt đầu có sự thay đổi, cứ nhìn từ những việc nhỏ nhất cũng đã thấy đơn vị đang chuẩn bị cho cuộc di chuyển…
  Dạo này, cứ sau bữa cơm tối là tôi hay la cà ở các trung đội để tán chuyện, hay là anh em tâm sự với nhau về chuyện gia đình, ôn lại những chuyện chiến đấu ở Thành cổ, Tích tường Như lệ, gian khổ vất vả nhưng cũng vui, nhất là chúng tôi thường ôn lại chuyện ngủ chung hầm với các cô du kích ở Tích tường, chuyện kể một đường nhưng mọi người lại khảo dị sang đường khác, cười đến vỡ bụng…
  Cũng đã từ lâu, chẳng hiểu sao mọi người không gọi tên thật của tôi mà toàn gọi tôi là: Trương hoàng Quân, một nhân vật trong chuyện của tác giả nào đó của chế độ VNCH, nhân vật này nghe anh em nói là cũng có một mối tình như tôi khi vào quân ngũ, nên anh em mới gọi tên tôi bằng tên nhân vật này. Thú thực là tôi chẳng quan tâm đến việc ấy, tôi chỉ thấy anh em buồn nhớ nhà nên tôi đến chơi để chia sẻ với anh em, có tôi đến thì anh em lại muốn tôi kể chuyện, nhất là chuyện tình yêu. Cũng đúng thôi, vì đại đa số anh em chưa biết yêu là gì, cũng muốn nghe xem nó thế nào. Và rồi tôi cũng không từ chối, âu cũng là mua vui cho anh em, mặt khác cũng làm cho tôi nguôi ngoai nỗi nhớ người yêu.
  Chờ mọi người ổn định, tôi bắt đầu kể chuyện:
    Vào khoảng tháng 9 năm 1971, tôi lại được gọi nhập ngũ, cũng như những lần trước, tôi lại bị hoãn, lần này tôi biết được lý do rõ ràng hơn, do chính đồng chí bí thư đoàn của khoa nói là lý lịch của gia đình tôi có vấn đề nên không được đi đợt này. Thôi cũng đành vậy, hơn nữa cũng đã quá quen với cảnh này nên tôi cũng không bị bất ngờ.
  Tuy vậy, tâm trạng của tôi buồn vui lẫn lộn. Buồn là vì cả Vân và tôi đã mất bao nhiêu công sức chuẩn bị cho đợt nhập ngũ này song tất cả đều gác lại, kể cũng hơi tiếc nhưng không sao, tất cả sự chuẩn bị của chúng tôi đều có giá trị thực tiễn, bởi vì chắc chắn có ngày nào đó tôi sẽ nhập ngũ. Vui là vì chúng tôi lại được ở bên nhau thêm một thời gian nữa, nhưng có lẽ sâu xa và có ý nghĩa nhất vẫn là khoảng thời gian chúng tôi chuẩn bị chia tay nhau kẻ ở người đi. Chúng tôi sống với nhau như sợ không đủ thời gian, sống vì tình vì nghĩa, sống cao thượng, không tầm thường nhỏ nhen, luôn động viên hãy tin tưởng vào sức mạnh của tình yêu và chờ ngày chiến thắng.
  Sau khi rời khỏi địa điểm tập trung gọi nhập ngũ, tôi dự định quay về quê báo tin cho gia đình và tranh thủ nghỉ vài hôm trong lúc nhà trường đang đi hàn khẩu lại đoạn đê bị vỡ ở Lâm thao Vĩnh phú. Nhưng khi nghĩ đến Vân, phần nhớ nhiều hơn phần thương nên tôi quyết định quay lại trường để cùng đi với Vân và các bạn.
  Tôi về trường, trường ĐHXD lúc này đã chuyển từ Quế võ Hà bắc về Hương canh Vĩnh phú. Toàn trường lúc đó thì tôi không biết, riêng ở khu vực Hương canh đang được đi huy động đi chống lụt ở Ba đê  Lâm thao Vĩnh phú. Lớp tôi và Vân cũng đi, tôi về gặp Vân và chỉ kịp chuẩn bị thêm một số đồ dùng nữa rồi đi theo đoàn.
  Đoàn tầu hỏa xuất phát từ ga Hương canh, ỳ ạch vượt qua những đoạn đường bị mưa lũ tàn phá, đưa đoàn sinh Viên của trường ĐHXD đến một ga nào đó của huyện Lâm thao rồi xuống đi bộ vào một khu trường cấp ba, có lẽ là trường cấp ba Lâm thao.
   Đêm hôm ấy ngủ tại đó, các lớp tản ra từng phòng học, dùng nilon trải ra để ngủ, người nằm dưới đất kẻ nằm trên bàn. Đi đường xa, lại thức khuya nên mọi người đang ngủ ngon, toàn khu trường im phăng phắc. Bỗng có tiếng ú ớ, rồi tiếng kêu thất thanh: Vỡ đê! Vỡ đê!
  Thế là từ một phòng rồi lan ra tất cả các phòng, náo loạn, hối hả gọi nhau, chen chúc dẫm đạp lên nhau, tôi cố gắng bảo vệ Vân chạy nhanh ra ngoài sân. Đêm tối, cả đoàn người không biết chạy đi đâu, nên dừng lại đứng giữa sân trường nhìn nhau nghe ngóng động tĩnh, tôi và Vân cũng dừng lại. Vân ôm chặt lấy tôi lo sợ, trống ngực Vân đập thình thịch làm rung động cả trái tim tôi.
   Một vài phút trôi qua, vẫn không có gì xảy ra, tất cả đều bình thường. Lúc đó mới có người nói: Em đang nằm mơ thấy đê sắp bị vỡ, thì có người bên cạnh bị bóng đè cứ ú ớ, em tưởng là vỡ đê thật vội bật dậy kêu vỡ đê, nghe em kêu nên mọi người cùng kêu thế là chạy. Nghe nói thế, mọi người ồ lên, mắng mỏ vài ba câu rồi lại trở về ngủ tiếp.
   Lần đi hàn khẩu ở Ba đê Lập thạch Vĩnh phú, lại trang bị thêm cho sinh viên chúng tôi những kiến thức thực tế, đúng là từ nhỏ tới giờ tôi mới thật sự tận mắt nhìn thấy cảnh tàn phá của thủy thần. Đúng nghĩa người xưa thường nói: “Thủy hỏa đạo tặc”, đúng là giặc nước. Dọc theo dòng chẩy của đoạn đê bị vỡ, không còn sót lại cái gì, không biết trước kia có nhà cửa gì không còn bây giờ nhìn chỉ thấy toàn nước là nước đỏ ối đục ngầu, xác súc vật chết nổi lềnh bềnh bốc mùi hôi thối. Những chỗ còn nhà cửa, nước ngập đến mái, cây cối đổ rạp không còn hình dung ra làng xóm, dân làng chắc là đi chạy lụt chưa về, không một bóng người, vắng tanh, trời thì nắng như đổ lửa. Thật là cám cảnh, dân đã nghèo lại càng nghèo hơn, biết bao giờ mới trở lại cuộc sống bình thường, đã vậy lại còn chiến tranh rình rập.
   Những ngày cuối năm 1971 đầu năm 1972, sinh viên của trường ĐHXD ở khu vực Hương canh Bình xuyên Vĩnh phú rất vất vả, vừa học vừa phải xây dựng trường, cở sở vật chất của nhà trường thì nghèo nàn, chẳng có gì, nhà cửa toàn là tranh tre nứa lá, trường mới chuyển về được xây dựng nằm ẩn trong những rừng bạch đàn, của một cở sở lâm nghiệp nào đó trồng và quản lý. Hương canh là vùng đất trung du, đất đai  phần lớn là đồi đá ong, chỉ trồng được mỗi loại cây bạch đàn, ngoài ra cũng có được ít diện tích đất để trồng lúa và trồng sắn. Dân vùng này nghèo, nên đời sống của sinh viên cũng nghèo theo.
  Cuộc sống lúc đó gian khổ vất vả, song cũng chẳng có đủ thời gian để nghĩ ngợi xem nó vất vả như thế nào. Bởi vì lúc đó đang là những năm thứ tư thứ năm, khối lượng bài vở và đề án lại càng nhiều, suốt ngày chỉ bù đầu vào học hành, số má chữ nghĩa cứ ong ong trong đầu.
   Cũng vào thời gian đó tình hình chiến sự ở Miền nam càng ngày càng diễn biến phức tạp và ác liệt. Cuối tháng 3 năm 1972 địch bị tấn công ở mặt trận Quảng trị, chúng bị thất bại nặng nề. Đầu tháng 4 năm 1972, Ních-sơn ra lệnh ném bom trở lại Miền Bắc, thả mìn và ngư lôi để phong tỏa cảng Hải phòng. Đầu tháng 5 năm 1972, ta giải phóng thị xã Quảng trị, sau đó là giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng trị.
   Cay cú vì thất bại, Mỹ ngụy tập trung toàn bộ lực lượng mở cuộc phản kích tái chiếm Quảng trị. Tôi và rất nhiều anh em sinh viên của trường ĐHXD, cùng nhiều trường đại học khác, lên đường nhập ngũ vào thời gian này. Tháng 5 năm 1972, một mùa hè rực lửa.
  Chúng tôi lên đường, nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc, để lại phía sau biết bao nhiêu hoài bão và ước mơ của tuổi trẻ về những công trình khoa học còn đang dở dang, về những trang đề án còn đang viết dở, về những mối tình vừa chớm nở e ấp thẹn thùng. Chào mái trường thân yêu, chào thầy cô, chào bạn bè, chào tất cả chúng tôi đi…
  Chỉ khoảng hai tháng huấn luyện cơ bản ở Phú bình Bắc thái, chúng tôi đã lên đường ra chiến trường, góp mặt chủ yếu ở chiến trường Quảng trị và một số mặt trận khác. Mặc dù thời gian huấn luyện ngắn,  nhưng do anh em sinh viên chúng tôi đều trẻ khỏe có kiến thức nên tiếp thu nhanh, đủ những kiến thức cơ bản để  lên đường đi chiến đấu. Điều quan trọng hơn cả, tôi cho rằng: Tất cả anh em sinh viên lúc bấy giờ, đều ý thức được nghĩa vụ và trách nhiệm của mình nên rất hăng hái lên đường, có nhiều trường hợp còn viết đơn tình nguyện bằng máu. Thật là đáng trân trọng.
(Còn nữa).


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 02 Tháng Năm, 2012, 03:08:10 pm

                                 NHỮNG NGÀY Ở NẠI CỬU
          Chúng tôi, sinh viên trường ĐHXD nhập ngũ tháng 5 năm 1972 là như vậy. Cứ mỗi một chàng sinh viên lên đường nhập ngũ lại có những kỷ niệm sâu đậm về thời điểm này. Những kỷ niệm thấm đẫm tình cảm gia đình, tình thầy trò, tình bạn, tình yêu, tất cả đều gửi gắm nhớ thương và hy vọng, tin vào ngày mai sẽ chiến thắng.
  Thời gian huấn luyện, rồi đi chiến đấu, tuy ngắn ngủi nhưng có biết bao nhiêu là kỷ niệm đối với chúng tôi. Quãng thời gian này là quãng thời gian đánh dấu một bước ngoặt lịch sử của các chàng sinh viên mặc áo lính, chúng tôi đã xếp bút nghiên bồng súng lên đường chiến đấu bảo vệ tổ quốc, chính thời gian này đã làm cho chúng tôi suy gẫm lại quá khứ. Hàng loạt các kỷ niệm từ xa xưa cứ hiện về, vui có buồn có, nhiều nhiều lắm không làm sao kể xiết, nhưng có lẽ sâu sắc và da diết nhất vẫn là tình yêu thương.
  Trên đường hành quân đi chiến đấu, chỉ cần nghĩ đến bố mẹ anh chị em trong gia đình, là tôi đã cảm động rưng rưng nước mắt, tất cả những kỷ niệm êm đẹp của những người cùng huyết thống ấy cứ lần lượt sống lại trong tâm khảm của tôi, đôi lúc tôi cũng thấy buồn vì tôi chưa làm được gì cho họ. Không biết giờ này mọi người đang làm gì, và mọi người có thể tưởng tưởng nổi tôi đang ở đâu và đang làm gì không? Chắc chắn là không, bởi vì chính tôi còn không biết tôi đang đi ở địa phương nào, chỉ  thấy rừng núi trùng điệp, đá tai mèo, vách núi cheo leo, núi cao vực sâu.
  Nhớ người nhớ cảnh, nhớ từ tảng đá bị sứt kê ở cầu ao, nhớ cây sung bên bờ ao lúc nào cũng chĩu quả, cây sung và tuổi thơ của tôi có nhiều kỷ niệm, những buổi trưa hè ra ao tắm rồi trèo lên cây sung nhảy xuống ao, mẹ bắt được nhưng tôi lặn ra giữa ao mẹ đành chịu quay về mách tội với bố tôi, rồi còn biết bao những kỷ niệm khác. Ôi nhớ quá, nhớ từng cái cối xay cối giã, nhớ bể nước mưa trong vắt, trưa hè oi bức khát cháy cổ vục một gáo nước mưa uống ngọt lịm làm tiêu tan bao nỗi nhọc nhằn. Nhớ các ông đầu rau trong bếp đã bao năm gắn bó với tuổi thơ tôi, vừa nấu bếp vừa đọc sách say sưa quá cháy cả đống rơm bên cạnh mà không biết.
  Tôi lớn lên cũng là thời điểm đế quốc Mỹ gây chiến tranh phá hoại miền Bắc, vừa đi học vừa tham gia các phong trào của dân quân địa phương, quê hương tôi lúc ấy cũng là vùng trọng  điểm bắn phá của máy bay giặc Mỹ. Chiến tranh đã ập đến một vùng quê nghèo đói, lại đầu rơi máu chảy, tôi tham gia dân công hỏa tuyến đắp ụ pháo, vác đạn, cứu thương, không có băng ca mà tải thương, phải cáng thương binh bằng các cánh cửa, máu của các thương binh chảy vào cả người tôi, cuộc sống lúc đó là sống và chiến đấu. Cứ như thế tuổi thơ của tôi qua đi, rồi sau đó tôi được vào đại học, tôi ôm cả quá khứ của tuổi thơ vào  trường đại học.
  Lúc trước, hồi còn nhỏ đang đi học trọ xa nhà, hay là thời gian đi học đại học, cũng nhiều lúc tôi nhớ nhà, nhưng cái nhớ ấy nó chỉ lơ mơ không cụ thể. Bây giờ thì khác, nỗi nhớ cứ da diết quay quắt nghẹn ngào khó thở, rồi tự nhiên nước mắt cứ trào ra, quay mặt đi lau vội những giọt nước mắt để đồng đội không biết mình có những giây phút yếu lòng, rồi lại xốc ba lô lên đường theo kịp đoàn quân.
  Nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương, dẫu sao cũng còn có lúc nguôi ngoai. Riêng nỗi nhớ người yêu lúc nào cũng khát khao và cháy bỏng, nhớ ở mọi lúc mọi nơi, nhớ một cách kinh khủng, có lẽ sẽ chẳng có giấy bút nào có thể mô tả hết được tình yêu và nỗi nhớ của những đôi lứa yêu nhau. Nhớ tất cả, nhớ từ dáng đi, hơi thở, đến tiếng nói, nụ cười, nhớ từng cử chỉ khi Vân vui đùa cũng như những khi Vân cáu kỉnh, nhớ khi Vân hong tóc lúc gội đầu, mùi hoa bưởi tỏa hương thơm ngào ngạt, nhớ những lúc Vân ngây thơ ngơ ngác trước những thử thách của tuổi hoa niên…
  Nghĩ lại tôi mới thấy tôi yêu Vân còn hơn cả bản thân tôi, tình yêu của Vân cũng có lúc làm tôi trở nên ích kỷ, tôi chỉ muốn nó là của riêng tôi, tôi không muốn chia sẻ cho bất kỳ ai những cử chỉ yêu thương mà Vân đã dành cho tôi, và vĩnh viễn tôi không muốn mất nó. Đôi khi tôi nghĩ tôi sẽ làm tất cả để bảo vệ tình yêu, để chúng tôi mãi mãi có nhau. Thật may mắn cho tôi là tôi có Vân, những lúc như vậy Vân đã thức tỉnh tôi  trở về với thực tế, làm cho tôi quên đi những ảo giác mơ hồ. Tình yêu của chúng tôi đang vào thời kỳ đẹp nhất, thì chúng tôi chia tay nhau. Thử hỏi ai mà không nhớ không thương, nhưng biết làm sao được khi tổ quốc cần chúng tôi lên đường.
  Có biết bao nhiêu kế hoạch mà chúng tôi đang thực hiện dở dang, cũng đành xếp lại. Ức chế nhất cho tôi là không hẹn được chính xác ngày hoàn thành, mà chỉ nói chung chung với khoảng thời gian vô định: Ngày mai anh về, ngày mai là ngày nào, năm năm, mười năm, hai mươi năm, hay còn lâu hơn nữa…Dù sao thì những ngày hẹn ấy cũng sẽ đến, bởi vì nó là quy luật tất yếu của vũ trụ. Nhưng còn biết bao nhiêu những thứ khác có thể không đến được, hoặc giả có đến được thì cũng đã chịu đựng biết bao nhiêu sóng gió thử thách của cuộc đời, lúc đó chỉ còn giữ lại được tâm hồn và trí tuệ, còn thể xác đã bị thời gian bòn rút cho héo mòn.
  Đã nhiều lần tôi ngẩng mặt lên trời tự hỏi: Tại sao lại có chiến tranh, chiến tranh đã gây cho con người biết bao nhiêu đau thương mất mát, hệ lụy của các cuộc chiến tranh còn ảnh hưởng mãi mãi đến nhiều đời sau. Rồi cũng chính tôi lại tự trả lời: Biết là như vậy, song đôi khi vẫn phải giải quyết bằng chiến tranh, bởi vì kẻ thù không cho chúng ta quyền lựa chọn. Và như vậy khi tổ quốc cần, chúng ta chấp nhận hy sinh những cái riêng cho cái chung, mục tiêu của chúng ta phải chiến đấu để giành được độc lập và tự do cho tổ quốc.
  Nhớ lại hôm tôi chuẩn bị lên đường, sau bữa cơm tối đạm bạc của sinh viên, tôi với Vân rủ nhau đi chơi cho khuây khỏa. Chúng tôi đi theo con đường đẹp nhất đi từ khoa Cầu đường ra Gò héo, Gò héo không phải địa danh của địa phương, mà nghe đâu, đây là cái tên do sinh viên chúng tôi đặt, nhưng tại sao lại là Gò héo thì tôi không biết. Thời kỳ đầu chúng tôi chuyển về đây, tất cả còn đang hoang vu ít người qua lại, những rừng bạch đàn được trồng và chăm sóc đã đến thời kỳ thu hoạch trông rất đẹp, nếu chỉ nhìn rừng bạch đàn và nhìn những tốp sinh viên nam nữ đang đi trong rừng, nhiều người lầm tưởng đấy là công viên. Lâu dần việc xây dựng trường sở đã làm mất đi vẻ đẹp hoang sơ của buổi ban đầu, hôm nay tôi với Vân cũng đi trên con đường này, hình ảnh của nó trước kia không còn nữa, chỉ thấy một con đường lầm lụi cát bụi, những rừng bạch đàn bị đốn hạ nham nhở.
  Chúng tôi sánh vai nhau tản bộ dưới ánh nắng hoàng hôn đang xuống dần sau ga Hương canh, dọc đường đi chúng tôi gặp một vài người bạn cũng đang tản bộ như chúng tôi, và cũng có hoàn cảnh như chúng tôi, chúng tôi hỏi thăm nhau xem đã chuẩn bị đến đâu, đã sẵn sàng chưa. Hỏi vậy thôi chứ chúng tôi biết thừa là có gì mà phải chuẩn bị, tất cả đã sẵn sàng từ lâu lắm rồi. Chia tay nhau, mỗi đôi đi về mỗi phía.
  Chọn một bãi cỏ cách đường sắt vài trăm mét, chúng tôi ngồi hướng về ga Hương canh. Đúng lúc ấy có một đoàn tầu quân sự bịt kín, lầm lũi chạy vào ga nhưng không dừng lại, tiếp tục chạy về phía nam.
  Lúc này trời đã nhá nhem tối. Ngồi bên nhau, nhưng chúng tôi vẫn chưa nói gì với nhau, không khí yên lặng vẫn bao trùm. Tôi lúng túng, tìm cách xua đi bầu không khí buồn tẻ này. Tôi nắm lấy tay Vân, bốn bàn tay cứ xoắn xuýt lấy nhau không nỡ rời nhau, tôi khẽ hỏi Vân:
    -Sao em buồn thế? Em phải dũng cảm lên để tiễn anh lên đường, đất nước có chiến tranh thì việc chia tay nhau là không tránh khỏi, đất nước này đã có biết bao nhiêu những cuộc chia tay, vì thế em cũng đừng có buồn, em hãy vui lên chúng ta cũng có những cuộc chia tay như hàng triệu cuộc chia tay khác. Em đang là người thân duy nhất của anh lúc này, em hãy vững vàng và can đảm lên, đừng để anh phải mềm lòng trước lúc đi xa. Những lần chia tay trước em đâu có buồn thế? Sao lần này em lại như vậy, cứ như thế này anh cũng chẳng yên tâm để ra đi…
   Bóng tối đã bao phủ khắp mọi nơi, bầu trời đã thấy rất nhiều vì sao lấp lánh, sáng nhất và gần nhất vẫn là ngôi sao hôm. Ở gò héo lúc này có lẽ chỉ có tôi và Vân. Vân vẫn ngồi yên lặng, tay vẫn nắm chặt tay tôi, mặt ngước lên nhìn bầu trời cao vời vợi. Thấy Vân như vậy tôi cũng không nỡ phá hỏng những giây phút ưu tư sâu lắng của Vân, và tôi đành ngồi yên suy nghĩ về những ngày sắp tới.
  Trên trời có một vì sao đổi ngôi, đã kéo Vân trở về với thực tại, Vân nói với tôi, vẫn những ngữ điệu và âm hưởng như mọi ngày, nhưng sao tôi lại cảm thấy có cái gì khang khác có vẻ như rất quan trọng, Vân nói:
    -Linh tính mách bảo em, lần này anh đi sẽ không bị hoãn như những lần trước, chắc là em sẽ không được đón anh về như mọi lần. Vì lần này là tổng động viên, huy động toàn bộ mọi lực lượng ra chiến trường, ở khoa mình thầy chủ nhiệm khoa đã nói: Lớp chúng ta chuẩn bị có đợt đi phục vụ chiến trường theo đường dây 559, kể ra nếu anh không phải đi nhập ngũ đợt này mà ở lại đi theo lớp thì vui, được như vậy rất phù hợp với kế hoạch của chúng ta đã đặt ra. Bây giờ thì không được nữa rồi, đành chấp nhận mỗi đứa mỗi nơi.
  Vân ngồi lặng đi, sau đó lại tiếp tục:
    -Vẫn biết chúng ta đã tập sự nhiều lần chia tay nhau, những gì cần nói ta đã nói, những gì cần làm ta đã làm. Nhưng anh ơi! trong hoàn cảnh này nói làm sao cho hết, làm làm sao cho đủ, đã thế mỗi ngày sống bên nhau lại thêm bao nhiêu là kỷ niệm, anh bảo em phải làm sao đây? Hôm nay em lại chia tay anh, em nghẹn ngào không nói nên lời, em không muốn làm anh buồn, nhưng em không nói được, em nói nữa là em sẽ khóc, làm anh càng buồn hơn.
  Tôi nắm chặt lấy tay Vân, kéo Vân vào lòng, những giọt nước mắt nóng hổi làm ướt cả ngực áo tôi.
(Còn nữa).
 
 
 


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: thaynhin trong 04 Tháng Năm, 2012, 11:55:05 am
Cám ơn bác Quanvn,cám ơn Quânsuvn đã kể cho thế hệ sau biết được thế hệ bác bác sống,làm việc và ước mơ!
Câu chuyện bác kể khá đặc biệt,chuyện tình yêu của bác nhưng lại truyền tải trong bối cảnh lịch sử rất sôi động.Qua đó bức tranh và cuộc sống rất sinh đông và chính xác,có những chi tiết khó mà sáng tác ra nếu không trực tiếp chứng kiến!
Bác thật may mắn có được tình yêu đẹp ở thời điểm đẹp của cuộc đời,khó ai mong muốn mà có được.Các bác sống và hy sinh vì nhau đều rất trong sáng,vô tư,vì tình nhưng vẫn cháy bỏng...phải chăng định mệnh?
Em cũng rất lạ những gì chứng kiến cho tình yêu của mình...nhưng đen lắm?!mong sớm được nghe tiếp về câu chuyện của bác!Kính!


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tungdx40 trong 04 Tháng Năm, 2012, 12:31:54 pm
chào các bác
có bác nào ở E42-F327 hồi đánh Tầu không đấy?


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: khanhhuyen trong 04 Tháng Năm, 2012, 06:26:41 pm
chào các bác
có bác nào ở E42-F327 hồi đánh Tầu không đấy?

Có đấy,một Thiếu tá nguyên D trưởng và 03 hạ sĩ quan thời uýnh nhau 1979 đến 1986 đấy.Tìm đọc ở  chiến tranh biên giới hoặc mặt trận Hà Giang là bác sẽ gặp đồng đội hay thủ trưởng hoặc lính mình của mình ngày xa xưa ngay đấy. ;D

PS. bác mod chuyển 02 bài này về mục chào hỏi làm quen nhé.Meci bóp c... ;D


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 05 Tháng Năm, 2012, 04:36:42 pm

Cảm ơn Thaynhin đã xem, và có lời động viên chia sẻ cùng Quanvn. Quanvn sẽ cố gắng chắp nhặt, ghép lại những kỷ niệm của quá khứ, để mua vui với bạn bè và nhắc nhở nhau nhớ lại những khó khăn và gian khổ của một thời oanh liệt đã qua. Đúng như Thaynhin nói, quanvn thấy thật là diễm phúc cho những người được sinh ra đúng vào thời kỳ ấy, được sống và chiến đấu viết lên những kỷ niệm đẹp như vậy, và cũng thành thật chia sẻ với những ai chưa có cơ hội để đóng góp công sức của mình vào cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Song cũng mong các bạn đừng buồn, mọi người đều có cơ hội. Chúc các bạn thành công trong tình yêu và cuộc sống.
Chào Tungdx40 và Khanhhuyen, các bạn vào nhầm nhà, mời các bạn uống nước, nghỉ ngơi. Cảm ơn các bạn.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 07 Tháng Năm, 2012, 03:04:54 pm

                                  NHỮNG NGÀY Ở NẠI CỬU
          Trong thời gian huấn luyện ở Phú bình Bắc thái, Vân có lên thăm tôi một lần, chỉ một lần, rồi sau đó ít ngày là đơn vị lên đường đi chiến đấu. Lần ấy lên thăm tôi, Vân cũng đầy nước mắt. Hoàn cảnh thật trớ trêu cho chúng tôi, lúc Vân lên đơn vị thì tôi ở ngoài thao trường, không có ai thông báo cho tôi biết là có Vân lên chơi nên tôi không biết, hết giờ ngoài thao trường về đơn vị mới biết là Vân lên chơi, oái ăm thay đêm ấy toàn tiểu đoàn báo động hành quân chiến đấu, không một ai được phép vắng mặt. Tôi không biết làm cách nào để có thời gian ra chơi với Vân được, tôi đành nói khó với đồng chí trung đội trưởng là cho phép tôi vắng mặt từ 17 giờ 30 đến 19 giờ, đồng chí trung đội trưởng cũng miễn cưỡng đồng ý.
  Mới xa nhau gần hai tháng, lúc gặp tôi vân nhìn tôi không chớp, hai hàng nước mắt cứ chảy tràn. Tôi ào vào như một cơn lốc ôm chặt lấy Vân. Tôi quên mất không nhìn xung quanh chúng tôi xem có còn ai nữa không, tôi cũng quên luôn là tôi vừa ở thao trường về, người tôi toàn mồ hôi ướt sũng lấm lem bụi đất.
  Có rất nhiều tiếng cười xung quanh, tôi buông Vân ra để quan sát, ở trong nhà thiếu ánh sáng nên cũng hơi tối, nhưng cũng không khó khăn để tôi nhận ra mấy người xung quanh, tất cả đều là bạn bè mà chúng tôi quen biết nhau khi còn học ở trong khoa, trong trường.
  Chúng tôi chào nhau rồi thông báo cho nhau tình hình tối nay, sau đó các đôi tản ra các góc khuất để nói chuyện. Căn nhà mà chúng tôi đang nói chuyện với nhau, là nhà của một người dân gần nơi đơn vị đóng quân, mấy chị em Vân đã xin được ở nhờ qua đêm rồi mai lại về trường. Những nhà dân ở gần nơi đơn vị đóng quân chắc đã quá quen với những trường hợp này nên họ cũng rất tốt và tạo điều kiện để chúng tôi nói chuyện với nhau.
  Hai đứa chúng tôi ngồi ở ngoài hiên, Vân lôi từ trong túi du lịch ra những thứ lỉnh kỉnh, được gói gói buộc buộc, Vừa làm Vân vừa nói:
    -Đây là mấy lạng thuốc lá sợi Lạng sơn và một bức thư bố gửi cho anh, còn đây là mẩu sâm của mẹ, mẹ dặn chỉ khi nào kiệt sức mới được mang ra ngậm, nhớ là lúc nào cũng phải gói mẩu sâm vào túi gạo rang nếu bỏ ra ngoài thì nó giảm tác dụng. Đây là hộp dầu cao con hổ, đây là bàn chải thuốc đánh răng, gói to và nặng này là bánh chè lam khi nào đói thì mang ra ăn.
  Cứ như thế, tay làm miệng nói, Vân cũng chẳng thèm để ý là tôi có nghe Vân nói không. Cho đến gói nhỏ cuối cùng, Vân mới ngước lên nhìn tôi. Tôi nắm tay Vân, ngồi yên lặng nhìn nhau.
  Vân đẹp quá, ráng chiều làm cho khuôn mặt của Vân hồng lên, soi rõ những vệt nước mắt còn đọng trên bờ my vẫn chưa kịp khô, đôi mắt buồn của Vân nhìn tôi chia sẻ, cặp môi chín mọng đầy gợi cảm của Vân cứ mấp máy như muốn nói gì, nhưng chưa nói được. Có lẽ chưa bao giờ tôi thấy Vân đẹp như hôm nay, một vẻ đẹp thật thà đôn hậu của cô gái đang độ tuổi trưởng thành. Tôi cứ nhìn Vân mãi, tôi không muốn mất đi hình ảnh của Vân lúc này. Tôi cũng không thể ngờ được, lần gặp nhau ấy lại là lần cuối cùng cho đến tận bây giờ, hình ảnh của Vân hôm ấy cũng là hình ảnh mà tôi nhớ nhất theo tôi dọc đường hành quân cũng như lúc xông pha trận mạc.
  Vân nắm chặt tay tôi như để kéo tôi về thực tại, Vân nói:
    -Bố mẹ vẫn khỏe, hôm em về thông báo với bố mẹ là anh đã nhập ngũ, em nói với  bố mẹ vì không có điều kiện nên anh không về thăm bố mẹ được, mong bố mẹ thông cảm, anh chúc bố mẹ mạnh khỏe. Hôm ấy bố mẹ cũng có vẻ buồn, và tiếc cho anh tốn bao nhiêu công lao học tập. Bố mẹ nói với em cố thu xếp để lên thăm anh và đông viên anh, thế là bố mẹ gói gém những thứ này để em mang đi. Bố mẹ nói anh cố gắng giữ dìn sức khỏe và nhớ viết thư về.
  Tôi ngồi yên xúc động, nước mắt chạy vòng quanh, thầm cảm ơn bố mẹ Vân đã chăm lo chu đáo, thương cho bố mẹ tôi vì ở quá xa nên khi nhập ngũ tôi không về qua nhà được.
  Tất cả niềm vui nỗi buồn ùa về một lúc mừng mừng tủi tủi, thời gian tôi trở về đơn vị cũng đã đến gần, tôi không biết nói gì và làm gì trong lúc này, ruột gan thì bồn chồn, tay chân bứt rứt thừa thãi. Như hiểu được ý tôi, Vân nói như động viên:
    -Anh cũng đừng buồn, gặp được nhau như thế này là tốt lắm rồi, có khi còn chả được nhìn mặt nhau, lúc ấy cũng chẳng trách ai được. Thôi bây giờ mình vừa ăn vừa nói chuyện, kẻo đến giờ về đơn vị lại không kịp ăn.
  Vân âu yếm nhìn tôi, tràn ngập tình yêu thương. Tiện tay, Vân nhặt những bông hoa cỏ may còn sót lại trên bộ quân phục bạc trắng mồ hôi của tôi. Vân nói:
   -Số em thật xui xẻo, lên đúng hôm anh lại phải đi tập cả ban đêm, tiếc quá, nhưng biết làm sao được. Thế này là em mừng lắm rồi, anh cứ yên tâm không phải lo cho em đâu, tối nay bọn em ngủ ở đây với nhau, mai ra ga để về trường sớm, em về đến trường sẽ báo tin cho anh. Thôi bây giờ anh em mình ăn tạm cái này.
   Vân lấy trong túi xách ra 4 cái bánh chưng nho nhỏ, lúc đói tôi có thể ăn được 5-6 cái, và một nhúm chuối ta. Chắc những thứ này Vân mua ở ngoài ga mang vào, cũng may có những thứ này nếu không có thì cũng chẳng biết lấy gì mà ăn, mua gạo để nấu cơm cũng không kịp giờ. Vân bóc cái bánh chưng đưa cho tôi và dục tôi ăn đi, Vân cũng bóc một chiếc cùng ăn với tôi. Tôi nghẹn ngào khó nuốt, rồi tôi cũng cố ăn hết được một chiếc , vừa ăn chúng tôi vừa dặn dò nhau, anh phải thế này em phải thế kia, cứ như thế chúng tôi dặn dò nhau mãi không hết.
  Thời gian trôi đi nhanh quá, đã đến lúc tôi trở về đơn vị. Vân tiễn tôi ra đầu cổng và đưa tôi chiếc túi đựng quà, Vân nói qua nước mắt:
    -Anh giữ dìn sức khỏe và nhớ biên thư về cho em, nhớ thương anh nhiều lắm, tạm biệt anh, em yêu anh.
  Không kìm nổi lòng mình, tôi ôm chặt lấy Vân, mặc dù tôi cố kìm chế nhưng những giọt nước mắt lúc chia ly vẫn cứ chảy tràn trên mặt tôi. Bây giờ đã đến lúc tôi không muốn dấu Vân là tôi đang khóc, ngược lại tôi muốn Vân biết là tôi đang khóc, nước mắt của tôi chảy thấm đẫm vai áo Vân, những giọt nước mắt này đang thay tôi nói lên tất cả, đối vối những người ở lại.
  Tôi nhẹ nhàng gỡ tay Vân ra, bốn mắt nhìn nhau nhạt nhòa trong nước mắt, tôi nói với Vân:
    -Em hãy can đảm lên, anh biết em là người con gái có nghị lực, anh tin rằng em sẽ vượt qua tất cả những khó khăn của cuộc sống để đi tới vinh quang, em cố gắng học hành thành đạt như bố mẹ hằng mong muốn. Vắng anh có thể làm em buồn, nhưng rồi cũng sẽ quen. Anh rất yêu em, tạm biệt em.
  Chúng tôi chia tay nhau, tôi trở về đơn vị trời cũng vừa tối, tôi cảm thấy buồn, tìm một chỗ ngồi để chờ lệnh báo động hành quân và nghĩ về Vân. Đấy là lần đầu tiên cũng là lần cuối cùng mà Vân đến thăm tôi, khi tôi đang huấn luyện ở tiểu đoàn 60 sư đoàn 304 ở Phú bình Bắc thái.
      Sau đó ít ngày, chúng tôi được lệnh hành quân lên đường đi chiến đấu. Hành quân bộ từ đơn vị ra ga Phổ yên, sau đó đoàn tầu đưa chúng tôi từ ga Phổ yên đến ga Yên viên thì dừng lại, chúng tôi lại hành quân bộ từ ga Yên viên về Hà nội. Càng tiến gần về thủ đô, không khí chiến đấu càng sôi sục, từng đoàn người đoàn xe đang rầm rập di chuyển về phía nam, từng tốp công nhân, dân công hỏa tuyến đang hối hả khắc phục sửa chữa cầu đường đảm bảo giao thông. Mùi  của khói bom còn vương lại, cộng với mùi xăng của động cơ ô tô, mùi bùn đất của hố bom, có lẽ còn có cả mùi máu, tạo thành hỗn hợp có mùi khét lẹt tanh nồng, lợm giọng.
  Về đến Hà nội, lúc ấy không biết là mấy giờ sáng, chúng tôi chờ xếp xe để tiếp tục hành quân. Trong lúc chờ đợi, mục tiêu của tôi là phải gặp được một ai đó để tôi gửi mấy bức thư. Cũng may mắn cho tôi, cầu được ước thấy, tôi gặp được một người đàn ông tầm 35-40 tuổi, mặc bảo hộ lao động đang đi về hướng tôi. Sau khi nghe tôi trình bầy, anh vui vẻ nhận lời và nói với tôi:
    -Em cứ yên tâm, anh rẽ qua Bờ hồ bỏ ngay vào thùng thư cho em bây giờ, bố mẹ em cũng như bố mẹ anh, hoàn cảnh thời chiến anh biết họ mong mỏi tin con từng ngày từng giờ.
  Vừa nói anh vừa dục tôi:
    -Đưa đây cho anh, còn những bức thư nào chưa gián tem để anh gián cho, em không phải e ngại gì, chúng ta không giúp nhau lúc này còn giúp nhau lúc nào.
  Tôi cảm ơn anh rồi chia tay anh, vừa đi tôi vừa nghĩ: Chiến tranh ác liệt đã làm cho con người gần nhau hơn và thương yêu nhau nhiều hơn. Tôi rất cảm động.
  Chúng tôi tiếp tục hành quân, đêm hôm ấy ngủ ở trạm Thường tín, hôm sau dừng chân ở Ninh bình. May mắn cho tôi, khi hành quân qua Ninh bình tôi lại được rẽ về thăm nhà, thế là tôi toại nguyện lắm rồi. Khi tôi nhập ngũ ở trường, tôi chỉ băn khoăn một điều là gia đình tôi không ai biết tôi đã nhập ngũ. Hôm được về qua nhà, thật tiếc là tôi chỉ gặp được mẹ tôi còn mọi người đi vắng cả. Vài tiếng đồng hồ ở nhà với mẹ, sau đó tôi trở lại đơn vị, tối hôm ấy lại tiếp tục hành quân.
  Càng đi sâu xuống phía nam, không khí chiến tranh lại càng cận kề, chúng tôi cứ tưởng tượng địch đang ở rất gần mình. Đến Đò lèn đoàn quân phải dừng lại chờ thông đường, vì đoạn đường này vừa bị pháo kích từ Lạch trường vào. Đi vào đến Hàm rồng, đoàn quân phải ngược lên phía thượng lưu để qua phà,  trên trời là pháo sáng, dưới mặt đất là những đoàn xe vận chuyển vũ khí khí tài nhu yếu phẩm phục vụ chiến tranh, hai bên lề đường là những đoàn quân đang hừng hực khí thế, tất cả đang trên đường ra mặt trận. Không khí của cuộc chiến tranh đang thực sự được đốt nóng trên mọi nẻo đường ra trận.
  Ngày nghỉ, đêm đi, ngày lại ngày, cứ như thế chúng tôi cũng chẳng còn đếm được ngày tháng nữa, càng vào sâu địch càng đánh phá ác liệt hòng ngăn chặn sự tiếp tế của miền Bắc vào miền Nam. Càng vào sâu càng thấy sự gian khổ hy sinh của đồng bào khu bốn, càng vào sâu càng thấy sự khốc liệt của cuộc chiến tranh và sự hy sinh xương máu của toàn dân tộc. Tuy gian khổ và ác liệt như vậy, song có một điều mà ai cũng nhận thấy: Tất cả đang tiến ra mặt trận, tất cả vì sự nghiệp giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước.
  Trước những thực tế của cuộc chiến tranh, tôi cũng đã xem xét lại những suy nghĩ của mình về tình yêu và sự chờ đợi.
(Còn nữa)

 


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: TichTuongNhuLe trong 07 Tháng Năm, 2012, 05:19:03 pm

 
  Tôi cứ nhìn Vân mãi, tôi không muốn mất đi hình ảnh của Vân lúc này. Tôi cũng không thể ngờ được, lần gặp nhau ấy lại là lần cuối cùng cho đến tận bây giờ,


     Chả có nhẽ, ngày trở về chàng không đi tìm nàng ?


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: thaiminhhung trong 07 Tháng Năm, 2012, 10:04:28 pm
Bác Quân hành quân nhanh quá, từ Phú Bình hành quân về đến bến phà Bác Cổ phải đi hết hai ngày rưỡi. Khi đến Thường tín đã gần hai giờ sáng. Đến 17h lại lên ô tô để vào Ninh Bình. Tiếp tục đi bác nhé


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: Trongc6 trong 08 Tháng Năm, 2012, 10:05:12 am

 
  Tôi cứ nhìn Vân mãi, tôi không muốn mất đi hình ảnh của Vân lúc này. Tôi cũng không thể ngờ được, lần gặp nhau ấy lại là lần cuối cùng cho đến tận bây giờ,


     Chả có nhẽ, ngày trở về chàng không đi tìm nàng ?

Bác viết ra dòng này nhanh quá làm ai cũng sững sờ.

Không có nhẽ thế thật sao. Có chuyện gì xảy ra với Vân ở hậu phương vậy. Hay là đã có chuyện gì khi đoàn sinh viên của DHXD vào thực tế ở 559?

Tôi biết có một người đọc chuyện tình của bác như nuốt từng lời. Cậu ta đọc đến đây sẽ bần thần ra mất mấy hôm chứ không ít. (Đó là anh bạn trẻ HH đấy bác QuânVN ạ).



Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 09 Tháng Năm, 2012, 11:04:33 am
Chào các bạn: TTNL, TMH, TrongC6, Cảm ơn các bạn đã ghé thăm. Thành thật xin lỗi các bạn vì Quanvn hành văn kém nên đã để các bạn hiểu nhầm. Quanvn đành phải chú thích vậy:...lần gặp nhau ấy lại là lần cuối cùng cho đến tận bây giờ. Ý quanvn muốn nói: bây giờ có nghĩa là lúc quanvn đang kể chuyện này, chứ không phải là thời điểm khác. Mong các bạn đại xá. Chào.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 10 Tháng Năm, 2012, 03:31:06 pm

                                NHỮNG NGÀY Ở NẠI CỬU
          Những ngày sau đó, khi có điều kiện là tôi lại viết thư tâm sự với Vân, kể cho Vân nghe những chuyện trên đường hành quân, chuyện vui chuyện buồn, chuyện nhớ nhà nhớ Vân. Những bức thư chưa kịp gửi được gom lại, khi nào có người ra bắc là gửi, tất nhiên những bức thư ấy đều không có tem, nhưng cũng không sao, người nhận chuyển thư đi cũng rất sẵn lòng và cảm thấy vui vẻ, vì họ đang làm một việc vô cùng ý nghĩa đối với những người đi chiến đấu. Tất cả những bức thư ấy không biết có đến được tay Vân hay không thì không biết, nhưng dẫu sao tôi cũng thấy trong lòng nhẹ nhõm tư tưởng thoải mái và vui sướng, tin tưởng rằng Vân sẽ nhận được thư của tôi.
  Thư viết thì nhiều, nhưng chưa thư nào tôi đủ can đảm nói lên được điều mà bấy lâu nay mỗi khi nghĩ đến nó là tôi có cảm giác nghẹt thở. Sự thật quá phũ phàng và ngiệt ngã, tôi không thể không nói, tôi sẽ nói, tôi biết nói ra không dễ chút nào, có lẽ tim tôi  lúc ấy sẽ đau đớn lắm. Tôi tự hỏi trên cõi đời này có ai đang yêu nhau thắm thiết lại phải nói lời chia tay không? Hay là chỉ có tôi. Vì sao lại phải nói lời chia tay? Tôi không thể giải thích được vì sao. Nhưng tôi vẫn phải nói, những điều tôi nói ra sẽ có những người cho rằng tôi hèn nhát, trốn tránh, không tin vào chính mình thì làm sao có đủ lòng tin với người mình yêu. Nhưng nếu tôi không nói, tôi trở thành kẻ tham lam, ích kỷ, và biết đâu đấy nó lại là một tội ác để người đời lên án. Trong hoàn cảnh này cho dù người đời cười chê, tôi vẫn quyết định sẽ nói với Vân điều này.
  Thế rồi, vào một chiều hành quân qua những đồi cỏ tranh, xen lẫn những cây sim cây mua, tôi chợt thấy có mấy ngôi mộ mới chôn, tôi đoán là của bộ đội ta. Mộ của các anh được chôn cất trên những quả đồi, dọc theo đường hành quân. Suốt cả đêm hôm ấy tôi cứ suy nghĩ mãi. Hôm sau, tôi viết thư cho Vân.
          Em thương yêu! Anh viết cho em bức thư này, khi anh còn đang ở một vùng nào đó mà anh không biết địa danh nhưng anh đoán là đã gần mặt trận lắm rồi. Khi em nhận được thư này, chắc là anh đã vào sâu trong mặt trận, cũng có thể anh nằm lại đâu đó trên dọc dường hành quân. Tất cả đều có thể, chiến tranh là như vậy, chắc em cũng chẳng ngạc nhiên. Xuất phát từ thực tế của cuộc chiến tranh gian khổ và ác liệt này, hôm nay anh viết thư gửi em để nói lên một điều mà anh chưa bao giờ nói. Điều này cũng chỉ mới xuất hiện trong anh thời gian gần đây, đã nhiều đêm anh suy nghĩ về điều này, anh thấy cần phải nói với em.
  Em thương yêu! Anh bước vào cuộc chiến tranh rất thanh thản, làm trai như anh trong thời buổi đất nước có chiến tranh, được cống hiến tuổi thanh xuân cho non sông đất nước là vinh dự lắm rồi. Anh sẽ sống và chiến đấu như hàng triệu con người đang xả thân vì độc lập và tự do cho tổ quốc. Anh chỉ thương em, thương cô người yêu bé nhỏ của anh, ngày lại ngày mong ngóng tin tức của anh từ chiến trường gửi về.
  Em thương yêu! Bất cứ cuộc chiến tranh nào đều có tổn thất kể cả về người và của, sự hy sinh mất mát là không tránh khỏi. Vẫn biết đau thương mất mát này là không của riêng ai, mà là của cả một dân tộc đứng lên để giành độc lập tự do. Nhưng nói cho cùng, đau khổ và thiệt thòi nhất vẫn là những bà mẹ những người vợ, những người phụ nữ, những đứa trẻ thơ, là thân nhân của các thương bệnh binh, các liệt sĩ đã hy sinh thân mình cho tổ quốc. Không ai muốn người thân của mình có trong danh sách ấy, nhưng chiến tranh là không tránh được.
  Em thương yêu! Chúng ta phải nhìn thẳng vào sự thật này. Anh vẫn biết em thường nói với anh là em sẵn sàng chờ anh suốt cả cuộc chiến tranh, miễn là anh trở về và anh vẫn yêu em, cho dù lúc đó con người anh không còn nguyên vẹn. Cũng như trường hợp em mãi chờ anh, năm năm mười năm, hay lâu hơn mà anh không trở về, anh đã hy sinh vì dân vì nước ở chiến trường, lúc đó em ở vậy để chung thủy với anh trọn đời… Những lần được nghe em nói như vậy, anh xúc động lắm, anh không biết nói gì, chỉ thầm cảm ơn ông trời đã trao em cho anh, cảm ơn em đã cho anh đặc ân này, sự hy sinh của em lớn lao quá ngoài trí tưởng tượng của một người như anh. Anh vẫn tự hỏi: Anh đã làm gì để có quyền được hưởng đặc ân này? Rồi thời gian cứ trôi đi, anh vẫn chưa có câu trả lời.
  Em thương yêu! Những đêm dài hành quân là những đêm không ngủ, dọc đường hành quân, anh cố gắng gạt bỏ những suy nghĩ vẩn vơ khác, để suy nghĩ nghiêm túc về vấn đề này. Càng tiến gần đến mặt trận, sự suy nghĩ của anh lại càng chín chắn hơn, mọi mặt của vấn đề mà em nói đều được xem xét một cách biện chứng và logic, cộng với hoàn cảnh chiến tranh, bom đạn của kẻ thù cũng làm cho anh nhìn vấn đề thực tế và cụ thể hơn. Điều mà anh sắp nói với em hôm nay, là điều không ai muốn, em và anh đều không muốn, nhưng nó lại là sự thật, một sự thật phũ phàng. Nguyên nhân sâu xa của sự thật phũ phàng này là cuộc chiến tranh hiện nay, em và anh là những người đang trong vòng xoáy của nó.
  Em thương yêu! Đau đớn và chua xót khi anh phải nói lên những điều  anh sắp nói. Anh không biết bắt đầu từ đâu, và nói thế nào để em thông cảm và tha thứ cho anh. Có lẽ anh xin bắt đầu từ câu cảm ơn em, và gia đình, về tất cả những gì tốt đẹp mà em và gia đình em đã giành cho anh trong suốt thời gian chúng ta yêu nhau. Tiếp theo là anh xin lỗi em và gia đình, vì anh không đáp ứng được sự kỳ vọng của mọi người. Anh không giám nhận đặc ân mà em giành cho anh, em đừng hỏi anh vì sao…
  Em thương yêu! Em có thể đoán được mơ ước của anh bây giờ là gì không? Chắc là em không đoán được, để anh nói cho em nghe: Nếu như tạo hóa cho chúng ta đầu thai vào kiếp sau, thì dù có khó khăn đến mức độ nào, anh cũng tìm được em, cưới em làm vợ, để chúng ta sống trọn đời trọn kiếp bên nhau, bù lại những mất mát mà chúng ta phải chấp nhận hy sinh của kiếp này.
  Em thương yêu! Còn biết bao nhiêu điều mà anh muốn nói với em, nhưng nói làm sao hết được. Thôi hãy để thời gian nói hộ chúng ta, anh xin dừng bút và hôn em lần cuối. Chào em, người mà anh yêu còn hơn cả chính bản thân anh.
     Đây là bức thư cuối cùng tôi viết cho Vân, trên đường hành quân vào mặt trận. Sau đó, như các anh đã biết khi chúng tôi hành quân vào bãi Hà thì được các đơn vị của của sư 325 ra nhận và đón về. Tôi được bổ xung vào C20 E95 F325, cùng với 10 anh em khác đều là sinh viên của trường đại học Xây dựng. Tôi, anh Xuân, anh Thọ, Anh Định, bốn người về trung đội 4, bù vào chỗ những người vừa bị hy sinh trong thành cổ.
  Kể từ đó sự ác liệt của chiến trường Quảng trị, đã cuốn hút tôi, làm cho  tôi quên cả thời gian và ngày tháng, nhưng có cái tôi không bao giờ quên được, cho dù trong những lúc ác liệt nhất tôi vẫn nhớ, đó là Vân và tình yêu của Vân giành cho tôi. Sau này, khi đơn vị rút ra Nại cửu làm công tác huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu. Do có nhiều thời gian để nghĩ đến gia đình nghĩ đến quê hương và những người thân, hơn nữa lại xa tiếng súng, nên tôi lại càng nhớ Vân nhiều hơn, đã có lúc không kìm nổi lòng mình tôi đã viết thư cho Vân, thậm chí viết rất nhiều, viết cho đỡ nhớ sau đó xé đi không gửi. Đã nhiều lần như vậy, nên đến giờ phút này mọi thông tin về tôi tất cả mọi người đều không biết, kể cả bố mẹ tôi.
  Tôi kể đến đây, đã có nhiều người phản đối. Có người nói:
    -Nói gì thì nói, anh làm như thế là không được. Anh phải viết thư về nhà cho bố mẹ và mọi người biết tin. Sống chết nó có số, anh tưởng chết một mạng người là dễ lắm à. Ngày mai anh phải viết thư về ngay đi.
  Lại cũng có người cho rằng:
    -Nhận được thư của con, bố mẹ mừng là biết con lúc đó còn sống và đang viết thư gửi cho bố mẹ. Đến khi nhận được thư thì đã lâu lắm rồi, bố mẹ chưa kịp mừng thì lại phải lo ngay. Khổ thân cho bố mẹ, cứ vừa mừng vừa lo. Tôi nghĩ, không viết thư như anh Quân là tốt nhất, để bố mẹ lo luôn một thể, đến khi mình về bố mẹ mừng luôn một thể.
  Mọi người cười ồ, cũng có người nói:
    -Bố mẹ chờ con bao nhiêu cũng được, còn chị Vân cứ chờ người yêu thì chết già à. Không được, con gái thì chỉ có thì thôi, không chờ được.
  Trong số những người nghe tôi kể chuyện, có chú em tên là Dũng quê ở thị xã Hưng yên. Tôi để ý, lúc nào Dũng cũng chăm chú nghe, không khi nào chen ngang hay chêm chọc gì. Hôm nay, Dũng hỏi tôi:
    -Nếu sau này anh còn sống trở về, chị Vân vẫn chờ anh thì anh tính sao?
  Tôi cười nhìn Dũng, rồi nói:
    -Trong thư gửi chị Vân anh cũng đã nói, điều mơ ước của anh là: Nếu kiếp sau được đầu thai lại làm người, anh vẫn cưới Vân về làm vợ.
  Chúng tôi đang tranh luận với nhau, nên hay không nên. Cuộc tranh luận chưa đến hồi kết, thì có đồng chí liên lạc của đại đội xuống, mời tôi về gặp ban chỉ huy đại đội.
          Tại căn hầm âm của ban chỉ huy đại đội, tôi thấy các đồng chí: Chính trị viên đại đội; Đại đội trưởng; Đại đội phó, ngoài ra còn có cả đồng chí y tá của đơn vị, thấy tôi bước xuống hầm mọi người tập trung nhìn tôi, tôi đoán chắc là tôi nói chuyện khuya làm ảnh hưởng sức khỏe của anh em trong đơn vị, nên bị gọi về nhắc nhở. Chờ tôi ổn định chỗ ngồi, đồng chí đại đội trưởng hỏi tôi:
    -Anh đã viết xong báo cáo về công tác kiểm kê vũ khí khí tài, quân trang quân dụng, của đơn vị tính đến thời điểm này chưa? Anh có gắng làm nhanh để đơn vị còn tập hợp báo cáo trung đoàn, kịp xin điều chỉnh bổ xung. Bây giờ, chúng tôi muốn nghe anh báo cáo sơ bộ tình hình để chúng tôi nắm được. Vừa rồi chúng tôi đã nghe đồng chí y tá báo cáo về tình hình thuốc men, bây giờ xin mời anh.
  Sau khi nghe đồng chí đại đội trưởng yêu cầu báo cáo sơ bộ, do đã chuẩn bị trước nên tôi báo cáo ngay:
    -Báo cáo các anh, về công việc này tôi đã chuẩn bị cơ bản đã xong. Chiều mai tôi sẽ nộp báo cáo. Nói chung về công tác này các anh cứ yên tâm không phải lo lắng gì, vì tôi có mấy anh bạn rất thân ở ban hậu cần  của trung đoàn, C20 cần gì là các anh ấy sẵn sàng giúp đỡ.
  Thực ra việc viết báo cáo công tác kiểm kê vũ khí khí tài quân trang quân quân dụng của một đơn vị trinh sát bộ binh, không có nhiều danh mục nên về cơ bản tôi viết đã xong, hiện tôi muốn đối chiếu lại một số vật tư, thiết bị phục vụ cho tiểu đội thông tin, cái nào cũ xin đổi, cái nào hỏng thì yêu cầu sửa chữa, một vài cái thiếu đã kê khai bổ xung.Viết báo cáo là theo quy định, chứ khi cần gì tôi lên gặp mấy anh bạn là xin được ngay.
  Nghe tôi báo cáo xong, đồng chí chính trị viên nói:
    Hiện nay chúng ta chưa nhận được lệnh, nhưng chắc chắn chúng ta sẽ  tham gia chuẩn bị chiến dịch. Đi đâu? Đi hướng nào là điều hoàn toàn bí mật, kể cả các đồng chí trong ban tham mưu trung đoàn cũng không được biết, khi cần sẽ có giao liên dẫn đường, đến nơi mới giao nhiêm vụ, tất cả đều tuyệt đối bí mật. Do yêu cầu khẩn trương và bí mật tuyệt đối, nên chúng ta phải chuẩn bị chu đáo và sẵn sàng cho những cuộc hành quân sắp tới. Ngày mai, chi ủy sẽ họp để chuẩn bị nhân sự đi đợt đầu. Bây giờ các đồng chí về nghỉ, chuẩn bị cho những cuộc hành quân.
                                                      HẾT
                                     


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: ThanhBinh trong 10 Tháng Năm, 2012, 11:36:59 pm
Ý quanvn muốn nói: bây giờ có nghĩa là lúc quanvn đang kể chuyện này, chứ không phải là thời điểm khác.
May quá!
Chú Quanvn kính mến,
cháu cũng say mê đọc câu chuyện về mối tình đẹp "hơn cả tuyệt vời" của cô chú. Cháu đã cảm thấy quá đáng tiếc khi thấy "lần gặp nhau ấy lại là lần cuối cùng cho đến tận bây giờ".

"Những ngày ở Nại Cửu" đã hết rồi hả chú? Chú có thể thêm một chút "vĩ thanh" về "hai nhân vật chính" hiện nay được không ạ?




Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 01 Tháng Sáu, 2012, 03:17:55 pm

NHỮNG CUỘC HÀNH QUÂN
          Bây giờ vào khoảng trung tuần tháng giêng năm 1975, nhìn bề ngoài, mọi hoạt động của trung đoàn 95 sư 325 ở khu vực Nại cửu có vẻ yên ắng, các sinh hoạt vẫn diễn ra bình thường. Song sự thực bên trong từ cán bộ đến chiến sĩ đang có sự chuẩn bị nhận nhiệm vụ chiến đấu rất khẩn trương.
  C20, sau khi họp chi ủy triển khai nghị quyết, công tác chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu đã được phổ biến và quán triệt đến tận từng cán bộ chiến sĩ, các trung đội tiểu đội có kế hoạch cho anh em ăn tết trước, chuẩn bị hành quân thần tốc như chiến dịch của Quang Trung Nguyễn Huệ.
   Một mùa xuân nữa lại về, tết 72-73 ăn tết ở chiến hào Tích tường Như lệ, tết 73-74 ăn tết ở Nại cửu, năm nay 74-75 chắc là ăn tết trên đường hành quân.
  Mấy bữa nay, ở Nại cửu các trung đội, tiểu đội đang tổ chức cho anh em ăn tết trước, đúng là chỉ ăn thôi chứ không phải là ăn tết, bởi vì nó thiếu nhiều thứ của tết quá nên không thể gọi là ăn tết được. Tuy vậy, trên các gương mặt của cán bộ chiến sĩ đều rất hồ hởi và phấn khởi, lúc nào trên môi cũng nở những nụ cười tươi. Họ cố mời mọc và lôi kéo nhau về trung đội tiểu đội mình để ăn tết cho vui, hôm nay tiểu đội này mai lại tiểu đội khác, cứ thế dài dài. Mấy ngày ăn tết, đơn vị nào cũng thi nhau mổ gà, mổ ngan, bếp của đại đội thì mổ lợn. Riêng thịt chó thì không đơn vị nào giám mổ, chắc là các đơn vị đều kiêng, để cho những cuộc hành quân gặp nhiều may mắn.
  Ban chỉ huy đại đội đã chuẩn bị xong nhân sự đi đợt đầu, nhưng chưa công bố. Những ngày này, toàn đại đội có bầu không khí giống như chuẩn bị chia tay. Các đơn vị cứ đoán già đoán non, đoán đơn vị này đi trước đơn vị kia đi sau. Trong các bữa ăn của những ngày ăn tết trước, mọi người chúc nhau những điều tốt lành và hẹn nhau giữ dìn sức khỏe, chuẩn bị các thứ đầy đủ để đón những người vào sau.
     Khoảng hai, ba ngày sau, đoàn tiền trạm bắt đầu xuất phát, danh sách đoàn tiền trạm thật là bất ngờ, đoàn do đồng chí đại đội phó chỉ huy, bao gồm đồng chí trung đội phó và 8 chiến sĩ lấy từ các trung đội trinh sát và tiểu đội thông tin, đoàn được trang bị đầy đủ vũ khí khí tài quân trang quân dụng để độc lập tác chiến dài ngày. Hôm chia tay ở sân nhà ban chỉ huy đại đội, chúng tôi ôm nhau rất lâu, chúc nhau thượng lộ bình an, nhắc nhau giữ dìn sức khỏe, và hẹn sớm sẽ được gặp nhau. Trong cuộc chia tay ấy cũng có những người vội vàng quay đi để dấu những giọt nước mắt, cũng đúng thôi trong hoàn cảnh này cuộc chia tay nào mà lại không có tý nước mắt.
  Họ đi rồi những người ở lại cảm thấy trống vắng, mọi người cố gắng quên đi nhưng cũng không thể che dấu được sự hụt hẫng. Họ đi rồi chúng tôi mới biết nhiệm vụ của họ là đi chuẩn bị cho chiến dịch phía tây Thừa Thiên Huế, nghe thế thì biết thế, lính tráng như chúng tôi thì cũng chẳng am hiểu về lĩnh vực này.
  Những người ở lại, vẫn tiếp tục cần mẫn với những công việc thường ngày, nhưng nhìn ai cũng có vẻ nôn nóng. Xuống đến các đơn vị, nhìn vào giá ba lô và súng ống còn mới tinh đã được chuẩn bị sẵn sàng, anh em tất cả cũng đều sẵn sàng, có lệnh là lên đường bất kỳ lúc nào. Xung quanh doanh trại đã được dọn dẹp sạch sẽ để bàn giao cho đơn vị khác, trong chuồng cũng còn một hai con lợn, tôi cố tình giữ lại để mang đi dọc đường cho anh em ăn tết, ở các trung đội và tiểu đội vẫn còn một số gia cầm và một vài con chó.
  Ở tiểu đội thông tin cũng có một con chó, cả tiểu đội ai cũng thương nó, bây giờ đơn vị chuẩn bị hành quân đi chiến đấu, không biết giải quyết thế nào. Nhớ lúc nó còn bé, anh tiểu đội trưởng chẳng biết đi mua hay xin ở đâu về, trông nó đẹp lắm, nó là một con chó đực, có bộ lông mầu vàng xám tai vểnh, bụng thót chân cao, đuôi dài. Anh bảo nó là giống chó Lào, bây giờ nó đã lớn trong nó oai phong hùng dũng giống như chó nghiệp vụ của công an. Con chó này cũng có cái đặc biệt, chỉ theo anh tiểu đội trưởng chứ không theo ai, anh nói gì là nó nghe, còn người khác nói thì nó mặc kệ. Nhưng từ khi tôi chuyển về tiểu đội thông tin thì thi thoảng nó cũng theo tôi, nhưng chỉ khi nào anh tiểu đội trưởng chỉ vào tôi nó mới theo. Tôi và nó cũng có nhiều kỷ niệm, nhất là những đêm tôi đến phiên gác, nó là tai mắt của tôi trong đêm, làm cho tôi đỡ sợ và yên tâm hơn. Hay là những hôm chúng tôi đi kiểm tra các bẫy thú, những con thú nào bị sập bẫy khi thấy nó đến là cứ nằm yên không giám ngo ngoe. Nó với tôi có nhiều kỷ niệm như vậy, nên tôi nghĩ tôi sẽ mang nó theo, nhưng chưa giám tiết lộ ý đồ.
  Đoàn tiền trạm đi rồi, có lẽ phải đến nửa tháng sau. Vào một buổi chiều, lúc đó khoảng độ hai hay ba giờ chiều gì đó, trời nắng chang chang, không có một gợn mây, chúng tôi được lệnh chuẩn bị hành quân. Tất cả các đơn vị đều phải ngụy trang, và di chuyển theo đội hình hành quân mỗi người cách nhau 3 đến 5 mét, riêng bộ phận hậu cần sẽ đi sau cùng, khi nào có lệnh sẽ xuất phát.
  Đoàn quân âm thầm rút ra khỏi doanh trại, tiến về hướng tây bắc, có lẽ là ra Cam lộ. Đoàn người được ngụy trang trông như những bụi cây di động, đang di chuyển vòng vèo theo con đường mòn của những dãy đồi bát úp trùng điệp. Cỏ tranh tốt ngập đầu, gió thổi ào ào từng đợt, rừng cỏ tranh rạp xuống rồi lại đứng lên tạo thành những con sóng nhấp nhô đuổi nhau chạy xa tít tắp tận phía chân trời. Anh nắng chiều, chiếu xiên xiên vào đoàn quân, nhìn bóng chiếc mũ tai bèo, chiếc ba lô cứ nhấp nhô, lúc nhìn thấy lúc không nhìn thấy, cứ xa dần rồi mất hút sau những đồi cỏ tranh.
  Tất cả mọi người đi rồi, chỉ còn mấy anh em của bộ phận hậu cần ở lại, doanh trại lúc này sao im lặng thế. Mới cách đây có mấy tiếng đồng hồ, ở nơi đây còn rộn rã tiếng cười đùa, người chạy đi người chạy lại, người khuân người vác, thế mà bây giờ vắng tanh. Nhìn doanh trại trống vắng, nhìn anh em buồn bã nhìn nhau, tôi cũng buồn lây, buồn vì phải xa doanh trại, xa Nại cửu, xa mảnh đất mà chúng tôi đã gắn bó suốt cả một quãng thời gian dài từ tháng 7 năm 1973 đến nay tháng 01 năm 1975. Buồn là vì đồng chí Xuân không vào kịp, mọi công việc của quản lý đại đội chắc là tôi vẫn  phải tiếp tục.
  Đang ngao ngán, nghĩ ngợi lung tung thì đồng chí liên lạc của đại đội trở về. Tôi đoán là truyền lệnh hành quân cho chúng tôi, nếu đi bây giờ thì gay go cho chúng tôi quá, vì còn một số dụng cụ của nhà bếp chưa phân công cho các đơn vị mang giúp, còn để lại cả đây, quan trọng là còn chú lợn đến 50 kg và hơn 15 con gà còn đang nhốt trong chuồng. Tôi nghĩ cố động viên anh em mang đi được chừng nào thì tốt chừng ấy, không mang hết đành bỏ lại.
  Sau khi nhận lệnh chúng tôi thở phào nhẹ nhõm, mấy anh em lại vui vẻ cười đùa, ôm nhau lăn lộn trên bãi cỏ tranh. Tôi thúc dục anh em khẩn trương chuẩn bị nấu ăn tối cho đơn vị. Hóa ra đợt hành quân này là hành quân thử để rút kinh nghiệm cho sắp tới hành quân thật. Đúng là nghệ thuật quân sự, cứ hư hư thực thực, chẳng biết lúc nào là thật lúc nào là giả.
  Tối đến, toàn đơn vị đúng là vui như tết, bếp tập thể thơm nức, nào là thịt gà rang, thịt gà luộc,  môn thục xào thịt hộp, lá lốt nấu canh, rau cải xào lòng gà v.v. Tuy ăn hơi muộn, anh em ai cũng đói meo, đến khi ăn uống no nê anh em lại hát  hò trêu trọc nhau như mọi khi. Tối nay được đi nghỉ sớm, trừ những người có nhiệm vụ canh gác, còn lại toàn đơn vị chìm vào giấc ngủ ngon lành.
  Sáng sớm hôm sau, đồng chí đại đội trưởng gọi tôi lên để trao đổi công việc, đồng chí khoe ngay:
    -Anh có biết không? Tối hôm qua và sáng hôm nay, tôi nghe đài BBC bình luận, nó nói quân cộng sản Bắc việt bắt đầu điều quân di chuyển, một số đơn vị đã thay đổi phiên hiệu để đánh lạc hướng, đồng thời công sản tạo ra nhiều cuộc hành quân nghi binh để đánh lừa đối phương… Và nó bảo: Mùa khô này quân cộng sản chuẩn bị đánh lớn trên toàn chiến trường Miền nam.
  Hứng chí đại đội trưởng còn nói một thôi một hồi, cuối cùng anh chốt lại:
    -Anh đã thấy: Nhất cử nhất động. Mọi hoạt động của ta đều bị địch theo dõi, cho nên ta phải hết sức bí mật. Đồng thời phải tạo ra nhiều hiện trường giả để làm nghi binh đánh lừa quân địch. Chiều hôm qua, theo ý đồ của tham mưu trung đoàn ta cố gắng hành quân rất lộ liễu để thu hút sự chú ý của địch, lúc đi trời còn đang nắng chang chang, tối hẳn đơn vị mới được hành quân quay lại.
  Tôi vẫn ngồi nghe, không nói gì. Anh nhìn tôi và chuyển đề tài:
    -Tôi mời anh lên là để trao đổi và giao nhiệm vụ cho anh. Như anh biết, đồng chí Xuân là không vào kịp, mọi nhiệm vụ về quản lý của đại đội là anh chịu trách nhiệm, bây giờ tình hình chiến sự cũng đã thay đổi không như thời kỳ vừa qua, thời kỳ vừa qua là huấn luyện sẵn sàng chiến đấu. Sắp tới sẽ chuyển sang hình thái vận động tấn công, hình thái này tương đối phức tạp, mọi cán bộ chiến sĩ yêu cầu phải gọn nhẹ, nhưng phải bảo đảm sức chiến đấu và tính cơ động cao. Vì vậy ban chỉ huy đại đội đề nghị anh nghiên cứu và đề xuất phương án bảo đảm hậu cần phù hợp với nhiệm vụ mới.
  Tôi nhận nhiệm vụ, sau đó hai ngày tôi trình bầy phương án đề xuất. Các anh trong ban chỉ huy đại đội, cơ bản nhất trí và đề nghị tôi cho vận hành thử để rút kinh nghiệm. Nguyên tắc cơ bản của phương án tôi đề xuất là chia nhỏ phần hậu cần tới từng cá nhân, tổ ba người, nhưng tiểu đội là chủ yếu, mục đích là gọn nhẹ và cơ động, sẵn sàng hỗ trợ cho các tiểu đội khác trên đường hành quân. Riêng về lương thực thực phẩm, phải có một lượng tối thiểu, đủ cơ số dự phòng, đề phòng bị đứt bữa khi gặp khó khăn. Nếu thực hiện thành công theo phương án này, thì lúc đó sẽ không tồn tại bộ phận hậu cần nữa, lực lượng này sẽ được bổ xung cho các tiểu đội, nếu cần thì lại được điều động trở lại.
   Cuộc sống của C20 lại tiếp tục ở trạng thái chuẩn bị cơ động, hành quân chiến đấu, thêm một thời gian nữa.
(Còn nữa)


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 05 Tháng Sáu, 2012, 03:44:00 pm

NHỮNG CUỘC HÀNH QUÂN
          Giải lao, ngồi trên đồi cỏ tranh, gió đông nam mang hơi nước từ ngoài Cửa việt thổi vào mát rượi. Hoàng hôn đang tắt dần sau những dãy núi xa xa, phía bên ấy là đất nước Lào.
  Cả đoàn quân không ai bảo ai,  tất cả đều ngồi quay lại nhìn về phía Nại cửu, tâm trạng của cán bộ và chiến sĩ C20, đang nói lên lời chia tay với Nại cửu. Chào Nại cửu, chúng tôi đi, hẹn ngày chiến thắng sẽ gặp lại…
  Hết giờ giải lao, trời cũng đã xẩm tối, chúng tôi lại tiếp tục hành quân, đi về phía đường quốc lộ số 9. Nhớ hồi đơn vị hành quân dã ngoại, cũng đã có lần chúng tôi đi dọc theo quốc lộ số 9, đây là tuyến đường nối từ thị xã Đông hà qua Cam lộ lên Đầu mầu rồi đi đâu nữa tôi cũng không rõ, chắc là chạy sang Lào.
  Ra đến đường 9, đây thuộc địa phận của quận Cam lộ. Tôi thấy có rất nhiều đơn vị bộ đội đã có mặt ở đấy, trời tối nên không nhận ra được người của đơn vị nào. Theo hướng dẫn của đồng chí liên lạc, chúng tôi đi ngược lên hướng Đầu mầu, đang đi tôi nghe thấy tiếng nói quen quen, tiếng của đồng chí trợ lý tham mưu nói với ai đó:
    -C20 đi đầu tiên, tiếp theo là trung đoàn bộ, rồi đến các đơn vị tiếp  theo, đúng như đội hình đã được xắp xếp gửi đến các đơn vị.
  Hình như, toàn trung đoàn tập trung ở đây, trợ lý tham mưu trung đoàn đang trao đổi với các chỉ huy đơn vị để xắp xếp đội hình hành quân. Bộ đội đến mỗi lúc một đông, đặc kín cả một đoạn đường 9.
  Hôm nay đã là 23 hay 24 tháng chạp năm 1974, chỉ còn khoảng năm hay sáu ngày nữa là tết Nguyên đán, lúc này vào khoảng chín mười giờ tối. Tháng này là tháng củ mật, trời cũng tối nhưng không đến nỗi tối lắm, ánh sáng không nhìn rõ được mặt nhau, nhưng vẫn lờ mờ đủ sáng để làm những công việc khác, bộ đội vẫn hoạt động bình thường. Đường 9 to và rộng là thế, bây giờ như bé lại, bởi những đơn vị bộ đội xếp hàng theo đội hình hành quân dọc theo đường 9, những hàng quân phủ gần kín mặt đường.
  Chúng tôi được phổ biến: Đội hình hành quân đêm nay, sẽ đi bằng ô tô, đi đâu là do giao liên của mặt trận dẫn đường, mọi cán bộ và chiến sĩ phải tuyệt đối chấp hành kỷ luật hành quân. Do hành quân bằng cơ giới và chất lượng đường xá rất xấu, để đảm bảo tuyệt đối an toàn khi hành quân. Tất cả các đơn vị phải thật chú ý đến các chốt an toàn của vũ khí, đặc biệt là các chốt an toàn của lựu đạn mỏ vịt, kể cả của Mỹ cũng như của Liên xô. Đề nghị các đồng chí, dùng dây nịt cao su quấn chặt các vòng chốt an toàn, đề phòng các vòng này khi xe chạy bị xóc và lắc mạnh, các chốt sẽ ngoắc vào những vật dụng khác làm bật chốt an toàn làm phát nổ khi đó sẽ gây kích nổ cả xe, nhiều khi lan sang các xe khác lúc đó sẽ gây ra thương vong lớn và làm rối loạn đội hình hành quân. Các đồng chí đặc biệt chú ý và tự giác chấp hành, các đồng chí cán bộ được giao nhiệm vụ trưởng xe thường xuyên kiểm tra nhắc nhở.
  Ngồi xếp hàng chờ xe, Dũng ngồi trước tôi, quay lại hỏi tôi:
    -Không biết mình đi đâu anh nhỉ?
  Tôi ậm ự trả lời mò mẫm:
    -Chắc là đi vào Bạch mã, Tây bắc Thừa Thiên Huế, vì hôm trước C20 đã đi trước tiền trạm.
  Tôi nói bừa vậy thôi chứ làm sao biết được, ngay cả đến các đồng chí trong ban chỉ huy đại đội cũng còn không biết thì làm sao lính tráng biết được. Tuy vậy đợt hành quân này, tôi nghe bạn bè nói là hành quân bằng ô tô, biết thế tôi âm thầm chuẩn bị cái rọ nhốt chú lợn vào đó, phân cho hai đồng chí to khỏe nhất của bộ phận hậu cần, chịu trách nhiệm mang theo, ngoài ra tôi còn động viên anh em cố gắng mang thêm những cái thật cần thiết để có cái dùng trong điều kiện giao thời này.
  Đang suy nghĩ miên man, thì chú chó của tiểu đội từ đâu chạy đến, nó hít hít đánh hơi vào ba lô của tôi, sau khi nhận ra, nó liếm vào tay tôi. Tôi túm lấy hai chân trước của nó, kéo nó vào lòng, nhưng nó to quá tôi kéo không nổi, tôi vuốt ve nó, nó ngoan ngoãn nằm xuống bên cạnh. Ban nãy, khi đơn vị hành quân nó cứ chạy lăng xăng, bên cạnh anh em tiểu đội thông tin, có lúc chẳng biết nó phát hiện được cái gì thế là nó biến mất vào rừng cỏ tranh, rồi sau mới lại thấy nó xuất hiện trở lại.
  Thường ngày khi còn ở Nại cửu, nó không hợp với Dũng, vì Dũng hay quắc mắt và quát tháo nó, nên khi nó nhìn thấy dũng là nó cứ linh lỉnh đi chỗ khác, không muốn tiếp xúc với Dũng. Nhưng hôm nay thì có vẻ hòa bình, Dũng xoa xoa đầu và nói với nó:
    -Chịu khó đi theo chúng tao, đừng chạy lung tung người ta bắt mất thì khổ, có khi lại còn chết đói.
  Nó cứ nằm im, nghe chừng nó cũng có vẻ đăm chiêu nghĩ ngợi về cuộc hành quân này. Nghĩ mà thương nó quá, chiến tranh thật là tàn nhẫn. Nằm một lúc rồi nó lại quay về với tiểu đội thông tin.
  Có tiếng động cơ ô tô, rồi một đoàn xe tải lù lù xuất hiện. Chúng tôi được xếp lên xe, mỗi xe ngồi thành 4 hàng, hai hàng sát hai bên thành xe, ngồi quay mặt vào trong xe, hai hàng ở giữa ngồi quay lưng vào nhau. Có lẽ mỗi xe chở được 24-26 người, ngoài ra còn có một số xe để chở vũ khí khí tài,và xe hộ tống.
  Đoàn xe rùng rùng chuyển động về hướng Đầu mầu, bóng đêm mịt mùng nuốt chửng cả đoàn xe. Trên xe, lúc đầu mọi người còn nói chuyện với nhau rôm rả, hỏi nhau xem bao giờ được gặp nhóm đi tiền trạm, hẹn hò nhau đủ chuyện. Xe cứ chạy đều đều, có những lúc gặp những đoạn đường xấu xe lắc mạnh, anh em ngả ngiêng xô dạt vào nhau. Cứ thế, nhiều lần ngả ngiêng xô dạt, tạo cho anh em quen với hoàn cảnh, hơn nữa đêm cũng đã về khuya, cộng với mệt mỏi, nên phần đa anh em ngủ gà ngủ gật lắc la lắc lư. Động cơ ô tô, cứ nổ đều đều đưa anh em vào giấc ngủ.
  Đã mấy năm nay, như là thói quen, mỗi khi tôi ngồi một mình, hay là những lúc như thế này, là tôi lại suy nghĩ về gia đình về bè bạn và nhiều nhất vẫn là suy nghĩ về Vân. Bao nhiêu kỷ niệm cũ lại ùa về, tôi nghẹn ngào tiếc nuối, nhưng biết làm sao được, đành thở dài, rồi lại tự mình động viên mình, hãy giữ dìn và nâng niu những kỷ niệm đẹp ấy, để nó sống mãi với thời gian.
  Vân ơi! Hôm nay ngồi tính ra, chúng ta đã xa nhau gần ba năm rồi. Như vậy, nếu như không có chuyện gì xảy ra và tính theo thời gian, thì Vân đã ra trường được hơn một năm rồi. Bây giờ Vân ở đâu? Làm gì? Giờ này Vân còn thức hay đã ngủ say? Vân có còn nhớ đến anh không? Chắc là Vân vẫn còn nhớ, quên làm sao được. Vân ơi! Anh xin nhận tất cả, tất cả mọi lỗi lầm đều do anh gây nên, vì vậy anh không thể đưa ra lời thanh minh hay ngụy biện nào cho việc làm của mình. Anh mong Vân thông cảm và hiểu cho anh, anh cũng không thể nói ra tất cả những suy nghĩ của anh để Vân hiểu được, anh cầu mong Vân có cuộc sống hạnh phúc, rồi thời gian sẽ làm sáng tỏ những điều anh chưa nói được, đừng vội căm ghét anh mà tội nghiệp.
  Đang mơ màng lắc lư, chợt nghe thấy nhiều tiếng nói vọng lại từ đầu đoàn quân, sau đó đoàn xe dừng lại hẳn. Chắc đây là biên giới Việt Lào, ngồi trên xe tôi nghe thấy mọi người nói với nhau bằng hai thứ tiếng, cả tiếng Lào và tiếng Việt. Ít phút sau đoàn xe lại tiếp tục chuyển bánh, trên xe lúc này nhiều người đã tỉnh giấc, ngoài trời vẫn tối như bưng, thi thoảng mới nhìn thấy ánh sáng vàng ệch của đèn ô tô trong lớp bụi đặc quánh.
  Anh em giọng ngái ngủ hỏi nhau:
    -Mình đi sang Lào hả anh?
  Có ai đó trả lời:
    -Ừ! Có lẽ thế.
  Huyên náo trong xe được ít phút, mọi người lại chìm vào giấc ngủ. Tiếng động cơ ô tô vẫn nổ đều đều, thành xe lắc lư vặn vẹo, kêu cọt kẹt. Cả một tổ hợp tạp âm, nhưng vẫn dễ dàng nhận ra được những tiếng ngáy đều đều của những chàng trai đang ngon giấc trên đường hành quân.
  Tôi cũng chìm vào giấc ngủ từ lúc nào không biết. Tôi mơ, tôi với Vân đang đi chợ Hương canh. Vào chợ, Vân đi trước tôi đi sau, Vân mua hến, mua cà chua, mua rau thơm, tôi cứ đi theo sau để xách các thứ. Ra khỏi chợ đi về phố huyện, đây là huyện Bình xuyên của tỉnh Vĩnh phú, tôi rủ Vân vào ăn bánh cuốn, ăn xong chúng tôi sánh vai nhau đi bộ ra ga Hương canh đi dọc đường tầu để về trường. Đi bên nhau, Vân hỏi tôi:
    -Anh ơi! Sau này ra trường mình xin về đâu?
  Tôi nói với Vân:
    -Tình hình chiến tranh thế này, chắc là mình không thể xin được đâu em. Có chăng chỉ xin được hai đứa về cùng một chỗ cũng đã là tốt lắm rồi.
  Vân nói:
    -Em cũng nghĩ thế, nếu chúng ta được phân công ở mấy tỉnh từ Ninh bình trở ra thì tốt, còn từ Ninh bình trở vào thì chiến tranh ác liệt quá.
  Nghĩ một lát, Vân lại nói tiếp:
    -Theo em: Đi đâu thì đi, cứ có hai anh em mình là được rồi, em chẳng phải lo lắng gì cả.
  Tôi hỏi Vân:
    -Vân ơi! Em có muốn chúng ta tự phân công không?
  Vân hỏi tôi:
    -Bằng cách nào?
  Tôi cười rồi nói:
    -Ra trường, chúng ta cưới nhau rồi xin về quê làm ruộng, sinh cho anh ba bốn đứa con và vui thú với điền viên là xong.
  Vân không nói gì, chỉ đưa mắt lườm tôi, ngụ ý đừng bao giờ nghĩ thế.
  Chiếc xe lắc mạnh quá, làm đầu tôi đập vào thành xe đau điếng. Tôi tỉnh ngủ, trời cũng gần sáng, tuy chưa có ánh sáng mặt trời nhưng nhìn cũng rất rõ cảnh vật xung quanh. Trời cao xanh không có một gợn mây, báo hiệu một ngày nắng đổ lửa, nhìn ra bên ngoài, chúng tôi đang đi giữa một khu rừng đại ngàn, những cây gỗ cao to, lá và tán lá thì lưa thưa nhìn thấy cả bầu trời. Rừng này là rừng gì trông lạ lắm, gần như chỉ thấy một loại cây giống nhau, lá rất to, mầu xanh vàng đang chuyển dần sang mầu đỏ úa, chắc mùa này rừng đang là mùa rụng lá, lá rụng phủ kín cả mặt đất, tầng rừng sát đất không có loại cây dây leo, trơ trụi những cây thân gỗ cao vút.
  Nhìn vào trong xe, nhìn mấy anh em còn đang ngủ, tôi thấy bụi phủ kín hết đến nỗi không còn nhận ra được là ai nữa, chỉ có mỗi mũi và mồm được anh em che lại là còn thấy mầu da, còn tất cả đều phủ dày một màu bụi đất.
  Xe tiếp tục chạy khoảng hơn tiếng đồng hồ nữa đến điểm giải lao và dừng lại, anh em lục tục xuống xe, do ngồi lâu trên xe và ngồi ở một tư thế nên khi xuống xe phải có người đỡ. Xuống dưới đất mọi người bò kềnh bò càng cho thoải mái, lát sau tất cả mọi người mới bắt đầu rũ bụi, bụi bay mù mịt, rũ cũng chẳng hết, bụi chui vào người bụi bám vào đầu vào tóc, bụi chui vào lỗ mũi lỗ tai, cổ họng cũng khê đặc vì bụi, mồm đặc quánh lạo xạo toàn đất
  Sau thời gian nghỉ giải lao ăn sáng, chuẩn bị nước nôi, xe cộ thì tiếp xăng tiếp dầu. Chúng tôi lại tiếp tục hành quân, chặng đường này chúng tôi được phổ biến là đang đi trên đất bạn Lào, chặng này hoàn toàn  không có nước, tất cả các suối đều khô cạn, hiện nay trạm dừng chân cũng không có nước mà phải đi cách đó khoảng 5-6 cây số đường rừng mới đến được nguồn nước. Vì vậy yêu cầu mọi người tuyệt đối tiết kiệm nước.
(Còn nữa)


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 10 Tháng Sáu, 2012, 03:53:06 pm

NHỮNG CUỘC HÀNH QUÂN
          Hết giờ giải lao, đoàn xe lại tiếp tục chuyển bánh, khói bụi bay mù mịt tạo thành đám mây bụi mầu vàng đục kéo dài từ đầu đoàn xe đến cuối đoàn xe, bụi len lỏi trong rừng, vẩn vơ lượn lờ dưới tán lá rừng, chúng bay lang thang rủ nhau tìm về với cát bụi.
  Nhìn đoàn xe nối đuôi nhau, không biết là có bao nhiêu chiếc, nhưng tôi đoán chắc là nhiều vì phải vận chuyển cả một trung đoàn bộ binh cơ mà. Trong đội hình hành quân tôi chỉ nhìn thấy hai ba chiếc đi trước và một hai chiếc đi sau xe mình. Lúc nãy, giải lao tôi tranh thủ nói chuyện với đồng chí lái xe, hỏi thăm tình hình, nhưng đồng chí ấy nói không biết gì, tất cả đi theo xe dẫn đường. Hỏi về quê quán, mới biết đồng chí quê ở Thái bình, năm nay chưa đầy 21 tuổi, hiện đang lái xe cho trung đoàn vận tải gì ấy, thuộc đường dây 559, đồng chí ấy nói nhưng tôi quên mất.
  Nhìn đồng chí lái xe vóc người bé nhỏ, chắc khoảng độ 41-42 kg gì đấy, tôi cảm thấy e ngại về sức khỏe của đồng chí ấy và cũng thấy thương thương, tôi nghĩ rằng đồng chí lái xe  phải cố gắng lắm mới đủ khả năng để điều khiển chiếc zin ba cầu to vật vã này. Thấy đồng chí ngồi lọt thỏm sau vành tay lái, đầu trùm chiếc khăn mầu xanh của bộ đội đã được thấm sũng nước để chống nóng, mồ hôi ướt đẫm sau lưng áo, dính bết bụi đường.
  Không hiểu tuyến đường này tên là gì? Là quốc lộ hay là tỉnh lộ của nước bạn Lào? Cũng không biết trước đây tuyến đường này được xây dựng bằng loại vật liệu gì? Xây dựng được bao nhiêu năm rồi mà bây giờ không còn nhìn thấy một dấu vết gì của quá khứ để lại. Giờ đây, những chiếc xe cứ lầm lũi bám theo vệt đường cũ để đi, đi tới đâu bụi bay mù mịt tới đó, bụi ở hai vệt bánh xe có lẽ phải dầy đến nửa mét, ban nãy tôi vô tình lội vào, bụi ngập đến tận đầu gối. Bụi quá, chúng tôi không ai nói chuyện với ai. Khăn mũ trùm kín mít, tựa vào vai nhau nghỉ ngơi, thi thoảng mọi người trong hàng lại đề nghị đổi tư thế ngồi.
  Đoàn xe cứ lầm lũi tiến lên phía trước, trời xanh cao ngằn ngặt, nắng như đổ lửa, ánh nắng xuyên qua khẽ lá chiếu vào đoàn xe loang loáng. Ngồi trên xe, mà mồ hôi cứ nhớp nháp trong áo, có lúc mồ hôi thành dòng chảy từ ngực xuống đến bụng rồi thấm vào áo, tạo một cảm giác tê tê buồn buồn và man mát dễ chịu. Tôi lấy tay lắc lắc bình tông nước và nghĩ, tình hình này nếu không tiết kiệm nước sẽ thiếu, bây giờ mới là gần trưa mà bình tông nước đã vơi quá nửa. Thấy tôi lắc bình tông nước, Dũng hỏi tôi:
    -Anh hết nước rồi à? Lấy của em mà uống, của em vẫn còn nhiều, em gầy nên ít uống nước, anh béo nên uống nhiều hơn em.
  Tôi lắc đầu, trả lời Dũng:
    -Của anh vẫn còn, anh kiểm tra xem còn nhiều hay ít để biết mà điều chỉnh.
  Chiếc xe cứ hồng hộc thở dốc, vật vã bò qua những ổ trâu ổ voi, gặp những đoạn đường xấu, đồng chí lái xe phải chui cả ra ngoài cửa xe để nhìn đường. Trong xe, hầu hết mọi người dấu mặt vào mũ tai bèo và khăn trùm mặt để tránh bụi, nên không ai nói chuyện với ai. Đột nhiên, Dũng lấy khủy tay huých vào sườn tôi và nói:
    - Mình đi thế này chắc là vào sâu chứ không phải đi vào Bạch mã đâu anh ạ, có khi là vào tận B2 chứ chẳng chơi đâu.
  Tôi trả lời Dũng:
    -Anh cũng có linh tính như vậy. Nhưng anh vẫn thắc mắc. Tại sao? Hôm trước đoàn tiền trạm lại đi vào hướng tây Thừa thiên Huế, mà hôm nay trung đoàn lại đi theo hướng này. Có khi trung đoàn đang thực hiện nhiệm vụ làm công tác nghi binh để đánh lừa tình báo của địch thì sao? Chẳng biết thế nào mà lần.
  Im lặng một lúc, không thấy Dũng nói gì, tôi lại tiếp:
    -Mà thôi, nghĩ ngợi làm gì cho mệt óc, hơn nữa nếu có biết cũng chẳng giải quyết được gì, cứ kệ nó, mọi người đi đâu ta đi đến đấy. Cố gắng, nghỉ ngơi để lấy sức, nói nhiều khô cổ lại tốn nước, mà nước lại đang cần phải tiết kiệm.
  Dũng chuyển chủ đề:
    -Em nhớ nhà quá anh ạ!
  Tôi lấy khủy tay huých huých vào sườn Dũng:
    -Ai mà không nhớ, em lại sa lầy vào chủ đề muôn thở rồi. Thôi không nói chuyện nữa.
  Nói với Dũng vậy thôi, thực ra tôi cũng đang nghĩ về gia đình. Tôi không thể không nghĩ được, vì từ khi tôi được tranh thủ rẽ qua nhà, trong đợt hành quân đi chiến đấu, cho tới bây giờ. Tôi hoàn toàn không có tin tức về gia đình, sự thật là tôi rất lo lắng, lo cho mọi người ở nhà, không biết mọi người có được an toàn không. Nói ra thì có vẻ vô lý,  ai đời người ở chiến trường lại lo cho người ở nhà. Nhưng ở hoàn cảnh gia đình tôi thì đúng là như vậy. Quê tôi tuy không phải là chiến trường ác liệt, mặt đối mặt với kẻ thù, cũng không phải là vùng tập trung đánh phá trọng điểm của kẻ thù như: Hà nội, Hải phòng, Nam định và một số vùng trọng điểm khác. Nhưng quê tôi là vùng đảm bảo giao thông thông suốt nối liền châu thổ sông Hồng với khu 4 cũ, nếu tắc giao thông đường số một, đã có mạng lưới giao thông vùng duyên hải đảm nhận. Kẻ thù đã phát hiện ra điều ấy, nên hàng ngày máy bay của chúng săn lùng gắt gao, trên cả đường thủy lẫn đường bộ. Cũng đã có lần chúng phát hiện được mục tiêu và tổ chức đánh phá, chúng ta bị tổn thất kể cả về người cũng như về của, và đấy chính là lý do khiến tôi lo lắng. Vẫn biết rằng lo cũng chẳng giải quyết được gì, nhưng hàng ngày hàng giờ tôi vẫn hướng về nơi chôn rau cắt rốn ấy, cầu mong cho mọi người được bình an.
  Đang mải mê theo đuổi dòng suy nghĩ, Dũng lại huých vào vai tôi và ghé vào tai tôi nói:
    -Anh có nhớ chị Vân không? Theo anh, chị ấy đã đi lấy chồng chưa?
  Tôi trả lời Dũng:
    -Nhớ lắm, Dũng ạ! Nhưng bây giờ chỉ còn kỷ niệm thôi, anh đâu có còn người yêu nữa, anh đã mất chị Vân thật rồi.
  Nghẹn ngào, một lúc sau tôi mới lại nói tiếp cho Dũng:
    -Còn việc chị Vân đã lấy chồng chưa thì thật là khó nói, nhưng theo anh thì có lẽ chị Vân đã có người yêu rồi, vì tính cho đến nay anh chị đã xa nhau gần ba năm rồi còn gì, còn cưới hay chưa thì cũng không còn quan trọng nữa.
  Dũng hỏi tôi:
    -Cở sở nào mà anh lại nói thế?
  Tôi nói với Dũng:
    -Dũng hỏi anh cơ sở nào thì anh xin chịu, nhưng anh mong muốn chị Vân như thế, nên anh đoán vậy.
  Chúng tôi ngồi gục đầu xuống lấy khăn bịt mồm để tránh bụi, không nói chuyện với nhau nữa. Được một lúc, Dũng lại hỏi tôi:
    -Nếu còn sống quay về, anh có tìm gặp chị Vân không?
    -Chuyện ấy là nhất định phải làm rồi, nhưng làm vào thời gian như thế nào thì còn phải cân nhắc. Tôi khẳng định với Dũng như vậy.
  Dũng bảo:
    -Cho em đi theo với.
  Cả hai đứa chúng tôi cùng cười và chìm vào im lặng, mỗi người theo đuổi suy nghĩ của mình…
  Sau khi nghỉ giải lao và ăn trưa xong, đoàn xe lại hối hả lên đường. Đoàn quân đang tiến về phía nam, lúc này mặt trời đã chếch sang bên phía bên phải. Nắng vẫn như đổ lửa, rừng khô rang, dọc đường đi rất hiếm mới bắt gặp được một bụi cây có mầu xanh của lá, cả một cánh rừng vàng xỉn mầu lá rụng, khô khốc.
  Sau một đêm và hơn nửa ngày hành quân bằng ô tô, hầu hết anh em trên xe đã thấm mệt, tất cả đều tựa vào vai vào lưng nhau ngủ gà ngủ gật. Buổi sáng còn có người khen rừng, chỗ này đẹp chỗ kia cũng đẹp, bây giờ chẳng ai thèm để ý, thấy đi lâu quá, thi thoảng lại hỏi nhau bâng quơ:
    -Không biết bao giờ thì đến nơi nhỉ?
  Có lúc thì có người trả lời:
    -Bao giờ đến thì đến, giao liên họ dẫn đường, mình phải đi theo họ, bao giờ họ bảo đến là đến. Mình sao biết được.
  Cũng có lúc cũng chẳng có ai trả lời, tất cả đều im lặng.
  Đã xế chiều mà nắng vẫn còn gay gắt, cường độ ánh nắng có vẻ như giảm xuống, nhưng nhiệt độ không khí lại như tăng lên. Mồ hôi ra đến đâu bay hơi ngay đến đó, sờ tay vào trong người thấy mồ hôi dính nhớp nháp. Bình tông nước đã cạn gần đến đáy, nhẹ tênh bên hông, mồm miệng khô đắng, lạo xạo toàn cát.
  Nhìn mọi người trên xe tôi thấy thương quá, phần vì đi đường xa mệt mỏi, phần vì khát nước cháy cổ, tất cả mọi người đều rũ rượi như dưa cải bị phơi héo. Một chân tôi bị tê cứng, véo cũng không thấy đau, tôi đổi tư thế ngồi cho máu lưu thông. Thấy tôi cựa quậy, Dũng hỏi tôi:
    -Anh đang làm gì đấy?
  Tôi trả lời Dũng:
    -Chân anh bị tê quá, không co cũng không duỗi được, anh đang đổi tư thế ngồi cho đỡ mỏi.
  Dũng bảo tôi:
    -Anh ơi! Đang khát thế này, bây giờ có gáo nước mưa mà uống thì quá đã anh nhỉ.
  Tôi nói:
    -Thế thì còn gì bằng, bây giờ chỉ cầu có nước mà uống cho thật thoải mải cũng tốt rồi cần gì phải là nước mưa.
  Đoàn xe cứ mải miết chạy cho tới khi mặt trời còn độ hai con sào nữa là lặn xuống đằng sau khu rừng phía bên phải, thì dừng lại. Bây giờ vào khoảng năm giờ chiều, chúng tôi nhận được lệnh, đêm nay tạm nghỉ tại đây, ngày mai lại tiếp tục hành quân, các đơn vị cử hai người mang ba lô và phao bơi đi lấy nước, nguồn nước cách đây khoảng năm Km.
  Đoàn người đi lấy nước, theo đồng chí dẫn đường cắt rừng đi về phía tay trái dọc theo hướng hành quân. Số anh em còn lại thu dọn đồ đạc di chuyển về nơi nghỉ tạm.
  Những anh em được cử đi lấy nước, lúc đầu hăng hái theo sát nhau, sau vì mệt, dần dần tách thành từng nhóm. Chật vật lắm mọi người cũng đến được điểm lấy nước.
  Quan sát điểm lấy nước, tôi thấy: Đây là đoạn phình to của một con suối đã cạn ở hai đầu, chỉ có mỗi chỗ này là còn nước, còn xung quanh đều khô rang, từ trên bờ xuống đến mép nước, có lẽ cũng sâu đến hàng chục mét, phải đi men theo bờ suối mới xuống để múc được nước.
  Do tình hình nước nôi khan hiếm, trung đoàn đã cử đồng chí trợ lý tham mưu trực tiếp đứng ra chỉ huy việc lấy nước của các đơn vị. Việc lấy nước lúc đầu còn lộn xộn, do tâm lý sợ thiếu nước và tranh giành lấy trước lấy sau. Sau đó phải chấn chỉnh lại bằng cách gọi theo danh sách và chia thành các khu vực lấy khác nhau, khu vực các đại đội trực thuộc, khu vực các tiểu đoàn bộ binh, khu vực trung đoàn bộ và ban hậu cần v.v.
  Nhìn những người xuống lấy nước, chẳng ai bảo ai, nhưng tất cả mọi người đều giống nhau về động tác. Việc đầu tiên là khỏa khỏa lớp nước trên mặt sau đó là vục xuống mặt nước uống lấy uống để, uống cho no nê đã cơn khát cháy cổ, cuối cùng mới là việc cho vào phao bơi buộc lại, rồi nhét vào ba lô gùi về, cũng có những đơn vị cho vào phao bơi rồi để vào võng cáng về, rất nhiều kiểu sáng tạo của lính.
  Đứng trên bờ để chờ đến lượt, tôi sốt ruột quá, vừa khát lại vừa sợ hết nước, nên nhìn thấy đơn vị nào làm chậm là tôi lại hậm hực khó chịu. Nhưng cũng thật may, đúng là vũng nước Thạch sanh, lấy mãi mà vẫn chưa vơi đi bao nhiêu, tất cả mọi người bây giờ đều yên tâm không còn sợ thiếu nước nữa nên cũng bớt tranh dành xô đẩy.
  Đến lượt đơn vị tôi, chúng tôi cũng làm như vậy. Khi tôi vục mặt xuống uống hớp nước đầu tiên, tôi thấy có mùi lạ khó tả, không biết là mùi gì, nhưng vì quá khát nên cứ uống cái đã có gì thì tính sau. Vừa uống tôi vừa nghĩ: Hồi còn ở bãi mít Tích tường Như lệ, chúng tôi ở phía bờ nam, phía bên bờ lồi. Hầm trú ẩn của chúng tôi ở sát trong bờ, từ bờ ra đến mép nước của sông Thạch hãn, có lẽ phải vài ba trăm mét là bãi cát trắng. Địch ở rất gần chúng tôi và lại ở trên cao nên nó quan sát chúng tôi rất rõ, chỉ cần chúng nhìn thấy bóng của bộ đội ta đi lại trên bãi cát là chúng gọi pháo bắn, mà pháo binh của quân lực VNCH thì thôi rồi. Nói thật, không khen cũng không được, vì nó bắn khá chính xác. Điều ấy cũng phải thôi, vì pháo của nó được di chuyển bằng cần cẩu bay, không bị quăng quật va quệt hay hỏng hóc gì, thuốc pháo thì đủ liều không bị rút trộm để nhóm bếp nấu ăn. Nếu pháo binh của ta được như thế chắc là cũng chẳng kém cạnh gì, có khi còn bắn chính xác hơn.
  Chính vì pháo binh của địch như vậy, nên chúng tôi rất hạn chế ra sông, nhưng việc lấy nước để phục vụ sinh hoạt hàng ngày thì bắt buộc. Vấn đề nước sinh hoạt là vấn đề sinh tử, nên bộ đội ta đi lấy nước vào những giờ, địch không quan sát thấy, chúng biết ý đồ của ta, chúng chuyển sang bắn cầm canh, bắn hú họa may ăn may thua. Nhưng cũng có những hôm không thể ra sông lấy được, đành lấy ở các hố pháo ngay trên bãi cát, nước thì mầu xanh lại hơi nhớt, mùi tanh nồng, vì trên bãi cát cũng có một số mộ được chôn từ khi nào không rõ.
   Hôm nay, suốt một ngày hành quân bằng ô tô bây giờ mới gặp được vũng nước là hạnh phúc lắm rồi.
(Còn nữa)
 


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 11 Tháng Sáu, 2012, 03:31:36 pm
           Chào bác chủ! Chào các bác! Hay quá, chuyện của quanvietnam thật hay thật hấp dãn. Câu chuyện của bạn đan xen giữa trận mạc, khói lửa chiến trường,hay hành quân vv....Nhưng vẫn nói lên tình cảm của người lính với quê hương với người yêu xa cách. Mà thời đó đúng là không phải ai cũng đã có người bạn gái, người yêu. Nên những câu chuyện của bạn rất gần gũi, rất thực tế và rất giá trị.

          Tranphu341 chúc bạn luôn khỏe và tiếp bước đường hành quân của mình.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 15 Tháng Sáu, 2012, 03:12:05 pm
Chào anh TP 341, thật là cảm động, mấy hôm rồi trời nắng nóng 39-40 độ mà anh TP vẫn đọc bài của Quanvn, cảm ơn anh đã có lời động viên kích lệ.Tôi sẽ cố gắng. Chào anh và các bạn đọc giả cua diễn đàn, chúc mọi người có nhiều sức khỏe, đoàn kết, cùng nhau xây dựng diễn đàn càng hay và càng phong phú hơn.Quanvietnam.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 15 Tháng Sáu, 2012, 03:13:39 pm

NHỮNG CUỘC HÀNH QUÂN
          Mấy ngày đầu do chưa quen, nên mọi người cảm thấy gian khổ và vất vả, sau mấy ngày mọi người cũng đã quen dần với hoàn cảnh, nên cũng không thấy ai kêu ca gì, mà giả sử có vấn đề gì muốn kêu ca, cũng không biết kêu ca phàn nàn với ai, bởi vì ai cũng giống ai từ cán bộ cho đến chiến sĩ, tất cả đều không biết đơn vị sẽ đi đến đâu và làm gì. Trong thời gian này, mọi người giống như những cỗ máy, chỉ biết nhận lệnh và hành quân, đi đâu không ai biết, đi theo người dẫn đường, có lệnh là đi, không có lệnh thì nghỉ lại binh trạm, cứ như thế, ngày lại qua ngày.
  Xa Nại cửu đến nay cũng đã gần chục ngày rồi, chẳng ai để ý đã đi bao nhiêu ngày và nghỉ bao nhiêu ngày, cứ có xe đón là đi, không có xe đón thì chờ, có những hôm không đủ xe thì lại phân công bộ phận này đi trước bộ phận kia ở lại đi sau, tất cả hẹn sẽ gặp nhau ở binh trạm tiếp theo. Những ngày này, cũng chẳng còn ai nhớ địa danh vùng mình đã đi qua, những binh trạm mình đã ở, cứ thế là đi, mọi gian khổ và vất vả đều lùi lại phía sau, tất cả đều hướng về phía trước. Sau những chặng hành quân vất vả mệt mỏi, khi được nghỉ ngơi đoàn quân lại râm ran tiếng cười tiếng nói. Cuộc sống của những anh bộ đội cụ Hồ thật đơn giản và rất hồn nhiên.
  Mấy bữa nay tôi hơi buồn, buồn vì con chó của tiểu đội thông tin, bây giờ nó ở đâu? Còn sống hay chết? Buồn vì mất bao nhiêu công sức mang theo một chú lợn để chuẩn bị cho đơn vị ăn tết thì cũi bị rách nó chui ra mất, thế là bao nhiêu công lao chuẩn bị đều thành công cốc. Chuyện cũng chỉ như vậy thôi, thật ra cũng chẳng có gì đáng buồn, nhưng ở hoàn cảnh này chẳng hiểu vì sao tôi cứ suy nghĩ vẩn vơ với hai con vật, mà chúng đã có thời gian nó gắn bó với chúng tôi và được chúng tôi chăm bẫm, người và vật cũng đã để lại cho nhau bao nhiêu tình cảm, bây giờ chúng không còn nữa bỗng dưng lại thấy trống vắng, đôi lúc cảm thấy nhớ chúng. Con lợn nó đi một nhẽ, vì nó sinh ra là để mổ thịt, số kiếp của nó là như vậy, chỉ tiếc là mình không được hóa kiếp cho nó và tận hưởng sự báo đáp của nó.
  Nhưng còn con chó, nuôi nó từ tấm bé, nó lớn lên trong tình thương yêu của tiểu đội, cả tiểu đội ai cũng quí nó và ngược lại nó cũng rất quí mọi người, mỗi lần anh em trong tiểu đội đi công tác về, nó chạy ra mừng rỡ quấn lấy chân, chạy theo mọi người vào tận trong nhà và đứng trân trân nhìn từng người một, như thể cho đỡ nhớ bởi những ngày xa cách. Thường những đợt đi công tác xa đơn vị, khi về mọi người đều phần quà cho nó, nó giống như đứa trẻ con trong nhà, chỉ khi nào nhận được quà rồi mới chịu đi chơi chỗ khác. Bây giờ, không còn được nhìn thấy nó nữa tôi nhớ và thương nó quá.
  Hôm nghe Lành tiểu đội phó, nói với tôi về chuyện con chó, tôi giận Lành lắm, mắng cho Lành một trận:
    -Mày chẳng làm ăn cái gì cho ra hồn, chỉ có mỗi việc trông nom con chó, để cho nó ngồi bên cạnh mình, thế mà khi giải lao nó đi đâu mất mà không tìm được, lúc xe chạy rồi mới nói thì còn ai kịp trở tay.
  Mắng nó, thằng Lành chỉ còn biết ngồi im, nó biết con chó là người bạn thân thiết của tiểu đội, giao cho nó trông coi, bây giờ bị lạc, tội của nó là lớn lắm. Chính vì vậy nó không giám cãi câu nào, nghĩ vừa bực lại vừa thương nó, lòng tự nhủ lòng: “Thôi thì của đi thay người”. Chuyện cứ tưởng như vậy rồi qua đi. Nhưng khoảng hai ba hôm sau, thằng Chính nó mách tôi là thằng Lành thả con chó về rừng chứ không phải bị lạc. Tôi nghĩ mãi và cũng cảm thấy nghi ngờ, có thể đúng như thằng Chính nói, vì con chó khôn như vậy sao có thể lạc được. Song, việc làm của thằng Lành khi thả con chó về rừng là đúng hay sai thì tôi cũng không biết là đúng hay sai, vì thế nên tôi cũng lờ đi không tra xét lại việc làm của nó. Nhưng cứ nghĩ đến hình ảnh con chó, đầu ngẩng cao hai tai dỏng lên nghe ngóng lia đôi mắt sáng quắc khắp mọi nơi trong rừng già sâu thẳm để tìm bóng người thân nhưng vô vọng, nó lại thất thểu bước đi, đi đâu nó cũng không biết, nó còn quá non dại không đủ kinh nghiệm để hình dung ra là nó đang bị kẻ thù rình rập. Nghĩ đến đấy là nước mắt đã ứa ra, tôi chỉ còn biết âm thầm cầu nguyện, con chó của chúng tôi không gặp nguy hiểm gì và nhanh chóng phù hợp với điều kiện sống, để làm bạn với rừng xanh và sống cuộc đời tự do.
  Hôm nay, tôi dậy sớm nhưng cứ nằm lỳ trên võng, đến khi nghe anh em nói là ngày mồng một tết, tôi mới sực nhớ ra vì mấy ngày vừa rồi hành quân vất vả, chó thì bị lạc, lợn thì bị sổng chuồng, buồn nên chẳng có thời gian nghĩ đến chuyện tết nhất, hơn nữa bên này đang là bên tây trường sơn, nên thời tiết và khí hậu không có một tý nào gợi cho tôi nhớ về cái tết cổ truyền của dân tộc,  nên tôi quên. Khi được nhắc, hôm nay là mồng một tết, chẳng hiểu sao tôi cảm thấy buồn, toàn thân mệt mỏi, chân tay rã rời, không còn cả muốn cử động nữa, tôi có cảm giác như mình bị ốm, tôi leo lên võng nằm.
 Vào giờ này ở nhà, chắc mẹ và các em tôi đang chuẩn bị mâm cỗ cúng ngày mồng một tết, bố tôi thường không có nhà ở thời khắc này, vì năm nào ông cũng xung phong trực cơ quan từ đêm ba mươi đến trưa ngày mồng một mới về nhà, mọi việc ở nhà là một tay mẹ tôi lo liệu hết. Năm nay các anh các chị đã có các cháu bé, chắc là không về nhà ăn tết được, mà ăn tết ở tại cơ quan. Mấy tết trước tôi vắng nhà, không biết mẹ tôi có gói bánh chưng không? Hồi tôi còn ở nhà, lúc đó các anh các chị cũng chưa xây dựng gia đình, cứ đến tết là chúng tôi cứ nằng nặc đòi mẹ phải gói bánh chưng. Lúc đó tôi đâu có biết, để có bánh chưng cho chúng tôi ăn, thì mẹ tôi phải tính toán lắm mới giám gói hai ba cặp bánh chưng. Khi đó không riêng gì nhà tôi, mà cả làng cả xã kinh tế đều khó khăn, nhà tôi thì đông miệng ăn, thóc trong bồ tính ra, nếu chắt chiu ăn độn thêm với khoai sắn thì cố gắng lắm mới đủ đến vụ sau, bây giờ mang gói bánh chưng để ăn chơi ngày tết thì lấy đâu bù vào trong những ngày giáp hạt, mẹ sợ chúng tôi bị đứt bữa nên cứ lần lữa không giám gói. Sau vì sức ép của chúng tôi trong mấy ngày tết, hơn nữa mẹ tôi cũng không muốn chúng tôi buồn nên bà đành phải chiều các con, chắc là những ngày sau đó mẹ tôi lại âm thầm lần hồi, giật gấu vá vai lo bù lại phần thiếu hụt. Năm nay, không biết tình hình kinh tế có gì được cải thiện không? Chắc là vẫn phải chắt chiu và tiết kiệm. Ôi! Trong sâu thẳm của đại ngàn trường sơn, tôi nghĩ đến bếp lửa hồng, nghĩ đến nồi bánh chưng sôi sình sịch, trẻ con thì nô đùa chờ bánh chín, còn bố mẹ thì đăm chiêu nhìn vào ngọn lửa cháy bập bùng, gương mặt nặng chĩu lo âu, lo cho những người ở nhà, lo cho những người đi xa…
  Tôi vắng nhà chắc mọi người buồn lắm, có lẽ mẹ tôi là người buồn nhất, vào những ngày này là mẹ tôi đứng hàng giờ trước bàn thờ tổ tiên để cầu nguyện cho mọi người trong nhà có sức khỏe và gặp nhiều may mắn, thường thì mẹ tôi dành nhiều thì giờ cầu nguyện cho tôi, mẹ cầu xin trời đất, thần linh ban cho tôi sức khỏe, chân cứng đá mềm, tránh được mũi tên hòn đạn, để đi đến nơi về đến chốn.
  Bữa cơm đầu năm mới hôm nay ở nhà tôi, thiếu vắng nhiều người, các anh các chị và các cháu chưa về, tôi thì không ai biết tin tức gì. Mâm cơm đầu năm, chỉ có bố mẹ tôi và ba đứa em. Trong bữa ăn, thế nào các em tôi, chúng nó cũng nhắc đến tôi, mẹ tôi chỉ cần nghe đến thế là đã nước mắt ngắn nước mắt dài, bà vừa khóc vừa kể lể về tôi. Trong tình hình này bố tôi phải can thiệp thì mới có thể bình thường được, mấy đứa em tôi sau đấy thế nào cũng bị bố tôi mắng cho một trận…
  Còn Vân, tết này em ăn tết ở đâu? Ở chiến trường, ở quê nội, hay quê ngoại? Thôi dù là ở đâu, theo phong tục cổ truyền đầu xuân năm mới, anh xin chúc em và gia đình: Sang năm mới, dồi dào sức khỏe gặp nhiều may mắn.
  Không biết bao giờ anh mới lại được gặp em, tuy anh ở xa, nhưng lúc nào anh cũng nghĩ về em và cầu nguyện cho em được hạnh phúc. Ngày mai, ngày mốt có thể anh bị hy sinh trên chiến trường hay anh vẫn sống trở về, anh sẽ lấy vợ và có con, mọi thứ có thể thay đổi, nhưng tình yêu anh dành cho em mãi mãi là vĩnh hằng. Anh nói như thế có thể em không tin, nhưng anh nguyện sẽ làm như vậy, chỉ tiếc rằng hoàn cảnh không cho phép anh thể hiện những điều anh nói, anh chỉ còn biết phải khắc cốt ghi tâm trân trọng giữ dìn những gì mà chúng ta đã có.
  Rất nhiều đêm anh nghĩ về em, không sao ngủ được. Anh cứ tự hỏi: Có phải tại anh đã xô đẩy em vào hoàn cảnh này không? Nếu như anh không xen vào chuyện của em thì bây giờ mọi sự đã khác, có đúng không em? Vẫn biết, khi đó chúng ta đến với nhau là hoàn toàn tự nguyện, đến với nhau để yêu nhau, để tiến tới xây dựng hạnh phúc trăm năm. Khi đó, không phải chúng ta không lường hết những khó khăn sẽ xảy ra, rõ ràng trong tình hình đất nước có chiến tranh thì chắc chắn sẽ có thời gian chúng ta phải sống xa nhau, chúng ta đều biết và cũng không ít lần chúng ta nói về điều này. Chính trong những hoàn cảnh ấy em đã nói với anh những điều, mà anh không thể nào quên được, cho dù là đời này kiếp này, đời sau kiếp sau và mãi mãi. Nhưng em ơi! Đó là trước kia, lúc đó chúng ta sống xa mặt trận, xung quanh chúng ta chỉ toàn là sách vở, chúng ta chỉ biết cuộc chiến tranh rất ác liệt thông qua phương tiện thông tin, nhưng ác liệt thế nào, cụ thể ra sao thì chúng ta lại không biết, thậm chí những người trong cuộc cũng không ai có thể nói hết được sự gian khổ và ác liệt của chiến tranh. Bây giờ thì khác rồi, dần dần rồi anh cũng nhận ra, anh thấy anh không nên đối xử với em như thế. Chính vì vậy nên anh chấp nhận là kẻ phản bội tình yêu mà em đã giành cho anh, anh là kẻ hèn yếu và bạc nhược. Em hoàn toàn có quyền phán xét anh lúc này, anh chỉ mong em hiểu cho anh, vì có điều anh không nói được…
  Cứ nằm là nghĩ ngợi lung tung đau cả đầu, tôi vùng dậy tụt ra khỏi võng, đi đi lại lại hít thở không khí trong lành buổi sớm mai của cánh rừng già yên ả. Không có máy bay, không có tiếng súng, chỉ có trời xanh, mây bay và tiếng chim hót véo von, một buổi sáng tuyệt đẹp. Mấy anh em trong đơn vị gặp nhau, họ tươi cười bắt tay nhau, họ chúc nhau: “Năm mới! Dồi dào sức khỏe, gặp nhiều may mắn.” Tiếng chào hỏi tiếng chúc nhau năm mới cứ râm ran, dưới mái tăng và những cánh võng, rồi xa dần xa dần…
  Mấy ngày tết ở chiến trường cứ lặng lẽ qua đi, chúng tôi lại tiếp tục hành quân.
(Còn nữa)


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: sauchinbaymot trong 15 Tháng Sáu, 2012, 04:47:18 pm
Theo dòng chuyện Những ngày ở Nại Cửu, rồi đến Những cuộc hành quân của bác quanvietnam, thì c20-e95 rời Nại Cửu cuối 73 và đón tết 73-74 trên đường giao liên. Tiếc là bác trinh sát quanvietnam không bám được theo bản đồ để biết chẳng đường đã hành quân. Nhưng chứac là rất xa, vì thấy đi bằng xe.

 Sau đó ít lâu, khoảng 3/1974, c20-f325 của chúng tôi chuyển từ Trà Liên Tây về Nại Cửu. Rất có thể ở đúng nơi c20-e95 đã rời đi. 


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 18 Tháng Sáu, 2012, 02:35:02 pm

Chào anh Sauchinbaymot, cảm ơn anh đã đọc bài viết của tôi.Trước hết tôi xin lỗi anh vì tôi viết không được rõ ràng, làm anh hiểu lầm. Nay tôi xin nhắc lại: C20 E95 rời khỏi Nại cửu vào khoảng thời gian cuối tháng1 năm 1975, chúng tôi ăn tết  trên đường hành quân khi qua tỉnh A tô pơ của nước bạn Lào, chúng tôi tham gia giải phóng Buôn ma thuột vào ngày 10 tháng 3 năm 1975. Rất tiếc, khi nhận nhiệm vụ của cấp trên, chúng tôi chỉ biết đi mà không biết đi đâu và làm gì, đến khi nhận lệnh phối hợp với các đơn vị bạn để đánh Buôn ma thuột mới biết cụ thể nhiệm vụ của mình. Chính vì thế không có điều kiện để theo dõi hành trình trên bản đồ, mặt khác chúng tôi lại đi trên đất của nước bạn Lào.( Ngoài ra cho đến bây giờ tôi vẫn nghĩ, lúc đó chúng tôi có thể đang làm nhiệm vụ nghi binh để làm nhiễu động thông tin, đánh lừa địch).Cảm ơn anh , chào anh.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 18 Tháng Sáu, 2012, 05:05:31 pm
           Chào bác quanvietnam! Tranphu341 vẫn theo dõi bước hành quân cũng như tình cảm của bác với người yêu của Hậu phương. Đúng là trong mỗi người lính trên đường ra trận thì thường hay đặt ra câu hỏi: Vân đang làm gì? Hay Bố của mình, Mẹ của mình, những người thân của mình đang làm gì? Tranphu341 cũng đã hàng trăm lần tự hỏi như vậy.

           Bác quanvietnam! Như vậy là Sư đoàn của bác hành quân vào sâu miền Nam cùng thời gian với Sư đoàn 341 của Tranphu. Đường đi chắc cũng giống nhau cũng phải đi qua Trường sơn Đông, Rồi Trường Sơn Tây, rồi Qua Lào, qua CPC Rồi qua cao nguyên Trung Phần lại trở vào đất Việt. Tranphu còn nhớ khi đoàn xe qua cao nguyên Trung Phần đúng đêm Dằm tháng giêng. Trăng sáng tuyệt đẹp. Cả đoàn xe đi làm cho cát bụi mù trời. Những cây tùng, cây cọ khổng lồ lấp lánh dưới ánh trăng cao nguyên. Ôi nhớ nhà vô cùng. Rồi tranphu lại cũng hỏi: giờ này ở nhà mọi người đang làm gì?

            CHÚC BÁC CÙNG GIA ĐÌNH CÓ NHIỀU SỨC KHỎE CÙNG NHIỀU NIỀM VUI CUỘC SỐNG!


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: lexuantuong1972 trong 18 Tháng Sáu, 2012, 08:44:24 pm
          ... Như vậy là Sư đoàn của bác hành quân vào sâu miền Nam cùng thời gian với Sư đoàn 341 của Tranphu. Đường đi chắc cũng giống nhau cũng phải đi qua Trường sơn Đông, Rồi Trường Sơn Tây, rồi Qua Lào, qua CPC Rồi qua cao nguyên Trung Phần lại trở vào đất Việt. Tranphu còn nhớ khi đoàn xe qua cao nguyên Trung Phần đúng đêm Dằm tháng giêng. Trăng sáng tuyệt đẹp. Cả đoàn xe đi làm cho cát bụi mù trời. Những cây tùng, cây cọ khổng lồ lấp lánh dưới ánh trăng cao nguyên. Ôi nhớ nhà vô cùng. Rồi tranphu lại cũng hỏi: giờ này ở nhà mọi người đang làm gì?

            CHÚC BÁC CÙNG GIA ĐÌNH CÓ NHIỀU SỨC KHỎE CÙNG NHIỀU NIỀM VUI CUỘC SỐNG!

@tranphu341: bác Quanvietnam là lính của e95/f325. Tháng 1/1975 trung đoàn 95 tách khỏi đội hình của f325 vào đánh Buôn Ma Thuột. Các trung đoàn còn lại của 325 cắt đường 1 tại Phú Lộc, giải phóng Huế và Đà Nẵng và xuôi theo QL1 đánh Phan Rang, Long Thành và vượt Cát Lái đánh vào SG. Trong khi đó e95 của Bác QuânVN phối thuộc với f10 đánh BMT, sau đó đi với f320 truy kích địch ở Cheo Reo, Phú Bổn, tiếp đó cùng với QĐ4 đánh Dầu Giây chặn đường rút của địch từ Xuân Lộc về Biên Hòa. Sau khi giải phóng SG, e95 mới trở về với f325. Đây là 1 trung đoàn thiện chiến của f325 chính vì thế hay được tung vào những nơi khó khăn nhất. Chúng tôi vẫn đùa yêu anh em e95 là trung đoàn cave      


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 19 Tháng Sáu, 2012, 09:33:27 am
leũatuong
Trích dẫn từ: lexuantuong1972 link=topic=23382.msg383016#msg383016 date=1340027064
[/quote

@tranphu341: bác Quanvietnam là lính của e95/f325. Tháng 1/1975 trung đoàn 95 tách khỏi đội hình của f325 vào đánh Buôn Ma Thuột. Các trung đoàn còn lại của 325 cắt đường 1 tại Phú Lộc, giải phóng Huế và Đà Nẵng và xuôi theo QL1 đánh Phan Rang, Long Thành và vượt Cát Lái đánh vào SG. Trong khi đó e95 của Bác QuânVN phối thuộc với f10 đánh BMT, sau đó đi với f320 truy kích địch ở Cheo Reo, Phú Bổn, tiếp đó cùng với QĐ4 đánh Dầu Giây chặn đường rút của địch từ Xuân Lộc về Biên Hòa. Sau khi giải phóng SG, e95 mới trở về với f325. Đây là 1 trung đoàn thiện chiến của f325 chính vì thế hay được tung vào những nơi khó khăn nhất. Chúng tôi vẫn đùa yêu anh em e95 là trung đoàn cave      

                Chào bác lexuantuong! Tranphu341 rất cảm ơn bác đã có những thông tin về Trung đoàn 101 thuộc Sư đoàn 325 của bác quanvietnam. Như vậy là đ/v của bác QVN trong chiến tranh giai đoạn cuối cũng được tham gia quá nhiều trận đánh lớn.

                Tranphu có người bạn học . Nay lại là anh vợ của Tranphu cũng thuộc Trung đoàn này. Anh hy sinh tháng 5/72 tại Quảng Trị. Cách đây khoảng 5 năm gia đình cũng đã đưa được anh từ nghĩa trang Triệu Hải về Thái Bình.

                        CHÚC CÁC BÁC CÙNG GIA ĐÌNH LUÔN KHỎE, CÓ NHIỀU NIỀM VUI CUỘC SỐNG!


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 20 Tháng Sáu, 2012, 03:00:22 pm
Chào bác Trần Phú, bác Lê xuân Tường! Cứ lên diễn đàn mà gặp các bác là sướng rồi, không viết cũng quý,mà viết được lại càng quý hơn. Thấy cảc bác khỏe anh em mình mừng cho nhau.Chúc các bác nhiều sức khỏe, vui với tuổi già, gia đình và con cháu.Quanvn.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 20 Tháng Sáu, 2012, 03:01:39 pm

NHỮNG CUỘC HÀNH QUÂN
          Chúng tôi cứ đi mãi, đi mãi trong cánh rừng già, chẳng biết đi đến bao giờ thì ra khỏi rừng. Càng đi càng thấy rừng mênh mông bát ngát, rừng đẹp quá, bây giờ mới thấy thấm thía câu thơ “ … Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù…” Rừng bao la hùng vĩ, ẩn chứa biết bao điều huyền bí và bất ngờ, cũng thật là kỳ lạ là tại sao lại có rất nhiều chỗ giống nhau đến như vậy, có những hôm gặp những chỗ quen quá, tưởng như là mình lại hành quân quay lại. Vẫn là những con suối nước chảy róc rách, vẫn là những lùm cây um tùm, chằng chịt vết buộc võng và những giá ba lô tựa vào gốc cây, vẫn là những dòng chữ khắc nguệch ngoạc trên thân cây, vẫn là những cái bếp dã chiến của lính còn nhom nhem lẫn than lẫn củi được thu dọn vội vàng trước khi hành quân, đây đó còn sót lại những vỏ đồ hộp, những đống rác thải của bộ đội. Không chỗ nào là không có dấu chân của lính, hay là mình hành quân quay lại? Cũng có thể…
  Hôm nay, hành quân qua một khu rừng, trông nó cũng giống như những khu rừng đã đi qua, thấy mấy anh em nói với nhau:
    -Hình như đây là ngã ba Đông dương đấy!
    -Sao mày biết?
    -Tối hôm qua tao nghe có người nói, hôm nay chúng ta đi qua ngã ba Đông dương.
  Chắc là anh em cũng nghe ai nói, rồi nói lại với nhau chứ đã ai đi bao giờ mà biết, nhìn thì cũng chẳng có gì khác so với những chỗ đã đi qua, có khi ai đó nhìn thấy có một ngã ba thì bảo là ngã ba Đông dương cũng nên. Dũng hỏi tôi:
    -Ngã ba Đông dương là ở đâu hở anh?
  Tôi giải thích cho Dũng:
    -Ngã ba Đông dương, nó là vùng mà ba nước Việt nam, Lào, Căm pu chia chung nhau đường biên giới. Khu vực này, thuộc tỉnh Kon tum của Ngụy quyền Sài gòn.
    -Đây là B mấy? Dũng hỏi tôi, tôi nói:
    -Anh cũng không rõ việc phân gianh giới của các mặt trận, nhưng anh đoán đây thuộc mặt trận B3.
  Dũng bảo:
    -Như vậy là anh em mình vào sâu lắm rồi anh nhỉ, đoàn đi tiền trạm hôm trước là đi vào hướng tây Thừa thiên, ở đấy là B4, còn bây giờ anh em mình đang đi ở khu vực Kon tum là B3, rõ ràng đơn vị đi thành hai hướng khác nhau rồi, không biết sẽ gặp lại nhau ở đâu? Có khi nào mình vào tận B1 B2 không?
  Tôi trả lời Dũng:
    -Theo anh nghĩ, chắc là anh em mình chỉ ở B3 thôi, hôm anh nghe mấy anh ở ban hậu cần trung đoàn nói chuyện: Những đơn vị nào trang bị quần áo tăng võng toàn là vinilon và là đồ gọn nhẹ thì sẽ vào sâu,  những đơn vị trang bị những đồ bình thường như anh em mình thì ở ngoài này. Còn đoàn đi tiền trạm hôm nọ, chắc chắn sẽ không gặp anh em mình đâu, hai hướng cách xa nhau vời vợi rồi, chẳng biết có còn gặp lại nhau nữa không? Kể cũng hay, bây giờ tình báo của địch phát hiện ra hai trung đoàn 95 của hai sư 325, một đi tây Thừa thiên Huế, một đang di chuyển vào Tây nguyên.
  Đợt hành quân dài ngày này, lúc nào tôi với Dũng cũng luôn luôn sát cánh bên nhau, ăn uống ngủ nghỉ đều có nhau, bao giờ chúng tôi cũng mắc võng liền nhau để còn chuyện trò, thậm chí có khi chỉ có một tăng mà hai võng. Tôi cũng không hiểu cơ duyên nào mà lại gắn bó chúng tôi như vậy, không phải nói ngoa chứ, đúng là như hình với bóng. Về tử vi không biết có hợp nhau không thì tôi không biết, nhưng cuộc sống thường ngày thì chúng tôi rất hiểu nhau, có thể sẻ chia và tâm sự với nhau những điều thầm kín. Tôi thì sinh năm 1949, Dũng sinh năm 1954, chúng tôi chênh nhau năm tuổi.
    Dũng quê ở thị xã Hưng yên. Một hôm, trời mưa tầm tã, chúng tôi không hành quân mà nghỉ lại binh trạm. Hai anh em, mắc võng chung một cọc và một tấm tăng để che mưa, nằm tráo trở đầu đuôi. Nằm nghe mưa rơi lộp bộp trên mái tăng, nhìn nước chảy thành dòng dưới võng, Dũng kể với tôi:
  Sau khi em tốt nghiệp lớp mười, thì được gọi nhập ngũ. Hôm tiễn em lên đường làm nghĩa vụ quân sự, cả nhà em đều ra tiễn em ở địa điểm giao quân, lúc ấy em đã nhận quân trang và thùng thình trong bộ quân phục mầu xanh Tô châu còn thơm mùi vải, lúc đầu còn hơi ngượng ngịu, bởi vì nó quá rộng so với em, sau nhìn bạn bè cùng nhập ngũ cũng mặc như mình rồi cũng quen dần và mạnh bạo hẳn lên. Mọi người trong gia đình cứ vây quanh lấy em để dặn dò, bố em thì không sao, còn mẹ em thì cứ khóc, bố em đã phải nhắc mấy lần nhưng bà cứ nhìn em là lại trào nước mắt. Hai thằng em trai, nhìn em từ đầu đến chân, tuy không nói gì, nhưng có vẻ như có cái gì đó cuốn hút nên xem ra chúng cũng muốn được nhập ngũ như em. Cô em gái, cứ loay xoay xếp đặt những quà kỷ niệm mà mọi người tặng em vào trong ba lô rồi buộc lại cẩn thận và khoác ba lô lên vai đứng bên cạnh em theo dõi mọi người nói chuyện.
  Đang chú ý lắng nghe những lời dặn dò của bố mẹ và những người trong gia đình, thì có cô bạn học cùng lớp đến xin phép bố mẹ em cho em đi gặp các bạn. Các bạn cùng học lớp mười với em, chủ yếu là người ở thị xã, cũng có một số sơ tán ở nơi khác đến. Hồi còn đang đi học, em chơi thân với mấy thằng trong đội bóng đá vỉa hè, ngoài ra còn chơi với một cô bạn gái cùng phố để nhờ cậy, lúc thì cầm hộ cặp sách, lúc thì chép bài hay làm hộ bài tập, quan trọng nhất là lúc em có lỗi gì ở trường thì cô bạn này bày cách để xoa dịu cơn tức giận của bố mẹ em, cũng có những lúc bạn em phải đứng ra làm chứng cho em, để em thoát khỏi những vụ bị bố mẹ em nghi ngờ.
  Anh biết đấy: Nhất quỷ nhì ma thứ ba học trò, quỷ và ma thì không có, vì vậy nhất vẫn là học trò. Hồi em còn đang đi học em nghịch lắm, gần như ngày nào em cũng mắc khuyết điểm, ngày nào bố mẹ em cũng nhận được sự trách cứ của mọi người, hôm thì thầy cô, hôm thì phụ huynh đến tận nhà mách với bố mẹ em, có những hôm em đánh nhau, những đứa bị em đánh đau chúng nó kéo đến tận cổng nhà em chúng chửi bới hay ném đá vào nhà em làm vỡ cả bình hoa, chậu hoa của bố em. Em càng lớn thì khuyết điểm càng ít đi, bố mẹ em cũng đỡ khổ tâm vì em.
  Có những chuyện em không thể nào quên được. Anh biết không? Ngày em còn ở nhà em có biệt danh là: “Dũng sư phụ”, sở dĩ em có biệt danh ấy là vì: Hồi đó, để kỷ niệm ngày xa mái trường cấp ba phổ thông, em đề xuất, hai lớp mười, mười A và mười B tổ chức thi đấu bóng đá, đá gôn mini, mỗi bên 7 người, bên thua thì phải mời bên được uống bia, uống chán thì thôi. Cuộc đọ sức vô cùng quyết liệt, hai bên cứ rượt đuổi nhau về tỷ số, sắp hết giờ mà cả hai bên vẫn giữ tỷ số 6-6, thấy tình hình có vẻ căng thẳng, thầy giáo dạy thể dục làm trọng tài thổi còi hết giờ và tuyên bố hòa. Cả hai bên hậm hực không chịu, thách nhau ra quán bia để đá hiệp phụ. Ra đến quán bia, luật chơi được công bố: Mỗi bên vẫn 7 người,  ngồi đối diện nhau, các cổ động viên ngồi hai đầu bàn vừa uống bia vừa làm trọng tài. Hai bên bắt đầu thi uống bia, bên nào có người đứng lên đi ra nhà wc trước là thua và phải trả tiền. Cả hai bên đồng ý, cuộc thi uống bia bắt đầu, tất cả đều vui vẻ, hôm ấy bia uống như nước chảy, hết cốc này đến cốc khác, bọn con gái ở ngoài cứ động viên cố lên cố lên, tất cả bọn chúng em no căng cả bụng, tốc độ uống chậm lại, về sau gần như không uống thêm được cốc nào. Tất cả các cầu thủ bia, trông mặt bí xị vì bị ức chế, ngồi đúng vị trí của mình không giám nhúc nhích sợ bị bật van điều tiết. Rồi cái gì đến nó sẽ đến, bên em một thằng không chịu  được nữa, tè luôn ra quần, nhanh trí em giả vờ say cào tay làm đổ cốc bia vào người nó thế là xóa được dấu vết, đối phương phát hiện ra nhưng không có bằng chứng, thế là em đã cứu được bên em một bàn thua trông thấy, biệt danh “Dũng sư phụ” bắt đầu từ đấy. Tiếp theo, cứ ăn miếng trả miếng, không bên nào thắng được bên nào, cuối cùng là phải tuyên bố hòa, cộng lại chia đôi. Đúng là những cuộc đọ sức để đời, bây giờ chúng em mỗi đứa mỗi nơi, nhưng hẳn chúng nó vẫn nhớ những kỷ niệm của tuổi thơ ham chơi và nghịch ngợm.
  Chia tay với bạn bè xong, cũng là vừa lúc chúng em được lệnh lên đường trở về đơn vị, đời quân ngũ của em từ đấy, khi ra đi không một mảnh tình vắt vai, trong trắng và trinh nguyên, chưa hề biết hương vị cuả những nụ hôn, chưa bao giờ được cầm tay phụ nữ.
  Kể đến đấy, Dũng dừng lại, nói với tôi:
    -Bây giờ nghĩ lại em thấy tiếc lắm, khi ấy có rất nhiều cơ hội đến với em, nhưng vì mải chơi nên em bỏ qua, mặt khác lúc đó em cũng muốn chứng tỏ mình là một trang quân tử, phải quang minh chính đại, lịch lãm để mọi người nhìn vào, nhất là đối với bọn con gái cùng lớp hay trong khối phố. Thật ra đôi khi em cũng thấy thích, nhưng lại xấu hổ không giám thể hiện, vả lại cũng chẳng biết bắt đầu từ đâu. Thế rồi hết cơ hội này đến cơ hội khác đều qua đi, cho đến bây giờ. Nghĩ dại, nếu em hy sinh thì sao anh nhỉ? Như vậy có phải là thiệt thòi không?
  Trời vẫn mưa xối xả, mưa không ngớt, mưa xuyên qua tán lá rừng rơi xuống mái tăng kêu lộp độp, những hạt mưa rơi xuống đất chui vào lớp lá rụng rồi nhập lại với nhau tạo ra dòng chảy, những dòng chảy nhỏ len lỏi trong đám lá rụng lại nhập lại với nhau thành dòng chảy lớn cuốn trôi cả lá rừng, những hạt nước bé li ti từ mái tăng bắn tung tóe bay cả vào mặt gây cảm giác lành lạnh. Mưa rừng đã buồn thì chớ, mưa vào buổi chiều lại càng buồn hơn, xa xa tiếng suối chảy ào ào. Tất cả các âm thanh đang viết lên một bản nhạc: Chiều mưa rừng, nghe buồn da diết.
  Dũng thấy tôi không nói gì, nên ngồi nhỏm dậy, hỏi tôi:
    -Anh ngủ à? Tôi trả lời:
    -Anh có ngủ đâu, anh đang suy nghĩ những điều em nói. Anh thấy cuộc sống thật là phức tạp, một vấn đề hoàn toàn giống nhau, nhưng mỗi người suy nghĩ mỗi khác. Hai anh em mình, hiện nay chưa thống nhất quan điểm về vấn đề: Tình yêu và cuộc chiến tranh. Ở một khía cạnh nào đó của vấn đề này, anh và em đang là những con người cụ thể, của từng hoàn cảnh cụ thể, anh thì có người yêu còn em thì chưa có người yêu, cả hai chúng ta đang chung một chiến hào sống chết có nhau, em thì nuối tiếc vì chưa kịp yêu, anh thì đang ân hận vì đã yêu nên để lại hậu phương cô người yêu bé bỏng, suốt ngày trông ngóng đợi chờ. Ở đây anh không muốn nói ai đúng ai sai, mà anh chỉ muốn biết chúng ta sử sự thế nào cho đúng, theo em thì nên thế nào?
  Dũng suy nghĩ hồi lâu rồi nói với tôi:
    -Em cũng không biết, nhưng theo em nghĩ: Tất cả cứ để nó phát triển theo quy luật tự nhiên, cái gì đến thì nó phải đến, anh có muốn cũng không được, mà không muốn cũng không được. Tổ tiên chúng ta, đã phải trải qua biết bao cuộc chiến tranh, bây giờ lại đến lượt chúng ta. Một khi chiến tranh đã nổ ra thì đương nhiên con trai phải ra trận, con gái ở lại hậu phương. Như vậy việc lo lắng và chờ đợi của những người phụ nữ ở hậu phương, em nghĩ âu cũng là lẽ thường tình. Em cũng chưa hiểu vì sao anh cứ day dứt vấn đề này.
  Tôi ngồi nhổm dậy, nhìn Dũng không chớp mắt, đầu tôi đang cố tìm lời lẽ ngắn gọn để nói cho Dũng hiểu:
    -Anh hoàn toàn đồng ý với với quan điểm của em, bởi vì điều em nói là hoàn toàn thực tế nó đã và đang diễn ra hàng ngày, không ai có thể phủ nhận được. Nhưng nếu anh lấy trường hợp của anh, để phân tích, nên hay không nên thì em sẽ thấy rõ hơn. Ở đây anh chỉ đề cập tới ba trường hợp làm ví dụ để em thấy, tất nhiên anh  giới hạn, đây là chuyện của hai thằng con trai nói với nhau.
  Hoàn cảnh được đặt ra là: Nếu như chị Vân không yêu anh, mà yêu một người khác cũng có hoàn cảnh tương tự anh, nhưng người ấy không phải đi chiến trường mà công tác ở miền bắc. Bây giờ anh xin phân tích cho em nghe rồi em sẽ đồng cảm với suy nghĩ và thông cảm với việc làm của anh.
  Trường hợp thứ nhất: Nếu may mắn anh còn sống trở về sau chiến tranh, điều này là quá tuyệt vời và trên cuộc đời này không có gì có thể so sánh  được. Mọi mất mát và thiệt thòi, lúc đó không nghĩa lý gì, anh và chị Vân sẵn sàng gánh chịu. Đương nhiên sau đó chị Vân hàng ngày hàng giờ phải vượt qua tất cả những hậu quả nặng nề của cuộc chiến tranh đã hằn sâu trong tâm hồn và thể xác của những người lính đã bao nhiêu năm chinh chiến rồi trở về như anh. Nói thế là em hiểu và chắc chắn chị Vân phải có nghị lực thế nào mới có thể vượt qua được.
  Trường hợp thứ hai: Kém may mắn hơn trường hợp thứ nhất, anh vẫn trở về. Song, anh đã để lại nơi chiến trường một phần cơ thể của mình, có thể là trí tuệ hoặc là xác thịt. Khi đó chị Vân nghĩ sao? Bỏ thì thương, vương thì tội. Chị Vân không thể làm khác được, chấp nhận cưu mang, rồi từng ngày, từng ngày, hệ lụy của cuộc chiến tranh đè nặng lên đôi vai nhỏ bé của chị, chị gồng mình lên tất tả bươn trải với cuộc đời và rồi chưa chắc đã dừng lại đó, có khi còn ảnh hưởng cả đến thế hệ sau nữa chứ.
  Trường hợp thứ ba: Anh hy sinh ở chiến trường. Đây là điều khủng khiếp và tồi tệ nhất mà không ai mong muốn, kể cả từ trong suy nghĩ.
  Đấy, cả ba trường hợp này anh phân tích để em thấy, tất cả mọi hệ lụy của cuộc chiến tranh người phụ nữ là người gánh chịu nhiều nhất, anh không giám nói là tất cả. Vậy anh tự đặt câu hỏi: Tại sao anh lại là một trong phương án để chị Vân phải lựa chọn? Trong khi đó: Anh và chị Vân chưa phải là vợ chồng, chị Vân cũng có đủ năng lực và nhiều khả năng để xây dựng gia đình với một người khác mà không phải là anh. Vậy thì tại sao? Anh lại ích kỷ để khư khư ôm lấy mối tình mà chị Vân đã hứa giành cho anh, cũng có thể vì quá yêu anh nên chị Vân không muốn làm khác vì sợ anh buồn. Tất cả đều có thể. Vậy tại sao? Anh đã nhìn thấy và phân tích mọi việc rất cặn kẽ, sao anh lại không đủ bản lĩnh để làm một việc, mà việc đó theo anh là đúng?
  Rất đau lòng, nhưng anh phải làm, đó là lý do anh viết bức thư cuối cùng gửi chị Vân trên đường vào Nam.
(Còn nữa)
 
 
   


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 25 Tháng Sáu, 2012, 03:28:57 pm

NHỮNG CUỘC HÀNH QUÂN
          Không biết có đúng không? Nhưng có lẽ chúng tôi đã về Việt nam. Từ ngày về đất Việt nam, tôi có cảm nhận, địa hình địa mạo bị phân cách và chia cắt mạnh, lắm đèo nhiều dốc, nhiều sông suối nhỏ, độ dốc tự nhiên lớn, rừng của Việt nam cây cối không được xanh tốt như rừng bên Lào, độ che phủ kém, có những chỗ cây cối cằn cỗi thưa thớt, trống huếch trống hoác nhìn thấy cả trời. Càng vào sâu trong đất Việt nam lại càng thấy rõ sự khác nhau của những cánh rừng bên ta và bên bạn Lào, có lẽ do sự phân bố về địa lý dẫn đến thổ nhưỡng của mỗi bên khác nhau, rõ ràng Việt nam đang là sườn dốc của phía đông trường sơn nên đất rừng đang bị xói mòn, đất bị cằn cỗi, đấy là nguyên nhân làm cho rừng bên Việt nam không tốt như rừng bên Lào.
  Trung đoàn 95 sư 325, đang hành quân trên tuyến đường mà như tôi đoán là thuộc đất Việt nam. Theo tôi, đây là tuyến đường mới được mở từ đầu mùa khô, để chuẩn bị cho chiến dịch, vì thế chắc chắn nó sẽ không có trong bản đồ. Tuyến đường chạy ngoằn ngèo, bám theo dòng suối nhỏ, từ mặt đường xuống đến mép nước có lẽ cũng phải vài ba chục mét, nhìn sâu hoắm như vực. Bên taluy dương bám theo sườn đồi, do đường mới mở, thời gian còn ngắn cỏ cây chưa kịp mọc nên để lộ đất đồi đỏ ối.
  Đoàn xe đang nối đuôi nhau uốn lượn theo cung đường, bỗng nhiên có tiếng máy bay phản lực bay rất thấp vút qua,  để lại tiếng động cơ rít lên đinh tai choáng óc, xé tan bầu không khí vốn đang được bảo vệ để giữ bí mật khi hành quân. Tất cả mọi người đang bàng hoàng chưa biết điều gì xảy ra, đoàn xe đột ngột dừng lại ở giữa khoảng rừng thưa không đủ độ che phủ, đoàn xe thì dài, đất đỏ bên hai bên đường lại càng làm tôn lên vẻ lộ liễu của đoàn xe được ngụy trang màu xanh, đoàn xe nằm chềnh ềnh giữa đường không nơi ẩn nấp.
  Lúc này vào khoảng mười hay mười một giờ trưa, trời nắng chang chang, mọi vật trên mặt đất có thể nhìn rõ mồn một. Theo lệnh chỉ huy, rất bình tĩnh, tất cả chiến sĩ trèo lên vách taluy dương tìm chỗ ẩn nấp tránh xa đoàn xe, phòng khi nếu bị phát hiện và bị ném bom thì cũng hạn chế được thiệt hại. Do quá bất ngờ hơn nữa chiến sĩ lại quá đông, trong khi đó địa hình thì phức tạp, nhiều chỗ dốc đứng, nên rất nhiều chiến sĩ của ta chưa kịp tản ra tìm chỗ ẩn nấp.
  Đúng lúc ấy, những chiếc máy bay phản lực lúc nãy lại quay lại, chúng đã phát hiện được mục tiêu, chúng bay vọt qua và quay lại ngay, chúng cắt bom, những tiếng bom nổ chát chúa ở đầu đoàn quân, hình như bom ném cả vào giữa đoàn quân, khói đen bốc lên cuồn cuộn khét lẹt, rừng bắt đầu cháy tiếng nổ của tre nứa kêu lốp đốp. Riêng khu vực cuối đoàn quân thì bom lại bay chệch sang bên kia suối. Chúng ném bom song và bay thẳng, không biết bay về hướng nào. Toàn bộ, đội hình hành quân vẫn im lặng, không có chỗ nào lộn xộn, chắc là không có thương vong gì, nên mới bình tĩnh như vậy.
  Ít phút sau, không thấy tiếng động cơ của máy bay quay lại, chúng tôi được lệnh quay về vị trí, khắc phục sự cố để nhanh chóng thoát qua khu vục bị ném bom. C20, đi giữa đội hình hành quân nhưng không bị ảnh hưởng của cuộc ném bom vừa qua, chúng tôi khắc phục rất nhanh, tất cả đã lên xe, đồng chí lái xe cũng đã nổ máy chờ lệnh tiếp tục hành quân. Đoàn xe rùng rùng chuyển bánh, xe chạy, tôi cố gắng tìm cách quan sát xem trận bom vừa qua có gây nhiều thiệt hại không? Đi được một đoạn cũng tương đối dài, mới nhìn thấy bên kia suối có mấy lùm tre cằn cỗi, lá đã úa vàng đang bị cháy nham nhở, bên cạnh đấy có hai hay ba hố bom nông choèn choẹt nổ liền nhau, hất tung mấy gốc cây, khói bom đen kịt bám quanh miệng hố bom loang lổ. Đoàn xe vẫn tiếp tục chạy thêm một đoạn nữa thì dừng lại, tôi đoán có lẽ đoạn này bom ném trúng đội hình, nên gây tắc đường và chắc là sẽ có thương vong. Ngồi trên xe chờ đợi, đoán già đoán non, vừa lo lắng vừa sốt ruột, chỉ sợ bọn địch quay lại để ném bom.
  Mọi thông tin vì sao đoàn xe lại phải dừng lại, ở khu vực phía sau đoàn quân là hoàn toàn không biết, điều này lại càng làm cho mọi người lo lắng và sốt ruột hơn. May quá, đúng lúc ấy xe trên có người chạy đến xe của chúng tôi thông báo là bom ném trúng đường, chờ sửa đường mới đi được. Tôi hỏi với đồng chí ấy, xem tình hình có ai bị thương vong gì không, nhưng đồng chí ấy đã chạy mất hút.
  Bây giờ tôi mới để ý đến anh em và để ý đến mình, trông ai cũng có vẻ hốt hoảng và lo lắng, mặt mũi thì mồ hôi mồ kê nhễ nhại, đất đỏ dính bết vào quần áo, cả lá cây rừng còn bám trên đầu trên cổ chưa phủi sạch. Mấy anh em trên xe nói chuyện với nhau:
    -Chắc là bị lộ rồi, không nhanh chóng ra khỏi khu vực nguy hiểm này thì sẽ hy sinh rất nhiều. Không gian và địa hình đang hoàn toàn bất lợi cho ta, rừng thì thưa, máy bay có thể quan sát rất rõ mục tiêu, đường thì độc đạo, địa hình lại phức tạp, một bên là vực, một bên là sườn dốc, tiến thoái đều khó khăn. Cách duy nhất là phải vọt qua chỗ này hoặc là bỏ xe chạy vào rừng để sơ tán tránh thiệt hại.
    -Thôi đi các ông ạ! Cứ bình tĩnh, bộ chỉ huy hành quân nhất thiết đã có phương án dự phòng nên cứ bình tĩnh để chờ giải quyết, lúc này không thể nóng vội được, mọi hành động không tuân theo sự chỉ huy sẽ làm rối loạn đội hình hành quân, quân cán tản mạn thất lạc có khi còn nguy hiểm hơn.
  Dũng quay sang hỏi tôi:
    -Có phải bị lộ không anh?
  Tôi nói với Dũng:
    -Bị lộ là chắc chắn rồi, có bị lộ mới bị ném bom, nhưng ở đây theo anh mới chỉ là bị lộ mục tiêu, không phải bị lộ ý đồ chiến dịch. Nếu bị lộ mục tiêu ta chỉ việc di chuyển ra khỏi khu vực này là yên tâm. Bọn địch nó cũng biết thừa trong rừng thiếu gì bộ đội với thanh niên xung phong, bom đạn nào mà rải cho đủ, chúng chỉ tập trung đánh vào những vùng trọng điểm quan trọng. Sở dĩ hôm nay nó đánh vào chúng ta là vì chúng đang bay tuần tiễu và vô tình phát hiện ra chúng ta, vì chúng ta đang hành quân ở khu vực quá trống trải.
  Khoảng độ 15-20 phút sau, đoàn xe lại tiếp tục chuyển bánh, vẻ mặt căng thẳng của mọi người dần dần cũng được giãn ra, nhưng vẫn còn đượm nỗi lo âu.
  Qua đoạn đường bị sạt, xe bò đi rất chậm. Tôi chú ý quan sát, bom ném về phía taluy âm, làm sạt mất một phần mặt đường về bên lòng suối, mấy quả còn lại bay sang bờ suối bên kia nên không ảnh hưởng gì. Đoạn đường bị sạt đã được anh em bộ đội nhanh chóng khắc phục bằng cách mở rộng mặt đường về phía taluy dương để nhanh chóng thông xe. Nhìn xung quanh hiện trường khu vực bom nổ, không phát hiện ra hậu quả gì về tổn thất và thương vong của bộ đội, hay là có nhưng đã được dọn đi rồi mà chúng tôi không biết.
  Sau đấy, hình như đoàn quân được được dẫn đi theo tuyến đường khác, nhìn theo hướng mặt trời, tôi có cảm giác là đang đi về phía Đông chứ không tiếp tục đi về phía Nam. Tuyến đường này, chắc đã lâu không có phương tiện qua lại nên không nhìn thấy vết xe cộ để lại, chỉ nhìn thấy những cành cây rừng, cành đã khô cành còn tươi của bộ đội ta đặt trên đường để đánh dấu tuyến đường của các đơn vị hành quân. Rừng ở đây có vẻ rậm rạp hơn, độ che phủ kín hơn, nếu đi trong rừng này thì máy bay không thể nào phát hiện được, trừ phi nấu nướng để khói bốc lên  mới có thể bị phát hiện, còn muốn phát hiện được thì lại phải dùng đến bọn thám báo và biệt kích.
  Hơn một ngày hành quân qua những khu rừng như vậy. Ngày hôm nay, buổi sáng thì hành quân bằng cơ giới, đến trưa thì chuyển sang hành quân bộ. Chúng tôi đi vào một khu rừng mà chưa bao giờ chúng tôi được gặp trên những chặng đường hành quân, nó đẹp quá, đẹp đến nỗi không thể tưởng tượng ra nó đẹp đến thế, trông nó vẫn giữ vẻ hoang sơ, hoang dã, nhưng thực ra đã có bàn tay con người tác động vào, chỗ thì rất hoang sơ, chỗ thì được con người tỉ mỉ tỉa tót xắp xếp tạo dáng, trong rừng có những khu lán nhỏ bé xinh xắn được quy hoạch gọn gàng ngăn nắp, mằm nấp dưới tán lá rừng cao vút thẳng tắp, đường đi lối lại được quét tước sạch sẽ. Tiếng suối chảy ào ào, tiếng chim hót véo von, hình như lại có cả tiếng vượn hú nữa. Những bến nước bên bờ suối được làm từ những cây gỗ rừng chắc chắn xinh xắn, dòng nước mát lạnh, trong vắt nhìn rõ cả bàn tay bàn chân của mình dưới nước trắng muốt, ngắn tũn.
  Đi ngang qua dãy lán, tôi có cảm giác đây như là trụ sở của một cơ quan nào đó của địa phương đóng ở đây, cái gì cũng có, xắp xếp rất hợp lý và khoa học, từ hầm trú ẩn đến bếp Hoàng cầm, chỗ sinh hoạt học tập, nơi tắm rửa chỗ nghỉ ngơi, chỗ nào tôi cũng thấy nó đẹp. Tôi có suy nghĩ  họ làm đẹp như làm mô hình để tham quan hay triển lãm chứ không phải để dùng hàng ngày. Có một cái mà tôi rất lấy làm khâm phục, đó là mái lợp của các lán. Các lán, mái được lợp bằng các tấm tranh, mà các tấm tranh này không phải là cỏ tranh, mà là những chiếc lá của một loại cây rừng, to hơn bàn tay được ken lại với nhau, xếp lên nhau rất khít bằng chằn chặn, đẹp như là lợp ngói vẩy ở đình ở chùa vậy. Thật là kỳ công, có lẽ đây là cũng là cách thể hiện trường kỳ kháng chiến, đúng là bộ đội cụ Hồ từ việc nhỏ đến việc lớn, việc gì cũng làm được, mà lại khéo tay nữa chứ.
  Đi vuông góc với đoàn quân của chúng tôi là một đoàn bộ đội vận tải đang cáng những chiếc võng có người nằm trên đó đi ngang qua. Chúng tôi dừng lại, chú ý quan sát, chiếc cáng nào cũng chùm kín mít chẳng phát hiện được gì. Tôi lờ mờ đoán, ở đây có lẽ là một bệnh viện dã chiến chăng? Những người nằm trên cáng hẳn là những thương bệnh binh, có lẽ đúng. Tôi vừa khẳng định suy nghĩ của mình thì lập tức bị thay đổi ngay, bởi vì ngay đúng lúc ấy, có một chiếc võng đi qua, tấm phủ được vén lên, chúng tôi nhìn thấy một ông già trong có vẻ như tướng tá gì đó, mặc bộ quân phục bằng vải vinilon mầu xanh, tóc cắt ngắn, bạc trắng như cước, thò tay ra vẫy và nói: Chào các đồng chí, các đồng chí có khỏe không? Cố gắng lên nhé, chúng ta sẽ thắng.
  Đoàn vận tải đi qua, tôi quay trở lại suy nghĩ ban đầu, có lẽ đây là sở chỉ huy tiền phương của Bộ chỉ huy mặt trận B3 nên mới thấy có nhiều tướng tá như vậy. Hình dung lại khuôn mặt và giọng nói của của vị chỉ huy ban nãy, tôi suy diễn: Chắc sắp đến nơi rồi, hành quân hơn một tháng rồi còn gì. Nhưng mà đây là đâu? Chẳng ai biết và cũng chẳng biết hỏi ai.
  Chúng tôi lại tiếp tục hành quân. Mấy bữa nay toàn hành quân bộ, lúc này vào khoảng độ 4 rưỡi 5 giờ chiều, chúng tôi đi qua một khu rừng nguyên sinh, rừng chỉ có một tầng, tán cây cao vút, xanh tốt che phủ kín mít không nhìn thấy cả mặt trời, đi trong rừng mà cứ tưởng như trời đã sẩm tối, chúng tôi hành quân bộ nên đi vào con đường nhỏ, song song với con đường chúng tôi đi là một con đường lớn. Đang mải miết hành quân, chúng tôi chợt nghe thấy tiếng động cơ nổ ầm ầm bên phía con đường lớn, tất cả mọi người đều hướng về phía có tiếng động cơ nổ. Một cảnh tượng chưa từng có, những người lính như chúng tôi chắc là không đủ kiến thức để xây dựng lên trí tưởng tượng này, có lẽ cũng rất nhiều người như chúng tôi cũng không bao giờ giám nghĩ là có những việc như thế này. Tôi cũng mạnh dạn nói hơi quá lên một chút là kẻ địch cũng không thể ngờ được, đúng là bí mật bất ngờ, giống như trên trời rơi xuống vậy. Rất nhiều loại vũ khí hiện đại và tối tân. Tôi không đếm được bao nhiêu cái, nhưng tôi thấy có rất nhiều xe tăng, rất nhiều loại pháo có cả nòng ngắn nòng dài, mà hình như còn có cả tên lửa nữa, những xe chở tên lửa phủ bạt kín mít, ngoài ra chắc còn nhiều loại vũ khí khác mà tôi chưa từng được biết. Tất cả đang được ngụy trang ẩn nấp kín đáo trong khu rừng già, để chuẩn bị cho những trận đận đánh hiệp đồng binh chủng quy mô và hiện đại.
  Anh em trong đoàn hành quân rì rầm bàn tán: Kiểu này chắc là sắp đánh lớn rồi…
(Còn nữa)


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 25 Tháng Sáu, 2012, 04:42:48 pm
           Chào bác quanvietnam! Như vậy là Tranphu341 rất vui khi được gặp bác ở trong diễn đàn và thứ 7 vừa rồi đã được gặp bác ở 19c Ngọc Hà. Tiếc là bác về hơi sớm. Anh em ở lại ngợi ca bác mãi. Vì những lớp tuổi như bác, bác vanthang trong Quân sử thì chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Đúng là cây đa cây đề, hàng hiếm đây.

          Nhưng chuyện bác kể rất hay, rất hấp dẫn là cho người đọc rất thích thú và cũng rất đang tò mò muốn hỏi là cô Vân xưa, Bà Vân bây giờ ở đâu? Chờ đợi sốt ruột quá!

          Chúc bác cùng gia đình luôn có nhiều sức khỏe, cùng nhiều niềm vui cuộc sống để chắc tay phím trong mặt trận mới này. Kính bác.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 26 Tháng Sáu, 2012, 04:18:34 pm
Cảm ơn anh TP 341 và các bạn, hôm ở 19C nhẽ ra Quanvn phải ở lại để  vui với   anh em thì mới phải,  nhất là với anh TP đã lặn lội từ Thái bình lên, nhưng Quanvn không ở lại được. Thôi mong anh TP thông cảm và bỏ quá cho vì Quanvn sức khỏe bị hạn chế. Còn chuyện anh hỏi thăm về người yêu cũ của tôi, cảm ơn anh đã có lời hỏi thăm, tôi sẽ cố gắng viết nhanh để không làm mất thời gian của mọi người mọi người, chỉ tiếc là sức khỏe và thời gian của tôi hạn hẹp quá, đúng là lực bất tòng tâm. Chào anh TP và các bạn.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 02 Tháng Bảy, 2012, 02:49:25 pm

NHỮNG CUỘC HÀNH QUÂN
          Sau khi nghỉ ngơi ăn trưa bên bờ suối, chúng tôi lại tiếp tục hành quân. Khoảng 2-3 giờ chiều, chúng tôi đến một khu rừng trông rất lạ, không đoán được là rừng già hay trẻ, thoạt nhìn thấy đất đai bằng phẳng, cây cối cũng rất to nhưng phân bố lại thưa thớt và tập trung thành từng cụm, có rất nhiều bụi tre gai mọc rải rác xen kẽ vào những khoảng trống của rừng cây, cũng có những bụi dây leo um tùm rậm rạp quấn chằng chịt, một kiểu rừng hỗn tạp. Hình như ở đây có dấu vết của việc canh tác nương dãy, thi thoảng lại gặp những cây sắn ăn củ cằn cỗi còn sót lại bên đường đi, có rất nhiều những con đường mòn chằng chịt ngang dọc trong rừng, đã lâu không có ai sử dụng nay chỉ còn lờ mờ dấu vết.
  Chúng tôi, được lệnh nghỉ lại khu rừng này, mấy ngày sau chúng tôi được biết đây là vùng Easup trên  cao nguyên trung phần, của tỉnh Đaklak, thuộc VNCH.
  Sau những ngày nghỉ ngơi, Sáng hôm nay tôi thấy các đồng chí trong ban chỉ huy đại đội có vẻ vội vàng, họ đậy sớm hơn mọi khi, lục tục xắp xếp tài liệu, bản đồ, nhét vào túi mìn Claymor, rồi vội vàng rời khỏi chỗ ở, có lẽ họ đi họp. Chính trị viên đại đội đi trước, tiếp theo là đồng chí đại đội trưởng, cuối cùng là đồng chí liên lạc. Ba người cứ cặm cụi đi, bóng của họ len lỏi trong rừng.
  Anh em chiến sĩ chúng tôi vẫn như mọi khi, ăn sáng xong, mọi người nghỉ ngơi tự do, ai có việc thì làm, không có việc thì túm tụm ngồi tán gẫu. Tôi rủ mấy anh em đi xuống suối bắt cá.
  Mấy anh em đi dọc theo dòng suối ngược về phía thượng lưu, vừa đi vừa quan sát tìm kiếm những khu vực khả năng có nhiều cá. Suối ở đây chủ yếu là suối đất, rất ít những đoạn suối đá, lòng suối không có bùn mà toàn là cát và sạn. Nước suối ở đây không giống như nước suối ở nhũng nơi khác, không đục cũng không trong, không vàng hẳn mà cũng không trắng hẳn, trông nhờ nhờ mầu trắng đục, nước suối chảy lờ đờ, có những chỗ nước chỉ sâu đến thắt lưng nhìn không thấy đáy. Đi một thôi một hồi, nhóm chúng tôi quyết định dừng lại ở một khu vực mà chúng tôi cho là ưng ý nhất, bởi vì nó có địa thế rất đẹp và có thể nó cho chúng tôi rất nhiều cá.
  Chúng tôi phân công nhau, mấy đứa đi lấy cây thuốc độc ở rừng về đập dập ra thả vào vũng nước để cho cá bị say, mấy đứa ở lại chẻ tre đan thành phên chắn ngang dòng suối không cho cá di chuyển khỏi vũng đã bị đánh thuốc. Kinh nghiệm đánh cá kiểu này, chúng tôi cũng mới học được trên đường hành quân, đánh bắt kiểu này hiệu quả không cao nhưng được cái là an toàn và bí mật, phù hợp với hoàn cảnh của bộ đội. Theo phương pháp này, muốn bắt được những con cá to thì phải chờ lâu để cho nó say thuốc, sau đó phải cởi quần áo lặn xuống vũng nước mò vào các hốc đá khi đó mới bắt được những chú cá to. Nếu vội vàng thì chỉ bắt được mấy con đòng đong cân cấn, nổi trên bề mặt, phí cả công sức chuẩn bị.
  Nghĩ lại: Chẳng bù cho hồi còn ở Tích tường, Như lệ, khu vực Đá đứng ở Quảng trị, việc bắt cá ở sông Thạch hãn quá đơn giản, dọc đoạn sông này du kích địa phương toàn thả dây câu, đoạn sông này nhiều cá vô kể, toàn cá to béo đen trùi trũi, mọi người cứ hay nói đùa: Cá ăn nhiều thịt người chết nên con nào con nấy béo đen. Cá ở đấy nhiều đến nỗi, nếu pháo của địch bắn đúng vào sông, là cá chết nổi trắng cả mặt sông, ngớt pháo mọi người chỉ việc ra vớt cá, không biết cơ man nào là cá, vớt thoải mái.
  Thời kỳ chúng tôi đặt đài quan sát ở động Ông Do, ở Khe Cóc khu vực tỉnh Quảng trị. Hồi đó, ngày ngày chẳng có việc gì làm, suốt ngày chỉ ngồi đếm bom đếm pháo của địch  xem nó ném bom ở đâu, bắn pháo vào đâu, bao nhiêu quả, cuối ngày tổng hợp lại báo cáo về sở chỉ huy. Công việc đơn điệu và buồn tẻ, nên chúng tôi thường hay rủ nhau đi bắt cua bắt cá để cải thiện, sống xa đơn vị nên ý thức chấp hành kỷ luật cũng hơi kém, chúng tôi thường mang súng vào tận rừng sâu để đi săn, thú thì không gặp bao giờ nhưng cá thì nhiều, rừng ở đây là rừng nguyên sinh, chưa bao giờ chúng tôi gặp dân, thi thoảng mới gặp một vài đơn vị bộ đội. Do sống xa đơn vị và ở nơi heo hút nên rất buồn, vì thế đôi khi chúng tôi cũng buông thả, ý thức địch tình kém, mất cảnh giác. Chính vì thế để có cá ăn, chúng tôi bất chấp cái gì sẽ xảy ra, cứ thế là nổ súng.
 Ở đây thì chịu rồi, kỷ luật hành quân rất nghiêm khắc, đối tượng nào vi phạm xử ngay tại trận.
  Mấy anh em đã chuẩn bị xong mọi công việc, bây giờ chỉ còn việc đợi cho cá bị say thuốc là xuống bắt. Tất cả mọi người đã cởi bỏ quần áo ngoài, ngồi bên suối chăm chú quan sát mọi diễn biến của các chú cá ở dưới vũng nước. Bỗng nhiên nghe rào rào giống như có cơn gió thổi rất mạnh lướt qua làm cho các cành cây gãy răng rắc, mọi người tập trung nhìn về phía có tiếng động và phát hiện ra có hai con voi lướt qua, một con rất to còn một con thì bé hơn, chúng đi rất nhanh và biến vào trong rừng. Mấy anh em chúng tôi hoảng sợ, không biết đây là voi nhà hay là voi rừng, mấy lúc trước tôi chỉ nghe nói: Ở Tây nguyên có nhiều voi lắm, có cả voi nhà lẫn voi rừng, voi nhà  đã được thuần dưỡng chúng rất hiền, còn voi rừng chúng sống theo bầy đàn và rất hung dữ. Hôm nay mà gặp voi rừng thì không biết phải làm thế nào? Một câu hỏi thoáng qua trong đầu tôi.
  Tò mò, chúng tôi tiến về đoạn suối có hai con voi đi qua, vết chân của các chú voi để lại những vũng nước đục ngầu trong lòng suối. Đoạn suối voi đi qua là một đoạn suối nông, hai bên bờ suối dốc rất thoải, cả hai bên bờ suối đều có những bãi phân voi giống như những bãi phân trâu nhưng to hơn nhiều. Dấu vết của hai chú voi để lại chỉ có thế, làm chúng tôi lại có cuộc tranh luận. Người bảo là voi nhà, người bảo là voi rừng, tóm lại chẳng ai chịu ai. Tôi nói với anh em đang tranh luận:
    -Theo tôi nghĩ thì có hai đặc điểm để nói đấy là những con voi nhà đã được thuần dưỡng:
  Thứ nhất: Chỉ có hai con đi riêng rẽ, mà lại đi theo lối mòn, con đi trước con đi sau, chúng lầm lũi đi, không ngang tàng phá phách.
  Thứ hai: Nếu là voi rừng, thường chúng phải đi thành từng bầy, đi không theo hàng lối mà luôn đi sát nhau để bảo vệ nhau. Mặt khác, voi rừng đánh hơi rất thính, thấy có mùi người lạ là chúng phát hiện ra ngay, hai con voi này đã quá quen với hơi người nên chúng không có phản ứng gì, chúng không thèm để ý đến chúng ta đang bắt cá ở dưới suối.
  Mọi người nghe tôi nói, chắc cũng chưa thực sự đồng tình với cách lý giải của tôi, nhưng vì câu chuyện voi nhà hay voi rừng cũng chẳng để lại hậu quả gì và cũng không gây nguy hiểm cho ai, nên mọi người không ai nói gì thêm. Mục tiêu của mọi người lúc này là quay lại để bắt cá.
  Bữa cơm cá đầu tiên trên cao nguyên, ăn rất ngon miệng. Có hai món chủ đạo, món cá xuyên cành tre nướng trên bếp than chấm với muối, món cá nhạt hơn kho, mặn hơn luộc, nấu lẫn với lá chua, chan với cơm vừa ăn vừa húp lạ miệng ăn ngon đáo để. Ngoài ra, bữa cơm còn cả món canh lá lốt nấu với thịt hộp, cuối bữa mỗi người còn có một miếng sắn luộc ăn tráng miệng. Cơm nước no nê, bộ đội nghỉ ngơi thoải mái. Trong rừng tràn ngập tiếng chim kêu tiếng vượn hú, xen lẫn với những tiếng cười sáng khoái và hồn nhiên của bộ đội.
  Chiều, hai giờ. Ban chỉ huy đại đội mời họp, thành phần tham dự là tất cả các đồng chí từ tiểu đội trưởng tiểu đội thông tin đến các đồng chí B phó của các B trở lên, tôi chẳng có hàm cấp gì nhưng cũng được mời tham dự với tư cách phụ trách bộ phận hậu cần. Tôi nói vậy thôi chứ, các anh trong ban chỉ huy đại đội và các anh lãnh đạo của các trung đội rất quý chúng tôi, những sinh viên của trường đại học Xây dựng. Những ý kiến đóng góp, những phương án tác chiến do anh em sinh viên chúng tôi đề xuất, đều được các anh xem xét cẩn thận và thường là được chấp nhận.
  Cuộc họp mở đầu là lời phát biểu của đồng chí chính trị viên trưởng đại đội, với chất giọng Nghệ an nồng  ấm và hào sảng, với lối nói khúc triết lúc lên bổng lúc xuống chìm. Đồng chí chính trị viên trưởng đại đội đã tổng kết, nêu bật lên những khó khăn thuận lợi và những thành quả mà đơn vị đã đạt được trong quá trình hành quân. Đồng chí cũng không tiếc lời khen ngợi tinh thần đoàn kết nhất trí, sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau trên đường hành quân của cán bộ chiến sĩ C20. Đồng chí nói tiếp:
  -Thắng lợi của cuộc hành quân, mới chỉ là thắng lợi bước đầu, nhưng dẫu sao thắng lợi ấy nó đã cổ vũ và động viên tinh thần của toàn bộ cán bộ và chiến sĩ C20, giám nhận và sẵn sàng hoàn thành nhiệm vụ khi cách mạng yêu cầu. Qua đây, lại một lần nữa khẳng định, lịch sử thành lập và phát triển của C20, đã kế thừa và phát triển cùng với sự phát triển lớn mạnh của trung đoàn và sư đoàn. Bằng chứng hùng hồn ấy, đã được chứng minh trong suốt thời kỳ chiến đấu gian khổ ở mặt trận Quảng trị, từ tháng 5 năm 1972 đến bây giờ khi chúng ta đi nhận nhiệm vụ mới.
  Nghỉ một lát, đồng chí nói tiếp: Cách mạng miền nam đang chuyển sang một thời kỳ mới, có rất nhiều cơ hội song cũng không ít thách thức, nó đòi hỏi mọi cán bộ chiến sĩ C20, phải đồng lòng hiệp sức đoàn kết nhất trí. Phối kết hợp tốt với các đơn vị trong trung đoàn, các đơn vị của mặt trận, các đơn vị của bộ đội miền, bảo đảm hiệp đồng tác chiến nhịp nhàng giữa các quân binh chủng. Trước mắt chúng ta là muôn vàn thử thách và cam go, nhưng tôi tin rằng dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, của đồng chí chính ủy trung đoàn, đồng chí trung đoàn trưởng, các đồng chí trong ban tham mưu, cùng với quyết tâm của toàn bộ cán bộ chiến sĩ trong toàn trung đoàn, tôi tin tưởng chúng ta sẽ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
  Đồng chí chính trị viên dừng lại, quan sát một lượt toàn thể anh em trong cuộc họp, xem có ai phản ứng gì không. Tất cả đều im phăng phắc, mọi người đang ý thức, giờ phút trọng đại đã đến.
  Không ai có ý kiến gì, đồng chí chính trị viên, tiếp tục:
  -Trước khi đồng chí đại đội trưởng phổ biến nghị quyết của Đảng ủy trung đoàn và phương án phối thuộc giữa E95 với bộ đội của mặt trận B5. Tôi xin được lưu ý các đồng chí về vấn đề giữ bí mật quân sự. Trong bối cảnh này, chúng ta phải tuyệt đối giữ bí mật, không để lộ dấu vết và hành tung của mình, hạn chế đi ra ngoài khu vực đóng quân, cẩn thận trong nấu nướng ăn uống, không để sinh khói, cháy rừng, nghiêm cấm dùng súng, lựu đạn để săn bắn phát tiếng nổ. Hết sức cảnh giác khi gặp dân, rất có thể là biệt kích hoặc thám báo đóng giả để trà trộn vào dân dò la tin tức của chúng ta. Tóm lại, công tác giữ dìn bí mật quân sự là bảo đảm năm mươi phần trăm thắng lợi, nó quyết định sự thành bại của trận đánh.
  Tiếp theo ý kiến của đồng chí chính trị viên, đồng chí đại đội trưởng không nói gì thêm, sau khi trải xong tấm bản đồ khu vực thị xã Buôn ma thuột, đồng chí vừa chỉ trên bản đồ vừa nói:
  -Trung đoàn 95 được giao nhiệm vụ phối hợp với sư đoàn 316, trung đoàn 198 đặc công, đánh vào giải phóng thị xã Buôn ma thuột. Nhiệm vụ chính của trung đoàn 95 là: Tập trung tiêu diệt hai mục tiêu lớn là sân bay Hòa bình, khu tổng kho Mai hắc Đế và bộ chỉ huy sư đoàn 23 ngụy, có sự yểm trợ của trung đoàn đặc công 198, các hướng còn lại do sư 316, trung đoàn 198 và các đơn vị khác đảm nhận. Ở vòng ngoài, bộ đội ta đã chặt đứt giao thông quốc lộ 19 và 21, chia cắt chiến lược giữa duyên hải và cao nguyên. Đường quốc lộ 14 đã bị sư 320 của ta cắt đứt, cô lập quân địch ở nam tây nguyên với bắc tây nguyên không cho chúng hỗ trợ lẫn nhau. Căn cứ Đức lập đang bị sư đoàn 10 tấn công tiêu diệt.
  Nghỉ một lát, đồng chí nói tiếp:
    -Trong chiến đấu, tùy tình hình cụ thể sẽ phối hợp với các mũi còn lại của sư 316 phát triển hướng tấn công lên trung tâm của thị xã Buôn ma thuột, khu vực ngã 6. Thời gian nổ súng và hợp đồng tác chiến  giữa các đơn vị đang được giữ bí mật. Trước mắt C20 cần phối hợp với các đơn vị bạn, nghiên cứu kỹ phương án tác chiến, đường hướng tiếp cận mục tiêu, hướng phát triển tấn công, tính chất quy mô  các ổ đề kháng và hỏa lực của địch, dẫn các tiểu đoàn bộ binh K4 K5 K6 vào đúng vị trí chiến đấu. Khó khăn lớn nhất của chúng ta hiện nay là chúng ta vừa mới tiếp cận chiến trường Tây nguyên, chưa quen thông thổ, địa hình địa vật. Vì vậy trong thời gian ngắn nhất, chúng ta phải nhanh chóng học hỏi, tận dụng sự hiểu biết của các đơn vị bạn để nhanh chóng tiếp cận mục tiêu.
  Sau khi giao nhiệm vụ cụ thể cho từng đơn vị, đồng chí hỏi chúng tôi có ý kiến gì không? Chúng tôi chỉ đề nghị cho chúng tôi gặp trinh sát của các đơn vị bạn, để chuẩn bị tốt hơn cho cuộc chiến đấu trên chiến trường Tây nguyên.
(Còn nữa)


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 02 Tháng Bảy, 2012, 04:20:07 pm
          Chào bác quanvietnam! Như vậy là sau những ngày hành quân vất vả. Các bác chuẩn bị được nổ súng rồi đây. Đọc bài của bác mới thấy các "CỤ" nhà ta điều binh khiển Tướng cũng "ác". Dùng lực lượng mãi tận ngoài Q.T, HÀNH QUÂN CẢ NGÀN KM ĐỂ THAM GIA CHIẾN DỊCH.

          Tranphu cùng anh em chuẩn bị được quanvietnam kể về trận đánh của chiến dịc Tây Nguyên rồi đây.

           Chúc bác chủ luôn khỏe để chắc tay phím như ngày xưa nhưng người lính Trinh sát chắc tay súng chiến đấu lập nhiều chiến công hiển hách. Kính bác!


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 16 Tháng Bảy, 2012, 02:38:05 pm

NHỮNG CUỘC HÀNH QUÂN
          Sẩm tối ngày 9 tháng 3 năm 1975, chúng tôi ăn cơm tối sớm hơn mọi ngày. Khoảng hơn 6 giờ tối, nhìn ra ngoài bìa rừng thấy trời còn đang sáng mà ở trong rừng thì trời đã tối hẳn. Toàn đơn vị được lệnh hành quân về nơi tập kết. Hơn một tiếng đồng hồ đi bộ trong rừng chúng tôi đến được điểm tập kết. Địa điểm nơi tập kết là một khu rừng già, có rất nhiều cây to tán lá xum xuê, mật độ cây rừng  phân bố thưa thớt, cách nhau cả chục mét mới lại có một vài cây mọc. Chúng tôi đi qua một khu rừng, trong rừng đã thấy rất nhiều bộ đội đã ngồi la liệt chờ sẵn, ba lô và các đồ dùng lỉnh kỉnh đã được xếp gọn thành từng khối, từng khu vực, phân bố tản mạn trong rừng. Tôi đoán, đây là khu vực tập kết của các đơn vị, để chuẩn bị chiếm lĩnh trận địa.
  Trong đêm tối, không nhìn rõ mặt nhau nhưng vẫn có tiếng hỏi nhau:
    -Các ông ở đơn vị nào?
    -Chúng tôi ở trung đoàn 95 sư 325. Còn các ông?
    -Chúng tôi sư 316.
    -Chúc may mắn, nhớ giữ gáo để về với mẹ nhé!
    -Cám ơn! Các ông cũng thế nhé, hẹn gặp lại nhau.
  Đi thêm một đoạn nữa, C20 đến khu vực của trung đoàn 95. Ở đấy có đồng chí vệ binh của trung đoàn đã chờ sẵn, để đón đồng chí đại đội trưởng lên gặp đồng chí tham mưu trưởng. Còn chúng tôi thì ở lại triển khai theo kế hoạch.
  Mệnh lệnh truyền xuống:
     -Chỉ trừ vũ khí và lương khô để sẵn sàng chiến đấu là mang theo người, còn lại tất cả đều cho vào ba lô, nai nịt gọn ghẽ, xếp theo đúng vị trí của từng đơn vị, để lại nơi ém quân.
  Mọi công tác chuẩn bị được chúng tôi thực hiện nhanh chóng. Tất cả đã sẵn sàng đợi lệnh xuất kích, trong lúc chờ đợi đã có một vài nhóm tụ tập nhau lại để hút trộm thuốc lào, tuy không nhìn thấy lửa nhưng mùi thuốc thì không thể dấu được.  Ngay lập tức ban chỉ huy ra lệnh nghiêm cấm, lệnh được đồng chí liên lạc truyền xuống, các nhóm nghiêm chỉnh chấp hành quay trở lại vị trí.
   Lúc này, thời gian khoảng 9 rưỡi đến 10 giờ đêm, khu rừng nơi ém quân tương đối yên lặng, không gian và thời gian đã được màn đêm bao phủ, im lặng và tĩnh mịch, thi thoảng mới nghe được tiếng kêu lách cách của các loại vũ khí va chạm vào nhau, đây đó cũng có nghe tiếng thì thầm to nhỏ của bộ đội đang nói chuyện với nhau.
  Bỗng nhiên nghe tiếng pháo rít ghê rợn tiếp theo là những tiếng nổ chát chúa, xé toang màn đêm tĩnh mịch. Bộ đội nhốn nháo tìm chỗ ẩn nấp, nhưng khổ một nỗi là rừng ở đây rất bằng phẳng, chẳng kiếm đâu ra mô đá hay những chỗ lõm để chui xuống, tất cả tập trung vào các gốc cây to để tránh pháo tạm thời, tôi vội vàng vơ vội mấy cái ba lô chùm lên người, tất cả còn đang loay hoay lúng túng thì lại một loạt pháo nữa bắn tới, lần này có vẻ nổ gần hơn vì không nghe thấy pháo rít mà chỉ nghe thấy tiếng nổ lọng óc. Không yên tâm, tôi vội vàng di chuyển đến một gốc cây gần đó, tôi nghĩ thầm chắc là bị lộ rồi, nếu không bị lộ thì làm sao nó biết để bắn trúng vào đội hình của mình thế này, bây giờ nếu chúng cứ bắn cấp tập thì chắc là thương vong nhiều lắm. Lại một loạt pháo nữa, nhưng đợt này có vẻ xa hơn, nhưng lại có một vài quả pháo có vẻ như bay lạc nổ rất gần chúng tôi, đất đá bay rào rào, khói pháo két lẹt.
   Thế rồi tiếng pháo im bặt, chờ khoảng độ 15 đến 20 phút không thấy địch bắn tiếp, bộ đội quay trở lại vị trí. Cũng lúc đó, đồng chí đại đội trưởng và đồng chí liên lạc hớt hải chạy về. Đồng chí đại đội trưởng hỏi:
    -Có ai bị thương không?
  Đồng chí chính trị viên trả lời:
    -Tất cả mọi người đều an toàn.
  Đồng chí đại đội trưởng nói ngay:
    -Thế thì tốt rồi, bây giờ tất cả các đơn vị, theo kế hoạch và nhiệm vụ đã được phân công,  triển khai gấp, các mũi khẩn trương dẫn bộ đội vào chiếm lĩnh trận  địa để kịp nổ súng vào giờ “G”. Đề nghị tất cả các đồng chí khẩn trương nhanh chóng rời khỏi khu vực này cành nhanh càng tốt, những loạt pháo của địch bắn ban nãy không rõ các đơn vị khác có thiệt hại gì không? Riêng chúng ta thì có tổn thất: Đồng chí trung đoàn phó bị hy sinh và một số đồng chí khác bị thương, hiện nay công tác thương binh tử sĩ đang được khắc phục. Nhiệm vụ của chúng ta bây giờ là đưa bộ đội vào vị trí chiến đấu.
  Bộ đội lục tục triển khai đi theo các hướng đã định, đoàn quân cứ lặng lẽ bí mật tiến về hướng có vầng sáng vàng đục hắt trên nền trời tối đen. Ở đó, trên bầu trời thi thoảng lại xuất hiện những luồng ánh sáng của những ngọn đèn pha quét qua quét lại. Nhìn xa xa, toàn một mầu đen đặc quánh, có lúc có những ánh đèn lóe lên lại vụt tắt. Nơi có vầng sáng chắc là thị xã Buôn ma thuột, thi thoảng lại nghe tiếng ùng oàng của đại bác từ xa vọng về.
  Chúng tôi đã vượt qua cánh rừng và tiến vào khu rừng cao su từ lúc nào không biết. Tốp trinh sát đi đầu phát hiện trong rừng cao su có ánh đèn và có tiếng nói vọng ra từ những chiếc lều bạt, họ ra hiệu cho đoàn quân đi phía sau dừng lại. Tổ trinh sát tiền nhập, tiếp cận mục tiêu để nắm tình hình. Sau khi điều tra cụ thể, tổ trinh sát quay về báo cáo với đồng chí đại đội trưởng, đồng chí đại đội trưởng lập tức chỉ đạo tổ máy thông tin trinh sát báo cáo về sở chỉ huy xin chỉ thị. Chúng tôi nhận được lệnh là: Tất cả các mũi tiến quân, bằng mọi cách gom toàn bộ số dân đi làm cao su đang ngủ lại trong rừng vào một khu vực, vừa là quản thúc vừa là giải thích để cho dân hiểu. Tuyệt đối không để người nào trốn được về thị xã Buôn ma thuột, nếu họ trốn được thì chúng ta bị lộ ý đồ, lúc đó vô cùng nguy hiểm. Hãy thực hiện nhanh gọn, không tiếng súng.
  Lập tức, lính trinh sát được huy động dồn dân đi làm cao su đang ngủ lại trong rừng về một khu vực. Lúc đầu họ tỏ ra sợ hãi, run lập cập, nói không thành lời, có lẽ họ chưa bao giờ nhìn thấy bộ đội, hơn nữa bộ đội lại bất ngờ xuất hiện như trên trời rơi xuống, một cuộc gặp nhau bất đắc dĩ, lại càng làm cho họ hoảng hốt hơn. Để trấn an chúng tôi nói:
    -Đồng bào yên tâm, chúng tôi không làm gì để đồng bào phải sợ, chúng tôi không bắt không trói hay đánh đập đồng bào, chúng tôi chỉ mời đồng bào cụm vào đây, không đi lại lung tung, đề phòng lát nữa bộ đội hành quân qua lại tưởng đồng bào là thám báo hay biệt kích, lúc ấy rất nguy hiểm có khi hối không kịp. Đồng bào ngồi đây, chúng tôi đảm bảo tính mạng, ai mà trốn chúng tôi không chịu trách nhiệm. Chúng tôi gác vòng ngoài đồng bào cứ yên trí ngủ, sáng mai chúng tôi trả tự do cho đồng bào.
  Lúc này, đồng bào cũng chẳng biết làm gì khác, ngoài việc phục tùng mệnh lệnh của bộ đội và ngồi im. Trời tối quá, trong gian lều bạt, ánh sáng của mấy ngọn nến cháy bập bùng mờ mờ tỏ tỏ, không nhìn rõ đồng bào có phản ứng gì không. Chúng tôi rất sợ gặp phải lực lượng dân vệ hay là bọn địa phương quân chúng có vũ khí, trà trộn đi làm nương cùng với gia đình, nếu gặp tình huống này sẽ vô cùng nguy hiểm. Quan sát một lượt không thấy có biểu hiện khả nghi, chúng tôi cũng không biết làm gì hơn cũng đành phải rút ra và cử hai đồng chí ở lại canh gác.
  Đoàn quân lại tiếp tục tiến vào. Sau sự cố gặp dân ban nãy, từ lúc ấy trở đi, trên đường tiến vào tiếp cận mục tiêu khi đi qua rừng cà phê, chẳng hiểu sao chúng tôi lại mất liên lạc với người dẫn đường, loay hoay mãi mới tìm ra nhau, sau đó thì chúng tôi không gặp thêm bất cứ một trở ngại nào khác. Chúng tôi đã chiếm lĩnh vị trí chiến đấu an toàn và bí mật, bây giờ là thời gian chờ đợi, chờ đến giờ “G”để nổ súng tấn công vào thị xã Buôn ma thuột.
   Đã quá nửa đêm, chắc là khoảng hơn 1 giờ sáng. Toàn thị xã Buôn mê thuột đang chìm vào giấc ngủ, mọi sinh hoạt về đêm vẫn diễn ra bình thường giống như nó vốn có. Tất cả đều bí mật, bí mật cho đến phút trót.
  Thế rồi, giờ “G” đã đến, toàn thị xã Buôn ma thuột sáng bừng lên bởi những quầng lửa hỏa lực của quân ta, tiếng nổ đinh tai nhức óc cấp tập khắp mọi nơi. Đèn điện của thị xã phụt tắt, thay thế cho ánh sáng của điện là những ánh chớp và tiếng nổ của đủ loại vũ khí của quân ta. Tất cả thị xã là một chảo lửa, khu vực sân bay Hòa bình và khu kho Mai hắc đế và nhiều nơi khác trong thị xã có chỗ đã bốc cháy, bộ đội đặc công đã luồn sâu tiêu diệt các cụm hỏa lực của địch, bộ binh tràn lên, tiếng súng bộ binh nổ loạn xạ. Hoàn toàn bất ngờ nên quân địch chưa kịp phản ứng chống trả, ít phút sau chúng kịp trấn tĩnh lại bắn trả như vãi đạn để lấy lại tinh thần.
  Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt, ta với địch giành nhau từng căn nhà, từng góc phố. Nhưng địch ở thế không cân sức vì bị tấn công bất ngờ, địch hoàn toàn ở thế bị động, không có công sự phòng ngự, vì vậy bọn địch vừa đánh vừa rút lui cố gắng co cụm để chống cự một cách yếu ớt.
  Quân ta càng đánh càng hăng, khoảng độ hơn mười giờ sáng ngày 10 tháng 3 năm 1975, bộ đội ta đã chiếm lĩnh gần như toàn bộ thị xã, bọn địch co cụm về các cứ điểm của chúng trong thị xã để cố thủ và củng cố lực lượng. Đã rất nhiều lần địch tổ chức phản công để tái chiếm những chỗ đã mất, nhưng tất cả đều vô vọng. Trên bầu trời thị xã lúc này xuất hiện cả máy bay trực thăng dùng loa phóng thanh kêu gọi binh sĩ VNCH tử chiến để cố thủ, chờ quân tiếp ứng để tái chiếm những nơi đã bị cộng sản chiếm giữ.
  Bộ đội ta với chủ trương đánh nhanh thắng nhanh, củng cố và chốt giữ  vững chắc những vùng đất vừa được giải phóng, đề phòng bọn địch tổ chức phản công để tái chiếm, đồng thời nhanh chóng tấn công tiêu diệt các cứ điểm của địch đang cố tình chống cự trong thị xã.
  Sau hơn một ngày một đêm, với sự chỉ đạo tài tình của bộ chỉ huy mặt trận B5, với sự phối kết hợp nhịp nhàng của các quân binh chủng trên địa bàn mặt trận tây nguyên, với sự thông minh mưu trí và lòng quả cảm của toàn thể cán bộ chiến sĩ trên chiến trường, trưa ngày 11 tháng 3 năm 1975 chúng ta đã giải phóng hoàn toàn thị xã Buôn ma thuột.
  Cay cú với thất bại, bọn địch tìm mọi cách để chiếm lại Buôn ma thuột, hòng cứu vãn thế chiến lược đang bị vỡ từng mảng trên cao nguyên trung phần. Những ngày sau đó, chúng tôi được lệnh chuẩn bị công sự và hầm hào để sẵn sàng đánh quân đổ bộ, bộ đội lại hối hả chuẩn bị để bước vào cuộc chiến đấu mới.
  Mấy ngày trực chiến và chờ quân đổ bộ, nhưng không thấy. Sau nghe đâu quân đổ bộ, đã đổ bộ xuống vùng Đông bắc thị xã Buôn ma thuột, trên đường quốc lộ số 21 đã bị sư đoàn 10 và trung đoàn bộ binh số 25 đánh tan không còn một mảnh giáp, đập tan ý đồ phản kích của địch.
  Chiến thắng Buôn mê thuột, có ý nghĩa quan trọng và lớn lao như thế nào, anh em chiến sĩ như chúng tôi là không thể hiểu hết. Nhưng thực sự là: Anh em chiến sĩ C20 của chúng tôi nói riêng, toàn trung đoàn 95 sư 325 nói chung chúng tôi rất vui, Vui vì chiến thắng vang dội, bộ đội ta ào ạt tiến công truy quét quân địch, thể hiện sức mạnh không gì cản nổi. Vui vì, quân đội của ta bây giờ đã lớn mạnh, đã tiến tới hợp đồng binh chủng đánh với quy mô nhiều trung đoàn sư đoàn phối hợp, nhớ lại thời gian chiến đấu ở Tích tường, Như lệ, bộ đội đánh chiếm cao điểm, lúc ấy phải xin cấp trên bắn chi viện  từ quả cối, quả pháo. Vui vì, một lần nữa trung đoàn 95 sư 325 lại ghi thêm chiến công hiển hách…
  Lịch sử của trung đoàn 95 sư 325 đã viết thêm sang trang mới.
(Còn nữa)
 
 


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 23 Tháng Bảy, 2012, 02:49:27 pm

NHỮNG CUỘC HÀNH QUÂN
          Giải phóng hoàn toàn thị xã Buôn mê Thuột được hơn một tuần. Hôm nay, khoảng 3 giờ chiều, một cuộc hội ý chớp nhoáng các cán bộ chủ chốt của C20. Đồng chí chính trị viên trưởng, thay mặt cho ban chỉ huy đại đội, truyền đạt đến mọi người các ý kiến kết luận về tình hình chiến sự và những nhận định về các diễn biến tiếp theo của bộ chỉ huy mặt trận Tây Nguyên. Đồng chí nói:
    -Thất thủ Buôn mê Thuột, thế phòng thủ chiến lược của quân đội VNCH trên cao nguyên đã sụp đổ hoàn toàn. Tây nguyên bị cắt vụn từng mảnh, hệ thống đường giao thông chiến lược nối liền các vùng trên cao nguyên, nối liền duyên hải với cao nguyên đã bị chặn đứt. Tây nguyên đã bị cô lập, các vùng không thể nào ứng cứu cho nhau được nữa. Đồng chí nói tiếp:
    -Trước tình thế không cứu vãn nổi, quân đội VNCH không còn con đường nào khác là phải ra lệnh rút khỏi phía bắc Tây nguyên để bảo toàn lực lượng. Lợi dụng tình hình rút chạy của quân địch, Bộ chỉ huy mặt trận đã điều sư đoàn 320, tập trung đánh vào lực lượng quân địch đang tháo chạy trên quốc lộ 7. Nhiệm vụ của chúng ta, E95 sư 325 lúc này là: Nhanh chóng triển khai lực lượng, hỗ trợ cho các đơn vị bạn tấn công truy  kích địch để giải phóng thị xã Cheo reo-Phú bổn. Tình hình rất khẩn trương, đề nghị các đồng chí thu quân gấp, đúng 5 giờ chiều hôm nay xuất phát.
  Những ngày này ở thị xã Buôn ma Thuột, bộ đội đang hân hoan ăn mừng chiến thắng, bộ đội các binh chủng kỹ thuật đã vào tiếp quản những nơi trọng yếu như đài phát thanh, đồn bốt, ngân hàng, nhà kho các trụ sở hành chính v.v. Thị xã Buôn ma Thuột đang được lập lại trật tự, trên đường phố đã có nhân dân đi lại, người đi bộ, người đi xe Hon đa, đường phố tuy vẫn còn vắng vẻ, nhưng cũng đã bắt đầu thấy sự hồi sinh, những nụ cười đã nở trên môi của người dân bản địa với những người mà họ vẫn gọi là cộng sản. Những người cộng sản mới cách đây có mấy ngày, người dân vẫn tin như tuyên truyền của cơ quan tâm lý chiến của chính phủ VNCH là: 7 tên Việt cộng đánh đu tầu lá đu đủ mà không gãy và cộng sản là kẻ thù không đội trời chung. Bây giờ thì khác rồi, họ đã nhìn thấy những người cộng sản bằng xương bằng thịt, họ đã cười với nhau hiền hòa và thân thiện.
   Cán bộ chiến sĩ của E95 F325, đang tận hưởng niềm vui của những ngày chiến thắng, thì nhận được lệnh chuẩn bị hành quân. Chúng tôi gấp gáp chuẩn bị, lên đường.
  Chẳng nói dấu mọi người, sau chiến thắng chúng tôi cũng có được một chút của nả, đó là chiến lợi phẩm thu được của địch và một vài thứ nhặt nhạnh được từ những đống đổ nát của bãi chiến trường. Chính vì những chiến lợi phẩm thu được ấy, nên việc chuẩn bị hành quân cũng phức tạp hơn, vì phải đắn đo kén chọn cái nào mang đi cái nào để lại, thành thử việc chuẩn bị không nhanh như mọi khi.
  Nói là có chút của nả cho nó sướng cái mồm chứ thực ra có cái gì đâu, vàng bạc thì chẳng ai quan tâm vì sợ gặp phải vận đen, nên chắc chắn không ai tàng trữ, ở đây cũng phải nói thêm cho mọi người hiểu về nhận thức của anh em bộ đội khi nhặt được vàng bạc hoặc là đồ trang sức. Không biết trường hợp tôi đưa ra ở đây có phải là đại đa số không, nhưng có nhiều anh em nói rất chân tình: Khi nhìn thấy vàng bạc là phải vội vàng quay đi, tránh thật xa vì sợ gặp phải vận hạn, sống để về quê với mẹ mới là cái đích cuối cùng và là vô giá, lúc này vàng bạc chẳng cần thiết và cũng chẳng để làm gì. Chính vì thế hầu hết anh em chiến sĩ không quan tâm đến vàng bạc, thậm chí có thể nói họ tìm cách để không phải nhìn thấy chúng để khỏi phải đấu tranh tư tưởng: Nhặt hay không nhặt.
  Còn tiền bạc, tiền của chính phủ VNCH cũng có nhiều người có, nhưng không nhiều, mấy tờ tiền chỉ mang tính chất kỷ niệm. Đúng như vậy, theo tôi biết hôm giải phóng Buôn ma Thuột, có một đơn vị tiến vào ngân hàng, chẳng biết cố ý hay vì tấn công mục tiêu nên làm nổ tung một số két đựng tiền, tiền bay tung tóe khắp mọi nơi, thế là một số người nhặt được, anh em cho nhau mỗi người một ít để xem cho biết, thực ra anh em lúc đó nghĩ: Lấy tiền chẳng biết để làm gì, nên mọi người cũng không hào hứng. Ngay sau đó, có một đơn vị vào tiếp quản, nghe nói: Lực lượng này là của ngân hàng.
  Cái mà làm cho anh em chúng tôi lúng túng là chiến lợi phẩm, hàng nhu yếu phẩm của quân lực VNCH, thu được hôm tấn công vào khu kho Mai hắc Đế. Thôi thì đủ thứ, nhiều quá không thể nào mang đi hết nhưng có lẽ nhiều nhất vẫn là mặt hàng đồ hộp, toàn là thịt hộp sữa hộp. Loại này là hàng chiến lược, đề phòng khi đói kém, nên chia cho mỗi người phải mang một vài chục hộp thịt, còn sữa hộp thì tùy, ai thích thì mang đi, phần còn lại chúng tôi mang chia cho mấy hộ dân ở gần đấy, lúc đầu thì họ còn e ngại sau họ hiểu ra thì họ vui vẻ cám ơn.  Mặt hàng nhiều thứ hai có lẽ là trà và thuốc lá, rồi cả cà phê. Loại này không bắt buộc, ai nghiện ngập thì mang, hút nhiều mang nhiều hút ít mang ít, ấy thế mà anh em cố gắng gói gém mang bằng hết, còn thực phẩm thì bỏ lại, nghĩ cũng buồn cười: Cái ăn để sống thì không cần, lại cần toàn những loại độc tố, thật là khó lý giải.
  Còn có một loại chiến lợi phẩm nữa mà kỷ luật của quân đội nghiêm cấm, ai vi phạm sẽ bị xử lý kỷ luật. Biết là như vậy, nhưng cũng thật là khó cho anh em, trong hoàn cảnh chiến tranh  anh em nhìn thấy từ đống đổ nát, chả lẽ lại nhắm mắt bước qua, trong khi đó những thứ ấy vẫn còn dùng được, bỏ đi thì phí nên anh em nhặt lên để  dùng. Anh em nghĩ: Cứ giữ lấy để dùng, khi nào cần nộp thì anh em sẵn sàng nộp lại. Do mọi người suy nghĩ đơn giản như vậy nên đơn vị tôi gần như ai cũng có, chỉ trừ những cán bộ lãnh đạo là không có. Đó là đồng hồ và đài bán dẫn, đồng hồ thì ít nhất mỗi người một chiếc, còn đài bán dẫn người có người không. Được cái, tất cả những thứ này nó không làm ảnh hưởng đến việc hành quân của chúng tôi.
  Xung quanh câu chuyện chiến lợi phẩm, cũng có lắm chuyện buồn cười, riêng việc tranh luận về đồng hồ, cái nào tốt cái nào xấu cũng đã ầm ỹ cả lên, chẳng ai chịu ai. Thật là vui, khi mà tất cả các đồng hồ đều mới coong, óng ánh, toàn những hãng nổi tiếng thế giới, lúc rỗi và vắng cán bộ lãnh đạo anh em mang ra khoe với nhau, ai cũng tự nhận  của mình là tốt là của hiếm, trong bối cảnh ấy không có gì làm thước đo xem cái nào tốt cái nào không tốt. Thế rồi có một hôm, mọi người đề xuất: Tất cả mọi người lấy lại giờ đồng hồ của mình theo đồng hồ của một người được xem là tin tưởng nhất, sau đó tất cả đem ngâm vào nước rồi ngày hôm sau đối chiếu lại. Ngày hôm sau đến giờ đối chiếu lại thì mỗi cái chạy mỗi phách chẳng cái nào đúng với cái nào, có cái còn chết toi, cái thì nước vào, thế là lại xảy ra một cuộc tranh cãi ầm ỹ: Của tao tốt của mày chẳng ra gì, cứ thế bất phân thắng bại. Cũng may, khi ấy ở tiểu đội hậu cần có đồng chí khi còn ở nhà thường phụ giúp bố sửa chữa đồng hồ, nên ít nhiều cũng biết về đồng hồ. Đồng chí ấy nói: Tôi chẳng biết những đồng hồ này tốt hay xấu, nhưng nó chỉ có một chân kính, hay người ta quen gọi là đồng hồ “Cốp”, trong khi đó cũng chính những đồng hồ của những hãng này ở ngoài Bắc mọi người đang dùng là có 12 chân kính. Thấy nói thế, mọi người lại thắc mắc chân kính là gì? Sau khi được giải thích, nhìn mọi người buồn thiu, thì ra toàn là đồng hồ “Cốp” hay là đồng hồ “Rởm”. Thật là, vứt đi cũng dở mà giữ lại cũng dở.
  Ngoài chuyện đồng hồ ra, lại còn chuyện nghe trộm đài địch, nghe nhạc vàng v.v. Đã nhiều lần bị lãnh đạo nhắc nhở nhưng vẫn cố tình, khi bị bắt quả tang lập biên bản, ông nào ông nấy mặt cứ ngệt ra, buồn cười nhất là việc bị tịch thu tang vật nhưng phải có trách nhiệm trông coi và bảo quản. Mấy ông vi phạm chẳng biết làm cách nào đành ngậm bồ hòn làm ngọt và chấp hành nghiêm chỉnh, chờ khi xem xét kỷ luật may ra được chiếu cố.
  Lại còn chuyện, bộ đội mượn xe honda của tổ quân quản để đi thử cho nó oai, lúc đi thì đi được, nhưng khi muốn xuống không biết làm sao cho nó dừng lại, hỏi những người đi đường thì xấu hổ không giám hỏi, chạy về đến đơn vị để hỏi, vì không dừng xe được để hỏi cho rõ cho nên cứ phải vòng qua vòng lại đến bốn năm lần để hỏi, mọi người cứ ôm bụng mà cười, cười lăn cười lóc, đã thế mỗi người nói một phách, chẳng biết làm thế nào. Cuối cùng đành chọn phương án cả người và xe chui xuống hồ nước, rất may hồ nước nông nên không có chuyện gì xẩy ra. Đến lúc mang xe ra trả lại phải nói dối là bị ngã cho đỡ “Quê”.
  Mới chỉ có mấy ngày ở vùng giải phóng, mà đã xảy ra không biết bao nhiêu là chuyện, toàn những chuyện cười ra nước mắt. Nếu còn tiếp tục ở nữa thì chắc là còn nhiều chuyện để mà nói, rất tiếc là chúng tôi đã chuẩn bị lên đường.
  Đúng 5 giờ chiều, chúng tôi đã tập trung trên đường để chờ xếp xe. Hoàng hôn ở Tây nguyên rất đẹp nhưng cũng qua đi rất nhanh, vừa thấy ráng chiều còn đỏ ối, loáng một cái đã thấy tím chiều lan tỏa và bóng  tối từ từ buông xuống, trời cứ tối dần tối dần. Bóng tối bao trùm khắp bầu trời Tây nguyên.
  Chúng tôi rời khỏi thị xã Buôn mê Thuột khoảng hơn 8 giờ tối. Đoàn xe, từng chiếc từng chiếc một từ từ tiến vào màn đêm bao la của núi rừng Tây nguyên. Đêm, tháng ba Tây nguyên đẹp quá, trời cao lồng lộng, ánh sáng của muôn vì sao đang nhấp nháy, gió ngàn thổi từng đợt từng đợt, gió về đêm lẫn hơi sương mang cảm giác se lạnh làm mọi người thiu thiu buồn ngủ.
  Đi được hơn một tiếng đồng hồ, bỗng có nhiều quầng lửa sáng bùng lên, kèm theo rất nhiều tiếng nổ chát chúa từ phía đầu đoàn xe vọng lại, đoàn xe khựng lại. Trên xe hỗn loạn, ở dưới đất nhiều tiếng chân chạy thình thịch, có tiếng ai đó hô:
    -Chúng ta, bị tập kích! Tất cả triển khai sang hai bên vệ đường, sẵn sàng chiến đấu.
  Bộ đội nhanh chóng triển khai sang hai bên vệ đường, đề phòng bọn địch lợi dụng lúc này để tiếp tục tập kích bất ngờ vào giữa đội hình và chặn khóa đuôi, cô lập bộ đội từng đoạn để tiêu diệt. Tiếng nổ phía đầu đoàn xe ngày càng nhiều và hỗn loạn, đồng chí đại đội trưởng lệnh cho trung đội 4 cử một tổ lên nắm tình hình. Khoảng 15 phút sau, tiếng súng thưa dần rồi chấm dứt, sau lúc ấy các đồng chí trinh sát đi nắm tình hình về báo cáo:
    -Có một nhóm tàn quân của quân lực VNCH, không rõ quân số và phiên hiệu đơn vị, chúng tập kích vào đội hình hành quân của trung đoàn, bắn cháy hai xe, rồi rút chạy vào rừng. Bộ đội tổ chức truy đuổi nhưng vì trời tối lại không thuộc địa hình nên phải quay về.
  Đồng chí đại đội trưởng, quay lại vị trí chỉ huy của đồng chí tham mưu trưởng, báo cáo tình hình và xin chỉ thị. Sau khi nghe xong, đồng chí tham mưu trưởng ra lệnh:
    -Để lại lực lượng để khắc phục hậu quả, chuyển các đồng chí thương binh đến các trạm phẫu của các đơn vị gần nhất để cấp cứu. Đội hình còn lại tiếp tục hành quân, chú ý giữ đúng khoảng cách đề phòng tiếp tục bị tập kích, hạn chế thương vong đến mức tối đa.
  Đoàn xe lại tiếp tục chuyển bánh, trên xe anh em bàn luận với nhau:
    -Mình đang đi qua vùng đất vừa mới được giải phóng mấy ngày, toàn rừng là rừng, mà lại đi vào ban đêm, trời thì tối như bưng, đi kiểu này nguy hiểm quá.
   - Trong khi đó an ninh của vùng giải phóng chưa ai rõ hư thực thế nào, nhưng chắc chắn đây là địa bàn chiến lược của địch trên cao nguyên vì vậy bọn địch phải bố trí hệ thống phòng ngự liên hoàn, hỗ trợ cho nhau. Ngoài ra còn bọn lính bảo an dân vệ, bọn địa phương quân nữa chứ, chúng còn đang trà trộn trong dân, lợi dụng đục nước béo cò tổ chức cắn trộm hôi của.
    -Đúng đấy anh ạ: Kiểu như ở Buôn ma Thuột: Trung tâm là bộ máy chiến tranh, vòng ngoài là binh lính bảo vệ nhiều lớp, mỗi lớp tùy theo chức năng nghiệp vụ của từng binh chủng, lớp ngoài cùng là dân, trong lớp ngoài cùng lại cũng chia ra nhiều loại dân, ngoài tận cùng là người Thượng, trung thành với chính phủ quốc gia. Tiếp theo là dân di cư từ Bắc vào theo tiếng gọi của Chúa, quyết không đội trời chung với Cộng sản, cứ như thế chúng xắp xếp theo tính chất quan trọng. Chả thế mà mấy bữa trước khi tấn công vào Buôn ma Thuột, bộ đội ta phải vượt qua một ấp, ở đây chúng chống trả quyết liệt, khó khăn lắm bộ đội ta mới vượt qua được. Sau mới tìm hiểu ra đấy là ấp Châu Sơn, hai lần được phong anh hùng, một là thời Ngô đình Diệm, một là thời Nguyễn văn Thiệu.
    -Hành quân đi như thế này, bọn địch nó có áp sát tận nơi chúng ta cũng không phát hiện được, đi kiểu này nguy hiểm vô cùng. Không hiểu vì sao lại không cho chúng ta đi ban ngày, trong khi đó cả ngày thì chơi, tối đêm mới lại hối nhau đi? Cũng may vừa rồi là gặp bọn tàn quân cắn trộm, chúng không có đủ lực lượng để tập kích cả đoàn xe. Nếu chúng mà đủ thì không biết điều gì xảy ra?
    -Thôi đi ông tham mưu “Rởm”, làm gì có chuyện nếu chúng đủ. Như vậy không ai gọi là vùng giải phóng, mã đã là vùng giải phóng thì làm gì có lực lượng chính quy của địch, mà chỉ có bọn tàn quân lẩn khuất ở trong rừng, đói quá ra cắn trộm may ra kiếm được thức ăn, để sống cho qua ngày thôi.
    -Thôi anh em ơi! Anh em ai nói cũng có lý lẽ, cũng có những ý đúng. Nhưng bây giờ xin anh em suy nghĩ lại, bởi vì cục diện của cuộc chiến tranh đã và đang chuyển sang hình thế khác. Chúng ta đang tấn công truy kích kẻ địch, để có chiến thắng, chúng ta phải biết tận dụng cơ hội, để có cơ hội chúng ta phải tạo ra yếu tố bí mật bất ngờ. Chính vì vậy chúng ta phải chấp nhận khó khăn và gian khổ, chấp nhận rủi ro. chẳng thế mà chúng ta phải hành quân mấy ngàn cây số để giả vờ tấn công vào Kontum, Pleiku, nhưng kỳ thực là tấn công vào Buôn ma Thuột.
  Những giây phút tranh luận căng thẳng và sôi nổi cũng từ từ lắng dịu, đêm cũng đã về khua. Ở một góc nào trên xe, cũng đã nghe thấy tiếng ngáy đều đều.
(Còn nữa)


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 30 Tháng Bảy, 2012, 10:57:36 am

NHỮNG CUỘC HÀNH QUÂN
          Rạng sáng hôm sau, trời còn tối, xe dừng lại ở bãi đất trống, mọi người còn đang ngái ngủ mắt mũi cay xè, thì có lệnh xuống xe. Chúng tôi lục tục rời khỏi xe. Trời tối nên không ai nhận ra ai, mà chỉ nhận ra nhau qua giọng nói,  tất cả còn đang ngái ngủ nên cũng chẳng ai nói với ai, cứ lặng lẽ xếp xắp ba lô của mình cạnh ba lô của người bên cạnh và ngồi chờ. Buồn ngủ quá nên mọi người lại gục xuống ba lô ngủ thiếp đi, tôi chỉ văng vẳng nghe thấy tiếng đồng chí đại đội trưởng nói đều đều, nói những gì thì tôi không rõ, nhưng tôi chỉ nghe mang máng được một câu: Chúng ta chờ người dẫn đường. Thế là tôi cũng chìm vào giấc ngủ còn đang dở dang ban nãy.
  Trời vẫn chưa sáng hẳn, sương mù tương đối nhiều, mọi người còn đang mơ màng, thì nghe giọng của đồng chí chính trị viên người Nghệ an nói:
    -Xin đồng chí cho biết, đám tàn quân này thuộc lực lượng nào? Chúng từ đâu về đây? Quân số có khoảng bao nhiêu? Hiện chúng đang ẩn náu ở đâu???
  Có một giọng rất lạ trả lời, giọng này chắc chắn không phải người của đơn vị tôi, người này nói:
    -Bọn tàn quân này theo tôi: Chúng không còn khả năng chiến đấu nữa, đây là một đám hỗn quân hỗn quan, do ở khu vực này không có tiếng súng nên chúng chạy dồn về đây để ẩn náu, quân số thì không rõ là chúng có bao nhiêu. Hiện nay, ở đây chúng có nhiều nhóm sống độc lập với nhau, chúng không ở cố định, mà thường xuyên di chuyển chỗ ở, nhưng vẫn phải bám theo con suối phía trước mặt kia. Đối với đám tàn quân này, nhận định của cấp trên là: Không sợ chúng tập hợp lại lực lượng để phản kích tấn công lại quân giải phóng. Điều đáng sợ nhất đối với bọn này là chúng trà trộn vào dân để quấy nhiễu vùng giải phóng gây mất trật tự an ninh. Nhưng khi chúng có cơ hội, chúng có thể làm được tất cả. Vì vậy, chủ trương của lãnh đạo là thu gom bọn này lại, đề phòng bất trắc xẩy ra.
  Lúc này, chúng tôi đã tỉnh ngủ, đang chú ý quan sát và lắng nghe cuộc trao đổi giữa ban chỉ huy đại đội và một số người lạ, những người này có lẽ họ thuộc bộ đội địa phương được mặt trận cử đến để phối hợp với trung đoàn 95 giải quyết vấn đề tàn quân ở khu vực này.
  Sau khi nghe đồng chí cán bộ của đơn vị bộ đội địa phương trình bầy xong, đồng chí đại đội trưởng  của chúng tôi nói:
    -Chúng tôi vừa nhận được mệnh lệnh của đồng chí tham mưu trưởng trung đoàn, là cùng phối hợp với các đồng chí tổ chức trinh sát để nắm lại tình hình của bọn tàn quân đang ẩn náu ở đây, trên cơ sở đó sẽ có báo cáo cụ thể và đề xuất phương án để trung đoàn có hướng chỉ đạo. Thời gian cũng không có nhiều, để thực hiện tốt công việc này, tôi đề nghị: Bên đồng chí cử ra ba tổ, mỗi tổ ba người, vũ khí đầy đủ, thông thạo địa hình vùng này, chúng tôi cũng có ba tổ, như vậy cứ một tổ bên đồng chí đi kèm với một tổ bên chúng tôi. Chúng ta chia thành ba hướng để tiếp cận, cự ly của ba hướng này hoàn toàn phải hỗ trợ cho nhau. Khi phát hiện mục tiêu, về nguyên tắc là chúng ta không được nổ súng, mà chỉ kêu gọi bọn địch đầu hàng. Trường hợp bọn địch có biểu hiện chống trả khi ấy mới được nổ súng, khi nghe thấy tiếng súng chúng tôi sẽ xin  thêm lực lượng để bao vây tiêu diệt. Đấy là toàn bộ ý kiến đề xuất của chúng tôi, bây giờ chúng tôi muốn nghe ý kiến của các đồng chí.
  Đồng chí cán bộ, đơn vị bộ đội địa phương hơi lúng túng vì đề nghị bất ngờ của đồng chí đại đội trưởng bên tôi, đồng chí nói:
    -Đơn vị chúng tôi đóng cách đây khoảng 3km, chúng tôi sẽ có trách nhiệm báo cáo lại với các đồng chí lãnh đạo, còn bây giờ thì cứ triển khai như đồng chí đã đề xuất, nếu gặp khó khăn ta sẽ tìm cách khác.
  Như vậy, phương án tiếp cận mục tiêu đã được thống nhất. Chúng tôi có được 30 phút chuẩn bị, do không chuẩn bị được bữa sáng, mọi người ăn vội ăn vàng mấy hộp thịt chiến lợi phẩm mang theo rồi chuẩn bị vũ khí lục tục lên đường.
  Trời đã sáng rõ, bình minh rực rỡ chân trời phía đằng Đông, báo hiệu một ngày nắng đổ lửa. Chúng tôi mải miết bám theo người dẫn đường, đi xuyên qua cánh rừng cây cối thưa thớt cần cỗi, đất đá chai sạn, vũ khí đồ dùng quân sự của quân lực VNCH vứt ngổn ngang trong rừng, thậm chí có nhiều bộ quân phục được cởi ra vứt bỏ. Đúng là một cuộc bỏ chạy. Đồng chí trung đội phó trung đội 4 chỉ huy chúng tôi, hỏi người dẫn đường:
    -Mình đi còn xa nữa không đồng chí? Khi nào cách mục tiêu độ 200 mét thì dừng lại để triển khai.
  Người dẫn đường dừng lại, chỉ tay về phía trước, mọi người chăm chú nhìn theo, đồng chí nói:
    -Bọn tàn quân hiện đang ẩn náu ở những lùm cây dọc theo con suối phía đằng trước kia kìa. Đấy! Những lùm cây xanh xanh mà các anh nhìn thấy phía trước mặt là chỗ chúng ẩn nấp đấy.Tuy chúng ở dưới suối nhưng chúng có các trạm quan sát trên đồi và những cây cao, mình đi thế này khả năng là chúng nhìn thấy.
  Đồng chí chỉ huy của chúng tôi buột miệng nói:
    -Chắc là bọn này chỉ chờ để đầu hàng chứ không có ý đồ kháng cự. Nếu có ý đồ kháng cự thì chúng đã chiếm lĩnh vị trí đắc địa để quân ta khó có thể tiếp cận nổi, đằng này lại kéo nhau xuống suối để đóng quân, nếu bị tấn công thì chỉ có con đường chết hoặc đầu hàng.
  Mọi người nghe ra thấy có lý, không ai có ý kiến gì khác. Thế rồi chúng tôi lại tiếp tục tiến gần mục tiêu hơn, cách mục tiêu khoảng hơn 200 mét chúng tôi triển khai theo đội hình đã thống nhất và cứ thế tiếp cận mục tiêu, vừa đi vừa thăm dò thái độ của đối phương. Đến gần mục tiêu lắm rồi nhưng không thấy đối phương động tĩnh gì, khoảng cách này nếu chúng nổ súng thì sẽ gây sát thương cho bên ta, Nghi ngờ quá tất cả chúng tôi núp sau những gốc cây chờ đợi, vẫn không có động tĩnh gì, mươi mười lăm phút đã trôi qua, tất cả đều im lặng.
  Sau khi có được vị trí ẩn nấp tương đối chắc chắn sau gốc cây to, đồng chí chỉ huy nhóm chúng tôi nói với đồng chí chỉ huy nhóm bộ đội địa phương:
    -Bây giờ anh gọi chúng ra đầu hàng, xem chúng phản ứng thế nào.
  Đồng chí bộ đội địa phương nói:
    -Tôi giọng trong này, chúng nghe thấy là chúng căm lắm, chúng sẽ không lên đâu, có thể chúng nổ súng, thà chết chứ không chịu đầu hàng những người như chúng tôi. Các anh giọng Bắc các anh gọi thì tốt hơn, tôi là người trong này nên tôi hiểu rõ tính cách của những tên lính quân lực VNCH.
  Không đắn đo e ngại, đồng chí chỉ huy của chúng tôi dùng tay làm loa để kêu gọi, giọng của đồng chí vang vọng, truyền lan vào không gian  bao la của khu rừng:
    -A lô! A lô! Hỡi anh em binh sĩ.
  Sau đó, đồng chí dừng lại để lắng nghe động tĩnh và chờ xem thái độ phản ứng của phía bên kia. Tất cả đều im lặng, thời gian và không gian như ngừng chuyển động, mọi người đang hồi hộp chờ đợi. Thấy tình hình như vậy, đồng chí lại tiếp tục kêu gọi. Giọng của đồng chí lúc này có vẻ chậm dãi và rõ ràng hơn:
    -A lô! A lô! Hỡi anh em binh sĩ. Chúng tôi là những chiến sĩ của quân giải phóng Miền nam Việt nam. Chúng tôi kêu gọi anh em hãy bỏ vũ khí xuống, về đầu hàng chính quyền cách mạng để hưởng lượng khoan hồng, mọi hành động chống đối của các anh đều vô nghĩa, bởi vì các anh đã bị bao vây.
  Tất cả vẫn im lặng. Anh chỉ huy bên chúng tôi lại tiếp tục gọi lần nữa, rồi lần nữa. Kết quả vẫn im lặng. Chúng tôi đã bắt đầu cảm thấy nghi nghờ việc dẫn đường không chính xác của các đồng chí bộ đội địa phương. Mấy anh em bên tôi quay sang hỏi mấy anh em bộ đội địa phương, mấy anh nói:
    -Bọn tôi bám sát chúng từ hôm chúng chạy về đây, chắc chắn là chúng đang ở dưới suối để nghe ngóng, mặt khác có thể chúng sợ nên không giám lên. Hoặc chúng đã di chuyển chỗ ở, dịch lên hay dịch xuống ở đoạn suối này , chúng không thể đi chỗ khác được.
  Thấy anh em dẫn đường nói thế, chúng tôi yên tâm thế nào cũng gặp được đám tàn quân này và chúng tôi im lặng chờ đợi.
  Thế rồi giờ phút trọng đại cũng đã đến. Một chiếc áo may ô mầu trắng xỉn, do lâu ngày không giặt, được xé ra buộc vào cành cây làm cờ, giơ lên khỏi bờ suối phất qua phất lại. Tất cả chúng tôi vào tư thế sẵn sàng chiến đấu, một chiếc đầu đen nhô lên và một khuôn mặt bạc phếch vì lo lắng sợ hãi với ánh mắt nhìn lấm lét xung quanh, tên đầu tiên đã lên khỏi bờ suối, vẫn mặc bộ quần áo lính, không mang vũ khí.  Lúc này anh em chúng tôi chưa ai xuất hiện, đồng chí chỉ huy bên tôi nói với bọn tàn quân:
    -Các anh cứ bình tĩnh, tiến lên phía trước, chúng tôi sẽ bảo đảm an toàn cho các anh. Bây giờ các anh xếp theo hàng một, hai tay chắp sau gáy.
  Cứ thế, từng thằng từng thằng một, tiếp theo nhau bước lên bờ suối và xếp vào hàng, đếm được cả thảy là 31 tên. Nhìn bọn chúng bơ phờ hốc hác, quần áo thì bẩn thỉu nhem nhếch, dáng đi thì siêu vẹo, đúng là đám tàn quân.
  Lúc này, anh em ở nhóm chính diện đã xuất hiện, hai bên cánh các nhóm vẫn còn đang mai phục. Đồng chí chỉ huy, ra hiệu cho anh em chúng tôi làm công tác khám xét vũ khí của từng tên một. Sau đó anh hỏi bọn tàn quân:
    -Vũ khí các anh để ở đâu? Có còn người nào ở dưới suối không?
  Tên cầm cờ trắng ban nãy, lễ phép trả lời, giọng Miền nam, hắn nói:
    -Thưa ông Giải phóng, tất cả chúng con chỉ có 31 người, lúc đầu chúng con đông hơn nhưng vì nhiều người bị thương không theo kịp nên nằm lại rải rác trong rừng, người thì chết dọc đường, chỉ còn số này là về đây được. Khi chạy trốn trong rừng chúng con đã vứt bỏ vũ khí, để mong gặp cán bộ giải phóng xin được đầu hàng.
  Đồng chí chỉ huy hỏi tiếp:
    -Dọc con suối này có còn đám tàn quân nào ẩn náu nữa không?
  Vẫn tên cầm cờ ban nãy trả lời:
    -Việc này thì con không biết, nhưng con nghĩ là sẽ có, vì các ông giải phóng đánh khắp mọi nơi, quân lực VNCH chạy như ong vỡ tổ, khắp nơi đã giải phóng rồi không có chỗ mà trốn bây giờ chỉ trốn ở trong rừng thôi.
  Anh chỉ huy nói:
    -Cứ tạm thời như vậy đã, sau sẽ có bộ phận chuyên môn làm việc với các anh. Còn bây giờ, anh em tổ trinh sát tổ chức kiểm tra dưới suối, chú ý đề phòng vướng mìn hay lựu đạn cài.
  Rồi anh quay lại nói với bọn tàn quân:
    -Kể từ giờ các anh chính thức là tù binh của quân giải phóng, nếu các anh chấp hành tốt kỷ luật, các anh sẽ được khoan hồng và sẽ sớm được đoàn tụ với vợ con và người thân. Trường hợp các anh có biểu hiện chống đối lại quân giải phóng hay tự ý bỏ chạy khỏi đội hình thì chúng tôi sẽ nổ súng tiêu diệt. Nên nhớ rằng các anh chạy không thoát được vì chúng tôi ở khắp mọi nơi, khi đó các anh có hối hận cũng không kịp. Bây giờ anh em chúng tôi sẽ đưa các anh về nơi tập kết để nghỉ ngơi ăn uống cho lại sức.
  Ngay sau đấy, một số anh em bộ đội địa phương áp tải tù binh về nơi quy định, anh em C20 về chỉ huy sở báo cáo, số còn lại tiếp tục nhiệm vụ đi thu gom tàn quân của địch…
   Việc thu gom tàn quân của địch, hôm nay đã bước sang ngày thứ hai. Do đã có ít nhiều kinh nghiệm, nên anh em cũng không còn thấy hồi hộp và căng thẳng như hôm đầu. Công tác thu gom tàn quân của địch tiến hành cho đến hôm nay rất thuận lợi , chưa hề gặp khó khăn nào, tù binh đứa nào đứa nấy tinh thần bạc nhược, mất hết sức chiến đấu, răm rắp phục tùng mệnh lệnh của các chiến sĩ giải phóng. Bọn tàn quân cứ  nhũn như con chi chi, gọi dạ bảo vâng, một điều thưa ông hai điều thưa ông. Trên đường đưa tù binh về nơi tập kết, chúng đi thành một hàng dài, tù binh đi tự do không cần trói buộc cũng không giám bỏ trốn, thậm chí trên đường đi còn được bổ xung thêm, chuyện tưởng như bịa nhưng lại là có thật, là vì có rất nhiều tên trốn ở trong rừng, nay thấy chiến hữu đã đầu hàng thì chúng cũng chui ra đầu hàng. Cũng đúng thôi, vì bọn chúng như rắn mất đầu không nơi nương tựa, đã nhịn đói nhịn khát mấy hôm nay trong rừng, ấy là chưa nói đến những đứa bị thương không thuốc men, không ai cứu chữa, ra đầu hàng cách mạng thời điểm này là khôn ngoan nhất.
  Mặc dù, hiện nay công tác thu gom tù binh đang rất thuận lợi, nhưng trong hoàn cảnh này chúng tôi thấy cũng tương đối nguy hiểm, làm như chúng tôi đang làm chẳng qua là phải liều thôi chứ không có gì để đảm bảo độ an toàn, bởi lẽ hai bên chênh nhau quá lớn về quân số. Bên áp giải thì có vũ khí nhưng lại chỉ có từ ba đến bốn chiến sĩ, trong khi đó đoàn tù binh tuy không có súng nhưng chúng lại rất đông, có tới hàng trăm tên, nếu tù binh có ý đồ tấn công người dẫn giải thì rủi ro rất cao, hoặc bọn chúng có ý đồ đào tẩu thì chúng ta cũng gặp khó khăn v.v.
  Đấy là lo lắng và suy nghĩ của những người làm công tác thu gom tàn quân địch,  Nhưng có lẽ trong hoàn cảnh này sẽ không có chuyện ấy xẩy ra, còn nếu có xảy ra cũng là hiếm hoi và hy hữu, bởi vì chúng ta là người chiến thắng, kẻ chiến bại không có con đường nào khác là phải đầu hàng, đấy là quy luật tất yếu của chiến tranh. Biết và hiểu như thế, nhưng anh em chúng tôi không hưng phấn khi làm việc này, mà anh em chỉ muốn tiến nhanh về Cheo Reo-Phú Bổn.
(Còn nữa)


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 03 Tháng Tám, 2012, 02:54:48 pm

NHỮNG CUỘC HÀNH QUÂN
          Thị xã Cheo Reo-Phú Bổn, giải phóng ngày hôm trước. Hôm sau chúng tôi đến vào buổi chiều muộn, mặt trời đỏ rực ngấp nghé lặn xuống sau dãy núi phía Tây.
   Người dẫn đường không dẫn chúng tôi đi qua thị xã, mà đi ngoài rìa thị xã. C20 E95 được phân công đóng quân bên bờ phải một con suối rất lớn ở phía nam thị xã, con suối này nằm ôm lấy thị xã Cheo Reo, phía bờ trái chắc là khu vực thị xã, nhìn xa thấy thấp thoáng những mái tôn, những bức tường đổ. Thị xã mờ mờ trong những làn khói lúc mỏng lúc dầy từ đâu đó bốc lên.
  Tiểu đội chúng tôi khẩn trương tìm vị trí trú quân, mấy đứa em nhanh nhẩu tìm được vị trí tương đối đẹp, ngay sát bên bờ suối, mọi người đặt ba lô xuống nghỉ ngơi trước khi bắt tay vào chuẩn bị chỗ ở. Suốt chặng đường dài hành quân dưới cái nắng như thiêu như đốt của mùa khô Tây Nguyên bây giờ mới được nghỉ ngơi. Ngồi bên bờ suối, thi thoảng có những cơn gió từ dưới suối thổi lên mát lạnh, mọi người cảm thấy khoan khoái, được tận hưởng những cơn gió tự nhiên từ đại ngàn thổi về mang mùi thơm của hương rừng. Nhưng thật là ngiệt ngã, khi cơn gió rừng vừa qua đi, thì ngay sau đó là một mùi khăm khẳm như mùi cóc chết phảng phất đâu đó. Rất khó chịu, mọi người đưa mắt nhìn nhau, như muốn nói lên ở đây có điều bất ổn, thấy thế tôi nói với Lành tiểu đội phó:
    -Lành cử anh em kiểm tra xung quanh khu vực này xem có xác súc vật bị chết không? Nếu có thì phải chuyển vị trí, hoặc là tìm cách xử lý chứ không thể ngửi mùi này được.
  Lành cử anh em đi kiểm tra theo đề nghị của tôi, lúc này tôi mới thực sự để tâm quan sát cảnh vật xung quanh. Chỗ chúng tôi ngồi là bờ của con suối rất lớn, suối này cũng có thể gọi là sông được, lòng suối rất rộng, có rất nhiều bãi cát nổi lên ở trong lòng dòng chảy. Hiện nay đang là mùa khô, nên suối ít nước, nhưng nước lại rất trong, nhìn thấy cả những gợn sóng nhấp nhô của lớp cát dưới làn nước, nước chảy tỏa ra theo nhiều luồng lạch trong lòng suối. Cách chỗ chúng tôi ngồi khoảng hơn 100 met về phía thượng lưu, có bãi cát tương đối lớn nổi lên thành ốc đảo, chia dòng chảy thành hai nhánh ôm lấy bãi cát. Cát ở đây thuộc loại cát mịn hạt nhỏ, cát còn rất nhiều hạt phù xa và đất bẩn dính vào nên cát không có mầu vàng óng. Sau lưng chúng tôi là những vạt chuối lá trồng xen với đu đủ và một số loại cây khác, sau nữa là rừng cao su. Khu rừng này ở gần thị xã, chắc chủ nhân cũng ở gần  nên có nhiều thời gian để chăm sóc, nên rừng rất sạch sẽ và cây cối xanh tốt.
  Từ chỗ chúng tôi ngồi xuống đến bờ suối còn độ 15-20 met, toàn là cây cỏ hoang dại mọc um tùm, tiếp theo là bờ suối tương đối dốc. Cách đấy một đoạn không xa, có một lối mòn xuống suối. Tôi thấy thằng Thành người Hưng yên, nhập ngũ năm 1971, đang nghiêng ngó nhìn cái gì ở đó, nó quay lại và vẫy tôi lại. Nó chỉ cho tôi thấy hai cái xác lính VNCH nằm cách nhau dăm mét, một cái xác nằm sát mép nước, đầu hướng xuống mép nước chân để trên bờ, còn xác kia thì nằm ngược lại. Thành nói với tôi:
    -Anh ạ! Có lẽ bọn này bị thương và bị mất máu nên khát nước, chúng tìm đường xuống suối để uống nước, đến khi bò lên do bị kiệt sức không lên được nên chết tại đây.
  Tôi không đến gần hai xác chết, nhưng có lẽ nó đã bốc mùi, hay là do cảm giác thì tôi không biết, nhưng tôi thấy rất lợm giọng. Nhìn hai xác chết, tuy vẫn còn được bao bọc bởi bộ quần áo lính, những chỗ nào không có quần áo mà hở lộ thịt ra ngoài như mặt, hai tay, hai cổ chân thì chỗ ấy da dẻ xám ngoét xanh đen mầu chì, toàn thân đã trương lên, bụng là phình lên to nhất, dây lưng thắt ngẫng khúc trên với khúc dưới, thịt trùm gần kín cả dây lưng, đoạn từ bắp chân trở xuống đã trương chật cứng ống quần, lút cả cổ đôi giầy da cao cổ. Trông ghê quá, tôi vội quay đi.
  Anh em chúng tôi quay trở lại cũng là lúc nhóm của Lành cũng quay về, Lành nói với chúng tôi:
    -Chắc là anh em mình phải chuyển chỗ khác thôi, ở đây không thể ở được, xung quanh rất nhiều xác chết đã bốc mùi. Ban nãy mình chưa để ý, bây giờ nhìn vào các bụi rậm bên bờ suối chỗ nào cũng có xác chết, ngay cả trong rừng cao su cũng rất nhiều. Trời đã sắp tối, để tìm được chỗ ở trước khi trời tối, tôi đề nghị chia hai nhóm, một nhóm tìm chỗ ở tạm đêm nay, một nhóm tìm nước uống.
  Công việc được triển khai. Mấy anh em đi tìm nước uống bàn nhau, mang sẵn phao bơi để đựng nước và mang luôn gùi đi theo. Họ đi ngược theo chiều dòng chảy về phía thượng lưu, tìm lấy nước ở những con suối nhỏ đổ ra suối này, ở đó hy vọng sẽ có nước sạch không bị ảnh hưởng bởi các xác chết. Anh em bàn nhau như vậy và kéo nhau đi, không biết kết quả thế nào?
  Những anh em được phân công đi tìm chỗ ở thì tách làm hai tốp, tốp đi ngược chiều dòng chảy và tốp đi xuôi chiều dòng chảy, mỗi tốp lại chia hai người đi trên bờ, hai người đi dưới suối, đi song song với nhau. Tốp đi dưới suối tập trung quan sát bờ suối sát mép nước, nếu không phát hiện vấn đề gì thì những người ở trên bờ mới tiếp tục khảo sát các bụi cây ở trên bờ.
  Công việc tìm kiếm đang được khẩn trương tiến hành trước khi trời tối, trong khi tìm kiếm thì lại gặp anh em ở trung đội khác cũng đang đi tìm kiếm chỗ ở như chúng tôi. Như vậy đã rõ, tôi nhìn Lành, Lành lại nhìn tôi rồi nói:
    -Chắc là tình trạng chung rồi anh ạ! Biết tìm ở đâu, trời lại sắp tối.
  Tôi nói với Lành và mấy anh em trong tiểu đội:
    -Công việc tìm kiếm chỗ ở là rất khó, các đơn vị khác cũng đang nháo nhác đi tìm, chưa biết kết quả thế nào? Trong khi chờ đợi, tôi nghĩ mọi người tạm thời di chuyển lên bãi cát ở giữa lòng suối phía trước để nghỉ tạm và chuẩn bị nấu ăn trước khi trời tối.
   Chúng tôi lục tục kéo nhau ra bãi cát, sau khi đặt ba lô xuống, tất cả mọi người giống như cỗ máy đã thuần thục, mỗi người mỗi việc. Người kiếm củi người hái rau người bắc bếp v.v. Tất cả đều chuẩn bị sẵn sàng, khi có nước về sẽ thao tác ngay.
   Thời gian đã không chờ đợi, bóng tối ập xuống. Mọi công việc tìm kiếm bị bóng tối ngăn cản đành phải dừng lại, mấy anh em đi tìm chỗ ở  quay trở về thất vọng nói: Có lẽ chẳng chỗ nào hơn chỗ này. Nhóm đi lấy nước về sớm hơn và lấy được nước sạch nên vui cười thoải mái.
  Bữa cơm tối đạm bạc của lính cũng diễn ra nhanh gọn, cơm nấu bằng gạo chiến lợi phẩm, hạt dài thơm ngon, ăn với thịt hộp loại giò ba khoanh của quân tiếp vụ, canh toàn quốc nấu với nhiều thứ: rau Lạc tiên, Lá lốt, rau Khoai lang, lá Ớt, lẫn cả rau Tầu bay. Một bữa cơm vui vẻ đầy ắp tiếng cười, chỉ tiếc là thi thoảng lại phải ngửi một thứ mùi khó chịu, nhưng vì đói quá nên lúc ăn cũng tạm quên cảm giác đó đi…
  Đêm hôm nay tất cả đơn vị tôi, ngập chìm trong mùi xú uế của những xác người đang ở thời kỳ phân hủy mạnh.
  Sớm hôm sau, sau khi cơm nước xong. Chúng tôi được lệnh đi thực địa trong khu vực thị xã để xây dựng phương án đánh quân đổ bộ tái chiếm thị xã, bộ phận ở nhà tiếp tục tìm kiếm chỗ đóng quân.
 Chúng tôi chia thành nhiều tổ và đi nhiều hướng khác nhau tràn vào thị xã, nhóm của chúng tôi sau khi vượt qua mấy thửa ruộng bậc thang bên suối, chúng tôi leo lên khu ruộng hay nương gì đó tương đối bằng phẳng. Một cảnh tượng hãi hùng đập vào mắt, chúng tôi không tin là thật nên cứ dụi mắt để nhìn cho rõ và khẳng định đó là sự thật. Một sự thật tưởng như không bao giờ xảy ra, nhưng nó là có thật, đó là la liệt xác chết, nhiều không thể đếm được.
   Trời đã sáng từ lâu, nhưng bây giờ mới có những tia nắng mặt trời vươn tới miền Tây Nguyên xa xôi này. Nhìn thấy chúng tôi, mấy con chó hoang, mèo hoang vội vàng bỏ chạy, chạy được mấy mét chúng nghển cổ nhìn xem chúng tôi có đuổi theo chúng không. Thấy chúng tôi không đuổi theo chúng lại tiếp tục hít hít ngửi ngửi để tìm kiếm cái gì ở những xác chết. Mùi xác chết đang phân hủy bốc lên nồng nặc, không thể ngửi được, chúng tôi vội vàng lấy khăn lấy áo làm khẩu trang quấn chặt lấy mồm mũi để hít thở.
  Chúng tôi tiến rất nhanh hy vọng sẽ vượt qua những xác chết này để tiến vào thị xã, may ra có dễ thở hơn. Chúng tôi đi tới đâu đàn ruồi xanh bay lên ào ào, những con quạ đen đang kiếm mồi, thấy bóng người chúng cũng vội vã bay lên đậu vào những cành cây cao mắt ngó ngiêng.
  Vào đến thị xã, cảnh tượng còn tệ hại hơn. Tại một ngã tư, các loại xe cơ giới, cả xe nhà binh cả xe dân sự do tranh giành nhau đường đi, không ai nhường ai nên cứ áp sát và đấu đầu nhau, mặt đường không đủ rộng chúng tràn cả xuống ruộng, phá cả hàng rào kẽm gai, ủi đổ cả tường để tranh cướp đường đi. Các xe ken vào nhau như nêm cối không còn chỗ hở, những chiếc xe, cái đã bị cháy chỉ còn trơ lại bộ lại khung, cái thì lật ngiêng, cái thì trúng đạn, đạn găm chi chít khắp mọi nơi, kính cửa xe vỡ vụn từng mảnh. Trên thùng xe, dưới gầm xe, trong buồng lái, trên mặt đường nhựa, dưới ruộng ở hai bên ven đường, chân tường đổ hàng rào kẽm gai v.v, không thể đếm được bao nhiêu xác chết và bao nhiêu kiểu chết, chết ngiêng chết ngửa, chết nằm úp chết nằm ngửa, người thì mất đầu mất mặt, cụt chân cụt tay, người chết vắt vẻo trên thành xe, người bị thiêu cháy đen thui. Đáng thương nhất vẫn là những xác của người già, phụ nữ và trẻ em, chúng tôi cố gắng tìm xem có xác của bộ đội ta không nhưng không thấy. Trên xe, đồ đạc va ly hòm xiểng và tư trang cá nhân, bị lục lọi quăng bừa bãi khắp mọi nơi. Súng ống, vũ khí của quân lực VNCH vứt chỏng chơ tung tóe, cái thì gãy cái thì cháy… Một khung cảnh thật là khủng khiếp.
  Chúng tôi tiến nhanh vào thị xã, đi dọc theo mấy tuyến phố, cảnh tượng cũng có đỡ hơn, nhưng vẫn là hình ảnh thu nhỏ của khu vực mà chúng tôi đã đi qua, chỉ có điều là ở đây không thấy nhiều những xác chết. Chúng tôi tiến đến chỗ các đồng chí bộ đội đang làm công tác quân quản để hỏi đường, các đồng chí nói không biết rõ đường xá ở đây. Sau đó các đồng chí giới thiệu chúng tôi gặp những người dân của thị xã và đề nghị họ chỉ đường.
   Khi tiếp xúc với những người dân, qua những câu chuyện. Chúng tôi được biết, họ là những người vô tình được chứng kiến giờ phút lâm chung của thị xã Cheo reo-Phú bổn. Họ nói:
    -Chúng tôi không hay biết gì việc cộng sản đánh ở đâu, ai thắng ai thua, nhưng chúng tôi thấy xe to xe bé, sĩ quan rồi lính tráng đủ mọi loại của quân lực VNCH cứ lũ lượt kéo về đây. Chúng tôi sợ hãi quá, không hiểu chuyện gì xẩy ra. Theo phản xạ tự nhiên, chúng tôi đóng tất cả các cửa và đứng ở trong nhà nhìn ra. Lúc đầu họ còn bình tĩnh nói chuyện với nhau qua bộ đàm, sau thì thấy họ quát tháo ầm ỹ, có những ông còn đập cả bộ đàm. Một số sĩ quan dưới quyền chạy đi chạy lại như con thoi để truyền mệnh lệnh của cấp trên, lệnh đơn vị này nhường đường cho đơn vị kia lên trước. Nhưng có lẽ mệnh lệnh ấy không được thực thi, mà có muốn thực thi cũng không được, vì người và phương tiện khắp mọi nơi cừ ùn ùn đổ về ngẽn tất cả lối ra và lối vào thị xã, tình thế tiến cũng không được và lùi cũng không được.
  Rồi sau đó, chúng tôi nghe tiếng súng nổ loạn xạ, hàng loạt xe bốc cháy, tiếng người la hét, tiếng gọi nhau thất thanh. Từng tốp từng tốp người, bồng bế dắt díu nhau chạy toán loạn vào rừng, người gọi con, người tìm chồng. Toàn thị xã trở nên náo loạn, tiếng súng bộ binh của các lực lượng quân đội VNCH tranh giành nhau đường rút lui nổ khắp mọi nơi, lửa cháy ngùn ngụt, những đụn khói ngày càng lớn dần, cứ thế bốc lên cao ngút trời.
  Khi quân giải phóng tiến vào, thì mọi việc gần như đã kết thúc. Nghe đâu cũng còn một số cứ điểm mà quân lực VNCH đồn trú vẫn còn cố tình chống cự, nhưng ngay lập tức bị quân giải phóng đánh cho tan nát và phải đầu hàng.
  Nghe xong câu chuyện của mấy người dân kể lại, chúng tôi đã hình dung được tại sao lại xảy ra những thảm cảnh mà chúng tôi đã chứng kiến từ hôm qua cho đến tận bây giờ. Thật! Không thể tưởng tượng nổi, tại sao họ lại cư xử như vậy với chính đồng đội và đồng bào mình…
   Hoàn thành nhiệm vụ trinh sát khu vực thị xã. Trên đường trở về, chúng tôi thấy một lực lượng quân đội, không biết của đơn vị nào đang cần mẫn thu dọn vệ sinh trên đường phố. Những chiếc xe cháy, xe hỏng được kéo đến khu vực bãi trống, những xác người được thu gọn lại từng đống, dùng xăng cùng với những lốp xe ô tô để thiêu. Thị xã Cheo Reo-Phú bổn lại một lần nữa khói bụi ngút trời, mùi lốp cao su, mùi xác người bị thiêu cháy khét lẹt.
  Nhìn ngọn lửa cháy trùm lên những xác người, tôi thầm cầu nguyện cho linh hồn của họ siêu thoát.
(Còn nữa).

 
   



Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 03 Tháng Tám, 2012, 05:04:03 pm
              Chào bác quanvietnam! Chuyện kể của bác hay quá đọc thật hấp dẫn Tranphu đọc mà cứ như là đang đọc tác phẩm chiến tranh của nhà văn lão luyện nào đó! Bác đã tả đã kể rất rõ ràng về những trận chiến khốc liệt của chiến tranh, sự thua chạy của quân VNCH Cùng cái bản chất thật của họ khi tranh đường rút rồi bắn giết nhau.  ??? ??? ???

              Tranphu đi vắng vẫn chưa về nhà tiện có máy của anh em đọc bài của bác cùng mấy lời thăm bác. Chúc bác có nhiều sức khỏe cùng nhiều niềm vui cuộc sống. Rất mong được đọc tiếp bài của bác!


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 15 Tháng Tám, 2012, 02:20:58 pm
Cám ơn anh Trần Phú quá khen, cám ơn các bạn đọc, mấy bữa trước tôi bận việc riêng nên không có thời gian để cám ơn mọi người, xin được thứ lỗi. Chúc tất cả mọi người dồi dào sức khỏe. Cám ơn


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 15 Tháng Tám, 2012, 02:22:26 pm

NHỮNG CUỘC HÀNH QUÂN
          Trung đoàn 95 sư 325, đang làm nhiệm vụ chốt giữ thị xã Cheo Reo - Phú Bổn, thì có lệnh hành quân gấp về Long khánh để tăng cường thêm lực lượng, phối hợp với các đơn vị tấn công chọc thủng phòng tuyến Xuân lộc, vành đai tử thủ cuối cùng của quân lực VNCH.
  Một cuộc hội ý chớp nhoáng. Đồng chí chính trị viên nói:
    -Tình hình chiến sự trên chiến trường Miền nam, thay đổi rất nhanh. Sau khi chúng ta giải phóng Buôn ma Thuột, Huế, Đà Nẵng, và hàng loạt các địa phương khác từ Đà Nẵng đến Phan Rang. Cục diện chiến trường hiện nay đã hoàn toàn có lợi cho ta, quân giải phóng đã đập tan ý đồ co cụm để lập các phòng tuyến phòng ngự của địch ở Huế, ở Đà Nẵng. Hiện nay tàn quân của địch từ khắp mọi nơi kéo về, kết hợp với viện binh được tăng cường từ những nơi khác đến, quân lực VNCH đang cố gắng đến mức tuyệt vọng để bảo vệ tuyến phòng thủ Xuân Lộc. Chúng hy vọng, nếu giữ được Xuân lộc, chúng sẽ giữ được Sài Gòn và như vậy bọn Mỹ sẽ có nhiều cơ hội quay trở lại, khi đó cách mạng Miền nam sẽ diễn biến theo một chiều hướng khác, có lợi cho địch, bất lợi cho chúng ta.
  Đồng chí dừng lại một chút rồi lại tiếp tục:
    -Trước tình hình này, cơ hội giải phóng Sài Gòn và thống nhất đất nước đã mở ra, nhưng cũng còn rất nhiều thách thức. Cấp trên yêu cầu chúng ta phải thần tốc, táo bạo, tận dụng thời cơ để tiêu diệt địch. Trung đoàn 95 sư 325 là trung đoàn độc lập, chịu sự chỉ đạo trực tiếp từ Bộ chỉ huy chiến dịch…
  Sau khi nghe đồng chí chính trị viên phổ biến tình hình, chúng tôi hối hả chuẩn bị cùng với trung đoàn hành quân về Long Khánh-Xuân Lộc.
   Trung đoàn 95 sư 325 mải miết hành quân theo yêu cầu của Bộ chỉ huy chiến dịch. Chúng tôi đi qua không biết bao nhiêu cánh rừng, bao nhiêu con suối, đi qua những làng mạc thị trấn, thị xã vừa mới được giải phóng. Nhìn cảnh hoang tàn đổ nát sau chiến tranh, tôi cảm thấy xót xa, một cảm giác vừa đau xót vừa tức tối cứ trào dâng trong lòng. Chiến tranh thật là tàn khốc, chiến tranh đã vô tình cuốn đi tất cả, hủy diệt tất cả. Biết bao nhiêu đồn bốt của quân lực VNCH ở thị xã Phước long, ở các chi khu Đồng Xoài, Định Quán và nhiều nơi khác, đã bị quân giải phóng san phẳng, ở đó có biết bao nhiêu máu đã đổ, bao nhiêu người của cả hai bên đã ngã xuống và những làng mạc trang ấp kia, có biết bao nhiêu người dân vô tội đã chết. Như vậy vẫn chưa đủ hay sao? Mà giờ này, Tổng thống VNCH Nguyễn văn Thiệu vẫn kêu gọi tử thủ, trong khi quân giải phóng càng ngày càng khép chặt vòng vây. Tại sao chính phủ VNCH không nghĩ tới giải pháp đầu hàng, để tránh cuộc chiến tương tàn giữa người Việt với người Việt? Tại sao?
  Khoảng 2 giờ chiều, chúng tôi hành quân qua những cánh rừng cao xu bạt ngàn.  Khu rừng chúng tôi đang đi có rất nhiều đồ quân trang quân dụng của lính VNCH vứt bừa bãi, thi thoảng lại nhìn thấy một vài xác của lính VNCH chết gục sau những gốc cây cao xu. Tôi đoán: Quanh khu vực này đã có trận đọ súng giữa quân giải phóng và quân lực VNCH, những tên còn khỏe thì vứt hết đồ đạc để chạy thoát thân, còn những xác chết này là những tên bị thương bỏ chạy, nhưng vì không đủ sức chạy trốn nên bị chết dọc đường.
 Chúng tôi đang đi thì gặp một con suối lớn, mọi người đang loay hoay tìm lối để vượt qua thì nghe súng nổ từ phía bờ bên kia, đạn bay vèo vèo rít trên đầu. Mọi người còn đang bàng hoàng, chưa hiểu điều gì đang xảy ra, nhưng theo phản xạ là tìm chỗ ẩn nấp và bắn trả. Thế là hai bên bắn nhau kịch liệt, trinh sát của C20 nhận lệnh lên nắm tình hình. Khoảng  độ 15 đến 20 phút sau, tiếng súng im bặt, đó chính là lúc hai bên nhận ra nhau, thông qua mệnh lệnh từ bộ chỉ huy chiến dịch. Nghe nói, quân bên ấy là của công trường 7(sư đoàn 7), rất may là cả hai bên chưa có tổn thất gì.
  Những ngày tiếp theo, chúng tôi hành quân bộ cắt qua những khu rừng, những nương chuối và đu đủ của đồng bào. Thôi thì bạt ngàn là chuối và đu đủ, có những nương chuối và đu đủ chín vàng rực, những buồng chuối và những quả đu đủ chín quá đã rụng xuống cả gốc cây. Quá tiếc, nếu mà không có bom rơi đạn nổ, thì số chuối và đu đủ này đã được đồng bào thu hoạch, nhưng vì bom đạn nên đồng bào không giám lên nương thu hoạch, để quá lứa, chín rục cả ngoài nương. Kể ra cũng may nhờ có những nương chuối và đu đủ này bộ đội mới có thứ để ăn cho đỡ đói trong lúc khó khăn. Đúng như vậy, vì từ khi giải phóng Buôn ma Thuột, số chiến lợi phẩm lương thực thực phẩm chúng tôi mang theo cũng đã cạn. Trong khi đó, trung đoàn lại đang làm nhiệm vụ hành quân thần tốc để truy đuổi địch, Ban hậu cần của trung đoàn luôn phải chạy theo sau để đảm bảo hậu cần mà cũng không kịp, của dự trữ của từng đơn vị đã cạn kiệt, bữa ăn đã phải chắt chiu tiết kiệm, tuy không bị đói nhưng chúng tôi lúc nào cũng thấy thèm ăn.
  Mấy ngày nay hành quân dưới cái nắng chói chang của vùng bán sơn địa, trên đầu gió thổi ào ào, nhưng dưới đất thì không có chút gió nào lọt được, chuối và đu đủ cứ mọc xen nhau tạo thành một hàng rào chắn gió, mặt đất bốc hơi nóng hầm hập ngột ngạt đến nghẹt thở, mồ hôi ướt đẫm. Đói và khát, anh em chúng tôi tranh thủ dùng dao găm chặt cả buồng chuối và hái những quả đu đủ đã chín, vừa đi vừa ăn. Mấy bữa đầu sao nó ngon đến vậy, ăn đến no cũng không biết chán, cứ thế là chúng tôi ăn. Nhưng sang đến ngày thứ hai thứ ba thì không còn hào hứng nữa, mà đã có cảm giác ớn khi ngửi thấy mùi chuối và đu đủ chín. Những ngày ấy, hình như hệ thống tiêu hóa không làm việc, mà nó giống như cái ống, cứ đưa vào thế nào thì đưa ra như thế, kể cả là mầu sắc, nhưng được cái là tất cả anh em vẫn bình thường, không ai bị sao, chỉ thấy thèm cơm. Trong hoàn cảnh này, tôi nghĩ: Nếu nhu yếu phẩm mà Ban hậu cần cung cấp không kịp, anh em sẽ suy giảm sức chiến đấu.
  Trung đoàn 95, sư 325. Nhận được mệnh lệnh, cần phải hành quân thần tốc hơn nữa tiến về hướng ngã ba Dầu dây, giao điểm giữa quốc lộ số 1 và quốc lộ số 20. Phối hợp với các đơn vị bạn, đánh chiếm và chốt giữ khu vực này. Cắt đứt giao thông trên quốc lộ số 1, không cho quân địch ở Biên Hòa hỗ trợ cho quân địch ở Long Khánh-Xuân lộc, ngược lại cũng không cho quân địch ở Xuân Lộc- Long Khánh rút về Biên Hòa,  thực hiện chia cắt chiến lược giữa Biên Hòa và Xuân Lộc.
 Trên đường hành quân truy kích địch của quân giải phóng, có rất nhiều đơn vị tham chiến, sư đoàn 6, sư đoàn 7, sư 341 cùng nhiều trung đoàn độc lập khác và bộ đội địa phương. Tất cả các cánh quân của quân giải phóng đều hướng về Xuân lộc, các binh chủng, các lực lượng kỹ thuật của các đơn vị trên toàn mặt trận đang hợp đồng tác chiến ào ạt tấn công  Xuân lộc. Thế và lực của quân giải phóng lúc này mạnh hơn lúc nào hết, họ tràn qua và đè bẹp mọi sự kháng cự của kẻ địch trên đường tiến vào giải phóng Xuân Lộc. Tuy nhiên, để thực hiện được ý đồ chiến lược. Bộ chỉ huy chiến dịch cho phép các cánh quân đánh tràn qua, nhanh chóng tiếp cận mục tiêu chiến lược để chớp thời cơ, những mục tiêu còn ngoan cố chống cự, sẽ tiêu diệt sau.
  Trung đoàn 95 sư 325, nhận nhiệm vụ giải quyết nốt những mục tiêu ngoan cố đó. Những mục tiêu khác thì không có gì khó khăn, không cần đánh thì địch đã bỏ chạy hoặc là tự tiêu, chỉ còn lại mục tiêu khó khăn nhất là: Đồi Thiếu tá, hay là đồi Móng ngựa, cũng có người gọi là cao điểm 296.
  Sau khi nhận nhiệm vụ, các đơn vị của K4 rất nhiều lần tổ chức tấn công lên đồi Thiếu tá, nhưng bọn địch kháng cự quyết liệt, không thể nào lên được, bắt đầu đã có thương vong. Trước tình hình ấy, tham trưởng trung đoàn lệnh cho trinh sát C20 của trung đoàn và trinh sát tiểu đoàn khẩn trương điều tra tình hình địch và địa hình địa vật trên đồi Thiếu tá.
  Quả đồi này cũng không cao lắm, chẳng biết cao độ chính xác của nó là bao nhiêu 296 hay 396, độ dốc tự nhiên cũng bình thường, không dốc lắm, phía đối diện với quốc lộ 20 tương đối thoải, các phía còn lại thì dốc. Đồi này có hình dáng giống như cái móng ngựa nên người dân gọi là đồi Móng ngựa, ngoài ra nó còn có một tên nữa là đồi Thiếu tá. Sau này chúng tôi mới được biết, chỉ huy đơn vị đóng trên đồi này là một thiếu tá, tên này đã có nhiều tuyên bố hùng hồn về quả đồi này, ca ngợi về vị trí chiến lược của quả đồi và địa hình địa vật ở đây. Trên cơ sở ấy, tên thiếu tá khẳng định: Có thể đánh bại tất cả các đợt tấn công của Việt cộng.
  Quả thật, địa hình địa vật ở đây rất khó khăn cho chúng ta trong cách đánh vận động tấn công, nhưng lại rất thuận lợi cho quân địch đang ở thế phòng ngự có công sự kiên cố hỗ trợ. Đặc điểm của quả đồi này là có rất nhiều đá mồ côi, đá có kiểu giáng hình cầu, bề mặt đá tương đối nhẵn, không có góc cạnh. Đặc điểm này, là do quá trình phong hóa theo thời gian của nhiều triệu năm nên đá bị bào mòn và còn sót lại dạng lõi. Đá có nhiều kích cỡ khác nhau, có những viên đá to bằng cả hai ba gian nhà, cũng có nhiều viên nhỏ. Những viên đá chồng xếp lên nhau trông rất chênh vênh và đã tồn tại từ bao đời nay. Lợi dụng địa hình địa vật này, bọn địch tạo ra thế phòng ngự tầng tầng lớp lớp từ thấp cho đến cao, chúng xây dựng các công sự len lỏi trong các kẽ đá để vận động theo các hướng, chặn đường tấn công của bộ đội.
  Sau khi trinh sát quả đồi Móng ngựa, Ban chỉ huy đại đội thống nhất nhận định: Địch trên đồi đang ở thế bị bao vây và cô lập, thế đã cùng, nhưng chúng vô cùng ngoan cố, cương quyết tử thủ. Vì vậy phương án tác chiến được đặt ra là:
  -Cắt đứt mọi hành động tiếp viện của địch lên trên đồi Móng ngựa.
  - Lợi dụng lúc tranh tối tranh sáng, tập trung đánh nghi binh hướng chính diện, bằng cách đánh như đã sử dụng trong thành cổ Quảng Trị là: Triển khai tiền nhập theo nhiều hướng, sử dụng các tảng đá vừa làm vật che khuất vừa làm vật che đỡ, gây nhiễu loạn lộ liễu, sử dụng các vật dụng có sẵn ném vu vơ theo các hướng cố gắng gây tiếng động, để thu hút bọn địch bắn vào hướng đó. Việc làm này giống như chúng ta đã làm ở thành cổ Quảng Trị, dùng gạch đá ném vào các tấm tôn, để gây ra tiếng động, lập tức bọn địch bắn đến rào rào như mưa. Mọi hành động của chúng ta, cố ý làm cho địch tưởng là chúng ta đang chuẩn bị tấn công. Mục đích chính của việc làm này là: Thu hút quân địch về hướng này, để các hướng còn lại tiếp cận mục tiêu, điều quan trọng nữa là làm tiêu hao vũ khí của địch, đến khi hết đạn chắc chỉ còn cách là đầu hàng hay là tự sát.
  Phương án đặt ra là như vậy, song thực tế khi tấn công lên đồi Móng ngựa chúng ta cũng tổn thất tương đối nhiều. Bọn địch ở đây được trang bị vũ khí vừa nhiều vừa hiện đại, ngoài vũ khí bộ binh thông thường chúng còn được trang bị những giàn súng phun lửa. Đối với loại vũ khí này bộ đội ta ít gặp, vì vậy không tránh khỏi bị tổn thất, sức nóng của nó ngoài luồng chính còn gây sát thương đến cả những khu vực xung quanh. Nhìn những tử sĩ bị hy sinh do súng phun lửa, chúng tôi không ai cầm được nước mắt, quần áo thì cháy hết, người cháy đen thui nhưng vẫn còn nguyên hình dáng, khi sờ vào người thì da bị thiêu cháy, vỡ ra từng mảng.
  Cuối cùng chúng ta cũng chiếm được đồi Móng ngựa, bọn địch tử thủ đến phút cuối cùng và không tên nào còn sống sót.
(Còn nữa)
   
         


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 16 Tháng Tám, 2012, 02:49:34 pm
          Chào bác quanvietnam! Như vậy trong chiến dịch tiến công năm 75. Trung đoàn của bác cũng phải cơ động quá nhiều. Suốt từ Quảng Trị vào tác chiến ở Tây nguyên Buôn Mê Thuộc.

          Đường hành quân của Trung đoàn bác cũng trùng với đường hành quân của Trung đoàn 273 của Tranphu. cũng từ Quảng Trị vào ( Phía Bắc) rồi tham chiến ở Bình Long, Thủ Dầu Một. Rồi cũng hành quân tiếp trong ý đồ trợ chiến cho Xuân Lộc. Nên Trung đoàn Tranphu cũng được đi qua những cánh đồi, những cánh rừng toàn chuối và đu đủ. Rồi cái cảnh lính ta đang thèm rau lại gặp rừng đu đủ thì cũng giống nhau. Thôi thì vùa ăn vừa đi. Lại lấy thêm mấy quả xanh dự trữ làm rau, rồi nặng quá lại vất năn lóc.

         Rồi Trung đoàn Tranphu cũng theo đường 20 LâmĐồng Bảo Lộc. Nhưng chỗ này vừa giải phóng khói lửa còn khét mù. Phải chăng là Trung Đoàn của Bác đánh?

         Cũng trong lần hành quân cơ động đó. Tiểu đoàn của Tranphu bị một trận bom kẻo dài suốt 5h đồng hồ. Từ 10h sáng tới 3 h chiều. Ở khu cực đập Mã Đà. Một số anh em hy sinh và bị thương tại đây. Đến bây giờ Tranphu nhớ lại trận bom đó mà vẫn còn sợ.

         CHÚC BÁC CÓ NHIỀU SỨC KHỎE VÀ ĐỀU TAY VIẾT ĐỂ ANH EM ĐƯỢC THƯỞNG THỨC!


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 22 Tháng Tám, 2012, 11:07:59 am

NHỮNG CUỘC HÀNH QUÂN
          Trước nguy cơ phòng tuyến Xuân Lộc bị sụp đổ. Quân lực VNCH đã ý thức được vai trò và tầm quan trọng của hệ thống giao thông huyết mạch nối liền giữa Biên Hòa với Xuân Lộc, chúng cũng nhận ra rằng để giữ được Xuân Lộc, nhất thiết phải giải tỏa được đoạn quốc lộ số 1 này. Đã mấy ngày nay quân lực VNCH đã huy động nhiều đợt tấn công để phá vỡ vòng vây, hy vọng nối thông đoạn quốc lộ số 1 khu vực ngã ba Dầu Dây và quốc lộ số 20.
  Cuộc chiến đấu của trung đoàn 95 sư 325 diễn ra ở đây vô cùng ác liệt, ban đầu bọn địch chỉ dùng bộ binh xông lên, hai bên giằng co nhau từng gốc cây bụi chuối, nhưng bọn địch không làm cách nào lên được. Bộ đội ta khi quan sát thấy bọn địch co cụm lại ở các gốc cây  các bụi chuối, lập tức dùng B40, B41 để tiêu diệt, cứ mỗi lần xông lên bọn địch bị thiệt hại nặng nề đành phải quay về để tổ chức đợt tấn công khác, rồi lại hò nhau xông lên. Cứ như vậy, mới đầu giờ chiều mà đã không biết bao nhiều đợt tấn công của địch.
  Thời gian lúc này đã sang quá chiều. Trận địa của cả hai bên đều im lặng. Anh em bộ đội nhanh chóng vận chuyển thương binh về phía sau và tranh thủ nghỉ ngơi, đồng thời củng cố lại hầm hào. Do hoàn cảnh đơn vị đang vận động tấn công truy kích địch, nên khi đến đây cũng không có thời gian chuẩn bị, vì vậy hầu như không có công sự vững chắc và hệ thống giao thông hào kiên cố. Công sự của bộ đội ở đây chủ yếu là lợi dụng các gốc cây mít và những cây thân gỗ, sau đó chặt những cây chuối để lấy thân xếp lên thành công sự, hầm trú ẩn đào vội nên vừa nhỏ lại vừa nông, khu vực này cũng không có vật liệu để làm hầm nên nóc hầm toàn dùng những cây chuối tươi để phủ lên.
   Sau khi ăn vội được mấy miếng lương khô, uống được ngụm nước, thì quân địch lại tổ chức tấn công, lần này thì khác. Bộ binh địch được hỏa lực của thiết giáp hỗ trợ, chúng chia ra nhiều hướng xông lên, tất cả các ổ hỏa lực của ta bị địch dùng pháo của thiết giáp bắn thẳng để khống chế. Lợi dụng tình huống này, bộ binh của địch  ào ạt xông lên. Bị bất ngờ nên bộ đội ta có phần lúng túng, vừa đánh vừa rút về tuyến sau. Tuyến sau là một con suối cạn, lợi dụng bờ suối bộ đội đã xây dựng ở đây một phòng tuyến được coi là chắc chắn hơn.
  Pháo từ các xe thiết giáp của địch vẫn điên cuồng nhả đạn về phía bộ đội ta, sức công phá của những trái đạn pháo bắn thẳng rất mạnh, những gốc mít rất to bị đạn pháo xé rách bươm, những bụi chuối đổ gục xơ xác. Sau khi được pháo bắn dọn đường, bộ binh địch lại hò nhau xông lên nhưng chúng có vẻ dè dặt hơn khi đầu giờ chiều. Lúc này bộ đội ta do có công sự vững chắc nên bình tĩnh chờ để chúng đến thật gần mới nổ súng, địch lại bị đánh bật lại. Pháo địch lại nổ, xé toác loác tất cả các mục tiêu mà nó bay tới, đất đá mảnh pháo bay rào rào, bụi bay mù mịt, khói súng khét lẹt.
  Cuộc chiến đấu vẫn tiếp tục tiếp diễn ở thế giằng co, địch cũng không thể tiến thêm được một bước nào. Ở đây có một điều làm cho anh em trinh sát chúng tôi rất nghi ngờ và đặt ra câu hỏi: Tại sao chúng không dùng xe thiết giáp phối hợp với bộ binh tấn công mà xe thiết giáp chỉ đứng một chỗ để bắn ra? Phải chăng, bọn địch đã tính toán: Theo cách đánh này của bọn chúng vẫn phát huy hiệu quả, hay chúng có ẩn ý gì? Có phải chúng như có ý chờ đợi và đang kéo dài thời gian dùng hỏa lực mạnh của thiết giáp để tiêu hao dần sinh lực của ta, chờ cơ hội sẽ tấn công. Hay cũng có thể chúng cho rằng: Quân giải phóng, phòng ngự với chiều dày tầng tầng lớp lớp nếu thiết giáp mà bò lên thì sẽ trở thành những con thiêu thân. Trong tình hình này, chúng tôi thấy anh em bộ binh cũng rất tiết kiệm đạn nhất là đạn B40, B41. Hình như họ có ý để dành những quả đạn này cho những chiếc xe bọc thép còn đang ẩn náu đâu đó chưa chịu xuất hiện, thi thoảng cũng thấy họ dùng, đấy là lúc hỏa lực của địch đang áp chế quân ta để bộ binh của chúng xông lên, hoặc là thấy địch đang co cụm, khi đấy mới nghe thấy tiếng nổ của B40, B41.
  Đã mấy tiếng đồng hồ chống trả các đợt tấn công của địch, bộ đội ta bị tổn thất tương đối nhiều, thông tin từ các đại đội bộ binh báo cáo về tiểu đoàn cứ dồn dập, có những trung đội đã bị thương và hy sinh gần hết, có những đại đội chỉ còn lại 15 tay súng chiến đấu. Các tiểu đoàn báo cáo về sở chỉ huy tiền phương của trung đoàn về tình hình thương vong và xin được tăng cường từ tuyến sau.  Ngồi bên cạnh máy thông tin của tổ thông tin trinh sát C20 đi theo sở chỉ huy tiền phương của trung đoàn, tôi nghe thấy giọng đồng chí trung đoàn trưởng qua bộ đàm như đanh lại: “Chúng ta đã bị địch căng ra trên toàn tuyến, chúng ta không có lực lượng dự phòng để bổ xung. Tất cả các đồng chí, từ chính trị viên đến tiểu đoàn trưởng đều phải trực tiếp cầm súng chiến đấu, các đồng chí  động viên toàn thể cán bộ chiến sĩ từ chiến sĩ nuôi quân, y tá, liên lạc hãy cầm súng chiến đấu với tư cách của những người Đảng viên, Đoàn viên thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh. Chúng ta cương quyết giữ vững trận địa”. Những đồng chí liên lạc, những đồng chí thông tin truyền tải, lại lao ra khỏi hầm, băng qua làn đạn mang mệnh lệnh chiến đấu về đơn vị…
  Trời tối lúc nào không biết, những quả pháo sáng của địch bắn lên cũng đã phát huy tác dụng, nhưng lúc tỏ lúc mờ, thứ ánh sáng này chỉ có tác dụng ở những nơi bằng phẳng trống trải, còn đây lại là rừng chuối với mít nên cũng không có tác dụng gì, có khi còn phản tác dụng là đằng khác, vì nhờ có ánh sáng nên bộ đội ta quan sát rõ xem địch có mò lên hay không.
  Tự nhiên phía địch im tiếng súng, cả trận địa im tiếng súng, một sự im lặng đáng ngờ. Chúng tôi đoán: Chắc chắn địch đang có âm mưu gì mới đây?  Mọi người đang chờ đợi để đón nhận âm mưu mới của địch, thì phía sau, bên kia bờ suối có nhiều tiếng nói lao xao:
    -Chính trị viên ở đây.
    -Không ở đằng kia, chỗ có cây mít bị xé tan gốc, cành lá trùm lên hầm giống như bụi cây kia kìa.
    -Tôi đây, có vấn đề gì đấy?
  Tôi nghe thấy giọng đồng chí chính trị viên nói, tôi cũng chui ra khỏi hầm xem có chuyện gì xảy ra. Mấy anh em trinh sát C20, đẩy tên lính ngụy bị trói trật cánh khỉ lên phía đồng chí chính trị viên, và báo cáo:
    -Báo cáo đồng chí chính trị viên, chúng tôi bắt được tên địch này đang lần mò không rõ làm gì ở khu vực đại đội mình. Chúng tôi đã tra hỏi nhưng nó chỉ nói nó là lính đào ngũ, đang tìm đường trốn về nhà , do bị lạc nên bị bắt. Khám người của nó không thấy có vũ khí gì và cũng không thấy thiết bị gì đặc biệt, chỉ thấy có một chiếc gương cầu lồi này ở trong túi. Hỏi nó để làm gì, nó nói: Khi trước nó nhặt được, nó giữ lại để mang về cho con chơi, khi đánh nhau do mải chạy nên  không nhớ ra để vứt đi.
   Nhìn từ đầu đến chân tên tù binh, dưới ánh sáng nhập nhoạng của đèn pháo sáng, tôi không phát hiện được gì ngoài mái tóc bù xù chùm lên cái đầu hơi to so với người của nó, nó có đôi mắt sâu hoắm được che bởi đôi lông mày sâu róm, trán thì nhô. Nhìn bộ mặt gân guốc đen đúa của nó lại thêm bộ ria mép lâu ngày không cắt tỉa, kết hợp với vóc dáng thấp lùn của nó. Tất cả con người của nó đều có biểu hiện đang thách thức chúng tôi, tôi nghĩ chắc chắn tên này sẽ rất ngoan cố và không dễ gì để khai thác được nó.
(Còn nữa).

 
         


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 24 Tháng Tám, 2012, 02:15:13 pm

NHỮNG CUỘC HÀNH QUÂN
         ...Đồng chí chính trị viên ngồi xuống thân một cây chuối bị pháo phạt gãy gốc, đồng thời ra hiệu cho tên tù binh ngồi xuống phía đối diện và nói:
    -Tôi là người chỉ huy cao nhất ở đây, tôi hoàn toàn có thể bảo vệ được tính mạng của anh nếu như anh khai ra những điều mà chúng tôi cần biết, ngược lại nếu anh ngoan cố không khai, hoặc là khai không đúng sự thật thì anh biết điều gì sẽ xảy ra đối với anh. Bây giờ anh hãy thành khẩn khai báo cụ thể và ngắn gọn, chúng tôi cũng không có thời gian, trước hết hãy khai: Anh ở đơn vị nào? Anh xâm nhập vào đơn vị chúng tôi với mục đích gì?
   Tên địch vẫn cúi gằm mặt xuống , nói lí nhí trong cổ họng, chúng tôi không ai nghe rõ. Không kìm được, đồng chí trinh sát ngồi bên cạnh tên địch quát:
    -Nói to lên! Nói bé thế không ai nghe được.
   Tên địch vẫn cúi gằm mặt, không thèm ngước lên để theo dõi thái độ của những người xung quanh, giọng vẫn lý nhí nói trong cổ họng. Đồng chí chính trị viên đại đội, tỏ vẻ bực bội, đứng phắt dậy nói:
    -Nếu anh không khai, chúng tôi sẽ dùng biện pháp khác để anh phải khai, lúc ấy anh đừng có trách chúng tôi không nhân đạo. Bây giờ các đồng chí trinh sát trói tên này vào gốc cây mít kia chờ xử lý sau. Tôi đang bận chưa có thời gian để giải quyết việc này.
   Cũng đúng lúc ấy, các đơn vị bộ binh cũng giải lên thêm hai tên tù binh nữa, họ nói là trung đoàn đề nghị C20 khai thác tù binh và báo cáo lại trung đoàn.
   Đồng chí chính trị viên ra lệnh trói cả ba tên lại, mỗi tên một gốc mít rồi quay trở lại hầm. Trong hầm, tổ thông tin của C20 đang dịch bức điện của tham mưu trưởng. Nội dung bức điện là: Trinh sát C20 cử một tổ đi điều tra tình hình địch, xác định khả năng tấn công của địch trong đêm nay.
   Lợi dụng khi còn đang im tiếng súng, tổ trinh sát ba người được nai nịt gọn ghẽ lẩn vào bóng tối. Họ đi dọc theo con suối cạn tiến về phía thượng lưu, theo định hướng của tôi con suối này đang chạy song song với trận tuyến đang giao tranh giữa hai bên. Tôi đoán, có lẽ họ ngược lên thượng lưu rồi tìm đường vòng về phía sau lưng địch.
   Quay ra với ba tên tù binh địch, đồng chí chính trị viên kéo tôi cùng đi, đồng chí hỏi tôi:
    -Theo anh bây giờ nên thế nào?
   Đồng chí chính trị viên quê ở Nghệ An, người nhỏ nhắn, trắng trẻo trông rất thư sinh, tính tình hiền lành nhưng cởi mở. Vì là chính trị viên đại đội nên đồng chí rất coi trọng công tác huy động sức mạnh tổng hợp của quần chúng, nhất là đối với anh em sinh viên chúng tôi thì đồng chí lại càng chú ý hơn. Đồng chí thường xuyên hỏi ý kiến anh em chúng tôi trong những việc có tính chất quan trọng, trong đời thường có lẽ đồng chí ít tuổi hơn chúng tôi, vì thế đồng chí luôn giữ cách xưng hô đúng mực và tình cảm: Anh và Tôi.
  Do bị hỏi ý kiến bất ngờ, tôi cũng hơi lúng túng, không biết trả lời thế nào, đành nói theo nguyên tắc:
    -Theo tôi, anh giao việc này cho anh em trinh sát để họ khai thác. Đầu tiên là tách ba thằng ra ba nơi, mỗi nhóm hỏi cung một thằng, sau đó anh em sẽ tổng hợp lại để báo cáo với các anh.
   Sau khi nghe xong ý kiến tham mưu của tôi, đồng chí dừng lại và nhìn thẳng vào mắt tôi rồi nói:
    -Nhiệm vụ này, đơn vị giao cho đồng chí, đồng chí thấy thế nào?
   Tôi nói:
    -Được các anh tin tưởng tôi sẵn sàng.
   Anh bắt tay tôi rồi quay lại hầm chỉ huy, tôi cùng mấy anh em trinh sát tiến về hướng ba tên tù binh đang bị trói ngồi ở gốc cây mít. Công việc khai thác tù binh được chúng tôi khẩn trương thực hiện.
   Kết quả của việc khai thác tù binh không được như ý muốn, có thể nói là thất bại. Quá trình xét hỏi, ba thằng nói khác nhau, không thằng nào giống thằng nào. Khi hỏi về đơn vị của chúng, thì mỗi thằng nói một đơn vị, khi hỏi về mục đích điều tra của chúng để làm gì, chúng đều khăng khăng từ chối là không phải đi điều tra mà là đang tìm cách trốn khỏi đơn vị. Bực quá tôi nói gần như quát lên:
    -Vô lý! Các anh nói tìm cách trốn khỏi đơn vị. Đúng! Nhưng tại sao lại không quay về phía sau mà lại tiến lên phía trước.
   Một thằng nói:
    -Thưa ông! Con cũng biết điều ấy là vô lý, bởi vì con biết đằng nào cũng bị bắt. Nếu các ông bắt được chúng con thì còn có cơ hội để sống, còn nếu chúng con bị quân lực VNCH bắt, thì không biết chuyện gì sẽ xảy ra, cơ hội còn sống là rất ít. Xin ông hiểu cho điều con nói.
   Tôi không hỏi thêm được câu nào. Nhưng trong thâm tâm thì rất phân vân, liệu có thể tin được điều chúng nó nói không? Nếu nó nói đúng thì chứng tỏ tinh thần chiến đấu của quân địch đã rệu rã, không còn sức chiến đấu, quân cán chạy tóe loe mỗi đứa mỗi nơi, để có thể duy trì được kỷ luật, bọn sĩ quan đã phải dùng vũ khí để điều hành, có lẽ vì thế bọn này sợ nên phải trốn về phía ta. Còn nếu nó lừa mình nó được lợi gì? Trong khi bạn bè của nó đang bị bao vây tiêu diệt, còn nó, nó đang hy vọng làm tù binh của quân giải phóng, để có cơ hội về với gia đình.
   Tôi đang suy nghĩ miên man thì nghe pháo rít trên đầu, tiếng pháo nổ đinh tai choáng óc ở phía sau chúng tôi. Tôi đoán, thời gian ngưng tiếng súng từ nãy đến giờ, là thời gian bọn địch gọi pháo chi viện, chắc chắn  sau trận pháo kích này sẽ là đợt tấn công của xe thiết giáp kết hợp với bộ binh để giải quyết chiến trường.
   Độ chính xác của những quả đạn pháo đang được chỉnh dần về gần chúng tôi hơn, thấy tình hình không thể kéo dài việc khai thác tù binh, tôi đề nghị trói ba thằng lại, đưa chúng xuống cái hố mà đồng bào đã đào sẵn không biết là để làm gì, anh em tạm thời về hầm trú ẩn để tránh pháo sau đó lại tiếp tục. Một đồng chí trinh sát nói với tên tù binh:
    -Chúng tao chịu đựng pháo của chúng mày nhiều rồi, bây giờ để chúng mày chịu đựng một lần xem sao, sống được thì tốt, còn nếu chết cũng đừng trách chúng tao, vì pháo chúng mày bắn chúng mày, không phải chúng tao bắn chúng mày.
   Đúng là trận pháo trút đòn thù nên chúng bắn rất nhiều, mấy anh em chúng tôi ngồi bó gối, sát vào nhau, đầu chạm vào những thân cây chuối làm nắp hầm. Mỗi trận pháo bắn, nắp hầm như lún xuống đè lên đầu chúng tôi, chúng tôi hiểu nắp hầm này chỉ có tác dụng che đất đá và mảnh pháo không cho văng vào người, loại nắp bằng cây chuối không có tác dụng chịu lực, pháo rơi trúng là chết. Ngồi trong hầm, không ai bảo ai nhưng chúng tôi chăm chú lắng nghe tiếng rít của từng quả pháo, những quả mà nghe tiếng rít thì yên tâm là nó bay qua chúng tôi, những quả không nghe thấy gì mà mặt đất rung chuyển thì quả ấy là nổ rất gần, những quả mà không nghe thấy gì chỉ thấy hầm sập xuống và mọi việc chấm dứt thì cũng chẳng còn sống để mà sợ. Vì thế có lo lắng cũng chẳng giải quyết được gì, bây giờ thì kệ nó, tôi cứ nghĩ: Trúng này, trúng này…
   Trận pháo chấm dứt, anh em trong đơn vị kiểm điểm quân số thương vong, củng cố lại công sự sẵn sàng đón địch. Tôi chạy ra cái hố nơi ba tên tù binh ẩn nấp để tránh pháo, tôi không tin vào mắt tôi nữa, chiếc hố đã không cánh mà bay, thay vào đó là những hố pháo nổ sát nhau. Tôi quay về báo cáo với đồng chí chính trị viên, đồng chí nói:
    -Chuyện gì xảy ra thì đã xảy ra, anh về vị trí chuẩn bị đánh địch phản kích.
   Sau trận pháo kinh hoàng, trận địa lại trở lại yên lặng, một sự yên lặng không bình thường, tất cả mọi người đều vào vị trí chiến đấu, tay lăm lăm cò súng, căng mắt nhìn về phía trước, sẵn sàng nổ súng.
   Thời gian cứ chầm chậm trôi qua, 15, 20 rồi 30 phút, trận địa vẫn im lặng. Tôi thấy đồng chí chính trị viên có vẻ sốt ruột, thi thoảng lại hỏi đồng chí liên lạc về tin tức của tổ trinh sát đi nắm tình hình địch. Đúng lúc ấy đồng chí trinh sát trong tổ ba người được cử đi nắm tình hình địch ban nãy quay về báo cáo:
    -Báo cáo thủ trưởng: Ba chúng tôi đã vòng về sau lưng quân địch, bọn địch đóng trên quả đồi ngay trước mặt chúng ta, qua khỏi yên ngựa này là tới đỉnh đồi. Đồi này trồng toàn chuối, chúng tôi đã tiếp cận và đếm được từ 4 đến 5 chiếc xe thiết giáp. Theo dõi hoạt động của chúng, chúng tôi thấy chúng có biểu hiện rút lui có thể là vì hết đạn, hay là vì lý do gì đấy nên không thấy chúng ở tư thế sẵn sàng chiến đấu. khi chúng tôi tiếp tục trinh sát sang mỏm đồi bên cạnh thì bị phục kích, không còn cách nào khác là vừa đánh vừa rút nên bị lạc nhau. Tôi quay lại chỗ ba anh em bắt đầu tiền nhập để chờ các anh ấy quay lại, chờ mãi nhưng không thấy. Lúc này pháo địch bắt đầu bắn thì các xe thiết giáp cũng nổ máy rút khỏi trận địa. Tôi vội về đây báo cáo.
  Đồng chí chính trị viên, lệnh cho các đồng chí thông tin, thảo bức điện báo cáo về sở chỉ huy trung đoàn. Lúc này trời cũng đã sắp sáng, thời gian còn lại của chúng tôi là chờ đợi, không rõ mệnh lệnh tiếp theo của bộ chỉ huy chiến dịch là gì, nhưng ngay lúc này tôi nghĩ rằng trung đoàn 95 sư 325 đã hoàn thành tốt nhiệm vụ, bọn địch đã không thể nối thông được đoạn đường quốc lộ 1 từ Biên Hòa ra Xuân Lộc.
  Sáng hôm sau, trời sáng rõ. Chúng tôi tổ chức tìm kiếm xác của hai đồng chí trinh sát C20, trong ngổn ngang xác lính ngụy, nhưng không tìm thấy, có thể các đồng chí bị lạc sang đơn vị khác, hoặc là đã bị địch bắt đưa đi. Nếu mà lạc thì còn về được, còn bị bắt hay bị hy sinh thì đây lại thêm một tổn thất nữa đối với đơn vị.
(Còn nữa)
 




Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 24 Tháng Tám, 2012, 02:17:40 pm
   Anh Trần Phú thân  mến! Xin lỗi anh, hôm nọ anh hỏi mà tôi chưa trả lời, mong anh thông cảm, có thể là vì tuổi tác, anh bỏ quá cho. Kể ra thì có vẻ là vô lý, nhưng lại là thật 100%. Từ khi tôi nhập ngũ, cho đến lúc tôi trở về tiếp tục đi học. Tôi hoàn toàn không biết cấp bậc của tôi, còn chức vụ của tôi là chiến sĩ. Chính vì vậy, về lĩnh vực quân sự tôi thật sự thiếu hiểu biết, chỉ biết chấp hành theo mệnh lệnh. Những điều anh hỏi tôi, tôi chỉ còn nhớ mang máng không chính xác, nên không giám nói. Nhưng chắc chắn  trung đoàn 95 có hoạt động trên quốc lộ số 20, đoạn từ Gia kiệm, Túc trưng đến ngã ba Dầu Dây, chúng tôi không lên Lâm Đồng.  Chào anh, mong anh thông cảm.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 24 Tháng Tám, 2012, 08:49:09 pm
        Chào bạn quanvietnam! Tranphu341 rất cảm ơn bạn đã trả lời. Chuyện bạn kể về những trận chiến trong những ngày này rất hay rất hấp dẫn. Nó toát lên được cái sự gay go ác liệt những ngày cuối của cuộc chiến. Trong cơn giẫy chết của chính quyền VNCH.

         Những địa danh Túc Trưng, Gia kiệm, Dầu Dây lúc đó Tranphu cùng đ/v cũng qua, cuộc chiến vừa diễn ra. Khói lửa còn khét lẹt. Một vài người dân còn nằm ra đường cản bước tiến của ta. Số người di cư từ Bắc vào năm 54. Tranphu còn nhớ có một ông để râu 3 chòm như các cụ già ngoài Bắc trước. Cứ nằm năn ra đường gào lên: "Chúng tao đã nhường Băc kỳ cho chúng mày. Đã chạy vào đây mà chúng mày vẫn không tha à?"

        Trong mấy ngày này là Quân lực VNCH ĐÃ THẢ 2 TRÁI BOM CPU CHÚNG CHON KHU VỰC NGHI LÀ SỞ CHỈ HUY SƯ ĐOÀN 341. Đến bây giờ các tạp chí của QLVNCH vẫn nói đã xóa sổ Sư đoàn 341. Đã tiêu diệt từ 5000- 10.000 quân giải phóng.

        Chúc bác luôn vui khỏe, tiếp tục bài viết rất hay, rất hấp dẫn của mình!


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 28 Tháng Tám, 2012, 01:59:31 pm

NHỮNG CUỘC HÀNH QUÂN
          Bức tường thép, vành đai phòng thủ bất khả xâm phạm Xuân Lộc, của quân lực VNCH đã bị quân giải phóng đánh cho bật tung. Các cánh quân của quân giải phóng đang ào ạt siết chặt vòng vây quanh Sài Gòn - Gia Định, thủ phủ của chính quyền VNCH. Những ngày qua, đài phát thanh của các hãng thông tấn, đã đưa nhiều tin và nhiều sự kiện quan trọng liên quan đến tình hình chiến sự ở Miền Nam Việt Nam: Nào là tổng thống VNCH  Nguyễn văn Thiệu, sau khi thất thủ Xuân Lộc, bị Mỹ ép từ chức, phó tổng thống Trần văn Hương lên thay, nào là Trần văn Hương từ nhiệm để tướng thời Pháp, Dương văn Minh lên thay để cố gắng tranh thủ sự ủng hộ của một số nước v.v. Trong tình hình này, nội các của chính phủ VNCH đang rối tung rối mù, cố gắng điều quân khiển tướng để tử thủ bảo vệ Sài Gòn - Gia Định và bằng mọi cách tìm được sự viện trợ của nước ngoài, hòng cứu vãn chính phủ VNCH trước nguy cơ sụp đổ.
  Tình hình cách mạng Miền Nam hiện nay, lúc này hơn lúc nào hết, đang chuyển biến vô cùng thuận lợi, đấy cũng là lúc trung đoàn 95 sư 325, theo lệnh điều động của bộ chỉ huy chiến dịch, từ ngã ba Dầu Dây hành quân gấp sang hướng  Bắc để tiến vào Sài Gòn.
    Hôm qua trên đường hành quân, nghe tiếng bom nổ và khi chúng tôi biết, có một lực lượng không quân của quân lực VNCH phản chiến đã ném bom sân bay Tân Sơn Nhất, anh em chúng tôi ai cũng mừng, hành quân quên cả mệt mỏi, mọi người náo nức mong muốn được tham gia trận đánh để giải phóng Sài Gòn.
    Hôm nay, ngày 29 tháng 4 năm 1975, khoảng chín rưỡi mười giờ sáng, chúng tôi vượt qua ngầm tiến vào thị trấn Tân Uyên, huyện lỵ của tỉnh Bình Dương. Xe không qua được vì nước rất sâu và chảy xiết, nên chúng tôi phải bám vào dây đã được bộ đội căng sẵn để lội qua ngầm.
  Sang bờ bên kia, một bãi chiến trường hiện ra trước mắt chúng tôi, không còn tiếng súng nhưng vẫn còn ngổn ngang những chứng tích của cuộc đọ súng quyết liệt của hai bên. Những quả mìn chống tăng Claymor vứt bừa bãi trên đường, hai chiếc xe tăng của ta của ta bị trúng đạn, cái thì bật tháp pháo, cái thì bị đứt xích, quân trang quân dụng của địch vứt bừa bãi. Súng ống đạn dược của địch nằm la liệt khắp mọi nơi, cái cháy cái gãy, cái trên bờ cái dưới ruộng, những khẩu 12 ly 8 nằm còng keo băng còn đầy đạn vàng chóe, bên cạnh một đống vỏ đạn văng tung tóe, đạn M79 lăn lóc như những củ khoai tây, tất cả đều ngổn ngang, lộn xộn. Mùi xú uế và ám khí xông lên nồng nặc.
   Chúng tôi rảo bước tiến vào thị trấn, khi còn khoảng 700-800 mét đến cây số, chúng tôi được lệnh dừng lại tìm vị trí đóng quân. Nhìn địa hình trống trải, xung quanh là những nương sắn cằn cỗi khẳng khiu, thấp lè tè, cây nào cao lắm cũng không vượt quá đầu. Anh em chúng tôi rất ngạc nhiên không hiểu vì sao, lại dừng lại tìm vị trí đóng quân ở những chỗ như thế này. Sau đó chúng tôi được giải thích: Thị trấn Tân Uyên đã được giải phóng, hiện nay chính quyền địa phương và ban quân quản đang ổn định an ninh và trật tự, cũng còn nhiều vấn đề chưa ổn, nếu chúng ta vào đấy tình hình sẽ phức tạp hơn, mặt khác chúng ta không dừng lại ở đây mà chỉ là tạm nghỉ chân chờ sự điều động của Bộ chỉ huy chiến dịch.
   Trời cũng đã gần trưa, trong lúc chờ đợi chúng tôi tranh thủ nấu ăn. Như những cỗ máy, nhanh nhẹn và thuần thục, anh em chúng tôi mỗi người mỗi việc, người đi lấy nước, người đào bếp Hoàng Cầm, người liếm củi nhóm bếp. Chỉ khoảng thời gian rất ngắn, chúng tôi đã chuẩn bị xong bữa cơm. Gọi là bữa cơm cho nó thịnh soạn vậy thôi, chứ thực ra là chưa đủ điều kiện để gọi là một bữa cơm, bởi vì chỉ có mỗi nồi cơm, mấy thìa ruốc mặn, mấy quả ớt xanh, rau không, canh không. Ấy thế mà anh em chúng tôi ăn ào ào, anh nào thích ăn căn canh thì chan nước sôi và cho mì chính vào là thành canh. Chỉ đơn giản vậy thôi, nhưng rất ngon miệng nên anh nào cũng ăn rất nhanh, nhanh đến nỗi cơm trong nồi đã hết, nhưng sờ vào nồi thì vẫn còn nóng bỏng tay. Đúng là sức trẻ.
   Vì phải sẵn sàng hành quân khi có lệnh, do sợ mất thời gian nên tất cả  không ai mở ba lô lấy tăng võng ra để nghỉ ngơi, mà mọi người cứ để nguyên hành trang nằm tựa vào ba lô ngủ gà ngủ gật.  Mặt trời đã đứng bóng, trời cao xanh ngằn ngặt không có một gợn mây, nắng ở vùng này cũng khủng khiếp, trên nắng dưới nóng. Buổi sớm, những cây sắn lá còn tươi, còn có chỗ chui vào bụi sắn để tránh nắng, bây giờ cành lá ủ rũ héo hắt, chẳng có chỗ nào để mà tránh nắng. Nhìn anh em, tôi thấy tội nghiệp quá, mà cũng chưa biết sẽ còn chờ đợi đến bao giờ. Tôi nói với mọi người mang tăng võng ra che tạm. Những chiếc võng và những tấm tăng được căng ra, anh em chui vào để tránh nắng, như thế cũng chỉ đỡ đi phần nào, khổ một nỗi là, vì nắng nóng nên các tấm tăng bằng Nilon chảy ra cứ trũng xuống, những chiếc võng do nặng quá cành sắn thì yếu cũng không chịu được cứ dí sát vào mặt, chúng tôi lại phải tìm cách chống lên. Loay hoay mãi mới tạm ổn, người mệt phờ giống như say nắng. Tất cả anh em chúng tôi mong mỏi có lệnh hành quân để rời khỏi chỗ này, chờ mãi vẫn chưa có động tĩnh gì, chúng tôi chờ qua cả cái nắng xiên khoai cho đến khi mặt trời xế bóng. Hoàng hôn buông xuống, rồi bóng tối trùm lên, chắc đêm nay chúng tôi ở lại đây tiếp tục chờ đợi…
   Ngay từ lúc xẩm tối, sau bữa cơm tối xong, trừ những người có công việc, phải hội ý hội báo rút kinh nghiệm và triển khai công việc ngày hôm sau v.v. Những anh em còn lại thì túm tụm nhau lại, chỗ năm người chỗ ba người, quanh chiếc Radio để nghe tin tức. Mặc dù đã được chỉ đạo: Không nghe đài địch, chỉ nghe đài tiếng nói Việt Nam, đài của mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam, song do tính tò mò nên vẫn có người mở trộm đài BBC để nghe, nghe xem nó bình luận gì về quân giải phóng. Lúc này, gần như tất cả các đài phát thanh đều phát đi những tin chiến thắng của quân giải phóng trên các mặt trận, nhiều đạo quân đã tiến sát Sài gòn. Anh em chúng tôi càng nghe càng thấy sốt ruột, và thắc mắc: Sao giờ này chẳng thấy Bộ chỉ huy chiến dịch đả động gì đến trung đoàn mình nhỉ? Hay họ đã quên mất trung đoàn 95 của sư 325 rồi, buồn thật. Quả là thiệt thòi cho một đơn vị phối thuộc.
   Tôi nằm giữa, Lành nằm một bên, Dũng nằm một bên. Cả ba chúng tôi đều gối đầu vào những hốc sắn, mặt ngoảnh về hướng Sài Gòn, để quan sát. Kỳ thực là chúng tôi chỉ đoán thôi chứ không biết chính xác Sài gòn ở chỗ nào. Nhìn về khu vực ấy, tôi có cảm giác ở đó trời đang nổi cơn giông, sấm chớp cứ ầm ì nhưng chưa mưa được. Chắc lúc này, ở đó các cánh quân tiến vào giải phóng Sài Gòn đang chiến đấu ác liệt lắm, ở đây không nghe được tiếng súng bộ binh, nhưng thi thoảng cũng nghe được tiếng đại bác ùng oàng từ xa vọng về, nhìn thấy những quầng lửa bừng lên chuẩn bị tắt thì lại bừng lên, giống như những ánh chớp liên hồi, rạch ngang xẻ dọc cả một vùng trời. Càng nhìn càng thấy sốt ruột, Lành hỏi tôi:
    -Theo anh, mình có thể giải phóng được Sài Gòn không?
   Trời tối, chúng tôi không nhìn thấy mặt nhau, nhưng theo thói quen tôi nhìn vào mặt Lành và nói:
    -Được chứ sao lại không, mình nằm đây chỉ cách Sài Gòn từ 15 đến 20 km đường chim bay, trong khi đó các cánh quân ở hướng Tây, hướng Bắc, hướng Đông đang áp sát Sài gòn, chỉ còn hướng Nam và Đông nam theo bình luận của một số đài phát thanh là quân lực VNCH đang cố gắng cầm cự để mở đường máu rút ra biển và về Cần Thơ, bọn chúng hy vọng sẽ cố thủ ở Miền Tây nam bộ. Đấy là nói về thế và lực của quân ta, còn nói về thế và lực của quân nó thì rõ ràng là chúng yếu hơn lúc nào hết. Trước kia còn có quân Mỹ, bây giờ không còn quân đội Mỹ nữa, mặt khác tình hình hiện nay cũng đã khác rồi, không còn thời gian và cơ hội để cho quân đội Mỹ quay trở lại nữa. Từ khi quân lực VNCH  không còn quân đội Mỹ giúp thì chúng đã bị quân giải phóng đánh cho tan tành, từ Buôn ma Thuột, Huế, Đà Nẵng, Phan Rang, Xuân Lộc, bây giờ chắc chắn Sài Gòn sẽ chịu chung số phận. Còn nói về xu thế chính trị và ngoại giao thì chính phủ VNCH cũng chẳng còn gì, chỉ trong vòng tuần lễ mà thay mấy đời tổng thống. Như vậy xét về mọi mặt chúng ta chắc chắn giải phóng Sài Gòn, chỉ có điều đây sẽ là trận chiến gay go và ác liệt, bởi vì nó quyết định số phận của một chế độ. Tất cả anh em mình hôm nay, không biết ai còn ai mất.
   Lành cướp lời tôi:
    -Sống chết có số lo gì anh.
   Còn Dũng thấy tôi nói, quân lực VNCH có thể rút về Miền Tây cố thủ. Dũng nói giọng có vẻ lo âu:
    -Nếu chúng nó rút về Miền Tây cố thủ thì chiến tranh chưa biết lúc nào kết thúc. Biết đâu khi ấy quân Mỹ lại quay trở lại, rồi nghe đâu ta và Campuchia cũng tranh chấp biên giới.
   Nghe Dũng nói thế, thực ra tôi cũng không hiểu biết gì hơn nên cũng chẳng biết nói thế nào, tôi nói gạt đi:
    -Thôi được đến đâu hay đến đó, lúc ấy tính sau. Mà việc này anh em mình biết đâu mà lo, có mà lo bò trắng răng.
   Ba anh em chúng tôi chìm vào yên lặng, nằm nghe tiếng đại bác của quân ta vọng về mà lòng thổn thức.
(Còn nữa).
   



Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tralientay trong 28 Tháng Tám, 2012, 05:52:47 pm
|
Chào bác quanvietnam,

Truyện của bác kể rất hay, rất hấp dẫn.
Chiều nay tôi phải bỏ hết mọi việc để đọc mấy tiếng liền hết 14 trang của bác, từ đầu đến cuối. Hay lắm.
Mong bác khoẻ, mau viết đến cùng cho anh em đọc cho đỡ phải chờ!

Tôi nhớ c20 e95 và c20 của sư đoàn hay phối hợp với nhau nhất (so với các c20 cuae e101 và e18). Tôi cũng có một ít kỷ niệm với các bác, như hồi giữa tháng 7.1972 bơi ở đầu cầu sắt bị rong cuốn loay hoay không thoát được, uống nước đầy bụng, may người đi cùng (c20 e95) vốn dân vùng biển bơi ra kéo vào, rồi hồi chiều 16/9 cùng một lính c20 e95 được lệng cùng qua sông (may mà thôi), rồi đợt cuối tháng 11-12.1972, 5 trinh sát sư đoàn + 5 trinh sát e95 trong nhóm qua sông điều tra, được anh Thành anh Việt đặc công nước dạy bơi bí mật và thả trôi... Nghe bác kể chuyện thì thấy có lẽ c20 của e95 luyện tập thành thạo, làm nhiều nhiệm vụ hơn c20 của sư đoàn.

Chúc bác vui khoẻ, và viết thật nhanh.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: lamson1981 trong 28 Tháng Tám, 2012, 08:36:05 pm
   Tranphu còn nhớ có một ông để râu 3 chòm như các cụ già ngoài Bắc trước. Cứ nằm năn ra đường gào lên: "Chúng tao đã nhường Băc kỳ cho chúng mày. Đã chạy vào đây mà chúng mày vẫn không tha à?"

        Trong mấy ngày này là Quân lực VNCH ĐÃ THẢ 2 TRÁI BOM CPU CHÚNG CHON KHU VỰC NGHI LÀ SỞ CHỈ HUY SƯ ĐOÀN 341. Đến bây giờ các tạp chí của QLVNCH vẫn nói đã xóa sổ Sư đoàn 341. Đã tiêu diệt từ 5000- 10.000 quân giải phóng.


Chào bác Trần Phú !

Lâu nay em cũng có nghe câu nói của người bắc 54 : "Chúng tao đã nhường Băc kỳ cho chúng mày. Đã chạy vào đây mà chúng mày vẫn không tha à?" nhưng nghĩ là đùa vui. Bây giờ nghe bác kể thì mới tin. Vậy lúc ấy bộ đội các bác phản ứng như thế nào ?

- Còn thông tin Đã tiêu diệt từ 5000- 10.000 quân giải phóng thì thực hư ra sao ?


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: chienc3.1972 trong 28 Tháng Tám, 2012, 10:36:07 pm
       Trong mấy ngày này là Quân lực VNCH ĐÃ THẢ 2 TRÁI BOM CPU CHÚNG CHON KHU VỰC NGHI LÀ SỞ CHỈ HUY SƯ ĐOÀN 341. Đến bây giờ các tạp chí của QLVNCH vẫn nói đã xóa sổ Sư đoàn 341. Đã tiêu diệt từ 5000- 10.000 quân giải phóng.
Tham khảo từ  Bách khoa toàn thư mở Wikipedia thì có ghê gớm như vậy đâu: http://vi.wikipedia.org/wiki/CBU-55
Nhưng xem của phía bên kia thì quá ghê gớm: http://ongvove.wordpress.com/2009/04/24/v%E1%BB%81-qu%E1%BA%A3-bom-th%E1%BA%A3-trong-tr%E1%BA%ADn-long-khanh/
Xem ra có vẻ có nhiều loại bom CBU các bác nhỉ, chẳng biết đường nào mà lần. ???


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 29 Tháng Tám, 2012, 08:27:19 am
   Tranphu còn nhớ có một ông để râu 3 chòm như các cụ già ngoài Bắc trước. Cứ nằm năn ra đường gào lên: "Chúng tao đã nhường Băc kỳ cho chúng mày. Đã chạy vào đây mà chúng mày vẫn không tha à?"

        Trong mấy ngày này là Quân lực VNCH ĐÃ THẢ 2 TRÁI BOM CPU CHÚNG CHON KHU VỰC NGHI LÀ SỞ CHỈ HUY SƯ ĐOÀN 341. Đến bây giờ các tạp chí của QLVNCH vẫn nói đã xóa sổ Sư đoàn 341. Đã tiêu diệt từ 5000- 10.000 quân giải phóng.


Chào bác Trần Phú !

Lâu nay em cũng có nghe câu nói của người bắc 54 : "Chúng tao đã nhường Băc kỳ cho chúng mày. Đã chạy vào đây mà chúng mày vẫn không tha à?" nhưng nghĩ là đùa vui. Bây giờ nghe bác kể thì mới tin. Vậy lúc ấy bộ đội các bác phản ứng như thế nào ?

- Còn thông tin Đã tiêu diệt từ 5000- 10.000 quân giải phóng thì thực hư ra sao ?

       Chào bác chủ! Chào các bác! Tranphu341 rất cảm ơn trang viết của Trang nhà. Rất cảm ơn bạn chienc3.1972.Bạn đã có nhiều giải thích và các đường Linh dẫn về việc những trái bom CBU trong chiến tranh GPMN mà QLVNCH Đã xử dụng. Nhất là 2 trái bom thả vào dịp táng 4/75 khi Xuân Lộc thất thủ. Tranphu không bình luận gì thêm về công dụng hay số lượng, kỹ thuật của bom vv....Vì theo như các tài liệu trên thì còn nhiều vấn đề đang còn "tranh cãi".

       Song chỉ có điều tranphu khẳng định là 2 quả bom CBU đó không rơi vào khu vực SCH của Sư đoàn 341. Cũng không thể có tổn thất về người như phía VNCH nói. Bằng chứng là các chỉ huy của Sư đoàn vẫn sống và thọ đến mấy chục năm sau.

       @ lamson1981. Bạn có hỏi về chuyện cùng cách xử lý với "Ông già ngang ngược". Thì lúc đó trên đường, trong các nhà vẫn còn bập bùng lửa chảy, khói, và mùi thuốc súng khét lẹt. Đúng như những bộ phim có khói lửa của chiến tranh. Trung đoàn mình cứ hành quân. Đúng ra là chạy gằn trong đêm qua Kiệm tâm- gia kiệm. Ông già cứ năn lộn ở đó. Lúc đấy có 3 người đi hon đa 67 mặc quần áo cán bộ Miền. Quấn khăn rằn chạy đến. Nói:" Các anh cứ đi đi để nó lại cho bọn tôi"'. Một trong 3 người ấy chạy xe honđa đã cán qua người "Ông già ngang ngược" kia.

          Chúc bác chủ cùng các bạn tiếp tục chiến đấu!


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 30 Tháng Tám, 2012, 02:24:24 pm
   Cám ơn các anh đã đọc bài của Quanvn. Nếu trong bai viết có gì chưa đúng mong các anh chỉ giáo.Một lần nữa xin được cám ơn các anh.
   Anh Trần phú à, tôi kể anh nghe chuyện này: Hồi còn đánh nhau ở Tích tường Như lệ, xã Hải lệ, huyện Hải Lăng, Quảng Trị năm 1972. Hôm đó địch bắn pháo vào Tích tường, ở trong thôn cũng còn có một số gia đình chưa sơ tán hết, trong đó có bố đẻ của một tên thiếu tá quân lực VNCH( nghe dân nói thế). Thấy tình hình rất nguy hiểm đến tính mạng của người dân, chúng tôi cõng họ chạy về hầm trú ẩn.  Đang cõng trên lưng một ông già hơn 70 tuổi, thì ông hỏi : Các con xâm lăng miền Nam được lâu chưa? Lúc ấy,vừa mệt lại vừa tức, chả lẽ lại vứt ông già xuống đường. Nhưng chúng tôi không nói gì và cõng ông vào hầm trú ẩn. chuyện chỉ thế thôi, chúc anh khỏe.
   AnhTralientay, thật có lỗi với anh vì đã làm mất thì giờ của anh, anh đã đọc rồi thì mong anh thông cảm, có những gì chưa đúng xin anh góp ý. Anh nói tôi viết nhanh lên thì xin thưa với anh là tôi sẽ cố gắng, nhưng thật là khó bởi vì: tài hèn sức mọn, đã thế lại còn nghỉ hưu nữa chứ. Anh bằng lòng vậy.
   Anh Chiến C3, ngọn gió nào đã xô đẩy anh để anh phải lang thang đến tận nới này. Được đọc bài viết của anh, trên trang này tôi lấy làm vinh hạnh. Tôi hy vọng còn được nhiều lần chiêm ngưỡng. Cám ơn anh, chúc anh khỏe, viết khỏe.
   Anh Lamson 1981, xin chào anh. Rất hân hạnh được biết anh.
   Một lần nữa xin được chúc các anh mạnh khỏe. Thực ra tôi định tếu táo thêm một chút nữa, nhưng nghĩ đến mấy cháu hàng xóm nó nói: Các bác cố gắng tiết kiệm những đám mây điện tử, các bác cứ dông dài, sau này chắc là đến lượt chúng cháu thì không biết có còn không? Kính các bác.






Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 03 Tháng Chín, 2012, 02:16:21 pm

NHỮNG CUỘC HÀNH QUÂN
          Đêm ngủ ở vườn sắn, về gần sáng sương xuống nhiều nên rất lạnh, tôi quay người sang ôm lấy Dũng cho đỡ lạnh, nhưng lại ôm nhầm phải Lành, nó to quá tôi ôm không được. Đúng lúc ấy nó hỏi tôi:
    -Sao anh dậy sớm thế? Ngủ thêm lúc nữa, dậy bây giờ trời còn tối lắm cũng không làm gì được.
   Nói xong nó lại thở đều đều tiếp tục ngủ, coi như không có chuyện gì xảy ra, nó còn trẻ nên đang tuổi ăn tuổi ngủ, đã thế nó lại rất béo nên lại càng dễ ngủ. Tôi và nó, hai đứa chúng tôi nằm úp thìa vào nhau, hơi ấm của nó chuyền sang tôi làm tôi dễ chịu, chỉ có mùi mồ hôi muối của nó, lâu ngày không tắm là mùi hắc hắc khó chịu, nhưng được cái là ấm nên tôi cứ ôm lấy nó và nằm im. Ở phía cuối vườn sắn hình như cũng có người đã dậy, tôi nghe thấy có tiếng mở Radio dò sóng sột soạt, tôi cũng muốn mở Radio để nghe xem tin tức lúc này thế nào rồi, nhưng sợ làm ảnh hưởng đến chúng nó nên lại thôi. Nằm bất động ở một tư thế và có hơi ấm tôi ngủ thiếp đi lúc nào không biết, khi nghe tiếng người, tiếng Radio tranh nhau nói tôi mới sực tỉnh.
   Lại bắt đầu một ngày mới, hình như hôm nay có vẻ khác mọi ngày. Mặt trời còn đang le lói phía đằng Đông, nhưng không khí buổi sáng trong đơn vị đã huyên náo và khẩn trương hơn, người nấu ăn người thu dọn đồ đạc, người xắp xếp ba lô. Không ai bảo ai nhưng tất cả đã sẵn sàng để chuẩn bị lên đường, tôi cũng cuốn theo dòng chẩy ấy.
   Bữa cơm sáng cũng đã ăn xong, những vật dụng cuối cùng cũng đã  gọn gàng sau ba lô, chỉ cần hô một tiếng là chúng tôi lên đường ngay tức khắc.
   Thế rồi một tiếng đồng hồ trôi qua, rồi hai tiếng đồng hồ trôi qua, anh em chúng tôi cứ thấp thỏm chờ đợi nhưng chẳng có động tĩnh gì. Cũng có anh em nôn nóng sốt ruột, chạy đến ban chỉ huy đại đội để hỏi, nhưng cũng chẳng có tin tức gì hơn, chỉ nhận được những câu vỗ về động viên của các anh lãnh đạo là cứ yên tâm chờ đợi sắp có xe đến đón rồi.
   Thời gian cứ chậm chạp trôi qua, chúng tôi cũng không biết làm gì khác ngoài việc chờ đợi. Một số anh em đã bắt đầu tựa vào ba lô nằm ngả nằm nghiêng, một số anh tụ tập ngồi hút thuốc vặt, có mấy anh đang dò sóng của Radio, chắc là đang tìm đài Tiếng nói Việt Nam, hay là đài Giải phóng để nghe tin tức.
   Mặt trời đã lên cao, năng lượng mặt trời đã đốt nóng, làm cho những tầu lá sắn không còn mượt mà xanh mướt như lúc buổi sớm nữa, giờ nhìn chúng có vẻ thô ráp gân guốc, quan sát tầu lá sắn tôi có cảm giác như chúng đang gồng lên để chuẩn bị chịu đựng một ngày nắng nóng. Lưng áo tôi cũng đã nhớp nháp mồ hôi.
   Tôi đẩy chiếc ba lô vào sát gốc cây sắn to nhất, rồi tựa lưng vào ba lô, hai chân duỗi dài, nằm ngửa mặt lên trời, tôi nhìn trời qua kẽ của những tầu lá sắn. Trời xanh ngằn ngặt, cao vút, thi thoảng có những đám mây trắng mỏng tang nhẹ như bông, đuổi nhau bay về hướng Sài Gòn. Tôi nhắm mắt lại lắng nghe âm thanh ở xung quanh. Một mớ âm thanh hỗn độn, đang nhào lộn vào nhau, người nói người cười, tiếng đài nói tiếng ca nhạc, tiếng dò sóng tìm đài sột soạt, tiếng một đài nào đó nói xoe xóe rồi lập tức bị một đài khác nói tiếng Trung quốc đè lên giọng cứ lủng xủng loảng xoảng. Tôi mở mắt ra nhìn xung quanh, dưới gốc những cây sắn, anh em bộ đội đang ngồi tụm năm tụm ba để nghe đài. Những chiếc đài chiến lợi phẩm thu được từ khi giải phóng Buôn Ma Thuột, vẫn theo anh em chúng tôi, chiếc thì to bằng hai bàn tay, chiếc thì bằng bàn tay, chiếc mầu đen chiếc màu đỏ. Mỗi nhóm nghe một đài phát thanh, ai cũng muốn nghe cho rõ nên tất cả đều mở hết công suất. Tôi cố gắng tập trung để nghe lấy một đài xem có nghe được không nhưng kỳ thực chỉ nghe tiếng được tiếng mất nên cuối cùng là không hiểu gì.
   Tôi cứ chìm dần vào mớ âm thanh hỗn độn ấy, trong lúc mơ màng tôi tưởng tượng tôi đang được nghe bản nhạc đồng quê du dương trầm bổng. Biết bao kỷ niệm của quá khứ ùa về, từ cảnh vật đến con người sao mà thân thương, sao mà da diết thế. Nhiều quá, nhưng lại nhanh quá, có những hình ảnh tôi muốn nó từ từ để hình dung cho rõ hơn, nhưng không được, nó cứ mải miết chạy qua, bỏ lại tôi phía sau với biết bao những kỷ niệm khác cũng đang chen lấn xô đẩy. Tôi cố tìm cách điều chỉnh để mọi việc xảy ra từ từ, nhưng không được, đầu cứ nặng chĩu luẩn quẩn không thoát ra được, chân tay thì ngọ nguậy nhưng bất lực. Đúng lúc ấy, hình ảnh của hai người phụ nữ mà tôi yêu quý nhất bỗng dưng xuất hiện, đó là Mẹ tôi và Vân người mà tôi yêu. Tôi vội đuổi theo nhưng rất lạ, có lúc nhìn thấy có lúc không nhìn thấy, lúc sáng lúc tối. Một cơn gió thổi qua làm cây sắn xô dạt, ánh nắng mặt trời chiếu thẳng vào mắt tôi làm tôi bừng tỉnh. À thì ra tôi đang ngủ, tôi mơ về mẹ và Vân, khi mơ có lúc sáng lúc tối, lúc nhìn thấy lúc không nhìn thấy có lẽ là do ánh nắng mặt trời chiếu qua lá sắn chiếu vào mắt tôi lúc sáng lúc tối.
    Tôi lại nghĩ về mẹ tôi. Mẹ ơi! Mẹ có được khỏe không? Con đang chuẩn bị bước vào trận đánh vô cùng quan trọng, đó là trận đánh vào Sài Gòn - Gia Định thủ phủ của chính quyền VNCH. Trận này chắc chắc sẽ gay go và ác liệt, bởi vì một bên thì cố giữ, một bên cương quyết giải phóng, hai luồng tư tưởng đối địch nhau thì phải giải quyết bằng một cuộc cách mạng, cuộc cách mạng này đã kéo dài hơn hai mươi năm, đã tốn biết bao nhiêu của cải vật chất, công sức và xương máu của biết bao nhiêu người Việt Nam. Hiện nay quân giải phóng đang xiết chặt vòng vây quanh Sài Gòn - Chợ lớn, bọn ngụy quân ngụy quyền đang rất hoang mang dao động. Đây là thời điểm quan trọng để quyết định vận mệnh của đất nước là giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước.
   Mẹ ơi! Ngày giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước đã đến rất gần, sau ngày đó con lại được về với mẹ. Con sẽ kể cho mẹ nghe rất nhiều chuyện, mẹ hãy cố gắng giữ dìn sức khỏe chờ đến ngày đó để con kể cho mẹ nghe. Mẹ có biết không? Vậy là con đã xa mẹ lên đường đi chiến đấu được gần 1500 ngày rồi. Mỗi một ngày qua đi, không biết có bao nhiêu lần con nghĩ về mẹ, có những lúc nước mắt tự nhiên cứ trào ra, sợ mọi người nhìn thấy, con lại vội vã lau đi, nhiều khi con thèm khóc vì nhớ mẹ con đã tìm chỗ vắng để không ai biết, ngồi khóc một mình, khóc cho thoải mải để vơi đi cơn nhớ mẹ. Những lúc ấy, con cứ tự nhủ: Nếu còn sống trở về con sẽ kể lại tất cả cho mẹ nghe, khi đó chắc mẹ sẽ chê con là: Làm bộ đội cụ Hồ, đi đánh giặc rồi mà còn khóc nhè.
   Nghĩ đến ngày giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước, đang đến gần chúng con vui sướng quá. Nhìn anh em đồng đội, cùng vào sinh ra tử sống chết có nhau, bây giờ đang chuẩn bị bước vào trận đánh quyết định, một trận đánh sinh tử một mất một còn. Tất cả anh em chúng con đã sẵn sàng, chúng con vẫn biết rằng: Chiến tranh là có tổn thất, sau cuộc chiến đấu này sẽ có người còn người mất, nhưng không sao, chuyện ấy là tất yếu vì thế nên chúng con rất thanh thản bước vào trận đánh.
   Mẹ ơi! Nếu sắp sửa đến ngày giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước và kết thúc chiến tranh, mà chẳng may con trai của mẹ ngã xuống, thì đấy có lẽ là điều khủng khiếp nhất của cuộc đời mẹ, chắc là mẹ buồn lắm. Con biết điều ấy không có một người mẹ nào trên thế gian này mong muốn, nhưng một khi Tổ quốc cần thì mọi gia đình phải chấp nhận hy sinh, âu đó cũng là lẽ bình thường. Sự hy sinh của con khi ấy, con biết là mẹ sẽ rất đau khổ. Nhưng mẹ ơi! Mẹ hãy nén đau thương để mà tự hào về con trai của mẹ, con của mẹ đã được tham gia suốt chiều dài của những chiến dịch giải phóng Miền nam thống nhất đất nước, những chiến dịch ấy, lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc sẽ ghi thêm những mốc son chói lọi. Đó là: Chiến dịch giải phóng Quảng Trị; Chiến dịch giải phóng Buôn Ma Thuột; Giải phóng Xuân Lộc; Bây giờ là Chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng Sài Gòn thống nhất đất nước…
    Đang chìm vào suy tưởng, thì nghe có người gọi tên tôi, tiếng gọi lọt thỏm vào không gian ầm ỹ của nhiều thứ âm thanh, tôi chờ nghe tiếng gọi lại, thì lại được nghe tiếng của ai đó nói:
    -Để anh ấy ngủ gọi dậy làm gì, khi nào có cơm thì gọi anh ấy dậy ăn.
   Như vậy là buổi sáng đã qua đi, chẳng ai thèm đả động gì đến trung đoàn 95 sư 325. Tôi nghĩ thật là khó hiểu. Tại sao? Tất cả các cánh quân đang ào ạt tiến vào Sài Gòn – Gia định, trong khi đó một trung đoàn lại nằm đây. Có phải Bộ chỉ huy chiến dịch quên trung đoàn 95 sư 325 không? Hay là có ý đồ chiến lược gì? Vô lý, không thể quên cả một trung đoàn được, cứ bình tĩnh chờ đợi. Tôi tự nhủ thầm như vậy.
   Tôi lại trở về với Vân, người mà tôi yêu quý và trân trọng. Vân ơi! đã lâu, anh không còn hình dung được hình ảnh của Vân bây giờ thế nào? Chúng ta xa nhau đã hơn ba năm rồi còn gì. Ba năm đối với người phụ nữ đã có biết bao nhiêu thay đổi, nào là công danh nào là sự nghiệp, nào là chồng con. Cuộc sống là như vậy, nó là định mệnh đối với mỗi con người, sự thay đổi theo chiều hướng phát triển là một điều tất yếu, không có thay đổi mới là điều đáng sợ, có phải thế không em? Ở trong chiến trường, lúc nào anh cũng nghĩ về em, anh cầu xin Trời-Đất phù hộ cho em gặp may mắn.  Vân à! hôm nay em có đoán được anh đang ở đâu không? Anh đang ở cửa ngõ Sài Gòn, bọn anh đang chuẩn bị đánh vào Sài Gòn - Gia Định, dinh lũy cuối cùng của chính phủ VNCH. Ngày giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước đã đến rất gần, hàng triệu triệu con tim, trong đó có em và anh cũng đang mong chờ ngày đó. Chúng ta sẽ chiến thắng, ngày mà chúng ta gặp nhau không còn xa nữa…
   Đúng lúc ấy có tiếng gọi nhau đi ăn cơm, cũng là lúc cắt đứt dòng suy nghĩ của tôi. Dũng quay sang nói với tôi:
    -Anh em mình đi ăn cơm thôi!
   Tôi uể oải đứng dậy lấy bát đi ăn cơm cùng với anh em, thật ra lúc này ăn uống cũng chẳng có hưng phấn gì, ăn thật nhanh, ăn cho qua bữa để sẵn sàng nhận nhiệm vụ. Mọi người đang tập trung vào ăn cơm, vừa ăn lại vừa nói chuyện tiếu lâm cười đùa vui vẻ. Bỗng nhiên ở góc nào đó có tiếng hét lên:
    -Đầu hàng rồi! Anh em ơi! Chúng nó đầu hàng rồi.
   Tất cả mọi người quay về hướng có tiếng thét, để xem có chuyện gì xảy ra, thì lại thấy có mấy anh em cởi trần trùng trục, hắt tung cả bát cơm lên trời và nhảy cẫng lên rồi hô lớn:
    -Giải phóng Sài gòn rồi anh em ơi! Tổng thống Dương văn Minh đã tuyên bố đầu hàng rồi.
    Nhiều người tỏ vẻ nghi ngờ và hỏi lại:
    -Sao chúng mày biết được.
    -Các anh mở đài ra mà nghe, thật đấy, không phải chúng em bịa đâu.
    -Đài nào? Từ sáng đến giờ lúc nào tao cũng nghe đài sao không thấy?
    -Ờ nhỉ! Em quên mất, không biết là đài nào. Hình như là đài VNCH, các anh cứ dò là thấy.
   Kể từ lúc ấy, cả đơn vị không còn ai thiết tưởng đến cơm nước. Ai có gì dùng nấy, miễn là nó phát ra tiếng kêu, vừa gõ vừa la hét cứ ầm ỹ cả lên. Người thì gõ xoong quân dụng, người thì gõ vunng xoong, người gõ muôi, gõ bát, người gõ bình tông, hăng say quá đến nỗi tất cả mọi thứ đều bẹp dúm nhưng vẫn không ai chịu dừng lại. Có nhóm cởi trần trùng trục, ôm nhau nhảy múa trong vườn sắn giữa trưa hè nắng rát, mồ hôi mồ kê nhễ nhại, mặt mũi thì dính toàn nhọ nồi của đít xoong đít nồi nhưng vẫn hò hét vẫn múa hát.
   Tôi nghĩ về bố mẹ, về gia đình, về những người thân yêu, về miền quê quanh năm nghèo đói. Tôi nghĩ đến ngày tôi được trở về với bố mẹ với quê hương, nước mắt tôi cứ trào ra. Tôi ôm lấy thằng Dũng “Còm”, hai anh em ôm chặt lấy nhau, nước mắt của nó cũng ướt đẫm vai áo tôi, nó nghẹn ngào hỏi tôi:
    -Liệu có hòa bình thật không anh? Em chỉ sợ ngừng bắn mấy ngày, rồi lại đánh nhau.
   Tôi vỗ về nó:
    -Không có chuyện ấy đâu em. Tổng thống VNCH Dương văn Minh đã tuyên bố trên đài phát thanh, cho cả thế giới biết là chính phủ VNCH đã đầu hàng quân giải phóng miền Nam việt Nam vô điều kiện, thì sẽ không bao giờ có chuyện phản bội lời tuyên bố đó.
   Mọi người thấy tôi và Dũng ôm nhau, họ không kìm được sự sung sướng cũng lao vào ôm chầm lấy chúng tôi, thành một khối người. Tiếng nói tiếng cười, nước mắt tất cả hòa quyện vào nhau trong niềm vui bất tận của những người chiến thắng…
    Bây giờ là 12 giờ trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975. Sự sung sướng này không biết bao giờ dừng lại…
(Còn nữa).

   
 


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 07 Tháng Chín, 2012, 10:51:07 am

NHỮNG CUỘC HÀNH QUÂN
         Về thành Tuy Hạ, tính đến hôm nay có nhẽ đã được hơn nửa tháng.  Lính chúng tôi đang quen xông pha trận mạc, quen với gió sương, quen sống tự do giữa đại ngàn, bây giờ bị đưa vào ở khu trại lính của quân lực VNCH, trong khu kho thành Tuy Hạ. Chúng tôi như con chim bị nhốt trong lồng, con cá bị thả vào chậu, tù túng ngột ngạt. Ở đây, tuy rằng có nhà có cửa đàng hoàng, nhưng cũng có luôn cả hàng rào và bốt gác, kèm theo là nội quy và quy chế khi ra vào kho thành Tuy Hạ. Mỗi khi có việc cần ra ngoài lại phải xin phép, chúng tôi cảm thấy bức bối khó chịu, chưa thể hòa hợp ngay được.
   Về đây, chúng tôi được quán triệt nhiệm vụ là: Phối hợp với bộ đội chuyên ngành kỹ thuật để trông coi và bảo vệ kho vũ khí, khí tài lớn nhất Đông Dương. Các anh còn nhấn mạnh: Đây là nhiệm vụ vô cùng quan trọng, chúng ta luôn phải đề cao cảnh giác, canh phòng nghiêm ngặt, không để kẻ địch lọt vào phá hoại, nhất là trong điều kiện đây là vùng vừa mới được giải phóng, vấn đề an ninh chính trị và trật tự xã hội còn vô cùng phức tạp, chúng ta không thể tin ai ngoài chúng ta…
    Nghe các anh trong ban chỉ huy quán triệt thì biết vậy, chứ anh em chúng tôi có được vào vòng trong đâu mà biết lớn nhất hay lớn nhì Đông Dương, ở trong ấy có những vũ khí khí tài gì cũng không biết, thậm chí chúng tôi có được vào trong ấy đâu mà biết, chỉ được đứng xa xa nhìn xem anh em bộ đội kỹ thuật họ đi lại trong ấy. Nhưng rồi nghĩ đi nghĩ lại về nhiệm vụ của mình cũng thấy lo lo, anh em chúng tôi tự giác bảo nhau cố gắng để hoàn thành nhiệm vụ.
    Ngày đầu tiên về thành Tuy Hạ, nghe mọi người nói: Trung đoàn 95 sau một thời gian dài đi phối thuộc, tuy rằng bị tổn thất tương đối nhiều ở Xuân Lộc, nhưng trung đoàn 95 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và trở về với sự hân hoan chào đón của cán bộ chiến sĩ  sư đoàn 325. Khi trung đoàn 95 trở về, được mọi người ở Bộ chỉ huy của sư 325 tỏ ý thông cảm và chia sẻ với trung đoàn 95, vì phải chiến đấu xa đơn vị. Nghe mọi người nói thế lúc đầu tôi không hiểu, tôi cứ nghĩ ở đâu mà chẳng là nhiệm vụ được phân công. Mãi sau này tôi mới vỡ dần ra, nhất là khi nghe anh bạn của tôi ở trinh sát sư đoàn nói như mắng tôi, có thế mà ông cũng không hiểu:
    -Ở nhà với bố mẹ thì tất cả những khó khăn gian khổ đều được chia đều, được bố mẹ quan tâm giúp đỡ. Đằng này lại một thân một mình, đi phối thuộc với các đơn vị khác, hoạt động ở một vùng khác, bố mẹ có muốn quan tâm cũng chả được v.v.
   Ừ, nghĩ lại cũng thấy có cái lý đúng của nó, ví như cái vụ ngày 30 tháng 4 vừa rồi nếu đi cùng sư đoàn thì thế nào cũng được đánh vào Sài Gòn, đằng này lại cứ phải ở vườn sắn. Nghĩ lại cũng thấy cay mũi…
   Về đóng quân ở thành Tuy Hạ, nhiều đêm tôi trần trọc rất khó ngủ, có lẽ không riêng gì tôi mà nhiều anh em có lẽ cũng khó ngủ giống tôi. Đây chắc cũng chẳng phải là bệnh lý gì gây ra mất ngủ, mà tôi cho rằng: Nguyên nhân chính gây ra mất ngủ là hội chứng chiến thắng 30 tháng 4 năm 1975. Có lẽ đúng như vậy: Đất nước sau chiến tranh có biết bao nhiêu việc phải làm, mỗi con người sau chiến tranh cũng thế, còn biết bao dự định vẫn chưa thực hiện. Bây giờ làm gì trước làm gì sau, nên làm hay chưa nên làm, tất cả đều muốn nhanh chóng trở thành hiện thực. Hiềm một nỗi là mọi suy nghĩ đều chưa hội tụ đủ các điều kiện, chưa việc nào rõ ràng nên cứ rối bời, chính vì thế lại càng làm cho chúng tôi thêm nóng ruột. Ấy là chưa kể đến dư âm của chiến thắng 30 tháng 4, đã ngấm vào máu, nó giống như chất kích thích, làm con người lúc nào cũng có cảm giác lâng lâng sung sướng. Hết thẩy những thứ ấy đều là nguyên nhân của sự mất ngủ.
   Tối nay cũng giống như những tối khác, cơm nước xong anh em lại tụ tập quanh chỗ tôi để trà lá. Từ ngày giải phóng Buôn Ma Thuột đến giờ, tôi trở thành trung tâm của hội trà lá, khách khứa là anh em đến với tôi mỗi lúc lại nhiều hơn. Lúc trước, hồi còn ở Quảng Trị. Anh em C20 đã biết tôi là một con nghiện nặng, thông qua hai vụ nổi danh ở thời kỳ đó.
   Vụ thứ nhất, hồi C20 đặt đài quan sát ở động Ông Do, đã mấy ngày anh em trên đài hết thuốc lào để hút, chúng tôi phải cạo nõ điếu để lấy cao, lấy nước điếu, mang ngâm tẩm với lá Sim để hút cho đỡ cơn nghiện. Một hôm, qua ống nhòm tôi nhìn xuống đường “Tăng” thấy có một đoàn dân công hỏa tuyến đang hành quân về phía chúng tôi. Tôi nói với anh em, bây giờ muốn có thuốc hút chỉ có cách là phải xuống núi, đến gặp đoàn dân công kia để xin, may ra thì được. Tất cả đồng ý, nhưng ai đi thì lại gặp khó khăn, nói thật từ đài quan sát xuống đường “Tăng” cũng cao và xa lắm, leo lên leo xuống cũng ốm, vì thế mấy đứa cứ đùn đẩy nhau, cuối cùng là tôi đi. Hôm ấy, sự vất vả thì không đáng nói, điều đáng nói nhất là tôi phạm phải hai sai lầm. Thứ nhất, quên mất việc đã nhận được thông báo của đài kỹ thuật là khu vực này thuộc tọa độ bị ném bom hôm nay. Thứ hai, do thèm quá, nhịn lâu ngày mới được hút mà lại là nõ điếu của Thanh Hóa nữa nó rất to, khi nhét thuốc tôi hơi tham nên nhét nhiều. Vì vậy, khi hút xong là tôi không biết gì nữa, một loạt bom nổ rất gần làm tôi tỉnh dậy  tôi thấy mình đang nằm trong hầm cùng với mọi người, khói bom sặc sụa.
   Vụ thứ hai. Hồi C20 còn đóng quân ở Nại cửu, Triệu Phong, Quảng Trị, đơn vị tổ chức đi dã ngoại ở cao điểm 241 gần căn cứ Đầu Mầu. Ở đấy tôi đang chăm chú quan sát khẩu pháo “Vua chiến trường 175 ly” tình cờ tôi nhặt được Anbum ảnh nhấp nháy, tôi giấu biến làm của riêng. Cũng thời gian ấy, quân ta tấn công căn cứ Thượng Đức, do gặp phải sự chống trả điên cuồng của địch, quân ta bị tổn thất tương đối nhiều. Hôm ấy, tôi gặp một đơn vị bộ đội mới từ ngoài Bắc vào để bổ xung đánh Thượng Đức, chúng tôi làm quen nhau và tìm đồng hương để xin thuốc lào. Tôi là lính cũ, còn họ là lính mới, tôi kể cho họ nghe những chuyện ở chiến trường, tôi khoe tập anbum mà tôi nhặt được, mọi người xem thấy thích lắm, tôi gạ họ đổi lấy mì chính và thuốc lào, họ đồng ý ngay. Tôi cảnh tỉnh họ: Đây là những bức ảnh cấm, phải dấu kín không cho ai biết. Vụ đổi chác ấy tôi cũng thu hoạch kha khá mì chính và thuốc lào. Khi về đơn vị tôi chia cho mỗi nhóm một ít, mọi người hỏi lấy đâu ra, nhưng tôi không nói, sau này rồi mọi người cũng biết.
   Sau hai vụ nổi đình đám ấy, tôi trở thành tên nghiện có tiếng, kể từ đó đơn vị nếu có ai đi đâu, khi về là tôi đều có quà, khi là vê thuốc lào khi là dăm điếu thuốc lá.
   Nhưng bây giờ thì khác rồi, sau cái đêm 10 tháng 3 năm 1975, giải phóng Buôn Ma Thuột, đời sống chúng tôi được cải thiện nhiều, thuốc lá Rubi của quân tiếp vụ, trà Blao thì ai cũng có, có rất nhiều, ngoài ra chúng tôi còn có cả phích đựng nước sôi và bộ ấm chén để pha trà. Tôi được enh em phong cho cái tên là: “Anh già bán nước” và được miễn trừ tất cả các công việc khác, chỉ phải mang trà thuốc và dụng cụ để pha nước. Mấy bữa trước ở Xuân Lộc đánh nhau ác liệt là vậy, mà chúng tôi vẫn giữ được bộ đồ pha nước, để đến hôm nay chúng tôi lại cùng nhau ngồi bên chén nước trà Blao tỏa hương thơm ngát.
    Sắp tàn cuộc trà thì cũng là lúc đến giờ sinh hoạt của đơn vị, liên lạc của đại đội xuống mời tôi lên gặp ban chỉ huy đại đội. Tôi nghĩ là tôi bị gọi lên để phê bình về việc rượu chè lúc ban chiều, bây giờ lại tụ  tập anh em để trà lá. Nghĩ thế nên trong đầu tôi phác thảo ngay phương án trả lời.
    Nếu là chuyện uống bia Laze ở cổng doanh trại hồi chiều, thì tôi sẽ nói là gặp bạn bè cùng học một trường, cùng vào chiến trường một ngày bây giờ mới gặp nhau nên mời nhau uống bia, mấy anh bạn do lâu ngày mới được uống mà lại uống nhiều nên bị say, nhưng không xảy ra chuyện gì lộn xộn, chỉ có điều người dân vùng mới giải phóng họ nhìn thấy bộ đội say xỉn như vậy là không hay lắm. Nhưng theo tôi nghĩ, chuyện chỉ có như vậy thì cũng chẳng có gì đáng quân tâm, chỉ sợ có ai đó buôn chuyện là chúng tôi không có tiền phải gán đồng hồ để uống bia.
   Còn chuyện tối nào cũng tụ tập để trà lá, thì có gì là sai. Cơm xong anh em ngồi túm tụm với nhau uống chén trà hút điếu thuốc, kể chuyện tiếu lâm cười đùa vui vẻ, không cãi nhau hay chia bè phái, không vi phạm vào giờ giấc sinh hoạt của đơn vị. Vậy thì chẳng có gì là sai cả, nghĩ thế nên tôi vững tâm, chỉ còn lăn tăn mỗi vấn đề gán đồng hồ để uống bia.
    Về đây đóng quân, có nhiều cái sướng nhưng cũng không ít cái khổ. Cái sướng thì ai cũng biết rồi, đang từ rừng sâu núi đỏ, bom đạn suốt ngày uỳnh oàng, thiếu thốn trăm bề. Bây giờ về đây không còn phải lo súng đạn, lại còn về gần thành phố thị xã, cái gì cũng có. Sướng là vậy nhưng cái khổ có ai biết cho đâu, mà chết một nỗi là cái khổ này không nói ra được. Ngày xưa, cái ngày mà còn ở trong rừng thì không sao, bây giờ đã ra phố xá, nơi đông người qua lại, nam có nữ có, nghĩ mà thương anh em, thương mình. Tất cả đang tuổi ăn tuổi lớn, nhu cầu về sinh lý rất cao, chỉ biết ngồi nhìn phố xá để đi lạc vào rừng mơ.
  Khổ nhất là hàng ngày, ngày nào cũng như ngày nào, cứ phải ngửi mùi café mùi mực nướng, cứ phải ngắm nhìn các cô gái tuổi bẻ gãy sừng trâu, cứ lượn lờ ở quán Café, quán Laze xung quanh cổng doanh trại. Đã thế các cô còn ăn mặc khêu gợi hở hang để câu khách, áo thì bó sát lấy người, những chỗ gợi cảm cứ muốn bứt tung hàng khuy áo để nhảy ra ngoài cho thoáng, nhưng không ra được cứ lấp ló sau lớp vải mỏng tang che bộ ngực tròn đầy đặn. Bề ngang áo là thế, bề dài của áo cũng chẳng kém cạnh, cứ ngắn cũn cỡn để hở cả rốn, tuy nó chỉ là cái rốn nhưng mọi người lại rất ưa nhìn. Tệ hại hơn cả là cái quần, mà người ta gọi là quần ống loe. Loại quần này chỗ thì thừa quá nhiều vải, chỗ thì quá tiết kiệm vải, nên nó bó sát lấy người, làm nổi hết những đường cong huyền bí của tạo hóa đã ban tặng cho người con gái, để tập trung sự chú ý của mọi người hơn nữa, họ còn đính vào đấy một hàng khuy bạc sáng lấp lánh. Thật là hết chỗ nói.
   Tất cả những cám dỗ này, cũng là nguyên nhân của việc chúng tôi bị say bia hồi chiều, rồi phải gán cả đồng hồ. Nhưng tôi sẽ không khai.
(Còn nữa).
   


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 12 Tháng Chín, 2012, 11:03:07 am

NHỮNG CUỘC HÀNH QUÂN
          Tôi vào phòng của ban chỉ huy đại đội, thấy chính trị viên; đại đội trưởng và đại đội phó cả ba người đều có nhà. Mọi người niềm nở nhìn tôi và mời tôi ngồi, tôi thoáng nghĩ trong đầu: Kiểu này là có vấn đề đây. Tôi ngồi xuống, nhưng vẫn giữ thái độ dè chừng để chuẩn bị trả lời những gì mà tôi đã chuẩn bị khi lên đây. Đồng chí đại đội trưởng nhìn tôi và quay sang nói với đồng chí chính trị viên:
    -Anh làm việc với anh Quân, chúng tôi xin phép đi xuống các đơn vị  dự sinh hoạt với anh em. Anh Quân mà ở lại được thì tốt.
   Nói xong hai người ra ngoài, tôi ngồi đối diện với đồng chí chính trị viên, mắt tôi chăm chú theo dõi mọi cử động của anh, nhưng đầu thì lại nghĩ đến câu nói của đồng chí đại đội trưởng ban nãy, tôi hơi lờ mờ đoán ra chuyện gì, nhưng chưa thật vững tin. Chúng tôi ngồi uống nước, đồng chí chính trị viên trao đổi với tôi về một số vấn đề diễn biến tư tưởng của đơn vị.
   Thú thực, chuyện diễn biến tư tưởng hay không diễn biến tư tưởng của đơn vị, tôi có quan tâm gì đâu, mà tôi chẳng có trách nhiệm gì để quan tâm. Vì vậy, khi đồng chí chính trị viên nói, tôi cũng vâng dạ, ậm ờ cho qua chuyện. Nhưng thật ra, tôi cũng đồng ý với nhận định của đồng chí chính trị viên: Đây là thời điểm diễn biến tư tưởng phức tạp nhất.
   Về phương diện cá nhân, tôi hoàn toàn thông cảm và chia sẻ với ban chỉ huy đại đội ở thời điểm khó khăn này. Tôi nói:
    -Đúng như vậy, chiến tranh đã chấm dứt, anh em ai cũng muốn được trở về quê hương, trước hết là để thăm bố mẹ, anh chị em ruột thịt, bà con chòm xóm xem ai còn ai mất, mọi người có được mạnh khỏe không? Hoàn cảnh và điều kiện sống của mọi người thế nào? Con cái đã khôn lớn chưa, học hành ra sao? Sau là mong muốn được trở lại với quê hương để tiếp tục thực hiện những công việc, những ước mơ, những điều hò hẹn còn đang dở dang trước khi nhập ngũ. Hoặc chí ít cũng được nghỉ tranh thủ về qua nhà ít ngày rồi sẽ quay lại đơn vị. Khi ấy mới thực sự yên tâm công tác, tôi thiết nghĩ đòi hỏi này của anh em là chính đáng, vì vậy cũng mong các anh quan tâm vấn đề này.
   Nói đến đấy, tôi dừng lại nhìn đồng chí chính trị viên. Cả hai chúng tôi đều im lặng, mỗi người đuổi theo suy nghĩ của mình. Lúc sau đồng chí chính trị viên nói với tôi:
    -Tôi hoàn toàn đồng ý với anh, nhưng ngặt một nỗi là cả sư đoàn và trung đoàn cũng chưa có chủ trương này. Thật ra tôi biết là, các anh ấy cũng muốn giải quyết, nhưng có lẽ còn nhiều vấn đề phức tạp nên phải giải quyết từ từ. Những chuyện phức tạp này lại không thể phổ biến cho anh em biết được, sợ rằng nếu phổ biến thì anh em càng hoang mang dao động, khi ấy lại càng bất lợi.
   Suy nghĩ một lát rồi đồng chí lại tiếp tục:
    -Hôm nay ban chỉ huy đại đội mời anh lên để trao đổi một số vấn đề, những vấn đề tôi sắp trao đổi, có liên quan đến anh và đến anh em trong đơn vị, đến câu chuyện mà chúng ta đang nói.
   Thấy đồng chí chính trị viên nói thế, có tật giật mình. Tôi nghĩ ngay đến câu chuyện mà tôi rủ rê anh em ra quán uống bia, uống say khướt đến nỗi không có tiền để trả mà phải gán cả đồng hồ. Tôi đang tìm câu trả lời thì đồng chí lại nói tiếp:
    -Chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng Sài Gòn thống nhất đất nước, diễn ra thần tốc, quyết liệt và nhanh gọn, làm cho kẻ thù không biết xoay sở ra sao, chỉ còn biết đầu hàng. Chiến thắng này, cũng làm cho thế giới sững sờ và cảm phục trước sức mạnh đoàn kết của dân tộc Việt Nam. Chúng ta đã có chiến thắng, nhưng làm thế nào để chúng ta bảo vệ được chiến thắng trọn vẹn mới là điều quan trọng. Anh biết đấy: Tình hình biên giới Campuchia cũng đang rất căng thẳng, các thế lực trong nước và nước ngoài cấu kết với nhau đang ráo riết hoạt động chống diễn biến hòa bình, nhằm phá hoại thành quả cách mạng mà dân tộc Việt Nam đã tốn biết bao mồ hôi, nước mắt và xương máu mới đạt được.
    Đồng chí chính trị viên dừng lại nhìn tôi. Tôi nghĩ, có vấn đề gì đâu mà đồng chí lại quan trọng hóa vấn đề và nâng quan điểm ghê quá. Nếu tôi có hành động gì không đúng thì cứ nói thẳng, việc gì cứ phải vòng vo con nhện như vậy, đúng là bệnh nghề nghiệp. Suy nghĩ như vậy, nhưng tôi vẫn ngồi im để chịu trận.
   Sau khi nhấp một hớp nước cho đỡ khô cổ, đồng chí nói tiếp:
    -Hiện nay ở khu vực trung đoàn của chúng ta đóng quân, tình hình an ninh rất phức tạp, đã có dấu hiệu thủ tiêu bộ đội, tổ chức phao tin thất thiệt để bôi nhọ cách mạng, tạo ra những bằng chứng giả, những hiện trường giả để đổ lỗi cho bộ đội và gây chia rẽ giữa bộ đội với nhân dân, chia rẽ trong nội bộ những người dân với nhau, tìm cách cô lập những gia đình tham gia kháng chiến hoặc có công với cách mạng. Thâm độc nhất của bọn này là không lộ diện, không biểu hiện chống đối, bề ngoài thì vui vẻ lúc nào cũng sẵn sàng ủng hộ cách mạng, nhưng bên trong thì ngấm ngầm xúi dục kích động bà con để thực hiện âm mưu thâm độc của chúng. Tóm lại, bọn phản động đang tìm mọi cách để chống phá cách mạng.
   Đồng chí chính trị viên rót một chén nước mời tôi rồi lại tiếp tục, giọng đồng chí lúc này có vẻ nhỏ nhẹ và lắng đọng hơn. Đồng chí nói:
    -Trước tình hình an ninh vùng mới giải phóng còn đang diễn biến phức tạp, trung đoàn yêu cầu chúng ta phải có các tổ công tác xuống nơi đó nằm vùng. Mục đích là để: Tuyên truyền, giáo dục chính sách của Mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam; Xem xét cụ thể để giải quyết những mâu thuẫn phát sinh hàng ngày giữa nhân dân với bộ đội; Giúp đỡ chính quyền ở địa phương giải quyết những vấn đề nội bộ của địa phương; Quan trọng nhất là theo dõi để phát hiện những hoạt động chống phá cách mạng của những phần tử phản động, đồng thời phải kịp thời nắm bắt được diễn biến về tư tưởng tình cảm của nhân dân đối với bộ đội đối với chính quyền cách mạng.
   Với yêu cầu và nhiệm vụ như vậy, đơn vị thấy rằng chỉ có các đồng chí sinh viên là đáp ứng tốt nhiệm vụ này. Nhớ lại, thời kỳ ký hiệp định Paris chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, ngày 27 tháng 1 năm 1973.  Hồi ấy mình đang ở Quảng Trị, đơn vị cũng đã cử anh tham gia vào Ban hòa hợp dân tộc để đi nói chuyện với phía quân lực VNCH, chúng tôi thấy anh làm rất tốt, lần này cũng muốn anh tham gia.
   Thấy đồng chí chính trị viên nói thế, tôi thở phào nhẹ nhõm và tự trách mình hay quá lo xa, tự nhiên tôi thấy phấn chấn hẳn lên, không còn phải lo lắng gì về câu chuyện uống bia lúc chiều, hưng phấn quá tôi trả lời ngay:
    -Được các anh tin tưởng tôi sẵn sàng nhận nhiệm vụ.
    -Xin cám ơn anh! Đồng chí cám ơn tôi rồi nói tiếp:
    -Còn bây giờ là một thông tin thú vị đối với các anh sinh viên. Chắc anh cũng nắm được, hiện nay cấp trên đang có chủ trương gửi trả các anh sinh viên về trường cũ để tiếp tục học tập. Công tác này đã được triển khai tới từng đơn vị, vấn đề chỉ còn là thời gian, theo tôi nghĩ chắc vào khoảng cuối tháng 7 đầu tháng 8 năm nay(1975) là cùng. Bây giờ mới là trung tuần tháng 6, anh đi khoảng một tháng hay tháng rưỡi khi đó về là vừa.
    Thú thực là tôi cũng đã nghe phong thanh được thông tin này, nhưng mà là nghe tin vỉa hè thôi, chưa đủ niềm tin. Hôm nay được nghe chính thức từ đồng chí chính trị viên nói ra tôi vui quá, tôi muốn nhảy tung lên và hô thật to: Tôi sắp được về Miền Bắc rồi anh em ơi! Nhưng tôi cố kìm sự sung sướng này lại, để tiếp tục nghe đồng chí chính trị viên nói.
   Đồng chí chính trị viên say sưa tiếp tục mạch câu chuyện:
    -Còn chuyện này, tôi suy nghĩ mãi không biết có nên nói với anh không? Hai anh: Đại đội trưởng và đại đội phó thì cứ đề nghị tôi nói. Tôi cũng thấy thật là khó nói, không biết nói thế nào để anh hiểu và thông cảm cho chúng tôi vì đây không phải là mệnh lệnh. Nhưng tôi nghĩ anh là chỗ thân tình nên tôi nói, biết đâu điều ấy có thể anh chưa bao giờ nghĩ đến. Đấy là câu chuyện: Chiến tranh đã kết thúc, bây giờ là lúc phải xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam lên chính quy hiện đại, để ngang tầm với thế và lực của chúng ta trên trường Quốc tế. Muốn làm được điều ấy, trước mắt cần phải có một lực lượng nòng cốt, từ đó sẽ đào tạo lực lượng này trở thành những sĩ quan ưu tú, vừa có kinh nghiệm chiến đấu, lại vừa có kiến thức chuyên môn, nắm vững được khoa học kỹ thuật, trở về làm cán bộ nòng cốt của trung đoàn. Trung đoàn đang muốn mời các anh ở lại để tham gia xây dựng lực lượng nòng cốt này.
   Đồng chí chính trị viên khẽ hắng giọng và tiếp tục:
    -Vấn đề này, không nhất thiết phải trả lời ngay, anh cứ suy nghĩ và trả lời chúng tôi càng sớm càng tốt. Chúng tôi hy vọng sẽ được hợp tác với anh.
   Câu chuyện giữa tôi với đồng chí chính trị viên còn kéo dài thêm một thời gian nữa, chúng tôi nói với nhau nhiều chủ đề khác. Sau đó tôi xin phép ra về.
   Ra khỏi nhà của ban chỉ huy đại đội, tôi đi như bay về tiểu đội. Trong tôi lúc này đang trào lên một cảm giác sung sướng đến tột cùng, chỉ còn độ hai tháng nữa là tôi được về thăm bố mẹ thăm gia đình, thăm những người tôi yêu thương. Cao hứng, tôi châm một điếu thuốc Ruby của quân tiếp vụ, rít một hơi dài, điếu thuốc bị móp lại, tàn thuốc cháy đỏ hồng nhưng vẫn tròn trịa. Tôi nằm vật ra tấm phản, ngửa mặt lên trần nhà, nhìn làn khói thuốc đuổi nhau bay bay ra ngoài cửa sổ. Chợt tôi nghĩ đến Vân, nhớ đến giai điệu bài hát: Bèo dạt mây trôi mà khi còn đi học Vân vẫn thường hát, tôi se sẽ gõ nhịp lên tấm phản…
   Anh em đi sinh hoạt về, thấy tôi nằm ngửa trên tấm phản. Mọi người tưởng có chuyện gì, xúm đến hỏi thăm. Tôi ngồi lên, kể cho mọi người nghe nội dung làm việc của đồng chí chính trị viên với tôi. Các vấn đề khác thì tôi không nói, chỉ nói về nhiệm vụ của đợt đi công tác lần này.
   Dũng cứ chăm chú nhìn tôi với thái độ dò xét rồi nó hỏi:
    -Còn những chuyện khác thì sao?
   Tôi cười, hỏi lại nó:
    -Chuyện khác là chuyện gì?
    -Thì là chuyện uống bia chiều nay, ở cổng doanh trại ấy.
   Nó trả lời tôi, tôi biết nó cũng dính dáng đến vụ này nên tôi úp mở:
    -Chuyện này chính trị viên nói: Sẽ được bàn sau.
   Nói xong tôi nháy nháy mắt với anh em, ý nói là chảng có vấn đề gì đâu, coi như không có chuyện gì xảy ra.
   Thấy vậy, anh em ai cũng vui vẻ, nằm la liệt lên những tấm phản được kê làm giường ngủ và nghêu ngao hát, mỗi người hát mỗi bài, chẳng bài nào đến đầu đến đuôi.
(Còn nữa).


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: binhyen1960 trong 12 Tháng Chín, 2012, 10:11:39 pm

         Những địa danh Túc Trưng, Gia kiệm, Dầu Dây lúc đó Tranphu cùng đ/v cũng qua, cuộc chiến vừa diễn ra. Khói lửa còn khét lẹt. Một vài người dân còn nằm ra đường cản bước tiến của ta. Số người di cư từ Bắc vào năm 54. Tranphu còn nhớ có một ông để râu 3 chòm như các cụ già ngoài Bắc trước. Cứ nằm lăn ra đường gào lên: "Chúng tao đã nhường Bắc kỳ cho chúng mày. Đã chạy vào đây mà chúng mày vẫn không tha à?"

 Khu vực này phần lớn là dân Bắc 1954 theo đạo Thiên Chúa vào sinh sống trên dọc QL20, số dân này định cư ở đây theo kế hoạch phòng thủ của chế độ Ngô Đình Diệm cũ, họ từng bỏ miền Bắc theo Chúa vào Nam nên chẳng ưa gì người CS miền Bắc. Chính kiến chính trị thì tùy họ, không ai ép nhưng hiểu biết chính trị thì có lẽ ... giới hạn.

 Chắc ông già này chả hiểu gì về hiệp định Geneve cũng như lý do chia cắt đất nước VN trong nhiều năm và buộc phải kết thúc bằng một cuộc chiến tranh để thống nhất đất nước. Một ông già lăn ra đường để cản bước tiến của QGP chứ 1000 ông già lăn ra đó cũng không thể cản nổi quyết tâm Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Lúc đó, khỏi cần giải thích đường lối chính sách gì dáo, dù là ai mà cản bước tiến thì giải quyết sạch không cần phải nghĩ.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 23 Tháng Chín, 2012, 02:37:55 pm
 Chào anh em đọc giả, chào Binhyen! Đã mấy hôm nay Quanvn không viết, đơn giản là vì sức khỏe không cho phép, thế mới biết: Hồi còn trẻ xông pha trận mạc có biết mình sẽ đau yếu như thế này đâu, lúc đó chỉ có trách nhiệm và nhiệt huyết của tuổi trẻ. Bây giờ ngồi nghĩ lại cũng thấy hay hay…
  Về câu chuyện của anh Trần Phú và Binhyen nói, Quanvn cũng không có ý kiến khác. Vì rằng người xưa đã dậy: “ Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Quanvn hiểu là khi đã có mục đích cụ thể thì tìm mọi cách để đạt được mục đích ấy, đâu có phải vì chuyện ông già mà hỏng cả đại sự.
   Nếu có điều gì Quanvn hiểu chưa đúng mong mọi người thông cảm. Cám ơn.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 23 Tháng Chín, 2012, 02:40:04 pm

NHỮNG CUỘC HÀNH QUÂN
          Đợt công tác này nhiệm vụ rất cụ thể, nhưng nói đầy đủ thì nó dài, nên anh em tôi thường gọi tắt là: “Đi nằm vùng” hay là “Đi bình định”, gọi thế là mọi người đều hiểu và coi là ký hiệu của nhóm công tác. Nhóm này, do đồng chí trung đội trưởng phụ trách, cả thảy là 9 người, đồng chí trung đội trưởng nữa là 10 người. Nhóm chia làm ba tổ, mỗi tổ ba người. Trước khi đi, đồng chí chính trị viên tập trung chúng tôi lại căn dặn:
    -Các đồng chí là đại diện của quân đội cách mạng, xuống xâm nhập với quần chúng nhân dân vùng mới giải phóng. Vì vậy, các đồng chí phải chú ý giữ dìn, bảo vệ sự trong sáng và bản chất tốt đẹp của bộ đội cụ Hồ. Các đồng chí sẽ thực hiện ba cùng với đồng bào: Cùng ăn; Cùng ở; Cùng làm, các đồng chí chú ý lắng nghe tâm tư và nguyện vọng của người dân, gặp vấn đề gì khó giải quyết, các đồng chí  phải cùng nhau bàn bạc và xem xét mọi vấn đề một cách biện chứng, không nôn nóng chủ quan. Tuyệt đối không được dùng sức mạnh để đe dọa đồng bào. Để bảo đảm sự lãnh đạo trực tiếp của chi bộ, các đồng chí phải chấp hành chế độ báo cáo thường xuyên như đã quy định. Các đồng chí đang mang trên vai một sứ mạng lịch sử rất trọng đại là: Vận động quần chúng nhân dân đấu tranh, bảo vệ thành quả cách mạng, chống diễn biến hòa bình, đập tan âm mưu đen tối của những phần tử thù địch đang hàng ngày hàng giờ mưu toan phá hoại cách mạng. Xuất phát từ ý nghĩa và tầm quan trọng của nhiệm vụ được giao, thay mặt cho ban chỉ huy đại đội, mong các đồng chí cố gắng vượt qua mọi khó khăn hoàn thành tốt nhiệm vụ.
   Đúng 13 giờ, chúng tôi rời khỏi thành Tuy hạ, lên đường làm nhiệm vụ, đến địa bàn công tác vào khoảng 17- 18 giờ, khói lam chiều đã là là bay trên các mái nhà thấp thoáng sau những dặng phi lao.  Theo chỉ đạo của đồng chí trung đội trưởng, nhóm ba anh em chúng tôi gồm Dũng, Thành và tôi. Chúng tôi được phân công ở khu vực tiểu đoàn bộ binh K5 đóng quân.
   Theo chân anh cán bộ của địa phương, chúng tôi đến nhà của một người dân. Trên quãng đường đi, anh đã giới thiệu tóm tắt về gia cảnh của gia đình này cho chúng tôi nghe. Anh nói:
    -Gia đình bác Tài, tên bác chủ nhà, là gia đình có hoàn cảnh đặc biệt, không phải gia đình có người theo Việt cộng, nhưng thuộc loại gia đình bị chính phủ quốc gia nghi ngờ, tuy chưa bị quản thúc nhưng bị theo dõi. Nguyên do là có một người con trai đi lính cho quân lực VNCH, nhưng bị lạc đơn vị và mất tích. Chính quyền VNCH nghi ngờ là anh này đào ngũ trốn sang phía Việt cộng, nhưng không có bằng chứng cụ thể. Tất cả những nguồn tin về anh này, cho đến bây giờ cũng chưa được xác minh.
   Tôi chen ngang, hỏi anh cán bộ dẫn đường:
    -Anh cho hỏi, Gia đình nhà bác Tài người Bắc hay người Nam?
    -Người Bắc, hình như quê quán đâu ở Bùi Chu hay Phát Diệm gì đó, tôi cũng không rõ lắm. Anh trả lời tôi rồi lại nói tiếp:
    -Kể từ sau giải phóng, đây là lần đầu tiên tôi đưa các anh bộ đội đến xin ở nhờ, chẳng biết chủ nhà có đồng ý hay không, tôi cũng chưa giám chắc, nhưng mình cứ thử xem may ra thì được, nếu không được tôi sẽ đưa các anh đi nhà khác.
   Vào đến trong sân, trời đã nhá nhem tối. Con chó thấy người lạ xô ra sủa ầm ĩ. Anh cán bộ địa phương dừng lại, lên tiếng gọi bác chủ nhà:
    -Bác Tài ơi!
   Có tiếng trả lời, từ trong nhà vọng ra, giọng trầm đục:
    -Ai gọi tôi đấy?
    -Tôi đây! Tôi Phương đây mà.
    -Có chuyện gì đấy mấy ông? Ông chủ hỏi lại.
   Chúng tôi tiến gần vào nhà, con chó thể hiện sự trung thành với chủ, nó lồng lộn xông thẳng vào chúng tôi sủa gắt hơn. Nhìn con chó hung dữ, nhe răng nanh trắng ởn, chúng tôi cũng hơi chờn, nhưng vẫn cố gắng chịu đựng, chờ ông chủ nhà can thiệp. Thấy thế ông chủ, dậm hai bàn chân xuống đất rồi quát:
    -Vện! Vào nhà ngay, đánh chết đòn bây giờ.
   Được lệnh của chủ, con chó cúp đuôi đi vào trong nhà, nhưng vẫn quay lại sủa thêm mấy tiếng cho đỡ cay cú rồi khuất dạng sau hiên nhà.
   Bác Tài mời chúng tôi vào nhà, rồi ngoái cổ xuống dưới bếp gọi:
    -Chanh ơi! Châm cho thầy cái đèn mang lên đây.
   Trong nhà tối om, ông phân trần:
    -Các ông thông cảm! Đã lâu lắm rồi, chúng tôi không có điện để dùng, có bình ắc quy cũng không có điện để xạc, nên đành phải dùng nến hay đèn dầu, thôi có gì dùng nấy cho qua ngày.
   Ánh sáng vàng ệch của ngọn đèn dầu từ dưới bếp hắt lên, trong lúc tranh tối tranh sáng tôi tranh thủ quan sát bác chủ nhà, nhưng vì tối nên không nhìn rõ, chỉ đoán được bác có hình dáng nhỏ nhắn, tuổi tác khoảng độ ngoài 50 tuổi là cùng.
   Cô gái cầm chiếc đèn dầu từ dưới bếp lên trên nhà,  trời đã tối hẳn nên chỉ có một ngọn đèn dầu mà cũng làm cho căn nhà bừng sáng. Cô gái chào anh Phương và chào chúng tôi rồi lại lặng lẽ đi xuống bếp. Bác chủ nhà quan sát chúng tôi một lượt rồi quay sang hỏi anh Phương:
    -Chẳng hay có chuyện gì mà ông Phương và các ông đến tìm tôi vào buổi tối thế này?
   Anh Phương tranh thủ giới thiệu chúng tôi với bác Tài rồi đặt vấn đề luôn:
    -Đây là các anh bộ đội, được cử đến địa phương của chúng ta để công tác. Nhiệm vụ của các anh ấy là đến địa phương mình để: Lắng nghe tâm tư tình cảm và nguyện vọng của quần chúng nhân dân ở vùng mới giải phóng, trên cở sở ý kiến và nguyện vọng của nhân dân, các anh ấy sẽ về báo cáo lại với chính quyền cách mạng, từ đó chính quyền cách mạng sẽ có những điều chỉnh bổ xung về chế độ chính sách cho phù hợp với tình hình hiện nay. Từ việc trợ cấp khó khăn, đến việc phổ biến chính sách khoan hồng của chính quyền cách mạng, không để kẻ xấu lợi dụng tình hình này để chia rẽ dân tộc, chia rẽ người Bắc với người Nam và còn nhiều vấn đề khác. Để làm được việc này, các anh ấy xin được cùng ăn cùng ở và cùng làm việc với dân, để nắm bắt tình hình. Ăn uống là các anh ấy tự túc, gia đình chỉ cho các anh ở nhờ. Thay mặt cho chính quyền địa phương, nhờ bác Tài giúp các anh bộ đội.
   Nghe thấy anh Phương nói cho các anh bộ đội ở nhờ, bác chủ nhà nhảy dựng lên như đỉa phải vôi, chối đây đẩy:
    -Không được đâu ông Phương ơi! Ông đưa các ông ấy đi nhà khác, nhà tôi vừa chật chội, lại không có chỗ ở, các ông mà vào đây không biết ở vào chỗ nào. Nhà tôi lại thuộc thành phần dân di cư, nếu có bề gì thì tội của chúng tôi càng lớn. Tôi xin ông Phương và các ông tha cho tôi được nhờ.
   Chúng tôi chưa biết gia cảnh của bác Tài thế nào nên không giám có ý kiến, tất cả đều để anh Phương nói hộ. Anh Phương vẫn kiên trì thuyết phục bác Tài:
    -Bác Tài à, các anh bộ đội đây không cần thiết phải ở nhà cao cửa rộng, thậm chí các anh ấy mắc võng để ở ngoài rặng phi lao kia cũng được, biết bao nhiêu năm trời các anh ấy đã chịu đựng được, bây giờ tiếp tục ở như vậy cũng chẳng sao. Nhưng mà như thế thì không đành lòng, các anh ấy cũng như con em chúng ta, hơn nữa các anh ấy quan tâm đến địa phương mới đến địa phương chúng ta, vậy chúng ta nên tạo điều kiện bảo bọc giúp đỡ các anh ấy. Ở trang ấp này, tôi thuộc từng nhà, nhà ai rộng nhà ai chật tôi đều biết. Sở dĩ tôi đưa anh em đến cậy nhờ bác là vì: Tôi biết nhà bác có một gian nhà trống phía cuối nhà, sát với dậu Dâm bụt. Gian nhà ấy trước kia bác dùng để làm nghề thợ mộc, bây giờ không thấy bác làm nữa. Vậy bác cho anh em ở nhờ một thời gian, khi nào bác có việc thì tôi sẽ sắp xếp anh em ở chỗ khác.
   Bác Tài vẫn tỏ thái độ quyết liệt:
    -Tôi xin ông Phương, xin các ông. Mong các ông hiểu cho, đã lâu lắm rồi, từ ngày thằng con trai tôi nó đi lính quốc gia, sau đó nghe mọi người đồn thổi là nó bị mất tích, và bảo rằng nó đã trốn sang vùng giải phóng. Kể từ đó cho đến nay, gia đình chúng tôi sống trong hoang mang lo sợ, chính quyền thôn ấp không ai nói với chúng tôi điều nào, nhưng suốt ngày cho người theo dõi rình rập, chúng tôi thật sự chẳng hiểu ra làm sao. Trong khi đó, bà con trong thôn ấp, hình như có ý lảng tránh gia đình tôi, không phải họ ghét bỏ chúng tôi mà họ sợ liên lụy. Những ngày tháng buồn tủi ấy, chúng tôi sống trong cô đơn hưu quạnh thiếu thốn tình làng nghĩa xóm. Bây giờ các ông đã vào đây giải phóng, gia đình chúng tôi vừa mừng lại vừa lo không biết có công hay có tội. Nếu để các ông vào ở với gia đình ngộ xảy ra chuyện gì thì tội làm sao kể hết. Tôi xin các ông, các ông hãy thương cho.
   Hai bên cứ nói qua nói lại, câu chuyện vẫn không có hồi kết. Anh Phương cũng đã tìm đủ mọi cách thuyết phục, nhưng bác chủ nhà vẫn không đồng ý. Tôi cảm thấy tình hình này cũng không nên cố, vì cố quá lại trở thành ép buộc, nghĩ thế nên tôi đạp nhẹ vào chân anh Phương có ý là thôi không nên nói nữa. Anh Phương nhìn tôi, tôi đưa mắt ra hiệu cho anh Phương cám ơn bác Tài rồi đi chỗ khác.
   Không khí im lặng bao trùm cả gian nhà, chỉ có ngọn đèn dầu là đong đưa theo chiều gió từ phía cửa sổ thổi vào. Tôi lại ra hiệu cho anh Phương đứng lên, xin phép gia đình để đi nhà khác. Anh phương đứng lên và ba chúng tôi cũng đứng lên theo.
   Thấy chúng tôi đứng dậy chào ông chủ để ra về, thì một người phụ nữ ở trong nhà bước ra, bà dáng người nhỏ nhắn, cũng chạc tuổi ông Tài, có lẽ là vợ của Bác Tài. Bà nói:
     -Tôi nói khí không phải, nhưng thầy nó xem: Bây giờ tối rồi, nói ông Phương với mấy ông đi chỗ khác, tôi e không tiện. Hay thầy nó cứ để các ông ấy nghỉ lại nhà mình tối nay đã, rồi mai sáng các anh ấy sẽ tìm nơi khác. Thầy nó xem có được không?
   Nghe vợ nói thế, bác chủ nhà lưỡng lự đôi chút rồi quay sanh nói với anh Phương và chúng tôi:
    -Bà nhà tôi đã nói thế, ông Phương với các ông thấy thế nào?
   Anh Phương nhìn chúng tôi, có ý chờ chúng tôi quyết định. Trong hoàn cảnh này, tôi sẽ là người quyết định, còn Dũng và Thành chịu sự xếp đặt của tôi. Do có sự thay đổi ý kiến của ông bà chủ quá đột ngột, cho nên tôi không có thời gian lựa chọn nên hay không nên. Tôi chỉ nghĩ: Thôi cứ tạm thế đã mai sẽ tính sau. Tôi nói:
    -Cám ơn các bác và gia đình đã tạo điều kiện giúp đỡ.
   Rồi tôi quay sang anh Phương nói:
    -Như thế là tốt lắm rồi anh Phương ạ, thôi anh cứ về đi, mọi việc còn lại chúng tôi sẽ tự lo.
   Anh Phương chào và cám ơn vợ chồng bác Tài rồi ra về, bước ra đến ngoài hiên anh Phương còn ngoái lại nói với bác Tài:
    -Tôi còn có chút chuyện riêng muốn nói với bác, ngày mai tôi sẽ gặp lại bác.
   Anh Phương ra về, bác Tài quay sang nói với vợ:
    -U nó bảo thằng Út đưa các anh xuống gian nhà ngang thu dọn đồ để nghỉ tạm đêm nay.
   Vợ bác Tài nói với bác Tài:
    -Thằng Út nó đi đá banh chưa về! Thôi thầy nó dẫn các anh ấy xuống để xếp gọn đồ đạc đồ nghề của thầy nó, chứ thằng Út cũng chẳng biết sắp xếp, đến khi cần lại tìm rối cả lên.
   Thấy bà vợ nói có lý, bác Tài bê chiếc đèn dầu từ từ đứng dậy, rồi quay lại nói với chúng tôi:
    -Các ông mang đồ đạc đi luôn.
   Chúng tôi đi theo bác Tài, nhà bác Tài làm theo kiểu hình ống, tất cả các phòng sinh hoạt bố trí về một bên, còn một bên là hành lang đi chung chạy dài từ gian nhà khách đến tận cuối dẫy nhà. Chúng tôi đi qua gian bếp rồi dừng lại ở hai gian cuối cùng, gian này là kết thúc hành lang và được bố trí cửa mở ra phía ngoài vườn.
   Bác Tài mở cánh cửa khép hờ ra phía ngoài vườn, ngoài trời tối đen không nhìn rõ những vật dụng gì ở ngoài đó, chỉ thấy có một khoảng đất trống. Bác quay lại và nói với chúng tôi:
    -Các ông ở tạm gian nhà này, đúng ra là tôi phải để các ông nghỉ ở gian nhà khách, nhưng các ông thông cảm, vì đấy là nơi chúng tôi làm lễ sợ làm ảnh hưởng các ông.
   Tôi nói với bác Tài:
    -Thế này là tốt lắm rồi, bây giờ bác hướng dẫn để anh em chúng cháu xếp đồ nghề của bác cho gọn lại. Còn việc nữa cũng xin được nhờ bác giúp đỡ là cho anh em chúng cháu nấu nhờ bữa cơm, mọi thứ tốn kém chúng cháu xin được thanh toán sòng phẳng, vì chúng cháu đi công tác là có tiền công tác phí bác ạ.
   Bác Tài không hề đả động gì đến việc tôi vừa nói mà chỉ hướng dẫn chúng tôi xếp gọn đồ đạc, sau đó bác lặng lẽ lên trên nhà để mặc anh em chúng tôi tự xắp xếp. Tôi nói với Thành:
    -Em đi nấu cơm, bây giờ muộn rồi chẳng cần rau cỏ gì đâu, em lấy mấy con cá khô mang nướng cho nhanh, lát nữa anh em mình ăn cơm với cá khô. Bây giờ anh với Dũng thu dọn chỗ ở.
   Nhìn quanh gian nhà, chẳng biết nên xắp xếp thế nào cho hợp lý. Nhà thì không có cột, có muốn mắc võng cũng chịu, nếu cả ba ông mà mắc võng thì nhà này sập mất. Suy nghĩ một lát, tôi bảo Dũng:
    -Đêm nay anh em mình nằm dưới đất, lấy mấy tấm gỗ xẻ này lát xuống để làm phản, những tấm gỗ còn lại xếp vào xung quanh bốn bức vách bằng gỗ dán, vừa gọn nhà mà lại có tác dụng chống đạn, thế mà lại hay.
   Tôi nhìn Dũng cười, rồi nói luôn:
    -Đêm nay, Em gác trước, sau đến Thành, cuối cùng là anh.
   Dũng ngơ ngác hỏi tôi:
    -Sao lại phải gác hả anh?
   Tôi bảo với Dũng:
    -Cứ biết thế, lúc nào anh kể cho em nghe.
   Trên nhà, gia đình bác Tài đang chuẩn bị ăn cơm tối, dưới nhà ngang chúng tôi cũng dọn dẹp xong, ba anh em cũng đã rửa mặt mũi chân tay, đang ngồi chờ cơm chín.
   Dưới ánh sáng mập mờ của ngọn nến, bà chủ nhà xuất hiện trước cửa ra vào, bà nói:
    -Gia đình chúng tôi có lời mời các ông lên ăn cơm cùng với gia đình cho vui.
(Còn nữa).



   

   



Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 23 Tháng Chín, 2012, 09:52:37 pm
         Chào bác quanvietnam! Gớm mấy bữa nay cứ tưởng bác có việc gì đi xa đâu đó nên nhà cửa vắng không à! Ai dè bác bị yếu. Tranphu341 chúc mừng bác đã khỏe và lại nhanh tay phím. Chuyện bác đang kể về thời kỳ mới giải phóng làm quân quản XDCQ tại xứ Đạo này mới "bài một" mà đã thấy hấp dẫn như những trận chiến đấu xưa. Không biết cái cô gái mang đèn ra rồi lại vào buồng ngay. Liệu có lấp ở trong dòm qua khe cửa theo dõi các bác xem cái đuôi dài thế nào không  ;D ;D ;D

         Tranphu cùng nhiều anh em rất háo hức đón đọc bài viết rất hay rất hấp dẫn của bác. Chúc bác luôn khỏe, cùng có nhiều niềm vui cuộc sống!


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 27 Tháng Chín, 2012, 04:05:44 pm

NHỮNG CUỘC HÀNH QUÂN
          Quá tối, nên không biết sắc mặt bà chủ nhà thế nào, để mà  đoán xem lời mời này là mời xã giao hay mời thật. Nghe giọng nói của bà chủ thì có vẻ trịnh trọng và lại có vẻ thân mật, giống như hai bên đã quen nhau từ lâu lắm rồi, bây giờ đã là chỗ thân thiết.
   Theo phép lịch sự, tôi nói:
    -Anh em chúng cháu cám ơn hai bác và gia đình, chúc gia đình ăn ngon miệng.
   Bà chủ nhà vẫn đứng ở chỗ cũ và nói:
    -Ông nhà tôi có lời mời các ông lên uống với nhà tôi chén rượu, trước lạ sau quen, để chúng tôi hỏi thăm về tình hình quê nhà, sau hơn 20 năm xa cách, biết đâu đấy lại nên nhân nên ngãi.
   Dũng và Thành cứ ngồi im chờ tôi nói chuyện với bà chủ nhà. Tôi lúc này hơi bị phân tâm, mồm nói nhưng đầu lại nghĩ việc khác. Nghe bà chủ nhà mời rất thật thà, tôi nghĩ chắc là thật và sẽ không có chuyện gì xảy ra, song tôi vẫn nghĩ đến câu chuyện mà anh em bộ binh kể cho tôi nghe sau khi giải phóng Buôn ma Thuột.
  Họ kể: Sau khi giải phóng được mấy ngày, toàn khu vực thị xã Buôn ma Thuột không còn nghe tiếng súng nổ, không gian yên tĩnh, thanh bình, cảnh vật khác lạ, nhìn cái gì cũng thấy mới lạ và hấp dẫn, tất cả những thứ ấy đã khơi dậy sự tò mò ham hiểu biết của anh em bộ đội. Một số anh em rủ nhau đi dạo chơi để tìm hiểu và khám phá, vui chân quá họ đã tách nhau ra từ lúc nào không hay, cứ thế họ đi sâu vào mấy ấp có dân sinh sống ở vùng ven thị xã. Thế rồi bộ đội với dân gặp nhau, hỏi thăm quê quán, nhận đồng hương, chuyện trò vui như tết, hết trà đến café, rồi các loại rượu ngâm động vật, cỏ cây quý hiếm. Kết cục câu chuyện là đơn vị phải cử người đi tìm nhưng không có kết quả…Vụ ấy, bộ đội cũng bị mất tích mấy người, không biết sau này có tìm ra nguyên nhân không? Lại cũng có vụ trắng trợn đến mức, anh em vừa chào tạm biệt gia đình đi ra đến ngoài ngõ thì bị bắn trộm, chẳng biết súng từ hướng nào bắn tới. Sau những vụ phải trả giá đắt như vậy, bây giờ anh em bộ đội cũng  cảnh giác đến cao độ.
   Nghĩ đi thì như vậy, nhưng nghĩ lại thì đây lại là dịp tốt mình được làm quen với quần chúng nhân dân để làm công tác dân vận, công tác dân vận lại là nhiệm vụ trọng tâm của đợt công tác này. Nếu không tận dụng cơ hội này sẽ hiếm có những cơ hội tốt như thế lập lại. Đành rằng việc gì cũng có những mặt tích cực và mặt tiêu cực, nhưng có lẽ chuyện này có thể mình quá lo xa và sẽ không có chuyện gì xảy ra vì mình được cán bộ của địa phương dẫn vào ba mặt một lời cơ mà. Một phút đấu tranh tư tưởng, tôi đi đến quyết định là chúng tôi sẽ ăn cơm cùng gia đình, nếu có chuyện gì phát sinh thì tính sau, tùy cơ ứng biến.
    Để không làm gia đình mất tự nhiên khi làm lễ cầu chúa trước bữa ăn, tôi tìm kế hoãn binh để lên muộn, tôi nói:
    -Hai bác đã nói thế, chúng cháu làm sao từ chối được nữa. Bác cứ lên trước chúng cháu rửa mặt mũi chân tay rồi lên sau.
   Bà chủ thấy tôi nói vậy, bà vui vẻ hẳn lên:
    -Các ông lên sớm, cả nhà tôi chờ rồi cùng ăn.
   Bà chủ đi rồi, tôi nói với Thành và Dũng:
    -Anh còn mấy hộp thịt xay ở trong ba lô, em lấy mang lên để góp với gia đình, ai lại góp cá khô nướng thì xấu hổ lắm.
   Thành bảo với tôi:
    -Số thực phẩm này là tính cho cả đợt công tác đấy, anh tính sao thì tính.
   Tôi  nói với Thành:
     -Cứ yên trí, hôm nọ uống bia chưa hết tiền bán đồng hồ, lo gì chứ.
   Dũng dục tôi:
    -Anh em mình lên kẻo gia đình chờ.
   Tôi nói:
     -Cứ từ từ để họ làm phép cầu Chúa trước khi ăn rồi mình vào. Anh em nhớ mang súng đi theo. Để cho chủ nhà đỡ sợ, lúc đầu chúng ta chỉ mang bát đũa với cơm và cá nướng lên, sau đó Thành giả vờ quên để quay lại mang thịt hộp và súng lên.
   Ba anh em chúng tôi triển khai theo đúng kế hoạch đã bàn, tôi đi trước rồi đến Dũng, sau cùng là Thành. Mỗi người cầm cái bát và đôi đũa theo thói quen của bộ đội, Thành đi sau bê nồi cơm và đĩa cá khô nướng để trên nắp vung.
   Gian nhà dùng để ăn cơm, ngay sát với gian bếp, nhìn tất cả đồ dùng ở đây đều có mầu ám khói. Từ cái trạn đựng thức ăn đến cái cũi đựng bát, trông cứ đen đen nâu nâu lom la lom lem, chẳng phân biệt được cũ hay mới.
   Một chiếc bàn tròn dùng làm bàn ăn kê giữa gian nhà, ông chủ nhà đã ngồi vào bàn ăn từ lúc nào chẳng biết. Giữa bàn ăn là một ngọn nến mầu đỏ đang cháy, ánh sáng của ngọn nến bập bùng khi sáng khi tối. Trên bàn ăn, xung quanh ngọn nến đã có mấy cái bát  mấy cái đĩa đã được bầy thức ăn, nhưng vì tối nên chẳng hiểu là món gì và không ngửi thấy mùi vị gì, hay là do mùi cá khô nướng của chúng tôi nặng mùi quá đã làm át đi những mùi vị khác. Có lẽ là như vậy.
   Thấy anh em chúng tôi vào, ông cũng không đứng lên mà vẫn  ngồi yên vị trên chiếc ghế, có lẽ cái ghế và vị trí đó là để dành riêng cho ông. Ông chỉ chỗ cho tôi, cho Dũng và cho Thành, sau đó ông hướng ra gian nhà ngoài nói to:
    -U nó bảo các con vào ăn cơm!
   Có tiếng từ ngoài vọng vào, chắc là tiếng của bà chủ nhà:
    -Vâng ạ!
   Mọi người lục tục ngồi vào bàn ăn. Ông chủ nhà quan sát một lượt, thấy có vẻ đã đầy đủ có thể bắt đầu được. Ông đứng hẳn dậy, trịnh trọng ngước lên tấm ảnh của đức Chúa, lẩm bẩm đọc một bài, nội dung cụ thể thì tôi không nhớ, nhưng đại ý là: Nhờ ơn Chúa mới có được ngày hôm nay và mới được ăn bữa cơm này. Nghĩ mà thấy khó chịu, Chúa của nhà ông chứ có phải của chúng tôi đâu mà tôi phải nhờ với vả. Mặt khác rõ ràng là cơm, cá, thịt hộp là của chúng tôi chứ có phải của Chúa đâu mà ơn với huệ. Tất cả mọi sự tấm tức tôi cố kìm nén trong lòng, coi như không có chuyện gì xảy ra. Một điều nhịn là chín điều lành, và cũng chỉ là tín ngưỡng.
   Tôi giả vờ tập trung chú ý vào mâm cơm, ra vẻ không để ý đến chuyện khác ngoài mâm cơm. Cùng lúc ấy rất nhanh, mọi người trong gia đình làm phép để cầu xin Chúa điều gì đó trước khi ăn cơm.
   Vào mâm cơm, tôi lại phát hiện thêm ở ông chủ nhà một điều mới. Đó là tác phong gia trưởng, thể hiện vai trò trụ cột và có tính quyết đoán mọi vấn đề trong gia đình. Ông nói ngắn gọn nhưng rõ ràng, để cho mọi người không ai được hỏi lại hay từ chối. Ông nói:
    -Hôm nay là ngày vui, tất cả mọi người đều phải uống rượu. U nó với cái Chanh uống rượu nếp than, còn lại là uống rượu đế. Tập quán ở trong này là uống một ly xoay vòng quanh, người này uống hết, người tiếp theo mới được uống. Nhưng hôm nay tôi với các ông đều người miền Bắc nên ta uống theo kiểu miền Bắc là mỗi người một ly.
   Nói rồi, ông với chai rượu ở dưới gầm bàn lên, tay ông run run rót vào từng chén một. Cậu con trai út của ông chủ nhà thấy thế, vội đưa hai tay đỡ lấy chai rượu và nói:
    -Thầy để con rót cho.
   Ông chủ nhà gạt tay thằng út ra và nói:
    -Ly đầu tiên, thầy rót để mời khách quý, từ ly sau các ông thông cảm để cho phép cháu nó rót, vì mắt tôi cũng đã kém rồi.
   Tôi nhanh nhảu nói:
    -Bác chu đáo, làm anh em chúng cháu ngại quá, bác cứ để cháu rót cũng được.
   Ông chủ nhà không quan tâm đến câu nói của tôi. Ông nâng chén rượu lên rồi cười khà khà, ông nói:
    -Mời các ông nâng chén, uống chén rượu nhạt, ăn bát cơm muối với gia đình để nhớ về quê hương sau hai mươi mấy năm xa cách. Nào mời các ông đưa cay.
   Cả nhà nhìn ông và làm theo. Ông đặt chén rượu xuống bàn, ông lấy tay thấm thấm hai bên khóe mép rồi nói:
    -Phải đến gần chục năm rồi tôi mới được uống chén rượu mà tư tưởng thoải mái như hôm nay. Ngày nào tôi cũng uống rượu, nhưng mà uống để mà uống, uống cho nó mềm môi để quên đi đắng cay buồn tủi, cuộc đời của tôi truân chuyên lắm, có dịp tôi kể cho các ông nghe.
   Bà chủ nhà hiểu tính chồng, nên vội vàng cắt lời ông:
    -Thầy nó uống đi để các ông còn uống, chưa gì mà đã kể lể rồi, làm các ông ấy mất vui.
   Ông chủ nhà lại nâng chén rượu lên cười khà khà rồi nói:
    -Tôi quên mất, nào mời các ông đưa cay.
   Chúng tôi lại nâng chén rượu lên nhấm nháp, ông chủ nhà ngửa cổ uống nốt chỗ rượu còn lại trong ly rồi khà một hơi khoan khoái.
   Từ đầu bữa đến giờ, ruột tôi cứ nóng như lửa đốt, vì chưa có cơ hội  tạo ra lý do để mang vũ khí theo người, kế hoạch mà tôi hoạch định lúc đầu là không được nữa rồi. Tôi thực sự lo lắng nhỡ đang ăn uống thế này mà có kẻ xấu lẻn vào lấy vũ khí thì sẽ có hậu quả đáng tiếc xẩy ra, có thể còn phải đối diện với tòa án binh chứ không thể xem thường được. May quá, nhân dịp ông chủ đang vui vẻ, không còn khó tính như lúc chiều nữa, tôi nói:
    -Có việc này cháu phải xin phép hai bác nếu các bác đồng ý cháu mới giám làm, còn nếu hai bác không đồng ý thì cháu không giám.
   Ông chủ nhà xởi lởi, nói:
    -Ông cứ nói, nếu được thì làm, không được thì thôi.
   Được sự đồng ý của ông chủ nhà, tôi nói ngay:
    -Cháu xin phép, việc thứ nhất: Trong bữa liên hoan gặp mặt tối nay với gia đình, anh em chúng cháu có một món rất ngon và mới lạ, chúng cháu muốn mời các bác và gia đình ăn thử xem có ngon không? Đây là thực phẩm để trang bị cho bộ đội đi công tác. Việc thứ hai là: Anh em chúng cháu phải xin phép bác để mang vũ khí lên đây, sợ để ở nhà ngang nhỡ có điều gì xảy ra thì rất phiền phức. Bộ đội chúng cháu quy định là vũ khí bất ly thân, vậy mong bác cho phép.
   Ông chủ nhà nhìn tôi rồi nói:
    -Các ông cẩn thận quá, tưởng chuyện gì chứ chuyện ấy là được. Tôi khi còn trẻ cũng thế.
   Được sự đồng ý của ông chủ nhà, Dũng với Thành về nhà ngang mang thịt hộp và súng lên , súng để bên cạnh chỗ chúng tôi ngồi. Tôi nghĩ, thế là yên tâm rồi, bây giờ chỉ còn lo say rượu nữa thôi, chắc là mới gặp nhau nên chưa thể dốc bầu tâm sự  để mà uống say được, vả lại làm gì có rượu đề mà say. Tôi tự hứa với mình, cho dù thế nào cũng không cho phép say tối hôm nay. Tôi quay sang dục Thành và nói với Chanh:
    -Thành em mở hộp ra! Chanh em vào lấy cho anh Thành cãi đĩa!
   Hai hộp thịt xay được mở ra, đặt ngay ngắn vào hai cái đĩa. Dưới ánh sáng yếu ớt của ngọn nến, nhưng mầu của thịt xay vẫn đỏ tươi trông rất hấp dẫn. Tôi thận trọng dùng thìa xẻ từng phần rồi đưa vào bát cho mọi người, rồi nói:
    -Chẳng biết có ngon không? Nhưng mời hai bác và các em ăn thử.
   Ông chủ nhà gắp một miếng đưa lên mũi ngửi, sau đó ông đưa vào miệng nhấm nháp, lát sau ông bình luận:
    -Kiểu như giò Lụa của mình nhưng nhão hơn, ăn rất ngậy vì lẫn nhiều mỡ và có mùi thơm của hạt tiêu. Tóm lại rất ngon, U mày với các con ăn thử đi. Tôi ăn rồi, bây giờ mời các ông nâng chén.
   Chúng tôi lại cùng ông chủ nâng chén, ông lại cười khà khà và tấm tắc khen ngon. Không khí bữa cơm lúc này có vẻ vui hơn, đúng ra là mọi người có vẻ tự nhiên hơn, cả khách và chủ bắt đầu bàn luận về các món ăn ở trên mâm cơm, món nào chúng tôi cũng tấm tắc khen và hỏi xem cách nấu thế nào. Bà chủ nhà sợ con gái ngượng ngùng không giám nói, nên câu nào cũng đỡ lời cho con gái. Nhưng chỉ lúc sau, cô con gái của bà chủ cũng hết cả e thẹn sẵn sàng hướng dẫn chúng tôi cách nấu món ăn.
   Tôi cứ chờ mãi xem ông chủ nhà có hỏi xem chúng tôi quê quán ở đâu và tên tuổi là gì không? Nhưng không, ông cứ bình thản uống rượu, luôn mồm nhắc nhở chúng tôi tự nhiên đừng khách sáo. Đã mấy lần tôi định mạo muội giới thiệu anh em chúng tôi với gia đình, nhưng sợ không phải phép, ai khảo mà xưng, nên đành thôi chờ dịp sẽ giới thiệu. May quá, đúng lúc ấy. Sau khi đặt chén rượu xuống, ông nhìn anh em tôi rồi nói:
    -Tôi hỏi khí không phải, ở ngoài ấy các ông ở tỉnh nào?
   Như nắng hạn gặp mưa rào, tôi tuôn hàng tràng nào là tên tuổi quê quán của ba anh em tôi, đi bộ đội khi nào, năm nay bao nhiêu tuổi v.v.
   Ông rất chú ý lắng nghe tôi giới thiệu, nghe xong ông cũng không biểu lộ tình cảm của mình, chẳng biết ông đang nghĩ gì, nhưng tôi đoán: Có lẽ ông có vẻ buồn hơn khi nãy. Tôi vội vàng soát xét lại xem mình nói có điều gì hớ không? Hay là có những lời nói thiếu tôn trọng đến Chúa. Tôi đang nhớ lại từng hoàn cảnh của từng câu nói, nhưng vẫn chưa phát hiện ra mình lầm lỗi ở đâu.
   Ông chủ nhà buồn bã nâng chén rượu lên mời chúng tôi, ông nhấp một ngụm rồi đặt cái ly xuống. Ông chăm chú nhìn ngọn nến đang cháy, thi thoảng ngọn lửa lại nổ lép bép, ông cất giọng buồn buồn:
    -Các ông là người chiến thắng, chúng tôi là những kẻ chiến bại. Tôi nghĩ: Không bao giờ có những bữa cơm như thế này, ấy thế mà lại có. Làm gì có chuyện, kẻ bại trận lại ngồi ăn cơm uống rượu và trò chuyện với người chiến thắng. Đúng là như mơ…
(Còn nữa).



Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: nguyendoantho trong 28 Tháng Chín, 2012, 08:48:14 am
Phải công nhân là Quân Việt nam có nhiều kinh nghiêm trong cả chiến đấu và dân vận.Và bạn cũng có tài văn chương nữa chứ ,tôi đọc mà như tiểu thuyết vậy.Tiếc là từ khi lôi sông Bến Hải vào Quảng Trị cho đến khi bị thượng rồi lội sông Bến hải ra Bắc tôi không gặp một người dân nào kể cả du kích ta.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 01 Tháng Mười, 2012, 10:59:31 am
  Cám ơn nguyendoantho và các bạn đọc giả. Một lần nữa cám ơn Nguyendoantho đã khen quanvn hơi quá, quanvn chỉ sờ đầu gối nói chân thật, chứ làm gì có kinh nghiệm gì đâu. Chúc Nguyendoantho và các bạn có nhiều sức khỏe để không bị ốm đau hành hạ, trong thời buổi thóc cao gạo kém mọi thứ đều tăng giá, kể cả giá viện phí và thuốc chữa bệnh.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 01 Tháng Mười, 2012, 11:01:12 am

NHỮNG CUỘC HÀNH QUÂN
          Nghe ông chủ nhà ta thán. Tôi thật sự bí, chưa biết giải thích thế  nào để mọi người trong gia đình hiểu được mà  không phật ý. Bí quá, tôi đánh trống lảng, quay sang bắt chuyện với bà chủ nhà, tôi nói:
    -Nhìn bác, cháu nhớ mẹ cháu lắm. Mẹ cháu cũng ở độ tuổi như bác, nhưng mẹ cháu vất vả quanh năm nên người trông ốm yếu, khi cháu còn ở nhà mẹ cháu vẫn đau yếu luôn, đã lâu lắm rồi cháu không có tin tức gì về gia đình, nên chẳng biết sức khỏe của mẹ cháu bây giờ thế nào?
   Ông chủ nhà, thấy tôi nói chuyện với bà chủ nên không nói thêm gì nữa mà chú ý lắng nghe xem chúng tôi nói chuyện gì. Trong lúc tôi nói chuyện, bà chủ nhà vẫn im lặng chưa nói gì. Bà lặng lẽ gắp bỏ vào bát tôi món rau trộn với tai heo, sở dĩ tôi biết được tên của món này là vì em Chanh giới thiệu với chúng tôi là món này mua ở quán nhậu. Ban nãy tôi đã ăn thử món này nhưng chưa phát hiện được chất liệu của nó, nhận xét ban đầu của tôi là nó có kiểu như rau cần trộn với dấm, lẫn tai lợn, có cả rau răm và lạc rang giã dập, rau trộn mầu trắng, hình như được muối chua hay là trộn dấm, rau có mùi như đoạn gốc của cây bèo tây ở ngoài Bắc. Bà chủ giục tôi ăn đi, rồi nhìn chồng như để xin ý kiến trước khi nói, sau đó bà nhìn tôi và nói:
    -Giải phóng đã được hơn tháng rồi mà các ông vẫn chưa nhận được tin tức gì của gia đình à? Chắc ông bà ở ngoài ấy giờ này sốt ruột lắm, các ông mau chóng báo tin để cho ông bà đỡ mong.
   Bà nói đến đấy, giọng như nghẹn lại, hai hàng nước mắt lăn dài trên gò má, bà mếu máo nói trong nước mắt:
    -Tội nghiệp cho thằng hai nhà tôi. Không biết nó còn sống hay chết? Nếu nó còn sống không biết giờ này nó ở đâu? Có biết lối tìm về với thầy u không? Nếu nó chết rồi, không biết nó chết ở đâu? Chúng tôi cũng muốn tìm thấy mộ của nó, rồi đưa nó về sống gần với thầy u và gia đình. Chiến tranh tàn ác quá.
   Bà nghẹn lại không nói được nữa, quay mặt đi, lấy vạt áo lau những dòng nước mắt đầm đìa trên khuôn mặt khắc khổ.
   Một lần nữa,tôi lại rơi vào thế bí, không biết nói thế nào đành ngồi im. Ông chủ nhà thấy bà vợ khóc, ông nói:
    -Bà lại khóc rồi, cứ nhắc đến nó là bà lại khóc, bà khóc có làm cho nó sống dậy về với bà được không?
   Tôi có cảm giác ông chủ nhà nói câu này nhiều lắm rồi, đến nỗi ông đã thuộc lòng từng câu từng chữ kể cả ngữ điệu nữa chứ, nói xong sắc mặt ông không hề xúc động khi thấy vợ khóc và cũng không một lời động viên an ủi vợ. Tôi nghĩ nỗi đau này, đối với ông, người làm bố, nó đã xâm nhập vào từng tế bào trong cơ thể héo gầy của ông và ông cũng không còn nước mắt để chảy ra ngoài nữa mà tất cả đang chảy vào trong. Chiến tranh đã làm cho hàng triệu gia đình, của cả hai bên phải gánh chịu biết bao nhiêu đau khổ, nỗi đau này biết bao giờ mới nguôi ngoai.
   Không khí bữa ăn tự nhiên trầm lắng u uất, tôi nghĩ nếu tình trạng này kéo dài, hoàn toàn không có lợi cho công tác dân vận của chúng tôi, cần tìm cách thoát ra càng sớm càng tốt. Tôi nâng ly rượu lên rồi nói:
    -Chuyện chiến tranh kể bao giờ cho hết, mà chỉ toàn là chuyện buồn thôi. Bây giờ chiến tranh cũng đã qua đi rồi, hãy cố gắng quên đi những nỗi đau để mà sống cho hiện tại. Thôi ! Bác cho phép anh em chúng cháu uống cạn với bác ly này để chúc sức khỏe bác.
   Ông chủ nhà giường như hiểu được sự gượng gạo của tôi, nhưng chắc là quá nể nên không nỡ từ chối, ông cũng nâng ly rượu lên nhấp nhấp rồi để xuống, rồi theo thói quen ông lại lấy tay vuốt hai bên mép như sợ có những giọt rượu còn đọng lại.
    Ba anh em chúng tôi uống hết. Thằng út được phân công của bố lúc đầu, thấy ba anh em tôi uống hết nó lại tiếp tục rót.
   Để làm giảm đi không khí nặng nề, tôi nói với Dũng và Thành:
    -Các em mời Chanh với chú út uống một ly.
   Như hiểu được ý tôi, Dũng và Thành xin phép ông bà chủ nhà để uống với Chanh và chú út. Nhưng Chanh từ chối ngay:
    -Xin phép các anh em không biết uống rượu, với lại lát nữa em còn phải đi sinh hoạt thanh niên.
   Chú út thấy chị nói thế cũng vội vàng chối ngay:
    -Em cũng thế.
   Dũng nháy mắt với Thành, Thành cố gắng nài nỷ:
    -Hai chị em đừng làm các anh bị ế, nếu không uống nhiều thì uống một ít cho bọn anh vui. Mấy bữa nữa anh cũng xin phép để đi sinh hoạt với đoàn thanh niên ở đây, hai em giới thiệu các anh với các anh chị cán bộ đoàn ở ấp này với nhé. Thật đấy!
   Hai chị em, cái Chanh với thằng út nhìn nhau cười được thoát nạn, không phải uống rượu.
   Tôi biết Dũng và Thành cố gắng ép Chanh và thằng út uống rượu cho vui, nhưng chắc chắn là không được, thế cũng chẳng sao. Nhưng cái được ở đây là làm cho không khí bữa cơm ít nhiều cũng ấm lên.
   Ông chủ nhà theo thói quen như mọi khi, ông nâng chén rượu lên tợp một ngụm, rồi chợt nhớ ra có chúng tôi là khách, ông vội mời chúng tôi, để ông không phải nghĩ ngợi, chúng tôi cũng nâng ly lên cùng ông uống vui vẻ.
   Vẫn kiểu ngồi ấy, vẫn vẻ mặt ấy, ông chủ nhà không nhìn ai, ông tập trung nhìn vào ngọn nến đang cháy, nhựa nến cháy không hết, chảy xuống chiếc đĩa đựng nến tạo ra những hình thù kỳ quặc, màu đỏ như máu, nhìn vào đấy ai muốn tưởng tượng ra đó là hình người hình thú vật hay là một hình gì đó đều được. Ông chủ nhà, chăm chú nhìn không chớp mắt vào chiếc đĩa đựng nến rồi chậm dãi nói, như nói cho chính mình nghe:
    -Đất nước này, rồi sẽ có những cuộc thanh trừng đẫm máu, chiến tranh là như vậy mà, âu cũng là lẽ thường tình.
   Chúng tôi cứ ngồi im để nghe ông chủ nhà nói tiếp, gian nhà để làm phòng ăn im phăng phắc, chỉ nghe thấy tiếng nổ lép bép của ngọn nến và những tàn lửa đỏ rực bay xuống mâm.
   Lúc này, tôi tập trung quan sát xem biểu lộ tình cảm của ông chủ bà chủ và các em thế nào? Ông chủ vẫn ngồi ở tư thế bất động, mắt chăm chú nhìn vào ngọn nến đang nhảy múa lung linh trước những làn gió nhè nhẹ. Ông không nói thêm câu nào, có lẽ ông đang nghĩ về một cuộc trả thù của những người chiến thắng đối với những kẻ chiến bại. Bà vợ và hai đứa con ông đang chăm chú nhìn ông, thi thoảng đưa mắt nhìn sang anh em chúng tôi như có ý dò xét.
   Tôi nghĩ, không thể im lặng thêm được nữa rồi, tôi phải nói, phải giải thích cho ông chủ và gia đình tránh những hiểu nhầm đáng tiếc. Trước khi giải thích, tôi thấy cần phải biết rõ những suy nghĩ của ông chủ được xuất phát từ đâu? Tự ông nghĩ ra hay là nghe ai nói hoặc là có người nào đó xúi dục?
 Không khí vẫn im lặng, mỗi người đang theo đuổi những suy nghĩ riêng của mình. Tôi quyết định phá tan bầu không khí nặng nề này, tôi nói:
    -Cháu xin lỗi bác! Bác cho cháu được hỏi: Những điều mà bác nói với chúng cháu khi nãy là bác tự suy luận hay là có ai nói với bác?
   Ông chủ nhà vẫn chăm chú nhìn vào ngọn nến đang cháy, ông cầm chiếc tăm đang ngậm ở miệng chọc vào chỗ nhựa nến chảy ra đọng thành vũng ở tim nến. Nhựa nến trào ra chỗ ông vừa mới khơi thông, nhựa nến chảy đến đâu đông lại đến đấy tạo ra những hình thù mới. Chiếc tăm đã bị ngọn nến đốt cháy, ông lẳng lặng vứt nó xuống nền nhà và ông cũng chẳng thèm nhìn xem nó còn cháy hay nó đã tắt. Ông lấy chiếc tăm khác tiếp tục ngậm vào miệng rồi nói:
    -Nghe nói cũng có, tự suy luận cũng có, tóm lại là đủ kiểu thì thào bàn tán. Nơi bàn tán nhiều nhất là khu vực dân di cư từ Bắc vào năm năm tư, cứ đôi ba người gặp nhau lại xì xào bàn tán. Mà tôi nghĩ việc ấy cũng là nhẽ thường tình thôi, ở đời này có vay có trả, vay gì thì trả nấy. Đôi khi tôi nghĩ, thôi nghĩ ngợi làm gì cho nó mệt đầu, chuyện gì đến ắt sẽ đến, nhưng khi nhìn thấy vợ thấy con, thì không nghĩ cũng phải nghĩ.
   Tôi nhìn ông chủ nhà, thấy ông không có ý định nói thêm gì nữa, tôi mới nói:
    -Bây giờ, cháu xin phép hai bác và các em, cháu nói thế này: Đây là nhiệm vụ của anh em chúng cháu, chúng cháu có nhiệm vụ xuống các địa phương vùng mới giải phóng( tôi nói tránh đi, thực ra là xuống các vùng có dân di cư từ ngoài Bắc vào) để thực hiện ba cùng: Cùng ăn; Cùng ở; Cùng làm với đồng bào. Mục đích của chúng cháu là: Giải thích cho đồng bào về chế độ và chính sách ưu việt của Mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam, sau khi đã giải phóng Miền nam và thống nhất đất nước.
   Các bác và các em, hoàn toàn có thể tin tưởng vào những lời cháu nói. Trong cuộc chiến tranh vừa qua, không có kẻ thua người thắng. Mà chỉ có chế độ cũ được thay thế bằng một chế độ mới tươi đẹp hơn, đảm bảo một chế độ dân chủ công bằng văn minh dân giầu nước mạnh, không còn địa chủ cường hào ác bá như trước kia, không còn cảnh người bóc lột người, bây giờ mọi người đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau để cùng nhau xây dựng đất nước tươi đẹp. Mọi người phải biết đoàn kết lại để chống thù trong giặc ngoài, vạch mặt bọn phản động nấp sau danh nghĩa của các tổ chức tôn giáo hay những tổ chức khác để chống phá cách mạng.
   Cháu cũng xin khẳng định để bác và mọi người yên tâm là: Sẽ không có một cuộc thanh trừng nào cả, sẽ không có chuyện đầu rơi máu chảy sau chiến tranh như một số người tưởng tượng. Sau chiến tranh, nhiệm vụ trọng đại của đất nước là: Xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Để làm được việc ấy, tất cả mọi người dân Việt Nam phải đồng lòng nhất trí, muôn người như một. Muốn thế, mọi người cần phải học tập để nâng cao trình độ. Những người trước kia vì hoàn cảnh bắt buộc phải theo chế độ cũ, nay đất nước đã giải phóng tự nguyện đến trình diện để đi học tập cải tạo, mục đích của việc học tập cải tạo là khép lại quá  khứ và hướng về tương lai để cùng nhau xây dựng cuộc sống ấm no và hạnh phúc, dân có giầu thì Nước mới mạnh.
   Còn những đối tượng như địa chủ, ác ôn, những đối tượng có nợ máu với đồng bào, thì cũng do đồng bào phán xử, tùy theo lỗi nặng nhẹ để kết luận đúng người đúng tội theo qui định của Luật pháp nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
   Sơ bộ, cháu tạm nói với bác và gia đình như vậy, cháu sẽ nói lại với các ông cán bộ của địa phương để giải thích cho tất cả mọi người hiểu rõ. Cũng còn có nhiều vấn đề cháu chưa nói hết, dần rà có thời gian cháu sẽ giải thích để bác nghe. Những gì cháu chưa đủ trình độ để giải thích, cháu sẽ báo cáo với cấp trên để cấp trên cử người có đủ trình độ về để giải thích với đồng bào. Chúng cháu sẽ cố gắng hết sức, chỉ mong sao đồng bào hiểu và ủng hộ chính quyền cách mạng.
    Sau những điều tôi nói, thời gian như ngừng trôi, không gian như bị nén lại, mọi người cảm thấy ngột ngạt, ngồi bất động không ai nói gì, sự nghi ngờ thể hiện rõ trên nét mặt của mọi người. Bà chủ nhà có vẻ ngơ ngác, hết nhìn chồng rồi lại nhìn anh em chúng tôi. Ông chủ tựa lưng vào ghế, thay đổi tư thế ngồi, hai tay đặt trên bàn, các ngón tay mổ cộc cộc không theo giai điệu gì, mặt ông lúc này như đanh lại, ông nói:
    -Những điều ông nói, nếu đúng là sự thật thì tôi chưa thể tưởng tượng được. Nếu được như vậy, ơn Chúa ban phước lành cho chúng con. Nhưng cũng nói thực với các ông tôi là tôi cũng chưa tin lắm, làm gì có chuyện hận thù kéo dài mấy chục năm mà lại bỏ qua dễ dàng vậy?
   Tôi thoáng nghĩ, chắc tôi không có khả năng và trình độ để thuyết phục ông chủ nhà, hơn nữa vấn đề này cần phải có thời gian và thực tế mới đủ sức thuyết phục. Nghĩ thế, tôi nói với ông:
    -Tin hay không tin là quyền của các bác và gia đình, chúng cháu không thể nào ép bác và gia đình phải tin chúng cháu. Nhưng bác hãy chờ xem thực tế sẽ khẳng định những điều cháu nói là đúng.
   Ông chủ nhà mắt nhắm nghiền, vẫn tiếp tục gõ tay xuống bàn. Đột nhiên ông mở mắt nhìn tôi trừng trừng, rồi ông hỏi:
    -Những điều mà ông nói ban nãy là cho những người dân bản địa, còn những người như chúng tôi, dân di cư năm năm tư thì sao?
(Còn nữa).
   
 


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: huonghn76 trong 01 Tháng Mười, 2012, 11:36:21 am
        Bác quanvietnam !Viết dài nhưng mạch lạc , hay quá . Đúng là người lính quân đội nhân dân Việt Nam làm gì cũng giỏi , chiến đấu tốt ,dân vận cũng rất tài .
       Đàn em ngưỡng mộ và xin học tập bác .


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 04 Tháng Mười, 2012, 02:46:04 pm
   Chào Huonghn76, chào tất cả các đọc giả. Quanvn xin chân thành cám ơn các  đọc giả đã đọc bài của Quanvn. Huonghn76 đừng nói đến học tập tôi mà làm tôi tổn thọ. Chào tất cả và hẹn gặp lại.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 04 Tháng Mười, 2012, 02:47:12 pm

NHỮNG CUỘC HÀNH QUÂN
          Con Vện đang quanh quẩn xung quanh bàn ăn, tự nhiên chạy xô ra ngoài cửa, sủa ầm ỹ. Ngoài trời tối đen. Trong nhà, mọi người tập trung lắng nghe xem có chuyện gì xảy ra ở ngoài ngõ mà con Vện sủa dữ như vậy. Một hai phút đã trôi qua, vẫn chưa hiểu có chuyện gì xảy ra, trong khi đó con Vện vẫn giữ thái độ căng thẳng, tiếng sủa của nó có phần gắt hơn. Ông chủ nhà sốt ruột, bảo thằng út:
    -Út! Con ra xem có chuyện gì vậy.
   Thằng Út đứng dậy đi ra ngoài, Dũng và Thành nhìn tôi, tôi nhìn lại hai đứa, chúng tôi đã hiểu ý nhau và nhìn vào những khẩu súng AK báng gấp để bên cạnh. Tiếng bước chân nện ình ịch của thằng Út xa dần, cũng là lúc con Vện không sủa nữa. Mọi người đang chờ đợi thằng Út quay vào. Lát sau, con Vện hớn hở chạy vào trước, thằng Út đi sau, vào đến cửa, thằng Út đã bô bô:
    -Không có ai đâu Thầy ạ! Mấy người bạn của chị Chanh rủ chị đi sinh hoạt, nhưng vì thấy nhà ta có mấy chú bộ đội nên không giám vào, đứng ở ngoài ngõ nói chuyện.
   Ông chủ nhà, gật gật cái đầu rồi quay sang nói với mọi người:
    -Đến giờ các em nó đi sinh hoạt rồi, hình như mọi người chưa ai ăn được miếng nào, toàn ngồi nói chuyện. Thôi! Bây giờ thế này, cái Chanh với thằng Út ăn nhanh lên còn đi sinh hoạt, bát đũa lát nữa để u mày rửa cho, còn tôi với các ông cứ tiếp tục uống rượu, xong rồi ăn cơm.
    Mọi người trong mâm tập trung vào ăn cơm, Dũng thì xin phép không uống rượu nữa vì đã đến giờ lên máy làm việc với sở chỉ huy để báo cáo tình hình, kỳ thực là nó cũng đã đến phiên gác rồi, Thành thì xin phép được vừa ăn vừa uống vì bị say, chỉ còn tôi với ông chủ nhà là chưa ăn cơm, tôi thì chẳng thích thú gì uống rượu kiểu này, chỉ muốn kết thúc nhanh để ăn cơm. Nhưng khổ nỗi, vẫn phải ngồi uống với ông chủ cho phải đạo.
   Chờ mãi vẫn chưa thấy tôi đả động gì về câu hỏi mà ông hỏi tôi khi nãy. Ông chủ nhà, chủ động thúc dục:
    -Ông vẫn chưa giải thích cho tôi về trường hợp những người dân di cư từ Bắc vào Nam năm năm tư?
   Đây là một câu hỏi khó, từ nãy đến giờ tôi đấu tranh tư tưởng, trả lời thế nào để thể hiện lên bản chất ưu việt của chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, đồng thời lại phải phát huy được sức mạnh đoàn kết dân tộc của Mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam Việt nam. Nói như thế nào? Dùng từ ngữ kiểu gì? Để ông, bà chủ không những không mếch lòng mà còn dễ hiểu, bởi vì tôi đoán là cả ông chủ và bà chủ đã ở vào tuổi này thì ít được học hành.
   Suy đi tính lại, kiểu gì cũng rất khó nói đối với tôi, bởi vì nói như những người ở Miền Bắc khi đó, thì tất cả những người Miền Bắc di cư vào Nam thời điểm ấy, trừ những người do cách mạng yêu cầu, còn lại đều là những người có vấn đề với Tổ quốc, có những người có lý do là Chúa của họ đi đâu thì họ theo theo đi đấy, còn lại những người không có Chúa sao vẫn đi, có phải là họ bất mãn với chế độ ở Miền Bắc không??? Có rất nhiều nghi vấn sau cuộc di cư ấy. Lớn lên tôi được nghe kể lại và đến khi tôi đã nhận thức được, thì tôi càng hiểu hơn: Từ sau năm năm tư trở đi, tất cả những gia đình có người di cư vào Nam đều được chính quyền địa phương xem xét cẩn thận, khi tham gia bất cứ một việc gì trong xã hội. Đấy, thực chất câu trả lời nó sẽ xoay quanh những điều tôi vừa nói, nhưng hoàn cảnh này tôi không thể nói thật thà như vậy được, nó có vẻ trần trụi quá…
   Đã mấy lần tôi định trả lời, nhưng tôi chưa biết bắt đầu như thế nào. Tôi biết, tôi không có đường lùi, mà chắc chắn phải tiến. Nhưng khổ nỗi, trình độ kiến thức và hiểu biết về chính trị của tôi quá non kém, vì vậy tôi sẽ cố gắng tìm câu trả lời an toàn nhất, để không làm ảnh hưởng đến chính sách cụ thể của chính quyền cách mạng đối với những trường hợp cụ thể, mà ông chủ nhà đang đề nghị tôi trả lời. Đồng thời những câu trả lời của tôi cũng không làm cho những người như ông bà chủ nhà, phải lo lắng về số phận của mình khi đối diện với chính quyền cách mạng, trong những ngày sắp tới.
   Sau nhiều lần lấy đà, lần này tôi quyết định xuất phát, tôi nói:
    -Các bác đã hỏi: Một lần nữa, cháu xin khẳng định lại với hai bác là: Sẽ không có bất cứ một cuộc thanh trừng nào cả. Không có chuyện đầu rơi máu chảy sau chiến tranh nữa đâu. Không có chuyện trả thù dân tộc giữa người Miền Bắc với người Miền Nam, giữa những người theo đạo thiên Chúa với những người không theo đạo thiên Chúa, giữa những người theo chính quyền VNCH, kể cả dân bản địa và những người di cư từ Bắc vào Nam năm năm tư, với những người của chính quyền cách mạng. Bây giờ, tất cả đều dân của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Vì vậy, tất cả những người có công và những kẻ có tội đều được xem xét công trạng và xét xử theo Luật pháp của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, không phân biệt những người ấy ở trong Nam hay ngoài Bắc, người theo tôn giáo và không theo tôn giáo, là người dân tộc hay người kinh v.v. Về nguyên tắc chung là như vậy, nhưng cũng có những trường hợp đặc biệt, tùy theo tùng vùng từng nơi, từng đối tượng sẽ có giải quyết cụ thể.
   Vừa nói tôi vừa theo dõi sắc mặt của mọi người xem thay đổi thế nào. Tôi có cảm giác là họ muốn nói cụ thể vào trường hợp gia đình họ, nghĩ thế nên tôi tiếp tục giải thích thêm:
    -Nói như vậy, các bác lại băn khoăn không biết Luật pháp nói thế nào? Về vấn đề này các bác tạm hiểu là: Luật pháp của chúng ta xem xét về người có công và kẻ có tội rất là công bằng, những người có công thì được tuyên dương khen thưởng. Những người có tội thì tùy theo mức độ nặng nhẹ để xét xử, nhưng nhìn chung chế độ của chúng ta là chế độ: Dân chủ; Cộng hòa rất ưu việt nên các tội trạng sẽ được độ lượng khoan hồng, tuyên truyền giáo dục và tổ chức cho những người ấy đi học tập cải tạo. Những tên ác ôn có nợ máu với đồng bào thì được mở những phiên tòa án xét xử công khai, để đồng bào tham gia luận tội cho công bằng. Nếu như vẫn còn những kẻ ngoan cố không trình diện khai báo, cố tình lẩn trốn để chống phá cách mạng thì sẽ bị nghiêm trị.
   Trường hợp bác hỏi về những người dân di cư từ Bắc vào Nam năm năm tư là như vậy. Tuy nhiên, để cho người dân không bị oan uổng, chính quyền cách mạng sẽ có trách nhiệm điều tra hồ sơ lý lịch của từng người, từ thời gian còn ở ngoài Miền Bắc đến khi di cư vào Miền Nam và cho tới tận bây giờ. Tất cả những thứ ấy, đều được xem xét trong quá trình học tập và cải tạo của từng người v.v.
   Hoàn cảnh cụ thể của gia đình bác thế nào, cháu không biết, nên cháu không giám nói. Bác thông cảm cho cháu.
   Chanh với thằng Út đứng lên xin phép đi sinh hoạt, Thành cũng xin phép ra giúp Dũng làm việc. Trong mâm chỉ còn lại có ba người, ông chủ với bà chủ và tôi. Ông chủ nhà có vẻ không quan tâm đến chuyện trong mâm cơm còn lại những ai, có lẽ ông chỉ cần tôi ở lại để tiếp tục trả lời những câu ông hỏi. Ông gật gù, rồi nói một điều gì đó không thành tiếng, mấy chữ cuối cùng mới bật ra thành câu hoàn chỉnh:
    -Thế là đã rõ.
   Ông chủ nhà dừng lại đột ngột và không nói gì thêm, làm tôi không hiểu ông nói là đã rõ cái gì? Tôi áy náy định hỏi lại thì may quá ông lại tiếp tục:
    -Tôi và rất nhiều người ở ấp này đã đi trình diện và khai báo. Có nhiều người đã được gọi đi tập trung, nghe nói là đi học tập chính trị gì đó, chẳng rõ là đi học tận đâu, sau đấy thì thấy có người trở về, cũng có những người chưa thấy về. Trong khi đó tôi thì không thấy chính quyền đả động gì, vì thế tôi sống trong tâm trạng bồn chồn lo lắng. Ban nãy ông nói với tôi là chính quyền phải điều tra lý lịch cả quá trình từ khi ở ngoài Bắc, đến khi vào trong này và đến lúc giải phóng. Như vậy là tôi rõ rồi.
   Ông chủ nhà, ngồi thừ mặt ra nhìn ngọn nến cháy bập bùng, ánh sáng của ngọn nến không đủ sáng để soi rõ khuôn mặt khắc khổ của ông. Nhưng tôi biết ông rất buồn, người ông như muốn sửu xuống, ông buồn bã nói với tôi:
    -Hai vợ chồng chúng tôi khổ lắm, tôi muốn kể cho ông nghe nhưng tôi cũng không thể nhớ hết để mà kể được. Chỉ giận mình thôi! Không biết chúng tôi ăn ở thế nào làm Chúa không hài lòng, để rồi cuộc sống của hai vợ chồng tôi thăng trầm phiêu bạt, khổ đến như vậy, mấy đứa con cũng chịu khổ lây. Mỗi lần nhớ lại, không kìm được nước mắt.
   Bằng giọng buồn buồn ấy, ông chủ nhà kể cho tôi nghe về quá khứ của ông và gia đình, có những đoạn ông kể còn thiếu, bà chủ lại ngắt lời ông và bổ xung vào. Nhiều những đoạn cảm động quá, bà chủ không cầm được nước mắt, bà khóc. Những giọt nước mắt của bà cũng làm cho tôi xúc động, tuy tôi không khóc nhưng có lẽ mắt tôi cũng đỏ hoe, cũng có lúc ngấn lệ.
   Thời gian cứ chậm chạp trôi đi, hai vợ chồng ông bà chủ nhà đang đắm mình vào quá khứ. Ông bà chủ kể cho tôi nghe nhiều lắm, không thể nhớ hết được, nhưng tựu chung lại là gian khổ và vất vả.
   …Vợ chồng ông, cả hai người đều quê ở Đồng Đắc Quy Hậu của huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình. Ông kém bà hai tuổi, nhưng vì ông bà rất yêu nhau nên quyết tâm lấy nhau, mặc dù bố mẹ can ngăn nhưng hai người vẫn quyết lấy nhau. Đến khi có đứa con trai đầu lòng, hoàn cảnh kinh tế đã khó khăn lại càng khó khăn hơn. Ông không phải con cả trong gia đình, nên việc đèn nến thờ tự là do ông anh trai của ông lo, hai vợ chồng ông chỉ lo làm ăn mà cũng không đủ ăn. Thấy thế, ông bác họ của ông từ thành phố về nói với bố ông là cho ông ra ngoài Hải Phòng ở với ông ấy làm người giúp việc.
   Từ đó ông xa nhà đi làm ăn, hàng tháng gửi tiền về cho bố mẹ và vợ con, nhưng vì nhớ vợ nhớ con, ông xin với ông bác được mang vợ và con ra Hải Phòng. Theo ông nói, gia đình ông bác của ông là gia đình giầu có, nhà cao cửa rộng ở phố Cầu Đất, của cải vàng bạc của ông bác có bao nhiêu thì không biết, nhưng trong nhà có những 10 chiếc Taxi và 30 chiếc xichlo cho thuê. Tất cả công việc trong nhà đều có kẻ hầu người hạ, có vú nuôi, có người nấu ăn v.v. Vợ chồng ông chỉ làm tạp vụ, quét dọn nhà cửa sân xướng, thu dọn hố xí hố tiểu.
   Thế rồi cuộc di cư xẩy ra, cả nhà ông bác đã chuẩn bị  sẵn sàng để lên tầu há mồm đi theo Chúa. Ông bác bảo với ông là đi hay ở thì tùy ông, nhưng lúc ấy ông biết đi đâu, đi với bác đã có bác che trở thì còn lo gì, thế là vợ chồng ông quyết định đi theo bác.
   Có ngờ đâu tất cả đều ở trên tầu há mồm thế mà lạc nhau, phần vì quá say sóng chỉ còn biết nôn ọe ra cả ật xanh mật vàng, nằm phủ phục một chỗ, phần thì thân phận mình thấp hèn quần áo rách dưới không được ở gần gia đình ông bác. Đến khi tầu cập bến, chẳng còn biết bác ở đâu mà tìm, tất cả đều xa lạ, người thì đông như kiến cỏ. Thất vọng quá vợ chồng chỉ còn biết nhìn nhau mà khóc. Trên đất khách quê người chẳng biết trông cậy vào ai, vợ chồng con cái dìu nhau đi cùng với mấy người quê ở Bùi Chu Nam Định.
    Tôi chăm chú nghe câu chuyện của hai ông bà kể, thì tất cả những tình tiết mà ông bà chủ nhà kể cho tôi nghe, tôi thấy lý lịch thân nhân của hai ông bà chưa có vấn đề gì lớn. Chỉ những đoạn sau này là có vấn đề cần có tìm hiểu sâu hơn. Đó là đoạn ông kể:
    -Vào trong đấy ở được một thời gian, anh em cùng đi, đùm bọc lấy nhau, rồi cũng có chút ít của quyên góp ủng hộ của chính phủ. Chúng tôi sống qua ngày, khi ấy vợ tôi có mang cái Chanh bây giờ, thời gian sau thì tôi đi lính cho Pháp, kể từ khi tôi đi lính, cuộc sống của gia đình no đủ không còn phải lo lắng gì nữa, được mấy năm tôi bị điều đi các vùng chiến thuật với lý do khả năng điều hành kém và trình độ thấp. Đấy là họ nói vậy, thực chất là sau đảo chính Ngô Đình Diệm, những người làm việc cho người Pháp dần dần được thay thế hoặc là đẩy đi những vùng khó khăn.
   Từ đấy tôi bất mãn và viện lý do ốm đau rồi về và họ cũng muốn thế, từ khi tôi về cho đến nay tôi không đi đâu và không làm gì cho chính phủ, chỉ ở nhà giúp vợ con làm ruộng.
   Ông dừng lại, thở dài đến não ruột, rồi ông lại tiếp tục:
    -Tôi thì vậy, còn thằng con trai đầu của tôi tên nó là Cam, cũng chẳng ra gì, học hành không đến nơi đến chốn, đúng 18 tuổi được đưa vào quân lực VNCH, sau đó đưa nó ra tận Đakto Tân cảnh gì đó. Sau nghe đồn nó đảo ngũ, cũng có người nói là nó trốn sang phía cách mạng, cũng có tin là nó đã chết rồi. Cho đến tận bây giờ gia đình tôi cũng chẳng có tin tức gì về nó.
   Ông đang định nói tiếp, thì ngoài ngõ có tiếng người nói lao xao, Con Vện thấy có người quen nên không sủa, mà ve vẩy cái đuôi chạy ra đón chủ. Ông bà chủ không nói thêm gì, chăm chú nhìn ra phía cửa ra vào. Còn tôi vẫn ngồi im lặng và nghĩ: Sao mà khó thế, mới có một gia đình mà đã cảm thấy mệt mỏi, những ngày tiếp theo thì sao đây?
(Còn nữa)
   
   



Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 05 Tháng Mười, 2012, 09:25:14 am
         Chào bác quanvietnam! Tranphu341 chúc mừng bác đã viết rất đều tay như vậy là bác đang khỏe. Đúng là anh em mình giờ đây thấy ai vắng lâu trên diễn đàn là cứ nghĩ đến sức khỏe.

        Chuyện bác kể về thời kỳ đầu xâm nhập quần chúng nhân dân làm quân quản thật hay và thật hấp dẫn. Đúng là khi đi làm nhiệm vụ các cấp lãnh đạo thường là cấm chúng ta không được nhậu không được ăn uống cùng dân nhất là rượu bia vv.. Nhưng cũng thật khó khi ta không cùng ngồi mâm, hoặc cùng nhậu với họ thì không thể gần họ được. Tranphu cũng đã có nhiều lần như vậy.

        Bác quanvietnam càng viết càng hay càng hấp dẫn. Tiếp tục đi bác nhé. Tranphu đoán cô gái con ông chủ nhà rất có cảm tình, rất quý mến người lính đã có thời là sinh viên đấy. Tranphu chúc mừng bác!


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: thaiminhhung trong 05 Tháng Mười, 2012, 09:38:27 am
   @Bác Quân:

     Đáng ra QĐ phải đưa bác về trường Sĩ quan chính trị để đào tạo trở thành Chính trị viên hoặc cán bộ tuyên huấn thì quá chuẩn. Nhưng hèm một nỗi bác đã là SV ĐHXD nên QĐ mất một cán bộ chính trị có tầm cỡ. Nhưng ngành Thủy điện đã có một cán bộ vừa giỏi chuyên môn vừa giỏi chính trị như bác là cũng hạnh phúc lắm rồi.

    Chúc bác mạnh giỏi và tiếp tục chắc tay phím để anh em được thưởng thức những câu chuyện hay :D ;D


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: chienc3.1972 trong 05 Tháng Mười, 2012, 02:39:51 pm
  @Bác Quân:

     Đáng ra QĐ phải đưa bác về trường Sĩ quan chính trị để đào tạo trở thành Chính trị viên hoặc cán bộ tuyên huấn thì quá chuẩn. Nhưng hèm một nỗi bác đã là SV ĐHXD nên QĐ mất một cán bộ chính trị có tầm cỡ. Nhưng ngành Thủy điện đã có một cán bộ vừa giỏi chuyên môn vừa giỏi chính trị như bác là cũng hạnh phúc lắm rồi.
    Chúc bác mạnh giỏi và tiếp tục chắc tay phím để anh em được thưởng thức những câu chuyện hay :D ;D
Thuỷ điện đang là hot đấy Hùng ơi. Giỏi gì thì cũng chờ thực tế kiểm nghiệm, Riêng anh Quân mình xin một xuất đặc cách nhé???


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: nguongmo trong 08 Tháng Mười, 2012, 07:54:23 pm
Công nhận bác Quân có khiếu văn chương. Câu chuyện bác viết có lớp lang và hấp dẫn người đọc. Em mới biết diễn đàn này mấy ngày nay mà cứ mê theo các bài của bác Quân và bác Võ Văn Be ở bên kia, quá hay! Xin cảm ơn, mong bác cố gắng viết tiếp để phục vụ tất cả mọi người. Em nghĩ lớp trẻ nên biết tìm đến nơi đây để học tập và tìm hiểu cha anh chúng đã sống, chiến đấu và hy sinh như thế nào cho đất nước hôm nay. Chúc bác mạnh khỏe!


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 10 Tháng Mười, 2012, 03:42:56 pm
Chào anh Trần Phú, anh Thái Minh Hùng, anh Chiến C3, anh Nguongmo, các anh đã có lời chúc sức khỏe và động viên Quanvn.
Chào các bạn đọc giả. Quanvn chúc tất cả mọi người dồi dào sức khỏe.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 10 Tháng Mười, 2012, 03:44:44 pm

NHỮNG CUỘC HÀNH QUÂN
        Tôi tựa lưng vào một gốc cây ở góc vườn ngồi gác, có lẽ đây là cây xoan vì mùi vỏ cây hăng hăng nhặng nhặng. Ngồi góc này, có thể quan sát được hai bức tường của gian nhà chúng tôi đang ở, tường phía đằng sau nhà và tường phía đầu hồi, còn phía đằng trước là cái giếng rồi đến khoảng sân trống, nếu có vấn đề gì thì con Vện nhà ông chủ sẽ sủa ngay. Tôi nghĩ vẩn vơ: Kể cũng lạ, có loài vật sao nó khôn thế. Khi đầu tối, nó còn phản đối chúng tôi quyết liệt, thế mà từ lúc chủ của nó nói chuyện với chúng tôi, thế là nó tỏ ra thân quen với chúng tôi ngay. Từ đầu phiên gác của tôi đến giờ, nó ra thăm tôi mấy lần, rồi nó lại chạy đi đâu đó, hình như nó cũng không giám bỏ vị trí của nó. Nghĩ về con Vện làm tôi nôn nao nhớ về con chó của tiểu đội tôi mà thằng Lành cố tình bỏ lại ở rừng bên Lào hồi chúng tôi hành quân từ Quảng Trị sang Lào. Không biết bây giờ nó có còn sống không? Cũng gần bốn tháng rồi còn gì.
   Tiếng chuông nhà thờ ở đâu đó ngân lên, có lẽ bây giờ là 5 giờ sáng. Trong nhà sáng đèn, một lát sau thấy thấy mọi người lục tục đi ra khỏi nhà, tôi đoán mọi người đi lễ nhà thờ, chắc nhà thờ cũng gần đây  thôi.
   Tôi vào nhà gọi Thành với Dũng dậy. Bị gọi dậy sớm cả hai đứa cay mắt ngái ngủ. Thành thì không nói gì, còn Dũng lầu bầu:
    -Mình có phải làm gì đâu mà anh gọi dậy sớm thế?
   Tôi bảo với hai đứa:
    -Mình đang đi làm công tác dân vận mà không gương mẫu thì không được, phải cố lên thôi, khi nào có điều kiện thì sẽ ngủ thoải mái, còn bây giờ thì dậy đi, mỗi thằng mỗi việc, vệ sinh cá nhân xong, anh em mình dọn vệ sinh thu dọn nhà cửa sân xướng cho gọn gàng sạch sẽ. Chờ ông bà chủ về mình xin phép gia đình rồi đi gặp đồng chí xã đội bàn bạc công việc ngày hôm nay. Nhớ đưa cả ba lô và mọi thứ đi luôn.
   Mọi người đi lễ ở nhà thờ về, thấy nhà cửa bếp núc gọn gàng ngăn nắp, sân sướng sạch sẽ, bể nước nước đầy tràn. Ông chủ, bà chủ không khỏi ngạc nhiên và cũng không hiểu chuyện gì xảy ra. Ông lên nhà trên và bảo thằng Út mời anh em tôi lên, ông nói:
    -Tôi không hiểu các ông đang làm chuyện gì?
   Tôi vội thanh minh:
    -Không có chuyện gì đâu bác, thời gian biểu và lịch công tác hàng ngày của anh em bộ đội thì ở bất kỳ nơi nào nếu có điều kiện đều phải dọn vệ sinh nơi đóng quân. Đây là việc làm bình thường của anh em chúng cháu.
   Ông chủ nói:
    -Những việc lặt vặt này cứ để các cháu nó làm, các ông không phải quan tâm, làm thế này tôi nghĩ ngợi lắm. Thôi! Từ sau các ông đừng làm nữa. Bây giờ mời các ông cùng với gia đình ăn sáng cái đã.
    Một đĩa khoai lang luộc và một đĩa lạc luộc được bà chủ nhà bưng lên. Anh em chúng tôi chưa kịp phản ứng gì, ông chủ đã đưa cho mỗi người một củ khoai, vừa bóc vỏ khoai ông vừa nói:
    -Ai bóc thì bóc, còn không thì ăn cả vỏ cũng được. Ăn khoai trước ăn lạc sau.
   Chúng tôi nhìn nhau để hiểu rằng không nên từ chối lúc này, bởi vì như vậy sẽ thành khách sáo. Chúng tôi bóc vỏ khoai rồi cùng ăn với ông chủ nhà, thấy chúng tôi cũng có vẻ thật thà, ông chủ nhà vui lắm. Khoai ở đây vỏ mỏng củ tròn, bở từ ngoài vào trong, ông chủ vừa ăn vừa nói, bột khoai văng cả vào đĩa đựng khoai. Để chữa ngượng ông nói:
    -Khoai ở đây bở như bánh khảo, thứ này mà uống với nước chè xanh thì ngon tuyệt. Ở đây quanh năm ăn khoai ăn sắn, ăn mãi cũng chán.
   Ông chủ bỏ nốt phần còn lại của củ dở vào miệng, rồi ông nhặt tiếp một củ nữa lên tiếp tục bóc vỏ. Nuốt hết miếng khoai trong miệng, ông nói:
     -Gia cảnh nhà tôi các ông biết hết cả rồi, tất cả đều phơi bầy ra đấy. Hôm qua thì tôi không giám để các ông vào ở, vì nhà không ra nhà, cửa không ra cửa, còn hôm nay các ông đi hay ở là tùy ở chỗ các ông.
   Đang ăn, thấy ông chủ nói thế chúng tôi bất ngờ quá, ba anh em chúng tôi nhìn nhau, thằng Dũng với thằng Thành đưa mắt nhìn tôi, tôi hiểu là chúng nó giao cho tôi quyết định. Tôi nói:
    -Được các bác giúp đỡ anh em cháu vui lắm, chúng cháu không dựa vào dân thì còn biết trông cậy vào ai nữa, chúng cháu rất cám ơn bác và gia đình.
   Ông chủ tiếp tục:
    -Còn chuyện ăn uống thì tùy các ông. Các ông tự nấu lấy ăn hay là góp gạo với gia đình thì cũng tùy. Các ông cứ theo kỷ luật của các ông mà làm, gia đình chúng tôi không ép.
   Bữa sáng cũng đã kết thúc, mọi người trong gia đình ai vào việc nấy. Tôi thấy thằng Út kéo chiếc xe kéo, từ trong nhà đựng dụng cụ ra ngoài sân, tôi đến hỏi thằng Út, nó chỉ tay ra ngoài đồng và bảo hôm nay nhà nó đi thu hoạch lạc ở đằng kia kìa. Biết thế, tôi vào nói với Dũng và Thành ở nhà, nhớ đến giờ liên lạc là phải lên máy để báo cáo tình hình về sở chỉ huy. Chúng nó hỏi tôi đi đâu, tôi bảo đi nhổ lạc với ông chủ.
   Tôi nói mãi ông chủ mới đồng ý cho tôi đi, ra đến ngoài cánh đồng, tôi thấy ở đây giống quê tôi thế, cũng có cánh đồng mầu trồng đủ loại nào là ngô khoai vừng lạc, đỗ xanh đỗ đen, mùa nào thức nấy. Ở quê tôi họ nói: Ở nơi nào có cánh đồng mầu thì nghèo, mà vất vả quanh năm, mưa nắng rét mướt lúc nào cũng có việc. Tôi nghĩ cũng đúng, quan trọng là không bị đói khi giáp hạt là tốt rồi.
   Tôi với ông chủ nhổ chung một luống, bà chủ với thằng Út nhổ một luống. Ông chủ nhà quan sát xem tôi có biết làm không? Thấy tôi làm được, ông không để ý đến công việc nữa mà ông bắt đầu kể chuyện. Chuyện ông kể, trên trời, dưới đất, nhưng cuối cùng vẫn tập trung vào quê hương và chuyện di cư năm năm tư…
   Trong nhiều câu chuyện, ông chủ nhà hình như bây giờ có vẻ tin tôi hơn, có nhiều điều tôi nghĩ, nếu là tôi thì tôi không nói ra, nhưng ông vẫn dốc bầu tâm sự với tôi. Ông nói:
    -Vùng này được giải phóng, chúng tôi ở đây không biết bom đạn là gì. Ngày mai có thời gian ông đi mà xem, nhà cửa làng xóm còn nguyên vẹn không hề có vết tích của chiến tranh. Giải phóng đã được mấy ngày rồi, làng xóm ở đây cứ ngơ ngác, không hiểu chuyện gì xảy ra, người dân thì hoảng hốt hoang mang, song cuộc sống vẫn cứ phải diễn ra bình thường như nó vốn có. Những ngày ấy, chính quyền cũ thì tự giải tán và tìm cách trốn tránh, chính quyền mới là những ai thì chưa biết mặt, nếu như có những việc cần phải bẩm báo thì không biết phải làm sao. Vào thờì gian ấy, nỗi lo lắng và sợ hãi sự trả thù của Việt cộng bao trùm lên khắp xóm làng, tất cả mọi người tránh gặp nhau, nhà nào biết nhà nấy. Rồi những ngày sau đó, bắt đầu có những chuyển động ngầm, nhiều hoạt động lén lút mờ ám diễn ra, có nhiều binh lính của quân lực VNCH giả làm dân thường về đây ẩn náu. Những người về đây, có người là con cháu của những gia đình ở đây, nhưng cũng có người không phải người ở đây, mà có lẽ họ là bạn bè với nhau, thấy mảnh đất xứ Đạo này yên bình nên họ rủ nhau về đây tìm sự che trở của Chúa.
   Ông dừng lại kéo áo lau mồ hôi trên mặt rồi lại tiếp tục:
    -Dân sinh sống ở khu vực này, chủ yếu là người Bắc di cư vào đây từ những năm năm tư, thôi thì đủ mọi địa phương đủ mọi thành phần. Nhớ khi chúng tôi về đây, có lẽ cũng đã hơn 15 năm rồi. Cuộc sống ở đây phức tạp lắm, tưởng như không thể ở được với nhau, bất luận chuyện gì cho dù là nhỏ bé nếu không đồng ý với nhau thì đều chia bè kết cánh để tranh giành. Khi thì tranh giành giữa người bản xứ với người nhập cư, khi thì tranh giành giữa những người theo đạo Thiên Chúa với nhau. Các mâu thuẫn trong sinh hoạt hàng ngày được tích tụ lại, rồi đẫn đến xung đột. Dân làng này đánh nhau với dân làng kia, sự thù hằn lại càng thêm chồng chất. Lúc ấy chính quyền cũ xử lý theo kiểu: Chưa cần biết phải trái mà cứ thẳng tay đàn áp, làm cho mọi bên đều sợ. Dần dần mọi tranh chấp đi vào chiều sâu, âm ỷ và thâm hiểm hơn, đồng thời từ  đó  dân ở vùng này bắt đầu chia rẽ, sống theo kiểu cục bộ địa phương.
   Ông dừng lại, như để đấu tranh tư tưởng xem có nên nói hay không nên nói, chẳng hiểu ông nghĩ gì, rồi ông lại tiếp tục:
    -Tôi nói không biết ông có tin không? Có thể nói hầu hết những người dân di cư từ Bắc vào, những người thuộc diện giầu có, những người có dính dáng đến ngụy quân ngụy quyền, khố xanh khố đỏ, địa chủ cường hào ác bá, chánh tổng lý trưởng, bộ máy quan lại cũ v.v. Tất cả đều căm thù Việt cộng, căm thù các ông, trừ những người có hoàn cảnh đặc biệt như chúng tôi những con chiên ngoan đạo của Chúa, chúng tôi không có lòng hận thù, chúng tôi cả một đời vì Chúa sống tốt đời đẹp đạo theo sự răn dậy của Chúa. Còn những người mà tôi vừa nói với ông, họ căm thù các ông đến tận xương tận tủy, khi có cơ hội là họ tìm cách hại các ông. Theo tôi chuyện ấy là đúng thôi, chắc các ông cũng thừa biết. Bởi vì, các ông đã làm cho họ điêu đứng, tiệt đường làm ăn, họ chạy trốn suốt từ Bắc vào Nam mà các ông cũng không tha cho họ.
   Ông chủ nhà hăng say kể chuyện, có nhiều vấn đề ông nhận thức không đúng, nhưng tôi cũng không muốn cắt ngang những suy nghĩ của ông. Không biết những suy nghĩ của ông là do ông tiếp thu từ nhà thờ hay từ cơ quan tâm lý chiến của Mỹ Ngụy tuyên truyền.
   Tôi nghĩ: Vấn đề nhận thức của những người dân di cư nói riêng và một bộ phận dân sở tại nói chung, đều cho rằng: Miền Bắc xâm lược Miền Nam. Đây là một nhận thức sai lầm, họ có biết đâu Miền Bắc cùng với đồng bào Miền Nam đã bao nhiêu năm nay đã phải chịu đựng hy sinh tất cả kể cả của cải vật chất lẫn tính mạng để thực hiện cuộc cách mạng Giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước. Mục đích cuối cùng của cuộc cách mạng là được độc lập dân tộc, phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam: Dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, từng bước đưa vị thế của nước Việt Nam sánh vai cùng với bạn bè trên toàn thế giới. Tôi thầm nghĩ, để thay đổi được nhận thức của một bộ phận dân chúng, không phải là ngày một ngày hai, mà việc này phải làm lâu dài, không thể nóng vội được.
   Ông chủ nhà lại tiếp tục:
    -Tôi kể ông nghe, chuyện có liên quan đến chuyện thủ tiêu cán bộ của dân vùng này để ông nhắc nhở mấy ông đi đâu không được đi một mình, phải đi từ hai ba người trở lên, đêm tối không nên đi ra ngoài: Cách đây khoảng hơn nửa tháng, trong cái giếng bỏ hoang ở ngoài cánh đồng phía đằng kia kìa. Những người dân đi thu hoạch đỗ họ phát hiện ở dưới giếng có mấy xác người chết. Họ vội vàng về báo cho chính quyền và đơn vị quân giải phóng, đang đóng quân ở đầu làng. Đơn vị bộ đội cử người ra xem xét cụ thể, và cho người xuống vớt lên, tất cả các xác chết đang phân hủy mùi hôi thối nồng nặc, không ai muốn đến gần. Có một điều đặc biệt là các xác chết ấy đều là đàn ông, không có quần áo, chỉ mặc mỗi quần đùi. Trên xác các nạn nhân không nhận ra được dấu vết gì có liên quan đến cái chết, những xác chết đầy bí hiểm. Không biết mấy ông bộ đội đã tìm ra được vụ ấy chưa? Mọi lời đồn đoán đều nghi là xác của mấy ông giải phóng bị thủ tiêu.
   Đã đến giờ nghỉ trưa, trên đường đẩy xe lạc về nhà, ông còn kể cho tôi nghe thêm mấy chuyện nữa. Những câu chuyện ông kể, có chuyện tôi đã được đồng chí chính trị viên kể cho tôi trước khi đi công tác, cũng có những chuyện tôi chưa nghe bao giờ. Lúc này, tôi vẫn nghe ông nói nhưng tôi đang nghĩ cách nào để tiếp cận vấn đề này cụ thể hơn.
   Xe đang bon bon trên đường, tôi thấy thằng Út kéo xe ở phía trước, chào rất to:
    -Cháu chào bác Trùm ạ!
    -Nhà nhổ Lạc hả cháu? Thầy mày đâu?
    -Tôi đây! Chào ông Trùm, ông ở nhà thờ về à?
   Xe chở Lạc vẫn tiếp tục lăn bánh, ông chủ nhà với ông gọi là ông Trùm vẫn đứng nói chuyện với nhau, sau đó ông chủ nhà vội đuổi theo xe lạc và ngoái cổ lại nói với ông Trùm:
   -Tối mời ông Trùm vào nhà xơi nước.
   -Vâng!
(Còn nữa).



Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 15 Tháng Mười, 2012, 02:23:55 pm
   
NHỮNG CUỘC HÀNH QUÂN
          Một ngày làm việc căng thẳng, đêm thức khuya để gác, sáng dậy sớm làm vệ sinh thu dọn nhà cửa, cả ngày làm quần quật ngoài đồng cùng với gia đình ông chủ để thu hoạch lạc. Ăn cơm tối xong, tôi thấy mệt mỏi chỉ muốn đi ngủ, nhưng nghĩ đến còn một đống lạc vừa thu hoạch về đang để ngoài sân, thế nào tối nay bà chủ nhà cũng nhờ người làm giúp, chả lẽ mình lại đi ngủ e bất tiện.
   Buổi tối, sân nhà ông bà chủ đông vui hẳn lên, hôm nay là Chúa nhật, không phải sinh hoạt thanh niên, chị em nhà cái Chanh huy động nhóm thanh niên tụ tập tại đây để bứt hộ lạc. Dưới ánh lửa bập bùng của những ngọn đèn dầu, đám thanh niên cười nói vui vẻ, tay thoăn thoắt bứt những củ lạc còn dính lẫn đất cát ra khỏi thân cây.
   Bà chủ nhà đi xung quanh chỗ chúng tôi bứt lạc, thu dọn những thân cây lạc đã được chúng tôi đã bứt hết củ,  xếp thành đống ở góc sân, sau đó bà lại bê những cây lạc chưa được bứt củ vào chia cho chúng tôi để tiếp tục công việc.
   Đám thanh niên có 7 người, 2 nam còn lại là nữ, tuổi sàn sàn mười tám đôi mươi. Nhà ông chủ có hai chị em cái Chanh và ba anh em chúng tôi, không kể ông bà chủ nhà thì tất cả là 12 người, đang xúm vào bứt lạc. Người đông, mỗi người mỗi chuyện, người thì giọng Bắc người thì giọng Nam cứ tranh nhau nói, đám thanh niên địa phương cậy mình là chủ nhà nên nói năng rất tự nhiên, họ nói cũng to nhưng vì toàn dùng từ địa phương nên ba anh em chúng tôi lại phải nhờ cái Chanh phiên dịch lại, khi hiểu ra thì tất cả đều cười. Người đông, vừa làm vừa chuyện trò vui vẻ nên đống cây lạc to lù lù ở góc sân cũng đã vơi dần, những củ lạc được tách ra khỏi cây lại được vun đầy, lạc năm nay được mùa, củ nào cũng chắc nịch.
    Quan sát đám nữ thanh niên đang bứt lạc, tôi có nhận xét: Có lẽ không có em nào xinh bằng cái Chanh con ông chủ nhà. Quả thực là tôi chưa giám nhìn kỹ con gái ông chủ nhà, phần chưa có cơ hội để quan sát, phần vì tối thì mới đến, sáng rồi chiều cứ cặm cụi ở ngoài đồng, chẳng có lúc nào rỗi rãi để nói chuyện. Nhưng có lẽ quan trọng nhất vẫn là sợ ông bà chủ để ý có khi lại bị hiểu nhầm, lúc đó khó ăn khó nói. Tuy chưa có thời gian và cơ hội, nhưng con gái của ông chủ bà chủ trong mắt tôi lúc này là một cô gái vùng đất bãi dễ mến,  nước da bánh mật, mái tóc đen mượt đầy đặn thuôn dài đến tận khủy chân. Hấp dẫn nhất vẫn là đôi mắt, Chanh có đôi mắt rất đặc trưng của những cô gái xứ đạo, đôi mắt đen nháy ướt át, mơ màng, lúc nào cũng có xu thế ngước lên, nằm ẩn dưới đôi lông mày đen đậm nằm ngang làm cho khuôn mặt trái xoan của cô gái đang tuổi dậy thì toát lên một vẻ đẹp đoan trang và hiền thục.
   Không biết nhận xét của tôi có đúng không? Nhưng việc thằng Dũng chen vào ngồi bên cạnh cái Chanh, phần nào cũng nói lên được nhận xét của tôi là đúng, bởi vì tôi biết tính nó, cứ thấy gái đẹp là sán lại để tán tỉnh, hơn nữa hôm nay nó với thằng Thành ở nhà quanh quẩn với cái Chanh nên có vẻ thân quen hơn. Công bằng mà nói là thằng Dũng đẹp trai, dáng rất chuẩn, người cao dong dỏng, da trắng. Mặc dù nắng gió chiến trường và khói bụi của chiến tranh cũng không làm giảm đi vẻ đẹp thư sinh của chàng trai Phố Hiến, Hưng Yên.
   Tôi nhớ hồi còn ở Nại Cửu, tôi với nó được cử ra ngoài Đông Hà Quảng Trị, mua một số dụng cụ đồ nghề của thợ mộc, nhẽ ra chỉ đến quầy bán đồ sắt là mua được. Nhưng nó cứ dẫn tôi lòng vòng khắp chợ, chỗ nào có cô bán hàng xinh xắn là nó dừng lại để hỏi giá rồi mặc cả, tôi biết là nó có tiền đâu mà mua, nhưng nó vẫn tiếp tục với trò chơi của nó. Đến một cửa hàng mỹ phẩm, nó thấy em bán hàng mặc váy ngắn người đầy đặn trắng trẻo xinh xắn, đang ngồi với tư thế hớ hênh để lộ cả những chỗ nhạy cảm, nó nháy tôi và kéo tôi vào rồi hỏi giá hết loại nước hoa này đến loại nước hoa kia, mục đích của nó là kéo dài thời gian để theo dõi mục tiêu cần theo dõi. Còn tôi thì cứ ngắm nhìn bộ quân phục nhàu nát của hai thằng mà e ngại,  kéo nó ra nhưng nó vẫn cố tình nán lại để tán tỉnh.
   Có một lần, bây giờ thi thoảng chúng tôi cũng nhắc lại và nhìn nhau cười ngặt ngẽo. Chuyện là: Vào một buổi chiều, mấy anh em đi dạo phố ở thị xã Buôn Ma Thuột, thị xã này vừa mới giải phóng được mấy ngày. Chúng tôi đi vào một con phố gần như còn nguyên vẹn, không có dấu tích về chiến tranh để lại. Đi qua quán café vào lúc chiều tà, dưới gốc cây trước cửa quán có mấy em đang ngồi uống nước, thấy chúng tôi đi qua cứ nhìn chúng tôi chằm chằm rồi cười với nhau. Chúng tôi đã đi qua được một đoạn, lúc đó Dũng mới tới. Mấy em nhìn thấy Dũng đẹp trai quá nên trêu, chắc là Dũng không bỏ qua cơ hội đáp từ nên cũng có lời ong bướm qua lại. Tự nhiên chúng tôi thấy mấy em cười ré lên, quay lại, thấy Dũng đang cố gắng ôm một chị phụ nữ đi ngược chiều để chị không bị ngã và xin lỗi rối rít. Thì ra ông tướng mải tán tỉnh, mồm nói chân bước để theo kịp chúng tôi, không để ý phía trước mình có ai, bất ngờ bị tụt xuống một bậc hè, ngã lao về phía trước, lao đúng vào chị phụ nữ đi ngược chiều với mình, làm cả hai chị em chới với suýt ngã. Lúc ấy thằng Thành đi cùng, được dịp đá đểu Dũng một câu:
    -Sướng chưa? Cứ thấy gái là mắt hoa lên, gái thì không ôm lại ôm bà già.
   Nghĩ đến đấy tự nhiên tôi phì cười, thằng Út ngồi cạnh tôi nó hỏi:
    -Anh Tư cười gì thế?
   Tôi vội chối ngay, lảng sang chuyện khác để trả lời thằng Út:
    -Anh thấy mọi người đang nói: Anh em mình góp vốn để làm ăn, nhưng anh nghe chữ “Vốn” thành chữ “Zốn” làm anh buồn cười.
   Không khí của đám bứt lạc đang ồn ào náo nhiệt tự nhiên im lặng, vì tiếng của con Vện đang sủa ở ngoài cổng. Một người đàn ông đi vào đến sân, ông cất tiếng chào mọi người:
    -Chào cả nhà! Hôm nay đông vui quá.
   Bà chủ nhà chẳng biết từ đâu đon đả chạy ra:
    -Chào bác Trùm! Mời bác vào nhà chơi, thầy em đang ở trong nhà.
   Bà chủ đưa ông Trùm vào trong nhà, ở ngoài sân chúng tôi vẫn tiếp tục công việc, chuyện trò lại nổ như pháo rang. Chàng trai, ngồi bên cạnh hai cô gái người địa phương đề xuất:
    -Mấy anh hai Miền Bắc ca hay lắm, bọn em muốn mấy anh ca cho bọn em nghe với.
   Tôi biết việc này là không thể chối từ, tôi với Dũng thì không sao, kiểu gì cũng chơi được, nhưng có lẽ trò này thì tội cho thằng Thành. Tôi nghĩ rồi không biết nó sẽ xoay sở ra sao khi phải tham gia trò chơi này, những buổi sinh hoạt như thế này, khi đến lượt nó, nó chỉ có hai động tác là: Cười trừ và gãi đầu. Tôi nghĩ, cứ để rồi tính. Tôi nói:
    -Tôi xin hát trước, hát xong một bài tôi có quyền chỉ định người hát tiếp theo và người hát tiếp theo có quyền chỉ định những người hát tiếp theo, cứ thế cho tới kết thúc, nếu mọi người đồng ý thì tôi bắt đầu.
    -Đồng ý! Đồng ý.
   Nói là ca nhưng tôi lại hát. Tôi hát bài: Bèo dạt mây trôi, theo làn điệu dân ca Quan họ Bắc Ninh. Lời thì tôi không thuộc, mà chỉ nhớ lõm bõm một vài câu, nhưng đại ý bài hát thì tôi biết, lúc đó tôi chuyển sang nói. Tôi nói về nội dung bài hát ca ngợi đôi lứa yêu nhau, xa nhau và chờ đợi nhau, tôi thao thao bất tuyệt, bịa là chính. Cuối cùng tôi cũng phải xin hết, nhưng thật là bất ngờ mọi người ồ lên:
     -Hay quá! Hay quá, kể tiếp đi.
   Tôi xin khất để lần khác và chỉ vào chàng trai lúc nãy đã khởi xướng ra trò chơi này. Chàng trai khá tự nhiên, không cần giới thiệu, ca ngay một số câu vọng cổ trong trích đoạn Loan và Điệp.
   Trò chơi đang đi vào quy củ cả về nội dung và hình thức thì bà chủ nhà ra nói nhỏ với tôi, gọi là nói nhỏ nhưng những người xung quanh đều nghe được:
    -Ông nhà tôi mời ông vào nói chuyện với ông Trùm.
   Tôi xin phép mọi người rồi vào trong nhà, tôi băn khoăn không hiểu vì sao ông chủ mời tôi vào trong lúc ông chủ đang tiếp ông Trùm. Tôi mơ hồ nghĩ đến việc anh em chúng tôi đến đây có gì đó, dính dáng đến nhà thờ chăng? Nhưng chưa hiểu là chuyện gì.
   Chiếc bàn uống nước được kê ngay ngắn giữa nhà, dưới bàn thờ Chúa, một ngọn nến to để giữa bàn cháy sáng lung linh, soi rõ khuôn mặt hai ông ngồi đối diện với nhau. Thấy tôi vào, cả hai ông vẫn ngồi im mà chỉ đưa mắt nhìn tôi. Tôi nghĩ theo phép lịch sự, khi mới gặp nhau là phải bắt tay nhau sau đó là tự giới thiệu về mình. Nhưng tôi thấy ông Trùm không làm thế nên tôi cũng không làm, tôi giả vờ tối không nhìn rõ lối đi nên cúi xuống để nhìn cho rõ, thực chất là tôi tránh cái nhìn của ông Trùm, đồng thời chờ đợi xem ông chủ nhà bảo tôi ngồi đâu?
   Ông chủ nhà kéo cái ghế bên cạnh chỗ ông ngồi và nói:
    -Mời ông ngồi đây!
   Ông chủ nhà vẫn giữ cách xưng hô “Ông và Tôi” với chúng tôi như lúc đầu mới gặp ông, sáng nay ở ngoài ruộng lạc tôi đã góp ý, không thấy ông nói gì, có lẽ là ông không muốn thay đổi.
   Tôi ngồi xuống ghế, nhìn ông Trùm rồi chào:
    -Cháu chào bác!
   Ông Trùm không nói gì, chỉ gật gật đầu.
   Trong khoảng thời gian vừa qua, tôi biết mọi hoạt động của tôi đều được ông Trùm quan sát, nhưng ông vẫn ngồi yên chưa nói gì. Trong bối cảnh này, nếu hai ông vẫn cứ yên lặng thì rõ ràng là tôi phải lên tiếng trước, tôi nhìn thẳng vào mặt ông Trùm, cái nhìn của tôi hình như cũng có một sức mạnh vô hình, làm cho ông Trùm không giám nhìn thẳng vào tôi mà né sang nhìn ông chủ nhà. Tôi đang định nói với ông chủ nhà, thì ông lại nói trước tôi:
   -Tôi giới thiệu với ông: Đây là ông Trùm, là người cùng quê với tôi. Sáng nay tôi có báo với ông Trùm là nhà tôi có ba ông bộ đội giải phóng xin ở nhờ, trong đó có một ông quê ở tỉnh Ninh Bình. Ông trùm cũng xa quê như tôi, khi nghe tôi nói có người cùng quê ở ngoài Bắc vào, ông đến để hỏi thăm tình hình quê hương.
   Trong lúc ông Trùm đang chú ý nghe ông chủ nhà giới thiệu, tôi quan sát rất nhanh ông Trùm từ đầu đến ngực, phần dưới bị khuất cái bàn nước, nên không nhìn được, nhưng ban nãy khi ông vào tôi cũng đã  nhìn thấy. Ông Trùm, chắc là cùng độ tuổi với ông chủ nhà, có hơn thì cũng chỉ hơn cùng lắm từ 4 – 5 tuổi là cùng. Ông chủ nhà thì làm lụng vất vả, dãi dầu mưa nắng nên da dẻ đen sạm, cuộc sống thăng trầm của ông vẽ lên những nếp nhăn trên mặt. Trong khi đó, ông Trùm thì trắng trẻo, thư sinh nho nhã, đĩnh đạc trong bộ quần áo của nhà thờ, trông ông giống biểu tượng của những con mọt sách, suốt ngày quanh quẩn ở tràng kỷ và bút nghiên. Nhìn ông Trùm, tôi đã nhanh chóng đánh giá ông thuộc đối tượng nào trong đợt công tác này.
    -Nghe ông nhà nói.
   Ông Trùm cất lên một chất giọng trầm ấm và hơi ngọng của những người quê vùng biển Kim Sơn Ninh Bình, từ “Nói” ông phát âm như từ “Lói”. Vẫn những lời lẽ chậm dãi từ tốn ông nói:
    -Ông là người Ninh Bình, tôi mừng quá, tôi định sang từ sớm để hỏi chuyện ông về quê hương, nhưng cứ lấn bấn mãi việc nhà thờ việc họ, mãi bây giờ mới sang được.
   Sau những màn chào hỏi thông thường, chúng tôi bước vào những cuộc phỏng vấn, hai ông hỏi, còn tôi trả lời, hết câu nọ sang câu kia, hết nội dung này sang nội dung khác.
   Thế rồi cả ba chúng tôi rơi vào vòng xoáy, của những câu chuyện quê hương được tôi kể dở dang không đến đầu đến đũa.  Có lẽ những câu chuyện tôi kể, không đạt yêu cầu của các ông, nhìn các ông chăm chú nghe tôi kể, tôi có cảm tưởng các ông là những người đã bị khát nước lâu ngày, bây giờ mới có nước uống, nhưng nước lại chảy quá chậm so với cơn khát của các ông, nên các ông phải nhẫn nại chờ đợi. Có những lúc tôi quan sát thấy mặt các ông dại đi, những lúc như vậy là những lúc các ông đắm chìm vào quá khứ của tuổi thơ, hoặc là tôi đã khơi dậy trong các ông những nỗi buồn quá khứ.
   Tôi kể về những năm chiến tranh phá hoại Miền bắc của không quân Mỹ, các nhà thờ từ thị xã Ninh Bình, đến các vùng quê, ngay nhà nhà thờ đá Phát Diệm quê hương của hai ông, cũng bị ném bom phá hủy. Nhà thờ đá to đẹp là vậy, thế mà phần giảng đạo phía bên phải cũng bị bom Mỹ làm cho tan nát. Đau lòng nhất là trận máy bay Mỹ ném bom vào chợ Kiến Trung, hơn một trăm người bị chết và rất nhiều người bị thương. Xác người bay tung tóe khắp mọi nơi, treo lên cả những hàng dừa, mãi mấy ngày sau bị thối rữa, mới rơi lộp bộp xuống đất…
   Nghe đến đấy, ông Trùm như không kìm chế được nữa, ông thốt ra:
    -Lạy chúa tôi! Những loài nghịch tử.
   Tôi biết, tôi cần phải kể nhiều chuyện thế này. Tôi lại tiếp tục kể về vụ Mỹ Ngụy, dùng máy bay C47 thả biệt kích ở vùng biển Kim Sơn Ninh Bình. Tôi nghĩ vụ này chắc chắn ông Trùm cũng biết, bởi vì nó chấn động cả trong Nam lẫn ngoài Bắc, kể cả trên thế giới, Mỹ Ngụy vẫn lu loa vấn đề này là vi phạm nhân quyền bôi nhọ danh dự của thiên chúa giáo.
   Tôi vẫn tiếp tục kể. Đã nhiều lần ông Trùm định cắt ngang câu chuyện tôi đang kể, nhưng tôi cứ lấn lướt. Lần này ông không nhường nữa, giọng ông như đanh lại, ông nói một câu không có chủ ngữ:
    -Đã phân chia giới tuyến mà vẫn còn chiến tranh.
   Tôi hiểu câu này ông muốn nói gì, tôi cũng nói bâng quơ:
    -Đại đa số, đồng bào Miền Nam, sống khổ sống sở, sống trong tình trạng an ninh chính trị và trật tự xã hội không có, đảo chính lật đổ chính quyền xảy ra liên miên. Cuộc sống như vậy là động lực thôi thúc họ phải giải phóng cho chính họ.
   Cứ như thế, nói qua nói lại. Câu chuyện của chúng tôi chỉ dừng lại khi bà chủ nhà bê đĩa lạc lên và ông Trùm chào ra về.
(Còn nữa).
   



Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 22 Tháng Mười, 2012, 04:12:50 pm

NHỮNG CUỘC HÀNH QUÂN
          Vất vả và bận rộn với những công việc không tên trong đợt công tác Dân vận, đã làm cho anh em chúng tôi quên cả thời gian. Ban nãy, sau khi cơm nước xong, Thành lên máy và nhận được bức điện gửi từ sở chỉ huy, Chúng tôi ngồi tính lại thì chỉ kém một ngày nữa là đầy nửa tháng.
   Từ lúc nhận được bức điện, nhìn mặt thằng Dũng, thằng Thành. Tôi chẳng hiểu nó vui hay nó buồn, nhìn chúng lạ lắm. Biểu hiện thái độ của hai đứa em, làm tôi cũng thấy khó xử, tôi chẳng biết phải làm thế nào cho chúng nó đỡ buồn, chúng nó buồn làm tôi cũng buồn. Thực ra, trong sâu thẳm tâm hồn thì tôi vui lắm, điều này có lẽ không chỉ tôi mà tất cả những người trong gia đình tôi và những người thân quen với tôi đã biết bao ngày đêm mong đợi, ngày ấy nó đã đến, đó là ngày tôi được trở về trường đại học Xây Dựng để tiếp tục học tập. Tôi vui lắm, vui không để đâu cho hết vui, nhưng khi nhìn hai đứa em, hai đồng chí của tôi, đã từng bao năm gắn bó máu thịt với nhau, thấy chúng nó buồn, tôi thấy nao lòng.
   Tay tôi run run cầm bức điện mà Dũng vừa đưa cho tôi, tôi nói với hai đứa:
    -Anh em mình phải giữ bí mật về chuyện ngày mai kết thúc đợt công tác, để trở về đơn vị. Việc này chúng ta sẽ công bố với gia đình vào bữa cơm trưa mai, sáng mai chúng ta đến chào cũng là báo cáo đồng chí xã đội trưởng, con người cần cù chịu khó, nhiệt tình giúp đỡ chúng ta trong đợt công tác vừa qua. Trưa mai sau khi cơm nước xong chúng ta chia tay với gia đình trở về đơn vị.
   Thành và Dũng nhìn nhau như có điều gì muốn nói nhưng chưa nói, có ý đang đùn đẩy cho nhau. Tôi muốn phá tan bầu không khí nặng nề đang bao trùm lên cuộc nói chuyện, tôi cố cười, nói đùa với hai đứa:
    -Hay là hai đứa có vấn đề gì với cái Chanh nên bây giờ khó nói?
   Dũng nhìn tôi có vẻ không vui và nói:
    -Anh lúc nào cũng cấm và theo dõi như mật thám, bố thằng nào giám bén mảng đến.
   Tôi vừa cười vừa nói:
    -Không dám bén mảng tới, nhưng dám sách nước vào nhà tắm cho nó.
   Dũng chắp tay vái tôi lia lịa, mồm lắp bắp:
    -Chuyện này mà anh cũng biết. Thôi! Em chắp tay em lạy anh “Già”
   Tôi cười dàn hòa với Dũng:
    -Tao nhắc chúng mày cũng có nghĩa là tao nhắc cả tao nữa, trai thì chưa vợ gái thì chưa chồng. Nhìn cái Chanh cứ mơn mởn, ngực thì tròn trịa đầy đặn như ngực của thần vệ nữ, má thì núng nính, đôi môi, đôi mắt lúc nào cũng ướt át gợi cảm. Anh em mình cứ nhìn mãi có khi phát điên. Mà tao lo nhất là mày.
   Dũng không nói gì, còn Thành thì cười ngặt nghẽo. Thành nói với tôi:
    -Anh em mình về, để nó ở lại.
   Dũng không để ý đến câu chọc gậy của Thành, nó nghiêm túc nói với tôi:
    -Hôm mình đến ông chủ còn mời uống rượu, hôm nay anh em mình chia tay về đơn vị chả lẽ lại không nói gì… Em nghĩ nó thế nào ấy?
   Thành cũng hùa theo:
    -Em cũng thấy thế.
   Không phải tôi không nghĩ tới điều này, phải làm, nhưng làm như thế nào? Toàn bộ lương thực thực phẩm đã đóng góp với gia đình hết cả rồi. Tôi nghĩ: Ở hoàn cảnh này, rõ ràng chỉ còn một cách: Ra mua một thùng laze và mấy con mực nướng về là xong, vừa bí mật vừa bất ngờ. Nhưng khổ nỗi kinh phí quá eo hẹp, chỉ còn một ít tiền gán đồng hồ lần trước còn lại, mà chỗ tiền này đã không ít lần bị xà xẻo, chắc là cũng chẳng còn được bao nhiêu. Tôi bàn với chúng nó về suy nghĩ của tôi, chúng nó đồng ý ngay. Tôi giao luôn nhiệm vụ này cho hai thằng đảm nhận, bữa cơm trưa mai nhất định phải có…
   Trời cũng đã về khuya, Thành gác ca đầu, Dũng trực máy, tôi nằm ngủ. Tôi trằn trọc không sao ngủ được, mỗi lần trở mình các tấm ván dưới lưng lại kêu cọt kẹt. Bất chợt, Dũng hỏi tôi:
    -Về quê, kế hoạch của anh định thế nào?
   Câu hỏi này của Dũng tôi đã nghĩ đến từ lâu rồi nhưng chưa ngã ngũ theo phương án nào, bây giờ Dũng hỏi, tôi nói đại một phương án xem Dũng phản ứng thế nào? Tôi vẫn nằm trong màn thò cổ ra, trả lời Dũng:
    -Anh có nhiều dự định lắm, nhưng có lẽ có hai việc lớn mà anh phải làm ngay, sau đó làm gì thì mới làm. Việc đầu tiên là anh trở lại trường để tiếp tục đi học. Việc thứ hai là anh sẽ đi tìm xem Vân ở đâu, cuộc sống, chồng con ra sao?
   Dũng hỏi tôi:
    -Từ hôm giải phóng đến nay anh đã viết thư về cho gia đình chưa? Anh có viết thư về cho chị Vân không?
   Tôi ngần ngừ một lát rồi trả lời:
    -Anh nghĩ rồi, anh sẽ không viết thư cho ai cả. Khi nào anh về là anh về, khỏi phải thư từ phiền phức, tổ làm cho mọi người nóng ruột. Chỉ khi nào về nhà, lúc ấy mới chắc là còn sống, bây giờ viết cũng chưa chắc.
   Đến giờ Dũng lên máy làm việc, tôi nằm nghe tiếng sột soạt của máy VTĐ mà Dũng đang vặn núm dò tần số liên lạc, nghe tiếng tín hiệu phát ra từ đầu bên kia, tôi miên man và ngủ đi từ lúc nào không hay. Đang mơ màng ngày trở về, thấy Dũng lay chân tôi dậy thay gác, tôi gác phiên thứ ba.
   Vẫn như mọi khi, tôi uể oải xách súng ra góc vườn, đứng tựa lưng vào gốc cây xoan, con Vện nhà ông chủ từ đâu chạy tới liếm chân tôi. Tôi xoa đầu nó và nói thầm một mình: Tao sắp xa mày rồi Vện ơi!
   Gió trời từ hướng sông thổi vào mát rượi, làm cho tôi tỉnh táo hẳn. Tôi hệ thống lại trong đầu, kiểm điểm xem lại mười lăm ngày qua chúng tôi đã làm được gì, những gì còn chưa làm được. Tự tôi cũng cảm thấy hài lòng về những công việc mà chúng tôi đã làm, tôi cười một mình.
   Phía đằng Đông trời đã hửng sáng, một ngày mới lại sắp bắt đầu, trưa nay chúng tôi sẽ chia tay với gia đình để về đơn vị.
      Chiều. Hành quân về đơn vị bằng xe đò, suốt chặng đường hành quân, chúng tôi chẳng nói gì với nhau. Tôi không hiểu Thành và Dũng nghĩ gì, còn tôi, tôi nghĩ về cuộc liên hoan chia tay trưa nay với gia đình ông chủ mà lòng cảm thấy bâng khuâng. Ông bà ông chủ và các em nghĩ về chúng tôi thế nào? Mà sao lưu luyến là vậy? Thế mới biết, tình cảm con người và sức mạnh của tình cảm. Một khi mà đã hiểu nhau, thông cảm cho nhau, thì họ sẵn sàng vì nhau khi đó chẳng có gì có thể cản được.  Bất chợt, tôi nghĩ về những cuộc chia tay của tôi với đơn vị sắp tới mà thấy nghẹn lòng.
   Về tới đơn vị, khoảng bốn rưỡi năm giờ chiều. Nhận xét đầu tiên của tôi là: Không khí sinh hoạt của đơn vị vắng vẻ và nặng nề quá.
   Chúng tôi lên thẳng nhà ban chỉ huy đại đội để báo cáo kết quả của đợt công tác. Trực ở nhà là đồng chí chính trị viên đại đội, sau khi nghe chúng tôi báo cáo xong, đồng chí khen ngợi và động viên chúng tôi, cuối cùng đồng chí thông báo một số tình hình của đơn vị.
   Có lẽ không riêng gì tôi mà Thành và Dũng khi nghe xong những thông tin của đồng chí chính trị viên nói, vẻ mặt cũng hơi biến sắc. Nhiều tin sốc quá, ngoài tin quân đội sẽ trả các sinh viên về trường cũ để tiếp tục học tập, còn hai tin nữa có liên quan đến chúng tôi.
  Tin thứ nhất, đó là: Trung đoàn 95 củng cố lại tổ chức để phù hợp với tình hình mới, chuyển tất cả các chiến sĩ thông tin ở C20 đơn vị về đại đội thông tin C18. Thế là tiểu đội thông tin lại phải chia tay với đại đội trinh sát C20, chia tay với những chiến sĩ trinh sát dũng cảm đã gắn bó máu thịt với nhau kể từ ngày vào chiến trường chiến đấu ở Thành cổ Quảng Trị, đến chiến dịch giải phóng Buôn Ma Thuột, giải phóng Xuân Lộc, rồi đến chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn và thống nhất đất nước.
  Tin thứ hai, hiện nay không riêng gì C20 mà có thể nói là tất cả bộ đội đóng ở khu vực Thành Tuy Hạ, đang bị dịch sốt xuất huyết hoành hành cũng có những tổn thất, đã một vài chiến sĩ ra đi.
    Trở về tiểu đội, trong tôi lúc này như tồn tại song song của hai con người, một người rất vui vì sắp được về với mẹ và một người rất buồn vì sắp phải chia tay với những con người đã bao năm cùng nhau vào sống ra chết thương nhau hơn cả anh em ruột thịt. Tôi sống trong tâm trạng hai phần hồn một phần xác, có lúc thì mâu thuẫn có lúc thì thống nhất.
   Ngồi trong nhà nhìn ra ngoài sân, bóng căn nhà đổ dài phía đằng trước. Tôi nhẩm tính, như vậy kể từ giờ phút này tôi còn khoảng độ 38 đến 39 tiếng đồng hồ nữa còn là người của đơn vị, sau thời gian ấy tôi và một số anh em sinh viên sẽ lên đường hành quân trở về Miền Bắc. Lúc ấy tôi không còn là người của đơn vị nữa, tôi sẽ rời xa đơn vị, tôi chưa hình dung được những ngày tiếp theo tôi sẽ sống ra sao và những gì nó sẽ xảy ra? Cái gì xẩy ra thì tôi chưa biết nhưng chắc chắn là tôi sẽ nhớ đơn vị, nhớ từng con người và từng hoàn cảnh cụ thể. Suốt cuộc đời này, tôi không bao giờ có thể quên được những năm tháng mà chúng tôi đã sống và chiến đấu bên nhau.
   Thời gian cứ chậm chạp trôi qua, hoàng hôn tắt dần, bóng tối bao phủ, rồi màn đêm buông xuống. Đêm nay tôi không ngủ được, tôi cố gắng tìm đủ mọi cách để ngủ nhưng bất lực. Tôi chui sang màn của thằng Dũng, hai anh em thì thào nói chuyện, được một lúc thì nó ngủ mất, tôi trở về chỗ nằm chờ trời sáng.
   Sáng nay, tôi được nghỉ để chuẩn bị ngày mai lên đường. Không có việc gì làm, tôi cứ lang thang đi quanh quẩn trong doanh trại, chợt tôi nhớ ra là sang bên trạm phẫu của C24 để thăm người bạn cùng học và cùng nhập ngũ một ngày với tôi, nó được điều về C17 còn tôi về C20. Hôm qua, trong lúc đang cùng anh em lắp đặt đường ống dẫn nước sinh hoạt cho các đơn vị thì bị dính phải quả mìn cóc nên bị thương.
   Bước vào buồng điều trị sau phẫu, tôi không khó khăn để nhận ra nó, nó nằm ở góc trong cùng của dãy giường kê sát tường. Nhìn chiếc quần bộ đội bị cắt cụt ống bên trái, tôi đoán: Chắc nó chỉ bị thương vào chân trái, nên từ đầu gối trở xuống được băng trắng toát, còn các chỗ khác thì không việc gì.
   Tôi đến bên cạnh nó, nó vẫn đang mê man nên không hay biết gì. Không biết nó có bị mất nhiều máu không, mà sao nhìn mặt nó có vẻ nhợt nhạt. Nhìn nó, tôi thấy ái ngại và tiếc cho nó, mai là ngày về rồi mà còn bị dính mìn. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, biết làm sao được. Chiến tranh mà, bom đạn tránh người chứ làm sao người tránh được bom đạn, chắc là nó bực lắm, suốt cuộc chiến tranh ác liệt là thế mà không sao, bây giờ thời bình lại bị thương, số phận sao ngiệt ngã vậy.
   Hình như nó có linh tính là có người đến thăm, nó mở mắt nhìn tôi, tôi nắm chặt lấy tay nó. Nó cười, khuôn mặt nó méo xệch, nó nói với tôi giọng hài hước:
    -May quá chỉ mất mỗi bàn chân, còn lại không việc gì, thế là may mắn lắm rồi. Chúng mày cứ về trước, chắc là tao phải một vài tháng nữa mới về được.
   Tôi động viên nó:
    -Ừ thế là may, nếu hy sinh thì cũng chịu, tất cả đều trông vào sự may rủi thôi. Ở lại, chịu khó điều trị để mau lành vết thương. Anh em chúng tao ra trước mày có nhắn nhủ gì không? À có gửi thư cho cái Điệp không?
   Nó lại cười, rồi tiếu lâm:
   -Chúng mày ra trước trả hết nợ tiền nước chè thuốc lá với kẹo lạc của nhà lão Thiệp đi rồi tao ra, mấy bữa nữa tao cũng về nên không cần nhắn nhủ gì, mới lại có gì đâu mà nhắn nhủ.
   Tôi biết vì sao nó không trả lời câu hỏi của tôi về cái Điệp, bởi vì tôi và nó có những cái giống nhau, cả hai đều là sinh viên, cả hai đều có người người yêu trước khi nhập ngũ, cả hai đều vào chiến trường một ngày, cả hai đều không muốn để những người phụ nữ mất đi những cơ hội mà tuổi thanh xuân của họ phải được hưởng. Vậy thì ít nhiều cũng có suy nghĩ giống nhau, song không giám khẳng định việc mình làm như vậy là đúng hay sai. Thời điểm này chúng tôi chưa biết nên nói thế nào?
   Chia tay nó, ra về. Tôi đi ngang qua buồng cấp cứu, thấy mọi người đang đứng xúm quanh chiếc giường. Trên giường có một chiến sĩ đang nằm bất động, mắt nhắm nghiền, trông anh hiền lành giống như người đang ngủ. Hai lỗ mũi, hai lỗ tai đều được nhét bông, mồm được nhét cục bông to, bông và băng đều có những vết máu còn đỏ tươi. Anh đã hy sinh vì suất huyết nội tạng, máu trào cả ra ngoài. Mọi người đứng im phăng phắc như để tiễn đưa anh về cõi vĩnh hằng, những đôi mắt đỏ hoe rớm lệ, những người không kìm được, nước mắt chảy dòng dòng. Không ai kìm được những giọt nước mắt trước cái chết tức tưởi của những người đồng chí. Tôi không biết anh ở đơn vị nào? Nhưng đã đến được thành Tuy Hạ, có nghĩa là đã theo hết được chuỗi ngày đầy gian khổ và hy sinh của  trung đoàn 95 sư 325. Nhẽ ra anh phải được hưởng hòa bình vì chiến tranh đã kết thúc, thế mà anh lại phải ra đi. Lại thêm một gia đình nữa mất đi những đứa con, mà họ ngày đêm mong đợi.
   Tôi lau khô những giọt nước mắt, bước ra khỏi phòng, ánh sáng chói lòa của mặt trời, kéo tôi trở về với thực tại.
(Còn nữa)


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 29 Tháng Mười, 2012, 10:05:10 am

NHỮNG CUỘC HÀNH QUÂN
          Xe đón chúng tôi ở cổng doanh trại, C20 ra tiễn mấy anh em chúng tôi đông lắm, tiểu đội tôi anh em đứng cụm vào một chỗ. Tôi ôm chặt từng người vào vòng tay và nói:
    -Ở lại, nhớ giữ dìn sức khỏe! Anh đã có địa chỉ đây rồi, khi nào có điều kiện thì anh về thăm. Thôi em về đi, anh lên xe đây, nếu không thì anh khóc mất.
   Đơn vị đông quá không thể chia tay từng người được, tôi chắp hai tay giơ cao trên đầu để chào tạm biệt mọi người. Tôi leo nhanh lên xe, sau lưng tôi là những lời chào tạm biệt của bè bạn và anh em:
    -Anh đi mạnh khỏe nhé! Cho em gửi lời thăm gia đình, thăm chị Vân và tất cả mọi người.
  Tôi lau nhanh những giọt nước mắt chảy ra má, giơ tay vẫy và nhìn họ nhạt nhòa trong nước mắt, tôi nói to để không bật ra tiếng khóc:
    -Chào tất cả anh em, tôi về trước nhé!
   Tôi ngồi vào góc thùng xe để mọi người không nhìn thấy, xe đã xếp đủ chỗ và từ từ chuyển bánh, tôi cố nhoai ra để nhìn anh em trong đơn vị thêm một lần nữa, bóng của họ xa dần rồi khuất hẳn. Tôi thở dài, thầm nghĩ: Thế là chia tay thật rồi, bao giờ mới lại gặp nhau?
   Đoàn xe nối đuôi nhau chạy về hướng Bắc, tiếng động cơ nổ ầm ầm, xe toàn là xe cũ nên máy nổ át hết cả tiếng nói chuyện trên xe. Tôi đưa mắt nhìn mọi người để xem có ai quen không? Chẳng quen ai cả. Tôi ngồi im quan sát, xe chật cứng không thể nào cựa quậy được. Tôi nghĩ, chắc mọi người vừa lên nên vẫn còn chật, lát nữa, xe chỉ xóc vài lần là rộng ngay, tôi tự an ủi và cố gắng chịu đựng. Ngồi được một lúc tôi  cảm thấy có điều gì bất hợp lý? Trước kia hành quân cũng loại xe này, số người đông hơn, lại còn vũ khí, quân trang quân dụng và nhu yếu phẩm v.v. Nhiều thứ như vậy, sao không cảm thấy chật trội như hôm nay? Nghĩ mãi, cuối cùng tôi đổ tại nguyên nhân là do trên xe có nhiều khung xe đạp, nhiều những chiếc phích để dùng đựng nước và nhiều những con búp bê được mọi người mang về làm quà. Đã thế mọi người sợ va chạm vào nhau nên chằng buộc, bao bọc rất kỹ lưỡng, cho nên đã chật lại càng thêm chật. Ở đây rõ ràng mọi người đều biết, những chiếc khung xe đạp, những con búp bê rất cồng kềnh chiếm khá nhiều vị trí trên thùng xe làm cho mọi người không đủ chỗ ngồi, nhưng chẳng thấy ai kêu ca, nhưng mà kêu ca với ai mới được chứ? Bởi vì hầu như ai cũng có. Thôi! Ai không có thì chịu đựng vậy, tôi lại tự an ủi mình.
   Nhìn những chiếc khung xe đạp và những con búp bê, tôi nhớ đến thằng Chính. Thằng Chính cũng là người Hưng yên, (Đơn vị tôi chủ yếu là người của ba tỉnh: Thái Bình; Nam Định; Hưng Yên, còn lại là một số ít người ở những tỉnh khác.) tôi vẫn gọi nó là thầy giáo, bởi vì nó là người hướng dẫn tôi về chuyên môn nghiệp vụ của lính thông tin, dạy từ cách gõ Manip, cách thu cách phát, cách chỉnh tần số, cách xử lý khi gặp những sự cố đơn giản. Tôi với nó thường đi một máy, nó là chính tôi là phụ, ấy thế mà những khi hành quân nó tranh mang hết mọi thứ, chỉ bảo tôi mang hai cục pin, mỗi cục có lẽ nặng đến 3 kilo. Những lúc như thế nó thật thà nói với tôi:
    -Ưu tiên anh “Già”, em ở nhà quen đi cầy rồi để em vác cho, anh cứ đi theo em là được.
   Nghe nó nói như vậy, tôi chẳng biết làm sao, đành tuân lệnh nhưng tôi cảm động lắm. Thật ra: Nó có phải to béo gì cho cam, nó cũng gầy gầy xương xương như tôi, nó đi trước tôi đi sau, tôi nghĩ thầm nó không thể đổ về đằng trước hay ngả về đằng sau được, bởi vì trước thì có máy VTĐ sau lưng thì có ba lô, trên vai là một khẩu AK, như vậy rõ ràng người nó nếu vấp ngã chỉ có thể bị ngồi khụy xuống mà thôi.
   Nói về chuyện khung xe đạp và những con búp bê. Hôm trước, Dũng, Thành và Tôi đi công tác Dân vận về. Ngày hôm sau, thằng Dũng, thằng Thành, thằng Chính chẳng hiểu ba thằng chúng nó bàn nhau thế nào? Chúng nó bê đến cho tôi một cái khung xe đạp, một con búp bê to rất đẹp chỉ tội là nhựa mỏng quá, khẽ nắn là bẹp. Thằng Chính nó nhìn tôi và nói rất nghiêm túc, nhìn mặt nó tôi đánh giá được mức độ nghiêm túc của những điều nó nói:
    -Gần bốn năm trời, anh em mình vào sống ra chết, lúc nào cũng có nhau. Mai anh về Miền Bắc, chúng em không biết chuẩn bị quà gì tặng anh để kỷ niệm những ngày anh em ta bên nhau. Ba đứa chúng em đã mua chiếc khung xe đạp và con búp bê để tặng anh, làm kỷ niệm.
   Nó chưa nói xong nước mắt tôi đã chạy vòng quanh , tôi phải bậm chặt môi lại để khóc không thành tiếng, nhưng nước mắt nước mũi cứ dàn dụa. Trong nước mắt, tôi nhìn thấy chúng nó là những con người khác, không phải là thằng Dũng thằng Chính, thằng Thành, hiền lành nhỏ bé và ngây thơ như mọi khi nữa. Mà tôi cảm thấy chúng nó bây giờ đã lớn và trưởng thành rồi, tôi không thể tưởng tượng được chúng nó có những suy nghĩ sâu xa mà cao thượng đến vậy. Ôi! Tình đồng chí, tình bạn sao mà thiêng liêng và cao cả đến nhường này.
   Thằng Chính nói xong, đến lượt thằng Dũng thằng Thành, chúng nó nói gì tôi nghe không rõ, tai tôi ù đặc. Lúc ấy tôi chỉ biết lau nước mắt, nhưng càng lau thì nước mắt tôi càng chảy ra nhiều hơn. Xúc động trước tình cảm chân thật của chúng nó, tôi nói:
    -Lúc này đây, vì quá xúc động nên anh chẳng biết nói thế nào để thể hiện hết tâm trạng của anh, trước lòng tốt của các em. Anh chỉ biết cám ơn các em.
   Lau vội những giọt nước mắt, rồi tôi lại tiếp tục nói:
    -Anh em chúng ta quen biết nhau từ khói lửa của cuộc chiến tranh, chúng ta khôn lớn và trưởng thành trong đạn bom. Gian khổ và vất vả, thậm chí kể cả hy sinh. Nhưng bù lại chúng ta có được tình bạn tình đồng chí cao thượng và vĩ đại quá, đời này kiếp này anh không thể nào quên được, nếu còn có kiếp sau anh cũng sẽ tìm đến các em.
   Nói đến đây thì cả bốn anh em ôm nhau khóc, chúng tôi khóc không thành tiếng, nhưng nước mắt cũng đủ ướt xũng những vai áo bộ đội đã bạc màu. Được một lát, chúng tôi buông nhau ra không khóc nữa, nhưng nước mắt vẫn cứ rịn ra trong khóe mắt. Tôi lại nói:
    -Anh nói điều này, có thể các em không đồng ý. Nhưng mong rằng các em hãy hiểu cho anh. Anh chỉ nhận và mang theo tấm lòng tốt của các em đã giành cho anh, còn những món quà này anh rất cám ơn các em, nhưng anh không thể mang được. Lý do vì sao thì các em đừng bắt anh giải thích, hoàn cảnh gia đình nhà anh thế nào các em đã hiểu hết, đấy chính là những điều để giải thích về việc anh không nhận những gói quà này.
   Sở dĩ tại sao tôi không nhận những gói quà này, vì trong những câu chuyện thường ngày, tôi biết nhà chúng nó nghèo lắm, làm chẳng đủ ăn, ăn độn khoai sắn quanh năm, tháng ba ngày tám thường xuyên đứt bữa, nhà tôi tuy cũng nghèo nhưng có bố tôi là cán bộ thoát ly, nên còn có tem phiếu, riêng chuyện ấy mấy ai có thể theo kịp. Nhưng điều quan trọng ở đây là: Những thứ này do thằng Chính mua về cho gia đình, để mua được những thứ này chắc nó phải tính toán và chắt chiu lắm mới có thể thực hiện được.
   Sau đấy cứ đẩy qua đẩy lại, chẳng ai chịu ai. Cuối cùng chúng tôi thỏa hiệp với nhau là: Tất cả, đổi bật lửa Zippo và dao cạo râu cánh cụp cánh xòe của Mỹ cho nhau để làm kỷ niệm. Vụ quà kỷ niệm mà các em nó tặng tôi, giải quyết như vậy cũng tạm ổn.
   Đoàn xe bon bon chạy trên đường, tôi nhìn ra ngoài. Bây giờ đã vào mùa mưa rồi, nhẽ ra cây cối phải xanh tốt, nhưng trông vẫn xơ xác cằn cỗi lắm, làng xóm thì tiêu điều hiu hắt, thi thoảng lại nhìn thấy những ngôi nhà đổ nát lạnh tanh chẳng thấy bóng người, rất nhiều dấu tích của chiến tranh còn để lại. Những người dân đi hai bên đường,  nhìn họ đăm chiêu lo lắng, dáng đi của họ tất bật đang lo toan để mưu sinh cho cuộc sống hàng ngày.
   Xe cứ chạy, hậu quả thảm khốc của cuộc chiến tranh cứ hiện dần ra theo chiều  xe chạy, qua biết bao nhiêu làng mạc thôn xóm, nhiều nhiều quá, có thể nói là hầu như hay là tất cả mọi nơi đều ghi lại những dấu ấn ác liệt của cuộc chiến tranh. Chiến tranh đã qua đi được ít thời gian, bây giờ chỉ còn nhìn thấy cảnh đổ nát, Những đống đổ nát lúc này trông nó trần trụi quá, nó chỉ phản ảnh lên được một vài khía cạnh rất nhỏ của cuộc chiến tranh. Nhưng trong sâu thẳm, từng mảnh đất, từng gốc cây, từng căn nhà, từng góc phố, từng con đường, từng cây cầu, từng đống đổ nát v.v. Đã chất chứa biết bao câu chuyện bi hùng của chiến tranh. Có lẽ lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, từ thời Vua Hùng cho đến thời đại Hồ Chí Minh, để có được độc lập tự do và toàn vẹn lãnh thổ đều phải trả bằng máu. Máu của dân tộc Việt Nam đã thấm đẫm khắp mọi nơi trên lãnh thổ Việt Nam.
    …Ngày lại ngày, đoàn xe cứ cần mẫn chở anh em chúng tôi tiến ra Miền Bắc. Càng đi càng thấy đất nước ta đẹp quá, trước kia khi hành quân vào, vì chủ yếu là đi xuyên rừng xuyên núi, đi đêm đi hôm nên không có điều kiện quan sát. Bây giờ đi giữa ban ngày, đi thênh thang trên đường quốc lộ, mọi cảnh đẹp dàn trải ở hai bên đường sao mà hấp dẫn và cuốn hút lòng người đến thế. Nhất là khi xe đi qua vùng Tam Quan Bình Định rợp mát bóng dừa, đi dọc theo bờ biển Miền Trung Trung Bộ, mùi hải sản, mùi nước mắm thơm ngậy làm chẩy cả nước miếng, lúc này giá có bát cơm nóng mà chan với nước mắm này thì ăn không biết bao nhiêu bát cơm mới đã?
  Thật là tuyệt vời! Tuy chưa ra khỏi vùng đất này, mà đã mong có ngày trở lại để tham quan du lịch, để chứng kiến sự đổi thay của đất nước. Càng nhìn cảnh đẹp của non sông đất nước vừa được giải phóng, càng cảm thấy nuối tiếc. Nếu không có cuộc chiến tranh kéo dài hơn 20 năm, nếu không có những căn cứ quân sự, những đồn bốt, những khu phi quân sự, những sân bay dã chiến, những công trình phục vụ chiến tranh, những dấu tích hủy diệt của hàng triệu tấn bom đạn, thì Miền Nam Việt Nam còn đẹp biết chừng nào.
   Có lẽ bất kể ai, khi nhìn thấy cảnh này đều lắc đầu ngao ngán và cảm thấy nuối tiếc cho những gì đã mất, đến bây giờ mới lấy lại được để bắt đầu xây dựng lại từ đầu.
(Còn nữa).


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: vanthang341ht trong 31 Tháng Mười, 2012, 11:15:23 am
 

           Chào bạn Quânvn.
    Tôi đang theo giõi “những cuộc hành quân” của bạn. Bạn viết rất hay. Bạn có lối kể, không chỉ kể những chuyện mình đã làm một cách chân thật mà bạn còn lồng trong đó tâm trạng, tình cảm người kể ở những tình huống cụ thể. Bởi vậy tuy không phải là nhà văn mà bài viết của bạn mang dáng dấp văn học. Cách kể chuyện nhẹ nhàng, sâu sắc, không lên gân, không giáo huấn. Thái Minh Hùng nói phải: “Đáng ra quân đội phải đưa bạn về trường sỹ quan chính trị để đào tạo thành chính trị viên hoặc cán bộ tuyên huấn thì chuẩn quá”. Tôi là một cán bộ tuyên huấn sư đoàn nhưng tôi không viết được như bạn.
     Chúc ban sức khoẻ, hạnh phúc, đều tay phím, làm đẹp thêm trang VMH.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 05 Tháng Mười Một, 2012, 09:45:57 am
   Chào anh Vanthang 341ht, chào các bạn đọc giả. Cám ơn anhVanthang quá khen, để đạt được những điều như anh nói thì tôi phải đi học thêm nghề này. Chắc là cố gắng học thì cũng làm được, vì mình là người lính mà. Nhưng mà bây giờ đã nghỉ hưu rồi, sống hoài niệm nên tôi viết để nhớ đến đồng đội, nhớ lại ngày xưa và cũng không dấu diếm các anh, tôi cũng có ý viết để lại cho con cháu tôi. Bây giờ con cháu tôi nó đang mải bươn trải lo kiếm sống, chúng chưa có thời gian đọc. Sau này, tôi tin rằng nó sẽ đọc. Khi nó đọc rồi, nó mới hiểu được ông cha nó sống như thế nào để có ngày hôm nay. Khi ấy nó mới trân trọng quá khứ vinh quang của chúng ta, của dân tộc. Kể ra làm như vậy cũng hơi lạm dụng, mong anh Vanthang341ht và các bạn bỏ qua cho. Nay kính.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 05 Tháng Mười Một, 2012, 09:47:00 am

NHỮNG CUỘC HÀNH QUÂN
          Sau mấy ngày nghỉ chờ xe, sáng nay chúng tôi lại tiếp tục hành quân ra Bắc, xe qua Huế cố đô của nhà Nguyễn. Vùng đất này, không phải là địa bàn hoạt động của đơn vị tôi, nên tôi không biết gì về Huế. Ngày còn đi học, tôi chỉ biết Huế qua sách vở. Theo lời kể của mọi người thì Huế là một thành phố đẹp nằm soi bóng bên bờ sông Hương thơ mộng, con gái xứ Huế hồn nhiên, mơ mộng, dịu dàng và thướt tha trong tà áo dài mầu tím, mầu biểu tượng cho tình yêu chung thủy và đợi chờ. Vẻ đẹp của Huế chỉ có vẻn vẹn như vậy trong tôi. Hôm nay đi qua Huế, tôi chưa cảm nhận được cái đẹp ấy, phải chăng là do chiến tranh đã lấy đi cái đẹp của Huế. Tôi thấy Huế trần trụi và đầy nắng gió.
   Ra đến gần khu vực Thành Cổ Quảng Trị, tôi cố gắng tập trung theo dõi để nhìn lại mảnh đất mà tôi đã sống và chiến đấu ở đây gần ba năm trời, từ tháng 8 năm1972 đến tháng 2 năm 1975. Sau đó đơn vị chúng tôi hành quân đi chiến dịch Tây Nguyên giải phóng Buôn Ma Thuột, giải phóng Long Khánh Xuân Lộc, rồi đến chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng Sài Gòn thống nhất đất nước, đến bây giờ mới quay trở lại.
   Xe chạy cũng không nhanh lắm, nhưng cảnh vật hai bên đường cứ loang loáng chạy lùi lại phía sau xe, tôi cố gắng quan sát, hết nhìn bên phải lại nhìn sang bên trái, cứ nhìn được bên này lại mất bên kia. Giá mà lúc này xe dừng lại ít phút, để tôi được nằm bò ra mảnh đất này để ôm lấy nó vào lòng, được hôn hít nó, để ngửi được mùi của đất, mùi xương máu của biết bao nhiêu đồng bào và chiến sĩ đã đổ xuống mảnh đất này.
   Xe qua cầu phao bắc qua sông Thạch hãn, nhìn dòng sông thân quen, nhìn chiếc cầu đổ, bao nhiêu kỷ niệm lại ùa về trong tôi. Đoạn sông từ Tri Bưu ngược lên thượng lưu đến thôn Đá Đứng, rất nhiều đoạn mà tôi với anh em đã vượt qua, bơi qua bơi lại không biết bao nhiêu lần. Sông Thạch Hãn vào mùa mưa nước dâng cao và chẩy xiết, sông trở nên hung giữ, vào mùa khô nước lững lờ trôi, nước sông trong xanh và hiền hòa.
   Tự nhiên tôi cảm thấy rùng mình, người ớn lạnh, khi tôi nghĩ về những cuộc vượt sông. Không phải cuộc vượt sông nào cũng trót lọt, có những cuộc vượt sông đau thương và xót xa. Pháo địch cấp tập bắn xuống sông, những cột nước dựng lên đục ngầu trộn lẫn cả máu tươi, xác người, xác cá, xác xuồng cao su, vỏ phao bơi tung lên rồi rơi xuống, tiếng kêu cứu tiếng la hét chìm trong tiếng nổ chát chúa của những trái pháo… Mấy năm trời như vậy, hàng chục cây số đường sông từ thôn Đá Đứng ra đến Cửa Việt, ai có thể biết được đã có bao nhiêu thi hài những chiến sĩ của chúng ta nằm lại dưới đáy sông.
    Xe ra đến giữa cầu, tôi ngoái nhìn lại Thành cổ Quảng Trị. Sự thật là tôi không thể nhận ra được chút gì gọi là Thành cổ, mà tôi chỉ thấy đó là một đống đổ nát và hoang tàn. Trời cũng đã quá trưa rồi, ánh nắng mặt trời chói chang, tôi chắm chú nhìn không rời mắt, càng nhìn càng thấy âm khí cứ cuồn cuộn bốc lên. Không biết có phải là hiện tượng bức xạ nhiệt do ánh sáng mặt trời hay không? Hay là linh hồn của các chiến sĩ đang hiện về để nhắn nhủ chúng tôi. Đầu óc tôi quay cuồng, tôi khấn thầm:
    -Các anh sống khôn chết thiêng hãy về phù hộ cho bố mẹ, vợ con, gia đình và người thân, các anh cũng đừng quên phù hộ cho chúng tôi, những đồng chí đã cùng các anh sông pha dưới mũi tên hòn đạn, chẳng may số phận ngiệt ngã đã bắt các anh phải ra đi, chúng tôi may mắn còn sống sót, có được ngày hôm nay chúng tôi mang ơn các anh nhiều lắm, các anh đã hy sinh để chúng tôi được sống.
   Các anh ơi! Ở dưới suối vàng các anh có biết không? Chúng tôi đã làm được những điều mà khi còn sống, các anh và chúng tôi ai ai đều mong ước đó là: Giải phóng Miền nam thống nhất đất nước, chúng ta sẽ cùng nhau trở về quê hương để phụng dưỡng bố mẹ già và chăm sóc vợ con. Chỉ tiếc là, Miền Nam đã giải phóng, đất nước đã thống nhất, ước mơ của chúng ta đã thành sự thật. Nhẽ ra chúng ta cùng nhau trở về, nhưng thương ơi các anh vẫn còn nằm lại nơi đây, chúng tôi buồn lắm nói chẳng thành lời.
    Giờ này đây, tôi đang ngồi trên xe hành quân ra Bắc, xe qua chỗ các anh nằm, tôi biết các anh hiện nay người thì nằm dưới sông người thì nằm trên bờ, ở dưới đó bạn bè đồng chí thì đông, nhưng các anh vẫn cô đơn và trống trải, các anh đang khát khao muốn nghe lời ru của mẹ, muốn nhìn thấy sự điềm tĩnh đến khắc khổ của cha, các anh muốn nghe thấy tiếng trẻ thơ bi bô, thấy đàn em tung tăng cắp sách tới trường, thấy nhịp sống của gia đình mình của làng xóm quê hương và sự đổi thay của đất nước. Những mơ ước của các anh là chính đáng, thời gian nữa gia đình đồng đội, tổ quốc sẽ làm hết sức mình để đưa các anh về với nơi chôn nhau cắt rốn, về cái nơi mà các anh đã được sinh ra và lớn lên, nơi có bố mẹ và gia đình, nơi cội nguồn của sự sống.
   Các anh ơi! Hoàn cảnh hy sinh của các anh chỉ có những người trong cuộc như chúng ta mới biết được, các anh thấy có đúng không? Nó đa dạng và phức tạp lắm, bởi vì chiến tranh quá phũ phàng nên nhiều người hy sinh không được toàn thây, người nọ chồng lên người kia, có người vừa chôn xong thì đạn pháo lại cướp mất xác, bom đánh trúng hầm xóa đi tất cả dấu vết của biết bao con người, người hy sinh dưới sông người hy sinh trên bờ, người trong hầm người dưới giao thông hào, đủ mọi kiểu, mọi vị trí. Tôi nói vậy là mong các anh hiểu cho và thông cảm với những người sau này đi tìm hài cốt của các anh, có thể có gia đình tìm thấy, thì đấy là điều hạnh phúc của các anh của gia đình, nhưng tôi tin rằng sẽ có nhiều gia đình không tìm thấy. Khi ấy, giải pháp cuối cùng của họ là bốc nắm đất trong đó có cả xương thịt của anh và đồng đội, mang về thờ cúng cho nguôi ngoai nỗi nhớ. Mong các anh đừng giận và đại xá cho, đừng oán trách gia đình và người thân mà tội nghiệp.
   Trên xe, không đồ lễ, không có lấy thẻ hương, thậm chí không có một điếu thuốc lá, để tôi đốt lên mời các anh hút chung. Tôi chỉ có lòng thành, chắp tay bái vọng, cầu mong linh hồn các anh ở dưới suối vàng  siêu thoát. Các anh sống khôn chết thiêng phù hộ cho những người còn đang sống. Tổ Quốc tri ân các anh, lịch sử đời đời ghi nhận công lao của các anh, những người con đã anh dũng hy sinh vì độc lập tự do của Tổ Quốc.
   Xe ra đến căn cứ Ái Tử, ở đây không còn sự uy nghi và đồ sộ của một khu căn cứ như hồi nào, thời gian ngày tháng với sự tác động của con người đã làm cho nó biến dạng và dần mất đi. Ở đây chỉ còn lại những vạt cát trắng, những rặng phi lao cằn cỗi và trơ trụi. Xa xa, nhìn về phía động Ông Do đã thấy những chỗ có cây mọc xanh um, nhưng vẫn còn nhiều chỗ vẫn đỏ ối, loang lổ khắp mọi nơi.
   Xe qua cầu Lai Phước, qua thị xã Đông Hà. Tôi lặng lẽ chào tạm biệt mảnh đất thân thương đã chứa đựng biết bao nhiêu kỷ niệm đầy máu và nước mắt, của một thời gian khổ và ác liệt. Chào đường quốc lộ số 9, đi Khe Sanh Lao Bảo, tuyến đường đã đưa chúng tôi sang nước bạn Lào, rồi lại quay lại Việt Nam để hoàn thành sứ mạng lịch sử là giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước.
   Xe bon bon qua Cồn Tiên Dốc Miếu, đoàn xe hùng dũng uy nghi chở những người chiến thắng, đi xuyên qua hàng rào điện tử Macnamara, đã từng một thời mà Mỹ Ngụy coi là bất khả xâm phạm, con sâu cái kiến cũng không thể vượt qua được, chứ đừng nói đến Việt Cộng, rồi là nếu Việt Cộng cố tình đánh vào thì hàng rào này chỉ có chùng xuống chứ không thể bị đứt được v.v. Tất cả chỉ còn là ảo tưởng.
   Chúng tôi đi qua khu phi quân sự, cảnh hoang tàn và lãnh lẽo, không biết bao tấn chất diệt cỏ được rải vào đây? Còn bao nhiêu bãi mìn chưa nổ chúng nằm ở những chỗ nào? Rồi còn bao nhiêu lớp hàng rào kẽm gai? Tất cả đều là thứ vũ khí giết người, để phục hồi lại đất đai, chắc chắn chúng ta sẽ gặp không ít khó khăn, thậm chí phải đổ cả máu.
   Qua cầu Hiền Lương. Lần đầu tiên trong đời, tôi được biết cầu Hiền Lương. Trước kia tôi chỉ biết cầu Hiền Lương trong sách vở và phim ảnh, qua đây tôi nhớ tới những bộ phim: Chung một dòng sông; Con chim Vành Khuyên; Chị Tư Hậu; Vĩ tuyến mười bẩy ngày và đêm v.v. Qua sông Hiền lương, tôi thực sự xúc động. Con sông nhỏ bé này, thế mà hơn hai mươi năm trời lại là giới tuyến chia cắt hai miền Nam Bắc. Tôi nghĩ, con sông này sẽ vĩnh viễn đi vào lịch sử, bởi nó đã chứng kiến không biết bao nhiêu những cuộc chia ly, chứng kiến hơn hai mươi năm qua nước sông hòa cùng nước mắt,  chứng kiến tình cảm của người bờ Bắc thương nhớ người bờ Nam, người bờ Nam mong mỏi đợi chờ người bờ Bắc.
   Xe qua cầu, trên xe chẳng ai nói với ai, nhưng tất cả đều ngoái lại để nhìn mảnh đất đau thương và anh dũng ấy một lần nữa.
   Xe chúng tôi tiến vào địa phận Vĩnh Linh, mọi người trên xe cố gắng tập trung quan sát xem mảnh đất và con người Vĩnh Linh bây giờ thế nào? Tham vọng như vậy, nhưng sự thật thì không có cơ sở để nhận xét, bởi lẽ: Trước kia không biết Vĩnh Linh thế nào, để so sánh với Vĩnh Linh hôm nay. Vĩnh Linh hôm nay, tất cả đều trơ trụi không còn gì. Bom đạn nhiều đến nỗi con người không thể ở được trên mặt đất mà tất cả đều phải xuống địa đạo, những ai không còn đủ sức chiến đấu thì ở dưới địa đạo, ai còn đủ sức thì lên mặt đất, bám đất giữ làng, trẻ đang độ tuổi đi học thì gửi ra Miền Bắc tiếp tục đi học, cuộc sống cứ như vậy diễn ra hàng ngày và kéo dài biết bao năm trời… Thật là khó tưởng tượng tại sao con người lại vẫn tồn tại được trên mảnh đất này. Bây giờ, Vĩnh Linh sự sống đang vươn lên mãnh liệt, mảnh đất đã bắt đầu hồi sinh.
   Đi vào đất Quảng Bình xe qua thị xã Đồng Hới, chợt tôi nhớ đến bài hát: Bình Trị Thiên khói lửa. Đúng là: “ Ôi đau thương điêu tàn… Đồng bào ơi, cùng Bình Trị Thiên đứng lên…Cho đàn em cất tiếng hát. Cho cánh đồng lúa bát ngát. Cho nơi nơi yên vui chan hòa…”. Tôi cầu mong cho Bình Trị Thiên không còn khói lửa chiến tranh, để cho mọi nơi mọi chốn yên vui chan hòa.
   Xe qua Hà tĩnh, vào đất Nghệ An. Dải đất khu bốn anh hùng và bất khuất. Nhìn những người dân Miền Trung, hiền lành chụi khó đang cần cù lao động ở những thửa ruộng hai bên đường, tôi nghĩ: Cuộc chiến tranh này, nếu không có sự đóng góp sức người sức của, của quân và dân khu bốn thì không biết nó sẽ ra sao?
   Sự hy sinh của người dân khu bốn âm thầm và lặng lẽ quá, người trước ngã xuống, người sau lại tiến lên, cuộc sống không ai còn biết nghĩ cho mình nữa, lúc nào cũng lo an toàn cho những cung đường và đảm bảo thông xe ra chiến trường. Đường tắc, những đoàn xe vận tải quân sự ùn lại, lại thấy bóng những thanh niên xung phong, những dân quân tự vệ tràn ra mặt đường đảm bảo giao thông, nhiều gia đình đã dỡ cả nhà để bắc cầu cho xe qua. Người dân khu bốn sẵn sàng hy sinh tất cả, vì độc lập tự do của Tổ Quốc.
   Nghĩ đến một chuyện mà tôi chạnh lòng nhưng chưa một lần xác nhận điều ấy. Tất cả những người lính trên đường hành quân ra trận, không nhiều thì ít, cũng đã có lần dừng lại nghỉ chân tại những nhà dân ở khu vực này. Đã nghỉ lại chắc chắn mọi người sẽ đọc được những mẩu tin chi chít viết bằng đủ mọi loại chữ, đủ mọi loại bút, lên tường nhà lên cột nhà. Nội dung của những mẩu tin ấy cũng đa dạng phong phú, từ tên tuổi, kỷ niệm ngày đến ngày đi, đến phiên hiệu đơn vị. Cũng có những mẩu tin ghi cần phải cảnh giác với gia đình này vì bộ đội bị mất cái nọ cái kia v.v. Ngay từ những lúc ấy, tôi đã nghĩ những người viết mẩu tin này hơi quá đáng. Nếu nó là thật, thì âu cũng là hoàn cảnh chiến tranh ác liệt quá, mà con người thì vẫn phải sống và tồn tại để phục vụ chiến tranh, bởi thế cũng không nên viết như vậy. Hôm nay trên đường trở ra Miền Bắc, tôi vẫn giữ nguyên quan điểm ấy và tôi vô cùng kính phục quân và dân khu bốn.
   Từ thành phố Vinh trở ra, chúng tôi được đi bằng tầu hỏa. Mang tiếng là đi bằng tầu hỏa êm hơn và không xóc, nhưng quá sốt ruột vì tầu đi chậm hơn cả sên bò. Lòng dạ lính tráng thì đang nóng như lửa đốt, mong ngày mong đêm để được về nhà, trong khi đó thì đoàn tầu cứ như vô cảm, cứ ẽo à ẽo ẹt, lăn bánh trên những thanh ray và những thanh tà vẹt cũ rỉ đã phải thay đi thay lại nhiều lần do bị bom Mỹ làm cho hư hỏng. Mỗi lần đoàn tầu qua cầu, cầu thì rung còn người thì run, tất cả mọi người trên tầu nín thở chờ đợi những phút giây nguy hiểm sẽ qua đi.
   Chúng tôi đang đi trên Miền Bắc XHCN, xung quanh chúng tôi chi chít những hố bom, những nhà máy những công trình bị bom Mỹ làm cho đổ nát. Tầu chạy đều đều, tôi lẩm nhẩm xắp xếp lại công việc cần làm của những ngày sắp tới, tôi mơ gặp người này gặp người kia, tôi thấy vui lắm. Đang vui vẻ phấn khởi, chẳng hiểu sao tôi lại nghĩ về tương lai của mình, tương lai của đất nước. Chắc rằng: Chuỗi ngày tiếp theo sẽ là chuỗi ngày đầy khó khăn thách thức, vì đất nước và con người vừa trải qua cuộc chiến tranh tàn khốc kéo dài hơn hai mươi năm. Kể ra thì cũng buồn, nhưng không sao. Vì: “Bàn tay ta làm ra tất cả, có sức người sỏi đá cũng thành cơm.” Nghĩ đến đấy tôi se sẽ hát.
    Đoàn tầu đưa chúng tôi về ga Thường Tín, điểm cuối cùng của chặng đường hành quân. Tôi tự hỏi: Không biết đây đã là cuộc hành quân cuối cùng trong cuộc đời binh nghiệp của tôi chưa?
                                                     HẾT.
   
   



Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: thaiminhhung trong 05 Tháng Mười Một, 2012, 02:12:18 pm
      Cám ơn bác Quân, bác đã nói được nỗi lòng của những người lính sau chiến tranh được trở về nhà với những người thân và gia đình. Đúng là :"Xiết bao sướng vui được hành quân ra Bắc.."


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: lexuantuong1972 trong 05 Tháng Mười Một, 2012, 05:18:31 pm
...Xe qua cầu phao bắc qua sông Thạch hãn, nhìn dòng sông thân quen, nhìn chiếc cầu đổ, bao nhiêu kỷ niệm lại ùa về trong tôi. Đoạn sông từ Tri Bưu ngược lên thượng lưu đến thôn Đá Đứng, rất nhiều đoạn mà tôi với anh em đã vượt qua, bơi qua bơi lại không biết bao nhiêu lần. Sông Thạch Hãn vào mùa mưa nước dâng cao và chẩy xiết, sông trở nên hung giữ, vào mùa khô nước lững lờ trôi, nước sông trong xanh và hiền hòa.
______

Bác QVN à, ở đoạn trên bác viết như thế sẽ nhầm lẫn địa danh Tri Bưu nằm bên dòng Thạch Hãn. Thực ra Tri Bưu nằm cạnh nhánh sông Nhùng chảy ra sông Vĩnh Định.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: qtdc trong 05 Tháng Mười Một, 2012, 06:38:35 pm
Bác quanvietnam: bác viết rất hay, không đao to búa lớn mà nhẹ nhàng thấm thía, sự kiện và tâm tư tình cảm của con người tham gia vào sự kiện đó luôn hiển hiện cùng nhau. Bác gắng viết tiếp chuyện về sau cho nó trọn vẹn nhất là đoạn người lính trở về đi học tiếp rồi đi làm trong những năm khốn khó sau chiến tranh chống Mỹ nhưng đất nước đã lại bước vào một cuộc chiến tranh mới ở 2 đầu biên giới.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: vanthang341ht trong 05 Tháng Mười Một, 2012, 07:39:20 pm

NHỮNG CUỘC HÀNH QUÂN
        ...
    Đoàn tầu đưa chúng tôi về ga Thường Tín, điểm cuối cùng của chặng đường hành quân. Tôi tự hỏi: Không biết đây đã là cuộc hành quân cuối cùng trong cuộc đời binh nghiệp của tôi chưa?
                                                    

   Bạn có đánh giá khái quát những đặc điểm nổi bạt qua từng địa danh trong cuộc chiến đấu chống Mỹ từ Nam ra Bắc khá hay.
   Việc bạn tự hỏi:" Không biết đây đã là cuộc hành quân cuối cùng trong cuộc đời binh nghiệp của tôi chưa?" Tôi đang chờ câu trả lời của bạn trong trang tiếp của bạn đây.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: TichTuongNhuLe trong 06 Tháng Mười Một, 2012, 12:02:22 am
...Xe qua cầu phao bắc qua sông Thạch hãn, nhìn dòng sông thân quen, nhìn chiếc cầu đổ, bao nhiêu kỷ niệm lại ùa về trong tôi. Đoạn sông từ Tri Bưu ngược lên thượng lưu đến thôn Đá Đứng, rất nhiều đoạn mà tôi với anh em đã vượt qua, bơi qua bơi lại không biết bao nhiêu lần. Sông Thạch Hãn vào mùa mưa nước dâng cao và chẩy xiết, sông trở nên hung giữ, vào mùa khô nước lững lờ trôi, nước sông trong xanh và hiền hòa.
______

Bác QVN à, ở đoạn trên bác viết như thế sẽ nhầm lẫn địa danh Tri Bưu nằm bên dòng Thạch Hãn. Thực ra Tri Bưu nằm cạnh nhánh sông Nhùng chảy ra sông Vĩnh Định.

     Bác LXT ! bác QuanVietNam nói từ Tri Bưu đến Đá Đứng cũng được chứ. Vì, Tri Bưu ngay sát đông bắc Thành Cổ. Tôi bôi hồng  một vệt trên bản đồ thấy nó cũng ven theo Thạch Hãn mà. Bác QuanVietNam nói đại ý, có tính chất thống kê thì thế cũng được.
(http://farm9.staticflickr.com/8061/8158244492_dc860083c5_b.jpg)


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 06 Tháng Mười Một, 2012, 02:25:36 pm
          Chào bác chủ! Vâng như vậy là:" bộ đội ta chiến thắng trở về" Có điều là ở đây không có hoa ban trắng. Mà chỉ có những dấu tích của những trận đánh năm xưa. Cùng với những chiến công và những sự đổ máu hy sinh của biết bao người lính đã từng cầm bút trước khi cầm súng.

          Bác là một người trong số đó và đã may mắn còn sống. Tôi đảm bảo rằng đường hoa chiến công trở về, niềm vui của tất cả mọi người nhưng với bác, với chúng ta niềm vui được hòa quyện cùng những giọt nước mắt. Cam go, cay đắng, đói khổ, đủ đường. Tưởng như sức người, sức trai không thể vượt qua nổi. Bác về với giảng đưởng, về với gia đình mà bao hương hồn của các đồng đội, các liệt sỹ ào theo như chúc mừng, như nứu kéo và như nhắn nhủ những điều gì đó.. Tôi đọc bài bác viết mà thấy rơn người. Phải chăng hàng ngày chúng ta đang sống, vẫn có Thằng A, Thằng B .. DÕI THEO CÙNG NÂNG BƯỚC GIÚP TA TRONG CUỘC SỐNG!

            Chúc bác có thêm nhiều sức khỏe để viết, để kể tiếp mạnh chuyện đời rất đang hay của mình! Kính bác!


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 04 Tháng Mười Hai, 2012, 11:41:54 am
 Chào tất cả anh em trên diễn dàn! Tôi định không viết nữa,  nếu cứ cố mà viết thì không biết lấy đâu ra vốn để viết, lại phải nói đi nói lại, hoặc là tạ tật vào các địa chỉ để có số có má, như vậy thì quá dở. Nghĩ thế nhưng không làm được, vì trang này có sự cuốn hút và lan tỏa ghê gớm quá, nên tôi lại cố, mà đã cố thì đều gượng ép. Mong mọi người chiếu cố, xin cám ơn.
 Cám ơn các anh: Thái Minh Hùng; Lê Xuân Tường; qtdc; TTNL; Vanthang; Tranphu, và các đọc giả khác đã xem và góp ý cho Quanvn ở phần: “ Những cuộc hành quân”. Quanvn  cảm thấy rất vui. Xin cám ơn tất cả.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 04 Tháng Mười Hai, 2012, 11:44:50 am

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
1-Ở đoàn an dưỡng.
          Tôi được chuyển về đoàn an dưỡng X, đóng ở xã Gia sinh huyện Gia Viễn tỉnh Ninh Bình. Không biết có phải do lạ nhà hay là do sốt ruột mà cả đêm qua tôi ngủ chẳng ra sao, cứ mơ màng lúc tỉnh lúc say, trằn trọc trên giường chỉ mong trời nhanh sáng để còn xin phép đơn vị về thăm nhà.
   Kẻng báo thức, tôi đã vùng khỏi giường ra sân tập thể dục. Vì mới về, nên tôi chẳng quen ai ở đây, thấy anh em xếp hàng, tôi cũng xếp hàng, họ tập còn tôi cứ đứng nhìn, tôi không quen với những bài tập này. Hồi còn là sinh viên thì có bao giờ tập thể dục, bọn tôi thằng nào thằng nấy cứ ngủ sưng cả mắt, thậm chí khênh vứt đi chỗ khác cũng chưa chịu mở mắt, mãi đến khi nhập ngũ lúc đó chúng tôi mới bắt đầu biết tập thể dục buổi sáng, được ít bữa thì lên đường đi chiến đấu, thế là lại quên mất, trong thời gian chiến đấu thì không nói làm gì, đến khi đơn vị rút ra để củng cố và huấn luyện thì lại tập thể dục buổi sáng. Nhưng vì ở đơn vị trinh sát nên tập thể dục buổi sáng cũng tập võ dân tộc, nên những bài này tôi cũng không thuộc. Thôi đành vậy, đã đứng vào đây rồi thì cũng múa may cho qua chuyện.
   Làm vệ sinh cá nhân rồi ăn sáng xong, tôi lên ngay phòng trực ban để đăng ký xin gặp thủ trưởng. Đồng chí trực ban, hỏi han qua loa rồi hướng dẫn tôi đến gặp thủ trưởng. Lúc ấy vẫn chưa đến giờ nên đồng chí thủ trưởng cũng chưa tới, tôi ngồi chờ ở phòng khách. Đúng 7 giờ 30  một đồng chí đeo quân hàm đại úy bước vào, ông thuộc dạng người: Rửa mặt thì lâu nhưng gội đầu thì chóng, người tầm thước, da dẻ trông trắng trẻo nên cũng khó đoán tuổi, nhưng ông đeo quân hàm đại úy thì chắc cũng lớn tuổi rồi, vì tôi thấy trung đoàn trưởng của tôi ở chiến trường cũng lớn tuổi mà chỉ có quân hàm thiếu tá. Tôi đứng dậy chào và tự giới thiệu về mình. Hình như ông không nghe tôi nói, mà đi thẳng vào phòng làm việc của mình. Hoàn cảnh này tôi không biết xử lý thế nào nên đành ngồi xuống chờ đợi, mà ruột gan thì bồn chồn, lo âu.
   Chừng 15 đến 20 phút sau, có đồng chí hạ sĩ quan trực ban trẻ măng, đến mời tôi vào làm việc. Theo chân đồng chí hạ sĩ quan tôi vào phòng làm việc của đồng chí đại úy, đoàn trưởng đoàn an dưỡng. Ông không nhìn chúng tôi, nhưng vẫn mời tôi ngồi và nói với đồng chí hạ sĩ quan trực ban:
    -Đồng chí về đề nghị bên quân lực nộp báo cáo cho tôi vào đầu giờ chiều.
    -Rõ!
   Đồng chí hạ sĩ quan trực ban nhận nhiệm vụ rồi đi ra. Ông đại úy vẫn không nhìn tôi, mắt chăm chú nhìn vào tập giấy tờ để trước mặt và hỏi:
    -Có vấn đề gì đồng chí?
   Chỉ cần có như vậy, là tôi lập tức trình bầy nguyện vọng là xin phép được về thăm gia đình. Ông đại uý vẫn không nhìn tôi và thủng thẳng nói:
    -Nguyện vọng của đồng chí là chính đáng, ở hoàn cảnh đồng chí thì ai cũng làm như vậy. Nhưng đồng chí cũng phải thông cảm, chúng tôi cần thời gian để chuẩn bị.
   Tôi hơi ngạc nhiên và khó hiểu, vì có cái gì đâu mà phải chuẩn bị, mọi thủ tục giấy tờ thì đã làm xong từ chiều hôm qua, tôi đã được xắp xếp biên chế vào đơn vị và đã nhận giường nằm. Tôi nghĩ những thủ tục ban đầu như vậy là quá đủ, có thể cho anh em về thăm gia đình cho thoải mái tư tưởng rồi sẽ quay lại đơn vị, khi ấy làm gì cũng chưa muộn.
   Ông đại úy nói đến đấy thì dừng lại không nói tiếp nữa, làm tôi không hiểu là ông đồng ý hay không đồng ý. Tôi lại tiếp tục trình bầy hoàn cảnh:
    -Vì bây giờ đã là cuối tháng 8 rồi, đầu tháng 9 nhà trường sẽ khai giảng năm học mới, nên tôi muốn tranh thủ về thăm gia đình, sau đó lên xin phép đơn vị để về trường cũ tiếp tục đi học.
   Tôi có cảm nhận, hình như ông đại úy này đã chai lỳ với những trường hợp tương tự như thế này. Ông vẫn dửng dưng đọc tài liệu, tay phải với ra phía tôi sờ sẫm trên mặt bàn để tìm vật gì đó. Thấy ông làm như vậy, tự nhiên tôi nghĩ đến hình ảnh của một bộ phim, có ông quan huyện tiếp dân cũng kiểu như thế này, một tay thì cầm tờ đơn kiện để đọc, tay kia thì cứ sờ vào chiếc đĩa để không, còn người nông dân nọ không hiểu gì vẫn đứng im.
   Ông đại úy quờ quạng một lúc không thấy gì, ông không đọc tài liệu nữa, lúc đó ông mới quay sang nhìn tôi, bốn mắt nhìn nhau. Ông hỏi tôi:
    -Đâu?
   Tôi không hiểu ông hỏi “ Đâu” là cái gì đâu. Hay là ông cũng giống như hình ảnh của ông quan huyện. Ý nghĩ ấy vừa lóe lên, tôi vội vàng dập tắt ngay luồng suy nghĩ ấy và phân vân khẳng định không thể có chuyện ấy xảy ra trong đơn vị quân đội. Mình nghĩ như thế thì cần xem lại mình. Tôi còn đang lúng túng chưa biết nên nói thế nào, ông lại tiếp tục:
    -Đơn trình bầy của đồng chí đâu?
   Nghe đến đấy tôi biết là thiếu xót, nhưng mà nhẹ cả người, vì câu hỏi của ông đã xóa đi trong tôi một sự hiểu nhầm. Người tôi nóng ran, mặt thì phừng phừng, hơi thở thì gấp gáp, giống như là tôi vừa làm một việc gì xấu mà bị phát hiện.  Nhưng tôi đoán chắc là ông không phát hiện ra tôi đỏ mặt, vì tôi bị sốt rét nên da dẻ tái nhợt, môi thì thâm xì, thì làm gì có chuyện đỏ mặt, nếu có chăng thì chỉ đỏ hai vành tai. Tôi gãi đầu chống chế:
    -Báo cáo thủ trưởng! Tôi tưởng không cần viết đơn nên tôi không viết. Xin lỗi thủ trưởng, bây giờ tôi sẽ viết ngay.
   Thực ra, trong thời gian quân ngũ của tôi, đây là lần thứ ba tôi xin phép được ra khỏi đơn vị, hai lần trước đều xin phép bằng mồm. Lần thứ nhất, hồi đang huấn luyện, ở Phú Bình Bắc Thái, tôi xin phép tranh thủ ra khỏi đơn vị thăm Vân đang ở trọ trong làng. Lần thứ hai, trên đường hành quân đi chiến đấu, đơn vị dừng chân tạm nghỉ ở Ninh Bình, tôi xin phép tranh thủ về thăm nhà được một đêm. Lần này là lần thứ ba, tôi nghĩ là đơn giản như hai lần trước, nên tôi không biết là phải viết đơn. Nào ngờ…
   Ông sẵng giọng:
    -Muốn xin xỏ hay đề nghị cái gì thì cũng phải có đơn từ, đằng này lại chỉ có mồm không, ngộ nhỡ xảy ra chuyện gì thì biết nói thế nào. Về viết rồi mang lên đây.
     Ông nói thì cũng đúng, nhưng thấy thái độ của ông không được thân thiện cho lắm, kể ra cũng khó chịu, nhưng tôi chấp nhận. Mục tiêu của tôi lúc này là về thăm nhà, tôi sẽ cố gắng làm đúng và làm đủ theo yêu cầu của thủ trưởng, vấn đề là tôi đạt được mục đích. Tôi đứng lên chào ông rồi xin phép về  viết đơn.
   Viết một lá đơn, chẳng có gì khó đối với tôi, cùng lắm thì một tiếng đồng hồ là viết xong. Nhưng hôm nay phải mất gần hai tiếng. Trước hết là phải đi kiếm được giấy bút. Đã lâu lắm rồi tôi làm gì có giấy bút, đơn giản là tôi không cần nó, nên tôi chẳng tích trữ làm gì, bây giờ cần đến nó thì phải đi kiếm. Tôi nghĩ: Bây giờ kiếm nó ở đâu? Mượn anh em trong đơn vị, mình vừa mới về có quen ai đâu mà mượn, mà biết ai có để hỏi, có khi hỏi vòng vo lại mất cả thời gian. Hay ra ngoài mua? Cũng không được, vì tôi không có tiền, mặt khác không biết chỗ nào bán bút mực, giấy vở để đi mua, chả lẽ lại vào nhà dân xin. Kể cũng bí, nghĩ một hồi chỉ còn phương án nhờ đồng chí trực ban kiếm hộ là khả thi nhất.
    Thật là may mắn, được sự giúp đỡ của đồng chí trực ban, tôi viết xong lá đơn rồi đi như bay lên phòng đồng chí đại úy đoàn trưởng. Thất vọng quá, trong phòng chẳng có ai. Tôi quay lại hỏi đồng chí trực ban, đồng chí cũng không biết. Thế là đành chịu.
   Không biết làm thế nào, tôi đành trở lại phòng khách ngồi chờ, nhìn đồng hồ bây giờ đã là 11 giờ kém 15 rồi, cứ ngồi đây chờ đến 11 giờ 30 sẽ lên gặp, tôi tự xắp xếp như vậy. Ngồi chờ đã sốt ruột lại hay nghĩ vơ nghĩ vẩn. Tôi tính quãng đường, từ đây về đến thị xã Ninh Bình là khoảng 17 đến 18 cây số, chưa biết đi bằng phương tiện nào, cứ ra đường rồi vẫy xe có cái gì đi bằng cái đấy. Về đến thị xã sẽ vào chỗ chị gái, nếu chị gái đã chuyển đi chỗ khác thì nhờ người quen mượn hộ chiếc xe đạp để về quê, từ thị xã về nhà 24 cây số. Cứ về đến thị xã thì cho dù là đêm tối cũng sẽ về nhà ngay trong đêm. Nghĩ thế và thấy sắp sửa được về nhà tôi cũng có phần đỡ nóng ruột.
   Kẻng cơm trưa, tôi về ăn cơm. Bữa cơm thứ hai tôi ăn ở đoàn an dưỡng, toàn những thứ ngon nhưng tôi ăn không vào, vừa ăn vừa để ý xem đồng chí đoàn trưởng có ăn bên gian sĩ quan không? Cũng không thấy. Ăn xong tôi bỏ bát bỏ đũa rồi lên phòng khách ngồi chờ, tôi nghĩ có về cũng không ngủ được, thôi thì cứ chờ ở đây biết đâu lại gặp được.
   Trưa, ở vùng đồng chiêm trũng Gia Sinh Gia Viễn Ninh Bình. Đã vào hạ tuần tháng tám dương lịch, nắng vẫn ngằn ngặt như đổ lửa xuống đồng quê, trên là trời xanh bao la dưới là nước mênh mông như biển cả. Dân vùng này vẫn thường than thở : Chúng tôi dân vùng đồng chiêm trũng, quanh năm nghèo đói, sống ngâm da chết ngâm xương. Nghĩ cũng đúng, nhìn cánh đồng nước trắng xóa kia thì làm gì có chỗ nào khô, sống thì lặn lội bì bũm trồng cấy dưới nước, chết thì cũng chẳng biết đưa đi đâu.
   Buổi trưa, đơn vị an dưỡng đang chìm vào giấc ngủ, mấy bụi tre ngoài bờ ao gió lay xào xạc, thi thoảng lại nghe thấy tiếng nghiến kèn kẹt của hai thân cây tre cọ vào nhau, lá tre rụng phủ vàng cả mặt ao. Dưới gốc mít bên bờ ao, đàn gà đang đằm mình dưới những hốc đất bới tung tóe, bụi mù mịt. Con chó vàng nằm cạnh đó, coi như không có chuyện gì xảy ra mắt vẫn lim dim ngủ. Miền quê tĩnh mịch và thanh bình quá.
   Ngắm nhìn mãi cũng chán, tôi nhắm mắt lại hồi tưởng về đơn vị. Nghĩ về họ, tự nhiên tôi cảm thấy trống trải quá và tôi thấy nuối tiếc như chính tôi vừa để mất đi một cái gì đó vô giá. Những ngày sống bên nhau, vào sống ra chết có nhau,  điều kiện sống, đã xây dựng và vun đắp cho chúng tôi thứ tình cảm đặc biệt, đó là tình cảm máu thịt, thứ tình cảm này nó vô hình song lại hiện hữu. Bây giờ tôi đã phải xa họ, sống với những người xa lạ, tôi cũng thấy ngỡ ngàng, không tự tin, nhất là những lúc như bây giờ tôi cần có người giúp đỡ.
   Từ lúc lên xe xa đơn vị, anh em vẫy tay chào tạm biệt. Trên đường hành quân ra Bắc, chúng tôi cũng gặp rất nhiều người, khi thì một vài người, khi thì cả đoàn người, mọi người đều vẫy tay chào chúng tôi những người con của Tổ Quốc đã hoàn thành nhiệm vụ chiến thắng trở về, thấy như vậy chúng tôi vui lắm. Nhưng từ lúc về trạm Thường Tín, đến hôm nay ở đây, tôi không còn thấy những tình cảm nồng ấm ấy nữa, tôi thấy nó khác quá, hình như mọi người ở đây đối xử với nhau chỉ là nghĩa vụ. Tôi đoán mò là những người này chưa đi chiến đấu, hoặc là có đi nhưng đã trở lại hậu phương lâu rồi, nên tình cảm máu thịt của những người lính cũng đã nhạt phai. Tôi cũng băn khoăn, tự nhìn lại mình, để xem từ việc làm đến lời nói, có gì là biểu hiện công thần hay không?
   Đã quá giờ làm việc của buổi chiều, tôi không thể chờ đợi thêm được nữa, tôi đặt lá đơn lên bàn đồng chí đoàn trưởng đoàn an dưỡng và chấp nhận là một người lính vô kỷ luật. Tôi về thăm mẹ…
                                                      HẾT.
                                                       



Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: lexuantuong1972 trong 04 Tháng Mười Hai, 2012, 04:47:08 pm
@QVN: Chuyện của bác về những ngày ra đoàn an dưỡng thì ở đoàn nào cũng thế, chỉ có khác là bác hơi bị "ngoan" đấy. Tôi về đoàn 869 của Hà Nội 2 lần nhưng mỗi lần về chưa bao giờ được phép cả, giả sử có xin phép trừ trường hợp nhà có tang may ra mới được về. Mỗi lần về khi lên là làm kiểm điểm " lần này xin chừa, lần sau cứ thế" và chuẩn bị đọc 10 lời thề "... trong tình thương yêu giai cấp, hết lòng thương yêu đồng đội, đoàn kết giúp đỡ lần nhau lúc thường cũng như lúc có đường có sữa..."  ;D ;D ;D. Nghe anh em ở đoàn nói chuyện với nhau việc cho lính đi phép và tranh thủ rất hạn chế nhưng lính vẫn cứ bỏ về thì chế độ ăn vẫn bị cắt nhưng không được thanh toán, cuối tháng tịnh sổ của quản lý sẽ dôi ra khá nhiều và nó sẽ đi đâu  ??? ??? ???. Ngày ấy tiêu chuẩn gạo quan trọng vô cùng.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: vanthang341ht trong 04 Tháng Mười Hai, 2012, 08:21:26 pm

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
1-Ở đoàn an dưỡng.
         
   Đã quá giờ làm việc của buổi chiều, tôi không thể chờ đợi thêm được nữa, tôi đặt lá đơn lên bàn đồng chí đoàn trưởng đoàn an dưỡng và chấp nhận là một người lính vô kỷ luật. Tôi về thăm mẹ…
                                                      HẾT.
 
     Không biết đồng chí bộ đội từ chiến đấu trở về đoàn an dưỡng đã vô kỷ luật bỏ về thăm mẹ rồi quay trở lại có bị kỷ luật như LXT1972 nói không đây? Vị đại uý trưởng đoàn an dưỡng ấy chắc cũng đã qua chiến đấu đấy, đừng có mà công thần... ;D ;D ;D


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: xuanv338 trong 06 Tháng Mười Hai, 2012, 11:18:13 am
 xuanv338 xin chào bác quanvietnam. Chào tất cả các bác đang tham gia trong buổi diễn đàn này. Hôm nay là ngày đầu tiên đến nhà thăm bác. Cb em xin kính chúc bác quanvietnam cùng tất cả các bác mạnh khoẻ, có nhiều niềm vui trong cuộc sống. (em xưng hô như vậy cho tình cảm bởi nếu các bác là lính 1971 hay 1972 mà đã là sinh viên hay học hết lớp 10 thì các bác đều đã được làm anh CB rồi đó. CB là lính 71 nhưng lúc đi còn bé đúng là CB 16 tuổi)

  CB đọc lại những câu chuyện của bác quanvietnam ở đoàn an dưỡng sau chiến tranh. CB xin được xin phép chuyền cành tới ăn theo nói leo một chút.

  Như vậy em lại thấy nuối tiếc là không được đón các bác sau chiến tranh về chỗ em an dưỡng. CB cứ thắc mắc tại sao ở nơi an dưỡng đó lại có thủ trưởng giao tiếp với thương binh một cách lạnh lùng. Ở chỗ em thì không có thế! và không được thế! tình cảm Khung và Động luôn đúng mực chan hoà. Tuy nhiên dù là thương binh nhưng trên thân thể các anh còn đang khoác chiếc áo màu xanh của lính. thì dù còn một ngày cũng vẫn phải giữ nguyên kỷ luật của người lính. Nói thế thôi nhưng với các anh là thương binh vẫn được mềm dẻo hơn đấy.

  CB xin mời các bác sẽ theo dõi tiếp những phần sau nữa của topis" có một cuộc đời và một tình yêu như thế" để các bác được chia sẻ với những nỗi niềm của những người lính nuôi quân và lính quân Y chăm sóc TB sau cuộc chiến.


   Bác quanvietnam đã không nói rõ tên đoàn an dưỡng, Nhưng chim CB thì đã biết 100% đó là đoàn an dưỡng 592 đóng ở Gia Sinh, Gia Viễn, Ninh Bình. Mà nay là khu du lịch tâm linh Bái Đính. Có đúng không bác quanvietnam. xuanv338 không biết được các bác được về an dưỡng ở đó vào thời điểm nào?

   Nhân đây CB xin hầu chuyện các bác về những đặc thù riêng của những đoàn an dưỡng này mà CB được biết. Từ những năm tháng đất nước vẫn còn chiến tranh ác liệt. Thì ở hậu phương miền Bắc đã có rất nhiều đoàn an dưỡng cho TB từ các chiến trường về nghỉ ngơi dưỡng bệnh. Vào những thời điểm đó thì TBB sau những trận đánh bị thương, giảm sút sức khoẻ được về an dưỡng. Sau an dưỡng nếu vết thương nhẹ được chăm sóc ổn định , sức khoẻ trở lại bình thường các anh lại tiếp tục lên đường vào trận. Còn các anh TB nặng không còn khả năng chiến đấu ngoài mặt sẽ dần được về các trại an dưỡng của tỉnh hoặc của bộ, về trường học, có thể giải quyết chính sách tuỳ theo. Có những thương binh là chuyên môn kỹ thuật cũng như trình độ lý luận thì được trưng dụng bổ xung làm cán bộ khung của các đoàn an dưỡng. Nhưng thực tế thì cũng chẳng có cái gì là được hoàn thiện cả với nhiều lý do khác nhau.

   Có lẽ cũng từ những nguyên nhân cá nhân chưa được thoả mãn với mình cộng thêm một chút công thần ở một số nhỏ TBB. Từ đó bọn phản động đã lợi dụng lôi kéo TBB gây rối mất trật tự an ninh trong lúc đất nước cuộc chiến tranh đang đi vào giai đoạn ác liệt. Điển hình là Đoàn an dưỡng 580 đóng ở Yên Định Thanh Hoá, Đoàn 592 Đóng ở Gia Sinh Ninh Bình và  của trường văn hoá TB. Cuối năm 1973 đã dấy lên một đợt. Đến tháng 7 năm 1974 bọn phản động đã kích động những TB nhẹ dạ cả tin đã từ đoàn 580 Thanh Hoá ra cùng với TB của các đoàn an dưỡng khu vực Ninh Bình gây rối.

    Trên đường đi những người TB này đã chấn xe ô tô, cướp cả vũ khí của bộ đội, công an trên đường đi công tác. Họ ra thị xã Ninh Bình cướp phá ,đánh người tàn bạo. Họ tràn vào quân Y viện 5 bắt chính uỷ Nguyễn Văn Thám phải tuân theo lệnh của họ và quân Y viện 5 lúc ấy đã trở thành nơi hậu cần phục vụ cho họ ăn uống để có sức gây loạn. Bản chất của những đoàn an dưỡng trên có rất nhiều tù binh được trao trả. Lúc đó các anh có được tên gọi rất tự hào là "Quân chiến thắng trở về". Đa số họ là người miền Nam. Lính tép riu ngày ấy bon em cứ nghe được tin phao. Chẳng biết thật hư thế nào? Là những người trong đoàn quân chiến thắng trở về đó có lẫn nhiều lính nguỵ trà trộn vào. Điều này không có ai công bố cả. chỉ là chuyện ở quanh bếp lò và trong buồng bệnh.

   xuanv338 vẫn nhớ ngày đó những người cầm đầu của đám nổi loạn họ yêu cầu phải được gặp người đứng đầu của quân khu. Lúc đó bác Thiếu tướng Tô Ký Chính Uỷ quân khu Hữu Ngạn đã phải trực tiếp gặp họ. Phân tích hoá giải cho họ nộp vũ khí và lên xe trở về đơn vị. Các anh TB ấy cũng là những chiến sỹ chiến đấu anh dũng, khi bị bắt vẫn tuyệt đối trung thành với tổ quốc dù bị tù đày tra tấn, gian khổ cho đến ngày được trao trả tù binh. Sau khi về an dưỡng có thể có mặt này mặt khác còn khó khăn khi đất nước vẫn còn chiến tranh nên việc bù đắp đối với các TB họ chưa thật bằng lòng với mình. Rồi đâu đó một số ít TB cũng nổi lên một chút công thần. Nhân cơ hội ấy bọn phản động đã chớp thời cơ lôi kéo.

   Có thể cũng từ những lý do đó mà những đoàn an dưỡng đó họ giữ nghiêm kỷ luật, quản lý chặt chẽ TB đấy bác quanvietnam ạ. Thủ trưởng ấy đã rất đúng khi yêu cầu bác quanvietnam phải có đơn trình bày nguyện vọng thoả đáng là  thăm gia đình sau những tháng năm xa cách và chuẩn bị tiếp tục về trường học tập. Vì trên đường về gia đình còn có bao điều xảy ra mà chưa thể nói trước, khi đó trách nhiệm sẽ thuộc về họ. Chỉ trách là cái thái độ thiếu thiện cảm của thủ trưởng này đối với người lính từ mặt trận về. Nếu là ở chỗ của CB là thủ trưởng ấy bị khiển trách đấy! CB cũng đã từng ở tới hai đoàn an dưỡng, một quân y viện nhưng còn đang bí mật để viết chuyện cho hay.

    Buổi đầu thăm nhà bác mà chuyện dài lê thê khéo mà nồi khoai của bác đã nát hết cả rồi. bác quanvietnam và các bác cùng thông cảm nhé! CB chúc các bác mạnh khoẻ tiếp tục viết thật nhiều bài hay.

  




Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 06 Tháng Mười Hai, 2012, 08:12:48 pm
         Chào bác chủ! Chào các bác! Hay quá, Hay quá. Chúc mừng bác quanvietnam tiếp tục xây nối căn nhà mới. Trên thửa đất của căn nhà cũ. Nhưng với chủ đề cũng rất mới rất hay. Tranphu phát ghen tỵ vị Tranphu chư bao giờ được đi " An dưỡng" thật thiệt thòi. Nhưng thôi không sao. Được bác chủ kể chuyện đi " An dưỡng" là coi như mình đã được đi rồi. ;D ;D ;D

          Chuyện bác kể bài đầu mà đã cuốn hút hấp dẫn. Lại thêm các bác đến góp chuyện. Nhất là cô bé CB NỮA CHỨ. Không biết bác có là một trong những vị " công thần" Mà CB đã nới không đây?

          Chúc bác chủ luôn khỏe cùng những câu chuyện đang kỳ hấp dẫn!


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 07 Tháng Mười Hai, 2012, 03:56:42 pm
    Chào tất cả anh chị em CCB tham gia diễn đàn, rất cám ơn các anh chị em đã đọc và luận bàn về bài viết của quanvn, qua đây quanvn thật sự cảm thấy đây là niềm vinh hạnh đối với quanvn. Rất mong được gặp lại các anh chị em ở những bài viết sau.
   Bạn Lê Xuân Tường thân mến, những điều mà bạn chia sẻ, tôi chỉ được nghe mà chưa kiểm chứng, vì thời gian ở đoàn an dưỡng của tôi là quá ngắn, vì thế tôi cứ bán tín bán nghi, không rõ thực hư thế nào. Nhưng, nếu đúng như vậy thì nó cũng không phải là tất cả.
   Anh Vanthang 341 ơi! Việc tôi nói ra, tôi đành chấp nhận là người lính vô kỉ luật thật là không dễ dàng đối với tôi chút nào, chắc anh cũng hiểu. Đời quân ngũ, ai chẳng có những lúc nao lòng, để cưỡng lại những lúc yếu mềm ấy, thì lý trí và tình cảm cái gì vị cái gì? Hoàn cảnh tôi lúc ấy, còn có nhiều cơ hội để biện minh cho sai trái của mình. Tất nhiên chỉ là ngụy biện thôi, còn việc tôi làm là sai, tôi biết tôi đang làm gì. Anh là thủ trưởng chắc anh cũng không đến nỗi khắt khe quá trong trường hợp này. Có phải thế không thủ trưởng tuyên huấn sư đoàn 341?
   Chào hai chị em Xuanv và Anhtho! Có câu hát: “…Chỉ nghe tiếng hát mà đem lòng yêu thương…” Tôi không nói thế, mà có muốn cũng không được, nên tôi nói: Chỉ đọc văn viết mà đem lòng ưu tư. Đùa một chút cho vui, hai bạn thông cảm nhé, bởi vì đọc những bài viết để trải một phần vô cùng nhỏ bé lòng mình trên diễn đàn này thì có bao nhiêu bóng hồng? Tôi tếu táo thế chắc cũng không quá đáng, có phải không các bạn?
   Tôi đã đọc tin nhắn của Xuanv, Anhtho. Tôi hiểu, nhưng tôi lại nghĩ cuộc vui nào đều có điểm dừng, vấn đề là dừng ở đâu? Còn vấn đề Xuanv nói ai đúng ai sai thì tôi cũng đã nói rồi, tôi có trách cứ gì đâu, tôi chỉ thấy buồn thế thôi, giá mà được như Xuanv nói thì tốt. Con người mà, từ già đến trẻ đều ưa nịnh.
   Thêm một số thông tin nữa để Xuanv rõ hơn. Tôi về đoàn an dưỡng 540 đóng ở Gia sinh Gia Viễn Ninh Bình, vào cuối tháng 8 đầu tháng 9 năm 1975. Số ngày tôi ở đây đếm chưa hết 10 đầu ngón tay, nên chẳng biết gì để nói. Những chuyện Xuanv kể bây giờ tôi mới biết, bởi vì lúc đó chúng tôi còn đang chiến đấu ở chiến trường, hết chiến dịch này sang chiến dịch khác. Tin tức về những người thân còn không có, thì làm sao có được những tin tức mà Xuanv kể. Những thông tin rời rạc này chắc cũng chẳng giúp được gì Xuanv, thôi bằng lòng vậy.
   Anh Tranphu thân mến! Vấn đề an dưỡng tôi chẳng biết nên chia vui hay chia buồn với anh, tôi chỉ ở đoàn an dưỡng chưa đến 10 ngày nên không biết nói thế nào. Còn tôi có công thần hay không? Xin anh xem hồi sau sẽ rõ.
   Xin chào và chúc sức khỏe tất cả mọi người trên diễn đàn.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: lexuantuong1972 trong 07 Tháng Mười Hai, 2012, 05:50:43 pm
@QVN: Bác về đoàn an dưỡng có gặp phải cảnh này giống tôi không

...Xe đỗ ở nhà tiếp đón, anh em trong trại xúm lại tìm người quen họ nói với nhau: “Lại Quảng Trị đây…”. Quả thật mấy tháng nay hầu hết là các TB từ mặt trận Quảng Trị trở về đây. Từng người chúng tôi lần lượt được gọi vào Ban quân lực để làm thủ tục. Tại đây một trung úy và một thượng sĩ tiếp chúng tôi. Một loạt câu hỏi được viên trung úy đặt ra phải trả lời: "Họ tên - Ngày tháng năm sinh - Quê quán - Chỗ ở - Trình độ văn hóa - Đảng, đoàn - Tên cha mẹ -  Đơn vị trước khi đi B - Đơn vị khi chiến đấu - Ngày đi chiến trường - Ngày bị thương" - và đặc biệt họ hỏi đi hỏi lại những câu: "Nơi bị thương thuộc xã, huyện, tỉnh nào - Khi bị thương ai biết - Lúc bị thương đêm hay ngày, lúc mấy giờ -  Tư thế khi bị thương - Bị thương trong trường hợp nào do loại vũ khí nàogây ra - Sau khi bị thương đã điều trị ở đâu"...Những câu hỏi sau họ hỏi đi hỏi lại mấy lần !!!

Sau đó chúng ổn định chỗ nghỉ trong trạm tiếp đón và được cấp phát quân trang mới và chờ về các đội an dưỡng của đoàn.

Khoảng hơn 1 giờ chiều đang ngủ tôi bị lay dậy để lên gặp quân lực. Lại những câu hỏi như ban sáng khiến tôi cảm thấy có cái gì đó mà mình chưa hiểu.

Đêm đầu tiên ngủ tại Đoàn trong tiếng ì ầm của máy bay bay đêm, ở đây theo đường chim bay cũng không xa sân bay Đa Phúc là mấy. Bất chợt có tiếng rít của máy bay ngay trên đầu, phản xạ tự nhiên của một thằng lính khiến mấy thằng chúng tôi bật khỏi chỗ nằm lăn ngay xuống đất - một thói quen mỗi khi cảm nhận tiếng máy bay đich tọa độ trên đầu. Rồi cũng dần quen và giấc ngủ đã đến với tôi.

Đang mơ màng thì ai đó gọi tôi dậy, lại tay thượng sĩ của Ban quân lực. Cũng vẫn những câu hỏi xoáy vào việc tôi bị thương. Lần này tôi cảm thấy bị xúc phạm thật sự: phải chăng người ta nghi ngờ việc tôi bị thương, mình có đầy đủ giấy tờ mà họ không tin ? Tôi khùng lên: “ Các ông nghi tôi tự thương ư ? Giấy tờ của tôi có đầy đủ. Nếu không tin các ông trả lại tôi về đơn vị…” Tay thượng sĩ mặt lạnh tanh: đây là nhiệm vụ của chúng tôi, đề nghị đ/c thông cảm và tạo điều kiện cho chúng tôi làm việc. Lúc đó nhìn đồng hồ để trên bàn là 11 giờ 30.

Về đến giường nghĩ tới việc mình bị thẩm tra như là kẻ có tội, tôi uất quá mà không ngủ được. Hay là 3 lần trả lời có gì không ổn ? Chứng tỏ trong số những TB từ chiến trường trở về có lẫn một số người tự thương. Quả thực vàng thau lẫn lộn. Nhưng chỉ nghĩ đến nét mặt của mấy thằng quân lực là muốn táng cho chúng nó một trận. Ngẫm đến câu thơ ca thán của Cao Bá Quát mà liên tưởng đến phận mình:

"Con voi đánh trận đường xa,
Con mèo trong bếp ỉa đầy nồi rang..."


(Trích Ngược dòng ký ức)


http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php/topic,17230.260.html


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 08 Tháng Mười Hai, 2012, 09:55:30 am

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
2- Về nhà.
          Ra đường, tôi đi như chạy. Chiếc ba lô lép kẹp nhảy tung tăng trên lưng theo nhịp bước chân. Kể ra tôi về thăm nhà trong hoàn cảnh này cũng không vui lắm, giá mà ông trưởng đoàn an dưỡng vui vẻ đồng ý thì vui biết chừng nào. Buồn thật, bao nhiêu năm trời lăn lộn trong chiến trường, chưa từng bị nhắc nhở hay bị phê bình, thế mà bây giờ lại gặp hoàn cảnh trớ trêu này. Tình huống này, nếu nâng lên thành quan điểm thì chưa biết chừng chuyện gì sẽ xảy ra. Thôi đành vậy, tất cả đã được trình bầy trong đơn, nếu bị quy chụp thì ráng chịu, mục tiêu của mình lúc này là về nhà thăm bố mẹ và mọi người trong gia đình xem ai còn ai mất, mọi người sống ra sao? Hãy quên đi những nỗi buồn và vui lên sau gần bốn năm xa cách.
   Đi được chừng 30 phút, mồ hôi đã ướt cả lưng áo. Tôi nghĩ: Nếu đi như thế này không ổn, phải 8 hay 9 giờ tối may mới về đến thị xã, từ thị xã về nhà còn những 24 cây số nữa, rứt khoát phải vẫy xe để đi nhờ mới kịp. Có mấy chiếc xe ô tô chạy qua, tôi giơ mũ ra vẫy nhưng không có xe nào dừng lại, đành chịu. Tôi cắm cổ bước nhanh để đuổi kịp chiếc xe bò phía trước, nắng xiên khoai rát rạt, hơi nóng từ mặt đường nhựa bốc lên hầm hập, mồ hôi vã ra như tắm.
   Tôi đuổi kịp chiếc xe bò, xe không có hàng hóa. Người đánh xe bò là một người đàn ông, khoảng độ hơn 30 tuổi trông rất trẻ, anh đội chiếc mũ lá đã rách mướp, ngồi trên xe tay trái cầm thừng, tay phải cầm roi đang điều khiển chú bò đi đúng phần đường. Nắng quá, chú bò cũng mệt, bước uể oải chậm chạp. Tôi tiến đến bên anh đánh xe làm quen, rồi cất tiếng chào:
    -Chào anh!
   Thấy có tiếng người, anh hơi giật mình. Có lẽ anh đang ngủ hay đang tập trung nghĩ ngợi vấn đề gì đó nên không để ý đến xung quanh. Anh quay sang nhìn tôi, tôi cũng nhìn lại anh và tôi hỏi thăm:
    -Anh ơi! Làm ơn cho tôi hỏi thăm, tuyến đường này có xe khách chạy về thị xã không anh?
   Anh trả lời tôi:
    -Có nhưng mãi bốn giờ chiều nó mới qua đây để về thị xã, mà có bữa cũng chẳng có, nên không thể nói trước được. Thế chú bộ đội đi đâu?
   Tôi buồn rầu trả lời anh:
    -Tôi về mãi Lai Thành cơ, tôi chưa biết nên đi thế nào bây giờ?
  Chắc là anh đánh xe bò không biết nên xử lý thế nào, nên anh im lặng. Tôi cũng thủng thẳng bước đi bên cạnh chiếc xe, thấy thế anh nói với tôi:
    -Chú bộ đội lên xe ngồi cho đỡ mỏi chân.
   Tôi trèo lên xe, ngồi ghé vào thành xe, con bò vẫn đủng đỉnh bước như không có chuyện gì xẩy ra. Tôi thì lòng dạ bồn chồn nóng như lửa đốt, vì chưa tìm được cách giải quyết trong hoàn cảnh khó khăn này. Đi được một đoạn, anh đánh xe nói với tôi:
    -Bây giờ tôi đại thí chú bộ đội cách này, may ra được. Chú chịu khó xuống đi bộ, xe nào đi qua chú cũng vẫy, ô tô thì càng tốt, xe đạp cũng được, cứ vẫy đại đi, chú nên vẫy xe đạp của các cô thanh niên ấy, hầu hết các cô ấy đều có chồng hay người yêu đi bộ đội, bây giờ thấy anh bộ đội vừa từ chiến trường ra, phần thì thương, phần thì muốn hỏi thăm tin tức của người thân thế nào các cô ấy cũng cho đi nhờ.
   Thấy anh đánh xe bò nói có lý, đơn giản thế mà không nghĩ ra. Tôi xuống xe và bắt đầu thực hiện phương án. Cũng phải đến bốn năm lần vẫy đều không được, tôi cũng hơi nản. May quá, lần này vừa giơ mũ ra vẫy, thì cô gái đã tụt ra khỏi yên xe, vừa bóp phanh vừa dùng chân rê rê trên mặt đường để dừng xe lại.
   Trời nắng nóng cô gái đội nón sụp xuống lại bịt khăn vuông nên nhìn không rõ mặt, không biết là già hay trẻ, nhưng có một điều chắc chắn cô gái không phải là nông dân, vì quần áo và khăn vuông loại này thì nữ thanh niên nông thôn không bao giờ dùng. Cứ biết thế đã, sau khi chào hỏi làm quen qua loa, tôi đưa ba lô cho cô gái, chúng tôi đổi lái, tôi chở còn cô gái ngồi sau. Chệch choạc một tý, cuối cùng tôi cũng điều khiển được chiếc xe đi theo ý muốn, cũng phải thôi, đã gần bốn năm rồi tôi chưa sờ mò vào cái xe đạp, nên chệch choạc là tất nhiên.
   Xe chúng tôi vượt qua chiếc xe bò, anh đánh xe bò giơ tay ra vẫy, mồm anh lắp bắp cái gì đó, tôi đoán là anh chào tôi, chúc tôi gặp nhiều may mắn. Nhìn anh đánh xe bò, tôi lại nghĩ về những người ở đoàn an dưỡng, tôi lắc đầu để xua tan những nghĩ ngợi vẩn vơ… Bây giờ tôi mới chú ý đến chiếc lốp đằng trước, chiếc lốp được chằng một đoạn dài bằng giây cao su, tôi nhìn về lốp sau không thấy có vấn đề gì, mọi lo lắng của tôi dồn về lốp trước, nhỡ đang đi mà bị nổ lốp thì không biết giải quyết thế nào? Nói thật là tôi không có một xu dính túi, trong người tôi vật có giá nhất bây giờ là chiếc đồng hồ senko five đang đeo ở tay. Hôm ở Thường Tín tôi còn cái radio Sony tương đối đẹp, bắt được nhiều đài, dự định mang về tặng bố, chẳng may hôm nằm nghe đài, để đài ở cửa sổ rồi ngủ quên đi chẳng biết ai lấy mất.
   Tính tôi hay lo xa, đang còn suy nghĩ nếu bị hỏng xe thì phương án giải quyết thế nào? Trong khi tiền không có một xu dính túi. Mải nghĩ  quá nên quên cả thủ tục làm quen, thấy tôi không nói năng gì chỉ cắm cúi đạp xe. Cô gái chủ động hỏi tôi:
    -Anh về đâu?
   Tôi cảm thấy hơi xấu hổ vì mình có lỗi, đã đi xe nhờ mà chẳng nói đi đâu về đâu, Tôi sửa sai ngay:
    -Cho tôi xin lỗi! Vẫy được xe của em là tôi mừng quá nên quên mất, thông cảm cho tôi vì tôi vẫy xe từ đầu giờ chiều mà không được. Bây giờ mới được em đồng ý, lúng túng quá quên mất. Bây giờ tôi xin giới thiệu về tôi: Tôi tên là Quang( tôi nói tránh đi), tôi vừa ở chiến trường ra và được điều về đây an dưỡng. Bây giờ tôi về thị xã sau đó còn về mãi Lai Thành cơ. Thế em đang đi đâu đây?
   Cô gái cười khúc khích, chiếc vành nón thi thoảng lại đập đập vào lưng tôi, tôi vẫn cắm đầu cắm cổ đạp xe. Chẳng hiểu cô gái đang nghĩ gì, lát sau mới thấy cô nói:
    -Anh không biết em đi đâu, sao lại vẫy xe em?
   -Ừ thì cứ vẫy bừa, đi được đoạn nào hay đoạn ấy.
   -Đúng là các anh bộ đội, lúc nào cũng muốn tận dụng triệt để mọi thứ.
   -Thông cảm cho bọn anh, thời gian đối với bọn anh còn quý hơn vàng.
   -Em biết rồi, các anh bộ đội ở làng em chỉ về tranh thủ thăm vợ có mấy tiếng đồng hồ, thế mà có mấy đứa trẻ ra đời ở hoàn cảnh như vậy, bây giờ lũ trẻ đã lớn chúng nó sắp vào lớp một rồi nhưng vẫn chưa biết mặt bố.
    -Thời chiến mà em, cũng phải hiểu và tha thứ cho bọn anh. Nhưng…
   Tôi giả vờ ho, cô gái im lặng chờ để tôi nói tiếp, nhưng tôi lảng sang chuyện khác. Thực ra tôi định nói: Nhưng, những trường hợp ấy, bộ đội rất kiêng vì vào chiến trường, thường không may mắn. May quá tôi kịp phanh lại, vì biết đâu cô gái này có thể là một trong những trường hợp cô vừa nói. Tôi hỏi cô gái:
    -Thế bây giờ em đi về đâu?
    -Anh đi đâu thì em đi đấy.
    -Sao lại thế?
   Cô gái cười thích thú, làm rung chiếc nón, vành nón cọ vào lưng tôi kêu sột soạt. Cô gái đã chọc đúng vào suy nghĩ của tôi, nên khoái chí vừa cười vừa nói:
    -Em thích thế.
    -Thế thì càng tốt, hôm nay tôi ra ngõ bước chân phải rồi, sao may mắn thế.
    -Em nói đùa anh thế thôi, em chỉ về đến gần thị xã. Nhà em ở đấy, em tranh thủ về nhà có chút việc, sáng mai em lại lên sớm để còn lên lớp.
   À ra thế, chưa khảo mà xưng. Em là cô giáo. Tôi nghĩ ngay đến việc tận dụng sự giúp đỡ của cô giáo:
    -Ồ thế thì hay quá, tôi về ngay gần đầu cầu Lim, nhà chị gái tôi ở đấy. Hồi năm 1972 thì chị tôi ở đấy, những năm chiến tranh phá hoại,  không biết có còn ở đấy không, hay đã chuyển đi nơi khác rồi, bây giờ thì chịu không biết, về đấy chắc là phải hỏi thăm thôi.
    -Nhà em ở Ninh Khang, cách thị xã 4 cây số, em sẽ đưa anh về đấy trước,  rồi em về nhà sau. Hay là, em mời anh rẽ qua nhà em chơi, tối em đưa anh xuống thị xã tìm chị gái anh. Đằng nào, chị gái anh cũng bắt anh ở lại mai mới cho về.
    -Kể ra được như thế thì rất hay, nhưng có lẽ nên để lần khác, lần này thì không được rồi, em hãy thông cảm cho tôi, bốn năm xa cách không có tin tức gì về gia đình, nên tôi sốt ruột lắm, không có tâm chí nào mà nghĩ đến việc khác được. Hẹn em lần sau.
   Tôi vừa nói chuyện, vừa mải miết đạp xe, đôi lúc hình ảnh chiếc lốp xe bị nổ cũng lúc ẩn lúc hiện trong đầu tôi, nhưng cũng may mắn là nó chưa nổ, cả hai chúng tôi vẫn bon bon trên đường.
   Câu chuyện giữa chúng tôi lúc đầu rất sôi nổi, nhưng từ lúc tôi chuyển chủ đề sang hỏi cô gái về thái độ của mọi người khi đón nhận tin Miền Nam được giải phóng, đất nước đã thống nhất và chiến tranh đã kết thúc, thì tình cảm của mọi người ở ngoài này thế nào? Kể từ lúc đó, chúng tôi vẫn nói chuyện với nhau bình thường, nhưng hình như chuyện giữa chúng tôi có cái gì đó không còn vui vẻ như lúc đầu, dần dần tôi thấy trầm hẳn xuống, có lúc lại im lặng rất lâu. Đúng là tôi đã phát hiện ra điều ấy, nhưng có lẽ tôi đang say với chiến thắng nên tôi rất vui, chuyện của tôi vẫn cứ tràng giang đại hải, quên mất không để ý người nghe chuyện có nhiệt tình nghe hay không?
   Tôi chuyển chủ đề khác. Tôi nói với cô gái:
    -Chết thật! Anh cứ mải nói chuyện mà vẫn chưa biết tên em là gì?
    -Tên em là Kiên.
   Tôi cứ chờ xem cô gái tên là Kiên có tiếp tục thêm câu chuyện nào nữa không, nhưng chờ mãi chẳng thấy cô nói gì vẫn chìm vào im lặng. Tôi đành phải  tiếp tục:
    -Nhà em có mấy người đi bộ đội, chiến tranh đã kết thúc rồi, đã có ai về thăm nhà hay là báo tin về chưa?
   Cô gái vẫn lặng im. Tôi nghĩ đây là vấn đề nhậy cảm nên cũng không hỏi lại, có thể cô gái chưa nghe thấy câu hỏi của tôi, mà cũng có thể nghe rồi nhưng không trả lời. Tôi lại tiếp tục theo dòng suy nghĩ:
    -Tính từ 30 tháng 4, đến nay là 18 hay19 tháng 8 rồi, đã hơn ba tháng. Thư từ, từ chiến trường gửi về, chắc là cũng đã về đến nhà rồi, nếu chậm lắm thì cũng hết tháng này thì mọi người đều biết tin.
   Tôi nói thì kệ tôi nói, cô gái vẫn im như thóc. Linh tính, mách bảo tôi  là có vấn đề gì đó trong câu chuyện này. Lúc này, tôi không biết phải làm gì ngoài việc cầm chắc tay lái mà đạp nhanh hơn.
   Chiếc vành nón, cọ vào lưng tôi. Tôi không quay lại, nhưng vẫn tưởng tượng được những động tác Kiên đang làm lúc này. Kiên đang khóc, khóc không thành tiếng, chỉ nghe thấy sụt sịt, Kiên cúi xuống kéo khăn vuông lau nước mắt, chiếc vành nón lại cọ vào lưng tôi. Thấy vậy tôi, lúng túng, không biết phải làm gì, bí quá tôi đành im lặng chờ đợi. Kiên nói với tôi trong nước mắt:
    -Anh trai em đi bộ đội, hy sinh năm 1970 ở mặt trận B2, chồng em hy sinh năm 1972 ở Quảng Đà, cả hai người đều có giấy báo tử rồi.
    -Tội nghiệp quá! Cho anh chia buồn với em và gia đình. Nín đi em! Em hãy cứng rắn lên để động viên hai bên gia đình cho qua thời khắc khó khăn này. Chiến tranh là có hy sinh không thể tránh khỏi, chỉ có điều chỉ trong vòng có hai năm thôi mà em và gia đình em gánh chịu hai cái tang, thật là quá sức chịu đựng. Anh nghĩ: Bây giờ chẳng còn cách nào khác là em và và gia đình hãy nén những đau thương để tiếp tục sống cho con, cho cháu, cho những người còn đang sống.
   Tiếng nức nở vẫn thổn thức sau lưng tôi, lúc này tôi  chỉ còn biết im lặng và mải miết đạp xe…
   Khoảng hơn 4 giờ chiều, chúng tôi về đến thị xã Ninh Bình. Hỏi thăm và đi lòng vòng một thôi một hồi, cuối cùng chúng tôi cũng lần được chỗ ở của chị gái tôi. Chị tôi ở trong khu tập thể của cơ quan, vào đến trong sân, tôi đã phát hiện ra chị tôi. Chị tôi đang cầm cái xoong để quấy bột, bên cạnh là đứa bé gái đang đứng chơi trong cũi kê ngay cạnh cửa ra vào. Chúng tôi đội mũ và đội nón, nên vào đến nơi chị tôi cũng không nhận ra, khi chúng tôi bỏ nón mũ ra và chào chị. Khi ấy chị chăm chú nhìn chúng tôi, xoong bột trên tay chị rơi xuống bắn tung tóe, chị thất thanh kêu lên:
    -Trời ơi em tôi! Em vẫn còn sống à? Thế mà em làm cả nhà hoảng hồn, tưởng em chết rồi. Ở nhà mẹ đang đi nhờ thầy, nhờ thợ, bói toán ầm cả nhà lên kia kìa. Em phải về ngay kẻo mẹ ốm chết mất.
   Chị tôi cứ làm rối tinh rối mù lên, tôi thì chẳng nói được câu nào, mấy người trong khu tập thể cũng không hiểu chuyện gì xảy ra, cứ ngơ ngác nhìn, cháu bé thấy xoong bột bị rơi, khóc ré lên nhưng chị cứ để mặc nó khóc, chị chạy ra kéo chúng tôi vào trong nhà. Tôi chưa nói được câu gì thì chị lại sồn sồn:
    -Uống nước đi rồi về nhà ngay kẻo mẹ mong. À đây là cái Vân à? Em về chỗ Vân trước rồi mới về đây à? Các em uống nước đi.
   Cuối cùng thì chị cũng phải nhường để chúng tôi nói. Chị tôi cứ ngồi thừ ra nghe, miệng cứ liên tục à thế à. Sau đó chị cho tôi biết mấy nét về tình hình gia đình và những bức thư của Vân. Chị lại dục tôi:
    -Thôi về đi cho sớm, lúc nào có thời gian thì lên chơi với anh chị và  cháu.
   Chúng tôi chào chị rồi dắt xe ra cổng khu tập thể. Tôi dừng lại đợi, Kiên bước vội đến gần tôi rồi nói:
    -Anh về đi kẻo tối, đường còn xa, anh nhớ đi cẩn thận.
   Kiên đã bỏ nón và khăn bịt mặt ra từ lúc vào chỗ chị tôi. Nhìn Kiên lòng tôi quặn đau, hệ lụy của cuộc chiến tranh đã làm cho người con gái đang thời xuân xắc phải góa bụa, đứa con  bé bỏng của Kiên đã phải mồ côi cha. Tôi không giám nhìn Kiên, nhưng vẫn nói với Kiên:
    -Cám ơn em! Em về đi, khi nào có điều kiện tôi vào thăm.
(Còn nữa)



         





Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 08 Tháng Mười Hai, 2012, 01:47:03 pm

    -Trời ơi em tôi! Em vẫn còn sống à? Thế mà em làm cả nhà hoảng hồn, tưởng em chết rồi. Ở nhà mẹ đang đi nhờ thầy, nhờ thợ, bói toán ầm cả nhà lên kia kìa. Em phải về ngay kẻo mẹ ốm chết mất.
   Chị tôi cứ làm rối tinh rối mù lên, tôi thì chẳng nói được câu nào, mấy người trong khu tập thể cũng không hiểu chuyện gì xảy ra, cứ ngơ ngác nhìn, cháu bé thấy xoong bột bị rơi, khóc ré lên nhưng chị cứ để mặc nó khóc, chị chạy ra kéo chúng tôi vào trong nhà. Tôi chưa nói được câu gì thì chị lại sồn sồn:
 
 





            Chào bác chủ! Chuyện bác kể hay và cảm động quá, chân thật quá. Tranphu341 đọc đến đoạn bác vào nhà bà chị mà tự nhiên nước mắt lại trào ra. Đúng là niềm vui, kể còn người mất sau chiến tranh thật cảm động. Sau cuộc chiến, người này về người kia về, còn có nhiều người vẫn chưa được về, chưa có tin tức. Trong số đó ai còn ai mất. Đó là nỗi đau của Cha, của Mẹ của người vợ, người thân. Thật cảm động hết chỗ nói. Tiếp tục đi bác nhé chuyện rất hay.

             Tranphu341 tò mò một tý; Thế rồi sau này bác có gặp lại người phụ nữ giáo viên vợ của Liệt sỹ đó nữa không. Kể tiếp đi bác nhé! Chúc bác luôn vui khỏe!


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: xuanv338 trong 08 Tháng Mười Hai, 2012, 07:04:54 pm
   xuanv338 chào bác quanvietnam. Chào tất cả các bác. Câu chuyện hay và quá xúc động. Bác qvn ơi! Người đọc đang háo hấc nghe tiếp chuyện của bác đấy! Thế mà bác lại định bỏ cuộc thì có phí không cơ chứ! Bác qvn nói rằng bác chỉ ở đoàn an dưỡng đó thời gian quá ngắn. CB em sẽ không hỏi thêm gì về đoàn an dưỡng đó nữa. Vào thời điểm anh về đó tháng 8 năm 1975 em cũng đang phục vụ ở một đoàn an dưỡng TBB nhưng không phải là đoàn ấy!

     Bây giờ thì chỉ chờ đợi phần tiếp theo của câu chuyện xem rằng đến khi nào bác gặp lại được chị Kiên và cái tên Vân đã được chị gái nhắc tới chắc đó cũng là mối tình bác đã mang theo nó vào chiến trận có đúng không bác qvn? Câu chuyện bác về gặp được chị gái sau những năm tháng xa gia đình vào mặt trận được bác tả lại thật xúc động. Em cũng đã từng được chứng kiến và không khỏi xúc động khi những cuộc gặp mặt của người lính từ chiến trường về và thân nhân của họ đến thăm tại đoàn an dưỡng. Chuyện của CB cũng còn rất dài. CB thì nhỏ bé, khả năng viết thì có hạn không biết có đủ sức để về đích không? nói thế thôi Cb sẽ cố gắng và bác qvn cũng phải cố gắng đấy nhé!
    
    CB chào bác qvn và tất cả các bác. Chúc các bác có một buổi tối thật vui vẻ cùng gia đình.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quangcan trong 09 Tháng Mười Hai, 2012, 10:22:46 am
Phim thì cũng từ sách truyện mà ra, từ thực tế mà có..... xem phim nhiều nhưng có lẽ chẳng bao giờ bằng các bác viết, kể lại trên này. Kể tên ra hết  .....thì nhiều nhưng phải nói cám ơn lắm các bác cựu, đã lập chủ đề riêng/ topic riêng cho mình và chia sẻ với mọi người.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: xuanxoan trong 09 Tháng Mười Hai, 2012, 10:43:26 am
     Đúng như Quang can viết - Phim chỉ là những cái chung nhất, phóng to hay thu hẹp cuộc đời. Còn chuyện tự sự là những mảng đời góc cạch từng chi tiết được phản ánh cái riêng cái có thực của từng con người...đọc xong muốn khóc lắm, người ở hậu phương muôn vàn nỗi khổ...tôi mượn bài thơ của Phạm Tiến Duật thay lời xuanxoan muốn tâm sự:

                                                               Vòng trắng

                                                         Bom nổ trên trời hiện lên những vòng đen
                                                         Nhưng mặt đất lại sinh bao vòng trắng
                                                         Tôi với bạn tôi đi trong im lặng
                                                         Cái im lặng lạ kỳ đêm sau chiến tranh.

                                                         Cái mất mát nào lớn hơn cái chết
                                                         Vòng trắng trên đầu thành một số không
                                                         Nhưng tôi biết ở trong vòng trắng ấy
                                                         Là cái đầu bốc lửa ở bên trong.


                                                                               Phạm Tiến Duật



Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 12 Tháng Mười Hai, 2012, 10:22:06 am
  Cám ơn các anh và các bạn đã xem và động viên Quanvn.Thật ra, bài viết của quanvn đâu có được hay như các anh các chị nói. Quanvn cũng hiểu đấy là những lời động viên  hay nói quá lên một chút là những lời nói “dối”.  Nhưng không sao, những lời nói “ dối” mà không làm ảnh hưởng đến ai và nó lại động viên để mọi người vui vẻ thì cũng nên nói “dối”. Xin cám ơn tất cả các anh các chị.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 12 Tháng Mười Hai, 2012, 10:24:14 am

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
2- Về nhà
          Tôi cắm đầu cắm cổ đạp băng băng, thi thoảng cả xe và người nẩy tung lên, những lúc như vậy là xe gặp phải ổ gà mà không kịp tránh, được cái, sau những cú như vậy tôi thấy xe và người không bị sao nên vẫn cứ duy trì tốc độ. Trong đầu tôi lúc này, chỉ nghĩ sắp được về gặp mẹ là tôi quên cả mệt, lại mím môi mím lợi đạp cho nhanh. Cũng có lúc tôi nghĩ: Đi như thế này nhỡ hỏng xe thì không có chỗ mà sửa, tiền thì bây giờ không lo nữa rồi vì ban nãy chị gái đã kịp dúi vào tay tôi mấy đồng, điều đáng lo bây giờ là chỗ sửa xe, rõ ràng càng cách xa thị xã càng hiếm hiệu sửa xe, về vùng nông thôn có khi còn không có. Nghĩ thế, nên tôi giảm tốc độ, nhưng chỉ được một lát thì chứng nào lại tật nấy, vẫn những cú sóc tung trời.
   Dọc đường quốc lộ số 1, từ thị xã Ninh Bình xuôi về huyện Yên Mô. Đoạn đường này, đường sắt và đường bộ chạy song song với nhau, có chỗ thì nhập vào, cũng có chỗ thì tách ra. Cánh đồng hai bên đường chi chít những hố bom, hố to, hố nhỏ, chồng chồng lớp lớp. Các hố bom do quá sâu, không thể canh tác được gì đành bỏ hoang, nhìn thấy chỉ toàn nước là nước, lấp lánh dưới ánh mặt trời buổi xế chiều.
  Từ khi Đế quốc Mỹ dừng ném bom phá hoại Miền Bắc đến giờ mới được mấy năm, đường xá cầu cống cũng chỉ mới sửa tạm nên  còn khó đi, nhưng chẳng sao, đi được là tốt rồi. Ruộng đồng, những chỗ còn trồng cấy được thì dân tranh thủ tận dụng, những chỗ không tận dụng được thì để hoang hóa, cây Năn cây Lác mọc um tùm hoang dại. Bên đường những cây xà cừ còn sót lại sau những trận bom, bây giờ trông to lớn cành lá xum xuê, tỏa bóng mát xuống mặt đường nhựa bong tróc nham nhở.
  Mấy bà bán hàng nước, lợi dụng bóng mát của những cây bạch đàn, kê chiếc trõng tre bên gốc cây, trên mặt trõng bầy la liệt hàng hóa nào là kẹo lạc, kẹo dồi, kẹo sữa, hoa quả, đủ loại mỗi thứ một tý, nhiều hơn cả vẫn là hai mặt hàng: Chuối và Bưởi. Quen thuộc nhất vẫn là ấm nước chè xanh, quán nào cũng có chồng bát úp bên cạnh để rót nước chè xanh, có một vài người khách đang ngồi uống nước chuyện trò cười nói râm ran, nhìn họ tự nhiên tôi có cảm giác khát nước, kể ra bây giờ dừng lại làm bát nước chè xanh thì quá tuyệt vời. Nghĩ thế, nhưng chân vẫn đạp đều đều, vì đường về nhà còn xa lắm.
   Đến cây số 9, tôi vượt qua đường tầu hỏa đi vào đường tỉnh lộ 59 để về Yên Mô. Từ đây về nhà còn khoảng 14 đến 15 cây số nữa, nhà tôi ở ngay mặt đường này. Hoàng hôn đang đuổi theo phía sau lưng, bóng tôi đổ dài về phía trước. Gió Đông từ biển thổi vào mang theo hơi nước, cộng với mồ hôi, làm tôi có cảm giác lành lạnh.
  Ngắm nhìn quê hương trong buổi chiều tà, khi ánh hoàng hôn sắp tắt mà héo hắt cả ruột gan. Vốn dĩ quê tôi đã nghèo, nay lại gồng trên lưng những vết thương chiến tranh, nên lại càng nghèo hơn. Khói lam chiều đã lan tỏa trên những mái tranh sau lũy tre làng. Trên cánh đồng người nông dân vẫn đang cặm cụi làm cố những công việc còn lại trước khi trời tối. Những con đường mòn về làng, từng tốp trẻ chăn trâu hồn nhiên   vô tư nô đùa, những con trâu con bò cũng đang cố gặm thêm những ngọn cỏ cuối cùng trong ngày để không bị đói qua một đêm dài. Tình hình này, chắc nồi cơm của các gia đình bữa tối nay, vẫn chất độn nhiều hơn cơm, đã thế mà ăn cũng không đủ no.
   Chiếc xe đạp của tôi cứ nhảy tưng tưng trên những hòn đá to bằng đầu gối trơ lỳ, lớp đá dăm chèn và lớp ma hao do lâu năm quá bây giờ chúng chạy đi đằng nào không biết, mặt đường chỉ còn trơ khấc lại những hòn đá nhẵn thín lầm lụi theo thời gian. Xóc quá, tôi điều khiển chiếc xe đi vào những lối mòn của người đi bộ, nhưng rồi cũng chỉ được từng đoạn, cuối cùng vẫn phải chấp nhận người và xe cùng nhảy tưng tưng trên mặt đường.
     Gần về đến nhà, tự nhiên tôi thấy trong tôi trào lên niềm vui lâng lâng. Nghĩ lại: Cuộc chiến tranh vừa qua ác liệt là vậy, tôi thì đi chiến trường, bố tôi, các anh các chị, kể cả nhà tôi đều ở trong vùng trọng điểm đánh phá của máy bay Mỹ. Thế mà, cả nhà tôi không ai bị sao cả, ơn Trời Đất thật là may mắn.
   Lần này tôi về sẽ gặp được đầy đủ mọi người trong gia đình, trừ ông anh cả, anh cả tôi là giáo viên dạy cấp hai. Ban nãy chị gái tôi kể: Ngay từ khi chưa giải phóng Sài Gòn thì Bộ và Sở Giáo dục đã huy động các giáo viên lên đường vào Miền Nam để tiếp quản công tác giáo dục của vùng giải phóng. Nghe nói lệnh cũng gấp lắm. Thế là anh cùng các đồng nghiệp vội vã lên đường. Tôi nghĩ: Có lẽ anh hành quân vào khi chúng tôi hành quân tiến vào giải phóng Sài Gòn. Anh tôi đi công tác, ở nhà chắc là chị dâu tôi với các cháu sẽ vất vả. Nhưng thời buổi này có ai là không vất vả đâu, nhất lại là chị em phụ nữ.
   Có một điều mà tôi rất ân hận, chỉ vì bất cẩn của tôi mà làm khổ bố mẹ và tất cả mọi người trong gia đình phải lo lắng. Chị gái tôi bảo: Mấy bữa trước, có một anh bộ đội cầm thư đến đưa cho chị, lúc ấy chị không có nhà, anh bộ đội ấy lại rất vội. Thấy vậy, mọi người trong cơ quan bảo anh bộ đội cứ để thư ở đây rồi tý nữa chị ấy về sẽ nhận, anh bộ đội cứ đi ra lại đi vào, có vẻ không yên tâm lắm, nhưng vì đợi lâu quá nên anh đành để lại và nói với mọi người: Đây là thư rất quan trọng, mong mọi người chuyển đến tận tay người nhận.
   Chị về, mọi người đưa thư cho chị, khi mở ra xem thì có một tấm ảnh rơi ra, chị nhặt lên nhìn thì không phải là em, người chị lạnh toát, tóc gáy dựng ngược lên, chị đọc thư thì chỉ vẻn vẹn có mấy dòng: Bố mẹ kính yêu! Con đã về Miền Bắc, mấy bữa nữa con sẽ về nhà. Con của bố mẹ.  Em ký tên nhưng không viết rõ họ tên, nhìn chữ viết có chữ thì giống chữ em, có chữ thì không. Chữ viết có vẻ nguệch ngoạc và run rẩy, giống như bị thương hay là ai bắt chước chữ của em.
   Từ lúc nhận thư ấy, chị vừa mừng vừa lo. Mừng là vì, bặt đi ngần ấy năm không có tin tức gì, bây giờ mới nhận được tin em. Trong khi đó ở quê, chỉ sau giải phóng được ít ngày thì nhiều người cũng đã nhận được tin tức của người thân, còn em thì vẫn bật vô âm tín. Lo vì không biết có phải là em không hay là người đưa thư nhầm địa chỉ.
  Chị không biết làm thế nào, đành viết thư nhờ người cầm về cho bố. Chị nói với bố, thông tin này chưa cho mẹ biết vội. Bởi vì thời gian này do chưa nhận được tin em, mà mẹ lại nghe nhiều tin đồn thổi, lành ít giữ nhiều, mẹ cứ ốm lên ốm xuống, rồi trốn cả bố đi đến những thầy cao tay để xem bói. Nhà thì đã nghèo, lấy tiền đâu để mua lễ rồi đặt lễ để cầu khấn, đã thế: Lắm thầy thì thối ma, mỗi thầy nói một phách, người bảo chết rồi, người bảo còn sống, mẹ cứ cuống lên không biết phải làm thế nào, thế là ốm, nhiều hôm mẹ không ăn không uống gì cả, làm cả nhà lo lắng.
   Thật là một việc làm bất cẩn và đáng trách, số là: Hôm ngồi trên tầu đi qua đất Thanh Hóa, chẳng hiểu thế nào, tôi hứng chí viết mấy dòng  nhờ anh bạn xuống ga Ninh Bình, chuyển vào cho chị tôi để báo tin là tôi đã về. Tầu chạy rung bật bật, bàn không ra bàn, bút mực cũng chẳng ra hồn bút mực, hơn nữa cũng đã lâu không viết nên nét chữ nguệch ngoạc, đã thế lại chỉ ký tên, cộng với tấm ảnh của thằng Tuân quê ở Thanh Hóa tặng tôi làm kỷ niệm, tôi đút vào túi áo ngực cùng với lá thư tay, chẳng hiểu thế nào mà tấm ảnh lại chui được vào nếp gấp của bức thư. Bây giờ nghĩ lại, tôi thấy ân hận quá, nhưng vẫn còn may là tôi sắp về tới nhà.
   Cho đến lúc này, những thông tin cở bản về gia đình tôi đã nắm được, những thông tin ấy làm tôi vui lắm, vui nhất là cả nhà tôi bình an vô sự. Tuy nhiên, niềm vui của tôi, tự tôi cảm thấy là chưa trọn vẹn, bởi vì mối quan tâm của tôi không chỉ tập trung vào gia đình mà còn tập trung vào Vân nữa. Gia đình thì tốt rồi, còn Vân thì sao? Biết bao nhiêu câu hỏi cứ quay cuồng trong đầu tôi, tôi trách chị tôi sao lại không giữ cẩn thận những bức thư mà Vân đã gửi, để đến bây giờ thất lạc lẫn lộn ở đâu mà tìm không thấy. Nhưng rồi nghĩ đi nghĩ lại, mình trách chị là hơi quá, bởi vì trong hoàn cảnh chiến tranh, giặc Mỹ bắn phá Miền Bắc, chồng chị thì đi bộ đội. Ở nhà, chị một nách hai đứa con thơ, chị lo chống chọi và lăn lộn với cuộc sống cho mình rồi cho các con, làm gì còn thời gian mà quan tâm đến những bức thư của Vân gửi. Tôi lại tự an ủi mình, vẫn còn cơ hội gặp lại.
   Về đến nhà. Nhà tôi vị trí vẫn như xưa, nhà hướng Đông, lưng quay ra đường, nhà chạy song song với đường tỉnh lộ 59. Mấy năm qua chắc cũng có nhiều thay đổi, điều thay đổi đầu tiên mà tôi nhận được ngay, mặc dù trời cũng đã tối hẳn. Đó là dặng tre gai, bây giờ nhìn nó giống như một nửa cổng chào bắc qua đường, gốc vẫn ở chỗ cũ ngọn vươn sang cả sang bên kia đường, đã thế hàng ngày trâu bò đi qua đây đều cọ mình vào dặng tre, lâu ngày tạo nên bức tường toàn bằng tre ken xít vào nhau, uốn cong cong trông đẹp mắt. Tôi không biết dặng tre này có từ bao giờ, nghe bố tôi bảo: Ngày xưa ông nội tôi trồng để ngăn cách giữa đường và nhà, mục đích là không cho xe “Cóc” của bọn Pháp ở bốt Tiên Nông đi càn lội vào vườn vào nhà.
   Trời tối quá, tôi không giám đi thẳng xe vào sân, hồi còn ở nhà tôi hay đi như vậy. Nhưng hôm nay tôi xuống xe và dắt bộ, hai con chó bằng đá ở hai bên đầu cổng đang nhìn tôi, chúng có từ khi nào tôi cũng không rõ, nhưng nó gắn liền với tuổi thơ của tôi, bao nhiêu năm tháng đã qua đi mà nó vẫn bền bỉ đợi tôi về. Cây nhãn đầu hồi nhà bây giờ trông có vẻ như to lớn hơn, mấy cây na vẫn còi cọc như xưa. Bước chân vào sân, một cảm giác ớn lạnh chạy dọc sống lưng tôi, toàn thân nổi da gà, tóc gáy dựng đứng. Tôi hồi hộp quá, tôi như đang mơ, chân bước không thật, mảnh đất dưới chân tôi như đang nghiêng đi.
   Trong nhà tối om, ánh lửa từ dưới bếp hắt lên trên nhà, cái mà tôi nhìn thấy đầu tiên là chiếc xe đạp của bố tôi đang dựng ở ngoài sân. Tôi mừng quá, vậy là bố tôi hôm nay cũng có nhà, chắc là ông vừa ở cơ quan về nên xe vẫn còn để ở ngoài sân. Tôi dựng xe rồi đi xuống bếp, ánh lửa từ trong bếp hắt ra, tôi nhìn thấy mẹ tôi đang nấu một nồi gì đó ở trên bếp, bà đăm chiêu ngồi nhìn những cọng rạ bị ngọn lửa thiêu cháy thành than đỏ rực cong keo, những tàn lửa đỏ nổ lép bép bay lên và chui vào bóng tối. Tôi đứng ngắm mẹ tôi mà rưng rưng nước mắt, tôi cố kêu lên một tiếng:
    -Mẹ ơi!
    Nhưng không hiểu vì sao cổ họng của tôi như bị nghẹn lại không bật ra thành tiếng. Như có linh tính, mẹ tôi nhìn ra ngoài cửa bếp, trong ánh lửa bập bùng, mẹ tôi nhìn thấy một chú bộ đội. Đột nhiên tôi bừng tỉnh, ào vào ôm lấy mẹ tôi. Mẹ khóc, con khóc. Lửa cháy tràn ra cả ngoài bếp mà cả hai mẹ con vẫn ôm nhau khóc.Tôi từ từ đỡ mẹ tôi ngồi xuống, tôi nghe có nhiều tiếng chân người đang tiến về phía cửa bếp, tôi nhìn ra:
    -Ôi! Bố.
   Chỉ kịp nói có thế là tôi lao ra ôm lấy bố tôi và các em. Bố tôi và các em tôi, ôm tôi vào trong vòng tay của họ, người bố tôi và hai thằng em trai của tôi bóng nhãy mồ hôi, có lẽ họ đang làm gì đó ở ngoài vườn, thấy có tiếng khóc của mẹ tôi nên mọi người ùa vào. Bố con, anh em ôm nhau, không ai nói câu nào, một lát sau mọi người buông tôi ra. Mẹ tôi khêu cho ngọn lửa cháy to hơn, tôi thấy mẹ tôi, bố tôi và các em tôi đang nhìn tôi chằm chằm, hình như mọi người đang cố phát hiện xem có điều gì khác lạ trên cơ thể của tôi không? Tôi hiểu được ý của mọi người, tôi nói:
    -Con không bị thương vào đâu cả, bố mẹ đừng lo.
   Đã qua đi những phút giây xúc động của ngày gặp mặt, mọi người vẫn chưa hết bàng hoàng, cho đến lúc này vẫn chưa thấy bố mẹ và các em  nói gì với tôi hay hỏi han tôi câu nào, họ đau đáu nhìn tôi, có lẽ niềm vui đến bất ngờ quá làm cho mọi người còn đang ngây ngất tận hưởng niềm vui mà quên mất những điều cần hỏi. Xúc động và sung sướng, làm cho  những giọt nước mắt của mọi người, của tôi cứ tự ý trào ra không thể nào kìm được.
   Sau đấy, cả nhà tôi cứ loanh quang hết chuyện nọ lại chuyện kia, còn chưa kịp cơm nước gì, thì anh em chú bác trong họ và bà con làng xóm láng giềng xung quanh, mọi người ùn ùn kéo đến hỏi thăm và chúc mừng bố mẹ tôi. Ai đến cũng nắm lấy tay tôi rồi hỏi thăm rối rít, nhiều câu tôi chưa kịp trả lời thì người khác đã hỏi rồi. Mọi người đều xuýt xoa:
    - Hai bác và cháu thật may mắn, ơn nhờ hồng phúc của tổ tiên.
   Khu nhà nhỏ bé của gia đình tôi, tối nay bỗng trở nên một điểm sáng trong làng, tiếng cười nói, tiếng mời chào cứ râm ran mãi tới khuya.
(Còn nữa).
   

   
   


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 12 Tháng Mười Hai, 2012, 11:02:14 am
        Chào bác quanvietnam, chào các bác! Hay quá, chuyện của bác chủ kể về thăm gia đình sau cuộc chiến dài của đất nước thật mộc mạc và hấp dẫn lạ kỳ. Cái tình cảm của gia đình của bố mẹ với những người con ra trận thật là cao thượng to lớn và tuyệt vời làm sao. Qua đó làm cho mọi người được chứng kiến cảnh đoàn tụ xum họp niềm vui to lớn của gia đình. Nghĩ lại những năm tháng cam go đó mà chúng ta giờ đây mới thấy hết được sự hy sinh của Cha, của Mẹ của những người thân. Họ đã phải chịu đựng, phải đau thắt lòng trong nhung nhớ, mong ngóng tin con như thế nào? Đúng là không giấy bút nào, không từ ngữ nào có thể diễn tả hết được tâm trạng đó tình cảm đó.

        Tranphu341 xin chúc mừng bác quanvietnam sau bao năm chinh chiến nay đã đoàn tụ gia đình. Chúng tôi cũng như đang được sống trong niềm vui của bác. Chúc mừng bác.

          Tranphu tò mò một tý. Thường là trong hoàn cảnh đó, ngày vui đó là có 1-2 chú gà được làm nhiệm vụ trước là cúng lễ ơn phúc của Tổ Tiên, sau là chúc mừng cho bữa tiệc Đại hỷ phải không bác. Lúc này đã tối, gà chắc đã vào chuồng rồi mà. Dễ xử lý phải không?


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: vanthang341ht trong 12 Tháng Mười Hai, 2012, 08:13:45 pm

    Chào bạn quanvietnam.
    Không hiểu tôi có cảm tình với bạn thế nào mà rất thích đọc bài viết của bạn. Có thể bạn (E95) đã cùng chúng tôi (F341) chiến đấu tại Xuân Lộc Long Khánh nên chung nhau niềm vui chiến thắng? Bạn viết rất hay!


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tralientay trong 12 Tháng Mười Hai, 2012, 09:03:49 pm
---
Tôi dựng xe rồi đi xuống bếp, ánh lửa từ trong bếp hắt ra, tôi nhìn thấy mẹ tôi đang nấu một nồi gì đó ở trên bếp, bà đăm chiêu ngồi nhìn những cọng rạ bị ngọn lửa thiêu cháy thành than đỏ rực cong keo, những tàn lửa đỏ nổ lép bép bay lên và chui vào bóng tối. Tôi đứng ngắm mẹ tôi mà rưng rưng nước mắt, tôi cố kêu lên một tiếng:
    -Mẹ ơi!
    Nhưng không hiểu vì sao cổ họng của tôi như bị nghẹn lại không bật ra thành tiếng. Như có linh tính, mẹ tôi nhìn ra ngoài cửa bếp, trong ánh lửa bập bùng, mẹ tôi nhìn thấy một chú bộ đội. Đột nhiên tôi bừng tỉnh, ào vào ôm lấy mẹ tôi. Mẹ khóc, con khóc. Lửa cháy tràn ra cả ngoài bếp mà cả hai mẹ con vẫn ôm nhau khóc.
---

Bác quanvietnam viết đoạn này thật hay. Tôi đã đọc nhiều đoạn tả lúc gặp mặt sau chiến tranh trong nhiều truyện khác nhau, và thấy đoạn bác viết về ngày gặp mẹ là một trong những đoạn rất ấn tượng (cứ nghĩ không biết bác viết cái ra luôn ngay phải ngẫm nghĩ sửa đi sửa lại).

Tôi thích nhất đoạn

"bà đăm chiêu ngồi nhìn những cọng rạ bị ngọn lửa thiêu cháy thành than đỏ rực cong keo, những tàn lửa đỏ nổ lép bép bay lên và chui vào bóng tối." [cong keo --> cong queo]

Đọc đến đây chợt tôi thấy có liên hệ gì đó đến truyện Tìm Mẹ của Nguyễn Huy Tưởng, đoạn thằng Nhà và con Gạo gặp được mẹ. Tôi vừa tìm thấy trên mạng đây:

"Bỗng chúng nó thấy hiện trên mặt nước trong, mặt một người đàn bà giống mặt chúng nó như đúc. Người đàn bà đang rửa mặt, cũng thấy hiện trên mặt nước trong mặt hai đứa trẻ giống mặt mình như đúc. Nước mắt của người đàn bà rỏ xuống dòng sông. Nước mắt của thằng Nhà, nước mắt của con Gạo cũng rỏ xuống dòng sông. Dòng nước trôi, nước sông trong vắt, ba khuôn mặt giống nhau như đúc, chụm vào nhau rồi lại tỏa ra, tỏa ra rồi lại chụm vào nhau.
    Con Gạo giơ manh áo rách vẫy. Nó nói:
    - Mẹ ơi!
    Thằng Nhà cũng nói:
    - Mẹ ơi!"





 


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 17 Tháng Mười Hai, 2012, 10:11:33 am
 Cám ơn anh tranphu, anh vanthang, anh tralien tay, cung toàn thể đọc giả. Quanvn xin tiếp tục.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 17 Tháng Mười Hai, 2012, 10:27:52 am
CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
 2- Về nhà
           Ngủ dậy, mặt trời đã lên cao, ánh sáng mặt trời lọt qua cửa sổ vào trong nhà, những hạt bụi nhỏ li ti chen chúc nhau bay lượn trong luồng ánh nắng ban mai vàng dịu. Khu nhà vắng vẻ, hình như không ai ở nhà. Tôi bước ra ngoài sân, không gian của một vùng quê yên tĩnh làm cho bầu không khí có vẻ loãng hơn, tôi vươn vai hít thở thật sâu, không khí buổi sáng  trong lành, tôi cảm thấy tỉnh táo và khoan khoái.
   Con gà mái dắt đàn con đi kiếm ăn, thấy tôi tiến lại phía chúng, con mẹ vội vã túc túc đàn con chui vào gốc cây cà phê để né tránh sự theo dõi của tôi. Cây cà phê này có lẽ cũng đã hơn chục tuổi rồi, tôi còn nhớ: Hồi máy bay Mỹ bắt đầu đánh phá Miền Bắc, mấy bố con tôi chặt tre, đẵn xoan, đào hầm trú ẩn ở ngay dưới gốc cây cà phê này, lúc đó chưa có cây cà phê, mãi mấy ngày sau bố tôi chở từ cơ quan về, tôi và bố tôi hì hụi trồng nó lên nóc hầm, bây giờ nó cao lớn, cành lá xum xuê xanh tốt, quả sai chi chít, quả mầu tím xẫm, quả mầu đỏ, quả còn xanh. Đàn gà sau khi chui vào được gốc cây, chúng không bị ai quấy rầy nên thi nhau bới đất tìm mồi, đất cát bay rào rào dưới gốc cây cà phê.
   Tôi quay lại chỗ cửa hầm, cửa hầm thông vào trong nhà đã được bịt lại, hình như căn hầm lâu ngày cũng đã bị sập xuống, mọi dấu vết về căn hầm nay không còn nữa, có lẽ hình ảnh của căn hầm bây giờ chỉ còn lại trong tâm khảm của mọi người trong nhà và gắn liền với những kỷ niệm về cuộc chiến tranh phá hoại Miền Bắc của đế quốc Mỹ.
   Tôi đi loanh quanh ngoài sân, xuống bếp rồi ra ngoài vườn. Tất cả vẫn như xưa, chỉ có điều thời gian đã làm cho mọi thứ trở nên cũ kỹ phong trần và lam lũ. Tôi nhìn từng thứ, từng thứ một, chúng vẫn như ngày nào, rất đỗi thân thương. Xung quanh tôi, bất kể vật dụng gì từ trong nhà ra ngoài sân, từ những bụi cây đến góc vườn, tất cả đều in đậm dấu ấn tuổi thơ của tôi, mỗi khi tôi nhìn vào đâu thì ở đó những kỷ niệm của quá khứ  lại hiện về, làm cho tôi lúc thì nghẹn ngào rưng rưng nước mắt, lúc lại thấy sung sướng tự cười một mình. Cứ thế, tôi lần sờ từng kỷ niệm…
   Mỏi chân, ngồi ghé vào thành giếng, bóng của tôi đang lung linh dưới đáy giếng. Tôi sờ tay vào miếng vỡ của thành giếng, chỗ này do tôi làm vỡ, đã bao nhiêu năm trôi qua mà không có ai vá lại, thời gian đã làm cho rêu xanh phủ lên lớp lớp. Tôi ngồi thừ ra, nghĩ về quá khứ rồi trở về hiện tại. Bỗng nỗi buồn từ đâu ập đến, xót xa và sâu lắng.
    Mấy chục năm qua người dân Việt Nam sống trong nghèo khổ, chiến tranh liên miên. Miền Nam nơi chiến trường ác liệt thì đã đành, Miền Bắc tiếng là hậu phương, tuy không trực tiếp giáp mặt với kẻ thù, nhưng cuộc chiến đấu bảo vệ vùng trời, vùng biển của tổ quốc cũng không kém phần ác liệt. Không chỉ có thế, Miền Bắc XHCN còn là hậu phương lớn cho chiến trường Miền Nam. Hàng ngày hàng giờ quân dân Miền Bắc dốc sức lao động sản xuất để chi viện cho Miền Nam, thực hiện chủ trương gạo không thiếu một cân, quân không thiếu một người. Tất cả vì đồng bào Miền Nam ruột thịt. Miền Bắc, thắt lưng buộc bụng, sẵn sàng cung cấp đầy đủ sức người sức của cho chiến trường Miền Nam.
   Đế quốc Mỹ cũng sớm nhận ra Miền Bắc XHCN giữ vai trò quan trọng, có tính chất quyết định thắng lợi của cách mạng Miền Nam. Vì thế, chúng cố tình gây ra cuộc chiến tranh đánh phá Miền Bắc, bắt đầu từ sự kiện vịnh Bắc Bộ. Mục đích là để cắt đứt mọi chi viện của Miền Bắc đối với Miền Nam, nhưng sâu xa hơn là nó chứa đựng âm mưu thâm độc và nham hiểm của kẻ địch là chúng đánh hủy diệt để Miền Bắc trở lại thời kỳ đồ đá. Thực hiện ý đồ ấy, nên chúng không từ một âm mưu nào, chúng dùng cả pháo đài bay B52 ném bom hủy diệt thủ đô Hà Nội và nhiều thành phố khác, bất kể đó là công trình trọng điểm hay là khu dân cư.
    Kẻ thù càng thâm độc và nham hiểm, thì dân tộc Việt Nam lại càng kiên cường bất khuất. Từ bao đời nay vẫn thế, với lòng tự cường dân tộc, người Việt Nam quyết tâm đứng lên đánh trả kẻ thù. Những lúc, tiếng động cơ máy bay gầm rít trên bầu trời, là lúc quân và dân Miền Bắc đang nhằm thẳng quân thù mà bắn, cuộc chiến đấu ngoan cường  đã nâng đến mức trở thành biểu tượng của lòng dũng cảm, chỉ bắn khi máy bay địch bổ nhào ném bom, biết là có thể hy sinh, song quân và dân Miền Bắc thề quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Đúng là: Mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy của dân tộc Việt Nam lại trỗi dậy.
   Nếu là người Việt Nam sinh ra vào thời kỳ ấy, làm sao có thể quên được hình ảnh: Những đứa trẻ mới mấy ngày tuổi, đã phải theo mẹ vào hầm trú ẩn. Nó khóc thét lên rồi lặng đi, tím tái cả người vì tiếng động cơ máy bay hiện đại nhất Thế Giới của không lực Hoa Kỳ gầm rú. Những người già chân chậm mắt mờ, tay run run cầm cây gậy lần tìm đường ra hầm trú ẩn. Những em nhỏ đầu đội mũ rơm cắp sách đến trường, những bác xã viên HTX nông nghiệp cặm cụi trên cánh đồng lao động sản xuất. Kẻng báo động, tất cả vào hầm trú ẩn, kẻng báo yên lại tiếp tục học tập và làm việc, cứ như vậy ngày lại ngày. Nhưng cuộc sống đâu chỉ có hầm trú ẩn, còn bao nhiêu vấn đề khác kéo theo, vẫn phải ăn vẫn phải sống để chiến đấu và làm việc. Mà rồi cứ cho là có hầm trú ẩn đi. Nhưng thử hỏi: Những quả bom nặng hàng tấn hàng tạ ấy, khi phát nổ thì những gì có thể còn lại xung quanh nó, nói gì đến những hầm trú ẩn. Khi ấy tính mạng của con người được đặt ở vị trí nào trong bộ óc của những kẻ phát động chiến tranh?
   Tôi nghe thấy tiếng mẹ gọi, tôi bước vội qua mấy luống rau khoai lang để vào trong bếp. Mẹ tôi đi chợ về, bà mua cho tôi hai đồng bánh đúc và một dúm mắm tôm, bà để vào cái mẹt, đặt trên chiếc cối xay lúa. Mẹ tôi biết tôi rất thích ăn món này, bà bảo tôi:
    -Lâu rồi con chưa được ăn bánh đúc với mắm tôm, hôm nay mẹ cố chờ để mua cho con nên về muộn, thôi con ăn đi kẻo đói.
   Tôi vắt chanh và cắt quả ớt xanh hái ở ngoài vườn vào bát mắm tôm, rồi ngoáy đều đều, bát mắm tôm đã sủi bọt dậy mùi, làm tôi chảy cả nước miếng. Tôi hỏi mẹ tôi:
    -Bố với các em đi đâu cả rồi hả mẹ?
   Bà nghiêng rổ đổ nốt mớ cá trê lẫn những con lươn ra chậu rồi trả lời tôi:
    -Bố anh lên cơ quan, tối mới về, các em đứa đi học đứa đi làm đến trưa mới về. Bây giờ con ăn đi, rồi tranh thủ đi thăm các bác các chú ở bên nội và bên ngoại. Con thay bố mẹ mời các bác các chú trưa mai lên nhà ta ăn cơm, mừng cho con lành lặn trở về. À! Con nhớ vào thăm chị Thắm, tội nghiệp cho chị ấy. Ngày giải phóng, người ta nhận tin chồng tin con trở về, còn chị ấy nhận được giấy báo tử của chồng.
   Tôi đang say sưa tận hưởng hương vị của quê hương, mùi mắm tôm chanh hòa quện với mùi vôi nồng nồng của bánh đúc, vị cay hăng hăng của trái ớt, tất cả quện vào nhau tạo thành hương vị quê hương. Đưa miếng bánh đúc chấm mắm tôm vào miệng, một cảm giác khó tả lan truyền trong cơ thể, bắt đầu là từ lưỡi, lên đầu rồi lan tỏa về các bộ phận của cở thể. Thế mới biết hai tiếng Quê hương nó có ý nghĩa thế nào đối với một con người, nhất là những người có hoàn cảnh như tôi.
   Nghe mẹ nói đến chuyện của chị Thắm, tôi đang vui thì lại buồn ngay. Tôi vui vì ngày mai bố mẹ mời anh em họ hàng bên nội bên ngoại đến nhà  ăn cơm, mừng cho tôi lành lặn trở về để tiếp tục đi học. Tôi buồn vì nghe tin chồng chị Thắm đã hy sinh.




















CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
 2- Về nhà
           Ngủ dậy, mặt trời đã lên cao, ánh sáng mặt trời lọt qua cửa sổ vào trong nhà, những hạt bụi nhỏ li ti chen chúc nhau bay lượn trong luồng ánh nắng ban mai vàng dịu. Khu nhà vắng vẻ, hình như không ai ở nhà. Tôi bước ra ngoài sân, không gian của một vùng quê yên tĩnh làm cho bầu không khí có vẻ loãng hơn, tôi vươn vai hít thở thật sâu, không khí buổi sáng  trong lành, tôi cảm thấy tỉnh táo và khoan khoái.
   Con gà mái dắt đàn con đi kiếm ăn, thấy tôi tiến lại phía chúng, con mẹ vội vã túc túc đàn con chui vào gốc cây cà phê để né tránh sự theo dõi của tôi. Cây cà phê này có lẽ cũng đã hơn chục tuổi rồi, tôi còn nhớ: Hồi máy bay Mỹ bắt đầu đánh phá Miền Bắc, mấy bố con tôi chặt tre, đẵn xoan, đào hầm trú ẩn ở ngay dưới gốc cây cà phê này, lúc đó chưa có cây cà phê, mãi mấy ngày sau bố tôi chở từ cơ quan về, tôi và bố tôi hì hụi trồng nó lên nóc hầm, bây giờ nó cao lớn, cành lá xum xuê xanh tốt, quả sai chi chít, quả mầu tím xẫm, quả mầu đỏ, quả còn xanh. Đàn gà sau khi chui vào được gốc cây, chúng không bị ai quấy rầy nên thi nhau bới đất tìm mồi, đất cát bay rào rào dưới gốc cây cà phê.
   Tôi quay lại chỗ cửa hầm, cửa hầm thông vào trong nhà đã được bịt lại, hình như căn hầm lâu ngày cũng đã bị sập xuống, mọi dấu vết về căn hầm nay không còn nữa, có lẽ hình ảnh của căn hầm bây giờ chỉ còn lại trong tâm khảm của mọi người trong nhà và gắn liền với những kỷ niệm về cuộc chiến tranh phá hoại Miền Bắc của đế quốc Mỹ.
   Tôi đi loanh quanh ngoài sân, xuống bếp rồi ra ngoài vườn. Tất cả vẫn như xưa, chỉ có điều thời gian đã làm cho mọi thứ trở nên cũ kỹ phong trần và lam lũ. Tôi nhìn từng thứ, từng thứ một, chúng vẫn như ngày nào, rất đỗi thân thương. Xung quanh tôi, bất kể vật dụng gì từ trong nhà ra ngoài sân, từ những bụi cây đến góc vườn, tất cả đều in đậm dấu ấn tuổi thơ của tôi, mỗi khi tôi nhìn vào đâu thì ở đó những kỷ niệm của quá khứ  lại hiện về, làm cho tôi lúc thì nghẹn ngào rưng rưng nước mắt, lúc lại thấy sung sướng tự cười một mình. Cứ thế, tôi lần sờ từng kỷ niệm…
   Mỏi chân, ngồi ghé vào thành giếng, bóng của tôi đang lung linh dưới đáy giếng. Tôi sờ tay vào miếng vỡ của thành giếng, chỗ này do tôi làm vỡ, đã bao nhiêu năm trôi qua mà không có ai vá lại, thời gian đã làm cho rêu xanh phủ lên lớp lớp. Tôi ngồi thừ ra, nghĩ về quá khứ rồi trở về hiện tại. Bỗng nỗi buồn từ đâu ập đến, xót xa và sâu lắng.
    Mấy chục năm qua người dân Việt Nam sống trong nghèo khổ, chiến tranh liên miên. Miền Nam nơi chiến trường ác liệt thì đã đành, Miền Bắc tiếng là hậu phương, tuy không trực tiếp giáp mặt với kẻ thù, nhưng cuộc chiến đấu bảo vệ vùng trời, vùng biển của tổ quốc cũng không kém phần ác liệt. Không chỉ có thế, Miền Bắc XHCN còn là hậu phương lớn cho chiến trường Miền Nam. Hàng ngày hàng giờ quân dân Miền Bắc dốc sức lao động sản xuất để chi viện cho Miền Nam, thực hiện chủ trương gạo không thiếu một cân, quân không thiếu một người. Tất cả vì đồng bào Miền Nam ruột thịt. Miền Bắc, thắt lưng buộc bụng, sẵn sàng cung cấp đầy đủ sức người sức của cho chiến trường Miền Nam.
   Đế quốc Mỹ cũng sớm nhận ra Miền Bắc XHCN giữ vai trò quan trọng, có tính chất quyết định thắng lợi của cách mạng Miền Nam. Vì thế, chúng cố tình gây ra cuộc chiến tranh đánh phá Miền Bắc, bắt đầu từ sự kiện vịnh Bắc Bộ. Mục đích là để cắt đứt mọi chi viện của Miền Bắc đối với Miền Nam, nhưng sâu xa hơn là nó chứa đựng âm mưu thâm độc và nham hiểm của kẻ địch là chúng đánh hủy diệt để Miền Bắc trở lại thời kỳ đồ đá. Thực hiện ý đồ ấy, nên chúng không từ một âm mưu nào, chúng dùng cả pháo đài bay B52 ném bom hủy diệt thủ đô Hà Nội và nhiều thành phố khác, bất kể đó là công trình trọng điểm hay là khu dân cư.
    Kẻ thù càng thâm độc và nham hiểm, thì dân tộc Việt Nam lại càng kiên cường bất khuất. Từ bao đời nay vẫn thế, với lòng tự cường dân tộc, người Việt Nam quyết tâm đứng lên đánh trả kẻ thù. Những lúc, tiếng động cơ máy bay gầm rít trên bầu trời, là lúc quân và dân Miền Bắc đang nhằm thẳng quân thù mà bắn, cuộc chiến đấu ngoan cường  đã nâng đến mức trở thành biểu tượng của lòng dũng cảm, chỉ bắn khi máy bay địch bổ nhào ném bom, biết là có thể hy sinh, song quân và dân Miền Bắc thề quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Đúng là: Mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy của dân tộc Việt Nam lại trỗi dậy.
   Nếu là người Việt Nam sinh ra vào thời kỳ ấy, làm sao có thể quên được hình ảnh: Những đứa trẻ mới mấy ngày tuổi, đã phải theo mẹ vào hầm trú ẩn. Nó khóc thét lên rồi lặng đi, tím tái cả người vì tiếng động cơ máy bay hiện đại nhất Thế Giới của không lực Hoa Kỳ gầm rú. Những người già chân chậm mắt mờ, tay run run cầm cây gậy lần tìm đường ra hầm trú ẩn. Những em nhỏ đầu đội mũ rơm cắp sách đến trường, những bác xã viên HTX nông nghiệp cặm cụi trên cánh đồng lao động sản xuất. Kẻng báo động, tất cả vào hầm trú ẩn, kẻng báo yên lại tiếp tục học tập và làm việc, cứ như vậy ngày lại ngày. Nhưng cuộc sống đâu chỉ có hầm trú ẩn, còn bao nhiêu vấn đề khác kéo theo, vẫn phải ăn vẫn phải sống để chiến đấu và làm việc. Mà rồi cứ cho là có hầm trú ẩn đi. Nhưng thử hỏi: Những quả bom nặng hàng tấn hàng tạ ấy, khi phát nổ thì những gì có thể còn lại xung quanh nó, nói gì đến những hầm trú ẩn. Khi ấy tính mạng của con người được đặt ở vị trí nào trong bộ óc của những kẻ phát động chiến tranh?
   Tôi nghe thấy tiếng mẹ gọi, tôi bước vội qua mấy luống rau khoai lang để vào trong bếp. Mẹ tôi đi chợ về, bà mua cho tôi hai đồng bánh đúc và một dúm mắm tôm, bà để vào cái mẹt, đặt trên chiếc cối xay lúa. Mẹ tôi biết tôi rất thích ăn món này, bà bảo tôi:
    -Lâu rồi con chưa được ăn bánh đúc với mắm tôm, hôm nay mẹ cố chờ để mua cho con nên về muộn, thôi con ăn đi kẻo đói.
   Tôi vắt chanh và cắt quả ớt xanh hái ở ngoài vườn vào bát mắm tôm, rồi ngoáy đều đều, bát mắm tôm đã sủi bọt dậy mùi, làm tôi chảy cả nước miếng. Tôi hỏi mẹ tôi:
    -Bố với các em đi đâu cả rồi hả mẹ?
   Bà nghiêng rổ đổ nốt mớ cá trê lẫn những con lươn ra chậu rồi trả lời tôi:
    -Bố anh lên cơ quan, tối mới về, các em đứa đi học đứa đi làm đến trưa mới về. Bây giờ con ăn đi, rồi tranh thủ đi thăm các bác các chú ở bên nội và bên ngoại. Con thay bố mẹ mời các bác các chú trưa mai lên nhà ta ăn cơm, mừng cho con lành lặn trở về. À! Con nhớ vào thăm chị Thắm, tội nghiệp cho chị ấy. Ngày giải phóng, người ta nhận tin chồng tin con trở về, còn chị ấy nhận được giấy báo tử của chồng.
   Tôi đang say sưa tận hưởng hương vị của quê hương, mùi mắm tôm chanh hòa quện với mùi vôi nồng nồng của bánh đúc, vị cay hăng hăng của trái ớt, tất cả quện vào nhau tạo thành hương vị quê hương. Đưa miếng bánh đúc chấm mắm tôm vào miệng, một cảm giác khó tả lan truyền trong cơ thể, bắt đầu là từ lưỡi, lên đầu rồi lan tỏa về các bộ phận của cở thể. Thế mới biết hai tiếng Quê hương nó có ý nghĩa thế nào đối với một con người, nhất là những người có hoàn cảnh như tôi.
   Nghe mẹ nói đến chuyện của chị Thắm, tôi đang vui thì lại buồn ngay. Tôi vui vì ngày mai bố mẹ mời anh em họ hàng bên nội bên ngoại đến nhà  ăn cơm, mừng cho tôi lành lặn trở về để tiếp tục đi học. Tôi buồn vì nghe tin chồng chị Thắm đã hy sinh.





































  


















  


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 19 Tháng Mười Hai, 2012, 10:17:36 am
                                                       
                                 CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
                                                 2- Về nhà
          Gia đình tôi với gia đình chị Thắm chỉ là hàng xóm láng giềng, nhà chồng chị ở cuối xóm, nhà tôi ở đầu xóm, nhưng lại rất thân với nhau. Tôi cũng không biết giải thích tại sao như vậy, có lẽ là hoàn cảnh và điều kiện công tác đã làm cho hai gia đình xích lại gần nhau và thân nhau.
   Chị Thắm hơn tôi khoảng 6 hay 7 tuổi, gia đình chị ở xóm trong, xóm nằm sát với chân núi Bảng, xóm này được mệnh danh là căn cứ địa của đội du kích xã trong thời kỳ kháng chiến chống pháp. Tôi nghe bố tôi kể lại: Mỗi khi quân Pháp ở bốt Tiên Nông đi càn, đội du kích lại tập hợp dân chúng, thực hiện vườn không nhà trống, tất cả rút hết vào núi Bảng. Bọn địch đã nhiều lần vây bắt nhưng đều thất bại, đành phải rút về bốt. Do đặc thù địa hình vùng núi đá vôi có nhiều hang động như vậy, bọn Pháp đành chụi bó tay. Đến thời kỳ chiến tranh phá hoại của Đế quốc Mỹ, cũng có rất nhiều công binh xưởng được sơ tán về đây để bảo đảm an toàn tuyệt đối.
  Ở đây tôi không có ý nói về thành tích chống Pháp, chống Mỹ của xóm này, mà tôi muốn nói đến những điều đặc biệt của những người phụ nữ xóm này. Điểm đặc biệt nhất mà cả tổng cả huyện đều phải thừa nhận là: Con gái xóm này, đến tuổi trưởng thành thì mười người là mười một người xinh đẹp, da trắng tóc dài, đi đến đâu người ta cũng nhận ra là con gái xóm núi Bảng. Người ta kháo nhau con gái ăn nước ở đây thì da trắng tóc dài, họ nói vậy chả biết có đúng không?
   Chị Thắm lấy chồng xóm tôi, chồng chị tên là Đảng, anh Đảng có bố là liệt sĩ thời kháng chiến chống Pháp, nhà có một mẹ một con. Theo tiêu chuẩn anh không phải nhập ngũ, nhưng rất nhiều lần anh viết đơn tình nguyện xin được nhập ngũ, có những lần anh viết cả bằng máu, mãi cũng chẳng được đi. Sau chẳng hiểu thế nào anh lại được gọi đi học sĩ quan lục quân. Hai vợ chồng lấy nhau mấy năm thì anh lại xin đi B, người ta giao cho anh nhiệm vụ dẫn quân vào chiến trường rồi quay ra.  Anh cũng bằng lòng với nhiệm vụ ấy và cũng đã hoàn thành được mấy chuyến, thi thoảng cấp trên cũng cho anh về thăm nhà. Anh chị cũng đã sinh được một cháu gái, bây giờ khoảng 5 hay 6 tuổi.
   Ngày mà hai anh chị chưa lấy nhau, chị là cô thôn nữ xinh đẹp nết na, là ủy viên Ban chấp hành xã đoàn, phụ trách công tác thanh thiếu niên của xã. Tôi là Liên đội trưởng liên đội thiếu niên tiền phong. Khi ấy, hai chị em như hình với bóng, những lúc tôi đi học thì thôi, khi tôi về chị em và bè bạn lại quấn quýt bên nhau. Dưới sự lãnh đạo của chị, đội thiếu niên của chúng tôi làm được nhiều việc lắm. Ngoài việc học hành chăm chỉ chúng tôi còn tham gia nhiều công tác để hưởng ứng phong trào: Tất cả vì đồng bào Miền Nam ruột thịt, vì Ninh Bình kết nghĩa với Bạc Liêu, vì chiến dịch Hòn Khoai Quang trung đại thắng. Chúng tôi nuôi gà, tổ chức hũ gạo tiết kiệm. tổ chức chăm sóc những gia đình có người đi chiến đấu xa nhà v.v. Hoàn cảnh và điều kiện sống như vậy, làm cho chị em chúng tôi thân nhau, chị coi tôi như em trai của chị, bố mẹ tôi cũng coi chị như con trong nhà.
   Tôi vừa ăn vừa suy nghĩ nên không để ý mẹ tôi đi ra từ lúc nào,  ăn xong tôi thu dọn bát đĩa bỏ ra ngoài chậu, quay vào bếp cầm chiếc ấm nấu nước vối rót một bát đầy. Cái tang nước vối này rất kỵ với mắm tôm, chỉ cần xúc miệng vài lần và uống một vài ngụm là hết sạch mùi mắm tôm. Cầm cái ấm lên, có lẽ cái ấm này có tuổi nhiều hơn tuổi tôi, ấm được làm bằng đồng, do lâu ngày khói than bám vào tầng tầng lớp lớp nên bây giờ chẳng còn nhận được là ấm bằng đồng hay bằng đất, có lẽ chỉ có cái vòi ấm, cái nắp ấm và cái quai ấm được thay bằng dây thép là chỗ dựa để khẳng định đây là ấm bằng đồng. Tôi tủm tỉm cười, nhà tôi nghèo quá. Tôi không thấy bất kể cái gì đáng giá, có lẽ cái đáng giá nhất là cái xe đạp bố tôi đang đi.
   Tôi nghe tiếng mẹ tôi với tiếng chị Thắm nói chuyện với nhau từ đầu ngõ, hai người tiến vào trong sân. Tôi vội vàng lên nhà, từ xa tôi đã nhận ra chị Thắm, mới có mấy năm tôi không gặp, sao trông chị khác thế. Tôi rùng mình, toàn thân nổi gai ốc, tay run run. Tôi sắp xếp nhanh trong đầu những điều cần nói để an ủi chị Thắm. Tôi chủ động tiến thật nhanh để nắm lấy tay chị, tôi nhìn thẳng vào mắt chị. Ôi! Đôi mắt của chị không còn long lanh trong sáng như ngày nào nữa, khóe mắt chị đã xuất hiện những tia máu nhỏ ly ty chạy ngoằn ngèo. Nhìn đôi tay chị, đôi tay  trắng xanh nhợt nhạt, những đường gân xanh lè nổi lên. Nhìn chị bây giờ không ai nghĩ rằng chị đang ở độ tuổi gái một con nhìn mòn con mắt, nhìn chị tiều tụy và đáng thương quá.
    -Em chào chị! Chị có khỏe không?
   Câu nói đầu môi thế thôi, chứ nhìn chị lúc này không ai là không xót xa. Chị Thắm gượng cười và nói chuyện vói tôi:
    -Chị vẫn khỏe, tối hôm qua chị định vào chơi với em, nhưng mọi người đến chơi đông quá, chị có vào thì cũng chả chen được câu nào. Chị quay về, định lát sau quay lại, nhưng sau đó thì đã khuya rồi chị không vào nữa. Sáng nay gặp mẹ em ở ngoài chợ, bác bảo tối đến chơi, nhưng tiện đi chợ về chị vào thăm em luôn.
   Hai chị em ngồi ở bậc hè nói chuyện, nắng buổi sớm chiếu thẳng vào mặt hai chị em. Mẹ tôi cứ dục vào trong nhà, tôi cứ vâng vâng dạ dạ nhưng câu chuyện say xưa quá, không ai muốn di chuyển. Chị kể cho tôi nghe nhiều chuyện lắm, chuyện làng chuyện xóm, chuyện gia đình, chuyện chị biết tin anh Đảng hy sinh nhưng chị xin với Ban chính sách không công bố, vì sợ sức khỏe của bà mẹ chồng không tốt. Trong khi đó, bà mẹ chồng cũng biết tin con trai mình đã hy sinh, nhưng thấy chưa tiện nói ra vì sợ con dâu buồn v.v.
    Chỉ nghe đến đấy, trái tim tôi như muốn ngừng đập, miệng đắng ngắt, đầu óc quay cuồng, chỉ còn biết kêu Trời: Trời ơi! Ở đâu trên trái đất này có chuyện tương tự như thế này không? Hệ lụy của cuộc chiến tranh sao quá độc ác và phũ phàng đến vậy, chúng đã len lỏi vào khắp mọi nơi mọi chốn, từ thành thị đến nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi, từ những vật vô tri vô giác, đến cuộc sống của từng con người, từng gia đình, từ thế hệ này và còn bao nhiêu thế hệ tiếp theo nữa? Thử hỏi biết đến bao giờ mới vơi đi  nỗi đau này?
   Giọng chị vẫn đều đều:
    -Những đứa cùng lứa với em đi bội đội ở thôn mình đã hy sinh gần hết. Em thật là người may mắn…
   Đã gần trưa, nắng nóng quá, chúng tôi không thể ngồi thêm được nữa, chị đứng dậy chào mẹ tôi và tạm biệt tôi ra về. Tôi thấy buồn lâng lâng, tôi nhìn vào mắt chị, hai mắt chị vằn lên nhiều hơn những tia máu đỏ li ty và hình như chị không còn nước mắt.
    Dáng chị xiêu xiêu đi trên con đường quen thuộc ngày nào.
                                                       HẾT
   




Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 26 Tháng Mười Hai, 2012, 10:27:43 am

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
 3- Trở lại trường
          Tôi cố ở nhà thêm mấy ngày nữa, nhưng bản tính của tôi là hay lo xa nên bồn chồn đứng ngồi không yên, đôi lúc chẳng thiết gì đến nghỉ ngơi an dưỡng. Bố mẹ tôi biết tính tôi, nên cũng thôi không ép tôi phải ở nhà, mà động viên tôi trở lại đoàn an dưỡng và nhanh chóng thu xếp giấy tờ để trở về trường cho kịp mùa khai giảng.
   Về đoàn an dưỡng, phải mất mấy hôm mới đi được. Chuyện thì cũng chẳng có gì quan trọng, tôi thì đề nghị hoàn tất giấy tờ cho tôi về trường, đoàn an dưỡng thì cứ đề nghị là phải an dưỡng cho hết tiêu chuẩn khi đó hãy về trường. Tôi trình bầy lý do là nếu không kịp ngày khai giảng là tôi mất thêm một năm nữa, tốt nhất là thanh toán cho tôi để tôi tự an dưỡng. Đoàn an dưỡng rất khoát không giải quyết, vì làm như vậy là vi phạm chính sách đãi ngộ của hậu phương. Giằng co hai bên chẳng ai chịu ai, cuối cùng tôi phải làm giấy cam kết là tôi xin không an dưỡng nữa, mà xin trở lại trường để tiếp tục đi học. Trong bản cam kết ấy có một câu: Đây là yêu cầu của tôi và sẽ không có khiếu kiện gì về việc này.
   Hôm qua giải quyết giấy tờ xong, sáng nay tôi đã có mặt tại sân bóng đá trường ĐHXD ở Hương Canh Vĩnh Phú. Trời cũng đã gần về trưa, tôi đứng giữa sân bóng, gió thổi nhè nhẹ mơn man trên da thịt, tôi nghẹn ngào xúc động, toàn thân gai lạnh, chân tay run run, cảm giác giống như cơn sốt rét rừng sắp ập đến.
  Tôi nhìn xung quanh một lần nữa để khẳng định. Không còn nghi ngờ gì nữa, thế là sau gần 4 năm xa cách, tôi đã trở về với mái trường xưa, nơi mà những năm tháng chiến đấu gian khổ, tôi và bạn bè vẫn thường nhắc đến nó và mơ ước có ngày được trở lại. Hôm nay đã là sự thật. Trường vẫn đóng ở địa điểm cũ, cũng đã có nhiều đổi thay nhưng cũng chỉ là những tiểu tiết, còn về đường nét thì vẫn còn nguyên. Từ giữa sân bóng đá, nhìn về phía Đông Nam ở trên đồi, ngày chúng tôi chưa nhập ngũ là khoa Xây Dựng Dân Dụng, khoa Máy Xây Dựng, khoa Cấp thoát Nước. Tụt xuống lưng đồi về phía Đông hơi ghé Nam là khoa Cầu Đường của tôi, sang lưng đồi bên kia theo hướng Đông Bắc là khoa Thủy Lợi – Cảng, cũng ở hướng này mà sâu vào phía trong thì còn có những lớp chuyên ngành của khoa Xây Dựng Dân Dụng. Quay sang hướng Bắc là khoa Kinh Tế Xây Dựng, sau lưng tôi là hướng Tây, đường ra gò Héo, nơi Hiệu Bộ đóng ở đấy.
   Bây giờ là những ngày đầu tháng 9 năm 1975, không khí của toàn trường đang vào đầu năm học. Trên đồi bạch đàn thấp thoáng bóng các sinh viên, họ vừa đi vừa nói chuyện hay trao đổi bài vở gì đó, cũng có những cô những cậu sinh viên đi ngang qua chỗ tôi đứng, họ thấy tôi chăm chú nhìn họ, lập tức họ quay mặt sang hướng khác tránh cái nhìn xoi mói của tôi. Trên những nẻo đường tắt ngang tắt ngửa về các khoa các lớp, tôi thấy có những bóng áo xanh của bộ đội xen với quần áo đủ mầu của các em sinh viên.
   Một tốp mặc quần áo bộ đội tiến lại phía tôi, tôi mừng quá thế là có chỗ để hỏi thăm rồi. Họ đến gần, tôi phát hiện ra là tôi không quen ai cả, họ cũng vậy, nhưng vì là lính ở chiến trường ra nên chúng tôi không có gì là ngăn cách. Một người trong số họ hỏi tôi:
    -Ông học Khoa nào, K mấy?
    -Tôi học Khoa Cầu Đường, K13. Thế các ông học ở khoa nào? Khóa bao nhiêu?
    -Bọn mình mỗi thằng mỗi khoa, mỗi khóa, đến đây gặp nhau rủ nhau đi uống nước. À! Ông đã nhập học chưa?
    -Chưa. Mình hỏi bây giờ phải làm thế nào?
    -Đơn giản thôi, ông mang tất cả giấy tờ lấy từ đoàn an dưỡng ra, mang nộp cho phòng tổ chức của khoa thế là họ sẽ làm cho ông.
    -Chỉ thế thôi à. Thế mình cám ơn nhé.
    -Cám ơn cám huệ cái gì, có đi uống nước với bọn mình thì đi, còn không thì tạm biệt, hẹn gặp lại.
   Chúng tôi chia tay nhau, tôi hỏi đến phòng tổ chức của Khoa Cầu Đường. Đến nơi, tôi gặp một chị quen lắm nhưng tôi quên mất tên, nhưng chị ấy lại biết tên tôi và biết chuyện giữa tôi và Vân. Chị mời tôi uống nước và hỏi thăm đủ thứ chuyện, tôi thì vừa nói chuyện lại vừa cố suy nghĩ xem chị tên là gì, nhưng chịu không nhớ nổi. Trong câu chuyện, chị cho tôi biết Vân đã lấy chồng cách đây hai năm, hồi cưới Vân có mời chị. Nghe chị nói thế, tuy không bất ngờ, nhưng tôi choáng váng, hai tay túm chắc vào thành ghế để không bị ngã, tôi thấy ngột ngạt khó thở, phải cố gắng lắm tôi mới trấn tĩnh để tiếp tục câu chuyện. Nói chuyện với chị một lúc, tôi mới quay trở lại công việc giấy tờ nhập học. Chị cười rồi bảo tôi:
    -Những người cùng lớp với em trước kia, họ chuyển hết sang K17 Khoa Thủy Lợi Cảng rồi. Khoa Cầu Đường không tuyển sinh khóa 17 mà chỉ có khóa 18, 19 thôi. Chị nghĩ em về đấy học với mọi người cho vui, đồng cảnh ngộ, dễ bảo nhau. Còn nếu em không thích thì ở lại học K18 Khoa Cầu Đường.
   Tôi hơi bất ngờ, chưa biết quyết định thế nào. Tôi đánh liều hỏi chị:
    -Theo chị thì em nên thế nào?
    -Chị nghĩ tùy em quyết định, mỗi khoa cũng có cái hay của nó, chỉ có điều là học Thủy Lợi Cảng thì sớm được một năm, còn Cầu đường thì chậm một năm. Theo chị, tốt nhất là em nên tham khảo ý kiến của những người đã chuyển sang đấy rồi hãy quyết định.
   Tạm biệt chị, tôi đi về phía Khoa Thủy Lợi Cảng. Đi loanh quanh thế nào lại quay ra sân Vận động, tôi đi ra đường lớn để sang khoa Thủy Lợi Cảng cho dễ. Đang đi thì tôi gặp thằng Khoa, lúc đầu tôi không nhận ra nó, bởi vì nó không mặc quần áo bộ đội, mà mặc quần bộ đội, áo dài tay mầu xanh trứng sáo. Nhìn nó cứ ngờ ngợ, đến khi hai đứa giáp nhau thì đúng rồi, nhìn bộ râu quai nón của nó thì đích thị là thằng Khoa Râu đây mà. Tôi mừng lắm, nó cũng mừng, hai thằng ôm nhau một hồi lâu. Bộ râu quai nón của nó, cọ vào cổ vào má tôi ram ráp làm cho tôi nhột nhột. Tôi đẩy nó ra và hỏi liên tục:
    -Mày ra khi nào? Đã lâu chưa? Bây giờ học ở khoa nào? Khóa  bao nhiêu? Mày có bị thương không?
   Khoa, một tay cầm Ango Trung quốc, còn tay kia cầm cái thìa, cả hai tay Khoa cứ  túm lấy thắt lưng tôi, như sợ tôi chạy mất. Khoa nói:
    -Tao ra được nửa tháng rồi, tao không bị thương vào đâu cả, chỉ mấy lần bị sức ép thôi. Tao nằm ở đoàn an dưỡng nhưng chán quá nên tao xin ra sớm, có lẽ tao là ra đây sớm nhất. Ra đây tao ở bên Khoa Cầu Đường được ít hôm thì gặp mấy anh em cùng lớp mình cũng đến, mấy đứa chúng tao bàn nhau: Nếu Khoa Cầu Đường không có khóa 17 thì chúng mình xin sang Khoa Xây dựng Dân Dụng, hay là Khoa Kinh Tế Xây Dựng. Nhưng khi kéo nhau lên gặp phòng tổ chức của nhà trường, thì các ông ấy không đồng ý, giải thích là: Các khoa khác hiện đã đủ chỉ tiêu tuyển sinh rồi. Khoa Cầu đường chỉ có thể chuyển sang Khoa Thủy Lợi Cảng, vì hai khoa này tương đối giống nhau về chuyên ngành đào tạo. Được mấy hôm thì Khoa gọi lên công bố danh sách, tao với mấy đứa học K13 Cầu Đường, cả thằng Định học 12 Cầu Đường đều xếp vào lớp 17T, còn bọn thằng Xuân, thằng Cường với mấy đứa nữa về lớp 17C.
   Khoa dừng lại hỏi tôi:
    -Mày bây giờ mới ra đến đây à? Đã xếp vào lớp nào chưa? Sao ra muộn thế? Ở đoàn an dưỡng mấy tháng mà sao nhìn mày gầy gò quá, hay là bị sốt rét nó quật?
    -Tao vừa mới đến đây xong, về trường gặp lại bạn cũ thì mày là người đầu tiên đấy. À mà tao hỏi này: Nếu theo như mày nói thì tao cũng sẽ bị xếp theo chúng mày à?
    -Tao cũng không biết, nhưng có lẽ là thế.
    Khoa dừng lại không nói tiếp, nét mặt đang vui, tự nhiên có vẻ thoáng buồn, giọng trầm xuống:
    -Bọn tao an ủi nhau: Sống về đến đây để đi học, học gì cũng được, Thủy Lợi Cảng hay Cầu Đường có gì là khác nhau đâu. Học Thủy Lợi Cảng ra trường sớm hơn một năm, đồng nghĩa là giúp đỡ bố mẹ sớm hơn một năm. Thực ra, mình làm sao biết được cái nào hay hơn cái nào, biết đâu mà kén với chọn, tránh vỏ dưa thì gặp vỏ dừa.  Nghĩ thế là chúng tao đồng ý, còn mày thì tùy.
   Tôi không nói gì, dùng hai ngón tay cái, luồn vào quai ba lô xốc lên cho máu lưu thông đỡ tê vai, rồi hỏi Khoa:
    -Khoa đi đâu bây giờ?
    -Đi ăn cơm. Thôi đi ăn luôn với tao rồi về nghỉ ngơi chiều làm gì thì làm.
   Tôi đi theo Khoa, để ăn bữa cơm sinh viên đầu tiên, sau gần bốn năm xa cách. Người quen tôi gặp thứ hai là bác Lê, bác Lê trước làm cấp dưỡng cho lớp K13 C ở Trúc Ổ Quế Võ, sau đó bác cũng theo trường chuyển về Hương Canh Vĩnh Phú. Chúng tôi nhập ngũ bác vẫn ở lại phục vụ cho tới bây giờ. Gặp tôi, bác nhận ra ngay, bác hỏi thăm tôi mấy câu qua loa rồi hẹn tôi lúc nào đến chơi, vì bác đang bận phát cơm cho sinh viên.
   Chỗ người quen cũ, bác Lê cho chúng tôi mượn cái âu tráng men cũ, nó đã thủng xung quanh sắp sửa rơi khỏi đáy để đựng hai xuất cơm, ango của Khoa thì đựng canh rau muống, nắp ango đựng bốn miếng đậu phụ và bốn miếng thịt kho thả nổi bồng bềnh trong nước hàng, có mấy cọng hành phi cháy, thoạt nhìn cứ tưởng là ruồi chết. Hai thằng tìm vào góc của nhà ăn để ăn cho kín đáo, loay hoay tôi cũng kiếm ra được cái muôi, thế là chúng tôi chiến đấu ngon lành. Nói thật, với số lượng cơm canh ấy tôi với thằng Khoa có thể xơi được 4 xuất.
    Vừa ăn, tôi với Khoa ôn lại chuyện ngày xưa. Nhớ hồi K13 C còn đang sơ tán ở Trúc Ổ Quế Võ Hà Bắc, tôi với Khoa, hai thằng ở với nhau, ở nhờ anh chủ nhà cùng độ tuổi chúng tôi nhưng sống độc thân. Anh làm kế toán cho đội sản xuất, trông mặt anh cũng tạm được không đến nỗi nào, nhưng từ thắt lưng trở xuống là bị teo cơ, anh phải đi bằng đôi nạng, có lẽ vì thế nên anh vẫn đang ở một mình. Trong nhà có ba thằng đàn ông sàn sàn tuổi nhau sống với nhau, tôi với Khoa ăn cơm nhà bếp, còn anh tự nấu lấy ăn.
   Chúng tôi sống hòa thuận vui vẻ, cũng có phần thích thú nữa là đằng khác, bởi vì ở với anh chúng tôi được tự do, lại học hành yên tĩnh không ai quấy rầy. Nhà của anh có một gian hai trái, gian giữa ở sát tường kê cái hòm đựng thóc và làm luôn thành bàn thờ, tiếp là cái bàn và hai cái ghế băng để anh làm việc. Anh nhường cho chúng tôi một bên trái nhà, kê mỗi thằng cái chõng tre để làm giường ngủ, còn anh một bên trái nhà kê giường đàng hoàng, phần còn lại là hòm giương và đồ đạc quần áo của anh.
   Có lẽ chúng tôi ở với anh đến hơn một năm, ở đến cái ngày mà cả hai thằng chúng tôi nhập ngũ. Chúng tôi đi làng xóm đã buồn thì chớ, anh chủ nhà lại còn buồn hơn. Nhớ những đêm đông, gió bắc rít qua khe liếp, qua khe hở của vách tường, đói và rét chúng tôi không ngủ được, anh bảo chúng tôi sang nằm chung cho ấm, vì giường của anh được trải mấy tấm tranh bằng rạ phơi khô để làm ổ. Nhưng chúng tôi không sang vì sợ làm mất giấc ngủ của anh, chúng tôi nằm im cố ngủ nhưng không ngủ được. Khổ cho chúng tôi là cả hai thằng đều cao lớn, mà chõng thì vừa ngắn lại vừa yếu, nên không thể ghép vào để ngủ chung, đành mỗi đứa nằm mỗi nơi chịu trận. Nhiều đêm đói quá không ngủ được, anh chủ nhà biết ý nhưng sợ chúng tôi ngại. Anh chủ động nói với chúng tôi: Hôm nay tôi đói quá, các ông dậy nấu cơm ăn đi cho tôi ăn với. Anh chỉ ăn qua loa, còn bao nhiêu tôi với Khoa xơi hết, cơm chỉ ăn với muối ớt mà tôi với Khoa xơi hết một cân gạo. Nghĩ đến đấy, tôi hỏi Khoa:
    -Ông có nhớ lúc trước tôi với ông ăn cơm với anh chủ nhà ở Trúc Ổ không?
   Khoa nuốt vội miếng cơm, nhìn tôi cười khì khì, hai lúm đồng tiền ẩn sâu dưới bộ râu quai nón, nhìn càng lộ. Khoa trả lời tôi:
    -Sao không nhớ, nhớ nhiều là đằng khác.
   Khoa hỏi tôi:
    -Tình hình cái Vân với cái Lan bây giờ thế nào rồi?
   Thực tế tôi không biết, nên tôi trả lời Khoa là tôi không rõ, Rồi tôi lảng sang chuyện khác:
    -Ông có nhớ hôm vượt qua Bãi Hà, tôi đói quá bị lả đi, ông phải đi kiếm thức ăn cho tôi không?
   Khoa nghĩ một lúc, rồi lắc đầu, có thể là Khoa không nhớ ra. Tôi kể lại cho Khoa nghe xem  có nhớ lại không:
   Sáng hôm ấy khoảng 9, 10 giờ, hành quân vượt qua Bãi Hà, đây là vùng trọng điểm đánh phá của máy bay Mỹ, vì vậy giao liên căn dặn: Khi vượt qua Bãi Hà là phải chạy cho nhanh, vượt qua càng nhanh càng tốt. Tao đang chạy giữa một vùng đất trống rộng mênh mông màu đỏ ối, bởi bom đạn cày đi xới lại nhiều lần. Trên đầu là chiếc OV10 kêu vo vo, lượn quanh giống như con diều hâu đang lượn lờ tìm mồi. Chiếc ba lô nặng trĩu trên lưng, cùng với khẩu trung liên RPD băng tròn cứ đập trên lưng trên vai rát bỏng. Đang chạy, tao gặp mày đang ngồi ở bãi đất, tao hỏi sao vậy. Mày trả lời tao là chết thì chết chứ không chạy nổi nữa rồi. Tao nói cố lên, vì đây chưa phải là chiến trường. Mày miễn cưỡng đứng lên tiếp tục chạy, theo tao. Vừa chạy tao vừa nghĩ: Mày to xác nên mọi người phân công mày mang nhiều quá nên không chạy được, ngoài vũ khí quân trang cá nhân, còn mang cả một cái máy thông tin to tổ bố trước ngực, khi chạy nó cứ đập vào ngực nên không thở được.
    Hôm ấy, cố gắng lắm tao với mày cũng vượt qua được Bãi Hà, ẩn vào rừng cây mọc lúp xúp. Tao nằm vật ra vì đói, nên hạ đường huyết. Mày bốc cho tao một dúm ruốc mặn bảo ăn đi và chờ ở đây. Rồi mày cầm dao đi đẽo cái cây gì trong rừng  mang về bảo tao ăn đi, tao ăn thấy nó nhớt nhớt khó chịu, nhưng cố ăn.
   Kể đến đấy Khoa kêu lên:
    - Nhớ rồi! Lúc ấy khổ thật mày nhỉ? May quá, chúng ta còn sống.
   Sau đấy, Khoa về C25 E95 F325, tôi về C20 E95 F325. Bây giờ chúng tôi mới gặp lại nhau.
   Ăn xong tôi về chỗ Khoa đánh một giấc ngon lành, bù cho những ngày cứ băn khoăn trăn trở, vì chưa đi nhập học.
(Còn nữa).
 


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 26 Tháng Mười Hai, 2012, 05:16:06 pm
           Chào bác quanvietnam! Tranphu341 xin có lời chúc mừng bác! Một người trai của đất Việt. Khi đất nước có chiến chinh bác đã xếp bút nghiên để xung phong vaò bộ đội. Bốn năm đời lính với bao gian khổ, bao chiến công hiển hách và chiến thắng. Bác các bác những người sinh viên đã góp phần không nhỏ cùng thanh niên cả nước ra trận, tiêu diệt hết bóng thù. Giờ đây bác trở lại trường sau những ngày chinh chiến với khúc khải hoàn ca của người chiến thắng.

             Về trường thật vinh dự, thật tự hào nhưng cũng không phải có những khó khăn, có những thiệt thòi của người cầm súng. Tranphu còn nhớ các cơ quan tuyên truyền trước kia nói là: "Các đồng chí đi bộ đội tức là các đồng chí đã vào một trường đại học lớn. Các đồng chí trở về khi hoàn thành nhiệm vụ thì coi như đã tốt nghiệp trường đại học đó". Nhưng khi những người lính trở về khi nhiệm vụ đã hoàn thành thì chẳng ai nói đến điều đó nữa. Chẳng ai công nhận như vậy cả. Thậm chí nhiều địa phương nhiều người muốn làm một thủ tục gì về quyền lợi về chế độ đều rất khó. Như đã có chuyện: Thủ tục làm người còn sống! Của nhà văn Minh Chuyên đã viết.

             Có lần Tranphu đi làm chế độ cấp huân chương " Chiến sỹ giải phóng" Nhưng làm mãi không được vì không có giấy tờ gì thể hiện mình đã chiến đấu tại chiến trường Miền Nam. Tranphu nói với các đồng chí làm chính sách là tôi còn giữ được giấy sinh hoạt Đảng B. TỨC LÀ ĐẢNG VIÊN VÀO CHIẾN TRƯỜNG THÌ ĐƯỢC CẤP MỘT CÁI THẺ SINH HOẠT ĐẢNG B NHO NHỎ. đ/c CÁN BỘ CHÍNH SÁCH CỦA THÀNH PHỐ NÓI CÁI GIẤY NÀY CHẲNG CÓ TÁC DỤNG GÌ CẢ! ??? ??? ??? Thế đấy thật vô lý thật thiệt thòi cho những người lính chiến!

            Miên man một tý chúc bác luôn khỏe, luôn có nhiều niềm vui cuộc sông!

           P/S xin chia buồn với bác về chuyện của Vân!


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: qtdc trong 27 Tháng Mười Hai, 2012, 09:04:57 am
Bác quanvietnam viết hay lắm. Bác và bác TrongC6 dù khác mà có nhiều nét khá giống nhau. Đọc như đọc "bức tranh quê" của Đoàn Văn Cừ hay những cảnh đời của cụ Kim Lân. Thời bác quanvietnam trở về trường người ta chuẩn bị nhân lực cho thủy điện sông Đà và các công trình lớn xây dựng lại đất nước nên khoa Thủy lợi-Cảng được mùa. Mọi thứ hồi xưa đều có chỉ tiêu, ví dụ chỉ tiêu tuyển sinh từ Bộ Đại học đưa xuống, mà xuất phát điểm ban đầu là từ tính toán của Ủy ban kế hoạch Nhà nước, em nhớ là như vậy. Bác đang đi những đường sterling đều đặn. Chúc bác khỏe và tiếp tục thật hay. 


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 01 Tháng Giêng, 2013, 10:28:37 am

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
3- Trở lại trường
           Như vậy, tôi quyết định chuyển sang Khoa Thủy lợi Cảng để học, tôi chỉ nghĩ đơn giản là: Về Khoa này cho có bạn bè cùng trang lứa, cùng cảnh ngộ, bởi vì tôi với mọi người, trước kia đã cùng học với nhau, rồi cùng nhập ngũ, cùng đi chiến đấu, cùng vào một trung đoàn, nhiều đứa chúng tôi còn cùng một đại đội. Suốt thời gian dài, chúng tôi cùng chiến đấu với nhau từ Quảng Trị đến kết thúc chiến dịch Hồ Chí Minh, bây giờ chúng tôi trở về đây cùng học, nếu có khó khăn thuận lợi gì trong học tập, thì những người lính lại một lần nữa đùm bọc lấy nhau, cố vươn lên để hoàn thành nhiệm vụ. Nghĩ thế tôi cảm thấy yên tâm về quyết định của mình.  Nộp giấy tờ xong, tôi tá túc ở chỗ Khoa để đợi kết quả. Thực ra, lúc này tôi cũng chẳng bận tâm về việc học lớp nào, với tôi, học lớp nào cũng được. Lớp 17 Cảng, nghe ra có vẻ thành phố hơn và hấp dẫn hơn. Lớp 17 Thuỷ lợi, quần đùi áo bông, chắc là quê một cục rồi. Thôi cứ kệ nó, ở đời ăn nhau cái số, biết đâu mà kén chọn.
   Nằm giường hai tầng, tôi nằm tầng trên Khoa nằm tầng dưới. Ngủ dậy, tôi mở mắt nhìn xung quanh không thấy có ai, nhìn xuống tầng dưới cũng chẳng còn ai, không biết Khoa và mọi người đi đâu? Nằm ườn, nghĩ ngợi lung tung một lúc, tự nhiên thấy đói bụng. Tôi bật dậy đi đánh răng rửa mặt và dông thẳng ra ngoài quán, kiếm  xem có cái gì bỏ vào bụng.
   Bỏ qua mấy cái quán ở phía ngoài, tôi đi thẳng vào quán nhà ông Thiệp. Quán của ông Thiệp vẫn như xưa, nhưng bây giờ trông có vẻ được đầu tư khang trang hơn, không xập xệ như lúc trước.
   Trong quán giờ này vẫn còn đông sinh viên ngồi uống nước hút thuốc, khói thuốc bay mù mịt, một giọng ca cải lương ai oán vang lên từ một chiếc cátsette đặt đâu đó. Bước vào quán, mặc dù bị mùi của các loại thuốc lá làm nhiễu, nhưng tôi vẫn phát hiện ra có mùi lạc rang, mùi bánh rán, còn mùi hành mỡ rất quen mà tôi chưa nghĩ ra là món gì: Có thể là xôi, hay là bánh cuốn. Thấy tôi đến, mọi người trong quán chăm chú nhìn và phát hiện tôi là người lạ mới vào đây. Tôi cũng tranh thủ quan sát xem có ai quen không? Đồng thời tiến vào chiếc bàn kê sát góc nhà, kéo ghế ngồi. Ông chủ nhà thấy có khách, chạy đến hỏi, nhưng ông chẳng nói được gì mà cứ tròn xoe mắt nhìn tôi, mãi sau ông mới bật ra được mấy câu:
    -Tôi trông chú quen quá, nhưng mà không nhớ tên. Chắc, chú mới về trường à? Chú ăn gì, tôi bảo các cháu nó lấy?
   Tôi bắt tay ông Thiệp và tủm tỉm cười, nhưng vẫn chưa trả lời ông. Ông vẫn như xưa, trông ông không có vẻ già đi là mấy, nhưng ăn mặc vẫn luộm thuộm có phần còn hơi nhếch nhác. Trời phú cho ông cái dáng vẻ trắng trẻo đẹp trai, trông  rất thư sinh. Chỉ phải mỗi một cái, quần áo lúc nào cũng nhọ nhem bếp núc, chân tay cáu bẩn, nhìn móng tay của ông thì thôi rồi, ấy vậy mà ông vẫn cứ dùng tay bốc các thứ để bán cho anh em sinh viên. Lắm khi không chịu được, cũng có những anh em góp ý. Ông cười hiền lành, biện minh cho việc làm của mình rồi chứng nào vẫn tật ấy.
   Tôi thấy ông vẫn đứng nhìn tôi, như để cố nhớ ra điều gì. Tôi nói đùa:
    -Chắc ông đang cố nhớ ra tôi nợ ông bao nhiêu tiền chứ gì?
    -Chú cứ hay đùa, bây giờ ai lại đi nghĩ chuyện nợ nần, hồi đó các chú đã thanh toán hết rồi. Giả như các chú có nợ thì cũng thôi, ai lại đi đòi các chú.
   Tôi gọi mấy thứ để ăn, ông Thiệp vào bê ra cho tôi, rồi kéo ghế ngồi đối diện với tôi để nói chuyện. Ông hỏi tôi đủ thứ chuyện, tôi vừa ăn vừa  kể cho ông nghe, ông chú ý nghe từng câu từng chữ, có những đoạn không hiểu ông hỏi lại tôi, tôi lại phải giải thích, mỗi lần ông xúc động ông lại nhắc lại cái câu ông đã nói với tôi không biết bao nhiêu lần:
    -Hồng phúc tổ tiên nhà chú còn lớn lắm, thật là may mắn.
   Chúng tôi nói chuyện với nhau như đôi thâm tình, dường như mọi người xung quanh đang cố gắng lắng nghe câu chuyện của chúng tôi, cũng có một vài người gọi thanh toán, nhưng ông chủ không nghe thấy. Bà chủ từ nhà trong đi ra, ngó nghiêng tìm ông chủ, bà nhìn thấy ông chủ đang nói chuyện với tôi, bà nhìn tôi và khẽ nhíu đôi lông mày, như để tìm lại trong ký ức xem tôi là ai, rồi bà tiến lại phía chúng tôi. Bà hỏi:
    -Chú có phải là chú Quân không?
    -Chị vẫn nhớ tên tôi à? Thế mà ông anh nói chuyện với tôi từ nãy tới giờ vẫn chưa nhớ tên tôi.
   Lúc này ông Thiệp vỗ cái đét vào đùi rồi tươi cười nhìn vợ và nói với tôi:
   -Thế mà tôi nghĩ mãi không ra. Đúng rồi chú là chú Quân.
   Bà Thiệp, dục ông Thiệp ra thanh toán, rồi bà ngồi lại nói chuyện với tôi. Nhà ông Thiệp, được cả hai vợ chồng, chồng thì đẹp trai, vợ thì sinh gái. Năm nay có lẽ hai ông bà cũng đã ngoài 40 tuổi rồi, ông là thương binh thời kỳ chống Mỹ, chuyển ngành về trường đại học Xây Dựng, làm chân hành chính quản trị. Không biết có đúng không? Hình như hai ông bà sinh con một bề, ba đứa đều là con gái. Tôi cũng không biết nhiều về vợ chồng nhà ông Thiệp, nhưng với tôi, tôi thấy vợ chồng ông là người tốt, vì vợ chồng ông có can đảm để cho chúng tôi, những sinh viên nghèo nợ tiền ăn ở quán với số lượng lớn và thời gian dài.
   Chia tay ông bà chủ quán, tôi quay trở lại sân vận động. Gần như không có chủ định, nhưng những bước chân của tôi tự nhiên lại hướng về Khoa Cầu Đường. Tôi nghĩ thầm: Có lẽ Trời xui Đất khiến đây, tôi tặc lưỡi: Đi thì đi. Tôi quyết định đi về phía Khoa Cầu Đường, nơi mà gần bốn năm về trước, đã nuôi nấng và ấp ủ biết bao nhiêu những kỷ niệm vui buồn của những đôi trai gái yêu nhau, trong đó có tôi.
   Tôi tha thẩn bước đi chậm dãi, bỏ mặc xung quanh  những cái nhìn dò xét nghi ngờ. Cũng có những lời rì rầm bàn tán, nhưng có lẽ bộ quần áo bộ đội tôi đang mặc đã thay tôi nói lên tất cả, tất nhiên vẫn còn nhiều ánh mắt của các bạn sinh viên đang theo dõi hoạt động khó hiểu của tôi.
   Tôi đứng xa xa, nhìn vào căn nhà cũ nơi tôi ở trước kia. Tôi cố tìm xem căn nhà này còn sót lại những gì của gần bốn năm về trước không? Thật là khó, có lẽ không thể tìm được, có chăng thì chỉ còn nền nhà và những kỷ niệm êm đềm là còn tồn tại. Tiếc rằng những kỷ niệm cũ hiện về lại không phải là hữu hình, mà chỉ là ảo ảnh, hơn nữa chúng kéo nhau về cũng không theo trình tự thời gian, mà thoắt ẩn thoắt hiện, không thể nào níu kéo chúng lại để kiểm chứng. Kể ra như thế cũng hay.
   Tôi leo lên đồi, đi về dãy nhà tập thể của các nữ sinh viên, nơi mà Vân và các bạn gái đã ở trước kia. Chẳng biết có phải leo dốc hay là do quá xúc động với cảnh cũ mà tôi thở dốc, mệt quá tôi tựa lưng vào cây bạch đàn để nghỉ ngơi. Tôi đảo mắt nhìn xung quanh, cảnh cũ đây rồi nhưng người xưa không thấy, kỷ niệm cũ lại ào về làm tôi nghẹn ngào xúc động, hai hàng nước mắt nóng hổi chảy dài trên má, tôi lấy tay lau vội. Tôi nghĩ về bạn bè cùng lớp, cùng nhập ngũ với tôi, cùng ở với tôi trong dãy nhà lá dưới kia, thi thoảng chúng tôi lại gặp nhau trên gian nhà này để thăm người yêu, để rủ người yêu đi chơi, bây giờ các anh không còn nữa, các anh đã hy sinh ở chiến trường. Nghĩ đến đấy, lòng quặn đau, tôi lấy hai tay ôm mặt, nước mắt chảy dàn dụa trong lòng bàn tay, vai tôi rung lên vì thổn thức. Mặt đất chao nghiêng, tôi vội ngồi xuống để khỏi bị ngã.
   Qua đi những phút giây xúc động, tôi bình tĩnh trở lại, quan sát xung quanh chỗ tôi đang ngồi. Tôi lẩm bẩm: Đúng chỗ này rồi, nhưng sao bây giờ thay đổi nhiều thế, nhìn lạ hẳn đi. Tôi nhìn lại một lần nữa, và tự khẳng định: Chính xác là chỗ này rồi.
   Chỗ tôi đang ngồi, là nơi mà gần bốn năm về trước, tôi và Vân thường ngồi bên nhau vào những buổi tối rỗi rãi hoặc là những đêm trăng sáng, hay là những lúc tôi gây sự với Vân. Tôi chọn chỗ này, để không bị ai quấy rầy trong lúc nói chuyện, đây là chỗ cao nhất, gần như là đỉnh đồi. Các đôi khác thấy chúng tôi ở đấy rồi, đành chọn chỗ khác và đương nhiên là thấp hơn. Như vậy, chúng tôi bao quát được cả không gian, những đôi khác muốn nhìn thấy chúng tôi cũng khó khăn. Quan trọng hơn cả là chúng tôi được tự do để âu yếm nhau, mà không bị ai nhìn thấy.
   Hồi tưởng lại quá khứ, tôi như chìm trong mộng tưởng. Tôi nhớ lại nụ hôn đầu đời mà chúng tôi trao cho nhau, đến bây giờ đã gần 6 năm rồi. Bất giác, tôi sờ tay lên môi, đâu đây vẫn phảng phất mùi thơm của nụ hôn ban đầu, quện với mùi thơm của nước gội đầu được nấu bằng Bồ kết với Hương nhu và mùi của nước xả tóc ngâm bằng những bông hoa Bưởi. Nhưng có lẽ đặc biệt nhất vẫn là mùi hương từ cơ thể của người con gái trinh nguyên, ngất ngây và quyến rũ.
   Thời gian ở chiến trường, không ngày nào là tôi không nhớ về Vân, nhớ nhiều lắm, không thể đếm được một ngày có bao nhiêu lần tôi nhớ đến Vân, nhớ đến nỗi mộng mỵ, ngay cả những lúc chuẩn bị vào trận đánh, không biết sống chết thế nào, tôi cũng giành chút ít thời gian để nghĩ đến Vân, lúc ấy tôi chỉ nghĩ: Nếu tôi hy sinh thì vẫn có Vân bên cạnh để an ủi động viên tôi.
   Nhớ lắm thương nhiều, rồi quay sang tự trách mình. Hàng loạt những hành động nông nổi, ích kỷ, gen tuông vô cớ mà tôi gây ra cho Vân lại hiện về. Tôi cảm thấy xót xa ân hận và xấu hổ với chính mình, tôi mong Trời Đất cho tôi cơ hội để sửa chữa lỗi lầm để đền đáp cho Vân. Tôi đã thề rằng: Nếu tôi còn sống trở về và Vân vẫn còn chờ đợi tôi, thì cho dù hoàn cảnh nào và khó khăn đến đâu, tôi vẫn quyết lấy Vân về làm vợ.
   Nhưng bây giờ làm gì còn cơ hội, Vân đã đi lấy chồng, tôi thì vẫn còn đây. Tôi không trách Vân, đúng ra tôi không có quyền trách Vân. Vân quyết định đi lấy chồng là một quyết định đúng đắn, tất nhiên để có thể quyết định được vấn đề này đối với Vân cũng chẳng dễ dàng gì. Dẫu sao tôi cũng cám ơn Trời Đất, đã cho Vân những suy nghĩ đúng đắn, và tôi cầu mong cho Vân được hạnh phúc.
  Hôm từ đoàn an dưỡng về gặp chị gái, chị nói với tôi: Vân nó viết thư để xin ý kiến chị về việc nó có nên tiếp tục chờ đợi em hay không? Chị chẳng biết nên nói thế nào với Vân, chị chỉ nghĩ: Mình là con gái, Vân cũng là con gái. Với con gái thì rất sợ sự chờ đợi, sự chờ đợi mà kết thúc có hậu thì không sao, nếu kết thúc bi thảm thì Vân sẽ lại thành một hòn vọng phu, giống như bao hòn vọng phu khác, đấy là quy luật nghiệt ngã của chiến tranh là đổ máu và hy sinh. Nghĩ thế nên chị nói với Vân: Em nên làm những việc mà con tim em mách bảo, nhưng chị không muốn em bị thiệt thòi. Còn về tình yêu của hai đứa chúng em, theo chị nghĩ: Trên đời này có rất nhiều đôi lứa yêu nhau mà không lấy được nhau, nhưng trong sâu thẳm trái tim của họ vẫn có nhau, họ vẫn yêu nhau theo cách riêng của họ cho đến khi họ nhắm mắt xuôi tay, và tình yêu ấy vẫn theo họ về cõi vĩnh hằng để sống mãi.
   Nghĩ ngợi nhiều quá, đầu tôi nhức như muốn nổ tung. Tôi vịn vào cây Bạch Đàn lảo đảo đứng lên và bước đi, lá Bạch Đàn khô nỏ phủ trùm lên những viên sỏi đá ong, làm tôi trượt suýt ngã. Cũng nhờ có cú trượt suýt ngã ấy, làm cho tôi bừng tỉnh và bước những bước chắc chắn hơn. Tôi cứ đi lang thang trên đồi Bạch Đàn, những bước chân không định hướng, tôi cũng không biết là tôi đang đi đâu.
   Chợt tôi nghe tiếng cười đùa của mấy đứa trẻ đang quét lá Bạch Đàn khô, tôi biết là đã sắp xuống chân đồi, từ đây ra gò Héo rất gần. Nhìn đồng hồ, mới có hơn chín giờ sáng, vẫn còn sớm. Tôi quyết định đi lại những đoạn đường mà trước kia tôi với Vân vẫn thường hay đi để ra chợ Hương Canh.
   Đi đến đâu, kỷ niệm cũ của chúng tôi lại ùa về đến đấy, tôi nhớ từng đoạn đường từng gốc cây, nhớ những nơi chúng tôi ngồi bên nhau trò chuyện. Nhớ chỗ này lúc tôi đi bên Vân, Vân vui vẻ kể hết chuyện này sang chuyện khác cho tôi nghe, lợi dụng  lúc vắng người, tôi không thể kìm nén được tình cảm, tôi ôm chặt lấy Vân hôn lấy hôn để. Bị bất ngờ, Vân chống cự yếu ớt đáng yêu, khuôn mặt tròn trịa ửng hồng, điểm thêm một nụ cười bẽn lẽn. Nhớ những gốc cây kia, đã bao nhiêu lần chúng tôi đuổi nhau tranh cướp một cái gì đấy, để rồi do hữu ý hay vô tình vì nhỡ đà, nên chúng tôi lại ôm lấy nhau, sung sướng và hạnh phúc…
   Càng đi lại càng buồn, lòng nặng nề u uất. Tôi cũng không thể lý giải được vì sao tôi buồn và buồn về cái gì. Trong đầu tôi, lúc này đang manh nha một kế hoạch, sau khi nhập học xong, tôi sẽ đi thăm Vân.
                                                          HẾT.

   


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 01 Tháng Giêng, 2013, 02:33:38 pm
           Chào bác quanvietnam! Chào các bác! Tranphu341 đọc xong chuyện của bác mà lặng người đi. Hay! Hay lắm! Xúc động lắm. Bác viết bác kể chuyện của đời mình. Đúng hơn nữa là chuyện kể của đời người lính, bác thay mặt cho biết bao nhiêu người lính có những hoàn cảnh giống bác. Âý là sau khi rời quân ngũ về trường hay về các cơ quan nhà máy hoặc trở lại quê hương tiếp tục làm bạn với cày với cuốc, hay với những con sông, những biển rộng bao la nơi họ đã từ đó tạm biệt người yêu lên đường cầm súng. Nay trở về, cảnh vật còn đó mà người yêu đã đi lấy chồng.

            Đọc chuyện của bác, Tranphu như là được đọc một tác phẩm lớn của nhà văn lớn nói về đề tài chiến tranh vệ Quốc vĩ đại. Bác là là văn, bác là nhân vật, bác là nhân chứng của cốt chuyện. Như vậy bác đã thành công. Thật sự thành công. Mặc dù Tranphu biết những bài cuối, những câu cuối của mạch bài thật hay nhưng cũng thật nặng nề. Nhưng như vậy Tranphu xin được một lần nữa chúc mừng bác. Bác đã nhẹ lòng, bác đã được giải tỏa.

            Nhân ngày đầu năm. Thêm một tuổi mới. Tranphu kính chúc bác cùng gia đình luôn có nhiều sức khỏe cùng nhiều niềm vui cuộc sống!


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: vanthang341ht trong 01 Tháng Giêng, 2013, 04:45:19 pm

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH

   Càng đi lại càng buồn, lòng nặng nề u uất. Tôi cũng không thể lý giải được vì sao tôi buồn và buồn về cái gì. Trong đầu tôi, lúc này đang manh nha một kế hoạch, sau khi nhập học xong, tôi sẽ đi thăm Vân.
                                                          HẾT.


     Bạn kết thúc câu chuyện đột ngột quá.Tôi chưa biết sau khi nhập học bạn có đi thăm Vân? Gặp Vân như thế nào?
     Dĩ nhiên câu chuyện để lửng như vậy người đọc suy ngẫm, tự đoán biết thì hay hơn. Còn tôi, tôi muốn mọi chuyện đều dược rõ ràng bởi đây không phải là tiểu thuyết. Đây là cuộc sống thực của người lính.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: xuanv338 trong 01 Tháng Giêng, 2013, 05:13:14 pm
    CB chào anh quanvietnam. Chào các bác. Đã lâu cũng bận việc cửa nhà hôm nay em lại qua nhà bác. Đọc chuyện chiến trường, chuyện an dưỡng, chuyện về nhà, chuyện trở lại trường. Tất cả luồng văn kể chuyện mượt mà của anh đã làm người đọc xúc động và nuối tiếc cho một tình yêu. Nuối tiếc cho câu chuyện đã kết thúc khi mình còn đang háo hấc muốn đọc thêm.

     Đúng là chiến tranh đã làm cho bao cuộc tình giang dở. Cái lý do giang dở chẳng có cuộc tình nào là giống nhau cả nó chỉ giống nhau ở đích cuối cùng là buồn và tiếc nuối. CB đã phải lau nước mắt nhiều lần khi đọc bài của anh nói lên những mất mát,thiệt thòi của người lính trận trở về, làng quê sau chiến tranh vẫn nghèo, nhà mình cũng vẫn nghèo. Chiến tranh mà anh. Thôi tất cả đã qua rồi nhưng bây giờ mình kể lại cho đồng đội cùng nghe. Trong bài anh nói đến núi Bảng quê anh. Ngày đơn vị em dừng lại Nho Quan chỗ Rịa cũng có núi Bảng giáp với Yên Mô thì phải? Yên Mô, Nho Quan đều là vùng em đã từng sống và đi qua. Nói đến địa danh ấy em thấy rất gần gũi với mình. Cb thích anh quânvietnm nối dài thêm câu chuyện sau này anh gặp lại chị Vân.hi...hi... Được không anh? CB dừng ở đây ngày đầu xuân chúc anh cùng gia đình mạnh khoẻ sang năm mới có nhiều niềm vui mới.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: qtdc trong 01 Tháng Giêng, 2013, 09:14:16 pm
Cái đồi bạch đàn ở gần sân bóng đá trên khu Hương Canh thì nhiều chuyện buồn vui về sau này lắm. Các bác cứ yên trí là bác quanvietnam vẫn còn tiếp tục. Em nghĩ trong chuyện này chẳng ai có lỗi, chiến tranh chỉ là một chuyện, chẳng qua cuộc sống là như thế. HẾT nghĩa là CÔHÊU, CÔHÊU nghĩa là chưa hết, hết chuyện này lại là mở đầu cho chuyện khác. Rất cám ơn bác quanvietnam đã tâm sự cùng anh em và những thế hệ sau. Kinh Dịch có 64 quẻ, quẻ cuối cùng khi hết lại lộn về đầu.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: vanthang341ht trong 02 Tháng Giêng, 2013, 02:27:03 pm
      HẾT nghĩa là CÔHÊU, CÔHÊU nghĩa là chưa hết, hết chuyện này lại là mở đầu cho chuyện khác. Rất cám ơn bác quanvietnam đã tâm sự cùng anh em và những thế hệ sau. Kinh Dịch có 64 quẻ, quẻ cuối cùng khi hết lại lộn về đầu.

     qtdc thông thạo về kinh sử Hán Tàu gớm nhỉ. Tôi cũng mong quanvietnam cứ viết như Kinh Dịch. ;D
   


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: linh71 trong 02 Tháng Giêng, 2013, 05:56:10 pm
Chào quanvietnam đồng hương E95.Đọc những dòng tự sự của bạn, lòng mình lại nhói đau trước những nỗi đau của chị Thắm, của những gia đình có người thân ra đi không trở về...Lại buồn nhớ tới mối tình đầu dang dở...Lại nghĩ tới lời của chienc3 nói “may mà ông bị “đá sớm” chứ “dính”vào có khi toi rồi...”. Thật buồn khi trở về lại nhận được thiếp cưới của người yêu...Bạn ơi, tôi đã thấy bạn hạ hai chữ HẾT rồi đấy.Nhưng chưa HẾT được đâu, bạn nhỉ. Chúng ta đã vượt qua cái chết để trở về, vượt qua bao khó khăn để học tập, để sống. Chúc bạn sớm tìm gặp được lại Vân.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: thaiminhhung trong 03 Tháng Giêng, 2013, 09:34:45 am
@ Bác Quân thân mến:

       Đọc câu chuyện của bác TMH thấy bác có hai cái may

     - Quyết định chuyển sang khoa Thủy lợi - Cảng để học, bớt được một năm học có thêm rất nhiều bạn bè, anh em đồng đội cùng chuyển sang như vậy là một quyết định sáng suốt => Bác đã trở thành một LÃNH ĐẠO trong ngành THỦY ĐIỆN của VN rồi.

      - Người yêu cùng lớp ( bằng tuổi ) đi lấy chồng sau này bác lấy vợ trẻ hơn và được ở HN, nếu lấy cô Vân, thì giờ này không biết bác đang ở phương trời nào... he he :D ;D ;D

      - Hãy viết tiếp đi bác anh em CCB XD đang theo sát đằng sau Bác để nhớ thời kỳ Hương Canh đấy


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: qtdc trong 03 Tháng Giêng, 2013, 11:10:00 am
      HẾT nghĩa là CÔHÊU, CÔHÊU nghĩa là chưa hết, hết chuyện này lại là mở đầu cho chuyện khác. Rất cám ơn bác quanvietnam đã tâm sự cùng anh em và những thế hệ sau. Kinh Dịch có 64 quẻ, quẻ cuối cùng khi hết lại lộn về đầu.

     qtdc thông thạo về kinh sử Hán Tàu gớm nhỉ. Tôi cũng mong quanvietnam cứ viết như Kinh Dịch. ;D
   
Bác vanthang341 ơi, bác và em mà khen bác quanvietnam thì không khen không được, nhưng mà khen thì khen đến Tết Công-Gô chắc cũng chưa xong. Kinh Dịch có quẻ 63 là quẻ áp chót "Kí tế" (trên là khảm - nước, dưới là ly - lửa) nghĩa là đã qua sông đã xong đã thành. Còn quẻ chót quẻ 64 là quẻ "Vị tế" (trên là ly - lửa, dưới là khảm - nước) lại có nghĩa là chưa qua sông chưa xong chưa hết, con cáo qua sông nhưng mà ướt đuôi.

Thực tế chuyện của bác quanvietnam là như vậy đấy, việc tưởng đã xong mà đã xong đâu, bao giờ mà hết vương vấn với đời đây "con tằm đến chết tơ nhả ra mới hết..".

Kinh Dịch thì có người đã ra sức chứng minh đó là của người Việt bác vanthang341 ạ. Thì nó của ai thì của ai, chỉ biết nó là của nhân loại là được.

"....Kinh Dịch bắt đầu bằng hai quẻ Càn, Khôn, gốc của vạn vật; ở giữa là hai quẻ Hàm và Hằng, đạo vợ chồng, gốc của xã hội, tận cùng bằng hai quẻ Kí tế và Vị tế đã xong rồi lại chưa xong; như vậy là hàm cái nghĩa việc trời đất cũng như việc của loài người, không bao giờ xong, cái gì tới chung rồi lại tiếp ngay tới thủy. Mà đạo Dịch cũng vậy không bao giờ hết. Dịch cho ta niềm hy vọng ở tương lai. Thật là một triết lý lạc quan...."


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 09 Tháng Giêng, 2013, 10:13:47 am
Quanvn không biết nói gì, chỉ biết cám ơn anh chị em  và các bạn ở diễn đàn.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 09 Tháng Giêng, 2013, 10:14:55 am

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
4- Lớp tôi và các thầy cô
          Không ngoài dự đoán. Tôi được xếp vào học lớp 17 T, tên thật đầy đủ là : Lớp 17 Thủy Lợi, khóa 17 Khoa Thủy Lợi Cảng, trường ĐHXD Hà nội.
   Mấy bữa trước chúng tôi nói chuyện với nhau: Có vấn đề gì đấy hơi khó hiểu và cũng không rõ vì sao: Ở bên Khoa Cầu Đường không chiêu sinh khóa 17, mà chỉ có khóa 18, 19. Trong khi đó Khoa Thủy Lợi Cảng có cả 17, 18, 19. Nhưng cũng kỳ lạ, khóa 17 của Khoa Thủy Lợi Cảng, cả hai lớp, lớp Thủy lợi và lớp Cảng. Tính đến thời điểm này đã bắt đầu vào năm thứ ba rồi mà mỗi lớp chỉ còn lại hơn chục sinh viên, vậy sinh viên của hai lớp này đi đâu hết, chả lẽ lúc đầu chỉ tuyển sinh mỗi lớp được hơn chục sinh viên? Chắc chắn là không phải như vậy. Điều này chứng tỏ khóa 17 của hai khoa: Khoa cầu Đường và Khoa Thủy Lợi Cảng là có vấn đề, còn là vấn đề gì thì chúng tôi chưa biết.
  Và đây cũng chính là điều khó hiểu, thành ra chúng tôi cũng hơi băn khoăn về việc này. Chúng tôi cứ đoán già đoán non: Có lẽ, vì sự thiếu hụt sinh viên của cả hai lớp 17 T và 17 C, nên để bù đắp cho sự thiếu hụt này, hầu như tất cả sinh viên của cả hai Khoa, Khoa Cầu Đường và Khoa Thủy Lợi Cảng, từ khóa 12 đến khóa 16 sau khi kết thúc chiến tranh trở về học tiếp, đều được xếp vào học ở hai lớp này. Chẳng biết có đúng thế không?
   Như vậy, đến giờ phút này tính cả tôi nữa, sĩ số của lớp cả thẩy là 27  sinh viên cả cũ lẫn mới. Trong đó: Mười người, 6 nam và 4 nữ là sinh viên cũ, còn lại 17 người toàn nam giới, là những anh em sinh viên các khóa từ khóa 12 đến khóa 16 của hai Khoa Cầu Đường và Khoa Thủy Lợi Cảng, tất cả đều là những anh em bộ đội, công an vũ trang, bộ đội biên phòng hoàn thành nhiệm vụ từ chiến trường trở về, được xếp vào lớp này để học tiếp.
   Sau thời gian tìm hiểu, chuẩn bị và ổn định tư tưởng, hôm nay tôi vào học chính thức. Những giây phút đầu tiên ngồi vào lớp, tôi mới thực sự lo lắng, lo cho mình và lo cả cho mọi người. Không hiểu một lớp như thế này thì chúng tôi sẽ học hành thế nào đây? Chỉ nhìn bề ngoài thôi, đã thấy lớp có nhiều điểm không tương đồng, rất nhiều vấn đề tiềm ẩn, rồi đây sẽ gây ra những khó khăn thách thức cho việc học hành. Trong lớp, chúng tôi không những khác nhau về tuổi tác, khác nhau về sức khỏe, khác nhau về trình độ và còn khác nhau về nhiều vấn đề khác nữa…
   Lớp tôi. Bất kỳ ai khi bước vào lớp, điều đầu tiên mà họ nhìn thấy là  sự khác nhau về sắc mầu tương phản, rất ít mầu sáng mà đa phần là mầu xanh, mầu của các chú bộ đội. Ngay cả mầu da cũng tương phản nhau. Có tới hai phần ba lớp có mầu da luôm nhuôm, không ra đen, không ra trắng, nó dở đen dở trắng, xanh xanh thâm thâm tai tái, mang đặc trưng mầu da của các cựu chiến binh. Còn lại một phần ba lớp, là mầu da truyền thống của các em sinh viên. Da của các em sinh viên cả nam và nữ đều trắng trẻo mịn màng, nhìn kỹ trên tay trên mặt các em còn thấy cả những sợi lông tơ mềm mại, con người của các em là hiện hữu những cơ thể tràn trề sức sống. Trên quần áo và sách vở của các em còn vương đầy bụi phấn của giảng đường và những kiến thức của các thầy các cô.
  Trong khi đó, bên cạnh các em, là những chàng trai quá lứa, vừa mới từ chiến trận trở về, mái tóc và mầu da vẫn còn vương mầu khói súng.  Năm tháng chiến trinh đã phủ lên những con người ấy một mầu da đặc biệt, lúc đầu là mầu trắng tuổi học trò, tiếp theo năm tháng, mỗi năm mỗi dầy lên bởi mầu của nắng gió và của khói bom khói đạn, đến bây giờ da vẫn còn xạm màu của chiến tranh.
   Lớp tôi. Còn một điểm khác biệt nữa cũng dễ thấy, đấy là về tuổi tác. Về tuổi tác trong lớp chênh lệch nhau khá nhiều, trẻ nhất là các em được tuyển vào đúng khóa 17, năm nay khoảng 20 - 21 tuổi, già nhất là mấy anh đi bộ đội về, có những anh không biết vào trường từ năm nào, bây giờ tuổi cũng xấp xỉ 45 – 50, mái tóc cũng đã điểm sương, nụ cười cũng đã ẩn hiện những vết chân chim bên khóe mắt. Số còn lại là cỡ tuổi tôi, sàn sàn từ 25 -30 tuổi, lứa tuổi này tuy chưa phải là già, nhưng nhìn ai cũng già trước tuổi, nếu như không muốn nói: Mặt hơi bị “Nhầu”.
   Nghĩ cũng đúng: Lứa anh em chúng tôi già trước tuổi là phải và có lý do chính đáng. Đúng thế: Bởi vì những năm tháng sống chiến đấu trong chiến trường, chúng tôi đã phải trải qua biết bao nhiêu khó khăn gian khổ và hy sinh. Cuộc sống của những người lính khắc khổ như vậy, không thể không già trước tuổi được. Chúng tôi còn may mắn là lứa sinh viên nhập ngũ sau này, thời gian ở chiến trường còn ít, có những anh còn nhập ngũ ngay từ những năm 69 - 70, thời gian nhiều hơn chúng tôi, đương nhiên còn vất vả hơn nhiều.
   Mà chuyện già trước tuổi cũng chẳng sao, vẫn còn sống để trở về tiếp tục học tập, là diễm phúc lắm rồi. Chỉ thương cho biết bao con người, cùng đồng cam cộng khổ, cùng chịu đựng gian khổ vất vả, cùng nhau vào sống ra chết thế mà bây giờ họ không được hưởng cơ may như chúng tôi là được về đi học. Những người còn sống, họ lại trở về với công việc trước kia của họ, những người về cơ quan, những người về công sở, thì cũng còn may mắn. Thương những người về với núi rừng với biển cả, với ruộng đồng, rồi tất cả lại vì miếng cơm manh áo mà lăn lộn để kiếm kế sinh nhai. Không biết với bộ dạng sức khỏe ấy liệu họ có vượt qua được không? Lại còn có nhiều người phải chịu đựng thiệt thòi, vì đã để lại một phần xương thịt của mình nơi chiến trường. Đau đớn hơn là còn biết bao nhiêu người nữa đã hy sinh, họ đã hiến trọn tuổi thanh xuân cho Tổ Quốc. Họ không có may mắn, may mắn của họ đã nhường lại cho những người đang sống…
    Còn rất nhiều những điều khác biệt, nhưng ở đây tôi chỉ muốn nói thêm một điểm khác biệt nữa của lớp chúng tôi, đó là vấn đề sức khỏe. Các em sinh viên cũ thì không nói làm gì, chỉ có 17 anh em chúng tôi mới đáng nói đến chuyện sức khỏe. Thật vậy: Không hiểu rồi mọi người xoay sở thế nào? Cả lớp có 27 người, thì 17 người là bộ đội và công an đều từ chiến trường trở về. Trong 17 con người ấy, chắc chắn là cả 17 bệnh binh, tất cả đều mang trong mình rất nhiều bệnh tật, tất nhiên trong số đó cũng có nhiều người là thương binh. Như vậy: Rõ ràng, 17 con người này có tình trạng sức khỏe không bình thường như những người khác, và đây sẽ là trở ngại lớn nhất đối với việc học tập của lớp.
   Về vấn đề sức khỏe của anh em chúng tôi tuy là thế, nhưng tôi thấy không ai kêu ca phàn nàn gì. Bệnh của ai thì người ấy biết, cố gắng chịu đựng, những người ngoài nhìn vào thì cũng chỉ đoán và chia sẻ với anh em chúng tôi bằng ánh mắt cảm thông chứ không thể biết được. Nhiều đêm, tôi thấy các anh không ngủ được, những vết thương cũ, những căn bệnh kinh niên mang từ chiến trường trở về lại hành hạ các anh. Tôi cố lắng nghe, song cũng không thấy các anh kêu rên gì, chỉ lẳng lặng bật ngọn đèn đã được che chắn để không làm ảnh hưởng đến giấc ngủ của những anh em khác và lặng lẽ uống thuốc mong dịu cơn đau. Tôi cũng nằm trong hoàn cảnh ấy, đêm dài đau đớn, khó ngủ. Tôi lại nhìn đồng đội mình và đoán được: Tất cả anh em chúng tôi đang rất cố gắng vượt qua bệnh tật để học tập.
   Cũng từ thực tế ấy, chúng tôi xắp xếp bàn ghế trong lớp phù hợp với hoàn cảnh. Những dãy bàn đầu, là dành cho những thương bệnh binh của cuộc chiến tranh, bị ảnh hưởng đến tai và mắt cũng như những bộ phận khác của cơ thể, tiếp theo là những dãy bàn các em nữ, rồi mới đến những người lành lặn hơn, cuối cùng là những dãy bàn của những người được coi là khỏe mạnh, tất nhiên trong số đó chủ yếu là những em sinh viên lớp 17T cũ.
   Quan sát một anh bạn cựu chiến binh của sư 320, ngồi ngay đầu bàn phía giữa lớp. Tai phải anh đeo chiếc máy trợ thính to bằng ngón tay cái, màu vàng đục. Có lẽ mầu nguyên thủy của nó là mầu trắng, nhưng do lâu ngày, bây giờ đã đổi sang mầu vàng đục và cáu bẩn bởi ghét và mồ hôi. Anh đang chăm chú nghe giảng bài và hý hoáy ghi chép, thi thoảng lại thấy anh nghênh cổ, nghiêng tai phải nơi có gắn máy trợ thính về phía thầy giáo để lắng nghe rồi lại cặm cụi ghi chép, có những đoạn anh nghe không được nên ghi không kịp, anh quay sang hỏi anh bên cạnh. Hai anh hỏi nhau giọng thầm thì nhưng cả lớp đều nghe được những từ: “Hở” với “Hả”, cả lớp nhìn thầy giáo, thầy giáo nhìn cả lớp, tất cả đều cười. Thầy giáo nhắc lại cho anh cho lớp rồi lại tiếp tục bài giảng, cứ như thế lập đi lập lại một vài lần với từng tiết học.
   Nhìn sang bàn bên cạnh, cũng là dãy bàn đầu. Có một anh, tuổi cũng đã lớn. Anh quê Thanh Hóa, tôi cũng không nhớ anh ở đơn vị nào, hình như anh ở sư 304. Theo dõi những hoạt động của anh, không biết anh có hiểu những lời thầy giáo nói hay không? Nhưng tôi thấy anh rất chăm chú ghi chép, thi thoảng lại thấy anh rút khăn mùi xoa ra lau nước mắt, chắc đôi mắt của anh bị ảnh hưởng bởi chiến tranh. Lâu lâu tôi lại thấy anh ưỡn lưng và vươn cổ lên cho đỡ mỏi, những lần như vậy, xương cốt anh kêu răng rắc, cổ anh vươn lên để lộ những vết sẹo bị bỏng của bom Na pan, vết thương đã lành nhưng da bị nhoăn nheo chỗ thì đỏ như cổ gà chọi, chỗ thì trắng như bị bạch tạng, nhìn cũng thấy ghê ghê.
   Đưa mắt quan sát hết một lượt 16 con người và kể cả tôi nữa, tất cả đều bắt gặp những khuôn mặt gân guốc và khắc khổ. Nhìn vào những khuôn mặt ấy, nó ẩn chứa đầy những nghị lực và quyết tâm, nhưng cũng có lúc thoáng hiện lên những nét hoài nghi, rồi cũng có những lúc: Trên cùng khuôn mặt ấy lại thể hiện rất nhiều cảm xúc rất khó nói, góc vui góc buồn, góc lo âu. Vui là vì: Đã hoàn thành nhiệm vụ trở về và tiếp tục được đi học. Buồn là vì: Những năm tháng chiến tranh ác liệt đã cướp đi gần hết những kiến thức mà thầy cô đã trang bị cho, để đến bây giờ ngồi nghe thầy cô nhắc lại mà chẳng hiểu gì. Lo âu vì: Sợ rằng mình không đủ sức khỏe và nghị lực để vượt qua. Thật là phức tạp, đây cũng là cuộc chiến cam go của những người từ mặt trận trở về.
   Hết giờ lên lớp, chúng tôi ra về. Mấy em sinh viên cũ, cụm lại đi cùng nhau trao đổi những vấn đề mà thầy giáo đã giảng hôm nay. Những anh em cựu chiến binh như chúng tôi, cứ lẳng lặng bước để lắng nghe. Tôi nghĩ: Không biết trong số anh em chúng tôi thì bao nhiêu người hiểu được bài giảng ngày hôm nay, bao nhiêu người không hiểu gì, bao nhiêu người nghe quen quen lạ lạ như tôi?
(Còn nữa)


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: thaiminhhung trong 09 Tháng Giêng, 2013, 11:04:09 am
".... Như vậy, đến giờ phút này tính cả tôi nữa, sĩ số của lớp cả thẩy là 27  sinh viên cả cũ lẫn mới. Trong đó: Mười người, 6 nam và 4 nữ là sinh viên cũ, còn lại 17 người toàn nam giới, là những anh em sinh viên các khóa từ khóa 12 đến khóa 16 của hai Khoa Cầu Đường và Khoa Thủy Lợi Cảng, tất cả đều là những anh em bộ đội, công an vũ trang, bộ đội biên phòng hoàn thành nhiệm vụ từ chiến trường trở về, được xếp vào lớp này để học tiếp..."
------------------------------

@ Bác quanvietnam:
 Hai cụm từ này chỉ là một, vì khi đó chỉ là Công an vũ trang thôi ( thuộc bộ Công An), bây giờ mới gọi là "Bộ đội biên phòng" thuộc Bộ Quốc phòng.

     Năm 1972 khi K17 được tuyển vào trường, rất nhiều các thí sinh trúng tuyển nhưng chưa nhập học được do hoàn cảnh chiến tranh phá hoại, nên K17 Thủy lợi Cảng, K17 Cầu đường là những lớp được tuyển sau để những SV chưa nhập học có điều kiện được vào trường, đến nỗi còn tuyển không đủ nên phải nhập 17 Thủy lợi Cảng với 17 Cầu đường thành  lớp 17 Thủy lợi Cảng mới đủ sinh viên ( năm đó chỉ học một học kỳ thôi ) có khoảng 50 người, sang năm thứ 2, 3 thì cộng thêm một số anh em bộ đội về thì Lớp 17 Thủy Lợi Cảng chỉ còn khoảng 25 người do nhiều người bị "tăng ca" hoặc " không đủ sức khỏe " để theo học. Năm Thứ 3 K17 Thủy lợi Cảng được chia thành 02 lớp: 17 Cảng 15 người, lớp 17 Thủy lợi 10 người đến năm 1975 nhiều anh em bộ đội hoàn thành nhiệm vụ về bổ xung thì sĩ số của hai lớp mới lên được như vậy Bác quanvn ạ!

Bác viết tiếp đi có gì TMH sẽ "yểm hộ" :D ;D



Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 14 Tháng Giêng, 2013, 11:22:24 am
 Cám ơn Thái Minh Hùng và mọi người đang Yểm trợ Quanvn. Xin cám ơn.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 14 Tháng Giêng, 2013, 11:23:44 am

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
4- Lớp tôi và các thầy cô
            Mới bước sang tháng 12 mà sao trời lại rét thế, tối nay thầy trò chúng tôi lại ngồi quây quần bên đống lửa. Ánh lửa bập bùng làm lu mờ ánh sáng của những bóng đèn điện đỏ quạch, treo lủng lẳng giữa căn phòng ký túc xá của lớp17T. Gọi là ký túc xá cho nó oai vậy thôi, chứ thực ra nó là dãy nhà 6 gian, tường trát bằng vách đất nứt nẻ toác hoác, mái lợp bằng lá cọ, ai nằm ở tầng trên đôi lúc thấy cả bầu trời, may mắn mùa này đang là mùa khô, mùa mưa đến chắc chắn phải dùng nilon và chậu để hứng nước. Dãy nhà này chia làm 3 phòng, mỗi phòng kê được 5 giường hai tầng để cho sinh viên ở và học tập ngoài giờ lên lớp.
   Cũng đã hai tháng nay, theo thói quen. Cứ vào giờ này của tối thứ bẩy thầy trò chúng tôi lại tụ tập quanh ấm nước trà, ngồi uống nước hút thuốc, kể cho nhau nghe chuyện chiến trường, chuyện quê hương, chuyện gia đình. Mấy bữa nay trời lạnh, chẳng hiểu ai khởi sướng việc lấy gốc cây Bạch Đàn đặt vào chiếc chậu tráng men đã bị hư để đốt sưởi. Có bếp lửa ở giữa nhà, anh em ngồi xung quanh chuyện  trò vui vẻ và  nghĩ về những năm tháng sống ở chiến trường, rồi mọi người lại tranh nhau kể cho nhau nghe chuyện của mình chuyện của đơn vị…
   Vẫn như thường lệ, cứ sau một vài tuần chè thuốc và những câu chuyện mà thầy trò kể cho nhau nghe, thì thầy giáo chủ nhiệm lớp 17T và các thầy giảng dậy các bộ môn khác lại hướng chúng tôi vào chủ đề: Làm cách nào để khắc phục tình trạng học tập như hiện nay. Sợ chúng tôi hiểu nhầm, trước khi chuyển sang chuyên đề này, bao giờ các thầy cũng khéo léo động viên và gợi mở cho chúng tôi hướng thảo luận, bàn bạc cụ thể để mọi người đều hiểu rõ trách nhiệm của mình phải làm gì và các thầy các cô phải làm thế nào để nâng cao kết quả học tập của một lớp vô cùng đặc biệt này. Một lớp mà từ trước đến nay chưa bao giờ có, một lớp mà hai phần ba sinh viên là những chiến sĩ quân giải phóng Miền Nam trở về tiếp tục  học tập.
  Những tình cảm yêu thương, đầy lòng vị tha xen lẫn với sự cảm thông và tôn trọng anh em chúng tôi, của các thầy các cô ở các bộ môn trong Khoa, làm chúng tôi cũng nghĩ ngợi lắm, nhưng chúng tôi cứ loay hoay mãi vẫn chưa tìm ra được hướng đi có hiệu quả. Tuy anh em chúng tôi chẳng ai nói thành lời, nhưng cứ nhìn những gương mặt rầu rầu của mọi người cũng đủ nói lên rằng: Anh em chúng tôi đang hết sức cố gắng tìm mọi cách để khắc phục tình trạng này, đáp ứng sự mong mỏi của các thầy các cô.
   Tôi không biết anh em khác thì như thế nào, còn tôi: Nhiều lúc tôi chỉ trực rơi nước mắt, khi nhận được những cử chỉ ân cần hướng dẫn của các thầy các thầy các cô. Thật ra, tôi cũng biết, các thầy các cô cũng vất vả lắm. Nhiều thầy trước kia cũng đã từng là bộ đội, từng tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp, nhiều thầy cũng được đào tạo và trưởng thành từ các trường thiếu sinh quân, nhiều thầy lại là người Miền Nam tập kết ra Bắc, cũng phải xa nhà xa quê hương. Các thầy các cô và cả anh em chúng tôi nữa, mỗi người mỗi hoàn cảnh, mỗi nỗi khổ khác nhau, nhưng bây giờ, tất cả đều có một điểm chung là: Hãy cố gắng, khi đất nước vừa phải trải qua chiến tranh, thì tất cả thầy trò hãy gồng mình lên, chung lưng đấu cật cùng nhau phấn đấu để đóng góp những phần sức lực nhỏ bé của mình vào công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh.
   Hoàn cảnh đất nước như vậy, các thầy các cô cũng là những con người, đều có gia đình, cũng không thể thoát khỏi cảnh khốn khó đời thường. Mỗi khi vợ ốm con đau, trong nhà chẳng có gì đáng giá đồng tiền mà bán đi lấy tiền bồi dưỡng cho vợ cho con, tay run run cầm mấy tờ tem phiếu mà mơ ước đủ điều. Ước gì hôm nay xếp hàng mua được miếng thịt ngon, để làm ruốc cho con và rán được ít mỡ để giành xào rau khi nhà có khách. Ước gì tháng này cửa hàng lương thực bán gạo đừng bán sắn thay gạo mà các con nhỏ không đủ gạo mà ăn, ước gì, ước gì v.v. Thôi thì trăm điều ước vạn điều ước, phàm những lúc đói kém, khó khăn thì lại hay mơ ước, mà có mơ ước cao xa gì cho cam, chỉ ước sao cho đủ ăn. Ấy thế mà nhiều khi xếp hàng mua thịt, có người mua được có người không mua được, rồi sinh ra cãi nhau. Ai cũng biết là miếng ăn là miếng nhục, nhưng khổ thay miếng nhục còn có nghĩa là miếng thịt, mà thịt lúc này lại rất hiếm, nếu có cũng chỉ để dành cho con cái, bố mẹ chỉ có quyền ngửi, cùng lắm là tận hưởng những đầu thừa đuôi thẹo mà thôi. Thật là ngậm ngùi.
   Thầy cô thì như vậy, nhưng học trò chúng tôi thì có vẻ đỡ hơn. Không biết nói thế có đúng không? Có thể không đúng hoàn toàn, nhưng cũng đúng đến 70-80%. Bởi vì, anh em chúng tôi đều là bộ đội chuyển ngành đi học, trừ sức khỏe ra không nói, còn lại những chuyện về đời sống sinh hoạt có vẻ nhỉnh hơn. Đúng như thế: Thứ nhất là chúng tôi có lương hàng tháng, lương tôi là thấp nhất trong số anh em bộ đội chuyển ngành.(Vì tôi không biết cấp bậc và chức vụ của tôi là gì trong quân đội) Nhưng mỗi tháng tôi cũng được những 42 đồng/tháng, trong khi đó lương của kỹ sư mới ra trường cũng chỉ có 70 hay 75% của 63 đồng/ tháng. Thứ hai là chúng tôi cũng có tem phiếu, ngoài tem phiếu thực phẩm ra, chúng tôi còn có cả tem phiếu nhu yếu phẩm. Mỗi tháng chúng tôi có cả đường sữa thuốc lá và một số nhu yếu phẩm thiết yếu khác nữa, nhưng đa phần chúng tôi quy đổi thành thuốc lá. Chẳng hiểu sao lúc đó đơn vị tính lại là thuốc lá? Tất cả đều quy thành khói.
   Tiêu chuẩn của chúng tôi như vậy, xem ra có vẻ tươm tất, nếu so với những người có vợ con thì chúng tôi thuộc loại đàng hoàng. Kể ra, nếu biết ăn biết tiêu thì cuộc sống cũng tàm tạm, không đến nỗi nào. Nhưng thực tế thì không phải như vậy: Cứ sau khi lĩnh lương chúng tôi lại túm năm tụm ba vào chè thuốc, ăn uống hút sách cho bõ lúc thèm khát. Nói là ăn uống thì có vẻ ghê, nhưng thực ra có gì đâu? Nhiều lắm cũng chỉ là dăm đĩa lạc rang vài thanh kẹo lạc, kẹo dồi, kẹo sữa. Quá lắm là thêm mấy chiếc bánh rán là cùng, còn thuốc lá thì của nhà mang đi. Vậy là: Dăm bảy anh em ngồi túm tụm với nhau vui vẻ, tạo nên những nguồn sinh lực dồi dào để học tập.
  Một tuần cứ dăm lần như vậy thì những mạnh thường quân như chúng tôi cũng nhanh chóng trở thành những thảo dân bình thường, đến giữa tháng cũng lâm vào cảnh đói kém và thiếu thốn giống nhau. Lại xin nhau từng hơi thuốc, lại mang tem gạo đi đổi ngô đổi sắn về ăn. Nghĩ lại cũng cực, lòng tự nhủ lòng: Lần sau rút kinh nghiệm sẽ ăn dè hạt tiện. Nhưng chứng nào vẫn tật ấy, ngựa vẫn quen đường cũ, lần sau vẫn thế. Tôi nghĩ: Đúng thôi, hoàn cảnh xã hội lúc này như thế, nên chúng tôi không đủ nghị lực điều chỉnh bản thân để trở thành những người bần tiện, mặc dù sống thiếu thốn vất vả nhưng đổi lại là chúng tôi rất vui.
   Từ ngày tôi trở lại làm sinh viên, không còn phải lo gian khổ và hy sinh nữa, nhưng thay vào đó lại là nhiều mối lo khác. Mối lo lớn nhất của tôi lúc này là học tập, tôi chỉ lo không theo kịp anh em. Mối lo thứ hai là lo đói, chẳng hiểu những anh em khác thì thế nào? Nhưng riêng tôi thì lúc nào cũng bị cái đói dầy vò. Nói ra thì thật xấu hổ, nhưng đúng là như vậy. Đã mấy năm trời sống ở chiến trường ăn uống thiếu thốn, bữa no bữa đói, sốt rét hoành hành, bệnh tật đầy người. Bây giờ là lúc cần được ăn dưỡng nghỉ ngơi để phục hồi sức khỏe, nhưng vì sự nghiệp học hành, lại khăn áo ra đi. Tôi cũng xác định được: Đi làm gì thì có thể được ăn no, còn đi làm sinh viên thì chỉ có đói. Biết như thế nhưng vẫn bị nó dầy vò.
   Đã là sinh viên thì làm sao mà không đói được, khi mà tiêu chuẩn ăn của sinh viên thì đạm bạc. Trong khi đó học hành thì vất vả, nhu cầu tiêu tốn năng lượng thì nhiều, nhưng bữa ăn của sinh viên lại kham khổ, không đủ về số lượng chứ chưa nói gì đến chất lượng.  Chỉ nghĩ đến bữa ăn là đã thấy đói rồi, chứ đừng nói đến khi ăn vào bụng. Ai đời, toàn những em còn trẻ, đang tuổi ăn tuổi lớn, sức dài vai rộng và chúng tôi là những thương bệnh binh đang cần được bồi bổ, thì lại không có mà ăn. Bữa ăn chỉ được ba lưng cơm, nếu đơm đầy thì được hai bát, cơm có bữa độn ngô, độn mỳ. Hôm nào may mắn thì cơm chín, còn không thì trên sống dưới khê tứ bề nhão nhoét. Tuy vậy, có mà ăn là tốt rồi, đố dám chê, nếu có nhỡ mồm chê thì hãy coi chừng những bữa sau đó. Đấy là nói về cơm, còn thức ăn thì ở nhà bếp này chủ yếu là một vài món gia truyền, nhiều nhất là món canh rau muống hay canh rau cải toàn quốc, sau là đến món lạc nhân rang với muối và nước mắm. Những món này là thường xuyên, thi thoảng cũng có bữa có thịt kho đậu phụ hay cá biển kho mặn v.v.
   Bữa ăn như thế ai mà chả đói, đã thế đêm lại học khuya, mỗi lần bỏ sách xuống là lại nghĩ đến ăn. Có đêm, tôi lấy hộp thuốc chữa dạ dày của tôi ra ăn. Mọi người xung quanh, cả giường tầng trên lẫn giường tầng dưới, đều phát hiện mùi thơm của thuốc. Thuốc này mẹ tôi tự làm lấy, nó gồm có mật ong, bột đương quy, bột nghệ đen, bột gạo nếp, lạc rang nghiền rập rạp, tất cả trộn với đường và vo lại từng viên như viên thuốc tễ, xếp vào trong hộp để tôi ăn dần. Mọi người hỏi tôi ăn gì đấy? Tôi nói là tôi ăn thuốc chữa dạ dày, thuốc này đắng lắm mọi người không ăn được đâu. Mọi người bảo: Đắng chúng tao cũng ăn được. Thế là họ xông vào cướp rồi chia cho mỗi người mấy viên ăn cho đỡ đói. Cũng có nhiều đêm chúng tôi hỳ hụi luộc sắn hay nấu mỳ, hay làm cái gì đó có thể ăn được. Để có thể có phần của mình thì hãy biết điều là làm nhiều hơn dự tính thì may ra mới đủ chia, còn nếu không thì bị “ Đánh dặm” hết. Từ điển của lớp tôi: “Đánh dặm” là ăn chực, mà những thằng ăn chực lại ăn nhanh hơn chủ nhà, thế mới buồn cười chứ. Lớp chúng tôi sống với nhau như vậy đấy.
   Thoắt một cái mà đã hơn hai tháng rồi, tối nay thầy giáo chủ nhiệm có vẻ vui hơn mọi khi. Ông nhìn tất cả anh em chúng tôi một lượt rồi nói:
    -Cứ đà này, chẳng mấy chốc lớp ta sẽ kết thúc được giai đoạn 1.
   Thầy trò chúng tôi tự qui định với nhau, giai đoạn 1 là giai đoạn làm quen với sách vở và ôn lại những kiến thức trước kia đã học. Giai đoạn 2 là giai đoạn nhập cuộc và phấn đấu theo chương trình của giáo vụ nhà trường. Hai giai đoạn, chúng tôi xác định giai đoạn 1 là cực kỳ quan trọng, bởi lẽ nếu vượt qua được giai đoạn này, đồng nghĩa với việc chúng tôi đã thắng được sức ỳ bởi hệ lụy của cuộc chiến tranh, mà nó tồn tại trong chúng tôi kể từ khi chúng tôi xếp bút nghiên lên đường đi chiến đấu. Người nào ít thì cũng từ 1-2 năm, như chúng tôi cũng đã gần 4 năm, có nhiều người tới 5-6 năm. Qua được giai đoạn này, chúng tôi sẽ lấy lại được cảm hứng cho việc học tập, chất sinh viên lại hừng hực trong mỗi chúng tôi.
   Nói thì dễ, thực ra để vượt qua giai đoạn này không đơn giản chút nào. Tôi nhớ: Ngày nào cũng như ngày nào, kể cả thứ 7 chủ nhật, ban ngày thì học trên lớp, tối về thầy trò lại bò ra ôn lại những kiến thức cũ. Ban ngày học không hiểu, tối nêu lại ý kiến để thầy cô giải đáp. Các thầy các cô lại cặm cụi lục lại những kiến thức cũ từ năm thứ nhất thứ hai để giảng lại cho chúng tôi. Nào là Toán giải tích, nào là Sức bền vật liệu, nào là Cơ kết cấu v.v. Thôi thì đủ thứ, cái gì chúng tôi đều cảm thấy như mới, các thầy các cô vẫn nhẫn nại giảng lại cho chúng tôi nghe. Cũng từ đây chúng tôi mới thấy các thầy các cô là những bậc kỳ tài, chẳng những nhiệt tình vì học trò mà còn là những giáo viên tuyệt vời, hình như tất cả những kiến thức của thế gian này đều có sẵn trong đầu các thầy các cô.
   Nghe thầy giáo chủ nhiệm động viên như thế chúng tôi vui lắm, cộng với việc: Theo chương trình của giáo vụ thì chúng tôi cũng biết là chúng tôi được miễn thi những môn nào và phải học những môn nào. Để củng cố kiến thức cho chúng tôi, nhà trường còn quy định: Tất cả những môn học trước kia đã có điểm thi hay điểm kiểm tra, vẫn phải lên lớp học đầy đủ, nếu nghỉ quá số giờ quy định thì sẽ không được miễn thi hay kiểm tra môn ấy.
   Như vậy, tất cả đều rõ ràng. Tôi nghĩ: Với sự nỗ lực của anh em chúng tôi, cộng với tình thương yêu dìu dắt của các thầy các cô. Chắc chắn, chúng tôi sẽ hoàn thành được tâm nguyện, cũng là đáp ứng được sự kỳ vọng của thầy cô, của nhà trường.
   Không khí ấm áp tràn ngập cả căn phòng, ánh lửa bập bùng soi tỏ những khuôn mặt gầy gò khắc khổ. Mùi thơm của nồi mỳ sợi không người lái lan tỏa khắp phòng, tiếng bát đũa lạch cạch, tiếng húp xì sụp, cũng làm thầy trò ấm lòng trong đêm đông giá lạnh.
   

 


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 01 Tháng Hai, 2013, 10:23:37 am

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
5- Đi tìm.
         Từ khi còn đang ở chiến trường, tôi đã có tâm nguyện: Nếu còn sống trở về, nhất định tôi sẽ đi tìm Vân. Tôi nghĩ, lúc ấy cho dù Vân ở nơi nào, dù có phải lên rừng hay xuống biển, vào Nam hay ra Bắc, miễn là ở trên đất nước Việt Nam này, tôi cũng sẽ đi tìm bằng được. Ý nghĩ ấy lúc nào cũng thường trực và thôi thúc tôi, tôi luôn cảm thấy mình đang bị mắc nợ, một món nợ không thể không trả. Những năm tháng chiến tranh ác liệt, tôi thầm cầu mong: Trời Đất, tổ tiên cho tôi được sống trở về, để trả món nợ này.
    Mong ước ấy nay đã thành sự thật, bây giờ chỉ cần có cơ hội là tôi sẽ đi gặp Vân ngay. Những ngày làm thủ tục nhập học, tôi muốn giải quyết công việc cho thật nhanh, sau đó sẽ bố trí thời gian đi gặp Vân. Tôi biết chỉ khi nào gặp được Vân, khi đó may ra mới yên tâm cho việc học hành. Thú thực, tôi mong mỏi gặp Vân từng ngày từng giờ. Tôi luôn tự nhủ, gặp được Vân thì mọi vấn đề về tình cảm, bị dồn nén từ trước đến bây giờ sẽ được gỡ bỏ. Tôi sẽ nói hết để Vân thông cảm và tha thứ, tôi sẽ cầu xin Vân hãy dành cho tôi một tình cảm đặc biệt nhất nếu có thể. Hy vọng điều ấy sẽ giúp tôi bù đắp được một phần những mất mát thiệt thòi, mà Vân đã phải chờ đợi trong suốt thời gian tôi đi chiến đấu.
  Vậy mà, đã hơn hai tháng trôi qua, kể từ khi lớp 17T bước vào học chính thức, tôi vẫn chưa thể xắp xếp được thời gian đi gặp Vân. Tôi cứ chần chừ đợi cơ hội, nhưng cứ chờ mãi. Hôm nay, tôi quyết định đi tìm Vân. Tất nhiên chuyện đi tìm Vân chỉ có một mình tôi biết.
    Lặng lẽ ra ga Hương Canh. Đêm nay tôi đón chuyến tầu Lào Cai về Hà Nội, nhưng tôi không về Hà Nội mà xuống ga Yên Viên rồi đón tầu Hà Nội đi Lạng Sơn, để lên Bắc Giang.
    Bữa trước, tôi có gặp anh bạn học khóa 12 Cầu Đường, lớp Cầu Đường bộ, anh được giữ lại làm cán bộ giảng dậy, ở Khoa Kinh Tế Xây Dựng. Hỏi thăm anh, tôi biết được Vân hiện nay đang ở Ty Giao Thông Vận Tải Hà Bắc, trụ sở chính đóng ở thị xã Bắc Giang. Tôi hỏi thêm anh một vài thông tin nữa về Vân, nhưng anh nói là anh không biết gì hơn, ngoài những điều anh đã nói với tôi. Tôi nghĩ: Như vậy cũng tốt rồi, không gian là thị xã Bắc Giang, địa điểm cụ thể sẽ hỏi thêm dân ở đó.
    Hôm nay, tôi mặc bộ quần áo bộ đội mà tôi cố tình cất đi để dành, mục đích của tôi là dành lại bộ này để mặc vào những lúc có những sự kiện trọng đại như ngày nhập học, ngày đi gặp người yêu, ngày nhận bằng tốt nghiệp, ngày vào cơ quan mới v.v. Lần này là lần thứ hai tôi mặc nó, lần thứ nhất là lần tôi trở lại trường xin nhập học, lần này tôi mặc để đi tìm Vân.
   Mới hơn 10 giờ đêm mà trời đã se lạnh, tôi mở chiếc ba lô lộn, lấy chiếc áo đại cán của anh bạn ở trung đoàn 101 sư 325 học cùng lớp cho tôi hôm nọ, khoác thêm cho đỡ lạnh. Chiếc áo này. Mấy bữa trước trời rét, anh bạn thấy tôi co ro ngồi trên giường tầng quấn chăn để học, lúc lên lớp, anh thấy tôi cũng chỉ mặc thêm một chiếc áo sơ mi nữa. Ngồi học mà rét run, cộng với cả cái đói nữa, người cứ run lên cầm cập. Chiều về, anh bạn bảo tôi:
    -Ông cầm cái áo này mà mặc, hôm nào có áo rét thì trả lại tôi.
    -Thế ông lấy gì mà mặc?
    -Tôi có áo rồi, tôi có mấy chiếc áo len cơ mà. Ông cứ cầm lấy mà mặc, nói thật với ông tôi cũng không thích mặc áo đại cán, trông nó cứ hộp hộp thế nào ấy.
    -Cám ơn! Vậy cho mình mượn tạm nhé.
   Thú thực là từ khi ra Bắc, về đoàn an dưỡng, về nhà, rồi lên trường nhập học, thời gian ở nhà vỏn vẹn độ 15-16 ngày. Những ngày ấy, tôi sống trong sự nuông chiều của bố mẹ và những người thân trong gia đình, mọi người thương tôi lắm, cái gì cũng dành phần tôi, họ bảo tôi vừa mới từ chiến trường trở về, cần được ăn uống nghỉ ngơi. Sung sướng và hạnh phúc, tôi trải lòng để tận hưởng những phút giây ngọt ngào ấy. Đúng là: Ngày vui ngắn chẳng tày gang, thời gian qua đi rất nhanh, với lại do tôi đột ngột quyết định trở lại trường sớm hơn dự kiến nên tôi chẳng kịp chuẩn bị gì. Mà hình như do ở chiến trường Miền Nam mấy năm, tôi đã quên mất cái rét ở ngoài Miền Bắc, vì thế khi tôi trở lại trường tôi quên là mùa đông sắp đến, nên tôi chẳng kịp chuẩn bị gì cho mùa đông. Đợt nghỉ này nếu có điều kiện, tôi sẽ trang bị lại quần áo, chăn chiếu để bảo đảm sức khỏe cho việc học tập.
   Còn hơn một tiếng đồng hồ nữa tầu mới về, sân ga vắng ngắt, ánh sáng vàng ệch của mấy bóng đèn điện treo trên cột, hắt ánh sáng yếu ớt xuống sân ga. Vô số các con côn trùng bay lượn xung quanh bóng đèn, nhiều con không biết phận mình, lao vào ánh sáng, bị đốt nóng chết rơi lả tả. Sân ga không bóng người qua lại, những hành khách đợi tầu đã dạt vào các quán nước hai bên nhà ga uể oải ngồi uống nước hút thuốc đợi tầu.
   Tôi đặt ba lô tựa vào thân cây Bàng, nằm ngả người lên chiếc ba lô  hút thuốc. Thi thoảng có cơn gió thổi làm những lá Bàng lay động, tôi  nhìn thấy những ông sao sáng xanh trên trời qua những kẽ lá. Ga Hương Canh đối với tôi sao mà thân quen thế? Một thời gian dài, nhà ga xép bé nhỏ ở vùng trung du heo hút này đã chứng kiến biết bao kỷ niệm giữa tôi và Vân.
   Một chiếc lá Bàng rụng, rơi nhè nhẹ lên đầu. Tự nhiên tôi nghĩ đến Vân, những kỷ niệm cũ lại ùa về, làm tôi nhớ Vân đến cồn cào. Tôi mê mẩn chìm vào suy tưởng. Tôi thầm gọi:
     -Vân ơi!  Giờ này Vân đang làm gì? Vân có thấy linh tính mách bảo gì không? Vân có thấy nóng ruột hay máy mắt không?
   Vân ơi! Anh đang gọi tên em, cái tên này anh đã gọi không biết bao nhiêu lần trong những năm qua. Những ngày sống xa em anh khắc khoải chờ đợi và cầu mong có ngày được gặp em. Ngày ấy đã đến, giờ này anh đang đi tìm em đây. Hãy tha thứ cho anh, đừng oán giận anh mà tội nghiệp. Anh đâu muốn thế, tất cả đều do chiến tranh, vì nó chúng ta phải xa nhau mỗi đứa mỗi nơi, bao nhiêu mộng đẹp được thêu dệt từ mối tình đầu say đắm cũng vì nó mà dang dở.
    Anh biết: Em đã bước sang ngang, bây giờ chỉ mình anh ngồi lại trên bến, anh cố nhìn con đò cứ xa dần xa dần rồi khuất dạng phía bờ bên kia… Không biết khi con đò rời bến thì cảm giác lúc đó của em thế nào? Anh thật sự muốn biết? Không biết em có dám kể cho anh nghe không? Còn anh, khi nghe được tin em đi lấy chồng, mặc dù anh đã được chuẩn bị sẵn về tư tưởng, song anh vẫn cảm thấy lúc đó trời đất quay cuồng, không gian như dừng lại, anh ngột thở. Một cảm giác chua chát bực bội vô cớ xâm chiếm tâm hồn anh. Vậy là anh đã mất em thật rồi.
   Vân ơi! Em có biết không? Từ ngày anh trở lại Miền Bắc, sau khi biết tin em đã đi lấy chồng. Một thời gian dài, anh sống trong tâm trạng không bình thường, vui đấy nhưng cũng buồn đấy, hay cáu gắt và luôn tự mâu thuẫn với bản thân. Việc em đi lấy chồng, có những lúc anh cảm thấy vui và tự hào vì anh đã làm được một việc đáng để làm. Nhưng cũng ngay lập tức anh lại cảm thấy nuối tiếc rồi nghĩ ngợi lung tung, tự anh đặt ra nhiều giả thuyết, giá mà thế nọ, giá mà thế kia thì có phải tốt hơn không? Có những lúc anh nghĩ, nếu như anh không gửi những bức thư cuối cùng thì chưa biết chuyện gì sẽ xảy ra? Anh ân hận… Nghĩ đến đấy, anh xấu hổ với chính mình và lại thấy mình là con người ích kỷ và nhỏ nhen.
    Những điều anh vừa nói ra, may mà em không biết, nếu em biết chắc là em sẽ nghĩ khác về anh. Em nghĩ sao cũng được, nhưng em hãy tin rằng: Anh yêu em còn hơn cả bản thân anh. Chắc là em vẫn còn nhớ? Đã có lần anh nói với em:
    -Anh chưa yêu người con gái nào và hình như cũng chẳng có người con gái nào dám yêu anh, anh là con người cục cằn, tính tình thô lỗ, anh vụng về không biết làm thế nào để thể hiện tình yêu. Nhưng nếu anh được yêu, anh sẽ làm tất cả vì người con gái đã yêu mình. Em cứ thử mà xem.
   Lúc ấy, em nhìn anh chỉ cười mà không nói gì, nhưng anh đoán em rất hạnh phúc.
   Nhớ lại lúc em nhận lời yêu anh, anh không tin đấy là sự thật. Anh tự hỏi: Vì sao em yêu anh? Em yêu anh về cái gì? Anh không tự trả lời được, mà anh cũng không dám hỏi lại em, vì sợ em lại phát hiện ra điều gì đó rồi thay đổi ý kiến và không yêu anh nữa. Nhớ có lần em đọc cho anh một đoạn thơ nói về tình yêu, em bảo là không biết của tác giả nào. Bây giờ thì anh quên đoạn thơ đó rồi, nhưng đại ý là:
 “… Mối tình đầu bao giờ cũng đẹp.
        Rất đậm đà nhưng cũng rất đắng cay…”
   Lúc này, nghĩ lại anh càng thấy thấm thía, nuối tiếc một thời vàng son. Rồi đây, thời gian sẽ hối thúc anh phải làm những việc để trả nợ đời, như lấy vợ và sinh con chẳng hạn, anh tin rằng : Chẳng phải cố gắng thì anh cũng sẽ làm được, chỉ có một việc, cho dù anh có cố gắng bao nhiêu thì cũng không bao giờ có được nữa rồi. Đó là tình yêu của em dành cho anh, tình yêu ấy chỉ có một và chỉ một mà thôi…
   Tiếng còi tầu hú ba hồi từ phía đầu ghi, rồi từ từ tiến vào sân ga. Ga Hương Canh là ga xép nên người xuống cũng ít mà người lên cũng chẳng được bao nhiêu. Đoàn tầu dừng lại khoảng 3-4 phút rồi lại tiếp tục chuyển bánh, ánh sáng đỏ quạch của mấy bóng đèn điện cứ loang loáng lùi lại ngoài cửa sổ của đoàn tầu. Đoàn tầu ì ạch chìm vào bóng tối bịt bùng, tiếng bánh sắt nghiến ken két lên đường ray, tiếng cạch cạch đều đều mỗi khi qua những đoạn nối ray. Thế là đoàn tầu rời sân ga, đưa tôi đi tìm người yêu đã lấy chồng…
   Tôi vào đúng phải toa dành riêng cho những người có hành lý cồng kềnh. Đêm đã về khuya. Hai chiếc đèn bão treo hai đầu toa lắc lư theo nhịp tầu chạy. Nhờ ánh sáng của chiếc đèn bão, tôi cũng lần tìm được một chỗ ngồi, phía cuối toa. Toa này, chỉ có hai hàng ghế gỗ chạy dọc toa, trên ghế, dưới sàn toa kẻ nằm người ngồi la liệt không theo hàng lối nào. Không biết mọi người thức hay ngủ, nhưng tất cả đều im lặng, chỉ nghe tiếng rập rình đều đều của đoàn tầu, thi thoảng lại nghe tiếng còi tầu hú vọng trong đêm.
    Đang mơ màng, tôi chợt tỉnh khi nghe thấy tiếng van xin của một người đàn bà, không biết già hay trẻ:
    -Con cắn cỏ, con lạy ông! Ông làm ơn làm phúc ông tha cho con, chồng con chẳng may đã hy sinh ở chiến trường. Con một nách ba đứa con dại, các cháu chỉ còn biết trông cậy vào gánh hàng này của con để rau cháo lần hồi. Ông mà bắt mất thì các cháu không biết lấy gì để sống. Con trăm lạy ông, nghìn lạy ông, xin ông tha cho con, con xin đội ơn ông.
   Tiếng người đàn ông khô khốc:
    -Ai tin được các bà. Việc nào ra việc ấy, nếu gia đình chính sách thì đã có Chính Phủ lo, còn chuyện buôn bán hàng lậu thì phải tịch thu.
   Tôi đã hình dung được câu chuyện xảy ra. Tôi nghĩ: Ông phòng thuế ấy nói đúng quá còn gì, bởi vì ông là cán bộ nhà nước, ông đang thực thi công vụ, nơi này thì ông ấy là to nhất, oai nhất rồi. Miệng nhà quan có gang có thép, làm sao có thể thay đổi được. Chỉ thương cho người đàn bà khốn khổ kia không biết bà ấy sẽ xoay sở thế nào? Liệu bà có đủ giấy tờ để chứng minh những điều bà ấy nói không? Đấy là chưa kể đến việc đủ giấy tờ rồi, nhưng vẫn còn phụ thuộc vào việc ai sẽ là người cầm cân để xử kẻ đúng người sai? Đâu là tình, đâu là lý? Chuyện này còn dài, chưa biết kết quả thế nào?
   Nhưng chắc chắn, hôm nay mấy đứa trẻ sẽ dài cổ đợi mẹ về chợ.
(Còn nữa)



     



Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: thaynhin trong 01 Tháng Hai, 2013, 03:35:34 pm
Rất cảm động anh ạ,lại đọc đúng đoạn anh về tìm chị Vân.Chưa biết sự thể ra sao nhưng vvaanx cầu mong cho những người như các anh hạnh phúc,bù đắp những mất mát,hy sinh trong chiến tranh đã cướp mất của các anh.
Mong sớm được đọc về những kỷ niệm thiêng liêng của anh và đồng đội.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 08 Tháng Hai, 2013, 10:01:15 am

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
5- Đi tìm
          Chuyến tầu đi Lạng Sơn lạch cạch chạy trên đường ray. Tôi ngồi cùng ghế với một người đàn ông, thấy động ông mở mắt ra nhìn rồi ông hơi dịch vào để nhường chỗ cho tôi, sau đó ông nhắm mắt lại và tiếp tục kéo gỗ đều đều. Ghế có ba chỗ, tôi ngồi vào mới là hai, còn một chỗ nữa chưa có người ngồi.
   Ngoài trời còn tối như bưng, trong toa có ánh sáng lờ mờ của bóng đèn điện loại 25w treo ở giữa toa. Nhìn bóng đèn tôi nghĩ thầm: Bóng điện 25w này còn có thể sáng hơn chút nữa, nếu như tháo bỏ lớp lưới thép chụp bảo vệ ra. Việc này đơn giản thế ai mà chả biết, chắc là phải có lý do gì đấy nên nhà tầu không tháo bỏ tấm lưới thép, thậm chí cũng không quét màng nhện và những hạt bụi bám tầng tầng lớp lớp ở tấm lưới bọc. Nếu ở thời kỳ có chiến tranh phá hoại thì còn lý giải là để che ánh sáng cho máy bay không phát hiện, nhưng bây giờ thì rõ ràng là không phải. Có lẽ ở đây việc bảo vệ bóng đèn là chủ yếu, còn ánh sáng phục vụ nhân dân cũng quan trọng nhưng là thứ yếu. Cứ nhìn vào bóng đèn mà ngẫm nghĩ thấy rất khó chịu, nhưng chẳng ai làm gì được. Tóm lại chỉ dân là khổ.
    Mọi người trong toa ngủ gà ngủ gật. Tôi chăm chú nhìn vào bóng đèn,  buồn ngủ quá cũng thiếp đi lúc nào không biết. Giật mình tỉnh dậy, phản xạ đầu tiên của tôi là tìm chiếc ba lô lộn. May quá, tôi vẫn ôm nó khư khư trước ngực. Thực ra trong ba lô không có tiền bạc gì, chỉ có một vài thứ đồ dùng cá nhân, trong đó có hai thứ được coi là quan trọng nhất đối với tôi: Đó là bức hình của Vân tặng tôi làm kỷ niệm trước khi nhập ngũ và giấy tờ chứng thương. Giấy chứng thương tôi mới được cấp trước khi rời khỏi đơn vị để trở về trường đi học, còn tấm hình của Vân thì đã theo tôi suốt cả thời gian tôi trong quân ngũ cho tới tận bây giờ, tôi hy vọng  tôi sẽ giữ nó mãi mãi.
     Nghĩ đến tấm hình của Vân, nó cũng để lại trong tôi không biết bao nhiêu là kỷ niệm. Để giữ được tấm hình này, thật không đơn giản chút nào, ngoài chuyện bao bọc cho kín không bị thấm nước, không để người khác phát hiện, không bị nhàu nát v.v. Còn một việc nữa là luôn phải cơ động thay đổi vị trí cất dấu, nhưng vẫn phải đảm bảo bí mật và bất ngờ. Nếu không linh hoạt và bất ngờ thì dễ bị phát hiện, bởi vì đơn vị tôi là đơn vị trinh sát, cứ mỗi lần đi công tác tiền nhập hay luồn sâu, lần nào cũng vậy mọi người đều phải khai lý lịch trích ngang và địa chỉ khi cần báo tin cho ai. Sau đó tất cả đều phải để lại hậu cứ những giấy tờ, thư từ bưu ảnh có liên quan đến cá nhân.  Mà đã để lại hậu cứ của đơn vị thì tôi không yên tâm. Vì thế, tôi vẫn lén lút mang theo hình của Vân. Tôi cũng chẳng hiểu tại sao tôi lại làm như vậy, có lẽ là do thói quen nên tôi cứ làm vì tôi muốn có Vân bên cạnh, thế thôi. Thực ra tôi không có ý thức chống đối những quy định của đơn vị. Cũng may chính việc làm ấy của tôi đã giúp tôi giữ được tấm hình của Vân, nếu tôi để trong ba lô thì có lẽ đã bị “Giữ hộ” từ lâu rồi.
   Dạo ấy đang ở Nại Cửu, cả đơn vị đang dục dịch chuẩn bị luồn sâu để chuẩn bị cho chiến dịch phía Tây Thừa Thiên Huế. Tôi còn nhớ, sau khi ăn trưa xong. Cả đơn vị đang nghỉ trưa thì có lệnh báo động di chuyển. Sau 30 phút chuẩn bị quân tư trang để di chuyển, toàn đơn vị xếp hàng ở sân bóng đá đợi lệnh. Một lát, sau khi nghiêm nghỉ quay trái quay phải, dãn cách đội hình, chờ ổn định xong khi ấy đồng chí chỉ huy đơn vị tuyên bố:
    -Để chuẩn bị đi công tác và tránh những sự việc đáng tiếc xảy ra. Hôm nay đơn vị tổ chức kiểm tra tư trang cá nhân của tất cả các đồng chí trong đơn vị, trừ cán bộ đại đội và bộ phận hậu cần.
   Sau mệnh lệnh ấy, chúng tôi tất cả phải đặt ba lô xuống và lùi lại phía sau hai bước, rồi từng người một, khi được gọi tên phải lên để xếp tư trang cá nhân của mình ra để kiểm tra. Lần ấy tôi và một vài người nữa được đơn vị “Giữ hộ” một số tư trang cá nhân. Tôi có hai vật quý nhất là cuốn nhật ký và tấm hình của Vân. Cuốn nhật ký vì nó hơi to nên khó dấu, tôi bắt buộc phải nộp. Còn tấm hình của Vân, mấy bữa trước tôi nhét vào kẽ của cục pin máy thông tin 2w, nên không ai phát hiện ra, nếu không dấu thì chắc là cũng bị “Giữ hộ” rồi. Bị giữ cuốn nhật ký tôi tiếc lắm, tôi buồn mất một thời gian dài, bởi vì cuốn nhật ký là nơi tôi tâm sự và gửi gắm tất cả mọi tình cảm yêu thương của tôi đối với những người thân trong gia đình và cả Vân nữa. Trong đó số trang tôi viết cho Vân vẫn là nhiều nhất.
   Cuốn nhật ký ấy với tôi là vô giá, tôi nâng niu và giữ dìn nó rất cẩn thận, bởi vì tôi nghĩ: Nó không phải là quyển sách, cũng không phải là vật vô tri vô giác, mà nó là bạn tôi, nó chia sẻ cùng tôi những niềm vui và những nỗi buồn, nó có tri thức thật. Tôi tin là như vậy: Bởi lẽ mỗi khi tôi cầm đến nó thì ký ức của tôi lại trào dâng, kỷ niệm lại ùa về qua từng trang từng trang. Cuốn nhật ký ấy tôi ghi đủ thứ thôi thì thượng vàng hạ cám đều có tất, cả nhật ký lẫn hồi ký, chuyện vui cũng có mà chuyện buồn cũng nhiều. Tôi nghĩ: Cuốn nhật ký của tôi, lãnh đạo đơn vị chắc chắn là sẽ đọc và sau khi đọc rồi không biết họ sẽ đánh giá tôi là người như thế nào? Tôi thấy cũng hơi ân hận, nhưng chẳng biết làm thế nào đành chịu vậy.
  Trang mở đầu là những ngày tôi phải sống xa Vân, tiếp theo là những ngày huấn luyện ở tiểu đoàn 60 sư 304 ở Phú Bình Bắc Thái,  đến những ngày hành quân đi chiến đấu, đến những trận B52 kinh hoàng ở Xê Kim Tát, đến những lần vượt sông Thạch Hãn sang thành cổ Quảng trị, và những lần đi trinh sát, đi luồn sâu. Những địa danh của địa phương xuất hiện dày đặc trong từng trang viết, ngoài thành cổ Quảng Trị ra còn là Tân Mỹ, Tích Tường, Như Lệ, Đá Đứng, Đồi Chè, ngã ba Phước Môn, đến những cao điểm 25, 29 v.v. Tóm lại cuốn nhật ký ấy không phải là nhật ký đúng nghĩa, mà chủ yếu là viết lại những việc, những sự kiện mình cùng với đồng đội đã trải qua theo thời gian.
   Ngày ấy tâm trạng không vui, tuổi trẻ bồng bột, lại sống xa nhà xa người yêu, cái sống cái chết cận kề nhau, chiến tranh thì còn dài chưa biết bao giờ mới kết thúc… Ở bối cảnh ấy, nên phần nhiều những trang nhật ký đều đượm buồn. Mãi đến thời gian tháng 10, tháng 11 năm 1972, Khi nghe trộm đài BBC của địch, biết được Hiệp Định Pari về Việt Nam đã được ký tắt. Cùng lúc ấy trong chiến trường cũng có tin là sẽ trả các sinh viên của các trường đại học về tiếp tục học tập. Thời gian ấy tôi vui lắm nên tôi viết rất nhiều, tôi kể cho Vân nghe cách làm bún làm bánh cuốn, cách nấu rượu, tôi còn hài hước nói với Vân:
    -Sau này khi còn sống trở về, chúng mình sẽ lấy nhau, khi ấy em sẽ sinh cho anh 3-4 đứa con, nếu như cuộc sống quá khó khăn. Anh sẽ làm thêm nghề phụ, những nghề mà anh đã học được trong bộ đội, anh có thể nấu rượu và nuôi lợn, tráng bánh cuốn hay làm bún. Anh sẽ chịu khó, thức khuya dậy sớm. Còn em, sáng sáng em đi bỏ mối cho các nhà hàng, rồi về đưa con vào nhà trẻ, sau đó cả hai vợ chồng cùng đi làm. Cầu Trời cho chúng ta sức khỏe, để tần tảo lần hồi nuôi con.
   Những trang ấy tôi vẽ ra viễn cảnh ngày trở về, tôi khoác ba lô tìm  đến cơ quan Vân làm việc. Mọi người trong cơ quan, ngơ ngác nhìn tôi. Còn Vân khi nhìn thấy tôi trong bộ quân phục thì không tin vào mắt mình nữa và chạy về phía tôi, đang chạy tự nhiên dừng lại đứng như trời trồng rồi lảo đảo như người bị trúng gió. Tôi vội vàng chạy lại đỡ lấy Vân, cả cơ quan nhìn chúng tôi cảm động, có những người quay đi dấu những giọt nước mắt. Đọc đến đoạn này chắc Vân cũng phải phì cười bởi vì không thể ngờ được tôi giầu trí “Tưởng bở” như vậy.
   Rồi đến đoạn tôi đưa Vân về quê tôi để giới thiệu Vân với bố mẹ và gia đình . Đoạn này tôi viết tự tin lắm, thực ra cũng có ý nịnh và động viên Vân. Song khi tôi viết đoạn này, tôi nghĩ là tất cả mọi người trong gia đình tôi, từ bố mẹ  đến anh chị em, khi nhìn thấy Vân thì tất cả mọi người sẽ đồng ý, sự đồng ý ấy lại càng được thuyết phục khi nghe Vân nói chuyện. Vân không đẹp, cũng không xấu, hình như tạo hóa đã tạo dựng lên một tác phẩm bình thường giản dị, nhưng tất cả đều hài hòa và hoàn mỹ, thêm chút nữa là Vân lại có duyên thầm. Mỗi lần nghe Vân nói chuyện, cứ nhìn từ ánh mắt đến nụ cười và cách diễn đạt, đến ngữ điệu trầm bổng, cách biểu đạt tình cảm của câu chuyện, chỉ từng ấy thôi cũng đã đủ thuyết phục người nghe rồi.
   Cũng có những trang tôi tưởng tượng ra cuộc sống vợ chồng để tâm sự  với Vân, những trang ấy ai mà đọc thì cũng ham muốn vợ chồng được gần gũi nhau. Khi tôi viết những trang như vậy, tôi hoàn toàn không nghĩ đến việc nhật ký bị thu lại, mà tôi đinh ninh rằng cuốn nhật ký này chỉ có tôi và Vân đọc, kể cả sau này các con của chúng tôi cũng không được đọc. Nghĩ thế nên tôi cảm thấy trong lòng nhẹ nhõm và tôi phóng tay viết hết những gì mà tôi tưởng tượng như chúng tôi được sống với nhau. Viết xong những trang ấy, tôi thấy mình càng khát khao yêu cuộc sống hơn…
   Có rất nhiều chuyện tôi kể cho Vân nghe, trong đó có câu chuyện khi tôi viết xong, tôi ngần ngừ định xé bỏ. Nhưng chẳng hiểu thế nào tôi vẫn giữ lại, đấy là câu chuyện tôi ngủ cùng hầm với nữ du kích Quảng Trị. Chuyện có thật 100%, đơn vị tôi nhiều người biết. Chuyện này kể cho Vân nghe, nếu Vân tin là có thật thì Vân sẽ nói tôi là kể không thật, có nhiều chi tiết nói dối. Nhưng nếu Vân không tin là có thật, thì Vân cũng nói là tôi bịa chuyện này để thể hiện mình là chung thủy với người yêu. Có thể đây chính là lý do mà tôi kể cho Vân nghe. Chuyện thật thì dài, nhưng trong nhật ký thì không thể viết dài được. Tôi chỉ viết tóm tắt, đại loại là:
 “ … Có một lần anh ngủ chung hầm với một o du kích Quảng Trị. Một chàng trai mới lớn như anh, đang sung sức, nằm cạnh một cô gái tuổi 17- 18 tràn ngập nhựa sống. Hai người chỉ cách nhau khẩu súng CKC đặt ở giữa để tạm thời phân cách giới tính nam nữ. Nằm bên cạnh người con gái tuổi bẻ gẫy sừng trâu, nghe cô thở đều đều, mùi cơ thể con gái bốc ra lờn vờn khêu gợi. Anh không thể nào ngủ được, thậm chí anh không giám thở mạnh, cũng không giám trở mình. Anh nghĩ lung tung nghĩ đến những điều xúi quẩy mà bạn bè thường kể cho nhau nghe khi tiếp xúc với phụ nữ, nghĩ đến em v.v. Anh không thể chịu đựng được, anh đã … Lao ra ngoài ngồi gác ở cửa hầm, ngủ gà ngủ gật cho đến khi trời sáng…”
    Đấy là những dòng trong nhật ký, còn chuyện thật thì:
       Dạo ấy…
(còn nữa).
   


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 08 Tháng Hai, 2013, 08:48:11 pm
          Chào bác quanvietnam, chào các bác! Đọc chuyện của bác hay lắm, cuốn hút và cảm động lắm. Chỉ muốn bác viết nhiều nhanh nhanh đến đoạn bác gặp lại Vân xem Vân có "tù tù lịm đi' không?

            Hôm nay ngày 29-29 Tết Tranphu có dịp mở mạng. Đọc nghiến ngấu bài viết của bác. Chúc bác cùng gia đình sang năm mới có nhiều sức khỏe cùng nhiều niềm vui cuộc sống - Và mong bác nhanh viết tiếp chuyện nhé.. ;D ;D ;D


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: xuanv338 trong 10 Tháng Hai, 2013, 04:55:49 pm
    CB chào anh quanvietnam. Chào các bác. Ngày xuân mới đầu tiên mà Cb em lại để ông anh đến nhà chúc tết nhà em trước. Thật là lỗi lớn. lõ rồi Cb chỉ biết lỗi thôi không thể làm lại được. Cũng còn là ngày đầu xuân em xin chúc anh cùng toàn gia đình mạnh khỏe, vui vẻ, an khang thịnh vựong. Anh viết tiếp bài mà em vẫn đang theo dõi đọc và những bài viết của anh cũng lấy của CB không ít nước mắt đâu anh nhé! Nghỉ du xuân mấy ngày thôi rồi anh em mình lại tiêp tục vào cuộc anh à. Cb chào anh, chào các bác.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: qtdc trong 11 Tháng Hai, 2013, 10:56:06 am
Năm mới chúc đàn anh Hương Canh quanvietnam dồi dào sức khỏe, lúc nào cũng "nhuận sắc" như em thấy ở 19C Ngọc Hà bữa tất niên. Và vui xuân mới không quên "nhiệm vụ" đâu bác nhé. Chuyện tình của bác là chuyện tình xuyên thế kỷ rồi (đúng ra là xuyên thiên niên kỷ), yêu ở thế kỷ 20, vẫn còn ngậm ngùi (nghĩa là vẫn còn tiếc, còn yêu) sang tận thế kỷ 21 làm con cháu phải ngưỡng mộ....hi hi:
...Hương Canh, Hương Canh, đường loanh quanh
Hương Canh, Hương Canh tan nát lòng anh....
:-\




Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: vanthang341ht trong 11 Tháng Hai, 2013, 02:37:49 pm

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
5- Đi tìm.
   Nhưng chắc chắn, hôm nay mấy đứa trẻ sẽ dài cổ đợi mẹ về chợ.
(Còn nữa)

     Đọc chuyện đi tìm Vân của bạn mà chúng tôi cũng như những đứa trẻ đang dài cổ đợi mẹ đi chợ về đây. ;D
Vẫn chưa biết bạn có gặp dược Vân và khi gặp Vân thì Vân như thế nào, tình hình có gì khả quan không? ??? Bạn cứ Mèo vờn Chuột mãi.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: xuanv338 trong 16 Tháng Hai, 2013, 12:19:11 pm
  CB chào anh quanvietnam. chào các bác. Anh qvn tiếp tục mạch truyện đi chứ! Mọi người đang nóng lòng chờ đợi. Tình yêu của người lính thật đẹp, trong trắng mà lãng mạn. Anh đã nói đúng. Nhật ký thì khác và truyện của sau chiến tranh lại khác phải không anh qvn? Cái ước mơ trong nhật ký của người lính thì nó vời vợi lắm. Nó đẹp như thiên thần vậy.  Anh em mình tâm sự lại chuyện của ngày xưa thôi mà. Chẳng riêng mình đâu anh ạ! Còn rất nhiều mối tình đẹp mà có lý do nào đó bạn mình không thể nói ra hoặc họ muốn nói nhưng khó dãi bày được hết lòng mình. Chỉ có tình yêu thật trong trắng và đời lính thật vô tư thì người CCB già như mình hôm nay mới dám tâm sự với đồng đội mình những chuyện mà chưa bao giờ được kể. Vậy là chuyện của anh em mình là riêng nhưng lại là tiếng nói chung cho nhiều đồng đội khác mà họ đều có chung một cuộc đời và cũng có một tình yêu như thế! Mình tiếp tục anh nhé! CB chúc anh  mạnh khoẻ đầu xuân có những cuộc du xuân cùng gia đình và bạn bè thật vui.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 17 Tháng Hai, 2013, 03:07:16 pm
              Chào bác quanvietnam! Tranphu341 cũng đang đợi Tết qua mau để được nghe về câu chuyện của Bác đây. Mong bác vui Tết mấy ngày nữa rồi tiếp tục bác nhé!

              Đầu xuân, Tranphu341 kính chúc bác luôn mạnh khỏe, luôn có nhiều niềm vui cuộc sống!


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 18 Tháng Hai, 2013, 10:08:51 am

                               CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
5- Đi tìm
            …Dạo ấy, sau khi hiệp định Pari được ký kết. Ngụy quyền Sài Gòn tìm cách phá hoại hiệp định. Không biết ở các mặt trận khác thế nào, còn ở khu vực phía Tây thành cổ Quảng Trị, cả một dẻo ven bờ Nam sông Thạch Hãn từ Tích Tường kéo đến tận Đá Đứng. Quân địch  ráo riết tìm mọi cách đẩy bộ đội ta bật sang phía Bắc sông Thạch Hãn. Mục đích của chúng là cải thiện vị trí chiến lược trong tác chiến, nhưng sâu xa là chúng muốn lấy dòng sông Thạch Hãn làm giới tuyến giữa hai bên như dòng sông Bến Hải vĩ tuyến 17 trước kia. Nếu đạt được ý đồ ấy, chúng sẽ yên tâm hơn, vì quân giải phóng muốn tấn công thì phải vượt qua sông Thạch Hãn. Dòng Thạch Hãn khi ấy sẽ là trở ngại lớn của quân ta và là vật che đỡ cho quân địch.
   Ban tham mưu trung đoàn 95 sư 325 biết được ý đồ ấy của địch nên đã động viên cán bộ chiến sĩ các đơn vị quyết tâm chiến đấu, thực hiện đúng chủ trương: Một tấc không đi, một ly không rời. Nếu có cơ hội cố gắng tìm cách cải thiện vị trí chiến đấu cho tốt hơn.
   Do hai bên cả ta và địch quá hiểu nhau và đọc được những suy nghĩ của nhau, nên cuộc chiến đấu ở dẻo đất ven sông bờ Nam sông Thạch Hãn lúc này trở nên vô cùng ác liệt. Tất cả những cao điểm 25, 29 hay là những điểm cao không tên khác, nằm trong gianh giới tranh chấp giữa ta và địch thường xuyên xảy ra những trận đụng độ. Bộ đội ta kiên cường bám trụ, có ngày bọn địch tổ chức nhiều đợt nống ra để chiếm các “Chốt” của ta, hầu như những đợt nống ra đều bị quân ta bẻ gãy, chúng không sao chiếm được dù chỉ là tấc đất.
   Tất nhiên cuộc chiến đấu ấy bên ta cũng bị tổn thất nặng nề. Có hôm, để chống lại những đợt tấn công của địch vào hệ thống “Chốt” của ta. Trận địa phòng ngự của ta đã xảy ra một trường hợp không thể tin đó là sự thật, nhưng lại là thật. Đó là chuyện một chiến sĩ tên là Hồng, biệt danh là Hồng Còm( có lẽ vì thuộc diện thấp bé nhẹ cân nên mọi người đặt cho biệt danh này) thuộc đơn vị bộ binh của K4 trung đoàn 95 sư 325 giữ “Chốt” ở cao điểm 29. Bắt đầu cuộc tấn công của địch vào lúc sáng sớm, chức vụ mới là tiểu đội trưởng, đến khi cuộc tấn công của địch tạm thời dừng lại, vì trời sắp tối thì đồng chí tiểu đội trưởng lúc ấy đã phải thay thế đại đội trưởng để chỉ huy chiến đấu bảo vệ cao điểm.
  Cũng vào thời gian ấy, bên ta thường tổ chức các cuộc luồn sâu vào lòng địch điều tra tình hình và gây nhiễu loạn. Để phục vụ cho công tác luồn sâu, huyện đội Hải Lăng tỉnh đội Quảng Trị tăng cường cho bộ phận trinh sát C20 của E95 một tổ du kích người vùng này, nhiệm vụ của tổ du kích là dẫn đường cho đơn vị trinh sát luồn sâu. Không biết tổ du kích ấy có bao nhiêu người, nhưng chắc chắn có hai o du kích.
   Hồi đó, tôi và Hoàng Văn Xuân bạn học cùng lớp với tôi, lớp 13 cầu đường, khóa 13 trường đại học Xây Dựng. Chúng tôi cùng nhập ngũ một ngày, cùng vào chiến trường và ở cùng một đơn vị. Chúng tôi ở tiểu đội 4 thuộc trung đội 4 của đại đội C20 E95 F325. Tiểu đội chúng tôi đang cùng với các đơn vị bộ binh K4, K5 của trung đoàn 95 sư 325 bám “Chốt” theo dõi tình hình địch. Hàng ngày chúng tôi có nhiệm vụ cùng với bộ binh bảo vệ “ Chốt”, đồng thời thu thập và phân tích thông tin để báo cáo về sở chỉ huy của trung đoàn những đặc điểm chủ yếu của các cuộc tấn công của địch vào hệ thống “Chốt” của ta như: Hướng tấn công, đơn vị tấn công, loại vũ khí dùng để tấn công và số lần tấn công v.v.
   Tôi với Xuân ở cùng hầm, nói là ở chung một hầm nhưng thực ra rất ít khi chúng tôi được ngủ cùng với nhau một đêm từ tối đến sáng, vì theo phân công thì khi tôi ở trên “Chốt” hay đi trinh sát thì Xuân ở nhà và  khi tôi ở nhà thì Xuân lại lên “Chốt”, cứ thế chúng tôi đổi nhau, cũng nhiều hôm cả hai thằng cùng đi.
   Một hôm, tôi ở trên “Chốt” về muộn, lúc đó vào khoảng 7 rưỡi hay 8 giờ tối gì đó. Tôi thấy Xuân đã súng ống chỉnh tề, quần áo nai nịt gọn ghẽ, ngồi chờ nhóm tôi về để đổi ca. Gặp nhau, tôi và Xuân nói với nhau dăm câu ba điều để hỏi han tình hình, sau đó chúng tôi chia tay nhau. Xuân còn ngoái lại nói với tôi:
    -Cơm của mày tao để ở trong hầm ấy.
   Tôi chui vào hầm, hầm tối đen, đàn muỗi đói trong hầm ào ra, nhiều con lao nhanh quá bay đập cả vào mặt tôi. Theo thói quen, tôi sờ tay vào góc hầm để tìm cái đèn làm bằng ống nhựa vỏ quả đạn pháo sáng, tôi thắp đèn lên. Ở đây, buổi tối trước khi đi ngủ, chúng tôi thường hay thắp đèn để soi xem trong hầm có rắn rết hay cóc nhái gì không, sau đó mới yên tâm chui vào ngủ. Khi bấc đèn bắt lửa, cũng là lúc mùi nhựa cháy bốc lên khét lẹt. Mùi này không ngửi được lâu, nên chúng tôi chỉ thắp đèn để kiểm tra hầm hay làm gì đó, xong là tắt đi ngay. Nếu như thắp đèn lâu, trong hầm ngột ngạt không thở được, khói nhựa bốc lên, mũi hít vào làm thành hai hàng lông mũi kéo dài từ hai lỗ mũi đến tận môi trên, đen kịt. Lúc đầu còn chưa quen nên nhìn nhau cảm thấy buồn cười, nhưng bây giờ nhìn quen rồi cũng thấy bình thường và coi như không có vấn đề gì, đôi khi vô tình còn quyệt ra cả mặt trông nhem nhuốc giống như anh hề.
   Tôi bê anggo cơm ra ngoài hầm ngồi ăn, trời mùa này về buổi tối là se lạnh, cơm nấu bằng gạo của Trung Quốc viện trợ, hạt gạo to hơn cả hạt gạo nếp, rời rông rổng chẳng hạt nào dính hạt nào, đã thế lại nguội ngơ nguội ngắt, trên nắp anggo đã để sẵn một ít ruốc mặn. Đúng là chỉ có cơm gạo hẩm với muối mặn, nhưng vì đói nên tôi ăn rất ngon lành, cuối cùng tôi bê nắp anggo canh rau tầu bay, ngửa cổ uống ừng ực, uống vào đến đâu cơm theo đó chạy vào dạ dày, bụng kêu ùng ục. Kết thúc xong bữa cơm sau một ngày vất vả, tôi tựa lưng vào ụ đất bên cạnh hầm xoa bụng và nghỉ ngơi, ngắm những ngôi sao trên trời.
   Nghĩ ngợi lung tung, chẳng chuyện nào ra chuyện nào và cuối cùng lần nào cũng vậy mọi suy nghĩ đều quay trở về với bố mẹ  anh chị em trong gia đình và Vân. Tất nhiên suy nghĩ về Vân vẫn là nhiều nhất. Từ chuyện này tôi cũng nghĩ: Mình thật sự không công bằng với bố mẹ, người đã có công sinh ra mình, nuôi dưỡng và dậy dỗ từ khi còn tấm bé cho đến bây giờ, công lao của bố mẹ như Trời như Biển kể làm sao cho hết. Vậy mà khi xa nhà, thời gian nghĩ về bố mẹ và gia đình thì ít, nhưng thời gian giành để nghĩ về người yêu thì lại rất nhiều. Không hiểu tại sao? Như vậy không biết có phải mình là đứa con không tốt không?
    Nằm chán, tôi chui vào hầm đi ngủ. Cũng rất lạ, không biết anh em khác thì thế nào? Riêng tôi, cứ chui vào hầm nằm một lúc là tôi thiếp đi. Lúc đầu tôi còn cho rằng: Do bị mệt và thiếu ngủ nên mới dễ ngủ như vậy. Nhưng nghĩ lại cũng không hẳn là như vậy, bởi vì có những thời gian vào mùa mưa, không hoạt động gì mà chỉ có ăn rồi ngủ, ngủ nhiều lắm, ngủ triền miên, ngủ cả ngày, ấy thế mà khi chui vào hầm thì vẫn ngủ được. Sau tôi mới nghĩ ra: Những nguyên nhân nói trên cũng đúng, nhưng có lẽ sâu xa là do sự đòi hỏi tự nhiên của cơ thể. Bởi vì khi chui vào hầm, cơ thể thiếu ô xy để thực hiện sự trao đổi chất, vì vậy bắt buộc mọi bộ phân của cơ thể phải trở về trạng thái làm việc hạn chế hoặc là nghỉ ngơi để giảm tiêu tốn năng lượng, khi đó lượng ô xy trong hầm mới đủ để cung cấp cho cơ thể, chính điều kiện ấy làm cho con người thiếp đi hay gọi là ngủ cưỡng bức, chính vì thế nên khi tỉnh lại rất mệt mỏi.
    -Anh ơi! Anh bộ đội ơi!
   Tiếng người con gái gọi ở nơi nào xa lắm vọng lại. Tôi cố gắng lắng nghe, cũng không biết là tỉnh hay mê. Tôi cố nhấc đầu dậy, nhưng khó khăn lắm cái đầu tôi vẫn không nâng khỏi cái bao gạo dùng để gối đầu.
    -Anh bộ đội ơi! Anh gì ơi! Anh ơi!
   Lần này tiếng người con gái ấy gọi ở gần lắm, gọi to hơn và nhanh hơn. Phản xạ có điều kiện, tôi tỉnh hẳn ngồi nhỏm ngay dậy ở tư thế sẵn sàn chiến đấu, tay lăm lăm khẩu súng AK báng gấp loại dùng trang bị cho lính trinh sát, bật chốt an toàn, đặt ngón tay vào cò súng sẵn sàng xiết cò. Tôi thoáng nghĩ, nếu là địch thì sẽ có hai phương án xảy ra. Một là: Địch ném lựu đạn thủ tiêu, phương án này thì chịu không thể chống đỡ được. Hai là:  Tung hơi độc rồi bắt sống. Tôi chuẩn bị sẵn sàng cho phương án này, ngay lập tức tôi sờ tay vào quả lựu đạn để dành riêng cho mình và chuẩn bị. Tất cả đều sẵn sàng, tôi nằm im nghe động tĩnh, để phán đoán tình hình.
   Hàng loạt những câu hỏi nghi vấn được đặt ra: Tại sao có tiếng con gái? Có phải tiếng của mấy o du kích Quảng Trị không? Hay là tiếng của đồng bào về làng cũ? Biết đâu đấy lại là tiếng của bọn gái Phượng hoàng, giả làm tiếng của người dân hay là tiếng của các o du kích để trà trộn vào hậu cứ của ta?
  Thời điểm này, phía bên quân lực Việt Nam cộng hòa, xuất hiện đội ngũ lính con gái, cũng ăn mặc quần áo rằn ri. Chẳng biết bọn con gái này thuộc loại lính gì, hay là bọn gái làm tiền cũng nên, mà sao mọi người lại gọi bọn chúng là lính Phượng hoàng.  Chiều chiều chúng đứng trên các cao điểm do chúng chiếm giữ, nhìn xuống hệ thống “Chốt” của chúng ta, chỉ chỉ trỏ trỏ và nói với nhau những gì không ai biết. Nhìn cảnh ấy nghĩ cũng hơi khó chịu, nhưng để đảm bảo bí mật nên bên ta đành nghiến răng chịu đựng. Trường hợp nếu không kìm chế mà để lộ hệ thống phòng thủ của ta, thì thiệt hại không thể lường trước được.
   Đã có lần, cách đây hơn tháng. Sau khi ký kết hiệp định Pari được một vài tuần.  Vào một buổi chiều, bọn địch bỗng dưng tấn công vào chốt của chúng ta bằng trọng pháo các loại. Đầu tiên chúng bắn loại pháo nổ, gây sát thương trên mặt đất. Chờ cho bộ đội ta chạy hết vào hầm trú ẩn, khi đó chúng mới dùng loại pháo khoan nổ dưới lòng đất để tấn công vào các hầm trú ẩn của quân ta. Khi bộ đội ta bị loại pháo khoan tấn công vào các hầm, khi đó bắt buộc phải nhô lên mặt đất. Lúc ấy là lúc chúng lại dùng pháo nổ gây sát thương mặt đất để tấn công chúng ta. Lần ấy chúng ta thiệt hại khá nhiều, nguyên nhân sâu xa là do bộ đội ta mất cảnh giác trong khi nói chuyện với địch ở nhà hòa hợp hợp dân tộc, đã để lộ ra yếu điểm hệ thống phòng ngự của ta và ngay lập tức bị bọn địch khai thác triệt để. Kể từ trận ấy, bên ta cũng đã kịp thời rút kinh nghiệm, vì vậy hôm nay có cẩn thận cũng không thừa.
   Lại có tiếng gọi của con gái ở ngoài cửa hầm, lần này tôi vẫn ngồi trong hầm nhưng hỏi vọng ra:
    -Ai đấy?
    -Em đây mà! Em là Phụng du kích Quảng Trị đây.
   Tôi im lặng để nghe ngóng.
(Còn nữa).


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: vanthang341ht trong 18 Tháng Hai, 2013, 06:20:38 pm
     Tôi đọc hết một đoạn khá dài mà vẫn không thấy bóng dáng Vân đâu cả. Sao bạn cứ đi tìm tận đẩu tận đâu, không đến đúng vị trí Vân đang ở nhỉ? ;D ;D


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: xuanv338 trong 19 Tháng Hai, 2013, 10:41:14 am
   CB chào anh quanvietnam. Chào bác vanthang341 và chào tất cả các bác. Đầu xuân CB chúc cho bác quanvietnam sức khoẻ dồi dào để ngược về ký ức. Mảnh đất Quảng Trị nơi anh có bao kỷ niệm của một thời hoa lửa. Bác vanthang cứ vẫn hay nóng ruột thay mọi người nữa về những khúc tình còn đang bí ẩn ở phía trước của người viết truyện. Anh qvn để em dẹp trật tự giúp nhé! Bác vanthang bình tĩnh anh qvn sẽ tìm chị Vân vào hồi sau.mà có thể còn ở hồi sau nữa. Anh còn đang lo cứu cô Phụng du kích của Quảng Trị cơ mà. Những chuyện của anh có cả máu lửa và cả hoa thật là hay và lôi cuốn người đọc. CB chúc anh quanvietnam mạnh khoẻ kể tiếp chuyện về việc anh cứu cô Phụng thế nào nhé! Và còn chuyện tiếp theo mà bác vanthang341 và người đọc trên mọi miền cùng đang nóng lòng trong đó có cả CB thật đấy. CB chào anh, chào mọi người.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 19 Tháng Hai, 2013, 11:00:13 am
           Chào bác quanvietnam! Chào các bác! Tranphu341 chúc mừng bác chủ đã khai xuân, mở hàng đón khách! Khách thì đang đợi ngày Tết qua nhanh để được tận hưởng cái cảnh vui gặp mặt của bác. Thế mà bác lại bẻ lái cho "Tàu chạy Ngược" vào với co Phụng, Nữ du kích Quảng Trị mới ác chứ hi hi.. ;D ;D ;D

          Tranphu341 chúc mừng bác. Chuyện của bác rất hay, đọc rất hấp dẫn. Nói thế thôi chứ bác cứ mở rộng bao nhiêu, càng viết dài, kể dài bao nhiêu thì càng vui càng thích mà.

                              Đầu xuân, Tranphu341 kính chúc bác luôn có nhiều sức khỏe cùng nhiều niềm vui cuộc sống!


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 23 Tháng Hai, 2013, 10:13:55 am

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
5- Đi tìm
          Du kích Quảng Trị với chúng tôi là chỗ thân quen, đã nhiều  lần chúng tôi phối hợp với nhau đi trinh sát địa hình, đi luồn sâu. Nhóm du kích này vừa mới vào thay cho nhóm trước nên chúng tôi chưa kịp quen nhau, tôi chỉ nghe mang máng là có mấy người nam và 2 người nữ, còn tên tuổi cụ thể thế nào thì tôi hoàn toàn không biết. Bây giờ nghe o du kích giới thiệu em tên là Phụng thì cũng chỉ là để nghe thôi chứ đã biết Phụng là thế nào đâu, nói là Phụng chứ nói là gì đi nữa cũng giống nhau.
   Một vài phút trôi qua, không có chuyện gì xảy ra. Tôi quyết định chui ra khỏi hầm. Tất nhiên, giữa cái sống và cái chết đã dạy tôi tiếp tục phải cảnh giác. Hầm của chúng tôi đào theo kiểu vuông thước thợ, lối lên xuống hầm vuông góc với gian hầm, ngày mới vào chiến trường chúng tôi được hướng dẫn đào hầm kiểu này. Tôi nép người vào vách hầm chỗ chuyển hướng vuông góc, cố quan sát bậc lên xuống của của hầm. Ngoài trời tối đen, tôi nhìn hắt lên nền trời thấy có một người đen xì ngồi thù lù ngay bậc lên xuống hầm.
   Yên trí rồi, kiểu ngồi như thế này chắc chắn là người của ta, nếu là bọn địch thì không bao giờ chúng nó ngồi lộ liễu như vậy. Tôi đánh động để đối phương biết mình đang chuẩn bị ra, đồng thời cũng có ý kéo dài thời gian xem có chuyện gì xảy ra để liệu bề đối phó.
   Tôi chui ra khỏi hầm, khẩu AK vẫn được tôi ôm trước ngực ở tư thế sẵn sàng nhả đạn. Ngoài trời tối đen như mực, bóng người ngồi ban nãy bây giờ cũng hòa vào bóng tối mông lung. Chúng tôi nhìn nhau qua tưởng tượng, lúc này ý thức cảnh giác của tôi không ở cao trào nữa, tôi hỏi:
    -Có chuyện gì thế em?
   O du kích có vẻ hơi ngập ngừng, nói lắp bắp điều gì đấy bằng tiếng địa phương nghe không rõ, mãi sau tôi mới luận ra được những từ:
    -Chào anh! Em tên là Phụng, du kích Quảng Trị. Em muốn các anh cho em ngủ nhờ tối nay?
   Tôi hơi bất ngờ và ngạc nhiên, không kịp kìm chế nên bật luôn:
    -Ngủ nhờ? Sao lại ngủ nhờ?
    -Bên em các anh ấy xuống Đá Đứng, phối hợp với tiểu đoàn 5. Còn o Bê thì về cứ lấy thuốc cấp cứu. Ở đây chỉ còn mình em, ở một mình em sợ, nên em…
    Bây giờ, tôi tin cô gái này là cô du kích Quảng Trị, thấy cô cứ ngần ngừ, có lẽ vì ngại nhắc lại những từ cuối cùng. Đoán được ý cô, tôi vội đỡ lời không để cô du kích phải rơi vào tình thế khó nói:
    -Được rồi, để tôi xem. Nhưng mà bây giờ chỉ có mình tôi ở trong hầm, còn một anh nữa hiện đang ở trên “Chốt” chưa về. Nếu cô không ngại thì cô cứ vào hầm ngủ trước đi, tôi chờ anh bạn về.
    Trời tối đen, tôi đứng đối diện, chỉ cách cô du kích khoảng hơn một mét mà không nhìn rõ mặt nhau. Cô du kích có vẻ băn khoăn hay đang nghĩ gì mà không trả lời. Tôi nghĩ: Hoàn cảnh này chắc cô đồng ý thôi, nhưng chưa biết nói thế nào cho phải, chả lẽ lại nói: Để em ngồi chờ cùng anh, khi nào anh kia về thì đi ngủ. Hay là: Thôi để em về hầm của em. Để gỡ thế bí cho cô du kích, tôi quay lại chui vào trong hầm, thắp đèn lên.
   Bấc đèn bắt lửa cháy nổ tý tách trong góc hầm, căn hầm bừng sáng.  Khói đen cứ cuồn cuộn bốc lên từ đầu ngọn lửa, mùi nhựa cháy khét lẹt. Cũng nhờ mùi nhựa cháy mà đàn muỗi cũng vội vã chui ra khỏi hầm, mùi ẩm mốc của căn hầm cũng vơi đi phần nào. Tôi dọn dẹp mấy thứ linh tinh trong hầm cho gọn gàng rồi gọi o du kích:
    -Vào ngủ đi em!
   Cô du kích vẫn có vẻ ngại ngùng, tôi lại dục:
    -Tôi đã chuẩn bị xong chỗ ngủ cho em rồi, vào đi!
   Căn hầm này không rõ đơn vị nào đào và đào từ khi nào, ở khu vực này sẵn tre nên toàn bộ khung chữ A đều bằng tre. Đúng ra, tre được chôn ở dưới đất thì phải tươi, đằng này lại mốc thếch có chỗ đã bị mục nát, đất đắp hầm thi thoảng lại chảy xuống tấm tăng trải ở nền hầm. Có lẽ thời gian đào hầm này cũng đã lâu rồi, hơn nữa do bị khô ẩm nên tre nhanh bị mủn, cũng có thể do vội vàng nên đẵn phải cây tre non. Diện tích căn hầm độ chừng gần 2m2, bề rộng vào khoảng 1,1-1,2m, chiều dài độ 1,6-1,7m. Bề rộng này nằm hai người là thoải mái, nằm ba người thì phải trở đầu đuôi, người nằm giữa phải vào sau cùng, chân đưa vào trước còn đầu ở ngoài phía cửa hầm.
   Chúng tôi ngồi đối diện nhau, vì hầm làm kiểu chữ A, để ngồi được hai người là phải ngồi dọc theo nóc hầm, nếu ngồi chệch ra thì đầu lúc nào cũng phải cúi xuống rất mỏi và khó chịu. Tôi không muốn kéo dài thời gian này nên tôi vừa nói, vừa chui ra khỏi hầm:
    -Em cứ ngủ trước đi, anh chờ anh Xuân về còn có chút việc. Em chuẩn bị nhanh rồi tắt đèn đi ngủ kẻo bị ngộ độc.
   Tôi ra khỏi hầm, ngồi bên ụ đất. Một lát sau, đèn trong hầm tắt. Tôi nghĩ: Thế là ổn rồi, nhưng không biết mình làm thế là đúng hay sai? Vào hoàn cảnh này mình cũng chẳng biết phải giải quyết thế nào?
 Nghĩ ngợi lung tung đau hết cả đầu. Tôi tặc lưỡi: Thôi đúng hay sai cũng kệ nó, họ là con gái đã phải nhờ mình rồi chả lẽ lại từ chối, nếu từ chối thì họ đi đâu? Đã không từ chối được thì cũng không nên lục vấn tra xét làm gì để người ta khó nói.
   Tôi ngả mình tựa vào ụ đất, tháo bao xe ra để bên cạnh, kéo chiếc mũ tai bèo ở sau lưng để gối đầu, thực ra là che không cho cỏ dại cắm vào đầu vào cổ, khẩu AK vẫn để ngang bụng.
   Thời gian này có lẽ là cuối tháng âm lịch, đang là mùa khô, trời không có trăng mà chỉ có những ông sao ở xa lắm, nền trời xanh đen. Thi thoảng có những đám mây trắng bay lang thang, che lấp những vì sao trên trời, những cơn gió se lạnh ào qua, xua những đám mây bay đi, để lộ những vì sao lấp lánh trên nền trời cao vời vợi.
   Phụng, cô du kích Quảng Trị. Ban nãy, trong ánh lửa bập bùng, nhìn mặt mũi, đầu tóc không được chăm sóc chải chuốt nên có vẻ đã cứng tuổi, nhưng nghe giọng nói thì lại rất trẻ, tôi đoán có lẽ chỉ độ 16-17 tuổi, cùng lắm là 18, tuổi này cùng lứa với em gái tôi ở quê. Nếu không có chiến tranh, thì chắc là Phụng đang học trường này trường nọ, hoặc là đã đi làm cho sở nọ sở kia, làm gì có chuyện đi làm du kích.  Em gái tôi, khi tôi nhập ngũ nó đang học cấp 3, bây giờ chẳng biết nó làm gì hay đã đi bộ đội hoặc thanh niên xung phong gì đó, chứ nó cũng chẳng chịu ở nhà. Nhìn Phụng rồi nghĩ đến em mình, nghĩ đến chiến tranh mà tội nghiệp cho chị em phụ nữ, trong đó có Vân và cả mối tình dang dở mà Vân đang mang theo.
   Lạnh quá, tôi chui xuống hầm, ngồi ở bậc lên xuống. Hơi nóng của Phụng từ trong hầm tỏa ra, làm tôi có vẻ ấm hơn. Nhưng chỉ được phần trước, còn phía sau vẫn lạnh toát. Hai đùi tôi kẹp khẩu AK vào  giữa, kéo chiếc mũ tai bèo lên che đầu rồi gục đầu xuống hai đầu gối cho đỡ lạnh. Vô tình, má tôi chạm nhẹ vào nòng súng lạnh ngắt, làm tôi hơi giật mình. Ngồi ôm súng, ngửi mùi khét của dầu mỡ, mùi khét của thuốc súng còn vương ở đầu nòng, hít hít cái mùi tanh tanh của thép nòng súng mà nghĩ về cuộc chiến tranh, tự nhiên tôi rùng mình…
    -Anh vào nằm một chút cho đỡ mỏi, để em thay gác cho.
   Tiếng Phụng nói từ trong hầm vọng ra. Tôi im lặng, không trả lời.
    Ở đây gần với hệ thống “Chốt” của bộ binh của K4, các đơn vị bộ binh cũng ở quanh đây và các đơn vị trực thuộc của E95 buổi đêm thường xuyên qua lại khu vực này, nên chúng tôi coi là vùng an toàn  không mấy khi tổ chức gác. Hơn nữa nhóm của chúng tôi ở lẫn với một số đơn vị khác, nên để họ gác luôn.
   Phụng lại dục tôi thêm lần nữa, tôi vẫn không trả lời. Phụng bò ra cửa hầm lấy tay lay lay vào vai tôi nói:
    -Để em đổi cho, anh vào nghỉ một lát cho đỡ mệt.
    -Em vẫn chưa ngủ à?
    -Có. Em cũng chợp mắt được một lát. Chỉ cần ngủ thế là tỉnh táo rồi,  bây giờ đến lượt anh, Anh vào đi!
   Phụng vừa nói vừa kéo tay tôi và lách người ra ngoài cửa hầm. Tôi chưa kịp phản ứng gì thì hơi thở nóng hổi và một phần cơ thể của Phụng đã lướt qua tôi rất nhanh, nhanh đến nỗi tôi không nhận ra chỗ nào đã chạm vào tôi.
   Như thế cũng được, tôi nghĩ cứ nằm nghỉ một chút sau đó sẽ thay để cho Phụng vào ngủ là hợp lý, như vậy là được cả hai. Khi Xuân về thấy thế cũng không sợ mang tiếng. Tất nhiên đấy là lo xa, còn thực tế chắc Xuân cũng chẳng thèm quan tâm đến chuyện này.
    Trong hầm có hơi người nên rất ấm, tôi dựng khẩu AK vào vách hầm dưới chân, rồi nằm bò ra với ruột tượng gạo để gối đầu và duỗi thẳng cẳng. Chẳng biết tôi ngủ từ lúc nào, có lẽ tôi ngủ ngay từ lúc người còn chưa kịp ngả xuống nền hầm.
   Đang say sưa, tôi thấy vật gì cưng cứng bên hông. Lấy tay sờ, tôi đoán  là khẩu súng, cũng lúc ấy tôi phát hiện thấy nhịp thở đều đều, tôi lơ mơ nghĩ là Xuân. Định thần, tôi sờ lại khẩu súng bên người. Súng này, không phải của Xuân, mà Xuân không bao giờ lại để súng như thế này. Tôi thoáng nghĩ hay là Phụng? Thôi đúng rồi, tiếng thở này không phải là của Xuân, mà có thể là tiếng thở của Phụng. Có thể là Phụng đã chui vào hầm ngủ mà tôi không biết? Tôi vờ quờ tay lên đầu để xác định xem mái tóc là của nam hay nữ, tay tôi chạm vào mái tóc dầy và cứng, đúng rồi tóc của phụ nữ. Bây giờ tôi khẳng định: Người nằm bên tôi lúc này là Phụng. Tôi định ngồi dậy để ra gác cho Phụng ngủ, nhưng hình như hai đầu gối chân tôi có cái gì đè lên nặng quá. Chết rồi, Phụng gác chân lên chân tôi, một tay còn quàng vào bụng tôi. Trời! Sao tôi ngủ say đến nỗi không biết gì cơ chứ?
    Hoảng quá, tôi định hất tay chân của Phụng ra để ngồi dậy, nhưng chẳng hiểu sao tôi cứ để nguyên như vậy và nằm im. Lúc này trống ngực tôi đập thình thình, tâm trạng khó tả, phần thì ngượng ngùng, phần thì  sợ Xuân về bắt gặp cảnh này thì chẳng biết ăn nói thế nào. Biết thế, nhưng tôi vẫn nằm im tư thế cũ để cho Phụng ngủ, trong tôi lúc này có cái gì đấy nó rạo rực khó nói, tôi không muốn mất đi cảm giác này… Tôi nghĩ: Cứ để thế, nếu nhóm của Xuân về thì tôi sẽ nghe thấy bước chân, lúc đó ra cửa hầm ngồi cũng kịp. Trường hợp quá bất ngờ, không phát hiện được nhóm của Xuân về, nếu Xuân thấy chúng tôi ở trong hầm thì cũng là chuyện bình thường bởi vì thời buổi chiến tranh biết làm sao được. Mà nếu có gì đi nữa thì Xuân với tôi là bạn cùng lớp ai lại đi tố nhau… Bây giờ tôi mà gỡ chân và tay của Phụng ra, Phụng tỉnh ngủ và sẽ ngượng lắm.
    Đấy là tôi nghĩ thế, còn Phụng thì không biết thế nào? Chỉ có Trời mới biết là hữu ý hay vô tình. Có thể là vô tình, nhưng cũng có thể là hữu ý thì sao? Giống như chuyện có ai đó đã kể cho tôi nghe, nhân khi chúng tôi hành quân đi qua một đơn vị bộ đội nữ. Không biết độ chính xác và mức độ tin cậy của câu chuyện như thế nào thì tôi không biết, nhưng đại loại là:
  Trong một khu rừng già ở đại ngàn Trường Sơn, có một kho nhu yếu phẩm của bộ đội ta. Kho này không biết có từ bao giờ, kho do ba bộ đội gái trông coi. Ưu điểm của kho này là gần đường giao liên, nên lâu lâu cũng có một vài đơn vị bộ đội qua lại rồi đi ngay. Đương nhiên việc trông coi và bảo quản kho tàng, đối với ba cô bộ đội gái là đơn giản, nếu không muốn nói là quá chỉn chu và mẫn cán, ngày tháng cứ thế qua đi. Những tưởng sẽ không có chuyện gì xảy ra, nhưng chẳng ai ngờ được có một điều mà các cô gái ấy không thể vượt qua được, đó là nỗi cô đơn và sự khát khao được làm mẹ. Thế rồi, cái gì đến nó đã đến. Sự việc không hiểu bắt đầu như thế nào và từ đâu, nhưng kết quả là các cô có một đứa con trai. Tất nhiên, chuyện này là hy hữu, nhưng không phải là không xẩy ra.
   Những chuyện đại loại như thế này, không biết kết thúc thế nào? Nhưng tôi đoán là không thể nào có hậu, để đạt được mục đích chắc chắn phải trải qua muôn vàn khó khăn và gian khổ, có khi phải đánh đổi cả máu và nước mắt. Còn lại những chuyện cùng chủ đề này, khi anh em chúng tôi kể cho nhau nghe, thường là có kết cục buồn và chốt lại câu chuyện bao giờ cũng có câu: Chỉ tại dính dáng đến chuyện trai gái và do cố phấn đấu để biết mùi đời…
    Tôi nghĩ đến Vân và quyết tâm nhỏm dậy ra khỏi hầm. Sương đêm xuống nhiều, không khí lành lạnh làm tôi khoan khoái, tôi vươn vai hít thở thật sâu, để quên đi những suy nghĩ thiển cận nhỏ nhen và để nhớ mãi kỷ niệm này.
  Theo thói quen, tôi đeo bao xe vào rồi ôm súng vào lòng, ngồi bên ụ đất ngoài cửa hầm chờ trời sáng.
(Còn nữa).

   
   


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: vanthang341ht trong 23 Tháng Hai, 2013, 02:09:22 pm
         Chào bạn quanvietnam.
      
    Cuộc chiến đấu lúc đó đã mang đến cho bạn một tình huống đầy kỷ niệm đẹp. Bạn đã xử sự đúng. Nếu tôi, tôi cũng xử sự như bạn mặc dù ở thời điểm đó tôi đã có vợ.
    Tôi cho rằng cô Phụng như bạn nói chỉ ở tuổi 16-18, làm du kích, trong khi cuộc chiến đang khốc liệt, ở cái thời kỷ luật sắt(!) đâu dám có những hành động cố tình như vậy cơ chứ? ;D ??? ???


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 05 Tháng Ba, 2013, 10:57:20 am

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
5- Đi tìm
          Đoàn tầu phanh, giật đột ngột, các toa xô vào nhau phát ra những âm thanh rầm rầm nghe đến rợn người, tiếng động và lực xô mạnh làm  mọi người trong toa tưởng như sắp có tai họa khủng khiếp chuẩn bị giáng xuống. Trong toa, mọi người hốt hoảng cố gắng bám vội vào những cái gì có thể bám được để không bị ngã.
   Tôi ngồi ngược với chiều chuyển động của đoàn tầu, hai chân để dưới sàn toa, hai tay ôm chiếc ba lô trước ngực, nên khi đoàn tầu phanh đột ngột, tôi hoàn toàn chủ động chống đỡ. Chẳng những tôi không bị bật khỏi chỗ ngồi như mọi người, mà tôi còn đỡ được ông bạn đường ngồi bên cạnh khỏi bị ngã bổ xuống sàn tầu.
   Ông bạn đường, chẳng cám ơn cám huệ gì tôi mà còn tuôn xối xả những câu chửi đổng:
    -Đ… mẹ thằng lái tầu, lái như c…tao. Suýt nữa làm bố mày ngã cắm mặt xuống sàn tầu.
   Cả toa tầu huyên náo, nhiều người xýt xoa kêu đau. Được một lúc sau, mọi người lục tục ổn định lại chỗ ngồi. Đoàn tầu vẫn thờ ơ, lăn bánh đều đều trên đường ray, ngoài cửa sổ trời cũng đã sáng rõ. Trong toa, mọi người hết cả buồn ngủ. Hai người đàn bà, ngồi đối diện ghế với tôi hỏi nhau:
    -Đây là ga nào hở bà?
    -Nào tôi có biết. Bà hỏi mấy ông kia có thể ông ông ấy biết, tôi mới đi lần đầu nên chẳng biết ga nào vào ga nào.
   Ông bạn đường của tôi sau khi ra ngoài toa bây giờ quay trở lại, bắt chuyện ngay với tôi:
    -Ông phục viên hay chuyển ngành?
    -Tôi chuyển ngành.
    -Tôi cũng thế! Trước ông ở đơn vị nào?
    -Trước kia tôi là sinh viên, bây giờ chuyển ngành về đi học.
    -Không, là tôi hỏi ông: Trước kia ông ở đơn vị quân đội nào?
    -À! Tôi ở E 95 F325, năm 1972 chiến đấu ở Quảng Trị.
    -Trung đoàn ông cũng chiến đấu ở chiến dịch giải phóng Buôn Ma Thuột nữa có đúng không? Tôi là trinh sát của sư đoàn 316 đây, hồi đó chúng tôi cũng thường phối hợp trinh sát của trung đoàn 95, khi đó còn gọi là đoàn Tân Tiến. Lúc ấy ông có tham gia chiến dịch này không?
    -Có! Tôi là trinh sát của E95 đây.
   Nghe tôi nói thế, hai tay ông tìm hai tay tôi, bốn tay chúng tôi nắm chặt lấy nhau. Ông bạn xúc động quá bóp tay tôi rất chặt. Còn tôi, không biết có phải do xúc động hay là do bị bóp chặt quá, mà chảy cả nước mắt. Ông nhìn tôi chia xẻ:
    -Vậy là tôi với ông cùng đánh trận ấy. Ác liệt thế mà anh em mình vẫn còn sống, thật là quá may mắn ông nhỉ?
    -Ừ! Tôi cũng nghĩ thế! Đúng là bom đạn tránh người, chứ người sao tránh được bom đạn. Sống để trở về, thật là một điều không thể tưởng tượng được.
   Câu chuyện giữa tôi với ông bạn đường kéo hết từ chuyện này sang chuyện khác, hai thằng lính nói chuyện với nhau có vẻ hợp. Những câu chuyện đang ăn nhập thì bỗng nhiên ông chững lại, nhìn đăm đăm vào dãy đồi trùng điệp phía xa xa và lặng đi không nói.
   Chắc ông đang có tâm sự gì? Nhìn ông cũng chững chạc, đầu tóc gọn gàng, năm nay ông khoảng ngoài 30 tuổi, ông mặc bộ quân phục đã cũ ra ngoài, phía trong là chiếc áo len cổ lọ mầu xanh. Trang phục mầu xanh, làm cho da dẻ của người lính trở về sau chiến tranh lại càng xanh hơn. Chiếc áo len hình như cũng đã cũ lắm, cái cổ lọ đã bị dão ra hơi rộng so với cổ, vì thế có thể nhìn thấy được cả những đường gân nổi ngoằn nghèo xung quanh cái cổ gày guộc của ông.
  Thấy ông đăm chiêu suy nghĩ, tôi cũng ngồi im không nói gì, nhưng thật ra trong đầu tôi có nhiều câu muốn hỏi để xem người lính từ chiến trường trở về bây giờ họ sống ra sao, gia đình vợ con thế nào? Tình hình kinh tế có khó khăn lắm không? Làm gì để nuôi vợ nuôi con? V.v.
   Cả hai chúng tôi chìm vào im lặng, tôi không biết ông nghĩ gì? Còn tôi đang nghĩ về ông, về những người lính từ chiến trận trở về đang gồng mình bươn trải với cuộc sống. Đột nhiên ông hỏi tôi:
    -Ông ra quân được lâu chưa?
    -Cũng được gần ba tháng rồi.
    -Thế ông an dưỡng ở đâu?
    -Tôi không an dưỡng, mà trở lại trường đi học luôn để kịp mùa khai giảng.
    -Thế cũng hay. Còn tôi, sau khi giải phóng Buôn Ma Thuột, tôi bị thương và được chuyển ra Bắc, sau đó đưa về đoàn an dưỡng. Tôi an dưỡng được khoảng 6 tháng, nhưng chán quá tôi xin về nhà. Ở nhà được vài tháng, buồn quá không chịu nổi, tôi xin đi làm cho nó khuây khỏa.
    -Bây giờ anh làm ở đâu? Làm nghề gì?
    -Nghề ngỗng gì đâu, định xin vào làm cái chân loong toong ở phòng tổ chức hành chính, thì họ bảo là không có bằng cấp. Xin làm bảo vệ,  họ lại chê sức khỏe yếu, sức khỏe thì đã yếu mà chức vụ thì lại cao, nếu nhận cơ quan lại phải trả lương cao nên họ không nhận. Khó khăn lắm ông bác mới thuyết phục để họ nhận, nhưng họ vẫn nói là để thử việc, nếu thời gian này mà hay ốm đau thì họ cũng không nhận.
   Tôi nhìn ông, ông nhìn tôi. Hai thằng lính trở về sau chiến tranh, mỗi thằng một tâm trạng. Ông quay đi, nhìn ra ngoài cửa sổ, mắt ông như dại đi đăm đắm nhìn vào cõi xa xăm ở tận phía chân trời. Ông thở dài, vẻ chán trường rồi nói với tôi:
    -Nhục lắm ông ạ! Ông có điều kiện thì hãy cố mà học, đừng như tôi rồi khổ cả đời.
   Tôi còn đang ngơ ngác chưa hiểu ông bạn đường định nói gì, thì ông lại tiếp tục:
    -Học xong lớp 7, ở nhà đi theo đít trâu. Chiến tranh xảy ra, nghĩ chán cảnh theo đít trâu nên tôi tình nguyện xin đi bộ đội. Khổ nỗi, lần nào cũng bị chê là không đủ sức khỏe. Mãi đến năm 1970, chẳng biết thế nào tôi lại trúng nghĩa vụ quân sự và được gọi nhập ngũ. Trong thời gian ở quân đội, tôi được đi học trường văn hóa của quân khu và được đào tạo trở thành hạ sĩ quan. Đến cuối năm 1971 thì tôi đi chiến trường, giữa tháng 3 năm 1975 bị thương ra Bắc, tháng 12 năm 1975 thì chuyển ngành. Khi rời khỏi quân đội, chức vụ tôi là tiểu đội trưởng, quân hàm thượng sĩ. Cũng may mới là thượng sĩ, nếu là thiếu úy hay trung úy thì chắc là họ không nhận vì lương cao.
   Ngẫm nghĩ một lát, rồi ông lại tiếp tục, giọng đầy chua chát:
    -Càng nghĩ càng tức, lúc ấy tôi chỉ muốn xé nát tất cả giấy tờ rồi về theo đít con trâu, tuy gian khổ vất vả thật nhưng cung cách đi xin việc như thế này không chịu được.
   Tôi quan sát thấy vết sẹo trên má ông gần cái chỗ thường có lúm đồng tiền, co dúm lại và dật dật. Có lẽ vết sẹo này là hậu quả của mảnh cối cá nhân M79  đây, tôi đoán vậy. Ông uất ức nói:
   -Ông cứ thử nghĩ xem có phải là quá vô lý không? Ai đời, những người chấp nhận hy sinh, chấp nhận gian khổ vì nền độc lập tự do của Tổ Quốc để đi kháng chiến, giờ hòa bình lập lại, đi xin việc làm lại đòi hỏi bằng cấp, hỏi họ lấy đâu ra bằng cấp. Đã thế họ cũng chỉ xin làm bảo vệ cơ quan, mà vẫn còn bị răn đe: Nếu mà ốm thì không nhận. Thật là chua chát.
   Nói đến đây, ông quay lại nhìn tôi để dò xét thái độ. Tôi vẫn lặng im chăm chú lắng nghe. Ông lại tiếp tục, lúc này giọng ông có vẻ đã lắng xuống:
    -Nói thật với ông chứ: Tôi sợ bố tôi buồn, và không vì ông bác ruột, đã mất bao nhiêu công lao và tiền của đi xin việc cho tôi. Cộng với việc tôi đang chán ngấy không muốn về cái vùng quê đã đói nghèo lạc hậu, lại còn biết bao nhiêu chuyện ngang tai chướng mắt, do một lũ quan tham của HTX đang nổi lên, gây ra để ép dân lành. Chính vì những chuyện như vậy, thì tôi mới cố gắng nhẫn nhục chịu đựng cảnh đi xin việc như thế này. Nếu không có những việc ấy, thân tôi như thế này làm gì mà chả sống, cứ gì phải đi làm bảo vệ.
   Tôi cắt ngang lời ông:
    -Anh được mấy cháu rồi? Chị ở nhà làm gì?
   Như động đến nỗi đau, dường như lúc nào cũng thường trực trong ông. Ông không nhìn tôi, rồi ngước lên nhìn lên trần toa tầu, vươn cái cổ dài ngoẵng, thở dài não ruột. Và kể cho tôi nghe:
    -Nghĩ mà ngán ngẩm ông ạ! Anh trai tôi lấy vợ, sinh nở đến 5 lần mà vẫn toàn là con gái. Thấy tình hình ấy, bố mẹ tôi ráo riết dục tôi lấy vợ. Tôi lấy vợ từ năm 1970, lấy nhau được một thời gian thì tôi lên đường đi chiến đấu. Do thời gian chúng tôi ở với nhau quá ngắn ngủi nên cũng chưa kịp có con. Khi tôi về trại an dưỡng, thi thoảng tôi cũng về với vợ, nhưng vì sức khỏe cũng không được tốt, nên chẳng ăn thua gì. Bây giờ vợ tôi làm kế toán HTX nông nghiệp, cô ấy là cháu gọi ông chủ tịch xã bằng bác, nhưng là bác bên đằng ngoại của cô ấy. Có lẽ do quan hệ như vậy nên vợ tôi mới được bác nâng đỡ vào cái chân kế toán cho nó nhàn, không phải chân lấm tay bùn. Nhưng về đường con cái thì còn gian truân lắm, vợ tôi cũng có vẻ buồn.
   Nghỉ một lát, ông lại kể tiếp:
    -Hồi còn ở nhà, chúng tôi chưa biết nhau, vì cô ấy còn bé với lại cô ấy ở xóm khác, tôi ở xóm khác. Mãi đến khi, tôi về nghỉ tranh thủ và vào thăm thằng bạn thì gặp cô ấy. Thế là chúng tôi biết nhau, lại được thằng bạn vun vào nên chúng tôi yêu nhau. Trước khi đi chiến đấu, tôi định không cưới, vì sợ cái nọ cái kia. Nhưng trước sức ép từ nhiều phía, có lẽ nhiều nhất là từ bố mẹ tôi, nên tôi mới cưới. Hy vọng lớn nhất của bố mẹ tôi là sinh cho ông bà được một đứa cháu trai để nối dõi tông đường, còn cháu nội, cháu ngoại thì bà đã có mấy đứa. Bây giờ lưng mẹ tôi đã còng lắm rồi, nhưng vẫn thèm khát một đứa cháu nội là cháu trai. Nghĩ mà thương cho bà ấy…
   Ông dừng lại rít một hơi thuốc thật dài, điếu thuốc lá trên môi ông cháy đỏ rực nhọn như mũi tên, tàn thuốc dài ngoẵng nhưng vẫn chưa rơi. Sau khi tận hưởng cái khoái cảm của khói thuốc, ông lại trân trân nhìn vào điếu thuốc đang cầm trên tay và nói:
    -Anh em mình thiệt thòi nhiều quá ông ạ! Có những cái, tưởng như không bao giờ mất, nhưng lại bị mất, thế mới đau. Mà mất ở những chỗ không quen biết thì cũng cam lòng. Đằng này lại mất vì chính tay những người làng người xóm, những người đáng tuổi cha chú của mình lấy mất. Đau quá! Nhưng vẫn phải ngậm bồ hòn làm ngọt.
   Tôi còn đang suy nghĩ về hoàn cảnh gia đình nhà ông, thì ông lại đưa tôi vào một câu chuyện khác. Nội dung câu chuyện mà ông sắp kể, chắc chắn có dính dáng đến những anh em cựu chiến binh, nên ông mới nói đến cụm từ: “Anh em mình”. Ông bắt đầu câu chuyện bằng giọng buồn buồn:
   -Tôi có thằng bạn cùng học thời phổ thông. Nó đi bộ đội trước tôi một năm, bây giờ nó phục viên ở nhà, ngày ngày tha thẩn với đồng ruộng, vườn rau ao cá, con lợn con gà. Gia đình bạn bè thấy nó buồn, khuyên nó lấy vợ đi, nhưng nó vẫn chưa chịu. Hình như nó còn nặng tình với cô người yêu cũ của nó, mà cũng có thể nó bị mặc cảm nên vẫn chưa chịu lấy vợ. Nghĩ mà thương cho nó. Trước khi đi bộ đội trông khỏe mạnh đẹp trai, bây giờ về phục viên chỉ còn có một tay và gần hai chân, với  nhiều mảnh đạn còn găm trong người. Đã thân tàn ma dại như vậy, lại còn bị đánh ghen nữa mới khổ chứ.
   Nói đến đây ông nghẹn ngào:
    -Thật là Trời không có mắt. Nghe nó kể: Cô người yêu cũ của nó bị bố mẹ ép lấy chồng ở làng bên, lấy một thằng khèo chân, nhưng nó là con của gia đình có thế lực từ HTX lên đến tận cả huyện cả tỉnh gì nữa cơ. Nhà nó giầu có, nên có nhiều vây cánh, vì thế làng trên xóm dưới đều phải kính nể mà không dám trêu trọc gì vào nhà này. Gia đình cô người yêu cũ của nó, cũng không phải là ngoại lệ, nên chẳng còn cách nào khác là phải gả con cho họ. Cô người yêu của nó tuy đã đi lấy chồng, nhưng mỗi lần cô đi chợ, tiện đường cô ghé qua để thăm mẹ nó. Khi nó còn ở trong chiến trường thì không sao, từ ngày nó phục viên về nhà mới có chuyện. Đã nhiều lần thằng chồng cô này, sai đàn em rình mò theo dõi, cứ mỗi lần như vậy là cô này chấp nhận những trận đòn nhừ tử. Mặt mũi thâm tím, không còn giám đi đâu, lúc nào cũng trùm tấm khăn vuông che kín mặt. Còn ông bạn tôi, nó thương tình là thương binh nên nó chỉ chùm bao tải và lẳng xuống ao. Câu chuyện ấy làng trên xóm dưới ai cũng biết, nhưng vì không có bằng chứng nên chẳng ai làm gì được. Nghe bạn tôi nói thế, tôi căm giận quá, tôi xui nó:
    -Sao không gọi anh em đồng đội về cho nó một trận, đánh chết cha nó đi chứ sợ gì?
    Ông bạn càng kể càng phẫn uất, ông lại càng kể nhiều. Nhưng chẳng hiểu tại sao? Từ lúc ông nói: “Cô này bị những trận đòn nhừ tử… mặt mũi thâm tím…” Từ đấy tôi nghe câu được câu chăng, câu chuyện không thể nào lọt vào tai tôi được nữa. Tôi cảm thấy lòng mình bâng khuâng.
(Còn nũa)
   

   



Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: vanthang341ht trong 05 Tháng Ba, 2013, 09:01:15 pm

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
5- Đi tìm
     .....
    Ông bạn càng kể càng phẫn uất, ông lại càng kể nhiều. Nhưng chẳng hiểu tại sao? Từ lúc ông nói: “Cô này bị những trận đòn nhừ tử… mặt mũi thâm tím…” Từ đấy tôi nghe câu được câu chăng, câu chuyện không thể nào lọt vào tai tôi được nữa. Tôi cảm thấy lòng mình bâng khuâng.
(Còn nũa)
   
   
      Đọc qua đoạn này tôi nghĩ bạn đang liên tưởng tới Vân. Biết đâu Vân đang trong tình trạng như thế!! ??? ???. Chắc là không đâu bạn nhỉ?


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 06 Tháng Ba, 2013, 08:12:10 am
             Chào bác quanvietnam, chào các bác! Tranphu341 rất vui khi bác lại xuôi theo tàu về nơi Vân sống. Ôi sức mạnh tình yêu thật tuyệt vời. Đã biết rằng "ván đã đóng thuyền" nhưng với tình cảm và tình yêu ta cũng vẫn không thể quên mảnh ván con thuyền đó. Tình yêu lớn thúc giục ta phải xem con thuyền đó giờ ra sao? Tranphu tôi thật cảm động trước tình cảm của Bác đẹp, thật cao thượng. Tình yêu bác dành cho Vân thật lớn.

             Cuộc đời người lính của chúng mình trong lửa đạn, trong khói bom thật hồng, thật đẹp. Thế nhưng qua câu chuyện của người lính cùng chuyến tàu thật cụ thể. Tranphu341 càng thấy bác thật sâu sắc, thật tế nhị khi kể về những điều chưa đúng của chính quyền của những người đang "cầm cân. nẩy mực" với cái Tâm, cái Tầm thấp kém. Làm cho thiếu đi sự công bằng, sự nghiêm minh. Làm cho những người lính may mắn sống sót trở về hậu phương bị quá nhiều thiệt thòi vô lý. Mà có lẽ là đỉnh cao là câu chuyện có thật viết về người thương binh ở Thái bình :" Thủ tục làm người còn sống" Của nhà văn Minh Chuyên. Rồi ở Thanh Hóa có chuyện " Đêm ấy là cái đêm nào" Của nhà văn BÙI TIẾN HẬU? Hai câu Chuyện thật hồi đó đã như tiếng bom cảnh tỉnh đánh vào chủ nghĩa quan liêu bao cấp của các cấp lãnh đạo lúc nào cũng cứ nói cái gì cũng tốt, Cái gì cũng đẹp. Thậm chí người lính trở về địa phương không còn khẩu, mà đã không còn khẩu thì không có ruộng, Không được phân nhà, cấp đất. Trong khi những người học 3 năm ra làm cán bộ, ông nọ bà kia thì được phân nhà, được cấp đất ngay. Ôi thật bất công, thật vô lý đến thế là cùng. Như bây giờ đây. MẸ của Một liệt sỹ, Mẹ của hai Liệt sỹ đi khám bệnh, đi chưa bệnh vẫn phải nộp thêm tiền 20%. Thật là nhẫn tâm, thật là vô lý cho những người làm chính sách.

             Chúc bác tạm quên đi những phiền lòng mà về với thực tai. Con tầu và mục đích chuyến đi. Đừng vội quay lại bác nhé hi hi.. ;D ;D ;D


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tralientay trong 08 Tháng Ba, 2013, 12:24:33 pm

---
Rồi ở Thanh Hóa có chuyện " Đêm ấy là cái đêm nào" Của nhà văn BÙI TIẾN HẬU?
---

Nếu là "Cái đêm hôm ấy ... đêm gì?" thì tác giả là Phùng Gia Lộc bác ạ.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 08 Tháng Ba, 2013, 08:58:40 pm
         Chào bác tralientay, chào các bác! Tranphu341 xin cảm ơn bác đã nói chính xác tên của tác giả và tựa đề của chuện ngắn. Tranphu cũng không thật nhớ nên đã phải đánh dấu hỏi kế sau.   ;D ;D ;D. Tranphu vẫn nhớ cốt chuyện và cả câu chuyện nhà văn, anh em hội nhà văn Thânh Hóa tổ chức cho Phùng Gia Lộc trốn ra Hà Nội, sống ẩn náu tại Hội nhà văn.

         Riêng Tranphu341 thì thật khâm phục những con người này cùng cả nữ văn sỹ có bài thơ trong đó có câu:" Thời buổi này đồng tiền còn hơn đồng chí/ Chân giò còn hơn chân lý". Họ thật đáng ngợi ca. Họ lễ ra phải được tôn vinh, phải được tặng thưởng huân chương hay những phần thưởng cao quý mới đúng. Nhưng! Thôi nói nhưng thì nhiều lắm. >:( >:( >:(

        Chúc tất cả các bác luôn vui khỏe!


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 11 Tháng Ba, 2013, 10:29:56 am

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
5- Đi tìm
          Chia tay ông bạn đường Xuống ga Sen Hồ, ông đi rồi tôi cảm thấy buồn. Những câu chuyện ông kể, làm tôi vừa phân vân vừa hoang mang. Tôi tự hỏi mình: Vậy chuyến đi này phải làm thế nào đây? Trong lòng rất băn khoăn, hết đứng lên ngồi xuống, đi ra đi vào, vẫn chưa tìm được lời giải thỏa đáng. Trong khi đó, trong toa mọi người vẫn chuyện trò với nhau vui vẻ, những người xuống ga Bắc Giang đang sắp xếp đồ đạc và hành lý cho gọn gàng để chuẩn bị xuống tầu. Nhìn họ, tôi lại càng sốt ruột.
   Đoàn tầu từ từ tiến vào ga Bắc Giang và dừng lại, tiếng loa phóng thanh ra rả hướng dẫn hành khách đi tầu. Mọi người lục tục  xuống tầu, tôi cũng bước xuống sân ga và đi theo họ ra phía cửa ga. Tôi là một trong số ít, những hành khách không có người đón. Những người cùng đi với tôi, họ có địa chỉ nơi đến, họ nhanh chóng tản ra đi tìm nơi đến. Chỉ còn lại tôi, chưa biết đi đường nào, tôi quay vào nhà đợi tầu ngồi vào chiếc ghế kê ở góc phòng đấu tranh tư tưởng, nên đi hay quay lại?
  Hỏi đường để đi đến khu tập thể của Ty giao thông Hà Bắc thì đơn giản, cái khó bây giờ là có nên đến hay không? Đấy là điều tôi đang đắn đo suy nghĩ. Tôi cứ tự đặt ra câu hỏi, rồi lại tự trả lời. Câu hỏi nào đặt ra cũng đúng và câu trả lời nào cũng hợp lý. Nhưng tất cả những câu trả lời vẫn còn quá nhiều ẩn số và quá nhiều nghi vấn.
   Tôi hoang mang, nhưng vẫn cảm thấy có cái gì đó nuối tiếc nên luôn có ý nghĩ: Đã cất công đi đến đây mà không đến để gặp Vân thì thật là không nên, nhưng liệu đến có gây ra vấn đề gì không? Đến đây, thì tôi lại lúng túng không tìm được câu trả lời. Nếu Vân chưa có gia đình, việc tôi đến với Vân là nhẽ thường tình, hay nói đúng hơn nó là sự mong mỏi và là khát vọng của tình yêu đôi lứa, mà tình cảm ấy đã từ lâu, chúng bị dồn nén bởi những năm tháng của cuộc chiến tranh, bây giờ là lúc cần phải gặp nhau để giải tỏa nỗi nhớ thương. Nhưng bây giờ thì khác rồi, cũng vẫn là tôi với Vân gặp nhau. Tôi là tôi thuở nào, còn Vân bây giờ đã khác, Vân đã có chồng, Vân có một gia đình êm ấm và hạnh phúc. Sự xuất hiện của tôi trong gia đình Vân lúc này, nên hay không nên?
   Đặt địa vị bây giờ tôi là chồng của Vân, tôi sẽ đối sử thế nào với người yêu cũ của Vân? Ghen hay không ghen? Nói thật, là tôi ghen. Đương nhiên cũng chỉ là ghen bóng ghen gió, ghen trong sự hoài nghi. Nói ra cho bõ tức thì không nói được vì không có bằng chứng vật chứng, không nói ra được thì day dứt cay cú, chì chiết bóng gió. Rồi những khoảng thời gian sau đó, vợ chồng sống với nhau, những lúc bình thường thì không sao, lúc vợ chồng va chạm, không đồng ý với nhau về điều gì đó, ai có thể đảm bảo rằng người chồng không nghĩ ngợi và tưởng tượng về quá khứ của vợ mình. Nguy hiểm nhất là ở chỗ, do nghi ngờ nên hay tưởng tượng. Mà mọi thứ tưởng tượng đều ghê gớm, sự tưởng tượng thật là khủng khiếp, biến không thành có, giống như thật, nó có thể làm cho con người bị mù quáng rồi mất hết lý trí, và nó có thể gây ra nhiều chuyện nữa, dù có muốn tưởng tượng cũng không thể hình dung ra chuyện gì sẽ xảy ra… Nhất là khi đã mất lòng tin, thì lúc nào cũng nghĩ là vợ mình bây giờ đang ôm ấp âu yếm người khác rồi và về nhà tìm cách che dấu những việc làm phản bội chồng con, hay là tưởng tượng ra mối tình quá khứ của vợ mình trước kia đã trao đi tất cả, mình chỉ là những người đến sau…
   Về mặt lý luận thì tôi nghĩ như vậy, còn về mặt thực tiễn, càng làm tôi không thể nghĩ khác. Rõ ràng, một ông bằng xương bằng thịt thật, to lù lù, về thăm người yêu cũ. Bảo sao, tôi là chồng mà tôi lại không ghen? Tôi phải tự hỏi tôi? Tình cảm trước kia họ phải nồng thắm thế nào? Để đến bây giờ không ngại khó khăn gian khổ, cũng chẳng quản đường xá xa xôi để đến thăm nhau chứ?
  Ở đời, lý thuyết và thực tiễn, quan hệ với nhau khăng khít, cái nọ bổ xung cho cái kia, quấn quýt vào nhau để hoàn thiện hơn. Ai đó gặp trường hợp này, không ghen mới là lạ. Tôi biết là tôi thiển cận và ích kỷ. Đúng! Tất nhiên, tôi cũng muốn hào phóng và rộng lượng trong cuộc sống. Nhưng tính ích kỷ trong tình yêu là bản tính cố hữu của con người. Tôi cũng không phải là trường hợp ngoại lệ, bởi vì cổ nhân đã nói “Cha mẹ sinh người, Trời sinh tính”.
   Vậy thì: Chuyện mà ông bạn kể ở trên tầu là hoàn toàn có thật. Trường hợp ấy, nếu là tôi thì tôi cũng không thể vượt qua được sự suy nghĩ tầm thường của những con người ích kỷ. Đơn giản vì tôi cũng chỉ là một con người bình thường, có phần “người” và phần “con”. Một khi đã là con người, khi bị thế lực nào đó đe dọa và bị xâm phạm tình cảm riêng tư thì khi đó nội tâm của con người sẽ tự đấu tranh. Trong đấu tranh, đôi khi lý trí của con người chế ngự được bạo lực, thì mọi việc đều được giải quyết êm đẹp và đầy tính nhân văn. Song không phải lúc nào lý trí con người cũng chế ngự được, bởỉ có những lúc tính “Con” của con người trỗi dậy và thắng thế thì chắc chắn bạo lực sẽ xảy ra. Thực tế, tính “Con” và tính “Người” luôn tồn tại song hành, đấy cũng chính là điều kiện để tồn tại xã hội…
   Nghĩ như thế, nhưng biết đâu? Chồng Vân không phải là người như tôi, hoặc giả không phải là người như tôi nghĩ thì sao? Rất có thể là như vậy? Nhưng bây giờ lấy gì để chứng minh cho điều đó, có lẽ chỉ còn cách duy nhất là: Chờ đợi, thời gian và thực tế chứng tỏ điều tôi nghĩ…
   Nghĩ đến hình ảnh Vân phải bịt khăn kín mặt, để che đi những vết bầm tím do bị chồng đánh, tôi không giám nghĩ thêm nữa. Tôi lo sợ điều ấy xảy ra với Vân. Tôi không thể tưởng tượng được trên khuôn mặt tròn trịa xinh đẹp của Vân lại có những vết bầm tím. Sợ sẽ có những bất hạnh xảy ra cho Vân, tôi quyết định: Vẫn đến khu tập thể của Ty giao thông Hà Bắc, nhưng sẽ không gặp Vân, mà bằng cách nào đó tiếp cận Vân càng gần càng tốt, miễn là nhìn thấy được Vân rõ nhất, nhưng phải bảo đảm điều kiện không để ai phát hiện ra mình. Theo bản năng của lính trinh sát, tôi rà soát lại kế hoạch một lần nữa và cảm thấy chấp nhận được. Tôi đắc ý, tự nhiên thấy hưng phấn và đứng dậy đi thực hiện ý đồ vừa được đặt ra.
   Không khó khăn để tôi tìm đến khu tập thể cán bộ công nhân viên Ty giao thông Hà Bắc. Ngồi ở quán nước chè đầu cổng của khu tập thể, tôi lân la hỏi thăm vợ chồng ông bà già bán nước chè về Vân. Thật không may cho tôi, vợ chồng ông bà già bán nước chè này gần như không biết gì về cô Vân mà tôi miêu tả. Mặc dù ông bà đã giới thiệu với tôi: Ông bà là những người đầu tiên có mặt ở đây, khi người ta xây dụng khu tập thể này. Tôi cũng không thể trách được ông bà, vì khách của ông bà chủ yếu là nam giới, mình lại đi hỏi nữ giới thì làm sao ông bà có thể biết được.  Chẳng biết làm cách nào khác, tôi đành ngồi hút thuốc uống nước để chờ cơ hội, biết đâu đấy sẽ có những người biết về Vân…
   Một ông khách có vẻ là khách quen của quán ông bà, bước vào quán. Bà chủ đon đả chào:
    -Bác vào mời nước!
    -Chào ông bà! Cho tôi xin chén nước.
   Chờ bà chủ quán rót nước, ông với tay lấy lọ kẹo dồi, bốc ra mấy chiếc đặt vào chiếc đĩa và đưa một chiếc vào mồm nhai rất ngon lành. Mùi lạc rang, mùi nha, mùi nước chè khô, quyện vào nhau thơm ngọt. Chờ ông khách chiêu ngụm nước trà, bà chủ quán nói với ông khách:
    -Bác xem ở trong khu mình có ai tên là Vân không? Chú này chú hỏi mà chúng tôi không ai biết, bác có biết chỉ cho chú ấy với.
   Nghe bà chủ nói thế, ông khách quay sang nhìn tôi. Chúng tôi nhìn nhau, tôi vội chào để làm quen nhưng ông không đáp lại, làm tôi cũng hơi bị cụt hứng. Trong khi đó ông vẫn tiếp tục giải quyết nốt chỗ kẹo dồi đã bốc ra. Sau cái nhìn không mấy thân thiện của ông khách, tôi cảm thấy người này hơi mất lịch sự, nếu không vì công việc thì tôi cũng chẳng cần tiếp xúc. Nhưng vì tôi đang cần thông tin về Vân nên đành phải bắt chuyện với ông ta. Hai tay tôi đỡ  bao thuốc lá Sông Cầu, đưa sang mời ông rất lịch sự:
    -Mời anh hút thuốc!
    -Cám ơn! Tôi hút loại này.
   Nói rồi anh với tay vào hộp lấy ra một gói thuốc lá cuộn, rút một điếu châm lửa hút, phả khói rất sành điệu. Anh hất hàm hỏi:
    -Ông hỏi Vân nam hay Vân nữ? Quê ở đâu? Năm nay bao nhiêu tuổi? À! Mà ông ở đâu? Sao lại đến đây hỏi thăm?
   Nghe ông hỏi, tôi nhớ lại thời chiến tranh phá hoại, nếu có người lạ hỏi thăm thì phải cảnh giác đề phòng bọn gián điệp dò la tin tức tìm mục tiêu chỉ điểm cho máy bay đánh phá. Thấy thái độ của ông như vậy tôi thực sự khó chịu, nhưng không biết làm thế nào mà vẫn phải nhũn như con chi chi, tôi không muốn để lộ tung tích của mình nên nghĩ cách nói dối:
    -Tôi mới về công tác ở phòng giao thông huyện Quế Võ, tôi được giao nhiệm vụ lên gặp chị Vân để xin tài liệu. Tôi cũng quên không hỏi chị Vân làm ở phòng nào, mà chỉ biết chị quê ở Từ Sơn Bắc Ninh.
    -Biết rồi! Có phải cô ấy làm chủ nhiệm đề án thiết kế Quy hoạch hệ thống đường giao thông thị  xã Bắc Ninh không?
    -Vâng ạ!
   Tôi cứ vâng bừa, thực ra tôi có biết Vân làm gì đâu. Nhưng vì tôi chán nói chuyện với ông, nên tôi chỉ mong ông chỉ cho tôi một chị Vân nào đó cũng được,  hy vọng có thể thay đổi môi trường tiếp xúc, khi đó sẽ tính chuyện tiếp.
   Ông khách nhìn tôi chằm chằm, làm tôi lạnh cả xương sống. Tôi nghĩ chắc là ông đã phát hiện ra ở tôi điều gì đó không phải như tôi nói. Đúng lúc ấy mẩu thuốc lá đang cháy ở trên môi làm ông nóng quá, ông gỡ vội mẩu thuốc trên môi vứt tẹt xuống đất, ông nói:
    -Ông là bộ đội chuyển ngành à?
    -Vâng! Tôi mới đi làm được 3 tháng.
    -Nhìn ông là tôi biết ngay, ông là bộ đội chuyển ngành đang phấn đấu làm lãnh đạo.
   Ông nhìn tôi có vẻ ngán ngẩm, pha chút xem thường. Ông cắm thêm điếu thuốc lá cuộn nữa lên môi, những sợi thuốc rụng ra rơi vào trong mồm ông làm ông khó chịu, ông quay sang bên cạnh nhổ phì phì. Ông châm lửa và rít một hơi thật đã rồi ngửa mặt lên Trời thở khói thành hình tròn, vòng nọ chui vào vòng kia thành chuỗi hình tròn trông rất điệu nghệ. Tôi nghĩ: Ông này cũng thuộc loại người lắm chuyện.
   Xong màn biểu diễn thở khói thuốc hình tròn, ông vẫn không thèm nhìn tôi rồi nói với cái giọng như là đang bất mãn chuyện gì đó:
    -Ông có biết hôm nay là thứ mấy không? Sao ông lại đi lấy tài liệu vào ngày hôm nay? Thời gian trước, đôi khi cơ quan cũng bố trí làm thêm vào ngày chủ nhật, đã lâu rồi do cuộc sống ngày càng khó khăn, mọi người tranh thủ về nhà giúp đỡ gia đình, tăng gia sản xuất, dậy dỗ con cái. Những kẻ độc thân như chúng tôi, quê ở xa, ngày nghỉ chẳng có việc gì làm nên chỉ ngồi quán uống nước chè hút thuốc vặt, đã nghèo lại càng nghèo hơn. Thật chán đời.
   Rít một hơi thuốc rồi ông lại tiếp tục:
    -Những người như các ông, đã có bề dầy thành tích trong chiến đấu, bây giờ trở về lại chăm chỉ làm ăn, làm quên cả ngày nghỉ để mua chuộc lãnh đạo, chắc là đang cố gắng lấy lòng cấp trên để còn được nâng đỡ. Xin lỗi ông nhớ, đời là thế mà.
   Đến nước này, tôi không còn giữ được bình tĩnh nữa. Tôi định nói lại mấy câu cho bõ tức. Nhưng nghĩ lại, thấy ông này tuy có hiểu lầm về động cơ của mình, song ông nói có những ý đúng, bởi vì hôm nay là ngày nghỉ, ngày chủ nhật mà mình lại nói là lên để xin tài liệu. Nhưng mà mình vẫn đúng bởi vì mình đến nhà riêng để xin tài liệu cơ mà. Nghĩ vậy nên tôi tự an ủi: Thôi kệ ông ấy nói, miễn là mình được việc là được. Thực ra tôi quên mất hôm nay là ngày chủ nhật.
   Ông khách thấy tôi ngồi im lặng, không có phản ứng gì. Hình như ông cũng cảm nhận được tôi không phải là đối tượng để ông trút những bực dọc và bất mãn lên đầu tôi. Ông đổi giọng có vẻ thân thiện hơn:
    -Ông có hẹn trước không?
    -Không anh ạ!
    -Vậy thì số ông đen rồi. Hôm nay là chủ nhật, hai vợ chồng cô ấy về quê, có hôm tối mới lên, hôm nào lên sớm nhất cũng khoảng 4 đến 5 giờ chiều.
    -Muộn thế hả anh?
    -Ừ!
    -À anh ơi! Anh nói ở đây có mấy người tên là Vân. Tôi muốn hỏi chị Vân quê ở Từ Sơn Bắc Ninh, học khóa 13 Cầu Đường, trường đại học Xây Dựng, năm nay độ 22 hay 23 tuổi gì ấy. Không biết có đúng với chị Vân mà anh đang nói không?
    -Gia đình nhà cô ấy hơi đặc biệt nên bọn tôi cũng ít tiếp xúc, nhưng tôi nghĩ là đúng.
    -Đặc biệt là thế nào hả anh?
    -…
   Ông khách thanh toán tiền cho bà chủ quán, chào tạm biệt tôi rồi ra về. Tôi uống nốt chén nước rồi cũng xin phép bà chủ quán đi ra ngoài. Bây giờ mới 11 giờ trưa, khoảng hơn 5 tiếng đồng hồ nữa mới đến 4 giờ chiều.
    Còn hơn một tháng nữa là bước sang năm mới, nắng của những ngày cuối năm, ánh nắng nhạt nhòa yếu ớt. Gió mùa Đông Bắc thổi nhè nhẹ, đi ở ngoài nắng nhiệt độ đủ ấm, đi vào bóng cây cảm thấy lành lạnh. Tôi lang thang bước vô định trên đường phố, đầu óc cứ vẩn vơ nghĩ về câu nói của ông khách ban nãy.
(Còn nữa).



Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: xuanv338 trong 11 Tháng Ba, 2013, 11:44:20 am
     xuanv338 chào anh quanvietnam. Chào các bác trên diễn đàn và độc giả của trang trang. CB vẫn thường xuyên đọc theo dõi bài của anh. Câu chuyện của anh quanvietnam cứ như nam châm hút người đọc vậy! Bài hôm nay anh đã cho người đọc cùng đi theo chuyến tàu và đã cận kề cái đích cuộc gặp gỡ của anh và Chị Vân. Nhưng theo linh cảm của Cb  đoán có thể cuộc gặp mặt của anh và chị Vân sau cuộc chiến tranh này khó mà thoả nguyện được với lòng mình và đường đời của chị Vân chắc cũng không đựơc thuận chèo mát mái qua câu nói lấp lửng của người khách cũng không mấy mặn mà và cử chỉ không mấy thiện cảm ở quán nước hôm đó.  Nhưng dù sao người đọc cứ mong rằng cuộc lặn lội của anh trên chuyến tàu ngược lên vùng Từ Sơn, Hà Bắc để một lần gặp lại chị Vân sẽ là có hậu. CB cũng như mọi người đang mong được đọc tiếp câu chuyện như trong tiểu thuyết vậy. Chúc anh khoẻ và viết tiếp đừng để cho người đọc phải đợi chờ. CB kính anh.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: huonghn76 trong 11 Tháng Ba, 2013, 01:20:33 pm

                Chào bác quanvietnam ,chào bác Trần Phú ,bác XuânV. và các bác . Bài viết của các bác hay quá ,làm bạn đọc xúc động . Cho em viết vài câu gửi tới các bác .

                                       ĐI TÌM .
                 
                     Tìm em, anh như tìm chim.
                     Chim bay đi mất ,anh tìm nơi đâu.
                     Chín ngọn núi , chín vực sâu.
                     Tìm trong kỷ niệm , tâm hồn mênh mang.
                     Tìm trong quá khứ ,vội vàng .
                     Tìm người trong mộng , lúc nàng thanh xuân .
                      Đời anh vất vả ,gian chuân .
                      Anh mãi đi tìm , tìm lại giấc mơ
                      Ngõw là như tuổi ,ấu thơ
                      Đuổi ong, bắt bướm ,hái hoa tặng người.
                      Giờ còn đâu nữa em ơi
                      Hoa thì đã héo , chân trời mờ xa

                                                                H.hn76


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 18 Tháng Ba, 2013, 10:34:38 am

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
5- Đi tìm
          Tôi đi lang thang trên đường phố của thị xã vùng trung du phía Bắc, thị xã này hồi chiến tranh phá hoại, chắc cũng là trọng điểm đánh phá ác liệt của máy bay Mỹ. Vừa đi, vừa để ý xem còn sót lại vết tích gì của cuộc chiến tranh không? Đi một hồi lâu, cố phát hiện những điều mình đang nghĩ, nhưng chẳng thấy gì. Tôi nghĩ: Có hai khả năng xẩy ra, làm mình không tìm được dấu vết sót lại của chiến tranh. Khả năng thứ nhất: Thị xã này đã bị tàn phá hết, những công trình này là do dân mới xây dựng lên, để xây dựng được nhà cửa công trình, dân đã san lấp và xóa đi dấu vết của bom đạn. Khả năng thứ hai là: Có thể khu này toàn những nhà cửa lụp xụp nên máy bay Mỹ không thèm để ý đến và bây giờ vẫn còn nguyên hiện trạng cũ. Kể cũng buồn, cho dù là trường hợp nào, một trung tâm kinh tế chính trị của một tỉnh cũng phải đàng hoàng to đẹp, chả lẽ lại như thế này sao?
   Bước thấp bước cao, vừa đi vừa nghĩ miên man, tôi cũng không biết là tôi đang đi đâu nữa. Đêm hôm qua ngủ gà ngủ gật trên tầu, từ sáng đến giờ chưa có cái gì cho vào bụng, bụng tôi cứ cồn cào từng cơn. Tôi cười thầm: Nếu không vướng cột sống thì da bụng có lẽ đã dính vào da lưng từ lâu rồi, đói quá…
  Tôi hỏi giờ một cô gái đi đường, cô gái trả lời tôi:
    -Mười hai giờ rồi bác ạ!
   Không biết cô gái có nhìn tôi không? Hay đã nhìn rồi mà trả lời tôi như vậy thì thật đáng buồn. Chả lẽ bây giờ tôi xuống cấp đến thế hay sao? Mới có 25 -26 tuổi đầu mà đã có người gọi bằng bác rồi. Bộ dạng này mà gặp Vân thì chắc Vân sẽ thương tôi lắm. Đấy là tôi nghĩ đến tình cảm giữa tôi với Vân ngày xưa thì tôi nói thế, bây giờ Vân đã có chồng rồi, chẳng biết Vân có còn nhớ đến tôi không? Thế nào cũng được, Vân nhớ tới tôi cũng tốt, mà không nhớ cũng chẳng sao. Ước muốn của tôi lúc này là nhìn thấy Vân sung sướng và hạnh phúc đi bên người chồng là tôi mãn nguyện lắm rồi. Tôi rất sợ sự trắc trở chồng con của Vân là do tôi gây ra, tôi sẽ ân hận cả đời.
   Nhớ lại, cái lần tôi với Vân về quê. Bà Giáo, tôi với Vân đang ngồi nhặt rau chuẩn bị cho bữa tối. Chúng tôi ríu rít bên nhau, nói và kể cho nhau nghe đủ thứ chuyện. Bà Giáo vẫn lặng lẽ nhặt rau và lắng nghe những câu chuyện của hai đứa chúng tôi. Vô tình tôi ngửng đầu lên nhìn bà Giáo, bà vội kéo tấm khăn che đầu lau nhanh hai hàng nước mắt, vì sợ tôi biết là bà đang khóc. Tôi vội cúi xuống tiếp tục nhặt rau, vờ như không biết. Sau đó, tôi kể lại chuyện này cho Vân nghe. Vân giải thích cho tôi, tôi cũng không biết lời giải thích này của Vân là của Vân hay là của bà Giáo, nhưng nghe xong tôi cũng rơm rớm nước mắt. Vân nói:
  “ … Mẹ khóc vì mẹ thương chúng ta. Mẹ sợ có một ngày nào đó chiến tranh sẽ làm cho chúng ta xa nhau. Mẹ sợ con gái mẹ lại vò võ đợi chờ, kết cục của sự chờ đợi ấy như thế nào mẹ không hình dung được, điều mẹ có thể biết trước là mẹ không thể san sẻ được cho em. Mẹ thương anh sinh ra vào thời loạn lạc, trên chiến trường xông pha dưới mũi tên làn đạn, gối đất nằm sương, biết sống lúc nào và chết lúc nào. Mẹ cứ nghĩ thế mà nước mắt trào ra…”
   Bây giờ nghĩ lại, tôi thương ông bà Giáo lắm. Chắc giờ này ông bà sống vui vẻ, vì cô con gái út đã yên bề gia thất, ông bà không còn phải lo lắng như ngày chúng tôi còn yêu nhau. Không biết trong trí nhớ của ông bà có còn sót lại hình ảnh nào của tôi không? Cũng đã đôi lần, tôi dự định sẽ có ngày ghé thăm ông bà. Nhưng bây giờ chắc là khó thực hiện, tôi có lỗi với ông bà, tôi cũng chưa biết giải quyết thế nào?
   Ngay chuyện đi tìm Vân, cũng làm tôi trăn trở nhiều lắm, tôi không trả lời được câu hỏi: Đi để làm gì? Để giải quyết vấn đề gì? Nếu chỉ là thăm nhau thì có nên không? Đôi khi thương nhau lại thành thương hại và bây giờ thì đã rõ, việc gì nên làm và việc gì không nên làm…
    Chẳng hiểu bắt đầu từ lúc nào, tôi từ bỏ mục tiêu phát hiện vết tích chiến tranh mà chuyển sang mục tiêu tìm quán ăn. Đi mãi, tôi cũng phát hiện được một quán bánh cuốn. Chui vào quán bánh cuốn sập sệ bên đường, đói quá tôi xơi liền hai đĩa mà chẳng thèm tính toán, có gì đâu mà tính toán, chỉ có bánh cuốn với nước chấm, còn giò không chả cũng không thì cần gì tính toán.
   Ăn bánh cuốn hôm nay, tôi nhớ tới thời gian chúng tôi còn ở Hương Canh. Hồi ấy tôi chưa nhập ngũ, có lẽ vào khoảng cuối năm 1971 đầu năm 1972 gì đó. Ngày ấy, tôi với Vân và Lan, cả ba chúng tôi vẫn quấn quýt bên nhau như hồi còn ở Trúc Ổ Quế Võ Hà Bắc, chỉ khi nào chúng tôi có việc riêng thì mới tách nhau ra, còn không thì lúc nào cũng như hình với bóng, nhiều khi Lan ngại làm phiền chúng tôi nên tìm cách từ chối không đi với chúng tôi. Lan bảo:
    -Anh cho em đi tìm hiểu để kiếm lấy một ông chứ, cứ đi với anh và Vân thế này thì em chết già à? Hay là anh định một ông hai bà?
   Thế là chúng tôi cười xòa rồi tách nhau ra, tối về gặp nhau cả ba đứa lại vui như tết.
   Thời kỳ ấy, chẳng hiểu thế nào chúng tôi rất thích ăn bánh cuốn, cứ chủ nhật mà đi chợ Hương Canh thì thế nào cũng rẽ vào để ăn bánh cuốn. Có lẽ bánh cuốn khi đó hợp với túi tiền của sinh viên, hơn nữa   vào ăn bánh cuốn thì có bàn ghế để ngồi ăn, vừa kín đáo vừa lịch sự. Nhưng quan trọng nhất ở chỗ, ăn ở trong quán được nhìn nhau đắm đuối, được thể hiện tình cảm yêu thương, được chăm sóc nhau mà không sợ có người nhìn thấy. Bây giờ nghĩ lại cảm thấy như mới hôm nào, sao cuộc đời sinh viên lúc ấy thơ mộng và đẹp đến thế. Tiếc thật, chiến tranh đã cướp đi niềm vui nho nhỏ của những đôi lứa yêu nhau…
   Ăn xong, vừa mệt lại vừa buồn ngủ. Tôi chẳng muốn đi đâu mà cũng không biết chỗ nào mà đi, tôi quay lại quán của hai ông bà già bán nước chè ở cổng của khu tập thể Ty giao thông Hà Bắc. Ông bà thật tốt bụng, thấy tôi quay lại bà nói ngay:
    -Chú cứ ngồi đấy nghỉ ngơi, chờ đến chiều cô chú ấy về thì gặp, bây giờ nắng nôi thế này đi ra ngoài đường bụi bay rát cả mặt.
    -Cháu cảm ơn! Cho cháu xin một ấm chè và mấy điếu thuốc.
   Ông chủ, sau bữa cơm trưa chắc là có chén rượu nên đã đi nằm. Bà chủ chuẩn bị xong cho tôi những thứ tôi gọi, rồi ngồi tựa vào chiếc ghế chuyên ngồi để bán quán, lim dim đôi mắt. Chiếc quạt mo dùng để đuổi ruồi trên tay bà thi thoảng lại rơi xuống đất, như đã biết trước vị trí chiếc quạt rơi, bà không cần thay đổi tư thế ngồi mà chỉ cần với tay là lấy được chiếc quạt, bà lại quạt phe phẩy, và quạt lại rơi, cứ thế lập đi lập lại. Không gian thị xã vùng trung du vào buổi trưa, tiêu điều và im lặng quá.
   Trưa ở vùng bán sơn địa. Mùa này nắng không chói chang, nhưng gió Đông Bắc thổi ràn rạt từng cơn. Mỗi lần gió thổi, bụi cuốn theo mù mịt. Những cánh cửa sổ làm bằng tre đan, được chống lên để lấy ánh sáng vào quán lại đung đưa kêu cọt kẹt, ngoài đường thi thoảng vẫn có những người vội vã đạp xe vụt qua.
   Thời gian cứ chầm chậm trôi qua, mí mắt tôi như muốn sụp xuống, tôi cố gắng nhướn lên để không bị nhắm mắt lại, những lúc không thể kìm chế được là hai mắt tôi khép lại, hình như cũng thiếp đi mất một vài giây. Những lúc như vậy, tôi vội vàng thay đổi tư thế ngồi và hốt hoảng nhìn về phía khu tập thể xem có ai vừa đi qua không.
   Nghiêng ngả, vật vã trên những chiếc ghế, nhưng vẫn không cắt được cơn buồn ngủ. Nhân lúc có toán khách bước vào quán, tôi quyết định đứng lên đi ra ngoài. Tôi dạo quanh bên mấy cây xà cừ rất to, tán của những cây xà cừ phủ trùm cả một vùng rộng lớn, quán nước chè của hai ông bà già bé tý, lọt thỏm giữa những thân cây to lừng lững, quán này vào mùa hè chắc hẳn mát lắm, lá của các cây xà cừ ken dầy, không cho một giọt nắng nào lọt qua.
   Tự nhiên trong đầu tôi nảy ra ý định, phải vào khu tập thể để trinh sát xem nhà cửa của vợ chồng Vân thế nào? Vì sao ông khách ban nãy lại nói là  gia đình đặc biệt?
    Khu tập thể giờ này vẫn còn im ắng, hôm nay là chủ nhật nên mọi người còn đang nghỉ ngơi. Gặp lũ trẻ đang chơi ở sân khu tập thể, tôi hỏi cháu trai lớn nhất trong đám trẻ:
    -Cháu chỉ cho chú nhà cô Vân với.
   Lũ trẻ nhao nhao:
     -Chú hỏi cô Vân hay bác Vân?
   À! Thì ra ở đây có ít nhất là hai người tên Vân. Tôi ra hiệu cho lũ trẻ nói nhỏ thôi, phần là vì tôi sợ mọi người biết sẽ để ý nên dễ bị lộ, phần là vì nói to quá thì mọi người tỉnh giấc. Tôi nói khẽ đủ để nghe:
    -Cho chú hỏi nhà của cô Vân, người ở Từ Sơn Bắc Ninh.
    -Cháu không biết cô ở đâu. Cháu chỉ biết ở đây có một cô Vân và một bác Vân. Cô Vân là kỹ sư thiết kế Cầu Đường, còn bác Vân làm cấp dưỡng.
    -Đúng rồi! Cháu dẫn chú đến nhà cô Vân.
   Chú bé dẫn tôi đi, bọn trẻ nhao nhao đi theo. Tôi ra hiệu cho chúng dừng lại và nói:
     -Để mình anh lớn này dắt chú đi là được rồi. Các cháu cứ ở đây chơi lát nữa anh ấy quay lại ngay.
   Chú bé dẫn tôi đi và chỉ cho tôi một gian nhà nằm ở phía cuối dãy nhà cấp 4 của khu tập thể. Chú bé bảo tôi:
    -Cô Vân không có nhà chú ạ! Cô khóa cửa đi đâu rồi đấy. Chú ở đây chờ lát nữa cô ấy về. Cháu đi chơi đây.
   Nói rồi, chú bé bỏ tôi chạy ra chỗ bạn bè. Tôi đứng lại ngắm nhìn gian nhà, nó cũng giống như những gian khác, chỉ có khác là gian này ở đầu hồi và sát với hàng rào của khu tập thể, phía bên kia hàng rào là nhà dân hay là cơ quan thì không biết. Tôi lầm bầm: Chẳng có gì đặc biệt so với những gian khác, thế mà ông ấy nói là đặc biệt. Nhưng tôi chợt nghĩ ra ông ấy nói là gia đình đặc biệt, chứ không phải là gian nhà đặc biệt.
   Tôi lững thững quay trở lại quán nước chè của ông bà già, tôi ngồi hút thuốc và nghĩ đến câu nói của ông khách: “ Gia đình ấy là gia đình đặc biệt…”. Tại sao lại là gia đình đặc biệt? Tôi trăn trở và tự đặt ra những giả thiết mò mẫm để chứng minh những điều đặc biệt, nhưng chịu. Tôi tự trách mình: Đúng là kẻ vô công rồi nghề, rỗi hơi v.v. Tuy đã tự trách mình như vậy, nhưng thi thoảng đầu óc tôi lại vẫn luẩn quẩn nghĩ đến chuyện ấy và lại tự lập luận: Có thể thế này, có thể thế kia, nhưng có lẽ vẫn dừng lại ở chỗ là: Gia đình Vân có thể không hợp với khu tập thể này, hoặc là ông khách ban nãy có thành kiến với gia đình Vân?
   Mùa Đông ngày ngắn, mới hơn ba giờ chiều mà trời như sắp tối, bầu trời thấp tịt, mây xám xịt, nhìn xa xa như có màn sương mầu trắng đục đặc quánh che phủ. Trời đã chao Đông, gió Đông Bắc thổi mạnh hơn, lạnh hơn. Tôi chăm chú nhìn ra ngoài đường quan sát, lúc trước tôi rất tự tin và khẳng định, nếu tôi nhìn thấy Vân thì chắc chắn tôi sẽ nhận ra ngay. Bây giờ, hình như sự tự tin ấy đã có phần nao núng. Tôi sợ, thời gian và cuộc sống đã làm cho Vân khác đi, rất có thể tôi không nhận ra. Nghĩ thế tôi đâm ra hoảng và sợ bỏ lỡ cơ hội, tôi loay hoay tìm cách khắc phục. Nhưng cũng chẳng tìm được cách nào hay hơn, từ chỗ tôi ngồi ra mặt đường khoảng 10 đến 15 mét là cùng, chả lẽ lại ra tận mép đường để đứng, làm như vậy sẽ bị lộ ngay.
    Đồng hồ trên tay tôi đã chỉ con số 4 giờ 20 phút, giờ này chắc vợ chồng Vân cũng sắp về lại khu tập thể rồi. Bây giờ, tôi chẳng còn cách lựa chọn nào khác là căng mắt ra theo dõi những người qua đường, giống như tôi căng mắt theo dõi sự hoạt động của địch hồi còn chiến đấu ở chiến trường. Ngồi trong quán, tôi phóng tầm mắt quan sát được cả một vùng rộng lớn, trong đó quan trọng nhất là điểm ngã ba đường nối giữa đường phố và đường vào khu tập thể. Đây là điểm bắt buộc vợ chồng Vân phải đi qua và cũng là điểm mà tôi có thể phát hiện ra họ từ xa.
   Một chiếc xe Mokic mầu đỏ chở hai người chạy lướt qua ngã ba, để lại làn khói xanh chạy ngoằn ngèo rồi tan dần vào không gian. Cũng như những xe khác, nó cũng chẳng để lại cho tôi điều gì đáng quan tâm và rồi tôi cũng quên luôn. Khoảng 15 đến 20 phút sau, chiếc xe đó quay lại, nhưng lần này cả hai người xuống dắt xe đi bộ, họ rẽ vào khu tập thể. Người con trai dắt xe, người con gái đi song song cạnh người con trai. Họ ríu rít bên nhau, tiến gần về phía quán tôi ngồi. Tôi nhìn kỹ, hình như cô gái này đang mang bầu, tôi dụi mắt nhìn lại từ đầu đến chân. Ôi! Ôi! Cổ tôi nghẹn lại. Thôi đúng là Vân rồi! Vân người yêu cũ của tôi đây mà! Ôi! Vân đã có bầu.
   Tôi hồi hộp thở dốc, mặt mày xây xẩm, gục đầu vào chấn song cửa sổ. Trời ơi! Sao ông Trời nỡ xắp đặt cho tôi gặp Vân ở hoàn cảnh éo le này? Thế là hết, hết thật rồi ư??? Tôi chỉ còn biết cầu Trời cho Vân được hạnh phúc và xin Vân hãy tha thứ cho tôi. Hình ảnh của Vân sẽ còn mãi trong tim tôi…
    Tôi nhìn mãi, nhìn mãi, bóng của hai người khuất sau cổng của khu tập thể.
   Đêm ấy, đoàn tầu đưa tôi về xuôi. Thế là kết thúc một mối tình của một thời đèn sách và chiến trinh.



Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: TichTuongNhuLe trong 18 Tháng Ba, 2013, 10:54:38 am

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
5- Đi tìm

    Tôi nhìn mãi, nhìn mãi, bóng của hai người khuất sau cổng của khu tập thể.
   Đêm ấy, đoàn tầu đưa tôi về xuôi. Thế là kết thúc một mối tình của một thời đèn sách và chiến trinh.


     Chuyện buồn. Nhưng như vậy là yên tâm rồi, không phải áy náy day dứt gì nữa !


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: huonghn76 trong 18 Tháng Ba, 2013, 11:10:10 am
                  
                     ĐOẠN TUYỆT .
          
             Cớ sao ,bác tìm người xưa ?
             Để cho dở nắng ,dở mưa thế này .
             Giá mà đừng gặp cho xong
             Gặp rồi lại để đau lòng cho nhau !
             Chuyện buồn rồi cũng qua mau .
             Vết thương nào, rồi cũng lên da non.
             Trách làm chi ,quả đất tròn .
             Lúc anh gặp lại ,chẳng còn em xưa ...

                                                 H.hn76


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: xuanv338 trong 18 Tháng Ba, 2013, 12:00:53 pm
   CB chào bác quanvietnam. Chào tất cả các bác. Thế là những người đọc cứ háo hấc dõi theo câu chuyện của bác quanvietnam để được tận nghe cái giờ phút thiêng liêng khi bác gặp lại chị Vân. Nhưng rồi cuộc gặp ấy đã không có hậu như ý nguyện của người đọc. Dù sao bác cũng một lần được nhìn thấy bóng dáng của nàng Vân trong niềm vui hạnh phúc đi bên chồng và còn có cả cái bầu nó đã làm cho bác lại càng thêm... .

   Chẳng riêng gì bác đâu! Đi hết chiến tranh những mối tình của lính cũng còn có bao những giang dở và lỗi hẹn chẳng giống nhau. Thôi chiến tranh mà bác! Người lính mình bây giờ lúc tuổi già lại cứ hay nghĩ và nuối tiếc cài gì từ quá khứ đã qua. muốn gặp lại bạn bè rồi chỉ biết kể cho nhau nghe và động viên nhau.  Khi viết lại dòng quá khứ này xin bác cũng đừng buồn thêm nữa vì bù lại lại hôm nay bác cũng đã có một gia đình hạnh phúc. Cái mối tình đầu thường nó cứ hay làm cho người ta đau buồn và nuối tiếc vậy đấy. CB Chúc bác mạnh khoẻ. và tiếp tục kể những câu chuyện sau chiến tranh thật hay. chào bác.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: thaiminhhung trong 18 Tháng Ba, 2013, 02:55:07 pm
Thảo nào sau chuyến đi này, K17TL-C có một phụ công bóng chuyền hay thế ! Có lẽ vì tất cả đã rõ ràng nên  bác Quân chuyên tâm học tập và luyện tập TDTT


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 18 Tháng Ba, 2013, 03:45:16 pm
               Chào bác quanvietnam! Chào các bác! Thế rồi bác cũng đã kết thúc được chuyện kể " Đi Tìm". Tranphu341 rất cảm động thấy được dòng viết nặng nề của bác.

               Vâng không phải chỉ có bác. Ai mà chẳng nặng lòng trước tình yêu đầu? Ai mà chẳng nhớ nhung tha thiết kèm những cao thượng của những người lính đã chịu nhiều thiệt thòi hy sinh. Nhưng thiệt thòi hy sinh vô giá đó đâu có thể tích ra được bằng Tiền. Bác đã kết thúc câu chuyện thật "có hậu'' . Tuy rằng chưa thật sự thỏa mãn cho người đọc. Người đọc muốn bác phải gặp được Vân không trong hoàn cảnh như thế. Túc là hai người phải ô phải a phải thế nào đó như các chuyện các phim ảnh diễm tình hi hi ;D ;D ;D

              Nói vây thôi! Bác rất yêu Vân chính vì yêu mà Bác đã không làm những việc nhỏ bé tầm thường. Tranphu341 rất cảm động cùng sự cảm phục bác. Chúc bác cùng gia đình luôn có nhiều sức khỏe cùng nhiều niềm vui cuộc sống!


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: vanthang341ht trong 18 Tháng Ba, 2013, 08:41:23 pm

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
5- Đi tìm
   Đêm ấy, đoàn tầu đưa tôi về xuôi. Thế là kết thúc một mối tình của một thời đèn sách và chiến trinh.

     Hay quá bạn quanvietnam ạ.
     Tôi cũng nhất trí với cách xử sự của bạn. Bạn quyết định không gặp Vân nữa là phải lắm, đỡ lúng túng cho cả hai người.
     Không biết hiện nay gia đình Vân ra sao, chắc bạn cũng đã nối lại liên lạc với nhau hoặc ít ra cũng hiểu được ít nhiều về nhau chứ?


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 20 Tháng Ba, 2013, 11:07:04 am
 Chào! Và xin cám ơn tất cả các anh các chị cùng các bạn đã đọc, động viên và chia sẻ bài viết của Quanvn. Xin tạm biệt và hẹn gặp lại.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: qtdc trong 20 Tháng Ba, 2013, 11:40:25 am
Chào! Và xin cám ơn tất cả các anh các chị cùng các bạn đã đọc, động viên và chia sẻ bài viết của Quanvn. Xin tạm biệt và hẹn gặp lại.
Bác quanvietnam: một câu chuyện hay, một chuyện tình đẹp mà lại không hẳn là chuyện buồn. Bác chưa hạ chữ HẾT. Cũng có nghĩa là còn gặp lại, xin chào và cám ơn bác đã chia sẻ.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: trungdoan95c trong 16 Tháng Năm, 2013, 05:28:35 pm
Cháu chào các chú, các bác. Xin cho cháu hỏi ở đây có bác nào ngày trước thuộc đơn vị c21. trung đoàn 95c. sư đoàn 9 (c21/e3/f9) không ạ? Hay có quen ai thuộc đơn vị trên những năm (1968 - 1970 ) không ạ. Cháu xin trân thành cảm ơn.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 01 Tháng Chín, 2013, 02:10:45 pm

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Đồng đội tôi
( Xin phép linh hồn của những người đã khuất, cho tôi viết bài này)
          Vậy là từ nay, tôi không còn được nhìn thấy nó bằng xương bằng thịt nữa rồi. Nó đã mất, mất trước Tết Quý Tỵ (2013) hơn một tháng. Tội nghiệp cho nó, thương nó lại oán ông Trời sao không công bằng với nó, với những người lính đã từng vào sống ra chết, được hưởng thêm một vài cái Tết nữa với vợ với con và đàn cháu nội, cháu ngoại. Đằng này lại bắt nó phải ra đi ở tuổi 61. Ở tuổi này, già không phải là già, trẻ không phải là trẻ, sự ra đi của nó để lại bao nhiêu nuối tiếc xót thương cho vợ con, cháu chắt và bạn bè. Nó là Ngô Văn T, chiến sĩ tiểu đội thông tin trinh sát C20 E95 F325, thời kỳ bảo vệ thành cổ Quảng Trị năm 1972.
   Thật là đau đớn và oan ngiệt, cái chết đến với nó, trong gia đình ai cũng biết, nó cũng biết. Nhìn thấy chết, mà nó vợ con nó và cả bạn bè cũng không biết làm cách nào để cứu được, nó bị ung thư giai đoạn cuối.
   Bây giờ ngồi nhớ lại. Trước lúc nó mất độ 2-3 tháng gì đó, tôi cũng không còn nhớ chắc chắn vào ngày nào. Chỉ biết hôm ấy cũng như những lần khác, mấy anh em cùng đơn vị C20 E95 F325 hiện đang sống ở Hà Nội, rủ nhau xuống Hưng Yên chơi, trước là thăm bạn bè sau là rủ nhau nhau uống rượu để ôn lại chuyện xưa, chuyện đơn vị, chuyện chiến trường, chúng tôi thường vẫn thế.
   Khác với mọi lần, lần này khi chúng tôi vào đến trong sân. Vợ nó và thằng con trai út, chẳng hiểu từ đâu, hớt hải chạy về. Vợ nó nói chẳng thành câu, tiếng đã méo đi, nước mắt chạy vòng quanh:
   -Khổ cho nhà em quá các anh ơi! Chắc các anh biết tin nhà em, nên mới xuống thăm.
   Mấy đứa chúng tôi ngạc nhiên nhìn nhau nhưng vẫn chưa hiểu chuyện gì, tôi hỏi lại:
    -Có chuyện gì? Em cứ bình tĩnh nói để bọn anh biết.
   Lúc này thằng con trai cả của nó và những nàng dâu cùng cả lũ cháu từ nhà bên kéo nhau sang, đứa thì chào ông, đứa thì chào bác nghe loạn cả lên. Vợ nó đưa mắt nhìn các con, có ý thăm dò xem có nên nói hay không? Cuối cùng thì vợ nó cũng quyết định nói, vợ nó nói thê thảm trong nước mắt:
    -Nhà em bị ung thư dạ dày giai đoạn cuối rồi. Các anh xem có còn cách nào cứu nhà em với, tội nghiệp cho nhà em quá! Anh ấy mà mất mẹ con em buồn lắm? Mẹ con em cầu xin các anh, các anh cố nghĩ cách cứu nhà em với.
   Tiếng khóc của vợ nó nấc lên thổn thức, nước mắt từ hai hốc mắt trũng sâu, thâm quầng chảy dài trên hai gò má đen sạm bởi nắng gió. Nhìn vợ nó, nhìn đàn con, đàn cháu của nó mà chúng tôi không kìm nổi nước mắt.
   Cùng đi với tôi, tôi là người lớn tuổi nhất nên anh em nhìn tôi có ý thúc dục, anh nói gì đi chứ. Bối rối và xúc động, người tôi ớn lạnh, tóc gáy dựng lên, toàn thân sởn hết gai ốc, khi nghe thấy tin này. Tôi cũng chưa biết nói thế nào, tôi hỏi:
    -Anh T. đã biết bệnh của mình chưa?
    -Không ai nói, nhưng cháu nghĩ là bố cháu biết rồi.
    -Nhà em gan lắm, ông ấy không nói gì. Nếu có ai nói đến chuyện ốm đau là ông ấy gạt đi. Ở bệnh viện họ chỉ nói với nhà em là: Bác nghiện rượu nên gan bị ngộ độc, bây giờ chịu khó uống nấm Linh Chi để giải độc. Còn họ nói với em là: Đưa ông đi khám muộn quá, không thuốc thang nào có thể cứu được nữa. Em biết thế nhưng không giám nói với nhà em, nhưng có lẽ nhà em anh ấy cũng đoán ra.
   Vợ nó chỉ nói được bấy nhiêu rồi lại khóc. Trong hoàn cảnh này, tôi không biết nói như thế nào để động viên vợ con nó. Tôi bảo với vợ nó:
   -Em cứ bình tĩnh, để bọn anh xem thế nào đã, rồi sẽ tìm cách giải quyết. Em cứ yên tâm! Còn nước còn tát. Thiếu gì trường hợp bị bệnh viện trả về, mà gia đình cố gắng chữa trị vẫn sống thêm được cả chục năm nữa.
   Tôi còn đang nói thì nó lù lù xuất hiện ở cửa nối thông nhà trên với nhà dưới. Nó cười, vẫn nụ cười ấy. Nụ cười mà hơn 40 năm nay vẫn thế, nụ cười hiền lành nở trên đôi môi sốt rét thâm xì tự ngày nào, bây giờ đôi môi ấy không những thế mà lại còn thâm hơn vì nó đang mang trong người một căn bệnh hiểm nghèo.
  Từ lúc nhìn thấy nó, chẳng hiểu tại sao tôi cứ nghĩ:
    T. ơi! Em có biết anh em mình sắp xa nhau mãi mãi rồi không? Chiến tranh lúc trước đã không cướp được em đi, nhưng bây giờ hệ lụy của nó lại bắt em phải vĩnh viễn xa rời thế giới này. Ôi! Thật là chua xót. Hôm nay bọn anh biết nói gì với em đây?
   Tôi còn đang lúng túng, chưa biết bắt đầu như thế nào cho nó thật tự nhiên, thì nó đã hồn nhiên trách móc:
    -Đã lâu lắm rồi mới thấy anh xuống chơi, hôm nay anh xuống mà không gọi điện trước để em chuẩn bị. Tính anh lúc nào cũng quan cách, bọn em ghét cái kiểu ấy, chán anh lắm…
   Nó chẳng đợi chúng tôi thanh minh, nó quay sang nói với đám con cháu, trong đó có ý ra lệnh cho hai thằng con trai:
    -Chúng mày xem chuẩn bị cơm nước để Bố mời các bác các chú! Chúng tao ăn với nhau bát cơm để nhớ lại ngày xưa, cái ngày còn chưa có chúng mày.
   Nó cười hì hì:
    -Em nói thế có phải không anh?
   Tôi không trả lời nó, mà hỏi:
    -Bây giờ chú thấy bệnh tình trong người thế nào?
   Nó giả bộ ngạc nhiên ngơ ngác, hỏi lại tôi:
    -Bệnh gì? Ai nói em có bệnh?
   Nó quay sang nhìn vợ nó, vợ nó biết ý quay mặt tránh cái nhìn của nó. Nó làu nhàu:
    -Bà này lại lắm chuyện. Bệnh gì? Cứ toàn nói linh tinh.
   Vợ nó cãi lại nó:
    -Không bệnh mà lại phải uống thuốc.
   Tôi vội giơ tay làm hiệu đề nghị hai vợ chồng nó không được cãi nhau, rồi tôi bảo với vợ nó:
   -Em cứ để anh nói chuyện với nó.
   Tôi nhìn thẳng vào hai mắt to, tròn của nó và hỏi:
    -Bây giờ bệnh viện cho chú uống thuốc gì?
   Nó đưa hai bàn tay lên gãi gãi cái đầu đã bạc gần hết, những ngón ngắn lủn củn, các đầu móng tay và những kẽ móng tay thì đen kịt, mu bàn tay chằng chịt những vết sẹo do bị xây xước trong khi lao động. Nó gãi rất mạnh làm gầu rơi lả tả lên vai áo, nó cười bẽn lẽn vì vừa bị vợ bóc mẽ:
    -Anh đừng tin bà ấy. Đi khám bệnh, họ nói em uống nhiều rượu nên gan và máu bị nhiễm mỡ. Họ cho toàn thuốc làm cho mát gan, và họ nói là em phải uống nước nấm Linh Chi cả ngày, thay cho nước chè. Họ còn nói em phải nghỉ ngơi tĩnh dưỡng, không được lao động nặng. Chỉ có thế thôi. Anh tính, làm bác sĩ thì ai chả nói thế…
   Thằng D. cùng đi với tôi từ Hà Nội xuống, từ đầu đến giờ toàn ngồi nghe, bây giờ mới có dịp xen vào:
    -Mày ngang bỏ mẹ đi! Đúng là ngang như cua nên đầu lúc nào cũng cắt cua, tóc thì cứng như rễ tre, đầu tròn như quả gáo. Tao hỏi mày: Bây giờ mày thấy trong người thế nào? Ăn uống ngủ nghỉ ra sao? Có vậy thôi mà cứ nói linh tinh, chẳng đâu vào đâu.
   Thằng T. cự ngay:
    -Mày hỏi làm gì? Tao vẫn khỏe, ăn ngủ bình thường. Nếu cần vật nhau tao vật cho mày xem.
   Hai thằng này xưa nay vẫn thế, cứ ngồi bên nhau là kiếm chuyện cãi nhau. Bảo ngày xưa chưa có vợ có con thì đã đành. Bây giờ tất cả đã có cháu nội cháu ngoại rồi mà chúng nó vẫn chứng nào tật ấy. Tôi nhìn hai đứa và cũng quen với kiểu của chúng nó rồi, nên tôi cứ để mặc kệ hai thằng cãi nhau. Chẳng hiểu thằng D. nói cái gì, thằng T. không đợi thằng D. dứt câu, thì nó đã bổ luôn:
    -Mày thì biết cái gì! Ngồi yên mà nghe.
   Chúng nó cứ đốp chát, tiếng qua tiếng lại với nhau, một thôi một hồi. Chán rồi, sau đó hai thằng lại thì thầm to nhỏ, thi thoảng lại cười hô hố nữa chứ. Nhìn hai đứa cãi nhau, rồi lại nghĩ về bệnh tật của thằng T., lòng tôi quặn đau.
    Nhớ lại bốn mươi năm về trước, thời gian ấy chúng tôi còn trẻ lắm. Tôi là lính trinh sát, thằng D. và thằng T. là lính của tiểu đội thông tin, thuộc đại đội trinh sát C20. Chúng tôi khác nhau về nghiệp vụ nhưng không hiểu sao chúng tôi lại thân nhau. Thằng D. quê ở thị xã Hưng Yên, thằng T. quê ở huyện Khoái Châu Hưng Yên. Hai thằng chúng nó nhập ngũ cùng một đợt, nhập ngũ trước tôi, chúng nó thân nhau lắm, bất luận việc gì cũng có nhau dù là việc to hay việc nhỏ. Chúng thân nhau đến nỗi như người xưa vẫn nói: Con chấy cũng cắn làm đôi, mỗi thằng một nửa. Thằng D. và thằng T. bằng tuổi nhau, nhưng thằng D. có thể vì sinh ra ở thị xã nên có tính chảnh chọe cứ xưng anh với thằng T. Thằng T bản tính hiền lành, nhưng khi nó khùng lên nó xông vào vật cho thằng D. đổ kềnh ra, thế là nó tra tấn cho tới khi nào thằng D. van xin nó mới thả, hoặc là tôi xin hộ nó mới tha.
   Chúng tôi sống với nhau như anh em ruột thịt. Tôi cũng không biết tại sao tình cảm giữa chúng tôi trở nên như vậy. Nhất là từ khi tôi được đơn vị điều về tiểu đội thông tin. Kể từ đó chúng tôi càng thân nhau hơn, anh em trong tiểu đội tìm đủ mọi cách trang bị cho tôi kiến thức và kinh nghiệm để tôi học tập nâng cao trình độ chuyên môn. Được cái tôi rất cần cù, cộng thêm có chút ít kiến thức của một sinh viên đại học năm thứ tư, nên mọi việc đều trôi chảy, chỉ với thời gian rất ngắn là tôi có thể độc lập công tác được.
   Thời gian cứ thế trôi đi, chúng tôi sống với nhau như hình với bóng làm gì cũng có nhau, ăn cũng ăn cùng nhau, ngủ cũng nằm cạnh nhau. Những lúc đi bắt cua, đi bắn cá hay đi lấy rau rừng, khi nào ba anh em cũng cùng đi. Tất cả chuyện to chuyện nhỏ, chuyện gì của mình của gia đình đều kể cho nhau nghe. Cứ như vậy chẳng biết tự lúc nào, chúng tôi cảm thấy không thể thiếu nhau, mỗi lần một trong ba chúng tôi đi công tác thì là những chuỗi ngày lo lắng, nhớ nhung và mong mỏi. Khi chúng tôi gặp được nhau thì mọi thứ đều vỡ òa trong vui sướng.
(Còn nữa)
     


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: sauchinbaymot trong 01 Tháng Chín, 2013, 11:30:36 pm
Bạn tôi giới thiệu: Anh là trinh sát C20-E95-F325. Biết tin có cuộc gặp mặt của C20 sư đoàn nên lặn lội từ quê lên, cùng là lính trinh sát với nhau. Ang đang rất xúc động với tấm ảnh do bạn trinh sát ảnh của sư đoàn tặng. Ảnh chụp một sáng đầu tháng 5/1975, ở trước dinh Độc Lập.

Nom người trong ảnh chỉ thấy nhang nhác giống anh. Ai mà chả thế, lúc 20 và lúc 60 tuổi khác đi nhiều.

Anh hào hứng kể với tôi: Mong ngày mai về khoe ảnh với vợ con. Chắc cả nhà ngạc nhiên và sung sướng lắm. Tôi hỏi:
-Anh ở dưới quê à? Chắc ít dùng máy tính?
- Chưa bao giờ!
- Nhưng chắc con cái thì thế nào mà chả có đứa dùng máy tính?
- Có, con dâu.
- Anh gọi nó, xin cái địa chỉ hòm thư vi tính (ý nói email), rồi tôi gửi luôn về cho vợ con xem ngay.
Anh ngỡ ngàng không hiểu tôi nói gì. Sau một hồi giải thích, anh lấy điện thoại gọi điện:
- Con à, con nói chuyện với bạn bố này.
Hỏi được cái địa chỉ cô con dâu, có cái tên xyz...ql, tôi tò mò:
- Con dâu họ Quách à?
- Không!
-Sao thấy tên nó có chữ QL.
Nghĩ một lát, anh bảo:
- À, quờ lờ là Quất Lâm, quê tôi mà lị.
Tôi gửi luôn cái ảnh theo địa chỉ cô con dâu. Sốt ruột, anh gọi điện thoại hỏi con dâu luôn. Rồi bố con réo rắt chuyện gì, chỉ thấy anh cười rạng rỡ: "Cả nhà đang xúm lại xem, thích quá. Tý nữa, anh chụp cho tôi mấy cái, gửi giúp tôi nhé".

   


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: vanthang341ht trong 02 Tháng Chín, 2013, 03:08:29 pm

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Đồng đội tôi

     6 tháng rồi. bây giờ mới quay trở lại trang viết của mình, lại tiếp chuyện đồng đội tôi, đồng đội của chúng ta. quanviẹnam đã lâu làm gì mà vắng dài thế. Mong tiếp đọc chuyện của bạn.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 04 Tháng Chín, 2013, 11:09:27 am
   Chào tất cả anh em trên diễn đàn, chào anh sauchinbaymot, chào bác vanthang 341.
   Anh sauchinbaymot thân mến! Tôi không hiểu anh định nói gì, mong anh thông cảm. Nhưng nhìn vào bức ảnh này, tôi nhớ ngay:  Đây là đồng chí Tuyến, chiến sĩ liên lạc của C20 E95 F325. Tên lý lịch là Tuyến, tên thường gọi là: “Ba toe”. Thường vào những ngày cuối tuần của tuần thứ tư, cuối tháng 10 hàng năm là C20 lại tổ chức gặp nhau. Năm nay, tổ chức ở QL.
   Bác vanthang ơi! Câu hỏi của bác khó quá. Ở cái tuổi này, là lực bất tồng tâm rồi. Ý chí thì có nhưng sức khỏe thì không, muốn lắm nhưng không thể viết được, bác thông cảm, thôi thì nhúc nhắc cho nó vui, mà cũng là đỡ nhớ anh chị em trên diễn đàn.
   Kính!


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 09 Tháng Chín, 2013, 10:51:08 am

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Đồng đội tôi
( Xin phép linh hồn những người đã khuất, cho tôi viết bài này)
     Ở chiến trường Quảng Trị khi ấy chiến tranh vô cùng ác liệt, sự sống và cái chết lúc nào cũng cận kề, cái chết có thể ập tới bất cứ lúc nào và cũng lạnh lùng cướp đi sự sống của bất kỳ ai. Cũng từ hoàn cảnh ấy chúng tôi càng thương nhau hơn, quan tâm chăm sóc cho nhau từng ly từng tý, nhiều lúc tôi nghĩ: Ngay cả anh em ruột thịt cũng không thể có được những tình cảm ấy. Tình cảm của anh em chúng tôi phát triển tự nhiên là như vậy, tuy chúng tôi không ai nói ra nhưng tất cả ba anh em đều mặc nhiên thừa nhận: Ba anh em là một, nếu có chuyện gì xẩy ra thì người còn lại phải có trách nhiệm đến cùng… May mắn cho anh em chúng tôi, thời gian cùng với sự gian khổ và ác liệt cũng qua đi.
  Trung tuần tháng 2 năm 1975, chiến dịch mở ra. Tất cả trung đoàn 95 sư 325 đi tham gia chiến dịch, C20 của chúng tôi nằm trong đội hình của trung đoàn. Đơn vị ngày đêm lầm lũi bí mật hành quân từ Quảng Trị qua đất bạn Lào, cứ như thế chúng tôi cứ đi đi mãi, ngày này qua ngày khác, sau đó chúng tôi lại trở về Việt Nam. Cho đến đêm mồng 9 rạng sáng mồng 10 tháng 3 năm 1975, mở màn chiến dịch. Đơn vị chúng tôi bắt đầu tham gia vào cuộc chiến đấu mới, tất cả đều mới lạ, từ địa hình, khí hậu, thổ nhưỡng cho đến các đơn vị hợp đồng tác chiến, phương án tác chiến. Tất cả đều khác không giống như thời kỳ chúng tôi chiến đấu ở Quảng Trị. Do đặc thù của chiến dịch nên không có thời gian để chúng tôi được làm quen, mà chúng tôi buộc phải thích ứng ngay để đáp ứng được yêu cầu của chiến dịch. Mở đầu chiến dịch là giải phóng Buôn Ma Thuột, rồi Cheo Reo – Phú Bổn, tiếp theo là Long Khánh – Xuân Lộc, cuối cùng là chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Miền Nam.
  Trong suốt thời gian tham gia chiến dịch, đơn vị tôi tổn thất cũng nhiều, có lẽ tổn thất nhiều nhất vẫn là việc chọc thủng vành đai tử thủ Xuân Lộc của Ngụy quyền Sài Gòn. Thật phúc đức cho cả ba chúng tôi là không ai bị thương, mà cũng chả bị làm sao cả. Về đến Thành Tuy Hạ chúng tôi được cử đi làm công tác dân vận một thời gian, kết thúc đợt công tác cũng là lúc những anh em sinh viên chúng tôi tạm biệt đơn vị trở về Miền Bắc tiếp tục đi học.
    Hôm chia tay đơn vị, chia tay hai đứa em, thằng D với thằng T. Tôi không sao cầm được nước mắt, ôm chúng nó trong vòng tay, tôi mếu máo nói trong nước mắt: “Anh sẽ về thăm chúng mày”. Kể từ đó: Ngần ấy thời gian xa nhau, cũng là ngần ấy thời gian tôi dõi theo tin tức của chúng nó. Lời hứa: Anh sẽ về thăm chúng mày cứ canh cánh bên lòng. Hứa thì như vậy, nhưng kẹt một nỗi, khi tôi về Miền Bắc thì chiến tranh biên giới Tây Nam lại nổ ra, hình như trung đoàn 95 của sư 325 lại lao vào chiến dịch.
   Phần tôi, do hoàn cảnh và điều kiện sống khi đó quá khó khăn, trong khi đó sức khỏe tôi thì yếu. Mặc dù vậy nhưng tôi vẫn không cho phép mình được nghỉ ngơi, vẫn phải cố gắng học tập mong có được cái cần câu cơm. Tôi vẫn biết, có được cái cần câu cơm cũng đồng nghĩa với việc phải chấp nhận rời miền xuôi để lên miền núi làm nghề xây dựng thủy điện, nghề nghiệp mà biết làm sao được. Thế là tôi mất hẳn tin tức của đơn vị và hai đứa chúng nó…
   Bẵng đi một thời gian dài. Rồi đến một ngày khoảng tháng 8 hay tháng 9 năm 1981, khi đó tôi được biệt phái về Hà nội công tác. Vào một buổi sáng, có lẽ hôm đó là chủ nhật.  Tôi gặp thằng D trong tình huống vô cùng hy hữu, từ bất ngờ đến ngạc nhiên. D. tìm đến nhà tôi, khi đó trên người nó chỉ còn độc chiếc quần đùi, ngoài ra không còn thứ gì khác. Sau 6 năm mới lại gặp nhau, nhẽ ra hai anh em phải tay bắt mặt mừng mới phải, đằng này nhìn bộ dạng nó, tôi không làm được điều ấy mà hai tay tôi cứ nắm hai bả vai của nó mà lắc rất mạnh và hỏi dồn dập:
-   Tại sao mày lại như thế này? Bây giờ mày làm gì? Ở đâu?
   Cứ thế là tôi hỏi dồn, nhìn mặt nó đờ đẫn, tay chân lóng ngóng. Tôi thấy thương nó quá, nhưng vì tôi quá bất ngờ khi nhìn thấy nó thế này nên tôi vẫn cứ hỏi dồn:
-   Mày nói đi chứ? Tại sao lại ra nông nỗi này?
   Nó vẫn không nói gì mà trân trân nhìn vào tấm vải hoa mầu xanh nhạt, do vợ tôi treo lên giả làm lido để ngăn căn phòng thành hai phần. Năm, mười phút trôi qua nó vẫn ngồi bất động. Lúc này tôi cảm thấy bất lực, vừa giận lại vừa thương đành ngồi nhìn nó. Đầu óc tôi rối tung lên, tôi thật sự không biết phải làm thế nào? Nó không nhìn tôi, nhưng nó biết tôi đang nhìn nó. Cái nhìn sắc lạnh, soi mói của tôi làm khuôn mặt của nó tái nhợt đi, mặt nó nổi da gà, răng thì nghiến chặt làm hàm bạnh ra dần giật. Hình như nó đang suy nghĩ cái gì đó rất quan trọng? Tôi hồi hộp chờ đợi. Nó vẫn không nhìn tôi, nhưng nó nói với tôi:
   -Chuyện dài lắm, khi nào có điều kiện em sẽ kể cho anh nghe.  Bây giờ anh cho em mượn bộ quần áo để em về nhà.
    Có rất nhiều vấn đề mà tôi cần phải làm rõ, nhưng có lẽ vào lúc này không tiện, tôi nghĩ thế nên tôi gạt ngay những suy nghĩ ấy ở trong đầu. Tôi không nói gì, lặng lẽ đi chuẩn bị những thứ mà nó yêu cầu. Lúc này vợ tôi đang ru con bé con ngủ trên giường kê sát tấm lido. Thấy tôi chui qua tấm lido, vợ tôi nhìn tôi dò xét. Tôi biết vợ tôi phần nào cũng đoán được câu chuyện giữa hai chúng tôi. Tôi ra hiệu cho vợ tôi im lặng.
  Qua một vài giây đấu tranh tư tưởng, tôi quyết định đưa cho D. mượn bộ quần áo mà tôi ưng ý nhất, cũng là mới nhất của tôi. Thú thực là tôi chỉ có ba bộ quần áo, hai bộ cũ mầu đã bạc, áo thì sờn vai, quần cái thì tích kê mông, cái lộn ống. Bộ quần áo mà tôi đưa cho D là mới nhất, cái áo hoa là hàng viện trợ, khi phân cho Đoàn thiết kế Hòa Bình tôi bắt thăm trúng được, còn chiếc quần vải Simily mầu xanh cửu long là tôi mới mua 28 đồng. Mua được chiếc quần này là tôi phải đi đội than thuê cho xưởng thủy tinh ở đê La thành, đường Đại Cồ Việt cổng bên của trường ĐHBK.
   Thằng D. mặc quần áo vào, trông nó khá hơn ban nãy. Tuy nó mặc hơi dài và rộng, nhưng cái cơ bản là đã che lấp được tấm thân còm cõi của nó. Chẳng biết trước kia nó có béo tốt không? Nhưng từ khi tôi biết nó cho tới bây giờ thì nó gần như không có thay đổi gì.
   -Tình hình thằng T. thế nào rồi? Lâu nay mày có gặp nó không?
  Tôi hỏi nó. Mặt nó lạnh tanh, vẫn cố tình trốn cái nhìn của tôi. Nó bảo:
   -Anh cứ yên tâm. Thằng T. bây giờ no thì chưa no, nhưng cũng không chết đói.
   Nó định nói thêm cái gì đó với tôi, nhưng nó ngần ngừ một lúc rồi nói rất nhanh:
  - Bây giờ em xin phép về nhà kẻo lỡ hết việc. Em giải quyết công việc ổn thỏa xong em sẽ kể anh nghe. Thôi em về đây!
    Chẳng đợi sự đồng ý của tôi thế là nó đi, bước ra khỏi cửa nó cắm đầu đi thẳng, dáng đi của nó vẫn như ngày nào, chỉ có điều bây giờ nó đi giữa hai dãy nhà tập thể lụp xụp xiêu vẹo của Ban công tác Sông Đà. Chứ không phải đi giữa rừng Sim rừng Mua như hồi còn ở Quảng Trị…
   -Anh uống nước đi!
   Thằng T. mời tôi uống nước, đã  kéo tôi trở về với thực tại. Tôi giơ tay đỡ chén nước từ tay nó. Chén nước trà vừa mới pha còn đang nóng hổi, hơi nước bốc lên từ miệng chén mang theo mùi hương thơm ngào ngạt rất đặc trưng của hương vị chè Thái Nguyên. Nhấp ngụm nước trà, tự nhiên tôi lại nhớ đến thời kỳ giải phóng Buôn Ma Thuột. Tôi hỏi thằng T.:
   -Chú còn nhớ hồi giải phóng Buôn Ma Thuột không? Tôi đổi cách xưng hô cho thân mật.
   -Có chứ! Em làm sao quên được. Nhưng mà anh nói thế là có ý gì?
   -Chả có ý gì cả. Anh thấy chú mời anh uống nước, làm anh nhớ lại hồi ở chiến trường chú cũng thường xuyên pha nước mời anh. Nhưng ngày ấy chỉ có chè Blao, còn bây giờ là ở quê và chè là chè Thái Nguyên.
   Gợi ý của tôi đến kỷ niệm xưa, làm cho thằng T. vui vẻ hẳn lên, nó quên đi những ưu tư về căn bệnh trầm kha mà nó đang phải gánh chịu, nó hăng hái kể:
   -Hồi còn ở Nại Cửu, tuy là thiếu thốn. Nhưng ăn dè hạt tiện thì cũng đủ dùng, không đến nỗi phải nhịn anh nhỉ!
   Nó mơ màng nhìn lên trần nhà trầm tư suy nghĩ, rồi lại bắt đầu với cái giọng buồn buồn:
   -Được cái, dạo ấy thi thoảng cũng có dăm bao thuốc lá, vài bịch thuốc lào và một vài lạng chè của những anh em trong đơn vị đi công tác mua về. Thời kỳ ấy gọi là khan hiếm nhưng còn chịu được. Nhưng có lẽ khổ nhất là lúc anh em mình hành quân đi chiến dịch. Khi đó đã gian khổ vất vả thì chớ lại còn hoàn toàn bị động nữa chứ, anh em mình cứ nháo nhác  hỏi nhau: Không biết mình đang đi đâu? Đi vào hay đi ra? Từng chặng từng chặng, có giao liên dẫn đường, anh em mình chỉ biết đi như những cỗ máy. Nếu mà đi bên đất Việt Nam thì còn có thể đoán già đoán non. Đằng này lại đi trên đất bạn Lào nên cũng chẳng biết thế nào? Thôi đành nhắm mắt đưa chân, có phải thế không anh?
   Tôi ừ để phụ họa với nó, nó đẩy chén nước đến gần tôi và dục:
  - Anh uống đi cho nóng.
   Tôi nâng chén nước lên nhấm nháp, còn nó lại tiếp tục kể về cuộc hành quân qua đất bạn Lào, tôi nghe câu được câu chăng. Lúc này ở bàn nước chỉ có tôi với nó, còn mọi người đã tản đi ai vào việc nấy. Mấy đứa em cùng đi với tôi cũng kéo nhau ra ngoài ao ngoài vườn nhà thằng T. để ngắm nhìn thành quả lao động của vợ chồng nó. Tôi nghĩ: Nhân dịp này nên hỏi cho cụ thể xem bệnh tình của nó thế nào? Tôi đứng lên sang ngồi bên cạnh nó, chắc nó cũng đoán được ý đồ của tôi, nhưng nó vờ như không biết, mà vẫn tiếp tục câu chuyện còn đang dở dang. Đến khi tôi hỏi nó:
   -Dạo này chú thấy trong người thế nào?
   Nó dừng lại, đảo mắt nhìn xung quanh. Khi chỉ thấy có hai anh em nó mới nói:
   -Anh hỏi thì em cũng nói thật. Em sợ vợ con em nó buồn, em không giám nói. Thực ra là hết cách rồi anh ạ!
   -Cơ sở nào chú lại giám khẳng định như vậy?
   -Bác sĩ nói cũng là một phần để em khẳng định, nhưng cái mà em thấy rõ nhất là sức khỏe của em. Nhiều đêm em đau không ngủ được, em sợ làm ảnh hưởng đến vợ con, em len lén ra ngoài bờ ao ngồi trong cái chòi canh cá để chấp nhận những cơn đau hành hạ. Ở ngoài đấy em còn có thể rên được cho bớt đau, nhiều hôm đau quá em hết vật vã trên chõng rồi lăn xuống dưới đất, mệt quá em thiếp đi. Hình như có điềm báo trước anh ạ, em mơ thấy bố mẹ và vợ con thì ít, nhưng chẳng hiểu sao em lại mơ đến các anh, đến đơn vị lại rất nhiều. Em nghe người ta nói: Những người sắp chết thường nói ra những lời hay và hay nhắc lại những chuyện của quá khứ…
(Còn nữa)



Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: vanthang341ht trong 09 Tháng Chín, 2013, 09:17:24 pm

    quanvietnam lại làm tôi hồi hộp đón đọc để biết số phận thằng D thế nào đây?


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 16 Tháng Chín, 2013, 10:21:48 am

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Đồng đội tôi
( Xin phép linh hồn những người đã khuất, cho tôi viết bài này)
          Nó dừng lại dò xét xem thái độ của tôi phản ứng thế nào? Quả thật lúc này tôi thấy hơi rờn rợn, nỗi sợ hãi chạy dọc theo sống lưng làm người tôi lạnh toát, toàn thân tôi nổi da gà. Không phải khi nghe nó nói đến sự chết chóc làm tôi sợ, mà tôi sợ những điều huyền bí, những linh tính báo trước. Chẳng biết những điều huyền bí, hay những linh tính báo trước, có bao nhiêu chuyện đúng và có bao nhiêu chuyện không đúng, nhưng mà tôi vẫn sợ. Bởi vì có một lần chúng tôi đã gặp, mà chắc là thằng T. cũng biết, chuyện ấy xảy ra cách đây hơn 40 mươi năm rồi.
   Dạo ấy vào khoảng trung tuần tháng 11 năm 1972, sau khi trung đoàn 95 rút khỏi thành cổ Quảng Trị, ra Cam lộ để nghỉ ngơi và củng cố lực lượng. Ở đó được một thời gian ngắn, trung đoàn lại nhận nhiệm vụ kéo vào để thay thế một đơn vị đang chốt giữ khu vực phía Tây Bắc thành cổ Quảng Trị, bên bờ Nam sông Thạch Hãn. Gọi là khu vực thì có vẻ rộng lớn mênh mông, kỳ thực nó là một dẻo đất hẹp, ôm lấy bờ Nam sông Thạch Hãn kéo dài từ Nham Biều lên đến tận Đá Đứng. Nếu lấy mép nước sông Thạch Hãn làm chuẩn, chỗ rộng nhất mà trung đoàn 95 chiếm giữ chưa đến 7-8 trăm mét, chỗ hẹp nhất là khu vực Đá Đứng thì địch ở trên đồi ta ở mép nước. Phải thừa nhận ta đang ở thế hoàn toàn bất lợi, bọn địch lợi dụng thời cơ này đang cố gắng đẩy chúng ta ra khỏi bờ Nam sang bờ Bắc. Cả ta và địch, đều ý thức được tầm quan trọng của dẻo đất này nên một bên quyết giữ còn một bên quyết đánh bật đối phương ra khỏi vị trí chiến lược này. Hậu quả là dải đất này thấm đẫm máu của ta và địch.
   Đồi Chè, ở thôn Như Lệ là một địa danh có lẽ không bao giờ có thể quên được trong tâm khảm của những người lính trung đoàn 95 sư 325 lúc bấy giờ. Gọi là Đồi Chè, có lẽ là do anh em bộ đội ta đặt cho dễ gọi, thực ra nó là cao điểm 29 hay là 25 gì đó. Cao điểm này nếu so với dãy đồi phía trong gần ngã ba Phước Môn thì rất thấp, nhưng được cái cao điểm này nằm rất gần sông Thạch Hãn, nếu địch chiếm giữ được cao điểm này thì chúng hoàn toàn có thể khống chế được đoạn sông Thạch Hãn kéo dài từ khu vực sát với Đá Đứng đến Tân Mỹ. Dọc tuyến sông này chính là đường giao thông huyết mạch của bộ đội ta. Tất cả vũ khí, quân trang quân dụng, nhu yếu phẩm, thương binh v.v đều được chuyển qua đoạn sông này bằng những bến vượt.
  Xuất phát từ địa thế chiến lược, nên Đồi chè trở thành điểm nóng của khu vực này, chính vì vậy nên chiến sự xảy ra liên miên không kể ngày đêm, lúc địch chiếm, lúc bộ đội ta lấy lại. Đồi chè, lúc đầu còn có cây cối mọc xanh um, thế mà chỉ sau một thời gian, không còn nhìn thấy bóng cây cỏ nào mọc trên đỉnh đồi. Nhìn đỉnh đồi lúc ấy giống như một người bị hói đầu, xung quanh còn lơ thơ một vài cây cỏ bị đạn pháo làm tiêu điều xơ xác, trên đỉnh thì đỏ quạch, mỗi khi có đạn pháo của địch bắn vào, thì những cột khói hình nấm, mầu nâu đất cuồn cuộn bốc lên bao phủ toàn bộ quả đồi.
   Do mật độ các loại đạn pháo của địch bắn vào dày đặc, cùng với sức công phá của các loại vũ khí bộ binh trong các trận quyết chiến giữa ta và địch. Đất trên đỉnh đồi trở thành cát bụi, không có sinh vật nào có thể tồn tại ở đây được, chỉ tồn tại những trận đọ súng quyết liệt để chiếm lấy cao điểm chiến lược này. Đồi chè khi ấy là nỗi kinh hoàng của ta và địch, ác liệt chẳng khác gì Thành cổ Quảng Trị mấy tháng trước.
   Tôi hỏi T.:
   -Chú có còn nhớ chuyện đi trinh sát Đồi chè của thằng Th., tiểu đội trưởng tiểu đội 4, người Xuân thủy Nam Định Không?
   -Chuyện ấy em không biết cụ thể, nhưng em nghe anh V. kể lại. Đợt ấy hình như em đang ở đài quan sát đầu cầu Quảng Trị.
   Suy nghĩ một lúc rồi T. bảo tôi:
   -Đấy anh thấy chưa? Rõ ràng là linh tính mách bảo còn gì?
   Tôi không dám tranh luận với nó cái đấy là đúng hay là sai, vấn đề ở đây tôi muốn nó đừng nghĩ đến những điều mà nó mộng mị để rồi suy luận, nghĩ hết khôn lại dồn sang dại. Tôi nói với nó:
   -Hai chuyện khác nhau, một đằng là chiến tranh, một đằng là bệnh tật, hai lĩnh vực này không thể so sánh với nhau được, chú cứ nghĩ ngợi nhiều lại thêm ốm. Sống hay chết con người đều có số, muốn cũng chẳng được.
   Nói với nó để động viên và an ủi nó vậy thôi, chứ thực ra câu chuyện xảy ra với thằng Th. không thể lý giải nổi. Tôi nhớ:
   Chiều hôm ấy, cỡ khoảng độ 4 giờ hay 4 rưỡi gì đó. Khi đó, nhóm trinh sát và thông tin trinh sát của C20 E95 F325 đang ở bờ Bắc sông Thạch Hãn. Căn hầm của chúng tôi được đào dưới chân bụi tre gai bên bờ sông. Vị trí căn hầm này cực an toàn, để có thể phá hủy được căn hầm này chỉ có thể là bom hay là pháo, mà ở đây thì không thể có bom được, vì ta và địch ở gần nhau và đan xen nhau, nếu địch dùng máy bay thả bom có khi lại trúng vào đội hình địch nên chúng không dám. Vậy thì chỉ còn pháo, nếu pháo bắn 2-3 quả đều trúng một chỗ thì mới khoan thủng được bụi tre gai này, điều này chắc là không thể. Chính vì vậy chúng tôi chọn nơi đây làm vị trí tập kết để chuẩn bị xuất phát.
   Cũng như mọi khi, trước giờ xuất phát chúng tôi ngồi bên nhau ở căn hầm âm, chuyền tay nhau chiếc điếu cày, nõ điếu đã nóng ran vì nhiều người hút và bị hút liên tục. Khói thuốc lào bay mù mịt trong gian hầm, chúng tôi không ai nói với ai, tất cả im lặng. Giờ xuất phát đi làm nhiệm vụ của trinh sát là chúng tôi rất kiêng kỵ, thường chúng tôi rất ít nói mà chỉ nhìn nhau là chủ yếu. Những gì thực sự cần thiết thì mới nói, tránh nói linh tinh để không phạm vào những điều kiêng kỵ hay nói những điều gàn gở.
   Lần này Th. tiểu đội trưởng của tôi, dẫn một tổ ba người đi trinh sát Đồi chè. Tôi không đi đợt này mà chỉ là quân số dự bị, ngồi cùng với anh em tôi chăm chú quan sát mọi người. Tôi thấy thật là lạ: Tại sao hôm nay tiểu đội trưởng của tôi lại mang bộ quần áo mới tinh còn đang nguyên nếp. Tôi rất thắc mắc tại sao hôm nay có điều khác thường như vậy? Nhưng do kiêng kỵ nên tôi lặng yên không dám hỏi.
   Tiểu đội trưởng của tôi người Xuân Thủy Nam Định, tên là Nguyễn Xuân Th. . Tiểu đội trưởng kém tôi 4-5 tuổi nên lúc nào cũng gọi tôi là anh “Già”. Th. đẹp trai, cao to trắng trẻo, nhưng hơi mập, rất giỏi võ trinh sát. Con người của Th. là hiện thân của tuổi trẻ năng động và hoạt bát, nụ cười lúc nào cũng nở trên môi, hai lúm đồng tiền hai bên má có lẽ làm giảm đi nam tính của Th. nhưng bù lại là làm cho khuôn mặt của Th. duyên hơn, hấp dẫn hơn. Có cái chung nhất mà mọi người đều nhận xét về Th. là: Nhìn thấy Th. cười là quên đi sự mệt mỏi và quên luôn cả cuộc chiến tranh đang hiện hữu.
   Đến giờ xuất phát, mọi người lục tục ra đi. Chúng tôi kiêng việc bắt tay tạm biệt hay tiễn đưa, thay vào đó chúng tôi chỉ nhìn nhau, những ánh mắt nói lên hy vọng hẹn gặp lại. Chúng tôi đứng lên dõi theo bóng của ba người lúc ẩn lúc hiện sau những bụi tre gai, rồi cả ba chiếc mũ tai bèo được ngụy trang bằng cỏ cũng lẫn vào những vạt cỏ tranh và mất hẳn.
  Mọi người đi rồi chỉ còn lại tôi với anh V., anh là lính thông tin. Anh V. cũng quê ở Xuân Thủy Nam Định thì phải, trước lúc nhập ngũ anh là giáo viên dạy cấp hai. Nghe nói anh V. có vợ xinh lắm, kém anh đến 5-6 tuổi, mọi người cứ trêu anh là tảo hôn. Lại thấy anh gày gò ốm yếu, nên mọi người vẫn hay công kích: Khổ chưa? Ai bảo cứ ham lấy vợ trẻ, cả mái thì hại trống. Bây giờ mà túm tóc thì rũ ra một đống xương…
   Công bằng mà nói thì anh V. gầy thật, đã thế người anh lại cao, lưng hơi còng, dáng đi lúc nào đầu cũng chúi về phía trước. Nếu mà cân vội cả bì và có chiếu cố thì cũng chỉ được đến 45 KG là cùng. Con người anh là thế, cộng với tính cách sinh hoạt của anh, lúc nào người ta cũng thấy anh buồn rầu, anh nói anh bị bệnh đau đầu và rất ít khi người ta nhìn thấy anh cười…
   Anh V. thấy tôi ngồi im lặng, Anh cũng im lặng. Một lúc sau anh mới cất tiếng:
   -Hôm nay nhìn thằng Th. ông có thấy có điều gì khác không?
   Như được gãi đúng chỗ ngứa, tôi vội hỏi ngay:
   -Có! Chẳng hiểu tại sao hôm nay nó lại mặc bộ quân phục mới anh V. nhỉ?
   Tôi với anh V. có lẽ ngang tuổi nhau, nhưng vì tôi nhập ngũ sau, ít tuổi quân hơn, để lịch sự tôi gọi anh ấy bằng anh và xưng tôi. Còn anh V. lúc nào cũng xưng hô với tôi bằng cụm từ: Ông ông tôi tôi. Anh V. im lặng một lúc, mặt đanh lại giống như sắp có chuyện gì xảy ra, mấy lần anh V. uốn lưỡi định nói xong lại thôi. Tôi gặng hỏi:
   -Theo anh thì có gì khác?
   Bị tôi dục, Anh V. miễn cưỡng nói:
   - Ban nãy, trước khi đi. Tôi thấy thằng Th. mặc bộ quân phục mới, tôi thấy làm lạ nên mới hỏi nó, nó cười toe toét rồi kể với tôi và cũng không quên hẹn tôi là đừng kể với ai, nếu mọi người mà biết thì nó xấu hổ lắm. Nó nói: Chuẩn bị đi, tự nhiên em thấy đau bụng. Em vội vàng cầm xẻng ra hố bom ở đàng kia đào hố mèo để đi ngoài, xong rồi lúc em đứng lên thì mặt mũi xây xẩm ngã ngay vào hố mèo chưa kịp lấp. Em xấu hổ quá, và sợ mọi người nhìn thấy, em vội vàng cởi bỏ ngay bộ quần áo ấy rồi chạy về hầm lấy bộ này để thay. Nó cười và nói với tôi: Bộ này là em mới được phát, chưa mặc lần nào, lần này đi trinh sát em mặc để mở hàng.
   Kể đến đấy anh dừng lại bật công tắc máy thông tin 2W, anh đăm chiêu nhìn vào kim đồng hồ chạy trên bảng chia vạch tần số của máy thu phát, tay phải anh nhấn vào Manips điệu bộ giống như anh đang phát tín hiệu thông tin lên sóng vô tuyến. Nhưng đấy là do thói quen, bởi lúc này chưa đến giờ liên lạc. Tôi ngồi yên lặng chờ đợi xem kết thúc câu chuyện của hai anh em anh V. thế nào? Một lát sau anh V. vừa gõ manips vừa nói:
   -Tôi chẳng biết nói gì, chỉ nhếch mép cười gượng gạo. Nhưng lúc này trong đầu tôi luôn nghĩ là có điềm gì đó báo trước, nghĩ vậy thôi nhưng tôi không nói ra. Mà thực ra tôi cũng chẳng có cơ sở nào để nói rằng việc nó ngã như vậy là có điềm báo trước. Mà có nói thì nó cũng chả tin, đôi khi nó cho mình là gàn dở nói những điều xúi quẩy.
   Ngừng một lát, anh V. nói tiếp:
   -Tôi cũng nói suy nghĩ của tôi để ông biết thôi, đừng nói với ai. Nói ra mọi người cho rằng hai ông “Già” cứ toàn nói linh tinh làm ảnh hưởng tư tưởng của anh em trong đơn vị.
   Tôi đồng ý với ý kiến của anh V., chẳng gì thì anh V. cũng là một thầy giáo dạy cấp hai, còn tôi cũng là một sinh viên Năm thứ tư của một trường đại học. Ai lại đi nói những điều mà chính bản thân mình cũng nhận thấy là không có cơ sở.
  Buổi chiều hôm ấy qua đi, màn đêm buông xuống. Tôi chắc, chỉ có hai người chúng tôi đang sốt ruột chờ  tổ trinh sát Đồi Chè trở về.
(Còn nữa)





Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 16 Tháng Chín, 2013, 07:16:45 pm
            Chào bác quanvietnam! Chuyện bác kể hay, vẫn thật hay. Trong câu chuyện có ý tâm linh hay linh tính này thì đúng là ở đơn vị nào cũng có. Có nhiều người còn nói trước được những việc mà sau này sự việc xẩy ra gần đúng như vậy hoặc là nói "gở" cũng hay dẫn đến cái chết.

           Nhưng chẳng lẽ con người ta lại có "số". Vậy một trận bom, một trận chiến hay những Đại hồng thủy chẳng hạn. Có hàng vạn người chết đều chung một số phận hay sao .. ??? ??? ???

           Tranphu cùng anh em đang chờ đón tiếp bài viết của bác xem cái linh cảm về bộ đồ mới nguyện nếp thế nào? Chúc bác chủ luôn vui khỏe!


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quangcan trong 19 Tháng Chín, 2013, 04:55:29 pm

...  Đồi Chè, ở thôn Như Lệ là một địa danh có lẽ không bao giờ có thể quên được trong tâm khảm của những người lính trung đoàn 95 sư 325 lúc bấy giờ. Gọi là Đồi Chè, có lẽ là do anh em bộ đội ta đặt cho dễ gọi, thực ra nó là cao điểm 29 hay là 25 gì đó. Cao điểm này nếu so với dãy đồi phía trong gần ngã ba Phước Môn thì rất thấp, nhưng được cái cao điểm này nằm rất gần sông Thạch Hãn, nếu địch chiếm giữ được cao điểm này thì chúng hoàn toàn có thể khống chế được đoạn sông Thạch Hãn kéo dài từ khu vực sát với Đá Đứng đến Tân Mỹ. Dọc tuyến sông này chính là đường giao thông huyết mạch của bộ đội ta. Tất cả vũ khí, quân trang quân dụng, nhu yếu phẩm, thương binh v.v đều được chuyển qua đoạn sông này bằng những bến vượt....

Điểm cao 29 ạ!


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 20 Tháng Chín, 2013, 10:52:08 am

 Cám ơn anh TP; anh QuangCan đã giúp đỡ. Nhìn dòng sông Thạch Hãn trên mảnh bản đồ của anh, lòng tôi lại bồi hồi nhớ lại những “từ” những “ câu” tôi cố ghép lại để gọi là thơ. Nay tôi xin đăng lại
SÔNG THẠCH HÃN
Nhìn dòng Thạch hãn lững lờ trôi,
Ai nói được sông từ bao đời,
Ai nhớ được sông bao nhiêu tuổi,
Sao sông cổ kính thế sông ơi?

Sao sông trầm tĩnh thế sông ơi,
Chiến tranh ác liệt đã qua rồi.
Sông ôm vào lòng bao chiến tích,
Sông cứ âm thầm lặng lẽ trôi.

Thạch hãn ơi! Ngầm Phương thuý ơi!
Bốn mươi năm trước,đã một thời,
Đạn bom quân địch cày tan nát,
Sông nước đục ngầu,lẫn máu rơi.

Nhớ ngày ác liệt ấy sông ơi,
Sông có biết không? đã bao người,
Ra đi chiến đấu không về nữa
Ở lại với sông mãi muôn đời.



Xuôi bến Tích tường đi sông ơi,
Ghé  thăm Như lệ gần đó thôi,
Cao điểm hai chín,tuy bé nhỏ.
Vang dậy chiến công của một thời.

Trở về Thành cổ đi sông ơi!
Thăm lại bến xưa đã bao người,
Hy sinh chiến đấu giữ Thành cổ,
Tám mốt ngày đêm quyết chẳng rời.

Sông ơi! sông cứ chảy về xuôi
Ra thăm cửa Việt đi sông ơi,
Nơi ấy đã ghi bao dấu tích.
Của thời đánh địch đấy, sông ơi.

Đã bốn mươi năm rồi,sông ơi
Đoàn cựu chiến binh về thăm người,
Dòng sông Thạch hãn vẫn còn đấy.
Cổ kính muôn đời Thạch hãn ơi.
                                                                Hà nội,tháng 9 năm 2011.

                                                         




Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: nguyenhuuluanc17 trong 20 Tháng Chín, 2013, 12:36:51 pm


...  Đồi Chè, ở thôn Như Lệ là một địa danh có lẽ không bao giờ có thể quên được trong tâm khảm của những người lính trung đoàn 95 sư 325 lúc bấy giờ. Gọi là Đồi Chè, có lẽ là do anh em bộ đội ta đặt cho dễ gọi, thực ra nó là cao điểm 29 hay là 25 gì đó. Cao điểm này nếu so với dãy đồi phía trong gần ngã ba Phước Môn thì rất thấp, nhưng được cái cao điểm này nằm rất gần sông Thạch Hãn, nếu địch chiếm giữ được cao điểm này thì chúng hoàn toàn có thể khống chế được đoạn sông Thạch Hãn kéo dài từ khu vực sát với Đá Đứng đến Tân Mỹ. Dọc tuyến sông này chính là đường giao thông huyết mạch của bộ đội ta. Tất cả vũ khí, quân trang quân dụng, nhu yếu phẩm, thương binh v.v đều được chuyển qua đoạn sông này bằng những bến vượt....

Điểm cao 29 ạ!


 
    @ quanvietnam, quangcan và  bạn đọc

    Để  bạn đọc hiểu đúng ĐỒI CHÈ và vị trí của nó - (đồi Chè không phải là cao điểm 29 hay 25 gì đó ) ,  mời các CCB xem thông tin và
    Ảnh dưới đây  :

      Đồi Chè – Một địa danh nổi tiếng trong cuộc chiến đấu tại Tích tường – Như lệ cuối  năm 1972. Nhắc đến đồi Chè – một điểm “ chốt “,   rất
      nhiều trận đánh   của E/ 95  và của  F312 đã diễn ra ác liệt và nhiều lính  đã  hy sinh tại nơi này .  Ví trí  ở  đầu  thôn Như lệ,   cách cầu khe
      Như lệ  chừng 800 – 1000m , gần   đường  ô tô  Tích tường – Như lệ  (  đường  hiện nay ) .  Chiếm đồi CHè  khống chế Cầu qua khe Như lệ, 
      làng Như lệ, bãi sông  Tích tường  và  quan sát được cả đoạn sông từ Như lệ  đến Tích tường  (  xem bản đồ )
   
     TÍCH TƯỜNG _  NHƯ LỆ  - ĐỒI CHÈ  VÀ  BẾN VƯỢT  1972  của  công binh C17/E95

          
(http://farm8.staticflickr.com/7194/6926852334_29b46640ba_b.jpg)   

      Đồi Chè  -  Làng Như lệ nơi trận chiến ác liệt năm xưa đã diễn ra.  Vị trí  gần  đường  ô tô rẽ vào  khoảng  100 – 200m -   Cụm cây xanh  trên
      Ảnh   là   vị trí của đồi CHÈ    năm 1972  (  cả hai  bên của  nhánh đường rẽ ) . 


       
(http://farm8.staticflickr.com/7076/6994940026_999fabc3fe_c.jpg)


   TÍCH TƯỜNG- NHƯ LỆ  - Đồi CHÈ  với các địa danh và công trình Nam Thạch hãn .  (  Đồi CHÈ  cách xa  TâN Mỹ - ĐÁ ĐỨNG)

       
(http://farm8.staticflickr.com/7103/7163289868_74a7c0791b_c.jpg)





Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quangcan trong 20 Tháng Chín, 2013, 03:27:52 pm
Có đoạn trích dẫn này ạ!

Trích dẫn
...
Tích Tường - Như Lệ là hai làng lớn thuộc xã Hải Lệ nằm sát liền nhau và tựa lưng vào sông Thạch Hãn. Đường ô tô từ thi xã Quảng Trị lên qua Tích Tường rồi qua Như Lệ, Tân Lê... Nằm giữa hai làng Tích Tường và Như Lệ là một con suối lớn (khe Như Lệ) chảy từ chân Động Ông Do về đổ nước xuống sông Thạch Hãn.

Tiếp giáp với bìa làng (phía nam) Tích Tường, Như Lệ là một cánh đồng hẹp, trên đó nổi lên mây ngọn đồi thấp, bộ đội ta quen gọi là đồi Chè, đồi Cháy, đồi 12,7, đồi Cây Mít, đồi Thám Báo. Bên kia cánh đồng là khu đồi Phước Môn, đồi Cây Dừa, đồi Yên Ngựa, Gia Long...


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: nguyenhuuluanc17 trong 20 Tháng Chín, 2013, 07:34:35 pm
 
        Mời các bạn xem thêm tài liệu  về  TÍCH TƯỜNG _ NHƯ LỆ và ĐỒI CHÈ  

      TRÍCH DẪN TỪ :
    
    Re: Những chuyện không thể quên - Cười ra nước mắt
    « Trả lời #91 vào lúc: 04 Tháng Sáu, 2010, 05:58:07 PM »   
     ________________________________________
     CHUYỆN VI  ĐẶC SẢN NHƯ LỆ   . . .(tiếp 2)


     Sau ngày 16/9/1972, ở phía đông địch đẩy ta đến Tám Cát, Lệ Xuyên, Long Quang, An Lộng, Bích La nằm phía bắc sông Thạch Hãn. Còn ở phía
     Tây, địch chiếm giữ hoàn toàn phía nam sông. Gần như con sông  đã trở thành giới tuyến.
     Tuy nhiên có một mảnh đất nhỏ bé nằm phía nam sông mà địch đã dùng mọi khả năng hỏa lực, xe tăng và bộ binh mà vẫn không chiếm được. Đó
    là Tích Tường và Như Lệ.
(Xem bản đồ).

        Bản đồ chiến trận tại TÍCH TƯỜNG -  NHƯ LỆ


   
 (http://farm8.staticflickr.com/7447/9835261724_4f01c90a64_c.jpg)

        
        Tuyến phòng thủ  tại TÍCH TƯỜNG _ NHƯ LỆ  và  ĐỒI CHÈ



   
(http://farm6.staticflickr.com/5507/9835318475_586b57434a_o.jpg)





Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 23 Tháng Chín, 2013, 10:51:13 am
 Cám ơn anh Nguyenhuuluan C17E95, cám ơn anh Quangcan và tất cả các bạn! Hơn 40 năm rồi, vật đổi sao rời, chúng ta cũng già đi, nhớ nhớ quên quên, làm sao có thể nhớ chi tiết từng ly từng tý được, việc anh em mình quên âu cũng là lẽ thường tình. Nhưng thật là may mắn cho chúng ta, cái gì quên có thể quên, còn những trận đánh ác liệt ở Tích Tường, Như Lệ, Đồi Chè vào thời điểm cuối năm 1972 đầu năm 1973 là chúng ta không quên. Xin cám ơn tất cả.



Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 23 Tháng Chín, 2013, 10:52:19 am

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Đồng đội tôi
(Xin phép linh hồn những người đã mất, cho tôi viết bài này)
          Cũng thật lạ, cả buổi tối hôm ấy. Khu vực Đá Đứng, khu vực Tân Mỹ, Tích Tường thi thoảng vẫn có tiếng súng nổ vọng về, riêng khu vực Đồi Chè - Như Lệ lại rất im ắng. Tôi ngồi ngoài cửa hầm, còn anh V. đang lên máy liên lạc phiên 10 giờ đêm báo cáo về sở chỉ huy. Đột nhiên nghe một tiếng nổ lớn, tôi chú ý lắng nghe để xem tiếng nổ ấy phát ra từ đâu. Tiếng nổ rất gần, nhưng vì trời tối không nhìn thấy khói bốc lên nên không thể xác định được vị trí. Tôi còn đang đoán già đoán non, thì tiếng súng bộ binh nổ rộ, tiếng súng AR15 rít lên, tiếng cối cá nhân M79 nổ chát chúa, không có tiếng AK, pháo sáng của địch bắn lên sáng lóa cả khoảng trời, soi xuống mặt đất rõ như ban ngày. Một ý nghĩ thoáng xuất hiện trong đầu tôi: Có thể khu vực Đồi Chè. Khoảng10 phút sau, tiếng súng im bặt, chỉ còn những quả pháo sáng treo lơ lửng trên không trung, sự im lặng lại trở về như chưa có chuyện gì xảy ra.
   Hết phiên liên lạc, anh V. chui ra khỏi hầm đến bên cạnh chỗ tôi ngồi. Anh hỏi tôi:
   -Ban nãy tôi nghe có tiếng súng nổ, chắc là lại đụng độ ở chỗ nào rồi?
   -Việc xảy ra nhanh quá, chưa kịp xác định là ở chỗ nào? Nhưng nhìn luồng đạn bay và ánh chớp, tôi có cảm giác là ở khu vực Đồi Chè.
   Tôi trả lời anh V., anh V. im lặng không nói gì. Chúng tôi ngồi gần nhau nhưng không nhìn rõ mặt nhau, ánh sáng của những quả pháo sáng  trên trời đã bị dặng tre gai che khuất. Hai người chúng tôi ngồi như hai pho tượng, theo đuổi những suy nghĩ riêng tư. Tôi nghĩ: Có thể bây giờ anh V. đang nghĩ đến chuyện lúc chiều mà anh nói với tôi, còn tôi từ nãy đến giờ toàn nghĩ về chuyện ấy, nhưng không dám nói ra, sợ điềm gở.
  Tôi đang suy nghĩ miên man về buổi tối hôm ấy, thì thằng T. nói chen vào cắt ngang suy nghĩ của tôi:
   - Nghĩ lại thấy thương cho anh Th.! Chết mà không lấy được xác.
   Tôi gật đầu bùi ngùi chia sẻ với T.:
   -Đơn vị hôm ấy cũng đã cố hết sức, nhưng không được.
   Rồi hình ảnh buổi tối hôm ấy, đơn vị tổ chức đi lấy xác của Th. lại hiện về:
   …Khi nhóm trinh sát Đồi Chè vướng mìn bị lộ, chỉ còn lại hai người quay về báo cáo Th. bị vướng mìn, có thể đã hy sinh. Ngay sau đó, anh V. thảo bức điện gửi gấp về sở chỉ huy xin chỉ thị. Đài chỉ huy ra lệnh: H. phụ trách tổ trinh sát. Nội nhật trong đêm tìm mọi cách để đưa được xác ra.
  H. cũng là người Nam Định cùng quê với anh V., H. chưa có chức vụ gì chỉ là chiến sĩ. Nhưng có lẽ là cán bộ nguồn, nên gần như những việc quan trọng đều có H. tham gia. Nhóm ba người do H. phụ trách lại lầm lũi ra đi trong đêm. Họ đi rồi, nhưng tôi cứ nghĩ: Công việc này vô cùng khó khăn và nguy hiểm, thành công thì ít mà thất bại thì nhiều. Cũng chẳng hiểu vì sao tôi lại nghĩ như vậy? Không phải là tôi sợ, nhưng tại sao tôi lại nghĩ như vậy? Có lẽ là mức độ ác liệt của cuộc chiến tranh và thực tế chiến trường đã buộc tôi phải nghĩ như vậy.
    Trong hoàn cảnh chiến tranh. Khi người chiến sĩ trinh sát đi sâu trong lòng địch, đồng nghĩa với việc bị cắt đứt sự chi viện của đồng đội, xung quang bốn bề là địch. Một khi công việc hoàn thành tốt đẹp thì không sao. Nhưng nếu bị lộ thì thường là bị tổn thất, bị hy sinh. Chẳng những tổn thất và hy sinh trong khi làm nhiệm vụ, mà còn tổn thất và hy sinh khi làm công tác thương binh tử sĩ. Nham hiểm của chiến tranh là khi xảy ra tình huống này, kẻ địch sẽ tìm mọi cách khai thác triệt để, lại tổn thất lại hy sinh.  Biết là thế, nhưng không thể không làm, bởi vì đây là nhân văn đây là tình người. Cho dù không ai ra lệnh, nhưng tình cảm anh em, tình đồng đội cứ thôi thúc những người còn đang sống, phải làm cách gì đó để đưa được đồng đội ra ngoài. Nghĩa tử là nghĩa tận.
  Thực tế đã chứng minh rằng: Việc làm ấy không còn quan trọng đối với người đã hy sinh, mà vô cùng quan trọng đối với bố mẹ vợ con và gia đình người đã mất. Ngàn đời nay, bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam là thờ cúng tổ tiên ông bà, thờ cúng những người đã mất, chính vì thế đời sống tâm linh rất được coi trọng. Những chiến sĩ hy sinh vì Tổ Quốc, nếu như mang được xác ra thì sẽ được chôn cất và lập sơ đồ mộ chí, sau này sẽ tìm lại được hài cốt, và đấy chính tâm linh và là điều an ủi vô giá đối với những người còn đang sống.
   Đối với người chết thì như vậy, còn đối với người sống. Việc làm này mang tính chất nhân đạo, thể hiện bản chất ưu việt của quân đội nhân dân Việt Nam, sống chết có nhau. Đây là nguồn động viên khích lệ đối với những người còn đang sống, nó là động lực để những người chiến sĩ dám chấp nhận hy sinh tất cả, sẵn sàng nhận và hoàn thành nhiệm vụ khi Tổ Quốc cần.
   Công tác tử sĩ, là công tác tư tưởng cho mọi cán bộ chiến sĩ của đơn vị, vì thế ban chỉ huy đại đội chỉ đạo nhất định phải làm ngay trong đêm và làm bằng mọi cách, nếu như không muốn nói là bằng mọi giá.
   Đêm hôm ấy, anh em chúng tôi thức trắng để đợi kết quả. Khoảng hơn 4 giờ sáng, tổ của H. về. Nhìn mặt H. buồn rười rượi, phần nào tôi cũng đoán được. H. kể cho chúng tôi nghe giọng buồn chán và mệt mỏi:
   -Em bò vào chỗ anh Th. nằm, dưới ánh sáng của những quả pháo sáng em thấy anh Th.  hình như vẫn đang ở tư thế lết, khi dính mìn thì bị đổ gục xuống. Súng vẫn còn, nhưng không nhìn rõ đầu và cũng không thấy mũ. Cảnh giác, đề phòng bọn địch cài mìn xung quanh xác anh Th., em dùng dây võng cột vào chân anh Th. và lùi lại tìm chỗ nấp rồi kéo thử, xác anh Th. đi được một đoạn thì một tiếng nổ long trời làm đứt dây võng. Em mất đà ngã ngửa về phía sau, bọn địch trên đồi bắn xuống như mưa, pháo sáng lại bắn lên dầy đặc, sáng như ban ngày. Hệ thống “Chốt” của K5 vẫn im lặng, nhưng có lẽ đạn đã lên nòng, sẵn sàng chi viện cho bọn em.
   H. dừng lại một lát rồi kể tiếp:
   - Lúc ấy, đạn địch rít trên đầu, em không dám ngóc đầu dậy. Em cố gắng ép sát mặt đất và thu nhỏ người để không bị dính đạn, lúc này không sợ súng bắn thẳng mà sợ cối cá nhân. Vừa nằm tránh đạn vừa tranh thủ lấy lại sức, em nghĩ: Cứ chờ dứt tiếng súng xem động tĩnh thế nào? Nếu như bọn địch bò ra thì tùy cơ ứng biến, nếu bọn địch ít sẽ nổ súng tiêu diệt rồi rút lui, nếu địch ra đông thì chủ động rút trước. Trường hợp bọn địch án binh bất động, thì lại quay vào tìm cách đưa xác anh Th. ra. Chúng em nằm chờ cho tới khi im tiếng súng, mật độ pháo sáng bắn lên cũng thưa dần. Lúc này em tranh thủ quan sát xem xác anh Th. còn ở đó không? Em chưa phát hiện ra chỗ nằm của anh Th. . Chúng em vẫn tiếp tục chờ đợi, chờ mãi vẫn không thấy địch có động tĩnh gì. Em quyết định quay trở lại.
   Thực tế, chỗ xác anh Th. nằm cách chỗ em không xa, em bò vào theo lối cũ, vừa bò vừa quan sát nhưng vẫn không phát hiện nơi anh Th, nằm ban nãy. Cho tới khi em bị một hố sâu chắn lối, em nghĩ hay mình bò lạc hướng. Sau ít phút định thần lại, em khẳng định: Không thể nhầm được, chỉ có một đoạn đường sao có thể bò lạc được, hố sâu này chính là chỗ anh Th. nằm. Em gục mặt xuống, hai hàng nước mắt đầm đìa, em muốn kêu trời nhưng không dám kêu thành tiếng: Trời ơi! Chiến tranh thật là khủng khiếp, đã chết một lần lại còn chết thêm lần nữa, quá dã man. Vậy là bọn địch đã gài mìn vào xác anh Th., mục đích là để tiêu diệt những người vào lấy xác.
   Giọng kể của H. cứ văng vẳng bên tai. Tôi ngửa mặt lên trần nhà, mắt chớp chớp lia lịa ngăn không cho hình thành những giọt nước mắt sắp trào ra. Tôi buột miệng:
  -Mới đấy thôi mà đã hơn 40 năm rồi, mỗi người một hoàn cảnh một số phận. Cuộc đời một con người sao mà ngắn ngủi thế?
   Hình như câu nói của tôi không lọt vào tai thằng T., tôi thấy nó không để ý đến tôi mặt nó ngệt ra và có vẻ đang nghĩ ngợi cái gì đó. Cũng vừa lúc ấy, thằng con cả thằng T. lên xin phép bố nó:
   -Bố ơi! Cơm được rồi, bố mời các bác các chú vào xơi cơm.
    Có lẽ do sốt ruột vì chờ lâu. Nó tong tả đứng lên, nhưng do chân đau nó không kịp điều chỉnh nên ngã chúi về phía trước, may mà tôi đỡ kịp không thì toàn bộ ấm chén trên bàn nước bay xuống đất. Rất tự nhiên, nó cười hì hì:
   -Anh thấy đấy! Chân với tay, thật là chán chết.
   Nó cũng đứng lên được và đi ra ngoài sân, nói lớn:
   -Mời anh em vào ăn cơm!
   Nhớ hồi trước, cách đây có lẽ cũng hai chục năm rồi. Ngày ấy nhà nó nghèo lắm, chưa được khang trang như bây giờ. Vợ chồng nó với vợ chồng thằng cả và vợ chồng thằng hai, ba cặp vợ chồng ở chung mảnh đất này, nhưng chia làm ba gia đình. Tôi không nhớ lúc đó nó đã có bao nhiêu cháu nội ngoại, nhưng mà tôi thấy đông lắm. Xuống thăm nó, chia bánh bích quy cho trẻ con mà mỏi cả tay vẫn chưa hết lượt.
   Lần ấy, đến bữa cơm. Nó mời chúng tôi lên nhà trên, tiếp chúng tôi có hai vợ chồng nó và hai thằng con trai với thằng rể. Trong lúc chờ thằng cả nhà nó đang rót rượu, Tôi hỏi nó:
   -Thế còn con dâu, con gái, các cháu nội ngoại thì ngồi ở đâu? Hôm nay là ngày đầu tiên gặp mặt đông đủ thế này, bảo các cháu dọn lên trên này ngồi cho vui, anh em đã từng sống chết có nhau, có phải khách khứa gì đâu mà mâm trên với mâm dưới.
  Nó nhe răng cười, cười không ra tiếng, cười kiểu cười trâu. Nó chưa biết chống chế thế nào? Vợ nó nhanh nhẩu đỡ lời chồng:
   -Mời bác với các chú cứ tự nhiên đi! Các cháu nhà em chúng nó còn nhỏ, để mẹ chúng nó cho chúng nó ăn ở dưới nhà, chúng mà lên đây thì lại phá phách không ai ăn được với chúng nó.
   Nó vẫn nhe răng cười, lần này nó bê chén rượu lên dục tôi và mọi người:
   -Mời anh! Mời anh em! Nào bà nó với các con mời các bác các chú đi. Vừa ăn vừa nói chuyện, để nguội hết thức ăn rồi.
   Chúng tôi chạm chén, mùi rượu nếp nút lá chuối, ngâm với mật ong đất và long nhãn của vùng quê nhãn lồng Hưng Yên tạo ra mùi thơm ngào ngạt. Mâm cơm khách tuy chưa thịnh soạn nhưng cũng đủ đầy và sang trọng hơn ngày thường, có lẽ những bữa cơm thế này chỉ khi nào có khách quý hay là giỗ chạp gì thì mới có. Một đĩa thịt gà luộc, một đĩa lòng gà xào đu đủ, một đĩa cá rán, đĩa đậu phụ luộc chấm mắm tôm, có cả canh bí xanh và bát cà pháo… Tôi ghé tai nói nhỏ với thằng D:
   -Các bác các chú ăn thế này, các cháu nó đòi thì đã có roi.
   Thằng D. hiểu ngay, nó bê đĩa thịt gà xuống mâm cơm của các cháu ở dưới nhà, chia phần cho từng đứa. Lũ trẻ sung sướng reo hò, chắc là lâu lắm rồi chúng nó mới lại được ngửi mùi thịt gà.
   Cả nhà sống trong bầu không khí vui vẻ đầm ấm, vừa ăn anh em chúng tôi lại tranh thủ kể chuyện ngày xưa chuyện chiến tranh chuyện đơn vị thôi thì đủ thứ chuyện. Thằng D. lúc nào cũng hay kiếm chuyện, nó chiêu một ngụm rượu rồi mặt làm ra vẻ quan trọng và nuối tiếc, nó nói với vợ thằng T.:
   -Em này! Anh không thể tin được, thằng T. nó lại có vợ, đã thế vợ lại còn xinh nữa chứ. Thật là phúc bẩy mươi đời nó, trông thì rõ là xấu trai, người thì lùn một mẩu, tý tuổi đầu mà tóc đã bạc trắng, đầu thì tròn như quả gáo, tóc thì cứng như rễ tre, đã thế lại còn dựng ngược lên nữa chứ. Em này! Anh nghĩ: Hình như tất cả cái xấu của con trai đều tập trung vào nó, thế mà nó lại lấy được vợ, không những thế nó còn lấy vợ trước anh nữa chứ, thế mới bực.
   Thằng D. dừng lại lấy hơi rồi lại tiếp tục kích đểu:
   -Anh hỏi thật em: Em đồng ý yêu nó hay là nó lừa em.
   Vợ thằng T.vừa cười vừa trả lời:
   -Cả hai!
   Cả nhà cười rộ. Chúng tôi đang được sống trong một không gian thật hạnh phúc, trong nhà lúc nào cũng đầy ắp tiếng cười. Lần ấy thằng T. khỏe như trâu, anh em vui quá, nên uống hết tầm. Rượu mật ong, long nhãn đưa anh em chúng tôi vào giấc ngủ ngon lành.
(Còn nữa).

 

   
   
   


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 03 Tháng Mười, 2013, 10:04:19 am

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
   6   - Đồng đội tôi
(Xin phép linh hồn những người đã mất, cho tôi viết bài này)
     Thằng T. hôm nay chả biết có vui thật không, hay nó cố gắng làm ra vẻ thế để chúng tôi đỡ buồn. Nó luôn tay, luôn mồm chỉ huy mấy đứa con, mấy đứa cháu sắp mâm. Con cháu chạy tíu tít cả lên, chỉ một loáng, ba mâm cơm hoành tráng đã được đặt vào giữa ba chiếc chiếu đôi trải chạy dọc theo ngôi nhà. Mọi người theo chỉ dẫn của thằng T. , ngồi vào vị trí, nó chờ cho thằng cả rót rượu xong, nó trịnh trọng tuyên bố:
   -Lâu rồi, các bác các chú mới lại xuống thăm nhà em. Hôm nay, vợ chồng chúng em và các con các cháu có chén rượu nhạt với lưng cơm muối mời các bác dùng tạm.
   -Cám ơn cô chú và các cháu! Cơm như thế này mà cô chú và các cháu lại nói là cơm muối với chén rượu nhạt. Nói thế khách sáo quá làm anh em chúng tôi ngại, giá có thêm mấy con vịt quay nữa thì tốt. Thôi thì ông bà chủ đã có lòng thì anh em chúng tôi có bụng. Nào mời cả nhà!
   Thấy tôi nói thế, mọi người ai cũng cười, nhưng nụ cười ấy chẳng tồn tại được bao lâu đã vụt tắt.  Tất cả lại im lặng, mỗi người lại theo đuổi suy nghĩ riêng tư của mình, nhưng chung quy là nghĩ về căn bệnh nan y của thằng T.  Bữa cơm lại rơi vào không khí trầm lắng.
    Không nên kéo dài tình trạng này, tôi nghĩ thế. Mà có lẽ chẳng ai muốn thế, nhưng đây lại là sự thực không thể khác được, việc này dù  trước hay sau vẫn phải xảy ra. Bữa cơm hôm nay biết là bất đắc dĩ cho cả chủ lẫn khách, chủ cũng không thể vui khi trong nhà có người ốm yếu, khách đến chơi đã không đúng lúc lại còn bị động. Cả hai bên đều lúng túng, cư xử vụng về không được tự nhiên. Thôi thì: Đã ở hoàn cảnh này thì cần phải đối diện với nó. Tôi nói để phá tan bầu không khí nặng nề, cũng có thể câu chuyện của tôi sẽ tạo cho mọi người một tia hy vọng thì sao? Tôi nói:
   Chuyện tôi kể hôm nay ở đây, là chuyện có thật 100%. Nếu ai không tin hay còn nghi ngờ điều gì, tôi sẽ có trách nhiệm dẫn mọi người đến tận nơi, trực tiếp nói chuyện với người bị bệnh ung thư tưởng là không thể qua khỏi. Ấy thế mà, ông ấy hiện nay vẫn còn sống, đang làm bảo vệ phụ trách công tác điện nước của cơ quan vợ tôi. Tôi cũng không rõ ông bị ưng thư bộ phận nào của cơ thể, chỉ nghe vợ tôi kể là: Ông ấy bị ung thư, đến bệnh viện đã được điều trị hết cách, đủ mọi loại thuốc đông tây y, đến giải pháp cuối cùng là chạy xạ cũng đã được áp dụng. Nhưng bệnh tình không thuyên giảm, sau khi chạy xạ người ông ấy quắt queo, da dẻ thâm sì, đầu tóc trọc lốc, cơ thể không còn sức sống. Ai đến thăm cũng chỉ biết lắc đầu xót xa, thương cảm với con người ngắn số, không ai có thể nghĩ rằng ông ấy có thể sống được.
   -Cho em hỏi, ông ấy bao nhiêu tuổi, bây giờ ông ấy ở đâu?
   Vợ thằng T. hỏi cắt ngang khi tôi còn đang nói, tôi bảo với vợ nó:
   -Em bình tĩnh, để anh nói hết đã.
   Nhưng vì đang nói mà bị cắt ngang nên tôi quên mất điều tôi định nói, hơn nữa cũng phải chiếu cố là vợ con nó rất sốt ruột. Tôi trả lời vợ nó luôn:
   -Ông này năm nay ngoài 50, khoảng độ 53 hay 54 tuổi gì đó, có nhà cửa vợ con đàng hoàng, nhà ông ấy ở KM số 9 đường Hà Nội – Hà Đông. Nếu em thấy cần thiết anh có thể đưa em lên tận nơi, lên đấy em tha hồ mà hỏi.
   Tôi dừng lại nhìn mọi người xem có ai hỏi gì không? Không thấy ai có ý kiến gì tôi lại tiếp tục:
   Đến giờ này, ông ấy cũng không biết được, bệnh tình của ông ấy thuyên giảm là do đâu? Do uống loại thuốc gì? Nếu có ai hỏi, câu đầu tiên ông ấy trả lời là: Nhờ trời! Hồng phúc tổ tiên của nhà tôi còn lớn lắm nên tôi mới được như thế này. Còn mọi người hỏi tôi khỏi vì cái gì thì tôi chịu, tôi chỉ biết ở hoàn cảnh tôi lúc đó, có ai bảo tôi thế nào thì tôi sẽ cố gắng làm như vậy, trừ những việc mà nó quá sức thì tôi chịu, chứ còn từ việc thờ cúng đến việc kiêng khem là tôi làm hết, tất nhiên quan trọng nhất vẫn là tuân theo chỉ dẫn của các thầy thuốc. Có những việc mọi người không thể tin nổi, hơn mười năm trời tôi uống thuốc đều hơn ăn cơm, cơm có thể bỏ nhưng thuốc thì không. Nước uống hàng ngày chỉ độc một loại là nấm Linh Chi của Hàn quốc nấu lẫn với cây Xạ Đen để uống. Tất cả của cải trong nhà tập trung vào việc chữa bệnh cho tôi, nên cứ thế lần lượt ra đi, nhưng bù lại là sức khỏe của tôi dần hồi phục…Chuyện về ông ấy thì dài lắm, tôi chỉ lược một vài thông tin để kể cho mọi người nghe thế thôi.
   Ấy thế mà, câu chuyện của tôi ít nhiều cũng tạo ra không khí sôi nổi trong bữa ăn, không còn trầm lắng như trước nữa. Mọi người tham gia mỗi người mỗi ý, có những lúc còn tranh nhau nói, nhưng tựu chung lại là có ý còn nước còn tát. Cô con dâu trưởng của thằng T.  ngồi tận  mâm ngoài cùng, cũng bê bát cơm chạy vào ngồi bên cạnh mẹ, nói với mẹ nhưng mà cũng là nói cho cả nhà nghe:
   -Hôm nào mẹ nhờ bác đưa đến tận nơi mẹ hỏi cho thật cụ thể, để về mẹ con mình còn biết chăm sóc, nghe là một chuyện, chứ trực tiếp nói chuyện với họ bao giờ mà chả hơn. Mẹ nhỉ!
   Cô con dâu út phụ họa vào:
   -Chị nói phải đấy! Mai mẹ cứ yên tâm để bố ở nhà chúng con chăm sóc. Mẹ đi theo các bác các chú ấy lên Hà Nội vào tận nhà người ta để hỏi cho rõ.
   Anh em chúng tôi mỗi người mỗi người thêm một ý kiến đóng góp vào, cuối cùng cả nhà đi đến thống nhất:
   Vợ thằng T. sẽ bố trí lên Hà Nội. Tôi với thằng D. có trách nhiệm đưa đi. Thuốc ở bệnh viện tuy là bèo bọt, nhưng dẫu sao nó là chế độ bảo hiểm đối với người có công với cách mạng nên cứ duy trì uống theo đơn, còn nấm Linh chi và Xạ đen thì sẽ huy động anh em đồng đội cung cấp. Tất cả những thứ đó, nếu vẫn không thấy chuyển biến khi đó mới nghĩ đến chạy xạ hay là phẫu thuật.
   Thằng D. còn đế vào một câu:
   -Nấm Linh Chi Hàn Quốc còn khó khăn, chứ Xạ Đen thì tao cho mày uống cả đời.
   Cả nhà cười ồ lên. Thằng T. cũng cười, nhưng vẫn là cười trâu, chỉ nhe răng mà không có tiếng. Tự nhiên tôi thấy: Một tia hy vọng lóe sáng mãi cuối chân trời, tuy rất xa vời nhưng còn hơn là không có. Tôi liếc nhìn thằng T., nó vẫn buồn.
   Cơm nước xong, thằng T. bảo tôi:
   -Mời bác với anh em lên trên tầng hai nghỉ trưa.
   Chúng tôi lên tầng hai nhà nó để nghỉ trưa, tôi nằm nhưng không sao ngủ được. Phần vì nghe tin nó bị ung thư, khi phát hiện ra thì đã ở giai đoạn cuối rồi, chẳng còn biết làm gì được nữa, thật tình là tôi cũng bị hoảng. Phần nghĩ về số phận và cuộc đời của nó mà thương cho nó. Tôi  đang trằn trọc, thì nghe có bước chân đang bước lên cầu thang. Tôi đoán chắc là nó lên xem chúng tôi ngủ ngê thế nào? Mà chỉ có nó hay làm chuyện này, cái ngày còn ở đơn vị nó cũng thường làm thế, hôm thì kéo chăn lên để không rơi xuống đất, hôm thì diệm lại màn không cho muỗi vào v.v. Đúng như tôi đoán! Nó khẽ mở cửa nhìn vào, thấy chúng tôi nằm la liệt dưới sàn đá hoa. Nó khép cửa lại và lặng lẽ đi xuống.
   Tôi nhìn lên trần nhà thấy những tấm phào bắt vào trần có nhiều đường nét hoa văn rất đẹp, rất cầu kỳ. Tôi cảm thấy lạ, vì những việc này không phải là tính cách của nó. Tính nó đơn giản, không cầu kỳ. Chắc những thứ này là do các ông con giai làm cho bố đây. Những lần trước xuống chơi, nhà của vợ chồng nó chưa có tầng hai, mà mới chỉ có tầng một. Còn nhà của ông con trai cả và ông hai trông bề ngoài cũng khang trang. Chắc vợ chồng nó tính: Con gái  đi lấy chồng, ở nhà chồng, còn ba thằng con trai, thằng cả và thằng hai đã có nhà riêng rồi, thằng út còn đang ở với bố mẹ, nhà này chắc là nhà của vợ chồng thằng út. Có lẽ thế?
   Nguyên cái chuyện làm nhà này, tôi cũng rất phục vợ chồng con cái nhà nó, nếu là tôi thì tôi không biết phải làm thế nào? Nghĩ lại mới thấy việc làm của vợ chồng nó quá phi thường. Có thể nói: Tất cả vật liệu để làm nhà, những gì mà nó không thể làm được thì nó mới chịu mua, còn những gì làm được thì nó rất khoát không mua. Có những lần xuống chơi, giữa trưa hè oi ả, làng xóm thì nghỉ ngơi, riêng gia đình nhà nó, vợ chồng con cái được huy động tổng thể làm tranh thủ buổi trưa cho được nắng, người đóng gạch, người trộn đất, người nặn than, người đảo gạch xếp vào kiêu. Tất cả tự làm lấy, nó nhẩm tính từng viên, mong ngày mong tháng, mong cho trời yên biển lặng thời tiết êm đẹp để nó còn nổi lửa đốt lò. Làm được mấy cái nhà này thì phải sản xuất hàng vạn viên gạch, chỉ nghĩ cũng đã thấy rùng mình rồi ấy thế mà nó làm được. Đúng là ý chí và nghị lực sắt đá của nó đã được hun đúc và rèn luyện từ khói lửa chiến tranh.Tôi nể, và khâm phục nó quá…
   Nằm cũng chả ngủ được, tôi lần xuống dưới nhà. Nó nằm trên đi văng, chắc là nghe thấy tiếng bước đi nên nó ngồi dậy. Nó hỏi tôi:
   -Anh không ngủ được à?
  - Anh cũng thiu thiu được một lúc rồi. Tôi nói dối nó.
  -Mình làm ấm mới anh nhé?
   -Ừ! Chú pha đi, hay để anh làm cho?
   -Để em làm! Mấy chục năm về trước, anh chỉ thích em pha nước. Anh khen em nắm vững quy trình pha chè nên uống rất ngon. Bây giờ em làm đúng như vậy, anh xem thế nào có còn như ngày xưa nữa không?
   Tự nhiên tôi cảm thấy bùi ngùi, tôi cứ nghĩ đây là lần cuối nó pha chè mời tôi uống. Tôi quay đi, dấu những giọt nước mắt chạy lồng quanh, cũng may mà nó không để ý nên không phát hiện ra. Tôi tự trách tôi: Phải cứng rắn lên, tạo thêm nghị cho vợ chồng nó để vượt qua thời khắc khó khăn này.
  Tôi khấn thầm: Cầu Trời, cầu Phật phụ hộ độ trì cho nó được khỏi bệnh, cho nó được sống phần đời còn lại vui vẻ khỏe mạnh với vợ với con với cháu chắt nội ngoại, cho nó được tận hưởng cuộc sống an nhàn lúc tuổi già. Trời Phật, hãy thương lấy nó mà che trở cho nó. Tuy bây giờ cũng được sống hơn 60 năm trời, nhưng hơn 60 mươi năm trời ấy là 60 năm gian lao và vất vả. Khi còn nhỏ thì ốm yếu bệnh tật, lớn lên thì tòng quân tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước cho đến khi giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước. Kết thúc chiến tranh may mắn còn sống trở về với đời thường, nó cũng giống như mọi người, lại bước vào vòng xoáy mới, phải lấy vợ sinh con để làm nghĩa vụ với đời…  Khi ấy đất nước còn muôn vàn khó khăn vì vừa mới thoát khỏi chiến tranh đã kéo dài hơn hai mươi năm. Nó lại vất vả bươn trải, tìm kế mưu sinh để tồn tại. Chẳng còn con đường nào khác là vợ chồng nó phải tần tảo lần hồi, chắt chiu tiết kiệm, kiếm ăn từng bữa để nuôi bố mẹ già và nuôi đàn con khôn lớn. Cứ như thế, cho đến ngày hôm nay khi ngửng mặt lên thì, bệnh tật lại ập đến. Chao ơi! cũng một kiếp người. Tôi không dám nghĩ tiếp…
   Chờ nó pha xong ấm nước, tôi nói với nó:
   -T. này! Anh biết, hoàn cảnh của em lúc này vô cùng khó khăn. Anh không biết phải làm thế nào để chia sẻ cùng em, những điều anh nói ra bây giờ đôi khi lại trở thành khách sáo, vì thế anh không nói. Nhưng ở hoàn cảnh này bọn anh biết phải làm gì, anh chỉ khuyên em cũng đừng buồn quá mà ảnh hưởng đến sức khỏe. Con người sống chết có số, biết đâu đấy trời thương em, lại cho em sống khỏe mạnh thọ bảy tám mươi tuổi cũng nên.
   Nó nhìn tôi, nó không nói gì. Tôi thấy nó buồn, nỗi buồn vô vọng.
 …
   Về đến Hà Nội, tôi bước xuống xe còn quay lại nói với mọi người:
   -D. chủ trì việc lo mua nấm Linh Chi và Xạ Đen gửi ngay về cho vợ thằng T. . Mọi chi phí, tùy mọi người nhưng tôi và D. có trách nhiệm giải quyết. Chào tạm biệt! Hẹn gặp lại mọi người nhé!
   Tôi lảo đảo đi vào con ngõ nhỏ sâu hút của phố TTT.
(Còn nữa)
   
   


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: xuanhoai75 trong 11 Tháng Mười, 2013, 09:26:41 pm
Chau gia nhap da lau nhung chi theo doi thoi,nhung lan nay chuyen cua chu hay qua chu Quan ah,chau phai comment. Chau rat thich chuyen thoi chong My va theo doi tat ca cac chu o Quang tri cung nhu Cac muc tren Mau va Hoa..xin loi cac Bac,cac Chu nhe vi hay qua nen tu dien thoai chau comment khong co dau..mod thong cam dum nhe..xin cam on!


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 29 Tháng Mười, 2013, 11:46:13 am

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
      6- Đồng đội tôi
(Xin phép linh hồn những người đã mất, cho tôi viết bài này)
          Sau thời gian ấy, tôi và thằng D. liên lạc với nhau nhiều hơn bằng điện thoại. Mỗi lần liên lạc, việc đầu tiên là tôi hỏi thăm tình hình sức khỏe của thằng T. Trong hoàn cảnh chúng tôi mỗi đứa mỗi nơi, thằng D. ở gần thằng T. hơn, nên nó mặc nhiên thừa nhận đấy là trách nhiệm của nó, vì thế mỗi lần gặp nhau là nó thông báo cho tôi biết chi tiết tình hình diễn biến sức khỏe của thằngT.. Sau khi nghe xong, nếu thấy cần thì tôi hỏi lại, nếu không có vấn đề gì thì tôi chỉ hỏi nó là có cần tôi trợ giúp gì không? Thường thì nó bảo là chưa cần, khi nào cần thì nó gọi cho tôi.
   Vậy đấy, cũng chẳng biết tự bao giờ, ba anh em chúng tôi xác lập được tình cảm ấy, tất nhiên bạn bè của T. còn nhiều chứ không riêng gì ba chúng tôi. Ngày còn ở chiến trường tôi gọi tình cảm ấy là tình cảm máu thịt, bây giờ chúng tôi vẫn thế nhưng có phần sâu sắc hơn, vì  chúng tôi đang được thử thách thêm bởi những mặt trái của cuộc sống hiện đại bây giờ. Tôi nghĩ thế, chẳng biết có đúng không? Tất nhiên đấy là tôi nghĩ, còn vẫn nghe người ta nói: Khi điều kiện kinh tế càng phát triển thì đạo đức của con người cũng phát triển nhưng đi theo chiều xấu đi…
   Điều này, đôi lúc làm tôi hoang mang về nhận thức xã hội của mình, không biết thực hư thế nào? Nhưng đôi khi tôi thấy cũng đúng: Thực tế xã hội hiện nay có rất nhiều biểu hiện suy đồi về đạo đức, lối sống. Biết bao nhiêu vụ việc làm xói mòn lòng tin về luân thường đạo lý và thuần phong mỹ tục. Có những chuyện tưởng như không bao giờ xảy ra mà lại xảy ra, nó làm cho mọi người phải kinh hoàng, rồi hoang mang không còn tin đâu là sự thật, đâu là hoang tưởng. Có thể nói, hầu hết mọi lĩnh vực của đời sống xã hội hiện nay bên cạnh những điều tốt đẹp vẫn còn tồn tại những điều không tốt đẹp.
   Nhiều khi tôi tự hỏi: Tại sao? Ở một xã hội như bây giờ, sao vẫn còn nhiều người làm những chuyện thất đức như vậy? Thậm chí ngay cả những chuyện mất hết tính người, họ vẫn làm, giống như họ không phải là người. Họ sẵn sàng đâm chém giết chóc, cướp đi mạng sống ngay cả với những người ruột thịt cũng như những đấng sinh thành ra họ, họ trộm cắp, tham ô hối lộ, họ ăn chặn ngay cả của cứu trợ cho những người nghèo khổ, những người đang gặp hoạn nạn, họ kinh doanh ngay trên xác thịt những người đã mất, họ lừa đảo, họ xâm phạm trắng trợn và chà đạp lên cuộc sống của người khác v.v. Họ sẵn sàng làm tất cả mọi việc bất chấp đạo lý để thỏa mãn mục đích cá nhân của họ… Những chuyện như thế này sao mà nhiều thế? Nhiều lắm không thể kể hết được, mà hình như nó vẫn có chiều hướng phát triển, bởi vì đằng sau nó vẫn còn nhiều mảnh đất mầu mỡ, nhiều chỗ dựa vững chắc…
   Nghĩ mà buồn, thà rằng họ là những người nghèo khổ, những người mất lý trí hay là những người thiếu giáo dục, thì lại là chuyện khác. Đây họ hoàn toàn không phải như vậy, nhiều người trong số họ cũng có ăn có học, cũng đi du học trong nước ngoài nước, có địa vị trong xã hội, cuộc sống của họ so với mọi người cũng không phải là thấp, có biết bao người hằng mơ ước có được cuộc sống như của họ. Xung quanh họ vẫn còn rất nhiều người nghèo khổ, nhiều những hoàn cảnh éo le. Vậy mà ??? Tôi tin là họ biết hết, có khi còn biết rất cụ thể nữa là đằng khác, nhưng họ bất chấp tất cả và họ cứ làm. Bởi vì, họ có niềm tin và niềm tin của họ là cái gì thì chỉ có họ, vây cánh của họ biết và trời biết.
  Thật là chua xót, không biết có bao giờ họ nghĩ là: Để có được ngày hôm nay, cả dân tộc Việt Nam đã phải chiến đấu gian khổ ròng rã mấy chục năm trời. Đã có hàng triệu triệu người đã cống hiến và hy sinh ngay cả mạng sống của mình, để đánh đổi lấy ngày hôm nay. Thử hỏi họ là ai? Mà sao nỡ chà đạp lên tất cả? Thật là mỉa mai.
   Ngày còn ở chiến trường, chẳng bao giờ chúng tôi phải suy nghĩ về điều đó, cuộc sống của những chàng trai mặc áo lính khi ấy cứ hồn nhiên vui vẻ, sẵn sàng chiến đấu và hy sinh vì nhiệm vụ. Nhưng từ ngày trở về Miền Bắc, thi thoảng chúng tôi gặp nhau. Mỗi khi gặp nhau, tình anh em, tình đồng chí đồng đội cứ trào dâng như không bao giờ hết, song cũng đã đôi lần xảy ra tranh luận về cuộc sống hiện tại. Nào là chế độ đãi ngộ đối với những người tham gia kháng chiến chưa được công bằng, còn nhiều điều bất hợp lý. Nào là ban chủ nhiệm hợp tác xã ức hiếp xã viên, nào là thủ trưởng trù úm nhân viên, nào là v.v. thôi thì đủ thứ chuyện. Thời gian đầu, tôi nghĩ điều ấy là bình thường, bởi vì cuộc sống tất yếu là phải như vậy. Nhưng càng về sau tôi thấy chúng nó nói đều có cái lý đúng của nó, tôi bắt đầu nghi ngờ mình, song mọi vấn đè cứ đan xen, nên tôi vẫn chưa có đầy đủ dữ kiện để thuyết phục chính mình. Cũng có thể tôi đang khát khao có được một xã hội tươi đẹp, nên tôi cố gắng lập luận để bảo vệ những suy nghĩ chủ quan của mình, tôi cho rằng mọi ý kiến của mọi người chưa thực khách quan…
   Cũng có nhiều hôm ba anh em ngồi nhâm nhi ly rượu, cái trò đời khi vui vẻ gặp nhau là hay uống rượu, mà đã uống thì tửu nhập là ngôn xuất. Lúc đầu thì còn nói nhỏ vừa đủ để nghe, sau thì rượu càng vào nhiều bao nhiêu lại càng nói to bấy nhiêu. Đỉnh điểm và bức xúc nhất vẫn là chủ đề về sự thiệt thòi của những người lính sau chiến tranh. Những buổi như thế này, thường là tôi bị cô lập còn thằng D. và thằng T. hai đứa liên kết với nhau thành một phe.
   Kết thúc những buổi tranh luận, đương nhiên là chẳng ai chịu ai. Thằng D., Thằng T., chúng nó nể tôi lớn tuổi và có tý bằng cấp, chức vụ, nên chúng nó nhịn. Nhưng sự thực tôi thấy chúng nó ấm ức, không tâm phục khẩu phục. Thực ra có nhiều lúc tôi cũng đồng cảm với suy nghĩ của chúng nó, nhưng chẳng hiểu sao tôi vẫn cố gắng lập luận để bảo vệ cho cái non kém của chính quyền. Có những lúc tranh luận giữa tôi và thằng D. rất căng thẳng, lúc đó thằng D. nó cũng chẳng kém cạnh gì tôi. Bởi vì bây giờ thằng D.  không còn là thằng D. bé nhỏ ngày xưa nữa, nó đã khác rồi.
    D. đã tốt nghiệp khoa kinh tế vận tải của trường đại học GTVT, nó có bằng cử nhân kinh tế. Thời gian trước nó công tác ở viện kinh tế Bộ GTVT, nhưng do không chịu cảnh nghèo đói nên vợ chồng nó đã bung ra ngoài làm ăn tự do. Vợ nó là bác sĩ bệnh viện phụ sản. Kể từ đó vợ chồng nó phải chấp nhận kinh tế thị trường, sự khắc ngiệt của thương trường làm nó trưởng thành lên nhiều. Cũng do bươn trải với thương trường, nên những mặt trái của xã hội, những mánh lới làm ăn nó rành hơn tôi. Có nhiều vấn đề nó nói, tôi thấy rất đúng. Thú thực thời gian ấy, tôi chỉ biết cúc cung tận tụy với kế hoạch của Nhà Nước, tôi bằng lòng với cuộc sống khi đó, xung quanh tôi ai cũng thế, tất cả chỉ trông vào đồng lương, tem phiếu mà chính phủ chu cấp. Tôi cảm thấy hãnh diện và tự hào, cho rằng mình là một trong số hàng triệu triệu người đang chung lưng đấu cật để xây dựng đất nước.
   Trong các cuộc tranh luận, đôi khi tôi với thằng D. cũng đi quá đà, vì cả tôi và nó cũng muốn những ý kiến mình đưa ra là xác đáng. Chúng tôi quên mất còn có nhiều người ngồi xung quanh mình, trong đó có thằng T. Thằng T. nó đâu có được ăn được học như chúng tôi. Không phải là nó kém cỏi, mà cái chính là nhà nó quá nghèo. Nhiều lúc tôi để ý xem biểu hiện của thằng T. thế nào? Thật là đáng thương cho nó, hình như nó luôn nghĩ rằng nó là nạn nhân của sự bàng quang vô cảm của những người làm chế độ chính sách, sự ghen tỵ của tầng lớp cán bộ lãnh đạo, trong thôn trong xóm, khi nó hoàn thành nhiệm vụ từ chiến trường trở về.
  Khi nói về những bất hợp lý về chế độ chính sách, nhìn mặt nó cũng có thể hiểu được nó chán trường và thất vọng đến mức độ nào, thật tội nghiệp. Tôi biết, nó đang phải nếm trải nỗi bất lực đến tận cùng. Nó biết rất nhiều và biết cụ thể từng việc, nhưng hiềm một nỗi là nó chỉ có một mình, nó không có ai đồng cảm với nó. Hơn nữa, nó không phải là người khôn khéo biết ăn nói, cộng với việc học hành không đến nơi đến chốn, nên nó dằn lòng ôm lấy cục dận vào trong, mà không biết phải làm gì.
   Nghĩ mà thương cho nó. Cái hồi tháng 6 năm 1973, tôi với nó và một tổ trinh sát của C20 E95 F325 đặt đài quan sát ở cao điểm 62. Nhiệm vụ của đài quan sát này là thu thập tình hình hoạt động quân sự của địch trên một khu vực rộng lớn, từ Nhan Biều, Ái Tử lên đến sát chân động Ông Do. Thời điểm ấy, tình hình chiến sự ở khu vực Tích Tường, Như Lệ, Tân Mỹ, Đá Đứng, ít xảy ra đụng độ. Hàng ngày chúng tôi theo dõi các hoạt động quân sự của địch, nói là các hoạt động quân sự cho nó oai vậy thôi chứ thực ra là quan sát và lắng nghe những diễn biến khác lạ so với thường ngày trên chiến tuyến giữa ta và địch, từ đó tổng hợp báo cáo về đài chỉ huy, thời kỳ này chúng tôi tương đối nhàn nhã.
   Dạo ấy, có một lần. Đồng chí chính trị viên đại đội đến kiểm tra đài quan sát của chúng tôi. Cái ngày ấy không bao giờ tôi có thể quên được, có thể nói nó là một ngày tương đối trọng đại đối với tôi. Bây giờ ngồi nghĩ lại, tôi thấy các sự việc cứ đan xen lồng ghép với nhau, nhớ được việc này là nhớ cả việc kia, tôi nhớ như in cái ngày hôm ấy. Buổi trưa, đồng chí chính trị viên đại đội phổ biến nghị quyết của chi bộ cho chúng tôi nghe, trong đó có việc chi bộ công nhận tôi trở thành cảm tình của Đảng. Nghe xong thông báo ấy, tâm trạng của tôi không biết là mình vui hay buồn. 
  Buổi tối hôm ấy tôi ít nói hơn mọi khi.Tôi nằm trên võng, mơ màng nghĩ về Miền Bắc, về bố mẹ, anh chị em, về người yêu về bạn bè. Đúng lúc ấy thằng T. nhẹ nhàng đến bên tôi, nó ngồi xuống cây gỗ dùng làm ghế ngồi để ăn cơm ngay cạnh tôi. Nó nói:
   -Các anh sướng thật! Được học hành, có chữ có nghĩa, nên ai cũng phải nể trọng. Bí thư chi bộ đến thăm để động viên, khích lệ. Bọn em thì chẳng ai thèm để ý đến, họ bảo chúng em là dân ngu cu đen.
   Tôi còn đang ngỡ ngàng trước thái độ của nó, nên cũng không biết trả lời nó thế nào cho phải. Nó lại tiếp tục:
   -Anh biết không? Nhà em nghèo lắm. Bố mẹ em kể: Nhà em mấy đời nghèo khổ, không có ruộng đất, quanh năm làm thuê cuốc mướn. Từ đời ông bà rồi đến đời bố mẹ em, đều phải đi ở cho địa chủ để kiếm miếng ăn. Đến khi cải cách ruộng đất, nhà em được xếp vào thành phần Bần Nông, sau đó được chia ruộng đất. Từ đó nhà em mới hết kiếp đi ở cho địa chủ. Đến đời em, hoàn cảnh gia đình lúc này có đỡ hơn, nhưng làm vẫn chưa đủ ăn. Bố mẹ cũng cố gắng chạy ăn từng bữa để cho chúng em đi học, nhưng nghĩ thương bố mẹ và các em, nên việc học hành của bọn em cũng chẳng đâu vào đâu. Thế rồi hình như số phận đã an bài, chúng em lại tiếp tục cảnh con trâu đi trước cái cày đi sau. Nghĩ cũng tủi phận, chỉ tại nhà mình nghèo, không biết cái nghèo nó còn đeo đuổi nhà em bao giờ cho hết…
   Đêm hôm ấy, nó kể cho tôi nghe nhiều lắm, nhiều khi tôi rơm rớm nước mắt.
   Tôi an ủi nó:
   -Không ai giầu ba họ, cũng chẳng ai khó ba đời. Hết chiến tranh anh em mình về làm lại, thôi cố lên!
    Bây giờ nghĩ lại lời động viên ấy, tôi thấy thương những người lính, thương nó quá…
(Còn nữa).


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: vanthang341ht trong 30 Tháng Mười, 2013, 04:36:11 pm

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
      6- Đồng đội tôi


     Chào bạn quanvietnam, chào các bạn.
     Tôi đọc bài viết trên đây của bạn quanvietnam cảm thấy tâm trạng quá bạn ơi...? ??? ??? ???
     Lâu lâu bạn lại vào trang của mình viét những bài làm người đọc phải suy ngẫm, chia sẻ và tháy thật xót xa. Đúng như tbt Nguyễn Văn Linh đã từng nói đại ý Mở cửa để đón những luồng gió mới nhưng cũng không thể ngăn được những luồng gió độc.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 01 Tháng Mười Một, 2013, 10:57:13 am
 Chào bác Vanthang, chào tất cả mọi đọc giả của trang. Thành thật, quanvn không muốn làm ai buồn. Quanvn chỉ muốn kể lại những mẩu chuyện nhỏ, trong muôn vàn những kỷ niệm của  những người cầm súng, đã có một thời sẵn sàng hy sinh tất cả vì độc lập tự do của Tổ Quốc. Chuyện quanvn kể là sự thật, một khi đã là sự thật thì mãi mãi nó vẫn là sự thật. Mong anh Vanthang và mọi người thông cảm.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 04 Tháng Mười Một, 2013, 09:57:06 am

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Đồng đội tôi
(Xin phép linh hồn những người đã mất, cho tôi viết bài này)
          Từ ngày về hưu, sáng nào cũng vậy, mùa nào cũng thế, chỉ trừ những ngày mưa hoặc quá rét. Còn lại, cứ 5 giờ sáng là tôi dậy, làm vệ sinh cá nhân, chuẩn bị quần áo mũ mão, xe cộ, để chuẩn bị lên đường. Hôm nay cũng như mọi ngày, khoảng 5 giờ 30 tôi đạp xe rời khỏi nhà, vào giờ này khu tập thể của tôi ít người dậy sớm nên vắng vẻ, tôi rất thích khoảng thời gian tĩnh lặng này. Xe tôi nhẹ nhàng bon bon trên những đường phố đã được quét dọn sạch sẽ đêm qua, không gian buổi ban mai nhẹ nhàng thoáng đãng làm tôi khoan khoái. Tôi đạp rất nhanh, đến công viên Thống Nhất, hai tay tôi nắm chặt tay lái, thả cho xe trôi và ngửa cổ lên trời hít một hơi thật dài lấy không khí vào đầy lồng ngực, sau đó tôi thở ra từ từ tận hưởng, thật là tuyệt vời. Đúng là Trời của ta, Đất của ta. Tất cả là của ta nhưng ta đã nghỉ hưu.
   Sau khi lượn ba vòng hồ Hoàn Kiếm, tôi dừng lại ở dãy ghế đá trước nhà hàng Lục Thủy. Đây là nơi tôi thường tập kết để tập một vài động tác thể dục dưỡng sinh, trước khi lần mò vào phố cổ tìm nơi ăn sáng, tìm quán caphe để ngồi hóng hớt chuyện thiên hạ và ngẫm lại chuyện mình. Việc làm này, lúc đầu xem ra thì cũng có cái gì đấy hơi ngồ ngộ. Song thực ra tôi cũng chẳng biết làm gì, hơn nữa tôi lại là “Tỷ phú” thời gian và tôi thấy cần phải vi hành, để bù lại những tháng ngày miệt mài công vụ.
  Dạo này, thời tiết ở Hà Nội đang ở độ gần cuối Thu, mùa Thu ở Hà Nội đẹp quá, phố nào cũng đẹp, đạp xe đi loanh quanh ngắm nghía phố phường, ngắm mãi mà không thấy chán. Nhưng  tôi thích nhất vẫn là ở Hồ Gươm. Ở đây, con người và thiên nhiên hòa quện vào nhau, tạo nên bức tranh vô cùng sinh động của tạo hóa. Tôi nghĩ, cũng có thể tạo hóa không thể tưởng tượng được là nó đẹp đến thế.
   Ngồi tựa lưng vào chiếc ghế đá sát mép hồ, gió Bắc se lạnh mơn man trên da thịt tạo nên cảm giác khoan khoái, không khí buổi sáng thật trong lành. Nhìn mặt hồ lăn tăn gợn sóng, sương mù giăng giăng mặt hồ. Những chú chim đi ăn đêm, tránh ánh nắng mặt trời hớt hải bay về tổ. Tôi thả tâm hồn vào sắc thu buổi ban mai. Thật là tuyệt, tâm hồn của ông lão về hưu thư thái nhàn tản. Chiếc điện thoại của ai đó đổ chuông. Tôi mơ hồ nghĩ về tiếng chuông điện thoại, rồi lại lẩn thẩn trách ai đó sao lại đặt tiếng chuông giống như tiếng chuông của mình. Chợt tôi nhớ ra, điện thoại của tôi ban nãy, do sợ rơi khi tập thể dục, nên tôi đã rút ra khỏi túi và để trên ghế đá. Tôi quay trở lại chiếc ghế đá, thấy điện thoại của mình đang đổ chuông. Tôi lẩm bẩm: Thì ra chuông điện thoại của mình. Tôi hỏi:
   -A lô! Ai đấy?
   -Em D. đây! Anh ơi! Thằng T. nó mất rồi. Em vừa nhận được tin từ đứa  con cả của thằng T.
   -Thế hả? Nó mất khi nào?
   -Em cũng quên chưa hỏi, chỉ nghe cháu nó nói: Sẽ tổ chức viếng từ 13 giờ 30 hôm nay đến 17 giờ thì đưa ra đồng. Cháu nó báo gấp quá, em lại đang ở trong Sài Gòn, nên chẳng biết tính thế nào, mọi việc ở ngoài đó chắc là phải nhờ các anh lo hộ. Em thương nó quá, rất tiếc là em không được ở bên nó lúc này, em cảm thấy ân hận lắm anh ạ!
   Tôi an ủi nó:
   -Ừ thôi! Đành vậy biết làm sao được. Mọi việc ở ngoài này cứ để bọn anh lo, khi nào có điều kiện ra thắp cho nó nén hương, thế là được rồi.
   Nói chuyện điện thoại với thằng D. một hồi lâu, tôi sốt cả ruột. Nó cứ nói mãi, rồi cẩn thận căn dặn tôi từng ly từng tý, nhưng cuối cùng thì tôi chẳng còn nhớ nó nói gì với tôi và tôi đã nói gì với nó, tôi mải nghĩ việc khác nên cứ ậm ừ cho qua chuyện. Quả thật lúc ấy, mọi tâm trí của tôi đang tập trung sắp xếp kế hoạch xuống Hưng Yên, để xem đám tang thằng T. chuẩn bị như thế nào? Hơn nữa cũng kể từ lúc ấy, cho đến tận trưa. Tôi nhận được rất nhiều cuộc điện thoại của bạn bè thông báo thằng T. đã mất và thống nhất kế hoạch viếng thằng T. của hội CCB: C20 E95 F325.
     Tôi cắt ngắn chương trình tập thể dục so với mọi ngày. Theo hợp đồng của anh em đơn vị cũ, khoảng hơn 11 giờ tôi đã có mặt ở nhà mấy anh bạn ở xã Giai Phạm, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên, để chuẩn bị đi viếng đám tang thằng T. Mọi khi anh em chúng tôi gặp nhau như thế này là vui lắm, đã nhiều lần làng xóm cũng phải ghen với chúng tôi, vì họ biết chúng tôi là những đồng đội cũ đã từng chiến đấu ở thành cổ Quảng Trị, trong thời gian 81 ngày đêm năm 1972. Nhưng hôm nay thì khác, hôm nay dân làng nhìn anh em chúng tôi bằng ánh mắt cảm thông và chia sẻ, bởi họ chứng kiến một người đồng đội của chúng tôi ra đi.
    Hôm nay, chúng tôi tụ hội về đây để đưa đồng đội của mình về cõi vĩnh hằng. Ở hoàn cảnh tử biệt sinh ly này, chúng tôi không nói gì, chỉ biết nhìn nhau, tay nắm chặt tay, nước mắt chạy vòng quanh. Những gương mặt phong trần, gân guốc, phảng phất mầu của chiến trinh. Nay lại nhuốm thêm mầu của thời gian và sự nghiệt ngã của cuộc sống. Những thứ đó đã làm cho da dẻ của anh em chúng tôi nhăn nheo, mầu da lôm nhôm chỗ đen chỗ xám, thô ráp sần sùi, mầu da ấy lại được gắn vào những mái đầu, người thì hoa dâm, người thì bạc trắng. Chúng tôi già thật rồi, nhìn anh em tôi thấy ngậm ngùi, tôi cố dấu đi những giọt nước mắt. Nghĩ đến 40 năm về trước, anh em chúng tôi trẻ khỏe tràn đầy sức sống, hăng hái theo đoàn quân ra trận, không hề so đo tính toán mà sẵn sàng hiến dâng tuổi thanh xuân của mình cho cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Bây giờ nhìn lại nhau, nhìn lại xã hội cũng có lúc cảm thấy bâng khuâng…
   Đám tang của T. không to, nhưng cũng đủ lệ bộ, sống thì dầu đèn chết thì kèn trống, một đám tang ở miền quê nghèo như vậy cũng là khá tươm tất rồi. Vợ con cháu chắt của thằng T., nước mắt ngắn nước mắt dài, đứng thành hàng dài bên linh cữu của nó, mắt người nào người nấy xưng húp dưới vành khăn tang. Tiếng kèn đám ma réo rắt ai oán, như oán trách trời đất, sao nỡ nào lại tạo ra cảnh chia ly này.
  Cả đoàn vào viếng, không ai cầm nổi nước mắt. Khói hương mờ ảo trong gian nhà chật trội của vợ chồng nó. Quan tài của nó được đặt chính giữa nhà. Đoàn người đi viếng, xếp hàng một đi vòng quanh quan tài. Tôi cố tình nhìn nó một lần cuối, nhưng ở đây không có tục lệ mở cửa sổ quan tài để đặt kính, nên tôi đành chịu. Quay ra, tôi nhìn di ảnh của nó lần cuối, và khấn thầm:
   -T. ơi! Em sống khôn chết thiêng, nhớ về phù hộ cho vợ con cháu chắt cùng toàn thể gia đình bên nội bên ngoại em nhé! Em hãy thương lấy họ, thương lấy những người còn đang sống. Những con người ấy đã chịu bao vất vả vì em. Em cũng thương lấy các anh và phù hộ cho các anh những người đã cùng em sống chết có nhau suốt cả thời gian dài gian khổ. Anh cầu mong cho linh hồn của em siêu thoát, em về với cõi vĩnh hằng yên giấc ngàn thu.  Em hãy bằng lòng với tất cả những gì em đã có, cho hồn được thanh thản. Vĩnh biệt em!
   Tôi nhìn vào di ảnh của nó, nó đội mũ Kêpy mặc quân phục, nhìn nó lạ lắm. Tôi quay đi như người mắc lỗi, không giám nhìn thẳng vào mắt nó. Khi quay lại tôi vẫn thấy nó nhìn tôi, tôi bước đi vài bước rồi quay lại, nó vẫn nhìn theo tôi với ánh mắt thân thương trìu mến. Tôi khấn thầm:
  -Thôi! Em đi nhé, anh về đây! Vĩnh biệt em!
    …Cho đến tận bây giờ, tôi cũng không còn nhớ là tôi đã tiễn đưa bao nhiêu đồng đội, đồng chí của mình về cõi vĩnh hằng. Đã là các đám tang, đám nào mà chả buồn, những đám tang của anh em hy sinh ở chiến trường bom đạn ác liệt lại đi một nhẽ. Cũng buồn lắm chứ, nhưng buồn kiểu khác, nhiều khi ở chiến trường, cũng chẳng có thời gian và điều kiện để mà buồn, bởi vì bọn địch đang ở rất gần với chúng tôi, chúng tôi không thể làm khác được. Hơn nữa lúc ấy, chúng tôi coi sự hy sinh là qui luật tất yếu của chiến tranh, nên cũng cảm thấy bình thường. Nhưng bây giờ thì lại khác, bây giờ không gọi là hy sinh mà gọi là chết. Những đám tang của anh em CCB bây giờ, đa phần là chết trẻ, chết bệnh tật.
   Nguyên nhân sâu xa của những cái chết này, là hệ lụy thảm khốc của chiến tranh. Bom đạn chất độc hóa học, cuộc sống gian khổ vất vả ở chiến trường chính là nguyên nhân đã gây ra cho các CCB quá nhiều bệnh tật.  Thế rồi, thời gian, tuổi tác và bệnh tật đã làm cho các CCB không thể chống cự được cái chết, các anh đành phải rời xa thế giới này.  Mọi người đến tiễn đưa các anh về cõi vĩnh hằng, cũng chỉ biết nhìn nhau và chia sẻ với gia đình những CCB bằng những câu an ủi: “ Thôi! Âu cũng là số phận”. Thế thôi! Mà đã là số phận biết làm sao được? Mấy ai xét tới nguyên nhân sâu xa của số phận?
    Đám tang của thằng T., đám tang của một cựu chiến binh, cũng giống như bao đám tang khác, nhưng không hiểu sao tôi rất tâm trạng. Tôi thấy rất buồn, tất nhiên bạn bè anh em ly biệt nhau kẻ ở lại người đi vào lòng đất, ai mà chả buồn. Nhưng có lẽ ngoài nỗi buồn này, tôi vẫn thấy buồn và lo sợ nhiều vấn đề khác, trong đó nặng nề nhất vẫn là sự phơi nhiễm chất độc mầu da cam của những CCB đã từng chiến đấu ở chiến trường Quảng Trị. Cuộc đời của những CCB là như vậy, còn đời con đời cháu của các CCB thì sao đây?
   Rời đám tang thằng T., tôi về Hà Nội. Tâm hồn tôi trống trải bâng khuâng…
   Vậy là kết thúc một đời người, bao nhiêu buồn vui khổ đau đều mang vào lòng đất.
                                                 HẾT.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 06 Tháng Mười Một, 2013, 07:25:56 am
           Chào bác quanvietnam, chào các bác! Vâng đọc mấy bài viết của bác chủ mà Tranphu tôi cũng cảm thấy  buồn nao nao tâm trạng. Cái tâm trạng của những người đã ở cái ngưỡng U6 U 7 rồi lại là những người lính đã từng nhiều năm cầm súng vì độc lập tự do của Dân Tộc,Vì Đất Trời Thiêng liêng của Tổ Quốc.

            Ngày nay càng ngẫm càng soi vào cuộc sống thì lại càng buồn, thậm chí thật chán nản cho nhân tình thế thái. Cũng may mà còn có Trang mạng này để mà anh em mình chia sẻ. Chứ mở các trang mạng khác thì thấy nó ; Nhạt theo lèo nhạt đến ghê người nhạt nhẽo đến độ rùng rợn. lúc nào cũng kẻ cướp, kẻ trộm, kẻ tham nhũng, kẻ giết người, thậm chí bố mẹ anh em người thân cũng lập mưu giết nhau. Ôi cái giá trị cuộc sống, giá trị đạo nghĩa ở đâu hết rồi hở các Bác. Phải chăng các Cụ xư đã tổng kết lại thật đúng:

                                               THƯỢNG BẤT CHÍNH THÌ HẠ TẮC LOẠN.

                  Buổi sàng ngày mới Tranphu341 kính các bác luôn cui khỏe!


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 02 Tháng Mười Hai, 2013, 11:34:48 am

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Số Phận
          Những tháng ngày dùi mài với sách vở rồi cũng qua đi, cuối cùng thì Hoàng cũng có được tấm bằng tốt nghiệp của Khoa Thủy Lợi Cảng trường ĐHXD. Cầm tấm giấy chứng nhận tốt nghiệp trên tay, nước mắt Hoàng ứa ra. Hoàng nghĩ đến bố mẹ, nghĩ đến tất cả mọi người trong gia đình, nghĩ về quá khứ. Người Hoàng run lên, tờ giấy chứng nhận tốt nghiệp trên tay Hoàng cũng rung rung. Hoàng chạy ào về  ký túc xá leo lên giường tầng, cất cẩn thận tấm giấy chứng nhận tốt nghiệp vào cuốn sổ tay để về khoe với bố mẹ. Hoàng sung sướng nằm vật ra giường, hạnh phúc trào dâng. Vậy là ước mơ của Hoàng của bố mẹ của mọi người trong gia đình đã thành sự thật. Những năm tháng chiến tranh ai có thể tin được là Hoàng còn sống trở về, thế mà vận may đã cho Hoàng còn sống trở về và còn may mắn hơn là Hoàng đã tốt nghiệp đại học. Tất cả như một giấc mơ đẹp. Quá khứ của người chiến sĩ trinh sát C20 E95 F325 năm xưa, lại thêm những trang sau chiến tranh và những trang tiếp theo, để nối dài số phận của một đời người…
    Thấm thoát thời gian Hoàng tranh thủ về nhà thăm gia đình cũng đã hết. Hôm nay trở lại trường, cầm quyết định đi nhận công tác, Hoàng không khỏi hồi hộp xen lẫn lo âu. Những ngày sắp tới, cuộc sống của Hoàng sẽ như thế nào đây? Hoàng bắt đầu cảm thấy băn khoăn. Không phải Hoàng lo lắng về cuộc sống, về sự gian khổ và vất vả. Những thứ đó quá thường đối với Hoàng, trước kia khi còn ở quân đội vào sống ra chết ăn đói mặc rách, thứ nào Hoàng cũng trải qua. Hoàng không sợ những thứ ấy, điều Hoàng e ngại bây giờ là: Không biết khi ra thực tế, Hoàng sẽ phải bắt đầu từ đâu? Từ những cái gì? Chắc chắn những cái đấy nó không giống hoàn toàn những gì Hoàng đã học, vậy thì Hoàng phải bắt đầu như thế nào để có thể phù hợp với cuộc sống mới? Nghe người ta nói: Ngoài đời có nhiều cạm bẫy chứ không như ở trong quân đội đâu. Hoàng thấy mơ hồ nhưng không giám hỏi ai, hỏi ra sợ bị mọi người cười, cho rằng mình ngây ngô. Hoàng tặc lưỡi, tự trấn an: Cứ yên tâm, nước nổi thì bèo nổi, đợt này về đây nhận công tác có mấy anh em cùng lớp cơ mà lo gì…
   Còn đang phân vân, lo lắng cho những ngày sắp tới, thì chuyến xe chở Hoàng, xuất phát lúc hơn 4 giờ sáng từ bến Kim Liên Hà Nội đi Hòa Bình, cũng dừng lại ở Lương Sơn thuộc địa phận của tỉnh Hòa Bình để nghỉ ăn trưa. Hoàng đoán: Từ đây lên thị xã Hòa Bình nơi đoàn chuyên gia Liên Xô đang giúp Việt Nam xây dựng công trình thủy điện Hòa Bình, chắc cũng còn xa lắm, không biết đến tối có đến được không? Lần đầu tiên Hoàng mới đến xứ sở này.
  Ngáp liền mấy cái, chảy cả nước mắt, Hoàng đã thấm mệt. Đêm qua ngủ nhờ nhà anh bạn, phần lạ nhà không sao ngủ được, phần phải lo dậy sớm để ra bến Kim Liên xếp hàng mua vé ô tô đi Hòa Bình, nên ngủ cũng không được ngon giấc. Nghĩ lại cảnh xếp hàng để mua vé đêm qua Hoàng thấy ớn cả người. Trong đêm tối, dòng người xếp hàng mua vé dài lắm, không biết cơ man nào là người. May mắn Hoàng là một trong số những người đứng đầu, nên chắc chắn Hoàng sẽ mua được một vé. Ở hoàn cảnh này, ai mà mua được một chiếc vé mừng hơn cả bắt được vàng, những người chưa mua được thì buồn thiu. Nhìn những khuôn mặt mất ngủ hốc hác, nặng chĩu lo âu của họ, Hoàng  cảm thấy buồn lây. Nhưng có lẽ, cũng chẳng còn con đường nào khác là họ vẫn phải tiếp tục xếp hàng chờ đợi để mua vé cho chuyến sau.
    Hoàng nghĩ: Kiểu này, có khi họ phải xếp hàng đến cả ngày hôm sau nữa cũng nên. Vì thực tế Hoàng thấy, quầy bán vé mới chỉ bán được mấy người mà đã hết vé, chẳng hiểu họ làm ăn kiểu gì mà trắng trợn thế. Trong khi đó, mấy ông trông to béo lực lưỡng tay lăm lăm sổ thương binh, chẳng biết là thương binh thật hay giả, cứ chen lấn xô đẩy nhau ở trước cửa bán vé, làm mọi người đứng sau không thể nào chen lên mua vé được. Có lẽ vé bị mấy ông thương binh và người bán vé thông đồng với nhau thao túng để đùn ra ngoài chợ đen kiếm lời.
  Hoàng chép miệng: Cuộc đời này, sao mà khổ thế? Cũng là một kiếp người, sao có người cứ muốn làm giầu trên mồ hôi sức lực của người khác. Đã thế, việc họ làm rất trắng trợn, không phải mọi người không biết, ai cũng biết. Nhưng khổ một nỗi là chẳng ai dám can thiệp, vì mọi người đều biết có can thiệp cũng không làm gì được. Tất cả bọn chúng đã vào vây vào cánh với nhau từ trên xuống dưới thành một hệ thống vững chắc để bảo vệ và chia sẻ quyền lợi với nhau rồi, còn ai làm gì được chúng nó. Hoàng lắc đầu ngán ngẩm, lực bất tòng tâm.
   Mọi người xuống xe, tạ tật vào gốc cây để tìm bóng mát, có người còn chẳng kịp bước được bước nào, vội ngồi sụp xuống nôn thốc nôn tháo, nôn cả ra mật xanh mật vàng. Nhìn đoàn người say xe thật tội nghiệp, đầu tóc rũ rượi, mặt mày tái mét.
  Nghĩ lại quãng đường từ Hà Nội lên đây đúng là quá khổ, người không say cũng phải say. Đường thì chẳng ra hồn đường, toàn ổ trâu ổ bò, trời thì nóng nực, người thì đông. Đã thế trong xe lại còn bừa bộn những dụng cụ của nhà xe. Nào là dây cáp, dây điện, chỗ này săm lốp xe, chỗ kia can dầu, gầm ghế là phụ tùng đồ nghề để sửa xe. Tất cả vứt ngổn ngang chắn hết cả lối đi, thứ nào thứ nấy bê bết dầu mỡ. Mùi dầu mỡ, mùi mồ hôi, mùi nôn mửa, thôi thì đủ thứ mùi. Những người ngồi gần cửa sổ thì cố thò đầu ra ngoài cửa sổ để thở, còn những người ngồi ở phía trong không biết làm thế nào đành chịu trận.
   Hoàng tiến lại chỗ bóng dâm của cây mít để ngồi nghỉ và tranh thủ ăn trưa với chiếc bánh mỳ mang theo từ Hà Nội. Khi đi qua cái giếng phía trái nhà, Hoàng bắt gặp một khuôn mặt quen quen đang vốc nước từ chiếc chậu tráng men lên rửa mặt. Nước giếng trong vắt, đựng trong chiếc chậu tráng men trắng muốt, xung quanh chậu và đáy chậu điểm những bông hoa hồng đỏ tươi rực rỡ, mầu đỏ lại càng làm cho khuôn mặt quen quen kia vừa béo tốt lại thêm nhuận sắc.
   Hoàng cố lục lại trí nhớ của mình xem đã gặp khuôn mặt này ở đâu? Hoàng nghĩ, rất khoát Hoàng sẽ nhớ ra, bởi vì nó có cái gì đó rất quen và lại rất gần. Hoàn toàn không có chủ ý, bỗng nhiên Hoàng à lên một tiếng rất to rồi tự vỗ vào đùi mình đen đét. Hoàng lẩm bẩm:
    -Thôi đúng rồi! Đúng là ông ấy rồi. Tính ra cho tới bây giờ cũng đã hơn 5 năm, gần 6 năm rồi còn gì nữa.
   Ông ấy tên là Sinh. Hoàng nghĩ lại: Có lẽ Sinh bằng tuổi với chị gái Hoàng, hồi trước Hoàng vẫn gọi Sinh bằng anh, nhưng chẳng hiểu tại sao sau khi xảy ra vụ việc ấy thì mọi người trong xóm cảm thấy có một cái gì đó khang khác trong quan hệ đối xử với gia đình Sinh và với Sinh. Có lẽ từ ngày ấy, bọn Hoàng và những bạn bè cùng lứa với Hoàng không gọi Sinh bằng anh nữa, mà toàn xưng hô trống không hay là xưng ông ông tôi tôi. Cũng từ ngày ấy Sinh tìm đủ mọi cách lảng tránh không muốn giáp mặt mọi người và mọi người cũng cho đấy là điều hợp lý, không ai còn nói ra nói vào gì nữa.
   Hôm nay, nhìn thấy Sinh ở đây, Hoàng thấy thắc mắc, tại sao ông ấy lại ở đây? Hay là ở quê không chịu được tai tiếng nên từ bỏ quê hương, lên đây lấy vợ, làm ăn sinh sống? Hoàng nghĩ: Rất có thể? Nhưng chuyện ấy không quan trọng, mà quan trọng người ấy có đúng là Sinh không? Nếu đúng là ông Sinh đảo ngũ ngày xưa sao bây giờ nhìn khác thế? Trước mười phần, bây giờ chín phần không phải là ông Sinh, chỉ còn nét mặt, đôi mắt, đôi lông mày và cái trán là vẫn như xưa, có lẽ những đặc điểm ấy nên Hoàng nhận ra người đàn ông ấy là ông Sinh, còn tất cả những thứ khác về hình dáng con người đã thay đổi hết. Mọi sự thay đổi đều tốt hơn trước rất nhiều, nên cũng khó nhận ra.
   Hoàng nghĩ: Kể cũng hay, lúc trước vào những năm 1967-1968 ông Sinh đi bộ đội nhưng không chịu được gian khổ và sợ hy sinh nên ông sinh đã đảo ngũ trốn về địa phương, sau thời gian ấy không hiểu cuộc sống của ông thế nào? Cứ như bây giờ nhìn ông chẳng ai biết ông đã từng là bộ đội B quay, thậm chí nhìn ông bây giờ thấy hừng hực sức sống, vượng khí tràn trề.
   Nghĩ một hồi, rồi Hoàng khẳng định 90% là ông Sinh, ông Sinh là người cùng xóm với Hoàng, chỉ còn lại 10% là còn hơi nghi ngờ. Lý do để cho Hoàng nghi ngờ là: Tại sao? Ông Sinh lại béo tốt thế. Hoàng cứ nghĩ: Những người đi bộ đội mà đảo ngũ là có tội với dân với nước, nhẽ ra những người như vậy phải sống trong tâm trạng bị dầy vò đau khổ, sống có khi còn nhục nhã hơn là chết đi. Đằng này nhìn ông cứ thấy đẫy đà béo tốt, chẳng hiểu ông có bí quyết gì?
   Nghĩ thì nghĩ vậy, nhưng Hoàng vẫn cảm thấy có cái gì đấy vẫn chưa thể khẳng định được. Hoàng xốc chiếc ba lô lên vai, đi ngang qua sân giếng, vừa đi Hoàng vừa nhai bánh mỳ. Hoàng cố tình nhìn lại một lần nữa để khẳng định người ban nãy là ông Sinh. Nhưng lần này, chẳng những không khẳng định được mà lại làm Hoàng thêm nghi ngờ.
   Bây giờ, ông Sinh đang ngồi trên chiếc sập bằng gỗ kê ở giữa nhà của một quán hàng ăn ven đường Quốc lộ số 6. Đối diện với ông Sinh là một ông to béo phốp pháp, cởi trần trùng trục, mồ hôi bóng nhoáng. Một tay ông cầm chiếc quạt mo phe phẩy, một tay ông cầm chiếc đùi gà to, ông đang dùng răng cửa với răng nanh để xé từng tảng thịt nhai ngấu nghiến ngon lành, thi thoảng ông để chiếc quạt mo xuống sập, nâng chén rượu lên nhâm nhi một vài hớp. Mảng ngực ông đỏ như cổ gà chọi, có lẽ cũng đã uống vài ba chén rượu nên mới đỏ như vậy. Chiếc dây chuyền bằng bạc kích thước to quá cỡ đeo thòng lòng ở dưới cổ, lại được gắn thêm cái móng vuốt nhọn hoắt của con hùm hay con cọp gì đó, làm cho bộ ngực của ông càng oai vệ.
   Nhìn ông Sinh cũng không kém cạnh, cũng một chín một mười. Ông Sinh cũng cởi trần, đường gân thớ thịt ở vai ở cổ cả ở ngực nữa cũng nổi lên cuồn cuộn mỗi khi ông nhai những miếng sụn kêu côm cốp. Mồm ông bóng nhẫy toàn là mỡ gà, ông bốc cả nắm rau thơm cho vào mồm, rồi nhai ngồm ngoàm nên trông mồm ông cứ như chậu hoa đang rung rinh trước gió.
  À! Thì ra hai ông này là dân lái xe khách, ông to béo kia là lái xe, còn ông Sinh có lẽ là lơ xe. Các ông thuộc loại khách đặc biệt của nhà hàng này thì họ phải chiêu đãi thiếu gì của ngon vật lạ. Hoàng đoán thế, nhưng không biết các ông ấy chạy ở tuyến nào? Hoàng cũng không có ý định tìm hiểu xem các ông này chạy ở tuyến nào. Nhìn chiếc đùi gà trên tay ông lái xe còn trơ lại toàn xương, mồm của ông Sinh thì bóng nhẫy. Miếng bánh mỳ Hoàng đã nuốt như nghẹn lại trong thực quản.
   Nhớ cái hồi mà sáng nào ông Sinh cũng đeo tấm biển ở trước ngực, đứng ở ngã tư đường làng đúng vào giờ mọi người ra đồng. Trên tấm biển viết rất nắn nót dòng chữ: “Ai cũng như tôi thì mất nước.” Ông Sinh cứ đứng đấy và cúi gầm mặt xuống, cho tới khi nào mọi người ra đồng hết, khi ấy ông mới được đi ra đồng làm việc. Nghĩ mà thương cho ông Sinh, ai mà chẳng ham sống sợ chết.
   Dạo ấy, cả nước đang chiến tranh không khí vùng quê nghèo của Hoàng nặng nề và u uất.
(Còn nữa)


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 20 Tháng Mười Hai, 2013, 02:33:22 pm

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Số  phận
          Hôm nay nhìn ông Sinh, Hoàng nhớ đến Nguyệt. Nguyệt gọi ông Sinh bằng anh họ, bố đẻ ra ông Sinh với bố Nguyệt là hai anh em con chú con bác họ. Ngày bé, Nguyệt hay khoe sang nhà anh Sinh để ăn cỗ. Nhà ông Sinh ở xóm dưới, Nhà Nguyệt gần nhà Hoàng ở xóm trên. Hoàng với Nguyệt chơi với nhau từ hồi tóc đang để chỏm, mũi thò lò.
   Nhà Hoàng với nhà Nguyệt nếu theo đường chính thì cách nhau đến 200m, còn theo đường tắt thì chỉ cách nhau có hai mảnh vườn. Hồi nhỏ, Hoàng với Nguyệt thường liên lạc với nhau bằng con đường tắt nối thông hai mảnh vườn. Tuổi thơ của Hoàng và Nguyệt bắt đầu từ ở xóm nghèo này, cả hai đứa lớn lên cùng nhau cho tới khi Hoàng trưởng thành đi học đại học. Nếu tính ra thì phải tới 15- 16 năm chứ ít gì, tình bạn của hai đứa biết bao là kỷ niệm, những ký ức về tuổi thơ đẹp, mà cũng rất trẻ con. Sau này, lúc đã lớn rồi nghĩ lại chính Hoàng cũng không nhịn được cười, Hoàng lại tự cười một mình, Hoàng cũng cảm thấy vui vui và có phần luyến tiếc, mơ ước bao giờ cho đến ngày xưa…
   Những ngày thơ ấu Nguyệt với Hoàng chơi thân với nhau, Hoàng đi đâu Nguyệt cũng đi theo. Nguyệt bảo: Đi với Hoàng thì không bị ai bắt nạt, có phải làm việc gì Hoàng cũng làm hộ, nếu có cái gì ăn thì bao giờ Hoàng cũng chia cho Nguyệt phần nhiều, lúc nào Hoàng cũng bênh vực Nguyệt nên Nguyệt thích lắm. Hồi ấy cả hai đứa còn trẻ con rất ngây thơ, xa nhau thì nhớ nhau, chia nhau từ củ khoai bắp ngô, cái gì cũng có nhau. Đương nhiên là có những lúc hai đứa cãi nhau kịch liệt, không   thèm nhìn mặt nhau. Cũng đã một đôi lần Nguyệt bị Hoàng bạt tai khóc hu hu, nhưng Nguyệt chả dám mách với ai, những lúc ấy, khóc thì khóc nhưng Nguyệt vẫn lẽo đẽo đi theo Hoàng. Ngay sau đấy, Hoàng nghĩ lại thấy ân hận và cũng thấy thương Nguyệt, rồi lại làm lành. Nhưng cũng chỉ được một lúc là Hoàng quên mất, rồi chứng nào lại tật ấy.
  Thời gian qua đi, khi hai đứa đến tuổi trưởng thành. Hoàng là con trai nên không có biểu hiện gì rõ nét, trông vẫn còn ngố. Nguyệt là con gái nên càng lớn lại càng xinh đẹp, ngực của nguyệt chả biết tự khi nào mà đã thấy lùm lùm đội cả áo lên, Nguyệt xấu hổ nên hay lấy nón úp lên, kể từ đấy Hoàng không dám nhìn vào ngực của Nguyệt vì ngượng. Có lẽ, từ đó Hoàng cũng thay đổi cách đối xử với Nguyệt. Thời gian ấy, bạn bè hay gán ghép chuyện vợ chồng giữa Hoàng với Nguyệt và khen là đẹp đôi. Nguyệt là con gái nên dễ xấu hổ nên chạy trốn, còn Hoàng thì mải chơi chẳng quan tâm nên tỉnh bơ và vẫn đi chung với nhau. 
  Ngày Hoàng còn ở nhà, chưa đi học đại học, Hoàng và Nguyệt chơi với Chị Thịnh. Chị Thịnh là người hàng xóm, chị hơn Hoàng có lẽ phải tới 3 hay 4 tuổi, cả ba chơi với nhau thân thiết như là bạn bè một lứa. Hàng ngày Hoàng đi học, còn chị Thịnh với Nguyệt là xã viên HTX nên ở nhà tham gia công việc của hợp tác xã. Dạo ấy, chiến tranh phá hoại ra Miền Bắc của không quân Mỹ ngày càng ác liệt, Hoàng tuy còn là học sinh cấp ba nhưng cũng tham gia vào dân quân tự vệ ở địa phương, tối nào Hoàng với Nguyệt cũng được phân công đi trực phòng không, mỗi khi nghe thấy tiếng máy bay địch thì gõ kẻng báo động để mọi người chạy xuống hầm trú ẩn. Có một hôm, nghe thấy ở đâu người ta gõ kẻng. Hai đứa mải nói chuyện nên giật mình cũng vội vàng gõ kẻng, nhưng mãi chẳng nghe thấy tiếng máy bay. Lần ấy cả hai đưa bị phê bình, xấu hổ quá… Hoàng với Nguyệt thường gặp nhau như thế thành quen, hôm nào không gặp cũng thấy nhớ và có ý chờ đợi.
   Nguyệt bằng tuổi với Hoàng, cùng học với Hoàng từ nhỏ. Nhưng sau này có lẽ vì nhà nghèo, mẹ Nguyệt ốm đau luôn nên Nguyệt chưa học hết lớp 7 thì bỏ, còn chị Thịnh thì là lứa đàn chị nên Hoàng chả biết là chị học hết lớp mấy? Ngày ấy, miền quê nghèo của Hoàng lúc nào cũng hối hả tất bật nhưng vẫn không đủ ăn, đã thế lại còn giặc dã nữa chứ. Có những ngày, phải mấy lần vào hầm trú ẩn để tránh máy bay, nó đi rồi lại chạy ra cầy cấy. Đến bữa thì hớt hải vơ vội, vơ vàng mấy ngọn rau, rau gì cũng được, miễn là ăn cho no để đánh lừa cái dạ dầy vì nó nhớ bữa.
   Cứ như vậy, ngày lại qua ngày cho đến khi Hoàng vào đại học.  Học được mấy năm thì có lệnh tổng động viên, Hoàng nhập ngũ. Hoàng nhập ngũ ở trường nên ở địa phương không ai biết, mãi sau này khi có giấy tờ từ trường đại học chuyển về khi ấy địa phương mới biết, và chị Thịnh với Nguyệt cũng mới biết là Hoàng đã đi bộ đội. Sau này, cũng có lần Nguyệt trách Hoàng sao không viết thư báo cho Nguyệt biết.
  Trong suốt thời gian ở quân ngũ, chỉ trừ hơn hai tháng huấn luyện ở ngoài Bắc, còn lại cũng là bấy nhiêu thời gian ở chiến trường. Từ ngày đi chiến trường, Hoàng chỉ viết thư cho đỡ nhớ nhưng không gửi cho ai, kể cả cho bố mẹ. Hoàng cố tình làm cho mọi người không có thông tin về mình, để mọi người quen với sự thiếu vắng, và nếu như có tình huống xấu nhất xảy ra thì không ai cảm thấy hẫng hụt. Hồi ấy, chẳng hiểu sao Hoàng lại làm như vậy. Chính vì lý do ấy nên chị Thịnh và Nguyệt cũng không thể có thông tin gì về Hoàng.
   Mãi tới khi giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước. Hoàng được trở về tiếp tục đi học, khi ấy tất cả mọi người mới biết là Hoàng còn sống. Những ngày đầu được đoàn an dưỡng cho về thăm nhà, nhà Hoàng lúc nào cũng đông vui, bố với các anh các chị cũng xin nghỉ phép mấy ngày, để ở nhà chơi với Hoàng, cả cô gì chú bác làng trên xóm dưới đều đến mừng cho bố mẹ Hoàng và Hoàng. Phải đến ba bốn ngày, nhà Hoàng lúc nào cũng tấp nập, người đến chúc mừng,  người đến hỏi thăm thông tin về người thân của họ ở chiến trường. Những ngày ấy mẹ Hoàng là người vất vả nhất, bà hết chạy lên chạy xuống, bếp bếp núc núc, lại còn phải lo tiếp khách nữa chứ. Cũng may mà có chị Thịnh và Nguyệt đến giúp nên cũng đỡ được khối việc.
  Trong mấy ngày vui vẻ ấy, có một lần chị Thịnh hỏi Hoàng:
   -Ngày Hoàng còn đang học ở đại học, Hoàng biên thư cho Nguyệt, nói là có chuyện bí mật muốn kể cho Nguyệt nghe.  Sao mãi vẫn không thấy Hoàng kể? Từ đó đến giờ Nguyệt cứ chờ mãi mà chẳng thấy Hoàng nói gì? Lần này về thì kể cho nó nghe kẻo nó cứ chờ, người gì mà vô tâm đến thế?
   Hoàng chột dạ, không biết chuyện ấy có thật không, mà sao Hoàng không nhớ. Hoàng đoán câu chuyện bí mật  Hoàng định kể với Nguyệt, thế nào cũng có dính dáng đến chuyện tình cảm của Hoàng với Nguyệt hồi Hoàng còn học ở quê. Nếu là chuyện ấy thì đúng là gay go rồi, bây giờ chống chế thế nào đây? Mà nghe đâu chị Thịnh và Nguyệt vẫn chưa xây dựng gia đình, thế mới khổ chứ. Hoàng nghĩ về họ thấy tội tội, năm nay chị Thịnh đã 27-28 tuổi, Nguyệt cũng đến 23-24 rồi còn gì, ở quê thế là già lắm rồi, dễ ế chồng lắm.
   Khổ nỗi những năm trước ở hậu phương, con gái đến tuổi trưởng thành, không ế cũng gần như ế, có còn ai đâu mà lấy, trai tráng đi chiến trường hết, ở nhà chỉ còn lại người già với trẻ con, còn sót chàng trai nào thì lại bị dị tật bẩm sinh hoặc là thế nào đấy nên cũng không dám lấy. Tội thật! Chiến tranh đã cướp đi tuổi thanh xuân, giết chết tình yêu của biết bao đôi lứa, bây giờ chiến tranh đã kết thúc thì lại quá lứa lỡ thì, không biết có lấy được chồng không? Thiệt thòi nhất vẫn là những người phụ nữ…
   Nghĩ thế, nên phản xạ đầu tiên là Hoàng phải chối ngay:
   -Em không nhớ! Chuyện em viết thư cho Nguyệt thì có, còn chuyện em hẹn Nguyệt để kể câu chuyện bí mật thì em không còn nhớ.
   Hoàng dừng một lát để thăm dò và cũng là để kiểm chứng xem chị Thịnh có chứng cớ gì để chứng minh là Hoàng hẹn Nguyệt khi nào về sẽ kể không? Thú thực trong đầu Hoàng bây giờ cũng láng máng lúc có lúc không, bởi cũng đã 5-6 năm rồi làm sao nhớ được, nhưng nhiều khả năng là có. Hoàng đấu tranh tư tưởng: Thời điểm này, cho dù có chuyện ấy mười mươi thì Hoàng cũng phải chối là không còn nhớ, không thể nhận là mình có hẹn với Nguyệt chuyện ấy được.
  Thú thật, thời kỳ ấy chuyện tình cảm của Hoàng với Nguyệt còn đang trẻ con, chỉ dừng lại ở mức độ xa nhau thì nhớ nhau, chưa một lần Hoàng nói lời yêu thương với Nguyệt. Nói thật, ngày Hoàng còn ở nhà, nếu như không có những lời đồn thổi về gia đình nhà Nguyệt và Hoàng đã biết yêu thì  Hoàng đã ngỏ lời với Nguyệt rồi, đâu đợi đến bây giờ…
   Hoàng nói với chị Thịnh:
   -Để hôm nào em gặp Nguyệt nói chuyện.
 …
   Bố mẹ Nguyệt sinh được ba chị em, chị gái anh trai rồi đến Nguyệt. Chị gái Nguyệt tên là Ngà, mãi mới lấy được chồng, chẳng biết chị lấy chồng ở đâu? Đã một vài lần có nghe Nguyệt nói đến, nhưng vì Hoàng không quan tâm nên thành ra không nhớ. Hoàng chỉ nhớ chị Ngà, vì chị Ngà rất xinh, có thể nói là xinh nhất làng nên không thể không nhớ, hơn nữa Hoàng cũng có kỷ niệm về chị Ngà nên có muốn quên cũng vẫn nhớ.
    Nói chuyện ấy ra có vẻ xấu hổ, nhưng sự thật là Hoàng không cố ý mà chỉ là vô tình, lúc nào nghĩ lại Hoàng cũng cảm thấy tự xấu hổ với chính mình, ngay bây giờ cũng thế. Lần ấy, Hoàng vượt qua hai mảnh vườn, chui qua hàng rào rồi bước thẳng vào trong nhà của Nguyệt. Tưởng như mọi khi, vào giờ này thì mọi người đi làm đồng hết, chỉ có Nguyệt ở nhà chờ Hoàng đến để đi nhân bèo hoa dâu. Hoàng ập vào trong nhà rất nhanh, nhanh đến nỗi chị Ngà đang thay quần áo, không kịp phản ứng gì, đứng ngây ra miệng cứ ớ ớ. Hoàng cũng không biết xử lý thế nào, đành đứng như trời chồng ở giữa nhà, mắt nhìn thẳng lên bàn thờ, không dám quay ngang quay ngửa. Đến khi chị Ngà định thần lại được, vội vơ vội tấm áo để che, chẳng biết chị che chỗ nào Hoàng không dám nhìn, rồi lên tiếng hỏi Hoàng:
   -Em tìm Nguyệt à?
   -Vâng! Nguyệt hẹn em đi nhân bèo hoa dâu.
   Vừa nói, Hoàng vừa chạy ra ngoài sân, mặt nóng bừng bừng. Chị Ngà nói gì đó đuổi theo Hoàng, nhưng Hoàng đã chạy tít ra đầu ngõ. Hoàng vẫn chưa lấy lại được bình tĩnh, vừa đi vừa thở hổn hển hình dung lại chuyện xảy ra, Hoàng cảm thấy xấu hổ, nhưng sao cơ thể Hoàng lại rạo rực hẳn lên lạ lắm, có lẽ Hoàng đã lớn rồi.
   Thật đấy! Vẻ đẹp của chị Ngà chẳng biết nói thế nào, nhưng có một thực tế là ai đã nhìn thấy và nói chuyện với chị một lần là có cảm tình ngay. Con người, hay cụ thể hơn là tất cả những gì có trên cơ thể của chị đều toát lên sức cuốn hút diệu kỳ, đã thế trời lại cho chị sở hữu làn da trắng ngần, khuôn mặt tròn trịa, thật thà phúc hậu, tiếng nói nhẹ nhàng đằm thắm tình cảm. Nụ cười và chiếc răng khểnh của chị làm đắm đuối tất cả những chàng trai, thật khó mà đoán được nụ cười ấy chị dành cho ai…
   Chị Ngà đẹp là vậy, thế mà lại vất vả về đường chồng con. Hoàng không biết cụ thể lắm về chuyện này, ngày ấy chỉ nghe người ta xì xầm bàn tán là:
    -Gia đình nhà ấy trước kia có người bị mắc bệnh hủi, nên da dẻ của chị em con Ngà mới đẹp như thế, nếu không bị bệnh hủi thì làm gì có nước da  ấy.
   Vậy đấy, nguyên cái chuyện bị ghép vào căn bệnh ấy đã chết người rồi, lại còn bị thêm những chuyện của các anh trai làng đến tán tỉnh mà không được, nên cũng bịa ra đủ thứ chuyện trên trời dưới đất, khoác vào người chị Ngà bao nhiêu là chuyện bệnh tật như là có thật. Thế rồi may mắn thế nào ấy, chị Ngà cũng lấy được chồng, nghe đâu chồng chị cũng tốt lắm. Lấy nhau rồi, hai vợ chồng chị Ngà dắt díu nhau đi khai hoang ở mãi tận Tây Bắc gì đó, hình như xa lắm, từ đó đến giờ cũng chưa một lần về quê.
   Chuyện ở vùng quê thì cứ loanh quanh như vậy. Ngay đến anh Ngân em ruột chị Ngà, hồi ấy cũng không chịu nổi những chuyện đồn đoán ấy, nên anh tìm mọi cách tòng quân để ra mặt trận. Khi chị Ngà đã đi lấy chồng, anh Ngân đi bộ đội, ở nhà chỉ còn lại Nguyệt với hai bố mẹ già. Nguyệt giống mẹ nên trắng bủng và không xinh như chị Ngà, nhưng cũng một chín một mười, bù lại Nguyệt hơn hẳn chị Ngà ở mái tóc, tóc của Nguyệt vừa đen lại vừa dài. Trông vóc người, làn da, mái tóc và dáng đi yểu điệu của Nguyệt, ai cũng bảo con bé như người thành phố.
   Ngày ấy, Nguyệt cũng là một trọng điểm đánh phá của biết bao nhiêu chàng trai, trong làng ngoài xã.
(Còn nữa).
   



Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 01 Tháng Giêng, 2014, 09:22:43 am

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Số phận
          Vật vã mãi, phải đến hơn 4 giờ chiều, chiếc xe khách ọp ẹp hôi hám, phủ kín bụi đường, mới bò được về đến bến xe thị xã Hòa Bình. Bến xe khách ở ngay đầu thị xã, cách Cầu Trắng vài chục mét. Lần đầu tiên Hoàng lên đây, nên nhìn mọi thứ, từ nhà cửa, tới đường xá, núi non sông nước cái gì cũng lạ lẫm, không giống như ở dưới xuôi.
    Chưa có nhiều thời gian để quan sát, Hoàng cùng mọi người lục tục xuống xe. Lúc này, Hoàng có thêm một người bạn đường, một người bạn mới. Người bạn này lúc đầu là không muốn quen với Hoàng. Nhưng vì hoàn cảnh, nên bất đắc dĩ mới quen nhau, quen trong hoàn cảnh gượng ép, nên cả hai chẳng lấy gì mặn mà lắm. Một bên thì là nghĩa vụ phải làm, một bên là hàm ơn. Thế thôi.
    Chuyện là: Sau khi nghỉ ăn cơm ở Lương Sơn, khi xe chuyển bánh. Nhà xe lại bắt thêm khách đi Hòa Bình, xe đã bị nhét chật cứng ngay từ khi rời bến Kim Liên, lúc này bắt thêm khách nữa thì chỉ có cách là lèn thêm vào muốn ngồi đâu thì ngồi, không ngồi thì đứng, tự hành khách dàn xếp với nhau, nhà xe chỉ biết nhét người vào và đếm tiền.
   Thời buổi tầu xe khó khăn nên mọi người cũng thông cảm với những người cùng cảnh ngộ nên không ai nói gì, thôi thì sướng khổ cùng nhau chịu đựng miễn là về được đến nhà. Tất cả mọi người đều chung một ý nghĩ: Nói làm gì thêm rách việc, mà nói thì ai nghe?
     Hoàng cũng nghĩ không nói là đúng: Làm gì có chuyện nói để cho nhà xe chở đúng người đúng ghế, trong khi của cải và phương tiện là của nhà nước, nhà xe thì chẳng mất gì, cứ nhét thêm càng nhiều người thì tiền bạc thu về túi của họ càng nhiều. Hỏi sao họ lại không làm? Cái lợi mười mươi như vậy dễ gì họ nghe mấy lời góp ý của mọi người? Nếu họ mà nghe thì đầu óc họ có vấn đề, đôi khi chỉ một hai ngày sau đó là những người này bị buộc phải về vườn vì không thuộc êkip. Vậy thì: Dại gì, cứ làm là có tiền nhét vào túi, còn sống chết mặc bay. Nếu không làm thì tất nhiên là không có tiền rồi, có thể còn bị văng ra khỏi êkip làm ăn. Thời buổi khó khăn này thử hỏi họ chọn cách nào? Ở đời thiếu gì người tốt, nhưng muốn làm người tốt cũng khó chứ đâu phải dễ…
   Xe đã chật bây giờ nhét thêm mấy người lại càng chật hơn, không khí trên xe nhốn nháo vì mọi người đang dàn xếp chỗ ngồi, ông tài phớt lờ mọi chuyện xảy ra, tiếp tục cho xe chạy, động cơ nổ ầm ầm, còi kêu inh ỏi, bụi sau xe cuốn lên bay mù mịt. Ông nhếch mép cười sung sướng khẽ nhấn thêm chân ga, tay vỗ nhè nhẹ vào vô lăng, ông cảm thấy khoan khoái nghĩ về khoản tiền sẽ được nhét vào túi… Trên xe, nhốn nháo một lúc sau chẳng còn cách nào khác là mọi người phải tự ổn định chỗ ngồi. Chỉ còn một cô gái, tay xách túi lưới làm bằng những sợi dây đay, đang loay hoay chưa biết ngồi đâu. Đột nhiên cô gái ngồi xuống bên cạnh Hoàng, cô nói:
   -Cho cháu ngồi đây!
    Hoàng không nói gì, chỉ biết ép người vào nhường chỗ cho cô gái ngồi ở ngoài. Nhưng ép mãi vẫn không đủ chỗ cho cô gái đó ngồi, Hoàng đành đứng dậy nhường chỗ cho cô gái và ngồi ghé vào chỗ còn thừa của chiếc ghế. Cô gái có chỗ ngồi tốt thì yên vị, đến lượt Hoàng xoay sở với mẩu ghế còn thừa để ngồi sao cho không bị ngã. Không còn cách nào, cuối cùng Hoàng chọn giải pháp là ghé đít ngồi vào mẩu ghế thừa, hai chân chống không cho bị di chuyển ra khỏi ghế. Giải pháp này chỉ phù hợp với đường bằng phẳng, còn như đường số 6 lúc này thì hoàn toàn không phù hợp, nhưng không biết phải làm thế nào, đành chấp nhận. Hai chân và hai khớp gối của Hoàng mỏi nhừ, Hoàng cứ phải thay đổi tư thế ngồi liên tục cho đỡ mỏi.
    Cô gái ngồi im không nhúc nhích, còn Hoàng thì khó chịu, không phải Hoàng khó chịu về chỗ ngồi, mà Hoàng khó chịu về thái độ của cô gái. Nhẽ ra trong tình huống này, cô gái phải nhẹ nhàng tình cảm nói với Hoàng là: Anh ơi! Cho em ngồi với. Đằng này cô lại cọc lốc: Cho cháu ngồi đây. Thật là chán, đã thế lại gọi mình bằng chú. Chả lẽ mình đã già thật rồi sao? Hay là cô gái này đùa? Quen biết gì đâu mà đùa, Hoàng cười méo xệch: Hồi còn học ở khoa, các em ở khóa sau toàn gọi bằng chú thì lại không buồn? Mà hôm nay lại buồn? Mà cũng lạ thật. Cũng là một từ “chú” thôi, nhưng ngữ điệu phát âm khác nhau và hoàn cảnh giao tiếp khác nhau thì có trường hợp chỉ là đùa, còn có trường hợp là thật. Hoàng nghĩ: Hôm nay chắc là thật mười mươi rồi, cô gái này đã đánh vào nỗi đau của người khác…
   Cả xe, bật tiếng kêu thất thanh:
   - Ối trời ơi!
    Không biết tại sao mà tất cả hành khách trong xe bị hất tung lên rồi rơi xuống tự do, chẳng ai kịp phản ứng gì. Trong xe nhốn nháo kêu la, người xuýt xoa, người nhăn nhó, hầu như trong xe ai cũng bị đau. Đầu Hoàng bị hất tung lên chạm vào trần xe đau nhói, Hoàng sờ vào chỗ đau để kiểm tra, may mắn là chỉ bị xây xước da đầu chứ không bị chẩy máu.
   Trong khi ấy, cô gái ngồi phía trong Hoàng cứ lúi húi xếp đặt cái gì đó ở dưới chân. Hoàng tò mò xem cô gái đang làm gì? Lúc cô ngẩng lên, Hoàng thấy hai bàn tay cô đầy máu. Hoàng hoảng hốt nói với cô gái:
   -Cô bị thương rồi! Cho tôi xem vết thương, máu chảy ra nhiều quá.
   Cô gái mặt tái mét, miễn cưỡng kéo ống quần lên cho Hoàng xem vết thương. Vết thương nằm ngay trên ống chân, cô gái đã dùng khăn mùi xoa buộc lại nhưng máu vẫn rịn ra. Hoàng mở chiếc khăn mùi xoa ra xem. Vết thương ở ngay trên ống chân, da trên ống chân đã bị vật gì xé rách chạy dài đến 2-3 cm nứt toác ra, sâu vào gần đến xương trông trắng ởn. Mọi người ở xung quanh nhìn thấy máu me đầm đìa nên lắc đầu lè lưỡi rồi lẩm bẩm chia sẻ: Khổ thân cho cô gái.
   Hoàng lấy chiếc khăn của cô gái thấm khô máu ở vết thương. Thấm đến đâu máu lại rịn ra đến đấy, cũng may ở ống chân cũng không có động mạch hay tĩnh mạch gì nên máu chảy ra cũng không nhiều lắm. Trường hợp này Hoàng cũng không có kinh nghiệm gì về cầm máu vết thương, Hoàng nhớ lúc còn bé đi tắm ao, có một đứa bắt được một con trai rất to, thế là mấy đứa tranh nhau, chẳng may miệng con trai nó cứa vào đầu gối của một thằng làm rách da nhìn thấy cả lớp mỡ hay gân ở dưới da trắng hếu, vết thương ấy mãi mới có máu chảy ra. Thế là mấy đứa xin thuốc lào rịt vào thì không thấy chẩy máu nữa. Nghĩ thế Hoàng quyết định xin thuốc lào của mấy người gần đó, nhét vào vết thương. Hoàng lấy chiếc khăn mùi xoa của Hoàng quấn chặt vết thương và buộc lại.
   Xong việc, Hoàng và cô gái chẳng ai nói với ai, cô gái gục đầu vào thành ghế đau đớn. Máu dính trên tay Hoàng tanh đến lợm giọng. Xe vẫn tiếp tục chạy…
              Hôm nay băng vết thương cho cô gái, Hoàng nhớ hồi chiến đấu ở Quảng Trị, Hoàng cũng băng cho một chiến sĩ bộ binh bị thương. Chuyện buồn cười lắm: Lần ấy, vào khoảng 6-7 giờ tối, sau trận pháo kích của địch. Một số chiến sĩ của ta bị  thương, được đồng đội băng bó sơ cứu để chuyển về tuyến dưới.  Hoàng bò ra thấy một chiến sĩ bị thương ở cổ, máu chảy đầm đìa ướt hết cả áo ngực. Trong lúc băng thì không thấy đồng chí kêu rên gì, mà chỉ thấy nói là nới lỏng ra kẻo không thở được. Khi chuyển thương binh xuống dưới chốt, thì địch lại tiếp tục bắn pháo. Đồng chí thương binh nằm trên cáng của Hoàng phóng xuống như bay, chạy vào chỗ ẩn nấp còn nhanh hơn cả Hoàng. Đến trạm sơ cứu, các chiến sĩ quân y phát hiện ra là đồng chí này không bị thương mà máu chảy nhiều là do miếng thịt ở cổ đồng chí là thịt của người khác bay vào, hoảng quá đồng chí cứ ôm chặt lấy miếng thịt ấy ngỡ là mình bị thương… Sau khi lau rửa sạch và biết kết quả, đồng chí ấy cười sung sướng trở về chốt tiếp tục chiến đấu. Nghĩ lại chuyện này, tự nhiên Hoàng chìm vào những ngày tháng chiến đấu ở chiến trường Quảng Trị…
             Chuyện quen nhau giữa Hoàng và cô gái chỉ có thế.
              Hành khách đã xuống gần hết, nhưng Thủy không thể tự đứng lên để đi được. Thủy là tên cô gái mà Hoàng giúp đỡ. Hoàng thấy Thủy đang cố gắng đứng lên, hai tay đu vào hàng ghế phía trước. Nhưng không được, có lẽ vì vết thương ở chân bây giờ mới xưng và ngấm thuốc lào, nên đau hơn.
   -Để tôi đỡ cho!
   Hoàng nói và đưa hai tay nâng Thủy đứng dậy. Thủy có vẻ ngượng lắm nhưng không biết làm cách nào nên đành chịu và lặng lẽ chấp nhận sự giúp đỡ của Hoàng. Hoàng xốc ba lô lên vai, một tay cầm túi lưới của Thủy rồi tiến lên trước và quay lưng lại. Hoàng nói với cô gái:
   -Bây giờ! Cô bám lấy ba lô sau lưng tôi và đi theo tôi.
   Thủy không nói gì, ngoan ngoãn làm theo. Khó khăn nhất là lúc bước xuống xe. Loay hoay một hồi với sự giúp đỡ của những người ở phía sau, Hoàng mới đưa được Thủy bước xuống khỏi xe. Hoàng và Thủy vào ngồi nhờ quán nước trong bến xe.
    Chiều tà, quán cũng vắng khách. Bà chủ quán nhìn thấy có khách vào vội đon đả mời chào:
   -Mời anh chị vào nghỉ chân, uống nước!
   Bà chủ quán rót hai bát nước chè đưa cho khách. Hoàng hỏi Thủy:
   -Thủy ăn mía nhé! Mùa này ăn mía mềm và ngọt lắm. Ăn mía vào để tăng lượng đường cho đỡ mệt. Lúc nãy chân Thủy chảy nhiều máu bây giờ cần phải ăn nhiều mía để bù vào lượng đường đã mất.
   Không đợi sự đồng ý của Thủy, Hoàng với túi mía đã tiện sẵn, mở ra đưa cho Thủy.
   -Thủy ăn nhanh đi rồi về kẻo tối. Nhà Thủy có gần đây không? Đã có ai đón chưa? Thôi ăn mía đi rồi uống nước.
   Thủy vẫn ngồi im lặng không nói gì. Ban nãy, lúc còn ở trên xe. Hoàng mải băng bó vết thương cho Thủy nên chưa có điều kiện quan sát, hơn nữa lúc đầu Thủy xưng hô với Hoàng là cháu, nên Hoàng chán hẳn, ngại bắt chuyện. Bây giờ mới có điều kiện để quan sát Thủy. Khi nãy nghe giọng nói của Thủy đã thấy trẻ rồi, bây giờ ngồi đối diện. Hoàng thấy Thủy trẻ quá, ngoài cả tưởng tượng. Thủy năm nay, chắc độ 16 – 17 tuổi thôi, ánh hoàng hôn buổi chiều tà còn soi rõ cả những lông tơ trên mặt Thủy. Vóc người Thủy đầy đặn, không to cũng không bé, mặt tròn xoay, má lúm đồng tiền, mắt đen láy. Thủy đang ở thì gái 17 bẻ gãy sừng trâu, trẻ đẹp. Tuổi này nên Thủy gọi mình bằng chú cũng đúng thôi. Hoàng tự an ủi: Nếu không bị mấy năm chiến đấu ở chiến trường thì làm gì đến nỗi mới có 27 tuổi đầu mà đã có người gọi bằng chú.
   Hoàng ngồi uống nước, thi thoảng lại liếc mắt theo dõi cử chỉ của Thủy. Nhìn kỹ, Hoàng thấy Thủy có cái gì đấy hao hao giống Nguyệt ngày xưa. Thủy uể oải nhai từng khẩu mía đã tiện sẵn, mắt nhìn đăm đăm vào mấy con ruồi đang bám vào đống bã mía. Chẳng hiểu Thủy đang nghĩ gì mà có vẻ ưu tư lắm, chợt Thủy hỏi Hoàng:
   -Chú lên đây công tác à?
   -Vâng!
   -Cơ quan chú ở đâu?
   -Tôi cũng chưa biết, tôi mới lên đây nhận công tác. Lát nữa tôi sẽ hỏi thăm, nhưng chắc là gần đây thôi.
   -Thế à! Cơ quan chú tên là gì?
   -Đoàn thiết kế thủy điện sông Đà.
   -Ồ! Thế thì ngay đây rồi.
   -Thế thì tốt quá . Còn nhà Thủy ở đâu? Có gần đây không?
   -Nhà cháu ở tận Lạc Thủy cơ cách đây 70-80 cây số. Cháu lên đây đi học.
   -Thế à! Thủy học gì ở trên này?
   -Cháu học sư phạm 10+1.
   -Ồ! Thế thì hay quá. Trường của Thủy ở đâu? Có gần đây không?
   -Trường cháu ở cách đây 3 cây số, nhưng phải đi phà qua sông Đà.
   -Thế thì cũng xa. Thủy đã hẹn ai đón chưa?
   -Cháu chẳng có ai đón cả.
   -Thế cháu đi bằng cách nào?
   -Cháu đi xe ngựa xuống bến phà, sau đó qua sông rồi đi bộ về nhà.
   -Chân Thủy đau thế này, liệu có đi bộ được không?
   -Không đi được cũng phải cố thôi, nếu không về được trường thì chết mất.
   -Cứ bình tĩnh, làm gì mà đến nỗi chết?
(Còn nữa).





Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: qtdc trong 01 Tháng Giêng, 2014, 12:56:02 pm
Năm mới, chúc bác quanvietnam và các đàn anh lính sinh viên mạnh khỏe. Chúc bác quanvietnam nhẩn nha tiếp tục câu chuyện dung dị của mình. Những mẩu chuyện rất chân thật về một thời gian khó nhưng đang nhớ và rất nhiều ý nghĩa.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: thaiminhhung trong 01 Tháng Giêng, 2014, 08:12:17 pm
Tự chuyện của Bác Quân hay đấy, nhưng "bắt lỗi" Bác hồi đó tuyến xe chạy Hòa Bình xuất phát từ bến xe Kim Mã không phải bến xe Kim Liên he he  ;D


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 08 Tháng Giêng, 2014, 10:26:41 am

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Số phận
     Chiếc xe ngựa chạy lóc cóc, chở Hoàng, Thủy và hai hành khách nữa đi về Chăm Mát.  Hoàng đoán Chăm Mát chắc là địa danh của khu vực nào đó của thị xã Hòa Bình, nghe Chăm Mát nó cứ thế nào ấy, có vẻ như dân tộc, chẳng giống Kinh chút nào. Lúc ở bến xe, hình như Thủy nói là đi xe ngựa về Chăm Mát, nhưng đến nhà văn hóa của thị xã thì xuống, sau đó đi phà qua sông Đà. Hoàng nhớ mang máng Thủy nói như vậy.
   Tiếng chân ngựa gõ đều đều trên mặt đường nhựa, chiếc xe lắc lư theo nhịp bước chân của chú ngựa. Lần đầu tiên Hoàng được đi xe ngựa nên  thấy hay hay, có phần thích thú, nhưng thấy hôi hôi mùi súc vật.
   Hoàng chăm chú quan sát hai bên đường. Nhận xét đầu tiên của Hoàng ở đây là: Nhà cửa lụp sụp cũ kỹ, rất ít nhà cao tầng, còn có nhà tường bằng vách vôi vữa, mái lợp bằng tranh. Đường xá chật hẹp, bụi bặm, lá khô rụng đầy. Cây cối hai bên ven đường chủ yếu là cây bàng đang vào mùa rụng lá, chỉ còn trơ lại cành khẳng khiu. Thi thoảng mới lại thấy những cây bạch đàn cổ thụ, thân rất to phải hai người ôm mới hết. Những cây này, chắc là nhiều tuổi nên dầu dãi với nắng mưa và thời gian, vỏ cây bị nứt nẻ bong tróc, những chiếc lá còn sót lại trên cành phủ dầy bụi mốc thếch…Nhìn bất cứ cái gì Hoàng cũng cảm thấy bụi bặm bẩn thỉu, Hoàng chưa biết đánh giá thế nào, nhưng có lẽ đây là mảnh đất cằn cỗi.
    Hoàng hôn chìm dần vào bóng tối, khói bếp lan tỏa ngửi mùi thơm thơm thân quen, dạ dầy Hoàng cũng bị cồn cào nghĩ đến bữa tối. Hoàng hỏi Thủy:
   -Sắp đến thị xã chưa Thủy?
   -Đây là thị xã Hòa Bình đấy chú ạ!
   -Thế à? Vậy mà tôi không nghĩ đây là thị xã, tôi lại cứ tưởng đây là vùng ven. Thị xã này có vẻ nhỏ đúng không Thủy?
   -Thị xã miền núi mà chú. Thị xã Hòa bình là cửa ngõ phía Tây của Thủ Đô đấy chú. Cứ dọc theo đường này khoảng 3 km nữa là đến Chăm Mát, ở đấy có dốc Cun nơi ấy là địa danh lịch sử mà anh hùng La Văn Cầu chạy cắt rừng đón đầu xe tăng địch để tiêu diệt đấy chú!
   -Vậy à? Hay quá nhỉ, hôm nào tôi sẽ đi xem.
   -Từ cơ quan chú, vào đến dốc Cun khoảng hơn 3km, chú đi bộ cũng được. Nhưng phải leo dốc, chú chuẩn bị tinh thần nhé!
   - Thủy cứ yên tâm, tôi đã từng là bộ đội mà. Này Thủy ơi! Sắp đến cơ quan của tôi chưa?
   -Sắp rồi chú ạ! Cơ quan chú gần nhà văn hóa, chỉ cách nhà văn hóa một tý thôi. Chú cháu mình xuống nhà văn hóa, là chú đã nhìn thấy cơ quan ngay.
   -Độ mấy quăng dao?
   -Làm gì có!
   Tiếng vó ngựa gõ đều đều. Chiều miền núi vắng teo, ít người đi lại. Thi thoảng thấy có nhà lên đèn, bóng đèn đỏ hoe lúc tranh tối tranh sáng. Nhìn trời tối dần Hoàng sốt ruột, sao mãi vẫn chưa tới. Kiểu này, nếu đưa Thủy về đến trường thì không biết mấy giờ. Hoàng hơi lo lo, tự trách mình vì mạnh mồm quá, thành ra: “ Ách giữa đàng, quàng vào cổ”.  Nhưng Hoàng nghĩ lại ngay: Nếu là người khác gặp hoàn cảnh này, chắc họ cũng phải làm như vậy. Tại sao mình lại suy nghĩ thế? Chưa chi đã tính thiệt hơn, chất lính trận mạc không còn một chút nào trong mình nữa hay sao? Hoàng cảm thấy ân hận.
   -Mình xuống thôi chú! Chào các anh nhé! Chú cháu em xuống đây.
   - Ừ! Để chú đỡ Thủy. Chào bác đánh xe, chào các anh!
   -Chào hai chú cháu!
   Xuống xe, bóng tối cũng ập đến. Thủy chỉ tay lên đỉnh ngọn đồi mờ mờ phía xa xa, Thủy nói:
    -Cơ quan chú ở trên đồi kia kìa!
    -Sao lại ở trên đồi?
    -Cháu nói thế để chú dễ định hướng, còn cơ quan chú thì ở chân ngọn đồi ấy, chưa chi chú đã sợ rồi. Thôi bây giờ chú cháu mình đi lối này.
    Hoàng lưng đeo ba lô, tay xách túi cho Thủy, vừa đi vừa ngoái cổ lại chờ. Thủy đi sau, bước từng bước cà nhắc. Trời tối, không nhìn rõ nét mặt, nhưng chắc là đau lắm. Hoàng quay trở lại hỏi:
   -Liệu Thủy có đi được không?
   -Đi được mà chú! Chú cứ đi trước cháu theo sau.
   Hoàng miễn cưỡng bước tiếp, nhưng rất sốt ruột. Thủy đi kiểu này không biết bao giờ mới đến bến phà, rồi còn về trường nữa chứ. Giá mà có cái gì để chở Thủy đi cho nhanh thì tốt biết mấy. Hoàng suy nghĩ tìm cách, nhưng khổ nỗi Hoàng vừa mới lên đây, không quen thông thổ, cũng chẳng có ai quen thuộc để nhờ vả. Hoàng thấy bí quá, chỉ còn có cách là cõng Thủy đi cho nhanh. Nghĩ thế nhưng Hoàng không dám đề nghị Thủy. Bởi vì: Có đề nghị , Thủy cũng sẽ từ chối vì xấu hổ, hơn nữa Thủy cũng có quen Hoàng đâu mà lại để cho Hoàng cõng, trai gái phải  thân thiết lắm rồi mới làm được như vậy. Hoàng từ bỏ ý định và lầm lũi đi bên Thủy.
   -Chú ơi! Cháu bảo này. Từ đây về trường, thế nào cháu cũng gặp được người quen, cháu sẽ nhờ họ đưa cháu về. Còn bây giờ thì chú cứ về cơ quan đi kẻo nhỡ hẹn lại thêm rắc rối. Chú cứ yên tâm đi, cháu đảm bảo là cháu về được mà.
   Hoàng nghĩ: Được thế thì tốt quá. Hoàng không nói gì, vẫn từng bước đi bên Thủy. Thủy lại dục:
   -Chú cứ về đi không phải lo cho cháu đâu, cháu tự đi được mà.
   -Được rồi! Khi nào cháu gặp người quen thì chú về, còn bây giờ thì cứ đi đã.
   …
     Cuối cùng thì Hoàng cũng đưa Thủy xuống được phà. Con phà rì rì chạy qua sông, sóng vỗ vào thân phà ì oạp, sông Đà vào buổi lá lem tối nhìn rộng quá, cứ mờ mờ ảo ảo chẳng biết chỗ nào là bờ bên kia. Những ánh đèn lấp lánh xa xa, ở đó chắc là bờ bên kia. Trên phà lúc này cũng ít người, có lẽ chủ yếu là công nhân đi làm về, trời chưa tối hẳn  nhưng cũng không nhìn rõ mặt ai. Mấy chiếc ô tô nằm chềnh ềnh giữa phà, nổ máy chạy rình rình, khói xe làm cay sè cả mắt. Có một nhóm người, gồm cả chuyên gia Liên xô và mấy người Việt Nam đang đứng trao đổi vấn đề gì đó ở phía đầu phà. Mùi thuốc lá của người nước ngoài két lẹt. Nghe tiếng cô gái phiên dịch nói bị mất cái gì đấy, nhưng vẫn chưa phát hiện được ngày mai sẽ tiếp tục.
   Hoàng đứng gần Thủy, đề phòng nếu phà có vấn đề gì thì còn kịp đỡ Thủy. Gió sông Đà thổi ràn rạt, Hoàng sẽ rùng mình vì hơi lạnh. Hoàng tính: Tình hình này chắc Hoàng phải đưa Thủy về tận trường rồi, tối tăm thế này thì làm gì còn người quen nào nữa mà đưa Thủy về. Mà cũng có khi Thủy nói thế để Hoàng yên tâm về cơ quan, không phải lo lắng cho Thủy nữa. Ừ! Cũng chẳng biết thế nào? Kệ nó, đến đâu thì đến. Đằng nào sáng mai cũng mới nộp giấy tờ cho phòng tổ chức được. Bây giờ đã hết giờ làm việc, có về sớm thì cũng đi ngủ chứ làm gì được.
   Dưới ánh sáng đèn pha của chiếc tầu đẩy, nhìn mặt nước sông Đà loang loáng chui hết vào đáy phà, mùa này đang là mùa khô nên nước có vẻ trong xanh hiền hòa. Tự nhiên Hoàng thấy vui, Hoàng nghĩ, chỉ lát nữa thôi Hoàng sẽ được gặp bạn bè cùng lớp. Lớp Hoàng lần này lên đây phải hơn chục người, sang bên Bộ Xây Dựng khoảng 5-6 người, Bộ Điện Than cũng khoảng 5-6 người nữa. Trong số  ấy chỉ có 4-5 người là sinh viên, còn lại chủ yếu là bộ đội. Hoàng có quyết định về đoàn thiết kế sông Đà thuộc Bộ Điện Than, cùng với Hoàng còn có Khôi ở trung đoàn 95 sư 325. Những anh em còn lại là ở trung đoàn 101 sư 325, và ở các sư đoàn khác. Nghĩ về những ngày sắp tới, Hoàng cảm thấy vui vui.
   Thủy không thể nào đi nhanh hơn, nên Hoàng như ngồi trên đống lửa. Phải tìm giải pháp khác, Hoàng nghĩ vậy. Nhưng là giải pháp gì ở giữa cánh đồng hoang vu này? Hoàng vẫn chưa biết. Lên khỏi bến phà, đi vào khu vực này tối quá. Đã thế, phía xa xa lại có những chỗ đèn điện sáng trưng. Nhìn vào chỗ sáng rồi nhìn sang chỗ tối lại càng thấy tối hơn.  Xung quanh Hoàng và Thủy là những dãy núi đá và nhưng dẫy đồi trùng điệp, có lẽ chính vì thế nên làm cho bóng tối trở nên đen sì, đặc quánh. Chợt phía xa xa có ánh đèn ô tô đi về phía Hoàng. Hoàng mừng quá, nghĩ ngay ra là vẫy chiếc xe này cho Thủy đi nhờ.
    Hoàng giơ mũ ra vẫy, Hoàng hồi hộp không biết xe nó có dừng lại không? May quá, xe dừng lại. Ánh sáng của đèn ô tô, Hoàng nhìn thấy bụi cuốn lên đầu xe mù mịt, Thủy vội vàng ngồi thụp xuống lấy nón lên che đầu. Hoàng tiến lại phía cửa xe, cửa xe mở ra. Sau khi nhìn rõ trong xe có hai người. Hoàng  khẩn thiết trình bầy:
    -Các anh làm ơn cho cô gái này đi nhờ về trường Sư phạm 10+1 với, chân cô ấy bị đau nên không thể đi được
   Vừa có ý tránh bụi, cũng vừa là chần chừ chưa đồng ý. Người lái xe không nói gì, chắc là chờ quyết định của thủ trưởng. Người ngồi ghế thủ trưởng ngần ngừ chưa rứt khoát:
   -Tôi đang có công việc bên thị xã, nếu bây giờ quay lại trường Sư phạm sợ bị muộn giờ.
   Cũng vừa lúc ấy, Thủy tập tễnh đến bên Hoàng nói thêm vào:
   -Các anh giúp em với! Chân em đau quá không đi được.
   Ông ngồi ghế thủ trưởng tặc lưỡi:
   -Được rồi lên đi! Nhanh kẻo muộn giờ.
   Hoàng và Thủy mừng quá, cả hai hấp tấp lên xe. Thủy thì quên cả đau, còn Hoàng không kịp nghĩ có nên đi cùng Thủy nữa không? Tất cả lên xe, xe chuyển bánh. Cả bốn người trên xe, chưa kịp nói với nhau câu nào thì xe đã đến cổng trường Sư phạm.
   -Em cám ơn các anh, cám ơn chú! Mời chú với các anh vào chỗ em uống nước.
   -Thôi được rồi để khi khác. Tôi đang vội.
   Ông ngồi ghế thủ trưởng từ chối, rồi quay sang dục anh lái xe quay đầu. Hoàng vừa đỡ Thủy xuống vừa nói với Thủy:
  -Từ đây Thủy tự về được rồi, nhớ đến y tế để rửa vết thương. Khi nào có điều kiện tôi sang chơi.
  Hoàng vội vàng leo lên xe, ông ngồi ghế thủ trưởng hất hàm hỏi:
   -Ông đi đâu?
   -Các anh cho tôi đi nhờ sang thị xã, tôi về đoàn thiết kế sông Đà.
   Chiếc xe quay đầu chuyển bánh, ông ngồi ghế thủ trưởng hỏi Hoàng:
   -Ông làm ở đoàn thiết kế à?
   -Vâng! Hôm nay tôi mới lên để nhận công tác.
   -Thế thì tốt! Vậy là thêm được một người nữa rồi, lên đây vất vả nhưng mà vui.
   Ông quay lại bắt tay Hoàng:
   -Tôi Mẫn, làm ở Ban kiến thiết. Ban A với Thiết kế coi như một nhà.
   Hoàng nghe ông Mẫn nói nhiều về chuyện xây dựng thủy điện Hòa Bình, thực sự là Hoàng không hiểu lắm, nhưng vì nể ông ấy cho đi nhờ xe nên cứ vâng dạ đều. Ông lại bảo người lái xe đưa Hoàng về đến tận đoàn thiết kế, chia tay nhau ông ấy còn hẹn hôm nào sang bên ông ấy uống rượu. Ông ấy làm ở phòng kế hoạch của Ban kiến thiết.
(Còn nữa).


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: vanthang341ht trong 10 Tháng Giêng, 2014, 08:29:06 am
Chúc bác quanvietnam nhẩn nha tiếp tục câu chuyện dung dị của mình. Những mẩu chuyện rất chân thật về một thời gian khó nhưng đáng nhớ và rất nhiều ý nghĩa.

   
    Chào bạn Quân, chào các bạn.
    Đã lâu không viết nhiều trên trang M&H nhưng tôi vẫn lặng lẽ theo giõi những bài viết của các đồng đội.
    Đọc bài của bạn Quân, người mà tôi đã gặp tại 19C, tuy không có thời gian trực tiếp nói chuyện nhiều với bạn, không dám đánh giá tính cách của bạn nhưng qua các bài viết tôi thấy bạn tự sự môt cách châm rãi, thủ thỉ, nhẹ nhàng nhưng rất sâu lắng.
    Đọc bài của bạn tôi cảm thấy như mình đang được nghe Tuyết Mai đọc "chuyện đêm khuya" trên Đài tiếng nói Việt Nam những năm bảy mươi.
    Bạn có cách kể chuyện thật hay. Chúc bạn Quân mạnh khoẻ. Rất mong được đọc tiếp những câu chuyện của bạn.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 13 Tháng Giêng, 2014, 09:53:39 am
Cám ơn anh qtdt; anh tmh; anh vanthang và tất cả mọi người đã xem và động viên quanvn. Thôi thì cứ vui ngày nào là lộc trời cho ngày ấy. Tôi cám ơn tất cả.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 13 Tháng Giêng, 2014, 06:40:33 pm
        
             -Thị xã miền núi mà chú. Thị xã Hòa bình là cửa ngõ phía Tây của Thủ Đô đấy chú. Cứ dọc theo đường này khoảng 3 km nữa là đến Chăm Mát, ở đấy có dốc Cun nơi ấy là địa danh lịch sử mà anh hùng La Văn Cầu chạy cắt rừng đón đầu xe tăng địch để tiêu diệt đấy chú!
  


             Chào bác chủ! Chuyện kể của bác thật hay rất mộc mạc mà thật ấn tượng cùng sự cuốn hút. Cái chuyến xe lên Hòa Bình nhận công tác và sự quen biết vô tình với cô Gái tên Thủy thật là gợi mở. Tranphu341 cùng bạn đọc đang suy luận xem đây là duyên gì?  ;D ;D ;D.

             Nhưng mà Tranphu thấy lẽ ra bác quanvietnam phải chủ động nhường người con gái chỗ ngồi trước mới đúng chứ. Chàng Kỹ sư hơi kém galang đấy hi hi ... ;D ;D ;D ;D ;D

              Riêng về chiến công diệt xe tăng tại đường số 6 theo Tranphu341 nhớ thì đó là Anh hùng Cù Chính Lan chứ không phải là Anh Hùng La Văn Cầu.

              Chúc bác những ngày cuối năm thật nhiều sức khỏe cùng nhiều niềm vui chuẩn bị đón chào xuân mới, đón chào tuổi mới! Kính bác!


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: xuanv338 trong 14 Tháng Giêng, 2014, 07:38:45 am
     CB chào bác quanvietnam. chào các bác đang tham gia trang nhà. Lâu lắm hôm nay CB mới có dịp vào nhà anh quanvietnam. bài viết của anh đều hay và cũng có tài nhử người đọc chạy theo. Nghe hai bác lính già Tranphu341 và bác vanthang341ht đều đang chạy rất khoẻ theo dòng văn nhẹ nhàng tình cảm của bác. Cb cũng đang đuổi theo đây.

  bác Tranphu341 nhớ chính xác về lịch sử của hai vị anh hùng thời đánh Pháp đấy ạ.
Sẽ rất có nhiều người bị lẫn vì cũng có những tình tiết giống nhau khi nhắc đến hai ông cùng đánh xe tăng.
CB xin phép được đóng góp vào trang tý ạ!

    1. Anh Hùng La Văn Cầu. Hiện ông còn đang sống và khoẻ mạnh. Vừa rồi ông đã có mặt trong ngày viếng Đại Tướng Võ Nguyên Giáp. Chiến công của ông đã nhảy lên xe tăng trong trận đánh trên đường Bông Lau - Lũng Phầy - Cao Bằng. Ông đã dùng súng bắn chết 10 tên linh Pháp. năm 1949.

Trận khác là trận đánh đồn Đông Khê năm 1950. Ông bị thương một bên cánh tay và ông đã nhờ anh tiểu đội trưởng chặt giúp cánh tay đã bị thương lủng lẳng, tiếp tục ôm bộc phá xông lên tiêu diệt quân thù.

    2. Ông Cù Chính Lan. Mới là người ôm bộc phá đánh xe tăng địch trên đường số 6A, cứ điểm thuộc địa phận Giang Mỗ cách Thành phố Hoà Bình 8 Km. CB đã một lần nào đó được đọc trong tài liệu lịch sử có thể em nhớ còn xót.

  Nếu còn khiếm khuyết chỗ nào mong các anh lượng thứ cho cô em Cb.

CB chúc cho anh chủ và các bác mạnh khoẻ vui vẻ chuân bị đón xuân.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 14 Tháng Giêng, 2014, 09:46:14 am
Thành thật xin lỗi các bạn. Trước khi viết quanvn đã tra ở wikipedia, nhưng khi viết vào thì lại nhầm. Trăm sự là do chủ quan cứ tưởng trí nhớ còn tốt, không ngờ. Mà cũng đã gần 70 tuổi rồi, nhà nước cho nghỉ từ những năm 60 tuổi cơ mà. Quanvn xin lỗi mọi người: "Nhân bất thập toàn mà".


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: xuanv338 trong 14 Tháng Giêng, 2014, 02:15:16 pm
    CB chào anh quanvietnam. Có gì mà anh phải xin lỗi. Việc viết nhầm lẫn là rất thường nhật anh ạ. Vậy CB mới có cơ hội vào nhà anh lâu hơn.  ;D và có tý bổ trợ cho nhau làm trang nhà càng thêm vui vẻ, ấm cúng, khách đến càng đông. Đây là truyện lịch sử đã lâu. Tuổi em còn ít hơn bác mà còn lẫn hơn nhiều, hôm em viết" Những ngày tháng tư E88f308 Thanh oai về lại chiến trường xưa" Lúc đứng gần chiếc xe tăng ở làng Vây, bác Nguyên là thiếu tướng Lê Xuân Thu  kể câu truyện quân Giải phóng bắt sống Đại tá Nguyễn Văn Thọ tại điểm cao gần khu vực làng Vây trong chiến dịch Nam Lào năm 1971. Vậy mà cô CB nhầm lẫn đưa chuyện nơi bắt Đại tá Thọ từ làng Vây sang tận bản Đông của "Lào". Hôm đó em được bác lixeta sửa sai. Em thấy rất vui tuy chưa hề gặp mặt bác lixeta mà em như thấy gần lại bác ấy thêm một cùng đường. CB chúc bác quanvietnam dẻo dai hơn những câu truyện trong hồi ức.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 17 Tháng Giêng, 2014, 10:57:49 am

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Số phận
         Xuất trình giấy tờ với bảo vệ xong, Hoàng được anh em bảo vệ đưa vào nhà đá. Khi nói đến nhà đá, Hoàng ngạc nhiên lắm, trong đầu cứ thắc mắc: Tại sao lại đưa mình vào nhà đá? Nghe có vẻ gớm chết.
    Đi qua mấy gian nhà, nơi này là hội trường nhưng bây giờ dẹp hết bàn ghế sang hai bên lấy chỗ chơi bóng bàn. Hoàng đẩy cửa bước vào phía trong. Quan sát nhanh căn phòng, Hoàng như trút được điều thắc mắc: Tại sao là nhà đá? À! Thì ra, nhà này tường xung quanh xây bằng đá nên gọi là nhà đá. Đúng là nhà đá, thật là lạnh lẽo xám xịt, hai bóng đèn dây tóc treo lủng lẳng, ánh sáng vàng vọt yếu ớt không đủ sáng soi hết căn phòng. Có bốn năm cái giường cá nhân kê sẵn, ba cái đầu nhỏm lên nhìn Hoàng. Mọi người ồ lên nói với Hoàng:
   -Lên rồi à?
   -Ừ! Các ông lên khi nào?
   -Chúng tôi lên mấy hôm nay rồi, anh em lớp mình lên cả rồi, chỉ thiếu mỗi mình ông nữa thôi. Chúng tôi đoán ông ở nhà cưới vợ nên lên muộn.
   Cả bốn thằng đều cười. Việt, chỉ chiếc giường kê sát góc nhà nói với Hoàng:
   -Chúng tôi kê sẵn giường cho ông rồi đấy!
   -Cám ơn các ông! Tôi đã ăn uống gì đâu, xe chạy ì ạch nên lên muộn quá chẳng biết tìm chỗ nào để ăn. Hoàng nói dối thế.
   Khôi bảo với Hoàng:
   -Khó đấy! Ở đây không kiếm ra nơi nào để ăn đâu, nhất là bây giờ trời lại tối nữa. Khách sạn Đà Giang giờ này đóng cửa rồi, mà có mở cửa thì cũng chỉ còn kem thôi. Buổi sáng thì mới có bánh rán bột mỳ bọc đường, đói ăn tạm cũng được.
   Châu nói:
   -Tôi bảo ông xuống chân dốc này rồi rẽ tay trái vào ngã ba. Ở đấy là xí nghiệp khảo sát địa chất sông Đà, có mấy bà công nhân tranh thủ buôn bán buổi tối để thu nhập thêm, nhưng cũng chỉ có lạc rang, trứng luộc, thi thoảng tôi cũng thấy có bánh chưng. Cứ xuống thử xem, tối như thế này thì biết tìm đâu được.
   Theo gợi ý của mọi người, Hoàng xuống dốc đi về phía ngã ba gặp được mấy cái quán như Châu nói, Hoàng vào ăn hai quả trứng luộc, hai chiếc bánh khoai rồi về cơ quan. Quán xá ở đây chỉ có vậy, Hoàng có muốn ăn thêm gì nữa cũng không có. Về nhà đá, các ông bạn không biết đã đi đâu mà không có ông nào ở nhà.
   Hoàng thấm mệt, vì suốt cả ngày chưa được nghỉ ngơi. Sau khi thu xếp  được chỗ ngủ, Hoàng lên giường nằm duỗi thẳng cẳng để nghỉ ngơi một lát, cũng là đợi mấy ông bạn về để nắm bắt thêm thông tin cho ngày mai khi lên gặp lãnh đạo cơ quan. Nhưng Hoàng ngủ thiếp đi lúc nào không hay biết.
   Sáng nay. Sau khi làm việc với phòng tổ chức, Hoàng được phòng tổ chức sắp xếp vào làm việc ở tổ Mặt bằng, thuộc phòng Công Nghiệp. Một nhân viên của phòng tổ chức, dẫn Hoàng xuống phòng Công nghiệp, giao Hoàng cho ông lãnh đạo phòng.
   Ông lãnh đạo phòng đang bận, nên bảo Hoàng ngồi chờ. Trong lúc chờ, Hoàng tranh thủ ngắm nhìn dung nhan người lãnh đạo mới. Ông năm nay khoảng 45- 46 tuổi, mặt mũi sáng sủa thông minh, da dẻ trắng trẻo, dáng người cân đối, có phần bệ vệ. Ông vận chiếc áo choàng  tuytxy len màu xanh đen dài đến đầu gối, trong là chiếc áo len mầu tàn thuốc lá cổ trái tim, để lộ chiếc cổ cồn cứng đét của chiếc áo sơmi mầu trắng, chiếc quần phăng cũng mầu tàn thuốc được may bằng loại vải đắt tiền, ly là thẳng tắp, chân đi giầy đen đánh xi bóng loáng. Tất cả những gì trên người ông đều muốn nói lên ông là cán bộ lãnh đạo. Nhìn ông, Hoàng thấy nể trọng.
   Ông bước ra ngoài hành lang, vẫy Hoàng đi theo. Hoàng theo ông lên tầng hai, vào một căn phòng sặc sụa mùi thuốc lá Tây. Căn phòng tương đối rộng, giữa phòng kê một chiếc bàn to, diện tích có lẽ phải tới 6-8 mét vuông, trên đó trải tấm bản đồ địa hình. Nhiều chỗ trên bản đồ đã được ghim những mẩu bìa mầu trắng hình chữ nhật, đủ loại kích thước, mẩu thì to bằng ngón tay mẩu thì to hơn một tý. Trên những mẩu bìa ấy có ghi hai thứ tiếng, Trên là tiếng Nga, dưới là tiếng Việt, tên của những hạng mục kỹ thuật.
   Hoàng và ông lãnh đạo vừa vào phòng, cũng là lúc  4 chuyên gia Liên Xô ào vào. Ông lãnh đạo của Hoàng chào họ bằng tiếng Nga, rồi giới thiệu Hoàng với họ. Mọi người bắt tay Hoàng và nói cái gì ấy, Hoàng không hiểu được. Ông lãnh đạo nói là: Họ chúc mừng anh đấy. Rồi ông giới thiệu về 4 chuyên gia vừa vào. Hoàng không nhớ được tên họ, chỉ nhớ một ông là Kỹ sư giao thông, một ông là kỹ sư cấp thoát nước, một ông là kỹ sư xây dựng dân dụng, một bà là chuyên gia mặt bằng.
   Ông lãnh đạo của Hoàng trao đổi cái gì đó bằng tiếng Nga với mấy chuyên gia Liên Xô được một lúc, thì các kỹ sư Việt Nam lục tục kéo vào. Trong số kỹ sư Việt nam có Khôi là học cùng lớp với Hoàng. Khôi nhìn Hoàng nháy mắt đánh tín hiệu, Hoàng nháy lại đáp trả. Buổi làm việc bắt đầu, Ông lãnh đạo phòng  nói:
   -Hôm nay chúng ta bàn về Cơ sở 500 xe. Tôi đề nghị anh Huệ, tổ trưởng tổ mặt bằng. Trình bầy phương án bố trí Cơ sở 500 xe.
   Cô phiên dịch, dịch lời ông lãnh đạo, tiếp theo là anh tên là Huệ trình bày phương án của mình. Cứ nói hết một ý, anh Huệ dừng lại để cho phiên dịch dịch, sau đó mới lại chuyển sang ý khác. Khi nghe anh Huệ trình bầy, các chuyên gia Liên Xô chăm chú theo dõi, Hoàng để ý thấy họ khi thì tỏ vẻ đồng ý, khi thì lắc đầu có vẻ chưa được hài lòng lắm.
   Khi anh Huệ kết thúc phần trình bầy và cô phiên dịch cũng dịch xong, không phải chờ đợi lâu. Bà chuyên gia bố trí mặt bằng nói luôn, Hoàng không hiểu bà ấy nói gì, nhưng nhìn nét mặt và cử chỉ của bà thì Hoàng đoán là bà không đồng ý với cách bố trí của anh Huệ. Cô gái phiên dịch dịch:
   -Cách xắp xếp các hạng mục công trình trong Cơ sở 500 xe là chưa hợp lý, còn rất nhiều điểm chồng chéo. Ví dụ: Đáng lẽ phải đưa bãi rửa xe ra sát suối Đúng thì lại đưa vào trong, Kho xăng dầu bố trí đúng vào hướng gió chủ lực, quanh năm ngày tháng thổi vào khu hành chính của Cơ sở 500 xe v.v.
   Bà ấy nói nhiều lắm, sau đấy là các ông chuyên gia khác cũng góp ý rất nhiều. Phần đa là họ không đồng ý với cách bố trí của phía Việt Nam. Cuộc họp bàn về phương án xắp xếp Cơ sở 500 xe lúc này chuyển  sang  tranh luận, mọi người tranh nhau nói. Tất cả đều nói bằng tiếng Nga, trong số ấy Khôi và Hoàng không nói được tiếng Nga là đương nhiên rồi. Còn anh Huệ và một người nữa cũng thấy không nói gì, không biết họ có biết nói không?
   Trong lúc mọi người đang tranh luận, Khôi đến bên cạnh Hoàng nói nhỏ:
   -Tôi với ông hôm nay là thành phần dự thính, chủ yếu là học việc. Tôi  thấy họ nói rất hợp lý, nếu mà làm được như họ nói thì giống như đề án quy hoạch một khu công nghiệp.
   Hoàng vẫn chưa nhập cuộc nên chưa tham gia, Hoàng hỏi Khôi:
   -Này! Ông Huệ với cái ông lùn lùn đứng cạnh ông Huệ học ở trường nào đấy?
   -Cả hai ông đều học ở Khoa Thủy lợi trường mình. Ông Huệ học khóa 13. Ông béo lùn tên là Thắng học khóa 15.
   Hoàng nghĩ bụng: Hèn gì chưa thấy tranh luận với chuyên gia. Hoàng lại hỏi Khôi:
   -Ở đây có nhiều người biết nói tiếng Nga không?
   -Hầu hết những người đi học nước ngoài về là biết nói tiếng Nga, chỉ có một số ít người học ở Đức và học ở trong nước là không nói được, hoặc là nói kém, cũng nhiều trường hợp nói “Bồi” chuyên gia họ vẫn hiểu.
   -Thế à! Chắc anh em mình phải học nói “Bồi” thôi.
   -Học nói “Bồi”cũng khó chứ chẳng dễ đâu, mà cũng tốn nhiều thời gian đấy, không phải ngày một ngày hai mà nói được. Việc đầu tiên là phải học thuộc các từ mới, từ chuyên môn, tập phát âm những từ ấy và phải bắt tay vào làm chuyên môn thì mới nhanh thuộc từ mới, từ chuyên môn. Bước thứ hai là: Nghe và hiểu được chuyên gia nói gì v.v. Nói tóm lại là khó chứ không dễ. Chả thế mà nhiều ông đi trước mình cũng đã đọc lập giao tiếp được với chuyên gia đâu. Tôi cho rằng các ông ấy không mạnh dạn, chứ nghe thì các ông ấy nghe được, chuyên môn của các ông ấy vững, từ mới, từ chuyên môn các ông ấy thuộc lầu lầu, chỉ phải mỗi cái là các ông ấy sợ nói sai ngữ pháp và sợ mọi người cười. Nếu các ông ấy không sợ thì có thể các ông ấy cũng giao tiếp được.
   Hoàng nhìn Khôi tủm tỉm cười, Khôi hỏi:
   -Ông cười gì?
   Hoàng nói:
   -Ngày xưa đến giờ Tiếng Nga thì toàn trốn, chẳng đứa nào chịu học. Mày nhớ không? Hồi học sơ tán ở Trúc Ổ, thầy Đông dậy Tiếng Nga, phải bỏ giờ dậy vì sinh viên bỏ giờ gần hết. Sau đấy thầy Hữu, chủ nhiệm khoa phải lên để quán triệt thì bọn mình mới chịu học. Nhưng học cũng chả đâu với xoan.
   -Hồi ấy có học thì bây giờ chữ thầy cũng trả cho thầy rồi. May mà còn gáo để về mới có ngày hôm nay, chứ cối xay thịt Quảng Trị như vậy ai dám nghĩ giữ được cái đầu, nói gì đến chuyện giữ được kiến thức Tiếng Nga để bây giờ giao tiếp với chuyên gia.
   Cả hai thằng cùng cười, thằng Khôi nói tiếp:
   -Xếp Quynh của mình đây này, cũng là một điển hình nói “Bồi”. Nghe các anh học Nga về nói là : Ông Quynh ông ấy nói liều lắm, chẳng bao giờ đúng cách cú nên nhiều khi chuyên gia cứ ngớ ra. Họ kể có lần ôm bụng cười, vì có một từ phát âm gần giống nhau, nhẽ ra khi chuyên gia đến làm việc phải mời vào, nhưng vì phát âm không đúng  thành đuổi họ ra. Bọn chuyên gia tưởng rằng ông này có chuyện gì buồn, đành đứng ngoài chờ để đi gọi phiên dịch.
   -Ồ thế à! Tao lại tưởng ông ấy được đào tạo ở nước ngoài về, tao thấy ông ấy nói như gió.
   -Đâu! Tao cũng không biết, nhưng nghe những người ở đây nói là: Ông ấy học trung cấp giao thông thủy lợi từ ngày xưa cơ, ra trường ông ấy làm bên Bộ Thủy Lợi, sau đó ông ấy học chuyên tu hay tại chức gì đó. Khi thành lập Ban Sông Đà, Ông Hà Kế Tấn Bộ trưởng, làm trưởng Ban. Đề nghị Bộ Thủy Lợi tuyển chọn một số cán bộ thiết kế, lấy từ Viện thiết kế thủy lợi sang làm nòng cột. Ông Quynh là một trong những người từ Viện thiết kế thủy lợi sang. Khi sang bên này thì được cử đi Liên Xô hai hay ba tháng để tham gia thiết kế quy hoạch mặt bằng khu phụ trợ, công trình thủy điện Hòa Bình. Ông ấy được đề bạt lên phó phòng, phòng thiết kế Công nghiệp, bà Hồng là trưởng phòng.
   -Này Khôi! Lớp mình còn mấy thằng nữa, chúng nó ở phòng nào?
   -Ba thằng: Thằng Hưng, thằng Tuần, thằng Châu béo thì ở phòng Thi công Dự toán chúng nó làm việc ở nhà hai tầng bên kia, còn thằng Việt thằng Châu gầy làm ở tổ Công nghiệp, thằng Sơn làm ở tổ Giao thông. Tao, mày, thằng Thịnh ở tổ Mặt bằng, tất cả đều thuộc phòng Công Nghiệp của bà Hồng, ông Quynh. Đấy tất cả chỉ có thế thôi.
   Ông Quynh thấy Hoàng và Khôi nói chuyện riêng có vẻ không đồng ý, ông nhắc nhở:
   -Anh em tập trung nghe thảo luận để còn thiết kế cho phù hợp đấy.
    Hoàng và Khôi im lặng không nói chuyện nữa. Buổi trao đổi về quy hoạch mặt bằng Cơ sở 500 xe kéo dài khoảng 2 tiếng đồng hồ. Cuối buổi ông Quynh kết luận:
   -Phía Việt Nam tiếp thu ý kiến đóng góp của chuyên gia Liên Xô để hiệu chỉnh lại cho hợp lý. Tổ Mặt bằng hoàn thành để đầu tuần thông qua Trưởng đoàn thiết kế.
   Khôi ghé tai Hoàng nói nhỏ:
   -Bàn thì bàn vậy thôi! Chuyên gia họ quyết hết.
(Còn nữa).
   


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: qtdc trong 17 Tháng Giêng, 2014, 11:40:34 am
Bác quanvietnam kể chuyện thời Sông Đà cũng hay, đúng là chuyên gia quyết hết cả thôi. Một thời huy hoàng của các chú cứ phá, thép và xi măng Sông Đà xây cho khối nhà dân thị xã Hòa Bình. Cam Ranh thì cũng vậy, hết giờ không đổ kịp thì xe bê tông ra bãi biển ụp xuống là xong. Hồi xưa Sông Đà có chợ vồ nữa. Bọn khóa 22-23 đi Sông Đà thứ 7 về Hà Nội thì chủ nhật mua rau ở chợ Thành Công mang lên. Lâu rồi em gặp một ông ở PEC1 trước cũng làm đoàn khảo sát Sông Đà, hắn cười bảo tôi vẫn nhớ các ông đổ bê tông trong đó có cả ủng ;D.

À mà bác quanvietnam nhắc thầy Đông, bọn em vẫn nhớ, mà mấy lần hội trường hỏi thăm cũng chẳng biết thầy bây giờ thế nào. Thầy học cùng với cô Phan Lương Cầm ở Bách Khoa.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 23 Tháng Giêng, 2014, 09:43:23 am

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Số phận
           Anh em khác thì Hoàng Không biết, riêng Hoàng thời gian vừa qua đúng là Hoàng đã thực sự cố gắng, song chưa tiến triển nhiều lắm, vẫn ở tình trạng thụ động. Hoàng cảm nhận được mức độ giải quyết công việc của mình chưa được như mong muốn. Nguyên nhân sâu xa ở đây là trình độ ngoại ngữ. Hoàng nghĩ: Không còn cách nào khác là phải cố thôi, nếu không cố thì mãi mãi chỉ làm cái chân loong toong đưa bản vẽ đi can, sửa lỗi bản vẽ, trình ký bản vẽ v.v, đến ê cả mặt.
   Hôm nay ngày Chủ nhật, nhẽ ra Hoàng còn nằm cho tới giờ ăn trưa, nhưng nghĩ đến chuyện phải thoát ra khỏi hoàn cảnh, Hoàng vùng dậy đánh răng rửa mặt rồi đi ăn sáng. Hoàng không về phòng ở mà lên phòng làm việc lấy bản vẽ ra xem.
    Xem bản vẽ để giải quyết vấn đề gì? Hoàng tự hỏi. Thực ra, về phần kỹ thuật thì chẳng có gì phức tạp, chỉ là những bản vẽ san nền và tính khối lượng đơn thuần. Phần khó khăn nhất là quy hoạch bố trí và xác định quy mô công suất của các cơ sở phụ trợ thì chuyên gia họ tính. Ngay cả những phần này, Việt Nam tính thì chuyên gia cũng tính lại, vì họ chưa tin mình, hơn nữa việc tính quy mô công suất của các cơ sở phụ trợ cũng còn phụ thuộc vào kinh nghiệm và đặc thù của mỗi một công trình thủy điện. Vì vậy , tính là một chuyện còn kinh nghiệm lại là chuyện khác.
   Như vậy, mục tiêu học ngoại ngữ của Hoàng là hoàn toàn đúng đắn. Trước mắt chưa nói được, thì phải đọc thông viết thạo những từ chuyên môn trong bản vẽ. Nhanh chóng sao chép, những nội dung không thay đổi của bản vẽ cũ sang bản vẽ mới, để rút ngắn thời gian thiết kế một bản vẽ, đáp ứng số lượng và chất lượng bản vẽ khi đưa kiểm tra trình ký.
   Hai tháng cuối năm 1977, vì thời gian công tác quá ngắn, nên Hoàng chưa được vào diện xét danh hiệu cá nhân tiên tiến của 6 tháng cuối năm và cả năm 1977. Hoàng ngồi nghe, thấy mọi người báo cáo cả số lượng bản vẽ được chuyên gia ký thỏa thuận. Hình như: Định mức bình quân 10 ngày một bản vẽ. Định mức này không biết khi nào Hoàng mới đạt được?
   Hoàng cắm cúi tập viết, miệng lẩm bẩm tập phát âm, từ nào khó quá Hoàng chép riêng ra quyển sổ tay để hỏi cách phát âm cho đúng. Hoàng tự động viên mình: Trước hết là vì sĩ diện của cá nhân, sau là cố gắng phát huy bản chất của anh bộ đội cụ Hồ, thời chiến cũng như thời bình, không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền… Nghĩ như vậy nên Hoàng miệt mài chăm chỉ, đôi khi quên cả mệt mỏi, nhưng Hoàng vẫn buồn âm ỉ vì: Ngoại ngữ ngoài chuyện cần cù cố gắng ra thì còn phải có năng khiếu nữa, mà điều này thì Hoàng không có. Ấy là còn chưa nói đến chuyện Hoàng vừa là thương binh và là bệnh binh từ chiến trường trở về,  sức khỏe và trí tuệ phần nào giảm sút.
   Hoàng đang đắm chìm vào ngoại ngữ, thì có tiếng gõ cửa. Hoàng đoán là Khôi, giờ này chắc Khôi rủ Hoàng ra chợ Phương Lâm chơi. Hoàng nói:
   -Vào đi!
   Cánh cửa mở ra. Anh Thơ, đại úy bộ đội chuyển ngành về làm tổ trưởng tổ Bảo Vệ bước vào. Anh Thơ bảo:
   -Anh Hoàng ra cổng có khách!
   -Em có khách à! Anh có nhầm không đấy? Khách con trai hay con gái anh?
   -Con gái! Hình như người yêu lên thăm thì phải.
   -Anh cứ đùa, em làm gì có người yêu. Chắc bạn bè cùng lớp ở bên công trường sang chơi thôi.
   Bên công trường. Mọi người hay gọi thế thành quen mồm, thực ra tên đầy đủ của nó là: Công trường thi công, Công Trình Thủy Điện Hòa Bình trên sông Đà. Trụ sở chính của công trường là ở bên bờ Trái. Tất cả những đơn vị thi công ở công trình thủy điện sông Đà chủ yếu thuộc quân số của  Bộ Xây Dựng quản lý. Bên ấy gọi là bên B. Lớp của Hoàng có 6-7 người ở bên ấy, trong đó có hai em gái. Thường thường chủ nhật, anh em cùng lớp cũng hay đi chơi sang thăm nhau. Hôm nay Hoàng cũng nghĩ thế, nên vui vẻ theo anh Thơ ra cổng đón khách.
   Từ xa Hoàng đã nhìn thấy Thủy đi cùng với cô bạn gái. Hoàng bất ngờ quá, đã lâu rồi kể từ hôm Thủy chuyển địa điểm về Chăm Mát, Hoàng có xuống dưới ấy thăm Thủy một lần, sau lần đó vì bận quá  nên Hoàng chưa đi thăm Thuỷ được.
   -Anh chào hai em! Các em có khỏe không? Lâu lắm không gặp Thủy, anh thấy Thủy lớn hẳn ra. Mời hai em vào nhà anh chơi, hôm nay chủ nhật các anh cùng phòng đi chơi hết, chỉ mình anh ở nhà thôi. Anh đang buồn đây.
   -Chúng em ra xin anh bữa cơm.
   -Tốt quá! Chỉ sợ các em chê cơm của các anh thôi.
   -Đi nào! Xin mời hai em.
   Lần này, Hoàng xưng hô anh anh em em với Thủy bình thường, không ngượng ngập như lần Hoàng vào chơi. Lần ấy chả hiểu thế nào, Thủy lúc xưng hô là em lúc lại xưng hô là cháu, làm Hoàng lúng túng khó xử nói chuyện không được tự nhiên. Hoàng đang tò mò muốn biết lý do tại sao Thủy lại chuyển cách xưng hô, Hoàng muốn biết lắm nhưng chưa có cơ hội.
   Ba anh em vào trong nhà đá, Hoàng rất ngượng, khi đưa con gái vào buồng tập thể của mình. Nhưng Hoàng biết đưa Khách đi đâu? Bởi vì: Cơ quan Hoàng, nhà ở còn chưa đủ thì lấy đâu ra phòng khách. Phòng ở tập thể của Hoàng vừa tối tăm vừa ẩm thấp, lại cộng với sự ăn ở luộm thuộm của mấy ông con trai. Thành ra trong phòng giống cái kho để chưa đồ chứ không phải buồng để ở. Tất cả những cái đó là nguyên nhân dẫn đến trong nhà có mùi khó chịu. Hoàng nghĩ: Hai em này sẽ phát hiện ra ngay mùi này, nhưng không dám nói, đời nào khách lại chê chủ nhà… Hoàng vội vàng lấp khoảng trống chữa ngượng:
   -Phòng của anh không có nước uống, các em thông cảm. Vào đây thăm nơi ở của anh cho biết, lát nữa anh em mình đi chợ Phương Lâm chơi.
   -Ừ! Đúng rồi Hà ơi! Tiện thể, tao với mày ra mua một số thứ để mang đi, sợ ở trên ấy không có.
  Thủy hưởng ứng ngay đề nghị của Hoàng, nhân thể cũng muốn kết hợp mua sắm nữa.  Còn Hà, lần đầu tiên gặp Hoàng, nên chưa thật tự nhiên chỉ lặng im.
   Thấy Thủy nhận lời đi chợ Phương Lâm, Hoàng nghĩ ngay đến số tiền ở trong túi. Chết nỗi, hôm nay đã gần cuối tháng rồi nên số tiền chi tiêu còn lại chắc cũng chả được là bao. Lương tháng được 63 đồng, chia ra ba mô, nguyên tiền ăn đã chiếm gần một nửa, đấy là tiền nộp cho nhà bếp chưa kể đến những hôm có khách. Còn tiền tiêu vặt, tiền xà phòng thuốc lá thuốc đánh răng, tiền nọ tiền kia, các loại tiền chi tiêu vặt vãnh không tính được. Mang tiếng là chia mô rồi, vậy mà tháng nào cũng thiếu tiền, Hoàng có kinh nghiệm rồi: Cứ tháng nào ra chợ Phương Lâm nhiều là tháng ấy thiếu càng nhiều.
   Mọi người thừa biết: Ở một thị xã bé nhỏ và nghèo nàn như thị xã Hòa Bình này, ngoài giờ làm việc ra thì không biết chơi ở đâu, lại rủ nhau ra chợ, tiếp xúc với văn hóa chợ cũng làm cho mọi người cảm thấy được thư giãn hơn.
   Chợ Phương Lâm là chợ thị xã Hòa Bình, nếu so với dưới xuôi thì chợ thị xã như vậy là bé và nghèo nàn. Nhưng đây là chợ của một thị xã miền núi, như vậy cũng chấp nhận được. Chợ ở đây mang đặc thù chợ của đồng bào miền núi, tất cả sản vật của núi rừng đều mang về chợ để trao đổi. Hàng hóa không thiếu thứ gì, thậm chí rất phong phú là đằng khác, hàng từ dưới xuôi chuyển lên, hàng từ miền ngược chuyển về. Tóm lại, muốn mua thứ gì cũng có, giá cả thì không biết đắt rẻ thế nào, nhưng chỉ phải cái: Nhìn hàng hóa nó không được mát mắt như dưới xuôi, mà trông cái gì cũng thấy cũ cũ. Dễ hiểu thôi, người dân tộc thật thà có sao bán vậy không biết “Làm hàng” như người Kinh dưới xuôi.
   Chợ Phương Lâm là điểm giao lưu lý tưởng của người miền xuôi với người miền núi, của người Việt Nam với người Liên xô, của nhiều thành phần nhiều tầng lớp trong xã hội. Đây cũng là nơi hội tụ của nhiều nền văn hóa của nhiều dân tộc, không những của các dân tộc của Việt Nam, mà còn cả các dân tộc thuộc Liên Bang Xô Viết nữa. Ai đã đến thị xã Hòa Bình, đến thăm công trường xây dựng công trình thủy điện Hòa Bình lớn nhất Đông Nam Á, mà không đi chơi chợ Phương Lâm thì người đó coi như chưa đến Hòa Bình.
   Ba anh em lượn đi lượn lại trong chợ không biết bao nhiêu lần, Hoàng lẽo đẽo theo sau mỏi nhừ cả chân, nhưng mà đi xem là chính. Nhiều thứ muốn mua lắm, ngặt một nỗi là không có tiền. Cuối cùng kiểm lại thì Thủy và Hà cũng mua được mấy thứ: Nào là giấy bút, sổ tay, kim chỉ, khung thêu, chỉ thêu, xà phòng 72% v.v. Còn mấy thứ nữa, hai người không mang ra khoe mà chỉ nhìn nhau cười khúc kích. Hoàng đoán là đồ dùng của phụ nữ nên không quan tâm, sợ bị mắc cỡ.
   Hoàng dắt Thủy với Hà đi ra dãy quán ăn ở  phía bờ sông. Quán này, là do một người quen ở thị xã Hòa Bình giới thiệu. Quán gì mà giống như quán bán chui, cái gì cũng giấu giếm, cứ phải hỏi thì họ mới nói là có, không thấy họ bầy ra cho mọi người nhìn thấy để chọn.  Mà hình như ở đây quán ăn nào cũng như vậy hay sao ấy? Lâu dần, Hoàng cũng không để ý chuyện ấy, mà chỉ biết lúc có bạn bè thì kéo nhau ra đây ăn.
   Bước vào quán, Thủy ngạc nhiên hỏi Hoàng:
   -Ơ! Vào đây làm gì?
   -Vào để ăn cơm chứ còn làm gì nữa. Ban nãy em chả nói là xin anh bữa cơm còn gì.
   -Ối chết! Là em nói đùa vậy thôi, anh tưởng thật à.
   -Thật hay không thật, anh không biết. Nhưng bây giờ đã trưa, cũng đến giờ ăn rồi, anh em mình ăn rồi về.
   Bà chủ quán béo lùn, tiến đến trước mặt Hoàng. Tay cầm chiếc khăn lau lấm lem nhọ nồi, lau vội cái bàn gỗ nâu không ra nâu mà đen cũng chẳng ra đen, bóng nhẫy toàn mỡ dùng làm bàn ăn.  Vừa lau bàn, bà vừa kéo mấy chiếc ghế, miệng mời chào nhóm của Hoàng ngồi xuống, nhưng mắt lại đánh đáo ra ngoài cửa, đàn ruồi bị xua đuổi bay tung tóe, có con lao thẳng vào mặt Hoàng.
   -Các em ăn gì? Hôm nay nhà chị có phở áp chảo, phở xào, cơm. Các em ăn gì để chị làm cho.
   -Thủy và Hà các em ăn gì?
   -Anh ăn gì bọn em ăn nấy, nhưng mà in ít thôi anh ạ!
   -Anh em mình hôm nay không ăn cơm mà ăn phở xào nhé!
   Đợi, không thấy Thúy với Hà nói gì. Hoàng gọi bà chủ quán nói:
   -Cho ba đĩa phở xào và một bát hầm nhé!
   Bà chủ quán ra hiệu nói nhỏ, vì bò là loại súc vật cung cấp sức kéo cấm giết thịt.

   Ba anh em đang ăn uống vui vẻ thì Thủy nói:
   -Hôm nay bọn em ra chào anh để đi nhận công tác.
   -Thế à! Chúc mừng các cô giáo trẻ nhé!
   Thủy ngồi mút đầu đũa, mắt nhìn xa xăm, giọng buồn rười rượi. Thủy xúc động nói:
   -Chả biết khi nào nữa mới được gặp anh?
   -Ô! Sao lại thế?
   -Thật đấy! Họ điều hai đứa bọn em đi xa lắm, lên mãi cái gì ấy ở Đà Bắc cơ. Cách đây hàng trăm cây số. Không biết bao giờ mới được ra đường Quốc lộ chứ đừng nói đến chuyện về thăm mẹ.
   Hà thấy Thủy có vẻ muốn khóc, nên ăn nốt chỗ còn lại vội vã đứng lên đi ra ngoài. Hoàng bất ngờ quá, không biết xử lý thế nào, đành trách khéo Thủy:
   -Thế mà Thủy không báo trước để anh em mình liên hoan chia tay.
   Thủy im lặng. Hoàng dục Thủy ăn cho xong. Thủy vẫn im lặng. Hoàng  động viên Thủy:
   -Yên tâm đi em! Chưa chi đã lo không được về thăm mẹ rồi. Lên đấy, có học trò có thầy cô, có cuộc sống mới ắt sẽ có niềm vui mới. Hàng năm bao giờ mà chả được nghỉ phép về quê thăm mẹ. Thôi vui lên đừng buồn nữa! Khi nào lên đến nơi và ổn định rồi nhớ viết thư cho anh nhé!
(Còn nữa)
   


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 28 Tháng Giêng, 2014, 10:09:47 am

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Số phận
           Thấm thoát cũng đã gần một năm làm việc ở Đoàn thiết kế thủy điện Hòa Bình, nghĩ về thời gian làm việc ở cơ quan mới, không biết là vui hay buồn. Hoàng cũng không biết nói thế nào? Nhiều lúc rất vui, nhưng thường sau khi vui thì lại buồn ngay. Có lúc chán trường, đôi khi Hoàng lẩn thẩn không biết mình phải làm gì? Thế là lại dùi mài bái lễ vào mấy cái bản vẽ để học Tiếng Nga, vừa khô khan vừa buồn tẻ. Hoàng  nghĩ: Mới gần 30 tuổi mà đã hâm hay sao? Nhưng rồi lại ngụy biện: Hâm thì chưa hâm, nhưng hết nhựa sống? Có thể lắm?
   Môi trường làm việc của Hoàng bây giờ khác nhiều so với những ngày Hoàng còn là sinh viên, lại càng xa vời vợi với những ngày Hoàng còn đang ở trong quân ngũ. Chẳng hiểu sao? Mỗi khi nghĩ về chuyện gì của ngày xưa, nhất là chuyện về quân ngũ tuy cũng có cái chưa vừa lòng, nhưng sao vẫn nghĩ cái gì cũng tốt đẹp? Chả thế mà ai cũng nói: “Bao giờ cho đến ngày xưa”.
   Hoàng biết vậy, vì cuộc sống không cho phép Hoàng sống mãi với những kỷ niệm của ngày xưa, mà phải trở về với hiện tại. Cuộc sống bây giờ, mấy ai biết được cái ngày xưa của những chàng trai ra trận. Những ngày qua, Hoàng đã nhiều lần âm thầm hô khẩu hiệu quyết tâm không nhớ lại những kỷ niệm của một thời quân ngũ, nghĩ về nó chỉ làm cho Hoàng đau lòng và buồn hơn. Những kỷ niệm ấy, nó lạc nhịp với cuộc sống bây giờ…
   Nhưng thật khó! Sự thật vẫn là sự thật, không thể mang những suy nghĩ trong đầu mình, cái mà nó chưa phải là sự thật ra để so sánh với sự thật. Cũng không phải tự ty, cũng không phải mặc cảm, nó là cái gì thì Hoàng chưa định nghĩa được, chỉ biết là: Khi nhìn hai ông Kỹ sư, một ông được đào tạo ở nước ngoài, một ông đi chiến đấu về được đào tạo ở trong nước, về hình thức sao nó khác nhau thế? Về nội dung thì lại không phải là thứ để nhìn thấy…
   Hết giờ làm việc buổi chiều, sân thể thao của Đoàn thiết kế thủy điện Hòa Bình, lại ồn ào náo nhiệt. Người thì đông mà trò chơi thì ít, nên cứ phải xếp hàng chờ đợi, theo luật chơi thua thì ra được ở lại. Bóng chuyền bóng đá thay nhau còn được 6-7 người, bóng bàn thì chỉ được 1-2 người. Trong thực tế có người chơi giỏi, có người mới biết chơi, những người chơi giỏi cứ thế được ở lại mãi, còn những người mới biết chơi thì vừa vào là bị đuổi ra rồi. Lâu dần, mọi người nghĩ ra luật mới: Nếu được, ở lại cũng không quá 3 lần. Như vậy thì nhiều người được chơi hơn.
     Hoàn cảnh ấy, những ai không đủ kiên trì chờ đợi, thì biên chế vào  “Sở Lượn thị xã”. Sở này không có lãnh đạo mà toàn nhân viên. Những người được đào tạo ở nước ngoài thì có phương tiện, người nào bét nhất cũng là: Xe đạp Cnymnuk, Diamant. Người khá giả thì xe bình bịch: Java, Mokic, Boxod v.v, phải thừa nhận đội hình này đẹp. Mấy anh em bộ đội ở chiến trường về không tham gia vào đội hình này, bởi nó khập khễnh, nếu có đi, thì cũng mấy ông đi với nhau.
   Vẫn biết xã hội không ai phân biệt: Ông này đi bộ đội, ông kia là được đào tạo ở nước ngoài. Nhưng thực tế cứ nhìn bề ngoài của mọi người thì đã nói lên điều ấy, dấu làm sao được, từ quần áo xe cộ, đến mầu da nó cứ lồ lộ ra đấy.
   Đôi khi “ Lượn” cũng có những cuộc chạm trán bất đắc dĩ, lẽ tất nhiên là mấy ông bộ đội ở chiến trường về là phải rút lui rồi. Tình huống mà đánh bài chây thì đối tác họ cũng từ chối khéo. Thành ra, những trường hợp ấy mấy ông bộ đội ở chiến trường về, thường biết địch biết ta, phải tìm cách rút lui khéo. Vậy đấy! Luôn luôn thua thiệt
   Đã thế, lại rất trớ trêu. Con gái ở thị xã Hòa Bình chỉ công nhận những thanh niên mặc quần bò áo phông, đeo kính trắng, da dẻ trắng trẻo kiểu bơ sữa mới là người của Đoàn thiết kế thủy điện Hòa Bình. Còn những ai không có những thứ ấy thì chỉ là công nhân hay trung cấp gì đấy thôi, có giới thiệu mình làm ở đoàn thiết kế thủy điện Hòa Bình họ cũng không tin.
   Thương hiệu Đoàn thiết kế thủy điện Hòa bình nổi như cồn, đi đâu mà được giới thiệu là làm việc ở Đoàn thiết kế Hòa Bình thì cảm thấy hãnh diện lắm. Nhưng vui đấy, lại buồn đấy. Nếu ai đó không phải cán bộ của Đoàn thiết kế Hòa Bình, mà được chứng kiến một buổi làm việc giữa  chuyên gia Liên Xô với Việt Nam, thì không hiểu họ nghĩ gì? Chỉ những ai trong cuộc mới thấy hết những điều phức tạp.
   Trong những cuộc trao đổi về vấn đề kỹ thuật ấy, thường gồm chuyên gia Liên Xô, các kỹ sư Việt Nam, cán bộ phiên dịch. Mọi người bàn bạc và tranh luận với nhau bình đẳng. Tất nhiên, trong tranh luận, có những ý kiến được mọi người chấp nhận, nhưng cũng có ý kiến bị bác bỏ. Người có quyền bác bỏ ở đây là chuyên gia, thứ nữa là các các bộ lãnh đạo của phía Việt Nam.
    Lẽ dĩ nhiên ai cũng hiểu, không phải chuyên gia được cử sang Việt Nam thì ai cũng giỏi cũng xuất sắc. Các cán bộ lãnh đạo phía Việt nam cũng vậy. Nhưng họ có quyền vì họ là chuyên gia hướng dẫn, vì họ là cán bộ lãnh đạo… Đối với họ đã đi một nhẽ, còn lại là những kỹ sư Việt Nam, người được đào tạo ở nước ngoài, người được đào tạo ở trong nước. Tự nhiên, cũng hình thành những rào cản vô hình. Ai cũng biết, không phải tất cả những người được cử đi đào tạo ở nước ngoài là vì họ học giỏi. Trong số họ, cũng vô vàn lý do để họ đi học nước ngoài, tích cực cũng có, tiêu cực cũng có… Vậy mà, hình như họ cũng cho họ cái quyền phải đúng hơn.
    Cũng phải thừa nhận, những người được đi học nước ngoài về, họ có thuận lợi hơn vì khi trao đổi họ thể hiện được quan điểm của mình, trực tiếp tranh luận bằng Tiếng Nga. Trong khi đó, mấy anh em bộ đội từ chiến trường về thì thiệt thòi vì chưa thể nói Tiếng Nga được, mà phải thông qua phiên dịch. Những người phiên dịch, có phải người nào cũng hiểu về kỹ thuật đâu, nên có người dịch đúng, dịch sát, cũng có người dịch sai. Cũng có khi, họ vờ không nghe thấy để không phải dịch. Thành ra, mấy ông lính ở chiến trường về chịu thiệt đơn thiệt kép, muốn nói mà không nói được.
    Những lần như vậy, các anh em bộ đội vì không nói hết được quan điểm của mình, nên trong lòng thấy không vui. Nhưng biết làm sao được đành chịu vậy…
   Hoàng và mấy anh em đang căm cụi làm việc. Khôi huỳnh huỵch đi vào, mặt hầm hầm. Khôi nện quyển sổ tay xuống mặt bàn cái chát, buông ra những lời tục tĩu:
   -Đ. Mẹ nó chứ! Bực hết chỗ nói.
   Mọi người ngạc nhiên chờ đợi, không hiểu vì lý do gì mà Khôi lại giận dữ như vậy. Phòng làm việc có 4 anh em ngồi: Khôi; Hoàng; Duy; Giáp, còn một chiếc bàn để trống, để khi chuyên gia đến lấy chỗ trao đổi công việc. Bình thường cả 4 anh em không ai nói tục, hay chửi thề. Nhưng chẳng hiểu hôm nay có vấn đề gì mà Khôi bực dọc đến như vậy,  đến nỗi không kìm nén được mà phải bật ra những câu chửi thề.
   -Các ông bảo thế này thì ai nhịn được. Bản vẽ thi công san nền: Bãi rửa xe của tôi hôm nọ, đã được chuyên gia ký thỏa thuận. Đến hôm nay, ông Huệ bảo tôi lên gặp chuyên gia, để trao đổi về cao độ san nền. Tôi hỏi ông Huệ ông có biết tại sao không? Ông Huệ tỏ ra bực dọc cái gì ấy, nói với tôi: Anh cứ lên rồi khắc biết. Tôi bực quá mới sẵng giọng với ông Huệ: Ông là tổ trưởng mà nói thế à? Vậy ông với tôi cùng lên. Sai hay đúng thế nào phải nói cho rõ ràng, mà bản vẽ này đã thỏa thuận với chuyên gia giao thông rồi, nếu thay đổi thì sẽ thay đổi cả. Ông Huệ không đồng ý đi cùng tôi, ông bảo để ông ấy gọi phiên dịch đi với tôi.
   Lên phòng phiên dịch chờ đến 30 phút, mới có phiên dịch để đi làm việc. Sang đến phòng chuyên gia, thì ông chuyên gia lại ra thực địa chưa về. Ngồi chờ mãi không được, tôi với phiên dịch quay về, khoảng tiếng đồng hồ sau tôi quay lại thấy ông chuyên gia đã về, nhưng lại không có phiên dịch nên tôi không vào. Tôi quay lại tìm phiên dịch nhưng không thấy, trong người cảm thấy bực bội. Nhưng không biết trách ai, chỉ trách mình không nói được Tiếng Nga.
    Khi tôi với phiên dịch vào gặp chuyên gia, nhìn thấy tôi lập tức nó đứng ngay dậy, mặt đỏ phừng phừng, lấy bút chì khoanh to tướng vào khu vực ngã ba giữa Bãi rửa xe, Kho xăng dầu và bãi đỗ xe của bản vẽ rồi nói: Ai bảo mày làm thế này, về làm lại! Tôi nói với nó là: Ông nên làm việc với chuyên gia giao thông, nó yêu cầu tôi phải như vậy, mà bản vẽ này ông đã ký thỏa thuận rồi. Bây giờ ông muốn thay đổi thì ông phải làm việc lại với chuyên gia giao thông. Nó nói là nó không biết và nó mới là người ký bản vẽ thỏa thuận, thái độ của nó như đuổi chúng tôi ra khỏi phòng. Tôi bực quá, không biết nói thế nào? Các ông bảo thế có điên không cơ chứ?
  Nói xong Khôi ném cả cái thân hình  nặng chịch xuống chiếc ghế, cơn giận giữ vẫn chưa nguôi, nước bọt sầu ra cả hai bên mép. Cả phòng vẫn không ai nói gì. Khôi lại tiếp, giọng có vẻ dịu đi:
   -Kiểu này lại giống mày rồi Hoàng ạ! Chắc chắn đến cuối năm tao cũng không đủ số lượng bản vẽ mà chuyên gia thỏa thuận.
   Khôi chọc vào nỗi đau của Hoàng. Nỗi đau này Hoàng đã cố gắng quên đi, sau nhiều đêm suy nghĩ trằn trọc bặm môi đến bật cả máu. Chuyện thi đua khen thưởng, chỉ ảnh hưởng đến thành tích công tác và chế độ lương bổng của Hoàng thì cũng chẳng sao. Đằng này, chính vì nó gián tiếp phản ánh lên sự không công bằng trong xã hội. Nên Hoàng không thể không nói, sau đấy Hoàng cảm thấy ân hận.
    Việc cũng chỉ mới đây thôi, khi Tổ mặt bằng họp xét danh hiệu lao động tiên tiến 6 tháng đầu năm, Hoàng không được xếp vào diện được xét với lý do là không đủ số lượng bản vẽ được chuyên gia thỏa thuận. Hoàng bực lắm nhưng không biết làm thế nào? Bởi vì đấy là sự thật. Hoàng ngồi im không nhúc nhích, con người của Hoàng lúc này phong ba bão táp đang cuồn cuộn từng cơn, tai Hoàng ù đặc.
   Không khí cuộc họp nặng nề. Thấy tình hình như vậy, ông Quynh phó trưởng phòng Công Nghiệp, đứng dậy nói. Ông vẫn quen kiểu diễn thuyết và hùng biện. Nhưng hôm nay thì lại khác, ông bắt đầu bằng chất giọng trầm ấm ôn tồn tâm sự:
   -Tất cả anh em chúng ta cần phải cố gắng, cố gắng nhiều hơn nữa. Đất nước của chúng ta đã nghèo nàn lạc hậu thì chớ, lại phải trải qua cuộc chiến tranh kéo dài hơn 20 năm lâu dài gian khổ, hơi tàn lực kiệt, nay lại  chiến tranh biên giới Tây Nam. Nhân dân Việt Nam còn nghèo, bố mẹ vợ con chúng ta còn khổ. Lúc này hơn lúc nào hết, chúng ta cần phải phấn đấu hết sức mình, không kể ngày đêm, không quản mệt nhọc để cống hiến nhiều hơn nữa cho Tổ Quốc. Đồng chí Hoàng lần này chưa được thì cố vươn lên để lần sau được. Tôi đề nghị anh em hãy tạo mọi điều kiện để giúp đỡ đồng chí Hoàng, vì đồng chí là bộ đội chiến đấu ở chiến trường trở về, và cũng vừa mới ra trường nên kinh nghiệm và trình độ ngoại ngữ còn yếu, nên số lượng sản phẩm chưa đạt yêu cầu…
   Hoàng không còn nghe thêm được lời nào nữa, thực ra gần một năm nay Hoàng đã biết được chất của con người ông Quynh là thế nào rồi. Đúng là: “ Thùng rỗng nên tiếng kêu rất to”. Hoàng run run đứng lên, hai tay bám chặt vào mặt bàn, người đung đưa như muốn khụy xuống. Hoàng nói:
   -Xin phép các anh cho tôi được phát biểu.
   Giọng Hoàng như nghẹn lại.
(Còn nữa).


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 31 Tháng Giêng, 2014, 10:25:25 am
Năm mới! Quanvn kính chúc sức khỏe các CCB tham gia trên diễn đàn nói chung và các CCB 19c NH nói riêng, cùng toàn thể gia đình của các CCB dồi dào sức khỏe, vui vẻ hạnh phúc.
Kính.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: thaiminhhung trong 31 Tháng Giêng, 2014, 10:44:59 am
Năm mới Giáp Ngọ 2014 , TMH chúc bác Quân mạnh khoẻ, vui vẻ gia đình hạnh phúc, mọi sự may mắn và tiếp tục chia sẻ những ký ức thời trai trẻ !


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: qtdc trong 31 Tháng Giêng, 2014, 01:58:23 pm
Tiếp đi bác quanvietnam, nói như Nguyễn Bính thì:
Năm mới tháng giêng mồng một Tết
Còn nguyên vẹn cả một mùa xuân


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 01 Tháng Hai, 2014, 11:03:40 am

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Số phận
          Không chờ sự cho phép của ông Quynh, là người chủ trì cuộc họp. Hoàng bắt đầu nói, giọng Hoàng đanh lại. Hình như tất cả mọi sự kìm nén từ lâu nay, bây giờ Hoàng dồn hết vào từng lời, từng chữ:
   -Trước hết tôi xin được cám ơn các anh, các đồng chí cho tôi được phát biểu. Sự thực là tôi không muốn nói điều này, nói về nó sẽ có nhiều người hiểu nhầm tôi là người ích kỷ, đố kỵ với những người có thành tích. Ai hiểu như thế nào cũng được, nhưng tôi xin khẳng định chắc chắn tôi không phải là người như vậy. Nhân đây, tôi chỉ muốn giãi bầy những suy nghĩ của tôi về vấn đề bình bầu danh hiệu thi đua.
   Gần hai chục đôi mắt chăm chú nhìn Hoàng, chắc hẳn họ đoán Hoàng sẽ nổi giận, văng ra đủ từ rẻ tiền không tiếc lời. Bởi vì họ cũng đã từng gặp và từng chứng kiến nhiều ông thương bệnh binh đấu tranh vì quyền lợi, và họ nghĩ rằng sắp được nghe một ông công thần sẽ vỗ ngực đây. Nhưng họ nhầm, Hoàng không phải tuyf người như vậy, chính những đôi mắt kia là động lực kìm Hoàng lại để Hoàng bình tĩnh hơn, nói lên tâm tư và suy nghĩ của mình về vấn đề này. Và những đôi mắt ấy, làm cho Hoàng nhớ tới những đôi mắt của các đồng đội, đã từng sống chiến đấu, hy sinh ở chiến trường.  Hoàng nói tiếp:
   -Trên đời này ai mà không muốn mọi thứ của mình tốt đẹp,  muốn giỏi giang, muốn nhiều thành tích. Đó cũng là mong muốn chính đáng của con người. Nhưng đấy chỉ là mong muốn, còn thực tế thì đâu có chiều theo ý muốn của con người. Tất cả những mong muốn ấy, phụ thuộc rất nhiều yếu tố, cả khách quan lẫn chủ quan. Những yếu tố khách quan và chủ quan ấy, quan hệ với nhau nhiều chiều đã phức tạp lại càng phức tạp. Song những mối quan hệ này, theo quy luật tự nhiên, thì hàng ngày hàng giờ nó vẫn diễn ra bình thường trong xã hội, những mối quan hệ ấy, có phần là do con người tác động để tạo ra, cũng có phần là do tự nhiên hình thành.
    Chính vì vậy, khi xem xét bất cứ một vấn đề gì. Có những trường hợp người ta giải thích được thì không sao. Khi không giải thích được, hoặc là giải thích không đến nơi đến chốn, thì người ta né tránh và mang số phận con người để giải thích. Thật là khó, khi nói đến số phận của một con người, đây là một phạm trù rộng lớn mà nhận thức của con người thì có hạn. Sự vận động của tạo hóa sinh ra số phận của một con người. Con người khi sinh ra, hoặc là cam chịu số phận, hoặc là đấu tranh chống lại số phận…
    Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta. Hàng triệu triệu con người, ai ai cũng xung phong ra trận, thử hỏi nếu ai cũng ra trận thì lấy ai ở hậu phương. Ngay trong một gia đình cũng vậy, cũng phải phân công nhau, anh ra trận thì em phải ở nhà. Người ra mặt trận, phải có người ở lại hậu phương. Người đánh giặc thì phải có người đi làm, có người đi học, v.v.
   Nếu không làm được như vậy, thì làm sao cách mạng có thể thành công. Chả lẽ đánh thắng giặc rồi cứ ngồi đấy nhìn thành quả cách mạng tự nó lớn lên. Không thể như vậy được, nhất thiết phải có lực lượng đủ tài đủ kiến thức để xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. Lực lượng ấy chính là  những người được cử đi học, đi đào tạo ở nước ngoài. Khi họ trở về, họ là những người tiên phong để cùng mọi người thực hiện tiếp công cuộc xây dựng đất nước. Điều này thì ai cũng hiểu, song để thông cảm thì không phải ai cũng thông cảm.
   Tôi nói thế này, mong các đồng chí được đi học ở nước ngoài bỏ qua: Ngay trong gia đình các đồng chí, cũng có trường hợp: Anh hay chị của các đồng chí đi chiến đấu ngoài mặt trận để đồng chí được ra nước ngoài đi học. Đây là sự phân công của Đảng của Nhà Nước, của gia đình đối với mỗi người con trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Âu đấy cũng là số phận…
   Hoàn cảnh đất nước ta lúc đó bắt buộc phải như thế không thể khác được. Đến bây giờ cách mạng đã thành công, hòa bình được lập lại, chúng ta đang bắt tay xây dựng lại đất nước. Hiện nay, trong mọi mặt của cuộc sống, ở từng lĩnh vực công tác, có rất nhiều thành phần tham gia công tác. Từ những người có thâm niên công tác; đến học sinh mới ra trường; Bộ đội chuyển ngành; Thương bệnh binh v.v. Chúng ta  mang họ ra so sánh, người này làm nhiều, người kia làm ít hay sao?
   Tất nhiên là phải so, nhưng là so trên cùng một mặt bằng, so cùng thứ nguyên. Không thể so, một người đi chiến đấu thập tử nhất sinh với người đi học nước ngoài. Ở đây, nếu không nói về cái chết: Một đằng gạo rang không có mà ăn, đói rét triền miên; Một đằng ăn không hết, bơ sữa dư thừa… Đây là sự so sánh khập khiễng không thể chấp nhận được. Tôi nói thế này hơi quá: May mắn là chúng tôi còn sống, nên mọi người mới có thứ để mà so. Đối với những người đã hy sinh thì còn gì nữa để mà so, liệu như vậy có tàn nhẫn quá không? Ai có thể định giá được mạng sống của những người hy sinh vì Tổ Quốc?
   Việc bình bầu các danh hiệu thi đua là cần thiết, nhưng trong từng trường hợp cụ thể, cần phải có những tiêu chí phù hợp, mang tính nhân văn. Trường hợp chúng ta khô cứng giáo điều, thì còn đâu là nhân văn. Những người như chúng tôi hay những người thân của các đồng chí đã từng xả thân trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, là những người nằm trong diện nhạy cảm, rất dễ bị tổn thương. Song cũng dễ có tư tưởng công thần và địa vị.
   Trong thực tế, không thiếu những cảnh đau lòng: Có những gia đình, có anh là thương binh, vợ con người anh thì nheo nhóc, làm chẳng đủ ăn. Trong khi đó người em thì đi học nước ngoài về, nhà cửa, vợ con đàng hoàng, ăn trắng mặc trơn. Những trường hợp ấy anh em không giúp nhau thì ai giúp? Khúc ruột trên liền khúc ruột dưới. Tại sao lại không bù đắp vào những chỗ bị tổn thương? Tại sao không nghĩ đến câu: “Anh em như răng với môi, môi hở thì răng lạnh”. Tại sao lại vin vào câu của người xưa: “Anh em kiến giả nhất phận”. Để rồi người ta lại giải thích số phận nó thế…
   Theo tôi nghĩ: Phải xây dựng tiêu chí, tiêu chuẩn bình xét thi đua, trên quan điểm nhân văn, tình người, sau đấy mới là những tiêu chuẩn khác. Nói như vậy, cũng sẽ có người cho rằng: Việc nào đi việc đấy, không thể lẫn lộn được. Tình cảm là tình cảm và thành tích là thành tích.
    Đúng như vậy! Nhưng ở đây, trong hoàn cảnh đất nước ta vừa phải trải qua cuộc chiến tranh, chúng ta phải quan sát xã hội ở một góc độ khác: Nếu như tôi với các anh, chúng ta xuất phát từ một mặt bằng, thì sự so sánh ấy ai cũng thừa nhận. Đằng này chúng ta không cùng mặt bằng thì mọi sự so sánh là khập khễnh. Nếu như chúng ta cứ làm, như chúng ta đang làm thì đúng là số phận đã an bài.  Số của tôi sinh ra là phải đi chiến trường, còn số của anh sinh ra là để đi học nước ngoài. Số của chúng tôi là phải cống hiến và hy sinh, số của các anh là hưởng thụ. Có phải vậy không?
   Chúng ta phải làm gì để khỏa lấp sự bất bình đẳng  này? Nếu chúng ta không làm, thì ai làm? Chúng ta chờ đợi cấp trên ư? Cấp trên ở xa lắm…
   Hoàng dừng lại nhìn tất cả mọi người một lượt, phòng họp im phăng phắc, nét mặt mọi người đăm chiêu tư lự. Hoàng không đoán được mọi người sẽ phản ứng thế nào, nhưng theo Hoàng thì chắc chắn ý kiến của Hoàng sẽ không được ủng hộ. Đơn giản là vì: Tổng số 17 người dự họp, thì chỉ có 4 người là bộ đội, số còn lại đa phần là được đào tạo ở nước ngoài. Hoàng nghĩ: Cái gì xảy ra thì đã xảy ra, được ủng hộ hay không được ủng hộ cũng không sao, điều an ủi với Hoàng là Hoàng đã nói được một phần ý của mình mà cũng là ý kiến của các đồng đội. Hoàng thấy cũng không nên nói thêm nữa, tốt nhất là dừng lại. Hoàng nói:
   -Tôi rất cám ơn các anh và các đồng chí lắng nghe ý kiến của tôi. Những điều mà tôi phát biểu có gì không đúng, mong mọi người bỏ qua. Tôi hoàn toàn đồng ý với kết quả bình xét danh hiệu thi đua của phòng Công nghiệp. Bây giờ tôi bị mệt, xin phép được nghỉ họp.
   Hoàng đi thẳng ra ngoài, đóng cửa lại. Nhưng do xúc động nên đóng hơi mạnh, cánh cửa rung lên khi khép lại, bỏ lại trong phòng những ánh mắt tò mò đuổi theo Hoàng. Ra khỏi phòng họp, Hoàng như bước sang một thế giới khác, cảm giác lâng lâng, chân bước không thật, không ra say cũng không ra tỉnh.
    Những cơn gió Nồm cuối năm ào vào hành lang ôm lấy Hoàng, Hoàng khẽ rùng mình ớn lạnh, bước vội về phòng nằm vật ra giường, tưởng như những cơn sốt rét rừng sắp ập đến…

    Mấy ngày nay tâm trạng Hoàng không được vui, nên sau bữa cơm chiều bằng BoBo với tép khô ở đoàn thiết kế là Hoàng lại lang thang dọc đê Đà Giang đi về phía Bến Ngọc. Hôm nay là tối thứ 7, ngày mai được nghỉ, có nhiều người về Hà nội. Những người ở lại thì người đi chơi với bạn bè, người đi chơi với người yêu, người vào “Sở lượn” nên cơ quan buồn hẳn đi, sân cơ quan vắng lặng, thi thoảng mới thấy một vài người qua lại.
    Khôi gặp Hoàng ở gốc cây quéo, rủ Hoàng đi ăn thịt chó, xả xui. Hoàng ngần ngừ chưa đồng ý, thì Khôi nắm tay Hoàng kéo đi.
    Không vào quán thịt chó. Hai thằng ngồi ở quán ăn, trước cổng khách sạn Đà Giang. Ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn dầu bị muội bám đen kịt ở phía trên bóng, không soi rõ mặt hai thằng. Nếu có người nhìn vào thì chỉ nhìn thấy đĩa lạc rang, một chai rượu quốc lủi và hai cái chén. Hai thằng ngồi đối diện với nhau, sau một vài tuần rượu, Khôi nói vừa đủ nghe:
   -Tao có cảm giác hình như mày ân hận về chuyện mày đã phát biểu ở cuộc họp hôm nọ, có đúng không?
   -…
   -Tao nghĩ việc ấy tất yếu phải xảy ra. Không mày thì tao sẽ phát biểu, mà chúng ta không phát biểu thì còn mấy thằng khác phát biểu. Ai lại đề ra tiêu chuẩn như thế bao giờ? Đã không đạt danh hiệu lao động tiên tiến một năm đồng nghĩa với việc chậm lên lương một năm. Cứ ở tình trạng này, thử hỏi chúng ta khi nào đạt được danh hiệu lao động tiên tiến? và bao giờ thì chúng ta được nâng lương?
   -Thôi! Tao xin mày đừng nói đến việc ấy nữa có được không?
   -Ừ! Thì thôi.
   Hai thằng chìm vào im lặng, ngồi nghe mấy bàn bên cạnh người ta nói chuyện với nhau.
   Buồn… Thi thoảng Khôi lại dục:
   -Uống đi! Buồn làm gì? Tao với mày đến bây giờ vẫn còn sống là tốt lắm rồi. Hồi còn ở chiến trường, có bao giờ dám nghĩ đến cảnh tượng này. Thôi! Cứ uống đi, mọi việc đâu sẽ có đó.
    Hai ba nhóm mới vào, họ gọi đồ ăn đồ uống, gọi đưa thêm đèn cho sáng. Được tăng thêm bóng điện, gian nhà sáng bừng lên. Khói thuốc lá bay lên cao, khói thức ăn bay là là dưới thấp. Hoàng nhìn không gian mờ mờ ảo ảo qua làn khói cũng thấy lòng nhẹ đi phần nào. Trong quán đủ thứ mùi, nhưng hình như có mùi của món nấu với giềng mẻ mắm tôm quyện với mùi rượu quốc lủi, tạo nên mùi đặc trưng và quyến rũ.
   Hoàng nuốt nước bọt, nâng chén lên cạ vào chén của Khôi:
   -Uống đi! Ông có thấy cuộc đời kệch cỡm không? Thằng đi học nước ngoài, bất luận là kỹ sư hay công nhân kỹ thuật, về nước đi làm. Thằng nào thằng nấy trông rạng rỡ, đáng mặt của những mạnh thường quân. Tôi với ông là những thằng gì?
   -Đã bảo là không nói về chuyện ấy nữa, mà ông cứ khêu ra làm tôi buồn. Thôi từ bây giờ cấm, ai nói nữa phạt một chén rượu đầy.
   Hai đứa lại ngồi im lặng, nhìn thiên hạ …
    Chợt Khôi hỏi:
   -Này! Sao ông không tính chuyện vợ con đi?
   -Tính thế nào? Tôi chẳng biết tính thế nào, ông tham mưu cho tôi đi?
   -Thế mấy cháu ở sư phạm 10+1 đâu rồi?
   -Các cháu bay đi rồi! Nghĩ cũng thấy tội nghiệp cho chúng nó, mới tý tuổi đầu đã phải xa bố mẹ lên tận nơi “ Khỉ ho cò gáy”.
    Câu chuyện đứt đoạn… Hoàng thấy Khôi ngồi im lặng, vẻ  mặt đăm chiêu. Hoàng đoán Khôi đang nghĩ về gia đình. Hoàng hỏi:
   -Tình hình vợ con ông thế nào rồi?
(Còn nữa).


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: vanthang341ht trong 01 Tháng Hai, 2014, 08:26:51 pm

    Chào bạn Quân.
    Chuyện kể như nhịp thở đều đều của bạn hôm nay biến đâu mất, tự nhiên lại xuất hiện "lý sự" căng thẳng trong cuộc bình chọn theo tiêu chuẩn thi đua...hay thật. Tôi nhất trí theo quan điểm của bạn về cách đặt vấn đề vừa chính trị lại vừa rất thực tế.
    Năm mới 2014 chúc gia đình bạn và các bạn trên trang M&H mạnh khoẻ-hạnh phúc-thành đạt.
    Mong được đọc tiếp chuyện kể của bạn - TS của trung đoàn 95 một thời.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 03 Tháng Hai, 2014, 10:25:26 am
   Chào anh Vanthang. Năm mới kính chúc anh và và gia đình dồi dào sức khỏe, gia đình hạnh phúc, con cháu ngoan ngoãn lễ phép, biết kính trên nhường dưới, phụng dưỡng bố mẹ lúc tuổi già. Đại gia đình đời đời viên mãn.
 Còn riêng đ/c Vanthang của sư 341 ngày nào ơi! Tôi cứ nhìn thấy trong M&H có chữ Vanthang, là tôi lại nhớ đến địa danh: Đồi Thiếu Tá, hay còn gọi là Đồi Móng Ngựa. Không biết anh Vanthang có tham gia trận này không? Nhưng chắc anh vẫn nhớ đến địa danh Đồi Thiếu Tá. Đây là cứ điểm quan trọng của quân đội VNCH. Chúng hy vọng với cứ điểm này chúng sẽ kìm được chân sư 341 trên đường tiến vào giải phóng Xuân Lộc.  Khi ấy, lãnh đạo đơn vị tôi nói với chúng tôi:  Chúng đã nhầm, sư 341vì nhiệm vụ quan trọng của chiến dịch, nên chỉ được phép đánh tràn qua, giành thời gian để tiến vào đánh Xuân Lộc, phần còn lại nhường cho trung đoàn 95 sư 325 của chúng tôi giải quyết tiếp.
   Vậy đấy anh vanthang ạ! Từ xa xưa chúng ta không biết mặt nhau, nhưng đã phối hợp tác chiến chặt chẽ. Đến bây giờ, những cụ “Lính già” lại vẫn bên nhau, kẽo kẹt những kỷ niệm thời trận mạc để động viên an ủi nhau. Thật là quý hóa, không có gì có thể so sánh được, phải không anh Vanthang? Chúng ta chúc nhau sống vui vẻ khỏe mạnh, để hưởng lộc của trời đất, để con cháu có thời gian báo đáp công ơn cha mẹ. Để chúng ta ngẫm lại sự đời…
   Đầu năm, mạo muội mấy dòng. Anh Vanthang bỏ quá cho. Kính anh.



Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 22 Tháng Hai, 2014, 02:25:47 pm

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Số Phận
          Không sao chợp được mắt, trong phòng mọi người đã ngủ say. Phòng có 4 ông thì 3 ông đang ngáy, mỗi ông một làn điệu, ông lên ông xuống, không ông nào thua ông nào. Hoàng cố chịu, đã bịt chặt hai tai lại, nhưng không chịu nổi, đành ra hè ngồi. Tiếng đôi tắc kè đang khắc khoải gọi nhau trên cây quéo cổ thụ ở đầu hồi. Đôi này chắc đã già lắm rồi, tiếng kêu không còn được tròn trĩnh nữa, âm lượng đã rè về phần cuối nhưng vẫn còn cố rướn lên, lộ vẻ tiếc nuối của thời trai trẻ.
   Hoàng nghĩ về thời trai trẻ, nghĩ về chị Thịnh, về Nguyệt, về Thủy và Hà. Hoàng nghĩ lung tung. Từ ngày rời quân ngũ, do điều kiện sức khỏe và công việc học hành bận rộn, nên Hoàng cũng ít giao lưu và tiếp súc với mọi người, thành thử Hoàng cũng ít bạn nhất là bạn gái. Kiểm lại có điều rất lạ, những người Hoàng biết thì đều rất  hoàn cảnh. Có phải số của họ như vậy không? Hay Hoàng mang vận đen đến cho họ, mà Nguyệt là đáng thương nhất.
     … Có lẽ cũng hơn 3 năm rồi. Nhớ lại hôm Hoàng đến nhà Nguyệt chơi. Nhà Nguyệt ở xóm Giỏ. Khu đất này giống cái giỏ, nên ông bà ngày xưa đặt tên là xóm Giỏ. Nhà Nguyệt ở phía đáy giỏ, ngoài cùng là dãy ao chuôm của HTX bao bọc đáy giỏ. Những hôm động trời, mưa gió sấm chớp là ếch nhái kêu inh uôm cả đêm. Từ ngày ao vào HTX do không ai quản lý trông coi, nên ao có lẽ chỉ có ếch nhái và vài con đồng đong cân cấn bé quá là sót lại, còn tất cả từ con cua con ốc đều bị mọi người và đàn vịt bắt hết chứ đừng nói đến cá.
   Nhà Nguyệt hướng Nam, ba gian hai trái. Bếp hướng Đông vuông góc với nhà chính. Một chiếc sân gạch nho nhỏ chung cho cả nhà và bếp, ngay sát bếp là bến ao. Có lẽ nhà của Nguyệt gần như không có gì thay đổi so với thời Hoàng còn ở nhà, ngày còn nhỏ Hoàng thường chơi trốn tìm ở khu vực này nên Hoàng thuộc nhà của Nguyệt như thuộc nhà của mình vậy.
  Trời đã nhá nhem tối, mấy chú gà đang quanh quẩn bên cửa chuồng, thi thoảng lại mổ nhau kêu quang quác. Nguyệt đang nấu cơm ở trong bếp. Bố Nguyệt và Hoàng ngồi trên chiếc trõng tre đặt ở ngoài sân trước hiên nhà. Bố Nguyệt rót cho Hoàng một bát nước vối, ông nói:
   -Nhờ giời! Cháu còn sống mà về được thế này là bố mẹ cháu mừng lắm. Hôm thằng Ngân nhà bác nó về, bác nhìn thấy nó mà ngực bác như có ai đè chặt lên, bác không thở được nên ngã vật xuống đất, mọi người đưa bác lên giường, mãi sau bác mới tỉnh. Cháu uống tạm bát nước vối nguội, em nó bây giờ đang nấu cơm nên chưa có nước nóng.
   -Vâng! Cháu xin bác. Đã lâu rồi cháu chưa được uống nước vối.
     Hôm nay nghe bố Nguyệt nói: “Em nó”. Hoàng nhớ lại, Nguyệt với Hoàng bằng tuổi nhau, nhưng ngày trước lúc hai đứa chơi với nhau, thì Nguyệt toàn gọi Hoàng bằng tên thôi chẳng có anh em gì đâu. Có một lần, bố Nguyệt bắt Nguyệt phải gọi Hoàng bằng anh, ông nói: Con Nguyệt phải gọi là anh Hoàng. Rồi bác kể: Cháu Hoàng đẻ trước. Bác còn nhớ, lúc ấy Pháp nhảy dù Phát Diệm, mẹ cháu tản cư lên trại Đồng Lách, lên đấy thì đẻ cháu. Còn con Nguyệt mãi sau này, đi tản cư về thì mới đẻ. Bác không nhớ là tháng mấy, nhưng chắc chắn là con Nguyệt đẻ sau cháu mấy tháng… Kể từ đấy Nguyệt mới gọi Hoàng bằng anh.
   Hoàng đỡ lấy bát nước trên tay bố Nguyệt rồi mời ông:
   -Cháu mời bác uống nước!
   Bố Nguyệt không nói gì, mặt vẫn lạnh tanh. Ông nhìn ra ngoài ngõ, như đang ngóng đợi cái gì ở ngoài đó. Tính ông ít nói, nếu ai chưa biết thì cho là ông khinh người, còn với Hoàng thì chuyện ấy đã quá quen thuộc. Bởi từ lúc còn bé đến giờ, thì đã có 9 -10 năm Hoàng hay qua lại nhà ông nên Hoàng rất hiểu tính ông. Ông hiền lắm, có khi cả ngày ông không nói một câu. Làng xóm chẳng bao giờ nghe thấy ông to tiếng la hét con cái, ông ở nhà nhưng ít khi nghe tiếng của ông, nhiều người cứ tưởng là ông đi vắng. Có lẽ ông buồn vì hoàn cảnh gia đình nên ông ít nói.
   Để xua đi bầu không khí im lặng của cuộc viếng thăm, Hoàng chủ động hỏi ông:
   -Cháu nghe nói, anh Ngân hồi bị thương ở chiến trường, sau đó đưa về Miền Bắc và  giải quyết phục viên, Bây giờ anh ấy làm ở đâu hả bác?
   -Ừ! Anh ấy bị thương, nhưng chả biết nó bị thương như thế nào? Bác cũng không hỏi, nhưng chắc là cũng nhẹ thôi. Nhà bác thật may mắn,  bác chỉ có mình anh Ngân là con trai nên được quân đội ưu tiên, khi anh ấy bị thương họ chuyển anh ấy ra Bắc để điều trị sau đó cho phục viên. Về phục viên được một thời gian, anh ấy không chịu ở nhà nên xin đi làm ở lâm trường gì đấy ở tận Lạng Sơn cơ, anh ấy lấy vợ năm kia. Cả hai vợ chồng cùng làm việc ở lâm trường, anh chị đã có một đứa con giai gần một tuổi rồi.
   Đang nói thì bố Nguyệt đứng bật dậy, dậm dậm hai bàn chân xuống sân để dọa con chó vì nó đang gầm gừ không cho đàn gà lên chuồng. Nghe tiếng dậm chân của ông chủ, con chó sợ uy ông cúp đuôi lẩn ra sau đống rơm. Bố Nguyệt lại ngồi xuống chõng và tiếp tục câu chuyện:
   -Tháng trước anh ấy về, nói là mời hai bác lên chơi với anh chị và thăm cháu đích tôn, anh ấy nói khéo lắm, nói vậy là để các bác lên. Nhưng không ai đi được, bác gái thì ốm, bác thì lo vườn tược con gà con lợn, em Nguyệt thì suốt ngày chạy lông bông công việc của đoàn thể. Nói thật là bác không muốn đi, bác buồn với anh ấy lắm, buồn vì nỗi có mỗi mình nó là con trai, muốn nó lấy vợ ở nhà, sinh con đẻ cái để về già ông bà cháu chắt quây quần, tuổi già nhờ cậy con cháu lúc gối mỏi chân chồn. Thế mà đâu có được, chúng nó chỉ biết nghĩ cho chúng nó, dạo này bác gái ốm, càng nghĩ bác lại càng buồn… Nhưng nghĩ đi rồi lại nghĩ lại: Nếu vợ chồng anh ấy ở nhà thì biết làm gì để sống?
   Hoàng sợ để ông già càng nói lại càng buồn nên Hoàng vội cắt lời ông:
   -Cháu xin lỗi bác, bác gái ốm mà cháu không biết. Bây giờ bác gái thế nào rồi ạ? Bác có ăn uống được gì không? Cháu vào thăm có được không?
   -Bà ấy cũng ốm vặt vãnh vậy thôi, tuổi già ấy mà. Cứ sắp lặn mặt trời là bà ấy gai gai sốt, lại vào giường nằm đắp chăn. Bà ấy chẳng thiết ăn uống gì, hôm nọ con Nguyệt chạy vạy đâu được mấy đồng bạc, rồi lên tận thị xã Ninh Bình mới mua được mấy lạng đường hoa mơ về nấu cháo cho bà ấy ăn. Thấy bằng đường hoa mơ, bác hỏi Nguyệt: Sao con không mua đường trắng mà mua đường này? Nó bảo là không đủ tiền. Nó nói thế thì bác biết vậy thôi chứ biết làm sao được, nhưng có đường này cũng tốt rồi. Hôm pha cho bà cốc nước chanh, bà ấy uống rồi khen ngon lắm, bà ấy bảo: Có nhẽ cũng đã mấy năm nay mới được uống một cốc nước đường. Nghe bà ấy nói mà tội nghiệp, nhưng đúng là như vậy, nghe muốn trào nước mắt.
    Nghe bố Nguyệt nói thế, Hoàng nghĩ: Dân làng mình lâu nay quá khổ, nhưng biết làm sao được. Đúng lúc thời buổi khó khăn, cơm độn khoai độn sắn còn chẳng đủ ăn nghĩ gì đến đường sữa. Cái thứ xa xỉ ấy, có lẽ chỉ khi nào ốm đau, quá quắt lắm thì mới dám dùng. Những tưởng như vậy là đã khổ đến tận cùng rồi, thế mà khi hành quân vào chiến trường Hoàng còn thấy dân ở nhiều nơi còn khổ hơn. Không hiểu có sức mạnh thần kỳ nào mà dân tộc Việt nam lại vượt qua được những giai đoạn khó khăn đến như vậy?
   Thời gian qua đi, ba anh chị em nhà Nguyệt có hai người đã xây dựng gia đình được rồi, chỉ còn lại mình Nguyệt thôi. Không biết con cái của các anh các chị ấy, có bị di truyền bệnh tật của ông bà không? Ông đẻ ra bố Nguyệt bị bệnh hủi, bố Nguyệt cũng có biểu hiện bị bệnh này, nhưng chưa có cơ sở để khẳng định, dân làng thì cứ xì xầm bàn tán. Mẹ Nguyệt chả biết bị bệnh gì nhưng rất xanh sao, có thể là do đói khổ, ăn uống thiếu thốn, nên bà vừa lao tâm lại vừa lao lực, làng xóm nghi ngờ bà bị bệnh lao.
   Mẹ Nguyệt lấy bố Nguyệt, sinh được ba chị em, may mắn cả ba chị em đến bây giờ vẫn chưa ai bị những bệnh này, được cái là bố mẹ Nguyệt ở riêng. Nhưng mọi người vẫn bảo: Bệnh hủi, bệnh lao là bệnh lây, bệnh hủi nó ăn lở loét các ngón tay ngón chân, ai mà dính vào những chỗ đấy là bị lây, còn bệnh lao lây qua đường truyền nhiễm như ăn chung, uống chung, ở chung v.v. Vì vậy, những người trong gia đình rất dễ bị mắc bệnh này. Họ còn nói: Bệnh hủi với bệnh lao là bệnh di truyền, nếu bố mẹ mà bị thì con cái cũng bị. Nghe mọi người nói thế ai mà không sợ, nhưng bây giờ cũng đã gần 30 năm mà cả ba chị em nhà Nguyệt chưa thấy có biểu hiện gì về bệnh tật.
   Ngày ấy chẳng biết thực hư thế nào, bà con chòm xóm vì tình làng nghĩa xóm nên không ai dám công khai cách ly, nhưng hầu như mọi người cố gắng hạn chế tiếp xúc với gia đình nhà Nguyệt. Khi ấy, vô hình chung nhà Nguyệt bị cô lập ở xóm Giỏ. Xóm ấy đã buồn lại càng buồn thêm, ai có công có việc gì thật cần thiết thì mới xuống, còn không thì thôi.
  Thời gian ấy Hoàng còn bé, mẹ Hoàng cũng nói thế và cấm Hoàng không được chơi với Nguyệt, không được xuống xóm Giỏ. Hoàng cứ vâng dạ, nghĩ thì cũng thấy ghê ghê, nhưng ham vui, hơn nữa trò chơi giả vờ làm vợ chồng mà thiếu Nguyệt thì không chơi được nên Hoàng vẫn lần xuống. Tuy vậy, Hoàng cũng chú ý theo dõi xem nhà Nguyệt có ai bị lở loét gì không, nhưng không phát hiện ra điều gì, Hoàng yên tâm.
     Cũng thời kỳ ấy, nghe người lớn nói chuyện với nhau về mối tình của bố mẹ Nguyệt. Họ bảo: Chuyện tình của bố mẹ Nguyệt giống như chuyện cổ tích, kể về mối tình của một chàng lực điền cao to, đẹp trai, nhưng bị nghi ngờ mang bệnh hủi. Với một cô gái trắng trẻo thùy mị nết na, quanh năm ốm yếu bị nghi ngờ là mắc bệnh lao. Tình yêu của đôi trai gái ấy, bị cha mẹ và gia đình nhà gái cấm đoán quyết liệt, họ hàng phản đối, làng xóm ngơ ngác. Nhưng cả hai vẫn quyết tâm lấy nhau, họ thề sống chết có nhau, sống cùng sống, chết cùng chết và họ đã thắng…
   -Anh Hoàng này! Anh ở đây chơi với em nó. Tôi đi đằng này có việc.
   Hoàng bừng tỉnh, chưa kịp phản ứng gì thì bố Nguyệt đã đứng dậy đi ra cổng. Hoàng mừng thầm: Thế cũng tốt, ông già quá tâm lý.
   Ông đi rồi, Hoàng vào bếp ngồi bên nguyệt. Ánh lửa bập bùng cộng với sức nóng của Hoàng làm khuôn mặt của Nguyệt thêm hồng hào. Nhớ lại cái đêm, Hoàng và Nguyệt cùng nhau chèo chống con thuyền chở hai tấn gạo từ kho Bình Sơn về Giăng Nại để sơ tán. Trên đầu thì máy bay Mỹ gầm rít, dưới sông nước lớn mênh mông, chỉ có hai đứa trẻ nhỏ nhoi trên sông nước. Hoàng sợ đến tê cả người mà không dám thổ lộ, sợ Nguyệt cười. Ngày ấy, Nguyệt đã ra dáng một thiếu nữ xinh đẹp.
   Bây giờ, Nguyệt vẫn xinh như ngày nào, Hoàng nhìn Nguyệt không chớp mắt.
   -Nhìn gì mà nhìn ghê thế?
   Hoàng nhẹ nhàng gỡ mấy sợi tóc bết mồ hôi bên má nguyệt và hỏi nhỏ:
   -Khi nào Nguyệt cho Hoàng ăn cỗ đấy?
   -…
   Nguyệt im lặng, làm cho Hoàng lúng túng. Hoàng chưa đoán được tâm trạng của Nguyệt thế nào? Vui hay buồn? Hoàng không dám nhắc lại chuyện chị Thịnh nói với Hoàng hôm trước. Hoàng đang tìm chủ đề để nói chuyện với Nguyệt, Hoàng thấy chiếc ấm bằng đất dùng để nấu nước vối hay là để sắc thuốc cho mẹ Nguyệt bị sứt vòi, nước cứ trào ra chỗ sứt ấy chảy vào bếp nghe xèo xèo. Hoàng thở dài:
   -Quê mình nghèo quá, ruộng vườn xác xơ. Thanh niên trai tráng đi bộ đội sao mãi vẫn chưa về? Quê mình bây giờ chỉ còn lại ông bà già và trẻ con, lấy ai là người lao động bây giờ? Vẫn đói triền miên thôi.
   -Những người ở làng này đi bộ đội,  hy sinh gần hết rồi. Có mấy người còn sống thì không thể về nhà được mà phải ở trại Thương Binh nặng  trên Gia Viễn. Những người khỏe mạnh mà sống sót trở về, chắc cũng chẳng còn bao nhiêu. Mà có còn ai thì họ cũng xin đi thoát ly, ở quê làm gì cho vất vả.
   Nguyệt vừa nói vừa liếc đôi mắt sắc như dao cau nhìn Hoàng. Thấy Nguyệt đã bắt chuyện, Hoàng tranh thủ nói luôn:
   - Chiến tranh mà, tránh làm sao được. Hòa bình rồi, sao Nguyệt vẫn chưa tính chuyện chồng con?
   -Mình già rồi, ai người ta thèm lấy mình. Mà còn ai đâu mà lấy, mấy bữa nữa lên trại Thương Binh nặng đón lấy một ông về nuôi cho đỡ buồn.
   -Chị Thịnh đã lấy ai chưa?
   -Chưa! Hai chị em đang bàn nhau ở vậy, để thành hai bà “ Cô” nương tựa nhau lúc tuổi già…
   Nghe Nguyệt nói, giọng chua xót. Ai sẽ là người xoa dịu nỗi đau của Nguyệt nói riêng và tất cả phụ nữ nói chung sau cuộc chiến tranh này? Hoàng tự hỏi.
   …Đêm đã về khuya, trời càng lạnh. Mảnh trăng hạ tuần gầy quắt treo tận trên cao, rải ánh sáng vàng vọt yếu ớt xuống thung lũng thị xã Hòa Bình.  Nhìn ra đầm Phương Lâm, sương mù giăng trắng kéo dài tít tắp. Nghĩ về những mảnh đời ấy, trái tim Hoàng thắt lại. Ôi! Chiến tranh. Hệ lụy này, còn đưa những lớp người ấy đi về đâu?
   Còn Thủy với Hà? Liệu có phải đấy là số phận không?
(Còn nữa).
   


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 11 Tháng Năm, 2014, 11:16:53 am

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Số Phận
          Thời gian gần đây, Hoàng liên tục nhận được thư của Thủy. Thư Thủy viết cho Hoàng, thư nào cũng buồn, mà hình như còn có cả nước mắt nữa thì phải? Những ngày này, chắc là Thủy đang đấu tranh tư tưởng quyết liệt để đi đến quyết định về hay ở lại? Hà, bạn cùng đi với Thủy không chịu nổi hoàn cảnh và điều kiện sống ở đấy đã bỏ về dù có sự khuyên can của gia đình và những lời cảnh báo của ban giám hiệu. Hà đã bỏ qua tất cả, bất chấp dư luận để về xuôi. Bây giờ chỉ còn lại Thủy thôi, Thủy đang cô đơn đứng trước hai ngả đường, Thủy không biết phải đi về đâu: Một là tiếp tục theo đuổi sự nghiệp; Hai là cũng về xuôi giống như Hà… Thủy khẩn cầu Hoàng cho Thủy một lời khuyên.
    Đã mấy ngày nay Hoàng suy nghĩ rất nghiêm túc về việc Thủy đề nghị. Thật là khó, biết nói với Thủy thế nào bây giờ? Nếu khuyên Thủy ở lại, đồng nghĩa với việc xui Thủy hãy cam chịu với số phận, phó mặc cuộc đời để cho số phận đưa đẩy, sướng hay khổ đành chịu vậy.
   Một đời người thì lắm thăng trầm, mà cũng chẳng ai khổ tận đến ngày cam lai. Hơn nữa: Thế nào là khổ và thế nào là sướng, quan niệm của mỗi người cũng chẳng rõ ràng. Mà rất có thể: Vất vả ở tiền vận, nhưng về hậu vận lại tốt hơn thì sao v.v. ? Sẽ có vô vàn những tình huống xấu tốt xảy ra, Thủy còn rất nhiều cơ hội, chỉ cần Thủy có niềm tin vào ngày mai thì Thủy sẽ tận dụng được cơ hội.
   Có lẽ Thủy cũng lơ mơ hiểu như vậy. Nhưng khổ một nỗi ngay lúc này, Thủy đang có cuộc sống không mấy nhìn thấy tương lai, trong khi đó tuổi đời Thủy còn quá trẻ chưa đủ vốn sống và bản lĩnh để ứng xử với các tình huống xảy ra.
   Ở hoàn cảnh này, dù Hoàng có nói thế nào cũng khó có thể thuyết phục được Thủy. Nếu đồng tình với Thủy để Thủy cũng như Hà về xuôi thì Hoàng không bao giờ nghĩ đến. Không biết như vậy là đúng hay sai đối với Thủy? Nhưng với Hoàng thì Hoàng sẽ quyết định như vậy. Lý do để Hoàng quyết định như vậy chỉ đơn giản là: Hoàng vì gia đình, ngược lại gia đình vì Hoàng. Gia đình Thủy cũng vậy thôi. Chắc chắn, bố mẹ Thủy cũng rất thương Thủy, thương cô con gái bé bỏng vất vả gian khổ nơi rừng xanh núi đỏ. Nhưng không khi nào, bố mẹ lại khuyên con từ chối nhiệm vụ mà xã hội đã phân công.
   Thủy có biết không? Gặp hoàn cảnh tương tự như thế này Hoàng đã từng một lần quyết định, khi ấy Hoàng quyết định cũng rất khó khăn. Nhưng khi nghĩ đến bố mẹ và gia đình thì Hoàng lại quyết định rất thanh thản. Thời điểm mà Hoàng quyết định xảy ra đúng lúc gian khổ và ác liệt nhất của cuộc chiến tranh mà Hoàng đang tham gia. Hoàng không muốn mình là một kẻ đào ngũ, không muốn mình là một đứa con có lỗi với tổ tiên ông bà cha mẹ, một người có tội với Tổ Quốc. Nói ra những điều này không biết Thủy có hiểu được ý Hoàng không? Hoàn cảnh của Thủy bây giờ không hoàn toàn như vậy, nhưng nếu quay về thì vẫn là kẻ từ chối nhiệm vụ.
   Vậy đấy Thủy ạ! Đôi khi có những người con trong gia đình phải chấp nhận số phận, để bố mẹ gia đình không bị mang tiếng với bàn dân thiên hạ, không bị người đời mỉa mai. Mà Thủy ơi! Trăm năm bia đá thì mòn, Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ… Hai tiếng:“ Đào ngũ” sẽ còn   truyền mãi từ đời này sang đời khác, thật là khủng khiếp rửa làm sao hết được?
    Thủy có biết không? Ngày ấy, tháng 5 năm 1972. Chiến trường Quảng Trị đang ở thời kỳ vô cùng ác liệt. Một bên là các chiến sĩ quân giải phóng Miền Nam, một bên là Đế quốc Mỹ và quân lực VNCH, cả hai bên đang cố gắng giành giật lấy thị xã Quảng Trị. Vị trí chiến lược và tầm quan trọng của thị xã Quảng Trị đã tạo ra nơi đây thành chiến trường ác liệt tầm cỡ nhất nhì Thế Giới. Khi ấy bất kể người chiến sĩ nào khi nhận nhiệm vụ vào chiến đấu trong thành cổ Quảng Trị, không một ai mảy may nghĩ đến cái sống, cái chết. Nhiệm vụ thiêng liêng lúc đó là phải chiến đấu để bảo vệ mình và bảo vệ mảnh đất thiêng liêng của Tổ Quốc vừa được giải phóng. Hoàng cũng là một trong số những chiến sĩ đó đấy Thủy ạ! Lúc ấy Hoàng quyết định cũng khó khăn lắm chứ. Giá như Thủy hiểu được tâm trạng của Hoàng lúc đó, thì bây giờ Thủy quyết định sẽ dễ dàng hơn…
     Bần thần, Hoàng nhớ lại những bức thư đầu, khi Thủy mới lên nhận công tác. Thủy vui vẻ kể hết chuyện này sang chuyện khác, rồi khoe ríu rít em có cái này em có cái kia, còn hẹn với Hoàng khi nào về phép sẽ rẽ qua thăm Hoàng và mua tặng Hoàng một món quà của người dân tộc mà chắn chắn con trai rất thích. Rồi biết bao nhiêu là chuyện trên trời dưới đất Thủy đều kể cho Hoàng nghe. Chuyện Thủy kể ngây ngô mộc mạc, nhưng Hoàng thấy vui. Hoàng cứ tưởng tượng ngoài giờ lên lớp ra, Thủy như con nai con hoẵng bé nhỏ hồn nhiên, hàng ngày vui đùa với những con bướm bông hoa trong những cánh rừng đại ngàn heo hút ở tận Miền Tây của Tổ Quốc. Tâm hồn của Thủy trong sáng quá. Hoàng ngây ngất nhớ lại tuổi thơ của mình và thèm khát có được tuổi thơ trong sáng và hồn nhiên của Thủy
   Có lần Thủy nói với Hoàng: Em nói anh đừng cười. Nhưng anh phải hứa thì em mới nói, nếu anh không hứa thì em sẽ không nói cho anh nghe đâu. Đọc đến đây, Hoàng cũng buồn cười. Sao ở trên đời lại có người thật thà đến vậy? Có khó gì cái việc hứa ấy đâu, mà chuyện ấy thì có gì quan trọng mà không hứa. Mà giả như Hoàng có cười thì Thủy cũng đâu có biết, chắc là có ẩn ý gì đây? Nghĩ vậy, Hoàng biên thư cho Thủy nhận lời là hứa sẽ không cười, bất kể Thủy nói chuyện gì.
  Thư sau thủy nói: Anh Hoàng ơi! Em thú thật là em nghiện đọc thư của anh rồi. Lâu lâu, không nhận được thư của anh, người em thấy nó cứ làm sao ấy khó chịu lắm, cứ suy nghĩ vẩn vơ như người mất hồn. Những ngày ấy, thật nặng nề đối với em, em không làm được việc gì cho nên hồn cả, không vỡ cái nọ thì cũng đổ cái kia. Ngày nào em cũng nhìn xuống chân dốc, ngóng chờ bóng dáng người đưa thư. Em nói thật đấy! Anh không được cười em đâu nhé.
   Những lúc như vậy, em tự hỏi: Tại sao? Theo anh thì tại sao? Anh nghĩ đi và trả lời em nhé! Còn em nghĩ: Anh là người giúp đỡ em chập chững bước những bước đầu tiên vào đời. Anh em mình gặp nhau như là định mệnh, Trời Đất đã cho em gặp được anh, em thật là người may mắn có phải không anh? Kiến thức và cuộc sống từng trải của anh, đã làm em không  nghi ngờ những điều anh nói, em tin tưởng tuyệt đối vào anh. Lúc nào em cũng cố gắng phấn đấu để làm đúng những điều anh căn dặn. Những điều em chưa biết, đương nhiên là em phải hỏi anh, sau đó em lại hồi hộp chờ nhận được ý kiến đánh giá của anh. Có thể vì lẽ ấy nên em mong thư anh, để nghe anh nhận xét và được anh hướng dẫn những bước tiếp theo.
   Còn nữa: Em rất thích cách nói chuyện của anh, em không nịnh anh đâu nhé! Em nói rất nghiêm túc đấy! Anh có cách nói chuyện dí dỏm, lại hay ví von nên người nghe bị cuốn hút lúc nào mà không biết. Nhất là cách anh đặt vấn đề và giải quyết vấn đề, em thấy nó rất lôgic. Anh hay dùng cái từ gì mà em nghe nó có vẻ bác học cao xa, có phải là: “Biện chứng” đúng không anh? Anh giải thích là: Nên xem tất cả sự vật, sự việc một cách biện chứng, rồi anh bảo: Tất cả, không có gì đứng nguyên tại chỗ, mà chúng luôn chuyển động. Ngày hôm nay, sẽ khác ngày hôm qua… Anh cứ nói gì gì ấy, trìu tượng mà khó hiểu,  song em vẫn thích nghe. Có thể anh có duyên kể chuyện…
    Ngày qua ngày, những mạch chuyện trong những cánh thư ngày càng nhiều lên, Thủy hết kể chuyện của mình lại kể cả chuyện của Hà, kể hết chuyện này sang chuyện khác. Những tưởng như vậy là Thủy và Hà đã yên tâm công tác. Hoàng nhủ thầm: Từ nay con chữ và tình thương của cô giáo Thủy và cô giáo Hà, sẽ sưởi ấm tâm hồn cho lũ trẻ của đồng bào dân tộc vùng caoTây Bắc của Tổ Quốc.
   Đã có lần Hoàng nói đùa với Thủy và Hà: Các em là những người đầu tiên lên đây để khai hóa văn minh cho vùng này, đồng bào ở đây biết ơn các em, sau này họ sẽ dựng tượng các em ở đầu dốc để tưởng nhớ công ơn hai cô giáo người Kinh. Thủy bảo: Chúng em chẳng mong như vậy, chỉ mong họ giữ đúng lời hứa là sau 3 năm sẽ chuyển các em về dậy các trường ở dưới xuôi. Thế là bọn em đã mãn nguyện lắm rồi chẳng mong họ tạc tượng tạc tiếc gì cả.
   Cuộc sống của Thủy và Hà những tưởng cứ thế êm đềm trôi. Thế mà không ngờ cơ sự lại xảy ra như bây giờ. Tháng trước Thủy viết thư kể cho Hoàng nghe một chuyện. Chẳng biết Thủy có nói quá lên không thì không biết, nhưng khi đọc song thư của Thủy làm Hoàng rất bâng khuâng, không biết là vui hay buồn.
   Chuyện của Thủy kể về hai cô giáo đồng nghiệp với Thủy, cũng lên đây công tác và được phân công làm giáo viên cắm bản. Hai người ấy lên đây đã hơn 5 năm, lúc nhận công tác cả Ty và Phòng giáo dục đều hứa là sau 3 năm hoàn thành nghĩa vụ , sẽ bố trí về dưới xuôi công tác. Hết 3 năm, phòng giáo dục cũng không thấy đả động gì đến lời hứa lúc điều động cán bộ lên miền núi công tác. Chờ đợi mãi không được, hai người kéo nhau lên hỏi thì được trả lời là: Chưa bố trí được giáo viên thay thế, hơn nữa ở dưới xuôi cũng không có trường nào tiếp nhận bổ xung giáo viên, vì thế chưa có phương án giải quyết, các thầy cô cứ tạm thời chờ đợi. Nếu ai tự liên hệ được, phòng giáo dục sẽ tạo điều kiện giúp đỡ để các thầy cô được chuyển về xuôi…
   Được phòng giáo dục trả lời như vậy, hai người chết lặng muốn khóc cũng không khóc được. Họ bảo: Nhìn lên trời thấy trời cao xanh thăm thẳm, nhìn ra xung quanh thấy rừng núi chập trùng, họ nhỏ nhoi như con sâu cái kiến. Biết kêu ai?  Chỉ trách ông Trời sao không cho bố mẹ mình làm quan để có chức có quyền, để giữ con ở nhà, con trai không phải đi bộ đội, con gái không phải lên miền núi công tác gian khổ vất vả. Còn nếu như làm cán bộ có quá nhiều người tranh nhau, thì ông Trời hãy cho bố mẹ giầu có để có tiền đút lót giống như người ta, đâu phải khổ sở thế này.
    Thủy than thở: Tuổi xuân của người con gái thì chỉ có thời, nó như bông hoa sớm nở tối tàn. Là bông hoa thì còn có mưa gió ong bướm ve vãn, những thứ ấy cũng là những tác nhân quan trọng làm cho những bông hoa càng thêm tươi càng thêm đẹp, tô điểm cho cuộc sống càng thêm sinh động. Đằng này, chốn thâm sâu cùng cốc chỉ có cô và một đàn em nhỏ nói tiếng Kinh thì ít tiếng dân tộc thì nhiều, hàng ngày quây quần bên nhau. Cuộc sống của các em rất khó khăn, cơm chưa đủ ăn áo chưa đủ mặc, trường lớp thì trống huơ trống hoác, gió rét căm căm. Cô nhìn trò, trò nhìn cô, nhìn mưa rừng trắng xóa, buồn não ruột.
   Anh thử nghĩ xem, trong hoàn cảnh ấy, liệu các cô giáo, các phụ huynh học sinh có thể làm được gì, khi mà các cấp chính quyền biết nhưng làm ngơ. Mà sự thể thì họ cũng chẳng làm được gì, nếu như không cụ thể hóa nó thành chế độ, chính sách. Hoàn cảnh này biết bấu vứu vào ai? Nghĩ về tương lai mà vô vọng, còn hiện tại là nỗi cô đơn khủng khiếp.
    Thế rồi anh có biết không? Cái gì đến thì nó sẽ đến, chuyện xảy ra với hai chị ấy ngoài sức tưởng tượng của bọn em. Đến bây giờ em nghĩ cũng không thể hiểu tại sao chị ấy lại làm như vậy? Nếu trường hợp ấy mà là em, em không biết em sẽ phải làm gì? Anh có thể tưởng tượng được đoạn kết bi thảm thế nào không? Chị quê Thái Bình, chẳng biết duyên số hay là bị trai bản bỏ bùa nên đã lấy anh chồng người dân tộc ở bản gần đấy, có bầu sắp đến ngày sinh, còn chị thứ hai trông như một cây khô khẳng khiu gầy guộc.
   Đoạn cuối Thủy viết: Cuộc đời này còn quá nhiều vô lý. Tiền nhân đã dậy: “Không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng”. Thế mà ở một chế độ văn minh và tươi đẹp như hiện nay, vẫn còn đầy dãy những bất công vô lý.
   Kể ra, lúc nóng giận Thủy nói cũng hơi quá. Nhưng sự thật thì vẫn có những chuyện như vậy. Tại sao các cấp chính quyền lại không giải quyết được những việc cỏn con như Thủy nói? Đã gọi là nghĩa vụ thì mọi người đều phải có trách nhiệm chứ? Đằng này vẫn cứ để những người tốt phải chấp nhận hy sinh. Hay nói cách khác là cắn răng chịu đựng, vì họ nghèo họ không có tiền đút lót, để về xuôi. Vậy đấy, có cái gì đó thật mơ hồ nhưng lại hiện hữu, hình như bây giờ lại trở lại thời kỳ: Nén bạc đâm toạc tờ giấy, trắng đen lẫn lộn.
   Trong sâu thẳm tâm hồn, Hoàng thấy thương cho hai cô giáo kia quá, thương cả Thủy nữa. Chẳng lẽ đấy cũng là số phận hay sao? Hoàng biên thư cho Thủy, khuyên Thủy hãy tỉnh táo để suy xét:  Bảy lần đo mới một lần cắt.
(Còn nữa).
                                                     
   


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 12 Tháng Năm, 2014, 10:55:57 am

            Chào bác quanvietnam! Chào các bác!

            Đã lâu lắm rồi ngôi nhà của Bác Chủ mới lại sáng đèn và rồi những gì đang dở dang của câu chuyện tình sau chiến tranh mới lại được bác kể tiếp. Thật hẩm hưu cho hai cô giáo đúng ra là các cô giáo thời bấy giờ và ngay cả thời nay cũng vẫn vậy, có lẽ có nhiều trường hợp còn tệ hơn như thế nữa. Bác đã và đang kể về những gì của ngành Giáo dục mà không chỉ là ngành Giáo dục và tất cả mọi ngành của ta của chúng ta của Đất nước ta đều dang " Có vấn đề" Thuốc sâu nhiều nhưng sâu bọ vẫn quá lắm. Sâu đục không phải chỉ từ gốc mà sâu đục cả từ ngọn và đã và đang đục khoét toàn thân.

            Không biết rằng cô giáo trẻ đã thổ lộ Tâm sự với Hoàng chàng Kỹ Sư thông minh kia sẽ thế nào.

            Chuyện kể của bác rất hay rất hấp dẫn. Tranphu341 Chúc bác luôn khỏe và "đừng vắng" nhà lâu quá làm anh em đợi chờ. Kính Bác!


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 18 Tháng Năm, 2014, 10:10:02 am
Cám ơn anh TP đã động viên. Quanvn  nghĩ, đọc mãi của mọi người mà chẳng tham gia được gì nên  cố gắng viết  một vài câu chuyện, phải cái là: Lực bất tòng tâm. Mọi người thông cảm.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 18 Tháng Năm, 2014, 10:11:02 am

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Số phận
                Bất ngờ gặp Khoa ở chợ, Hoàng rủ Khoa cùng về. Hoàng nhiều lần gặng hỏi về chuyện gia đình, nhưng Khoa thường đánh trống lảng hoặc là im lặng. Hoàng biết là Khoa đang buồn về chuyện vợ con, nên Hoàng cũng không hỏi thêm gì nữa. Hai đưa đi song song với nhau, nhưng mỗi thằng lại theo đuổi những suy nghĩ riêng, thi thoảng mới lại nói chuyện với nhau những thông tin rời rạc. Chia tay nhau ở gốc cây Quéo, ai về nhà nấy.
        Tính ra đến thời gian này, hai đứa đã gắn bó với nhau hơn chục năm trời còn gì. Năm 1968, hai đứa cùng được gọi vào trường đại học Xây Dựng, cùng vào khoa Cầu Đường, cùng học lớp Cầu Đường Sắt, rồi sau chuyển sang lớp Cầu Đường Bộ. Hết học sơ tán ở Quế Võ Hà Bắc, sau lại chuyển về Hương Canh – Bình Xuyên - Vĩnh Phú. Trong suốt thời gian này hai đứa cùng ở với nhau, mọi chuyện nhỏ to gì cũng hay chia sẻ với nhau. Ngày ấy, đất nước đang chiến tranh tất cả mọi thứ đều khó khăn vì thế cuộc sống khi ấy có phần đơn giản, dễ quen nhau, sẵn sàng thông cảm chia sẻ với nhau. Tình bạn của hai đứa xuất phát từ hoàn cảnh ấy, nhưng rất thân nhau.
  Tháng 5 năm 1972, hai đứa cùng nhập ngũ, cùng bổ xung vào thành cổ Quảng Trị một đợt, Khoa vào đại đội Vận Tải, Hoàng vào đại đội Trinh Sát của trung đoàn 95 sư 325, từ đấy hai đứa mới xa nhau. Hết chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước. Hai thằng lại được trở về trường và gặp nhau ở Hương Canh - Bình Xuyên - Vĩnh Phú, lại cùng vào học khoa Thủy Lợi Cảng, trường đại học Xây Dựng. Tốt nghiệp, hai thằng lại xách ba lô lên miền núi nhận công tác ở Đoàn thiết kế thủy điện Hòa Bình.
     Nghĩ về sự gắn kết này, Hoàng lẩm bẩm: Có thể, hai đứa có cơ duyên gì nên ông Trời sắp đặt như vậy. Cơ duyên gì nữa không biết, nhưng chuyện Khoa lấy vợ, Hoàng chắc chắn có liên đới trách nhiệm.
     Mãi cho đến khi, Hoàng vô tình đọc được một đoạn tự truyện đang viết dở của Khoa, Hoàng mới biết Hoàng là giọt nước làm tràn ly dẫn đến việc Khoa quyết định lấy Xuân làm vợ. Do đọc trộm, lại đọc vội nên Hoàng chỉ nhớ láng máng. Song, ngần ấy cũng đủ để Hoàng áy náy.
     Hôm nay Khoa đi công tác, Hoàng lại lấy ra đọc trộm. Càng đọc, càng nghĩ ngợi về “Tôi lấy vợ hay vơ lấy tội”.
    …Đã 32 mùa lá rụng tôi vẫn thế, vẫn một thân một mình, trơ trọi cùng tuế nguyệt, suốt ngày chỉ vui với chè ba hào và thuốc lá bịch. Bạn bè cùng trang lứa với tôi, có đứa đã con bế con bồng. Nhìn thấy chúng nó bế con, hay khi chúng nó mang con đến nhờ tôi bế hộ, tôi cảm thấy chạnh lòng. Những dịp ấy, thường mọi người kiếm cớ vun vào chuyện yêu đương của tôi, tôi thật sự khó chịu.
   Tuy thế, sau những lần như vậy tôi hay nghĩ vẩn vơ: Chắc mình phải “Hâm” lắm, nên hơn ba chục tuổi đầu mà vẫn cô đơn. Tự kiểm điểm bản thân: Xét về phương diện đẹp trai thì tôi cũng không thuộc diện đẹp trai, song cũng không đến nỗi nào. Xét về phương diện bằng cấp và sự nghiệp, kể ra cũng chẳng kém ai. Xét về kinh tế chẳng so được với ai, nếu có so thì chỉ so được với mấy ông cùng đi bộ đội về với tôi. Nhưng mấy thằng cùng đi bộ đội về với tôi, đa phần là  có vợ có con tại sao tôi vẫn chưa?
    Nghĩ mà ngán ngẩm, không phải tôi không thích phụ nữ, có khi thích nhiều là đằng khác. Chả thế mà ngày còn đi học, tôi có biệt danh là “Máu”. Cái sự “Máu” ấy tự nhiên mất đi sau khi tôi chia tay mối tình đầu. Cuộc chia tay đau đớn ấy, là do chiến tranh. Chúng tôi kẻ Bắc người Nam, mặc dù rất yêu nhau nhưng tôi không dám hẹn ngày trở về. Từ đó, tôi mặc cảm tôi là người có lỗi, tôi bị mất niềm tin và chẳng hiểu sao tôi không muốn giao tiếp với phụ nữ nữa.
  Mà cũng lạ, thời gian ấy nếu có nói chuyện với ai, tôi luôn so sánh họ với người yêu cũ của tôi, thấy họ không thể và cũng không bao giờ bằng được người của mình, nên tôi không còn hứng nói chuyện. Một thời gian dài, tôi sống trong cô đơn, ôm trọn vết thương lòng, chỉ vui với công việc. Lâu lâu nếu có ai hỏi, tôi chỉ cười nhe hàm răng cải mả hoen ố bởi nước chè và khói thuốc rồi đủng đỉnh tặc lưỡi, trả lời:
   -Cứ từ từ đi đâu mà vội.
   Đấy là tôi nói dối lòng, thực ra trong thâm tâm tôi cũng bắt đầu thấy ham muốn. Nhất là cái đêm tôi ngủ cùng phòng với đôi vợ chồng mới cưới nhau. Nói là cùng phòng thì hơi quá, nhưng đúng là cùng phòng thật. Ngày ấy cơ quan còn nghèo, đa số các phòng được phân ra thành hai phần, cách nhau tấm cót, kín ở dưới đất nhưng hở ở trên đầu. Đêm hôm ấy không tài nào ngủ được, có lẽ chính đêm ấy đã nẩy sinh ra mầm mống dẫn tôi đến những sai lầm đầu tiên của việc tôi lấy vợ
   Kể cũng hay. Sau cú huých vu vơ ấy, tôi bắt đầu cảm thấy thích phụ nữ nhiều hơn song vẫn chưa vượt qua được mặc cảm cũ. Xấu hổ nhất là lúc tôi thích thì đối phương lại không thích, thành ra nhiều khi tôi cụt hứng. Bi quan chán nản, tôi lại vùi đầu vào công việc.
   Sau thời gian dài tôi mới khởi động lại thì lại xảy ra tình huống khác: Có cô rất thích tôi và tôi cũng thích, nhưng chỉ được một thời gian tự nhiên cô ấy tránh mặt. Mặc dù tôi đã tìm đủ mọi cách để tiếp cận làm rõ nguyên nhân, nhưng cô ta vẫn lảng tránh, Tôi cảm thấy như bị xúc phạm nên vừa buồn vừa chán nản.
   Còn những cô khác thì mỗi cô mỗi vẻ, cô hay liếc trộm, cô cười toe toét, cô nói năng vô duyên v.v. thôi thì đủ kiểu,  tôi không thích những mã người ấy. Trong khi đó mấy người cùng cơ quan bảo: Gái cơ quan còn đầy ra đấy, sao cứ phải đi tìm ở đâu? Hay bụt chùa nhà không thiêng?
   Nói đến gái cơ quan, quả tình tôi chẳng thích chút nào. Nhưng khi tự hỏi tại sao? Tôi chẳng đưa ra được lý lẽ gì để biện minh cho việc vì sao lại không thích. Nó là cái duyên cái số, không thích là không thích chứ không thể nói là tại vì cái này vì cái nọ được. Tôi cũng tự thấy mình đầy mâu thuẫn, nhưng vẫn xác định gái cùng cơ quan là phương án dự phòng. Cũng phải nói thực, thời gian này tôi mơ tưởng cô bác sĩ ở phòng khám đa khoa bệnh viện tỉnh.
     Buồn và chán. Có một lần, gần hết giờ làm việc của ngày thứ 7, tôi rủ anh Huệ:
   -Tối nay anh ra bệnh viện Đa Khoa thị xã chơi với em nhé!
   Anh Huệ nhìn tôi tủm tỉm cười dò xét:
   -Ghê quá nhỉ, đã quen em nào ở bệnh viện rồi?
   -Anh cứ đi rồi biết.
   Tôi nói với anh Huệ như vậy. Tôi đâu có ngờ, đêm ấy lại là đêm đánh dấu bước ngoặt của cuộc đời tôi.
   -Đi thì đi, sợ gì. Nhớ là không được bỏ về giữa chừng như lần trước đấy! À! Sao không rủ thằng Hoàng cùng đi?
   -Không rủ nó, nếu mà rủ nó thì mình chỉ làm phông cho nó thôi.
   -Ừ! Tùy mày.
    Khoảng 8 giờ tối, tôi đứng chờ anh Huệ ở dưới chân dốc. Hôm nay, tôi diện hơn mọi ngày, mặc quần bò, áo đuôi tôm body hoa mầu xanh da trời loại hàng viện trợ, chân đi đôi xì bô dầy ự, tóc tai cũng được chỉnh trang cho khỏi bù xù. Ban nãy, trước khi ra khỏi phòng, tôi đã ngắm mình từ đầu đến chân ở trong gương thấy cũng tạm ổn.
   Tôi đứng nép vào sau gốc cây xà cừ to ở bên đường, tránh mọi người nhìn thấy. Những phi vụ thế này, tôi không thích gặp người cùng cơ quan, tất nhiên là họ cũng chẳng gây khó dễ cho tôi, nhưng tôi không thích họ nhìn thấy. Tâm lý của tôi không muốn cho ai biết, bởi lẽ: Nếu như chuyện thành công thì không sao, còn không thành công thì cũng chỉ một mình mình biết, không ồn ào, tránh mọi điều đàm tiếu, mình thì cũng lớn tuổi rồi.
   Hai anh em rảo bước đi trên đê Đà Giang, hướng về bệnh viện Đa Khoa thị xã. Anh Huệ hỏi:
   -Em ấy tên gì? Làm ở khoa nào? Tao có biết không?
   -Em tên là Hà Mai. Là bác sĩ, làm ở phòng khám. Anh biết em này không?
   Vừa nói, tôi vừa nghĩ: Ông Huệ này hơn mình ba bốn tuổi. Nghe đâu cuối năm nay cưới vợ, vợ là người cùng quê hiện đang làm y tá ở dưới Hà Nội. Ông này, mấy năm trước đã từng được phong làm giám đốc sở “Lượn”, tiếng tăm cũng lừng lẫy suốt cả vùng này. Nói đến Hà Mai có khi ông ấy biết cũng nên.
   -Không! Bác sĩ ở bệnh viện thị xã nhiều như vậy làm sao biết hết được. Mà cũng chẳng biết đâu, khi gặp mặt thì mới biết là có quen hay không quen. À! Tao quên chưa hỏi. Tại sao mày lại biết cô này? Tao chưa thấy mày nói đến cô này bao giờ?
   -Cũng mới đây thôi. Hôm em ra khám bệnh mới quen, cũng chỉ mới sơ sơ chưa có gì để nói. Hôm nay tối thứ bảy, thấy anh không về Hà Nội thăm chị ấy, nên mới rủ anh đi chơi. Hơn nữa, mọi người bảo anh sát gái lắm, nên đi với anh dễ kiếm được vợ.
   -Mày toàn nói linh tinh, tao mà sát gái à! Nếu tao sát gái, sao bây giờ vẫn chưa có vợ?
   -Tại anh không thích. Hai lĩnh vực này không giống nhau. Sát gái với có vợ là hoàn toàn khác nhau.
   -Mày lại bắt đầu nói linh tinh rồi đấy.
   Cả hai thằng hiểu ý nhau nên cùng cười. Thực ra tôi chỉ đoán mò vậy thôi, chứ tôi không biết nhiều về thành tích yêu đương của ông Huệ, mọi chuyện tôi biết chỉ là nghe mọi người nói. Khi về cùng cơ quan thì tôi biết được mối tình hiện nay của ông Huệ. Chuyện tình yêu của ông Huệ, cũng làm cho tôi suy ngẫm nhiều về cái sự “ Hâm” của đàn ông. Tôi thì mới bước vào tuổi hâm còn ông Huệ đã chìm sâu trong tuổi này và đã có thâm niên mấy năm, thành ra hay bị đối phương lấn lướt.
    Có một chuyện, vừa buồn cười lại vừa thương ông Huệ. Ông Huệ thì cố làm lành vì cho mình là người mắc lỗi, khổ nỗi ông ấy lại vừa mới bị cấp cứu xong, vẫn phải ôm bụng đi đi về về Hà Nội- Hòa Bình mấy lần để làm lành với bà Hoa vợ sắp cưới. Nghĩ thương cho ông Huệ bao nhiêu thì lại trách bà Hoa bấy nhiêu. Mà cái bà Hoa hơi quá, cho dù ông Huệ có lỗi thật thì những lúc người yêu bị như vậy thì cũng phải lên chăm sóc ông Huệ thì mới phải. Đằng này không nhìn ngó ỏ ê gì mà còn tỏ ra giận dỗi, mặt nặng mày nhẹ với ông Huệ. Nếu mà là tôi thì phăng teo luôn, yêu thì yêu không yêu thì thôi.
   Xét ra việc làm của ông Huệ cũng không có gì là đáng trách, cũng chẳng phải lỗi lầm gì. Chẳng qua là mấy anh em thanh niên lúc đói thì hay đùa đố nhau ăn uống. Ai ngờ hậu quả lại trầm trọng vậy, đúng là chuyện cười rơi nước mắt. Nghĩ đến đấy tôi tủm tỉm cười hỏi anh Huệ:
   -Cái bụng tủ lạnh của anh bây giờ thế nào?
   Ông Huệ cười hề hề, trả lời:
   -Tốt rồi! Mấy hôm ấy tưởng hỏng hẳn, không ăn được cái gì, cứ ăn vào là bụng lại đau, uống một chút sữa ấm thì được, nhiều hơn một tý là  đau, nghĩ lại vừa xấu hổ lại vừa buồn cười. Bây giờ thì ngon lành, ăn uống bình thường rồi. Hì hì.
   -Chị Hoa còn giận anh nữa không?
   - Hết rồi, nhưng vẫn nhấm nhẳn đến hàng tháng trời, đến bây giờ thi thoảng vẫn nhắc lại, đau hết cả đầu.
   -Thế là tốt rồi! Nhưng em vẫn chưa hiểu tại sao các anh lại đố nhau như vậy?
   -Có trời mà biết, chắc là đói. Lúc ấy khoảng 11 giờ trưa, cả nhóm vừa mới đi thực địa ở bên bờ trái về, mồ hôi mồ kê nhễ nhãi. Ngoài trời nắng chang chang, mấy thằng rủ nhau vào quán nước dưới gốc nhãn nghỉ giải lao. Tự nhiên thằng Hoàng Thanh nó đố:
  -Bây giờ, tao đố đứa nào ăn hết 15 que kem của khách sạn Đà Giang.
   Mấy thằng nhao nhao hỏi:
   -Nhưng mày mất gì?
 Thằng Hoàng Thanh nghĩ ngợi một lúc rồi nó bảo:
  -Tao chiêu đãi cả tổ hai quả mít mật dai thật to.
   Lúc ấy, hết thằng nọ bĩu môi, thằng kia chê ỏng chê eo. Tao nghĩ thầm: Đói như thế này, 15 que kem thì nghĩa lý gì. Đã có lần tao ăn no nhưng không nhớ là bao nhiêu que. Tao mới bảo với chúng nó:
   -Chúng mày xem thế này có được không?
   Tất cả chúng nó im lặng nghe tao nói:
   -Tao sẽ ăn hết 15 que kem. Nhưng thằng HoàngThanh phải chiêu đãi anh em tổ Mặt Bằng một chầu thịt chó, ăn uống no say khố đái ra quần thì thôi.
   Thằng Hoàng Thanh nó nhăn trán nghĩ ngợi rồi nó đồng ý ngay.
   -Được rồi, đồng ý.
    Tao nghĩ: Thằng Hoàng Thanh nó học ở Liên Xô về, cũng là những thằng lăn lộn kiếm sống ở xứ người nên nó có kinh nghiệm, nó nghĩ tao không thể ăn hết được, có đố cũng chỉ đố cho vui thôi, cuối cùng sẽ là hòa cả làng.
   Cuộc thi bắt đầu, 15 que kem đặt vào cái chậu nhôm bé bé trông nhem nhếch bẩn thỉu, nhưng vẫn hấp dẫn vì ngoài trời nắng chang chang không có một giọt gió, mặt mũi đứa nào đứa nấy đỏ phừng phừng, mết mát mồ hôi. Nhìn những que kem to trắng muốt đẫy đà, toàn sữa là sữa, đứa nào cũng muốn ăn. Kem của khách sạn Đà Giang làm chủ yếu bằng sữa, vì ngày ấy anh em công nhân của thủy điện Hòa bình làm ca ba đều được bồi dưỡng bằng sữa, họ ăn không hết nên mang đi bán để lấy tiền chi tiêu vào việc khác.
   -Mày biết không? Tao ăn đến chiếc thứ 10, tao thấy mọi việc đều bình thường, tao nghĩ là thằng Hoàng Thanh sẽ thua cuộc. Mọi người đứng xem ai cũng nghĩ thế, quay sang bàn luận bữa thịt chó sắp tới ăn ở quán nào cho nó ngon mà lại oách, xứng đáng trai Đoàn thiết kế Hòa Bình.
   Tao ăn đến chiếc thứ 11 rồi 12 đã chậm dần nhưng tao nghĩ vẫn hết, sang chiếc thứ 13 tao bắt đầu nghĩ là khó có thể ăn hết, vì tao cảm thấy người nó làm sao ấy. Hàm tao lúc này đã cứng, miệng lưỡi tê dại không còn cảm giác gì. Mùi của que kem lúc này là mùi gì ấy, không thể ngửi được. Tao cố gắng không chế để mùi kem không sặc lên mũi, khó nhọc nuốt dần từng miếng kem nhỏ vào cổ. Mọi người cổ vũ tao cố lên, nhưng tai tao không còn nghe thấy gì, người tao lúc này đã cứng đơ chẳng biết mình đang làm gì. Thật là kinh khủng, miếng kem cuối cùng của chiếc thứ 15 vừa mới đút vào miệng thì cũng là lúc tao môn thốc nôn tháo. Chúng nó vội đưa tao ra bệnh viện cấp cứu, tao nghĩ không dại nào giống dại nào.
(Còn nữa).
   
 


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 25 Tháng Năm, 2014, 05:02:23 pm

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Số Phận
          Đã 2 tháng trôi qua, Hoàng vẫn chưa nhận được thư của Thủy. Không hiểu vì sao Thủy không biên thư trả lời? Hoàng cố tìm lời giải thích.
   Lẽ nào Thủy đã mất lòng tin ở Hoàng? Sao lại có thể như vậy được? Hoàng trầm ngâm: Cũng nhiều khả năng như vậy. Chuyện hệ trọng của đời người, Thủy đã phải mang ra cầu cứu Hoàng cho Thủy một lời Khuyên. Thế mà Hoàng không cho Thủy được lời khuyên nào cụ thể, mà lại lý luận âm âm chung chung kiểu ba phải, làm cho Thủy rối trí không biết quyết định thế nào? Có thể vì thế mà Thủy im lặng.
    Bây giờ. Hoàng cứ tự hỏi rồi lại tự trả lời, Hoàng chìm vào mê hồn trận của những câu hỏi, và những câu trả lời. Hoàng không tìm được lối ra.
   Đầu đau như búa bổ, Hoàng phẩy tay, nhủ thầm: Tất cả đều muộn rồi, ngồi đây tự trách mình phỏng có ích gì, Hoàng dở tài liệu ra xem. Hoàng cố tập trung xem tài liệu, nhưng chữ nghĩa số má cứ loạn xị ngậu trong đầu. Hoàng nhắm mắt, bóp hai bên thái dương thật đau để đầu óc không còn nghĩ đến chuyện của Thủy nữa. Nhưng vẫn không được, chỉ một vài giây sau hình ảnh của Thủy lại  hiện về.
   Bất lực, Hoàng xếp tài liệu đi ra ngoài. Có cơ hội, hình ảnh của Thủy lại ùa về trong tâm trí của Hoàng. Lúc này  Hoàng không chối bỏ nữa, Hoàng để mặc cho đầu óc muốn nghĩ gì thì nghĩ, đúng là một mớ hỗn độn cả về thời gian và không gian, không cái gì ăn nhập vào cái gì? Lâu lâu sau, Hoàng cố hệ thống lại theo trình tự thời gian, bắt đầu từ lúc hai đứa quen nhau, quen ở đâu? quen như thế nào? Tự lúc ấy, Hoàng thấy vui vui.
   Bất giác, Hoàng nghĩ lại mối quan hệ mà Thủy đối với Hoàng. Liệu nó có liên quan gì đến việc Thủy không biên thư trả lời Hoàng không nhỉ? Hoàng nghi ngờ, có thể lắm sao lại không? Hoàng nghĩ: Cần phải xem lại tình cảm của Thủy giành cho Hoàng là loại tình cảm gì? Tình anh em; Tình bạn; Tình yêu?
   Hoàng đắn đo nghĩ ngợi và cho rằng: Có lẽ chỉ là tình anh em. Tình bạn thì không phải, vì Thủy kém Hoàng tới 10 tuổi cơ mà, không  là bạn bè được, bạn bè là bằng vai phải lứa, sàn sàn nhau. Còn tình yêu? Theo Hoàng thì có lẽ là không. Hôm đầu tiên, Thủy còn gọi Hoàng là chú cơ mà, mãi sau này mới chuyển thành anh. Hoàng nhớ hôm Hoàng lục vấn Thủy:
    -Vì sao trước đang gọi bằng chú sau lại chuyển bằng anh?
  Thủy hai má đỏ ửng, bí quá trả lời bừa:
    -Sợ gọi bằng chú thì có người già quá, khó lấy vợ.
     Hoàng thật thà nhìn vào đôi mắt sáng long lanh của Thủy, cảm nhận được tuổi trẻ thật là tinh quái, nhưng rất đáng yêu.
   Nhìn lại toàn bộ thời gian quen nhau cho tới lúc này. Hoàng thấy mình lúc nào cũng giữ cương vị làm anh rất đúng mực, còn Thủy lúc nào cũng thể hiện mình là cô em gái ngoan ngoãn. Tất nhiên là Thủy còn trẻ nên vui nhộn và rất hay đùa, cũng có những lúc mồm không nói nhưng mắt nói làm Hoàng phải nghĩ ngợi. Phải nói là có nhiều lần Thủy làm như vậy, nhưng Hoàng cho đó là tác phong của tuổi trẻ, chứ thực ra Thủy không chủ ý, mà chính Hoàng suy diễn ra. Nhiều hôm nghĩ như vậy, Hoàng tự xấu hổ với mình vội vàng gạt bỏ ngay ý nghĩ ấy và xuề xòa cho rằng: Con trai chưa vợ ý mà, nghĩ thế cũng chẳng sao.
    Hoàng nhớ lại từng lần Hoàng vào trường Sư phạm chơi, Hoàng lục lại từng chi tiết và xắp xếp theo trình tự thời gian để soát xét lại cách cư xử của Thủy xem có gì liên quan không? Hoàng cảm thấy Thủy có cái gì đấy dấu diếm, không thật tự nhiên: Hôm nào mà Thủy chủ động thì Thủy chạy ra đón Hoàng, và sợ bạn bè phát hiện, Thủy nhanh chóng kéo Hoàng ra quán nước ở ngoài cổng trường. Có những hôm Hoàng đến chơi bất ngờ, Thủy còn đang ngồi vắt vẻo trên giường tầng học bài. Mấy cô bạn gái bạn gái tinh nghịch gọi rất to:
   -Thủy! Chàng kỹ sư của mày đến chơi này. Mày có tiếp không? Nếu không để chúng tao giải quyết?
   Nói rồi mấy đứa khúc khích cười, xúm xít lại với nhau sau đó lủi đi chỗ khác, để lại Hoàng với Thủy trong phòng.
   Trong trường hợp ấy, thường là Thủy nói Hoàng chờ ở ngoài, không muốn cho Hoàng vào phòng ở của phụ nữ, vì nó phức tạp. Chuẩn bị xong, hai anh em lại rủ nhau ra quán nước ở cổng trường ngồi nói chuyện. Được cái quán nước ấy là quán ruột, nên bà chủ quán coi Hoàng và Thủy như người nhà, bao giờ cũng được ưu ái. Thậm chí, có khi thấy Hoàng nói chuyện với Thủy, bà chủ quán còn góp cả chuyện. Có lần bà ấy nói:
   -Sắp đến ngày ra trường rồi! Chú chuẩn bị xin cho em nó về trường nào dậy thì xin dần đi kẻo không kịp. Nếu cứ để nhà trường phân công thì còn nước lên vùng cao.
   Hoàng biết là bà chủ hiểu nhầm mối quan hệ của Thủy và Hoàng, nhân dịp này Hoàng tranh thủ quan sát xem nét mặt của Thủy phản ứng thế nào? Thủy không có phản ứng gì. Để chữa ngượng cho mình, Hoàng nói:
   -Đây đã là vùng cao rồi còn gì nữa, bà ơi!
   Bà chủ quán, đánh tẹt một câu:
   -Còn cao nữa, tít tắp tận bên Lào cơ, đây đã ăn thua gì.
   Thú thực, đã từ lâu. Hoàng cũng chẳng biết tình cảm của Hoàng với Thủy là như thế nào? Nói là đang theo đuổi Thủy thì cũng không phải, mà nói là quan tâm săn sóc cũng không đúng. Vậy nó là thế nào? Đôi khi Hoàng cũng tự hỏi nhưng không trả lời được, thường tìm cách vin vào lý do gì đấy để ngụy biện cho việc làm của mình, hoặc là mặc kệ.
   Nhưng có một sự thật mà Hoàng không thể chối bỏ được, đó là Hoàng cũng thích Thủy. Mà sao lại không thích được cơ chứ, không những Hoàng, tất cả những ai kể cả trai lẫn gái nhìn thấy Thủy đều phải thích. Bởi vì Thủy quá hấp dẫn và khêu gợi. Hình dáng mềm mại của Thủy với tất cả những đường cong mà tạo hóa ban cho Thủy, không quần áo nào có thể che đậy được, ngược lại nó chỉ làm cho người ta thêm tò mò để tưởng tượng…
   Có một buổi tối thứ bảy đã lâu rồi. Rất bất ngờ, Thủy và mấy người bạn của Thủy ra thị xã và vào nơi ở của Hoàng chơi. Dạo ấy, cơ quan của Hoàng không đủ nhà để bố trí cho cán bộ CNV ở, được nhà  khách của Ủy ban dân tộc cho ở nhờ. Do gặp nhau bất ngờ nên Hoàng hỏi một câu rất vô duyên, Hoàng ân hận mãi. Rõ ràng Hoàng nhìn thấy Thủy và mấy cô bạn tiến đến phía Hoàng mà Hoàng còn hỏi:
   -Các em đi đâu đấy?
   Thủy và mọi người ngạc nhiên, không biết trả lời thế nào đành im lặng. Tội nhất là Thủy, vì xấu hổ với bạn bè. Sau giây phút ấy, Hoàng như chợt tỉnh. Nhưng đã chót nói rồi Hoàng không biết làm sao để thu lại được. Lúc ấy, chẳng hiểu sao Hoàng thông minh đột xuất. Hình như ông Trời phú cho Hoàng cái đức ấy, vụng chèo nhưng lại khéo chống. Hoàng nói luôn:
   -A! Hay quá. Anh em mình đi xem phim đi, nghe nói phim hôm nay hay lắm. Các em có đồng ý không?
   Chẳng đợi ai có ý kiến, Hoàng dồn luôn:
  - Nào đi, đi luôn! Ra đấy còn làm mấy que kem, rồi vào xem phim.
   Thủy và mọi người chẳng còn biết phản ứng thế nào vì đã lỡ rồi, nếu bỏ về sợ Hoàng mất mặt, đành phải đi theo Hoàng ra rạp chiếu phim. Cũng may cho Hoàng, hôm ấy rạp chiếu phim tâm lý xã hội của Ấn Độ, nội dung phim quảng cáo mùi mẫn, phim được thể hiện bằng dàn diễn viên nổi tiếng v.v. Tất cả những cái đó làm cho Thủy và mọi người tạm quên đi sự đón tiếp hy hữu của Hoàng.
   Nghĩ đến đấy Hoàng mỉm cười vì trong cái rủi lại có cái may. Rủi vì sự vô duyên thiếu kinh nghiệm của mình, may vì tối hôm ấy Thủy chủ động rủ Hoàng ra ngoài rạp chiếu phim để “ Mắng” cho Hoàng một trận.
    Hoàng nhớ: Sự giận giữ được dồn nén từ đầu đến giờ Thủy mới có dịp trút lên đầu Hoàng. Hoàng không biết phải thanh minh thế nào đành ngồi im chịu trận. Sau những lời hờn dỗi trách cứ của Thủy, sự nóng giận trong lòng Thủy dần vơi đi. Hình như Thủy cũng cảm thấy có phần hơi quá đối với Hoàng nên lúc sau Thủy ngồi im, như thương xót  một gã trai khù khờ không biết galang với phụ nữ.
   Hai đứa ngồi trong im lặng, ánh sáng của bóng điện bảo vệ lúc tỏ lúc mờ theo từng cơn gió từ ngoài sông thổi về. Gió mang theo hơi nước thoang thoảng mùi thơm ngầy ngậy toát ra từ cơ thể  của cô gái tuổi đôi mươi. Mùi cơ thể, mùi lá thơm của nước gội đầu, theo làn gió phả vào mặt Hoàng tạo cho Hoàng cảm giác khoan khoái dễ chịu. Hoàng ngồi tận hưởng những cảm giác mới lạ đang trào dâng. Đêm hôm ấy, trong giấc ngủ mơ màng của Hoàng vẫn phảng phất mùi của Thủy.
   Lần nhỡ mồm ấy còn có thể tha thứ được, do có chuyện đi xem phim để chữa ngượng và lấp liếm đi sự vô duyên của Hoàng. Lại còn một lần khác nữa, có thể nói là vô duyên hết sức. Sau khi thật thà kể xong câu chuyện. Chẳng biết Thủy nghĩ thế nào? Không cười, mặt hơi ửng đỏ và ngồi yên không nói gì. Còn Hoàng chỉ mong có cái lỗ nào chui tọt xuống đất cho đỡ xấu hổ. Mấy ngày sau nghĩ lại, tự Hoàng ngụy biện, đấy là do chất lính còn sót lại.
   Mà lần ấy, chẳng biết trời xui đất khiến thế nào mà Hoàng cứ kể ông ổng ấy thế mới chết chứ. Nghĩ lại cũng không trách được, ai mà chả thế? Những người đã từng cầm súng tham gia chiến đấu trong các cuộc kháng chiến, từ đánh đuổi thực dân Pháp đến Đế quốc Mỹ. Khi nhớ lại những ngày tháng gian khổ ấy, ai chả giống ai. Tất cả đều xúc động và tự hào về quá khứ hào hùng của mình và của cả dân tộc.
   Chuyện Hoàng kể hôm ấy, xuất phát từ việc Hoàng đòi xem vết sẹo ở chân Thủy do bị thương hôm đi cùng chuyến xe lên Hòa Bình. Thủy xấu hổ không cho xem. Hoàng dọa:
   -Em mà không cho anh xem, sau này có vấn đề gì em ân hận cả đời đấy! Em có biết không? Hồi đầu năm 1973, khi ấy hiệp định Paris về Việt Nam đã được ký kết, lính sinh viên bọn anh sắp được trả về trường tiếp tục đi học. Nhưng Đế quốc Mỹ cùng với chính quyền Sài Gòn đã vi phạm hiệp định, bọn chúng tấn công lấn chiếm đất vùng giải phóng. Đơn vị anh lúc ấy chiến đấu ở phía bờ Nam sông Thạch Hãn, quyết giữ bằng được giải đất hẹp sát mép sông Thạch Hãn. Em có biết không? Những trận chiến đấu ở đấy cũng thật là khủng khiếp. Bọn anh bảo: Những trận đánh ở đây ác liệt không kém gì những trận đánh bảo vệ thành cổ Quảng Trị mấy tháng trước.
    Cũng đúng thôi em ạ! Vì sau khi bọn địch chiếm lại được thành cổ Quảng Trị. Bọn chúng tập trung gần như đầy đủ các hỏa lực mạnh nhất và các binh chủng thiện chiến nhất, quyết tái chiếm lại dẻo đất bờ Nam sông Thạch Hãn. Chúng cho rằng: Thành trì kiên cố như thành cổ Quảng Trị chúng còn lấy lại được, vậy thì giải đất hẹp này làm sao có thể cản được âm mưu lấn chiếm của chúng.
   Thời gian ấy, đụng độ giữa hai bên xảy ra liên miên, vậy mà bọn địch  không thể nào hất được bọn anh về phía bờ Bắc. Cuộc chiến đấu giành giật nhau từng tấc đất, đồng nghĩa với thương vong nhiều vô kể. Em có biết không? Có vô vàn kiểu bị thương, anh chỉ kể cho em một kiểu bị thương thật hy hữu:
   Có chiến sĩ của ta bị thương đúng vào chỗ nhậy cảm. Ở trạm phẫu tiền phương, cô cứu thương trẻ, băng mãi vẫn không được. Lúc băng thì rất chặt, nhưng chỉ được một lúc lại tuột ra, máu vẫn chảy ướt hết cả quần. Cô gái trẻ băng đi băng lại mấy lần nhưng vẫn không được. Cô  vừa giận lại vừa thương anh chiến sĩ. Cô nghiêm nét mặt, ra lệnh:
   -Nếu anh muốn sống về với mẹ, thì anh phải coi em như em gái của anh.
   -Nhưng mà anh có làm gì đâu, tự nó đấy chứ.
   -Vậy thì em xin chịu, em đi gọi người khác.
   -Thôi! Làm vậy anh xấu hổ lắm. Em cứ thử lại lần nữa, anh sẽ cố quên “Chuyện ấy” đi.
   Kể đến đấy, Hoàng nhìn thấy hai má Thủy đã ửng đỏ. Hoàng lại còn nhấn mạnh một câu:
   -Đấy! Em thấy chưa. Vết thương của em đã ăn thua gì.
   Mặt Thủy đỏ dựng quay vội đi chỗ khác, Hoàng biết nhỡ lời nhưng không kịp nữa rồi.
(Còn nữa).   


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 04 Tháng Sáu, 2014, 01:50:44 pm

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Số phận
          Ánh đèn hắt ra từ cổng bệnh viện đa khoa, làm cho hai anh em bỏ dở chừng câu chuyện. Anh Huệ bảo:
   -Mày phải nói sơ qua về Hà Mai cho tao biết để còn dễ nói chuyện chứ!
   -Thực ra em cũng không biết nhiều, em chỉ biết Hà Mai là bác sĩ ở phòng khám bệnh viện đa khoa, mẹ quê ở Nam Định, bố quê ở Sơn La. Bố dân tộc mường, mẹ là người kinh, thế thôi. Còn em quen Hà Mai là hôm em đi khám bệnh. Hôm ấy Hà Mai khám và cho em thuốc uống, Hà Mai nói là về  anh phải uống ngay. Theo lời dặn, cơm trưa xong em uống thuốc, rồi đi ngủ trưa như mọi khi. Đến giờ làm việc buổi chiều, em không thể nào dậy được, đến tối cũng thế. Em bỏ luôn cả cơm tối, sáng hôm sau là chủ nhật, em cứ nằm lỳ, ngủ vật ngủ vã, bỏ cả ăn trưa. Đến mãi 5 giờ chiều mới tỉnh, đầu đau như búa bổ, mồm miệng đắng ngắt. Em nghĩ kiểu này ốm to rồi.
   Sáng hôm sau, em ra bệnh viện sớm để gặp Hà Mai, lúc đó chưa đến giờ làm việc. Lúc gặp em Hà Mai tươi cười chào và hỏi em:
   -Anh thấy trong người thế nào? Có còn ngứa gãi cả đêm không?
   Lúc ấy em mới sực tỉnh, không biết đêm qua mình còn gãi nữa không? Do không còn nhớ gì, nên em nói với Hà Mai:
   -Anh ngủ ly bì lịt bịt nên không còn nhớ gì cả, không biết có gãi hay không gãi. Bây giờ anh thấy người mệt mỏi và uể oải lắm nên anh ra hỏi em tại sao như vậy?
   -Anh cứ yên tâm đi không bị sao cả, nếu có bị sao thì em đền.
   Hà Mai cười tủm tỉm khó hiểu và dịu dàng:
   -Anh về bảo chị ấy pha cho anh một cốc nước cam, uống vào là tỉnh ngay. Bây giờ em xin lỗi, em phải đi giao ban, lúc nào rỗi mời anh ra chơi.
   Đấy! chuyện giữa em và Hà Mai chỉ có như vậy.
   Ông Huệ cười rồi hỏi:
   -Vậy mày có thích Hà Mai không?
   -Anh hỏi buồn cười, không thích mà lại rủ anh đi chơi.
   -Thế thì tốt rồi.
   Qua cổng bảo vệ, chúng tôi biết, hôm nay Hà Mai có ca trực thay một người bạn. Tôi dẫn anh Huệ đi thẳng vào phòng bác sĩ trực. Tôi gõ cửa, Hà Mai đang rửa tay, quay đầu ra hỏi:
   -Ai đấy?
   -Anh Khoa đây!
   -Chờ em một lát, em đang dở tay.
   Qua cửa kính ông Huệ quan sát Hà Mai, rồi ông quay sang tôi giơ ngón tay cái ra ám hiệu, như vậy là được đấy.
   Hà Mai ra mở cửa mời chúng tôi vào trong nhà, kéo ghế mời chúng tôi ngồi, rồi rót nước mời chúng tôi uống. Tất cả mọi động tác đều nhẹ nhàng chậm dãi và rất tự nhiên. Tôi giới thiệu anh Huệ với Hà Mai. Bằng giọng nhỏ nhẹ Hà Mai nói:
   -Em chỉ được nghe bạn em nói về anh Huệ, hôm nay em mới được gặp mặt. Mời các anh uống tạm cốc nước sôi để nguội, bệnh viện bọn em chỉ có thế, không có trà như các anh đâu, các anh thông cảm.
   Tôi vẫn ngồi yên, ông Huệ không kìm nổi sự tò mò hỏi Hà Mai:
   -Bạn em là ai mà lại biết anh?
   Hà Mai cười hiền từ nhưng kín đáo trả lời ông Huệ:
   -Các anh làm ở Đoàn thiết kế thủy điện Hòa Bình, thì ai mà chả biết. Uỷ ban tỉnh còn phải nhường chỗ cho các anh làm việc nữa là, vì thế mọi người dân ở thị xã này hầu như đều biết các anh. Mấy chị bạn em: Chị Nguyệt, chị Hà, chị Vân, các chị ấy hay điều trị cho các anh ở Đoàn thiết kế, nên các chị ấy biết nhiều về Đoàn thiết kế và hay kể về các anh, trong đó vẫn nhắc đến tên anh Huệ, em chỉ nghe tên bây giờ mới được biết mặt.
   Bị bắt đúng mạch, mặt ông Huệ ửng đỏ. Ông này có đặc điểm cứ cười hay xấu hổ là mặt đỏ gay, còn cáu giận hay bực bội thì lại tái mét. Hôm nay, ngồi dưới bóng đèn dây tóc ánh sánh lờ mờ mà tôi vẫn nhận ra mặt ông Huệ đỏ gắt. Tôi nghĩ trong bụng: Ông Huệ xứng đáng được phong danh hiệu: “ Giám đốc sở lượn”, tên tuổi của ông lừng lẫy cả một vùng rộng lớn. Ấy vậy mà vẫn cô đơn, bây giờ có được mảnh tình vắt vai thì lại bị bà Hoa hành lên hành xuống. Mình so với ông ấy chưa thấm vào đâu.
   Ông Huệ đưa tay lên gãi đầu, cười gượng:
   -Ừ! Đúng rồi, anh có biết bạn của em. May mà em nói trước, nếu không thì anh nói lộ hết bí mật.
   Hà Mai cười hiền lành, nụ cười nở trên đôi môi đỏ mộng, tôi nghĩ: Dáng người ấy, khuôn mặt phúc hậu ấy, giọng nói ấy và nụ cười ấy, không biết đã làm siêu lòng bao nhiêu chàng trai. Không biết mình là người thứ bao nhiêu? Mà cũng thật là kỳ lạ: Tại sao con gái thì tham tài, con trai lại tham sắc? Bọn con trai cứ thấy con gái có chút nhan sắc là lao vào tán tỉnh.
   Hà Mai còn có một nét nữa, theo tôi thì rất đáng yêu, rất hợp với tôi. Hà Mai có phong thái chậm rãi, nói năng từ tốn giống như những người tu hành. Cách nói ấy, bắt buộc người khác phải lắng nghe. Đương nhiên cách nói ấy sẽ rất thua thiệt trong xã hội đương thời, nhưng tôi thích mẫu người như vậy.
   Hà Mai thấy tôi ngồi từ nãy tới giờ vẫn chưa nói gì. Rất khéo, Hà Mai gợi ý:
   -Dạo này anh Khoa thấy trong người thế nào? Em đã bảo anh rồi: Bệnh anh chỉ cần lấy vợ vào là khỏi. Thật đấy! Em làm nghề y em không nói dối anh đâu.
   Tôi nghĩ Hà Mai bốc phét, biết gì về chuyện vợ chồng mà nói như thật. Tôi lặng im không nói gì mà chăm chú nhìn vào cốc nước, ông Huệ thấy thế nên đỡ lời tôi:
   -Anh Khoa biết rồi, bây giờ đang phấn đấu để có người yêu. Em xem có cách gì giúp anh ấy không?
   -Cách thì nhiều lắm, chỉ sợ anh Khoa không đồng ý thôi.
   -Em nói để anh nghe xem cách gì?
   -Em không nói với anh được, chỉ cần anh Khoa ra đây là bọn em có cách, bọn em có nhiều cách hay lắm.
   Tôi phì cười, bảo với Hà Mai:
   -Anh biết cách của các em rồi, cách của em là bắt anh uống thuốc. Thế là anh ngủ hai ngày một đêm, chẳng còn biết trời đâu đất đâu nữa.
   Hà Mai cười, nói thủng thẳng:
   -Đấy là bài đầu tiên để nhớ nhau cái đã, anh đừng sốt ruột. Mẹ em kể: Ngày xưa đi chiến dịch Điện Biên Phủ, mẹ em quen bố em cũng trong hoàn cảnh tương tự như vậy. Hai người biết nhau, tận mấy năm sau bố mẹ em mới lấy nhau. Bố em còn kể: Hồi ấy nông trường Mộc Châu tổ chức đám cưới tập thể mấy cặp đôi một lúc, cưới theo đời sống mới nhưng vui lắm.
   Chúng tôi ngồi nói chuyện huyên thuyên với Hà Mai được một lúc, chuyện đang vui thì Hà Mai có khách. Tôi nháy anh Huệ và đứng lên nói với Hà Mai:
   -Em có bệnh nhân cấp cứu, bọn anh xin phép về. Khi nào có thời gian bọn anh lại ra chơi.
   Hà Mai đứng lên xua tay lia lịa:
   -Không phải cấp cứu đâu. Các anh cứ ngồi đây chơi, để em ra xem ai?
   Ra cửa, Hà Mai thấy Chiến, bạn của Hà Mai. Tình huống xảy ra Hà Mai không lường được, buộc Hà Mai vào thế khó xử. Hà Mai lẩm bẩm: Giá như để cho Anh Huệ và anh Khoa về lúc nãy thì tốt, đằng này mình lại giữ lại, thành ra bây giờ khó quá. Hà Mai nghĩ: Đâm lao thì phải theo lao thôi, biết làm sao được.
   Hà Mai đưa Chiến vào giới thiệu với chúng tôi. Thực ra, chúng tôi không làm việc với nhau nhưng biết nhau, hai đơn vị chúng tôi ở gần nhau. Đoàn thiết kế thủy điện sông Đà ở đỉnh đồi, Đoàn khảo sát sông Đà ở chân đồi. Chiến là kỹ sư địa chất, hiện đang làm việc ở Đoàn khảo sát địa chất sông Đà, Chiến được đào tạo ở Liên Xô về.
   Tất cả chúng tôi làm quen với nhau, sau đó Chiến cầm bó hoa và hộp quà lưu niệm đứng lên nói:
   -Xin phép hai anh, nhẽ ra đến cùng hai anh để dự sinh nhật Hà Mai thì vui vẻ biết bao nhiêu. Nhưng vì tôi đến muộn, bây giờ tôi xin phép được chúc mừng sinh nhật Hà Mai.
   Hà Mai đỡ bó hoa và hộp quà từ tay Chiến và nói:
   -Cám ơn anh Chiến, anh quá chu đáo. Xin lỗi anh Huệ, anh Khoa. Hôm nay là ngày sinh nhật thứ 24 của Hà Mai. Buổi chiều các anh các chị trong khoa đã làm tiệc sinh nhật cho Hà Mai rồi, nói thật với các anh là em cũng bị bất ngờ. Rút kinh nghiệm năm nay, sang năm em sẽ làm đàng hoàng, mời các anh dự đầy đủ.
   Tôi với anh Huệ ngỡ ngàng, không biết giải quyết thế nào. Chấp nhận chai sạn tôi nói:
   -Xin lỗi Hà Mai! Anh với anh Huệ không biết hôm nay là sinh nhật em, bọn anh thật có lỗi, em thông cảm.
   -Không! Các anh không có lỗi, lỗi là ở tại em. Thôi! cho em xin lỗi.
   Câu chuyện sinh nhật cứ nói qua nói lại. Chiến thấy có chúng tôi ngồi đấy nên cũng chẳng nói được gì, còn tôi với anh Huệ thì cũng chẳng có gì mà nói, hai bên kìm thế nhau. Tôi đạp vào chân anh Huệ ra ám hiệu rút, anh Huệ đứng lên xin phép ra về. Hà Mai tiễn chúng tôi ra cổng rồi quay lại.
   Chúng tôi ra về. Anh Huệ thế nào thì tôi không biết, còn tôi thì tự nhiên thấy khó chịu buồn bực vô cớ. Có thể tôi khó chịu với Chiến, vốn dĩ tôi rất dị ứng với những người cùng trang lứa với tôi nhưng lại được đi đào tạo ở nước ngoài, khi gặp những đối tượng ấy tôi thường ngồi im coi như mất điện. Bây giờ gặp nhau ở hoàn cảnh này lại càng khó chịu.
   Thời gian trước, cho đến khi rời quân ngũ tôi về đi học. Tôi chưa có tính xấu ấy, chỉ đến khi ra trường đi làm được vài năm, đồng thời có sự va chạm với họ thì trong tôi nảy sinh tính ấy. Lúc đầu tôi cho tôi là hạng người ích kỷ cố chấp, ghen tỵ với những người có điều kiện hơn mình, không thông cảm và chia sẻ với hoàn cảnh xã hội, trong tôi có bóng dáng của một kẻ công thần. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, soát xét những việc mình làm thì hoàn toàn không phải như vậy.
  Thực tế khách quan đã mở cho tôi một góc nhìn khác. Đúng là: Khi đất nước có chiến tranh thì tất cả dân tộc Việt Nam đều có trách nhiệm và nghĩa vụ đóng góp sức của mình vào công cuộc kháng chiến ấy. Tất cả mọi người, từ quân đến dân, nam phụ lão ấu, mỗi người mỗi việc. Người ra chiến trường cầm súng chiến đấu, người ở lại hậu phương vừa chiến đấu vừa sản xuất để có lương thực nuôi quân. Người cầm súng thì cũng phải có người cầm bút, người ở trong nước thì cũng phải có người ở nước ngoài. Tất cả mọi người chung sức chung lòng đã làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc.
   Song nhìn về mặt trái của nó, có cái gì đó sường sượng không biết nói thế nào? Đành rằng như thế mới gọi là xã hội, nhưng vẫn cảm thấy vô lý. Cứ nhìn lại một vài hành vi mà lòng quặn đau: Những người đào ngũ trốn tránh nghĩa vụ về địa phương, dùng tiền của để đút lót, xin xỏ trốn tội. Những người lợi dụng hoàn cảnh của đất nước để tham ô hủ hóa. Những người dùng quyền chức để  chèn ép ngườì khác mưu cầu lợi ích cho riêng mình cho gia đình mình, cho dòng họ mình. Những ông quan, tìm mọi cách để con cái mình không phải đi nghĩa vụ quân sự, mà đi nước ngoài học tập. Khi đất nước còn chiến tranh thì tìm cách cho con nấn ná ở lại không chịu về nước v.v.
    Nhiều lắm, kể làm sao hết được. Vấn đề cần quan tâm ở đây là kết cục thế nào? Vẫn là: “Nén bạc đâm toạc tờ giấy”. “Con vua thì lại làm vua”. Những người có chức có quyền, những người có tiền vẫn là những kẻ miệng lưỡi có gang có thép. Những người được đào tạo ở nước ngoài luôn cho mình cái quyền thông minh hơn người ở trong nước, và họ phải được nắm những trọng trách quan trọng v.v. Chỉ nghĩ đến đấy thôi, máu tự ái của tôi đã nổi lên, tôi không đủ bình tĩnh làm chủ bản thân. Tôi có cái sai ở nhận thức là: Vơ đũa cả nắm, không phải ai cũng như vậy.  Nhưng tôi không sao thoát ra được những ý nghĩ nhỏ nhen ấy.
   Lại còn thế này mới chua xót: Lúc trước, thì trốn nghĩa vụ quân sự, ở Việt Nam khổ quá nên vượt biên trốn đi nước ngoài. Hòa bình lập lại, vì nhớ quê cha đất tổ, hơn nữa cũng kiếm được chút tiền và cảm thấy lương tâm cắn rứt, khi về thăm quê rút hầu bao ra đóng góp cho địa phương chút đỉnh. Ôi! Bỗng nhiên trở thành người có công với làng với nước. Những thằng lính chiến, thương tật đầy người, chất độc da cam truyền qua mấy đời con cháu, ốm yếu bệnh tật nghèo đói lại thành gánh nặng cho xã hội. Thật là trớ trêu, cười rơi nước mắt…
   Đọc đến đây, Hoàng thấy Khoa là con người thâm thúy đa cảm nhưng cố chấp trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Hoàng nhủ thầm: Con người này sẽ khổ cả đời cho mà xem. Nhiều lúc thương bạn cô đơn, Hoàng muốn giới thiệu cho Khoa một cô bạn gái, giúp Khoa vui vẻ quên đi vết thương lòng đang đeo đẳng Khoa gần chục năm nay. Nhưng Khoa khó tính lắm, chưa chấp nhận ai hết. Nghĩ cũng lạ, trong lĩnh vực yêu đương, hai thằng khác nhau một trời một vực, được cái là luôn bổ xung cho nhau. Khoa thì điềm tĩnh có phần thờ ơ, Hoàng thì xoắn xuýt săn đón. Khoa bảo với Hoàng là: Mày chỉ chết vì gái thôi. Hoàng thấy đúng quá chỉ biết gãi đầu cười trừ.
(Còn nữa).


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 06 Tháng Sáu, 2014, 08:24:35 am


                 Chào bác quanvietnam! Chào các bác!

                 Chuyện kể của bác chủ ngày càng hấp dẫn. Bác đã nói được cái quãng sau chiến tranh ( Sau năm 75) Ấy là lúc những người lính quả cảm đã từng sống chết một thời. Rồi may mắn sống rồi lại được đi đào tạo và học tập. Nhưng khi về sống, làm việc ở môi trường mới thì thường sẽ có rất nhiều phức tạp. Nếu như ta cứ mang cái "chất lính" vào trong cuộc sống! Mà sao lại không mang Cái chất yêng hùng đó cơ chứ. Những người Lính thực thụ, thì cái "chất lính'' đó đã ngấm vào máu rồi. Chưa nói đến sự tự ty vì trình độ hay vì "cái mã" của dân "sốt rét rừng" với dân "bơ sữa"

 Lại còn thế này mới chua xót: Lúc trước, thì trốn nghĩa vụ quân sự, ở Việt Nam khổ quá nên vượt biên trốn đi nước ngoài. Hòa bình lập lại, vì nhớ quê cha đất tổ, hơn nữa cũng kiếm được chút tiền và cảm thấy lương tâm cắn rứt, khi về thăm quê rút hầu bao ra đóng góp cho địa phương chút đỉnh. Ôi! Bỗng nhiên trở thành người có công với làng với nước. Những thằng lính chiến, thương tật đầy người, chất độc da cam truyền qua mấy đời con cháu, ốm yếu bệnh tật nghèo đói lại thành gánh nặng cho xã hội. Thật là trớ trêu, cười rơi nước mắt…
 


             Thỉnh thoảng Tranphu341 đi dự hội nghị về Đảng. Mấy Đồng chí Bí thư hay cán bộ Đảng mặt non choẹt họ chẳng biết khẩu súng là gì. Cũng đúng thôi vì họ là thế hệ sau chiến tranh. Thế hệ xây dựng Đất Nước. Điều Tranphu341 muốn nói là: Họ cứ nói kiểu các Đ/c phải thế này, phải thế kia, phải gương mẫu vv và vv Họ dao giảng một hời răn dạy những người Lính già. Nhìn họ nói, thấy họ làm, thì chỉ muốn Đấm vào mặt chúng nó mấy cái, cái bọn đạo đức giả. Súng thì không biết cầm. Nhưng cầm phong bì, nhận hối lộ thì giỏi.

               Chúc bác chủ luôn khỏe để tiếp tục câu chuyện tình yêu, câu chuyện sau chiến tranh của người lính đang rất hấp dẫn!


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 11 Tháng Sáu, 2014, 11:24:28 am

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Số phận
          Thời gian chờ và đợi thư của Thủy cứ dài lê thê. Hoàng vẫn lục tìm từng kỷ niệm trong quá khứ, biết đâu đấy có thể có lúc nào đó Thủy đã thể hiện tình cảm, nhưng do Hoàng vô tâm mà không biết. Để không bị quên, Hoàng phân loại theo từng khu vực mà Hoàng và Thủy thường đi với nhau. Ở thị xã, ở trường sư phạm, ở dốc Cun rồi xe tăng ở đồi Cù Chính Lan v.v. Cả chiếc xe đạp Thống nhất mà Hoàng dùng làm phương tiện đưa Thủy đi chơi. Hoàng nghĩ đấy là trung tâm của mọi vấn đề cần tập trung vào khai thác.
   Lần gặp nhau đầu tiên hai đứa đi bằng xe ngựa, sau lần ấy thường hai đứa đi chung chiếc xe đạp Thống nhất của Hoàng. Đường từ thị xã Hòa Bình vào Chăm Mát, lên dốc Cun vào đồi xe tăng Cù Chính Lan thì thật là xấu, toàn là đèo dốc quanh co, một bên là vực sâu một bên là núi cao. Tiếng là Quốc Lộ 6, nhưng chất lượng thì quá tồi. Nếu ai không biết thì chỉ nghĩ là đường giao thông nội bộ của địa phương, đâu ngờ đây là đường Quốc Lộ số 6, giao thông huyết mạch phía Tây Bắc.
   Nói là đi bằng xe đạp, nhưng đạp xe thì ít mà dắt xe đi bộ thì nhiều, hết lên dốc lại xuống dốc, hiếm mới gặp đoạn bằng phẳng. Đã là dốc của đường miền núi, nếu đi bằng xe đạp thì lên cũng chịu mà xuống cũng chịu. Lúc lên dốc cả hai đứa mắm môi mắm lợi đẩy ngược lên, mồ hôi mồ kê đầm đìa, thở cả bằng lỗ tai. Khi xuống dốc thì đỡ hơn một chút, đứa phanh đứa kéo ngược lại, nhưng cũng chồn chân.
   Vào cái thời ấy, có chiếc xe đạp để mà đi thì cũng đã là tốt rồi. Người ta đi học ở nước ngoài về có xe mô tô xe máy, bét nhất là có xe đạp, nhưng xe đạp của họ là xe đạp ngoại. Đằng này mình chỉ có xe Thống Nhất, đã thế chiếc xe lại còn bị chằng buộc lung tung.
   Nhiều hôm, Thủy thấy Hoàng cứ than phiền về chiếc xe đạp của mình không được tốt, hay hỏng hóc làm cả hai anh em vất vả. Những lúc như vậy Thủy thấy Hoàng có vẻ băn khoăn, Thủy nghĩ: Xe nào mà chịu được, đường thì xấu, ổ voi ổ gà, xe lại cõng trên mình hơn một tạ thì sao mà không hư không hỏng.
   Để cho Hoàng quên đi sự bực dọc về xe cộ, Thủy hỏi Hoàng:
   -Xe này hồi giải phóng anh mang từ Miền Nam ra à!
   -Sao em lại hỏi anh thế?
   -Em thấy, hồi ấy bố em cũng mang một chiếc khung xe về, rồi bố em mua phụ tùng lắp thành một chiếc xe đạp. Ngày ấy cả nhà em chỉ có mỗi chiếc xe đạp, bố em thì ít đi, mẹ em thì không biết đi. Xe chủ yếu là hai chị em đi, thằng em trai em nó toàn tranh phần, em cũng chả mấy khi được dùng. Đến lúc em đi sư phạm thì chắc nó toàn quyền, không còn ai tranh với nó nữa.
   Hoàng thấy Thủy nhắc lại thời kỳ các chiến sĩ quân giải phóng chuyển khung xe đạp và búp bê nhựa từ miền Nam ra, Hoàng không biết nên buồn hay nên vui. Ngày ấy, Miền Bắc dồn hết sức người sức của cho đồng bào Miền Nam. Miền Bắc nghèo lắm, nhà Hoàng thuộc loại khá trong xã, nên bố Hoàng mới có một chiếc xe đạp. Nghĩ thế, Hoàng mới kể cho Thủy nghe về xuất xứ của chiếc xe đạp mà Hoàng đang dùng. Nghe xong Thủy hỏi:
   -Vậy là tiền trợ cấp đi B của anh từ lúc anh đi đến khi anh về, bố mẹ anh cứ giữ nguyên không tiêu pha gì?
   -Ừ! Mẹ anh không cho ai động vào, chị gái anh kể thế. Chị gái anh bảo: Nhiều đêm thấy mẹ không ngủ, bên ngọn đèn Hoa Kỳ ánh sáng tù mù, mẹ đang vuốt phẳng những tờ tiền xếp đi xếp lại. Tiền mẹ lĩnh về thế nào, mẹ để nguyên như thế không thay đổi, ai hỏi vay, ai muốn đổi để mẹ dễ giữ, mẹ cũng không đồng ý. Mẹ bảo: Đây là kỷ niệm của nó, nếu nó có mệnh hệ gì, thì lấy tiền của nó mà lo cho nó. Còn nếu nó sống về với mẹ, thì đấy là tiền mẹ giữ cho nó, nó muốn làm gì thì tùy nó.
   -Thế là khi anh trở về, anh dùng tiền này để mua xe đạp?
   -Ừ! Nhưng đấy là chuyện mua bán một chiếc xe đạp bình thường, đằng này xe đạp của anh không hoàn toàn giống chuyện mua bán. Em có biết không? Sau gần bốn năm chiến đấu ở chiến trường, anh không gửi bất kỳ tin tức gì về nhà. Không phải anh sợ hay là anh mê tín, mà cái chính là do viết thư nhưng không biết gửi ai để mang ra Bắc. Hơn nữa, anh cũng nghĩ: Có khi không nhận được thư của anh thì bố mẹ anh cứ lo triền miên thành ra quen, còn lúc nhận được lúc không nhận được thì lại hay đoán già đoán non cũng làm khổ mọi người. Cũng có những lúc anh nghĩ: Chiến tranh thì ác liệt như vậy, sự sống và cái chết luôn cận kề nhau. Rất có thể có trường hợp, bố mẹ vừa nhận được thư của con, tưởng rằng con mình vẫn còn sống, nhưng thực tế thì con mình đã hy sinh sau khi gửi thư về cho bố mẹ. Cứ nghĩ đến những hoàn cảnh éo le ấy là anh không muốn viết thư, cộng với sự lười biếng và tình cảm yếu đuối của anh, nên anh không viết thư cho ai. Chính vì điều đó nên anh cũng không biết mọi người ở nhà nghĩ về anh thế nào?
   Em biết không? Khi anh về nhà được nghe mẹ anh kể: Ngày ấy bố anh có tiêu chuẩn được phân phối một chiếc xe đạp, bố mẹ anh bàn bạc với nhau là xe này sẽ để phần cho anh. Khổ nỗi vì anh chưa về mà cũng chả có tin tức gì về anh, nên bố mẹ anh cũng không dám mua. Mà mỗi đợt phân phối đều có thời hạn của nó, vì thế bố anh lại phải nhường tiêu chuẩn cho người khác mua trước, cứ như vậy đến mấy lần ấy. Trong khi đó, mẹ anh âm thầm ngày nào cũng đem tiền ra đếm để nhớ ngày nhớ tháng nhớ năm con trai vào Nam đi chiến đấu. Cũng vì đếm nhiều nên bà nhớ chi tiết từng đồng tiền, có bao nhiêu loại tiền mỗi loại bao nhiêu tờ.
   -Chuyện cảm động quá! Vậy mà bây giờ anh mới kể. Mới đầu em cứ nghĩ là xe anh mang từ Miền Nam ra, nên mỗi lần anh khó chịu vì xe em cảm thấy nó là chuyện bình thường. Nhưng bây giờ em được nghe anh kể, thì từ nay anh phải giữ gìn vì nó là vật kỷ niệm. Đúng không anh?
   Kể từ hôm ấy, mỗi khi đi đâu nếu phải dùng đến xe đạp, Hoàng không nói nhưng Thủy chủ động nhắc nhở:
   -Anh ơi! Đi vào đấy đường xấu lắm.
   -Kệ! Đời ta muôn vàn đời nó. Cần thiết lắm, sau này giữ cái khung là đủ rồi.
   Màn giáo đầu này trở thành thông lệ mỗi khi hai anh em rủ nhau đi chơi. Biết được nhược điểm của xe, biết chất lượng đường xá, nhưng thiếu cách khắc phục. Nhiều khi đang đi bị tuột xích, Hoàng phải lắp đi lắp lại nhiều lần, tay lấm lem dầu mỡ bôi nhem nhếch cả lên mặt, Thủy nhìn thấy buồn cười lắm nhưng cố nhịn không giám cười. Có lúc cần phải đi gấp cho kịp thì không hư cái nọ cũng hỏng cái kia, Hoàng tức quá đạp cho mấy đạp. Thủy đứng bên nhắc khéo:
   -Vật kỷ niệm đấy anh!
   -…
   Tuy chê nó xấu, nó là đồ nội nhưng đi đâu là đều có nó, nếu không có nó thì nhiều lúc không biết giải quyết thế nào.
    Một lần Thủy rủ đi thăm bà cô ở Kỳ Sơn, nhà bà cô ở cách đường Quốc Lộ số 6 khoảng 3 KM. Buổi sáng lúc đi thì thời tiết rất đẹp, hai anh em vi vu trên đường, chuyện trò rôm rả, cười như tết. Đến lúc ra về, bà cô cho một bao tải đủ mọi loại củ, nào củ mỡ, củ từ, củ sắn. Thủy chối quầy quậy, thấy thế bà cô nói:
    -Cháu chịu khó mang về đêm luộc ăn kẻo đói không học được, có xe đạp chở mà ngại gì.
   Thủy liếc nhìn Hoàng như để xin ý kiến, Hoàng thấy Thủy có vẻ đồng ý nên gật đầu. Bao tải các loại củ được buộc lên xe, hai đứa tạm biệt bà cô rồi ra về. Vừa mới đi được một lúc, trời đổ mưa như trút. Hai anh em bất ngờ gặp mưa giữa cánh đồng, không có chỗ trú nên ướt như chuột lụt, Hoàng là con trai thì không sao, Thủy là con gái toàn mặc đồ mỏng nên dính bết vào người, những chỗ nhậy cảm Thủy cố dấu nhưng nó lại lộ ra giống như đánh đố với Thủy, Thủy xấu hổ lắm cúi gằm mặt vờ đẩy xe. Hoàng ra vẻ không để ý, nhưng tò mò thi thoảng vẫn nhìn trộm.
   Khi đi qua con suối, buổi sáng lúc vào thì nước suối mới chỉ ngập đến bắp chân, mới mưa một tý mà nước đã lên ngang bụng. Đã sẵn quần áo ướt hai anh em cứ thế lội qua. Hoàng vác xe lên vai đi trước, bao tải củ từ, nặng trĩu như muốn kéo ngửa Hoàng ra, Hoàng lấy hai tay ghì chặt gióng xe để giữ thăng bằng và lội qua, Thủy bám lấy cái đèo hàng để đi.
   Ra đến giữa suối, vì dẫm lên hòn đá trơn, Hoàng ngã chìm nghỉm cả xe lẫn người, Hoàng vội vàng đứng lên quay lại xem Thủy có bị làm sao không. Thấy Thủy đang đứng cười, Hoàng cũng cười theo. Hai anh em vuốt nước mưa trên mặt, lại dòng rắn nhau qua suối. Sau khi qua suối đi được một quãng thì trời ngớt mưa, lúc này đất đồi dẻo quánh bám vào lốp xe chui hết vào cái chắn bùn, bánh xe bị bó chặt lại không quay được nữa. Chẳng còn cách nào hai đứa đành phải đẩy trượt xe trên mặt đất, mệt quá Hoàng dừng lại quay về nhìn Thủy, vì xe dừng đột ngột Thủy đứng lên nhìn Hoàng, bốn mắt nhìn nhau,Thủy xấu hổ quay đi.
   -Có cần giải lao không Thủy?
   -Mưa ướt thế này làm gì có chỗ mà giải lao?
   -Ừ! Thôi đi cố lên đường 6, nhưng cứ để quần áo ướt này đi à!
   -…
   Vừa đi Hoàng vừa quan sát hai bên đường đi xem có chỗ nào để cho Thủy vào đấy vắt khô quần áo được không. Khổ nỗi, đây lại là thềm của con suối nên toàn là ruộng bậc thang thoai thoải, lúa ở những thửa ruộng đang ở thì con gái xanh non mơn mởn, gặp trận mưa lúa xanh ngắt một mầu xanh. Cánh đồng lúa bậc thang sau cơn mưa đẹp quá, đứng một chỗ có thể phóng tầm mắt nhìn được tất cả mọi thứ ở xung quanh. Hoàng nghĩ: Điều này bất lợi cho Thủy rồi.
   Cơn mưa dứt hẳn, cũng là lúc Hoàng và Thủy đẩy xe từ dưới suối lên đến gần đường 6. Hoàng liếc nhìn trộm Thủy, kiểu này không chấp nhận được Thủy ơi, Hoàng sợ có ai đó nhìn thấy Thủy lúc này. Thủy đang ở tuổi ăn tuổi lớn, các bộ phận của cơ thể như muốn đua với thời gian, quần áo may không kịp với tốc độ phát triển của cơ thể, nhiều bộ phận cơ thể cứ muốn nhảy tung ra khỏi lớp vải chật chội khó chịu. Hoàng nói với Thủy:
   -Bây giờ anh đứng đây canh chừng, em vào gốc cây nhãn kia vắt khô quần áo. Nhớ là phải thật nhanh, nếu chậm sẽ gặp những người đi làm đồng họ sẽ nhìn thấy.
   Thủy quan sát rất nhanh nơi Hoàng chỉ, sau đó Thủy ngắm lại mình, hết nhìn trước lại nhìn sau, lưỡng lự một lát. Thủy đi thẳng đến gốc cây nhãn, nhìn xung quanh không thấy có ai. Thủy cởi áo ra vắt kiệt nước và rũ áo nghe soạt một cái, Hoàng nhìn vội, chỉ thấy nửa tấm lưng tròn lẳn trắng ngần và cánh tay phải đang điều chỉnh nốt phần áo còn lại để che kín cơ thể.
   Như sợ có ai theo dõi phát hiện ra hành động của Hoàng và Thủy, Hoàng đảo mắt nhìn xung quanh một lượt rồi nhanh chóng quay lại gốc nhãn nơi Thủy thay quần áo, vì gốc nhãn che khuất nên Hoàng không nhìn thấy gì chỉ thấy Thủy lom khom, Hoàng đoán là mọi việc đã hoàn tất. Nghe tiếng bước chân của Thủy, Hoàng hỏi:
   -Sao nhanh thế?
   -Em quen rồi! Việc này hồi còn ở nhà, mấy đứa con gái bọn em đi làm nương về cũng hay rủ nhau ra suối tắm vẫn thường làm thế này.
   -Không sợ bọn con trai nhìn trộm à!
   -Không! Con trai tắm một chỗ, con gái tắm một chỗ, không ai nhìn được.
   -  Thủy này! Anh kể rất thật, nhưng em đừng cười và không được nói với ai là anh kể nhé! Hồi mà bọn anh hành quân vào Nam, nếu đến binh trạm nào mà có đơn vị nữ thanh niên xung phong là mấy thằng lính bọn anh rủ nhau đi xem nàng tiên cá tắm ở suối. Có thằng để nhìn rõ hơn nó trèo lên nằm phục ở lùm cây, chị em không phát hiện ra cứ thế là tắm thoải mái. Chả may cho nó, lùm cây yếu quá bị gãy, nó lăn ùm xuống suối may mà không bị sao. Còn chị em thì chạy toán loạn chẳng  kịp lấy quần áo, miệng kêu thất thanh: Có ma! Có ma.
   -Hay là anh?
   - Không! Không thật mà!
   -Không thật là có thật rồi. Hì hì…Em nói đùa vậy thôi.

   Nghĩ lại những chuyện từ đầu đến giờ, Hoàng thấy mình đi lan man quá, không đúng trọng tâm. Vấn đề là ở chỗ phải xác định được cái gì đó, chứng tỏ Thủy có cảm tình với Hoàng, nhưng ngại mình là phận gái không thể nói ra.
   Mệt mỏi, Hoàng nằm ườn ra giường, mắt nhìn chăm chú lên trần nhà. Tự nhiên, Hoàng ngồi bật dậy miệng lẩm bẩm:
   -Thật là vớ vẩn. Khi có điều kiện thì chẳng làm, bây giờ cứ nghĩ lung tung.
    Lúc trước nhiều lần Hoàng cũng định ướm thử, xem Thủy phản ứng thế nào? Nhưng lần nào cũng vậy, Hoàng không  tận dụng được cơ hội. Rào cản lớn nhất đối với Hoàng là mặc cảm về tuổi tác, sợ rằng nếu nói ra Thủy không đồng ý, lúc đó sẽ làm khó cho cả hai, liệu Thủy sẽ suy nghĩ về Hoàng thế nào? Mặt khác, trong cuộc sống Hoàng luôn luôn cố thể hiện mình như là người anh trai mẫu mực, nên Hoàng không dám làm khác. Cứ như thế Hoàng khất lần, không biết có còn cơ hội nữa không? Điều này chỉ có trời mới biết.
(Còn nữa).
 



Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 17 Tháng Sáu, 2014, 09:31:14 am

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Số phận
   Tiếng gõ cửa. Hoàng gấp cuốn sổ của Khoa lại, ra mở cửa. Nhìn quanh không thấy có ai, Hoàng nghĩ chắc là có ai đó gõ nhầm. Hoàng trở về chỗ ngồi và tiếp tục đọc.
     …Sau cái tối hôm ấy, tôi chưa gặp lại anh Huệ. Gặp lại anh Huệ, chắc là anh cười tôi thối mũi. Thời gian gần đây, mỗi khi nhìn thấy anh Huệ là tôi tìm cách né tránh. Thật ra, tôi chả có gì để sợ anh Huệ, nhưng khi nhìn thấy anh tôi thấy xấu hổ cho cái tối hôm ấy, tôi ân hận vì rủ anh ra bệnh viện đa khoa chơi.
   Cũng may mắn để tôi có cớ lánh mặt anh Huệ, thời gian này cơ quan Đoàn thiết kế Hòa Bình đang tập trung làm phương án phản biện cho phương án của Viện thiết kế thủy công Bacu. Công việc bận bù đầu, tôi được tách ra khỏi tổ Mặt Bằng do anh Huệ phụ trách, biệt phái sang nhóm nghiên cứu phương án bố trí nhà máy thủy điện hở. Thú thực, khi ấy tôi là kỹ sư thủy công thủy điện, nhưng tôi cũng chỉ biết lơ mơ về các phương án bố trí công trình Thủy điện Hòa Bình. Sang nhóm này, tôi cũng  giúp việc là chính.
   Ở giai đoạn đầu, Viện thiết kế thủy công Bacu đã lập luận chứng KTKT công trình thủy điện Hòa Bình, kiến nghị chọn phương án bố trí nhà máy thủy điện ngầm để chuyển sang nghiên cứu trong giai đoạn thiết kế kỹ thuật. Để khẳng định sự tối ưu của phương án kiến nghị, phía Việt Nam gồm các chuyên gia đầu ngành về thủy lợi thủy điện, dưới sự hướng dẫn của các chuyên gia Liên Xô tập trung vào nghiên cứu một số phương án phản biện cho Phương án kiến nghị của Phân Viện Thiết kế thủy công Bacu.
   Vào cuối những năm sáu mươi đầu năm bảy mươi của thế kỷ 20. Đất nước ta đếm trên đầu ngón tay cũng chỉ có mấy công trình thủy điện gọi là lớn, Miền Bắc có thủy điện Thác Bà, Miền Nam có thủy điện Đa Nhim. Những công trình này đều do các kỹ sư nước ngoài thiết kế, các kỹ sư Việt Nam khi ấy chủ yếu là giúp việc. Ở thời điểm này, trình độ và năng lực của các kỹ sư thủy công thủy điện còn nhiều hạn chế, cứ tạm đánh giá là biết về lý thuyết nhưng chưa kinh qua thực tế.
   Sau khi chính phủ Việt Nam phê duyệt luận chứng kinh tế kỹ thuật của công trình thủy điện Hòa Bình, đến giai đoạn thiết kế kỹ thuật thì chuyển sang Viện thiết kế thủy công Mátcơva thiết kế. Thời gian này, các kỹ sư người Việt Nam mới có điều kiện tham gia.
   Học trong trường là một chuyện, ra thực tế lại là chuyện khác, tất cả đều lạ lẫm và mới mẻ. Nhưng được cái quý của người Việt Nam là thực sự cầu thị ham học hỏi, không dấu dốt. Vì thế các chuyên gia Liên Xô hướng dẫn nhiệt tình và cụ thể. Lứa kỹ sư được tham gia thiết kế công trình thủy điện Hòa Bình hồi bấy giờ tiến bộ nhanh chóng…
   Đúng như cổ nhân đã nói: Người tính không bằng Trời tính. Thú thực sau cú ở bệnh viện đa khoa, tôi như chim phải tên, cò gặp bão. Rất sợ đi chơi, vạn bất đắc dĩ tôi mới đi ra ngoài, thời gian này động cơ của tôi là làm việc, hạn chế  tiếp xúc với mọi người khi không cần thiết. Tôi tự hứa với mình: Không và không bao giờ gặp lại Hà Mai nữa…
   Dạo ấy, cơ quan đang xôn xao về danh sách những người được về Hà Nội để thành lập Trung tâm thiết kế thủy điện. Tôi biết, nhưng không quan tâm. Tôi nghĩ: Ai có thể về được chứ cái loại như tôi: Chân không đến đất, cật chẳng đến trời thì làm sao có thể lọt vào danh sách ấy được, nên tôi không quan tâm cũng phải.
    Vô cùng bất ngờ. Trời ơi! Đúng là ngoài sức tưởng tượng của tôi. Tôi có tên trong danh sách. Cái ngày ấy, để về được Thủ Đô thì ghê gớm lắm, khó khăn chẳng khác gì tìm đường lên trời. Chẳng riêng tôi, mà nhiều người cũng rùng mình không bao giờ dám nghĩ đến. Theo tôi để về được Hà Nội thì ít nhất phải có mấy điều kiện sau: Thứ nhất là: Thân quen, con ông cháu cha, nếu không có những thứ đấy thì phải có thứ khác bù vào. Thứ hai là: Chuyên môn phải giỏi để có thể độc lập công tác, đào tạo ở nước ngoài thì gọi là bằng đỏ, ở trong nước thì gọi là gì tôi cũng không để ý. Thứ ba là: Phải có nhà ở Hà Nội. Xem ra, tất cả những thứ ấy tôi đều không có, tôi chỉ có mỗi một danh hiệu ở phần xét vớt là: Có huân huy chương kháng chiến. Thứ này bây giờ sẵn lắm, mà cơ quan họ cũng chẳng thiết tha gì. Chính vì thế, nên tôi chẳng mảy may nghĩ đến nó.
   Ấy thế mà trời lại tính cho tôi. Tôi còn nhớ, hôm ấy thằng Duy ngồi cùng phòng với tôi, nó săn tin được ở đâu đấy, nó về rỉ tai với tôi, tôi cũng chẳng tin. Đến buổi chiều tối sau khi cơm xong, Thằng Hoàng đến bắt nọn tôi:
   -Mày ghê thật, các cụ bảo: Ruộng rậm thì lắm cá trê, những người lỉm nghỉm mà ghê tinh thần.
   Tôi biết thừa thằng Hoàng nó cà khịa tôi vấn đề gì rồi, nhưng tôi cứ tảng lờ coi như không biết. Nó ép tôi:
   -Mày làm cách nào mà lại được? Sao không bầy cho tao?
   -Cái gì? Mày nói cái gì mà tao không hiểu?
   -Thôi đi ông tướng ạ! Chỉ giỏi giả vờ giả vịt.
   -Tao nói thật đấy! Mày nói cái gì?
   -Đúng là Khoa “Hâm”. Chúng nó bảo ông có tên trong danh sách để về Hà Nội đợt này, có đúng không?
   -Làm sao mà tao biết được? Thú thật với mày, tao cũng chẳng quan tâm. Được cũng tốt, không được thì cũng chẳng sao. Ở lại Hòa Bình cũng có cái hay là được chuyên gia Liên Xô trực tiếp hướng dẫn làm công trình thế kỷ. Về Trung tâm thiết kế thủy điện, thì lại được đi khảo sát thiết kế ở nhiều nơi trên đất nước. Còn ở Hà Nội hay ở Hòa Bình với tao thì như nhau, vì tao thuộc loại chân đất mắt toét.
   -Đúng là ông quá “ Hâm”. Tôi chẳng biết nói với ông thế nào? Nếu mà ông đổi cho tôi thì hay biết mấy.
   - Hì hì, ông mà đi khỏi thị xã Hòa Bình thì con gái ở đây nó nhớ ông nó khóc hết nước mắt, sông Đà lại có lũ trái mùa. Nếu ông mà về Hà Nội, đứa nọ túm đứa kia xé thì ông cũng thành trăm mảnh.
   -Chẹp chẹp! Lắm mối tối nằm không. Cứ như ông lại hóa hay, chẳng gái gú rượu chè gì, suốt ngày say xưa với phương án ngầm ngầm hở hở, hết quy trình nọ quy phạm kia. Bây giờ thình lình có tên trong danh sách được về Hà Nội thế mới sướng chứ.
   -Trời có mắt mà, người tính không bằng Trời tính… Nhưng cũng phải thôi, đen tình thì phải đỏ bạc chứ. Cái gì ông cũng muốn thì chúng tôi chết hết à!... Nói đùa tý cho vui, đã có cái gì đâu mà cuống cả lên. Mà tôi nói thật nhé: Chưa biết cái nào hay hơn cái nào?
   -Ông lại động viên tôi rồi. Nhưng rất tốt ông ạ! Đúng là những lời động viên vàng ngọc. Nếu không gặp ông trong bãi bom B52 ở Bãi Hà năm 1972 có khi tôi chết rồi. Ông nhớ không? Ông bảo với tôi: Chết thì đằng nào cũng chết, chết ở chiến trường vẫn hay hơn là chết trên đường hành quân chứ. Thế là ông kéo tôi đứng lên hai thằng cố chạy qua bãi bom B52, mệt đến đứt hơi nhưng mà còn gáo.
  …Tất cả những lời đồn thổi như Hoàng và Duy nói là có thật. Tôi dửng dưng khoác ba lô lên xe theo đoàn về Hà Nội. Cơ quan mới thành lập, thực tế là rượu cũ bình mới thôi, chỉ thuyên chuyển một số người, một số phòng, thay thế và bổ xung chức năng nhiệm vụ cho các phòng. Trụ sở vẫn sử dụng trụ sở cũ của Ban công tác sông Đà ở Hà Nội. Tôi được biên chế vào phòng Nghiên cứu và thiết kế thủy điện, ở tập thể, ăn cơm nhà bếp, tóm lại là cũng chẳng khác gì lúc ở Đoàn thiết kế Hòa Bình, có khác chăng là sự thay đổi vị trí giường nằm, từ Hòa bình về Hà Nội.
   Xem ra không khí làm việc của cơ quan ở Hà Nội cũng có cái khác so với ở Hòa Bình. Ở Hà Nội là cơ quan nghiên cứu và thiết kế, công việc có vẻ trầm lặng. Ở Hòa Bình là đơn vị phục vụ thi công, chuyên gia Liên Xô thường xuyên kiểm tra đôn đốc cho kịp tiến độ thi công nên không khí có vẻ khẩn trương hơn.
   Cơ quan ở Hà Nội là cơ quan nghiên cứu và thiết kế, nên mọi thứ cứ tà tà, chẳng cần gì phải vội vàng. Cán bộ công nhân viên hay kỹ sư vẫn là các ông các bà công chức của thời kỳ bao cấp, bảo gì làm nấy, sáng cắp ô đi tối cắp về, đến tháng thì lĩnh lương. Cuộc sống có vẻ như yên phận thủ thường, bằng lòng tất cả, ngày qua ngày chỉ chờ đợi rình rập những đợt phân phối hàng hóa, không mất tem phiếu là kéo nhau đi xếp hàng. Thời gian này ở Hà Nội, xếp hàng để mua thứ gì đó đã trở thành nghệ thuật.
    Rất nhiều phòng ở tình trạng như vậy, riêng phòng Nghiên cứu và thiết kế thủy điện, phòng mà tôi mới được bổ xung về thì đúng là có xáo động thật sự. Cũng dễ hiểu thôi, từ xa xưa đến giờ chiến tranh liên miên, hết chống Pháp lại đến chống Mỹ. Cơ quan nào, Bộ nào, nghiên cứu và thiết kế thủy điện thì tôi không biết rõ. Đến khi thành lập Trung tâm, cũng như thành lập phòng thì tất cả đều xuất phát từ con số không.
    Để có thể bắt đầu công việc, từ giám đốc trung tâm đến trưởng phòng cùng anh em chúng tôi, tất cả lao vào công việc. Cũng chả phải chúng tôi được hưởng quyền lợi gì đặc biệt, chỉ đơn giản theo như ông giám đốc nói: Phòng Nghiên cứu của các đồng chí là phòng nghiên cứu để đề xuất với Bộ về Kế hoạch và Trình tự xây dựng hệ thống các công trình thủy điện trên toàn quốc. Để làm được việc này thì đầu tiên chúng ta cần phải rà soát lại công tác quy hoạch.
   Theo đó, phòng nghiên cứu chưa kịp ổn định tổ chức đã bắt tay soát xét lại các đề án quy hoạch thủy điện của hệ thống các con sông lớn của cả nước, xem cái gì đã có cái gì còn thiếu, phải làm thêm những cái gì. Tất cả hệ thống các con sông khác cũng  sẽ được tiến hành ngay sau đó.
   Khối lượng công việc đồ sộ như vậy, anh em chúng tôi như chim chích vào rừng, đấy mới là đi thu thập tài liệu quy hoạch về để xắp xếp phân loại xem mức độ đủ thiếu theo hệ thống các con sông ở Miền Bắc trước, miền Nam sau. Sau khi kết thúc giai đoạn thu thập tài liệu, mới tiến hành công tác thiết kế quy hoạch và phân loại rồi xếp hạng v.v.
    Đúng là như mơ, mấy buổi sáng đầu tiên khi tôi tỉnh dậy, tôi không nghe thấy tiếng băm băm chặt chặt, không nghe tiếng gọi nhau quét sân để phơi sắn phơi măng cho kịp nắng. Khi ấy tôi mới chợt nghĩ ra là tôi đã chuyển về Hà Nội, ngay lập tức một cảm giác vui buồn lẫn lộn ập đến. Vui là vì hôm nay sẽ đến cơ quan một cơ quan mới để xin tài liệu về quy hoạch thủy điện, buồn là vì thành công thì ít, thất bại thì nhiều. Do lường trước khó khăn này, Bộ Điện Than đã chỉ thị cho các cơ quan trong Bộ giúp đỡ, nên tạm ổn. Nhưng khó khăn nhất vẫn là các cơ quan không thuộc sự quản lý của Bộ, nếu có được thì cũng phải năm lần bẩy lượt.
   Thời gian này công việc nhiều đến nỗi mà không biết phải làm cái gì trước cái gì sau. Thực tế nhiều việc gặp khó khăn, mọi người tập trung tìm cách xoay sở, người lúc nào cũng thiếu, trong khi đó thời gian cứ trôi đi vù vù.
   Đã thế cơ quan lại tham gia giải bóng chuyền của các cơ quan xí nghiệp của toàn quận Đống Đa, tôi cũng là một cầu thủ quan trọng trong đội hình của đội. Chẳng biết thế nào, có lẽ là do gặp may, rất nhiều đội mạnh gặp nhau và loại nhau nên đội bóng của Trung tâm nghiên cứu và thiết kế thủy điện được vào tứ kết, thế là phải theo đến kết thúc giải.
    Nghĩ lại, có cái gì đó thật là vô lý không thể giải thích được. Có lẽ do hoàn cảnh tạo nên, mà con người khi ấy chưa ý thức được cái gì sẽ xảy ra. Tất cả mọi việc xảy ra như có một bàn tay vô hình xắp xếp.
   Trong bối cảnh mấy anh em công việc thì bù đầu, mà kết quả thu được thì khiêm tốn, lúc nào đầu óc cũng ở trạng thái căng thẳng bí bách. Trong khi đó cuộc sống vẫn cứ trôi theo nhịp điệp của nó và tôi lọt thỏm vào vòng xoáy ấy lúc nào mà tôi không nghĩ ra. Tôi chỉ thấy vui vẻ khi được người khác giúp đỡ.
   Hôm ấy, đội của chúng tôi thua đội của trường Đại học Thủy Lợi. Thua là tất nhiên, vì đội của một trường nên họ mạnh lắm. Thế mà họ thắng cũng không thuyết phục, tỷ số và bàn tthắng của hai đội đều sát nút. Vì thế, đội tôi không phục nên cũng thấy cay mũi, kéo nhau đi uống bia cho bõ tức. Muộn mới về cơ quan, tôi xuống bếp để ăn cơm. Nhưng do muộn quá nên nhà bếp đã đóng cửa, tôi về phòng ở đang nhẩm tính tối nay ăn cái gì?
   Có tiếng bước chân ở ngoài hiên, rồi hai cô gái tay xách nách mang xuất hiện ở cửa. Ánh sáng của bóng đèn dây tóc đỏ khè, nhưng tôi vẫn nhận ra hai cô gái đó. Một cô tên là Mai, còn cô kia tên là Xuân. Mai cứng tuổi hơn có dáng làm chị lên tiếng:
   -Đây là phần cơm của anh, các bà nhà bếp bảo chúng em mang về hộ.
   -Ồ! Thế thì tốt quá, tôi đang lo không biết lấy gì để ăn. Mọi người vào đây đã.
   -Thôi anh ăn cơm đi! Bọn em về đây!
   -Vậy xin cám ơn nhé!
(Còn nữa).
         


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: vanthang341ht trong 17 Tháng Sáu, 2014, 11:14:51 am

    Chào bạn Quanvietnam.
    Tôi có vinh dự được gặp bạn một lần tại 19C Ngọc Hà. Nhìn bạn  tôi có cảm giác bạn kín đáo, châm rãi, điềm đạm...suy nghĩ trong bụng vậy thôi chứ không dám nói lời nhận xét của mình với bạn. Đã từ lâu tôi vẫn âm thầm theo đọc bài viết của bạn. Tôi thấy không chỉ những mẩu chuyện chiến đấu mà những "Chuyện sau chiến tranh" bạn viết như một nhà văn thực thụ. Giọng văn thủ thỉ, từ ngữ giản dị, rất cẩn trọng trong cách dùng từ, phương pháp kể chuyện nhẹ nhàng, rủ rỉ... Đọc chuyện của bạn tôi như đoán ra tính cách điềm tỉnh, nhẹ nhàng, sâu lắng được bạn thể hiện qua từng câu, từng chữ.
    Phải chăng tính cách của bạn được hình thành từ nghề nghiệp của bạn: nghề kỷ thuật?
    Chúc bạn khỏe viết đều tay.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 18 Tháng Sáu, 2014, 11:34:17 am
 
Chào anhVanthang anh Tranphu và tất cả mọi người đã bớt chút thì giờ đọc bài viết huyên thuyên của Quanvn.
   Cảm ơn anh Vanthang anh Tranphu quá khen, thật tình tôi không bao giờ nghĩ tôi được như anh nói, nhưng tôi rất trân trọng những lời động viên và vỗ về của những người đồng chí đồng đội. Văn là người mà anh, tôi không có mưu cầu gì lớn lao. Tôi chỉ muốn viết lại những gì mình đã trải qua, mình đã mắt thấy tai nghe. Vậy đấy!  Kỷ niệm nào mà chẳng có vui hay buồn, nhưng có lẽ giọng văn buồn đúng không anh? Âu cũng là lẽ thường các anh à! Chúng mình gần kề cái tuổi xưa nay hiếm rồi, chúng mình đang được tận hưởng lộc của trời đất, tận hưởng sự hiếu thảo của con cháu, trong lòng cũng thấy nao nao, buồn vui lẫn lộn. Ngồi nghĩ lại có biết bao chuyện mình đã làm được và cũng biết bao chuyện mình chưa làm được. Chúng mình kể cho nhau nghe chuyện buồn chuyện vui, để nhớ lại quá khứ hào hùng của dân tộc, trong đó có anh em chúng mình, những CCB già. Hy vọng kỷ niệm buồn vui của anh em mình, sẽ là cái gì đấy? Cho lớp con cháu chúng ta rút kinh nghiệm…
  Vài dòng tâm sự, kính anh Vanthang cùng tất cả anh em trên diễn đàn. Quanvn xin được cảm ơn tất cả.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: Vixuyen-hg trong 22 Tháng Sáu, 2014, 07:23:47 pm
Chào bảc quanvietnam bác viết rất hay cảm động đọc từng chữ từng lời mới thấm thía chân thành mộc mạc chữ tình  sâu đậm đúng chất lính phải nói rất hay em theo từng nét chữ của bác bác hãy viết tiếp đi nhé ngày nào vô không thấy thấy buồn làm sao .....
Chúc bác và gia đình luôn mạnh khỏe vạn sự như ý



Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 24 Tháng Sáu, 2014, 10:19:51 am

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Số phận
          Ngoài trời mưa như trút nước, mưa ở vùng núi Hòa Bình trắng trời, đây là tiểu vùng khí hậu nên mưa nắng đều mang đặc thù riêng không giống như những nơi khác. Nhiều khi đang nắng chang chang đột nhiên trời lại đổ mưa ầm ầm, cứ thoắt mưa thoắt nắng, mưa tạnh trời lại nắng gắt rát ràn rạt, dưới ẩm trên nóng, thời tiết cực kỳ khó chịu.
   Lại thêm một chủ nhật nữa nằm khàn ở nhà thật là vô vị. Chẳng kiếm được ai tán gẫu cho đỡ buồn, Hoàng quanh quẩn vào ra. Chủ nhật tuần trước Hoàng tranh thủ về thăm nhà, bố mẹ vợ con đều khỏe, Hoàng vui lắm. Lúc lên cơ quan bà mẹ còn dặn dò: Anh lên cơ quan gắng phấn đấu cho bằng anh bằng em, chúng tôi ở nhà đã có vợ anh nó chăm sóc, anh không phải lo lắng gì sất…
   Đúng là về bố mẹ vợ con, Hoàng hoàn toàn yên tâm không phải lo lắng gì, bố mẹ Hoàng còn khỏe, vợ Hoàng thuộc mẫu người cũ xưa nên đảm đang tháo vát, một tay cô ấy quán xuyến hết thảy mọi việc trong nhà. Con gái Hoàng hơn một tuổi, ông bà nội quý lắm, suốt ngày chăm bẫm. Vợ Hoàng là giáo viên cấp hai dậy trường ở gần nhà, nên nhiều thời gian chăm sóc gia đình bố mẹ và con gái. Anh chị em của Hoàng tất cả đều trưởng thành, ai cũng có gia đình con cái đầy đủ, nhà nhiều nhất là bốn đứa con nhà ít nhất cũng hai đứa, Hoàng lấy vợ muộn nên mới có một. Nhiều lúc Hoàng nghĩ, lấy vợ muộn, lấy vợ ở quê cũng có cái hay. Hoàng mỉm cười mãn nguyện…
   Nằm đếm từng giọt nước rơi dưới mái hiên, tự nhiên Hoàng nhớ đến Khoa, có nhẽ đến gần năm nay Khoa không lên Hòa Bình. Ngoảnh đi ngoảnh lại, thế mà Khoa đã chuyển về Hà Nội được bốn năm năm rồi. Đúng là thời gian trôi đi nhanh quá, mọi sự vật vần xoay đã định sẵn, Xuân Hạ Thu Đông rồi lại Xuân Hạ Thu Đông. Mỗi cây là mỗi loại hoa, mỗi nhà là mỗi hoàn cảnh, chẳng ai giống ai. Anh em ruột thịt còn kiến giả nhất phận, huống hồ Hoàng với Khoa… Đang nghĩ miên man, tự nhiên Hoàng thở dài, thừ người ra không biết phải làm gì?
  Hoàng vào mở tủ lấy cuốn sổ tay của Khoa ra bàn ngồi đọc, nhưng Hoàng không đọc được, đầu óc cứ nghĩ đâu đâu. Hoàng gấp lại, hai tay chống hai bên thái dương, gục đầu xuống bàn. Rất tự nhiên giọt nước mắt nóng hổi đơn độc trào ra trong khóe mắt, Hoàng nhớ lại những ngày chiến đấu gian khổ ở chiến trường Quảng Trị, Hoàng nghĩ về Khoa, Hoàng thương cho Khoa quá. Hoàng tự hỏi: Sao số phận lại không công bằng với Khoa như vậy? Cả hai thằng đều bắt đầu cùng vạch xuất phát cơ mà? Hoàng mơ hồ nghĩ cái gì đã dẫn tới kết cục này.
   Đúng là hai thằng có cùng xuất phát điểm như nhau, hai thằng đã có nhiều cái cùng, cùng học một lớp, cùng đi bộ đội, cùng đơn vị, cùng chiến đấu ở Quảng Trị, cùng trở lại trường, lại cùng học một khoa một lớp, cùng tốt nghiệp, cùng khoác ba lô lên miền núi nhận công tác, cùng làm việc một cơ quan v.v. Ôi! Sao nhiều thứ cùng thế?
    Cứ thế vấn vương, cuối cùng Hoàng mới ngộ ra: Tuy có rất nhiều cái cùng, nhưng không phải cứ cùng nhau là như nhau. Đúng vậy, hoàn toàn không phải thế, tất cả là do tạo hóa vần xoay sinh ra số phận, hai cuộc đời là hai số phận, sẽ không ai giống ai cho dù có nhiều cái cùng nhau. Hoàng nghĩ: Nó cũng như hai người chơi cờ thế thôi, lúc đầu là bằng nhau, sau đó có hòa có thua có thắng. Thật đáng tiếc, sau này thế nào chưa biết, nhưng hiện nay theo Hoàng thì Khoa là người thua cuộc.
   Hàng năm, kể từ ngày có đứa con gái đầu lòng, Khoa thường hay lên Hòa Bình công tác, có năm lên đến bốn năm bận. Thực ra, có công tác công tếch gì đâu, chẳng qua hai thằng nhớ nhau cũng muốn đi chơi, nên vin vào lý do này lý do nọ để lên thăm nhau. Mặt khác, lúc ấy hộ khẩu và tem phiếu của hai vợ chồng và con của Khoa vẫn đang ở Hòa Bình nên Khoa vẫn phải lên. Khoa thì như vậy, còn Hoàng chân son mình rỗi, thi thoảng lại kiếm cớ theo xe cơ quan để về Hà Nội chơi với Khoa với bạn bè.
   Một lần Khoa lên lấy tem phiếu, tiện thể gửi Hoàng cầm hộ quyển sổ tay viết về câu chuyện ấy, nhờ Hoàng cất hộ. Khoa tưởng Hoàng chưa biết nên Khoa nói:
  -Truyện này tôi viết về tôi, tất nhiên cũng dính dáng đến ông đôi chút, ông có tò mò muốn xem cũng không sao. Thật ra, tất cả những cái gì tôi viết vào đây, thì tôi với ông đã nói với nhau rồi. Bây giờ tôi đã có vợ có con, để cuốn sổ này ở chỗ tôi thì bất tiện. Tôi xin gửi ông giữ hộ, ông ở đây có một mình không ai dòm ngó. Khi nào có điều kiện tôi sẽ lấy về, để cho vợ con tôi xem mà hiểu được lòng tôi. Tất nhiên cũng chẳng có gì phải dấu diếm, bởi tất cả nó là sự thật.
   Khoa ngồi im lặng một hồi lâu rồi lại nói tiếp:
   -Tôi không nói, nhưng chắc là ông biết tại sao tôi lại viết truyện này, chắc chắn là phải có lý do. Lý do gì? Sau này ông cũng sẽ đoán ra. Chỉ có điều, lúc nào tôi cũng nói nó là sự thật. Nhưng ông đừng vội tin, bởi vì người viết chưa hẳn đã khách quan, mà chỉ đưa thông tin một chiều sao cho có lợi cho ý đồ của mình…
    Đêm hôm ấy, Khoa ở lại Hòa Bình với tôi, hai thằng ngồi với nhau dưới gốc cây Quéo. Trăng trung tuần đã gác trên đỉnh đồi sau nhà mà hai thằng vẫn chưa hết chuyện. Khoa bắt đầu từ  buổi chơi bóng chuyền bị thua, sau đó là những suất cơm định mệnh. Khoa kể:
   -Thật ra là tại mình ham hố thể thao, toàn chơi quá giờ thì nhà bếp nào chờ được, mà họ thì có son rỗi gì cho cam, họ cũng phải về lo cho con cái ăn uống học hành chứ. Hơn nữa, họ đã gửi người mang hộ được một lần thì lần sau họ sẽ gửi mãi. Thế là: Tự nhiên trong tôi xuất hiện phản xạ có điều kiện, mặc nhiên thừa nhận chuyện cơm nước đã có người lo. Cứ như vậy, dần dà tiến đến ăn cơm chung, rủ nhau cải thiện, tổ chức liên hoan v.v, cuối cùng là góp gạo nấu cơm chung…
   -Ông bảo: Đang từ chỗ suốt ngày bận rộn với công việc, hết giờ là thể dục thể thao, tuổi thanh niên mải chơi nên ít khi nghĩ đến ăn uống. Khi ấy, chuyện ăn uống thất thường được chăng hay chớ, có thì ăn chẳng có thì nhịn. Đúng lúc như vậy lại có người giúp đỡ thì ai mà chả sướng, tôi nghĩ: Ngay cả ông thì ông cũng không thể từ chối được.
   -Mà tại sao lại từ chối, người ta giúp mình cơ mà? Có ai đòi hỏi công  cán gì đâu? Mà cũng chẳng phải người lạ, họ đều là người cơ quan, mọi người đều biết, ông biết tôi biết. Hơn nữa, người ta cũng đàng hoàng, trông cũng không đến nỗi nào, nhìn nhiều, nhìn lâu thành quen. Chính vì thế nên ngồi ăn uống với nhau trở nên bình thường, lâu lâu rủ nhau đi chợ ăn quà, mua thực phẩm về nhà nấu ăn cũng thấy vui vui. Tóm lại chẳng có lý do gì để từ chối.
   Hoàng ngắt lời Khoa:
   -Nhưng chắc chắn lúc đó, nếu ông chưa yêu thì ông phải thích cái gì chứ?
   -Tôi cũng không biết nữa, nhưng tôi nghĩ là không.
   -Hay thật, các cụ nói cấm có sai. Anh hùng không qua khỏi ải mỹ nhân. Chết cũng vì miếng ăn v.v. Ông bị cả hai thứ.
   -Ông đừng nói thế, Xuân nó nghe được thì nó buồn. Tất nhiên chuyện ấy là có thật. Tôi kể cho ông chi tiết này thì ông sẽ rõ ngay: Có lần, cô bạn cùng học với Xuân đến chơi. Hôm ấy, Xuân tổ chức nấu cơm tiếp bạn, hai người vừa làm vừa nói chuyện với nhau. Tình cờ, tôi nghe được cô bạn của Xuân nói: Gia đình rồi bản thân anh ấy mà như vậy là quá được, nếu bà không nhanh chân thì sẽ mất… Tôi biết họ đang nói về chuyện gì.
   -Lại còn chuyện này nữa. Xuân có một ông anh trai, có hoàn cảnh giống hệt như tôi với ông, cũng bộ đội bộ địa, sau lại về học tiếp. Lúc đó, ông ấy cũng đã tốt nghiệp đại học rồi, đang đi học ngoại ngữ để chuẩn bị đi nước ngoài, ông ấy cũng chưa có vợ. Thời gian học ngoại ngữ ở Hà Nội, ông ấy cũng hay đến chỗ em gái chơi và ăn uống cùng với chúng tôi. Hai thằng đàn ông mới quen, kể cho nhau nghe hết chuyện nọ đến chuyện kia vui vẻ lắm.
   -Lối đời, gặp người cùng cảnh ngộ bộ đội bộ địa, may mắn thoát chết trở về là hay hàn huyên, chén tạc chén thù. Những lúc ấy, không biết ông thế nào chứ? Còn tôi khi đã có mấy vại hay mấy chén vào thì coi trời bằng vung…
   Khoa im lặng một hồi lâu, rồi tiếp tục, giọng có vẻ hài hước chán đời:
   -Có lẽ đấy mới là nguyên nhân sâu sa…Đúng là cuộc đời có số, kể cũng hay…Số phận của những cuộc đời…Hà, Hà, Hà… Thôi mình đi ngủ đi, tôi vừa say lại vừa mệt rồi, đi ngủ mai còn dậy sớm để xếp hàng.
   Hoàng nằm nhưng không ngủ được. Hoàng nhớ như in, một buổi tối cách đây bốn năm năm, thời gian ấy là sau khi Khoa đã về Hà Nội được khoảng năm sáu tháng. Tự nhiên Khoa xuất hiện đột ngột ở Hòa Bình, Hoàng cứ tưởng là Khoa đi công tác nên cũng không hỏi han gì. Hai thằng nói chuyện với nhau một lúc, rồi Khoa nói vói Hoàng:
   -Tối nay ông có bận gì không? Nếu bận cũng gác lại, tôi có chuyện cần nói với ông.
   -Không! Tôi không bận việc gì. Nhưng có gì quan trọng mà ông phải lặn lội lên đây? Ông gây ra chuyện gì rồi lên đây trốn à?... Đùa tý cho vui, có chuyện gì thì nói đi.
   -Nói ở đây sao được! Tôi với ông ra đê Đà Giang.
   -Ừ! Đi.
   Dọc đường đi Hoàng gợi ý, nhưng Khoa vẫn im lặng, đến chỗ ngồi yên vị rồi, Khoa vẫn lặng yên. Tôi dục Khoa:
   -Nào! Có chuyện gì thì nói đi chứ sao cứ ngồi im?
   -…
   -Ông cứ nói đi xem anh em có giúp được gì cho ông không?
   -…
   -Bản lĩnh của thằng lính trong ông đâu rồi? Sẵn sàng nhận nhiệm vụ, biết đi vào chỗ chết vẫn đi, sao bây giờ ông lại sợ sệt đến như vậy? Khó mấy cũng có cách giải quyết, vấn đề là ông có nói hay không thôi.
   Do ngại ngùng và e thẹn nên Khoa nói không thành tiếng, Khoa điều chỉnh lại âm lượng và hỏi tôi:
   -Ông còn nhớ cái Xuân không?
   -Nhớ!
   -Ông thấy cô ấy thế nào?
   -Thế nào là thế nào? Ông định hỏi về cái gì?
   -Tôi sẽ lấy cô ấy, ông xem có được không?
   -Nhưng tôi có thấy ông nói yêu đương gì đâu mà bây giờ lại nói là sẽ lấy làm vợ.
   -Kiểu tình yêu sét đánh mà ông.
   Từ  thái độ đến cách nói chuyện của Khoa, tôi lơ mơ đoán chuyện gì đã xảy ra. Tuy tôi và Khoa rất thân nhau, nhưng đây là vấn đề tế nhị nên tôi không tiện hỏi thêm. Song Khoa hỏi tôi là có được không thì tôi phải nói là được hay không được chứ, không lẽ ngồi im. Thâm tâm tôi khi nghĩ về cô Xuân này so với Khoa, tôi thấy có cái gì đấy quá chênh lệch, Khoa thì tương đối hoàn thiện, các cụ xưa gọi là văn võ song toàn, còn Xuân thì không có gì để bàn. Nhưng đấy là tôi nghĩ, trong hoàn cảnh này tôi không nói bừa được vì nó là chuyện của cả đời người.
    Hai thằng ngồi im lặng không nói gì với nhau, không gian hình như bé lại, chỉ còn nghe thấy tiếng vặt cỏ sần sật của Khoa. Lúc này, tôi thương Khoa quá, chắc chắn chuyện Khoa nói không dừng lại tại đấy mà đã vượt quá tầm khống chế rồi. Chứ ngần này tuổi đầu rồi có chuyện gì ghê gớm mà làm cho Khoa phải suy nghĩ nhiều đến vậy. Làm sao đây? Tôi tự hỏi, nhưng chưa có câu trả lời.
   Khoa ngồi bên tôi bây giờ không còn là Khoa của gần mười năm trước nữa. Khi ấy, Khoa nhanh nhẹn hoạt bát và tự tin. Tôi còn nhớ: Hôm ấy, tổ công tác của chúng tôi đi sớm để tránh OV10 phát hiện, bất ngờ tôi gặp Khoa ở ngầm Phượng Hoàng. Buổi sáng rất đẹp, trời Quảng Trị xanh cao lồng lộng, nhìn Khoa hiên ngang hùng dũng, đúng tư thế của một chiến sĩ quân giải phóng. Khoa đã cao to đẹp trai, mặc bộ quân phục vải Tô Châu còn mới lại vừa vặn, khẩu AK vát nòng khoác chéo trước ngực, bao xe nặng quá chảy trễ bên hông, chiếc mũ tai bèo hất về phía sau lưng, miệng Khoa cười tươi trên đôi môi đỏ chót, hai lúm đồng tiền ẩn hiện sau bộ râu quai nón. Hai thằng gặp nhau tay bắt mặt mừng, sau vài lời hỏi thăm anh em đồng đội rồi lại vội vàng chia tay nhau, hẹn lần sau gặp lại.
   Tôi chợt tỉnh, quay trở lại với câu hỏi của Khoa, tôi nói với Khoa có tính chất thăm dò, nước đôi:
   -Tôi không biết nhiều về Xuân, nhưng tôi cho rằng: Xuân là một cô gái tốt, bấy lâu nay ở cơ quan chẳng có điều tiếng gì. Cứ cho rằng ông chưa có tình yêu với Xuân, vậy ông hãy nghĩ lại mà xem, thời chiến tranh có bao nhiêu đôi lứa như vậy. Tôi nghĩ: Nó cũng là chuyện  thường tình, quan trọng là hai người khi đã là vợ chồng rồi thì sống với nhau thế nào? Còn khi yêu thì cái gì chả tốt, chả đẹp. Thứ nữa, người tính không bằng trời tính, âu cũng là số phận, mấy ai cưỡng được.
    …Đêm hôm ấy, tôi trở thành người hùng biện. Cái quan trọng là trùng với suy nghĩ của Khoa, nên trong tự truyện Khoa nói: Tôi là giọt nước tràn ly.
(Còn nữa).


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: Vixuyen-hg trong 29 Tháng Sáu, 2014, 07:43:12 pm
Chào Bác quânvietnam
Tiếp đi Bác ơi 5 ngày em lên không thấy
Bùn bùn làm sao ấy ...chúc bác lun mạnh khỏe 
Viết thêm nhiều dòng ký ức cho chúng em đọc và thưởng thức
Kính chúc Bác vui khoẻ


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 30 Tháng Sáu, 2014, 01:33:52 pm
Chào bạn Vixuyen-hg, cùng toàn thể các bạn trên diễn đàn. Quanvn hết sức cố gắng để không làm mọi người phải chờ đợi, phải cái lực bất tòng tâm, chỉ sợ dục tốc bất đạt. Mong vixuyen-hg cùng các bạn thông cảm. Hen sớm gặp lại.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 01 Tháng Bảy, 2014, 09:44:16 am

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Số phận
           Cùng thời gian này ở quê. Nguyệt, chị Thịnh cũng đang âm thầm thực hiện chiến dịch vận động mẹ Hoàng để Hoàng lấy vợ ở quê. Mẹ Hoàng vì tình làng nghĩa xóm, hơn nữa bà nghĩ: Bao nhiêu năm chiến tranh, Hoàng với chị Thịnh và Nguyệt gắn bó thân thiết, đối xử với nhau như chị em ruột thịt, bà không dám nói ra cũng chẳng nỡ lòng nào từ chối. Thành ra, mỗi lần chúng gặp bà để nói về chuyện này, bà cứ ậm ờ cho qua chuyện, bà không muốn làm phật lòng chị Thịnh và Nguyệt,  với lại bà cũng không muốn áp đặt thằng con trai vất vả và lận đận nhất nhà của bà.
   Thực ra, chúng nó nói cũng có lý lắm, đôi lúc bà cũng siêu lòng. Hai đứa con gái quá lứa chưa chồng, vây quanh để tấn công bà già thì làm sao mà bà không ngiêng ngả được. Nhưng thật tình bà cũng thương hai đứa chúng nó, nếu như không vì chiến tranh chắc là chúng cũng có chồng con đề huề như bao bạn bè cùng trang lứa. Nhưng cái duyên cái số khốn khổ thế nào mà trai làng người thì hy sinh vì chiến tranh, người thì vội vã xa quê để kiếm kế mưu sinh, thành ra chúng nó bây giờ thành gái ế…
   Bây giờ, nếu thằng Hoàng mà nghe chúng nó thì được cả hai đàng, mà bà là người vui nhất, vì vừa thêm con lại vừa thêm cháu thiên hạ mấy người được như vậy. Nhiều đêm bà không ngủ được nên cứ nghĩ vẩn vơ, chẳng biết nghe ai, thôi thì thế nào cũng được. Quan trọng nhất đối với bà bây giờ là thằng Hoàng phải lấy vợ, còn lấy ai tùy nó quyết định, mình cũng chẳng hơi đâu mà bàn. Nhỡ ra sau này vợ chồng chúng nó có chuyện gì nó lại đổ tại mẹ, thôi chẳng dại…
   Những lần về thăm nhà bà lại mang chuyện này kể cho Hoàng nghe, một lần tiện thể Hoàng ướm hỏi xem ý mẹ thế nào:
   -Vậy ý mẹ thế nào?
   -Bố mẹ bảo tùy anh thôi, bây giờ anh lớn rồi, anh lại là cán bộ kỹ sư  anh tự quyết định lấy, sau này sướng khổ anh đừng có kêu, chúng tôi già yếu rồi cũng không đi theo anh được, anh tự liệu.
   Mỗi một lần về thăm nhà là một lần tâm tư tình cảm Hoàng bị giằng xé, chiến tranh đã đi qua gần chục năm rồi, mà Hoàng vẫn thấy nó đeo bám dai dẳng nặng nề, hệ lụy của chiến tranh cứ len lỏi vào từng khía cạnh của cuộc sống. Bình thường, con người bằng ý chí và sự cần cù họ sẵn sàng khắc phục khó khăn để vươn lên. Nhưng khổ thay có phải chuyện gì cũng dùng ý chí và sức mạnh để vượt qua được đâu, có những chuyện không hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người.
   Nhìn chị Thịnh và Nguyệt, hai người già đi nhanh quá, tuổi thanh xuân của hai người chỉ còn ẩn hiện đâu đó theo tưởng tượng của Hoàng. Sự cô đơn lạnh lẽo, sự khắc nghiệt của thời gian, ngày lại ngày hủy hoại dần sắc đẹp của một thời con gái. Hoàng biết, bây giờ hai người đang cố chống lại sự già nua tuổi tác, nhưng sự khắc nghiệt của thời gian, nhất là sự cô đơn lạnh lẽo, hai thứ ấy lại không ủng hộ họ. Họ vẫn biết, dù họ có cố gắng bao nhiêu đi nữa thì công của họ cũng như công của những con dã tràng, khi sóng biển ào lên xóa đi tất cả.
   Một lần ngồi nói chuyện với Nguyệt, Hoàng hỏi thật:
   -Từ ngày Hoàng xa nhà đi học rồi đi bộ đội, cho tới bây giờ Nguyệt đã yêu ai chưa?
   Thời gian và sự chịu đựng làm cho Nguyệt dạn dĩ, Nguyệt nói mà mặt ráo hoảnh, coi như đấy là chuyện bình thường không còn e thẹn như thời con gái:
   -Có chứ! Em yêu một người, nhưng không được người ta yêu lại, thành ra em chỉ thầm yêu trộm nhớ thôi.
   Nghe Nguyệt nói Hoàng thấy chột dạ, nghĩ ngay cái người mà Nguyệt vừa nói đấy biết đâu là Hoàng. Hoàng lúng túng, vội chuyển ngay chủ đề khác. Hoàng hỏi Nguyệt:
   - Ngày xưa, hồi còn ở nhà Hoàng thấy bọn thanh niên trong xã họ đến cưa cẩm Nguyệt đông quá, đông đến nỗi phải xếp hàng, hàng có bận dài đến tận ngoài cổng, nhiều anh ngồi ngủ gật mà không đến lượt, hôm sau lại xếp hàng lại. Có lẽ vì thế nên Nguyệt cành cao chăng?
   Nguyệt nghe câu hỏi bông đùa của Hoàng, lắc đầu cười chua chát, bóng dáng của sự già nua hằn lên làn da, khóe mắt, làm nụ cười khô héo vụt tắt ngay. Nguyệt định nói gì song lại thôi, Hoàng thấy Nguyệt có vẻ buồn nên lảng sang chuyện khác:
   -Hình như lúc trước, có lần Nguyệt nói với Hoàng là lên Trung tâm nuôi dưỡng thương binh nặng đón lấy một anh về nuôi cho có bầu có bạn cơ mà?
   -Ừ! Em với chị Thịnh đúng là có ý định ấy, nhưng không dám nói với ai, sợ nói trước bước không qua, thế mà đúng thật. Có lần, hai chị em bí mật đi nghe ngóng xem thế nào? Đến nơi nghe người ta nói cách thức thấy phức tạp, hai chị em không dám vào mà rủ nhau về luôn.
   Hoàng không bình luận đúng sai gì về chuyện chị Thịnh với Nguyệt định làm, nhưng Hoàng nghĩ: Cá nhân mỗi con người dù có cố gắng hết sức, cố cả đời đi nữa, cũng không thể bù đắp được mất mát cho những thương binh nói chung, thương binh nặng nói riêng. Để tri ân họ, chỉ có cách cả xã hội và gia đình phải có trách nhiệm nuôi dưỡng họ cho hết cả cuộc đời. Thực tình họ đâu có mong muốn điều ấy, họ không muốn mình là gánh nặng của gia đình của xã hội.
    Chính vì suy nghĩ như vậy, nên biết đâu đấy, trong số những người thương binh ấy, có những người không muốn mình trở thành gánh nặng cho gia đình vợ con. Họ không muốn cho người thân quen nhìn thấy bộ dạng méo mó của mình sau chiến tranh, vì vậy họ cố tình giả vờ quên đi tất cả để không lộ thân phận, phó thác quãng đời còn lại để tự nó chìm nổi. Và có thể từ suy nghĩ ấy, dẫn đến việc họ sẽ từ chối tình cảm riêng tư của những người như chị Thịnh và Nguyệt.  Hoàng nghĩ: Ý tưởng của chị Thịnh và Nguyệt, đón thương binh về nuôi sẽ khó thành hiện thực.
   -Bây giờ Nguyệt định thế nào?
   -Anh hỏi em định thế nào? Em biết trả lời anh sao đây? Bọn con gái chúng em làm gì có quyền định đoạt chuyện chồng con. Số phận đã an bài rồi, thôi thì bằng lòng với số phận.
   Lại một lần nữa, Hoàng chạm vào nỗi đau của Nguyệt. Hoàng hối hận, chuyển vội sang chuyện Nguyệt đang làm mối cho Hoàng. Hoàng hỏi Nguyệt:
   -Anh nghe thấy mẹ anh nói, Nguyệt đang làm mối cho anh một cô gái ở xóm trong, có đúng thế không?
   Nguyệt mỉm cười. Ôi! Nụ cười bây giờ sao xinh thế? Có lẽ đã lâu rồi Hoàng mới lại được nhìn thấy nụ cười tươi tắn nở trên đôi môi của Nguyệt. Hoàng chưa hiểu vì sao khi nói đến chuyện này, Nguyệt vui vẻ hoạt bát hẳn lên. Nguyệt hỏi Hoàng:
   -Bác còn nói chuyện gì nữa không?
   -Nhiều chuyện lắm, nhưng trong đó có chuyện anh lấy vợ.
   -Thế ý anh thế nào?
   -Tất nhiên là anh sẽ lấy vợ.
   -Đúng là anh sẽ lấy vợ, nhưng mà anh lấy vợ ở đâu? Lấy người cùng cơ quan hay là lấy người ở quê?
   -Theo em thì anh nên thế nào? Lấy ở quê hay ở cơ quan?
   -Cái đấy tùy theo gia cảnh nhà mình mà quyết định, em làm sao biết được.
   -Gia cảnh nhà anh thì Nguyệt biết quá rõ rồi, vậy Nguyệt cho anh lời khuyên thế nào?
   -Em không nói thì chắc chắn anh cũng biết rồi, vì bác gái đã kể chuyện  với anh. Có lần em với chị Thịnh nói chuyện với bác gái, muốn anh lấy vợ ở quê, hai chị em bàn với nhau thấy mọi thứ đều thuận lợi, nên xui bác gái nói với anh. Bây giờ em nói lại, để anh nghe xem ý anh thế nào:
  -Bố mẹ anh bây giờ còn trẻ, sau này bố anh về hưu, mẹ anh cũng sẽ già đi, lúc đó cần có người trông nom lo đỡ đần miếng cơm ngụm nước. Trẻ thì cậy cha già thì cậy con mà. Cái đó rất quan trọng đối với người già, nhưng có lẽ không quan trọng bằng tiếng cười của trẻ thơ bên những mái đầu bạc phơ. Điều ấy nó còn phản ảnh lên phúc đức, gia phong của một gia đình, ở quê điều này không thể không có.
  -Thử hỏi nhà anh bây giờ ai là người lo việc ấy? Nhà có bốn anh em trai, hai chị em gái. Bốn anh em trai thì hai đã có gia đình ở tận Miền Nam, còn anh thứ ba đang đi bộ đội, biết bao giờ mới về để xây dựng gia đình, hai chị em gái tuy lấy chồng ở quê nhưng cũng cách hai ba chục cây số. Khi ấy hai ông bà già sống cô quạnh, mọi người chê cười nhà ấy anh em không biết bảo nhau v.v.
  -Nhưng nếu anh lấy vợ ở nhà thì anh sẽ khắc phục được tất cả những điều em nói ban nãy, tất nhiên khi đó gánh nặng gia đình và sự vất vả sẽ tập trung vào hai vợ chồng anh. Nhìn hoàn cảnh gia đình anh hiện nay, em nói thật với anh chứ, anh có lấy vợ ở đâu thì em không biết, còn lấy vợ ở Miền Bắc, anh vẫn phải gánh vác trọng trách ấy, sự vất vả cũng chỉ tập trung vào vợ chồng anh thôi.
  -Anh mà lấy vợ ở nhà, em cho là có mấy cái lợi. Thứ nhất là bố mẹ già của anh có vợ anh chăm sóc, thứ hai con cái của vợ chồng anh sinh ra có ông bà trông nom. Thứ ba là những công to việc lớn, có anh em chú bác ruột thịt và làng xóm láng giềng mỗi người một chân một tay xúm vào là xong hết. Tóm lại, là anh cứ yên tâm công tác không phải lo lắng gì, nếu có thời gian rỗi hay nghỉ phép thì về thăm nhà. Em nghĩ thế là hay nhất, phụ nữ chúng em bây giờ đang mơ ước có được gia đình như vậy.
   -Với lại…
   Nguyệt đang định nói thêm, đột ngột dừng lại nhìn Hoàng để chờ xem phản ứng của Hoàng thế nào? Đợi Nguyệt nói tiếp, nhưng mãi vẫn thấy Nguyệt ngồi im, Hoàng dục:
   -Với lại cái gì?
   Nguyệt cười bẽn lẽn, có vẻ e thẹn, nhưng vẫn chăm chú quan sát thái độ của Hoàng, thấy Hoàng không có biểu hiện gì khác. Nguyệt hỏi:
   -Thế bác gái không nói gì nữa à!
   -Không!
   -Thật không?
   -Thật!
   -Bọn em bảo với bác gái là: Nếu anh Hoàng đồng ý lấy cái Luyến, bác cứ bắt anh Hoàng đẻ nhiều vào, đẻ ba bốn đứa, rồi cho chúng cháu mỗi người một đứa để làm con nuôi. Lúc nào về mẹ đẻ thì về, lúc nào không thích thì về mẹ nuôi, xóm trên với xóm dưới lo gì.
   Hoàng nghe Nguyệt nói thế, phì cười và nói:
   -Nghe em nói anh thấy chuyện gì cũng dễ như không ấy, anh đã vậy còn người ta, bố mẹ và họ hàng người ta nữa chứ? Anh nghĩ: Không đơn giản như vậy đâu, sẽ còn rất nhiều vấn đề mà em chưa lường hết được.
   -Chuyện ấy anh yên tâm, anh không phải lo lắng gì, chỉ cần anh đồng ý mọi chuyện đâu sẽ vào đấy hết.
   -Em nói cứ như đùa. Cái cô gì mà em nói đấy, chưa biết anh, ngược lại anh cũng chưa biết cô ấy, bảo anh đồng ý, làm sao anh đồng ý được. Mà cứ cho là anh đồng ý đi, cô ấy đã biết gì về anh đâu mà đồng ý hay không đồng ý. Đúng là bà mối một mùa, thế mà cũng đòi làm mối.
   Thấy Hoàng cười nhạo, Nguyệt tức lắm, không biết giải thích thế nào, cùn lên Nguyệt nói giọng đầy bực tức:
   -Người ta lo cho mình, đã không được lời cảm ơn lại còn bôi bác. Hay đã có đám nào rồi nên từ chối khéo? Có hay không, chỗ bạn bè cứ nói toạc ra cho đỡ mất công, nhọc cả người.
   Thấy Nguyệt tự ái Hoàng cũng hơi nhụt chí, thực ra Hoàng đã có đám nào đâu. Thầy tử vi nói Hoàng tuổi Kỷ sửu số đào hoa lắm, thế mà chẳng thấy gì gọi là đào hoa, giờ này vẫn trơ thổ địa một mình. Nhưng nếu chỉ quen nhiều phụ nữ mà nói là đào hoa thì thầy tử vi nói đúng.   Đúng là Hoàng quen rất nhiều cô gái, trong cơ quan cũng có, ngoài thị xã cũng có, nhưng tất cả đều như chuồn chuồn đạp nước, họ đến rồi lại đi, Hoàng không vấn vương gì. Có lẽ ngày xưa là Nguyệt và gần đây là Thủy, hai người để lại cho Hoàng biết bao nhiêu kỷ niệm cùng với dấu ấn theo thời gian. Hình như ngày nào cũng vậy, ít nhất là một lần Hoàng nhớ về họ, tất nhiên là nỗi nhớ vu vơ không đi đến bến bờ nào. Rõ ràng, Nguyệt với Hoàng không thể thành vợ thành chồng được, tốt lắm là được như bây giờ. Hoàng với Thủy có lẽ cũng chẳng đi đến đâu, chim trên trời, cá dưới sông…
   Hoàng nhìn chằm chằm vào mắt Nguyệt, bốn mắt nhìn nhau không chớp. Thấy Nguyệt buồn thật sự, Hoàng đành xuống nước, tìm cớ dàn hòa. Hoàng vỗ về Nguyệt:
   -Được rồi! Xin cám ơn! Hôm nào bà mối cho chúng tôi gặp nhau, tôi sẽ phát biểu sau. Được chưa?
(Còn nữa).


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 07 Tháng Bảy, 2014, 10:11:13 am

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Số phận
      Mới đấy mà đã ba bốn năm rồi, bây giờ cả Khoa và Hoàng đã có vợ có con. Vợ chồng Khoa làm ở Trung tâm nghiên cứu và thiết kế thủy điện Hà nội, vợ chồng Hoàng mỗi đứa mỗi nơi, Hoàng công tác ở Đoàn thiết kế thủy điện Hòa Bình còn vợ Hoàng là giáo viên cấp hai dậy học ở quê, sống với bố mẹ Hoàng. Vợ chồng Khoa và vợ chồng Hoàng đều có con gái đầu lòng, được hơn hai tuổi. Các cụ bảo: Mỗi cây mỗi hoa mỗi nhà mỗi cảnh, nhưng Khoa và Hoàng hơi khác vì hai thằng có quá nhiều cảnh chung, trong đó cảnh chung đặc biệt nhất vẫn là: Những người lính từ chiến trận trở về.
   Cuộc sống của vợ chồng Hoàng cũng thấy tạm ổn, nếu không muốn nói là rất hạnh phúc. Cả nhà từ ông bà đến các con các cháu khi nào cũng vui vẻ, mỗi lần Hoàng tranh thủ về thăm nhà, không khí gia đình tràn ngập tình yêu thương.
   Những ngày này, đất nước vừa trải qua chiến tranh, điều kiện kinh tế toàn xã hội còn đang khốn khó lắm, nhiều nhà còn thiếu đói, thậm chí đứt bữa. Vậy mà nhà Hoàng, không hiểu tại sao? Mỗi lần Hoàng về thăm nhà, bố mẹ đều gọi các con các cháu đến ăn cơm gia đình, thế nào bố cũng mổ gà hay ngan ngỗng gì đó. Ngoài ra, những ngày Hoàng ở nhà, bữa cơm nào cũng có thịt hay cá. Nhiều lần như vậy nên Hoàng thấy băn khoăn, không dám hỏi bố mẹ.
  Tất nhiên những thứ này là ông bà nuôi được, chỉ để dành khi nào các con các cháu đi công tác về hay là giỗ chạp gì đó, một năm có lẽ cũng đến bốn năm bận như vậy. Những hôm như thế thật là vui, con cháu đông đủ, lại thêm ông bà thông gia nữa, không khí gia đình tràn ngập tiếng cười. Vui thì vui thật, nhưng sau đấy Hoàng không khỏi không nghĩ ngợi đến trách nhiệm của mình.
    Một hôm nằm bên vợ Hoàng thăm dò:
   - Này em, tiền lương của hai vợ chồng mình, em đưa hết cho ông bà à?
   -Không! Em đưa nhưng ông bà không lấy, Ông bà bảo: Anh chị cứ giữ lấy để lo việc nhà cửa của vợ chồng con cái, lương hưu của ông cộng với bán con gà con ngan, mớ rau mớ cỏ, chúng tôi cũng đủ tiêu rồi, khi nào chúng tôi thiếu thì chúng tôi xin. Thấy ông bà nói thế em ngại lắm, em tìm cách nói khéo, đưa cho bà mấy đồng để bà mua quà cho ông. Nói mãi bà mới cầm, nhưng tiền ấy thực ra bà mua quà cho con Cún nhà mình, chứ ông có ăn uống gì đâu. Giả như em có mua đồng quà tấm bánh cho ông bà, thì ông bà lại gọi Cún đâu, thế là Cún ăn trước ông bà ăn sau.
   Hoàng càng băn khoăn nên thắc mắc:
   -Nhưng sao lần nào anh về bố mẹ cứ mổ ngan mổ gà?
   Ánh đèn phòng ngủ lờ mờ, Hoàng thấy vợ mỉm cười đầy bí hiểm và nói với Hoàng:
   -Cái đấy thì em chịu, anh đi mà hỏi ông bà. Mà anh thấy đấy, ngày nào cũng như ngày nào ông bà vác cuốc đi trước, đàn gà đàn ngan lẽo đẽo theo sau, ông bà cuốc xới đến đâu chúng xông vào nhặt giun nhặt dế, ăn đến khi căng cả bụng không còn bước nổi, ông bà mới xua về. Làng xóm mọi người bảo ông mát tay, nên nuôi con gì cũng lớn nhanh như thổi, ăn không hết ông bà còn bán nữa. Có bận, đàn gà bị rù chết mấy con, ông bà ngồi nhìn tiếc đứt ruột. Ông cứ lẩm bẩm, thế này thì Cún của ông ăn cơm với muối rồi.
   -Được cái ông bà chỉ nuôi con chó con mèo, với bầy gia cầm nên, cũng không đến nỗi vất vả. Ông bà không dám nuôi lợn, bà bảo: Nhà neo người không đủ thức ăn cho nó. Ngày xưa phải nuôi vì phải đóng góp tiêu chuẩn thịt cho HTX theo đất 5%, với lại khi ấy con đông nên cố tận dụng đồ ăn thừa, nước vo gạo, củ khoai củ sắn, còn rau cỏ kiếm ở ngoài đồng để chăn nuôi, nuôi đến cả năm cũng chỉ được hai ba mươi cân. Bây giờ các anh các chị lớn hết rồi, có gia đình riêng, chúng tôi thuộc diện hết sức lao động  không còn phải đóng góp gì nên thôi không nuôi nữa. Nuôi nó vất vả lắm, mẹ con Cún có muốn nuôi mẹ giúp một tay. Em thấy mẹ nói thế, em sợ rúm lại nhưng không dám nói gì.
   Ngừng một lát, đến lượt vợ Hoàng thắc mắc:
   -Nhưng mà sao anh lại băn khoăn điều ấy?
   -Anh băn khoăn vì bố mẹ già rồi, thường ngày ăn chẳng dám ăn, cái gì cũng chắt bóp để dành cho con cho cháu. Suốt năm suốt tháng ăn mắm ăn muối, con cái về thì mổ gà mổ ngan. Anh nghĩ thấy thương ông bà quá, em có làm cách gì để bồi dưỡng cho ông bà không?
   -Anh nói vậy, nhưng mẹ lại nói với em là: Mẹ con Cún nhớ phải bồi dưỡng cho bố con Cún, bố nó khi còn bé hay ốm đau sài đẹn, lớn lên đi học rồi đi bộ đội vất vả lắm, lại luôn phải sống xa nhà, không ai chăm sóc, ăn uống thì thiếu thốn khổ sở. Ngay bây giờ cũng vậy, năm thì mười họa mới được về nhà, ở cơ quan toàn ăn cơm tập thể, bếp tập thể mẹ biết rồi, chẳng có bao giờ được nóng sốt cả. Nó về, con tìm cách bồi dưỡng cho nó, ông bà có có đàn gà đấy cứ mổ hết cho bố con nhà nó ăn, nuôi được thì ăn chứ để làm gì…
   -Lại còn chuyện này anh ạ! Mẹ với bác Thịnh bác Nguyệt lúc nào cũng  nhắc: Cái Cún đã gần ba tuổi rồi, đẻ thêm đứa nữa đi để cho nó bế em. Thế mẹ không nói với anh à?
   Hoàng bắt đầu vỡ lẽ điều mình thắc mắc, hắng giọng e hèm kiểu kích động và hỏi vợ:
   -Mẹ, bác Thịnh bác Nguyệt nhắc hay em nhắc? Khai ra!
   Một cái véo như đứt mảng thịt bên hông, Hoàng quay người né tránh, tiện thể ôm choàng lấy vợ. Niềm hạnh phúc ngập tràn Hoàng ôm chặt vợ vào người hôn tới tấp, hôn đến nỗi cả hai không kịp thở nhưng vợ vẫn ghì chặt lấy Hoàng, nói đứt đoạn trong hơi thở gấp:
   -Ông bà còn đang thức đấy! Thôi nào, cứ quờ quạng linh tinh Cún con nó tỉnh dậy bắt gặp ê mặt bố mẹ
   -Mặc kệ!
   Hoàng lại ôm chặt vợ vào lòng, cố kìm hãm sự sung sướng. Vợ ghé vào tai Hoàng nói thì thầm, kiểu khất nợ:
   - Từ từ! Chờ ông bà ngủ say đã…
    Nằm bên vợ Hoàng nhớ đến những ngày đầu hai đứa gặp nhau. Theo lời Nguyệt căn dặn thế ấy thế nọ, đúng 5 giờ chiều Hoàng đến đón Luyến ở cổng trường cấp 2 Bồng Lai, Hoàng không biết Luyến, nhưng Luyến lại biết Hoàng, đấy là nghe Nguyệt nói thế, chứ Hoàng không hỏi tại sao? Trong khi chờ đợi, Hoàng đứng khuất sau gốc cây xà cừ cổ thụ to ở cổng trường. Hoàng cảm thấy yên tâm khi chọn được chỗ này có góc quan sát tuyệt vời, phía trong trường đi ra không ai có thể phát hiện được Hoàng, ngược lại đứng đây Hoàng có thể quan sát sâu vào đến tận sân trường, Luyến đi ra là biết ngay.
   Đứng được một lát, Hoàng nghĩ Nguyệt có vẻ rắc rối, Hoàng với Luyến chưa quen biết gì nhau mà đã đưa với đón. Hoàng lẩm bẩm: Đúng là bà mối nửa mùa. Mà không hiểu động cơ gì mà Nguyệt lại nhiệt tình đến thế? Vì sợ Nguyệt tự ái, nên Hoàng không nói gì cứ lẳng lặng nghe theo. Lúc Hoàng nhận lời đi đón Luyến, Hoàng chỉ có hỏi lại:
   -Anh chưa biết Luyến hình dáng thế nào? Biết ai mà đón?
   -Được rồi! Anh cứ đứng chờ ở cổng đấy, thấy cô gái nào không cao cũng không thấp, không đen cũng không trắng, trông đậm đậm người, tóc tết đuôi sam, hai bím tóc dài đến khoeo đầu gối, dầy đen như tóc em đây này. Cô gái ấy chính là cô giáo Luyến.
   Bây giờ nghĩ lại, Nguyệt vẽ ra việc đi đón Luyến, Hoàng thấy Nguyệt quá thông minh. Hoàn cảnh của Hoàng khi ấy không thể hẹn hò mời Luyến đi chơi được, Luyến đã biết gì về Hoàng đâu mà nhận lời. Mặt khác Hoàng không biết ở quê mọi người làm quen kiểu gì? Hoàng không biết cách đôi khi thành ra quê một cục…
   Mà hình như số phận ấy? Lúc đầu Hoàng sợ Nguyệt tự ái nên Hoàng đồng ý gặp Luyến để cho Nguyệt bằng lòng thôi, chứ thời buổi này ai lại để cho bạn gái làm mai làm mối, như thế mình còn ra thể thống gì. Hơn nữa, Hoàng lúc nào cũng tin vào chính bản thân mình, đã cao to đẹp trai, lại ăn nói có duyên thì chắc chắn sẽ không ế vợ mà chỉ có vợ xấu hay vợ đẹp mà thôi. Thôi thì, cứ giả vờ làm theo chỉ dẫn của Nguyệt xem sao? Nào ngờ, đúng là duyên phận.
   Hôm ấy là buổi chiều cuối Thu đầu Đông không có ánh nắng mặt trời, lũ trẻ tan học ào ra đường. Bọn học trò thoát khỏi sự kìm kẹp của thầy cô được tự do thỏa sức vẫy vùng, chúng í ới rủ nhau cùng về, đứa này thì hỏi điểm bài kiểm tra, đứa kia thì hẹn hò cho mượn sách để chép bài. Mấy ông tướng nghịch ngợm dùng dây buộc tóc của mấy đứa con gái, tóc đứa này nối sang tóc đứa khác, tai quái nhất vẫn là trò viết linh tinh vào tờ giấy, rồi treo vào lưng áo của bạn, bọn trẻ đọc được ôm nhau cười rũ rượi.
   Bây giờ đất nước thanh bình, bọn trẻ mặc sức nô đùa. Đúng là, nhất quỷ nhì ma thứ ba học trò, chúng bầy ra đủ trò để trêu bạn, vui cười thỏa chí, tiếng cười ròn tan âm vang cổng trường. Tâm hồn chúng trong sáng quá, có lẽ trong tâm tưởng của chúng lúc này, không còn hình bóng của chiếc mũ rơm ngày xưa dùng để đội đến trường đi học. Nhìn chúng, Hoàng thấy nao nao, những kỷ niệm của tuổi học trò lại ùa về, ngây ngất…
   Không gian huyên náo. Nhìn bọn trẻ vô tư hồn nhiên, Hoàng tự nhiên thấy mủi lòng, nghĩ mà thương. Hoàng ngày xưa với chúng nó bây giờ cũng chả khác gì nhau, đi học mà quần áo lôi thôi lếch thếch, có gì mặc nấy, đứa thì dép đứa thì giầy, đứa thì chân đất. Sách vở, đứa có cặp, đứa có túi dết cho vào cặp, vào túi đeo trên vai trông còn đỡ, còn những đứa không có túi mà cầm ở tay, thật bôi bác trông chả giống một cậu học trò.
   Đã thế sách vở lại nhầu nát, bẩn thỉu, mực xanh mực tím nhọ nhem dính từ trong ra ngoài, trông không ra hồn quyển sách. Hoàng đoán: Chắc là chúng phải giữ dìn lắm mới được như vậy, bởi vì bố mẹ chúng luôn mồm căn dặn là giữ cẩn thận để cho các em lớn lên có sách mà học. Đúng vậy, có những quyển sách phải qua tay nhiều người sử dụng lắm nên ngấm mùi mồ hôi khét lẹt…Nghĩ thế, Hoàng khẽ lắc đầu.
   Lũ học trò tản ra các ngả ra về, cổng trường vắng vẻ hẳn đi. Bây giờ chỉ còn lại những cây bàng và cây xà cừ cổ thụ đứng lại cùng Hoàng  chờ Luyến, Hoàng chăm chú nhìn vào trong sân trường.
  Kia rồi, người đang chăm chú bước đi kia, chắc chắn là Luyến, không sai được. Tự nhiên Hoàng thấy hồi hộp, tim đập mạnh. Hoàng lùi lại để cho gốc cây che khuất Hoàng, bao nhiêu ý tưởng chuẩn bị trước để nói chuyện với Luyến tự nhiên Hoàng quên biến, Hoàng lúng túng, không biết nên bắt đầu từ đâu.
   Luyến bước đến nhanh quá, không kịp nghĩ nữa rồi, tự nhiên thấy hai tai nóng ran, Hoàng tự trách mình: Rõ chán, mang tiếng chinh chiến khắp mọi nơi, thế mà bây giờ gặp cô giáo quê lại mất bình tĩnh. Đúng là đến ngày chọi thì gẫy mỏ…
(Còn nữa).


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 14 Tháng Bảy, 2014, 10:53:53 am

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Số phận
   -Em chào anh Hoàng!
   Thấy Luyến rất tự nhiên, Hoàng hơi ngại, lúng túng chào lại:
   -Tôi, tôi chào cô giáo! Em là cô giáo Luyến à?
   -Vâng! Em là Luyến.
   -Sao cô giáo Luyến lại biết tên tôi?
   -Chuyện ấy đơn giản mà anh. Chị Nguyệt bảo với em là bạn chị ấy đến đón em, em đoán ngay là anh Hoàng, ngoài anh ra thì chẳng còn ai. Thế anh Hoàng về bao giờ?
   Hoàng nghĩ, cần đổi cách xưng hô cho thân mật, ai lại một điều cô giáo Luyến, hai điều cô giáo Luyến nghe có vẻ như ông đồ nho. Bây giờ Hoàng đã lấy lại được tinh thần và phản công:
   -Tôi cũng mới về được mấy hôm, nhưng sao Luyến lại hỏi tôi về bao giờ? Chắc hẳn là chị Nguyệt đã nói về tôi cho Luyến biết có đúng không?
   -Chả ai nói em cũng biết. Em nói thật với anh chứ bọn con gái quê mùa như chúng em suốt ngày quanh quẩn với ruộng vườn, chẳng được đi đến đâu vì thế ở quê có bao nhiêu anh con trai, xóm trên bao nhiêu xóm dưới bao nhiêu, Tây Sơn bao nhiêu, Đông Yên, Nam Yên bao nhiêu là bọn em biết hết. Anh nào đã hy sinh ở chiến trường, anh nào còn sống, bây giờ các anh làm gì ở đâu đã có vợ con chưa? Bọn em theo dõi thường xuyên, các anh không biết chúng em nhưng chúng em lại biết các anh. Làng này anh với anh Kế nhập ngũ khi ở trường đại học, mà bọn em còn biết nữa là.
   -Thế à? Bọn anh đi ra ngoài làm ăn vất vả nên không có thời gian nghĩ đến việc ấy, đôi khi lại còn nhầm lẫn người này với người kia nữa cơ. Thời gian cứ trôi đi, lớp lớn thì già đi, lớp trẻ lớn lên, mỗi lần về quê nhìn ai cũng thấy lạ.
   -Đúng vậy, với lại các anh còn phải phấn đấu nhiều thứ , thời gian đâu mà nghĩ đến quê. Có nghĩ thì cũng chỉ nghĩ đến bố mẹ anh em ruột thịt, mấy khi nghĩ đến người khác.
    Vừa nói, Luyến vừa đưa mắt nhìn Hoàng dò xét. Hoàng nghĩ thầm, nếu Luyến không được Nguyệt mớm cho thì làm sao mà biết được, đã vậy cứ để yên xem sao? Theo tinh thần ấy, khi Luyến nói chuyện, Hoàng chỉ chú ý lắng nghe và phân tích xem có sự mớm chuyện của Nguyệt không? Hôm nay Hoàng định bụng sẽ cưa sừng làm nghé, giả ngây giả ngô cốt là để ghi điểm với Nguyệt.
    Luyến không hiểu được ý đồ của Hoàng nên cảm thấy có sự gượng ép, Luyến chủ động dục Hoàng:
   -Anh em mình về kẻo tối, nhà em đi về hướng này. Đúng là bắt tội anh Hoàng, em đã nói với chị Nguyệt, chị cứ lấy xe em mà đi, tan trường em đi bộ về nhà cũng được. Thế mà chị rứt khoát không chịu, chị bảo em cứ chờ ở trường chị đã nhờ anh Hoàng bạn chị đến đón.
   -Thì ra vậy!...
   Hoàng định nói: Thì ra Nguyệt lấy xe của Luyến để Hoàng có điều kiện đến đón, nhưng sợ lộ ý đồ của Nguyệt, Hoàng vội chữa ngay:
   -Thì ra vậy! Luyến mới biết tên tôi có đúng không? Tôi nghĩ: Từ bé đến bây giờ tôi mới gặp Luyến lần đầu, làm sao Luyến có thể biết mặt biết tên tôi? Đúng là dấu đầu hở đuôi rồi.
   Thấy tôi mở lời, thái độ có vẻ cởi mở hơn. Luyến nhìn tôi cười không nói gì, nhưng trong suy nghĩ của Luyến chứa đựng ẩn ý: Còn hơn thế nữa ông anh ơi! Chị Nguyệt kể hết về anh cho em nghe rồi.
   Hai đứa lên xe, xe bắt đầu chuyển bánh, cả hai người nặng lắm chỉ hơn một tạ, nhưng không sao lái được, xe cứ ngoặt ngoẹo kiểu như lỏng cồn phốt. Hoàng với Luyến đành phải xuống kiểm tra lại. May mắn phát hiện sớm không thì có khi ngã đau chứ chẳng chơi. Mối hàn rắc co càng đằng trước sắp đứt, không thể đi được nữa.
   Không nói ra, nhưng trong lòng Hoàng thấy có cái gì đó khác thường. Việc xảy ra như thế này, không biết là hữu ý hay vô tình? Chắc là vô tình thôi, xe này Hoàng mượn của ông chú chứ có phải Nguyệt mượn đâu mà hữu ý. Hoàng nghĩ: Dẫu sao cũng có vấn đề, đây có thể là điềm báo trước.
   Hoàng dắt xe, lững thững đi bên Luyến vừa đi vừa nói chuyện, thôi thì đủ loại chuyện, chẳng chuyện nào ăn nhập vào chuyện nào. Toàn là chuyện được trả lời theo câu hỏi, cứ một bên hỏi thì bên kia trả lời.
   Tuy nói chuyện với Luyến, nhưng Hoàng vẫn để ý đến những cái nhìn tò mò của những người đi đường, trong khi ấy Luyến luôn mồm chào hỏi hết người nọ sang người kia. Tận dụng thời gian Luyến nói chuyện với mọi người, Hoàng quan sát Luyến rất nhanh. Ngoài những mô tả ban đầu của Nguyệt về Luyến  ra, Hoàng có nhận xét: Luyến có kiểu dáng trông hao hao giống Thủy, nhưng đậm hơn. Hoàng cười thầm: Lại thon thon hình vại, thoai thoải hình chum nữa rồi. Dáng của Thủy, mọi người ở cơ quan Hoàng hay trêu: Trông con bé dày cùi, lưng chữ cụ vú chữ tâm, kiểu này mắn đẻ lắm đây, cả mái hại sống… Hoàng ơi!
   -Anh Hoàng cười gì vậy?
   Nghe Luyến hỏi đột ngột, Hoàng vội vàng nói tránh đi:
   -Anh cười là vì cô giáo mà nói ngọng, chữ L thành chữ N.
   Luyến cười bẽn lẽn:
   -Thi thoảng em bị thế, mặc dù em đã cố gắng nhưng không sao sửa được, may mà em là giáo viên dậy toán, chứ dậy văn thì chắc là không được.
   Hoàng và Luyến, đi tắt qua cánh đồng đã được cày ải để chuẩn bị đất cho vụ đông. Phía xa xa, sát với núi Bảng là xóm làng trù phú thấp thoáng dưới những lùm cây, khói lam chiều đã lan tỏa trên những mái bếp bay là là lúc ẩn lúc hiện sau những dặng tre. Khắp mọi nẻo đường về làng, rộn rã tiếng cười nói tiếng mõ trâu lốc cốc, miền quê thật là yên bình. Hoàng ngỡ ngàng trước cảnh đẹp bình dị của quê hương, vậy mà lâu nay Hoàng không nhận ra.
   Đến đầu làng mùi khói bếp thơm nồng ngây ngất, đánh thức Hoàng trở về thực tại. Hoàng nghĩ là cần phải chia tay Luyến ở đây, đi sâu vào trong làng thì bất lợi cho Luyến, ở quê thường hay kháo nhau những chuyện lạ ở làng ở xóm. Chuyện Hoàng đưa Luyến về, chả đâu vào đâu cứ đồn thổi linh tinh, từ một thành mười rồi từ mười đến một trăm lúc nào không biết. Hoàng chủ động nói với Luyến:
   -Cho anh xin lỗi vì hôm nay anh không hoàn thành nhiệm vụ mà chị Nguyệt giao, anh hứa sẽ bù vào hôm khác. Còn bây giờ anh em mình chia tay nhau ở đây, anh về đi sửa xe cho ông chú để mai ông ấy đi làm sớm. Luyến thông cảm nhé!
   Dường như đúng với suy nghĩ của Luyến, nên Luyến đồng ý ngay:
   -Có gì đâu mà anh phải xin lỗi, bọn em được đi bộ và nghe chuyện của anh cán bộ trung ương là bọn em thấy thích lắm rồi. Giá như ngày nào cũng như thế này, thì bọn em chả mấy chốc mà tiến bộ, nếu có đi ra phố hay đến chỗ đông người thì cũng tự tin hơn.
   -Anh sợ em không giữ lời, đến lúc anh mời em đi chơi thì em lại từ chối.
   Luyến cười, không nói gì. Đứng nhìn, cho tới khi Hoàng đi khuất sau dặng tre đầu làng mới đi về nhà.
   Lần đầu tiên là như vậy, Hoàng những tưởng mọi chuyện sẽ qua đi và Hoàng cũng quên luôn. Thế rồi lần sau, lần sau nữa, tóm lại nhiều lần lắm, Nguyệt với chị Thịnh bầy binh bố trận để Hoàng với Luyến gặp nhau. Đồng thời, cả hai người mở những đợt vận động bố mẹ Hoàng và bố mẹ Luyến cho hai đứa đi lại với nhau.
   Chuyện ấy thì quá đơn giản, cả hai gia đình Hoàng và gia đình Luyến tuy không cùng làng, nhưng cũng hơi biết về nhau, những cái gì còn băn khoăn thắc mắc, chỉ cần dỉ tai với các bà hàng xóm nhân phiên chợ Bút là rõ hết. Được cái bố mẹ Hoàng cũng thuộc loại dễ tính, không kén chọn khắt khe lắm, với lại lúc chưa biết Luyến thì nghe Nguyệt tả, bà mẹ Hoàng đã thấy ưng rồi, bây giờ nhìn thấy dáng của Luyến như thế bà tủm tỉm cười và bà đồng ý ngay. Còn bố Hoàng, khi nào cũng tôn trọng quyết định của Hoàng. Về phía nhà Luyến hoàn toàn không có ý kiến gì, chỉ có lăn tăn là Hoàng hơi cứng tuổi so với Luyến, Hoàng đã 32 tuổi mà Luyến chưa đầy 25 tuổi.
   Cũng không biết từ đâu, bây giờ Hoàng cũng không còn nhớ lý do tại sao? Mà Hoàng lại mời được Nguyệt với Luyến đi chơi. Ngay hè năm ấy, Nguyệt với Luyến lên Hòa Bình chơi, thăm Hoàng. Ngày ấy, công trình thủy điện Hòa Bình đang thi công còn ngổn ngang, ấy là những hạng mục công trình chính đã chui vào lòng đất, trên mặt đất chỉ còn lại một vài hạng mục thôi.
   Hoàng đưa Nguyệt với Luyến đi thăm khắp mọi nơi, hai người có vẻ phấn khởi lắm. Không biết phấn khởi vì lý do gì? Do được đi chơi thăm thú chỗ nọ chỗ kia, thăm một công trường to lớn và vĩ đại nhất Đông Nam Á. Hay phấn khởi vì mưu đồ lớn của Nguyệt đang đến ngày thắng lợi, sắp sửa ván đóng thành thuyền, chuẩn bị cắt băng khánh thành và đốt pháo ăn mừng…
   Hai người, mới tối hôm qua còn say lả lướt. Thế mà hôm nay khỏe lại bình thường, đi chơi hết cả buổi sáng, buổi trưa ra chợ Phương Lâm ăn phở và các thứ hoa quả linh tinh rồi lại đi tiếp, cả ba anh em đi không biết mệt mỏi, Luyến lúc nào cũng cười cười nói nói vui như tết.
    Đến tối. Chưa ăn song bữa tối, Nguyệt với Luyến, đã trình bầy lý do để đòi về rồi. Hoàng thuyết phục thế nào cũng không được, đành chịu. Tối hôm ấy mới 9 giờ, Nguyệt lấy lý do mệt đi ngủ sớm. Động tác ấy của Nguyệt, Hoàng với Luyến biết thừa, nhưng trong thâm tâm hai đứa đều muốn thế nên không nói gì, coi như đồng ý. Trong phòng chỉ có Hoàng và Luyến ngồi nói chuyện với nhau.
   Lúc đầu, Luyến hăng say nói về cảm nhận của mình lần đầu tiên được đi chơi và lại được đi xa nhà, Luyến nhìn thấy mọi thứ đều lạ lẫm, được nhìn thấy nhà sàn của người dân tộc, được biết cối gạo nương bên suối, được nhìn thấy con trai con gái của người dân tộc nói chuyện với nhau trong phiên chợ v.v. Đúng là làm nhề nào ăn nghề ấy, Luyến nói nhiều lắm, hết chuyện nọ kéo sang chuyện kia. Hoàng chỉ biết ngồi nhìn và tủm tỉm cười về sự ngây ngô thiếu thực tế một cách đáng yêu của các cô giáo trẻ. Sao mà giống Thủy thế?
   Sau những chuyện ấy, đến mục gọi là tâm sự đêm khuya. Nhẽ ra Luyến phải nói hay kể những gì có liên quan đến tình yêu đôi lứa, hay đại loại là cái gì đấy có dính dáng đến yêu đương. Đằng này, Luyến toàn kể về Nguyệt.
    Một thời gian dài quen Luyến, đã nhiều lần Luyến kể về Nguyệt, nhưng hôm nay Hoàng mới được nghe một tình tiết về Nguyệt mà bấy lâu nay Hoàng chỉ mơ hồ phỏng đoán, kết quả đúng sai thường 50- 50. Bây giờ Hoàng khẳng định: Vậy là có thực, Nguyệt yêu Hoàng, một tình yêu đơn Phương.
(Còn nữa).
   


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: vanthang341ht trong 14 Tháng Bảy, 2014, 02:27:05 pm
    Chào bạn quanvietnam.
    Đọc đoạn viết trên đây làm tôi tò mò thêm. Không biết Luyến hay Nguyệt yêu Hoàng nữa. Lính trinh sát kể chuyện tình yêu hay thật. Tôi đang chờ đọc tiếp của bạn đây.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: Vixuyen-hg trong 14 Tháng Bảy, 2014, 03:52:57 pm
Chào bác quanvietnam
Em vẫn theo từng chữ bác viết đấy
Em muốn biết cô  giáo Thuỷ ở miền núi nữa
Giờ cô Luyến Cô Nguyệt bác này có duyên thật
Bác chọn ai ......  Theo em cả đi bác ơi
Chúc bác khỏe viết đều tay



Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 16 Tháng Bảy, 2014, 09:29:17 am
Cám ơn tất cả các đọc giả! Cám ơn anh Vixuyên -hg! Xin anh đừng nhầm.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 21 Tháng Bảy, 2014, 09:26:19 am

CHUYỆN SAU CHIẾN
6- Số Phận
          Hoàng lật đến trang Khoa viết về cái đêm ấy, Khoa gọi là đêm định mệnh, đêm quyết định số phận của một đời người.
     …Những tâm sự của Hoàng đêm hôm ấy, tôi coi nó như là một  mệnh lệnh, đồng thời cũng là lời động viên an ủi của người lính đã từng sống chết có nhau, đã từng nằm kề bên nhau, chờ giặc đến, đầu núi trăng treo…
   Vậy đấy! Tình cảm của những người lính bình thường giản dị, song sao nó thiêng liêng đến thế, có lẽ nó là sự chân thành, nó là máu thịt của những người lính đã kết tinh lại để hun đúc lên. Hình như chất lính, biểu tượng của tính nhân văn và lòng vị tha, đã ăn sâu vào tâm khảm của những người đã từng là lính…
   Tôi còn nhớ, giọng của Hoàng lúc ấy như gằn lại, nó nói vừa đủ nghe nhưng sao tôi cảm thấy nó sang sảng bên tai tôi. Hoàng không xưng hô ông ông tôi tôi như mọi khi, mà Hoàng xưng hô mày, tao để tỏ tình thân ái, Hoàng bảo:
   -Tao không xét đến chuyện Xuân nó nói đúng hay ai đó nói là nó dựng chuyện lên. Cho dù thế nào, ở hoàn cảnh này nhân chứng vật chứng không ủng hộ mày, mà đang ủng hộ cho Xuân. Vì vậy, theo tao mày không thể làm khác được, nếu mày làm khác xem như mày chạy trốn, mà hành động chạy trốn của mày, đời đời bị nguyền rủa. Làm trai cho đáng nên trai, dám làm dám chịu. Có gan ăn muống có gan lội hồ, xá gì. Mà cái Xuân đâu có đến nỗi nào?
   Ngừng một lát, Hoàng chờ phản ứng từ phía tôi, nhưng nó không thấy tôi nói gì, nó lại tiếp:
  -Cho dù Xuân có thể nói thật hay không thật đi chăng nữa, cũng không sao. Đạo Phật cũng đã răn dậy: Cứu được một người phúc đẳng hà sa. Vậy mày cứ coi như mày là một Phật tử của Phật tổ đi, làm được việc ấy kiếp sau ắt mày không phải lặn lội ở chín tầng địa ngục, việc làm phúc đức của mày sẽ mau chóng đưa mày  trở lại đầu thai kiếp người. Thuyết nhân quả mà.
  -Mặt khác, tao nghĩ: Mày cần đối mặt với sự thật này. Điều này chưa hẳn đã bất lợi với mày. Bởi vì, vấn đề quan trọng nhất mà chính bản thân mày cũng không còn biết, không còn nhớ chuyện đã xảy ra như thế nào? Làm sao có thể bàng quang với sự đau khổ của người khác?
  -Cái gì nó cũng có giá của nó, nhưng thời điểm quyết định rất quan trọng, đôi khi trả giá ít, nhưng cũng có khi phải trả giá cho cả cuộc đời. Tóm lại, không ai có thể tính trước được nên có câu để xem con tạo xoay vần ra sao, với lại cổ nhân đã dậy: Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Mưu sự là do chủ quan con người xắp đặt, thành công hay không lại do ông Trời quyết định. Nói đi nói lại âu nó là số phận của một con người.

    Tôi còn rất nhiều điều trăn trở, trong lòng ngổn ngang trăm mối tơ vò. Đúng thôi, đã là con người thì bản tính ích kỷ lúc nào cũng thường trực, những lúc như vậy thường là sự so sánh thiệt hơn, mất còn v.v. Nói thật công bằng: Chẳng dễ gì tôi vượt qua được tôi lúc ấy, vì tôi cũng chỉ là con người bình thường như bao nhiêu người khác. Điều khó khăn nhất đối với tôi là tôi không có tình yêu đối với Xuân, chưa bao giờ tôi có cảm giác là tôi yêu Xuân, còn tại thời điểm này có chăng chỉ là tình thương mà thôi.
    Yêu với thương khác nhau như thế nào? Tôi cũng không phân biệt được rõ ràng gianh giới. Ngày trước tôi cũng đã từng yêu, tình yêu của tôi không biết có giống  như những người khác không? Thú thực là tôi mơ hồ về tình yêu. Tình yêu nó như thế nào? Cụ thể ra sao? Chắc nhiều người có thể nói lên viết lên vẽ lên hoặc làm bất cứ việc gì để mô tả  đầy đủ được tình yêu.
   Nhưng với tôi thì tôi chỉ nghĩ đơn giản: Tình yêu là sự cảm thông sẻ chia cho nhau tất cả những gì mà cuộc sống phải trải qua. Xa nhau là nhớ nhau, không thể sống thiếu nhau trên cõi đời này v.v. Đến bây giờ tôi cũng chỉ hiểu được như vậy. Nếu tôi mang quan điểm này để so sánh tình cảm của tôi với Xuân, thì tôi chỉ có tình thương.
   Biết làm sao bây giờ? Nhưng may cho tôi là tôi đã có thời gian sống trong quân đội, tôi đã được rèn luyện và cùng đồng đội vượt qua khó khăn gian khổ, tôi đã từng cầm súng chiến đấu, tôi đã đối diện với cái chết. Trải qua những phút giây ấy, mới thiết tha yêu cuộc sống, mới trân trọng những gì đã có, mới quý trọng tình cảm giữa con người với con người, mới khát khao hạnh phúc lứa đôi…
   Tôi nhủ thầm: Dù khó khăn vất vả tôi quyết tâm vượt qua thử thách này bằng lương tâm và trách nhiệm.
   Đám cưới tôi với Xuân được tổ chức, gọi là đám cưới thế thôi, nhưng không đầy đủ thủ tục cưới hỏi như những đám khác. Song cái chính là chúng tôi vẫn thành vợ chồng, pháp luật công nhận. Cả hai đứa chúng tôi đều con nhà nghèo, tổ chức cưới gấp gáp quá nên hai bên gia đình không kịp chuẩn bị. Hơn nữa, thời gian ấy bố Xuân ốm nặng, chắc là không ở lại thêm được với các con nữa nên cưới càng nhanh càng tốt. Thật là may mắn, cưới hôm trước thì hôm sau chúng tôi phải về quê chịu tang.
    Hoàn cảnh gia đình, điều kiện xã hội lúc chúng tôi lấy nhau hết sức khó khăn. Khi ấy đất nước vừa mới trải qua cuộc chiến tranh kéo dài hơn hai mươi năm, cơ sở vật chất xã hội nghèo nàn lạc hậu, năng suất lao động thấp, trình độ quản lý xã hội yếu kém, quan liêu bao cấp hách dịch, tình trạng phân phối lưu thông không hợp lý ngăn sông cấm chợ, tệ nạn xã hội tham ô hối lộ, trộm cắp lan tràn khắp mọi nơi, đời sống nhân dân đói khổ… Hoàn cảnh đất nước như vậy, thì nhà tôi và nhà Xuân có thể trợ giúp được gì cho đôi vợ chồng mới cưới?
    Chúng tôi bắt đầu cuộc sống vợ chồng, trong điều kiện xã hội như vậy. Ngoài tiêu chuẩn phân phối giường chiếu mùng màn ra thì chẳng có gì nữa, mà tất cả những thứ đó đều phải mua ở Hòa Bình, vì chúng tôi hộ khẩu Hòa Bình. Từ Hà Nội lên tận Hòa Bình để mua những thứ ấy, tôi ngại quá đành thôi luôn. Giường cưới là hai giường cá nhân ghép vào, chăn gối mùng màn toàn là đồ cũ cải biên sửa lại. Quà cưới của cơ quan bạn bè tặng cho hai đứa, chủ yếu là xoong nồi chậu nhôm. Cái thì ít quá, cái lại nhiều quá, những 3 cái mâm, 2 cái chậu, chỉ có mỗi cái xoong, thế là cái thừa thì cất đi, cái thiếu vẫn phải mua sắm cho đủ.
   Cuộc sống của đôi vợ chồng mới cưới lúc ban đầu là như vậy. Tôi thì không sao bởi vì tôi đã là lính chiến trường, nên dù khó khăn gian khổ như thế nào thì những người lính cũng sẽ vượt qua. Tôi chỉ thương cho Xuân, vừa mới rời ghế nhà còn đang ngơ ngác giữa trường đời, chưa có vốn sống và kinh nghiệm sống mà đã phải bước vào con đường chồng con với hai bàn tay trắng.
   Cơ quan phân cho chúng tôi nửa gian nhà, diện tích 8m2, ngăn cách nửa gian còn lại bằng những tấm cót được nẹp lại với nhau một cách tạm bợ. Điều kiện ấy, để sinh hoạt vợ chồng phải che chăn che màn kín đáo, dán thêm báo vào những chỗ thủng, nếu không thế  bên kia họ sẽ nhìn thấy. Oái ăm nhất là giường nhà bên này phải đối đầu với giường nhà bên kia, bởi vì chỉ kê như vậy mới kê được giường. Hai giường đấu đầu nhau chỉ cần thở to cũng nghe thấy, thành ra mọi sinh hoạt đều bị ức chế.
   Song song, đối diện với chiếc giường là chỗ dựng xe đạp và một số vật dụng linh tinh, xếp chồng lên nhau, xếp không khéo sẽ choán hết cửa ra vào. Khoảng trống còn lại duy nhất trong nhà là từ giường ra đến xe đạp, độ chừng 1,5 m2, dài 2,4m rộng độ 0,5 đến 0,6m. Thường thường để cho rộng nhà, những vật dụng nào có giá trị thấp, sáng ngủ dậy mang ra hè xếp lại, khi nào dùng mới lôi ra. Quan trọng nhất và cũng là giá trị nhất là chiếc xe đạp thống nhất, sau là cái bếp dầu là không dám mang ra khỏi nhà khi đi vắng, ngay từ hai cái xô dùng để xếp hàng lấy nước cũng không dám mang ra vì sợ mất.
  May mà bàn ghế không có, mà có thì cũng không có chỗ kê. Bếp dầu, đồ ăn thức uống mắm muối, tất cả đều nhét dưới gầm giường, đến bữa mang ra ngoài hè để nấu nướng. Rõ ràng sống ở trên cạn, mà như sống dưới thuyền chài, tất cả đều diễn ra trên giường. Khổ nhất là khi nhà có khách, đã thiếu thốn về lương thực thực phẩm thì chớ, lại còn phải lo chỗ ăn chỗ ngủ cho khách nữa. Gặp trường hợp ấy, lo đến tái mặt.
    Thế đấy! Của nả gia tài của đôi vợ chồng trẻ chỉ có vậy. Lính chiến trường trở về mà, lấy đâu ra? May mắn là được trở về mà lại lành lặn, lấy được vợ, thế là tốt lắm rồi. Tôi luôn tự an ủi mình và động viên vợ, hãy bằng lòng với những gì mình đã có.
   Nhiều đồng chí đồng đội của mình có được trở về đâu, họ đã vĩnh viễn nằm lại nơi chiến trường xa lắc, xa quê hương xa nơi chôn nhau cắt rốn. Trên đời này có cái gì thiệt thòi hơn thế? Những người đã ngã xuống không còn được tận hưởng những giây phút hạnh phúc vợ chồng, những giây phút mà ai ai cũng mong ước trong đời.
   Cũng có những người may mắn hơn những người đã hy sinh là được sống trở về. Nhưng khi trở về, hình dạng méo mó khiếm khuyết, chiến tranh đã cướp đi của họ một số bộ phận của cơ thể, họ không được tròn trĩnh như lúc cha mẹ dứt ruột sinh ra. Vẫn biết chiến tranh là như vậy, nhưng thật là ngiệt ngã: Đã là cơ thể sống thì phải sống, họ phải gồng mình để sống như mọi người. Người lành lặn khó một, thương bệnh binh khó mười, họ cố sống tàn nhưng không phế. Thực ra là họ phải lo cho họ, nếu họ không lo cho họ, cho vợ con họ thì ai sẽ lo cho họ đây? Trong tâm tưởng khi nhìn về quá khứ, đôi lúc họ cũng thấy nuối tiếc: Giá như mình được đi học ở nước ngoài…
    Đọc đến chỗ quyển sổ bị xé mất mấy trang. Hoàng nhắm mắt lại,  không đọc nữa, những dòng chữ như thiên binh vạn mã đang nhảy múa trong mắt Hoàng.
  Hồi tâm lại, Hoàng nhớ ra: Những trang này là Khoa xé đi. Một hôm do tò mò, Hoàng cứ gặng hỏi mãi là tại sao? Khoa nhếch mép cười mỉa mai:
   -Đoạn ấy tôi viết về tội của tôi, một lũ người họ đại diện cho cơ quan ghép cho tôi cái tội quan hệ nam nữ không trong sáng. Thật là nực cười, đúng là một lũ điên. Tôi xé đi là vì tôi không muốn để lại những dư âm của lũ người ấy làm hoen ố trang sách của tôi. Tôi coi trên thế gian này không có những hạng người ấy, hay nói đúng hơn là tôi không điên như lũ người ấy.
   Tất nhiên họ đã quy kết tội cho tôi thì họ cũng có lý lẽ của họ, và tôi chỉ là thiểu số, biết làm sao được. Đến khi đứa con được sinh ra, tôi có đầy đủ cơ sở, tôi định làm cho to chuyện. Nhưng vợ chồng tôi nghĩ lại, những người cố ý hãm hại tôi cũng toàn là người quen cả, chắc họ tự xấu hổ với bản thân họ. Việc đã xảy ra rồi, làm sao lấy lại được.
(Còn nữa).
   
   


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: Vixuyen-hg trong 24 Tháng Bảy, 2014, 02:24:04 pm
Chào bác quanvietnam
Cảm ơn bác nhiều
Bác tiếp tục đi ạ


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 28 Tháng Bảy, 2014, 09:41:35 am

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Số Phận
     Hoàng lật lật đến đoạn Khoa viết: Tôi chuẩn bị làm bố, tự nhiên dừng lại và chăm chú đọc.
     …Trong tôi, tự nhiên xuất hiện nhiều cảm giác mới lạ mà trước kia tôi chưa từng thấy bao giờ, khi hồi hộp thấp thỏm, lúc lo lắng chờ đợi. Những cảm giác vui buồn lẫn lộn đan xen vào nhau thật khó tả, hình như vui là rất vui, nhưng đâu đó vẫn thoáng xuất hiện sự lo âu. May mà vợ tôi đang sống những ngày hạnh phúc, lúc nào cũng vui vẻ bên chồng nên không phát hiện sự lo lắng của tôi lúc bấy giờ.
   Không vui sao được, khi chúng tôi biết chúng tôi sắp có con. Vợ tôi đang mang trong mình giọt máu của tôi, một sinh linh bé nhỏ từng ngày từng giờ đang lớn dần lên trong bụng vợ tôi. Sung sướng quá hạnh phúc quá, nhiều đêm tôi không ngủ được, tôi im lặng không dám trằn trọc sợ vợ không ngủ được sẽ ảnh hưởng đến đứa con trong bụng.
   Chỉ nghĩ đến việc đón đứa con ra đời thôi, cho dù nó là trai hay là gái, là tôi đã sướng run lên rồi, tôi nhủ thầm: Tôi sẽ giành tất cả những gì tốt đẹp nhất cho đứa con bé bỏng của tôi. Điều mà tôi mong ước nhất bây giờ là khi nó sinh ra là mẹ tròn con vuông, được như vậy là tôi mãn nguyện lắm rồi. Cầu Trời, lạy Phật phụ hộ độ trì cho chúng con, những người lính gian lao vì Tổ Quốc, chỉ mong có được hạnh phúc bình thường như biết bao người khác.
   Mấy ai có thể hiểu được tâm trạng của những người lính sau chiến tranh, ngoài những lo toan miếng cơm manh áo đời thường ra, họ vẫn còn nhiều nỗi lo, nỗi lo về họ, về đường con cái của họ. Liệu họ có khả năng sinh sản được nữa không? Khi mà chiến trường kẻ địch rải chất độc mầu da cam, khi mà những cơn sốt rét ác tính ập đến phải điều trị thuốc sốt rét liều cao và dài ngày. Khi mà tâm lý, sinh lý bị ức chế triền miên bởi cuộc chiến tranh ác liệt v.v.
    Nếu còn khả năng sinh sản thì những đứa con mà họ sinh ra nó như thế nào? Họ hiểu và họ biết, họ hồi hộp lo sợ và ngàn lần không bao giờ muốn nghĩ đến điều bất hạnh, sự bất hạnh ấy là thảm họa đới với những người lính. Nhưng có một sự thật không thể chối bỏ là: Những thảm họa khủng khiếp ấy nó sẽ đến, chỉ có điều nó rơi vào ai mà thôi, những người phải chịu số phận ấy thật là xấu số và bất hạnh.
   Sợ hãi, nhưng không thể tránh được bởỉ vì: Trong chiến tranh, những người lính không còn con đường nào khác là phải đối mặt với chiến tranh. Ngoài bom đạn gây ra sự chết chóc, họ vẫn còn phải đối mặt  nhiều thứ hiểm nguy khác, hàng ngày hàng giờ rình rập cướp đi sinh mạng của họ bất cứ lúc nào.
   Chất độc hóa học âm ỷ xâm nhập và từ từ hủy hoại cơ thể, sốt rét rừng, rắn độc thú dữ, điều kiện sinh hoạt khó khăn gian khổ và nhiều thứ khác nữa cũng làm cho sức khỏe người lính bị suy kiệt. Lại còn đủ thứ bệnh tật, hầu như tất cả những người lính trước khi nhập ngũ, là những thanh niên sức khỏe tốt, hừng hực khí thế giết giặc lập công.
    Khi chiến tranh kết thúc, người lính trở về địa phương, bệnh tật cũng theo về hành hạ cuộc đời họ. Người đã có vợ con, thì vợ con hầu hạ phục vụ, người chưa có vợ thì khó lấy vợ, lấy được vợ rồi chưa chắc đã sinh được con. Sinh được con rồi chưa chắc đã mẹ tròn con vuông. Thôi thì đủ thứ phức tạp, muôn vàn nỗi lo…
   Tôi chìm vào giấc ngủ lúc nào không hay biết. Không khí ngột ngạt của căn phòng đóng kín cửa làm tôi khó thở và tỉnh giấc. Tôi nghĩ là phải mở hé hé cửa sổ cho nó thoáng khí, căn phòng 16m2 phân ra cho hai gia đình mỗi bên một nửa, nồng nặc đủ thứ mùi, mùi ẩm mốc mùi mắm muối, mùi bếp dầu, đặc chưng nhất là mùi người.
   Tôi nằm im nghe ngóng xem vợ tôi thức hay ngủ, không thấy có cựa quậy gì, chắc là ngủ say. Tôi nhẹ nhàng như chú mèo từ từ hé mở của sổ, một luồng khí mát ùa vào căn phòng, tôi thấy thoải mái. Như thế này là tôi sẽ khó ngủ lại, tôi quyết định mở cửa ra ngoài ngồi hít thở không khí.
    Bây giờ đã quá nửa đêm, ngoài trời không gian tĩnh mịch. Ánh sáng vàng khè yếu ớt của bóng đèn bảo vệ phía vòi nước công cộng chiếu lờ mờ xuyên qua kẽ lá phi lao hắt lên tường của nhà đối diện, mấy con thạch thùng chạy đuổi nhau trên trần nhà nghe rào rào.
   Những lúc như thế này, tôi nhớ đến những phiên đổi gác. Tôi thuộc loại lớn tuổi nhất tiểu đội, đứa nào cũng muốn gác trước hoặc sau phiên gác của tôi. Lý do mà anh em thích như vậy là vì chúng chày cối để được ngủ thêm một tý nữa cho đỡ thèm, đứa gác trước nó biết tôi sẽ thay gác sớm, đứa gác sau tôi gọi mãi nó cũng không dậy. Thương chúng nó tôi cũng chẳng nỡ lòng nào mà mắng mỏ, đáp lại lòng tốt của tôi chúng nó phong cho tôi là anh già ít ngủ.
   Chiến tranh đã qua đi, người còn sống, người đã hy sinh, người là thương binh người là bệnh binh, thôi thì đủ mọi hình thức. Những người lính hy sinh vì bom đạn thì đi một nhẽ, bởi vì nó là tất yếu của chiến tranh, thiệt thòi thì thiệt thòi thật. Song dẫu sao họ cũng đã hoàn thành sứ mệnh cao cả mà Tổ Quốc giao cho họ.
   Linh hồn của họ thanh thoát, đi chu du thiên hạ thăm viếng bạn bè người thân. Ngày giỗ ngày tết, qua khói hương họ về với tổ tiên ông bà để tận hưởng sự hiếu thảo của con cháu. Những con người ấy, thác xuống là hiển linh phù hộ cho những người còn sống. Cuộc sống của họ tuy ngắn ngủi, song tên tuổi của họ là vĩnh hằng, linh hồn của họ siêu thoát anh linh muôn thuở.
   Những người là thương bệnh binh hiện còn đang sống, tôi không biết nói thế nào? Bảo rằng họ sướng cũng đúng, mà bảo rằng họ khổ cũng đúng. Vì sao lại như vậy? Đơn giản là chính bản thân họ cũng không muốn nói những điều sướng khổ đó ra. Họ ninh nấu trong lòng: Tự cứu lấy mình thôi, không ai thương mình bằng chính bản thân mình đâu. Nói ra để làm gì? Để cầu xin sự bố thí của người khác à? Gặp người tốt thì người ta thông cảm, gặp kẻ sấu nó phỉ nhổ: Ai bảo mày đi bộ đội? Mày ngu thì mày chết, kêu khóc gì. Vậy đấy! Nhục lắm, mấy ai hiểu cho?
   Cũng là những người thương bệnh binh ấy, khi họ ở nhà với vợ với con lại khác, lúc nào cũng cố thể hiện mình là chỗ dựa vững chắc cho gia đình. Vết thương tái phát. Đau đấy, tức ngực khó thở đấy, nhưng dấu không cho vợ con biết mà cố chịu đựng. Họ sợ để  cho vợ con biết thì vợ con lại buồn. Thương chồng, thương bố để rồi bán thốc bán tháo những thứ gì bán được, mong chữa lành bệnh cho bố, còn ngày mai sống ra sao thì chưa biết? Mỗi lần như vậy, vợ lại xoa bóp chỗ đau rồi an ủi: Trời sinh voi thì trời sinh cỏ lo gì, miễn là bố nó khỏi bệnh là mẹ con em mừng lắm rồi.
   Ngược lại họ không nói ra, nhưng đã bấm nát đầu ngón tay tính ngày tính tháng, xem trong nhà có gì sắp đến ngày thu hoạch để mang bán. Sợ cả nhà tập trung vào chữa bệnh cho mình thì lấy đâu ra tiền đóng tiền học phí để con đi học, lấy đâu ra tiền để dọi lại mái nhà, sửa lại cái sân cái giếng đã bao năm dột nát, khô cạn. Trông vào con lợn con gà thì còn nhỏ quá, phải vài tháng nữa mới bán được v.v.
   Cứ thế người nọ nghĩ cho người kia thành ra luẩn quẩn, không thoát ra được. Thế rồi anh CCB tặc lưỡi, đọc mấy câu tục ngữ như những câu thần chú để an ủi mình: Sống chết có số; Trông lên thì chẳng bằng ai, nhìn xuống chưa ai bằng mình… Họ cắn chặt môi và im lặng.
   Đọc đến đoạn này, Hoàng nhớ có lần Hoàng cự lại Khoa. Hoàng bảo:
   -Sao ông cứ ôm mãi những kỷ niệm buồn,  như vậy liệu ông giải quyết được gì? Hãy lạc quan để mà sống chứ?
   Khoa vẫn chậm dãi từ tốn, giọng buồn buồn nói với Hoàng:
   -Có lần ông nói với tôi, ông lại quên rồi à? Ông bảo: Tính nết của ông như thế thì khổ cả đời, tôi thấy đúng nên tôi có cãi ông đâu? Thế ông không nhớ cổ nhân đã dậy là: Cha mẹ sinh người trời sinh tính. Tính của tôi như vậy là trời sinh nên khó sửa lắm. Với lại: Giang san dễ đổi bản tính khó dời… Mà tôi có ôm kỷ niệm buồn đâu? Những điều tôi viết ông đọc đều là hiện hữu cả đấy, chuyện có thật mắt thấy tay sờ, chắc là ông không để ý.
   -Tôi biết là chuyện có thật, nhưng mà nói ra thì giải quyết được gì? Chỉ tổ buồn thêm.
   -Ô! Ông này hay thật. Tại sao lại buồn? Ông không nghĩ rằng chuyện chúng ta làm ngày hôm nay, không phải chỉ có giá trị ngày hôm nay, mà nó còn có giá trị cho ngày hôm sau và đôi khi là mãi mãi. Chuyện lúc chúng ta làm là hoàn cảnh là thời thế, thời thế thế thời thời phải thế.
  -Tất nhiên là sẽ có đúng có sai, ông thấy có đúng không? Nhưng có một điều khẳng định: Tất cả những cái mới đều xuất phát từ cái cũ, nếu không có cũ thì làm gì có mới, không có cái sai thì làm sao có cái đúng? Ông quên rằng: Cuốn tự truyện này tôi viết trên tinh thần nhớ lại những năm tháng đã qua, đấy là cái cũ. Ông với tôi không phải là người đọc, mà chúng ta là những người trong cốt chuyện.
  -Vậy ai là người đọc? Tôi đã nói với ông: Tôi không có tham vọng viết cho người khác đọc, tham vọng của tôi chỉ để cho vợ con tôi đọc. Như thế là quá nhỏ nhoi phải không ông? Tôi chỉ cần như vậy thôi và họ sẽ là người làm ra cái mới. Tất nhiên khi ấy, tôi không biết cái mới là thế nào? Nhưng trong lòng tôi cảm thấy thanh thản, vì tôi đã bộc bạch được quá khứ, mà không sợ vợ con phán xét đúng sai.
   -Với lại tôi cũng còn một tham vọng nữa, không biết có thành công không? Đó là những điều thường ngày, vì lý do gì đấy vợ chồng không tiện nói ra, hay là nói ra khi ấy là không hợp với không gian và thời gian. Cũng có những điều chưa kịp nói, chưa kịp xin lỗi hay, cám ơn người khác trong suốt quá trình sống và làm việc. Hoặc là những điều trong đầu nghĩ là: Sống để dạ chết mang đi, nhưng đến phút cuối lại muốn nói ra v.v. Tôi hy vọng, cuốn tự truyện này sẽ làm được điều ấy.
   Không thể tranh luận được với mớ lý sự cùn của Khoa, Hoàng nhìn Khoa lắc đầu.
(Còn nữa).




















Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 07 Tháng Tám, 2014, 09:55:15 am

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Số phận
           Hoàng đoán là Nguyệt chưa ngủ, nên ra hiệu cho Luyến ra ngoài nói chuyện. Luyến đi theo Hoàng, hai đứa ngồi vào chiếc ghế đá dưới gốc nhãn trong vườn của nhà khách. Mùi hoa Sói thơm ngan ngát, phảng phất trong vườn. Thi thoảng có những cơn gió hiu hiu từ đầm Phương Lâm thổi vào, bụi hoa giong giềng khẽ đu đưa.
  Hoàng nhìn đồng hồ mới hơn 9 giờ tối, thảo nào nhà khách còn đông đúc thế. Các ghế trong vườn hoa gần như ghế nào cũng có người ngồi hóng mát, ngồi gần ghế với Hoàng và Luyến, là ghế của một cặp vợ chồng lên thăm nhau. Qua câu chuyện của họ Hoàng biết là họ chưa có con, nên họ nói với nhau chỉ xoay quanh chủ đề con cái.
   Luyến bắt đầu câu chuyện vào những năm 1972, Luyến kể:
   Chị Nguyệt rất thân với chị Lưu, chị gái em. Thân đến nỗi con chấy cũng cắn làm đôi mỗi người một nửa, hai chị cùng làm công tác đoàn thể của xã, lúc nào cũng cặp kè bên nhau như hình với bóng, làng xóm trong này với làng xóm ở ngoài ấy ai ai cũng bảo chúng nó còn hơn cả chị em ruột. Mọi người hay đùa bảo: Có khi chúng mày lấy chung một chồng cũng không xảy ra điều tiếng gì.
   Ngày ấy, trai làng đi bộ đội, làng quê vắng vẻ đìu hưu, đi đâu cũng chỉ thấy ông già bà cả với lũ trẻ nhỏ. Các chị ấy thuộc loại lớn còn bọn em khi ấy vừa bước qua tuổi thiếu niên. Thi thoảng cũng nghe các chị ấy thầm thì với nhau: Thế này ế chồng mất mày ạ! Chả lẽ lại lấy cái thằng Sáng, thằng Dăm? Đứa thì mồm méo xệch, mắt lác rớt rãi, đứa thì khèo tay khèo chân v.v. Lúc bấy giờ, chỉ có những người như vậy mới ở nhà, còn đâu là nhập ngũ hết.
   May cho chị Lưu nhà em, chả hiểu sao hay là do bạn bè giới thiệu mà anh Bằng là công nhân của xưởng X15, đóng trong núi Bảng đến nhà em chơi vài ba lần gì đó, sau ít bữa bố anh Bằng vào xin cưới. Ban đầu bố mẹ em chưa đồng ý vì nhanh quá, gia đình nội ngoại nhà em chưa kịp biết đầu cua tai nheo thế nào? Sau bố mẹ em nghĩ lại, nếu không cho cưới, vào thời buổi này con mình chỉ có chết già, cộng với việc bố mẹ anh Bằng xin: Thời gian đầu để anh Bằng được ở rể, thế là bố mẹ em đồng ý ngay.
    Hồi đấy cả làng cả xã cũng không biết xưởng X15 là làm gì, vì ngày ấy chiến tranh nên bí mật quân sự ghê lắm, xưởng X15 đóng ở trong mấy hang núi, canh gác không cho ai lai vãng đến gần, ai hỏi lăng nhăng là bị nghi vấn ngay. Nếu nhà em có ai hỏi, anh Bằng lại lảng đi chuyện khác, mọi người biết ý nên không hỏi nữa.
    Cưới nhau được thời gian, anh Bằng làm việc ở xưởng X15, chị Lưu ở nhà với bố mẹ đẻ. Xưởng 15 cách nhà em 2 km, thi thoảng được nghỉ anh Bằng về thăm vợ, cũng là thăm bố mẹ vợ, thăm nhà. Nhà em thời gian ấy vui lắm, mọi người bảo: Nhà ông Chất vớ được của, thằng cả đi bộ đội lại có con “Dê” đỡ đần, thế mà lại hay.
   Quê anh Bằng ở mãi Cô Tô Hải Phòng cơ, cả nhà em cũng chưa ai biết. Cái ngày cưới chị Lưu, đúng thời kỳ giặc Mỹ bắn phá miền Bắc, Hải Phòng khi ấy là địa bàn bị bắn phá ác liệt, chỉ sau Hà Nội thôi, nên mọi hình thức tổ chức mà nhà anh Bằng đề ra, bố mẹ em đều gạt đi. Cuối cùng đồng ý để nhà trai đến tổ chức đám cưới và rước dâu bằng xe đạp, đơn giản ngắn gọn.
   Đùng một cái, anh Bằng đi nhận nhiệm vụ mới, không biết là đi đâu, nghe mọi người kháo nhau là đi ra đảo Mai An Tiêm. Anh Bằng, bố anh Bằng vào xin đón chị Lưu về Hải Phòng, lúc ấy chị Lưu đã có thai 3-4 tháng rồi. Bố mẹ em chẳng biết làm cách nào đành phải đồng ý.
     Ngày chị Lưu đi lấy chồng, đã gây sốc cho chị Nguyệt rồi. Đến khi chị Lưu về Hải Phòng đúng là một tổn thất quá lớn đối với chị Nguyệt. Chị Nguyệt khi ấy hẫng hụt, trống vắng không có ai để tâm sự, thời gian ấy chị sút đi trông thấy. Em chẳng biết làm thế nào? Những lúc  dỗi dãi, em chạy ra thăm chị, hai chị em nói chuyện huyên thuyên với nhau để chị Nguyệt đỡ nhớ chị Lưu.
   Còn mẹ em, khi ấy vừa buồn lại vừa lo cho chị Lưu, bụng mang dạ chửa về làm dâu nhà người ta thì sẽ ra sao? Có chịu đựng được không? Trăm mối tơ vò, người bà lúc nào cũng như lửa đốt, ăn uống thất thường, nhớ con gái thành ra đổ bệnh. Bố em phải động viên mãi bà mới nguôi ngoai, từ đó cũng nhiễm bệnh tâm tưởng.
   Ngày em đi học Trung cấp sư phạm ở Phúc Nhạc, trường cách nhà độ 10 cây số. Chủ nhật nào mà được nghỉ em cũng về, vì về nhà được ăn no, lúc đi bố mẹ còn cho khi thì ngô rang hay lạc rang khi thì khoai luộc mang đi ăn cho đỡ đói. Nhưng có lẽ thích nhất vẫn là được ra chơi với chị Nguyệt, nghe chị Nguyệt kể chuyện tình yêu, em háo hức lắm vì lúc ấy em chưa biết yêu là gì?
   Dạo ấy cứ về đến nhà, vội vội vàng vàng dọn nhà dọn cửa giúp bố mẹ, vào bếp nấu nướng ăn uống cho nhanh, sau đó xin phép bố mẹ ra ngoài chị Nguyệt chơi. Lần nào cũng vậy, không quên xin được ngủ lại sáng mai về sớm. Lúc đầu, bố mẹ em còn lưỡng lự, sau nghĩ nó ra nhà chị Nguyệt chơi thì bố em đồng ý ngay. Được cái, bố mẹ chị Nguyệt cũng thích thế cho chị Nguyệt đỡ buồn.
   Chuyện tình yêu của chị Nguyệt, chị kể hay lắm. Nhưng nhớ đến đâu chị kể đến đấy, chẳng biết chuyện nào trước chuyện nào sau. Hỏi chuyện gì chị cũng kể rất say sưa, nhưng riêng tên người yêu thì chị không nói, chị chỉ nói: Để từ từ rồi em cũng biết, chị yêu anh ấy là người đầu tiên, có lẽ cũng là người cuối cùng, bởi vì cho đến bây giờ chị vẫn chưa yêu ai mà chỉ yêu anh ấy, vía anh ấy nặng quá.
   Giọng chị Nguyệt đều đều, đượm buồn, pha chút ai oán: Nói là yêu, nhưng nói thật với em là: Chị chưa bao giờ được anh ấy cầm tay, ôm hôn hay nói bất cứ một lời ngọt ngào để thể hiện là anh yêu chị. Cảm nhận của chị là anh chỉ thương chị thôi, chứ không yêu chị. Nhưng chẳng hiểu sao chị vẫn yêu anh, yêu thổn thức, yêu mê muội, cứ nghĩ về anh là người chị đã thấy nôn nao rạo rực lên rồi.  Đôi lúc chị không hiểu được chị, nhưng lúc nào chị cũng hy vọng biết đâu đấy sẽ có lúc anh yêu chị, cho dù thời gian ấy thật là ngắn ngủi.
   Nghe chị kể, nhiều khi em không hiểu nhưng không dám hỏi lại, song thú thực là em rất muốn hỏi tại sao lại như vậy? Nhưng khi nhìn chị thì mọi thắc mắc định hỏi đều bay biến. Bởi vì thương chị quá: Mỗi lần chị kể về người yêu, phần hồn của chị đã gửi vào câu chuyện, chỉ còn phần xác là hiện hữu, vật vờ.
    Chị kể, cảm xúc của chị lúc say xưa, khi e lệ theo những kỷ niệm yêu thương, cũng có lúc chị rơm rớm nước mắt xúc động, giọng chị đôi lúc lạc đi.  Kể xong chi tiết nào chị lại ngồi thừ ra như là để chờ hồn về nhập xác, nhìn chị lúc ấy giống như những người vừa hầu đồng xong, bơ phờ hốc hác.
   Nghe chị kể, em càng nghe càng thấy tò mò muốn biết về người yêu của chị, ông ấy là ai? Ông ấy như thế nào mà lại có ma lực ghê gớm đến thế? Không biết ông ấy có cho chị ăn bùa mê thuốc lú gì không?  Em nhớ đến chuyện chị con ông bác ruột em, chị yêu anh công nhân cầu đường. Hai bác em không đồng ý, chị vẫn trốn nhà đi theo anh ấy. Hai bác em quấn tóc chị vào cột nhà, trói lại rồi đánh một trận thừa sống thiếu chết. Xong rồi chuyện đâu lại vào đấy, hai bác em vẫn phải đồng ý cho chị lấy anh công nhân cầu đường. Bác em bảo: Nó ngu thì cho nó chết, nó đã ăn phải bùa mê thuốc lú của thằng ấy rồi.
    Nghĩ mà tội cho chị. Cả làng cả tổng này cứ nói đến hai chị em Ngà Nguyệt, là mọi người từ con trai đến con gái cùng trang lứa hầu như đều biết. Hai chị em nổi tiếng là xinh đẹp, cũng vì quá xinh đẹp nên người ta mới đồn thổi dèm pha: Chị em nó giống ông nội, bị bệnh hủi nên mới có nước da đẹp như vậy.
   Chị kể: Ngày ấy, đồn thổi thì đồn thổi vậy, nhưng trai làng vẫn cứ lũ lượt kéo đến, chị Ngà lấy chồng được mấy năm, mọi chuyện lắng dịu xuống. Đến khi chị lớn lên, số người đến tán tỉnh chị cũng đông không kém thời chị Ngà. Trừ những đêm mưa gió xấu trời, còn lại hầu như đêm nào chó cứ sủa âm vang dưới xóm Giỏ cho đến tận khuya. Chị bảo: Kể cũng lạ thật! Thế mà chị vẫn không cảm tình với ai chứ chưa nói đến yêu. Mà em biết không? Nhiều ông giầu có đến hỏi chị, bố mẹ chị đồng ý nhưng chị không đồng ý, bố mẹ chị chỉ chửi mắng một lúc rồi thôi. Thế mới biết đời xưa các cụ bảo: Chúng nó đã phải lòng nhau rồi thì chỉ có trời mới dứt được chúng nó ra.
    Lần nào hai chị em gặp nhau là em bắt chị Nguyệt phải kể về người chị yêu, hình như bóng dáng người chị yêu đã hòa vào con tim khối óc của chị, nên chị không thể quên được. Chị nhớ rất nhiều chuyện, chuyện nào chị cũng kể vanh vách giống như anh ấy đang ở bên chị. Chị kể mãi kể mãi, không khi nào hết chuyện. Như thế cũng phải anh nhỉ: Hai người biết nhau từ thời còn để chỏm, đến bây giờ đã hơn 30 năm rồi thì kể làm sao cho hết. Có những đêm mải kể, gà gáy te te hai chị em mới dục nhau đi ngủ, mắt còn đang cay sè thì bố chị Nguyệt đã đánh thức dậy để về nhà.
   Nhìn đồng hồ đã hơn 11 giờ đêm rồi, Luyến vẫn say sưa không dứt được. Hoàng ngồi nghe mà không thêm bớt được lời nào, phần là không muốn cắt ngang dòng suy nghĩ của Luyến, phần thì nghe đến đâu Hoàng cứ giật mình thon thót, câu chuyện dẫn Hoàng đến hết bất ngờ này đến bất ngờ khác. Cứ mỗi chuyện Luyến kể, Hoàng thấy có vẻ nghi nghi là lập tức Hoàng liên tưởng về quá khứ, và nghĩ thầm sao chuyện Luyến kể mà lại giống chuyện của mình thế?
   Luyến thấy Hoàng nhìn đồng hồ, Luyến thật thà hỏi:
   -Muộn rồi hả anh? Ở đây người ta cho ngồi đến mấy giờ?
   -Anh em mình ngồi thoải mái, chỉ sợ không có sức thôi.
    Chưa nghe Hoàng nói hết câu, Luyến đã mở máy rồi. Luyến tiếp tục nêu thắc mắc của mình: Chị Nguyệt kể chuyện nào em cũng cảm động, có mấy chi tiết làm em suy nghĩ mãi, nếu là em thì không biết chuyện sẽ đi đến đâu khi mà tuổi thanh niên đang hừng hực nhựa sống. Nói anh đừng cười, nếu là em thì em không chịu được.
(Còn nữa).


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 14 Tháng Tám, 2014, 09:26:40 am

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Số phận
          Hoàng hiểu được Luyến đang định nói về vấn đề gì nên Hoàng chen vào:
   -Có những việc nếu em là người trong cuộc em mới hiểu được, bởi khi ấy người trong cuộc phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố: Không gian, thời gian, điều kiện và hoàn cảnh tác động. Những việc người ta có thể làm được hay không làm được, nó chỉ xảy ra trong thời khắc, qua thời khắc ấy không thể làm lại được, thời khắc ấy gọi là thời cơ. Nhưng chị Nguyệt kể chuyện gì làm em bị kích động đến thế?
   -Chị kể: Khoảng cuối tháng chạp năm 1968, chị với anh ấy cùng với đội thanh niên xung kích của xã nhận nhiệm vụ di chuyển kho lương thực ở Bình Sơn. Kho này, nằm sát đường Quốc lộ 1, phía Nam là cầu Gềnh, ga Gềnh, phía Bắc là cầu Do cầu Yên, gần kho lương thực là trận địa pháo cao xạ  bảo vệ các cầu trọng yếu trên Quốc lộ số1.
   Lệnh cấp trên phải sơ tán ngay kho lương thực Bình Sơn. Các đơn vị dân công hỏa tuyến đã tập kết đến địa điểm quy định, chờ cho choạng vạng tối, thuyền của lực lượng hỏa tuyến vào chất hàng. Chị với anh phụ trách con thuyền gỗ hai tấn, những người xếp hàng họ cứ thấy chất được là họ chất, chị thấy thế là quá nhiều đối với hai người. Chị dục anh vội đẩy thuyền ra, anh cầm lái, chị chống sào. Đúng lúc nước lên mà thuyền đi ngược nước nên rất chậm. Anh để chị cầm lái, anh cởi quần áo xuống kéo thuyền. Anh chị bàn nhau cần nhanh chóng rời khỏi vùng trọng điểm này sẽ nghỉ ngơi…
   Lương thực sẽ được chuyển về sơ tán ở kho Giăng Nại, từ Bình sơn về Giăng Nại khoảng độ 12- 13  cây số đường sông. Nước thủy triều đang lên mà lại đi ngược dòng, con thuyền như ỳ ra, đi được hơn 2 tiếng đồng hồ mà vẫn còn trong vùng trọng điểm.
    Hôm ấy, không biết là ngày bao nhiêu âm lịch? Trăng đã lên được hơn một con sào, bụng trăng khuyết lõm, ánh trăng bàng bạc yếu ớt nhè nhẹ rọi vào không gian đủ để con người tưởng tượng ra cảnh vật xung quanh. Ban nãy, lúc vừa mới ra khỏi kho, khi đó trăng chưa lên, trời tối đen như mực, một vài ánh đèn le lói tít tắp trong khu dân cư, màn đêm tối đen huyền bí. Phía xa xa là Thanh Hóa, trời như giông mưa, ánh pháo sáng lúc bừng lên sáng rực, lúc lại tắt ngấm, thi thoảng lại nghe tiếng máy bay ù ù, bay rất cao trên trời.
    Đêm nay có vẻ như thanh bình, không có tiếng động cơ máy bay phản lực gầm rít, không có tiếng bom nổ, không nghe thấy súng cao xạ của ta bắn lên, không gian yên lặng. Một sự yên lặng đáng ngờ, lúc này chị chăm chú điều khiển con thuyền đi đúng hướng, chị nghe thấy sóng vỗ vào mạn thuyền ì oạp đều đều. Dưới ánh trăng bàng bạc, chị nhìn thấy anh đang gò lưng kéo thuyền, có lúc chẳng nhìn thấy anh đâu, những lúc ấy chị đoán có thể là anh đang lội ở dưới sông hay đi luồn dây kéo thuyền qua những bụi cây mọc ven sông. Chị cứ nhìn mãi, nhìn mãi, lúc sau mới lại thấy anh xuất hiện. Có những lúc chị nghĩ dại: Nếu anh tự nhiên biến mất  mình sẽ làm thế nào đây trong đêm khuya thanh vắng này? Tự nhiên chị rùng mình, tự trách mình dở hơi, nghĩ dồ nghĩ dại, làm gì có chuyện ấy.
   Hơn hai giờ đồng hồ ngâm mình dưới nước, đói và rét. Anh lội bì bõm dưới sông và leo lên thuyền nói với chị:
   -Nghỉ giải lao em ạ! Anh đói quá rồi, lấy cơm nắm ra ăn đi, nghỉ ngơi đợi nước chững mới đi được, đi thế này kéo tức ngực lắm.
   -Vâng! Anh cắm sào mũi để ép thuyền khỏi trôi.
   Anh thay quần áo xong, chị cũng cắt xong nắm cơm. Lúc đói ngửi mùi cơm nắm muối vừng, nước miếng chị cũng ứa ra. Anh chị ngồi trên sạp thuyền phía đằng mũi ăn cơm, nhìn anh ăn mà chị thấy thương, mồm chị đắng lại không tài nào nuốt nổi miếng cơm, trong khi đó anh ăn ào ào hết miếng này đến miếng khác, anh vừa ăn vừa nghĩ cái gì đó nên không để ý đến chị có ăn hay không ăn. Chừng như đã tạm ổn, hoặc là đã nghĩ được hướng giải quyết rồi. Anh ngước lên hỏi chị:
   -Ô! Sao em không ăn? Lấy bầu nước ra vừa ăn vừa uống cho đỡ nghẹn. Cố mà nuốt, thức đêm là đói lắm đấy, bây giờ mình ăn một nắm, còn nắm này để dành lúc nào đói lại ăn tiếp. Ăn xong mình nghỉ một lát rồi tiếp tục đi, cách xa xa vùng này ra cho yên tâm.
   Anh chọn mấy lát cơm trong nắm cơm đưa cho chị, anh bảo:
   -Miếng này ở giữa nên mềm lắm em ăn đi!
    Thấy chị chần chừ, anh dục:
   -Cầm lấy ăn đi!
   Chị sợ anh cáu nên vội vàng cầm lấy, một lát sau anh không để ý, chị lại để xuống.
    Hôm nay ngồi ăn cơm với anh, chị nhớ lại mấy năm về trước, bọn trẻ xóm chị hay rủ nhau đi vào Chi Điền Yên Tế để bắt cua ngoi. Sáng đi sớm lắm, đi từ 4-5 giờ sáng, mang cơm nắm đi. Vào đến nơi là đã 8-9 giờ, loay hoay một lúc rồi mang cơm nắm ra ăn, anh chị cùng ăn với nhau, ăn xong anh với chị cùng đi nhặt cua, chị gánh 4 cái giỏ đi sau, anh đi trước chộp cua nhét vào giỏ.
   Ngày ấy mọi người vẫn chế: Anh chị là một cặp vợ chồng. Lúc đầu cũng ngượng, lâu dần thành quen. Anh chị chơi với nhau từ hồi còn để chỏm, tuổi thơ của anh chị gắn liền với ruộng đồng cua ốc, nên cái chuyện chế nhau chồng vợ cũng là bình thường.
   Tháng 5-6 trời nắng chang chang, trên nóng dưới nóng. Cua ngoi hết vào bờ, anh chị chỉ đi trên bờ nhặt cua cho vào giỏ. Đi khoảng 2 tiếng là đầy bốn giỏ, mỗi người hai giỏ. Nhiều hôm chị bị say nắng không về được, anh đưa chị vào làng gần đấy để tránh nắng. Người còn say nắng huống hồ là cua, có lần về đến nhà đổ cua ra đi bán, cua chết gần hết chị khóc hu hu, lần sau rút kinh nghiệm, anh bốc bùn bỏ vào giỏ cua và lấy lá khoai nước quấn xung quanh giỏ, thế là cua ít bị chết hơn…
   Hình như anh không để ý chị ăn được mấy miếng, còn lại hai miếng anh phân công:
   -Anh miếng này, em miếng này. Ăn xong cho anh nằm nghỉ một lúc rồi mình đi tiếp.
   Vừa đi vừa ăn, anh đi về phía cuối thuyền và nằm kềnh ra sạp, ngửa mặt lên trời. Chị ở mũi thuyền cũng chẳng biết làm gì, ngồi nhìn dòng nước lững lờ trôi. Thi thoảng có những chú cá đớp bóng, mảnh trăng như dát vàng vỡ vụn tóe ra rồi lại chụm lại lung linh trên mặt nước. Ngồi một mình buồn, chị đứng lên đi về phía anh, ngồi xuống cạnh anh. Chị cứ tưởng anh thức, hóa ra là anh đã ngủ, anh nằm bất động tiếng thở đều đều. Anh mệt nên ngủ rất say, chị ngồi nhìn anh ngủ, đôi lúc chị ngước lên nhìn bầu trời trăng sao mờ mờ đùng đục của đêm cuối tháng chạp.
   Em có biết lúc đó chị nghĩ gì không? Một ý nghĩ xấu xa, nhưng chính đáng của người con gái, muốn được ôm người con trai mình thầm yêu vào lòng. Chị đi với anh nhiều nhưng chỉ do vô tình chạm chân chạm tay với nhau thôi, chưa bao giờ chị được anh nắm tay, chị thèm muốn có một ngày nào đó chị được anh ôm chặt vào lòng. Ý nghĩ ấy làm chị nghẹn thở, chị vội đứng lên đi về phía mũi thuyền, ngồi thả hai chân xuống dòng nước. Sự lạnh lẽo của dòng nước làm chị bừng tỉnh, nhưng chỉ được một lúc, sau đó tuy là thức nhưng chị lại chìm vào mộng mỵ, mơ ước cuộc sống ngày mai có anh…
   Anh đến sau chị lúc nào mà chị không biết, chỉ đến khi anh vỗ vào vai chị mới biết, anh bảo:
   -Em có nhìn thấy đám bèo Tây kia không?
   -Có! Nhưng nó làm sao?
   -Nó dừng lại không trôi nữa rồi, như vậy là thủy triều bắt đầu xuống, chúng ta phải đi thôi. Từ đây về Giăng Nại ít nhất là 7-8 cây số nữa, nếu đi xuôi nước thì phải đi 3 tiếng nữa mới tới nơi.
   -Bây giờ độ 12 giờ, ba tiếng nữa là 4 giờ sáng, còn sớm chán. Thôi mình đi anh!
   Đi xuôi nước nên anh không phải vất vả kéo thuyền như lúc trước. Anh phân công chị cầm lái, anh chống sào, con thuyền nhẹ bỗng đi băng băng. Đêm bình yên, chỉ thấy gió và sóng nước rì rào. Bóng anh gò lưng đẩy  sào, đưa thuyền về bến.
    Chẳng mấy chốc anh chị đã đến điểm tập kết, nhưng do yêu cầu không được tập trung đông, sợ máy bay địch phát hiện. Thuyền của anh chị phải cắm sào ở mãi ngoài bãi sông, cách đấy là mấy con thuyền nhỏ đi nhanh nên đến trước, cũng cắm sào đợi đến lượt vào giao hàng. Đằng Đông sắc hồng cũng bắt đầu xuất hiện, một ngày mới đã bắt đầu.
    Tháng 8 năm ấy, anh nhận được giấy báo gọi vào đại học. Ngày anh đi, chị tiễn anh lên tận ga Gềnh. Anh đi rồi, chị một mình đạp xe quay về lòng buồn rười rượi. Thế là chị xa anh thật rồi, không biết ngày mai ngày mốt, anh có còn nghĩ đến chị nữa không? Nước mắt lưng tròng, làm mắt chị nhòe đi không nhìn thấy đường, chị vội vàng nhảy xuống xe, ngồi sụp xuống vệ đường khóc thổn thức. Ngày ấy, tuy anh lớn hơn chị mấy tháng, nhưng anh còn trẻ con lắm, chắc anh chẳng nghĩ ngợi gì đâu. Chị là con gái nên có vẻ già dặn hơn, nhiều đòi hỏi và rất nhậy cảm trong tình yêu nam nữ.
    Sáu tháng sau, chị nhận được thư của anh. Vẫn cái giọng trẻ con như hồi còn ở nhà, anh kể cho chị nghe đủ thứ chuyện linh tinh xung quanh chuyện nhớ nhà và chuyện đói. Nhưng có lẽ trong tâm tưởng anh, có gì đó chuyển biến đặc biệt. Cuối thư anh viết: Hè về anh sẽ kể cho Nguyệt nghe chuyện bí mật. Ký tên Mã Long Giang. Kể từ đó chị hồi hộp nấc nỏm đợi chờ, chờ mãi, chờ mãi…
   Nghe đến Mã Long Giang, Hoàng tưởng như trời đất sập xuống, đó là cái tên ông chú họ đặt cho Hoàng. Đã có thời gian lâu lắm rồi, hồi Hoàng vừa từ chiến trường trở về tiếp tục đi học. Chị Thịnh đã nhắc lại bức thư này, nhưng Hoàng chối bay chối biến. Bây giờ thì không chối được nữa rồi, Hoàng đang phân vân không biết giải quyết thế nào? Trong khi đó Luyến vờ như chưa biết Hoàng là tác giả của bức thư đó, nên tiếp tục kể:
   Đến cuối năm 1972, chị mới biết là anh đã nhập ngũ, anh nhập ngũ ở trường đại học. Ngày anh đi chiến đấu, khi đơn vị hành quân qua  Ninh Bình, anh xin phép đơn vị về thăm nhà được hơn một tiếng đồng hồ, mẹ anh chỉ kịp luộc cho anh mấy quả trứng gà mang đi.
   Khi biết anh đi chiến đấu, chị lục tìm những kỷ niệm về anh. Những kỷ niệm sống thì mãi mãi ở trong lòng chị, nó chỉ mất đi khi nào chị thở hơi thở cuối cùng của đời chị, nên chị yên tâm không lo bị mất. Còn những vật kỷ niệm, cũng chẳng có nhiều, nó cũng chỉ là con sò con ốc do chị vô tâm để rơi vãi mất hết, còn lại hai thứ lúc nào chị cũng giữ bên mình, đó là bộ quần áo của anh trong đêm đi hỏa tuyến và bức thư anh viết hẹn chị hè về sẽ kể cho chị nghe chuyện bí mật.
   Bộ quần áo và bức thư ấy, đã sưởi ấm lòng chị suốt những năm tháng anh đi bộ đội. Những lúc cuộc sống của chị gặp khó khăn, hoặc là chị không nghe lời bố mẹ lấy ông này lấy ông kia, lập tức bị bố mẹ chị chửi mắng thậm tệ. Chị lẳng lặng vào buồng cài cửa lại, mang hai thứ đó ra ôm chặt vào người tiếp thêm nghị lực sống. Em biết không? Hai thứ đó là nguồn năng lượng vô cùng tận giúp chị sống và vượt qua tất cả. Ngay cả khi anh còn sống trở về, anh cũng không có lời nào tỏ tình với chị, mọi hy vọng của chị tan như bong bóng xà phòng. Cho đến bây giờ, thì em biết rồi…
   Nghe chị kể đến đấy là em không chịu được nữa, em tức lắm. Em giận người ấy nhưng lại đổ lên đầu chị Nguyệt, em mắng xối xả:
   -Người ta vô tâm vô tính đối xử với chị như vậy mà chị lại yêu. Em thật không hiểu chị yêu ông ấy ở cái điểm gì, mà có khi nào ông ấy nói là ông yêu chị đâu? Ông ấy chỉ có đối xử tốt với chị thôi. Sao chị lại mù quáng thế?
   Nhìn chị em vừa giận lại vừa thương, chị ngồi đấy chỉ là cái xác không hồn, đầu tóc rũ rượi, bất động. Không còn chịu nổi, em ôm lấy chị vừa khóc vừa đấm túi bụi vào hai bên sườn cho chị tỉnh. Chị vẫn ngồi im như bức tượng, mặc cho em mắng mỏ hay muốn làm gì thì làm. Đến khi em chán rồi, em gục đầu vào vai chị thổn thức:
   -Em thương chị quá! Chị hãy quên người ta đi.
   -Chị cám ơn em! Lỗi là tại chị. Chị đã phải lòng anh ấy, anh ấy là người chị yêu nhất trên đời này, chưa khi nào chị oán trách anh ấy. Đến bây giờ chị vẫn rất yêu anh ấy, chỉ tiếc rằng chị không còn cách nào để thể hiện tình yêu của chị đối với anh ấy…
   Thời gian trôi đi, dần dần em cũng hiểu được tình cảm của chị Nguyệt và thông cảm cho chị nhiều hơn. Một hôm, vì tò mò với lại cũng hiếu kỳ em muốn biết cái người mà chị Nguyệt phải lòng là ai? Em hỏi chị:
   -Chị nói cho em biết người ấy là ai đi?
   -Để em làm gì? Em định trả thù giúp chị à?
   -Không! Em chỉ muốn biết thôi.
   -Nhưng em phải hứa với chị là: Không bao giờ được để lộ chuyện chị phải lòng anh ấy nhớ không? Chị, em mình là phụ nữ, phải có lòng tự trọng em ạ.
   -Em hứa! Chị tin em đi, em là em gái của chị cơ mà.
   - …
   -Kìa! Chị nói đi, chị không tin em à?
   - Người ấy chính là anh Hoàng đấy em ạ.
   …
    Một thời gian sau, chị Nguyệt hỏi em:
   -Em thấy anh Hoàng thế nào?
   -Tiếc cho chị quá!
   -Chị yêu anh lắm, nhưng không muốn làm khổ anh. Nói thật là chị không muốn mất anh, chị căm thù ai muốn chiếm anh Hoàng của chị. Ngược lại chị luôn cầu mong cho anh Hoàng hạnh phúc, nhiều đêm nằm ôm bộ quần áo của anh mà nước mắt chị đầm đìa.
   -…
   -Hay chị làm mối em cho anh Hoàng nhé? Chị em mình lọt sàng xuống nia, chị nghĩ kỹ rồi.
   Quá bất ngờ khi chị Nguyệt đặt vấn đề này với em, thú thực em cũng rất thích anh nhưng không dám nói. Em bảo:
   -Đời nào anh ấy đồng ý.
   -Cứ để chị lo…
   Luyến hôn nhẹ vào má Hoàng thì thầm:
   -Chuyện tiếp theo như thế nào thì anh biết rồi, đến bây giờ em không tin là có thật. Vậy mà…
    Hoàng quàng tay qua vai Luyến ôm thật chặt, hai cặp môi nóng bỏng tìm nhau, hai đầu lưỡi chuyện trò gì với nhau không thành lời. Sương xuống nhiều, trời về đêm se lạnh.
(Còn nữa).


   

   



Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 22 Tháng Tám, 2014, 10:14:13 am

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Số phận
           Chiếc điện thoại đặt ở bàn làm việc của ông trưởng phòng, thành ra ông là người trực điện thoại cho cả phòng. Mỗi khi tiếng chuông điện thoại đổ, là mọi người chú ý nhìn vào ông, ông vẫy ai là người ấy đến nghe. Hôm nay, ông trưởng phòng vẫy và đưa máy cho Khoa, sau đó ông lại chăm chú đọc tài liệu coi như không có chuyện gì xảy ra, hình như ông có việc gì cần phải báo cáo gấp nên ông không quan tâm đến những việc xung quanh. Lúc rỗi dãi, thế nào ông cũng chen vào mấy câu đùa cho vui, hôm nay thì không.
    Lâu lắm mới thấy Hoàng gọi điện về, Khoa đứng ngay bên cạnh ông trưởng phòng nói chuyện điện thoại với Hoàng. Nói được vài câu, Khoa thấy nể ông trưởng phòng quá nên nói với Hoàng: Thôi! Tối gặp nhau sẽ nói nhiều. Nhớ về ăn cơm đấy!
   Kể từ lúc ấy đầu óc Khoa bị phân tán, không tập trung làm việc được mà chỉ nghĩ tối nay ăn món gì? Chả lẽ bạn về chơi mà không có món gì đãi bạn? Khoa thấy bí thực sự, may mà 4 giờ sáng nay theo chỉ đạo của vợ từ hôm qua, Khoa đã mua được mấy lạng thịt ở quầy thực phẩm Kim Liên về làm thức ăn cho con. Gặp tình huống có khách như hôm nay, chiều sẽ đàm phán với vợ để điều chỉnh, có mua thêm gì nữa thì mua như thế cũng tạm ổn, còn thức ăn của con thì tính sau.
   Nghĩ đến chuyện xếp hàng mua thực phẩm sáng nay là Khoa ớn cả người, nhưng đành chịu không biết nhờ cậy ai. Nhà có ba người, vợ bận con dại, con còn bé, còn lại mình Khoa là son dỗi, nên thượng vàng hạ cám việc gì Khoa cũng phải làm. Có lẽ trong muôn vàn những công việc khó khăn, thì công việc xếp hàng mua thực phẩm cũng là một loại công việc khó khăn.
  Mua cá mua đậu phụ, mua tóp mỡ hay mắm muối, mua cái gì cũng không lo lắng lắm, thôi thì các cô bán hàng đưa cho thế nào cũng được, vì những thứ này là để cho người lớn. Chỉ riêng việc mua thịt là gian khổ vất vả, vì loại thực phẩm này là giành cho trẻ con nên phải kén chọn cẩn thận.
   Để mua được thịt, trước hết là phải dậy thật sớm để xếp hàng, xếp được hàng rồi, lại hồi hộp chờ đợi, ước sao đến lượt mình thì được miếng ngon, còn vớ phải miếng bèo nhèo thì vẫn phải chịu, chứ biết làm thế nào. Chính do sự may rủi ấy, làm cho Khoa thấp thỏm chờ đợi đến nỗi đau cả đầu, quên cả việc hai đầu gối đã cứng đơ.
   Không lo lắng sao được? Cả nhà có ba phiếu E, có nhiều nhặn gì cho cam, mà mỗi lần chỉ dám mua một phiếu thôi, nếu chẳng may gặp miếng không ra gì, coi như mất một phần ba tháng rồi. Đã thế, tối hôm qua vợ cứ dặn đi dặn lại: Anh nhớ nói khó với cô bán hàng cho miếng ngon ngon ấy, nhà mình có trẻ con.
    Lo lắng, nên lục đục cả đêm không ngủ được. Khoa ra sớm để xếp hàng, vậy mà vẫn xếp thứ ba, có người còn đi sớm hơn Khoa. Khoa nhẩm tính: Hôm nay chắc chắn là mua được thịt ngon rồi, có khi còn làm được ruốc cho con nữa cũng nên, nhưng bìa E thì cũng chỉ có ba lạng rưỡi thôi, ấy là chưa kể đến chuyện mấy bà bán hàng cân chắc tay, thì giỏi lắm là được ba lạng ba ba lạng tư là cùng. Lúc tối, hai vợ chồng bàn bạc. Vợ Khoa bảo:
   -Hay là anh mua nửa thịt nửa xương. Nếu mua xương được tính gấp đôi, mang về hầm nhừ nấu cháo cho con ăn dần. Còn chỗ thịt kia, nạc làm ruốc, mỡ rán cho vào lọ để giành xào rau hay chưng cà chua, bì lợn thì kho với củ cải hay xu hào là được rồi.
   Khoa động viên vợ:
   -Được rồi, em cứ yên tâm! Ra đấy, tùy tình hình thực tế mà tùy cơ ứng biến.
   Đúng là cái nghèo. Các cụ ngày xưa bảo: Giầu thì sang, nghèo thì hèn. Thật là khốn khổ khốn nạn, có ba lạng rưỡi tem phiếu thôi, mà cái gì cũng muốn mua. Nào là thịt để làm ruốc, mỡ để xào rau, bì kho củ cải, xương để hầm quấy bột. Vậy thử hỏi mỗi loại được bao nhiêu?
   Ngày ấy, tình trạng chung của xã hội là như vậy, lâu dần thành quen. Cũng chính từ hoàn cảnh xã hội như vậy, nó phát sinh ra lắm chuyện buồn, cười. Nhà giầu có cái khổ của nhà giầu, nhà nghèo có cái khổ của nhà nghèo, người độc thân có cái khổ của người độc thân.
    Trong khu tập thể, không ai tính toán thống kê. Nhưng có lẽ tỉ trọng những người kinh tế khá giả có có lẽ phải chiếm 40- 50%. Tại sao nhiều như vậy? Vì: Đây là cơ quan tập trung rất đông những người đi học nước ngoài về, nhà thì cả hai người cùng học ở nước ngoài, nhà thì có một người học nước ngoài hoặc là nam hay là nữ, về nước lấy chồng hay lấy vợ, thành ra gia đình có người đi học ở nước ngoài.
   Để tránh hiểu nhầm, cũng phải sơ bộ định nghĩa thế nào được gọi là gia đình khá giả? Của chìm thì không biết, của nổi thì rứt khoát là có bình bịch, có xe đạp ngoại, có máy nghe nhạc, có đầu máy khâu, có máy hút bụi, có cối xay thịt, có nồi áp suất v.v, tóm lại là có nhiều đồ dùng mang từ nước ngoài về.
   Những gia đình được xếp vào hạng này, nhìn họ đã thấy phong lưu rồi, da dẻ trông hồng hào nhuận sắc, phần là vì còn hơi hướng bơ sữa, phần là vì lương có bao nhiêu ăn hết bấy nhiêu không phải lo mua sắm gì, nên dáng dấp của họ không trộn lẫn vào đâu được. Đã thế mọi sinh hoạt của họ đều phản ánh lên nếp sống của người có tiền có của, đến chợ là mấy bà bán hàng nhao nhao vẫy gọi, cứ những thứ gì ngon tươi là mua, thích thật.
   Hạng thứ hai là hạng có của ăn của để, hạng này khó đánh giá chính xác giầu nghèo. Bởi vì: Có thể vì lý do nào đấy, họ không muốn lộ diện, nên rất khó biết. Những gia đình ở thành phần này là gia đình có người dính dáng đến thương nghiệp buôn bán, phe phẩy, lái xe lái tầu v.v, tóm lại là có dính dáng đến phân phối lưu thông.
   Diện này có lẽ cũng phải đến 5- 6%. Sẽ có ai đó đặt câu hỏi sao trong một khu tập thể nhỏ mà nhiều đến thế? Cũng dễ hiểu thôi, vì đây là khu tập thể có nhiều người trong ngành thương nghiệp, nên những người làm ngành nghề khác bám vào. Phi thương bất phú mà… Để liên kết trong việc làm ăn, họ lại kết hợp với những người như lái xe lái tầu, bán bách hóa, lương thực, thực phẩm v.v. Bên cạnh đấy là phát sinh hàng loạt những người làm nghề tay trái, theo đóm để ăn tàn, hay còn gọi là phe phẩy. Thế cũng hay, cũng có giá, ứa kẻ phải nhờ vả, mơ cũng chẳng được.
   Những gia đình này có muốn dấu, hay giả nghèo giả khổ cũng không được. Bởi vì cứ đến bữa thì nhà họ thơm lừng mùi thức ăn xào nấu, thơm đến nỗi mà đứa trẻ con đang tập nói còn nói : Ơm óa! Ơm óa. Nhà nào cũng có trẻ con nên cũng không bí mật được, có gì là khoe hết. Chả khoe thì mọi người cũng biết, vì chúng bê bát cơm nào cá nào thịt chạy khắp khu tập thể. Có những đứa còn ném cả đùi gà cho chó ăn, trẻ con hàng xóm xông vào chiến đấu với đàn chó để chiếm lấy cái đùi gà đã bị con nhà giầu gậm nhoe nhoét vứt đi . Chuyện của lũ trẻ con ấy mà.
   Sau hạng ấy là hạng có chức có quyền, có bổng lộc, chắc chắn không phải bìa E. Thường những gia đình ở hạng này phân thành hai loại. Loại thứ nhất là những người có công với cách mạng, tham gia kháng chiến chống Pháp rồi chống Mỹ, cũng có một vài người ở thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, loại này là bìa C cửa hàng Tông Đản. Loại thứ hai là loại có chức có tước là con ông cháu cha, dây mơ dễ má gì đấy, nhưng loại này thì thường là đi học nước ngoài về.
    Hạng này kín đáo và phức tạp, mọi hành tung đều rất tinh vi khó hiểu khó biết. Được cái! Bây giờ quà biếu bằng phong bì nhỏ gọn dễ dấu với lại bằng tiền Tây, tuy rất mỏng nhưng giá trị thì hơn tiền ta, thay cho gạo nếp, đỗ xanh, lạc nhân cồng kềnh như trước kia. Chỉ những dịp lễ tết mới lộ liễu, đôi khi quà biếu là cả một lồng gà sống thiến, hàng yến gạo nếp, gạo tám thơm. Mọi người đoán: Thế nào mà chả có phong bì kèm theo? Sướng thật. Hạng này thì ít thôi, song không phải ai cũng thế.
   Hạng tiếp theo là hạng nhậy cảm với cuộc sống, hạng này không giầu không nghèo, thuộc diện khéo chia thì đủ ăn, sống chủ yếu bằng lương và tem phiếu. Hạng này, khi gặp trường hợp nhà có khách có khứa hay có việc đột xuất ốm đau gì đó là phải tính toán, bốc chỗ nọ bỏ chỗ kia, chấp nhận thiếu hụt.
   Diện này tương đối đông, chiếm đến 40-45%, thành phần chủ yếu của hạng này là những cặp vợ chồng được đào tạo ở các trường đại học và trung cấp ở trong nước, hay cả những người là bộ đội phục viên, bộ đội chuyển ngành về cơ quan công tác, quen nhau và lấy nhau. May mắn là diện này sống rất vui vẻ, thương yêu giúp đỡ nhau, thành ra có vẻ họ có tất cả, khoai sắn nhà ông cũng là khoai sắn nhà tôi. Nhà nào mà vừa về quê lên là biết ngay, mọi người kéo đến ầm ĩ cả khu tập thể.
   Hạng cuối cùng là hạng nghèo khổ, chiếm khoảng 4-5%, hạng này thường biến động tùy hoàn cảnh xã hội và cũng khó để nhận ra. Thực ra, nhìn họ cũng giống như mọi người, ai tinh ý lắm cũng không thể phát hiện được, cùng lắm là thấy họ gầy gò xanh xao, quần áo hơi quá bình dân thế thôi.
   Lưu ý, những người có hình dáng ấy thì đa phần lại là những ông thương bệnh binh, lấy vợ muộn. Lấy vợ theo quan điểm: Một mái lều tranh, hai trái tim vàng. Hoàn cảnh ấy, đích thị thuộc diện nghèo rồi, của nả làm gì có cái gì, ngoài cái ba lô lộn.
   Vợ chồng Khoa cũng không biết mình ở hạng nào? Hạng nghèo khổ cũng không phải, vì Khoa còn có cả cái khung xe đạp, Khoa đã kỳ công mang từ Miền Nam ra và lắp thành chiếc xe đạp. Ngày ở Hòa Bình thì chịu không đi được, phần thì nó yếu ớt nên hỏng hóc linh tinh, phần là do đường ở Hòa Bình là miền núi nên loại xe ấy chỉ có xếp xó. Từ ngày về Hà Nội tu sửa vào lại đi được, không có nó cũng bí, vì nó là phương tiện chủ yếu để đưa con đi mẫu giáo, ngoài ra còn dùng để đi chợ nữa. Chả biết giầu nghèo thế nào? Nhưng xe này ối người mượn, vậy nên cũng chả biết mình thuộc hạng nào?
   Từ ngày có đứa con, Khoa mới thực sự thấy cuộc sống quá khó khăn. Khoa lương Kỹ sư, vợ lương trung cấp. Lương kỹ sư của Khoa chỉ đủ trang trải cho con. Lúc nó còn nhỏ thì tiền thuê người trông trẻ, tiền thuốc men, tiền đường sữa, tiền ăn v.v. Lớn lên thì lại là tiền nhà trẻ tiền ăn và các khoản đóng góp khác. Lương của vợ là lương trung cấp, chuyên dùng để chi phí cho ba người, tất tần tận thượng vàng hạ cám đều trông vào đấy.
   Cuộc sống cứ như thế âm thầm lặng lẽ trôi đi chẳng có gì để mà nói, kiếp nào đi kiếp ấy bằng lòng với số phận. Nhưng sự đời không phải thế, hoàn cảnh xã hội không cho phép con người được bằng lòng, cho dù họ đã cam chịu.
   Lũ trẻ được sinh ra và lớn lên, chúng có quyền được đòi hỏi tuy không nhiều, nhưng tối thiểu là được như bạn bè, chưa kể đến trường hợp chúng đòi hỏi hơn. Trường hợp chúng đòi hỏi hơn thì dễ giải quyết, người lớn hứa hươu hứa vượn cho qua chuyện, trẻ thơ vô tư cũng dễ quên, cuối cùng thì người lớn và trẻ con đều quên thế là không có vấn đề gì. Còn trường hợp con cái nó đòi có những thứ như bạn bè nó, giải thích thế nào? Không thể giải thích là bố mẹ thuộc diện nghèo khổ nên không có tiền để mua cho con. Nó đâu có biết bố mẹ nó thuộc diện nào đâu? Nó chỉ cần biết là con phải có những thứ ấy, để giống như bạn thế thôi.
   Chuyện của con trẻ thành chuyện của người lớn, những thứ đồ chơi hay đồ dùng học tập vặt vãnh ít tiền thì bố mẹ nhịn ăn nhịn uống để mua cho con. Còn những thứ như vô tuyến, máy nghe nhạc, bình bịch v.v. Những thứ ấy trẻ con nhà nào mà chẳng thích, cứ thấy nhà ai có là chúng sán đến xem xét và sờ mó, bóp cái nọ bẻ cái kia. Đương nhiên là chủ nhà phải ngăn cản các cháu không để các cháu làm thế, con chủ nhà thì đuổi thẳng thừng bạn ra khỏi nhà. Con nhà mình chạy về nhà khóc nức nở, rất may chúng nó là trẻ con lúc sau là quên ngay.
   Nhưng bố mẹ chúng, hẳn rất ít người quên. Riêng Khoa thì không bao giờ quên được, mỗi khi nhớ lại chuyện ấy là Khoa ứa nước mắt chỉ muốn khóc.
(Còn nữa).


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 26 Tháng Tám, 2014, 08:53:04 pm

             Chào bác chủ quanvietnam! Chào các bác! Tranphu341 dịp này đúng là bận quá không thường xuyên vào trang được.

             Mấy hôm nay vào trang thấy bác viết thêm được nhiều quá. Tranphu341 đọc và thật thích thật nhớ. Chuyện của bác kể rất hay rất sâu sắc. Đây có thể nói là một tác phẩm lớn chứ không phải là những hồi ức thông thường. Tranphu341 đọc và thật thích thật nhớ.Nhớ và thích sự mộc mạc của tình yêu thời ấy. Nhớ những cảnh của cuộc sống khốn khó thời bao cấp nhất là những năm sau chiến tranh. Hồi nhỏ trước chiến tranh Tranphu chỉ khoảng 12-13 tuổi đã phải dậy từ 3-4h sáng ra cử hàng xếp nốt mua thịt lợn. Khổ Lắm, giờ đây nghĩ lại còn thêm cả sự nhục nữa. Đúng là được mấy lạng thịt mà phải tranh nhau thậm chí đánh nhau vì cái kiểu " Văn minh thời bao cấp"

            Tranphu341 vẫn theo dõi chuyện bác kể. Mấy bài gần đây có chậm đọc nhưng nói chung là không để sót bài viết nào của bác. Tranphu341 trông bài của bác và lại luôn lo về sức khỏe của bác mỗi khi thấy bác chậm bài.

             Kính bác cùng gia đình luôn khỏe luôn có nhiều niềm vui cuộc sống!


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 08 Tháng Chín, 2014, 02:12:53 pm
Thành thật xin lỗi anh TP và mọi người. Dạo này tôi bận một chút việc riêng nên trễ nải mong mọi người thông cảm.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 08 Tháng Chín, 2014, 02:29:11 pm

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Số Phận
         Vào cuối năm 1984 hay đầu 1985 gì đó, Khoa không nhớ chính xác, Khoa chỉ nhớ năm ấy xẩy ra chuyện của trẻ con, chẳng đâu vào đâu nhưng làm Khoa ân hận. Nỗi niềm ấy đối với Khoa, sống để dạ chết mang đi. Cho tới bây giờ, cứ mỗi lần nghĩ đến, hay có ai đó nhắc lại, nước mắt Khoa lại lưng tròng. Biết bao nhiêu khổ đau, xót xa ân hận lại dội về xé nát con tim yếu đuối bệnh tật của Khoa.
   Năm ấy, đứa con gái đầu lòng bé bỏng của Khoa hơn năm tuổi, học mẫu giáo lớn Việt Triều. Một thiên thần bé nhỏ sống giữa hai vệ sĩ bảo bọc, đó là bố và mẹ. Đứa con gái ngây thơ và trong trắng ấy, trong trí tưởng tượng của nó: Bố mẹ là những ông tiên bà tiên, có sức mạnh siêu phàm, sẽ làm được tất cả mọi thứ cho nó. Nó sống vô tư trong tình yêu thương chiều chuộng của bố mẹ, bố mẹ cũng hết lòng vì con.
   Mỗi khi dắt con đi chơi nghe con bi bô, vợ chồng Khoa ngất ngây sung sướng hạnh phúc. Khoa không thể hình dung được cuộc đời Khoa lại có ngày hôm nay. Những lúc như thế, Khoa lại nghĩ đến các đồng chí đồng đội của Khoa, nếu họ ở trong hoàn cảnh này, có lẽ họ cũng sẽ sung sướng hạnh phúc như Khoa.
   Không mừng sao được? Khi những CCB trở về sau chiến tranh, lấy vợ và sinh ra được những đứa con ngoan ngoãn khỏe mạnh. Sự kiện ấy, gián tiếp xóa được phần nào sự lo lắng sợ hãi về hệ lụy của chất độc mầu gia cam mà thời chiến tranh đã đeo bám họ. Sự đeo bám ấy, đã làm cho họ lo lắng và âm thầm chịu đựng suốt bao nhiêu năm tháng không biết chia sẻ cùng ai.
   Bây giờ, sinh ra được đứa con có đầy đủ mọi bộ phận của cơ thể và khỏe mạnh họ mừng đến rơi nước mắt, mấy ai ở ngoài cuộc có thể hiểu được điều ấy. Sự vui mừng và niềm hạnh phúc của những người lính sau chiến tranh được nhân lên gấp bội, xoa dịu nỗi đau về sự mất mát và những năm tháng gian khổ ác liệt của cuộc chiến tranh mà họ đã trải qua.
  Có lẽ cũng vì lý do ấy nên Khoa dành hết tình thương cho cô con gái. Khoa đâu có ngờ sự yêu thương chiều chuộng của Khoa và sự nóng giận thiếu suy nghĩ của Khoa, đã dẫn hai bố con đến sai lầm đáng tiếc, để rồi bao xót xa ân hận.
   Trong khu tập thể, nhà Khoa ở lọt vào dãy nhà toàn người đi học nước ngoài về. Sát bên vách, một bên là vợ chồng ông Kỹ sư điện được đào tạo từ Cộng hòa dân chủ Đức, bên kia là vợ chồng ông kỹ sư thủy công thủy điện được đào tạo ở Rumani. Xung quanh toàn là những gia đình thuộc loại khá giả. Chỉ mỗi gia đình Khoa, gia đình CCB thuộc loại nhậy cảm với đồng lương, lúc đủ ăn lúc nghèo.
   Ăn còn chả đủ, đâu dám nghĩ đến những thứ vượt quá hoàn cảnh. Nhà người ta có vô tuyến xem, nhà mình không có, con cứ bắt bố mẹ dẫn sang xem nhờ, một vài lần thì chẳng sao. Đằng này, ngày nào con cũng đòi đi, bố mẹ rát hết cả mặt, con thì vui như được đi ăn cỗ. Đến nhà người ta giá như ngồi yên một chỗ thì còn tạm được, đằng này gặp bạn lại vui đùa chạy nhảy hò hét đau cả đầu. Người lớn chắc là khó chịu nhưng cả nể không nói ra, trẻ con không tế nhị như vậy được, cứ đùa một lúc là cãi nhau rồi tự ái bỏ về.
  Cũng may mà nó bỏ về, bố mẹ có cớ rút lui, nếu nó không bỏ về cũng chưa biết giải quyết cách nào. Khổ thay trẻ con hiếu kỳ, đã bỏ về rồi lại chạy sang để xem, bạn tức quá đóng hết các cửa lại không cho xem, con nhà mình ngó qua khe cửa. Bạn nghịch ngợm lấy đũa chọc qua khe cửa, vô tình chọc đúng vào hốc mắt, may là chưa bị sao chỉ bị thâm tím xung quanh mắt, chắc là phải mất mấy ngày mới khỏi.
   Vợ thương con chỉ biết khóc thầm, Khoa bảo: Chuyện trẻ con ấy mà, mấy bữa là khỏi ngay thôi. Thú thực là Khoa cũng xót lắm, nhưng Khoa cố gắng xoa dịu để vợ yên tâm. Đêm ấy Khoa khó ngủ, ngồi lặng lẽ trong đêm, suy nghĩ về bổn phận của một người chồng người cha. Hai hàm răng Khoa cắn chặt tưởng như sẽ có cái răng nào đó sẽ bị vỡ ra, cuối cùng Khoa ngộ ra là do Khoa nghèo quá.  Xuất phát điểm từ chiếc ba lô lộn thì phải từ từ, Khoa tự an ủi mình cho dễ ngủ…
    Nghĩ lại, những năm tháng sống trong quân ngũ, tuy là gian khổ và ác liệt. Nhưng có phần may mắn là Khoa đã học được cách chịu đựng để vượt qua khó khăn thử thách, giành giật lấy cái sống từ cái chết. Cộng với tuổi thơ của Khoa, lớn lên và trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ đầy khó khăn ác liệt. Bây giờ chiến tranh đã qua đi, Khoa đã được trở về với tập bản vẽ và cây bút chì, dù hoàn cảnh nào Khoa cũng sẽ cố vượt qua, làm chỗ dựa vững chắc cho vợ con.
   Thực ra, Khoa đã cố gắng nhiều lắm, đôi khi tưởng như Khoa không còn đủ niềm tin và nghị lực để vượt qua. Những lúc như vậy, người hiểu và sẻ chia với Khoa là Hoàng, người đồng đội năm nào. Đã nhiều lần Hoàng lặng lẽ giúp đỡ Khoa, vợ chồng Khoa biết điều ấy. Nhưng Hoàng tế nhị quá, Khoa không có cách nào từ chối. Hoàng thường tìm đúng lúc đúng dịp để gửi, khi thì bơ lạc bắp ngô, lúc thì cân măng củ sắn, khi thì bộ quần áo sinh nhật cho con gái v.v. Các cụ dậy: Một miếng khi đói, bằng một gói khi no.  Cảm động lắm, những gói quà tưởng như nhỏ nhoi ấy, phần nào cũng ấm lòng vợ chồng Khoa, hơn nữa  cũng giúp đỡ được chi phí của gia đình khi đồng lương của vợ chồng Khoa hạn hẹp.
 
   Để kiếm đủ tiền trang trải cho cuộc sống gia đình, nhất là đứa con gái bé bỏng, Khoa không còn con đường nào khác là phải làm thêm, làm tất cả mọi việc để mưu sinh. Ngoài 8 tiếng làm việc ở cơ quan, thời gian còn lại Khoa đi làm thuê để tăng thêm thu nhập. Việc gì ai thuê Khoa cũng làm, trừ những công việc Khoa cảm thấy không minh bạch là không làm.
   Thượng vàng hạ cám, cứ việc gì làm ra tiền là Khoa làm, đi công tác làm theo kiểu đi công tác, ở nhà làm theo kiểu ở nhà. Ngày ấy, cả khu tập thể đều biết gia đình Khoa thuộc loại khó khăn. Vợ Khoa gầy gò ốm yếu, sau khi sinh đứa con gái đầu lòng vợ Khoa  kiệt sức. Vốn dĩ, vợ Khoa lúc còn con gái cũng đã gầy yếu rồi, bây giờ nuôi con lại càng gầy yếu hơn.
   Nhìn thảm cảnh ấy, Khoa không đành lòng song cũng không biết giải quyết thế nào, chỉ còn biết lăn ra làm. Thời gian ấy, may quá cơ quan lại có đợt đi an dưỡng ở Quảng Bá. Xét hoàn cảnh gia đình, họ giải quyết cho vợ Khoa đi nghỉ dưỡng hơn nửa tháng. Ở nhà hai bố con sống cảnh gà trống nuôi con, khi ấy con gái Khoa gần hai tuổi. Kể cũng may, ngày đơn vị Khoa đóng ở Nại Cửu, cũng là thời gian Khoa học được nhiều thứ nhất trong quân đội, vì thế bây giờ thấy tự tin.
    Sau khi bàn giao lại toàn bộ dải đất bờ Nam sông Thạch Hãn, kéo dài từ Nham Biều lên đến Đá Đứng, cho đơn vị khác tiếp quản. Trung đoàn 95 sư 325 rút ra củng cố lực lượng, tổ chức huấn luyện. Đồng thời đóng vai trò lực lượng thường trực sẵn sàng trấn áp, nếu như quân đội VNCH vi phạm hiệp định  Paris.
    Quãng thời gian này là thời gian bộc lộ tài năng của lính, đúng là trăm hoa đua nở. Cứ trung đội này có cái gì hơi đặc biệt, lập tức ít bữa sau trung đội khác cũng có cái đó, không đơn vị nào chịu thua kém. Những việc trồng rau nuôi gà nuôi lợn là bình thường, vì anh em đều là con nhà nông nên ai ai cũng biết làm, đơn vị nào cũng có.
  Còn những nghề độc chiêu như nấu rượu, làm bánh, làm bún v.v, không phải ai cũng biết làm. Thế mà, trung đội nào cũng quyết làm cho kỳ được, thế mới gọi là con gà tức nhau tiếng gáy. Thiếu dụng cụ, bộ đội sáng tạo ra dụng cụ. Mũ sắt của địch làm cối, cành cây làm chày, cởi áo lọc bột, đục đồ hộp làm khuôn vắt bún v.v. Thiếu thức ăn ra suối bắt cua bắt cá làm bún cá bún riêu cua, mẻ ủ từ cơm thừa, nhân là từ thịt hộp chưng hành, mộc nhĩ làm nhân bánh cuốn bánh tẻ, cái gì cũng có. Đúng là muôn kiểu sáng tạo, nhưng trên hết vẫn là sự cần cù chịu khó của những người lính, công của họ nhiều như nước sông.
   Những bài học lớn trong quân ngũ, bây giờ vô cùng quý giá đối với Khoa. Khoa luôn tự nhủ: Phải có niềm tin và nghị lực để vượt qua mọi khó khăn thử thách, phải sống có trách nhiệm và nghĩa vụ của người chồng người cha. Câu thần chú này là động lực để Khoa vươn lên, mỗi khi gặp khó khăn là Khoa lại nghĩ về nó, chính nó định hướng để Khoa bước những bước tiếp theo.
   Chuyện bỏ công bỏ sức đi làm thuê thật đơn giản không phải lo nghĩ gì, cứ làm là có tiền. Những việc như đi bốc vác, đi xây trát, làm hợp đồng dọn vệ sinh khu cơ quan, dán túi nilon v.v. Chỉ cần Khoa vượt qua rào cản của sự sĩ diện, là Khoa làm được. Lúc đầu cũng khó khăn lắm, bởi Khoa đấu tranh tư tưởng: Mình là người có học thức, có chuyên môn nghiệp vụ. Tại sao đi làm những việc này mà không làm những việc khác?  Khổ nhưng ai thuê mình? Mình không biết chỗ nào thuê? Thế là Khoa đành chịu. Trong khi đó sống thì phải ăn, mà lương của Khoa chỉ đủ trang trải cho đứa con, còn lại ba người tần tiện sống bằng đồng lương trung cấp của vợ. Đói thì đầu gối cũng phải bò.
   Số phận nghiệt ngã, đặt Khoa không đúng chỗ. Ngày Khoa còn trẻ, Khoa cũng nhiều tài lẻ, có năng khiếu thể thao nên được nhiều cô gái để ý. Hồi đang học bổ túc công nông của tỉnh, Khoa đã có người yêu rồi, hai đứa bằng tuổi nhau. Tốt nghiệp, người yêu Khoa đi học đại học ở Baku, Khoa được đi CuBa. Nhưng do tình hình chính trị ở CuBa bất ổn nên không đi nữa mà học ở trong nước. Mấy năm đầu, hai đứa vẫn còn thư từ qua lại, sau chẳng hiểu lý do gì thư từ  có vẻ trục trặc, Khoa đoán là do chiến tranh. Với lại, khi đó Khoa đang ở chiến trường, nên chẳng biết hỏi ai. Mối tình đầu, để lại cho Khoa dư vị ngọt ngào của tuổi thơ.
   Đến khi đơn vị rút ra Nại Cửu, Khoa mới có dịp phát huy tài năng. Khi ấy phong trào bóng đá bóng chuyền của trung đoàn 95 rất sôi nổi, các đơn vị độc lập, các tiểu đoàn bộ binh đều có những đội bóng chuyền bóng đá thi đấu giao hữu với nhau. Do có năng khiếu, Khoa được cử làm đội trưởng đội bóng chuyền của C20, dẫn đội đi thi đấu khắp nơi trong trung đoàn, tiếng tăm của đội nổi như cồn. Ngoài tài lẻ về bóng chuyền, Khoa còn có khả năng làm thủ môn, đã có lần đội bóng đá của trung đoàn 95 gọi Khoa lên làm thủ môn cho đội.
   Một lần điếc không sợ súng, nhưng vì chính trị viên ép quá nên Khoa nhận lời. Lần ấy trung đoàn tổ chức hội diễn để chọn tiết mục đi hội diễn trên sư đoàn, ban chỉ huy đại đội giao nhiệm vụ cho Khoa xây dựng tiết mục tự biên tự diễn nói về truyền thống của đơn vị trinh sát C20. Chỉ trong  một ngày, ngồi bên bờ suối Ái Tử. Khoa đã viết xong tiểu phẩm: “Nở hoa trong lòng địch”. Tiểu phẩm dựa vào chuyện có thật của đơn vị,  khi tổ chức trinh sát thọc sâu vào ngã ba Phước Môn. Tiểu phẩm ấy không có lời, nhưng có người dẫn chuyện, biểu diễn võ thuật dưới hình thức kịch câm. Khoa không biết kết quả, nhưng nghe đâu được giải khuyến khích, vì trong ban giám khảo, có bạn là sinh viên của trường đại học Xây Dựng nâng đỡ.
   Xem ra trí tuệ không đến nỗi nào, nhưng tại sao lại nghèo? Khoa không bằng lòng với hiện tại, Khoa chuyển sang đi buôn. Lần đi công tác làm chuyên gia ở CHDCND Lào. Vốn không có, Khoa vay vàng bán đi để làm vốn. Quả là liều, trong đời Khoa mới hai lần nhìn thấy vàng mà chưa hiểu được giá trị thật của vàng, thế mà giám vay vàng để đi buôn.
   Lần thứ nhất, Khoa biết vàng khi ở đài quan sát nóc dinh tỉnh trưởng Quảng Trị. Lần ấy, anh em trinh sát C20 đi thực địa nhặt được một hộp trang sức, mở ra xem thấy có đôi khuyên tai, một chiếc nhẫn. Thằng nọ nhường thằng kia, không thằng nào dám lấy vì sợ. Để không tiếc nuối chúng nó bầy ra cách cho vào lon đồ hộp, sau đó đặt lên tường làm bia để bắn cho mất tăm. Lần thứ hai là ở ấp Nguyễn Thái Học gần ngã ba Dầu Dây, Khoa cũng nhặt được chiếc nhẫn vàng, Khoa đưa cho Tuyến liên lạc của đại đội mang về nộp. Đứng trên nhà cao tầng, Tuyến vung tay ném mạnh vào không gian, chẳng biết nó bay đi đâu.
   Những lần ấy là vậy, còn bây giờ nó là tiền. Khoa bán đi lấy tiền mua hàng từ Việt Nam, mang sang bên Lào đổi lấy hàng bên ấy, mang về Việt Nam bán. Đi như vậy cũng kiếm ăn được, nhưng không phải ai cũng được đi, chỉ những người chủ chốt của đề án mới được đi
   Ngày ấy, có thời kỳ Khoa còn nuôi lợn. Thực ra lấy công làm lãi, như bỏ tiền vào lợn để tiết kiệm, cũng chẳng ăn thua gì mà vất vả lắm. Lúc lợn khỏe mạnh bình thường không sao, nó chỉ ăn rồi ngủ, lớn trông thấy. Lúc nó ốm thì mình cũng ốm theo, lo lắng cho lợn mà mất ăn mất ngủ, nó nóng sốt mình ngồi bên cạnh thuốc thang, đuổi ruồi đuổi muỗi. Không làm thế không được, vì toàn bộ tiền nong tiết kiệm đổ vào nó hết, nó mà chết thì mình cũng hết, cũng may là Khoa chưa bị lần nào.
   Cuộc sống cứ bươn chải lần hồi ngày lại qua ngày, tưởng như không có chuyện gì xảy ra. Thế mà có một ngày, đứa con gái yêu quý của Khoa lại đi ăn cắp hộp bút chì mầu của bạn. Chỉ có như vậy thôi, nhưng vì mặc cảm với số phận, đầu óc Khoa quay cuồng, trời đất như sụp đổ. Bất chấp mọi lời can ngăn của mọi người, lời cầu xin của vợ. Khoa nổi giận lôi đình, quát tháo mắng mỏ. Con bé hoảng loạn không biết làm gì, mặt tái mét ôm lấy chân mẹ, sợ hãi khóc không ra nước mắt.
   Khoa bắt con mang trả lại và quỳ xuống xin lỗi bạn, lúc ấy con Khoa hơn con nhà ông hàng xóm đến hai tuổi, chúng nó vẫn chơi với nhau. Sao hôm nay lại xảy ra như vậy? Con quỳ xuống, tim Khoa uất nghẹn. Khoa đến xin lỗi vợ chồng ông kỹ sư điện được đào tạo ở Đông Đức về, mà xót xa cho số phận…
   Vội giận mất khôn, Khoa đuổi con ra khỏi nhà. Nó biết nó có lỗi, nó sợ bố đánh nên phải đi, dáng nó đi siêu vẹo, không dám quay lại nhìn bố…
    Ngoài phố đã lên đèn, đứa con gái bé bỏng của Khoa thất thểu bước đi, nó ngơ ngác trong dòng người hối hả. Đi theo con mà nước mắt Khoa dàn dụa…
(Còn nữa).


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: vanthang341ht trong 21 Tháng Chín, 2014, 09:24:58 pm


    Chào Quanvietnam, chào các bạn.
    Đọc đoạn viết trên đây của Quanvietnam mà vanthang như thấy hình ảnh mình trong đó. Cuộc sống bôn bề khó khăn khi 4 đứa con nhỏ trong tay người vợ gầy yếu lại phải đảm đang việc cơ quan, tôi đành phải tìm cách  rời khỏi quân ngũ. Nghỉ hưu khi vừa đủ tiêu chuẩn quy định tôi bước vào cuộc mưu sinh không từ một hoạt động nào để cho các con được đi học.
    Mọi chuyện rồi cũng vượt qua một cách nhọc nhằn...
    Thấm đẫm quá câu chuyện bạn kể về Khoa như đang kể về gia đình tôi vậy.  Cảm ơn bạn lính.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: qtdc trong 22 Tháng Chín, 2014, 01:26:04 pm
Bác quanvietnam có ấn tượng với mấy bác đi tây quá rồi  ;D. Có đi tây nhiều như Cụ Hồ thì mới có nước Việt Nam như ngày nay chứ. Nhưng phải nói bác viết thực quá, thực không thể thực hơn., thực từ người nhớn đến chuyện đứa trẻ, từ xã hội chung cho đến mỗi gia đình cụ thể, như thể một cuốn phim tài liệu mới nguyên bỗng nhiên từ thời quá khứ hiện về. Đến như Con Hùm Xám đường số 4 từng học trung học Lycée de la Providence ở Ba-lê, khi về hưu còn đi xe đạp bỏ mối hàng nước và đèo hai thùng nước gạo to tướng về nuôi heo, vừa viêt "Lịch sử Quân sự Việt Nam", thì các bác như bác Khoa có làm những việc việc như thế cũng là đúng rồi, nhưng phải nói tâm lý ai cũng có quán tính nhất định.
Thời ấy là thời ba cuộc cách mạng là lên thiên đường. Cách mạng quan hệ sản xuất là nền tảng, tất cả của riêng thành của chung thì mới tập trung tư liệu sản xuất, tích tụ tư bản để sản xuất lớn được, nay cũng hệt như thế nhưng của chung thành của riêng mới sản xuất lớn và có hiệu quả để căm-pu-chia được, khi lỗ chổng vó như xxyy càng thấy rõ của chung nó hay hơn của riêng như thế nào. Làm ăn nhớn nên nhiều tỉnh lớn, tiết kiệm được ghế nên chưa hoàn thành công cuộc phá rừng,
Cách mạng tư tưởng văn hóa là quan trọng, sắn bổ hơn gạo vì phân tích thành phần dinh dưỡng nó là abcxyz thế này, nó bổ dọc bổ ngang thế kia, bài của giáo sư bác sỹ đăng trên các báo giải thích cho mọi người thông hiểu.
Cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt mà các ông kỹ sư đói vàng mắt toàn nghĩ chuyện đi buôn ở Chợ Giời với Ai Lao, thì đúng là then chốt quá rồi, chất lượng công việc của các ông ấy chỉ có tuyệt trở lên.
Ấy thế mà hồi ấy người ta làm được những việc cũng không nhỏ: những cơ sở lớn đầu tiên của điện khí hóa, công nghiệp hóa, giao thông vận tải, thủy lợi. Đến bây giờ cầu Thăng Long vẫn là cây cầu lớn nhất và duy nhất qua sông Hồng có cả đường sắt đường bộ nếu không kể cây cầu Đu-me do bố con thằng Tây làm, thủy điện Hòa Bình trên sông Đà đến giờ vẫn là công trình thuộc loại lớn nhất Đông Nam Á và duy nhất nằm trong lòng một quả núi, không sợ chiến tranh nguyên tử khi thiên hạ đại loạn.  ;D


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 22 Tháng Chín, 2014, 01:30:09 pm
 Cám ơn anh Vanthang 341, lâu lắm mới lại thấy anh. Chúc anh mạnh khỏe, sức khỏe là niềm an ủi cuối cùng của chúng ta.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: xuanv338 trong 22 Tháng Chín, 2014, 01:44:04 pm
  Lâu lắm hôm nay em mới lại vào thăm nhà bác quanvietnam. Chuyện của bác lôi cuốn quá! Câu tuyện đã làm em chợt nhớ lại cảnh ba mẹ con sống trong một gian nhà tập thể chật hẹp của thời bao cấp. Bên cạnh bức tường bên kia là một căn phòng cũng nhỏ như của mình thôi. Nhưng trong căn phòng ấy, gia đình nhỏ ấy họ được đủ đầy hơn nhiều lắm. Cô ấy có chồng vừa đi học bên Liên Xô về, gia đình bố mẹ họ lại đủ đầy hơn. Nhiều đêm nằm nghĩ đến cuộc sống của mình còn đang chật vật. Con mình hàng bữa khao khát cái vị thơm của mùi thức ăn ngon của bên phòng hàng xóm bốc sang. Nhổm người vuốt vào hai má  của con. nằm xuống nhìn qua khung cửa sổ thấy ngoài trời một không gian màu xám . Nước mắt chảy thầm.  Cb chúc bác quanvietnam mạnh khỏe và viết tiếp những dòng hồi ức cho bạn mình rất thật, rất hay nữa đi.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: vanthang341ht trong 22 Tháng Chín, 2014, 08:36:06 pm

Thời ấy là thời ba cuộc cách mạng là lên thiên đường. Cách mạng quan hệ sản xuất là nền tảng, tất cả của riêng thành của chung thì mới tập trung tư liệu sản xuất, tích tụ tư bản để sản xuất lớn được, nay cũng hệt như thế nhưng của chung thành của riêng mới sản xuất lớn và có hiệu quả để căm-pu-chia được, khi lỗ chổng vó như xxyy càng thấy rõ của chung nó hay hơn của riêng như thế nào. Làm ăn nhớn nên nhiều tỉnh lớn, tiết kiệm được ghế nên chưa hoàn thành công cuộc phá rừng,
Cách mạng tư tưởng văn hóa là quan trọng, sắn bổ hơn gạo vì phân tích thành phần dinh dưỡng nó là abcxyz thế này, nó bổ dọc bổ ngang thế kia, bài của giáo sư bác sỹ đăng trên các báo giải thích cho mọi người thông hiểu.
Cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt mà các ông kỹ sư đói vàng mắt toàn nghĩ chuyện đi buôn ở Chợ Giời với Ai Lao, thì đúng là then chốt quá rồi, chất lượng công việc của các ông ấy chỉ có tuyệt trở lên.


        Chào bạn qtdc.
    Bạn có cách nói, cách viết rất hài hước, hài hước đến chảy cả nước mắt...
    Đúng thế ! Một thời thiếu gạo nên báo chí thông qua các nhà khoa học chứng minh sắn tốt hơn gạo. hi hi
    Lại nữa: khi Phạm Tuân đi lơ vũ trụ báo chí buộc phải bịa ra lúc nhỏ đi trâu Phạm Tuân hay thả diều...Bèo Hoa dâu làm phân xanh vì không có phân hoá học như bây giờ nên Phạm Tuân cũng mang theo cả bèo hoa dâu lên tàu vũ trụ để nghiên cứu...(!?!) Hay !


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 23 Tháng Chín, 2014, 11:04:30 am
   Xin chào và cám ơn tất cả các anh các chị đã đọc bài viết của Quanvn. Thực tình Quanvn không có ý nghĩ sâu xa ấy, mà Quanvn chỉ sờ đầu gối nói chân thật, kể lại hoàn cảnh và số phận của những người bạn lính sau chiến tranh. Có những người bạn lính nói:  Gian khổ vất vả của người lính đúng là không thể nói hết thành lời, nhưng suy đi tính lại cũng có cái hay, bởi vì người lính chẳng biết để làm gì, đành lấy đấy là niềm an ủi là mình đã qua thử thách, khổ thế chứ khổ nữa mình cũng chịu được…Vậy là chấp nhận số phận khổ cả đời.
  Có những người lính lạc quan hơn, họ bảo: Tất cả những cái mới, đều xuất phát từ những cái cũ, không có ngày xưa thì làm sao có ngày nay v.v. Với lại, bây giờ cũng loạn ngôn, thích là nói. Ví như: Có được cuộc sống như ngày hôm nay, mỗi người nói mỗi khác. Người thì nói: Ơn chúa, chúng con có được ngày hôm nay; Người thì nói: Nhờ trời phật chúng con mới được ngày hôm nay; Người lại nói Ơn Đảng ơn Chính Phủ, ơn cụ Hồ chúng con mới có ngày hôm nay…
   Quanvn xin cám ơn tất cả các anh các chị cùng các bạn.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 25 Tháng Chín, 2014, 09:33:52 am

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Số phận
     Cơm nước xong, Khoa trông con để Xuân thu dọn, Hoàng tranh thủ chuyện trò xã giao với Xuân theo phép lịch sự. Thực ra, Hoàng hỏi gì thì Xuân trả lời chứ Xuân cũng chả biết chuyện gì để nói. Với lại tính Xuân ít nói, có khi cả ngày chẳng nói một câu. Cũng may là Hoàng biết được Xuân ít nói nên dễ nói chuyện, những ai chưa biết thì cho là Xuân khinh khỉnh. Vì Xuân ít nói, nên bạn bè của Khoa cũng vơi dần, ngay cả với con gái, Xuân cũng ít lời. Nghe Khoa kể: Xuân chưa bao giờ ru con.
    Chuyện ru con, hai vợ chồng Khoa đã xảy ra bất đồng, Khoa buồn lắm không biết làm thế nào để thuyết phục Xuân, nên đã mang nỗi buồn này tâm sự với Hoàng. Hoàng động viên Khoa cứ từ từ, không nên nóng vội, Xuân còn trẻ sẽ tự điều chỉnh cho phù hợp với cuộc sống gia đình. Động viên Khoa thế thôi, nhưng trong thâm tâm Hoàng cảm thấy Xuân thuộc lớp người ít va chạm không muốn thay đổi thói quen, nên không thể hy vọng vào sự thay đổi của Xuân. Chỉ thương cho Khoa, phải chịu thiệt đơn thiệt kép…
    Chẳng bù cho Luyến vợ Hoàng, vợ chồng gặp nhau là Luyến nói như máy khâu, chỉ cần biết tin Hoàng về là mừng như mở cờ trong bụng, chân tay cứ ríu lại, đứng ngồi không yên, ra ngắm vào vuốt. Chẳng riêng gì vợ Hoàng mà cả ông bà cũng thế, cũng sốt sắng ngắm ngía đàn ngan đàn gà, chọn xem lần này bố con cún về thì mổ con nào? Cún con sốt ruột luôn mồm hỏi mẹ: Sao  mãi mà chưa đến thứ bảy để đón bố? Cún cũng không cần phải xin phép ai, chạy sang khoe với bác Nguyệt bác Thịnh là thứ bảy bố cháu về… Hoàng nghĩ về gia cảnh nhà mình với gia cảnh nhà Khoa sao trái ngược nhau nhiều thế, trong khi đó Hoàng và Khoa cùng vạch xuất phát, thế mà chẳng hiểu thế nào? Đúng là số phận.
   Vợ Khoa cho con đi ngủ. Nhà có 8 mét vuông, hôm nay lại có khách, không biết nhét vào đâu? Hai thằng bảo nhau ôm chăn chiếu lên sân thượng nhà thí nghiệm của Trung tâm để ngủ. Hoàng đi trước, Khoa đóng cửa đi sau, trước khi đi Khoa với chai rượu và gói lạc rang ban nãy uống chưa hết đi theo.
   Một đêm không trăng, nhưng trời sáng. Rất nhiều những ngôi sao bé li ti nhấp nháy xa tít tắp trên trời cao, thi thoảng có những đám mây trắng đục bay rất thấp, trôi về hướng Bắc. Hai thằng lính cùng đơn vị năm nào, nằm ngửa mặt lên trời kể chuyện quá khứ, chuyện miên man từ chuyện này sang chuyện khác. Đột nhiên Hoàng ngồi nhỏm dậy, ngửa cổ tu một hớp rượu sau đó hỏi Khoa:
  -Chuyện này tôi hỏi ông, nhưng ông phải nói thật. Có phải vợ chồng ông có vấn đề gì, nên ông mới hay đi công tác, có đúng vậy không?
  -Ai nói với ông như vậy?
  -Tôi nghe anh em ở trên Hòa Bình kháo nhau như vậy, nên tôi mới gặp ông để hỏi cho cụ thể.
   Đúng là Khoa hay đi công tác thật. Nhưng không phải vợ chồng Khoa có vấn đề gì đến nỗi Khoa phải lánh mặt, thật ra Khoa  rất thích đi công tác. Đi công tác có nhiều cái lợi, tất nhiên cũng có cái không lợi. Cái không lợi thì Hoàng cũng biết, vì phải xa nhà xa vợ con, không giúp được vợ con lúc khó khăn v.v. Còn cái lợi, cũng có cái kể được cho Hoàng nghe, nhưng cũng có cái không kể cho Hoàng nghe được. Ví như chuyện đi công tác, được đi đây đi đó như đi du lịch, nhưng quan trọng hơn cả là được về thăm lại chiến trường xưa v.v. Điều này thì kể được, còn đi công tác là để bớt miệng ăn ở nhà, phần lương thực thực phẩm ấy dành lại cho vợ cho con, thì không dám kể. Kể chuyện ấy ra Hoàng nó cười chết. Nghĩ thế Khoa cười bảo:
  -Ông yên tâm đi! Không có chuyện ấy đâu. Tất nhiên là vợ chồng sống với nhau, thế nào cũng có chuyện này chuyện khác, cái bát cái đũa cũng còn va chạm huống chi con người. Nhưng ông biết tính tôi rồi, hơn nữa bây giờ chúng tôi đã có một thiên thần, sau này thế nào thì không biết nhưng trước mắt tôi luôn nghĩ về nó. Tôi sẽ cố gắng để cho nó sống vui vẻ hạnh phúc bên bố mẹ, không để cho nó thiệt thòi với chúng bạn chí ít cũng là về tinh thần, nó phải có đầy đủ cả bố và mẹ.
  -Ông nói thế là tôi yên tâm rồi. Ông còn nhớ hồi ở chiến trường không? Tôi với ông ngồi bên bờ suối, mơ ước đủ thứ, bây giờ kiểm lại cũng gần hiện thực rồi. Thôi! Tốt xấu gì thì chưa biết, nhưng hãy quý trọng những gì mình đang có. Tôi nói thế, ông thấy thế nào?
  -Đồng ý thôi, nhưng tôi cũng hỏi thật ông nhé: Ông một nơi, vợ con một nơi, sống xa nhà ông có thấy nhớ vợ nhớ con không?
  -Ông hỏi gì lạ vậy?
  -Tôi hỏi thật, ông cứ trả lời thật.
  -Hồi mới cưới vợ thì không nói làm gì, suốt ngày nhớ vợ. Sau này khi đã có con rồi, cứ nghĩ đến vợ con là tôi lại muốn về. Khi về thì vui vẻ phấn khởi, lúc lên người mệt mỏi rũ như tầu lá, nhưng chỉ vài hôm lại sức là tôi lại muốn về. Hì hì…
  -Vậy thì tôi có vấn đề rồi ông ạ! Tôi đi công tác xa nhà, đợt dài nhất là một năm, đợt ngắn vài tuần đến vài ba tháng. Nhưng tôi nói thật với ông, tôi chỉ nhớ con thôi, thi thoảng mới nhớ vợ. Ông bảo tôi như vậy thì bị bệnh gì?
  -Ông chả bị bệnh gì cả, có thể là ông bị suy nhược cơ thể hay là do sức ép công việc hoặc là bị hoàn cảnh chi phối nên ông mới thế. Nếu ông sức khỏe tốt, công việc làm ăn thuận lợi, vợ chồng con cái sống vui vẻ hạnh phúc, lúc bấy giờ ông thấy khác ngay.
  -Ừ! Có thể là ông nói đúng. Đã đi công tác là phải chịu sức ép công việc và hoàn cảnh chi phối, ở nhà còn có lãnh đạo và đồng nghiệp trợ giúp. Đi công tác chỉ có mấy anh em độc lập tác chiến, giải quyết tất cả mọi vấn đề phát sinh hàng ngày, đúng là sức ép công việc quá lớn, nhưng để hoàn thành nhiệm vụ phải chấp nhận điều ấy.
    Ông có biết không? Năm 1980 tôi làm ở phòng Nghiên cứu và thiết kế thủy điện. Ngày ấy đập đâng nước Đơn Dương của công trình thủy điện Đa Nhim, bị dò dỉ nước tương đối nhiều ở hai bên vai đập, đồng thời mực nước của đường bão hòa dâng cao hơn so với thiết kế. Về lý thuyết ông với tôi cùng nghề thì ông cũng biết, khi mà mực nước của đường bão hòa dâng cao hơn so với thiết kế là có vấn đề, nếu không tìm cách hạ thấp đường bão hòa xuống thì nguy cơ vỡ đập là hiện hữu.
   Bộ Điện và Than, giao nhiệm vụ cho trung tâm của tôi đi nghiên cứu xử lý. Đoàn được thành lập, chuyên viên cao cấp Vụ xây dựng cơ bản của Bộ làm trưởng đoàn, tiến sĩ khoa học chuyên ngành thủy công làm phó đoàn, chuyên gia kỹ sư địa chất công trình học khóa 4 Bách khoa và tôi là thành viên. Tất nhiên vào trong ấy, tức là vào Công ty điện lực 2 đóng ở Sài Gòn sẽ tăng cường thêm lực lượng. Tôi được tham gia vào đoàn với chức năng là thư ký tổng hợp, ông trưởng phòng thấy tôi cần cù chịu khó, có thể giúp việc được cho đoàn, nên đưa tôi vào danh sách.
   Ngày ấy, tôi không có tiêu chuẩn được đi bằng máy bay đâu, tuy có danh sách nhưng cứ nơm nớp sợ bị loại ra vì không đủ tiêu chuẩn. Nếu chẳng may bị loại ra thì tiếc lắm, tiếc nhất là không được đi thăm lại chiến trường xưa, thăm lại Sài Gòn sau gần năm năm giải phóng. Ông biết không? Tới khi tôi bước lên máy bay rồi, tôi mới chắc chắn là tôi được đi.
   Hoàng ngắt lời tôi, chia sẻ:
  -Ông quá may mắn, những thằng cùng về đợt ấy, có khi ông là đứa đầu tiên được lãnh đạo chú ý. Đưa ông từ Hòa Bình về Hà Nội, lại cho ông vào phòng nghiên cứu, bây giờ lại cho ông tham gia vào đoàn công tác cao cấp của Bộ.
   Tôi ngắt lời Hoàng:
  -Chuyện ấy đã biết thế nào mà nói may hay không may. Tôi chỉ biết lần đầu tiên trong đời, tôi được đi máy bay. Tôi kể ông nghe nhưng ông đừng cười, ngồi trong máy bay mà tôi ngơ ngơ như bò đội nón, chẳng dám sờ mò vào cái gì. Sợ sờ vào mà nó bị làm sao thì chết, giống như lần giải phóng Buôn Ma Thuột ấy, ông còn nhớ không? Dạng sáng ngày 10 tháng 3 năm 1975. Mới gần 5 giờ sáng, dân chúng thấy súng nổ bỏ chạy hết, cà phê, hủ tiếu còn nóng hổi, điện còn sáng. Mấy thằng lính C20 E95 trèo lên nhà cao tầng để đặt đài quan sát. Có thằng tò mò nghịch ngợm bấm vào nút khởi động của máy điều hòa nhiệt độ, nó nạp điện kêu ầm ầm. Thế là cha con, không thằng nào bảo thằng nào cắm đầu cắm cổ chạy thục mạng xuống tầng một, vì sợ địch gài mìn phá hủy nhà cao tầng.
  -Ừ nhỉ! Nghĩ lại mà buồn cười. Thực ra, ngày ấy mình mang tiếng là lính sinh viên mà chẳng biết thế nào là vô tuyến, thế nào là máy điều hòa không khí, huống hồ là lính đi từ nông thôn. Chạy là phải, cẩn tắc không áy náy.
  -Ông đã đi máy bay bao giờ chưa?
  -Chưa!
  -Thế à! Tiếc quá nhỉ? Tôi với ông mang tiếng là kỹ sư mà cái gì cũng chỉ biết trên sách vở phim ảnh, đào tạo ra những kỹ sư như chúng mình thì làm sao khá được, mà bản thân anh em mình làm gì cũng thiếu tự tin.
   Ừ thì, cho là thiệt thòi cho cả một thế hệ vì chiến tranh, nhưng nghĩ lại vẫn thấy bực tức, không biết phân bua với ai và phân bua như thế nào? Tôi kể cho ông nghe chi tiết này xem ông có khó chịu không? Còn tôi thì lúc ấy tôi sôi máu lắm, nhưng vẫn phải ngậm bồ hòn làm ngọt:
  Hội nghị bàn giải pháp xử lý đập Đơn Dương, cũng diễn ra như bao nhiêu hội nghị khác. Tất cả thủ tục kính thưa kính gửi đầy đủ, diễn biến cuộc họp có vẻ thuận buồm xuôi gió, hiểu biết và tin tưởng lẫn nhau, tình hình này chắc chắn sẽ  thành công. Mọi người trong đoàn nghĩ thế nào thì tôi không biết? Riêng tôi, qua theo dõi thái độ của một số người tôi cảm thấy phía đối tác không có thiện chí hợp tác.
  Đúng như dự đoán, sang đến mục cung cấp tài liệu nghiên cứu. Một ông trông trắng trẻo, dáng người lùn thấp mập mạp. Ban nãy nghe giới thiệu, ông là kỹ sư của chế độ cũ. Ông đã theo dõi công trình này từ khởi sự khảo sát thiết kế đến khi thi công hoàn tất. Mọi biến cố xảy ra trong suốt thời gian chiến tranh, ông này cũng biết. Ông có người trợ lý giúp việc rất đặc biệt, giống là cuốn từ điển công trình sống. Cái gì ở đâu? Xảy ra thế nào? Người trợ lý này đều nhớ, thậm chí là có nhật ký ghi chép đầy đủ. Điều hạn chế nhất của người trợ lý này là nói lắp và ngọng, rất ít người có thể nghe và hiểu.
  Hai người này họ trao đổi với nhau bằng tiếng Miền Nam, nên đoàn công tác của Bộ nghe không rõ. Sau đó ông kỹ sư của chế độ cũ nói:
   -Thú thật với các ngài, tài liệu về công trình thì rất nhiều. Nhưng không biết các ngài có đọc được không? Vì tài liệu viết bằng Anh ngữ, trong khi các ngài lại quen đọc tiếng Liên Xô, tiếng Trung Quốc.
  Mấy anh em nhìn nhau, tôi nghĩ: Đây là vấn đề bí thực sự, nếu không khéo sẽ rơi vào vết xe đổ của những đoàn trước. Trong hoàn cảnh này, nếu tôi là trưởng đoàn, tôi sẽ yêu cầu họ cung cấp phiên dịch. Việc này xem ra không mấy thuận lợi, nhưng có lẽ cũng không có cách khác.
  Rõ ràng, về mọi lĩnh vực của cuộc sống  sau 5 năm giải phóng, cả hai miền Nam Bắc chưa thật hiểu nhau, còn kênh nhau nhiều thứ. Tuy họ không nói ra, nhưng có vẻ thiếu niềm tin về khả năng giải quyết công việc của các anh em cán bộ kỹ sư được đào tạo ở Miền Bắc và từ các nước phe XHCN. Nhân việc này họ cũng muốn “Chiếu bí” anh em chúng tôi.
   Ông biết không? Anh em mình sẵn có dòng máu lính trong huyết quản, nên cái gì động đến phe ta phe địch là sự tự trọng và ý chí tự cường của người chiến thắng lại bùng lên. Tôi nghĩ thế, nhưng cũng chưa có ý kiến đề xuất nào khả thi. Ông trưởng đoàn còn đang phân vân chưa biết giải quyết cách nào, thì ông kỹ sư địa chất công trình có ý kiến:
  -Vấn đề tài liệu bằng tiếng Anh hay tiếng Pháp đều không ảnh hưởng gì, chúng tôi chỉ sợ tài liệu viết bằng tiếng Nhật. Vì công trình này do công ty Nippon- Corie thiết kế.
   Nghe được ông sư địa chất nói, cả đoàn thở phào nhẹ nhõm, tất nhiên vẫn còn đôi chút nghi ngờ về khả năng ngoại ngữ của ông kỹ sư địa chất. Nhưng chỉ sau vài tiếng đồng hồ, tiếp nhận và nghiên cứu tài liệu. Cả đoàn chúng tôi thực sự vui vẻ bắt tay vào thu thập tài liệu, khả năng đọc tài liệu tiếng Anh của ông kỹ sư địa chất là khá tốt. Tôi tò mò hỏi: Anh học ngoại ngữ khi nào mà anh biết nhiều thứ tiếng thế? Ông cười hiền lành bảo tôi:  Ngày còn nhỏ anh học tiếng Pháp ở trường Anbesero ở Hà Nội, sau đó anh tự học tiếng Anh và tiếng Nga, cũng lõm bõm một ít tiếng Trung Quốc…
   -Hoàng này! Nếu như anh em mình có được một phần như ông ấy thì tốt biết mấy.
  Không thấy Hoàng nói gì Khoa quay lại nhìn, té ra Hoàng đã ngủ từ lúc nào không biết. Khoa lẩm bẩm:
   -Số nó sao sướng thế?
   -Ông tưởng tôi ngủ rồi à? Tôi đang chờ nghe ông kể về chiến trường xưa.
(Còn nữa)
 


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: qtdc trong 25 Tháng Chín, 2014, 12:17:05 pm
Chậm rãi, nhỏ nhẹ nhưng rất hay, rất thực, rất nhiều chi tiết sinh động. Bác quanvietnam cứ sờ đầu gối mà kể chuyện như thế cho bọn em nghe nhé. Đường bão hòa của đập mà cao hơn thiết kế thì nguy hiểm thật, song nó sẽ phải hạ xuống trước ý chí của những người chiến thắng đang thực hiện 3 cuộc cách mạng long trời lở đất, đưa nước nhà lên thiên đường CNXH thôi.
Nhưng trước hết phải ngả mũ chào tiền bối khóa 4 Bách Khoa cái đã. Khóa 4 là ra trường năm 1964. khi đó trường XD và trưởng Mỏ còn chưa tách ra khỏi Bách Khoa. Về cơ bản thì học vấn của bác ấy là do phe địch đào tạo. Học phổ thông tiểu học, trung học là trường chế độ cũ. Học đại học cũng với các thầy lớn lên, học hành phổ thông trong chế độ cũ. Trước nữa trường học phổ thông chế độ cũ dạy bằng tiếng Pháp, ngoại ngữ là tiếng Anh. Ví dụ trường Bách Khoa có thầy Bùi Trọng Lựu dạy Sức bền vật liệu, thầy có con gái học khóa 20 BK sau này về trường XD dạy môn Sức bền. Thầy toàn hướng dẫn tiến sĩ trong nước trong khi đó bản thân thầy chỉ có hai bằng kỹ sư của Thực dân Pháp cấp thôi. Sĩ quan ngụy trình độ ngoại ngữ cũng rất tốt.
Vậy là "phe địch" được ta "dân vận" đã cứu phe ta một bàn. Đến tận bây giờ, dù cơ sở vật chất trang thiết bj khá hơn nhiều, nhưng đào tạo đại học vẫn là khâu yếu nhất trong hệ thống đào tạo của nước ta, đó là kết luận của các vị lãnh đạo ngành giáo dục nước nhà.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 01 Tháng Mười, 2014, 03:11:57 pm

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Số phận
  -Thế à! Tôi tưởng ông ngủ rồi? Tuyệt lắm ông ạ! Sau hai ngày làm việc miệt mài, mấy anh em chúng tôi đã thu thập tương đối đầy đủ tài liệu phục vụ cho việc đi thực địa vào ngày hôm sau. Chiều hôm ấy ông trưởng đoàn cho anh em được nghỉ sớm để đi chơi Sài Gòn. Nói là đi chơi vậy thôi, thực ra mọi người tranh thủ đi chuyển quà từ ngoài Bắc gửi vào. Riêng tôi phân vân chưa biết nên thế nào? Từ hôm vào đây tôi suy nghĩ nhiều lắm, lúc thì muốn đến thăm ông bác ruột, lúc lại ngại không muốn đi.
  -Sao lại ngại? Bác ruột là gần lắm đấy, là anh ruột là bố mình còn gì?
  -Đành là vậy! Nhưng ngại một nỗi là tôi không biết mặt, với lại tôi cũng chẳng chuẩn bị quà cáp gì. Chuyện về ông bác, tôi chỉ nghe ông chú ruột kể lại. Riêng bố tôi, ông ấy rất ít nhắc đến bác tôi. Ngày bác ấy đi, tôi cũng đã 5-6 tuổi rồi. Nhưng sao tôi không nhớ một tý gì về các bác và các anh các chị. Mà đúng thôi vì bác ấy không ở quê. Bác lấy vợ người Hàng Đào Hà Nội, vợ con bác ở Hà Nội với bên ngoại, bác ấy làm việc ở Ty Bình dân học vụ của tỉnh. Thế rồi cuối năm 1954 ông bà nội tôi bặt tin bác tôi, sau đó nghe người ta kháo nhau là ông ấy và gia đình bên ngoại đã di cư vào Nam. Kể từ đấy, theo như ngôn từ của ông chú tôi, thì từ đó cả gia đình hay chi họ nhà tôi như gặp thảm họa.
  -Sao lại thế?
  -Chuyện dài lắm, kể cũng chẳng hết được. Nhưng đại loại ông cứ tạm hình dung gia đình tôi là gia đình có vấn đề đối với cách mạng. Chính vì vậy, sau năm 1954 rồi đến cải cách ruộng đất và cho tới tận bây giờ, gia đình tôi gặp vô vàn khó khăn chỉ vì ông bác tôi di cư vào Nam.
  -Ừ đúng! Chuyện ấy không chỉ riêng nhà ông mà ở quê tôi cũng thế, bất kể gia đình nào bị cách mạng nghi ngờ là như vậy. Nghe kể lại chuyện cải cách ruộng đất, bà con bần cố nông đấu tố địa chủ mà rớt nước mắt.
  -Chuyện ngày xưa là thế, còn tại lúc ấy tôi nghĩ khác. Bố tôi vẫn bảo: Một giọt máu đào hơn ao nước lã; Máu chảy đến đâu ruồi bâu đến đấy. Nếu đã vào đến đây mà không đến, tôi sợ bố tôi không bằng lòng. Với lại tôi cũng tò mò muốn xem gia cảnh nhà bác tôi thế nào? Nên tôi quyết định đi. Lần theo địa chỉ bố tôi hướng dẫn, tôi phải đi hai tuyến xe lam tôi mới đến được cầu Tân Thuận Đông quận Nhà Bè, nhà bác tôi ở đấy.
  Đúng như tổ tiên đã dậy: Một giọt máu đào hơn ao nước lã. Khi tôi tự giới thiệu, mọi người còn ngơ ngác, bán tín bán nghi, chưa ai nhận ra tôi. Cũng phải thôi, bởi vì tôi chẳng biết ai trong gia đình nhà bác tôi, mà họ cũng thế. Đến khi tôi kể về quê hương, nơi chôn rau cắt rốn của đại gia đình, khi đó mọi người mới nước mắt ngắn nước mắt dài, người khóc thành tiếng, người thút thít. Mọi người rối rít hỏi thăm tình hình ngoài Bắc, tôi chẳng biết trả lời ai trước ai sau.
  Đông quá, mặc dù đã được giới thiệu nhưng tôi không nhớ được tên ai, ngoại trừ bác gái là tôi nhớ và bác trai đang đi trại học tập cải tạo chưa về, còn lại tất cả tôi không biết ai vào với ai. Nghe đâu sau giải phóng, tất cả con cái cháu chắt những ai còn sống đều tụ về đây, có nhẽ cũng ngót ngét đến hai lăm ba mươi người. Cũng phải thôi, ngày đi di cư bác tôi đã sinh được 9 anh chị em tất cả, vào Sài Gòn sinh thêm được hai là 11. Mọi người lớn lên lấy vợ lấy chồng sinh con đẻ cái, có lẽ con số 25 hay 30 là còn kiêm tốn có thể còn nhiều hơn nữa.
  Chuyện trò được một hồi lâu, mọi câu hỏi cũng đến lúc thưa dần. Cũng may là sau giải phóng được hai ba năm gì đó, bố tôi và chú tôi cũng đã vào đây thăm bác tôi nhưng ba anh em không gặp nhau vì bác tôi còn đang đi học tập cải tạo chưa về. Chính đợt ấy, bố tôi và chú tôi đã kể cho mọi người biết nhiều thông tin về quê hương, về gia cảnh cô gì chú bác nội ngoại, về loạn lạc của chiến tranh ai còn ai mất. Vì thế lần này mọi người có hỏi cũng là để làm rõ hơn những thông tin lần trước và hỏi xem có gì biến đổi không thôi.
  Bác gái tôi năm ấy độ ngoài 50 tuổi, con gái phố Hàng Đào Hà Nội nên trông có vẻ khuê các. Bà mẹ của 11 người con nhưng ngoại hình trông vẫn còn dễ nhìn, da dẻ trắng trẻo, cử chỉ nhẹ nhàng, nói năng từ tốn dịu dàng. Bà bảo tôi, cũng là phân công nhiệm vụ cho mọi người:
   -Cháu có mệt thì tắm rửa và đi nghỉ, còn nếu muốn đi chơi thì bảo anh Giang đưa đi chơi. Hai anh em đi chơi nhớ về sớm để ăn cơm, mấy chị chị Hà chị Nguyệt nấu cơm để mẹ và các anh các chị ăn cùng ăn cơm với em nó.
 Nghe thấy bác gái nói như thế tôi mừng lắm, bây giờ chỉ còn phụ thuộc vào anh Giang. Tất nhiên khoảng thời gian này có lẽ là hơi ít, nhưng tôi nghĩ cứ đi rồi tính. Tôi liếc nhìn sang anh Giang, chừng như anh có ý chờ tôi, song chưa nói gì. Có lẽ anh cũng ở độ tuổi của tôi, anh là Nha sĩ được đào tạo hồi còn chính quyền cũ. Anh Giang thấy tôi nhìn anh, anh nói:
  -Tùy chú! Nếu muốn thì anh em mình đi luôn về kẻo tối. Nếu mệt để khi khác đi cũng được.
  Làm sao tôi có thể bỏ lỡ cơ hội này được. Tôi vội xin với bác gái cho phép tôi với anh Giang đi chơi. Được bác gái đồng ý, là hai anh em cuốn vào dòng người tấp nập đổ về Sài Gòn.
   Theo yêu cầu của tôi, anh Giang chở tôi đến dinh Độc lập. Hai anh em tôi không được vào mà phải đứng trước cổng dinh để nhìn vào. Hơn năm năm trời mới quay lại nơi này, kỷ niệm cũ lại ùa về ngổn ngang. Trong muôn vàn ý nghĩ đổ dồn về một lúc, chẳng hiểu từ đâu một luồng khí lạnh toát chạy dọc theo sống lưng. Tôi nhớ đến những kỷ niệm cũ, nhớ đến những người bạn cùng đi hôm ấy, bây giờ không biết ai còn ai mất, cảm giác ấy làm tôi súc động, người tôi lạnh toát sởn da gà. Một cơn gió thoảng qua tôi sẽ rùng mình, người như muốn khụy xuống. Tôi vội lần đến gốc cây ngay gần đó, gốc cây này hơn năm năm về trước anh em chúng tôi đứng tựa vào nó để chụp bức ảnh lấy ngay làm kỷ niệm.
  Tôi nhìn lại từ gốc đến ngọn xem nó là loại cây gì? Từ dạo ấy đến nay nó có thay đổi gì không? Đúng là lẩn thẩn, ai lại đi lần sờ với từng kỷ niệm. Mà làm sao biết nó có thay đổi gì không, nếu có thay đổi thì mình cũng không biết, bởi lúc trước mình có thời gian quan sát kỹ nó đâu mà biết nó thay đổi thế nào trừ đoạn gốc được lưu lại trong bức ảnh. Tôi đang suy nghĩ miên man, anh Giang lại gần tôi hỏi:
   -Ngày trước chú có đánh vào Sài Gòn không?
  Nghe tiếng anh Giang hỏi tôi bừng tỉnh, vội vàng xắp xếp lại những ý nghĩ lung tung để quay về những kỷ niệm phù hợp với chủ đề anh Giang vừa hỏi. Trong đầu tôi thoáng nghĩ: Kể lại những kỷ niệm mà anh Giang vừa hỏi thật quá đơn giản đối với tôi, bởi mỗi trận đánh mỗi bước đi của anh em trong đơn vị tôi còn nhớ như in trong tâm khảm. Có những lúc tôi còn nhớ từng chi tiết nhỏ trong hàng ngàn hàng vạn những kỷ niệm của một thời chiến chinh. Có những hình ảnh của anh em đồng đội làm tôi bật cười một mình, lại có những hình ảnh làm hai hàng nước mắt của tôi âm thầm chảy ra tự lúc nào không biết, chỉ đến khi thấy ngứa ngứa trên hai gò má mới biết nước mắt của mình chảy ra.
  Chính vì sự tự tin ấy, tôi sẵn sàng kể cho anh Giang nghe tất cả. Nhưng chỉ có điều tôi hơi băn khoăn, tôi sợ rằng biết đâu đấy trong các câu chuyện tôi kể sẽ có câu chuyện có liên quan đến cái chết của những đứa con đứa cháu của bác tôi. Được cái, anh Giang hỏi tôi có đánh vào Sài Gòn không? Có nghĩa là anh đã khoanh phạm vi là Sài Gòn, mà ban nãy  loáng thoáng nghe bác gái và các anh các chị nói là gia đình bị mất mát nhiều nhất là cuộc tùy nghi di tản của Nguyễn Văn Thiệu từ Tây Nguyên xuống duyên hải Phú Yên, kéo dài suốt từ Kon Tum-Playcu-Cheo reo-Phú bổn. Có được thông tin như vậy, tôi có thể trả lời câu hỏi của anh Giang, nhưng tôi vẫn còn e là chưa biết thái độ yêu ghét hay thù địch của anh Giang đối với quân giải phóng như thế nào? Biết đâu đấy anh căm thù quân giải phóng thì sao. Nghĩ thế tôi ậm ự trả lời để thăm dò:
  -Không anh ạ! Năm sáu cánh quân đông như kiến cỏ tiến vào Sài Gòn, mà khi ấy các hướng tấn công chủ yếu là cơ giới, bộ binh chúng tôi tiến theo không kịp. Trưa 30 tháng 4 năm 1975 chúng tôi còn đang chờ xe ở thị trấn Tân Uyên tỉnh Bình Dương cách Sài Gòn 20-25 km, thì nghe tin Sài Gòn giải phóng, tổng thống Dương Văn Minh đã tuyên bố đầu hàng không điều kiện. Hết ngày hôm ấy, mãi ngày hôm sau chúng tôi mới vào đến Sài Gòn.
  Vừa kể tôi vừa chăm chú theo dõi thái độ của anh Giang xem phản ứng của anh thế nào, nhưng qua  gương mặt anh, tôi không thấy có biểu hiện gì. Tôi cảm thấy hơi ngờ ngợ, tôi hỏi:
  -Thế hôm ấy anh Giang ở đâu?
  -Tôi ở trường, tham gia đội thanh niên tự quản cùng với anh em sinh viên khác bảo vệ nhà trường không cho mọi người lợi dụng cơ hội để phá hoại.
  -Anh thấy hôm ấy thế nào? Hai bên đánh nhau có ác liệt không?
  -Tôi cũng không biết, không tận mắt nhìn thấy đánh nhau. Nhưng đêm hôm trước, đến dạng sáng ngày hôm sau chỉ nghe thấy tiếng súng nổ rát khắp mọi nơi, tiếng động cơ xe tăng xe thiết giáp, tiếng xích sắt nghiến ken két, tiếng còi rú, tiếng quát tháo, tiếng giày nện ình ịch trên mặt đường. Một cảnh tượng nhốn nháo của quân lực VNCH, đến gần trưa thì thưa thớt dần, sau đó nghe ông  Minh tuyên bố đầu hàng. Mọi người tràn ra ngoài phố thấy nhà cửa vẫn còn nguyên không bị đổ nát, dân Sài Gòn nhớn nhác nhìn nhau sợ hãi. Trong khi đó lại có những bộ phận dân chúng được tổ chức chặt chẽ đi lại tấp nập làm công tác tiếp quản, giống như họ biết trước việc giải phóng là đương nhiên nên họ đã chuẩn bị sẵn sàng. Tóm lại, Sài Gòn đầu hàng trong trật tự, tổn thất rất ít.
  - Thế hả anh! May mà không xảy ra cảnh đổ nát tương tàn, giết chóc và cướp bóc. Thôi! Bây giờ mình đi cầu Thị Nghè đi.
  -Sao lại ra cầu Thị Nghè?
  -À! Đấy là điểm kỷ niệm mà chúng tôi đặt bước chân đầu tiên xuống Sài Gòn, thủ đô của chính quyền VNCH.
  -Ừ đi!
   Anh Giang chở tôi đi vòng vèo qua các phố phường, tôi chẳng biết phố nào với phố nào, ngồi sau xe anh mà tôi hoa cả mắt. Xe đang chạy, tôi nhìn thấy một người đàn ông có vóc dáng giống như đại úy Tín, sĩ quan thủy quân lục chiến đã nói chuyện với tôi hồi còn ở Tích Tường-Như lệ. Phản xạ bất ngờ, tôi vỗ vai anh Giang. Anh quay lại hỏi tôi:
  -Có chuyện gì à?
  Tôi định nói là gặp người quen, nhưng nghĩ thế nào tôi lại thôi. Tôi hỏi anh Giang:
  -Từ đây đến chợ Bàn Cờ có xa không anh?
  -Xa lắm! Khoảng 14-15 km, đây là Sài Gòn có xuống đấy là Gia Định. Nhưng mà có chuyện gì? Nếu cần để hôm khác đi, hôm nay chơi ở cầu Thị Nghè rồi về ăn cơm kẻo mọi người chờ.
  -Vâng!
   Tôi bước chầm chậm trên cầu Thị Nghè, tất cả vẫn như xưa, hầu như chưa có gì thay đổi so với năm năm về trước khi tôi đặt chân lên đây. Vẫn dòng sông nước đen sì đặc quánh, sú uế rác rưởi bốc lên nồng nặc. Vẫn những túp lều ổ chuột chen chúc nhau đua ra mặt nước, vẫn thấp thoáng bóng dáng của những con người cùng khổ, lúc ẩn lúc hiện.
(Còn nữa).


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 02 Tháng Mười, 2014, 03:24:38 pm

            Chào bác chủ! Chào các bác! Đọc chuyện của bác chủ thật hay, thật thích. Bác cứ rủ dỉ dù dì mà "nhả" ra những sợi tơ cho đời như những con tằm ấy.

            Tơ của bác ở đây là những câu chuyện một thời đã qua của các ccb. Một thời đã qua của "lớp" chúng ta, thế hệ chúng ta đã từng sống, đã từng được sống, đã từng phải sống và đã vượt qua những năm tháng nghèo khó cam go đó. Cái thời mà dân Miền Nam nhất là dân Sài Gòn đang sống ở đỉnh cao nhất của cái khó, của cái khổ. Có rất nhiều gia đình phải bỏ nhà bỏ cửa để vượt biên đi nước ngoài tới chân Trời mới. Hoặc trong từng gia đình có mấy người con thì phải phân công ai là người vượt biển, vượt biên với câu nói rất cửa miệng là: Một là con nuôi Má. Hai là cá ăn con. Ba là Má thăm con. Tức là nếu sang được các nước khác với hy vọng có tiền gửi về, không sang được mà chết ở biển do sóng gió hoặc do cướp biển thì làm mồi cho cá ăn. Hoặc đi mà không thoát bị bắt vào trại thì Má lại lên thăm nuôi.

         Ngoài Bắc còn khổ hơn Miền Nam nhiều. Nhưng có lẽ người Bắc đã quen chịu khổ nên số ngươì vượt biên ít hơn ở miền Nam.

         Những năm tháng này như bác Quanvietnam nói là giải phóng đã được 5 năm khoảng năm 79-80. Tranphu341 và đơn vị Tranphu341 cũng như rất nhiều đơn vị đã đang chiến đấu ở chiến trường 2 đầu Đất nước và làm nhiệm vụ Quốc Tế giúp bạn CPC. Biết bao xương máu đang đổ. Tuổi trẻ lại tiếp tục tòng chinh. So ra thì lớp trí thức của bác chủ vẫn còn may mắn hơn nhiều.

           Tranphu341 rất thích nghe chuyện của bác. Những tư liệu thật quý giá cho mình và cho đời. Bác hãy tổng hợp in thành sách thì thật giá trị cho thế hệ mai sau.

             Chúc bác cùng đại gia đình luôn thật khỏe để tiếp bước hành quân tại mặt trận không tiếng súng này. Kính bác!


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 07 Tháng Mười, 2014, 11:29:45 am
  Chào anh TP; Cùng toàn thể các CCB trên diễn đàn. Quanvn xin cám ơn anh TP đã khen quá lời. Chuyện tôi viết, ước muốn tột cùng của tôi là: Con cháu tôi, chúng nó hãy bớt chút thời gian bươn trải lo mưu sinh mà đọc. Đọc để mà thông cảm cho ông cha mình, để gạn đục khơi trong tìm ra những cái chân cái thiện v.v. Mong muốn vậy thôi, nhưng không biết có được không? Dù thế nào đi nữa tôi vẫn cứ viết phải không anh?
  Cách đây hơn một tháng. Tôi có dịp về TB, tôi đến nhà hàng Châu Á. Tôi biết anh không có nhà, nên tôi nói với các cháu bảo vệ cho tôi tham quan. Lững thững bước từng bước mà đầu óc ngổn ngang thán phục. Không phải nhà hàng Châu Á quy mô hoành tráng, cũng chẳng phải nhà hàng có cái gì đặc biệt. Nhưng tôi vẫn thán phục, bởi vì gia chủ của nó chuân chuyên bươn trải: Cái mà tôi nhìn thấy là từ: Công ty tư vấn, đến nhà hàng. Trước đấy là gì và hiện nay là gì? CCB: TP vẫn xuôi ngược không mệt mỏi.Thế mới biết ý chí và sức mạnh của các CCB. Chúc TP may mắn, phát đạt.
   TP có nói: Lớp sinh viên chúng tôi còn nhiều may mắn. Đúng vậy! Đơn vị tôi C20 nằm trong đội hình của trung đoàn E95 F325 tiếp tục là nhiệm vụ Quốc Tế ở Campuchia, sau lại trở lại biên giới phía Bắc. Nhiều bạn bè tôi được gọi tái ngũ, hoặc là xung phong nhập ngũ, tôi may mắn được theo đuổi nghiệp bút nghiên. Sau lễ tốt nghiệp, sự nghiệp của tôi là trôi nổi trên những dòng sông và những công trình thủy điện. Về hưu mới chính thức được ở đồng bằng, gần 40 măm tôi gắn bó với núi rừng của mọi miền Tổ Quốc. Nghĩ lại cuộc đời thấy đôi lúc buồn vui lẫn lộn, nhưng trên hết là bằng lòng với số phận.
  Tản mạn vài dòng. Chúc sức khỏe mọi người và các CCB trên diễn đàn.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 08 Tháng Mười, 2014, 06:37:37 pm
        Chào bác chủ quanvn! Chào các bác! Tiếc quá! Thật tiêc quá! Bác quanvn trổ tài lính Đặc công Trinh sát, đột nhập vào tận hành dinh của Tranphu341 Thái Bình mà không ai biết. Bây giờ sau hơn một tháng mới kể. Bác thật kín tiếng và ý tứ quá  ;D ;D ;D

          Nhưng sao bác chủ không gọi điện cho Tranphu341 hoặc xuanv338 sẽ có xuanv hay anh em đồng đội của Tranphu, cựu chiến binh Sư đoàn 341 nghênh tiếp bác. Như vậy là bác có lỗi lớn vớ Tranphu341, với xuanv338 và với ccb Sư đoàn 341 Thái Bình đấy nhé.

           Mà Tranphu341 xin hỏi là bác về Thái Bình dự cưới, Thăm quê quán họ hàng hay đi công cán gì mà bí mật vậy? Tranphu341 rất trân trọng tình cảm của bác đã dành cho Tranphu. Như bác nói đấy thật ra Tranphu341 không được học nhiều sau khi ở bộ đội về cũng rất vất vả cày cuốc, lặn lội bươn trải vì khi Tranphu341 ra quân với trợ cấp "hưu non" Trung úy sau chuyển sang bện binh quân đội loại 2 có được bao nhiêu đồng mỗi tháng. Sau đó Tranphu341 lại biếu Ông bố cả quyển sổ đó để ông lĩnh hàng tháng. Tranphu341 coi như không có quyển sổ lĩnh phụ cấp đó. Mà đã làm được một việc hiếu nghĩa cho Bố.

             Từ sau năm 90 mới thật sự là cày cuốc mưu sinh và phát triển. Đến giờ cũng có thể nói là tạm ổn nhưng khổ nỗi con cái lại chẳng theo nghiệp của bố nên lại cứ phải lụi hụi như vậy.

             Tranphu341 cũng nghĩ như bác chủ là mình cố gắng viết, cố gắng kể lại những chuyện của cuộc đời mình và thế hệ mình cho con cháu và cho thế hệ mai sau nếu có quan tâm đến sự thực trần trụi của cuộc chiến. Chứ chỉ trông vào những báo cáo sử học hay sử thi, hay bảo tàng vv.. thì như một em học sinh đã nói thì thế hệ trước cái gì cũng giỏi cái gì cũng hay cứ đánh là thắng vv... chúng chẳng phải suy nghĩ gì nhiều nữa.

                Tranphu341 đã gặp bác rất trân trọng cùng sự ngưỡng mộ bác. Chúc bác luôn thật khỏe cùng thật vui và viết tiếp những câu chuyện thật của một thời anh em mình đã từng sống! Kính bác!


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 10 Tháng Mười, 2014, 02:47:33 pm

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
   6- Số phận
     Hai anh em tôi về đến nhà cũng đã muộn, cả nhà đang đợi cơm, chúng tôi rửa ráy qua loa rồi ngồi ngay vào bàn ăn. Không biết là bao nhiêu người tất cả nhưng có ba bàn tròn mà mỗi bàn tối thiểu là 10 người, như vậy ít nhất là ba mươi người, cũng có thể là 35-36 người. Bữa cơm tối lại xuất hiện thêm hai anh nữa, các anh đi làm về muộn.
  Bác gái bảo mọi người ăn cơm đi, hai bàn bên cạnh các chị gái các chị dâu mẹ nào con nấy dục nhau ăn cơm, bát đĩa va cham vào nhau kêu loảng xoảng. Lũ trẻ chẳng quan tâm đến chuyện nhà có khách nên cứ tự nhiên như mọi khi, chúng vừa ăn vừa chạy dông lại còn chòng ảnh nhau, cơm nước rau cỏ văng tung tóe. Các bà mẹ ra sức điều khiển nhưng không xuể. Bác gái nhìn lũ trẻ lắc đầu, bà bảo:
  -Bao giờ chúng nó về nhà chúng nó mới đỡ nhức đầu.
  Bà nói thế, lúc đó tôi không hiểu. Mãi mấy năm sau mới biết là nhà chúng nó đi theo chương trình HO của Mỹ tài trợ cho những người Việt có công với Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ.
  Bà lại dục anh em chúng tôi ăn cơm đi, nhưng mọi người cứ nhìn nhau chưa ai chịu bưng bát. Chị gái thứ ba có chồng là đại úy không lực VNCH đã chết trận, gợi ý:
  -Má cho các anh uống với chú em xị rượu đế, mừng ngày gặp mặt.
  -Má có cấm đâu? Uống thì uống nhớ đừng có xỉn.
   Tôi không nghĩ như chị gái thứ ba, mà tôi nghĩ: Bữa cơm hôm nay là bữa cơm đầu tiên của những người lính trên hai chiến tuyến ngồi ăn với nhau, đặc biệt hơn nữa là những người lính ấy lại là anh em con chú con bác. Chiến tranh đã lùi xa, ai có việc của người nấy, nếu không có tôi xuất hiện thì mọi việc cũng phần nào nguôi ngoai hoặc là tạm thời lắng dịu. Nhưng vì có tôi nên đã gợi lại những kỷ niệm buồn cho mọi người, thành ra mọi người không biết nói gì và nên bắt đầu như thế nào?
  Cũng đã có mấy tuần rượu đế, nhưng không khí bữa cơm vẫn chưa nóng lên được, dường như nó còn thiếu một thứ gì đó. Tôi đoán có lẽ là thiếu cái cột cái, trụ cột của gia đình giờ này đang đi cải tạo vẫn chưa được về, trong khi đó 4 con trai 2 con rể vị chi là 6 người, chức vụ to nhất là đại úy cũng đã được về rồi. Thế mà bác tôi cải tạo gần 5 năm vẫn chưa được về, rất tò mò muốn biết nhưng không dám hỏi. Tôi đoán bác tôi phải giữ chức gì to lắm, hay chí ít cũng là đối tượng nguy hiểm của cách mạng nên mới cải tạo lâu như vậy.
 Tôi chợt liên tưởng đến những năm từ 69 đến 72, lần nào tôi cũng được gọi nhập ngũ. Nhưng đến khi biên chế vào các đơn vị, thì lại không có tên trong danh sách. Cán bộ phụ trách giao quân của nhà trường giải thích với tôi là đơn vị họ đã lấy đủ chỉ tiêu rồi. Có một lần ông bí thư đoàn thanh niên khoa Cầu Đường chẳng dấu diếm gì nói toẹt ra: Nhà cậu có người đang cầm súng chống lại cách mạng… À thì ra là vậy. Khi ấy tôi mới vỡ lẽ, từ đó tôi lo lắng thật sự, sợ sự nghiệp học hành của mình rồi cũng chẳng ra gì.
   Không khí bữa cơm tiếp tục trầm lắng, không ai nói với ai điều gì, mà cũng chẳng còn gì để mà nói, việc hỏi thăm sức khỏe, công việc làm ăn và điều kiện kinh tế của từng gia đình của mọi người cũng đã xong hết rồi. Chỉ còn một chuyện rất muốn nói mà chưa ai dám nói, vì sợ động chạm, đó là chuyện hệ lụy của chiến tranh. Chuyện này nói ra chắc là khủng khiếp lắm, nó bắt đầu từ những năm 1954 cho đến bây giờ và cũng không biết khi nào mới kết thúc. Bức tranh này bây giờ cũng đã rõ, kẻ chiến thắng người chiến bại là anh em ruột thịt, nhưng cả hai còn đang bàng hoàng chưa kịp thích ứng để phù hợp với hiện tại.
  Người đi kẻ ở, bấy nhiêu năm bây giờ mới lại được gặp nhau. Người đi lúc đó được coi như là những kẻ phản bội Tổ Quốc, đi làm tay sai cho địch. Người ở lại là những người ruột thịt của những kẻ phản bội cũng khốn khổ khốn nạn. Bây giờ ngồi nhìn nhau, cả hai chẳng ai dám nói ra mà cũng không thể nói ra cái sự thật đau lòng ấy. Song, vô tình trong từng câu chuyện cũng phần nào bóc dần, bóc dần lộ ra sự thật. Tất cả đã lùi về quá khứ, nhưng mấy ai quên được quá khứ, một sự thật đau lòng mà thế hệ này không biết nguyên nhân từ đâu?
  Bữa cơm hôm ấy có thể gọi là bữa cơm đặc biệt, nhiều cảm xúc, đồ ăn mặn mòi nhưng tình cảm thì nhạt thếch…
  Khoa với tay lấy chai rượu đưa cho Hoàng :
  -Này uống đi!
  Hoàng ngửa cổ tu từng hớp từng hớp rồi chuyển lại cho Khoa, Khoa cũng ngửa cổ uống liền mấy hớp ừng ực như người uống nước lã. Đặt chai rượu vào đúng vị trí ban nãy, Khoa lấy tay chùi mép, nói tiếp:
  -Thực ra, tôi ở trong tình thế rất gò bó, tôi chẳng biết nên nói thế nào để mọi người đừng nghĩ khác về tôi. Tôi chỉ muốn mọi người nhìn nhận vấn đề khách quan và công tâm, cũng chẳng nên vì kẻ thua người thắng mà buồn, mà nên nghĩ rằng không ai muốn chiến tranh, các anh đi lính cũng là kế sinh nhai hoặc là tình thế bắt buộc. Nếu hoán đổi vị trí các anh là người chiến thắng còn tôi là người thua cuộc thì sao? Cũng thế thôi. Cho dù thế nào, người thua cuộc cũng không có gì để biện minh. Thực ra, ở đây không có kẻ thua người thắng, mà chỉ có chế độ xã hội này thay thế chế độ xã hội kia, thế thôi.
  Cuộc chiến tranh giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước còn nhiều việc phải làm, cũng không thể nào một sớm một chiều mà người của hai phe có thể thông cảm với nhau, đấy là chuyện về lâu về dài. Còn bây giờ có một sự thật không thay đổi được, cho dù ai thua ai thắng nhưng chúng ta là anh em ruột thịt. Hãy quên đi những đau thương mà sáp lại gần nhau, sống những ngày tiếp theo có ý nghĩa hơn.
  Hoàng này! Ông cò nhớ ban nãy tôi nói với ông về đại úy Tín, sĩ quan Thủy quân lục chiến của quân lực VNCH không? Tôi kể cho ông nghe về con người này, cũng thú vị lắm:
  Ngay từ những ngày đầu chúng mình tham gia chiến dịch giải phóng Quảng Trị, tôi đã nghĩ: Rất có thể anh em chúng tôi nồi da nấu thịt, chém giết lẫn nhau mà không biết mặt nhau.  Nghĩ vậy, nhưng không dám thổ lộ cùng ai, cho dù người ấy là thân nhất, trong đó có cả ông. Mà tôi cũng để ý thái độ mấy đời chính trị viên đại đội tôi, xem các ông ấy đối xử với tôi thế nào? Tôi thấy bề ngoài cũng bình thường, có thể là các ông ấy quên mất về lý lịch gia đình nhà tôi, nhất là đợt ở Tích Tường, do ác liệt quá có thằng lính bên mình vì bồng bột và ấu trĩ nên chạy sang bên địch đầu hàng. Trong khi đó, các ông ấy vẫn cử tôi đi thọc sâu vào ngã ba Phước Môn, nằm hầm bí mật hai ngày một đêm bên bờ suối Như Lệ.
  Ngày ấy ác liệt quá, mấy anh em mình vẫn bảo nhau: Chúng mình là lính sinh viên chưa quen trận mạc, chẳng may mà bị địch bắt. Tốt nhất là hãy dành cho mình một quả mỏ vịt, kẻ nào liều lĩnh vào bắt mình, mình cho chúng chịu chung số phận. Thật may mắn, anh em mình không gặp hoàn cảnh ấy, nếu gặp chưa biết chuyện gì xảy ra. Tuổi trẻ bồng bột, không quen chịu đựng đòn roi mà khai ra hết, thì nó là nỗi nhục muôn đời.
  Ông còn nhớ cái ngày 27 tháng 1 năm 1973 không? Hôm ấy ông ở đâu? Tôi hôm ấy đang ở Như Lệ. Cả đêm hôm trước chúng tôi lần mò cắm cờ chiếm đất, nhiệm vụ của chúng tôi là chỗ nào địch chưa phát hiện là cắm cờ của mình vào. Kể cả ngã ba Phước Môn, hậu phương của địch, quân ta cũng tràn vào cắm cờ, cắm được nhiều càng tốt. Tất nhiên là bên địch cũng vậy. Chính vì thế mới tang tảng sáng hôm sau, trời chưa sáng rõ mà đã nhìn thấy cả một rừng cờ, cờ MTDTGP Miền Nam, cờ ba sọc của VNCH, cờ nọ đan sen cờ kia.
  Cả một bãi trống rộng mênh mông, lúc tranh chấp là dải đất phân chia gianh giới giữa hai bên, lúc trước chỉ có những bụi sim bụi mua và cỏ dại mọc um tùm, lác đác cũng có một vài hố đạn súng cối 60 hay là M79 cầy xới làm những cây cỏ xung quanh chết rụi, thế mà hôm nay là cả một rừng cờ. Cũng rất lạ, tại sao đêm qua khi cắm cờ lại không chạm trán nhau, kể cũng khó giải thích, nhưng thực tế cả rừng cờ đã phản ánh lên điều ấy.
  Đã hơn 8 giờ sáng mà trận địa cả hai bên im phăng phắc, chỉ có những lá cờ của hai bên đang bay phần phật trước gió. Đêm hôm qua sau khi cắm cờ xong, chúng tôi chọn chỗ mật phục giữ cờ ở vị trí tương đối chắc chắn, vừa che khuất lại vừa che đỡ nên tôi cảm thấy yên tâm. Không biết trong lúc mật phục bảo vệ cờ, anh em nghĩ gì thì tôi không biết? Riêng tôi, trong đầu tôi chỉ luẩn quẩn nghĩ đến những lá cờ bị đạn bắn rách nát, xung quanh những lá cờ là xác của địch và ta máu me be bét. Tôi tưởng tượng ngày hôm nay sẽ là một ngày đẫm máu, đã thế trận địa lại im phăng phắc im đến lạnh cả xương sống. Không gian như nén lại đến nghẹt thở, chỉ có  những con Chồn, con Dúi ung dung chui ra đi kiếm ăn.
  “Rắc” tiếng cành cây khô gãy, tôi chú ý quan sát về hướng đó. Bụi cây của tôi cách bụi cây phát ra tiếng động ấy khoảng độ 70-80 mét, khoảng cách này AK phát huy tác dụng. Bật chốt an toàn, chỉnh lại tư thế sẵn sàng chiến đấu. Bụi cây rung rinh, một tên lính VNCH cao lớn, quân phục rằn ri vũ khí đầy đủ, bước ra khỏi bụi cây. Một tên và một tên nữa bước ra, động tác của cả ba tên lính không có vẻ gì là chuẩn bị chiến đấu. Tôi nín thở chờ đợi tay đặt vào vòng cò, tim tôi đập thình thịch rung cả khẩu AK báng gập đeo trước ngực. Tôi đảo mắt nhìn mấy anh em xung quanh xem có động tĩnh gì không? Cũng là cầu cứu sự chi viện nếu cần.
   Ba tên lính VNCH lúc đầu còn lom khom, chúng bàn nhau cái gì đó. Ngay sau đó chúng đứng thẳng người, tháo bỏ toàn bộ vũ khí mang trên người đặt xuống bãi cỏ. Tất cả những động tác ấy bọn chúng làm từ từ chậm dãi, cố tình để bên mình nhìn thấy, cố chứng tỏ rằng bây giờ chúng không mang theo vũ khí.
  Bên mình vẫn im phăng phắc, hình như các đơn vị bộ binh K4 và trinh sát C20 chưa sẵn sàng cho phương án này. Thú thực, khi ấy mình là lính tráng nên chỉ được giao nhiệm vụ cắm cờ và bảo vệ cờ. Nghĩ thế nên tôi cứ nằm im, tay đặt vào cò súng sẵn sàng nhả đạn, nếu bọn chúng cướp cờ của mình. Nhưng khổ nỗi là hành động của ba tên lính VNCH, không có biểu hiện gì là muốn nhổ cờ của chúng tôi. Thời gian chậm chạp qua đi ba tên lính tay không vũ khí, bảo nhau bước về phía chốt của ta. Chừng như đến khoảng giữa gianh giới của hai bên chúng dừng lại, Thằng cao to nhất hướng về phía chúng tôi nói to:
 -Mấy ông giải phóng ơi! Hiệp định Paris đã được ký kết. Từ nay đất nước đã vãn hồi hòa bình, chúng ta không đánh nhau nữa, hãy bỏ hết vũ khí ra đây ngồi nói chuyện.
   Phía bên mình vẫn án binh bất động, không có động tĩnh gì. Tôi thắc mắc trong đầu: Không biết đơn vị có chuẩn bị phương án này hay không? Cử ai làm đại diện về phía quân giải phóng trong tình huống này, chắc là không có nên vẫn im lặng. Thôi đành chờ đợi vậy.
   Ba tên lính VNCH cố gắng giữ bình tĩnh, đứng tơ hơ trên bãi đất trống hút thuốc, mắt luôn dõi theo những động tĩnh bên phía bên ta. Thú thật với ông lúc ấy lòng tự trọng và danh dự quân giải phóng Miền Nam làm cho tôi quên hết sợ hãi, tôi định bước ra. Nhưng khổ một nỗi, nhiệm vụ ấy không phải của mình nên tôi đành nằm im. Lúc ấy tôi đấu tranh tư tưởng rất phức tạp, nếu bước ra mà mọi chuyện tốt đẹp thì không sao. Nếu chẳng may có chuyện gì đấy xảy ra thì không biết hậu quả sẽ như thế nào? Một nửa đầu bên này nghĩ thế, nửa đầu còn lại thôi thúc tôi đứng lên, giả sử có chuyện gì xảy ra còn có anh em cùng đi chứng kiến. Mà không thể có chuyện gì được, vì địch cũng đi tay không, không mang vũ khí. Mặt khác, nếu có chuyện gì cũng có thể vin vào lý do là: Bọn địch đứng vào khu vực những lá cờ do tôi quản lý, nên tôi phải đứng ra bảo vệ.
  Nghĩ thế, tôi quyết định đứng lên bước ra khỏi bụi cây, tôi cũng  từ từ cởi bỏ vũ khí trên người để xuống bãi cỏ. Trong lúc cởi bỏ vũ khí, tôi tranh thủ quan sát động thái phía bên địch, xem có biểu hiện gì khác thường không, đồng thời cũng xem bên mình có ai yểm hộ mình không?
(Còn nữa).
 



Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 14 Tháng Mười, 2014, 02:31:25 pm

               Chào bác chủ quanvietnam! Chào các bác! Chuyện đang rất hay, thật hồi hộp, rất hấp dẫn. Chúc bác chủ luôn khỏe và nhanh tay phím để nói về những ngày quân ta và bên QLVNCH Chơi trò "cắm cờ, cướp cờ" ấy đi. KÍNH BÁC!


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: xuanv338 trong 14 Tháng Mười, 2014, 03:44:35 pm
 CB chào bác quanvietnam. Đọc truyện của bác hay quá! Mấy bác lính già Tranphu341, vanthang341ht hình như cũng đang bị nghiện chuyện sau chiến tranh của tác giả quanvietnam. Lần đầu tiên ra 19C NH em lại không may mắn được gặp người viết hồi ức hay nhất trang M&H. Bác vanthang341ht xem những tấm hình cũng thắc mắc là không thấy có bác đấy thôi. Tối đó anh em có nhắc đến bác. Còn em thì dĩ nhiên là phải nhắc đến bác rồi và còn những cái tên em muốn gặp ngoài đời đó là anh linh71, anh TrọngC6, anh ChienC3, quangcan....Hôm đó anh doantho chắc còn bận mải công trình.  Không sao sẽ còn nhiều lần em ra Hà Nội. xuanv338 chúc bác luôn mạnh khỏe, viết khỏe chuyện sau chiến tranh.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: vanthang341ht trong 14 Tháng Mười, 2014, 08:28:50 pm
CB chào bác quanvietnam. Đọc truyện của bác hay quá! Mấy bác lính già Tranphu341, vanthang341ht hình như cũng đang bị nghiện chuyện sau chiến tranh của tác giả quanvietnam.

   Chào xv, chào bạn quanvietnam.
   Đúng thế! Tôi đang nghiện "chuyện sau chiến tranh" của bạn quanvietnam đây. Nhưng có điều hình như quanvietnam cứ thủng thẳng mặc cho ai thấp thỏm muốn đọc ngấu nghiến cho hết đoạn cuối sẽ nói gì.
   Đúng thôi, bạn cứ thủng thẳng như người ông kể chuyện ngày xửa ngày xưa cho các cháu nghe vậy. Chậm rãi, chắc chắn, hay và hấp dẫn nữa.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 15 Tháng Mười, 2014, 01:38:06 pm
 Chào anhTP anh Vanthang, chị XV,cùng toàn thể các bạn CCB trên diễn đàn. Những mong muốn của các anh các chị, Quanvn cũng đồng cảm và muốn thế. Khổ nỗi gió bắc về, thời tiết thay đổi, khắp mọi cơ quan đoàn thể của Quanvn dệu dã, ốm không ra ốm, khỏe chẳng ra khỏe, người cứ vật vờ thành ra làm biếng. Mong mọi người thông cảm, Quanvn sẽ cố gắng vậy. Xin cám ơn tất cả các anh các chị đã quan tâm.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: qtdc trong 15 Tháng Mười, 2014, 03:46:33 pm
Hi hi, bác quanvietnam cũng tựa như một nhà máy thủy điện. Tích nước đủ phát điện mới mạnh. Phát nhanh quá hồ chứa xuống dưới mực nước cho phép mà lại vào mùa khô thì nghỉ dài dài. 


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: xuanv338 trong 15 Tháng Mười, 2014, 06:19:25 pm
  Hì hi.. tại bác ấy viết chậm nên bài viết mới hay. ngấm sâu vào long người đọc. máy bác lính già đang me mẩn đấy qtqc à! Mong được gặp lại bạn nhiều lần nữa nhỉ?


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: qtdc trong 15 Tháng Mười, 2014, 06:48:01 pm
Chị xuanv338, chị năng ra Hà Nội thì chị em mình sẽ hay gặp nhau thôi. Còn bác quanvietnam mục đích chính là viết cho con cháu nó đọc và làm theo như cả xã hội ta đang học tập và làm theo Cụ Hồ. Nhưng các cụ bảo nào là nước mắt chảy xuôi, nào là dao sắc không gọt được chuôi. Nó khó thế đấy chị ạ, mà biết đâu con cháu nó không nghe theo mình nó mới khá thì sao, mỗi thời nó một khác chứ. Thế nhưng đã là con tằm thì phải nhả tơ, nhả tơ cho đến khi thác, đó là nhiệm vụ chính trị mà Đảng, Nhà nước, Quân đội đã giao cho cụ CCB quanvietnam nhà ta. Ọ ẹ một lúc lâu lâu như cái đài O-ri-ông-tông cũ rồi cụ lại nhả tơ thôi, tính kỷ luật của lính Cụ Hồ cao lắm chị xuanv338 ạ.

Còn nói về cái hay trong câu chuyện của bác quanvietnam nó nằm ở 2 vấn đề. Thứ nhất bác kể câu chuyện theo kiểu cổ điển, rất lô gich và rành mạch, dễ theo dõi, hành văn rất sáng sủa. Thứ hai, bác là người trong cuộc mà bản thân bác lại sống rất sâu với các biến cố, sự kiện trong đời riêng, trong xã hội quanh mình, các sự kiện bác thuật lại đều được nhìn dưới nhiều góc nhìn có độ lùi về thời gian, từ các điểm nhìn của nhiều người tham gia trong cùng sự kiện. Vì vậy câu chuyện của bác luôn có chiều sâu, có sự đặt vấn đề đa diện, có sự gợi mở suy nghĩ tiếp cho người đọc. Nhân bác đang nói về thời chạm mặt trực tiếp với sĩ quan binh lính VNCH ở Quảng Trị sau hiệp định Paris, lực lượng đối đầu chủ chốt với quân ta hồi ấy là sắc lính TQLC. Mặc dù lính thì chủ yếu là người Nam, nhưng sĩ quan chỉ huy người Bắc rất nhiều, cũng rất nhiều người Hà Nội. Chủ yếu là khóa sĩ quan trù bị Nam Định năm 1951 khi Bảo Đại được người Pháp sử dụng làm Quốc trưởng, đồng thời viên tướng Pháp De Lattre De Tassigny có kế hoạch đào tạo sĩ quan bản xứ để dần dần đảm nhiệm tác chiến đỡ cho quân viễn chinh Pháp. Các viên lữ đoàn trưởng TQLC như 147, 258, 369 tham gia trận Quảng Trị 72 đều là người Bắc từ khóa sĩ quan 1951 đó mà ra cả, các tiểu đoàn trưởng cũng phần đông là người Bắc. Tư lệnh mặt trận Quảng Trị phía đối phương khi mở chiến dịch tái chiếm thành cổ, tướng Ngô Quang Trưởng là người Bến Tre nhưng cũng là con rể của nhà văn Thạch Lam. Tư lệnh sư đoàn TQLC tướng Bùi Thế Lân cũng là người Hà Nội. Vì không đi cùng con đường với nhau nên phải đối đầu nhau mà thôi. Còn nhiều ví dụ nữa, ví như tướng Vĩnh Lộc em họ Bảo Đại, Tổng tham mưu trưởng cuối cùng của chế độ VNCH chính là người đã học khóa 1 Trường Lục quân Trần Quốc Tuấn năm 1946, tướng cảnh sát Nguyễn Ngọc Loan mặc dù là người sinh ra ở Huế nhưng là cháu trực hệ mười mấy đời của Cụ Nguyễn Trãi, thuộc chi Nhị Khê Hà Tây. Trong khi đó TBT Nguyễn Văn Cừ lại là cháu trực hệ mười bảy đời Cụ Nguyễn Trãi, thuộc chi Phù Khê Bắc Ninh.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: xuanv338 trong 17 Tháng Mười, 2014, 10:08:37 am
 xuanv338 chào bác chủ quanvietnam. Chào qtdc. Chào các bác. Em đang thấy bác có mặt ở nhà nên vào xin bác chén nước lấy cớ ngồi hóng truyện của bác đây. May quá lại được nghe cả truyện kể của người đồng hương nói ý chắc như Đinh, văn cũng mềm như Lụa. Mình nói rất thật đấy qtdc ạ! Thấy tự hào cho quê Lúa quá! Trang nhà bác quanvietnam được chủ đã viết hay lại khách vào viết hay không kém. bác quanvietnam cho phép xuanv338 thường xuyên được vào nghe lỏm. Chiều qua em đã được nghe lỏm bài viết của qtdc ở  nhà bác phicongtiemkich. Hôm nay em lại quay sang nhà bác. Nghe, đọc để được hiểu rộng hơn. xuanv338 Kính bác.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: qtdc trong 17 Tháng Mười, 2014, 01:09:44 pm
Chị xuanv338 à, anh chị em mình cứ trong nhà khen nhau hoài như vậy cũng chí nguy đấy. Các tỉnh khác đều có những mặt xuất sắc hơn Thái Bình nhiều. Nhưng phải nói Thái Bình cũng đáng tự hào thật. Nổi dậy chống sưu cao thuế nặng thời Pháp năm 30, trực tiếp chỉ huy bắt sống tướng De Castrie năm 1954, bắn trúng B-52 những hai lần các năm 71 và 72, cắm cờ dinh Độc Lập năm 75, mang bèo hoa dâu lên vũ trụ năm 80 v.v.... Không những giỏi nông nghiệp lại giỏi cả công nghiệp, có Nhà máy Cháo duy nhất trên cả nước từ đời nảo đời nào đến nay cũng chẳng tỉnh nào có. Cầu Bo quê mình cũng to đâu có kém Cầu Bố ở quê hương Đức Vua Lê. Rồi chưa có tỉnh nào có tinh thần bình quyền nam-nữ như tỉnh mình: cứ đẻ hai con gái là tôn vinh và thưởng 2 quạt cây.
Chưa nói đến chuyện lịch sử xa xưa: Nhà Trần phát lên chính từ Hưng Hà rồi mới sang Tức Mặc.
Đi hội họp ăn uống mỗi khi thấy cạnh mình có người nói cho tôi xin cái muôi là em lại giật mình lễ phép hỏi, nếu tôi không nghe nhầm, có phải ông bà (cô, bác, anh chị, em cháu) vừa cho tôi cái vinh dự được làm người đồng hương phải không ạ. Bao nhiêu công lao với quốc gia như thế mà hồi mở rộng thủ đô cách đây mấy năm, các bác thủ đô nỡ lòng nào không mở rộng địa giới cho bao trọn quê mình, tủi thân quá.
Laị nữa, Mẹ Âu Cơ chia tay Lạc Long Quân dẫn 50 con xuống biển, vậy đền thờ Mẹ Âu Cơ đáng phải để ở Thái Bình chứ phải không chị.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: xuanv338 trong 17 Tháng Mười, 2014, 01:34:27 pm
 Bác quanvietnam không về nhanh thì quân Thái Bình em chiếm luôn sổ đỏ mất. Nói vui thôi! bác cho chị em người Thái Bình giao lưu chút xíu mà.
 qtdc ơi! Còn một việc nữa mà Thái Bình đã để lại tiếng thơm còn vang vọng đến bây giờ và một chuyện gây xôn xao cả nước qtdc có nhớ không.  ..Thái Bình có cái trống rất to và tiếng trống đánh kêu rất vang nhất. Đó là tiếng Trống năm 30 của nông dân Tiền Hải theo lời Đảng gọi đấu tranh giành quyền sống với giặc Pháp. Và còn  hì,,hi... Tiếng trống năm 1997 chống tham nhũng, bắt cả công an gây chấn động toàn quốc..... Xem ra Thái Bình nhỏ xíu, bốn bề là sông và biển vây quanh như một hòn Đảo nhỏ mà cũng làm nên lắm truyện phải không đồng hương?  Thôi em trả nhà cho bác quanvietnam, em về ạ . Chúc bác mạnh khỏe, có bài mới đi bác.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 19 Tháng Mười, 2014, 04:21:04 pm
 Đông vui quá. Mọi người quên Quanvn là rể TB à? Nhà bà xã Quanvn ở phường Quang Trung thành phố TB. Xin chào và hẹn gặp lại.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 20 Tháng Mười, 2014, 01:27:25 pm

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Số phận
        Lúc này, không gian bãi chiến trường dường như bị thu hẹp lại, thời gian ngừng chuyển động. Mọi động tác của tôi lúc này không còn chuẩn nữa, tay tôi cứ run run vì quá hồi hộp. Vẫn cái xanhtuya chiến lợi phẩm lấy được của địch mà tôi sử dụng nó lâu lắm rồi, quen đến nỗi ngay cả trong đêm tối tôi vẫn thành thục mở ra đóng vào dễ như không, chỗ nào cài lựu đạn chỗ nào cài dao găm, nơi nào deo bình tông nước, nơi nào túi lương khô chỗ nào là bông băng tôi nhớ như in, kể cả trong đêm không cần nhìn tôi vẫn thao tác chính xác.
   Ấy vậy mà hôm nay tôi lúng túng, chỉ mỗi động tác hóp bụng vào mở nút xanhtuya ra mà hóp mãi cũng không mở được. Ngay cả khẩu AK báng gập vật bất ly thân của tôi, tôi yêu nó như yêu chính bản thân tôi cũng thế, tôi cố đưa dây súng qua đầu nhưng nó vẫn không chịu ra cứ nhùng nhằng vì vướng mũ tai bèo. Hình như súng với tôi không bao giờ nỡ rời nhau, nếu rời nhau ra coi như chấp nhận phó thác số phận cho kẻ địch, chắc là có điềm gì nên nó không muốn xa tôi? Tôi thoáng nghĩ thế.
   Vừa cởi bỏ vũ khí, tôi chăm chú quan sát những người lính VNCH, họ vẫn chăm chú nhìn tôi. Một phút rồi hai phút qua đi, tất cả đều bình thường vẫn không có chuyện gì xảy ra nên tôi mạnh dạn hơn. Bên trái và bên phải tôi, những chiến sĩ của C20 được phân công cắm cờ đêm qua cũng đã xuất hiện sau tôi vài mét. Nhìn thấy họ tôi như được củng cố thêm sức mạnh, tôi tự tin bước về phía ba người lính VNCH.
  Người lính cao to, trông dáng có vẻ là sĩ quan chỉ huy nên đứng ở giữa, hai người thấp bé đứng hai bên. Không biết họ nhìn tôi họ đánh giá thế nào? Còn tôi nhìn họ, tôi cảm thấy bình thường chứ không gớm giếc như trong phim trong ảnh. Bộ quần áo rằn ri, lắm đai lắm móc bó chẽn lấy người. Cộng với những khuôn mặt hốc hác lấm lem bùn đất, tóc tai râu ria lởm chởm, nên trông cũng có vẻ dữ dằn. Những con người này, nếu được sửa sang tắm gội thì cũng bình thường như bao nhiêu người khác.
 Từ ngày xông pha trận mạc, đây là lần đầu tiên tôi được nhìn thấy người lính quân lực VNCH bằng xương bằng thịt, là một cơ thể sống còn đầy đủ mọi bộ phận của cơ thể. Những lần trước, thường nhìn thấy họ trong hoàn cảnh xác không toàn thây không mất cái nọ cũng thiếu cái kia. Họ là kẻ thù, nhưng vì tình đồng loại nhìn xác họ cũng cảm thấy thương xót nên không bao giờ dám nhìn kỹ. Trong lòng tôi không có sự căm gét hận thù, mà chỉ có sự xót xa cho số phận.
  Chúng tôi giáp mặt nhau. Người lính cao lớn đưa tay ra bắt tay tôi và tự giới thiệu:
   -Tôi! Đại úy Tín, sĩ quan thủy quân lục chiến, thuộc quân lực VNCH rất hân hạnh được bắt tay ngài chỉ huy quân giải phóng.
  Ông biết không? Lúc ấy tôi lúng túng quá. Tôi lúng túng vì người lính này phong chức cho tôi là chỉ huy quân giải phóng làm tôi ngượng. Thực ra tại lúc ấy, tôi không biết quân hàm của tôi là gì, chắc ông cũng như tôi. Lúc hành quân vào Nam đi chiến đấu chúng mình vẫn là binh nhất bây giờ là gì thì không biết, còn chức vụ của tôi đương nhiên là chiến sĩ rồi. Thú thực, chuyện tôi là chỉ huy quân giải phóng hay không, tôi không quan tâm, mà tôi quan tâm đến việc trọng đại, không biết có được bắt tay kẻ thù không? Vì lý do ấy nên tôi lại càng lúng túng, không biết làm như thế đúng hay sai? Có vi phạm lập trường hay quan điểm gì không? Tôi tắc lưỡi không biết là đúng hay sai, nhưng người ta giơ tay ra bắt mà mình đứng như phỗng cũng khó coi, thôi thì bí quá cứ làm đại đi, có ai biết đâu mà sợ. Tôi giơ tay ra bắt và nói:
   -Chào các ông binh sĩ quân lực VNCH!
   -Chào ông cán bộ quân giải phóng!
  Vừa lúc ấy mấy anh em của đại đội mình cũng ào đến, hai bên địch ta bắt tay nhau mà không ai nói với ai, chỉ có những ánh mắt bán tín bán nghi của cả hai bên đưa qua đưa lại dò xét nhau. Có lẽ phải mất hai ba phút gì đó, cả địch và ta đều im lặng. Để phá đi bầu không khí nặng nề, tôi đề nghị cả hai bên ngồi xuống, ngồi thành hai hàng để nói chuyện cho nó tình cảm. Cả hai bên lục tục ngồi bệt xuống bãi cỏ. Các chiến sĩ bộ binh K4 ở phía tay trái và tay phải chúng tôi, thấy không có vấn đề gì nguy hiểm nên cũng rời khỏi chốt tiến về phía chúng tôi. Tên lính cao lớn tên là Tín, vội vàng xua tay ra hiệu và thất thanh:
   -Dừng lại! Có mìn.
Tôi không biết nó nói đúng hay sai, nhưng với bản năng tự vệ, tôi cũng gào rất to:
 -Dừng lại! Có mìn.
   Tốp bộ đội nghe nói có mìn là dừng lại không tiến lên nữa, Tôi quay sang hỏi tên Tín:
   -Tại sao ở đó lại có mìn?
   -Các ông đánh tấn công để lấn đất, chúng tôi phòng ngự để giữ đất, vũ khí lợi hại của chúng tôi là những bãi mìn, vì vậy dọc tuyến này là chúng tôi gài rất nhiều mìn.
   -Ông nói thế nào tôi không hiểu? Các ông đang cố hất chúng tôi sang bờ Bắc sông Thạch Hãn, mà các ông lại nói là các ông đánh phòng ngự là nghĩa làm sao?
   -Đúng là như vậy! Nhưng đánh mãi không được các ông nên chúng tôi đành phải chuyển sang chiến thuật: Giữ đất trước, lấn đất sau.
   -Thì ra là thế! Ghê thật.
  Cả hai bên không biết bắt đầu câu chuyện như thế nào, với lại đều có ý nhường nhau nói trước thành ra ngồi nhìn nhau chờ đợi. Thời gian lặng lẽ trôi, những người lính của hai phía đều im lặng. Lúc này bên phía binh sĩ quân lực VNCH đã tăng thêm 4 người nữa, tổng cộng là 7 người, còn bên ta cũng 7 người gồm 3 trinh sát C20, 4 bộ binh của K4.
   Nhìn bên mình, không thấy ai có vẻ xứng đáng làm thủ lĩnh để đối đáp với bên địch. Mặt khác, tôi nghĩ không nên kéo dài tình trạng này, nên tôi bắt đầu trước:
   -Xin chào tất cả anh em của hai bên! Cho phép tôi được xưng hô là anh em cho nó thân mật. Đúng như vậy, tất cả chúng ta đều là con Lạc cháu Hồng, đều là người một nhà, vì vậy chúng ta đã là anh em và bây giờ vẫn là anh em. Thời gian trước vì bất đồng quan điểm giai cấp, đồng thời thiếu tôn trọng hiệp định Giơnevo dẫn đến cuộc chiến tranh máu lửa tương tàn nồi da xáo thịt này.
 Bây giờ hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam đã được ký kết, đất nước chúng ta bước sang kỷ nguyên mới, chúng ta hãy tôn trọng hiệp định chấm dứt chiến tranh để sống trong hòa bình. Kể từ giờ phút này, tôi đề nghị anh em cả hai bên không nói chuyện chính trị, không nói về chiến tranh, chúng ta chỉ nói về tình cảm anh em, chuyện gia đình vợ con, chuyện học hành v.v. Tôi đề nghị thế, ông Tín có đồng ý không?
  Đại úy Tín bật ngay dậy:
   -Tôi đồng ý! Nếu như không có Nước Mỹ nước Nga Xô thì đất nước mình có bao giờ lại đánh nhau. Chính vì các nước ấy nên anh em ta là con Lạc cháu Hồng đều là máu đỏ da vàng lại nồi da xáo thịt lẫn nhau.
   Tôi cười thầm, sĩ quan quân lực VNCH mà ấu trĩ về chính trị, hay là cơ quan tâm lý chiến đã nhồi sọ họ như vậy. Thôi! Chuyện ấy cũng không quan trọng, mà quan trọng là giữ cho được không khí hòa bình còn rất manh nha. Tôi lảng sang chuyện khác ngay:
   -Tôi tự giới thiệu, tôi tên là Khoa quê Ninh bình, năm nay 24 tuổi, chưa vợ con.
  Ông biết không? Tôi cố gắng giữ bí mật, chỉ tiết lộ những thông tin không cần thiết. Duy có thông tin về tỉnh Ninh Bình là tôi nói thật, ý đồ của tôi là biết đâu đấy có thể tìm thấy thông tin về gia đình bác tôi. Nhưng ý đồ ấy của tôi, giống như viên sỏi ném xuống ao bèo tấm, chẳng có thông tin nào được phản hồi. Đúng là huyễn hoặc, mò kim đáy biển, tôi dập tắt ngay ý đồ ấy.
  Cả hai bên từng người lần lượt tự giới thiệu về mình, giống như tôi mở đầu. Không ai dặn dò, nhưng cả hai bên không bên nào tiết lộ phiên hiệu đơn vị, còn quê quán thì mỗi người mỗi quê, ngay anh em bộ đội với nhau còn chả biết hết quê quán của nhau, nói gì đến quê quán của các binh sĩ VNCH. Nhưng cũng hay, không biết tên Tín nói đúng hay nói dối, nó nói nó quê ở tỉnh Bắc Ninh, theo bố mẹ di cư vào Nam lúc 11 tuổi hiện nay đã có vợ và 1 con gái.
  Tín thò tay vào túi áo ngực rút ra tấm ảnh, vô tình bao thuốc lá Ruby văng ra. Tín thản nhiên mời anh em bộ đội hút thuốc, bộ đội ta lúc đầu còn cảnh giác chỉ đưa lên mũi ngửi không dám hút, sau thấy bên địch hút ào ào nên mới yên trí châm lửa hút. Tín đưa tấm ảnh cho tôi xem và quên mời tôi hút thuốc. Tôi chăm chú ngắm tấm ảnh, nhưng mùi thơm của thuốc lá Ruby quân tiếp vụ quân lực VNCH, có sức cuốn hút thần kỳ, nó có mùi thơm khó tả, làm tôi bị phân tâm không thể nào tập trung vào bức ảnh. Ngoài Bắc có thuốc lá Sông Cầu cũng có vị thơm ngọt ngào quyến rũ, nhưng không thể so với mùi thơm của Ruby được.
  Tôi ngắm ngía bức ảnh, thực tâm đánh giá thì vợ Tín rất xinh, có phần không công bằng so với Tín, có thể vì Tín mặc bộ quân phục Thủy quân lục chiến nên có vẻ hung dữ, không cân đối với vẻ hiền thục dễ thương của vợ Tín. Cô con gái khoảng độ 4-5 tuổi, mang nhiều nét của mẹ nên cũng rất xinh. Tôi hỏi rất tự nhiên:
   -Vợ của đại úy Tín làm gì?
  Đang tươi tỉnh vì thấy tôi cứ tấm tắc khen vợ chồng con cái xinh đẹp sống vui vẻ hạnh phúc. Nhưng khi tôi hỏi vợ làm gì, mặt Tín sa sầm xuống, đanh lại xám ngắt rồi chuyển nhanh sang trạng thái giận dữ. Tín lắc đầu nói:
   -Trước làm ở sở Mỹ, bây giờ thì đã mất việc ở nhà trông con.
   -Sao lại thế? Mà lương đại úy Tín chắc là cao lắm nên cũng chẳng lo mất việc có đúng không?
   -Cũng không hẳn thế! Chuyện dài lắm không kể hết được.
  Hai hàng ngang, địch một hàng ta một hàng, ngồi đối diện nhau chuyện trò. Hai hàng, lúc đầu mỗi bên có 7 người, bây giờ cả hai hàng được kéo dài sang hai phía đông quá. Không khí của buổi chuyện trò có vẻ thân thiện, chắc là họ kể cho nhau nghe nhiều chuyện lắm, thấy họ có vẻ hòa hợp giống như đã quen nhau từ lâu rồi. Đúng thôi! Tất cả những người lính của cả hai bên, họ đều chán ghét chiến tranh, họ khát khao có được cuộc sống thanh bình, không có tiếng bom đạn, không còn cảnh đánh nhau đầu rơi máu chảy. Giờ này, họ đang hy vọng sẽ có ngày họ được trở về quê hương, dưới mái tranh nghèo chăm sóc bố mẹ già, sống hạnh phúc bên người vợ hiền, nuôi dậy đàn con thơ.
  Ông ạ! Lúc ấy tôi nghĩ thầm, cả hai bên đã chờ đợi ngày này từ lâu lắm rồi, do vậy họ sẵn sàng thông cảm bỏ qua những lời nói động chạm đến danh dự của hai bên, nên họ quen nhau rất nhanh. Nhưng cũng phải nói thật. Có những từ khi phát ra khỏi miệng, tôi thấy ngượng như những từ: Ông Diệm, Ông Thiệu v.v. Không làm thế cũng không được, vì bản thân đại úy Tín đề nghị: Các ông giải phóng không nên xưng hô thằng Ngô Đình Diệm, thằng Nguyễn Văn Thiệu, bên tôi cũng tôn trọng lãnh tụ của cộng sản, dù có ghét chúng tôi vẫn phải xưng hô bằng ông. Vậy ông Khoa thông cảm để dễ nói chuyện. Lúc ấy đành phải đồng ý, thật ra: Từ xưa đến nay bộ đội mình quen dùng từ đối với kẻ thù là: Thằng nọ thằng kia. Bây giờ lại phải dùng : Ông nọ ông kia, nghe có vẻ gò bó…
  Đã quá 12 giờ trưa, hai bên vẫn chưa chịu rời nhau.
(Còn nữa).

 


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: phuockhanh trong 20 Tháng Mười, 2014, 02:52:05 pm
Chào Quanvietnam!
Đọc câu chuyện ngày đầu khi Hiệp định Pa ri được ký kết có hiệu lực, khi quanvietjnam cùng anh em trong đơn vị có cuộc tiếp súc với quân đội Sài Gòn làm cho P/K lại nhớ đến những ngày ấy ở Tây Bắc Kon Tum, giữa ta và đối phương cũng có cuộc những tiếp xúc. Đã làm lán tiếp xúc, gọi là nhà hòa hợp, để sang gặp gỡ với nhau. Những cuọc gặp gỡ cũng mời thuốc, mời kẹo bánh (dĩ nhiên với ta đây là những thứ dành cho tiếp xúc ). Chỉ có ở hai địa điểm là cao điểm 601 và bản Đăk Rơ cót. Nhưng ở đơn vị mình có chuẩn bị rất cẩn thận khi tiếp xúc, mà phải là cán bộ mới được gặp gỡ. Còn chỗ quanvietnam toàn là chiến sỹ chắc là vì cuộc "tao ngộ" tiếp xúc. Bản thân mình cũng được học hai ngày về cách thức giao tiếp với đối phương, kể cả đưa ra những câu hỏi của đối phương và đưa ra cách trả lời. Tuy nhiên mình chưa có dịp được tiếp xúc. Cũng câu chuyện tiếp súc, một anh đội phó đội công tác (ngày đó mình ở đội công tác dân địch vân) cỡ chính trị viên C được cử ra tiếp xúc, khi về báo cáo lại, anh kể là hai người đi trên đường 14 (Cđ 601) nó (bên ngụy) hỏi anh là các ông vào trong này lâu có nhớ nhà lắm không? Anh trả lời là các anh như thế nào thì chúng tôi như thế. Câu trả lời này bị phê bình đấy. Nghe kể là thằng đại úy ra chắc là chúng có chuẩn bị trước. Quân Sài Gòn chúng rất 'Nghiêm" trong quan hệ sỹ quan và lính. Một lần giải thằng thiếu úy bị bắt nó bảo lính gặp sỹ quan không chào còn bị tạt tai nưa. Đúng là chúng có chuẩn bị, còn ta không chuẩn bị vẫn có cuộc tiếp xúc của quanvietnam tuyệt vời, nhất là câu nói  " không nói chuyện chính trị".  Cán bộ của ta trưởng thành từ chiến đấu, nhất là bổ nhiệm không cần xét đến trình độ học vấn làm tiêu chuẩn, mà lấy tinh thần chiến đấu để xét. Chắc các chiến sỹ trong đơn vị của Quanvietnam đều là người có học vấn nên có bản lĩnh trong khi tiếp xúc "bất ngờ" vẫn thể hiện là quân đội chiến đấu có lý tưởng hơn những kẻ (chỉ huy của chúng) chiến đấu hết cho Pháp lại đến Mỹ, mà khi Mỹ bỏ là tan luôn.
Chào Quanvietnam!


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: qtdc trong 22 Tháng Mười, 2014, 11:54:53 pm
Viết ngắn hay có bác Nguyentrongluan, viết dài hay có bác TrongC6 và bác Quanvietnam, và mỗi người một vẻ chẳng ai giống ai. Viết tiếp đi bác Quanvietnam. Ngắn hay kiểu ngắn, dài hay kiểu dài, nhưng dài mà để cho câu chuyện kể không nhạt không phải chuyện dễ. Ấy mà đại úy Tín mới nói mấy câu, hay chính xác là có vài phút mà các bác đã gọi địch là ông rồi, bọn địch nó nguy hiểm thật.   :'(  Thế mới biết tại sao các bác chính trị viên nhà ta phải kèm sát anh em và tại sao phải liên tục học tập chính trị nâng cao quan điểm lập trường.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 31 Tháng Mười, 2014, 01:30:54 pm

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Số phận
        Bữa cơm trưa thân mật giữa hai bên, địch ta diễn ra tại bãi chiến trường còn vương khói súng ngày hôm qua. Hai hàng lính, một hàng của địch một hàng của ta lúc này đã được kéo dài sang hai phía phải trái, khoảng cách giữa hai hàng được xích lại gần nhau. Ngăn cách giữa hai bên là những mảnh vải bạt và thi thoảng là những tấm ni lông xanh, được xé ra từ bao đựng gạo của Trung Quốc viện trợ, những thứ này được trải lên thảm cỏ bầy đồ ăn trưa. Đây là thời điểm thể hiện sự hòa hợp dân tộc, nên hình như cả hai bên đều thoáng, không tiết kiệm như mọi khi. Bên địch nhiều đồ ăn đồ uống hơn, có thể đây là khẩu phần của đại úy Tín nên có vẻ phong phú, dẫu sao lính trận như vậy cũng hơi quá.
  Lính của Tín bầy ra trước mắt tôi nhiều thứ lắm, nào cơm sấy, nào giò ba khoanh, nào mì hai tôm,  nào pho mát, sữa gói. Đồ uống là café tan, trà Blao lại có cả socola nữa. Bên ta thì khiêm tốn hơn, nhưng để đối chọi với địch, anh em không biết huy động từ đâu ra cũng đưa cho tôi được phong lương khô 701, một hộp thịt lợn 250 gam, một bình tông nước đun sôi chứ không phải nước khử trùng bằng Phăngtosit như mọi khi. Thấy khẩu phần ăn sang quá tôi hơi ngượng, vì tự nhiên tôi lại phải làm cán bộ ngồi đối diện với sĩ quan quân lực VNCH, để được hưởng khẩu phần ăn này.
  Ông ở C20, ông biết thừa rồi!  Một hộp thịt 250 gam, là khẩu phần ăn nửa tháng của ba thằng lính trinh sát xuống nằm vùng với đơn vị bộ binh ở các chốt tiền tiêu để theo dõi tình hình địch. Hôm nay, anh em đưa cho tôi cả hộp rồi mấy bữa nữa biết lấy gì để ăn? Thông thường, để đủ ăn anh em phải trộn 250 gam thịt hộp ấy với một hộp ruốc mặn rồi rang lên để ăn dần mới đủ. Sao hôm nay lại hoang thế?  Chết vì sĩ diện. Tôi tắc lưỡi, nghĩ bụng: Mấy khi mới có dịp này…
   Thương cho mấy ông bộ binh bên ta đồ ăn quá khiêm tốn, mỗi thằng chỉ được một nắm cơm với một gói ruốc mặn do anh nuôi vừa mang lên, đói thì đã có gạo rang dữ trữ. Lính tráng bên địch cũng chỉ có một gói cơm sấy và một hộp giò ba khoanh hoặc là hộp thịt gà loại 150 gam, ngoài ra thằng nào còn cất dấu được hộp sữa hay hộp thịt, dịp này cũng mang góp vào bữa ăn, như vậy cũng tươm hơn bên ta.
  Bữa trưa của hai bên địch ta, tuy nghèo nàn nhưng vui vẻ, thậm chí tình cảm đôi bên không còn khoảng cách mà ngược lại lại rất thân thiện, họ còn đổi thức ăn cho nhau và mời nhau ăn. Hai bên vừa ăn vừa bình phẩm, bên ta chê gạo sấy bên địch ăn nhão nhoét nhạt toẹt, thịt gà hộp tanh quá, chỉ khen loại giò ba khoanh là tạm được. Bên địch thì chê bên ta là ruốc mặn quá, chỉ thấy muối mà không thấy ruốc, bù lại chú lính nào cũng khen: Cơm nắm ăn với ruốc ngon hơn ăn gạo sấy với thịt hộp.
  Riêng đại úy Tín hài hước hơn, nó bảo lương khô là cám ép nhưng ăn rất ngon. Tôi bảo với nó: Rất tiếc hôm nay hết loại 702, loại ấy nhiều Vitamine hơn, ngoài ra lại còn 3 viên tăng lực đi kèm. Hứng lên tôi nói khoác vậy, chứ loại ấy tôi chỉ được nếm có một lần của anh bạn ở Ban hậu cần trung đoàn. Nghe đâu loại ấy chỉ cán bộ cao cấp của trung đoàn mới có.
  Hai bên địch ta, ngây ngất với không khí hòa bình. Tuy đã nhiều đêm mất ngủ, nhưng hôm nay nét mặt của mọi người rạng rỡ, không còn lo lắng cảnh giác như lúc đầu, họ thỏa sức truyện trò tâm sự đủ mọi chuyện trên giời dưới đất. Trời Quảng Trị cao xanh lồng lộng không một gợn mây, gió từ biển Cửa Việt thổi về xua đi cái nóng hầm hập giữa trưa. Tôi quan sát một lượt, chợt lo lắng từ đâu ập đến:  Không biết, cuộc hội ngộ này sẽ đi đến đâu? Hy vọng sẽ không có chuyện gì làm hỏng cuộc vui này. Tâm trạng của tôi lúc ấy rất sợ có một cái gì đó làm ảnh hưởng đến cuộc vui. Lạy Trời! Đừng xảy ra chuyện gì. Tôi lẩm bẩm.
  Có thể, chỉ những người lính chiến mới có tâm trạng như vậy. Không biết có phải thế không? Ở đâu thì tôi không biết, nhưng ở chiến trường thì đúng là như vậy: Không còn chiến tranh, sẽ không còn cảnh bắn giết lẫn nhau, sẽ không còn phải nhìn thấy những cái chết đau lòng của anh em đồng đội.
  Hòa bình được thiết lập, mọi người có quyền hy vọng được trở về quê hương với gia đình bố mẹ vợ con cùng bà con chòm xóm. Mọi người lại trở về với những miền quê thanh bình, cây đa bến nước mái đình cong cong, lại được nghe tiếng chuông nhà thờ ngân nga, tiếng sáo diều vi vu giữa trưa hè. Lại được ngắm nhìn lũ trẻ nô đùa dưới ao đình, nhìn đàn trâu béo tròn lim dim ngủ bên gốc đa đầu làng. Lại được nghe tiếng mõ đều đều vọng ra từ ngôi chùa cổ kính cuối làng. Lại được ngửi mùi khói lam chiều thơm thơm nồng nồng, bay là là trên những mái nhà siêu vẹo.
  Ôi! Mới chỉ nghĩ thôi, những người lính như tôi đã cảm nhận sự sung sướng đến tột cùng…
  Chiều hôm ấy, vẫn chưa có sự quản lý của đơn vị nên cả hai bên số người góp mặt vẫn không ngừng tăng lên. Thời gian buổi chiều, cả hai bên không còn ở màn chào hỏi làm quen nữa, mà chuyển sang màn tâm sự riêng tư. Tôi đưa mắt quan sát đại úy Tín để dò xét xem phản ứng của ông ta đối với hoàn cảnh này như thế nào? Tôi thấy ông ấy cỏ vẻ đăm chiêu thoáng có chút lo lắng đến trách nhiệm. Có thể do hoàn cảnh tự phát này đã làm giảm đi quyền chỉ huy của ngài sĩ quan quân lực VNCH đối với anh em binh sĩ, nên ông ta lo lắng.
  Thấy tình hình ấy, tôi tìm cách kéo ông ta trở về với cuộc vui. Bất ngờ tôi hỏi:
   -Ông Tín được đào tạo sĩ quan ở Việt Nam hay ở bên Hoa Kỳ?
 Tôi hỏi vậy là vì: Đại úy Tín năm nay chỉ độ 32-33 tuổi thôi mà đã đeo quân hàm đại úy rồi, chắc hẳn phải có nhiều thành tích chống cộng, hoặc đại loại phải có thành tích gì đó đặc biệt thì mới được như vậy. Cũng có thể là bọn ác ôn, được Mỹ đào tạo đặc biệt để tung xuống chỉ huy các đơn vị thiện chiến của quân lực VNCH.
  Đại úy Tín thật thà trả lời tôi:
   -Tôi được đào tạo tại trường sĩ quan Trần Quốc Tuấn, cũng có thời gian đi tu nghiệp ở Hoa Kỳ. Trong số sĩ quan theo học, tôi học giỏi nên được bọn sĩ quan Mỹ đặc cách, phong quân hàm vượt cấp và điều tôi về chỉ huy lực lượng đặc biệt ở biệt khu Thủ Đô.
  Nghe Đại úy Tín nói thế, tôi vốn đa nghi hay soi xét, cộng với việc Tín dùng từ: “Bọn Mỹ”  nên tôi hỏi lại ngay:
   -Tại sao ông lại gọi là bọn Mỹ?
   -Tôi căm thù lũ chúng nó vì chúng nó dám sàm sỡ vợ tôi, đã nhiều lần vợ tôi cảnh cáo nhưng chúng vẫn đeo bám, bỡn cợt.  Vợ tôi sợ quá, sợ tôi đánh ghen rồi xảy ra chuyện, nên không dám nói thật với tôi mà chỉ nói là không muốn làm ở đấy nữa, muốn xin chuyển chỗ khác, nếu không được thì xin thôi việc. Nghe vợ tôi nói thế, tôi nghi ngờ nên gặng hỏi mãi vợ tôi mới chịu nói ra. Tôi coi đấy là sự xỉ nhục, bởi vì một sĩ quan quân lực VNCH mà không bảo vệ được vợ, để cho bọn ngoại bang làm nhục.
  Quan sát nét mặt của đại úy Tín, tôi cho rằng những điều Tín nói là thật nên tôi tin ngay, hơn nữa cũng đã hơn một lần tôi nổi máu ghen, nên tôi dễ đồng cảm với đại úy Tín. Ông biết không? Trước khi đi bộ đội, tôi với bạn gái mới chỉ yêu nhau thôi mà tôi đã rất ích kỷ, cấm người yêu tôi không được thế này, không được thế khác. Mỗi lần nhìn thấy người yêu tôi cười cợt với bọn con trai là tôi đã nổi máu điên rồi. Đằng này, vợ đại úy Tín lại bị bọn Mỹ chòng ghẹo, chịu làm sao nổi. Tôi hỏi Tín:
   -Thế ông giải quyết thế nào?
   -Tôi rủ mấy thằng bạn dấu mặt, tẩn cho nó một trận thừa sống thiếu chết. Tất nhiên chúng nó cũng biết, nhưng không có chứng cớ nên không làm gì được tôi.  Nhưng kết cục là ông Khoa đã thấy đấy! Vợ tôi mất việc, tôi bị điều từ biệt khu Thủ Đô ra vùng 4 chiến thuật và bây giờ tôi đang ngồi tâm sự với ông Khoa đây. Kể ra cũng buồn, nhưng tôi thấy hả lòng hả dạ, vì tôi đã cho bọn chúng biết thế nào là sĩ quan VNCH, không dễ gì bắt nạt. Tôi vẫn còn căm giận lũ chúng nó, hôm ấy bạn bè mà không cản tôi thì tôi đã cho nó ăn cả băng đạn, muốn đến đâu thì đến kể cả ra tòa án binh.
   -Tôi nghĩ ông làm như vậy là đúng. Nếu ở trường hợp tôi thì chắc là tôi cũng sử sự như vậy. Nhưng tại sao ông không sợ bọn Mỹ sẽ tìm cách khử ông?
   -Tôi làm thì tôi đã tính tới hậu quả, bất luận hậu quả thế nào tôi vẫn làm. Mà bọn chúng cũng thâm độc lắm, chúng điều tôi ra vùng 4 chiến thuật, là chúng mượn tay cộng sản tiêu diệt tôi, một mũi tên trúng hai đích…
    Nghe Tín tâm sự về hoàn cảnh gia đình vợ con, tôi hình dung gia đình Tín thuộc loại dân nghèo thành thị, buôn bán nhỏ ở chợ Bàn Cờ, khu Gia Định. Gia đình là dân 54 nên không hòa hợp được với dân sở tại, sống trong sự cô lập, cuộc sống gia đình Tín bị nhiều thứ dồn ép, nên lúc nào Tín cũng cảm thấy bức bối, nghẹt thở. Hoàn cảnh cứ thế xô đẩy, cuối cùng Tín chọn con đường binh nghiệp. Tín bảo: Cũng do con đường binh nghiệp nên Tín mới lấy được vợ.
  Theo như Tín kể thì vợ Tín là giáo sư dạy trung học, phải lòng Tín ngay từ cái nhìn đầu tiên, khi ấy Tín đang chỉ huy hành quân huấn luyện ở thị xã Thủ Dầu Một. Tín nói thế tôi tin ngay, vì ngay lúc này nhìn Tín bụi bặm phong trần nhưng vẫn toát lên vẻ hào hoa phong nhã, ăn nói từ tốn lịch sự giống như lính văn phòng. Tôi đùa Tín:
   -Ông nói thế có quá không? Làm gì có cô gái nào dám hy sinh hạnh phúc của mình để lấy một ông lính chiến nay đây mai đó, rừng núi là nhà, màn là trời, chiếu là đất?
   -Tôi cũng không biết tại sao? Kể cả bố mẹ cô ấy cũng không đồng ý, nhưng cô vẫn quyết lấy tôi. Sau này thành vợ thành chồng tôi mới hỏi vợ tôi: Tại sao khi ấy em lại đồng ý lấy anh, trong khi em chưa biết gì về anh? Vợ tôi ôm chặt tôi vào người cô ấy, giống như sợ tôi chạy mất, rồi thỏ thẻ vào tai tôi: Em cũng không biết. Nhưng chỉ nhìn vẻ phong trần của anh trong bộ quân phục sĩ quan thủy quân lục chiến rất oai phong và gương mặt điển trai của anh cùng với ánh mắt mê hồn của anh nhìn em, là em đã tin rằng đây là con người mà em có thể gửi gắm cuộc đời mình cho anh. Anh sẽ là chỗ tựa vững chắc cho em và gia đình em trong suốt cả cuộc đời này…
  Chiều ấy để góp chuyện, tôi cũng kể cho Tín nghe về chuyện tình dang dở của tôi. Tất nhiên chuyện có ít nhưng để cho lâm ly tôi suýt ra nhiều. Tín chăm chú nghe tôi kể từng lời từng chữ, làm cho mấy chú lính bên cạnh cũng há hốc mồm nghe. Nhất là chi tiết, hôm anh em mình chia tay với những người ở lại ở ga Hương Canh ấy? Ông còn nhớ không? Tín có vẻ tâm đắc và thán phục lắm. Tín chia sẻ với tôi:
   -Tình yêu của sinh viên nó có cái đẹp riêng của nó, không ồn ào lộ liễu như lính tráng. Nhưng thật sự tôi không hiểu tại sao lúc ấy ông khỏe đến thế? Tầu bắt đầu chuyển bánh, mà ông Khoa đưa tay ra cửa sổ để người yêu đu vào và trao cho nhau nụ hôn trước khi ra trận. Và tôi rất cảm động khi ông nói: Bóng người yêu bé nhỏ của ông chới với chạy theo đoàn tầu như muốn kéo ông lại, nhưng bất lực đứng nhìn khi nó cướp mất ông, mang ông vào màn đêm sâu thẳm…
   -Đó là sức mạnh của tình yêu! Chỉ có yêu mới làm được những chuyện tưởng như không thể.
  Chiều hôm ấy chuyện kể cho nhau nghe nhiều lắm, hết bên địch lại đến bên ta, chuyện kể mãi không dứt đến khi hoàng hôn ập đến lúc nào cũng không biết. Hai bên bịn rịn chia tay nhau khi còn nhiều điều chưa nói hết. Chia tay nhau tôi bước đi loạng choạng, đầu óc tôi nhớ nhớ quên quên, nhưng chỉ có một chi tiết mà tôi không quên, đó là Tín nói với tôi:
   -Hiệp định Paris đã ký kết, đất nước đã vãn hồi hòa bình, nay mai hiệp thương hai miền Nam Bắc. Khi nào có điều kiện ông Khoa vào thăm tôi ở chợ Bàn Cờ. Ông cứ hỏi Tín dân 54 là mọi người đều biết…
(Còn nữa).


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: qtdc trong 31 Tháng Mười, 2014, 09:13:22 pm
Bác quanvietnam viết vẫn rất hay. Đây là câu chuyện kế xảy ra đã 41 năm chứ không phải bài nghiên cứu lịch sử, tuy nhiên theo hiểu biết hạn hẹp của cá nhân em, xin phép lẩy ra cùng bác vài chi tiết:
1/ Chế độ VNCH (từ 1955) không có trường sĩ quan Trần Quốc Tuấn mà chỉ có sĩ quan Đà Lạt hay Thủ Đức hoặc các trường binh chủng của KQ, HQ v.v...
2/ Có một trường huấn luyện quân sự Trần Quốc Tuấn (vẫn gọi là trường sĩ quan Yên Bái) do đảng Đại Việt (thủ lĩnh là Trương Tử Anh) lập ra thời 46-47. Thời đó các đảng phái thường lập ra các trường huấn luyện quân sự cho riêng đảng mình.
3/ Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, do Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập năm 1946, tiền thân của Trường Sĩ quan Lục Quân Việt Nam thì khác. Vĩnh Lộc, nguyên tư lệnh QĐII VNCH, nguyên TTMT cuối cùng của chế độ VNCH từng học trường này. Nhà tình báo chiến lược của QĐND VN Phạm Ngọc Thảo cũng học trường này. Tư lệnh QĐIII QĐND VN thời kỳ 76-79 Nguyễn Kim Tuấn (Nguyễn Công Tiến) cũng học trường này. Vậy tay đại úy TQLC kia không thể học các trường có tên Trần Quốc Tuấn được vì quá trẻ (mới 32-33 tuổi năm 1973). Anh ta chỉ có thể học các trường sĩ quan như đã nói ở lưu ý 1 khi đã thành lập chế độ VNCH ở Miền Nam Việt Nam sau năm 1954 (sĩ quan TQLC VNCH thường được đào tạo bổ túc tại trường Quantico của lực lượng TQLC Mỹ). Tuy nhiên câu chuyện còn tiếp tục và đây chỉ là lời của viên đại úy Tín.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 10 Tháng Mười Một, 2014, 01:55:03 pm

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Số phận
          Một đêm yên tĩnh, thi thoảng mới nghe tiếng pháo sáng nổ lục bục trên bầu trời, mặt đất hầu như lúc nào cũng được soi sáng như ban ngày.
   Sáng hôm sau, đã hơn 8 giờ. Mấy anh em bên mình cứ ngóng xem bên địch có ra chỗ cũ ngồi nói chuyện không? Chờ mãi, chờ mãi vẫn không thấy. Tôi nghĩ: Tín là sĩ quan, có thể là bận hội họp nên ra muộn, nếu có ra được thì cũng phải 9-10 giờ. Hay là có vấn đề gì? Cũng có thể, nhưng xem xét lại thì thấy chẳng có gì đáng phải nghi ngờ. Nhìn sang bên địch, vẫn thấy họ đi lại thản nhiên cười nói giống như không còn chiến tuyến địch ta nữa, nhưng cũng rất lạ là không ai ra chỗ hôm qua.
  Ba em trinh sát C20, đang tranh thủ lau súng và cũng có ý chờ đợi. Một ông có thể là cán bộ phụ trách đơn vị bộ binh ở cụm chốt Tích Tường đi qua hỏi:
   -Các ông C20  không đi đến nhà hòa hợp à?
  Tôi sốt sắng hỏi:
   -Ở đâu ông?
   -Ở cao điểm 29 đằng kia kìa. Chiều hôm qua tôi thấy họ dựng nhà ở đấy, có cả cờ và băng rôn khẩu hiệu nữa.
  Tổ trinh sát ba người của chúng tôi hoạt động độc lập, không phụ thuộc vào đơn vị bộ binh, trinh sát C20 chỉ phối hợp với bộ binh để nắm tình hình địch, nên chúng tôi chỉ quen chứ không thân.
  Sau khi tôi được phân công trực đài quan sát vào buổi chiều, vì hiếu kỳ nên tôi nghĩ ngay thời gian này phải đến nhà hòa hợp xem họ làm gì? Tôi rủ anh bạn cùng đi cho nó vui, từ xa tôi đã thấy có túp lều bàng vải bạt trên đỉnh đồi. Đúng như ông cán bộ đơn vị bộ binh nói, có cả cờ của ta và cờ của địch lại có cả cổng chào, trên cổng chào là tấm băng rôn có viết hai dòng chữ, vì xa quá nên nhìn không rõ.
  Đến nơi, đọc hai dòng chữ trên cổng chào: Nghiêm chỉnh chấp hành hiệp định Paris, ký ngày 23 tháng 1 năm 1973. Trong lều là dãy bàn ở giữa và hai dãy ghế hai bên, tất cả đều mới làm hôm qua bằng tre tươi còn xanh mầu vỏ. Quan khách hai bên đã ngồi kín hai dãy ghế, bên bộ đội ta tôi không nhận ra ai quen, bên lính VNCH tôi nhận ra ngay đại úy Tín, ngồi cuối cùng của dãy ghế. Tôi đoán: Dãy bên địch toàn là sĩ quan tâm lý chiến, còn lại hẳn là những sĩ quan chỉ huy trực tiếp các đơn vị đang chiến đấu tại đây. Phía bên ta cũng vậy, có lẽ là cán bộ tuyên huấn của sư đoàn, trung đoàn, còn lại cũng là chính trị viên của các đơn vị. Tôi cố gắng lắng nghe xem họ nói gì, nhưng vì khoảng cách hơi xa nên nghe không rõ. Đứng một hồi, tôi quay sang nói với anh bạn:
   -Chắc cũng nói chuyện như anh em mình hôm qua thôi, ngoài ra cũng chẳng có gì để mà nói. Chẳng lẽ lại tranh luận với nhau về giai cấp về chính nghĩa và phi nghĩa. Nói những điều ấy đối với địch vào thời điểm này, chắc chắn là họ không nghe, vì thực tế họ luôn cho rằng Miền Bắc xâm lược Miền Nam. Họ đâu biết rằng: Miền Nam, từ trước những năm 1930 người dân Miền Nam đã phải chịu sự kìm kẹp của chế độ thực dân cũ. Hoàng loạt các cuộc khởi nghĩa của các anh hùng dân tộc đã nổ ra để cởi bỏ ách áp bức bóc lột. Tuy cũng dành được thắng lợi ở một số nơi, song vì lực lượng còn yếu và thiếu. Nên đã bị bọn thực dân và bọn tay sai bán nước dìm trong biển máu.
   Năm 1954. Hiệp định Gionevo được ký kết, toàn dân tộc Việt Nam tràn trề hy vọng sau hai năm nữa sẽ tổng tuyển cử, Bắc Nam sẽ thống nhất Nam Bắc lại về trong một nhà. Nhưng các thế lực thù địch lại một lần nữa xé bỏ hiệp định, kiên quyết chia nước ta ra hai miền Nam Bắc. Miền Nam lại ngập chìm trong biển máu do chế độ thực dân kiểu mới cai trị.
  Đồng bào Miền Nam lại anh dũng đứng lên, Miền Bắc lại là hậu phương vững chắc của Miền Nam. Hưởng ứng lời kêu gọi của đồng bào Miền Nam, Miền Bắc đã làm tất cả vì đồng bào Miền Nam ruột thịt, sẵn sàng chi viện sức người sức của. Bằng mọi giá phải giải phóng Miền Nam, thực hiện bằng được độc lập dân tộc và thống nhất đất nước. Hành động ấy, phải chăng là Miền Bắc xâm lăng Miền Nam?
  Từ đầu đến giờ, Hoàng chỉ nghe tôi kể. Đến lúc này, Hoàng đột ngột cắt ngang lời tôi:
   -Ông nói thế họa chăng chỉ có anh em bộ đội mình và lực lượng quần chúng tiến bộ, trực tiếp tham gia cuộc cách mạng giải phóng dân tộc họ mới hiểu. Những thành phần thuộc giai cấp thống trị được hưởng đặc quyền đặc lợi, những người nghe theo tiếng gọi của Chúa di cư vào Nam năm 1954 là không hiểu, cũng có thể họ cố tình không hiểu. Tất nhiên nói như thế cũng hơi chủ quan, có thể trong số những anh em binh sĩ quân lực VNCH cũng có rất nhiều người hiểu cặn kẽ điều ấy, nhưng vì hoàn cảnh nên không được nói ra.
   -Ông nói đúng! Không phải ai cũng thừa nhận điều ấy. Đấy là nguyên nhân chính đẫn đến việc sau này hiệp định bị vi phạm. Chuyện vi phạm hiệp định thì ông đã biết, bây giờ tôi kể nốt cho ông nghe về đại úy Tín.
   …Những ngày sau, tình hình chiến sự nơi giáp ranh giữa ta và địch vẫn chưa có gì thay đổi hàng ngày hai bên vẫn đến nhà hòa hợp dân tộc để gặp nhau. Những ngày ấy tôi tranh thủ về hậu cứ của đơn vị để xin thêm cho anh em trong tổ một ít thực phẩm và lấy thêm tư trang cá nhân, nhân tiện tắm rửa nghỉ ngơi. Chiều, tôi bơi qua sông Thạch Hãn sang chốt của bộ binh K4 bên Tích Tường và men theo bờ sông để về đài quan sát. Tôi vừa xuất hiện ở cửa hầm, anh em trong hầm đã nói vọng ra:
   -Đại úy Tín từ sáng đến giờ mấy lần tìm gặp anh nhưng anh chưa lên, nó hẹn khi nào anh lên thì ra chỗ hôm nọ có chuyện quan trọng lắm nó cần nói với anh.
  Tôi băn khoăn, không biết là chuyện gì? Lành hay giữ? Thú thực là tôi cũng hơi ngại, bởi vì lý lịch gia đình tôi có vấn đề. Cho dù là lành hay giữ nhưng kiểu thậm thụt này rất bất lợi cho tôi, tình ngay lý gian, nhất là trong hoàn cảnh này có những kẻ không ưa tôi sẽ tìm cách hại tôi. Nhưng trước tình hình này, tôi không thể kìm chế được, tôi rủ anh bạn nữa ra ngay chỗ hôm nọ đứng chờ. Ít phút sau, Tín và một thằng lính nữa đi ra chỗ chúng tôi đứng.
   Giữa thanh thiên bạch nhật, mà lại có tới 4 người nên tôi cũng yên tâm, hành động của tôi không có gì là dấu diếm cả. Chào hỏi mấy câu xã giao xong, Tín nhìn ông bạn cùng đi với tôi và nói:
   -Tôi không có thì giờ, tôi muốn nói chuyện riêng với ông Khoa.
  Tôi nhìn Tín và nhìn anh bạn cùng đi để dò xét thái độ, đột ngột quá tôi chưa biết xử lý thế nào, nên gặng hỏi:
   -Chuyện gì mà quan trọng vậy? Đứng kia có được không?
  Tín đưa mắt nhìn theo tay tôi chỉ, như là ước lượng khoảng cách rồi miễn cưỡng gật đầu. Tôi bước đi, Tín theo sau. Độ chừng 10 bước tôi dừng lại, Tín tiến sát đến tôi và nói ngay:
   -Đêm nay, thượng cấp của tôi nó bắt chúng tôi phải tấn công các ông.
  Nghe đến đấy, một luồng ám khí chạy dọc theo sống lưng tôi, cảm tưởng như tóc gáy tôi bị dựng đứng. Tôi ớn lạnh, nghĩ đến cảnh đầu rơi máu chảy, lại có người phải từ giã cõi đời này, lại thêm những bà mẹ đỏ mắt chờ con. Nhưng có lẽ đáng sợ hơn cả là sự trở mặt đến lạnh lùng của bọn chỉ huy quân lực VNCH, mới đấy binh sĩ của hai bên còn cười đùa nói chuyện tâm tình, chuyện nhà cửa chuyện gia đình bố mẹ vợ con. Thế mà? Nỡ lòng nào chúng lại ra lệnh nổ súng tấn công, khi mà những nụ cười còn chưa kịp tắt trên môi. Chúng có còn là con người nữa không? Tôi chưa biết phản ứng thế nào, đành hỏi Tín một câu biết là thừa nhưng vẫn hỏi:
   -Nhưng tại sao lại tấn công chúng tôi?
   -Xin ông Khoa đừng hỏi?Tôi chỉ biết tuân lệnh.
   -Vậy theo đại úy Tín chúng tôi phải làm thế nào? Các ông tấn công chúng tôi, vô hình chung là các ông xé bỏ hiệp định.
   -Tôi biết! Nhưng xin ông Khoa, bây giờ không phải là lúc nói về hiệp định. Tôi bất chấp nguy hiểm về việc tôi làm, tôi cung cấp cho ông tin này là vì ông và bạn bè của ông, những người mà tôi mới quen, nhưng có lẽ cả cuộc đời này tôi không thể nào quên được, thôi tôi về đây.
   -Ấy ấy! Đại úy Tín chờ tôi chút đã.
  Tôi biết, phải như thế nào thì Tín mới tiết lộ thông tin này cho anh em chúng tôi. Những ngày sống trong bầu khí hòa bình hòa hợp dân tộc làm cho binh sĩ của hai bên hiểu nhau hơn thương nhau hơn và thông cảm với nhau về hoàn cảnh và điều kiện sống của nhau. Điều ấy cũng dễ hiểu bởi vì họ đều là con người, biết yêu thương biết căm giận, tất cả đều chán ghét chiến tranh. Những ngày qua, tuy ngắn ngủi, song hầu hết binh sĩ VNCH ở đây, sau khi tiếp xúc với anh em chúng tôi, họ tỏ ra trân trọng tình cảm của quân giải phóng… Lợi dụng sự quen biết, tôi hỏi Tín:
   -Theo ông chúng tôi phải làm gì?
   -Tôi nghĩ: Sau khi pháo lớn bắn dọn đường, chúng tôi sẽ phải tấn công. Thay vì xông lên thì chúng tôi chỉ nằm tại chỗ nổ súng. Để không bị nghi ngờ, lúc đó các ông cũng phải nổ súng. Chỉ có điều là cả hai bên không nhắm vào mục tiêu nào cả.
  Nghe Tín nói có lý, tôi bảo với Tín:
   -Nghe cách làm của ông tôi cho là được, nhưng ông có khẳng định binh lính ông có làm như vậy không?
   -Tôi cũng không chắc lắm, song tôi nghĩ họ sẽ làm như vậy. Bởi vì chẳng ai dại gì lại xung phong lên dưới làn đạn của các ông.
   -Thôi được rồi! Xin cám ơn ông đã cho biết thông tin này, thôi ông về đi kẻo bị nghi ngờ. Hẹn có ngày gặp lại. Chào!
   Đài quan sát của trinh sát C20, báo cáo về sở chỉ huy trung đoàn tình hình tin tức vừa thu lượm được và xin ý kiến chỉ đạo. Các đơn vị bộ binh lập tức nhận được chỉ thị củng cố hầm hào vững chắc để tránh pháo. Trinh sát C20, trinh sát tiểu đoàn K4 bám sát tình hình địch, nhanh chóng phát hiện những diễn biến bất thường, để kịp thời đối phó khi tình huống xấu.
   Tối hôm ấy, khoảng hơn 8 giờ tối. Diễn biến sự việc đúng như đại úy Tín nói.  Pháo lớn của địch bắn cấp tập  khoảng 15-20 phút, sau là súng bộ binh nổ rộ, đạn dẫn đường bay đỏ rực cả bầu trời đêm, cộng với những tiếng nổ chát chúa của các loại vũ khí cả của địch lẫn của ta. Không biết ở những mặt trận khác thì như thế nào? Ở mặt trận phía Tây thành cổ Quảng Trị thì hiệp định Paris chính thức bị quân lực VNCH vi phạm từ đấy.
   Những ngày sau đó, thực sự là những ngày kinh hoàng. Đơn vị do đại úy Tín chỉ huy do bị Việt cộng cảm hóa đã bị điều đi nơi khác, thay vào đó là một đơn vị khác. Bọn này hung hăng hơn, hiếu chiến hơn. Mở đầu là trận cướp cờ. Bản chất giống như hồi còn trẻ chúng mình chơi cướp cờ, nhưng hình thức thì khác nhau. Chơi cướp cờ của trẻ con là hai bên dàn quân đứng xung quanh bảo vệ cờ, bên nào sờ vào cờ là bị chặn lại coi như thua cuộc. Bây giờ cũng thế, nhưng dùng vũ khí để trấn áp bên kia rồi xông lên cướp cờ.
   Những lá cờ MTDTGP Miền Nam đầu tiên bị bọn địch bất ngờ cướp mất, bên ta còn đang ngỡ ngàng vì sợ vi phạm hiệp định nên còn lúng túng chưa biết xử lý thế nào. Sau khi có lệnh của trung đoàn trưởng tuyên bố: Cờ là Tổ quốc, kẻ nào cướp cờ là kẻ đó cướp nước. Vì vậy bằng mọi cách bảo vệ cờ, thẳng tay trừng trị kẻ cướp cờ…
  Cuộc chiến đấu cướp cờ và bảo vệ cờ giữa địch và ta, diễn ra như trong phim tại những thửa ruộng bỏ hoang vì chiến tranh của Thôn Tích Tường Như Lệ, lúc ấy vào khoảng hơn 4 giờ chiều.
(Còn nữa).


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 15 Tháng Mười Một, 2014, 08:03:41 am

               Chào bác chủ quanvietnam! Tranphu341 mấy bữa nay bận quá. Hôm qua mới đọc phần viết tiếp của bác chủ.

                Câu chuyện của bác chủ kể về thời kỳ "Hiệp định" thật hay thật giá trị. Chúng ta và bây giờ sách sử ít nói đến thời kỳ đó. Vì chiến thắng 30/4/75. Kết thúc bằng chiến dịch HCM nó lớn quá nên nó đã bao trùm, đã khỏa lấp đi nhiều những sự kiên nhỏ khác.

                Chuyện về viên Đại úy Tín thật hay. Tranphu341 cũng tò mò không hiểu sau này Đại úy Tín của Quân lực VNCH có di tản không, có vượt biên không/ Hay có đi cải tạo không và cuộc sống gia đình ra sao v v..

                 Chúc bác chủ cùng đại gia đình luôn vui khỏe và bác tiếp tục những dòng tơ quý cho đời cho anh em VMH! kÍNH BÁC.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 21 Tháng Mười Một, 2014, 09:05:51 am

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
 6- Số Phận.
      Hơn 4 giờ chiều, hoàng hôn đã lấp ló sau dãy núi động Ông Do. Những thửa ruộng hoang của thôn Tích Tường - Như Lệ, phần nắng phần dâm loang lổ, là do dãy núi động Ông Do che mất một phần ánh sáng  của ông mặt trời đang từ từ lặn xuống.
   Trên cánh đồng hoang, từng tốp lính quần áo rằn ri men theo bờ ruộng tiến về phía những lá cờ của chúng ta. Đợi chúng tiến sát cờ và nhổm lên là quân ta nổ súng. Trên đài quan sát, tôi nhìn thấy đạn của chúng ta cầy tung mặt đất. Súng AK điểm hỏa dòn tan điệu nghệ, thi thoảng lại có một loạt đại liên xen vào, chỗ nào địch lên đông mà co cụm là bị xơi ngay một phát B40 hoặc B41. Những nhóm địch ở xa xa, chắc là chuẩn bị tiếp viện cho nhóm đi trước cũng bị quân ta cho xơi cối 60.
  Các loại hỏa lực bộ binh của ta phối hợp với nhau nhịp nhàng, nhàn tênh. Tiếng nổ đập vào vách núi vọng lại rồi lan truyền vào không gian, giống như núi rừng đang nhại lại sự tàn ác của chiến tranh. Không biết bọn địch có động cơ gì? Hay đã ăn phải gan con gì mà chúng lại liều lĩnh đến vậy? Chúng thừa hiểu là quân ta có công sự để chiến đấu bảo vệ cờ, còn bọn chúng thì vận động trên cánh đồng hoang để cướp cờ. Thế trận này, chúng sẽ nướng bao nhiêu quân để có thể nhổ được cả một rừng cờ của quân giải phóng?
 Tình huống và thế trận hoàn toàn bất lợi đối với địch, ấy thế mà chúng vẫn nối tiếp nhau xông lên để nhổ cờ, thằng nọ ngã thằng kia tiến lên xác chồng lên xác. Nhưng làm sao có thể lên được, chỉ có những kẻ điên rồ mới dám xông lên, có thể chúng đã treo thưởng rất hậu hĩnh cho tên lính nào nhổ được cờ, nên bọn lính mới liều như vậy. Có những thằng chỉ kịp với lấy cờ đã đổ gục, có kẻ may mắn hơn đã túm được cờ quay đầu chạy thì cũng không chạy thêm bước nào nữa.
  Sau nhiều lần đâm đầu vào đá bọn địch mới ngộ ra, là không thể được. Chúng áp dụng chiến thuật như đã dùng để tái chiếm thành cổ Quảng Trị, chúng thu quân về và gọi pháo chi viện.
  Một trận mưa đạn pháo, cả trận địa của ta tan nát, rừng cờ của MTDTGP miền Nam trên cánh đồng hoang cũng bị chúng hủy diệt không còn sót một lá cờ nào. Mọi thành quả cắm cờ giữ đất đêm ngày 27 tháng 1 năm 1973 của ta coi như bằng không, gianh giới địch ta lại trở về như lúc chưa ký hiệp định.
  Trận pháo kích của địch, ta bị thiệt hại tương đối nhiều. Nguyên nhân sâu xa là: Những ngày chuyện trò hòa hợp dân tộc, cả bên ta lẫn bên địch đều vô tình tiết lộ những ưu và nhược điểm của từng loại vũ khí. Bên ta thì chê súng bộ binh AR15 của địch là chỉ dùng để bắn cá, bắn chim. M79 chỉ được cái nổ to, nhưng sát thương thấp, loại ấy chỉ dọa là chính v.v. Ngoài bom ra, bộ đội ta sợ các loại pháo mặt đất và pháo bắn thẳng của tăng hay thiết giáp. Trong tất cả các loại pháo thì ngại nhất là pháo khoan xuyên hầm, không sợ pháo nổ v.v. Những câu chuyện tưởng như vô bổ ấy, đã làm cho bên ta thiệt hại lớn trong trận pháo kích này.
  Trận pháo kích ấy, bọn địch thực hiện như sách dạy,  ban đầu chúng bắn hàng loạt pháo nổ để gây sát thương mặt đất, đến khi bộ đội chui hết vào hầm trú ẩn thì chúng mới bắt đầu bắn hàng loạt pháo khoan xuyên hầm. Bộ đội ta bị sập hầm thương vong nên lại phải chui lên, chúng lại tiếp tục bắn hàng loạt pháo nổ. Bọn chúng cứ thực hiện những điệp khúc ấy rất thành thục.
   Có một chuyện biết nhưng không thể làm khác được, vì lúc đó đã hòa hợp dân tộc nên cũng mất cảnh giác, ai còn nghĩ dấu diếm làm gì, mà có muốn dấu cũng không được. Đó là hệ thống hầm hào công sự của ta đều bị bọn trinh sát pháo binh của chúng chấm tọa độ tương đối chính xác, nên trận pháo kích này chúng bắn rất trúng mục tiêu.
   Trận ấy tôi bị sức ép của đạn pháo. Địch bắn từ lúc trời còn choạng vạng, vẫn còn nhìn thấy lờ mờ những tên địch quần áo rằn ri, bò men theo bờ ruộng tiến đến chỗ cắm cờ của quân ta. Pháo địch bắn rát quá, bọn địch phải rút về vì sợ pháo bắn lạc, quân ta cũng rút vào hầm trú ẩn.
  Bóng tối đã bao phủ trên cánh đồng hoang, lúc này ở trong hầm và ngoài trời đã tối, chỉ còn nghe thấy tiếng rít ghê rợn của đạn pháo kèm theo là tiếng nổ lọng óc. Một vài loạt đầu còn nghe thấy tiếng nổ, sau chỉ thấy những ánh chớp lóe lên và căn hầm rung lên bần bật, đất xung quanh hầm rơi ào ào, chui hết vào đầu vào cổ.
  Ba anh em C20 trong hầm, không ai nhìn thấy ai, tôi đoán ba thằng phải ngồi bó gối dọc theo hầm, vì chỉ ngồi như vậy mới ngẩng được đầu, nếu ngồi trệch nóc hầm thì phải nghẹo cổ mới ngồi được. Tôi ngồi ngoài cùng sát cửa hầm, đất cát và khói thuốc pháo tràn vào làm tôi nghẹt thở. Tôi cố vươn ra để thở, thì nghe thấy tiếng rên rỉ đứt đoạn của ai đó: Anh ơi! Cứu em với. Tôi nghe được hai lần, thì loạt đạn pháo tiếp theo làm tôi không còn nghe thấy tiếng kêu ấy nữa.
  Dứt loạt đoạn pháo của địch, tôi lại nghe thấy tiếng kêu ấy. Tôi hướng vào trong hầm nói bâng quơ: Chắc có lính bộ binh K4 bị thương ở ngoài. Chờ một lát, không thấy ai nói gì, tôi cố nhoài người ra để quan sát. Nhưng vì trời tối quá nên cũng không phát hiện tiếng kêu ấy ở đâu, tôi nán lại cố chờ nghe xem tiếng kêu ấy phát ra từ đâu. Nghe lại lần nữa, tôi đoán tiếng kêu ấy ở phía trước và rất gần chỗ tôi. Lúc này pháo địch đã chuyển làn, tôi chui ra khỏi hầm và bò dọc theo giao thông hào tiếp cận đến chỗ có tiếng kêu.
  Người chiến sĩ bộ binh ấy, biết có người đến cứu hẳn là mừng lắm. Anh nói như cầu khẩn: Anh ơi cứu em với! Em chết mất anh ơi. Tôi không nhìn thấy gì, mà chỉ nghe tiếng thều thào thì biết đấy là đầu, còn chân ở phía nào hay bị thương ở đâu thì hoàn toàn không biết. Khi ấy tôi không biết nói gì mà chỉ lẩm bẩm động viên: Bình tĩnh để tôi xem đã! Sau khi định hình vị trí cơ thể anh chiến sĩ, tôi xốc nách anh ta. Anh kêu: Ối! ối đau quá… Nặng quá, tôi không thể nâng anh ấy lên được. Vì từ ngực trở xuống đã bị đất cát vùi lấp, tôi lấy tay gạt gạt cho nhẹ bớt thì thấy đất ở xung quanh bị ướt sũng, tôi đoán đấy là máu của anh chiến sĩ.
  Còn đang loay hoay tìm cách đưa anh chiến sĩ lên khỏi đống đất, thì pháo địch lại bắn cấp tập. Đột nhiên tôi không biết gì nữa. Sau đó tôi mơ màng như nằm trên chiếc võng đung đưa, rồi chìm sâu vào giấc ngủ. Tỉnh dậy, tôi thấy mình đang nằm  trên tấm tăng được trải ra trên bãi cát. Tôi cố định hình lại, lắng nghe những tiếng nói và những bước chân vội vã của đơn vị vận tải. À! Thì ra đây là bãi tập kết thương binh để chuyển qua sông, vậy tôi là thương binh nên mới đưa vào đây.
  Tôi hoảng hốt, kiểm tra khắp người xem bị thương ở đâu nhưng không phát hiện ra. Tôi chỉ thấy đầu tôi đau như búa bổ, hai tai ù đặc không còn nghe thấy gì. Tôi tưởng tượng đầu tôi như có vật gì đập vào rất mạnh làm cho óc tôi bị tách ra đau buốt, mọi cử động của tôi dù rất nhẹ nhưng cũng làm đầu tôi đau nhói. Toàn thân tôi giống như bị ai dần từ đầu đến chân.  Tôi cố gắng nhổm dậy ngồi một lát, chẳng hiểu đầu tôi nghĩ thế nào? Còn chân tôi cứ bước từng bước theo lối mòn quen thuộc,  tôi lần về đơn vị ở dưới bờ sông ngay đêm ấy.
  Hoàng cắt lời tôi:
   -À! Tôi nhớ ra rồi. Hôm ấy tôi đang ở cứ, sáng nghe anh em nói ông bị thương, nhưng vì xa quá lại không được phép đến thăm ông nên chỉ hỏi thăm tin tức về ông thôi. Lần ấy, ông có một câu nói rất nổi tiếng: “Nếu chấp với kẻ ngu, thì mình còn ngu hơn họ.” Tôi lờ mờ đoán câu nói ấy ông ám chỉ cái gì, nhưng trận mạc liên miên tôi cũng quên luôn. Tiện đây tôi hỏi lại ông xem có đúng như tôi suy nghĩ không?
   -Ông cũng quan tâm đến chuyện ấy à? Đúng là một kỷ niệm buồn mỗi khi nhắc đến nó, mồm miệng con người còn độc địa hơn bất cứ một loài muông thú nào, chả thế mà các cụ nói: Một lời nói, một đọi máu…Chuyện là thế này: Sau trận pháo kích ấy tôi được về hậu cứ của  đơn vị nghỉ ngơi. Tai tôi vẫn còn ù đặc, trong tai như có hàng ngàn hàng vạn con ve thi nhau kêu, đầu nhức như búa bổ, gió khẽ lay cọng tóc cũng đủ làm đầu tôi như muốn nổ tung ra, mọi cử động của chân tay mình mà mình không điều khiển được chính xác theo mong muốn của mình. Tôi lần sờ bước đi từng bước run rẩy yếu ớt.
  Tôi buồn, ngồi nhìn mồm anh em nói chuyện mà chẳng hiểu gì, thi thoảng mọi người nhìn tôi rồi cười với nhau. Nhìn nụ cười của họ, họ ở đây là ông chính trị viên đại đội và một số ông sinh viên năm thứ nhất thứ hai của trường Mỏ hay Ngoại Thương gì đó, bọn ấy có vẻ không ưa anh em mình. Tôi đoán họ đang trêu tôi, có vẻ không thiện chí lắm. Về võng nằm, tôi viết ra giấy hỏi thằng em cùng tiểu đội: Họ nói gì về anh đấy? Nó viết lại cho tôi: Họ nói xấu anh đấy: Họ bảo anh bị sức ép AK và nhiều thứ khác nữa…
  Sự uất hận trào lên nghẹn cổ, tôi dồn tất cả sức lực lần ra chỗ họ đang ngồi. Quá nóng giận nên chẳng thèm suy nghĩ gì tôi nói luôn, chẳng biết họ có nghe được không, bởi vì mấy ngày nay tôi cũng không nghe được tiếng tôi nói, nhưng mặc kệ. Tôi vơ đũa cả nắm: Các anh ở hậu cứ, làm sao biết tiền phương ác liệt thế nào? Các anh nghĩ gì và nói gì là việc của các anh, chỉ xin các anh hiểu cho: Nếu tôi chấp với kẻ ngu thì tôi còn ngu hơn họ…
  Sau lần ấy, còn nhiều chuyện phức tạp nữa, nhưng tôi cứ lờ đi coi như không biết. Song trong lòng vẫn cay cú, chỉ mong ông trời có mắt…
   -Nghe đâu, trung đội 4 thời ấy rất quý ông nên luôn luôn cử ông đi công tác. Hết luồn sâu, nằm hầm bí mật điều tra địch tình, phục bắt tù binh, phối thuộc với trinh sát các tiểu đoàn để chuẩn bị trận đánh v.v. Mấy anh em tôi thấy thế lặng lẽ bảo nhau: Ông này đang bị hành tội sống đây…
   -Những việc ông nói là có, nhưng không biết có phải là họ yêu quý mình không? Hay là họ hành tội mình vì câu nói ấy? Cũng có thể là anh em đồng đội tin tưởng mình thật, qua theo dõi tôi thấy: Mấy anh em mình thuộc loại lớn tuổi nhất nhì ở đơn vị, hơn nữa lại được học hành và sống giản dị hòa mình với mọi người. Vì thế, mọi việc quan trọng của đơn vị thường được các cấp chỉ huy và anh em hay hỏi ý kiến. Có những lúc ý kiến của anh em mình còn nhiều sức thuyết phục hơn cả mệnh lệnh của chỉ huy. Thấy mọi người tin tưởng, thành ra mình cũng không nỡ từ chối mà luôn sẵn sàng nhận nhiệm vụ, may mà trời có mắt.
   - Thế là tốt rồi! Còn sống đến ngày hôm nay là quá may mắn. Vậy! Đợt đi xử lý đập dâng nước Đơn Dương của thủy điện Đa Nhim. Ông có tìm gặp đại úy Tín không?
   -Đến làm sao được. Tất cả chỉ có 7 ngày, vừa đi vừa về lại còn đi thực địa 2 ngày, những ngày còn lại chủ yếu là sao chép tài liệu. Mình là chân điếu đóm phục vụ nên lúc nào cũng bận túi bụi. Chỉ được những ngày đi thực địa là còn nhàn một tý. Ông Hoàng ơi! Thật là tuyệt vời, sau khi rời Sài Gòn đi theo Quốc Lộ số 1, rẽ vào Quốc  Lộ 20. Tôi được sống lại với những kỷ niệm của hơn năm năm về trước, Tôi quên hẳn chuyện đi tìm đại úy Tín.
  Ngồi trên xe, nhìn ra ngoài phố dọc theo đường đi. Tôi đọc được những biển hiệu ghi những địa danh lạ thì rất lạ nhưng quen cũng rất quen mà lòng xốn xang. Xúc động quá, người tôi lạnh toát, khắp người nổi gai ốc. Những kỷ niệm cũ ùa về, tôi đắm chìm vào dĩ vãng, nhớ nhớ quên quên với từng kỷ niệm, thì xe lại trờ tới những địa danh khác, gai ốc lại nổi lên, người lạnh toát như muốn run lên. Cứ như thế lập đi lập lại, giống như những cơn sốt rét rừng ngày nào.
 (Còn nữa).
 


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 01 Tháng Mười Hai, 2014, 10:53:52 am

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Số phận
     Ngày ấy, đoàn các ông theo đại đội phó đi về hướng Tây Trị Thiên. Mọi người ở C20 cứ tưởng trung đoàn 95 sư 325 sẽ chuẩn bị mặt trận ở hướng đó. Khi chia tay nhau, ai cũng nghĩ các ông đi trước chuẩn bị, còn chúng tôi sẽ đi vào sau, thế nào cũng gặp nhau ở đó, nào ngờ chúng mình xa nhau từ đấy.
  Các ông đi rồi, khoảng nửa cuối tháng 1 năm 1975 đơn vị bắt đầu rục rịch chuẩn bị hành quân đi chiến đấu. Dạo ấy đã gần đến Tết Ât Mão, nên đơn vị tổ chức cho anh em ăn Tết trước, bắt chước cuộc hành quân của hoàng đế Quang Trung mùa xuân năm Kỷ Dậu. Mọi người cứ dò hỏi nhau xem đi đâu? Chẳng ai biết là đi đâu, lúc đầu cứ tưởng là mấy ông cán bộ giấu vì bí mật quân sự. Đêm hôm hành quân lên Cam Lộ, gặp mấy ông bạn ở khoa Xây Dựng và khoa Máy Xây Dựng. Hỏi chúng nó: Trung đoàn mình đi đâu? Bọn nó bảo: Đến trung đoàn trưởng còn không biết thì lính tráng làm sao biết được, cứ biết đi là đi thôi.
  Lần ấy, trung đoàn hành quân bằng xe ô tô, xe chở bọn mình tút lút sang Lào, chúng mình coi như mất phương hướng, chẳng biết đi đâu. Bộ phận chỉ huy hành quân, họ bảo đi là đi, họ bảo nghỉ là nghỉ. Hành quân trên đất bạn Lào vào mùa khô đúng là nhớ đời. Mùa khô bên Lào thật khủng khiếp, đi cả ngày không gặp được một khe suối nào có nước, khô như rang. Năm ấy, bọn mình đón giao thừa ở binh trạm nào đó trên đất bạn Lào.
  Mình nhớ đi qua rừng Khộp cổ thụ, lá Khộp rụng đầy lối đi. Xe đi theo lối mòn lấp đầy bụi, bụi nhỏ mịn như bột dầy đến 50- 60 phân. Xe đi vào bụi giống như là lội vào nước, chỉ khác lội nước ở chỗ là: Xe đi đến đâu tạo ra một con rồng bụi mầu vàng uốn éo trong rừng khộp, kéo dài mãi không đứt. Tất cả anh em trên xe đều bịt kín mặt mũi chân tay, bụi phủ dầy đến nỗi không còn nhận ra nhau nữa.
  Chặng đường đi bên đất bạn Lào được cái là an toàn nhưng quá vất vả, khổ nhất là không có nước để uống, nhiều hôm phải nhịn đến đắng cả mồm, có người bị ngất sửu vì thiếu nước. Đến khi quay về Việt Nam thì bị ngay không lực VNCH tấn công vào đội hình hành quân, trận ấy may mà đơn vị mình không có ai bị thương vong. Thời gian ấy, hành quân lặng lẽ bí mật lắm, không sôi động như hồi mình hành quân từ Bắc vào Nam đâu.
  Đến đầu tháng 3 năm 1975, Trung đoàn đến vùng Yasup thuộc tỉnh ĐakLak. Khi ấy trung đoàn 95 sư 325, mới nhận được lệnh phối thuộc với sư 316 và trung đoàn đặc công 198 và một số đơn vị khác nữa đánh Buôn Ma Thuột. Trận này chuẩn bị thì lâu, nhưng đánh lại rất nhanh, chỉ mất độ 14-15 tiếng đồng hồ, bắt đầu từ 0 hay 1 giờ đêm ngày mùng 9 rạng ngày mùng 10 tháng 3 năm 1975, đến quá chiều là cơ bản đã  giải phóng xong thị xã Buôn Ma Thuột.
 Thị xã Buôn Ma Thuột thủ phủ của Tây Nguyên, bị tấn công bất ngờ nên bọn địch tan rã đội hình rất nhanh, sức chống cự yếu ớt. Mãi đến khoảng 11- 12 giờ trưa, bọn địch mới tổ chức phản công  hòng cứu vãn tình hình, song vô vọng. Giải phóng xong Buôn Ma Thuột, hai ba ngày sau trung đoàn 95 sư 325 tràn xuống Cheo Reo-Phú Bổn, sau đó lại hành quân thần tốc về hợp với các cánh quân khác để chọc thủng vành đai tử thủ Xuân Lộc của quân lực VNCH.
  Đúng nghĩa là tử thủ thật, bọn địch cố sống cố chết để bảo vệ cho được vành đai này. Bởi lẽ, bảo vệ được Xuân Lộc đồng nghĩa với việc bảo vệ được Sài Gòn, bảo vệ được Sài Gòn là bảo vệ được sào huyệt cuối cùng của chế độ VNCH. Với ý nghĩa vô cùng quan trọng như vậy, nên quân giải phóng Miền Nam càng siết chặt vòng vây bao nhiêu thì quân lực VNCH càng chống trả điên cuồng bấy nhiêu, cuộc chiến đấu ở vành đai Xuân Lộc ngày càng trở nên khốc liệt. Thế mới hiểu thế nào là một mất một còn.
  Những ngày ấy, chiến sự diễn ra liên miên trên đường truy kích địch. Tôi nhớ nhất hai địa danh, mà trung đoàn mình chiến đấu dằng dai ở đấy, nó nằm trên đường Quốc lộ 20. Đó là đồi Thiếu tá hay còn gọi là đồi Móng ngựa và ấp Nguyễn Thái Học. Đồi Thiếu tá là quả đồi có tầm cỡ chiến lược án ngữ cả một vùng rộng lớn của khu vực đường Quốc lộ số 20. Đồi này do một tên thiếu tá ngụy chỉ huy. Chiến sự xảy ra, tên thiếu tá này vỗ về dân chúng: Bà con cứ an tâm, bọn Cộng sản nếu vào được đến đây, chỉ khi nào quả đồi này biến thành vôi.
  Quả đồi này được cấu tạo bởi các viên đá xếp chồng lên nhau, nói là viên đá thì có vẻ là nhỏ, thật ra có những viên rất to có khi phải bằng cả  tòa nhà. Trận chiến đấu ở đây trung đoàn mình tổn thất tương đối lớn, nguyên nhân chủ yếu là do hành quân thần tốc, đánh nhanh thắng nhanh, quân mình chưa thông thạo địa hình quả đồi đá chồng này.
  Gặp phải đồi Thiếu tá địa hình hiểm trở, cộng với bọn địch có hỏa lực rất mạnh, độc chiêu hơn nữa là chúng dùng súng phun lửa. Chiến đấu ở đồi Thiếu tá mà dùng những vũ khí bình thường thì không phát huy hiệu quả sát thương vì đạn bay chạm vào những viên đá là thia lia lên trời. Nhưng nếu là súng phun lửa thì lửa chui vào từng ngóc ngách, chỉ hơi nóng của nó cũng đủ thiêu rụi cỏ cây, hiệu quả sát thương rất cao. Anh em nhà mình hầu hết là bị bỏng, còn những anh em đã hy sinh thì cháy đen cong queo, nhìn thương lắm. Cuối cùng thì đồi Thiếu tá cũng bị lính của trung đoàn 95 sư 325 tiêu diệt, còn sót thằng nào chui lủi trong các hang đá cũng phải ra đầu hàng.
  Sau đồi Thiếu tá là trận chiến đấu ở  ấp Nguyễn Thái Học gần ngã ba Dầu Dây. Ngã ba này là điểm giao nhau giữa Quốc lộ số 1 và Quốc lộ số 20. Quân lực VNCH cố nối thông Biên Hòa với Xuân Lộc để hỗ trợ cho nhau. Quân lực VNCH cũng ý thức được tầm quan trọng của ngã ba này, nếu để quân giải phóng chiếm được ngã ba có nghĩa là đã cắt đứt mọi nguồn viện trợ từ Biên Hòa ra Xuân Lộc, lúc đó Xuân Lộc coi như mất. Đã mất Xuân Lộc thì Biên Hòa bị hở sườn, đồng nghĩa với việc cửa ngõ phía Tây Bắc Sài Gòn đã mở toang, vì vậy bằng mọi giá quân lực VNCH phải giữ cho được.
  Trận huyết chiến chiến lược cam go giữa hai bên, xảy ra ở gần khu vực ngã ba Dầu Dây có thể nói là vô cùng ác liệt. Quân lực VNCH tập trung toàn bộ hỏa lực rất mạnh đánh vào khu vực này, ngoài pháo binh ra chúng điều cả lữ đoàn thiết giáp đến yểm trợ cho bộ binh cố chiếm lại đoạn đường chiến lược này trong tay quân giải phóng. Song bọn chúng đã thất bại trước ý chí quyết tâm và lòng quả cảm của các chiến sĩ chúng ta.
  Trận này lại là thử thách nữa đối với trung đoàn 95 sư 325. Ngày còn giữ thành cổ Quảng trị, sau ra trấn giữ dải đất ven bờ nam sông Thạch Hãn từ Nham Biều lên Đá Đứng. Quân của trung đoàn 95 sư 325 chỉ quen chiến đấu có công sự bảo vệ, hay chí ít cũng có những vật che đỡ. Đến khi đánh Buôn Ma Thuột rồi truy kích địch vào đến đây thì cách đánh hoàn toàn khác, đánh theo kiểu đánh vận động tấn công nên không có công sự bảo vệ.
  Cũng đúng thôi, trên đường hành quân truy kích địch cứ gặp địch là đánh, làm gì có thời gian để chuẩn bị công sự. Những nơi bọn địch yếu thế, khi gặp lực lượng của ta là chúng bỏ chạy ngay, còn những nơi bọn địch cố thủ là anh em nhà mình lại gặp khó khăn. Trận này cũng vậy, lúc đầu bọn địch chạy ào ào, quân ta cứ thế tấn công. Đến khi chúng phản kích lại, quân ta hầm hào chưa kịp đào nên phải rút về cố thủ ở lòng con suối cạn.
   Cũng may, chẳng hiểu sao giữa một vùng đồi toàn là mít, chuối và đu đủ, thi thoảng cũng có cả vạt rừng toàn chôm chôm và đào lộn hột, lại có một con suối cạn chạy vắt qua. Anh em nhà mình lợi dụng con suối ấy để làm hầm trú ẩn. Thời gian chẳng có nên chỉ đào hầm đại khái rồi chặt chuối phủ lên. Mỗi trận pháo kích, nằm trong hầm mà lo ngay ngáy, trong đầu luôn niệm thần chú: Trúng này! Trúng này… Hầm trú ẩn kiểu ấy không thể bình tĩnh như ngày còn ở Quảng Trị đâu, ngày ấy mình toàn nằm hầm bằng tôn vòm của Mỹ và hầm chữ A của du kích Quảng Trị đào sẵn, nên rất yên tâm.
  Lúc hai bên đánh nhau, khủng khiếp nhất là pháo tăng nó bắn thẳng, vì cự ly gần nên đường đạn đi rất căng. Có những gốc mít to đến cả người ôm cũng bị nó xé tơ ra như chẻ tăm, gỗ mít chỗ đen khói súng chỗ vàng ươm. Những bụi chuối rất to cũng bị đạn pháo làm cho gãy rạp. Mặt đất trống trơn, anh em mình lợi dụng những gốc mít còn sót lại làm bia đỡ đạn. Bọn thiết giáp của địch đứng từ xa, cứ thẽ thọt ngắm vào từng gốc mít để tiêu hao sinh lực của ta.
  Trận chiến cứ căng như dây đàn, tình hình vô cùng khẩn trương. Quân ta bị thương vong tương đối nhiều, tiểu đoàn trưởng bộ binh K5 qua máy bộ đàm của C20 báo cáo về trung đoàn xin chi viện. Qua tổ hợp bọn tôi nghe được tiếng của trung đoàn trưởng như thét lên: Bằng mọi cách phải giữ bằng được, còn một người cũng phải giữ. Hãy động viên tất cả lực lượng từ cán bộ chỉ huy đến y tá, anh nuôi ra để giữ. Hiện nay trung đoàn đang bị kéo mỏng ra toàn tuyến nên không còn lực lượng dự bị, không thể chi viện được.
  Bọn địch sau mỗi lần phản công không có kết quả, chúng lại co cụm để tổ chức phản công đợt khác. Tranh thủ những lúc như vậy quân ta cũng có thời gian để củng cố thêm công sự hầm hào. Mọi lần ước chừng 30  phút đến 1 tiếng thì địch mở đợt đợt tấn công khác, nhưng lần này đã hơn một tiếng đồng hồ mà phía bên địch vẫn im lặng. Khi ấy trời đã tang tảng sáng, trinh sát C20 và trinh sát tiểu đoàn được điều đi để nắm tình hình.Thì ra bọn địch đã rút khỏi trận địa từ lúc nào không biết, anh em đoán già đoán non: Chắc là Xuân Lộc sắp thất thủ nên bọn chúng phải co cụm lại để chống đỡ.
  Đúng như vậy, bọn địch đã tập trung mọi lực lượng về để cố thủ Xuân Lộc. Cuộc chiến ở Xuân Lộc, ngoài vũ khí khí tài hiện đại, quân lực VNCH còn dùng cả chiến tranh tâm lý để kích động quân lính. Chúng tổ chức tuyên truyền xuyên tạc là quân lực VNCH đã đánh bật được quân giải phóng ra khỏi Xuân Lộc. Song trên thực tế, các cánh quân của ta ào ạt tấn công như vũ bão vào Xuân Lộc. Số phận của vành đai tử thủ Xuân Lộc lúc đó chỉ còn tính bằng giây bằng phút.
  Cuối cùng chúng ta cũng giải phóng được Xuân Lộc, Xuân Lộc được giải phóng, cũng là lúc trung đoàn 95 sư 325 được lệnh hành quân thần tốc quay trở về Bình Dương, vượt qua Sông Bé tiến vào Sài Gòn theo hướng Tây Bắc. Trung đoàn mình đến thị trấn Tân Uyên đóng quân ở đó đợi lệnh, đến Tân Uyên vào trưa ngày hôm trước thì trưa ngày hôm sau(30 tháng 4 năm 1975) đã nghe tổng thống chính phủ VNCH, Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Không được vào giải phóng Sài Gòn anh em mình ai cũng tiếc nuối, từ cán bộ sĩ quan đến anh em binh lính có vẻ không được bằng lòng, cho rằng mình là trung đoàn phối thuộc nên phải chấp nhận thiệt thòi.
  Thế đấy! Kể từ lúc chúng ta xa nhau. Những chặng đường hành quân của C20 E95 F325 là như vậy, nói thì có vẻ ngắn gọn. Song thực tế không có bút mực nào, trí tuệ nào có thể nhớ hết và diễn đạt được những cung bậc tình cảm, những khó khăn gian khổ trong mỗi bước hành quân của những người lính. Thôi, vắn tắt mấy dòng vậy, để ông dễ hình dung tôi kể về đoạn  này.
  Hôm nay, sau hơn năm năm tôi mới được trở lại đây, nhân chuyến đi công tác. Đi qua những đoạn đường, những địa danh thôn ấp mà trước đây tôi với anh em trong đơn vị đã từng sống và chiến đấu. Bây giờ tôi không còn nhớ chính xác và cũng không thể nhận ra được vị trí địa điểm của những sự kiện, song trong tâm khảm của tôi vẫn rõ mồn một hình ảnh của anh em đồng đội ngày ấy.
   Xe vẫn chạy bon bon trên đường. Tôi trở về với hiện tại, mà lòng thấy nao nao. Bây giờ, kẻ còn người mất, kẻ thăng quan, kẻ tiến chức, kẻ bươn trải vật vã với đời kiếm kế sinh nhai, kẻ thì ốm đau bệnh tật suốt đời… Đúng là: “ Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh”. Chao ơi! Số phận một con người.
(Còn nữa).


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 01 Tháng Mười Hai, 2014, 11:47:52 am

              Chào bác chủ! Chào các bác! Đọc chuyện của bác chủ mà tả về cuộc hành quân vào chiến dịch tổng tiến công mùa xuân 1975 cùng những địa danh, những trận đánh với QLVNCH mà Tranphu341 thấy cuộc hành quân đó, trận chiến đó như của Sư đoàn 341 của Tranphu341.

             Đúng ra thì Trung đoàn 95 của các bác hành quân trước sư đoàn 341 KHOẢNG 15 NGÀY. Chúng tôi ăn tết ở Đông Trường sơn. Còn các bạn ăn Tết bên Lào. Cũng con đường đầy bụi ấy cuộc lên như con Rồng cát đó qua ánh đèn pha của đoàn xe. Ôi nhớ ơi là nhớ.

              Chuyện của bác kể ôn lại quá khứ thật hào hùng thật ác liệt của cuộc chiến đã gần trò 40 năm mà Tranphu341 cứ ngỡ như mới diễn ra. Như vậy là các bác là đơn vị đánh núi đá chồng hay gọi là đồi thiếu tá. Khi Tranphu341 hành quân qua để tiếp viện đánh Xuân Lộc thì khói lửa nơi đây còn khét lẹt. Tranphu hồi đó tưởng là Sư 7 đánh nơi này. Hóa ra là chiến công của Trung đoàn của bác.

             Xin được cảm ơn và chúc mừng bác! Mong bác luôn khỏe cùng những trang viết thật tuyệt vời này!


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 15 Tháng Mười Hai, 2014, 09:11:13 am

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Số phận
     …Chuyến đi công tác ấy cũng còn nhiều chuyện lý thú, nhưng nó không dính dáng gì đến thời quân ngũ của chúng mình. Với lại bây giờ cũng không có thời gian để kể cho ông nghe, mà đêm cũng đã khuya, thôi ông ngủ đi mai còn về Hòa Bình.
   -Cũng quá giấc rồi, tôi nghe ông kể hấp dẫn quá, thành thử tôi tỉnh như sáo. Đêm nay tôi với ông lại không ngủ nữa rồi, không biết anh em mình sẽ còn bao nhiêu đêm không ngủ bên nhau.
   -Ông Hoàng này! Vợ chồng tôi cám ơn vợ chồng ông nhiều lắm, tuy sự giúp đỡ của vợ chồng ông không có gì to tát, nhưng các cụ dậy: Một miếng khi đói bằng một gói khi no. Tôi cảm động lắm!
   -Thôi đi ông ơi! Ơn với huệ cái gì? Ngày ấy, tôi hoặc ông hay cả hai hy sinh thì làm gì có chuyện để mà nói, được như ngày hôm nay là tốt lắm rồi, chỉ thiệt thòi cho những người đã mất thôi ông ạ!
  Hai đứa lặng đi, Hoàng biết tôi đang xúc động, nên lảng sang chuyện khác. Hoàng hỏi tôi:
   -Ông không viết tiếp hồi ký nữa à?
   -Tôi sẽ viết, nhưng bây giờ bận quá. Khi nào có điều kiện tôi sẽ viết tiếp, còn nhiều điều để viết, với lại tôi nghĩ: Viết ra được cũng làm nhẹ cõi lòng, còn tác dụng của nó thế nào tôi cũng chưa hình dung được.
   -Ừ! Ông cố mà viết, tôi rất thích đọc hồi ký của ông viết, ông viết hay lắm, giống như ông viết cho những thằng như tôi. Thôi bây giờ ông kể về khoảng  thời gian mà ông đi Đoàn thiết kế thủy điện Trị An đi. Ngày ấy tôi thấy vợ con ông khổ quá, mỗi lần về Hà Nội công tác, rẽ vào khu tập thể thăm anh em bè bạn ở Hòa Bình chuyển về Hà Nội, nhân thể có xe tôi cũng mang về cho vợ con ông cân măng củ sắn. Nhìn con bé con mà tôi không cầm được lòng, nó gầy dơ xương chỉ có đầu với mắt, thật tội nghiệp cho nó, tôi nghĩ giá có ông ở nhà vẫn hơn. Chả bù cho con nhà tôi, hết bà đến ông bế ẵm, bác Thịnh bác Nguyệt tranh nhau đón về nuôi, đến khi tôi về nó cũng tảng lơ.
   -Năm ấy là năm 1982, tôi đi đúng một năm mới được về nhà thăm vợ con. Bây giờ nói ra thì thấy bình thường cũng chẳng có gì ghê gớm, nhưng ngày ấy là khủng khiếp lắm, mọi người quan niệm là đi khổ sai. Chính vì vậy, nên việc tuyển nhân sự cho đoàn công tác cũng phức tạp. Mọi người tìm đủ mọi cách lấy lý do lý trấu để từ chối, ấy là chẳng phải đi vào Nam chiến đấu như anh em mình ngày trước đâu ông ạ! Chỉ là đi công tác một năm thôi, mà đã thế rồi. Mà kể cũng lạ, những trường hợp xin ở lại Hà Nội, toàn rơi vào những cặp vợ chồng đã có thời gian đi học ở nước ngoài, không biết họ có khó khăn thật hay họ bịa ra?
  Đợt ấy tôi không có ý kiến kêu ca phàn nàn gì, mặc dù hoàn cảnh của tôi cực kỳ khó khăn. Lúc ấy con gái tôi đã hơn 1 tuổi mà bé như cái kẹo, vợ tôi gày gò cong queo, cân vội cả quần áo chắc cũng được 35-36 Kg. Cả nhà chỉ trông vào 3 bìa thực phẩm loại E, lương thực toàn là mỳ hoặc bo bo hay là khoai tây thì làm sao vợ tôi béo được. Nghĩ mình bất tài và vô dụng nên vợ con vất vả không nhờ cậy được gì, người ta đi tây đi ta còn có cái nọ cái kia, đằng này tôi đi bộ đội, khi có gia đình rồi gia tài cũng chỉ có cái ba lô lộn. Đúng là: “Cây khô xuống nước cũng khô, người nghèo đi đến nơi mô cũng nghèo.”
  Thời gian ấy tôi bất lực, phó mặc cuộc đời muốn đến đâu thì đến. Trong thâm tâm tôi tính quẩn kiểu gà què ăn quẩn cối xay: Nếu tôi ở nhà thì giúp đỡ được vợ những chuyện lặt vặt, ngoài ra chả làm được gì để tăng thêm thu nhập. Nếu tôi đi công tác thì khẩu phần ăn của tôi để ở nhà cho vợ cho con, hoặc là để bà nội bà ngoại lên trông cháu, có thể còn tốt hơn. Tính đi tính lại, chẳng biết hơn thua thế nào, thôi thì nhắm mắt đưa chân. Với lại tính tôi cũng không muốn xin xỏ, chả lẽ lại  gãi đầu gãi tai trình bầy hoàn cảnh với lãnh đạo để xin ở Hà Nội cho gần vợ gần con, nghe buồn cười.
  Cuộc đời chẳng biết thế nào? Đúng là may hơn khôn, chúng tôi đi công tác mà cứ như đi nghỉ mát ấy ông ạ. Khi ấy, UBND thành phố HCM họ đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng thủy điện Trị An. Họ ưu tiên cho đoàn công tác cả Tây lẫn Ta ăn ở gọn trong khách sạn Thanh Đa, thuộc  quận Bình Thạnh. Khách sạn này nằm bên Lô chữ sát sông Sài Gòn, một vị trí tuyệt đẹp. Thường thường, sau bữa cơm chiều cả Tây lẫn ta lại tụ tập nhau ngồi trên những hàng ghế đá dưới dặng dừa hóng mát, ngắm nhìn dòng sông Sài Gòn với vô số những đám lục bình lững lờ trôi mà nhớ về vợ con ở Miền Bắc.
  Để cho chúng tôi đỡ nhớ nhà, dăm bảy tuần thành phố lại tổ chức cho đi Vũng Tầu tắm biển, đi tham quan các di tích lịch sử và những danh lam thắng cảnh quanh Sài Gòn. Thời gian này, tôi năng đến thăm nhà bác ruột tôi nhiều hơn, bác trai tôi đã đi cải tạo về, tôi cũng đến chợ Bàn Cờ ở khu Gia Định để tìm đại úy Tín, gia đình đại úy Tín đã di tản, không ai biết còn sống hay chết.
  Đợt đi công tác này, với tôi được nhiều hơn mất. Cái được lớn nhất là được đi thăm lại chiến trường xưa, thăm cầu La Ngà trên sông La Ngà, nơi tôi có anh bạn học K13 Máy Xây Dựng, được bổ xung vào Ban hậu cần trung đoàn 95, bị địch tập kích và hy sinh ở đây. Được thăm lại phà Mã Đà, thăm rừng chiến khu D căn cứ địa của quân giải phóng. Dấu vết  của những người lính vẫn in hằn lên gốc cây tảng đá, hơi ấm của họ như còn quanh quẩn đâu đây. Nghe tiếng chim hót trong rừng, nghe tiếng lá rừng xào xạc mà như sống dậy thuở nào… Từng bước từng bước chân đi trong rừng mà lòng nặng chĩu những kỷ niệm buồn vui.
  Cái được thứ hai, theo tôi là được học và được làm thủy điện thật dưới sự hướng dẫn của đoàn chuyên gia Liên Xô. Thời gian trước khi còn đang làm với ông ở Thủy điện Hòa Bình, ông cũng biết là anh em mình chỉ là những người giúp việc điếu đóm là chính. Khi ấy không phải các chuyên gia không tin mình, thực ra khả năng của anh em mình cũng chưa thể giải quyết được công việc.
  Nhưng đến thủy điện Trị An khác hoàn toàn, đoàn chuyên gia Liên Xô đề xuất ý tưởng, anh em mình cụ thể hóa thành các phương án. Vừa học vừa làm, từ đó mới biết, mới thuộc các quy trình quy phạm thiết kế v.v. Cũng từ đấy mới hiểu được lĩnh vực khoa học thủy lợi thủy điện của nước ta vô cùng non nớt. Chúng ta chưa tự làm được nhà máy thủy điện nào ngoài một vài cái thủy điện nhỏ ở Miền núi phía Bắc. Chỉ sau thủy điện Trị An, đội ngũ kữ sư thiết kế thủy điện mới thực sự trưởng thành.
  Còn một cái được nữa, nói ra cười rơi nước mắt. Cái được này là được trả học phí cho việc đi buôn. Lãi lờ bao nhiêu chẳng biết, chỉ biết mất tiền mua học phí thương trường. Lúc trước chỉ nghe nói: Thương trường cũng ác liệt như chiến trường, bây giờ mới hiểu. Ngày ấy, chênh lệch giá cả giữa Miền Bắc và Miền Nam của một số mặt hàng là khá cao. Lợi dụng đoàn công tác thuê riêng một toa tầu, sẽ tránh được sự kiểm duyệt của quản lý thị trường, thế là mạnh ai người ấy làm kinh tế. Người bột mỳ, người khoai tây, người tỏi ta v.v.  Cũng có những người mang vàng ta, màn tuyn, chăn len v.v.
  Hàng hóa nhiều đến nỗi không còn có cả chỗ để ngồi, tầu đi 3 ngày 2 đêm, chúng tôi nằm vật nằm vã khắp mọi nơi, đường đi lối lại không có,trèo lên nhau mà đi. Cực nhất là nhà vệ sinh chẳng có người dọn nước chảy lênh láng ra cả sàn tầu. Tất cả những thứ uế tạp ấy lại là nguyên nhân của sự dở khóc dở cười. Bột mỳ xuống cấp vì hấp thụ đủ mọi mùi trên tầu nên không thể bán được giá gốc. Nhưng không bán không được, lỗ cũng phải bán. Tỏi mua ở Hà Nội củ nào củ nấy chắc nịch, vào trong này mới có mấy ngày nóng nực, thế mà củ nào củ nấy teo tóp. Thứ này có cho cũng chẳng ai thèm lấy chứ đừng nói đến chuyện bán.
  Đau nhất là mấy người có màn tuyn và vàng. Lúc đầu mọi người cứ tưởng phi vụ buôn bán không có chuyện gì xảy ra, tất cả đều tốt đẹp. Nhưng sau chẳng hiểu thế nào chuyện lại lộ ra, lúc ấy mọi người mới ngã ngửa người xót xa cho anh em mình. Tất cả đều bị lừa và bị lừa theo một chiêu giống nhau theo cùng phương thức:
   Đồng ý mua, trao hàng trao tiền cho nhau tất cả đều là hàng thật và tiền thật… Kiếm cớ không mua nữa trả lại, tiền và hàng cũng đều là thật… Chia tay nhau đi vài bước, khách quay lại đổi ý muốn mua. Anh em mình đương nhiên sẽ bán. Lúc này hàng là hàng thật nhưng tiền đã được đổi bằng tiền giả giống như thật. Cuộc mua bán kết thúc, kết quả là: Hàng thật lấy tiền giả.
 Tội nghiệp cho mấy ông kỹ sư nhà ta chỉ quen gặm giấy gặm bút chì, nhưng vì cuộc sống khi ấy quá nghèo khó nên cũng muốn làm một cái gì đó để giúp đỡ vợ con, nào ngờ thương trường lại khốc liệt như vậy. Đành ngậm bồ hòn làm ngọt, mà nhận xét thương trường ở một góc độ khác. Chỉ tiếc rằng học phí hơi đắt…Dẫu sao thì mất tiền cũng được kinh nghiệm.
  Tất nhiên là còn nhiều cái được nhưng thôi tôi không kể, mà tôi kể cho ông nghe về cái mất. Theo cá nhân tôi tự nhận, thì cái mất lớn nhất của tôi nói riêng và của anh em nói chung, là mất đi sự trì trệ dựa dẫm, chỉ quen với cung cách ỷ lại cho người khác suy nghĩ còn mình thì làm theo. Bây giờ không như thế nữa, những vấn đề về chuyên môn chúng tôi đã hoàn toàn chủ động đối diện để giải quyết. Có rất nhiều vấn đề đã tranh luận nẩy lửa với đoàn chuyên gia cố vấn và cuối cùng họ cũng phải thừa nhận anh em chúng tôi đã trưởng thành rất nhanh về chuyên môn nghiệp vụ.
  Tôi cho rằng: Chúng tôi đã được cái lớn nhất là làm mất đi tính trì trệ dựa dẫm vào người khác, đức tính này đã cố hữu lâu đời trong đầu óc người làm khoa học của chúng ta ở thời kỳ đó. Khi đã nhấc được nó ra khỏi đầu thì mọi việc đều thông thoáng, tính chủ động sáng tạo lại có đất để thể nghiệm. Mọi người đánh giá thế nào thì tôi không biết, riêng tôi cho rằng lĩnh vực khoa học thủy lợi thủy điện bắt đầu mở ra một chân trời mới.
(Còn nữa).


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: qtdc trong 15 Tháng Mười Hai, 2014, 10:13:47 pm
Bác quanvietnam chắc đã lo xong việc của Cụ nhà, rất tiếc là em không biết để đến tận nơi chia buồn cùng bác và gia đình. Nay bác lại tiếp tục mạch chuyện "Số phận người lính sau chiến tranh", xin cám ơn bác.
Em còn nhớ Trị An hồi đó có vụ nứt đường ống áp lực tiết diện hình chữ nhật bằng BTCT mà nguyên nhân của nó khá đơn giản, lỗi thuộc về phía bạn thiết kế thì phải. Không biết bác còn nhớ vụ này không.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: phamvanminh trong 15 Tháng Mười Hai, 2014, 10:34:19 pm
Chào đàn anh ,thằng em này sau khi giã từ vũ khí cũng về thủy điện TRị an 6 năm,nhưng không bê tông cốt sắt gì cả,mà nhiệm vụ chính là lo phục vụ đời sống cho 16 nghìn cán bộ cnv làm việc ngày đêm trên công trình thủy điện Trị an,ấy là CTY thương nghiệp TRị an nằm ngay ngã ba,một đường đi Mã đà,Hiếu liêm,một đường lên đập tràn,cá mè ở hồ Trị an nhiều vô kể rẻ như cho,chuyên gia Liên xô cũng câu cá nhưng là câu giải trí thôi.Trị an một thời được ưu tien số một


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 16 Tháng Mười Hai, 2014, 09:38:51 am
Bác quanvietnam chắc đã lo xong việc của Cụ nhà, rất tiếc là em không biết để đến tận nơi chia buồn cùng bác và gia đình. Nay bác lại tiếp tục mạch chuyện "Số phận người lính sau chiến tranh", xin cám ơn bác.
Em còn nhớ Trị An hồi đó có vụ nứt đường ống áp lực tiết diện hình chữ nhật bằng BTCT mà nguyên nhân của nó khá đơn giản, lỗi thuộc về phía bạn thiết kế thì phải. Không biết bác còn nhớ vụ này không.

           Chào bác quanvietnam! Như vậy là ta có chuyện HIỂU hả bác. Tranphu341 bây giờ mới biết . Thật đáng trách. Tranphu341 cũng xin gửi tới bác cùng gia đình lời chia buồn sâu sắc nhất. Mong linh hồn Cụ nhà sớm được về với Tổ Tiên về nơi Cực lạc.

                                             Tranphu341 thành kính!


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 17 Tháng Mười Hai, 2014, 01:59:05 pm
Cám ơn anh qtdc; anh TP đã có lời chia buồn cùng gia đình tôi. Mẹ tôi hưởng thọ 90 tuổi, nên chúng tôi buồn vì phải chia tay người thân trong gia đình, nhưng chúng tôi lại vui vì mẹ tôi thượng thọ. Nay kính.


Tiêu đề: tiểu đoàn trưởng Nguyễn Ánh Dương
Gửi bởi: Vietbun trong 31 Tháng Mười Hai, 2014, 11:17:03 pm
http://m.baomoi.com/Home/XaHoi/www.nhandan.com.vn/Thanh-pho-mang-ten-Bac-hung-dong-thoi-ky-moi/4199663.epi


Tiêu đề: Re: tiểu đoàn trưởng Nguyễn Ánh Dương
Gửi bởi: Vietbun trong 31 Tháng Mười Hai, 2014, 11:19:28 pm
http://baothaibinh.com.vn/15/33765/Nho_nguoi_chi_huy_2_tran_danh_lich_su_truoc_ngay_toan_thang.htm


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: nguyendoantho trong 08 Tháng Hai, 2015, 04:15:14 pm
Các Bạn E95 ơi có ai biết gì về thông tin này hãy kể ra chop chunga ta biết nhé

Tôi tên là Nguyễn Thị Bình có anh trai là liệt sỹ Nguyễn Tiến Đồng. Năm 1970 anh tôi cũng là sinh viên của trường ĐHCĐBT năm 1971 từ trường Cơ điện anh tôi lên đường nhập ngũ và được huấn luyện tại Bắc thái. Lá thư cuối cùng anh tôi viết ngày 13/11/1973 tại Bắc Thái.
Năm 1974 có giay báo tử đã hy sinh tại đường 19 – Gia lai. đơn vị đi B C3-D82-F304, Đơn vị chến đấu C3-D1-E95, cho đến nay vẫn chưa tìm đưo75c mộ..Tôi muốn nhờ các anh ở hội Cựu CB trường xem có ai cùng đơn vị với anh trai tôi không để biết được thông tin về anh.
Trân trọng cảm ơn các anh trong Hội CCB.
Trả lời


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 01 Tháng Tư, 2015, 09:29:05 am

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Số phận
    Ở đoàn thiết kế thủy điện Trị An lúc bấy giờ cũng còn nhiều chuyện phức tạp, nhất là chuyện quan hệ nam nữ. Sống xa nhà thành ra lắm chuyện linh tinh, ấy thế mà cũng nhiều đôi thành công. Thành công ở đây, tôi muốn nói là thành vợ thành chồng, cũng như chia tay nhau thành công.
  Cũng đúng thôi, hơn một năm trời đằng đẵng, kẻ thì xa vợ xa con, kẻ thì xa người yêu, kẻ thì chưa được yêu, kẻ thì vợ chồng lục đục kéo dài nhiều năm v.v. Tất cả những chuyện ấy, vào thời điểm đó họ đều biết cách tự giải quyết. Họ có rất nhiều lý do để ngụy biện cho việc làm của mình. Mặt khác họ không công khai mà sống lén lút với nhau, thế cũng đủ cho họ rồi… Cũng thật buồn cười, nhiều cặp không giống ai, chàng thì già quá cặp với nàng rõ trẻ, ông gày gò cặp với bà rõ to béo v.v. Thế mà lại nên chuyện, đúng là tục ngữ có câu: Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén… Dạo ấy mọi người bảo nhau: Hãy đợi xem được bao nhiêu ngày?
  Thời kỳ ấy, tôi sống trong im lặng, ngắm nhìn thời cuộc. Tôi bàng hoàng thấy mọi người sống thực dụng quá mức. Thật chua chua xót khi nghĩ đến công lao của hàng triệu người, trong đó có các chiến hữu của chúng ta đã chiến đấu và hy sinh để có được ngày hôm nay. Những chiến hữu ấy chỉ vì nghèo, vì sức khỏe yếu đã trở thành nạn nhân của lối sống thực dụng. Chả hiểu ra làm sao nữa? Không hiểu họ đối xử với nhau thế nghĩa là thế nào??? Kẻ thì cặp bồ cặp bịch, kẻ có vợ có chồng đầy đủ nhưng do không thỏa mãn, quay sang lộn thừng lộn chão, kẻ chán chồng, người chán vợ, không còn ai trân trọng những thứ mình đã có nữa…
   Thời gian ấy, nhiều cặp đôi căng thẳng lên đến đỉnh điểm, một bầu không khí nặng nề bao trùm lên đoàn thiết kế. Trong chuyện này, phụ nữ cho rằng nam giới là người gây ra, họ không có lỗi gì. Thật ra thì những người phụ nữ cần phải xem lại mình, phải tự hỏi tại sao gia đình lại lâm vào hoàn cảnh tan nát. Theo tôi, nguyên nhân sâu xa ở đây là cả hai người đều không biết mình là ai, và có vị trí như thế nào trong gia đình, thành ra tan nát.  Khổ cho những đứa trẻ, hệ lụy của sự sung sướng vô trách nhiệm.
  Ở hoàn cảnh ấy, đặt giả thiết: Nếu người phụ nữ thiết tha yêu chồng yêu con, chấp nhận bỏ qua sự khiếm khuyết của người chồng để giữ dìn hạnh phúc gia đình thì sao?  Tôi tin rằng không bao giờ người chồng lại ngoảnh mặt làm ngơ, có thể họ không đồng ý với vợ, nhưng họ sẵn sàng hy sinh cho con. Đành rằng ở một vài trường hợp thì nam giới cũng có nhiều người cố chấp, cố tình không nhận ra sự hy sinh của vợ. Nhưng ông nghĩ lại mà xem, bây giờ liệu có bao nhiêu người phụ nữ họ muốn như vậy khi chồng họ thua kém người tình? Đây là hiện thực của xã hội, khi cả hai đều giữ quan điểm của mình thì rõ ràng là hết thuốc chữa. Tất yếu là con cái mỗi đứa mỗi nơi, lại khổ cho ông bà nội ông bà ngoại, trước thì nuôi con, bây giờ nuôi cháu…
  Thủa ban đầu tạo hóa đã xếp đặt âm dương cho vạn vật, cũng không phải vô cớ mà xếp loài này là dương, loài kia là âm. Trong khi đó: trong cái dương lại có cái âm và ngược lại… Tất cả đều có cơ sở lý luận của nó, theo đấy nam giới sinh ra đã có đức tính và bản lĩnh để đảm nhận là người chủ gia đình. Trong tiềm thức của đàn ông, họ cố gắng xứng đáng là chỗ dựa tin cậy cho mọi người trong gia đình. Tất nhiên mặt trái của nó là tính gia trưởng, âu nó cũng là cặp đôi khó tránh khỏi. Cũng vậy, nữ giới cũng có những đức tính và cấu tạo đặc biệt để đảm nhận thiên chức làm mẹ  mà con trai không thể làm được.
  Xuất phát từ xếp đặt của tạo hóa. Rõ ràng trong gia đình, người chồng bươn trải lo miếng cơm manh áo cho cả nhà, người vợ ngoài việc phụ với chồng lo cơm áo, còn thay chồng nuôi dưỡng bố mẹ, chăm sóc đàn con.  Chả thế mà từ xa xưa đến bây giờ, người đời vẫn phải thừa nhận: Phụ nữ là người giữ lửa cho gia đình. Điều này đúng với cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng… Bây giờ thì khác nhiều lắm, nhiều phụ nữ không hiểu điều ấy, hoặc hiểu không hết được ngữ nghĩa của bình đẳng bình quyền, cứ a rua học đòi, thành ra để hạnh phúc tuột khỏi vòng tay, quá  đáng trách.
   Thật xót xa nếu họ cố nhìn ra: Bên cạnh họ còn rất nhiều những trường hợp éo le khác. Đúng là: Kẻ ăn không hết người lần không ra.  Đáng thương nhất vẫn là những người phụ nữ, đã từng tham gia các cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Nhiều người trong số họ có được cuộc sống hạnh phúc, nhưng cũng không ít người vì lý do nào đó họ bị quá lứa nhỡ thì. Họ ngày đêm mơ ước có một tấm chồng, rồi có một đứa con để được bế ẵm, để được nghe tiếng gọi mẹ ơi. Cũng vậy, còn rất nhiều nam giới là cựu chiến binh, cựu TNXP. Tuy họ vẫn có phụ nữ lấy làm chồng, nhưng khổ thay, họ không còn khả năng sinh con nữa, ngậm ngùi tìm mọi cách để người vợ yêu quý của mình có quyền được làm mẹ v.v. Những điều quá đơn giản với người khác, nhưng với họ sao mà khó thế? Phải chăng đó cũng là số phận?
   Đau đớn cho những người biết nhưng bất lực, chỉ còn cách lặng lẽ đếm thời gian lắng nghe con tạo xoay vần. Ngày ấy tôi có biết một trường hợp, mãi sau này khi trở về Miền Bắc sống bên vợ con, nhận được tin Minh đã phải bỏ việc để sinh con, tôi mới xót xa cho số phận của người con gái, hay đúng hơn là một người đồng đội. Minh nguyên là nữ thanh niên xung phong trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc.
  Chuyện của Minh buồn cũng đáng trách, nhưng đáng thương nhiều hơn vì Minh quá tin người nên có chỗ cho kẻ sở khanh ấy lợi dụng… Đấy là tôi nghe kể lại, không biết có đúng như vậy không? Nhưng liên tưởng lại những lần Minh nói chuyện với tôi, thì tôi cho rằng có thể chuyện đúng là như vậy.
  Ngày ấy, tôi ở cùng căn hộ với thằng Liên, chắc là ông cũng biết nó, cái thằng trắng trẻo đẹp trai học ở Tiệp Khắc ấy. Hai thằng một căn hộ rộng mênh mông, trên tầng bốn. Căn hộ chia ba phòng, phòng làm việc phòng ngủ và phòng bếp. Thằng Liên là trai chưa vợ, nên cứ hết giờ làm việc là nó lại đi chơi, có khi qua đêm đến sáng mới về. Mình tôi cứ lủi thủi một mình trong căn hộ buồn tẻ cô quạnh. Không hiểu ngày ấy tôi có động cơ gì hay là do không biết làm gì cho hết thời gian nên tôi rất mê say công việc, ít khi đi chơi, ở nhà cứ quanh quẩn vào ra hút thuốc vặt, buồn chán lại mang tài liệu ra nghiên cứu.
  Thời gian này, khách sạn Thanh Đa phân công phụ trách phòng tầng 4 là cô gái tên Minh. Không biết Minh quê ở tỉnh nào, nhưng chắc chắn là gái miền Tây. Minh người tầm thước vừa phải, có nước da mai mái mầu sốt rét, thoạt nhìn người ta biết ngay là con nhà lao động.  Cũng do lao động nên cơ thể Minh rất cân đối, chỗ nào cần nổi là nổi, chỗ nào cần eo là eo. Về tổng thể, nếu như cơ thể ấy mà ghép với khuôn mặt trẻ trung hồn nhiên thì cũng không đến nỗi nào. Đằng này tạo hóa không công bằng, lại ghép cho Minh khuôn mặt buồn rầu, già trước tuổi.
  Hình như cuộc sống của Minh có tâm sự, nên Minh sống im lặng ít giao tiếp với mọi người. Xong việc Minh lại về căn buồng cuối dãy ở trong đó, ai cần gặp thì đến gọi chứ cũng chẳng giao du với ai, con người thật khó hiểu.
  Dạo ấy tôi còn hút thuốc lào, có một lần Minh dọn phòng cho tôi, Minh không biết cầm cái điếu cày thế nào cho nước không bị đổ ra, nhẽ ra phải cầm xuôi thì Minh lại cầm ngược. Nước điếu vàng khè hôi rình, chảy ra lênh láng cả sàn đá hoa. Minh hoảng quá cầm điếu ngược chạy vào phòng bếp để rửa. Càng chạy, nước điếu cứ theo Minh lại càng đổ ra lênh láng, cả căn phòng làm việc sặc sụa mùi nước điếu. Minh cứ lầm lũi lau lau dọn dọn.
  Tôi thấy tội nghiệp cho Minh quá, mặt khác cũng cảm thấy mình có lỗi trong chuyện này, bởi nếu mình không hút thuốc lào thì làm gì có chuyện Minh phải lau dọn thế này. Tôi gấp tài liệu ra giúp Minh:
   -Em để anh dọn cho, những thứ này chỉ có con trai Miền Bắc mới biết dọn thôi. Con trai Miền Nam cũng không biết đâu, phụ nữ Miền Nam lại càng không biết.
  Tôi giật lấy cái chổi lau nhà từ tay Minh. Rồi theo thói quen có từ thời kỳ ở chiến trường, tôi nhổ vào vũng nước điếu một bãi nước bọt. Thấy tôi làm thế, Minh ngạc nhiên kêu lên:
   -Khiếp! Sao anh lại làm thế?
   -Ấy chết! Xin lỗi Minh nhé. Thứ nước điếu này, chỉ nhổ một bãi nước bọt vào là hết mùi ngay, nếu không thì khai lắm. Ngày còn ở chiến trường, chúng tôi kiêng đánh đổ nước điếu lắm đấy.
   -Tại sao lại thế?
   -Tôi cũng không biết, nhưng thấy mọi người làm thế nên tôi cũng bắt chước.
   -Ô! Anh Khoa cũng đi bộ đội à?
   -Ừ! Tôi cũng đi bộ đội. Nhưng tôi đi ít lắm chỉ đi gần 4 năm thôi, sau khi kết thúc chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng hoàn toàn Miền Nam, thống nhất đất nước là tôi lại về đi học.
   -Anh thật may mắn! Em cũng tham gia thanh niên xung phong được hơn 3 năm, nhưng chẳng may em bị thương và bị sốt rét nên cấp trên giải quyết chế độ cho em chuyển ngành. Được chuyển ngành, nhưng do trình độ văn hóa thấp với lại không có chuyên môn nên không cơ quan nào nhận. Cuối cùng em xin vào làm tạp vụ ở Khách sạn Hoàng Gia bên quận nhất, khi có đoàn các anh vào đây công tác, mấy chú nói em sang đây phục vụ.
   -Sao Minh không tiếp tục xin vừa đi làm lại vừa đi học?
   -Nói anh đừng cười, ở dưới miệt vườn. Bọn em trình độ văn hóa thấp lắm, anh tính suốt ngày giặc dã học làm sao được. Bây giờ nếu cho em đi học thì em phải học lại từ lớp 1, cứ nghĩ thế nên em cũng không dám xin các chú cho đi học. Vả lại bây giờ em cũng lớn tuổi rồi, học cũng chả vào, thôi chịu khó đi làm kiếm đồng lương để nuôi mình, sau này nếu có ai thương thì về ở với người ta. Nếu không có người thương thì xin lấy đứa con về nuôi cho có mẹ có con đỡ cô quạnh lúc tuổi già.
   -Minh nói gì mà nghe buồn thế? Hoàn cảnh của Minh làm gì phải xin con nuôi. Tôi thấy, nhiều anh con trai đang theo đuổi mà Minh đâu có để ý.
   -Anh đừng nói thế làm em buồn, bạn bè cùng trang lứa với em ở dưới quê, chúng đã có gia đình có chồng có con. Cuộc sống của chúng nó cũng vất vả lắm, song chúng nó còn được an ủi là có bầy con ríu rít quanh chân. Mấy đứa đi thanh niên xung phong như bọn em bây giờ vẫn chưa đâu vào đâu.
  Tiếp xúc và nói chuyện với Minh một vài lần như thế, về sau Minh rất thích tâm sự với tôi, mỗi lần gặp nhau chúng tôi nói với nhau tự nhiên hơn. Chuyện giữa tôi và Minh thường thường diễn ra như vậy, chẳng chuyện nào ăn nhập với chuyện nào.
  Một hôm, đột nhiên Minh hỏi tôi:
   -Anh Khoa ơi! Có phải những người phụ nữ bị sốt rét rừng trước đây, bây giờ thường có biểu hiện bị rụng tóc và có nhiều trường hợp không còn khả năng sinh con, có phải thế không anh?
   -Ừ! Tôi nghe nhiều người nói thế, nhưng theo tôi chưa đủ cơ sở để khẳng định người bị sốt rét sẽ bị như vậy. Tôi thấy rất nhiều người cả nam lẫn nữ bị sốt rét nhưng họ vẫn sinh con. Để khẳng định điều ấy, em cần phải đi khám bác sĩ, đừng có lo lắng vô cớ… Nhưng tại sao em lại hỏi anh điều này?
  Minh lúng túng định chối, nhưng thấy tôi có thể tin được nên đành nói thật:
   -Bạn trai của em nói vậy, em lo lắm không biết có đúng thế không? Nếu đúng như vậy bọn em phải chia tay nhau, mà chia tay nhau thì chúng em không muốn.
   -Nhưng tại sao em không đi khám bác sĩ, chuyện này bây giờ đâu có khó khăn gì?
   -Em cũng nghĩ thế, nhiều lần em định đi bệnh viện để kiểm tra thì bạn trai em cản lại, dứt khoát là để anh ấy đưa đi, nhưng cứ dùng dằng mãi, đến bây giờ cũng chưa đi được.
  Nghe Minh nói thế, tự nhiên tôi thấy có cái gì đó không rõ ràng nên tôi hỏi Minh:
   -Bạn trai em quê ở đâu? Làm nghề gì? Hai người có hay gặp nhau không?
  Minh đưa mắt nhìn tôi rất nhanh rồi vừa nói vừa thăm dò thái độ của tôi:
   -Anh ấy quê ngoài Bắc, đang làm bảo vệ ở khách sạn Hoàng Gia.
   Qua lời kể của Minh, tôi nghi ngờ Minh gặp phải người bạn trai không tốt. Thật ra, lúc đó tôi nghĩ đúng là Minh gặp phải kẻ sở khanh rồi. Làm gì có chuyện yêu nhau mà lại dọa người yêu là vì bị sốt rét nên không sinh được con, nghe rất vô duyên. Cũng do tế nhị, nên tôi không dám nói ra suy nghĩ của mình, với lại sợ Minh buồn đành im lặng. Cuối cùng cái gì đến nó phải đến, tội nghiệp cho Minh.
   Sau này, nghe mọi người kể. Minh bụng ngày càng to ra, sợ cơ quan biết đành xin thôi việc, nhưng Minh không dám về quê mà cứ đi lang thang đi tìm việc…
   Rõ khổ, số phận thật trớ trêu. Tôi tự hỏi: Tại sao oan nghiệt lại rơi vào người cựu thanh niên xung phong tốt như như Minh? Sao nó không rơi vào những kẻ có được tý chữ, suốt ngày a rua đua đòi sự bình đẳng mà không hiểu thế nào là bình đẳng…
(Còn nữa). 


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 01 Tháng Tư, 2015, 02:07:26 pm

             Chào bác chủ quanvietnam! Tranphu341 cùng các bạn đọc cứ thắc mắc hoài không biết bác chủ đi đâu vắng nhà hay sức khỏe" có vấn đề" Thực lòng anh em rất lo cho bác. HI HI... ;D ;D ;D

              Hôm nay thấy bác lại " Đăng đàn" Tranphu341 cùng mọi người thật vui nhấy là bác lại tiếp tục câu chuyện về đời sống, về những ngày tháng cam go của những người lính, của toàn xã hội sau chiến tranh, của cuối thời bao cấp. Nhiều rất nhiều những giá trị xưa, những quan niệm xưa về cách sống, cách nghĩ không còn nữa. Chân lý, chân tình bị đảo lộn. Thời đó Tranphu341 còn nhớ một bài thơ rất nổi tiếng của một sinh viên đã từng đi từng là thanh niên xung phong mà cũng bài thơ hiện thực này đã là cho tác giả, đã làm cho bao người bị liên luy, bị tù đầy chỉ vì tích hiện thực của nó. Có những câu bất hủ như: " Chân giò còn hơn chân lý, đồng chí không bằng đồng tiền" v v..

             Tranphu341 xin được cảm ơn  và chúc mừng bác chủ!



           


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 07 Tháng Tư, 2015, 02:44:54 pm

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Số phận
    …Thời gian sau này, tôi vẫn thường xuyên phải đi công tác, nhưng chỉ đi dài lắm là ba đến sáu tháng, không đi cả năm như hồi ở đoàn thiết kế thủy điện Trị An.
  Năm 1983, công ty tôi bắt đầu nghiên cứu thiết kế công trình thủy điện Dray H’linh. Công trình này nằm trên sông Sêrêpôk, thuộc tỉnh ĐakLak. Khi mới nghiên cứu vị trí địa lý trên bản đồ tỉ lệ 1: 50.000 của Mỹ, tôi thấy khu vực dự kiến xây dựng công trình nằm gần thị xã Buôn Ma Thuột. Thông tin mới chỉ có thế thôi mà trong lòng tôi thấy vui lắm, ông biết vì sao tôi vui không? Tôi vui là vì, công trình này cách thị xã Buôn Ma Thuột 14 km dọc theo quốc lộ 14 về phía nam. Thị xã Buôn Ma Thuột là nơi trung đoàn 95 của chúng mình, phối hợp với sư 316 và một số đơn vị khác, tấn công giải phóng đêm mùng 9 rạng ngày mùng 10 tháng 3 năm 1975, trận mở màn chiến dịch Tây Nguyên. Nếu triển khai thiết kế công trình này, tin chắc thế nào tôi cũng có dịp được quay trở lại chiến trường xưa, để tận mắt xem bây giờ nó thay đổi thế nào?
  Kể cũng tiếc cho ông, thời gian ấy ông đi theo đoàn công tác chuẩn bị mở mặt trận phía Tây Thừa Thiên của sư 325, nên không được tham gia giải phóng Buôn Ma Thuột. Trận ấy đánh nhau sướng lắm, không trầy trật như ở Thành Cổ hay là Tích tường Như Lệ như hồi đánh nhau ở Quảng Trị đâu. Tôi nhớ, bắt đầu nổ súng lúc ấy khoảng 1 giờ 30 hoặc 2 giờ sáng gì đó. Bọn địch vì bị tấn công bất ngờ nên chỉ biết chạy, quân ta ào ạt xông lên chiếm lĩnh trận địa, tất nhiên khi đó bọn địch có chống đỡ nhưng thực chất là rất yếu ớt, mà chạy là chính.
   Đến khoảng hơn 11 giờ trưa quân ta đã cơ bản làm chủ thị xã rồi. Mãi đến quá trưa sang chiều và cả sáng hôm sau, khi có máy bay yểm hộ, bọn địch mới hoàn hồn lấy lại tinh thần tổ chức phản công tái chiếm, nhưng vô vọng.
  Trận ấy bọn mình thuộc cánh quân đánh vào sân bay Hòa Bình và khu kho Mai Hắc Đế, mới rạng sáng mà bộ đội đã làm chủ nơi này. Ở kho Mai Hắc Đế, không biết là kho gì nhưng có rất nhiều các loại thực phẩm bằng đồ hộp. Bọn mình thằng nào thằng nấy, mỗi thằng làm một gùi đầy toàn thịt hộp sữa hộp, thuốc lá quân tiếp vụ, cà phê, trà B’Lao. Ôi sướng ơi là sướng, bao nhiêu năm thiếu thốn bây giờ thì thả cửa. Dạo ấy đứa nào cũng có máu tham ăn nên lấy về rất nhiều xếp thành hào lũy để ăn dần. Rõ khổ. Mới ăn được hai hôm, thì có lệnh hành quân về Cheo Reo-Phú Bổn. Nhìn đống đồ hộp tiếc ơi là tiếc, nhưng không thể nào mang đi hết, đành gọi dân ở đấy để phân phát…
   Trở lại câu chuyện thiết kế thủy điện Đray H’Linh. Một thời gian sau, công ty tôi bắt đầu triển khai đoàn công tác đi thực địa công trình ở Tây Nguyên. Tôi nhớ, lần đầu tiên tôi vào trong ấy công tác. Mấy ngày đầu còn ở ngoài thị xã, ngày nào tôi cũng đi xuống khu sân bay Hòa Bình và khu kho Mai Hắc Đế. Mục đích của tôi là đi chơi, đồng thời để ôn lại kỷ niệm những ngày chiến đấu trên mảnh đất này. Thời gian ấy, các cơ quan công sở đã quản lý và xây dựng thêm nhiều công trình ở khu vực này rồi, nên không được đi vào tận nơi để xem xét. Ở ngoài nhìn vào, tôi cố gắng hình dung ngày ấy đơn vị mình đi qua những nơi nào, nhưng chịu. Gần 10 năm sau giải phóng rồi còn gì, vật đổi sao rời mọi thứ đều khác lạ. Tuy vậy, mỗi bước đi là vô vàn những kỷ niệm của gần 10 năm về trước vọng về.
  Trở về Ngã Sáu, tôi đứng giữa bùng binh nơi có chiếc xe tăng đặt làm tượng đài chiến thắng. Tôi cố định hướng, tìm vị trí ngôi nhà mà chiếc xe tăng của ta khi đó lùi vào trong nhà cho tường đổ sập xuống để ngụy trang. Có một điều rất hay, lúc đó tuy tường đổ sập xuống nhưng tháp pháo của tăng vẫn vươn ra ngoài khống chế các mục tiêu của địch ở Ngã Sáu. Trên trời máy bay của địch quần đảo lùng sục mà không thể nào phát hiện được mục tiêu. Trận này, tôi nghĩ có thể đây là lần đầu tiên quân đội VNCH chạm trán với sức mạnh của binh chủng xe tăng quân giải phóng. Hẳn chúng phải ngạc nhiên lắm, không thể đoán được quân giải phóng đưa những cỗ xe tăng khổng lồ này vào đây bằng cách nào.  Có lẽ, chúng chỉ nhìn thấy xe tăng thôi cũng đủ hồn bay phách lạc rồi còn đánh đấm gì.
  Tôi lượn xung quanh bùng binh một vòng, định đi vào nhà thờ thiên chúa giáo ở ngay gần đó để nhìn lại gốc cây kỉ niệm, nơi tôi với thằng Kỳ điếc học lớp 13 Máy Xây Dựng, cất dấu một số thứ  khi trung đoàn hành quân xuống Cheo Reo-Phú Bổn.  Sau này, khi Sài Gòn được giải phóng một thời gian. Thằng Kỳ điếc ở Ban Quân khí của trung đoàn 95  có dịp quay về khu kho Mai Hắc Đế công tác, nó có ghé qua để tìm nhưng không  thấy nữa.
  Hồi ấy, nhà thờ thiên chúa giáo này có lẽ lớn nhất ở thị xã Buôn Ma Thuột, nhà thờ có khuôn viên rất đẹp nằm sát đường, bao quát toàn bộ Ngã Sáu. Sau này mỗi khi vào đây công tác, tôi thường được UBND tỉnh cho ở khách sạn Thắng Lợi ngay gần đó, nên tôi thường ghé thăm nhà thờ.
 Hôm ấy, tôi đang bước lững thững, thì một người chở xe ôm dừng xe bên cạnh tôi hỏi:
   -Chú đi đâu để con chở?
  Tự nhiên tôi đồng ý ngay, tôi bảo với người chở xe ôm chở tôi đến sở chỉ huy của sư đoàn 23 Ngụy. Ngồi sau xe, tôi nhớ đến thằng Lành quê Thái bình, nó ở tiểu đội thông tin. Hôm ấy nó đi cùng với mũi tấn công vào sở chỉ huy sư đoàn 23 Ngụy, nó về khoe với tôi: Bộ đội đặc công bắt được thằng  sĩ quan chỉ huy sư đoàn 23, người thằng ấy bé con, một tay em sách còn nhẹ… Tôi đang nghĩ về thằng Lành thì người chở xe ôm hỏi tôi:
   -Chú ở Bắc vào, đi làm việc hay đi thăm người nhà?
   -Tôi đi chơi, thăm lại nơi trước kia tôi đã chiến đấu ở đấy.
   -Chỗ ấy bây giờ không vào được đâu chú! Ở đó bây giờ là sở chỉ huy của sư 470, đơn vị bộ đội đang xây dựng kinh tế ở Tây Nguyên.
   -Thế à! Tôi có quen với ông sư đoàn trưởng, chắc ông ấy sẽ cho tôi vào.
  Đến cổng sư đoàn 23 Ngụy, bây giờ là doanh trại Quân đội nhân dân Việt Nam. Vì không có giấy tờ liên hệ công tác nên tôi không được vào, trong lòng tôi ấm ức lắm, nhưng đành chịu. Mãi sau này, ông Lê Xuân Bá sư đoàn trưởng sư 470 mời tôi vào tham quan, ông ấy dẫn tôi đi khắp mọi nơi để giới thiệu. Sở dĩ có chuyện mời tôi vào tham quan và dắt tôi đi giới thiệu tỉ mỉ, là vì đơn vị của ông Bá đang xây dựng công trình thủy điện Đray H’linh, mà tôi lại làm ở đó. Khi ấy, tôi cảm thấy vinh dự lắm và cũng đôi chút tự hào khi tôi kể cho ông Bá nghe chuyện giải phóng Buôn Ma Thuột…
  Trở lại Tây Nguyên lần này, tôi không có được những xúc cảm mãnh liệt như cái lần tôi trở lại Sài Gòn cuối năm 1981 đầu năm 1982. Tôi thật sự không lý giải được là tại sao? Đúng ra, ở Tây Nguyên phải có nhiều cảm xúc hơn thì mới phải, vì Tây Nguyên là trận đánh đầu tiên để mở màn chiến dịch Hồ Chí Minh. Theo đạo lý, phàm những việc đầu tiên thường giữ lại nhiều kỷ niệm nhất, thì phải nhớ nhiều nhất, nhưng đằng này lại không phải thế. Tôi cho rằng nó có thể bị chi phối bởi cuộc hành quân dài ngày từ Quảng Trị vào, hơn nữa trận đánh xảy ra táo bạo bất ngờ quá, đối thủ sụp đổ hoàn toàn, nên cũng chẳng có gì để nói. Trong khi đó, Sài Gòn là trận huyết chiến lịch sử để kết thúc chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng hoàn toàn Miền Nam thống nhất đất nước. Trận này không những tôi nhớ mà mọi người dân Việt Nam đều nhớ, có thể cả Thế Giới cũng nhớ.
   Không nhớ sao được? Chiến dịch Hồ Chí Minh vĩ đại quá, thần tốc quá, thời sự quá, nó hút hết tất cả tinh thần và trí lực của những người trong cuộc, của những người lính như chúng ta. Ngay cả khi cuộc chiến khốc liệt nhất đánh vào Xuân Lộc cửa ngõ của Sài Gòn. Chết chóc và hy sinh như vậy, nhưng bộ đội ta không mảy may tính toán đến mạng sống mà vẫn ào ạt xông lên. Những phút gian nguy ấy bây giờ lại càng nhớ, nhớ đến chết thì thôi. Thời gian ấy, đâu chỉ có người Việt Nam căng thẳng theo dõi chờ đợi, mà có thể nói nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới lúc đó cũng quan tâm đến tình hình chiến sự ở Miền Nam Việt Nam, hay đúng hơn là họ quan tâm đến sự sống còn của thể chế chính trị VNCH…
  Ngày xây dựng công trình thủy điện Dray H’Linh ở ĐakLak, khi đó vẫn còn bọn Funro hoạt động ở bên bờ trái. Để bảo đảm an toàn cho việc xây dựng công trình, các đơn vị bộ đội phải tổ chức tuần tra canh gác rất nghiêm ngặt. Được cái, đơn vị thi công công trình khi đó là bộ đội của sư 470, kể cả tôi cũng đã trải qua chiến đấu rồi, nên chuyện ấy cũng bình thường đối với mọi người. Tuy vậy, đôi lúc cũng nghĩ: Đi chiến đấu thì không hy sinh, nhưng đi xây dựng công trình có khi lại hy sinh thì sao? Nghĩ thì nghĩ vậy, nhưng cũng chẳng còn cách nào khác. Thôi thì phó mặc cho số phận.
  Thời gian tham gia xây dựng công trình, có một chuyện rất bất ngờ xảy ra với tôi. Hôm nay tôi kể ông nghe nhưng ông đừng cười nhé. Chuyện thật 100%. Đợt ấy, Ban quản lý dự án bố trí cho tôi ở nhà khách số 5 của tỉnh ở thị xã Buôn Ma Thuột. Vì ở xa nên buổi sáng tôi vào công trình đi làm, chiều tối ra nghỉ ngơi ở nhà khách. Lịch trình sinh hoạt của tôi ngày nào cũng như ngày nào, tôi cũng không có thời gian để ý đến những việc xung quanh, hơn nữa đây là nhà khách của UBND tỉnh, thì những người đến đây ở chắc cũng đều là khách như mình cả. Do suy nghĩ như vậy nên tôi cũng không nghĩ là sẽ có chuyện gì xảy ra.
  Tối hôm ấy như thường lệ.  Ăn tối xong, tôi đang nằm xem TV. Bên ngoài có tiếng gõ cửa, tôi ngại ngồi dậy cứ nằm xem TV và nói vọng ra:
   -Ai đấy! Cứ vào đi.
    Một cô gái mặc bộ đồ ngủ nền trắng điểm những bông hoa màu tím hay mầu gì đó, một tay xách chiếc xô nhựa mầu đỏ, đẩy cửa bước vào. Mọi động tác của cô ta nhanh nhẹn đến nỗi tôi không kịp phản ứng gì. Cô ta nói điều gì đó rất nhanh, đồng thời bước vào trong nhà vệ sinh. Sau đó tôi nghe thấy tiếng nước chảy vào xô. Lúc ấy tôi mới nghĩ ra là cô ta vào xin nước. Tuy vậy tôi cũng hơi băn khoăn là cô ta ở đâu? Tại sao lại vào phòng tôi xin nước. Nhưng tôi lại nghĩ ngay : Mọi thắc mắc cũng chẳng để làm gì, lấy xong nước cô ta về là hết chuyện.
  Tôi nằm xem vô tuyến, nhưng chẳng hiểu vô tuyến đang nói gì. Tai tôi nghe nước chảy vào xô ồ ồ, sau đó là tiếng dội nước ào ào. Tôi đoán có khi cô ta tắm cũng nên? Nhưng tắm sao lại không đóng cửa? Chắc là không phải. Vậy cô ta làm gì? Có rất nhiều phỏng đoán về cô ta diễn ra trong đầu tôi lúc đó. Chợt tôi nghe tiếng cô ta gọi :
   -Anh ơi! Làm ơn cho em nhờ tý.
  Tôi ngồi dậy và vô tư đi đến cửa nhà tắm. Tôi sững người khi nhìn thấy cô gái cởi trần cởi truồng đang xối nước ào ào rất tự nhiên. Một tình huống khó xử, tôi định lùi lại thì cô ấy nói:
   -Anh kỳ giúp em cái lưng!
  Thú thực với ông, nếu ở tình huống khác có thể tôi sẵn sàng, vì tôi là con trai mà. Nhưng trong trường hợp này không hiểu sao lòng tự trọng của tôi như từ trên trời rơi xuống, tôi hồi hộp thở gấp, buột miệng nói một câu ngắn gọn:
   -Cô nhanh lên rồi ra khỏi phòng tôi!
  Tôi bước vội khỏi buồng tắm, tai tôi vẫn còn nghe cô ấy nói theo:
   -Anh cho em xin tý dầu gội đầu nhé!
  Tôi không trả lời và nghĩ bụng : Trâng tráo đến thế là cùng. Bọn này đúng là gái làm tiền…
  Sau đó tôi tưởng mọi chuyện sẽ qua đi, nào ngờ đêm đó tôi gần như mất ngủ. Ông biết không? Khoảng hơn mười giờ đêm, tiếng mấy đứa con gái tụ tập trước  cửa phòng tôi nói chuyện. Chúng bảo với nhau:
   -Phòng này có thằng con trai Miền Bắc trông ngon lắm, nó ở một mình. Ban nãy em vào tắm để gợi ý nó, nhưng nó đuổi em ra. Bây giờ chị thử gõ cửa xem.
  Nghe chúng nói thế, tôi phát hoảng, sợ chúng ập vào thì rách việc. Trong khi đó, cửa phòng của tôi lại không chốt được thế mới đen chứ. Chưa biết làm cách nào, tôi rón rén ra chặn cửa đề phòng bất trắc. Bên ngoài bọn chúng nói chuyện với nhau rất tự nhiên, có thể nó chúng nó tưởng tôi đã ngủ rồi nên chúng nói bậy lắm. Đúng chất giọng của gái làm tiền, tôi nghe thấy có một chi tiết, tôi đoán ngay:  Trong số chúng nó, có một đứa có con. Để có thể đi làm thì phải gửi người trông con hộ. Tất nhiên là phải trả công, nhưng có lẽ không muốn trả . Giọng một đứa nói:
   -Ngày trước lúc tao có bầu, tao không đi làm được. Tao ở nhà trông con cho chúng nó. Bây giờ chúng nó có bầu, chúng nó ở nhà trông con cho tao, thế là huề tiền đâu mà trả…
   Chúng nó đi rồi, tôi nằm trằn trọc không ngủ được. Tôi nhớ cái ngày sau giải phóng Sài Gòn, tôi được đơn vị trả về trường cũ để học tiếp. Khi tôi hành quân ra đến khu gia binh Phú Bài ở Huế. Ở đấy bọn gái làm tiền chẳng hiểu xô dạt từ đâu về mà sao nhiều đến vậy. Cảnh mật ít ong nhiều, người bán nhiều hơn người mua. Những kẻ bán hoa vì đói quá, chỉ mong có nửa phong lương khô là có thể qua được cơn đói đang hành hạ, họ sẽ có sữa cho con bú, họ sẽ bán tất cả…
   Tôi chợt nhớ đến truyện ngắn : Người ngựa và Ngựa người của Nguyễn Công Hoan. Tôi lại nhớ đến chuyện xảy ra ở đoàn thiết kế thủy điện Trị An. Ôi! cũng một kiếp người…
(Còn nữa ).
   


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: Phó cối trong 08 Tháng Tư, 2015, 05:52:06 pm
                                         Chào các bác

     Đến cổng nhà các bác em chỉ dám ngó nghiêng đọc bài của các bác nhưng không dám tham gia vì các bác là các bậc tiền bối đi trước trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc còn em đi sau thì
     cuộc chiến tranh đã chuyển giai đoạn khác nó là chiến tranh bảo vệ tổ quốc ,mà hai cuộc chiến tranh này nó khác nhau hoàn toàn cả về ý nghĩa  lẫn cục diện

     Hôm nay vào đọc thấy bác trần phú nói mấy câu về bài thơ mà nữ thanh niên xung phong viết em cũng mạo muội xin phép tham gia mấy câu . tác giả của bài thơ là PHẠM THỊ XUÂN KHẢI sinh viên
     khoa văn trường đại học sư phạm hà nội ,em cũng xin đưa mấy câu

                                     ( nhớ chuyện ngày xưa khỉ làm vua
                                     con cáo ranh ma khéo đánh lừa
                                     vừa ngủ vừa dốt vừa mắc bẫy)

     Thưa các bác ,không phải ngày xưa đâu mà ngay cả bây giờ cũng có nó trở thành quốc nạn rồi


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 15 Tháng Tư, 2015, 01:37:27 pm

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Số phận
     Sang đầu năm 1985, tôi tham gia thiết kế công trình thủy điện An Điềm. Công trình này xây dựng ở ngã ba sông Côn và suối Vàng thuộc huyện Đại Lộc tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng. Công trình cách thành phố Đà Nẵng hơn 70 km về hướng Tây Bắc. Ngày ấy lên nơi xây dựng công trình là heo hút lắm, dân cư thưa thớt, thời gian đầu chúng tôi phải ở nhờ trại tù An Điềm. Ông biết rồi đấy, chọn nơi để xây dựng trại tù thì mọi thứ phải như thế nào để tù không bỏ trốn được. Khu vực này từ địa hình, khí hậu và môi trường đều thích ứng để xây dựng trại tù. Chả thế, cách trại tù An Điềm 30 km về phía thượng lưu sông Côn thì lại có một trại tù nữa. Mọi thứ ở đây thật khủng khiếp, dạo ấy chúng tôi nghe được câu nói của một tù nhân, nghe xong không biết nên buồn hay nên vui.
  Chuyện thế này: Hôm ấy có người tù đi chăn bò, ngồi xem chúng tôi khoan thăm dò ở khu vực dự kiến xây dựng nhà máy thủy điện, buột miệng nói ra: Con tưởng các ông kỹ sư thì sướng lắm, ai ngờ các ông như thế này thì còn khổ hơn chúng con. Thoảng nghe qua thì thấy bình thường, sau này càng nghĩ càng thấm thía, nhưng biết làm sao được? Thôi thì đành chấp nhận, âu nó cũng là số phận.
  Xây dựng thủy điện An Điềm, ở đó tôi bắt đầu ý thức về cái mọi người gọi là mê tín. Dạo ấy hình như chưa phân biệt thế nào là tâm linh, thế nào là mê tín. Vì thế tất cả những việc làm có liên quan đến khấn vái trời đất, đến người đã khuất thì đều cho là mê tín. Những việc làm hồi ấy, có nhiều ý kiến nói vào nói ra, song hầu như những người có trách nhiệm về cơm áo cho ít nhất là một tổ sản xuất trở lên, họ đều bỏ ngoài tai, việc cần phải làm là họ làm. Ví như bắt đầu bất cứ một công việc gì đầu tiên ở thực địa, là họ thắp hương khấn vái. Quan niệm của họ rất đơn giản: Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá. Họ nói: Tất cả mọi nơi trên đất nước Việt Nam, vì phải chịu biết bao đau thương do chiến tranh nên khắp chốn khắp nơi đều có những linh hồn cô quả còn đang lang thang chưa nơi nương tựa, nên cần phải khấn vái để xin phép.
   Bên cạnh đó, nghề xây dựng thủy điện là nghề có liên quan đến đất đá sông nước, là nghề làm thay đổi diện mạo của tự nhiên. Ví như dòng sông đang chảy bình yên, con người đắp đập lại thành hồ, cho nước chảy qua tuốcbin để phát điện. Dòng sông bao đời nay vẫn chảy thẳng nay lại bẻ cong cho chảy ra chỗ khác. Đất đá đã ổn định và trường tồn bao đời nay, con người lại đào lên đắp vào làm thay đổi sự trường tồn ấy v.v. Tất cả những thay đổi ấy đều là nguyên nhân gây nên sự dận dữ của thiên nhiên. Mà sức mạnh của thiên nhiên thì thật là khủng khiếp, trong khi đó sức của con người lại quá nhỏ nhoi… Tóm lại, nghề xây dựng thủy điện là nghề có nhiều nguy hiểm, tính mạng của con người thường xuyên bị đe dọa. Từ những lý do ấy, việc cầu xin sự an toàn, âu cũng là lẽ tự nhiên của con người.
  Ở thủy điện An Điềm, có hai việc tôi kiểm chứng. Không biết có phải ngẫu nhiên hay là do kết quả của việc có thờ có thiêng, có kiêng có lành?  Việc thứ nhất là chọn vị trí xây dựng nhà máy thủy điện, việc thứ hai là chọn vị trí xây nhà quản lý vận hành nhà máy thủy điện sau này. Chọn vị trí xây dựng các hạng mục công trình, trải qua nhiều bước. Bước thứ nhất là căn cứ vào bản đồ địa hình để lựa chọn sơ bộ, bước thứ hai là căn cứ vào thực địa, địa hình địa mạo. Bước thứ ba được quyết định trên cơ sở kết quả khảo sát thăm dò.
  Vị trí dự kiến xây dựng nhà máy thủy điện An Điềm đã khoan khảo sát đến bốn vị trí. Ba vị trí trước đều không đạt yêu cầu, khi thì một góc nhà máy gặp được đá gốc, khi thì hai góc, khi thì ba góc, chưa lần nào phát hiện được đá gốc ở bốn góc nhà máy. Trong khi đó đá ở xung quanh công trình lộ lên rất nhiều, thế mà khoan thì lại không gặp được đá gốc. Trong trường hợp khó khăn ấy, những người có trách nhiệm đặt ra nhiều nghi vấn: Có thể anh em công nhân đã làm thủ tục động thổ, nhưng chưa thật sự thành tâm? Có thể năng lực của chủ nhiệm địa chất bị hạn chế? Có thể đây là vùng đất thiêng, cần phải làm gì đó quy mô hơn v.v. Tất cả những nghi ngờ ấy đều được xem xét thận trọng nên cuối cùng đã thành công. Thành công rồi, có người nói: Khoan khảo sát nát ra rồi thì làm gì mà không tìm được v.v.
  Chọn vị trí xây dựng nhà quản lý vận hành đơn giản hơn, thực tế nó chỉ là tòa nhà cao tầng, yêu cầu về địa chất không đến nỗi khắt khe lắm, miễn là nền móng được đặt trên đất nguyên thổ là tốt rồi. Mà đất trong rừng thì gần như chỗ nào cũng là nguyên thổ, đặt đâu mà chả được, miễn là chỗ ấy phù hợp với vận hành sau này của nhà máy. Ấy thế mà lại gặp khó khăn. Khó khăn ở trường hợp này là chọn được vị trí phù hợp với yêu cầu của dự án thì lại không đủ đất, vì bị sát vào bở lở của sông Côn. Dịch đi dịch lại đều không được. Cuối cùng như có ai xui khiến, quyết định dời sang quả đồi ngay sát đó thì phát hiện được nghĩa trang liệt sĩ tạm thời của các đơn vị bộ đội đánh căn cứ Thượng Đức trước kia. Nghĩa trang này đã bị bỏ quên, không còn dấu tích gì trên mặt đất, chỉ đến khi chúng tôi bắt đầu mở móng công trình mới phát hiện được. Khi ấy, mọi người bảo: Là do linh hồn của các anh ấy xui khiến cho mọi người phát hiện ra, để các anh được đưa về nghĩa trang  địa phương. Một ngày nào đó người thân của các anh sẽ đón các anh về nơi chôn rau cắt rốn, các anh sẽ được quanh năm hương khói, linh hồn không còn lang thang cô quạnh nữa.
  Một hôm chúng tôi nói chuyện với anh giám đốc trại tù, anh ấy bảo: Ngày trước anh ấy là bộ đội địa phương, anh cũng tham gia đánh căn cứ này, nhưng ở hướng khác. Khu vực này là căn cứ tiền phương của ta để tiến đánh Thượng Đức, tất cả các đợt tấn công đều xuất phát từ đây và đây cũng là nơi tập kết các thương binh liệt sĩ. Anh ấy kể: Thượng Đức là một cứ điểm quan trọng của QLVNCH, căn cứ này ở trên đỉnh núi cao, nó giống như mắt thần bao quát toàn bộ một vùng rộng lớn, từ trên cao xuống tận đồng bằng, kéo về đến tận thành phố Đã Nẵng.
  Đánh được căn cứ này, quân ta cũng tổn thất nhiều lắm. Các anh thấy đấy, địa hình dốc ngược rất khó khăn cho quân ta triển khai các mũi tấn công. Chính nhờ địa hình này nên tên sĩ quan chỉ huy căn cứ Thượng Đức lúc đó đã huyênh hoang tuyên bố: Khi nào nước sông Vàng chảy ngược, khi ấy cộng sản mới lấy được căn cứ Thượng Đức.
  Nghe anh kể, tôi nhớ lại. Ngày ấy đơn vị C20 E95 của chúng mình đanh hành quân dã ngoại, rèn luyện khoa mục phương án tiếp cận cao điểm 544 và cứ điểm Đầu Mầu. Đơn vị hành quân dọc theo đường 9, gặp những đoàn xe chở thương binh ngược ra hướng Cam Lộ. Anh em mình hỏi với: Ở đâu ra đấy? Trên xe trả lời: Thượng Đức ra đây! Hồi ấy chiến trường rộng lớn nên không tưởng tượng nổi Thượng Đức là ở hướng nào, chỉ nghe kể đánh Thượng Đức là trung đoàn 2 của sư 304. Đó là một đơn vị đánh cứ điểm thiện chiến, thế mà nhiều lần tổ chức tấn công vẫn không lấy nổi, thương vong nhiều lắm.
  Hôm nay đứng giữa ngã ba sông Vàng ngước nhìn về căn cứ Thượng Đức mà rợn tóc gáy. Nhìn những đám mây vần vụ ôm ấp đỉnh núi, mà nghĩ đến thời gian cách đây 7-8 năm, mình cũng đã từng ôm súng tiền nhập vào cứ điểm 544. Ngày ấy, mới chỉ là rèn luyện thực binh thôi, thế mà nhiều anh em cắt góc phương vị để đi nhưng vẫn bị lạc không lên nổi, lần mò cả đêm mới leo lên được đỉnh 544. Trong khi đó ở Thượng Đức là chiến đấu thật thì không biết còn khó khăn gian khổ đến mức độ nào? Chiến đấu và hy sinh khi đánh chiếm cứ điểm Thượng Đức, cũng là lẽ tự nhiên thôi. Ôi! Một thời vàng son, còn sống mãi với những người lính trận mạc. Cầu mong linh hồn của các anh các chị, được siêu thoát về nơi vĩnh hằng…
   Chuyển sang công trình thủy điện Vĩnh Sơn của tỉnh Nghĩa Bình, cũng gặp những cảnh không biết nói thế nào? Năm ấy là năm 1987. Khi chúng tôi đi nghiên cứu vùng hồ thủy điện Vĩnh Sơn, nằm trong khu rừng nguyên sinh Kon Hà Nừng. Nghe đâu đây cũng là khu căn cứ của cách mạng trong thời kỳ chống Mỹ, bây giờ là lâm trường Kon Hà Nừng. Rừng ở đây đẹp không bút mực nào tả nổi. Ngày hành quân vào Nam chiến đấu, đi qua vùng Nghệ Tĩnh Quảng Bình thi thoảng gặp những dẻo rừng nguyên sinh còn sót lại, bám dọc theo những con suối. Khi ấy đã thấy nó đẹp lắm rồi, nhưng  không thể nào so được với rừng Kon Hà Nừng.
  Rừng Kon Hà Nừng thâm u nhiều năm tuổi, hầu hết là những cây cổ thụ có đường kính nhiều người ôm mới xuể. Thấp thoáng dưới những gốc cây cổ thụ ấy là những túp lều nhỏ nhắn xinh xắn và có phần bí ẩn.  Đang trong hành trình đi khảo sát, chúng tôi cũng chưa gặp được ai để hỏi xem những căn lều ấy dùng để làm gì? Đêm hôm ấy, chúng tôi nghỉ lại nông trường bộ để ngày mai đi tiếp.
  Tối hôm ấy, chúng tôi được ban giám đốc lâm trường chiêu đãi đặc sản rừng Kon Hà Nừng. Buổi tối hoang dại và chân tình quá, dưới ánh lửa bập bùng của núi rừng, thanh niên nam nữ lâm trường cùng chúng tôi nắm tay nhau nhảy múa nhiệt tình. Sau mỗi điệu nhảy, khi tiếng cồng lắng lại. Chúng tôi mỗi người phải uống một căn rượu cần, rượu pha với mật ong rừng nguyên sinh Kon Hà Nừng ngọt và mát, càng uống càng ngon. Tình cảm của các thiếu nữ lâm trường chân thành, rượu cần thơm ngọt làm cho chúng tôi say tự lúc nào mà không biết.
  Đêm ở Kon Hà Nừng se lạnh làm tôi tỉnh giấc, tôi quờ tay kéo chăn lên ngực cho đỡ lạnh, nhưng không kéo được.  Dưới ánh đèn dầu mờ mờ, tôi nhìn thấy có vật gì đó đè nặng ở phía dưới chân tôi. Tôi cố nghĩ xem đây là đâu? Ai đã đưa mình về đây? Và đi về đây bằng cách nào? Nhưng chịu không thể hình dung được.Tôi đưa mắt quan sát khắp lượt, nhận ra mình đang ở trong gian nhà nhỏ nhắn, xung quanh tường và trần nhà được dán trang trí bằng những tờ họa báo xanh xanh đỏ đỏ. Tôi nằm trên chiếc giường ấm áp mềm mại, tuy có mùi đèn dầu khen khét, nhưng tôi vẫn thấy thơm thơm mùi con gái.
  Tôi nhổm lên nhìn xem vật gì đè vào chân tôi. Tôi phát hiện ra một người, đang nằm co quắp dưới chân tôi. Người này tôi đoán là phụ nữ, vì trông dáng nhỏ nhắn. Hơn nữa, tôi cũng ngửi được mùi thơm thơm dìu dịu của nước gội đầu. Đấu tranh tư tưởng một lát, tôi quyết định ngồi dậy. Cô gái tỉnh giấc, hốt hoảng choàng dậy. Vén lại mái tóc còn đang xõa trước mặt và đi tới vặn to ngọn đèn dầu. Căn phòng được sáng thêm, cô đi lại phía tôi nhỏ nhẹ:
   -Có phải em làm anh tỉnh giấc không?
  Tôi quan sát cô gái rất nhanh, và nhận ra đây là cô gái lúc tối đã chúc tôi mấy căn rượu. Khi đó tôi có hỏi thăm quê quán của cô, trong không khí huyên náo của bữa tiệc, cộng với sự kích động của hơi men. Tôi nghe tiếng được tiếng không, chỉ nghe rõ được tiếng “Bình”. Tôi lờ mờ đoán ra là Hòa Bình; Thái Bình; Ninh Bình. Bây giờ khi nhận ra cô gái là người quen, làm tôi tự nhiên hơn:
   -Không? Là do anh khát nước nên mới tỉnh giấc.
   -Để em lấy nước cho anh.
  Cô gái đưa cho tôi chiếc bình tông đựng nước bằng nhôm, loại được trang bị cho bộ đội thời chiến tranh. Tôi ngửa cổ tu ừng ực, cô gái  chưa kịp đưa cốc cho tôi thì nửa bình tông nước đã chui tọt vào bụng tôi. Sau khi thỏa mãn cơn khát, tôi mới hỏi cô gái:
  -Này em! Hôm qua ai đưa anh về đây? Bây giờ anh không nhớ mọi người đã đưa anh về đây bằng cách nào?
  Cô gái có vẻ đỏ mặt, vội quay đi để dấu nụ cười và nhỏ nhẹ:
   -Tự anh đi về, anh to lớn như vậy ai có thể đưa anh về đây được.
   -Thế à! Anh không tin là tự anh có thể đi được.
   -Vậy theo anh thì ai đưa anh về đây?
   -Có thể có ai đó dìu anh về.
   -Vâng! Thì cứ cho là như vậy. Chuyện ấy không quan trọng, điều quan trọng là anh vẫn ổn và rất tỉnh táo đang ngồi nói chuyện với em thế là được rồi.
  Chúng tôi ngồi lặng im nhìn ngọn đèn dầu lập lòe. Trong đầu tôi biết bao nhiêu thắc mắc về cô gái, nhưng không biết bắt đầu từ đâu. Tự nhiên tôi bật ra câu hỏi rất vô duyên, biết rồi mà vẫn hỏi:
   -Em ở đây một mình à!
  Rõ ràng, một gian nhà, một chiếc giường. Không ở một mình thì ở hai mình làm sao được. Cô gái không chấp tôi việc ấy, cô vừa cười vừa trêu tôi:
   -Bình thường là một mình, nhưng hôm nay là hai mình… Nói đùa anh vậy thôi, bọn em trước kia ở chung. Nhưng vì mấy chị có con nhỏ nên ngăn ra để cho tiện sinh hoạt.
   -Sao lâm trường không sắp xếp họ vào khu gia đình mà đưa ra mãi đây?
   -Con của chúng em tự kiếm nên không có tiêu chuẩn vào khu gia đình.
   - !!!
  Tiếng gà nhà, gà rừng tranh nhau gáy sáng, đoàn chúng tôi lại vội vã chuẩn bị lên đường cho kịp hành trình. Đi sau tôi là anh cán bộ của địa phương. Tôi lùi lại chờ anh đi cùng để hỏi anh về một số điểm mà tôi thắc mắc khi nói chuyện với cô gái đêm qua. Tôi hỏi anh điều gì anh cũng cười mà không trả lời, đến khi tôi hỏi: Thế nào là con tự kiếm? Khi ấy anh lại cười lớn hơn và hỏi tôi:
   -Đêm hôm qua anh có giúp đỡ họ cái gì không?
  Tôi thật thà trả lời:
   -Không! Đêm hôm qua say rượu thế thì còn làm gì được, với lại cũng không thấy ai nhờ tôi việc gì.
   -Thế thì phí rượu rồi.
   -…   
  Sau đó anh kể cho tôi nghe về chuyện trung đoàn nữ TNXP ở lâm trường Kon Hà Nừng. Nghe xong, tôi rã rời chân không muốn bước. Tôi thấy tội nghiệp cho những cô gái, nhưng tôi lại thấy họ cao thượng quá, và thiệt thòi quá…
(Còn nữa).


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 24 Tháng Tư, 2015, 03:56:36 pm

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Số phận.
    Có lẽ đã hơn năm năm, tính từ cái đêm hai đứa ôm nhau ngủ trên sân thượng nhà thí nghiệm của Viện Năng Lượng, đến giờ Hoàng vẫn chưa gặp Khoa. Cuộc sống khó khăn, mọi người mải miết bươn chải lo miếng cơm manh áo, thành ra bạn bè đã xa nhau lại càng xa hơn. Thời gian này, chẳng hiểu sao Hoàng rất muốn gặp Khoa. Kể ra cũng không có việc gì quan trọng, mà chỉ là nhớ nhau, muốn nhìn thấy nhau, muốn uống với nhau chén rượu ôn lại những ngày chiến đấu ở Quảng Trị và kể cho nhau nghe những chuyện buồn chuyện vui xảy ra gần đây. Mơ ước nho nhỏ thế mà cũng khó, vì hai đứa cách nhau tới bảy tám trăm cây số, nên đành chịu.
  Hoàng với tay lấy tấm ảnh đứa con trai đặt trên kệ xuống ngắm nghía, đã rất nhiều lần ngắm nhìn ảnh con, Hoàng cố phát hiện xem có nét nào giống mình không? Nhưng chịu, có thể vì nó còn bé nên chưa rõ nét. Trong khi đó mọi người xung quanh nhìn nó thì bảo: Nó giống Luyến như đúc, họ lại còn tán thêm: Vì Luyến quá khỏe nên át cả Hoàng. Hoàng thấy họ nói cũng đúng. Hoàng hơn Luyến gần 8 tuổi, Hoàng có hơn 4 năm chiến đấu ở Quảng Trị. Sức khỏe của Hoàng cũng kém rồi, trong khi đó Luyến càng ngày càng trẻ đẹp, trông phây phây đầy sức sống. Mỗi lần hai vợ chồng đi chung với nhau mọi người trêu đùa, to mái thì hại sống. Hoàng thì không sao, còn Luyến đỏ dựng cả mặt.
  Hôm nay sinh nhật lần thứ 2 đứa con trai của Hoàng. Vì công việc đột xuất, không bố trí được thời gian về quê làm sinh nhật cho con  như đã hứa với vợ, nên Hoàng thấy buồn. Hoàng đứng lên ngồi xuống, đi ra đi vào, cảm thấy buồn buồn. Có thể do không thực hiện đúng lời hứa với con, nên Hoàng buồn. Thật ra, vợ con Hoàng sống trong sự bảo bọc của ông bà nội ngoại, nên Hoàng cũng không phải lo lắng gì ngoài việc gửi tiền về cho vợ nuôi con. Mọi việc ở nhà, từ công to việc lớn đều một tay Luyến lo liệu. Được cái sức khỏe của Luyến rất tốt, tuy đã hai lần sinh nở, nhưng càng sinh nở lại càng đẹp ra, có phần đằm thắm mặn mà hơn thời con gái. Hoàng có ở nhà chỉ thêm có người có tiếng cho vui cửa vui  nhà, thực ra chẳng giúp được gì cho vợ.
   Thời gian này, Hoàng rất thương vợ. Những cử chỉ yêu thương của Hoàng, đôi lúc làm cho vợ ngạc nhiên và ngượng ngùng. Nhiều khi Hoàng cũng không hiểu sao mình làm như vậy? Đã có lúc Hoàng suy nghĩ xem tại sao? Tất nhiên là sẽ có rất nhiều nguyên nhân được đặt ra, nhưng Hoàng cho rằng có ba nguyên nhân cơ bản: Thứ nhất là vì vợ Hoàng sinh cho Hoàng được một công chúa và một hoàng tử đẹp như thiên thần, việc này chẳng mấy ai làm được. Thứ hai là Luyến càng ngày càng xinh, đầy cuốn hút. Thứ ba là gần đây có những chuyện mà Hoàng không muốn cho vợ biết, trong thâm tâm Hoàng cũng cảm thấy có gì đó không được minh bạch đối với Luyến. Tất cả những thứ đó Hoàng cảm thấy bồn chồn chỉ muốn được về nằm bên vợ, nghe vợ thủ thỉ chuyện ông bà, chuyện con cái…
   Chuyện không minh bạch với vợ, Hoàng rất muốn tâm sự với Khoa, chỉ có Khoa mới cho Hoàng những lời khuyên chân thành nhất. Nhưng Khoa tháng ngày bươn trải biền biệt, khi trong Nam khi ngoài Bắc. Thời gian này chắc là Khoa đang ở Công trường thủy điện YaLy. Khoa bây giờ đã là Phó trưởng đoàn thiết kế thủy điện, lại là phó chủ nhiệm công trình thủy điện YaLy, Khoa không còn được dỗi dãi như xưa nữa. Nghĩ đến Khoa, Hoàng thấy vui vui. Khoa tuy hơi lận đận về đường tình duyên, nhưng lại may mắn về đường công danh. So với bạn bè cùng đơn vị chiến đấu sau về cùng học đại học, Khoa là một trong số những người thành đạt. Hoàng nghĩ, thôi thế cũng tốt rồi!
   Đã gần mười giờ đêm, không khí vẫn ngột ngạt oi nồng, kiểu này chắc trời sắp mưa. Hoàng lững thững bước, hơi nóng bốc lên từ mặt đường bê tông át phan phả vào mặt làm Hoàng khó chịu. Hoàng rẽ về phía đê Đà Giang. Sông Đà đang là mùa nước, hơi nước từ sông bốc lên làm Hoàng dễ chịu. Từ ngày nhà máy thủy điện Hòa Bình đi vào hoạt động, khúc sông này vắng bóng những con thuyền lớn, chỉ còn những con thuyền đánh cá bé như những lá tre le ve trên mặt nước. Trời đã về đêm, dòng sông trở nên êm đềm hơn. Hoàng tìm đến bến phà cũ, ngồi ngắm nhìn những con thuyền đang neo đậu gần đấy. Ánh sáng của những bóng điện chạy bằng ắcquy hắt ánh sáng xuống mặt nước lung linh. Hoàng nhớ đến những chuyến phà vào đêm muộn chở Hoàng với Thủy qua sông, lất phất những hạt mưa, trời se lạnh.
  Giờ này bên ấy không biết là mấy giờ, có thể là gần trưa rồi, cách nhau những nửa vòng trái đất cơ mà. Từ ngày sang đấy Thủy có khỏe không? Cuộc sống bên ấy thế nào? Thủy có hạnh phúc không? Đã có tin vui chưa? Không đi làm, ở nhà một mình thì buồn lắm, Thủy nên sinh đứa con cho vui cửa vui nhà khi chồng đi vắng. Chắc là người Tây không như người ta đâu Thủy nhỉ? Chồng đi đâu là vợ con đi theo đấy, họ không mấy khi để vợ con ở nhà một mình, có đúng thế không? Đấy là Hoàng đoán vậy thôi, chắc chắn Thủy biết sắp xếp để lo toan cho hạnh phúc của mình. Hoàng cầu mong cho Thủy được hạnh phúc, Thủy sống hạnh phúc là Hoàng vui lắm rồi, Hoàng thấy nuối tiếc và cũng có phần ân hận.
  Hoàng nằm lên thảm cỏ đê Đà Giang, nghĩ miên man về Thủy. Mùi cỏ hăng hắc thơm nồng, gợi cho Hoàng nhớ đến những câu chuyện mà Hoàng đã kể cho Thủy nghe về những đêm luồn sâu vào lòng địch trong thời kỳ chiến đấu ở Quảng Trị. Hoàng thật thà kể: Ngày ấy chẳng hiểu sao? Cứ mỗi lần bọn anh đi luồn sâu là liên tưởng đến sự hy sinh, cầm chắc hai phần chết chỉ một phần sống. Biết thế nhưng không ai từ chối, tất cả đều vui vẻ nhận nhiệm vụ. Khi màn đêm buông xuống, nuốt chửng những chàng trai trinh sát bọn anh, cũng là lúc các anh nghĩ về gia đình về bố mẹ. Không thành lời, nhưng ai cũng khấn cầu cho bố mẹ khỏe mạnh, mọi người trong gia đình được bình yên. Còn các anh, vì Tổ Quốc có thể phải hy sinh điều ấy là tất yếu, song không còn con đường nào khác, nên bọn anh đi vào chỗ chết cũng rất thanh thản…
   Thoắt một cái đã hơn một năm, kể từ ngày Thủy theo chồng về Hà Lan. Hồi tưởng về quá khứ, Hoàng cảm thấy Thủy đến với Hoàng như ngọn gió. Đến và đi cũng rất nhanh, ban đầu thì nhẹ nhàng mơn man càng về sau càng dữ dội, có những lúc ầm ầm hung dữ như bão tố, bây giờ gió thổi ở trời Tây không biết thế nào? Nghĩ về bức thư cuối cùng Hoàng viết cho Thủy, nói về việc Thủy có nên bỏ về quê hay tiếp tục ở lại làm cô giáo ở vùng xa xôi hẻo lánh của núi rừng Tây Bắc. Trong đó có một lời khuyên cho Thủy:  Thủy ơi! Em nên cân nhắc cẩn thận, bảy lần đo mới một lần cắt, đừng vội vã mà hỏng việc.
   Sau lá thư ấy, chắc Thủy dận Hoàng lắm nên Thủy không viết thư cho Hoàng nữa. Ngày này qua ngày khác Hoàng ngóng chờ tin Thủy, song vẫn không thấy Thủy hồi âm. Hoàng dận mình dận Thủy, nhưng hàng ngày vẫn mong mỏi đợi chờ. Thời gian cứ lặng lẽ trôi, đến hơn một năm sau. Không còn chờ được nữa, Hoàng về quê lấy vợ, hình ảnh của Thủy chỉ còn lại là kỷ niệm. Từ ngày Hoàng lấy vợ, cuộc sống của Hoàng bước sang một trang mới, Hoàng sống trong tình yêu thương chăm chút của Luyến. Tình yêu của Luyến giành cho Hoàng, nhiều đến nỗi Hoàng không còn thời gian để nghĩ đến người khác nữa. Thế rồi cũng giống như bao cặp vợ chồng khác, vợ Hoàng sinh con, Hoàng lại có thêm niềm vui mới. Đôi lúc Hoàng cũng có nghĩ đến Thủy, nhưng hình ảnh của Luyến của con lại ùa vào chiếm chỗ.
  Hoàng đâu có ngờ rằng, thời gian Hoàng mong mỏi đợi chờ, và cả thời gian Hoàng sung sướng hạnh phúc bên vợ bên con. Thì cũng chính là thời gian Thủy đau khổ nhất, Thủy mong gặp Hoàng nhưng không dám gặp. Thủy kể: Nghe lời Hà dụ dỗ, Thủy trốn về xuôi. Thủy đến gặp Hà mong được Hà giúp đỡ, nhưng khi gặp được Hà rồi thì mọi viễn tưởng về cuộc sống tốt đẹp ở dưới xuôi tan đi như bong bóng xà phòng. Thủy đành quay về nhà, về miền quê bán sơn địa nghèo đói. Bố của Thủy, người cựu chiến binh, thương binh chỉ quen cầm súng xông lên không bao giờ lùi bước. Nay thấy Thủy quay về, ông cho đó là nỗi nhục của gia đình, ông quay ra ốm. Mẹ con Thủy hết lòng chăm sóc nhưng ông không thể dậy nổi. Thủy ở nhà chăm bố mấy tháng rồi trốn mẹ ra đi. Đi đâu? Làm gì? Thủy không biết. Thủy cứ đi, mang theo sự nhục nhã ê chề.
   Nấc lên thổn thức trong nước mắt, Thủy kể: Những bước chân lang thang vô định của ngày đầu tiên khi rời khỏi gia đình, người mà em nhắm tới để nhờ cậy là anh. Nhưng biết anh đã có vợ, đến làm sao được, với lại bây giờ còn mặt mũi nào để nhìn anh nữa. Em không biết đi đâu, em không có nơi nương tựa. Trong lòng u uất, có lúc em nghĩ quẩn em chỉ muốn chết đi cho xong. Nhưng em không đủ can đảm làm việc ấy, vì em  thương bố thương mẹ thương các em. Càng nghĩ em càng hận mình, em là đứa con bất hiếu. Nhiều đêm nằm nghĩ: Em trách em một phần vì em không đủ bản lĩnh vượt qua khó khăn, nhưng em cũng oán trách cấp trên vô trách nhiệm mang con bỏ chợ, đẩy bọn em đi tới tận vùng xa xôi nhất của Tổ Quốc mà không cần biết chúng em cần gì.
   Tối hôm ấy, em đứng ở dưới cổng cơ quan của anh, nơi trước kia anh em mình vẫn hẹn gặp nhau. Đứng ở đấy, em có ý đánh đố với số phận. Nếu em gặp được anh thì có nghĩa là trời đã cứu em, còn không gặp được anh thì coi như số phận đã an bài. Em đứng mãi đứng mãi, ai đi qua em cũng quan sát để không bỏ sót. Đấy là vì quá mong mỏi gặp được anh, nên em làm thế. Thật ra, dáng người của anh, bước đi của anh em làm sao quên được. Đêm về khuya, đường phố đã vắng người qua lại. Nhìn vào cơ quan anh, em thấy còn sáng đèn. Em vẫn hy vọng là anh sẽ ra và em vẫn đứng. Em đứng mãi đứng mãi cho tới khi những ngọn đèn trong cơ quan anh tắt hết, chỉ còn lại những bóng đèn bảo vệ. Em biết thế là hết, em thất vọng ôm mặt khóc.  Em thực sự hoảng hốt khi màn đêm buông xuống…
  Nghe Thủy kể, Hoàng vừa dận lại vừa thương Thủy. Hoàng nghĩ: Tính Thủy vẫn không có gì thay đổi so với vài năm về trước. Nhìn bề ngoài Thủy vẫn là một cô gái mạnh mẽ kênh kiệu, không cần sự giúp đỡ của người khác. Ngày gặp nhau trên chuyến xe từ Hà Nội đi Hòa Bình, Hoàng đã có nhận xét ban đầu về Thủy như vậy. Nhưng sau khi Thủy bị tai nạn trên chuyến xe ấy, Hoàng có nhận xét Thủy khác hẳn với vẻ bên ngoài. Thủy lo lắng sợ hãi, nhìn thấy máu ở vết thương của Thủy chảy lênh láng ra hai bàn tay của Hoàng, từ lúc đó Thủy không muốn rời xa Hoàng. Hoàng cũng nhận ra điều ấy nên sẵn sàng đưa Thủy về tận ký túc xá của trường sư phạm mẫu giáo. Đến hôm nay lại nghe Thủy kể đứng bên ngoài nhìn vào, Hoàng không thể không trách Thủy, nếu Thủy vào gặp Hoàng thì có thể mọi chuyện đã khác…
  Hôm nhìn thấy Thủy ở nhà khách Sơn La là hoàn toàn bất ngờ. Hoàng đang từ cầu thang đi xuống sảnh thì nhìn thấy người con gái dắt xe ra cổng trông giống Thủy quá. Hoàng rảo bước đuổi theo nhưng không kịp, bóng cô gái lẫn vào dòng người đang lưu thông trên đường. Hoàng lẩm bẩm: Có thể không phải, thiếu gì người giống nhau. Với lại Thủy lại lên tận nơi xa xôi này làm gì? Tuy nghĩ thế, nhưng để thỏa chí tò mò, Hoàng đến phòng lễ tân để hỏi về thông tin cô gái ấy. Cô gái phụ trách  lễ tân cho Hoàng biết: Đấy là cô hướng dẫn viên du lịch, của một công ty du lịch ở Sài Gòn, đến liên hệ đưa khách đi tham quan. Tuy nhận được câu trả lời như vậy, song chẳng hiểu sao Hoàng vẫn bán tín bán nghi người ấy là Thủy.
  Bẵng đi một thời gian sau, vẫn trong những chuyến công tác vùng hồ thủy điện Hòa Bình. Hoàng đã gặp Thủy trong hoàn cảnh thật hy hữu, Hoàng đã có có vợ, còn Thủy …
(Còn nữa).
 





Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 27 Tháng Bảy, 2016, 03:36:08 pm

BÊN MỘ ANH
Bên mộ anh nghe gió rừng xào xạc,
Con chim non kêu chim chíp gọi bầy,
Tiếng của anh văng vẳng đâu đây,
Lẫn trong gió trong mây từ nhiều phía.

Bốn mươi năm,chắc là anh còn nhớ,
Tôi với anh cùng chung một chiến hào,
Anh kể tôi nghe bao chuyện gian lao,
Của tuổi thơ trước khi vào bộ đội.

Quê hương anh một miền quê nghèo đói,
Đất quê anh đất đá sỏi bạc mầu,
Dân quê anh vất vả việc ngập đầu,
Nồi cơm độn chỉ một mầu khoai sắn.

Anh nói anh còn nhiều em lắm.
Anh đi rồi chúng dãi nắng dầm mưa,
Thay thế anh giúp bố việc cày bừa,
Mẹ già yếu,chúng sớm trưa chăm sóc.

Anh nhập ngũ,đàn em tiễn theo khóc.
Anh nói rằng thôi đừng khóc các em ơi,
Các em khóc anh sợ chúng bạn cười,
Nhìn em khóc anh sẽ cười rơi lệ.

Anh kể với tôi anh ra đi như thế,
Nhiều kỷ niệm anh không thể nào quên,
Nhớ thương mẹ,anh đã thức thâu đêm,
Anh thấy mẹ đứng đầu thềm trông đợi,

Đường vào Nam ngày càng xa vời vợi,
Ở miền Bắc mẹ ngóng đợi tin con,
Cuộc chiến tranh đã làm mẹ héo mòn,
Mắt ngấn lệ thương con còn tấm bé.

Anh đã hy sinh khi anh còn rất trẻ,
Hình ảnh anh tôi không thể nào quên,
Anh ngồi chết ở tư thế xông lên,
Máu đã chảy,chảy tràn hai bên má.


                               Và mắt anh sao lúc này sáng quá,
Vẫn mở to nhìn tất cả bạn bè,
Vuốt mắt cho anh xin anh hãy lắng nghe,
Anh nhắm lại để hồn về quê mẹ.

Chiều hôm ấy chôn anh bên Như lệ,
Địch kề bên nên không thể chôn sâu,
Đưa anh đi,đạn sàn sạt trên đầu,
Ôi! Chiến tranh đang phủ mầu tang tóc.

Tiễn anh đi chúng tôi ai cũng khóc,
Thương mẹ già đã khó nhọc nuôi anh
  Nhưng than ơi! Lá vàng còn ở trên cành,
Lá xanh rụng trước sao đành trời ơi!

Từ đó,cha mẹ mất một con người,
Bạn bè, mất mãi tiếng cười của anh,
Hôm nay,nghe tiếng chim hót trên cành,
Tôi mơ thấy bóng của anh trở về…


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 01 Tháng Tám, 2016, 04:43:46 pm

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Số phận
   Hoàng nhớ:
      Vẫn như mọi lần, đoàn công tác khắc phục tồn tại lòng hồ thủy điện Hòa Bình của Hoàng, đến thị xã Sơn La vào khoảng 3 rưỡi 4 giờ chiều. Lần này, kế hoạch của đoàn là nghỉ ở nhà khách Sơn La một đêm, lấy sức để ngày hôm sau đi xuống các huyện.
  Đang giữa hè, nắng xiên khoai vùng Tây Bắc như thiêu như đốt. Nhận phòng xong, mấy anh em lại tụ tập ngồi trong phòng máy lạnh, pha trà hút thuốc, chuyện trò huyên thuyên. Lúc này là thời gian nghỉ ngơi, sau hơn 200 km hành quân bằng ô tô đường đèo dốc vùng Tây Bắc. Đây cũng chính là khoảng thời gian tiền trận đấu, để hai phe kích động cho trận Tenits xảy ra chiều tối hôm nay. Giải thưởng của trận đấu tối nay là bữa nhậu thịt thú rừng.
  Tưởng giải thưởng đơn giản vậy thôi, nhưng bên nào thua thì cũng ảnh hưởng nhiều đến kinh tế đấy. Chiêu đãi cả đoàn một bữa tiệc thú rừng trong thời buổi thóc cao gạo kém như hiện nay, đâu phải đơn giản. Kinh tế là một chuyện còn danh dự nữa chứ, tuy là trình độ ABC như nhau, nhưng nếu thua cũng cay mũi. Nghĩ về  những khoản ấy, cũng còn có chút lăn tăn, nhưng bù lại là có buổi tối tự do, uống rượu thả phanh vì không sợ vợ cằn nhằn. Hình như mọi người đều có suy nghĩ chung như vậy, nên không khí trận đấu háo hức ngay từ buổi chiều.
  Chả biết có phải may hay không, tối nay Hoàng chơi hay. Những quả cắt của Hoàng, bóng cứ bay là là sát lưới, rồi cắm thẳng vào chân đối phương, làm đối phương không kịp xử lý đành mất điểm. Khán giả hò reo cổ vũ nhiệt cuồng nhiệt cho các tay vợt chơi Tenits mà giống như chơi cầu lông. Có những pha bóng ăn gian, xúm vào cãi trọng tài làm khán giả cười rơi nước mắt.
  Trận đấu kết thúc, bên Hoàng thắng. Nhưng đối phương không tâm phục khẩu phục  vì cho rằng trọng tài thiên vị. Trong khi đó các món ăn nấu bằng thịt thú rừng đã được nhà hàng dọn ra bàn, tỏa mùi thơm ngào ngạt. Tất cả đã sẵn sàng, thế mà trọng tài vẫn chưa phân định nổi thắng thua. Mọi người trong đoàn phải đưa ra phán quyết: Trọng tài không hoàn thành nhiệm vụ, hai bên cầu thủ trình độ ngang nhau coi như hòa. Giải thưởng trận đấu chia làm hai mỗi bên chịu một phần, tất cả nghiêm chỉnh chấp hành…
  Buổi tối tự do thoải mái, Hoàng uống hơi nhiều. Cộng với sự mệt mỏi sau chặng đường hành quân dài hơn 200 km và trận tenis chiều nay, Hoàng cảm thấy mệt. Hoàng nằm xem vô tuyến mà thiếp đi lúc nào không biết. Chuông điện thoại reo, Hoàng bừng tỉnh, anh bạn ngủ cùng cũng phòng đã đi đâu không có nhà. Hoàng miễn cưỡng với tay cầm ống nghe. Đầu dây bên kia có tiếng của  lễ tân:
   -A lô! Phòng 405 có ai tên là Hoàng xuống lễ tân có người gặp.
  Hoàng uể oải nhìn đồng hồ và ngồi dậy mặc quần áo rồi đi xuống lễ tân. Hoàng lẩm bẩm, đã 21 giờ rồi mà vẫn còn có khách. Hoàng đoán, chắc là mấy anh trong ban công tác đền bù của tỉnh đến gặp để ngày mai đi xuống huyện sớm. Bước thấp bước cao do ngái ngủ, Hoàng xuống lễ tân. Đảo mắt nhìn xung quanh xem đối tượng nào chờ mình, nhưng Hoàng không phát hiện ra ai. Trong phòng không có ai, ngoài cô gái trực lễ tân. Hoàng nghĩ chắc có ai đó đùa mình. Hoàng đẩy cửa bước ra ngoài, hơi nóng bốc lên hầm hập từ mặt đường bê tông át phan ùa vào làm Hoàng khó chịu. Trong sáng ngoài tối, Hoàng phải đứng một lúc để điều hòa ánh sáng mới nhìn rõ. Hoàng vẫn chưa phát hiện ra ai, Hoàng quay vào thì có tiếng gọi:
   -Anh Hoàng!
  Chỉ có hai từ vậy thôi, Hoàng vẫn chưa phát hiện ra tiếng gọi phát ra từ hướng nào. Nhưng có một điều hoàn toàn khẳng định, đó là tiếng của một cô gái. Tiếng gọi này nghe rất quen, hình như là Hoàng đã nghe nhiều lần rồi. Hoàng linh tính, hay là Thủy? Cũng có thể? Mấy tháng trước cũng ở nhà khách này, lần ấy Hoàng phát hiện một người giống Thủy, Hoàng đuổi theo nhưng không gặp. Lần này mong thì nghĩ vậy thôi, song Hoàng không dám khẳng định, nhưng trong thâm tâm Hoàng rất muốn người vừa gọi Hoàng là Thủy.
  Chẳng hiểu sao, từ cái hôm nhìn thấy bóng người con gái giống Thủy đến nay, Hoàng hay nghĩ về Thủy. Càng nghĩ, càng thấy có rất nhiều điều Hoàng muốn biết về cuộc sống của Thủy hiện nay, nhưng không biết làm cách nào? Cứ nghĩ quanh nghĩ quẩn, đôi lúc Hoàng cảm thấy bức bối nghẹt thở bất lực. Rồi cũng có lúc Hoàng nghi ngờ tự hỏi tại sao lại nghĩ nhiều về Thủy như vậy? Lúc trước quan hệ giữa Hoàng và Thủy cũng chỉ là quan hệ bạn bè anh em bình thường giống như bao người khác, không có gì đặc biệt. Có khác chăng thời điểm ấy Hoàng bắt đầu khát khao được yêu, vì sau thời gian dài gián đoạn bởi chiến tranh và đèn sách. Thời gian quen Thủy cũng là khoảng thời gian Hoàng không đủ tự tin nhất, vì sức khỏe của mình. Khi quen Thủy, mới đầu Hoàng chỉ xem Thủy như đứa em là điểm tựa để Hoàng làm quen với các chị em phụ nữ khác, song thực tế không phải như vậy. Cũng có nhiều lần Hoàng định đặt vấn đề với Thủy, nhưng Hoàng nghĩ là Thủy sẽ từ chối nên Hoàng lại thôi. Tuy vậy, Hoàng vẫn mơ hồ nghĩ về Thủy…
  Nghĩ lại Hoàng cảm thấy buồn cười, ngượng với chính mình. Trong thời gian ấy, chắc chắn sẽ có ai đó nói Hoàng là : Già rồi còn chơi trống bỏi… Đời nhà ai, một ông gày gò ốm yếu, mắt trắng nhã, môi thâm xì, chân khô chân héo, lại cặp kè đi bên cạnh cô gái vừa qua tuổi thiếu niên, mặt tròn vành vạnh da trắng hồng như trứng gà bóc, cặp má bầu bĩnh còn nhìn rõ những sợi lông tơ… Tất nhiên nhìn cặp đôi ấy, những ai không hiểu quan hệ giữa Thủy và Hoàng thì cho là như vậy, cũng không sai.
  Thời gian ấy, về tuổi tác Hoàng hơn Thủy 8-9 tuổi. Sau khi giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước 1975, Hoàng  rời quân ngũ đi học tiếp. Sau hai năm học tập và bảo vệ đề án tốt nghiệp xong là Hoàng lên công trường xây dựng nhà máy thủy điện Hòa Bình nhận công tác ngay. Chuyến công tác đầu tiên lên Hòa Bình của chàng trai đã là cựu chiến binh nhưng lại là tân kỹ sư xây dựng thủy điện. Chuyến công tác này, chẳng hiểu ông trời xui khiến thế nào mà lại cho Hoàng gặp Thủy, mà gặp trong tình huống rất hy hữu.
  Lúc đầu, chỉ là nhìn thấy nhau trên chuyến xe khách từ Hà Nội đi Hòa Bình. Khi ấy cả hai do không quen biết nhau nên chẳng ai chào ai, coi nhau như những hành khách khác trên xe. Chẳng hiểu sao, thi thoảng ánh mắt của hai người đôi lúc gặp nhau, nhưng lại vội vã rời đi hướng khác. Cả hai cố thể hiện mình chỉ là vô tình chứ không cố ý nhìn trộm đối phương. Thời gian cứ trôi đi theo bánh xe lăn, tưởng rằng sẽ không có gì xảy ra khi xe về bến. Thế mà chỉ tích tắc thôi, xe không tránh được ổ gà thì mọi chuyện lại khác.
  Xe lao xuống ổ gà lại nhảy lên, mọi người trong xe bị hất tung khỏi chỗ ngồi và xô vào nhau, vào thành xe vào ghế xe. Có người lao cả đầu lên phía trước đâm vỡ cả kính chắn gió. Trong xe náo loạn, khắp xe tiếng kêu rên đau đớn. Hoàng cũng bị nảy tung lên, đầu chạm vào trần xe rớm máu. Bên cạnh Hoàng lúc đó là Thủy, Thủy cúi gục đầu, hai tay ôm chặt lấy ống chân.
  Mùi máu tanh lợm giọng bốc lên, mùi này Hoàng đã ngửi quen trong những năm tháng chiến đấu ở chiến trường. Như phản xạ có điều kiện, Hoàng nói như ra lệnh: Cô bị chảy máu rồi, kéo ống quần lên tôi xem! Thủy ngoan ngoãn nghe lời. Hoàng không ngần ngại, nhiệt tình băng bó vết thương cho Thủy. Thế là quen nhau, thời gian Thủy điều trị vết thương, Hoàng thường xuyên đến thăm. Sau đấy là những cuộc hẹn hò, những chuyến đi chơi, những câu chuyện bâng quơ… Rồi tiễn Thủy ra trường nhận công tác và những cánh thư gửi cho nhau khi xa nhau…
  Thời gian ở gần nhau thì thấy bình thường, khi xa rồi chẳng biết Thủy thế nào còn Hoàng cũng thấy nhớ. Nhớ nhất là quãng thời gian Thủy đang có ý định bỏ nghề cô giáo để về xuôi. Thời gian trước đấy nếu Hoàng và Thủy quen nhau hơn một chút nữa, nhất định Hoàng sẽ đón Thủy về dưới Hòa Bình, biết đâu từ chuyện ấy mọi việc sẽ theo ước muốn của Hoàng. Khổ nỗi khi đó cả Hoàng và Thủy chưa ai dám thổ lộ lời nào. Hoàng lúc đó không tự tin để thổ lộ tình cảm của mình, mặc dù lúc đó Hoàng rất thích Thủy. Hoàng không phân biệt được tình cảm của Hoàng đối với Thủy trong khoảng thời gian ấy.
  Nghĩ lại, Hoàng thấy tiếc. Ở hoàn cảnh đó, nếu Hoàng đặt vấn đề với Thủy. Tất nhiên bắt buộc Thủy phải tỏ rõ tình cảm của Thủy đối với Hoàng, hoặc là đồng ý hoặc là không đồng ý. Không đồng ý thì rõ rồi, đã không yêu kiểu gì Thủy cũng viện lý do để từ chối. Nhưng nếu Thủy đồng ý thì sẽ có hai tình huống xảy ra. Tình huống thứ nhất, Thủy thật lòng yêu Hoàng, nếu như vậy thì không có chuyện gì phải nói. Tình huống thứ hai, vì hoàn cảnh lúc này quá khó khăn nên Thủy phải miễn cưỡng đồng ý, thực ra Thủy chưa có tình cảm với Hoàng v.v. Nghĩ như vậy, nên Hoàng án binh bất động. Với lại Hoàng vẫn còn lo, biết đâu đấy hậu quả của chiến tranh vẫn rình rập đe dọa đến hạnh phúc của bất cứ người cựu chiến binh nào, mà Hoàng đã từng chiến đấu ở chiến trường Quảng Trị thì cũng không phải là trường hợp ngoại lệ.
  Sau này đến lúc lấy vợ, mãi đến khi Luyến sinh cho Hoàng đứa con gái đầu lòng, bình thường, đầy đủ các bộ phận, khi ấy Hoàng mới thở phào nhẹ nhõm. Nói ra những chuyện này, chỉ những người lính có chung hoàn cảnh mới có thể hiểu và chia sẻ cho nhau. Sau chiến tranh, người lính trở vể đời thường có biết bao mối lo. Mối lo kiếm kế sinh nhai để sống và tồn tại là quan trọng nhất, nhưng như thế chưa đủ. Còn mối lo liệu mình có còn khả năng lấy vợ và sinh con nữa không? Đấy cũng là vấn đề quan trọng không kém. Lấy được vợ thì không khó, vì còn có nhiều phụ nữ cảm thông và chấp nhận lấy những người lính tàn tật trở về sau chiến tranh.
  Còn sinh con thì lại là chuyện khác, vì nó nằm ngoài ý kiến chủ quan của con người. Có rất nhiều người lính trở về sau chiến tranh không thể sinh được con, hoặc là sinh được nhưng là những đứa con dị tật. Thật đáng thương. Những người lính lúc xông pha trận mạc, khi ấy họ chỉ biết nhận và hoàn thành nhiệm vụ, họ sẵn sàng hy sinh cả mạng sống của mình cho Tổ Quốc. Họ không mảy may nghĩ đến việc còn sống để sau này lấy vợ và sinh con. Kết thúc chiến tranh trở về, họ ngây ngất trong niềm vui của ngày gặp mặt. Họ nghĩ  tội ác của chiến tranh chỉ là gây ra sự chết chóc và sự tàn phá nặng nề cơ sở vật chất của xã hội. Sau này họ mới ngộ ra: Hệ lụy của chiến tranh còn khủng khiếp hơn nhiều những điều họ nghĩ, đó là bom đạn chưa nổ hết, đó là chất độc mầu da cam vẫn còn giết người âm ỉ đời này qua đời khác…
   -Anh Hoàng em đây cơ mà!
  Lúc này Hoàng mới phát hiện ra, người gọi mình đứng khuất sau gốc cây Xà Cừ.
( Còn nữa ).
 


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 10 Tháng Tám, 2016, 02:31:12 pm
CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Số Phận
      Từ xa nhìn chưa rõ mặt, song Hoàng khẳng định người vừa gọi tên mình chính là Thủy. Đã có đôi lần Hoàng nghĩ về tình huống này có thể xảy ra nên Hoàng chủ động đề ra nhiều giải pháp xử lý khi gặp nhau, vậy mà bây giờ Hoàng vẫn thấy hồi hộp và có phần lúng túng.
  Hoàng tiến về phía Thủy, do tâm lý bị kích động nên chân khô chân héo của Hoàng lúc này càng thể hiện rõ, chân trái đôi khi bỏ bước kéo lê trên mặt đường. Tập tễnh, Hoàng đi như say. Vừa đi Hoàng vừa thắc mắc: Tại sao Thủy biết Hoàng ở đây để đến tìm? Chắc là phải có ai chỉ dẫn thì Thủy mới biết, nếu không làm sao Thủy biết được? Nhưng mà ai nói? Ở trên này Hoàng không giao du với ai, ngoài những bạn đồng nghiệp công tác ở Ban công tác đền bù tỉnh Sơn La. Nhưng sao họ lại biết Hoàng quen với Thủy, để nói cho Thủy biết? Điều này thì Hoàng chịu, chỉ có trời biết và Thủy biết. Đúng là tất cả mọi thứ, không có gì là không có thể…
  Vậy là đã gần 5 năm, Hoàng mới lại gặp Thủy. Dưới ánh sáng của ngọn đèn đường, Hoàng cảm thấy Thủy già đi, chững chạc hơn. Cũng phải thôi, ngày gặp nhau Thủy mới 17, hai năm học, năm năm xa nhau, bây giờ Thủy đã hơn 25 tuổi rồi còn gì. Lúc này, cảm giác của Hoàng như say. Đầu óc suy nghĩ mênh mang, không tập trung để nhớ ra những thứ mà Hoàng đã chuẩn bị nếu như gặp Thủy. Lúng túng, ấp úng.  Câu đầu tiên sau 5 năm gặp nhau, Hoàng hỏi Thủy với giọng  run run không được tự nhiên lắm:
   -Em có khỏe không? Tại sao biết anh ở đây để tìm? Em làm việc ở đâu? Tình hình gia đình em bây giờ thế nào???
   -Em vẫn khỏe, còn anh?
   -Anh cũng bình thường! Hơn 5 năm rồi anh em mình mới lại gặp nhau, em thay đổi nhiều quá. Thời gian qua, anh mong được gặp em, nhưng anh không biết em ở đâu mà tìm. Anh cũng không hiểu vì sao tự nhiên em lại không biên thư cho anh? Cách đây mấy tháng, cũng ở nhà khách này, anh nhìn thấy một người giống em lắm, anh vội đuổi theo nhưng không kịp. Có phải là em không?
  Thủy cúi đầu im lặng. Hoàng ân hận, đã trách Thủy không biên thư cho Hoàng. Biết lỡ lời, Hoàng đánh trống lảng:
   -Đứng đây không tiện! Anh em mình vào trong sảnh nói chuyện đi.
  Tưởng rằng Thủy vẫn như ngày nào, sẽ ngoan ngoãn đi với Hoàng vào sảnh nhà khách để nói chuyện. Nhưng bây giờ thì không phải thế. Thủy nói:
   -Em không vào trong đó đâu, nếu anh không ngại thì sang bên em.
   -Sao lại ngại? Nhưng bên em ở đâu?
   - Em ở bên kia đường!
  Không đợi Hoàng trả lời, Thủy đưa Hoàng băng qua đường, đi vào ngôi nhà ba tầng đối diện với nhà khách ủy ban. Vị trí ngôi nhà này cũng phần nào giải mã, tại sao Thủy biết Hoàng ở đây. Thủy dắt Hoàng đi sâu vào hành lang hẹp đến chân cầu thang rồi leo lên tầng ba, sau đó đi ngược lại về phía mặt tiền của ngôi nhà. Thủy đi đến đâu bật đèn sáng tới đó, chờ Hoàng theo kịp là Thủy tắt ngay. Hoàng còn đang thở dốc, Thủy đã biến vào căn phòng, một lát sau căn phòng bừng sáng Thủy quay ra vẫy Hoàng :
   -Anh Hoàng vào đây!
  Hoàng chưa biết nếp tẻ thế nào nên chưa dám theo Thủy vào, với lại căn phòng ở tầng ba này suốt ngày hứng chịu sự nung nấu của ánh sáng mặt trời, giờ đây tỏa ra hơi nóng hầm hập. Hoàng kiếm cớ hoãn binh:
   -Từ từ cho bớt nóng đã! Em bật quạt lên, nếu có điều hòa thì cũng bật luôn cho mát… Thủy cứ ra đây, khi nào trong phòng mát hãy vào!
  Lần này thì Thủy nghe lời, ra ban công đứng bên cạnh Hoàng nhìn xuống lòng đường, nhìn sang nhà khách nơi Hoàng ở. Cả Hoàng và Thủy đều im lặng. Hoàng đứng ở đây có thể quan sát được một vùng rộng lớn, gần hết chiều dài con phố, quan sát được tất cả xe cộ của các đoàn khách ra vào nhà khách của Ủy ban. Hoàng nghĩ: Rất có thể, Thủy phát hiện được Hoàng từ vị trí này cũng nên. Nghĩ thế, song Hoàng không hỏi Thủy, Hoàng sợ mình lại hồ đồ thêm lần nữa.
   -Anh không hỏi em đây là nhà của ai à? Thủy bất chợt hỏi Hoàng.
   -Có chứ! Anh đang định hỏi thì em đã hỏi anh rồi.
   -Đây là văn phòng đại diện của công ty em.
   -Thế à! Vậy em làm ở hãng phân phối Bia Heineken này à? Hay quá nhỉ.
   -Sao anh biết?
   -Anh đọc trên bảng quảng cáo treo ở tầng một.
   -Công ty em trụ sở đóng ở quận 12 thành phố Hồ Chí Minh, nhà này công ty em thuê toàn bộ tầng ba làm văn phòng đại diện phía Tây Bắc. Chúng em ở đây có ba người, anh trưởng đại diện người miền Nam, một chị quê ở Nam Định ở cùng với em.
   -Em làm ở công ty này lâu chưa?
   -Cũng hơn ba năm rồi anh ạ!
   -Lâu vậy rồi sao? Thế mà anh không biết.
   -Anh bận trăm công nghìn việc, thời gian đâu mà anh để ý đến chuyện khác, với lại anh cũng thi thoảng lên đây đi công tác còn lại là anh ở Hòa Bình chứ lên đây làm gì, phải không anh? Còn em, nói là làm được hơn ba năm, thực ra em mới lên đây được hơn một năm. Hai năm còn lại thì sáu tháng đi học, hơn một năm làm loanh quanh ở trụ sở công ty chi nhánh Hà Nội.
   -Em học gì? Học ở đâu?
   -Em học Tiếng Anh ở Sydney.
   -Quá tuyệt vời, em đi học tự túc hay cơ quan tài trợ, cơ quan cho đi có đông không?
   -Chúng em có ba người, công ty cho chúng em đi học với cam kết về phải làm việc cho công ty, nếu không phải bù lại kinh phí đi học.
   -Quá tốt rồi! Anh chúc mừng em. Thật tình anh không thể hình dung được cuộc sống của em, nếu như không gặp được em hôm nay. Em được như hôm nay là anh mừng lắm rồi, em biết không, anh rất lo cho em.
  Hoàng cảm thấy vui mừng thật sự, giống như Hoàng vừa vượt qua được cuộc thử thách quá sức mình. Trong khi đó, Thủy vẫn giữ thái độ như lúc mới gặp nhau. Hoàng phân vân, không biết là Thủy đang vui hay đang buồn? Hoàng cũng hơi ngạc nhiên, nhẽ ra sau 5 năm mới gặp được nhau thì Thủy phải vui mới đúng, ngược lại Thủy có thái độ rất khó hiểu. Vẫn cái giọng đều đều, không vui cũng không buồn. Thủy quay sang nói với Hoàng:
   -Anh em mình vào trong nhà đi, đứng đây bụi lắm.
  Ngồi xuống chiếc ghế đối diện với Thủy, dưới ánh sáng rực rỡ của căn phòng. Hoàng nhìn Thủy chằm chặp như muốn nuốt chửng, Thủy cũng không dấu diếm ánh mắt ưu tư nhìn Hoàng đầy bí hiểm. Bốn mắt nhìn nhau không chớp. Một phút, hai phút, có khi phải đến 10 phút, cả hai không cần biết thế giới xung quanh mình có gì. Hoàng chỉ thấy có Thủy, và Thủy cũng chỉ thấy có Hoàng. Không gian mênh mông, giống như ngày nào hai đứa ngồi bên nhau, ngắm những thửa ruộng bậc thang, lúa đã ngả mầu vàng chạy dài tít tắp đến chân những quả đồi xa lắc.
    Hoàng mạnh dạn ôm lấy hai bàn tay Thủy đang đan vào nhau để trên bàn, Thủy vẫn để nguyên cho Hoàng ôm lấy hai bàn tay mình. Một luồng năng lượng kỳ lạ tràn rất nhanh khắp cơ thể Hoàng. Hai dòng nước mắt của Thủy trào ra chảy dài hai bên má.
  Giây phút xúc động của ngày gặp mặt làm cho cả hai im lặng. Thủy khóc. Vì sao Thủy lại khóc? Hoàng không hiểu. Hoàng ngồi nhìn Thủy khóc, Hoàng thấy Thủy vẫn xinh như ngày nào. Hoàng nhủ thầm: Nước mắt để cho ngày gặp mặt, Thủy ơi em cứ khóc đi, khóc cho nhẹ lòng, em càng khóc em lại càng xinh.
  Với Thủy, tâm trạng của Thủy lúc này, chỉ muốn Hoàng ôm chặt hơn nữa hai bàn tay bé nhỏ của mình, sau những  năm xa cách lạnh lẽo cô đơn…
  Tay trong tay, Hoàng và Thủy  nghĩ về quá khứ. Hoàng thấy nuối tiếc quãng thời gian đã qua đi, đây là lần đầu tiên kể từ khi Hoàng với Thủy quen nhau, cả hai mới nắm tay nhau tình cảm như thế này. Thủy xót xa ân hận, sao thời gian trước mình không nói với Hoàng… Đang còn ngây ngất đắm say, Hoàng chợt nghĩ ra điều gì đó, Hoàng vội hỏi Thủy:
   -Mọi người hôm nay đi đâu, sao không thấy có ai?
  Như chợt tỉnh, Thủy rút tay ra khỏi tay Hoàng, một luồng khí mát lạnh ùa vào ôm lấy hai bàn tay nóng bỏng của Thủy. Thủy khẽ rùng mình, từ từ lau khô những giọt nước mắt còn đọng trên khóe mắt, chậm chậm trả lời:
   -Mọi người hôm nay đi vắng hết, chỉ mình em ở nhà thôi.
  Hoàng ngỡ ngàng đến ngạc nhiên:
   -Anh nhớ không nhầm, trước kia Thủy sợ ma lắm cơ mà? Sao bây giờ dám ở một mình?
   -Đành phải chịu thôi anh… Nhưng còn có thứ sợ hơn ma nhiều… Với lại nhiều lúc quá sợ thành ra liều, nên hết sợ.
  Nghe Thủy nói giọng buồn buồn, càng làm Hoàng  đoán già đoán non. Chuyện gì thì chưa rõ, nhưng chắc chắn là Thủy có tâm sự, Hoàng vội lảng sang chuyện khác. Hoàng hỏi Thủy:
   -Tình hình sức khỏe của bố em dạo này thế nào rồi?
  Thủy trân trân nhìn Hoàng hồi lâu, rồi nhìn ra bóng đêm ngoài cửa sổ. Thủy lúc này như dại đi, Thủy chỉ còn phần xác còn phần hồn đang phiêu du ở  đâu đó chưa về. Thủy im lặng, gắng kìm chế không khóc nhưng hai hàng nước mắt cứ trào ra. Thủy nấc lên nghẹn ngào:
   -Bố em mất rồi!
  Thủy nói được mấy tiếng rồi gục đầu xuống bàn khóc thổn thức. Hoàng bối rối không biết xử trí thế đành ngồi nhìn hai bờ vai của Thủy rung lên đẩy dần mái tóc đen nhánh dài óng nuột của Thủy chảy tràn ra mặt bàn. Hoàng lúng túng nói không rõ tiếng:
   -Cho anh xin lỗi! Anh không biết nên đã chạm vào nỗi đau của em. Anh xin được chia buồn cùng em và gia đình. Thủy ơi! Anh khuyên em cũng không nên quá đau buồn mà hại đến sức khỏe, người mất thì đã mất rồi.
  Hoàng nghĩ về cái ngày Thủy đang học ở trường sư phạm mẫu giáo, có lần Thủy kể về bố của Thủy cho Hoàng nghe. Thủy thật thà, bắt đầu câu chuyện rất mộc mạc, mộc mạc đến nỗi vô tình làm dập tắt mọi hy vọng còn đang le lói trong lòng Hoàng. Thủy nói:
    -Đúng ra em phải gọi anh bằng chú mới đúng. Bố em năm nay mới 37 tuổi, em 17 tuổi. Bố em đi vào Nam đi chiến đấu, mẹ em mới sinh em. Em lên năm sáu tuổi mà vẫn không biết mặt bố em, đến năm bố em bị thương về phục viên, khi ấy em thấy tự nhiên trong nhà mình lại có chú bộ đội. Mẹ em bảo:
   -Đấy là bố con đấy, con ra chào bố đi con!
  Em nhất định không chào, chạy sang nhà ông bà ngoại. Mẹ em sang đón em và mời ông bà ngoại sang chơi, lúc ấy em mới chịu về. Ông bà ngoại dỗ em:
   -Cháu ra chào bố đi rồi bố cho quà, bố có nhiều quà lắm đang để trong ba lô kia kìa.
  Em vẫn chưa chịu, đến khi bố em mở nắp ba lô lấy con búp bê bằng nhựa, mầu hồng bẹp dúm dó ra vỗ vỗ vuốt vuốt cho phẳng lại rồi đưa cho em. Bố em bảo:
   -Quà của con đây!
  Em vẫn không chịu nhận, bà ngoại dắt em ra tận nơi nói nhỏ vào tai em:
   -Con khoanh tay lại, xin bố đi!
  Em nhìn trừng trừng vào mắt bố em, giật lấy con búp bê rồi chạy ra ngoài sân. Sau đấy, em không nhớ rõ em gọi bố khi nào…Kỷ niệm đầu đời về bố của em là như vậy.
   Nghĩ về kỷ niệm ấy của Thủy mà lòng đượm buồn, Hoàng lẩm bẩm: Như vậy bố Thủy chỉ thọ 45-46 tuổi là cùng, còn quá trẻ. Thật đáng thương cho số phận của một con người. Nhưng biết làm sao được, lớp người ở thời kỳ ấy, sinh ra là để dành lấy độc lập tự do cho tổ quốc, lớp người chỉ biết cống hiến và hy sinh, không cần biết Tổ Quốc đãi ngộ như thế nào?
(Còn nữa).
   

 
   


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: tranphu341 trong 14 Tháng Tám, 2016, 08:00:30 am

         Chào bác chủ quanvietnam! Chào các bác!

          Đã lâu rồi mới lại thấy bác chủ đăng đàn tiếp câu chuyện đang rất hay của mình.

          Vâng! Chiến tranh đã rất khốc liệt và nhiều cam go sinh tử. Nhưng khi người lính trở về thì giữ hậu phương lớn, với những người lính chỉ quen súng đạn trong một cơ chế đang nặng về quan liêu bao cấp cùng những quan niệm hủ tục lạc hậu phong kiến xưa. Sự dung hòa biết bao phức tạp. Mỗi người mỗi người cả tiền tuyết lẫn hậu phương đều có những suy nghĩ ngững kỷ niệm thật đẹp thật đẹp về nhau. Nhưng đôi khi sự thật lại phũ phàng. Nhiều chuyện lắm.

          Tranphu341 cùng bạn đọc rất vui rất thích đọc chuyện của bác quanvietnam . Nó nhẹ nhàng mộc mạc êm chảy như dòng sông quê mà có mình đang được rửa mặt đang được tắm mát trong đó. Rồi hơn hết đó là khi được đọc chuyện của bác tức là biết bác đang khỏe đang rất khỏe để nhả những dòng tơ quý, những vàng những ngọc cho đời. Kính bác!!!


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: xuanv338 trong 16 Tháng Tám, 2016, 06:13:08 pm
xuanv338 chào anh quanvietnam. Chào các bác. Bọn em vẫn chờ đọc bài của anh đấy. Đúng là lâu nay lính VMH đi khai hoang miền đất mới nên ít trở lại quê nhà. Anh yên tâm. Dù có đi đâu cũng không bỏ được miền đất khởi nghiệp của các cựu già ôn chuyện lính xưa. Bọn em bắt đầu trở về làng xưa cùng các anh. Có điều bỗng dưng mất cảm xúc để viết bài. Phải chờ thêm anh ạ. Đọc chuyện của anh cứ như tiểu thuyết. Đọc mà còn ăn cắp từ hay của anh. xuanv338 chúc anh khỏe và dẻo dai viết những bài viết sâu sắc tiếp.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 20 Tháng Tám, 2016, 03:07:59 pm
CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Số phận
   Chờ Thủy qua cơn xúc động, Hoàng khẽ hỏi:
   -Thế bố em mất khi nào? Bố em còn trẻ cơ mà?
  Như bị dồn nén, bởi cảm giác mình có lỗi với bố. Nghe Hoàng hỏi, Thủy như có cơ hội để dãi bầy lòng mình với vong linh của bố, mà từ trước đến giờ Thủy chưa làm được. Thủy ôm mặt khóc nức nở, nói trong nước mắt:
   -Tất cả là tại em anh Hoàng ạ! Em bỏ về xuôi, bố em buồn và thất vọng, bố em xấu hổ với bà con xóm làng vì có đứa con như em, cộng với nhiều lý do khác nữa như bệnh tật , hoàn cảnh gia đình v.v. Nhưng theo em: Có lẽ nguyên nhân chủ yếu tác động đến cái chết của bố em là danh dự của người lính trong con người của bố em bị tổn thương quá lớn, nên vết thương cũ hồi chiến tranh lại tái phát. Sức khỏe của bố em từ ngày về phục viên đã yếu nay lại càng yếu hơn, nhà em thì nghèo không đủ tiền mua thuốc chữa bệnh, nên bố em cứ yếu dần. Thời gian ấy, em chạy đôn chạy đáo để kiếm việc làm, ai thuê việc gì em cũng làm, miễn sao có tiền gửi về cho mẹ để lo thuốc thang cho bố… Mẹ con em cố gắng xoay sở được một thời gian, bố em cũng đã đỡ hơn một chút, gia đình em gần vui vẻ trở lại. Nhưng không hiểu sao bố em nghe  ai nói là em đi làm Cave nên bố em uất quá đổ bệnh mà chết…
   Thủy òa lên khóc nức nở: Em là đứa con bất hiếu đúng không anh? Càng nghĩ em càng thấy nhục nhã ê chề, em thực sự không có lý do gì để ngụy biện cho việc làm của mình… Ngay cả khi bố em mất, trước vong linh của bố em, em cũng không dám một lần cầu xin bố em tha lỗi… Cuộc đời em xem như là bỏ đi, đã nhiều lần em tìm đến cái chết, nhưng em không đủ can đảm. Vì em thương mẹ em, em thương các em của em chúng nó còn quá bé. Cũng chính vì chúng nó quá bé, chúng không thể hiểu được hoàn cảnh của chị nó, nên em chắc chắn chúng sẽ không tha thứ cho em… Em cứ luẩn quẩn trong suy nghĩ, nhiều lúc em ân hận: Giá như ngày ấy em nghe lời anh thì có thể  bố em chưa mất, bố em mà còn sống thì cuộc đời em đâu đến nỗi thế này…
  Nghe Thủy vừa khóc lóc vừa kể lể, thi thoảng Thủy im lặng được một lát rồi lại nấc lên nghẹn ngào: Em biết, sự ân hận và hối tiếc của em bây giờ đã quá muộn màng, nhưng lúc ấy em không biết mình phải làm thế nào cho đúng mà em lại rất cần tiền. Em không còn lựa chọn nào khác để có tiền, chỉ có cách ấy là nhanh nhất…Thôi đành nhắm mắt đưa chân
   Bây giờ em chỉ còn cách là chạy trốn dư luận, chạy trốn sự thật để sống qua ngày… Những tưởng như vậy là được yên thân, rồi mọi thứ sẽ nguôi ngoai theo thời gian. Nhưng anh ơi! Sự thật là sự thật không thể khác được, nó tàn nhẫn và phũ phàng đến trần trụi đối với em. Thậm chí kể cả những lúc em ngủ, hay những lúc em tỉnh táo, cho dù có người hay không có người bên cạnh, em vẫn nghe văng vẳng bên tai: Mày là con Cave, mày là con Cave, cứ như vậy hết ngày này qua ngày khác nhưng em vẫn phải sống. Cuộc sống xô đẩy, em như người bị tụt xuống hố sâu cố tìm mọi cách để ngoi lên, nhưng càng bấu víu càng lún sâu…
  Đến lúc này Hoàng như bị phân tâm, tai không còn nghe rõ Thủy nói những gì. Hoàng cảm thấy người gai gai, nhất là khi nghe được những từ : “ Bố em mất rồi” và cụm từ “Đi làm Cave”. Cũng không hiểu do xúc động khi nghe tin bố Thủy mất hay là nghe tin Thủy đi làm Cave mà Hoàng có cảm giác như vậy. Hoàng lắc lắc cái đầu, cố gắng đưa mình trở về thực tại.
  Trong căn phòng rộng rãi trống trải, đèn điện sáng chưng và chỉ có hai người. Hoàng cảm thấy ngột ngạt khó thở, Hoàng lúng túng tìm cách để an ủi Thủy… Hoàng nói rất nhỏ cốt để Thủy nghe được thì nghe, không nghe được cũng không sao:
   -Em thấy khóc mà vơi đi sự khổ đau thì em cứ khóc, anh không biết phải làm gì cho em bây giờ? Bố em mất thì đã mất rồi không thể sống lại được. Em  cần phải sống, vì em còn có mẹ và các em… Mọi chuyện đâu còn có đó, em đừng tự giầy vò hành hạ bản thân mình nữa.
  Nghe tiếng Hoàng, Thủy thôi không khóc nữa, chừng như là để lắng nghe xem Hoàng nói gì. Thủy ngửng đầu lên, hai tay vén tóc hất về phía sau, lộ ra khuôn mặt đầm đìa nước mắt nhìn Hoàng. Hoàng lúng túng chợt phản xạ sộc tay vào túi quần, nhưng Hoàng đã thất vọng vội rút tay ra. Hoàng nhớ đến chiếc khăn mùi xoa trước kia Hoàng thường để trong túi, nhưng bây giờ đâu còn nữa…Cách đây 8 năm, Hoàng đã dùng nó để băng vết thương cho Thủy.
  Kể từ ngày có vợ có con, Hoàng không còn thói quen dùng khăn mùi xoa nữa. Hoàng còn đang loay hoay chưa biết xoay sở thế nào. Như đoán được suy nghĩ của Hoàng, Thủy lấy trong tay ra chiếc khăn mùi xoa. Thủy im lặng thấm những giọt nước mắt còn vương trên khuôn mặt đau khổ của mình, từ từ dở những nếp gấp vuông vắn của chiếc khăn như là để nói với Hoàng: Anh Hoàng ơi! Kỷ niệm của anh 8 năm về trước, em vẫn giữ dìn cẩn thận, anh có hiểu được lòng em không? Tự nhiên, Hoàng thấy thương Thủy vô cùng, nhưng Hoàng chẳng biết làm thế nào để thể hiện được tình cảm của mình.
   Cũng đúng lúc đó, một cảm giác nghi ngờ thoáng qua, Hoàng nghĩ: Rất có thể cuộc gặp hôm nay giữa Hoàng và Thủy, là Thủy có chủ định. Chả thế mà Thủy chủ động đến gặp Hoàng, lại còn mang cả chiếc khăn mùi xoa cách đây 8 năm về trước Hoàng dùng để băng vết thương cho Thủy. Hoàng đoán như vậy, nhưng chưa khẳng định, Hoàng e ngại biết đâu có thể có những chiếc khăn mùi xoa giống như chiếc khăn mùi xoa của Hoàng thì sao?
  Nhìn chiếc khăn mùi xoa Thủy đang cầm, Hoàng nghĩ: Nếu chiếc khăn này đúng là chiếc khăn Hoàng đã dùng nó để băng vết thương cho Thủy 8 năm về trước, thì số phận của chiếc khăn cũng quá truân chuyên. Hoàng bồi hồi nghĩ lại, chủ nhân của chiếc khăn này là người yêu của Hoàng, khi Hoàng còn đang học đại học… Năm 1972, Hoàng lên đường nhập ngũ, người yêu Hoàng đã tặng Hoàng chiếc khăn trong đó có thêu đôi  chim bồ câu và dòng chữ: “Nhớ thương anh nhiều”. Hoàng thả lòng nhớ đến người xưa…
  Người yêu của Hoàng không xấu, cũng không đẹp, bình dị dễ thương, nhưng sâu nặng… Cuộc đời của hai đứa, chiến tranh và cuộc sống hiện tại đã viết và lật đi nhiều trang. Song điều Hoàng khẳng định là: Từ khi yêu nhau, cho tới bây giờ, ngày này qua ngày khác Hoàng chưa bao giờ quên được người yêu cũ. Cách đây mới vài năm, có dịp bạn bè cùng lớp đại học thời kỳ 1968-1969, tổ chức quay lại nơi học sơ tán trước kia để thăm bà con xóm làng đã cưu mang mình trong hoàn cảnh đất nước còn chiến tranh.
   Hôm ấy, cứ từng đôi từng đôi đi chung với nhau bằng xe máy. Chẳng hiểu hữu ý hay vô tình, Hoàng với người yêu đi chung một xe. Xe bon bon qua cánh đồng lúa đang vào thì con gái, gió đồng mơn man thổi. Cao hứng Hoàng hỏi người yêu:
   -Em còn nhớ nơi này vào một buổi chiều thứ 7 hơn 10 năm về trước không?
   -Sao lại không! Ngày ấy bọn mình buồn cười nhỉ. Đúng là tuổi trẻ hồn nhiên, chúng mình cứ như đôi chim ríu rít bên nhau chẳng nghĩ ngợi gì. Hôm ấy về đến nhà em, em tưởng bố mẹ em sẽ mắng cho em một trận. Nào ngờ bố mẹ chẳng những không mắng mà còn vui lây với chúng mình… Ngày anh đi rồi em buồn lắm, có những lúc em tưởng như không thể chịu nổi vì nhớ anh.
   Hoàng đùa:
   -Sao không đợi anh về mà đã vội đi lấy chồng?
   -Tại ai?
  Vừa nói, người yêu Hoàng bấu mạnh vào hai bên sườn của Hoàng, làm Hoàng loạng choạng tay lái, vội phải làm lành:
   -Anh xin lỗi! Anh xin lỗi! Tại chiến tranh, không phải tại anh cũng không phải tại em, không phải tại chúng ta, được chưa? Thế bây giờ còn nhớ anh không?
   -!!!
   -Anh nói thật lòng! Em là người hạnh phúc nhất. Bây giờ ngoài chồng con em yêu thương em, em còn có anh.  Anh không thể hiểu được, tại sao anh không quên được em… Cho anh xin lỗi.
   Tiếng con thạch thùng tắc lưỡi trên trần nhà, kéo Hoàng quay trở lại căn phòng. Thủy ngồi im, đầu hơi cúi xuống, tay vuốt vuốt các mép chiếc khăn mùi xoa. Không ngẩng đầu lên Thủy nói:
-   Anh nói đúng! Mấy tháng trước em nhìn thấy anh ở khách sạn, nhưng em không dám gặp. Lần ấy là lần giáp mặt anh gần nhất, còn những lần khác em chỉ nhìn anh từ xa xa, không dám đến gần sợ anh phát hiện. Thực ra em lên đây được hơn một năm rồi. Làm ở đại lý phân phối bia, hàng ngày chẳng có nhiều việc để làm. Những hôm mọi người đi vắng, em đóng cửa đi lang thang để giết thời gian.
  Có lần đi vào một con phố, vô tình em đọc được tấm biển đề tên cơ quan: Ban công tác sông Đà. Chẳng hiểu sao em lại nghĩ thế nào anh cũng làm việc ở đây, mấy ngày sau đó em mở cuộc điều tra. Lúc đầu em hăng hái hỏi thăm tin tức về anh, xem anh có đúng làm việc ở đây không? Chẳng có khó khăn gì khi em hỏi một vài người ở trong cơ quan này, họ nói là thi thoảng anh có lên đây công tác, ngoài ra họ còn cho em biết anh đã có vợ có con, con anh đã học lớp một v.v.  Khi đã biết rõ mọi thông tin về anh, chẳng hiểu sao tự nhiên em buồn, em ốm mất mấy ngày, em chán nản chẳng thiết làm gì…
   Những ngày ấy em thực sự chỉ nghĩ về anh, em không muốn có một luồng suy nghĩ khác len vào. Nằm ở nhà một mình, em xắp xếp theo trình tự thời gian, hồi tưởng lại quãng thời gian  chúng ta quen biết nhau. Bắt đầu từ chuyến xe khách định mệnh Hà Nội - Hòa Bình em bị thương, anh băng bó cho em đưa em về trường. Những ngày sau đấy anh thường xuyên sang thăm và chăm sóc em. Em đã lành vết thương rồi anh vẫn sang thăm, những tuần anh không sang em thấy cô đơn trống trải, ở tuổi con gái khi ấy em mới cảm nhận được cảm giác thiếu vắng.
   Cũng không hiểu bắt đầu từ khi nào mà em thấy nhớ anh, em rất muốn gặp anh nhưng lại xấu hổ. Em không biết phải làm sao, chỉ mong nhanh đến chiều thứ bảy để anh đến thăm em và mua quà cho em. Thời gian ấy, chiều thứ bảy nào em cũng ra bờ suối giả vờ ngồi học để nhìn sang bờ bên kia, tìm bóng dáng một người trên con đường dẫn vào trường. Nơi ấy, đã hơn một lần em nhìn thấy anh dắt xe đạp lội qua suối để vào trường thăm em.
  Rồi những buổi hò hẹn, những chuyến đi chơi. Từ nhỏ đến lớn, em chưa bao giờ biết hò hẹn, chưa bao giờ dám đi xem phim, đi chơi với đàn ông. Chả biết tại sao từ khi quen biết anh em lại mạnh dạn như vậy? Có thể vì anh là ân nhân của em nên em phải chịu hàm ơn chăng? Hay vì anh đã là bộ đội thật thà chất phác như bố em… Không hiểu sao em cứ nghĩ: Anh là người đáng tin cậy, có thể gửi gắm được niềm tin và em mong muốn em không phải xa anh cứ được ở gần anh mãi mãi… Thế rồi vì cuộc sống, em vẫn phải xa anh, anh tiễn em ra trường đi nhận công tác… Những tưởng sẽ có ngày gặp lại anh như những ngày đầu chúng ta mới quen nhau. Nào ngờ, lại gặp nhau ở hoàn cảnh này…
   Ôi! nhiều nhiều lắm những kỷ niệm về anh, mà kỷ niệm nào cũng đáng nhớ. Có một kỷ niệm đến chết em cũng không thể nào quên, nói cho đúng là em ân hận về việc làm của mình. Đó là kỷ niệm về một lần hai anh em vào chơi nhà người cô của em, cô em chào anh bằng anh và cứ xưng hô anh anh em em với anh, cô em quên mất anh là bạn của em, em xấu hổ quá nhưng không biết làm thế nào. Sau đợt ấy, phải mất mấy tháng em không dám đi gần anh như trước kia mà tìm cách đi cách xa anh để mọi người không nhìn thấy. Việc làm ấy của em, tự em thấy vô lý và em rất  sợ anh nhận ra điều ấy. Kỷ niệm ấy, em dận chính em và thấy tội nghiệp cho anh chỉ vì anh nhiều tuổi hơn em mà nỡ đối xử với anh như vậy.
  Thời gian quen biết anh, rất nhiều lần em tự hỏi: Vậy quan hệ giữa anh và em là thế nào? Kết cục nó sẽ ra sao? Em không trả lời được. Song mỗi lần đi bên anh em tự biện luận và tìm đủ mọi hoàn cảnh tương tự trong sách vở và ở ngoài thực tế để chứng minh: Có nhiều đôi còn chênh lệch về tuổi tác hơn anh với em v.v. Hay những lần anh xuất hiện trước bạn bè em, em muốn nghe chúng nó gán ghép anh với em. Những lúc ấy trong bụng thì rất thích, nhưng ngoài miệng lại nói: Chúng mày nói gì vậy, người ta đáng tuổi cha tuổi chú cứ gán ghép linh tinh. Thực ra em lại muốn chúng nó nói nhiều nữa vào…
   Những ngày quen biết anh là chuỗi ngày đẹp nhất đời em, bây giờ thì không bao giờ có được, và mãi mãi cũng không bao giờ có. Lúc ấy, em chập chững bước vào đời, em khát khao và mong muốn tất cả. Còn anh! Vì sao anh im lặng?
(Còn nữa)….
 
   


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 01 Tháng Chín, 2016, 02:55:40 pm

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Số phận
     Ngày em bỏ nhà ra đi, người mà em nghĩ đến để nhờ cậy là anh, em vẫn biết anh đã có vợ. Nhưng chẳng hiểu sao khi đó chuyện anh có vợ nó mơ hồ đối với em, hay nói đúng hơn lúc đó nó không có ý nghĩa gì trong việc em đến tìm anh. Anh biết không? Hoàn cảnh của em lúc ấy giống như đang bị dòng nước lũ hung hãn cuốn đi, em cần có chỗ để bám, em không thể chết được, em còn nhiều việc phải làm. Em biết xung quanh em khi đó có thể có người sẵn sàng giơ tay ra cứu em, nhưng em không có niềm tin nơi họ. Thực ra em chỉ biết có anh, chúng ta đã quen biết nhau hơn bốn năm rồi cơ mà, với lại em biết anh đã từng là bộ đội giống như bố em, nên em đặt niềm tin vào nơi anh như em tin vào bố em.
   Số phận của em thật đen đủi, đêm ấy trời không cho em gặp anh, em lọt thỏm vào bóng đêm của cuộc đời. Nghĩ lại em thấy thương cho số phận của mình, nhưng sau đấy em thấy không gặp được anh cũng là điều may mắn cho anh. Vì nếu em gặp anh chỉ làm khó cho anh thôi, em nói thế chắc là anh hiểu…Còn suy nghĩ về chị nhà. Tuy em không biết mặt chị nhà, nhưng em tưởng tượng ra gương mặt chị hiền lành chất phác giầu lòng vị tha, chị tin anh như chị tin chính chị. Nhưng em cần anh, em mong chị thông cảm cho em trong hoàn cảnh này.
  Hôm em bỏ nhà ra đi, vào lúc mẹ em đang mót rau ở vườn để mang ra chợ bán, hai đứa em đi học, em ở nhà nấu cháo cho bố. Bê bát cháo đến bên giường bệnh của bố mà lòng em thắt lại. Bố em nằm bất động như cái xác không hồn, người gầy rộc chỉ còn da bọc lấy xương, đầu tóc bù xù, hơi thở mệt mỏi. Em nâng bố em dậy để ăn cháo, ông lấy tay ra hiệu để cho ông ngủ. Nhìn ông nước mắt em chảy tràn trên hai gò má, em vội kéo áo chùi ngay kẻo bố em biết. Nghĩ lại quyết định của mình đêm qua, em cho là rất đúng đắn, em phải đi kiếm tiền phụ mẹ thuốc thang cho bố. Em nghĩ: Ở chiến trường bố xông pha trong ngàn vạn mũi tên hòn đạn bố đã không chết, bây giờ bố về với vợ với con, bố không thể chết được, bố phải sống…
   Nhìn giường bệnh của bố, nhìn quanh nhà, nhìn bộ quân phục kỉ vật của ông, được ông lồng trong túi giấy bóng treo trịnh trọng cuối giường, nhìn ra ngoài vườn em thấy có lẽ đây là thời điểm thích hợp nhất, để em ra đi tránh sự băn khoăn lo lắng của mẹ em. Đi đâu và làm gì em chưa hình dung được, nhưng chắc chắn là em phải đi. Em đi xuống bếp, rồi lại quay lên nhà mấy lần mà vẫn chưa dám cầm túi quần áo dấu ở gầm giường. Em sang giường bố em nằm vén màn nhìn bố lần nữa, ông nằm bất động như chết. Em không thể kìm được nước mắt, em lẩm bẩm: Con xin lỗi bố! Bố tha tội cho con, con phải đi… Quay ra bàn, em xé tờ lịch viết vội mấy dòng: Con có việc phải đi vắng mấy ngày, mẹ không phải lo cho con. Khi nào xong việc con về ngay, mẹ đừng nói cho bố biết. Con Thủy.
   Với chiếc túi quần áo ở gậm giường, em lẻn ra sau nhà đi tắt qua mấy nương sắn rồi cắm đầu cắm cổ chạy ra hướng  có đường ô tô Nho Quan đi Hòa Bình. Bình thường mọi khi em phải đi mất hơn nửa tiếng mới ra đến gốc đa chờ đón xe, hôm nay vừa đi vừa chạy lại sợ có người phát hiện nên em thấy rất nhanh. Vừa chạy vừa đấu tranh tư tưởng: Đi đâu, đi Nho Quan hay đi Hòa Bình? Tính toán một lúc, em quyết định đi Hòa Bình vì ở đó có anh, nếu vào Nho Quan em không có người quen.
  Và cái đêm em đứng ở cổng cơ quan anh để đợi anh, em đã kể anh nghe rồi đấy. Có lẽ cả cuộc đời em, chưa có khi nào mà em mong mỏi và khẩn thiết để gặp một người đến như vậy. Đến khi em biết không gặp được anh thì đêm cũng đã về khuya, em bơ vơ một mình trong màn đêm hoang vắng của thị xã miền núi, em thực sự hoảng hốt lo sợ không biết đi đâu về đâu. Em ngồi thụp xuống sau gốc cây xà cừ ôm mặt khóc, em không dám khóc to sợ có ai đó nghe thấy. Phía xa xa có ánh sáng đèn pin loang loáng đang hướng về phía em, em lại càng sợ hơn. Không biết chuyện gì sẽ xảy ra với em trong đêm nay? Chợt em nghĩ ra có lần anh đã đưa em đi chợ Phương Lâm, thế là em đi như chạy về hướng chợ Phương Lâm, ở đó có khách sạn Đà Giang là nơi an toàn để em có thể trú chân qua đêm. Đến khách sạn, em ngoái cổ nhìn lại xem có chuyện gì xảy ra, song em không  nhìn thấy gì bởi sau ánh đèn bảo vệ vàng ệch là màn đêm tối tăm bịt bùng.
  -Này cô kia! Đi đâu đấy? Người gác cổng hỏi em.
  -Cháu vào khách sạn!
  Em trả lời người gác cổng rồi cúi đầu đi thẳng vào quầy lễ tân. Lúc này em mới giật mình nghĩ đến tiền, em làm gì có tiền mà vào khách sạn. Chết thật thế nào cũng bị đuổi ra cho mà xem, bây giờ phải nghĩ cách nói dối để được ngồi ở đâu đó trong khách sạn. Em còn đang loay hoay nghĩ cách nói dối thì người bảo vệ đã gọi giật em lại.
  -Lễ tân đằng này cơ mà!
  -…
  - Cô kia! Lễ tân đi lối này.
  Em biết là không thể không nghe lời người bảo vệ, em đành quay ra gặp ông ta. Chẳng hiểu sao lúc ấy tự nhiên em khóc hu hu, không hiểu em khóc vì mình không có tiền hay khóc vì tủi phận. Em vừa khóc vừa nói:
  -Anh ơi! Tiền của em bị mất rồi, em không có tiền mua vé. Em là con gái không dám ngủ lang thang ngoài đường, em xin anh cho em vào đây ngồi nhờ, sớm mai em đi sớm.
  -Không được! Ai vào đây mà chả nói vậy, thôi ra đi để tôi đóng cửa.
  Thấy thái độ cương quyết của người bảo vệ, em sợ đêm nay em phải đứng ngoài đường em càng khóc to hơn:
  -Anh ơi! Em van anh, em chỉ xin anh cho em ngồi ở gốc cây kia thôi, em không làm gì đâu, anh hãy tin em.
  -Không được! Tôi đã nói không được là không được. Cô đi ra ngoài ngay để tôi đóng cửa.
  -…
   Có một người phụ nữ ngồi ở sa lông phòng lễ tân đang theo dõi câu chuyện của em và người bảo vệ. Lúc này chị ấy mới đứng dậy đi đến bên em và nói:
  -Em có căn cước không?
  Thấy chị ấy nói vậy em mừng lắm, chưa biết chị ấy có giúp gì cho em không, nhưng trong đêm khuya khoắt này có người con gái đứng bên cạnh mình là em cảm thấy yên tâm.
  -Em có chị ạ!
  -Em đi theo chị!
  Cô lễ tân còn đang ngái ngủ, miễn cưỡng phải làm việc nên khó chịu, khi chị ấy và em đi lên phòng rồi còn nói với theo:
  -Nếu khách sạn có chuyện gì xảy ra, chị là người phải chịu hoàn toàn trách nhiệm.
  Chuyện xảy ra nhanh và bất ngờ, em chưa kịp phản ứng gì chỉ đi theo chị ấy như cái máy. Chị ấy đưa em lên phòng và đóng cửa lại, chị nói:
  -Đây là phòng của chị, từ bé đến giờ chị chưa khi nào dám ở một mình, hôm nay có việc gấp chị đành phải lên đây để mai đón xe lên Sơn La sớm, chị rất sợ ở trong phòng một mình, chị đành xuống lễ tân ngồi để có người có tiếng cho đỡ sợ. Em có đồng ý ở chung với chị thì giường em đây, chị nằm giường này.
  Ánh đèn vàng ệch yếu ớt của phòng khách sạn cũng đủ để em quan sát chị ấy dễ hơn. Đánh giá đầu tiên của em về chị ấy: Chị tương đối xinh, mặt trái xoan, mũi dọc dừa, mặc bộ đồ mầu đen, khoảng 30 -35 tuổi, người cao tầm thước nở nang, thắt đáy lưng ong, da trắng tóc dài. Em đoán: Chị thuộc lớp người có học vấn, rất có thể là dân giáo viên hay văn phòng gì đó.
  -Em cám ơn chị!
  -Em đã ăn uống gì chưa? Chị tên là Mai, em tên gì? Mà bây giờ cũng muộn rồi có muốn ăn cũng chẳng ai bán cái gì để ăn đâu. Thôi đành nhịn đói vậy, sáng mai ăn sớm. Bây giờ vào rửa ráy rồi đi ngủ.
  Hai chị em nằm nói chuyện một lúc, chẳng hiểu thế nào em lại kể hoàn cảnh của em cho chị ấy nghe. Nghe xong, chị ấy cũng chẳng vặn vẹo gì em, còn rủ em mai đi Sơn La về nhà chị chơi. Được vài câu nữa, em thấy chị ấy im lặng, có thể chị ấy đã ngủ rồi hoặc là chị ấy giả vờ để theo dõi em. Em cố gắng nằm im không dãy dụa tránh gây ra tiếng động để chị ấy ngủ, mặt khác cũng là để không làm cho chị ấy nghi ngờ gì về em. Khổ nỗi, từ sáng đến giờ em mới chỉ có mấy củ khoai luộc cho vào bụng. Bụng em cồn cào sôi èo ẹo, đói quá em không ngủ được. Em nhớ đến anh, từ hồi chiều em đã tính: Nếu hôm nay mà không gặp được anh, mai em sẽ vào tận nơi để gặp anh và vay anh ít tiền gửi về cho mẹ, trước mắt tạm thời như vậy đã, mọi chuyện rồi sẽ tính sau.
  Mùi gạo rang thơm ngào ngạt, em đang cố xem nó ở đâu? Em cố gắng bới, nhưng em không nhắc được tay lên mà bới cái đám hỗn độn linh tinh ở giường để tìm túi gạo rang. Loay hoay mãi mà vẫn chưa có cách nào, chợt em lại thấy khát khô cả cổ. Em nhớ có lần anh bảo: Cứ giơ tay sờ sờ vào nóc hầm, sẽ gặp những rễ cây bị đứt, ở những rễ cây ấy thế nào cũng có nước, ngửa tay ra hứng lấy nước ấy để nhấm nháp cũng đỡ khát, chờ đến tối bò ra suối lấy nước tha hồ mà uống. Em cố giơ tay lên nóc hầm, nhưng tay em bị ai giữ lại không giơ lên được. Em đang ú ớ, ú ớ thì có người gọi em.
  -Dậy! Dậy, bóng đè à?
  Em tỉnh giấc, hóa ra em đang mơ. Em cố định thần xem mình đang ở đâu? Tuy có ngơ ngác đôi chút, nhưng ngay sau đó em đã xác định được câu chuyện từ sáng đến giờ và em đang ở khách sạn với một chị vừa quen. Giấc mơ em đang mơ chính là chuyện anh kể em nghe về việc anh đi trinh sát trong lòng địch, anh đã đào hầm bí mật và ở trong đó mấy ngày để điều tra địch tình. Anh kể anh ăn gạo rang và uống nước suối, khi hết nước anh phải uống nước từ rễ cây trong hầm mà không ra được vì sợ bị lộ. Lúc này, vì em đói và khát nên em chỉ mơ đến ăn và uống. Tủi thân em ôm mặt khóc, nhưng nghĩ đến bố và anh những người đi bộ đội, em thấy mình chưa thấm vào đâu.
  Mấy con gà ở xung quanh khách sạn gáy liên hồi, nhìn ra ngoài trời tối đen như mực. Không biết bây giờ là mấy giờ  mà chị ấy đã gọi em dậy thu xếp hành lý ra bến xe. Hai mắt em cay sè, tay quơ quơ đống hành lý, chị lại dục:
  -Nhanh lên em! Ra sớm còn có ghế ở đầu xe, ra muộn phải ngồi ở phía sau thì xóc lắm. Cứ lên nhà chị chơi một vài hôm, ưng thì ở lại làm việc cho chị, không ưng thì về cũng chưa muộn.
  Chả là tối hôm qua, nghe em nói em cần tìm việc làm. Chị ấy nói ngay với em là chị cần tìm một người vừa giúp việc nhà vừa biết làm cô giáo, em cứ lên xem tình hình thấy làm được thì làm giúp chị, nếu em không đồng ý thì thôi. Tối hôm qua, em cứ tưởng chị ấy nói chơi để em  vui, nên em cũng không để ý. Bây giờ chị ấy nhắc lại, em mới té ngửa người là chị ấy nói thật.
(Còn nữa)



Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 11 Tháng Chín, 2016, 02:27:06 pm

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Số phận
   Đưa em đi xem hai khách sạn ở trong thị xã và giới thiệu em với mọi người làm ở đấy, sau đó chị ấy đưa em về khách sạn ở gần chợ. Em theo chị đi thẳng vào dãy nhà một tầng ở phía sau, đứng chờ chị mở cửa căn phòng. Em đoán đây là phòng làm việc của chị, linh tính nhắc em sâu chuỗi lại những việc đã diễn ra từ khi gặp chị cho đến lúc này, em nghĩ có thể chị là giám đốc khách sạn.
  -Đây là phòng làm việc của chị, bên cạnh là phòng kế toán, phía sau là nhà ở của các nhân viên làm việc trong khách sạn, cứ từ từ tìm hiểu là em khắc biết.
  Nhìn căn phòng bố cục sang trọng và rất phụ nữ. Tất cả mọi vật dụng trong phòng  sạch sẽ gọn gàng, mầu sắc hài hòa theo gam mầu vàng sáng, thứ gì cũng xinh xinh đáng yêu. Bàn làm việc của chị xếp xắp ngăn nắp, sau lưng là chiếc tủ gỗ lát mầu vàng nhạt được thiết kế cách điệu, không tạo thành các buồng rõ ràng. Hai buồng đầu hồi, một buồng phía bên phải được bưng kín bằng cánh cửa tủ cánh cong, buồng bên trái là gương soi toàn thân. Phần giữa rộng gấp ba bốn lần buồng đầu hồi,  phía trên là kính trong suốt để nhìn thấy tất cả vật dụng bầy trong các ngăn, phần dưới được bịt kín toàn bộ bằng các cánh cửa tủ và các ngăn kéo.
   Chiếc bàn làm việc dài rộng ở phía trước, sau lưng là chiếc tủ hoành tráng trang nghiêm, cả hai thứ cân đối với nhau, tạo vị thế oai vệ cho người ngồi làm việc trên chiếc ghế tựa bằng da mầu vàng nhạt. Sự phối mầu của các vật dụng trong phòng, cũng đủ nói lên con người ngồi đây đã khéo léo xây dựng hình ảnh của mình. Không oai phong lẫm liệt như đấng mày râu, nhưng cũng làm cho người khác phải cân nhắc khi đến làm việc…
  Chị mời em ngồi vào salon, đệm salon mềm mại lọt thỏm khiến em giật mình tưởng ngồi xuống đất. Mùi thơm man mát tỏa khắp căn phòng tràn ngập ánh sáng, không biết mùi thơm này tỏa ra từ đâu, từ lọ hoa rừng đặt ở bàn hay là từ người của chị. Mùi thơm này rất quen với em vào mỗi buổi sáng em đi lên nương, khi ấy em đang là giáo viên cắm bản vùng Đà Bắc, mùi thơm rất đặc trưng của núi rừng Tây Bắc.
  -Công việc trong khách sạn này không phải là việc của em, công việc của em là đúng nghề em đã được học, em làm cô giáo dậy dỗ chăm sóc hai đứa con của chị.
  Như sợ em chưa hiểu hết, chị nói thêm:
  -Chị có hai cháu, một trai một gái. Cháu trai 7 tuổi học lớp hai, em nó 4 tuổi mẫu giáo lớn. Hàng ngày em đưa đón chúng đến trường, dậy học thêm ở nhà và chăm sóc chúng nó. Quan trọng nhất là lúc chị đi vắng như tối hôm qua, em sẽ phải ngủ với chúng nó. Chuyện này cũng hãn hữu mới xảy ra, nhưng chị cũng phải nói trước.
  Chị giải thích thêm:
  -Chồng chị là nhà thầu xây dựng, hay đi các tỉnh để làm ăn nên anh ấy ít khi có nhà, với lại anh ấy có nhà thì cũng không giúp được gì cho chị về chuyện con cái. Nhà có hai khách sạn nên mỗi người phải trông một cái, chị và các cháu ở đây, bên kia giao cho anh ấy. Về danh nghĩa là thế, thực ra bên ấy chị phải thuê một người bà con trong coi giúp, anh ấy chẳng mấy khi ở nhà, nếu có nhà thì cũng đi chơi với bạn bè say sưa lướt khướt chẳng làm ăn gì được.
  Chị dừng lại nhìn em thăm dò. Thực ra lúc này em vẫn như mơ, em không thể hình dung được sự việc lại chuyển nhanh như vậy, mới qua một đêm mà từ thái cực này sang thái cực khác… Em băn khoăn đắn đo bởi cuộc đời này không ai cho không ai cái gì, tất cả đều có giá của nó. Nhưng đằng sau nó là cái gì thì em chưa biết, trong khi đó hiện tại em rất cần tiền để chữa bệnh cho bố, còn những công việc như chị nói chắc là em làm được. Em đang mênh mông trong cảm giác vui mừng và hoài nghi, còn chị như sợ em không đồng ý vì chị chưa đáp ứng được yêu cầu của em tối hôm qua. Chị nói:
  -Chị đồng ý cho em tạm ứng lương, bình thường ai vào làm cho chị, chị chỉ ứng nửa tháng. Vì em yêu cầu với lý do chính đáng, chị đồng ý tạm ứng cho em một tháng để em có tiền mua thuốc cho bố.
  Vẫn trong trạng thái hoài nghi, em ấp úng:
  -Em sợ em không làm được… Đưa đón và dạy học thì được, còn chăm sóc và ngủ với chúng nó em sợ em không quen.
  -Chị tin là em làm được, em cứ thử một tháng. Nếu làm được thì tiếp tục còn không thì tùy em… Thôi mọi việc tạm thời như vậy đi! Chị có việc bận, em về thu xếp nghỉ ngơi. À! Phòng ngủ của em sát với phòng hai đứa con chị, kia kìa, chị cũng ở bên cạnh.
    Mấy tháng sau đó em sống trong ngập tràn hạnh phúc. Có cơm ăn có việc làm, tháng nào em cũng gửi tiền về cho mẹ. Mẹ em bảo bố em đỡ nhiều rồi, ông ấy vui lắm cứ nhắn em hôm nào về đưa ân nhân(chị chủ) về nhà chơi để bố mẹ cảm ơn. Còn về phía chị, thời gian này em cảm nhận chị cũng vui hơn, thường rủ em đi chợ, mua quần áo cho các con và cho hai chị em. Em nghĩ có thể vì có em chăm sóc con cái, chị có thời gian tập trung vào công việc kinh doanh nên mọi việc đều thuận lợi thành ra chị vui hơn. Rất có thể, có em nên chị ấy bớt cô đơn cũng nên!!!
  Một buổi sáng chủ nhật ở thị xã miền núi, tiết trời đã chuyển sang thu, trời se lạnh. Những lớp sương trắng đục mỏng tang, bay là là trên cánh đồng rau của bà con ở hai bên bờ suối. Sương trắng rau xanh, đây đó thấp thoáng những bóng áo chàm ẩn hiện, mờ mờ ảo ảo trong sương. Ôi! Khung cảnh thanh bình tạo nên một bức tranh huyền ảo. Buổi sáng trong lành, em đứng bên cửa sổ nhìn ra cánh đồng, quan sát mọi chuyển động của các sinh vật mà không chán mắt.
   Những lúc như thế này là lúc em nhớ về quê hương, nhớ bố mẹ, nhớ các em da diết nhất. Em đang cố thu xếp khi nào thật thuận lợi em sẽ xin chị chủ cho về thăm nhà mấy hôm, nhưng em chưa dám nói. Trong khoảng không gian buồn vui nhiều kỷ niệm, thi thoảng em cũng nghĩ về anh. Nhưng chẳng hiểu sao, tất cả những nỗi nhớ niềm thương của em đến tất cả mọi người đều lộn xộn mà không có kết thúc bằng một việc gì đó cụ thể, những lúc như vậy cũng là những lúc em hay thở dài vì thất vọng… Tiếng chị chủ gọi:
  -Thủy ơi! Dậy chưa? Dậy đi. Hôm nay chủ nhật, mình đi chợ rồi về tự nấu lấy ăn, chị nấu bếp nghỉ chủ nhật rồi.
  -Em dậy rồi! Vâng! Mấy giờ thì đi hả chị?
  -Chị nghĩ mình đi ăn sáng, tiện thể mua luôn cho bọn trẻ, sau đó chị em mình đi chợ mua thức ăn rồi về nấu cơm.
  - Vâng! Lúc nào đi chị gọi em.
   …
  Hai chị em quyết định đi bộ ra chợ, khách sạn cách chợ vài trăm mét, cự ly này lỡ cỡ, đi xe thì ngắn đi bộ hơi xa, nhưng đi bộ là tiện hơn cả vì không phải gửi xe. Đến cổng chợ, việc đầu tiên là xà ngay vào quán bún ngan. Chị chủ quảng cáo bún ngan ở đây ngon hơn dưới Hà Nội, vì ngan là ngan ta được nuôi ở suối nước chảy, thịt vừa mềm vừa thơm, măng là măng rừng ngâm chua tự nhiên theo kiểu của đồng bào dân tộc, gia vị để ăn với bún ngan cũng giống như dưới xuôi nhưng còn thêm một vài loại đặc biệt của núi rừng như măng khén v.v.
   Nghe chị quảng cáo em đã chảy nước miếng, đến khi hai tô bún nóng hổi bốc hơi nghi ngút được bê lên, nhìn những sợi bún trắng ngần mềm mại nằm ẩn mình dưới những lát măng rừng óng ánh bởi các sao mỡ của nước dùng. Những miếng thịt ngan thái to bản, dầy dặn mầu còn hơi hồng hồng lát khéo léo phủ kín gần hết bề mặt của tô bún. Loáng thoáng là những sợi rau thơm mầu xanh được thái nhỏ rải nửa kín nửa hở lộ ra những sợi bún, những miếng thịt ngan, một vài lát ớt và những miếng măng rừng. Mùi thơm của tô bún quện với mùi thơm của các loại gia vị mà chị chủ gia giảm cho em làm em không thể chịu đựng thêm được phút nào nữa…
  Sụp soạp, hai chị em tập trung cao độ vào bát bún, cay nóng làm hai má chị ửng hồng, mồ hôi lấm tấm trên trán. Nhìn chị, tự nhiên em thấy chua xót cho câu nói của chị hôm nào: “ Gái hai con như mâm cơm nguội úp lồng bàn…”
  -Mặt chị nhọ à?
  -Không?
  -Sao em nhìn chị ghê thế?
  -Vì hôm nay chị xinh quá! Thế mà chị lại bảo như mâm cơm nguội úp lồng bàn…
  -Thôi đi cô! Không ai khen gái hai con xinh cả… Còn đời cô đấy! Xem tôi nói đúng hay nói sai. Mà cô cũng nhìn lại mình đi, dạo này trông cứ phây phây thế kia làm sao cấm được bọn con trai ném hoa qua tường để gọi cô.
  -Chị này! Chị cứ đùa em. Thôi em không nói nữa.
  -…
   Nghĩ đến câu nói của chị chủ lúc đi ăn bún, trưa hôm ấy em không sao ngủ được. Không biết là chị khen thật hay là động viên em, chuyện những bó hoa để trước cửa phòng em là có thật, em không để tâm nên không biết là của ai, họ đùa hay có mục đích gì… Chả lẽ mình hấp dẫn đến như thế hay sao? Không thể kìm chế được sự tò mò, em trở dậy nhẹ nhàng chốt chặt các cánh cửa trong phòng buông rèm và kiểm tra chắc chắn để khẳng định không ai có thể nhìn thấy em làm gì ở trong phòng. Sau đó em bật tất cả các bóng điện lên, đứng trước gương.
   Ngắm mình từ đầu đến chân, từ chân lên đầu. Không biết em có bị ảnh hưởng bởi lời khen của chị chủ khi sáng không, nhưng đúng là em thấy mình cũng xinh. Em hơi xấu hổ, cười với mình trong gương, hai lúm đồng tiền xinh xắn lúc ẩn lúc hiện hai bên má. Em lấy hai tay giữ chặt để nó không chạy được, thì nó biến mất để lại đôi môi đỏ mọng bị kéo xệ xuống làm méo đi khuôn mặt tròn trĩnh vốn có của em. Em vội bỏ tay ra vuốt vuốt những nếp nhăn trên ngực áo, vô tình tay chạm vào vùng nhạy cảm, một cảm giác đê mê hiếm gặp xuất hiện ở đâu đó.
  Em nhìn xung quanh, tất cả các cửa đã được đóng kín. Không kìm hãm được, em bắt đầu khám phá cơ thể mình, em từ từ mở nút áo ra xem. Ôi! Không thể tin vào mắt mình nữa, nó là của mình sao hơn hai mươi lăm năm nay mới thấy nó đẹp đến như vậy. Xấu hổ! Em vội lấy hai bàn tay che lại như sợ ai nhìn thấy, nhưng hai bàn tay không thể che hết được độ to lớn và sự thách thức của nó. Em chạy lại giường nằm úp lên để không nhìn thấy nó, em lăn lộn trên giường và nghĩ đến một người con trai.
  Người con trai ấy chính là anh, cho em xin lỗi, em xin nói thật… Đã rất nhiều lần em tự hỏi: Tại sao lại là anh? Mà không phải là người khác. Những lần đầu tiên em không trả lời được, sau này dần dần em mới ngộ ra: Thật đơn giản! Khi còn bé thì chưa có chuyện gì để nói, đến khi lớn lên em đi học sư phạm, suốt thời gian học đến khi ra trường nhận công tác ở nơi khỉ ho cò gáy, em chỉ quen mình anh và duy nhất chỉ có mình anh là đã chạm vào cơ thể của em khi anh băng bó vết thương cho em. Hơn thế nữa, vì nhớ anh mà đã nhiều lần em ôm chiếc mùi xoa của anh vào mặt để tìm kiếm mùi cơ thể anh và cố làm mất đi nỗi cô đơn trống trải của em giữa núi rừng Tây Bắc.
(Còn nữa)

 
 


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 21 Tháng Chín, 2016, 02:56:38 pm
CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Số Phận
     … Em làm việc cho chị chủ được hai ba tháng, mới gặp anh chủ có hai lần. Lần đầu thì không nhìn rõ mặt, cũng không biết anh ấy thấp hay cao, chỉ thấy hai người khệ nệ khênh anh từ xe ô tô đưa vào buồng của chị, chị bảo anh ấy say rượu. Lần thứ hai anh chủ xuất hiện đột ngột vào buổi chiều, khi em đang dạy bọn trẻ học. Có lẽ thông qua chị chủ nên anh chủ cũng biết nhiều về em, gặp em anh chỉ hỏi vài câu xã giao cho lịch sự, rồi nói chuyện với hai đứa con, sau đó anh lại hớt hải đi ra vì có xe đến đón ở cổng.
  Lần này nhìn anh chủ và nói chuyện với anh, em liên tưởng đến chuyện chị chủ tâm sự với em. Lúc đầu, nghe chị nói em không hiểu gì, phải mãi lâu sau em vẫn lơ mơ, chị bảo: “Gái hai con như mâm cơm nguội úp lồng bàn, nếu không tìm thấy cái khác ăn được thì người ta mới ăn… Buồn cho phận đàn bà”. Nhìn anh chủ cao to đẹp trai phong độ, ăn nói lịch sự, lại là chủ thầu xây dựng. Em bắt đầu mơ hồ, tưởng tượng ra sự chua chát ẩn trong những điều chị nói. Từ đó, không hiểu sao em rất muốn chia sẻ với chị chủ về việc gia đình con cái và việc kinh doanh buôn bán. Nhưng có lẽ quan trọng hơn là từ đấy em nhận thấy: Bất kể ai cũng có nỗi khổ riêng, mình cũng không phải thuộc diện cá biệt.
  Những tưởng, cuộc sống của em cứ êm đềm trôi như thế này thì em sẽ thực hiện được giấc mơ chữa cho bố em khỏi bệnh. Nào ngờ, mùa mưa năm ấy ập đến sớm hơn mọi năm, mưa rền rĩ, mưa trắng trời, nước suối đổ về thị xã ào ào gây ngập lụt mênh mông. Vào mùa mưa, công việc xây dựng của anh chủ có lẽ vì thế mà giảm đi nên anh chủ thường xuyên ở nhà. Đúng như chị chủ đã nói, anh ấy mà ở nhà thì tiệc tùng liên miên, khách khứa bạn bè bốn phương tụ hội, chín lần nhậu là mười lần say, rượu vào lời ra…Những chuyện ấy tưởng rằng không có gì ảnh hưởng đến em, thực ra không phải thế. Mọi chuyện rắc rối sau này cũng bắt đầu từ mùa mưa năm ấy, cùng với những bữa nhậu dài lê thê của bọn lắm tiền nhiều của.
   Anh chủ bị tổn thất nặng nề vì mưa lũ cuốn trôi toàn bộ máy móc và những hạng mục công trình đang xây dựng dở dang, toàn bộ vốn đầu tư đổ vào công trình coi như mất trắng. Chuyện kinh doanh của anh chủ gặp khó khăn, để cứu vãn tình thế, anh buộc phải vay tiền của các đại gia. Trong cuộc vay mượn ấy, em là nạn nhân được đưa ra để mặc cả. Nội dung của cuộc mặc cả ấy em không biết, nhưng em đoán có thể đại loại là: Nếu anh chủ thuyết phục được em ngủ với ông ta một đêm, ông ta sẵn sàng cho anh chủ vay tiền để cứu công trình mà không tính lãi v.v. Chuyện này không rõ chị chủ có biết không, nhưng khi chị chủ quỳ trước mặt em mà van xin em tha thứ cho chị và thương lấy các cháu, khi đó em lơ mơ đoán chị chủ có thể không biết được âm mưu của bọn họ.
   … Dạo ấy, mỗi lần bọn họ nhậu xong là rủ nhau vào phòng hát karaoke. Các lần khác, anh chủ đều gọi các tiếp viên ở nơi khác đến phục vụ. Trưa hôm ấy, vào khoảng 12 giờ trưa, bọn họ lại rủ nhau đến hát karaoke. Lần này anh chủ không gọi tiếp viên đến mà bảo em mang bia và nước ngọt vào cho anh. Việc mang bia và nước ngọt vào phòng hát, em đã từng làm một vài lần nên em thấy bình thường, hơn nữa đây là việc anh chủ nhờ làm sao em dám từ chối, vì thế em làm việc này rất tự nhiên. Khi em bê khay bia, vừa bước qua cánh cửa phòng karaoke, chưa kịp bước thêm bước nào đã bị một người bịt chiếc khăn ướt vào mặt em và một người đỡ khay bia. Em vùng vẫy một lát rồi thiếp đi, khoảng 2-3 giờ sau tỉnh dậy, đầu em đau như búa bổ. Em nhìn quanh trong phòng không thấy có ai, khay bia và nước ngọt vẫn còn nguyên, em nằm còng queo trên salon.
   Linh tính có chuyện chẳng lành, em sờ soạng khắp người và em hiểu chuyện gì đã xảy ra đối với em. Em hoảng loạn đến nỗi không biết mình phải làm gì, ngay cả việc khóc em cũng không khóc được. Em cứ nằm nguyên ở tư thế cũ, cố gắng nhớ lại chuyện gì đã xảy ra và em phải làm gì đây. Chuyện xảy ra quá nhanh, mà cũng không có gì để nói, chỉ đơn giản là anh chủ lên gọi em mang bia và nước ngọt vào phòng hát, sau đó anh chủ đi vệ sinh hay đi đâu đó chưa quay lại thì em đã mang bia vào phòng hát rồi bị đánh thuốc mê. Ai là người đánh thuốc mê? Họ có mấy người? Em hoàn toàn không biết, sau khi đánh thuốc mê họ làm gì em cũng không biết, nhưng những việc họ làm đều lưu lại dấu vết trên cơ thể em.
   Quần áo em sốc sếch vì họ cố kéo để che kín cơ thể cho em, thứ nước nhờn nhầy nhụa còn sót lại vương vãi trên người em, bốc mùi tanh lợm giọng. Em chưa biết phải làm gì, việc đầu tiên em phải làm là mặc lại quần áo. Nghĩ đến sự mất mát quá lớn của đời người con gái mà không có cách nào lấy lại được, em òa lên khóc, khóc thổn thức. Em nghĩ bố mẹ em mà biết chuyện này hẳn là ông chết ngay trên giường bệnh, còn mẹ em có sống cũng như chết. Mới nghĩ đến đấy em đã hoảng hốt, chân tay run lập cập, em không còn can đảm để làm được việc gì lúc này… Chả lẽ cam chịu sự nhục nhã này sao? Nhất định phải làm một việc gì đó để trừng trị bọn tà dâm, nhưng phải làm gì? Không có ai chỉ bảo thì em biết phải làm gì? Em lúng túng khi chưa tìm ra cách nào. Trong những lúc khó khăn em hay nghĩ về anh, đã có một lần anh nói: Trong bất kỳ hoàn cảnh khó khăn nào, cần phải bình tĩnh để suy xét tìm ra cách giải quyết.
   Em cố lấy lại bình tĩnh để suy nghĩ, cuối cùng em quyết định phải đi kiện, kiện để làm rõ bộ mặt bẩn thỉu của bọn tà dâm và bắt chúng phải bồi thường danh dự cho em… Nghĩ như vậy, nhưng bắt đầu từ đâu em lại lúng túng. Chả lẽ viết đơn kiện anh chủ sai em mang bia vào phòng karaoke để bị những người trong phòng đánh thuốc mê cưỡng hiếp. Viết đơn thì được, còn bằng chứng thì sao? Ai là người làm chứng? Làm thế nào để chứng minh mình bị hãm hiếp v.v. Tất cả những vấn đề này đều nhạy cảm và tế nhị, đôi khi lại bất lợi cho chính mình. Suy nghĩ một hồi, em quyết định: Những việc này đều làm được, người làm chứng là anh chủ, vì anh chủ là người đưa bạn vào hát karaoke, còn hiện trường xảy ra là tại phòng này vẫn còn nguyên dấu vết. Việc trước mắt là phải ra gọi chị chủ vào để chứng kiến. Nhưng liệu chị chủ có đứng về phía mình không? Một bên là chồng, một bên là kẻ làm thuê, thật quá khó. Nhưng em cũng không còn cách nào khác.
  Nhìn dáng vẻ của em, chị chủ vội vàng đi theo em vào phòng karaoke. Không muốn để lộ câu chuyện này cho người khác biết, em khóa trái cửa lại và đưa chị đến chỗ em bị làm nhục. Em cố nén cảm xúc, trình bầy chi tiết sự việc xảy ra cho chị nghe và chỉ cho chị những bằng chứng hãm hiếp cào cấu còn rõ ràng trên cơ thể em. Nghe xong, chị chủ bàng hoàng ấp úng không nói thành lời, tay run run vuốt lại mái tóc bù rối cho em. Chị ôm em vào lòng và nói:
-Khổ thân cho em! Tất cả mọi việc đều rõ ràng rồi! Chị sẽ lấy lại công bằng cho em! Bây giờ chị cần phải gặp chồng chị đã, em cứ tạm ngồi đây đợi chị.
  Nói xong, chị hớt hải đi ra ngoài, lát sau chị quay lại cùng với anh chủ. Giọng chị đanh lại:
  -Đây anh nhìn đi! Anh đừng nói với tôi là anh không biết gì? Anh đã thấy tai hại chưa? Đã bao lần tôi nói mà anh không nghe, bây giờ anh đã sáng mắt ra chưa?
  Anh chủ còn đang ngái ngủ vì say rượu từ trưa, thấy chị chủ dồn dập anh ngơ ngác chưa hiểu chuyện gì đã xảy ra. Anh hỏi lại:
  -Nhưng mà chuyện gì đã xảy ra mới được chứ?
  -Đến lúc này rồi mà anh còn giả vờ giả vịt, anh định lấy vải thưa để bịt mắt thánh hay sao?
  Chị chủ bước đến bên em, chỉ vào mặt em, ngực em, bảo em vén áo lên để anh nhìn thấy những vết cào xước. Chị lại kéo anh đến tận nơi, chỉ cho anh  thấy những giọt nước nhờn trắng đục còn sót lại trên salon.
  -Anh còn gì để nói nữa không? Người ta đi kiện thì tù mọt gông! Đã đẹp mặt chưa? Bây giờ anh muốn làm sao thì làm, tôi không biết.
  Đến lúc này anh chủ mới vỡ lẽ, câu đầu tiên mà anh nói ra:
  -Anh thực sự không ngờ chuyện lại xảy ra như vậy. Bọn họ đã lừa anh, bảo em mang bia vào để họ giở trò bẩn thỉu. Em cứ bình tĩnh chờ anh gọi bọn họ đến để làm cho ra nhẽ ngay bây giờ.
   … Một giờ rồi hai giờ qua đi, hoàng hôn đã tắt, bóng tối ập xuống rất nhanh ôm gọn thị xã miền núi vào lòng. Trong phòng chỉ có ba người, anh chủ không liên lạc được với bọn họ, anh lắc đầu ngán ngẩm… Chị chủ quay sang bảo:
  -Thôi em cứ về tắm rửa nghỉ cho lại sức, anh chị sẽ có trách nhiệm giải quyết việc này. Em nhớ đừng giặt bộ quần áo đang mặc, phòng này cũng không được dọn phải giữ nguyên hiện trường và em cũng đừng kể chuyện này cho ai nghe kể cả người thân của em, nếu để lộ chuyện dễ hỏng việc.
  …
  Đêm về khuya, ánh trăng thượng tuần nhợt nhạt hờ hững trên những chậu hoa ngoài ban công. Chuyện xảy ra hồi chiều làm em không tài nào chợp mắt, hết nằm lại ngồi, hai mắt xưng húp, cổ khản đặc, đầu như muốn nổ tung. Ánh sáng mờ mờ của đèn bảo vệ ở ngoài đường chiếu vào căn phòng. Em như kẻ vô hồn, thẫn thờ đi đi lại lại trong phòng. Đi lại nhiều, mỏi chân em kéo ghế ngồi bên cửa sổ nhìn ra thung lũng, lòng ngổn ngang trăm mối tơ vò. Thời tiết về đêm hơi lạnh, em khoác hờ chiếc áo vào người cho ấm, nghĩ miên man, trách cho số phận mình đen bạc. Tủi thân vì cô quạnh, không nơi nương tựa, nước mắt lại trào ra.
  Nước mắt chảy ướt đầm cả ngực áo làm em lạnh hơn, em nhớ anh đã kể: Lần anh ngồi một mình trong hầm bí mật, nghĩ đến bố mẹ anh chị em ruột thịt ở quê hương, tự dưng anh xúc động ôm mặt khóc rưng rức. Nước mắt anh chảy đầm đìa ướt cả ngực áo, anh tự hỏi: Giờ này ở ngoài Bắc không biết bố mẹ đang làm gì? Bố mẹ có biết không? Giờ này con đang cô đơn, một thân một mình sống trong lòng địch, con đang rất cần sự phù hộ của tổ tiên để con được sống mà trở về với bố mẹ. Bất giác tay anh chạm phải khẩu súng AK báng gập lạnh ngắt, anh lập tức nhớ tới nhiệm vụ và anh không khóc nữa. Vào hoàn cảnh ấy, anh cầu mong như vậy là để được sống trở về, còn vào hoàn cảnh của em bây giờ, em chỉ cần có anh để anh chỉ cho em phải làm gì.
  Cộc, cộc, cộc. Em hơi giật mình, nhưng em biết được ai gõ cửa, thực tế phòng ngủ của họ chỉ cách phòng em có một phòng, em biết họ vẫn chưa ngủ. Em bật đèn lên và mở cửa cho họ vào. Anh chị chủ bước vào, họ như vừa trải qua một việc gì đó vô cùng khó khăn vì thế nhìn họ mệt mỏi bơ phờ. Em và chị chủ ngồi đối diện nhau, anh chủ ngồi vào chiếc ghế em vừa ngồi. Phải rất lâu chị chủ mới mở lời:
  -Đầu tiên là chị xin lỗi em, vì em nể chị nên mới nhận lời về làm cho chị, nếu em không về làm cho chị thì sẽ không xảy ra việc này. Thật đáng tiếc đây là một tai nạn, chị cũng không muốn mà em càng không muốn. Nhưng nó đã xảy ra tại nhà chị, chị em mình phải chấp nhận sự thật này để giải quyết… Anh chị sẵn sàng chấp nhận mọi yêu cầu của em. Em muốn đi kiện anh chị cũng không cản được. Anh chị chỉ xin em nghĩ lại cái được và cái mất. Theo anh chị, cho dù em đi kiện hay không đi kiện thì cái mất lớn nhất là sự trinh trắng của người phụ nữ em cũng đã mất, điều này không bao giờ lấy lại được nữa.
  Nếu đi kiện em được cái gì? Em sẽ nhận được tiền bồi thường; Em được tòa kết án bắt bọn họ phải đi tù và bồi thường danh dự cho em v.v. Nhưng bên cạnh những cái được ấy em cũng phải mất thêm, cái mất thêm này không cân đong đo đếm được, vì mở phiên tòa thì sẽ rất nhiều người biết em bị hãm hiếp, nếu không mở thì chỉ có một vài người biết. Song song với chuyện được mất của em thì anh chị kể như mất hết, chuyện lộ ra anh chị bị buộc phải đóng cửa kinh doanh cả hai khách sạn. Anh chị không còn mặt mũi nào để nhìn mọi người, không dám ngẩng mặt nhìn ai ở trong thị xã này nữa. Còn các cháu, chúng sẽ bị đối xử như thế nào trong xã hội…
  Chị van xin em! Vì tình  chị em, vì các cháu. Chị xin em nên nghĩ lại…
(Còn nữa).




Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: longtrec trong 21 Tháng Chín, 2016, 09:14:31 pm
Chào anh quanvietnam!

Đọc chuyện của anh là không dứt ra nổi, cứ ngóng, cứ trông!

Trước đây em đã đọc nhiều chuyện của anh thời sơ tán, rồi vào bộ đội....Thời gian qua đi, mỗi người mỗi việc. Trang máu và hoa có lúc lắng đọng, nhưng nhiều khi lại bùng lên dữ dội.

Cảm ơn anh rất nhiều vì đã bỏ công sức viết, rất hay! Chuyện của anh luôn chứa đựng cái tình, cái lãng mạn và rất sâu lắng.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 23 Tháng Chín, 2016, 03:05:25 pm
Chào anh Longtrec! Cám ơn anh đã đọc và có lời động viên. Thôi thì,chắp nhặt chuyện người chuyện ta chuyện xã hội và khi có tâm trạng viết lên cùng chia sẻ niềm vui và nỗi buồn với mọi người. Viết thì viết vậy thôi cũng chẳng có chuyên môn chuyên khoai gì đâu, có thế nào mong mọi người chấp nhận.


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 06 Tháng Mười, 2016, 09:32:28 am

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Số Phận
   Sau cái đêm hôm ấy, là chuỗi ngày em sống âm thầm lặng lẽ, lo lắng, hồi hộp nghe ngóng dư luận xã hội về chuyện đã xảy ra. Thời gian này là quãng thời gian kinh khủng nhất của đời em. Ngày đêm sống trong lo sợ, nhìn cái gì cũng sợ, em sợ tất cả, nhưng sợ nhất vẫn là con người. Chỉ nghe tiếng động thôi, là em có cảm giác mình đang bị theo dõi, người ta theo dõi em như một kẻ tội phạm. Thời gian này, em rất ít đi ra ngoài, nếu bắt buộc phải đi, em chọn thời điểm lúc vắng người nhất.  Khi em ra khỏi bốn bức tường, là như có ngàn vạn ánh mắt nhìn em cười chế diễu: Mày cũng chỉ là con Cave…
   Cũng may cho em, thời gian này em được chị chủ an ủi nhiều nhất, có thể chị là người có học vấn và từng trải nên chị động lòng thương xót. Cũng có thể chị cảm thấy, ít nhiều chồng chị cũng có lỗi, từ đó chị dành nhiều thời gian động viên và gắng làm mọi việc để em vui… Nhưng làm sao vui được, em vẫn u uất trong lòng, chưa khi nào em quên được nỗi nhục nhã đã xảy ra với em, chỉ có điều em càng căm thù bọn tà dâm bao nhiêu thì cũng thương chị chủ bấy nhiêu. Nghĩ đi rồi nghĩ lại, em thấy mình cũng có phần hơi quá đối với chị. Chị có làm gì nên tội đâu để chị phải khép mình đối xử quá mức tử tế với kẻ ăn người ở như em, nhiều lúc chị xử sự với em còn hơn chị em ruột thịt. Những lúc như vậy, em cố gượng cười cho chị vui…
   Dần dần em cảm nhận, tất cả những cử chỉ của chị dành cho em là tình người, không chứa đựng sự mua chuộc hay cám dỗ, chị xem sự mất mát của em chính là sự mất mát của chị, nhiều khi em cảm động rớt nước mắt… Có một lần chị đưa cho em một cục tiền, chị bảo bây giờ em khó khăn chị cho em vay, khi nào có em trả cho chị, nếu không có thì cũng không sao coi như là chị giúp em, em không phải nhĩ ngợi gì. Sau đó chị tâm sự: Tiền bạc nó là phù du lúc có lúc không, chỉ có tình người mới vĩnh hằng. Chị mong em hiểu cho chị…
   Đúng lúc em đang chơi vơi hẫng hụt, không định hướng được cuộc đời  mình sẽ đi về đâu, thì em nhận được tin bố em  mất. Khi nhận được tin sét đánh ấy, em không biết làm gì ngoài việc làm sao trở về nhà thật nhanh để nhìn mặt bố lần cuối. Ra đến bến xe, chuyến xe cuối cùng đi Nho Quan đã xuất bến lúc 14 giờ. Lúc ấy đã là 16 giờ 30 rồi, bến xe miền núi giờ này vắng tanh, lác đác vài quán bán hàng còn nán lại đợi đón những chuyến xe cuối cùng từ xuôi lên. Em gục đầu vào thành ghế nhà chờ khóc nức nở tuyệt vọng, thế là không còn cách nào trở về nhà đêm nay, em không được nhìn mặt bố lần cuối nữa rồi.
   Chẳng lẽ lại cam chịu như vậy? Không! Em phải tìm cách gì đó để về nhìn thấy bố trong đêm nay hoặc chí ít là chưa đóng nắp quan tài. Em ra cổng hy vọng sẽ đón được một chiếc xe nào đó về xuôi, được đến đâu thì được, sau đó sẽ tính tiếp. Hình ảnh của bố lúc em bỏ nhà ra đi cứ chờn vờn thôi thúc em, lúc ấy người ông gầy đét không còn sức sống, ông thều thào thở không ra hơi, nói ngắt quãng. Lẽ nào đây lại là hình ảnh cuối cùng của người cha hay sao? Khổ thân em, từ khi em đi làm có tiền gửi về, mẹ em bảo bố em khỏe ra nhiều đã đi chơi quanh làng được rồi, em mừng lắm định khi nào có điều kiện về thăm bố sẽ nói chuyện thật nhiều với bố. Thế mà! Đâu ngờ tai họa ập xuống đầu, em chưa kịp thực hiện được mong muốn thì bố em đã bỏ chúng em ra đi tất tưởi. Em đau khổ và ân hận.
  Hơn 5 tuổi đầu mới biết mặt bố, hơn mười năm trời đằng đẵng, bố mím môi mím lợi chịu đựng bệnh tật cùng với mẹ chắt chiu hạt thóc củ khoai còm cõi nuôi các con ăn học. Thế mà trời không thương, bắt bố em nửa đường đứt gánh để chúng em côi cút, mẹ em góa bụa. Em còn bao nhiêu điều cần hỏi bố mà chưa hỏi được. Khi ông còn sống, phần do em còn nhỏ hiểu biết nông cạn nên chưa có gì để chia sẻ cùng bố, đến lúc lớn lên đi ăn đi học, sống xa bố mẹ nên không hỏi được, mặt khác bố ốm đau liên miên nên cũng không dám làm phiền bố.
   Càng nghĩ càng thương bố vất vả, những năm bố về phục viên ở nhà  em đã biết bố vất vả thế nào để nuôi chúng em ăn học, còn những năm bố ở trong quân ngũ thì em không biết, chưa khi nào bố em kể cho chúng em nghe. Sự gian khổ vất vả của bố em, em chỉ suy diễn từ những chuyện anh kể khi anh đi vào chiến trường Miền Nam để suy ra. Em nghĩ đơn giản: Đã là bộ đội đi chiến trường thì tất cả mọi người ai ai cũng đều gian khổ và vất vả, mà bố em cũng là bộ đội, chuyện vất vả của anh cũng là chuyện vất vả của bố em.
   Em còn nhớ, anh kể: Ngày ấy, bộ đội ta hành quân từ Bắc vào Nam, hầu hết phải đi bộ. Có đơn vị đi một vài tháng, có những đơn vị đi dăm bảy tháng… Biết bao nhiêu những chặng đường hành quân ngày nghỉ đêm đi, và những chặng ngày đi đêm nghỉ. Trên vai bộ đội lúc nào ba lô cũng nặng chĩu quân tư trang vũ khí đạn dược, mồ hôi ướt đầm lưng áo thấm xuyên qua lớp lót lưng thấm ướt cả quần áo trong ba lô. Mỗi chặng đường hành quân, áo quần bộ đội không biết khô ướt bao nhiêu lần, lúc thì muối trắng xóa lưng áo, khi thì bùn đất lấm bê bết. Không thể đếm được bao nhiêu chặng đường hành quân ban đêm và những chặng đường hành quân ban ngày. Đã có lệnh hành quân, không kể đêm hay ngày, mặc cho mưa gió mặc cho nắng rát, bộ đội vẫn lầm lụi băng rừng trèo đèo lội suối, nhiều khi phải chạy tốc lực để vượt qua những bãi bom B52 tử thần…
  Anh còn nói: Rừng trường sơn là rừng nhiệt đới, song song tồn tại ba lớp, lớp dưới cùng là thảm thực vật, lớp thứ hai là loài thân dây leo, lớp thứ ba là tán lá cổ thụ. Hành quân vào mùa khô đi trong rừng già mát mẻ, suối chảy róc rách, chim kêu vượn hót nghe vui tai, mệt thì mệt nhưng bộ đội còn lạc quan yêu đời. Hành quân vào mùa mưa thì cực khổ vô cùng, trơn trượt ngã oành oạch. Vừa đắc chí cười người khác ngã thì ngay lập tức đến lượt mình, có những cú trượt ngạc nhiên đến nỗi dép cao su trượt lên tận đầu gối mà quai không bị tuột không bị đứt, lại kéo xuống tiếp tục hành quân…
   Rừng nhiệt đới có vô số những loại côn trùng. Thời kỳ đầu, mới nhìn thấy con vắt là đã sợ lắm rồi, con nào con nấy cứ dựng đứng lên, đầu ngo ngoe hướng về bước chân của bộ đội. Sau do nhìn thấy quá nhiều, chúng tụ lại thành từng bãi từng bãi dầy như gai mít, bộ đội mệt quá cũng mặc kệ cho chúng nó bâu và muốn cắn đâu thì cắn cũng chẳng thèm đếm xỉa. Thực ra có bắt cũng không hết mà chỉ dùng que tẩm thuốc chống vắt gạt đi được đến đâu thì được. Chả thế mà nhiều đêm khi có lệnh dừng chân ngủ lại, bộ đội chỉ kịp mắc võng lăn ra ngủ, sáng ra nhìn thấy ở đáy võng dăm bảy chú vắt, có con bị đè bẹp máu me be bét, có con tròn ung ủng bụng đầy máu. Ngoài ra, rừng nhiệt đới còn có một loại rắn lục rất nguy hiểm, chúng không động đậy như loài vắt mà nằm vắt vẻo trên cây, da  xanh lét, mắt lơ láo quan sát, sẵn sàng bổ nhào vào đầu vào cổ bộ đội, chúng phun nọc cực độc vào những nơi ấy thì biết garo chỗ nào?
   Còn nữa! Bộ đội càng hành quân vào sâu trong chiến trường, khói lửa chiến tranh và chết chóc lại càng gần hơn. Tiếng máy bay địch gầm rít quần đảo trên đầu suốt ngày đêm, tiếng bom nổ, tiếng rít xé gió của đạn pháo. Chiều đến, khi hoàng hôn chưa kịp tắt thì pháo sáng đã bắn dầy đặc trên bầu trời, thứ ánh sáng ma quái soi rõ từng gốc cây ngọn cỏ. Đây đó dọc đường hành quân vẫn còn những đám cháy mịt mù khói lửa, mùi khói bom khét lẹt của những trận bom Napan. Xa xa thấp thoáng những bóng người ẩn hiện trong ánh lửa bập bùng, những băng ca cứu thương chạy đi vội vã. Chiến tranh và cái chết đã gần hơn…
   Thế mà! Vẫn rất nhiều những đoàn quân dài vô tận, không biết đầu đoàn đã đi đến đâu và cuối đoàn đang ở chỗ nào? Đoàn quân này lại gặp đoàn quân khác và nhiều đoàn quân khác nữa cứ thế kéo dài mãi dài mãi. Chỉ đi trong đội hình hành quân mới thấy được sự gian khổ vất vả và những thông minh sáng tạo của bộ đội. Rừng trường sơn trăm vạn nẻo đường là trăm vạn cách rấp lối đánh dấu để đoàn quân đi không lạc. Trong trăm vạn nẻo đường khác nhau nhưng có rất nhiều điểm giống nhau, đó là những bậc xẻ ở đoạn leo dốc, những lan can tay vịn để không trượt ngã, những chiếc gậy được chặt sẵn để ở nơi trơn trượt, những chiếc giá đỡ ba lô để bộ đội tựa vào đó mà nghỉ ngơi cho đôi vai đã hằn lên chai sạn…
  Em nhớ, tối hôm ấy anh kể  rất nhiều nên anh không muốn kể nữa, anh bảo: Nghĩ lại chặng đường hành quân đi chiến đấu thì thật là khủng khiếp, song cũng đầy vinh dự và tự hào. Đã có hàng triệu triệu người từng hành quân trong cuộc trường trinh ấy, nhưng rất lạ kỳ là không một ai trong số họ có thể kể đầy đủ sự gian khổ vất vả mà họ đã phải chịu đựng trên dọc đường hành quân. Không phải mọi người không biết, tất cả điều biết song vì nó nhiều quá, nhiều đến nỗi không bộ não nào có thể nhớ hết được và cũng không sách vở bút mực nào có thể chứa hết được. Những người lính chỉ còn lưu lại trong mình một vài kỷ niệm không thể nào quên. Chỉ kể đến đấy rồi anh dừng lại.
  Em tò mò muốn biết, cố gặng hỏi nhưng anh cứ chối, mãi sau anh mới nói nhưng giọng anh rất buồn: Chuyện ấy! Anh xem là một kỷ niệm buồn đối với anh. Anh bị Ban chỉ huy hành quân khai trừ ra khỏi Đoàn thanh niên lưu sáu tháng, vì mắc khuyết điểm nổ súng làm lộ bí mật hành quân. Thật oan uổng cho anh… Chiều hôm ấy như thường lệ, đơn vị ăn cơm xong lúc 4 giờ 30. Bộ đội nghỉ ngơi, chỉnh đốn quân tư trang để chuẩn bị hành quân. Đúng 6 giờ đoàn quân rùng rùng xuất phát, khoảng một giờ sau đoàn quân đã lọt thỏm vào bóng tối của núi rừng trường sơn hùng vĩ.
   Theo thời gian, đoàn quân vừa đi vừa nghỉ theo mệnh lệnh hành quân. Khoảng nửa đêm, trời đổ mưa như trút, bộ đội trùm nilon tiếp tục hành quân. Mưa nặng hạt, gió rừng ào ào thổi từng cơn quất những hạt mưa vào mặt rát rạt. Bộ đội lưng đeo ba lô nặng trĩu, súng khoác trước ngực, một tay bám vào cây cối ven đường, một tay chống gậy dò tìm từng bước lầm lũi bước đi. Có lệnh nghỉ giải lao tại chỗ, anh như cái máy tìm được gốc cây đã đốn sẵn  đặt ba lô lên đó để không bị ướt và ngồi bệt xuống mặc kệ chỗ ấy có gì. Mệt quá, mọi cảm giác gần như tê liệt, anh không còn cảm nhận được gì xung quanh mình nữa và anh thiếp đi. Giật mình tỉnh dậy, trời vẫn mưa, bóng tối vẫn bao phủ đặc quánh. Anh cố tìm  luồng ánh sáng lân tinh đeo trên mũ của người đi trước thì không thấy đâu nữa, anh ngoảnh lại phía sau vẫn thấy mọi người ngồi bất động.
   Anh hoảng hốt. Chết rồi! Không biết người trước mình đã đi lâu chưa? Anh vùng đậy đi tiếp, nhưng phía trước là màn đêm dày đặc, không biết đường đi. Anh đành dừng lại. Một phút quyết định, anh dương súng lên bóp cò. Đoàng! Đạn bay ra khỏi nòng một chớp lửa bừng lên và vụt tắt, khói thuốc súng khét lẹt. Hàng quân đi phía sau anh nhốn nháo, những câu hỏi từ phía sau vọng lại: Có chuyện gì thế ? Ít phút sau cán bộ chỉ huy hành quân đến gặp anh, anh tường trình câu chuyện xảy ra là như vậy. Anh nhận được mệnh lệnh: Dừng tại chỗ chờ! Sáu giờ sáng mai lên gặp Ban chỉ huy hành quân…
   Tiếng còi xe làm em trở về với hiện tại. Em bước nhanh như chạy, vừa bước vừa nghĩ thương bố vất vả, thương các anh bộ đội gian khổ ngày đêm, nghĩ đến những kỷ niệm không thể nào quên của bố chưa kịp thổ lộ với ai bây giờ mang vào lòng đất. Em không cầm được nước mắt vừa chạy vừa khóc, khóc thảm thiết. Có tiếng còi ô tô phía sau nhưng em không quan tâm. Chiếc ô tô chạy vượt lên và dừng lại, chị chủ bước xuống, chị nói gì em không nghe rõ. Chị dìu em lên xe và đóng cửa lại, chiếc xe rồ máy chạy về hướng Hòa Bình.
(Còn nữa).



Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 10 Tháng Mười Một, 2016, 02:30:08 pm

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Số phận
    Chuyện về em dài lắm, kể một đêm không hết được. Hôm nay cũng đã khuya anh về đi nghỉ để mai làm việc, khi nào có điều kiện em lại kể anh nghe… Lần gặp này rất quan trọng đối với em, vì thế em chủ động tìm gặp anh, chắc hẳn anh cũng đoán ra. Chuyện gì cần nói em cũng đã nói, trước khi tạm biệt, em xin anh một lời khuyên. Lời khuyên này thực sự cần thiết đối với em, nó là lời khuyên để em quyết định phần còn lại của đời em… Lần này anh chỉ được nói được hay không được, đừng như lần trước anh hay nói: “…Hãy suy nghĩ cẩn thận, bảy lần đo một lần cắt…” Nếu anh nói thế nữa em không biết phải làm gì?
   Ngần ấy năm xa anh, đến bây giờ em vẫn chưa có người bạn trai nào. Thời gian qua cũng có nhiều người đến với em, trong số họ có hai người là do chị chủ giới thiệu. Với tất cả mọi người em chưa thể hiện tình cảm với ai, mà chỉ giữ mối quan hệ bạn bè với họ. Lâu dần, có người vẫn duy trì mối quan hệ giữa họ với em, cũng có người vì điều kiện gì đó họ không đến nữa, hoặc năm thì mười họa mới lại thấy họ xuất hiện. Riêng hai người chị chủ giới thiệu, họ vẫn gặp em đều đặn, tháng nào cũng từ một đến hai lần. Thấy họ đi lại nhiều quá em cũng thấy bất tiện, có lần em hỏi đùa chị chủ: Vậy một trong hai người chị bảo em chọn ai? Chị chủ không trả lời mà đánh trống lảng, trong khi đó vẫn dục em trả lời, biết ý chị chủ như thế nên lần nào em cũng cười trừ cho qua chuyện.
   Không phải em kiêu kỳ cành cao cành thấp gì đâu, em cũng muốn có nơi có chốn yên bề gia thất, vả lại em cũng lớn tuổi rồi còn gì. Nhưng không hiểu sao? Mặc dù nhiều lần em đã tặc lưỡi cho qua, xuề xòa chín bỏ làm mười để chọn lấy một người làm bạn cho vui nhưng cũng không được, có thể trong em có hình bóng của ai đó thành ra mọi việc vẫn chưa quyết định được… Đến bây giờ các mối quan hệ của em với mọi người, vẫn ở mức độ bạn bè không phát triển hơn được. Phụ nữ vào tuổi này mà chưa có gia đình cũng sốt ruột lắm chứ anh, có người không đủ kiên nhẫn còn phải đi xem thầy xem thợ, để biết đường tình duyên của mình khi nào thì đậu.
  Với em vì đã nhúng chàm, em mặc kệ muốn đến đâu thì đến, tất cả  phó thác cho số phận, Em nhớ có lần ông nội nói chuyện: “ Con ơi! Mọi việc trên đời, đều do con người bầy ra, nhưng thành công hay không thành công là do ông trời quyết định con ạ…” Cứ ngẫm câu ông nội nói nên em mặc kệ con đường tình duyên của mình cho ông trời, với lại em là phụ nữ nên có muốn quyết định cũng không được…
  Cũng phải nói thật với anh, em không phải gỗ đá, tình cảm của em cũng có lúc rung động với một ai đó. Trong số những người đến với em, em thấy mến một người và nể trọng một người, họ là một người Việt Nam và một người nước ngoài. Hai con người này cũng đôi lúc làm em đau đầu suy nghĩ, khi thì em thiên về người này khi thì em lại chọn người kia, nhiều lúc chẳng biết ai hơn ai, em bí quá tặc lưỡi cho qua. Nhiều lần như vậy, cộng với mặc cảm mình đâu còn là gái trinh, hơn nữa sâu thẳm con tim em sẵn có cái bóng của một người, nên nhiều lúc em mơ hồ: Hay là mình thành bà mẹ đơn thân…
   Hai người này đều tốt anh ạ! Em hoàn toàn không nghi ngờ về lòng tốt của họ dành cho em. Họ đến với em bằng tình cảm chân thành, đổi lại em cũng đối xử với họ bằng sự lễ phép và tôn trọng. Thời gian chúng em quen biết nhau cũng đến hơn hai năm, song quan hệ của em vẫn chỉ dừng lại ở mức độ tình bạn, mặc dù cả hai con người này đã thẳng thắn đặt vấn đề với em…
   Mùa mưa năm ngoái em gặp nạn, em tưởng họ sẽ khinh bỉ và xa lánh em. Nhưng không! Em thấy tình cảm của họ đối với em không có gì thay đổi. Em nghi ngờ? Hay họ không biết chuyện đã xảy ra đối với em, hoặc họ biết nhưng vì lý do tế nhị nên họ tránh động đến vấn đề nhạy cảm ấy… Chuyện này cũng làm em đau đầu mất một thời gian, cuối cùng không có cách nào khác em tự an ủi mình: Cái gì đến nó sẽ đến, không nên chưa khảo đã xưng… Nhưng em lại thấy áy náy: Cái kim để trong bọc lâu ngày nó cũng lộ ra huống chi chuyện đã xảy ra với em…
   Rất nhiều đêm em trần trọc không ngủ được, nội tâm con người em đấu tranh gay gắt. Nói hay không nói cho họ biết chuyện đã xảy ra với em? Đã hơn một lần, em mang chuyện tương tự như đã xảy ra đối với em kể thành câu chuyện cho hai người ấy nghe để thăm dò phản ứng của họ. Khổ nỗi anh bạn người Hà Lan biết rất ít tiếng Việt, thành ra em cũng không hiểu phản ứng của anh với chuyện ấy thế nào? Trong khi đó chị chủ có vẻ như đã từng trải, vì chị giới thiệu anh này cho em, chị nói tỉnh bơ: Chị đã nhiều lần nói chuyện với ông ta rồi, biết người Châu Âu họ không quan niệm chuyện ấy còn hay mất, họ bảo ai cũng có quá khứ, không nên lục lại quá khứ của nhau làm gì… Điều người ta cần ở người vợ là khi đã lấy nhau rồi thì sống với nhau như thế nào để thực sự hạnh phúc… Chị chủ nói vậy em biết vậy, thực ra em đã va chạm bao giờ mà biết, nhưng trong thâm tâm em cũng tin điều ấy có thể  đúng, ít ra là đúng với anh bạn người Hà Lan này. Sở dĩ tại sao em lại ngộ nhận như vậy: Vì đã một vài lần em ngồi chơi với anh người Việt Nam, trong khi đó anh người Hà Lan vẫn chờ ở ngoài đến 3- 4 tiếng đồng hồ để được tặng em bó hoa hay một gói quà nhân dịp gì đó…
   Với anh người Việt Nam, phản ứng của anh về câu chuyện mà em kể rất khó hiểu. Ban đầu, anh trầm ngâm lắng nghe, đến khi câu chuyện kết thúc anh vẫn im lặng. Trong quá trình kể chuyện, em chăm chú quan sát nét mặt và những biểu lộ tình cảm của anh đối với câu chuyện, nhưng anh vẫn ngồi im chăm chú nhìn vào lọ hoa để giữa bàn. Kết thúc câu chuyện cũng không thấy anh có phản ứng gì, khi ấy em trở thành người bị động, tay chân thừa thãi chẳng biết làm gì để lấp khoảng trống im lặng kia, chả lẽ lại dục xem quan điểm của anh ta thế nào?
  Thực ra, em cũng không tìm hiểu nhiều về anh này. Anh ấy người Nam Định, là kỹ sư mỏ. Hiện đang công tác tại Tổng cục mỏ địa chất ở Hà nội, được tăng cường lên đây để giúp địa phương xây dựng kế hoạch khai thác quặng. Anh không ở khách sạn của chị chủ, mà ở cơ quan của tổng cục đóng tại địa phương cách khách sạn vài ba trăm mét, thi thoảng thứ bảy hay chủ nhật anh lại sang chỗ em chơi. Nghề nghiệp của anh chắc cũng vất vả, thấy anh đi vào rừng suốt lâu lâu mới lại về. Mỗi lần về, thế nào cũng có quà cho em bằng một bó hoa rừng hay một vài viên đá hình thù kỳ dị được tỉa tót lau chùi sạch sẽ.
  Lần ấy khi nghe chuyện em kể, sau hồi lâu im lặng. Anh nói chậm dãi,  cảm thông và chia xẻ nỗi yếu đuối của người phụ nữ trong chuyện em kể. Anh bắt đầu với giọng trầm ấm, để diễn đạt triết lý sâu xa, anh nói:  Toàn thế giới, trong đó có Việt Nam vẫn đang và sẽ còn tồn tại tệ nạn quấy rối tình dục phụ nữ. Vì sao như vậy! Bởi vì: Bản chất của mỗi con người bao gồm hai thuộc tính, tính con và tính người. Khi con người đến tuổi trưởng thành tất yếu phải có nhu cầu tình dục, và nhu cầu đó là chính đáng, vì thế khi thuộc tính con của mỗi con người trỗi dậy, thì con người ấy phải tìm đủ mọi cách để đạt được mục đích của mình. Nếu như chuyện tình dục xảy ra đúng nơi đúng chỗ, đúng với luân thường đạo lý thì chẳng nói làm gì. Đằng này đã biết đối phương không đồng ý, vẫn sẵn sàng dùng vũ lực để cưỡng hiếp. Thử hỏi, những người phụ nữ chân yếu tay mềm làm sao chống cự nổi với những con người như vậy, kết cục đành khuất phục…
   Thực tế Việt Nam, từ thời Tầu thời Tây có rất nhiều những đứa con lai, đó chính là hậu quả của sự thông dâm hoặc cưỡng dâm giữa người Việt Nam và người nước ngoài, ấy là chưa kể đến sự thông dâm hoặc cưỡng dâm của người Việt Nam với nhau. Chuyện ấy rõ ràng là trái với phong tục tập quán của người Việt Nam, song thực tế vẫn xảy ra…Vậy thì chuyện như em kể là một tai nạn ngoài ý muốn. Vấn đề còn lại ở chỗ em hỏi: Thực tế đau xót như vậy, liệu có người con trai nào chấp nhận sự thật này, để cùng với người con gái thành vợ thành chồng sống hạnh phúc trăm năm cho đến lúc đầu bạc răng long hay không? Vấn đề này rất khó nói, anh kể cho em nghe một câu chuyện sau đó tùy em hiểu thế nào cũng được.
   Chuyện xẩy ra ở một vùng quê vào những năm 1968 – 1969. Thời kỳ ấy cuộc đấu tranh chống Đế quốc Mỹ xâm lược của đồng bào Miền Nam đang vào giai đoạn gay go và quyết liệt. Hậu phương lớn Miền Bắc bằng mọi giá, sẵn sàng chi viện tối đa sức người sức của cho chiến trường Miền Nam. Hàng loạt thanh niên trai tráng lên đường nhập ngũ, có nhiều người xin được tái ngũ và cũng rất nhiều người phải viết đơn tình nguyện bằng máu để được đi chiến đấu.
  Trong số những người ấy, có một người thuộc diện có hoàn cảnh đặc biệt, bố là liệt sĩ thời chống Pháp, nhà chỉ có một mẹ một con nhưng anh ấy cương quyết xin nhập ngũ để được đi chiến đấu. Để đạt được mục đích, nhiều lần anh viết đơn tình nguyện bằng máu, bỏ lại đằng sau những lời khuyên can của mẹ và của họ hàng người thân. Lực cản lớn nhất đối với anh là bà mẹ, song bằng cách thuyết phục tâm linh huyền bí, anh nói với mẹ: Nhiều đêm con mơ thấy bố, bố bảo con: Con cứ yên tâm đi chiến đấu cho bằng chúng bằng bạn, bố sẽ phù hộ cho hai mẹ con…
  Nhưng tại sao anh ta lại có động cơ xin đi chiến đấu mãnh liệt đến như vậy? Sau này mọi người mới vỡ ra: Ngoài những động cơ được cầm súng chiến đấu giống như bố và bao nhiêu chàng trai khác cùng trang lứa, anh còn có một động cơ khác còn mạnh hơn gấp bội, đó là tình yêu. Ngày xưa yêu nhau không giống như bây giờ đâu mà rất bí mật, có thể nói gần như không để lộ cho ai biết. Một lần hai người rủ nhau đi chụp ảnh, chị bắt anh phải mặc quân phục đội mũ có sao và đeo súng ngắn như sĩ quan chỉ huy… Việc làm ấy, có thể là mơ ước của những người phụ nữ về đấng lang quân của mình trong thời chiến tranh, có lẽ thế nên anh sẵn sàng đáp ứng yêu cầu của chị.
  Anh nhập ngũ, chị ở nhà chờ đợi. Một năm, hai năm, rồi sáu bảy năm không tin tức. Khi ấy, có rất nhiều tin đồn anh đã hy sinh. Trong hoàn cảnh ấy, con trai ông cán bộ huyện do dị tật bẩm sinh không đủ sức khỏe nhập ngũ nên được ở nhà làm cán bộ xã, đến đặt vấn đề xin được cưới chị về làm vợ. Thật là một thử thách quá lớn đối với chị! Trai thời loạn, người lành lặn đủ sức khỏe thì đi chiến trường, ở nhà chỉ còn lại những người dị tật. Trong khi đó, người yêu ra đi đằng đẵng ngần ấy năm trời không có tin tức, chị cũng đã quá tuổi đôi mươi. Đồng ý hay không đồng ý? Bên bố mẹ đẻ của chị nói là tùy con quyết định, bên mẹ của người yêu nói: Nếu không làm con dâu mẹ thì làm con gái mẹ cũng tốt, con gái như bông hoa sớm nở tối tàn, con không chờ được đâu…
  Thế rồi chị miễn cưỡng đồng ý, song số kiếp trớ trêu. Lấy chồng được vài tháng, người chồng vắn số ấy cũng ra đi, chị lại xin phép nhà chồng về ở với mẹ người yêu cũ, hai người góa bụa ấy ở với nhau như hai mẹ con... Một lần nữa, duyên số lại đùa với chị, vài tháng sau người yêu cũ trở về trên chiếc xe quân sự, với bộ quân phục giống như bức ảnh năm nào. Chị lại ra đi, không ai biết chị đã đi đâu… Anh đi tìm chị, tìm mãi… Mẹ anh bảo: Con đã lớn tuổi rồi, lấy ai tùy con quyết định mẹ không cản… Anh vẫn đi tìm chị, cuối cùng anh tìm được, và anh quyết lấy chị làm vợ, anh nói: Nếu em không đồng ý thì anh ở vậy!
  …Chuyện vắn tắt như vậy, em nghĩ sao thì tùy em!
  Anh kết thúc câu chuyện có hậu làm em nửa mừng nửa lo, sau này mỗi lần gặp nhau chúng em vẫn nói chuyện với nhau xoay quanh chủ đề tình yêu.
( Còn nữa ).
   




Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 28 Tháng Mười Một, 2016, 04:20:08 pm
HUYỆN SAU CHIÊN TRANH
6- Số phận
    Cả buổi tối gặp nhau, gần như Thủy không nhường cho Hoàng được nói câu nào cho đầy đủ, ngay cả lúc Thủy có ý định chia tay cũng thế, Thủy cứ nói ào ào như sợ bị Hoàng chen vào. Hoàng vẫn ngồi yên, lắng nghe và suy nghĩ…Lúc này, Thủy đã mấy lần nói lời chia tay, nhưng mọi cử chỉ từ ánh mắt đến hành động đều diễn ra như cố kéo dài thời gian chia tay. Không gian chậm chạp trôi, đêm đã về khuya, ngoài kia phố xá đã vắng người qua lại, trong phòng ánh sáng đèn neon sáng rực. Thủy ngồi bất động ngước đôi mắt đẫm lệ nhìn Hoàng như muốn cầu xin ở Hoàng một cái gì đó, Hoàng bối rối ôm lấy hai bàn tay bé nhỏ đang run lên vì xúc động của Thủy, Hoàng nhìn vào chiếc khăn mùi xoa, cố tránh ánh mắt bừng bừng sầu hận của Thủy đang nhìn Hoàng. Thủy nói với Hoàng:
 - Hoàn cảnh của em đang đứng giữa ngã ba đường, theo anh em nên rẽ theo đường nào? Một là theo anh người Hà Lan, hai là lấy anh kỹ sư mỏ người Nam Định, ba là ở vậy làm bà mẹ đơn thân… Đây là một quyết định vô cùng khó khăn đối với em, em cảm thấy mình không đủ can đảm và nghị lực để quyết định, em cần anh cho em một lời khuyên, đấy là lý do chính để em tìm đến anh.
 Thủy dừng lại nhìn xuống đôi bàn tay của Hoàng đang ôm chặt hai bàn tay mình rồi nghẹn ngào nói tiếp:
   -Nếu em đồng ý lấy chồng người Hà Lan, đồng nghĩa với việc em rời bỏ quê hương, rời bỏ Tổ Quốc, đi đến một phương trời xa lắc.  Ở nơi ấy còn đâu cây đa bến nước sân đình, còn đâu cảnh khói lam chiều là là trên từng mái bếp, còn đâu mùi thơm ngầy ngậy của hương lúa mới khi mùa về, còn đâu tiếng sáo diều vi vu trên vòm trời xanh thẳm giữa trưa hè oi ả, còn đâu hình ảnh những đàn trâu bụng no tròn lững thững về chuồng với tiếng mõ lốc cốc nghe vui tai khi hoàng hôn buông xuống, còn đâu tiếng gà gáy sang canh của làng quê nghèo yên ả, còn đâu tiếng chuông chùa ngân nga dìu dặt từ ngôi chùa cổ kính thâm nghiêm… Ôi! Quê hương em nghèo đói nhưng sao thanh bình đến thế… Vì sao em phải bỏ nó mà đi? Vì sao em phải đào sâu chôn chặt tất cả kỷ niệm vào dĩ vãng? Phải chăng đó là số phận ông trời đã định đoạt mà em không cưỡng lại được đúng không anh? Em không dám nghĩ tiếp nữa…
  Đi rồi, ở đấy cách Việt Nam chừng nửa vòng trái đất, biết bao giờ mới lại được về thăm mẹ, thăm em, thăm cô gì chú bác. Biết khi nào mới lại được thắp một nén hương cho người bố tội nghiệp, người đã nuôi mình khôn lớn, người đã cống hiến cả cuộc đời vì độc lập tự do cho tổ quốc rồi đến khi nhắm mắt xuôi tay vẫn mang trong mình vô số những vết thương của chiến tranh… Em sẽ sống thế nào? Khi nơi ấy không có ai thân thuộc, ngày qua ngày chỉ tiếp xúc với những người khác mầu da, khác tiếng nói, khác phong tục tập quán… Lấy nhau rồi, khi vợ chồng vui vẻ thì không sao, những lúc vợ chồng lục đục thì họ đối xử với em ra sao, liệu họ có lẳng em ra ngoài đường không? Khi ấy em biết đi đâu về đâu…
   Muôn vàn tình huống sẽ xảy ra mà em chưa hình dung được, em sẽ phải sống thế nào để phù hợp với hoàn cảnh đây? Nếu như chấp nhận ra đi, điều an ủi duy nhất của em khi các tình huống ấy xảy ra chỉ vẻn vẹn một câu nói của ông nội khi em còn bé lắm: “Cái khó sẽ ló cái khôn”. Em hy vọng em sẽ biết cách để vượt qua. Nhưng điều đáng lo nhất của em, không biết thời gian có giúp em vượt qua được không? Đó là: Bao giờ thì em mới yêu anh ấy?Thật khó trả lời.
  Đổi lại những khó khăn như vậy, em được cái gì? Em nghĩ là em đã chạy trốn được sự thật, ở nơi ấy người ta không biết em là con Cave; Em được đi Tây; Em có người bảo trợ để có công ăn việc làm; Em có cuộc sống đầy đủ; Em có một ông Tây để gọi làm chồng; Em sẽ có con và em lo lắng không biết những đứa con ấy nó sẽ ra sao? Giống em hay giống anh ấy? Giống bên nội hay bên ngoại? Ôi! Càng nghĩ càng buồn. Trong muôn vàn vấn đề em chưa hình dung hết, em đang nơm nớp chờ đợi sự may rủi, chỉ có một điều em hoàn toàn thất vọng ngay từ bây giờ, vì em đã khẳng định: Con của em, chúng nó sẽ quên tổ tiên của mẹ nó… Vậy đấy! Chạy trốn sự thật, chạy chốn dư luận để lấy chồng Tây, đấy là cái giá mà em phải trả và em phải chấp nhận những điều như vậy có đúng không anh?
  …Còn nếu như, em lấy anh kỹ sư khai thác mỏ người Nam Định, em không bị mất đi những thứ đó. Nhưng em  phải chấp nhận chồng em là một thương binh đã mất bộ phận sinh dục, không còn khả năng sinh sản nữa. Vĩnh viễn chúng em không có con với nhau, đồng nghĩa với việc chúng em không có sợi dây yêu thương nối liền tình cảm vợ chồng. Có thể cách này hay cách khác chúng em vẫn có thể sống với nhau và yêu thương nhau, chúng em sẽ xin một đứa con nuôi cho vui cửa vui nhà. Nhưng ngiệt ngã thay khi chúng em còn rất trẻ, đang tràn đầy nhựa sống, chúng em thèm muốn khát khao tất cả, trong đó có đời sống tình dục. Anh ấy như vậy, em phải vượt qua thế nào đây khi em mới hơn 20 tuổi đầu?… Còn nữa, việc em không sinh cho anh ấy một đứa con, em không được mang nặng đẻ đau là điều em không tưởng, em vẫn chưa đủ vốn sống và nghị lực để vượt qua… Em vẫn biết nếu em vượt qua được trở ngại này, thì hành động ấy của em sẽ được xã hội ghi nhận sự cống hiến và hy sinh vì sự nghiệp xây dựng đất nước, đã chấp nhận hy sinh hạnh phúc cá nhân để mang lại hạnh phúc cho các anh thương binh, bệnh binh sau chiến tranh. Anh nghĩ sao về điều này?
  Về phía anh ấy, cũng có lúc em hơi hoài nghi: Tại sao? Anh ấy chấp nhận lấy em khi biết em không còn là con gái? Có phải anh ấy chấp nhận hy sinh cho em không? Hay là anh ấy thương hại em? Và nếu như anh ấy không phải là thương binh còn em không còn là con gái thì liệu anh ấy có lấy em không? Câu chuyện mà anh ấy kể để bắt em tự suy nghĩ có liên quan gì đến chuyện này không? v.v. Không hiểu sao? Khi anh ấy ngỏ lời yêu em, em cảm động và rất thương anh ấy, có thể vì anh ấy là thương binh có hoàn cảnh đặc biệt. Sau đấy, em rất vui vì em vẫn có người yêu thương, song em lại thấy quá thiệt thòi cho anh ấy. Anh là bộ đội, đã từng vào sống ra chết và bị thương không còn khả năng sinh sản nữa, bây giờ lấy vợ, vợ không còn trọn vẹn… Thương anh ấy quá, em lại nghĩ em không xứng đáng với tình yêu của anh ấy trao cho em…
   Nghĩ mà tủi thân và hận cuộc đời này sao vẫn còn rất nhiều những kẻ có chức có quyền có tiền, nhưng táng tận lương tâm, đang ngang nhiên tồn tại. Chúng sung sướng hả hê chiêm ngưỡng sự đau khổ của người khác, chúng tìm mọi cách để chà đạp lên tất cả, miễn sao chúng có được: Chức; Quyền; Tiền; Tình… Em cũng chỉ là một trong muôn vàn nạn nhân của lũ người ấy. Em hỏi anh: Công lý để đâu? Bên cạnh đấy em lại nghĩ đến các anh bộ đội, trong đó có bố em, có anh và anh kỹ sư kia. Sao mọi người chỉ biết cống hiến và sẵn sàng hy sinh vì mọi người? Có phải bố em và các anh bộ đội sinh ra là để làm những việc đó không?
   Trở lại chuyện anh kỹ sư người Nam Định. Theo anh ấy kể: Chiến tranh đã làm anh thay đổi số phận, anh cũng đi bộ đội giống như bố em. Năm 1972, trong một trận chiến đấu ở thành cổ Quảng Trị, anh bị thương vào bộ phận sinh dục phải cắt bỏ đi một phần và một vài bộ phận khác, bác sĩ nói khả năng sinh sản của anh là rất thấp hay nói cách khác là không thể… Có thể, chính vì sự thật này nên anh ấy kể chuyện với em rất tự nhiên không có gì dấu diếm cả. Em nhớ lần anh kể chuyện ấy cho em nghe, sau đó anh nói:
  -Tất cả sự thật về con người anh, anh đã kể hết để em biết. Điều mà anh sắp nói với em đây là sự thật 100%, nó xuất phát tự đáy lòng anh, và được anh cân nhắc qua rất nhiều đêm, anh đã và rất nghiêm túc về vấn đề này. Có thể em cho anh đường đột, song anh nghĩ rằng anh không có cơ hội như những người bình thường khác để chờ thời điểm chín muồi. Với anh tất cả đều rõ ràng, tình yêu đến với anh có lẽ chỉ có thể có được từ sự cầu xin và sự chấp nhận hy sinh của một người con gái…
   Ngay lúc ấy linh tính bản năng của con gái, em biết anh ấy định nói gì và em cũng nhanh chóng chuẩn bị câu trả lời. Anh có biết anh ấy nói với em thế nào không? Anh ấy nói:
  -Anh yêu em Thủy ạ, anh rất yêu em! Anh biết em sẽ rất khó khăn để trả lời anh, nhưng không sao. Em trả lời thì quá tốt cho anh, em không trả lời cũng được. Anh chỉ muốn em biết rằng em là người mà anh đang thầm yêu trộm nhớ và muốn được cùng em nên nghĩa vợ chồng để an ủi anh trong phần đời còn lại. Với anh như thế là đủ lắm rồi…
  -Em cám ơn anh! Em hạnh phúc quá, lần đầu tiên trong đời em được nghe câu này. Em đang vô cùng xúc động, em chưa biết trả lời anh thế nào. Xin anh hãy cho em thời gian và đừng thương hại em…
   Cho đến bây giờ em vẫn chưa trả lời anh ấy, có thể anh ấy nghĩ em đã ngả sang ông người Hà Lan rồi. Khổ nỗi, đúng  khi ấy ông giám đốc chi nhánh nhà máy bia Heinerken tại Sài Gòn đang hối hả chuẩn bị thủ tục để em đi học, có lẽ vì thế nên anh ấy hiểu nhầm. Thực tế cho đến bây giờ, em chưa nhận lời ai cả, em vẫn còn do dự để đi theo ngả đường thứ ba, em chấp nhận làm bà mẹ đơn thân.
   …Em nghĩ kỹ rồi, nếu em đi theo con đường thứ ba thì em được nhiều hơn mất, với lại em còn gì để mà mất. Đương nhiên là em phải trả giá rồi, cái giá không chồng mà lại có con cũng ghê gớm lắm. Nhưng không sao! Cái đấy chỉ mình em chịu, vả lại em đã mang tiếng một lần rồi, có mang tiếng thêm lần nữa cũng chẳng sao. Điều quan trọng nhất đối với em là em cần có đứa con với người mình yêu, thế là đã quá đủ đối với em rồi…
   Còn con em, em sẽ nói với nó: Khi nào lớn lên con sẽ hiểu và thông cảm cho mẹ. Nếu con yêu mẹ thì hãy tin mẹ! Con là sự kết tinh tình yêu giữa bố và mẹ, nhưng vì duyên phận nên bố mẹ không lấy được nhau. Lỗi là ở mẹ, vì thế mẹ chấp nhận hy sinh tất cả để có được con. Khi ấy bố con đã có gia đình, mẹ vẫn năn nỉ cầu xin bố con hãy cho mẹ một đứa con. Ban đầu bố con không đồng ý vì thương mẹ không có danh phận, con thì thua thiệt so với chúng bạn, lương tâm bố con cắn rứt v.v. Nhưng bằng tình yêu mãnh liệt mẹ đã ép bố con phải chấp nhận và giọt máu đó chính là con bây giờ. Một điều nữa mà con cũng phải tin ở mẹ, đừng làm mẹ buồn: Bố con là người rất tốt, rất yêu con, lúc nào cũng ở rất gần con, song vì hoàn cảnh và điều kiện xã hội nên không thể chăm sóc con được, con hãy tha thứ cho bố mẹ…
  Đấy là những điều em cần nói với anh, ước muốn của em bây giờ là được làm bà mẹ đơn thân và chỉ có anh, cũng duy nhất chỉ có anh mới là người giúp em hoàn thành ước nguyện này… Bây giờ, chắc là anh đã hiểu tại sao ròng rã ngần ấy năm trời trong con tim em chỉ có hình bóng của anh? Ngày ấy, em khắc khoải đợi chờ anh nói với em ba từ: “Anh yêu em”…
     Thôi chuyện xưa là như vậy, hờn để làm chi trách móc làm gì, âu nó là số phận…
(Còn nữa).
     


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quanvietnam trong 08 Tháng Mười Hai, 2016, 02:26:25 pm

CHUYỆN SAU CHIẾN TRANH
6- Số phận
     Đã gần 3 giờ sáng, Hoàng không sao chợp mắt được, phần vì câu chuyện của Thủy tối hôm qua, phần vì anh bạn cùng phòng ngáy to quá. Trần trọc mãi, đã mấy lần Hoàng đánh động để anh bạn thay đổi tư thế nằm, nhưng dù ở tư thế nào anh bạn vẫn ngáy và mỗi tư thế lại có âm điệu khác nhau. Bất lực, Hoàng ra ban công nhìn về phía ngôi nhà Thủy đang ở, nghĩ miên man… Không biết đêm qua Thủy có ngủ được không? Chắc hẳn Thủy đang chờ đợi ở Hoàng một lời Khuyên. Với Thủy, có thể Thủy chọn cách làm bà mẹ đơn thân, chẳng những thế Thủy còn ám chỉ người giúp đỡ Thủy để hoàn thành ước mơ ấy lại là Hoàng. Hoàng nghĩ: Không biết những điều Thủy nói mức độ nghiêm túc đến đâu, hay chỉ là để thử thách Hoàng. Nhưng xem lại toàn bộ thời gian hai người quen nhau cho đến khi Thủy gặp nạn, cộng với tính cách của Thủy thì đây có thể là vấn đề nghiêm túc…
   Đường phố không bóng người, chỉ có những ngọn đèn đường tỏa ánh sáng vàng vọt yếu ớt. Xung quanh những ngọn đèn là vô số những con thiêu thân cố lao vào bu đầy, con sống con chết xác rơi chồng chất dưới gốc cột đèn. Bầu trời tối đen, thi thoảng mới bắt gặp những ngôi sao bé li ti lúc ẩn lúc hiện ở nơi xa lắm. Phía đằng Đông, ngôi sao Mai lấp lánh chuẩn bị đón chào một ngày mới. Tiếng kêu lạc lõng gọi bầy của những con chim lạc đàn đi ăn đêm đang di chuyển về phương Bắc.
   Hoàng hết đứng lại ngồi, đi đi lại lại, tâm trạng bồn chồn. Hoàng băn khoăn suy nghĩ cố tìm ra một lời khuyên để trả lời theo yêu cầu mà Thủy đưa ra tối hôm qua… Hoàng sẽ phải khuyên Thủy lựa chọn phương án nào trong ba phương án? Hình như trong giọng nói, trong ánh mắt của Thủy có gì đó rất khó hiểu. Hoàng lơ mơ nhận thấy trong câu chuyện này có gì đó liên quan đến vợ và các con Hoàng. Chợt Hoàng nghĩ đến vợ. Giờ này chắc mẹ con cu tý vẫn ôm nhau ngủ, cái gái không biết ở nhà ngủ với bà hay ngủ bên nhà mẹ Nguyệt. Tội nghiệp cho mẹ Nguyệt của nó cũng cô đơn lắm, cũng may mà có nó sang còn đỡ cô quạnh…
   Chuyện cô đơn của mẹ Nguyệt nó, không biết nguyên nhân từ đâu? Có phải do Hoàng do Nguyệt hay là do chiến tranh? Hoàng chưa xác định được. Thật ra việc này Hoàng cũng chưa đầu tư thời gian suy nghĩ một cách nghiêm túc, Hoàng vẫn nghĩ ngày ấy mình còn trẻ con, mặt khác cũng từ ngày ấy Hoàng xa quê hương đi học đại học rồi đi bộ đội, chiến tranh kết thúc Hoàng trở về tiếp tục đi học, ra trường là đi nhận công tác ở công thủy điện Hòa bình. Xa quê biền biệt ít khi về thăm quê, hơn nữa cũng trong thời gian ấy trong tim Hoàng đã thấp thoáng bóng dáng cô nữ sinh trường sư phạm mẫu giáo. Thế rồi vật đổi sao rời, Cô nữ sinh ấy ra trường nhận công tác, khó khăn chồng chất khó khăn làm hai người mất liên lạc với nhau…Sau hơn một năm trời, Hoàng không đủ cơ sở để chờ đợi, cộng với hoàn cảnh gia đình neo đơn, Hoàng buộc phải về quê lấy vợ…  Mãi đến lúc Hoàng và Luyến chuẩn bị làm hôn lễ, nhân chuyến Nguyệt và Luyến lên thăm Hoàng trên công trường thủy điện Hòa Bình, khi ấy Luyến mới kể lại cho Hoàng nghe chuyện Nguyệt đã đơn phương yêu Hoàng như thế nào? Và tại sao Nguyệt lại làm mối để Luyến lấy được Hoàng.
   Minh chứng của những chuyện tình đơn phương ấy, là những kỷ vật mà Nguyệt đã đưa cho Luyến giữ làm kỷ niệm, đó là bức thư của Hoàng viết cho Nguyệt khi Hoàng đi học đại học và bộ quần áo dân công hỏa tuyến mà Hoàng đã mặc trong đêm cùng với Nguyệt sơ tán kho lương thực Bình Sơn trong thời kỳ Đế Quốc Mỹ bắn phá Miền Bắc. Và rất nhiều những bức thư tâm sự của Nguyệt viết cho Hoàng ngày ấy, nhưng vì không biết địa chỉ của Hoàng để gửi đi đành giữ lại trong suốt thời gian Hoàng trong quân ngũ. Đi kèm với những kỷ vật ấy, là muôn vàn những câu chuyện nhớ nhung xa cách giữa Hoàng và Nguyệt do Nguyệt thêu dệt trong suốt thời gian chiến tranh.
   Trong những câu chuyện ấy, Hoàng cảm động nhất là chuyện: Cứ mỗi lần có gia đình nào đó đến đặt vấn đề xin Nguyệt về làm dâu, lần nào Nguyệt cũng từ chối. Bố Nguyệt cảnh gà trống nuôi con, thương con nên không nỡ ép buộc. Song vì Nguyệt cũng đã lớn tuổi, bố Nguyệt thì già lại đau yếu luôn. Vì thế chuyện tình cảm bố con cũng có lúc sóng gió, những lúc như vậy Nguyệt chỉ còn biết chạy vào buồng ôm những kỷ vật ấy vào lòng mà khóc để hy vọng và chờ đợi. Khổ nỗi! Đến khi chiến tranh kết thúc, Hoàng trở lại thăm quê hương, thăm bố mẹ anh chị em ruột thịt và bà con chòm xóm, thăm chị Thịnh, thăm Nguyệt. Lần ấy chị Thịnh có nhắc đến bức thư Hoàng gửi cho Nguyệt, nhưng vì Hoàng đang nôn nóng trở lại trường để nhập học, thành thử Hoàng quên mất. Có lẽ khi ấy, Nguyệt vẫn hy vọng và âm thầm chờ đợi…
   Thế rồi chuyện học hành thi cử, chuyện cơm áo gạo tiền vật lộn với cuộc sống mưu sinh của thời kỳ sau chiến tranh, Hoàng đã quên đi tất cả. Sau những chuỗi ngày gian khổ vất vả đèn sách và bệnh tật, cuối cùng Hoàng cũng đạt được mục đích để có được tấm bằng đại học. Hoàng lại hối hả khoác ba lô lên Hòa Bình để nhận công tác. Cuộc sống mới trên thị xã miền núi cửa ngõ vùng Tây Bắc, có muôn vàn cái mới cái lạ, Hoàng vẫn phải tạm quên đi để nhanh chóng hòa nhập vào công việc khảo sát thiết kế của Đoàn thiết kế thủy điện Hòa Bình.
   Ngày tháng thoi đưa, chợt nhìn lại mình Hoàng đã 32 tuổi đời mà vẫn phòng không nhà trống. Hơn ba năm trời trên đại ngàn Tây Bắc hùng vĩ, Hoàng sống khép mình nhưng hoàn cảnh đưa đẩy, Hoàng cũng quen và thân một cô gái tên Thủy kém Hoàng 8 tuổi. Một chàng trai là cựu chiến binh già yếu bệnh tật, một cô gái mới lớn tuổi bẻ gãy sừng trâu. Hoàng rất mến Thủy nhưng không đủ tự tin, vì thế nên Hoàng chưa kịp thổ lộ tình cảm thì đã phải chia tay mỗi người mỗi ngả. Nỗi buồn mênh mông cộng với hoàn cảnh gia đình, Hoàng về quê lấy vợ. Thật lạ lùng, chính khi ấy Nguyệt là người chủ động vun vén Luyến cho Hoàng, Hoàng thật thà tin tưởng vào tình bạn trong sáng giữa Hoàng và Nguyệt, Hoàng đã đồng ý. Khi Hoàng và Luyến chuẩn bị làm đám cưới, khi đó Nguyệt mới tiết lộ danh tính người con trai mà Nguyệt đã thầm yêu trộm nhớ bao nhiêu năm trời cho Luyến nghe.
   Luyến kể lại: Hôm ấy nghe chuyện chị Nguyệt kể, em khóc nhiều lắm. Ban đầu em khóc vì thương chị Nguyệt yêu phải anh chàng bạc bẽo vô tâm, trách chị Nguyệt nhu nhược sao lại chấp nhận con người như vậy. Có những lúc em không  kìm chế được đã nổi khùng lên ôm lấy chị Nguyệt đấm thùm thụp vào lưng, vừa khóc vừa nói : Chị quên con người ấy đi! Quên ngay đi… Sau đó, chờ cho em qua cơn xúc động, chị nói: Lỗi là ở chị! Anh ấy không có lỗi gì, vì chị đã phải lòng anh ấy. Lúc ấy em lại ngơ ngác không hiểu gì… Thời gian qua đi, đến một ngày khi chị Nguyệt và em cảm thấy đã tác thành cho em và anh thành công, em lại hỏi chị: Vậy người chị yêu là ai? Chị buồn rầu hỏi em: Em cần biết để làm gì? Nếu để em trả thù cho chị thì không cần đâu. Em vội chối ngay: Không! Không phải thế. Em muốn biết người đó có gì đặc biệt mà để chị em phải hy sinh cả một thời con gái để thầm yêu trộm nhớ. Chị Nguyệt không trả lời em ngay, chị ngồi im lặng lâu lắm… Em sốt ruột dục chị: Chị nói đi! Em sẽ không làm gì anh ấy đâu mà chị sợ. Chị Nguyệt gồng người lên như để có đủ can đảm nói với em: Người ấy là anh Hoàng của em bây giờ đấy…
  Hoàng nhớ. Khi Hoàng và Luyến đã cưới nhau rồi, có những đêm Hoàng tâm sự với vợ:
  -Chuyện của bác Nguyệt như vậy, theo em anh có lỗi không?
  -Thật ra, con gái chúng em rất nhạy cảm trong tình yêu. Khi chúng em đã có cảm tình với người con trai nào đó, chỉ cần người con trai ấy có những cử chỉ chia xẻ và ánh mắt yêu thương, thì chúng em dễ bị ngộ nhận là người đó có cảm tình với mình, chính vì thế đôi khi dẫn đến sự nhầm lẫn. Nhưng ở đây, anh chị đã có với nhau biết bao kỷ niệm của tuổi thơ, từng ngày từng ngày chồng chất biết bao nhiêu là kỷ niệm. Và kỷ niệm sâu đậm nhất, hiện hữu nhất vẫn là bức thư anh viết cho chị từ giảng đường của trường đại học. Nội dung và ngôn từ của bức thư anh viết cũng không có gì đặc biệt, nhưng câu chốt anh lại chuyển cách xưng hô với tình cảm ấm áp: Hè về! Anh sẽ kể cho em nghe nhiều chuyện đặc biệt…Chỉ cần một câu nói thế thôi, phụ nữ chúng em đã đặt hết niềm tin vào các anh để chung thủy và đợi chờ…
  - Vậy là trong suy nghĩ của em, trong chuyện ấy anh cũng có lỗi!
  - Em nghĩ thế! Bây giờ ván đã đóng thuyền, anh em và chị Nguyệt không ai có thể làm khác được. Đời xưa có sự tích trầu cau, bây giờ theo sự tích ấy, cả anh và em phải biết quý trọng tình cảm của bác Nguyệt giành cho vợ chồng mình. Chúng ta và con cái chúng ta phải có trách nhiệm với bác ấy đến trọn đời.
  Nghe những lời ruột gan của vợ, Hoàng xúc động quàng tay ôm chặt vợ vào lòng thầm thì:
  -Anh cám ơn em! Có câu nói này của em làm anh nhẹ lòng đi một chút.
 …
   Bây giờ lại là chuyện của Thủy. Hoàng hoảng hốt nhận ra: Ôi! Sao lại là chuyện ấy, sao vẫn là chuyện đợi chờ? Nhưng tại sao lại là mình mà không phải là người khác? Không trả lời được, Hoàng đưa hai tay ôm đầu. Một cơn gió cô đơn lạnh lẽo ướt đẫm sương đêm, lạc lõng chạy dọc theo con phố, ùa vào bancon ôm lấy Hoàng. Hoàng rùng mình than thở: Vậy là mình lại gây lỗi nữa rồi! Lúc trước có người bảo: Tuổi kỷ Sửu của Hoàng là đào hoa lắm. Không biết có phải như vậy không? Nếu đúng như vậy thì còn chuyện gì tiếp theo nữa đây? Lần trước chuyện của Hoàng với Nguyệt đã được hai chị em Nguyệt và Luyến dàn xếp ổn thỏa, đến bây giờ vợ chồng Hoàng sống với nhau hạnh phúc, đã có với nhau hai đứa con, bác Nguyệt vừa là mẹ của hai đứa bé vừa là chị của vợ Hoàng và là bạn của Hoàng, cả gia đình sống quây quần hạnh phúc bên nhau. Nếu bây giờ lại xuất hiện thêm Thủy nữa thì chuyện gì sẽ xảy ra? Mệt mỏi Hoàng, gục đầu xuống lan can bancon hồi tưởng lại quá khứ.
  …Chuyện tình cảm giữa Thủy và Hoàng ngày ấy cũng chưa bao giờ vượt quá giới hạn bạn bè, còn giới hạn anh em thì Thủy cũng đã đôi lần vượt qua, mà cũng chỉ là hờn rỗi trách móc giống như bằng vai phải lứa vì Hoàng lỗi hẹn. Suốt thời gian quen nhau, có hai kỷ niệm với Thủy mà Hoàng không thể nào quên, mặt khác Hoàng cũng không lý giải nổi, tại sao mình làm như vậy? Lần thứ nhất, bây giờ nghĩ lại Hoàng vẫn tự xấu hổ với chính mình. Dạo ấy trường sư phạm vẫn chưa chuyển vào Chăm Mát, mà đóng ở bờ trái Sông Đà thị xã Hòa Bình. Lần ấy, Hoàng tới thăm Thủy xem vết thương ở chân Thủy thế nào? Bạn bè của Thủy nói với Hoàng, Thủy đang giặt quần áo ở ngoài giếng. Hoàng lần ra giếng sau khu tập thể, thấy Thủy đang khập khiễng kéo nước dưới giếng đổ vào chậu, Hoàng vội chạy đến  giúp Thủy. Thủy không có cách nào từ chối, vội dấu những đồ phụ nữ xuống dưới chậu, kéo vội chiếc áo sơmy phủ lên trên giả vờ vò vò. Hoàng múc nước, Thủy vò quần áo, hai người vừa làm vừa nói chuyện. Chợt Thủy ngước lên nhìn Hoàng, Hoàng bị bắt quả tang là đang nhìn Thủy chằm chằm, Thủy đỏ mặt hỏi Hoàng: Anh nhìn em ghê thế, mặt em có gì nhọ à? Hoàng ú ớ không trả lời được. Linh tính báo hiệu có cái gì đó không ổn, Thủy nhìn xuống ngực mình thấy một chiếc nút áo bật ra hé lộ một phần bộ ngực tròn trịa của Thủy. Thủy xấu hổ gài lại nút áo, Hoàng thì mơ ước có lỗ nẻ để chui xuống cho đỡ xấu hổ…
   Lần thứ hai, Hoàng với Thủy đi chơi gặp trời đổ mưa đột ngột. Thủy mặc bộ đồ mỏng tang, quần đen áo trắng, mưa ướt nên quần áo bó sát lấy người. Tất cả những đường cong của tạo hóa, những điều huyền bí trên cơ thể người con gái hừng hực sức sống như đang cố tình trái lệnh chủ nó ngang nhiên phơi bầy trước mắt Hoàng bất chấp mọi e ấp ngại ngùng mà chủ nó đang phải trải qua. Lần ấy, Hoàng đưa Thủy vào bụi cây ven suối để vắt khô quần áo. Những cơn gió rừng đung đưa, Hoàng thấy thấp thoáng sau bụi cây là bộ ngực đầy đặn và làn da trắng hồng của Thủy. Hình ảnh ấy, đã nhiều đêm làm Hoàng khó ngủ…Nghĩ lại Hoàng thấy: Thực ra Hoàng với Thủy cũng mới chỉ dừng lại ở mức độ có cảm tình với nhau xa nhau thì nhớ nhau, cả hai đều chưa nói với nhau điều cần nói, tuy nhiên khi đó trong thâm tâm của cả hai đều nghĩ mình là của nhau. Sự thật, đây là một dấu ấn không thay đổi…
   Bây giờ thì sao? Hoàng đã có vợ có con, có một gia đình hạnh phúc. Còn Thủy,  không biết Thủy muốn gì? Hoàng nhớ lại câu nói của Thủy đêm qua: “ Ước muốn của em bây giờ là được làm bà mẹ đơn thân và chỉ có anh, cũng duy nhất chỉ có anh mới là người giúp em hoàn thành ước nguyện này.”
    Bình minh xôn xao núi rừng Tây Bắc. Hoàng bắt đầu một ngày làm việc nặng nề, Hoàng nhớ đến Khoa và mong được gặp Khoa.
(Còn nữa).
 
   


Tiêu đề: Re: Chuyện ở C20-E95-F325
Gửi bởi: quangqb52 trong 18 Tháng Chín, 2018, 04:57:20 pm

   Chào bạn Vanson 307. Trung đoàn 95 sư 325, tham gia chiến dịch Hồ chí Minh, giải phóng Sài gòn xong, được điều về đóng quân ở thành Tuy hạ. Khoảng độ cuối tháng 7 đầu tháng 8 năm 1975, quavn là một trong số anh em sinh viên được quay ra Bắc trở về trường cũ tiếp tục theo học. Vì vậy, sau đó trung đoàn 95 sư 325 đi đâu nữa thì quanvn không biết, nhưng quanvn có nghe phong thanh là trung đoàn 95 sư 325 có đi chiến đấu ở BGTN. Rất xin lỗi Vanson vì quanvn không biết.

Trung đoàn 95 (tiền thân là Chi đội Thiện Thuật) được thành lập ngày 19 tháng 9 năm 1945 trên mảnh đất Quảng Trị giàu truyền thống cách mạng, là đơn vị chủ lực đầu tiên của tỉnh Quảng Trị và là một trong những đơn vị chủ lực đầu tiên của Quân đội ta.
       Lịch sử của Trung đoàn 95 gắn liền với lịch sử quê hương Quảng Trị nói riêng và lịch sử dân tộc ta nói chung. Trải qua 70 năm xây dựng chiến đấu và trưởng thành, Trung đoàn đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được giao.
       Trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn đã kiên cường, dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, đánh bại nhiều cuộc càn quét, nhiều cuộc hành binh quy mô lớn của địch, làm nên chiến thắng Khe Sanh, Rào Quán, Nam Đông, Chấp Lễ, Hạ Cờ... Trong cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954, Trung đoàn kịp thời có mặt ở vùng đồng bằng Sông Hồng, tham gia chia lửa với chiến trường Bắc Bộ, góp phần giải phóng thị xã Ninh Bình, Phủ Lý và thành phố Nam Định.
       Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Trung đoàn đã nhanh chóng phát triển lực lượng từ Trung đoàn 95 thành bốn trung đoàn (95A, 95B, 95C, 95D) để chi viện cho các chiến trường; cùng với Sư đoàn 325 giúp nước bạn Lào truy quét lực lượng FULRO, cơ động đánh địch trên chiến trường Trị - Thiên, Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, lập nên những chiến công oanh liệt như: Chốt giữ Thành cổ Quảng Trị trong 81 ngày đêm dưới mưa bom, bão đạn của kẻ thù (1972); tiến công giải phóng Buôn Ma Thuột; đánh chiếm thị xã Xuân Lộc và mở "cánh cửa thép" phía bắc Sài Gòn để các binh đoàn chủ lực của ta tiến công vào giải phóng Sài Gòn.
       Vừa bước ra từ khói lửa của cuộc chiến tranh, Trung đoàn cùng với các đơn vị bạn tham gia và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ biên giới phía Tây Nam và phía Bắc của Tổ quốc; đồng thời thực hiện nghĩa vụ quốc tế giúp nước bạn Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng do tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari tiến hành.
       Bước vào thời kỳ đổi mới xây dựng đất nước, xây dựng quân đội theo hướng "cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại", dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt, toàn diện, sâu sát của Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2, mà trực tiếp là Đảng ủy - chỉ huy Sư đoàn 325, Trung đoàn đã kế thừa và phát huy truyền thống đơn vị, đoàn kết hăng hái học tập, rèn luyện, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, phấn đấu vươn lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được giao.