Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: macbupda trong 19 Tháng Tám, 2011, 06:51:17 am



Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tám, 2011, 06:51:17 am

(https://www.quansuvn.net/index.php?action=dlattach;topic=31677.0;attach=23303;image)

Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Chủ biên: GS.TS Phan Ngọc Liên
Nhà xuất bản Từ điển bách khoa
Năm xuất bản: 2005
Số hóa: macbupda

GS. TS. PHAN NGỌC LIÊN
(Chủ biên)
PGS.TS NGUYỄN ĐÌNH LỄ
PGS. TS NGUYỄN NGỌC CƠ
PGS.TS NGUYỄN AM
Và các tác giả bài viết

(http://img685.imageshack.us/img685/5305/cmt8.jpg)


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tám, 2011, 06:52:47 am
LỜI MỞ ĐẦU

Cách mạng tháng Tám 1945 là một sự kiện lịch sử quan trọng của Việt Nam và thế giới; là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đầu tiên của Việt Nam, của Đông Nam Á, mở đầu thời kì các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc giành được độc lập tự do với những hình thức và mức độ khác nhau, chấm dứt chế độ thực dân.

Cách mạng tháng Tám 1945 không chỉ phát huy truyền thống đấu tranh anh hùng của dân tộc trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc, giành độc lập mà còn mở ra một kỉ nguyên mới trong lịch sử đất nước - kỉ nguyên độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội. Đây là kết quả trực tiếp cuộc đấu tranh của nhân dân ta theo con đường cứu nước mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn, Đảng ta đã khẳng định và lãnh đạo nhân dân kiên trì thực hiện.

Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 cũng đồng thời được tiếp tục thể hiện, bảo vệ, phát huy sâu rộng trong cuộc kháng chiến chống Pháp rồi kháng chiến chống Mĩ cứu nước (1945-1975), xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước thống nhất, góp phần không nhỏ vào công cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ, hòa bình và tiến bộ trên thế giới.

Cách mạng tháng Tám 1945 gắn liền với công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với sự lãnh đạo của Đảng; nó sống mãi trong sự nghiệp của nhân dân Việt Nam vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nó cũng để lại một dấu son chói lọi trong lịch sử nhân loại từ giữa thế kỉ 20 về cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc, tiến bộ xã hội.

Trong gần sáu mươi năm qua, kể từ sau tác phẩm
“Cách mạng tháng Tám” của Trường Chinh, giới nghiên cứu sử và các ngành khoa học xã hội, nhân văn khác trong nước (phần nào ở nước ngoài) đã đạt được nhiều thành tựu trong việc tìm hiểu sâu sắc, toàn diện sự kiện lịch sử vĩ đại này.

Trên cơ sở tiếp thu những kết quả nghiên cứu trước đây, chúng tôi tổ chức biên soạn cuốn “Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh” nhằm:

- Trình bày ngắn gọn một số vấn đề cơ bản về Cách mạng tháng Tám 1945, nêu một cách hệ thống những luận điểm, dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, về các vấn đề như từ việc xác định con đường cứu nước mới, đúng đến thắng lợi của cách mạng; Cách mạng tháng Tám 1945 đối với cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, thống nhất đất nước, với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt trong công cuộc đổi mới hiện nay. Chúng tôi sẽ không trình bày nhiều về những vấn đề mà giới sử học Việt Nam đã tìm hiểu sâu sắc và đạt được những kết quả tốt đẹp. Các vấn đề này sẽ được nhắc lại, khẳng định để làm cơ sở cho việc trình bày các khía cạnh mà chúng tôi đặt ra.

- Cách mạng tháng Tám 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã nổ ra gần như
đồng thời, đều khắp, sâu rộng trong hầu hết các tỉnh của cả nước. Điều này chứng tỏ đường lối đúng đắn của Đảng trong việc tổ chức, chuẩn bị lực lượng, hướng đến cuộc Tổng khởi nghĩa khi thời cơ đã đến. Nó cũng chứng minh sức mạnh của cả dân tộc được huy động, tập hợp dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam (lúc bấy giờ là Đảng Cộng sản Đông Dương). Tình thế cách mạng đã chín muồi, thời cơ đã đến, cuộc cách mạng nổ ra trong khắp nước và giành thắng lợi to lớn.

Để làm sáng tỏ điều này, chúng tôi sẽ không trình bày lại toàn bộ diễn biến của Cách mạng tháng Tám 1945 trong cả nước, như nhiều công trình nghiên cứu khác đã làm, mà trình bày những điểm khái quát, riêng biệt, độc đáo trong sự bùng nổ và thắng lợi của Cách mạng tháng Tám ở các tỉnh, các địa phương. Qua đó, người đọc nhận thấy những nét chung, có tính quy luật của cuộc cách mạng diễn ra trong phạm vi cả nước, dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng.

Với mục tiêu như vậy, việc trình bày về Cách mạng tháng Tám ở các tỉnh (được sắp xếp theo khu vực địa lí - hành chính lúc bấy giờ) không nặng về diễn biến chi tiết, mà trên cơ sơ phác họa bức tranh của sự kiện ở địa phương nêu lên những nét lớn. Riêng Cách mạng tháng Tám ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn được trình bày chi tiết hơn - vì đó là những trung tâm chính trị - có vị trí, vai trò trong thắng lợi của cách mạng.

Cấu tạo sách gồm các phần:

● Cách mạng tháng Tám 1945 - Những vẫn đề cơ bản;

● Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh;

● Giáo dục tinh thần Cách mạng tháng Tám 1945 cho thế hệ trẻ.


Tham gia biên soạn sách này là các nhà nghiên cứu, cán bộ giảng dạy ở Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Phân viện Hà Nội thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, một số trường Đại học và Cao đẳng Sư phạm, cán bộ Sở Giáo dục - Đào tạo ở một số địa phương trong nước. Tuy số tác giả tham gia khá đông, song những người biên soạn chủ trì biên soạn vẫn bảo đảm sự thống nhất của sách.

Các tác giả bày tỏ lòng cảm ơn đối với các cơ quan nghiên cứu khoa học, đào tạo đã giúp đỡ chúng tôi nhiều ý kiến và tài liệu quý giá. Cảm ơn Nhà xuất bản Từ điển bách khoa đã tạo mọi điều kiện để cuốn sách được hoàn thành và xuất bản.

Chúng tôi xin được thứ lỗi về các thiếu sót trong sách và mong được bạn đọc góp ý để sửa chữa. Xin trân trọng cảm ơn.


PHAN NGỌC LIÊN
(Chủ biên)     


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tám, 2011, 06:54:11 am
PHẦN THỨ NHẤT

CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945 -
NHỮNG VẪN ĐỀ CƠ BẢN
(*)

Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 thể hiện và phát huy cao độ truyền thống dân tộc, cốt lõi là tinh thần yêu nước Việt Nam, đã tạo nên sức mạnh phi thường đánh bại mọi kẻ thù nhiều phương kéo đến.

Truyền thống ấy, được Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, đã tạo nên sức mạnh to lớn gấp bội lần của toàn dân, nên 15 năm sau khi Đảng ra đời, đã đưa đến thành công của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ đầu tiên trong lịch sử nước ta và khu vực Đông Nam Á.

Quá trình dẫn tới Cách mạng tháng Tám gắn liền với việc Nguyễn Ái Quốc xác định con đường cứu nước mới và sự lãnh đạo của Đảng. Vi vậy, thắng lợi của Cách mạng tháng Tám cũng mở ra một thời kì mới trong lịch sử dân tộc, góp phần vào sự phát triển của phong trào cách mạng thế giới. Để làm sáng tỏ điều này, ở đây chúng tôi tập trung trình bày mấy vấn đề cơ bản sau:

- Từ xác định con đường cứu nước đúng đến thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945.

- Những sự chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa khi thời cơ đến.

- Ý nghĩa lịch sử và tầm vóc của Cách mạng tháng Tám 1945.

Trên cơ sở một số sự kiện cơ bản về diễn biến của cuộc Tổng khởi nghĩa trong cả nước, phần này sẽ giúp bạn đọc nắm được những điểm nổi bật, quan trọng của Cách mạng tháng Tám 1945.


*
*   *

I. TỪ XÁC ĐỊNH CON ĐƯỜNG CỨU NƯỚC ĐÚNG ĐẾN THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945

Phát huy truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm, ngay từ khi thực dân Pháp thực hiện âm mưu đánh chiếm Việt Nam, nhân dân ta đã vùng dậy đấu tranh, bảo vệ Tổ quốc. Triều đình nhà Nguyễn có trách nhiệm trong việc làm mất nước, đã đầu hàng, làm tay sai cho thực dân Pháp. Nhân dân ta vẫn kiên trì, anh dũng đấu tranh chống xâm lược, giải phóng dân tộc. Phong trào Cần Vương, rồi phong trào yêu nước chống Pháp thế kỉ 20 lần lượt thất bại, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta rơi vào khủng hoảng.

Trong điều kiện lịch sử này, sự xuất hiện của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh để tìm con đường cứu nước là hợp quy luật và sẽ đưa tới thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945.

1. Sự khủng hoảng của con đường cứu nước chống Pháp cuối thể kỉ 19 - đầu thế kỉ 20.

Việt Nam có hàng ngàn nghìn năm lịch sử. Trong quá trình dựng nước và giữ nước, nhân dân ta đã anh dũng, sáng tạo trong lao động sản xuất và bảo vệ Tổ quốc, đấu tranh giành độc lập dân tộc. Trên mặt trận chống ngoại xâm, các thế hệ người Việt Nam đã phải “đụng đầu” với kẻ thù từ nhiều phương đến. Đó là những đội quân đông, được vũ trang “đến tận răng”, do những tên tướng tài chỉ huy, mà “vó ngựa” của chúng đã dày xéo nhiều nước. Dù phải trải qua những thất bại nặng nề, phải sống dưới “đêm trường nộ lệ” hàng chục thế kỉ, hoặc qua một thời gian ngắn rất đau thương dưới ách đô hộ tàn bạo, cuối cùng, nhân dân Việt Nam đã chiến thắng. Kinh thành Thăng Long chỉ cho kẻ thù “ngủ trọ một vài đêm”, rồi phải tan tác bỏ chạy, nhân dân vui mừng đón đoàn quân chiến thắng trở về, như cảnh tưng bừng đón đội quân Quang Trung đại thắng sau khi Tôn Sĩ Nghị chạy trốn:

            “Ba quân đội ngũ chỉnh tề tiến
            Trăm họ chặt đường, vui tiếp nghênh,
            Mây tạnh mù tan trời lại sáng,
            Đầy thành già trẻ mặt như hoa.
            Chen vai khoác cánh cùng nhau nói,
            Kinh đô vẫn thuộc núi sông ta”.

(Ngô Ngọc Du)

Chiến thắng lừng lẫy trong công cuộc chống ngoại xâm trước hết là do sức mạnh của lòng yêu nước truyền thống của dân tộc Việt Nam. Dân tộc nào cũng có lòng yêu nước, song lòng yêu nước Việt Nam được hình thành và tôi luyện trong lao động sản xuất với bao điều kiện thiên nhiên nghiệt ngã; trong chiến đấu bảo vệ quê hương, đất nước tinh thần yêu nước tinh thần Việt Nam trở thành chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đã biến thành lực lượng hùng mạnh để đánh bại bất cứ kẻ thù nào. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lượt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”(1).

Sức mạnh của lòng yêu nước Việt Nam khiến cho mọi kẻ thù từ bao đời nay phải khiếp sợ. Trần Phu, sứ thần nhà Nguyên (Trung Quốc) sang Việt Nam sau khi các đội quân xâm lược Nguyên - Mông thất bại vào thế kỉ 13, đã run sợ khi đến kinh thành Thăng Long, nhìn thấy quang cảnh:

            “Bóng lòe gươm sắt lòng thêm đắng,
            Tiếng dội trống đồng tóc đốm hoa”.



(*) Người viết: Phan Ngọc Liên, Nguyễn Đình Lễ, Nguyễn Ngọc Cơ, Nguyễn Am, Bùi Thị Thu Hà.
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 6, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.171.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tám, 2011, 06:54:48 am
Thực dân Pháp với lực lượng mạnh của chủ nghĩa tư bản đã đánh bại đội quân phong kiến nhà Nguyễn nhanh chóng về quân sự, song rất run sợ trước sức kháng chiến bền bỉ của toàn dân Việt Nam. Một sĩ quan Pháp tham gia đàn áp cuộc chiến đấu của nghĩa quân ta chống Pháp đã phải thú nhận rằng Việt Nam là một dân tộc kiên cường, gắn bó với lịch sử, với những thể chế riêng của mình và thiết tha với nền độc lập của mình. Chúng ta không biết rằng Việt Nam chưa bao giờ khuất phục trước kẻ thù xâm lược. Tình trạng chúng ta rất đỗi khủng khiếp và chúng ta phải đương đầu với một dân tộc thống nhất, mà ý thức dân tộc của họ không hề bị suy yếu(1).

Đế quốc Mĩ hùng hổ đem quân xâm lược, tàn phá đất nước ta, muốn kéo “Miền Bắc trở về thời kì đồ đá”, song cuối cùng phải “cút” khỏi Miền Nam, chịu thất bại trước sức kháng chiến mạnh mẽ của nhân dân Việt Nam, được nhân loại tiến bộ, trong đó có nhân dân Mĩ ủng hộ. Hai mươi năm sau ngày quân Mĩ thất bại hoàn toàn ở Việt Nam, năm 1995, Mác Namara, nguyên Bộ trưởng Quốc phòng thời Tổng thống Kennơđy và Tổng thống Giônxơn, có dịp “Nhìn lại quá khứ”, thấm thía với “Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam”. Ông ta đã nêu ra 11 nguyên nhân chính gây ra thảm họa cho Mĩ ở Việt Nam, trong đó có một nguyên nhân quan trọng là Mĩ đã “… đánh giá thấp sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc thúc đẩy một dân tộc (trong trường hợp này là Bắc Việt Nam và Việt cộng) đấu tranh và hi sinh cho lí tưởng và các giá trị của nó, và cho đến nay, chúng ta vẫn tiếp tục đánh giá thấp chủ nghĩa dân tộc ở nhiều nơi trên thế giới”(2).

Trong suốt chiều nhiều thế kỉ, từ cuộc kháng chiến đầu tiên chống quân Tần (thế kỉ 3 tCn), qua các cuộc khởi nghĩa giải phóng dân tộc thời Bắc thuộc, rồi những cuộc kháng chiến chống quân Tống, Nguyên, Minh, Thanh từ phương Bắc, nhân dân ta được tập hợp lực lượng, được tổ chức, phát huy sức mạnh của mình. Đó là con đường cứu nước thể hiện trong một cuộc chiến tranh nhân dân “cả nước đánh giặc”, “trên dưới đồng lòng”; “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”. Vào giữa thế kỉ 19, trước sự xâm lược của thực dân Pháp, triều đình Huế không có khả năng và mong muốn dựa vào nhân dân để bảo vệ đất nước như các triều đại trước, vì mâu thuẫn sâu sắc với nông dân. Họ chỉ chống đỡ yếu ớt, rồi thỏa hiệp, nhân nhượng, đầu hàng, làm tay sai cho giặc. Vua quan nhà Nguyễn phải chịu trách nhiệm trong việc mất nước ta. Nhân dân ta vốn có truyền thống, kinh nghiệm đánh giặc ngoại xâm, nhưng triều đình Huế đã không huy động được sức mạnh đó của nhân dân ta trong việc chống Pháp, bảo vệ đất nước. Triều đình cũng từ chối những điều trần, canh tân đất nước của một số quan lại, sĩ phu thức thời, tiến bộ. Trong khi đó một số nước quanh ta như Xiêm (Thái Lan) và Nhật Bản lại biết tiến hành những cuộc cải cách, duy tân. Ở những nước này, do tiến hành cải cách toàn diện đất nước nên đã phát huy được sức mạnh nhất định của dân tộc. Do đó, ở những mức độ khác nhau, các nước này không rơi vào tình trạng thuộc địa, dù chỉ độc lập về hình thức như Xiêm. Riêng Nhật Bản đã nhanh chóng trở thành một nước tư bản rồi chuyển lên chủ nghĩa đế quốc, đi xâm lược các nước khác. Dĩ nhiên, đó không phải là con đường mà nhân dân Việt Nam mong muốn, chờ đợi; chúng ta chỉ có một nguyện vọng là giữ vững độc lập dân tộc, xây dựng xã hội ấm no, hạnh phúc.

Triều đình phong kiến nhà Nguyễn đầu hàng quân xâm lược Pháp. Trương Định, theo nguyện vọng của nhân dân, đã khước từ quan chức của triều đình ban cho để nhận nhiệm vụ của nhân dân giao làm “Bình Tây đại nguyên soái”. Nhiều sĩ phu yêu nước trong phong trào Cần Vương - thực chất là phong trào kháng chiến cứu nước, giải phóng dân tộc của nhân dân ta - đã nhận thức rõ muốn bảo vệ được Tổ quốc phải “đánh cả Triều lẫn Tây”. Con đường cứu nước của nhân dân Việt Nam trong kháng chiến chống xâm lược rồi đấu tranh giải phóng dân tộc chỉ có một mà thôi: đứng lên cầm vũ khí, hăng hái, anh dũng chống kẻ địch.

Cuộc đấu tranh vũ trang chống Pháp của nhân dân Việt Nam vào nửa cuối thể kỉ 19 thất bại với sự kết thúc của phong trào Cần Vương, song cuộc chiến đấu chống Pháp không hề tắt. Nhân dân lại tiếp tục đấu tranh, vì họ nhận thức rõ ràng, muốn giải quyết mâu thuẫn cơ bản giữa dân tộc ta và thực dân Pháp chỉ có quyết tâm đánh đuổi quân xâm lược, lật đổ nền thống trị của chúng. Tuy nhiên, con đường cứu nước theo ngọn cờ Cần Vương đã không còn hợp thời nữa, vì chế độ phong kiến đã trở nên lỗi thời. Việc “ủng hộ một ông vua” - dù là ông vua yêu nước - cũng không thể tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân chống Pháp.

Vào đầu thế kỉ 20, với chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, nhất là chính sách khai thác thuộc địa lần thứ hai, được thực hiện sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, xã hội Việt Nam dần dần có nhiều biến đổi sâu sắc. Các giai cấp trong xã hội phong kiến cũ vẫn tồn tại, dù có phân hóa, đồng thời xuất hiện những giai cấp, tầng lớp mới, như công nhân, tư sản dân tộc, tiểu tư sản trí thức. Sự chuyển biến sâu sắc về mặt kinh tế, xã hội tạo nên một tình thế mới trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Giai cấp phong kiến hoàn toàn không thể lãnh đạo cuộc đấu tranh chống Pháp, con đường phong kiến, thậm chí chỉ phục hồi, đề cao, ủng hộ một ông vua có tinh thần yêu nước, như Hàm Nghi trước đây cũng không còn thích hợp, vì nó không thể nào đưa đến thắng lợi như nhân dân mong muốn. Thực tế lịch sử đã qua, yêu cầu cuộc đấu tranh trước mắt và lâu dài, đã phủ định con đường cứu nước dưới ngọn cờ của phong kiến. Hơn nữa, sự tác động, ảnh hưởng của tình hình thế giới, với những biến đổi sâu sắc của nó từ đầu thế kỉ 20 càng khẳng định việc từ bỏ con đường cứu nước cũ và xác định con đường cứu nước mới là cần thiết.


(1) Ferdinand Bernad: Erreurs et danger, Paris, 1901, tr. 11.
(2) Robert S. McNamara: Nhìn lại quá khứ - Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 316.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tám, 2011, 06:55:46 am
Cách mạng tư sản đã thành công từ thế kỉ 16 với Cách mạng Hà Lan, trải qua Cách mạng tư sản Anh ở thế kỉ 17, Chiến tranh giành độc lập các thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ (1776) và đạt đến đỉnh cao với Cách mạng tư sản Pháp (1789). Tư tưởng dân tộc, dân chủ của cách mạng tư sản dần dần được truyền bá nhiều nơi trên thế giới, thúc đẩy cuộc đấu tranh cho độc lập và tự do tư sản. Đến giữa thế kỉ 19, với cuộc Cách mạng năm 1848 ở Pháp và ở nhiều nước Châu Âu, chủ nghĩa tư bản đã chiến thắng chế độ phong kiến trên phạm vi toàn thế giới, đồng thời cũng mở đầu cuộc đấu tranh gay gắt giữa hai lực lượng cơ bản của xã hội mới - giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.

Ảnh hưởng của tư tưởng tư sản tiếp tục lan đi nhiêu nơi, làm bùng nổ nhiều cuộc cách mạng tư sản, dưới nhiều hình thức khác nhau. Đó là cuộc đấu tranh thống nhất Đức và Italia, mở đường cho chủ nghĩa tư bản thắng lợi và phát triển. Cuộc nội chiến ở Mĩ (1861-1865) hoàn thành sự thắng lợi của chế độ tư bản trên cả nước Mĩ, sau khi xóa bỏ chế độ nô lệ đồn điền ở phần phía Nam nước Mĩ. Cuộc “đảo chính cung đình”, tiếp theo cuộc Duy tân Minh Trị ở Nhật Bản (1868) cũng là một hình thức của cuộc cách mạng tư sản không triệt để. Cuộc cải cách nông nô ở Nga vào những năm 60 của thế kỉ 19 mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển ở nước Nga sa hoàng đang chìm ngập trong chế độ phong kiến - nông nô. Ở Trung Quốc, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kì, Ba Tư… cuộc đấu tranh chống phong kiến, đế quốc xâm lược phương Tây vào cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20 cũng liên tiếp diễn ra dưới ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản.

Như vậy, ảnh hưởng của cách mạng tư sản, tư tưởng dân chủ tư sản từ Âu, Mĩ đã lần lượt lan truyền khắp thế giới, trực tiếp tấn công vào chế độ phong kiến, làm cho nó suy yếu, đi đến sụp đổ hoặc trở thành “cái đuôi”, “cái bóng” phục vụ cho chính quyền của giai cấp tư sản.

Vào 30 năm cuối của thế kỉ 19, chủ nghĩa tư bản chuyển dần lên giai đoạn đế quốc chủ nghĩa và cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và tư sản cũng ngày càng gay gắt. Công xã Pari năm 1871 là cái mốc đánh dấu sự lớn mạnh và khả năng của giai cấp vô sản có thể lật đổ chế độ tư bản, xây dựng nhà nước vô sản. Từ giữa thế kỉ 19, đặc biệt là sau Công xã Pari 1871, giai cấp tư sản ở các nước tư bản đế quốc Âu, Mĩ không còn vai trò tiến bộ, tích cực đối với sự phát triển của lịch sử và đã trở thành chướng ngại vật lớn, chủ yếu đối với việc giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động đang rên xiết dưới ách thống trị của chủ nghĩa tư bản, đế quốc. Tư tưởng dân chủ tư sản đã bị con cháu của các cuộc cách mạng đầu tiên, nhất là cách mạng Pháp phản bội, bị hệ tư tưởng vô sản, chủ nghĩa Mác - Lênin đấu tranh, vạch trần các mặt phản động, yếu kém. Tuy nhiên, tư tưởng dân chủ tư sản vẫn còn có ý nghĩa nhất định đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhiều nước thuộc địa và phụ thuộc. Vào nửa đầu thế kỉ 19, tư tưởng dân chủ tư sản mới được truyền bá rộng rãi sang Châu Á, được giai cấp tư sản dân tộc tiếp nhận và thể hiện trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa và phụ thuộc trong một mức độ nhất định còn gắn liền với chủ nghĩa tư bản. Con đường cứu nước và giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của giai cấp tư sản dân tộc ở một số nước thuộc địa và phụ thuộc được hình thành theo con đường cách mạng tư sản.

Xu thế này không thể không tác động mạnh mẽ đến Việt Nam khi mà con đường cứu nước theo kiểu phong kiến đã tỏ ra hoàn toàn bất lực. Còn chăng chỉ là sự nuối tiếc một thời kì chiến thắng huy hoàng trong sự nghiệp chống ngoại xâm dưới các triều đại trước đây: “Thôi thánh hiền, thôi Tiên Phật, thôi hào kiệt, thôi anh hùng, ngàn năm cơ nghiệp nước về Đông”. Đúng lúc ấy, làn gió mới của tư tưởng dân chủ tư sản thổi mạnh vào Việt Nam. Tư tưởng dân chủ tư sản đến Việt Nam thông qua sách báo Trung Quốc. Các loại tân thư, tân báo của Trung Quốc, những tác phẩm của Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi như “Trung Đông chiến kỉ”, “Pháp - Phổ chiến tranh”, “Trung Quốc hồn”, “Mậu Tuất chính biến”, “Nhật Bản duy tân tam thập niên”… đem tới cho các sĩ phu yêu nước đang bế tắc con đường cứu nước những tư tưởng mới về nhân quyền, về tự do dân chủ… Thành tựu của công cuộc Duy tân Minh Trị và chiến thắng của Nhật bản trong chiến tranh Nga - Nhật (1904-1905) làm cho không ít nhà yêu nước Việt Nam hướng về Nhật, tìm thấy ở Nhật “đồng văn, đồng chủng” không chỉ là người giúp mình giải phóng đất nước mà còn vạch con đường để tiếp tục giầu mạnh.

Những điều kiện trong nước và tác động của nước ngoài làm xuất hiện trào lưu mới trong việc xác định con đường cứu nước khác con đường cứu nước phong kiến trước đó. Đầu thế kỉ 20, nhiều sĩ phu yêu nước không còn giương ngọn cờ quân chủ, dù là quân chủ lập hiến, mà hướng về cải cách dân chủ để “chấn hưng dân khí, khai thông dân trí, hậu dân sinh”, xác định thể chế cộng hòa theo nhận thức:

“Người của ta, nước của ta,
Dân là của nước, nước là của dân”
(1).

Việt Nam Quang phục Hội đã thể hiện tư tưởng con đường cứu nước mới trong tôn chỉ của mình là chủ trương: “Đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục nước Việt Nam, thành lập nước Cộng hòa dân quốc Việt Nam”.

Như vậy, vào đầu thế kỉ 20, những điều kiện khách quan và chủ quan đã cho phép xác định con đường cứu nước dân chủ tư sản để thay thế cho con đường cứu nước kiểu phong kiến cũ. Tuy nhiên, trên con đường cứu nước này cũng có nhiều màu sắc, khuynh hướng khác nhau.

Con đường cứu nước của Phan Bội Châu chủ yếu lấy phương thức bạo động vũ trang để giành độc lập. Tuy nhiên, cùng với việc bạo động vũ trang, Phan Bội Châu cũng coi trọng việc vận động duy tân đất nước, cải cách chính trị, kinh tế, văn hóa để tự cường dân tộc. Sự kết hợp này thể hiện nhiệm vụ cấp bách trước mắt là giành cho được độc lập, nhưng để có sức mạnh đấu tranh và nuôi dưỡng lâu dài sự tồn tại và phát triển của đất nước nhất thiết phải xây dựng thật vững mạnh trên mọi mặt. Sự chuyển biến trong nhận thức và thể hiện ở hành động thực tiễn về con đường cứu nước của Phan Bội Châu đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau với nhiều suy tư, trăn trở để ông dần dần từ bỏ con đường phong kiến, đi theo con đường cách mạng dân chủ tư sản. Giữa hai giai đoạn này có một thời gian quá độ trong chủ trương xây dựng nền quân chủ lập hiến. Song chủ trương quân chủ của Phan Bội Châu cũng gặp bế tắc, vì giai cấp phong kiến đã thực sự làm tay sai cho Pháp, tìm kiếm một ông vua yêu nước, kêu gọi các quan lại trong triều tham gia đánh Pháp là không dễ. Trong điều kiện như vậy, với lòng nồng nàn yêu nước, Phan Bội Châu chủ trương, thông qua mục đích, chương trình hành động của Duy tân Hội là “cốt sao khôi phục nước Việt Nam, lập ra chính thể độc lập, ngoài ra chưa có chủ trương gì khác”. Sự lúng túng, vướng mắc trong việc xác định phương hướng đấu tranh như vậy chứng tỏ Phan Bội Châu lúc bấy giờ chưa thoát khỏi tư tưởng quân chủ mà cũng chưa chín muồi tư tưởng dân chủ tư sản.


(1) Phan Bội Châu: Văn thơ Phan Bội Châu chọn lọc, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1967, tr. 61-62.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tám, 2011, 06:56:24 am
Tình trạng nhận thức này không thể kéo dài, vì yêu cầu đánh đổ thực dân Pháp và bọn tay sai phong kiến đòi hỏi phải xác lập ngay một chế độ chính trị, xã hôi tiến bộ hơn, phù hợp với nguyện vọng, quyền lợi của nhân dân. Thực hiện được đều này mới huy động được sức mạnh của nhân dân và như vậy mới đánh đuổi được thực dân, giành được độc lập. Cuối cùng, qua bao suy nghĩ, trăn trở của ban thân, được tác động bởi những cuộc tiếp kiến với các nhà dân chủ tư sản Nhật Bản, Trung Quốc, Phan Bội Châu đã dần dần khẳng định tư tưởng dân chủ cộng hòa. Sự chuyển biến nhận thức này ở Phan Bội Chau đã trải qua những cuộc đấu tranh, dằn vặt. Trong tác phẩm nổi tiếng Niên biểu, ông đã thú nhận: “Tôn Dật Tiên đã biết tôi qua Việt Nam vong quốc sử của tôi, biết tôi chưa gột rửa được đầu óc quân chủ nên ông thống thiết đả kích về hình thức giả dối của Đảng lập hiến”. Tư tưởng dân chủ trong con đường cứu nước của Phan Bội Châu thực sự được dứt bỏ từ sau Cách mạng Tân Hợi (1911), khi được thuyết phục bởi thắng lợi của cuộc cách mạng này. Việc từ bỏ tư tưởng quân chủ theo chủ nghĩa dân chủ và chủ trương xây dựng Việt Nam Cộng hòa dân quốc của Phan Bội Châu được thể hiện trong tôn chỉ Việt Nam Quang phục hội (1912).

Việc xác định con đường cứu nước theo tư tưởng dân chủ tư sản của Phan Bội Châu có nhiều điểm mới, tiến bộ hơn con đường cứu nước kiểu phong kiến trước kia. Phần nào nó phù hợp với yêu cầu mới của thời đại, đất nước. Một sự chuyển biến tích cực trong công cuộc đấu tranh cứu nước chống Pháp, giải phóng dân tộc. Song con đường cứu nước dân chủ tư sản của Phan Bội Châu cũng bộ lộ nhiều non yếu, nhược điểm; bởi vì, như đã nói tư tưởng dân chủ tư sản nói chung vào đầu thế kỉ 20 không còn là tư tưởng tiến bộ khi hệ tư tưởng cách mạng của giai cấp vô sản đã phát triển mạnh mẽ. Nó đã trở thành lạc hậu - dù có vẻ mới mẻ ở các nước thuộc địa và phụ thuộc - và bị bọn thực dân dùng để lừa gạt quần chúng nhân dân bị thống trị, bị áp bức với các khẩu hiệu “tự do, bình đẳng, bác ái”. Tư tưởng này lại được nhận thức và thực hiện ở những nhà yêu nước vừa thoát khỏi ý thức hệ phong kiến, dựa trên tầng lớp xã hội mới không có tinh thần cách mạng triệt để - giai cấp tư sản dân tộc - nên càng không triệt để và bộc lộ nhiều yếu kém. Nhược điểm, yếu kém trong tư tưởng, chủ trương cứu nước của Phan Bội Châu thể hiện ở chỗ chưa hiểu rõ bản chất của nước Nhật Bản quân phiệt, đã trở thành một nước đế quốc chủ nghĩa cũng đi xâm chiếm thuộc địa và đô hộ nước khác. Vì vậy, Phan Bội Châu vẫn hi vọng vào sự giúp đỡ của Nhật để đánh Pháp. Phan Bội Châu tuy nhận thức được sức mạnh của nhân dân, có ý thức huy động lực lượng của nhân dân để đánh đuổi Pháp giành độc lập, song chưa thực sự thấy rõ vai trò quyết định của nhân dân lao động trong công cuộc cứu nước.

Con đường cứu nước của Phan Bội Châu tuy là bước tiến trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc từ cuối thế kỉ 19, song vì những hạn chế nêu trên nên khó tránh được tình trạng “trăm thất bại không một thành công”. Khi Phan Bội Châu nhận thấy sự non yếu của mình và hiểu được xu thế mới của thời đại thì đã muộn, vì ông đã bị bắt đưa về nước và bị giam lỏng ở Bến Ngự (Huế). Trong 15 năm sống “cảnh tù tự do”, Phan Bội Châu suy ngẫm con đường đã qua và hướng tới “chủ nghĩa xã hội” mà ông nhận thức được, đặt tất cả hi vọng về công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc vào Nguyễn Ái Quốc - con của người bạn đồng hương Nguyễn Sinh Sắc, tiêu biểu cho thế hệ mới đầy tài năng và tâm huyết.

Con đường cứu nước của Phan Chu Trinh cũng có những nét riêng nổi bật. Sinh đồng thời với Phan Bội Châu, cũng là nhà khoa bảng giàu lòng yêu nước, Phan Chu Trinh cũng mong đem “chút tài năng của mình để cứu dân, giúp nước”. Ông chịu ảnh hưởng tư tưởng dân chủ tư sản qua tân thư, lại sớm tiếp xúc với kĩ thuật phương Tây ngay trên đất nước mình và trong những năm sống ở Pháp. Ông cũng trải qua một thời gian ngắn làm quan nên nhận thấy những thối nát của quan trường, đã từ quan để hoạt động yêu nước. Tuy đều là những sĩ phu yêu nước, mang nặng tư tưởng quân chủ, song sự chuyển biến của Phan Chu Trinh từ tư tưởng phong kiến sang tư tưởng dân chủ tư sản nhanh hơn, không phải trải qua những đấu tranh, trăn trở trong bản thân như Phan Bội Châu.

Khác với Phan Bội Châu, con đường cứ nước của Phan Chu Trinh không phải con đường bạo động vũ trang, cầu ngoại viện, mà ông đã khẳng định rằng:

            “Bất bạo động, bạo động tắc tử,
            Bất vọng ngoại, vọng ngoại giả ngu”.


Sớm nhận thấy sự thối nát của chế độ quân chủ nên Phan Chu Trinh kiên quyết đánh đổ chế độ phong kiến, kịch liệt phê phán tư tưởng quân chủ, dù là quân chủ lập hiến. Ông dứt khoát cho rằng nếu không đánh đổ được chế độ quân chủ thì dù có giành được độc lập, dân chúng cũng không thoát khỏi sự thống trị của vua quan và không thể nào hưởng tự do, hạnh phúc. Song làm thế nào để giành được độc lập, đánh đổ được phong kiến. Ông chủ trương phải xây dựng dân quyền và dựa vào Pháp để vận động dân chủ.

Tư tưởng chính trị của Phan Chu Trinh thể hiện qua bức thư gửi Toàn quyền Bô (Beau). Ông đã chỉ trích chính quyền thực dân dung túng bọn phong kiến sâu mọt hại dân, đòi phải trừng trị chúng và tiến hành các biện pháp cải lương, như “kén chọn nhân tài”, “hưng lợi trừ hại”, “mở đường sinh nhai cho dân nghèo”, “rộng đường ăn nói cho thân sĩ” để cho “dân được yên nghiệp làm ăn…”(1).

Những yêu cầu của Phan Chu Trinh rõ ràng không thể thực hiện được trong chế độ nửa phong kiến, vì bọn thực dân Pháp phải duy trì nuôi dưỡng bọn vua quan làm tay sai để đàn áp, bóc lột nhân dân, củng cố sự thống trị của chúng.

Ngoài con đường cứu nước của Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh trình bày trên, cuộc đấu tranh vũ trang có tính chất tự phát của nông dân và các dân tộc ít người ở miền núi vẫn tiếp tục vào đầu thế kỉ 20, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Yên Thế, do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo (kết thúc năm 1913, sau gần 30 năm đấu tranh “hùng cứ một phương”).


(1) Phan Chu Trinh: Thư gửi Chính phủ Pháp, ngày 15.8.1906, “Tài liệu tham khảo lịch sử cách mạng cận đại Việt Nam”, tập 3, Nhà xuất bản Văn Sử Địa, Hà Nội, 1958, tr. 189.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tám, 2011, 06:57:27 am
Giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam tuy mới hình thành cũng đấu tranh đồi quyền lợi, song do bản chất và mối quan hệ với thực dân, phong kiến nên chỉ chủ trương cải lương, thỉnh cầu Chính phủ Pháp ban cho quyền tự do dân chủ. Điều này thể hiện trong chủ trương hoạt động của “Đảng lập hiến”, mà Nguyễn Ái Quốc trong bài “Tình hình Đông Dương, tháng 11 và 12.1924” đã nhận xét: Họ bao giờ cũng núp sau cái mộc “lòng trung thành” khi phê bình công khai những khuyết điểm của chính phủ thuộc địa. Trong tất cả các bài báo, họ tuyên bố “vĩnh viễn gắn bó với mẫu quốc”…”(1).

Tầng lớp tiểu tư sản hoạt động khá mạnh mẽ để chống Pháp, cứu nước. Tổ chức chính trị đầu tiên của họ là Tâm tâm xã, với mục tiêu “quyết tâm hi sinh tất cả tư ý và quyền lợi cá nhân, đem hết sức mình tiến hành mọi việc để khôi phục quyền làm người của người Việt Nam”. Muốn vậy, phải “hợp sức mọi người, lấy ý kiến tập thể, dũng cảm tiến lên, để đem lại cho mọi người cái nhân quyền đã bị cướp mất và mưu cầu hạnh phúc cho quốc dân”(2). Về phương thức hoạt động, tổ chức này chủ trương làm bất cứ việc gì, kể cả việc trừng trị những tên thực dân đầu sỏ, nhằm thức tỉnh và tập hợp đông đảo nhân dân đứng lên đánh đuổi giặc Pháp.

Vào cuối những năm 20 thế kỉ 20, Việt Nam Quốc dân Đảng ra đời. Lúc đầu Đảng này chưa có đường lối chính trị rõ rệt, sau đó mới nêu: “chủ nghĩa của Đảng là xã hội dân chủ”. Mục đích của Đảng là: “Đoàn kết các lực lượng cả nam lẫn nữ để đẩy mạnh cách mạng dân tộc, xây dựng nền dân chủ trực tiếp và giúp đỡ các dân tộc bị áp bức”. Trước ngày khởi nghĩa, Đảng này xác định cụ thể hơn là tiến hành “cách mạng dân tộc, cách mạng chính trị, cách mạng xã hội nhằm đánh đuổi giặc Pháp, đánh đổ ngôi vua, thiết lập dân quyền, thi hành tự do dân chủ”(3). Việt Nam Quốc dân Đảng, đảng của giai cấp tư sản dân tộc, vốn nhỏ yếu lại không tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân nên không thể trở thành lực lượng lãnh đạo công cuộc đấu tranh chống Pháp cứu nước. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại là đỉnh cao cuối cùng của phong trào đấu tranh của giai cấp tư sản. Tuy cuộc đấu tranh này có tác dụng cổ vũ lòng yêu nước của nhân dân ta, song nó cũng “biểu lộ tính chất hấp tấp tiểu tư sản, tính chất hăng hái nhất thời và đồng thời cũng biểu lộ tính chất không vững chắc, non yếu của phong trào tư sản”(4).

Một cách khách quan, chúng ta nhận thấy rằng phong trào yêu nước chống Pháp theo con đường dân chủ tư sản có bước phát triển rộng lớn hơn phong trào Cần Vương cuối thể kí 19. Nó lan rộng trong hầu khắp cả nước, từ nông thôn đến thành thị, thu hút được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia, đấu tranh trên nhiều lĩnh vực - chống sưu thuế của nông dân, phong trào Duy tân, Đông Kinh nghĩa thục, khởi nghĩa binh lính ở Huế, một số tỉnh Miền Trung, ở Thái Nguyên… Ngoài ra, còn có phong trào nông dân tự phát mà tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Yên Thế, phong trào đấu tranh của đồng bào dân tộc ít người ở miền núi. Những sự kiện này chứng tỏ tinh thần yêu nước anh hùng của nhân dân Việt Nam. Song, cuối cùng vẫn thất bại. Vì sao?

Nhìn chung, từ đầu thế kỉ 20, khi ngọn cờ cứu nước theo kiểu phong kiến đã chấm dứt, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân chuyển sang con đường dân chủ tư sản. Việc chuyển biến này là do ảnh hưởng của những điều kiện chủ quan và khách quan trong, ngoài nước. Song giai cấp tư sản dân tộc vốn yếu, không có tinh thần cách mạng triệt để và xu hướng cách mạng thế giới cũng đã chuyển biến, nên con đường cứu nước dân chủ tư sản trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam cũng không thể đưa tới thắng lợi. Nhận xét về phong trào cứu nước đầu thế kỉ 20, Hồ Chí Minh đã nói rõ là: “Khâm phục các cụ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu, nhưng không hoàn toàn tán thành cách làm của một người nào. Vì:

Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương (…) đó là sai lầm, chẳng khác gì xin giặc rủ lòng thương.

Cụ Phan Bội Châu hi vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất nguy hiểm, chẳng khác gì “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”.

Cụ Hoàng Hoa Thám còn thực tế hơn vì trực tiếp đấu tranh chống Pháp. Nhưng (…) cụ còn nặng cốt cách phong kiến”(5).

Con đường cứu nước theo kiểu dân chủ tư sản cũng như con đường cứu nước phong kiến trước đó, đã sớm tỏ ra bất lực, không thể đưa cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đến thắng lợi. Cuộc khủng hoảng về con đường cứu nước ngày càng trầm trọng, làm cho phong trào đấu tranh “dường như trong đêm tối không có đường ra”. Song đó là sự khủng hoảng của con đường cứu nước kiểu phong kiến rồi tư sản, chứ không phải sự khủng hoảng bế tắc của phong trào yêu nước đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta. Bởi vì, bên cạnh các phong trào đấu tranh chống Pháp do giai cấp tư sản, tiểu tư sản tổ chức, lãnh đạo, phong trào đấu tranh tự phát của nhân dân vẫn liên tiếp nổ ra, đặc biệt phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân đã phát triển mạnh mẽ từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (vào giữa những năm 20 thế kỉ 20, nhiều cuộc đấu tranh của công nhân đã liên tiếp nổ ra ở vùng mỏ Hồng Gai, Bắc Kạn, Tuyên Quang…, ở các đồn điền cao su lớn ở Nam Kỳ, ở các nhà máy tập trung nhiều công nhân tại Sài Gòn, Chợ Lớn, Nam Định, Hải Phòng, Hà Nội, Vinh - Bến Thủy…).

Phong trào đấu tranh yêu nước, phong trào công nhân và sự truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc có công lớn đã tạo nên những nhân tố kết hợp dẫn tới sự ra đời của đảng Cộng sản Việt Nam. Con đường cứu nước mới, do Nguyễn Ái Quốc lựa chọn, Đảng khẳng định và nhân dân tin theo, đã mở ra trang sử mới trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội.


(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 3, sđd, tr. 12.
(2) Theo Các tổ chức tiền thân của Đảng (Văn kiện), Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương xuất bản, Hà Nội, 1977, tr. 320.
(3) Xem Tài liệu tham khảo lịch sử cách mạng cận đại Việt Nam, tập 5, Ban Nghiên cứu Văn Sử Địa, Hà Nội, 1956, tr. 18, 81, 105.
(4) Lê Duẩn: Một vài đặc điểm của cách mạng Việt Nam, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1960, tr. 41.
(5) Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, in lần thứ hai, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1976, tr. 12-13.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tám, 2011, 06:58:47 am
2. Hồ Chí Minh và việc xác định con đường cứu nước mới

Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong bối cảnh lịch sử của đất nước và thế giới có nhiều biến động lớn. Nước ta đã bị thực dân Pháp hoàn thành việc bình định về quân sự và bắt đầu xây dựng chế độ cai trị thuộc địa. Phong trào đấu tranh yêu nước đổ ra liên tiếp song đều kết thúc thất bại. Điều này thể hiệu mâu thuẫn giữa sức sống dân tộc, tinh thần đấu tranh anh dũng của nhân dân với sự bất lực của giai cấp phong kiến rồi tư sản dân tộc trong việc tổ chức lãnh đạo phong trào cứu nước chống Pháp của nhân dân ta. Trên thế giới, chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang đế quốc chủ nghĩa. Hệ thống thuộc địa được xác lập ở hầu hết các nước ở Châu Á, Châu Phi và khu vực Mĩ Latinh. Phong trào giải phóng dân tộc và phong trào công nhân trên thế giới sôi sục và ngày càng liên kết chặt chẽ với nhau trong cuộc đấu tranh chống đế quốc.

Trong điều kiện lịch sử như vậy và yêu cầu giải quyết nhiệm vụ cơ bản của dân tộc là đấu tranh giành độc lập và thoát khỏi khủng hoảng về con đường cứu nước, sự xuất hiện của Hồ Chí Minh là một tất yếu về lịch sử, phù hợp với sự phát triển chung của dân tộc và nhân loại.

Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức tính chất và yêu cầu của đất nước và thời đại, nên tuy trân trọng truyền thống dân tộc, kính yêu các nhà yêu nước tiền bối, nhưng Người cũng nhận thấy không thể đi theo con đường cứu nước cũ, kiểu phong kiến hay tư sản. Vì vậy, người từ chối con đường Đông du của Phan Bội Châu(1) mà quyết định rời Tổ quốc sang Pháp ở phương Tây để tìm con đường cứu nước mới. Đây là điều chưa hề có trong lịch sử nước ta vì việc ra đi tìm con đường cứu nước thường được hướng về phương Đông. Trước đây, cha ông ta ra nước ngoài - sang Trung Quốc, Nhật Bản - chỉ để cầu viện, chuẩn bị lực lượng về nước đánh Pháp chứ chưa có người nào nhận thức việc tìm con đường cứu nước mới, đúng như Nguyễn Tất Thành đang mong muốn. Việc quyết định sang phương Tây của Người chưa phải đã xác định được con đường cứu nước mới ngay từ khi rời Tổ quốc, mà mới nảy sinh một ý định táo bạo khác với cách suy nghĩ, lựa chọn không thành công trước đây: “Nhân dân Việt Nam trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi lúc này thường tự hỏi nhau ai là người sẽ giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Nhật, người khác nghĩ là Anh, có người lại cho là Mĩ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”(2).

Hồ Chí Minh ra nước ngoài, sang phương Tây, xuất phát từ lòng yêu nước, muốn tìm con đường cứu nước khác trước, đưa lại hiệu quả hơn. Con đường ấy là gì, Người chưa biết nên phải đi tìm bằng công sức của mình.

Trải qua một cuộc hành trình trong khoảng 10 năm qua các nước tư bản, đế quốc, thuộc địa, phụ thuộc, Hồ Chí Minh nhận thấy ở đâu trên thế giới nhân dân lao động cũng khổ cực, mong muốn thoát khỏi sự áp bức bóc lột, được sống độc lập, tự do, hạnh phúc. Thực tiễn này đã dần dần hình thành ở Hồ Chí Minh ý thức về đoàn kết các dân tộc bị áp bức trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung. Thực tiễn cuộc hành trình qua các châu lục là một cơ sở quan trọng để Người tiếp nhận Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin. Luận cương “đến với Người như một ánh sáng kì diệu nâng cao về chất tất cả những hiểu biết và tình cảm cách mạng mà Người hằng nung nấu”(3).

Như vậy, Hồ Chí Minh từ việc tiếp thu truyền thống dân tộc - mà tinh thần yêu nước là cốt lõi, qua thực tiễn cuộc đấu tranh của nhân dân trong nước và nhiều nước thuộc địa đế quốc trên thế giới, đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Rồi từ đó, Người xác định con đường cứu nước đúng cho dân tộc. Con đường cứu nước mới này khác những con đường cứu nước trước đó, nhưng vẫn có sự tiếp thu những yếu tố tích cực trong những cuộc đấu tranh chống xâm lược của nhân dân Việt Nam, như lòng yêu nước, tinh thần dũng cảm hi sinh. Việc xác định con đường cứu nước mới không chỉ phù hợp với yêu cầu của dân tộc mà còn đáp ứng sự chuyển biến to lớn của thời đại, mở đầu bằng Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917. Đây là công lao to lớn đầu tiên của Hồ Chí Minh đối với dân tộc, bởi vì Người “đã gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế, đưa nhân dân ta đi theo con đường mà chính Người đã trải qua từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là con đường giải phóng duy nhất mà Cách mạng tháng Mười Nga đã mở ra cho nhân dân lao động và tất cả các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới”(4).

Con đường mà Hồ Chí Minh xác định và lựa chọn cho nhân dân ta phù hợp với những điều kiện chủ quan và khách quan trong nước và thế giới.

Trong nước, nhân dân lao động ngày càng phá sản, bần cùng vì ruộng đất bị chiếm đoạt, các ngành nghề thủ công truyền thống bị cạnh tranh, tiêu diệt, nạn sưu cao thuế nặng, ách bóc lột tàn tệ ngày càng tăng. Tình cảnh của nông dân được miêu tả dưới đây, thường xuyên diễn ra: “Hàng năm nhà thợ cày phải ăn đói đến 7-8 tháng, bần nông 5-6 tháng, một số trung nông thiếu 3-4 tháng. Trong những tháng ấy họ phải ăn cầm hơi, mỗi ngày một bữa, có khi hai ngày mới được một bữa cơm, còn ăn cháo, ăn ngô, ăn khoai, cùng lắm thì ăn rau má, gọi là có cái nhét cho đầy ruột”(5). Trong hoàn cảnh như vậy, nông dân Việt Nam “chỉ còn có chết hoặc vùng dậy mà thôi”(6).

Khi ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã dần dần nhận thức đầy đủ tình cảnh, nguyện vọng của nhân dân lao động thế giới. Người đã mở rộng tình yêu thương gia đình, đồng bào, Tổ quốc đến tình cảm thân thiết với những người cùng cảnh ngộ ở mọi nước để cùng nhau đấu tranh cho những mục tiêu giống nhau - độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc. Có thể xem rằng tình cảm này là một cơ sở đầu tiên, làm nảy sinh tinh thần, ý thức đoàn kết quốc tế để Hồ Chí Minh với tất cả những người lao động bị áp bức trên thế giới.


(1) Xem Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, sđd, tr. 13.
(2) Hồ Chí Minh trả lời nhà văn Mĩ Anna Luy Xtơrông, trích theo Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, tập 1, Nhà xuất bản Thông tin lí luận, Hà Nội, 1992, tr. 47-48.
(3) Trường Chinh: Chủ tịch Hồ Chí Minh - Sự nghiệp vĩ đại, gương sáng đời đời. Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1980, tr. 11.
(4) Lê Duẩn: Dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1970, tr. 10.
(5) Qua Ninh và Văn Đình: Vấn đề dân cày, tr.42.
(6) André Violis: Indochine S.O.S Les Editeurs Français réunis, Paris, 1946, tr.97.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tám, 2011, 07:00:00 am
Hai sự kiện lớn có tác động đến việc quyết định lựa chọn con đường cứu nước của Hồ Chí Minh, sau khi đã “thâm nhập” vào thực tiễn cuộc sống của nhân dân lao động thế giới, đó là tiếng vang và ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga và Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin.

Khi trở lại Pháp (1917) sau chuyến đi dài ngày qua các châu lục, Hồ Chí Minh sống ở Pari - trung tâm chính trị sôi động bậc nhất của Châu Âu lúc bấy giờ. Tại đây, Người đã biết đến Cách mạng tháng Mười. Với sự nhạy cảm về chính trị, do mong muốn đấu tranh giải phóng dân tộc mình và nhận thấy nguyện vọng thiết tha được độc lập tự do của nhân dân lao động thế giới, Hồ Chí Minh đã dễ dàng tiếp nhận ảnh hưởng Cách mạng tháng Mười. Lúc bấy giờ, tuy “chưa hiểu hết tầm quan trọng lịch sử của Cách mạng tháng Mười, song Người vẫn nhận thấy đây là một biến cố to lớn có sức lôi cuốn kì diệu”(1). Tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa này đối với Người chính là cuộc đấu tranh chống bọn áp bức bóc lột và lòng yêu nước dũng cảm của những người Bônsêvich. Năm 1924, trong bài Lênin và các dân tộc thuộc địa, viết khi Lênin mất, Nguyễn Ái Quốc đã nêu rõ: “… Từ những người nông dân An Nam đến người dân săn bắn trong các rừng Đahômây, cũng đã thầm nghe nói rằng ở một góc trời xa xăm có một dân tộc đã đánh đuổi bọn chủ bóc lột họ và hiện đang tự quản lí đất nước mình mà không cần đến bọn chủ và bọn toàn quyền. Họ cũng đã nghe nói rằng nước đó gọi là nước Nga, rằng có những người dũng cảm, mà người dũng cảm nhất là Lênin. Chỉ như thế cũng đủ làm cho họ ngưỡng mộ sâu sắc và đầy nhiệt tình đối với nước đó và lãnh tụ của nước đó”(2).

Như vậy, xuất phát từ thực tế của đất nước mình vả của các nước thuộc địa, xuất phát từ nguyện vọng thiết tha giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy tính chất dân tộc trong Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 bên cạnh tính giai cấp trong cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống chủ nghĩa tư bản. Bất cứ cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nào cũng đều có nhiệm vụ dân tộc và Cách mạng tháng Mười Nga càng thể hiện rõ đặc điểm này, vì nước Nga sa hoàng là “nhà tù của các dân tộc trong đế quốc Nga”. Vì vậy, nó có sức thu hút mạnh mẽ các dân tộc trong đấu tranh cho độc lập của mình.

Từ sự nhận thức “cảm tính tự nhiên”(3) ban đầu, Hồ Chí Minh đã giữ mãi ấn tượng sâu sắc về tác động mạnh mẽ của Cách mạng tháng Mười đối với Người trong việc quyết định lựa con đường cứu nước theo cách mạng vô sản. Con đường Cách mạng tháng Mười đã đáp ứng nguyện vọng, yêu cầu của Người và nhân dân Việt Nam, cũng như các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc. Tiếp nhận con đường Cách mạng tháng Mười trong công cuộc giải phóng dân tộc, Người cảm thấy “… tựa như người đi đường đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn”(4).

Từ thực tiễn cuộc hành trình tìm đường cứu nước qua các châu lục, ảnh hưởng sâu sắc, mạnh mẽ của Cách mạng tháng Mười Nga, Hồ Chí Minh đọc được Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương những vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin đăng toàn văn trên báo Luymanitê (“Nhân đạo”) trong hai số liền, ngày 16 và 17.7.1920. Nguyễn Ái Quốc chăm chú đọc nhiều lần văn kiện này. Sau này Người nhớ lại: “Trong Luận cương ấy có những chữ chính trị khó hiểu, nhưng cứ đọc đi đọc lại nhiều lần, cuối cùng tôi cũng hiểu được phần chính. Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên, ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta (chúng tôi nhấn mạnh - P.N.L).

Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”(5).

Điều gì làm cho Nguyễn Ái Quốc phấn khởi, vui mừng và quyết định đi theo con đường cách mạng vô sản mà Lênin chỉ dẫn? Việc tiếp nhận con đường cứu nước này hoàn toàn không phải là sự bồng bột, mà nó trải qua những suy nghĩ sâu lắng, trải qua thực tiễn đấu tranh và Luận cương những vấn đề dân tộc và thuộc địa đã khơi dậy và vạch con đường giải quyết đúng. Bởi vì Luận cương những vấn đề dân tộc và thuộc địa đã đề cập và chỉ rõ phương hướng, cách thức giải quyết nhiều vấn đề cấp bách của thời đại sau Cách mạng tháng Mười thắng lợi: sự cần thiết phải liên kết chặt chẽ phong trào cách mạng ở chính quốc với phong trào cách mạng ở thuộc địa để đấu tranh chống bọn tư bản thực dân và phong kiến, xác định những đặc điểm của phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc và nhiệm vụ của các Đảng Cộng sản phải giúp đỡ phong trào cách mạng ở nước này(6).

Từ lòng yêu nước, tình thương đồng bào đau khổ đến ý thức cứu nước, Hồ Chí Minh đã trải qua những hoạt động yêu nước và khẳng định con đường cứu nước đúng cho dân tộc. Tiếp đó, Người tham dự các cuộc mít tinh, hội nghị để đấu tranh cho việc Đảng Xã hội Pháp gia nhập Quốc tế Cộng sản, phản đối các nước đế quốc vũ trang can thiệp nước Nga Xô viết.

Đánh dấu bước chuyển biến quan trọng trong tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc là việc Người bỏ phiếu tán thành Đảng Xã hội Pháp gia nhập Quốc tế Cộng sản, với lý do rất đơn giản là “Đệ Tam Quốc tế rất chú ý đến vấn đề giải phóng thuộc địa… sẽ giúp các dân tộc bị áp bức giành lại tự do”. Bước ngoặt quan trọng tiếp theo là việc Nguyễn Ái Quốc tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành đảng viên cộng sản, người cộng sản đầu tiên của nước ta. Đến đây, quá trình đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc đã hoàn thành. Con đường đó được xác định là Con đường cách mạng vô sản trong đấu tranh giải phóng dân tộc.

Con đường cứu nước theo cách mạng vô sản, do Hồ Chí Minh xác định, không chỉ có ý nghĩa dân tộc mà còn có ý nghĩa quốc tế và thời đại. Dĩ nhiên, để đi đến thắng lợi trên con đường cứu nước này cần phải có sự nỗ lực chủ quan của của dân tộc, sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng của giai cấp vô sản. Việc xác định, kiên trì đi theo con đường cách mạng vô sản trong đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước theo chủ nghĩa xã hội còn là một cuộc đấu tranh gay gắt giữa con đường vô sản và con đường tư bản.

Việc xác định con đường cứu nước đúng và kiên trì thực hiện một cách dũng cảm, sáng tạo là điều kiện quyết định cho thành công của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội, mở đầu bằng thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945.


(1) T.Lan: Vừa đi đường vừa kể chuyện, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1976, tr.10.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 1, sđd, tr. 230.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 12, sđd, tr. 470.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 8, sđd, tr. 571.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 10, sđd, tr. 127.
(6) Xem V. I. Lênin: Tuyển tập, quyển 2, phần 2, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1959, tr.426-429.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tám, 2011, 07:00:36 am
II. NHỮNG SỰ CHUẨN Bị CHO CUỘC TỔNG KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN KHI THỜI CƠ ĐẾN

Việc xác định con đường cứu nước đúng là cơ sở quan trọng để đưa cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc dần dần thoát khỏi sự khủng hoảng, đi tới thắng lợi. Tuy nhiên, đây mới là điều kiện đầu tiên rất quan trọng, song cần có sự chuẩn bị đầy đủ, đúng đắn mới có thể thành công.

Vì vậy, khi xác định con đường cứu nước theo cách mạng vô sản, Nguyễn Ái Quốc đã nêu rõ nội dung, phương hướng của nó mà nhân dân ta phải thực hiện. Cần phải nhắc một điều là từ cuối thế kỉ 19 đến 1945 (sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc), phong trào giải phóng dân tộc ở Châu Á, Châu Phí nói chung, Đông Nam Á nói riêng, đã dần chuyển sang con đường dân chủ tư sản. Giai cấp tư sản dân tộc ở một số nước như Ấn Độ, Inđônêxia, Philippin vẫn giữ được vai trò nhất định trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc theo con đường dân chủ tư sản. Điều này do điều kiện lịch sử cụ thể, tương quan lực lượng của các tầng lớp nhân dân trong nước; dù không phù hợp với xu thế phát triển mới của lịch sử thế giới từ sau Cách mạng tháng Mười Nga, nhưng nó cũng “có ý nghĩa như sự kiện đầu tiên” theo xu hướng mới - xu hướng dân chủ tư sản(1). Cuộc đấu tranh hay tạm thời hợp tác giữa các đảng tư sản và cộng sản thể hiện tương quan lực lượng của mỗi nước và quyết định con đường đấu tranh giải phóng dân tộc.

Ở Việt Nam, khi xác định con đường cứu nước mới, Nguyễn Ái Quốc đã căn cứ vào tình hình, yêu cầu, bài học, kinh nghiệm của cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta, kết hợp với xu thế phát triển chung của thế giới trong điều kiện mới, đã sáng suốt xác định con đường cứu nước duy nhất đúng cho dân tộc. Con đường đó là con đường “chỉ có giải phóng giai ấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”(2).

Điều này có cơ sở thực tiến và lí luận vững chắc. Tuy nhiên, để con đường này trở thành hiện thực cần phải có những điều kiện nhất định. Những điều kiện này xuất phát từ nội dung con đường cứu nước mà Người đã xác định, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam, vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và bài học kinh nghiệm của Cách mạng tháng Mười Nga. Một điểm nổi bật được Nguyễn Ái Quốc luôn luôn chú trọng và nhấn mạnh là phải nhận thức đúng và phát huy “chủ nghĩa dân tộc” trong cách mạng giải phóng dân tộc để huy động sức mạnh đoàn kết của toàn dân đấu tranh cho độc lập theo con đường cách mạng vô sản. Cách mạng tháng Tám 1945 thắng lợi vì huy động được sức mạnh toàn dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

1. Nội dung con đường cứu nước và giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh được thể hiện trong quá trình tiến đến Cách mạng tháng Tám 1945

Con đường cứu nước và giải phóng dân tộc mà Hồ Chí Minh xác định có những nội dung gì? Có nhiều vấn đề, ở đây chúng tôi nhấn mạnh một số điểm có bản được thể hiện trong việc chuẩn bị cho cuộc Cách mạng tháng Tám thành công sau này.

Trước hết là cuộc đấu tranh kiên quyết, triệt để, giải phóng dân tộc có thể có những con đường khác nhau để đi tới giải phóng, song chỉ có một con đường cách mạng vô sản mới thực sự giải thoát nhân dân ta khỏi sự áp bức, bóc lột. Trong quyển Đường cách mệnh, tập hợp những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc tại lớp huấn luyện cán bộ cách mạng Việt Nam ở Quảng Châu (Trung Quốc) trong những năm 1925-1977, Nguyễn Ái Quốc đã giới thiệu về các cuộc cách mạng tư sản Mĩ, Pháp và cách mạng xã hội chủ nghĩa thắng lợi ở Nga. Qua nghiên cứu các cuộc cách mạng nêu trên, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra nhiều kết luận để khẳng định con đường cứu nước nào phải đi. Người khẳng định: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mĩ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kì thực trong thì nó tước lục (tức là tước đoạt) công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã bốn lần rồi (tức cách mạng tư sản Pháp từ 1789 đến 1848) mà nay công nông Pháp hãy còn phải mưu cách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức. Cách mệnh An Nam nên nhớ những điều ấy”(3). Đối với cách mạng Mĩ cũng như vậy: “Mĩ tuy rằng cách mệnh đã thành công hơn 150 năm nay (tính từ 1776 đến 1924), nhưng công nông vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo tính cách mệnh lần thứ hai.

Ấy là vì cách mệnh Mĩ là cách mệnh tư bản, mà cách mệnh tư bản là chưa phải cách mệnh đến nơi”(4).

Việc không chấp nhận công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng tư sản được xây dựng trên những cơ sở lịch sử xác thực, vững chắc, không chối cãi được. Điều này đã được nhân dân ta bằng hiểu biết và kinh nghiệm đã tiếp nhận một cách tự giác, vững chắc và thực hiện một cách triệt để, có hiệu quả theo lời chỉ dẫn của Nguyễn Ái Quốc: “Chúng ta đã hi sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cho cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hi sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”(5).


(1) Võ Dương Ninh: Nhìn lại nửa thế kỉ đấu tranh giành độc lập của Đông Nam Á, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 2, 1992, tr.2.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 1, sđd, tr. 416.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2, sđd, tr. 274.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2, sđd, tr. 270.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2, sđd, tr. 270.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tám, 2011, 07:12:36 am
Cũng dựa trên những nhận thức đúng lịch sử khách quan về cuộc Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra kết luận mang tính định hướng cho việc xác định nội dung con đường cứu nước mới - con đường cách mạng vô sản: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công và thành công đến nơi (tức là thành công triệt để), nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc, tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam. Cách mệnh Nga đã đuổi được vua, tư bản địa chủ rồi lại ra sức cho công nông các nước và nhân dân các nước và dân bị áp bức các thuộc địa (có nghĩa là ra sức giúp đỡ cho công nông các nước và nhân dân các nước thuộc địa) làm cách mệnh để đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản trên thế giới.

Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng cuộc cách mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc, phải có Đảng vững bền, phải bền gan, phải hi sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư (tức chủ nghĩa Mác) và Lênin”(1).

Con đường cứu nước theo cách mạng vô sản trong phong trào giải phóng dân tộc là sự khẳng định từ cách mạng dân tộc dân chủ lên cách mạng xã hội chủ nghĩa và chỉ con đường này mới giải phóng triệt để các dân tộc bị áp bức. Trong Truyền đơn cổ động mua báo Le Paria, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu được nhân loại, đem lại cho mọi người, không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc, sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc, nói tóm lại là nền cộng hòa thế giới chân chính, xóa bỏ những biên giới tư bản chủ nghĩa cho đến nay chỉ là những vách tường dài ngăn cản những người lao động thế giới hiểu nhau và yêu thương nhau”(2).

Những điều nêu trên hợp thành nguyên tắc phương pháp luận quan trọng nhất trong việc xác định nội dung con đường cứu nước mà sau này Người đã tổng kết: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”(3).” Sự tổng kết này dựa trên cơ sở xác định con đường cứu nước đúng và sự đấu tranh anh dũng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng để giành thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Thứ hai, con đường cứu nước của cách mạng Việt Nam phải đảm bảo sự lãnh đạo của giai cấp công nhân mà người đại diện chân chính duy nhất là đảng mácxít - lêninnít. Điều này được chỉ rõ trong tác phẩm Đường cách mệnh của Nguyễn Ái Quốc. Người nhấn mạnh rằng cuộc cách mệnh ở các nước thuộc địa trước hết là “dân tộc cách mệnh”, bởi vì: “Một nước cậy có sức mạnh đến cướp một nước yếu, lấy võ lực cai trị dân nước ấy và giành lấy quyền kinh tế và chính trị. Dân nước ấy đã mất cả tự do độc lập, lại làm ra được bao nhiêu thì bị cường quyền nó vơ vét bấy nhiêu. Nó đã cướp hết sản vật, quyền lợi của dân rồi, khi có giặc dã nó lại bắt dân đi lính chết thay cho nó… Đánh được thì nó hưởng lợi quyền, thua thì mình đã chết người lại hại của”(4). Cho đến khi “dân nô lệ ấy chịu không nổi nữa tỉnh ngộ lên, đoàn kết lại, biết rằng thà chết được tự do hơn sống làm nô lệ, đồng tâm hợp lực đánh đuổi tụi áp bức mình đi, ấy là dân tộc cách mệnh”(5).

Như vậy, nguyên nhân của cuộc cách mạng này là “vì bị áp bức mà sinh ra”(6). Ai là người bị áp bức nặng nề nhất? Đó là quần chúng nhân dân lao động. Cho nên “ai mà bị áp bức càng nặng thì lòng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết”(7). Người bị áp bức nặng nề nhất là nông dân và công nhân, nên “công nông là người chủ cách mệnh”. Họ lại “đông nhất cho nên sứ mệnh hơn hết (…) là tay không rồi, nếu thua thì chỉ mất cái kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ gan góc”(8). So với các giai cấp khác trong xã hội thuộc địa và phụ thuộc thì công nhân và nông dân là những người cách mạng triệt để nhất. Họ giải phóng cho dân tộc chính là giải phóng cho chính bản thân mình. Giai cấp địa chủ, phong kiến đã đầu hàng, làm tay sai cho thực dân, giai cấp tư sản dân tộc thì dao động, dễ thỏa hiệp, “còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không cực khổ bằng công nông, ba hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi”(9).

Những điều mà Hồ Chí Minh nêu trên đã phản ánh một cách đầy đủ, chính xác tình hình của Việt Nam, cũng như nhiều nước thuộc địa khác. Vì vậy, nó là phương hướng cuộc đấu tranh của nhân dân ta để giành độc lập.

Xét cho cùng, “cuộc “dân tộc cách mệnh” cũng thể hiện tính chất giai cấp rõ rệt. Đó là cuộc đấu tranh của đông đảo nhân dân lao động mà “công nông là cái gốc của cách mệnh” nhằm chống lại “cường quyền” tức là chống lại áp bức của tư bản đế quốc”(10). Do đó, cuộc đấu tranh cứu nước theo con đường cách mạng vô sản phù hợp với sự phát triển trong nước và xu thế phát triển chung của thời đại, công cuộc cứu nước và giải phóng dân tộc phải do giai cấp công nhân lãnh đạo và phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Điều này cũng khẳng định rằng cách mạng muốn thắng lợi: “Trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên hệ với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam.

Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”(11).


(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2, sđd, tr. 280.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2, sđd, tr. 461.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 9, sđd, tr. 314.
(4), (5), (6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2, sđd, tr. 264, 265.
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2, sđd, tr. 296.
(8), (9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2, sđd, tr. 296.
(10) Phan Ngọc Liên (chủ biên): Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về một số vấn đề quốc tế, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 69.
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2, sđd, tr. 264, 267-268.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tám, 2011, 08:06:57 am
Thực tế Việt Nam đã chứng minh rằng, với Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân - Đản Cộng sản Việt Nam - cách mạng đã đi đúng con đường đã được lựa chọn và khẳng định. Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là Đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động mà là “Đảng của dân tộc Việt Nam”(1). Trong quá trình lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, Đảng không chỉ thực hiện mục tiêu, lí tưởng của mình, mà còn đáp ứng mọi yêu cầu, quyền lợi của các tầng lớp nhân dân lao động, của cả dân tộc.

Sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân là điều kiện để đảm bảo con đường cách mạng vô sản, phân biệt với mọi con đường cứ nước phi vô sản khác, đảm bảo sự thắng lợi to lớn, triệt để.

Nhận thức của Nguyễn Ái Quốc về sự cần thiết phải có Đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo cuộc đấu tranh cứu nước phù hợp với quy luật phát triển của cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới từ sau Cách mạng tháng Mười Nga. Nó đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân lao động, vốn giầu lòng yêu nước, nhưng thiếu sự lãnh đạo của một giai cấp tiên tiến, thiếu đường lối cách mạng đúng đắn. Vì vậy, trong 10 năm (1920-1930), sau khi xác định con đường cứu nước đúng cho dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đã chuẩn bị mọi điều kiện cho sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam: Truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tổ chức tiền thân của Đảng, đào tạo cán bộ, Sự ra đời của Đảng chứng tỏ sự sáng tạo của Người trong việc kết hợp 3 nhân tố: phong trào yêu nước, phong trào công nhân, chủ nghĩa Mác - Lênin. Nó chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối yêu nước và là một “bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam”(2), mở đường đi tới thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945.

Thứ ba, con đường cứu nước theo cách mạng vô sản đã tập hợp mọi lực lượng của nhân dân trong nước và của các lực lượng tiến bộ trên thế giới, xây dựng được khối đoàn kết trong Mặt trận dân tộc thống nhất và Mặt trận đoàn kết quốc tế.

Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam cũng như nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc phải chống lại sức mạnh của bọn thực dân đế quốc, tuy giữa các nước đế quốc mâu thuẫn với nhau song cũng liên kết để chống lại cách mạng. Chúng lại được bọn tay sai phải động trong nước giúp sức để đàn áp các cuộc đấu tranh của nhân dân.

Sự đoàn kết trong nước trong Mặt trận dân tộc thống nhất, được xây dựng trên cơ sở công nông liên minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân đã tạo nên sức mạnh để chiến thắng kẻ địch. Sự đoàn kết quốc tế tăng thêm sức mạnh trong nước. Từ thực tế của cách mạng Việt Nam và thế giới, Hồ Chí Minh đã rút ra bài học mang tính chất nguyên lí về sự đoàn kết và việc thành công trên con đường cách mạng giải phóng dân tộc:

            “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
            Thành công, thành công, đại thành công”
(3).

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế được thể hiện qua việc thành lập và hoạt động của các hình thức tổ chức Mặt trận dân tộc thống nhất và là một nhân tố quan trọng đưa đến thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945.

Thứ tư, con đường cứu nước, giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, theo cách mạng vô sản là con đường cách mạng không ngừng: từ đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là điểm phân biệt về nguyên tắc giữa con đường cách mạng vô sản với con đường khác. Con đường cứu nước và giải phóng dân tộc theo cách mạng dân chủ tư sản sau khi giành được độc lập sẽ tất yếu dẫn tới sự thống trị của giai cấp tư sản dân tộc. Họ sẽ trở thành giai cấp cầm quyền, thay thế cho bọn tư bản thực dân nước ngoài và phong kiến tay sai trong nước. Dù tiến bộ thế nào đi nữa, giai cấp tư sản dân tộc vẫn bị hạn chế bởi quyền lợi của họ; cho nên mâu thuẫn giữa những kẻ đồng minh cũ trong Mặt trận chống đế quốc, thực dân, giành độc lập dân tộc không tránh khỏi nảy sinh và ngày một gay gắt hơn.

Con đường cách mạng vô sản trong đấu tranh cứu nước và giải phóng dân tộc của của nhân dân Việt Nam không dừng ở việc giành chính quyền, xây dựng nền độc lập dân tộc mà chăm lo đến đời sống tự do, hạnh phúc ngày càng tăng của nhân dân lao động. Cho nên đánh đuổi thực dân, giành độc lập chưa phải kết thúc cách mạng. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng. Cuộc cách mạng ấy đang tiến diễn, nó chưa hoàn thành vì nước ta chưa hoàn toàn độc lập. Nhiệm vụ cứu nước của giai cấp vô sản chưa xong, giai cấp vô sản phải hăng hái kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng ấy. Khẩu hiệu vẫn là Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”(4).

Đặt “vấn đề giải phóng dân tộc lên trên hết” không có nghĩa là dừng cách mạng ở đây, mà chỉ mới thực hiện một nhiệm vụ cơ bản của cách mạng dân tộc dân chủ ở một nước thuộc địa. Sau khi giành được độc lập phải tiến hành xây dựng chế độ mới đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Đó mới là độc lập thực sự, chứ không phải là độc lập giả hiệu. Con đường giải phóng dân tộc theo cách mạng vô sản ở Việt Nam bao giờ cũng gắn độc lập dân tộc với tự do dân chủ và ấm no hạnh phúc cho nhân dân. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công: “Nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lí gì”(5) và “Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi dân được ăn no mặc đủ”(6).


(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 6, sđd, tr. 175.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 10, sđd, tr. 8.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 10, sđd, tr. 607.
(4) Văn kiện Đảng về kháng chiến chống Pháp (1945-1950), tập 1, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1986, tr. 30-31.
(5), (6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, sđd, tr. 56, 152.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tám, 2011, 08:12:26 am
2. Những cao trào cách mạng đưa đến thắng lợi Cách mạng tháng Tám 1945

Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (từ tháng 10.1930 đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương), phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân ta phát triển sâu rộng. Dù bị bọn đế quốc, thực dân Pháp và tay sai đàn áp đẫm máu, song cuộc đấu tranh vẫn duy trì và phát triển, đưa tới thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945.

Trước hết, cao trào 1930-1931, với đỉnh cao Xô Viết Nghệ - Tĩnh, nổ ra ngay sau khi Đảng vừa ra đời. Cuộc bạo động Yên Bái, tháng 2.1930 của Việt Nam Quốc dân Đảng bị thất bại, chấm dứt khuynh hướng cứu nước theo lập trường giai cấp tư sản. Từ đây, phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam đã diễn ra dưới ngọn cờ của cách mạng vô sản.

Cao trào 1930-1931 nổ ra trong khắp nước, với lực lượng đấu tranh to lớn là nông dân, song đã liên minh với giai cấp công nhân dưới sự lãnh đạo của Đảng vô sản. Khẩu hiệu đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ kết hợp chặt chẽ với các khẩu hiệu mang tính chất giai cấp và quốc tế: đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, ủng hộ Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết, ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc thế giới. Như vậy, mục tiêu, nội dung đấu tranh của nhân dân ta so với các phong trào yêu nước trướ kia cũng khác hẳn: Không chỉ chống thực dân Pháp mà cả đế quốc, mở rộng sự đoàn kết với nhân dân bị áp bức thế giới, kết hợp đấu tranh chính trị với kinh tế, diễn ra dưới nhiều hình thức.

Đỉnh cao của phong trào 1930-1931 là Xô viết Nghệ - Tĩnh. Từ tháng 9.1930 đến đầu năm 1931, chính quyền Xô Viết được thành lập và phát huy quyền làm chủ nông thôn của quần chúng nhân dân lao động.

Phong trào cách mạng 1930-1931 nói chung, Xô Viết Nghệ - Tĩnh nói riêng thất bại, bị đàn áp dã man, nhưng bị dập tắt mà vẫn được duy trì để rồi phát triển. Phong trào Xô Viết Nghệ - Tĩnh là “phong trào quần chúng mạnh lớn nhất xưa nay chưa từng có ở nước ta”(1), đã để lại nhiều bài học, kinh nghiệm quý giá cho cách mạng Việt Nam, đặc biệt việc chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám thắng lợi sau này.

Qua phong trào Xô Viết Nghệ - Tĩnh, cách mạng Việt Nam đã khẳng định rằng, để đi tới thắng lợi, cuộc đấu tranh của nhân dân ta phải đảm bảo hai điều kiện quan trọng bậc nhất: có Đảng lãnh đạo và xây dựng được liên minh công nông, làm cơ sở vững chắc cho việc thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Xô viết Nghệ - Tĩnh cũng để lại nhiều bài học quý giá khác mà sau này cao trào đấu tranh giải phóng dân tộc 1940-1945 và cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 đã phát huy cao. Đó là việc xây dựng lực lượng vũ trang, hỗ trợ cho cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân, trong Xô Viết Nghệ - Tĩnh là đội tự vệ mà nòng cốt là đội Tự vệ đỏ. Đây là lực lượng vũ trang cách mạng đầu tiên của Đảng, của nhân dân ta, dẫn tới các đội tự vệ, du kích và Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân sau này. Bài học lớn mà Xô Viết Nghệ - Tĩnh để lại cho Cách mạng tháng Tám 1945 sau này là giành chính quyền và xây dựng chính quyền cách mạng. Đảng ta lãnh đạo nhân dân thực hiện nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về “vấn đề chính quyền là vấn đề cơ bản của cách mạng”.

Sau phong trào cách mạng 1903-31, tình hình trong nước và thế giới có nhiều biến đổi: khủng hoảng kinh tế thế giới với nhiều hậu quả to lớn, chủ nghĩa phát xít nảy sinh và nắm quyền ở một số nước tư bản, nguy cơ chiến tranh thế giới…

Trong điều kiện bị khủng bố ác liệt, Đảng ta vẫn giữ vững được tinh thần, ý chí, tổ chức cách mạng và dần dần khôi phục được hoạt động mạnh mẽ trong cả nước. Sau Đại hội đại biểu Đảng lần thứ nhất (27 - 31.3.1935), Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản (25.7 - 20.8.1935), phong trào cách mạng thế giới chuyển sang một thời kì mới. Đó là phong trào đấu tranh đòi dân sinh dân chủ, chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình (1936-1939). Vận dụng đường lối chống chiến tranh của Quốc tế Cộng sản, ở Việt Nam, Đảng đã lãnh đạo đấu tranh một cách sáng tạo. Mục tiêu cách mạng không thay đổi, song trong hoàn cảnh lịch sử mới, hình thức, nội dung đấu tranh rất phong phú, đa dạng, sáng tạo, thu được nhiều kết quả. Đó là cuộc đấu tranh đòi triệu tập Đại hội Đông Dương, đấu tranh công khai trên mặt trận báo chí, ở nghị trường, đẩy mạnh phong trào truyền bá quốc ngữ, đòi tự do, dân chủ, quyền dân sinh… Hầu hết các cuộc đấu tranh đều có sự liên kết với nhau trên quy mô lớn và huy động được đông đảo các tầng lớp nhân dân, đấu tranh trên nhiều lĩnh vực khác nhau, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ mà vẫn nhằm tới mục tiêu đấu tranh cuối cùng của cách mạng.

Phong trào cách mạng 1936-1939 cũng được xem như “cuộc tổng diễn tập của Cách mạng tháng Tám 1945”; nhiều bài học, kinh nghiệm của thời kì này được vận dụng vào thời kì cách mạng sau đó. Trước hết là việc thanh lập Mặt trận dân tộc thống nhất với những hình thức tổ chức sinh động, phù hợp với trình độ, yêu cầu của mỗi giai cấp, tầng lớp nhân dân; tập hợp, đoàn kết chung quanh Đảng. Sự hợp đồng các “binh chủng” trong cuộc đấu tranh cách mạng trên mọi lĩnh vực với các hình thức hợp pháp và nửa hợp pháp đã tạo nên được sức mạnh to lớn, khiến kẻ thù phải hoảng sợ. Thắng lợi của cuộc đấu tranh thời kì 1936-1939 với cao trào Mặt trận dân chủ đã tạo ra lực lượng mới, mở rộng trận địa đấu tranh cho cao trào cứu nước 1940-1945, đưa tới cuộc Tổng khởi nghĩa thắng lợi tháng 8.1945.

Tháng 9.1939, Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, ảnh hưởng mạnh mẽ, trực tiếp đến Việt Nam. Thực dân Pháp xóa bỏ mọi quyền tự do, dân chủ mà nhân dân ta đã giành được trong thời kì Mặt trận dân chủ. Chúng tiến hành đàn áp rất dã man, hòng thủ tiêu phong trào cách mạng do Đảng lãnh đạo.

Trước tình thế ấy, Đảng ta chủ động, tích cực chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, rút vào hoạt động bí mật, chuyển trọng tâm công tác về nông thôn. Hội nghị lần thứ VI của Trung ương Đảng (tháng 11.1930) đã nêu rõ, lúc này “giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Đông Dương”, chủ trương tạm gác khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của giai cấp địa chủ, chỉ đề ra việc đấu tranh chống tô cao, cho vay nặng lãi và tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ phản bội quyền lợi của dân tộc chia cho dân cày; thay khẩu hiệu lập Chính phủ Cộng hòa dân chủ và thành lập Mặt trận dân tộc phản đế Đông Dương”(2).

Như vậy, việc chuyển hướng chủ đạo chiến lược không có nghĩa là Đảng từ bỏ mục tiêu chiến lược mà chỉ thay đổi hình thức đấu tranh, thay đổi những mục tiêu trước mắt không phù hợp với tình hình hiện tại để tiến hành cuộc cách mạng với các mục tiêu, hình thức phù hợp. Ở bất cứ thời kì cách mạng nào, về cơ bản, Đảng vẫn tuân theo đường lối chung mà Cương lĩnh đầu tiên của Đảng (Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt…) đã xác định. Vì vậy, những bài học khởi nghĩa của thời kì cách mạng 1930-1931, 1936-1939 được vận dụng một cách sáng tạo, có hiệu quả vào thời kì mới. Trong lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc ở thời kì này, Đảng luôn luôn hướng tới cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

Từ cao trào cách mạng 1930-1931, trải qua phong trào Mặt trận dân chủ nhân dân (1936-1939), tuy các cuộc đấu tranh chống Pháp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam lần lượt thất bại, song xét về thực chất, chúng ta nhận thấy phong trào vẫn tiếp tục phát triển, chuẩn bị mọi điều kiện cho cuộc Tổng khởi nghĩa khi thời cơ đến. Vì vậy, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VII (tháng 11.1940) nhấn mạnh hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến là “hai bộ phận khăng khít” của cách mạng Đông Dương.


(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 10, sđd, tr. 8.
(2) Văn kiện Đảng 1930-1945, tập 3, Nhà xuất bản Sự thật Hà Nội, 1963, tr. 58.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tám, 2011, 08:18:08 am
Trong quá trình chuẩn bị cho thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945, sự đóng góp của Hồ Chí Minh rất to lớn. Đây là công lao của Người đối với dân tộc tiếp sau việc sác định con đường cứu nước đúng và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Có thể nói rằng, việc Đảng trở lại quan điểm tư tưởng của Hồ Chí Minh từ sau khi Người về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam là điều kiện quan trọng để Đảng tiến hành cuộc đấu tranh, chuẩn bị cho nhân dân ta vùng lên Tổng khởi nghĩa thắng lợi, giành lấy chính quyền.

Ngày 28.1.1941, Nguyễn Ái Quốc cùng một số đồng chí bí mật về nước. Ngày 8.2, Người ở hang Cốc Bó (thuộc địa phận làng Pác Bó). Từ ngày 10 đến 19.5.1941, Người chủ trì Hội nghị lần thứ VIII của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tại Pác Bó. Hội nghị đã khẳng định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng là giải phóng dân tộc, bởi vì “trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”(1). Nghị quyết này hoàn toàn đúng, nó không chỉ phản ánh được tình hình, nhiệm vụ cách mạng trước mắt mà còn giữ vững đường lối chung của cách mạng về giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, mà Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định và các văn kiện thành lập Đảng đã thông qua.

Thực hiện đường lối đoàn kết dân tộc với việc thành lập Mặt trận dân tộc mà thời kì trước đó đã tiến hành với nội dung hình thức thích hợp, Hồ Chí Minh đã đóng góp lớn vào việc quyết định và thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) thay cho “Mặt trận dân tộc thống nhất Phản đế Đông Dương”, nhằm đoàn kết và phát huy sức mạnh của các tầng lớp nhân dân, đánh đuổi Pháp, Nhật.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ VIII và lời Kính cáo đồng bào của Nguyễn Ái Quốc, ngày 6.6.1941, đã làm dấy lên phong trào cách mạng trong cả nước. Mọi người ra sức thực hiện Nghị quyết của Đảng và lời kêu gọi của Người: “Trong lúc này, quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy, chúng ta phải đoàn kết lại đánh đuổi bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi cảnh “nước sôi, lửa bỏng”…

Giờ giải phóng đã đến. Hãy phất cao cờ độc lập, lãnh đạo toàn dân đánh tan thù chung. Tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc đương vang dội bên tai các đồng chí! Máu nóng các bậc anh hùng đương sục sôi trong lòng các đồng chí! Chí phấn đấu của quốc dân đương chờ đợi sự lãnh đạo của các đồng chí!”(2).

Bài học về xây dựng lực lượng vũ trang của các thời kì trước, cũng được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, người cha của quân đội nhân dân Việt Nam, coi trọng. Tháng 10.1941, sau hơn 1 năm bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt và đày đọa ở 30 nhà giam thuộc 13 huyện của Quảng Tây, vì bị nghi ngờ là gián điệp, Hồ Chí Minh trở về nước, đề ra chủ trương lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân (ngày 22.12.1944). Đây là chủ trương đúng để chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang. “Tuy lúc đầu quy mô của nó còn nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam”(3). Chủ trương và lời dự đoán của Hồ Chí Minh đã được thực tế chứng minh. Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân là tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam, được nhân dân ủng hộ mọi mặt, đã lập nhiều chiến công lẫy lừng trong Cách mạng tháng Tám 1945, trong 30 năm (1945-1975) kháng chiến chống thực dân Pháp rồi đế quốc Mĩ và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ngày nay.

Việc xây dựng căn cứ địa cách mạng, rồi vùng giải phóng Việt Bắc là một cơ sở quan trọng để bảo vệ và phát triển lực lượng cách mạng, chuẩn bị mọi điều kiện cho việc Tổng khởi nghĩa trong cả nước. Trong các vùng giải phóng, Mặt trận Việt Minh thực hiện chức năng của một tổ chức chính quyền cơ sở, tổ chức, quản lí mọi mặt của đời sống nhân dân. Có thể xem thời gian ngay trước khi Cách mạng tháng Tám 1945 nổ ra, ở Việt Bắc và một vài căn cứ địa cách mạng ở Thanh Hóa, Quảng Ngãi, tình thế “hai chính quyền song song tồn tại đã xuất hiện”, ngày càng rõ nét, báo hiệu cho sự sụp đổ của chính quyền địch và sự thành lập, xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng trong cả nước. Ở vùng giải phóng Việt Bắc trước Cách mạng tháng Tám, các tổ chức cứu quốc của quần chúng, các đội tự vệ, việc tiến hành xóa nạn mù chữ, xây dựng đời sống mới được thực hiện.

Từ đầu tháng 5.1945, sau khi phát xít Đức đầu hàng Đồng minh không điều kiện, Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn cuối, quân phiệt Nhật đã lần lượt thất bại ở nhiều nơi. Thời cơ cách mạng đã hình thành. Trong Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa (tháng 8.1945), Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta.

Nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới đang ganh nhau tiến bước giành quyền độc lập. Chúng ta không thể chậm trễ.

Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!”(4).

Hồ Chí Minh kêu gọi chuẩn bị Tổng khởi nghĩa khi thời cơ cách mạng đến. Điều này chứng tỏ Người đã thực hiện lời chỉ dẫn của Mác và Lênin. Mác đã nêu rõ: “nghệ thuật lãnh đạo của một đảng cách mạng là nắm đúng được thời cơ”; Lênin nhấn mạnh thêm: khi không có thời cơ mà đã hành động thì là phiêu lưu mạo hiểm, nhất định sẽ thất bại; thời cơ đã đến mà không đấu tranh là hèn nhát, phản bội. Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo nguyên lí này trong việc lãnh đạo công cuộc giải phóng dân tộc ở Việt Nam.

Tháng 10.1944, khi thoát khỏi cảnh lao tù Tưởng Giới Thạch trở về Pác Bó, Hồ Chí Minh nghe báo cáo về phong trào cách mạng Cao - Bắc - Lạng và chủ trương phát động chiến tranh du kích tiến tới khởi nghĩa vũ trang. Người đã quyết định hoãn việc thực hiện chủ trương này, vì điều kiện chưa chín muồi, thời cơ chưa đến với cả nước. Người nhấn mạnh không thể chỉ căn cứ vào tình hình một địa phương mà không thấy cục diện của cả nước. Nếu Cao - Bắc - Lạng khởi nghĩa mà các nơi khác chưa có điều kiện hưởng ứng thì cách mạng sẽ thất bại và tổn thất nặng nề. Phân tích tình hình chung, Người nêu rõ: “Bây giờ thời kì cách mạng hòa bình phát triển đã qua, nhưng thời kì toàn dân khởi nghĩa chưa tới. Nếu bây giờ chúng ta vẫn chỉ hoạt động bằng hình thức chính trị thì không đủ để đẩy mạnh phong trào đi tới. Nhưng phát động vũ trang kinh nghiệm ngay thì quân địch sẽ tập trung đối phó. Cuộc đấu tranh bây giờ phải từ hình thức chính trị tiến lên hình thức quân sự. Song hiện nay chính trị còn trọng hơn quân sự. Phải tìm ra một hình thức thích hợp thì mới đẩy phong trào tiến lên”(5). Theo chỉ thị của Hồ Chí Minh, ngày 22.12.1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập.


(1) Văn kiện Đảng 1930-1945, Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương, Hà Nội, 1977, tập III, tr. 196
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 3, sđd, tr. 198.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 3, sđd, tr. 508.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 3, sđd, tr. 554.
(5) Võ Nguyên Giáp: Những chặng đường lịch sử. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 123.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tám, 2011, 08:21:48 am
3. Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945

Bước sang năm 1945, tình hình thế giới và trong nước có nhiều thay đổi to lớn. Quân đội phát xít bị quân Đồng minh, đặc biệt là Hồng quân Liên Xô đánh bại trên khắp chiến trường. Phát xít Đức, Italia lần lượt đầu hàng Đồng minh không điều kiện. Nhiều nước ở Trung, Đông Âu, được sự giúp đỡ của Hồng quân Liên Xô, lực lượng kháng chiến do những người Cộng sản lãnh đạo đã giải phóng đất nước, thành lập các nước dân chủ nhân dân.

Sau khi phát xít Đức đầu hàng (9.5.1945), quân Đồng minh tiến hành phản công trên mặt trận Châu Á - Thái Bình Dương. Ngày 8.8.1945, Liên Xô tuyên chiến với Nhật Bản. Ngày 6.8, Mĩ ném quả bom nguyên tử xuống thành phố Hirôsima; ngày 9.8, Mĩ ném quả bom nguyên tử thứ hai xuống thành phố Nagaxaki, làm chết hàng chục vạn dân thường; cũng trong ngày, với một lực lượng hùng hậu, Hồng quân Liên Xô mở cuộc tổng công kích vào đạo quân Quan Đông của Nhật ở Đông Bắc Trung Quốc. Ngày 14.8.1945, Nhật Bản tuyên bố đầu hàng trên các làn sóng phát thanh.

Sự đầu hàng của chính phủ Nhật đã đẩy quân Nhật đang chiếm đóng ở Đông Dương vào tình thế tuyệt vọng như rắn mất đầu, hoang mang dao động đến cực độ. Chính phủ Trần Trọng Kim rệu rã. Tin Nhật đầu hàng đã nhanh chóng lan truyền trong nhân dân. Khắp nơi trên đất nước ta, Việt Minh tổ chức những cuộc mít tinh, biểu tình thị uy vũ trang, có tới hàn nghìn quân tham gia. Hàng triệu quần chúng sẵn sàng đứng lên giành chính quyền. Các tầng lớp trung gian đã ngả hẳn về phía cách mạng. Nhiều lính trong quân đội phát xít và lính bảo an, cảnh sát, các công chức trong chính quyền bù nhìn ủng hộ Việt Minh giành độc lập. Thời cơ để nhân dân ta giành chính quyền đã tới.

Trước tình hình như vậy, Hồ Chí Minh (mặc dù đang ốm nặng) đã sáng suốt nhận thức rằng: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hi sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”(1). Như đã nói, đây không chỉ là sự nhận thức khách quan khoa học mà còn biểu hiện quyết tâm đấu tranh giành chính quyền khi thời cơ đã có. Sự kết hợp giữa tình hình khách quan và nhận thức chủ quan một chác chính xác là một trong những điều kiện đưa cách mạng đến thắng lợi.

Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi to lớn, cách mạng cũng đứng trước những khó khăn không nhỏ. Mặc dù chính phủ Nhật đã đầu hàng Đồng minh nhưng mãi đến 21.8 quân Nhật ở Đông Dương mới được lệnh ngừng bắn. Vì thế quân Nhật ở Hà Nội vẫn đi tuần, canh gác nghiêm ngặt. Ngay 16.8, Nhật tuyên bố trao trả Nam Kỳ cho chính phủ bù nhìn vào ngày 18.8, bày trò “trao trả độc lập cho Việt Nam”. Các tổ chức phản động cũng tìm cách phá phong trào cách mạng của nhân dân ta.

Trong khi đó các nước lớn như Mĩ, Anh, Pháp, Trung Hoa Quốc dân Đảng cũng có mưu đồ riêng đối với Đông Dương. Chính phủ Trùng Khánh của Tưởng Giới Thạch ráo riết chuẩn bị “Hoa quân nhập Việt” và ngày 9.8.1945 đã ra thông báo sẽ đưa quân vào giải giáp quân đội Nhật ở Bắc Đông dương theo thỏa thuận giữa các nước Đồng minh chống phát xít.

Từ tháng 5.1945, thực dân Pháp đẩy mạnh việc thành lập đạo quân viễn chinh của Pháp ở Đông Dương, tăng cường hoạt động ngoại giao để Anh, Mĩ thừa nhận quyền trở lại Đông Dương của Pháp.

Các đảng phái phản động lưu vong ở Trung Quốc như Việt Nam Quốc dân Đảng, Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội cũng chuẩn bị núp bóng quân đội Tưởng về nước cướp chính quyền.

Trước những chuyển biến mau lẹ của tình hình thế giới và trong nước, ngày 12.8.1945, Ủy ban chỉ huy lâm thời khu giải phóng ra lệnh khởi nghĩa. Ngày 13.8, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh đã thành lập Ủy an khởi nghĩa toàn quốc. Ủy ban gồm 5 người: Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Lê Thanh Nghị, Trần Đăng Ninh, Chu Văn Tấn. Tổng bí thư Trường Chinh trực tiếp phụ trách Ủy ban. Vào 23 giờ cùng ngày, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc đã ban bố Quân lệnh số 1, chính thức phát lệnh khởi nghĩa toàn quốc.

“Giờ Tổng khởi nghĩa đã đánh!

Cơ hội có một cho quân dân Việt Nam vùng dậy giành lấy quyền độc lập của nước nhà!

Chúng ta phải hành động cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng”.

Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về ta”(2).


(1) Dẫn theo Võ Nguyên Giáp: Những chặng đường lịch sử, sđd, tr. 196.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, sđd, tr. 421-422.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tám, 2011, 08:24:47 am
Ngày 14 và 15.8.1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản Đông Dương họp tại Tân Trào (Sơn Dương, Tuyên Quang). Tham dự Hội nghị có các đại biểu các Đảng bộ địa phương, đại biểu của khu giải phóng và các chiến khu.

Hội nghị nhận định:

“…

2. Nhân dân Đông Dương cực khổ căm tức, cách mạng hóa; đến tất cả một phần quan lại cũng ngả về phe cách mạng.



4. Nhật đổ, hàng ngũ chỉ huy của chúng ở Đông Dương chia rẽ đến cực điểm; quân lính Nhật tan rã, mất tinh thần; bọn Việt gian thân Nhật hoảng sợ.



6. Toàn dân tộc đang sôi nổi đợi chờ khởi nghĩa, giành quyền độc lập.

7. Những điều kiện khởi nghĩa như đã chín muồi”(1).

Hội nghị quyết định phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền trước khi quân Anh, quân Trung Hoa Quốc dân Đảng vào Đông Dương tước khí giới quân Nhật và khi thực dân Pháp chưa kịp tập hợp tàn quân, điều lực lượng vào xâm lược nước ta một lần nữa. Hội nghị đề ra 3 nguyên tắc để chỉ đạo khởi nghĩa là tập trung, thống nhất, kịp thời và nêu phương châm hành động trong khởi nghĩa là phải đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng không kể thành thị hay nông thôn, phải phối hợp chặt chẽ chính trị và quân sự, phải thành lập chính quyền cách mạng ở nhưng nơi đã giành quyền làm chủ.

Hội nghị quyết định chính sách đối nội, đối ngoại sau khi giành chính quyền. Về đối nội thi hành 10 chính sách của Việt Minh. Về đối ngoại, chính sách ngoại giao dựa theo nguyên tắc “thêm bạn, bớt thù”, đảm bảo giành và giữ nền độc lập; phải tránh trường hợp một mình đối phó với nhiều lực lượng Đồng minh (Trung Quốc, Pháp, Anh, Mĩ) tràn vào nước ta… triệt để lợi dụng mâu thuẫn giữa hai khối nước lớn Anh - Pháp và Mĩ - Tưởng…, hết sức tránh trường hợp một mình đối phó với nhiều kẻ địch trong cùng một lúc; tranh thủ sự đồng tình của Liên Xô, của nhân dân Pháp, nhân dân Trung Quốc và cả loài người tiến bộ.

Trong khi đề cao việc tranh thủ Đồng minh, Hội nghị nhấn mạnh khâu mấu chốt giành thắng lợi của cách mạng là “Dù sao chỉ có thực lực của ta mới quyết định được thắng lợi giữa ta và Đồng minh”(2).

Hội nghị toàn quốc của Đảng vừa kết thúc, Đại hội Quốc dân cũng được tiến hành tại Tân Trào (Tuyên Quang) vào ngày 16 và 17.8.1945. Hơn 60 đại biểu ở Bắc, Trung, Nam; đại biểu kiều bào ở nước ngoài, đại biểu các đảng phái, các đoàn thể, tôn giáo đã sự Đại hội. Đại hội tán thành và ủng hộ chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính sách của Mặt trận Việt Minh. Đại hội quyết định thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam, do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch; quyết định lấy lá cờ đỏ sao vàng năm cánh làm Quốc kì, lấy bài hát Tiến quân ca làm Quốc ca.

Sáng ngày 17.8, Ủy ban giải phóng dân tộc ra mắt quốc dân tại đình Tân Trào. Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Ủy ban giải phóng dân tộc đọc lời tuyên thệ.

Đại hội Quốc dân bế mạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta.

Nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới đang ganh nhau tiến bước giành quyền độc lập. Chúng ta không thể chậm trễ.

Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên”(3).

Lệnh Tổng khởi nghĩa của Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc và Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh được chuyển đến các tổ chức Đảng và Việt Minh, chiến sĩ và đồng bào.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, sđd, tr. 424.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, sđd, tr. 427.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 3, sđd, tr. 554.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tám, 2011, 08:26:29 am
Tuy nhiên, do tình hình phức tạp lúc bấy giờ và những khó khăn về giao thông, thông tin, liên lạc, lệnh Tổng khởi nghĩa của Trung ương đến một số nơi bị chậm hoặc không đến được. Nhưng ở những nơi ấy, tổ chức Đảng và Việt Minh, do thấm nhuần các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương trước đó, nhất là chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, đã căn cứ vào tình hình thực tế ở địa phương, kịp thời phát động quần chúng khởi nghĩa.

Từ ngày 14.8, các xã huyện vùng nông thôn của hầu hết các tỉnh ở châu tổ sông Hồng, cả tỉnh ở Trung Kỳ đã lần lượt nổi dậy giành chính quyền.

Ngày 14.8, nhân dân Quảng Ngãi khởi nghĩa thắng lợi ở hầu hết các địa bàn trong tỉnh, nhưng Ủy ban nhân dân cách mạng tỉnh mãi đến cuối tháng mới ra mắt.

Ngày 16.8, một đơn vị Giải phóng quân tiến công ở thị xã Thái Nguyên.

Ngày 17.8, một số vùng ngoại ô Hà Nội đã khởi nghĩa thắng lợi.

Ngày 18.8, các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam khởi nghĩa thành công ở tỉnh lị.

Ở Hà Nội, Xứ ủy Bắc Kỳ phân công một số ủy viên trực tiếp lãnh đạo khởi nghĩa. Theo nghị quyết cuộc họp ngày 15.8.1945, Ủy ban quân sự cách mạng Hà Nội (tức Ủy ban khởi nghĩa Hà Nội) được thành lập ngày 16.8.

Được biết Tổng hội viên chức sẽ tổ chức một cuộc mít tinh lớn vào chiều ngày 17.8 tại Nhà hát Lớn để ủng hộ Chính phủ bù nhìn, Đảng bộ và Ủy ban khởi nghĩa quyết định biến cuộc mít tinh đó thành cuộc mít tinh của quần chúng ủng hộ cách mạng.

Chiều 17.8, đông đảo các tổ chức cứu quốc ở nội, ngoại thành, cùng tự vệ chiến đấu, tuyên truyền xung phong được huy động đến Quảng trường Nhà hát Thành phố. Cuộc mít tinh bắt đầu, đại biểu Việt Minh chiếm diễn đàn, diễn thuyết kêu gọi nhân dân khởi nghĩa. Hàng vạn quần chúng hưởng ứng lời kêu gọi của Việt Minh. Nhiều lính bảo an, cảnh sát ngả theo cách mạng.

Sau đó, cuộc mít tinh biến thành cuộc biểu tình tuần hành của quần chúng, diễn ra qua các đường phố chính của Hà Nội. Quần chúng biểu tình hô vang khẩu hiệu “Đả đảo bù nhìn”, “Ủng hộ Việt Minh”, “Việt Nam hoàn toàn độc lập”.

Qua cuộc biểu dương lực lượng ngày 17.8, Thành ủy Hà Nội có đủ cơ sở để đi đến quyết định khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền ở Hà Nội vào ngày 19.8.1945.

Ngày 18.8, cờ đỏ sao vàng được treo trên một số đường phố Hà Nội.

Sáng ngày 19.8, hàng chục vạn quần chúng cách mạng nội và ngoại thành mang theo gậy, dao, mã tấu… rầm rập tiến về Quảng trường Nhà hát Thành phố tham dự cuộc mít tinh do Việt Minh tổ chức. Cuộc mít tinh bắt đầu lúc 11 giờ.

Sau loạt súng chào cờ và bài Tiến quân ca vang lên, đại biểu Ủy ban quân sự cách mạng đọc lời hiệu triệu khởi nghĩa của Việt Minh. Cuộc mít tinh nhanh chóng chuyển thành cuộc biểu tình tuần hành vũ trang. Quần chúng biểu tình chia thành nhiều đoàn tiến về các ngả đường, chiếm các cơ quan của chính quyền bù nhìn như Phủ Khâm sai, Tòa Thị chính, Sở Cảnh sát, Trại Bảo an binh… Quân Nhật án binh bất động, binh lính và cảnh sát ngụy cũng bất lực. Chính quyền hoàn toàn về tay nhân dân.

Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội đã cổ vũ mạnh mẽ nhân dân cả nước gấp rút nổi dậy giành chính quyền. Cùng ngày khởi nghĩa với Hà Nội và giành được chính quyền là các tỉnh: Thái Bình, Khánh Hòa. Sau đó, ngày 20.8: Thái Nguyên, Yên Bái, Bắc Ninh, Sơn Tây, Ninh Bình, Thanh Hóa; ngày 21.8: Bắc Kạn, Tuyên Quang, Phúc Yên, Nam Định, Nghệ An, Ninh Thuận; ngày 22.8: Cao Bằng, Kiến An, Hưng Yên, Tân An, Hải Phòng, vv.

Ngày 23.8, nhân dân Thừa Thiên - Huế nổi dậy gianh chính quyền. Huế là nơi đóng đô của triều đình phong kiến nhà Nguyễn, là một trung tâm chính trị của đất nước. Vì vậy, Huế có vị trí rất quan trọng trong cuộc Tổng khởi nghĩa của cả nước. Ngày 20.8, Ủy ban khởi nghĩa tỉnh được thành lập. Sáng ngày 23.8, kinh đô Huế tràn ngập cờ đỏ sao vàng. Khoảng 15 vạn nhân dân Huế và các phủ, huyện ngoại thành biểu tình chật ních các ngả đường, các khu phố. Đoàn người chiếm các cơ sở của chính quyền địch, kéo đến trung tâm sân vận động thành phố dự mít tinh. Tại đây, ủy ban Việt Minh và Ủy ban khởi nghĩa tỉnh tuyên bố xóa bỏ chính quyền bù nhìn, lập chính quyền cách mạng. Hồi 16 giờ ngày 30.8, hàng vạn nhân dân Huế tập trung ở Ngọ Môn chứng kiến sự kiện vua Bảo Đại thoái vị. Đại diện Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa nhận ấn, kiếm do Bảo Đại trao và tuyên bố xóa bỏ chế độ quân chủ trên đất nước ta, công bố chính sách của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Khởi nghĩa thắng lợi ở Huế đã động viên cổ vũ, tạo thêm sức mạnh tinh thần cho nhân dân các tỉnh Nam Trung Kỳ và Nam Kỳ vùng lên.

Cùng ngày khởi nghĩa với Thừa Thiên - Huế, một số tỉnh khác cũng khởi nghĩa giành chính quyền, như Hà Đông, Hòa Bình, Quảng Bình, Quảng Trị, Bình Định, Lâm Viên, Bạc Liêu, Gia Lai.

Ngày 24.8, nhân dân các tỉnh Hà Nam, Phú Yên, Đắk Lắk, Gò Công, Quảng Yên đã khởi nghĩa giành chính quyền.

Ngày 25.8, khởi nghĩa thành công ở Lạng Sơn, Sơn La, Phú Thọ, Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định, Bà Rịa, Trà Vinh, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Bến Tre, Bình Thuận, Thủ Dầu Một, Sa Đéc, Mỹ Tho, Tây Ninh, Long Xuyên.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tám, 2011, 08:30:28 am
Sài Gòn là một trong ba địa bàn chiến lược quan trọng bậc nhất của cả nước, là thủ phủ của Nam Kỳ thuộc Pháp, là nơi đặt đại bản doanh của quân Nhật đóng trên toàn bộ Đông Nam Á. Rạng sáng ngày 25.8, các đường phố Sài Gòn tràn ngập biển cờ, biểu ngữ. Tiếng hô khẩu hiệu quyết tâm bảo vệ nền độc lập tư do vang dội trong thành phố. Cuộc biểu tình tuần hành của quần chúng biểu dương lực lượng, bắt đầu từ nhà thờ Đức Bà, qua các đường phố Catina, Bengichcơ, Kitsơnê, Bôna rồi hội tụ trước dinh Đốc lí thành phố (vừa chuyển thành trụ sở Ủy ban hành chính lâm thời Nam Bộ). Từ trên bao lơn thị sảnh, đại diện Việt Minh Nam Bộ đọc danh sách Ủy ban hành chính lâm thời Nam Bộ. Tiếp đó, đại diện Xứ ủy Nam Kỳ đọc lời kêu gọi nhân dân ủng hộ, bảo vệ cách mạng. Đại diện Tổng công đoàn Nam Bộ đọc lời hứa của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, cùng toàn thể nông dân quyết giữ chính quyền cách mạng. Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Sài Gòn kết thúc bằng cuộc tuần hành khổng lồ chưa từng thấy.

Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Sài Gòn làm rung chuyển cả vùng nông thôn Nam Bộ, cổ vũ nhân dân Nam Bộ vùng lên khởi nghĩa thắng lợi. Ngày 26.8: Cần Thơ, Châu Đốc, Biên Hòa; ngày 27.8: Rạch Giá; ngày 28.8: Đồng Nai Thượng, Hà Tiên.

Ở Côn Đảo, khi nhận được tin Tổng khởi nghĩa trong cả nước, Đảng bộ nhà tù Côn Đảo lãnh đạo các chiến sĩ cách mạng bị giam cầm nổi dậy giành chính quyền, làm chủ toàn đảo. Giữa tháng 9.1945, các chiến sĩ cách mạng được đưa về đất liền, tăng cường cho các Đảng bộ Miền Nam.

Một số thị xã do lực lượng Trung Hoa Quốc dân Đảng và tay sai chiếm giữ từ trước như Hải Ninh (nay thuộc Quảng Ninh), Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Vĩnh Yên vẫn chưa được giải phóng (sau khi Hiệp định sơ bộ 6.3.1946 được kí kết, quân Trung Hoa Quốc dân Đảng mới trao trả cho ta). Như vậy, cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền do Đảng ta lãnh đạo đã thắng lợi trên cả nước trong vòng nửa tháng, từ 14.8 đến 28.8.1945.

Trong khi Tổng khởi nghĩa diễn ra sôi nổi trên cả nước, ngày 25.8.1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Tân Trào (Tuyên Quang) đã về tới Hà Nội.

Theo đề nghị của Người, Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam do Đại hội Quốc dân ở Tân Trào cử ra được cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhằm đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, các đảng phái yêu nước và những chí sĩ tiến bộ, nhiều ủy viên thuộc Mặt trận Việt Minh trong Chính phủ lâm thời tự nguyện nhường chỗ cho các nhân sĩ yêu nước ngoài Việt Minh.

Ngày 28.8 trên gác hai số nhà 48, phố Hàng Khay, Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo Tuyên ngôn Độc lập.

Hồi 2 giờ chiều ngày 2.9.1946, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), trước cuộc mít tinh lớn của hàng vạn nhân dân Thủ đô và các vùng lân cận, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời tuyên bố với toàn thể quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thành lập.

Bản Tuyên ngôn Độc lập mở đầu bằng những “lời bất hủ” trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mĩ và bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791. Sự viện dẫn này nhằm khẳng định một chân lí trong sự phát triển xã hội loài người, “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”. Tuyên ngôn Độc lập nêu lên tội ác của thực dân Pháp trong hơn 80 năm thống trị đã “lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta”(1)… thể hiện trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.

Bản Tuyên ngôn Độc lập cũng nêu rõ khi Nhật vào Đông Dương, chỉ trong vòng 5 năm thực dân Pháp đã 2 lần bán nước ta cho Nhật.

Nhân dân Việt Nam đã đứng dậy đánh đổ xiềng xích thực dân gần 100 năm, chế độ quân chủ từng tồn tại mấy mươi thế kỉ, giành độc lập và lập nên chế độ dân chủ cộng hòa.

Cuối bản Tuyên ngôn, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trịnh trọng tuyên bố nước Việt Nam được tự do, độc lập và ý chí quyết tâm của nhân dân Việt Nam quyết giữ vững tự do và độc lập ấy: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”(2).

Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, toàn thể thành viên trong Chính phủ lâm thời làm lễ tuyên thệ trước Quốc kì.

Tiếp đó, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp trình bày về tình hình trong nước và những chính sách của Chính phủ; Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền Trần Huy Liệu báo cáo về việc Đoàn đại biểu Chính phủ đi dự lễ thoái vị của vua Bảo Đại tại Huế. Đại biểu Tổng bộ Việt Minh Nguyễn Lương Bằng nói về cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của Việt Minh và hô hào nhân dân đoàn kết ủng hộ Chính phủ.

Tới 3 giờ chiều, toàn thể quốc dân tuyên thệ một lòng ủng hộ Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo.

Ngày 2.9.1945 trở thành mốc lịch sử trọng đại của đất nước, là ngày hội lớn nhất của toàn thể dân tộc Việt Nam.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, sđd, tr. 391, tr. 434.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, sđd, tr. 391, 437.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tám, 2011, 08:35:55 am
III. Ý NGHĨA LỊCH SỬ VÀ NGUYÊN NHÂN THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945. NHỮNG BÀI HỌC LỊCH SỬ.

Cách mạng tháng Tám 1945 là một sự kiện trọng đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám không chỉ có ý nghĩa với dân tộc mà còn có ý nghĩa quốc tế và sống mãi trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.

1. Ý nghĩa lịch sử và tầm vóc Cách mạng tháng Tám 1945

Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 ở Việt Nam không chỉ có ý nghĩa trong nước mà còn có ý nghĩa quốc tế. Bởi vì, bất cứ sự kiện lịch sử nào, nhất là trong thời đại ngày nay, không thể không chịu ảnh hưởng của tình hình thế giới, của các dân tộc khác và tác động trở lại đối với thế giới. Sự tác động lẫn nhau giữa các quốc gia, các cộng đồng người mang tính quy luật trong lịch sử giữa các nước, các dân tộc thường xuyên xảy ra, ngày càng mạnh mẽ khi mà xu hướng thế giới hóa, toàn cầu hóa ngày càng tăng.

Cách mạng tháng Tám là một sự kiện tiêu biểu như vậy. Nhà sử học Na Uy Stein Tonnesson đã nhận định đúng rằng: Cách mạng Việt Nam quan trọng vì không phải đơn thuần xảy ra trong bối cảnh Việt Nam. Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 của Việt Nam nằm trong những nguồn cảm hứng chủ yếu về một đường lối đấu tranh lớn khác sau chiến tranh - quá trình phi thực dân hóa. Trong các cuộc cách mạng cộng sản, cuộc cách mạng của người Việt Nam có sức sống và làm đảo lộn nhiều nhất”(1).

Thành công của Cách mạng tháng Tám 1945 ở Việt Nam là kết quả cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đứng đầu là Hồ Chí Minh. Nó diễn ra đúng với xu hướng phát triển, hợp quy luật của lịch sử. Chính vì vậy, cuộc Cách mạng tháng Tám có ý nghĩa lịch sử thực sự to lớn đối với trong nước và quốc tế.

Ý nghĩa trong nước của Cách mạng tháng Tám được thể hiện ở chỗ: thắng lợi của nó “… mở ra một bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc ta, một cuộc đổi mới chưa từng có đối với mỗi người Việt Nam”(2). Điều này được lịch sử Việt Nam 60 năm qua xác nhận.

Cách mạng tháng Tám đã lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp đè nặng trên đất nước Việt Nam trên 80 năm, ách thống trị của phát xít Nhật gần 5 năm, lật nhào ngai vàng phong kiến ngự trị trên đất nước ta ngót chục thế kỉ.

Với thắng lợi ủa Cách mạng tháng Tám, lần đầu tiên một nhà nước mới đã được xây dựng ở nước ta - nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhà nước của dân, do dân, vì dân. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người chủ đất nước, chủ vận mệnh dân tộc.

Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám mở ra một kỉ nguyên mới của dân tộc. Kỉ nguyên độc lập tự do gắn với chủ nghĩa xã hội.

Ý nghĩa quốc tế và tầm vóc của Cách mạng tháng Tám 1945 cũng rất to lớn.

Trong gần 5 năm đấu tranh chống phát xít Nhật chiếm đóng, khi thờ cơ đến dân ta nổi dậy “lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật”. Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, nhân dân ta đã góp phần cùng nhân dân thế giới đánh bại chủ nghĩa phát xít, mang lại hòa bình cho nhân loại.

Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đã giáng đòn mạnh mẽ vào chủ nghĩa thực dân cũ trên toàn thế giới.

Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám là thắng lợi đầu tiên trong thời đại mới của một dân tộc nhược tiến đã tự giải phóng khỏi ách thống đế quốc thực dân. Thắng lợi đõ đã cổ vũ mạnh mẽ tinh thần đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc trên thế giới, đặc biệt là đối với hai nước Campuchia và Lào. Đó là thắng lợi đầu tiên của đảng vô sản ở nước thuộc địa đã giành được chính quyền cách mạng trong cả nước.

Hồ Chí Minh nói: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bác nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.

Một cách khái quát, ý nghĩa trong nước và quốc tế của Cách mạng tháng Tám 1945 thể hiện ở chỗ; Cách mạng tháng Tám 1945 là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài của nhân dân Việt Nam, nhất là từ khi theo con đường mà Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 đã vạch ra. Nó có tầm vóc quốc tế, bời vì nó không rập khuôn mà vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm, bài học của Cách mạng tháng Mười, góp phần vào sự thắng lợi của thời đại, được mở đầu bằng Cách mạng tháng Mười.

Quá trình từ lúc xác định con đường cứu nước mới, đúng đến Cách mạng tháng Tám 1945, phải trải qua một sự lựa chọn công phu, sáng suốt, một cuộc đấu tranh tư tưởng của Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam. Quá trình này tưởng chừng như đơn giản, và tự nhiên nhưng thực ra đó là chặng đường chiến thắng với bao khó khăn, với sự lựa chọn vững chắc nhằm tránh được những sai lầm dẫn tới ngõ cụt.


(1) Stein Tonnesson: The Vietnamese Revolution of 1945, Roosevelt, Ho Chi Minh and De Gaulle in a World at war, Sage Publications, 1991, London, New Burry Park, New Dehli, tr. 425-426.
(2) Lê Duẩn: Tiến lên dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1980, tr. 13.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tám, 2011, 08:43:04 am
Như chúng ta đã biết, bước vào thế kỉ 20 xu hướng dân chủ tư sản trong phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới nói chúng, ở Châu Á nói riêng, khá mạnh mẽ. Trong điều kiện lịch sử mới của xã hội loài người từ đầu thế kỉ 20, đặc biệt từ sau Cách mạng tháng Mười Nga, trên thực tế đã tồn tại hai con đường cứu nước - con đường giải phóng dân tộc theo kiểu dân chủ tư sản và con đường cứu nước vô sản.

Vào đầu thế kỉ 20, chủ nghĩa tư bản đã trở thành vật cản chủ yếu trên con đường phát triển lịch sử; giai cấp tư sản và con đường phát triển tư bản chủ nghĩa không còn là triển vọng, tiền đồ của lịch sử loài người, dù trong một thời gian nhất định nó vẫn còn tồn tại.

Trong điều kiện lịch sử mới của xã hội loài người từ đầu thế kỉ 20, đặc biệt là từ sau Cách mạng tháng Mười Nga 1917, đã hình thành một xu hướng mới, tích cực, đầy triển vọng đối với phong trào giải phóng dân tộc. Đó là con đường cách mạng vô sản, trong đó vấn đề dân tộc, giải phóng dân tộc và tiến bộ xã hội không gắn với chủ nghĩa tư bản như trước đây mà gắn với chủ nghĩa xã hội. Lịch sử trao cho giai cấp công nhân sứ mệnh lãnh đạo nhân dân các nước bị áp bức đấu tranh thoát khỏi ách nô lệ của chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc được đặt trong mối liên hệ với sự nghiệp cách mạng vô sản thế giới.

Sự tồn tại của hai con đường cứu nước dân chủ tư sản và vô sản là một thực tế khách quan. Việc xác định con đường cứ nước nào tùy thuộc không chỉ vào điều kiện cụ thể của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia, mà còn tùy thuộc chủ yếu ở sự nhật thức của bộ phận lãnh đạo và đông đảo quần chúng nhân dân. Đồng thời, phải nhìn nhận một cách khoa học con đường nào là con đường đúng để khẳng định và đi theo.

Đối với nhân dân Việt Nam, con đường giải phóng dân tộc duy nhất đúng là con đường mà Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam lựa chọn, khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”(1). Thực tiễn đã chứng minh rằng, việc lựa chọn, khẳng định con đường cứu nước này là hoàn toàn đúng đắn, đầy triển vọng dù nhân dân Việt Nam đã trải qua một quá trình đấu tranh gian khổ, đầy hi sinh, mất mát và còn phải tiếp tục chịu đựng gian khổ, hi sinh trong sự nghiệp dựng nước, giữ nước. Học phí phải trả bằng máu, song kết quả thu được cũng rất to lớn. Đó là thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 và những thắng lợi tiếp theo. Nếu việc xác định được con đường cứu nước đúng đã mở ra phương hướng mới cho sự thành công của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thì việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là “một bước ngoặt vô cùng quan trọng”(2), một nhân tố quyết định sự thắng lợi. Cách mạng tháng Tám 1945 là kết quả hợp lí, sự thắng lợi tất yếu của cuộc đấu tranh anh dũng của nhân dân Việt Nam, tiếp nhận và thể hiện ở mức cao truyền thống dân tộc, theo con đường đúng đắn và được sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Hồ Chí Minh. Cách mạng tháng Tám đã mở ra con đường thắng lợi cho sự nghiệp cách mạng trong hơn nửa thế kỉ qua và góp phần không nhỏ và sự phát triển lịch sử thế giới.

Tiến hành một sự so sánh - dù có khập khiễng, nhưng cần thiết, giữa Cách mạng tháng Tám ở Việt Nam với cuộc đấu tranh giành chính quyền ở một số nước thuộc địa và phụ thuộc khác, chúng ta thấy rõ ý nghĩa to lớn của Cách mạng tháng Tám 1945 đối với thế kỉ 20 trong lịch sử phát triển xã hội loài người.

Cách mạng tháng Tám 1945 ở Việt Nam và cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở một số nước thuộc địa và phụ thuộc nổ ra gần như đồng thời, vào lúc chủ nghĩa phát xít Đức và quân phiệt Nhật bịt thất bại và đầu hàng không điều kiện, và bọn thực dân cũ “quyết tâm” trở lại xâm chiếm và thống trị. Ở Trung Cận Đông, sau khi mở các chiến dịch quân sự giành lại Xyri và Libăng bị phát xít Đức chiếm từ mùa xuân 1941, Anh hầu như khống chế cả vùng này, tuy phải nhân nhượng phần nào cho Pháp. Mãi đến tháng 12.1946, do áp lực của Liên hợp quốc, quân Anh, Pháp và các căn cứ quân sự của họ ở Xyri, Libăng mới được triệt thoát và hủy bỏ. Họ phải trao trả độc lập cho các chính phủ dân tộc, nhưng trên thực tế các nước này vẫn chưa thoát khỏi sự lệ thuộc vào các nước đế quốc.

Ở khu vực Đông Nam Á, giương ngọn cờ “xây dựng khu vực Đại Đông Á thịnh vượng”, quân phiệt Nhật lần lượt chiếm các thuộc địa của Anh, Pháp, Mĩ ở vùng này. Quân phiệt Nhật ra sức lôi kéo những người dân tộc tư sản cánh hữu ở các nước Đông Nam Á để thiết lập sự thống trị của mình. Chế độ tàn bạo của quân phiệt Nhật làm dấy lên phong trào chống Nhật, giành độc lập dân tộc ở khắp các nước Đông Nam Á. Song, ngay lúc bấy giờ phong trào giải phóng dân tộc ở Đông Nam Á, trừ các nước Đông Dương, không đem lại kết quả như mong muốn, không giành được độc lập hoàn toàn.

Ở Malaixia, phong trào đấu tranh vũ trang chống Nhật phát triển khá mạnh mẽ, với Quân đội nhân dân Malaixia chống Nhật (MIPAJA - Malaya People Anti - Japanese Army), có khoảng 7.000 người, được một tổ chức chống Nhật có khoảng 300.000 hội viên, với đội quân du kích khoảng 10 vạn người ủng hộ. Nhưng cuộc chiến đấu của nhân dân Malaixia không đưa cách mạng đến thành công khi quân Nhật đầu hàng vì sự chia rẽ giữa ngươi Malaixia bản địa, người Malaixia gốc Ấn và người Malaixia gốc Hoa. Lợi dụng tình hình này, thực dân Anh đã đàn áp được cuộc chiến tranh du kích của nhân dân Malaixia và trao trả độc lập cho những người dân tộc chủ nghĩa (1957).

Ở Philippin, với đội quân Hukbalahap khoảng 10 vạn người, dày dạn trong đấu tranh chống Nhật, song không đủ sức ngăn được 375.000 quân Mĩ đánh chiếm đất nước khi lực lượng cách mạng bị suy yếu. Tuy nhiên, Mĩ cũng phải công nhận Philippin là quốc gia độc lập, song mọi quyền lợi của Mĩ ở quốc gia này còn nguyên vẹn.

Ở Miến Điện (nay là Myanma), Mặt trận nhân dân chống phát xít bao gồm những người cộng sản, những ngươi dân tộc tư bản và đông đảo các tầng lớp nhân dân, các dân tộc ít người, đã giải phóng đất nước vào tháng 8.1945. Nhưng do sự chia rẽ trong Mặt trận, sự phân hóa trong Đảng Cộng sản thành hai phái “Cờ Đỏ” và “Cờ Trắng”, nên lực lượng cách mạng bị suy yếu và đã thất bại trong cuộc đấu tranh chống quân Anh trở lại xâm lược. Đến năm 1948, Myanma mới được trao trả độc lập.

Ở Inđônêxia, Đảng Cộng sản ra đời sớm (1920), được tôi luyện trong cuộc khởi nghĩa dân tộc 1926-1927, song khuynh hướng tư sản dân tộc vẫn phát triển nhanh chóng, ảnh hưởng sâu rọng trong nhân dân. Với uy tín của mình, Xucacnô đã nắm vai trò lãnh đạo dân tộc, tiến hành cuộc Cách mạng tháng Tám (17.8.1945), công bố Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Inđônêxia. Khi quân Hà Lan trở lại xâm lược, Inđônêxia thành một nước nửa thuộc địa. Mãi đến ngày 15.8.1950, nước Cộng hòa Inđônêxia mới được tuyên bố thành lập, thoát khởi sự thống trị của thực dân Hà Lan.

Ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa khác, như ở Trung Quốc, Triều Tiên, Angiêri… chiến thắng chủ nghĩa phát xít là một cơ hội cho phong trào giải phóng dân tộc phát triển, song không có cuộc cách mạng nào nổ ra để giành được độc lập lúc bấy giờ. Ấn Độ được trao trả độc lập theo “kế hoạch Maobattơn” vào ngay 15.8.1947, với việc hình thành hai nước riêng rẽ: Cộng hòa Ấn Độ và nước Pakixtan. Ở Trung Quốc, phải sau khi cuộc chiến tranh cách mạng đánh đuổi tập đoàn Tưởng Giới Thạch ra khỏi lục địa, cuộc cách mạng dân tộc chủ nghĩa mới thắng lợi và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa mới được thành lập (1.10.1949). Sự kiện này làm thay đổi cán cân lực lượng giữa cách mạng thế giới và các nước tư bản đế quốc.

Nhìn chung, sau khi quân phiệt Nhật đầu hàng, ở một số nước Châu Á, nhất là ở Đông Nam Á, đã bùng nổ cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.


(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 9, sđd, tr. 314.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 10, sđd, tr. 8.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tám, 2011, 08:49:48 am
Trong bối cảnh lịch sử chung của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở Châu Á, Đông Nam Á nói riêng, với thời cơ thuận lợi giống nhau, Cách mạng tháng Tám 1945 ở Việt Nam nổ ra đúng lúc, kịp thời cơ và thắng lợi triệt để. Do đó, ảnh hưởng của cuộc cách mạng này sâu rộng ở trong nước cũng như trên trường quốc tế. Thomass Hodgkin đã đánh giá: “Cách mạng tháng Tám 1945 ở Việt Nam là một sự kiện quan trọng nhất trong lịch sử thế giới từ sau Cách mạng tháng Mười Na. Đó là một cuộc cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh đạo, một Đảng chỉ mới ra đời trong mười lăm năm. Đó là cuộc cách mạng đầu tiên thành công trong việc lật đổ chính quyền của chế độ thuộc địa. Nó đã nổ ra trong một thời điểm lịch sử kết thúc cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai… Như vậy, cuộc Cách mạng tháng Tám đã đánh dấu sự bắt đầu của một thời kì mới, nó vạch đường ranh giới của thời đại thực dân bắt đầu nhường chỗ cho thời đại phi thực dân hóa”(1).

Đúng như vậy, Cách mạng tháng Tám ở Việt Nam nổ ra sau Cách mạng tháng Mười Nga gần 30 năm là sự nối tiếp hợp quy luật trong thời đại mới - thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội của loài người. Theo con đường cách mạng Nga, nhân dân Việt Nam đã rút ra bài học “thành công và thành công đến nơi” của cuộc cách mạng này - cuộc cách mạng lấy “dân là gốc”, có “Đảng vững bền” - đã “phải bền gan, phải hi sinh, phải thống nhất"(2) để đấu tranh một cách sáng tạo, dũng cảm, chứ không phải làm theo một cách máy móc. Chúng ta đi theo Chủ nghĩa Mác - Lênin, nhưng không vận dụng rập khuôn, giáo điều, vì “cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như phương Tây”(3). Vì vậy, Cách mạng tháng Tám không thực hiện ngay nhiệm vụ cách mạng vô sản như trong Cách mạng tháng Mười Nga hoặc cần phải tiến hành ở các nước tư bản phát triển, mà nó lần lượt thực hiện các nhiệm vụ chiến lược: giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Các nhiệm vụ này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, thể hiện tư tưởng về con đường cách mạng không ngừng, nhằm đạt tới mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, song, ở mỗi thời kì cách mạng Việt Nam phải hoàn thành nhiệm vụ chủ yếu của mình.

Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 là thắng lợi của đường lối đúng đắn về việc giải quyết hợp lí, có kết quả vấn đề dân tộcgiai cấp.

Đối với chúng ta, đi theo con đường cách mạng vô sản là nguyên tắc bất di bất dịch, nhưng trong chỉ đạo chiến lược có lúc phải tập trung giải quyết nhiệm vụ giải phóng dân tộc, và như vậy cũng nhằm góp phần giải quyết nhiệm vụ giai cấp. Bởi vì “nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi hỏi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”(4). Qua thực tiễn cách mạng, Hồ Chí Minh đã nâng quan điểm trên thành nguyên lí của thời đại: Không có gì quý hơn độc lập, tự do!

Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, thành công củ Cách mạng tháng Tám 1945 nói riêng và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam nói chung xác nhận con đường cứu nước theo cách mạng vô sản là đúng đắn. Nó đảm bảo cho việc giành được độc lập hoàn toàn và triệt để, gắn liền với giữ vững chủ quyền quốc gia về nội trị cũng như ngoại giao, sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, không bị chia cắt và làm cơ sở cho việc xây dựng cuộc sống hạnh phúc, ấm no, tự do cho nhân dân. Bời vì “… nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lí gì”(5). Do đó, con đường cứu nước của nhân dân Việt Nam, dẫn tới thắng lợi Cách mạng tháng Tám 1945, không chỉ là con đường riêng, là thắng lợi riêng của nhân dân Việt Nam. Các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc, dù đi theo con đường mà mình lựa chọn vẫn không thể không thừa nhận ý nghĩa quốc tế và ảnh hưởng to lớn của cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam đối với việc giành thắng lợi ở những mức độ và hình thức khác nhau của nhiều dân tộc. Điều này cũng tương tự như ý nghĩa, ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga đối với sự phát triển của lịch sử thế giới: “Tấm gương Nga đã chỉ ra cho tất cả nước thấy một cái gì hoàn toàn căn bản về tương lai tất yếu và gần đây của họ”(6). Cách mạng tháng Tám 1945 không chỉ là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đầu tiên giành được thắng lợi ở Đông Nam Á, mà còn là một sự khích lệ, cổ vũ cho tất cả dân tộc bị áp bức về mặt tinh thần, tư tưởng. Nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc tin tưởng vững chắc vào khả năng của ban thân mình có thể đấu tranh giành độc lập, tự do và xây dựng đất nước.

Cách mạng tháng Tám 1945 không chỉ mở ra một thời đại mới trong lịch sử Việt Nam - thời đại độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - mà còn đánh dấu kỉ nguyên độc lập, chủ quyền của các dân tộc, vốn bị áp bức dưới chế độ thực dân cũ và mới.

Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945, tiếp đó là thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, đã góp phần to lớn vào quá trình phi thực dân hóa, góp phần vào thắng lợi của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng đất nước ở nhiều nước khác. Quá trình các nước giành độc lập, xây dựng đất nước diễn ra theo những con đường khác nhau, đạt đến những kết quả khác nhau, song vẫn có điểm gặp nhau ở chỗ độc lập và phồn vinh và ít nhiều tác động, ảnh hưởng của Cách mạng tháng Tám. Càng phát triển về tương lai, nhìn lại quá khứ, suy nghĩ về thắng lợi của Cách mạng tháng tám, cách mạng Việt Nam nói chung, chúng ta càng thấy rõ tầm vóc của nó.


(1) Thomas Hogdkin: Cách mạng Việt Nam và một vài bài học, trích theo quyển Thế giới bàn về Việt Nam, tập 2, Viện Thông tin Lhoa học xã hội, Hà Nội, 1976. tr. 224.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2, sđd, tr. 280.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 1, sđd, tr. 464.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 113.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, sđd, tr. 56.
(6) V. I. Lênin: Toàn tập, tập 41, Nhà xuất bản Tiến bộ, Matxcơva, 1978, tr. 4.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tám, 2011, 08:53:40 am
Nguyên nhân thắng lợi và tầm vóc lịch sử của Cách mạng tháng Tám là kết quả tổng hợp của những nhân tố khác quan và chủ quan.

Về khách quan:

- Cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai làm cho chủ nghĩa đế quốc suy yếu. Đế quốc Pháp thống trị nước ta bị Đức chiếm đóng. Bọn thực dân ở Đông Dương bị Nhật đảo chính truất quyền cai trị.

- Khi Liên Xô tiến hành cuộc chiến tranh vệ quốc, những thắng lợi của Hồng quân Liên Xô tiêu diệt hoàn toàn phát xít Đức đã cổ vũ tinh thần nhân dân trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc.

- Cuộc đấu tranh chống phát xít của Đồng minh, của lực lượng dân chủ, tiến bộ trên thế giới, của phong trào giải phóng dân tộc ở Châu Á, Châu Phi và Mĩ latinh, đặc biệt chiến thắng của Hồng quân Liên Xô tiêu diệt đạo quân Quan Đông của Nhật buộc Nhật đầu hàng Đồng minh không điều kiện, tạo thời cơ khách quan thuận lợi cho nhân dân ta nổi dậy giành chính quyền.

- Con đường Cách mạng tháng Tám phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử xã hội loài người trong thời đại mới, đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc

Về chủ quan:

- Dân tộc Việt Nam có truyền thống yêu nước nồng nàn, đã trải qua hàng ngàn năm, đấu tranh dựng nước và giữ nước, đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm quý báu truyền từ đời này sang đời khác. Nhân dân ta đã kế thừa và phát huy truyền thống quý báu đó. Đặc biệt từ khi có Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, nhân dân ta đoàn kết một lòng, không quản hi sinh, gian khổ, đứng lên cứu nước, cứu nhà.

- Đảng Cộng sản Đông Dương, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã đề ra đường lối giải phóng dân tộc đúng đắn, theo nguyên lí của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.

- Cách mạng tháng Tám diễn ra trong khoảng 15 ngày, nhưng sự chuẩn bị liên tục của Đảng trong suốt 15 năm, trải qua các phong trào cách mạng: 1930-1931, 1936-1939, đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm cho Cách mạng tháng Tám. Nhất là sự chuẩn bị chu đáo, toàn diện của Đảng cho cách mạng giải phóng dân tộc từ năm 1939 đến năm 1945: chuẩn bị về đường lối, xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, xây dựng căn cứ địa cách mạng…

- Sự chỉ đạo linh hoạt, sáng tạo, chủ động của Đảng, Hồ Chí Minh, các cấp bộ Đảng và Việt Minh trong Tổng khởi nghĩa: Xác định thời cơ phát động khởi nghĩa, sử dụng hình thức đấu tranh thích hợp, sử dụng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, kết hợp lực lượng Trung ương với địa phương, chỉ đạo khởi nghĩa từng phần đến Tổng khởi nghĩa khi thời cơ đến.

“Cách mạng tháng Tám thành công căn bản do lực lượng chính trị của nhân dân đã kịp thời nắm lấy cơ hội thuận tiện nhất, hội nghị giành chính quyền nhà nước. Nhưng nếu Đảng ta trước đó không xây dựng lực lượng vũ trang và thành lập những khu căn cứ rộng lớn để làm chỗ dựa cho lực lượng chính trị và phong trào đấu tranh chính trị, và khi có điều kiện đã chín muồi không mau lẹ phát động cuộc khởi nghĩa vũ trang thì cách mạng không thể mau chóng giành được thắng lợi”(1).

Ý nghĩa lịch sử (trong nước và quốc tế của Cách mạng tháng Tám 1945 ở Việt Nam là vô cùng to lớn và ảnh hưởng của nó ngày một sâu rộng. Càng lùi xa về tương lai, Cách mạng tháng Tám sẽ tỏa sáng rực rỡ mà không một thế lực nào, một luận điệu nào có thể che phủ được. Ngay sau khi Cách mạng vừa thành công, bọn phản động trong và ngoài nước đã đua nhau xuyên tạc, phủ nhận ý nghĩa, tầm vóc lịch sử của sự kiện này. Một số nhà sử học phương Tây đã vội vàng “chứng minh” rằng, “Cách mạng tháng Tám là sự ăn may của cộng sản Việt Minh”. Theo họ, Việt Minh đã nhanh tay cướp lấy thành quả của Đồng minh chống phát xít, khi quân Đồng minh chưa vào Đông Dương giải giáp quân Nhật. Họ cố tình phủ nhận công lao của nhân dân Việt Nam, tập hợp trong Mặt trận Việt Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, đứng đầu là Hồ Chí Minh đã góp phần to lớn vào việc đánh bại phát xít Nhật và giành được độc lập, chứ không phải là “việc ăn may”. Một số bọn phản động trong nước trắng trợn vu cáo “Việt Minh đã cướp công của dân tộc trong Cách mạng tháng Tám”, bởi vì “Cách mạng tháng Tám là do tinh thần dân tộc lãnh đạo”. Đây là một luận điểm phi lí, xuyên tạc lịch sử.

Không một sự xuyên tạc nào có thể xóa nhòa, phủ nhận sự thật lịch sử. Ý nghĩa và tầm vóc của Cách mạng tháng tám còn sống mãi trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân Việt Nam và nhiều dân tộc khác.


(1) Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, ngày 5.9.1960. trong Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, sđd, tr. 145-146.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tám, 2011, 05:20:02 pm
2. Cách mạng tháng Tám 1945 trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam

Một sự kiện lịch sử có ý nghĩa to lớn không chỉ đánh dấu biến chuyển trong quá trình phát triển xã hội từ trước đến nay mà còn đặt cơ sở rất quan trọng cho tiến trình tiếp theo. Lịch sử không bao giờ lặp lại nguyên xi những sự kiện đã xảy ra trong quá khứ, song trong những sự kiện vừa xảy ra chúng ta vẫn tìm thấy “bóng dáng, “tinh thần” của quá khứ. Do vậy, lịch sử không lặp lại, song là sự “lặp lại” trên cơ sở cái “không lặp lại”. Nếu lịch sử hiện tại chỉ là việc sao chép, lấy lại của quá khứ thì sẽ không có sự phát triển của xã hội. Lịch sử sẽ dường như “ngưng đọng”, không có sự tiến bộ và xã hội cũng sẽ tiêu vong. Ngược lại, nếu lịch sử không lặp lại gì hết chúng ta cũng không rút được bài học kinh nghiệm của quá khứ cho hiện tại và đoán định sự phát triển của tương lại.

Theo nguyên tắc phương pháp luận này, Cách mạng tháng tám 1945 là một sự kiện lịch sử to lớn của dân tộc Việt Nam và nhân dân thế giới, chưa hề xảy ra ở bất cử lúc nào trước đó và sau này cũng không hề có sự lặp lại nguyên xi như vậy. Tuy nhiên, như đã tình bày ở phần trước, nhiều điểm của các phong trào cách mạng 1930-1931, 1936-1939 ở Việt Nam, bước đi chung của Cách mạng tháng Mười Nga dường như là được “tái hiện” ở Cách mạng tháng Tám 1945 một cách cụ thể, với những nét đặc trưng riêng biệt. Sự lãnh đạo của Đảng, vai trò tích cực cách mạng của quần chúng nhân dân, của Mặt trận dân tộc thống nhất, lực lượng vũ trang, sự đoàn kết dân tộc (cả quốc tế)… được thể hiện cụ thể ở Cách mạng tháng Tám 1945. ở đây chúng ta nhận thấy bóng dáng của các sự kiện quá khứ song vẫn là những nét riêng của Cách mạng tháng Tám 1945.

Cách mạng tháng Tám 1945, khác với các phong trào cách mạng 1930-1931, 1936-1939, tuy có sự kế thừa, là một cuộc Tổng khởi nghĩa toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng khi có thời cơ và đã thắng lợi hoàn toàn. Cách mạng tháng Tám 1945 tuy đi theo con đường Cách mạng tháng Mười Nga, song nhiệm vụ trực tiếp, chủ yếu trước mắt là giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân để tiến lên chủ nghĩa xã hội, chứ không tiến hành ngay cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, đánh đổ chủ nghĩa tư bản, thiết lập chuyên chính vô sản. Vì vậy, tuy Cách mạng tháng Tám 1945 đã bùng nổ và thắng lợi, nhưng trong những mức độ nhất định, với những hình thức khác nhau, nhiệm vụ của Cách mạng tháng tám vẫn được tiếp tục khi thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của từng thời kì: bước đầu xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, kháng chiến chống thực dân Pháp rồi kháng chiến chống đế quốc Mĩ để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước, rồi xây dựng chủ nghĩa xã hội khi đất nước thống nhất, đặc biệt trong thời kì đổi mới từ 1986 đến nay.

Chúng ta qua các thời kì nêu trên đã hiểu sự “tái hiện” và tác động của Cách mạng tháng Tám 1945 đối với mỗi thời kì, làm cơ sở, “bệ phóng” cho sự phát triển liên tục của lịch sử dân tộc từ sau 1945. Qua đó, chúng ta sẽ nhận thấy tầm vóc vĩ đại, tác động to lớn của Cách mạng tháng Tám 1945 đối với sự phát triển tiếp sau của lịch sử Việt Nam.

Sau Cách mạng tháng Tám 1945, đất nước ta đứng trước tình thế “nghìn cân treo sợi tóc” - kinh tế suy yếu, nạn đói tiếp tục hoành hành, thiên tai dồn dập, thù trong giặc ngoài. Để giữ vững thành quả cách mạng trong điều kiện gian nguy như vậy thật vô cùng khó khăn, dường như “khó vượt qua”. Lời dạy của Lênin “giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền lại càng khó khăn”. Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã chèo lái con thuyền vượt qua thác ghềnh, bão tố, tiếp tục đi lên.

Trong tình hình lúc bấy giờ phải tập trung giải quyết những khó khăn trước mắt, tập trung đánh bại các loại kẻ thù nguy hiểm nhất - “giặc đói”, “giặc dốt” và giặc ngoại xâm. Tuy nhiên đó là giải pháp tình thế trước mắt, điều quan trọng mà Đảng đặc biệt quan tâm là xây dựng chế độ dân chủ nhân dân sau khi Cách mạng tháng Tám 1945 thành công. Có xây dựng tốt chế độ dân chủ nhân dân mới có cơ sở vững bền để bảo vệ thành quả Cách mạng tháng Tám. Việc giải quyết “những nhiệm vụ cấp bách” trước không phải chỉ là một giải pháp tinh tế mà ở mức độ nhất định, với hình thức thích hợp, thực hiện công cuộc xây dựng chế độ mới đem lại quyền lợi cơ bản cho nhân dân. Nhiều biện pháp giải quyết tình trạng khó khăn trước mắ cũng là chính sách lâu dài trong xây dựng xã hội mới, như tăng gia sản xuất, lập hội đồng canh, vv.

Việc xây dựng chế độ dân chủ nhân dân được tiến hành trên các mặt:

Về chính trị, thực hiện việc người dân có quyền tham gia chính quyền, tham gia thảo luận, quyết định mọi công việc trọng yếu của quốc gia, thông qua các đại biểu do mình lựa chọn, bầu ra. Công việc này là một biện pháp tích cực để giữ vững chính quyền đã giành được trong Cách mạng tháng Tám 1945. Việc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (6.1.1946), thông qua Hiến pháp đã hợp pháp hóa chính quyền cách mạng, do nhân dân làm chủ giành được, củng cố thành công của Cách mạng tháng Tám.

Về kinh tế, xóa bỏ mọi thứ thuế bất hợp lí của chế độ cũ, ra sức phát triển công, nông nghiệp và các ngành kinh tế khác, làm cho dân giàu, nước mạnh, thực hiện một mức độ nhất định giảm tô, chia ruộng đất cho dân cày, đẩy mạnh sản xuất… Đó là những biện pháp không chỉ chống “giặc đói” mà còn thực hiện phần nào nhiệm vụ của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã thắng lợi và còn tiếp tục triển khai.

Về văn hóa - giáo dục, hủy bỏ nền giáo dục nô lệ, thanh toán nạn mù chữ, nâng cao trình độ văn hóa, tạo mọi điều kiện cho mọi người phát triển tài năng. Công việc này vừa chống “giặc dốt” để người dân có điều kiện làm chủ đất nước, đồng thời chuẩn bị lâu dài cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Về xã hội, chăm lo đời sống tinh thần, vật chất cho mọi người, ai cũng được hưởng quyền tự do bình đẳng, từng bước xóa bỏ bóc lột, bất công…

Thực hiện những công việc cơ bản như vậy mới thực sự hoàn thành con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, xây dựng lực lượng hùng mạnh để tiến hành cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tám, 2011, 05:25:14 pm
Việc hoàn thành công cuộc giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, thực hiện cải cách ruộng đất cũng là giai đoạn đầu của sự nghiệp cách mạng lâu dài, to lớn của nhân dân ta, tạo điều kiện để đưa đất nước tiếp tục tiến lên chủ nghĩa xã hội. “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam là tư tưởng cách mạng không ngừng, là sự thống nhất giữa độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội là tư tưởng xuyên suốt và có tác động lẫn nhau. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội đã thể hiện ngay khi xác định mục tiêu, chính sách của giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân”(1).

Đúng như vậy, khi xác định con đường cứu nước theo cách mạng vô sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ ràng, chỉ có cách mạng vô sản mới thực sự giải phóng dân tộc và chỉ có đi lên chủ nghĩa xã hội mới đảm bảo vững chắc công cuộc giải phóng dân tộc. Đây là việc tiếp thụ và vận dụng sáng tạo luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về hai giai đoạn cách mạng trong quá trình giải phóng dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội, cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Điều này đã được khẳng định trong nhiều tài liệu, văn kiện của Đảng và Nhà nước ta… từ Đường cách mệnh, Chánh cương văn tắt đến Nghị quyết các Đại hội của Đảng, các bản Hiến pháp của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong Báo cáo về Dự thảo Hiến pháp sửa đổi năm 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cách mạng Việt Nam trải qua hai giai đoạn; cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa”(2).

Mối quan hệ giữa hai cuộc cách mạng dân chủ nhân dân và xã hội chủ nghĩa không phải thực hiện một các tuần tự, hết cuộc cách mạng này đến cuộc cách mạng khác. Trong khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã xây dựng những cơ sở để tiến lên chủ nghĩa xã hội và khi tiến hành cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, Miền Bắc được giải phóng tiến hành xây dựng xã hội chủ nghĩa, làm hậu phương lớn cho tiền tuyến lớn Miền Nam, trực tiếp tiến hành cuộc kháng chiến để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ. Giáo sư Nhật bản Singô Sibata (Shingo Shibata) đã nhận xét như sau: “Một trong những cống hiến quan trọng của cụ Hồ Chí Minh và của Đảng Lao động Việt Nam (tên Đảng Cộng sản Việt Nam từ 1951-1976 - chúng tôi chú) là đã đề ra lí luận về xây dựng chủ nghĩa xã hội trong khi vẫn tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân… ý kiến chung về chủ nghĩa xã hội cho tới nay vẫn còn thịnh hành trong chủ nghĩa Mác là chỉ có thể xây dựng chủ nghĩa xã hội sau khi chiến tranh đã chấm dứt… Họ (nhân dân Việt Nam - chúng tội chú) phải thực hiện cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong khi vẫn có chiến tranh. Theo tôi được biết, Đảng Lao động Việt Nam là Đảng đầu tiên trong các đảng mácxít trên thế giới áp dụng lí luận này”(3). Điều này làm rõ thêm mối quan hệ giữa cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa trong quá trình cứu nước và giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam.

Chủ nghĩa xã hội được xây dựng ở Việt Nam, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, nhằm “làm sao cho dân giàu nước mạnh”(4), “làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ”(5).

Nội dung xây dựng chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh như vậy hoàn toàn phù hợp với mục tiêu cứ nước và giải phóng dân tộc mà thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 đã đặt cơ sở cho việc thực hiện. Vì vậy, việc bảo vệ thành quả Cách mạng tháng tám 1945 là nhiệm vụ quan trọng. Bởi vì, có đấu tranh thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân đế quốc, giành được độc lập, tự do, mới có thể xây dựng chủ nghĩa xã hội, đem lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Có thể nói, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự tiếp tục giải phóng con người khỏi mọi áp bức. Đó là công cuộc “giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người”.

Công cuộc xây dựng chế độ dân chủ nhân dân ngay sau Cách mạng tháng Tám 1945 đảm bảo con đường cứu nước giải phóng dân tộc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra. Nó còn là điều kiện để bảo vệ thành quả Cách mạng tháng Tám, chuẩn bị lực lượng đấu tranh chống bất cứ kẻ thù xâm lược nào muốn đặt ách thống trị trên nhân dân Việt Nam, trước mắt chủ yếu là thực dân Pháp, đang âm mưu đánh chiếm lại nước ta. Vì vậy, trong hơn một năm xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, nhân dân Việt Nam vừa bảo vệ thành quả Cách mạng tháng tám 1945, vừa chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mĩ (1945-1954). Thực tiễn của việc xây dựng chế độ dân chủ nhân dân sau Cách mạng tháng Tám càng khẳng định sự đúng đắn của con đường cứu nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Con đường cứu nước và giải phóng dân tộc theo cách mạng vô sản ở Việt Nam xuất phát từ truyền thống yêu nước, đấu tranh anh dũng của nhân dân Việt Nam, từ thực tế đất nước và nguyện vọng của đông đảo nhân dân, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại ngày nay, một cách hợp quy luật. Mong muốn được sống độc lập tự do, hạnh phúc là nguyện vọng lâu đời không chỉ của nhân dân Việt Nam mà của tất cả các dân tộc trên thế giới từ ngàn xưa đến nay.

Cho nên, con đường cứ nước và giải phóng dân tộc theo cách mạng vô sản không phải là con đường riêng của Việt Nam, cũng không phải là “sự áp đặt chủ quan” của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, như luận điệu sai lầm, xuyên tạc của những người thù địch, chống lại con đường mà nhân dân ta đang đi và kiên quyết đi đến đích cuối cùng.


(1) Đại tướng Võ Nguyên Giáp (chủ biên): Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997, tr. 109.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 9, sđd, tr. 581.
(3) Trích trong Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay, Trường Đại học sư phạm Hà Nội I và Viện thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội, 1992, tr. 82.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 8, sđd, tr. 226.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 10, sđd, tr. 591.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tám, 2011, 05:27:24 pm
Con đường cứu nước, giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội là con đường khó khăn, gian khổ vì phải đấu tranh lật đổ các lực lượng áp bức, thống trị, xây dựng cuộc sống mới: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội là thay đổi cả xã hội, thay đổi cả thiên hiên, làm cho xã hội không còn người bóc lột người, không còn đói rét, mọi người đều được ấm no và hạnh phúc”(1). “Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta”(2).

Tuy trải qua nhiều khó khăn, gian khổ trên con đường cứ nước và giải phóng dân tộc theo cách mạng vô sản, nhưng nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã thu nhiều thắng lợi huy hoàng. 15 năm, từ sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã tiến hành cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên trong lịch sử nước ta và Đông Nam Á. Năm 1945, khi quân phiệt Nhật Bản đầu hàng không điều kiện Đồng minh, nhiều nước ở Châu Á nói chung, Đông Nam Á nói riêng có những điều kiện thuận lợi gần giống nhau để khởi nghĩa giành chính quyền. Nhưng vì sao Việt Nam lại khởi nghĩa thắng lợi, giành được chính quyền, xóa bỏ hoàn toàn chế độ thống trị cũ? Đó là vì có sự lãnh đạo của Đảng, dẫn dắt nhân dân ta với quyết tâm đi theo con đường cứu nước của cách mạng vô sản.

Ngay sau khi Cách mạng tháng tám thành công, thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đi theo con đường cứu nước đã vạch ra, nhân dân ta được sự ủng hộ của nhân dân thế giới đã tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, buộc chúng phải rút khỏi 3 nước Đông Dương, chấm dứt chiến tranh xâm lược. Chủ nghĩa thực dân cũ bị giáng một đòn chí tử với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) nhằm hoàn thành nhiệm vụ mà Cách mạng tháng Tám đã đặt ra: bảo vệ độc lập dân tộc mà nhân dân ta đã giành được. Tinh thần Cách mạng tháng Tám, những thành tựu bước đầu trong xây dựng chế độ dân chủ nhân dân là những điều kiện cơ bản để nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, đánh thắng thực dân Pháp, can thiệp Mĩ, giải phóng hoàn toàn Miền Bắc. Việc xây dựng chế độ dân chủ nhân dân trong hơn năm đầu sau Cách mạng được tiếp tục tiến hành, mở rộng hơn trong việc xây dựng vùng tự do, tao thành hậu phương vững chắc cho chuộc kháng chiến chống Pháp. Sức mạnh của chế độ dân chủ nhân dân tiếp sau sức mạnh của Cách mạng tháng Tám 1945 tạo nên hợp lực to lớn trong kháng chiến chống Pháp. Vì vậy, thắng lợi của kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) phát huy thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 và dựa vào sức mạnh của chế độ dân chủ nhân dân được xây dựng ở vùng tự do - vùng hậu phương vững chắc.

Đế quốc Mĩ đã tiếp tay cho thực dân Pháp, trực tiếp can thiệp vào Đông Dương, dần dần hất chân Pháp, một mình tiến hành việc xây dựng chế độ thực dân mới ở Việt Nam, Lào và Campuchia. Chúng đổ một lực lượng quân viễn chinh, bom đạn, nhiều phương tiện chiến tranh khác và sự “viện trợ” kinh tế để nuôi dưỡng các ngụy quyền, hòng bóp chết cách mạng ở Miền Nam Việt Nam; đánh phá ác liệt, dã man Miền Bắc để kéo lùi nhân dân ta “trở về thời kì đồ đá”, ngăn chặn sự chi viện của hậu phương lớn Miền Bắc với tiền tuyến lớn Miền Nam. Nhân dân thế giới, kể cả nhân dân Mĩ, nhiệt liệt ủng hộ Việt Nam, lên án ngay gắt đế quốc Mĩ xâm lược, nhưng cũng có người lo sợ nhân dân ta không đương đầu được với đế quốc Mĩ, khuyên ta “trường kì mai phục”, “hòa hoãn”, “tạm xuống thang”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta quyết tâm bảo vệ thành quả Cách mạng tháng Tám 1945, đánh thắng giặc Mĩ xâm lược, thực hiện lời dạy của Bác Hồ: “Không có gì quý hơn độc lập tự do!”.

21 năm kháng chiến chống Mĩ cứu nước, theo con đường đã xác định, với cuộc tấn công và nổi dậy mùa Xuân 1975, với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nhân dân ta đã hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, giải phóng Miền Nam, thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Có thể nhận thấy trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, tinh thần Cách mạng tháng Tám 1945 nhiều lần được “tái hiện”, như cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1968, trong cuộc Tổng tiến công chiến lược 1972, đặc biệt trong mùa Xuân đại thắng 1975. Nhiều bài học, kinh nghiệm của cuộc Cách mạng tháng Tám được vận dụng sáng tạo có hiệu quả. Việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc là cơ sở quan trọng để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Miền Nam.

Dĩ nhiên, trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhân dân ta, Đảng và Nhà nước ta không tránh khỏi những sai lầm, khuyết điểm. Điều này đã được kịp thời nhận thấy và sửa chữa có hiệu quả. Cho nên không vì những sai lầm, khuyết điểm đã phạm phải để phủ nhận công lao của nhân dân và Đảng trong quá trình chiến đấu anh dũng; càng không thể vin vào đấy để khẳng định rằng con đường cứu nước giải phóng dân tộc và đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là “sai lầm”, “cần xóa bỏ”.


(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 10, sđd, tr. 271.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 8, sđd, tr. 493.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tám, 2011, 05:28:57 pm
Con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng đã xác định, nhân dân ta tin tưởng trong cuộc đấu tranh anh dũng, gian khổ đi tới thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, kháng chiến thành công, thống nhất Tổ quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước xác nhận về lí luận và thực tiễn tính đúng đắn của nó. Song việc thực hiện con đường này còn chịu ảnh hưởng, sự chi phối của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan khác. Những yếu tố tích cực, tiến bộ thúc đẩy việc thực hiện con đường này đi tới thắng lợi. Những yếu tố tiêu cực, sai lầm khuyết điểm do trình độ nhận thức, quản lí, những tác động không lành mạnh của hoàn cảnh, của cơ chế thị trường… làm hạn chế thắng lợi, song hoàn toàn không ngăn cản bước tiến của nhân dân ta, không làm thay đổi bản chất con đường đã được lựa chọn. Cuộc đấu tranh để bảo vệ con đường cứu nước và giải phóng dân tộc của chúng ta cũng là bảo vệ con đường cứu nước và giải phóng dân tộc của chúng ta cũng là bảo vệ những thành quả của Cách mạng tháng Tám 1945, 30 năm kháng chiến chống ngoại xâm và xây dựng chủ nghĩa xã hội còn diễn ra gay go ác liệt. Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay, tinh thần, ý chí, bài học của Cách mạng tháng tám 1945 cổ vũ, soi sáng chúng ta vượt qua những khó khăn gian khổ để đạt được mục tiêu đã xác định. Việc Đảng và nhân dân Việt Nam đã nắm được thời cơ, kiên quyết hành động khi có thời cơ, quyết tâm vượt qua thác ghềnh đi tới thắng lợi… là những bài học còn nóng hổi của thời kì Cách mạng tháng Tám đối với chúng ta trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước ngày nay. Thắng lợi của Cách mạng tháng tám đã mở ra những thắng lợi to lớn tiếp theo. Lẽ nào trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội chúng ta không phát huy tinh thần bài học của Cách mạng tháng Tám 1945 cho những thắng lợi mới?

Khẳng định con đường cứu nước đúng của nhân dân ta là sự nhận thức đúng đắn, khoa học, sự phát triển hợp quy luật của lịch sử, không dao động trước những biến đổi đang diễn ra trên thế giới. Khẳng định con đường cứu nước đã chọn là khẳng định những thành tựu đã đạt được, công lao của Đảng, Bác Hồ đối với dân tộc và nhân loại, không hề hoang mang trước “những thần kì” trong sự phát triển về kinh tế của những nước vốn là thuộc địa và phụ thuộc không đi theo con đường cứu nước như chúng ta.

Lịch sử đã chứng minh con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta hoàn toàn đúng đắn và vững tin vào sự tiếp tục trên con đường này.

*
*   *

Từ khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam, hoàn thành việc bình định quân sự, xây dựng chế độ thống trị, tiếp đó là chế độ thực dân mới của đế quốc Mĩ ở Miền Nam Việt Nam, nhân dân ta đã chuyển qua nhiều con đường cứu nước, giải phóng dân tộc.

Ngọn cờ Cần Vương trong đấu tranh chống Pháp xâm lược, theo tư tưởng phong kiến đã thất bại. Tư tưởng dân chủ nhân dân với sự hình thành của giai cấp tư sản dân tộc không đem lại thành công trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc.

Sự lớn mạnh của phong trào công nhân trong nước, việc duy trì phong trào yêu nước, vai trò to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, sáng lập Đảng, cùng với những ảnh hưởng tích cực của phong trào cách mạng thế giới từ sau Cách mạng tháng Mười Nga năm 1971 đã xác định con đường cứu nước và giải phóng dân tộc của nhân dân ta. Con đường này đã đưa đến nhiều thắng lợi to lớn. Lịch sử đã xác nhận đây là con đường duy nhất đúng của nhân dân ta, phù hợp với xu thế phát triển thời đại và trong tương lai sẽ là con đường mà nhiều dân tộc khác cũng trải qua.

Cách mạng tháng Tám 1945 đánh dấu một mộc quan trọng trên con đường mà Đảng, Bác Hồ đã lựa chọn, xác định và nhân dân ta kiên quyết đi tới cuối cùng. Cách mạng tháng Tám 1945 đã nổ ra đồng loạt trong cả nước, ở thành thị cũng như nông thôn, ở đồng bằng cũng như vùng núi, hải đảo. Điều này thể hiện những đặc điểm bản chất của cuộc cách mạng này.

- Cách mạng tháng Tám nổ ra đồng loạt, nhanh chóng trong hầu hết cả nước và giành được thắng lợi hoàn toàn chứng tỏ sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, lòng tin tuyệt đối của quần chúng nhân dân vào Đảng, đứng đầu là Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Nó thể hiện quá trình chuẩn bị lâu dài, liên tục, vững chắc, thận trọng.

- Cách mạng tháng Tám diễn ra và thắng lợi một cách tương đối hòa bình, ít tốn xương máu. Điều này chứng tỏ tài nghệ của Đảng trong lãnh đạo cách mạng, đã xác định đúng đường lối đấu tranh, chuẩn bị đầy đủ, nắm vững thời cơ và lãnh đạo nhân dân kiên quyết hành động.

- Cách mạng tháng Tám là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đầu tiên trong lịch sử nước ta, ở khu vực Đông Nam Á, mở đường cho những thắng lợi tiếp theo trong kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, thống nhất đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội.

- Cách mạng tháng Tám đã phát huy cao nhất vai trò của quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh để giải phóng dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc.

- Cách mạng tháng Tám 1945 góp phần to lớn vào sự phát triển của lịch sử thế giới, mở ra thời kì giải phóng các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc, xây dựng những quốc gia độc lập, tự do, phồn vinh, tiến bộ.

Những đặc điểm chung của Cách mạng tháng Tám thể hiện cụ thể ở diễn biến của các địa phương mà chúng ta sẽ tìm hiểu.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tám, 2011, 05:30:29 pm
PHẦN THỨ HAI

CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945 -
TOÀN CẢNH

Cách mạng tháng Tám 1945 diễn ra trên hầu khắp đất nước và thu được thắng lợi to lớn trong một thời gian ngắn. Nét chung này được thể hiện cụ thể ở mỗi địa phương với những điểm riêng biệt, làm cho cách mạng mang tính phong phú, đa dạng.

Những bài viết về cuộc khởi nghĩa ở các tỉnh sẽ làm rõ những nét riêng ở địa phương trong bối cảnh cuộc cách mạng diễn ra trong phạm vi cả nước.

Trong phần này, chúng tôi trình bày diễn biến của cuộc khởi nghĩa theo địa giới hành chính lúc bấy giờ (tỉnh cũ) của ba “kỳ” (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ). Nội dung bài viết ngắn gọn, không đi sâu vào chi tiết cuộc khởi nghĩa ở mỗi địa phương mà chỉ làm rõ các đặc điểm.

Trình bày cuộc khởi nghĩa ở các địa phương, chúng tôi vẫn dành cho các thành phố Hà Nội, Huế, Sài Gòn (nay là Thành phố Hồ Chí Minh) một số trang nhiều hơn để làm rõ vai trò, vị trí của các thành phố này trong Cách mạng tháng Tám 1945.

Đồng thời, để làm rõ nét đặc thù của mỗi tỉnh, trong một mức độ nhất định, chúng tôi đi sâu trình bày cuộc khởi nghĩa ở một huyện (huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định), ở một xã (xã Tam Hưng - Hà Đông, nay thuộc Hà Tây).

Cuối phần, một bản Niên biểu về cuộc khởi nghĩa tháng Tám của các tỉnh.

Vì khuôn khổ của sách nên không thể trình bày về cuộc khởi nghĩa ở tất cả các tỉnh.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tám, 2011, 05:33:05 pm
CAO BẰNG(1)

Cao Bằng thuộc khu Việt Bắc - một vị trí chiến lược quan trọng về quân sự và chính trị trong nước. Vì vậy, nơi đây đã từng diễn ra những cuộc đấu tranh quyết liệt chống ngoại xâm và sớm hình thành ở nhân dân các dân tộc truyền thống yêu nước và cách mạng.

Trong quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, Cao Bằng có một vai trò lớn. Năm 1972, đồng chí Hoàng Văn Thụ đã tuyển chọn một số thanh niên Cao Bằng ra nước ngoài học tập và được kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Tháng 4.1930, chi bộ Đảng đầu tiên ở Cao Bằng được đồng chí Hoàng Đình Giong tổ chức. Trong những năm 1932-1935, dù bị thực dân Pháp đánh phá ác liệt, các tổ chức Đảng ở Cao Bằng vẫn giữ vững được phong trào cách mạng trong cả tỉnh. Nhiều chi bộ mới được thành lập ở Hòa An, Tính Túc, Hà Quảng, Quảng Uyên, Thạch An. Trong thời kì 1936-1939, cuộc đấu tranh giành quyền dân sinh, dân chủ dấy lên mạnh mẽ ở Cao Bằng, tiêu biểu là cuộc đấu tranh của hơn 500 đồng bào các dân tộc vào năm 1939.

Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra (tháng 9.1930), Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam (tháng 1.1941). Người đã quyết định lấy Cao Bằng làm căn cứ - đại bản doanh chỉ dạo cách mạng cả nước. Bởi vì, “Căn cứ địa Cao Bằng sẽ mở ra triển vọng lớn cho cách mạng nước ta. Cao Bằng có phong trào tốt từ trước lại kề sát biên giới, lấy đó làm cơ sở liên lạc quốc tế rất thuận lợi. Nhưng từ Cao Bằng còn phải phát triển về Thái Nguyên và thông xuống nữa mới có thể tiếp sức với toàn quốc được. Có nối phong trào được với Thái Nguyên và toàn quốc thì khi phát triển đấu tranh vũ trang, lúc thuận lợi có thể tấn công, lúc khó khăn có thể giữ”(1).

Ngày 8.2.1941, Bác Hồ về hang Pác Bó (Cao Bằng). Tại đây, Người đã chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ Tám tại Khuổi Nậm, định ra những phương hướng, chủ trương sáng suốt, cụ thể để phát triển phong trào cách mạng cả nước, tiến tới Tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn. Hội nghị Trung ương lần này đã xác định, chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cách mạng lúc bấy giờ.

Không chỉ lãnh đạo cách mạng trong nước, Hồ Chí Minh đã trực tiếp chỉ đạo việc tổ chức, huấn luyện về chương trình Việt Minh cho phong trào cách mạng Cao Bằng, lấy đó làm thí điểm, rút kinh nghiệm cho cả nước.

Đến giữa năm 1941, Phong trào Việt Minh ở Cao Bằng cũng như của hai tỉnh Bắc Kạn, Lạng Sơn phát triển mạnh mẽ. vì vậy, Hội nghị đại biểu ba tỉnh đã bầu Ban Liên tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng để thống nhất lãnh đạo khu căn cứ địa đang hình thành.

Tháng 10.1941, theo chỉ đạo của đồng chí Hồ Chí Minh, đội vũ trang tập trung đầu tiên của Cao Bằng được thành lập. Đội gồm có 12 người, do Lê Quảng Ba chỉ huy. Đội có nhiệm vụ bảo vệ cơ quan của Đảng, giữ vững giao thông liên lạc, tuyên truyền vận động quần chúng địa phương, giúp đỡ huấn luyện cho các đơn vị tự vệ trong vùng.

Nhiều “xã hoàn toàn Việt Minh” dần dần xuất hiện, tình thế “hai chính quyền song song tồn tại” ra đời, song thực chất, Mặt trận Việt Minh cơ sở đã thực hiện chức năng chính quyền cách mạng; bộ máy hành chính của địch đã rệu rã, tan vỡ. Về cơ bản, đây là hình thức “chính quyền hai mặt”, bên ngoài của địch, bên trong thuộc về cách mạng, vì hầu hết các hào lí đều là hội viên cứu quốc hay cảm tình cách mạng. Mỗi công việc của địa phương đều do Việt Minh điều hành, giải quyết. Việc luyện tập quân sự của thanh niên trai, gái trong xã được tiến hành công khai. Mỗi người tham dự huấn luyện một, hai đợt; mỗi đợt kéo dài từ 5-7 ngày. Đầu năm 1942, một lớp huấn luyện quân sự của tỉnh được tổ chức tại Khuổi Nậm trong vòng một tháng.

Từ phong trào luyện tập quân sự của quần chúng, Tỉnh ủy chọn một số người gửi đi học quân sự dài hạn ở nước ngoài. Tính đến tháng 10.1944, đã có 760 cán bộ được cử đi học, trong số này có nhiều người trở thành tướng lĩnh tài giỏi sau này, như Lê Quảng Ba, Lê Thiết Hùng, Bằng Giang…

Phong trào quần chúng được phát triển, củng cố, nhiều gương đấu tranh anh dũng bảo vệ cách mạng xuất hiện, tiêu biểu là tấm gương của Kim Đồng.

Sang năm 1943, những thắng lợi của Hồng quân Liên Xô ở mặt trận phía Đông làm cho quân Đức ngày càng suy yếu. Đây là điều kiện cho cách mạng giải phóng dân tộc các nước thuộc địa vùng dậy. Vì vậy, Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định củng cố và phát triển Mặt trận Việt Minh, tích cực chuẩn bị khởi nghĩa. Do đó, cần tổ chức ngay những “con đường quần chúng” từ Cao Bằng lên Bắc Kạn, Thái Nguyên, đánh thông mối liên lạc giữa Trung ương với miền xuôi. Con đường “Nam tiến” được thực hiện thắng lợi vào mùa đông 1943, chỉ trong vòng 8 tháng (từ tháng 2 đến tháng 10.1943). “Con đường quần chúng cách mạng” theo hướng “Nam tiến” được mở, nối liền Cao Bằng với Lạng Sơn, xuống Thái Nguyên rồi tiếp xuống miền xuôi. Việt Bắc, Cao Bằng nói riêng đã gắn với phong trào cách mạng trong cả nước.

Đến giữa năm 1944, sự thất bại của phát xít Đức đã hiện rõ, thời cơ giành chính quyền đã đến gần. Ngày 7.5.1944, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị về sửa soạn khởi nghĩa khẩn cấp hơn.

Ngay 13.8.1944, Hội nghị Liên tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng họp ở chân vách núi Lưỡng Sa (nằm giữa Hòa An và Nguyên Bình, Cao Bằng) quyết định khởi nghĩa, vì tình thế cách mạng ở khu vực đã chín muồi. Nhiều cuộc khởi nghĩa lẻ tẻ, rời rạc đã diễn ra ở Lạng Sơn và bị địch khủng bố nặng nề.


(*) Người viết: TS. Bùi Thị Thu Hà, Phân viện Hà Nội, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
(1) Võ Nguyên Giáp: Những chặng đường lịch sử, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 33.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tám, 2011, 05:34:30 pm
Tháng 10-1944, Ban Liên Tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng chuẩn bị triệu tập cuộc hội nghị để định ngày khởi nghĩa thì được tin Hồ Chí Minh từ Trung Quốc đã về nước và sẽ đến thăm. Tại một địa điểm gần biên giới Việt - Trung, tiếp giáp xã Nà Xác (Hà Quảng, Cao Bằng), Hồ Chí Minh đã gặp Ban Liên lạc Tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng, đề nghị hoãn cuộc khởi nghĩa, vì quyết định khởi nghĩa mới xuất phát từ tình hình của địa phương chứ chưa căn cứ tình hình chung của cả nước. Nếu phát động khởi nghĩa thì sẽ gặp khó khăn, địch sẽ tập trung lực lượng đàn áp. Người chỉ rõ: thời kì hòa bình phát triển đã qua, nhưng thời kì toàn dân khởi nghĩa chưa tới, song cần phải xây dựng lực lượng vũ trang để giữ vững phong trào và tiến tới khởi nghĩa . Theo chỉ thị của Hồ Chí Minh, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập trong khu rừng giữa hai tổng Trần Hưng Đạo và Hoàng Hoa Thám thuộc châu Nguyên Bình (Cao Bằng). Sau khi thành lập, đội đánh thắng ở đồn Phai Khắt (ngày 25.12.1944) và đồn Nà Ngần (ngày 26.12.1944).

Sau khi đảo chính Pháp (9.3.1945), quân Nhật đánh đồn Pháp ở Nguyên Bình; quân Pháp ở Cao Bằng tháo chạy, định vượt biên giới sang Trung Quốc. Quân giải quyết từ khu rừng Phan Thanh (tổng Hoàng Hoa Thám) tiến xuống cánh đồng Kim Mã giữa ban ngày, được nhân dân vui mừng đón chào. Quân ta bố trí các ngả bao vây, chặn đường, kêu gọi, thuyết phục hoặc điều đình. Kết quả là nhiều toán lính ngụy đã tự giải tán, nhiều đồn trại lính dõng bị triệt hạ, những toán lính Pháp ở Trà Lĩnh, Mã Phục ngoan cố chống lại đã bị đánh tan và bị tước toàn bộ vũ khí.

Phong trào đấu tranh vũ trang ở Cao Bằng lan nhanh khắp tỉnh. Ngày 13.3.1945, quân Giải phóng và lực lượng du kích bao vây đồn Sóc Giang, giải phóng châu lị Hà Quảng. Ngày 18.3, giải phóng huyện Thông Nông; rồi lần lượt đến các huyện Hòa An, Nguyên Bình, Thạch An, Quảng Uyên, Trùng Khánh… Trong một thời gian ngắn, quân dân Cao Bằng thu được 4.000 súng trường, súng máy, súng cối và cả đại bác, cùng nhiều quân trang, quân dụng, lừa, ngựa. Phấn khởi trước chiến thắng, thanh niên Cao Bằng nô nức tòng quân và lập được 10 đại đội Giải phóng quân.

Trong đợt quân Nhật mở đợt tiến công lớn vào khu giải phóng Việt Bắc tháng 5.1945, quân dân Cao Bằng tiến công liên tiếp vào các đồn Nậm Nhũng, Đôn Chương, Đào Ngạn (Hà Quảng), Sóc Giang, Doanh Phán; đánh địch trên đường đi Nước Hai (Hòa An), ở Khuôn Luộc, Nà Bao (Nguyên Bình), ở bản Niên, Kéo Ái, Nậm Nàng (Thạch An).

Từ đầu tháng 5.1945, Hồ Chí Minh từ Cao Bằng về chiến khu Hoàng Hoa Thám, chọn Tân Trào (Tuyên Quang) làm căn cứ chỉ đạo cuộc khởi nghĩa đang chuẩn bị bùng nổ khắp nước. Để tạo chỗ đứng vững chắc cho cách mạng, Người chỉ thị thành lập Khu Giải phóng, bao gồm 6 tỉnh và vành đai ngoại vi rộng 40.000km2, với trên 1 triệu đồng bào các dân tộc Việt Bắc. Khu giải phóng Việt Bắc là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam độc lập, tự do sẽ ra đời trong tương lại không xa.

Sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh, thời cơ khởi nghĩa đã đến; nhân dân Cao Bằng, tập hợp trong Mặt trận Việt Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã đứng dậy đấu tranh.

Trong những ngày 17, 18 và 19.8.1945, quần chúng cách mạng và các lực lượng vũ trang Cao Bằng đã vây các đồn Sóc Giang, Nước Hai, thị trấn Trùng Khánh, Quảng Uyên… cắm cờ đỏ sao vàng xung quanh vị trí địch, kêu gọi chúng đầu hàng. Lực lượng khởi nghĩa tổ chức các cuộc mít tinh quần chúng, truy quét bọn phản động tay sai Nhật.

Đêm 18.8, quân Nhật ở Trùng Khánh rút chạy; ngày 19.8, quân Nhật ở Quảng Uyên cũng bỏ đồn chạy. Quần chúng cách mạng vây bắt viên tri châu Quảng Uyên và số lính bảo an còn lại, thu súng đạn.

Ngày 20.8, Ủy ban nhân dân lâm thời châu Quảng Uyên tổ chức mít tinh, ra mắt đồng bào và tuyên bố xóa bỏ chính quyền địch.

Ở Hòa An, một đại đội lính Nhật kéo ra bản Sảy, bị quân dâm cách mạng địa phương chặn đánh. Viên tri châu Hòa An và 60 lính bảo an mang súng ra hàng Việt Minh. Trước tình hình ấy, đại đội lính Nhật phải rút chạy ngay trong đêm 20.8.

Cùng trong đêm 20.8, quân Nhật ở Sóc Giang cũng bí mật xuyên rừng chạy về Đôn Chương, song trên đường rút chạy, chúng bị quân dân Cao Bằng phục kích ở Nậm Thông, Nà Lỏa; 20 tên bị tiêu diệt.

Quân Nhật đóng ở Nguyên Bình, Tĩnh Túc cũng hoảng sợ, rút chạy về Bắc Kạn qua đèo Côlia; song trên đường chúng bị quân dân Cao Bằng chặn đánh, nhiều tên bị tiêu diệt.

Chiều 21.8, Ủy ban nhân dân lâm thời Tĩnh Túc ra mắt nhân dân.

Ở Nguyên Bình, lính bảo an kéo ra hàng, mang theo 100 súng các loại. Sáng ngày 22.8, Ủy ban nhân dân lâm thời huyện ra mắt quần chúng trong cuộc mít tinh có nhiều người tham dự.

Cuộc khởi nghĩa thắng lợi ở các địa phương trong tỉnh, đêm 21.8 quân Giải phóng tiến vào thị xã Cao Bằng, buộc chính quyền thân Nhật phải bàn giao toàn bộ chính quyền cho cách mạng. Tuy vậy, quân Nhật đóng ở thị xã không chịu giao nộp vũ khí mà chúng đã chiếm của Pháp. Sau một cuộc điều đình gay go, chúng mới chấp nhận không can thiệp vào nội bộ Việt Nam và giao trả số vũ khí đã chiếm của Pháp.

Sáng ngày 22.8.1945, quân dân Cao Bằng tổ chức cuộc tuần hành thị uy lớn ở thị xã, rồi tiến hành mít tinh lớn tại chùa Phố Cũ. Ủy ban nhân dân lâm thời tỉnh và thị xã Cao Bằng ra mắt đồng bào.

*

Cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 đã hoàn toàn thắng lợi ở Cao Bằng, góp phần vào thắng lợi chung của cả nước.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tám, 2011, 05:37:11 pm
BẮC KẠN(*)

Bắc Kạn là một trong những tỉnh miền núi phía Bắc nước ta, nằm giữa trung tâm căn cứ địa Việt Bắc, địa hình có nhiều thuận lợi về quân sự. Tuy đồng bào dân tộc ít người sống xa trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội, tri thức còn nhiều hạn chế, nhưng có truyền thống yêu nước cách mạng. Vì vậy khi được giác ngộ, đồng bào đã quyết tâm đấu tranh theo đường lối cách mạng của Đảng.

Do ảnh hưởng của phong trào chung, trong những năm 1930-1931, đồng bào ở hai tổng Hà Vị, Nông Thượng và khu vực thị xã Bắc Kạn do Nguyễn Bông ở Xuất Hòa và ông Chỉ ở Cao Kỳ chỉ huy, tổ chức làm đơn tập thể lên Phủ toàn quyền Đông Dương về bọn thực dân Pháp và quan lại ức hiếp dân chúng.

Trong những năm 1936-1939, khi cao trào vận động dân chủ phát triển sâu rộng trong cả nước, ở Bắc Kạn diễn ra các cuộc đấu tranh của nhân dân chống việc bắt phu làm đường Bắc Kạn - Chợ Đồn, Bắc Kạn - Chợ Rã.

Đầu năm 1941, sau khi Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam, từ một khu vực nhỏ hẹp ở Hà Quảng, phạm vi căn cứ địa cách mạng phát triển rộng cả 3 vùng: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn.

Từ cuối năm 1941 đầu năm 1942, phong trào Việt Minh ở Bảo Lạc (Cao Bằng) phát triển, ảnh hưởng mạnh mẽ đến phía bắc Chợ Rác. Cuối năm 1942, Ban Việt Minh liên xã Cao Minh gồm 3 xã Cao Tân, Cao Thượng, Cổ Linh ra đời, thu hút đông đảo nhân dân địa phương. Đây là tổ chức Việt Minh đầu tiên của tỉnh Bắc Kạn.

Để giữ vững cơ sở cách mạng, Việt Minh đã thành công lớp huấn luyện quân sự ở Nà Lai xã Cao Tân, Mê Sào xã Cổ Linh và Trà Vành xã Cao Thượng để xây dựng các đội tự vệ.

Năm 1943, đáp ứng yêu cầu hình thành con đường nối liền căn cứ Cao Bằng - Thái Nguyên, cũng như giữa các căn cứ với nhau, ta chủ trương xây dựng cơ sở cách mạng ở Bắc Kạn,. Trên con đường Nam tiến, các đội công tác xuất phát từ tổng Kim Mã (Cao Bằng) tiến vào Bắc Kạn theo 2 mũi: qua phía bắc Ngân Sơn đến Chợ Rã xuống Chợ Đồn và từ Nguyên Bình (Cao Bằng) qua Bằng Đức (Ngân Sơn) xuống Phủ Thông. Đoàn Nam tiến đi đến đâu xây dựng cơ sở cách mạng và lực lượng bán vũ trang đến đó, tiến tới thành lập các đội tự vệ

Các đội tự vệ làm nhiệm vụ bảo vệ cơ sở cách mạng, trừng trị bọn tay sai, ngăn chặn những cuộc càn quét khủng bố của địch, phong trào của tổng Chí Kiên (Bằng Đức) phát triển mạnh nhất.

Tại Chợ Rã, theo đường dây của họ hàng người Dao, các cán bộ Nam tiến đã nhanh chóng xây dựng cơ sở ở đây và vượt qua sự kiểm soát của địch đến vùng Tày - Nùng ở chân núi Phia Bjóc.

Con đường liên lạc các trung tâm cách mạng ở Việt Bắc được khai thông. Tháng 10.1943, hai đoàn Nam tiến và Bắc tiến gặp nhau ở Nghĩa Tá (Chợ Đồn); để kỉ niệm thắng lợi này, Nghĩa Tá được đặt tên là xã Thắng lợi.

Cuối tháng 3.1943, phong trào Việt Minh ở Bắc Kạn phát triển rộng khắp từ Ngân Sơn đến Chợ Rã, từ Bạch Thông đến Chợ Đồn. Trước sự lớn mạnh của phong trào ở Bắc Kạn nói riêng và ở Việt Bắc nói chung, vào cuối năm 1943 thực dân Pháp đã tiến hành khủng bố, đàn áp dã man. Tuy vậy, phong trào cách mạng ở Bắc Kạn vẫn được giữ vững. Nhiều tấm gương hi sinh anh dũng của cán bộ, đảng viên đã có sức cổ vũ mạnh mẽ tinh thần đấu tranh của nhân dân các dân tộc trong việc chống nộp phạt, bắt bớ, thực hiện tốt khẩu hiệu; “không biết, không thấy cộng sản”, “không đầu hàng, không đầu thú”. Đồng bào bí mật che dấu nuôi dưỡng cán bộ cách mạng, nhiều gia đình ăn ngô, khoai, nhường gạo tiếp thế cho cán bộ.

Vượt qua những khó khăn do sự khủng bố gắt gao của địch gây ra, phong trào cách mạng ở Bắc Kạn nói riêng và ở Cao - Bắc - Lạng nói chung từng bước phục hồi và phát triển. Ngày 23.1.1944, Tỉnh ủy lâm thời Bắc Kạn được thành lập.

Thực hiện chỉ thị “Sửa soạn khởi nghĩa” ngày 7.5.1944 của Tổng bộ Việt Minh, tháng 7.1944, Ban Việt Minh Liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng chủ trương phát động chiến tranh du kích trong phạm vi liên tỉnh, xúc tiến chuẩn bị công việc khởi nghĩa.

Tháng 10.1944, tại Bó Lọn thuộc xã Lương Bằng, huyện Chợ Đồn, trung đội tự vệ chiến đấu đầu tiên của châu được thành lập, tiến hành huấn luyện trong 20 ngày. Theo kế hoạch của ban Việt Minh Cao - Bắc - Lạng, nhân dân 3 tỉnh chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang. Công việc đang được thực hiện khẩn trương thì Hồ Chí Minh về nước, kịp thời hoãn cuộc khởi nghĩa, tránh được sự đổ máu không cần thiết vì lúc đó điều kiện chưa chín muồi.

Theo chỉ thị của Hồ Chí Minh, Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập ngày 22.12.1944 tại Cao Bằng, trong đó có 5 chiến sĩ là người Bắc Kạn: Bế Văn Vạn, Hoàng Thái Sơn, Hoàng Kính Phát, Đường Mạc Thạch, Hoàng Thịnh.

Ở Bắc Kạn, dù đến trung tuần tháng 3.1945 vẫn chưa có tên Nhật nào xuất hiện, nhưng ngay sau khi được tin Nhật đảo chính Pháp thì bộ máy cai trị của Pháp lập tức bị tê liệt. Binh lính bỏ chạy khỏi thị xã, bọn quan chức dân sự bỏ trốn hoặc chờ Nhật đến để đầu hàng. Bọn tay sai của Pháp như rắn mất đầu.

Tại Cao - Bắc - Lạng, tuy chưa liên lạc được với Trung ương nhưng nhận rõ thời cơ ngàn năm có một đã đến, Ban Thường vụ liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng đã họp và quyết định:

1. Đánh đổ chế độ thống trị của Pháp ở nông thôn, lúc đó tùy nơi sẽ thành lập chính quyền nhân dân từ cấp xã đến cấp tỉnh.

2. Phân phối cán bộ của Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân về cùng đội vũ trang địa phương, tổ chức thêm những đơn vị giải phóng, chuẩn bị chống Nhật.

3. Phá hoại giao thông và làm vườn không nhà trống.

4. Không khiêu chiến quân Pháp bị Nhật đánh đuổi mà phải tích cực kêu gọi chúng cùng ta lập mặt trận chống Nhật.

Thực hiện nghị quyết đó, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh ủy lâm thời Bắc Kạn, Ban chỉ huy Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, Ban lãnh đạo chiến khu Hoàng Hoa Thám và Ban cán sự A.T.K, đồng bào các dân tộc trong tỉnh nổi dậy giành chính quyền. Khí thế cách mạng ở khắp nơi dâng lên như sóng cồn.


(*) Người viết: - ThS. Lê Văn Chiến, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
- Nông Thị Du, Sở Giáo dục - Đào tạo Bắc Kạn.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tám, 2011, 05:38:45 pm
Sau ít ngày gấp rút chuẩn bị, các đơn vị vũ trang Bắc Kạn phối hợp với các đơn vị Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân đã nổ súng tiến công địch ở nhiều nơi, hỗ trợ đồng bào các dân tộc xóa bỏ chính quyền tay sai, thành lập chính quyền cách mạng.

Tại Ngân Sơn, phong trào cách mạng của nhân dân phát triển mạnh nên bộ máy thống trị của địch tan rã từng mảng. Trước tình hình khách quan thuận lợi, ngày 20.3.1945, một đơn vị Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân kết hợp với các đơn vị vũ trang địa phương từ nhiều hướng tiến về châu Ngân Sơn. Trước sự hoang mang của tên đồn trưởng Pháp và bọn lính, để tránh đổ máu ta kêu gọi quân địch cùng hợp tác với Việt Minh đánh Nhật; bọn địch phải chấp nhận yêu cầu của ta và đưa quân vào vị trí do ta quy định. Ngày 21.3, lực lượng quân sự cuối cùng của địch ở Ngân Sơn bị phá bỏ, 16 xã thuộc Ngân Sơn được giải phóng, nhân dân đã giành chính quyền từ tay địch. Ngân Sơn đi đầu trong các châu huyện của tỉnh về việc đập tan bộ máy thống trị của địch.

Tại Chợ Rã, ngày 19.3.1945 tự vệ và lực lượng vũ trang khu Thiện Thuật chặn đánh Pháp ở Pò Mò thuộc xã Bằng Thành, buộc chúng phải giao nộp cho ta 30 súng các loại và nhiều chiến lợi phẩm. Ngày 23.3.1945, các đơn vị vũ trang địa phương tiến vào giải phóng Chợ Rã. Được sự giúp đỡ của Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, Ủy ban lâm thời Chợ Rã được thành lập. Đây là Ủy ban lâm thời đầu tiên ở Bắc Kạn.

Ở Chợ Đồn, lực lượng vũ trang được bổ sung hai tiểu đội tự vệ mới thanh lập và phát triển thành hai trung đội, trung đội tự vệ chiến đấu được trang bị vũ khí tốt để đánh chiếm các đồn bốt, tiêu diệt lực lượng quân sự địch; một trung đội tự vệ khác làm nhiệm vụ vũ trang tuyên truyền, tước khí giới lính dõng, thu bằng triện, xóa bỏ chính quyền địch. Đêm 28.3.1945, trung đội tự vệ chiến đấu dưới sự chỉ huy của trung đội trưởng Vũ Yến tiến đánh đồn Tổng Quận xã Bình Trung. Trước khí thế cách mạng của quần chúng, quân địch hoang mang bỏ chạy, phần lớn xin đầu hàng lực lượng cách mạng. Lực lượng tự vệ đánh đồn nhanh gọn, không tốn xương máu. Tiếp đó lực lượng tự vệ chiến đấu và nhân dân giải phóng khu mỏ Ban Thi và tiêu diệt địch ở các xã Nghĩa Tá, Yên Nhuận, Bằng Lãng, Ngọc Phái, vv. Bộ máy thống trị ở Chợ Đồn bị xóa bỏ. Đến ngày 30.3.1945, đại bộ phận châu Chợ Đồn được giải phóng, ủy ban lâm thời lần lượt ra đời. Trên cơ sở đó, đầu tháng 4.1945, Ủy ban nhân dân lâm thời châu Chợ Đồn chính thức thành lập.

Ở Na Rì, ngày 28.3.1945 một trung đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân kết hợp với đơn vị vũ trang địa phương và nhân dân tiến đánh châu lị, tên tri châu hoảng sợ bỏ chạy, lính đồn Yến Lạc tự động đầu hàng.

Tại Bạch Thông, được sự giúp đỡ của Cứu quốc quân và cán bộ đặc phái của Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, các đơn vị tự vệ vũ trang và nhân dân nổi dậy cướp chính quyền, làm tan rã bộ máy thống trị và tay sai của chúng ở các xã Vi Hương, Quân Bình, vv.

Ngày 17.3.1945, quân Nhật chiếm đóng lại thị xã và một số vị trí quan trọng khác. Từ hạ tuần tháng 3 đến đầu tháng 4.1945, chúng đưa quân đi chiếm một số châu lị, thị trấn và các vị trí trọng yếu về quân sự và chính trị như Nà Cù, Lục Bình, Phủ Thông… xây dựng hệ thống đồn bốt, cứ điểm trải rộng suốt trục đường số 3, nhưng không làm thay đổi được tình thế.

Ngày 18.5.1945, Đảng bộ và nhân dân Bắc Kạn vinh dự được đón và bảo vệ Hồ Chí Minh trên đường từ Cao Bằng về Tân Trào. Người đã dừng lại thăm một số đơn vị vũ trang và đồng bào các huyện Ngân Sơn, Chợ Đồn, Chợ Rã và có những chỉ thị quý báu đối với Đảng bộ và nhân dân Bắc Kạn về những mặt công tác cấp bách, như xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng, tăng cường lực lượng vũ trang, vv.

Sau hai tháng chiếm đóng tại thị xã Bắc Kạn, quân Nhật thất bại trong việc thành lập chính quyền tay sai. Trung tuần tháng 5.1943, quân Nhật mở cuộc càn quét vào vùng giải phóng, các căn cứ cách mạng thuộc khu vực giáp giới các tỉnh Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang. Chúng tiến quân theo 3 hướng, trong đó cánh quân thứ ba từ thị xã Bắc Kạn tiến công Chợ Rã, Chợ Đồn. chúng tiến hành bao vây càn quét vùng hồ Ba Bể, hàng nghìn lính bảo an chia làm bốn mũi tham gia tấn công. Nhân dân Bắc Kạn thực hiện “vườn không nhà trống”, quyết tâm tiêu diệt địch. Tại Chợ Rã, tự vệ các xã Nam Mẫu, Khang Ninh đã dũng cảm phục kích quân Nhật khiến chúng phải rút lui sau ba ngày chiếm đóng.
 
Tiếp đó, các trận phục kích địch ở Cao Kỳ (7.5), Bản Pè (11.5), Nà Hoan (22.5) và nhiều trận đánh quân tiếp viện ở Chợ Mới đã tiêu diệt nhiều địch và thu được nhiều vũ khí.

Những thành tích của quân và dân Bắc Kạn qua các trận tập kích, phục kích, chống càn trong tháng 3 và 4.1945 thể hiện tinh thần chủ động táo bạo đánh địch, đánh dấu bước trưởng thành của phong trào cách mạng Bắc Kạn, tạo cơ sở vững chắc tiến tới Tổng khởi nghĩa khi thời cơ đến.

Sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh, quân Nhật ơ Bắc Kạn hoang mang, chúng bắt đầu bỏ các đồn bốt nhỏ về cố thủ tại thị xã và các đồn lớn như Phủ Thông, Nà Cù và muốn điều đình với cách mạng. Trong tình thế như vậy, theo chủ trương của Ủy ban khởi nghĩa, các đơn vị Giải phóng quân, du kích tự vệ và quần chúng vũ trang vây chặt tỉnh lị không cho quân Nhật rút chạy. Chúng đã cử phái viên ra Phặc Chàng, thuộc xã Dương Quang đề nghị thương lượng. Ban chỉ huy đơn vị Giải phóng quân đã đến gặp đại diện Nhật ở sân bay thị xã.

Cuộc thương lượng diễn ra vào ngày 19.8.1945, phía Bắc Kạn có các đồng chí Thu Sơn, Hải Phong còn phía địch có tên chỉ huy quân Nhật và Đinh Ngọc Phụng. Ta nói rõ chủ trương và chính sách nhân đạo của Việt Minh, yêu cầu quân Nhật tự giác nộp vũ khí và không can thiệp vào công việc nội bộ của cách mạng Việt Nam.

Tuy quân Nhật còn tỏ ra chần chừ, nhưng trước thái độ kiên quyết của ta, chúng phải cử người đưa đoàn vào thị xã ngay đêm 19.8.

Sáng ngày 20.8, chỉ huy quân Nhật giao cho cách mạng toàn bộ hồ sơ, bộ máy chính quyền tay sai, kho tàng, công sở.

Sáng ngày 21.8, ta tiếp quản thị xã, giải tán trại bảo an binh, tuyên bố xóa bỏ chính quyền cấp tỉnh của địch.

Ngày 25.8, diễn ra cuộc mít tinh hàng vạng người tại sân vận động thị xã, tuyên bố chính thức xóa bỏ chính quyền địch ở Bắc Kạn. Chính quyền cách mạng được thành lập và Ủy ban nhân dân lâm thời tỉnh ra mắt nhân dân.

*

Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Bắc Kạn diễn ra nhanh chóng và hoàn toàn thắng lợi, đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc trong đấu tranh giành độc lập tự do của Đảng bộ và nhân dân Bắc Kạn. Thắng lợi của khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng là một minh chứng hùng hồn thể hiện tinh thần yêu nước nồng nàn và truyền thống đoàn kết, tự lực tự cường, sáng tạo của nhân dân các dân tộc Bắc Kạn dưới sự chỉ đạo của Đảng.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tám, 2011, 05:42:20 pm
LẠNG SƠN(*)

Lạng Sơn là cửa ngõ phía Đông Bắc của đất nước. Với địa hình phức tạp, đa dạng, hiểm yếu, Lạng Sơn trở thành một vị trí chiến lược quan trọng trong việc xây dựng lực lượng cách mạng, xây dựng căn cứ địa cách mạng đầu tiên của cả nước trong thời kì vận động giải phóng dân tộc (1939-1945). Được sự quan tâm, giúp đỡ và chỉ đạo trực tiếp của Trung ương Đảng, Xứ ủy Bắc Kỳ, cùng với sự nỗ lực cố gắng của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Lạng Sơn, từ trước năm 1945 phong trào cách mạng ở đây đã phát triển vững chắc. Quá trình xây dựng lực lượng cách mạng tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền ở Lạng Sơn là một bộ phận khăng khít của Cách mạng tháng Tám trong cả nước. Mở đầu cho cao trào cách mạng 1939-1945 là cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (tháng 9.1940).

Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (tháng 11.1940) chủ trương khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền; vì vậy, vấn đề xây dựng lực lượng cách mạng và căn cứ địa cách mạng chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang được đề ra như một nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết. Trung ương đã quyết định duy trì đội du kích Bắc Sơn, thành lập căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai. Trên cơ sở đội du kích Bắc Sơn, đội Cứu quốc quân I ra đời, có tác dụng to lớn đối với phong trào cách mạng ở Lạng Sơn. Tiêu hao lực lượng địch, vừa chiến đấu vừa phát triển lực lượng, mở rộng địa bàn hoạt động, nâng cao trình độ hợp đồng tác chiến; góp phần vào việc mở rộng căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai, làm chỗ dựa vững chắc cho lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, đấu tranh chống khủng bố của kẻ địch, bảo vệ lực lượng, bảo vệ cơ sở cách mạng.

Khởi nghĩa Bắc Sơn có tác dụng trực tiếp, tích cực cổ vũ tinh thần đoàn kết đấu tranh cách mạng của nhân dân trong tỉnh. Việc sử dụng hình thức vũ trang giành chính quyền của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn đã trở thành bài học sâu sắc trong quá trình chuẩn bị lực lượng, tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám 1945 ở Lạng Sơn.

Sau Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (tháng 5.1941), dưới dự chỉ đạo của Trung ương và Tổng bộ Việt Minh, hội nghị liên tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn được triệu tập và cử ra ban Việt Minh liên tỉnh để thống nhất chỉ đạo phong trào. Được sự chỉ đạo sát sao của Ban Việt Minh liên tỉnh, hàng loạt cơ sở Việt Minh ở Lạng Sơn đã được xây dựng, ban đầu ở một số xã, châu miền núi và ngày càng mở rộng, với nòng cốt là đảng viên trung kiên còn lại sau thời gian khủng bố khốc liệt của thực dân Pháp. Càng đến gần những ngày khởi nghĩa giành chính quyền, phong trào Việt Minh càng mở rộng, phát triển mạnh, có những xã, châu Việt Minh hoàn toàn. Mặt trận Việt Minh ở Lạng Sơn thực sự là trung tâm đoàn kết, tập hợp mọi giai cấp, tầng lớp, dân tộc, trở thành một lực lượng chính trị quần chúng phát triển mạnh mẽ, đóng góp to lớn vào quá trình đấu tranh cách mạng ở Lạng Sơn, đặc biệt là trong cao trào kháng Nhật cứu nước và trong quá trình khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng, trở thành nhân tố chủ yếu cùng với lực lượng vũ trang quyết định thắng lợi của cách mạng.

Từ trong phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Lạng Sơn, cùng với sự phát triển của lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang ở Lạng Sơn đã phát triển trưởng thành và lớn mạnh không nừng, trở thành lực lượng nòng cốt quyết định sự thắng lợi của cách mạng. Ngày 15.5.1945, Việt Nam Giải phóng quân ra đời, đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của lực lượng cách mạng Việt Nam, lực lượng vũ trang Lạng Sơn nói riêng. Thực tiễn đấu tranh cách mạng của nhân dân Lạng Sơn từ 1939 đến 1945 chứng tỏ vai trò to lớn của lực lượng vũ trang cách mạng, quyết định sự thắng lợi của Cách mạng tháng Tám ở tỉnh nhà. Lực lượng vũ trang cách mạng ở Lạng Sơn là một trong những cơ sở cho Đảng ta xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng trong cả nước; là lực lượng đi đầu trong quá trình củng cố, xây dựng cơ sở cách mạng, mở rộng căn cứ địa cách mạng, bảo vệ cơ sở cách mạng, trừng trị đích đáng bọn phản động ác ôn; đồng thời là tiền đề để Đảng xây dựng lực lượng ba thứ quân ở giai đoạn cách mạng sau này.

Từ cuối năm 1944, đầu năm 1945, được sự tăng cường chỉ đạo của Tổng bộ Việt Minh, Liên tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng và sự vận động, tổ chức tích cực của Cứu quốc quân từ căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai, các đội vũ trang tuyên truyền chiến đấu lần lượt được thành lập ở nhiều địa phương của Lạng Sơn như Hội Hoan (Thoát Lãng), Thụy Hùng (Văn Uyên), Chí Minh (Tràng Định)… Cùng với sự ra đời của các đội vũ trang cách mạng, các căn cứ du kích cũng được thành lập. Giữa các căn cứ có đường dây liên lạc với nhau, tạo thành hệ thống liên hoàn các căn cứ và liên hệ chặt chẽ với căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai, do Trung ương trực tiếp chỉ đạo.

Cuối năm 1944 đầu năm 1945, cục diện chiến tranh thế giới thứ hai đã có những thay đổi theo chiều hướng có lợi cho lực lượng dân chủ, phe Đồng minh giành được những thắng lợi liên tiếp. Trên các chiến trường  Châu Âu và Thái Bình Dương, bọn phát xít Đức, Nhật thất bại dồn dập và có nguy cơ bị tiêu diệt. Ở Đông Dương, trong khi phong trào đấu tranh của nhân dân ta đang ngày càng lớn mạnh, thì mâu thuẫn giữa Nhật và Pháp ngày càng sâu sắc.

Đúng như dự đoán của Đảng ta, đêm 9.3.1945, Nhật nổ súng đánh Pháp trên toàn cõi Đông Dương. Sau vài cuộc chống cự yếu ớt, quân Pháp ở Đông Dương đã đầu hàng Nhật. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã viết: “Bọn Pháp, mặc dầu có hàng vạn quân trong tay, nhưng khi bị Nhật lật chỉ làm có hai việc: chạy trốn và đầu hàng”(1). Nhật tuyên bố giúp cho nền độc lập của các dân tộc Đông Dương, nhưng thực chất là lật đổ Pháp để độc chiếm Đông Dương. Chúng đã lập ra chính phủ bù nhìn thân Nhật Trần Trọng Kim đứng đầu, bộ máy cai trị cũ về cơ bản vẫn được sử dụng.

Sau khi đánh bại quân Pháp ở Lạng Sơn, bọn phát xít Nhật vẫn duy trì hệ thống chính quyền tay sai cũ do Pháp tổ chức, Tổng đốc Linh Quang Vọng vẫn được Nhật giữ làm tỉnh trưởng bù nhìn.

Ngay sau khi Nhật đảo chính Pháp, Đảng ta đã đề ra chủ trương “phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc khởi nghĩa”(2). Thực hiện chủ trương của Đảng, tháng 3.1945, Liên Tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng chỉ thị cho các Đảng bộ và cơ sở Đảng địa phương: Nhân lúc này lập tức lật đổ bộ máy thống trị thực dân, tùy từng vùng, từng điều kiện mà giành chính quyền ở xã, châu, tỉnh. Ở Lạng Sơn, được sự chỉ đạo phối hợp của Cứu quốc quân, từ tháng 4 đến tháng 7.1945, dưới sự tổ chức trực tiếp của các chi bộ Đảng, các Ban Việt Minh ở các châu Bắc Sơn, Bình Gia, Hữu Lũng, Bằng Mạc, Tràng Định, Thoát Lãng, Điềm He, quần chúng cách mạng đã lần lượt nổi dậy giành chính quyền thắng lợi.


(*) Người viết: Đinh Hữu Thiện, Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nam.
(1) Võ Nguyên Giáp: Từ nhân dân mà ra, hồi kí, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1964, tr. 194.
(2) Văn kiện Đảng (25.1.1939 – 2.9.1945), Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1963, tr. 474.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tám, 2011, 05:45:01 pm
Ngày 19.8.1945, tại Đồng Mỏ (Ôn Châu), dưới sự chỉ đạo của Ban Việt Minh châu, được sự tăng cường của lực lượng vũ trang chủ lực của tỉnh, quần chúng cách mạng đã nhất tề nổi dậy, tiến công quân Nhật, làm chủ châu lị. Ôn Châu được hoàn toàn giải phóng, mở đầu cho việc giành chính quyền thắng lợi trong toàn tỉnh. Cùng ngày, tại Hữu Lũng lực lượng vũ trang và quần chúng cách mạng nổi dậy làm chủ phố Mẹt (sào huyệt của Nhật ở Hữu Lũng), cách mạng thắng lợi nhanh chóng.

Trên đà thắng lợi đó, ngày 21.8, quân dân Thất Khê nổi dậy làm chủ phố Thất Khê, giải phóng hoàn toàn Tràng Định. Ngày 22-8, giải phóng Thoát Lãng.

Trước khí thế của quần chúng cách mạng, ngày 24.8 tại Ba Xã (châu Điềm He), Tỉnh ủy họp và đề ra chủ trương: “Nhân lúc này phải nhanh chóng giải phóng tỉnh lị, lập chính quyền cách mạng”(1). Cùng ngày, Ban chỉ đạo khởi nghĩa của tỉnh được thành lập và quyết định huy động lực lượng vũ trang cách mạng và quần chúng nhân dân từ nhiều hướng tiến vào thị xã khởi nghĩa giành chính quyền.

Như vậy, cùng với lực lượng chính trị hùng hậu của quần chúng, lực lượng vũ trang Giải phóng quân kiên cường anh dũng làm nòng cốt; được sự chỉ đạo kịp thời và sáng suốt của Tỉnh ủy và Tỉnh bộ Việt Minh, từ ngày 13 đến 25.8.1945 nhân dân các dân tộc Lạng Sơn đã chớp thời cơ nổi dậy giành chính quyền. Tuy nhiên, chính quyền cách mạng vừa giành được trong ngày 25.8 thì ngày hôm sau (26.8), quân Tưởng từ bên kia biên giới (với danh nghĩa thay mặt quân Đồng minh vào giải giáp quân Nhật) lũ lượt kéo vào Lạng Sơn.

*

Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa tháng 8.1945 ở Lạng Sơn phản ánh đường lối đúng đắn và nghệ thuật lãnh đạo chiến tranh nhân dân của Đảng ta. Trong đó, vấn đề xây dựng lực lượng cách mạng và căn cứ địa là chủ trương chiến lược đồng thời là yếu tố quan trọng dẫn đến sự thắng lợi của cách mạng. Do điều kiện tự nhiên và hoàn cảnh lịch sử ở Lạng Sơn có nhiều điểm khác so với các địa phương khác, vì vậy quá trình xây dựng lực lượng cách mạng tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền 1945 có những điểm nổi bật riêng. Đó là:

- Lạng Sơn là một trong những tỉnh xây dựng lực lượng chính trị, vũ trang và căn cứ địa cách mạng sớm ở khu vực phía Bắc Tổ quốc. Sở dĩ có được điều đó, bời vì cách mạng Lạng Sơn phát triển trong điều kiện khá thuận lợi. Nơi đây có địa hình hiểm trở, địa bàn cơ động chiến lược; nhân dân giàu lòng yêu nước, có truyền thống đấu tranh bất khuất, nên ngay từ ngày đầu thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thấy vai trò, vị trí to lớn của Lạng Sơn đối với cách mạng cả nước. Đảng luôn quan tâm, chỉ đạo trực tiếp phong trào cách mạng ở đây.

- Lực lượng cách mạng ở Lạng Sơn được hình thành và phát triển trước tiên ở những vùng sâu, vùng biên giới Việt - Trung, vùng xa trung tâm tỉnh lị, nơi cư trú của đồng bào dân tộc thiểu số, sau đó lang sang các địa bàn khác trong tỉnh. Trên thực tế, địch đã ra sức xây dựng hệ thống đồn bốt và lực lượng tay sai, nhưng ở những nơi vùng sâu vùng xa phòng thủ của chúng có phần lơi lỏng, chủ quan, thậm chí có nơi không kiểm soát nổi. Ngược lại những vùng cao, xa, vùng sâu lại là nơi thuận lợi cho cách mạng xây dựng lực lượng để từ đó phát triển xuống vùng thấp hơn.

- Lạng Sơn là chiếc nôi của cuộc khởi nghĩa vũ trang và ra đời lực lượng vũ trang cách mạng. Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (27.9.1940) đã nổ tiếng súng đầu tiên báo hiệu thời kì đấu tranh vũ trang mới của dân tộc Việt Nam. Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn tuy chưa giành được thắng lợi quyết định nhưng “đã ra đời đứa con đầu lòng của lực lượng vũ trang cách mạng - Đội Du kích Bắc Sơn”(2).

- Căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai - một trong những căn cứ địa đầu tiên của cách mạng Việt Nam - ra đời trong cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn. Sự ra đời của căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai là một chủ trương sáng suốt của Đảng ta, phù hợp với yêu cầu phải xây dựng lực lượng bảo vệ cơ sở cách mạng.

Trong quá trình chuẩn bị lực lượng cách mạng ở Lạng Sơn tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền, sự kết hợp giữa đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang diễn ra sớm và ngày càng mạnh mẽ. Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn là sự kết hợp giữa đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị để giành chính quyền.

Quá trình xây dựng, chuẩn bị lực lượng cách mạng tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám 1945 ở Lạng Sơn là một bằng chứng lịch sử góp phần khẳng định rằng, thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 ở Lạng Sơn cũng như trong cả nước, không thể có được, nếu không có sự chuẩn bị chu đáo, toàn diện trong 15 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, mà trực tiếp là thời kì vận động giải phóng dân tộc 1939-1945. Nhờ có sự chuẩn bị đầy đủ đó trong suốt 15 năm của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Lạng Sơn, nên Cách mạng tháng Tám ở Lạng Sơn mới có đủ thực lực và sức mạnh khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng. Sự thắng lợi của Cách mạng tháng Tám ở Lạng Sơn đã góp phần to lớn, để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho sự nghiệp cách mạng.


(1) Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Lạng Sơn: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn 1930-1945 (tái bản lần thứ nhất), 1998, tr. 88.
(2) Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam: Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, tập I, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, tr. 43.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 21 Tháng Tám, 2011, 10:04:47 am
TUYÊN QUANG(1)

Tuyên Quang là tỉnh miền núi phía Bắc, có vị trí chiến lược thuận lợi trong việc thông thương với các tỉnh Việt Bắc và vùng đồng bằng. Vì vậy, Tuyên Quang sớm trở thành một căn cứ cách mạng vững chắc. Đồng bào các dân tộc Tuyên Quang đã cùng nhân dân cả nước đấu tranh đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập.

Bước sang năm 1945, cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai có nhiều chuyển biến có lợi cho lực lượng hòa bình dân chủ, đặc biệt là đối với cách mạng các nước thuộc địa. Tuyên Quang cũng nằm trong sự chuyển biến mau lẹ của tình hình toàn quốc, song có nét riêng. Đầu năm 1945, địa bàn hoạt động cách mạng được mở rộng ở hầu hết các địa phương.

Phong trào cách mạng phát triển mạnh ở các huyện Sơn Dương, Yên Sơn, Chiêm Hóa, thanh thế của Việt Minh ngày càng sâu rộng trong đồng bào các dân tộc.

Ngày 9.3.1945, phát xít Nhật đảo chính Pháp độc chiếm Đông Dương. Ngay đêm đó, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp hội nghị mở rộng và sau đó ra chỉ thị lịch sử “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.

Tại Tuyên Quang, quân Pháp bỏ chạy trước lúc quân Nhật tiến vào thị xã, chính quyền tay sai của Pháp ở các địa phương tán loạn, hoang mang, không khí cách mạng trong quần chúng càng thêm sôi sục. Thời cơ cách mạng đã đến, thời điểm giành chính quyền cho các địa phương ở khu vực Tuyên Quang đang độ chín muồi.

Ngay sau khi Nhật đảo chính Pháp, Phân khu ủy phân khu Nguyễn Huệ đã triệu tập cuộc họp cán bộ tại Khuổi Kẹn (xã Minh Thanh, huyện Sơn Dương hiện nay) vào ngày 10.3.1945, do đồng chí Song Hào chủ trì. Sau khi phân tích tình hình, cuộc họp đã thống nhất nhận định: Nhật, Pháp bắn nhau chứng tỏ hai kẻ thù của dân tộc đều bị suy yếu. Đây là thời cơ thuận lợi để phát động nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền. Ban chỉ huy đã chọn Thanh La (tức Minh Thanh) làm nơi thử nghiệm, “bắt mạch” sự phản ứng của kẻ địch.

Ngay đêm đó, quân khởi nghĩa tập trung lực lượng kéo vào tước vũ khí của lính dõng ở tổng Thanh La, bọn tổng lí, kì hào run sợ, đem giấy tờ, triện đồng, súng đạn nộp cho quân cách mạng.

Ngay hôm sau (11.3.1945), quân khởi nghĩa tổ chức mít tinh ở đình Thanh La kêu gọi nhân dân ủng hộ cách mạng, đoàn kết vùng dậy khởi nghĩa giành chính quyền. Đoàn người dự mít tinh đã biến thành đoàn biểu tình kéo về huyện lị Sơn Dương. Ngày 15.3, lực lượng địch ở đồn Đăng Châu (huyện lị Sơn Dương) ngoan cố chống cự bị lực lượng ta tiêu diệt, huyện lị Sơn Dương được giải phóng, châu Tự Do ra đời. đây là cuộc khởi nghĩa từng phần nổ ra sớm ở nước ta sau khi Nhật đảo chính Pháp, đồng thời với cuộc khởi nghĩa Ba Tơ (Quảng Ngãi).

Một bộ phận lực lượng tiếp đó tiến lên giải phóng huyện lị Chiêm Hóa (28.3.1945) thành lập châu Khánh Thiện, giải phóng huyện lị Na Hang (4.1945), châu Xuân Trường được thành lập

Đến giữa tháng 5.1945, ta giải phóng một số xã thuộc huyện Yên Sơn và sau đó giải phóng huyện lị Hàm Yên (15.5.1945).

Tháng 5.1945, Bác Hồ về Tân Trào chọn làm nơi đặt đại bản doanh cho cách mạng. Bởi vì, Tân Trào có cơ sở cách mạng tốt, địa hình tốt, có thể trở thành một trung tâm liên lạc với miền xuôi, miền ngược và ra nước ngoài. Bác Hồ ở lại nhà một gia đình cơ sở xóm Kim Lộng trong ít ngày rồi chuyển lên một chiếc lán nhỏ làm trên sườn một quả đồi.

Cho đến tháng 6.1945, chính quyền cách mạng được thành lập ở hầu hết các nơi (trừ thị xã Tuyên Quang). Vùng giải phóng được mở rộng nối liền các huyện Sơn Dương, Yên Sơn, Chiêm Hóa, Na Hang sang các vùng Đại từ, Định Hóa (Thái Nguyên), Chợ Đồn (Bắc Kạn). Đây là cơ sở thuận lợi để khu giải phóng Việt Bắc được thành lập ngày 4.6.1945 và Tân Trào được chọn làm thủ đô của khu giải phóng. Đây là hỉnh ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam dân chủ cộng hào sau này. Ủy ban chỉ huy lâm thời khu giải phóng được thành lập. Chính quyền nhân dân trong toàn khu giải phóng được xây dựng, củng cố qua tổ chức bầu cử theo phổ thông đầu phiếu. Nhân dân trong khu giải phóng được hưởng các quyền tự do, dân chủ. Đầu tháng 7.1945, ở Tân Trào đã khai giảng Trường Quân chính kháng Nhật, nhằm đào tạo trung đội trưởng và chính trị viên trung đội.

Quân Nhật tổ chức nhiều cuộc tấn công vào khu giải phóng. Riêng ở vùng Tuyên Quang, chúng bị phục kích nhiều lần trên con đường từ Thái Nguyên sang Tuyên Quang. Vào trung tuần tháng 5.1945, quân Nhật tiến từ ba mặt đánh sâu vào khu căn ứ ở giữa sông Lô và quốc lộ số 3. Một mặt chúng tiến đánh từ Bắc Kạn lên Chợ Rã, sang Chợ Đồn; mặt khác, chúng hành quân từ Vĩnh Yên, Thiện Kế lên Sơn Dương, rồi từ Tuyên Quang tiến vào để cùng nhau lên theo hướng Thanh La. Một cánh khác, từ Thái Nguyên, Phấn Mễ và Chợ Mới tiến đánh Chợ Chu.

Các cánh quân của Nhật tấn công khu giải phóng, song chủ yếu đánh vào Tân Trào nói riêng, Tuyên Quang nói chung nhưng chúng đã bị chặn đánh và bị thất bại. Nổi bật trong trận Đèo Chấn, gần Thanh La, chúng đã vấp phải sự kháng cự anh dũng của một tiểu đội Giải phóng quân, phối hợp với một trung đội dân quân, tất cả chỉ được trang bị vài khẩu súng trường, đã tiêu diệt 60 tên Nhật.

Ở Tân Trào, Bác Hồ làm việc rất khẩn trương, vì Người nhận định thời cơ cách mạng đã đến, phải chuẩn bị Tổng khởi nghĩa toàn quốc để giành chính quyền. Vào lúc bấy giờ, Bác bị sốt nóng, người gầy yếu, hốc hác hẳn, có lúc nói mê. Thuốc men trị bệnh chẳng có gì, ngoài mấy viên thuốc cảm và kí ninh, sau nhờ một ông lang người Tày dùng một thứ củ trong rừng, đốt cháy hòa vào cháo loãng và trị được cơn sốt. Trong lúc ốm, khi nào tỉnh, Bác cũng luôn căn dặn phải nắm lấy thời cơ và kiên quyết hành động để giành được chính quyền. Muốn có lực lượng, Bác căn dặn: “Lúc nào cũng phải chú trọng xây dựng chi bộ, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên và phần tử trung kiên. Trong chiến tranh du kích lúc phong trào lên, ta phải hết sức phát triển, vừa phát triển vừa xây dựng căn cứ cho thật vững chắc, để đề phòng lúc khó khăn mới có chỗ đứng chân được”(1).

Trước tình hình phát xít Nhật đến ngày thất bại hoàn toàn, Bác Hồ, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh quyết định triệu tập cuộc hội nghị ở Tân Trào để quyết định Tổng khởi nghĩa khi quân Nhật đầu hàng.

Trong những ngày giữa tháng 8.1945 ở Tân Trào đã diễn ra Hội nghị toàn quốc của Đảng (14.8.1945) và Đại hội Quốc dân (16-17.8.1945) quyết định việc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

Chiều 16.8.1945, một đơn vị Giải phóng quân làm lễ xuất phát tiến về Nam ở dưới cây đa Tân Trào. Nhân dân các dân tộc Tuyên Quang cùng nhiều đại biểu đến dự Quốc dân Đại hội đã tiễn bộ đội lên đường chiến đấu.

Ngay đêm 16.8.1945, Ủy ban khởi nghĩa tỉnh Tuyên Quang được thành lập, thông qua kế hoạch giải phóng thị xã. Ngày 17.8.1945, lực lượng giải phóng thị xã bao gồm lực lượng vũ trang địa phương, đội tự vệ mỏ than và các xã lân cận đã nhanh chóng chiếm các vị trí quan trọng như trại bảo an binh, sở kiểm lâm, bưu điện, ngân hàng…

Đến ngày 21.8.1945, Tuyên Quang đã được giải phóng, song quân Nhật còn đóng ở thị xã chưa chịu nộp vũ khí. Quần chúng nhân dân lại đổ ra đường phố cùng lực lượng vũ trang bao vây, uy hiếp trại lính Nhật. Lực lượng địch ngoan cố chống cự, song đến ngày 24.8.1945 buộc phải đầu hàng. Thị xã Tuyên Quang được hoàn toàn giải phóng. Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời được thành lập, đồng chí Nguyễn Công Bình được cử làm chủ tịch.

*

Cuộc Cách mạng tháng Tám ở Tuyên Quang nhanh chóng giành thắng lợi bởi những nguyên nhân cơ bản sau:

- Tình hình trong nước và địa phương có những thuận lợi cơ bản, cơ quan Trung ương đóng tại địa phương nên kịp thời chỉ thị cho Đảng bộ địa phương lãnh đạo nhân dân tiến hành khởi nghĩa từng phần đúng thời cơ.

- Đảng bộ cơ sở chủ động, sáng tạo trong lãnh đạo phong trào cách mạng ở địa phương.

- Phong trào cách mạng đã phát triển mạnh ở các huyện, xã; quần chúng cách mạng ở tư thế sẵn sàng vùng dậy đấu tranh, tập hợp được đông đảo nhân dân các dân tộc, đoàn kết, chiến đấu dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.

- Chính quyền địch ở địa phương khủng hoảng, suy yếu.


(*) Người viết: TS. Đỗ Hồng Thái, Trường Đại học Thái Nguyên.
(1) Võ Nguyên Giáp: Những chặng đường lịch sử, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 196.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 21 Tháng Tám, 2011, 10:07:01 am
THÁI NGUYÊN(*)

Thái Nguyên là một tỉnh miền núi; phía tây giáp Tuyên Quang, phía đông giáp Lạng Sơn và Bắc Giang, phía bắc giáp Bắc Kạn, phía nam giáp Hà Nội và Vĩnh Phúc.

Trước 1945, Thái Nguyên có 1 thị xã, 7 huyện: Định Hóa, Phú Lương, Đại Từ, Võ Nhai, Đồng Hỷ, Phú Bình, Phổ Yên. Ở đây có nhiều tộc người sinh sống, trong đó đông hơn cả là người Kinh, Tày, Nùng…

Trong quá trình vận động Cách mạng tháng Tám 1945, Thái Nguyên là một trong số những vùng quan trọng về quân sự và chính trị. Hai huyện Phổ Yên và Phú Bình là nơi đặt cơ quan Trung ương. Cả vùng Thái Nguyên thuộc khu căn cứ địa của cách mạng, sau trở thành khu giải phóng Việt Bắc (từ 4.6.1945) cùng với Cao Bằng, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang. Nhiệm vụ cách mạng ở đây là: bảo vệ cơ quan lãnh đạo cách mạng cả nước, trừ Việt gian phản động, chuẩn bị lực lượng khởi nghĩa.

Từ sau hội nghị Trung ương lần thứ 6 (11.1939) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương, Thái Nguyên thành lập các đội tự vệ ở các thôn xóm, mỗi đội có từ 16 đến 20 người. Các lớp huấn luyện quân sự được tổ chức tại Phú Bình, Võ Nhai, Phổ Yên… Những hoạt động cách mạng được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau: ở Đại Từ có các lò đúc vũ khí dưới hình thức là rèn nông cụ, ở Võ Nhai có các kho trữ gạo, muối, có nơi ẩn tránh an toàn cho cán bộ, chiến sĩ du kích khi bị địch truy lùng khủng bố. Ở hầu hết các xã đã có cơ sở cách mạng, lực lượng cách mạng, cảm tình cách mạng gồm các thành phần xã hội: công nhân các mỏ than (Phấn Mễ, Làng Cẩm), tá điền trong đồn điền của người Pháp (Yên thuận, Đại Từ), sư trụ trì của các chùa (chùa Mai Sơn - Phú Bình) và một số kì hào, lí dịch… Trong đó, các xã huyện ở Võ Nhai, Đồng Hỷ và ở phía nam Thái Nguyên có phong trào cách mạng mạnh mẽ hơn cả. Những hoạt động cách mạng ở đây có sự phối hợp kịp thời với các vùng Lạng Sơn, Bắc Giang, Hà Nội. Ở Phú Lương và Phổ Yên có các cơ sở in ấn, toàn soạn báo Cờ giải phóng sau là báo Bắc Sơn, báo Cứu quốc.

Tháng 9.1940, Nhật kéo vào Đông Dương. Ngày 22.9.1940, Nhật đánh Lạng Sơn, quân Pháp ở đây chạy dài. Nhân dân Bắc Sơn nổi dậy tước vũ khí của quân Pháp, giành chính quyền được một thời gian ngắn. Sự kiện này tác động đến tình hình ở Thái Nguyên. Sau khi đàn áp khởi nghĩa Bắc Sơn, lập lại chính quyền, quân Pháp câu kết với Nhật ra sức khủng bố nhân dân Bắc Sơn và cả vùng Võ Nhai, Phú Bình, Phổ Yên ở Thái Nguyên.

Sang năm 1941, đội du kích Bắc Sơn được thành lập, đã kết hợp với lực lượng du kích ở Tràn Xá, Võ Nhai tiếp tục mở rộng hoạt động ra các vùng khác ở cả Thái Nguyên và Lạng Sơn. Đội du kích Võ Nhai trở thành lực lượng vũ trang nòng cốt của Thái Nguyên và cả vùng căn cứ Việt Bắc.

Sau Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (28.1.1941), Mặt trận Việt Minh được thành lập (19.5.1941). Các “Hội cứu quốc” mà nòng cốt là “Cứu quốc quân” ở Thái Nguyên lần lượt ra đời và hoạt động với nhiều hình thức phong phú: đấu tranh với chính quyền Pháp, đưa yêu sách, truyền đơn, dương biểu ngữ, treo cờ đỏ búa liềm.

Thực dân Pháp đặc biệt chú ý đến Võ Nhai và đội du kích Võ Nhai. Chúng tiến hành khủng bố gắt gao, nhiều cán bộ, chiến sĩ bị bắt, bị sát hại; nhiều dân thường bị giết. Mọi hoạt động của dân làng bị kiểm soát trong các trại tuyên truyền Na Nheo và Tràng Xá, không được liên lạc với bên ngoài.

Nhưng Thái Nguyên cùng với Tuyên Quang, Lạng Sơn được chọn làm nơi tiến hành đấu tranh vũ trang tuyên truyền, gây dựng cơ sở chính trị quan trọng vào bậc nhất ở khu vực phía Bắc. Mọi hoạt động cách mạng ở đây có thể nhận được sự chỉ đạo kịp thời từ phía căn cứ địa cách mạng. Vùng này khá xa trung tâm cai trị của Pháp ở Hà Nội. Có sự phối hợp của lực lượng Việt Minh, các hoạt động của nhân dân đều khắp, cờ đỏ thường xuyên xuất hiện ở thị xã, huyện lị, các khu mỏ. Những đội du kích Võ Nhai sau một thời gian tạm lánh sang Cao Bằng, Trung Quốc để tránh sự khủng bố của địch cũng trở về Thái Nguyên để kịp thời nắm bắt và chỉ đạo các phong trào cách mạng.

Năm 1943, Ủy ban Việt Minh ở các tỉnh Cao - Bắc - Lạng phối hợp với đội du kích Bắc Sơn, Võ Nhai mở hướng phát triển lực lượng về xuôi. Tháng 5.1943, kế hoạch đánh Chợ Đồn, Chợ Rã (Bắc Kạn) của ta thắng lợi, liên lạc giữa Thái Nguyên với Bắc Kạn và Cao Bằng được nối liền. Tháng 9.1944, có 12 chiến sĩ cách mạng ở nhà tù Chợ Chu đã vượt ngục thành công, bổ sung vào đội ngũ cán bộ cách mạng nòng cốt. Tháng 11.1944, một cuộc khởi nghĩa lớn nổ ra ở Võ Nhai, sau chuyển thành hoạt động chiến tranh du kích để bảo toàn lực lượng.


(*) Người viết: - ThS. Trần Thị Hòa, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
- TS. Đỗ Hồng Thái, Trường Đại học Thái Nguyên.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 21 Tháng Tám, 2011, 10:09:40 am
Chiến tranh du kích phát triển trên diện rộng. Sau khi đồn Chợ Chu bị hạ, đội Cứu quốc quân Thái Nguyên đánh lên Chiêm Hóa (Tuyên Quang), đánh sang Tam Đảo, Vĩnh Yên, Phú Thọ. Chính quyền nhân dân được thành lập trên một vùng rộng lớn.

Ngày 22.12.1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân thành lập. Đường liên lạc của cách mạng cả nước đã thông suốt từ Việt Bắc về xuôi. Ngày 9.3.1945, Nhật đảo chính Pháp. Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” của Trung ương được truyền đi nhanh chóng. Nhật tăng cường đưa quân lên căn cứ Việt Bắc của ta, bóc lột nhân dân nặng nề hơn trước làm cho nạn đói càng thêm trầm trọng ở vùng miền núi Thái Nguyên.

Thực hiện khẩu hiệu mà Trung ương Đảng đã nêu: “Đánh đuổi phát xít Nhật”, “thành lập chính quyền cách mạng”, nhiều xã thôn đã từ giành chính quyền bộ phận. Riêng ở Võ Nhai, nhân dân ở hai làng tập trung Na Pheo và Tràng Xá từ bỏ về làng cũ lập chính quyền nhân dân của mình.

Nhưng việc giành chính quyền ở các huyện lị, thị xã thì gặp khó khăn. Quân Nhật rất ngoan cố, có lực lượng đông, đóng ở nhiều đồn. Từ 4.6.1945, khu giải phóng Việt Bắc được thành lập. Thái Nguyên là một trong số 6 tỉnh (cùng với Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang) thuộc khu này - khu căn cứ địa của cả nước. Bên cạnh còn có một số vùng như Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên… Quân Nhật và lực lượng và tay sai là lính lê dương, lính khố xanh cũng dựa được vào một số phần tử Đại Việt vẫn muốn tiêu diệt bằng được khu căn cứ Việt Bắc này. Khi bị đánh mạnh chúng ố thủ trong đồn, khi có thời cơ chúng lại đánh vào chiến khu. Vì vậy các lực lượng vũ trang, du kích ở Thái Nguyên phải chiến đấu quyết liệt với địch trong thế giằng co ở nhiều nơi. Nhân dân phải chịu nhiều tổn thất, thiệt hại.

Đến giữa tháng 4.1945, sau quá trình đấu tranh tích cực của nhân dân, du kích, các huyện Võ Nhai, Định Hóa, Đại Từ, Phú Lương đã thuộc quyền kiểm soát của lực lượng ta, ủy ban nhân dân cách mạng được thành lập. Sau đó, quân Nhật lại lần lượt chiếm lại các vùng này. Chúng tàn sát nhân dân, truy lùng cán bộ, chiến sĩ cách mạng. đánh vào các cơ sở cách mạng của ta, đòi ta phải “hợp tác” với chúng. Những cuộc chiến đấu gay go ác liệt với quân Nhật và tay sai vẫn tiếp diễn ở nhiều nơi: Đại Từ, Ký Phú, Cát Nê, Núi Hồng (Đại Từ); Chợ Chu, Khuôn Câm, Quán Vuông, Địch Mán, Phổ Ngữ, Na Mao… (Định Hóa); La Hiên, Đình Cả, Đèo Khế, Lịch Sơn, Sa Lung (Võ Nhai); Thác Nhái, Phúc Thuận, Sơn Cốt, đồn điền Chã… (Phổ Yên), Kha Sơn (Phú Bình).

Tháng 8.1945, quân Nhật ở Châu Á đầu hàng quân Đồng minh không điều kiện. Bọn Nhật ở Đông Dương trở nên bất động, lực lượng tay sai cho Nhật cũng trở nên hoang mang. Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc phát lệnh Tổng khởi nghĩa với tinh thần “đem sức ta mà giải phóng cho ta”.

Quân Nhật ở Thái Nguyên bắt đầu chuyển sang cố thủ hoàn toàn. Kết hợp với lực lượng Giải phóng quân, các tầng lớp nông dân, công nhân, trí thức, du kích quân tích cực đấu tranh, bao vây đồn địch.

Ngày 17.8, vùng mở Làng Cẩm giành được quyền làm chủ. Chiều ngày 18.8, một cuộc diễu binh, tuần hành lớn từ các ngả đường kéo về sân vận động thị xã, tuyên bố ủng hộ Giải phóng quân, đánh bại quân Nhật. Quân Nhật không dám chống lại.

13 giờ ngày 19.8.1945, 3 đại đội Giải phóng quân đã có mặt ở làng Thịnh Đán (ngay thuộc phường Tân Thịnh, thành phố Thái Nguyên). Lực lượng quân giải phóng vào khoảng 450 người, được tổ chức thành một chi đội do đồng chí Lâm Cẩm Như (tức Lâm Kính) làm chi đội trưởng(1). Bộ chỉ huy trận đánh gồm hai đồng chí Võ Nguyên Giáp và Trần Đăng Ninh.

Quân Nhật ở thị xã Thái Nguyên có khoảng 120 tên, trong đó có từ 60 đến 70 tên đóng tại trại lính khố xanh cũ và dinh Công sứ Pháp trên đồi cao, có công sự kiên cố. Số còn lại đóng ở các điểm lẻ trong những ngôi nhà gạch lớn, kiên cố, như nhà Gôchiê, Ti liêm phóng, kho gạo và đồn điền Gia Sàng. Ngoài ra, khoảng hơn 400 lính bảo an, với hơn một trăm lính cơ, cảnh sát, đóng ở trại lính tây cũ, bảo vệ dinh Tỉnh trưởng, Huyện trưởng Đồng Hỷ.

Hai giờ chiều ngày 19.8.1945, một cuộc mít tinh quần chúng tập hợp hơn năm ngàn người trong thị xã và các xã lân cận của Đồng Hỷ, diễn ra tại sân vận động thị xã. Tiếp đó, cuộc mít tinh biến thành cuộc biểu tình biểu dương lực lượng, đi đầu là đội vũ trang tuyên truyền. Đồng bào hô vang các khẩu hiệu “Đả đảo phát xít Nhật”, “đả đảo bọn bù nhìn tay sai”, “ủng hộ Việt Minh”. Đoàn biểu tình rầm rộ kéo qua các phố, một số trí thức, quan lại cũng tham gia. Quân Nhật trong thị xã “án binh bất động”. Cuộc biểu dương lực lượng kết thúc vào khoảng 17 giờ. Ngay sau đó đội tự vệ trừ gian thị xã truy bắt gần 40 tên tay sai thân Nhật và xử bắn bên vệ sĩ của Cung Đình Vận.

Các đoàn thể quần chúng, nhất là Hộ Phụ nữ Cứu quốc, Hội thanh niên Cứu quốc tích cực chuẩn bị cơ sở hậu cần để đón Quân Giải phóng.


(1)   Đồng chí Lâm Kính là cháu đích tôn cụ Nguyễn Thượng Hiền.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 21 Tháng Tám, 2011, 10:11:02 am
Tối ngày 19.8.1945, Bộ chỉ huy Quân giải phóng họp chung với cán bộ lãnh đạo tỉnh để thống nhất lực lượng và kế hoạch hoạt động chung “khởi nghĩa giải phóng thị xã Thái Nguyên”. Ban Tỉnh ủy lâm thời Thái Nguyên được thành lập, gồm các đồng chí Nhị Quý, Trung Đình, Hoàng Thế thiện, Đào An Thái, Nguyễn Thị Tân.

Vào 22 giờ ngày 19.8 Bộ chỉ huy bàn xong kế hoạch tác chiến, 24 giờ (cùng ngày) bộ đội được lệnh xuất quân, chiếm lĩnh các vị trí chiến đấu; 4 giờ 30 phút ngày 20.8, các trận địa bố trí xong và sẵn sàng chiến đấu.

Sở chỉ huy đặt tại đình Hàng Phố. Trong khi Quân Giải phóng bao vây quân Nhật thì đại đội tự vệ Phú Bình đã đánh chiếm đồn điền Gia Sàng và tiến vào thị xã.

Lúc 5 giờ 30 phút ngày 20.8.1945, Bộ chỉ huy Quân Giải phóng gửi tối hậu thư cho Tỉnh trưởng Bùi Huy Lượng, nhưng y chần chừ không trả lời.

Trung đội trưởng Lương Thịnh dẫn đầu một trung đội Giải phóng quân tấn công vào dinh Tỉnh trưởng, bắt Bùi Huy Lượng, tên chỉ huy lính bảo an và toàn bộ trung đội bảo vệ. Bùi Huy Lượng buộc phải trao chính quyền cho Ủy ban khởi nghĩa; chỉ huy bảo an binh cũng ra lệnh cho tất cả binh lính đầu hàng, nộp toàn bộ vũ khí cho Quân Giải phóng (gần 600 súng trường, một số súng máy và đạn dược). Trong hơn 400 lính bảo an, khoảng 60 binh sĩ tự nguyện tham gia Quân Giải phóng. Phần lớn số còn lại xin về quê; họ được cấp tiền ăn và giấy đi đường.

Đánh chiếm xong trại lính bảo an, Quân Giải phóng tập trung lực lượng tiến công quân Nhật trong trại lính khố xanh. Đúng 7 giờ 30 phút, Quân Giải phóng nhất loạt nổ súng vào cứ điểm của địch. Nhiều lính Nhật trong trại bị bắn chết. Cuộc đọ súng quyết liệt giữa ta và quân Nhật kéo dài trong 30 phút. Ta ngừng bắn để thương lượng. Cuộc đàm phán kéo dài hơn một giờ. Phía Nhật viện cớ là sẽ phải nộp vũ khí cho quân Đồng minh, không muốn giao cho ta, âm mưu của chúng là kéo dài thời gian để chờ viện binh từ Hà Nội lên.

Bộ chỉ huy Quân giải phóng đặt điều kiện cho phía Nhật nếu đến 2 giờ chiều không trả lời dứt khoát sẽ bị tấn công. Đề phòng quân Nhật tráo trở, sở chỉ huy được chuyển ngay về Nhà Đèn thị xã. Bọn Nhật không chấp hành tối hậu thư. 2 giờ chiều quân ta nổ súng đánh Nhật trong trại lính khố xanh,tiêu diệt 3 ổ đề kháng của địch ở Ti liêm phóng, kho gạo và nhà Gôchiê, diệt nhiều tên, thu toàn bộ vũ khí. Quân Nhật hoàn toàn bị vây hãm trong trại.

Ngay chiều 20.8.1945, một cuộc mít tinh quần chúng được tổ chức tại sân vận động thị xã. Đồng chí Võ Nguyên Giáp, thay mặt Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc, tuyên bố xóa bỏ chính quyền của Nhật và tay sai, thành lập chính quyền nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Thái Nguyên, thực hiện các chính sách của Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam. Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời do đồng chí Lê Trung Đình làm Chủ tịch, ra mắt quần chúng nhân dân, đánh dấu sự thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Thái Nguyên.

Ngày 23.8.1945, hội nghị lãnh đạo tỉnh họp quyết định thành phần Ủy ban nhân dân tỉnh gồm có đồng chí Lê Trung Đình làm Chủ tịch, các đồng chí Ma Đình Tương, Đặng Đức Thái, Phạm Đình Huệ làm Phó Chủ tịch; các đồng chí Lương Đình Oánh, Hoàng Thế Thiện, Chu Quốc Hưng, Lê Phương, Phạm Hoài, Trường Sơn làm ủy viên.

Ngày 28.8.1945, một cuộc mít tinh lớn được tổ chức ở sân vận động thị xã; hàng vạn nhân dân các huyện trong tỉnh về dự lễ ra mắt chính thức Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh.

Sau khi chính quyền tỉnh được thành lập, Quân Giải phóng tiếp tục bao vây quân Nhật. Các đoàn thể cứu quốc thị xã vừa mới được tổ chức, bắt tay ngay vào hoạt động củng cố chính quyền cách mạng và xây dựng cuộc sống mới.

Tối ngày 22.8.1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Tân Trào về đến thị xã Thái Nguyên, gặp gỡ các đồng chí lãnh đạo tỉnh và căn dặn những việc cần làm của chính quyền cách mạng non trẻ.

Bị quân và dân thị xã siết chặt vòng vây và tiến công, quân Nhật không có lương ăn và thiếu nước uống nên ngày 24.8.1945, phải chấp nhận một số điều kiện: giao nộp vũ khí ở các đồn lẻ Hùng Sơn (Đại Từ), La Hiên (Võ Nhai), trừ số vũ khí ở thị xã chờ xin lệnh cấp trên, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhân dân ta.

Ngày 25.8.1945, Tổng khởi nghĩa hoàn toàn thắng lợi trong cả tinh. Phái viên Bộ Tư lệnh Nhật cùng phái viên Bộ tham mưu của ta ở Hà Nội lên Thái Nguyên để giải quyết, quân Nhật chịu chấp nhận các điều kiện, giao nộp vũ khí cho Quân Giải phóng, còn binh lính thì được ta phụ trách đưa về Hà Nội. Tỉnh Thái Nguyên đã hoàn toàn được giải phóng.

*

Chế độ thực dân thống trị trong gần 80 năm và chế độ quân chủ hàng ngàn năm đã bị nhân dân Thái Nguyên cùng đồng bào cả nước xóa bỏ. Một kỉ nguyên mới bắt đầu.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 21 Tháng Tám, 2011, 10:14:51 am
SƠN LA(*)

Sơn La là một tỉnh miền núi biên giới thuộc vùng Tây Bắc Bắc Bộ, nơi có nhiều đồng bào các dân tộc anh em cùng sinh sống, trong đó đồng bào Thái chiếm đa số. Sơn La có một vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng.

Năm 1930, thực dân Pháp cho mở rộng nhà tù Sơn La(1) gấp ba lần và đổi tên thành ngục Sơn La để chứa tù chính trị từ dưới xuôi lên đây giam giữ. Chúng âm mưu tách rời các chiến sĩ cách mạng với nhân dân và phong trào cách mạng, lợi dụng sự bất đồng về ngôn ngữ giữa nhân dân các dân tộc với các chiến sĩ cách mạng và thời tiết khắc nghiệt của vùng rừng núi Tây Bắc để giết dần giết mòn và làm nhụt ý chí của các chiến sĩ cách mạng. Nhưng chính nhà tù này đã trở thành cái nôi của phong trào cách mạng Sơn La, nơi ra đời chi bộ cộng sản đầu tiên ở Sơn La (12.1939), với vai trò lãnh đạo và chỉ đạo phong trào cách mạng của địa phương như một Đảng bộ.

Từ sau khi ra đời, cùng với rất nhiều các hoạt động khác, chi bộ nhà ngục Sơn La đặc biệt chú trọng đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giác ngộ, vận động đồng bào và xây dựng các tổ chức quần chúng cách mạng ở địa phương. Đến đầu năm 1943, chi bộ đã bí mật thành lập hai tổ chức Thanh niên cứu quốc ở tỉnh lị và châu Mường La. Đây là tổ chức cách mạng đầu tiên ở Sơn La do các chiến sĩ cộng sản trong nhà ngục Sơn La gây dựng nên với nhiệm vụ tuyên truyền, vận động, xây dựng và phát triển tổ chức cách mạng ở địa phương, đặc biệt trong thanh niên Thái.

Dưới sự dìu dắt, lãnh đạo của chi bộ và các chiến sĩ cách mạng trong nhà ngục Sơn La, hai tổ Thanh niên cứu quốc này đã hoạt động tích cực, có hiệu quả và phát huy ảnh hưởng rộng lớn trong quần chúng nhân dân, mở rộng địa bàn hoạt động sang xã Mường Chanh (châu Mai Sơn).

Sự kiện Nhật đảo chính Pháp trên toàn cõi Đông Dương (9.3.1945) đã tạo điều kiện cho toàn bộ tù nhân ở nhà ngục Sơn La được thoát ngục, trở lại hoạt động và bổ sung một nguồn cán bộ lớn cho Đảng. Đồng chí Lê Trung Toản sau khi thoát ngục được Xứ ủy điều ngay trở lại Sơn La để chỉ đạo phong trào cách mạng của tỉnh. Phong trào cách mạng Sơn La đã phát triển nhanh chóng, toàn tỉnh có trên 60 cơ sở cách mạng. Ở hầu khắp các châu như Mường La, Mai Sơn, Thuận Châu, yên Châu và tỉnh lị đều thành lập các Hội thanh niên cứu quốc. Châu Phù Yên vừa chịu ảnh hưởng của phong trào cách mạng từ chiến khu Vần - Hiền Lương (thuộc hai tỉnh Yên Bái - Phú Thọ) vừa được các cán bộ Việt Minh của Kỳ bộ đến đây tuyên truyền, giác ngộ, xây dựng cơ sở cách mạng nên đã thành lập được hai tổ chức là Hộ thanh niên yêu nước Phù yên và Hội thanh niên cứu quốc Vạn Yên cùng một đội vũ trang tự vệ. Riêng xã Mường Chanh của châu Mai Sơn được xây dựng thành căn cứ địa cách mạng của cả tỉnh với cả 8 bản đều có cơ sở cách mạng, thành lập được trung đội du kích vũ trang Mường Chanh và Hội người Thái cứu quốc.

Cả tỉnh Sơn La lúc này duy chỉ còn Mộc Châu là chưa xây dựng được cơ sơ cách mạng, do vị trí cách xa tỉnh lị, lại là cửa ngõ của tỉnh Sơn La nên bị thực dân Pháp, sau là phát xít Nhật biến thành tấm bình phong ngăn cách phong trào cách mạng ở tỉnh với các tỉnh lân cận. Mặc dù có chịu ảnh hưởng ít nhiều phong trào cách mạng tỉnh Hòa Bình, song do ở Mộc Châu tổ chức Đại Việt quốc gia liên minh(2) hoạt động ráo riết nên phong trào cách mạng không phát triển được.

Như vậy, chỉ sau một thời gian ngắn, phong trào cách mạng ở Sơn La đã phát triển rộng khắp; công tác xây dựng lực lượng chuẩn bị mọi mặt cho khởi nghĩa đã tương đối hoàn tất. Căn cứ địa Mường Chanh đã được xây dựng vững chắc, quần chúng nhân dân được tập hợp đông đảo dưới ngọn cờ của Việt Minh, các Hội thanh niên cứu quốc, Hội thanh niên yêu nước, Hội người Thái cứu quốc… đã phát huy vai trò và ảnh hưởng to lớn, xây dựng được nhiều cơ sở cách mạng, giác ngộ được nhiều chức dịch của địa phương. Các đôi vũ trang và tự vệ chiến đấu được thành lập ở hầu hết các châu, tích cực luyện tập quân sự và cùng nhân dân thu nhặt, sắm sửa, chế tạo vũ khí.

Trước khí thế của phong trào cách mạng trong toàn tỉnh lên cao, đồng chí Lê Trung Toản và các đồng chí lãnh đạo địa phương quyết định khởi nghĩa giành chính quyền ở Mường Chanh, hình thành khu giải phóng, sau đó phối hợp với các cơ sở cách mạng tiến hành khởi nghĩa ở các châu Mai Sơn, Thuận Châu, thành lập khu du kích rộng lớn để tạo điều kiện khi thời cơ đến sẽ phát động Tổng khởi nghĩa trong toàn tỉnh.


(*) Người viết: Ths. Phạm Thị Tuyết, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
(1) Nhà tù Sơn La được thực dân Pháp xây dựng từ năm 1908 trên đồi Khau Cá để giam giữ tù thường phạm và những người chống đối lại “Nhà nước bảo hộ” Pháp.
(2) Đại Việt quốc gia liên minh là một tổ chức thân Nhật và do Nhật dựng lên.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 21 Tháng Tám, 2011, 10:15:52 am
Kế hoạch đang được xúc tiến thì đồng chí Lê Trung Toản bị lộ phải trở về Trung ương. Hai đồng chí Cầm Minh và Chu Văn Thịnh được cử về Trung ương xin chỉ thị. Về tới Hòa Bình, hai đồng chí được bố trí tham gia lớp huấn luyện “Trường Sơn du kích kháng Nhật” tại chiến khu Quang Trung. Đến ngày 18.8.1945, khi lệnh Tổng khởi nghĩa của Trung ương và Xứ ủy về tới chiến khu Quang Trung, hai đồng chí lập tức trở lại Sơn La để lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền.

Nhưng ngay từ trước đó, tại một số nơi ở Sơn La các đồng chí lãnh đạo ở địa phương đã chủ động phát động nhân dân tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền.

Tại châu Phù Yên, trước khí thế khởi nghĩa ở các vùng lân cận, trong hai ngày 22 và 23.7.1945, được sự hỗ trợ của chi đội Giải phóng quân chiến khu Vần - Hiền Lương, các lực lượng tại chỗ đã phối hợp với quần chúng nhân dân địa phương nổi dậy khởi nghĩa tạo thành khí thế cách mạng sục sôi, gây áp lức với chính quyền địch và lực lượng binh lính, buộc chúng phải nhanh chóng đầu hàng. Ngày 23.7.1945, khởi nghĩa giành chính quyền ở châu Phù Yên hoàn toàn thắng lợi. Đây là châu đầu tiên của tỉnh Sơn La giành được chính quyền. Chính quyền cách mạng lâm thời được thành lập.

Tại xã Mường Chanh, mặc dù chưa nhận được lệnh Tổng khởi nghĩa của Trung ương và Xứ ủy, nhưng các đồng chí lãnh đạo ở địa phương đã quyết định phát động nhân dân nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền. Ngày 19.8.1945, lực lượng khởi nghĩa bao gồm trung đội du kích Mường Chanh và đông đảo quần chúng nhân dân kéo đến bao vây nhà chánh phìa Cầm Văn Mở. Chánh phìa đi vắng, nhưng trước áp lực của lực lượng khởi nghĩa, ông pằn Cầm Văn Bao đã đầu hàng, trao ấn tín và tài liệu cho cách mạng. Khởi nghĩa ở Mường Chanh giành thắng lợi, chính quyền cách mạng lâm thời được thành lập.

Hai đồng chí Cầm Minh và Chu Văn Thịnh lên tới Sơn La thì được tin Mường Chanh đã khởi nghĩa giành thắng lợi. Đồng chí Cầm Minh được cử về Mường Chanh chỉ đạo khởi nghĩa giành chính quyền ở châu lị Mai Sơn, Yên Châu để phối hợp giải phóng tỉnh lị. Đồng chí Chu Văn Thịnh lên tỉnh lị triệu tập cuộc họp Ban lãnh đạo khởi nghĩa (tối 21.8.1945) để bàn định khởi nghĩa khởi nghĩa trong toàn tỉnh.

Từ ngày 22 đến ngày 26.8.1945, khởi nghĩa đã diễn ra ở hầu hết các địa phương còn lại của tỉnh Sơn La, với lực lượng nòng cốt là các đội vũ trang cùng đông đảo quần chúng nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Việt Minh.

Tại châu Mường La, đêm 26.8.1945, lực lượng vũ trang được trang bị vũ khí cùng đông đảo quần chúng nhân dân kéo đến bao vây nhà tri châu Bế Văn Điềm buộc phải đầu hàng, trao nộp ấn tín và ra lệnh giải tán binh lính. Chính quyền cũ bị xóa bỏ, nhưng chính quyền cách mạng ở châu Mường La chưa được thành lập, lực lượng cách mạng tạm thời giao quyền quản lí hành chính cho Bế Văn Điềm. Cũng ngay trong đêm 22.8, quân khởi nghĩa đã bao vây và đột nhập vào nhà riêng của tỉnh trưởng Cầm Ngọc Phương buộc y phải đầu hàng, ra lệnh giải tán lính khố xanh và giao nộp vũ khí cho cách mạng. Khởi nghĩa ở châu Mường La hoàn toàn thắng lợi.

Tại Thuận Châu, một đội quân gồm 20 chiến sĩ được trang bị súng đạn từ Mường La kéo lên Thuận Châu, trên đường đi đã phối hợp với lực lượng khởi nghĩa của bản Lầm và bản Tranh Đấu cùng tiến về châu lị Thuận Châu, kêu gọi nhân dân nổi dậy khởi nghĩa. Khoảng 2 giờ sáng ngày 23.8.1945, quân khởi nghĩa đã bao vây châu đường buộc bọn tri châu Bạc Cầm Quý đầu hàng, trao nộp ấn tín và giải tán binh lính. Ủy ban cách mạng lâm thời châu Thuận Châu được thành lập, cử Bạc Cầm Quý làm chủ tịch.

Tại Châu Mai Sơn, sau khi khởi nghĩa ở Mường Chanh giành được thắng lợi, ngày 22.8.1945, đội vũ trang khởi nghĩa ở Mường Chanh cùng đông đảo quần chúng nhân dân phối hợp với đội thanh niên vũ trang Yên Châu đang huấn luyện tại đó kéo đến bao vây châu đường buộc tri châu Cầm Văn Chiêu phải đầu hàng, trao nộp ấn tín, giải tán binh lính và nộp hết vũ khí đạn dược cho cách mạng. Ủy ban lâm thời châu Mai Sơn được thành lập do ông Cầm Văn Minh làm chủ tịch.

Tại Yên Châu, ngày 23.8.1945, sau khi khởi nghĩa giành được chính quyền ở châu lị Mai Sơn, đội thanh niên vũ trang Yên Châu và một bộ phận lực lượng vũ trang Mường Chanh do Hoàng Luông và Hoàng Sáy chỉ huy đã kéo xuống Yên Châu. Đến Chiềng Đông, quân khởi nghĩa đã bao vây nhà tên phìa Cầm Văn Keo buộc phải đầu hàng, giao nộp vũ khí. Sáng ngày 24.8.1945, quân khởi nghĩa tiếp tục kéo xuống châu lị, bao vây châu đường, trại lính cơ và nhà riêng tri châu Bạc Cầm Huy buộc phải đầu hàng, trao nộp ấn tín, vũ khí, giải tán binh lính. Chính quyền cũ bị xóa bỏ, nhưng chính quyền cách mạng Yên Châu chưa được thành lập mà tạm thời giao cho Hoàng Luông phụ trách.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 21 Tháng Tám, 2011, 10:17:01 am
Tại tỉnh lị Sơn La, mặc dù tỉnh trưởng Cầm Ngọc Phương đã đầu hàng, trao nộp ấn tín cho cách mạng, nhưng trên đồi Khau Cả, tại các tòa Chánh sứ và Giám binh một đại đội quân Nhật và một đại đội lính bảo an còn chốt giữ, chúng vẫn làm chủ tỉnh lị. Lúc đầu lực lượng khởi nghĩa thực hiện chủ trương thương thuyết với quân Nhật, buộc chúng phải đầu hàng, giao nộp vũ khí và rút khỏi Sơn La, nhưng chúng không nghe. Ngày 23.8.1945, sau khi giành được chính quyền ở Mường La và Mai Sơn, lực lượng khởi nghĩa của hai châu phối hợp tiến về tỉnh lị bao vây đồi Khau Cả, các ngả đường và một số mục tiêu quan trọng. Trước sức mạnh của quân khởi nghĩa và áp lực của cách mạng, ngày 25.8.1945, ông Lò Văn Mười, Trưởng trại bảo an binh, đã được ta cảm hóa từ trước, mở cửa trại xin hàng, giải tán binh lính và giao nộp vũ khí. Trước tình thế đó, quân Nhật cũng phải chấp nhận đầu hàng, nộp vũ khí và ngay đêm đó rút về Hà Nội. Khởi nghĩa giành chính quyền ở Sơn La về cơ bản đã hoàn toàn thắng lợi.

Ngày 26.8.1945, một cuộc mít tinh long trọng do Việt Minh tổ chức được tiến hành trên đồi Khau Cả với sự tham gia của hàng ngàn quần chúng nhân dân. Ủy ban cách mạng lâm thời tỉnh được thành lập cùng Ban cán sự Việt Minh tỉnh đã ra mắt đồng bào.

Tại Mộc Châu, tin khởi nghĩa thắng lợi ở miền xuôi và trong tỉnh dồn dập bay về làm cho Mộc Châu sôi động. Tầng lớp thống trị ở địa phương hoang mang lo sợ. Lợi dụng lúc giao thời, tổ chức Đại Việt quốc gia liên minh giả danh Việt Minh kéo đến bao vây nhà bố chánh Sa Văn Minh định cướp chính quyền. Nhận rõ bản chất của bọn này, lại có lực lượng vũ trang rất mạnh trong tay nên Sa Văn Minh kiên quyết không đầu hàng. Đến đầu tháng 9.1945, khi lực lượng quân khởi nghĩa, do Đinh Công Đốc chỉ huy, từ Hòa Bình lên tới Mộc Châu, âm mưu giả danh Việt Minh bị bại lộ, lại đang ở thế yếu nên bọn Đại Việt đã quy hàng, giải tán lực lượng. Đinh Công Đốc do có quan hệ thông gia nên được Sa Văn Minh đón tiếp tử tế. Sau đó quân khởi nghĩa của Đinh Công Đốc được lệnh rút về Hòa Bình nhận nhiệm vụ mới, nên ở Mộc Châu bố chánh Sa Văn Minh vẫn nắm chính quyền cai tri, chính quyền cách mạng chưa được thành lập.

Sau khi Cách mạng tháng Tám đã thành công trong cả nước, ngày 28.9.1945, đoàn cán bộ của Tổng bộ Việt Minh lên tới Mộc đã thuyết phục được Sa Văn Minh đầu hàng, giải tán chính quyền cũ và đi theo cách mạng. Đầu tháng 10.1945, Ủy ban cách mạng lâm thời Mộc Châu được thành lập. Đến đây Cách mạng tháng Tám ở Sơn La đã thắng lợi hoàn toàn.

*

Mặc dù đến đầu năm 1943 ở Sơn La mới ra đời tổ chức cách mạng đầu tiên do chi bộ nhà tù Sơn La thành lập, trước cách mạng tháng Tám 1945 Sơn La cũng chưa có một tổ chức cơ sơ Đảng nào của địa phương, nhưng phong trào cách mạng ở Sơn La phát triển rất nhanh chóng và không kém phần sôi nổi. Dưới sự tổ chức, lãnh đạo của chi bộ nhà tù Sơn La và một số phái viên của Trung ương, phong trào cách mạng ở Sơn La đã từng bước được xây dựng và trưởng thành. Các tổ chức quần chúng cách mạng và nhân dân các dân tộc Sơn La đã tích cực xây dựng lực lượng, đẩy mạnh phong trào, chuẩn bị đầy đủ những điều kiện cần thiết cho khởi nghĩa giành chính quyền theo đúng chủ trương, đường lối chỉ đạo chiến lược của Đảng.

Vai trò của các cán bộ lãnh đạo địa phương được thể hiện khá rõ nét trong suốt quá trình vận động cách mạng và khởi nghĩa giành chính quyền ở Sơn La. Các đồng chí đã quán triệt và vận dụng sáng tạo quan điểm, chủ trương của Đảng trong việc xây dựng và phát triển phong trào cách mạng của quần chúng ở nông thôn một tỉnh miền núi có nhiều dân tộc, tích cực chuẩn bị lực lượng, chủ động, sáng tạo chớp thời cơ phát động nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền. Không những tuyên truyền, vận động, giác ngộc cách mạng cho đông đảo quần chúng nhân dân lao động, thành lập những tổ chức đoàn thể quần chúng và mặt trận, tổ chức những hình thức đấu tranh phù hợp với tình hình của địa phương mà các cơ sở cách mạng còn triệt để vận động, cảm hóa được một bộ phận thuộc tầng lớp trên của xã hội cũ.

Cách mạng tháng Tám ở Sơn La diễn ra dưới hình thức từ khởi nghĩa từng phần (ở Phù Yên, Mường Chanh) tiến lên Tổng khởi nghĩa trong toàn tỉnh. Điểm nổi bật của khởi nghĩa ở Sơn La là sự kết hợp chặt chẽ, linh hoạt giữa đấu tranh vũ trang, đấu tranh chính trị với thuyết phục và tranh thủ, trong đó đấu tranh vũ trang và lực lượng vũ trang đóng vai trò chủ yếu, sử dụng bạo lực cách mạng để trấn áp kẻ thù nhưng lại ít gây đổ máu.

Cũng do điều kiện địa lí, lịch sử và một số điều kiện chủ quan, khách quan lúc bấy giờ nên quá trình vận động cách mạng và khởi nghĩa giành chính quyền ở Sơn La diễn ra không đồng đều giữa các địa phương. Có những nơi phong trào cách mạng phát triển rất mạnh (tỉnh lị, Mường La, Mai Sơn, Phù Yên) nhưng lại có những nơi phong trào cách mạng chưa phát triển được (Mộc Châu). Đa số các châu trong tỉnh Sơn La đều chịu ảnh hưởng của trung tâm phong trào cách mạng là tỉnh lị, nhưng một số nơi khác lại chịu ảnh hưởng của phong trào cách mạng các tỉnh lân cận (Phù Yên, Mộc Châu). Khởi nghĩa giành chính quyền ở Sơn La đã diễn ra thắng lợi ở tỉnh lị và hầu hết các châu, duy chỉ còn Mộc Châu chưa giành được chính quyền về tay nhân dân. Có những nơi khi khởi nghĩa giành thắng lợi đã xóa bỏ chính quyền cũ, thành lập được chính quyền cách mạng (Phù Yên, Thuận Châu, Mai Sơn, tỉnh lị), cũng có nơi chính quyền cũ đã bị xóa bỏ nhưng chính quyền mới chưa được thành lập (Mường La, Yên Châu). Có những nơi chính quyền mới được thành lập nhưng lại giao cho các chức dịch cũ của địa phương quản lí (Mường La, Thuận Châu). Đây là một nét đặc thù và cũng là một trong những hạn chế của Cách mạng tháng Tám ở Sơn La.

Mặc dù còn những hạn chế nhất định nhưng Cách mạng tháng Tám ở Sơn La thành công đã mang lại ý nghĩa lịch sử sâu sắc và để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, góp phần cùng các địa phương trong cả nước làm nên thắng lợi của Tổng khởi nghĩa tháng Tám, mở ra một kỉ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 23 Tháng Tám, 2011, 07:53:18 am
YÊN BÁI(*)

Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3.2.1930), phong trào cách mạng toàn quốc phát triển mạnh mẽ. Tại Yên Bái, một số hoạt động cách mạng đã được tổ chức (thành lập tổ chức “Học sinh đoàn”, phân phát báo chí cách mạng; thành lập Hội ái hữu của công nhân đường sắt; tổ chức các cuộc đấu tranh của nông dân, tiểu thương đòi giảm thuế điền, thuế môn mài…).

Khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, Trung ương Đảng đã tiến hành các hội nghị Trung ương lần thứ 6 (11.1939), lần thứ 7 (11.1940), lần thứ 8 (5.1941), kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược. Đảng ta đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu; đề ra các biện pháp đẩy mạnh xây dựng lực lượng chính trị, xúc tiến xây dựng lực lượng vũ trang, sẵn sàng đón thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền. Nhiệm vụ xây dựng Đảng ở vùng miền núi, dân tộc thiểu số được nhấn mạnh tại Hội nghị 6.

Đầu năm 1940, đồng chí Hoàng Ngọc Chương được Ban Cán sự Đảng khu D cử lên Yên Bái hoạt động nhằm xây dựng một số cơ sở ở thị xã và các vùng xung quanh. Một số hoạt động như rải truyền đơn, căng khẩu hiệu và cờ Đảng… cũng được tiến hành. Cùng thời gian đó ở khu vực Hiền Lương, Trấn Yên, một nhóm Thanh niên Phản đế cũng được tổ chức. Tuy nhiên, trong thời kì này các hoạt động cách mạng chỉ mới ở bước đầu. Do sự khủng bố của địch, phong trào cách mạng ở Yên bái bị tổn thất và tạm thời lắng xuống, nhưng nhân dân vẫn hướng về Đảng, về cách mạng. Đây là điều kiện thuận lợi để Đảng ta xây dựng và phát triển phong trào cách mạng trong các thời kì sau này. Đầu năm 1943, trước những biến chuyển mới của tình hình thế giới, Đảng một lần nữa nhấn mạnh nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân dân ta lúc này là chuẩn bị khởi nghĩa. Vấn đề cán bộ cũng đặt ra và hết ức cấp bách. Trong tình hình đó “Trung ương chủ trương phải xây dựng cho được phong trào cách mạng ở Yên Bái làm nơi dừng chân cho các đồng chí ở miền xuôi lên hoạt động và làm trạm đón các đồng chí vượt ngục Sơn La ra; hai là xây dựng căn cứ cách mạng, chuẩn bị lực lượng khởi nghĩa giành chính quyền ở địa phương”(1).

Tháng 5-1944, Ban cán sự Đảng Phú Thọ được thành lập đã chỉ đạo xây dựng đường dây liên lạc với chi bộ nhà tù Sơn La cũng như tổ chức cho cán bộ học tập chính trị và luyện cách đánh du kích.

Đầu năm 1945, hơn 200 tù chính trị ở Sơn La được trả tự do đã được cán bộ và quần chúng vùng Vần - Hiền Lương bố trí nơi ăn, chỗ ở và bảo vệ an toàn cho đến khi Ban Thường vụ Trung ương Đảng phân công đi các địa phương tham gia lãnh đạo phong trào chống Nhật cứu nước. Đêm 9.3.1945, Nhật đảo chính Pháp trên toàn cõi Đông Dương. Ngày 12.3.1945, quân Nhật tấn công lên Yên Bái, quân Pháp chống cự yếu ớt rồi nhanh chóng đầu hàng Nhật. Bọn tay sai Nhật thực hiện nhiều chính sách mị dân, lừa bịp như mở lớp dạy võ Nhật, lập đội lính “Đại Đông Á” ở thị xã Yên Bái, tổ chức viếng mộ Nguyễn thái Học… nhưng bản chất phát xít tàn bạo của chúng nhanh chóng bị vạch trần trước ánh sáng.

Để phát triển phong trào cách mạng ở Yên Bái và Phú Thọ trong điều kiện tình thế cách mạng đã xuất hiện, đầu tháng 5.1945 Xứ ủy Bắc Kỳ đã cử đồng chí Ngô Minh Loan lên phụ trách xây dựng khu căn cứ cách mạng Vần - Hiền Lương.

Thực hiện chủ trương của Đảng và chính sách của Việt Minh, cán bộ ta vừa đi sâu vận động nông dân vừa đẩy mạnh vận động tầng lớp trên tham gia ủng hộ cách mạng. Đến giữa năm 1945, cơ sở của Mặt trận Việt Minh đã được mở rộng tới hàng chục làng của phủ Trấn Yên và châu Văn Chấn. Các đoàn thể cứu quốc như Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc… được thành lập ở nhiều nơi. Một số làng lập được đội tự vệ, ban đầu chủ yếu làm nhiệm vụ tuyên truyền xung phong. Sự phát triển của phong trào cách mạng và khí thế của quần chúng có tác dụng lôi kéo một số người thuộc tầng lớp trên. Các hào lí ủng hộ và tham gia cách mạng (chánh tổng Lương Ca, chánh hương hội Nang Sa…).

Ngoài Chi bộ Ban lãnh đạo chiến khu, đến tháng 5.1945 Chi bộ Đảng thị xã Yên Bái được tổ chức gồm 3 đồng chí. Đây là chi bộ Đảng đầu tiên ở Yên Bái, có nhiệm vụ lãnh đạo phong trào cách mạng ở thị xã - trung tâm đầu não chính trị, quân sự của địch ở địa phương.

Ngày 14.6.1945, đội du kích Âu Cơ (gồm 23 chiến sĩ) được thành lập tại chùa Hiền lương. Ngay sau khi thành lập, đội du kích Âu Cơ đã đánh thắng liền hai trận ở Vần (20.6.1945) và Đèo Giang (27.6.1945) làm nức lòng nhân dân địa phương, cổ vũ mạnh mẽ phong trào kháng Nhật cứu nước.

Ngày 30.6.1945, Xứ ủy Bắc Kỳ quyết định thành lập Ban Cán sự Đảng liên tỉnh Yên Bái - Phú Thọ. Cùng ngày, Ủy ban quân sự cách mạng được thành lập, có nhiệm vụ chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang, tổ chức các hoạt động quân sự làm nòng cốt cho phong trào quần chúng và các cuộc khởi nghĩa. Trước khí thế cách mạng của nhân dân, chính quyền tay sai Nhật từ tỉnh đền cơ sở lung lay, rệu rã, hàng loạt lính bảo an bỏ ngũ mang theo vũ khí về với nhân dân, điều kiện để khởi nghĩa từng phần ở các châu, phủ và cơ sở đã chín muồi. Trước tình hình ấy, tháng 7.1945 Ban cán sự Đảng Liên tỉnh Yên Bái - Phú Thọ đã kịp thời đề ra các chủ trương mới:

“1. Gấp rút xây dựng lực lượng chính trị, tổ chức các đoàn thể cứu quốc, củng cố vững chắc khu căn cứ cách mạng để từ đó mở rộng các hoạt động ra các vùng.

2. Tập trung du kích thành các trung đội, để lại một bộ phận nhỏ bảo vệ khu căn cứ còn phần lớn tiến vào Văn Chấn hoạt động, từ đó mở rộng địa bàn đi các châu phủ khác. Trong hoạt động, các trung đội vũ trang lấy tuyên truyền xung phong là chủ yếu, vận động và hỗ trợ nhân dân đánh phá các kho thóc của giặc, vận động chính quyền tay sai Nhật các cấp tự giải tán.

3. Nhanh chóng thành lập ủy ban cách mạng lâm thời ở các xã trong khu căn cứ và vùng mới được giải phóng, tổ chức du kích, tự vệ ở những nơi đó”(2).

Thực hiện chủ trương trên, các lực lượng vũ trang được tổ chức thành 9 trung đội và theo ba mũi tiến vào Nghĩa Lộ, kết hợp vũ trang tuyên truyền với việc thành lập các đoàn thể cứu quốc, thu giữ vũ khí của quân địch bỏ chạy và phá các kho thóc chia cho nhân dân.

Ngày 6.7.1945, các đơn vị du kích tiến vào Nghĩa Lộ. Do sự thuyết phục của cơ sở Việt Minh ở đây, tri châu Văn Chấn cùng viên Quản bảo an binh đã ra đầu hàng cách mạng. Ngày 8.7.1945, tại cuộc mít tinh của quần chúng, cách mạng đã tuyên bố xóa bỏ bộ máy thống trị của địch, thành lập Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời châu Văn Chấn. Đây là huyện đầu tiên của Yên Bái được giải phóng và lập được chính quyền cách mạng.

Tại Lục Yên, ngày 8.7.1945 các lực lượng cách mạng tiến vào châu lị, viên tri châu bỏ chạy, lính bảo an xin hàng. Ngày 10.7.1945, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời châu Lục Yên được thành lập. Ủy ban đã nhanh chóng lập các đoàn thể cứu quốc và tự vệ ở các xã, lấy thóc thu được của địch chia cho nhân dân.

Tại Yên Bình, ngày 12.6.1945, Quân giải phóng phối hợp với tự vệ các xã đá phá kho thóc chợ Ngọc, bức hàng đơn vị lính bảo an đóng ở đồn Gạo, trừng trị tên tay sai phản động ác ôn Nguyễn Văn Khang. Đầu tháng 7.1945, hầu hết các xã ở phủ Yên Bình đều tổ chức được chính quyền cách mạng. Tri phủ Nguyễn Văn Hậu bỏ trốn, lính ở phủ viết giấy đầu hàng Việt Minh. Ngày 14.7.1945, ta tiếp nhận sự đầu hàng của địch, chính quyền cách mạng được thành lập. Sau đó, Nhật cho quân chiếm lại phủ Yên Bình và lập lại chính quyền tay sai mới, nhưng sau khi quân Nhật rút đi thì chính quyền này cũng sụp đổ. Ngày 9.8.1945, tri phủ Nguyễn Đình Sâm đã phải đầu hàng cách mạng.

Từ cuối tháng 7. 1945, nhận thấy chính quyền tay sai Nhật ở các nơi có dấu hiệu tan rã, ta đã điều các đơn vị đi giải phóng châu Văn Bàn (5.8.1945) và châu Than Uyên (7.8.1945).


(*) Người viết: ThS. Trần Nam Trung, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
(1) Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Yên Bái: Lịch sử Đảng bộ Yên Bái, tập I (1930-1975), 1996, tr. 36.
(1) Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Yên Bái: Lịch sử Đảng bộ Yên Bái, tập I (1930-1975), 1996, tr. 49.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 23 Tháng Tám, 2011, 07:55:37 am
Như vậy, chỉ trong vòng hơn một tháng (từ 6.7.1945 đến 9.8.1945), quân dân tỉnh Yên Bái đã lật nhào toàn bộ chính quyền tay sai của phát xít Nhật ở các châu, phủ, thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân. Quân Nhật và bọn tay sai chỉ còn giữ được thị xã tỉnh lị. Tinh thần của chúng dao động, sa sút nghiêm trọng, đây là cơ hội rất thuận lợi để nhân dân Yên Bái vùng lên giành chính quyền ở tỉnh lị.

Ngày 13.8.1945, dù chưa nhận được lệnh Tổng khởi nghĩa, Ủy ban quân sự cách mạng Yên Bái đã chủ động đề ra kế hoạch giành được chính quyền ở tỉnh lị gồm 2 bước:

Bước 1: Dùng lực lượng vũ trang, có lính trong tại bảo an binh giúp đỡ tước vũ khí của đơn vị này đem trang bị cho các đội vũ trang và tự vệ thị xã.

Bước 2: Huy động quần chúng thị xã và vùng xung quanh, có lực lượng vũ trang làm nòng cốt, đấu tranh buộc quân Nhật để ta giải tán chính quyền tay sai của chúng, lập chính quyền cách mạng của nhân dân. Nếu quân Nhật ngoan cố chống lại ta sẽ dùng lực lượng vũ trang tiến công tiêu diệt .

Ngày 15.8.1945, bốn trung đội vũ trang của ta đã tập kết ở hữu ngạn sông Hồng, đối diện với thị xã, chuẩn bị thuyền, mảng sẵn sàng hành động. Chi bộ Đảng và tự vệ thị xã được giao nhiệm vụ dẫn đường cho các đơn vị và vận động quần chúng phối hợp hành động. Cùng ngày, quân Nhật tỏ ý muốn đàm phán với Việt Minh. Sáng 16.8.1945, tại dinh tri phủ Trấn Yên cuộc đàm phán giữa đại diện lực lượng cách mạng và đại diện quân Nhật được tổ chức nhưng cả hai bên đều không đạt được thỏa thuận. Đêm 16 rạng sáng 17.8, Ủy ban quân sự cách mạng lệnh cho 4 trung đội vũ trang vượt sông Hồng vào trại lính bảo an tước vũ khí địch, đem phân phát cho tự vệ và các trung đội vũ trang. Ngay sau đó đã xảy ra xung đột quyết liệt giữa lực lượng vũ trang ta với quân Nhật (từ sáng đến chiều ngày 17.8). Tối 17.8, lệnh Tổng khởi nghĩa của Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc được đưa tới Yên Bái. Ban cán sự Đảng đã họp khẩn cấp, chủ trương huy động quần chúng vào thị xã đấu tranh chính trị kết hợp với áp lực vũ trang để giành chính quyền; thành lập Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Yên Bái và chuẩn bị tiếp quản thị xã tỉnh lị.

Sáng ngày 18.8.1945, tỉnh trưởng Yên Bái cho người làm cờ trắng mang thư đề nghị phía cách mạng ngừng bắn và đàm phán với phía Nhật. Phía ta đồng ý và tổ chức cuộc đàm phán vào lúc 14 giờ ngày 19.8 ở dinh tỉnh trưởng. Tại cuộc đàn phá ta đưa ra hai yêu cầu:

1. Quân đội Nhật không được can thiệp vào việc lập chính quyền Việt Minh ở tỉnh Yên Bái.

2. Quân đội Nhật đi lại ở thị xã Yên Bái phải báo cáo cho quân đội Việt Minh biết, nếu đi bằng ô tô, xe máy phải cắm hai lá cờ, cờ Nhật và cờ Việt Minh.

Đại diện quân Nhật đã chấp nhận các yêu cầu này. Với thành công của lần đàm phán này, cuộc khởi nghĩa của nhân dân Yên Bái đã toàn thắng. Sáng 20.8.1945, các đơn vị vũ trang cách mạng đã vào tiếp quản toàn bộ thị xã Yên Bái. Sáng 22.8.1945, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Yên bái được thành lập và ra mắt quần chúng. Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh đã tuyên bố xóa bỏ chế độ thực dân phong kiến, công bố các chính sách của Mặt trận Việt Minh và kêu gọi nhân dân các dân tộc trong tỉnh đoàn kết, ủng hộ, giúp đỡ chính quyền cách mạng, quyết tâm bảo vệ thành quả cách mạng, từng bước xây dựng cuộc sống mới.

Do các thế lực phản động Việt Nam Quốc dân Đảng theo chân quân Tưởng kéo vào Lào Cai ngăn chặn cuộc khởi nghĩa của nhân dân ở đây, Tỉnh ủy Yên Bái đã phái một đơn vị vũ trang và cán bộ lên Lào Cai tiếp quản chính quyền song quân Tưởng chặn lại ở phố Lu.

*

Cách mạng tháng Tám ở Yên Bái nằm trong diễn biến chung của cuộc Tổng khởi nghĩa trên phạm vi cả nước đồng thời lại mang những đặc điểm riêng do điều kiện lịch sử cụ thể của Yên Bái. Về mặt hình thái của cách mạng, Cách mạng tháng Tám ở yên Bái đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên Tổng khởi nghĩa.

Cũng giống như ở các địa phương trong toàn quốc, Cách mạng tháng Tám ở Yên Bái diễn ra tương đối hòa bình, việc giành chính quyền ở các châu, phủ được thực hiện nhanh chóng và hầu như không gặp sức kháng cự của quân địch. Xung đột vũ trang chỉ xảy ra ở tỉnh lị Yên Bái với quân đội Nhật, nhưng ngay sau đó Ban cán sự Đảng và Ủy ban quân sự cách mạng đã tiến hành thương lượng với quân Nhật, giành thắng lợi cho cách mạng với thương vong, đổ máu ít nhất.

Cách mạng tháng Tám ở Yên Bái diễn ra trong những du kích khó khăn riêng của Yên Bái: không phải là trung tâm chính trị, quân sự của cả nước, xa sự chỉ đạo của Trung ương, Ban cán sự Đảng mới thành lập với số đảng viên rất ít, lực lượng vũ trang mới hình thành, trang bị thô sơ và kinh nghiệm còn non yếu. Tuy nhiên, Ban cán sự Đảng và Ủy ban quân sự cách mạng đã thể hiện sự nhạy bén về chính trị và tính chủ động sáng tạo của mình trong thực tiễn cách mạng. Dù chưa nhận được lệnh Tổng khởi nghĩa của Trung ương nhưng Ủy ban quân sự cách mạng đã kịp thời đề ra kế hoạch khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh lị rất sớm (13.8.1945). Do nắm vững đường lối, chủ trương của Đảng, đi sâu đi sát với thực tế cách mạng địa phương, chủ động sáng tạo và kiên quyết cách mạng nên “chỉ với 7 đảng viên mà Ban cán sự Đảng đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa tháng Tám 1945 ở Yên Bái thành công”(2).


(1) Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Yên Bái: Lịch sử Đảng bộ Yên Bái, tập I (1930-1975), 1996, tr. 55.
(2) Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Yên Bái: Lịch sử Đảng bộ Yên Bái, tập I (1930-1975), 1996, tr. 63.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 23 Tháng Tám, 2011, 08:07:16 am
BẮC GIANG(*)

Bắc Giang là địa phương có truyền thống yêu nước chống ngoại xâm. Từ ngày Đảng ra đời, phong trào cách mạng trong tỉnh phát triển ngày càng mạnh mẽ. Khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra (9.1939), thực hiện chủ trương của Đảng, Bắc Giang nhanh chóng triển khai lực lượng tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền khi có thời cơ.

Tháng 8.1940, đồng chí Trần Quốc Hoàn (Xứ ủy viên) và một số đồng chí khác được Xứ ủy Bắc Kỳ cử về tăng cường cho phong trào cách mạng tỉnh Bắc Giang. Ban cán sự tỉnh Bắc Giang được thành lập do đồng chí Trần Quốc Hoàn làm trưởng ban.

Ngay khi phát xít Nhật tiến vào Lạng Sơn và khởi nghĩa Bắc Sơn nổ ra (9.1940), Ban cán sự tỉnh đã họp mở rộng tại phủ Lạng Thượng (nay là thị xã Bắc Giang) vào tháng 10.1940. Hội nghị nhận định: Nếu quân Nhật tiến nữa thì Bắc Giang sẽ trở thành tiền tuyến, bọn Pháp sẽ lúng túng; đó là dịp thuận lợi để ta cướp vũ khí địch. Hội nghị đề ra mấy công tác cấp bách:

1. Nhanh chóng triển khai các mạng lưới cơ sở bí mật và các tổ chức quần chúng cách mạng. Tuyên truyền vạch mặt phát xít Nhật.

2. Tích cực xây dựng lực lượng vũ trang, sắm sửa vũ khí, vận động binh lính địch trở về với cách mạng, tổ chức đánh úp đồn địch để gây thanh thế và hưởng ứng khởi nghĩa Bắc Sơn.

Các kế hoạch đã vạch ra trong hội nghị được khẩn trương thực hiện. Yên Thế được chọn để nghiên cứu chuẩn bị lập chiến khu.

Đầu năm 1944, Ban Thường vụ Trung ương Đảng và Xứ ủy Bắc Kỳ chủ trương xây dựng khu an toàn thứ II (ATK II) ở hai bên bờ sông Cầu gồm ba huyện: Hiệp Hòa (Bắc Giang), Phổ Yên, Phú Bình (Thái Nguyên). Kết quả là đến giữa năm 1944, Trung ương đã công nhận ba huyện nói trên là An toàn khu, trong đó có cơ quan của Trung ương, trạm liên lạc, nhà in, vv.

Đêm 9.3.1945, Nhật làm cuộc đảo chính lật đổ Pháp để độc chiếm Đông Dương. Bộ máy cai tri của thực dân Pháp ở Bắc Giang nhanh chóng hạ vũ khí đầu hàng Nhật. Ngay sau khi lật đổ Pháp, Nhật đã bắt tay vào xây dựng chính quyền tay sai từ tỉnh đến huyện.

Chiều 12.3.1945, đồng chí Lê Thanh Nghị, đặc phái viên của Trung ương và đồng chí Nguyễn Trọng Tỉnh, trưởng Ban cán sự tỉnh, đi dự hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng và đến nam Hiệp Hòa. Đồng chí Lê Thanh Nghị phổ biến Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” và trực tiếp lãnh đạo phong trào ở chiến khu Hiệp Hòa (Bắc Giang). Đồng chí đã quyết định phát động quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền cấp xã, phá kho thóc giải quyết nạn đói, động viên tinh thần cách mạng của quần chúng, mở đầu cho cuộc khởi nghĩa từng phần ở Bắc Giang.

Ngay tối 12.3.1945, một cuộc mít tinh toàn xã Xuân Biều (Hiệp Hòa) được tổ chức tại đình làng với sự tham gia của 70 tự vệ chiến đấu và trên 300 quần chúng.

Tại cuộc mít tinh, cán bộ cách mạng công bố lệnh thủ tiêu chính quyền địch ở xã, lập Ủy ban Dân tộc giải phóng làm nhiệm vụ của chính quyền cách mạng. Đây là cuộc khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở cấp xã đầu tiên của tỉnh Bắc Giang và cũng là thắng lợi đầu tiên của việc vận dụng sáng tạo chỉ thị ngày 12.3.1945 của Ban Thường vụ Trung ương về khởi nghĩa từng phần tạo điều kiện tiến tới Tổng khởi nghĩa.

Sau cuộc mít tinh giành chính quyền ở xã Xuân Biều (Hiệp Hòa) thắng lợi, khí thế cách mạng trong tỉnh dâng cao. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận Việt Minh, nhân dân trong tỉnh liên tiếp phá các kho thóc của Nhật, Pháp ở Vát (Hiệp Hòa), Chàng (Việt Yên)… Chính quyền địch ở nhiều xã hoang mang, tan rã, chính quyền cách mạng lần lượt được thành lập ở Vân Xuyên, Lạc Yên, Hoàng Liên, Trung Định (Hiệp Hòa), Ca Sơn (Phú Bình), vv.

Trong hai ngày 16 và 17.3.1945, Ban cán sự tỉnh Bắc Giang họp hội nghị tại Đồng Điều (Yên Thế). Hội nghị đã rút kinh nghiệm những diễn biến cách mạng sau ngày 9.3.1945, phổ biến chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, quyết định phát động cao trào kháng Nhật cứu nước trong toàn tỉnh.

Từ phong trào cách mạng, đội du kích thoát li đầu tiên của tỉnh đã ra đời (1.4.1945). Lực lượng vũ trang cách mạng phối hợp với quần chúng nhân dân mở các cuộc tấn công vào các đồn địch ở Bố Hạ (18.3.1945), Đình cả (2.3.1945), Nhã Nam (15.4.1945), vv.

Trong lúc phong trào cách mạng tỉnh Bắc Giang đang lên cao, Trung ương Đảng họp Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ tại làng Liễu Ngạn, tổng Hoàng Vân (Hiệp Hòa) từ ngày 15 đến 20.4.1945 để thảo luận cụ thể công tác chuẩn bị khởi nghĩa.

Ngày 18.5.1945, các đại biểu Ủy ban dân tộc giải phóng các xã trong huyện Hiệp Hòa họp bầu ra Ủy ban dân tộc giải phóng cấp huyện và quyết định tạm chia ruộng đất của đồn điền Cọ, Vát cho nhân dân, đồng thời thực hiện giảm tô 25%.

Những sự kiện trên đã làm cho chính quyền địch ở Hiệp Hòa hoang mang cực độ, thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền huyện đã đến. Tối 1.6.1945, lực lượng tự vệ chiến đấu dưới sự lãnh đạo của đồng chí Nguyễn Trọng Tỉnh tiến vào chiếm huyện lị. Bọn địch ở các đồn còn lại bỏ chạy về Phú Bình. Toàn huyện Hiệp Hòa được giải phóng.

Trung tuần tháng 6.1945, Ban cán sự tỉnh đã triệu tập hội nghị cán bộ toàn tỉnh. Hội nghị đã nhận định, đánh giá phong trào cách mạng trong tỉnh và thành lập Ban Chấp hành Đảng bộ thay thế Ban cán sự. Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 5 đồng chí, do đồng chí Nguyễn Trọng Tỉnh làm bí thư.

Sau hội nghị, phong trào cách mạng trong tỉnh tiếp tục dâng cao. Chỉ trong một thời gian ngắn (từ 1.6.1945 đến 20.7.1945), lực lượng cách mạng đã lần lượt giành chính quyền ở các huyện Hiệp Hòa, Việt Yên, Yên Thế, Lục Ngạn, Yên Dũng, tạo điều kiện thuận lợi tiến lên khởi nghĩa chính quyền toàn tỉnh.


(*) Người viết: Nguyễn Quốc Vương, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 23 Tháng Tám, 2011, 08:08:56 am
Được tin phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh, mặc dù chưa nhận được lệnh Tổng khởi nghĩa, các đồng chí lãnh đạo địa phương căn cứ vào chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” đã không do dự, chớp thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền tỉnh.

Biết tin Nhật sẽ giao chính quyền tỉnh cho bọn Đại Việt, vào ngày 18.8.1945, một số cán bộ phụ trách huyện Việt Yên và Yên Dũng đã họp tại Song Khê (Yên Dũng), quyết định giành chính quyền tỉnh trước khi phát xít Nhật và bọn tay sai hành động. Kế hoạch khởi nghĩa được vạch ra:

1. Chọn một số cán bộ và tự vệ cùng ba đồng chí lãnh đạo khu vực (Ninh Văn Phan, Hồ Công Dự, Trương Văn Nhã) đột nhập vào dinh tỉnh trưởng, bắt tỉnh trưởng phải đầu hàng.

2. Huy động các đội tự vệ phục sẵn trên hữu ngạn sông Thương sẵn sàng nổ súng khi phải chiến đấu.

3. Huy động tự vệ và quần chúng biểu tình thị uy trên hữu ngạn sông Thương để uy hiếp địch.

4. Gửi thư báo cho các đồng chí Nguyễn Trọng tỉnh, Hà Thị Quế, Nguyễn Thanh Bình nhanh chóng đem quân về tiếp viện đề phòng xung đột vũ trang.

5. Trung lập bọn Nhật.

Sáng 18.8.1945, hai đồng chí Hồ Công Dự và Ninh Văn Phan cùng một đội tự vệ đột nhập dinh tỉnh trưởng, buộc tỉnh trưởng Vũ Ngọc Đĩnh đầu hàng, đồng thời báo cho viên sĩ quan chỉ huy quân Nhật biết tin Việt Minh đã chiếm tỉnh lị và yêu cầu Nhật phải điều đình ngay với Việt Minh. Viên sĩ quan Nhật buộc phải chấp nhận những điều kiện mà ta đưa ra.

1. Việt Minh hoàn toàn làm chủ tỉnh Bắc Giang, giữ gìn trật tự an ninh trong tỉnh.

2. Quân Nhật đóng ở các nơi trong tỉnh phải rút về tập trung tại Cầu Lồ (Lục Ngạn) và phủ Lạng Thương, không được mang vũ khí ra phố, không được chuyển thóc đi nơi khác.

Trong khi ta đang điều đình với Nhật thì lực lượng khởi nghĩa tỏa đi chiếm các công sở, quần chúng cùng tự vệ tuần hành thị uy khắp các ngả đường. Các đồng chí Hoàng Hà Châu, Nguyễn Thanh Bình… cũng đa đem lực lượng tiến về hỗ trợ.

Ngày sau khi khởi nghĩa thắng lợi, Tỉnh ủy quyết định thành lập Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Bắc Giang, do đồng chí Nguyễn Thanh Bình làm Chủ tịch.

Chiều 21.8.1945, một cuộc mít tinh lớn được tổ chức tại sân vận động phủ Lạng Thương để chào mừng chính quyền mới. tại cuộc mít tinh, đồng chí Nguyễn Thanh Bình đã tuyên bố xóa bỏ chính quyền cũ, thành lập Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời các cấp, giới thiệu chương trình Việt Minh, kêu gọi nhân dân tham gia và bảo vệ chính quyền cách mạng. Sau đó cuộc mít tinh chuyển thành tuần hành biểu dương lực lượng.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận Việt Minh, chỉ trong một thời gian ngắn (từ 18 đến 21.8.1945), nhân dân Bắc Giang đã nhất tề vùng dậy khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi. Thắng lợi ấy là kết quả tổng hợp của những nhân tố khác quan và chủ quan. Trong đó, sự lãnh đạo của Đảng, quá tình chuẩn bị lực lượng cách mạng là những nhân tố đóng vai trò quyết định.

*

Cách mạng tháng Tám ở Bắc Giang nằm trong diễn biến chung của cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên phạm toàn quốc nhưng nó cũng cũng mang những đặc điểm riêng do bối cảnh lịch sử địa phương quy định.

Cũng như các địa phương khác trong cả nước, cuộc Cách mạng tháng Tám ở Bắc Giang đi từ khởi nghĩa từng phần lên Tổng khởi nghĩa. Ngay sau khi Nhật đảo chính Pháp, ở Bắc Giang đã diễn ra khởi nghĩa từng phần giành chính quyền, mở đầu là cuộc nổi dậy giành chính quyền của nhân dân xã Xuân Biều (Hiệp Hòa), Ca Sơn (Phú Bình)… Tiếp theo, chính quyền cách mạng cấp huyện cũng lần lượt được thành lập ở Hiệp Hòa, Việt Yên, Yên Thế, Lục Ngạn, Yên Dũng. Những thắng lợi này tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiến lên khởi nghĩa giành chính quyền toàn tỉnh.

Cách mạng tháng Tám ở Bắc Giang diễn ra tương đối hòa bình, ít đổ máu, không có xung đột vũ trang lớn. Trước sức mạnh to lớn của lực lượng cách mạng, chính quyền địch hầu như tê liệt không còn khả năng kháng cự. Lực lượng quân Nhật đóng ở phủ Lạng Thương (nay là thị xã Bắc Giang) đã phải án binh bất động, tạo điều kiện tho cho cách mạng thành công, tránh được đổ máu.

Cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Bắc Giang diễn ra rất nhanh chóng, nhưng để có được thắng lợi đó, Đảng bộ, nhân dân Bắc Giang đã phải trải qua quá trình chuẩn bị lực lượng, tập dượt đấu tranh lâu dài, gian khổ qua các thời kì cách mạng suốt 15 năm (1930-1945). Ở địa phương đã sớm xây dựng được cơ sở cách mạng rộng khắp trong toàn tỉnh, lực lượng vũ trang cách mạng được quan tâm xây dựng. Các khu an toàn, căn cứ cách mạng ở Hiệp Hòa, Yên Thế sớm được xây dựng và liên tục củng cố vững chắc tạo địa bàn đứng chân cho phong trào cách mạng phát triển trong tỉnh, là nơi bảo vệ Đảng, cách mạng trong tình thế khó khăn tránh sự khủng bố gắt gao của kẻ địch.

Trong quá trình lãnh đạo nhân dân làm cách mạng, Đảng bộ Bắc Giang đã thể hiện rõ sự chủ động, sáng tạo trong việc nắm bắt tình hình, vận dụng đường lối, chỉ thị của Trung ương Đảng vào hoàn cảnh cụ thể của địa phương, thúc đẩy cách mạng tiến lên đi đến thắng lợi. Khi Nhật đảo chính Pháp (93.1945), Ban cán sự tỉnh đã vận dụng sáng tạo chỉ thị ngày 12.3.1945 cua Ban Thường vụ Trung ương Đảng, phát động quần chúng khởi nghĩa từng phần, tạo tiền đề cho Tổng khởi nghĩa. Mặc dù chưa nhận được lệnh Tổng khởi nghĩa, nhưng khi biết tin Nhật đầu hàng Liên Xô và Đồng minh, các đồng chí lãnh đạo địa phương đã chớp thời cơ phát động quần chúng nhân dân Tổng khởi nghĩa. Do vậy, Bắc Giang đã trở thành một trong những địa phương giành được chính quyền tỉnh lị sớm nhất cả nước trong Cách mạng tháng Tám.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 23 Tháng Tám, 2011, 08:11:37 am
BẮC NINH(*)

Bắc Ninh có vị trí chiến lược quan trọng trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Trong đấu tranh cứu nước chống Pháp, Bắc Ninh là một căn cứ địa cách mạng để Đảng ta hoạt động ở Hà Nội. Từ năm 1930 trở đi, phong trào cách mạng Bắc Ninh phát triển sâu rộng qua các thời kì và có nhiều đóng góp lớn. Vì vậy, khi thực dân Pháp tiến hành phát xít hóa bộ máy thống trị ở Đông Dương, đàn áp khốc liệt phong trào cách mạng sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, nhưng chúng không ngăn cản nổi phong trào đấu tranh sục sổi và nhiều cơ sở cách mạng trong tỉnh vẫn được giữ vững. Từ 1939 đến 1941, các cơ sở Đảng được phục hồi. Nhiều tổ chức nhằm tập hợp đông đảo quần chúng như Thanh niên cứu quốc, Nhi đồng cứu quốc… đã ra đời. Tháng 1.1941, Ban cán sự Đảng Bắc Ninh được thành lập. Đây là bước phát triển quan trọng của phong trào cách mạng.

Bước sang năm 1943, phong trào cách mạng tiến nhiều bước mới, cơ sở Đảng phát triển sâu rộng ở nhiều nơi. Một hệ thống các cơ sở hình thành dọc đường số 1: từ Yên Viên đến Từ Sơn, Từ Sơn lên Lim, qua sông Đuống sang Thuận Thành. Tháng 5.1944, thi hành chỉ thị “Sửa soạn khởi nghĩa” của Tổng bộ Việt Minh, nhiều nơi trong tỉnh thành lập các đơn vị tự vệ chiến đấu, hăng say luyện tập. Trạm sửa chữa vũ khí Từ Sơn nhỏ bé được chuyển vào làng Chè đã trở thành một xưởng sửa chữa, chế tạo vũ khí có quy mô tương đối lớn. Nhiều cuộc đấu tranh chống Nhật - Pháp, chống quan lại cường hào đã nổ ra ở Trung Mầu (Tiên Du), Dương Quang (Thuận Thành)…

Ngày 9.3.1945, giữa lúc Nhật nổ súng đảo chính Pháp, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng mở rộng đã họp tại chùa làng Đồng Kỵ, sau chuyển về chùa làng Đình Bảng (Tiên Du), do đồng chí Trường Chinh chủ trì. Đến trưa ngày 12.3.1945, Hội nghị kết thúc và đưa ra bản chị thị lịch sử: “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Trong lúc hội nghị đang diễn ra, tại Trung Mầu (Tiên Du) quần chúng đã vùng dậy đấu tranh giành chính quyền, tổng lí trong làng phải mang nộp bằng, triện. Ủy ban dân tộc giải phóng làng Trung Mầu được thành lập.

Ngày 11.3.1945, hơn 500 đồng bào các giới thuộc huyện Tiên Du kéo đi biểu tình giữa ban ngày, thu hút nhiều người ra nghe diễn thuyết. Đoàn biểu tình còn giương cao khẩu hiệu “Đánh đuổi giặc Nhật”, “Phản đối chính quyền bù nhìn thân Nhật”… Cũng trong ngày này, tại chợ Húc (Tiên Dù) diễn ra cuộc mít tinh công khai có chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa. Đây là cuộc mít tinh công khai có tuần hành thị uy đầu tiên trong cao trào kháng Nhật cứu nước, chuẩn bị khởi nghĩa ở tỉnh Bắc Ninh. Lực lượng cách mạng lớn lên nhanh chóng và Ban cán sự Đảng Bắc Ninh đã đưa ra một số chủ trương cụ thể nhằm đẩy mạnh cao trào kháng Nhật - khởi nghĩa từng phần - trong lịch sử (từ tháng 3.1945 đến ngày 16.8.1945):

“1. Đẩy mạnh phong trào phá kho thóc của Nhật, Pháp, Việt gian để cứ đói cho dân.

2. Huy động lực lượng quần chúng, tự vệ chống trả quyết liệt phát xít Nhật và tay sai thu thuế thóc tạ.

3. Phát triển nhanh chóng các tổ chức cứu quốc và Mặt trận Việt Minh.

4. Tích cực xây dựng lực lượng vũ trang.

5. Hết sức chú trọng công tác đào tạo cán bộ.

6. Tiếp tục chỉ đạo khởi nghĩa giành chính quyền cấp cơ sở.

7. Thẳng tay trừng trị bọn Việt gian phản động, trộm cướp… giữ gìn trật tự an ninh”(1).

Không khí của thời kì tiền khởi nghĩa diễn ra rất sôi nổi. Phong trào phá kho thóc chia cho dân diễn ra ở nhiều nơi: Chùa Dâu, Thanh Phương, Châu Thị, Phù Ninh… Đội tự vệ của làng Long Khám, Đông Sơn (Tiên Du) đã tước súng của lính bảo an (6.1945). Cuộc đấu tranh của nhân dân làng Lôi Châu (Lang Tài) chống địch khủng bố diễn ra rầm rộ. Tình thế cách mạng đang đến gần: quân Nhật đóng trong thành Bắc Ninh không dám làm gì, lính bảo an thì sẵn sàng ngả về phía cách mạng khi thấy lực lượng nhân dân lớn mạnh. Bộ máy chính quyền của địch từ xã đến tỉnh tỏ ra vô cùng hoang mang, lo sợ, rệu rã. Trong khi đó, các đoàn thể trong Mặt trận Việt Minh ngày càng thu hút nhiều lực lượng tham gia. Ta đã nắm được các tri phủ, tri huyện.

Chính vì vậy, ngày 16.8.1945, Tỉnh ủy do đồng chí Trần Đình Nam làm Bí thư, đã chỉ thị cho các huyện: chuẩn bị lực lượng giành chính quyền. Nhanh chóng nắm bắt được chủ trương trên, 2 giờ chiều ngày 17.8.1945 lực lượng tự vệ của làng Hoài Trung, Hoài Thượng (Tiên Du) cùng quần chúng, dưới sự chỉ huy của cán bộ địa phương tiến vào huyện đường, ra lệnh cho tri huyện, nha lại và binh lính nộp vũ khí, giấy tờ, sổ sách. Sau đó, tự vệ kéo cờ đỏ sao vàng lên, canh giữ huyện lị. Ít ngày sau, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời huyện Tiên Du được thành lập. Việc chiếm huyện lị Tiên Du đã mở màn cho cuộc khởi nghĩa trong toàn tỉnh Bắc Ninh.


(*) Người viết: Đào Thu Vân, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
(1) Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng Hà Bắc: Lịch sử Đảng bộ Cộng sản Việt Nam tỉnh Hà Bắc (tập 1 - sơ thảo), Hà Bắc, 1987, tr. 94.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 23 Tháng Tám, 2011, 08:13:22 am
Ngày 18.8.1945, khởi nghĩa giành thắng lợi ở phủ lị Gia Lâm (nay thuộc Hà Nội). Một số cán bộ ở đây đã huy động lực lượng tự vệ của tổng Lời, Đặng Xá tới bao vây, đột nhập phủ lị từ hai phía: cổng trước, cổng sau. Binh lính trong phủ xin đầu hàng, viên tri phủ định chạy trốn nhưng không thoát. Lực lượng cách mạng thu giữ sổ sách, giấy tờ và giải thích chính sách khoan hồng của Việt Minh. Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời phủ Gia Lâm được thành lập sau ngày khởi nghĩa không lâu.

Cũng trong ngày 18.8.1945, lực lượng tự vệ và quần chúng các làng Phù Lưu, Tam Lư… kéo đến phủ lị Từ Sơn. Lính bảo an định rút chạy về tỉnh lị nhưng bị chặn lại. Đội tự vệ biết chúng đã hoang mang, dao động nên kiên trì thuyết phục, cuối cùng bọn lính xin đầu hàng. Mấy hôm sau, Ủy ban nhân dân cách mạng phủ Từ Sơn được thành lập.

Ngày 19.8.1945, khởi nghĩa ở huyện lị Yên Phong nhanh chóng giành thắng lợi, vì trước khi chiếm huyện lị ta đã gửi thư cho tri huyện,vừa thuyết phục vừa bắt buộc y đầu hàng. Sáng 19.8.1945, tri huyện tập trung hết súng đạn, sổ sách chờ ta vào tiếp nhận.

Sáng ngày 20.8.1945, theo kế hoạch cuộc khởi nghĩa sẽ diễn ra ở tỉnh lị Bắc Ninh. Tại vùng Thị Cầu, Đáp Cầu và các xã xung quanh, các đoàn tự vệ được trang bị súng, dao, kiếm, gậy tấp nập kéo đến tập trung trên các phố Ninh Xá, Tiền An. Không khí khởi nghĩa bao trùm mọi nẻo đường, con phố. Điều kiện chiếm tỉnh lị chín muồi, lệnh xuất quân của đồng chí Nam (Bí thư Tỉnh ủy) truyền về Long Khám (nơi tập trung lực lượng nòng cốt của cuộc khởi nghĩa). Ngay trưa hôm đó, lực lượng tự vệ và quần chúng từ huyện Tiên Du lên tiến vào tỉnh lị. Đông đảo quần chúng từ đường 1, đường 16, đường 18 giương cao biểu ngữ, cờ sao tiến vào thị xã rồi tỏa đi chiếm các công sở, trại lính và huyện lị Võ Giàng. Một đơn vị tự vệ do không nắm chắc kế hoạch khởi nghĩa đã tiến đánh trại lính Nhật trong thành Bắc Ninh, nhưng được uốn nắn kịp thời nên không có tổn thất lớn. Đến chiều tối, lực lượng khởi nghĩa chiếm được trại bảo an binh, sở cảnh sát, kho bạc và dinh tỉnh trưởng. Một bộ phận vào lấy súng trong kho của trại bản an binh, phân phát cho lực lượng tự vệ và mở cửa trại giam đón người của ta ra. Đến tối 20.8.1945, cờ đỏ sao vàng tung bay trước dinh tỉnh trưởng, báo hiệu cuộc khởi nghĩa đã hoàn toàn thắng lợi. Ngay trong đêm đó, Ủy ban cách mạng lâm thời được thành lập, do đồng chí Trần Đình Nam làm chủ tịch; các đội tự vệ kiểm soát chặt chẽ nhiều đường phố, bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, giữ vững an ninh trong tỉnh lị. Cuộc khởi nghĩa ở tỉnh lị Bắc Ninh đã được chuẩn bị chu đáo, nổ ra đúng lúc và thành công nhanh gọn trong vòng 1 ngày.

Trong ngày 20.8.1945, khởi nghĩa cũng diễn ra và giành thắng lợi ở huyện Gia Bình và phủ lị Thuận Thành. Ngày 21.8.1945, hàng nghìn người xông vào huyện lị Lang Tài bắt viên đội chỉ huy. Cán bộ huyện phụ trách cuộc khởi nghĩa tuyên bố: Từ nay chính quyền thuộc về nhân dân”. Cũng trong ngày 21.8.1945, khởi nghĩa ở huyện Văn Giang (nay thuộc Hưng Yên) giành thắng lợi.

Tin thắng lợi từ tỉnh Bắc Ninh đã lan truyền nhanh chóng đến huyện Quế Dương (nay là Quế Võ). Dưới sự lãnh đạo của cán bộ Việt Minh, đông đảo quần chúng nhân dân đã kéo tới dự mít tinh ở núi Thành Rền rồi tiến sang huyện lị nhận sự đàu hàng của tri huyện, binh lính. Hôm đó là ngày 22.8.1945. Cuộc khởi nghĩa ở Quế Dương đã đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của chính quyền bù nhìn thân Nhật trên toàn tỉnh Bắc Ninh.

*

Cuộc khởi nghĩa trong Cách mạng tháng Tám 1945 trên toàn tỉnh Bắc Ninh đã diễn ra nhanh chóng, ít đổ máu và giành thắng lợi từng bước từ cấp xã, cấp huyện lên cấp tỉnh. Nơi thành lập chính quyền sớm nhất là làng Trung Mầu (Tiên Du, 10.3.1945) và muộn nhất là huyện Quế Dương (22.8.1945). Thắng lợi trên là vô cùng to lớn và kì diệu, xuất phát từ một số nguyên nhân cơ bản sau:

1. Đảng bộ và nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã sớm nhận được sự chỉ đạo của Xứ ủy, Ủy ban quân sự cách mạng Bắc Kỳ.

2. Đội ngũ đảng viên được tôi luyện, “thử lửa” qua quá trình đấu tranh bền bỉ và luôn trung thành với Đảng, nhạy bén, sáng tạo trong hành động,

3. Nắm vững tinh thần của bản chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, Ban cán sự Đảng Bắc Ninh đã tiến hành lãnh đạo khởi nghĩa từng phần ở nhiều nơi và khi thời cơ xuất hiện đã nhanh chóng chuyển lên Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền về tay nhân dân.

4. Nhân dân Bắc Ninh biết kế thừa, phá huy truyền thống đấu tranh, đánh giặc giữ nước của dân tộc ta.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 23 Tháng Tám, 2011, 08:16:08 am
PHÚ THỌ(*)

Phú Thọ là vùng đất có bề dày truyền thống lịch sử và văn hiến. Các vua Hùng đã chọn nơi đây làm đất đóng đô của nước Văn Lang, nhà nước đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Trải qua các thời kì lịch sử, nhân dân Phú Thọ luôn phát huy truyền thống của cha ông, đoàn kết một lòng, kiên cường, dũng cảm trong xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước. Truyền thống đó càng được nhân lên gấp bội khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng. Tháng 3.1940, Đảng bộ tỉnh Phú Thọ được thành lập và tập hợp đông đảo lực lượng đứng lên chống ách thống trị của thực dân, phong kiến, giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám 1945 và tham gia vào cuộc kháng chiến trường kì chống thực dân, đế quốc đến thắng lợi hoàn toàn.

Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra (9.1939), phong trào cách mạng Phú Thọ bị khủng bố gắt gao nên phải chuyển vào hoạt động bí mật. Có những cơ sở bị địch phá đi phá lại nhiều lần, như cơ sở Thái Ninh, Kinh Kê, Cổ Tiết, Nam Cường, Sóc Đăng. Nhưng chỉ sau một thời gian tạm lắng, với sự ủng hộ, giúp đỡ tích cực của nhân dân và tinh thần dũng cảm kiên cường của các chiến sĩ cộng sản, các cơ sở Việt Minh dần dần được phục hồi và phát triển.

Sau ngày 9.3.1945, hậu quả chính sách thống trị của bọn đế quốc đã gây nạn đói nặng nề ở Phú Thọ và các tỉnh phía Bắc. Phong trào đấu tranh của nhân dân Phú Thọ lại bùng lên mạnh mẽ.

Thực hiện chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” từ ngày 12.3.1945 của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, các tổ chức Đảng trong toàn tỉnh Phú Thọ đã vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của địa phương, lãnh đạo nhân dân đấu tranh chính trị và quân sự với địch, chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền khi thời cơ đến.

Từ tháng 5.1945, hàng vạn quần chúng nhân dân trong tỉnh, dưới sự lãnh đạo của Ban cán sự Đảng, đã lần lượt phá các kho thóc của Nhật, chia cho dân nghèo cứu đói. Phong trào diễn ra mạnh mẽ, nhất là ở các huyện Hạ Hòa, Thanh Ba, Phù Ninh, Cẩm Khê, Lâm Thao. Song song với phong trào phá kho thóc của Nhật, các cuộc biểu tình đòi cứu tế, chống thu thuế cũng diễn ra rầm rộ trên khắp địa bàn tỉnh. Qua phong trào này, lực lượng quần chúng được tập dượt đấu tranh và làm tê liệt chính quyền của địch ở cơ sở.

Thực hiện chủ trương của Đảng về xây dựng các chiến khu cách mạng, làm căn cứ bàn đạp cho cuộc Tổng khởi nghĩa, Xứ ủy Bắc kỳ cử cán bộ đến Vần - Hiền Lương, vùng giáp ranh hai tỉnh Phú Thọ và Yên Bái để xây dựng chiến khu du kích, chuẩn bị Tổng khởi nghĩa. Chiến khu Vần - Hiền Lương (còn gọi là chiến khu Âu Cơ) ra đời vào tháng 5.1945, do Ban cán sự Đảng Phú - Yên (Phú Thọ - Yên Bái) lãnh đạo. Vào giữa tàng 5.1945, đội du kích Âu Cơ được thành lập, ban đầu chỉ có 15 người, sau phát triển tới 100 người được biên chết thành 4 trung đội. Lực lượng du kích được trang bị súng trường, mã tấu và cả súng máy cướp được của địch. Địa bàn chiến khu không chỉ bó hẹp ở Hiền Lương mà còn phát triển ra 12 làng thuộc tỉnh Phú Thọ và 7 làng thuộc Yên Bái. Chiến khu bao gồm một vùng tương đối rộng ở phía bắc tỉnh Phú Thọ, phía nam tỉnh Yên Bái và đông nam Nghĩa Lộ. Đây là nơi có nhiều đầu mới giao thông quan trọng với vùng Tây Bắc, địa hình hiểm trở và có một vành đai đồng ruộng màu mỡ ven sông Hồng bao bọc. Do đó, chiến khu Vần - Hiền Lương giữ một vị trí hết sức quan trọng cả về quân sự và kinh tế.

Sau khi chiến khu Vần - Hiền Lương hình thành, tháng 6.1945, hai căn cứ du kích Vạn Thắng (Cẩm Khê) và Phục Cổ (Yên Lập) được thành lập. Sau một thời gian, cả hai căn cứ đều hoạt động dưới sự lãnh đạo của Ban cán sự liên tỉnh Phú - Yên. Cán bộ quân sự của chiến khu Vần - Hiền Lương được giao nhiệm vụ giúp đỡ, huấn luyện về chính trị và quân sự cho lực lượng du kích ở hai căn cứ này. Từ đó mỗi căn cứ đều thành lập những đội du kích. Đây là lực lượng nòng cốt cho Tổng khởi nghĩa trong Cách mạng tháng Tám 1945 và là những đơn vị tiền thân của lực lượng vũ trang tỉnh Phú Thọ sau này.

Căn cứ du kích Phục Cổ (Yên Lập) thành lập vào tháng 6.1945, do một số đồng chí trong cơ sở Cát Trù - Thạch Đê tham gia xây dựng. Ảnh hưởng của phong trào cách mạng trong căn cứ lan nhanh ra các vùng xung quanh, thu hút được cả sự ủng hộ của tổng lí địa phương. Quân số trong căn cứ gồm 2 trung đội (khoảng 70 người) được trang bị giáo mác và trên 30 khẩu súng.

Với địa bàn hoạt động ngày càng được mở rộng, lại được sự ủng hộ tích của nhân dân địa phương, lực lượng vũ trang và các căn cứ, chiến khu đã tổ chức nhiều hoạt động chính trị và quân sự, tiến dần từ thấp đến cao. Lực lượng cách mạng đã buộc tri châu Trấn Yên phải trả tự do cho những người bị bắt và nộp vũ khí cho Việt Minh; tổ chức đánh chiếm các kho thóc của Nhật ở Vân Hội, Tề Lễ, Chí Chủ… Ngày 26.6.1945, du kích chiến khu Hiền Lương phục kích ở gò Cây Vải tiêu diệt 4 tên lính Nhật, làm thất bại cuộc tấn công của địch vào căn cứ.

Để chuẩn bị cho khởi nghĩa giành chính quyền, các địa phương trong tỉnh đã ra sức xây dựng lực lượng tự vệ cứu quốc. Công tác xây dựng lực lượng và chuẩn bị điều kiện tiến tới Tổng khởi nghĩa càng được đẩy mạnh, từ khi có đội quân Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân khu giải phóng Việt Bắc về hoạt động tại địa phương. Ở những nơi có đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân về hoạt động, lực lượng tự vệ địa phương càng có điều kiện tiến hành trấn phản, trừ gian, hỗ trợ Mặt trận Việt Minh, xây dựng các đoàn thể cứu quốc. Ở những nơi lực lượng cách mạng hoạt động mạnh, chính quyền tay sai của Nhật bị tê liệt, mất hiệu lực. Phong trào xây dựng lực lượng tự vệ cứu quốc đã phát triển nhanh trong toàn tỉnh. Nhân dân tự nguyện mua sắm vũ khí trang bị cho lực lượng tự vệ địa phương. Vì thế, ở nhiều huyện khi thời cơ đến, dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Việt Minh lực lượng tự vệ đã cùng nhân dân khởi nghĩa, lật đổ chính quyền xã và huyện. Tình hình này đã tạo nên hình thái khởi nghĩa từng phần trước ngày Tổng khởi nghĩa toàn quốc. Mặt khác, lực lượng tự vệ địa phương còn là một nguồn bổ sung cho lực lượng du kích chiến khu và cùng với độ quân chính trị của quần chúng cách mạng tạo thành một lực lượng hậu thuẫn, nhân lên sức mạnh và thanh thế cho phong trào Việt Minh của tỉnh.


(*) Người viết: Đinh Hữu Thiện, Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nam.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 23 Tháng Tám, 2011, 08:18:43 am
Trong những ngày sục sôi khí thế cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Ban cán sự Đảng và Mặt trận Việt Minh, lực lượng du kích các căn cứ và chiến khu được nhân dân ủng hộ đã khởi nghĩa lật đổ chính quyền tay sai Nhật.

Ngày 30.7.1945, du kích giải phóng cùng với cơ sở cách mạng địa phương đánh phá Phù Ninh, bắt tri huyện, nha lại, tước khí giới, thiêu hủy hồ sơ, phá kho thóc chia cho dân nghèo.

Ngày 2.8, du kích chiến khu Âu Cơ tiến đánh Hạ Hòa, tước khí giới, tịch thu tài sản. Tri huyện xin hàng và nộp hồ sơ, sổ sách.

Ngày 11.8, đội du kích Vạn Thắng đánh phá huyện Thanh Sơn. Ngày 17.8, huyện Cẩm Khê, phủ Thanh Bạ khởi nghĩa. Cả hai viên tri huyện, tri phủ đều bỏ trốn, bọn nha lại và binh lính đầu hàng, giao nộp toàn bộ sổ sách, đồng triện và các tài sản khác cho lực lượng cách mạng.

Ngày 18.8, khởi nghĩa ở huyện Tam Nông và châu Yên Lập.

Ngày 20.8, khởi nghĩa ở huyện Hạc Trì và phủ Lâm Thao.

Ngày 22.8, khởi nghĩa ở huyện Thanh Thủy; đây là huyện khởi nghĩa cuối cùng của tỉnh Phú Thọ.

Tính đến ngày 22.8.1945, tất cả 11 phủ, châu, huyện của tỉnh Phú Thọ đều tiến hành khởi nghĩa thành công. Chính quyền tay sai Nhật bị đập tan, chính quyền cách mạng được thiết lập. Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở các huyện đều diễn ra nhanh gọn, thuận lợi ít đổ máu.

Sau khi khởi nghĩa giành chính quyền ở các huyện, chính quyền cách mạng và huyện bộ Việt Minh huy động lực lượng tự vệ tham gia khởi nghĩa giành chính quyền tỉnh và cử cán bộ về các làng xã lập Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời làng xã trong huyện. Ban cán sự liên tỉnh Phú - Yên tập trung lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền cấp tỉnh và thị xã Phú Thọ.

Ở thị xã Phú Thọ vào những ngày tháng 8.1945, lực lượng của địch còn đông với nhiều vũ khí và âm mưu chống phá cách mạng đến cùng. Bọn Nhật thu quân ở Đoan Hùng và các tỉnh lân cận về tập kết ở tỉnh lị. Trong những ngày 22 và 23.8, chúng vẫn cho quân đến các phố khủng bố và uy hiếp nhân dân, tước súng của một bộ phận bảo an binh vì nghi lực lượng này theo Việt Minh. Bộ máy chính quyền bù nhìn (tỉnh trưởng, bảo an binh), mặc dù hoang mang dao động, nhưng vẫn được bọn Nhật tiếp sức. Bọn Việt gian Đại Việt ngoan cố làm tay sai cho Nhật chống phá cách mạng. Vì vậy, cuộc khởi nghĩa ở tỉnh gặp khá nhiều khó khăn trở ngại, không nhanh chóng, thuận lợi như khởi nghĩa ở các huyện.

Tuy vậy, lực lượng cách mạng của toàn tỉnh, gồm cả lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang đã đủ mạnh; trong thị xã, cơ sở và phong trào cách mạng được duy trì và phát triển; các huyện trong tỉnh đã khởi nghĩa thắng lợi, nhiều tỉnh phụ cận, nhất là thủ đô Hà Nội cũng đã khởi nghĩa; hơn nữa, lệnh Tổng khởi nghĩa của Trung ương đã về đến tỉnh ngày 21.8. Tất cả những yếu tố đó tạo nên sức mạnh to lớn uy hiếp kẻ thù, tạo thuận lợi cho công cuộc khởi nghĩa của tỉnh.

Chiều ngày 23.8, tại đền Đõm (thị xã Phú Thọ), Ủy ban khởi nghĩa triệu tập hội nghị quân sự đặc biệt toàn tỉnh, quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang trong tỉnh, đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng bộ Phú Thọ đã tiến hành khởi nghĩa. Hội nghị cùng đề ra các biện pháp nhằm huy động đông đảo lực lượng quần chúng biểu dương sức mạnh, làm hậu thuẫn cho cuộc khởi nghĩa. Hội nghị lựa chọn các đại biểu thành lập chính quyền cách mạng tỉnh. Nghị quyết của hội nghị mau chóng được truyền đi khắp nơi trong tỉnh. Nhân dân và các đơn vị tự vệ các huyện Thanh Ba, Lâm Thao, Thanh Thủ, Cẩm Khê, Phù Ninh được điều động về thị xã cùng với du kích các chiến khu chuẩn bị khởi nghĩa.

Đêm 23.8, Hội nghị đại biểu các lực lượng cách mạng toàn tỉnh họp tại đình làng Can Du ở thị xã Phú Thọ, thông qua chủ trương khởi nghĩa và cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng tỉnh. Ngày 24.8, truyền đơn, biểu ngữ kêu gọi nhân dân ủng hộ Mặt trận Việt Minh rải ở khắp các phố trong thị xã. Một cuộc mít tin lớn được tổ chức tại bãi Tây (nay là khu trường Sa Đéc và trường tiểu học Hùng Vương). Cuộc mít tinh chuyển thành cuộc tuần hành thị uy diễu qua các phố. Những khẩu hiệu: “Thành lập chính quyền nhân dân cách mạng”, “Việt Nam hoàn toàn độc lập”, “Đả đảo bọn quân phiệt Nhật hiếu chiến”… vang khắp thị xã. Việc làm đó của ta nhằm :làm tan rã tinh thần quân địch và dụ chúng hàng trước khi đánh”(1).

Tối ngày 24.8.1945, Ủy ban dân tộc giải phóng tỉnh họp phân công các ủy viên phụ trách tiếp quản các cơ quan của ngụy quyền và quyết định đổi tên là Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Phú Thọ. Sáng 25.8.1945, cùng với đông đỏ quần chúng nhân dân, các lực lượng vũ trang tỉnh Phú Thọ tham gia giành chính quyền tỉnh thắng lợi ở thị xã Phú Thọ. Sau đó, tại sân vận động thị xã Phú Thọ, một cuộc mít tinh được tổ chức, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời của tỉnh chính thức ra mắt được sự chứng kiến của hàng vạn người.

“Ngày 25.8.1945 cắm một mốc son chói lọi của lịch sử tỉnh ta và lịch sự Đảng bộ. Đó là ngày chấm dứt ách thống trị phong kiến tồn tại hàng nghìn năm và ách thực dân dài hơn sáu chục năm, ngày ra đời của chính quyền cách mạng, chính quyền của dân, do dân, vì dân”(2).

*

Nhân dân Phú Thọ qua nhiều thế hệ đã anh dũng vùng lên đấu tranh suốt nghìn năm Bắc thuộc, sau đó là chống Pháp, đuổi Nhật, nhưng phải đến Cách mạng tháng Tám 1945, họ mới được đổi đời, mới thực sự trở thành người làm chủ vận mệnh mình, quê hương đất nước mình. Từ đây, nhân dân Phú thọ cùng cả nước bước vào cuộc sống mới trong độc lập, tự do dưới chính thể dân chủ cộng hòa, mở đầu cho kỉ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Nhân dân Phú Thọ tự hào về trang sử Cách mạng tháng Tám của mình và tự hào vì đã góp phần xứng đáng vào thắng lợi huy hoàng trong Cách mạng tháng Tám của mình.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 429.
(1) Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Phú Thọ: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Phú Thọ, tập 1 (1939-1968), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 124.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Tám, 2011, 07:42:54 am
PHÚC YÊN(*)

Phúc Yên là một tỉnh trung du miền núi phía bắc, vừa có rừng núi, vừa có đồng bằng Yên Lãng, Đông Anh kế cận với Hà Nội và các tỉnh miền xuôi (Đông Anh trước đây thuộc Phúc Yên sau sáp nhập vào Hà Nội). Đặc điểm ấy đặc Phúc Yên vào vị trí là cửa ngõ nối liền đồng bằng Bắc Bộ, Hà Nội với Việt Bắc. Đây là một trong những điều kiện làm cho Phúc Yên sớm được ảnh hưởng phong trào cách mạng của cả miền ngược và miền xuôi. Do đó, trong thời kì Cách mạng tháng Tám, Phúc Yên là một bộ phận An toàn khu của Trung ương Đảng và căn cứ địa cách mạng toàn quốc.

Qua các phong trào cách mạng 1930-1931, 1936-1939 do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo, nhân dân Phúc Yên có nhiều đóng góp cho sự lớn mạnh của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, chuẩn bị lực lượng Tổng khởi nghĩa giành chính quyền.

Khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, thực dân Pháp thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng trong toàn quốc, cũng như ở Phúc Yên. Từ cuối năm 1939 đến đầu năm 1940, Pháp đã tung mật thám, binh lính, quan lại, cường hào đi vây lùng liên tiếp trên 20 lần ở hầu hết các cơ sở cách mạng trong tỉnh.

Giữa lúc khó khăn, Đảng bộ tỉnh nhận được Nghị quyết Trung ương 6 quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược từ cuộc vận động dân chủ sang vận động giải phóng dân tộc. Cuối năm 1939, do chủ trương chuyển trọng tâm công tác từ thành thị về nông thôn, nên Đảng bộ tỉnh Phúc Yên đã được Trung ương và Xứ ủy tăng cường một số cán bộ về chỉ đạo.

Tháng 9.1940, Nhật đánh chiếm Đông Dương, Pháp nhanh chóng đầu hàng, dâng nước ta cho Nhật. Ở Phúc Yên, ngay từ đầu năm 1941, trên 1000 lính Nhật vào chiếm đóng. Hàng vạn quần chúng lao động bị bắt đi phu, xây dựng hệ thống hầm vũ khí núi Dược Thượng (Đa Phúc), làm sân bay Hương Gia - Nội Bài (huyện Kim Anh). Hàng vạn mẫu lúa, ngô bị Nhật bắt nhổ để trồng đay, lạc, thầu dầu.

Trước tình hình đó, quần chúng nhân dân được Đảng bộ tuyên truyền giác ngộ, đã sôi nổi tham gia phong trào phản đến. Đến những năm 1943-1944, đã có hàng chục cuộc đấu tranh của các tầng lớp nhân dân chống địch thu thóc đề-pô, bắt phá lúa, ngô để trồng đay, thầu dầu.

Ngày 9.3.1945, Nhật đảo chính Pháp độc chiếm Đông Dương. Tại Phúc Yên, chiều tối 9.3, một toán lính Nhật từ sân bay Hương Gia - Nội Bài kéo lên thị xã chĩa súng vào tòa sứ, trại giám binh và gửi tối hậu thư cho Pháp. Chỉ sau một tiếng đồng hồ, Pháp đã đầu hàng. Giữa lúc đó, Đảng bộ đã nhận được chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng ngày 12.3.1945 về “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Đảng bộ Phúc Yên được tăng cường lực lượng lãnh đạo, nhằm thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu của thời kì tiền khởi nghĩa:

1. Phát động quần chúng nổi dậy đấu tranh, cấp thiết giải quyết nạn đói trước mắt.

2. Làm tan rã chính quyền địch và thành lập chính quyền cách mạng.

3. Gấp rút chuẩn bị lực lượng khởi nghĩa.

Cao trào kháng Nhật cứu nước và không khí sửa soạn khởi nghĩa của nhân dân Phúc Yên để giành chính quyền diễn ra hết sức sôi động. Lực lượng cách mạng của tỉnh đã lớn mạnh và làm chủ đại bộ phận địa bàn của nông thôn. Cán bộ, đảng viên cũng như quần chúng cứu nước đã được rèn luyện, trong thực tế đấu tranh trực diện với địch và sẵn sàng thực hiện lệnh khởi nghĩa] của Đảng. Trên mặt trận Thái Bình Dương, quân Nhật đã đầu hàng Đồng minh.

Khi biết tin Nhật đầu hàng Đồng minh, chiều ngày 18.8.1940, chi bộ nhà máy xe lửa Đông Anh đã tổ chức một cuộc tuần hành vũ trang nhằm thăm dò thái độ của địch và chuẩn bị tinh thần để chiếm huyện lị. Ngày 21.8.1945, Đội công tác của Trung ương phụ trách vùng an toàn khu Đông Anh phối hợp với chi bộ nhà máy tổ chức một cuộc mít tinh toàn quyền để lập chính quyền và giải giáp bọn Nhật còn đóng ở ga nhưng chúng không chịu hạ vũ khí. Cán bộ lãnh đạo của huyện đã quyết định dùng vũ lực để tiêu diệt. Hôm sau, bọn Nhật kéo một đại đội từ cầu Đuống lên Đông Anh để trả thù. Nhưng chính quyền cách mạng đã chủ động chuyển về nông thôn (làng Cổ Loa) và có kế hoạch cho quần chúng đấu tranh chống địch đàn áp, nên tránh được thiệt hại, bảo vệ được chính quyền.

Từ 19 đến 20.8.1945, cuộc khởi nghĩa ở Phúc Yên liên tiếp nổ ra khắp các huyện còn lại và khu vực thị xã. Đặc biệt cuộc đấu tranh ở thị xã Phúc Yên diễn ra vô cùng gay go, phức tạp, vì lực lượng khởi nghĩa phải đối phó với sự can thiệp của quân Nhật.

Sáng 18.8.1945, Ban cán sự Đảng tỉnh Phúc Yên được tin Nhật đầu hàng, tin Hà Nội có một cuộc biểu tình lớn. Ngay chiều tối 18.8, Ban cán sự tỉnh đã triệu tập Hội nghị cán bộ cấp xã, huyện, thị xã họp tại làng Chi Đông (huyện Kim Anh) để quyết định chủ trương khởi nghĩa. Lúc này tuy chưa nhận được lệnh khởi nghĩa của Trung ương, nhưng do sự quán triệt tinh thần chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, nên Đảng bộ đã có cơ sở để xác định Nhật đầu hàng tức là thời cơ giành chính quyền đã đến. Đồng thời, qua tin tức Hà Nội biểu tình càng làm cho Đảng bộ thấy rõ cần phải tranh thủ thời cơ, tiến hành khởi nghĩa.


(*) Người viết: ThS. Nguyễn Văn Ninh, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Tám, 2011, 07:43:51 am
Căn cứ vào tình hình lực lượng giữa ta và địch, Hội nghị Ban cán sự tỉnh nhận định:

- Tại các huyện lị ta có thể giành chính quyền một cách thuận lợi vì địch suy yếu không đủ sức kháng cự. Còn ở thị xã, địch có khả năng đối phó với đại đội bảo an binh, nhưng tinh thần quân lính của chúng cũng đã bị rung động.

- Ngay lúc bắt đầu họp Ban cán sự, tỉnh cũng đã biết bọn Đại Việt huy động một số thanh niên định lên chiếm tỉnh lị, nhưng Hội nghị cho rằng: ta có khả năng làm tan rã hàng ngũ của bọn Đại Việt bằng cách trấn áp bọn cầm đầu, lôi kéo thanh niên sang hàng ngũ Việt Minh, vì số quần chúng đó chỉ nhất thời bị địch lợi dụng.

- Hội nghị quyết định tập trung toàn bộ lực lượng quần chúng, huy động hết thảy các đội tự vệ vũ trang để khởi nghĩa ở thị xã Phúc Yên vào ngày 19.8.1945, Trên đường lên chiếm tỉnh lị, có thể tranh thủ lấy ngay huyện lị Kim Anh để có thêm vũ khí đối phó với địch ở thị xã. Còn huyện Yên Lãng thì giao cho một số cơ sở giành chính quyền sau khi đã khởi nghĩa ở tỉnh lị về.

- Về việc chiếm tỉnh lị, Hội nghị quyết định sử dụng những biện pháp chủ yếu: huy động lực lượng quần chúng biểu tình vũ trang kết hợp với các đơn vị tự vệ làm nòng cốt, tiến hành bao vây kêu gọi địch đầu hàng. Nếu địch chống lại, ta tiếp tục bao vây bằng vũ trang, chặn mọi nguồn tiếp tế, đẩy mạnh công tác binh vận làm tan rã quân lính địch.

Cuối cùng, Hội nghị cử Ủy ban khởi nghĩa, do đồng chí Vũ Ngọc Linh, đại diện Ban cán sự tỉnh, làm chủ tịch và 3 ủy viên phụ trách quân sự, tuyên truyền và hành chính. Hội nghị kết thúc ngay trong đêm 18.8.1945 để các đại biểu kịp thời về địa phương tập trung lực lượng.

Từ mờ sáng 19.8.1945, theo sự phân công của Ủy ban khởi nghĩa, đơn vị tự vệ làng Chi Đông đã hoàn thành việc chiếm huyện lị Kim Anh một cách nhanh gọn và đem số vũ khí lấy được (12 súng) lên tham gia khởi nghĩa ở tỉnh lị.

Trưa ngày 19.8.1945, lực lượng quần chúng biểu tình vũ trang lên tới hàng vạn người, vây chặt hai nơi chủ yếu của địch là trại Bảo an binh và dinh Tỉnh trưởng. Ta dùng áp lực thị uy của quần chúng để kêu gọi bọn chỉ huy Bảo an binh giao vũ khí, nhưng chúng ngoan cố không chiu đầu hàng. Tỉnh trưởng cũng họp bàn với một số quan lại để tình cách đối phó. Khi đại biểu cách mạng vào yêu cầu chúng giao chính quyền, thì Tỉnh trưởng từ chối, nói “Phải xin lệnh của Khâm sai”. Lực lượng tự vệ của ta tiến công vào tước súng của binh lính, buộc Tỉnh trưởng đầu hàng, giao toàn bộ tài liệu, kho bạc, nhà dây thép và 38 khẩu súng. Tỉnh trưởng bù nhìn đầu hàng, nhưng những tên cầm đầu Bảo an binh vẫn tìm cách dựa vào Nhật để chống lại cách mạng. Ngày 21.8.1945, cuộc khởi nghĩa mới giành được thắng lợi. Tuy nhiên, về sách lược, ta lập “chính quyền liên hiệp” với các thế lực thân Nhật. Ngày 27.8, các phần tử phản động Việt Nam Quốc dân Đảng câu kết với bọn cầm đầu Bảo an binh tiếp tục chống lại cách mạng nhưng đã bị đánh tan. Ngày 30.8, chính quyền mới hoàn toàn về tay nhân dân.

Cùng ngày khởi nghĩa ở tỉnh lị Phúc Yên, các cơ sở thuộc huyện Yên Lãng, Đa Phúc… cũng kịp thời nổi dậy đấu tranh giành chính quyền.

*

Tóm lại, tiến trình của cuộc Cách mạng tháng Tám ở Phúc Yên diễn biến hết sức gay go, quyết liệt. Hầu hết các huyện, xã đều phải dùng áp lực chính trị và vũ trang mới lật đổ được chính quyền của địch. Nhân dân thị xã Phúc Yên phải chiến đấu đổ máu mới giành được thắng lợi. Điều đó chứng tỏ rằng, cuộc khởi nghĩa ở Phúc Yên đã sử dụng cả bạo lực chính trị và vũ trang, trong đó, hình thức đấu tranh vũ trang giữ vị trí quyết định chủ yếu.

Cùng với sự kết hợp giữa đấu tranh chính trị với vũ trang, cuộc khởi nghĩa ở Phúc Yên còn thể hiện sự gắn bó chặt chẽ giữa đấu tranh ở nông thôn và thành thị. Tại Phúc Yên, cuộc khởi nghĩa bắt đầu ở xã, huyện, lên tỉnh, rồi lại từ tỉnh trở về huyện, xã và cuối cùng kết thúc thắng lợi ở tỉnh lị. Hình thái cách mạng chung toàn tỉnh là khởi nghĩa nông thôn tới thành thị, trong đó lực lượng cách mạng ở nông thôn giữ vai trò trọng yếu nhất.

Cuộc khởi nghĩa ở Phúc Yên đã kết hợp giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, giữa nông thôn với thành thị; đồng thời thể hiện nổi bật sự chỉ đạo kiên quyết, kịp thời của Đảng bộ và tinh thần dũng cảm đấu tranh của quần chúng nhân dân. Mặc dù phải khắc phục sự đứt liên lạc với trên, phải chiến đấu đổ máu ác liệt trước sự phản kháng của kẻ địch, nhưng hàng chục vạn quần chúng đã cùng với Đảng bộ hoàn thành nhiệm vụ khởi nghĩa một cách anh dũng. Thắng lợi vẻ vang đó của Đảng bộ và nhân dân Phúc Yên kinh qua 15 năm rèn luyện trong đấu tranh dưới ngọn cờ quang vinh của Đảng và không ngừng phát huy truyền thống đấu tranh bất khuất chống phong kiến, đế quốc do cha ông để lại.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Tám, 2011, 07:46:22 am
SƠN TÂY(*)

Sơn Tây là một địa bàn chiến lược quan trọng, nằm giữa trung du và đồng bằng, ngay sát Hà Nội. Vì vậy, thực dân Pháp đã đặt tại đây nhiều đồn binh trọng yếu ở thành Sơn Tay, Thông, Hòa Lạc… để kiểm soát tình hình.

Phong trào cách mạng ở Sơn Tây hình thành sớm, nhưng phát triển không liên tục. Năm 1937, chi bộ lâm thời đầu tiên của tỉnh mới được thành lập ở thôn Đa Phúc và chịu trách nhiệm lãnh đạo phong trào trên địa bàn toàn tỉnh. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào dân chủ những năm 1937-1938 của Sơn Tây được đẩy mạnh.

Tháng 9.1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, chấp hành chỉ thị rút vào hoạt động bí mật, chi bộ Đa Phúc đã bảo toàn được lực lượng, tiếp tục lãnh đạo phong trào. “Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế” được thành lập, đưa phong trào cách mạng trong tỉnh bước sang một thời kì mới - thời kì cách mạng giải phóng dân tộc.

Từ đầu năm 1949, phong trào phản đế trong tỉnh phát triển mạnh mẽ. Ở các thị trấn, huyện lị, tỉnh lị, truyền đơn và cờ đỏ búa liềm xuất hiện. Các đoàn thể cứu quốc tăng nhanh về số lượng và chất lượng. tại các vị trí quân sự quan trọng của Pháp ở Thông, Sơn Lộc xuất hiện truyền đơn kêu gọi binh lính chống chiến tranh. Bên cạnh đó, các cuộc đấu tranh chống phù thu lạm bổ, chia lại công điền công thổ… vẫn tiếp tục, tuy không rầm rộ như trước.

Trước sự phát triển của phong trào phản đế và các cơ sở Đảng trong toàn tỉnh (lúc này đã thành lập được cơ sở ở Phúc Thọ và Tùng Thiện). Xứ ủy Bắc Kỳ quyết định thành lập Ban Tỉnh ủy lâm thời Sơn Tây (10.1940). Đảng bộ ra đời, chủ trương tổ chức phong trào luyện tập quân sự trong các độ tự vệ và phản đế; tuyên truyền xung phong ở những nơi đông người để gây ảnh hưởng cho mặt trận và hưởng ứng tinh thần Bắc Sơn, Nam Kỳ khởi nghĩa. Các cuộc tuyên truyền xung phong được tổ chức liên tiếp ở Đa Phúc, chợ Nủa (Thạch Thất), La Gián (Tùng Thiện), thu hút hàng trăm người tham gia. Sự phát triển rầm rộ, lộ liễu của phong trào lúc này đã dẫn đến hậu quả bị địch đàn áp, khủng bố. Đầu năm 1941, phong trào bị vỡ. Hầu hết đảng viên và quần chúng, cốt cán bị bắt hoặc phải thoát li địa phương. Cả tỉnh chỉ còn lại một cơ sở chi bộ Đa Phúc, không đủ điều kiện để duy trì Ban Tỉnh ủy. Xứ ủy quyết định chuyển tỉnh ủy Sơn Tây thành Ban cán sự Sơn Tây, giao phong trào cách mạng Sơn Tây cho Tỉnh ủy Hà Đông phụ trách.

Mặc dù vừa bị địch khủng bố, Đảng bộ Sơn Tây đã lợi dụng ngày hội chùa Thầy (4.1941) để tổ chức một cuộc tuyên truyền, vận động sâu rộng trong quần chúng, tiếp tục hưởng ứng tinh thần Bắc Sơn, Nam Kỳ và ủng hộ Trung Hoa kháng Nhật. Trước mặt bọn quan lại, lính tráng, mật thám đến dự hội, các chiến sĩ cách mạng đã treo cờ đỏ búa liềm trên đỉnh núi Thầy. Kẻ thù tức tối mở một cuộc vây ráp nhưng không bắt được ai.

Tháng 12.1941, Mặt trận Việt Minh và các tổ chức Cứu quốc ra đời ở Sơn Tây. Đảng bộ chủ trương tuyên truyền giải thích sâu rộng tôn chỉ, mục đích của Mặt trận, vạch trần thủ đoạn áp bức bóc lột của Pháp - Nhật và tiến hành phát triển rộng rãi các hội viên cứu quốc. Hình thức tuyên truyền chủ yếu lúc này là rải truyền đơn, dán áp phích, treo cờ đỏ sao vàng dọc các đường giao thông chính, các chợ, thị trấn, thị xã và các cơ quan công sở. Đặc biệt, Đảng bộ cho rải truyền đơn vào các trại lính ở Thông, Sơn Lộc để kêu gọi binh lính chống chiến tranh đế quốc và phản đối lệnh đi đàn áp, khủng bố cách mạng…

Phong trào Việt Minh đang phát triển thì tháng 2.1942, địch phát hiện được cơ sở giao thông của Xứ ủy ở Đa Phúc; phong trào lại bị vỡ. Hè năm 1943, được sự tăng cường cán bộ của Xứ ủy, chi bộ Đảng được tái lập, phong trào dần dần được phục hội.

Cuối năm 1944, Xứ ủy chủ trương xây dựng một khu an toàn ở phía bắc Hà Đông, nam Sơn Tây gồm 3 huyện Hoài Đức, Quốc Oai và Đan Phượng. Do đó, phong trào ở Sơn Tây nói chung và các xứ Đa Phúc, Thượng Đức, Mỹ Giang (thuộc Quốc Oai) nói riêng được củng cố và phát triển. Tòa soạn báo “Cứu quốc” - cơ quan ngôn luận của Tổng bộ Việt Minh được đặt tại Đa Phúc và núi Sài Sơn. Đầu năm 1945, cơ quan báo bị lộ và khủng bố, phải chuyển đi nơi khác nhưng phong trào trong tỉnh vẫn được duy trì.

Sau khi Nhật đảo chính Pháp, tình hình chính trị, xã hội ở Sơn Tây hết sức rối loạn. Bên cạnh đó, nạn đói cũng bước vào giai đoạn thê thảm nhất. Quần chúng nhiều nơi đã tự phát chống đối, giết bọn sĩ quan Nhật và chủ đồn điền. Trước tình hình đó, nhiều cán bộ, đảng viên đã vượt ngục về địa phương hoạt động. Xứ ủy cũng kịp thời cử thêm một số cán bộ đến Sơn Tây để tăng cường lãnh đạo phong trào.

Trung tuần tháng 3.1945, Ban cán sự của tỉnh họp tại thôn Thượng Hiệp (Quốc Oai), kiểm điểm tình hình và vạch ra kế hoạch đẩy mạnh phong trào. Sau khi nghiên cứu kĩ chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, hội nghị đã quyết định đẩy mạnh công tác gây dựng, củng cố và mở rộng cơ sở ở những vùng quan trọng về chính trị như thị xã, các huyện lị dọc các đường giao thông lớn; xúc tiến việc nối liền các căn cứ địa cách mạng trong toàn tỉnh; khẩn trương chuẩn bị các lực lượng vũ trang, gây dựng một cao trào cách mạng trong nhân dân. Hội nghị cũng chủ trương vận động nhân dân thành lập quỹ nghĩa thương để tương trợ chống đói, tổ chức lực lượng tự vệ để giữ gìn trật tự an ninh, bảo vệ cán bộ, chống Nhật bắt phá hoa màu trồng đay… Hội nghị quyết định sẽ tổ chức tuần hành thị uy để biểu dương lực lượng, gây thanh thế cho cách mạng ở những nơi có điều kiện.


(*) Người viết: ThS. Lê Minh Huệ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Tám, 2011, 07:48:01 am
Sau hội nghị, phong trào ở khắp các địa phương có tiến bộ rõ rệt. Các đoàn thể Cứu quốc đã thu hút được đông đảo các tầng lớp công nhân, thợ máy, lái xe, thanh niên, học sinh, sư sãi… Tổ “Việt Nam Cứu quốc hội” được phát triển gồm số đông hào lí, phụ lão đã có tác dụng tích cực trong việc đấu tranh không nộp thuế, nộp thóc (ở Tùng Thiện). Tổ chức “Nhi đồng cứu vong” cũng được phát triển ở Thuần Mỹ, Kiều Trung, làm tốt công tác bảo mật phòng gian, phát tán truyền đơn, đưa đón cán bộ… Ở miền núi, vùng đồng bào Mường, Ban cán sự tỉnh bố trí cán bộ nhằm chuẩn bị xây dựng căn cứ du kích của tỉnh. Lực lượng vũ trang, các đội tự vệ và tự vệ chiến đấu được gấp rút xây dựng. Ở nhiều nơi, các đội bảo an địa phương biến thành đội tự vệ của ta. Quần chúng khắp nơi tích cực tìm kiếm, mua sắm vũ khí. Nhiều nơi như ở Bất Bạt, nhân dân lấy được cả súng, lựu đạn của Pháp vứt lại trong ngày đảo chính để trang bị cho các đội tự vệ. Các lớp huấn luyện chính trị và quân sự được mở liên tục ở Cấn Xá, Hạ Bằng, Sài Sơn… Tỉnh còn gửi một số đồng chí lên học trường quân chính ở chiến khu Việt Bắc.

Trong tháng 6 và 7.1945, phong trào phát triển mạnh mẽ với các hình thức đấu tranh rất phong phú; vận động quần chúng chống nộp thóc tạ, chống nhổ lúa trồng đay; cắt đường dây điện thoại, điện tín của địch. Có nơi, lực lượng cách mạng tổ chức cướp tiền thuế, cướp kho thóc, xe thóc của Nhật chia cho nông dân như ở Cần Kiệm, Tích Giang… Những cuộc tuyên truyền xung phong được tổ chức ở nơi đông người để vạch mặt bọn phản động, gây được ảnh hưởng mạnh mẽ trong quần chúng. Quần chúng biểu tình thị uy, thậm chí có những cuộc tước vũ khí của lính huyện đi canh đê như ở Triệu Xuyên (Phúc Thọ). Truyền đơn, áp phích, cờ đỏ sao vàng xuất hiện khắp nơi, thậm chí cả trong công sở, bàn giấy của bọn quan lại.

Trước khí thế cách mạng đó, nhiều quan lại, kì hào, binh lính đã từng chống đối cách mạng trở nên hoang mang, có người ủng hộ ngầm hoặc công khai đi theo cách mạng. Ở một số xã như Thuần Mỹ, Kiều Trung, bên cạnh chính quyền bù nhìn đã bị ta khống chế, lợi dụng, các Ủy ban dân tộc giải phóng đã bí mật ra đời, trực tiếp lãnh đạo chuẩn bị khởi nghĩa.

Từ 1 - 3.8.1945, Tỉnh ủy họp hội nghị bất thường tại xóm Bồ Đề, thôn Đa Phúc (Sài Sơn) để bàn kế hoạch giành chính quyền toàn tỉnh và phân công lãnh đạo khởi nghĩa ở các địa phương. Kế hoạch đề ra là sẽ giành chính quyền ở những nơi nào có phong trào cao trước, nắm chắc thắng lợi rồi mới tuần tự khởi nghĩa ở những nơi khác.

Ngày 15.8, Hội nghị khẩn cấp của Xứ ủy Bắc Kỳ quyết định phải đánh chiếm phụ lị Quốc Oai trước.

Ngày 17.8, được sự hỗ trợ của đội tự vệ do Xứ ủy điều từ Chương Mỹ lên, lực lượng cách mạng Sơn Tây đã chiếm được phủ Quốc Oai không tốn một viên đạn. Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời được thành lập.

Ngay sau thắng lợi ở Quốc Oai, ta tổ chức giành chính quyền ở Thạch Thất, rồi cử lực lượng đi lấy đồn Hòa Lạc (một đồn binh quan trọng ở Thạch Thất). Do có nhân mối bên trong từ trước nên việc lấy đồn diễn ra thuận lợi, không đổ máu.

Ngày 20.8, lực lượng cách mạng và quần chúng giành chính quyền ở Tùng Thiện và Phúc Thọ.

Tối 19.8, Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng được triệu tập tại Kiều Trung để bàn kế hoạch giành chính quyền ở thị xã Sơn Tây.

Đêm 20.8, tự vệ chiến đấu cắt đường dây điện thoại của địch đi Hà Nội và các nơi khác. Tổ chức thanh niên Phan Anh, được sự tuyên truyền, vận động của Việt Minh đã tổ chức một cuộc biểu tình ủng hộ Việt Minh. Bọn Đại Việt bị cô lập rút về phía Mỏ Chén. Chính quyền địch ở Sơn Tây về cơ bản đã tan rã.

Ngày 21.8, các đội vũ trang các huyện và quần chúng nhân dân tự trang bị vũ khí thô sơ đã mít tinh, biểu tình, sau đó kéo về phía dinh Tỉnh trưởng và trại Bảo an binh, vừa đi vừa hô vang các khẩu hiệu ủng hộ cách mạng. Từ Tỉnh trưởng đến Bảo an binh, cảnh sát, công chức các công sở đều phải tuân lệnh của quân cách mạng, giao nộp lại chính quyền, sổ sách… Công cuộc giành chính quyền ở thị xã Sơn Tây thành công tốt đẹp.

Ngày 22.8, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh được thành lập(1). Cùng ngày, ta giành chính quyền ở Quảng Oai.

Bất Bạt là huyện cuối cùng trong tỉnh giành chính quyền. Do nước lụt ngăn cản nên đến ngày 25.8, Tỉnh bộ Việt Minh mới điều một lực lượng vũ trang và tự vệ (khoảng một trung đội) lên giành chính quyền.

Như vậy, từ 17 đến 25.8.1945, Đảng bộ Sơn Tây (lúc này mới có 16 đồng chí) đã lãnh đạo nhân dân toàn tỉnh vùng lên giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai.

*

Là một địa bàn chiến lược quan trọng, Sơn Tây thường xuyên bị bọn thực dân, phát xít theo dõi và khủng bố gắt gao. Các cơ sở Đảng ở Sơn Tây ra đời muộn và không có điều kiện để phát triển mạnh như ở các địa phương khác. Phong trào cách mạng nói chung phát triển chưa đều giữa các vùng. Trong thời kì tiền khởi nghĩa, khẩu hiệu đấu tranh kinh tế chưa được thực hiện một cách mạnh mẽ. Hình thức đấu tranh chủ yếu vẫn là tuyên truyền vận động quần chúng đấu tranh hợp pháp chống nộp thóc, các hình thức đấu tranh bất hợp pháp như cướp thóc, cướp thuế còn ít, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế… Tuy nhiên, Đảng bộ và nhân dân Sơn Tây lại có thuận lợi là được sự chỉ đạo và giúp đỡ trực tiếp của Xứ ủy Bắc kỳ. Nhờ vận dụng linh hoạt những chủ trương, chính sách của Trung ương và Xứ ủy, Đảng bộ Sơn tây đã huy động được sức mạnh của toàn dân, cô lập, tiến tới đánh bại kẻ thù, giải phóng quê hương.


(1) Ngày 25.8.1945, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh chính thức ra mắt quần chúng, tuyên bố xóa bỏ hệ thống chính quyền của thực dân phong kiến, kêu gọi nhân dân toàn tỉnh đoàn kết bảo vệ chính quyền cách mạng.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Tám, 2011, 07:50:07 am
HÀ ĐÔNG(1)

Hà Đông tiếp giáp với nhiều vùng đất quan trọng ở khu vực Bắc Bộ, phía đông bắc giáp Hà Nội, phái bắc giáp Sơn Tây, một vị trí quân sự quan trọng; phía tây nam giáp Hòa Bình; phía nam giáp Hà Nam. Với một hệ thống giao thông đường thủy, đường bộ, đường hàng không ngày càng phát triển như đường số 1, số 6, sông Nhuệ, sông Đáy… Hà Đông đã trở thành cầu nối giữa Hà Nội với nhiều miền của đất nước, trở thành nơi giao lưu kinh tế, chính trị, văn hóa của khu vực. Về mặt quân sự, Hà Đông đã trở thành áo giáp của Hà Nội về phía tây nam. Về mặt chính trị, do vốn cùng chung đơn vị hành chính nên dù tách thành tỉnh riêng, Hà Đông vẫn có mối quan hệ chặt chẽ với Hà Nội về nhiều mặt. Hà Nội có ảnh hương không nhỏ tới Cách mạng tháng Tám ở Hà Đông. Về kinh tế, Hà Đông là một tỉnh nhỏ có nền kinh tế phát triển trong khu vực, vùng sản xuất lương thực chủ yếu của Bắc Bộ, đồng thời cũng là “đất trăm nghề”. Toàn tỉnh có 136 ngành nghề với những sẩn phẩm nổi tiếng trong và ngoài nước, đặc biệt là ngành tơ lụa, khảm trai, thêu ren… Do tiếp giáp với Hà Nội nền kinh tế hàng hóa của tỉnh sớm phát triển để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, sản xuất của Hà Nội và các vùng khác. Hà Đông đã trở thành kho người, kho của rất quan trọng.

Sự phát triển kinh tế đã dẫn đến sự phân hóa xã hội mạnh mẽ. Bên cạnh giai cấp địa chủ, nông dân, ở Hà Đông đã xuất hiện đội ngũ công nhân hàng nghìn người, tập trung ở một số xí nghiệp lớn. Ngoài ra, ở đây còn xuất hiện hai lực lượng quan trọng có ảnh hưởng lớn đến phong trào cách mạng trong tỉnh là thợ thủ công và trí thức, tiểu tư sản. Do điều kiện sản xuất, thợ thủ công giao tiếp rộng rãi nên rất nhanh nhạy, nhiệt tình trong đấu tranh cách mạng. Lực lượng trí thức, tiểu tư sản xuất thân từ nhiều thành phần xã hội khác nhau như nông dân, thợ thủ công, nhà Nho, con em lí dịch… họ thường ra học ở Hà Nội và được giác ngộ cách mạng thông qua phong trào học sinh sinh viên ở Hà Nội. Với những đặc điểm nêu trên, Hà Đông đã trở thành địa bàn quan trọng không chỉ ở khu vực mà của cách mạng cả nước. Tháng 5.1930, chi bộ Đảng đầu tiên của Hà Đông được thành lập ở xã Đông Phù (Thanh Trì). Sau đó cơ sở Đảng, cơ sở quần chúng cách mạng được mở rộng. Đến 1938, Đảng bộ Hà Đông ra đời và trở thành lực lượng lãnh đạo quan trọng của phong trào cách mạng tỉnh.

Năm 1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Tình hình Đông Dương nhanh chóng chuyển biến, gây bất lợi cho cách mạng. Ngày 29.9.1939, thực dân Pháp ở Đông Dương đã công bố đạo luật phát xít và ngay ngày hôm sau, chúng đã tiến hành khủng bố, đàn áp dữ dội phong trào cách mạng ở Hà Đông. Tháng 10.1939, đồng chí Hoàng Văn Thụ, Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ cùng các cán bộ và cơ quan của Xứ ủy Bắc Kỳ, một số cán bộ của Trung ương đã về hoạt động ở Hà Đông. Sở dĩ Hà Đông được Xứ ủy và Trung ương chọn làm an toàn khu vì Hà Đông tiếp giáp với Hà Nội, lại ở vị trí đầu mối giao thông thuận lợi giữa các vùng trong xứ, các miền trong cả nước. Mặt khác, Hà Đông lại là nơi có cơ sở Đảng, cơ sở quần chúng mạnh, nhất là ở vùng Hoài Đức, nơi có nhiều làng nghề thủ công nên việc đi lại giao dịch hàng ngày rất tấp nập, giúp các cán bộ của Đảng dễ cải trang che mắt địch. Việc Xứ ủy Bắc Kỳ và Trung ương chọn Hà Đông làm an toàn khu đã giúp cho phong trào cách mạng địa phương phát triển nhưng đồng thời đây cũng là trách nhiệm nặng nề vì kẻ địch luôn rình mò, đàn áp, khủng bố quyết liệt nhằm tiêu diệt cơ quan Xứ ủy và Trung ương ở Hà Đông.

Tháng 5.1941, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 đề ra chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh và chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân dân trong thời kì mới. Hà Đông là nơi có nhiều cán bộ của Trung ương, Xứ ủy qua lại nên Đảng bộ sớm tiếp nhận nghị quyết 8 của Trung ương. Tháng 8.1941, kế hoạch tiến hành thành lập Mặt trận Việt Minh tỉnh đã được hình thành. Các cán bộ của Xứ ủy và Trung ương đóng ở địa phương, các cán bộ ở tỉnh đã mở các lớp huấn luyện về chương trình, điều lệ của Mặt trận Việt Minh, giúp các cơ sở xây dựng các đoàn thể cứu quốc, đồng thời tổ chức các hình thức tuyên truyền như treo cờ đỏ sao vàng, rải truyền đơn, giới thiệu chương trình điều lệ Mặt trận Việt Minh, tán phát thư kêu gọi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc… Do hoạt động tích cực, đến cuối năm 1941, hầu khắp các cơ sở cách mạng trong tỉnh đã thành lập được Mặt trận Việt Minh. Đó là cơ sở để đến tháng 11.1941, Mặt trận Việt Minh tỉnh được thành lập ở làng Vạn Phúc. Sau đó, Mặt trận Việt Minh các huyện cũng lần lượt thành lập. Tổ chức Mặt trận Việt Minh các cấp đã được hình thành.

Cùng với xây dựng lực lượng chính trị, quán triệt quan điểm chuẩn bị khởi nghĩa của Hội nghị Trung ương Đảng 8, Ban cán sự Đảng tỉnh Hà Đông rất quan tâm đến việc phát triển lực lượng tự vệ. Từ năm 1939, do yêu cầu bảo vệ cơ quan và cán bộ của Trung ương Đảng và Xứ ủy ở an toàn khu nên một số đội tự vệ của Hà Đông đã được hình thành. Lực lượng tự vệ được tuyển chọn từ các đoàn thể phản đế. Sau đó, ở những nơi có phong trào mạnh, khu căn cứ của tỉnh cũng tổ chức các đội tự vệ. Tỉnh ủy còn cử đồng chí Phó Bí thư Tỉnh ủy và một số cán bộ đi dự lớp huấn luyện quân sự do Trung ương mở. Đến năm 1942, ở hầu hết các huyện thị đều đã xây dựng được đơn vị tự vệ ở thôn xã. Phong trào xây dựng lực lượng tự vệ có bước phát triển mới vào tháng 8.1944, khi Tổng bộ Việt Minh phát động phong trào “Sắm vũ khí, đuổi thù chung”. Đảng bộ Hà Đông đã củng cố các độ tự vệ sẵn có, tổ chức thêm các đội tự vệ mới, mua sắm vũ khí trang bị cho tự vệ, cử người đi học các lớp chính trị, quân sự do Xứ ủy, Trung ương, tỉnh tổ chức. từ 1944, trong tỉnh xuất hiện “Đội danh dự trừ gian”, có nơi gọi là “Đội tuyên truyền vũ trang xung phong”, hoạt động tuyên truyền bất ngờ ở nơi đông người một cách chớp nhoáng nhằm tố cáo tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật, kêu gọi nhân dân đấu tranh. Đến giữa 1945, một số xã thuộc huyện Thanh Oai, Thanh Trì, Chương Mỹ đã thành lập đại đội tác chiến của vùng là những đội tự vệ mạnh của khu vực.

Như vậy, từ 1939 đến 1945, phong trào cách mạng Hà Đông phát triển mạnh mẽ, rộng khắp trong toàn tỉnh với lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang đứng đầu. Ngày 9.3.1945, Nhật đảo chính Pháp độc chiếm Đông Dương. Ngày 12.3.1945, Thường vụ Trung ương Đảng đã ra chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Ngày 18.3, Ban Tỉnh ủy Hà Đông đã họp và bàn kế hoạch thực hiện chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng và hội nghị đã phân công mỗi đồng chí trong Ban Tỉnh ủy phụ trách cách mạng của một vùng (khu vực do Tỉnh ủy chỉ đạo được chia làm 4 vùng lớn). Do sự lãnh đạo sát sao, trực tiếp của Tỉnh ủy, Xứ ủy, Trung ương, từ trung tuần tháng 3.1945, toàn tỉnh dấy lên phong trào đấu tranh cách mạng sôi nổi, mạnh mẽ, phong phú về nội dung và hình thức. Công tác tuyên truyền được đẩy mạnh, treo cờ, rài truyền đơn, dán áp phích diễn ra trong khắp các vùng, gây ảnh hưởng mạnh mẽ. Ban Tỉnh ủy đặc biệt chú ý chỉ đạo phát triển hình thành tuyên truyền xung phong. Các đội tuyên truyền xung phong ở các vùng, các cơ sở được thành lập. Các đội tuyên truyền xung phong thường được tổ chức ở các chợ vào những ngày phiên chợ, như chợ Trôi (Đan Phượng), chợ Chúc (Chương Mỹ), chợ Chuông (Thanh Oai), chợ Om, chợ Nhót (Thanh Trì), chợ Đanh, chợ Ngăm (Ứng Hòa), chợ Mía (Mỹ Đức)…


(1) Người viết ThS. Vũ Thị Hòa, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Tám, 2011, 07:57:04 am
Ảnh hưởng, tác động của của các cuộc vũ trang tuyên truyền rất lớn, thường sau đó các cuộc mít tinh của quần chúng được tổ chức ở nhiều nơi. Có nhiều cuộc mít tinh biến thành cuộc biểu tình tuần hành có hàng trăm người tham gia giương cao cờ dỏ sao vàng. Có những cuộc biểu tình kéo dài hàng kilômét, như ở chợ Bụa (Chương Mỹ), chợ Nứa (Mỹ Đức), chợ Đanh Xuyên (Ứng Hòa)… Qua công tác tuyên truyền và hoạt động của các đội tuyên truyền xung phong, đường lối chủ trương của Đảng được phổ biến rộng rãi, nhân dân được tổ chức và tập dượt đấu tranh. Khí thế cách mạng lên cao, có nơi nhân dân đã tự đi tìm cán bộ Việt Minh. Giữa lúc đó, nạn đói ngày càng trậm trọng. Năm 1945, toàn tỉnh chết đói khoảng 8 vạn quần chúng, gần bằng 1/10 dân số của tỉnh. Nạn đói diễn ra đặc biệt trậm trọng ở các vùng có nghề thủ công. Làng La Cả (Hoài Đức) có 2.093 người chết, chiếm 43% dân trong xã, trong đó có 147 gia đình chết không còn một ai. Làng La Khê (Hoài Đức) có 1200 người chết, chiếm 58% dân số của làng. Trước tình hình đó, Ban Tỉnh ủy đã chỉ đạo các cơ sở lập ban cứu đói, vận động nhân dân giúp đỡ nhau, đồng thời vận động nhân dân không nộp thuế, nộp thóc và giành lại số thóc mà hào lí đã thu nộp cho Nhật. Lực lượng tự vệ cứu quốc và quần chúng còn phục kích trên một số trục giao thông để giải tán các đoàn gánh thóc nhập kho cho Nhật. Việc giải quyết nạn đói, ngăn chặn không nộp thóc cho Nhật có ý nghĩa quan trọng nhiều mặt. Thức nhất, làm thất bại chính sách vơ vét của Nhật, bảo vệ quyền lợi kinh tế cho nhân dân, giải quyết nạn đói. Thứ hai, uy tín của Đảng, của Mặt trận Việt Minh lên cao. Thứ ba, đã phát động được phong trào đấu tranh sâu rộng nhằm tập dượt lực lượng chuẩn bị tiến tới giành chính quyền.

Phong trào cách mạng trong tỉnh lên cao nhưng số lượng đảng viên, cán bộ của tỉnh chỉ có hạn, dù sau 9.3.1945, một số cán bộ của Đảng đã thoát khỏi nhà tù, trở về địa phương hoạt động. Trước tình hình đó, Tỉnh ủy có nhiều biện pháp để đào tạo cán bộ. Trước hết, Tỉnh ủy bồi dưỡng một số đảng viên, quần chúng có năng lực ở cơ sở đi tuyên truyền, bắt mối phát triển phong trào. Nhiều người đã dựa vào các mối quan hệ xã hội, họ hàng, quen biết, đồng nghiệp, tôn giáo để phát triển cơ sở, như thông qua một trùm trưởng ở Vĩnh Lạc, cơ sở cách mạng đã phát triển một số nơi có đạo Thiên Chúa trong tỉnh. Một lực lượng tổ chức, lãnh đạo phong trào đấu tranh khá quan trọng là học sinh học ở các trường Hà Nội. Khi ở Hà Nội, họ đã được giác ngộ cách mạng, được giao nhiệm vụ trở về quê hương tổ chức, lãnh đạo phong trào cách mạng.

Để kịp thời chỉ đạo phong trào, báo chí, tài liệu tuyên truyền của Đảng, của Mặt trận Việt Minh như báo “Cờ giải phóng”, báo “Cứu quốc”, báo “Hồn nước” được chuyển về tận cơ sở. báo chí đã có vai trò quan trọng trong Cách mạng tháng Tám ở tỉnh vì nó có tác dụng mở rộng ảnh hưởng cách mạng trong quần chúng, thống nhất tư tưởng và hành động trước khi giành chính quyền.

Từ trong cao trào kháng Nhật cứu nước, nhiều quần chúng tích cực được rèn luyện qua thực tiễn đấu tranh đã được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Các cơ sở Đảng và lực lượng đảng viên của tỉnh tăng nhanh. Đến tháng 8.1945, toàn Đảng bộ có 140 đảng viên, sinh hoạt ở 17 chi bộ và một số tổ Đảng. Đó là lực lượng quan trọng trong cuộc Tổng khởi nghĩa của tỉnh.

Từ trong cao trào kháng Nhật cứu nước, nhiều quần chúng tích cực được rèn luyện qua thực tiễn đấu tranh đã được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Các cơ sở Đảng và lực lượng đảng viên của tỉnh tăng nhanh. Đến tháng 8.1945, toàn Đảng bộ có 140 đảng viên, sinh hoạt ở 17 chi bộ và một số tổ Đảng. Đó là lực lượng quan trọng trong cuộc Tổng khởi nghĩa của tỉnh.

Tháng 7.1945, phong trào cách mạng của tỉnh sôi sục khí thế của thời kì tiền khởi nghĩa. Trước sức mạnh của phong trào cách mạng, bộ máy chính quyền bù nhìn các cấp, nhất là ở huyện, xã hoang mang, rệu rã, thậm chí ở một số địa phương bị tê liệt hoàn toàn. Ở nhiều xã, đội ngũ lí dịch làm gì cũng xin phép ý kiến của Mặt trận Việt Minh. Ở nhiều nơi, những hình thức đầu tiên của chính quyền cách mạng đã hình thành, xã bộ Việt Minh đứng ra giữ gìn trật tự an ninh, giải quyết nạn đói, giải quyết xích mích trong dân. Một số nơi lập ủy ban dân tộc giải phóng. Trước tình hình đó, Xứ ủy, Tỉnh ủy chủ trương đẩy mạnh tiến công địch hơn nữa bằng việc sử dụng lực lượng tự vệ đội kích, phục kích, tước vũ khí ở các huyện và của bọn bảo an đi hoạt động lẻ.

Như vậy, chỉ trong vòng 5 tháng (từ tháng 3 đến tháng 7.1945), cách mạng ở Hà Đông đã có bước phát triển nhảy vọt, phong trào đấu tranh rộng khắp, sôi nổi mạnh mẽ từ đấu tranh kinh tế, chính trị, quân sự, tấn công những nơi sơ hở, những khâu yếu của địch, đẩy chính quyền tay sai vào thế suy yếu và bước đầu suy yếu.

Ngày 15.8.1945, được tin phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh, Xứ ủy Bắc Kỳ họp phiên khẩn cấp tại làng Vạn Phúc. Tuy chưa nhận được lệnh Tổng khởi nghĩa nhưng căn cứ vào chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, Xứ ủy nhận định thời cơ đã đến và quyết định khởi nghĩa ở những nơi có điều kiện chắc thắng. Xứ ủy quyết định khởi nghĩa ở Ứng Hòa (Mức Đức) và làng Vạn Phúc. Đêm 16.8, hai làng Trường Liên (Chương Mỹ), Vạn Phúc (Hoài Đức) đã khởi nghĩa giành chính quyền, thành lập Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời xã. Đây là hai làng khởi nghĩa thắng lợi đầu tiên của tỉnh. Tiếp đó, đêm 16.8, quần chúng từ các cấp cơ sở bắc Mỹ Đức, bắc Ứng Hòa, nam Thanh Oai tập kết tại Vĩnh Lạc (Mỹ Đức) và mờ sáng ngày 17.8 tiến về huyện lị Mỹ Đức. Dọc đường, nhân dân gia nhập rất đông. Tri huyện bỏ trốn, lính ngụy đầu hàng, quân khởi nghĩa nhanh chóng làm chủ huyện đường nhưng sau đó lại rút quân về Ba Thá.

Sáng 17.8, lực lượng cách mạng Chương Mỹ chiếm huyện lị. Huyện đường hầu như bỏ trống, vì quan lại, binh lính đã bỏ chạy từ ngày 14.8.1945 khi bị lực lượng tự vệ tấn công cướp vũ khí. Sau đó, lực lượng khởi nghĩa rút về Yên Trường, thành lập Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời huyện.

Chiều 17.8, nhân dân nam Ứng Hòa, nam Mỹ Đức đã chiếm phủ đường phủ Ứng Hòa. Sau đó, quân khởi nghĩa rút về Trầm Lộng, lập căn cứ và phát động nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền thôn xã, thành lập Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời huyện.

Ngày 18.8, nhân dân nhiều huyện, phủ trong tỉnh đã nổi dậy giành chính quyền. Sáng 18.8, huyện Thanh Trì khởi nghĩa. Do huyện trưởng đã có quan hệ với Việt Minh từ trước nên sẵn sàng giao nộp huyện đường. Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời huyện được thành lập và ra mắt quần chúng ngay chiều 18.8.

Sáng 18.8, quân khởi nghĩa đã đột nhập huyện đường Phú Xuyên. Việc đột nhập huyện đường thuận lợi do huyện trưởng đi vắng, lính huyện hoang mang; nhưng do không dự kiến khởi nghĩa giành chính quyền nên quân khởi nghĩa chỉ tước vũ khí, sau đó rút khỏi huyện đường.

Cũng ngày 18.8, hai nhóm cứu quốc ở Hà Hồi, Bình Vọng (được chỉ đạo từ Hà Nội) đã phối hợp với nhau biến cuộc mít tinh của thanh niên Phan Anh thành cuộc biểu tình chiếm phủ đường, thành lập Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời huyện.

Ngày 19.8, khoảng 500 đến 600 người ở Hòa Đức - thị xã Hà Đông, Phú Xuyên theo sự huy động của Xứ ủy đã tham gia giành chính quyền ở Hà Nội. Sau khi trở về, lực lượng cách mạng ở Hoài Đức được chỉ đạo chiếm phủ đường và hôm sau thành lập Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời huyện. Ngày 20.8, khởi nghĩa nổi ra ở Đan Phượng dưới sự chỉ đạo của Xứ ủy, ngày 21.8, quần chúng trong huyện vũ trang biểu tình chiếm huyện lị, thành lập chính quyền cách mạng.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Tám, 2011, 07:58:06 am
Ở Phú Xuyên, tình hình diễn biến khá phức tạp. Mở một vài cơ sở có cán bộ lãnh đạo đã giành chính quyền ở xã, hoặc tham gia khởi nghĩa ở Hà Nội, Duy Tiên. Nhưng các cơ sở cách mạng ở Phú Xuyên phần lớn do các tỉnh khác phát triển; hơn nữa cơ sở lại vừa được xây dựng nên không chủ động tổ chức giành chính quyền huyện trong khi Tỉnh ủy chưa có kế hoạch khởi nghĩa ở Phú Xuyên. Ngày 24.8, một nhóm cứu quốc ở Bạch Mai sau khi tham gia giành chính quyền ở Thường Tin đã tiến xuống Phú Xuyên, kết hợp với tổ chức cứu quốc ở phố Giao Chính tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền, thành lập Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời huyện. Lực lượng Đại Việt ở Phú Xuyên gây sức ép với cách mạng đòi tham gia chính quyền.

Ở thị xã Hà Đông, tình hình cũng khá phức tạp. Sau ngày 9.3.1945, lực lượng cách mạng phát triển tương đối nhanh nhưng theo nhiều mối khác nhau nên hình thành nhiều lực lượng. Ở nội thị, một bộ phận do Đảng Dân chủ phát triển; bộ phận mạnh nhất, giữ vai trò chủ yếu ở thị xã lại là thanh niên học sinh do cán bộ của Thành ủy chỉ đạo. Phong trào ở một số làng xung quanh thị xã lại do Tỉnh ủy hoặc do Xứ ủy chỉ đạo. Cho đến những ngày tháng Tám sôi sục cách mạng, Tỉnh ủy vẫn chưa trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng ở thị xã. Ngày 18.8, một số cán bộ của Thành ủy Hà Nội dự định tổ chức một cuộc vũ trang tuyên truyền tại thị xã, nhưng khi tiến hành đã biến thành cuộc vũ trang đột nhập trại Bảo an binh. Trong khi đó, một bộ phận khác đã vận động nhân dân các phố biểu tình, biểu dương lực lượng, đồng thời các đồng chí trong Ban Xứ ủy đã trực tiếp gặp chỉ huy Nhật và tỉnh trưởng yêu cầu không can thiệp vào cuộc khởi nghĩa của nhân dân. Nhưng Quản Dưỡng, một tên tay sai Nhật vẫn ngoan cố liên hệ với quân Nhật và lực lượng Đại Việt ngấm ngầm chống lại cách mạng. Ngày 19.8, Xứ ủy, Ban Tỉnh ủy đã triệu tập hội nghị để bàn kế hoạch khởi nghĩa ở thị xã. Chiều 20.8.1945, hàng nghìn quần chúng vũ trang biểu tình từ các huyện Hoài Đức, Thanh Oai, Thanh Trì, bắc Ứng Hòa đổ về thị xã. Quản Dưỡng hạ lệnh binh lính xả súng vào quần chúng làm 47 người chết, 30 người bị thương và gần 100 người bị bắt. Trong khi đó, lính Nhật đã triển khai án ngữ ở những vị trí trọng yếu trong tỉnh. Trước tình hình đó, ban chỉ huy quyết định rút lui và cử cán bộ ra Hà Nội đề nghị Tổng bộ Việt Minh hỗ trợ. Ngày 21.8, Tổng bộ Việt Minh đã đưa tỉnh trưởng Hà Đông về thị xã, ra lệnh cho Quản Dưỡng chấm dứt mọi hoạt động chống đối, đồng thời ban lãnh đạo tỉnh huy động một lực lượng lớn quần chúng từ Mỹ Đức, Ứng Hòa, Thanh Trì về thị xã hỗ trợ. Ngày 23.8, lực lượng khởi nghĩa đã bao vây tước vũ khí ở trại Bảo an, chiếm các công sở. Ngày 25.8, nhân dân thị xã và một số địa phương mít tinh chào mừng Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh.

Ở Thanh Oai, các xã đã tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền. Trước khí thế của quần chúng, huyện trưởng giao nộp ấn triện và bỏ trốn. Chính quyền bù nhìn huyện tan rã nhưng đến 27.8 Tỉnh ủy mới đưa cán bộ về thành lập chính quyền cách mạng. Ngày 27.8, đánh dấu mốc chấm dứt cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh Hà Đông. Tuy nhiên, còn có một sự kiện cuối cùng nổ ra vào ngày 28.8.1945, ở Phú Xuyên và Thường Tín, lực lượng lãnh đạo khởi nghĩa giành chính quyền không phải là của Tỉnh ủy. Sau khi khởi nghĩa giành chính quyền, chính quyền cách mạng lâm thời hai huyện không liên lạc, không chịu sự chỉ đạo thống nhất của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh (trấn áp nữ cán bộ của tỉnh phân công về hoạt động ở Thường Tín, không cử đại diện lên họp theo yêu cầu của tỉnh; chính quyền lâm thời Phú Xuyên dùng con dấu của huyện trưởng cũ đóng vào cờ và vào bản công nhân danh sách của Ủy ban lâm thời xã…). Ngày 28.8, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời Hà Đông huy động lực lượng giành lại chính quyền ở Thường Tín, Phú Xuyên.

*

Từ cuộc vận động Cách mạng tháng Tám 1945 ở Hà Đông, có thể rút ra nhận xét sau:

- Hà Đông là một trong những tỉnh phát động khởi nghĩa sớm ở cơ sở. Các cuộc khởi nghĩa ở huyện xã diễn ra nhanh gọn, ít đổ máu (trừ thị xã Hà Đông). Sở dĩ có kết quả như vậy vì Hà Đông có phong trào cách mạng mạnh và lại có quá trình tích cực chuẩn bị lực lượng từ 1939, đặc biệt từ 1941 theo tinh thần nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 của Đảng. Mặt khác, Hà Đông là An toàn khu của Xứ ủy, của Trung ương Đảng, lại được Xứ ủy trực tiếp chỉ đạo khởi nghĩa theo tinh thần chỉ thị 12.3.1945.

- Lực lượng khởi nghĩa ở Hà Đông cơ bản là quần chúng cách mạng, kết hợp với lực lượng bán vũ trang cách mạng đã đè bẹp sự phản kháng của kẻ thù.

- Quá trình giành chính quyền ở Hà Đông diễn ra theo cả hai chiều. Đảng bộ Hà Đông chú trọng giành chính quyền ở cấp huyện, tỉnh đồng thời chú trọng giành chính quyền cấp cơ sở. Cuộc khởi nghĩa đầu tiên nổ ra ở làng xã có cơ sở cách mạng mạnh, sau đó làm bàn đạp tiến lên giành chính quyền ở huyện, tỉnh rồi tiếp tục giành chính quyền ở những địa phương còn lại.

- Khởi nghĩa ở Hà Đông có mối liên hệ chặt chẽ với Hà Nội, biểu hiện ở việc Hà Đông hỗ trợ lực lượng giành chính quyền ở Hà Nội và có một bộ phận cán bộ của Thành ủy Hà Nội tham gia chỉ đạo phong trào cách mạng ở Hà Đông. Khởi nghĩa ở Hà Đông còn có mối liên hệ chặt chẽ giữa các vùng trong tỉnh. Các lực lượng cách mạng trong vùng hỗ trợ lẫn nhau giành chính quyền.

Cùng với cả nước, Cách mạng tháng Tám ở Hà Đông thành công đã đưa lịch sử Hà Đông sang trang mới. Từ đây, nhân dân Hà Đông đã vươn lên địa vị làm chủ đất nước và cùng nhân dân cả nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng đấu tranh bảo vệ thành của Cách mạng tháng Tám, chống giặc ngoại xâm và xây dựng quê hương đất nước ngày càng giàu mạnh.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Tám, 2011, 08:00:41 am
Xã Tam Hưng - Hà Đông(*)

Để minh họa cho hình thức đấu tranh giành chính quyền cách mạng trong Cách mạng tháng Tám 1945 ở Hà Đông, đồng thời cũng để làm rõ tính đa dạng của các cuộc khởi nghĩa giành chính quyền, chúng tôi tập trung trình bày diễn biến của cuộc khởi nghĩa ở một xã tiêu biểu của Hà Đông - xã Tam Hưng.

Xã Tam Hưng hiện nay nằm ở phía bắc huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây. Phía bắc giáp Bình Minh, phía đông giáp Mỹ Hưng và Thanh Thùy, phía tây giáp Thanh Cao và phía Nam giáp Thanh Văn, Thanh Mai, Kim Bài. Xã Tam Hưng gồm 8 thôn: Tê Quả, Đại Định, Lê Dương, Bối Khê, Phúc Khê, Hưng Giáo, Bùi Xá và Văn Khê. Đến trước Cách mạng tháng Tám 1945, cả 8 thôn có 4000 người, với 800 hộ.

Trong thời kì thuộc Pháp, Tam Hưng cũng giống như các vùng quê khác phải chịu hậu quả nặng nề của các chương trình khai thác thuộc địa. Ách thống trị về chính trị, bòn rút về kinh tế, áp bức về văn hóa… với mức độ dã man, tàn bạo của thực dân Pháp thôi thúc người dân Tam Hưng sớm đứng lên đấu tranh bảo vệ nhân phẩm của mình trong cuộc đấu tranh khôi phục quyền của dân tộc.

Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3.2.1930), trong những năm 1930-1931, cuộc đấu tranh của nông dân xã Tam Hưng đòi địa chủ giảm tô khi mất mùa, khất nợ khi giáp hạt… diễn ra tại một số xã thôn khá quyết liệt, nhất là ở Đại Định và Bối Khê. Đến cuộc vận động dân chủ 1936-1939, một số thanh niên Bối Khê, Đại Định, Hưng Giáo ra Hà Đông, Hà Nội làm ăn, như Nguyễn Văn Ve, Lê Cương Đồng… đã tiếp cận được các tờ báo của Đảng, chịu ảnh hưởng của phong trào dân chủ, tham gia các hội ái hữu và khi về quê hương đã mang những thông tin thời sự mà mình biết truyền bá trong họ hàng, xóm làng.

Mặc dù trong thời kì 1930-1993, trên địa bàn Tam Hưng chưa hình thành nên các tổ chức yêu nước, nhưng bằng nhiều con đường khác nhau, một bộ phận nhân dân các thôn Bối Khê, Hưng Giáo đã được tiếp cận ở mức độ nhất định ánh sáng cách mạng của Đảng, nhất là chủ trương đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, chống chiến tranh, chống phát xít, chống phản động thuộc địa. Ảnh hưởng của Đảng uy chưa hình thành được các tổ chức cách mạng và tạo ra được phong trào quần chúng, nhưng có ý nghĩa làm thức tỉnh tinh thần yêu nước, gây mầm cho sự thâm nhập và phát triển sâu rộng của cách mạng ở thời kì sau.

Sau khi được thành lập (tháng 5.1941), Mặt trận Việt Minh đã nhanh chóng phát triển ở Hà Đông, trong đó có xã Tam Hưng. Sau một thời gian tạm thời ngưng liên lạc với Bối Khê, đến cuối năm 1941, đồng chí Ve chắp mối trở lại với các cơ sở đã gây dựng, tích cực đào tạo, bồi dưỡng một số quần chúng tích cực để làm giao thông, liên lạc cho cách mạng, trong số đó có chị Nguyễn Thị Huân và anh Nguyễn Văn Hệ. Nhiều tài liệu của Mặt trận Việt Minh được chuyển đến Tam Hưng, tuyên truyền, giác ngộ quần chúng tin theo cách mạng.

Tháng 3.1944, Mặt trận Việt Minh thôn Bối Khê được thành lập, với các cốt cán tích cực ban đầu là: Trần Vĩnh Dụ, Kiều Diên An, Kiều Văn Ký, Phạm Văn Lãm, Đào Văn khảm và Nguyễn Văn Ý… dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Ve. Đây là sự kiện quan trọng phản ánh bước phát triển mới của phong trào cách mạng không chỉ của Bối Khê, mà ảnh hưởng tới cả tiểu vùng, nhất là các thôn phụ cận. Để che mắt địch, Việt Minh thôn Bối Khê chủ trương lập “đội bóng đá” bao gồm những thanh niên giàu nhiệt huyết, có sức khỏe, mỗi thôn có 2-3 người tham gia. Đây là nòng cốt cho việc phát triển lực lượng thanh niên cứu nước sau này. Khi lực lượng đã được mở rộng, các cốt cán ở Bối Khê chủ trương đẩy cuộc đấu tranh lên một nấc thang cao hơn, nhằm phát huy ảnh hưởng sâu rộng trong dân. Từ chủ trương đó, hoạt động rải truyền đơn, dán áp phích tố cáo tội ác của Nhật - Pháp, kêu gọi nhân dân ủng hộ Việt Minh được tiến hành vào phiên chợ Hôm, chợ Rùa(1) hoặc lễ hội.

Trong khi phong trào ở Bối Khê vận động, phát triển trên cơ sở nhân tố đầu tiên được giáo dục, bồi dưỡng từ cơ sở Vạn Phúc, thì cũng bằng những con đường khác nhau Mặt trận Việt Minh đã đến với các thôn Hưng Giáo, Đại Định, Tê Quả.

Ở Hưng Giáo, nhóm “Hương Quốc” được hình thành tự phát, gồm những trí thức giàu nhiệt huyết yêu nước, mà nòng cốt là Lê Kim Cúc, Lê Kim Ngô và Lê Kim Gia. Hình thức hoạt động chủ yếu của nhóm này là sưu tầm sách báo tiến bộ và tổ chức đọc, bình luận giúp mọi người nhận thức rõ hơn về thời cuộc và con đường cứu nước. Mặc đù hoạt động của nhóm này chỉ mang tính tự phát, nhưng sau đó dần đi theo quỹ đạo của Mặt trận Việt Minh. Các hội viên của nhóm “Hương Quốc” sau này đều trở thành cốt cán của “Thanh niên cứu quốc”, có vai trò quan trọng trong quá trình gây dựng cơ sở cách mạng và lãnh đạo phong trào quần chúng trên địa bàn Hưng Giáo.

Ở Đại Định cũng hình thành một nhóm yêu nước do Tạ Đình Đề đứng đầu. Tạ Đình Đề vốn được Việt Minh phái sang liên lạc với Đồng minh để hợp tác chống Nhật, nhưng khi trở về bị mất liên lạc với tổ chức, nên tạm thời dạt về quê ẩn náu và tìm cách bắt mối liên lạc với tổ chức. Về Đại Định, ông đã tập hợp các thanh niên yêu nước như Tô Dũng, Tạ Đình Hân, Tạ Văn Duy, Phạm Duy Phượng thành lập “hội kín” và phối hợp hành động. Địa điểm liên lạc, hội họp thường diễn ra ở nhà Tạ Đình Tuy và Tạ Đình Thái. “Hội kín” một mặt gây dựng cơ sở, tiến hành các hoạt động khích lệ tinh thần yêu nước của nhân dân; mặt khác, tích cực chắp mối liên lạc để nhận chỉ thị và tài liệu tuyên truyền của Việt Minh.

Ở Tê Quả có Tạ Đình Hùng, giáo viên dạy học ở Bình Đà, được tuyên truyền, giác ngộ về Mặt trận Việt Minh. Khi được thử thách, tin tưởng, ông được tổ chức Việt Minh ở Bình Đà giao tài liệu về tuyên truyền ở Tê Quả và gây dựng cơ sở cách mạng. Tuy vậy, đến cuối năm 1942, tổ chức Đảng ở Bình Đà bị vỡ nên hoạt động của Tạ Đình Hùng gặp khó khăn, mất mối liên lạc, không có tài liệu, trong khi chưa tìm được các mối liên lạc khác. Đầu năm 1943, khi phong trào Việt Minh phát triển rộng khắp thì các cơ sở này mới tiếp tục hoạt động trở lại và được sự chỉ đạo thống nhất của Việt Minh tổng Bình Đà.

Như vậy, tín đến trước khi Nhật đảo chính Pháp, tại Tam Hưng đã hình thành nhiều thôn cách mạng, mỗi nhóm lại có cách thức hoạt động và tiếp cận với phong trào yêu nước theo một con đường khác nhau. Ban đầu, các nhóm này hầu như không có liên hệ với nhau trong tổ chức và hoạt động, chủ yếu tồn tại trên cơ sở thôn, dòng họ, lứa tuổi… nhưng đều có một điểm chung là đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với đường lối của Việt Minh. Chính vì vậy, mặc dù ở Tam Hưng chưa thành lập được Chi bộ Đảng, nhưng những hoạt động tích cực của các nhóm thanh niên yêu nước đã có tác động khích lệ quần chúng, tạo môi trường, điều kiện cho sự thâm nhập của Việt Minh và tạo cơ sở cho việc xây dựng đội ngũ cốt cán tại chỗ. Họ đã tập hợp được một bộ phận quần chúng tích cực, truyền bá những hiểu biết ban đầu về chính chính sách của Mặt trận Việt Minh. Đây được coi là những bước chuẩn bị tích cực cho giai đoạn cách mạng sục sôi sau này.


(*) Người viết: TS. Nguyễn Ngọc Hà, Phân viện Hà Nội, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
(1) Thuộc xã Thanh Thùy, huyện Thanh Oai ngày nay.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Tám, 2011, 08:03:28 am
Sau khi Nhật đảo chính Pháp, tiếp nhận Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” và phát động Cao trào kháng Nhật cứu nước trên phạm vị toàn quốc, trong 2 ngày 18 và 19.3.1945, Tỉnh ủy Hà Đông đã họp tại Tảo Khê (Ứng Hòa) có sự tham gia của đồng chí Nguyễn Văn Lộc - Xứ ủy viên, phụ trách Hà Đông, Sơn Tây. Hội nghị đã bàn kế hoạch thực hiện Chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, đẩy mạnh tuyên truyền sâu rộng tinh thần của Chỉ thị tới đảng viên và quần chúng, làm cho mọi người nhận rõ kẻ tù, trên cơ sở đó phát động mạnh mẽ cao trào kháng Nhật để tập hợp và tập dượt lực lượng, đón thời cơ phát động quần chúng nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền. Tại Hội nghị, Tỉnh ủy đã phân công đồng chí Mai Vi phụ trách phía bắc huyện Thanh Oai và một phần huyện Thường Tín.

Sau khi kết thúc Hội nghị, đồng chí Mai Vi trở về Đại Định, Bối Khê để củng cố phát triển cơ sở. Ngay lập tức đồng chí Mai Vi đã tập hợp lực lượng, gây dựng phong trào và chọn nhà ông Trần Vĩnh Dụ làm địa điểm nuôi dấu, liên lạc. Mỗi nơi đều hình thành một tổ “Trung Kiên” làm hạt nhân lãnh đạo phong trào. Phương châm đặt lả lúc này là gấp rút xây dựng lực lượng tự vệ, phát triển mạnh các cơ sở quần chúng sang các thôn phong trào còn yếu, giáo dục và định hướng tư tưởng cho các nhóm yêu nước hình thành tự phát, nắm chắc lực lượng Thanh niên Phan Anh, không để cho Nhật lợi dụng. Bằng nhiều nỗ lực, lực lượng chính trị của quần chúng ở Tam Hưng ngày càng phát triển. Nếu như năm 1944 mới có cơ sở ở Bối Khê, Đại Định, Hưng Giáo, Tê Quả, thì đến giữa năm 1945 đã lan sang các thôn còn lại; quần chúng nhân dân được tập hợp trong các tổ chức cứu quốc (Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Nhi đồng cứu quốc).

Ngoài Bối Khê, nơi sớm hình thành phong trào nên có số lượng hội viên đông nhất, với 30 người, các thôn còn lại cũng đều có từ 10-20 hội viên cứu quốc.

Sau một thời gian ngắn về chỉ đạo phong trào, đồng chí Mai Vi bị ốm nặng, đồng chí Phạm Văn Kính, Bí thư Tỉnh ủy, là người thay thế trực tiếp chỉ đạo khu vực bắc Thanh Oai. Phong trào cách mạng ngày càng phát triển, bộ máy tay sai của Nhật ở các thôn xã hoang mang, dao động, nhiều tên phải chùn tay không dám khủng bố hoặc nằm yên nghe ngóng. Tuy vậy, một số nơi vẫn còn những tên ngoan cố tiếp tay cho phát xít Nhật đàn áp phong trào. Vì vậy, vấn đề lập “Tự vệ cứu quốc” được đặt ra cấp bách. Tại các thôn như Đại Định, Bối Khê, Hưng Giáo, Lê Dương, Tê Quả… lực lượng tự vệ được xây dựng, nòng cốt là hội viên “Thanh niên cứu quốc”, với trang bị vũ khí tự tạo là chủ yếu như giáo mác, mã tấu, gậy gộc… Hoạt động chủ yếu của Tự vệ cứu quốc là bảo vệ cán bộ và hỗ trợ cho Việt Minh đẩy mạnh tuyên truyền vũ trang nhằm gây tác động mạnh đối với nhân dân, đồng thời trấn áp những tên cường hào nguy hiểm. Một số cường hào ngoan cố thúc ép nhân dân nộp thuế cho Nhật đã bị tự vệ cảnh cáo, răn đe. Sự ra đời của Thanh niên Cứu quốc và Tự vệ cứu quốc đã có tác dụng không chỉ bảo vệ lực lượng cách mạng, mà còn phân hóa Thanh niên Phan Anh và tê liệt vai trò của Bảo an đoàn. Thậm chí ở Đại Định hoạt động của nhóm Tạ Đình Đề đã làm chuyển biến nhóm “Hương Quốc”:, từ cỗ theo Thanh niên Phan Anh trở thành Thanh niên cứu quốc.

Từ giữa năm 1945, nạn đói trở nên gay gắt. Hầu hết các gia đình trong xã Tam Hưng đều ở vào cảnh đói. Người chết đói ở khắp nơi, từ đầu đường đến góc chợ, nhiều nhất là ở chợ Bối Khê. Cả xã có 284 người bị chết đói(1), một số gia đình còn bữa cơm, bữa cháo, 516 người bỏ làng ra đi không có ngày trở lại. Mặt trận Việt Minh các thôn đẩy mạnh tuyên truyền bóc trần bộ mặt giả nhân, giả nghĩa của phát xít Nhật và tay sai, làm cho nhân dân thấy rõ hơn chính sách tiến bộ của Mặt trận Việt Minh. Công tác tuyên truyền, cổ động với nhiều hình thức phong phú đã tác động tích cực đến thái độ của quần chúng nhân dân. Đồng thời, Mặt trận Việt Minh phát động cao trào “phá kho thóc Nhật để giải quyết nạn đói”.

Ở Bối Khê, lực lượng tự vệ đã lãnh đạo quần chúng nhân dân trong vùng cướp kho thóc Nhật, lấy được 700 kg chia cho những người nghèo. Ở Đại Định, Phạm Phương Lộc và Lê Huy Tẹo tổ chức quần chúng bắt giam lí trường, đánh Trần Đình Chi và phá một kho thóc lấy được 4 tấn chi cho nông dân. Mặt trận Việt Minh ở thôn Bối Khê còn thành công lực lượng kéo sang tịch thu kho thóc của tên cường hào thân Nhật tại thôn Gia Vĩnh(2). Tổ chức cứu quốc ở các thôn Cự Đà, Khúc Thủy cùng nhân dân Đại Định thu 8 cót thóc của địa chủ Nàn Sóc phân phát cho dân để cứu đói, đồng thời hợp lực cùng thanh niên yêu nước ở các thôn khác giết tên trương tuần khét tiếng gian ác ở ga Tía (Thường Tín). Phong trào phá kho thóc của Nhật để cứu đói cho dân có ý nghĩa quan trọng trong bồi dưỡng sức dân và tập dượt quần chúng đấu tranh, chuẩn bị tiền đề cho khởi nghĩa giành chính quyền khi thời cơ xuất hiện. Theo đà đang lên của cách mạng, các nhóm thanh niên yêu nước vừa tích cực vận động quần chúng, vừa tăng cường mua sắm vũ khí, rèn thêm giáo mác để phát triển lực lượng tự vệ, sử dụng các hình thức đấu tranh từ thấp đến cao làm lung lay chính quyền địch ở hương thôn. Thời cơ khởi nghĩa đang đến gần.

Chiều 15.8.1945, tuy chưa nhận được lệnh của Trung ương, Xứ ủy Bắc Kỳ họp Hội nghị khẩn cấp tại Vạn Phúc (Hà Đông) quyết định khởi nghĩa. Ngày 17.8, kế hoạch khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền được phổ biến rộng rãi tới các tầng lớp nhân dân 7 thôn trong xã. Tự vệ cứu quốc gấp rút chuẩn bị vũ khí, sẵn sàng chờ lệnh xông lên giành chính quyền.

Đêm 18.8.1945, Tự vệ cứu quốc bắt tên Đoàn Văn Dục, là mật thám của Nhật, thu được một súng trường. Sáng 19.8.1945, hàng nghìn quần chúng của 8 thôn trong xã, phối hợp với các thôn ở các xã lân cận, hàng ngũ chỉnh tề dài gần 3 km, dưới sự chỉ huy của Tạ Đình Đề, sau khi bắn ba phát súng hiệu, đoàn quân khởi nghĩa kéo lên Bình Đà. Hoảng sợ trước khí thế cách mạng của quần chúng, Tri huyện Lê Quang Nhạ bỏ huyện đường trốn chạy thoát thân. Toàn bộ huyện lị Thanh Oai về tay cách mạng. Cờ đỏ sao vàng và khẩu hiệu “Đả đảo Chính phủ Nam triều”, “Ủng hộ Mặt trận Việt Minh”, “Việt Nam độc lập muôn năm” rợp cả đất trời. Trong các ngày 20, 21 và 22.8, được sự chỉ đạo của cấp trên, Mặt trận Việt Minh các thôn trong xã tiếp tục lãnh đạo quần chúng đi cướp chính quyền ở nhiều nơi trong huyện như: Thanh Văn, Thanh Thùy, Mỹ Hưng, kể cả một số xã thuộc Phú Xuyên, Ứng Hòa, Thường Tín, tịch thu 1 kho thóc ở Rùa chi cho người nghèo.

Lực lượng khởi nghĩa các thôn đã tước triện bạ, sổ sách của chính quyền địch và tuyên bố thiết lập chính quyền cách mạng. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời các thôn gồm: Tạ Đình Hùng (Tê Quả), Lê Năng Lương (Hưng Giáo), Tổng Miết (Văn Khê), Phạm Duy Phương (Đại Định), Vương Đình Dốc (Lê Dương), Lê Thiện Thuật (Song Khê)(3)… Chính quyền cách mạng lâm thời tuyên bố xóa bỏ mọi chính sách của bọn thực dân, thực hiện 10 chính sách của Việt Minh, bắt tay vào cứu đói, ổn định cuộc sống nhân dân, đấu tranh chống bọn phản động, củng cố chính quyền cách mạng.

*

Như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, bằng lực lượng chính trị đông đảo của quần chúng, cùng sự hỗ trợ của lực lượng tự vệ, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Tam Hưng đã giành thắng lợi hoàn toàn. Sau những ngày Cách mạng tháng Tám sôi nổi, các em nhỏ đêm đêm cất vang tiếng hát, thanh niên tình nguyện gia nhập tự vệ, các đoàn thể hội họp thâu đêm để bàn kế sách giữ vững chính quyền… mọi người cảm nhận được một cuộc đời mới đang đến. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đã đi vào lịch sử quê hương như một mốc son chói lọi, khẳng định sức mạnh của quần chúng trong công cuộc đấu tranh giải phóng khỏi ách nô lệ, lầm than. Để có thắng lợi đó, phong trào cách mạng ở Tam Hưng cũng như ở Hà Đông và cả nước nói chung đã trải qua biết bao gian nan, thử thách. Nhưng cũng chính trong khó khăn đó, tinh thần cách mạng lại được tôi luyện vững bền hơn bao giờ hết, nó đã thắp sáng niềm tin cho cả tiến trình cách mạng mãnh liệt sau này.


(1) Bối Khê có 75 người, Đại Định có 20 người, Hưng Giáo 30 người, Lê Dương 50 người, số còn lại rải rác ở Tê Quả, Văn Khê, Bùi Xá.
(2) Thuộc xã Thanh Thùy, Thanh Oai, Hà Đông (nay là Hà Tây).
(3) Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, hai thôn Bối Khê và Phúc Khê sáp nhập thành một thôn có tên gọi là Song Khê.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tám, 2011, 05:23:07 pm
HÀ NỘI(1)

Hà Nội nằm ở vị trí trung tâm Bắc Bộ, phía bắc giáp Thái Nguyên, phía đông giáp Bắc Giang, Bắc Ninh; phía tây giáp Vĩnh Phúc và Hà Tây; phía nam giáp Hà Tây và Hưng Yên.

Hà Nội là một vị trí chiến lược quan trọng hàng đầu trong hệ thống phòng thủ và cai trị của Pháp và sau này là của Nhật ở Đông Dương. Cả Pháp và Nhật đều đặt các công sở cai trị quan trọng về quân sự, dân sự ở Hà Nội cùng với việc duy trì chính quyền phong kiến Bắc Bộ và lực lượng tay sai ở Hà Nội.

Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra (1939), ở nước ta thực dân Pháp thực hiện chính sách tổng động viên thời chiến, phát xít hóa chế độ cai trị, thực hiện chính sách kinh tế chỉ huy. Tăng thuế được coi là biện pháp hàng đầu. Thực dân Pháp còn tiến hành trưng tập công nhân, trưng thu trưng mua lương thực thực phẩm, sung công nhà cửa và các phương tiện vận tải, kiểm soát các nguồn hàng hóa nhập khẩu, lạm phát giấy bạc, tăng giá hàng công nghiệp. Những tư sản, tiểu tư sản, thợ thủ công bị huy động vào việc tăng cường sản xuất hàng hóa. Công nhân bị tăng giờ làm việc lên 10 giờ, 12 giờ. Công chức bị giảm chế độ cấp phát lương thực và nhu yếu phẩm. Những quyền tự do dân chủ mà nhân dân ta có được trong thời kì đấu tranh dân chủ (1936-1939) bị xóa bỏ). Các tổ chức quần chúng, cơ quan báo chí bị giải tán. Thanh niên phải đi lính. Mạng lưới mật thám được tăng cường.

Tháng 9.1940, quân Pháp ở Lạng Sơn đầu hàng Nhật rồi mở cửa cho chúng vào nước ta và Đông Dương. Tháng 10.1940, quân đội Nhật và một phái đoàn ngoại giao Nhật đến Hà Nội. Lần lượt các tổ chức chính trị, quân sự, kinh tế của Nhật được thành lập ở Hà Nội.

Nhật vẫn duy trì và sử dụng bộ máy cai trị của Pháp và chính quyền phong kiến ở Bắc kỳ, dựa vào đó mà tạo ra cơ sở chính trị cho Nhật, đàn áp các hoạt động cách mạng. Các đảng phái thân Nhật được lập ra, chính quyền bù nhìn thân Nhật cũng được chuẩn bị về nhân sự. Những đảng phái thân Nhật được sáp nhập thành một mặt trận phản cách mạng có tên là Phục quốc đồng minh hội (1943), Đại Việt quốc gia liên minh sau đổi là Đại Việt quốc dân hội (sau 9.3.1945).

Chính sách cai trị của Pháp và Nhật đã làm cho đời sống của nhân dân Hà Nội thêm khó khăn. Hàng hóa của Nhật - Pháp ở Việt Nam khan kiếm, giá tiêu dùng tăng, việc kinh doanh của tư sản bị giảm sút, sản xuất bị ngừng trệ. Trong khi đó Pháp - Nhật ra sức thu hút thóc gạo, tích trữ đầu cơ, lạm phát tiền tệ. Diện tích trồng lúa giảm để thay thế trồng cây công nghiệp (đay, cà phê, lạc, thầu dầu). Hết thảy mọi tầng lớp nhân dân Hà Nội đều bị nạn đói, nạn thất nghiệp làm cho lao đao chật vật.

Ngày 29.9.1939, Đảng Cộng sản Đông Dương bị giải tán. Các trụ sở, cơ quan của Đảng ở Hà Nội bị khám xét bắt bớ nhiều đợt. Mặt trận dân chủ với nhiệm vụ vận động chống phát xít và phản động thuộc địa không được hoạt động nữa. Tháng 11.1939, Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế ra đời thay thế Mặt trận dân chủ trước kia. Mọi hoạt động của Đảng bộ Hà Nội phải chuyển sang điều kiện bí mật, từng bước xây dựng chỗ đứng chân ở ngoại thành. Những cán bộ đảng viên nào bị lộ phải hoạt động thoát li gia đình. Những tiểu tổ quần chúng bí mật hình thành.

Từ năm 1940, ở Hà Nội và các vùng lân cận có hai an toàn khu giành cho Ban Thường vụ Trung ương Đản và Xứ ủy Bắc Kỳ. Nó là vùng từ Bưởi đến Chèm, vùng Đan Phượng, Hoài Đức, Đông Anh và Từ Sơn (Bắc Ninh). An toàn khu thứ hai là vùng giáp Hà Nội thuộc các tỉnh Bắc Giang và Thái Nguyên. Xứ ủy Bắc Kỳ còn đặt cơ quan bí mật ở ngoại thành Hà Nội và Hà Đông, Bắc Ninh để tiện liên lạc phối hợp chỉ đạo với ban cán sự Thành ủy Hà Nội.

Cuộc đấu tranh của nhân dân Hà Nội lúc này tập trung vào các cuộc đấu tranh công khai có tính thiệt thực: đòi tăng lương, giảm giờ làm, chống đánh đập cúp phạt, đòi cải thiện chế độ làm việc, chống mộ phu tuyển lính, chống sa thải công nhân, đòi thả tù chính trị, chống bắt bớ các cuộc đình công.

Ở thành phố, các thành công Công hội, Thanh niên phản đế, Công nhân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc tổ chức các cuộc tuyên truyền vận động binh lính và các hoạt động bí mật - in sách báo, tài liệu bí mật. Việc treo cờ, truyền đơn, dán áp phích, biểu ngữ đều hướng vào những sự kiện trọng đại ở trong nước và quốc tế: tháng 5.1940 và tháng 10.1940, treo cờ ở Hòa xa Gia Lâm và Nhà ga Hà Nội kỉ niệm ngày Quốc tế Lao động; tháng 12.1940, chặn đường chuyến tàu tốc hành ở Văn Điển - Hà Nội để hưởng ứng Nam Kỳ khởi nghĩa; tháng 1/1941, rải truyền đơn kêu gọi hưởng ứng khởi nghĩa Bắc sơn, khởi nghĩa Nam Kỳ; đấu tranh chống Pháp - Nhật và “quân phiệt Xiêm La”, kêu gọi người Pháp đoàn kết với những người cách mạng Đông Dương lật đổ chính phủ phản động Pháp, phát xít Nhật; tháng 2, tháng 3.1941, rải truyền đơn kêu gọi tẩy chay lễ phát chẩn do giới thân Nhật tổ chức, phản đối phát xít Pháp dâng Đông Dương cho Pháp, nhượng đất cho Xiêm La.


(1) Người viết: ThS. Trần Thị Hòa, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tám, 2011, 05:26:40 pm
Bước sang năm 1942, thực dân Pháp tăng cường khủng bố cách mạng. Đồng chí Nguyễn Khang(*) cùng một số cán bộ đảng viên khác bị bắt, các cơ sở cách mạng ở nội thành bị truy lùng, Ban cán sự Thành ủy nhiều lần bị phá, những phần tử phản động chui vào cơ sở Đảng để phá hoại từ bên trong. Đồng chí Hoàng Văn Thụ, ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng, được giao nhiệm vụ trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng ở Hà Nội. Nhiệm vụ ở Hà Nội trong thời kì này là duy trì các cơ sở cách mạng, xây dựng lực lượng, củng cố niềm tin và ý chí cách mạng trong quần chúng, cán bộ. Nhà bà Hai Vẽ (thôn Phú Gia, xã Cổ Nhuế) là nơi thường xuyên có cuộc gặp gỡ bí mật giữa cán bộ Thành ủy và đồng chí Hoàng Văn Thụ. Vùng ngoại thành được chú trọng để Thành ủy duy trì và phát triển lực lượng. Các tổ chức cứu quốc được hình thành tại các xã Nghĩa Độ, Bái Ân, Xuân Tảo, Cổ Nhuế, Phú Xá, Chèm, Vẽ, Thượng Cát. Số quần chúng cảm tình cách mạng tăng lên. Họ ủng hộ, giúp đỡ cách mạng về các mặt thuốc men, lương thực, tài chính, tiếp nhận sách báo truyền đơn của Mặt trận Việt Minh, che dấu nuôi nấng cán bộ cách mạng. Thanh niên, công nhân trong các chi bộ làm công tác binh vận đối với binh lính địch trong các đơn vị pháo binh, bộ binh, ban tham mưu, sở tuyển binh. Họ được giác ngộ cách mạng rồi được đưa vào các tổ chức “quân nhân cứu quốc”, tờ báo “Chiến đấu” là tiếng nói của tổ chức này.

Từ năm 1943, quân Đồng minh thắng thế, quân Nhật thua đau ở các chiến trường Châu Á - Thái Bình Dương. Máy bay Mĩ - Anh ném bom Hà Nội, Nhật không có phản ứng nào hữu hiệu. Nhiều trường học ở Hà Nội phải sơ tán, những gia đình tư sản rời khỏi thành phố, tránh bom Mĩ - Anh để lại những ngôi nhà sang trọng nhưng vắng chủ. Hệ thống đèn chiếu sáng đô thị che bớt ánh sáng.

Ở Hà Nội, binh lính và sĩ quan Nhật hung hăng tàn sát, cướp bóc nhân dân. Việc Nhật tăng cường thu thóc tạ và nạn đầu cơ tích trữ trong nhà giàu, tư sản làm cho nạn đói càng thêm trầm trọng. Tư tưởng sợ Nhật, thân Nhật trong nhân dân và các tổ chức thân Nhật bắt đầu giảm. Số quần chúng cảm tình cách mạng của Mặt trận Việt Minh đông dần thêm.

Từ ngày 25 đến 28.2.1943, Hội nghị Thường vụ Trung ương họp, khẳng định sự diệt vong không tránh khỏi cua lực lượng phát xít Nhật - Pháp, đề ra chủ trương mở rộng Mặt trận Việt Minh, chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Hội nghị quyết định:

- Đưa quần chúng ra đấu tranh công khai bằng các hình thức từ thấp đến cao.

- Thành lập các đội tự vệ, du kích của quần chúng.

- “Bônsêvích hóa” các tổ chức Đảng, thành lập các chi bộ xí nghiệp của công nhân.

- “Công nhân hóa quần chúng lao động bằng việc đưa họ vào làm trong các nhà máy, xí nghiệp: Nhà máy điện, Hỏa xa Gia Lâm, nhà máy sửa chữa ô tô, súng đạn…

Ngày 25.3.1943, tại làng Võng La, Hội nghị Thường vụ Trung ương triển khai “Đề cương văn hóa Việt Nam và điều lệ của Hội Văn hóa cứu quốc”. Nghị quyết vạch rõ xu thể phỉnh dân nô dịch của văn hóa Nhật - Pháp đang lan truyền trong dân chúng. Tổ văn hóa cứu quốc của Hà Nội được thành lập, ra báo “Cứu quốc”.

Những cuộc đấu tranh nữa vũ trang bắt đầu xuất hiện ở cả nông thôn và thành thị. Ở các thôn làng, nông dân đấu tranh chống thu thóc tạ, chống phá màu trồng đay, chống phá ngô trồng thầu dầu, chống Nhật quấy nhiễu, càn làng cướp chợ; diệt trừ Việt gian. Lực lượng tuyên truyền xung phong và tự vệ vũ trang yểm trợ tích cực cho các cuộc đấu tranh của nông dân các làng như Yên Thái, Nghĩa Đô, Bái Ân, Xuân Tảo, Cổ Nhuế, Phú Xá, Phú Gia, Đông Ngạc, Chèm, Thượng Cát. Mỗi xã đều có địa điểm liên lạc, chỗ ăn ở cho cán bộ Trung ương, Xứ ủy, Thành ủy. Các chi bộ ghép của Đảng được hình thành ở 36 làng thuộc Cầu Giấy và Dịch Vọng. Vùng này trở thành chỗ đứng chân làm bàn đạp cho cán bộ vào thành phố hoạt động.

Trong công nhân, hình thức đấu tranh đình công, bãi công kéo dài nhiều ngày, mở rộng phạm vi toàn ngành, phát triển rầm rộ ở nhiều nơi: tháng 1.1945 tại nhà in Viễn Đông (I.D.E.O); tháng 2 - nhà in Lê Văn Tân, nhà in Xuân Thu, nhà in báo “Tin mới”, nhà ngân hàng Đông Dương, công nhân xưởng STAI; tháng 4 - Hòa xa Gia Lâm; tháng 5 - xưởng Canô đường Hà Nội - Nam Định; tháng 6 - sân bay Gia Lâm; tháng 8 - hãng đóng giày Đại Nam, xưởng mộc Săngcô; tháng 9, 10 - nhà máy thuộc da Thụy Khê; tháng 12 - xưởng sửa chữa súng đạn trong thành. Đặc biệt, thợ mộc xưởng Săngcô đình công kéo dài 8, 9 ngày thành từng đợt; các chủ xưởng phải nhượng bộ theo yêu sách của công nhân: tăng lương và phụ cấp sinh hoạt, bán nhu yếu phẩm theo giá quy định của “hội đồng” thành phố.

Các tầng lớp khác cũng được cuốn hút vào không khí đấu tranh của công nhân và nông dân. Các tổ chức như Hội truyền bá học quốc ngữ, Hội hướng đạo, Đoàn rồng, Đoàn du lịch, các tổ chức thể thao, du lịch, địa lí cũng hướng về cách mạng. Thành viên của những tổ chức này là con em của tiểu chủ, tư sản, địa chủ, trí thức. Họ đã có cảm tình với Đoàn thanh niên cứu quốc của Hà Nội có tên là Đoàn thanh niên cứu quốc Hoàng Diệu và tờ báo “Hồn nước”.

Đảng Dân chủ Việt Nam ngay sau khi mới thành lập (6.1944) cũng gia nhập Mặt trận Việt Minh. Thành viên của Đảng Dân chủ là công chức, sinh viên, học sinh, con em tiểu tư sản, phú nông, địa chủ. Khi Ban cán sự thành tổ chức phát động một tuần lễ hưởng ứng cuộc đấu tranh vũ trang ở Thái Nguyên thì nhân dân Hà Nội hiểu rõ hơn Mặt trận Việt Minh. Tại 18 nơi trong thành phố có trưng bày sách báo cách mạng. Nhiều người tự tìm đến liên lạc với Việt Minh. Từ mồng 1 đến mồng 10 Tết, các biểu ngữ đều kêu gọi dân chúng tham gia khởi nghĩa xuất hiện nhiều nơi. Tại chùa Đồng Quang và chùa Đống Đa có biểu ngữ “đánh Pháp đuổi Nhật” tại đền Voi Phục có cờ đỏ sao vàng.


(*) Ủy viên Thường vụ Thành ủy Hà Nội.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tám, 2011, 05:27:51 pm
Như vậy, cho đến đầu năm 1945 phong trào cách mạng ở Hà Nội đã có bước tiến triển rõ rệt. Lực lượng cách mạng đã đông đảo, lực lượng vũ trang đã vững vàng. Nhân dân đã trải qua những bước đấu tranh từ thấp đến cao, từ đấu tranh kinh tế đến đấu tranh chính trị và có vũ trang hỗ trợ. Mọi tầng lớp xã hội đã nhận thức con đường cứu nước ở Việt Minh là đúng đắn.

Tuy nhiên, vẫn còn một số đáng kể tư sản, đại địa chủ còn do cự chưa tin vào sự sụp đổ không tránh khỏi của Nhật. Họ bất lực trước sự cấu kết Nhật - Pháp, lo sợ bị ảnh hưởng quyền lợi kinh tế. Một số địa chủ tư sản vẫn hi vọng lập chính phủ mới thân Nhật hoặc đứng ra hoạt động chính trị công khai.

Nhưng sự có mặt cả Pháp và Nhật ở Hà Nội và Đông Dương như hiện tại thì không thể kéo dài thêm nữa. Tình hình này đưa cách mạng bước vào thời kì mới.

Đêm 9.3.1945, Nhật nổ súng lật đổ Pháp trên toàn cõi Đông Dương. Vào 8 giờ 25 phút tối cùng này, quân Nhật đánh vào các doanh trại Pháp ở Thành cũ, Đồn Thủy, trường bay Bạch Mai, nhà máy Diêm, Trại lính khố xanh. Quân Pháp chống cự yếu ớt rồi đầu hàng Nhật vào 4 giờ 15 phút chiều ngày 10.3.1945.

Toàn bộ hệ thống cai trị của Pháp được thay thế bằng người Nhật và tay sai Nhật. Các đảng phái tổ chức thân Nhật có từ trước được thể hoạt động công khai. Các tổ chức mới thân Nhật được thành lập: “Việt Nam thanh niên ái quốc hội”, “Phụng sự quốc gia”, “Việt Nam bảo vệ đoàn”.

Chiều ngày 14.3.1945, Nhật tổ chức mít tinh ở bờ hồ Hoàn Kiếm, tuyên truyền “công lao của người Nhật” đã đem lại “độc lập cho quốc gia Việt Nam”, giới thiệu “Đại Việt quốc gia cách mạng ủy viên hội”.

Ngày 16.4.1945, Chính phủ Trần Trọng Kim được thành lập bao gồm những tri thức có học vị cao. Ngôi vua của Bảo Đại vẫn được giữ nguyên. Một mặt trận làm hậu thuẫn cho chính phủ này là “Tân Việt Nam hộ” được thành lập, bao gồm các tổ chức: “Thanh niên tiền tuyến”, “Thanh niên xã hộ”, “Phụ nữ nội”, “Nữ sinh hội”, “Tổng hội viên chức”. Thành viên các tổ chức này là địa chủ tư sản, trí thức, thanh niên, sinh viên, học sinh, bọn Tơrôtkit và các nhóm đảng phái thân Nhật.

Trong khi nắm lấy các cơ quan quan trọng ở Hà Nội, Nhật vẫn dùng lại một số người Pháp và kiểm soát chính quyền Trần Trọng Kim. Bên cạnh nội các Trần Trọng Kim có toàn quyền Nhật. Ở Phủ Khâm sai Bắc Kỳ có thêm một bàn làm việc của cố vấn Nhật. Mãi đến ngày 24.7.1945, Nhật mới giao cơ quan Đốc Lí cho một người Việt Nam.

Lúc này, nạn đói kéo dài từ cuối năm 1944 đến đây càng trầm trọng hơn. Khâm sai Bắc Kỳ không biết làm gì để cứu đói cho dân, nhưng vẫn phải lo thu vét thóc gạo nộp vào kho Nhật. Gạo ở miền Nam không chuyển ra Bắc vì phương tiện dùng cho việc chuyển quân của Nhật. Những phòng trà, nhà chứa, tiệm nảy ở thành phố thì tưng bừng nhộn nhịp, mà từng đoàn người gầy ốm từ các nơi kéo về các cửa ô thành phố thì chịu nằm chết đói đầy đường.

Việc Nhật đảo chính Pháp đã được Trung ương Đảng dự đoán từ trước. Ngày 12.3.1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Bản chị thị xác định kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương lúc này là phát xít Nhật. Khẩu hiệu “đánh đuổi Pháp - Nhật” được thay bằng khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật”, “thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân Đông Dương”.

Trên cơ sở bản chỉ thị của Trung ương, Thành ủy Hà Nội chủ trương hướng phong trào cách mạng Hà Nội vào các nhiệm vụ cụ thể:

- Coi các tổ chức cứu quốc là lực lượng nòng cốt cho cuộc khởi nghĩa sắp tới, vận động công nhân tăn cường đấu tranh tại các xí nghiệp lớn, quan trọng, gấp rút tổ chức huấn luyện đào tạo cán bộ về quân sự và chính trị, tranh thủ quần chúng trong các tổ chức công khai hợp pháp, mở rộng hơn nữa Mặt trận Việt Minh.

- Gấp rút xây dựng, phát triển các đội tự vệ, tự vệ chiến đấu, các đội tuyên truyền xung phong, Đoàn thanh niên cứu quốc Hoàng Diệu, mở rộng việc bán “tín phiếu Việt Minh”, tổ chức quyên góp mua sắm vũ khí, lấy súng đạn của binh lính Pháp - Nhật, tổ chức sản xuất vũ khí thô sơ.

- Chống khủng bố trắng của phát xít Nhật, huấn luyện nguyên tắc hoạt động bí mật cho các đoàn viên cứu quốc, phát triển cơ sở Đảng trong lính bảo an, cảnh sát thành phố, công sở quan trọng của địch để nắm tình hình.

- Trừng trị phản động, vạch mặt phát xít Nhật, đảng phái thân Nhật và chính quyền thân Nhật.

Trung ương quyết định tăng cường cán bộ cho Hà Nội để phối hợp lãnh đạo cách mạng. Những cán bộ Đảng viên vượt ngục Hỏa Lò trong dịp Nhật làm đảo chính đã kịp thời được bổ sung vào các tổ chức.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tám, 2011, 05:29:29 pm
Ban quân sự được thành lập để chỉ đạo các đơn vị tự vệ chiến đấu, các đội tuyên truyền xung phong. Đội Danh dự đảm nhận việc trừng trị phần tử phản động, mật thám. Đồng chí Nguyễn khang, ủy viên Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ trực tiếp chỉ đạo phong trào Hà Nội và lãnh đạo đội Damnh dự. Ban cán sự Thành ủy đổi là Ban Thành ủy. Trung ương và Xứ ủy Bắc Kỳ cũng trực tiếp chỉ đạo các tổ chức ở Hà Nội như: Văn hóa cứu quốc, ban tài chính, ban mua sắm vũ khí, dược phẩm. Việc mở lớp huấn luyện quân sự chính trị tại ngoại thành các vùng Bắc Ninh, Hà Đông và tham dự lớp “quân chính kháng Nhật” ở chiến khu Việt Bắc cũng do Trung ương và Xứ ủy giúp đỡ.

Ở mỗi cấp, Trung ương, Xứ ủy, Thành ủy đều đều có ban công vận phụ trách công nhân đấu tranh. Tháng 4.1945, công nhân nhà máy điện, nhà máy nước, nhà máy in Viễn Đông (I.D.E.O). đòi trả lương ban ngày thử bảy, đòi bán gạo, chống đuổi thợ. Bọn chủ nhà in không thực hiện lời hứa, công nhân lại đình công 24 giờ. Tháng 5.1946, công nhân viên chức nhà thương Đồn Thủy (giành cho người Nhật), công nhân xưởng sửa chữa ô tô S.T.A.I, công nhân các cửa hiệu bào chế dược phẩm đấu tranh. Tại hiệu thuốc Satsanhơ, công nhân cùng với nhân viên người Pháp làm công lấy được nhiều thuốc gửi lên chiến khu Việt Bắc. Công nhân nhà máy bia, rượu, nước đá, ngành lục lộ cũng đình công đòi tăng lương.

Tháng 6.1945, công nhân các nơi như nhà máy điện, nước, sửa chữa cơ khí, quân khí, công nhân bốc vác bến phà đem nguyên liệu máy móc gửi cho Việt Minh. Tổ chức công nhân cứu quốc tăng lên hàng ngàn hội viên chính thức và hàng vạn quần chúng cảm tình.

Hoạt động của các độ tự vệ chiến đấu, đọi tuyên truyền xung phong trở nên tích cực khẩn trương trong các cuộc mít tinh ở Mễ trì, chợ Canh để giải thích về bản tuyên ngôn của Mặt trận Việt Minh, kêu gọi nhân dân ủng hộ và tham gia chống Nhật cứu nước.

Ngày 10 và 11.5, Đoàn thanh niên cứu quốc Hoàng Diệu đột nhập vào các trước Gia Long, Kỹ nghệ thực hành để diễn thuyết, tại Láng hôm đó cũng có cuộc mít tinh. Ngày 13.5, ở nhà máy rượu có diễn thuyết, rải truyền đơn, treo cờ. Các cuộc mít tinh chớp nhoáng nối nhau được tổ chức ở Bưởi, Ngã Tư Sở, Ngã Tư Vọng, chợ ngoại thành, trên các tàu điện, các rạp phim, phòng thông tin, nhà hát, cầu Vẹt tàu điện. Các đội viên tuyên truyền xung phong xuất hiện và rút đi một cách bất thần, bọn mật thám, sĩ quan Nhật không kịp ứng phó. Có khi cả cảnh sát Nhật, chính quyền bù nhìn cũng bị lực lượng Việt Minh áp đảo, vô hiệu hóa trên đường phố, trong công sở. Một số cuộc mít tinh của Đại Việt hoặc sĩ quan Nhật bị Việt Minh chuyển thành diễn đàn cách mạng.

Những tin thắng lợi của chiến tranh du kích ở khu Việt Bắc và ở các nơi liên tiếp được truyền về làm cho Hà Nội càng thêm sôi động khí thế cách mạng. Các làng Xuân Trạch, Ngọc Giang, Cổ Loa đấu tranh với hào lí đòi khất nợ, hoãn nợ thuế. Việc cứu đói được giải quyết bằng mọi cách, các làng Phú Gia, Thượng Cát lấy thóc gạo không nộp cho Nhật để nấu cháo cứu đói, vận động hào lí bán chức phó lí cho nhà giàu lấy mỗi chức 5.000 đồng và hai tạ gạo, lấy lại 2.000 đồng quỹ làng để dùng vào việc cứu đói.

Làng Võng La phá được kho thóc 100 tấn gạo của Nhật, làng Mọc phá kho thóc vừa có đội tự vệ tuyên truyền hỗ trợ vạch tội phát xít Nhật. Dọc đường từ Chèm đến Bưởi, đội tự vệ cứu quốc đánh chặn, tịch thu những xe bò chở thóc của Nhật. Các kho thóc của Nhật ở các phố Bắc Ninh, Lò Lợn, bến Phà Đen, dọc đường bờ sông thường xuyên bị đánh phá.

Chính quyền Nhật và tay sai ở nội, ngoại thành, các vùng nông thôn kế cận Hà Nội lâm vào tình thế bất lực. Ủy ban giải phóng bí mật, Ban Việt Minh đã hình thành ở các làng thuộc tổng Bưởi. Nhân dân ở đây mỗi khi có việc hành chính đều tìm đến ban Việt Minh mà giải quyết, bỏ qua những hương lí trong làng. Một số chánh tổng, lí trưởng tự tìm đến Việt Minh xin được hợp tác. Tại các làng ở Dịch Vọng, Cầu Giấy, chùa Sét, Bưởi, làng Tư, làng Tám, cán bộ cách mạng đi lại hoạt động công khai. Văn phòng khâm sai Bắc Kỳ thường xuyên có truyền đơn của Việt Minh trong ngăn kéo làm việc. Những tay sai nguy hiểm bị đội Danh dự trừng trị. Ngày 18.6, tên Nhu bị bắn ở ngã tư phố Giăccanh Lavơrăng (dốc phố Bà Triệu ngày nay), ngày 20.6, tên Cao Long bị bắn ở đầu làng Thụy Khê; tháng 7, tên Nguyễn Sinh bị bắn tại bến xe điện Cầu Mới (khu vực Ngã Tư Sở hiện nay). Những nhân viên cảnh sát, lính bảo an, nhân viên chính quyền bù nhìn thành phố có cảm tình với Việt Minh ngày tăng dần thêm. Họ được đưa vào tổ chức Cảnh sát cứu quốc bí mật, Quân nhân cứu quốc bí mật. Họ báo trước cho Việt Minh những cuộc vây ráp của Nhật, hoặc làm ngơ cho cán bộ, chiến sĩ Việt Minh khi hoạt động hoặc đi đường.

Qua cao trào chống Nhật, lực lượng chủ trương và lực lượng vũ trang đã đủ mạnh để tiến hành Tổng khởi nghĩa. Lực lượng Nhật đã suy yếu, lực lượng phản động thân Nhật đã phân tán. Tuy nhiên, nhận thức về số phận của Nhật thì còn rất khác nhau trong các tầng lớp xã hội, tổ chức, đảng phái và cả trong nội bộ Việt Minh. Có ý kiến cho là Nhật sẽ bị Đồng minh kéo vào đánh nên chỉ lo trừ Pháp thôi. Một vài ý kiến khác lại cho là đã có Nhật đánh Pháp rồi, ta chỉ việc đứng về phía Nhật, rồi tự khắc Đồng minh sẽ đuổi Nhật ra khỏi nước ta. Đó là tư tưởng xem nhẹ Nhật, ỷ lại vào quân Đồng minh.

Vì vậy, Trung ương, Xứ ủy và Thành ủy thấy cần phải triệt để cô lập Nhật để đánh Nhật, biểu dương sức mạnh của cách mạng hơn nữa, tận dụng triệt để lực lượng dân tộc dân chủ. Cụ thể là tranh thủ quần chúng trong các tổ chức hợp pháp như Hội truyền bá học quốc ngữ, Hội hướng đạo, Tổng hội sinh viên. Hình thức sinh hoạt công khai của các hội này được sử dụng để tuyên truyền cách mạng; kêu gọi sinh viên không treo cờ Nhật trong các ngày lễ hội; không ghi tên đào tạo công chức do Nhật mở; vận động các công chức gia nhập Việt Minh; vận động các nhà tư sản, đại địa chủ mua tín phiếu Việt Minh, tham gia tổ chức Việt Nam cứu quốc hội.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tám, 2011, 05:31:54 pm
Đến tháng 8.1945, lực lượng Nhật bị cô lập cao độ. Trong tổ chức Đại Việt thân Nhật cũng đã có một số quần chúng tìm đến liên lạc với Việt Minh. Chiến tranh thế giới thứ hai đến hồi kết thúc. Quân Đồng minh chuẩn bị kéo vào Đông Dương đánh Nhật. Quân Nhật ở Hà Nội lần lượt rút khỏi các công sở, xí nghiệp về tập trung trong các doanh trại. Nội các Trần Trọng Kim tuyên bố từ chức rồi chuyển thành “Chính phủ lâm thời”, muốn tìm gặp đại diện Mặt trận Việt Minh.

Ngày 13.8, trong cuộc gặp gỡ với Việt Minh, đại diện Khâm sai Bắc Kỳ đề nghị Việt Minh tham gia “Chính phủ lâm thời”, không gây xung đột và chống lại Nhật, hãy để họ đứng ra nhận bàn giao quyền độc lập và vũ khí từ Nhật. “Chính phủ lâm thời” còn gửi “huấn lệnh” cho thanh niên, khuyên họ không nên hành động vội vã.

Một số đảng phái thân Nhật cũng muốn nắm lấy chính quyền, xin Nhật vũ khí để chống lại Việt Minh. Ngày 12.8, nhóm Phụng sự quốc gia biểu tình. Ngày 13.8, nhóm Đại Việt quốc xã biểu tình và họp bàn việc “củng cố quốc gia của Việt Nam”.

Ngay sau khi nghe tin quân Nhật đầu hàng Đồng minh không điều kiện, hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản Đông Dương đã họp, quyết định phát lệnh Tổng khởi nghĩa trong toàn quốc, giành chính quyền trước khi quân Đồng minh tiến vào nước ta.

Lúc này, ở ngoại thành hầu hết bộ máy chính quyền cũ đã trở nên vô hiệu. Lí trưởng các làng Hoàng Mai, Quỳnh Lội, Tương Mai tự nguyện nộp triện cho Việt Minh và Ủy ban dân tộc giải phóng. Ở nội thành vẫn còn các công sở, cơ sở kinh tế của Nhật, của chính quyền bù nhìn với lực lượng bảo an, cảnh sát tăng cường canh gác. Nhật vẫn giúp đỡ tay sai thân Nhật. “Chính phủ lâm thời” còn ra tuyên cáo với Nhật: “muốn khôi phục tín nhiệm của Hoàng thượng, toàn thể nội các chúng tôi quyết không lùi một bước trước một sự khó khăn nào cả để làm tròn các sứ mệnh kiến thiết quốc gia, củng cố nền độc lập Tổ quốc. Chùng tôi vẫn hợp tác chặt chẽ với nhà đương cục Nhật Bản và chúng tôi không bao giờ quên rằng quân đội Nhật giải phóng cho ta ra ngoài cái ách áp chế của một ngoại quốc”(1).

Ngày 15.8, Nhật trao cho Kham sai Bắc Kỳ Đội bảo an binh, Ti liêm phóng Trung ương, Nha học chính, Trường đại học, Sở kiểm duyệt báo chí.

Khi lệnh Tổng khởi nghĩa của Trung ương về tới Hà Nội (15.8.1945), các cán bộ phụ trách cùng đội trưởng các đội tự vệ chiến đấu, tuyên truyền xung phong triệu tập. Tại chùa Hà (Dịch Vọng), một hội nghị bất thường được tiến hành để kiểm lại lực lượng và vạch ra kế hoạch hành động theo phương châm:

- Diễn thuyết để thu hút quần chúng.

- Tổ chức mít tinh đê thăm dò thái độ Nhật.

- Sẵn sàng đối phó bằng lực lượng vũ trang với Nhật.

Tối 15.8.1945, Đội tuyên truyền xung phong tổ chức diễn thuyết đồng thời ở ba rạp hát lớn trong thành phố: Tố Như, Quảng Lạc, Hiệp Thành. Tại đây quần chúng nhân dân được thông báo tin Nhật đã đầu hàng và kêu gọi sẵn sàng xuống đường đấu tranh giành chính quyền.

Ở mọi nơi, mọi lúc, các báo, đài đồng loạt truyền tin Nhật đầu hàng. quân Đồng minh sẽ vào Hà Nội giải giáp quân Nhật. Bọn Nhật ở Hà Nội tỏ ra hoang mang, chán nản rõ rệt.

Cùng lúc với hội nghị chùa Hà, cuộc họp của Xứ ủy Bắc Kỳ cũng được tiến hành tại làng Vạn Phúc (Hà Đông). Ban Xứ ủy quyết định khởi nghĩa từng phần trong 10 tỉnh đồng bằng, thành lập Ủy ban quân sự cách mạng ở Hà Nội.

Ngay sau đó, đồng chí Nguyễn Khang, ủy viên Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ ra Hà Nội phụ trách cuộc họp tại số nhà 101 phố Gămbetta (nay là phố Trần Hưng Đạo) để bàn về việc giành chính quyền ở Hà Nội với tinh thần chủ động khởi nghĩa, không trông chờ vào quân Đồng minh. Quá trình khởi nghĩa được xác định là phải có sự phối hợp giữa lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị, tránh xung đột đổ máu trong lúc quân Nhật đang hoang mang, ngụy quyền mất chỗ dựa. Qua nắm tình hình, Mặt trận Việt Minh ở Hà Nội được biết sẽ có một cuộc mít tinh lớn của Tổng hội viên chức vào ngày 17.8. Việt Minh quyết định sẽ chuyển cuộc mít tinh này thành cuộc mít tinh tuần hành của quần chúng, biểu dương lực lượng cách mạng.


(1) Những ngày khởi nghĩa ở Hà Nội, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 1974, tr. 51.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tám, 2011, 05:33:41 pm
Ngày 16.8, đang lúc Tổng hội công chức họp ở Hội quán Trí Tri thì lực lượng cứu quốc và tuyên truyền xung phong tung truyền đơn và dương cờ đỏ búa liềm, cuộc họp phải giải tán.

Trong khi đó, Ủy ban khởi nghĩa họp mở rộng tại nhà bà Hai Nhã, xóm Duệ Tú, xã Dịch Vọng để kiểm điểm tình hình chuẩn bị khởi nghĩa và cụ thể hóa kế hoạch phá cuộc mít tinh của Tổng hội công chức ngày 17.8.

Qua cuộc tiếp xúc ngày 16.8.1945 với nội các Trần Trọng Kim, đại biểu Việt Minh biết rõ thêm: cả chính quyền Trần Trọng Kim và các tổ chức thân Nhật đều muốn được Nhật giao cho chính quyền, nhưng Nhật lại thỏa hiệp với Anh - Mĩ - Tưởng để được che chở để phòng bị Việt Minh tấn công.

Sáng ngày 17.8, “Hội đồng tư vấn Bắc Kỳ”(1) họp tại trụ sở hội Khai Trí tiến đức (Câu lạc bộ Thống Nhất) với mục đích chống lại cuộc khởi nghĩa do Việt Minh lãnh đạo.

Chiều ngay 17.8, cuộc mít tinh của Tổng hộ công chức bắt đầu tại Nhà hát lớn. Hàng vạn quần chúng ở nội và ngoại thành đến dự, có nhiều lính bảo an, cảnh sát đến giữ trật tự. Cuộc mít tinh vừa khai mạc thì cờ đỏ sao vàng xuất hiện. Đám đông quần chúng xôn xao “Cờ Việt Minh!”, “Cờ Việt Minh!”. Lính bảo an, cảnh sát ngơ ngác, cả hội trường Nhà hát sôi động. Các đội viên đội tự vệ dồn ban tổ chức mít tinh vào một góc rồi chiếm lấy diễn đàn. Lá cờ đỏ sao vàng lớn từ tầng hai Nhà hát Lớn buông xuống. Các đội viên tuyên truyền xung phong báo tin Nhật đầu hàng Đồng minh, tuyên bố đường lối cứu nước của Việt Minh, kêu gọi nhân dân thành phố ủng hộ Việt Minh, đả đảo chính quyền thân Nhật và tay sai, không khí hưởng ứng tràn ngập. Dưới sự hướng dẫn của đội tự vệ chiến đấu, nhân dân nhanh chóng chuyển thành hàng ngũ xuống đường tuần hành. Đoàn tuần hành từ Nhà hát diễu qua phố Tràng Tiền, ra bờ hồ Hoàn Kiếm. Các khẩu hiệu “Ủng hộ Việt Minh”, “Đả đảo bù nhìn”, “Việt Nam hoan toàn độc lập”… vang lên. Nhân dân hai bên đường nhập vào làm cuộc tuần hành càng thêm dông. Đến vườn hoa Chí Linh, đoàn tuần hành có thêm binh lính bảo an. Đoàn biểu tình qua các phố Hàng Đào, Hàng Ngang, chợ Đồng Xuân, Cửa Bắc, Phủ toàn quyền Nhật. Đến Cửa Nam, đoàn tách ra thành những tốp nhỏ đi về các ngã phố, các cửa ô và ra ngoại thành. Tại khu vực Hàng Ngang, Hàng Đào, Bờ Hồ, lính bảo an trong nhóm tuần hành có bắn một loạt súng trước khi giải tán. Đến 9, 10 giờ đêm, rải rác trong thành phố vẫn còn tiếng hô khẩu hiêu.

Cuộc tuần hành này cho thấy lực lượng cách mạng của quần chúng đã được khẳng định. Tin này nhanh chóng được truyền sang các địa phương khác.

Tối 17.8.1945, Khâm sai Bắc Kỳ Phan Kế toại xin từ chức. Ban lãnh đạo Thường vụ và Xứ ủy triệu tập cuộc họp bất thường tại làng Vạn Phúc (Hà Đông). Hội nghị nhận định: quân Nhật đã hoang mang đến cực điểm, lực lượng cách mạng đã ở thế áp đảo, nhân dân Hà Nội đang nóng lòng hành động. Xứ ủy quyết định phát động khởi nghĩa ở Hà Nội và Hà Đông.

Cùng thời gian này, cuộc họp mở rộng của Ủy ban quân sự cách mạng Hà Nội tiến hành, quyết định phải khởi nghĩa gấp bằng lực lượng đông đảo của quần chúng với các đội tự vệ chiến đấu, đội tuyên truyền xung phong dẫn đầu. Những vị trí cần phải chiếm trước là Phủ Khâm sai, Tòa thị chính, Trại bảo an binh, Ti liêm phóng, Kho bạc. Cuộc khởi nghĩa phải thực hiện ngay trong lúc khí thế cách mạng đang sục sôi, nếu chần chừ lực lượng phàn cách mạng sẽ đủ thời gian đối phó. Thời gian bắt đầu khởi nghĩa là 10 giờ (khi còi báo giờ thành phố vang lên). Theo kế hoạch, ngày 19.8, sẽ mở đầu là cuộc mít tinh lớn, sau phát triển thành cuộc tuần hành, giành chính quyền toàn thành phố. Nếu quân Nhật xung đột vũ trang thì đội tự vệ chiến đấu, đội vũ trang tuyên truyền phải phối hợp lực lượng giải phóng quân ở Chiến khu về để cùng đánh chúng.

Sáng sớm ngày 18.8.1945, Ủy ban quân sự cách mạng chuyển vào ngôi nhà số 101 phố Gămbetta (phố Trần Hưng Đạo hiện nay). Kế hoạch của ngày 19.8 được cụ thể thêm một nước nữa: đoàn biểu tình khi xuống đường sẽ tách làm hai khối. Khối đến chiếm Phủ Khâm sai, Kho bạc, Tòa Thị chính; khối chiếm Trại Bảo an binh, Ti liêm phóng. Các tổ chức cứu quốc, đơn vị tự vệ chiến đấu thì đóng chốt ở các phố quan trọng để bảo vệ đoàn biểu tình, chủ động đối phó khi cần thiết. Đồng chí Nguyễn Huy Khôi soạn lời kêu gọi, đồng chí Nguyễn Khang soạn khẩu hiệu và truyền đơn bằng cả tiếng Nhật và tiếng Việt.

Cô lập và vô hiệu hóa lực lượng Nhật được chú đặc biệt. Bản hiệu triệu của Ủy ban cách mạng kêu gọi quân Nhật không can thiệp vào cuộc khởi nghĩa, không được chống lại Việt Minh, quân Nhật sẽ được yên ổn về nước. Tinh thần ấy được in trong truyền đơn, tung vào trại lính Nhật.

Sự hỗ trợ cho Hà Nội của các vùng lân cận cũng rất cần thiết. Các huyện xung quanh Hà Nội (Thanh Trì, Phú Xuyên, Thường Tín, Hoài Đức, Đan Phượng, Gia Lâm) và các vùng giáp Hà Nội của tỉnh Bắc Ninh, Hà Đông, Sơn Tây phải giành được chính quyền trước ngày 19.8.

Từ ngày 18.8, không khí chuẩn bị khởi nghĩa ở Hà Nội bừng bừng trong thành phố. Những mô tô, xe đạp của các đội viên Đội tuyên truyền xung phong hoạt động rầm rộ. Nhân dân tự nguyện may cờ, đón tài liệu của Việt Minh, sắm sửa vũ khí thô sơ (gậy, giáo, mác, liềm…), phân phát truyền đơn, dán áp phích…

Sáng sớm ngày 19.8, cả Hà Nội rực màu cờ đỏ sao vàng. Nhiều nhà máy không hoạt động, chợ vắng người, hiệu buôn đóng cửa. Khắp nơi nơi vang lên những tiếng hô khẩu hiệu: “Đả đảo chính phủ bù nhìn”, “Thành lập Chính phủ Cộng hòa dân chủ Việt Nam”, “Anh em binh lính hãy mang súng gia nhập Việt Minh”.


(1) Do nội các Trần Trọng Kim lập ra.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tám, 2011, 05:35:53 pm
Từ các hướng ngoại thành quần chúng mang theo súng ống, gậy gộc, mã tấu, dao phát bồ, câu liêm kéo vào trung tâm thành phố tập trung ở quảng trường Nhà hát Lớn. Lúc 11 giờ, cuộc mít tinh bắt đầu. Trước máy phát thanh, đồng chí Nguyễn Huy Khôi đọc lời hiệu triệu của Việt Minh.

“Hỡi quốc dân đồng bào.

Nhân danh Việt Minh, từ trên diễn đàn này chúng tôi gửi lời chào cứu quốc thân ái toàn thể đồng bào đã đến dự cuộc biểu tình ngày hôm nay một cách nhiệt liệt và đông đảo. Sự tham gia hăng hái ấy là một dấu hiệu rất lạc quan, chứng tỏ lòng nhiệt thành yêu nước của đồng bào mà đồng chí đã đặt vào Việt Minh. Đó là một khích lệ vô cùng cảm động trong giờ phút nghiêm trọng này, qua những cuộc khởi nghĩa võ trang bùng nổ khắp xứ, tất cả những chiến sĩ yêu nước càng thêm phấn khởi, không lúc nào lại tin tưởng ở sự thành công bằng lúc này. Nhưng trách nhiệm cũng vì thế mà nặng nề và chúng tôi xin nhận trách nhiệm nặng nề đó.

Trong lúc quân đội Nhật theo lệnh của Nhật hoàng, đã bãi chiến khắp các mặt trận, và bọn đế quốc Pháp nuôi cuồng vọng khôi phục chính quyền ở Đông Dương đang ngóc đầu lăm le hoạt động, chúng ta cần phải có một thái độ thật rõ rệt, thật đường hoàng, thật cương quyết.

Đối với quân Nhật, chúng ta sẽ rất ôn hòa, tránh tất cả những sự xô xát vô ích, bất lợi cho cả đôi bên, đồng thời chúng ta có thể dùng ngoại giao làm cho Nhật hiểu rõ tình thế, tán thành cách mạng Việt Minh và trao khí giới cho ta.

Đối với bọn Pháp có dã tâm khôi phục chủ quyền ở Đông Dương, chúng ta phải cương quyết đối phó và nếu cần phải quyết chiến, chống những cuộc xâm lăng của chúng cũng như của tất cả đế quốc khác.

Nhưng muốn được như thế điều cần thiết lúc này là chúng ta phải thành lập một chính phủ cộng hòa dân chủ Việt Minh trong đó dân chúng được tham dự chính quyền để tự định đoạt số phận của mình.

Chính phủ nhân dân cách mạng Việt Nam ấy sẽ ban bố những quyền tự do cho toàn thể quốc dân, sẽ cai thiện sinh hoạt vật chất và tinh thần cho dân chúng và đồng thời tổng động viên lực lượng toàn quốc để bảo vệ và củng cố độc lập chân chính của nước nhà. Chỉ có chính phủ nhân dân cách mạng mới đủ uy tín và năng lực để lãnh đạo dân tộc ta đến một tương lai rực rỡ, xứng đáng với quá khứ oanh liệt còn ghi trong quốc sử.

Hỡi quốc dân đồng bào!

Hãy tự tin, tự cường, hãy tỏ cho thế giới biết đến công sức dồi dào, đến ý chí chiến đấu cường liệt của dân tộc Việt Nam, luôn luôn vươn tới một cảnh đời phóng khoáng và độc lập. Hãy cùng chúng tôi hô to những khẩu hiệu này:

- Đánh đổ mọi lực lượng xâm phạm đến nền độc lập Việt Nam.

- Đả đảo bọn Pháp muốn khôi phục chủ quyền ở Đông Dương.

- Đánh đổ chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim.

- Thành lập chính phủ Cộng hòa dân chủ Việt Nam.

- Việt Nam hoàn toàn độc lập.

- Cách mạng giải phóng thành công muôn năm”(1).

Khi lời hiệu triệu vừa dứt, quần chúng hô vang những khẩu hiệu rồi chuyển thành cuộc biểu tình có vũ trang theo những hướng đã định.

Ở Phủ Khâm sai, từ hôm trước có hai đại đội lính bảo an đã được điều đến đây để canh gác và ứng phó với cách mạng. Dưới sự chỉ đạo của các đồng chí Nguyễn Khang, Lê Trọng Nghĩa, Nguyễn Duy Thân, đoàn biểu tình đập cửa, hô khẩu hiệu. Chỉ đến khi Nguyễn Xuân Chữ (đứng đầu “Ủy ban chính trị” của Khâm sai) bị bắt, binh lính ở đây mới chịu hạ vũ khí đầu hàng. Đồng chí Nguyễn Khang dùng điện thoại của Phủ Khâm Sai gọi hàng các tỉnh trưởng ở Hà Nam, Nam Định, Hải Phòng, Bắc Ninh.

Ở Trại Bảo an binh, bọn chỉ huy rất ngoan cố không chịu mở cửa trại cho đoàn biểu tình và trì hoãn việc đầu hàng, giao nộp vũ khí. Các chiến sĩ tự vệ phải dùng áp lực vũ trang chiếm kho vũ khí và các vị trí then chốt trong trại. Đồng chí Trần Đình Long và Lê Trọng Nghĩa gặp chỉ huy Nhật nói rõ lập trường của Việt Minh sẽ để cho quân Nhật được yên ổn. Đến 5 giờ chiều, sau khi nghe đại biểu Việt Minh thuyết phục chúng mới rút đi.

Ở Ti Liêm phóng Bắc Kỳ, những nhân viên mậ thám đã trốn đi gần hết, chỉ còn lại những nhân viên hành chính, căn cước, tùy phái. Khi đoàn biểu tình đến, viên chánh thanh tra chấp nhận bảo vệ hồ sơ để bàn giao cho cách mạng.

Ở Tòa thị chính, Thị trưởng Trần Văn Lai đã chờ sẵn để trao công sở cho Việt Minh.

Ở các nơi khác như Kho bạc, sở Bửu điện, sở Cảnh sát thành phố, nhà máy Avia, đoàn biểu tình không gặp trở ngại gì, nắm quyền kiểm soát một cách dễ dàng.

Đến chiều tối ngày 19.8, Việt Minh lần lượt giành chính quyền, làm chủ toàn thành phố. Các chụp đèn phòng không khắp nơi được gỡ bỏ. Tối 19.8, Ủy ban quân sự cách mạng họp bàn việc tổ chức chính quyền cách mạng cấp xứ, cấp thành. Các ủy ban nhân dân cách mạng cấp xã được thành lập; dưới sự điều hành của Ủy ban nhân dân cách mạng, các tổ chức Công nhân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc giữ vai trò nòng cốt của cơ quan chính quyền các cấp. Họ được biên chế vào các cơ quan: Trại Bảo an binh, Ti Liêm phóng, Kho bạc, Bắc Bộ phủ, Thị chính, Sơ Cảnh sát thành phố. Các công việc trước mắt của các cơ quan này là canh gác, bảo vệ, trừ gian, trật tự, an ninh thành phố.

Ở các nhà máy lớn, tư sản Pháp vẫn được phép quản lí kinh doanh, điều hành sản xuất, sử dụng công nhân nhưng có sự hợp tác với Ủy ban cách mạng. Ủy ban cách mạng chịu trách nhiệm duy trì những hoạt động trong thành phố về điện, nước, giao thông, sản xuất, buôn bán được diễn ra bình thường.

Ngày 21.8.1945, đồng chí Trường Chinh về Hà Nội. Thường vụ Trung ương, Xứ ủy họp về việc tổ chức bộ máy chính quyền cách mạng ở cấp Trung ương, Xứ, Thành. Tối 21.8, Trung ương ban hành thiết quân luật, bãi bỏ một số thuế, cho phép buôn bán gạo vào thành phố, tịch thu hàng hóa lậu của Nhật. Các nhân sĩ có tinh thần dân tộc được bổ sung vào Ủy ban nhân dân cách mạng cấp xứ, cấp thành.

Ngày 25.8.1945, Hồ Chí Minh về đến Hà Nội.

Ngày 26.8.1945, một cuộc mít tinh biểu dương lực lượng cách mạng được tổ chức trước Đại biểu phái bộ Đồng minh. Hồ Chí Minh trình bày đường lối, chính sách ngoại giao, nội trị của chính quyền nhân dân cách mạng.

Ngày 31.8.1945, hai đội Giải phóng quân về đến Hà Nội.

Ngày 2.9.1945, Ủy ban Dân tộc giải phóng - Chính phủ Lâm thời ra mắt nhân dân Hà Nội và cả nước tại Quảng trường Ba Đình. Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.


(1) Cách mạng tháng Tám, Nhà xuất bản Sử học, Hà Nội, 1960, tr. 47, 48.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 02 Tháng Chín, 2011, 08:06:35 am
HƯNG YÊN(*)

Hưng Yên được thành lập vào năm Minh Mạng thứ 12 (1831), là vùng đất phù sa màu mỡ ở đồng bằng sông Hồng, nhưng cũng là nơi thường xảy ra vỡ đê, lụt lội, mất mùa, vv.

Dưới thời Nguyễn nhân dân Hưng Yên tích cực tham gia các cuộc khởi nghĩa Phan Bá Vành (1821-1827), Cao Bá Quát (1854), Lê Duy Cự (1854), Cai Vàng (1862). Sau khi Pháp hạ thành Hưng Yên (28.3.1883), khởi nghĩa Bãi Sậy bùng lên, dựng cờ “bình Tây phạt tội”, tấn công giặc Pháp và tay sai, đứng đầu là Hoàng Cao Khải, tổng đốc Hưng Yên lúc bấy giờ.

Những năm 20 của thế kỉ 20, phong trào để tang Phan Chu Trinh và đòi ân xá Phan Bội Châu cũng lan rộng ở nhiều nơi trong tỉnh. Trong khí thế của phong trào yêu nước lên mạnh, nhiều người Hưng Yên đã tham gia Việt Nam Quốc dân Đảng (1927-1929) và trở thành trụ cột của tổ chức này như Phó Đức Chính, Lê Thành Sơn, Tô Hiệu, Tô Chấn, vv. Bên cạnh đó, cơ sở của Việt Nam Cách mạng Thanh niên cũng được gây dựng ở Sài Thị và Đông Quang từ năm 1928. Các hoạt động tuyên truyền, giác ngộ của chi bộ Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở đây phát triển mạnh, dù bị giặc đàn áp và ráo riết truy lùng. Năm 1929, chi bộ Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Sài Thị phát triển thành chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng Sài Thị. Sau Hội nghị thành lập Đảng (2.1930), theo chỉ thị của Trung ương, chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng Sài Thị chuyển thành chi bộ Đảng Cộng sản Đông Dương Sài Thị. Chi bộ này cùng với các tổ chức nông hội đỏ tại địa phương giữ vai trò lãnh đạo phong trào đấu tranh của nhân dân Hưng Yên, đồng thời phát triển thêm các cơ sở Đảng tại địa phương.

Cuối năm 1930, đầu năm 1931, chi bộ Sài Thị và Ngọc Lập bị đàn áp nặng nề, có thời điểm phải tạm ngừng hoạt động và mất liên lạc với bên ngoài. Từ tháng 7.1935, các cơ sở cách mạng bắt đầu được phục hồi ở thôn Đào Xá (Ân Thi). Trong khoảng thời gian 1935-1936, nhiều tù chính trị từ Côn Đảo và Sơn La trở về kết hợp với các cán bộ tại địa phương tiếp tục khôi phục, đẩy mạnh hoạt động của các cơ sở cách mạng ở Ân Thị và phát triển rộng ra nhiều vùng khác trong tỉnh.

Tháng 2.1938, chi bộ ghép Liễu Khê - Liễu Ngạn - Ngu Nhuế được thành lập. Sau đó lãnh đạo thắng lợi hai cuộc đấu tranh của nhân dân chống phụ thu và lạm bổ.

Từ năm 1939, hưởng ứng lời kêu gọi của Trung ương Đảng, phong trào đấu tranh hợp pháp bằng mít tinh, biểu tình diễn ra rộng khắp ở Hưng Yên. Nhiều hội nông dân, “tự vệ đội” được thành lập, tạo thành các tổ chức tập hợp và đoàn kết quần chúng, gây dựng lực lượng cho cách mạng.

Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (1939), quân Pháp và tay sai tăng cường đàn áp, khủng bố các cán bộ và các tổ chức cách mạng đi vào hoạt động bí mật, chuyển trọng tâm về vùng nông thôn. Cuối năm 1939, đầu năm 1940, các cơ sở cách mạng trong tỉnh đã bí mật mở rộng liên lạc với Xứ ủy Liên tỉnh B, với cơ sở cách mạng ở Thái Bình và Bắc Ninh.

Sau khởi nghĩa Bắc Sơn, khởi nghĩa Nam Kỳ, địch tập trung kiểm soát nghiêm ngặt. Tuy vậy, Hưng Yên vẫn là địa bàn hoạt động tương đối an toàn. Các cán bộ dựa vào những hội tập võ, hội bát âm, hội hát trống quân để nằm vùng, tuyên truyền, tiếp tục dây dựng cơ sở. Trong hơn 1 năm, các tổ chức phản đế (Thanh niên phản đế, Nông dân phản đế…), tổ chức Phụ nữ giải phóng lần lượt được xây dựng. Nhiều tổ chức thống nhất tới tổng, huyện (như Ban Chấp hành Thanh niên phản đế ở tổng Hoàng Tranh, Phù Cừ).

Đến cuối năm 1941, các thôn có tổ chức quần chúng đã tăng gấp 3 lần, từ 10 thôn lên 30 thôn, hội viên phản đế hơn 60 người. Tuy nhiên, phong trào vẫn phát triển chưa đều.

Cùng với việc vận động, tập hợp quần chúng vào những tổ chức thích hợp, các hình thức đấu tranh cũng được áp dụng để từng bước rèn luyện lực lượng, chủ yếu là rải truyền đơn, treo cờ, mít tinh ban đêm… Cờ búa liêm bắt đầu xuất hiện trong những dịp kỉ niệm lớn (ngày Quốc tế Lao động, ngày kỉ niệm Cách mạng tháng Mười Nga) tai những nơi tập trung đông người như chợ Gò, chợ Trương (Kim Động), chợ Thi (Ân Thi), chợ Đường Cái, ga Đình Dù (Văn Lâm), dọc đường 39… Cuộc mít tinh lớn được tổ chức vào ban ngày ở Đậu An tháng 5.1941 nhân kỉ niệm ngày Quốc tế Lao động có hơn 50 hội viên phản đế và đông đảo quần chúng nhân dân các huyện Phù Cừ, Ân Thi, Kim Động tham gia, thực sự là một cuộc biểu dương lực lượng, góp phần tích cực thúc đẩy phong trào đi lên, giác ngộ và gây dựng niềm tin cho quần chúng vào Đảng, vào cách mạng.

Trong phong trào đấu tranh những năm 1940-1941, nhiều phần tử ưu tú đã xuất hiện. Trên cơ sở đó, đầu năm 1941, ở Hưng Yên lần lượt ra đời các chi bộ Đảng ghép: Nhân Dục - thị xã hưng Yên, Quang Lâm - Ải Quang (Phù Cừ), Ninh Thôn - Trại Thôn (Ân Thi) - Ngải Dương (Văn Lâm), vv. Hưng Yên trở thành một trong những nơi có nhiều cơ sở nhất ở Liên tỉnh B.

Sự mở rộng của các chi bộ Đảng và phong trào ở Hưng Yên đòi hỏi phải có một tổ chức lãnh đạo thống nhất. Đầu tháng 71.941, dưới sự của đạo của Trung ương Đảng và Xứ ủy, hội nghị các chi bộ Đảng diễn ra ở Ninh Thôn (Ân Thi). Hội nghị đã quyết định các vấn đề chính:

- Chuyển Mặt trận phản đế thành Mặt trận Việt Minh, mở rộng cơ sở, gây dựng lại các cơ sở cũ, xây dựng cơ sở mới.

- Vận động quần chúng đấu tranh (đặc biệt là ủng hộ phong trào du kích Bắc Sơn).

- Tích cực chống khủng bố của địch, đặc biệt ở Kim Động.

- Cử ra Ban Tỉnh ủy lâm thời.

Hội nghị này là kết quả của quá trình bền bỉ vận động quần chúng nhân dân, đánh dấu việc chính thức thành lập Đảng bộ tỉnh Hưng Yên, thể hiện sự lớn mạnh của phong trào cách mạng địa phương. Sau hội nghị, các phong trào phản đế nhanh chóng chuyển thành phong trào cứu quốc, Mặt trận Việt Minh và lá cờ đỏ sao vàng được giới thiệu trong nhân dân. Các cơ sở Đảng mới tiếp tục mở ra ở Mễ Sở (Văn Giang), Văn Nhuệ (Ân Thi).

Cuối năm 1941, địch tăng cường khủng bố ở Ninh Bình, Hưng Yên, bắt giam nhiều cán bộ cách mạng. Một số nơi phong trào lắng xuống nhưng vẫn tiếp tục hoạt động bí mật. Ngày 17.8.1942, địch đưa tù chính trị ra xét xử. Buổi xét xử đã trở thành buổi “các bị cáo” lên án, vạch mặt tội ác của Pháp - Nhật, kêu gọi nhân dân đứng lên, đoàn kết đánh đuổi kẻ thù. Giặc phải vội vã đưa số tù chính trị này trở lại trai giam.

Trong đợt khủng bố kéo dài suốt hai năm 19412-1942, phong trào cách mạng gặp phải những tổn thất nặng nề. Việc liên lạc với bên ngoài bị gián đoạn. Trước tình hình đó, Trung ương đã cử đồng chí Hoàng Quốc Việt về Hưng Yên kiểm tra tình hình và trực tiếp chỉ đạo phong trào. Nhiều cán bộ từ các nơi khác cũng được tăng cường về Hưng Yên. Việc khôi phục lại phong trào đến cuối năm 1942, đầu năm 1943, đã thu được kết quả đáng kể.

Chính sách bóc lột của Pháp - Nhật ngày càng tàn ác. Liên đoàn thóc Nhật ở Bần (Mỹ Hòa), ở Thụy Lôi (Tiên Lữ) ra sức bóp nặn nhân dân. Nhật - Pháp còn tiến hành đàn áp, mị dân, hòng kéo nhân dân xa rời phong trào cách mạng. Tỉnh ủy Hưng Yên kịp thời ra chủ trương: lấy việc tố cáo mạnh mẽ tội ác của giặc, mở rộng ảnh hưởng của Việt Minh, hướng dẫn quần chúng đấu tranh… để khơi dậy tinh thần dân tộc, chú trọng công tác tư tưởng, phát triển cơ sở tại những nơi địch còn sơ hở như chùa chiền, chấp hành triệt để nguyên tắc bí mật. Tỉnh ủy cũng cụ thể hóa chủ trương này bằng cách phát thư kêu gọi nhân dân chống cướp bóc, chống nhổ ngô trồng đay và thầu dầu, hô hào nhân dân gia nhập Việt Minh đánh đuổi Pháp - Nhật. Do vậy, các cuộc đấu tranh đòi hoãn thuế, đòi bán thóc gạo theo giá hợp lí, chống trồng đay… đã diễn ra. Phong trào cũng lan vào các chùa chiền, có sự tham gia của các tăng ni, phật tử.


(*) Người viết: Phạm Thu Hà, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 02 Tháng Chín, 2011, 08:09:01 am
Tháng 3.1943, thực hiện nghị quyết của Trung ương yêu cầu các địa phương phải dặt mình trong tình thế khẩn cấp, Tỉnh ủy Hưng Yên đề ra các nhiệm vụ công tác cụ thể: đẩy mạnh hoạt động, ra báo “Bãi Sậy” lưu truyền rộng rãi trong tỉnh.

Tháng 10.1943, địch tăng cường đàn áp, lùng bắt Trần Đăng Ninh và Hoàng Quốc Việt nhưng phong trào vẫn tiếp tục lên cao.

Đầu năm 1944, Cứu ủy Liên tỉnh B cử đồng chí Bang về chỉ đạo phong trào ở Hưng Yên. Theo chủ trương chung, các chi bộ Đảng ở Hưng Yên phải đưa người vào tổ chức của địch để tranh thủ quần chúng, đặc biệt là thanh niên, hình thành khu an toàn Bãi Sậy, tạo chỗ đứng vững cho phong trào và tạo điều kiện cho cán bộ hoạt động bí mật. Việt Minh ở Bãi Sậy cài được người vào binh lính ở đồn Bần. Quần chúng nhân dân tham gia Việt Minh ngày càng đông đảo. Đến tháng 3.1945, hơn 100 thôn trong toàn tỉnh có cơ sở Việt Minh với hơn 2000 hội viên. Quần chúng được tổ chức lại và được hướng dẫn, rèn luyện phương pháp hoạt động. Từ đây, một lực lượng chính trị lớn đã hình thành.

Cùng với lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang (các đội tự vệ) cũng được tạo dựng, rèn luyện, góp phần tạo nên một phong trào quần chúng đấu tranh mạnh mẽ và rộng khắp.

Giữa năm 1945, tình hình ở Hưng Yên có những thay đổi. Tuần phủ Trần Hữu Vị khét tiếng gian ác được chuyển lên làm tỉnh trưởng. Một trung đội Nhật về đóng ở thị xã, lính khố xanh tăng lên hơn 100 tên. Tổ chức thanh niên phản động và Bảo an được xây dựng ở các địa phương để lôi kéo thanh niên. Quân Nhật và tay sai tăng cường đán áp nhân dân, gây nên làn sóng căm phẫn dữ dội. Điều đó càng đưa quần chúng tiến gần hơn với Việt Minh. Tỉnh ủy Hưng Yên lập tức phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước trong toàn tỉnh.

Trận đánh đồn Bần (12.3.1945) đánh dấu thắng lợi đầu tiên của Việt Minh ở an toàn khu Bãi Sậy. Thắng lợi đó có ảnh hưởng lớn đến quần chúng và lan rộng ra các tỉnh xung quanh. Đồng chí Võ Nguyên Giáp gọi đây là “trận đánh du kích kiểu mẫu ở đồng bằng”. Từ đây, cao trào kháng Nhật lên cao, mang tính chất rộng rãi, liên tục, có sự liên kết chặt chẽ giữa các vùng. Việt Minh hô hào nhân dân không nộp thuế cho giặc, cảnh cáo bọn hào lí ở nhiều xã, thôn. Phong trào phá kho thóc cũng nổ ra, bắt đầu ở Giai Phạm (Yên Mỹ), Bần (Mỹ Hào), Đống Long (Kim Động). nhân dân còn chặn xe thóc trên đường 39, giành thuyền thóc trên sông Luộc. Việt Minh đồng thời lãnh đạo quần chúng vận động nhà giàu cho vay cứu đói, chia thóc cho dân. Hơn 600 tấn thóc đã được chia cho dân nghèo trong tháng 5 và tháng 6.1945. Trước khí thế mạnh mẽ của quần chúng, bọn tri huyện ở nhiều nơi phải nhượng bộ, lúng túng.

Từ phong trào chống thuế, phá kho thóc, Việt Minh tiếp tục tổ chức các cuộc mít tinh, biểu tình, diễn thuyết, vạch mặt bọn Nhật và tay sai ở Kim Động, Mỹ Hào, Văn Lâm. Cuộc mít tinh lớn nhất thu hút hàng ngàn người diễn ra ở Đậu An tháng 5.1945. Cùng thời gia này, lực lượng ở Bãi Sậy được thống nhất với lực lượng trong toàn tỉnh, thành lập Ủy ban Việt Minh tỉnh Tán Thuật, tạo nên một tổ chức lãnh đạo thống nhất phong trào chuẩn bị cho khởi nghĩa.

Tháng 6.1945, Việt Minh ở Văn Lâm phối hợp với Việt Minh ở huyện Thuận Thành (Bắc Ninh) tổ chức cướp súng ở Văn Lâm. Cùng lúc, các đội tự vệ tổ chức nhiều tổ phục kích quân Nhật trên đường chúng về gây áp lực thu thóc ở Ân Thi. Các đội trừ gian tiêu diệt tên Bá Nông cầm đầu bọn Đại Việt phản động chống phá cách mạng ở Bần, tiêu diệt Lý Phách ở Mỹ Hào, Cánh Quỳ ở Ân Thi. Ở nhiều xã thuộc Văn Lâm, Yên Mỹ, Văn Giang, lực lượng Việt Minh mạnh, chính quyền của giặc chỉ còn tồn tại trên danh nghĩa, các Ủy ban giải phóng dân tộc nhanh chóng được thành lập.

Từ tháng 7.1945, việc chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang được tiến hành khẩn trương. Tháng 8.1945, Việt Minh ở một số huyện đã chuẩn bị các trận đánh úp.

Tình hình quốc tế và trong nước biến chuyển nhanh chóng, cổ động nhân dân Hưng Yên tiến lên đấu tranh với một khí thế mạnh mẽ. Nhiều cơ sở Đảng và Việt Minh ở các huyện dù chưa có chỉ thị từ Trung ương đã dựa vào chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” ngày 12.3.1945 tổ chức nhân dân nổi dậy, tấn công vào các phủ huyện. Trong vòng 5 ngày từ 14 đến 18.8.1945, chính quyền địch ở nhiều huyện đã bị Việt Minh liên tiếp tiến công.

Ngày 14.8.1945, khởi nghĩa ở Phù Cừ.

Ngày 15.8.1945, khởi nghĩa ở Khoái Châu.

Ngày 16.8.1945, lực lượng cách mạng tấn công đồn Bần lần thứ 2.

Ngày 17.8.1945, khởi nghĩa ở Mỹ Hào, Văn Giang, Tiên Lữ.

Ngày 18.8.1945, Hưng Yên nhận được lệnh khởi nghĩa từ Trung ương. Hội nghị Tỉnh ủy được tiến hành cấp tốc ở Thổ Cốc (Yên Mỹ) ra quyết định:

- Những nơi đã đánh úp chính quyền thì tổ chức mít tinh quần chúng, giải tán chính quyền địch, thành lập chính quyền cách mạng lâm thời.

- Những nơi khác tiếp tục khởi nghĩa bằng biểu tình và vũ trang của quần chúng.

- Ngày 22.8.1945, tổ chức tổng biểu tình, huy động lực lượng tự vệ, hội viên cứu quốc và đông đảo quần chúng nhân dân về chiếm tỉnh lị.

Sau hội nghị Tỉnh ủy, Ủy ban giải phóng dân tộc huyện Phù Cừ thành lập, tạo nên niềm tin và cổ vũ nhân dân khắp các huyện trong tỉnh khởi nghĩa giành chính quyền.

Ngày 19.8.1945, giành chính quyền ở Yên Mỹ.

Ngày 20.8.1945, ở Kim Động, sau hội nghị gấp rút ở Tạ Xá Hạ của Việt Minh, lực lượng tự vệ, cứu quốc quân và quần chúng nhân dân chia làm hai mũi tiến vào huyện đường. Tri huyện Kim Động bỏ trốn. Lực lượng cách mạng đi khắp các ngả đường tuyên truyền chiến thắng.

Ngày 21.8.1945, mít tinh, biểu tình diễn ra ở huyện đường Văn Lâm, chính quyền địch ở Văn Lâm nhanh chóng suy sụp, chính quyền cách mạng của nhân dân được thành lập.

Ngày 22.8.1945, toàn tỉnh tiến hành tổng biểu tình, mít tinh giành chính quyền trong cả tỉnh. Việt Minh đọc lệnh khởi nghĩa và lời kêu gọi của Hồ Chí Minh, thông báo tin thắng lợi ở Hà Nội và nhiều tỉnh khác, phổ biến các chính sách của Việt Minh, kêu gọi nhân dân ủng hộ Việt Minh giành chính quyền, tuyên bố xóa bỏ chính quyền thực dân phong kiến, thành lập chính quyền cách mạng.

Đêm 22.8.1945, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Hưng Yên được thành lập và ra mắt vào sáng ngày 23.8.1945 trong một cuộc mít tinh lớn với hàng vạn người tham gia tại thị xã Hưng Yên. Từ 22 đến 25.8.1945, chính quyền cách mạng ở các cơ sở đã cơ bản được xác lập.

*

Như vậy, từ 14 đến 22.8.1945, Cách mạng tháng Tám đã diễn ra mau chóng ở Hưng Yên từ khởi nghĩa từng phần tiến lên Tổng khởi nghĩa. Nhân dân Hưng Yên, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận Việt Minh, tích cực chuẩn bị lực lượng, luyện tập và chủ động chớp thời cơ giành chính quyền. Cuộc khởi nghĩa diễn ra bằng đấu tranh chính trị của quần chúng là chủ yếu kết hợp với bạo lực vũ trang. Do vậy, lực lượng cách mạng giành được chính quyền từ tay kẻ địch ít đổ máu. Sự chỉ đạo kịp thời của Trung ương Đảng, Xứ ủy và sự sáng tạo, chủ động nắm bắt tình hình, phát động quần chúng khởi nghĩa của Đảng bộ địa phương là một trong những nhân tố quan trọng đưa đến thắng lợi cuối cùng.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 02 Tháng Chín, 2011, 08:11:31 am
HẢI DƯƠNG(*)

Dưới ách thống trị của đế quốc và phong kiến, nhân dân Hải Dương không ngừng đấu tranh để giành độc lập và quyền sống của mình. Từ khi thực dân Pháp xâm lược (1858) đến năm 1930, ở Hải Dương đã có nhiều cuộc đấu tranh chống lại bọn cướp nước và bán nước.

Ngay sau khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời (3.2.1930), hai chi bộ đầu tiên ở Hải Dương được thành lập: Chi bộ mỏ than Mạo Khê (do đồng chí Nguyễn Văn Cừ tổ chức) và chi bộ thôn Đọ Xá (Chí Linh, do đồng chí Trần Cung tổ chức). Từ đây, phong trào cách mạng Hải Dương dưới sự lãnh đạo trực tiếp của chính đảng vô sản, ngày càng có ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng.

Trong phong trào cách mạng 1930-1931, Hải Dương diễn ra các cuộc đấu tranh của công nhân và nông dân đòi quyền lợi, tiêu biểu là công nhân mỏ than Mạo Khê và nông dân Đọ Xá. Đồng thời hoạt động rải truyền đơn, treo cờ búa liềm hưởng ứng phong trào đấu tranh của Xô viết Nghệ - Tĩnh diễn ra sôi nổi. Năm 1931, thực dân Pháp tăng cường khủng bố nên phong trào tạm thời lắng xuống. Trong những năm 1932-1935, các cơ sở cách mạng tiếp tục được gây dựng, dưới sự chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Lương Bằng.

Trong phong trào dân chủ 1936-1939, cách mạng Hải Dương tiếp tục hồi phục và phát triển mạnh. Các đoàn thể dân chủ được thành lập ở thị xã Ninh Giang, thị xã Hải Dương; ở các huyện Vĩnh Bảo, Nam Sách, Thanh Hà, Kim Thành, Cẩm Giàng. Sách báo công khai của Đảng, các đoan thể dân chủ như “Dân chúng”, “Đời nay”, “Tin tức”… được truyền bá rộng rãi, góp phần vào việc tuyên truyền, giáo dục quần chúng đấu tranh. Phong trào đấu tranh đòi quyền lợi của công nhân và nông dân diễn ra rầm rộ khắp tỉnh, tiêu biểu là công nhân nhà máy rượu, sở lục lộ Hải Dương, nhà máy nước Ninh Giang, mỏ than Mạo Khê; nông dân ở huyện Thanh Hà, Vĩnh Bảo… Phong trào dân chủ 1936-1939 đã mở đầu cho một thời kì phát triển mới của cách mạng ở Hải Dương.

Khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Hải Dương cùng cả nước thực hiện chủ trương của Đảng chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, tiến hành cuộc vận động giải phóng dân tộc, chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Sau vụ khủng bố của địch cuối năm 1939, phong trào cách mạng lắng xuống. Đến năm 1940, hai chi bộ ở Tạ Xá (Nam Sách) và Hàm Ếch (Chí Linh) được thành lập và tích cực lãnh đạo quần chúng đấu tranh. Tháng 6.1940, Đảng bộ Hải Dương mở hội nghị ở Tạ Xá để nghe phổ biến nghị quyết VI của Trung ương, bàn kế hoạch mở rộng phong trào cách mạng trong tỉnh và thành lập Ban Tỉnh ủy. Hội nghị Tạ Xá đánh dấu một bước trưởng thành của Đảng bộ Hải Dương. Từ đây, việc xây dựng cơ sở Đảng càng được đẩy mạnh, Ban huyện ủy Nam Sách ra đời, trực tiếp lãnh đạo phong trào ở địa phương. Tiếp đó, chi bộ nhà máy nước thị xã Hải Dương và chi bộ Đồn Bối (Nam Sách) được thành lập.

Cùng với việc xây dựng Đảng, công tác củng cố, mở rộng mặt trận phản đế được coi trọng. Hầu hết quần chúng cách mạng đều được đưa vào các tổ chức phản đế, những nơi có cơ sở mạnh đã thành lập Mặt trận phản đế xã. Riêng các huyện Nam Sách, Kim Thành, Thanh Hà lập được Mặt trận phản đế huyện. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận phản đế, đã thu hút được đông đảo quần chúng tham gia, đồng thời còn tranh thủ được cảm tình của một số hào lí, địa chủ.

Cuối năm 1940 đầu năm 1941, phong trào cách mạng ở Hải Dương tạm thời lắng xuống do sự khủng bố gắt gao của địch. Đảng bộ Hải Dương đã quyết định chuyển trọng tâm về hoạt động tại nông thôn, lấy nông thôn làm căn cứ, xây dựng Mặt trận phản đế, mở rộng cơ sở quần chúng, thành lập Ban Tỉnh ủy - cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng bộ Hải Dương, từng bước chuẩn bị mọi mặt cho cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.

Phong trào cách mạng Hải Dương được nhen lên từ những năm 1942-1944; sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9.3.1945), phong trào thực sự phát triển mạnh, các cơ sở cách mạng được hồi phục nhanh chóng. Đầu tháng 3.1945, đồng chí Nguyễn Kha được Xứ ủy Bắc Kỳ cử về cùng với các đồng chí cán bộ cốt cán của tỉnh họp bàn kế hoạch thống nhất các lực lượng cách mạng ở Hải Dương. Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, ban Việt Minh tỉnh, phong trào cách mạng ở Hải Dương đã phát triển thành cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ, rộng khắp. Giữa tháng 3.1945, khắp nơi trong tỉnh nổi dậy phá kho thóc, gạo của Nhật. Chỉ trong vòng một tháng, Hải Dương đã lấy được 1.507 tấn thóc chia cho nhân dân, cứu được hàng vạn người khỏi chết đói. Cùng với phong trào phá kho thóc, phong trào chống thuế cũng phát triển ở nhiều nơi như Tứ Kỳ, Vĩnh Bảo, Cẩm Giàng.

Đầu tháng 4.1945, đồng chí Trần Đức Thịnh, Xứ ủy viên Bắc Kỳ, được cử về trực tiếp lãnh đạo phong trào tỉnh Hải Dương. Hội nghị cán bộ cốt cán của tỉnh được triệu tập ở Đông Thôn (Thanh Miện), nghe truyền đạt chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, đồng thời đề ra nhiệm vụ trước mắt, cụ thể của địa phương là tiến tới xây dựng đội tự vệ, mua sắm vũ khí, thành lập căn cứ quân sự, để chờ thời cơ tiến lên khởi nghĩa giành chính quyền. Hội nghị chỉ định Ban Tỉnh ủy lâm thời, gồm 5 đồng chí: Nguyễn Kha, Vũ Duy Hiệu, Nguyễn Công Hòa, Trần Cung, Hải Thanh, do đồng chí Nguyễn Kha làm Bí thư.

Ngày 10.5.1945, tại chùa Bắc Mã (Đông Triều), 2 tiểu đội vũ trang đầu tiên của tỉnh được thành lập. Trong tháng 5.1945, lớp huấn luyện chính trị được mở tại chùa Bắc Mã để bồi dưỡng và đào tạo cán bộ, có 50 đại biểu đến dự.

Đến đầu tháng 7.1945, ở Hải Dương có hàng trăm Ủy ban giải phóng dân tộc được thành lập. Lúc này, ở nhiều nơi của Hải Dương đã có tình thế hai chính quyền song song tồn tại: chính quyền bù nhìn thân Nhật và Ủy ban giải phóng dân tộc (hoặc các tổ Việt Minh hoạt động bí mật hay bán công khai) điều hành mọi công việc trong thôn, xá. Ở chiến khu Đông Triều có gần 500 du kích tập trung, được trang bị đầy đủ vũ khí, thực sự trở thành chiến khu du kích vững chắc. Các độ tự vệ khác cũng tăng cường tấn công địch, như tự vệ Kim Thành, Phả Lại, Chí Linh… Cuối tháng 7.1945, phong trào cách mạng phát triển rầm rộ khắp các huyện phía hữu ngạn sông Thái Bình. Cơ sở Đảng và Việt Minh ở các huyện Tứ Kỳ, Thanh Miện, Ninh Giang, Bình Giang, Cẩm Giàng lãnh đạo nhân dân phá kho thóc, tấn công vào phủ huyện tước vũ khí, thu sổ sách, tài liệu của địch.


(*) Người viết: ThS. Nguyễn Thị Thế Bình, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 02 Tháng Chín, 2011, 08:12:35 am
Từ 13 đến 17.8.1945, Tỉnh ủy Hải Dương mở Hội nghị cán bộ ở Đông Thôn (Thanh Miện) bàn kế hoạch đẩy mạnh mọi hoạt động, đợi lệnh của Trung ương tiến lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Khi được tin Nhật đầu hàng Đồng minh, Tỉnh ủy Hải Dương quyết định phát động toàn dân Tổng khởi nghĩa. Hội nghị Tỉnh ủy kết thúc ngày 15.8.1945, cán bộ về ngay địa phương lãnh đạo khởi nghĩa. Không khí Tổng khởi nghĩa giành chính quyền sôi nổi khắp nơi trong tỉnh.

Ngày 17.8.1945, huyện Cẩm Giàng mở đầu khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh Hải Dương. Quần chúng nhân dân từ các xã, đội ngũ chỉnh tề, mang theo cờ đỏ sao vàng và vũ khí tiến vào huyện đường, Bọn quản lại, binh lính hảng sợ đầu hàng, giao vũ khí, sổ sách cho cách mạng. Sau khi chiếm được huyện lị, quần chúng nhân dân tiến về giành chính quyền ở các xã.

Tại thị xã Hải Dương, 3 giờ chiều ngày 18.8.1945, lực lượng cách mạng đã biến cuộc mít tinh của chính quyền bù nhìn tổ chức nhằm ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim thành cuộc mít tinh ủng hộ Việt Minh. Dưới sự chỉ đạo của cán bộ Việt Minh, đoàn biểu tình diễu hành qua các đường phố, giương cao cờ đỏ sao vàng, hô vang các khẩu hiệu “Ủng hộ cách mạng”; “Ủng hộ Việt Minh”; “Đảo đảo chính phủ bù nhìn thân Nhật”. Trước khí thế của quần chúng các viên chức trong chính quyền thân Nhật nhanh chóng giao nộp các công sở. Nhưng trại Bảo an binh không chịu giao nộp vũ khí ngay, Mặt trận Việt Minh đã phát động quần chúng bên ngoài làm áp lực, kết hợp với binh lính bên trong đấu tranh, buộc chúng phải giao toàn bộ vũ khí cho cách mạng. Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh lị Hải Dương hoàn toàn thắng lợi.

Tin huyện Cẩm Giàng và tỉnh lị Hải Dương khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi lan đi nhanh chóng, khiến cho ngụy quyền hết sức hoang mang, dao động. các phủ, huyện nhân đà đó cũng kịp thời phát động quần chúng nổi dậy giành chính quyền: 19.8 - huyện Gia Lộc, Thanh Miện; 20.8 - huyện Tứ Kỳ, Vĩnh Bảo, Ninh Giang, Bình Giang; 21.8 - huyện Kim Môn; 22.8 - huyện Thanh Hà. Tiếp sau các phủ, huyện, cơ sở Việt Minh ở các thôn, xã cũng lần lượt tịch thu triện bạ của hào lí, tuyên bố xóa bỏ chính quyền cũ, thiết lập Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời.

Ngày 25.8.1945, đông đảo quần chúng nhân dân kéo về thị xã Hải Dương dự cuộc mít tinh ở sân Tòa sứ (trụ sở Tỉnh ủy ngày nay). Tại đây, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời Tỉnh (do đồng chí Vũ Duy Hiệu làm Chủ tịch) đã ra mắt công chúng. Chính quyền cách mạng ở khắp các cơ sở trong tỉnh cũng được thành lập.

Như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn (từ 17 đến 22.8.1945) dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ và Mặt trận Việt Minh tỉnh, nhân dân Hải Dương đã nhất tề vùng dậy khởi nghĩa giành chính quyền một cách nhanh chóng và triệt để.

*

Cuộc Cách mạng tháng Tám ở Hải Dương nằm trong diễn biến chung của Tổng khởi nghĩa trong cả nước, mang những nét chung, đồng thời có những đặc điểm riêng:

Về hình thái diễn biến, Cách mạng tháng Tám ở Hải Dương đi từ khởi nghĩa từng phần đến Tổng khởi nghĩa; khởi nghĩa bắt đầu từ nông thôn, đến thành thị và kết thúc ở nông thôn. Ngay từ sau ngày Nhật đảo chính Pháp, dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Ban Việt Minh, nhân dân Hải Dương tăng cường thành lập các đội tự vệ chủ trương, xây dựng chiến khu Đông Triều, trang bị vũ khí, phát triển cơ sở Đảng và Việt Minh trong quần chúng, chờ thời cơ sẵn sàng khởi nghĩa. Ngay sau khi Nhật đầu hàng Đông minh, khởi nghĩa giành chính quyền ở huyện Cầm Giàng thắng lợi (17.8.1945), tạo đà cho thị xã Hải Dương giành chính quyền (18.8.1945). Khởi nghĩa thắng lợi ở tỉnh lị Hải Dương là nhân tố quan trọng thúc đẩy việc giành chính quyền ở các huyện lị, thôn xã còn lại một cách nhanh chóng, thuận lợi.

Trong quá trình chuẩn bị cho cách mạng, Hải Dương luôn quán triệt tinh thần khởi nghĩa vũ trang, nhưng khi tiến hành khởi nghĩa, do điều kiện thuận lợi, nên hầu hết các nơi trong tỉnh đều dùng bạo lực chính trị của quần chúng, có lực lượng bán vũ trang hỗ trợ làm hình thức khởi nghĩa giành chính quyền chỉ yếu. Một số nơi quân địch ngoan cố, nhưng Ủy ban cách mạng đã thực hiện sách lược mềm dẻo, tổ chức quần chúng đấu tranh, giành thắng lợi trọn vẹn và không đổ máu.

Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Hải Dương diễn ra sớm, nhanh chóng và triệt để vì điều kiện khách quan và chủ quan thuận lợi, kẻ thù hoang mang cực độ, sự chỉ đạo đúng đắn của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, ảnh hưởng của phong trào cách mạng sôi nổi trong cả nước; quần chúng nhân dân trong tỉnh sôi sục căm thù địch, đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh và sẵn sàng chiến đấu hi sinh cho cách mạng, Đảng bộ Hải Dương có sự chuẩn bị lâu dài, chu đáo về mọi mặt, vận dụng sách lược tấn công kẻ địch khôn khéo, làm hàng ngũ của chúng phân hóa tan rã nhanh chóng, khi thời cơ đến đã kiên quyết phát động quần chúng nhân dân vùng lên khởi nghĩa giành chính quyền.

Cách mạng tháng Tám ở Hải Dương để lại nhiều bài học quý báu. Một là, phải nhận thức rõ vai trò cách mạng của nông dân, kiên trì giáo dục, giác ngộ họ đấu tranh, xây dựng nông thôn thành chỗ dựa vững chắc, là cơ sở để thực hiện khởi nghĩa từng phần ở nông thôn, tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn tỉnh. Hai là, phải chuẩn bị chu đáo mọi mặt, nắm đúng thời cơ, kiên quyết phát động toàn dân dũng cảm, kịp thời đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền. Ba là, phải tăng cường đoàn kết nhân dân toàn tỉnh trong một mặt trận thống nhất, triệt để lợi dụng mâu thuẫn của địch, tập trung mũi nhọn vào kẻ địch chủ yếu. Bốn là, tăng cường vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng các cấp trong tỉnh - nhân tố cơ bản để tạo nên thắng lợi của cách mạng.

Với truyền thống kiên cường, bất khuất của nhân dân, dưới sự lãnh đạo sáng suốt, nhạy bén của Đảng bộ và Mặt trận Việt Minh, Hải Dương là một trong những tỉnh đầu tiên giành được chính quyền trong Cách mạng tháng Tám 1945.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 02 Tháng Chín, 2011, 08:17:51 am
KIẾN AN(*)

Khi thực dân Pháp hoàn thành xâm lược Việt Nam, cũng như nhiều tỉnh khác ở Bắc Kỳ, Kiến An trở thành đất “bảo hộ” của chính quyền thực dân. Chính sách kinh tế, văn hóa phản động của chính quyền thực dân và tay sai làm xuất hiện hàng hoạt các cuộc đấu tranh của nhân dân trong tỉnh.

Những năm 20 và 30 của thế kỉ 20, ở nhiều huyện của Kiến An các tổ chức quần chúng như “Thanh niên”, “Hội gặt”, “Hội cấy”, “Hội tương tế”… được xây dựng khá rầm rộ, là cơ sở để hình thành các chi bộ cộng sản của Kiến An (ở Trung Hành, Cổ Am…).

Giai đoạn 1939-1943, phong trào cách mạng ở Kiến An gặp rất nhiều khó khăn do sự khủng bố liên tục của địch. Từ giữa năm 1943, việc xây dựng và chỉ đạo phong trào cách mạng ở Kiến An do Xứ ủy Bắc Kỳ trực tiếp điều hành. Hoạt động tích cực của các cán bộ Xứ ủy được điều về tăng cường cho Hải Phòng - Kiến An đã góp phần phục hội và phát triển phong trào cách mạng ở đây. Nhiều tổ chức cứu quốc ở vùng nông thôn Kiến An dần được gây dựng lại (Kiến Thụy, An Lão, An Dương).

Đến cuối năm 1944, ở tỉnh lị Kiến an cơ sở Việt Minh đã được xây dựng cả trong trại lính khố xanh. Tháng 11.1944, cuộc họp cán bộ để phối hợp hoạt động giữa Hải Phòng và Kiến An được tổ chức, từ đó phong trào Việt Minh ở Hải Phòng - Kiến An được thúc đẩy phát triển mạnh hơn.

Tháng 12.1944, Ban lãnh đạo Việt Minh tỉnh Kiến An đã tổ chức cuộc mít tinh với sự tham gia của hàng trăm hội viên. “Ban cán bộ Việt Minh tỉnh Kiến An đã công khai ra mắt, kêu gọi nhân dân ủng hộ phong trào du kích Cao - Bắc - Lạng, giới thiệu điều lệ, chương trình hành động của Mặt trận Việt Minh”(1).

Những chính sách phản động của phát xít Nhật sau đảo chính Pháp (9.3.1945) càng thôi thúc mọi tầng lớp nhân dân tích cực tham gia phong trào kháng Nhật cứu nước. Tại Kiến An, phong trào phá kho thóc để g nạn đói diễn ra mạnh mẽ. Nhân dân được sự hỗ trợ đắc lực của lực lượng tự vệ đã tiến hành phá hàng loạt kho thóc lớn của bọn địa chủ ở các huyện Kiến Thụy, Tiên Lãng, Thủy Nguyên, An Dương. Các đội tự vệ của huyện Thủy Nguyên, Tiên Lãng, An Lão còn chặn đánh cả các thuyền chở lương thực của Nhật trên sông Luộc, sông Lạch Tray, Kinh Thầy. Việc tổ chức các lực lượng vũ trang cũng được đẩy mạnh. Các huyện Kiến thụy, Thủy Nguyên, An Lão đều có từ 2 đên 3 trung đội tự vệ… Cuối tháng 4.1945, “Đội tuyên truyền võ trang” cua tỉnh được thành lập và đã có nhiều hoạt động sôi nổi thu hút được sự hưởng ứng của quần chúng. Đội tuyên truyền võ trang không chỉ tổ chức các buổi diễn thuyết công khai mà còn tiến hành các hoạt động trừng trị những tên Việt gian và tay sai ác ôn. Công tác vận động binh lính người Việt trong quân đoàn Nhật cũng được chú trọng. Được sự vận động của cơ sở cách mạng ở Kiến An, 20 binh lính trong trại Bảo an binh ở tỉnh lị Kiến An đã mang 62 súng cùng 500 viên đạn bí mật chuyển ra ngoài để đưa lên chiến khu Đông Triều(2).

Từ tháng 7.1945, phong trào cách mạng ở Kiến An phát triển hết sức mạnh mẽ. Ngày 12.7.1945, nhân dân nhiều xã của huyện Kiến Thụy phối hợp với tự vệ Tiên Lãng đã lật đổ chính quyền tay sai Nhật ở xã Kim Sơn và thiết lập chính quyền cách mạng, thành lập “Ủy ban dân tộc giải phóng” Kim Sơn. Nhật đem quân khủng bố phong trào cách mạng, nhân dân Kim Sơn dưới sự lãnh đạo của Ủy ban dân tộc giải phóng đã anh dũng chiến đấu đánh bại cuộc khủng bố của Nhật, giữ vững được chính quyền vừa giành được. Sau sự kiện Kim Sơn, hoạt động vũ trang của tự vệ các huyện (phục kích, đột nhập tước khí giới…) diễn ra thường xuyên hơn và đều thu được thắng lợi.

Việc Nhật tuyên bố đầu hàng Đông minh vô điều kiện (14.8.1945) đã đưa đến những bước nhảy vọt của cách mạng - tình thế cách mạng trực tiếp đã xuất hiện. Ở tỉnh lị Kiến An, quân Nhật hoảng sợ rút hết về Hải Phòng, chính quyền tay sai của Nhật tê liệt, tan rã, cơ hội “ngàn năm có một” để nhân dân Kiến An giành lấy chính quyền đã đến. Dù đang bị lụt lớn, lệnh Tổng khởi nghĩa của Trung ương đến chậm, nhưng căn cứ vào tinh thần chỉ thị ”Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, Tỉnh bộ Việt Minh Kiến An đã quyết định khởi nghĩa gianh chính quyền ở phủ Kiến Thụy trước.

Đêm 14 rạng sáng 15.8.1945, các hội viên Cứu quốc cùng đông đảo quần chúng cách mạng có lực lượng tự vệ các xã Kim Sơn, Lão Phong, Kính Trực, Đoàn Xá… làm xung kích đã tiến hành tước vũ khí và giành chính quyền ở phủ lị Kiến Thụy. Chiều 15.8.1945, Ủy ban cách mạng lâm thời phủ Kiến Thụy được thành lập.

Ngày 16.8.1945, quần chúng cách mạng và tự vệ Tiên Lãng phối hợp với tự vệ Kiến Thụy đã tiến hành giành chính quyền ở huyện lị. Ngày 19.8.1945, Ủy ban cách mạng lâm thời huyện Tiên Lãng đã ra mắt công chúng.

Ở An Lão, đêm 16 rạng ngày 17.8.1945, tự vệ Câu Trung đã tước vũ khí của lính bảo an, làm chủ huyện lị.

Ngày 21.8.1945, tự vệ cùng quần chúng ở An Dương đã xóa bỏ chính quyền tay sai, lập Ủy ban cách mạng lâm thời.

Ở Thủy Nguyên, ngày 22.8.1945, trong cuộc mít tinh lớn tại sân vận động Dực Liễn, Ủy ban cách mạng lâm thời cũng chính thức ra mắt trước nhân dân.

Thắng lợi dồn dập ở các huyện cùng với tin tức giành chính quyền ở thủ đô dội về càng làm cho không khí cách mạng ở tỉnh lị Kiến An thêm sôi sục. Tỉnh trưởng Kiến An tìm cách bắn tin ra ngoài xin gặp Việt Minh để “bàn giao” chính quyền.

Ngày 21.8.1945, Ban lãnh đạo Việt Minh huyện An Lão đã điều động lực lượng tự vệ chia thành 3 mũi tiến hành tước vũ khí tại trại Bảo an binh. Được tin Việt Minh huyện An Lão đánh chiếm tỉnh lị Kiến An, ngày 22.8.1945 Ban lãnh đạo khởi nghĩa tỉnh đã huy động lực lượng tự vệ huyện Kiến An, Tiên Lãng kéo lên tỉnh lị giành chính quyền, bắt tỉnh trưởng và tuyên bố xóa bỏ chính quyền tay sai. Chiều 22.8.1945, ta hoàn toàn làm chủ tỉnh lị Kiến An.

Chiều 24.8.1945, tại sân vận động trung tâm tỉnh lị, trước 5 vạn nhân dân, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Kiến An đã ra mắt quần chúng.

Ngày 25.8.1945, ở những nơi khác trong tỉnh việc giành chính quyền cũng hoàn thành. Cách mạng tháng Tám ở Kiến An toàn thắng.

*

Cách mạng tháng Tám ở Kiến An từ khởi nghĩa từng phần đến tổng khởi nghĩa, thắng lợi ở các huyện lị tạo điều kiện cho khởi nghĩa ở tỉnh lị giành thắng lợi nhanh chóng; việc giành chính quyền ở tỉnh lị lại giúp cho thắng lợi của cách mạng ở các vùng còn lại.

Khởi nghĩa giành chính quyền ở Kiến An diễn ra khá sớm, hầu như không gặp sự kháng cự đáng kể nào của quân Nhật và tay sai, do đó hạn chế được tổn thất và đổ máu. Mặc dù chưa nhận được lệnh Tổng khởi nghĩa của Trung ương nhưng với tinh thần chủ động, tích cực và sự nhạy bén, sáng tạo, Tỉnh bộ Việt Minh đã kịp thời lãnh đạo nhân dân đứng lên giành chính quyền; ở nhiều huyện, khởi nghĩa giành thắng lợi từ khá sớm (15.8.1945).

Khởi nghĩa giành chính quyền ở Kiến An đã phát huy tới mức cao nhất lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang địa phương, tạo nên sức mạnh tổng hợp đè bẹp ý chí phản kháng của kẻ địch. Trong khởi nghĩa ở Kiến An, lực lượng tự vệ các huyện và của tỉnh chính là đội quân nòng cốt, xung kích cho lực lượng chính trị của quần chúng nhân dân.

Thắng lợi của khởi nghĩa giành chính quyền ở Kiến An đã tạo điều kiện thuận lợi để khởi nghĩa giành chính quyền ở Hải Phòng diễn ra thuận lợi, nhanh chóng.


(*) Người viết: ThS. Trần Nam Trung, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
(1) Lịch sử Đảng bộ Hải Phòng, tập 1 (1930-1955), Nhà xuất bản Hải Phòng, tr. 184.
(2) Lịch sử Đảng bộ Hải Phòng, sđd, tr. 191.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 02 Tháng Chín, 2011, 08:22:06 am
HẢI PHÒNG(*)

Hải Phòng là vùng đất có lịch sử lâu đời, giàu truyền thống yêu nước. Năm 1888, Hải Phòng trở thành một “nhượng địa của thực dân Pháp” và dần hình thành một thành phố cảng, công nghiệp lớn của cả Đông Dương - do đó, phong trào công nhân cảng sớm hình thành và lớn mạnh.

Từ những năm 20 của thế kỉ 20, Hải Phòng là một “đầu cầu” quan trọng để thiết lập quan hệ giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập (3.2.1930), đến lúc Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, phong trào chống Pháp giành độc lập dân tộc liên tiếp nổ ra. Trong các phong trào cách mạng 1930-1931, 1936-1939, Hải Phòng đã có những đóng góp xứng đáng cho sự lớn mạnh của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền.

Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, thực hiện nghị quyết Trung ương 6, Ban cán sự khu ủy B(1) đã chuyển hướng hoạt động từ công khai, hợp pháp sang hình thức bí mật, bất hợp pháp, củng cố những cơ sở cách mạng đã bị địch phá vỡ, chắp nối những cơ sở còn lại, duy trì phong trào đấu tranh của công nhân và nhân dân lao động ở Hải Phòng và khu mỏ(2). Tuy nhiên, do sự khủng bố ác liệt của kẻ thù và sự lúng túng của đội ngũ cán bộ trước những biến chuyển mau lẹ của tình hình nên việc thực hiện chủ trương của Khu ỷ còn nhiều hạn chế. Ngày 1.12.1939, đồng chí Tô Hiệu, Bí thư Thành ủy Hải Phòng bị thực dân Pháp bắt. Từ đó đến năm 1942, cơ quan Thành ủy Hải Phòng liên tục bị địch phá, phải lập đi, lập lại nhiều lần (từ tháng 3.1940 đến tháng 4.1941, cơ quan lãnh đạo Đảng bộ Hải Phòng bị địch phá vỡ 5 lần).

Sau hội nghị Trung ương 8 (5.1941), việc xây dựng tổ chức Việt Minh, xây dựng căn cứ địa cách mạng… được xúc tiến mạnh mẽ ở nhiều địa phương. Ở Hải Phòng, phong trào cách mạng đang gặp rất nhiều khó khăn, làm cho việc triển khai nghị quyết này chậm và gặp nhiều trở ngại.

Từ giữa năm 1943, do cơ quan lãnh đạo của Đảng bộ chưa lập lại được nên Xứ ủy Bắc Kỳ trực tiếp xây dựng và chỉ đạo phong trào cách mạng ở Hải Phòng và Kiến An. Hoạt động tích cực của các cán bộ Xứ ủy được phái về công tác ở Hải Phòng đã góp phần đưa phong trào cách mạng ở đây dần khởi sắc và phát triển mạnh mẽ.

Các tổ chức cứu quốc của Mặt trận Việt Minh ở cả nội và ngoại thành được xây dựng lại, số lượng hội viên ngày càng đông thu hút không chỉ công nhân, nông dân mà cả thanh niên, học sinh, trí thức tham gia. Nhiều chi bộ cộng sản được khôi phục hoặc thành lập mới.

Đến cuối năm 1944, ở cả Hải Phòng và Kiến An có gần 1000 hội viên cứu quốc và hàng trăm đội viên tự vệ bí mật. Sự chuyển biến mạnh mẽ của phong trào cách mạng ở Hải Phòng đã tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân và các lực lượng cách mạng ở đây tiến tới cao trào kháng Nhật cứu nước và khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi mùa thu năm 1945

Sau cuộc đảo chính của Nhật (9.3.1945), tại Hải Phòng, Kiến An các đọi tự vệ phối hợp với quần chúng đã phá nhiều kho thóc của Nhật và bọn địa chủ ở khắp các xã, huyện. Ở Hải Phòng, công nhân, có lực lượng tự vệ hỗ trợ, đã phá kho gạo trung chuyển của Nhật và kho bột mì Laniên chia cho các gia đình bị đói. Chủ trương đúng đắn đó của Việt Minh đã đáp ứng kịp thời nguyện vọng bức thiết của nhân dân lao động và thổi bùng ngọn lửa cách mạng trong quần chúng.

Nhiều cán bộ thoát khỏi nhà tù đế quốc được Xứ ủy Bắc kỳ cử về tăng cường cho phong trào Hải Phòng - Kiến An. Tháng 4.1945, Hội nghị cán bộ Hải Phòng và Kiến An được triệu tập để phổ biến và triển khai chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” của Đảng. Hội nghị đã quyết định một số chủ trương cấp bách: “Phát động phong trào mua sắm vũ khí, phát triển, mở rộng các đội tự vệ cứu quốc. Chống Nhật bắt lính, thu thóc, thu thuế, mở rộng các hình thức đấu tranh, trừng trị những tên đầu sỏ tay sai cho Nhật”(3).

Để chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền, việc xây dựng củng cố lực lượng vũ trang, bán vũ trang càng được đẩy mạnh. Các độ tự vệ bí mật trong công nhân, các đội tự vệ cứu quốc và du kích ở vùng nông thôn phát triển mạnh. Hoạt động của lực lượng tự vệ, vũ trang đã hỗ trợ và củng cố thêm cơ sở cách mạng, tăng thêm lòng tin và niềm phấn khởi của nhân dân, đồng thời làm cho bọn tay sai đế quốc - phát xít càng thêm hoảng loạn và không dám hung hăng chống phá cách mạng như trước.

Từ tháng 7.1945, phong trào cách mạng ở Hải Phòng - Kiến An phát triển mạnh, ảnh hưởng của Mặt trận Việt Minh lan rộng. Ngày 3.6.1945, chiến khu Đông Triều được thành lập đã cổ vũ và hỗ trợ cho phong trào cách mạng ở Hải Phòng phát triển thuận lợi, nhân dân một số địa phương của Hải phòng đã tích cực góp người, góp của ủng hộ chiến khu. Các hoạt động vận động, thuyết phúc binh lính người Việt trong quân đội ngụy được tăng cường. Công nhân xi măng đã thuyết phục được hai tiểu đội lính khố xanh đem toàn bộ vũ khí vào chiến khu. Công nhân Hải Phòng đã vận động lính thủy trên tàu chiến Pháp lấy hai súng đại liên cùng ba thủy thủ gia nhập chiến khu. Hầu hết các xí nghiệp, nhà máy ở Hải Phòng đã tổ chức Việt Minh. Các Hội truyền bá quốc ngữ, đoàn “Hướng đạo”, tổ chức thanh niên “Phan Anh” tích cực hoạt động mở rộng thành công cứu quốc trong công nhân, viên chức trí thức, thanh niên học sinh. “Hội quân nhân cứu quốc” cũng được thành lập ở trại bảo an binh, trại lính khố đỏ, trại thủy quân. Hoạt động của các đội viên tuyên truyền xung phong cũng được đẩy mạnh, nhiều cuộc mít tinh được tổ chức ở các khu vực ven thành phố như Lạc Viên, Thượng Lý, Đông Khê, Dư Hàng. Các “Ủy ban công xưởng” của công nhân được thành lập, tổ chức rèn dao găm, mã tấu, cung cấp cho tự vệ và quần chúng. Công nhân xưởng in Phong Châu (phố Cầu Đất) đã thuyết phục chủ nhân in truyền đơn và các loại tài liệu cho cách mạng. Tự vệ công nhân nhà ga Hải Phòng đã phối hợp với quần chúng các khu phố đập tan âm mưu đen tối của thực dân Pháp địch từ Hải Phòng lên phối hợp với tàn quân Pháp ở Côn Minh đang định nhảy dù xuống Miền Bắc nước ta.


(*) Người viết: ThS. Trần Nam Trung, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
(1) Gồm Hải Phòng, Hải Dương, Kiến An, Vùng mỏ.
(2) Lịch sử Đảng bộ Hải Phòng, tập 1 (1930-1955), Nhà xuất bản Hải Phòng, tr. 169.
(3) Lịch sử Đảng bộ Hải Phòng, tập 1 (1930-1955), Nhà xuất bản Hải Phòng, tr. 189.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 02 Tháng Chín, 2011, 08:23:56 am
Sau khi Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng minh (14.8.1945), tình thế cách mạng trực tiếp đã xuất hiện, điều kiện cho Tổng khởi nghĩa trong toàn quốc đã chín muồi. Tại Hải Phòng, quân Nhật rút từ Đồ Sơn, Kiến An về Hải Phòng và hoang mang, hoảng sợ; phong trào cách mạng dâng cao toàn thành phố. Mặc dù cơ quan lãnh đạo của Đảng bộ chưa lập lại được nhưng Thành bộ Việt Minh Hải Phòng có uy tín lớn trong nhân dân và thực tế đã đảm nhận nhiệm vụ của Thành ủy.

Tranh thủ điều kiện thuận lợi (quân Nhật và chính quyền tay sai đang rệu rã, những thắng lợi liên tiếp trong việc giành chính quyền ở các huyện và tỉnh lị Kiến An), Thành bộ Việt Minh Hải Phòng đã lãnh đạo nhân dân khẩn trương xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa. Ngày 21.8.1945, Xứ ủy cử đồng chí Vũ Quốc Uy cấp tốc về Hải Phòng để lãnh đạo khởi nghĩa. Một ủy ban khởi nghĩa được thanh lập. Một số chủ trương quan trọng cho cuộc khởi nghĩa được thông qua:

- Thuyết phục quân Nhật không can thiệp vào công việc của Việt Minh và trả lại tự do cho những người yêu nước đang bị giam giữ.

- Theo dõi, giám sát chặt chẽ mọi âm mưu, hành động của quân Pháp.

- Thống nhất hành động giữa phong trào nổi dậy của quần chúng nội thành, lực lượng cách mạng với lực lượng tự vệ Kiến An và lực lượng chiến khu Đông Triều.

- Thông qua Thị trưởng thành phố liên hệ với quân Nhật để tổ chức cuộc thương nghị giữa đại diện hai bên để tránh đổ máu vô ích.

Ủy ban khởi nghĩa đã giao nhiệm vụ tước vũ khí nhà Đoan và Sở mật thám để thăm dò phản ứng của phát xít Nhật trước khi phát động khởi nghĩa toàn thành phố.

Sáng 22.8.1945, cờ đỏ sao vàng đã tung bay tại số nhà 14 Cát Đài - trụ sở của Thành bộ Việt Minh. Chiều 22.8.1945, cuộc thương lượng giữa cán bộ của Ủy ban khởi nghĩa với Thị trưởng thành phố và đại diện quân đội Nhật đã được tổ chức. Trước khí thế cách mạng của nhân dân, chỉ huy quân đội Nhật đã phải cam kết không có hành động gây trở ngại cho cuộc khởi nghĩa. Tối 22.8.1945, đại diện Việt Minh Hải Phòng và đại diện chiến khu Đông Triều họp, bàn việc đưa quân vào thành phố tham gia giành chính quyền.

Sáng sớm ngày 23.8.1945, hàng chục vạn nhân dân với cờ đỏ sao vàng giương cao, được sự hỗ trợ của lực lượng tự vệ (gồm 4 trung đội của chiến khu Đông Triều và 1 trung đội của tỉnh Kiến An), từ các ngả đường đổ về quảng trường Nhà hát Lớn thành phố.

Đúng 10 giờ sáng, cuộc mít tinh khổng lồ được long trọng khai mạc. Đồng chí Vũ Quốc Ủy thay mặt Ủy ban khởi nghĩa tuyên bố xóa bỏ chính quyền tay sai của phát xít Nhật, thành lập Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời Hải Phòng.

Sau cuộc mít tinh, quần chúng cách mạng đã tiến hành biểu tình tuần hành, qua các khu phố. Các đơn vị tự vệ của chiến khu Đông Triều cùng tự vệ thành phố tỏa đi chiếm giữ các vị trí trọng yếu (Tòa Thị chính, Sở Hiến binh, Ti Liêm phóng, Nhà Băng, nhà ga, các nhà máy, xí nghiệp). Hàng trăm chiến sĩ và đồng bào bị Pháp, Nhật giam giữ được giải thoát. Chính quyền cách mạng đã điều hành mọi công việc trong thành phố. Cách mạng tháng Tám ở Hải Phòng toàn thắng.

*

Cách mạng tháng Tám ở Hải Phòng là một bộ phận của Cách mạng tháng Tám trong cả nước với nhiều điểm riêng biệt.

Thứ nhất: Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hải Phòng được tiến hành khá muộn khi ở nhiều tỉnh xung quanh cách mạng đã nổ ra và giành thắng lợi; do đó, nó diễn ra nhanh, không có đổ máu và giành thắng lợi triệt để. Mặc dù quân đội Nhật tập trung ở Hải Phòng khá đông, song trước khí thế cách mạng của quần chúng, bọn chúng đã không dám có hành động phản ứng.

Thứ hai: Khởi nghĩa giành chính quyền ở Hải Phòng được tiến hành khi ban lãnh đạo Thành ủy chưa lập lại được. Thành bộ Việt Minh là lực lượng đã đảm nhiệm trong thực tế công việc lãnh đạo của Thành ủy Hải Phòng và đã thể hiện rõ năng lực cách mạng rất cao. Dưới sự lãnh đạo của Thành bộ Việt Minh và cán bộ tăng cường của Xứ ủy, kết hợp với nhiệt tình cách mạng của các lực lượng chính trị và vũ trang địa phương, Cách mạng tháng Tám ở Hải Phòng đã giành được thắng lợi trọn vẹn.

Thứ ba: Trong khởi nghĩa giành chính quyền ở Hải Phòng, lực lượng chính trị của quần chúng đóng vai trò quyết định. Sự hỗ trợ của các lực lượng vũ trang có ý nghĩa quan trọng làm nòng cốt cho lực lượng chính trị của quần chúng. Đó là nhân tố tạo nên sức mạnh tổng hợp đưa đến thắng lợi của Cách mạng tháng Tám ở Hải Phòng.

Thứ tư: Ủy ban khởi nghĩa ở Hải Phòng đã phát huy được sức mạnh của lực lượng chính trị, quân sự của thành phố kết hợp với các lực lượng hỗ trợ của các tỉnh bạn (Kiến An, Chiến khu Đông Triều); kết hợp giữa áp lực chính trị, quân sự và đấu tranh thương lượng, do đó khởi nghĩa giành chính quyền ở Hải Phòng đã diễn ra nhanh chóng, hòa bình và giành thắng lợi hoàn toàn.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 02 Tháng Chín, 2011, 08:26:58 am
QUẢNG YÊN(*)

Dưới thời thống trị của Pháp, Quảng Yên là một tỉnh nhỏ thuộc vùng trung du Bắc Bộ, gồm hai huyện (Yên Hưng và Cát Hải), hai châu (Hoành Bồ và Cẩm Phả), đại lí Cẩm Phả (gồm cả Hồng Gai và Cửa Ông) và khu Uông Bí - Vàng Danh.

Trên dải đất “đầu sóng ngọn gió” này, lịch sử từng ghi nhận chiến công hiển hách làm rạng rỡ truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc Việt Nam anh hùng. Năm 938, Ngô Quyền đánh tan quân xâm lược Nam Hán trên sông Bạch Đằng, khôi phục nền độc lập dân tộc. Thế kỉ 13, cũng trên sông Bạch Đằng lịch sử, Trần Hưng Đạo hai lần đại phá quân Nguyên, một đội quân xâm lược hùng mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ.

Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập, công nhân mỏ Quảng Yên luôn luôn đi đầu trong cuộc đấu tranh chống lại bọn tư bản thực dân Pháp và tay sai. Nhiều chi hội cộng sản và tổ chức Công hội Đỏ được thành lập ở các mỏ Hồng Gai, Cẩm Phả, Mạo Khê, Cửa Ông, Vàng Danh… Ngày 1.5.1930, cờ Đảng được cắm trên núi Bài Thơ (thị xã Hồng Gai) chào mừng Đảng của giai cấp công nhân ra đời.

Tháng 9.1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Lúc này ở Quảng Yên, bọn thống trị tăng cường khủng bố, tước bỏ quyền lợi mà công nhân đấu tranh giành được từ trước. Cơ sở cách mạng trong phong trào công nhân chỉ còn ở hai nơi là Uông Bí và nhày máy kẽm Quảng Yên. Tháng 12.1939, Ban chỉ đạo Liên tỉnh B (Liên tỉnh B do Xứ ủy Bắc Kỳ thành lập để chỉ đạo cách mạng các tỉnh Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên, Kiến An, Quảng Yên, Hải Ninh…) mở hội nghị do đồng chí Tô Hiệu chủ trì để nghiên cứu nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 6. Căn cứ vào tình hình thực tế khu mỏ, Hội nghị đã quyết định:

- Khắc phục mọi khó khăn, nguy hiểm, kiên quyết phục hồi và phát triển cơ sở cách mạng ở khu vực Hồng Gai - Cẩm Phả là những nơi tập trung công nhân mỏ có truyền thống đấu tranh cách mạng.

- Giữ vững tiếng nói của Đảng trong mọi tình huống để chống lại thủ đoạn xuyên tạc của địch là “Đảng Cộng sản đã bị tan rã hoàn toàn” nhằm lung lạc tinh thần đấu tranh của đảng viên và quần chúng cách mạng.

- Tiếp tục đẩy mạnh phong trào đấu tranh của công nhân để duy trì và phát triển những quyền lợi đã giành được trong thời kì trước, phát triển cơ sở và rèn luyện thêm phong trào.

- Đi đôi với việc xây dựng phong trào đấu tranh của công nhân, phải tiến hành xây dựng cơ sở ở vùng nông thôn xung quanh thị xã Quảng Yên và Uông Bí, lấy hai nơi này làm bàn đạp để tiến công vào Hồng Gai, Cẩm Phả.

Thực hiện chủ trương trên, chỉ sau một thời gian ngắn, cơ sở Đảng ở một số nơi tạm thời ổn định. Với những thuận lợi mới, Ban chỉ đạo Liên tỉnh B chủ trương đẩy phong trào đấu tranh lên một bước. Nhân ngày Quốc tế Lao động 1.5.1940, chi bộ Uông Bí, chi bộ nhà máy kẽm Quảng Yên đã rải truyền đơn vạch trần chính sách phản động của Pháp ở Đông Dương; đầu tháng 5.1940, chi bộ nhà máy kẽm Quảng Yên lại quyết định phát động công nhân bãi công đòi tăng lương, cải thiện đời sống…

Sau ngày Nhật đảo chính Pháp, tại Quảng Yên, phát xít Nhật cho quân đến đóng ở một số nơi trọng yếu: thị xã Quảng Yên, Yên Lập, Bãi Cháy, Hồng Gai, Cẩm Phả… và tiến hành xây dựng lực lượng bảo an, chuyển dỡ máy móc ở nhà máy điện Uông Bí về Tràng Kênh để lập xưởng sản xuất vũ khí.

Dưới sự thống trị của phát xít Nhật, nhân dân Quảng Yên sống trong cảnh hết sức ngột ngạt. Trong bối cảnh đó, tin tức về những cuộc tiến công quân Nhật, cướp vũ khí, phá kho thóc chia cho dân nghèo, diệt trừ Việt gian thân Nhật… của Việt Minh ở các nơi khác dồn dập bay về làm cho nhân dân toàn tỉnh Quảng Yên vô cùng phấn khởi, tin tưởng, một lòng hướng về quê hương cách mạng Việt Bắc.

Trung tuần tháng 4.1945, Tỉnh ủy lâm thời Hải Dương họp để thảo luận kế hoạch thực hiện nghị quyết của Xứ ủy Bắc Kỳ về việc chọn địa điểm thành lập căn cứ địa cách mạng; các cơ sở Việt Minh phát triển rất nhanh ở Hải Dương và Quảng Yên. Nhân cơ hội này, các đồng chí lãnh đạo huyện Đông Triều quyết định mở đợt đánh đồn đầu tiên gây thanh thế và nhân đó đẩy mạnh phát triển cơ sở Việt Minh và lực lượng vũ trang, tạo điều kiện thành lập chiến khu Đông Triều.

Việc đánh huyện lị và tước vũ khí ở Đông Triều diễn ra hết sức nhanh, gọn do đã thống nhất kế hoạch. Ở Mạo Khê, sáng ngày 8.6.1945, hàng trăm công nhân vũ trang bằng cuốc chim, búa, dao… bất ngờ giương cao cờ đỏ sao vàng, xông vào bao vây nhà chủ mỏ, trại lính bảo an và chiếm kho vũ khí. Nghĩa quân làm chủ khu mỏ giữa tiếng hoan hô dậy đất trời của công nhân. Ngay sau đó, ta lập chính quyền cách mạng và kiểm soát chặt chẽ việc sản xuất của mỏ.

Đồn Tràng Bạch là một vị trí cơ động nằm giữa Đông Triều và Uông Bí. Tên đồn trưởng rất ngoan cố. Ta phải tập trung một lực lượng khá mạnh bí mật hành quân và tiến đánh bất ngờ mới chiếm được đồn nhanh, gọn.

Sau những thắng lợi ban đầu đó, chiều ngày 8.6.1945 một cuộc mít tinh lớn được tổ chức ở Hổ Lao, chính thức tuyên bố thành lập chiến khu Đông Triều (Đệ tứ chiến khu), lập Ủy ban quân sự cách mạng, lập đội vũ trang tuyên truyền…


(*) Người viết: ThS. Nguyễn Văn Ninh, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 02 Tháng Chín, 2011, 08:28:32 am
Trên đà thắng lợi, tháng 7.1945 lực lượng chiến khu Đông Triều tiếp tục kéo về đánh chiếm Uông Bí, đánh bọn bảo an ở thị xã Quảng Yên.

Theo kế hoạch, trận đánh tỉnh lị Quảng Yên định vào ngày 23.7.1945. một lực lượng quân sự tương đối mạnh của chiến khu Đông Triều được lệnh tập trung quân từ chiều ngày 19.7.1945. Sáng 20.7.1945, trong khi đồng chí chỉ huy trận đánh và một số cán bộ đang đi kiểm tra tình hình chuẩn bị chiến trường thì nhận được tin cơ sở báo: Bọn Đại Việt ở Hải Phòng sang Quảng Yên thúc ép Tỉnh trưởng (có cảm tình với Việt Minh) giao chính quyền cho chúng, nhưng bị từ chối. Trước tình hình khẩn trương đó, ta phải hành động ngay để chặn đứng âm mưu của bọn Đại Việt thân Nhật. Giờ nổ súng được định vào đêm 20.71945.

Trận đánh tỉnh lị Quảng Yên (cách Hải Phòng 20km) đêm 20.7.1945 là trận đánh lớn nhất của quân cách mạng chiến khu Đông Triều kể từ ngày thành lập. Nó cũng là trận đánh phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa lực lượng quân sự của chiến khu Đông Triều với lực lượng quần chúng cách mạng địa phương và giữa cán bộ Việt Minh Quảng Yên với bộ phận lãnh đạo chiến khu Đông Triều về việc triển khai lực lượng, mở rộng phạm vi hoạt động của nghĩa quân Đông Triều hỗ trợ cho phong trào quần chúng vùng Quảng Yên và lân cận.

Chỉ sau vài phát súng của quân khởi nghĩa, tên chỉ huy lực lượng bảo an binh Quảng Yên đã đầu hàng không điều kiện. Ta thu toàn bộ vũ khí, gồm trên 400 súng các loại và nhiều đồ dùng quân sự.

Chiến thắng Quảng Yên đã có tiếng vang và ảnh hưởng khá rộng lớn. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử đấu tranh vũ trang của Đảng ta trước Tổng khởi nghĩa tháng Tám, quân cách mạng đã đánh chiếm một tỉnh lị ở vùng trung du (mặc dù địch có số quân đông) và phá bỏ bộ máy chính quyền bù nhìn cấp tỉnh. Đây cũng là lần đầu tiên nghĩa quân chiến khu Đông Triều sử dụng một lực lượng quân sự khá lớn, đánh chiếm một vị trí có ý nghĩa chiến lược quan trọng của địch, nhưng không phải chiến đấu gay go, đổ máu vì đã chuẩn bị chu đáo, có quần chúng nhân dân làm hậu thuẫn, làm tốt công tác binh vận, nhất là biết chọn thời cơ, tiến công bất ngờ. Đây cũng là cuộc khởi nghĩa từng phần kế tiếp các cuộc khởi nghĩa từng phần trước đây của du kích chiến khu Đông Triêu, chuẩn bị điều kiện tiến lên Tổng khởi nghĩa. Thắng lợi ngày 20.7.1945 ở Quảng Yên là một thành tích quân sự nổi bật của chiến khu Đông Triều, tạo thêm điều kiện thuận lợi để phát triển nhanh chóng Quân giải phóng và đẩy mạnh phong trào cách mạng vùng duyên hải.

Sau ngày cuộc Tổng khởi nghĩa thắng lợi ơ Hà Nội, chính quyền cách mạng ở Quảng Yên có kế hoạch thành lập. Tỉnh trưởng Quảng Yên xin nộp hồ sơ, tài liệu, vũ khí và toàn bộ công sở trong tỉnh. Việc giành chính quyền ở Quảng Yên diễn ra tương đối nhanh gọn. Ngày 24.8.1945, Ủy ban cách mạng lâm thời tỉnh Quảng Yên được thành lập. Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, chi bộ Quảng Yên được thành lập và đến đầu tháng 9.1945, Tỉnh ủy lâm thời Quảng Yên ra đời.

Ngay sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh, bọn Việt Cách đã tập trung một lực lượng lớn từ căn cứ Ba Chẽ về chiếm đóng nhiều điểm trọng yếu xung quanh khu vực Hồng Gai, Cẩm Phả. Mặc dù ta có ưu thế chính trị tuyệt đối, song để đối phó với lực lượng quân sự của bọn Việt Cách đang kéo về, đêm 23.8.1945, ta đã điều lực lượng vũ trang của chiến khu Đông Triều vào Hồng Gai đóng ở đồn Khố xanh. Để hạn chế những khó khăn trong việc đối phó với quân Tưởng và tay sai, ta đã gặp đại diện Việt Cách để bàn công việc nhưng bọn này rất ngoan cố, không chịu hợp tác.

Tranh thủ thời gian, chiều ngày 24.8.1945, ta đã tổ chức quần chúng mít tinh. Công nhân và nhân dân Hồng Gai, Hà Lầm, Cột 5, Bãi Cháy… kéo về dự rất đông. Trong buổi mít tinh, quần chúng hô to khẩu hiệu “Ủng hộ Việt Minh!”, làm thất bại âm mưu của Việt Cách lôi kéo quần chúng. Sau buổi mít tinh, ta chủ động thành lập Ủy ban nhân dân thị xã Hồng Gai do đại diện Việt Minh làm Chủ tịch. Cùng tham gia chính quyền cách mạng lâm thời còn có cả đại diện đại lí hành chính và cảnh sát trưởng Hồng Gai. Khởi nghĩa ở Quảng Yên đã hoàn toàn thắng lợi.

*

Cách mạng tháng Tám ở Quảng Yên diễn ra dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, của Mặt trận Việt Minh. Bước phát triển của Cách mạng tháng Tám ở Quảng Yên không đều nhau ở các địa phương: nơi mạnh nơi yếu, nơi nổ ra sớm, nơi nổ ra muộn và mức độ quyết liệt cũng khác nhau. Đó là do điều kiện địa lí, giao thông gián đoạn, do chế độ o ép về chính trị và kinh tế của chính quyền phản động thuộc địa và bọn chủ mỏ, do trình độ giác ngộ và cơ sở chính trị ở mỗi vùng trong tỉnh có sự chênh lệch.

Cuộc Cách mạng tháng Tám ở Quảng Yên, cũng giống như các địa phương khác trong toàn quốc, đi từ khởi nghĩa từng phần lên Tổng khởi nghĩa. Ngay khi nhận được chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, Ban lãnh đạo Liên tỉnh B đã xúc tiến việc thành lập chiến khu Đông Triều, chuẩn bị lực lượng tại chỗ làm cơ sở cho cuộc Tổng khởi nghĩa sau này. Thực tế cho thấy, mỗi thắng lợi của Cách mạng tháng Tám ở Quảng Yên đều gắn liền với lực lượng cách mạng của chiến khu Đông Triều. Đây thực sự là một lực lượng vũ trang đi đầu, xung kích trong việc giành chính quyền các cấp ở Quảng Yên trong suốt diễn biến của Cách mạng tháng Tám. Điều này khẳng định chủ trương thành lập các chiến khu cách mạng của Xứ ủy Bắc Kỳ là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với tình thế cách mạng ở Việt Nam.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Chín, 2011, 07:09:06 am
HÀ NAM(1)

Hà Nam nằm giữa đông nam đồng bằng Bắc Bộ, nhân dân sống chủ yếu bằng nghề nông nghiệp (trồng lúa, lạc, trồng dâu nuôi tằm…) và nghề thủ công (dệt vải, đan lát, làm mộc, làm trống…). Thời Pháp thuộc, đời sống của nhân dân sống bằng nghề nông nghiệp vô cùng khốn khổ, chỉ cấy được một vụ, vì “đông chiêm nước đọng”, gần như quanh năm nước trắng xóa đầy đồng. Song, Hà Nam lại nằm trên các trục đường giao thông huyết mạch quan trọng nối liền các tỉnh Bắc Bộ và Trung Bộ (đường quốc lộ 1A và đường sắt), từ lâu Hà Nam đã trở thành một tỉnh có vị trí chiến lược vô cùng quan trọng cả về chính trị và quân sự.

Dưới thời Pháp thuộc, nông dân Hà Nam chiếm hơn 90% dân số, họ bị cướp ruộng đất, lại phải làm thuê không công cho Pháp, nên cuộc sống rất cơ cực, một số khác thì làm nghề buôn bán, thợ thủ công; ngoài ra còn có công nhân làm cho nhà máy dệt ở Nam Định, đồn điền, công trường khai thác đá… Địa chủ chỉ chiếm 4% dân số nhưng lại chiếm 31,1% tổng số ruộng đất(1).

Phát huy truyền thống yêu nước, ngay từ khi Pháp mới xâm lược, các phong trào đấu tranh chống thực dân của nhân dân Hà Nam đã diễn ra hết sức sôi nổi. Từ khi có Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo, trực tiếp là Đảng bộ Hà Nam (1930), cách mạng Hà Nam có sự chuyển biến mạnh mẽ, trở thành một trong những trung tâm đấu tranh quyết liệt của cao trào cách mạng cả nước.

Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, theo chủ trương chuyển hướng chiến lược của Đảng, Đảng bộ Hà Nam đã rút vào hoạt động bí mật, đồng thời chuyển trọng tâm về công tác nông thôn, biến nông thôn thành căn cứ rộng lớn của cách mạng, nhưng vẫn duy trì phong trào ở thành thị. Ban Tỉnh ủy Hà Nam được bầu ra, do đồng chí Trần Từ Bình làm Bí thư.

Năm 1940, khi phát xít Nhật nhảy vào chiếm đóng Đông Dương, cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Hà Nam liên tiếp nổi dậy chống đế quốc Pháp và phát xít Nhật. Tỉnh ủy Hà Nam đẩy mạnh phong trào đấu tranh của nhân dân trong tỉnh, phối kết hợp với các tỉnh bạn (Ninh Bình, Nam Định…) gấp rút chuẩn bị mọi điều kiện tiến tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Chủ trương ấy được thống nhất trong Hội nghị Tỉnh ủy (10.0140) ở Cổ Viễn (huyện Binh Lục).

Sau khi nhận được chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” do đồng chí Hà Tấn Kế, Xứ ủy viên Bắc Kỳ được cử về Hà Nam chuyển đến, tháng 5.1945 Ban cán sự lâm thời Tỉnh ủy Hà Nam đã tổ chức Hội nghị mở rộng tại Cao Mật (xã Lê Hồ, Kim Bảng), quyết định:

1. Phát động mạnh mẽ cao trào kháng Nhật cứu nước.

2. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền bằng nhiều hình thức phong phú nhằm vạch trần luận điệu lừa bịp của Nhật, tố cáo tội ác của chúng và kêu gọi nhân dân đoàn kết, vùng dậy đánh đuổi giặc Nhật giành chính quyền về tay mình.

3. Khẩn trương tiến hành khởi nghĩa vũ trang cho quần chúng cách mạng, xây dựng tự vệ chiến đấu, sắm sửa vũ khí, luyện tập quân sự.

4. Thành lập đội vũ trang tuyên truyền và tập trung lãnh đạo về nông thôn.

5. Phân công các ủy ban Ban cán sự phụ trách các huyện(1).

Bấp chấp sự kiềm tỏa gắt gao của Nhật, công tác tuyên truyền giáo dục đường lối cứ nước của Mặt trận Việt Minh được đẩy mạnh. Đảng bộ tỉnh đã lãnh đạo nhân dân phá kho thóc, cứu đói cho dân, chống thu thóc và thu thuế, đồng thời tích cực xây dựng lực lượng vũ trang, gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền(3). Đến những ngày đầu tháng Tám, không khí giành chính quyền ở Hà Nam đã sẵn sàng, chỉ cần chờ lệnh Tổng khởi nghĩa của Trung ương là tiến hành.

Quán triệt chủ trương chuẩn bị Tổng khởi nghĩa giành chính quyền của Trung ương, Ban cán sự Tỉnh ủy Hà Nam cấp tốc triệu tập Hội nghị mở rộng trong 3 ngày (15.16 và 17.8) tại thôn Lũng Xuyên, Yên Bắc, Duy Tiên để bàn kế hoạch khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn tỉnh. Hội nghị đang tiến hành thị nhận được lệnh khởi nghĩa của Xứ ủy truyền về. Sự kiện đó càng cổ vũ tinh thần khẩn trương và quyết tâm của các đại biểu. Thi hành lệnh khởi nghĩa trong toàn tỉnh, Hội nghị quyết định:

1. Giành chính quyền các huyện trước (kể cả huyện Ý Yên, Nam Định)(4), sau đó tập trung lực lượng giành chính quyền ở tỉnh và huyện Thanh Liêm (địa bàn sát tỉnh lị).

2. Kết hợp quân sự với chính trị, dụ hàng quân địch trước khi đánh; triệt để cô lập quân Nhật, sẵn sàng đối phó nếu như chúng ngoan cố chống lại.

3. Thành lập Ủy ban quân sự cách mạng(5).

Lệnh khởi nghĩa của Xứ ủy và kế hoạch khởi nghĩa của Ban cán sự nhanh chóng được truyền đạt xuống các địa phương. Sau Hội nghị này, các huyền đều cấp tốc mở hội nghị bàn kế hoạch giành chính quyền cụ thể trong huyện. Giờ khởi nghĩa đã điểm, từ ngày 20 đến 24.8.1945, các địa phương trong toàn tỉnh đồng loạt nổi dậy giành chính quyền.


(*) Người viết: ThS. Nguyễn Mạnh Hưởng, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
(1) Ban Chấp hành Đảng bộ Nam Hà: Lịch sử Đảng bộ Nam Hà, tập I (1930-1954), 1996, tr. 35.
(2) Ban Chấp hành Đảng bộ Nam Hà: Lịch sử Đảng bộ Nam Hà, tập I (1930-1954), tr. 156-157.
(3) Ở Lý Nhân, chỉ trong một đêm, các điểm trên đê sông Hồng đều trắng xóa các khẩu hiệu “Chống Nhật thu thóc, thu thế”, “Đánh đuổi phát xít Nhật”, “Thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân”…
(4) Hà Nam có cơ sở cách mạng ở Ý Yên, Nam Định.
(5) Ban Chấp hành Đảng bộ Nam Hà: Lịch sử Đảng bộ Nam Hà, sđd, tr. 166.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Chín, 2011, 07:11:05 am
Tại Duy Tiên, ngay sau khi Hội nghị tỉnh bế mạc, sáng 17.8, Huyện ủy triệu tập hội nghị cán bộ toàn huyện. Đồng chí Phạm Văn Hóa thay mặt Ủy ban quân sự Tỉnh ủy truyền đạt Nghị quyết của Ban cán sự Đảng tỉnh, thống nhất quyết định khởi nghĩa vào ngày 20.8, đồng thời cử ra Ủy ban quân sự cách mạng lâm thời huyện do đồng chí Lưu Quang Bích làm chủ tịch. Sau khi mọi công tác chuẩn bị đã sẵn sàng, đêm 19.8.1945, lực lượng chính của đội quân cách mạng tập trung tại đình thôn Lũng Xuyên chờ lệnh xuất phát. Sáng sớm ngày 20.8, hàng nghìn người từ khắp các ngả đường, xen kẽ với người dân đi chợ điệp về nơi tập kết. Trước tin tên tri huyện Tú đã dẫn lính cơ đến đê sông Hồng kiểm tra việc hộ đê, Ủy ban quân sự huyện quyết định phát lệnh khởi nghĩa và giành thắng lợi nhanh chóng, không đổ máu. Chiều 20.8, tại huyện lị Điệp Sơn, Ủy ban quân sự tổ chức mít tinh lớn với hơn 2.000 người tham dự. Đồng chí Phạm Chí Long thay mặt Huyện ủy công bố 10 điểm trong chính sách của Mặt trận Việt Minh.

Tại Lý Nhân, đúng 11 giờ ngày 20.8.1945, dưới sự chỉ huy của đồng chí Lê Quang Tuấn, lực lượng khởi nghĩa đã nổ súng bắt Tri phủ và 14 lính cơ tại Vũ Điện, rồi nhanh chóng kéo thẳng về chiếm công đường, thu 12 súng cùng toàn bộ sổ sách, giấy tờ… Ngay sau đó, một cuộc mít tinh đã được tổ chức tại huyện lị, đón mừng Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời ra mắt.

Tại Kim Bảng, vào 17 giờ ngày 20.8, sau phát súng lệnh, Ủy ban quân sự huyện đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa giành chính quyền đúng như kế hoạch đã định(1). Các mũi tiến công đã hành động hết sức mưu trí và linh hoạt, khiến cho quan lại và lính tráng sợ hãi, không dám chống cự. Tri huyện Trần Gia Thại đã phải nộp ấn, hạ vũ khí đầu hàng. Ta thu được nhiều súng trường và các loại vũ khí khác. Ngay sau đó, cuộc mít tinh của quần chúng với đầy đủ cờ đỏ, rừng biểu ngữ mừng thắng lợi đã diễn ra, nhân dân trong huyện vô cùng phấn khởi nghe 10 chính sách của Việt Minh.

Tại Đình Lục, trong lúc Ban cán sự huyện đang tích cực chuẩn bị khởi nghĩa thì tình thế bất ngờ xảy ra. Ngày 19.8, một số thanh niên “cấp tiến” trong tổ chức “thanh niên xã hội” ở Bình Lục đã lôi kéo một số thanh niên khu vực Dầm Giải, giả danh Việt Minh vác cờ đỏ sao vàng xông vào phủ tước súng. Được tin này, Hội nghị bàn kế hoạch khởi nghĩa ở Đồng Du, phải ngừng lại để bố trí việc đi thu lại số súng ống mà thanh niên “cấp tiến” đã tước của tên tri huyện. Sáng 21.8, Ban cán sự Việt Minh huyện họp, thành lập Ủy ban khởi nghĩa và quyết định kế hoạch khởi nghĩa. Đúng 7 giờ sáng ngày 22.8, hàng nghìn quần chúng trong huyện vũ trang bằng mọi thứ vũ khí, giương cao băng rôn, cờ và khẩu hiệu trong tay họp mít tinh, bao vây huyện đường. Trước khí thế cách mạng của quần chúng, Tri huyện Bình Lục phải đầu hàng và nộp dấu ấn, sổ sách, vũ khí cho cách mạng.

Tại châu Lạc Thủy, do ảnh hưởng trực tiếp của phong trào Việt Minh huyện Gia Viễn (Ninh Bình), quần chúng nhân dân đã tự động nổi dậy khởi nghĩa, xóa bỏ chính quyền địch, thu vũ khí. Ngày 22.8, nhân dân Lạc Thủy đã cử cán bộ lên xin ý kiến để thành lập chính quyền cách mạng.

Ở Thanh Liêm, theo sự chỉ đạo của tỉnh, ngày 20.8.1945, Ủy ban quân sự cách mạng đã tổ chức lực lượng kéo sang giành chính quyền ở Ý Yên (Nam Định). Sau khi giao lại chính quyền cho tỉnh bạn, lực lượng cách mạng Thanh Liêm kéo về Trà Châu chuẩn bị giành chính quyền ở địa phương. Đúng 5 giờ sáng ngày 24.8, với khí thế cách mạng của quần chúng nhân dân, bọn ngụy quyền ở Thanh Liêm vội vã đầu hàng, chính quyền nhanh chóng về tay nhân dân.

Phủ Lý là nơi giành chính quyền vất vả và khó khăn nhất trong toàn tỉnh. Trên đà thắng lợi của khởi nghĩa ở các huyện, Ban cán sự đã tập hợp chỉ đạo để giành chính quyền tại tỉnh lị. Khi công việc đang chuẩn bị ráo riết thì ngày 20.8, bọn Việt gian do tên cảnh sát trưởng cầm đầu, mạo danh là Mặt trận Việt Minh tổ chức quần chúng biểu tình định tước vũ khí của bảo an binh. Trước tình hình đó, Ủy ban quân sự cách mạng cấp tốc gửi thư cho viên chỉ huy nói rõ âm mưu của bọn Đại Việt, yêu cầu không được giao vũ khí cho chúng, chờ quân cách mạng vào mới bàn giao. Vì vậy, kế hoạch cướp chính quyền vào chiều 21.8 của bọn Đại Việt bị thất bại.

Sau khi đối phó với bọn Đại Việt, tối 21.8 Ban cán sự tỉnh triệu tập cuộc họp ở Duy Tiên. Qua phân tích tình hình cụ thẻ, so sánh lực lượng giữa ta và địch, Ban cán sự tỉnh quyết định huy động quần chúng ở 5 huyện (Duy Tiên, Kim Bảng, Lý Nhân, Thanh Liêm và Bình Lục), lấy lực lượng vũ trang làm xung kích, biểu tình vũ trang bao vây thị xã bức địch đầu hàng, đồng thời phân hóa cao độ bọn chỉ huy bảo an binh, tránh những căng thẳng và bất lợi cho ta. Sáng ngày 24.8, lực lượng cách mạng khắp 5 huyện với khoảng 5 vạn hội viên các tổ chức Cứu quốc và quần chúng cách mạng với nhiều thứ vũ khí, giương cao băng cờ, khẩu hiệu, biểu ngữ trong tay đồng loạt tiến về thị xã Phủ Lý. Trước khí thế của cách mạng, bọn địch không dám chống cự. 10 giờ sáng ngày 24.8.1945, một cuộc mít tinh lớn tại sân vận động thị xã Phủ Lý để chào mừng cuộc khởi nghĩa toàn thắng, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời được thành lập, đồng chí Lê Thành được bầu làm Chủ tịch. Mười chính sách của Mặt trận Việt Minh được công bố trong toàn thể nhân dân. Ngay sau đó, cuộc mít tinh đã biến thành cuộc biểu tình tuần hành quanh thị xã và đem theo khí thế chiến thắng tỏa về các địa phương đập tan bộ máy chính quyền địch ở các xã, thôn.

*

Như vậy, Cách mạng tháng Tám 1945 ở Hà Nam diễn ra nhanh gọn, chỉ trong 5 ngày (từ 20 đến 24.8), toàn bộ chính quyền địch từ huyện lị đến tỉnh lị và các vùng nông thôn đều bị sụp đổ hoàn toàn. Cách mạng tháng Tám thành công đã mở ra cho nhân dân Việt Nam, nhân dân Hà Nam nói riêng “một cuộc đổi đời chưa từng có đối với mỗi người dân”.

Thực hiện đúng đường lối, chủ trương của Trung ương Đảng, đồng thời vận dụng cụ thể vào tình hình thực tiễn của địa phương, Đảng bộ Hà Nam đã lãnh đạo nhân dân tiến hành giành chính quyền nhanh chóng, ít đổ máu. Việc giành chính quyền được bắt đầu từ các huyện (Duy Tiên, Lý Nhân, Kim Bảng, Bình Lục, Lạc Thủy, Thanh Liêm), sau đó đã tập trung lực lượng các huyện để uy hiếp kẻ địch, giành chính quyền ở tỉnh lị (thị xã Phủ Lý), cuối cùng lan tỏa về các xã, thôn để đập tan chính quyền cũ của địch, Giống như Cách mạng tháng Tám trong toàn quốc, việc giành chính quyền ở Hà Nam được diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau; có khi đấu tranh chính trị, có lúc lại đấu tranh vũ trang, sử dụng lực lượng hùng hậu của quần chúng nhân dân để uy hiếp địch, nhưng tựu chung lại là sự kết hợp hài hòa của hai hình thức này. Đặc biệt, Cách mạng tháng Tám ở Hà Nam diễn ra có sự liên kết giữa các tỉnh bạn (Hà Nam, Ninh Bình, Nam Định), không chỉ giành chính quyền trong tỉnh lị Hà Nam, mà còn góp phần giúp đỡ tỉnh bạn giành chính quyền (ở Ý Yên, Nam Định).

Cách mạng tháng Tám ở Hà Nam cũng như cuộc nổi dậy của toàn dân tộc đã làm cho ý nghĩa và tầm vóc của cuộc cách mạng trở nên vĩ đại, sâu sắc đối với lịch sử đấu tranh của các dân tộc vì độc lập, tự do. Đây chính là những trang sử chói lọi nhất được ghi trong “pho sử bằng vàng của Đảng ta”, là bài học quý báu cho dân tộc ta trong quá trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc sau này.


(1) Kế hoạch giành chính quyền của huyện sẽ diễn ra lúc 17 giờ, hiệu lệnh là một tiếng súng nổ.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Chín, 2011, 07:14:05 am
NAM ĐỊNH(*)

Nam Định là một tỉnh duyên hải nằm ở phía nam đồng bằng Bắc Bộ, trên các trục đường giao thông thủy bộ quan trọng: đường 10, đường 21, đường xe lửa xuyên Việt, sông Hồng.

Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3.2.1930), Đảng bộ Nam Định được thành lập và đã lãnh đạo, đưa phong trào cách mạng trong toàn tỉnh chuyển hẳn sang thời kì mới: thời kì đấu tranh sâu rộng hơn, quyết liệt hơn với mục tiêu đánh đổ đế quốc và phong kiến, giành độc lập dân tộc và người cày có ruộng. Tiêu biểu như cuộc tổng đình công của 4000 công nhân máy sợi, kéo dài 21 ngày, từ ngày 25.3 đến ngày 14.4.1930 đòi tăng lương, cải thiện chế độ làm việc.

Sau một thời kì tạm lắng vì bị địch khủng bố, những năm 1936-1939, phong trào cách mạng ở Nam Định lại bùng lên sôi nổi. 16 cuộc bãi công trong 2 tháng cuối năm 1936 và đầu năm 1937 của công nhân các nhà máy, tiếp sau là các phong trào phát hành báo chí tiến bộ, vận động Đông Dương đại hội, lập các hội ái hữu… Những cuộc vận động này có tác dụng lớn trong việc tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối cách mạng của Đảng, giác ngộ ý thức dân tộc, làm chủ, tinh thần đoàn kết, tập dượt đấu tranh cho quần chúng, đồng thời cũng là sự chuẩn bị đầy đủ, chu đáo cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8.1945.

Ngày 9.3.1945, ở Nam Định, vào lúc 22 giờ 25 phút, Nhật nổ súng đảo chính Pháp. Quân đội Pháp có hàng tiểu đoàn nhưng không còn tinh thần chống lại, một bộ phận chạy trốn, số còn lại đầu hàng.

Ngay sau khi hất cẳng Pháp, Nhật ráo riết thi hành chính sách thống trị phát xít, một mặt ra sức vơ vét nhân tài vật lực dốc vào cuộc chiến tranh phi nghĩa, mặt khác thẳng tay triệt phá phong trào cách mạng của nhân dân.

Về chính trị, ngoài việc duy trì bộ máy chính quyền cũ, phát xít Nhật cất nhắc những tên Việt gian tay sai được chúng nuôi dưỡng vào những vị trí quan trọng, trước đây do Pháp nắm giữ ở Nam Định.

Về quân sự, ngoài việc chiếm đóng các vị trí của Pháp, phát xít Nhật còn điều một trung đội xuống đóng ở Văn Lý (huyện Hải Hậu) để kiểm soát bờ biển, đóng thêm các đồn Phù Đê (Kim Bảng), Nga Khê (Lý Nhân), Bảo an đoàn - một tổ chức bán vũ trang của chính quyền bù nhìn được xây dựng, mở rộng ở khắp các khu phố, thôn xã. Tổ chức mật thám cũ của Pháp được bổ sung thêm một số tên tay sai đắc lực và đạt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của sở hiến binh Nhật.

Về kinh tế, Nhật tăng cường vơ vét thóc gạo, bắt nhân dân phải nhổ lúa trồng đay, gai, thầu dầu nhằm phục vụ cho cuộc chiến tranh của chúng. Chính sách kinh tế của phát xít Nhật đã gây ra thảm họa cho nhân dân, trong đó nghiêm trọng nhất là nạn đói. Nam Định là một trong những tỉnh Bắc Kỳ bị nạn đói hoành hành nặng nhất. Hai xóm lâm Thọ và Lâm Quý (xã Giao Lâm, huyện Giao Thủy) có 105 hộ thì 89 hộ chết đói cả nhà, Nhiệm vụ cứu đói đã trở thành cấp thiết.

Theo nhận định của Ban Thường vụ Trung ương: “Cuộc đảo chính Nhật - Pháp đã dẫn đến cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc”. Ở Nam Định, chính quyền Pháp mau chóng tan rã, chính quyền Nhật chưa ổn định, bọn tay sai còn đang bàng hoàng trước cảnh thay thầy đổi chủ quá đột ngột, còn nhân dân thì hết sức căm phẫn phát xít Nhật, sẵn sàng vùng lên lật đổ bọn thống trị và tay sai.

Đầu tháng 5.1945, Ban cán sự Đảng tỉnh họp ở thôn Quần Liêu (huyện Nghĩa Hưng). Đồng chí Xứ ủy viên Bắc Kỳ về dự và chủ trì hội nghị. Hội nghị nghiên cứu chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” và thống nhất nhận định: Tình hình phong trào địa phương lúc này có nhiều điều kiện khác quan thuận lợi, kẻ địch đang trong tình trạng khủng hoảng sâu sắc; nhân dân, đặc biệt là quần chúng lao động, đang sôi sục căm thù phát xít Nhật và mong chờ cách mạng. Hội nghị quyết định phải đi sâu vào quần chúng, nhanh chóng phát triển lực lượng, phát động cao trào chống Nhật cứu nước, đón thời cơ khởi nghĩa. Hội nghị đề ra một số chủ trương cụ thể:

1. Phát động mạnh mẽ cao trào kháng Nhật cứu nước.

2. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền bằng nhiều hình thức phong phú nhằm vạch trần luận điệu lừa bịp của Nhật, tố cáo tôi ác của chúng, kêu gọi nhân dân vùng dậy đánh đuổi giặc Nhật, giành độc lập thật sự cho dân tộc.

3. Khẩn trương tiến hành vũ trang cho quần chúng cách mạng, xây dựng tự vệ chiến đấu, sắm sửa vũ khí, luyện tập quân sự.

4. Thành lập đội vũ trang tuyên truyền và tập trung lãnh đạo về nông thôn.

5. Phân công các ủy viên ban cán sự tỉnh phụ trách các huyện(1).

Hội nghị Quần Liêu đã đánh dấu một bước quan trọng trong việc thực hiện những chủ trương, đường lối cốt yếu của Đảng vào hoàn cảnh cụ thể của địa phương, đề ra được những chủ trương và phương thức hoạt động thích hợp trong điều kiện tiền khởi nghĩa. Đặc biệt, chủ trương tăng cường chỉ đạo, đẩy mạnh phong trào ở nông thôn Nam Định đã khắc phục được những thiếu sót trước đây, tạo thế và chỗ đứng vững chắc để có thể phát triển toàn diện phong trào trong tỉnh

Sau khi nghị quyết của hội nghị Quần liêu được truyền đạt tới các cơ sở, phong trào cách mạng Nam Định càng thêm sôi nổi, mạnh mẽ. Công tác tuyên truyền được đặc biệt đề cao, được tiến hành bằng nhiều hình thức, truyền đơn được rải ở nhiều nơi, nhất là ở các vùng ven đường giao thông quan trọng. Đặc biệt, những hoạt động của các đội tuyên truyền xung phong như mít tinh có bắn súng, đốt phá, trương cờ đỏ sao vàng, phát tán truyền đơn và diễn thuyết được liên tiếp tổ chức ở các chợ Cát Xuyên, Trà Trung (Xuân Trường), Cổ Lễ, Ninh Cường (Trực Ninh), đình làng Hưng Đễ (Nam Trực); các cuộc mít tinh ở chợ Mạc Thượng, chợ Dần (Vụ Bản) còn tiến hành tuần hành biểu dương lực lượng quần chúng. Những hoạt động sôi nổi đó đã làm cho thanh thế của Việt Minh lên cao, báo trước bão tạp cách mạng sắp nổ ra.


(*) Người viết: ThS. Nguyễn Thị Kiều Trang, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
(1) Ban Chấp hành Đảng bộ Nam Hà: Lịch sử Đảng bộ Nam Hà, tập I, 1996, tr. 156.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Chín, 2011, 07:15:40 am
Song song với việc phát triển tổ chức chính trị, lực lượng vũ trang trong tỉnh cũng được chú ý xây dựng. Các độ Tự vệ cứu quốc được xây dựng hàng loạt, nhất là ở những nơi có phong trào khá. Việc sắm sửa vũ khí thô sơ, luyện tập quân sự được tiến hành khẩn trương. Thư thuyết phục, cảnh cáo của cách mạng được đưa đến tận tay tỉnh trưởng, các huyện trưởng và một số tay sai khác của Nhật. Cờ ảnh của Nhật và bù nhìn ở phòng thông tin Hành Thiện (Xuân Trường) bị xé nát. Cờ đỏ sang vàng được cắm ngay trên nóc trụ sở bao an huyện Xuân Trường và đồn Đoan Ngô Đồng (Giao Thủy).

Phong trào cách mạng trong toàn quốc đang lên cao và những hoạt động mạnh mẽ ở địa phương đã làm tê liệt ý chí và hành động chống phá cách mạng của chính quyền bù nhìn ở các huyện, xã Nam Định, nhất là ở 6 huyện phía nam tỉnh. Hệ thống chính quyền bù nhìn từ huyện tới xã rệu rã, lung lay tận gốc. Trước làn sóng cách mạng, trừ một số tên tay sai, địa chủ gian ác ngoan cố ôm chân Nhật, còn lại hầu như đều bất lực nằm im. Có nơi chính quyền địch tan rã hẳn, ở đó Việt Minh hoạt động công khai mà Nhật phải chịu bó tay.

Giữa lúc phong trào cách mạng trong toàn tỉnh đang phát triển mạnh mẽ, tháng 6.1945, một đợt khủng bố tràn lan của địch đã diễn ra ở Nam Định. Gần 100 cán bộ, đảng viên và quần chúng bị bắt, hầu hết các cơ sở cách mạng vừa mới được phục hồi và xây dựng thêm đều bị phá vỡ.

Mặc dù vậy, một số ít cơ sở Việt Minh trong công nhân, thanh niên, học sinh, phụ nữ, bảo an binh vẫn tiếp tục hoạt động, thành phố vẫn là cơ sở để cán bộ Xứ ủy đi về giữ liên hệ với tỉnh. Thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền đã đến gần.

Đêm 13.8.1945, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc ra lệnh Tổng khởi nghĩa. Từ ngày 23 đến 15.8.195, Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào chủ trương kịp thời lãnh đạo toàn dân Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong phạm vị cả nước.

Lúc này ở Nam Định, Ban cán sự Đảng tỉnh đang tập trung chỉ đạo phong trào ở các huyện phía nam. Mặc dù chưa nhận được lệnh khởi nghĩa của Trung ương, nhưng do nắm chắc chủ trương khởi nghĩa của Đảng, và ngay chiều 15.81.945, các đồng chí lãnh đạo của tỉnh đã nhận được tin Nhật đầu hàng Đồng minh, tin nhân dân Hà Nội đang sôi sục chuẩn bị khởi nghĩa, cho nên trưa 16.8, các đồng chí lãnh đạo đã cấp tốc họp tại nhà ông Nguyễn Đình Phung (thôn Trung Lao, xã Trực Trung) quyết định phá lệnh khởi nghĩa. Hội nghị thống nhất giành chính quyền ở các huyện phía nam trước, rồi nhanh chóng phát triển lực lượng cách mạng ra tất cả các huyện, tiến lên giành chính quyền ở thành phố Nam Định. Hội nghị đã chọn huyện Trực Ninh là nơi tiến hành khởi nghĩa đầu tiên trong tỉnh, vì ở Trực Ninh cơ sở cách mạng và lực lượng quần chúng mạnh hơn cả, lại ở xa thành phố Nam Định nên địch khó ứng phó kịp thời.

Vào 15 giờ chiều ngày 17.8, sau một tràng tiểu liên nổ uy hiếp, đoàn quân cách mạng kéo vào huyện đường và kêu gọi binh lính đầu hàng. Chính quyền bù nhìn không dám chống cự, phải nộp toàn bộ vũ khí, sổ sách. Ngay chiều tối hôm đó, cuộc khởi nghĩa đã kết thúc thắng lợi. Trực Ninh trở thành căn cứ địa để Ban cán sự triển khai khởi nghĩa ở các huyện Nam Trực, Nghĩa Hưng, Xuân Trường, Giao Thủy, Hải Hậu, Vụ Bản. Từ ngày 18 đến 21.8.1945, các huyện Nam Trực, Ý Yên, Xuân Trường, Giao Thủy, Nghĩa Hưng, Hải Hậu, Vụ Bản cũng lần lượt hoàn thành việc giành chính quyền về tay nhân dân.

Quan trọng và khó khăn nhất là cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở thành phố Nam Định. Chiều ngày 17.8, Ban cán sự Đảng tỉnh phối hợp với đội “Danh dự” của Xứ ủy (từ Hà Nội về) thông báo với nhân dân thành Nam việc Nhật đã đầu hàng Đồng minh và ra lời kêu gọi đồng bào ủng hộ Việt Minh, sẵn sàng khởi nghĩa giành chính quyền. Chiều ngày 18.8, tại chợ Rồng, hàng nghìn người đã tới dự cuộc mít tinh do Ban cán sự Đảng tổ chức.

Ngày 19.8, diễn ra cuộc đấu tranh đòi thả tù chính trị với hàng nghìn người tham gia, chính quyền bù nhìn và sở hiến binh Nhật buộc phải thả hàng trăm cán bộ, đảng viên mà chúng đang giam giữ.

Ngày 20.8, Ủy ban khởi nghĩa được thành lập do đồng chí Hà Tấn Kế làm Chủ tịch. Cũng trong ngày 20.8, đội tuyên truyền vũ trang Bắc Bộ Phủ (từ Hà Nội về) phối hợp với đội vũ trang thành phố vào thẳng dinh tỉnh trưởng để thuyết phục hắn đầu hàng đồng thời phát truyền đơn kêu gọi nhân dân tham gia cuộc mít tinh được tổ chức vào chiều 21.8.

Nắm chắc tình hình và thời cơ cách mạng, Ủy ban khởi nghĩa quyết định: Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở thành phố Nam Định sẽ được tiến hành vào chiều 21.8.1945. Trong đêm 20 rạng ngày 21.8, truyền đơn kêu gọi khởi nghĩa được rải khắp thành phố và các vùng lân cận. Chiều 21.8, cả thành phố ngập trong một rừng cờ đỏ sao vàng. Quần chúng rầm rộ kéo về trước lễ đài uy nghi ở dốc Lò Trâu. Đúng 3 giờ chiều, lễ mít tinh bắt đầu. Ủy ban khởi nghĩa tuyên bố xóa bỏ chính quyền bù nhìn, thiết lập chính quyền cách mạng. Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời thành phố, do đồng chí Nguyễn Văn Hoan làm Chủ tịch ra mắt nhân dân. Kết thúc cuộc mít tinh là những tiếng hô vang khẩu hiệu của cả biển người vang động thành phố. Sau đó, lực lượng cách mạng kéo đến chiếm dinh tỉnh trưởng, trại bảo an binh, sở liêm phòng cùng các công sở khác. Chính quyền bù nhìn đã phải giao nộp toàn bộ vũ khí, giấy tờ, sổ sách cho chính quyền cách mạng. Cuộc khởi nghĩa ở thành phố Nam Định đã giành thắng lợi hoàn toàn. Sau đó, cuộc khởi nghĩa của Đảng bộ và nhân dân huyện Mỹ Lộc đã kết thúc thắng lợi vào sáng 22.8.

*

Như vậy, chỉ trong vòng 5 ngày (từ ngày 17 đến ngày 22.8.1945), dưới sự lãnh đạo của Đản bộ tỉnh, nhân dân Nam Định đã tiễn hành thành công cuộc khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn tỉnh.

Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám ở Nam Định trước hết là thắng lợi của đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo, kịp thời của Ban cán sự Đảng tỉnh. Mặc dù gặp nhiều khó khăn, nhưng Đảng bộ Nam Định đã có quyết tâm cao, nắm vững đường lối khởi nghĩa của Trung ương, chủ động, sáng tạo trong hành động, tin tưởng vào quần chúng, tranh thủ được thời cơ để đưa cuộc khởi nghĩa đến thắng lợi hoàn toàn. Đó cũng là thắng lợi của tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh cho độc lập tự do của nhân dân Nam Định.

Cách mạng tháng Tám ở Nam Định, cũng như cuộc nổi dậy của toàn dân tộc, có ý nghĩa và tầm vóc vĩ đại, trở thành bất tử đối với lịch sử đấu tranh của các dân tộc vì độc lập, tự do và tiến bộ xã hội.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Chín, 2011, 07:18:42 am
THÁI BÌNH(*)

Tháng 9.1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Thái Bình cũng như các tỉnh khác trong toàn quốc bị đế quốc khủng bố gắt gao. Mở một số huyện như Kiến Xương, Tiền Hải, các cán bộ, quần chúng cách mạng, gia đình cơ sở bị chúng bắt nhiều. Phong trào cách mạng tạm thời lắng xuống. Giữa năm 1940, Tỉnh ủy Thái Bình được thành lập. Nhân ngày kỉ niệm Xô Viết Nghệ - Tĩnh (12.9.1940), Tỉnh ủy tổ chức một cuộc mít tinh lớn ở Mả Bụt (Kiến Xương) với hơn 5000 người thuộc ba huyện Tiền Hải, Kiến Xương, Thái Ninh tham gia, hô hào chống khủng bố và củng cố tinh thần đấu tranh cách mạng trong quần chúng.

Năm 1941, Mặt trận Việt Minh được thành lập. Cơ quan lãnh đạo tỉnh đã tiến hành tuyên truyền, giải thích về chương trình điều lệ của Việt Minh trong các tổ chức quần chúng. Lực lượng Việt Minh phát triển, tiếng vang về Mặt trận Việt Minh lan rộng trong nhân dân. Cơ quan ấn loát của Xứ ủy đặt ở ngoại đê Tiểu Hoàng (Tiền Hải) liên tục in những thắng lợi như “Tuyên ngôn của Mặt trận Việt Minh”, “Phụ nữ cứu quốc”, các bài trong báo Cứu quốc, Cờ giải phóng, Tạp chí Cộng sản để phát đi các nơi.

Tháng 4.1942, đồng chí bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Trọng Khuyến bị địch bắt ở Bát Điếu (Tiền Hải); tiếp đó, một số tỉnh ủy viên cũng bị địch bắt. Tuy nhiên, ở nhiều nơi, các đảng viên vẫn len lỏi hoạt động, bám cơ sở quần chúng.

Giữa năm 1944, một số đồng chí tỉnh ủy viên và cán bộ lãnh đạo trong tỉnh bị bắt trước kia đã vượt ngục Hỏa Lò và Sơn La trở về bắt liên lạc và tổ chức một cuộc họp ở Động Trung (Kiến Xương) bàn việc chấn chỉnh cơ quan lãnh đạo tỉnh. Tại đây, Tỉnh ủy lâm thời được thành lập, phân công các tỉnh ủy viên về phụ trách từng huyện để xây dựng lại phong trào.

Sang đầu năm 1945, Thái Bình bị nạn đói khủng khiếp đe dọa. Cùng với Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình là tỉnh có số người chết đói nhiều, có gia đình chết hết không còn một ai. Nhiều làng, số người chết đói từ 50-80% dân số. Chỉ trong vòng 5 tháng, toàn tỉnh có gần 300 nghìn người chết đói. Vì vậy, yêu cầu giải quyết nạn đói là yêu cầu bức thiết trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc lúc bấy giờ.

Ngày 9.3.1945, Nhật đảo chính Pháp. Theo chỉ “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, Đảng bộ đã phát động cao trào kháng Nhật cứu nước làm tiền đề cho cuộc Tổng khởi nghĩa.

Trước tình hình phát triển mau lẹ của phong trào toàn quốc cũng như trong tỉnh, cuối tháng 6.1945, Tỉnh ủy họp tại làng An Vệ (Quỳnh Côi) đề ra các nhiệm vụ trước mắt:

- Đẩy mạnh việc củng cố phát triển cơ sở cách mạng, thành lập các đoàn thể cứu quốc và Mặt trận Việt Minh ở cơ sở.

- Thành lập đội trự gian ở các huyện.

- Thành lập tự vê chiến đấu ở các làng và chuẩn bị vũ khí để khởi nghĩa.

- Lãnh đạo quần chúng chống nộp thuế, phá việc trồng đay và nổi dậy phá kho thóc Nhật chia cho nông dân.

- Quyết định thành lập An toàn khu Phương Quả (Quỳnh Côi).

Theo tiếng gọi và sự hướng dẫn của Đảng, quần chúng đã tiến hành đấu tranh quyết liệt với giặc Nhật và bọn tay sai, lấy thóc gạo của chúng ở Quỳnh Côi, Phụ Dực, Thụy Anh, Hưng Nhân, Tiền Hải… chia cho dân đói. Trong hai tháng 3 và 4.1945, thu được 1.225 tấn thóc chia cho dân.

Những cuộc mít tinh, biểu tình, rải truyền đơn, dán áp phích, tuyên truyền xung phong, diễn thuyết, đưa thư cảnh cáo bọn quan lại gian ác đã diễn ra liên tiếp ở nhiều thôn xã, chợ búa, thị trấn. Các cuộc phá kho thóc Nhật thắng lợi đã động viên quần chúng phấn khởi, hăng hái tham gia Việt Minh.

Cùng lúc đó, tiếng súng trừ gian của quần chúng diễn ra ở nhiều nơi. Ở Quỳnh Côi, nhân dân đã kịp thời tiêu diệt hai tên Việt gian là Lục Xần và Đội Triền khi chúng chuẩn bị xong kế hoạch đón Nhật về khủng bố phong trào cách mạng ở đây. Tên tổng Ruật ở Hưng Nhân và một số tên mật thám khác cũng bị tiêu diệt khi chúng chưa kịp hành động.

Từ trong phong trào, các đội tự vệ được tổ chức lại. Cơ sở vũ trang phát triển ở các huyện, mạnh nhất ở Quỳnh Côi. Đầu tháng 8.1945, Tỉnh ủy thành lập một đơn vị vũ trang của tỉnh gồm hơn 40 người. Thái Bình cũng xây dựng được khu căn cứ riêng của địa phương ở Phương Quả. Đây là một chủ trương đúng đắn của Đảng bộ, thể hiện tinh thần sáng tạo trong việc vận dụng đường lối của Trung ương.


(*) Người viết: Phạm Ngọc Anh, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Chín, 2011, 07:20:13 am
Các cuộc đấu tranh của quần chúng làm cho hệ thống cai trị của địch ngày càng lung lay. Ở nhiều nơi, chính quyền địch bị tê liệt, không dám đối phó với phong trào cách mạng. Khí thế cách mạng của nhân dân ngày một lên cao. Ở một số làng, Việt Minh đã giành được chính quyền; lực lượng bảo an của địch biến thành tổ chức quần chúng; “Ủy ban dân tộc giải phóng” được thành lập và hoạt động công khai.

Khi nhận được tin phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh, Tỉnh ủy cho bế mạc lớp quân chính để cán bộ các huyện nhanh chóng về địa phương chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Tỉnh ủy ra lệnh các huyện phải nhanh chóng tước vũ khí các đồn binh ở các phủ huyện.

Ngày 14.8.1945, đồng chí Ngô Duy Đông, ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, đã triệu tập hội nghị Tỉnh ủy ở Thượng Tầm (Thái Ninh) quyết định hạ lệnh khởi nghĩa. Kế hoạch đề ra là đánh chiếm các phủ huyện rồi tập trung lực lượng đánh chiếm thị xã, giành chính quyền toàn tỉnh. Ban lãnh đạo khởi nghĩa các phủ huyện khác đang chuẩn bị kế hoạch tước vũ khí địch khi nhận được lệnh khởi nghĩa đã chuyển ngay sang kế hoạch khởi nghĩa giành chính quyền. Lệnh Tổng khởi nghĩa được truyền đi nhanh chóng. Quần chúng vùng lên đấu tranh mạnh mẽ, cao trào khởi nghĩa cuồn cuộng dâng lên như nước vỡ bờ.

Huyện Thái Ninh là điểm ở đầu trong Tổng khởi nghĩa của tỉnh. Tối 16.8, ta đã tổ chức vũ trang tuyên truyền vào phố huyện, đồng thời huy động lực lượng quần chúng và một đội tự vệ chiến đấu tiến thẳng vào huyện đường tước vũ khí, tuyên bố Việt Minh giành chính quyền. Ngày 18.8, lá cờ đỏ sao vàng được treo lên cổng huyện báo hiệu cuộc khởi nghĩa thắng lợi, chính quyền về tay nhân dân.

Cùng ngày 18.8, khắp các huyện trong tỉnh, cuộc khởi nghĩa cũng được bắt đầu bằng các cuộc mít tinh, biểu tình, tuần hành của quần chúng.

Sáng 19.8, hơn 4000 quần chúng, tự vệ nội ngoại thị từ các ngả đường kéo về thị xã, đến dinh Tổng đốc, buộc viên Tổng đốc phải ra lệnh cho bảo an binh nộp khí giới. Quân khởi nghĩa nhanh chóng chiếm được dinh Tổng đốc, trại bảo an binh và các công sở quan trọng trong thị xã. Ngày 20.8, một cuộc mít tinh với 20 vạn người tham gia do Tỉnh bộ Việt Minh tổ chức tại thị xã, chào mừng thắng lợi của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền và hoan nghênh Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh. Khởi nghĩa ở thị xã nhanh chóng giành được thắng lợi để cổ vũ, thúc đẩy cuộc khởi nghĩa diễn ra sôi nổi trong toàn tỉnh.

Cùng ngày 19.8, quần chúng nhân dân ở Quỳnh Côi tiến hành khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Thường vụ Tỉnh ủy. Khởi nghĩa ở Quỳnh Côi thắng lợi, Thường vụ Tỉnh ủy quyết định huy động lực lượng ở Quỳnh Côi ra phối hợp với lực lượng khởi nghĩa ở Tiên Hưng và Phụ Dực. Cùng ngày cuộc khởi nghĩa ở Đông Quan cũng giành thắng lợi.

Từ ngày 20 đến 25.8, nhân dân các huyện Duyên Hà, Thụy Anh, Hưng Nhân, Kiến Xương, Vũ Tiên, Tiền Hải, Thư Trì cũng hoàn thành việc giành chính quyền về tay nhân dân.

Sau cuộc khởi nghĩa ở các huyện, thị thắng lợi, cuộc khởi nghĩa ở các làng quê cũng tiến hành một cách nhanh gọn dưới hình thức quần chúng tiến hành mít tinh tại đình, bắt các lí dịch nộp triện, sổ sách và tuyên bố Việt Minh nắm chính quyền.

Tổng khởi nghĩa ở Thái Bình diễn ra nhanh gọn, khẩn trương và giành thắng lợi. Từ ngày 16 đến 25.8, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thái Bình, nhân dân vùng dậy đấu tranh lật nhào ách thống trị của phát xít, thực dân và phong kiến tay sai, khẳng định chính quyền về tay nhân dân.

*

Cách mạng tháng Tám ở Thái Bình diễn ra dưới hình thức giành chính quyền từ nông thôn, sau đó tiến lên giành chính quyền ở thành thị; từ khởi nghĩa từng phần tiến lên Tổng khởi nghĩa thắng lợi. Trong cao trào kháng Nhật cứu nước, dựa vào sức mạnh quần chúng, ta đã làm chủ chính quyền ở một số nơi, làm cho chính quyền địch hoang mang, dao động làm tiền đề cho Tổng khởi nghĩa nhanh chóng thắng lợi. Trong Tổng khởi nghĩa, do sự nhanh nhạy, linh hoạt trong việc nắm bắt tình hình, đặc biệt do nắm bắt chủ trương của Đảng trong chỉ thị: “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” kết hợp với kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng bộ Thái Bình đã kịp thời phát động nhân dân toàn tỉnh nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền khi Nhật đầu hàng Đồng minh, khi lệnh Tổng khởi nghĩa từ Trung ương chưa về kịp. Khi nhận được lệnh Tổng khởi nghĩa từ Trung ương và lời hiệu triệu của Hồ Chí Minh, Đảng bộ và nhân dân Thái Bình đã quyết tâm “Dù tổn thất đến đâu cũng phải giành cho được độc lập”.

Với sự chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng bộ Thái Bình, tinh thần và hành động cách mạng của đông đảo các tầng lớp nhân dân, Cách mạng tháng Tám ở Thái Bình nhanh chóng giành thắng lợi và góp phần vào thắng lợi chung của cả dân tộc.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 14 Tháng Chín, 2011, 10:34:01 am
NINH BÌNH(*)

Ninh Bình nằm ở phía đông nam đồng bằng Bắc Bộ, trên các trục đường giao thông huyết mạch quan trọng nối liền giữa Bắc Bộ và Trung Bộ (đường quốc lộ 1A và đường sắt), Ninh Bình đã trở thành một tỉnh có vị trí chiến lược vô cùng quan trọng, cả về chính trị và quân sự.

Ngay từ những ngày chiếm đóng (1873), thực dân Pháp đã câu kết với bọn phản động đội lốt Thiên Chúa giáo, lợi dụng tín ngưỡng để chia rẽ dân tộc, mê hoặc và lừa gạt giáo dân… Đời sống của đại bộ phận nhân dân Ninh Bình dưới thời Pháp thuộc vô cùng cực khổ; vì vậy, các phong trào đấu tranh của nhân dân, nhất là từ khi có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, trực tiếp là Đảng bộ tỉnh Ninh Bình, diễn ra không bao giờ tắt.

Khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (9.1939), thực dân Pháp tiến hành cuộc đại khủng bố ở Ninh Bình, cũng như trong cả nước. Chỉ trong hai ngày 29 và 30.9.1939, chúng đã lùng bắt 24 đảng viên và quần chúng tích cực ở các huyện Nho Quan, Gia Viễn, Gia Khánh, Yên Mô. Số đảng viên của Ninh Bình còn lại rất ít đã rút vào hoạt động bí mật, dưới nhiều hình thức khác nhau.

Thực hiện sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Trung ương Đảng, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Ninh Bình đã tập hợp mọi lực lượng, đoàn kết nhân dân trong tỉnh và các tỉnh bạn (Hà Nam, Hòa Bình, Nam Định, Thanh Hóa), chuẩn bị vũ trang cùng nhân dân cả nước đánh Pháp.

Sau khi Nhật đảo chính Pháp và nhận được chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, Ban cán sự tỉnh đã quyết định “Phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước” trong toàn tỉnh. Cuộc đấu tranh cách mạng mang nhiều nội dung, như phá kho thóc, cứu đói cho dân, chống thu thóc và thu thuế, đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục đường lối cứu nước của Mặt trận Việt Minh; tiếp tục mở rộng cơ sở cách mạng, mở rộng Mặt trận Việt Minh; tích cực xây dựng lực lượng vũ trang, gấp rút chuẩn bị Tổng khởi nghĩa cùng nhân dân cả nước.

Đến đầu tháng 8.1945, khí thế cách mạng của nhân dân trong tỉnh hết sức sôi sục, chỉ cần chờ lệnh Tổng khởi nghĩa của Trung ương.

Ngày 17.8, đồng chí Trần Tử Bình đem lệnh Tổng khởi nghĩa của Xứ ủy về tới Ninh Bình. Nắm vững tinh thần Nghị quyết của Xứ ủy và Kỳ bộ Việt Minh, căn cứ vào tình hình cụ thể của tỉnh, Tỉnh ủy chủ trương tập trung lực lượng đánh chiếm một huyện lị, quyết giành bằng được thắng lợi trận đầu để lấy vũ khí trang bị cho Giải phóng quân, động viên khí thế cách mạng trong quần chúng tiến lên khởi nghĩa trong toàn tỉnh. Sau khi cân nhắc lực lượng so sánh giữa ta và địch, Tỉnh ủy quyết định đánh chiếm huyện lị Gia Viễn vì nơi đây xa căn cứ quân Nhật đóng, chính quyền tay sai yếu, lực lượng cách mạng mạnh, gần căn cứ địa Quỳnh Lưu…

Cuộc khởi nghĩa được quyết định vào ngày 19.8.1945 (tức ngày 12.7 năm Ất Dậu). Đây là ngày họp phiên chợ Me, lực lượng của ta có thể trà trộn lẫn vào nhân dân đi chợ, giữ được bí mật và tạo yếu tố bất ngờ. Theo đúng kế hoạch, sáng ngày 19.8.1945, đội quân Giải phóng từ căn cứ địa kéo ra chiếm huyện lị Gia Viễn. Từ đêm hôm trước, Huyện trưởng đã bỏ chạy và Thanh niên cứu quốc địa phương đã thuyết phục binh lính lấy một số súng, khi đội quân Giải phóng kéo vào, chúng vội đầu hàng. Huyện lị nhanh chóng được giải phóng, chính quyền thực sự về tay cách mạng. Cờ đỏ sao vàng năm cánh phấp phới tung bay trước công đường. Tại cuộc mít tinh ở huyện lị, Tỉnh ủy nêu rõ chủ trương cứu nước của Mặt trận Việt Minh và tuyên bố giải phóng huyện. Đối với binh lính địch, ai muốn đi theo cách mạng sẽ được thu nạp, ai muốn về nhà làm ăn sẽ được giúp đỡ, ai vẫn đi theo Nhật - Pháp sẽ bị cách mạng xử tội.

Cùng ngày 19.8.1945, được tin huyện lị Gia Viễn đã giải phóng, những thanh niên cơ sở ở thị trấn Nho Quan đã tập hợp quần chúng, giương cao cờ đỏ sao vàng kéo vào chiếm phủ lị. Phủ trưởng hoảng hốt bỏ trốn, binh lính nộp vũ khí đầu hàng. Ngày 20.8.1945, Tỉnh ủy đưa lực lượng ở Quỳnh Lưu ra phủ lị Nho Quan, đồng thời tổ chức mít tinh tuyên bố Nho Quan hoàn toàn giải phóng.

Như vậy, chỉ trong một ngày, hai phủ, huyện Gia Viễn và Nho Quan - nơi địch tăng cường lực lượng đàn áp cách mạng đã về tay nhân dân.

Trên đà thắng lợi, ngay đêm 19.8, Tỉnh ủy bàn kế hoạch đánh chiếm tỉnh lị, theo kế hoạch “phải huy động quần chúng ở hai huyện Gia Viễn và Gia Khánh làm cuộc biểu tình tuần hành, dùng bạo lực cách mạng của quần chúng để uy hiếp địch”(1). Đồng thời chủ trương kêu gọi binh lính Nhật không được can thiệp vào công việc nội bộ của ta, kêu gọi lính bảo an đầu hàng, nếu ai đi theo cách mạng sẽ được tiếp nhận và khoan hồng.


(*) Người viết: ThS. Nguyễn Mạnh Hưởng, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
(1) Ban Nghiên cứu Lịch sử Tỉnh ủy Ninh Bình: Cuộc vận động Cách mạng tháng Tám ở Ninh Bình, 1970, tr. 64.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 14 Tháng Chín, 2011, 10:36:31 am
Sáng 20.8.1945, hơn một vạn quần chúng, được vũ trang bằng súng trường, lựu đạn, gậy, giáo mác, dao găm… tập trung tại cửa động Thiên Tôn (Gia Khánh) với cờ đỏ sao vàng, băng rôn, biểu ngữ hô to các khẩu hiệu: “Việt Nam độc lập”, “Ủng hộ Việt Minh”… sau khi nghe đại biểu Tỉnh ủy đọc lời hiệu triệu của Tổng bộ Việt Minh hô hào quần chúng đứng lên đánh đuổi phát xít Nhật, thành lập chính quyền cách mạng, cuộc mít tinh chuyển thành cuộc biểu tình thị uy, rầm rập kéo về thị xã. Dọc đường, đội quân cách mạng gặp nhiều xe camnhông của quân Nhật, nhưng chúng không dám làm gì. Trên đường tiến về thị xã, nhân dân hai bên đường ở các xã La Mai, La Phù, Bạch Cừ, Phú Gia, Đa Giá, Lực Giá, Cam Giá… cũng xếp hàng hào vào đội ngũ đấu tranh, lên tới trên hai vạn người. Khi tới Phúc Am, một bộ phận đoàn biểu tình được lệnh kéo vào chiếm huyện lị Gia Khánh, số còn lại kéo sang chiếm tỉnh lị.

Tại tỉnh lị, cơ sơ Việt Minh đã chuẩn bị tương đối chu đáo, sẵn sàng đón quân khởi nghĩa kéo vào. Bọn Nhật cũng được thuyết phục từ trước, chúng đóng cổng trại và không hành động gì. Lính bảo an cũng được vận động trước, sẵn sàng hưởng ứng chờ đón quân cách mạng. Quần chúng bao vây dinh Tỉnh trưởng, nhanh chóng chiếm các trại lính bảo an và các côn sở khác. Toàn bộ cơ quan chính quyền của địch ở tỉnh bị ta chiếm đóng, mọi thứ vũ khí đều được đưa về chiến khu, các công sở được niêm phong và canh gác…

Chiều 20.8.1945, một cuộc mít tinh lớn được tổ chức ở sân vận động thị xã với hàng vạn người tham dự. Đại biểu của Tỉnh bộ Việt Minh tuyên bố xóa bỏ chính quyền địch, đồng thời nói rõ chủ trương, chính sách của Việt Minh, hô hào quần chúng ủng hộ Việt Minh, giữ gìn trật tự.

Được tin ta lấy xong chính quyền tỉnh lị, cùng ngày đó, cơ sở Việt Minh ở Yên Khánh đã lãnh đạo nhân dân nổi dậy giành chính quyền ở huyện lị.

Ngày 21.8.1945, Việt Minh ở Yên Mô tổ chức giành chính quyền huyện. Huyện trưởng Trần Trung Dung ngoan cố viện cớ “chưa biết Việt Minh giả hay Việt Minh thật”, không chịu giao chính quyền. Được tin này, Tỉnh ủy dùng lực lượng có vũ trang uy hiếp, chúng buộc phải nộp vũ khí, đầu hàng và giao chính quyền cho Việt Minh.

Như vậy, chỉ trong 3 ngày (từ 19 đến 21.8.1945), toàn bộ chính quyền địch từ huyện lị đến tỉnh lị đã sụp đổ, chính quyền cách mạng về tay nhân dân (trừ huyện Kim Sơn, bọn phản động đội lốt Thiên Chúa giáo đã lợi dụng danh nghĩa Việt Minh kéo cờ đỏ sao vàng, hô hào quần chúng cướp chính quyền ở huyện lị). Không đầy một tuần lễ sau, cả bộ máy thống trị của chúng từ tỉnh đến xã đã bị cách mạng đập nát hoàn toàn. Chiều ngày 25.8.1945, Ủy ban cách mạng lâm thời tỉnh Ninh Bình tổ chức lễ ra mắt nhân dân. Trước hơn hai vạn đồng bào, đồng chí Văn Tiến dũng trịnh trọng tuyên bố Ninh Bình hoàn toàn giải phóng và thiết lập chính quyền cách mạng của nhân dân toàn tỉnh. Ngày 25.8.1945 đã đánh đấu ngày nhân dân tỉnh Ninh Bình phá tan gông cùm nô lệ của bọn đế quốc, phát xít và hàng nghìn năm phong kiến. Cùng với thắng lợi Cách mạng tháng Tám của cả nước, thắng lợi trong Cách mạng tháng Tám ở Ninh Bình đã kết thúc một quá trình đấu tranh gian khổ, hi sinh nhưng rất vẻ vang.

*

Cách mạng tháng Tám ở Ninh Bình diễn ra và giành thắng lợi nhanh chóng, hầu như không đỏ máu do có sự chuẩn bị chu đáo, nắm vững thời cơ và nổ ra đúng lúc. Trong quá trình giành chính quyền, một số nơi địch ngoan cố, hoặc bọn phản động đội lốt Thiên Chúa giáo ở Kim Sơn lợi dụng danh nghĩa Việt Minh cướp chính quyền, nhưng đã được Tỉnh ủy nhanh chóng chỉ đạo kịp thời, dùng lực lượng cách mạng uy hiếp, buộc chúng phải đầu hàng.

Cách mạng giành thắng lợi vì có toàn Đảng, toàn dân đoàn kết nhất trí, kiên quyết đứng lên giành chính quyền. Qua quá trình chuẩn bị lâu dài, đặc biệt là từ năm 1939 đến 1945, nhiều lần Đảng bộ tỉnh đã bị địch khủng bố hòng tiêu diệt cách mạng, nhưng với truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất, Đảng bộ tỉnh Ninh Bình vẫn vững vàng đưa phong trào cách mạng đi lên từ thấp đến cao, từ ít đến nhiều, từ yếu thành mạnh để đủ sức từng bước đập tan kẻ thù, và cuối cùng là tiến tới tổ chức Tổng khởi nghĩa giành thắng lợi mau lẹ. Lúc Tổng khởi nghĩa, toàn tỉnh chỉ có 9 chi bộ với 40 đảng viên(1), là những đảng viên rất mực trung thành, biết đoàn kết một lòng, sẵn sàng hi sinh vì lợi ích của nhân dân và đủ sức lãnh đạo quần chúng nhân dân đứng lên giành chính quyền.

Cách mạng tháng Tám ở Ninh Bình thắng lợi do biết khéo léo kết hợp giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, tùy từng lúc, từng nơi mà vận dụng hình thức đấu tranh cụ thể, vì vậy hình thái của cuộc khởi nghĩa đã diễn ra sinh động và mau lẹ. Từ những hình thức đấu tranh phong phú, mà hình thái của cuộc khởi nghĩa cũng diễn ra rất linh hoạt. Từ cơ sở cách mạng vững chắc ở nông thôn (các huyện lị), dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, quần chúng nhân dân kéo ra chiếm huyện lị, và cùng một lúc kết hợp chiếm các huyện lị và tỉnh lị. Sau khi chiếm xong các huyện lị và tỉnh lị, quần chúng nhân dân quay trở về quét sạch chính quyền địch còn lại ở nông thôn.


(1) Ban Nghiên cứu Lịch sử Tỉnh ủy Ninh Bình: Cuộc vận động Cách mạng tháng Tám ở Ninh Bình, 1970, tr. 68


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 14 Tháng Chín, 2011, 10:39:41 am
THANH HÓA(*)

Thanh Hóa là một tỉnh đất rộng người đông và có phong trào cách mạng phát triển mạnh. Đảng bộ Thanh Hóa được thành lập sớm (tháng 4.1930), đảm nhận sứ mệnh lãnh đạo quần chúng trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc.

Chiến tranh thứ hai bùng nổ (9.1939), thực dân Pháp tăng cường khủng bố. Ở Thanh Hóa, các cơ quan lãnh đạo cách mạng bị vỡ, ở nhiều địa phương phong trào quần chúng thiếu cán bộ; mối liên hệ với Xứ ủy Trung Kỳ và Trung ương cũng bị gián đoạn… Trước tình hình đó, bộ phận đảng viên và cơ sở còn lại phải rút vào bí mật, duy trì các thành công cơ sở của các đoàn thể công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ… phong trào dần được phục hồi và củng cố. Đến tháng 9.1940, các Hội phản đế cứu quốc đã được thành lập ở nhiều làng thuộc các huyện Thọ Xuân, Vĩnh Lộc, Thạch Thành…

Tháng 1.1941, Hội nghị cán bộ toàn tỉnh Thanh Hóa tại Phong Cốc (Thọ Xuân) quyết định: động viên quần chúng đấu tranh hưởng ứng hai cuộc khởi nghĩa (Nam Kỳ và Bắc Sơn) và chuẩn bị đấu tranh chống thuế vụ hạ 1941. Đây cũng là nội dung phát động và tổ chức phong trào phản đế cứu quốc, dựa vào vùng ven rừng núi để xây dựng cơ sở quần chúng, chuẩn bị khởi nghĩa.

Chủ trương này đã có tác dụng rất lớn với phong trào phản đế trong tỉnh. Các cuộc mít tinh của quần chúng, rải truyền đơn, treo biểu ngữ được tổ chức ở những làng có cơ sở hội phản đế. Nhiều huyện đã thành lập được các ban Tổng ủy, Huyện ủy phản đế cứu quốc. Đội tự vệ vũ trang được thành lập ở các làng. Quần chúng tích cực quyên góp tiền của, mua tín phiếu do Hội phản đế phát hành để gây quỹ và xây dựng lực lượng vũ trang.

Tháng 5.1941, Hội nghị phản đế cứu quốc toàn tỉnh được triệu tập, định ra kế hoạch phát động phong trào, tổ chức rộng rãi các tầng lớp nhân dân vào Mặt trận… Sau hội nghị, phong trào phản đế lên cao ở nhiều nơi - tiêu biểu nhất là hai huyện Thọ Xuân và Thiệu Hóa; nội dung chủ yếu của đấu tranh là chống thuế. Tuy nhiên, phong trào cũng bộc lộ lực lượng nên bị bọn thống trị tập trung khủng bố gắt gao. Trước tình hình đó, một số cán bộ chỉ đạo việc xây dựng cơ sở ở Vĩnh Lộc, Thạch Thành chủ trương thành lập ở vùng này một chiến khu, nhằm phát động chiến tranh du kích chống khủng bố, duy trì phong trào tiến tới khởi nghĩa vũ trang. Chiến khu Ngọc Trạo ra đời (tháng 7.1941).

Tháng 10.1941, địch tăng cường lực lượng càn quét vùng chiến khu Ngọc Trạo. Hàng ngàn cán bộ đảng viên, tự vệ và quần chúng cách mạng bị bắt bớ tù đầy, nhiều làng mạc bị triệt hạ… Được sự che chở của quần chúng, một số cán bộ còn lại vẫn liên lạc được với nhau và tìm cách tổ chức lại phong trào. Giữa lúc đó, một số đảng viên vượt ngục trở về cũng hang hái bắt tay khôi phục phong trào. Do chưa liên lạc được với Xứ ủy va Trung ương nên tạm thời lập ra “Ban liên lạc cách mạng Thanh Hóa”. Tháng 6.1942, Ban liên lạc lập ra “Thanh Hóa ái quốc hội”. Tháng 9.1942, sau khi liên lạc được với một số cơ sở Đảng ở Hà Nội và tiếp thu các tài liệu sách báo về việc tổ chức Mặt trận Việt Minh, “Thanh Hóa ái quốc hội” được tổ chức lại thành Tỉnh bộ Việt Minh Thanh Hóa, ra báo “Đuổi giặc nước” và in phát các tài liệu tuyên truyền chủ trương cứu nước của Mặt trận Việt Minh một cách sâu rộng vào quần chúng.

Đầu năm 1943, Tỉnh ủy chính thức bắt liên lạc được với Trung ương. Thực hiện nghị quyết của Ban Thường vụ Trung ương tháng 2.1943, Tỉnh ủy Thanh Hóa đã tiến hành tổ chức lực lượng tự vệ, mở các lớp huấn luyện quân sự và chính trị trong tỉnh; phối hợp với Xứ ủy Bắc Kỳ xây dựng căn cứ Hòa - Ninh - Thanh. Trước tình trạng phát xít Nhật tăng cường bắt phu, bắt lính đi xây dựng các căn cứ quân sự và sân bay Lai Thành, thu bông, thu thóc của nhân dân… Tỉnh ủy phát động quần chúng đấu tranh chống bắt phu, chống cướp đất, thu thóc… Phong trào đáp ứng được những nguyện vọng của nhân dân nên được hưởng ứng nhiệt liệt, thậm chí còn lôi kéo được cả một số tổng lị các làng.

Cuối năm 1944, một trận lụt lớn xảy ra, nguy cơ một nạn đói uy hiếp trực tiếp đời sống của nhân dân. Trước tình hình đó, Tỉnh bộ Việt Minh kịp thời ra chỉ thị “Đòi ăn” và nhanh chóng được quần chúng nhân dân hưởng ứng. Nhiều nơi, quần chúng làm đơn, cử đại biểu đến gặp Tri huyện đòi cứu tế, đòi vay thóc, vay ngô. Một số nơi quần chúng biểu tình thị uy để tịch thu và cưỡng vay thóc gạo của bọn địa chủ… Những thắng lợi của cuộc đấu tranh chống đói không những chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà thực sự trở thành cuộc vận động chính trị sôi nổi, rộng lớn tấn công trực tiếp vào kẻ địch.

Sau sự kiện Nhật đảo chính Pháp (9.3.1945), nhiều cán bộ đảng viên lần lượt thoát khỏi nhà tù đế quốc trở về bổ sung cho đội ngũ lãnh đạo cách mạng tỉnh. Tháng 4.1945, nhận được chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” của Thường vụ Trung ương Đảng, Tỉnh ủy Thanh Hóa kịp thời chỉ đạo phát động quần chúng, đưa phong trào toàn tỉnh tiến tới cao trào chuẩn bị Tổng khởi nghĩa. Phong trào sắm vũ khí được tổ chức rầm rộ. Nhân dân tích cực quyên góp tiền bạc vào quỹ khởi nghĩa. Các lò rèn được huy động để rèn đúc vũ khí. Nhiều địa phương tổ chức rào làng chuẩn bị đánh Nhật. Các cuộc vận động vay thóc của nhà giầu được tiến hành cùng với các cuộc biểu tình tịch thu thóc ở các kho của Nhật, của bọn địa chủ phản động. Phong trào chống bắt phu, bắt lính cũng lên cao với đủ hình thức, từ trốn tránh tới việc ngang nhiên chống lại mệnh lệnh, tổ chức đánh tháo cho những người bị bắt.


(*) Người viết: ThS. Lê Thị Minh Huệ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 14 Tháng Chín, 2011, 10:40:54 am
Công tác xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa được xúc tiến khẩn trương. Thanh niên hăng hái tham gia các đội tự vệ chiến đấu. Vùng Ngọc Trạo được xây dựng lại thành một căn cứ của chiến khu Quang Trung. Nhiều cán bộ trong tỉnh được cử đến chiến khu để tập huấn quân sự làm nòng cốt cho phong trào huấn luyện lực lượng vũ trang tỉnh. Ở những nơi có điều kiện, lực lượng tự vệ tổ chức đánh úp các đồn lẻ để tước súng địch.

Công tác tuyên truyền cũng ngày càng phát triển. Đến tháng 6.1945, ở hầu hết các chợ thuộc 10 huyện phía bắc của tỉnh đều tổ chức diễn thuyết xung phong để vạch mặt bọn Đại Việt, hô hào chuẩn bị khởi nghĩa. Ở nhiều nơi, sau khi diễn thuyết, ta còn bắt bọn tay sai của địch để cảnh cáo, buộc chúng cho dân nghèo vay thóc, trả thuế cho dân và “thề” không được chống phá cách mạng. Khí thế cách mạng lên cao khiến chính quyền địch trở nên rệu rã. Bọn Đại Việt co lại không dám hoạt động. Nhiều binh sĩ rời bỏ hàng ngũ địch. Nhiều tri phủ, tri huyện, nha lại ngả theo cách mạng, bỏ việc đi tìm Việt Minh xin nộp sổ sách, con dấu. Ở 3 làng Thuận Mỹ, Yên Trung và Thượng Thọ đã thành lập Ủy ban giải phóng.

Ngọn lửa cứu quốc đã bùng cao và lan rộng trong toàn tỉnh. Quần chúng đang nóng lòng chờ đợi thời cơ vùng lên giành quyền làm chủ.Trong bối cảnh đó, Hoằng Hóa là huyện đầu tiên tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền, mở đầu cho cao trào khởi nghĩa trong toàn tỉnh.

Tháng 7.1945, phát xít Nhật và tay sai đưa binh lính đi khủng bố đàn áp phong trào cách mạng ở một số nơi, trong đó có Hoằng Hóa. Lực lượng tự vệ chiến đấu, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Huyện ủy Hoằng Hóa, phục kích chặn đánh địch. Mặc dù có thương vong nhưng ta đã đánh tan cánh quân địch. Nhân đà chiến thắng, lực lượng tự vệ cùng đông đảo nhân dân tổ chức thành cuộc biểu tình vũ trang kéo về chiếm huyện lị. Đơn vị còn lại của địch ở đây cũng vội xin hàng. Tri phủ Hoằng Hóa bị bắt, chính quyền bù nhìn bị thủ tiêu. Ủy ban dân tộc giải phóng - tiền thân của chính quyền cách mạng, được tổ chức ở các làng trong phủ. Đặc biệt, có địa phương như thôn Hóa Lộc đã cử ra Hội đồng cách mạng, thi hành một số chính sách của Việt Minh.

Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy đề phòng chống địch khủng bố trở lại, Đảng bộ Hoằng Hóa phát động quần chúng kiên quyết trấn áp bọn phản cách mạng, đồng thời chuẩn bị sẵn sàng tiến hành chiến tranh du kích khi địch trở lại. Do đó, 2 lần Nhật và tay sai đưa quân trở lại Hoằng Hóa đều bị lực lượng cách mạng đánh bại.

Thắng lợi của Đảng bộ và nhân dân Hoằng Hóa đã tạo cho phong trào cách mạng toàn tỉnh một bước chuyển biến quan trọng, là nguồn động lực trực tiếp động viên cổ vũ quần chúng cách mạng toàn tỉnh nổi dậy giành chính quyền. Phối hợp với Hoằng Hóa, tự vệ huyện Thiệu Hóa chặn đánh lính Nhật đi càn tại núi Vân, tự vệ Hậu Lộc đánh úp đồn Lạch Trường tước súng địch. Ở Quảng Xương, Nông Cống, nhân dân cũng tự động tổ chức chống lại bọn Nhật vào cướp chợ, cướp làng… Khí thế cách mạng dâng lên như vũ bão, uy tín của Việt Minh ngày càng lên cao. Không những công nhân, nông dân, tiểu thương, tiểu chủ, học sinh, viên chức hăng hái tham gia sửa soạn khởi nghĩa mà cả phú nông, tư sản vả một số trung tiểu địa chủ cũng tham gia hoặc ủng hộ tiền của, thuốc men… cho Việt Minh cứu quốc. Trong khi đó, chính quyền địch ở các địa phương đã gần như tê liệt hoàn toàn. Thời cơ thuận lợi để tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn tỉnh đã đến gần.

Ngày 13.8.1945, Tỉnh ủy Thanh Hóa đã triệu tập cuộc họp ở Mao Xá (Thiệu Hóa) bàn kế hoạch khởi nghĩa khi có thời cơ. Ngày 15.8, Hội nghị nhận được tin Nhật đầu hàng Đông minh vô điều kiện. Hội nghị quyết định: thơi cơ Tổng khởi nghĩa đã đến, tình thế chuyển biến không thể ngồi chờ. Vì vậy, dù chưa có lệnh Tổng khởi nghĩa của Trung ương cũng phải một mặt chớp thời cơ có một không hai này, phát động toàn dân nổi dậy giành chính quyền. Mặt khác, cử người trực tiếp đi báo cáo và xin chỉ thị của Trung ương. Về kế hoạch khởi nghĩa, Hội nghị quyết định:

- Tiến hành khởi nghĩa ở những huyện có phong trào trước rồi tập trung lực lượng hỗ trợ những nơi yếu. Lấy chính quyền miền xuôi xong sẽ tiến tới giải phóng miền núi.

- Đối với quân đội Nhật, tìm mọi cách trung lập với chúng, song kiên quyết lật đổ, quét sạch bọn Đại Việt và chính quyền bù nhìn tay sai.

- Huy động lực lượng chính trị của quần chúng tham gia khởi nghĩa và các đội tự vệ vũ trang hoạt động với phương châm “Nhanh gọn và quyết thắng”.

- Khởi nghĩa tới đâu thành lập Ủy ban nhân dân cách mạng tới đó. Hội nghị cử Ủy ban khởi nghĩa toàn tỉnh và các huyện, thị xã; cử Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh và chỉ định các Chủ tịch Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời ở các huyện…

Ngày 16.8, Hội nghị của Tỉnh ủy bế mạc, quyết định khởi nghĩa mau chóng được truyền về các địa phương. Ngay trong đêm 16.8, Ủy ban khởi nghĩa yêu cầu quân đội phát xít Nhật đóng tại thị xã Thanh Hóa không can thiệp vào công việc nội bộ của người Việt Nam và tập trung về một địa điểm khi cuộc khởi nghĩa nổ ra.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 14 Tháng Chín, 2011, 10:43:55 am
Từ 16 đến 18.8, các địa phương hoàn tất việc chuẩn bị khởi nghĩa. Đêm 18 rạng ngày 19.8, Ủy ban khởi nghĩa phát lệnh Tổng khởi nghĩa, các địa phương nhất tề nổi dậy. Do được chuẩn bị chu đáo nên chỉ sau một đêm, 9/13 huyện miền xuôi của tỉnh đã được giải phóng hoàn toàn (Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Yên Định, Nga Sơn, Hậu Lộc, Hà Trung, Vĩnh Lộc, Thạch Thành và Quảng Xương). Việc giành chính quyền ở các huyện này chủ yếu được tiến hành bằng tuần hành thị uy của quần chúng và các lực lượng tự vệ kết hợp với thuyết phục, dụ hàng địch. Trong khi đó, Thiệu Hóa là nơi khởi nghĩa diễn ra ác liệt nhất và là nơi duy nhất có đổ máu. Nơi đây có phong trào mạnh, địch tăng cường lực lượng bảo an chiếm đóng. Đêm 18.8, tự vệ ta tiến hành bao vây nhưng gặp phải sự chống cự ngoan cố của lính bảo an. Nhiều tự vệ đã bị thương và hi sinh, nhưng các chiến sĩ vẫn anh dũng xông lên áp sát các phòng học nơi địch đang trú quân và phóng hỏa. Trừ tên đội Thuật cùng một số tên chạy thoát, ta đã tiêu diệt và bắt sống toàn bộ lực lượng địch, làm chủ hoàn toàn huyện lị(1).

Sau khi giành được chính quyền, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời các huyện đã ra mắt quần chúng, bắt tay vào giải quyết những công việc nhằm ổn định tình hình, bảo vệ và củng cố chính quyền. Một số huyện còn điều cán bộ và lực lượng sang hỗ trợ huyện bạn khởi nghĩa như tự vệ Thọ Xuân vào giúp Nông Cống khởi nghĩa, tự vệ Vĩnh Lộc lên hỗ trợ cho phong trào ở Cẩm Thủy…

Các huyện miền xuôi còn lại trong tỉnh lần lượt giành chính quyền từ 19 đến 21.8. Riêng ở huyện Đông Sơn, trong khi ta giành chính quyền ở các cấp cơ sở thì một số phần tử của tổ chức “Thanh niên” đã lợi dụng tình hình cướp chính quyền ở huyện lị, nhưng đến ngày 27.8, chính quyền đã về tay cách mạng.

Ở tỉnh lị Thanh Hóa, quân Nhật chấp thuận yêu cầu của ta tập trung về nhà Dòng, việc chuẩn bị tiến hành khởi nghĩa thêm thuận lợi. Sáng 20.8, các đơn vị tự vệ lần luợt chiếm các vị trí: trại bảo an binh, nhà lao, tòa sứ và dinh Tỉnh trưởng một cách dễ dàng, nhanh chóng. Tỉnh trưởng Nguyễn Trạc giao nộp toàn bộ hồ sơ, sổ sách, vũ khí và phương tiện làm việc cho cách mạng.

Khởi nghĩa thắng lợi ở Thị xã tỉnh lị đánh dấu một mốc quan trọng của cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn tỉnh. Ngay ngày hôm sau (21.8), Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời Thành Hóa từ căn cứ Thiệu Hóa trở về thị xã ra mắt đồng bào.

Thắng lợi của các huyện miền xuôi đã tác động sâu sắc đến tình hình các châu, huyện miền núi. Tỉnh đã kịp thời cử một số cán bộ và các đơn vị tự vệ lên hỗ trợ đồng bào khởi nghĩa. Trước tình hình đó, một số tri châu, thổ ti, lang đạo đã sợ hãi bỏ trốn, một số khác tìm gặp Việt Minh để giao nộp chính quyền. Việc giành chính quyền ở 6 châu miền núi diễn ra hết sức nhanh chóng. Chỉ riêng ở châu Quan Hóa, lợi dụng tên tri châu cũ bỏ trốn, tên lang đạo phản động Hà Công Thắng kéo lên chiếm châu lị, lập chính quyền, nhưng y đã sớm phải đền tội trước nhân dân. Tỉnh ủy có chủ trương tạm thời sử dụng bộ phận thổ tl, lang đạo trong chính quyền mới nhằm mau chóng ổn định tình hình, tập trung giải quyết các công việc cấp bách trước mắt. Với việc 6 châu miền núi giành được chính quyền, Tổng khởi nghĩa trên địa bàn Thanh Hóa đã giành thắng lợi hoàn toàn.

*

Về hình thức diễn biến, khởi nghĩa ở Thanh Hóa diễn ra từ khởi nghĩa vũ trang từng phần tiến tới Tổng khởi nghĩa, từ nông thôn đến thành thị và từ miền xuôi đến miền ngược. Khởi nghĩa vũ trang từng phần ở Thanh Hóa nổ ra khá sớm (tại Hoằng Hóa, tháng 7.1945).

Tuy hình thức đấu tranh và diễn biến khởi nghĩa ở các phủ huyện có khác nhau, nhưng về bản chất đều là bạo lực cách mạng kết hợp lực lượng và đấu tranh chính trị với lực lượng đấu tranh vũ trang để giành chính quyền. Ở tỉnh lị và các châu huyện miền núi, đấu tranh chính trị chiếm vị trí chủ đạo. Việc giành chính quyền ở các châu miền núi thực chất là sự cải biến từ chính quyền thực dân phong kiến thành chính quyền của nhân dân. Ở hầu hết các huyện, khởi nghĩa diễn ra trong điều kiện hòa bình do chính quyền địch hoặc bị tê liệt, hoặc ngả theo cách mạng, trừ Hoằng Hóa và Thiệu Hóa có đổ máu. Đặc biệt, ở Thanh Hóa xuất hiện “một lực lượng thứ 3”, lợi dụng tình thế cướp chính quyền trước quân khởi nghĩa (ở Đông Sơn, Quan Hóa) nhưng các lực lượng cách mạng kiên quyết đấu tranh trấn áp, giành chính quyền thắng lợi hoàn toàn.

Lực lượng trực tiếp lãnh đạo Cách mạng tháng Tám ở Thanh Hóa là Tỉnh Đảng bộ thông qua Mặt trận Việt Minh với những phương thức rất sáng tạo, linh hoạt. Công tác xây dựng lực lượng và lãnh đạo phong trào được Tỉnh ủy và Việt Minh chú trọng. Từ năm 1941, chiến khu Ngọc Trạo đã được xây dựng làm nơi đứng chân và phát triển lực lượng của tự vệ du kích chống khủng bố, chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền.

Với những chủ trương đúng đắn và sự chuẩn bị chu đáo, khi điều kiện khởi nghĩa chín muồi, thời cơ ngàn năm có một xuất hiện, Đảng bộ và nhân dân Thanh Hóa đã kịp thời chớp thời cơ vùng lên giải phóng quê hương, góp phần vào sự nghiệp giải phóng của cả dân tộc.


(1) Ở Hà Trung, trưa 19.8 cũng có một cuộc đụng độ của lực lượng ta trên đường rút từ Bỉm Sơn về với bọn Nhật làm 2 người chết nhưng trong đêm khởi nghĩa (18.8) đã không xảy ra thương vong.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 14 Tháng Chín, 2011, 10:47:06 am
NGHỆ AN(*)

Nghệ An là tỉnh thuộc Bắc Trung Bộ. Từ cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20, đây là địa bàn diễn ra nhiều cuộc khởi nghĩa, nhiều phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân chống Pháp xâm lược và chính quyền phong kiến tay sai: Khởi nghĩa của Nguyễn Xuân Ôn, Lê Doãn Nhã; khởi nghĩa Giáp Tuất (8174); Phong trào Duy Tân; Hội Phục Việt…

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3.2.1930), một thời gian ngắn sau đó Đảng bộ Nghệ An được thành lập, trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh của nhân dân trong tỉnh mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ - Tĩnh.

Tháng 9.1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Thực hiện nghị quyết của Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 11.1939, Nghệ An cùng với cả nước bước bào cuộc vận động giải phóng dân tộc.

Tháng 3.1940, Tỉnh ủy lâm thời Nghệ An được thành lập, ngay sau đó, Thành ủy Vinh và Huyện ủy lâm thời các huyện Nghi Lộc, Anh Sơn, Diễn Châu, Hưng Nguyên, Thanh Chương… cũng được hình thành. Để tuyên truyền cho phong trào cách mạng trong thời kì mới, Tỉnh ủy Nghệ An đã xuất bản báo “Cải cách”. Phong trào cách mạng của quần chúng ngày càng dân cao trên khắp các địa phương trong tỉnh.

Ngày 14.11.1941, Đội Cung (tức Nguyễn Tri Cung) cùng một số lính khố xanh nổi dậy là binh biến ở đồn Rạng (huyện Thanh Chương), sau đó đánh chiếm đồn khố xanh Đô Lương rồi dự định tiến xuống chiếm thành phố Vinh. Do lực lượng tham gia binh biến còn yếu nên bị thực dân Pháp đàn áp nhanh chóng. Mặc dù thất bại, cuộc binh biến Đô Lương đã gây một tiếng vang lớn trong dư luận cả nước, làm dấy lên một phong trào hưởng ứng rộng rãi của các tầng lớp nhân dân ở Nghệ An.

Chỉ một tháng sau cuộc binh biến Đô Lương, hơn 200 cán bộ, đảng viên và quần chúng ở Nghệ An đã bị địch bắt. Xứ ủy Trung Kỳ đóng tại huyện Yên Thành cũng gặp tổn thất nặng nề. Đầu năm 1942, các tổ chức Đảng ở Nghệ An mới lần lượt được khôi phục trở lại, đến lúc này nghị quyết của Hội nghị Trung ương Đảng tháng 5.1941 và chương trình Mặt trận của Việt Minh cũng được phổ biến vào Nghệ An.

Đến cuối năm 1942, một số đảng viên của tỉnh tìm cách vượt ngục Buôn Ma Thuột trở về Nghệ An và bắt tay vào việc xây dựng, củng cố các tổ chức Đảng trong tỉnh. Một số căn cứ hoạt động được xây dựng ở vùng trung du và miền núi huyện Thanh Chương, Anh Sơn. Tuy nhiên, do sự đàn áp khốc liệt của thực dân Pháp, phong trào cách mạng ở Nghệ An tiếp tục gặp nhiều khó khăn, tổ chức Đảng trong một thời gian dài chịu tổn thất nặng nề.

Cuối năm 1944, phát xít Nhật đưa 10.000 quân vào chiếm đóng Nghệ An, Hà Tĩnh, lập hàng loạt đồn bốt và căn cứ quân sự nhằm án ngữ miền trung Đông Dương, thực hiện chính sách bóc lột vơ vét của cải của nhân dân để phục vụ cho nhu cầu chiến tranh của chúng.

Đêm 9.3.1945, Nhật đảo chính Pháp, làm chủ thành phố Vinh, sau đó lập ra cái gọi là “Việt Nam ủng hộ độc lập đoàn” ở Nghệ An để khuếch trương thế lực, tung ra luận điệu tuyên truyền nhằm đánh lạc hướng dư luận.

Tận dụng thời cơ, hàng trăm cán bộ, đảng viên và quần chúng đã trốn thoát khỏi nhà lao Vinh trở về hoạt động ở các cơ sở trong tỉnh. Đây là thời điểm đang diễn ra nạn đói trầm trọng, ba tháng đầu năm 1945, ở Nghệ An đã có tới 2.250 gia đình chết đói cả nhà. Các cán bộ đảng viên trong tỉnh đã lãnh đạo nhân dân phá kho thóc của Nhật cứu đói, chống các chính sách cướp bóc của Nhật, chuẩn bị lực lượng khởi nghĩa giành chính quyền khi có thời cơ.

Ngày 19.5.1945, hội nghị thành lập Ban vận động Việt Minh liên tỉnh Nghệ - Tĩnh được tổ chức tại thành phố Vinh, một tháng sau đó, chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” cũng được phổ biến và thực hiện ở các địa phương trong tỉnh. Để phục vụ cho công tác tuyên truyền, Việt Minh liên tỉnh quyết định thành lập xưởng in Phạm Hồng Thái, xuất bản báo “Kháng địch”, phát truyền đơn vạch rõ âm mưu của phát xít Nhật và các tổ chức tay sai, kêu gọi quần chúng gia nhập Việt Minh, đứng lên giành độc lập.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và các cấp bộ Việt Minh, cao trào kháng Nhật cứu nước dấy lên trong toàn tỉnh. Từ tháng 5 đến tháng 7.1945, ở Nghệ An có 259 cuộc đấu tranh, các đoàn thể cứu quốc phát triển nhanh chóng, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân; các đội vũ trang tuyên truyền cũng được thành lập, lực lượng chính trị và vũ trang cách mạng trong tỉnh đã sẵn sàng nổi dậy khi thời cơ tới.


(*) Người viết: ThS. Lê Hiến Chương, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 14 Tháng Chín, 2011, 10:49:05 am
Ngày 8.8.1945, Việt Minh liên tỉnh Nghệ - Tĩnh họp đại hội đại biểu để bàn kế hoạch chuẩn bị Tổng khởi nghĩa, đại hội đề ra những nhiệm vụ sau:

- Gấp rút xây dựng lực lượng, đẩy mạnh mọi mặt công tác, nhất là lập các đội tự vệ, tiểu tổ du kích, thực hiện khẩu hiệu quân sự hóa toàn dân, tích cực chuẩn bị khi thời cơ đến sẽ khởi nghĩa giành chính quyền.

- Chia 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh ra làm 6 phân khu, ở Nghệ An có phân khu một (Vinh, Bến Thủy, Hưng Nguyên, Nghi Lộc), phân khu hai (Nam Đàn, Thanh Chương, Anh Sơn), phân khu ba (Diễn Châu, Quỳnh Lưu, Yên Thành, Nghĩa Đàn, Quỳ Châu), phân khu bốn (Con Cuông, Vĩnh Hòa, Tương Dương).

- Chuẩn bị vũ khí và lực lượng đón quân Đồng minh vào tước khí giới quân Nhật, sẵn sàng đối phó khi họ tỏ thái độ xâm lược Việt Nam.

Đại hội cũng bầu ra “Ban Chấp hành Chính phủ” của Việt Minh liên tỉnh.

Ngày 15.8.1945, Mặt trận Việt Minh liên tỉnh nhận được tin Nhật đầu hàng Đồng minh, ngay lập tức lệnh khởi nghĩa được ban bố cho các phân khu và các huyện: “Bố trí ngay việc cướp chính quyền, lập ủy ban nhân dân cách mạng, kế hoạch cướp chính quyền do các địa phương định đoạt”.

Ngày 18.8.1945, Ủy ban khởi nghĩa Quỳnh Lưu đã lãnh đạo quần chúng vũ trang biểu tình kéo đến bao vây huyện đường, buộc tri huyện phải từ chức, lập “chính phủ cách mạng lâm thời” huyện và lãnh đạo nhân dân giành chính quyền ở các tổng, xã.

Nhằm đối phó với âm mưu khôi phục lại quyền thống trị Việt Nam của tàn quân Pháp chạy sang Lào sau ngày 9.3.1945, ngày 18.8.1945, Việt Minh liên tỉnh ra thông tri khẩn cấp, yêu cầu các địa phương “Lập tức cướp chính quyền và tổ chức ngay Cứu quốc quân để sẵn sàng đối phó với âm mưu khôi phục thuộc địa của Pháp”.

Thông tri khẩn cấp này đã đẩy mạnh cuộc khởi nghĩa ở các địa phương. Ngày 19.8.1945, Ban thường trực Việt Minh huyện Hưng Nguyên đã tổ chức lãnh đạo quần chúng giành chính quyền ở huyện; Ủy ban Việt Minh Nghi Lộc cũng vận động đồng bào Thiên Chúa giáo và đông đảo quần chúng biểu tình tại tòa giám mục Xã Đoài, buộc các cố đạo người Pháp phải trao quyền lai cho các linh mục người Việt.

Tại Vinh, ngày 19.8.1945, dưới sự lãnh đạo của Việt Minh, hàng trăm thanh niên mang cờ đỏ sao vàng diễu hành qua các đường phố hô vang các khẩu hiệu cách mạng và thăm dò thái độ của lực lượng Nhật đang đóng ở đây. Sáng ngày 21.8, hàng vạn công nhân, nông dân, nhân dân lao động mang vũ khí tuần hành thị uy tiến vào trung tâm thành phố, đại diện Mặt trận Việt Minh vào gặp Bộ chỉ huy quân đội Nhật. Trước khí thế của quần chúng cách mạng, lực lượng Nhật phải chấp nhận những điều kiện của ta đưa ra. Cùng lúc đó, các đội tự vệ công nhân, thanh niên cùng một số lính bảo an đi theo cách mạng vào đánh chiếm các công sở. Đến 12 giờ, lực lượng cách mạng kéo đến bao vây dinh tỉnh trưởng Nghệ An, buộc viên tỉnh trưởng phải từ chức, bàn giao chính quyền cho cách mạng. Ngay sau đó, Chính phủ cách mạng lâm thời Nghệ An được thành lập và ra mắt quần chúng. Chiều 21.8, lực lượng công nhân ở Vinh cũng lập ra Ủy ban công nhân cách mạng lâm thời. Cuộc khởi nghĩa ở Vinh thắng lợi đã thúc đẩy nhanh chóng việc cướp chính quyền ở các huyện còn lại trong tỉnh.

Từ ngày 22 đến 26.8.1945, các huyện Thanh Chương, Nam Đàn, Nghĩa Lộ, Yên Thành, Tương Dương, Quỳ Châu cũng lần lượt giành chính quyền về tay nhân dân.

Như vậy, chỉ trong vòng 9 ngày (từ ngày 18 đến 26.8.1945), cuộc khởi nghĩa ở Nghệ An đã thắng lợi hoàn toàn.

*

Thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám ở Nghệ An là kết quả của một quá trình chuẩn bị lâu dài, gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, của Mặt trận Việt Minh. Quá trình đó được bắt đầu từ phong trào Xô Viết Nghệ - Tĩnh năm 1930-1931.

Về mặt hình thức, cuộc Cách mạng tháng Tám ở Nghệ An đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên Tổng khởi nghĩa. Ngay sau khi lệnh khởi nghĩa được ban bố, từ ngày 18 đến 19.8.1945, các huyện Quỳnh Lưu, Hưng Nguyên, Nghi Lộc đã thành công giành chính quyền ở địa phương, mở đầu và tạo điều kiện thuận lợi cho việc giành chính quyền ở Vinh trong ngày 21.8.1945.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, các cấp bộ Đảng ở Nghệ An đã thể hiện tính chủ động sáng tạo khi không có điều kiện liên lạc trực tiếp với Trung ương Đảng. Ngay sau khi Nhật đảo chính Pháp ngày 9.3.1945, mặc dù chưa nhận được chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” từ Trung ương, các cán bộ, đảng viên ở Nghệ An trốn thoát khỏi nhà lao Vinh đã chủ động liên lạc với nhau và khôi phục lại các tổ chức Đảng, thành lập Ban vận động Việt Minh liên tỉnh Nghệ - Tĩnh để tập hợp lực lượng, phát động phong trào phá kho thóc của Nhật cứu đói cho nhân dân. Ngay sau khi được tin Nhật đầu hàng Đồng minh, thấm nhuần chủ trương của Đảng, nhận rõ thời cơ cách mạng đã chín muồi, Mặt trận Việt Minh liên tỉnh Nghệ - Tĩnh đã chủ động phát lệnh khởi nghĩa cho các phân khu và các huyện, đồng thời chỉ đạo cho các cơ sở tổ chức ngay Cứu quốc quân để sẵn sàng đối phó với âm mưu quay trở lại của bọn tàn quân Pháp…

Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa tháng Tám 1945 ở Nghệ An đã góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của Cách mạng tháng Tám trong cả nước.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Chín, 2011, 06:18:23 am
HÀ TĨNH(*)

Trong phong trào chống thực dân Pháp xâm lược và triều đình nhà Nguyễn đầu hàng cuối thế kỉ 19, Hà Tĩnh là mảnh đất của nhiều cuộc khởi nghĩa vũ trang: khởi nghĩa “Cờ vàng” dưới sự lãnh đạo của Trần Quang Cán - Nguyễn Duy Hiển (1874), khởi nghĩa Lê Ninh (1885-1887), khởi nghĩa Phan Đình Phùng (1885-1896). Đầu thế kỉ 20, Hà Tĩnh là một trong số những trung tâm của phong trào đấu tranh cách mạng với những hoạt động của hội Duy tân, phong trào chống thuế ở Trung Kỳ (1808), hội Phục Việt - Hưng Nam (1925-1927), Đảng Tân Việt (1928-1929).

Chỉ một tháng sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3.2.1930), Ban Chấp hành Đảng bộ lâm thời Hà Tĩnh được thành lập. Trong phong trào cách mạng 1930-1931, cách mạng Hà Tĩnh (cùng với Nghệ An) đã đạt tới đỉnh cao với sự ra đời của chính quyền Xô Viết ở hầu hết các huyện trong tỉnh.

Tháng 9.1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Hà Tĩnh cùng với cả nước thực hiện nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng tháng 11.1939, bước vào cuộc vận động giải phóng dân tộc, tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền.

Đầu năm 1941, một số chính trị phạm bị giam ở đồn Phố Châu (huyện Hương Sơn) đã vượt ngục, triệu tập hội nghị thành lập lại Huyện ủy Hương Sơn và quyết định phối hợp với lực lượng cách mạng ở huyện Thanh Chương (Nghệ An) nổi dậy đánh chiếm đồn Phố Châu. Lúc này do điều kiện thời cơ chưa chín muồi, Xứ ủy Trung Kỳ đã quyết định hoãn cuộc khởi nghĩa này, tuy nhiên do chỉ thị của Xứ ủy Trung Kỳ về muộn nên đêm 14.5.1941, một số đảng viên ở Hương Sơn đã tự động nổi dậy giết chết tên Ferey, chủ đồn điền Sông Con và trừng trị tên bang tá Hồ Dũng Tài có nhiều tội ác với nhân dân. Thực dân Pháp nhanh chóng huy động lực lượng đàn áp khốc liệt, nhiều tổ chức cơ sở Đảng bị phá vỡ, phong trào cách mạng của Hà Tĩnh tạm thời lắng xuống.

Đầu năm 1943, một số cán bộ cách mạng của Hà Tĩnh vượt ngục Buôn Ma Thuột trở về, bắt tay vào việc xây dựng lại cơ sở sở Đảng trong tỉnh theo tinh thần nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ 8 (1941). Sau một thời gian ngắn, lực lượng cách mạng trong tỉnh dần dần được phục hồi và thống nhất.

Tuy chưa liên lạc được với Xứ ủy Trung Kỳ và Trung ương Đảng nhưng các đảng viên trong tỉnh đã thành lập Hội Việt Nam cứu quốc tỉnh Hà Tĩnh và các cấp cơ sở. Tháng 4.1943, Hội Việt Nam cứu quốc Hà Tĩnh đổi thành Mặt trận cứu quốc hội với chương trình hoạt động cụ thể:

1. Xây dựng tổ chức mặt trận, chú trọng ba tổ chức: Thanh niên, Phụ nữ và Nông hội.

2. Chuẩn bị lương thực, vũ khí, tổ chức tự vệ.

3. Chuẩn bị xây dựng căn cứ.

4. Đấu tranh chống những chủ trương của Pháp - Nhật.

5. Chuẩn bị lực lượng đợi thời cơ cướp chính quyền.

Chỉ sau một thời gian ngắn, cơ sở Hội Việt Nam cứu quốc lần lượt được thành lập ở Can Lộc, Đức Thọ, Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh.

Mặt trận cứu quốc Hà Tĩnh đã xây dựng các căn cứ ở Ngàn Trươi và Truông Bát (Hương Khê); nhiều địa phương cũng chuẩn bị quần áo, giáo mác, lương thực cho các đội tự vệ. Tài liệu, báo, truyền đơn của Đảng bộ, Mặt trận tỉnh được phân phát về các địa phương.

Tháng 8.1943, thực dân Pháp tiến hành khủng bố, phần lớn các cán bộ của Mặt trận từ tỉnh đến cơ sở đều bị bắt, nhưng phong trào cách mạng ở Hà Tĩnh vẫn được duy trì và diễn ra sôi nổi ở nhiều địa phương.

Ngày 9.3.1945, Nhật đảo chính Pháp, làm chủ thị xã Hà Tĩnh, tổ chức thân Nhật ở Hà Tĩnh là “Tân Dân đoàn” vừa mới ra đời đã dùng nhiều luận điệu tuyên truyền bịp bợm để tập hợp lực lượng làm tay sai cho Nhật.

Mặc dù chưa nhận được chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” của Trung ương Đảng, nhưng do nắm vững đường lối, chủ trương của Đảng, đảng viên hoạt động ở các cơ sở hoặc mới trốn thoát khỏi nhà lao Hà Tĩnh đã tổ chức lãnh đạo quần chúng trong tỉnh tiến hành các hình thức đấu tranh phù hợp, đặc biệt là công tác chống đói cho nhân dân. Ở các huyện Hương Sơn, Hương Khê, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh, nhân dân đã nổi dậy phá kho thóc của Nhật, phân phát cho các gia đình bị đói. Ở một số địa phương, cán bộ cách mạng còn quyên góp tiền vào Quảng Bình mua gạo ra giúp dân.


(*) Người viết: ThS. Lê Hiến Chương, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Chín, 2011, 06:21:02 am
Một tháng sau đó, Ban vận động Việt Minh liên tỉnh Nghệ - Tĩnh mới nhận được chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” và họp bàn kế hoạch chuẩn bị giành chính quyền khi thời cơ đến. Đại hội Việt Minh liên tỉnh Nghệ - Tĩnh được triệu tập vào ngày 8.8.19435, đề ra chủ trương:

1. Gấp rút xây dựng và phát mạnh mẽ Mặt trận Việt Minh, các đội cứu quốc, các đội tự vệ và tổ du kích. Thực hiện quân sự hóa toàn dân. Xúc tiến thành lập chiến khu chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang.

2. Phát động phong trào treo cờ, băng rôn, khẩu hiệu, biểu ngữ, rải truyền đơn, tổ chức mít tinh, diễn thuyết và biểu tình tuần hành thị uy để cổ động quần chúng, gây thanh thế cho phong trào.

3. Chia hai tỉnh Nghệ An - Hà Tĩnh làm 6 phân khu và phân công cán bộ phụ trách các phân khu, ở Hà Tĩnh gồm hai phân khu: Phân khu Nam do Ban Việt Minh liên tỉnh phụ trách gồm các huyện Nghi Xuân, Đức Thọ, Hương Sơn, Hương Khê và phân khu Nam Hà (gồm thị xã Hà Tĩnh, Can Lộc, Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh) do Việt Minh Nam Hà lãnh đạo.

4. Chuẩn bị vũ khí và lực lượng đón quân Đồng minh vào tước khí giới quân đội Nhật, và sẵn sàng đối phó khi họ tỏ thái độ xâm lược Việt Nam.

5. Về vấn đề khởi nghĩa, Đại hội chủ trương khi điều kiện cho phép sẽ tiến hành khởi nghĩa ở nông thôn trước, thành thị sau.

Đại hội Việt Minh liên tỉnh Nghệ - Tĩnh vừa bế mạc, các đại biểu phân khu Nam Hà về tới thị xã Hà Tĩnh thì được tin chính phủ Nhật sắp đầu hàng Đồng minh. Dựa theo nghị quyết của Đại hội và chủ trương của Trung ương Đảng, ngày 13.8.1945, lãnh đạo phân khu Nam Hà đã triệu tập hội nghị khẩn cấp tại xã Cẩm Khương, huyện Cẩm Xuyên để thảo luận kế hoạch khởi nghĩa và thành lập Ủy ban khởi nghĩa tỉnh.

Hội nghị nhận định thời cơ khởi nghĩa đã tới và quyết định lấy bạo lực chính trị của quần chúng làm lực lượng chủ yếu để đập tan bộ máy chính quyền bù nhìn tay sai, đồng thời kết hợp thuyết phục dụ hàng bọn cầm đầu để tránh đổ máu, tổ chức biểu tình vũ trang - tuần hành liên tiếp 3 ngày trước khi khởi nghĩa.

Ngày 15.8.1945, Ủy ban khởi nghĩa tỉnh được thành lập. Cũng ngay chiều hôm đó, Ủy ban khởi nghĩa nhận được tin Nhật đầu hàng Đồng minh không điều kiện. Lệnh khởi nghĩa của Ủy ban khởi nghĩa liên tỉnh Nghệ - Tĩnh nhanh chóng được ban hành, yêu cầu Ủy ban khởi nghĩa các phân khu, phủ, huyện, tổng, xã phải tiến hành ngay việc giành chính quyền, lập Ủy ban nhân dân cách mạng ở làng, xã, lập chính phủ lâm thời ở phủ, huyện.

Lúc này, bộ máy chính quyền thân Nhật từ tỉnh đến huyện đã hoàn toàn tê liệt, nhiều đồn binh của địch đóng cửa hoàn toàn, thời cơ ngàn năm có một đã đến. Ngày 16.8.1945, một nhóm thanh niên cứu quốc ở Can Lộc đã mang giáo mác tước vũ khí lực lượng bảo an, bắt viên tri huyện và chiếm giữ huyện đường Can Lộc, đây là điểm mở đầu cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Tĩnh.

Ngày 17.8.1945, dưới sự lãnh đạo của Ủy ban khởi nghĩa tỉnh, quần chúng nhân dân đã nổi dậy giành chính quyền ở huyện Thạch Hà, Cẩm Xuyên.

Sáng 18.8.1945, tỉnh trưởng Hà Tĩnh từ chức và giao chính quyền cho lực lượng cách mạng. Ngay sau đó, tại cuộc mít tinh tổ chức ở sân vận động thị xã, chính phủ (ủy ban) nhân dân lâm thời tỉnh ra mắt quần chúng.

Từ ngày 18 đến 21.8.1945, các huyện Kỳ Anh, Đức Thọ, Nghi Xuân, Hương Sơn, Hương Khê cũng hoàn thành việc giành chính quyền về tay nhân dân. Đồng thời với cuộc khởi nghĩa, nhân dân Hà Tĩnh cũng chuẩn bị lực lượng sẵn sàng đánh bại âm mưu lập lại chính quyền thực dân trên đất Nghệ - Tĩnh của một số tàn quân Pháp chạy sang Lào sau sự kiện ngày 9.3.1945.

Chỉ trong một thời gian ngắn (10 - 21.8.1945), nhân dân Hà Tĩnh dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, Mặt trận Việt Minh đã đứng dậy tiến hành thắng lợi cuộc Cách mạng tháng Tám trên quê hương mình, lật nhào mọi thế lực thống trị của thực dân phong kiến tay sai.

*

Cách mạng tháng Tám ở Hà Tĩnh diễn ra dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương và Mặt trận Việt Minh, nằm trong diễn biến chung của cuộc Tổng khởi nghĩa trên phạm vi cả nước, đồng thời lại mang những đặc điểm riêng do bối cảnh lịch sử quy định.

Về mặt hình thái diễn biến, Cách mạng tháng Tám ở Hà Tĩnh đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên Tổng khởi nghĩa, ngay sau khi nhận được chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, Mặt trận Việt Minh liên tỉnh Nghệ - Tĩnh đã xúc tiến việc thành lập các chiến khu ở vùng rừng núi thuộc huyện Hương Khê, chuẩn bị các lực lượng tại chỗ làm cơ sở cho cuộc Tổng khởi nghĩa sau này. Ngay sau khi nhận được tin Nhật đầu hàng Đồng minh, cuộc khởi nghĩa đã diễn ra liên tiếp ở ba huyện Can Lộc, Cẩm Xuyên, Thạch Hà, chính thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở các địa phương này đã mở đường và tạo điều kiện thuận lợi cho việc giành chính quyền tại tỉnh lị Hà Tĩnh trong ngày 18.8.1945, đồng thời thắng lợi của cuộc khởi nghĩa tại thị xã Hà Tĩnh lại trở thành nhân tố thúc đẩy hàng loạt cuộc khởi nghĩa ở các huyện còn lại diễn ra nhanh chóng.

Cách mạng tháng Tám ở Hà Tĩnh, cũng như các địa phương trong cả nước, diễn ra tương đối hòa bình, kẻ địch hoàn toàn bị tê liệt trước sức mạnh của quần chúng nhân dân. Bên cạnh đó, Ủy ban khởi nghĩa các cấp đã có chính sách khôn khéo đối với lực lượng binh lính Nhật đóng ở trong tỉnh, tránh đổ máu, thương vong vô ích và giúp cách mạng giành được thắng lợi trọn vẹn.

Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám ở Hà Tĩnh là kết quả của một quá trình đấu tranh - chuẩn bị lâu dài, gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương. Cũng cần thấy rằng, cuộc cách mạng và các cơ sở Đảng ở đây đã có một quá trình tập dượt lâu dài và có nhiều kinh nghiệm quý báu trong việc giành chính quyền, đặc biệt qua phong trào cách mạng 1930-1931.

Trong thực tiễn chỉ đạo cách mạng, mặc dù không có điều kiện liên lạc thường xuyên và trực tiếp với xứ ủy Trung Kỳ và Trung ương Đảng, nhưng các cấp bộ Đảng ở Hà Tĩnh luôn thể hiện tính chủ động sáng tạo trong từng hoàn cảnh cụ thể: thành lập Hội Việt Nam cứu quốc tỉnh Hà Tĩnh và xây dựng mặt trận Cứu quốc các cấp năm 1943 khi chưa liên lạc được với Xứ ủy và Trung ương; lãnh đạo nhân dân nổi dậy phá kho thóc của Nhật cứu đói, chuẩn bị sẵn mọi lực lượng cần thiết cho cuộc khởi nghĩa ngay sau khi Nhật đảo chính Pháp ngày 9.3.1945 mặc dù chưa nhận được chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”; ban hành lệnh khởi nghĩa trong toàn tỉnh ngay sau khi được tin Nhật đầu hàng Đồng minh, lúc chưa nhận được lệnh Tổng khởi nghĩa; lực lượng cách mạng ở Can Lộc đã lập tức cướp chính quyền ngay sau khi nhận thấy thời cơ đã đến ở địa phương mình, không thụ động chờ sự chỉ đạo Ủy ban khởi nghĩa tỉnh.

Với đường lối đúng đắn của Trung ương Đảng, sự sáng tạo, linh hoạt, chủ động của Đảng bộ và tính tích cực của quần chúng nhân dân, Hà Tĩnh trở thành một trong những tỉnh giành chính quyền sớm nhất trong cả nước.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Chín, 2011, 06:24:12 am
QUẢNG BÌNH(*)

Quảng Bình là một tỉnh có truyền thống yêu nước, cách mạng. Từ phong trào Cần vương đến khi Đảng ra đời, phong trào đấu tranh của nhân dân Quảng Bình luôn tiếp diễn mạnh mẽ. Đây là một cơ sở cho sự thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945.

Sau khi chuyển hướng hoạt động tư công khai vào bí mật (1839), phong trào cách mạng trong tỉnh được giữ vững; các chi bộ Đảng ở Lộc Điền, Hậu Lộc, Lữ Phong, Trung Thôn, Tiên Lễ, Lệ Thủy, Tuyên Hóa, Quảng Trạch, Quảng Ninh, thị xã Đồng Hới được củng cố và hoạt động mạnh mẽ, xây dựng được các tổ chức và phong trào quần chúng. Các đội xích vệ được thành lập để bảo vệ cơ quan và đến năm 1942 trở thành đội Tự vệ cứu quốc ở nhiều địa phương.

Trong những năm 1943-1944, phong trào cách mạng Quảng Bình bị thực dân Pháp khủng bố, đàn áp nặng, song đến cuối năm 1944 thì được phục hồi dần. Các tổ chức “biến tướng” dưới hình thức các đội Cứu tế phát triển, thực chất là các tổ chức của Mặt trận Việt Minh. Tỉnh bộ Việt Minh tỉnh được thành lập, do đồng chí Hồng Xích Tâm, cán bộ của Tổng bộ Việt Minh, chủ trì tổ chức.

Sau ngày Nhật đảo chính Pháp, phong trào Việt Minh ngày càng phát triển. Một nhiệm vụ khẩn cấp lúc bấy giờ là cứu đói cho nhân dân. Việt Minh đã dùng sức mạnh của quần chúng, buộc tuần vũ Quảng Bình Nguyễn thơ phải đem mấy thuyền gạo phát cho dân. Cuộc đấu tranh của nhân dân chống đi phu, chống bắt nộp thóc, chống Nhật phá lúa trồng đay, mạnh nhất ở vùng Lệ Thủy. Thanh niên là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong phong trào đấu tranh.

Tháng 5.1945, đồng chí Trần Hữu Đức, đại diện của Xứ ủy Trung Kỳ, triệu tập Hội nghị cán bộ Đảng của các huyện trong tỉnh về thị xã Đồng Hới bàn việc chuẩn bị Tổng khởi nghĩa. Hội nghị quyết định tiến hành huấn luyện cán bộ, lập căn cứ cách mạng… Hội nghị bầu Ban lãnh đạo tỉnh, do đồng chí Hồng Xích Tâm làm Bí thư. Sau đó, Hội nghị Đá Giăng bàn về kế hoạch thực hiện Nghị quyết Hội nghị Đảng bộ tỉnh nêu trên và thành lập Tỉnh bộ Việt Minh Quảng Bình, do đồng chí Đoàn Khuê làm chủ nhiệm. Hội nghị Việt Minh quyết định thành lập các chiến khu Trung Thuần (ở bắc Quảng Bình) và Võ Xá (ở phía nam tỉnh).

Sau các hội nghị của Đảng và Mặt trận Việt Minh tỉnh nêu trên, phong trào chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa phát triển mạnh mẽ. Các hội cứu quốc được thành lập ở hầu khắp các huyện, xã. Thanh niên trong tỉnh nô nức về các chiến khu luyện tập quân sự. Các cơ sở trong Bảo an binh của địch hoạt động có hiệu quả: một số binh sĩ được đưa lên chiến khu tập luyện quân sự cho tự vệ. Bộ máy chính quyền địch rệu rã, nhiều người liên hệ với Việt Minh xin được che chở. Tỉnh trưởng Quảng Bình Nguyễn Thơ liên lạc với Việt Minh, chuyển cho cách mạng 30 khẩu súng lên chiến khu Võ Xá.

Ngày 15.8, khi được tin Nhật đầu hàng Đồng minh, tỉnh ủy phát động cuộc khởi nghĩa, mặt khác kêu gọi Nhật trung lập, không can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. 4 sĩ quan và lính Nhật chạy sang hàng ngũ cách mạng.

Ngày 19.8, trong một cuộc khởi nghĩa của Tỉnh ủy, Ủy ban khởi nghĩa tỉnh, sau này trở thành Ủy ban nhân dân lâm thời được thành lập. Đồng thời Ủy ban khởi nghĩa các huyện cũng được thành lập. Hội nghị tập trung vào huyện xây dựng kế hoạch phát động và lãnh đạo quần chúng nổi lên khởi nghĩa giành chính quyền. Tình hình cách mạng trong tỉnh đã chín muồi, quần chúng đã đứng lên đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Ủy ban khởi nghĩa tỉnh và Ủy ban các cấp. Cuộc khởi nghĩa thắng lợi ở một số tỉnh càng cổ vũ nhân dân Quảng Bình hăng hái vùng lên giành thắng lợi.

Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền, được chuẩn bị từ lâu, bắt đầu ở Quảng Bình một cách thuận lợi, song không phải không gặp khó khăn.

Sau hội nghị ngày 19.8, các cán bộ về ngay các huyện để gấp rút thực hiện quyết nghị khởi nghĩa. Sáng sớm ngày 23.8, Ủy ban khởi nghĩa huy động hai lực lượng chính là tự vệ Võ Xá, tự vệ từ chiến khu Trung Thuần kéo về và công nhân xe lửa; cùng với tự vệ, quần chúng chia nhau tiến vào thị xã Đồng Hải(1). Được quần chúng trong thị xã nhiệt liệt hưởng ứng và lực lượng Việt Minh bí mật trong các công sở của địch tiếp ứng, đội tự vệ chiếm giữ nhanh chóng Sở bưu điện, Sở kho bạc, đường giao thông, cầu. Đội tự vệ của công nhân, cơ lính Bảo an làm nội ứng, bao vây đồn Bao an binh. Sau đó, quần chúng kéo đến vây dinh Tỉnh trưởng. Tỉnh trưởng Nguyễn Thơ đầu hàng cách mạng. Một số quan lại ngoan cố, cố chống lại cách mạng bị bắt giữ. Lính Nhật lúc đầu hoảng hốt, bố trí lực lượng để chống lại cách mạng, nhưng sau khi được nói rõ chính sách của Việt Minh, chúng không thực hiện kế hoạch nữa. Chỉ trong mấy tiếng đồng hồ, toàn bộ thị xã và dinh thự, công sở của địch ở tỉnh Quảng Bình đã lọt vào tay quân cách mạng.

Cũng ngày 23.8, ở 4 huyện (trừ Tuyên Hóa 25.8 mới khởi nghĩa) lực lượng cách mạng đã xóa bỏ chính quyền cũ của địch. Ủy ban khởi nghĩa các huyện chuyển ngay thành Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời. Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời ra mắt nhân dân ngay sau khi chiếm huyện lị và được nhân dân nhiệt liệt hoan nghênh.

Bộ máy chính quyền cấp huyện được thiết lập:

- Ở Quảng Trạch, đồng chí Phạm Giang Hồ làm Chủ tịch;

- Bố Trạch - đồng chí Dương Đình Dư làm Chủ tịch;

- Quảng Ninh - đồng chí Phạm Xuân Tuynh làm Chủ tịch;

- Lệ Thủy - đồng chí Võ Văn Quyết làm Chủ tịch;

- Tuyên Hóa - đồng chí Nguyễn Tế làm Chủ tịch.

Chính quyền ở thị xã cũng nhanh chóng được thành lập, tiếp đó là chính quyền tỉnh. Sau khi chiếm thị xã, quần chúng kéo về tập trung trước dinh Tỉnh trưởng để chào mừng lễ ra mắt của chính quyền cách mạng tỉnh. Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh gồm các đồng chí:

      Trần Văn Sở, Chủ tịch;
      Hoàng Văn Diệm, Phó chủ tịch;
      Đoàn Khuê, Ủy viên quân sự;
      Trần Hường, Ủy viên tư pháp và trinh sát;
      Võ Thuần Nho, Ủy viên tuyên truyền;
      Lê An, Ủy viên kinh tế;
      Lê Triễn, Ủy viên dân sinh.

Chính quyền cách mạng tuyên bố bãi bỏ toàn bộ bộ máy chính quyền đế quốc phong kiến từ tỉnh đến xóm, thôn, thiết lập chính quyền mới. Các thứ thuế cũ đều bị bãi bỏ. Tù nhân ở trại giam được phóng tích. Các công sở của tỉnh vẫn tiếp tục làm việc bình thường. Để giải quyết nạn đói, ta một mặt kêu gọi tăng gia sản xuất, một mặt tổ chức đón chặn ngoài biển, tịch thu được hàng chục thuyền gạo của Nhật đem phân phát cho nhân dân và giúp đỡ các tỉnh bạn như Nghệ An, Hà Tĩnh.

Mấy hôm sau, chính quyền cách mạng lập phiên tòa công khai xét xử những tên Việt gian tay sai của địch trước đây và xử tên mật thám gian ác Phạm Thưởng và tên án sát Đặng Hiếu An.

*

Như vậy, cuộc khởi nghĩa ở Quảng Bình đã thành công, góp phần không nhỏ vào thắng lợi của Cách mạng tháng Tám. Nó tô đậm thêm truyền thống của dân tộc, sự tài tình trong lãnh đạo của Đảng, sự sáng tạo, linh hoạt của địa phương.


(*) ThS. Lê Hiến Chương, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
(*) Tức Đồng Hới


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Chín, 2011, 06:27:56 am
QUẢNG TRỊ(*)

Là một tỉnh thuộc Miền Trung, trong những năm cuối thế kỉ 19, Quảng Trị đã cùng nhân dân cả nước kiên cường chống lại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp. Từ năm 1885, nơi đây trở thành căn cứ kháng chiến của phe chủ chiến triều đình nhà Nguyễn, là nơi phát khởi của phong trào Cần Vương cứu nước (1885-1896).

Sang đầu thế kỉ 20, các thành công yêu nước như Duy tân hội, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên… và các hoạt động yêu nước khác ở Quảng Trị phát triển mạnh mẽ. Tháng 5.1929, tổ cộng sản đầu tiên ở Quảng Trị ra đời và nhanh cóng có mối liên hệ với nhóm cộng sản Miền Bắc. Do vậy, chỉ 1 tháng sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Tỉnh ủy lâm thời Quảng Trị được thành lập (tháng 4.1930). Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong cao trào 1930-1931 và thời kì Mặt trận dân chủ 1936-1939, Quảng Trị luôn là một trong những tỉnh có phong trào cách mạng phát triển mạnh.

Tháng 9.1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Chấp hành chủ trương chung, cách mạng ở Quảng Trị rút vào hoạt động bí mật. Khi khởi nghĩa Bắc Sơn nổ ra, Tỉnh ủy Quảng Trị đã tổ chức một cuộc trưng cầu ý kiến về vũ trang khởi nghĩa. Các Huyện ủy và Ban chấp hành quần chúng đều cho là thời cơ khởi nghĩa đã tới, yêu cầu chuẩn bị khởi nghĩa (thành lập du kích và tìm địa điểm làm căn cứ địa). Đề nghị này không được chấp nhận.

Sau Nghị quyết Trung ương VIII (tháng 5.1941), các Ủy ban Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc, các đội tự vệ vũ trang… bắt đầu ra đời, nhiều cuộc mít tinh kêu gọi quần chúng đánh đuổi Pháp, Nhật được tổ chức… Tỉnh ủy cho xuất bản báo “Cứu quốc” để tuyên truyền chủ trương chính sách của Đảng và Mặt trận Việt Minh tới các đảng viên và quần chúng.

Bị khủng bố, hầu hết các cán bộ, đảng viên Quảng Trị bị bắt, việc liên lạc với Trung ương và Xứ ủy bị gián đoạn. Mãi đến tháng 6.1944, hai đồng chí Đảng ủy viên còn lại từ Thái Lan trở về, cùng với một số đồng chí vừa mãn hạn tù móc nối lại một số cơ sở cũ và xây dựng thêm các cơ sở mới, lập lại được Phủ ủy Vĩnh Linh và từng bước phục hồi phong trào. Trong khi đó, chi bộ Đảng Cộng sản trong nhà lao Quảng Trị vẫn duy trì hoạt động. Sau khi Nhật đảo chính Pháp, ngày 12.3.1945, chi bộ nhà lao đã bàn cách hoạt động sau khi ra tù. Ở nhà tù Buôn Ma Thuột, các đồng chí đảng viên quê Quảng Trị cũng họp phân công nhau về hoạt động ở các địa phương sau khi được trả tự do.

Ngày 25.3.1945, địch mở cửa nhà lao Quảng Trị, nhiều đảng viên ra tù, trở thành một bộ phận quan trọng bổ sung cho lực lượng lãnh đạo cách mạng của tỉnh. Trong không khí tiền khởi nghĩa sục sôi của cả nước, một hội nghị nhanh chóng được triệu tập tại Liêm Công Đông (Vĩnh Linh) bầu Tỉnh ủy lâm thời và đề ra các chủ trương hoạt động trước mắt.

Tháng 6.1945, nhận được chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, một hội nghị thứ hai được triệu tập tại Liêm Công Đông để quán triệt chỉ thị và quyết định:

1. Phát triển các độ tự vệ, đẩy mạnh công tác tuyên truyền xung phong, xây dựng các chiến khu, vũ trang toàn dân tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền.

2. Tiếp tục vạch mặt bọn phát xít, tay sai và mở rộng ảnh hưởng của Việt Minh, lập Ủy ban giải phóng tỉnh và huyện. Hai phủ Triệu Phong và Vĩnh Linh được chọn làm điểm chỉ đạo rút khởi nghĩa trong toàn tỉnh.

Cuối tháng 7.1945, khu giải phóng Triệu Phong ra đời; Ủy ban dân tộc giải phóng được thành lập để điều hành mọi công việc trong khu giải phóng. Sau Triệu Phong, các địa phương khác như Vĩnh Linh, Gio Linh, Hải Lăng, Cam Lộ… đều lần lượt thành lập các Ủy ban dân tộc giải phóng của phủ, huyện mình. Các ủy ban này làm nhiệm vụ tổ chức, xây dựng các đội tự vệ chiến đấu, quyên góp lương thực, tổ chức các cuộc mít tinh, diễn thuyết… chuẩn bị cho khởi nghĩa giành chính quyền.

Lúc này, phong trào Việt Minh đã phát triển mạnh trong toàn tỉnh. Các đội tuyên truyền thường xuyên tổ chức mít tinh, diễn thuyết ở những noi đông người, như chợ phiên, bến đò… cả ở những vùng Công giáo như Vạn Kim, An Du, An Lập… Quần chúng khắp nơi tích cực rèn sắm vũ khí, may cờ, treo khẩu hiệu, quyên góp, tích trữ lương thực… Cùng với các đội tự vệ, quần chúng nhiều nơi nổi dậy giành quyền làm chủ khiến chính quyền địch bị tê liệt.

Cho đến đầu tháng 8.1945, khí thế cách mạng đã sục sôi trên toàn tỉnh Quảng Trị. Ảnh hưởng của Việt Minh ngày càng lên cao và lan rộng. các tầng lớp nhân dân Quảng Trị đã sẵn sàng nổi dậy giải phóng quê hương khi thời cơ đến.

Được tin phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh, trong các ngày 14, 15 và 16.8, nhiều cuộc mít tinh biểu tình, tuần hành thị uy diễn ra liên tục ở khắp các phủ huyện. Dù chưa nhận được chủ trương của cấp trên nhưng trước sự chuyển biến mau lẹ của tình hình, ngày 18.8, Ban thống nhất Đảng bộ Quảng Trị (tức Tỉnh ủy lâm thời) đã triệu tập hội nghị thống nhất lực lượng chuẩn bị khởi nghĩa. Trong thời gian tiến hành, hội nghị nhận được tin báo Hà Tĩnh đã giành được chính quyền (18.8) và nhận lệnh Tổng khởi nghĩa của Trung ương (19.8), nên đã nhanh chóng vạch kế hoạch chuẩn bị mọi mặt cho khởi nghĩa thắng lợi. Ủy ban khởi nghĩa được thành lập.

Về kế hoạch khởi nghĩa, hội nghị quyết định tiến hành giành chính quyền đồng loạt ở các địa phương ngày 23.8, riêng hai huyện Hướng Hóa và Cam Lộ, do còn nhiều quân địch đóng, nên phải chậm lại 1, 2 ngày. Các địa phương lập ra Ủy ban khởi nghĩa của phủ, huyện mình để lãnh đạo quần chúng, riêng khởi nghĩa ở tỉnh lị Quảng Trị do Ủy ban khởi nghĩa tỉnh trực tiếp phụ trách.


(*) Người viết: ThS. Lê Hiến Chương, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Chín, 2011, 06:30:21 am
Tham gia khởi nghĩa gồm cả lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang. Lực lượng vũ trang được chia làm hai bộ phận: tự vệ chiến đấu làm nhiệm vụ chiếm đóng và các đội tự vệ khác sẵn sàng chiến đấu khi cần thiết. Lực lượng cách mạng ơ phủ, huyện nào tự chịu trách nhiệm ở phủ, huyện đó, còn khởi nghĩa ở tỉnh lị chủ yếu giao cho lực lượng cách mạng phủ Triệu Phong và một số xã quanh thị xã (thuộc phủ Hải Lăng) phối hợp với nhân dân nội thị tiến hành.

Chiều ngày 22.8, các loại vũ khí, lương thực, cờ trống, băng rôn, khẩu hiệu đã được nhân dân chuẩn bị đầy đủ. Việc bố trí các địa điểm tập trung quần chúng, trang bị vũ khí và phân công nhiệm vụ cho các đơn vị tự vệ vũ trang cũng đã hoàn tất. Để tạo điều kiện thuận lợi cho khởi nghĩa ở tỉnh lị thành công và tránh đổ máu, Ủy ban khởi nghĩa đã cử các phái đoàn đến thương thuyết với bộ tư lệnh quân Nhật và lực lượng bảo an binh.

Chiều 22.8, lệnh khởi nghĩa trong toàn tỉnh chính thức được ban ra.

Vào 19 giờ ngày 22.8, ba đại đội tự vệ vũ trang tiến vào thị xã Quảng Trị, biểu tình tuần hành, hô lớn các khẩu hiệu “Đánh đổ chính quyền bù nhìn Bảo Đại - Trần Trọng Kim”, “Thành lập chính quyền nhân dân cách mạng”… Đông đảo nhân dân thị xã nhiệt liệt hưởng ứng và tham gia vào đoàn biểu tình khắp thị xã. Sau đó, các đội tự vệ vũ trang trở về nơi tập kết còn các cán bộ Việt Minh vẫn tiếp tục phát động quần chúng tổ chức mít tinh, diễn thuyết.

Lúc 1 giờ ngày 23.8, các đơn vị làm nhiệm vụ chiến đấu đột nhập vào nội thị chiếm lĩnh tất cả các vị trí đã được phân công từ trước. Cùng lúc, các đơn vị làm nhiệm vụ biểu tình thị uy chính trị cũng từ các hướng tiến về thị xã. Theo lệnh của Ủy ban khởi nghĩa, toàn bộ các đơn vị chuyển sang biểu tình thị uy. Cả thị xã như một biển người, rừng băng cờ, khẩu hiệu và tiếng trống mõ, thanh la vang dậy đất trời. Chính quyền địch hoàn toàn tê liệt, không có phản ứng gì.

Đúng 5 giờ sáng ngày 23.8, cờ “quẻ li” trên dinh Tỉnh trưởng và cờ vàng trước hành cung trong thành bị hạ xuống, thay bằng cờ đỏ sao vàng - báo hiệu cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở thị xã Quảng Trị kết thúc thắng lợi. Ủy ban khởi nghĩa tỉnh tổ chức một cuộc mít tinh mừng thắng lợi ngay trước dinh Tỉnh trưởng, tuyên bố xóa bỏ chính quyền cũ, thành lập chính quyền cách mạng. Ủy ban khởi nghĩa chuyển thành Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời để quản lí điều hành công việc ở địa phương. Ngay sau đó, Ủy ban đã cử cán bộ đi tiếp quản các công sở của ngụy quyền, bắt giữ bọn Việt gian phản động nhằm bảo vệ chính quyền cách mạng mới ra đời.

Cùng với khởi nghĩa ở thị xã Quảng Trị, trong đêm 21 ngày 23.8, các địa phương khác cũng đồng loạt nổi dậy giành chính quyền.

Ở hai phủ Triệu Phong và Vĩnh Linh, khởi nghĩa diễn ra và giành thắng lợi ngay trong đêm 22.8 mà không vấp phải hành động kháng cự nào của kẻ địch. Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời phủ cũng được thành lập và tiến hành tổ chức chính quyền cách mạng cơ sở.

Ở phủ Hải Lăng, lệnh khởi nghĩa của Ủy ban khởi nghĩa phủ phát ra lúc 1 giờ ngày 22.8. Các lực lượng tự vệ và quần chúng cách mạng nhanh chóng chiếm phủ lị. Tri phủ Hải Lăng cùng nha lại buộc phải chấp hành yêu cầu của Ủy ban khởi nghĩa bàn giao lại chính quyền. Trung đội lính bảo an cũng xin nộp toàn bộ vũ khí, hồ sơ, tài liệu. Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời phủ được thành lập, tuyên bố thực hiện 10 chính sách Việt Minh.

Tại Gio Linh, từ sáng 22.8, quần chúng và các đơn vị tự vệ chiến đấu trang bị vũ khí thô sơ tự tạo kéo từ hai tổng An Xá và An Mỹ Hạ qua các làng vào huyện lị tuần hành thị uy. Vào 4 giờ sáng 23.8, các lực lượng cách mạng bắt đầu chia làm 2 cánh quân đánh chiếm huyện đường, bắt bọn nha lại, thu hồ sơ tài liệu, triện đồng, tước vũ khí của bảo an binh và chiếm các cơ quan trọng yếu ở huyện lị (nhà ga, bưu điện…). Đến 8 giờ sáng 23.8, Ủy ban khởi nghĩa tổ chức cuộc mít tinh tại sân huyện đường chào mừng thắng lợi và lập ra Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời.

Cuộc khởi nghĩa ở huyện lị Cam Lộ và thị trấn Đông Hà - nơi quân đội phát xít Nhật đang chiếm đóng diễn ra vào sáng 24.8. Ở huyện lị, trước khí thế cách mạng của quần chúng, tri huyện Huỳnh Khắc Thẩm tự nguyện đem ấn triện, sổ sách ra giao nộp chính quyền cách mạng. Ở thị trấn Đông Hà, quân Nhật ở tư thế sẵn sàng đàn áp cuộc biểu tình của quần chúng, nhưng đã sớm bị tự vệ ta khống chế và tước vũ khí.

Ở Hướng Hóa, huyện miền núi xa nhất tỉnh, trước đà thắng lợi của cách mạng trong cả tỉnh, tri huyện xin nộp con dấu và giao nộp chính quyền cho cách mạng rồi bỏ trốn. Chính quyền cách mạng được thành lập vào ngày 25.8.

Như vậy, đến ngày 25.8, khởi nghĩa giành chính quyền trên toàn tỉnh Quảng Trị đã hoàn toàn thắng lợi.

*

Khởi nghĩa ở Quảng Trị nổ ra tương đối muộn, khi nhiều địa phương khác trong cả nước đã giành chính quyền. Đó là điều kiện thuận lợi và cũng là nguồn cổ vũ quyết tâm của Đảng bộ và nhân dân Quảng Trị đứng lên giải phóng quê hương. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh cũng thể hiện sự sáng tạo, linh hoạt của lãnh đạo địa phương. Trong thời kì tiền khởi nghĩa, phong trào cứu đói, chống bắt phu, bắt lính ở Quảng Trị không phải là những phong trào điển hình, song những hoạt động vũ trang tuyên truyền và không khí sắm sửa vũ khí đánh Nhật nơi đây lại hết sức sôi động. Qua đó, lực lượng chính trị được rèn luyện, tập dượt kĩ càng đã trở thành lực lượng hùng hậu góp phần quyết định vào thắng lợi của khởi nghĩa. Thêm vào đó, Ủy ban khởi nghĩa tỉnh lại có những chính sách sáng suốt và khôn khéo, đàm phán thuyết phục các lực lượng quân Nhật và Bảo an để tránh thương vong.

Trong lãnh đạo, chỉ đạo quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền, Đảng bộ và tỉnh bộ Việt Minh Quảng Trị đã quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng và có nhiều sáng tạo trong chuẩn bị khởi nghĩa: xây dựng khu giải phóng, lập Ủy ban dân tộc giải phóng các địa phương, tổ chức các lực lượng tự vệ chiến đấu… Những nhân tố này góp phần đưa đến thắng lợi của Tổng khởi nghĩa ở Quảng Trị và thắng lợi của cả dân tộc mùa thu 1945.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Chín, 2011, 06:40:41 am
THỪA THIÊN - HUẾ(*)

Trong thời Pháp thuộc, Huế là trung tâm chính trị của Trung Kỳ. Chính quyền thuộc địa của Pháp, đại diện là viên Khâm sứ, thông qua Nam triều để cai trị, đàn áp, bốc lột nhân dân. Cùng với nhân dân Trung Kỳ, nhân dân cả nước, đồng bào Thừa Thiên - Huế luôn có mặt trong trận tuyến chống Pháp, phong kiến tay sai để giành độc lập dân tộc.

Từ sau khi Đảng ra đời, Huế là một trung tâm lãnh đạo của Đảng ở Trung Kỳ. Nhiều tờ báo tiến bộ, cách mạng, các hội ái hữu, hội tương tế liên tục hoạt động, góp phần vào thắng lợi của phong trào 1936-1939.

Khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra (9.1939), theo chủ trương chung của Trung ương, các cơ sở Đảng ở Thừa Thiên - Huế rút vào bí mật. Tuy vây, trước đó, nhiều cán bộ chủ chốt của Đảng, hàng loạt cán bộ đảng viên, nhân sĩ tiến bộ bị bắt vào nhà lao. Cơ sở cách mạng ở thành phố Huế và 6 huyện, trong đó có cơ quan bí mật của Tỉnh ủy bị khám xét.

Giữa năm 1940, thấy được nhu cầu cần có tổ chức Đảng trong nhà lao để lãnh đạo các cuộc đấu tranh chống chế độ lao tù khắc nghiệt, đồng thời để giữ mối liên lạc với bên ngoài và với Đảng, đồng chí Nguyễn Chí Thanh cùng một số cán bộ chủ chốt khác của Đảng bộ tỉnh quyết định thành lập chi bộ nhà lau Thừa Phủ. Đồng chí Tố Hữu được cử làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Chí Thanh phụ trách tuyên truyền giáo dục.

Chi bộ nhà lao đã vận động, giáo dục, lôi kéo tù thường phạm và lính gác nhà lao ngả về với cách mạng. Một số lính gác và tù khổ sai nhận nhiệm vụ làm liên lạc đưa tài liệu của chi bộ ra bên ngoài. Chi bộ nhà lao Thừa Phủ thực sự trở thành đầu mối chỉ đạo hoạt động cách mạng, cả trong và ngoài nhà tù. Qua sự giới thiệu của chi bộ nhà lao, một số tổ chức Đảng ở Phú Lộc, Phong Điền, Quảng Điền đã liên lạc được với nhau.

Để có thêm cán bộ cho Huế trong hoàn cảnh phải rút vào hoạt động bí mật, Trung ương cử các đồng chí Đặng Thi và Lê Chưởng (ủy viên Xứ ủy Trung Kỳ) tăng cường cho thành phố Huế. Đảng bộ Huế được thành lập do đồng chí Lê Chưởng làm Bí thư. Mặc dù phải hoạt động trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, Thành ủy Huế vẫn bí mật xây dựng được một số chi bộ ở lao Vinh, An Cựu và Kim Long.

Đêm 13 rạng ngày 14.7.1940, Thành ủy Huế quyết định rải truyền đơn nhiều nơi trong thành phố để kỉ niệm ngày Cách mạng tư sản Pháp (1789) và khơi dậy phong trào đấu tranh cách mạng trong tỉnh.

Sau khi Nhật vào Đông Dương, ở Huế có đồn lính Nhật đóng gần dinh Phủ Doãn, một tòa Lãnh sự được thiết lập, do Yokohama làm Tổng lãnh sự. Từ Huế, Nhật xây dựng một hệ thống đường dây liên lạc với Đà Nẵng, Đông Hà, Đồng Hới, Lào và nhiều nơi khác. Cùng với sự thống trị của thực dân Pháp, ách áp bức, bóc lột của Nhật đè nặng lên nhân dân Thừa Thiên - Huế, cũng như đồng bào cả nước.

Phong trào đấu tranh của quần chúng được giữ vững, thông qua các tổ chức xã hội như “Thanh niên Phật tử”, “Hội Thể dục thể thao”, “Hội Truyền bá quốc ngữ”. Song lúc bấy giờ cơ sở Đảng của Thừa Thiên - Huế không liên lạc được với Trung ương và Xứ ủy. Mãi đến tháng 7.1942, Đảng bộ Tỉnh mới được lập lại, lãnh đạo quần chúng đấu tranh mạnh mẽ hơn, chuẩn bị lực lượng khởi nghĩa giành chính quyền khi thời cơ đến.

Sau khi đảo chính Pháp, quân phiệt Nhật lừa bịp tuyên bố “trao trả độc lập cho Việt Nam”. Bảo Đại ra đạo dụ “Tuyên cáo Việt Nam độc lập”, tự xem đã “khôi phục quyền độc lập” và “quyết chí hợp tác với nước Nhật”. Ngày 17.4, Chính phủ Trần Trọng Kim được thành lập.

Trước tình hình ấy, Tỉnh ủy lâm thời họp Hội nghị cán bộ Toàn tỉnh vào ngày 23.5.1945, tại đầm Cầu Hai (Phú Lộc) trên một chiếc thuyền lớn, quyết định đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống Nhật, ra sức chuẩn bị lực lượng, cùng cả nước khởi nghĩa giành chính quyền. Hội nghị bầu ra Ban Chấp hành Việt Minh tỉnh, do đồng chí Nguyễn Sơn làm Bí thư. Lúc bấy giờ ở Huế có hai tổ chức Việt Minh: Việt Minh Nguyễn Tri Phương, do Tỉnh ủy lãnh đạo và Việt Minh Thuận Hóa của một số thân sĩ, trí thức, công chức, thanh niên, học sinh. Vào cuối tháng 6.1945, tổ chức Việt Minh Thuận Hóa sáp nhập vào Việt Minh Nguyễn Tri Phương, do Ban chỉ đạo thống nhất gồm 5 người, do đồng chí Hoàng Anh làm Bí thư, điều hành mọi công việc.

Ngày 15.8.1945, phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh. Được tin này, dưới danh nghĩa Việt Minh Nguyễn Tri Phương (tức tỉnh Thừa Thiên), Thường vụ Tỉnh ủy triệu tập Hội nghị cán bộ toàn tỉnh tại nhà ông Tô Tuấn và bà Phan Thị Luận ở 46 Giáp Hạ (phường Phú Bình, Huế). Hội nghị nhất trí chủ trương phát động khởi nghĩa trong toàn tỉnh, không thụ động ngồi chờ lệnh của Trung ương, quyết định chọn huyện Phú Lộc giành chính quyền trước nhằm rút kinh nghiệm cho các huyện khác, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho thành phố Huế tiến hành khởi nghĩa ngay sau đó.

Do đặc điểm chính trị phức tạp ở Huế, Thường vụ Tỉnh ủy đã có những cố gắng để giảm bớt sự chống phá của địch. Đối với Chính phủ Trần Trọng Kim, bằng nhiều cách tiếp cận, Việt Minh đã giải thích chính sách của Mặt trận là: “Đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân để cứu nước khỏi ách nô lệ… kêu gọi mọi người tham gia cứu nước, trước mắt để tránh những việc làm có hại cho sự nghiệp giải phóng Tổ quốc mà Mặt trận Việt Minh đang tiến hành”(1). Một số cán bộ Việt Minh tỉnh trực tiếp gặp, vận động một số yếu nhân ngả về phía cách mạng.


(*) Người viết: TS. Đặng Văn Hồ, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế.
(1) Hoàng Anh: Quê hương và cách mạng, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế, 2004, tr. 162-163.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Chín, 2011, 06:43:48 am
Tối ngày 17.8.1945, các đồng chí Hoàng Anh, Lê Tự Đồng và Phạm Tử Quang đến vận động Chỉ huy trưởng lực lượng Bảo an binh Phan Tử Lăng. Tối hôm sau (18.8.1945), các đồng chí Hoàng Anh, Tôn Quang Phiệt đến gặp Bộ trưởng Thanh niên Phan Anh trong Chính phủ Trần Trọng Kim. Qua phân tích tình hình, nếu rõ chủ trương đoàn kết dân tộc, Phan Tử Lăng hoàn toàn nhất trí đi theo cách mạng và đề nghị cử người cùng ông đi xuống các đồn lính (Bảo an binh) để vận động binh đi theo Việt Minh. Bộ trưởng Thanh niên Phan Anh, sau một số câu hỏi về thái độ của Chính phủ Việt Minh đối với trí thức, đối với vua Bảo Đại, đối với quan lại và công chức cao cấp trong Chính phủ Trần Trọng Kim, đã nhanh chóng nhận nhiệm vụ: “Vận động các vị trong Chính phủ, hết sức tránh những việc làm có hại cho dân, cho nước và khi cần thiết sẵn sàng từ chức, vận động vua Bảo Đại sẵn sàng thoái vị, chỉ thị cho thủ lĩnh thanh niên các địa phương cộng tác với Việt Minh”(1).

Riêng đối với vua Bảo Đại, Tổng lí Ngự tiền văn phòng Phạm Khắc Hòe được Mặt trận Việt Minh giao nhiệm vụ vận động thoái vị. Ngày 17.8.1945, Nội các Trần Trọng Kim họp và ngay hôm đó vua Bảo Đại ban hành Dụ số 105, gồm 2 điểm chính: “Điểm thứ nhất, nhà vua sẵn sàng giao chính quyền cho Việt Minh là thành công đã đấu tranh nhiều nhất cho quyền lợi của nhân dân và mời các lãnh tụ Việt Minh về Huế thành lập Nội các. Điểm thứ hai, vấn đề chính thể sẽ do nhân dân quyết định sau, nhà vua cam đoan sẽ làm theo ý chí của nhân dân”(2).

Ngày 20.8.1945, Đoàn cán bộ Trung ương gồm các đồng chí Tố Hữu, Hồ Tùng Mậu và Nguyễn Duy Trinh đến Huế tham gia chỉ đạo khởi nghĩa. Trong ngôi nhà ông Thuật (ở cửa Thượng Tứ), Thường vụ Việt Minh tỉnh báo cáo với Đoàn tình hình chung trong tỉnh, thái độ của quân đội Nhật và Chính phủ Trần Trọng Kim, dự kiến của Thường vụ Việt Minh tỉnh về kế hoạch khởi nghĩa ở Thừa Thiên - Huế. Các thành viên trong Đoàn cán bộ Trung ương hoàn toàn thống nhất với kế hoạch khởi nghĩa. Ngay trong ngày hôm đó, Ủy ban khởi nghĩa được thành lập, gồm các đồng chí Tố Hữu (Chủ tịch, đồng chí Hoàng Anh (Phó Chủ tịch), vv.

Tối 21.8, Ủy ban khởi nghĩa phổ biến kế hoạch, giao nhiệm vụ cho các huyện, thành phố và từng cán bộ đảm nhiệm việc tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền ở Huế.

Chính phủ Trần Trọng Kim dự định tổ chức cuộc mít tinh lớn ở sân vận động Huế vào ngày 23.8.1945 để mừng việc Nhật trả quyền cai trị Nam Kỳ cho Triều đình Huế. Đây là cố gắng cuối cùng của Chính phủ Trần Trọng Kim. Tương kế tựu kế, Việt Minh lợi dụng thế hợp pháp này để huy động nhân dân các huyện về Huế khởi nghĩa giành chính quyền.

Trước sự phát triển mạnh mẽ của cao trào cách mạng trong cả nước, Chính phủ Trần Trọng Kim rất hoang mang, lo sợ. Ủy ban Khởi nghĩa quyết định đẩy mạnh công tác vận động quần chúng, tích cực làm tốt công tác binh vận, ngụy vận, nhanh chóng làm tê liệt bộ máy chính quyền bù nhìn và sắp xếp kế hoạch huy động quần chúng ở các huyện, quần chúng ở các phường của thành phố tham gia mít tinh tuần hành. Các đoàn thể cứu quốc, các đội tự vệ chiến đấu có nhiệm vụ phát động quần chúng chiếm giữ cơ quan, công sở, kho tàng của chính quyền địch.

Tại nhà máy điện Huế, lực lượng tự vệ bắt tên chủ đưa lên An Bằng, vạch trần tội ác của y và tuyên án tử hình, sau đó, tự trang bị giáo, mác, kéo đến tước vũ khí quân Nhật và tuyên bố từ đây nhà máy thuộc về tay giai cấp công nhân, đặt dưới sự điều hành của Ban Phụ trách công nhân cách mạng. Chiều 22.8, cờ đỏ sao vàng tung bay trong Cơ xưởng Hỏa xa, trường Kĩ nghệ thực hành, Sở Công chánh… Tất cả công nhân đồng loạt đứng lên khởi nghĩa, làm chủ nhà máy xí nghiệp, đập tan ách thống trị của thực dân, phát xít(3). Tại các huyện, thực hiện quyết định của Hội nghị cán bộ toàn tỉnh ngày 15.8, từ ngày 18 đến ngày 22.8.1945, Ủy ban khởi nghĩa các huyện đã phát động quần chúng giành chính quyền thắng lợi.

Ở Phong Điền, ngày 18.8.1945, nhân dân và tự vệ hai tổng Phò Ninh và Hiền Lương đã nổi dậy giành chính quyền. Ngày 19.8, nhân dân 3 tổng còn lại là Phò Trạch, Chánh Lộc, Vĩnh Xương giành chính quyền ở tổng, sau đó kéo vào bao vây huyện đường ở Ưu Điềm, tuyên bố thành lập chính quyền cách mạng. Ở Phú Lộc, ngày 19.8, nhân dân 4 tổng trong huyện (An Cư, An Nông, Lương Điền và Diêm Trường) tiến hành bao vây huyện đường, tuyên bố giải tán chính quyền bù nhìn, lập chính quyền cách mạng của nhân dân.

Thắng lợi của nhân dân hai huyện Phong Điền và Phú Lộc đã mở đầu và tạo đà cho cuộc Tổng khởi nghĩa ở các huyện còn lại và thành phố Huế phát triển mạnh mẽ.

Ở Hương Thủy, ngày 20.8, Ủy ban khởi nghĩa huyện tập hợp nhân dân tại 3 đình làng Thanh Thủy Thượng, Thần Phù và Bằng Lãng. Sau đó đoàn biểu tình giương cờ, gióng trống, với vũ khí thô sơ kéo đi giành chính quyền ở các tổng và đến ngày 22.8.1945, đồng bào từ nhiều hướng tập trung ở huyện lị, giành chính quyền thắng lợi. Ở Phú Vang, ngày 21.8.1945, nhân dân giành được chính quyền ở 3 tổng Mậu Tài, Ngọc Anh và Dương Nỗ. Qua ngày 22.8, hơn 5.000 người đại diện cho nhân dân trong huyện với hàng ngũ chỉnh tề, có mặt tại huyện đường giành chính quyền về tay nhân dân. Ở Quảng Điền, ngày 23.8, hàng vạn quần chúng ở 5 tổng (Thanh Cần, Khuông Phù, Phước Yên, Hạ Lang và An Thành) rầm rộ tuần hành kéo về giành chính quyền cách mạng. Ở Hương Trà, ngày 23.8.1945, Ủy ban khởi nghĩa huy động hơn 1 vạn quần chúng của 6 tổng (Hương Cần, An Ninh, Vĩnh Trị, Phú Ốc, Long Hồ và Phú Xuân) tiến về huyện lị đóng ở Bao Vinh khởi nghĩa giành chính quyền.


(1) Hoàng Anh: Quê hương và cách mạng, sđd, tr. 162-163, 169.
(2) Phạm Khắc Hòe: Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc, Nhà xuất bản Hà Nội, 1983, tr. 57.
(3) Ngô Kha (Chủ biên): Lịch sử phong trào công nhân lao động và công đoàn tỉnh Thừa Thiên Huế, tập I (1930-1975), Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội, 1998, tr. 61.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Chín, 2011, 06:49:33 am
Ở Huế, từ ngày 21.8.1945, các đội tự vệ và các đoàn thể cứu quốc có trang bị vũ khí thô sơ đã giương băng cờ biểu ngữ, biểu tình thị uy qua các đường phố. Lính Nhật hoảng sợ, không dám hành động. Chiều ngày 21.8.1945, đơn vị tự vệ khu phố Phú Bình chiếm được vòng ngoài Mang Cá. 14 giờ ngày 21.8.1945, Đặng Văn Việt và Cao Pha (Nguyễn Thế Lương) theo lệnh Ủy ban khởi nghĩa đến Kì đài hạ cờ quẻ li và kéo cờ đỏ sao vàng lên(1). Ngày 22.8, Ủy ban khởi nghĩa huy động quần chúng biểu tình trên các đường phố và kéo đến chiếm lĩnh các bộ, các công sở và doanh trại lính Bảo an. Đêm 22.8, trước áp lực của cuộc khởi nghĩa, Bảo Đại - vị vua cuối cùng của triều Nguyễn buộc phải chấp nhận thoái vị. Đúng 18 giờ ngày 22.8, trên Đài Phát thanh Huế vang lên lời tuyên bố của Bảo Đại “Trẫm ưng làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ. Trẫm chắc rằng toàn thể quốc dân cũng một lòng hi sinh như trẫm”(2).

Sáng ngày 23.8, một số công sơ của chuẩn bị bù nhìn trong Thành Nội tiếp tục bị chiếm giữ (đồn Hộ Thành, Nội khố, cơ quan của Thủ tướng và các Bộ của Chính phủ Trần Trọng Kim). “Đến đâu cũng thấy người ta chuẩn bị sẵn sàng cả người, giấy tờ, sổ sách, kho quỹ và tài sản, vũ khí để giao cho Việt Minh… Riêng ông Trần Trọng Kim đã tránh đi nơi khác, ông Phan Anh đã đi Hà Nội, các ông bộ trưởng khác đều có mặt. Nhân viên đã tề tựu đông đủ và chờ đón chúng tôi từ ngoài cổng. Chúng tôi xem lại sổ sách, giấy tờ, hồ sơ, tài liệu, kho quỹ thấy không có gì mất mát và đã chuẩn bị để giao cho chính quyền cách mạng từ một hoặc hai hôm trước”(3).

Lúc 16 giờ ngày 23.8, tại Sân vận động Huế, hàng vạn đồng bào Thừa Thiên - Huế tập trung trong hàng ngũ chỉnh tề dưới rừng cờ đỏ sao vàng, dự cuộc mít tinh chào mừng khởi nghĩa thắng lợi. Ủy ban khởi nghĩa tiến vào lễ đài giữa tiếng hoan hô vang dội cả một góc trời. Thay mặt Ủy ban khởi nghĩa, đồng chí Tố Hữu đọc diễn văn nêu rõ ý nghĩa, tầm vóc của cuộc khởi nghĩa, tuyên bố từ nay chính quyền về tay nhân dân và giới thiệu thành phần Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh, do đồng chí Tôn Quang Phiệt làm Chủ tịch. Thay mặt Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh, Chủ tịch Tôn Quang Phiệt kêu gọi toàn dân đoàn kết, xây dựng và bảo vệ chính quyền nhân dân. Cả thành phố thật sự sống trong ngày hội của một cuộc cách mạng đổi đời.

Sau thắng lợi ở Huế, Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam đã gửi đến vua Bảo Đại bức điện với nội dung: “Hoan nghênh tinh thần dân chủ và đoàn kết, thống nhất của Hoàng đế. Yêu cầu Hoàng đế hạ dụ chính thức thoái vị để yên lòng dân”(4).

Chiều 25.8, Phạm Khắc Hòe đã niêm yết Chiếu thoái vị và bản Tuyên chiếu với Hoàng tộc tại Phu Văn Lâu. Cùng ngày, phái đoàn Chính phủ cách mạng lâm thời, gồm các đồng chí Trần Huy Liệu (Trưởng đoàn), Nguyễn Lương Bằng và Cù Huy Cận rời Hà Nội để vào Huế tiếp nhận sự thoái vị của vua Bảo Đại.

Trưa ngày 29.8.1945, phái đoàn Chính phủ cách mạng lâm thời đến Huế và đi thẳng tới sân vận động, “nơi đồng bào Thừa Thiên - Huế đã tập hợp từ tối 27, cả ngày 28 cho đến trưa hôm đó để chào mừng phái đoàn của Trung ương”(5). Từng tràng vỗ tay kéo dài khi nghe Trưởng đoàn Trần Huy Liệu thông báo cuộc khởi nghĩa đã giành được thắng lợi rực rỡ trên phạm vi toàn quốc và giới thiệu Ủy ban giải phóng dân tộc là Chính phủ cách mạng lâm thời, do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ngày 29.8.1945, tại điện Kiến trung, phái đoàn Trung ương gặp vua Bảo Đại để bàn thủ tục của buổi lễ thoái vị.

Chiều ngày 30.8.1945, lễ thoái vị của Bảo Đại, vị vua cuối cùng của triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam, được tổ chức tại lầu Ngọ Môn trong Kinh thanh. Hơn 5 vạn người thuộc 6 huyện Phú Vang, Phú Lộc, Hương Trà, Hương Thủy, Phong Điền, Quảng Điền cùng với các tầng lớp nhân dân thành phố Huế tập hợp thành hàng ngũ chỉnh tề trên sân cỏ trải rộng từ trước cửa Ngọ Môn đến chân Kì đại. Đúng 16 giờ, buổi lễ bắt đầu với sự hiện diện của vua Bảo Đại và Đoàn đại biểu Chính phủ cách mạng lâm thời. Trước hết, đại diện phái đoàn đọc bức điện mới nhận được cho biết Chính phủ lâm thời sẽ làm lễ ra mắt quốc dân tại Hà Nội vào ngày 2.9, và Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ đọc Tuyên ngôn độc lập. Sau đó, vua Bảo Đại đọc bản tuyên bố thoái vị. Trên Kì đài, lá cờ quẻ li của nhà vua (treo sẵn từ giữa trưa theo yêu cầu của Bảo Đại) được hạ xuống, cờ đỏ sao vàng từ từ kéo lên. Bảo Đại trân trọng trao cho Trưởng đoàn Trần Huy Liệu “chiếc kiếm dài nạm ngọc và sau đó là chiếc ấn vàng hình vuông”(6) trong tiếng hô rền vang của nhân dân Thừa Thiên - Huế: “Việt Nam độc lập muôn năm!”, “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa muôn năm!”, đánh dấu sự cáo chung của chế độ phong kiến. Nhân dân Thừa Thiên - Huế từ đây thực sự làm chủ cuộc sống, làm chủ quê hương mình.

*

Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Thừa Thiên - Huế có ý nghĩa rất lớn. Bỏi vì, Huế là trung tâm chính trị của Miền Trung và sau ngày Nhật đảo chính Pháp đang trở thành một trung tâm chính trị của cả nước. Sức mạnh đấu tranh của nhân dân Thừa Thiên - Huế trong phong trào cách mạng chung của cả nước là một áp lực lớn khiến vua Bảo Đại chấp nhận thoái vị. Đảng bộ Thừa Thiên - Huế đã vận dụng sáng tạo, có hiệu quả đường lối chủ trương của của Đảng về phát động sức mạnh nhân dân, thực hiện chiến lược đại đoàn kết dân tộc, giáo dục, thuyết phục, vận động đối phương ngả về cách mạng hay không chống phá, gây đổ máu.

Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn - ba trung tâm quan trọng trong cả nước - đánh dấu sự thắng lợi cơ bản của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Trong thắng lợi ấy, Huế đã có đóng góp to lớn.


(1) Giải phóng quân Huế 1945, Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội, 1994, tr. 38.
(2) Trần Trọng Kim: Một cơn gió bụi, Việt Sơn, Sài Gòn, 1969, tr. 196.
(3) Hoàng Anh: Quê hương và cách mạng, sđd, tr. 182-183..
(4) Phạm Khắc Hòe: Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc, sđd, tr. 69.
(5) Huy Cận: Vào Huế nhận sự thoái vị của Bảo Đại. Trong Bình Trị Thiên tháng Tám bốn lăm, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế, 1985, tr. 78
(6) Trần Huy Liệu: Phái đoàn vào Huế nhận việc thoái vị của vua Bảo Đại, trong Bình Trị Thiên tháng Tám bốn lăm, sđd, tr. 45.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Chín, 2011, 06:53:43 am
ĐÀ NẴNG(*)

Đà Nẵng nay là thành phố cảng lớn nhất Miền Trung, trực thuộc Trung ương. Từ lâu đời, Đà Nẵng là một bộ phận của đất Quảng Nam, nằm trong lãnh thổ Đại Việt từ thế kỉ 15.

Đà Nẵng không chỉ có một địa thế rất thắng lợi cho việc buôn bán mà còn là một vị trí chiến lược quan trọng về quân sự. Từ lúc thực dân Pháp thực hiện âm mưu đánh chiếm nước ta (tháng 9.1858) đến khi Mĩ trực tiếp đem quân xâm lược Việt Nam, Đà Nẵng là nơi phải đối phó đầu tiên với kẻ địch. Nhân dân Đà Nẵng đã ghi lại trong sử sách bao chiến công anh hùng trong sự nghiệp giữ nước.

Dưới thời Pháp thuộc, Đà Nẵng trở thành một “thành phố nhượng địa” và phong trào yêu nước cách mạng của nhân dân luôn sôi sục trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của cả nước qua các giai đoạn lịch sử.

Ngày 28.3.1930, Ban Chấp hành lâm thời tỉnh Đảng bộ Quảng Nam Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập và “chi bộ Tân Việt Cách mạng Đảng ở Tourane từ nay được coi như là Chi bộ của Tỉnh ủy lâm thời Quảng Nam”(1). Từ đấy, Đà Nẵng là một cơ sở quan trọng, nơi đặt cơ quan đầu não của Tỉnh ủy Quảng Nam và Phân xứ ủy Nam Trung Kỳ. Cùng với nhân dân Quảng Nam, khu vực Nam Trung Kỳ, phong trào cách mạng ở Đà Nẵng luôn sôi động qua các thời kì 1930-1931, 1936-1939. Tiêu biểu là cuộc biểu tình lớn của nhân dân Đà Nẵng, sáng 28.2.1937, đón tiếp phái viên của Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp sang Đông Dương.

Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, ngày 28.7.1941, quân Nhật đổ bộ chiếm đóng Đà Nẵng. Đầu năm 1942, thường vụ tỉnh ủy Quảng Nam ra “Thông cáo khẩn cấp”, nêu rõ nhiệm vụ “chuẩn bị đủ lực lượng chính trị, kinh tế, quân sự và phương pháp để đánh đổ kẻ thù Pháp và Nhật cùng bọn Việt gian…”. Các đoàn thể Việt Minh và các tổ chức lực lượng vũ trang được hình thành ở nhiều nơi trên đất Quảng Nam, song do Đà Nẵng là căn cứ quan trọng của thực dân Pháp và phát xít Nhật nên các tổ chức cách mạng rất khó hoạt động. Tuy vậy, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Quảng Nam, do đồng chí Võ Toàn làm Bí thư, phong trào đấu tranh ở Đà Nẵng được giữ vững và phát triển.

Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9.3.1945), để kịp thời đấu tranh chống các âm mưu, thủ đoạn của phát xít Nhật, Tỉnh ủy Quảng Nam, lấy mật danh là Vụ Quang (tên căn cứ cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng 1885-1896). Tháng 6.1945, Hội nghị Tỉnh ủy Quảng nam mở rộng, họp tại Thọ Khương, đã thông qua chủ trương đẩy mạnh tuyên truyền, phát triển lực lượng vũ trang, xây dựng các đội du kích. Vì Đà Nẵng là một vị trí chiến lược quan trọng nên Tỉnh ủy đã trực tiếp chỉ đạo việc xây dựng lực lượng trong thành phố, chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền.

Ngay sau khi phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng minh, ngày 14.8.1945, Tỉnh ủy Quảng Nam họp Hội nghị mở rộng tại Tam Kỳ, quyết định phát động cuộc khởi nghĩa trong toản tỉnh, dù chưa nhận được lệnh của Trung ương và Xứ ủy Trung Kỳ. Chủ trương đúng đắn này xuất phát từ việc vận dụng chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, ngày 12.3.1945 của Ban Thường vụ Trung ương Đảng.

Ngày 18.8, nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền ở Hội An - nơi cơ quan ngụy quyền Quảng Nam đóng - chiếm dinh Tỉnh trưởng. Cũng ngày hôm đó, ở các huyện Điện Bàn, Duy Xuyên, Đại Lộc, Thăng Bình, Tam Kỳ, cuộc khởi nghĩa cũng thành công. Ngày 19.8.1945, chính quyền cách mạng đã về thay nhân dân.

Ngày 18.8 được xem như ngày thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám ở Quảng Nam. Tuy nhiên, ở Hòa Vang, huyện giáp với thành phố Đà Nẵng, mãi đến 22.8 cuộc khởi nghĩa mới thành công.

Sau khi hầu hết tỉnh Quảng Nam đã thuộc quyền làm chủ của nhân dân, Đà Nẵng bị bao vây chặt. Lúc bấy giờ lực lượng phát xít Nhật đóng ở Đà Nẵng còn khá đông, lại thêm một số tàn quân Pháp bị giam giữ đang ngóng chờ quân tiếp viện của Đơ Gôn trở lại đánh chiếm Việt Nam. Tỉnh ủy thận trong trong đối sách với quân Nhật để tránh đổ máu khi giành chính quyền. Hiểu rõ thái độ ngoan cố của phát xít Nhật, song nhìn thấy tâm trạng hoang mang, lo sợ của quân Nhật khi đã đầu hàng Đồng minh, Tỉnh ủy Quảng Nam một mặt chuẩn bị lực lượng hùng mạnh của quần chúng nhân dân để áp đảo kẻ thù; mặt khác tìm cách thương thuyết với quân Nhật để chúng giao nộp vũ khí và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhân dân, làm trở ngại cho cuộc khởi nghĩa.

Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy, lực lượng tự vệ cứ quốc ở Đà Nẵng được tổ chức, củng cố thành các đại đội, tập trung thành các đại đội của Đềpô xe lửa Đà Nẵng, Sở Công chánh, khu Thanh Khê - Hà Khê, An Hải - Mỹ Khê, Liên Trì, Sở Đoan… Số tự vệ vũ trang của Đà Nẵng lúc bấy giờ lên tới một nghìn năm trăm người. Đây là một lực lượng lớn làm hậu thuẫn vững chắc cho cuộc đấu tranh của quần chúng ở một thành phố mà quân địch còn khá đông và mạnh.

Trước uy thế của quần chúng cách mạng Đà Nẵng khi mà cuộc khởi nghĩa đang diễn ra và thắng lợi trong cả nước, trực tiếp là ở Quảng Nam và các tỉnh lân cận, quân Nhật và chính quyền tay sai thân Nhật ở Đà Nẵng run sợ. Một số người trong bộ máy ngụy quyền tìm đến cơ sở cách mạng của thành phố thú tội, hoặc xin đứng về phía nhân dân. Viên Tư lệnh quân Nhật ở Đà Nẵng tìm cách liên lạc với Việt Minh Quảng Nam để thương lượng.

Trước tình hình thuận lợi ấy, Tỉnh ủy Quảng Nam chủ trương nhanh chóng làm tan rã bộ máy ngụy quyền, trừng trị đích đáng những tên phản động ngoan cố, khoan hồng, phân hóa, sử dụng sau khi đã giáo dục những kẻ biết hối lỗi. Đối với quân Nhật thì chấp nhận thương lượng với nguyên tắc giữ vững độc lập, chủ quyền. Trong cuộc thương lượng với Nhật, đồng chí Lê Văn Hiến đại diện cho Việt Minh Quảng Nam yêu cầu quân Nhật đóng quân tại chỗ, không can thiệp vào công việc nôi bộ của nhân dân Việt Nam, trực tiếp là nhân dân Đà Nẵng. Về phía mình, Việt Minh Quảng Nam sẽ liên lạc với lực lượng cách mạng Quảng Ngãi không tấn công quân Nhật nữa, nếu chúng không đi càn quét, đốt phá, giết chóc, cho phép thu nhặt thương binh, tử sĩ Nhật bị chết trong các trận đánh ở Quảng Ngãi.

Trước khí thế hùng mạnh của quần chúng Quảng Nam, cũng như cả nước, sách lược không khéo, nhân đạo của Việt Minh, quân Nhật ở Đà Nẵng chấp nhận mọi đề xuất của cách mạng.

Việc giành chính quyền ở Đà Nẵng tiếp diễn thuận lợi. Các khu vực trong thành phố lần lượt tổ chức những cuộc mít tinh, có đông đảo quần chúng tham dự, để ra mắt Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời. Từ ngày 22.8.1945, chính quyền cách mạng lần lượt được thành lập ở các vùng ngoại ô thành phố, như Thanh Khê, Hà Khê, Liên Trì, Thuận An, Mỹ Khê.

Việc chuẩn bị khởi nghĩa ở trung tâm Đà Nẵng được chuẩn bị khẩn trương, đồng thời phải đối phó với các âm mưu phá hoại của bọn phản cách mạng. Đêm 25.8.1945, các lực lượng cách mạng Đà Nẵng đã đập tan âm mưu của bọn tay sai thân Nhật, do Mai Trọng Tánh cầm đầu, giả danh Việt Minh để cướp chính quyền.

Vào 8 giờ sáng ngày 26.8.1945, các lực lượng cách mạng được lệnh tiến vào trung tâm thành phố Đà Nẵng, treo cờ, giăng biểu ngữ, tổ chức mít tinh, công bố lệnh khởi nghĩa, xóa bỏ chính quyền cũ. Nhân dân vô cùng phấn khởi, đón mừng các lực lượng cách mạng và nhiệt liệt hưởng ứng lệnh khởi nghĩa. Nhiều ngươi gia nhập vào đoàn quân khởi nghĩa đi chiếm giữ, canh gác các công sở của chính quyền cũ. Chỉ trong một buổi sáng hôm ấy, Tòa án, Kho bạc, Sở Liêm phóng, Sở Công chánh, Sở Hỏa xa… đều được cách mạng tiếp quản.

Tại tòa Đốc lí, đồng chí Lê Văn Hiến, nhân danh Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng, tiếp nhận việc đại diện chính quyền cũ trao lại chính quyền cho cách mạng. Lá cờ đỏ sao vàng kéo lên thay lá cờ “quẻ li” trên cột cờ tòa Đốc lí. Đây là giờ phút đánh dấu cuộc khởi nghĩa của nhân dân Quảng Nam - Đà Nẵng đã thắng lợi hoàn toàn.

Ngày 28.8.1945, tại sân vận động thành phố, gần 3 vạn nhân dân Đà Nẵng, tổ chức cuộc mít tinh chào mừng lễ ra mắt của Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời thành phố Đà Nẵng, do đồng chí Lê Văn Hiến làm Chủ tịch.

*

Với thắng lợi của cuộc khởi nghĩa, nhân dân tỉnh Trần Cao Vân (tên mới của tỉnh Quảng Nam) và thành phố Thái Phiên (tên mới của Đà Nẵng) đã đóng góp phần không nhỏ vào thành công của Cách mạng tháng Tám 1945 trong cả nước.


(*) Người viết: TS. Trương Công Huỳnh Kỳ, Trường Cao đẳng Sư phạm Quảng Ngãi.
(1) Viện Sử học Việt Nam: Lịch sử thành phố Đà Nẵng, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 1996, tr. 93.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Chín, 2011, 06:58:15 am
QUẢNG NGÃI(*)

Nhân dân Quảng Ngãi vốn có truyền thống yêu nước, cách mạng. Chỉ kể từ khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta (1858), người dân Quảng Ngãi không lúc nào vắng bóng trong phong trào yêu nước: từ Trương Định phất cờ “Bình Tây” ở Nam Kỳ, đến Lê Trung Đình hưởng ứng Hịch Cần vương, đánh chiếm tỉnh thành và tiếp đó các cuộc vận động Duy tân, Đông du, Khất thuế, khởi nghĩa 1916 liên tiếp nổ ra.

Trên cơ sở truyền thống yêu nước ấy, Quảng Ngãi sớm theo Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng bộ Quảng Ngãi ra đời không bao lâu sau ngày 3.2.1930 và lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc trong tỉnh liên tục, sôi nổi cho đến Cách mạng tháng Tám 1945 thành công.

Nhật đảo chính Pháp độc chiếm Đông Dương, trưa ngày 10.3.1945 tại Ba Tơ, Tỉnh ủy lâm thời Quảng Ngãi họp và quyết định phải chớp thời cơ, lãnh đạo nhân dân vùng lên khởi nghĩa vũ trang ở Ba Tơ. Chiều ngày 11.3, một cuộc mít tinh lớn được tổ chức tại sân vận động, rồi biến thành cuộc biểu tình tuần hành cho đến 9 giờ tối. Lực lượng khởi nghĩa cùng quần chúng vũ trang chiếm nha Kiểm lí, tịch thu vũ khí, đạn dược, hồ sơ, tiền bạc, tấn công đồn lính khố xanh và làm chủ châu lị. Bộ máy ngụy quyền ở các xã lân cận tan rã.

Tại cuộc mít tinh vào đêm 11 rạng sáng 12.3 tại sân bóng trước đồn Ba Tơ, Ủy ban nhân dân cách mạng Ba Tơ làm lễ ra mắt. Cuộc khởi nghĩa Ba Tơ đã thắng lợi, song quân Nhật âm mưu chiếm lại châu lị, tiêu diệt chính quyền và đội quân cách mạng còn non trẻ.

Trước tình hình ấy, toàn bộ lực lượng vũ trang đã hành quân ngược dòng sông, xây dựng chiến khu ở vùng núi cao để bảo vệ và phát triển. Đêm 14.3.1945, tại bãi Hang Én, “Đội du kích cứu quốc Ba Tơ” (sau gọi là Đội du kích Ba Tơ) làm lễ tuyên thệ.

Sau cuộc khởi nghĩa Ba tơ, lực lượng vũ trang (gồm Đội du kích Ba Tơ và các đội tự vệ trong tỉnh) được phát triển nhanh chóng, các Hội cứu quốc và Mặt trận Việt Minh thành lập khắp nơi trong tỉnh. Mọi điều kiện chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa trong toàn tỉnh đã được chuẩn bị.

Sáng ngày 14.8.1945 (tức ngày 7.7 năm Ất Dậu) tin phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng minh đến Quảng Ngãi. Đây là thời cơ để nhân dân vùng lên khởi nghĩa.

Trưa ngày 14.8.1945, tuy chưa nhận được lệnh khởi nghĩa của Trung ương, nhưng Thường vụ Tinh ủy Quảng Ngãi, căn cứ theo kế hoạch soạn thảo trước đó, họp bất thường, tại cơ quan thường trực của Liên tỉnh ủy và Tỉnh ủy đóng ở làng Thi Phổ Nhất, huyện Mộ Đức. Hội nghị nhận định: thời cơ khởi nghĩa đã đến! Phải cấp tốc huy động quần chúng nổi dậy vũ trang khởi nghĩa, đánh đổ toàn bộ chính quyền địch, giành chính quyền về tay nhân dân. Hội nghị đã thông qua mệnh lệnh khởi nghĩa, ghi rõ trong các chỉ thị số 8, 9, liên tiếp cùng thời gian, gửi đi các địa phương lúc 15 giờ ngày 14.8.1945.

Chỉ thị số 8 nêu rõ “Giặc Nhật đã đầu hàng Đồng minh. Các cấp Hội, các Ban Chấp hành phải cấp bách huy động toàn dân chúng vũ trang để kịp thời khởi nghĩa”.

Chỉ thị số 9 quy định:

“1. Tước vũ khí quân Nhật và Bảo an trong những nơi đã võ trang quần chúng cương quyết thi hành.

2. Phải huy động tự vệ du kích bảo vệ và giữ gìn chiến sĩ và cơ quan cách mạng”(1).

Chấp hành mệnh lệnh khởi nghĩa của Tỉnh ủy, 16 giờ ngày 14.8.1945, tiếng trống khởi nghĩa vang lên từ nơi cơ quan Tỉnh ủy đóng tại làng Thi Phổ Nhất, báo hiệu giây phút mở đầu nhân dân Quảng Ngãi vùng lên giành lấy chính quyền. Mệnh lệnh khởi nghĩa nhanh chóng truyền từ xã này sang xã khác, huyện này sang huyện khác. Mệnh lệnh truyền đến đâu, nhân dân lập tức dưới sự lãnh đạo của các tổ chức Đảng và Việt Minh cơ sở vùng lên vũ trang khởi nghĩa đến đó.

Cho đến đêm 15.8.1945, hầu hết các làng, tổng, phủ, huyện nằm dọc quốc lộ 1, từ đèo Bình Đê (Đức Phổ) chạy ra dốc Sỏi (Bình Sơn), kể cả đảo Lý Sơn, châu Ba Tơ, nhân dân đã vũ trang khởi nghĩa thắng lợi, đều dưới quyền kiểm soát của Việt Minh.

Sau hai ngày 15 và 16.8.1945, hai đại đội du kích Ba Tơ đánh chiếm các đồn Di Lăng, Sơn Hà, Minh Long; bao vây gọi hàng đồn Trà Bồng và tham gia cùng nhân dân vũ trang khởi nghĩa chiếm huyện lị Nghĩa Hành.

Cuộc khởi nghĩa lan nhanh chóng trong cả tỉnh từ các châu huyện miền núi đến vùng trung châu, các xã ven biển và cả đảo Lý Sơn, cách đất kiền 25km. Toàn bộ chính quyền tay sai của địch ở các huyện sụp đổ và chính quyền cách mạng được thành lập ở các xã, tổng, huyện, phủ trong tỉnh(2).


(*) Người viết: TS. Trương Công Huỳnh Kỳ, Trường Cao đẳng Sư phạm Quảng Ngãi.
(1) Tài liệu lưu tại Phòng Lịch sử Đảng, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Ngãi.
(2) Theo tờ “Đời sống mới” của cơ quan văn hóa cứu quốc Quảng Ngãi ngày 15.8.1946, thì chính quyền cách mạng các huyện được thành lập và ra mắt:
Ngày 15.8 (8.7 Ất Dậu) - các huyện Đức Phổ, Minh Long, Sơn Hà, Trà Bồng.
Ngày 16.8 (9.7 Ất Dậu) - các huyện Tư Nghĩa, Sơn Tịnh, Binh Sơn, Nghĩa Hành, Ba Tơ
Ngày 17.8 (10.7 Ất Dậu) - huyện Mộ Đức.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Chín, 2011, 07:01:57 am
Tuy vậy, tại thị xã Quảng Ngãi, còn trên một tiểu đoàn quân Nhật và một đại đội lính khố xanh chốt giữ, có trang bị vũ khí đầy đủ. Trụ sở các cơ quan hành chính của địch đều đóng trong nội thị, cơ sở cứu quốc trong bộ máy ngụy quyền và binh lính có sự thay đổi đột ngột, bị địch điều động đi nơi khác. Trong điều kiện như vậy, nhận được lệnh của Tỉnh ủy tối 14.8.1945, Ban Khởi nghĩa thị xã được thành lập và quyết định hành động thận trọng sao cho tránh đổ máu.

Đối với công nhân, phải huy động tổng đình công, thành lập đội tự vệ cứu quốc, vũ trang công nhân xe lửa để tự vệ và canh giữ công xưởng, nhà ga; bốc dỡ, vận chuyển dụng cụ, máy móc như máy điện, đầu máy xe lửa ra khỏi thị xã.

Chi đội Binh nhân cứu quốc được giao nhiệm vụ nổi dậy cướp đồn khố xanh, tước vũ khí, giải tán lực lượng lính khố xanh ở tỉnh lị, không cho quân Nhật dùng họ chống lại cách mạng.

Đối với các giới đồng bào khác thị xã, Ban Khởi nghĩa huy động vũ trang, bãi công, bãi thị,bãi khóa, biểu tình, tuần hành thị uy, mít tinh… Đêm 14 và ngày 15.8, nhân dân thị xã tiến hành bãi công, bãi thị, giành chính quyền ở cơ sở. Đêm 15.8, tự vệ cứu quốc và nhân dân đã phối hợp với Chi đội Bình nhân cứu quốc chiếm các đồn lính khố xanh, khố đỏ, thu súng đạn, quân dụng, bắt viên lãnh binh giao đồn, chia khóa, vũ khí, tài liệu, con dấu của sở chỉ huy quân ngụy. Cùng đêm, quân khởi nghĩa chiếm, tịch thu toàn bộ hồ sơ của sở mật thám tỉnh; chánh mật thám Bùi Trọng Lệ chạy trốn, đến sáng ngày 17.8 bị bắt. Đêm 16.8, lực lượng khởi nghĩa chiếm dinh tỉnh trưởng và các cơ quan trực thuộc, kể cả kho bạc, bắt tỉnh trưởng Lương Trọng Hối và bố chánh Phạm Như Phiên giao nộp toàn bộ vũ khí, tài liệu, tiền bạc, con dấu. Lương Trọng Hối hoàn toàn phục tùng chính quyền cách mạng, được dùng làm môi giới cho cuộc thương lượng giữa Việt Minh và Nhật. Quân Nhật đóng ở Quảng Ngãi không có phản ứng gì đáng kể trước sự sụp đổ của bộ máy ngụy quyền. Như vậy, chính quyền ở tỉnh đã về tay cách mạng trong đêm 16.8.

Chỉ trong 3 đêm 2 ngày (từ đêm 14 đến đêm 16 rạng ngày 17.8), cuộc Tổng khởi nghĩa ở Quảng Ngãi đã nổ ra đúng thời cơ và đã giành được thắng lợi to lớn. Chính quyền cách mạng các cấp lần lượt được thành lập theo chỉ thị số 10 của “Ủy ban vận động cứu quốc Quảng Ngãi của Tổng bộ Việt Minh”, ngày 15.8.1945.

Chỉ thị quy định xóa bỏ bộ máy thống trị của địch ở các cấp, thành lập chính quyền cách mạng từ cơ sỏ lên tỉnh, thực hiện các quyền tự do, dân chủ và chăm lo đời sống củ nhân dân trên các mặt kinh tế, văn hóa, giáo dục, xã hội.

Riêng ở tỉnh lị “Ủy ban vận động cứu quốc Quảng Ngãi của Tổng bộ Việt Minh” và “Ban lãnh đạo khởi nghĩa” (Thường trực Tỉnh ủy) làm nhiệm vụ của chính quyền cách mạng đóng ở ngoại thị, trực tiếp lãnh đạo và chỉ đạo Ủy ban nhân dân các phủ, huyện, tổng, xã, lực lượng vũ trang, các ngành, tập trung sức chiến đấu để đè bẹp sự phản kháng của quân Nhật và một vài nhóm phán động.

Cuộc khởi nghĩa ở Quảng Ngãi diễn ra tương đối hòa bình. Song ở một số nơi cũng xảy ra các cuộc xung đột vũ trang, do quân Nhật gây ra.

Trưa ngày 15.8, quân du kích đánh Nhật ở Xuân Phổ. Chiều ngày 16.8, đánh bọn Nhật đi lùng ở An Hội. Đêm 16.8, đánh hai trận, ở cống Châu Me (Tú Sơn) và Mỏ Cày, Mộ Đức. Cùng vào tối 16.8, diễn ra trận đánh Nhật ở cầu Châu Ổ, Bình Sơn; ở vùng Ba La - Ngọc Á, Tư Nghĩa. Vào đêm 17 rạng ngày 18.8, lực lượng vũ trang cách mạng diệt đồn Cổ Lũy.

Nhìn ra toàn quốc, trong những ngày tháng Tám cùng một số nơi, ở Quảng Ngãi lực lượng khởi nghĩa đã phải chiến đấu ác liệt với quân đội Nhật. Bởi lẽ, ở Quảng Ngãi sau cuộc khởi nghĩa Ba Tơ, các lực lượng cách mạng và phản cách mạng đối chọi nhau gay gắt. Phát xít Nhật đã mở những cuộc vây ép giết hại nhiều đồng bào và chiến sĩ cách mạng trong tỉnh. Bọn tay sai thân Nhật, nhất là bọn phản động đội lốt Cao Đài hoạt động ra mắt chống phá cách mạng.

Đi đôi với hoạt động quân sự, trước những hành động ngoan cố của Nhật, Ban lãnh đạo khởi nghĩa ra lệnh cắt điện, nước, triệt nguồn tiếp tế lương thực. Trong hoàn cảnh đó, bọn cầm đầu quân Nhật trong tỉnh đã phải điều đình với ta. Cuộc điều đình bắt đầu từ ngày 18.8 và kéo dài đến ngày 25.8. Trong lúc hai bên thương lượng với nhau, tình hình đã bớt căng thẳng. Ngày 22.8, Ban lãnh đạo khởi nghĩa ra chỉ thị số 14, vạch rõ phải đình chỉ các cuộc tấn công quân Nhật, không xâm phạm người Nhật, ra sức tránh các cuộc xô xát đổ máu vô ích, ngưng các cuộc đình công, bãi công, sửa chữa những chỗ bị phá hủy để phục vụ đời sống nhân dân trong thị xã.

Chiều ngày 25.8, đồng chí Trần Tống (lúc bấy giờ lấy tên Trần Song) đã thay mặt Việt Minh Quảng Ngãi kí với đại diện quân đội Nhật Bản Hiệp định với nội dung như sau:

1. Quân Nhật không can thiệp vào vị trí Việt Nam và các cuộc vận động quần chúng của Việt Minh.

2. Việt Minh không xâm phạm quân Nhật, không dán yết thị và truyền đơn chống quân Nhật nữa.

3. Quân Nhật tuyệt đối không đánh nhân dân Việt Nam và quân đội Việt Nam, nhân dân Việt Nam và quân đội Việt Nam tự ý đánh quân Nhật thì quân Nhật sẽ cương quyết đối phó. Về bên Việt Minh cũng tuyệt đối không đánh quân Nhật, nếu quân Nhật tự ý đánh quân Việt Minh thì Việt Minh cũng kiên quyết đối phó lại như thế(1).

Theo Hiệp định, quân đội Nhật phải rút hết về đóng tại đồn khố xanh cũ ở góc tây nội thành Quảng Ngãi và “không can thiệp vào nội trị Việt Nam và các cuộc vận động quần chúng của Việt Minh”. Ngày 26.8, Tỉnh ủy đã phái một trung đội thuộc đại đội Phan Đình Phùng, do đồng chí Nguyễn Tuấn Tài (Trần Kiên) chỉ huy về đóng tại thị xã, phối hợp cùng các lực lượng khởi nghĩa bảo vệ các cơ quan, kho tàng và kiểm soát sự đi lại của quân Nhật. Ngày 27.8, Tỉnh ủy đã họp phiên đầu tiên tại nội thị. Cùng ngày, Ủy ban nhân dân cách mạng tỉnh về đóng tại thị xã.

Sáng ngày 30.8.1945 (tức 23.7 âm lịch), hơn 40 vạn nhân dân trong tỉnh kéo về thị xã dự lễ ra mắt của Ủy ban nhân dân cách mạng Lê Trung Đình (tên mới của tỉnh Quảng Ngãi). Cách mạng tháng Tám ở Quảng Ngãi đã hoàn toàn thắng lợi.


(1) Tài liệu lưu tại Phòng Nghiên cứu Lịch sử Đảng, Ban Tuyên giáo Quảng Ngãi.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Chín, 2011, 06:04:05 pm
BÌNH ĐỊNH(*)

Bình Định thuộc vùng Nam Trung Bộ, là một tỉnh có truyền thống đấu tranh bất khuất, tiêu biểu là phong trào Tây Sơn. Phong trào yêu nước chống Pháp kế tục truyền thống Tây Sơn được phát huy cao độ dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Khi cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra (tháng 9.1939), tuy rút vào hoạt động bí mật, song trong những năm 1940-1945, các cơ sở Đảng ở Bình Định vẫn lãnh đạo phong trào đấu tranh chống Pháp - Nhật.

Tháng 1.1940, 200 công nhân đề pô Diêu Trì (xưởng sửa chữa xe lửa) đấu tranh đòi tăng lương 10 - 20%, trả lương đúng kì, bỏ các lệ cúp phạt, đánh đập, cấp “bông” mua gạo và một số hàng thiết yếu(1). Tuy bị đàn áp song cuộc đấu tranh đã mở đầu cho phong trào cách mạng trong thời kì mới.

Trong những năm 1941-1942, hơn 300 công nhân xưởng dệt Hãng Đôlinhông (Phú Phong, nay là huyện Tây Sơn) bãi công vào đầu năm 1942, buộc bọn chủ phải chấp nhận một số yêu sách của công nhân. Tiếp đó, nông dân ở nhiều nơi trong tỉnh (Tam Quan, Vĩnh Thạnh, An Nhơn, Hoài Ân, Phù Cát, Phù Mỹ…) nổi lên chống bọn cường hào xâm chiếm ruộng đất công.

Trong những năm 1943-1944, phong trào cách mạng Bình Định lại phát triển cao hơn. Đầu năm 1943, chi bộ Đảng được thành lập trong nhà lao Quy Nhơn, các đảng viên ở ngoài cũng tự động tổ chức, lãnh đạo quần chúng đấu tranh đòi quyền lợi dân sinh, dân chủ, chống “chính sách kinh tế thời chiến” của Pháp.

Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9.3.1945), phong trào cách mạng ở Bình Định có điều kiện phát triển. Tháng 4.1945, Ủy ban vận động tỉnh thành lập, được gọi là Việt Minh Tăng Bạt Hổ, chủ trương tập hợp mọi lực lượng trong tỉnh để đấu tranh theo chương trình cứu nước của Mặt trận Việt Minh. Tuy nhiên, lúc bấy giờ ở Bình Định còn có tổ chức Việt Minh Nguyễn Huệ, được thành lập vào giữa tháng 5.1945, với danh nghĩa là Ủy ban Việt Nam lâm thời, do đồng chí Võ Xán làm Thư kí. Việt Minh Nguyễn Huệ chủ trương:

“- Khẩn trương tập hợp mọi lực lượng yêu nước và Mặt trận Việt Minh, lấy Phú Phong làm bàn đạp để phát triển phong trào các nơi;

- Công khai đẩy mạnh công tác tuyên truyền giới thiệu chương trình 10 điểm của Mặt trận Việt Minh trong nhân dân;

- Bằng mọi cách làm cho quần chúng nhanh chóng thấy rõ bộ mặt cướp nước của giặc Nhật, đồng thời kiên quyết cô lập bọn thân Nhật;

- Ráo riết tìm liên lạc với Đảng và Tổng bộ Việt Minh cũng như phong trào Việt Minh trong và ngoài tỉnh”(2).

Hai thành công Việt Minh ở Bình Định đều hoạt động mạnh mẽ trong quần chúng, nhằm đẩy mạnh phong trào chống Nhật, cứu nước. Tuy vậy, sự hoạt động riêng rẽ của hai tổ chức này cũng ảnh hưởng không tốt đến phong trào đấu tranh. Do đó, yêu cầu thống nhất về tổ chức được đặt ra khẩn thiết.

Cuối tháng 7.1945, Ban Cán sự Đảng Bình Định được thành lập, do đồng chí Trần Lương làm Bí thư. Ban Cán sự Đảng quyết định phải nhanh chóng thống nhất các lực lượng Việt Minh trong tỉnh, tăng cường cán bộ cho các địa phương mà phong trào đấu tranh còn yếu, đẩy mạnh việc chuẩn bị ra tờ báo của phong trào Việt Minh Bình Định.

Trong khi hai tổ chức Việt Minh chưa thống nhất được thì tình hình có những chuyển biến mau lẹ, do phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh. Trước tình thế ấy, Việt Minh Nguyễn Huệ và Việt Minh Tăng Bạt Hổ đều thành lập Ủy ban khởi nghĩa. Phong trào cách mạng của quần chúng đòi hỏi phải có hành động khi thời cơ đã đến.

Chiều 21.8.1945, hàng nghìn quần chúng tham gia cuộc mít tinh do Ủy ban khởi nghĩa của Việt Minh Nguyễn Huệ tổ chức tại sân ga Quy Nhơn. Kết thúc cuộc mít tinh, quần chúng hô vang các khẩu hiệu: “Ủng hộ Mặt trận Việt Minh!”, “Đả đảo chính phủ Trần Trọng Kim!”, “Việt Nam hoàn toàn độc lập!”.

Quân Nhật và cảnh sát ngụy đóng gần đấy nhưng không có phản ứng gì đối với cuộc biểu dương lực lượng của quần chúng.


(*) Người viết: TS. Trần Quốc Tuấn, Trường Đại học Quy Nhơn.
(1) Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Nghĩa Bình: Sự kiện lịch sử Đảng bộ Bình Định 1928-1945, Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Nghĩa Bình, 1985, tr. 71.
(2) Sự kiện lịch sử Đảng bộ Bình Định 1928-1945, sđd, tr. 84-85.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Chín, 2011, 06:05:46 pm
Ngay tối 21.8, Ủy ban khởi nghĩa của Việt Minh Nguyễn Huệ họp, quyết định phát động quần chúng khởi nghĩa chiếm tỉnh lị Quy Nhơn vào ngày 23.8.

Ngày 23.8.1945, hàng vạn người, gồm công nhân Phú Phong, Diêu Trì cùng các tầng lớp nhân dân ở thị xã Quy Nhơn, các làng lân cận (trong số này có cả lực lượng Việt Minh Tăng Bạt Hổ tại Quy Nhơn) họp mít tinh ở sân ga Quy Nhơn, biểu lộ quyết tâm xóa bỏ chính quyền địch, lập chính quyền cách mạng. Cuộc mít tinh chuyển thành cuộc biểu tình thị uy, với gần 200 tự vệ vũ trang của công nhân và thanh niên đi đầu. Đoàn biểu tình lần lượt chiếm Đốc bộ đường (dinh Tỉnh trưởng), tòa Đốc lí thành phố (Tòa sứ cũ) và các công sở của chính quyền bù nhìn. Các đồn cảnh sát, trại bảo an binh cũng lần lượt giao nộp vũ khí, kho tàng cho quân khởi nghĩa.

Cuộc khởi nghĩa ở Quy Nhơn đánh dấu bước thắng lợi của Cách mạng tháng Tám ở Bình Định. Tiếp đó, cuộc khởi nghĩa lanh nhanh đến Bình Khê, Phù Mỹ, Hoài Ân, Hoài Nhơn, Phù Cát, An Nhơn, Tuy Phước.

Do yêu cầu của cách mạng, ngày 31.8.1945, tại cuộc họp ở Diêu Trì (Phước Long, Tuy Phước, các tổ chức Việt Minh Tăng Bạt Hổ và Nguyễn Huệ quyết định:

- Thống nhất các Việt Minh trong tỉnh;

- Củng cố Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời huyện Bình Khê, Phù Mỹ bao gồm đại biểu các nhóm Việt Minh trong địa phương;

- Đưa Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Nguyễn Huệ làm nhiệm vụ Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời thành phố Quy Nhơn, do đồng chí Lê Văn Nhiễu làm Chủ tịch;

- Quyết định nhân sự Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời mới của tỉnh và lấy tên là tỉnh Tăng Bạt Hổ…;

- Thảo luận kế hoạch huy động lực lượng và tổ chức cuộc mít tinh ngày 3.9.1945”(1).

Sáng ngày 3.9, một cuộc mít tinh lớn với hơn 30.000 người tham dự được tổ chức tại sân vận động Quy Nhơn. Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời Bình Định (tỉnh Tăng Bạt Hổ), do đồng chí Trần Quang Khánh làm Chủ tịch ra mắt nhân dân.

Trong các địa phương của Bình Định, Hoài Nhơn là một trong số ít huyện nổ ra cuộc khởi nghĩa sôi nổi nhất. Cũng như một số huyện trong tỉnh, từ cuối tháng 7.1945, Việt Minh Hoài Nhơn (lúc ấy gọi là phủ Ái) đã tích cực chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa. Nhiều làng thuộc các tổng Vân Sơn, An Sơn, Tào Lương… đều có từ một tiểu đội đến một trung đội tự vệ vũ trang. Nhân dân các xã hăng hái luyện tập quân sự, võ dân tộc. Các lò rèn ngày đêm rèn giáo, mác, kiếm… để trang bị cho tự vệ.

Từ đầu tháng 8.1945, Việt Minh phủ Ái (Hoài Nhơn) huy động nhân dân tham gia các cuộc mít tinh trong làng, trong tổng, bắt bọn lí hương gian ác để cảnh cáo.

Ngày 19.8.1945, thi hành chủ trương của Ủy ban khởi nghĩa, Việt Minh phủ Ái họp hội nghị, quyết định chuyển Ủy ban vận động cứu quốc phủ thành Ban khởi nghĩa để lãnh đạo cuộc khởi nghĩa. Quần chúng đã sẵn sàng vùng lên đấu tranh giành lấy chính quyền. Trên quốc lộ số 1, từ Tài Lương (Hoài Thạnh) đến đèo Bình Đê và một số làng ven biển Thiện Xuân, Từ Cánh, An Dũ… các đội tự vệ vũ trang ngày đêm tuần tra, canh gác.

Ngày 22.8.1945, hàng vạn quần chúng các tổng Mây, Yên, Thanh, Thiện, Hương tham gia một cuộc biểu tình thị uy.

Ngày 26.8.1945, một cuộc biểu tình khác lại nổ ra với hơn 15.000 người tham dự. Đội lính bảo an đóng ở Tam Quan bỏ chạy về Đông Sơn, song bị tự vệ chặn lại tước vũ khí.

Ngày 29.8.1945, Ủy ban khởi nghĩa huyện Hoài Nhơn huy động hơn 8.000 người chiếm phủ đường ở Bồng Sơn, rồi nhà bưu điện, trạm xá, Sở Liên nông, thương đoàn, Tri phủ nộp ấn tín, hồ sơ, sổ sách… cho chính quyền cách mạng. Đội bảo an binh đóng tại Bồng Sơn cũng giao nộp vũ khí (gần 100 súng).

Ngày 3.9.1945, tại sân vận động Tam Quan, hàng vạn nhân dân Hoài Nhơn họp mít tinh chào mừng Ủy ban nhân dân cách mạng huyện ra mắt, đánh dấu cách mạng thắng lợi trong cả huyện. Tiếp đó, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời các tổng, xã được thành lập.

*

Cuộc khởi nghĩa ở Bình Định đã thắng lợi trong cả tỉnh, từ tỉnh lị đến các thôn xã, góp phần vào thắng lợi của Cách mạng tháng Tám cả nước.


(1) Sự kiện lịch sử Đảng bộ Bình Định 1928-1945, sđd, tr. 104.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Chín, 2011, 06:08:29 pm
PHÚ YÊN(*)

Những năm 1939-1940, ở Phú Yên các cơ sở Đảng bị mất liên lạc, cũng như các tỉnh trong cả nước, các đảng viên, quần chúng bị bắt, tù đày, tra tấn, các cơ sở Đảng hoạt động rời rạc, thiếu tổ chức.

Bọn Đại Việt dựa vào thế lực của Nhật đang lên để gây ảnh hưởng trong nhân dân, nhưng số lượng của chúng ở Phú Yên không nhiều, nên hoạt động của chúng không có gì đáng kể.

Về phía cách mạng, mặc dầu phong trào đấu tranh của quần chúng lúc này không mạnh mẽ như trước, nhưng dưới sự áp bức bóc lột tàn khốc của Pháp, Nhật, quần chúng đã đứng lên đấu tranh để phản đối bọn Pháp, Nhật thu thóc, thu thuế, chóng việc phá lúa trồng đay, bắt nhân dân đi làm đường chiến lược Plâyku, đường La Hai, đường Tuy Hòa, nông dân còn đấu tranh chống lại bọn cường hào áp bức ở địa phương. Nhiều hình thức đấu tranh của công nhân đã khiến cho các cơ sở sản xuất bị đình đồn.

Phong trào cách mạng ở Phú Yên ngày một phát triển mạnh đòi hỏi phải xây dựng, khôi phục các cơ sở Đảng, cơ sở quần chúng và phải có cơ quan lãnh đạo tập hợp lực lượng và chuẩn bị các mặt để khởi nghĩa.

Sau khi Nhật đảo chính Pháp (9.3.1945), ở Phú Yên Nguyễn Văn Thái cùng một số đồng chí ở thị xã Tuy Hòa thành lập Ban vận động Việt Minh, gồm các đồng chí Ngô, Bát, Ái, Suyền, Chính và Thái. Tổ chức này không chỉ là nơi liên lạc của cán bộ cách mạng mà còn có cơ sở tài chính, lấy tên là Việt Hưng. Tuy nhiên, lúc đầu đường lối chủ trương và phương châm tổ chức chưa rõ nên không vận động được đông đảo quần chúng.

Tháng 4.1945, một số đồng chí ở nhà tù Buôn Ma Thuột ra được phân công về Phú Yên hoạt động. Lúc này, ở Phú Yên thành lập các nhóm hoạt động:

- Nhóm Tuy Hòa gồm các đồng chí Đỗ Tương, Nguyễn Chấn, Lê Tấn Thăng, Nguyên Quốc Thoại, Huỳnh Nựu. Nhóm này hoạt động thống nhất với đường lối của Đảng, và mở rộng ra các xã ở huyện Tuy Hòa, mạnh nhất là làng Phước Hậu (xã Hòa Kiến), đây là nhóm hoạt động có hiệu quả nhất.

- Nhóm ở Sông Cầu và La Hai có các đồng chí Nguyễn Văn Nguyên, Phan Thanh Cưu, Huỳnh Liễu. Nhóm hoạt động thống nhất với đường lối của Đảng và mở rộng địa bàn ra cả huyện Đồng Xuân.

- Nhóm thị xã Tuy Hòa gồm các đồng chí Đinh Nho Khôi, Đinh Nho Bát, Đinh Văn Ngộ, Lê Văn Phú, Nguyễn Ái, Nguyễn Tiếm, Nguyễn Chính, Trần Suyền. Nhóm này đã thành lập mặt trận Việt Minh lâm thời, hoạt động chưa thống nhất hoàn toàn với chủ trương lớn của Đảng, địa bàn hoạt động chưa mở rộng, chỉ ở thị xã Tuy Hòa và một vài nơi ở Hòa Thắng và huyện Tuy Hòa, hoạt động chưa đi sâu vào công tác vận động.

- Thị xã Tuy Hòa còn có nhóm của Trần Đình San, Vĩnh Mai (tức Nguyễn Hoàng), nhóm này hoạt động tích cực ở thị xã và nhất trí với đường lối chung của Đảng.

Các đồng chí từ nhà tù Buôn Ma Thuột về Phú Yên tổ chức một nhóm Việt Minh lâm thời để liên lạc với địa phương, với các nhóm Việt Minh khác trong tỉnh, nhưng không có kết quả.

Tháng 5.1945, một nhóm tù chính trị khác cũng ở lao Buôn Ma Thuột về(1), gồm có các đồng chí Trương Kiểm (An), Lê Cấp (Mẫn), Hoàng Văn Phúc (Xuân) và Trần Văn Sơ (Sửu). Các đồng chí này được đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Trần Hữu Dực trong Đảng ủy nhà lao Buôn Ma Thuột phân công về Phú Yên để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng theo hai hướng: Một là, nhanh chóng liên lạc với Tỉnh ủy, cùng với các đồng chí triển khai ngay công tác chuẩn bị Tổng khởi nghĩa. Hai là, nếu Tỉnh ủy chưa khôi phục được tổ chức thì phải tìm mọi cách móc nối với một số đảng viên đang hoạt động ở đó. Các đồng chí đã liên lạc với cán bộ cũ và cơ sở cảm tình (Phan Thanh Cưu, Nguyễn Hạnh, Nguyễn Ngọc Cầu) chuẩn bị từ trước. Sau đó, ban vận động Việt Minh lâm thời đã được tổ chức tại Sông Cầu. Cuộc họp đầu tiên nhận định tình hình địch và chủ trương của ta, chủ trương tổ chức gấp rút các Ủy ban Việt Minh lâm thời, các đội cứu quốc và tự vệ vũ trang.

Đã ra đời và hoạt động nhưng Ban vận động Việt Minh lâm thời chưa có tổ Đảng để lãnh đạo phong trào. Do đó, đồng chí Kiểm đã cùng với một số đồng chí khác ở địa phương thành lập Ban cán sự Tỉnh ủy lâm thời (5.1945).

Đảng ủy lâm thời đã liên lạc được với Kỳ bộ Đảng và Kỳ bộ Việt Minh Trung Kỳ, tiếp nhận được chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Sự lãnh đạo phong trào đã bắt kịp với tình hình mỗi ngày phát triển có lợi cho cách mạng. Hội nghị Ban Cán sự đã quyết định tổ chức Ủy ban Việt Minh ở các huyện, thị, khu, để gấp rút lãnh đạo phong trào.

Liên lạc với Ban vận động Việt Minh tỉnh, nắm được đường lối tổ chức Việt Minh, các đồng chí ở các địa phương về tổ chức ủy ban Việt Minh lâm thời huyện, thị và khu. Các đồng chí Xuân, Phan Thanh Cưu, Nguyễn Ngọc Cầu phân công nhau về tổ chức van vận động Việt Minh tổng: đồng chí Phan Thanh Cưu về tổng Xuân Phong (Lê Hai); đồng chí Nguyễn Ngọc Cầu tổ chức ban vận động Việt Minh tổng Xuân Đài; đồng chí Xuân về tổng Xuân Vinh.

Sau 1 tháng vận động, Việt Minh tập hợp đại biểu các tổng bầu ra Ủy ban Việt Minh huyện Tuy An, Sơn Hòa, thị xã Sông Cầu, Tuy Hòa.


(*) Người viết: Nguyễn Văn Thưởng, Sở Giáo dục và Đào tạo Phú Yên.
(1) Từ ngày 15 đến ngày 20.5.1945, gần 300 chiến sĩ cộng sản đã thoát khỏi nhà đày Buôn Ma Thuột trở về các tỉnh Trung Kỳ, tham gia phong trào cách mạng từ Thanh Hóa đến Bình Thuận (theo Lịch sử cách mạng ThángTám 1945, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 222).


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Chín, 2011, 06:11:00 pm
Sau khi đã tổ chức Ủy ban Việt Minh huyện, thị, khu và xã, phong trào cứu quốc của quần chúng dâng lên cao như nước vỡ bờ. Lòng căm thù của nhân dân đã nung nấu từ lâu, nay được Mặt trận Việt Minh hướng dẫn đấu tranh.

Ở nông thôn, nông dân đã gia nhập hàng ngũ cứu quốc và tự vệ vũ trang ngày càng đông mạnh, nhất là ở Hòa Bình, Hòa Tường, Hòa Kiến, Hòa Đa, An Hiệp, La Hai, Sông Cầu, Gò Dúi, vv.

Nhiều nơi hội công chức cứu quốc, thương nhân cứu quốc, liên đoàn vận tải cứu quốc, học sinh, thanh niên tham gia vào Mặt trận Việt Minh. Phong trào quần chúng có tính chất rộng rãi đã lan nhanh toàn tỉnh. Ý thức chính trị của quần chúng và cán bộ đã được nâng cao.

Tiếp được chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, Ban vận động Việt Minh tỉnh gấp rút triệu tập cuộc họp nhận định tình hình và bầu ra Ủy ban Việt Minh lâm thời để chuẩn bị lực lượng cho công tác khởi nghĩa.

Ngày 17.5.1945, hội nghị tiến hành tại Phước Hậu nhận định tình hình của địch đã tan rã và thất bại ở Mãn Châu, ở hầu hết các mặt trận. Đồng minh thắng lợi, Hồng quân Liên Xô đã tiêu diệt nhiều sinh lực địch

Trong tỉnh, chỉ có 1 tiểu đoàn quân đội Nhật đóng rải rác ở La Hai, thị xã Tuy Hòa và ở Đồng Bò. Bọn Pháp bị Nhật tập trung ra Quy Nhơn; chính quyền bù nhìn Nam triều hoang mang trước phong trào cách mạng của quần chúng. Khoảng 200 lính khố xanh đóng ở Sông Cầu, 100 lính ở Tuy Hòa đã được bí mật vận động; một số theo cách mạng.

Lực lượng cách mạng trong Mặt trận Việt Minh ngày càng phát triển. Số hội viên cứu quốc đã lên đến 3.000. Các đội tự vệ đã được tổ chức ở các xã, những nơi quan trọng có trang bị vũ khí. Các Ủy ban Việt Minh tỉnh, huyện đều tích cực và quyết tâm chấp hành nghị quyết và mở rộng lực lượng cách mạng đến các xã, thôn. Tinh thần nhân dân kiên quyết và hăng hái đi theo cách mạng. Công nhân nhà máy đèn Sông Cầu, Tuy Hòa và sở đường Đồng Bò đã được tổ chức. Mỗi xã tổ chức được 1 tiểu đội, có xã đông 1 trung đội tự vệ vũ trang. Tuy nhiên, phong trào cách mạng lúc này chưa được tổ chức ở các xã xa, những vùng hẻo lánh.

Hội nghị đã nhận định tình hình địch, ta và đấu tranh trong nội bộ để thống nhất tư tưởng và hành động, thống nhất các lực lượng. Cuối cùng, hội nghị đã ra các quyết nghị:

1. Xúc tiến tổ chức Ban vận động Việt Minh các huyện, thị, khu, thị xã; nơi nào thành lập được Ủy ban Việt Minh lâm thời thì nên tổ chức ngay việc đẩy mạnh tuyên truyền dân chúng vào hàng ngũ cứu quốc.

2. Tổ chức phải rộng khắp thành thị và nông thôn, tổ chức ngay trong hàng ngũ binh lính khố xanh của chính quyền bù nhìn và trong công chức, học sinh, vv.

3. Tổ chức vừa bí mật vừa bán công khai, kết hợp tuyên truyền công khai trong các chỗ đông người(1).

- Các khẩu hiệu đấu tranh:

- Đả đảo phát xít Nhật;

- Đánh đổ chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim;

- Nước Việt Nam của người Việt Nam;

- Chính quyền về tay nhân dân.

Tháng 6.1945, các đồng chí trong Việt Minh tỉnh đã phân công nhau về phủ, huyện và xây dựng được nhiều cơ sở Việt Minh ở xã, thành lập Ủy ban Việt Minh phủ, huyện, bắt liên lạc được với nhiều đồng chí đã tham gia hoạt động trước đây, như đồng chí Nguyễn Văn Nguyên, Phan Lưu Thanh, Nguyễn Hạnh, Phan Thanh Cưu, Nguyễn Quốc Thoại, Nguyễn Chấn, Lê Tấn Thăng. Tất cả các đồng chí đảng viên đều thống nhất phải nhanh chóng thanh lập Tỉnh ủy lâm thời để chỉ đạo phong trào, chuẩn bị khởi nghĩa.

Để đảm bảo thực hiện các quyết định trong cuộc họp thành lập Tỉnh ủy lâm thời, cần:

- Đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền cương lĩnh của Mặt trận Việt Minh, nâng cao giác ngộ cách mạng, động viên hiệu triệu quần chúng dám cùng nhau đứng lên đánh đổ phát xít Nhật và bọn tay sai bán nước, quyết giành chính quyền về tay nhân dân.

- Tiến hành vũ trang biểu tình thị uy ở các nơi, các địa bàn có điều kiện, nâng cao khí thế cách mạng trong quần chúng.

- Phát triển mạnh và đều khắp các đoàn thể cứu quốc.

- Tổ chức các đội vũ trang tự vệ, xây dựng lực lượng nòng cốt trong binh lính và bộ máy cai trị của thực dân Pháp và phong kiến.

- Thành lập Ủy ban khởi nghĩa. Xác định rõ nội dung và yêu cầu của Đại hội Việt Minh, dự định họp vào ngày 17.7.1945.

Sau một thời gian chuẩn bị và đã liên lạc được với 4 phủ, huyện, Tỉnh ủy lâm thời quyết định triệu tập Đại hội Mặt trận Việt Minh tỉnh vào ngày 17.7.1945, Đại hội tiến hành tổ chức tại nhà đồng chí Nguyễn quốc Thoại làng Phước Hậu, xã Hòa kiến, Tuy Hòa.


(1) Sơ thảo đề cương ưLịch sử cách mạng tháng Tám ở tỉnh Phú Yên, lưu Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Phú Yến, BNCLSĐ/PY/C2, 1960, tr. 6-7.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Chín, 2011, 06:14:30 pm
Từ ngày 14.8 đến 23.8, các cuộc biểu tình vũ trang thị uy có hàng ngàn người tham gia, được tổ chức công khai ở La Hai, Tuy An, Đồng Bò, đưa phong trào cách mạng toàn tỉnh Phú Yên lên đỉnh cao chưa từng có. Trước khi biểu tình, các đoàn thể cứu quốc hàng ngũ chỉnh tề nghe đại biểu Việt Minh nói về tình thế cả nước, chủ trương chuẩn bị khởi nghĩa của Việt Minh, hô hào nhân dân tham gia Việt Minh, tham gia tự vệ chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền.

Ngày 20.8.1945, đồng chí Nguyễn Văn Nguyên, thư kí Ủy ban Việt Minh tỉnh biết tin Nhật đầu hàng quân Đồng minh, huy động lực lượng từ Đông Xuân về Sông Cầu chuẩn bị khởi nghĩa.

Tối ngày 20.8, tại Chí Thạnh, Tuy An, Ủy ban Việt Minh tỉnh nhận định: Nhật đầu hàng Đồng minh là thời cơ khách quan vô cùng thuận lợi để chúng ta tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền, nếu chậm trễ sẽ không còn cơ hội. Khởi nghĩa là nhiệm vụ cực kì trọng đại, là đỉnh cao của bạo lực cách mạng, khởi nghĩa phải có lực lượng mạnh đông đảo, cùng đồng thời với cả nước(1).

Ở La Hai, Sông Cầu,. Gò Dúi, Hòa Bình, Hòa Tường (Tuy Hòa) và Hòa Đa (Tuy An) đều có tổ chức mít tinh; đại biểu Việt Minh nêu rõ mục đích và ý nghĩa của khởi nghĩa giành chính quyền tỉnh lị. Quần chúng hoan hô nhiệt liệt, xung phong đi về tỉnh lị để giành chính quyền. Các lực lượng từ La hai, Gò Dúi, Hòa Đa và Phước Hậu đã kéo về tỉnh lị Sông Cầu, có hàng nghìn hội viên cứu quốc và tự vệ vũ trang.

Trước tình hình trên, Ủy ban Việt Minh lâm thời tỉnh quyết định chuẩn bị khởi nghĩa vào ngày 21.8.1945, chỉ thị cho các huyện, thị củng cố các lực lượng, các đội tự vệ, cho kịp ngày khởi nghĩa.

Sáng ngày 21.8.1945, ở Sông Cầu đã diễn ra cuộc biểu tình với hàng vạn nhân dân tham gia, gồm đông đảo thanh niên, phụ nữ, nông dân các nơi về, có công nhân, viên chức, tiểu thương ở tỉnh lị, có lính khố xanh cầm súng bảo vệ. Các chủ xe đã giúp việc chuyển các lực lượng ở La Hai, Gò Dúi, Hòa Đa, Phước Hậu về tỉnh lị. Bọn quan lại hoảng hốt, hoang mang dao động.

Cuộc biểu tình biến thành cuộc biểu tình vũ trang thị uy, tiến tới cướp chính quyền. Trên 200 người có vũ trang kéo về Sông Cầu dự mít tinh, đồng chí Hoàng Văn Phúc đại diện cho Ủy ban Việt Minh giải thích chương tình Mặt trận, phân tích tính chất độc lập giả hiệu và bản chất tay sai của chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim, kêu gọi đồng bào hãy tích cực tham gia vào Việt Minh để giành lấy chính quyền. Sau cuộc mít tinh ở tỉnh lị các đơn vị trở về địa phương chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền.

Biểu tình vũ trang cũng diễn ra ở các xã, thôn thuộc huyện Tuy Hòa, La Hai - Đồng Xuân, phía nam huyện Tuy An, gồm năm vạn hội viên cứu quốc và các đội tự vệ với cờ đỏ sao vàng và các khẩu hiệu “Đánh đổ chính quyền bù nhìn Trần Trọng Kim”, “Nước Việt Nam phải độc lập thực sự”, “Chính quyền ề tay nhân dân”.

Sáng ngày 22.8.1945, quân Nhật gấp rút chuyển quân vào Nha Trang. Ở thị xã Tuy Hòa, lực lượng lính Bảo an đã theo ta, quân Nhật giữ thái độ trung lập rút về cố thủ sở đường Đồng Bò và núi Nhạn Tháp (thị xã Tuy Hòa).

Ngày 22.8.1945, Ủy ban Việt Minh phủ Tuy An tổ chức hai cuộc biểu tình rậm rộ. Một cuộc biểu tình ở Chí Thạnh gồm các tổng phía bắc; một cuộc biểu tình khác ở Hòa Đa - Chợ Xồm với lực lượng quần chúng ở tổng An Vinh, An Phú, do đồng chí Nguyễn Thái, Huỳnh Lưu phụ trách. Từ sáng sớm, 2000 người có trang bị gậy gộc, giáo mác tiến về phủ. Mỗi xã trong đoàn biểu tình có 4 khẩu hiệu: “Đả đảo phát xít Nhật!”, “Đánh đổ chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim!”, “Việt Nam hoàn toàn độc lập!”, “Mặt trận Việt Minh muôn năm!”.

Ngày 23.8.1945, cuộc biểu tình ở phủ và khu Tuy Hòa  do Đinh Nho Khôi chủ trì liên kết với lực lượng của Lê Duy Trinh, Nguyễn chấn, Trần Đình San. Lực lượng ở khu Tuy Hòa đóng lên 4000 người. Lúc đầu tập trung ở sân bay Tuy Hòa (phía tây quốc lộ 1, đoạn cây số hai từ trung tâm thị xã Tuy Hòa).

Chính quyền bù nhìn từ xã đến huyện đều bị tê liệt, nhiều chức sắc đi tìm Việt Minh để giao nộp chính quyền, có người bỏ trốn. Binh lính khố xanh đã có một số tham gia Việt Minh. Cuộc khởi nghĩa vũ trang của nhân dân toàn tỉnh đã ảnh hưởng rất lớn đến tinh thần binh lính Nhật.

Ngày 23.8.1945, ủy ban Việt Minh lâm thời ra chỉ thị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền, đánh đổ chính phủ bù nhìn, thành lập chính quyền lâm thời. Sáng ngày 23.8.1945, ở Sông Cầu đã huy động hàng vạn quần chúng biểu tình vũ trang, có lực lượng lính khố xanh tham gia. Cuộc biểu tình vũ trang có cờ đỏ sao vàng, khẩu hiệu khắp trên các ngả đường. Tuần vũ Hồ Ngận đầu hàng giao nộp chính quyền toàn tỉnh, giao kho bạc, các công sở, hồ sơ cho chính quyền cách mạng. Sau cuộc biểu tình, Ủy ban dân tộc giải phóng tỉnh phân công lực lượng đi giành chính quyền ở các cơ sở.

Cùng ngày, tại La Hai, Ủy ban Việt Minh lâm thời đã triệu tập đại biểu các tổng về bầu ra Ủy ban dân tộc giải phóng (sau đổi là Ủy ban nhân dân cách mạng). Nhân dân huyện Đồng Xuân cũng huy động lực lượng vũ trang, các hội cứu quốc từ các xã cùng biểu tình rầm rộ. Tri huyện, tổng lí, bang tá đều hoang mang cực độ. Phong trào quần chúng lên cao, Ủy ban dân tộc giải phóng tuyên bố giành chính quyền toàn huyện, nói rõ chủ trương giành chính quyền của Việt Minh là đập tan bộ máy bù nhìn, lập chính quyền nhân dân toàn huyện, thiết lập trật tự an ninh, ban hành chính sách mặt trận Việt Minh, đem lại quyền lợi chính trị, kinh tế cho nhân dân toàn huyện.

Sau cuộc biểu tình, Ủy ban dân tộc giải phóng phân công lực lượng vũ trang đi tịch thu các công sở liên nông, nhà ga xe lửa. Chính quyền bù nhìn đầu hàng và giao công sở cho chính quyền cách mạng.

Cùng ngày 23.8.1945, các huyện còn lại cũng giành chính quyền nhanh chóng.

Riêng ở thị xã Tuy Hòa, vì tổ chức Việt Minh chưa thống nhất, đường lối không nhất trí nên đã xảy ra những sự xung đột đáng tiếc, thậm chí đổ máu; cho đến khi cấp trên về giải quyết để các nhóm gạt bỏ những thành kiến sai lầm, cùng nhau đoàn kết, phục vụ cách mạng. Đến ngày 24.8.1945, lực lượng vũ trang ở Sông Cầu, nam Tuy An, bắc Tuy Hòa và một số lực lượng công nhân viên chức của thị xã Tuy Hòa đã giành chính quyền.

Ở Sở đường Đồng Bò, bọn Nhật vẫn còn canh gác không giao nộp cho ta, nên chính quyền cách mạng phải huy động lực lượng tự vệ từ các nơi La Hai, Gò Dúi, Sông Cầu, Hòa Kiến, Hòa Đa để bao vây quân Nhật, cắt đường tiếp tế lương thực. Cuộc chiến đấu diễn ra có lúc dữ dội, 3 tháng sau, chúng hết lương thực và xin giao nộp sở đường và rút quân khỏi Tuy Hòa, ở thị xã Tuy Hòa bọn Nhật cũng xin rút theo.

Chính quyền cách mạng đã thuộc về nhân dân trong toàn tỉnh.

Cuộc Cách mạng tháng tám 1945 ở Phú Yên nhờ chuẩn bị tốt và có sự lãnh đạo kịp thời của Tỉnh ủy. nên chỉ trong vòng một tuần lễ cuộc khởi nghĩa trong toàn tỉnh đã giành thắng lợi hoàn toàn.

*

Cuộc khởi nghĩa ở Phú Yên chính là cuộc biểu tình chính trị của mấy chục vạn quần chúng công nông cùng các tầng lớp khác, tạo nên một lực lượng hùng hậu, kết hợp đấu tranh chính trị với vũ trang làm cho cách mạng thành công nhanh chóng. Cùng với sự chuẩn bị lực lượng, Đảng lãnh đạo đã nắm bắt thời cơ kịp thời: “một là, quân thù hoang mang đến cực độ, phát xít Nhật đã đầu hàng ở chính quốc, quân đội viễn chinh của Nhật như rắn mất đầu; hai là, sức mạnh bạo lực của quần chúng vũ trang nổi lên quá to lớn, hùng hậu, rộng khắp, đè bẹp một cách nhanh chóng sức phản kháng và ý chí phản kháng của quân thù”(2).


(1) Trước cách mạng Tháng Tám, phủ Tuy Hòa bao gồm huyện Tuy Hòa và thị xã Tuy Hòa. Thị xã Tuy Hòa lúc bấy giờ gọi là khu Tuy Hòa.
(2) Theo Tìm hiểu đặc điểm và tích chất của cách mạng Tháng Tám, Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương, Nhà xuất bản Sự thật, HN, 1963, tr. 22.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Chín, 2011, 06:16:38 pm
KHÁNH HÒA(*)

Khánh Hòa thuộc vùng Nam Trung Bộ, có thành phố biển Nha Trang, không chỉ nổi tiếng về du lịch mà còn có vị trí quan trọng về quân sự cho cả khu vực và vùng chiến lược Tây Nguyên. Vịnh Cam Rạnh là một trong những cảng biển tốt nhất thế giới, rộng, sâu và kín gió

Sau khi đánh chiếm khánh Hòa (1885), thực dân Pháp phải đương đầu với phong trào yêu nước của nhân dân ngày càng phát triển, đặc biệt từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời.

Đảo chính Pháp (9.3.1945), phát xít Nhật chuyển cơ quan hành chính tỉnh Khánh Hòa từ Thành (Diên Khánh) về Nha Trang và ra sức củng cố sự thống trị của chúng ở vùng đất quan trọng này. Chúng tăng cường lừa bịp về chính trị - lập ra Ủy ban trị sự quốc gia, cho ra đời “Việt Nam ái quốc đảng”, lập “Hội đồng tư vấn” và các “Hội đường hương chính xã”… Về quân sự, chúng mở lớp hiến binh ở Nha Trang, mở rộng và củng cố sân bay Nha Trang thành sân bay chiến lược, biến thương cảng Cầu Đá thành quân cảng… Về kinh tế, chúng tăng cường bóc lột nhân dân để phục vụ cho chiến tranh.

Trước tình hình ấy, Khánh Hòa cần củng cố tổ chức Đảng, thành lập Mặt trận Việt Minh và đoàn thể quần chúng để đẩy mạnh phong trào cách mạng, tiến tới Tổng khởi nghĩa.

Giữa tháng 4.1945, Ban Vận động Việt Minh Khánh Hòa được thành lập. Cũng trong tháng này, tại thôn Mỹ Lệ, Tỉnh ủy lâm thời Khánh Hòa ra đời, do đồng chí Trịnh Huy Quang làm Bí thư. Trong khi ấy, Việt Minh Nha Trang đã được tổ chức. Vì vậy, vào đầu tháng 5.1945, Việt Minh Khánh Hòa và Việt Minh Nha Trang đã bắt đầu họp để thống nhất và bầu Ban lãnh đạo chung.

Sau khi thống nhất và củng cố Mặt trận Việt Minh ở khánh Hòa, phong trào cách mạng trong tỉnh có những chuyển biến. Mặt trận Việt Minh xây dựng được cơ sở rộng khắp, thu hút hàng vạn hội viên cứu quốc ở nông thôn, các thị xã, thị trấn.

Nắm được tình hình phát xít Nhật sẽ phải đầu hàng Đồng minh, đêm 12.8, Tỉnh ủy lâm thời Khánh Hòa họp Hội nghị mở rộng ở Nha Trang, phát động cuộc khởi nghĩa trong toàn tỉnh khi Nhật đầu hàng.

Ngày 14 và 15.8.1945, nhân dân các huyện Vạn Ninh và Ninh Hòa tiến hành khởi nghĩa và giành được thắng lợi.

Tin khởi nghĩa thắng lợi ở hai huyện Vạn Ninh, Ninh Hòa truyền đi nhanh chóng làm cho nhân dân phấn khởi, tin thưởng. Kẻ địch càng thêm hoang mang, dao động. Lính Nhật đóng yên trong trại. Các tầng lớp trung gian được phong trào chống Nhật cứu nước lôi cuốn ngả về phía lực lượng cách mạng. Các tổ chức chính trị thân Nhật, dưới những đòn đả kích nặng của phong trào Việt Minh đã phân hóa cao độ. Bọn Việt gian lo sợ tìm gặp các đồng chí lãnh đạo Việt Minh xin khoan hồng. Tình hình này tạo điều kiện cho các địa phương khác khởi nghĩa. Tuy nhiên, việc khởi nghĩa ở Khánh Hòa nói chung, Nha Trang nói riêng rất khó khăn. Trong toàn tỉnh có một sư đoàn lính Nhật đóng, riêng ở Nha Trang có 3.000 tên.

Đêm 15.8, Tỉnh ủy lâm thời họp Hội nghị mở rộng với sự tham dự của đại biểu các huyện tại nhà đồng chí Trần Việt Châu ở gần kho xăng Phước Hải. Hội nghị biểu thị sự phấn khởi trước cuộc khởi nghĩa đang bắt đầu thuận lợi ở các huyện phía Bắc tỉnh và nhất trí sa sức chuẩn bị tiến hành khởi nghĩa trong toàn tỉnh, chủ yếu là ở Nha Trang. Hội nghị bàu ra “Ban khởi nghĩa” gồm đồng chí Bùi San làm Ủy viên Thường trực và các đồng chí Nguyễn Văn Chi, Trần Việt Châu. Hội nghị chủ trương tổ chức những cuộc biểu tình thị uy, qua đó tăng cường lực lượng và thăm dò sự phản ứng của Nhật. Hội nghị chỉ rõ trên cơ sở nhân dân được phát động, cần thi hành một chính sách mềm dẻo khiến cho bọn Nhật không dám can thiệp vào công việc nội bộ của ta.

Ngày 17.8, Đại hội Việt Minh toàn tỉnh họp; đại biểu của Tỉnh ủy lâm thời và Ủy ban Việt Minh tỉnh, đại biểu thị xã Nha Trang, địa biểu các phủ, huyện tham dự đông đủ. Đại hội bàn cụ thể kế hoạch khởi nghĩa giành chính quyền tại Nha Trang, bầu Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời, do các đồng chí Nguyễn Văn Chi làm Chủ tịch, Phạm Cự Hải - Phó Chủ tịch, Trần Chí Hiền - Ủy viên quân sự, Tôn Thất Vỹ - Ủy viên thư kí và một số ủy viên phụ trách các ngành.

Được tin ngụy quyền khánh Hòa dự định tổ chức cuộc mít tinh lớn của thanh niên vào ngày 19.8 để ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim, Tỉnh ủy lâm thời và Ủy ban khởi nghĩa tỉnh quyết định lợi dụng cơ hội này để biến cuộc mít tinh do địch tổ chức thành cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh. Đồng chí Đào Thiện Thi, thủ lĩnh Liên đoàn thanh niên Khánh Hòa, được Ủy ban khởi nghĩa giao nhiệm vụ tranh thủ những điều kiện hợp pháp để tập hợp đông đảo quần chúng và binh sĩ yêu nước đến dự cuộc mít tinh, đồng thời phải kéo được những tên cầm đầu chính quyền bù nhìn tỉnh Khánh Hòa, thị xã Nha Trang, Vĩnh Xương, Diên Khánh và các sĩ quan Nhật đóng tại Nha Trang đến dự.

Sau Đại hội Việt Minh tỉnh, các đồng chí lãnh đạo Việt Minh Nha Trang, Vĩnh Xương tiến hành ngay Hội nghị các đoàn thể cứu quốc ở địa phương vào chiều ngày 17.8.1945, với sự tham dự của đại biểu Ủy ban khởi nghĩa tỉnh. Hội nghị quyết định lấy ngày 19.8.1945 làm ngày khởi nghĩa giành chính quyền ở địa phương. Các vấn đề huy động quần chúng, bố trí lực lượng theo dõi những hoạt động phá rối của địch, việc tổ chức chào cờ, sắp xếp đội hình quần chúng và nội dung khẩu hiệu, thái độ của ta đối với Nhật và bọn Việt gian thân Nhật, cách chiếm và tiếp quản các cơ quản, công sở của địch… được bàn bạc rất cụ thể.


(*) Người viết: TS. Trần Quốc Tuấn, Trường Đại học Quy Nhơn.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Chín, 2011, 06:17:39 pm
Ngày 18.8.1945, mọi công việc chuẩn bị cho ngày khởi nghĩa được tiến hành khẩn trương. Các đội tự vệ thanh niên tăng cường bảo vệ và theo dõi chặt chẽ các vị trí địch, các cơ quan đầu não của chính quyền bù nhìn, bám sát những tên Việt gian đầu sỏ thân Nhật. Truyền đơn được tung và các doanh trại, các cơ quan công sở. Các đoàn thể Việt Minh rà soát lại đội ngũ. Phụ nữ may cờ, biểu ngữ.

Ở các xã của huyện Vĩnh Xương, không khí chuẩn bị khởi nghĩa diễn ra rầm rộ. Sau khi đại diện Việt Minh huyện truyền đạt lệnh khởi nghĩa, Việt Minh các xã đã xúc tiến huy động lực lượng quần chúng xuống đường chuẩn bị tiến về Nha Trang, chuẩn bị băng cờ, khẩu hiệu và bàn kế hoạch bố trí người ở nhà chuẩn bị giành chính quyền ở xã khi cuộc khởi nghĩa giành chính quyền Nha Trang thành công.

Trưa ngày 19.8.1945, theo kế hoạch của Ủy ban khởi nghĩa, quần chúng nhân dân từ Diên Khánh, Vĩnh Xương, Vĩnh Nguyên, Vĩnh Tường, Vĩnh Hải và nội thành Nha Trang mang gậy gộc, dây thừng, dao găm, cờ đỏ sao vàng cuộn chặt trong những lá cờ “quẻ li”, băng khẩu hiệu rầm rập kéo về sân vận động Nha Trang.

Đúng 14 giờ, sân vận động Nha Trang tràn ngập một biển người. Các đoàn dự mít tinh hàng ngũ chỉnh tề, đứng vào vị trí đã quy định. Các quan lại cấp tỉnh, huyện, thị xã, bọn hiến binh Nhật, bọn mật thám các loại, những tên cầm đầu các tổ chức phản động đều có mặt đông đủ. Theo kế hoạch của Ban tổ chức, cờ “quẻ li” được treo sẵn trên đỉnh cột cờ, cờ đỏ sao vàng thì chuẩn bị sẵn sàng khi làm lễ kéo lên thay. Các đội tự vệ cách mạng theo sát bọn quan lại và những tên tay sai đầu sỏ, sẵn sàng trấn áp ngay những hành động phản trắc của chúng. Ngoài ra, một trung đội lính bảo an được Phạm Thám chỉ huy được ta bố trí cầm súng có cắm lưỡi lê làm đội danh dự đứng trước lễ đài.

Ở các công sở, các cơ quan hành chính của địch, ta cũng đã bố trí lực lượng canh gác chờ quân khởi nghĩa đến chiếm.

Đúng 15 giờ ngày 19.8.1945, đồng chí Trần Oanh đã có mặt sẵn sàng ở chân cột cờ, bất ngờ hạ cờ “quẻ li” xuống và nhanh chóng kéo lá cờ đỏ sao vàng lên đỉnh cột cờ. Tiếng hoan hô của nhân dân vang dậy. Băng cờ, biểu ngữ của Việt Minh được giao cương. Phút chốc cả sân vận động ngập tràn trong màu cờ đỏ sao vàng, biểu ngữ. Bọn địch ngơ ngác, nhốn nháo. Một tên sĩ quan Nhật cho tay vào đốc kiếm định bước lên nhưng hai chiến sĩ bảo vệ (Trần Tự Trọng và Nguyễn Đình Mười) buộc hắn đứng yên tại chỗ. Lễ chào cờ bắt đầu. Đội lính bảo an do Lê Thám và Phạm Thám chỉ huy đã nhất tề bồng súng cùng hàng ngàn đồng bào đứng nghiêm chào cờ đỏ sao vàng đang tung bay.

Sau lễ chào cờ, đồng chí Đào Thiện Thi, được hai tự vệ bảo vệ, thay mặt Việt Minh tỉnh Khánh Hòa tuyên bố xóa bỏ chính quyền bù nhìn và kêu gọi đồng bào ủng hộ Việt Minh, tham gia khởi nghĩa đánh đổ chính quyền thân Nhật, giành chính quyền về tay nhân dân. Tiếng hô các khẩu hiệu vang dậy: “Ủng hộ Việt Minh”, “Đả đảo chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim”.

Bọn cầm đầu chính quyền bù nhìn tỉnh: Tuần vũ Phan Thanh Kỷ, Án sát Lê Duy Tiềm, bọn ngụy quyền thị xã, huyện Vĩnh Xương, phủ Diên Khánh, bọn mật thám, Việt gian bị tự vệ bắt giữ. Băng đệm buồm chữ đen của ngụy quyền treo trên khá đại bị gỡ ném xuống đất, thay vào đó là băng vải đỏ chữ vàng “Mặt trận Việt Minh muôn năm! Chính quyền cách mạng muôn năm”.

Cuộc mít tinh biến thành cuộc tuần hành thị uy… Đoàn biểu tình đông hàng nghìn người, dẫn theo Tỉnh trưởng Phan Thanh Kỷ, kéo đến chiếm cơ quan của ngụy quyền tỉnh Khánh Hòa (nay là trụ sở Ủy ban nhân dân tỉnh) tịch thu ấn tín, hồ sơ, tài liệu. Đồng chí Nguyễn Văn Chi - Chủ tịch Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tuyên bố xóa bỏ chính quyền bù nhìn và thành lập chính quyền cách mạng tỉnh Khánh Hòa. Ủy ban nhân dân cách mạng tỉnh do đồng chí Nguyễn Văn Chi làm Chủ tịch, đồng chí Phạm Cự Hải làm Phó chủ tịch, đồng chí Tôn Thất Vỹ (Nguyễn Minh Vỹ) làm Tổng thư kí và các ủy viên khác.

Theo sự hướng dẫn của Ủy ban khởi nghĩa, quần chúng nhanh chóng tỏa về các đường phố, chiếm lĩnh các công sở, trại bảo an, cảnh sát, nhà đèn, kho bạc và phá trại gam giải phóng tù nhân. Mọi công việc được tiến hành nhanh chóng, gọn gàng.

Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời của thị xã Nha Trang cũng được thành lập ngay trong đêm 19.8.1945, do đồng chí Nguyễn Duy Tính làm Chủ tịch, đồng chí Lê Huy Phát làm Phó chủ tịch.

Ở Vĩnh Xương, sau khi tham gia cướp chính quyền ở Nha Trang, quần chúng đã tiếp tục nổi dậy, xóa bỏ chính quyền bù nhìn và thôn, lập chính quyền cách mạng. Chỉ trong ngày 20.8, toàn huyện đã giành được chính quyền. Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời của huyện Vĩnh Xương được thành lập, do đồng chí Hồ Ngọc Cang làm Chủ tịch. Tiếp đó, các huyện, xã, thị trấn trong tỉnh Khánh Hòa lần lượt nhanh chóng giành được chính quyền.

*

Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Khánh Hòa thắng lợi, góp phần vào thắng lợi chung của Cách mạng tháng Tám trong toàn quốc, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống Pháp diễn ra ngay sau đó.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Chín, 2011, 06:24:00 pm
KON TUM(*)

Kon Tum là một tỉnh ở cực bắc Tây Nguyên, địa bàn cư trú lâu đời của nhiều dân tộc anh em trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, như Giarai, Bana, Xêđăng, Giẻ Triêng, Brâu, Bơmâm. Người Kinh đã có mặt từ lâu ở Kon Tum. Đây là một vùng chiến lược rất quan trọng đối với cả nước về kinh tế và quốc phòng. Trong lịch sử, vùng đất này luôn luôn bị đe dọa, tranh chấp và thôn tính bởi các thế lực bành trướng như Chămpa, Lào, Cămpuchia, Xiêm La (nay là Thái Lan) và từ cuối thế kỉ 19 là địa bàn xâm lược, đô hộ của thực dân Pháp. Trong bối cảnh lịch sử đó, nhân dân các dân tộc ở đây đã liên tục vùng dậy đấu tranh và xây dựng được truyền thống vẻ vang của mình trong công cuộc chống ngoại xâm. Với truyền thống đó, trong Cách mạng tháng Tám 1945, tuy chưa có sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, chưa có cơ sở Việt Minh nhưng do ảnh hưởng của phong trào cách mạng trong toàn quốc và khu vực, nhân dân các dân tộc Kon Tum đã cùng với nhân dân cả nước đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền. Điều này thể hiện sự phong phú, tính đa dạng trong quá trình vận động Cách mạng tháng Tám ở các địa phương trong toàn quốc.

Cuộc vận động Cách mạng tháng Tám 1945 của quần chúng nhân dân Kon Tum không phải ngẫu nhiên, mà bắt nguồn từ truyền thống đấu tranh của các dân tộc đã liên tục đứng lên chống Pháp ngay từ khi chúng đặt chân lên Kon Tum. Phong trào này thất bại, phong trào sau lại tiếp tục xuất hiện, vùng này bị đàn áp tan rã, địa phương khác lại nổi lên bằng các hình thức phong phú khi hợp pháp, khi bất hợp pháp, bất hợp tác với đỉnh cao là đấu tranh vũ trang. Phong trào thu hút không những thanh niên trai tráng tham gia chiến đấu mà cả phụ nữ cũng là một lực lượng đáng kể(1).

Thực dân Pháp phải thừa nhận: “Thế là những bộ lạc hiếu loạn tiếp tục sống trong cuộc sống du mục và tự do của họ tiếp tục nổi lên chống lại chúng ta. Những người thám sát đi qua xứ này đều được tên, nỏ đón tiếp, Peroux, Canivey đã bị thương nạng; Hugo, Robert, Odendhal, Paris, Perrin, Mesnard, Henry, Siene bị giết; mỗi khi có biểu hiệu nổi dậy, nhà cầm quyền đã nhạy bén phái quân đội đến, nhiều biện pháp cần thiết được thi hành, nhưng tất cả đều rơi trở lại rất nhanh trong trạng thái ban đầu(2).

Từ năm 1930 trở đi, phong trào đấu tranh của nhân dân các dân tộc tiếp tục kéo dài đến trước Cách mạng tháng Tám 1945. Tiêu biểu là cuộc nổi dậy của đồng bào Xêđăng, Giẻ Triêng ở đông bắc Kon Tum do ảnh hưởng của “Phong trào nước thần” (Đăk Yàng) hay còn gọi là phong trào “Nước xu đỏ”, “đã làm cho đế quốc Pháp chậm kiểm soát được vùng Xêđăng đến 10 năm”(3). Và Guilleminète, công sứ Kon Tum phải than thở rằng, cho đến năm 1938, nhiều nơi đồng bào dân tộc vẫn làm chủ núi rừng, vẫn sống hiên ngang trong những làng mạc bất khả xâm phạm của họ(4).

Mặc dù phong trào đấu tranh của nhân dân trong các dân tộc ở Kon Tum lúc bấy giờ còn mang tính tự phát, nhưng là sự thể hiện truyền thống đấu tranh bất khuất, tình yêu quê hương, ý thức bảo vệ núi rừng, buôn làng mãnh liệt và tạo điều kiện cho nhiều người giác ngộ chính trị, trở thành cán bộ nòng cốt trong chính quyền cách mạng từ sau Cách mạng tháng Tám.

Từ năm 1928, ở Kon Tum đã xuất hiện cơ sở của Tân Việt cách mạng Đảng (nhóm Trần Mộng Bạch, Phan Kiêm Huy, Trần Hậu Tùng). Tháng 6.1930, một chi bộ cộng sản được thành lập trong binh lính quản lí nhà lao Kon Tum. Tiếp đó, một chi bộ cộng sản đường phố đã ra đời. Cả hai chi bộ tích cực hoạt động để tuyên truyền vận động cách mạng gây ảnh hưởng trong mọi tầng lớp nhân dân và phối hợp với nhau giúp đỡ tù chính trị trong sinh hoạt và tố cáo tội ác của thực dân Pháp, làm cho nhân dân tin tưởng vào những người cộng sản, vào đường lối của Đảng Cộng sản Đông Dương. Cuối năm 1931, bị địch theo dõi và đàn áp, cả hai chi bộ dần dần chấm dứt hoạt động; nhưng sự ra đời của các tổ chức cộng sản chứng tỏ chủ nghĩa cộng sản không chỉ có sức sống ở những vùng công nghiệp, vùng thành thị, nông thôn, đồng bằng mà cả ở vùng miền núi cao nguyên, xa xôi hẻo lánh. Thêm vào đó cần nhấn mạnh ảnh hưởng của những người tù cộng sản bị giam ở nhà lao Kom Tum đối với đồng bào các dân tộc, tiêu biểu là cuộc đấu tranh của tù chính trị ở nhà đày Kon Tum với đảnh cao là cuộc đấu tranh lưu huyết ngày 12.12.1931, buộc nhà cầm quyền Pháp phải nhượng bộ và có những cải thiện đối với chế độ nhà tù. Cuộc đấu tranh để lại trong lòng nhân dân các dân tộc Kon Tum một ấn tượng sâu sắc về người cộng sản và Đảng Cộng sản Đông Dương.


(*) Người viết: TS. Nguyễn Văn Chiến, Trường Cao đăng Sư phạm Gia Lai.
(1) E. Daufès: La Garde indigène de l’Indochine de sa création à nos jours, Avignon, 1934, tr. 188.
(2) H. Maire: Les Jungles Moi, Emile la Rose, Paris, 1912, tr. 549.
(3) Trần Văn Thân: Tìm hiểu phong trào chống thực dân Pháp của người Xêđăng ở vùng Bắc Kon Tum, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 150 - 1973, tr. 26.
(4) Guilleminète: Ebauche d’nune classfication des Mos au point de vue cluturelle, R.I.No 109, tr. 25.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Chín, 2011, 06:26:48 pm
Năm 1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, cũng như trong cả nước, ở Kon Tum đế quốc Pháp, phát xít Nhật tranh nhau khống chế đường 14, tăng cường cướp bóc lương thực, thực phẩm và tăng thuế má. Hàng ngàn thanh niên bị bắt đi làm đường, cầu cống, căn cứ quân sự và tham gia vào đội quân tay sai bản xứ. Trong các đồn điền bọn chủ bắt công nhân lao động từ 10 đến 12 giờ mỗi ngày. Bọn cầm quyền dùng chính sách muối để bóc lột, áp bức người lao động, làm cho nhân dân bị đói gạo, thiếu nuối thường xuyên. Nhiều làng bị xóa sổ vì đói như làng Rệt; có làng dân số 400 người nhưng qua một trận đói chỉ còn 20 người như làng Ri Nậm ở Đắc Hà, làng Rok Chuối, Tu Bi… ở Đăk Glây(1). Năm 1940, thực dân Pháp còn lập các “Căng an trí” (trại giam) ở Đăk Glây, Đăk Tô để tiếp tục giam giữ các chiến sĩ cách mạng trong phong trào dân chủ 1936-1939 đưa từ đồng bằng lên.

Ngay sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, các nghị quyết Hội nghị Trung ương lần VI (1939), lần VII (1940) và lần VIII (1941) đã chỉ cho phong trào yêu nước và cách mạng ở Kon Tum con đường phát triển, dù cơ sở Đảng đã bị vỡ từ năm 1941 và chưa có tổ chức của Mặt trận Việt Minh.

Từ năm 191, ở thị xã Kon Tum đã xuất hiện các hội yêu nước “biến tướng” như các Hội Tương tế, Ái hữu, Bóng đá, Hội học chữ quốc ngữ, với mục tiêu đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ. Đồng bào các dân tộc ít người tiếp tục đấu tranh vũ trang chống sưu cao, thuế nặng, chống đóng đồn, bót. Tiêu biểu là cuộc nổi dậy của 3000 đồng bào Xêđăng thuộc hai xã Đăk Min và Tăng Túc thuộc huyện Đăk Glây chống phá việc đóng đồn Tô Năng (1942). Địch đem quân đàn áp, nhưng nhân dân vẫn tiếp tục chiến đấu cho đến đầu năm 1945.

Năm 1943, tổ chức Đảng ở Bình Định điều các đồng chí Huỳnh Đăng Bằng, Lê Thanh Hà lên Kon Tum hoạt động, xây dựng cơ sở cách mạng nhưng bị địch phát hiện.

Ngày 9.3.1945, Nhật đảo chính Pháp trên toàn cõi Đông Dương. Ngày 17.4.1945, chính quyền bù nhìn thân Nhật ở Kon Tum được thành lập.

Trong lúc phát xít Nhật đang tiến hành các thủ đoạn áp bức bóc lột ở Kon Tum thì cao trào chống Nhật cứu nước diễn ra rầm rộ trong cả nước. Các cuộc đấu tranh tri kết hợp với đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền ở từng địa phương đã diễn ra sôi nổi ở Việt Bắc, trung du Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Cuộc khởi nghĩa Ba Tơ (11.3.1945) thành lập chính quyền cách mạng và độ du kích Ba Tơ đã có ảnh hưởng trực tiếp đến Kon Tum, các tỉnh Trung và Nam Trung Bộ. Đồng bào các dân tộc gây áp lực với một số công chức tiến bộ ở Kon Tum đòi Tỉnh trưởng Hà Ngại yêu cầu phát xít Nhật và chính phủ Nam triều thả 72 tù chính trị còn bị giam ở Đăc Tô. Cuộc đấu tranh giành được thắng lợi. Một số trí thức yêu nước như bác sĩ Hàng Lẫm, Lê Đại Nguyên, Lê Ngữ… đã tổ chức một cuộc đón tiếp tù chính trị từ Đăk Tô về. Cuộc đón tiếp thu hút sự chú ý của đông đảo quần chúng đối với cách mạng, hướng về Đảng Cộng sản Đông Dương, trong tình hình ở Kon Tum lúc bấy giờ tổ chức Đảng chưa được khôi phục, Mặt trận Việt Minh chưa được thành lập. Tuy vậy, ảnh hưởng của phong trào cách mạng ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên đã làm cho quần chúng nhân dân trong tỉnh hướng theo đường lối cứu nước của Mặt trận Việt Minh. Nhiều buôn làng ở Kon Tum trên thực tế đã do nhân dân tự quản lí, sự cai quản của Nhật và tay sai chỉ còn trên danh nghĩa.

Ngày 14.8.1945, phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh vô điều kiện. Đảng ta đã phát động toàn dân Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Khí thế khởi nghĩa sôi sục trong toàn quốc đã tác động mạnh mẽ đến Kon Tum, nhất là các cuộc khởi nghĩa ở các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, đặc biểu là là Gia Lai. Tình hình diễn biến rất thuận lợi, thời cơ khởi nghĩa ở Kon Tum đã chín muồi, nhưng do chưa có tổ chức Đảng lãnh đạo, không có Mặt trận Việt Minh tổ chức nên cuộc khởi nghĩa giành chính quyền chưa diễn ra.

Trước tình hình đó, ngày 23.8.1945, sau khi cuộc khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi, Ủy ban cách mạng lâm thời tỉnh Gia Lai do Trần Ngọc Vỹ làm Chủ tịch, đã quyết định đưa lực lượng cách mạng lên hỗ trợ, phối hợp với lực lượng Kon tum giành chính quyền.


(1) Lịch sử Đảng bộ Kon Tum (1930-1975), Tập 1, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 109.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Chín, 2011, 06:28:43 pm
Cùng lúc đó, tối 23.8.1945, một nhóm trí thức yêu nước và binh sĩ tiến bộ ở Kon Tum đã bí mật tổ chức Hội nghị thành lập Ban lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và bàn kế hoạch phối hợp với lực lượng của tỉnh Gia Lai lên hỗ trợ để giành chính quyền.

Cuộc họp đã vạch ra kế hoạch cụ thể.

- Phải huy động đông đảo quần chúng tham gia khởi nghĩa giành chính quyền.

- Vận động binh lính giao nộp vũ khí, tiến hành nổi dậy ở các công sở, doanh trại của địch.

- Gửi tối hậu thư yêu cầu hiến binh Nhật không được can thiệp.

- Phối hợp đồng bộ với lực lượng Plâyku lên hỗ trợ, tạo sức mạnh tổng hợp.

- Điện báo trước cho các đồn trưởng ở Đăk Tô, Kon Plông, Đăk Glây… các công sở tại tỉnh lị như tòa sứ, dinh quản đạo, bưu điện… chuẩn bị sẵn sàng trong tư thế bàn giao cho cách mạng(1).

Sáng ngày 25.8.1945, trước khí thế áp đảo của quần chúng, tỉnh trưởng Kon Tum Hà Ngại phải bàn giao chính quyền. Ủy ban Nhân dân cách mạng lâm thời được thành lập. Cùng lúc đó, ở Đăk Tô, Đăk Glây lực lượng của địch ở các đồn sẵn sàng chờ cách mạng đến tiến quản. Ở Kon Plông, khởi nghĩa giành chính quyền còn có lực lượng Việt Minh ở Quảng Ngãi lên phối hợp. Việc giành chính quyền ở xã, huyện đều diễn ra nhanh chóng do lực lượng tại chỗ phối hợp chặt chẽ với các đoàn cán bộ của tỉnh phái về để thành lập chính quyền cách mạng. Có thể nói cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Kon Tum diễn ra nhanh, gọn, không nổ súng mà triệt để trong tuần cuối của tháng tám năm 1945.

Sáng ngày 28.8.1945, Ủy ban cách mạng lâm thời tỉnh Kon Tum, với thành phần chủ yếu là những trí thức yêu nước, ra mắt đồng bào trong lễ mít tính chào mừng cuộc khởi nghĩa thắng lợi.

*

Thắng lợi của cuộc vận động Cách mạng tháng Tám ở Kon Tom đã góp phần vào thắng lợi chung của cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, mở ra một bước ngoặt mới trong lịch sử đấu tranh và xây dựng của đồng bào các dân tộc tỉnh Kon Tum. Đây cũng là biểu hiện thắng lợi của đường lối Đảng ta về vấn đề dân tộc, đặc biệt ở vùng dân tộc ít người.

Cuộc vận động Cách mạng tháng Tám ở Kon Tum, ngoài những đặc điểm cơ bản chung của cả nước còn có một số đặc điểm riêng. Đó là quá tình chuẩn bị và tiến hành cuộc khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở Kon Tum khi chưa có tổ chức của Mặt trận Việt Minh và cũng chưa có tổ chức Đảng trực tiếp lãnh đạo, nhưng do sức mạnh yêu nước của nhân dân các dân tộc, lại được ảnh hưởng của Đảng Cộng sản Đông Dương, của phong trào cách mạng các tỉnh lân cận mà cuộc khởi nghĩa ở Kon Tum cũng nổ ra cùng với các địa phương trong nước.

Một đặc điểm nổi bật khác là sự đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc, các tầng lớp nhân dân, bao gồm trí thức, công chức đã uy hiếp kẻ thù và nhanh chóng giành chính quyền, hòa nhập vào phong trào chung cả nước dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Những đặc điểm này chứng tỏ mối quan hệ gắn bó giữa Đảng và quần chúng, vai trò tác động to lớn của đường lối chính sách đúng đắn của Đảng, Mặt trận Việt Minh và của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng thời, nó thể hiện sinh động tính tích cực cách mạng, sáng tạo, chủ động và năng động của quần chúng, đã hành động theo đúng mục tiêu, phương pháp cách mạng của Đảng vạch ra. Mối quan hệ đặc biệt ấy đã được phát triển và tích tụ trong suốt quá trình chiến đấu chống ách nô dịch và bóc lột của bọn thực dân phong kiến trong suốt 15 năm, dẫn đến hành động quật khởi của nhân dân các dân tộc trong tỉnh vào những ngày cuối tháng 8.1945, đặc biệt ảnh hưởng trực tiếp của những chiến sĩ cộng sản bị địch bắt, đưa lên giam cầm tại nhà đày Kon Tum sau đó ở Đăk Glây, Đăk Tô. Mối quan hệ gắn bó của những người cộng sản với đồng bào các dân tộc tỉnh Kon Tum, là một bài học quý báu cho công tác vận động đồng bào dân tộc ít người sau này.


(1) Lịch sử Đảng bộ Kon Tum (1930-1975), Tập 1, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 86.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Chín, 2011, 04:55:01 pm
GIA LAI(*)

Gia Lai ngày nay là một trong năm tỉnh ở Tây Nguyên, nơi mà các dân tộc đã từng gắn bó lâu đời với Tổ quốc Việt Nam. Tuy nhiên, về địa giới tỉnh Gai Lai ngày nay cũng có nhiều thay đổi. Chỉ tính trong thời kì 1858-1945, đặc biệt từ sau 1885, khi thực dân Pháp xâm chiếm Tây Nguyên thì địa giới Gia Lai mấy lần thay đổi.

Ngày 4-7-1905, toàn bộ vùng rừng núi phía tây tỉnh Bình Định, bao gồm chủ yếu phần đất Gia Lai, được thực dân Pháp thành lập tỉnh “Pleiku Der”, sau đó lại giải thế, biến thành các đại lí của Phú Yên, rồi Kon Tum. Năm 1932, tỉnh Plâyku được tái lập.

Dù sự chia tách của thực dân Pháp như thế nào, song cuộc đấu tranh của các tộc người ở Gia Lai cho độc lập, tự do vẫn gắn chặt vào phong trào yêu nước của đồng bào Tây Nguyên và trong cả nước. Từ sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, phong trào đấu tranh ở Gia Lai nằm trong cuộc đấu tranh chung, do Đảng lãnh đạo. Các tổ chức quần chúng, cơ sở Đảng được xây dựng trong nhân dân, đồn điền Pháp, công sở, trường học… Các phong trào yêu nước chống Pháp này đặt cơ sở cho cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 bùng nổ và thắng lợi.

Trong cao trào cách mạng 1940-1945, các cuộc đấu tranh chống xâu, thuế, thu thóc, bắt lính, chống cưỡng bức lạc quyên, thu mua công trái… diễn ra ở nông thôn, thị trấn, thị xã, tiến tới cuộc Tổng khởi nghĩa.

Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9.3.1945), chính sách áp bức bóc lột của phát xít vẫn được duy trì và càng nặng nề hơ. Trong tình hình như vậy, chương tình cứu nước của Mặt trận Việt Minh được phổ biến sâu rộng ở Gia Lai. Mọi lực lượng được tổ chức củng cố, chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc đấu tranh mới. Phong trào cách mạng ở trung châu, nhất là cuộc khởi nghĩa Ba Tơ, ảnh hưởng mạnh đến Gia Lai. Các tầng lớp nhân dân, đặc biệt thanh niên Gia Lai rất hăng hái cách mạng. Tháng 4.1945, Đoàn thanh niên Gia Lai được thành lập.

Từ ngày 14.8.1945, cuộc Tổng khởi nghĩa lan nhanh tỏng cả nước và truyền lên Gia Lai. Quân đội Nhật ở Plâyku, An Khê, Cheo Reo lần lượt rút chạy về Quy Nhơn. Lực lượng bảo an của chính quyền thân Nhật đã ngả về cách mạng, tham gia, ủng hộ các hoạt động yêu nước của nhân dân.

Sáng ngày 20.8.1945, Đoàn thanh niên An Khê kêu gọi quần chúng trong huyện đứng lên khởi nghĩa chiếm đồn bảo an ở thị trấn và trụ sở huyện lị. Huyện trưởng Phan Sĩ Sàng chấp nhận bàn giao chính quyền cho lực lượng thanh niên và quần chúng cách mạng. Lực lượng bao ran cũng giao nộp toàn bộ vũ khí. Chính quyền cách mạng lâm thời được thành lập, gồm các ông Trần Sanh, Bùi Thế Viện, Đỗ Trạc, Trần Thông…, kêu gọi quần chúng ủng hộ cách mạng. Sau đó, lực lượng cách mạng tỏa về vùng phụ cận tổ chức mít tinh biểu dương lực lượng, tịch thu triện đồng của bọn chức sắc chính quyền thôn xã.

Sáng ngày 22.8, đoàn quân khởi nghĩa An Khê có lực lượng vũ trang tự vệ yểm trợ, do các ông Trần Sanh, Trần Thông dẫn đầu tiến về thị xã, phối hợp với Đoàn thanh niên Plâyku giành chính quyền ở tỉnh lị.

Tại Plâyku, ngay từ những ngày đầu tháng 8.1945, lực lượng thanh niên yêu nước và quần chúng đã tích cực chuẩn bị mọi hoạt động nổi dậy giành chính quyền. Bộ máy chính quyền tỉnh, gồm từ quản đạo (tức tỉnh trưởng) Bửu Phu đến bọn quan lại tay sai, đều hoang mang dao động. Đa số lực lượng bảo an ủng hộ quần chúng cách mạng. Lực lượng thanh niên và quần chúng cách mạng đã làm chủ tình hình ở thị xã và các đồn điền.

Chiều ngày 22.8.1945, thanh niên Gia Lai nhận điện của Việt Minh Bình Định cho biết: “Việt Minh giành chính quyền, yêu cầu thanh niên biểu tình ủng hộ Việt Minh”. Đoàn thanh niên Plâyku buộc Tỉnh trưởng Bửu Phu kí lệnh trưng dụng xe ô tô, đưa cán bộ thanh niên về các đồn điền, các vùng nông thôn phụ cận, huy động quần chúng vũ trang biểu tình giành chính quyền.

Cả đêm 22.8.1945, nhân dân thị xã, công nhân các đồn điền, nông dân ở các vùng phụ cận… tích cực chuẩn bị may cờ, làm cơm vắt, gậy gộc, giáo mác, tổ chức đội ngũ, chờ đợi giờ khởi hành.

Sáng ngày 23.8.1945, hàng ngàn quần chúng thị xã Plâyku và các vùng xung quanh được vũ trang bằng gậy gộc, giáo mác… đội ngũ chỉnh tề, giương cao cờ dỏ sao vàng, tiến về địa điểm tập trung tại Tòa công sứ. Sau đó đoàn người chia thành hai nhánh tuần hành, biểu dương lực lượng qua các phố chính của thị xã.

Một số người tham gia cuộc biểu tình kéo xuống đồn bảo an, ra Sở bưu điền, Sở lục lộ, gara Ba Hoài rồi về tập trung tại sân vận động thị xã. Một số khác tiến xuống dinh Quản đạo, vòng ra bệnh viện rồi đổ về sân vận động. Các đoàn tuần hành vừa đi vừa hô vang các khẩu hiệu: “Đả đảo chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim”, “Việt Nam hoàn toàn độc lập”, “Ủng hộ Mặt trận Việt Minh”.

Đúng 10 giờ sáng ngày 23.8.1945, một cuộc mít tinh lớn với gần 10 ngàn người tham dự, bao gồm công nhân các đồn điền, nông dân các vùng nông thôn dân tộc, vùng đồng bằng Kinh, các tầng lớp nhân dân trong thị xã, đại diện lực lượng khởi nghĩa huyện An Khê và cả lính bảo an đã giác ngộ, được tổ chức tại sân vận động trung tâm thị xã. Lần đầu tiên trong lịch sử, tại thị xã Plâyku, cơ đỏ sao vàng tung bay trong niềm hân hoan chờ đón của mọi người. Tại cuộc mít tinh, ông Trần Ngọc Vỹ, đại diện lực lượng quần chúng khởi nghĩa tuyên bố xóa bỏ hoàn toàn bộ máy chính quyền cũ, thành lập chính quyền cách mạng, kêu gọi nhân dân các dân tộc trong tỉnh triệt để thi hành các chủ trương đoàn kết, ủng hộ Mặt trận Việt Minh, chính sách của Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc do cụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch và của Mặt trận Việt Minh. Tiếp đó, đại diện Mặt trận Việt Minh kêu gọi các tầng lớp nhân dân, các dân tộc ủng hộ chính quyền cách mạng. Chị Phan Thị Trinh thay mặt giới phụ nữ trong tỉnh nói lên niềm phấn khởi và tự hào về sự đổi đời chưa từng có của nhân dân các dân tộc tỉnh nhà, đặc biệt là giới phụ nữ, kêu gọi chị em hăng hái tham gia các hoạt động cách mạng, làm tròn trách nhiệm của người phụ nữ dưới chế độ mới.


(*) Người viết: TS. Nguyễn Văn Chiến, Trường Cao đẳng Sư phạm Gia Lai.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Chín, 2011, 04:55:24 pm
Cuộc mít tinh kết thúc bằng cuộc biểu dương lực lượng của quần chúng qua các đường phố rồi tỏa về các vùng nông thôn, vùng ven thị xã và các đôn điền. Chỉ trong ngày 23.8.1945, toàn bộ các cơ quan quân sự, hành chính, các đồn điền, công sở đã thuộc quyền kiểm soát của chính quyền cách mạng. Những tên tay sai mật thám của Nhật, Pháp bị bắt giam. Chính quyền cách mạng tịch thu kho tàng, vũ khí, quân dụng của Nhật trang bị cho lực lượng vũ trang tự vệ để giữ gìn an ninh trật tự chung. Đối với binh lính bảo an, ai giác ngộ, tình nguyện tham gia cách mạng thì được cách mạng sử dụng, người nào muốn trở về nhà được tạo điều kiện cần thiết.

Đêm 23.8, hội nghị đại biểu các lực lượng khởi nghĩa họp tại dinh Quản đạo, nhất trí thông qua danh sách Ủy ban cách mạng lâm thời tỉnh Gia Lai, gồm 5 thành viên, có một nhân sĩ người dân tộc, do ông Trần Ngọc Vỹ làm Chủ tịch. Ủy ban phân công cán bộ về các địa phương đê tổ chức, sắp xếp bộ máy chính quyền cách mạng của các huyện, xã; thành lập ban quản lí các cơ sở kinh tế, cử đoàn cán bộ, chuẩn bị lực lượng và kế hoạch tiến lên Kon Tum, phối hợp với nhân dân Kon Tum khởi nghĩa giành chính quyền.

Sáng ngày 25.8, với danh nghĩa Việt Minh tỉnh Gia Lai, đoàn xe đưa lực lượng khởi nghĩa do các ông Dương Thành Đạt, Trần Sanh, Nguyễn Xuân, Trần Thông, Đỗ Huyên dẫn đầu tiến vào thị xã Kon Tum tham gia khởi nghĩa giành chính quyền. Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh lị Kon Tum diễn ra nhanh gọn, giành thắng lợi hoàn toàn.

Đồng thời, lực lượng khởi nghĩa Gia Lia cũng tập trung giúp đỡ cho các địa phương trong tỉnh nhanh chóng giành chính quyền ở những nơi còn gặp khó khăn.

Tại huyện Cheo Reo, ngay từ giữa tháng 6.1945, phong trào của quần chúng trong huyện đã phát triển mạnh, do ảnh hưởng của hoạt động trong thời kì tiền khởi nghĩa ở Gia Lai và các tỉnh Phú Yên, Đắk Lắk. Bộ máy chính quyền cai trị của địch từ huyện đến xã, thôn hầu như bị tê liệt, ở một số vùng đã tan rã hoàn toàn. Tại những nơi đó quần chúng đã thực hiện quyền tự chủ trong các buôn làng, song sự lãnh đạo của cấp trên chưa kịp thời, nhanh chóng đến đây

Ngày 25.8.1945, được sự giúp đỡ của một số binh lính bảo an người dân tộc, lực lượng thanh niên Cheo Reo đứng lên vận động quần chúng nổi dậy chiếm đồn bảo an ở huyện lị, bắt đồn trưởng Mô, tịch thu vũ khí, làm chủ tình hình thị trấn. Lực lượng khởi nghĩa huy động nhân dân tuần hành biểu dương lực lượng trong toàn huyện, sau đó đi về các làng ven thị trấn, vùng người Kinh ở Hậu Đức, Quang Hiến… khuếch trương thắng lợi của cuộc nổi dậy, hạ uy thế bọn chủ làng, chánh tổng, những tên tay sai của Nhật, Pháp. Để đảm bảo việc giữ gìn trật tự xã hội, lực lượng thanh niên Cheo Reo xuống các làng xã tập trung vũ khí còn lại trong nhân dân, nhất là trong những gia đình có người làm việc cho địch. Họ tuyên truyền giải thích quần chúng về chính sách đại đoàn kết của Việt Minh, giải quyết các vụ xích mích ở các làng, giữ gìn an ninh trật tự.

Ban lãnh đạo thanh niên cùng với các nhân sĩ yêu nước đã dự kiến danh sách Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời huyện, chờ Ủy ban nhân dân tỉnh sẽ về chính thức ra mắt.

Ngày2.9.1945, phái đoàn đại diện chính quyền cách mạng tỉnh Gia Lai, do Chủ tịch Trần Ngọc Vỹ dẫn đầu về Cheo Reo tổ chức mít tinh chào mừng thắng lợi của cuộc khởi nghĩa, công bố danh sách Ủy ban cách mạng lâm thời huyện và ra mắt quần chúng nhân dân. Ủy ban cách mạng lâm thời huyện, gồm những thanh niên trí thức người địa phương, do ông Nay Phin làm Chủ tịch với 5 ủy viên: Rơchom Thép, Rơchom Briu, Ksor Ní, Siu Deo, Siu Sinh. Ông Nay Đer được cử làm cố vấn. Sau khi Ủy ban cách mạng lâm thời huyện thành lập, lực lượng thanh niên Cheo Reo đã tỏa xuống các vùng nông thôn tổ chức chính quyền cách mạng thôn xã. Đến giữa tháng 9.1945, hệ thống chính quyền cách mạng các cấp ở Cheo Reo đã quản lí điều hành các hoạt động xã hội.

Ở các huyện Chưty, Plâykly tuy phong trào của quần chúng trong thời kì tiền khởi nghĩa không sôi nổi rầm rộ như ở một số nơi khác trong tỉnh, nhưng do ảnh hưởng cuộc khởi nghĩa ở tỉnh lị và một số huyện lị bộ máy chính quyền địch ở hai huyện này đã tan rã, quần chúng nổi dậy giành quyền tự chủ ở một số vùng nông thôn, truy lùng bắt giam tên Giai, đồn trưởng bảo an kiêm huyện trưởng Chưty, vận động lính bảo an theo cách mạng.

Đầu tháng 9.1945, đại diện của Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh được cử về hai huyện Chưty, Plâykly thực hiện việc tiếp quản, xóa bỏ bộ máy chính quyền cai trị thực dân phong kiến, thành lập Ủy ban cách mạng lâm thời hai huyện. Các chức vụ trong chính quyền cách mạng các cấp chủ yếu là do những thanh niên trí thức tiến bộ người dân tộc đảm nhận. Ủy ban nhân dân cách mạng huyện Chưty do ông Ksor Thanh làm Chủ tịch, ở huyện Plâykly do ông Nay Hố đảm nhận. Sau khi chính quyền cách mạng hai huyện được thành lập, chính quyền ở buôn làng cũng lần lượt ra mắt.

Ở tỉnh lị, sau khi giành chính quyền, các cơ quan Kho bạc, Sở lục lộ, Nhà dây thép… được tổ chức lại, hoạt động phục vụ chính quyền cách mạng. Tại các đồn điền tổ chức bầu ra Ban quản lí, Ban giám đốc do những công nhân có tín nhiệm đứng ra điều hành. Tình hình an ninh trật tự được giữ vững, đời sống sinh hoạt của quần chúng ổn định.

Đến cuối tháng 8.1945, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền của nhân dân tỉnh Gia Lại đã thắng lợi. Hệ thống chính quyền cai trị thực dân và phong kiến bị xóa bỏ hoàn toàn, bộ máy chính quyền cách mạng được thiết lập trong toàn tỉnh.

Dựa theo chương trình 10 điểm của Mặt trận Việt Minh, chính quyền cách mạng lâm thời tỉnh đã nhanh chóng ban hành chính sách đoàn kết, bình đẳng dân tộc, quyền tự do dân chủ, tự do tín ngưỡng, bãi bỏ chết độ xâu thuế bất công, kêu gọi nhân dân các dân tộc trong tỉnh đoàn kết, phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống đấu tranh, hăng hái tham gia thực hiện chủ trương chính sách của chính quyền cách mạng và Mặt trận Việt Minh. Chính quyền các cấp đã nhanh chóng ổn định đời sống xã hội của nhân dân.

*

Cuộc Tổng khởi nghĩa ở Gia Lai thành công; một đặc điểm của cuộc khởi nghĩa là quần chúng tổ chức mít tinh tuyên bố thành lập chính quyền trước rồi mới tiến hành chiếm các công sở của địch. Trong cuộc khởi nghĩa đã thể hiện sự đoàn kết của các dân tộc trong tỉnh, có sự liên kết giữa nông thôn và thành thị, tạo nên sức mạnh tổng hợp, giành thắng lợi quyết định.

Thắng lợi cuộc khởi nghĩa ở Gia Lai góp phần quan trọng vào thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 ở Tây Nguyên nói riêng, trong cả nước nói chung.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Chín, 2011, 04:55:48 pm
CÁC TỈNH NAM TÂY NGUYÊN(*)

Tây Nguyên là một bộ phận của Tổ quốc Việt Nam. Từ lâu đời đồng bào Tây Nguyên cùng với nhân dân cả nước kề vai sát cánh trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Mối tình đoàn kết giữa các dân tộc Tây Nguyên với người Kinh ở trung châu ngày càng thắm thiết khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược Việt Nam. Cuộc đấu tranh cho độc lập tự do dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chuẩn bị từng bước chắc chắn cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, nhất là trong cao trào cách mạng 1939-1945.

Trong bài viết này, chúng tôi giới hạn nêu những diễn biến cho sự chuẩn bị tiến tói Cách mạng tháng Tám 1945 ở Nam Tây Nguyên, vì các tỉnh Plâyku, Kon Tum đã được trình bày.

Khi chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra (tháng 10.1939), thực hiện chủ trương chung của Đảng, các hoạt động cách mạng ở Nam Tây Nguyên chuyển sang hình thức bí mật, bất hợp pháp, song tích cực chuẩn bị lực lượng để phát triển. Từ 1941-1945, các tổ chức quần chúng được bí mật thành lập.

Ngày 9.3.1945, Nhật đảo chính Pháp, cơ hội cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trong cả nước cũng như ở Tây Nguyên đã đến.

Tại Đà Lạt, đêm 9.3.1945, sau vài giờ nổ súng, quân Nhật làm chủ tình hình, toàn bộ quân lính và chính quyền thực dân Pháp bị bắt. Nhật đưa Nguyễn Tiến Lãng, nguyên quản đạo Đà Lạt làm Tỉnh trưởng Lâm Viên và đưa Cao Minh Hiệu, nguyên Quản đạo Đồng Nai Thượng, làm Tỉnh trưởng Đồng Nai Thượng. Bộ máy hành chính hai tỉnh được giữ nguyên như thời thuộc Pháp. Sau đó, chính quyền Trần Trọng Kim đặt chức Tổng đốc 4 tỉnh Lâm, Đồng, Bình, Ninh (Lân Viên, Đồng Nai Thượng, Bình Thuận, Ninh Thuận), cử Trần Văn Lý làm Tổng đốc và Ưng An làm Tỉnh trưởng Lâm Viên thay Nguyễn Tiến Lãng. Ở Tây Nguyên, phát xít Nhật cũng ra sức tuyên truyền thuyết “Đại Đông Á”, “Đồng chủng da vàng”, đề cao “công ơn Nhật cho Việt Nam độc lập”.

Trước tin biến động đó, để tăng cường lực lượng cho Đảng, đồng chí Đinh Quế, Bí thư chi bộ Cầu Quẹo quyết định tổ chức thêm một chi bộ mới tại nhà ga Đà Lạt. Tháng 4.1945, Đảng bộ cấp trên tăng cường đồng chí Ngô Huy Diễn, Nguyễn thế Tính vừa mới ở nhà la Buôn Ma Thuột ra tù đến Đà giúp các chi bộ ở đây phát triển cơ sở, chuẩn bị lực lượng Tổng khởi nghĩa. Tháng 5.1945, Ủy ban Mặt trận Việt Minh Đà Lạt thành lập, do đồng chí Nguyễn Thế Tình làm thư kí. Sau đó, Đoàn Thanh niên cứu quốc, Công nhân cứu quốc được thành lập. Trong thời gian này, đồng chí Ngô Huy Diễn cũng thành lập Đảng bộ Việt Minh lâm thời tỉnh Lâm Viên. Tháng 6.1945, đồng chí Ngô Huy Diễn, đồng chí Nguyễn Thế Tính bị hiến binh Nhật bắt giam. Hai tổ chức Việt Minh tạm thời ngừng hoạt động(1).

Tại Đắk Lắk, tháng 4.1945, do sự đấu tranh của quần chúng mà chính quyền tay sai Trần Trọng Kim đã mở cửa nhà lao Buôn Ma Thuột và thả tù chính trị. Các chiến sĩ cộng sản được tự do chia nhau đi khắp tỉnh Đắk Lắk diễn thuyết, tuyên truyền, vận động quần chúng tham gia Việt Minh, giải thích cho đồng bào thấy rõ kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta lúc bấy giờ là phát xít Nhật và bọn tay sai Trần Trọng Kim, vạch trần chân tướng của chiêu bài độc lập giả hiệu, kêu gọi mọi người đứng lên đánh Nhật, lật đổ chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim. Chỉ trong vòng nửa tháng, phong trào Việt Minh ở Đắk Lắk phát triển nhảy vọt. 200 người ở thị xã và các đôn điền đã tham gia Việt Minh, trở thành lực lượng nòng cốt của phong trào khởi nghĩa ở địa phương.

Nhiều chiến sĩ cộng sản thoát khởi nhà tù Buôn Ma Thuột trở về quê hương hoạt động. Hai đồng chí Phạm Kiệm và Nguyễn Trọng Ba ở lại Đắk Lắk lãnh đạo phong trào cách mạng(2). Tháng 5.1945, ban lãnh đạo lâm thời tỉnh Đắk Lắk được thành lập do đồng chí Phạm Kiệm làm trưởng ban, kiêm chủ nhiệm Việt Minh tỉnh. Đồng chí Nguyễn Trọng Ba phụ trách thị xã Buôn Ma Thuột, xã Lạc Giao, Lạc Sa và trực tiếp nắm lực lượng trí thức, công chức. Tỉnh bộ Việt Minh ra nghị quyết chuẩn bị lực lượng cho Tổng khởi nghĩa, nhanh chóng xây dựng Ủy ban Việt Minh các cấp ở địa phương, các công sở, đồn điền và các buôn làng trong tỉnh.

Tỉnh bộ Việt Minh Đắk Lắk đã nắm được phần lớn lực lượng Bảo an binh của tỉnh. Các hạ sĩ quan trong bộ máy chỉ huy Bảo anh binh như Y Bih Alêô, Y Blok Eban, Y Yôn (Minh Sơn), Y Bli, Lê Văn Trì, Quản Quế, cai Thuận, cai Phu… đều là cơ sở cách mạng. Một số người Êđê đang theo học tại Trường Y khoa Đông Dương ở Sài Gòn cũng trở về Đắk Lắk tham gia lãnh đạo phong trào Việt Minh, như Y Ngông Niêkdam, Y Nuê (Ai Phương), Y Tlam.

Cho đến tháng 6.1945, các tổ chức Việt Minh ở Đắk Lắk như Công nhân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Công chức cứu quốc… được phát triển mạnh mẽ ở thị xã, các đồn điền, nông thôn, đặc biệt ở đồn điền CAĐA, CHPI, xã Lạc Giao, Lạc Sa. Phong trào lan nhanh đến các buôn Alê, buôn Phan Lâm, Kosiê, buôn Ky, buôn Niêng, buôn Pok, buôn Dyrah, buôn Kotom, vv(3).


(*) Người viết: TS. Phan Văn Bế, Sở Giáo dục - Đạo tạo Đăk Nông.
(1) Sơ thảo Lịch sử Đảng bộ Lâm Đồng, 1991, tr. 37-39.
(2) Đồng chí Phạm Kiệm và Nguyễn Trọng Ba được bổ sung vào Tỉnh ủy lâm thời Đắk Lắk. Đồng chí Phạm Kiệm là Bí thư, đồng chí Ba là Phó bí thư Tỉnh ủy.
(3) Sơ thảo Lịch sử Đảng bộ Đắk Lắk, tập 1 1981, tr. 30-31.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Chín, 2011, 04:56:12 pm
Đến đầu tháng 8.1945, ở khắp các tỉnh Tây Nguyên, những yếu tố của thời kì tiền khởi nghĩa đã hình thành và bùng lên thành cao trào cách mạng giành độc lập khi có thời cơ.

Tin Nhật đầu hàng Đồng minh vô điều kiện (ngày 15.8.1945) truyền đi khắp cả nước, làm bùng lên ngọn lửa cách mạng chưa từng thấy trong lịch sử ở Tây Nguyên. Mặt trận Việt Minh thu hút hàng triệu hội viên, các phần tử trung gian đã ngả về cách mạng.

Tại Đắk Lắk, ngày 14.8.1945, ban lãnh đạo lâm thời tỉnh họp và nhận thấy điều kiện khởi nghĩa giành chính quyền đã chín muồi và gấp rút chuẩn bị lực lượng. Ngày 16.8, ban lãnh đạo tỉnh quyết định khởi nghĩa ở đồn điền CAĐA, mở màn cho Tổng khởi nghĩa trong tỉnh. Ngày 17.8, khởi nghĩa thành công ở CAĐA, đồng chí Phạm Kiệm thay mặt Ủy ban lâm thời tỉnh đọc lệnh Tổng khởi nghĩa của Tổng bộ Việt Minh, giao nhiệm vụ cho công nhân đồn điền CAĐA làm nòng cốt trong việc giành chính quyền các nơi trong tỉnh. Cũng ngày này, chính quyền cách mạng lần lượt ra mắt ở các đồn điền cây số 17, đồn điền cây số 7 thuộc CHPI.

Đêm 19.8.1945, tài nhà 57 Lý Thường Kiệt thị xã Buôn Ma Thuột, ban lãnh đạo lâm thời tỉnh Đắk Lắk và Tỉnh bộ Việt Minh triệu tập hội nghị khẩn cấp, quyết định thành lập Ủy ban khởi nghĩa tỉnh Đắk Lắk do đồng chí Phạm Kiệm làm trưởng ban, Phạm Sĩ Vinh làm phó ban. Các ủy viên là Nguyễn Trọng Ba, Y Ngông Niêkdan, Huỳnh Bá Vân, Y Bih Alêô, Thái Xuân Đồng(2).

Ngày 20.8.1945, một phái đoàn Tỉnh bộ Việt Minh Đắk Lắk đến trại lính Nhật đưa yêu sách đòi quân Nhật không được can thiệp vào công việc nội bộ của người Việt Nam. Ngược lại, Tỉnh bộ Việt Minh cũng sẽ cung cấp lương thực, thực phẩm cho quân đội Nhật cho đến ki họ rút khỏi Đắk Lắk. Quân Nhật chấp thuận mọi đều nghị của ta đưa ra. Nhờ vậy ta đã cô lập được quân đội Nhật, phân hóa được lực lượng chính quyền bù nhìn, tạo điều kiện cho cuộc khởi nghĩa ở Đắk Lắk nhanh chóng thắng lợi và đỡ tốn xương máu.

Cùng ngày 20.8.1945, chính quyền Trần Trọng Kim ở tỉnh tổ chức mít tinh chào cờ “quẻ li” tại sân vận động thị xã, đề ra việc cải tổ bộ máy chính quyền, mời đại diện Tỉnh bộ Việt Minh tham gia. Ngay lúc này, một phái đoàn Việt Minh, có lực lượng vũ trang bảo vệ tiến vào lễ đài, tuyên bố chính quyền thuộc về nhân dân. Chính quyền bù nhìn đầu hàng. Cờ đỏ sao vàng bay khắp nơi, nhà tù Buôn Ma Thuột được mở cửa trả tự do cho những người yêu nước bị giam cầm(3).

Mười lăm giờ ngày 24.8.1945, cuộc mít tinh giành chính quyền được tổ chức trọng thể tại sân vận động thị xã Buôn Ma Thuột. Tham dự cuộc mít tinh có lực lượng vũ trang các đồn điền, các buôn làng, lực lượng học sinh, thanh niên, viên chức, nhân sĩ, trí thức các dân tộc và thơn 3000 đồng bào các dân tộc Êđê, M’nông, Giarai từ các buôn làng kéo về thị xã từ sáng sớm. Hơn 500 bảo an binh có vũ trang đầy đủ cũng tham dự mít tinh, biến thành cuộc biểu tình tuần hành khắp đường phố thị xã Buôn Ma Thuột. Trước khí thế áp đảo của cách mạng, bộ máy ngụy quyền địa phương tê liệt hoàn toàn. chỉ trong vòng chưa đầy 1 tuần lễ, chính quyền cách mạng đã được thiết lập trong tỉnh Đắk Lắk .

Đêm 21.8.1945, Hội nghị bàn việc khởi nghĩa giành chính quyền tỉnh Lâm Viên được tổ chức ở Đà Lạt. Hội nghị quyết định thành lập Ủy ban khởi nghĩa, do đồng chí Phan Đức Huy làm chủ tịch. Ủy ban khởi nghĩa quyết định khởi nghĩa giành chính quyền trong tỉnh Lâm Viên vào ngày 23.8.1945, cử đại diện đến trại binh Nhật đề nghị quân đội Nhật không được can thiệp và cuộc nổi dậy giành chính quyền của nhân dân Lâm Viên. Ngày 24.8.1945, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời Lâm Viên được thành lập.

Ngày 21.8, tại thị trấn Cầu Đất, công nhân đã nổi dậy giành chính quyền. Ngày 22.8, lực lượng vũ trang Cầu Đất tiến về Đơn Dương giành chính quyền. Sáng ngày 23.8, lực lượng vũ trang lại tiến vào Di Linh, tỉnh lị của tỉnh Đồng Nai Thượng.

Ngày 25.8.1945, hàng ngàn đồng bào Kinh, Thượng ở Di Linh nổi dậy giành chính quyền. Ủy ban nhân dân cách mạng tỉnh Đồng Nai Thượng Thượng được thành lập(4).

*

Cùng với nhân dân các dân tộc ở Bắc Tây Nguyên và đồng bào cả nước, nhân dân các tỉnh Nam Tây Nguyên - ngày nay là Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng - đã đoàn kết đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền, góp phần vào thắng lợi của Cách mạng tháng Tám trong cả nước. Một trang sử mở ra với các dân tộc Tây Nguyên.


(1) Sơ thảo Lịch sử đảng bộ Đắk Lắk, sđd, tr. 96-99.
(2) Sơ thảo Lịch sử đảng bộ Đắk Lắk, sđd, tr. 96-100.
(3) Sơ thảo Lịch sử đảng bộ Đắk Lắk, sđd, tr. 98.
(4) Sơ thảo Lịch sử đảng bộ Lâm Đồng, sđd, tr. 90-94.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Chín, 2011, 04:56:31 pm
TÂY NINH(*)

Tây Ninh là tỉnh nằm phía tây bắc thành phố Hồ Chí Minh, diện tích khoảng trên 1500km2, nơi sinh sống của ba tộc người chủ yếu: Việt, Khơme, Chăm - là tín đồ của các tôn giáo đạo Phật, đạo Cao Đài, đạo Thiên Chúa… Ngay từ những buổi đầu khai hoang, tạo dựng xóm làng, người dân Tây Ninh đã phải chống chọi với thiên tai, thú dữ, nạn ngoại xâm để sinh tồn nên sớm có truyền thống đấu tranh kiên cường. Trong cuộc chiến đấu chống quân Pháp xâm lược vào cuối thế kỉ 19, ở đây nổi lên phong trào của nghĩa quân Trương Quyền. Nghĩa quân của ông phối hợp với quân Khơme đã lập được nhiều chiến công hiển hách trên đất Tây Ninh. tiếp đó, đầu thế kỉ 20, nhiều người con ưu tú của đất Tây Ninh chịu ảnh hưởng của luồng tư tưởng mới đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin rồi trở thành những đảng viên của Đảng Cộng sản.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, qua các phong trào 1930-1931, 1936-1939, nhân dân Tây Ninh từng bước trưởng thành qua các cuộc đấu tranh. Bước sang năm 1943, các đồng chí đảng viên ở Tây Ninh, sau một thời gian lánh sang địa phương khác hoặc sang Cămpuchia tránh sự truy nã của địch sau khởi nghĩa Nam Kỳ, đã trở về địa phương tiếp tục lãnh đạo phong trào. Các tổ chức quần chúng, các đoàn thể cứu quốc được thành lập khắp nơi, như Hội truyền bá quốc ngữ, vạn cấy, vạn đổi công… Tổ chức Đảng đã kịp thời nắm lấy những tổ chức này để giáo dục, tập hợp và hướng dẫn quần chúng đấu tranh.

Đầu năm 1945, sau khi nhận được chủ trương của Đảng, ở Tây Ninh đã gấp rút lập tổ chức Mặt trận Việt Minh. Với chính sách rõ ràng, thuyết phục, Việt Minh đã thù hút đông quần chúng nhân dân hưởng ứng. Phong trào ủng hộ Việt Minh lan rộng khắp trong tỉnh. Cho đến trước ngày khởi nghĩa, hầu khắp cấc vùng nông thôn, thị xã, thị trấn đều đã thành lập Mặt trận Việt Minh. Đây là kết quả bước đầu của sự lãnh đạo thống nhất của tổ chức Đảng ở Tây Ninh. Quan trọng hơn, bằng uy tín của mình, Việt Minh đã nắm được tổ chức Thanh niên Tiền phong - một tổ chức quần chúng thanh niên hoạt động rất tích cực và hoàn toàn hợp pháp, công khai. Để chuẩn bị cho khởi nghĩa, Thanh niên Tiền phong ngày đêm tập luyện quân sự, sắm sửa vũ khí, có nhiều nhóm hoạt động rất tích cực như Thanh niên Tiền phong Suối Đá, Xóm Vịnh, Trảng Bàng, Thanh Điền… Các tổ chức đoàn thể cứu quốc phát triển mạnh và hoạt động sôi nổi, nhất là ở những vùng nông thôn. Các cơ sở cách mạng được xây dựng khắp nơi.

Ngày 9.3.1945, Nhật đảo chính Pháp, thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền đang đến gần, nhân dân Tây Ninh tích cực chuẩn bị. Sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh, ngụy quyền và các lực lượng thân Nhật ở Tây Ninh biểu hiện rõ tình trạng suy sụp, mất tinh thần. Tín đồ đạo Cao Đài vốn chia làm hai phái, một phái do Đặng Trung Trữ đứng đầu ủng hộ cách mạng, phái chống phá cách mạng lúc này tỏ ra hoang mang, dao động. Các lực lượng trung gian đã ngả hẳn về phía cách mạng. Phong trào cách mạng trong toàn tỉnh như một làn sóng đang ngày một dân cao, Mặt trận Việt Minh hoạt động công khai. Nhận thấy thờ cơ giành chính quyền đang đến gần, các đồng chí đảng viên Tây Ninh cho người liên lạc với Xứ ủy Nam Kỳ xin chỉ thị khởi nghĩa, đồng thời thành lập Ban Vận động cướp chính quyền. Ban Vận động đề ra nhiệm vụ phải nắm bằng được lực lượng trí thức, giáo phái trong tỉnh, thương lượng với quân Nhật để chúng giữ thái độ trung gian, không can thiệp vào công việc của cách mạng, huy động các tầng lớp công nhân, nông dân các vùng nông thôn, thị xã, thị trấn chuẩn bị đứng lên giành chính quyền.

Sáng ngày 25.8, dưới sự lãnh đạo của tổ chức Việt Minh, hàng vạn quần chúng từ khắp mọi nơi trong tỉnh tự vũ trang, dưới sự hướng dẫn của Thanh niên Tiền phong, đổ về thị xã dự mít tinh ủng hộ Việt Minh. Sau đó, cuộc mít tinh biến thành cuộc biểu tình tuần hành qua các đường phố, công sở, biểu dương sức mạnh của quần chúng. Sau khi nhận được chỉ thị khởi nghĩa giành chính quyền của Xứ ủy Nam Kỳ, một lực lượng vũ trang cùng với Ban lãnh đạo hành động đã buộc Tỉnh trưởng bàn giao chính quyền cho cách mạng.

Đến rạng sáng ngày 26.8, toàn bộ bộ máy chính quyền địch từ thị xã đến các vùng nông thôn đã hoàn toàn bị đập tan. Chính quyền cách mạng được thành lập.


(*) Người viết: TS. Nguyễn Ngọc Hà, Phân viện Hà Nội, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Chín, 2011, 04:57:15 pm
*

Từ cuộc khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám ở Tây Ninh, có thể nhận thấy mấy đặc điểm nổi bật:

Thứ nhất, khởi nghĩa ở hành thị và khởi nghĩa ở vùng nông thôn có quan hệ chặt chẽ, nhưng trình từ khởi nghĩa diễn ra ở Tây Ninh có đặc điểm đặc biệt. Đối với một đất nước thuộc địa nửa phong kiến, với hơn 90% dân số là nông dân thì việc các phong trào cách mạng ở Việt Nam chủ yếu dựa vào nông thôn để làm bàn đạp là một hiện thượng phù hợp. Điều dó đặc biệt thể hiện rõ trong Cách mạng Tháng Tám. Bao quát trong toàn bộ quá trình của cách mạng Tháng Tám, có thể thấy rằng hình thái chủ yếu và quyết định nhất trong quá trình khởi nghĩa là các cuộc khởi nghĩa nổ ra từ nông thôn trước và phát triển từ nông thôn đến thành thị. Tuy nhiên, bên cạnh đó, ở một số tỉnh thành (chủ yếu ở Nam Bộ) thành thị lại khởi nghĩa trước nông thôn như Tây Ninh. Ngày 25.8, chính quyền ở thị xã đã về tay cách mạng, ngày 26 giành chính quyền ở Trảng Bàng và phải đến hết ngày 28.8, bộ máy chính quyền của địch mới sụp đổ hoàn toàn từ thị xã tới vùng nông thôn Tây Ninh.

Cuộc khởi nghĩa ở Tây Ninh nổ ra vào ngày 25.8, sau khi phát xít Nhật đã đầu hàng Đồng minh. Chúng vô cùng hoang mang, rệu rã và không muốn can thiệp quân sự vào công việc nội bộ của Việt Nam. Tây Ninh là địa bàn chiến lược, nơi giáp giới với Cămpuchia lại tiện việc di chuyển bằng cơ giới nên số lượng quân Nhật đóng tại đây rất đông, lên tới 2 vạn tên. Trước ngày khởi nghĩa, ta đã thương lượng được với quân Nhật, yêu cầu chúng đứng trung lập và không dùng vũ lực can thiệp. Không những thế, ở một số nơi, lực lượng cách mạng còn vận động được binh lính Nhật cho mượn vũ khí hoặc giao nộp vũ khí để luyện tập quân sự. Cần phải nói thêm rằng, chính sách thương lượng với Nhật là một trong những hình thức đấu tranh chính trị độc đáo và sáng tạo trong Cách mạng tháng Tám nói chung cũng như ở Tây Ninh nói riêng - nơi mà trước khi diễn ra khởi nghĩa, lực lượng Nhật còn nguyên vẹn cùng với đầy đủ trang bị vũ khí. Lúc này, chính quyền tay sai sau khi có tin Bảo Đại thoái vị càng bị phân hóa, khủng hoảng cực độ. Thời cơ cách mạng đã chín muồi, nếu lực lượng cách mạng không nhanh chóng lãnh đạo quần chúng nổi dậy ở thành thị, nơi tập trung đầu não địch rồi mới tỏa về các vùng nông thôn để chúng có cơ hội ngóc đầu dậy thì sẽ là một sai lầm lớn. Bên cạnh đó, cũng cần phải thấy rằng, lực lượng của Đảng và của Mặt trận Việt Minh Tây Ninh ở vùng nông thôn chưa đủ mạnh để có thể lãnh đạo quần chúng nổi dậy từ nông thôn như những nơi khác. Tuy nhiên, cuộc khởi nghĩa nổ ra theo hình thái như trên là phù hợp với điều kiện, phù hợp với tương quan lực lượng giữa ta và địch ở Tây Ninh lúc đó. Đồng thời nó thể hiện sự sáng tạo, linh hoạt, phù hợp với điều kiện địa phương của những người cộng sản lãnh đạo phong trào cách mạng Tây Ninh.

Thứ hai, về hình thức khởi nghĩa giành chính quyền, Cách mạng tháng Tám tiến hành giành chính quyền trong cả nước bằng con đường khởi nghĩa vũ trang, trong đó đã khéo léo kết hợp lực lượng vũ trang với lực lượng chính trị, kết hợp đấu tranh vũ trang với chính trị để giành thắng lợi hoàn toàn. Ở Tây Ninh, tuy vẫn tuân theo hình thức khởi nghĩa đó, song lại có những nét đặc thù. Lực lượng nổi dậy chính là hàng vạn quần chúng cách mạng, không có vũ trang, hoặc vũ trang thô sơ (giáo mác, gậy gộc) nhưng họ không cần phải dùng đến để xung đột vũ trang mà tràn qua các đường phố - nơi mà trụ sở của quân Nhật và chính quyền bù nhìn đóng - bằng biểu dương lực lượng để uy hiếp kẻ thù. Mặc dù tới ngày 25.8, lúc lực lượng cách mạng Tây Ninh đột nhập vào dinh Tỉnh trưởng và một số công sở ở thị xã có một nhóm vũ trang nhỏ nhưng rõ ràng, việc giành chính quyền một cách dễ dàng không có đổ máu là do kẻ địch đã hoàn toàn bị tê liệt trước sức mạnh long trời, lở đất của hàng vạn quần chúng cách mạng sáng 25.8. Do đó, có thể nhận định rằng cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Tây Ninh diễn ra dưới hình thức đấu tranh chính trị là chủ yếu. Tuy nhiên nói như thế không phủ định tính chất bạo lực của Cách mạng tháng Tám ở Tây Ninh. Bởi hàng vạn quần chúng nhân dân có tổ chức (các hội quần chúng) và không có tổ chức do Việt Minh lãnh đạo, có các đội Thanh niên Tiền phong ủng hộ, đã nổi dậy gây áp lực khiến ngụy quyền phải trao trả chính quyền. Đó chính là bạo lực cách mạng dù nó diễn ra dưới hình thức này hay hình thức khác.

Những đặc điểm của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Tây Ninh đã góp phần làm phong phú, tạo thêm một sắc màu độc đáo cho Cách mạng tháng Tám, cuộc cách mạng vĩ đại của toàn dân tộc. Hơn thế nữa, tìm hiểu những đặc điểm trên còn giúp chúng ta nhận diện rõ hơn về cuộc cách mạng, từ đó rút ra những bài học lịch sử quý báu, làm phong phú thêm kho tàng lí luận cách mạng của Đảng ta.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Chín, 2011, 09:09:14 am
THỦ DẦU MỘT(*)

Nhân dân Thủ Dầu Một(1) hăng hái tham gia các phong trào đấu tranh yêu nước ngay từ thời kì đầu thực dân Pháp xâm lược nước ta dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng không giành thắng lợi do chưa có đường lối cách mạng đúng đắn. Từ cuối năm 1927 đến cuối năm 1929, các chi bộ cộng sản được thành lập trên địa bàn tỉnh, đánh dấu một bước ngoặt căn bản trong phong trào cách mạng của công nhân và nhân dân trong tỉnh. Từ 1930, các phong trào cách mạng được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Sau khi Nhật đảo chính Pháp, công cuộc chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa được tiến hành rất khẩn trương trên cả nước cũng như ở Thủ Dầu Một. Trong tháng 5.1945 và những tháng tiếp sau, Tỉnh ủy tiếp nhận nhiều tài liệu, chỉ thị của Ban thường vụ Trung ương Đảng hướng dẫn về cách tổ chức và hoạt động của các hội cứu quốc, cách tổ chức, huấn luyện chiến đấu và chỉ huy của đội tự vệ, du kích, Đảng bộ tỉnh tích cực củng cố và phát triển Đảng, kết nạp đảng viên mới, lập thêm chi bộ mới… “Hội công nhân cứu quốc” chuyển sang sinh hoạt công khai ở các đồn điền như Lộc Ninh, Dầu Tiếng, Phú Hưng, Phước Hòa, có đảng viên trực tiếp lãnh đạo. Hội cứu quốc trong các giới, đồng bào dân tộc ít người… cũng phát triển rầm rộ, đặc biệt là các phong trào của thanh niên.

Trong các cuộc đấu tranh chính trị và văn hóa thời kì này, ta đã nắm được quyền chủ động trên các địa bàn trong tỉnh và giành được thắng lợi to lớn trong việc khơi dậy lòng yêu nước, căm thù giặc, tinh thần yêu quý độc lập tự do trong đông đảo quần chúng. Cùng với các hoạt động chính trị và văn hóa, để tích cực chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa, Tỉnh ủy chủ trương phát động phong trào sắm vũ khí, lập đội tự vệ vũ trang và huấn luyện quân sự cho thanh niên. Các đoàn viên Thanh niên tiền phong, Thanh niên cứu quốc đều tự trang bị gậy tầm vông, dao găm, luyện tập võ nghệ. Thợ rèn ở khắp nơi trong tỉnh coi việc rèn dao găm, gươm cho Việt Minh là hành động yêu nước. Cùng với việc sắm sửa vũ khí, ta còn tổ chức huấn luyện quân sự thường trực và giáo dục chính trị cho thanh niên. Từ tháng 5 đến tháng 8.1945, ở Thủ Dầu Một đã hình thành một lực lượng bán vũ trang đông đảo, hoạt động công khai.

Ở Thủ Dầu Một, bọn chỉ huy Nhật ngoài việc cho đào nhiều hầm chôn giấu súng đạn ở một số nơi như trong rừng Bến Cát, Lộc Ninh, Hớn Quản, Tân Uyên… chùng còn bố trí những tên gián điệp tay sai giả danh làm thương nhân, thầy thuốc để sau này chui vào hàng ngũ ta…

Tin Nhật đầu hàng Đồng minh truyền đi khắp nước đã thổi bùng ngọn lửa cách mạng trong tất cả các tầng lớp nhân dân, đẩy phong trào cách mạng lên đỉnh cao. Điều kiện cho cuộc Tổng khởi nghĩa đã hoàn toàn chính muồi.

Ngày 23.8, tin thức về thắng lợi của cuộc đấu tranh chính trị tẩy chay Khâm sai Nguyễn Văn Sâm ở Sài Gòn và thắng lợi của cuộc khởi nghĩa gianh chính quyền ở Tân An nhanh chóng truyền đi khắp nơi. Ở Thủ Dầu Một, các hội cứu quốc đã làm chủ tình hình ở hầu hết các làng người Việt, bọn ngụy quyền đã tan rã, quân Nhật tỏ thái độ trung lập. Cán bộ đội, Đoàn trưởng Thanh niên tiền phong bắt đầu làm công việc của chính quyền cách mạng. Chỉ ở vài làng, bọn cầm đầu vẫn ngoan cố dựa vào tổ chức phản động, chưa chịu từ bỏ chức quyền, như hương cả Đại làng An Sơn, chi bộ phải vận động quần chúng đấu tranh mới giành được quyền làm chủ.

Ở vùng đồng bào dân tộc, chưa có Hội cứu quốc, nhưng nhờ có thế lực mạnh mẽ của Hội công nhân cứu quốc và Thanh niên Tiền phong nên bọn chúng hoang mang và tan ra dần. Tuy vậy, các tên ác ôn đầu sỏ vẫn cố giữ chức quyền và ta chưa làm chủ được các buôn sóc.

Tại thị xã Thủ Dầu Một, từ ngày 19 đến 23.8, nhiều cuộc biểu tình, mít tinh đã diễn ra trước dinh tỉnh trưởng và trụ sở quận trưởng với hàng ngàn lượt người ở các làng và nội thị tham gia. Họ hô to khẩu hiệu “Đả đảo bù nhìn Lương Sơ Khai, Đỗ Văn Công”. Trước khí thế áp đảo của quần chúng, bọn này bỏ nhiệm sở chạy trốn. Riêng Phó tỉnh trưởng ở nhà, không đến văn phòng và tỏ thái độ ủng hộ nhân dân. Các đoàn thể Thanh niên tiền phong, công nhân bán vũ trang canh gác đường phố. Bộ máy cảnh sát thị xã, từ chỉ huy trưởng đến binh sĩ đều tê liệt, có kẻ bỏ ngũ, có người hướng về cách mạng. Đội cộng hòa vệ binh và các tổ chức bán vũ trang khác do Nhật tổ chức cũng trong tình trạng tan rã, chờ đợi Việt Minh đến xử lí hoặc trốn về nhà. Bọn phản động trong các giáo phái và bọn tờrốtkít không tổ chức được những cuộc hội họp lớn để chống lại cách mạng; chúng chỉ có những hành động phá hoại lẻ tẻ như xé cờ, hô khẩu hiệu “Đả đảo Việt Minh” trong đêm tối.

Quán triệt Nghị quyết về khởi nghĩa của Cứ ủy Nam Kỳ, đồng chí Văn Công Khai, sau khi dự hội nghị Xứ ủy, đã tổ chức ngay cuộc họp Tỉnh ủy mở rộng, gồm cả các bí thư chi bộ, cán bộ chủ chốt các Hội cứu quốc ở ba quận Lái Thiêu, Châu Thành, Bến Cát. Hội nghị quyết định tổ chức khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh vào ngày 25.8 bằng cách huy động lực lượng của đông đảo quần chúng Thanh niên Tiền phong bán vũ trang, đội tự vệ của 4 quận tham gia. Hội nghị quyết định thành lập Ủy ban khởi nghĩa tỉnh, do đồng chí Văn Công Khai làm Trưởng ban; giành chính quyền ở các quận và thị trấn vào ngày 24.8 hoặc ngày 25.8, không được chậm trễ. Hội nghị chủ trương hết sức tránh những vụ khiêu khích của địch; nếu chúng chống lại, ta dùng các đơn vị tự vệ chiến đấu và huy động quần chúng đấu tranh. Hội nghị khẳng định dù tình thế khó khăn thế nào cũng phải khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi, coi đó là nguyên tắc cao nhất của cách mạng.


(*) Người viết: TS. Đoàn Minh Huấn, Phân viện Hà Nội, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
(1) Nay thuộc tỉnh Bình Dương.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Chín, 2011, 09:11:25 am
Ngày 24.8, chấp hành mệnh lệnh của Tỉnh ủy và Ủy ban khởi nghĩa tỉnh, nhân dân các quận nhất tề nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền ở các thị trấn. Tại hai thị trấn Chơn Thành (quận Hớn Quản) và Đồng Xoài (quận Bà Rá), tuy phong trào cứu quốc mới phát triển, lại ở cách xã thị xã, liên lạc với Ủy ban khởi nghĩa tỉnh rất khó khăn, song khởi nghĩa vẫn được tiến hành cùng ngày với các quận khác trong tỉnh. Bọn sĩ quan, binh lính Nhật đều lo cố thủ là chính. Chỉ có vài tên sĩ quan hung hăng cho lính ngăn cản hoạt động của ta ở ga xe lửa Lộc Ninh, ở sở cao su Quản Lợi và ngăn chặn đồng bào các sóc đến Chơn Thành, nhưng sự chống đỡ đó đều bất lực trước sức mạnh của nhân dân. Trong vùng dân tộc, bọn cai tổng đã bỏ việc trước đó mấy ngày, trốn ở nhà để tránh sự tiến công của quần chúng. Cai tổng Đinh, tên ác bá nhất miền Bà Rá, đã bị hạ uy thế nên dân chúng trong vùng, nhất là ở vùng là ở những nơi gần địa bàn sinh sống của công nhân, đã vùng lên làm chủ. Các thành công Hội cứu quốc và Thanh niên Tiền phong, công nhân các đồn điền Lộc Ninh, Quản Lợi, Thuận Lợi… trở thành trụ cột vững chắc cho đồng bào người Việt và người dân tộc đấu tranh giành chính quyền.

Tại thị trấn Chơn Thành, Ủy ban khởi nghĩa quận Hớn Quản, gồm đồng chí tỉnh ủy viên và các cán bộ hội tổ chức nhân dân giành chính quyền.

Sáng ngày 24.8, hàng nghìn công nhân các đồn điền Lộc Ninh, Quản Lợi, hàng nghì đồng bào người Việt và người dân tộc ít người tiến hành cuộc mít tinh, biểu tình, có các đội thanh niên bán vũ trang công nhân và thanh niên dân tộc bảo vệ. Quần chúng biểu tình chiếm các trụ sở hành chính, cảnh sát… trong thị trấn. Binh lính, sĩ quan ngụy giao nộp vũ khí. Nhiều thanh niên thấy được lẽ phải cũng nhập ngay vào đoàn biểu tình.

Sau khi giành chính quyền, Ủy ban khởi nghĩa quyết định cử hai đoàn gồm khoảng 100 công nhân Lộc Ninh - Quản Lợi, khoảng 50 đồng bào dân tộc kéo xuống thị xã Thủ Dầu Một tham gia Tổng khởi nghĩa. Cùng lúc nhân dân quận Hớn Quản, nhân dân các quận Bến Cát, Lái Thiêu, Tân Uyên cũng nổi dậy giành chính quyền ở cả ba thị trấn trong cùng buổi sáng ngày 24.8. Trong các Ủy ban khởi nghĩa ở ba quận đều có đảng viên cộng sản làm nòng cốt, ngoài ra còn nhiều cán bộ cứu quốc phụ trách các công tác quan trọng khác. Trên địa bàn các quận đó, quân Nhật còn hơn ba đại đội bộ binh, nhiều tiểu đội hiến binh, nhưng đều trong tình trạng mất tinh thần; chúng không dám chống lại ta bằng vũ lực, chỉ cho bọn tay sai lén lút phá hoại. Bọn ngụy quyền thì đã tan rã từ trước. Tham gia khởi nghĩa ở các quận có hàng ngàn đồng bào lương, giáo, người Việt, người Hoa, thợ thủ công lò chén… Sức mạnh đoàn kết toàn dân, nhất là công nông đã thu hút nhiều vị chức sắc quan trọng trong các đạo Phật, Cao Đài, Hòa Hảo, Thiên Chúa, Tin Lành… cả những người như Trịnh Khánh Vàng, Nguyễn Hòa Hiệp… trước kia theo Đảng Hắc Long.

Trong ngày khởi nghĩa, ở cá quận, Ủy ban khởi nghĩa cùng các đội Thanh niên Tiền phong bán vũ trang và nhân dân lần lượt chiếm các trụ sở hành chóng, đồn cảnh sát ngụy…

Ở Bến Cát, Lai Khê, ta phát hiện một kho chứa giấy bạc loại 500 đồng của Nhật. Cán bộ cứu quốc mở cửa khám trại tù Ông Yệm thả hàng trăm thiếu niên, nạn nhân xã hội cũ. Sau khi khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi, ủy ban khởi nghĩa Bến Cát, Lái Thiêu lập tức tổ chức đưa thanh niên bán vũ trang và đồng bào về thị xã để tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh. Ủy ban khởi nghĩa quận Tân Uyên cũng cử các đoàn thể cứu quốc và tiểu đội vũ trang do Trần Văn Quỳ chỉ huy, kéo sang thị xã Biên Hòa tham gia khởi nghĩa.

Quân Nhật ở Thủ Dầu Một tỏ thái độ trung lập đối với các hoạt động của Hội cứu quốc. Đại diện của chỉ huy Nhật cũng vài lần trực tiếp gặp đại diện của Ủy ban khởi nghĩa tỉnh đề nghị để cho nhân dân bán thực phẩm tươi sống, cho các xe hơi quân nhu của chúng đi lại ơ một số nơi. Chúng hứa sẽ làm đúng những điều ta quy định về trật tự, an ninh và không quấy nhiễu dân.

Đêm 24.8, lực lượng cách mạng các làng, các quận tiến về thị xã Thủ Dầu Một. Tại địa điểm tập kết, trong khi chờ đợi giờ kéo vào thị xã, quần chúng đã tổ chức một đêm sinh hoạt văn hóa rất sôi nổi. Họ hát những bài ca cách mạng, diễn những vở kịch yêu nước. Những người tham gia khởi nghĩa còn tổ chức mài gươm dao, sắm thêm gậy tầm vông, luyện tập võ… Ban quân sự tỉnh trực tiếp chỉ huy việc bảo vệ quần chúng, sẵn sàng ngăn chặn sự đánh phá của địch.

Lúc này, trong thị xã, nhân dân đã treo cờ dỏ sao vàng, cờ búa liềm, dán khẩu hiệu ở khắp các đường phố, chợ… Trong bầu không khí khởi nghĩa sôi sục, Tỉnh trưởng Nguyễn Minh Chương cũng từ chức, gia nhập vào hàng ngũ nhân dân. Nửa đêm, quần chúng các quận Hớn Quản, Bến Cát, Lái Thiêu, Châu Thành đi theo đội ngũ tiễn vào thị xã.

Rạng sáng ngày 25.8, đội ngũ các hội cứu quốc và đồng bào đã đứng chặt trên 20 đường phố lớn, nhỏ của thị xã. Đến 7 giờ, một cuộc mít tinh lớn được tổ chức trọng thể trước tòa thị chính quận Châu Thành (xã Phú Cường). Sau khi làm lễ chào cờ, đồng chí Văn Công Khai, Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng ban khởi nghĩa, đọc diễn văn tuyên bố chính quyền về tay nhân dân.

Sau đó, đại biểu Hội phụ nữ cứu quốc tỉnh lên phát biểu ý kiến, kêu gọi giới mình cùng toàn dân bảo vệ chính quyền cách mạng, thực hiện chương trình của Việt Minh, trong đó có vấn đề nam nữ bình đẳng. Trong cuộc mít tinh, quần chúng hô vang khẩu hiệu: “Chính quyền về tay Việt Nam!”, “Việt Nam độc lập muôn năm!”, “Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm!”.

Sau cuộc mít tinh, quần chúng khởi nghĩa diễu hành suốt mấy giờ liền trên các đường phố của thị xã Thủ Dầu Một. Hàng vạn người cầm trong tay cờ, gậy tầm vông, súng, hô vang các khẩu hiệu, xen lẫn với lời ca tiếng hát của nam nữ thanh niên. Kết thúc cuộc diễu hành, dưới sự hướng dẫn của Ủy ban nhân dân tỉnh, các đoàn phân công đi tiếp quản các chính quyền hành chính, tòa án, cảnh sát, đồn cộng hòa vệ binh, khám đường (trại giam), kho bạc, các nhà máy điện, nước, bưu điện… Như vậy là trong ngày 25.8, nhân dân Thủ Dầu Một đã giành chính quyền thắng lợi cùng ngày với Sài Gòn và 15 tỉnh bạn.

*

Thắng lợi của Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 đã mở ra trang sử mới, tạo những tiền đề quan trọng để nhân dân trong tỉnh bước vào giai đoạn cách mạng tiếp theo.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Chín, 2011, 09:14:47 am
BÀ RỊA - VŨNG TÀU(*)

Bà Rịa - Vũng Tàu là một tỉnh thuộc Nam Bộ, có diện tích tự nhiên 2647,66km2, chiếm 0,6% diện tích cả nước. Từ thế kỉ 18, vùng đất Bà Rịa - Vũng Tàu đã có người Việt đến khai hoang lập làng và dần biến nơi đây thành vùng trù phú, xanh tươi, từng nổi tiếng là xứ gạo trắng nước trong; “cơm Nai Rịa, cá Rí Rang”. Sau khi đặt được ách cai trị, thực dân Pháp đã ra sức khai thác, bóc lột vùng đất này, vì vậy, phong trào yêu nước chống Pháp nơi đây đã diễn ra sôi nổi qua các thời kì lịch sử.

Trước năm 1930, ở Bà Rịa - Vũng Tàu đã bắt đầu xuất hiện các tổ chức của các đảng viên Tân Việt cách mạng Đảng như Hội phổ thông lao động tập hợp những quần chúng ưu tú. Sau khi Đảng ra đời, năm 1931 vùng đất Bà Rịa - Vũng Tàu bắt đầu có đảng viên đến trú chân hoạt động, tìm cách gây dựng tổ chức. Hội Châu Viên kết nghĩa được thành lập, trở thành hạt nhân thu hút, tập hợp những người yêu nước trong vùng. Sau khi Xứ ủy Nam Kỳ bắt liên lạc được với tổ chức ở địa phương và có sự chỉ đạo sát sao, tháng 2.1934, chi bộ cộng sản đầu tiên ở Bà Rịa - Vũng Tàu đã được thành lập ở Phước Hải. Bắt đầu từ đây, phong trào cách mạng ở Bà Rịa - Vũng Tàu phát triển nhanh chóng. Hàng loạt các tổ chức như hội đá bóng, hội xe thổ mộ (xe ngựa)… ra đời, tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân. Tuy nhiên cho đến trước năm 1945, ở đây chưa có những phong trào đấu tranh lớn.

Đầu năm 1945, ở Bà Rịa - Vũng Tàu tổ chức Thanh niên Tiền phong được thành lập nhằm thu hút những thanh niên yêu nước. Ngay khi tổ chức này vừa mới ra đời, các chi bộ Đảng ở Bà Rịa - Vũng Tàu đã lập tức nắm lấy, cử người đứng ra lãnh đạo hoạt động. Sử dụng tính chất hợp pháp của Thanh niên Tiền phong, cấp ủy Đảng Bà Rịa - Vũng Tàu chủ trương phát triển rộng rãi tổ chức này. Chỉ trong một thời gian ngắn, đến tháng 7.1945, tổ chức Thanh niên Tiền phong đã phát triển rộng khắp các huyện trong tỉnh. Trong các tổ chức đó, thanh niên được tham gia các lớp huấn luyện chính trị, huấn luyện quân sự, do các đảng viên hướng dẫn. Họ là lực lượng chủ chốt được phân công đi giữ trật tự, lập các trạm canh gác, tuần tra khắp các khu vực ở khu Vũng Tàu như Bãi Trước, Bãi Sau, Bãi Dâu, Bãi Dứa… Họ kiểm soát và lấn át dần hoạt động của bộ máy ngụy quyền bù nhìn từ tỉnh đến huyện. Chuẩn bị cho ngày khởi nghĩa giành chính quyền, Thanh niên Tiền phong phát động phong trào sưu tầm vũ khí. Họ vận động được một số lính Nhật giao nộp súng, ở những nơi quân Nhật tập trung đông, Thanh niên Tiền phong tổ chức đột nhập kho vũ khí lấy súng, như vụ đột nhập ở Núi Lớn, núi Nhỏ…

Đến tháng 8.1945, lực lượng Thanh niên Tiền phong ở Bà Rịa - Vũng Tàu đã có hàng nghìn hội viên, được trang bị vũ khí với hàng trăm khẩu súng các loại. Có những nơi như Bến Đá (Vũng Tàu), Thanh niên Tiền phong đổi tên thành đội Cảm tử quân tự trang bị súng trường, lựu đạn, là đơn vị tiền thân của lực lượng vũ trang Vũng Tàu sau này.

Cùng với việc phát triển đội ngũ Thanh niên Tiền phong, các cán bộ Đảng Bà Rịa - Vũng Tàu cử đảng viên thâm nhập sâu vào quần chúng, vạch rõ bản chất của thuyết “Đại Đông Á” mà phát xít Nhật và tay sai tuyên truyền, cổ động. Đồng thời tích cực làm công tác binh vận nắm các lực lượng cảnh sát, binh lính. Đối với các giáo phái như Cao Đài, Thiên Chúa giáo, cơ sở Đảng cho người tuyên truyền, giải thích, thuyết phục họ ngả theo cách mạng hoặc chí ít đứng trung lập… Như vậy, cho đến trước tháng 8.1945, công tác chuẩn bị lực lượng cho khởi nghĩa ở Bà Rịa - Vũng Tàu đã cơ bản hoàn thành, hầu hết quần chúng nhân dân đã đi theo cách mạng, quân Nhật đang thất bại trên các chiến trường Châu Á - Thái Bình Dương, ngụy quyền bù nhìn hầu như đã mất chỗ cựa, hết sức hoang mang.

Tháng 8.1935, tình hình ngày càng chuyển biến mau lẹ và tích cực do quân Nhật đã đầu hàng Đồng minh. Chớp thời cơ thuận lợi, Hà Nội, Huế, Sài Gòn và nhiều tỉnh lần lượt đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền thành công. Tin chiến thắng đó nhanh chóng bay đi khắp nơi làm nức lòng nhân dân cả nước, các địa phương khác ra sức chuẩn bị cho thời khắc đứng lên tự cởi bỏ gông xiềng. Ở Miền Nam, Xứ ủy Nam Kỳ quyết định chọn Tân An làm nơi thí điểm đầu tiên cho cuộc khởi nghĩa, sau đó là thành phố Sài Gòn và các tỉnh Nam Kỳ khác. Nắm bắt được chủ trương của Đảng, ngày 23.8, chi bộ Đảng ở Bà Rịa đã tổ chức cuộc họp ở Long Điền chuẩn bị khởi nghĩa. Tối 24.8, cờ đỏ sao vàng treo khắp trong thị xã, Mặt trận Việt Minh công khai hoạt động. Lực lượng được Việt Minh sử dụng làm nòng cốt, đi đầu trong ngày cướp chính quyền là tổ chức Thanh niên Tiền phong. Đồng thời, Mặt trận huy động toàn bộ quần chúng nhân dân các huyện trong tỉnh đổ về thị xã biểu dương lực lượng, gây áp lực buộc ngụy quyền phải bào giao lại chính quyền cho cách mạng.

Sáng 25.8, hơn một vạn quần chúng từ khắp các ngả đường rầm rập đổ về thị xã, giương cao cờ đỏ sao vàng, tập trung mít tinh xung quanh Tháp nước ở trung tâm thị xã Bà Rịa. Trước đó, đối với quân Nhật, Ủy ban khởi nghĩa đã cử người đến thương lượng mời chúng đến dự mít tinh, yêu cầu không được can thiệp vào công việc nội bộ của cách mạng. Trong lễ mít tinh, Đại diện Ủy ban khởi nghĩa đọc lời tuyên bố độc lập. Sau khi cuộc mít tinh kết thúc, đoàn người dưới sự hướng dẫn của thanh niên Tiền phong đã kéo về các địa phương giành chính quyền ở cơ sở.

Tại Vũng Tàu, khởi nghĩa nổ ra muộn hơn, vào ngày 28.8.1945, Ngày 25.8, Ủy ban khởi nghĩa được thành lập, lực lượng nòng cốt là Thanh niên Tiền phong lúc này đã đổi tên thành đội Cảm tử quân Bến Đá, được trang bị hàng chục khẩu súng trường và súng ngắn. Sau lễ mít tinh vào sáng 28.8, quần chúng tỏa ra khắp các ngả đường, chiếm công sở của chính quyền cũ… Tại Côn Đảo, địa bàn tuyên bố độc lập muộn nhất trong tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, cũng đã hoàn toàn được giải phóng vào ngày 17.9.1945.

Như vậy, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền vào tháng Tám năm 1945 đã hoàn toàn thắng lợi. Nhân dân Bà Rịa - Vũng Tàu cũng như toàn thể dân tộc Việt Nam từ thân phận người nô lệ đã đứng lên làm chủ vận mệnh của mình, làm chủ quê hương, đất nước.

*

Qua cuộc khởi nghĩa ở Bà Rịa - Vũng Tàu, chúng ta nhận thấy một số đặc điểm chủ yếu:

Thứ nhất, về phương thức giành chính quyền, cuộc khởi nghĩa trong Cách mạng tháng Tám ở Bà Rịa - Vũng Tàu là sự kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, trong đó đấu tranh chính trị có tác dụng quyết định chủ yếu và vì thế, cuộc khởi nghĩa nổ ra mang tính ôn hòa, ít đổ máu. Phương thức này phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng trong Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Ở Bà Rịa - Vũng Tàu, sau khi nhận được tin các tỉnh phía Bắc, Hà Nội, Huế và Sài Gòn - những nơi lực lượng quân Nhật đông, trang bị vũ khí đầy đủ, đã khởi nghĩa thắng lợi, bọn tay sai thân Nhật càng thêm hoang mang, rệu rã. Ban lãnh đạo khởi nghĩa đã huy động lực lượng quần chúng đông đảo, đi đầu là đội ngũ Thanh niên Tiền phong xuống đường tay không hoặc với vũ khí thô sơ nhưng khí thế cách mạng vô cùng sôi sục. Chính khí thế cách mạng đó đã thiêu cháy ý chí đề kháng vốn chỉ còn yếu ớt ở địch, làm cho hàng ngũ của chúng hoàn toàn bị tê liệt, tan rã.

Thứ hai, sự phân hóa, cô lập kẻ thù. Một trong những biện pháp làm cho cuộc khởi nghĩa tránh đổ máu chính là việc cơ quan lãnh đạo khởi nghĩa đã tiến hành thương lượng với Nhật trước đó mà kết quả là trong cuộc mít tinh ngày 25.8 ở Bà Rịa, có chỉ huy cao nhất của quân Nhật tham dự. Điều này dường như ít có ở những địa phương khác trong cả nước. Biện pháp thương lượng đó hoàn toàn không phải là thứ thương lượng hòa bình, hai bên cùng nhân nhượng để tồn tại mà trong cuộc thương lượng, lực lượng cách mạng đã đứng trên thế mạnh mới buộc được kẻ thù chấp nhận yêu cầu của cách mạng. Việc thương lượng đó là một sách lược, hoàn toàn không vi phạm mục tiêu chiến lược. Trong cuộc thương lượng với nhật, Ban lãnh đạo khởi nghĩa đã sử dụng biện pháp sáng tạo, sách lược mềm dẻo, khôn khéo và linh hoạt. Kết quả là giúp cho cuộc khởi nghĩa diễn ra hòa bình, ít đổ máu nhưng hoàn toàn vẫn mang tính chất bạo lực cách mạng, không đi ngược lại đường lối, chủ trương của Đảng trước khởi nghĩa.

Nhìn chung, trong toàn bộ quá trình giành chính quyền ở Bà Rịa - Vũng Tàu, hình thức đấu tranh chính trị và lực lượng chính trị của nhân dân là yếu tố căn bản, có tác dụng quyết định chủ yếu cho thắng lợi của Cách mạng tháng Tám. Mặc dù diễn ra ôn hòa do một số điều kiện khách quan và chủ quan đem lại, song cuộc khởi nghĩa phản ánh đúng nội dung, tính chất của khởi nghĩa vũ trang, phản ánh đúng quy luật phổ biến của đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản, tiến hành đúng theo những quy tắc về khởi nghĩa vũ trang của chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện tương quan lực lượng cụ thể giữa ta và địch lúc đó.


(*) Người viết: ThS. Biện Thị Hoàng Ngọc, Phân viện Hà Nội, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Chín, 2011, 09:17:19 am
BIÊN HÒA(*)

Biên Hòa, nay thuộc tỉnh Đồng Nai, nằm sát Sài Gòn, nay là Thành phố Hồ Chí Minh. Do vị trí chính trị, quân sự, nhất là kinh tế, nên Biên Hòa sớm trở thành một một cơ sở công nghiệp lớn, có nhiều đồn điền cao su bạt ngàn. Vì vậy, ở Biên Hòa đã hình thành một đội ngũ công nhân lớn mạnh, có tinh thần đấu tranh cách mạng cao. Biên Hòa là địa bàn cách mạng tốt cho những người yêu nước, cộng sản hoạt động ở miền Đông Nam Kỳ, đặc biệt là vùng Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định.

Truyền thống cách mạng của nhân dân Biên Hòa được phát huy dưới sự lãnh đạo của Đảng, mở đầu với cuộc đấu tranh của 5.000 công nhân đồn điền cao su Phú Riềng vào đầu năm 1930. Tuy bị thực dân Pháp khủng bố ác liệt nhưng tháng 2.1935, chi bộ Đảng Cộng sản Bình Phước - Tân Triều ở Biên Hòa được thành lập, là hạt nhân lãnh đạo phong trào Mặt trận dân chủ Đông Dương ở tỉnh nhà và là cơ sở cho sự ra đời của Tỉnh ủy lâm thời Biên Hòa vào đầu năm 1937.

Trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ (1940), lực lượng cách mạng ở Biên Hòa bị tổn thất nặng - 40 đội viên tự vệ vũ trang bị thực dân Pháp đàn áp dã man, một số tỉnh ủy viên bị bắt, bắn chết. tuy vậy, phong trào cách mạng ở Biên Hòa vẫn được duy trì. Các cuộc vận động chống bắt lính, rài truyền đơn kỉ niệm Cách mạng tháng Mười Nga… thường diễn ra nhiều cơ sở sở hoạt động tốt như Nhà máy BIF Biên Hòa, sở Trường Tiền, sở củi Trảng Bom, ga Biên Hòa… Đồn điền cao su là những nơi ẩn náu và hoạt động của các chiến sĩ cách mạng.

Từ năm 1942, do các tù cộng sản tù vượt ngục hay mãn hạn tù ở Tà Lào, Bà Rá trở về xây dựng cơ sở, lãnh đạo đấu tranh nên phong trào cách mạng ở Biên Hòa lại sô nổi. ở các đồn điền cao su đã nổ ra nhiều cuộc đình công, bãi công, đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ. Năm 1944, công nhân BIF phối hợp với công nhân ở Sở củi Trảng Bom, lãn công, bãi công, phá máy làm chậm kế hoạch thu gom 15.000m3 gỗ đóng tàu của Nhật, một số binh lính người Việt trong quân đội Pháp đóng ở đồn “Xăng Đá” đã đào ngũ theo sự vận động, giác ngộ của cơ sở cách mạng. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9.3.1945), chính sách đàn áp, bóc lột tàn khốc, trắng trợn của quân phiệt Nhật làm cho phong trào đấu tranh ở Biên Hòa, cũng như cả nước, bùng lên mạnh mẽ, thành cao trào “chống Nhật cứu nước”.

Tháng 5.1945, Liên tỉnh ủy miền Đông Nam Kỳ họp hội nghị, gồm đại biểu các Đảng bộ Tây Ninh, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Gia Định đã bàn về tình hình, nhiệm vụ sắp tới của cách mạng. Cũng trong tình trạng chung của Nam Kỳ bấy giờ, tổ chức Đảng ở miền Đông nói chung ở Biên Hòa nói riêng không có sự thống nhất. Ở Biên Hòa, một số đảng viên lập ra Tỉnh ủy vào tháng 7.1945, một Tỉnh ủy lâm thời khác lại ra đời vào tháng 8.1945. Cả hai Tỉnh ủy đều chỉ đạo trực tiếp cho việc chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Điều này ảnh hưởng đến phong trào, song cuộc đấu tranh chống Nhật vẫn tập hợp được đông đảo nhân dân Biên Hòa, vốn có truyền thống yêu nước và cách mạng, tham gia đông đảo. Nhân dân ở thị xã, thị trấn, các làng xã, kể cả vùng xa xôi, các đồn điền, nhà máy đều đứng trong hàng ngũ đấu tranh ngày một nhiều. Một số nhân viên, công chức trong bộ máy của chính quyền ngụy, tay sai Nhật cũng tham gia cách mạng.

Sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh và cuộc khởi nghĩa đã thành công ở Hà Nội, ở nhiều tỉnh Miền Bắc, Miền Trung và một vài tỉnh ở Nam Kỳ, tình thế cách mạng khá chín muồi trong tỉnh, lãnh đạo Biên Hòa nhận thấy phải nhanh chóng phát động quần chúng đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền.

Ngày 23.8.1945, một cuộc họp tại nhà đồng chí Ngô Hà Thành ở phố Sáu Sử, do đồng chí Hoàng Minh Châu chủ tri, bàn kế hoạch tổ chức và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa của quần chúng trong tỉnh, hòa nhịp với phong trào cách mạng chung của cả nước. Theo sự hướng dẫn của Xứ ủy Nam Kỳ, Hội nghị quyết định mấy việc:

“- Khởi nghĩa bắt đầu từ thị xã rồi lan ra toàn tỉnh.

- Trung lập hóa quân Nhật.

- Thành lập Ủy ban khởi nghĩa, do đồng chí Hoàng Minh Châu phụ trách, dự kiến thành phần Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời của tỉnh.

- Vận động Tỉnh trưởng giao chính quyền cho cách mạng. Vận động lính mã tà, lính thủ hộ… nộp súng cho cách mạng.

- Vận động 500 người của thành phố Biên Hòa về tham gia giành chính quyền ở Sài Gòn ngày 25.8.1945, rồi sau đó về giành chính quyền ở Biên Hòa.

- Huy động lực lượng xung kích trong công nhân, Thanh niên Tiền phong trang bị vũ khí, nhân dân mang cờ, khẩu hiệu để sẵn sàng biểu dương lực lượng cướp chính quyền”(1).

Ngày 24.8, cờ đỏ sao vàng xuất hiện khắp nơi trong thành phố Biên Hòa, nhân dân một số khu phố, như Long Thạnh, đã nổi dậy giành chính quyền, không khí khởi nghĩa tràn ngập trong thành phố.

Ngày 25.8, lực lượng cách mạng đã thực sự làm chủ tỉnh lị, bộ máy chính quyền địch từ tỉnh đến cơ sở hầu như tê liệt. Quân Nhật đóng ở Biên Hòa nằm im trong doanh trại, không có phản ứng gì trước cuộc khởi nghĩa giành chính quyền của nhân dân.

Sáng 26.8, đồng chí Nguyễn Văn Nghĩa tập hợp hàng trăm quần chúng nhân dân tiến vào tòa bố Biên Hòa, nơi tỉnh trưởng làm việc, treo cờ đỏ sao vàng. Trưa hôm ấy, tỉnh trưởng Nguyễn Văn Quý trao chính quyền cho đại diện Ủy ban khởi nghĩa Biên Hòa, do các đồng chí Hoàng Minh Châu, Huỳnh Văn Hớn tiếp nhận. Vào 14 giờ cùng ngày, lực lượng cách mạng đã tước súng của cảnh sát và thu 40 súng của lính mã tà tại Cửa Tiến (trước cửa Khám lớn Biên Hòa), mọi công sở của chính quyền ngụy đều được cách mạng tiếp quản.

Sáng ngày 27.8.1945, gần 1 vạn nhân dân tỉnh lị Biên Hòa và các vùng lân cận tham dự mít tinh mừng thắng lợi của cuộc khởi nghĩa tỉnh nhà và đón chào Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Biên Hòa ra mắt. Đồng chí Hoàng Minh Châu được cử làm Chủ tịch Ủy ban.

Kết húc cuộc mít tinh là lễ tuyên thệ của những người tham dự, thay mặt cho 15 vạn nhân dân trong tỉnh, sẵn sàng hi sinh tính mạng, tài sản để bảo vệ tổ quốc, giữ vững chính quyền cách mạng mới giành được. Sau đó, cuộc mít tinh biến thành cuộc tuần hành thị uy khắp các đường phố tỉnh lị Biên Hòa.

Ngày 26.9.1945, một cuộc hội nghị của hơn 40 cán bộ Đảng tỉnh Biên Hòa, với sự tham dự của đồng chí Hà Huy Giáp, đại diện Xứ ủy Nam Kỳ, quyết định một số nhiệm vụ cấp bách sau khi khởi nghĩa thắng lợi. Hội nghị quyết định mở rộng Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc, gấp rút xây dựng và huấn luyện lực lượng vũ trang, củng cố chính quyền các cấp, lập các cấp ủy Đảng thống nhất để lãnh đạo cách mạng. Hội nghị đã bầu Tỉnh ủy thống nhất, gồm 11 người, do đồng chí Trần Công Khanh làm bí thư.

*

Cách mạng tháng Tám 1945 thành công ở Biên Hòa góp phần vào thắng lợi chung của cả nước. Nó thể hiện truyền thống đấu tranh yêu nước và cách mạng của nhân dân Biên Hòa, được phát huy cao dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Đảng bộ tỉnh nhà.


(*) Người viết: ThS. Nguyễn Duy Hạnh, Phân viện Hà Nội, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
(1) Theo quyển Mùa thu rồi, ngày hăm ba, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1945, tr. 444.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Chín, 2011, 09:19:23 am
SÀI GÒN - GIA ĐỊNH(*)

Sài Gòn (nay là Thành phố Hồ Chí Minh), trước Cách mạng tháng Tám 1945 được mệnh danh là “Hòn ngọc Viễn Đông” là một trung tâm, kinh tế, chính trị, xã hội của cả nước, đặc biệt các tỉnh phía Nam. Thực dân Pháp rồi quân phiệt Nhật đã đặt các cơ quan hành chính quan trọng, những lực lượng hùng hậu ở đây. Tuy Nam Kỳ bị tách khỏi Bắc Kỳ, Trung Kỳ, nhằm phá vỡ sự thống nhất của Tổ quốc Việt Nam, song nhân dân Nam Kỳ nói chung, Sài Gòn - Gia Định nói riêng - nơi hội tụ, sinh sống của đồng bào cả nước - vẫn tích cực đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, làm thất bại âm mưu “chia để trị” của thực dân đế quốc. Cuộc đấu tranh chống xâm lược ngay khi thực dân Pháp đánh chiếm Gia Định, đặc biệt từ khi Đảng ra đời nhận lãnh sứ mệnh lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, đã chứng minh điều nêu trên.

Sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại (tháng 11.1940), lực lượng cách mạng ở Nam Kỳ nói chung, Sài Gòn - Gia Định nói riêng bị đàn áp nặng nề. thực dân Pháp đã tiến hành 5.848 vụ bắt bớ trong hai năm 1941-1942 sau cuộc khởi nghĩa. Hậu quả của cuộc khủng bố dã man này là 6.000 người bị giết, bị tù đày. Việc Nhật Bản kéo quân vào Đông Dương, chiếm đóng nhiều vị trí quan trọng ở Nam Kỳ, đặc biệt Sài Gòn - Gia Định, cùng với thực dân Pháp đặt hai ách thống trị lên cổ nhân dân Việt Nam làm cho đời sống của đồng bào ta càng thêm bi đát. Riêng ở Sài Gòn - Gia Định, cảnh thất nghiệp, thải thợ, dãn công nhân diễn ra trầm trọng. Ngày lao động của các xí nghiệp kéo dài, nặng nhọc hơn mà đồng lương thì rẻ mạt, chết đói.

Trong bối cảnh ấy, cùng với nhân dân cả nước, đồng bào Nam Kỳ, Sài Gòn - Gia Định nói riêng, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ liên tục vùng lên đấu tranh. Trước hết là khôi phục lại tổ chức và các cơ quan lãnh đạo của Đảng bộ các cấp. Tháng 1.1941, Xứ ủy Nam Kỳ được lập lại. Cơ quan Xứ ủy đóng tại Sài Gòn. Các liên tỉnh ủy Hậu Giang, Miền Đông, rồi các tỉnh ủy cũng lần lượt ra đời.

Riêng ở Sài Gòn - Gia Định, các cơ sở Đảng, tổ chức công vận, đặc biệt là binh vận, được khôi phục và hoạt động. Phong trào của trí thức, học sinh, sinh viên yêu nước Sài Gòn - Gia Định, tập hợp trong một tổ chức công khai, lấy tên “Phong trào Câu lạc bộ học sinh”, hoạt động khá mạnh. Ngoài ra, cuộc đấu tranh của công nhân thành phố cũng được duy trì, tiêu biểu là cuộc đấu tranh của 500 công nhân xóm Chiếu, bến tàu Sài Gòn.

Vào cuối năm 1941, các đồng chí lãnh đạo Xứ ủy Nam Kỳ đã nhận được tài liệu về Mặt trận Việt Minh, nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ VIII (10-19.5.1941). Đầu năm 1942, các tài liệu trên được phổ biến rộng rãi ở Nam Kỳ, Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định và nhiều địa phương khác ở Nam Kỳ đã xây dựng được đoàn thể cứu quốc của các giới, các tầng lớp nhân dân, như Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Nông dân cứu quốc…

Trong những năm 1943-1944, ách thống trị của Pháp - Nhật càng nặng nề, phong trào đấu tranh càng mạnh mẽ. Ở Sài Gòn - Gia Định, trong thời gian này đã có khoảng 30 cuộc đấu tranh của công nhân, tiêu biểu là cuộc bãi công của công nhân may quần áo cho Nhật ở đường Senho (Sài Gòn, tháng 5.1944), của công nhân xây trại lính Nhật ở Chí Hòa và toàn thể thợ giầy ở xưởng Đại Nam của Nhật (cuối năm 1944). Vào cuối năm 1944, phong trào đấu tranh của công nhân Sài Gòn - Gia Định phát triển mạnh; do đó, tổ chức công hội và tổ chức của công nhân theo từng khu phố (các khu Bàn Cờ, xóm Chiếu, Tân Định, Phú Nhuận, Gò Vấp, xóm Chiểu, Bình Tây, vv.) được thành lập). Đến đầu năm 1945), ở Sài Gòn - Gia Định đã có 30 công đoàn cơ sở với hàng trăm đoàn viên. Phong trào học sinh, sinh viên ở Sài Gòn cũng lên cao, với nhiều hoạt động phong phú: báo chí, diễn thuyết, tuyên truyền lòng yêu nước, tinh thần đấu tranh bất khuất của dân tộc.

Do mâu thuẫn Nhật - Pháp ngày càng căng thẳng và chúng không thể cùng nhau chia phần bóc lột nhân dân Việt Nam, nên Nhật phải tiến hành đảo chính Pháp. Sự kiện này có ảnh hưởng đến cuộc đấu tranh của nhân dân cả nước, rong đó có đồng bào Nam Kỳ, đặc biệt là Sài Gòn - Gia Định. Cùng cả nước, nhân dân Nam Kỳ, Sài Gòn - Gia Định bước vào cao trào kháng Nhật, tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền.

Để đối phó với cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam, quân phiệt Nhật tiến hành nhiều thủ đoạn thâm hiểm, nhằm phá hoại cách mạng nước ta.

Tháng 5.1945, Nhật thành lập chính quyền bù nhìn Trần Trọng Kim và cho ra đời nhiều tổ chức phản động thân Nhật, ra sức tuyên truyền thuyết “Đại Đông Á”…

Ở Nam Kỳ, đặc biệt tại Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, ngoài việc xây dựng các đảng phái thân Nhật cũ, như Phục Quốc và những người cầm đầu giáo phái phục vụ cho quyền lợi cá nhân “phản đạo hại đời” như Trần Quang Vinh (Cao Đài), Dân xã Đảng (Hòa Hảo), Tịnh Độ Cư Sĩ, Nhật cho lập thêm Việt Nam Phục quốc Đồng minh hội (Trần Văn Ân), Việt Nam Quốc gia Độc lập Đảng (Hồ Văn Ngà), Đảng Huỳnh Long (gồm những bọn côn đồ của Võ Bá Cường), Nhật Việt Phòng vệ đoàn (Nguyễn Hòa Hiệp… Dưới danh nghĩa lừa bịp “vì quốc gia, vì dân tộc”, chúng tiến hành việc tập hợp lực lượng chống phá cách mạng.

Nhật còn cho chiêu mộ thanh niên lập đội quân “Heiho”, được vũ trang khá đầy đủ. Chúng nuôi dưỡng bọn Đỗ Như Ánh, Nguyễn Anh Tài để tổ chức “Thanh niên Đại Đôn Á”; cho Lý Vinh cầm đầu bọn cảnh sát, hiến binh; vũ trang một số phần tử trong các giáo phái Hòa Hảo, Cao Đài do những tên tay sai của chúng nắm.

Bọn Tơrôtkit ở Sài Gòn cũng lộ mặt phản bội, tham gia chính quyền bù nhìn thân Nhật.


(*) Người viết: PGS.TS Võ Xuân Đàn, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Chín, 2011, 09:22:57 am
Tuy rêu rao “trả độc lập”, nhưng phát xít Nhật nắm toàn bộ quyền hành độc quyền thông tin tuyên truyền, xuất bản xách báo để lôi kéo nhân dân ta vào cuộc chiến tranh “Đại Á” của chúng, bằng sức người, sức của.

Để đánh lạc hướng nhân dân Việt Nam, quân phiệt Nhật dấy lên phong trào đánh Pháp, bài Pháp. Chúng kích động quần chúng triệt hạ các bia tượng của thực dân Pháp; lính Nhật sỉ nhục và hành hạ người Pháp đi đường. Các hành động này nhằm gạt mũi nhọn căm thù của nhân dân Việt Nam vào người Pháp; mà quên kẻ thù trước mắt là phát xít Nhật.

Chúng tăng cường đánh phá vào cơ sở, lực lượng cách mạng của ta và không ngừng đe dọa: “các anh chỉ có hai con đường hoặc là hợp tác thân thiện với Nhật hoặc là bị Nhật tiêu diệt”(1). Chúng muốn tiêu diệt cách mạng ở Nam Kỳ, hoặc tìm cách khuất phục để rảnh tay đối phó với Miền Trung, Miền Bắc. Khi thực hiện một chính sách kinh tế tàn khốc nhất ở Đông Dương, chúng tập trung vào nhân dân Nam Kỳ, Sài Gòn - Gia Định nói riêng, để họ thêm khốn đốn. Tình hình trên đã làm cho không ít người trước đây còn mơ hồ, ảo tưởng trông chờ vào Nhật dần dần nhận ra sự thật và ngả về phía cách mạng.

Tình hình, diễn biến cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai ngày càng tỏ ra bất lợi cho Nhật, báo hiệu ngày thất bại bi thảm không tránh khỏi.

Ngày 9.5.1945, phát xít Đức phải chấp nhận đầu hàng không điều kiện. Cũng trong thời gian này, quân đội Nhật bị Đồng minh đánh bại ở phần lớn các nước Đông Nam Á và Thái Bình Dương, buộc phải rút khỏi nhiều vùng quan trọng. Sự sụp đổ của phát xít Nhật chỉ còn tính từng ngày. Tình hình đó đã thôi thúc đồng bào nhất là thanh niên, hăng hái đứng lên tham gia đấu tranh giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Ngày 9.3.1945, Thường vụ Trung ương đã họp nhận định tình hình và ra chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Đảng cho rằng đây là thời kì bước vào cao trào kháng Nhật trong cả nước và đề ra nhiệm vụ cho toàn Đảng là “phát động cao trào kháng Nhật cứu nước, lãnh đạo toàn dân gấp rút chuẩn bị tiến tới Tổng khởi nghĩa trong cả nước”.

Dưới sự chỉ đạo của Trung ương, một cao trào kháng Nhật cứu nước đã dâng lên mạnh mẽ. tháng 6.1945, Khu giải phóng nằm trên 6 tỉnh ở Việt Bắc đã xây dựng chính quyền cách mạng, đem lại quyền làm chủ cho nhân dân. Hàng loạt chiến khu khác đã ra đời. Khởi nghĩa từng phần ở nhiều địa phương đã nổ ra, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Ba Tơ ở Quảng Ngãi (11.3.1945), ngay khi Nhật đảo chính Pháp.

Tại khu Sài Gòn - Gia Định, càng gần đến tháng Tám, ki của thời kì tiền khởi nghĩa càng rõ nét, với các hoạt động chính trị, xã hội, văn hóa đa dạng của các giới đồng bào yêu nước hoặc do cá nhân, tổ chức tiến bộ hướng dẫn hoặc do Đảng Cộng sản trực tiếp tổ chức và lãnh đạo.

Mặt khác, tuy cuộc đảo chính của Nhật đã chấm dứt, quyền lực của Pháp, nhưng Nhật không thể xây dựng ngay bộ máy tay sai hoàn toàn mới của mình. Chúng phải tiếp tục sử dụng bộ máy tay sai đang rệu rã của Pháp ở các địa phương. Vì vậy bọn Nhật không sao ngăn cản nổi sự sụp đổ của hệ thống bộ máy thống trị của chúng. Ở nhiều căng an trí, nhà tù, sự tan rã của đội ngũ cảnh sát, cai ngục đã tạo điều kiện cho nhiều cán bộ đảng viên thoát khỏi cảnh giam cầm, trở về địa phương hoạt động với cơ sở. Tình hình ấy càng tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền ở nhiều nơi trong khu vực.

Đảng bộ Sài Gòn - Gia Định chuyển mình khá mạnh mẽ. Cán bộ, đảng viên từ các nhà tù, trại giam đã khẩn trương tìm mọi cách trở về thành phố, chắp nối liên lạc. Nhiều cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng ẩn tránh địch trong thời gian trước cũng dần dần trở lại hoạt động..

Một số đảng viên cộng sản từ nhà tù Bà Rá trở về Hóc Môn bắt liên lạc với các đồng chí trong nhóm Giải phóng. Ngày 20.3.1945, các đồng chí này tổ chức cuộc hội nghị tại Xoài Hột (Mỹ Tho), thành lập Xứ ủy Nam Kỳ lâm thời. Đồng chí Dân Tôn Tử được bầu làm Bí thư. Các tờ báo “Giải phóng”“Độc lập” được ấn hành để tuyên truyền, vận động quần chúng và tổ chức Mặt trận Việt Minh. Do vậy, ở Nam Kỳ lúc bấy giờ có hai Xứ ủy: “Xứ ủy Giải phóng” và “Xứ ủy Tiền phong” do Trần Văn Giàu làm bí thư, hoặc là nhóm Giải phóng, nhóm Tiền phong (cũng có người còn gọi là Việt Minh cũ và Việt Minh mới). Việc không thống nhất trong bộ phận lãnh đạo của Nam Kỳ cũng có ảnh hưởng nhất định đến phong trào cách mạng. Vì vậy, việc thống nhất bộ phận lãnh đạo là nhiệm vụ cấp thiết.

Tháng 4.1945, “Xứ ủy Giải phóng lâm thời” tổ chức được 19 Tỉnh ủy lâm thời và 6 Ban cán sự tỉnh. Trên cơ sở đó, tháng 5.1945, Xứ ủy lâm thời họp tại Bà Điểm (Hóc Môn), lập ra các Xứ ủy chính thức, do đồng chí Lê Hữu Kiều làm Bí thư.

Cũng trong thời gian này, “Xứ ủy Tiền phong” được tăng cường mạnh mẽ. Nhiều cán bộ cách mạng kì cựu của Đảng bộ Nam Kỳ trở lại hoạt động và tham gia Xứ ủy này như Ung Văn Khiêm, Hà Huy Giáp, Bùi Công Trừng, Nguyễn Văn Tạo, Nguyễn Văn Nguyễn, Nguyễn Văn Kính, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Tây (Thanh Sơn)…

Từ tháng 5.1945, các Xứ ủy ở Nam Kỳ đã liên lạc được với Trung ương, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã theo dõi sát hoạt động của Đảng bộ Nam Kỳ và thúc đẩy việc thống nhất hai nhóm Tiền phong và Giải phóng để tạo nên sức mạnh thống nhất của Đảng bộ và nhân dân.

Phong trào đấu tranh cách mạng đã diễn ra ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ đã hoạt động mạnh vào Nam Kỳ; đảng viên, cán bộ, quần chúng nhân dân muốn có sự thống nhất trong lãnh đạo. Song dù sự lãnh đạo của Đảng ở Nam Kỳ đang có sự chia rẽ, toàn thể cán bộ, đảng viên của Xứ ủy Giải phóng và Xứ ủy Tiền phong đều thể hiện quyết tâm chiến đấu xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng để đón thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền. Hai Xứ ủy đều cử người tham gia “Ban thống nhất hành động”, do đồng chí Bùi Lâm, cán bộ Trung ương cử vào, làm Trưởng ban. Sự phối hợp chặt chẽ giữa hai Xứ ủy bắt đầu được thực hiện, tạo điều kiện cho lãnh đạo của Tổng khởi nghĩa sẽ nổ ra trong một thời gian gần. Tuy vậy, các hoạt động riêng rẽ của hai Xứ ủy vẫn diễn ra.


(1) Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1984, xuất bản lần thứ hai, tr.10.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Chín, 2011, 09:23:50 am
Đảng bộ Gia Định được Xứ ủy Giải phóng trực tiếp tham gia chỉ đạo, nhièu cán bộ từ nhà tù trở về được tăng cường cho Tỉnh ủy. Hệ thống tổ chức Đảng từ tỉnh xuống xã được kiện toàn. Các tổ chức Cứu quốc của quần chúng cũng được xây dựng từ tỉnh xuống tận cơ sở.

Trong tháng 5, tại Gia Định, “Xứ ủy Tiền phong” thành lập Tỉnh ủy mới do đồng chí Phạm Văn Khung làm Bí thư. Tỉnh ủy hoạt động chủ yếu ở vùng Gò Vấp và một phần tỉnh Thủ Đức.

“Xứ ủy Tiền phong” đặc biệt chú trọng phát triển lực lượng cách mạng ở Sài Gòn để lãnh đạo cuộc đấu tranh của quần chúng, phải đương đầu với quân Nhật ở phía Nam. Tháng 5.1945, Ban cán sự Thành được tăng cường, do đồng chí Nguyễn Văn Kỉnh làm Bí thư.

Vừa đẩy mạnh công tác tổ chức, “Xứ ủy Tiền phong” và Ban Cán sự Thành Sài Gòn còn chú trọng công tác tư tưởng và lí luận để chống các lực lượng phản cách mạng trên mặt trận này. Cán bộ Đảng tích cực học tập ở nhiều lớp huấn luyện chính trị để nâng cao trình độ. Chỉ tại khu vực hộ 21 (Phú Nhuận) đã mở 6 lớp huấn luyện cho đảng viên và quần chúng nòng cốt của cách mạng.

Đảng bộ Sài Gòn chăm lo công tác tổ chức quần chúng, nhờ vậy các đoàn thể cứu quốc phát triển mạnh. Công đoàn Nam Kỳ dã có 324 tổ chức cơ sở với 120.000 đoàn viên mà thành phố Sài Gòn chiếm tỉ lệ cao nhất.

Tổ chức công đoàn không những phát triển trong các xí nghiệp lớn mà còn được thành lập trong các công sở chính quyền tay sai Nhật, như ở các sở Công chính thành phố, Bưu điện, Sở Điện, sở Nước, bệnh viện lớn, vv.

Đặc biệt, sự ra đời và phát triển của tổ chức “Thanh niên Tiền phong” thể hiện vai trò của tuổi trẻ trong và ngoài trường đối với công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở Sài Gòn - Gia Định, nơi mà thực dân Pháp rồi quân phiệt Nhật ra sức lôi kéo họ.

Nhìn chung, sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, thực lực cách mạng của Nam Kỳ và của Sài Gòn - Gia Định đã nhanh chóng khôi phục. Trong những năm qua, những người cộng sản đã kiên cường vượt qua mọi thử thách nguy nan để khôi phục Đảng, củng cố các tổ chức cứu quốc của quần chúng. Tuy vậy, Sài Gòn - Gia Định trước ngày Tổng khởi nghĩa gặp khó khăn lớn là chưa xây dựng được các căn cứ địa cách mạng vững chắc như ở Miền Trung, Miền Bắc, cũng chưa có được một đội quân chính trị đông đảo đủ sức áp đảo kẻ thù. Vì vậy, việc xây dựng lực lượng hoạt động bí mật, hợp pháp và bất hợp pháp trở thành một yêu cầu cấp thiết để tiến tới Tổng khởi nghĩa.

Lợi dụng âm mưu của Nhật muốn nắm lực lượng thanh niên, Xứ ủy Tiền phong chủ trương thành lập “Thanh niên Tiền phong”, do Phạm Ngọc Thạch cùng một số trí thức, thanh niên yêu nước của thành phố đã được Đảng giác ngộ tổ chức vào ngày 1.6.1945. Tổ chức Thanh niên Tiền phong tuy danh nghĩa được Nhật “bảo trợ”, song thực chất là một tổ chức quần chúng do Đảng chỉ đạo hoạt động. Phong trào Thanh niên Tiền phong phát triển rất nhanh. Cho đến trước ngày khởi nghĩa, Thanh niên Tiền phong tổ chức 3 lần biểu dương lực lượng.

Tổ chức Thanh niên Tiền phong đã lôi cuốn nhiều tầng lớp nhân dân tham gia. Vì vậy, ở một số nơi thành công quần chúng thuộc các giới cũng mang tên “Thanh niên Tiền phong” như Thanh niên Tiền phong phụ nữ, Thanh niên Tiền phong phụ lão, Thanh niên Tiền phong thiếu nhi… Trong công nhân có Thanh niên Tiền phong Ban xí nghiệp, chính là tổ chức công đoàn của Đảng đã từng hoạt động bí mật, bất hợp pháp lấy danh nghĩa Thanh niên Tiền phong để ra hoạt động công khai, hợp pháp.

Sau 3 tháng hoạt động, Thanh niên Tiền phong phát triển khắp Nam Kỳ, tập hợp được 1.200.000 đoàn viên. Riêng thành phố Sài Gòn có 200.000 đoàn viên và 200 trụ sở đặt ở các đường phố, công xưởng, trường học và 120.000 đoàn viên công đoàn là nòng cốt của Thanh niên Tiền phong của thành phố. Qua đó giai cấp công nhân thành phố đã thật sự phát huy được vai trò to lớn của mình trong Cách mạng tháng Tám.

Đảng viên, cán bộ cốt cán được Xứ ủy, Thành ủy bố trí nắm những vai trò, vị trí then chốt trong tổ chức Thanh niên Tiền phong. Dựa vào kinh nghiệm và uy tín của mình trong hoạt động các trại hè, dạ hội, ca nhạc, diễn kịch, hướng đạo… các tổ chức Thanh niên Tiền phong tiến hành các hình thức, phương thức hoạt động phong phú, sáng tạo với nội dung yêu nước, cách mạng nên đáp ứng được yêu cầu của các tầng lớp nhân dân. Từ nhận thức, tình cảm trở thành hành động, chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa.

Các hội viên Thanh niên Tiền phong hăng hái học quân sự, cứu thương, giữ gìn an ninh trật tự ở công sở, xí nghiệp, trường học, nơi công cộng, được phổ biến thời sự, chính trị thường thức, lịch sử dựng nước, giữ nước hào hùng của dân tộc… Thanh niên Tiền phong tiến hành nhiều công tác xã hội, như tuyên truyền vệ sinh, truyền bá quốc ngữ, đi vào khu xóm lao động nôi thành, ngoại thành để giúp đỡ đồng bào nông dân nghèo. Những hoạt động này vừa bồi dưỡng tư tưởng tình cảm của hội viên, vừa tập hợp được các tầng lớp nhân dân. Vì vậy, chẳng bao lâu Thanh niên Tiền phong trở thành một hình thức mặt trận, một phát triển quần chúng sâu rộng có tổ chức do Đảng lãnh đạo.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Chín, 2011, 09:26:15 am
Hội truyền bá quốc ngữ Nam Kỳ được thành lập từ tháng 8.1944, do kiến túc sư Huỳnh Tấn Phát chủ trì, là một tổ chức hoạt động xã hội nhằm giúp đỡ đồng bào thất học chống giặc dốt. Nhưng ngay từ đầu, nó đã trở thành một trung tâm vận động chính trị trong các giới trí thức, nhân sĩ, thanh niên có tinh thần dân tộc, kể cả những nhân vật thuộc tầng lớp trên như Nguyễn Văn Vĩ, giám đốc Ngân hàng Pháp - Hoa, kĩ sư Lưu Văn Lang và nhiều bác sĩ, giáo sư, nhà kinh doanh… Hoạt động của Thanh niên Tiền phong quan hệ chặt chẽ với Hội truyền bá quốc ngữ. Hội truyền bá quốc ngữ cũng trở thành một tổ chức quần chúng chịu ảnh hưởng sự lãnh đạo của Đảng. Hội đã gây được một phong trào truyền bá quốc ngữ rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân và “Ban thân nó cũng là một mặt trận yêu nước, một mặt trận đoàn kết dân tộc”. Những người tham gia phong trào dần dần “có tư tưởng một phong trào yêu nước và một ngày nào đó sẽ tiến tới một hoạt động cách mạng giải phóng dân tộc…”(1).

Ngoài ra, Đảng bộ còn vận động nhân dân thành phố tham gia phong trào cứu đói Miền Bắc, Thanh niên Tiền phong, công đoàn, hội viên truyền bá quốc nữ là những bộ phận nòng cốt của phong trào. Qua đó lòng yêu nước đồng bào, tinh thần đoàn kết dân tộc tăng lên.

Qua các phong trào này, việc tổ chức tuyên truyền và phát triển lực lượng chuẩn bị cho khởi nghĩa tiến hành thuận lợi, nhanh chóng và còn làm thất bại các âm mưu của Pháp - Nhật về cái gọi là “Liên bang Đông Dương”, “Đông Dương tự trị” và “Đại Đông Á” hòng đánh lạc hướng cuộc đấu tranh yêu nước của nhân dân Việt Nam.

Từ sau ngày 9.3.1945, Xứ ủy Nam Kỳ và Thành ủy Sài Gòn - Gia Định khẩn trương mở nhiều lớp đào tạo cán bộ công đoàn và cán bộ thanh vận, trí vận để lãnh đạo hàng chục vạn đoàn viên và đội viên Thanh niên Tiền phong. Đồng thời dưới việc tổ chức huấn luyện quân sự cho một số đội viên, đoàn viên xung phong, Xứ ủy và Thành ủy bằng nhiều cách vận động ủng hộ, hoặc mua, hoặc tổ chức tìm đào vũ khí do Pháp cất giấu và lấy cắp súng và đạn dược trong các kho của Pháp, Nhật.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã Tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi.

Ngày 14.8.1945, Nhật hoàng phải tuyên bố đầu hàng Đồng minh không điều kiện. Tin Nhật đầu hàng nhanh chóng truyền khắp nước. Nhân dân Sài Gòn - Gia Định cùng đồng bào cả nước vùng lên đấu tranh khi quân đội Nhật ở Việt Nam hoang mang tê liệt, Chính phủ bù nhìn thân Nhật hết sức hoang mang, dao động. Toàn bộ binh đoàn lưu động ở Gia Định, Chí Hòa, binh đoàn trợ chiến cho Sở sen đầm Chợ Lớn, các đội Bảo an binh nhiều tỉnh Nam Kỳ đều đứng về phía cách mạng.

Trong tình thế tuyệt vọng như vậy, quân phiệt Nhật ở Đông Dương, ở Nam Kỳ nói riêng vẫn tìm cách giữ quyền thống trị của chúng bằng cách bày trò “trao trả độc lập” cho Việt Nam, giao chính quyền Trung ương, cũng như ở Bắc Kỳ, Nam Kỳ cho chính quyền bù nhìn. Tại Sài Gòn, Nhật tuyên bố sẽ trao trả chính quyền vào ngày 16.8.1945 cho quyền khâm sai Hồ Văn Ngà và viên Đốc lí Sài Gòn.

Tuy vậy, quân phiệt Nhật trong cơn hấp hối vẫn cố bám Đông Dương. Trong ngày 14.8, tại Sài Gòn, Nhật còn cho ra đời cái gọi là “Mặt trận quốc gia thống nhất” với ba khẩu hiệu: “Chống đế quốc Pháp, chống ngoại xâm”; “bảo vệ trị an”; “bài trừ phản động”. Đây là âm mưu tập hợp lực lượng để làm chỗ dựa cho “Chính phủ lâm thời” Trần Trọng Kim tiếp tục tồn tại, đối phó với cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta.

Thống đốc Nam Kỳ Minoda vẫn chưa từ bỏ quyền điều hành công việc. Trong ngày 14.8, y vẫn kí quyết định bổ nhiệm 2 chủ tỉnh Trà Vinh, Cần Thơ và hai đại diện hành chính ở Cao Lãnh và Thủ Đức, kí lệnh cho chủ tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Bến Tre, Mỹ Tho phải trưng dụng ngựa của địa phương để phục vụ cho quân đội Nhật.

Từ ngày 15 đến 18.8, Minoda vẫn tiếp tục kí hàng loạt nghị định bổ nhiệm quan chức cấp Xứ và quy định về giá cả các mặt hàng thiết yếu.

Lúc bấy giờ, các lực lượng của Nhật và bọn thân Nhật, Pháp tập trung ở Sài Gòn rất đông. Ngoài 70.000 quân Nhật đóng các nơi xung yếu của thành phố còn có 30.000 quân Cao Đài thân Nhật của Trần Quang Vinh sẵn sàng “chống lại Việt Minh”. Chúng hoạt động rất tích cực: ngày 19.8, dựng Khải hoàn môn giữa thành phố để nghênh tiếp Kì ngoại Hầu Cường Để; ngày 25.8, đưa lực lượng xuống đường hô các khẩu hiệu: “Việt Nam độc lập vạn tuế”, “Kì ngoại Hầu vạn tuế”.

Ở Sài Gòn còn có khoảng 5000 quân của giáo phái Hòa Hảo thân Nhật, mấy ngàn lính Hay Hô được vũ trang, lực lượng “Thanh niên Đại Đôn Á” của Đỗ Dư Ánh, Nguyễn Anh Tài, “Thanh niên Việt - Nhật phòng vệ đoàn” của Nguyễn Hòa Hiệp, lực lượng “Hiến binh” của Lý Hoa Vinh, bọn côn đồ trong đảng “Huỳnh Long” của Võ Bá Cường, “Thanh niên Ái Quốc đoàn” của Đinh Khắc Thiệt, “Võ sĩ đoàn” của Vũ Trâm Anh, lực lượng của Tơrốtkít dựa vào Nhật… các lực lượng thân Pháp, như đảng “Lập Hiến”, đảng “Dân chủ Đông dương”… bắt đầu ngóc đầu dậy, chờ đón Pháp trở lại.

Để giành được thắng lợi trong cuộc Tổng khởi nghĩa oỷ Sài Gòn - Gia Định, lực lượng cách mạng nhất thiết phải đánh bại những lực lượng phản động. Tình hình rất khẩn trương, vì quân Đồng minh sẽ kéo vào Đông Dương giải giáp quân Nhật. Trong bối cảnh ấy, chỉ có lực lượng cách mạng, do Đảng lãnh đạo, mới giải quyết được vấn đề. Bởi vì, trong cả nước, cũng như ở Sài Gòn nói riêng, ở Nam Kỳ nói chung, Đảng Cộng sản thật sự đã trở thành lực lượng có tổ chức mạnh hơn so với các đảng, phái khác cộng lại”(2).

Cả thành phố đang chờ lệnh của Đảng, sẵn sàng vùng lên để đổi đời.

Ngày 13.8.1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng khai mạc ở Tân Trào, trong đó có đại biểu Xứ ủy Nam Kỳ tham gia. Hội nghị quyết định Đảng phải kịp thời lãnh đạo toàn dân Tổng khởi nghĩa để giành chính quyền từ tay bọn phát xít Nhật và bọn bù nhìn tay sai của chúng trước khi quân Đồng minh Anh, Mĩ vào Việt Nam.


(1) Huỳnh Tấn Phát: Làm đẹp cuộc đời, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 99.
(2) Trần Văn Giàu: Thành công của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1993, tr. 649.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Chín, 2011, 09:29:12 am
Ngay đêm 13.8, một ủy ban khởi nghĩa toàn quốc đã được thành lập, do đồng chí Trường Chinh, Tổng bí thư Đảng trực tiếp phụ trách và ra quận lệnh số 1, hạ lệnh Tổng khởi nghĩa.

Tiếp sau đó, ngày 16.8 Đại hội Quốc dân họp ở Tân Trào. Đại hội tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng Cộng sản Đông Dương, thông qua lệnh khởi nghĩa của Tổng bộ Việt Minh, 10 chính sách lớn của Việt Minh. Đại hội quy định quốc kì là cờ đỏ sao vàng; quốc ca là bài Tiến quân ca và cử ra Ủy ban Dân tộc Giải phóng tức Chính phủ lâm thời, do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.

Tất cả những mệnh lệnh Tổng khởi nghĩa của Trung ương Đảng, của Tổng bộ Việt Minh, của Chủ tịch Hồ Chí Minh chưa đến kịp nhiều tỉnh, nhất là Miền Nam xa xôi, nhưng các cấp Đảng bộ nhờ thấm nhuần tinh thần các Nghị quyết của Đảng đề ra từ trước, nhất là tinh thần bản chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” của Ban Thường vụ Trung ương, và căn cứ vào tình hình diễn biến trong hàng ngũ kẻ địch và lực lượng Đồng minh, đã chủ động, linh hoạt, sáng tạo và kịp thời tiến hành khởi nghĩa giành thắng lợi ở địa phương một cách mau lẹ.

Ngày 19.8, thủ đô Hà Nội khởi nghĩa thắng lợi.

Ngày 23.8, chính quyền cách mạng về tay nhân dân Huế, Bảo Đại tuyên bố thoái vị.

Trong bối cảnh ấy, khí thế cách mạng của nhân dân Sài Gòn - Gia Định càng sục sôi. Theo chủ trương mà Xứ ủy Tiền phong đã vạch ra, khởi nghĩa phải giành thắng lợi trước tiên ở Sài Gòn với sự hỗ trợ của nông thôn, Thành ủy Sài Gòn và Tỉnh ủy Gia Định đã lãnh đạo nhân dân vùng lên giành chính quyền.

Ngày 15.8.1945, Xứ ủy Tiền phong lập Ủy ban khởi nghĩa.

Ngày 16.8, Xứ ủy Tiền phong họp mở rộng tại chợ Đệm (nay thuộc huyện Bình Chánh), có đại diện của Xứ ủy Giải phóng và Tỉnh ủy Giải phóng của Gia Định tham dự, cùng nhất trí nhận định rằng thời cơ khởi nghĩa đã chín muồi. Theo đề nghị của Ủy ban khởi nghĩa, cuộc khởi nghĩa ở Sài Gòn có thể nổ ra vào ngày 17 hoặc 17.8, nhưng một số ít đại biểu lại không tán thành khởi nghĩa ngay lúc này. Vì chưa có được sự nhất trí hoàn toàn nên ngày 17.8, Xứ ủy quyết định tạm dừng Hội nghị và quyết nghị:

- Giữ vững và tăng cường tổ chức, sẵn sàng khởi nghĩa. Công tác chuẩn bị khởi nghĩa phải được xúc tiến tốt hơn.

- Khi có tin Hà Nội khởi nghĩa thì Sài Gòn phải lập tức khởi nghĩa.

Trong khi chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa, để giảm bớt sự hi sinh, Xứ ủy Tiền phong đã phái bác sĩ Phạm Ngọc Thạch và kĩ sư Ngô Tấn Nhơn, thủ lĩnh Thanh niên Tiền phong, đến Tổng hành dinh Đông Nam Á của Nhật, giải thích đường lối của Việt Minh Nam Kỳ, yêu cầu quân Nhật tuyệt đối không can thiệp vào cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam… đề nghị Nhật trao lại cho ta vũ khí tịch thu của Pháp. Thống chế Térauchi hứa hẹn và trao gươm ngắn cho Phạm Ngọc Thạch để làm bằng và sau đó có giao lại cho lực lượng cách mạng 1.200 súng và 2 triệu viên đạn.

Từ 18.8 đến 22.8, bắt đầu những hình thức hoạt động công khai của Đảng và Mặt trận Việt Minh Sài Gòn - Gia Định.

Thanh niên Tiền phong Ban xí nghiệp lấy lại tên Tổng Công đoàn Nam Bộ và là một thành phố của Mặt trận Việt Minh.

Sáng 19.8, tại vườn ông Thượng (nay là Công viên Tao Đàn), buổi lễ tuyên thệ lần thứ ba của Thanh niên Tiền phong có 70.000 người tham dự và biểu dương lực lượng Đồng chí Phạm Ngọc Thạch đã đọc diễn văn khích lệ lòng yêu nước, kêu gọi quần chúng đứng lên đấu tranh gianh độc lập dân chủ theo gương hi sinh oanh liệt của các chiến sĩ cách mạng Nguyễn Thái Học, Trần Phú, Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai… 70.000 thanh niên và công nhân sau mít tinh đã tuần hành trong thành phố, hát vang những bài ca cổ vũ thanh niên “lên đàng” đấu tranh.

Chiều tối ngày 19.8(1), tại rạp hát Nguyễn Văn Hảo (Rạp chiếu bòng Công nhân), Việt Minh tổ chức mít tinh trình bày chương trình hành động, thu hút đông đảo đồng bào tham dự. Cờ Việt Minh, cờ Đảng xuất hiện ở nhiều nơi.

Ngày 20.8, Mặt trận Việt Minh ra công khai ở thành phố.

Ngày 22.8, Thanh niên Tiền phong chính thức tuyên bố đứng vào hàng ngũ Mặt trận Việt Minh.

Từ 22 đến 25.8, các quận huyện cũng liên tục tổ chức mít tinh, biểu dương lực lượng hết sức sôi động. Nhiều nơi chính quyền địch hoàn toàn tê liệt.

Ngày 20.8(2), tin Hà Nội đã khởi nghĩa truyền vào Sài Gòn. Hội nghị mở rộng của Xứ ủy Tiền phong lại họp tiếp vào sáng 21.8. Vì vẫn còn ý kiến chưa tán thành khởi nghĩa nên Hội nghị giao cho Tân An khởi nghĩa thí điểm vào đêm 23.8 để thăm dò thái độ của Nhật. Hội nghị tiếp tục giải quyết những vấn đề tổ chức khởi nghĩa ở Sài Gòn như ngày giờ, cách thức khởi nghĩa, việc huy động lực lượng nông dân “Vành đai đỏ”, chỉ định danh sách Ủy viên hành chính lâm thời Nam Bộ, vv.


(1) Hiện có ý kiến khác nhau về ngày Việt Minh ra công khai ở Sài Gòn. Theo Trần Văn Giàu trong bài “Một số đặc điểm của khởi nghĩa tháng Tám 1945 ở Nam Bộ Sài Gòn” trên Tạp chí Lịch sử Đảng số 6.1990 ngày ấy là 18.8; theo quyển “50 năm đấu tranh kiên cường của Đảng bộ và nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh” (1981) đó là ngày 20.8. Chúng tôi lấy ngày 19.8 theo quyển “Lịch sử Cách mạng tháng Tám 1945” của Viện Lịch sử Đảng (1995).
(2) Có ý kiến cho rằng tin khởi nghĩa Hà Nội đến Sài Gòn vào ngày 19.8.1945.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Chín, 2011, 09:33:55 am
Sáng sớm 23.8, được tin khởi nghĩa ở Tân An đã thắng lợi, Nhật không có phản ứng gì, Xứ ủy Tiền phong lại họp và quyết định đêm 24 và ngày 25.8, Sài Gòn - Gia Định sẽ khởi nghĩa theo kế hoạch đã vạch ra và có sự tham gia của nhân dân các tỉnh xung quanh, Ủy ban hành chính lâm thời Nam Bộ sẽ ra mắt quốc dân đồng bào, các tỉnh cử đại biểu về quan sát và nghe chỉ thị khởi nghĩa của toàn Nam Bộ: “tối 24 phát động khởi nghĩa giành hành quân và ngày 25 huy động chừng một triệu nhân dân nội thành và nông dân các tỉnh lân cận, chủ yếu là Gia Định, Chợ Lớn khởi nghĩa giành chính quyền hoàn toàn”. Hội nghị đã đề ra ba nguyên tắc để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trong Tổng khởi nghĩa thắng lợi:

“a. Tập trung - Tập trung lực lượng vào những việc chính.

b. Thống nhất - Thống nhất mọi phương tiện quân sự, chính trị, hành động và chỉ huy.

c. Kịp thời - Kịp thời hành động, không bở lỡ cơ hội”(1). Hội nghị cũng đề ra 3 khẩu hiệu đấu tranh:

“Phản đối xâm lược!

Hoàn toàn độc lập.

Chính quyền nhân dân”(2).

Phương châm hành động mà Hội nghị đề ra là “đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng không kể thành phố hay nông thôn”(3), phải tiến hành “quân sự và chính trị phối hợp”(4), cần phải “làm tan rã tinh thần quân địch và dụ chúng đầu hàng trước khi đánh”(5), nhất thiết phải “chộp lấy những căn cứ chính (cả các đô thị) trước khi quân Đồng minh vào”(6), nhanh chóng “thành lập những Ủy ban nhân dân ở những nơi ta làm chủ”(7).

Hội nghị cũng đề ra những nhiệm vụ cáp thiết của công tác đối nội và đối ngoại, lấy “Mười chính sách của Việt Minh” làm mục tiêu hành động.

Ngay từ đêm 24.8, quần chúng nhân dân Sài Gòn và các tỉnh Gia Định, Chợ Lớn, Mỹ Tho, Biên Hòa, Bến Tre, Tân An, Thủ Dầu Một… từng đoàn công nhân, nông dân, thanh niên có tổ chức, mang theo giáo mác, tâm vông vót nhọn… rầm rập kéo về nội thành Sài Gòn.

Từ 17 giờ đến 22 giờ ngày 24.8, quân khởi nghĩa Sài Gòn - Gia Định chiếm các Sở Công an, Sở Cảnh sát, Nhà ga, Bưu điện, Nhà đèn, các quận, bốt… Vào lúc 22 giờ, Trung đoàn Lê Lai thuộc Thanh niên Tiền phong chiếm dinh Khâm sai. Cờ “quẻ li” bị hạ xuống, cờ dỏ sao vàng được kéo lên. Cuộc chiếm “Soái Phủ Nam Kỳ” cũng không vấp phải sự kháng cự gì, vì hầu hết những viên chức cao cấp đều đã tham gia Thanh niên Tiền phong.Riêng tại Sở Mật thám Catinat, bọn phản cách mạng chống cự một cách yếu ớt và bị lực lượng khởi nghĩa đè bẹp ngay.

Từ 5 giờ sáng ngày 25.8, hàng triệu quần chúng vũ trang của Sài Gòn - Gia Định và các tỉnh lân cận biểu tình tuần hành trên các đường phố, hô khẩu hiệu: “Việt Nam hoàn toàn độc lập”, “Tất cả chính quyền về tay Việt Minh”, “Mặt trận Việt Minh muôn năm”, “Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm!”. Cờ đỏ sao vàng tràn ngập đường phố, phấp phới bay trên các công sở.

Quần chúng như một biểu người kéo về dự mít tinh hoan nghênh Ủy ban nhân dân Nam Bộ rồi diễu hành khắp nơi. Quân Nhật hoàn toàn không chống lại cuộc đấu tranh cách mạng. Cuộc khởi nghĩa đã thành công nhanh chóng và không đổ máu.

Báo chí Sài Gòn đã có những bài tường thuật phản ánh khí thế sôi nổi của quần chúng trong những ngày khởi nghĩa ấy.

Tờ báo “Tiến” số ra đầu tháng 9.1945 đã thuật lại “Chiều thứ sáu (24.8), những xe lửa và xe đò ở các tỉnh gần thủ đô (tức Sài Gòn) thêm nhiều chuyến un ùn chở chở chặt dân cách mạng về Sài Gòn. Chỗ nào có thể kín mưa được là họ lăn xả vào. Và đêm hôm ấy các đoàn thể tập bước đều mãi đến tinh mơ”.

“Từ 5 giờ sáng thì tất cả những công sở và dinh thự đều bị Thanh niên Tiền phong chiếm cứ và mang khí giới gìn giữ dưới lá cờ cách mạng Việt Minh. Dân chúng ở mọi giai cấp, già, trẻ, lớn, bé, đàn ông, đàn bà tấp nập trên các nẻo đường đưa đến nơi khởi hành biểu diễn: Đại lộ Nôrôđôm. Mặt trời mới lên, con đường lớn đã chen chân không lọt và các nẻo nhánh đã chật ních, quần áo đủ màu, đủ kiểu dưới những tấm băng đệm kẻ tên đoàn thể và khẩu hiệu… dân chúng lặng lẽ đứng chờ lệnh đoàn trưởng dưới cờ. Có đoàn đã tổ chức hơn tháng nay, có đoàn chỉ vừa tổ chức trong đêm rồi nhưng ai nấy đều kính trọng trật tự một cách lạ thường để tỏ cho ngoại bang thấy mình có đủ tư cách tự trị và biết kỉ luật”.

“Tiếng còi mười giờ trên nhà dây thép vừa dứt, lá cờ màu đỏ điểm năm cánh sao vàng từ từ rút lên đầu cột giữa rừng nắm tay tua tủa mọc lên. Từ trong cái lặng lẽ tôn nghiêm, bài Thanh niên hanh khúc rồi Quốc tế ca được ban nhạc trỗi lên. Lễ chào cờ vừa xong, đại biểu Ban tổ chức anh Trần Văn Giàu lên khán đài giảng giải vắn tắt mà đầy đủ thống nhất và ý nghĩa cuộc biểu tình này”.

Mười giờ mười lăm, quần chúng tham gia khởi nghĩa bắt đầu cuộc diễu hành trên khắp các đường phố. Đi đầu mỗi đoàn là một người cầm cờ Việt Minh lớn, cũng có một số lá cờ của Thanh niên Tiền phong màu vàng với ngôi sao năm cánh đỏ, các bài “Thanh niên hành khúc”, “Quốc tế ca”, “Lên đàng”, “Giải thoát”, “Mắng loài phản quốc”, “Bạch Đằng Giang”… được hát vang lên theo bước chân của đoàn quân cách mạng. Các đoàn biểu tình cũng hô to các khẩu hiệu: “Đả đảo khâm sai Nguyễn Văn Sâm!”, “Chính quyền về tay Việt Minh!”, “Việt Minh độc lập muôn năm!”.


(1), (2), (3), (4), (5), (6), (7) Văn kiện Đảng 1930-1945, tập III, Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương xuất bản, Hà Nội, 1977, tr. 414, 418.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Chín, 2011, 09:36:20 am
Từ rạng sáng ngày 25.8.1945, nhân dân Sài Gòn - Gia Định lại cầm cờ, biểu ngữ tràn xuống các đường phố, thể hiện quyết tâm giành độc lập thật sự. Theo ước tính, có khoảng một triệu người Sài Gòn - Gia Định tham gia cuộc biểu tình tuần hành lớn này để biểu dương lực lượng. Đoàn người bắt đầu từ nhà tờ Đức Bà kéo qua các đường phố Catina (Catinat), Bỉ (Belgique), Kitsơne (Kitchener), Bôna (Bonnard) rồi tập trung trước dinh Đốc lí thành phố, vừa được dùng làm trụ sở của Ủy ban hành chính lâm thời Nam Bộ. Tại Ủy ban Hành chính lâm thời Nam Bộ trong tiếng hoan hô dậy trời của những người tham dự. Đồng chí Trần Văn Giàu, đại diện Xứ ủy Nam Kỳ, đọc lời kêu gọi nhân dân thành phố, cả Nam Bộ, cùng đồng bào cả nước quyết tâm đấu tranh bảo vệ cách mạng vừa giành được thắng lợi to lớn. Đại diện Tổng Công đoàn Nam Bộ thay mặt cho giai cấp công nhân, nông dân, toàn thể nhân dân lao động cùng nhau sát cánh, quyết tâm bảo vệ chính quyền cách mạng.

Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Sài Gòn ngày 25.8 kết thúc thắng lợi bằng một cuộc mít tinh tuần hành lớn, biểu hiện ý chí, sức mạnh của nhân dân.

Tường thuật sự kiện về cuộc khởi nghĩa ở Sài Gòn - Chợ Lớn, báo “Tiến” đã nêu rõ sức mạnh của toàn dân: ngoài lực lượng tự vệ, cứu quốc dân, lực lượng vũ trang Thanh niên Tiền phong, các tổ chức quần chúng công nhân, phụ nữ, trí thức, còn có Hoa kiều, tín đồ các tôn giáo, đồng bào ít người… thật là “một ngày hội non sông”:

“Đoàn Tịnh Độ cư sĩ Chợ Lớn trương cờ xanh Phật vàng đứng dưới bóng đại kì cách mạng. Và các cư sĩ cũng tung lên: “Nền độc lập hoàn toàn của Việt Nam muôn năm!”.

“… Đoàn người Thượng đóng khố, mang cung tên, anh thủ lĩnh cũng không quần áo gì hơn họ, các cây cờ cách mạng cực to với tấm băng: “Ủng hộ Việt Minh ! Chính quyền về tay Việt Minh!”, rồi đến đoàn phu xích lô biểu diễn với một dọc xe lau chùi sạch sẽ cắm cờ Việt Minh”.

“Đoàn trẻ em trong cứu quốc quân bước mạnh đánh nhịp bài hát thiếu sinh. Rồi thì những đoàn kim khí, nghiệp đoàn xưởng máy, đoàn công nhân với các máy cực to đắp nổi, đoàn nông dân bên một cái liềm đỏ lớn vô cùng. Phái bộ Thanh niên Tiền phong các tỉnh, xí nghiệp đoàn với khẩu hiệu: “Nông dân nguyện hi sinh giữ nước để có ruộng cày”. Nghiệp đoàn nhà in, thợ mộc, thợ hồ, Việt Nam lao động đoàn có nhạc riêng theo sau một toán chị em thợ thuyền”.

“Đoàn chị em buôn bán ở chợ Bến Thành, (Đoàn) lao động Hỏa xa vác tấm bảng to tượng trưng nghề của mình: cái đầu máy xe lửa hộc cả khói, lửa, nước sôi, bụi than đá và phăng phăng lướt gió. Đoàn Tổng thanh tra khoáng chất và kĩ nghệ, khí tượng đài.

Đoàn công chức Tòa án, nhà dây thép (Bưu điện), Sở Công chánh với tấm bảng vẽ một người mang cái ngôi sao thay đầu đã đố mũ cánh chuồn và áo bào với câu “Tẩy uế quan trường!”. Rồi bảng vẽ bán thân ba người đàn bà Trung, Nam, Bắc trên bản đồ Việt Nam với hàng chữ… “nên hòn núi cao”.

Lực lượng các nghiệp đoàn húi tóc, xe lửa, xe thổ mộ, xe kéo, xe bò, nông dân Chí Hòa, Bà Điểm, Bà Quẹo, Hóc Môn, Đức Hòa… đại biểu công nhân cao su Lộc Ninh, Đất Đỏ, đại biểu nông dân Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Bến Tre, Tân An và có cả đoàn người “ăn mày”, đoàn trẻ em “đầu đường xó chợ” tham gia biểu tình”.

Trong ngày 25 và 26.8, sau khi tham gia giành chính quyền ở nội thành, nhân dân vùng ven thuộc Gia Định và Chợ Lớn tiếp tục hoàn thành khởi nghĩa ở địa phương và thành lập chính quyền cách mạng.

Tại Sài Gòn, Ủy ban Hành chính được thành lập, do Kha Vạn Cân làm Chủ tịch và Phạm Văn Chương làm Phó Chủ tịch. Trụ sở chính quyền đặt tại dinh Đốc Lí (tức trụ sở Ủy ban nhân dân ngày nay).

*

Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Sài Gòn - Gia Định có một vị trí rất quan trọng trong thắng lợi chung của cuộc Tổng khởi nghĩa trong toàn quốc. Sài Gòn - Gia Định là một thành phố lớn trong cả nước, trung tâm của các lực lượng phản cách mạng. Quân đội Nhật Bản dù đã mất hết tinh thần, ý chí chiến đấu, nhưng còn đóng ở đây rất đông. Với bản chất quân phiệt, quen coi khinh người bản xứ nên chúng có thể can thiệp bằng vũ trang đối với quần chúng cách mạng. Điều này sẽ gây tổn thất không nhỏ cho chúng ta. Tuy nhiên, trước khí thế của quần chúng nhân dân có tổ chức, quyết tâm đấu tranh, lại có đường lối, giải pháp đúng đắn của Đảng bộ, nên quân Nhật phải giữ thái độ “trung lập” có lợi cho cách mạng.

Cuộc khởi nghĩa của nhân dân Sài Gòn - Gia Định, sau tổn thất nặng nề của Nam Kỳ khởi nghĩa, xa sự chỉ đạo của Trung ương nên cũng gặp những khó khăn nhất định, nhưng với quyết tâm cách mạng của quần chúng và sự lãnh đạo linh hoạt, kịp thời của đảng bộ các cấp nên đã giành được thắng lợi.

Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 đã trực tiếp ảnh hưởng đến cuộc đấu tranh của nhân dân Nam Bộ. “Nó như “Phát súng lệnh”, đồng thời là trường học thực tiễn, cung cấp kinh nghiệm khởi nghĩa sinh động cho các địa phương ở Nam Bộ giành lấy chính quyền kịp thời, không đổ máu.

Nếu như cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội mở đầu và quyết định trong việc triển khai và thắng lợi của Tổng khởi nghĩa trong toàn quốc thì cuộc khởi nghĩa ở Sài Gòn quyết định thắng lợi của Tổng khởi nghĩa ở Nam Bộ đưa Tổng khởi nghĩa tháng Tám của nhân dân ta đến thành công rực rỡ.

Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám ở Sài Gòn đã đặt dấu chấm hết cho chế độ phát xít, bù nhìn ở nước ta, đồng thời tạo điều kiện cho việc chuẩn bị bảo vệ thành quả cách mạng vĩ đại của nhân dân ta trước âm mưu và hành động xâm lược của thực dân Pháp với các thế lực khác”(1).

Gần thư đồng thời với cuộc khởi nghĩa ở Sài Gòn - Gia Định; nhân dân các tỉnh Nam Bộ, miền Đông cũng như miền Tây đã vùng dậy khởi nghĩa giành chính quyền, kết thúc thắng lợi cuộc cách mạng tháng Tám trong cả nước.


(1) Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh - Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng tháng Tám 1945, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 213.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 23 Tháng Chín, 2011, 03:09:13 pm
TÂN AN(*)

Tân An (nay thuộc Long An) là một tỉnh nhỏ ở Nam Bộ, cách Sài Gòn 74km, là cửa ngõ có vị trí chiến lược từ miền Tây vào Sài Gòn.

Nhân dân Tân An thừa hưởng truyền thống yêu nước lâu đời. Khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3.2.1930), ở Tân An cũng ngay lập tức xuất hiện chi bộ Đảng, đầu tiên là ở Châu Thành, sau đó là ở Thủ Thừa và tỉnh lị. Chi bộ Đảng đóng vai trò quan trọng trong các cuộc đấu tranh của nhân dân Tân An kể từ năm 1930 về sau này. Trong cuộc vận động dân chủ 1936-1939, phong trào cách mạng ở đây cũng phát triển mạnh mẽ, toàn tỉnh đã xây dựng được 20 Ủy ban hành động nhằm hưởng ứng phong trào Đông Dương đại hội, đến cuối năm 1938, Tỉnh ủy chính thức được thành lập thực thuộc Liên tỉnh ủy Mỹ Tho. Đến năm 1940, Tân An có 21 chi bộ với gần 100 đảng viên. Đảng bộ được Xứ ủy đánh giá rất cao về công tác xây dựng tổ chức và hiệu quả vận động quần chúng tham gia trong các cuộc đấu tranh do Đảng phát động.

Sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ năm 1940, Tân An cũng như các tỉnh khác ở Nam Kỳ phải chịu ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng bố trắng, tổ chức cơ sở Đảng một số nơi bị tan rã. Chỉ sau một thời gian không dài, các chiến sĩ cách mạng trốn thoát trong các vụ đàn áp, bắt bớ đã tìm cách liên lạc với Xứ ủy và nhanh chóng tổ chức lại các chi bộ Đảng nhằm đáp ứng kịp thời công tác lãnh đạo trong thời kì mới. Nhờ công tác tổ chức được tiến hành chu đáo, sự vận dụng sáng tạo những chủ trương của Xứ ủy và Trung ương nên đến tháng 7-1944, Tân An đã có 7 chi bộ ở các xã và có 2 chi bộ ở trong thành. Các chi bộ bắt tay ngay vào công tác chuẩn bị lực lượng, tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, tích cực vận động quần chúng nhân dân nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi cho cuộc Tổng khởi nghĩa sau này.

Sau ngày đảo chính Pháp, tại Tân An, phát xít Nhật nhận được sự ủng hộ của giáo phái Cao Đài, nhưng vì số lượng của chúng không nhiều, lại không được đông đảo quần chúng tin theo nên không có hoạt động nào đáng kể. Trong tình thế như vậy, các đảng viên cộng sản ở Tân An nhận thức được rằng thời cơ giành chính quyền sắp đến, vì kẻ thù trước mắt là phát xít Nhật đang suy yếu.

Tỉnh Đảng bộ Tân An chỉ đạo các chi bộ vận động quần chúng đóng góp xây dựng quỹ để mua sắm vũ khí, trang bị cho lực lượng tự vệ, du kích. Cuộc vận động này đã thu được kết quả lớn. Dựa vào số tiền thu được, Đảng bộ đã mua được một máy in đặt cách thị xã 3 km để in ấn các tài liệu của Xứ ủy, phát tán khắp nơi trong tỉnh và một số tỉnh lân chận. Mặt khác, các chi bộ Đảng còn lo rèn vũ khí, thành lập các đội tự vệ, du kích tại các làng để hỗ trợ cho các phong trào đấu tranh của quần chúng và theo dõi tình hình của bọn Nhật và tay sai. Các chi bộ Đảng còn thông qua các tổ chức quần chúng yêu nước vận động nhân viên, binh lính, sĩ quan người Việt, kể cả binh lính, sĩ quan Nhật. Nhờ vậy, ta đã nắm được tên chỉ huy cảnh sát của Nhật đóng tại Tân An và lấy được mấy khẩu súng Mutcơtông trang bị cho lực lượng du kích trong tỉnh.

Từ sau ngày 9.3.1945, những hoạt động công khai diễn ra hết sức sôi nổi, đặc biệt là việc Đảng nắm được lực lượng Thanh niên Tiền phong (vốn là một tổ chức do tay sai của Nhật thành lập), tuyên truyền, vận động họ tham gia vào các phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân.

Cũng như một số địa phương khác trong cả nước, Đảng bộ Tân An đã thấm nhuần các chỉ thị của Trung ương Đảng, đã biết kết hợp nhiều hình thức đấu tranh khác nhau, trong đó triệt để tận dụng các hình thức đấu tranh hợp pháp, nửa hợp pháp nhằm cô lập kẻ địch, chờ thời cơ tiến lên khởi nghĩa giành chính quyền, trên địa bàn toàn tỉnh. Do những kết quả đấu tranh trong thời kì tiền khởi nghĩa, Tân An được Xứ ủy chọn là nơi làm thí điểm giành chính quyền ở Nam Kỳ để thăm dò thái độ và phản ứng của Nhật.

Ngày 22.8.1945, cuộc khởi nghĩa nổ ra và nhanh chóng giành thắng lợi, nhờ công tác binh vận tốt. Bọn đầu sỏ chính quyền bù nhìn tại tỉnh bị bắt giữ, đó những tên tay sai của thực dân Pháp và phát xít Nhật như Quản Vinh, Quản Sỹ, Quản Hoài… đã từng tham gia vào các vụ đàn áp dã man cuộc khởi nghĩa năm 1940, thể theo nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân, chúng bị xử tử. Quần chúng nhân dân đã giành chính quyền tại tỉnh lị.

Ngày 24.8.1945, một cuộc biểu tình, tuần hành lớn được tổ chức với sự tham gia của 11.000 đồng bào thuộc mọi tầng lớp nhân dân ở Tân An. Trước sức mạnh của quần chúng, lính Nhật ở đây đã giữ thái độ trung lập.

Sau khi giành được chính quyền ở tỉnh lị Tân An, ta ra lệnh cho quân Nhật không được mang vũ khí đi vào làng, xã hoặc vào thành phố. Binh lính ngụy được tuyên truyền và giác ngộ đi theo cách mạng. Các công chức ở các công sở được thu dùng. Sau ngày 23.8, các cửa hiệu vẫn hoạt động bình thường, điện nước vẫn được bảo đảm, nhân dân sống trong an ninh, trật tự.

Ngày 28.8, Ủy ban nhân dân lâm thời ra mắt trong cuộc mít tinh lớn do Mặt trận Việt Minh tỉnh tổ chức, tham gia cuộc mít tinh này có 12.000 quần chúng nhân dân thuộc mọi tầng lớp ở Tân An. Cuộc mít tinh ngay sau đó biến thành cuộc biểu tình ủng hộ chính quyền cách mạng tại Sài Gòn.

*

Việc giành chính quyền ở Tân An được thắng lợi nhanh chóng là vì Đảng bộ và Mặt trận Việt Minh thực hiện tốt những chủ trương, chính sách của Đảng trong việc phát động quần chúng, phân hóa, cô lập kẻ địch. Để giữ vững được chính quyền cách mạng, Ủy ban nhân dân Tân An đã thực hiện một chính sách nhằm ổn định tình hình và chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trở lại xâm lược. Ngay sau cách mạng thành công, Ủy ban cách mạng đã tiến hành một số công tác:

- Ban bố luật giảm tô, giảm tức.

- Củng cố chính quyền mới ở xã, loại trừ những phần tử đã có chân trong chính quyền cũ.

- Thực hiện tự do tín ngưỡng, đập tan luận điệu tuyên truyền phản động về chính sách tôn giáo của Đảng.

- Tổ chức lực lượng vũ trang.

- Chuyển những cá nhân tích cực của lực lượng Thanh niên Tiền phong sang Thanh niên cứu quốc.

- Tổ chức sản xuất vũ khí, lựu đạn và các loại vũ khí thô sơ khác.

- Đưa một chiếc tầu và 3 chiếc thuyền đi đón anh em ở Côn Đảo.

Sau ngày Tổng khởi nghĩa nổ ra thắng lợi, chính quyền mới được xây dựng trên cơ sở ý nguyện của đại bộ phận quần chúng nhân dân. Tân An là một trong hai tỉnh giành được chính quyền sớm nhất ở tỉnh lị và vinh dự hơn, Tân An được Xứ ủy chọn làm điểm. Thắng lợi của Tổng khởi nghĩa ở đây có một tác động đáng kể đến toàn bộ quá trình giành chính quyền ở Nam Kỳ.

Ngày 15.10.1945, thực dân Pháp quay lại đánh chiếm Tân An. Cùng cả nước, Tân An bước vào thời kì kháng chiến lâu dài.


(*) Người viết: ThS. Mai Phúc Hiệp, Phân viện Hà Nội, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 23 Tháng Chín, 2011, 03:11:41 pm
BẾN TRE(*)

Với truyền thống đấu tranh cách mạng, ngay từ những ngày đầu thực dân Pháp xâm lược nước ta, nhân dân Bến Tre đã hăng hái tham gia các phong trào đấu tranh yêu nước. Đặc biệt từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3.2.1930), phong trào yêu nước và đấu tranh cách mạng ở Bến Tre được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, phát triển mạnh mẽ và rộng khắp ở các địa phương trong tỉnh.

Sau khi khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại, thực dân Pháp khủng bố dã man, phong trào cách mạng ở Bến Tre gặp rất nhiều khó khăn, nhiều cơ sở ở Bến Tre bị vỡ, một số cán bộ chạy về Bao Thanh, Thanh Phú tiếp tục hoạt động tuyên truyền gây dựng lại cơ sở, phục hồi phong trào.

Đến cuối 1944 đầu 1945, một số đảng viên từ các trại tập trung Bà Rá, Tà Lài… lần lượt trở về Bến Tre vận động quần chúng đấu tranh, móc nối liên lạc với các đồng chí cũ, xây dựng các tổ chức quần chúng cách mạng, nhất là trong thợ thuyền và nông dân, công chức, tiểu thương… làm chỗ dựa hoạt động, từng bước thành lập các chi bộ, các tổ chức Đảng ở nông thôn và thị xã.

Sau khi Nhật đảo chính Pháp, tháng 3.1945, Mặt trận Việt Minh thị xã Bến Tre được thành lập, hoạt động bí mật ở thị xã và các quận, thị trấn. Tiếp đó, Mặt trận Việt Minh các huyện cũng được thành lập, dưới sưh chỉ đạo trực tiếp của các Huyện ủy. Tuy nhiên, các tổ chức Đảng và Mặt trận Việt Minh ở Bến Tre chưa có liên lạc với nhau mà hoạt động riêng rẽ, nên thiếu sự lãnh đạo thống nhất.

Ngày 25.3.1945, Tỉnh ủy lâm thời Bến Tre được thành lập, đồng chí Dương Khuy (trong Ban liên tỉnh) được giao trách nhiệm thống nhất các cơ sở Đảng trong tỉnh để đẩy mạnh việc chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền. Tỉnh ủy cũng thành lập Đảng đoàn Mặt trận Việt Minh, củng cố tổ chức và thực hiện thống nhất lãnh đạo đối với Mặt trận từ tỉnh đến cơ sở. Để tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân, các đảng phái (Đảng quốc gia độc lập), các giáo phái (Cao Đài, Thiên Chúa), Tỉnh ủy đề ra những chủ trương phân hóa, giáo dục, vận động họ theo cách mạng.

- Đối với Thanh niên Tiền phong, Tỉnh ủy chủ trương cài người của ta vào làm nòng cốt, lợi dụng tổ chức này phục vụ cho cách mạng.

- Đối với Đảng Quốc gia độc lập(1), Tỉnh ủy chủ trương đảng viên không được tham gia, nhưng cần tranh thủ, giáo dục, phân hóa, lôi kéo các thành viên của đảng này, nhất là số “lãnh tụ”.

- Đối với phái Tiên Thiên của đạo Cao Đài, cần vạch mặt bọn chức sắc mang danh đạo làm tay sai cho Nhật, lôi kéo tín đồ theo Nhật chống lại cách mạng.

- Đối với Cao Đài Chỉnh đạo và Thiên Chúa giáo thì tôn trọng tự do tôn giáo, tập hợp vào hàng ngũ yêu nước, cách mạng.

Tình thế của ngày càng chín muồi. Các thị trấn lớn như Giồng Trôm, Ba Tri, Mỏ Cày đều tổ chức nhiều cuộc mít tinh với sự tham gia của hàng nghìn người, tổ chức diễn thuyết về tình hình thế giới, cách mạng trong nước và phổ biến các bài hát cách mạng động viên, cổ vũ tinh thần đấu tranh của nhân dân. Ở nông thôn, nông dân làm nửa ngày, nửa ngày luyện tập quân sự. Nhiều nơi, Thanh niên Tiền phong thành lập đội xung phong (Mỏ Cày), các đoàn viên cứu quốc quân do ta lồng vào Thanh niên Tiền phong hăng say luyện tập quân sự, tổ chức thành cảm tử quân, sẵn sàng chiến đấu.

Khi Nhật đầu hàng Đồng minh, Tỉnh ủy triệu tập Hội nghị tại Ngã Tư Giồng Dâu để chuẩn bị khởi nghĩa. Hội nghị nhận định: nếu ta khéo lợi dụng tình thế, vận dụng sách lược linh hoạt thì có thể không đổ máu, hoặc ít đổ máu mà vẫn giành thắng lợi. Từ nhận định đó, Tỉnh ủy đề ra phương hướng chung là vận động chính trị là chính, dùng quân sự chỉ là phối hợp. Nhưng trong khi chuẩn bị phải luôn coi trọng quân sự và phải có kế hoạch đối phó kịp thời, kiên quyết sử dụng lực lượng vũ trang tiến công các trại bảo an, do Cò Lắm cầm đầu, nếu chúng không chịu nộp vũ khí. Để thực hiện phương hướng đó, tỉnh ủy đề ra các nhiệm vụ cụ thể:

Các địa phương phải thức chực chuẩn bị lực lượng vũ trang, dùng tầm vông, giáo mác, dao găm, lấy Cứu quốc quân làm nòng cốt, huy động cho được toàn thể thanh niên trai tráng trong xã, chuẩn bị sẵn sàng chờ lệnh tiến về tỉnh lị giành chính quyền.

2. Bí mật lập danh sách và theo dõi những phần tử phản cách mạng đã từng theo Pháp, Nhật… khi thời cơ đến thì cùng Cứu quốc quân bắt giam ngay.

3. Bố trí lực lượng sẵn sàng, khi thời cơ đến nhanh chóng bao vây dinh Tỉnh trưởng và Tòa Bố để làm áp lực rồi trực tiếp mở cuộc đàn phán với chính quyền thân Nhật, ép chúng đầu hàng và ra lệnh cho Bảo an nộp vũ khí.

4. Nắm cho được lực lượng thanh niên trong toàn tỉnh, lập ngay trụ sở thường trực của thanh niên ở thị xã để nhận tin tức hàng ngày và làm nơi liên lạc cho thanh niên các huyện.

5. Đẩy mạnh công tác binh vận: Cứu quốc quân vạch kế hoạch tấn công trại Bảo an, cương quyết đối phó với Cò Lắm khi cần thiết.


(*) Người viết: ThS. Nguyễn Việt Phương, Phân viện Hà Nội, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
(1) Là đảng thân Nhật, ủng hộ Cường Để (thành lập trước 9.3.1945). Chính đảng này đã rước Nhật về lật đổ Pháp ở Bến Tre và rước Song Thu (một tên tay sai Nhật) về lập chính quyền thân Nhật ở Bến Tre. Quần chúng của đảng này không đông, phần lớn gồm tiểu tư sản, trí thức, tiểu thương… trừ một số ít thực sự theo Nhật hòng buôn bán làm giàu, còn hầu hết có tư tưởng yêu nước chống Pháp.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 23 Tháng Chín, 2011, 03:12:36 pm
Để lãnh đạo khởi nghĩa chung toàn tỉnh, Tỉnh ủy quyết định thành lập Ủy ban khởi nghĩa gồm 6 đồng chí, do Tỉnh ủy chỉ định và 1 đồng chí do Ban liên tỉnh giới thiệu; chỉ định các đồng chí chỉ huy khởi nghĩa ở các huyện. Đồng thời cử đại biểu tham dự Hội nghị của Xứ ủy về chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền.

Mặc dù đại biểu Tỉnh ủy đi dự Hội nghị của Xứ ủy chưa về, chưa nhận được lệnh khởi nghĩa, nhưng Ủy ban khởi nghĩa tỉnh Bến Tre vẫn lệnh cho các huyện dùng mọi phương tiện (đi bộ, thuyền), huy động lực lượng cách mạng tiến vào ngoại ô, bố trí lực lượng để khi có lệnh thì sẵn sàng chiến đấu. Thanh niên Tiền phong túc trực tại trụ sở để canh gác.

Ngày 23.8.1945, Đại biểu Tỉnh ủy dự Hội nghị Xứ ủy trở về, lực lượng Cứu quốc quân và Thanh niên Tiền phong đã tập trung đông đủ, chuẩn bị sẵn sàng chờ lệnh, Ủy ban khởi nghĩa quyết định:

- Đêm 23.8, tổ chức lực lượng đi căng biểu ngữ, rải truyền đơn, dán lời kêu gọi nổi dậy lật đổ chính quyền bù nhìn, thiết lập chính quyền cách mạng.

- Sáng 24.8, Việt Minh ra công khai, lấy Câu lạc bộ thị xã làm trụ sở.

- Mọi mặt đều phải gấp rút chuẩn bị chu đáo, sẵn sàng để sáng ngày 26.8 nhất tề nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền.

Lực lượng vũ trang đã chuẩn bị chu đáo, kế hoạch khởi nghĩa đã được quyết định, nhưng một điều bất ngờ xảy ra ngoài dự kiến: chiều 25.8, Cò Lắm đến trụ sở Việt Minh xin phép đi tước khí giới của bọn cai tổng, hội tề ở Mỏ Cày. Ủy ban khởi nghĩa nhận định đây là cơ hội thuận lợi để nhanh chóng tước vũ khí của bảo an binh, chỗ dựa duy nhất và cuối cùng của chính quyền thân Nhật. Vì vậy, Ủy ban khởi nghĩa quyết định: cấp tốc huy động lực lượng đúng 5 giờ chiều ngày 25.8 tấn công chiếm trại bảo an, công sở Tòa bố, kho bạc, nhà bưu điện, nhà máy điện, trại giam… tiến lên bao vây dinh Tỉnh trưởng và ra lệnh đầu hàng. Lệnh truyền ra, tức tốc Cứu quốc quân và Thanh niên Tiền phong kéo đến các vị trí đã định. Chỉ trong một tiếng đồng hồ, ta đã chiếm được các công sở, buộc bảo an binh nộp khí giới. Tỉnh trưởng đầu hàng, chính quyền thân Nhật sụp đổ, cách mạng thành công trước giờ quy định. Sau đó vài giờ, Cò Lắm trở về thị xã tự nguyện nộp vũ khí và xin được tham gia công tác. Một số phần tử ngoan cố bị lực lượng vũ trang trấn áp, bắt giữ. Ngay trong đêm 25.8, Ủy ban khởi nghĩa lệnh cho các huyện, thị tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền. Khí thế cách mạng lên cao, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền trong tỉnh thắng lợi hoàn toàn, chính quyền về tay nhân dân. Sáng 26.8.1945, từng đoàn người mang cờ đỏ sao vàng kéo về tỉnh lị, huyện lị tổ chức mít tinh mừng thắng lợi.

*

Thắng lợi của Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám đã mở ra một trang sử mới, tạo những tiền đề quan trọng để nhân dân Bến Tre thực hiện những nhiệm vụ cách mạng tiếp theo, đồng thời nó cũng để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu.

Nhìn lại quá trình khởi nghĩa giành chính quyền và thiết lập chính quyền cách mạng ở Bến Tre, dưới sự lãnh đạo của Đảng mà trực tiếp là Mặt trận Việt Minh, nhân dân trong tỉnh đã tiến công địch nhanh chóng, kịp thời, chớp được thời cơ Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh, huyện, xã. Trải qua bao năm đấu tranh gian khổ, nhân dân trong tỉnh được giải phóng khỏi ách nô dịch, đập tan xiềng xích và chế độ áp bức, bóc lột hàng nghìn năm của chế độ phong kiến và gần 100 năm thống trị của thực dân, trở thanh người làm chủ quê hương đất nước. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 ở Bến Tre đã góp phần vào thắng lợi của Cách mạng tháng Tám trong cả nước. Nhân dân trong tỉnh cùng với nhân dân cả nước bước vào một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên độc lập, tự do.

Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám ở Bến Tre còn là thắng lợi của các chi bộ Đảng trong tỉnh trong việc vận dụng một cách sáng tạo đường lối của Đảng vào hoàn cảnh cụ thể của địa phương, tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân, tuyên truyền giác ngộ, tổ chức Mặt trận Việt Minh và các tổ chức quần chúng rộng rãi, xây dựng lực lượng vũ trang, bằng các hình thức đấu tranh hợp pháp, nửa hợp pháp, bất hợp pháp vì quyền lợi thiết thực của quần chúng, khi thời cơ đến nhanh chóng chớp thời cơ khởi nghĩa lật đổ chính quyền địch, giành chính quyền về tay nhân dân.

Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám góp phần làm cho nhân dân trong tỉnh nhận thức rõ và tin tưởng vào con đường tất yếu phải tiến hành cách mạng thì mới thoát khỏi cảnh nô lệ, lầm than, nhân dân được sống trong độc lập, tự do, được xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Nhưng kẻ địch vẫn không từ bỏ dã tâm xâm lược, nhân dân Bến Tre cùng với nhân dân cả nước lại bước tiếp vào cuộc đấu tranh giữ gìn thành quả của cuộc Cách mạng tháng Tám - cuộc trường kì kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 23 Tháng Chín, 2011, 03:16:31 pm
MỸ THO(*)

Trước Cách mạng tháng Tám 1945, Mỹ Tho (nay thuộc Tiền Giang) là một tỉnh ở Trung Nam Kỳ. Sau khi thực dân Pháp đánh chiếm Nam Kỳ, Mỹ Tho trở thành địa phương có phong trào chống Pháp diễn ra mạnh mẽ. Ngay sau khi ra đời, Đảng bộ Mỹ Tho đã lãnh đạo nhân dân liên tục đấu tranh chống thực dân xâm lược với đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ (tháng 11.1940).

Từ cuối năm 1944, các tổ chức và phong trào đấu tranh của quần chúng đã được khôi phục và phát triển một cách tương đối mạnh mẽ cả về quy mô và tính chất. Điển hình như cuộc đấu tranh của nhân dân xã Phước Thành, huyện An Hóa chống nạn cướp dầu dừa của phát xít Nhật; phong trào đấu tranh công khai của học sinh trường Collège (trung học) ở thị xã Mỹ Tho dưới các hình thức: tổ chức các buổi ca hát, diễn kích, đốt lửa trại… qua đó khơi dậy tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc cho tầng lớp thanh niên học sinh, hướng dẫn họ đi theo con đường cách mạng. Song song với phong trào thanh niên học sinh, cuối năm 1944 đầu năm 1945, Hội truyền bá chữ quốc ngữ, Hội khuyến học ở thị xã Mỹ Tho được thành lập, tập hợp đông đảo tầng lớp trí thức trong tỉnh. Thông qua hoạt động của các tổ chức này, quần chúng nhân dân được tập hợp nhằm chuẩn bị lực lượng cho khởi nghĩa giành chính quyền.

Sau khi đảo chính Pháp (9.3.1945), phát xít Nhật ở Mỹ Tho vẫn duy trì đội ngũ tay sai cũ của chúng. Bọn Quốc dân Đảng, bọn Tờrốtkít lên tiếng chống Pháp, ủng hộ thuyết “Đại Đông Á”, kích động tinh thần yêu nước giả tạo, đòi rước Cường Để về làm vua, tuyên truyền kích động quần chúng chống cộng sản, chống cách mạng.

Về kinh tế, Nhật ra sức bóc lột kiệt quệ nhân dân ta để phục vụ chiến tranh. Chúng bắt lính, sung công nhà cửa, xe cộ… độc quyền thu mua lúa gạo với giá rẻ. Trong lúc nhân dân thiếu đói lương thực, phát xít Nhật lại dùng lúa gạo làm nhiên liệu để chạy máy, nhà đèn, xe lửa… gây nên làn sóng căm phẫn trong mọi tầng lớp nhân dân. Đồng thời, chúng ra sức bắt bớ, khủng bố nhân dân bằng nhiều hình thức dã man. Nhân dân Mỹ Tho sống trong cảnh ngột ngạt và chuẩn bị sẵn sàng đứng lên đấu tranh đòi nền độc lập dân tộc và quyền được sống tự do dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Sau thời gian khôi phục lực lượng, ngày 18.3.1945, Tỉnh ủy lâm thời Mỹ Tho được thành lập do đồng chí Trần Văn Vi làm Bí thư. Thực hiện chủ trương của Hội nghị Xứ ủy Nam Kỳ ngày 25.3.1945, Liên Tỉnh ủy lâm thời Tiền Giang ra sức thực hiện nhiệm vụ xây dựng củng cố tổ chức cơ sở Đảng.

Trước đó (từ 1943), một số đảng viên trong tù đã liên lạc trở lại và tổ chức để thực hiện nhiệm vụ khôi phục tổ chức và đội ngũ đảng viên. Nhưng do không liên lạc được với Trung ương, lại bị Pháp - Nhật khủng bố nên bắt đầu từ tháng 3.1945, Nam Bộ có tới 2 Xứ ủy và ở Mỹ Tho cũng có tới hai Tỉnh ủy lâm thời, ở một số huyện như huyện Cai Lậy cũng tồn tại hai Ban Huyện ủy cùng lãnh đạo phong trào cách mạng ở địa phương.

Trước yêu cầu của cách mạng, một nhiệm vụ lớn đặt ra là phải thống nhất tổ chức cơ sở Đảng trong toàn tỉnh. Tháng 5.1945, thực hiện chủ trương của Xứ ủy Nam kỳ, 2 Tỉnh ủy Mỹ Tho đã tiến hành hội nghị tại xã Trung Văn (ngoại ô thị xã Mỹ Tho) để tiến hành hợp nhất các tổ chức cơ sở Đảng trong tỉnh. Hội nghị đã bầu Ban Tỉnh ủy Mỹ Tho thống nhất do đồng chí Dương Khuy làm Bí thư. Tiếp đó, ở các huyện như Châu Thành, Cai Lậy, Chợ Gạo cũng tiến hành hợp nhất các Ban Huyện ủy. Cùng với việc tổ chức hợp nhất các cấp ủy, công tác phát triển các tổ chức cơ sở Đảng ở các xã cũng đạt được kết quả. Riêng ở thị xã Mỹ Tho đã xây dựng được 2 chi bộ cơ sở; ở các huyện cũng xây dựng được các chi bộ Đảng ở các xã như Hậu Thành, Hậu Mỹ, Thiên Hộ… Nhưng thành công trong công tác xây dựng Đảng ở Mỹ Tho trong thời kỳ này có ý nghĩa to lớn: đây là bước chuẩn bị hết sức cần thiết về mặt tổ chức cho công cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám.

Cùng với nhiệm vụ củng cố và phá triển các tổ chức cơ sở Đảng, Liên Tỉnh ủy Tiền Giang đã hết sức chú trọng tới việc xây dựng và phát triển các tổ chức trong Mặt trận Việt Minh, xây dựng lực lượng du kích, mở các lớp bồi dưỡng, đào tạo cấp tốc về chương trình Việt Minh và du kích chiến tranh. Tháng 7.1945, Đảng bộ tỉnh đã thành công hội nghị các trí thức trong tỉnh, do đồng chí Nguyễn Văn Nguyễn chủ trì. Nội dung chính của Hội nghị là bàn bạc về tình hình, khả năng cách mạng của nhân dân, đề ra kế hoạch tuyên truyền và tập hợp lực lượng để chuẩn bị khởi nghĩa. Sau hội nghị này, Đảng bộ đã chỉ đạo việc thành lập các đoàn cán bộ về địa phương cơ sở thực hiện chiến dịch tuyên truyền, gây khí thế cách mạng, vận động quần chúng tham gia các tổ chức cách mạng. Đồng thời, Đảng bộ mở các đợt tuyên truyền chống chính sách “Đại Đông Á”, vạch trần bộ mặt thật của phát xít Nhật và bản chất phản động của một số tổ chức tay sai Nhật hoạt động trong tỉnh như bọn Quốc gia Đảng, đảng Hắc Long. Cùng với việc triển khai mạnh mẽ chiến dịch tuyên truyền, Đảng bộ đã khẩn trương lãnh đạo công tác xây dựng các tổ chức quần chúng, lập các Hội cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh. Ở hầu hết các xã đều có các đoàn thể Nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ lão cứu quốc, Nhi đồng cứu quốc… Ở một số huyện như Cai Lậy, An Hóa, đến giữa năm 1945 đã xây dựng được Mặt trận Việt Minh ở cấp huyện. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, các tổ chức cứu quốc và Mặt trận Việt Minh đã hoạt động tích cực và có hiệu quả trong công tác tuyên truyền, giáo dục và vận động quần chúng tham gia tích cực vào phong trào cách mạng, chuẩn bị lực lượng cho Tổng khởi nghĩa.


(*) Người viết: ThS. Nguyễn Thị Thanh Huyền, Phân viện Hà Nội, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 23 Tháng Chín, 2011, 03:18:05 pm
Bên cạnh những tổ chức quần chúng hoạt động bí mật, Đảng bộ Mỹ Tho tổ chức và lãnh đạo có hiệu quả hoạt động của tổ chức quần chúng công khai, như tổ chức Thanh niên Tiền phong. Tổ chức Thanh niên Tiền phong hoạt động rộng rãi ở hầu khắp các địa bàn trong tỉnh, từ thành thị đến nông thôn và thu hút được đông đảo lực lượng quần chúng tham gia. Phong trào của Thanh niên Tiền phong hoạt động dưới nhiều hình thức: tập luyện võ nghệ, mở lớp đào tạo cán bộ, lập các đội cứu thương tuyên truyền. Những hoạt động đó có tác động tích cực tới phát triển cách mạng.

Từ tháng 4.51945, Đảng bộ đã chỉ đạo việc mở 3 khóa huấn luyện chính trị, quân sự tại xã Thạnh Phú (huyện Châu Thành), rồi tổ chức huấn luyện đào tạo cho khoảng 100 cán bộ quân sự tại xã Long An (huyện Châu Thành). Đây chính là bước cán bộ quan trọng về lực lượng vũ trang, lực lượng du kích cho khởi nghĩa giành chính quyền. Nhờ những nỗ lực về mọi mặt, đến tháng 8.1945, lực lượng vũ trang đã phát triển mạnh ở hầu khắp các địa phương trong tỉnh. Ở một số huyện như Cai Lậy, Châu Thành lực lượng vũ trang phát triển mạnh, mỗi xã có từ 1 đến 3 trung đội và thường xuyên được tổ chức tập luyện, chủ động trong mọi tình huống. Cùng với việc chuẩn bị chu đáo về lực lượng, các thành công cơ sở Đảng còn tích cực vận động nhân dân rèn một số loại vũ khí thô sơ như gươm, kiếm, phi tiêu, giáo mác, tầm vông để trang bị cho lực lượng vũ trang chuẩn bị khởi nghĩa.

Phong trào kháng Nhật diễn ra mạnh mẽ trong toàn tỉnh khiến cho một số nơi chính quyền địch ngày càng rệu rã, thậm chí tự giải tán hoặc tồn tại nhưng bất lực trước khí thế cách mạng của quần chúng. Đến tháng 8.1945, chính quyền cách mạng ở một số vùng nông thôn trong tỉnh đã được thành lập thay thế chính quyền tay sai.

Ngày 14.8.1945, sau khi phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng minh, quân Nhật ở Mỹ Tho rệu rã, bọn tay sai thì hoảng sợ, một số bỏ trốn (trong đó có Tỉnh trưởng Nguyễn Văn Quý và Ủy trưởng Song Thu). Trước những diễn biến thuận lợi cho cách mạng, ngày 17.8.1945, Tỉnh ủy Mỹ Tho triệu tập hội nghị bàn về vấn đề khởi nghĩa giành chính quyền. Sau khi phân tích tình hình, Tỉnh ủy đã đi đến kết luận: thời cơ cách mạng đã đến. Hội nghị quyết định phát lệnh Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn tỉnh. Phương châm chỉ đạo chung cho cuộc khởi nghĩa được xác định là: nơi nào có lực lượng cách mạng mạnh, địch yếu thì tiến hành khởi nghĩa trước, nơi nào ta còn yếu, địch mạnh thì tiến hành khởi nghĩa sau nhưng mục tiêu cuối cùng là giành cho kì được chính quyền về tay nhân dân trong toàn tỉnh.

Ngày 18.8.1945, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền đầu tiên trong tỉnh đã diễn ra ở thị xã Mỹ Tho. Đi đầu đoàn quân khởi nghĩa xuất phát từ 4 giờ sáng là độ ngũ học viên Trường huấn luyện quân sự tại xã Long An (huyện Châu Thành) do đồng chí Phạm Lương Trực chỉ huy. Đoàn quân được biên chế thành 3 trung đội tiến vào thị xã để phối hợp với lực lượng bên trong và cơ sở nội ứng của ta đánh chiếm các mục tiêu trong thị xã. Với khí thế cách mạng sục sôi, lực lượng cách mạng đã nhanh chóng làm chủ tình hình, làm chủ các mục tiêu như: bót mật thám, bót cảnh sát, trại lính mã tà, tòa án, kho bạc. Đến 9 giờ sáng cùng ngày, ta đã làm chủ được các công sở của chính quyền tay sai trong thị xã. Những ngày tiếp sau, quần chúng cách mạng liên tiếp tổ chức các cuộc biểu tình thị uy, lực lượng vũ trang triển khai canh gác ngày đêm giữ gìn an ninh trật tự và thành quả cách mạng mới thu được.

Để chuẩn bị cho những bước cần thiết tiếp theo cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền, tối 24.8.1945, Tỉnh ủy Mỹ Tho đã tiến hành triệu tập hội nghị tại Tòa bố (thị xã Mỹ Tho) để thành lập Ủy ban nhân dân tỉnh và chuẩn bị tổ chức cuộc mít tinh của đông đảo quần chúng chào mừng sự ra đời của chính quyền cách mạng. Sáng ngày 25.8, tỉnh trước bàn giao chính quyền cho cách mạng; chính quyền cách mạng tỉnh ra mắt do đồng chí Trần Quang Hiếu làm chủ tịch.

Phong trào khởi nghĩa ở thị xã Mỹ Tho đã nhanh chóng phát triển ra các địa phương khác trong tỉnh. Ngày 23.8, Huyện ủy Cai Lậy đã tổ chức quần chúng và lực lượng vũ trang gây áp lực buộc chủ quận phải giao chính quyền về tay Mặt trận Việt Minh; ngày 24.8, chính quyền cách mạng ở Cai Lậy được thành lập thay thế chính quyền cũ.

Cách mạng tháng Tám ở Mỹ Tho thắng lợi, hòa chung với thắng lợi của cách mạng cả nước. Sáng ngày 2.9.1945, hàng ngàn dân nội thị và các xã lân cận thị xã Mỹ Tho, trưng cờ đỏ sao vàng, cờ Đảng, giương các khẩu hiệu cách mạng, kéo về sân vận động Mỹ Tho mừng ngày tuyên bố độc lập. Sau đó, cuộc mít tinh trở thành cuộc tuần hành thị uy qua các đường phố, mừng Tổ quốc được độc lập.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 23 Tháng Chín, 2011, 03:19:57 pm
SÓC TRĂNG(*)

Sóc Trăng là tỉnh miền Tây Nam Bộ, nơi có đông đảo đồng bào Khơme chung sống cùng người Việt, Hoa. Phong trào yêu nước, cách mạng của nhân dân luôn sôi nổi qua các thời kì đấu tranh chống thực dân Pháp và quân phiệt Nhật để giành độc lập cho đất nước. Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, cuộc đấu tranh càng phát triển mạnh mẽ.

Khi Nhật đảo chính Pháp (9.3.1945), Tỉnh ủy Sóc Trăng được Liên Tỉnh ủy Hậu Giang công nhận vào tháng 5.1945, đã tiến hành tổ chức các Hội cứu quốc (Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứ quốc, Thanh niên Cứu quốc, Thiền Lâm cứu quốc…), bao gồm đông đảo các tầng lớp nhân dân, các tộc người, tín đồ tôn giáo. Các hội cứu quốc này đều là thành viên của Mặt trận Việt Minh, do đồng chí Phạm Văn Chiêu làm chủ nhiệm.

Phong trào cách mạng sôi nổi ở khắp nông thôn và thành thị, trong đồng bào Việt và Khơme (tổ chức Thanh niên Khơme trong Sarakum cũng gia nhập Mặt trận Việt Minh), Thanh niên luyện tập quân sự, hát vang các bài “Lên đàng”, “Thanh niên hành khúc”, chuẩn bị cho ngày khởi nghĩa.

Nghe tin Nhật đầu hàng Đồng minh, tiếp Hà Nội khởi nghĩa thành công (19.8.1945), Ngày 20.8, Tỉnh ủy lâm thời Sóc Trăng liền họp Hội nghị đặc biệt và quyết định các nhiệm vụ khẩn cấp:

- Gấp rút tổ chức quần chúng công nông và các tổ chức cách mạng. Chuẩn bị đi vào hành động.

- Có kế hoạch tiếp thu và bảo quản cơ sở văn hóa xã hội của địch khi ta giành được chính quyền.

- Vận động binh sĩ các trại Lính tập, Mã tà, Cảnh sát đi theo cách mạng.

- Tìm bằng mọi cách - mua, xin, vận động lính Nhật để có được nhiều súng, đạn dược.

Ngày 23.8.1945, được Xứ ủy Nam Kỳ đồng ý, Tỉnh ủy Sóc Trăng thông qua kế hoạch khởi nghĩa giành chính quyền trong tỉnh. Trước khí thế của cách mạng ở địa phương, cũng như trong cả nước, Tỉnh trưởng Sóc Trăng Võ Văn Đỉnh triệu tập công chức các ti, sở cấp tỉnh, hội tề hàng quận, hàng tổng, hàng xã về Tòa bố và công khai tuyên bố “ủng hộ Mặt trận Việt Minh…”.

Trong tình hình thuận lợi này, Tỉnh ủy quyết định sẽ tổ chức một cuộc mít tinh lớn vào ngày 25.8.1945, dùng áp lực của quần chúng buộc Tỉnh trưởng giao chính quyền cho nhân dân.

Từ đêm 24.8.1945, nhân dân thị xã Sóc Trăng đã nô nức chuẩn bị khán đài, băng cờ, khẩu hiệu cho cuộc mít tinh, tuần hành. Đội vũ trang của Tỉnh ủy phân công bảo vệ cơ quan, theo dõi, giám sát các trại lính của Nhật, Bảo an binh.

Mờ sáng 25.8, nhân dân từ nhiều hướng ở ngoại thị rầm rập kéo vào thị xã, cùng đồng bào thị xã tham dự cuộc mít tinh lớn. Cả một rừng người với cờ đỏ sao vàng, gậy tầm vông, gươm mác cầm tay, phi tiêu ngang lưng, đứng thành hàng ngũ chỉnh tề theo sự sắp xếp của Ban tổ chức. Khí thế cách mạng hừng hực, trào dâng ở mọi người.

Trên khán đài có bàn thờ Tổ quốc, nghi ngút hương khói vừa trân trọng, vừa thân thiết. Lần đầu tiên nhân dân được làm lễ công khai. Khẩu hiệu “Tổ quốc trên hết” đặt trên cao, ngay giữa khán đài, đập vào mắt mọi người. Dựa theo hai bên khán đài có hai băng đờrôn nền đỏ chữ vàng “Việt Nam độc lập muôn năm”, “Mặt trận Việt Nam muôn năm”.

Đồng chí Dương Kỳ Hiệp đọc diễn văn trong buổi lễ. Sau khi thông báo cách mạng đã thành công trên cả nước, đồng chí tuyên bố:

“… Kể từ nay, 25.8.1945, chính quyền bù nhìn từ tỉnh, quận, tổng, làng của chế độ thực dân, phong kiến đều bị bãi bỏ… Mọi chính sách bất công, thuế khóa nặng nề vô lí của tay sai Pháp - Nhật đặt ra… đều được xóa bỏ…”.

Đồng chí cũng công bố danh sách của Ủy ban cách mạng lâm thời tỉnh gồm 7 vị, do Hội đồng khởi nghĩa đề cử là:

1. Dương Kỳ Hiệp, đại diện Đảng Cộng sản, làm Chủ tịch Ủy ban cách mạng lâm thời.

2. Tạ Bá Tòng, đại diện Đảng Dân chủ - Phó chủ tịch.

3. Trần Cẩm Hiệp, đại diện công chức, học sinh - Ủy viên nội chính.

4. Vương Kỳ Nam, đại diện Tịnh Độ Sư Sĩ - Ủy viên quân sự.

5. Trần Cống, đại diện dân tộc Khơme - Ủy viên thư kí.

6. Diệp Văn Giáp, đại diện địa chủ yêu nước - Ủy viên kinh tế.

7. Đỗ Hữu Tường, đại diện trí thức, công chức - Ủy viên giáo dục - y tế - xã hội…

Thành phần Ủy ban cách mạng lâm thời thể hiện tinh thần đoàn kết dân tộc, gồm các tầng lớp nhân dân, tôn giáo, dân tộc. Đồng bào hoan hô nhiệt liệt chính sách cách mạng. Từ nay nhân dân Sóc Trăng thực sự làm chủ quê hương, vận mệnh mình. Tiếp đó, tỉnh trưởng Võ Văn Đảnh mời Ủy ban cách mạng lâm thời về Tòa bố bàn giao chính quyền và xin từ chức để làm một công dân của chế độ mới.

Cuộc mít tinh trở thành cuộc tuần hành thị uy, đoàn này nối tiếp đoàn kia diễu qua đại lộ Đại Ngãi (nay là đường Hai Bà Trưng) hô vang khẩu hiệu: “Việt Nam độc lập muôn năm!”; “Mặt trận Việt Minh muôn năm”…

Quân Nhật đóng ở sân bay Sóc Trăng án binh bất động trước tình hình này. Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Sóc Trăng diễn ra nhanh gọn, hào hứng, bừng bừng khí thế cách mạng.

Cuộc sống mới độc lập tự do lần đầu tiên xuất hiện ở Sóc Trăng sau 80 năm nô lệ lầm than, hòa chung vào thắng lợi của nhân dân cả nước.


(*) Người viết: Nguyễn Duy Hạnh, Phân viện Hà Nội, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Chín, 2011, 06:50:45 am
CẦN THƠ(*)

Cần Thơ là một vùng đất thuộc tỉnh An Giang cũ, bị Pháp chiếm năm 1867. Ngày 23.2.1876, tỉnh Cần Thơ được thành lập cho đến cách mạng tháng Tám 1945. Từ 1945 đến nay, trải qua nhiều lần thay đổi về địa giới, tỉnh Cần Thơ được chia thành Thành phố Cần Thơ trực thuộc Trung ương và tỉnh Hậu Giang.

Tuy bị thực dân Pháp đàn áp gắt gao, song phong trào yêu nước, cách mạng ở Cần Thơ vẫn phát triển mạnh mẽ. Học sinh Trường Trung học Cần Thơ (Collège de Cần Thơ) là những người yêu nước đầu tiên ở địa phương tiếp xúc với tài liệu, sách báo của Nguyễn Ái Quốc, tổ chức cộng sản. Đó là những người như Ung Văn Khiêm, Châu Văn Liêm, Nguyễn Văn Tây…

Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3.2.1930), Đặc ủy Hậu Giang được thành lập và lãnh đạo các phong trào cách mạng 1930-1931, 1936-1939. Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ (tháng 11.1940) nổ ra mạnh mẽ ở Cần Thơ và bị đàn áp đẫm máu. Tuy thất bại, nhưng nó có ảnh hưởng sâu rộng trong nhân dân vùng Hậu Giang, để lại nhiều bài học xương máu cho thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945.

Từ 1841 đến đầu 1945, các tổ chức quần chúng ở Cần Thơ, nhất là ở thị xã được nhanh chóng khôi phục và hoạt động mạnh mẽ chống lại sức đàn áp, bóc lột của thực dân Pháp và phát xít Nhật. Ở ngoại ô thị xã Cần Thơ, Cái Răng, Mỹ Khánh, bọn Nhật buộc nhân dân phải nhổ dâu tằm trồng đay, cướp lúa gạo của dân để cung cấp cho chiến tranh. Liên tỉnh ủy Hậu Giang đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống lại những hành động ăn cướp ấy, chuẩn bị lực lượng khởi nghĩa gianh chính quyền.

Sau khi Nhật đảo chính Pháp (9.3.1945), chính quyền tay sai được thành lập ở Cần Thơ, do Đốc Phủ sứ Lưu Văn Tào làm Tỉnh trưởng, bác sĩ Lê Văn Hoạch làm Cảnh sát trưởng… Cần Thơ được quân Nhật lấy làm đầu não của miền Tây, nên tập trung lực lượng ở đây rất đông để đối phó với cách mạng của vùng rộng lớn, giàu có này. Chúng dựa vào các thế lực phản động trong các tôn giáo (Hòa Hảo, Cao Đài, Khất sĩ, Tịnh độ cư sĩ, Tứ ân Hiếu nghĩa…) để mê hoặc, lôi kéo đồng bào tín đồ chống lại cách mạng.

Trước tình hình ấy, Xứ ủy và Liên Tỉnh ủy Tiền phong chủ trương tuyên truyền chương trình của Mặt trận Việt Minh, nhất là chính sách tôn giáo, vận động quần chúng, nhất là đồng bào tín đồ các tôn giáo hiểu rõ bộ mặt thật của “bọn phản đạo, hại nước”, cùng nhân dân đấu tranh giành độc lập.

Đầu tháng 4.1945, Liên Tỉnh ủy miền Tây được thành lập, do đồng chí Nguyễn Văn Tây làm bí thư. Tháng 6.1945, Tỉnh ủy lâm thời Cần Thơ được bầu trong một cuộc Hội nghị đại biểu các tổ chức cơ sở Đảng của tỉnh. Hội nghị nhất trí về thời cơ giành chính quyền đang đến; vì vậy, phải tranh thủ tập hợp mọi lực lượng quần chúng nhân dân, tham gia Mặt trận dân tộc thống nhất, đặc biệt chú ý đến tín đồ Hòa Hảo, Cao Đài. Hội nghị nhấn mạnh chủ trương tích cực xây dựng độ du kích, vận động tư sản, địa chủ có súng giao cho cách mạng và tổ chức mua súng của linh Nhật. Hội nghị bầu đồng chí Trần Ngọc Quế làm Bí thư Tỉnh ủy lâm thời Cần Thơ (nhóm Tiền Phong).

Ở Cần Thơ, tổ chức Thanh niên Tiền phong phát triển rất nhanh; đến cuối tháng 6.1945, toàn tỉnh có hơn 70.000 đoàn viên, trong đó có nhiều hội viên các đoàn thể cứu quốc của Mặt trận Việt Minh. Tỉnh ủy lâm thời Cần Thơ đã thực sự nắm được tổ chức Thanh niên Tiền phong và sử dụng lực lượng này trong các hoạt động của Đảng, như tham gia tuần tra canh gác, bảo vệ trật tự an ninh, chống cướp, luyện tập võ nghệ, rèn gươm giáo…

Việc tổ chức, xây dựng lực lượng vũ trang được Tỉnh ủy lâm thời Cần Thơ đặc biệt chú trọng. Đến cuối tháng 7.1945, lực lượng vũ trang các quận đã có trên 300 người, trong số này có nhiều người được chọn bổ sung vào “xung phong đội” ở thị xã (tổ chức vũ trang hoạt động công khai của Thanh niên Tiền phong).

Sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh, thực hiện lệnh Tổng khởi nghĩa của Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc, ngày 17.8.1945 Tỉnh ủy Cần Thơ họp bàn kế hoạch khởi nghĩa trong tỉnh. Ủy ban dân tộc giải phóng tỉnh được thành lập do đồng chí Trần Ngọc Quế (Bí thư Tỉnh ủy) làm Chủ tịch, Huỳnh Phúc Mậu (Hòa Hảo) - Phó Chủ tịch, Trần Văn Khéo (Thanh niên Tiền phong) - Tổng thư kí. Ngoài ra còn có các ủy viên đại diện cho Việt Minh, Hòa Hảo, Đảng Dân chủ, Thanh niên Tiền phong, thể hiện đường lối Mặt trận dân tộc thống nhất

Ngày 22.8, Hội nghị Tỉnh ủy nghiên cứu Nghị quyết của Xứ ủy và vạch kế hoạch giành chính quyền trong tỉnh, quyết định cử các đồng chí Hồ Bá Phúc, Trần Văn Khéo, Nguyễn Văn Chức và Tú Tài Thiều (Hòa Hảo) tham gia giành chính quyền ở Sài Gòn vào ngày 25.8, để rút kinh nghiệm về vận dụng cụ thể cho tỉnh nhà. Hội nghị cũng quyết định các “Xung phong đội” của các quận về thị xã để tăng cường bảo vệ cơ quan lãnh đạo, sẵn sàng chờ lệnh khởi nghĩa.

Thắng lợi cuộc khởi nghĩa trong cả nước, đặc biệt ở Sài Gòn (25.8) làm cho quân Nhật và tay sai ở Cần Thơ ngày càng hoang mang, lo sợ. 600 quân Nhật tập trung về Tổng hành dinh (tức Ban chỉ huy quân đội Nhật) của 10 tỉnh Hậu Giang, đóng tại thị xã Cần Thơ để phòng thủ. Trong một cuộc họp bất thường, Tỉnh ủy quyết định cử một phái đoàn, gồm các đồng chí Trần Ngọc Quế, Nguyễn Thượng Tự (thay mặt Thanh niên Tiền phong), Huỳnh Cẩm Chương (trí thức yêu nước làm phiên dịch) đến gặp Satô, chỉ huy Sở Hiến binh Nhật, báo cho hắn biết ngày 26.8 sẽ có cuộc mít tinh lớn ở thị xã Cần Thơ.


(*) Người viết: TS. Thái Văn Long, Sở Giáo dục và Đào tạo Cà Mau.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Chín, 2011, 06:52:07 am
Mục đích tổ chức cuộc mít tinh này là để biểu dương lực lượng và thăm dò thái độ của quân Nhật. Trong trường hợp thuận lợi sẽ tiến hành giành chính quyền ngay. Để bảo vệ cho đoàn đại biểu và làm áp lực với quân Nhật, Tỉnh ủy cử đồng chí Huỳnh Phan Hộ chỉ huy lực lượng “Xung phong đội” bí mật bao vây Sở Hiến binh Nhật, theo dõi thái độ của Tỉnh trưởng Lưu Văn Tào.

Trong thế suy yếu và trước sức mạnh của cách mạng, quân Nhật không dám kháng cự và chấp nhận những yêu cầu của đoàn đại biểu ta. Ngay lập tức, Tỉnh ủy quyết định biến cuộc mít tinh ngày 26.8.1945 thành cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở thị xã Cần Thơ và các địa phương trong tỉnh.

Sáng sớm ngày 26.8.1945, trên 20 ngàn đồng bào thị xã và các quận Ô Môn, Châu Thành, Phụng Hiệp… xếp thành từng đoàn, mang băng, cờ, khẩu hiệu, kéo về tập trung tại sân vận động Cần Thơ, trước lễ đài có treo tấm bảng lớn:

“Chính quyền về tay nhân dân!”
“Nước Việt Nam độc lập muôn năm!”


Đúng 6 giờ sáng, Ủy ban Dân tộc giải phóng tỉnh ra mắt nhân dân. Đồng chí Huỳnh Phan Hộ thay mặt Ủy ban đọc lời hiệu triệu và kêu gọi đồng bào đoàn kết, đấu tranh giành lấy chính quyền.

Sau cuộc mít tinh, quần chúng được tổ chức theo từng khối, có lực lượng tự vệ vũ trang và “Xung phong đội” hỗ trợ xuống đường biểu tình thị uy. Đoàn biểu tình kéo qua khắp các ngả đường trong thị xã, biểu dương lực lượng, rồi tập trung tại dinh xã Tây.

Trước khí thế của quần chúng, Tỉnh trưởng Lưu Văn Tào buộc phải giao chính quyền cho đại diện của Ủy ban Dân tộc giải phóng và tuyên bố giải tán chính quyền bù nhìn trong toàn tỉnh. Lưu Văn Tào xin chính quyền cách mạng cho làm người công dân của nước Việt Nam độc lập. Đồng chí Trần Ngọc Quế, Chủ tịch Ủy ban Dân tộc Giải phóng tỉnh long trọng tuyên bố:

- Chính quyền về tay nhân dân.

- Bãi ở các thứ thuế vô lí do phát xít Nhật và thực dân Pháp đặt ra.

- Trả tự do cho tù chính trị.

- Bảo vệ tài sản cho nhân dân.

- Tịch thu toàn bộ tài sản của thực dân Pháp.

Đồng chí kêu gọi toàn thể đồng bào lấy đoàn kết chung quanh chính quyền cách mạng để giữ gìn nền độc lập của Tổ quốc. Sau đó, các đồng chí trong Ủy ban Dân tộc Giải phóng chia nhau đi tiếp quản các cơ quan hành chính, kinh tế, văn hóa, nân hàng, kho bạc… ở thị xã.

Cuộc khởi nghĩa thành công lan nhanh ra các địa phương trong tỉnh. Ở Cầu Kè, vào 8 giờ sáng ngày 24.8.1945 nhân dân vũ trang khởi nghĩa chiếm Nhà việc làng Vĩnh Xuân; 12 giờ lực lượng khởi nghĩa chia nhau đi tước súng của địa chủ; 3 giờ chiều nhân dân lấy đồn La Ghì (Vĩnh Xuân), thu 31 súng và thành lập một trung đội vũ trang; 6 giờ sáng ngày 25.8.1945, quần chúng vũ trang bằng giáo, mác, trương băng, cờ, khẩu hiệu tiến thẳng đến dinh quận Cầu Kè. Trước sức mạnh của quần chúng, Đốc phủ sứ chủ quận và bọn lính kéo ra hàng. Chính quyền địch bị giải tán, Ủy ban nhân dân quận ra mắt nhân dân, được hoan hô nhiệt liệt.

Tại quận Trà Ôn, được sự lãnh đạo của Quận ủy, lực lượng Thanh niên Tiền phong cùng quần chúng thị trấn và các làng lân cận biểu tình có vũ trang bằng gậy gộc, kéo đến dinh quận, buộc quận trưởng đầu hàng. Ủy ban nhân dân quận và các làng được thành lập trong ngày 26.8.1945

Ở quận Ô Môn và Châu Thành, đến chiều 26.8 chính quyền hoàn toàn về tay nhân dân. Riêng ở làng Thới Lai (Ô Môn), ngay từ ngày 18.8, đồng chí Hoàng Chiếu, cán bộ của Đảng đã lãnh đạo nhân dân cướp đồn Thới Lai, giải tán chính quyền địch, thành lập chính quyền cách mạng. Nhân dân ở đây xây dựng một trung đội tự vệ, được trang bị một số súng. Đơn vị này được điều ra Cần Thơ bảo vệ cơ quan lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh và hỗ trợ cho nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền.

Ở quận Phụng Hiệp, tên Quận trưởng gây nhiều tội ác với cách mạng, ngoan cố không chịu đầu hàng. Sáng ngày 27.8, được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, quần chúng đã tấn công bắt được hắn và tước súng của bọn lính quận. Ngay sau đó, Ủy ban nhân dân quận được thành lập.

Các địa phương khác trong tỉnh lần lượt thành lập chính quyền cách mạng. Tuy nhiên, do việc chưa có sự lãnh đạo thống nhất giữa hai Tỉnh ủy (Tiền phong và Giải phóng) nên một số nơi bọn phản động trong giáo phái Hòa Hảo đã nắm được hành quân, như ở Tân Quới, Tân Lược, Phong Hòa (phía bắc tả ngạn sông Bát Xắc). Sau này lực lượng cách mạng mới có người tham gia chính quyền.

Về cơ bản, chính quyền ở Cần Thơ đã về tay nhân dân nhưng tình hình còn nhiều phức tạp. Quân Nhật còn rất đông; các “lãnh tụ” Hòa Hảo, Cao Đài ngoài mặt tuyên bố hợp tác với cách mạng nhưng ngấm ngầm chống đối. Một số trí thức, học sinh, các thành phần lớp trên lo lắng, dao động. Trước tình hình đó, ngày 28.8.1945 Ủy ban hành chính Nam Bộ quyết định thành lập Ủy ban nhân dân tỉnh Cần Thơ do đồng chí Trần Văn Khéo làm Chủ tịch(1). Đây là Ủy ban nhân dân được công nhận sớm nhất ở Nam Bộ.

Cuộc khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 của Đảng bộ và nhân dân Cần Thơ góp phần vào thắng lợi của cách mạng cả nước, mở ra một trang sử mới cho dân tộc.


(1) Danh sách Ủy ban nhân dân tỉnh Cần Thơ được Ủy ban hành chính Nam Bộ công nhận gồm có:
1 - Trần Văn Khéo: Chủ tịch (đại diện Thanh niên Tiền phong).
2 - Tú Tài Thiều: Phó Chủ tịch (đại diện Hòa Hảo).
3 - Huỳnh Phan Hộ: Ủy viên quân sự (đại diện Mặt trận Việt Minh).
4 - Trần Ngọc Quế: Ủy viên xã hội (đại diện Đảng Cộng sản Đông Dương).
5 - Văn Cừ: Ủy viên quốc gia tự vệ cuộc (đại diện Đảng Cộng sản Đông Dương).
6 - Bác sĩ Lê Quang Sang: Ủy viên nội vụ (trí thức).
7 - Đỗ Văn Y: Ủy viên tài chính (tư sản thương nghiệp).
8 - Lê Văn Tức: Ủy viên tuyên truyền (trí thức tư sản thương nghiệp).


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Chín, 2011, 06:55:23 am
LONG XUYÊN – CHÂU ĐỐC(*)

An Giang ngày nay (gồm ha tỉnh Châu Đốc và Long Xuyên trước đây), nơi địa đầu của tổ quốc ở phía tây nam, đã sớm bị thực dân Pháp chiếm đóng. Ngày 22.6.1867, Pháp chiếm thành Châu Đốc rồi lan ra cả tỉnh, cả miền Tây Nam Kỳ. Nhiều cuộc khởi nghĩa chống Pháp liên tiếp nổ ra cho đến Cách mạng tháng Tám 1945, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của Trần Văn Thành ở Bảy Thưa (1872-1873). Phong trào yêu nước chống Pháp, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, phát triển sâu rộng và nhanh chóng. Trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ (tháng 11.1940), Long Xuyên và Châu Đốc là những trung tâm đấu tranh mạnh mẽ và chịu nhiều tổn thất hi sinh to lớn, đặc biệt là ở Long Điền, Kiến An, Mỹ Luộng…

Truyền thống yêu nước, cách mạng của nhân dân Long Xuyên - Châu Đốc đã đưa cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc đến thắng lợi trong Cách mạng tháng Tám 1945.

Long Xuyên và Châu Đốc là nơi sinh sống của dân tộc anh em (Việt, Khơme, Chăm, Hoa) và tín đồ của nhiều tôn giáo, đông nhất là đồng bào theo Phật giáo Hòa Hảo. Thực dân Pháp, quân phiệt Nhật đã lợi dụng tình hình phức tạp về dân tộc, tôn giáo để chia rẽ nhân dân trong tỉnh, làm suy yếu sức mạnh đấu tranh cho độc lập tự do. Mặt khác, Đảng bộ Nam Kỳ trong những năm đầu thập kỉ 40 thế kỉ 20 cũng thiếu sự thống nhất, về tổ chức và phương thức đấu tranh với việc hình thành hai Xứ ủy - “Tiền phong” và “Giải phóng”. Đảng bộ Long Xuyên, Châu Đốc lúc bấy giờ do Liên Tỉnh ủy Hậu Giang (thuộc Xứ ủy “Giải phóng”) chỉ đạo.

Tuy có những khó khăn khách quan và chủ quan như vậy, song quần chúng nhân dân Long Xuyên, Châu Đốc, dưới sự lãnh đạo của các Đảng bộ địa phương lúc ấy giờ tích cực chuẩn bị tiến tới Tổng khởi nghĩa khi có thời cơ.

Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9.3.1945), một số chiến sĩ cộng sản bị giam ở Bà Rá, Tà Lài vượt ngục về liên hệ với Ban Cán sự Đảng Long Xuyên, Châu Đốc để hoạt động, song không được tiếp nhận. Các đồng chí này liên hệ với các địa phương khác ở miền Tây để hoạt động.

Tuy chưa có sự phối hợp chặt chẽ trong hoạt động và lãnh đạo, song từ tháng 5.1945, phong trào cách mạng ở Long Xuyên, Châu Đốc cũng phát triển mạnh mẽ, đặc biệt ở thị xã Long Xuyên. Chi bộ thị xã này được thành lập với 14 đảng viên. Cũng trong thời gian này, Quận ủy lâm thời Thốt Nốt (nay thuộc thành phố Cần Thơ) được thành lập, gồm một số chi bộ ở các xã Trung Nhất, Trung Nhì…, lãnh đạo các tổ chức quần chúng, như Hội Nông dân, Thanh niên, Phụ nữ cứu quốc… Đội tự vệ vũ trang được thành lập và thường xuyên luyện tập quân sự.

Ở thị xã Long Xuyên, dưới sự lãnh đạo của Chi bộ, nhưng hoạt động rải truyền đơn, treo biểu ngữ thường xuyên diễn ra, làm cho địch lo sợ, quần chúng phấn khởi, tăng thêm khí thế cách mạng. Một đội thanh niên xung kích và liên đoàn tài xế, gồm khoảng 30 đội viên, làm lực lượng xung kích khi cuộc khởi nghĩa giành chính quyền nổi ra ở tỉnh lị.

Đối phó với phong trào cách mạng, quân phiệt Nhật nắm số thủ lĩnh quân sự của Phật giáo Hòa Hảo như Trần Văn Soái (Năm Lửa), Lâm Thành Nguyên (Hai Ngoán), Nguyễn Giác Ngộ, Lê Quang Vinh (Ba Cụt) để tổ chức đội bảo an, được trang bị bằng giáo mác, kiếm đao và súng của Nhật cung cấp. Bọn tay chân của Nhật ra sức hống hách, trả thù, trả oán, bắt bớ, đánh đập người dân lương thiện. Nhiều tên phản động đôi lốt tôn giáo nhảy ra làm tay sai cho Nhật như Hồ Tấn Khoa (Cao Đài) làm Tỉnh trưởng Châu Đốc, Trương Văn Thành làm Tỉnh trưởng Long Xuyên, Võ Tăng Sâm (Hòa Hảo) làm Cảnh sát trưởng Long Xuyên (nên còn gọi là Cò Sâm)… và nhiều tên khác ở quận, xã. Hệ phái Cao Đài của Phạm Công Tắc, Trần Quang Vinh xây dựng lực lượng vũ trang, đưa thanh niên tín đồ vào lính Nhật, tổ chức canh gác, đi bắt lính cho Nhật, kích động tinh thần “yêu nước”, đòi rước Cường Để về làm vua. Bọn Tơrốtkít, bọn Đại Việt lợi dụng thời cơ chui vào đạo Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo tuyên truyền lừa gạt tín đồ, phá hoại Mặt trận Việt Minh, tiếp tay cho Nhật bắt lính xây dựng lực lượng.

Thủ đoạn lừa bịp, mị dân, chia rẽ của Nhật cũng thư được một số kết quả nhất định. Một số tín độ của tôn giáo tin theo những kẻ đứng đầu giáo phái, khoác áo tôn giáo, để lôi kéo đồng bào chống lại cách mạng. Song bộ mặt thật của các “lãnh tụ giáo phái”, của “độc lập” giả hiệu mà Nhật “trao trả”, nhanh chóng bị bóc trần vì chinh sách bóc lột, vơ vét, đàn áp dã man của Nhật và bọn tay sai.


(*) Người viết: ThS. Nguyễn Thành Phương, Trường Đại học An Giang.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Chín, 2011, 06:57:30 am
Đảng bộ Long Xuyên, Châu Đốc đã vận động giác ngộ các tầng lớp nhân dân, thuộc các dân tộc, tín ngưỡng, khác nhau nhận thấy bộ mặt giả nhân, giả nghĩa của phát xít Nhật và tay sai, quyết tâm đấu tranh giành độc lập, tự do thực sự, chân chính.

Các tổ chức cứu quốc của quần chúng phát triển nhanh chóng khắp tỉnh, lực lượng vũ trang ngày đêm luyện tập. Trước phong trào cách mạng mạnh mẽ của quần chúng, hệ thống chính quyền tay sai của Nhật, nhất là ở cấp xã, đã hoang mang lo sợ, có nơi nằm im không hoạt động hoặc tự giải tán. Các tổ chức phe phái thân Nhật cũng ở vào tình trạng bế tắc.

Đảng bộ và nhân dân Long Xuyên, Châu Đốc khẩn trương chuẩn bị giành chính quyền. Ngày 13.8, phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng minh không điều kiện. Quân đội Nhật ở Đông Dương hoàn toàn suy sụp tinh thần. Bộ máy chính quyền, quân đội tay sai của Nhật ở tỉnh lị Long Xuyên cũng hoang mang, rệu rã. Các cơ quan hành chính không làm việc, nhiều công chức bỏ về nhà. Trong số lính lã tà, chi bộ Đảng thị xã tranh thủ, vận động được Quản Hải, tìm cách kiềm chế bọn lính không cho chúng tự do hành động. Lực lượng cảnh sát, có tổ Thanh niên Cứu quốc của đồng chí Đáo làm nòng cốt, đã nghiêng hẳn về phía cách mạng, chờ lệnh là giành chính quyền.

Trong khi chờ lệnh khởi nghĩa của cấp trên, Đảng bộ Long Xuyên. Châu Đốc tích cực chuẩn bị nổi dậy đấu tranh.

Ngày 15.8, Quận ủy Hồng Ngự (lúc bấy giờ thuộc Châu Đốc, nay thuộc Đồng Tháp), triệu tập cuộc hội nghị bàn kế hoạch khởi nghĩa. Hội nghị khẳng định: Hồng Ngự có nhiều thuận lợi để quần chúng nổi dậy giành chính quyền, như bộ máy cai trị của địch ở cấp xã hầu như đã tan rã; viên Quận trưởng lo sợ, qua tiếp xúc với ta đã tỏ ý đầu hàng. Hội nghị bầu Ủy ban khởi nghĩa, do đồng chí Phan Văn Cai làm Chỉ huy trưởng và ra lệnh cho các chi bộ tập hợp lực lượng chuẩn bị khởi nghĩa.

Ở Long Xuyên, bọn Nhật tập trung về nhà thờ Cù lao Giêng (Chợ Mới). Ở Châu Đốc, chúng tập trung vào Thành P.C(1); bộ máy chính quyền tay sai của chúng ở tình này hầu như ngừng hoạt động.

Tin Nhật đầu hàng Đồng minh không điều kiện càng thúc giục đảng viên và quần chúng từng ngày, từng giờ chờ lệnh để vùng lên giành độc lập tự do.

Theo lệnh của Quận ủy Hồng Ngự, ngày 20.8, chi bộ xã Tân Huề huy động khoảng 700 người, vũ trang giáo mác, tầm vông, gậy gộc rầm rập kéo đến bao vây đồn Tân Huề. Bọn lính địch bỏ chạy, ta thu 2 súng trường. Phát huy thắng lợi, lực lượng khởi nghĩa tiến tới Tân Quới, Tân Long. Trên đường đi, số quần chúng tham gia ngày một đông, lên đến trên 2.000 người. Với khí thế bừng bừng sục sôi, họ vừa đi vừa hô vang khẩu hiệu: “Chính quyền về tay nhân dân!”, “Việt Nam độc lập muôn năm!”. Đoàn biểu tình đi đến đâu, bọn tề, lính đều bỏ chạy, ta hoàn toàn làm chủ 3 xã ở Cù Lao Tây (Tân Huề, Tân Quới, Tân Long).

Trên đà thắng lợi ấy, ngày 22.8 Quận ủy Hồng Ngự quyết định khởi nghĩa. Đồng chí Phan Văn Cai đến quận đường, được sự ủng hộ của hàng ngàn quần chúng, đã buộc Quận trưởng phải giao chính quyền cho cách mạng. Cùng ngày, nhân dân các xã trong quận đều nổi dậy giành quyền làm chủ. Như vậy, đến ngày 22.8, quận Hồng Ngự đã hoàn toàn được giải phóng; đây là quận giành được chính quyền sớm nhất ở hai tỉnh Long Xuyên, Châu Đốc. Ở quận lị Tân Châu (Châu Đốc), cờ Đảng được treo công khai trước trụ sở của Đảng bộ - tiệm may Song Phượng. Lợi dụng chính quyền địch đang tan rã, một số cán bộ xã tự động tập hợp nhân dân giành chính quyền.

Ở Kiến An (Long Xuyên) vào ngày 20.8.1945, khắp xã đã trương khẩu hiệu: “Đánh đổ thực dân Pháp, phát xít Nhật đem lại độc lập dân tộc”. Ở Mỹ Luông và Long Điền, chính quyền cũng về tay nhân dân trong ngày 22.8. Riêng ở xã Mỹ Hiệp, từ sau ngày Nhật đảo chính Pháp, chi bộ đã tổ chức đưa người của ta bí mật nắm chính quyền xã. Các đồng chí Lê Thiện Tứ, Nguyễn Khắc Thận, Trần Văn Nghiệp tiến hành việc in ấn tài liệu, truyền đơn… ở nhà ông Trần Văn An (Tư An) chuẩn bị cho ngày khởi nghĩa.


(1) Thành P.C ở tỉnh lị Châu Đốc, do thực dân xây dựng để quân lính chúng đồn trú.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Chín, 2011, 06:59:59 am
Ngày 23.8, Tỉnh ủy Long Xuyên được Xứ ủy Nam Kỳ báo tin việc giành chính quyền ở Sài Gòn sẽ diễn ra vào ngày 25.8. Tỉnh ủy cấp tốc triệu tập hội nghị, quyết định giành chính quyền ở Chợ Mới vào ngày 24.8, sau đó đưa lực lượng hỗ trợ để giành chính quyền ở tỉnh lị Long Xuyên vào ngày 25.8, cùng ngày với khởi nghĩa ở Sài Gòn. Hội nghị phân công đồng chí Lê Thiện Tứ lãnh đạo cuộc đấu tranh giành chính quyền ở Chợ Mới, đồng chí Nguyễn Văn Nhung phụ trách giành chính quyền ở tỉnh lị Long Xuyên.

Ngay đêm 23 rạng ngày 24.8, đồng chí Lê Thiện Tứ chỉ huy lực lượng xung kích đến dinh quận Chợ Mới, dùng áp lực của quần chúng buộc Quận trưởng phải giao chính quyền và nộp hết vũ khí, phải có mặt tại quận đường đến hết ngày 26. Trong ngày 24, đồng bào khắp các xã trong quận Chợ Mới đã quét sạch bộ máy tề xã và lập chính quyền cách mạng.

Cùng ngày 24.8, các đội tự vệ chiến đấu dưới sự chỉ huy của đồng chí Nguyễn Văn Kính, Ngô Văn Chính đã vây đồn lính tại bến phà Vàm Cống (phía Lấp Vò). Bọn chúng hoảng sợ đầu hàng, giao nộp 8 súng và 80 viên đạn.

Từ ngày 24, chi bộ tỉnh lị Long Xuyên, được sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Văn Nhung, đã tổ chức quần chúng treo băng cờ, biểu ngữ. Các đội “Tự vệ chiến đấu”(1) bí mật bám sát kho súng, kho bạc, dinh tỉnh trưởng, nhà dây thép, cầu quay, hỗ trợ cho việc giành chính quyền bằng lực lượng của quần chúng. Không khí khởi nghĩa nhộn nhịp, hào hứng khắp thị xã. Mọi người tin tưởng vào thắng lợi của cách mạng, tự nguyện tham gia các hoạt động gần như côn khai. Truyền đơn, cờ bướm được đặt cả trên bàn làm việc của viên cảnh sát trưởng Châu Thành. Anh Cảnh - đoàn viên Thanh niên Cứu quốc dũng cảm vượt mấy vòng canh gác của địch, cắm cờ trên nóc dinh Tỉnh trưởng dưới sự hỗ trợ của anh em cảnh sát bảo vệ dinh.

Trong khi cuộc khởi nghĩa diễn ra rầm rộ ở các địa phương, đồng chí Nguyễn Văn Nhung, Bí thư Tỉnh ủy lâm thời Long Xuyên lần lượt gặp thủ lĩnh Thanh niên Tiền phong, bác sĩ Dương Văn Âu; lãnh tụ đạo Cao Đài ở Long Xuyên Diệp Quang Khai và đại diện Tỉnh bộ giáo phái Hòa Hảo báo tin Việt Minh khởi nghĩa giành chính quyền và đề nghị các lực lượng tham gia. Công việc diễn ra cũng trôi chảy, tuy lúc đầu giáo phái Hòa Hảo cũng muốn giành chính quyền.

Ở Châu Đốc, trước khi cuộc khởi nghĩa nổ ra, ban lãnh đạo đã nhiều lần liên lạc với tỉnh trưởng đề nghị giao chính quyền cho cách mạng và được chấp nhận. Tối 26 rạng ngày 27.8, các đội vũ trang thị xã Châu Đốc đi chiếm các công sở của chính quyền ngụy, như Tòa bố, Sở Mật thám, Sở Cảnh sát… lính bảo an đã giao nộp vu khí đạn dược cho cách mạng.

Sáng 27.8, hàng vạn nhân dân thị xã và các vùng lân cận tuần hành thị uy rồi họp mít tinh chào mừng lễ ra mắt của Ủy ban nhân dân cách mạng tỉnh, do đồng chí Nguyễn Văn Thôi làm chủ tịch. Chỉ trong vòng một tuần lễ, chính quyền cách mạng được thành lập ở các cấp huyện, xã. Chính quyền cách mạng bao gồm đại biểu của các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, tôn giáo tham gia.

Chính quyền ở Châu Đốc đã giành được, song dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân phải ra sức bảo vệ chính quyền cách mạng. Bởi vì, các phần tử Đại Việt, Tơrốtkít, bọn phản động cầm đầu giáo phái Hòa Hảo âm mưu bạo động cướp chính quyền. Lực lượng vũ trang cách mạng đã kịp thời tước vũ khí và đập tan âm mưu phản loạn. Chính quyền cách mạng cũng kiên quyết trừng trị bọn lưu manh từ Cămpuchia tràn qua biên giới, cướp bóc, giết hại nhân dân. Tháng 11.1945, quân Nhật theo lệnh của Bộ Tư lệnh Anh, đánh chiếm lại thị xã Châu Đốc và thị trấn Tân Châu, song phải rút lui vì gặp phải sức phản kháng mạnh mẽ của nhân dân.

Nhờ sức mạnh đấu tranh của quần chúng, sự phối hợp giữa các lực lượng khác nhau, do Đảng nắm quyền chỉ đạo thông qua Mặt trận Việt Minh, mà Cách mạng tháng Tám đã nhanh chóng lan rộng và thành công khắp tỉnh Long Xuyên, Châu Đốc, trong thắng lợi chung của cách mạng cả nước.

Như vậy, chỉ trong vòng 7 ngày (từ 22 - 28.8.1945), nhân dân Long Xuyên, Châu Đốc đã vùng lên đấu tranh giành chính quyền, thoát khỏi ách thống trị của thực dân, đế quốc trong suốt 78 năm, kể từ khi thực dân Pháp đánh chiếm vùng đất này.


(1) Liên đoàn tài xế được cải tiến thành các đội “Tự vệ chiến đấu”.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Chín, 2011, 07:03:03 am
RẠCH GIÁ - HÀ TIÊN(*)

Tỉnh Hà Tiên được thành lập năm 1832 dưới triệu vua Minh Mạng nhà Nguyễn. Năm 1899, thực dân Pháp tách Hà Tiên thành hai tỉnh lị Rạch Giá và Hà Tiên. Qua nhiều lần thay đổi, tỉnh Hà Tiên cũ nay là tỉnh Kiên Giang. Vùng đất này phong phú tài nguyên thiên nhiên, nơi chung sống của các dân tộc anh em giàu truyền thống yêu nước, chủ yếu là người Việt, Khơme. Từ ngày Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, cùng với phong trào cách mạng chung của cả nước, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở vùng đất Kiên Giang này nay phát triển mạnh mẽ, đưa tới thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945.

Sau khi Nhật đảo chính Pháp (9.3.1945), nhất là khi nhận được Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, đầu tháng 5.1945, Liên tỉnh ủy Hậu Giang đã triệu tập hội nghị cán bộ ở Cái Muông (Cần Thơ) để đề ra chủ trương trong tình hình mới. Hội nghị đã chủ trương liên hệ chặt với cơ sở, điều chỉnh và bổ sung đội ngũ cán bộ và đảng viên ở những nơi phong trào còn chưa mạnh; đẩy mạnh việc tuyên truyền, tổ chức các đoàn thể cứu quốc và Mặt trận Việt Minh, tăng cường hơn nữa việc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, củng cố giao thông liên lạc… để chuẩn bị giành chính quyền. Đối với tỉnh Rạch Giá, hội nghị quyết định cử đồng chí Nguyễn Văn Tiễn và đồng chí Lý Thị Trung về củng cố lại Tỉnh ủy để chỉ đạo phong trào. Cuối tháng 5.1945, Tỉnh ủy Rạch Giá tổ chức hội nghị để củng cố lại thành công, đồng chí Nguyễn Văn Tiễn được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy. Hội nghị đã triển khai việc bố trí cán bộ đi các cơ sở để gáp rút chuẩn bị lực lượng, phát động nhân dân chuẩn bị nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền. Các đội du kích nhanh chóng được thành lập và tổ chức tập luyện thường xuyên. Các lò rèn sản xuất vũ khí làm việc ngày đêm. Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, một số quận đã bí mật xây dựng căn cứ cách mạng. Theo hướng dẫn của Liên Tỉnh ủy Hậu Giang, Tỉnh ủy Rạch Giá và Quận ủy Châu Thành (Hà Tiên) đã sớm dự kiến nhân sự để lập chính quyền mới khi khởi nghĩa thành công.

Ở khắp các quận trong tỉnh Rạch Giá, đến giữa năm 1945 đã xây dựng được nhiều đoàn thể quần chúng, tiêu biểu là các hội Thanh niên cứu quốc, Nông dan cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc… Lực lượng Thanh niên Tiền phong cũng có nhiều hoạt động tích cực, thu hút nhiều thanh niên tham gia luyện tập quân sự, học tập các tài liệu của Việt Minh. Để tập hợp và phát huy cao nhất vai trò của mọi tầng lớp nhân dân, tháng 7.1945, Mặt trận Việt Minh tỉnh Rạch Giá được chính thức thành lập.

Mọi công việc chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Rạch Giá và Hà Tiên đang triển khai thì tin quân phiệt Nhật đầu hàng Đồng minh đến với nhân dân và Đảng bộ hai tỉnh. Vì vậy khi nhận được lệnh Tổng khởi nghĩa của Trung ương và Liên Tỉnh ủy Hậu Giang, Tỉnh ủy lâm thời Rạch Giá đã tiến hành hội nghị và thành lập Ủy ban khởi nghĩa, phân công cán bộ đảng viên chịu trách nhiệm từng lĩnh vực của Tổng khởi nghĩa. Để giúp quần chúng cách mạng nắm được những chuyển biến mới của tình hình và thời cơ cách mạng, tỉnh ủy Rạch Giá còn quyết định lập một phòng thông tin ngay trong nhà lồng chợ Rạch Giá để công khai tuyên truyền, qua đó khơi dậy khí thế cách mạng trong quần chúng để tiến hành Tổng khởi nghĩa thành công.

Khí thế cách mạng ở Rạch Giá - Hà Tiên đến lúc này hết sức sôi sục. Công tác chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa được tiến hành gần như công khai ở vùng ven thị xã và các vùng lân cận. Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội (19.8), Huế (23.8), Sài Gòn (25.8) càng thôi thúc quần chúng hai tỉnh vùng dậy khởi nghĩa.

Đêm 25.8.1945, Tỉnh ủy lâm thời Rạch Giá tiến hành cuộc họp mở rộng với Ủy ban khởi nghĩa do đồng chí Nguyễn Văn Tiễn chủ trì. Hội nghị đã quyết định phát động toàn dân trong tỉnh nổi dậy giành chính quyền vào sáng ngày 27.8.1945. Hội nghị chủ trương điều thêm lực lượng ở các vùng ven để giúp cho việc giành chính quyền ở tỉnh lị thắng lợi, còn ở các quận xa thì chủ động giành chính quyền tại chỗ.

Sáng 27.8.q945, dưới sự lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng, quần chúng cách mạng được trang bị vũ trang, chủ yếu là gậy tầm vông, giáo, mác… cùng với băng cờ, khẩu hiệu từ các xã Châu Thành, Giồng Riềng, Gò Giao… rầm rập tiến về thị xã và nhanh chóng phối hợp với lực lượng tại chỗ tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh lị. Đoàn biểu tình hô vang các khẩu hiệu: “Đả đảo phát xít Nhật và bè lu tay sai”, “Đả đảo chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim”. Đến 9 giờ sáng cùng ngày, quần chúng khởi nghĩa có lực lượng vũ trang làm nòng cốt đã tiến đến bao vây dinh Tỉnh trưởng, buộc tỉnh trưởng phải đầu hàng. Tiếp đó, đoàn biểu tình đến chiếm ti cảnh sát, trại lính khố xanh, kho bạc, nhà bưu điện… Quần chúng còn phá các khám lớn giải thoát cho nhiều tù chủ trương, truy bắt bọn Việt gian thân Pháp, thân Nhật, có tội ác với nhân dân.

Đến 12 giờ trưa ngày 27.8.1945, 60.000 quần chúng từ các ngả kéo về sân vận động thị xã tham gia cuộc mít tinh trọng thể. Ủy ban khởi nghĩa đã long trọng tuyên bố sự ra đời của Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Rạch Giá thay thế cho chính quyền tay sai phát xít Nhật.

Cùng với việc phát động quần chúng giành chính quyền ở tỉnh lị, ở các quận trong tỉnh Rạch Giá cũng tiến hành khởi nghĩa ngay trong ngày 27.8.1945. Khi nhận được lệnh Tổng khởi nghĩa của Tỉnh ủy, Quận ủy Châu Thành đã họp hội nghị mở rộng để lập Ban vận động khởi nghĩa và triển khai kế hoạch của Tỉnh ủy. Sáng ngày 27.8.1945, Quận ủy đã huy động một lực lượng hơn 4.000 người để phối hợp với thị xã giành chính quyền. Đoàn biểu tình có lực lượng vũ trang làm nòng cốt đã nhanh chóng giành được chính quyền ở quận, với khí thế sục sôi của quần chúng cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã kéo về nông thôn và lần lượt giành được chính quyền ở các xã trong quận.

Ở quận Phước Long, cũng trong ngày 27.8.1945, dưới sự lãnh đạo của Ủy ban khởi nghĩa quận, lực lượng quần chúng được trang bị vũ khí đã kéo đến bao vây dinh quận trưởng và các công sở. Trước khí thế cách mạng của quần chúng, quận trưởng bù nhìn đầu hàng, trại lính mã tà cũng đầu hàng vô điều kiện và giao nộp vũ khí cho cách mạng. Chính quyền cách mạng của quận Phước Long được thành lập. Cùng với nhiệm vụ củng cố Mặt trận Việt Minh, các tổ chức cứu quốc, dưới sự lãnh đạo của Quận ủy, các đơn vị du kích, tự vệ gấp rút được xây dựng để bảo vệ chính quyền cách mạng.

Trong ngày 28.8.1945, Ủy ban khởi nghĩa quận Long Mỹ đã tổ chức cuộc mít tinh lớn, sau đó tổ chức quan hệ có vũ trang tiến vào bao vây dinh quận trưởng và trại lính Nhật. Chính quyền tay sai đã nhanh chóng đầu hàng, lính Nhật hạ vũ khí.

Sau khi có lệnh Tổng khởi nghĩa, Tỉnh ủy Hà Tiên đã lãnh đạo Ủy ban khởi nghĩa tỉnh kịp thời nổi dậy giành chính quyền. Sáng 28.8.1945, dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ, lực lượng quần chúng được trang bị vũ khí từ Hòn Chông, Ba Hòn, Dương Hòa, Thuận Yên, Lộc Trĩ… kéo về thị xã Hà Tiên, phối hợp với lực lượng tại chỗ giành chính quyền. Quần chúng cách mạng chiếm tòa bố và các công sở của địch. Sau khi giành được chính quyền, 3.500 quần chúng đã tiến hành biểu tình thị uy, chào mừng sự ra mắt của Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Hà Tiên. Các địa phương khác trong tỉnh Hà Tiên cũng lần lượt tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền. Riêng quận Phú Quốc, do ở xa đất liền và lúc này chưa có tổ chức cơ sở Đảng, nên việc khởi nghĩa cũng như thành lập chính quyền chậm hơn so với với những địa phương khác trong đất liền.

Ở một số nơi, địch ngoan cố, lực lượng cách mạng phải dùng bạo lực để lật đổ, như ở thị xã Rạch Giá, một số địa phương ở Hà Tiên. Cùng với việc lật đổ chính quyền tay sai, thành lập chính quyền cách mạng, Ủy ban lâm thời cách mạng 2 tỉnh Rạch Giá và Hà Tiên lãnh đạo quần chúng tịch thu toàn bộ các kho thóc của Nhật chia cho nhân dân, nhanh chóng ổn định và xây dựng đời sống mới, củng cố và tăng cường an ninh trật tự, bảo vệ thành quả cách mạng mới giành được.

Cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám ở Rạch Giá - Hà Tiên (nay là tỉnh Kiên Giang) đã thắng lợi hoàn toàn, góp phần vào thắng lợi chung của dân tộc.


(*) Người viết: ThS. Nguyễn Thị Thanh Huyền, Phân viện Hà Nội, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Chín, 2011, 02:15:58 pm
BẠC LIÊU(*)

Bạc Liêu là một vùng đất mới được hình thành trên 200 năm. Dân cư chủ yếu gồm những người đến định cư rải rác trên các gò đất cao, bên các bờ sông, kinh xàng, gồm người Việt, Hoa và Khơme.

Ngay từ những ngày đầu thực dân Pháp xâm lược nước ta, nhân dân Bạc Liêu đã hăng hái tham gia nhiều cuộc nổi dậy tự phát của Nguyễn Trung Trực, anh em Đỗ Thừa Luông, Đỗ Thừa Tự… Từ năm 1927, Bạc Liêu tiếp nhận ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, mở đầu cho sự ra đời các tổ chức tiền thân của Đảng, các chi bộ Đảng Cộng sản, các Quận ủy và Tỉnh ủy lâm thời. Phong trào yêu nước và đấu tranh cách mạng có tổ chức ở Bạc Liêu bắt đầu phát triển mạnh mẽ dưới sự lãnh đạo của Đảng qua các phong trào 1930-1931, 1936-1939, 1939-1945.

Đầu năm 1947, tình hình trong nước và trên thế giới có nhiều thuận lợi cho cách mạng nước ta. Ở Bạc Liêu, khi Nhật đảo chính Pháp, ta bắt tay ngay vào việc xây dựng cơ sở Đảng và các tổ chức quần chúng để chuẩn bị cho việc giành chính quyền, một số chi bộ được thành lập ở thị xã Bạc Liêu, Vĩnh Mỹ, Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu, Sóc Đồn, An Trạch, Long Điền…

Phong trào luyện tập quân sự của Thanh niên Cứu quốc, Thanh niên Tiền phong diễn ra công khai, sôi nổi; khí thế quần chúng lên cao, các tổ chức Thanh niên Cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc được mở rộng.

Tháng 7.1945, được sự chỉ đạo của Ban vận động tái lập Đảng bộ Nam Kỳ, các đồng chí ở khu vực Bạc Liêu đã triệu tập Hội nghị thành lập Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Bạc Liêu gồm 6 đồng chí. Tỉnh ủy lâm thời Bạc Liêu phân công một số tỉnh ủy viên và cán bộ Tỉnh ủy đi xuống các đồng chí hỗ trợ xây dựng lực lượng.

Thời điểm này ở Bạc Liêu có 2 Tỉnh ủy. tỉnh ủy lâm thời khu vực Bạc Liêu và Tỉnh ủy lâm thời khu vực Cà Mau. Ngoài ra, còn có nhóm Giải phóng do Trần Hoàng Cung đứng đầu. Tuy chưa hợp nhất về mặt tổ chức, nhưng đều tập trung cao cho việc chuẩn bị giành chính quyền.

Ngày 15.8.1945, khi được tin Nhật đầu hàng Đồng minh, Tỉnh ủy lâm thời Bạc Liêu chỉ đạo các địa phương thuộc khu vực Giá Rai, Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu khẩn trương chuẩn bị lực lượng.

Ngày 17.8.1945, Tỉnh ủy lâm thời Bạc Liêu thành lập Mặt trận Việt Minh tỉnh do đồng chí Lê Khắc Xương làm Chủ nhiệm. Tỉnh ủy cũng chủ trương: tại khu vực tỉnh lị Bạc Liêu lập ra một “Bộ phận công khai” đàm phán, đấu tranh trực diện với địch, với danh nghĩa đại diện cho Mặt trận Việt Minh.

Để huy động lực lượng các nơi tập trung về tỉnh lị Bạc Liêu giành chính quyền, Tỉnh ủy lâm thời Bạc Liêu đã chỉ đạo cho các chi bộ Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu, Vĩnh Mỹ đưa hầu hết số đảng viên, các hội viên đoàn thể cứu quốc và một số thanh niên tích cực về tỉnh lị đúng ngày 18.8.1945. Gần một đại đội tự vệ được trang bị vũ khí để chuẩn bị trực tiếp tham gia giành chính quyền.

Đến ngày 19.8.1945, tinh thần bọn ngụy quân, ngụy quyền tại Bạc Liêu hoang mang, lung lay tận gốc; nhiều công chức bỏ nhiệm sở, một số người đến thanh minh với cách mạng. Lúc này ta cũng nắm được đa số anh em trong lính cộng hòa và cảnh sát ngụy. Tất cả các tầng lớp nhân dân… kể cả nhân sĩ trí thức, tư sản, tôn giáo, đều chờ mong xuống đường đấu tranh lật đổ ngụy quyền tay sai Nhật.

Ngày 20.8.1945, ngụy quyền Bạc Liêu tổ chức linh đình đón tiếp Khâm sai Nguyễn Văn Sâm đi kinh lí. Tỉnh ủy lâm thời chủ trương huy động lực lượng quần chúng, biến cuộc đón tiếp này thành cuộc biểu tình lớn ủng hộ Việt Minh giành chính quyền. Lực lượng chính là đoàn viên, hội viên các tổ chức cứu quốc và lực lượng Thanh niên Tiền phong.

Sáng sớm ngày 20.8.1945, hơn ba ngàn người từ nông thôn kéo vào cùng các tầng lớp nhân dân nội thị, hàng ngũ chỉnh tề có lực lượng vũ trang tự vệ đi kèm để bảo vệ, tập trung tại sân bóng đá Thành Bạc Liêu để “đón tiếp Nguyễn Văn Sâm”. Ta đã biến cuộc mít tinh đón tiếp thành cuộc biểu tình tuần hành thị uy. Đồng chí Tào Văn Tỵ thay mặt Mặt trận Việt Minh tỉnh Bạc Liêu lên diễn đàn kêu gọi mọi tầng lớp nhân dân ủng hộ Đảng Cộng sản và Mặt trận Việt Minh giành chính quyền, đồng thời giải thích ý nghĩa của lá cờ đỏ sao vàng. Sau đó, đoàn biểu tình gương cờ đỏ sao vàng, băngrôn, khẩu hiệu… kéo đến vây kín dinh Tỉnh trưởng. Quần chúng hô vang khẩu hiệu: “Mặt trận Việt Minh muôn năm!”, “Chính quyền về tay nhân dân!”.

Trong khi đoàn đại biểu của Mặt trận Việt Minh đấu tranh, yêu cầu Tỉnh trưởng phải giao lại chính quyền cho cách mạng, thì cảnh sát và cộng hòa vệ binh chỉ đứng nhìn mà không can thiệp; nhiều binh sĩ ngụy tỏ thái độ đồng tình với nhân dân. Tỉnh trưởng Trương Công Thiện tìm cách hoãn binh: xin chỉ thị của cấp trên.


(*) Người viết: ThS. Nguyễn Ngọc Mai, Phân viện Hà Nội, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Chín, 2011, 02:17:16 pm
Tối 20.8.1945, Tỉnh ủy và Ủy ban Mặt trận Việt Minh tỉnh họp liên tịch tại trụ sở (nhà của tên Carie) để thành lập chính quyền cách mạng, lấy tên là Ủy ban dân tộc giải phóng tỉnh Bạc Liêu, gồm 8 người. Được chỉ thị của Tỉnh ủy, sáng ngày 22.8.1945, Ủy ban Mặt trận Việt Minh và Ủy ban dân tộc giải phóng tỉnh cử một đoàn đại diện đến gặp Tỉnh trưởng Trương Công Thiện đòi phải giao chính quyền cho cách mạng. Một lần nữa, Thiện lại trì hoãn. Tỉnh ủy quyết định huy động toàn bộ lực lượng, gồm các tổ chức cứu quốc (kể cả binh lính cứu quốc), nhân sĩ trí thức, cơ sở trong công chức, lực lượng Thanh niên Tiền phong và binh sĩ trong đại đội lính cộng hòa vệ binh cùng đông đảo quần chúng đến bao vây dinh Tỉnh trưởng, đấu tranh kiên quyết, buộc địch phải khuất phục, giành bằng được chính quyền vào ngày hôm sau.

Sáng ngày 23.8.1945, lực lượng cách mạng tập trung bao vây dinh Tỉnh trưởng. Toàn bộ thành viên Tỉnh ủy, Ủy ban Mặt trận Việt Minh và Ủy ban dân tộc giải phóng tỉnh, tất cả cán bộ, đảng viên… đều có mặt hòa trong biển người để kịp thời lãnh đạo và đối phó mọi tình huống.

Đúng 7 giờ sáng ngày 23.8.1945, đoàn đại biểu của ta, gồm đồng chí Tào Văn Tỵ, Nguyễn Văn Năm, Trương Minh Cảnh cùng hai bảo vệ có vũ trang, tiến vào văn phòng Tỉnh trưởng buộc y phải giáo chính quyền cho cách mạng. Tỉnh trưởng Trương Công Thiện, vì sợ quân Nhật quay trở lại, chưa trả lời dứt khoát. Lúc này có điện thoại mời Tỉnh trưởng xuống dự lễ chào cờ (chào cờ “quẻ li” mỗi buổi sáng trước khi làm việc) vì tất cả các viên chức đều tập hợp đã lâu. Tỉnh trưởng Thiện mời phái đoàn của ta cùng đi xuống. Vừa bước ra khỏi cửa, Thiện thấy cả đoàn người vây kín vòng trong vòng ngoài tòa nhà hành chính, đặc biệt có cả bảo an binh và Thanh niên Tiền phong. Thiện hoảng sợ, định bước đến chỗ chào cờ, thì đồng chí Tào Văn Tỵ chỉ tay lên tấm băngrôn “Khâm sai đại thần Nguyễn Văn Sâm vạn tuế” treo phía trước cổng ra vào, hô to: “Đả đảo Nguyễn Văn Sâm!”, “Đảo đảo bù nhìn tay sai thân Nhật!”. Tất cả lực lượng của ta đều hô theo: “Đả đảo! Đả đảo! Đả đảo!”. Đồng chí Phan Thái Hòa leo lên giật tấm băng rôn ném xuống đất. Tiếng hô khẩu hiệu liên tục, vang dội: “Đả đảo bọn bù nhìn! Chính quyền về tay nhân dân!”.

Trước khí thế mạnh mẽ của quần chúng cách mạng, Tỉnh trưởng Trương Công Thiện buộc phải đầu hàng và công bố tại chỗ chính quyền tỉnh Bạc Liêu thuộc về cách mạng, thuộc về nhân dân. Đồng chí Tào Văn Tỵ, thay mặt chính quyền cách mạng thông báo trước quần chúng: “Chính quyền đã về tay nhân dân”. Tiếng reo hò, tiếng hô khẩu hiệu vang dội theo đoàn biểu tình diễu qua các đường phố chính trong thị xã. Lúc đó là 9 giờ 30 phút, ngày 23.8.1945.

Đến 14 giờ ngày 23.8.1945, Trương Công Thiện đến trụ sở Mặt trận Việt Minh tỉnh nộp bản đầu hàng và bàn giao chính quyền cho Ủy ban dân tộc giải phóng tỉnh Bạc Liêu. Buổi tối, Ủy ban hành chính cách mạng lâm thời tỉnh Bạc Liêu được thành lập gồm 8 người.

Sáng ngày 25.8.1945, ta đã huy động hơn 20.000 quần chúng thị xã Bạc Liêu, Vĩnh Mỹ, thị trấn Giá Rai, thị trấn Hòa Bình, Long Thạnh, Vĩnh Trạch, Châu Hưng, Châu Thới… đến sân vận động Bạc Liêu dự mít itnh chào mừng cách mạng thành công, chào mừng Mặt trận Việt Minh, chào mừng Ủy ban hành chính cách mạng lâm thời tỉnh. Cả sân vận động đỏ rực cờ Việt Minh và băng rôn, khẩu hiệu. Đồng chí Châu Hà Thanh (Bí thư chi bộ Vĩnh Mỹ) phất cao cờ Đảng, hô to: “Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm!”, quần chúng hưởng ứng vang khắp cả sân. Đại diện Ủy ban hành chính cách mạng lâm thời tỉnh đọc lời chào mừng cách mạng thành công và tuyên bố “Chính quyền về tay nhân dân”, giới thiệu Chương trình hành động 10 điểm của Mặt trận Việt Minh.

Cuộc mít tinh trở thành cuộc tuần hành qua nhiều đường phố trong thị xã Bạc Liêu, đi đầu là đồng chí Châu Hà Thanh cầm cờ Đảng và một đồng chí khác cầm cờ đỏ sao vàng.

Ở làng Long Điền, Phong Thạnh, thị trấn Giá Rai, Vĩnh Mỹ, Láng Tròn… dưới sự lãnh đạo của các đồng chí đảng viên, lực lượng cứu quốc, Thanh niên Tiền phong và quần chúng nổi dậy giành chính quyền. Nhân dân công khai luyện tập quân sự, hội họp, bàn bạc chương trình hành động của Mặt trận Việt Minh. Quận trưởng Hồ Thiên Lý hoang mang không dám chống lại mà chỉ chờ lệnh cấp trên đầu hàng cách mạng.

Sáng sớm ngày 24.8.1945, đồng chí Tạo Văn Tỵ, đại diện Ủy ban hành chính cách mạng lâm thời tỉnh Bạc Liêu đến Giá Rai cùng với các đồng chí lãnh đạo và nhân dân buộc viên Quận trưởng đầu hàng không điều kiện và giao toàn bộ cơ sở vật chất, vũ khí cho cách mạng.

Chiều ngày 24.8.1945, khoảng 2.000 người từ khắp nơi trong quận kéo đến quận lị Giá Rai mít tinh, chào mừng chiến thắng. Ủy ban hành chính cách mạng lâm thời quận Giá Rai, do ông Nguyễn Văn Vĩnh làm Chủ tịch tổ chức lễ ra mắt.

Ở quận Vĩnh Châu, ngay từ khi Nhật đầu hàng Đồng minh, bộ máy ngụy quân, ngụy quyền vô cùng hoang mang. Mặt khác, được sự tác động của phong trào ở các thị xã Bạc Liêu và Sóc Trăng, nên ngày 24.8.1945, Vĩnh Châu đã giành được chính quyền.

Như vậy, từ ngày 23 đến ngày 25.8.1945, chính quyền của địch từ tỉnh đến quận và cơ sở ở tỉnh Bạc Liêu đã về tay nhân dân. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám ở Bạc liêu là kết quả của quá trình vận động cách mạng liên tục của Đảng bộ từ khi chi bộ đầu tiên ra đời năm 1930 đến khi giành được chính quyền.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Chín, 2011, 02:20:21 pm
CÀ MAU(*)

Cà Mau tuy ở cực Nam của tổ quốc, nhưng đã sớm hòa mình vào cuộc đấu tranh yêu nước, giải phóng dân tộc của nhân dân cả nước. Từ sau khi Đảng ra đời, Đảng bộ Hậu Giang đã lãnh đạo phong trào xây dựng cơ sở quần chúng, thành lập khu căn cứ cách mạng. Vì vậy, khi có thời cơ, dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, nhân dân Bạc Liêu - Cà Mau đã chuẩn bị lực lượng tiến lên khởi nghĩa giành chính quyền.

Khi Nhật đảo chính Pháp, một toán lính Pháp chạy trốn vào rừng Năm Căn và Tân Bằng(1), Ban vận động tái lập Đảng bộ Nam Kỳ đã viết tư và đề nghị cùng hợp tác chống Nhật, nhưng chúng từ chối.

Để có sự lãnh đạo kịp thời và thống nhất, ngày 5.1945, tại Tân Bằng, Ban vận động tái lập Đảng bộ Nam Kỳ triệu tập Hội nghị đại biểu các chi bộ ở khu vực Cà Mau thành lập cơ quan lãnh đạo lâm thời của Đảng bộ tỉnh (Tỉnh ủy) gồm 5 đồng chí, do đồng chí Trần Văn Đại làm bí thư. Do chưa liên lạc được với các nhóm cách mạng khác trong tỉnh(2) nên các đồng chí lãnh đạo ở Cà Mau vẫn phải hoạt động độc lập và ra tờ báo “Độc lập”(3) làm cơ quan tuyên truyền. Vì vậy, nhóm này thường được gọi là nhóm “Độc lập”.

Sau khi tiếp nhận chủ trương của Trung ương Đảng về việc chuẩn bị Tổng khởi nghĩa, Tỉnh ủy lâm thời Cà Mau (nhóm “Độc lập”) khẩn trương đẩy mạnh phát triển tổ chức Đảng và các hội cứu quốc của quần chúng, xây dựng lực lượng vũ trang tự vệ. Với khí thế sôi sục của thời tiền khởi nghĩa, chỉ trong vài tháng, phong trào cách mạng phát triển sâu rộng trong khắp vùng nông thôn Cà Mau, tăng cường hoạt động xung quanh thị trấn, gây dựng thêm nhiều cơ sở cách mạng. Đảng bộ đã tranh thủ và tập hợp được đông đảo các tầng lớp nhân dân, bao gồm cả nhân sĩ, trí thức, tín đồ các tôn giáo và những người tiến bộ đang ở trong bộ máy chính quyền của địch. Phong trào đấu tranh của nhân dân Cà Mau dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy lâm thời (nhóm “Độc lập”) ngày càng phát triển, tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền.

Ngày 15.8.1945, khi nhận được tin Nhật đầu hàng Đồng minh và quân đội Nhật ở Bạc Liêu kéo về Cần Thơ, Liên Tỉnh ủy Hậu Giang chỉ thị cho các Đảng bộ phải bằng mọi cách giành được chính quyền ở địa phương mình, hòa nhịp chung với cuộc Tổng khởi nghĩa trong cả nước.

Ngày 25.8.1945, Tỉnh ủy lâm thời (nhóm “Độc lập”) ở Cà Mau, do đồng chí Trần Văn Đại và Thái Ngọc Sanh lãnh đạo, tổ chức một cuộc mít tinh lớn tại sân vận động Cà Mau để chào mừng Mặt trận Việt Minh ra mắt và cũng là cuộc biểu dương lực lượng của quần chúng cách mạng. Cuộc mít tinh chuyển thành cuộc biểu tình vũ trang thị uy, kéo về dinh Đốc phủ Kế (Nguyễn Văn Kế), Quận trưởng Cà Mau, buộc giao chính quyền cho nhân dân, nhưng hắn xin ta cho hoán lại một vài hôm. Quyết không để trì hoãn việc giành chính quyền, Tỉnh ủy huy động lực lượng quần chúng tiếp tục gây áp lực mạnh. Trước thái độ cương quyết và cứng rắn của ta, Đốc phủ Kế phải bàn giao chính quyền cho Ủy ban dân tộc giải phóng Cà Mau. Đúng vào thời điểm đó, đồng chí Tào Văn Tỵ, Ủy viên quân sự Ủy ban dân tộc giải phóng tỉnh khu vực Bạc Liêu đưa lực lượng đến chi viện cho quận Cà Mau.

Phát huy thắng lợi, nhân dân khắp vùng nông thôn trong tỉnh dưới sự lãnh đạo của các chi bộ Đảng đã nhất tề đứng lên đập tan chính quyền thực dân xã, ấp, thành lập chính quyền nhân dân, xây dựng và phát triển các đoàn thể quần chúng cách mạng. Toàn tỉnh được hoàn toàn giải phóng, chính quyền về tay nhân dân.

Trải qua 15 năm đấu tranh hi sinh gian khổ (1930-1945), với tinh thần kiên cường, anh dũng dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ, nhân dân Cà Mau đã đập tan bộ máy thống trị của thực dân pháp, phát xít Nhật và phong kiến tay sai ở địa phương, giành lại quyền làm chủ vận mệnh của mình.

Thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám ở Cà Mau là kết quả của quá trình vận động cách mạng kiên trì, liên tục và đầy gian khổ, hi sinh của Đảng bộ, từ khi chi bộ Đảng đầu tiên ra đời (1930) đến khi giành được chính quyền. Trong 15 năm ấy, Đảng bô đã vận dụng đường lối, chủ trương của Đảng vào tình hình cụ thể ở địa phương một cách kiên định, linh hoạt và sáng tạo. Ngay từ những ngày đầu, Đảng bộ đã đứng ra tập hợp, vận động quần chúng đấu tranh từ tự phát đến tự giác và xây dựng các tổ chức quần chúng từ thấp đến cao bằng nhiều hình thức thích hợp như tổ chức Nghiệp đoàn, các Hội tương tế, ái hữu… đến các Hội Nông dân, Phụ nữ, Thanh niên. Thắng lợi của Tổng khởi nghĩa ở Cà Mau góp phần vào thắng lợi chung của Cách mạng tháng Tám 1945 trong cả nước.


(*) Người viết: TS. Thái Văn Long, Sở Giáo dục và Đào tạo Cà Mau.
(1) Xã Biển Bạch, huyện Thới Bình.
(2) Lúc bấy giờ Cà Mau là một bộ phận hành chính của tỉnh Bạc Liêu.
(3) Một tờ tin để tuyên truyền, vận động quần chúng, giáo dục đảng viên.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Chín, 2011, 02:23:37 pm
NIÊN BIỂU NHỮNG SỰ KIỆN CHÍNH
VỀ TỔNG KHỞI NGHĨA THÁNG TÁM 1945
(*)

Để tạo điều kiện cho bạn đọc có cái nhìn khái quát về Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945, chúng tôi lập niên biểu về việc nhân dân các tỉnh đứng dậy giành chính quyền, diễn ra trong vòng nửa tháng. Để lập niên biểu này, chúng tôi chủ yếu dựa vào cuốn “Việt Nam những sự kiện lịch sử (1919-1945)” của Dương Trung Quốc; “Đại cương lịch sử Việt Nam”, tập II, Nhà xuất bản Giáo dục; “Lịch sử Cách mạng tháng Tám 1945” của Viện Lịch sử Đảng, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 1995.

14.8.1945
Tại Quảng Ngãi: ngày 14.8, lệnh khởi nghĩa được ban hành, khởi nghĩa từng phần đã thắng lợi ở hầu khắp các địa phương dọc quốc lộ 1 từ Đức Phổ đến Bình Sơn, đảo Lý Sơn và châu Ba Tơ; ngày 16.8, lực lượng cách mạng đã chiếm được dinh Tỉnh trưởng và làm chủ các công sở ở thị xã; ngày 27.8, quân Nhật rút khỏi thị xã, hoàn thành việc giành chính quyền.

18.8.1945
Khởi nghĩa giành chính quyền tại các tỉnh lị Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam.
- Tại Bắc Giang: ngày 1.6, huyện Hiệp Hòa giành được chính quyền; ngày 16.7, chiếm phủ Yên Thế; ngày 19.7, chiếm phủ Lục Ngạn; ngày 20.7, huyện Yên Dũng giành chính quyền; ngày 18.8, tỉnh lị Bắc Giang (phủ Lạng Thương) giành chính quyền; ngay 19.8, châu Yên Dũng giành chính quyền.
- Tại Hải Dương: ngày 17.8, huyện Cẩm Giàng giành chính quyền; ngày 18.8, tỉnh lị Hải Dương giành chính quyền; ngày 20.8, tất cả các huyện lị đều thuộc quyền kiểm soát của của lực lượng cách mạng.
- Tại Hà Tĩnh: ngày 17.8, các huyện Cẩm xuyên, Thạch Hà, Can Lộc giành được chính quyền; ngày 18.8, tỉnh lị Hà Tĩnh và các huyện Kỳ Anh, Đức Thọ giành chính quyền; ngày 19.8, các huyện Hương Sơn, Nghi Xuân nổi dậy; ngày 21.8, huyện cuối cùng là Hương Khê giành được chính quyền.
- Tại Quảng Nam: ngày 18.8, giành chính quyền ở tỉnh lị (thị xã Hội An), Tam Kỳ, Điện Bàn, Quế Sơn. Ngày 22.8, giành chính quyền ở Hòa Vang, ngày 26.8, giành chính quyền ở Đà Nẵng.

19.81945
Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tại Hà Nội và các tỉnh lị Thái Bình, Khánh Hòa.
- Tại Hà Nội: Ngày 17.8, Việt Minh đã biến cuộc mít tinh ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim thành cuộc biểu dương lực lượng cách mạng của quần chúng; ngày 19.8, mít tinh tại quảng trường Nhà hát Lớn, quần chúng nhân dân kết hợp với lực lượng vũ trang chiếm đóng các công sở, cơ quan đầu não của chính quyền bù nhìn, giành chính quyền về tay nhân dân.
- Tại Thái Bình: ngày 19.8, khởi nghĩa giành chính quyền tại thị xã Thái Bình và các huyện Quỳnh Côi, Tiên Hưng, Phụ Dực; ngày 20.8, giành chính quyền ở Duyên Hà, Thụy Anh; ngày 21.8, ở Hưng Nhân, phủ Kiến Xương; ngày 22.8, ở Vũ Tiên và phủ Tiền Hải; ngày 25.8, huyện Thư Trì giành được chính quyền.
- Tại Khánh Hòa: Ngày 16.8, huyện Vạn Ninh giành được chính quyền sớm nhất; ngày 17.8, huyện Diên Khánh; 19.8, huyện Vĩnh Xương và thị xã Nha Trang; huyện Cam Ranh giành chính quyền muộn nhất tỉnh (22.8).

20.8.1945
Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở các tỉnh Thanh Hóa, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Ninh Bình, Sơn Tây, Yên Bái.
- Tại Thanh Hóa: Ngày 19.8, các huyện Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Cẩm Thủy giành được chính quyền; ngày 20.8, giành chính quyền ở thị xã Thanh Hóa; ngày 21.8, ở huyện Tĩnh Gia, Nông Cống. Sáu huyện miền núi là Quan Hóa, Bá Thước, Lang chánh, Ngọc Lặc, Như Xuân, Thường Xuân chưa có cơ sở cách mạng nhưng chính quyền địch hoàn toàn tan rã.
- Tại Bắc Ninh: ngày 17.8, huyện Tiên Du giành chính quyền thắng lợi; ngày 18.8, huyện Lang Tái, Võ Giàng, ngày 19.8, huyện Yên Phong; ngày 20.8, thị xã Bắc Ninh và huyện Thuận Thành giành chính quyền; ngày 21.8, huyện Văn Giang; ngày 22.8, huyện Quế Dương.
- Tại Thái Nguyên: từ tháng 3.1945, nhiều châu huyện đã khởi nghĩa từng phần; đến tháng 8.1945, địch chỉ còn kiểm soát được châu lị La Hiên (Võ Nhai) và thị xã Thái Nguyên; ngày 20.8, quân giải phóng tiến vào thị xã phối hợp với nhân dân nổi dậy giành chính quyền thắng lợi.
- Tại Ninh Bình: ngày 17.8, huyện Gia Viễn giành chính quyền; tiếp đó là thị trấn Nho Quan; ngày 20.8, thị xã Ninh Bình và huyện Gia Viễn giành được chính quyền; ngày 21.8, huyện Yên Mô, Kim Sơn.
- Tại Sơn Tây: ngày 17.8, giành chính quyền ở huyện Quốc Oai; ngày 18.8, ở huyện Thạch Thất, Phúc Thọ; thị xã Sơn Tây giành được chính quyền ngày 20.8; ngày 21.8, ở Tùng Thiện; ngày 22.8, ở Quảng Oai; ngày 25.8, ở Bất Bạt.
- Tại Yên Bái: Các cuộc khởi nghĩa từng phần đã diễn ra từ đầu tháng 7.1945; đến giữa tháng 8.1945, địch chỉ còn kiểm soát được tỉnh lị; ngày 18.8, lực lượng cách mạng tiến vào thị xã; ngày 20.8, giành được chính quyền tỉnh.


(*) Người viết: ThS. Nguyễn Thị Thế Bình, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Chín, 2011, 02:27:41 pm
21.8.1945
Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh lị Bắc Kạn, Tuyên Quang, Nam Định, Nghệ An, Ninh Thuận, Phúc Yên.
- Tại Bắc Kạn: đến tháng 8.1945, phần lớn Bắc Kạn đã được giải phóng, quân Nhật chỉ còn chiếm giữ thị xã và một vài thị trấn, phủ lị; ngày 19.8, Phủ Thông giải phóng; ngày 20.8, quân Nhật rút khỏi thị xã; ngày 21.8, chính quyền về tay nhân dân.
- Tại Tuyên Quang: đến tháng 6.1945, có 7 huyện giành được chính quyền: Chiêm Hóa, Hàm Yên, Yên Bình, Na Hang…; đêm 16 - 17.8, lực lượng vũ trang nổi dậy làm chủ thị xã, nhưng quân Nhật chiếm lại; đến 21.8, thị xã Tuyên Quang hoàn toàn giải phóng.
- Tại Nam Định: ngày 17.8, giành chính quyền ở huyện Trưc Ninh; ngày 18.8, huyện Nam Trực; ngày 20.8, huyện Ý Yên, Vụ Bản, Nghĩa Hưng, Xuân Trường; ngày 21.8, thành phố Nam Định và huyện Mỹ Lộc giành được chính quyền.
- Tại Nghệ An: ngày 18.8, huyện Quỳnh Lưu giành được chính quyền; ngày 19.8, huyện Hưng Nguyên; ngày 21.8, thị xã Vinh giành chính quyền thắng lợi; ngày 22.8, Nghĩa Đàn; ngày 23.8, Anh Sơn, Thanh Chương, Nam Đàn; ngày 25.8, Nghi Lộc, Yên Thành; ngày 26.8, các huyện Con Cuông, Vĩnh Hòa, Tương Dương, Quỳ Châu giành được chính quyền.
- Tại Ninh Thuận: ngày 21.8, khởi nghĩa giành chính quyền ở thị xã Phan Rang và Bảo Tháp (Tháp Chàm); sau đó, các huyện, tổng trong tỉnh giành chính quyền.
- Tại Phúc Yên: ngày 19.8, thị xã Phúc Yên và các huyện Kim Anh, Đa Phúc… tiến hành khởi nghĩa; ngày 21.8, giành được chính quyền ở tỉnh lị.

22.8.1945
Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tại các tỉnh Cao Bằng, Hưng Yên, Kiến An, Tân An.
- Tại Cao Bằng: ngày 19 - 20.8, lần lượt các châu lị Hà Quảng, Hòa An, Nguyên Bình, Trùng Khánh, Quảng Uyên, Thạch An quân Nhật rút chạy, lực lượng cách mạng nắm chính quyền; tối 22.8, quân giải phóng kéo vào thị xã giải tán chính quyền địch, giành chính quyền về tay nhân dân.
- Tại Hưng Yên: ngày 14.8, huyện Phù Cừ giành được chính quyền; ngày 16.8, Khoái Châu; ngày 17.8, Mỹ Hòa, Tiên Lữ; ngày 20.8, Kim Động; ngày 21.8, Vạn Lâm; ngày 18.8, tại thị xã Hưng Yên lực lượng cách mạng làm chủ một phần thường xuyên; đến 22.8, chính quyền hoàn toàn thuộc về cách mạng.
- Tại Kiến An: ngày 12.7, huyện Kim Sơn giành được chính quyền; ngày 15.8, huyện Kiến Thụy giành được chính quyền; ngày 17.8, huyện Tiên Lãng, An Dương, An Lão, Thủy Nguyên; ngày 21.8, lực lượng cách mạng nổi dậy ở thị xã; ngày 22.8, cách mạng làm chủ hoàn toàn.
- Tại Tân An: ngày 22.8, giành chính quyền tại thị xã Tân An, buổi chiều khởi nghĩa thắng lợi ở các quận Châu Thành, Thủ Thừa; ngày 23.8, quận Mộc Hóa giành chính quyền.

23.8.1945
Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tại Thừa Thiên - Huế, Hải Phòng, Hà Đông, Hòa Bình, Quảng Bình, Bình Định, Gia Lai, Bạc Liêu, Quảng Trị, Lâm Viên.
- Tại Thừa Thiên - Huế: ngày 18.8, huyện lị Phong Điền, Phú Lộc giành chính quyền; ngày 22.8, các huyện Hương Thủy, Hương Trà, Phú Vang, Quảng Điền giành chính quyền thắng lợi; ngày 23.8, lực lượng cách mạng đã biến cuộc biểu tình của ngụy quyền tổ chức thành cuộc tuần hành thị uy giành chính quyền trong toàn thành phố.
- Tại Hải Phòng: ngày 23.8, giành chính quyền thắng lợi ở thành phố.
- Tại Hà Đông: ngày 16.8, khởi nghĩa thắng lợi ở các huyện Ứng Hòa, Mỹ Đức, Chương Mỹ; ngày 18.8, giành chính quyền ở các huyện Thanh Trì, Thanh Oai, Thường Tín, Phú Xuyên; ngày 20.8, lực lượng cách mạng nổi dậy ở thị xã; đến 23.8 hoàn toàn làm chủ được thị xã.
- Tại Hòa Bình: ngày 20.8, châu lị Vụ Bản giành được chính quyền; ngày 23.8, giành chính quyền ở thị xã Hòa Bình; ngày 26.8, châu Lương Sơn giành được chính quyền.
- Tại Quảng Bình: đêm 22.8, khởi nghĩa bùng nổ ở thị xã Đồng Hới; ngày 23.8, chính quyền hoàn toàn về tay nhân dân; cùng ngày, khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở tại các huyện lị Lệ Thủy, Quảng Ninh, Bố Trạch, Quảng Trạch, Tuyên Hóa.
- Tại Quảng Trị: khởi nghĩa giành chính quyền trong cả tỉnh.
- Tại Bình Định: khởi nghĩa giành chính quyền bắt đầu từ thị xã Quy Nhơn, ngày 23.8, chính quyền thuộc về nhân dân; tiếp đó, các huyện An Nhơn, Phù Cát, Tuy Phước lần lượt giành chính quyền.
- Tại Gia Lai: ngày 22.8, khởi nghĩa giành chính quyền ở thị trấn An Khê; ngày 23.8, giành được chính quyền ở thị xã Plâyku.
- Tại Bạc Liêu: ngày 23.8, quần chúng biểu dương lực lượng trên các đường phố thị xã Bạc Liêu làm cho bộ máy chính quyền địch tan rã, Ủy ban giải phóng dân tộc tỉnh lên nắm chính quyền, nhân dân nổi dậy tại thị trấn Cà Mau từ 21.8, đến 25.8 mới giành được chính quyền.
- Tại Lâm Viên: ngày 21.8, khởi nghĩa thắng lợi tại Cầu Đất; ngày 22.8, giành chính quyền ở Đran; ngày 23.8, thị xã Đà Lạt khởi nghĩa, quân khởi nghĩa chiếm dinh Tổng đốc, lập chính quyền cách mạng.

24.8.1945
Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tại các tỉnh Hà Nam, Quảng Yên, Đắk Lắk, Phú Yên, Gò Công.
- Tại Hà Nam: ngày 20.8, khởi nghĩa thắng lợi tại các huyện lị Duy Tiên, Lý Nhân, Kim Bảng; ngày 22.8, khởi nghĩa giành chính quyền ở phủ Bình Lục, Lạc Thủy; ngày 24.8, tại thị xã Phủ Lý ngụy quyền đầu hàng và trao chính quyền cho cách mạng.
- Tại Quảng Yên: ngày 24.8, lực lượng cách mạng nhanh chóng làm chủ thị xã và các huyện lị bởi vì bộ máy chính quyền địch tại đây đã cơ bản tan rã từ tháng 7.1945.
- Tại Đắk Lắk: ngày 17.8, khởi nghĩa nổ ra ở đồn điền Cađa rồi nhanh chóng lan rộng ra toàn tỉnh; ngày 20.8, lực lượng cách mạng đã cơ bản làm chủ thị xã Buôn Ma Thuột, nhưng ngày 24.8 mới chính thức phát động khởi nghĩa giành chính quyền.
- Tại Phú Yên: ngày 20.8, quần chúng nhân dân ở thị xã Sông Cầu nổi dậy khởi nghĩa; ngày 24.8, khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở tỉnh lị; ngày 25.8, các huyện lị Đồng Xuyên, Tuy An, Tuy Hòa khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi.
- Tại Gò Công: ngày 23.8, trước khí thế cách mạng của quần chúng, tỉnh trưởng Gò Công tự trao chính quyền cho Ủy ban dân tộc giải phóng; ngày 24.8, chính quyền cách mạng được thành lập.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Chín, 2011, 02:32:06 pm
25.8.1945
Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tại thành phố Sài Gòn và các tỉnh lị Chợ Lớn, Gia Định, Bình Thuận, Long Xuyên, Vĩnh Long, Bà Rịa, Thủ Dầu Một, Trà Vinh, Bến Tre, Tây Ninh, Sa Đéc, Kon Tum, Lạng Sơn, Phú Thọ, Sơn La.
- Tại Thành phố Sài Gòn: tối 20.8, Việt Minh tổ chức mít tinh trong thành phố kêu gọi khởi nghĩa; ngày 24.8, nhiều cuộc biểu tình tuần hành diễn ra trên đường phố; ngày 25.8, lực lượng cách mạng hoàn toàn làm chủ thành phố.
- Tại Chợ Lớn: ngày 24.8, Cần Giuộc, Cần Đước giành được chính quyền; ngày 25.8, các quận của Chợ Lớn đồng loạt khởi nghĩa giành chính quyền cùng với thành phố Sài Gòn.
- Tại Gia Định: Sau khi hỗ trợ cho cuộc nổi dậy ở thành phố Sài Gòn, lực lượng quần chúng cách mạng kéo về giành chính quyền ở thị xã Gia Định cùng ngày 25.8.
- Tại Bình Thuận: trước sức ép của cách mạng, chính quyền địch hoàn toàn tan rã; từ 23 đến 25.8, toàn bộ chính quyền cấp tỉnh thuộc về cách mạng; sau khi thị xã Phan Thiết giành chính quyền thắng lợi, các huyện lị Tuy Phong, Hòa Đa, Phan Lý giành chính quyền; ngày 29.8, huyện cuối cùng giành chính quyền là Hàn Tân.
- Tại Long Xuyên: ngày 24.8, thị trấn Chợ Mới khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi; ngày 25.8, giành chính quyền tại thị xã Long Xuyên.
- Tại Vĩnh Long: ngày 25.8, thị xã Vĩnh Long và quận Tam Bình giành được chính quyền; ngày 26.8, giành chính quyền ở quận Trà Ôn; ngày 27.8, ở Chợ Lách; ngày 28.8, Ủy ban nhân dân tỉnh được thành lập.
- Tại Bà Rịa: ngày 25.8, giành được chính quyền ở tỉnh lị, Ủy ban nhân dân lâm thời tỉnh được thành lập.
- Tại Thủ Dầu Một: ngày 24.8, khởi nghĩa giành chính quyền diễn ra ở thị trấn Bến Cát, Hớn Quản, Bà Rà, Tân Uyên, nhà máy xe lửa Dĩ An và một số đồn điền lớn; ngay 25.8, quần chúng làm chủ thị xã Lộc Ninh, chính quyền cách mạng thành lập.
- Tại Bến Tre: chiều 25.8, lực lượng cách mạng làm chủ thị xã; ngay đêm đó, các quận trong tỉnh đều nổi dậy giành chính quyền.
- Tại Trà Vinh: ngày 25.8, thị xã Trà Vinh và các huyện lị Càng Long, Cầu Ngang, Trà Cú, Tiểu Cần lần lượt khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.
- Tại Tây Ninh: đêm 25.8, lực lượng cách mạng khởi nghĩa giành chính quyền tại thị xã và các quận khác.
- Tại Sa Đéc: sáng 25.8, thị xã Sa Đéc và quận lị Cao Lãnh khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.
- Tại Kon Tum: ngày 25.8, lực lượng vũ trang từ Gia Lai kéo sang phối hợp với quần chúng nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền ở thị xã.
- Tại Lạng Sơn: đến tháng 8.1945, hầu hết các vùng nông thôn của tỉnh và 2 châu lị, huyện lị đã được giải phóng; ngày 24.8, lực lượng vũ trang tiến vào thị xã hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy giành chính quyền vào ngày 25.8; nhưng ngày 26.8, lực lượng cách mạng lại rút khỏi thị xã để tránh đụng độ với quân Tưởng từ Trung Quốc sang.
- Tại Phú Thọ: ngày 15.8, huyện Phú Ninh giành chính quyền; ngày 17.8, Cẩm Khê, Thanh Ba, Đoan Hùng; ngày 18.8, Yên Lập, Tam Nông; ngày 20.8, Lâm Thao, Hạc Trì, Việt Trì; ngày 22.8, Thanh Thủy; ngày 25.8, thị xã Phú Thọ Giành được chính quyền.
- Tại Sơn La: tháng 7.1945, Nghĩa lộ là châu lị đầu tiên được giải phóng; ngày 22.7, Phủ Yên; ngày 22.8, các huyện Mường La, Thuận Châu, Mường Thanh giành được chính quyền; ngày 25.8, tỉnh lị Sơn La khởi nghĩa giành chính quyền; tháng 10.1945, châu lị Mộc Châu mới giành được chính quyền cách mạng.

26.8.1945
Khởi nghĩa giành chính quyền tại các tỉnh Cần Thơ, Châu Đốc, Biên Hòa, Hòn Gai.
- Tại Cần Thơ: sáng 26.8, 20 vạn nhân dân thị xã và các vùng lân cận họp mít tinh, Ủy ban dân tộc ra mắt nhân dân và tuyên bố chính quyền về tay cách mạng.
- Tại Châu Đốc: ngày 22.8, thị trấn Hồng Ngự giành được chính quyền; ngày 24.8, quận Tân Châu; chiều 26.8, nhân dân thị xã Châu Đốc nổi dậy giành chính quyền; ngày 27.8, huyện Tịnh Biên và Tri Tôn khởi nghĩa giành thắng lợi.
- Tại Biên Hòa: sau khi tham dự khởi nghĩa giành chính quyền ở thành phố Sài Gòn (25.8), lực lượng cách mạng của Biên Hòa kéo về giành chính quyền tại thị xã, đến chiều 26.8 giành thắng lợi
- Tại Hòn Gai: ngày 26.8, lực lượng cách mạng kết hợp với các đơn vị vũ trang của chiến khu Trần Hưng Đạo tấn công làm chủ thị xã, chính quyền cách mạng thành lập.

27.8.1945
Khởi nghĩa giành chính quyền tại tỉnh lị Rạch Giá.
- Tại Rạch Giá: ngày 27.8, 60.000 quần chúng nhân dân từ các vùng nông thôn và nhân dân thị xã được vũ trang nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền; sau đó, các quận huyện trong tỉnh lần lượt giành được chính quyền.

28.8.1945
Khởi nghĩa giành hành quân tại các tỉnh lị Đồng Nai Thượng và Hà Tiên, cơ bản kết thúc cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên phạm vi cả nước.
- Tại Đồng Nai Thượng: ngày 28.8, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi tại thị xã Di Linh.
- Tại Hà Tiên: ngày 28.8, khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi tại thị xã.

Như vậy, trong vòng nửa tháng (từ 14 đến 28.8.1945), cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong phạm vi cả nước đã căn bản hoàn thành. Chỉ còn một số tỉnh lị do những điều kiện khách quan nên chưa giành được chính quyền: thị xã Vĩnh Yên bị lực lượng Quốc Dân Đảng chiếm giữ; các tỉnh lị Hà Giang, Lào Cai, Móng Cái bị quân đội Tưởng Giới Thạch chiếm đóng; tỉnh lị Lai Châu bị tàn quân Pháp từ Lào quay về chiếm giữ.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 01 Tháng Mười, 2011, 08:58:48 am
PHẦN THỨ BA

GIÁO DỤC TINH THẦN
CÁCH MẠNG THÁNG TÁM CHO THẾ HỆ TRẺ

Cách mạng tháng Tám vừa kế tục truyền thống đấu tranh bảo vệ Tổ quốc giải phóng dân tộc của tổ tiên, vừa để lại những bài học kinh nghiệm quý báu cho các thế hệ sau trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.

Vì vậy, vấn đề giáo dục cho thế hệ trẻ hiểu biết về Cách mạng tháng Tám, chống những luận điệu xuyên tạc lịch sử theo kiểu “diễn biến hòa bình” là một việc làm cần thiết. Phải làm cho hiểu rằng, cha ông ta đã đổ biết bao xương máu để lật đổ ách thống trị của thực dân đế quốc, để xây dựng một cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc. Chúng ta phải ghi nhớ công lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các bậc tiền bối cách mạng, tin tưởng tuyệt đối vào Đảng đã lãnh đạo cách mạng thành công và lần đầu tiên làm cho “nhân dân lao động trở thành người chủ của bản thân mình và của vận mệnh đất nước”(1).

Giáo dục niềm tin cho thế hệ trẻ là một nội dung quan trọng của việc “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau”(2). Bọn phản động càng ra sức tấn công làm xói mòn lòng tin của thế hệ trẻ. Mất lòng tin sẽ mất phương hướng hành động, dễ đi sai đường lạc lối. Chỉ có niềm tin mới đem lại sức mạnh, vượt qua khó khăn, thể hiện tinh thần yêu nước, đoàn kết dân tộc…

Những bài viết ở phần này sẽ tập trung vào chủ đề giáo dục tinh thần Cách mạng tháng Tám cho thế hệ trẻ.



(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 8, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 53.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 10, sđd, tr. 510.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 01 Tháng Mười, 2011, 09:03:27 am
SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG QUA MỘT SỐ TƯ LIỆU
VỀ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM

TRẦN VIẾT LƯU(*)

Ngay khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận sứ mệnh lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc, theo con đường cách mạng vô sản. Đây cũng là việc chấm dứt sự lãnh đạo phong trào yêu nước, giành độc lập dưới ngọn cờ của giai cấp tư sản dân tộc, tiểu tư sản.

Phong trào cách mạng 1930-1931 mở đầu cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Qua 15 năm (1930-19450 trải qua những cao trào 1930-1931, 1936-1939, 1939-1945, cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo, đứng đầu là Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, đã trải qua nhiều gian khổ, hi sinh, mất mát, song cuối cùng đã giành thắng lợi.

Thắng lợi này thể hiện tính cách mạng và khoa học trong quan điểm đường lối của Đảng, chỉ đạo cách mạng Việt Nam. Mục tiêu chiến lược cách mạng, được Cương lĩnh đầu tiên của Đảng (“Chính cương vắn tắt, “Sách lược vắn tắt”) khẳng định không thề thay đổi. Song trong quá trình lãnh đạo, do tình hình cụ thể, mục tiêu đấu tranh từng thời kì mà Đảng có sự chỉ đạo chuyển hướng chiến lược cho phù hợp với yêu cầu cách mạng, nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược. Đó là tính nguyên tắc kết hợp với sự sáng tạo, linh hoạt trong lãnh đạo của Đảng.

Điểm qua toàn bộ quan điểm, đường lối cách mạng của Đảng trong suốt 15 năm (1939-1945), chúng ta sẽ nhận thúc đúng con đường đấu tranh giải phóng dân tộc đưa tới Cách mạng tháng Tám 1945 thắng lợi.

Giới hạn trong phạm vi, nội dung bài viết, chúng tôi nêu một số văn kiện của Đảng từ sau cuộc đảo chính của Nhật lật đổ Pháp để nêu rõ vai trò có tính quyết định của Đảng đối với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám.

Năm 1939, khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, đế quốc Pháp ra sức đàn áp cách mạng, quân phiệt Nhật kéo vào Đông Dương. Trong tình hình và tương quan lực lượng chung, Pháp và Nhật câu kết với nhau để chia phần bóc lột nhân dân Đông Dương. Đảng Cộng sản Đông Dương đã sớm phát hiện mâu thuẫn không thể điều hòa được giữa “hai con chó tranh nhau gặm một mẩu xương” và dự đoán chúng sẽ “cắn xé” nhau để một mình chiếm đoạt “miếng mồi béo bở”.

Mâu thuẫn đi tới lật đổ nhau giữa Pháp và Nhật là cơ hội thuận lợi cho nhân dân Việt Nam giành độc lập.

Dự đoán của Đảng đã được thực tế xác nhận là đúng đắn, khi Nhật tiến hành đảo chính Pháp. Trong bối cảnh ấy, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương đã họp ngay tối ngày 9.3.1945 và thông qua chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.

Qua Chỉ thị này, chúng ta nhận thấy sự lãnh đạo sáng suốt, kịp thời của Trung ương Đảng. Sau khi phân tích đúng đắn nguyên nhân dẫn tới cuộc đảo chính, Chỉ thị khẳng định “Phải hành động ngay, hành động cương quyết nhanh chóng, sáng tạo chủ động, táo bạo”. Chỉ thị này là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng. Mặt trận Việt Minh, các Hội Cứu quốc tích cực khẩn trương chuẩn bị tiến tới Tổng khởi nghĩa khi có thời cơ.

Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” đã tạo điều kiện cho cao trào chống Nhật, cứu nước phát triển sâu rộng trong cả nước. Khởi nghĩa từng phần trở thành “một làn sóng dân lên cuồn cuộn”, như nhận định của Tổng Bí thư Trường Chinh. Phong trào đấu tranh vũ trang diễn ra ở Ba Tơ (Quảng Ngãi), ở 6 tỉnh miền núi phía Bắc; nhiều tỉnh khác đều tích cực chuẩn bị khởi nghĩa theo đường lối chủ trương của Đảng. Do hoạt động khởi nghĩa từng phần thắng lợi mà một khu vực rộng lớn gồm các tỉnh Việt Bắc, một bộ phận trung du, đồng bằng miền Bắc, miền Trung được giải phóng, nhân dân thực sự làm chủ quê hương để tiến tới giải phóng đất nước.

Trong cao trào chống Nhật, cứu nước, Hội nghị quân sự cách mạng của Đảng, hợp từ 15 - 20.4.1945, tại huyện Hiệp Hòa (Bắc Giang) đã quyết định nhiều vấn đề quan trọng chuẩn bị tiến tới tổng khởi nghĩa: phát triển lực lượng vũ trang, bán vũ trang, lập Việt Nam Giải phóng quân, cử Ủy ban quân sự cách mạng.

Với sự phát triển của phong trào chống Nhật, cứu nước, theo đề nghị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, khu giải phóng được thành lập. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Việt Minh, nhân dân khu giải phóng thực sự làm chủ quê hương, khi thực hiện “Mười chính sách lớn của Mặt trận Việt Minh”.

Từ đầu tháng 8.1945, tình hình thế giới có nhiều chuyển biến lớn, sau khi phát xít Đức, Italia đầu hàng vô điều kiện và quân phiệt Nhật ngày càng thất bại trên khắp chiến trường.

Khi Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng minh, Đảng ta nhận định đây là thời cơ “nghìn năm có một” để cuộc Tổng khởi nghĩa nổ ra và trong một thời gian ngắn, dưới sự chủ trì của Hồ Chí Minh, Đảng ta đã tiến hành Hội nghị toàn quốc của Đảng, Đại hội quốc dân Tân Trào, thành lập Ủy ban khởi nghĩa, ra Quân lệnh số 1 kêu gọi toàn dân đứng lên khởi nghĩa. Hồ Chí Minh cũng gửi “Thư kêu gọi khởi nghĩa” đế đồng bào cả nước, kêu gọi đoàn kết, dũng cảm tiến lên, dưới ngọn cờ của Việt Minh.

Sự lãnh đạo sáng suốt, kịp thời của Đảng rõ ràng là một nhân tố quan trọng, quyết định sự thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945. Nếu lúc bấy giờ chỉ một phút chần chừ, một sai sót nhỏ trong chủ trương, đường lối thì chúng ta đã bỏ mất cơ hội để giành thắng lợi lịch sử này.

Sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là một sự thực, thế mà cũng có một vài người do nhận thức sai lệch, những kẻ phản bội, phá hoại cố tình phủ nhận vai trò của Đảng, công lao to lớn của Hồ Chí Minh. Không thể phủ nhận được cuộc Cách mạng tháng Tám, một số người ra sức xuyên tạc lịch sử: “Sau khi Nhật đầu hàng, cuộc khởi nghĩa tháng 8 năm 1945 đã đưa Việt Minh đến chỗ chiếm trọn chính quyền trên toàn lãnh thổ”(1).

Để hiểu rõ hơn sự lãnh đạo của Đảng, công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945, chúng ta cần tìm hiểu sâu sắc hơn các văn kiện của Đảng thời kì này. Ở đây, chúng tôi giới thiệu một số tài liệu, văn kiện chủ yếu để tham khảo.


(*) TS. Ban Khoa giáo Trung ương.
(1) Băng Phong: Sử - Địa các lớp đệ nhất, Nhà xuất bản Học đường Sài Gòn, 1970, tr. 54.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 01 Tháng Mười, 2011, 09:12:01 am
NHẬT - PHÁP BẮN NHAU
VÀ HÀNH ĐỘNG CỦA CHÚNG TA


(Chỉ thị Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương
Ngày 12.3.1945)

I. Nhận xét tình hình

a) Cuộc chính biến nổ ra: Tám giờ 25 tối hôm 9-3-1945, Nhật nổ súng bắn Pháp; chiếm các thành phố lớn và địa điểm quân sự quan trọng. Sức kháng chiến của Pháp yếu, Pháp sẽ bại, vì ba lẽ:

1 - Không có tinh thần chiến đấu;

2 - Thiếu võ khí tinh xảo;

3 - Không thống nhất hành động với lực lượng chống Nhật của nhân dân Đông Dương.

b) Tính chất và mục đích cuộc chính biến: Chính biến ngày 9-3-1945 là một cuộc đảo chính, mục đích là truất quyền Pháp, tước khí giới của Pháp, chiếm hẳn lấy Đông Dương làm thuộc địa riêng của chủ nghĩa đế quốc Nhật.

c) Nguyên nhân cuộc chính biến: Cuộc chính biến ngày 9-3-1945 có ba nguyên nhân dưới đây:

1 - Hai con chó đế quốc không thể ǎn chung một miếng mồi béo như Đông Dương.

2 - Tàu, Mỹ sắp đánh vào Đông Dương. Nhật phải hạ Pháp để trừ cái hoạ bị Pháp đánh sau lưng khi quân Đồng minh đổ bộ.

3 - Sống chết Nhật phải giữ lấy cái cầu trên con đường bộ nối liền các thuộc địa miền Nam Dương với Nhật; vì sau khi Phi Luật Tân bị Mỹ chiếm, đường thuỷ của Nhật đã bị cắt đứt.

d) Cuộc khủng hoảng chính trị do cuộc đảo chính của Nhật gây ra: Ngay bây giờ, chúng ta đã nhận rõ mấy hiện tượng sau này, biểu hiện một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc:

1 - Hai quân cướp nước cắn xé nhau chí tử.

2 - Chính quyền Pháp tan rã.

3 - Chính quyền Nhật chưa ổn định.

4 - Các từng lớp đứng giữa hoang mang.

5 - Quần chúng cách mạng muốn hành động.

II. Điều kiện mới do tình thế mới gây ra

1. Những điều kiện khởi nghĩa chưa thực chín muồi: Mặc dầu tình hình chính trị khủng hoảng sâu sắc, nhưng điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương hiện nay chưa thực chín muồi. Vì:

a) Cuộc kháng chiến của Pháp quá yếu và cuộc đảo chính của Nhật tương đối dễ dàng; nên tuy giữa hai bọn thống trị Nhật, Pháp có sự chia rẽ đến cực điểm; tuy hàng ngũ bọn Pháp ở Đông Dương hoang mang, tan rã đến cực điểm; nhưng xét riêng bọn thống trị Nhật, ta thấy chúng chưa chia rẽ, hoang mang, do dự đến cực điểm.

b) Các từng lớp nhân dân đứng giữa tất nhiên phải qua một thời kỳ chán ngán những kết quả tai hại của cuộc đảo chính, lúc ấy mới ngả hẳn về phe cách mạng, mới quyết tâm giúp đỡ đội tiền phong.

c) Trừ những nơi có địa hình, địa thế, có bộ đội chiến đấu không kể, nói chung toàn quốc, đội tiền phong còn đang lúng túng ở chỗ sửa soạn khởi nghĩa, chưa sẵn sàng chiến đấu, chưa quyết tâm hy sinh.

2. Những cơ hội tốt đang giúp cho những điều kiện khởi nghĩa mau chín muồi. Ba cơ hội tốt dưới đây sẽ giúp cho những điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương chín muồi một cách mau chóng và một cao trào cách mạng nổi dậy:

a) Chính trị khủng hoảng (quân thù không rảnh tay đối phó với cách mạng).

b) Nạn đói ghê gớm (quần chúng oán ghét quân cướp nước).

c) Chiến tranh đến giai đoạn quyết liệt (Đồng minh sẽ đổ bộ vào Đông Dương đánh Nhật).

III. Chiến thuật của Đảng thay đổi

1. Hàng ngũ kẻ thù và Đồng minh quân có chỗ thay đổi: Cuộc đảo chính của Nhật mang lại những thay đổi lớn dưới đây:

a) Đế quốc Pháp mất quyền thống trị ở Đông Dương, không phải là kẻ thù cụ thể trước mắt ta nữa mặc dầu ta vẫn phải đề phòng cuộc vận động của bọn Đờ Gôn định khôi phục quyền thống trị của Pháp ở Đông Dương.

b) Sau cuộc đảo chính này, đế quốc phát xít Nhật là kẻ thù chính - kẻ thù cụ thể trước mắt - duy nhất của nhân dân Đông Dương.

c) Bọn Pháp kháng chiến đang đánh Nhật là đồng minh khách quan của nhân dân Đông Dương lúc này.

2. Khẩu hiệu chính thay đổi và toàn bộ chiến thuật thay đổi: Cương quyết tẩy trừ những khẩu hiệu và hình thức tranh đấu cũ, chuyển qua những hình thức tuyên truyền, tổ chức và tranh đấu mới. Đặc biệt chú ý những điều dưới đây:

a) Đem khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật!” thay cho khẩu hiệu “ Đánh đuổi Nhật, Pháp!”… chống lại chính quyền Nhật và chính phủ bù nhìn của bọn Việt gian thân Nhật.

b) Chuyển trục tâm tuyên truyền vào hai vấn đề:

1. Giặc Nhật không giải phóng cho ta; trái lại, tăng gia áp bức bóc lột ta.

2. Giặc Nhật không thể củng cố chính quyền ở Đông Dương và nhất định chúng sẽ chết.

c) Thay đổi mọi hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và tranh đấu cho hợp với thời kỳ tiền khởi nghĩa; động viên mau chóng quần chúng nhân dân lên mặt trận cách mạng, tập dượt cho quần chúng mạnh dạn tiến lên tổng khởi nghĩa.

d) Phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ để làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Cao trào ấy có thể bao gồm từ hình thức bất hợp tác, bãi công, bãi thị, phá phách, cho đến những hình thức cao như biểu tình thị uy võ trang, du kích.

đ) Sẵn sàng chuyển qua hình thức tổng khởi nghĩa một khi đã đủ điều kiện (ví dụ khi quân Đồng minh bám chắc và tiến mạnh trên đất ta).

IV. Thái độ ta đối với cuộc kháng chiến của Pháp và việc lập mặt trận dân chủ chống Nhật ở Đông Dương

1. Cuộc kháng chiến của Pháp tương đối tiến bộ: Cuộc kháng chiến của Pháp tuy có mục đích là giành giật quyền lợi đế quốc với Nhật; nhưng ta rất tán thành nó. Vì đứng về khách quan mà xét, nó đánh kẻ thù chính của ta là đế quốc phát xít Nhật nó có tính chất tương đối tiến bộ.

2. Những điều kiện làm cơ sở cho Mặt trận dân chủ thống nhất kháng Nhật ở Đông Dương: Bọn Pháp kháng chiến có thể cùng nhân dân cách mạng Đông Dương đứng trong Mặt trận dân chủ thống nhất kháng Nhật ở Đông Dương được, nếu họ thừa nhận bốn điều kiện của Đảng đã đề ra từ năm 1943 và sửa lại như dưới đây:

1) Những người ngoại quốc chống Nhật ở Đông Dương phải thừa nhận quyền dân tộc độc lập hoàn toàn và tức khắc của nhân dân Đông Dương.

2) Những lực lượng kháng Nhật của người ngoại quốc ở Đông Dương và cách mạng Đông Dương phải thống nhất hành động về mọi mặt, kể cả mặt quân sự. Sự thống nhất hành động ấy phải lấy nguyên tắc bình đẳng tương trợ làm nền tảng.

3) Các chính trị phạm người Đông Dương và người ngoại quốc đều được tha bổng.

4) Chính phủ cách mạng… bảo đảm sinh mệnh tài sản cho những người ngoại quốc chống phát xít Nhật ở Đông Dương và cho họ được hưởng quyền tự do cư trú và buôn bán.

3. Đánh Nhật trước đã! Tuy nhiên không phải trong bất cứ trường hợp nào ta cũng ôm khư khư cả bốn điều kiện trên đây một cách máy móc và bỏ lỡ cơ hội thực hiện cuộc liên hiệp hành động cùng người Pháp đánh Nhật trên đất Đông Dương. Cho nên ta sẵn sàng bắt tay những người Pháp thành thực chống Nhật đến cùng và hiện đang bắn nhau với Nhật; và ta hô hào họ giúp khí giới cho ta để cùng ta đánh Nhật trước đã! Như thế không phải là ta bỏ quyền dân tộc độc lập. Trái lại, ta nhận rõ rằng: rốt cuộc khẩu hiệu “dân tộc độc lập” do sức mạnh của quần chúng võ trang mà quyết định, chứ không phải do lời hứa hẹn của bọn Pháp kháng chiến mà quyết định.

4. Thực hiện thống nhất hạ tầng: Nhưng nếu bọn Pháp kháng chiến không tán thành bốn điều kiện trên kia, cũng không giúp khí giới cho ta đánh Nhật, thì bổn phận ta là phải vận động thống nhất với hạ tầng quân đội kháng chiến của Pháp, kéo những phần tử kiên quyết chống phát xít, có xu hướng quốc tế, thống nhất hành động với ta đánh Nhật, hoặc mang võ khí của đế quốc Pháp chạy sang phe ta, vượt qua đầu bọn võ quan ích kỷ và không triệt để, đặng cùng ta thực hiện Mặt trận dân chủ chống Nhật ở Đông Dương.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 01 Tháng Mười, 2011, 09:15:14 am
V. Công việc cần kíp

1. Về tuyên truyền
a) Khẩu hiệu: Chống chính quyền của Nhật và của bọn Việt gian thân Nhật. Nêu khẩu hiệu “Chính quyền cách mạng của nhân dân”.

b) Hình thức: Chuyển qua những hình thức tuyên truyền cổ động mạnh bạo hơn, như: mít tinh diễn thuyết có cờ, bǎng, áp phích, truyền đơn, bươm bướm. Tổ chức những cuộc hát đồng thanh và thao diễn. Tổ chức những cuộc triển lãm sách báo, tranh ảnh, võ khí, vv.

c) Thực hiện tuyên truyền xung phong: Thành lập những đội “tán phát xung phong” võ trang đi phát thật nhiều tuyên ngôn Việt Minh về tình hình Nhật, Pháp bắn nhau và các thứ truyền đơn, bươm bướm hay sách báo. Đặc biệt chú trọng dán áp phích cho nhiều và nǎng giới thiệu lá cờ Việt Minh với quốc dân.

Thành lập các đội “tuyên truyền xung phong” võ trang công khai diễn thuyết các nơi.

2. Về tranh đấu

a) Khẩu hiệu tranh đấu: gắn khẩu hiệu đòi cơm áo, chống thu thóc, thu thuế với khẩu hiệu “Chính quyền cách mạng của nhân dân”.

b) Thuật vận động tranh đấu: Bám lấy nạn đói mà cổ động quần chúng lên đường tranh đấu (tổ chức những cuộc biểu tình đòi gạo, đòi ǎn hay phá những kho gạo thóc của đế quốc).

c) Hình thức tranh đấu: Chuyển qua những hình thức tranh đấu cao hơn: tổng biểu tình tuần hành, bãi công chính trị; mít tinh công khai, bãi khoá; bãi thị; bất hợp tác với Nhật về mọi phương diện; chống thu thóc không nộp thuế.

Huy động đội tự vệ tước võ khí của binh lính bại trận, đào ngũ, dao động mất tinh thần.

Phát động du kích ở những nơi có địa hình, địa thế.

d) Đề phòng Nhật đàn áp. Hai trường hợp:

1 - Nếu Nhật về đàn áp, bắt bớ ở một làng nào, thì huy động cả làng và các làng xung quanh nổi trống, mõ, ốc, tù và, bắn súng, làm sức thanh viện, xua đuổi chúng; đồng thời mai phục đánh tháo cho những người bị bắt.

2 - Nếu Nhật đem quân đánh phá khu du kích thì đội quân du kích phải khéo dùng chiến thuật hoá chẵn thành lẻ, hoá lẻ thành chẵn, phối hợp với nhân dân đằng sau quân địch, đánh phá, nhiễu loạn, làm cho chúng phải rút lui.

3. Về tổ chức

a) Mở rộng cơ sở Việt Minh:

- Thành lập những ban “tổ chức xung phong” đi gây cơ sở cứu quốc ở những nơi chưa có phong trào.

- Dùng những hình thức tổ chức đơn sơ như bảo an, nhân dân tự vệ đội, nghĩa dũng đoàn, vũ dũng đoàn, uỷ ban hàng xã, uỷ ban trật tự nhà máy, vv., rồi do những hình thức ấy gây ra cơ sở cứu quốc nhanh chóng.

- Đặc biệt chú ý phát triển các đội tự vệ cứu quốc và thanh niên cứu quốc.

b) Tổ chức quân sự.

- Tổ chức thêm nhiều bộ đội du kích và tiểu tổ du kích.

- Thành lập những cǎn cứ địa mới.

- Thống nhất các chiến khu và thành lập “Việt Nam cứu quốc quân”.

- Tổ chức “Uỷ ban quân sự cách mạng” (tức Uỷ ban khởi nghĩa) để thống nhất chỉ huy du kích các chiến khu.

c) Tổ chức chính quyền:

- Thành lập Uỷ ban dân tộc giải phóng ở các nhà máy, mỏ, làng, ấp, đường, phố, trại lính, trường học, công tư sở, vv. Những uỷ ban này vừa có tính chất Mặt trận dân tộc thống nhất chống Nhật rộng rãi, vừa có ý nghĩa “tiền chính phủ” của đồng bào trong các xí nghiệp, các làng, vv.

- Thành lập “Uỷ ban nhân dân cách mạng” và “Uỷ ban công nhân cách mạng” ở những vùng quân du kích hoạt động.

- Thành lập “Uỷ ban nhân dân cách mạng Việt Nam” theo hình thức một Chính phủ lâm thời cách mạng Việt Nam.

4. Về huấn luyện

Chú ý hai điều:

a) Đề phòng phong trào lan rộng mà kém ǎn sâu, nên tổ chức đến đâu phải thực hành huấn luyện theo “Chương trình huấn luyện Việt Minh” đến đó.

b) Các cuộc tuyên truyền và tranh đấu đều có tính chất quân sự hoá, nên việc huấn luyện quân sự cho cán bộ các cấp và đội trưởng các đội tự vệ là rất cần.

VI. Sẵn sàng hưởng ứng quân Đồng minh

1. Khi quân Đồng minh kéo vào Đông Dương đánh Nhật, không phải ta có thể phát động tổng khởi nghĩa ngay tức khắc. Phải đợi cho quân Đồng minh không những bám chắc mà còn tiến được trên đất ta. Đồng thời phải chờ quân Nhật kéo ra mặt trận ngǎn cản quân Đồng minh để phía sau tương đối sơ hở; lúc đó phát động tổng khởi nghĩa mới có lợi.

2. Nơi nào quân Đồng minh đổ bộ, phải vận động nhân dân biểu tình hoan nghênh, uý lạo họ và võ trang quần chúng, thành lập dân quân, cùng quân Đồng minh chiến đấu. Nếu nơi ấy có bộ đội du kích của ta hoạt động, thì bộ đội phải tìm cách liên lạc với quân Đồng minh để cùng họ thực hiện việc đánh Nhật theo kế hoạch chung. Nhưng luôn luôn phải giữ quyền chủ động trong việc tác chiến.

3. Còn ở các vùng sau lưng quân địch trong khắp nước thì phải vận động quần chúng ra đường biểu tình hoan hô quân Đồng minh và đặc biệt xem xét nhất cử nhất động của quân Nhật đặng báo tin cho quân ta và quân Đồng minh rõ; đồng thời thực hiện một phần công tác phá hoại ở những nơi cần thiết. Khi nào có lệnh phát động tổng khởi nghĩa thì nổi dậy tất cả, đánh phá tan nát các đường giao thông, vận tải của giặc Nhật; đánh chiếm các kho tàng, đồn trại của Nhật, đánh chẹn các đội quân tuần tiễu và vận tải của Nhật, làm cho chiến tranh du kích càng lan tràn ra khắp nước, đến tận các thành phố.

4. Và ngay bây giờ phát động du kích, chiếm cǎn cứ địa, duy trì và mở rộng chiến tranh du kích, phải là phương pháp duy nhất của dân tộc ta để đóng vai chủ động trong việc đánh đuổi quân ǎn cướp Nhật Bản ra khỏi nước, chuẩn bị hưởng ứng quân Đồng minh một cách tích cực.

5. Song dù sao ta không thể đem việc quân Đồng minh đổ bộ vào Đông Dương làm điều kiện tất yếu cho cuộc tổng khởi nghĩa của ta; vì như thế là ỷ lại vào người và tự bó tay trong khi tình thế biến chuyển thuận tiện. Nếu cách mạng Nhật bùng nổ, và chính quyền cách mạng của nhân dân Nhật thành lập hay nếu giặc Nhật mất nước như Pháp nǎm 1940, và quân đội viễn chinh của Nhật mất tinh thần, thì khi ấy dù quân Đồng minh chưa đổ bộ; cuộc tổng khởi nghĩa của ta vẫn có thể bùng nổ và thắng lợi.

*

Các đồng chí!

Hãy giương cao lá cờ chói lọi của Đảng; gắng vượt mọi khó khǎn nguy hiểm, thực hành chỉ thị trên đây. Thắng lợi cuối cùng nhất định về tay chúng ta!

Ngày 12.3.1945                           
Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương 

Lưu tại Kho Lưu trữ                                                Trích theo Văn kiện Đảng - Toàn tập, tập 7, 1940-1945
Trung ương Đảng              Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2000, tr. 364-373


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 01 Tháng Mười, 2011, 09:17:01 am
THƯ KÊU GỌI TỔNG KHỞI NGHĨA

Hỡi đồng bào yêu quý!

Bốn năm trước đây, tôi có thư kêu gọi đồng bào ta đoàn kết. Vì có đoàn kết mới có lực lượng, có lực lượng mới giành được ĐỘC LẬP, TỰ DO.

Hiện nay quân đội Nhật đã tan rã, phong trào cứu quốc lan tràn khắp nước. Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) có hàng chục triệu đội viên, gồm đủ các từng lớp sĩ, nông, công, thương, binh, gồm đủ các dân tộc Việt, Thổ, Nùng, Mường, Mán. Trong Việt Minh đồng bào ta bắt tay nhau chặt chẽ, không phân biệt trai, gái, già, trẻ, lương, giáo, giàu, nghèo.

Vừa đây Việt Minh lại triệu tập "Việt Nam quốc dân đại biểu đại hội", cử ra ỦY BAN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG VIỆT NAM để lãnh đạo toàn quốc nhân dân kiên quyết đấu tranh kỳ cho nước được độc lập.

Đó là một tiến bộ rất lớn trong lịch sử tranh đấu giải phóng của dân tộc ta từ ngót một thế kỷ nay.

Đó là một điều khiến cho đồng bào ta phấn khởi và riêng tôi hết sức vui mừng.

Nhưng chúng ta chưa thể cho thế là đủ. Cuộc tranh đấu của chúng ta đương còn gay go, dằng dai. Không phải Nhật bại mà bỗng nhiên ta được giải phóng, tự do. Chúng ta vẫn phải ra sức phấn đấu. Chỉ có đoàn kết, phấn đấu, nước ta mới được độc lập.

Việt Minh là cơ sở cho sự đoàn kết, phấn đấu của dân tộc ta trong lúc này. Hãy ra nhập Việt Minh, ủng hộ Việt Minh, làm cho Việt Minh rộng lớn mạnh mẽ.

UỶ BAN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG VIỆT NAM cũng như Chính phủ lâm thời của ta lúc này. Hãy đoàn kết chung quanh nó, làm cho chính sách và mệnh lệnh của nó được thi hành khắp nước.

Như vậy thì Tổ quốc ta nhất định mau được độc lập, dân tộc ta nhất định mau được tự do.

Hỡi đồng bào yêu quý!

Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta.

Nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới đang ganh nhau tiến bước giành quyền độc lập. Chúng ta không thể chậm trễ.

Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!

Tháng 8 năm 1945
HỒ CHÍ MINH    

Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 3, xuất bản lần thứ hai,
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 553-554.

LỆNH KHỞI NGHĨA

(Quân lệnh số I của Ủy ban khởi nghĩa)

Hỡi quân dân toàn quốc!

12 giờ trưa ngày 13-8-1945, phát-xít Nhật đã đầu hàng Đồng minh, quân đội Nhật đã bị tan rã tại khắp các mặt trận. Kẻ thù chúng ta đã ngã gục.

Giờ tổng khởi nghĩa đã đánh!

Cơ hội có một cho quân dân Việt Nam vùng dậy giành lấy quyền độc lập của nước nhà!

Mang nhiệm vụ lãnh đạo cuộc khởi nghĩa toàn quốc cho đến toàn thắng, Ủy ban khởi nghĩa đã thành lập.

Hỡi các tướng sĩ và đội viên Quân giải phóng Việt Nam!

Dưới mệnh lệnh của Ủy ban khởi nghĩa các bạn hãy tập trung lực lượng, kíp đánh vào các đô thị và trong trận của quân địch; đánh chẹn các đường rút lui của chúng, tước võ khí của chúng! Đạp qua muôn trùng trở lực, các bạn hãy kiên quyết tiến!

Hỡi nhân dân toàn quốc!

Dưới mệnh lệnh của Ủy ban khởi nghĩa, đồng bào hãy đem hết tâm lực ủng hộ đạo Quân giải phóng, sung vào bộ đội, xông ra mặt trận đánh đuổi quân thù.

Chúng ta phải hành động cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng!

Tổ quốc đang đòi hỏi những hy sinh lớn lao của các bạn!

Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về ta!

Ngày 13 tháng 8 năm 1945, 11 giờ đêm
ỦY BAN KHỞI NGHĨA            

Lưu tại Kho Lưu trữ                                                                            Trích theo Văn kiện Đảng - Toàn tập
Trung ương Đảng                         tập 7, sđd, tr. 421-422


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 01 Tháng Mười, 2011, 09:18:01 am
NGHỊ QUYẾT CỦA TOÀN QUỐC HỘI NGHỊ
ĐẢNG CỘNG SẢN ĐÔNG DƯƠNG


(Ngày 14 - 15.8.1945)



III. Chủ trương của ta

1. Cơ hội rất tốt cho ta giành quyền độc lập đã tới.

2. Tình thế vô cùng khẩn cấp. Tất cả mọi việc đều phải nhằm vào ba nguyên tắc:

a) Tập trung - tập trung lực lượng vào những việc chính.

b) Thống nhất - thống nhất về mọi phương diện quân sự, chính trị, hành động và chỉ huy.

c) Kịp thời - kịp thời hành động, không bỏ lỡ cơ hội.

3. Mục đích cuộc chiến đấu của ta lúc này là giành quyền độc lập hoàn toàn.

4. Khẩu hiệu tranh đấu lớn lúc này là:

- Phản đối xâm lược!


- Hoàn toàn độc lập!

- Chính quyền nhân dân!

5. Đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng, không kể thành phố hay thôn quê. Thành lập những ủy ban nhân dân và những nơi ta làm chủ.

6. Thi hành 10 chính sách Việt Minh như dưới đây:

a) Phản đối xâm lược; tiễu trừ Việt gian. Lập nên một nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, hoàn toàn độc lập.

b) Vũ trang nhân dân chống Nhật. Mở rộng quân giải phóng Việt Nam.

c) Tịch thu tài sản của lũ giặc nước và của Việt gian, tùy trường hợp để làm của chung hay chia cho dân nghèo.

d) Bỏ hết thuế khóa, phu dịch cho đế quốc đặt ra.

đ) Thực hiện quyền tự do dân chủ và quyền phổ thông tuyển cử. Thừa nhận quyền dân tộc bình đẳng nam nữ bình quyền.

e) Chia lại ruộng công, làm cho dân nghèo có ruộng cày cấy; giảm địa tô, giảm lợi tức, hoãn nợ.

g) Thi hành luật ngày làm 8 giờ; đặt luật xã hội bảo hiểm; cứu tế nạn dân.

h) Thành lập và mở rộng nền kinh tế quốc dân. Khuyến khích và giúp đỡ công nghiệp, nông nghiệp và thương nghiệp. Lập quốc gia ngân hàng.

i) Chống nạn mù chữ, cưỡng bách giáo dục đến bậc sơ học. Đào tạo các hạng nhân tài.

k) Thân thiện với các nước coi trọng nền độc lập của Việt Nam.

7. Đối với các hạng người ngoại quốc ở Đông Dương:

a) Đối với Nhật: Tước võ khí, tịch thu tài sản; kẻ nào chống lại thì trị, bắt được thì nhốt vào trại giam chung, đối đãi tử tế; cảm hóa những phần tử tương đối tốt dùng vào việc tuyên truyền.

b) Đối với Pháp: Bảo vệ sinh mệnh, tài sản (trừ bọn Pháp gian thân Nhật).

c) Đối với Hoa kiều: Bảo vệ sinh mệnh, tài sản và thân thiện. Riêng với Hán gian, giao cho các đoàn thể kháng Nhật Hoa kiều xử trí.

d) Đối với Anh, Mỹ: Thân thiện.

8. Đối với các hạng Chính phủ bù nhìn, trong khi chờ đợi chỉ thị cụ thể của Đảng phải vận động quần chúng phản đối và nêu cao khẩu hiệu chính quyền nhân dân.

9. Đối với các hạng quân Đồng minh vào Đông Dương

a) Đối với quân Đờ Gôn vào nước ta, trong lúc đợi chỉ thị cụ thể của Đảng, phải tránh xung đột quân sự; song nơi nào chúng vào phải làm vườn không nhà trống đồng thời phải chỉ huy quần chúng biểu tình phản đối mưu mô của Pháp khôi phục địa vị cũ ở Đông Dương.

b) Đối với quân Mỹ, Anh, Tàu vào nước ta thì trong lúc đợi chỉ thị của Đảng:

- Tránh xung đột. Giao thiệp thân thiện.

- Tiêu cực đề kháng bằng cách vườn không nhà trống nếu họ xâm phạm đến quyền lợi của ta; huy động toàn lực quần chúng biểu tình nêu khẩu hiệu “Việt Nam hoàn toàn độc lập”.

IV. Vấn đề ngoại giao
 
1. Về mặt ngoại giao, tuy chúng ta đã cố gắng nhiều, nhưng mãi đến giờ, đối với Tàu vẫn chưa có kết quả tốt; đối với các nước Đồng minh khác, tuy việc ngoại giao có tiến, nhưng cách mạng Việt Nam vẫn chưa giành được một địa vị trên trường quốc tế.

2. Hiện nay, về chính sách ngoại giao, chúng ta cần phải nhận định cho rõ hai điều này:

a) Sự mâu thuẫn giữa hai phe Đồng minh Anh, Pháp và Mỹ, Tàu về vấn đề Đông Dương là một điều ta cần lợi dụng.

b) Sự mâu thuẫn giữa Anh, Mỹ, Pháp và Liên Xô có thể làm cho Anh, Mỹ nhân nhượng với Pháp và để cho Pháp trở lại Đông Dương.

3. Chính sách chúng ta là phải tránh cái trường hợp một mình đối phó với nhiều lực lượng Đồng minh (Tàu, Pháp, Anh, Mỹ) tràn vào nước ta và đặt Chính phủ của Pháp Đờ Gôn hay một chính phủ bù nhìn khác trái với ý nguyện dân tộc.

Bởi vậy cần tranh thủ sự đồng tình của Liên Xô và Mỹ chống lại mưu mô của Pháp định khôi phục địa vị cũ ở Đông Dương và mưu mô của một số quân phiệt Tàu định chiếm nước ta.

4. Dù sao chỉ có thực lực của ta mới quyết định được sự thắng lợi giữa ta và Đồng minh.

5. Đối với các nước nhược tiểu và dân chúng Tàu và Pháp, chúng ta phải liên lạc và tranh thủ sự giúp đỡ của họ.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 01 Tháng Mười, 2011, 09:19:39 am
V. Việc tuyên truyền cổ động

1. Phương hướng phải nhằm để tuyên truyền: nêu những khẩu hiệu chính động viên tinh thần cứu quốc; nêu cao nguyện vọng của dân tộc: quốc gia hoàn toàn độc lập; đả phá xu hướng cho rằng Đồng minh vào Đông Dương và Nhật đổ là nhiệm vụ chiến đấu của dân ta hết.

2. Công tác tuyên truyền cổ động phải làm ngay:

- Phát truyền đơn và dán áp phích, giải thích chủ trương của Đoàn thể.

- Phát bươm bướm và dán áp phích nêu 10 chính sách của Việt Minh.

- Phát truyền đơn chỉ rõ cho quần chúng tự động tổ chức dân quân và bầu Uỷ ban công nhân ở cá

c xí nghiệp. Uỷ ban nhân dân ở các làng, vv.

- Truyền tin, đặt ca.

- Dùng rađiô, loa truyền thanh (haut parleur) lưu chuyển để tuyên truyền.

- Mở rộng khắp nơi việc võ trang tuyên truyền và xung phong tuyên truyền.

- Họp mít tinh để động viên tinh thần nhân dân chống xâm lược giành độc lập.

- Đưa quần chúng ra đường biểu tình thị uy võ trang, đòi độc lập.

- Năng ra thông cáo về tin thức thế giới và trong nước để loan báo nhanh chóng những tin tức chính trị quan trọng và những thắng lợi của ta.

- Báo chí ra cho đều và cho mau kỳ và tránh những khuyết điểm như: thiếu mục hiệu triệu các từng lớp nhân dân, báo Đảng và báo Việt Minh hay ra trùng nhau.vv.

- Chỉnh đốn bộ tuyên truyền Trung ương, các xứ và khu giải phóng theo nguyên tắc dưới đây: bộ biên tập các báo chí ít phải có một số người chuyên trách; mỗi tờ báo phải có thông tin viên chịu trách nhiệm ở mỗi tỉnh.

- Mỗi tỉnh phải có một cơ quan ấn loát và vật liệu, cơ kiện để in truyền đơn, biểu ngữ, thông cáo, vv.

- Đặt quốc ca và định dấu hiệu cho quốc gia Việt Nam.
 
VI. Nhiệm vụ quân sự (Coi thông cáo riêng)

1. Định kế hoạch tác chiến để thi hành ngay:

- Điều kiện đánh - nơi nào cần và ăn chắc thì đánh.

- Nguyên tắc đánh - quân sự và chính trị phải phối hợp.

- Chiến thuật đánh - định cách tiến công, phòng thủ, thoái lui.

a) Tiến

1 - Mục đích tiến đánh cho quân giặc những đòn chí tử, tiêu diệt lực lượng của chúng, chớp lấy những căn cứ chính (cả các đô thị) trước khi quân Đồng minh vào.

2 - Công việc phải làm ngay để tiến:

- Tập trung lực lượng vào những chỗ cần thiết để đánh;

- Làm tan rã tinh thần quân địch và dụ chúng hàng trước khi đánh;

- Định phương hướng tiến công;

- Chuẩn bị các việc thi hành sau khi chiếm được nơi nào.

b) Thoái

1 - Mục đích thoái: giữ gìn đội ngũ; bảo toàn thực lực;

2 - Chuẩn bị kế hoạch rút lui về quân sự và chính trị (về quân sự: định các khu vực rút lui và đường liên lạc giữa các khu vực ấy hay từ những khu vực ấy ra biên giới. Về chính trị nếu tình thế trở nên gay go bất lợi thì phải rút vào bí mật; chỉ để một bộ phận công khai lợi dụng những khả năng hợp pháp mà hoạt động; chuẩn bị tinh thần dân chúng vượt mọi khó khăn và đề phòng âm mưu phá hoại của địch).

2. Chỉnh đốn và phát triển bộ đội - Thống nhất tên: quân giải phóng Việt Nam - thống nhất biên chế; cải tổ - thống nhất khẩu lệnh- kỷ luật (định thể lệ thưởng phạt) - cải thiện công tác chính trị trong bộ đội - tổ chức thêm những bộ đội mới. Chỉnh đốn bộ đội tự vệ chiến đấu và tiểu tổ du kích để thành lập quân giải phóng ở ngoài khu giải phóng.

3. Định rõ các chiến khu - địa giới các chiến khu toàn quốc và nhiệm vụ mỗi chiến khu ấy - giúp đỡ ngay những chiến khu ấy.

4. Lập bộ tư lệnh - thành lập Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc và Uỷ ban hành động chỉ huy các chiến khu.

5. Đào tạo cán bộ quân sự - lập thêm trường quân chính - thống nhất chương trình dạy.

6. Võ khí - tước võ khí của quân Nhật - tiếp tục chế thêm.

7. Thành lập Uỷ ban khởi nghĩa để thống nhất chỉ huy cuộc chiến đấu.
 
VII. Nhiệm vụ kinh tế

1. Mục đích: Làm sao cho có lương thực và những thứ cần dùng cho sự chiến đấu, dù trong hoàn cảnh gay go cũng không thiếu.

3(1). Lập Uỷ ban kinh tế và tài chính chuyên môn ở các vùng chiếm được và định kế hoạch cho ủy ban ấy.


(1) Trong tài liệu không có mục số 2.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 01 Tháng Mười, 2011, 09:21:17 am
VIII. Vấn đề giao thông

1. Phải đặc biệt chủ trương củng cố giao thông giữa các xứ và các cấp đảng bộ.

2. Tích cực tổ chức giao thông trong các ngành vận tải.

3. Lập ban giao thông chuyên môn và giúp đỡ đầy đủ cho họ làm tròn nhiệm vụ.
 
IX. Vận động các giới và các đảng phái

1. Vận động các giới

Công vận - Chú trọng công nhân đường giao thông, công nhân các ngành kỹ nghệ điện, nước, nhà in, công nhân tư gia, vv. Chú ý tổ chức “Công giáo công nhân cứu quốc hội” ở những nơi có nhiều công nhân đi đạo, tái bản báo Lao động.

Nông vận - “Nông dân cứu quốc hội” có thể thống nhất đến toàn quốc.
Binh vận - Vận động binh lính bản xứ, thuyết phục binh lính bản xứ giải ngũ; đặc biệt chú trọng vận động binh lính Đồng minh nếu họ vào đông ở nước ta.

Thanh vận - Thống nhất thanh niên các xứ; gắng tổ chức ủy ban thanh vận ở các thành phố. Vận động thanh niên hướng đạo.

Phụ vận - Thành lập ủy ban phụ vận các xứ. Gắng ra tờ báo phụ nữ và các tài liệu tuyên truyền phụ nữ.

Vận động văn hóa - Chú trọng vận động văn hóa các thành phố lớn. Thống nhất việc vận động văn hóa toàn quốc.

Vận động thương gia - Lập “Việt Nam thương gia cứu quốc hội”.

Vận động phú hào - Báo chí phải năng nói đến quyền lợi phú hào. Mở rộng các tổ chức “Việt Nam cứu quốc hội” trong các tầng lớp phú hào.

Vận động công chức và quan trường - Gắng thành lập những nhóm “Bạn Việt Minh”, nhóm “Quan trường yêu nước” và “Việt Nam chức viên cứu quốc hội”.

Vận động đồng bào theo đạo - “Mở rộng Việt Nam công giáo cứu quốc hội”. Cố cảm hóa quần chúng các hội Phật thầy và Cao Đài.

2. Vận động các đảng phái

- Ủng hộ việc gây dựng lại “Việt Nam Quốc dân Đảng”.

- Hết sức giúp đỡ “Việt Nam Dân chủ Đảng”.
 
X. Vấn đề cán bộ

1. Trung ương cũng như các xứ ủy phải có ban chuyên môn để đào tạo cán bộ. Mỗi tỉnh chí ít phải có một huấn luyện viên chuyên môn.

2. Phải quý cán bộ và giữ gìn cán bộ.

3. Phân phối cán bộ cho hợp lý; dùng cán bộ cho đúng.

4. Năng kiểm tra cán bộ.

5. Hết sức nâng đỡ các cán bộ quần chúng (cán bộ Việt Minh).

6. Đặc biệt chú ý đào tạo cán bộ địa phương và cán bộ dân tộc thiểu số.
 
XI. Vấn đề Đảng

1. Thống nhất Đảng

a) Thống nhất tổ chức: tiếp tục công việc đang làm.

b) Thống nhất chính trị: chống tả khuynh, hữu khuynh (chỉ thị riêng cho các xứ, nhất là cho Nam Kỳ).



3. Phát triển và củng cố Đảng

- Tổ chức đảng viên mới, tùy địa phương định thời gian dài hay ngắn cho mỗi đồng chí ít ra giới thiệu một đảng viên mới; kiểm soát và thi hành.

- Tổ chức các chi bộ xí nghiệp - phải tổ chức đảng trong quân giải phóng Việt Nam (trung đội làm đơn vị tổ chức).

- Thi hành kỷ luật đối với các đảng viên phạm lỗi nặng từ trước đến nay (nếu cần thì công bố).

- Khai trừ những phần tử hủ hóa thoái lui.

4. Đảng và Việt Minh phải tổ chức phân minh. Vạch rõ hệ thống tổ chức liên lạc của Đảng và Việt Minh phải phân biệt.

5. Định chương trình mở lớp huấn luyện của các đảng viên và cán bộ đảng, các đảng bộ từ tỉnh trở lên thì mở lớp để kinh thường huấn luyện cán bộ của cấp ấy. T.U. phải đặc biệt mở lớp huấn luyện cán bộ - Cán bộ phải bắt buộc chịu huấn luyện theo chương trình phổ thông của Đảng.

6. Tờ báo Đảng bắt buộc mỗi kỳ phải có mục huấn luyện chủ nghĩa - theo lối sơ giải. In nhiều tài liệu huấn luyện chủ nghĩa.

7. Các cấp đảng bộ phải luôn luôn tự chỉ trích.

Thông qua ở toàn quốc hội nghị ngày 15.8.1945

Lưu tại Kho Lưu trữ                                                                            Trích theo Văn kiện Đảng - Toàn tập
Trung ương Đảng                         tập 7, sđd, tr. 425-433


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 02 Tháng Mười, 2011, 05:03:33 pm
XÂY DỰNG NIỀM TIN VÀ QUYẾT TÂM ĐI THEO CON ĐƯỜNG
MÀ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM ĐÃ GIÀNH ĐƯỢC THẮNG LỢI

TRỊNH ĐÌNH TÙNG(*)
TRẦN ĐỨC MINH(**)

Trong giáo dục thế hệ trẻ, giáo dục niềm tin đúng một cách vững chắc là yêu cầu quan trọng. Ở mọi thời đại, con người đều có lòng tin một điều gì mà họ tôn thờ; đặc biệt trong xã hội có giai cấp, mỗi một người thuộc về một tầng lớp nào đấy lại được bồi dưỡng, giáo dục, xây dựng một lí tưởng nhằm xác định cho mình một nhân sinh quan, thế giới quan đúng đắn, phát triển tình cảm lành mạnh. Tuy nhiên, giai cấp thống trị vì quyền lợi của mình đã hướng nhân dân lao động vào một lòng tin, một lí tưởng sai lầm, phản động. Chúng làm cho mọi người thực hiện một cách mù quán phương châm “hãy tin rồi sẽ biết”. Khi nhân dân vùng lên đấu tranh để làm chủ thực sư thì họ cũng xác định một niềm tin vững chắc. Gia cấp công nhân với sự lãnh đạo của Đảng chân chính của mình đã giáo dục cho nhân dân, thế hệ trẻ một niềm tin tự giác, sáng suốt để hành động đúng, theo hướng “biết để tin”.

Vì vậy, việc giáo dục niềm tin, xây dựng lí tướng đúng được tiến hành trên cơ sở hiểu biết khoa học, tiếp thụ một cách chủ động, tự giác. Đồng thời với nhận thức tư tưởng đúng sẽ bồi dưỡng vốn tri thức, văn hóa, khoa học và làm cơ sở cho những hành động thực tiễn có hiệu quả cao. Về điều này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Trên nền tảng giáo dục chính trị và lãnh đạo tư tưởng tốt, phải phấn đấu nâng cao chất lượng văn hóa và chuyên môn nhằm thiết thực giải quyết các vấn đề do cách mạng nước ta đề ra và trong thời gian không xa, đạt được đỉnh cao của khoa học và kĩ thuật”(1).

Những nguyên tắc sư phạm nên trên được vận dụng vào việc giáo dục cho học sinh lòng tin và quyết tâm đi theo con đường mà Cách mạng tháng Tám đã giành thắng lợi.

Để xây dựng niềm tin và lí tưởng như vậy, trước hết phải làm cho thế hệ trẻ nắm vững những kiến thức cơ bản về Cách mạng tháng Tám. Ở đây cần ghi nhớ lời dạy của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đối với việc dạy học lịch sử để khắc phục một thiết sót “kinh niên” là giáo dục tư tưởng một cách chung chung, lí thuyết và không dựa vào cơ sở khoa học: “Nhất định chúng ta cần dạy sử chứ không thể ba hoa về “chính trị”. Ở đây ta không cần nói chính trị nữa, cả lịch sử nước ta là một sự cổ vũ vô cùng sâu xa. Dạy sử cho tốt thì sẽ tạo ra thanh niên say mê và tự hào về dân tộc mình một cách đúng đắn, không hề tự kiêu, không hề nảy sinh chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi”(2).

Cần hiểu rõ “không cần nói chính trị nữa” không có nghĩa là việc giáo dục lịch sử được tiến hành một cách “khách quan chủ nghĩa”, theo lí luận của các nhà sử học tư sản. Lênin đã khẳng định, trong xã hội có giai cấp không thể có khoa học xã hội “vô tư”, một loại khoa học “phi đảng”, mà bao giờ nó cũng mang tính đảng. “Không cần nói chính trị nữa” phải được hiểu là tránh việc nói chung chung, cứ lặp đi lặp lại như “nhân dân ta rất anh hùng”, “Đảng ta rất vĩ đại” mà không làm cho người nghe có hình ảnh cụ thể về “anh hùng”, “vĩ đại”. Do đó, “việc giáo dục tư tưởng” như vậy không có tác dụng, thậm chí còn gây hậu quả xấu đối với việc giáo dục lịch sử.

Việc giáo dục tư tưởng, niềm tin, lí tưởng trong giáo dục lịch sử, trước hết phải làm cho thế hệ trẻ có biểu tượng về quá khứ, tức là những hình ảnh cụ thể, chân xác về các sự kiện đã xảy ra, những nhân vật lịch sử, đúng như nó đã tồn tại. Kiến thức lịch sử không gắn chặt vào tâm trí, không có tác dụng về tư tưởng, tình cảm, biến thành hành động là những kiến thức “vô hình”, “vô hồn”, không tạo nên các biểu tượng, làm cơ sở cho việc giáo dục.

Vậy, chúng ta cần “tái hiện”, “làm sống” lại ở thế hệ trẻ những sự kiện nào của Cách mạng tháng Tám để giáo dục tư tưởng, nội dung giáo dục niềm tin nói riêng để họ kế tục sự nghiệp cha ông trong công cuộc dựng nước và giữ nước hiện nay.

Cũng như mọi sự kiện lịch sử khác, Cách mạng tháng Tám là một loại sự kiện đa dạng, phong phú, nhiều mặt, bao gồm nhiều sự kiện, tạo nên cuộc cách mạng vĩ đại này. Học lịch sử không phải là biết nhiều sự kiện, lấy đó làm tiêu chí để đánh giá trình độ học vấn, mà là nắm vững những sự kiện cơ bản (không thể thiếu được, chính xác, tiêu biểu) để hiểu sâu sắc về quá khứ. Trên cơ sở ấy, tiến hành giáo dục tư tưởng, định hướng cho hành động.


(*) PGS.TS. Trường đại học Sư phạm Hà Nội.
(**) PGS.TS. Trường Cao đẳng Sư phạm Nam Định.
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 12, sđd, tr. 403.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 02 Tháng Mười, 2011, 05:05:16 pm
Để giáo dục lòng tin cho thế hệ trẻ, theo chúng tôi, có thể tập trung vào một số kiến thức cơ bản sau đây.

Thứ nhất, hiểu biết đúng về con đường cứu nước mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn cho dân tộc, Đảng ta đã khẳng định và nhân dân ta đã kiên trì thực hiện thắng lợi từng bước, trước hết cho Cách mạng tháng Tám.

Với con đường cứu nước, cuộc đấu tranh yêu nước giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam đã thoát khởi sự khủng hoảng về đường lối và giai cấp lãnh đạo, mở ra một triển vọng to lớn đi tới thắng lợi tất yếu. Chỉ sau 15 năm, kể từ khi Đảng ra đời (1930-1945), cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đầu tiên trong lịch sử Việt Nam và ở Đông Nam Á đã thành công.

Sự thật lịch sử là như vậy, nhưng trong gần 60 năm qua, kể từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay, nhiều kẻ đã cố tình xuyên tạc lịch sử, hoặc chưa hiểu đúng, sâu sắc lịch sử nên đã cố tình, hay nhận thực sai về con đường dẫn tới thắng lợi và bản thân cuộc cách mạng vĩ đại này. Một số cho Cách mạng tháng Tám thành công chẳng qua là “sự ăn may” của Việt Minh, nhân lúc Nhật vừa thua trận, quân Đồng minh chưa “ thực thi sứ mệnh giải giáp Nhật ở Đông Dương”(?). Từ đó không ít kẻ xem sự bùng nổ của Cách mạng tháng Tám 1945 là một hành động “phi pháp”, vi phạm những thỏa thuận của Đồng minh về “chế độ ủy thác” và ngăn cản “nhiệm vụ giải giáp quân Nhật của Đồng minh”. Một số người nghiên cứu lịch sử thời kì Mĩ và chính quyền Sài Gòn thống trị Miền Nam (1954-1975) đã phủ nhận công lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc chuẩn bị và lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng thắng lợi. Họ cho rằng “những người cộng sản đã “đánh cắp” thành quả của nhân dân trong Cách mạng tháng Tám”, bởi vì “tinh thần dân tộc đã lãnh đạo cách mạng thành công”. Tệ hơn nữa, họ còn bôi nhọ, xuyên tạc lịch sử bằng vu cáo “những người cộng sản đã phản bội Cách mạng tháng Tám 1945, phản bội cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân tiếp đó rồi chia cắt đất nước”.

Gần đây, một số người mang danh “nhà sử học” ở hải ngoại cùng với những tên phản động quốc tế tung ra các luận điệu xảo trá, nhằm phủ nhận con đường cứu nước đúng đắn dẫn đến thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và kháng chiến chống Mĩ cứu nước (1945-1975). Họ quy kết Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam là “những kẻ hiếu chiến”, “dùng bạo lực để giành và giữ quyền lực chuyên chế”, gây nhiều hi sinh, tổn thất to lớn cho dân tộc. Một số người khác tập trung trong những cái gọi là “câu lạc bộ dân chủ”, những “hội phục quốc” đang hoạt động ở nước ngoài, chủ yếu ở Mĩ, đang tìm cách phủ nhận vai trò, công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc lãnh đạo Cách mạng tháng Tám giành được thắng lợi. Dù buộc lòng phải thừa nhận Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đóng góp cho sự thành công của Cách mạng tháng Tám, kháng chiến chống Pháp, Mĩ thì họ cũng khẳng định “con đường giải phóng dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội đã lỗi thời!”, “vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đã lỗi thời, phải nhường quyền lãnh đạo cho kẻ khác” (dĩ nhiên đó là bọn phản bội Tổ quốc, chống phá cách mạng”.

Lịch sử là sự thực khách quan, là chân lí không ai có thể bẻ gãy, xuyên tạc, phủ nhận. Tuy nhiên cũng cần nhận thấy rằng, những thủ đoạn nham hiểm của chiến lược “diễn biến hòa bình”, đánh vào thế hệ trẻ, sinh sau các sự kiện lịch sử của Cách mạng tháng Tám, kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ, du nhập lối sống đồi trụy, xa rời văn hóa, truyền thống dân tộc… những luận điểm ấy không phải không có tác hại nhất định, mà có khi còn nghiêm trọng. Điều nguy hiểm nhất là làm xói mòn niềm tin vào Đảng, Bác Hồ, vào con đường xã hội chủ nghĩa được khẳng định trong sự kiện giải phóng dân tộc và xây dựng một xã hội công bằng, văn minh, dân chủ, tiến bộ, ấm no, hạnh phúc.

Vì vậy, cần có những hình thức giáo dục trong nhà trường, chủ yếu qua các môn lịch sử, văn học, giáo dục công dân…, những hình thức giáo dục ngoài nhà trường qua sách báo, các phương tiện truyền thông đại chúng để cung cấp cho thế hệ trẻ những hiểu biết về Cách mạng tháng Tám, những sự kiện liên quan. Qua đó, giáo dục cho họ niềm tin vào con đường Cách mạng được xác định, tự hào về Cách mạng tháng Tám, củng cố lòng tin vào Đảng, Bác Hồ… Chống lại những luận điệu xuyên tạc lịch sử, mọi hình thức “diễn biến hòa bình”, biến niềm tin thành hành động cụ thể trong học tập, lao động, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 02 Tháng Mười, 2011, 05:07:32 pm
Thứ hai, hiểu biết về vai trò của quần chúng và cá nhân trong diễn biến Cách mạng tháng Tám, để giáo dục cho thế hệ trẻ lòng tin yêu đối với nhân dân, với Bác Hồ và các chiến sĩ cách mạng nói chung, những người trực tiếp tham gia, lãnh đạo Cách mạng tháng Tám.

Trong Cách mạng tháng Tám, vai trò của quần chúng nhân dân thể hiện cụ thể trong việc xây dựng các vùng giải phóng, căn cứ địa cách mạng, trong chiến đấu. Tuy quần chúng có sức mạnh to lớn, không một thế lực nào có thể ngăn cản, song trong những trường hợp, điều kiện, bối cảnh lịch sử nhất định, tương quan lực lượng giữa cách mạng và phản cách mạng không có lợi cho nhân dân và có thể hứng chịu những tổn thất to lớn. Không có tinh thần, quyết tâm chiến đấu, được tổ chức và lãnh đạo tốt thì khó thu được thắng lợi. Điều này giúp cho thế hệ trẻ nhận thức rằng, cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân nhất định sẽ thành công, nhưng cũng phải trải qua nhiều gian khổ, hi sinh, những tổn thất nặng nề, to lớn.

Cuộc Cách mạng tháng Tám 1945, tuy diễn ra tương đối hòa bình, khi mà lực lượng của nhân dân trong cả nước được chuẩn bị khá đầy đủ, được sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và tiến hành trong thời cơ thuận lợi, song không phải là không gặp khó khăn, thậm chí đổ máu. Ở một số địa phương, do phản ứng điên cuồng, tuyệt vọng của quân Nhật và bọn phản động, mà xung đột vũ trang đã xảy ra, như ở Thái Nguyên, Đông Anh (lúc bấy giờ thuộc tỉnh Phúc Yên), Quảng Ngãi, Lộc Ninh (Thủ Dầu Một nay thuộc Bình Dương)…

Nói rộng hơn, trên con đường cứu nước mà Đảng ta lãnh đạo nhân dân đấu tranh đi tới thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 đã trải qua bao nhiêu hi sinh, tổn thất trong các cao trào và khởi nghĩa. Cao trào cách mạng 1930-1931, với đỉnh cao là Xô Viết Nghệ - Tĩnh, nhiều quần chúng và chiến sĩ cách mạng đã bị quân thù bắn giết, tù đày, chết dần trong các nhà tù - địa ngục trần gian của bọn đế quốc. Chỉ có lòng yêu nước, chủ nghĩa anh hùng của quần chúng, nền tảng tư tưởng của liên minh công nông vững bền, dưới sự lãnh đạo của Đảng mới có thể đủ tinh thần, nghị lực, sức mạnh chống lại kẻ thủ hung bạo. Hình tượng chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong cao trào Xô Viết Nghệ - Tĩnh được diễn đạt trong câu thơ chiến đấu xuất hiện lúc bấy giờ “Bên kia đạn sắt, bên ta gan vàng”.

Trong cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ, cuộc nổi dậy của binh lính Đô Lương, kẻ thù đã dìm nhân dân ta trong biển máu với những hành động đàn áp, giết chóng vô cùng man rợ của thời trung cổ, nhưng vẫn không bóp chết được tinh thần, ý chí, sức mạnh chiến đấu của ho.

Tiêu biểu cho tấm gương anh hùng bất khuất của nhân dân ta trong thời kì 1930-1945, đưa tới thắng lợi của Cách mạng tháng Tám là Chủ tịch Hồ Chí Minh, các anh hùng liệt sĩ như Trần Phú, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, Phan Đăng Lưu, Võ Văn Tần và bao nhiêu chiến sĩ cách mạng có tên và không biết tên khác.

Qua cuộc đấu tranh của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt trong phong trào vận động giải phóng dân tộc và Cách mạng tháng Tám (1940-1945), chúng ta tạo cho thế hệ trẻ những biểu tượng về quần chúng nhân dân, về các chiến sĩ cách mạng để giáo dục lòng tin yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, lòng biết ơn, niềm tin của Đảng và cách mạng. Từ đó, mỗi người tự xác định thái độ, hành động của mình trong cuộc sống hiện tại để tiếp bước cha ông, bảo vệ thành quả của cách mạng nói chung, Cách mạng tháng Tám 1945 nói riêng. Các địa phương trong nước còn lưu lại nhiều di tích, di vật lịch sử, trong đó có nhiều hiện vật về Cách mạng tháng Tám; một số chiến sĩ cách mạng, cán bộ, đảng viên đã từng tham gia, lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ở quê hương nay vẫn còn sống. Những di tích, hiện vật, nhân vật này là nguồn tài liệu quý giá, là phương tiện để giáo dục tư tưởng, tình cảm, lòng tin… rất có hiệu quả. Chúng ta cần giữ gìn, tôn tạo, khai thác các nguồn tài liệu này để giáo dục cho thế hệ trẻ.

Thứ ba, ngoài việc cung cấp các loại kiến thức chủ yếu nêu trên, chúng ta có thể khai thác nhiều sự kiện khác về Cách mạng tháng Tám, như diễn biến cách mạng trên các lĩnh vực, hành động phá hoại của kẻ thù… Tất cả những hiểu biết ấy tạo nên cơ sở vững chắc để giáo dục niềm tin cho thế hệ trẻ về dân tộc, nhân dân, về cách mạng, Đảng, Bác Hồ và quyết tâm học tập, noi gương việc xưa, người xưa.

Cuối cùng, lòng tin phải biến thành hành động cụ thể trong cuộc sống. Ở đây nguyên tắc “Học đi đôi với hành” phải được tuân thủ chặt chẽ. Các hình thức vui chơi, giải trí, học tập phải phù hợp với trình độ, đặc điểm của từng lứa tuổi, đang sống trong điều kiện ngày nay. Cần làm cho thế hệ trẻ tự nguyện, tự giác tiếp thu kiến thức, những điều giáo dục và biến thành hành động cụ thể.

*

Cách mạng tháng Tám 1945 là một sự kiện vĩ đại của lịch sử dân tộc, nó có tác dụng lâu dài trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo con đường mà Bác Hồ đã lựa chọn, Đảng ta đã khẳng định. Dĩ nhiên, con đường đấu tranh nào cũng đầy gian khổ, không tránh khỏi những khó khăn, nguy hiểm, sự tấn công lâu dài và mạnh mẽ của các thế lực thù địch trong và ngoài nước. Giữ vững và phát triển thành quả của Cách mạng tháng Tám và sự nghiệp kháng chiến bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa không thể không giáo dục cho thế hệ trẻ niềm tin vững bền vào nhân dân, cách mạng, Đảng, Bác Hồ vĩ đại và biến niềm tin thành sức mạnh. Đây là một cách kỉ niệm thiết thực những ngày lễ lớn, trong đó có Cách mạng tháng Tám 1945.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 02 Tháng Mười, 2011, 05:12:21 pm
BÀI HỌC VỀ ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM

NGUYỄN THỊ CÔI(*)
TRẦN VĨNH TƯỜNG(**)

Cách mạng tháng Tám 1945 thắng lợi để lại nhiều bài học khởi nghĩa quý báu cho các thế hệ sau, kế thừa và phát huy trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Đó là:

- Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định quan trọng bậc nhất trong việc đảo bảo thắng lợi cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội.

- Phát huy khối đại đoàn kết dân tộc, thể hiện trong việc xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất trên cơ sở công nông liên minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

- Kiên quyết sử dụng bạo lực cách mạng để giành chính quyền.

- Nắm vững thời cơ và kiên quyết hành động khi thời cơ đã đến.



Trong những bài học kinh nghiệm này, chúng tôi tập trung trình bày vấn đề đại đoàn kết dân tộc. Vì nó kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, quán triệt và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, thể hiện những vấn đề cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Bài học đại đoàn kết dân tộc rất có ý nghĩa đối với chúng ta trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.

Một trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam là thương người và giúp đỡ nhau trong điều kiện hoàn cảnh khó khăn nghèo khổ của đất nước. Điều kiện tự nhiên của Việt Nam có nhiều thuận lợi, là một trong những nơi mà con người sớm xuất hiện, sinh sống và phát triển. Song tự nhiên cũng đem lại cho cư dân khu vực này những hiểm nguy như thiên tai, lũ lụt, phải vật lộn với tự nhiên để tồn tại. Vì vậy, họ phải giúp đỡ cưu mang nhau để khắc phục và chiến thắng những điều kiện tự nhiên không thuận lợi. Việt Nam lại nằm ở vị trí chiến lược quan trọng về quân sự, kinh tế, chính trị trên giao điểm của các con đường từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây. Vì vậy cư dân thuộc lãnh thổ Việt Nam ngày nay sớm tiếp nhận được tinh hoa văn hóa của nhiều dân tộc trên thế giới, để xây dựng một nền văn hóa dân tộc phong phú, đa dạng. Đồng thời Việt Nam cũng sớm trở thành đối tượng xâm lược của kẻ thù từ nhiều phương đến, bao giờ cũng hùng mạnh, với số quân đông, vũ khí nhiều, cầm đầu là những tên tướng giàu kinh nghiệm chiến chinh. Chỉ có sức mạnh của lòng yêu nước, của đoàn kết dân tộc, nhân dân Việt Nam mới thắng được kẻ thù, dù có tạm thời thất bại hay bị đô hộ hàng chục thể kỉ, gần 100 năm hay mấy chục năm.

Từ thực tiễn lao động và chống ngoại xâm ấy, đã sớm nảy sinh ở dân tộc Việt Nam tinh thần, ý thức đoàn kết:

“Bầu ơi thương nấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”.

Hoặc:

“Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng”.

Từ truyền thống đoàn kết, nhân ái của dân tộc, kết hợp với văn hóa nhân loại, chủ yếu là chủ nghĩa Mác - Lênin và nguyện vọng ý thức của nhân dân lao động thế giới muốn liên kết với nhau trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, xây dựng cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã sớm hình thành tư tưởng đại đoàn kết (dân tộc và quốc tế). Trong “Hồ Chí Minh - Toàn tập” ta thường thấy người luôn luôn nhắc đến, nhấn mạnh đoàn kết (dân tộc và quốc tế). Từ một vài câu ngắn gọn, súc tích, những luận văn, Hồ Chí Minh đi đến khẳng định một nguyên lí:

      “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
      Thành công, thành công, đại thành công”

Giới hạn ở thời kì vận động giải phóng dân tộc, tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước, chúng ta nhận thấy Hồ Chí Minh đã chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, thiết lập mối quan hệ quốc tế để cùng nhau đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít và giành độc lập dân tộc.

Nhận định Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra là thời cơ thuận lợi để cách mạng giải phóng dân tộc thành công, Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Trong tình hình mới, Hội nghị Trung ương lần thứ VIII (10 - 19.5.1941) đã quyết định đặt vấn đề dân tộc “lên cao hết thảy”. Bởi vì, “trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc phải chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”(1).Ý nghĩa quan trọng của nghị quyết này không chỉ đối với tình hình, nhiệm vụ cách mạng lúc bấy giờ mà là bài học kinh nghiệm cho chúng ta ngày nay, khi cần tập hợp lực lượng của nhân dân trong nước, cũng như người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cùng nhau đoàn kết xây dựng đất nước để sớm thoát khỏi nguy cơ “bị tụt hậu”. Việc đặt vấn đề dân tộc để tập trung giải quyết lúc bấy giờ không hề làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa, mục tiêu của cách mạng Việt Nam, được xác định trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng (“Chính cương vắn tắt”, “Sách lược vắn tắt”).

Khi tập trung giải quyết một nhiệm vụ “của cách mạng giải phóng”, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ VIII đề ra các “công việc khẩn trương”:

“a. Mở rộng và củng cố các tổ chức cứu quốc sẵn có làm cho các đoàn thể có một tinh thần hi sinh sẵn sàng gây cuộc khởi nghĩa.

b. Mở rộng các tổ chức vào những nơi thành thị, sản nghiệp, hầm mỏ, đồn điền.

c. Mở rộng tổ chức vào các tỉnh phong trào còn yếu ớt và dân tộc thiểu số”(2).

Chủ trương trên nhằm tập hợp, đoàn kết nhân dân khắp cả nước để chuẩn bị lực lượng Tổng khởi nghĩa và trước mắt tạo điều kiện cho việc thành lập một tổ chức dân tộc thống nhất phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ lúc bấy giờ.

Điều này có ý nghĩa quan trọng và là bài học kinh nghiệm cho ngày nay: muôn huy động mọi lực lượng của đông đảo quần chúng để giải quyết một nhiệm vụ trọng tâm thì phải chuẩn bị thật kĩ từ khâu tuyên truyền, vận động, đến tổ chức thực hiện.

Thực hiện nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ VIII về đoàn kết toàn dân và xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất trong thời kì chuẩn bị lực lượng, tiến tới Tổng khởi nghĩa, Hội Việt Nam độc lập đồng minh viết tắt là Việt Minh được thành lập ở Pác Bó ngày 19.5.1941.

Sự ra đời của Việt Minh là sự kế tục các hình thức tổ chức của mặt trận dân tộc thống nhất trước đó - Mặt trận dân chủ Đông Dương, Mặt trận dân tộc phản đế Đông Dương. Việc thành lập Mặt trận Việt Minh thể hiện tư tưởng đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh. Ngay khi mới về nước, Người đã mở các lớp huấn luyện chính trị cho cán bộ và “tổ chức thí điểm Việt Minh ở ba châu Hòa An, Hà Quảng và Nguyên Bình (từ tháng 2 đến tháng 4 năm 1941), các tổ chức cứu quốc đầu tiên đã ra đời thu hút hơn 2000 hôi viên, gồm đủ các thành phần, đủ các lứa tuổi, các dân tộc Tày, Nùng, Kinh, Dao, Mông… tham gia”(3).


(*) PGS.TS. Trường đại học Sư phạm Hà Nội.
(**) PGS.TS. Trường đại học Sư phạm, Đại học Huế.
(1) Văn kiện Đảng 1930-1945, tập 3, Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương xuất bản, Hà Nội, 1977, tr. 196.
(2) Sđd, tr. 215.
(3) Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh - Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng tháng Tám 1945, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 37.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 02 Tháng Mười, 2011, 05:20:09 pm
Từ kinh nghiệm đã thu được trong việc tiến hành thí điểm và theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ VIII, Việt Minh được tổ chức trong khắp cả nước, từ khu giải phóng Cao Bằng đến hầu hết các địa phương. Sức mạnh của khối đoàn kết dân tộc được thể hiện trong Mặt trận dân tộc thống nhất là các Hội Cứu quốc - thành viên của Mặt trận, như Hội Công nhân cứu quốc, Hội nông dân cứu quốc, Hội thanh niên cứu quốc, Hội phụ nữ cứu quốc, Học sinh cứu quốc đoàn… Qua Việt Minh và các Hội Cứu quốc, chúng ta nhận thấy Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh huy động sức mạnh của tất cả các tầng lớp nhân dân, giai cấp xã hội, không phân biệt nam, nữ, già, trẻ, dân tộc, tôn giáo, tập hợp trong một tổ chức rộng lớn và các đoàn thể quần chúng cùng một mục tiêu chung, cấp bách lúc bấy giờ - cứu nước, giải phóng dân tộc. Mục tiêu này đã có sức thu hút mọi người dân tham gia. Bài học này được kế thừa và phát huy có hiệu quả trong việc thành lập Hội Liên Việt, Mặt trận Liên Việt, Mặt trận Tổ quốc, Mặt trận Dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam và hiện nay khi nhân dân đang ra sức xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh, tiến bộ.

Một bài học về đoàn kết dân tộc được thực hiện trong thời kì chuẩn bị, tiến tới Tổng khởi nghĩa là việc giáo dục, phát động lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết của các tầng lớp nhân dân.

Ngay sau khi Việt Minh và các Hội Cứu quốc ra đời, Hồ Chí Minh đã có một loạt bài, đăng trên tờ Việt Nam độc lập để động viên tinh thần đấu tranh, sự đoàn kết của các giới, tầng lớp nhân dân, đó là các bài “Dân cày” (đăng ngày 21.8.1941), “Phụ nữ” (1.9.1941), “Trẻ con” (21.9.1941) “Công nhân” (11.10.1941), “Các binh lính” (1.11.1941). Nội dung các bài viết đều tố cáo tội ác của bọn thực dân đế quốc đối với các tầng lớp nhân dân, kêu gọi tham gia Việt Minh, Hội Cứu quốc để hoàn thành nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc. Ví như, đối với phụ nữ:

      “Chị em cả trẻ đến già,
      Cùng nhau đoàn kết dậy mà đấu tranh.
      Đua nhau vào hội Việt Minh
      Trước giúp nước sau giúp mình mới nên"
(1).

Đối với công nhân:

      “Cùng nhau vào hội Việt Minh
      Ra tay tranh đấu, hi sinh mới là,
      Bao giờ khôi phục nước nhà,
      Của ta ta gửi, công ta ta làm”
(2).

Đối với binh lính người Việt trong quân đội thực dân Pháp, Người chỉ đường chính nghĩa để theo:

      “Anh em binh lính ta ơi!
      Chúng ta cùng giống cùng nòi Việt Nam;
      Việc chi có lợi thì làm
      Cứu dân, cứu quốc há cam kém người!
      Trong tay sẵn có súng này,
      Quyết quay đánh Nhật, đánh Tây, mới đành
      Tiếng thơm để tạc sử xanh;
      “Việt binh cứu quốc” rạng danh muôn đời”
(3).

Bài học về đoàn kết được Hồ Chí Minh rút ra trên cơ sở trình bày cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc và giành độc lập dân tộc nêu trong quyển “Lịch sử nước ta”, được Người biên soạn khi mới về nước lãnh đạo cuộc cách mạng Việt Nam. Quyển “Lịch sử nước ta” là một quyển sử diễn ca, trình bày quá trình dựng nước và giữ nước, chủ yếu là nêu lên truyền thống đấu tranh anh hùng của nhân dân Việt Nam, thể hiện tinh thần đoàn kết dân tộc. Từ sự thật lịch sử, Người rút ra một chân lí: Chúng ta thất bại “Vì chúng ta không đoàn kết bị người tính thôn”, chúng ta thắng lợi “Vì dân hăng hái kết đoàn”. Trên cơ sở ấy, Người rút ra bài học:

“Dân ta xin nhớ chữ đồng,
Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh”
(4).

Vì vậy, trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Người kêu gọi:

“Hỡi ai con cháu rồng tiên!
Mau mau đoàn kết vững bền cùng nhau
Bất kì nam nữ nghèo giàu,
Bất kì già trẻ cùng nhau kết đoàn.
Người giúp sức kẻ giúp tiền,
Cùng nhau giành lấy chủ quyền của ta.
Trên vì nước, dưới vì nhà,
Ấy là sự nghiệp, ấy là công danh.
Cùng ta có hội Việt Minh
Đủ tài lãnh đạo chúng mình đấu tranh.
Mai sau sự nghiệp hoàn thành
Rõ tên Nam Việt, rạng danh Lạc Hồng”
(5).

Việc giáo dục tư tưởng qua thơ ca, qua tuyên truyền vận động như vậy là một cơ sở để quần chúng nhân dân tiếp thu quan điểm đường lối của Đảng nói chung, và đoàn kết dân tộc nói riêng, thể hiện trong hành động cách mạng. Vì vậy, quần chúng nhân dân cả nước đã vui mừng đón nhận bài “Kính cáo đồng bào” (6.6.1941) của Nguyễn Ái Quốc, kêu gọi “Toàn dân đoàn kết” và “đoàn kết thống nhất đánh đuổi Pháp, Nhật”(6). "Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa” (tháng 8.1945) của Người, với khẳng định: “Chỉ có đoàn kết, phấn đấu, nước ta mới được độc lập” và kêu gọi toàn dân đoàn kết chung quanh Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam, “làm cho chính sách và mệnh lệnh của nó được thi hành khắp nước”(7).

Tinh thần đoàn kết dân tộc được thể hiện mạnh mẽ, có hiệu quả trong những ngày Tổng khởi nghĩa trong cả nước, ở bất cứ địa phương nào; trong hàng ngũ những người đấu tranh giành chính quyền đều có đủ các tầng lớp, các giới nam, phụ, lão, ấu yêu nước.

Cuộc Tổng khởi nghĩa tuy nổ ra trong điều kiện thời cơ đã chín muồi, nhưng chính khí thế của quần chúng, biểu hiện sức mạnh của tinh thần đoàn kết dân tộc, đã làm cho các thế lực phản động phải run sợ. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, xét cho cùng, bắt nguồn từ sức mạnh của quần chúng nhân dân, đoàn kết thành một khối vững chắc, tập hợp trong Mặt trận Việt Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy sức mạnh của nhân dân trong Cách mạng tháng Tám là sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân được Đảng, Bác Hồ giáo dục, tổ chức thành những đội quân chính trị và vũ trang, quyết tâm đấu tranh giành chính quyền trong cả nước. Khẳng định sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân trong cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8.1945, Tổng Bí thư Trường Chinh trong những ngày lịch sử này nêu rõ: “Cách mạng tháng Tám thắng lợi một phần nửa ở chỗ toàn dân đoàn kết quần chúng nổi dậy. Tuy nhiên có sức mạnh to lớn là có sự lãnh đạo của Đảng. Nếu Đảng và Việt Minh không thống nhất được các tầng lớp đồng bào, không có uy tín trong nhân dân, không lãnh đạo được quần chúng nhân dân nổi dậy giành chính quyền thì cách mạng có thể thất bại”.

Sự thống nhất ý chí và hành động của quần chúng nhân dân thể hiện tinh thần đoàn kết dân tộc - một nhân tố quan trọng đưa tới thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945.


(1) (2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 3, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 202, 204.
(3) Sđd, tr. 229, tr. 228-229.
(4) Sđd, tr. 229, tr. 228-229.
(5) Sđd, tr. 198.
(6) Sđd, tr. 554.
(7) Trường Chinh: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam, tập I, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1975, tr. 35.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 02 Tháng Mười, 2011, 05:24:17 pm
GIÁO DỤC VỀ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
CHO THẾ HỆ TRẺ

NGUYỄN ANH DŨNG(*)

Lịch sử xã hội loài người phát triển liên tục, hợp quy luật từ lúc xuất hiện đến nay và mãi về sau. Trong tiến trình này, con người là chủ nhân của lịch sử, kế thừa và phát triển mọi thành tựu tinh thần và vật chất của tổ tiên qua các thời kì một cách tự giác và sáng tạo.

Vì vậy, giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ là trách nhiệm của những lớp người đi trước, để tạo điều kiện cho sự tồn tại và phát triển bền vững xã hội. Trong nội dung giáo dục thế hệ trẻ, giáo dục lịch sử có vai trò, ý nghĩa quan trọng; bời vì mỗi người đi vào cuộc sống đều mang theo mình những giá trị của quá khứ, truyền thống dân tộc để làm bệ phóng bay cao, bay xa hơn. Lãng quên quá khứ sẽ không có trách nhiệm với hiện tại và phấn đấu cho một tương lai huy hoàng hơn.

Dân tộc Việt Nam không chỉ có lịch sử oai hùng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà còn có ý thức và khởi nghĩa giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ, biết “lấy xưa để phục vụ nay”. Năm 1941, khi đã sáng tác quyền Lịch sử nước ta thì hai câu mở đầu được xem như nguyên tắc phương pháp luận của việc học tập, nghiên cứu lịch sử của chúng ta.

“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”
(1)

Theo đó, học lịch sử không phải chỉ để biết quá khứ mà trên cơ sở hiểu biết quá khứ để hiểu sâu sắc hiện tại, tích cực đấu tranh cho hiện tại, dự đoán con đường phát triển tương lai và góp phần làm cho tương lai trở thành hiện thực. Việc học tập, nghiên cứu lịch sử không có nghĩa là tiếp nhận một cách thụ động, học vẹt, biết mà không hiểu sự kiện quá khứ, không thể hiện tính chất “hành” của bộ môn. Bởi vì, lịch sử chính là cuộc sống đã qua, đang chứa đựng những mầm sống của tương lai sẽ được hiện thực hóa. Con người đã hành động để tạo nên lịch sử, thì việc học tập, nghiên cứu lịch sử phải gắn với hành. Đây là việc thực hiện nguyên lí, phương châm giáo dục của Đảng trong giáo dục nói chung, trong giáo dục lịch sử nói riêng.

Một sự kiện lịch sử đều cần phải tìm hiểu, nghiên cứu, học tập, song phải tập trung vào những sự kiện cơ bản. Theo Lênin, sự kiện cơ bản là sự kiện không thể thiếu được để hiểu biết lịch sử; nó mang tính chính xác, tiêu biểu, điển hình. Cách mạng tháng Tám 1945 là một sự kiện cơ bản của lịch sử dân tộc và trong một mức độ nhất định cũng là sự kiện cơ bản của chương trình lịch sử thế giới thể kí 20. Do đó, không chỉ trong chương trình, sách giáo khoa lịch sử Việt Nam, Cách mạng tháng Tám 1945 có vị trí quan trọng mà trong chương trình sách giáo khoa nhiều nước phương Tây, các nước độc lập dân tộc, sự kiện này cũng được đề cấp đến. Tuy nhiên, việc nhìn nhận, đánh giá một sự kiện lịch sử bao giờ cũng phụ thuộc vào quan điểm, mục đích giáo dục. Cho nên, việc trình bày về Cách mạng tháng Tám 1945 của Việt Nam ở một số tài liệu giáo khoa nước ngoài không khỏi có những sai lệch, thậm chí xuyên tạc lịch sử mà chúng ta cần vạch rõ.

Cách mạng tháng Tám 1945 là một sự kiện quan trọng trong chương trình lịch sử dân tộc,được xây dựng ngay từ năm học đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1945-1946). Qua các lần Cải cách giáo dục (1950, 1956, 1976), và sửa chữa đổi mới chương trình, Sách giáo khoa Lịch sử, sự kiện Cách mạng tháng Tám 1945 được xác nhận sự cần thiết phải giáo dục cho thế hệ trẻ và ý nghĩa giáo dưỡng, giáo dục và phát triển của nó. Theo điều tra của chúng tôi, số học sinh trung học (cơ sở và phổ thông) ít am hiểu về Cách mạng tháng Tám chiếm tỉ lệ nhỏ. Bởi vì, tiếng vang, ảnh hưởng dấu vết của Cách mạng tháng Tám còn in đậm mét trong cuộc sống hiện tại. Ở đâu các em cũng còn có thể gặp gỡ những chứng nhân, những con người đã tham dự, góp phần làm nên Cách mạng tháng Tám. Các em còn nhìn thấy những hiện vật của Cách mạng tháng Tám, nghe những câu chuyện lí thú về sự kiện vừa xảy ra cách đây 60 năm. Hiện tượng “lãnh cảm” với một sự kiện vĩ đại, thái độ thờ ơ với Cách mạng tháng Tám, vì không sống những ngày lịch sử ấy thì không rung cảm, không hiểu biết… không hề thấy xuất hiện ở bất cứ học sinh nào. Điều này thể hiện một truyền thống của dân tộc Việt Nam - lòng biết ơn với tổ tiên, sự tự hào chính đáng với những chiến công lẫy lừng trong quá khứ.

Qua điều tra, chúng tôi cũng nhận thấy một hiện tượng khá phổ biến là kiến thức của học sinh các cấp về Cách mạng tháng Tám 1945 ở nhiều nơi còn chung chung, hời hợt, chưa khắc sâu vào tâm trí. Em nào cũng có thể nói Cách mạng tháng Tám là do Đảng lãnh đạo, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, với sự đấu tranh anh hùng của nhân dân, song nhiều em không thể nêu một sự kiện cụ thể, thậm chí không ghi nhớ được ngày 19.8 là ngày khởi nghĩa ở Hà Nội. Việc học tập lịch sử như vậy vừa không nắm được sự kiện cơ bản, vừa không hiểu được diễn biến, ý nghĩa của lịch sử quá khứ, phù hợp với trình độ của học sinh. Tính chất thực hành của môn học càng bị xem nhẹ. Hầu hết học sinh các cấp không biết sử dụng bản đồ, vẽ sơ đồ, sưu tầm tranh ảnh, tài liệu, làm các loại bài tập… Chất lượng dạy học bộ môn rõ ràng sút kém, không gây được hứng thú cho học sinh, hiệu quả giáo dục giảm. Do đó, vai trò, vị trí của bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông không được nâng cao, không đúng với chức năng, nhiệm vụ của nó trong việc giáo dục thế hệ trẻ.

Trong việc đổi mới giáo dục nói chung, dạy học lịch sử nói riêng, việc cải cách thệ thống giáo dục đi đôi với việc đổi mới nội dung, phương pháp dạy học, theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh. Trong quá trình dạy học, các khâu xác định mục tiêu đào tạo, đổi mới nội dung, phương pháp dạy học, tiến hành kiểm tra đánh giá được thực hiện trong một thể thống nhất, nâng cao toàn diện chất lượng giáo dục bộ môn.


(*) TS Viện Chiến lược và nội dung, Bộ Giáo dục và đào tạo.
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 3, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 220.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 02 Tháng Mười, 2011, 05:27:00 pm
Theo phương hướng như vậy, trong chương trình và sách giáo khoa Lịch sử ở trường phổ thông hiện nay, sự kiện Cách mạng tháng Tám 1945 được giới thiệu ở các lớp Năm, Chín, Mười hai của trường Tiểu học, Trung học cơ sở và Trung học phổ thông. Trên cơ sở xây dựng chương trình theo nguyên tắc đồng tâm kết hợp với đường thẳng, sự kiện Cách mạng tháng Tám 1945 được trình bày phù hợp với mục tiêu của từng cấp về mặt kiến thức, tư tưởng, kĩ năng, không có sự trùng lặp, song kế thừa và phát triển trong nhận thức lịch sử ở các lớp.

Ở lớp Năm, Cách mạng tháng Tám chỉ giới hạn ở việc giới thiệu cho học sinh một số kiến thức cơ bản về sự kiện này: tình hình đất nước, diễn biến, kết quả, ý nghĩa… Điều quan trọng là tạo cho các em một biểu tượng có hình ảnh, đúng về sự kiện, không nhầm lẫn với các sự kiện khác. Qua đó, giáo dục cho học sinh lòng biết ơn đối với những người đã góp phần làm nên thắng lợi của cuộc cách mạng này, đặc biệt đối với Bác Hồ kính yêu.

Học sinh lớp Chín sử dụng những kiến thức về Cách mạng tháng Tám đã học ở bậc Tiểu học, cùng với những kiến thức có liên quan được tiếp nhận ở các môn khác (Văn học, Giáo dục công dân…), các hoạt động ngoại khóa, những kiến thức qua các phương tiện truyền thông đại chúng để hiểu sâu sắc hơn về cuộc cách mạng này. Các em cần hiểu rõ hơn trong tình hình nào cuộc Cách mạng tháng Tám đã nổ ra, sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa tới thắng lợi trong cuộc đấu tranh anh hùng của toàn dân tộc. Sự nhận thức như vậy củng cố lòng tin yêu của học sinh đối với nhân dân, cách mạng, Đảng, Bác Hồ.

Học sinh lớp Mười hai tuy tìm hiểu về Cách mạng tháng Tám với khối lượng không nhiều hơn ở Trung học cơ sở, song phải hiểu sâu sắc hơn. Điều này thể hiện ở một nguyên tắc trong xây dựng chương trình và sách giáo khoa lịch sử ở các cấp không thể phân biệt bằng khối lượng kiến thức - sự kiện tiếp nhận (không phải lên lớp cao thì phải học nhiều sự kiện chi tiết, nặng nề) mà ở sự hiểu biết sâu sắc hơn về lịch sử. Khối lượng kiến thức mà học sinh lớp Mười hai tiếp nhận về Cách mạng tháng Tám từ nhiều nguồn khác nhau với năng lực tự học, phát huy tính tích cực của mình rất phong phú. Đây là cơ sở quan trọng để các em tự tìm hiểu, nghiên cứu về Cách mạng tháng Tám, chứ không phải chỉ dựa vào kiến thức trong sách giáo khoa hay bài giảng của giáo viên trên lớp.

Học sinh lớp Mười hai cần nâng cao nhận thức của mình về Cách mạng tháng Tám ở những vấn đề lí luận, phù hợp với trình độ của mình. Đó là các vấn đề về tình thế cách mạng, thời cơ (việc nhận thức thời cơ hình thành một cách khách quan và khả năng chủ quan, quyết tâm hành động khi có thời cơ…). Sự hiểu biết này giúp cho học sinh hiểu rõ hơn đường lối, chủ trương của Đảng, quyết tâm hành động cách mạng của nhân dân Việt Nam, tiêu biểu là Hồ Chí Minh, khi thời cơ đã đến. Sự nhận thức này sẽ được liên hệ với tình hình và nhiệm vụ cách mạng trước mắt, tăng thêm quyết tâm, sự hiểu biết và năng lực hành động trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày nay, khi chúng ta đang đứng trước những thuận lợi, cơ hội đồng thời phải đối đầu với nhiều thử thách, nguy cơ…

Nội dung chương trình, sách giáo khoa về Cách mạng tháng Tám 1945 như vậy đã thể hiện tinh thần, phương hướng đổi mới việc dạy học lịch sử nói chung, sự kiện này nói riêng. Dĩ nhiên, nội dung này chỉ đạt được mục tiêu giáo dục bộ môn khi mà giáo viên lịch sử đổi mới phương pháp dạy học.

Việc dạy học về Cách mạng tháng Tám 1945 trong giờ Lịch sử cần thiết và có khả năng đổi mới phương pháp dạy học ở các cấp. Phải khắc phục tình trạng “thầy nói, trò ghi” trong giờ lịch sử mà nhiều năm trước đây cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã phê phán: “Chúng ta thấy được cái gì qua các thời đại lịch sử và từ đó chúng ta rút ra được kết luận gì, bài học gì? Mác, một nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác - Lênin đã vũ trang cho chúng ta một phương pháp đúng đắn đề nghiên cứu lịch sử, từ đó rút ra những kết luận có ý nghĩa quán triệt, thiết thực.

… Lịch sử đâu có phải là một chuỗi sự kiện để người viết sử ghi lại, rồi người giảng sử đọc lại, người học sử lại học thuộc lòng”(1).

Việc đổi mới giáo dục lịch sử nói chung, giáo dục về Cách mạng tháng Tám 1945 nói riêng, đòi hỏi phải cấp bách thực hiện, khi mà chúng ta đang đảm nhận nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, chưa hề có tiền lệ trong lịch sử dân tộc, đồng thời lại hòa nhập vào thế giới và khu vực. Giữ vững truyền thống, bản sắc dân tộc, quyết tâm đi theo con đường mà Bác Hồ và Đảng lựa chọn, khẳng định là một nguồn gốc, nhân tố tạo nên sức mạnh cho hôm nay và ngày mai.

Để cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 sống mãi trong thế hệ trẻ cần phải đẩy mạnh việc giáo dục sự kiện này trong và ngoài nhà trường, với sự phối hợp của ngành giáo dục và các lực lượng xã hội, bằng nhiều phương pháp, phương thức, phương tiện cập nhật có hiệu quả. Đó là kết hợp việc dạy học ở trường với các phương tiện truyền thông đại chúng, với hoạt động của các nhà bảo tàng, nhà truyền thông, lưu niệm, các di tích lịch sử cách mạng…

Giáo dục các sự kiện quá khứ để tạo nên những con người đảm nhận sứ mệnh lịch sử hôm nay và ngày mai. Coi nhẹ việc giáo dục lịch sử nói chung, giáo dục về Cách mạng tháng Tám nói riêng sẽ có hậu quả lớn trong việc đào tạo con người kế tục sự nghiệp cách mạng của cha ông.


(1) Phạm Văn Đồng: Mấy vấn đề về văn hóa giáo dục, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1986, tr. 158.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Mười, 2011, 08:18:01 am
GHI NHỚ CÔNG LAO CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
ĐỐI VỚI THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945

NGUYỄN VĂN PHONG(*)

Hồ Chí Minh, Anh hùng dân tộc Việt Nam, đời đời được nhân dân ghi nhớ. Bởi vì, Người là một “biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả dân tộc, đã cống hiến trọn đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc, vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”(1).

Công lao của Người đối với dân tộc là vô cùng to lớn, từ việc gắn cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới, xác định con đường cứu nước đúng, thành lập Đảng, lãnh đạo Cách mạng tháng Tám thành công và đưa tới thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, kháng chiến chống Mĩ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, rồi cả nước thống nhất. Trong các công lao to lớn ấy, việc lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 là một công lao sáng ngời nhất. Bởi vì thắng lợi của Cách mạng tháng Tám xác nhận tính đúng đắn, sáng tạo, thể hiện nghệ thuật, quyết tâm của Người trong đấu tranh giải phóng dân tộc và mở ra một thời kì mới trong lịch sử Việt Nam - thời kì độc lập dân tộc gắp với chủ nghĩa xã hội.

Những công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh làm cho “Người (vẫn) sống mãi với non sông đất nước, tên tuổi và hỉnh ảnh của Người càng khắc sâu trong trái tim khối óc của mỗi một chúng ta”(2).

Việc giáo dục lòng kính yêu, biết ơn đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh cần được thường xuyên quan tâm, chú trọng, đồng bào là đối với thế hệ trẻ. Theo cuộc điều tra xã hội học năm 2003, về những hiểu biết của giới trẻ đối với Bác Hồ thì kết quả đáng cho chúng ta quan tâm.

- 70% học sinh chỉ nắm những kiến thức về Bác Hồ được tiếp thụ trong các bộ môn Văn học, Lịch sử, Giáo dục công dân… Sự hiểu biết này không sâu sắc, chưa được khắc sâu trong tâm trí của các em, thậm chí có những kiến thức không vững chắc, nhầm lẫn về những hoạt động, công lao của Bác Hồ.

- 10% số thanh thiếu nhi sớm bỏ học, hoặc học kém, lười học hầu như không có hiểu biết gì đáng kể về Bác Hồ.

- 20% thanh thiếu niên học sinh say mê tìm hiểu cuộc đời của Bác; trong các dịp kỉ niệm ngày sinh của Người, những cuộc thi tìm hiểu về Người thì tỉ lệ này tăng lên đáng kể.

Một điều cần quan tâm là việc giáo dục ở nhà trường qua các bộ môn khoa học xã hội, hoạt động ngoại khóa, các phương tiện truyền thông đại chúng, nội dung sinh hoạt của Đoàn, Hội, Đội chưa thực sự đổi mới. Những thiếu sót về bệnh công thức, khô khan không phong phú về hình thức lẫn nội dung sinh hoạt còn khá phổ biến(3).

Qua kết quả điều tra trên, chúng tôi cho rằng việc giáo dục lòng biết ơn, lòng tin yêu vào Đảng, Bác Hồ đối với nhân dân, đặc biệt thế hệ trẻ, cần được chú trọng thường xuyên, luôn được đổi mới về nội dung và phương pháp giáo dục… Trong việc tăng cường giáo dục này, trước hết cần cung cấp cho họ những kiến thức xác đúng, đấu tranh chống sự xuyên tạc lịch sử. Sự kiện khoa học là cơ sở cho việc khái quát lí luận, nền tảng của việc giáo dục tư tưởng tình cảm, lòng tin. Kẻ thù cách mạng đánh vào lòng tin của nhân dân, thế hệ trẻ bắt đầu từ việc tuyên truyền, đưa tin sai sự thật, làm sai lệch suy nghĩ và hướng vào những hành động sai trái.

Trong phạm vi bài này, chúng tôi giới hạn ở việc trình bày những tài liệu - sự kiện xác thực về công lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945, nối tiếp các công lao trước đó, đặt cơ sở cho nhiều đóng góp tiếp theo của Người.


(*) ThS. Thành đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Thành phố Hà Nội.
(1) Nghị quyết UNESCO về “Kỉ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, 1990.
(2) Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng trong lễ tang Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trích Hồ Chí Minh - Toàn tập, tập 12, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 520
(3) Dựa theo kết quả điều tra của đề tài cấp Nhà nước “Đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống” do PGS.TS Lê Văn Tích, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh chủ niệm, tài liệu lưu tại Viện Hồ Chí Minh.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Mười, 2011, 08:22:36 am
Thứ nhất, dự đoán về thắng lợi của cách mạng và chuẩn bị cho cuộc đấu tranh. Vấn đề này đã được đề cập nhiều trong các sách báo, chúng tôi không trình bày thêm, song muốn nhấn mạnh đến một nguyên tắc phương pháp luận về nhận thức lịch sử và hành động thực tiễn của Hồ Chí Minh.

Trong hoạt động cách mạng, cũng như các tiền bối bậc thầy (Mác, Ăngghen, Lênin), Hồ Chí Minh bao giờ cũng rèn luyện khả năng hiểu biết quá khứ để hiểu biết sâu sắc hiện tại, hành động có hiệu quả để hoàn thành những nhiệm vụ trước mắt và dự đoán con đường phát triển tương lai. Hồ Chí Minh có nhiều tiên đoán và thiên tài về việc phát triển lịch sử trong tương lại. Ví như, trong quyển Lịch sử nước ta (1941), Người ghi trong mục Những năm quan trọng, một sự kiện chưa xảy ra, chỉ nằm trong dự đoán: “1945 - Việt Nam độc lập”. Cũng như nhiều sự kiện xảy ra sau đó, thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đã xác định tính đúng đúng đắn dự đoán của Người, “sự trung hợp này là điều ngẫu nhiên, nhưng sự tiên đoán dựa trên cơ sở sự phát triển tất yếu của cách mạng mà Người đã nhận thức được do biết phân tích đúng đắn quá khứ, nắm được quy luật lịch sử”(1). Phân tích khả năng tiên đoán của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Trường Chinh chỉ rõ: “Thế giới quan của chủ nghĩa Mác - Lênin và những khởi nghĩa đấu tranh lâu năm đã làm cho Người có khả năng đoán trước được thời cuộc, mau lẹ nhận ra những bước ngoặt của lịch sử và đề ra những khẩu hiệu thích hợp nhằm xoay chuyển tình hình”.

Sự dự đoán về thắng lợi của cuộc cách mạng đi liền với việc nhận thức về thời cơ cách mạng để hành động khi thời cơ đến. Lúc Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra,Người đã khẳng định đây là thời cơ cho cách mạng giải phóng dân tộc thắng lợi, vì mâu thuẫn giữa các nước đế quốc sẽ làm cho chúng suy yếu. Với nhận định như vậy, Người đã về nước để trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Thứ hai, chuẩn bị mọi điều kiện cho cách mạng nổ ra thành công khi thời cơ đã đến.

Sự chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám 1945 thắng lợi phải kể từ lúc Nguyễn Tất Thành quyết định ra di tìm con đường cứu nước mới cho dân tộc. Tiếp đó là việc xác định con đường cứu nước đúng, việc chấm dứt sự khủng hoảng trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, thành lập Đảng, thông qua Cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Các phong trào cách mạng do Đảng lãnh đạo trong những năm 1930-1931, 1936-1939, 1939-1945 được xem như “cuộc Tổng diễn tập” của Cách mạng tháng Tám 1945. Bởi vì, trong phong trào cách mạng này, tuy có phần thất bại, nhưng đã để lại những cơ sở quan trọng, những bài học kinh nghiệm quý cho thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám: sự lãnh đạo của Đảng được rèn luyện trong thực tiễn đấu tranh gian khổ mà anh dũng, việc tập hợp toàn thể các tầng lớp nhân dân đoàn kết trong mặt trận dân tộc thống nhất, trên cơ sở liên minh công nông, dưới sự lãnh đạo của Đảng, việc xây dựng chính quyền cách mạng sơ khai, thành lập lực lượng vũ trang…

Rõ ràng, trong phong trào vận động cứu nước 1939-1945 tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng Tám, chúng ta nhận thấy “sự tái hiện” những thành công, những ưu điểm, những mặt tích cực của những phong trào cách mạng trước đó, do Đảng ta lãnh đạo. Vì vậy, bước tiến của cách mạng giải phóng dân tộc từ 1930-1945 hiện ra ngày càng rõ rệt và là sự chuẩn bị tích cực cho thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945.

Trong sự chuẩn bị này, Nguyễn Ái Quốc đã góp phần cùng Đảng hoạch định đường lối cách mạng đúng, kiên trì thực hiện những chủ trương đúng, đấu tranh “có lí”, “có tình”, với ý thức tổ chức kỉ luật cao, để bảo vệ quan điểm, đường lối cách mạng của Đảng. Dù phải trải qua nhiều cam go, khó khăn, đặc biệt trong những năm 1933-1938, nhưng Nguyễn Ái Quốc đã bảo vệ, giữ vững đường lối cách mạng mà Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã khẳng định. Đây là một cơ sở rất quan trọng để đưa tới thắng lợi của Cách mạng tháng Tám và cũng thể hiện công lao to lớn của Người.

Thứ ba, kiên quyết cùng Đảng lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền khi thời cơ đã đến. Từ sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9.3.1945), Đảng đã đẩy mạnh việc chuẩn bị Tổng khởi nghĩa. Chỉ thị lịch sử “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, ngày 12.3.1945, đã phát động một cao trào chống Nhật cứu nước trong toàn quốc. Phong trào đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị và khởi nghĩa từng phần diễn ra khắp nơi, mà cuộc khởi nghĩa Ba Tơ (Quảng Ngãi) ngày 11.3.1945 là một trong số ít các cuộc đấu tranh mở đầu cho thời kì mới của cách mạng.

Đầu tháng 5.1945, Bác Hồ từ Cao Bằng về Tuyên Quang, chọn Tân Trào làm căn cứ chỉ đạo cách mạng của cả nước và chuẩn bị Đại hội quốc dân. Theo chỉ thị của Người, đầu tháng 6.1945, khu giải phóng Việt Bắc được thành lập.


(1) Phạm Ngọc Liên (chủ biên): Phương pháp luận sử học, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2003, tr. 112.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Mười, 2011, 08:25:50 am
Trong gian nhà lá đơn sơ ở Nà Lừa, Bác Hồ đã trải qua những ngày thiếu thốn, gian khổ, nhưng tinh thần và nghị lực làm việc thật phi thường, Bác có mặt ở mọi nơi, quan tâm đến mọi người. Có lần Bác bị ốm nặng, nhưng vẫn gắng làm việc. Bác gầy yếu, đầu đội chiếc mũ nồi bằng vải túm lại, mặc áo cộc chàm, chân tay khẳng khiu, chỉ có đôi mắt vẫn sáng. Thuốc men chẳng có gì, ngày vài viên thuốc cảm và kí ninh. Bác lên cơn sốt và luôn luôn mê sảng. Lúc tỉnh, Bác chỉ nói chuyện tình hình và dặn dò; “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hi sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.

Suốt mấy ngày đêm, Bác vẫn trong tình trạng nguy kích. May nhờ một cụ làng người Tày cho thuốc uống. Thuốc là một thứ củ đào từ trong rừng về, đem đốt cháy rồi hòa với cháo loãng. Cơn sốt lui dần. Bác lại gượng dậy, tiếp tục làm việc”(1).

Sau khi phát xít Đức đầu hàng, quân phiệt Nhật lần lượt bị đánh bại ở các chiến trường Châu Á, Thái Bình Dương, Hồ Chí Minh càng khẳng định thời cơ cách mạng đang đến dần, phải nhanh chóng hành động kiên quyết và kịp thời.

Được tin Hồng quân Liên Xô thắng trận và Nhật chuẩn bị đầu hàng Đồng minh, đêm 13.8.1945, Người đề nghị Ủy ban toàn quốc ra lệnh Tổng khởi nghĩa trong toàn quốc.

Trong những ngày từ 13 - 15.8, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào. Tuy chưa bình phục hẳn sau trận ốm nặng, Bác vẫn tham gia Hội nghị đầy đủ, thống nhất chủ trương lãnh đạo toàn dân Tổng khởi nghĩa, trước khi quân Đồng minh kéo vào Đông Dương.

Ngay sau Hội nghị, ngày 16.3.1945, Đại hội quốc dân cũng khai mạc ở Tân Trào. Đây là “hội nghị Diên Hồng” của thời đại Hồ Chí Minh, tinh thần “Sát thát”, ý chí “Quyết đánh” của quân dân đời Trần đã sống lại ở Đại hội Quốc dân Tân Trào, mà người khởi xướng và chủ trì Đại hội là Hồ Chí Minh.

Đây là lần đầu tiên từ sau khi về nước, Bác tham dự một đại hội đại biểu nhân dân. Ban tổ chức Đại hội giới thiệu Bác là Hồ Chí Minh, một nhà cách mạng lão thành tham gia đoàn chủ tịch. Nhiều đại biểu không khỏi ngạc nhiên vì chưa được nghe tên Hồ Chí Minh bao giờ. Đến khi Người tuyên bố khai mạc Đại hội thì cả hội trường truyền đi những tiếng rầm rì: “Đó chính là Nguyễn Ái Quốc”. Tiếp đó, tiếng vỗ tay vang lên chào mừng người lãnh tụ kính yêu và thể hiện niềm tin vào thắng lợi của cách mạng. Suốt ngày hôm ấy, Bác điều khiển Đại hội và nổi bật với quyết tâm giành thắng lợi trong cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

Ngay sau khi Đại hội kết thúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đến đồng bào, cán bộ, các đoàn thể quần chúng, chiến sĩ cả nước Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa, trong đó có đoạn: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà giải phóng cho ta…

Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ của Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!”(2).

Sáng ngày 17.8, Ủy ban giải phóng dân tộc ra mắt quốc dân và làm lễ tuyên thệ. Thay mặt Ủy ban, hướng lên lá cờ đỏ sao vàng tung bay trước đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Lời tuyên thệ ngắn gọn, súc tích. Giọng nói của Người vang lên trong bầu không khí trang nghiêm: “Chúng tôi là những người được quốc dân đại biểu bầu vào Ủy ban giải phóng dân tộc để lãnh đạo cuộc cách mạng của nhân dân ta. Trước lá cờ thiêng liêng của Tổ quốc, chúng tôi nguyện kiên quyết lãnh đạo nhân dân tiến lên, ra sức chiến đấu chống quân thù, giành lại độc lập cho Tổ quốc. Dù hải hi sinh đến giọt máu cuối cùng quyết không lùi bước. Xin thề!”. Mọi người cùng giơ tay, hô to: “xin thề!”.

Theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, 20 triệu nhân dân cả nước lúc bấy giờ đã vùng dậy Tổng khởi nghĩa, giải phóng toàn bộ đất nước khỏi ách thống trị của thực dân đế quốc và tay sai.

Ngày 19.8.1945, Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội thắng lợi. Ngày 25.8, Bác Hồ về Hà Nội. Theo đề nghị của Người, Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam, do Đại hội Quốc dân Tân Trào bầu ra, được cải tổ thành Chính phủ lâm thời nhằm đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, các đảng phái yêu nước và những nhân sĩ tiến bộ. Cử chỉ, hành động của Người càng có sức thu hút nhân tâm, kết thành một khối để bảo vệ thành quả của cách mạng vừa giành được. Trong cuộc đời cách mạng gian nan của mình, đây là ngày vui lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khi rời Tổ quốc ra đi, đất nước còn đắm chìm trong đêm tối chưa tìm được đường ra. Thế mà bây giờ, sau 34 năm chiến đấu, với bao sự kiện huy hoàng của dân tộc, cờ độc lập đã tung bay trên khắp cả nước. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã trở thành vị Chủ tịch của Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Đây không chỉ là niềm vui của Người mà là niềm vui lớn của toàn dân. Cái vĩ đại của Người đã hòa cái riêng của mình vào trong cái chung của dân tộc và giành được thắng lợi.

Tình thế lúc bấy giờ rất khẩn trương. Thường vụ Trung ương Đảng quyết định ngày ra mắt của Chính phủ lâm thời cũng là ngày khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt tay vào dự thảo bản Tuyên ngôn độc lập và chuẩn bị cho “Ngày độc lập”, tuyên bố nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa ra đời.

Cách mạng tháng Tám thắng lợi, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Đây là sự phát triển hợp lôgic của lịch sử, kết quả cuộc đấu tranh lâu dài của nhân dân cho độc lập, tự do, đặc biệt trong 15 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thắng lợi này cũng là sự đóng góp trực tiếp to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Qua một số sự kiện nêu trên, chúng ta khắc sâu vào tâm trí mình, đời đời nhớ ơn công lao vĩ đại của Người và nguyện tiếp bước con đường mà Người đã vạch ra.


(1) Võ Nguyên Giáp: Những chặng đường lịch sử, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 196.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 3, sđd, tr. 554.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Mười, 2011, 08:27:36 am
VẤN ĐỀ NẮM THỜI CƠ VÀ KIÊN QUYẾT HÀNH ĐỘNG
TRONG TỔNG KHỞI NGHĨA THÁNG TÁM 1945

KIỀU THẾ HƯNG(*)

Chủ nghĩa Mác - Lênin xem việc nắm vững thời cơ và kiên quyết hành động khi có thời cơ là “nghệ thuật lãnh đạo cách mạng” của Đảng của giai cấp vô sản. Đồng thời nó thể hiện rõ tính chất, phẩm chất, lòng trung thành, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, trình độ, tài nghệ của người cộng sản. Thật ra, ở bất cứ cuộc đấu tranh nào trong xã hội có giai cấp, vấn đề thời cơ là yếu tố quan trọng, luôn được chú trọng. Ba nhân tố trong học thuyết quân sự từ thời cổ đại đã nêu rõ: thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Nhận thức về ba nhân tố này khác nhau ở các thời kì lịch sử, nhưng có lẽ đều nhất trí xem thiên thời là yếu tố hàng đầu. Chủ nghĩa Mác - Lênin, xuất phát từ quan điểm về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, khẳng định “nhân hòa” là nhân tố quan trọng nhất.

Thời cơ là nhân tố khách quan, xuất hiện khi tình thế cách mạng được hình thành, song nhận thức đúng thời cơ là yếu tố chủ quan. Trong mọi hành động của con người, khi nào thống nhất được điều kiện khánh quan với nhận thức chủ quan thì sẽ đạt được thành công. Dĩ nhiên, mục tiêu, tính chất chính yếu của hành động, tinh thần, thái độ của nhận thức thời cơ có ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả thu được.

Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, chúng ta cũng nhận thấy nhiều chiến thắng lẫy lừng trong công cuộc chống ngoại xâm, đều liên quan đến việc ông cha ta đã nắm bắt tài tình thời cơ và kiên quyết hành động để tận dụng thời cơ. Một dẫn chứng cụ thể là việc Quang Trung đại phá quân Thanh năm 1789. Thời cơ quyết chiến mà Quang Trung lựa chọn là vào dịp Tết Nguyên đán, khi quân Mãn Thanh chủ quan khinh địch, lo ăn chơi. Với cuộc hành quân thần tốc, quân Tây Sơn đã đánh nhanh, tiêu diệt địch vào lúc chúng bất ngờ và giành được thắng lợi huy hoàng.

Cách mạng tháng Tám 1945 là “sự lặp lại” lịch sử ở đỉnh cao với việc kế thừa và phát triển về nghệ thuật nắm thời cơ và kiên quyết hành động tận dụng thời cơ.

Có thể rút ra một số bài học, kinh nghiệm về vấn đề này như sau:

1. Dự đoán đúng thời cơ, Đảng và Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân ta nắm thời cơ đấu tranh giành thắng lợi cách mạng.

Cuối năm 1939, khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổi ra, Nguyễn Ái Quốc ở nước ngoài đã cho rằng cơ hội cho cách mạng Việt Nam sắp đi đến thắng lợi. Người đến miền nam Trung Quốc hoạt động để tìm cách về nước lãnh đạo cách mạng.

Ngày 20.6.1940, nước Pháp bại trận, đầu hàng, bị phát xít Đức chiếm đóng. Hồ Chí Minh chỉ rõ cơ hội giành độc lập cho đất nước sắp đến, nên cùng một số cán bộ khác nhanh chóng về nước hoạt động.

Tháng 5.1941, Hội nghị Trung ương lần thứ 8 của Đảng đã xác định hoàn chỉnh đường lối, phương pháp cách mạng Việt Nam. Đồng thời, Hội nghị chỉ rõ: “Cuộc cách mạng Đông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang”; bời vì những điều kiện, cơ hội tiến hành Tổng khởi nghĩa giành độc lập, giành chính quyền sắp tới ở nước ta đã khá chín muồi. Điều này thể hiện ở những điểm cơ bản sau:

- Mặt trận Việt Minh phát triển thống nhất trên toàn quốc.

- Nhân dân Việt Nam không thể sống được nữa dưới ách thống trị của Pháp, Nhật, sẵn sàng đứng lên khởi nghĩa.

- Phe thống trị khủng hoảng đến cực điểm trên nhiều mặt kinh tế, chính trị, quân sự, mâu thuẫn ngày một sâu sắc và tất yếu sẽ lật đổ nhau.

- Điều kiện quốc tế thuận lợi: nhân dân Trung Quốc đánh thắng quân Nhật, cách mạng Pháp, Nhật sẽ nổ ra, Đồng minh và Liên Xô đại thắng. Đồng minh quân Anh - Mĩ - Tưởng sẽ vào Đông Dương.


(*) Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Mười, 2011, 08:32:54 am
Những điều kiện khách quan này tác động đến cách mạng nước ta (nhiều thuận lợi song cũng có không ít khó khăn), nhưng muốn hành động khi cơ có hội, chúng ta phải “có một lực lượng toàn quốc đủ sức mạnh gây ra và củng cố cho cuộc khởi nghĩa”, phải chuẩn bị lực lượng đón thời cơ thuận tiện, phải tiến hành “khởi nghĩa từng phần”, giành chính quyền từng địa phương đi tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền toàn quốc”(1).

Vấn đề chủ động chuẩn bị lực lượng cách mạng cũng góp phần thúc đẩy thời cơ chín muồi để tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Nhận thức vấn đề này, Đảng Cộng sản Đông Dương từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra đã chuẩn bị lực lượng, chuyển hướng chỉ đạo chiến lược. Nghị quyết đã xác định quan điểm, đường lối cụ thể, đúng đắn, phù hợp với tình hình mới để trực tiếp tổ chức, lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân tiến hành chuẩn bị đầy đủ mọi mặt cho Cách mạng tháng Tám, như xây dựng Đảng vững mạnh, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, xây dựng Mặt trận Việt Minh, mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc, xây dựng lực lượng vũ trang, căn cứ địa cách mạng, khu giải phóng, tập dượt cho Đảng và nhân dân ta giành, giữ chính quyền cách mạng, xây dựng mở rộng quan hệ đoàn kết quốc tế…

Ngày 6.6.1941, trong Thư gửi đồng bào toàn quốc, Kính cáo đồng bào, Nguyễn Ái Quốc nêu rõ: phong trào cách mạng trước 1941 chưa thành công không phải vì đế quốc mạnh, nhưng “một là vì cơ hội chưa chín, hai là vì nhân dân ta chưa hợp lực đồng tâm”. Người kêu gọi “cơ hội giải phóng đã đến rồi”, muốn đánh Pháp, đuổi Nhật phải “toàn dân đoàn kết"(2).

Ngày 21.12.1941, Người lại viết bài Thế giới đại chiến và phận sự dân ta nêu rõ: “Chiến tranh thế giới nổ ra đem lại tổn thất đau khổ cho bao người, nhưng tạo ra cơ hội thuận lợi cho cách mạng giải phóng giành độc lập nước ta nổ ra thắng lợi. Nhân dân ta có nhiệm vụ đại đoàn kết toàn dân cứu nước”(3).

Tháng 7.1944, sau khi thoát khỏi nhà tù Tưởng Giới Thạch về Pác Bó, Hồ Chí Minh quyết định hoãn cuộc khởi nghĩa do Liên Tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng chủ trương. Người cho rằng, quyết định của Tỉnh ủy chỉ mới căn cứ vào tình hình một địa phương Cao - Bắc - Lạng, không tín đến tình hình cả nước, cơ hội chưa chín muồi. Nếu khởi nghĩa non, đế quốc có điều kiện đàn áp, khởi nghĩa sẽ thất bại.

Người chỉ rõ: thời kì cách mạng hòa bình đã qua nhưng thời kì Tổng khởi nghĩa vũ trang toàn dân chưa đến. Nếu chỉ đấu tranh chính trị thì không đưa được phong trào đi lên, nhưng khởi nghĩa vũ trang thì sẽ thất bại. Cần phải tìm hình thức đấu tranh thích hợp để đưa phong trào tiến lên. Đã đến lúc bước vào đấu tranh vũ trang. Tuy vậy, vẫn phải xem chính trị quan trọng hơn quân sự. Trong tình hình lúc bấy giờ, Người đề ra phương châm kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh quân sự, việc phát triển lực lượng vũ trang phải dựa vào dân, vào phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng cách mạng làm cơ sở xây dựng lực lượng vũ trang, tiến hành đấu tranh vũ trang(4).

Quyết định trên đây của Hồ Chí Minh chẳng những bảo toàn được lực lượng cách mạng mà còn rút ra hiểu biết và bài học khởi nghĩa cho cán bộ, nhân dân ta về vấn đề thời cơ và lựa chọn thời cơ khởi nghĩa.

Tháng 10.1944, Người đã có Thư gửi đồng bào toàn quốc, thông báo về sự đồng tình giúp đỡ cách mạng Việt Nam của bốn trăm năm mươi triệu nhân dân Trung Quốc. Người chủ trương mở Đại hội Quốc dân, bầu ra một cơ cấu (chính quyền) để có đủ lực lượng, uy tín lãnh đạo việc cứu quốc, kiến quốc và ngoại gao với các nước. Cơ hội giải phóng đã đến, bởi vì: “Phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt. Các đồng minh quốc sắp tranh được sự thắng lợi. Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ trong một năm, hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp ta mở “toàn quốc đại biểu đại hội” nhanh”(5).

Ngày 22.12.1944, theo chỉ thị của Hồ Chí Minh, đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân được thành lập, nhằm chính quy hóa dần lực lượng vũ trang cách mạng, tiến tới thành lập Quân giải phóng Việt Nam (5.1945)(6).

Ngày 9.3.1945, đúng như dự đoán của Đảng, mâu thuẫn giữa Nhật - Pháp đến mức tột cùng, nên Nhật lật đổ Pháp để độc chiếm Đông Dương. Tình thế thay đổi mau chóng tạo cơ hội thuận lợi cho cách mạng. Thường vụ Trung ương Đảng kịp thời ra chỉ thị lịch sử “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” (12.3.1945). Chỉ thị nêu rõ kẻ thù chính của cách mạng và nhân dân ta là Pháp - Nhật, nay chỉ còn lại phát xít Nhật nhưng thời cơ khởi nghĩa chưa chín muồi. Trong tình hình ấy, Đảng và Việt Minh phát động cao trào kháng Nhật cứu nước (tiền khởi nghĩa), khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền từng địa phương, tiến lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền toàn quốc khi thời cơ chín muồi.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng - Toàn tập, tập 7 (1940-1945), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.129-132.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 3, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 197-198.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 3, sđd, tr. 208-219.
(4) Võ Nguyên Giáp: Từ nhân dân mà ra, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1969, tr.130-134.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 3, sđd, 505 - 506 và 507.
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 3, sđd, 505 - 506 và 507.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Mười, 2011, 08:36:23 am
2. Nhận thức đúng thời cơ đã tới, phát động toàn dân nổi dậy tổng khởi nghĩa giành độc lập, giành chính quyền trong toàn quốc.

Đầu tháng 8.1945, nước ta bước vào ngưỡng cửa của một cuộc cách mạng. Tình hình thế giới và trong nước chuyển biến mau lẹ. Tình thế và thời cơ cách mạng xuất hiện.

Ngày 13.8.1945, phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng minh, thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền và độc lập có một không cho nước ta đã đến. Nhận định này xuất phát từ tình hình cụ thể:

“ - Nhật chính quốc đã bị Đồng minh và Liên Xô đánh bại. Giặc Nhật ở Đông Dương như rắn mất đầu, hoang mang, chia rẽ cực điểm. Chính quyền Việt gian - tay sai của Nhật hoang mang, lúng túng, tê liệt.

- Tầng lớp trung gian ngả theo cách mạng.

- Cao trào cách mạng của toàn dân luôn sục sôi. Cơ sở và tổ chức Việt Minh phát triển, lớn mạnh. Toàn dân và các lực lượng vũ trang cách mạng sẵn sàng nổi dậy khi có lệnh khởi nghĩa của Người và của Đảng.

- Đảng Cộng sản Đông Dương quyết tâm phát động Tổng khởi nghĩa toàn quốc”.

Trước tình hình khẩn cấp của cơ hội “ngàn năm có một”, không chần chừ, do dự, Đảng quyết tâm lãnh đạo nhân dân Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc. Quyết tâm ấy thể hiện ở khẳng định của Hồ Chí Minh: “lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hi sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”(1).

Nắm vững thời cơ, từ ngày 13 đến ngày 15.8.1945, Hội nghị toàn quốc Đảng Cộng sản Đông Dương họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) quyết định phát động và lãnh đạo toàn dân Tổng khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai của chúng trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương. Hội nghị thông qua những vấn đề quan trọng để lãnh đạo cuộc khởi nghĩa như mục tiêu, khẩu hiệu, nguyên tắc chỉ đạo cuộc khởi nghĩa, nhiệm vụ chủ yếu trước mắt và chính sách đối nội, đối ngoại của Đảng và chính quyền cách mạng sau khi khởi nghĩa thành công.

3. Rèn luyện khả năng nắm đúng thời cơ và tổ chức hành động, thể hiện trình độ nghệ thuật lãnh đạo, quyết tâm chiến đấu giành thắng lợi của Đảng, thu hút sự hưởng ứng của quần chúng.

Trong nghệ thuật lãnh đạo Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, Đảng rất chiến sĩ trọng vấn đề thời cơ khởi nghĩa, làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu thế nào là thời cơ và vai trò quan trọng quyết định thắng lợi chắc chắn của thời cơ Tổng khởi nghĩa cách mạng. Đảng khẳng định cách mạng nổ ra phải có thời cơ thuận lợi, nhưng thời cơ cách mạng lại rất quý hiếm, đã ít xảy ra, lại xảy ra trong thời gian ngắn. Vì vậy việc tổ chức lãnh đạo của Đảng phải chuẩn bị kĩ lưỡng, toàn diện từ lâu, không làm cho ỷ lại, chờ đợi thời cơ mà phải ra sức hăng hái, kiên trì đấu tranh để góp phần tạo ra thời cơ cách mạng, làm cho thời cơ cách mạng xuất hiện và chín muồi để khởi nghĩa và khởi nghĩa thắng lợi toàn vẹn, chắc chắn, bảo toàn lực lượng cách mạng, tránh được tổn thất cho cách mạng và cho nhân dân.

Tính chính xác, khoa học của việc chọn đúng thời cơ đến để nổi dậy là điều quan trọng, quyết định thắng lợi. Đảng quyết định khởi nghĩa vào trung tuần tháng 8.1945 là chuẩn xác, đúng đắn và chắc chắn giành thắng lợi. Bởi vì, nếu khởi nghĩa toàn quốc trước ngày 9.3.1945 thì tuy có cơ hội thuận lợi, nhưng thời cơ vẫn chưa chín muồi. Sau khi hai kẻ thù, đế quốc phát xít Pháp - Nhật, quật đổ nhau, chỉ còn phát xít Nhật, nhưng Nhật vẫn còn mạnh, nền thống trị của Nhật, tay sai chưa khủng hoảng, hoang mang, chia rẽ đến cực điểm. Vì vậy, nếu khởi nghĩa Nhật vẫn có điều kiện đàn áp cách mạng, lực lượng trung gian chưa ngả theo cách mạng, toàn quốc mới đang chuẩn bị khởi nghĩa, cách mạng chưa thành cao trào trong toàn quốc… Tiến hành Tổng khởi nghĩa sẽ gặp rất nhiều khó khăn và thất bại.

Nếu sau ngày Nhật đầu hàng (14.8.1945) mà không phát động Tổng khởi nghĩa toàn quốc thì cơ hội tốt “ngàn năm có một” sẽ qua đi. Quân đội Đồng minh kéo vào nước ta, chúng giúp bọn Việt gian, phản cách mạng dựng ra chính phủ bù nhìn, tay sai, duy trì chế độ thực dân, đàn áp, chống phá cách mạng. Khi ta chưa lập ra được chính quyền toàn quốc thì không có cơ sở pháp lí đấu tranh chống lại âm mưu xâm lược của các nước đế quốc… Cách mạng sẽ bị đàn áp, thất bại.

Trong Tổng khởi nghĩa, Đảng không chỉ nắm được tình thế cách mạng, chọn đúng thời cơ đã chín muồi để quyết định Tổng khởi nghĩa mà còn có nghệ thuật tổ chức chỉ đạo Tổng khởi nghĩa, quyết định chính xác, hành động dũng cảm, mau lẹ, kịp thời và biết cách đánh địch, giành thắng lợi chắc chắn và ít đổ máu.

Mác cho rằng: khởi nghĩa phải có “thời cơ thuận lợi, chắc chắn”. Ổng chỉ rõ: “khởi nghĩa là một nghệ thuật, không được đùa với khởi nghĩa, phải liên tục tiến công địch, phòng ngự là con đường chết; phải giành thắng lợi ở một trận đầu, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”(2). Điều này đòi hỏi Đảng phải rèn luyện trong thực tiễn cách mạng.

Lênin cũng chỉ ra: “khởi nghĩa là một nhiệm vụ đòi hỏi phải có nghệ thuật chọn thời cơ để phát động khởi nghĩa và một tinh thần anh dũng gấp bội”(3). Do đó, “thà hi sinh đến người cuối cùng chứ quyết không để địch chạy thoát” và “nắm lấy chính quyền là sự nghiệp của khởi nghĩa”(4). Đây là biểu hiện quyết tâm và tài nghệ, sự sáng tạo trong lãnh đạo.

Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, làm phong phú thêm lí luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về khởi nghĩa giành chính quyền trong cách mạng, như vấn đề chuẩn bị lực lượng tiến hành khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền từng địa phương, tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền toàn quốc khi thời cơ chín muồi; tập dượt cho Đảng và nhân dân giành, giữ chính quyền khi chưa Tổng giành được chính quyền toàn quốc; trong khởi nghĩa giành chính quyền, sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng, kết hợp hai lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, hai hình thức đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang; sử dụng sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, của sự thống nhất lực lượng toàn dân nổi dậy để giành thắng lợi; phối hợp chặt chẽ giữa các vùng, các địa phương trong khởi nghĩa giành chính quyền.

Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám đã để lại những bài học khởi nghĩa cho công cuộc đấu tranh cách mạng của Đảng và nhân dân ta ở những giai đoạn cách mạng sau. Thắng lợi trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt trong mùa xuân 1975, chứng tỏ sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng trong việc nắm thời cơ và quyết tâm hành động.

Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước, ngày nay, nhân dân ta có những vận hội, nhiều thuận lợi cơ bản, nhưng cũng phải đương đầu với không ít khó khăn, gặp vô vàn nguy cơ và thử thách to lớn, ảnh hưởng không nhỏ đến sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Kế thừa và phát huy những bài học kinh nghiệm trong đấu tranh giải phóng dân tộc, trong Cách mạng tháng Tám 1945, trong kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ về việc nắm bắt thời cơ, kiên quyết hành động để đạt mục tiêu chiến lược, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta hòa nhập vào thế giới và khu vực, tranh thủ những thuận lợi, thời cơ, khắc phục những khó khăn, vượt qua các nguy cơ để tiếp tục đi theo con đường đã khẳng định, đã giành nhiêu thắng lợi mà không chệch hướng xã hội chủ nghĩa.

Bài học về nắm thời cơ và kiên quyết hành động trong Cách mạng tháng Tám còn “nóng hổi” trong cuộc cuộc xây dựng đất nước ngày nay.


(1) Võ Nguyên Giáp: Từ nhân dân mà ra, sđd, tr. 130 - 134.
(2) Mác - Ăngghen: Tuyển tập, tập II, sđd, tr. 356-357.
(3) Lênin - Mác - Ăngghen: Chủ nghĩa Mác, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, tr. 439 - 446.
(4) Lênin: Toàn tập, quyển 26. M. tr.204.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Mười, 2011, 08:43:32 am
LỰC LƯỢNG VŨ TRANG
TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM

NGUYỄN MINH ĐỨC(*)

Trong cuộc đấu tranh lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, chế độ thực dân để giải phóng nhân dân bị áp bức, giành độc lập, xây dựng xã hội văn minh, tiến bộ, nhất định phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng. Bạo lực cách mạng mà Đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo nhân dân đấu tranh bao gồm hai lực lượng: lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân.

Xây dựng lực lượng chính trị quần chúng là điều quan trọng mà Đảng rất quan tâm, vì nó tạo nên một sức mạnh to lớn để giành chiến thắng quyết định. Song, kẻ thù bao giờ cũng dùng vũ khí để đàn áp mọi cuộc đấu tranh cách mạng, chúng chỉ chịu khuất phục khi bị đánh bại. Vì vậy, cần phải có lực lượng vũ trang nhân dân để chiến thắng, khi quân địch buộc chúng ta phải cầm súng. Lực lượng chính trị quần chúng là cơ sở để xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, như Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn có đội quân vũ trang, phải có đội quân tuyên truyền vận động, đội quân chính trị trước đã, nên phải làm ngay, sao cho đội quân chính trị ngày càng đông. Phải có quần chúng giác ngộ chính trị tự nguyện vác súng thì mới thắng được”(*).

Tiếp thụ truyền thống kinh nghiệm của tổ tiên ta trong việc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân bên cạnh quân đội của triều đình, phát triển và nâng cao trên cơ sở lí luận chủ nghĩa Mác - Lênin về quân sự và những hoạt động thực tiễn của bản thân, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chú trọng việc xây dựng các loại lực lượng vũ trang trên cơ sở xây dựng, phát triển phong trào cách mạng của nhân dân.

Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh “đem sức ta mà giải phóng cho ta”(2), ngay sau khi vừa ra đời (3.2.1930), Đảng Cộng sản Việt Nam đã phát động và lãnh đạo phong trào cách mạng 1930-1931 mả đỉnh cao là Xô viết Nghệ - Tĩnh. Thực hiện đường lối được xác định trong Chánh cương vắn tắt - cương lĩnh đầu tiên của Đảng - Đảng đã “tổ chức ra quân đội công nông”(3). Chủ trương này thể hiện tư tưởng mà Nguyễn Ái Quốc đã trình bày trong bài giảng Công tác của Đảng trong nông dân, tại Trường Quân sự của những người Cộng sản Đức ở Matxcơva vào cuối năm 1927: “Thông thường, bất kì một phong trào cách mạng nghiêm chỉnh nào trong nông dân đều nhất thiết phải sử dụng hình thức hoạt động vũ trang (nghĩa là những hoạt động quân sự thực sự là những toán du kích nông dân) chống lại sự lộng quyền của bọn địa chủ, bọn cho vay nặng lãi, những công chức chính phủ…, đó là điều hoàn toàn cốt lỗi để bàn luận công tác quân sự của Đảng trong nông dân suốt thời gian dài”(4)

Đội tự vệ công nông mà nòng cốt là đội “Xích vệ” (Tự vệ đỏ) ra đời trong phong trào Xô viết Nghệ - Tĩnh, thể hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về quan điểm, chủ trương đúng đắn của Đảng về bạo lực cách mạng. Việc xây dựng và hoạt động của lực lượng vũ trang nhân dân đầu tiên này để lại nhiều bài học quý báu cho cuộc đấu tranh giành chính quyền sau này.

Trong phong trào cách mạng 1939-1945 tiến tới Tổng khởi nghĩa, việc xây dựng các lực lượng vũ trang và các căn cứ cách mạng ở Việt Bắc và nhiều địa phương trong nước là một điều kiện quan trọng để chuẩn bị lực lượng cho cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945. Trong số các lực lượng vũ trang này phải kể đến Cứu quốc quân, ra đời trong cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (1940), Đội du kích Pác Bó (thành lập cuối năm 1941), Đội du kích Ba Tơ, ra đời trong cuộc khởi nghĩa Ba Tơ (11.3.1945).

Sự chuẩn bị tích cực các lực lượng, trong đó có lực lượng vũ trang cách mạng, được tiến hành từ sau khi Hồ Chí Minh về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Khi đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc là “vấn đề cần kíp nhất” lúc bấy giờ, Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng ở Pác Bó (1941) đã quyết định phải xúc tiến công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, coi đây là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân dân Việt Nam trong thời kì tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Muốn giành được thắng lợi quyết định cần phải chuẩn bị đầy đủ, để có những điều kiện khách quan và chủ quan cần thiết vùng lên khởi nghĩa khi thời cơ đến. Để có những điều kiện như vậy, một trong những lực lượng cần quan tâm đặc biệt là “phải có những tổ chức tiểu tổ du kích, du kích chính thức và tổ chức binh lính đế quốc”(5).

Thực hiện chủ trương của Đảng, các đội du kích Bắc Sơn, tuy bị kẻ thù lùng sục, truy đuổi để tiêu diệt, song vẫn duy trì và phát triển. Trên cơ sở đó, các trung đội Cứu quốc quân ra đời và ngày một trưởng thành, trở thành lực lượng nòng cốt xây dựng căn cứ địa cách mạng và phát động phong trào đấu tranh của quần chúng. Một sự kiện cần nhấn mạnh là trong điều kiện vô cùng khó khăn, gian khổ bị địch đàn áp khốc liệt, Trung đội Cứu quốc quân thứ hai được thành lập ngày 15.9.1941 tại rừng Khuôn Mánh, thôn Ngọc Mỹ, xã Tràng Xá, Vũ Nhai.

Sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại (tháng 11.1941), một số đội du kích nhỏ vẫn tiếp tục hoạt động ở nhiều địa phương, dù lực lượng yếu, phải đối phó với kẻ thù mạnh hơn mình gấp nhiều lần, song các đội vũ trang này vẫn hoạt động liên tục cho đến Cách mạng tháng Tám.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong những năm 1943-1944, phong trào cách mạng phát triển làm cơ sở cho việc xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang. Ngày 25.2.1944, Trung đội Việt Nam Cứu quốc quân thứ ba ra đời tại Lũng Khuổi Kịch (Sơn Dương, Tuyên Quang).

Từ đó, tại căn cứ địa Cao Bằng và nhiều địa phương khác ở Việt Bắc, các lực lượng vũ trang và nửa vũ trang được thành lập và phát triển, hỗ trợ cho các lực lượng chính trị của quần chúng. Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc xây dựng lực lượng vũ trang; bời vì “không có lực lượng vũ trang thì không thể đánh thắng được bọn áp bức…”(6). Người chăm lo tổ chức các đội tự vệ, tự vệ chiến đấu, đào tạo cán bộ chỉ huy quân sự, biên soạn tài liệu để huấn luyện cho cán bộ và đội viên các lực lượng vũ trang.

Việc thành lập Độ Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân ngày 22.12.1944, theo Chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là một bước ngoặt trong sự phát triển lực lượng vũ trang cách mạng, chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Đây là tổ chức tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam. Như lời khẳng định của Hồ Chí Minh “Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân là đội quân đàn anh, mong cho chóng có những đội quân đàn em khác.

Tuy lúc đầu quy mô của nó còn nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của giải phóng quân, nó có thể đi từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam”(7). Lời tiên đoán của Hồ Chí Minh đã trở thành sự thật; từ một đội quân với 34 chiến sĩ đã lần lượt thành lập ở nhiều nơi trong nước những đội du kích, góp phần vào thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 và phát triển thành Quân đội nhân dân hùng mạnh trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, kháng chiến chống Mĩ, cứu nước và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ngày nay.


(*) TS. Đại tá, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam.
(*) Dẫn theo Vũ Anh: Hồi kí Bác Hồ, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1960, tr. 120.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 3, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 554.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng - Toàn tập, tập 7, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 118.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2, sđd, tr. 4.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng - Toàn tập, tập 7, sđd, tr. 130.
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, sđd, tr. 350.
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 3, sđd, tr. 505.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Mười, 2011, 08:48:18 am
Ngày 9.3.1945, Nhật đảo chính Pháp, trong Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, Thường vụ Trung ương đã ra lệnh “huy động đội tự vệ tước vũ khí của binh lính (Pháp) bại trận đào ngũ, dao động, mất “tinh thần”, và “phát động du kích ở những nơi có địa hình, địa thế”(1). Như vậy, trong tình hình mới, có lợi cho cách mạng, việc chuyển sang các hình thức đấu tranh cao hơn trước, nhưng tổng biểu tình tuần hành, bãi công chính trị, mít tinh công khai, bãi thị, bất hợp tác với Nhật về mọi phương tiện đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa từng phần, đòi hỏi phải có lực lượng vũ trang lớn mạnh.

Thấm nhuần quan điểm đường lối của Đảng,thực hiện Chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng, nhiều địa phương (có địa phương chưa nhận được chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, đã quyết định khởi nghĩa giành chính quyền, khi xét đã có đủ điều kiện - trong đó có một điều kiện quan trọng là xây dựng được lực lượng vũ trang. Ở Miền Bắc, chính quyền cách mạng đã được thành lập ở nhiều xã, châu và huyện, khi mà Cứu quốc quân và nhân dân ở các địa phương đã khởi nghĩa thắng lợi. Các tỉnh Miền Trung từ Nghệ An đến Ninh Thuận đều tích cực chuẩn bị lực lượng để khởi nghĩa, nhưng khởi nghĩa từng phần mới diễn ra ở Quảng Ngãi, với sự ra đời của Đội du kích Ba Tơ. Ở Nam Kỳ, sau cuộc khởi nghĩa năm 1940 các đội du kích được duy trì và hoạt động đến Cách mạng tháng Tám 1945.

Trong tình hình này, để đẩy mạnh hơn phong trào cách mạng, Đảng ta thấy rằng cần phải tăng cường hoạt động của các lực lượng vũ trang. Hội nghị quân sự cách mạng của Đảng (tham dự chỉ có đại biểu các tỉnh phía Bắc) họp từ ngày 15 - 20.4.1945 tại Hiệp Hòa (Bắc Giang) đã quyết định phát triển lực lượng vũ trang, nửa vũ trang và thống nhất các lực lượng vũ trang sẵn có của Đảng thành Việt Nam Giải phóng quân. Sau Hội nghị quân sự Bắc Kỳ, cao trào chống Nhật, cứu nước trong cả nước phát triển mạnh mẽ, tiến tới Tổng khởi nghĩa.

Ngày 13.8, vừa nhận được tin phát xít Nhật bại trận và đầu hàng Đồng minh, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc được thành lập và lúc 23 giờ cùng ngày, Quân lệnh số 1 được công bố: “Giờ tổng khởi nghĩa đã đánh! Cơ hội cơ một cho quân, dân Việt Nam vùng dậy giành lấy độc lập của nước nhà!… Chúng ta phải hành động cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng… Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về ta!”(2).

Cuộc Tổng khởi nghĩa bùng nhổ nhanh chóng, kịp thời, đúng thời cơ, theo đường lối, chủ trương của Đảng đã vạch ra thống nhất cho cả nước. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương tránh đổ máu trong cuộc đấu tranh giành chính quyền khi quân Nhật đã mất tinh thần, chính quyền tay sai rệu rã, nhưng trong những trường hợp cần thiết không thể không “tập trung lực lượng, kịp đánh vào các đô thị và trung tâm của quân địch, đánh chẹn các đường rút lui của chúng, tước vũ khí của chúng”; cần phải huy động nhân dân “đem hết tâm lực ủng hộ đạo quân giải phóng, sung vào bộ đội, xông ra mặt trận đánh quân thù”(3).

Đúng như dự đoán của Đảng và Hồ Chí Minh, phương thức đấu tranh chính trị, thương lượng hòa bình, về cơ bản, đưa lại thắng lợi, không phải đổ máu, song do sự ngoan cố, tính chất phản động mà một số đơn vị quân đội Nhật và bọn tay sai cũng chống lại quyết liệt. Cuộc đấu tranh giành chính quyền ở một số nơi diễn ra gay go, phức tạp; chúng ta phải dùng đến bạo lực vũ trang mới giành thắng lợi. Trong những trường hợp này, lực lượng vũ trang cách mạng đã phối hợp với quần chúng nhân dân để giành và giữ chính quyền cách mạng và chúng ta cũng chịu những tổn thất không nhỏ.

Ở Vĩnh Yên, trong cuộc giành chính quyền ở thị xã, ngày 31.8.1945, hội phản động Quốc dân Đảng, Đại Việt, dựa vào quân Tưởng đã xả súng vào đoàn biểu tình làm hàng trăm người chết và bị thương.

Tại Hải Ninh (nay thuộc Quảng Ninh), lực lượng vũ trang cách mạng đã phải tổ chức tấn công bọn phỉ người Hoa, bọn Việt quốc, Việt cách theo đuổi quân Tưởng. Cuộc đấu tranh phải giành đi giật lại nhiều lần giữa ta và bọn phản động theo Tưởng, mãi đến giữa năm 1946 mới giành được thắng lợi, song nhiều đồng bào bị tàn sát rất dã man.

Tại Thái Nguyên, từ ngày 20.8.1945, cuộc chiến đấu giữa Chi đội Giải phóng quân và quân Nhật cũng diễn ra quyết liệt trong một thời gian dài, chủ yếu ở trại lính khố xanh, nơi quân Nhật đóng.

Tại Tuyên Quang, cuộc xung đột vũ trang giữa lực lượng vũ trang cách mạng và quân Nhật cũng diễn ra, đặc biệt trong trận đánh ngày 20.8.1945, Quân cách mạng chỉ có súng trường, gậy, dao, kiếm, lựu đạn song với tinh thần chiến đấu dũng cảm đã tấn công vào trại lính Nhật, buộc chúng phải đầu hàng. Ngày 21.8, tại Ỷ La quân cách mạng lại tấn một bộ phận quân Nhật từ Hà Giang kéo về Tuyên Quang mà không chịu giao nộp vũ khí. Quân ta đã diệt 30 lính Nhật, bắt và tước vũ khí số còn lại.

Ở Quảng Ngãi, lực lượng vũ trang cách mạng, nòng cốt là các đơn vị của Đội du kích Ba Tơ, đã nhiều lần tổ chức các cuộc tấn công lực lượng quân đội Nhật đóng ở thị xã, chặn đánh các cuộc hành quân của chúng ra các huyện. Các trận thắng ở Mỏ Cày (Đức Phổ), Thi Phổ (Tư Nghĩa) thể hiện tinh thần chiến đấu ngoan cường của lực lượng vũ trang cách mạng Quảng Ngãi, được quần chúng hết lòng ủng hộ.

Như vậy, trong Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945, hầu hét các tỉnh đều kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, trong đó vai trò lực lượng chính trị là quyết định, lực lượng vũ trang làm nhiệm vụ xung kích, hỗ trợ. Tuy nhiên, không có lực lượng vũ trang đủ, ạnh thì cuộc đấu tranh chính trị của quần chúng nhân dân sẽ gặp không ít khó khăn, vì địch ngoan cố, chống trả quyết liệt. Ở những địa phương không có xung đột vũ trang thì lực lượng vũ trang cách mạng vẫn hỗ trợ đắc lực cho quần chúng đánh chiếm các công sở của chính quyền địch (như ở Hà Nội), bảo vệ các cuộc biểu tình, tuần hành của quần chúng, buộc địch phải đầu hàng.

Việc xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang nhân dân trong thời kì Cách mạng tháng Tám xác nhận tính đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân khi tiến hành khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng. Tư tưởng của Người đã soi sáng, chỉ đạo việc xây dựng Quân đội nhân dân hùng mạnh: “Quân đội ta là quân đội nhân dân, do dân đẻ ra, vì dân mà chiến đấu”(4).


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng - Toàn tập, tập 7, sđd, tr. 370.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng - Toàn tập, tập 7, sđd, tr. 421.
(3) Sđd, tr. 421.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 6, sđd, tr. 318.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Mười, 2011, 03:35:53 pm
Ý NGHĨA VÀ TẦM VÓC LỊCH SỬ
CỦA CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945

TƯỞNG PHI NGỌ (*)

Trong sự phát triển của lịch sử loài người, mối quan hệ giữa các tộc người, các châu lục ngày càng xích gần nhau. Với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, quan hệ này càng chặt chẽ, thường xuyên hơn và ngày nay, chúng ta đang sống trong thời kì toàn cầu hóa, thế giới hóa. Ảnh hưởng tác động của thế giới đến các dân tộc và ngược lại đã chi phối sự phát triển của lịch sử loài người và mỗi quốc gia.

Nhận thức được điều này trong quá trình đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới và xác định con đường cứu nước đúng cho nhân dân ta. Đây là công lao to lớn đầu tiên của Hồ Chí Minh, mở đầu cho nhiều công lao khác của Người với dân tộc và nhân loại.

Sự đóng góp của Người trong việc đưa Cách mạng tháng Tám 1945 thắng lợi làm cho cuộc cách mạng này có ý nghĩa và tầm vóc lịch sử to lớn trong thế kỉ 20, không những trong nước mà trên bình diện quốc tế là một đóng góp như vậy.

Cũng như lịch sử thế giới nói chung, lịch sử của thế kỉ 20 là lịch sử của tất cả các dân tộc đã có những đóng góp vào quá trình xã hội loài người. Ý nghĩa quốc tế của một sự kiện không phải vì nó xảy ra ở một nước giàu mạnh, mà vì tác động của sự kiện ý nghĩa quyết định đối với hiện tại và cả trong tương lai không chỉ đối với dân tộc mình mà với nhiều dân tộc khác. Cách mạng tháng Tám 1945 ở Việt Nam có tầm vó vĩ đại, vì “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”(1).

Ý nghĩa trong nước và quốc tế của Cách mạng háng Tám 1945 ngày càng thể hiện rõ rệt và được xác nhận.

Đối với Việt Nam, đây là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đầu tiên trong lịch sử nước ta sau mấy nghìn năm dựng nước. Nó không những chứng tỏ rằng con đường cứu nước, do Hồ Chí Minh lựa chọn, Đảng xác định, nhân dân kiên trì thực hiện là đúng mà còn mở ra một thời kì mới trong lịch sử, sau một nghìn năm độc lập dân tộc, thoát khỏi ách thống trị hàng chục thế kỉ của phong kiến phương Bắc. Đó là thời kì độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, nhân dân thực sự làm chủ đất nước. Vì vậy, Cách mạng tháng Tám được xem là “khâu đột phá” cho sự phát triển của đất nước, nhân dân Việt Nam trên con đường độc lập, tự do, văn minh, tiến bộ, hợp với quy luật lịch sử của xã hội loài người.

Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám nâng cao vai trò, vị trí của dân tộc Việt Nam - một dân tộc đã đóng góp vào nền văn minh nhân loại những thành tựu của các nền văn hóa rực rỡ thời Văn Lang - Âu Lạc, Đại Việt, Sa Huỳnh, Óc Eo… những chiến công lừng lẫy trong đánh thắng kẻ thù, từng có mưu đồ làm bá chủ thế giới, như Mông - Nguyên. Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, Việt Nam mở đầu cho thời kì các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc đi vào kỉ nguyên độc lập, tự do, văn minh, tiến bộ thực sự. Con đường đi tới còn nhiều chông gai, gian khó, và phải đương đầu với các thế lực phản động trong nước và quốc tế, phải vượt qua tập tục, tàn dư tư tưởng cũ, song cuộc đấu tranh này nhất định sẽ thắng lợi.

Ý nghĩa, tầm vóc lịch sử của Cách mạng tháng Tám đối với dân tộc thể hiện tập trung ở việc mở đầu có tính quyết định cho sự chấm dứt hoàn toàn mọi chế độ áp bức dân tộc, giai cấp, tạo nên sức mạnh để giành tiếp những thắng lợi to lớn trên con đường phát triển tương lai đầy chông gai, gian khổ.

Ý nghĩa, tầm vóc lịch sử của Cách mạng tháng tám không giới hạn trong phạm vi dân tộc, đất nước mà còn tỏa sáng trên thế giới, như một sự kiện lớn, quan trọng của thế kỉ 20.

Bước vào thế kỉ 20, do sự phát triển kinh tế, khoa học - kĩ thuật, mà tình hình chính trị, xã hội của thế giới có nhiều biến đổi to lớn, sâu sắc. Chủ nghĩa tư bản đang trong quá trình hoàn thành việc chuyển từ giai đoạn tự do cạnh trang sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Thời kì này diễn ra vào 30 năm cuối của thế kỉ 19, đến thời điểm trước Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra. Về hình thức, đặc điểm của hai giai đoạn này có sự khác nhau, song không hề làm thay đổi bản chất của chủ nghĩa tư bản.

Cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20, các nước tư bản đế quốc, về cơ bản, đã phân chia xong thế giới, biến phần lớn các nước ở Châu Á, Châu Phi, khu vực Mĩ Latinh thành các nước thuộc địa và phụ thuộc. Nói chung, cơ cấu kinh tế - xã hội của tất cả các nước thuộc địa và phụ thuộc là chế độ bóc lột phong kiến cũ được duy trì và chồng lên nó là ách thống trị tư bản chủ nghĩa. Bên cạnh các giai cấp cơ bản trước kia - nông dân và phong kiến - đã xuất hiện các giai cấp mới của xã hội thuộc địa: công nhân, tiểu tư sản và tư sản (tư sản dân tộc và mại bản).

Bối cảnh lịch sử thế giới, cùng với những biến chuyển sâu sắc của xã hội Việt Nam, do chinh sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp gây nên, đã tác động mạnh mẽ đên phong trào giải phóng dân tộc nước ta. Phong trào Cần Vương - thực chất là phong trào đấu tranh chống Pháp cứu nước của nhân dân Việt Nam - đã thất bại, nhưng cuộc đấu tranh yêu nước theo xu hướng dân chủ tư sản cũng sớm bộc lộ những mặt yếu và không thể thành công.

Trong cuộc hành trình “thần kì” qua các châu lục, các nước có chế độ chính trị, xã hội khác nhau, Hồ Chí Minh đã xác định con đường cứu nước phù hợp với thời đại mới mà Cách mạng tháng Mười Nga 1917 đã mở ra.


(*) ThS. Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 6, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 159.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Mười, 2011, 03:40:11 pm
Bằng “cảm tính tự nhiên” và sự nhạy cảm về chính trị, cũng như kinh nghiệm đấu tranh thực tiễn, Hồ Chí Minh đã nhận thấy “… Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu, hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu như thế.

… Cách mạng tháng Mười mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc và cả loài người, mở đầu một thời đại mới trong lịch sử, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên thế giới”(1).

Người đã tiếp nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, học tập kinh nghiệm của Cách mạng tháng Mười, đã dưa cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam theo con đường cách mạng vô sản - con đường duy nhất trong thời đại mới của lịch sử nhân loại có thể đưa các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc đến thắng lợi hoàn toàn. Nhận thức ý nghĩa lịch sử - toàn thế giới của Cách mạng tháng Mười Nga, tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã xác định con đường cách mạng vô sản trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, khi mà ở nhiều nước thuộc địa và phụ thuộc con đường cứu nước dân chủ tư sản, do giai cấp tư sản lãnh đạo, vẫn giữ vai trò độc tôn.

Cách mạng tháng Tám ở Việt Nam đã thắng lợi một cách toàn diện và triệt để, trong khi cùng một bối cảnh, điều kiện lịch sử sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai vừa kết thúc mà ở nhiều nước thuộc địa cách mạng không nổ ra, hoặc không thắng lợi triệt để. Thực tế lịch sử này đã chứng minh con đường Cách mạng tháng Tám đã trải qua là đúng. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 là sự xác nhận bằng thực tiễn rằng: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”(2). Bởi vì, “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc: cả hai cuộc giải phóng chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”(3).

Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám ở Việt Nam còn thể hiện ý nghĩa quốc tế và tầm vóc lịch sử của nó: trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc phải đi theo con đường cách mạng vô sản, tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tiếp thụ những bài học, kinh nghiệm quý báy của Cách mạng tháng Mười Nga, song lại phải linh hoạt, sáng tạo, chủ động, vận dụng phù hợp với điều kiện lịch sử của đất nước. Như vậy, mới giành được thắng lợi; nếu rập khuôn, giáo điều sẽ thất bại.

Cuộc cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, theo con đường cách mạng vô sản, trước hết phải làm nhiệm vụ một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xét cho cùng cũng là cuộc đấu tranh giai cấp, song nó phải làm nhiệm vụ trực tiếp là chống kẻ thù xâm lược đang thống trị, áp bức các tầng lớp nhân dân. Vì vậy, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc phải huy động mọi giai cấp, tầng lớp nhân dân có tinh thần yêu nước đấu tranh cho mục tiêu độc lập dân tộc, tập hợp trong mặt trận dân tộc thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Trong cuộc đấu tranh này, “chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”(4). Cách mạng tháng Tám thắng lợi đã xác nhận ý nghĩa quốc tế của nó đối với cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc. Nó khắc phục được các khuynh hướng sai lầm thường gặp trong phong trào giải phóng dân tộc lúc bấy giờ ở một số nước. Đó là các khuynh hướng “hữu khuynh”, hoặc “tả khuynh” để ngọn cờ lãnh đạo rơi vào tay độc quyền của giai cấp tư sản dân tộc, thậm chí của bọn phản động, đội lốt “yêu nước”, tiến bộ, hoặc đề cao “đấu tranh giai cấp”, không tập hợp được đông đảo các lực lượng yêu nước… Ý nghĩa quốc tế của Cách mạng tháng Tám 1945 ở đây thể hiện ở vai trò của Mặt trận dân tộc thống nhất, động viên sức mạnh của mọi tầng lớp nhân dân yêu nước để thực hiện mục tiêu chiến lược của Đảng Cộng sản, cũng là mục tiêu của toàn thể dân tộc.

Sự sáng tạo của Đảng và Hồ Chí Minh thể hiện sự trung thành với những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, kiên định con đường mà Cách mạng tháng Mười đã trải qua để giải quyết một cách cụ thể những vấn đề được đặt ra, chưa xuất hiện ở các thời kì lịch sử trước. Tiếp thụ chủ nghĩa Mác, ngay từ năm 1924, Nguyễn Ái Quốc khi khẳng định tính đúng đắn, phổ biến của học thuyết này vẫn cho rằng: “Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được…”. Do đó, cần phải “xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông”. Việc “xem xét” mà Nguyễn Ái Quốc nêu lên không phải việc “xét lại”, “nghi ngờ” các nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, như có kẻ vu cáo, “phê phán” Người “xa rời đấu tranh giai cấp”, “đặt vấn đề dân tộc cao hơn giai cấp”…

Sự vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin và học tập kinh nghiệm Cách mạng tháng Mười của Hồ Chí Minh và Đảng ta một cách sáng tạo, để đưa cách mạng thới thắng lợi.

Ý nghĩa lịch sử to lớn của Cách mạng tháng Mười Nga 1917 là đánh dấu một thời đại mới ra đời trong sự phát triển xã hội loài người, bắt đầu bằng thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện và bối cảnh lịch sử ấy, Cách mạng tháng Tám 1945 thắng lợi lại đưa tới sự vùng dậy của các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc để được giải phóng, xây dựng các quốc gia độc lập hùng mạnh, văn minh tiến bộ. Vì vậy, đi theo Cách mạng tháng Mười song Cách mạng tháng Tám không làm như Cách mạng tháng Mười, tức là thực hiện ngay nhiệm vụ xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, lập nền chuyên chính vô sản, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cách mạng tháng Tám là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, trước tiên phải đánh đổ chế độ thuộc địa, giành độc lập, giải quyết những nhiệm vụ chống phong kiến, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ những thành quả của cách mạng để xây dựng xã hội ấm no, hạnh phúc, giầu mạnh theo con đường xã hội chủ nghĩa.

Thực tiễn 60 năm qua (1945-2005) chứng minh con đường mà Cách mạng tháng Tám sau khi thắng lợi đã thực hiện tốt đẹp, tuy phải trải qua nhiều hi sinh, tổn thất. Do đó, Cách mạng tháng Tám được xem là một sự kiện trọng đại, có ý nghĩa, tầm vóc lịch sử trong việc mở đầu quá trình làm sụp đổ chế độ thực dân cũ, cổ vũ nhân dân các nước bị áp bức đấu tranh tự giải phóng, giành độc lập, tự do.

*

Trong lịch sử xã hội loài người, đặc biệt trong thế kỉ 20, Cách mạng tháng Tám có ý nghĩa và tầm vóc lịch sử to lớn. Đối với Việt Nam, nó đem lại sự giải phóng khỏi ách thống trị thực dân, mở đầu kỉ nguyên độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội. Đối với thế giới, nó “nổi lên như là một trong những cuộc cách mạng có sức sống và làm đảo lộn nhiều nhất”(5), và đã mở đầu cho quá trình phi thực dân hóa, cho sự hình thành hệ thống các quốc gia độc lập dân tộc.


(1) Hồ Chí Minh: Cách mạng tháng Mười vĩ đại mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc, trong Toàn tập, tập 12, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 300-301.
(2) Hồ Chí Minh: Con đường cứu nước và giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay, trong Toàn tập, sđd, tập 9, tr. 314.
(3) Hồ Chí Minh: Cuộc kháng chiến… trong Toàn tập, sđd, tập 1,tr. 416.
(4) Hồ Chí Minh: Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, trong Toàn tập, sđd, tập 1, tr. 464.
(5) Stein Tonnesson: The Vietnamese Revoloution of 1945, Roosevelt, Ho Chi Minh an De Gaullle in a World at a War, Sage Publications, 1991, London, New Bury Park - New Dehli, tr. 426.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Mười, 2011, 03:44:16 pm
QUAN HỆ CỦA VIỆT MINH VỚI LỰC LƯỢNG
ĐỒNG MINH CHỐNG PHÁT XÍT TRONG ĐẤU TRANH
GIÀNH THẮNG LỢI CHO CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945

NGUYỄN XUÂN HỠI (*)

Sau 30 năm tìm đường cứu nước, mùa xuân năm Tân Tỵ (1941) Nguyễn Ái Quốc từ đất Trung Quốc vượt biên giới Việt - Trung ở cột mốc (108) về Pác Bó (Cao Bằng). Người đã xây dựng vùng đất này thành chỗ đứng chân của cách mạng, mở các lớp huấn luyện đào tạo cán bộ và thành lập các tổ chức, đoàn thể cứu quốc.

Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ VIII, họp từ ngày 10 đến ngày 19.5.1941, tại Pác Bó (Cao Bằng). Hội nghị đã thảo luận những nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam, trong đó có vấn đề quan hệ giữa cách mạng Việt Nam và Đông Dương với sự phát triển của cách mạng thế giới: “Cuộc cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng thế giới và giai đoạn hiện tại là một bộ phận dân chủ chống phát xít… Vận mạng của dân tộc Đông Dương lại chung với vận mạng nước Trung Quốc cách mạng và Liên bang Xô Viết”(1). Vì vậy, từ căn cứ địa Việt Bắc, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã chủ động mở rộng quan hệ với lực lượng Đồng minh chống phát xít, tăng cường thế và lực cho cách mạng Việt Nam, tiến lên giải phóng đất nước.

Đến giữa năm 1942, sức tiến công của quân Nhật bắt đầu suy yếu và chuyển sang thế phòng ngự trên chiến trường Thái Bình Dương. Trước tình hình ấy, cuộc chiến tranh chống Nhật và phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc Đông Nam Á ngày càng phát triển nhanh chóng. Nhưng lúc bấy giờ Mặt trận Việt Minh chưa có mối quan hệ với lực lượng Đồng minh chống phát xít. Vì vậy, việc hợp tác với Trung Quốc, một nước lớn trong khối Đồng minh chống phát xít ở ngay bên cạnh căn cứ địa Việt Bắc của chúng ta là rất cần thiết và tạo nên thế mạnh cho cách mạng Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã nói rõ tư tưởng của minh về vấn đề đó trong bài viết trên báo “Việt Nam độc lập” ngày 21.8.1942: “Quan hệ Trung Quốc - Việt Nam đã từng thân thiện trong lịch sử, nay lại cùng bị Nhật xâm lược, có một kẻ thù chung là Nhật, một mục đích chung là đuổi giặc Nhật”… Hai dân tộc, “đồng tâm hiệp lực, khăng khít giúp đỡ lẫn nhau thì cuộc giải phóng chung của chúng ta sẽ nhanh chóng thành công”.

Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy rằng, Mặt trận Việt Minh cần phải có cuộc gặp gỡ chính thức với Chính phủ Tưởng Giới Thạch để bàn về quan hệ giữa hai bên trong cuộc đấu tranh chống Nhật giải phóng đất nước.

Từ căn cứ địa Việt Bắc, Nguyễn Ái Quốc đã “vâng lệnh Đoàn thể đi cầu viện”(2). Người đã chủ động sang Trung Quốc tạo cơ sở mở rộng quan hệ với lực lượng Đồng minh chống Nhật. Để chuẩn bị thủ tục cho chuyến “bang giao” đó, Ngời đã nói rõ với đồng chí Vũ Anh lấy đá mềm khắc cho Người hai con dấu: một con dấu của “Việt Nam Độc lập Đồng minh” và một con dấu của “Quốc tế phản xâm lược Việt Nam Phân hội”; đồng thời Nguyễn Ái Quốc đã tự tay viết hai “Giấy ghới thiệu” của các tổ chức trên “Cử Cụ Hồ Chí Minh đi gặp Chính phủ Trung Quốc”. Từ đó cái tên Hồ Chí Minh chính thức xuất hiện trên các diễn đàn chính trị - xã hội, đối nội, đối ngoại cũng như các văn bản, báo chí, tác phẩm chính luận và thi ca của Người. Sau khi chuẩn bị xong những thủ tục cần thiết, ngày 13.8.1942 Hồ Chí Minh lên đường sang Trung Quốc, đi bộ hơn hai tuần đến huyện Tĩnh Tây thì bị chính quyền địa phương Tưởng Giới Thạch bắt giữ. Sau khi bị bắt, Người biết rằng nếu không có sự can thiệp của quốc tế và sự phản đối của dư luận ở trong và ngoài nước thì chúng không trả tự do cho mình. Vì vậy, Người đã tìm mọi cách bí mật gửi thư về nước, hướng dẫn biện pháp vận động để cho những lời khai của Người và những nội dung vận động trong nước gửi ra phù hợp với nhau. Từ đó, một phong trào rộng rãi đòi trả tự do cho Hồ Chí Minh được phát động, hàng trăm bức thư của các Hội cứu quốc ở vùng căn cứ địa Việt Bắc và của nhiều Việt kiều ở Hoa Nam gửi cho Chính phủ Tưởng Giới Thạch đòi thả nhà cách mạng Hồ Chí Minh.

Năm 1943, lực lượng Đồng minh bắt đầu phản công quân Nhật ở Thái Bình Dương và quân Mĩ, Anh có nhiều khả năng đổ bộ vào Đông Dương. Trước tình hình ấy, việc Chính phủ Trung Quốc đề ra kế hoạch chuẩn bị “Hoa quân nhập Việt” càng trở nên cấp bách. Trong giới lãnh đạo Trung Quốc lúc bấy giờ, từ Tưởng Giới Thạch đến Trương Phát Khuê, đều thấy cần phải nhanh chóng củng cố lại Ban lãnh đạo “Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội” và tìm mọi cách đưa Việt Minh vào hội này, vì Việt Minh có thực lực ở trong nước. Để tranh thủ Việt Minh, lúc đó họ nghĩ đến Hồ Chí Minh, một lãnh tụ có uy tín của Việt Minh đang bị giam ở Quảng Tây.

Vì vậy, ngày 10.9.1943, Trương Phát Khuê đã ra lệnh trả tự do cho Hồ Chí Minh và mời Người tham gia Ban trù bị Đại hội toàn quốc của “Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội”. Lúc đầu Hồ Chí Minh không nhận, nhưng sau đó Trương Phát Khuê trực tiếp viết thư cho Người với lời lẽ coi sự đồng ý của Người như điều kiện để được trả tự do. Trong điều kiện lúc bấy giờ, Hồ Chí Minh cũng nhận thấy việc mời Người vào Ban trù bị Đại hội toàn quốc của “Việt Cách” chứng tỏ Tưởng Giới Thạch phải chấp nhận những đảng phái cánh tả của cách mạng Việt Nam vào tổ chức chính trị của chúng. Do từ chối không có lợi nên Người đã nhận lời tham gia Ban trù bị Đại hội “Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội”.

Trong những ngày còn ở Trung Quốc, Hồ Chí Minh đã gặp đồng chí Lê Tùng Sơn, đại biểu Hội giải phóng Việt Nam (bộ phận Việt Minh ở nước ngoài) đến Liễu Châu tham gia Ban trù bị Đại hội “Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội”. Sau một số lần họp, Hội nghị Ban trù bị vẫn chưa thống nhất được về thời gian họp và số lượng đại biểu Việt Minh tham gia Đại hội. Để mở lối thoát cho sự bế tắc này, Hồ Chí Minh đã đưa ra sáng kiến là họp Hội nghị đại biểu hải ngoại trước để thống nhất các lực lượng cách mạng Việt Nam ở nước ngoài, đồng thời để trù bị cho Đại hội toàn quốc của “Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội”. Đại hội đó sẽ họp một năm sau cuộc họp đại biểu hải ngoại và sẽ do Hồ Chí Minh chuẩn bị bố trí địa điểm trong khu giải phóng Việt Bắc. Sáng kiến trên đây của Hồ Chí Minh đã được Trương Phát Khuê tán thành và đề nghị Người dự thảo kế hoạch thực hiện.


(*) ThS. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
(1) Văn kiện Đảng, tập 3 (1930-1945), tr. 216.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 3, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1983, tr. 735.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Mười, 2011, 03:49:12 pm
Đến tháng 3.1944, Hội nghị đại biểu hải ngoài “Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội” được tiến hành tại Liễu Châu (Trung Quốc). Tại Hội nghị này, Hồ Chí Minh đã đọc hai bản tham luận: “Về Phân hội quốc tế chống xâm lược của Việt Nam” và “Về các đảng phái trong nước”(1).

Nội dung của hai bản tham luận trên đã đề cập đến nhiều vấn đề, trong đó về đối ngoại lúc này cần phải liên hệ với lực lượng Đồng minh chống Nhật nhanh chóng tiến lên giải phóng đất nước; “… Nếu thiếu một sức mạnh nhất trí của cả nước, thiếu sự giúp đỡ mạnh mẽ của bên ngoài thì cuộc vận động giải phóng khó thành công được, nhất là hiện nay Việt Nam đang đứng trước hai tên cướp xâm lược hung ác của phương Đông và phương Tây, càng cần toàn dân nhất trí và càng cần sự giúp đỡ của bên ngoài”(2). Người còn nói rõ: Hiện nay, sự thật chỉ cần mở rộng khối đoàn kết toàn dân để làm cho bên trong lực lượng vững mạnh, làm cho bên ngoài tranh thủ các bạn Đồng minh giúp đỡ tận tình, trước hết là sự gúp đỡ của Trung Quốc, có thế mới thực hiện được mục tiêu giải phóng dân tộc”(3). Quả đúng như vậy, sự giúp đỡ của các nước Đồng minh trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai là một trong những nhân tố quan trọng nhằm đưa cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam đến thắng lợi hoàn toàn. Bởi vì, sức mạnh bên trong là yếu tố chủ quan của bản thân cộng đồng dân tộc cần được kết hợp với sức mạnh của thời đại, của loài người tiến bộ, sự đồng tình ủng hộ của lực lượng Đồng minh càng làm tăng thế và lực cho cuộc đấu tranh của dân tộc nhanh chóng đi đến thành công.

Khi đánh giá kết quả của Hội nghị nói trên, Hồ Chí Minh đã nói với Lê Tùng Sơn là: “Thắng lợi! Ta giam gia hội nghị này là đúng. Không nên ảo tưởng với Tưởng Giới Thạch, nhưng phải lấy Trung Quốc làm cái cầu để tranh thủ các nước Đồng minh”(1). Thực tế cho thấy, qua cuộc hop này Tưởng Giới Thạch đã phải chấp nhận để cho Đảng Cộng sản Đông Dương và Việt Minh vào trong Mặt trận liên minh Trung - Việt để chống kẻ thù chung là chủ nghĩa phát xít. Vì vậy, họ đã để cho Hồ Chí Minh được tương đối tự do hoạt động ở vùng Hoa Nam.

Thắng lợi to lớn hơn nữa là sau Hội nghị đại biểu hải ngoại của “Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội” nói trên, Tưởng Giới Thạch đã phải để cho Hồ Chí Minh được về nước tiếp tục lãnh đạo cách mạng.

Trong thời gian ở Liễu Châu, do có quan hệ với Trương Phát Khuê, Hồ Chí Minh đã được làm quen với một số sĩ quan của Mĩ trong tổ chức OSS (Office Strategic Services - Tổ chức tình báo của Mĩ trong Chiến tranh thế giới thứ hai) và OWI (Office of War Information - Tổ chức thông tin chiến tranh của Mĩ trong Chiến tranh thế giới thứ hai), tạo thuận lợi để Người liên hệ với tướng Sênôn chỉ huy Quân đoàn không quân của Mĩ ở chiến trường Tây Nam Trung Quốc.

Sau một thời gian, Trương Phát Khuê xin ý kiến của Tưởng Giới Thạch về việc trả lại tự do cho Hồ Chí Minh, ông ta đã nhận được điện văn trả lời của Viện trưởng hành chính - Trương Trị Trung, thửa lệnh của Tưởng Giới Thạch báo cho biết: “Hội nghị đại biểu hải ngoại của “Việt Cách” đã họp xong để cho Hồ Chí Minh về nước hoạt động”(5). Và mãi cho đến ngày 9.8.1944, Trương Phát Khêu mới để cho Hồ Chí Minh được hoàn toàn tự do chuẩn bị về nước. Ngày 20.9.1944, Hồ Chí Minh cùng 18 cán bộ rời Liễu Châu (Trung Quốc) về Cao Bằng để trực tiếp lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc.

Trong Thư gửi đồng bào toàn quốc (tháng 10.1944), Hồ Chí Minh đã nêu rõ: “Phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt. Các đồng minh quốc sắp tranh được thắng lợi cuối cùng… Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ trong một năm hoặc một năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp ta phải làm nhanh!”. Cuối bức thư, Người đã kêu gọi các đảng phái và các đoàn thể ra sức chuẩn bị “Toàn quốc đại biểu Đại hội” để bầu ra một tổ chức “đủ lực lượng và uy tín, trong thì lãnh đạo việc cứu nước, kiến quốc, ngoài thì giao hiệp với các hữu bang”(6).

Trong thời gian ở Trung Quốc, nhất là sau khi được tự do ở Liễu Châu, Hồ Chí Minh đã theo dõi chặt chẽ những diễn biến của tình hình thế giới qua báo chí, đài phát thanh và các cuộc gặp với nhiều chính khách nước ngoài để có những quyết sách đúng đắn đưa con thuyền cách mạng Việt Nam đến thắng lợi. Cũng trong Thư gửi đồng bào toàn quốc, Người đã nói là: “Trong sự rủi lại có sự may. Nhân dịp ở ngoài mà tôi hiểu rõ tình hình thế giới và chính sách của hữu bang…”(7) trước hết là Trung Quốc, Mĩ, Anh, Pháp đối với phong trào độc lập dân tộc nói chung và đối với các nước Đông Dương nói riêng. Người cũng biết ý đồ của Mĩ qua kế hoạch của tổng thống Rudơven (tháng 2.1945) nhằm thiết lập một Hội đồng thác quản (Trusteeship) cho Đông Dương gồm một đại biểu Pháp, một đại biểu Trung Quốc, một đại biểu Mĩ và một đại biểu Liên Xô. Điều đó nhằm phá sự độc quyền của chủ nghĩa thực dân cũ của Pháp ở xứ thuộc địa này. Vói tình hình thực tế lúc bấy giờ, chính sách giải thế hệ thống thuộc địa, chống chế độ thực dân kiểu cũ của Tổng thống Rudơven hoàn toàn bất lợi cho Pháp và đó là điều mà ta có thể lợi dụng để tạo thêm sức mạnh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Qua quá trình phân tích và sự hiểu biết sâu sắc đối với nền chính trị - quyền lực quốc tế, với tinh thần thực tiễn, Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận là phải gặp Mĩ, tranh thủ sự đồng tình của Mĩ, tìm kiếm quan hệ ở mức độ nào đó với Mĩ để cho Mặt trận Việt Minh, cách mạng Việt Nam có một vị trí nhất định trong phe Đồng minh chống phát xít và triệt để phân hóa chủ nghĩa đế quốc, tạo thuận lợi cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.

Trong thời gian Chiến tranh thứ hai, ở Côn Minh (Trung Quốc) Mĩ có Quân đoàn không quân 14 với trên 300 máy bay chiến đấu dưới quyền chỉ huy của tướng Sênôn. Quân đoàn không quân này có nhiệm vụ hỗ trợ cho bộ binh Trung Quốc ở mặt trận Quảng Tây và đánh tan quân Nhật ở Việt Nam. Cuối năm 1944, Mĩ đã cho nhiều máy bay sang đánh phá quân Nhật ở miền Bắc Đông Dương, có lần một chiếc máy bay bị hỏng rơi vào khu rừng gần thị xã Cao Bằng và viên trung úy phi công William Shaw nhảy dù xuống được tự vệ địa phương của Mặt trận Việt Minh cứu giúp rồi đưa lên vùng căn cứ gần biên giới gặp Hồ Chí Minh.


(1), (2), (3) Theo tài liệu lưu trữ tại Viện Bảo tàng Cách mạng Việt Nam.
(4) Lê Tùng Sơn: Nhật kí một chặng đường, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1978, tr. 126.
(5) Lê Tùng Sơn: Nhật kí một chặng đường, sđd, tr. 126.
(6), (7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 3, sđd, tr. 375-376.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Mười, 2011, 03:52:08 pm
Nắm lấy cơ hội thuận lợi này, Người quyết định đích thân đưa viên trung úy Shaw trả cho Bộ chỉ huy Mỹ ở Côn Minh. Mục đích là làm cho người Mĩ thấy rõ sức mạnh của Mặt trận Việt Minh và phải chú ý tới tổ chức này ở Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống phát xít Nhật. Trên cơ sở đó, Người chủ động đặt vấn đề mở rộng quan hệ với Mĩ cũng như lực lượng Đồng minh chống Nhật.

Vào đầu năm 1945, Hồ Chí Minh đã cùng với viên Trung úy phi công Mĩ lên đường đi Côn Minh. Trong chuyến đi công cán với tinh thần chủ động mở quan hệ ngoại giao với Mĩ và lực lượng Đồng minh chống Nhật lần thứ hai này, Hồ Chí Minh không bị phía Trung Quốc gây khó khăn gì, vì Người có sẵn hộ chiếu dài hạn do Trương Phát Khuê cấp trong thời gian ở Liễu Châu trước đây.

Trong những ngày từ 17 đến 20.3.1945 tại Côn Minh, Hồ Chí Minh đã gặp Sáclơ Phen thuộc Tổ chức cứu trợ không quân Mĩ. Kết quả là, Mĩ hứa giúp Việt Minh bằng cách thả dù xuống vùng căn cứ địa Việt Bắc một số vũ khí, thuốc men và điện đài, phái một nhân viên người Mĩ đi cùng với Hồ Chí Minh giúp về kĩ thuật thu phát tin qua máy vô tuyến diện. Đến ngày 20.3.1945, Hồ Chí Minh gặp tướng Sênôn ở Hoa Nam. Trong cuộc tiếp kiến đó, tướng Sênôn đã cảm ơn Việt Minh cứu thoát viên phi công Mĩ. “Hồ Chí Minh đã nói rới Sênôn là bổn phận của những người chống phát xít là làm tất cả những gì có thể làm được để giúp Đồng minh”(1).

Trước khi rời Côn Minh, tướng Sênôn đã tặng Hồ Chí Minh 6 khẩu súng ngắn, với cơ số đạn cần thiết, thuốc chữa bệnh và một số tiền. Người đã không nhận tiền, chỉ nhận súng, đạn và thuốc chữa bệnh; Người tỏ lời cảm ơn và mong sau này được người Mĩ giúp đỡ nhiều hơn.

Sau đó, Hồ Chí Minh rời Côn Minh về đến Cao Bằng vào đầu tháng 5.1945. Người đã nói với Đồng chí Võ Nguyên Giáp cần chọn một địa điểm trung tâm ở Việt Bắc, thuận tiện cho việc liên lạc với miền xuôi, miền ngược và ra nước ngoài. Tân Trào (Tuyên Quang) là chỗ thích hợp nhất đã được lựa chọn. Cùng đi về Tân Trào có hai người Mĩ là Phơranki Tan (người Mĩ gốc Hoa) và Măcxim - những người được Salơ Phen cử theo Hồ Chí Minh để phục vụ liên lạc điện đài với lực lượng Đồng minh - quân Mĩ ở Côn Minh (Trung Quốc).

Ngày 16.7.1945, thiếu tá Tômat cùng với một số người Mĩ đã nhảy dù xuống là Kim Lung (Tuyên Quang) và được bố trí ở trên núi Tân Trào. Số người Mĩ này làm nhiệm vụ liên lạc với cơ quan đại diện của Mĩ ở Côn Minh và huấn luyện kĩ thuật sử dụng vũ khí cho một số cán bộ quân Giải phóng của ta ở Việt Bắc.

Người Mĩ đã cung cấp cho Việt Minh một số vũ khí, thuốc men bằng cách thả dù xuống căn cứ địa Việt Bắc hoặc đưa đến Nam Ninh (Trung Quốc) để sau đó chuyển vào Việt Nam.

Chiến tranh thế giới thứ hai sắp kết thúc. Ngày 6.8.1945, Mĩ ném quả bom nguyên tử đầu tiên xuống thành phố Hirôsima; tiếp đó, ngày 9.8.1945, Mĩ ném quả bom nguyên tử thứ hai xuống thành phố Nagaxaki. Liên Xô đã tuyên chiến và đập tan đội quân Quan Đông của Nhật ở Đông Bắc Trung Quốc. Ngày 15.8.1945, Chính phủ Nhật ra lệnh cho quân đội ngừng chiến đấu và đầu hàng không điều kiện.

Tin quân Nhật đầu hàng truyền đi khắp nước ta và thổi bùng ngọn lửa cách mạng của nhân dân ta lên cao chưa từng thấy. Quân đội Nhật ở Đông Dương như rắn mất đầu, bị tê liệt hoàn toàn. Ở Tân Trào, Hồ Chí Minh nói với Võ Nguyên Giáp: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hi sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”().

Từ ngày 13 đến ngày 15.8.1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản Đông Dương đã họp ở Tân Trào, đề ra chủ trương kịp thời lãnh đạo toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền và cử ra Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc.

Sau đó, Đại hội Quốc dân cũng họp ở Tân Trào. Đại hội đã quyết định thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam, tổ chức tiền thân của Chính phủ lâm thời, do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Sau Đại hội Quốc dân ở Tân Trào, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước nổi dậy Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, Người nói: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc dân đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà giải phóng cho ta. Nhiều dân tộc trên thế giới đang ganh nhau tiến bước giành độc lập. Chúng ta không thể chậm trễ”(3).

Ngày 19.8.1945, cuộc Tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi rực rỡ ở thủ đô Hà Nội, tiếp đó là thắng lợi ở Huế ngày 23.8, thắng lợi ở Sài Gòn ngày 25.8 và trong phạm vi cả nước chính quyền đã về tay nhân dân.

Ngày 2.9.1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam mới đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường Ba Đình lịch sử. Người tuyên bố Việt Nam: “thoát li hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xó bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”(4).

Người cũng đã tỏ lòng tin “rằng các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các hội nghị Têhêran và Cựu Kim Sơn quyết không thể không công nhận quyền độc lập của Việt Nam”(5).

Tóm lại, có thể nói giai đoạn lịch sử 1941-1945 chứa đầy những sự kiện lớn làm rung chuyển toàn thế giới. Cuộc chiến tranh thế giới thứ hai như một trận cuồng phong đã cuốn hút trên 70 nước với hàng trăm triệu người khắp năm châu vào cuộc chiến lửa đạn mịt mù.

Công lao vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh là trong cơn bão tố chiến tranh đó, bằng nhãn quan chính trị sắc bén và sự phân tích một cách khoa học chính xác, Người đã thấy được xu thế phát triển của tình hình quốc tế và trong nước một cách sáng suốt. Từ căn cứ địa Việt Bắc, Hồ Chí Minh đã chủ động liên hệ với lực lượng Đồng minh chống phát xít để tăng cường thế và lực của cách mạng Việt Nam tiến lên giải phóng dân tộc. Trong giai đoạn lịch sử sôi động này của đất nước, Hồ Chí Minh đã kiên trì gắn cách mạng nước ta với cách mạng thế giới, gắn sức mạnh của dân tộc với sự ủng hộ của lực lượng Đồng minh chống phát xít Nhật, giải phóng đất nước. Vì vậy, khi thời cơ đến vào giữa tháng 8.1945, chỉ trong vòng một tuần lễ, cả dân tộc ta đã vùng lên giành chính quyền trong phạm vi cả nước. Từ đây, đất nước ta bước sang một kỉ nguyên mới, nhà nước Việt Nam mới được ra đời với chính thể cộng hòa dân chủ, phấn đấu cho mục tiêu cao cả - khát vọng ngàn đời của dân tộc ta là độc lập cho đất nước, tự do và hạnh phúc cho nhân dân.


(1) Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh - biên niên tiểu sử, tập 2, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gian, Hà Nội, 1993, tr. 220.
(2) Võ Nguyên Giáp: Những chặng đường lịch sử. Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1977, tr. 208.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 3, sđd, tr. 380.
(4) Hồ Chí Minh: Tuyên ngôn Độc lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1975.
(5) Hồ Chí Minh: Tuyên ngôn Độc lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, sđd.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Mười, 2011, 03:55:13 pm
CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
TRONG MẮT NGƯỜI NƯỚC NGOÀI

TRẦN VIẾT THỰ (*)

Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 không chỉ là một sự kiện lịch sử vĩ đại trong lịch sử Việt Nam mà cũng là một biến cố ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của lịch sử loài người. Bởi vì, Cách mạng tháng Tám không chỉ giành được độc lập dân tộc cho nhân dân Việt Nam mà còn góp phần đánh bại chủ nghĩa phát xít. Chính vì vậy mà trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2.9.1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”(1). Hơn nữa, Cách mạng tháng Tám thắng lợi đã khẳng định con đường mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn cho nhân dân Việt Nam để giành độc lập là hoàn toàn đúng, vì nó không chỉ có ý nghĩa đối với dân tộc mà còn ảnh hưởng đến cuộc đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc. Do đó, trong gần 60 năm qua, kể từ sau khi Cách mạng tháng Tám thành công đến nay, không ít các nhà khoa học, hoạt động chính trị, xã hội nước ngoài (kể cả một số người Việt Nam đang sống ở ngoại quốc hay trong vùng Pháp chiếm đóng, vùng Mĩ - ngụy thống trị ở miền Nam trước đây) đều có những ý kiến, luận điểm, bài viết, sách đề cập đến Cách mạng tháng Tám.

Dĩ nhiên, đối với một sự kiện lịch sử khách quan, sự hiểu biết tùy thuộc rất nhiều ở trình độ, thái độ, quan điểm, lập trường của người nhận thức. Điều này thể hiện rất rõ ở các nhà nghiên cứu nước ngoài về Cách mạng tháng Tám. Quan điểm của số người này rất đa dạng và phát triển, thường thay đổi do sự biến chuyển của tình hình chính trị của thế giới và Việt Nam (thậm chí sự thay đổi ấy diễn ra ở một con người). Tuy vậy, chúng ta vẫn có thể nhận thấy có hai loại người, thể hiện các quan điểm khác nhau về Cách mạng tháng Tám 1945.

- Một số người có cái nhìn tương đối khách quan, nêu được một số nét, số điểm phản ánh được sự thật; hoặc có cảm tình, thiện chí với Cách mạng tháng tám, với nhân dân Việt Nam.

- Một số khác thể hiện sự xuyên tác lịch sử, nhằm hạ thấp ý nghĩa của Cách mạng tháng Tám, nuôi dưỡng thái độ thù địch, sự chống phá cách mạng Việt Nam.

Đối với loại thứ nhất, chúng ta trân trọng, cùng nhau thiếp tục tìm hiểu để tiếp cận với chân lí, làm cho nhận thức mgày một đúng đắn, sâu sắc hơn về sự kiện này. Mặt khác, chúng ta kiên quyết đấu tranh, vạch trần những xuyên tạc lịch sử, những âm mưu đánh phá cách mạng Việt Nam theo kiểu “diễn biến hòa bình”. Cần phải cảnh giác, đề phòng những đòn tấn công nguy hại về tư tưởng, tình cảm của thế hệ trẻ, nhằm làm cho họ xa rời con đường cứu nước đúng mà Hồ Chí Minh đã vạch ra, làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa.

Trong phạm vi bài này, chúng tôi giới thiệu một số ý kiến, quan điểm tiêu biểu của một số người nước ngoài về Cách mạng tháng Tám, qua một số tài liệu tiếp cận được.

Trước hết, cần phải nhắc đến sĩ quan tình báo Mĩ Archimedes L.A. Patti, đã từng cộng tác với Việt Minh trong những ngày trước Cách mạng, được tiếp xúc với Chủ tịch Hồ Chí Minh và chứng kiến những ngày Tổng khởi nghĩa, tuyên bố độc lập, thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhiều sự kiện ở Việt Nam đã gây ấn tượng mạnh mẽ cho ông, và được thể hiện trong quyển “Why Vietnam?” (“Tại sao Việt Nam?”).

Vừa đặt chân tới Hà Nội, ngay sau ngày Tổng khởi nghĩa, ông đã vô cùng ngạc nhiên về “các cửa hàng vẫn mở, chợ vẫn đông người, các công sở làm việc tấp nập… Và tất cả đều phấp phới cờ Việt Minh. Thực tế là một biển cờ đỏ và biểu ngữ tràn ngập…”(2).

Về diễn biến cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội, ông miêu tá: “Quần chúng tập trung trước Nhà hát Lớn (Nhà hát thành phố) để nghe các diễn giả chống cộng kêu gọi ủng hộ độc lập dân tộc dưới quyền bảo trợ của Nhật. Khi người phát ngôn chính thức đầu tiên bắt đầu lên tiếng thì các đội viên Đội Tuyên truyền cũng trương các cờ đỏ sao vàng ra và hô to “Ủng hộ Việt Minh”. Mọi người hô theo và một sự hỗn loạn cực độ đã phá vỡ hoàn toàn chương trình tổ chức. Đâu cũng có cờ đỏ, nhấp nhô tung bay phấp phới trên đầu quần chúng, hòa theo những bài ca “Độc lập hay là chết!”, “Đả đảo thực dân Pháp”, “Đế quốc Nhật cút đi!”… Ban tổ chức gắng lập lại trật tự nhưng đã quá muộn, họ không còn kiểm soát được tình hình nữa. Lúc đó, theo một tín hiệu đã định trước, nhiều đội viên Đội Danh dự, súng ngắn trong tay, nhảy lên bục và dồn các viên chức của Bảo Đại vào một góc, hạ cờ nhà vua xuống và trường cờ Việt Minh lên” (tr. 177).


(*) TS. Trường Đại học Vinh.
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 1996, tr. 3.
(2) Archimedes L.A. Patti: Tại sao Việt Nam?, bản dịch tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 1995, tr. 175. Các đoạn trích của sách trong bài này từ đây được ghi rõ số trang đề trong ().


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Mười, 2011, 03:56:50 pm
Về “Ngày lễ Độc lập” L.A. Patti khắc sâu hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh qua những dòng miêu tả: “Một tiếng loa phóng thanh nổi lên phác vỡ sự im lặng, giới thiệu ông Hồ là “người giải phóng, vị cứu tinh của dân tộc”. Quần chúng được sự hướng dẫn của các đảng viên, lên tiếng hát và trong mấy phút liền hô vang “Độc lập”. Ông Hồ đứng yên mỉm cười, nhỏ nhắn trong tầm cỡ, nhưng vĩ đại trong sự hoan hô của nhân dân ông. Ông giơ tay ra hiệu im lặng và bắt đầu đọc bản Tuyên ngôn, nay thành nổi tiếng của ông…

Ông Hồ dừng lại đột ngột và hỏi người nghe: “Đồng bào có nghe rõ tôi không?”. Quần chúng hô vang đáp lại: “Rõ!”. Thực là một nghệ thuật diễn thuyết bậc thầy. Từ lúc đó, quần chúng lắng nắm từng lời. Chúng tôi không hiểu ông Hồ đã nói gì… Nhưng cứ nghe giọng nói của ông Hồ, bình tĩnh và rõ ràng, ấm cúng và thân mật, và nghe thấy được quần chúng trả lời thì chúng tôi không còn nghi ngờ gì nữa là ông đã thấu tới quần chúng”(tr. 257).

Qua cái nhìn của L. A. Patti, chúng ta nhận thấy ông đã phần nào hiểu được bản chất của cuộc cách mạng nổ ra ở Hà Nội mà ông đã chứng kiến - tính chất nhân dân, chính nghĩa của nó. Mặt khác, ở một mức độ nhất định, ông đã ý thức rõ rệt về mối quan hệ gần gũi, gắn bó giữa lãnh tụ Hồ Chí Minh và đông đảo quần chúng nhân dân.

Philippe Devillers là một nhà báo Pháp viết về các vấn đề chiến tranh, chính trị, đồng thời cũng là một nhà sử học. Ông cũng sớm có ý kiến, nhận định về cuộc Cách mạng tháng Tám 1945; song ở đây ông cũng có sự thay đổi về quan điểm của mình đối với sự kiện này. Trong quyển Histoire du Viet Nam de 1940 à 1952” (Lịch sử Việt Nam từ 1940 đến 1952), Nhà xuất bản Seuil, Paris, 1952), Philipe Devilers đã xem thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 là “sự ăn may của Việt Minh, nhân lúc quân Nhật vừa đầu hàng, quân Đồng minh chưa kéo vào giải giáp quân Nhật nên đã nắm chính quyền. Nhưng trong quyển “Paris - Saigon - Hannoi, Les archives de la guerre 1944-1947” (“Paris - Sài Gòn - Hà Nội - Tài liệu lưu trữ của cuộc chiến tranh 1944-1947”, do Gallimard Julliard xuất bản, Paris, 1998 - Bản tiếng Việt của Hoàng Hữu Đản, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1993), khi giới thiệu về các nguồn tư liệu gốc và tài liệu tham khảo, Philippe Devillers đã có những nhận định mới về, có chiều hướng đúng hơn về Cách mạng tháng Tám 1945. Ông viết: “Đúng vào ngày 19.8, qua cuộc biểu tình các các công nhân viên chức đòi độc lập và thống nhất Tổ quốc, các cán bộ Việt Minh đã lọt vào thành phố và thuyết phục được vị khâm sai theo họ và chiếm chính quyền. Lập tức mở những cuộc tiếp xúc với các đảng phái quốc gia (Đại Việt…) và các cơ quan của Nhật.

… Ngày 2.9, trong lúc tại vịnh Tokyo, nước Nhật kí văn bản đầu hàng, thì tại Hà Nội, trước đám đông dân chúng mà Sainteny ước lượng có đến 500.000 người, ông Hồ Chí Minh cùng một lúc tuyên bố nền Cộng hòa (“Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”) và nền Độc lập.

Một bản Tuyên ngôn Độc lập được chuẩn bị rất cẩn thận, hơi gay gắt một chút thật, nhưng đôi chỗ được dự thảo với những lời lẽ khôn ngoan.

Kể từ đây, trên sâu khấu Châu Á đã có một nước Việt Nam mới, một Chính phủ Việt Nam cho toàn nước Việt Nam”(1).

Đồng thời, dựa vào nhiều nguồn tài liệu, Philippe Devillers đã trình bày âm mưu, kế hoạch của Chính phủ Pháp trở lại xâm lược và đô hộ Đông Dương. Đó là việc Sainteny, được sự giúp đỡ của Mĩ, đã “hạ cánh xuống Hà Nội”, khi mà “toàn thành phố rực màu cờ Việt Minh” (tr. 118). Sainteny tìm cách liên hệ, tiếp xúc với Việt Minh song lúc nào cũng nhận được câu trả lời giản dị và thái độ không thể lay chuyển rằng: “Việt Minh hiện nay là những người làm chủ nước Việt Nam, rằng Việt Minh vừa thành lập một Chính phủ lâm thời và ông (tức ông Võ Nguyên Giáp) hi vọng nước Pháp sẽ quan tâm, lưu ý đến thực tế đó”(2)(tr. 119).

Theo đuổi cuồng vọng trở lại Việt Nam, Chính phủ Pháp bất chấp thực tế - một cuộc cách mạng nhân dân đã thắng lợi, chính quyền về tay nhân dân. Thực dân Pháp đã ráo riết thực hiện âm mưu “trở lại Việt Nam”. Chúng tìm cách liên hệ với Bảo Đại “Ngày 28.8, tên cômmăngđô nhảy dù xuống cách Huế 20km và bị bắt giam ở Vinh, chỉ được phóng thích vào tháng 6.1946. như vậy, các dự định liên lạc với Huế, tiến hành vào lúc Bảo Đại thoái vị rồi đã thất bại hoàn toàn.

Những nơi khác cũng đều thất bại. Ngày 22.8, Cédile được cử làm ủy viên Cộng hòa Pháp tại Nam Kỳ, đã nhày dù xuống vùng châu thổ sông Mêkông. Ông ta bị quân Nhật bắt và đưa về Sài Gòn. Phía Bắc, Messiner được cử làm ủy viên Cộng hòa Pháp tại Bắc Kỳ, nhảy dù ngày 22.8 xuống chân núi Tam Đảo (sau khi lượn trên thành phố Hà Nội) cùng với hai đồng đội cũng bị Việt Minh bắt…” (tr. 113).

Ánh sáng Cách mạng tháng Tám 1945 ngày một tỏa sáng, cùng với thắng lợi của kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ (1945-1975) và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, rồi trên cả nước thống nhất cũng tạo điều kiện cho nhiều người nước ngoài và một số người Việt Nam định cư ở nước ngoài, ngày càng nhìn rõ hơn tính chất, ý nghĩa của sự kiện này.


(1) Philippe Devillers giới thiệu: Paris - Sài Gòn - Hà Nội. Tài liệu lưu trữ của cuộc chiến tranh 1944-1947, bản dịch tiếng Việt của Hoàng Hữu Đản, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1993, tr. 109, 123, 125 (những đoạn trích dưới đây đều đề số trang trong dấu ngoặc đơn).
(2) Stein Tonnesson: The Vietnamese Revolution of 1945, Rosevelt, Ho Chi Minh an De Gaulle in a World at War Sage, Publication - 1991. London, New Bury Park - New Delhi, tr. 425-426.


Tiêu đề: Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Mười, 2011, 03:58:48 pm
Nhà sử học Na Uy Stein Tonnesson đã nhận định đúng rằng: “Cách mạng Việt Nam quan trọng và không phải chỉ thuần túy trong bối cảnh Việt Nam. Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 của Việt Nam nằm trong những nguồn cảm hứng chủ yếu của một đường lối đấu tranh lớn khác sau chiến tranh: đó là quá trình phi thực dân hóa. Trong các cuộc cách mạng cộng sản, cách mạng của người Việt Nam nổi lên như là một trong những cuộc cách mạng có sức sống là làm đảo lộn nhiều nhất” .

Sanon Ish Dashtsevel (Mông Cổ) khẳng định thắng lợi của Cách mạng tháng Tám là do “đường lối và chính sách đúng đắn khoa học của Đảng Cộng sản Đông Dương, dưới sự lãnh đạo tài ba của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tập hợp được mọi tầng lớp trong xã hội, đoàn kết đấu tranh để thực hiện thành công mục tiêu cuối cùng là giải phóng dân tộc, mang lại đời sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho toàn dân.

Về bản chất, Cách mạng tháng Tám 1945 lúc đầu là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, nhưng về sau cuộc cách mạng đã không ngừng phát triển và lớn mạnh.

… Cuộc Cách mạng tháng Tám còn có ý nghĩa quan trọng đối với phong trào giải phóng dân tộc và dân chủ ở các nước Châu Á và trên thế giới. Cách mạng Việt Nam đã ảnh hưởng trực tiếp và rất lớn đến một số dân tộc Đông Dương. Cách mạng tháng Tám thành công, nhân dân hai nước Lào và Cămpuchia cũng đứng lên đòi độc lập…”(1).

Đương nhiên, bên cạnh những nhận thức đúng đắn, khách quan, khoa học như chúng tôi trình bày một số điểm cơ bản trên, có không ít những sự xuyên tạc lịch sử, hạ thấp vai trò, ý nghĩa của Cách mạng tháng tám mà chúng ta cần vạch trần, đấu tranh chống lại. Cần lưu ý, sự xuyên tạc Cách mạng tháng Tám của những người đối lập, chống phá hay ngộ nhận, bị lừa gạt thường gắn với việc công kích, vu cáo Chru tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, chống lại con đường xã hội chủ nghĩa mà nhân dân đã và đang tiến bước.

Xin dẫn một vài ví dụ.

Tưởng Vĩnh Kính trong quyển Hồ Chí Minh tại Trung Quốc (Nhất cá Việt Nam dân tộc chủ nghĩa đích ngụy trang giả) ở Chương 11 “Quân đội Nhật bản gây biến động tại Việt Nam và sự lớn mạnh của thế lực Việt Minh” đã cho rằng, việc quân Nhật đảo chính Pháp ngày 9.3.1945, “thay thế Pháp để thống trị Việt Nam” làm cho “kẻ đã hưởng được lợi lớn nhất nhờ vào biến cố này lại chính là Hồ Chí Minh và Mặt trận Việt Minh của ông ta”(2). Thật ra luận điểm này chẳng có gì là mới, chỉ là việc lặp lại lời vu cáo “Việt Minh ăn may”, “Việt Minh cướp công” đã có trước đó. Trên cơ sở này, Tưởng Vĩnh Kính đã tìm mọi cách để chứng minh rằng “Việt Minh không những lợi dụng tình trạng đói khổ của dân chúng Việt Nam để phát triển thế lực mà đồng thời còn lợi dụng biến cố quân Nhật gay ra làm cơ hội khuếch trương vũ lực và xây dựng chính quyền địa phương”(3).

William J. Duiker trong quyển Hồ Chí Minh dành một phân về “Những ngày tháng Tám” (The Days of August) để tường thuật về những sự kiện xảy ra ở Hà Nội trong Tổng khởi nghĩa, ngày lễ Độc lập 2.9.1945, những cuộc tiếp xúc, gặp gỡ giữa chính phủ cách mạng với đại diện Mĩ, Pháp. Tài liệu này không có gì mới, song điều đáng chú ý là kết luận của phần này, có thể làm “lạc hướng” sự nhật thức đúng của người đọc.

W.J. Dukier viết: “Thật cũng liều lĩnh khi thực hiện chiến thuật mềm dẻo về những điều đã làm. Ông Hồ cùng các đồng chí của mình đã ra sức nắm quyền lực bằng những cách lừa dối. Chương trình Mặt trận Việt Minh không phải là kế hoạch tốt đẹp cho tương lai của Việt Nam - mà chỉ là điểm khởi đầu. Nếu khi Đảng quyết định nêu rõ bộ mặt thật của các kế hoạch này và mục tiêu hướng đến (cách mạng) thế giới) thì sự liều lĩnh của dân chúng về ảo giác hẳn còn lớn hơn nhiều. Nhưng ông Hồ còn tỏ ra hơn hẳn các nhà thực dung. Vào mùa thu 1945, trong một cuộc phỏng vấn của nhà báo Mĩ Harold R. Issac, ông đã tuyên bố “Đó là độc lập. Cái gì đến sẽ đến. Nhưng độc lập phải đến trước, còn các thứ khác tới sau(4) .

Rõ ràng, việc tiếp nhận những nghiên cứu của một số người nước ngoài cần thận trọng, tìm hiểu thực chất ý đồ của họ là gì. Một sự tiếp thu có chọn lọc, công phu và cũng là một cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, khoa học.

*

 Hồ Chí Minh được nhiều người nước ngoài, hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau nghiên cứu với những mục tiêu khác nhau. Vì vậy, việc tiếp nhận có chọn lọc các kết quả này là cần thiết cho việc nghiên cứu Hồ Chí Minh và tư tưởng Hồ Chí Minh của chúng ta.



(1) T. S Sanom Ish Dashtsevel: Một số suy nghĩ của cuộc Cách mạng tháng Tám ở Việt Nam, trong Việt Nam trong thế kỉ 20, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 194, 195.
(2) Tưởng Vĩnh Kính: Hồ Chí Minh tại Trung Quốc. Bản dịch Việt ngữ của Thương Huyền - Văn nghệ xuất bản - Califorlia - USA, 1999, tr. 311.
(3) Sđd, tr. 323.
(4) William J. Duiker: Ho Chi Minh, Alen và UNWVN xuát bản, New York, 2000, tr. 344 - 345.