Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thảo luận Lịch sử bảo vệ Tổ quốc => Từ thuở mang gươm đi mở cõi... => Tác giả chủ đề:: thanhh63 trong 23 Tháng Sáu, 2011, 11:24:21 am



Tiêu đề: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 23 Tháng Sáu, 2011, 11:24:21 am
Xin phép BQT đồng ý bổ sung thêm chủ đề này và hy vọng các bác cùng em sẽ siu tầm được nhiều đòn độc của cha ông ta nhằm "dằn mặt" những mưu đồ thôn tính, xâm lược.. bằng cách vận dụng sách lược ngoại giao mềm dẻo nhưng kiên định, cương quyết, không chỉ nhằm bảo toàn lãnh thổ, giữ vững chủ quyền mà còn khiến ngoại bang phải chùn bước, nể sợ... :o Trân trọng kính mời các bác!  ;D



Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 23 Tháng Sáu, 2011, 11:27:17 am
Câu chuyện 1:

1. Năm Canh Dần (990), vua Tống Thái Tông cử Tống Cảo làm Chánh sứ và Vương Thế Tắc làm Phó sứ mang chiếu thư sang gia phong cho Lê Hoàn (941-1005) chức “Đặc tiến”. Đó là một chức quan to dưới hàng tam công, chỉ vua chư hầu nào có công đức, được triều đình Trung Quốc kính trọng mới được phong chức này. Trước đó, sau khi đánh tan cuộc xâm lược của nhà Tống vào năm 981, Lê Hoàn mới được vua Tống phong Tiết Trấn (985), rồi Kiểm hiệu Thái bảo sử trì tiết đô đốc Giao châu chư quân sự, An Nam đô hộ, Tĩnh hải quân tiết độ sứ (986), Kiểm hiệu Thái ủy (988).

(http://baodatviet.vn/Uploaded_CDCA/maihuong/20110622/CDV-22.6ledaihanh.jpg)

Năm Canh Dần (990), Hoàng đế Lê Hoàn đã có cách đón tiếp sứ Thiên triều thật độc đáo.

Vua Lê đã sai tướng Đinh Thừa Chính mang 9 chiến thuyền và 300 quân sang tận Liêm Châu thuộc Quảng Đông, Trung Quốc để đón sứ giả theo yêu cầu của nhà Tống, nhưng đây cũng là cách để giám sát các hoạt động của sứ thần. Mặt khác, ông cũng muốn cho sứ giả thấy đến kinh đô Đại Cồ Việt xa xôi, vất vả thế nào. Đoàn thuyền đi hơn nửa tháng mới tới cửa sông Bạch Đằng và đến tận tháng 10 năm đó, sứ bộ mới đến được trạm đón tiếp gần kinh thành Hoa Lư.

Khi đến kinh đô, để cho sứ thần thấy được sức mạnh của Đại cồ Việt về quân sự cũng như sự sung túc về kinh tế, Lê Hoàn đã tổ chức diễu binh, diễn tập quân sự trên sông nước và trên bộ. Trên sông, thủy quân dàn trận, chiến thuyền san sát, quân sỹ reo hò chèo thuyền, khua chiêng, trống vang trời. Thấp thoáng trong sườn núi, bộ binh quân phục rực rỡ đi lại tấp nập, cờ xí, khí giới rợp trời, bụi bay mù mịt. Còn trên cánh đồng mêng mông, hàng vạn con trâu bò rong ruổi.

Lê Hoàn cưỡi ngựa cùng đoàn tùy tùng ra ngoài thành đón sứ thần. Gặp sứ Tống, Lê Hoàn vẫn ngồi trên mình ngựa chỉ khẽ nghiêng mình thi lễ, sau đó thong dong cùng vào thành.

Trong cung vua, ở cửa Minh Đức, vua giơ tay đón lấy bài chế của vua Tống từ tay sứ giả để lên trên điện, song không lạy. Ông giải thích vừa đi đánh giặc Mán, ngã ngựa, chân đau, không lạy được. Chánh sứ Tống Cảo cũng đành chịu. Theo nghi lễ của Trung Quốc lúc đó, khi nhận chiếu thư của Thiên triều, vua các nước chư hầu đều phải lạy. Đây là lần đầu tiên, vua nước ta nhận chiếu thư không lạy.

Lê Hoàn đã cho mở đại yến tiệc ngoài bãi biển để chào mừng sứ thần. Chủ và khách vừa ăn tiệc vừa múa hát và lấy trò đâm cá làm vui. Có lúc Hoàng đế Lê Hoàn và các quan dự yến cởi cả mũ áo, cân đai cùng tham gia trò đâm cá. Mỗi khi có người đâm được cá thì hò reo nhảy múa. Sứ Tống tỏ ra lúng túng. Bỏ cân đai, hia, mũ áo tham gia đâm cá thì còn gì thể thống của sứ Thiên triều, mà ngồi yên thì không khỏi sượng sùng.

Vua Lê còn mời sứ giả xem những người lính Đại Cồ Việt tay không đánh nhau với hổ trong sân nhà vua. Hổ dữ gầm thét lồng lộn để vồ lấy người, nhưng đã bị những người lính “tặng” quả đấm như trời giáng vào hai thái dương và bị đạp vào chỗ hiểm nên chỉ còn điên cuồng giãy giụa. Sau trận đấu hổ là trò trăn dữ biểu diễn. Trăn có thể nuốt người ăn thịt hoặc vặn mình cho đến nát, song đã bị người lính bé nhỏ điều khiển, cho quấn lên cổ mà không khiếp sợ. Lê Hoàn còn hỏi sứ giả có dám ăn thịt trăn thì làm thịt thết đãi. Tống Cảo sợ khiếp vía và từ chối.

Cách đón tiếp sứ Thiên triều của Hoàng đế Lê Hoàn thật độc đáo. Ông đã cho sứ giả thấy sức mạnh quân sự của Đại Cồ Việt - từng đánh tan cuộc xâm lăng của quân Tống và đánh thắng quân Chiêm Thành, vua tôi có bản lĩnh kiên cường, người Việt dũng mãnh, kiên cường đánh nhau cả thú dữ, uy hiếp tinh thần sứ giả và còn đường đến kinh đô Đại Cồ Việt xa xôi, hiểm trở và vô cùng vất vả. Lê Hoàn đã nói thẳng với Tống Cảo: Đường sá xa xôi, núi non hiểm trở này nếu có quốc thư cứ xin giao nhận ở biên giới, khỏi phiền sứ giả đến Hoa Lư. Vua Tống đã đồng ý.

Link: http://www.vntime.vn/DoiSong-XaHoi/ChinhTri-XaHoi/2011/6/22/Don-ngoai-giao-cua-cha-ong-khien-ngoai-bang-ne-so-a3b85871.html


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 23 Tháng Sáu, 2011, 11:30:12 am
Câu chuyện 2:

Sau khi chiếm được thành nhà Lê (Thăng Long), Càn Long ra lệnh cho Tôn Sĩ Nghị ráo riết thực hiện kế hoạch truy bắt Nguyễn Huệ, kể cả việc đánh vào vùng Quảng Nam , sào huyệt của quân Tây Sơn, sau đó, tìm cách chiêu dụ Nguyễn Huệ ra hàng. Bị Nguyễn Huệ đánh tan nát tại Thăng Long vào đầu xuân Kỉ Dậu (1789), Tôn Sĩ Nghị đem tàn quân tháo chạy về nước. 20 ngày sau, Càn Long hay tin bại trận liền tức tốc cách chức tổng đốc của Tôn Sĩ Nghị, điều Phúc Khang An, người vừa chiến thắng tại Đài Loan trở về kiêm chức tổng đốc Lưỡng Quảng, đồng thời liên tiếp ban ra nhiều chỉ dụ để đối phó với tình hình cấp bách. Thang Hùng Nghiệp tiếp sứ và gửi thư cho Quang Trung, đại ý: Lê Duy Kì bỏ nước mà trốn, Thiên triều quyết không đem nước An Nam cho y nữa. Hãy thừa lúc trước khi chưa vâng dụ chỉ, ủy thác ngươi gõ cửa quan kêu xin, ngõ hầu có thể ngưỡng cầu ân điển.

(http://baodatviet.vn/Uploaded_CDCA/maihuong/20110622/CDV-22.6-Quang%20Trung-in.jpg)

Và vì quá nể phục Hoàng đế Quang Trung, Càn Long đã thực hiện chính sách đối xử tàn tệ với bọn vua quan lưu vong Lê Chiêu Thống, kể cả sau ngày vua mất.

Về phía vua Quang Trung, sau khi đại phá quân Thanh, đã có chủ trương cầu hòa, cử người lên vùng biên giới phía bắc để thương thảo. Vua liền sai Hô Hổ Hầu dâng biểu cho Càn Long với lời lẽ nhún nhường: "Tha thứ cho thần cái tội đón đánh Tôn Sĩ Nghị, lượng cho lòng thành của trẫm đã lắm lần gõ cửa quan trấn tấu, cho thần làm An Nam Quốc vương...". Nhưng có lúc Nguyễn Huệ cũng rất khẳng khái: "Này đường đường là triều đình Thiên tử lại đi so hơn thua với nước nhỏ thì ắt là muốn cùng khốn binh sĩ, lạm dụng vũ lực hầu sướng khoái cái lòng tham lam tàn bạo thì thật cái lòng của Thánh thượng không nhẫn."

Và Quang Trung thách thêm: "Trong muôn một nếu can qua nối tiếp không dứt, tình thế đến nỗi nào thì thật không phải do thần muốn, mà thần cũng không dám biết nữa.".

Đọc thư, Thang Hùng Nghiệp thấy kinh, bảo với sứ giả Hô Hổ Hầu rằng: Nay không phải là lúc hai nước đánh nhau, sao lại hành sự toàn một giọng giận dữ? Nói thế là chẳng muốn cầu phong tước hay muốn gây mối can qua chăng? Rồi trả lại văn biểu không dám đệ đạt lên Càn Long.

Càn Long cũng biết việc trả lại biểu và xem đó là điều cần thiết để răn đe. Trong Chỉ dụ 03-02-CL54 (27-02-1789)có ghi: "Nguyễn Huệ chỉ mượn việc dâng biểu để thử lòng chúng ta mà thôi, nay chỉ ném trả biểu lại, sợ không đủ để y chấn động sợ hãi mà kiên định sự hối tội đầu thuận". Càn Long còn căn dặn thêm: "Hãy dùng lời hịch dụ nghiêm khắc, khiến Nguyễn Huệ thấy Thiên triều không chuẩn sự qui thuận, sợ hãi uy danh, sẽ sai người cho quan binh trở về, cho trải ba, bốn lần khẩn cầu, lúc này Phúc Khang An sẽ tuân theo chỉ dụ trước, tùy cơ tâu lên xin chiếu chỉ để liệu biện"..

Tuy nhiên, nghĩ rằng lời lẽ cứng rắn quá, sợ Quang Trung bỏ cuộc, không chịu qui hàng, nên trong chỉ dụ sau, Càn Long ma mãnh dặn lại "Phúc Khang An truyền hịch dụ Nguyễn Huệ, trong sự nghiêm khắc nên mở một con đường... Truyền dụ minh bạch như vậy, bọn Nguyễn Huệ không thấy tuyệt vọng, tất sẽ khẩn thiết khất hàng."

Phúc Khang An đã lệnh cho Thang Hùng Nghiệp làm môi giới, bàn bạc, cò kè bớt một thêm hai với sứ thần của Tây Sơn là Nguyễn Hữu Điều, Vũ Huy Tấn các vấn đề liên quan và góp ý xây dựng một biểu văn mới trình lên Càn Long lời lẽ nhu hòa: "Thần đã nhiều lần sai người gõ cửa quan xin tội, cùng đưa về những quan binh chưa chạy ra khỏi nước An Nam. Còn những người sát hại quan Đề, Trấn thì trót đã mắt thấy xử theo pháp luật ...Vốn phải đích thân đến kinh khuyết trần tình xin tội, nhưng trong nước gặp việc binh đao, nhân tình chưa yên, kính cẩn sai cháu ruột là Nguyễn Quang Hiển theo tờ biểu vào chầu". Đó là cách từ chối khéo léo, là cách hoãn binh để thăm dò tình hình trước đòi hỏi của Nhà Thanh là Quang Trung phải đích thân đến kinh khuyết.

Càn Long vui mừng nhận biểu và gửi lại Quang Trung một đạo dụ ngày 03-5-CL54 (27-5-1789), lời lẽ không còn mang tính đe dọa như trước. Ngay việc Quang Trung đánh tan tác quân Thanh vừa rồi, Càn Long cũng cho rằng không phải do Quang Trung cố ý gây ra mà chỉ là ngộ sát và hạ giọng nhân nghĩa: "Trẫm thương người thành tâm hối lỗi, nên việc dĩ vãng không muốn truy cứu".

Nhưng Càn Long vẫn còn eo sách chỉ chấp thuận Quang Trung trực tiếp sang cầu phong chứ không chấp thuận cử người đi thay. Tuy vậy, Càn Long cũng gợi ý mở đường: "Nếu như ngươi có lòng thành, hãy đợi đến tháng 8 năm thứ 55 nhân dịp lễ khánh thọ 80 của Trẫm, thời điểm này tính đến nay còn hơn một năm, trong nước ngươi chắc đã thu xếp yên ổn, lúc bấy giờ hãy bẩm với viên Tổng đốc xin đến kinh khuyết".

Cuối cùng, Càn Long cũng giảng hòa. Đôi bên thỏa thuận, năm 1789, Nguyễn Quang Hiển sang chiêm cận và được đón tiếp nồng hậu. Ngày 24-7-CL54 (13-9-1789), Chánh sứ Nguyễn Quang Hiển, Phó sứ Nguyễn Hữu Điều, Vũ Huy Tấn và đoàn tùy tùng được thiên tử tiếp đãi tại Quyền A Thắng cảnh. Càn Long rất vui mừng khi được sứ thần ta thông báo vua Quang Trung chờ lúc việc nước tạm yên cũng sẽ đích thân đến kinh khuyết chiêm cận.

Để Quang Trung yên tâm đến Bắc Kinh, Càn Long dặn Phúc Khang An "hãy cho Nguyễn Huệ biết một cách khắc thiết như vậy sẽ không còn nghi ngờ gì nữa... Và hãy lệnh cho Nguyễn Quang Hiển đem tình tiết này biên thư cho Nguyễn Huệ hay để lòng y không còn nghi ngờ" (CD 23-5-CL54). Khi Nguyễn Quang Hiển về nước, Càn Long đặc cách ban cho Nguyễn Huệ gấm vóc các loại để làm nổi bật sự ưu đãi và tỏ rõ "nỗi vui mừng được gặp nhau sẽ không xa".

Yêu sách chính của Càn Long, là làm sao vua Quang Trung đến kinh khuyết chiêm cận, xem như đã biết hối lỗi, một hình thức qui phục để rửa nhục thất trận của thiên triều, để xóa đi sự bẽ mặt của mình trước thần dân. Đó là một đòi hỏi cũng chỉ vì oai danh mà thôi. Vì vậy, Càn Long tích cực chỉ đạo cho Phúc Khang An liên hệ với An Nam để việc này trở thành hiện thực.

Mục đích đó đã đạt được. Ngày 29- 3- CL55 (13-5-1790) phái đoàn Quang Trung khởi hành đến Bắc kinh, như trông mong của Càn Long, mở đầu cho một thời kì bang giao mới giữa hai triều đại nhà Thanh-Tây Sơn giai đoạn hậu chiến. Và vì quá nể phục Hoàng đế Quang Trung, Càn Long đã thực hiện chính sách đối xử tàn tệ với bọn vua quan lưu vong Lê Chiêu Thống, kể cả sau ngày vua mất.

Link: http://www.vntime.vn/DoiSong-XaHoi/ChinhTri-XaHoi/2011/6/22/Don-ngoai-giao-cua-cha-ong-khien-ngoai-bang-ne-so-a3b85871.html


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 23 Tháng Sáu, 2011, 11:34:37 am
Câu chuyện 3:

Năm Tân Mão (1831) đời Minh Mạng nhà Nguyễn, ở Hưng Hóa có một thổ tù là Đèo Văn An, vì phạm lỗi nên đã bỏ trốn sang Vân Nam nước Thanh. Bọn quan quân ở đây nhân muốn xâm lấn lãnh thổ nước ta, liền viện cớ tra xét sự việc, cứu giúp người bị oan rồi hội binh áp sát biên giới.

(http://baodatviet.vn/Uploaded_CDCA/maihuong/20110622/CDV-22.6-Minh%20Mang.jpg)

Dưới thời vua Minh Mạng, một viên lãnh binh đã có một việc làm với nhà Thanh thật đáng khâm phục.

Nghe tin cấp báo, viên lãnh binh Thắng trông coi việc quân ở Hưng Hóa được lệnh dẫn binh đi đối phó. Để khiêu khích, quân Thanh gửi sang một bức thư dọa nạt, lời văn ngạo mạn, hống hách. Trước sự việc đó, lãnh binh Thắng một mặt cho quân lính tích cực chuẩn bị, sẵn sàng ứng chiến, mặt khác viết thư trả lời nêu rõ tội trạng của Đèo Văn Anh. Trong bức thư trả lời của lãnh binh Thắng, đề ngày 26 tháng 7 năm Tân Mão (1831) có đoạn:

“… Các người đã vì nó mà đến để tra cứu làm việc, nay sự lý đã rõ ràng như thế, tự nên chỉ rõ cho nó để điều đình cho yên việc. Thế là không những chỉ bảo toàn được cho một mình Đèo Văn An mà không đến nỗi phải gây động can qua, nhân dân không đến nỗi gặp tai họa, mới là tốt lại càng tốt đấy!

Chúng tôi vâng mệnh quan trên đến đây để giữ gìn đất đai bờ cõi, vốn không chịu đối trận giao binh với các người một cách dễ dàng, nhưng xưa nay muốn giữ được trọn vẹn hòa hảo thì trong lòng hai bên đều cần phải bỏ qua đi, thì mới trọn vẹn được.

Nay nhận được tờ trát đưa đến, nói các lời rằng: “Nếu đến nỗi gây động can qua thì chúng bay không khỏi người mệt, lương thiếu”, thật là đa tạ các người đã uổng phí lòng chiếu cố rồi đấy. Núi là đường của chúng tôi, ruộng là lương của chúng tôi, có gì là mệt với thiếu? Chỉ sợ các người xa thì thiếu thốn thôi.

Các người lại nói các lời rằng: “Đến nơi gần mà điều binh sẽ được ngay tám chín nghìn tên. Lấy người nhàn rỗi mà đối địch với kẻ mệt nhọc”. Các người vượt bờ cõi đến đây còn phải mất công triệu tập, chứ đấy là trong nhà chúng tôi, cỏ cây đều là quân lính, một hai vạn cũng có chứ sao lại chỉ có tám chín nghìn? Thì ai là nhàn rỗi, ai là mệt nhọc?

Chúng tôi kính thuận là vì nên làm theo nghĩa lý chứ không phải là đất đai và quân lính yếu. Trong các người phần nhiều là người đọc sách biết thời vụ, há không nghe thấy công việc từ thời Nguyên, thời Minh tới nay mà so sánh với công việc của nhà Trần, nhà Lê đấy sao? Các người đã hẹn với chúng tôi là mười ngày thì xong việc, thế mà bấy lâu không thấy rút quân, há không phải là theo lối cũ làm chước hoãn binh, hoặc lại tụ tập bọn khác đến mưu hại chúng tôi đấy sao?

Nếu ngày nay, bọn con em chúng tôi không ngại phiền phức thì cứ tiến lên một bước là đánh một bước, bắn một phát súng thì há không phải là các người cố ý kích động chúng tôi đấy sao? Nếu sau này xảy ra một việc không tốt lớn hoặc nhỏ, thì rõ ràng là không phải tự chúng tôi gây ra rồi. Chúng tôi lại sợ quan trên của các người sẽ đem cái tội lớn là “gây càn ra thù hằn nơi biên giới” mà đun đẩy lên mình các người thì các người chịu đựng thế nào?…

Trăm việc lấy hòa làm quý, thử đem lời nói của tôi mà ngẫm nghĩ kỹ xem! Nếu thu xếp xong được sớm, rút về không lưu lại một giờ nào thì tôi cũng không cần ở lâu để cai quản việc không cần thiết. Nếu để chậm đến cuối mùa thu thì lam chướng ngày càng nặng, mưa lụt ngày càng nhiều, lính của tôi đã quen thuộc khí hậu còn cảm thấy khó nhọc, huống chi lính các người quen ở đất Bắc, nay ở lâu trong vùng lam chướng sợ không chịu nổi.

Vả chăng các người là bực đại trí tuệ, đại kiến thức, mong hãy soi xét lời nói phải, sắp xếp hoàn thành việc rất tốt này cho cả hai bên, há không phải tay không mà tạo thành được tòa tháp bảy tầng, không những con cháu được hưởng công đức ấy vô cùng, mà tự mình trước đã hưởng điều rất vui sướng đấy.

Hơn nữa mảnh đất sỏi đá này có hay không thì có quan hệ gì? Việc đi lần này chắc chỉ vì lầm nghe bọn tiểu nhân nói những điều khách khí, nay thì điều khách khí đã thoải mái rồi, còn đòi gì nữa? Chúng tôi đi chuyến này vốn là bất đắc dĩ, mong các người tỏ lòng tốt. Nếu buổi sớm các người rút quân thì buổi chiều chúng tôi cũng cáo từ đấy, chúng tôi há có thích gì cái việc không vui sướng này đâu! Chúng tôi đã thành tâm khuyên nhủ, các người nên nhớ cho kỹ. Vậy đưa tờ trát này để trả lời các người biết”.

Theo quan chế thời Nguyễn, lãnh binh chỉ là võ tướng chỉ huy quân đội ở địa phương, nhưng việc làm thật đáng khâm phục. Mặc dù lời lẽ và cách hành văn trong bức thư của ông rất mềm mỏng nhưng lại khôn khéo, cương quyết, dù ở thế yếu trước một kẻ mạnh hơn mà vẫn thể hiện khí phách hiên ngang, khẳng định quyền tự quyết thiêng liêng, ý chí tự cường, sẵn sàng đánh trả bất cứ thế lực nào xâm phạm đến lãnh thổ và nền độc lập của đất nước.

Link: http://www.vntime.vn/DoiSong-XaHoi/ChinhTri-XaHoi/2011/6/22/Don-ngoai-giao-cua-cha-ong-khien-ngoai-bang-ne-so-a3b85871.html


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: tuaans trong 23 Tháng Sáu, 2011, 12:39:48 pm
Về câu chuyện thứ 2:

Đúng là Quang Trung sau khi uýnh Tôn Sĩ Nghị chạy re kèn thì cử người lên biên giới thương thảo hòa đàm ... lời lẽ cương cường, làm như sẵn sàng đánh nhau với quân Thanh. Quân Thanh hoảng hốt thay tướng, điều binh dàn quân đợi chống trả nếu như Quang trung thừa cơ tấn qua.

Nhưng sau đó ...
Sau đó thì cái đám sĩ phu Bắc Hà quen thói thần phục nhà Thanh xúi quân Tây Sơn cúi đầu chịu nhục trước Thiên Triều để cầu an. Thực ra thì Quang Trung đã vào miền Thanh Nghệ, Phú Xuân lo việc chuẩn bị đánh nhau với quân Nguyễn phía Nam, hầu hết công việc bang giao với phía Bắc đều ủy thác cho các quan văn ở Bắc Hà thu xếp.

Quang Trung - Tây Sơn lằng nhằng cống nạp, đi sứ, dâng biểu cầu xin, đem thân 2 con (Thùy, Toản) và mình (giả) cúi đầu lạy, ôm gối Càn Long để xin phong vương ... là kịch bản của cái đám sĩ phu hủ lậu này. Với cái đám này thì làm gì có chuyện cương cường, dám đòi đất Lưỡng Quảng, xin cưới con vua Càn Long ...

Mất hơn 2 năm ... bỏ lỡ cơ hội vào diệt Nguyễn Ánh ở Gia Định.

Lịch sử không có chữ nếu. Nhưng lịch sử ghi lại rõ ràng sự bạc nhược, hủ lậu của giới nho sĩ Bắc Hà thời ấy.

Xem sử để thấy sự khôn khéo của cha ông khi phải đối đầu với ông hàng xóm khổng lồ, xấu chơi. Nhưng cũng xem để biết tại sao bây giờ cái đám "tụt tạt" hay rêu rao bôi nhọ nhà ta "cúi đầu thần phục" phương Bắc như ngày xưa ... và biết được đối nhân xử thế, lòng người 1 thời. Và cũng để hiểu tại sao người Bắc cực xem sử nhà nó xong thì vênh váo với Nam Cực đến thế!
Làm làm gì có chuyện người phương Bắc nể sợ NC? Chỉ có chuyện Càn Long ưu ái Quang Trung ... thường xuyên cho đồ ngự dụng và coi Nguyễn Quang Bình như con mà thôi.
-----
Tài liệu Tham khảo: "Sử liệu chiến tranh Thanh - Tây Sơn (từ Thanh Thực lục)".


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 23 Tháng Sáu, 2011, 05:52:49 pm
Câu chuyện 4:

TRANH LUẬN VỚI SỨ THẦN NHÀ MINH VỀ NGHI THỨC ĐÓN TIẾP VÀ PHONG VƯƠNG

Xung quanh việc đón sứ thần phương Bắc sang phong vương, các triều đình Việt Nam phải tuân theo các nghi thức do triều đình Trung Quốc quy định. Tuy vậy những chi tiết nào ta cho là có phương hại đến quốc thể thì ta thường tìm cách chống chế, vin cớ này cớ khác, không tuân theo khi đón tiếp sứ thần và tuyên đọc chiếu chỉ. Việc tuân theo những nghi thức này cũng tùy thuộc sự cường thịnh của các triều vua. Khi triều đình suy biến (vì mâu thuẫn nội bộ hay do chiếm đoạt ngôi vua…) thì trong khi đón tiếp và tranh biện ta thường không chủ động được, phải tuân theo các yêu sách cống nộp và các nghi thức đón tiếp do đối phương quy định.

Vào đời Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ 3 (1462) phong kiến Việt Nam ở vào thời kỳ hưng thịnh, lòng tự hào dân tộc được đề cao. Vì vậy việc đón các sứ thần nhà Minh đã có những chi tiết ta không chịu tuân theo để giữ gìn tư thế của một quốc gia độc lập.

Khi sứ nhà Minh là Tiền Phổ và Vương Dự sang phong vương Lê Thánh Tông đã bắt bẻ triều đình ta về các việc sau:

1.Hướng ngồi của vua và quan Đại Việt khi tiếp sứ thần Trung Quốc.

Các sứ thần Trung Quốc yêu cầu ngồi tiếp kiến theo hướng Nam-Bắc, chúng ngồi hướng về Nam, vua quan ta ngồi hướng về Bắc (có ý là ta hướng về Thiên triều ở phương Bắc, chúng đại diện cho Thiên tử, thay mặt vua Trung Quốc nhìn xuống phía Nam). Phía ta nêu hướng ngồi là Đông và Tây, coi như quan hệ ngang hàng. Trước lần này, trong 9 lần đón sứ nhà Minh, đều ngồi theo hướng Đông-Tây, chỉ có một lần tiếp Hoàng Gián "hơi có tính hiếu danh", nên triều đình "gượng nghe ngồi theo hướng Nam-Bắc".

2. Đón sứ thần

Chúng yêu cầu khi chúng qua biên giới thì quân Việt phải nghênh tiếp dọc đường. Vua và quan Đại Việt phải đến tận trạm Lã Côi (xã Yên Thường, huyện Gia Lâm, Hà Nội ngày nay)

để đón chiếu sắc của vua Trung Quốc, ngoảnh mặt về Bắc làm lễ 5 lạy 3 vái. Ta không nghe theo.

3. Nghênh tiếp chiếu sắc của vua Bắc

Chúng yêu cầu phải tuân theo các thể lễ rước, lễ… đúng quy định. Phía triều đình nhà Lê căn cứ vào lễ chế Hồng Vũ (đời Minh Thái Tổ) không chịu ra ngoài thành làm lễ, cho là mệnh lệnh của Thiên tử chưa tuyên bố (phong vương cho vua Nam) thì chưa thể úy lạo sứ thần.

4. Chỗ ngồi khi yến tiệc

Chúng nêu : 4 vị sứ thần Minh ngồi phía Đông hướng sang phía Tây. Vua ta ngồi phía Tây hướng sang phía Đông, ngang với vị thứ tư của sứ thần phương Bắc. Quan ta không được cùng ngồi với vua tiếp sứ thần. Ta không nghe.

5. Đọc chiếu sắc của vua Trung Quốc.

Chúng bắt đọc bằng tiếng Trung Quốc. Ta đề nghị đọc bằng âm Hán Việt, cho là nếu đọc tiếng Trung Quốc "e giọng điệu sống sượng", sợ có lỗi với Thiên tử. (Thí dụ : từ kim liên đọc âm Hán Việt là kim liên, nếu đọc âm Trung Quốc là cắm lìn).

Hai bên thư từ tranh biện nhiều lần, sau đó mới tiến hành nghi thức đón sứ thần và phong vương.

Link: http://holevn.org/?vnTRUST=mod:news|act:detail|newsid:176


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 23 Tháng Sáu, 2011, 06:06:44 pm
Câu chuyện 5:

Lương Thế Vinh: Cân voi bằng bè

Lương Thế Vinh, người làng Cao Lương, huyện Thiện Bản (Vụ Bản) thuộc Sơn Nam, Nam Định, đỗ Trạng nguyên năm Quý Mùi (1463) niên hiệu Quang Thuận thứ 4, làm quan đến Hàn lâm thị Thư đời Lê Thánh Tông. Ông thường có dịp tiếp các sứ thần ở phương Bắc. Một lần sứ thần nhà Minh sang Việt Nam cùng đi chơi với ông dọc sông Tô Lịch, sứ thần nhà Minh lấy cái cân và đố ông cân con voi cạnh đó. Không đắn đo suy nghĩ, ông bảo người ghép bè và sai người quản tượng dắt voi lên bè. Ông lấy cái cây đo độ chìm của bè rồi lại dắt voi lên và lệnh chuyển những tảng đá lớn lên bè bằng đúng với độ chìm khi voi đứng trên bè. Sau đó ông cân số đá trên bè. Sứ thần nhà Minh muốn đẩy ông vào thế bí, nhưng không ngờ ông đã thoát hiểm ngoạn mục và khiến sứ thần nước bạn phải nể phục.

Link: http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=77&NewsId=97265


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 23 Tháng Sáu, 2011, 06:10:11 pm
Câu chuyện 6:

Lê Quý Đôn: Trung Hoa chỉ có 1,2 người

(http://daibieunhandan.vn/ONA_BDT/0/DIENDAN-DAIBIEU/2010/thang%202/bao%20tet%20am/34-Chuyen-di-su-AL10-300A2.jpg)

Lê Quý Đôn, quê ở làng Duyên Hà, huyện Duyên Hà, tỉnh Thái Bình, đỗ Giải nguyên ở tuổi 18. Năm 1752, ông đỗ đầu kỳ thi Hội, vào kỳ thi Đình, ông đỗ Bảng nhãn. Năm 1757, ông được thăng chức Hàn lâm viện thị giảng dưới triều Lê. Năm 1761, ông dẫn đầu đoàn sứ sang Bắc Kinh. Các nho thần nhà Thanh mời ông đi vãn cảnh chùa gần bãi biển và xem bia. Ông vừa đọc xong tấm bia thì nước thủy triều dâng lên ngập bia. Các nho thần Trung Quốc hỏi bài văn trên bia, ông đọc lại không thiếu một chữ nào khiến các nho thần nhà Thanh phải kinh ngạc. Tài trí của ông đã khiến quan chức triều Thanh nể phục nói rằng nhân tài nước Nam như Lê tiên sinh thì ngay cả Trung Hoa cũng chỉ có đến 1, 2 người.

Link: http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=77&NewsId=97265



Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 23 Tháng Sáu, 2011, 06:14:05 pm
Câu chuyện 7

Phùng Khắc Khoan: Mang “ngọc mễ” về cho dân Việt

Phùng Khắc Khoan người làng Phùng Xá, huyện Thạch Thất, Sơn Tây. Trên đường đi sứ, Phùng Khắc Khoan chú ý quan sát cách làm ăn của nhân dân nơi đi qua. Khi qua vùng nước Ngô, ông thấy nhân dân sinh sống bằng một thứ hạt to đầu vàng hay trắng, gọi là “ngọc mễ”. Cây trồng trên đất khô không cần tưới nước như lúa, rất thuận tiện cho việc trồng ở các ruộng cao, vùng trung du và nơi không có nước. Ông ăn thử và thấy bùi ngon, có ý định khi về nước sẽ mua một ít hạt giống mang về. Khi xe về đến gần cửa ải, quân lính nhà Minh khám xét thấy và không cho mang một cân ngọc mễ nào cả. Ông và cả sứ bộ phải rất khéo léo mới giấu được một ít hạt mang về. Có sách viết là do chúng khám kỹ, bắt cởi cả quần áo ra nên phải giấu vào hậu môn. Hạt ngọc mễ được đem cho dân làng trồng và được đặt tên là hạt ngô vì thứ hạt này được lấy giống từ nước Ngô. Cũng vì vậy nên khi cúng cơm, người ta không cúng ngô.

Link: http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=77&NewsId=97265



Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 23 Tháng Sáu, 2011, 06:17:13 pm
Câu chuyện 8

Giang Văn Minh: Vế đối bảo vệ quốc thể

(http://daibieunhandan.vn/ONA_BDT/0/DIENDAN-DAIBIEU/2010/thang%202/bao%20tet%20am/34-Chuyen-di-su-AL10-300A3.jpg)

Dưới thời vua Lê Thần Tông (1619-1643), Giang Văn Minh được cử làm sứ sang Trung Quốc nạp cống và cầu phong. Trong buổi tiếp kiến sứ Đại Việt, để làm nhục sứ thần Việt Nam, vua nhà Minh đã nhắc lại việc Mã Viện dựng cột ở Giao Chỉ bằng một vế đối:

Đồng trụ chí kim đài dĩ lục
(Cột đồng đến nay rêu đã phủ xanh)

Giang Văn Minh ứng khẩu đối tiếp vế sau:

Đằng Giang tự cổ huyết do bồng
(Sông Bạch Đằng từ xưa máu còn đỏ)

Giang Văn Minh cố ý nhắc lại 3 lần thảm bại của quân xâm lược Trung Quốc trên sông Bạch Đằng: Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán năm 938, Lê Hoàn đánh thắng quân Tống năm 981 và nhà Trần đánh thắng quân Nguyên năm 1288.

Vua nhà Minh hổ thẹn và tức giận ra lệnh giết Giang Văn Minh. Cả triều đình Nam Việt thương tiếc, còn vua Thần Tông ca ngợi: “Đi sứ không làm nhục quốc tế, thật là anh hùng kim cổ”.

Link: http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=77&NewsId=97265

Thêm chi tiết của thám hoa Giang Văn Minh đi sứ nhà minh:

Mùa  đông năm 1637, thám hoa Giang Văn Minh được vua Lê Thần Tông cử đi sứ  Trung Quốc. Chờ rất lâu mà vẫn không được vua nhà Minh cho tiếp kiến,  ông vờ khóc lóc rất thảm thiết. Vua Minh liền hạ chỉ mời ông đến hỏi cho  ra lẽ.
  
      Thám hoa vừa khóc lóc vừa than rằng:
  
-          Hôm nay là giỗ cụ tổ năm đời của thần, nhưng thần không có mặt ở nhà để cúng giỗ. Thật là bất hiếu với tổ tiên.
  
      Vua Minh phán:
  
-          Không ai giỗ người đã chết từ năm đời. Sứ thần khóc lóc như vậy thật không phải lẽ!
  
      Giang Văn Minh nghe vậy bèn tâu:
  
-          Vậy, tướng Liễu Thăng tử trận đã mấy trăm năm, sao hằng năm nhà vua vẫn bắt nước tôi cử người mang lễ vật sang cúng giỗ?
  
      Biết đã mắc mưu sứ thần, vua Minh vẫn phải nói:
  
-          Từ nay trở đi, nước ngươi không phải góp giỗ Liễu Thăng nữa.
  
      Từ đó nước ta mới thoát nạn mỗi năm cống nạp một tượng vàng để đền mạng Liễu Thăng.
  
      Lần khác, khi Dương Văn Minh vào yết kiến, vua Minh sai một đại thần ra vế đối:
  
-          Đồng trụ đến giờ rêu vẫn mọc.
  
      Biết họ ngạo mạn nhắc chuyện Mã Viện dẹp cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng, Giang Văn Minh cứng cỏi đối lại ngay:
  
-          Bạch Đằng thuở trước máu còn loang.
  
      Thấy  sứ thần Việt Nam dám lấy việc quân đội cả ba triều đại Nam Hán, Tống và  Nguyên đều thảm bại trên sông Bạch Đằng để đối lại, vua Minh giận quá,  sai người ám hại ông.
  
      Thi hài Giang Văn Minh được đua về nước. Vua Lê Thần Tông đến tận linh cửu ông, khóc rằng:
  
-          Sứ thần không làm nhục mệnh vua, xứng đáng là anh hùng thiên cổ.
  
      Điếu văn của vua Lê còn có câu: “Ai cũng sống, sống như ông, thật đáng sống. Ai cũng chết, chết như ông, chết như sống."

Link: http://sbd.vn/read.php?144


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 23 Tháng Sáu, 2011, 06:20:44 pm
Câu chuyện 9:

Lê Công Hành: Ung dung trên lầu cao

(http://daibieunhandan.vn/ONA_BDT/0/DIENDAN-DAIBIEU/2010/thang%202/bao%20tet%20am/34-Chuyen-di-su-AL10-300A4.jpg)

Ông Lê Công Hành, người Quất Động, huyện Thường Tín, Hà Tây, trong một lần đi sứ sang Trung Quốc năm 1646, ông được mời lên lầu cao ngắm phong cảnh và ngủ đêm tại đây. Sáng dậy chẳng còn ai. Họ bỏ ông một mình trên lầu cao và cất thang đi. Bị bỏ đói và khát, ông quan sát pho tượng phật thấy màu đen nhưng không phải màu đen của đồng và phát hiện ra tượng phật được làm bằng thứ bột thơm. Ông bẻ dần tượng phật ăn và hứng nước mưa uống. Ăn hết tượng phật, ông lấy chiếc lọng che tượng giương lên nhảy từ lầu cao xuống đất một cách nhẹ nhàng.

Link: http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=77&NewsId=97265


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 23 Tháng Sáu, 2011, 06:32:56 pm
Câu chuyện 10:

Nguyễn Nễ - Hai lần đi sứ Trung Quốc.

(http://ditichnguyendu.vn/uploads/News/pic/small_1306195773.nv.jpg)

Họ Nguyễn - Tiên Điền (Nghi Xuân - Hà Tĩnh) là một trong những dòng họ lớn, nổi tiếng ở trấn Nghệ An thời kỳ Lê Trung Hưng. Là một dòng họ có nhiều người đỗ đạt thành danh trên con đường cà văn lẫn võ. Người đầu tiên là Nguyễn Huệ, ông đậu Tam giáp Tiến sỹ khoa thi Quý Sửu (1733) đến Nguyễn Nghiễm đậu nhị giáp tiến sỹ khoa Tân Hợi (1731) làm chức Tể tướng trong triều rồi Nguyễn Khản đậu tiến sỹ khoa thi Canh Thìn (1760) làm đến chức Đông các Đại học sĩ Tế Tửu Quốc Tử giám, Thượng thư bộ lễ và Nguyễn Du - nhà thơ lớn của dân tộc Việt với tác phẩm Truyện Kiều bất hủ… và trong số những người con đã làm rạng dòng họ và dân tộc luôn nhớ đến nhân vật lịch sử Quế hiên công Nguyễn Nễ - người đã hai lần đảm nhận trách nhiệm đi sứ Trung Quốc.

Nguyễn Nễ (còn gọi là Nguyễn Đề - là anh cùng mẹ với Đại thi hào Nguyễn Du). Tự là Tiến Phủ, hiệu Quế Hiên, con trai thứ sáu của Nghi hiên công Nguyễn Nghiễm. Ông sinh năm 1971 tại phường Bích Câu, Thăng Long. Tuổi 19 đậu kỳ thi khảo khóa ở Quốc Tử giám, 23 tuổi đậu kỳ thi hạch ở huyện Thọ Xương và năm 1783 thi hương ở trường Phụng Thiên đậu Tứ Trường. Năm 1786 được bổ vào Thị nội  Văn chức giữ việc thường trực tại nhà học (con của chúa Trịnh), sau kiêm chức phó Trị thị nội thư tả (ở phủ chúa) và được giao cai quản quân đội Nhất Phấn. Trong cuộc đời của ông đã có 2 lần làm sứ bộ sang Trung Quốc.

Lần thứ nhất: Vào năm 1789 khi Tây Sơn hành quân ra bắc ông về quê ngoại ở Bắc Ninh, sau thời gian ngắn nhân có người đề cử, ông được vua Quang Trung mời ra giúp việc và được bổ chức Hàn lâm viện Thị thư, làm phó sứ tuế cống và đầu năm 1790 sứ bộ đến yên Kinh, vua Càn Long mời ra dự yến tiệc ở Các Tử Quang, ông làm thơ chúc mừng vua Càn Long, được vua thưởng 1 tấm đoạn, 2 thỏi mực và 3 tập hoa “tiên lụa”. Về nước Nguyễn Nễ được thăng Đông các Thái  học sỹ, gia tăng Thái tử Thư tả lang Nghị thành hầu. Năm 1793, ông được giao trọng trách tại Viện cơ mật, năm 1794 được thăng Tả phụng Nghị Bộ binh (hàm chính Tam phẩm) và cử vào giũ chức Hiệp trấn Qui Nhơn.

Lần thứ hai: Vào năm 1795, nhân dịp vua Càn Long làm lễ nhường ngôi, Nguyễn Nễ được triều đình cử làm phái bộ sứ sang chúc mừng, cuối năm 1795 phái bộ đến Yên Kinh và dự lễ ở điện Thái Hòa. Tháng 2 năm 1796 vua Càn Long chính thức làm lễ nhường ngôi, Nguyễn Nễ đã dâng 2 bài thơ ứng chế và ông được nhà vua đích thân mời uống rượu, sau đó dự yến tiệc ở Các Tử Quang. Cuối tháng 2 năm 1796 phái bộ của ông trở về nước, trước khi về ông được Càn Long và vua Gia Khánh tiếp đãi và tặng gấm đoạn, trà sen, gậy tuổi già, ngọc như ý, tứ bửu… Ông cùng được các vị quan bắc triều tặng nhiều phẩm vật, thơ văn. Đặc biệt, được cháu 24 đời của Chu Văn Công là Tri phủ  Tứ thành Chu Lễ tặng 4 chữ “ Thiên môn tái đăng” (Hai lần lên cửa trời) và Trung hiến đại phu Hoàng Phu Thái tặng 4 chữ “ Hồng Sơn thế phổ” (Dòng dõi nổi tiếng ở núi ủaHồng). Mùa thu năm 1796, phái bộ sứ thần của Nguyễn Nễ về nước.  Về nước ông được nhà vua ban thưởng 40 mẫu ruộng và thăng chức Tả đồng Nghị Trung thư sảnh.

Khi Gia Long lên ngôi (1802) nhà vua mời ông tham dự công việc của  triều chính, được ban thưởng nhiều tiền, mũ áo… Nguyễn Nễ mất 1805 tại quê nhà

Một con người của một dòng tộc đã có hai lần được cử làm phái bộ sứ sang Trung Quốc để tuế cống và chúc mừng triều đình nhà Thanh trong lịch sử dân tộc Việt không phải là nhiều. Khi đi sứ ông đã chứng tỏ được bản lĩnh  của dân tộc Việt trong việc thực hiện lễ nghi quốc gia, đối đáp, hùng biện… làm cho “nước  lớn” phải kính trọng, nể phục.

Về tính cách của ông, trong gia phả họ Nguyễn -Tiên Điền  (bản dịch của cụ Lê thước) ghi rõ: “Ông là con người thông minh, hào hiệp, hay làm thơ là người đầu tiên của dòng họ Nguyễn  - Tiên Điền đi sứ và đi sứ hai lần, luôn giúp đỡ mọi người, ông đã bỏ tiền ra tu sửa đình,chùa, văn từ, Cầu Tiên và người làng lấy làm cảm ơn”

Hai bức biển chạm khắc 2 câu của Chu Văn Công là Tri phủ  Tứ thành Chu Lễ  và củaTrung hiến đại phu Hoàng Phu Thái tặng Nguyễn Nễ, trước đây đươc đặt tại nhà thờ dòng họ, sau đó đặt tại nhà thờ Đại thi hào Nguyễn Du. Do nhiều biến động của xã hội nên hai bức biển trên bị thất lạc, sau đó con cháu trong dòng tộc tìm lại cất giữ và đây là những hiện vật quý (hiện vật gốc) đã được Ban quản lý di tích Đại thi hào Nguyễn Du tiếp nhận về trưng bày tại nhà bảo tàng, nhằm giới thiệu cho du khách gần xa hiểu thêm về quê hương, dòng họ  có những người con đã làm rạng danh cho non sông đât Việt.  

Link: http://ditichnguyendu.vn/modules.php?name=News&op=viewst&sid=211



Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 23 Tháng Sáu, 2011, 08:52:52 pm
Về câu chuyện thứ 2:

Đúng là Quang Trung sau khi uýnh Tôn Sĩ Nghị chạy re kèn thì cử người lên biên giới thương thảo hòa đàm ... lời lẽ cương cường, làm như sẵn sàng đánh nhau với quân Thanh. Quân Thanh hoảng hốt thay tướng, điều binh dàn quân đợi chống trả nếu như Quang trung thừa cơ tấn qua.

Nhưng sau đó ...
Sau đó thì cái đám sĩ phu Bắc Hà quen thói thần phục nhà Thanh xúi quân Tây Sơn cúi đầu chịu nhục trước Thiên Triều để cầu an. Thực ra thì Quang Trung đã vào miền Thanh Nghệ, Phú Xuân lo việc chuẩn bị đánh nhau với quân Nguyễn phía Nam, hầu hết công việc bang giao với phía Bắc đều ủy thác cho các quan văn ở Bắc Hà thu xếp.

Quang Trung - Tây Sơn lằng nhằng cống nạp, đi sứ, dâng biểu cầu xin, đem thân 2 con (Thùy, Toản) và mình (giả) cúi đầu lạy, ôm gối Càn Long để xin phong vương ... là kịch bản của cái đám sĩ phu hủ lậu này. Với cái đám này thì làm gì có chuyện cương cường, dám đòi đất Lưỡng Quảng, xin cưới con vua Càn Long ...

Mất hơn 2 năm ... bỏ lỡ cơ hội vào diệt Nguyễn Ánh ở Gia Định.

Lịch sử không có chữ nếu. Nhưng lịch sử ghi lại rõ ràng sự bạc nhược, hủ lậu của giới nho sĩ Bắc Hà thời ấy.

Xem sử để thấy sự khôn khéo của cha ông khi phải đối đầu với ông hàng xóm khổng lồ, xấu chơi. Nhưng cũng xem để biết tại sao bây giờ cái đám "tụt tạt" hay rêu rao bôi nhọ nhà ta "cúi đầu thần phục" phương Bắc như ngày xưa ... và biết được đối nhân xử thế, lòng người 1 thời. Và cũng để hiểu tại sao người Bắc cực xem sử nhà nó xong thì vênh váo với Nam Cực đến thế!
Làm làm gì có chuyện người phương Bắc nể sợ NC? Chỉ có chuyện Càn Long ưu ái Quang Trung ... thường xuyên cho đồ ngự dụng và coi Nguyễn Quang Bình như con mà thôi.
-----
Tài liệu Tham khảo: "Sử liệu chiến tranh Thanh - Tây Sơn (từ Thanh Thực lục)".


@tuaans: bác có tin vào chuyện "giả Vương" đi sứ nhà Thanh thay cho Vua Quang Trung năm 1790 không  :o ??? ? mời bác tham khảo :

Người đóng giả vua Quang Trung và câu chuyện có một không hai

Đó là câu chuyện liều mình đóng thế vua Quang Trung đi sứ Thanh của "diễn viên" Phạm Công Trị vào xuân Canh Tuất (1790)

(http://www2.vietbao.vn/images/vn7/phong-su/70011756-14505sm.jpg)

Giả Vương Phạm Công Trị

Sách “Quang Trung - Anh hùng dân tộc 1788 - 1792” của Hoa Bằng, có viết rằng, xuân Canh Tuất (1790), Quang Trung chọn cháu gọi bằng cậu là Phạm Công Trị, đội tên ngài, đóng vai Giả Vương, sang Thanh mừng thọ. Phái đoàn sứ bộ gồm 150 người, trong đó có các quan văn võ cao cấp: Ngô Văn Sở, Đặng Văn Chân, Phan Huy Ích, Vũ Huy Tấn, Nguyễn Tiến Lộc...

Ngày 29/3 năm Canh Tuất (1790), sứ bộ khởi hành từ Nghệ An, đến giờ Tỵ ngày rằm tháng tư, cửa ải Nam Quan mở, đoàn đặt chân đến đất nhà Thanh, bắt đầu chuyến Bắc hành”. Chuyện này, ông Hoa Bằng viết dài, viết kỹ. Sách khác như Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam của Nguyễn Q. Thắng - Nguyễn Bá Thế (tái bản lần 5, năm 1999), mục “Võ Văn Dũng” cũng nhắc. Trên báo, tạp chí Xưa và Nay của Hội Sử học năm 1998 cũng có bài, in luôn cái ảnh đón tiếp ngựa xe cờ quạt của nhà Thanh với Giả Vương qua nét vẽ của họa công nhà Thanh.

Chuyện này có lẽ chúng tôi chẳng bao giờ nhớ nổi nếu như không có cái đêm cúp điện ấy... Nhà anh bạn làm báo Quảng Ngãi ở làng Bình Trung gần đường tàu lửa, tre rợp kín đường, thêm cái thâm u của đêm ngồn ngột hơi nóng cõng theo muỗi mòng vấn vít.

Chịu chẳng thấu, chúng tôi kéo nhau ra bãi bên đường tàu hòng ăn cắp chút “nhàn” của gió. Trong cái mờ mờ của sao đêm, đang đi bỗng dưng y quay trở lại, chỉ tay vào cái nhà thờ tộc như người khổng lồ đang đứng tấn: “Anh có đọc sử không ? Ông tổ họ Phạm của em đang thờ đây là Phạm Công Trị, người đã giả vua Quang Trung đi sứ nhà Thanh”.

Người tôi như bất thần bị dính chưởng. Đốc thúc anh bạn thuyết phục ông cụ đang giữ gia phả họ Phạm cho xem, cụ vui vẻ, lại mang cái băn khoăn của người già khi chi, nhánh họ hàng nhà mình đang típ tắp xa đất Tây Sơn. Thì ra không phải nhưng mà ... phải.

Cụ tổ đây là Phạm Công Quế, anh ruột ông Trị. Cụ Quế có con trai là Phạm Công Tuân, chạy lánh nạn khỏi hoạ tiêu diệt của Gia Long bèn cách xung vào đội quân diệt loạn, tráo mình lẩn trong gánh hát tuồng, ông Tuân ra vùng Bình Trung - Bình Sơn này lấy vợ lập làng.

Nhưng, ông không được đứng tên trong sổ đinh điền mà phải nương núp nhờ họ Phạm của vợ là Phạm Thị Nang. Đất của ông trải dài 3 xã là Bình Trung, Bình Minh và Bình Nguyên thuộc Bình Sơn - Quảng Ngãi bây giờ.

Bạn tôi kể, cũng chưa xa bao lâu, nhiều người nghĩ rằng mộ ông có từ thời ấy chắc là vàng bạc nhiều nên lén đào bới. Tộc họ gom góp lại, dựng bia, xây đàng hoàng.

Hồi còn tỉnh Nghĩa Bình cũ, người vùng Tây Sơn ra làm kênh Thạch Nham, nghỉ tại làng này, nhận họ hàng với nhau. “Ở trong Tây Sơn đó cháu à ! Không biết bao giờ tôi mới vào đó được”.

Tôi mang ao ước đấy của cụ già kèm theo một khối phân vân trên đường vào Tây Sơn. Con người sao mà hay quên. Mà chuyện nhớ quên lịch sử lắm khi cũng theo cái lẽ của lịch sử và thói thường nhân gian.

Ai đạo cao đức trọng công trạng hiển hách thì nhớ. Kẻ “đốt đền” cũng khó quên. Còn lại “thường thường bậc trung” thì thể tất. Nhưng, với ông tổ họ Phạm này, cái sự cho qua ấy, tôi thấy lấn cấn thế nào.

Sách của Hoa Bằng chép rằng, Quang Trung khi đó vì không muốn hạ thấp mình nên thoái thác tang mẹ không đi. Lưỡng Quảng Tổng đốc Phúc Khang An bèn cho người sang Nam, rằng nếu thế thì tìm một người trạng mạo giống Quang Trung đi thay. Đây quả là chuyện “mồi chài”, thoả thuận kỳ lạ trong lịch sử bang giao.

Cũng xin gạch lại vài ba đầu dòng cho thấy tấm thịnh tình trọng đãi của Vua Càn Long mà có lẽ hàm trong đó là sự kiêng nể uy lực của một kẻ vừa khiến quan lính nước mình ôm đầu máu. Quốc Vương, khi ở trong nước thường đeo cái đai da sắc đỏ (hồng thinh). Càn Long muốn ưu đãi khách chiến thắng, thưởng cho “hoàng kim thinh đới”.

Đây là thứ đai bằng da có cẩn hoặc nạm vàng. Thể chế Mãn Châu, chỉ có những bậc tông phiên (phiên trần họ đồng tông với nhà vua) mới được dùng thứ đai ấy.

Quả là vinh sủng khó gặp! Rồi thư tín đi về để bàn bạc việc nước của Giả Vương, không phải qua kiểm duyệt mà theo thể chế nhà Thanh là phàm các ngoại phiên đệ trình văn báo đều không được niêm phong. Tiền tiêu của Giả Vương, chỗ ngủ đỗ, ăn uống dọc đường, mỗi ngày hết 4 ngàn lạng bạc, chưa kể yến tiệc, du hí, thưởng ngoạn cảnh sắc, thuyền bè, xe ngựa, phu hầu.

Càn Long, từ cho chữ đến tặng hà bao trong đó đồ bát bảo bằng các thứ ngọc thạch, kim ngân, thượng phương trân ngoạn ... đến nỗi chính Càn Long cũng thốt lên rằng “Cận quang ưng, sủng tích tái kê thanh sử vị tiền văn” (Thân đi triều cận, được ban ân sủng, xét suốt sử xanh trước giờ, chưa hề thấy có sự ưu đãi như thế).

Lúc chia tay, Giả Vương vào bệ kiến xin từ biệt, vua Thanh tỏ lòng thân thiết, bèn mời vào bên giường ngự, lấy tay vỗ vai, ôn tồn yên ủi. Lại sai hoạ công vẽ một bức chân dung đưa tặng làm kỷ niệm.

Sứ bộ ra đi cuối xuân Canh Tuất, đến 29/11 năm ấy thì về nước. Những cuộc tiếp đón, tiễn đưa đã làm triều Thanh mất hết một năm bận rộn. Đoàn Nguyễn Tuấn là người đi trong đoàn, đã viết bằng giọng đắc thắng ở cuối cuốn “Tinh sa kỷ hành” của Phan Huy ích, rằng “Chu sa tinh kỳ diệu nhân nhĩ mục. Sở chí quan lại bôn tẩu nghinh phó” (Thuyền, xe, cờ quạt, quáng cả tai mắt người. Đi đến đâu quan lại phải bôn tẩu đón tiếp đến đó”, rồi “Tòng lai ngô quốc sứ Hoa vị hữu như thử chi kỳ thả vinh giả!” (Trước giờ, người mình đi sứ Tàu chưa có lần nào lạ lùng và vẻ vang vậy).
.....
Link: http://vietbao.vn/Phong-su/Nguoi-dong-gia-vua-Quang-Trung-va-cau-chuyen-co-mot-khong-hai/70011756/262/


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: tuaans trong 23 Tháng Sáu, 2011, 10:42:46 pm
Chuyện Phạm Công Trị đi sang Thanh ... cả sử ta và Tàu đều có bàn tới (bàn chứ không phải chép).
- Chuyện đi sứ trước đây nhà Lê đã triều cống cả trăm rưởi năm cho nhà Thanh. Nhà Thanh thấy vua Lê không có thực quyền nên Vua Thanh chán chả muốn gặp.
Với Nguyễn Quang Bình thì khác. Dù sao thì cũng là 1 tay sừng sỏ dám quất lại quân thiên triều 1 trận tóe lửa. Nhưng cũng phải xét lại bối cảnh lúc đó Càn Long liên tiếp chiến thắng các cuộc chiến tranh nhằm thâu tóm mở rộng lãnh thổ TQ. Ông ta lại sắp làm lễ thọ bát tuần. Tất tần tật các phiên bang đều phải đến mừng.
Chính sử Thanh chép vua Càn Long tra hỏi dai dẳng xem tại sao đón các phái đoàn của Nguyễn Quang Bình lại tốn kém thế, 1 ngày đến 4.000 lượng bạc? Cuối cùng ra thì Càn Long cũng biết là các chú ở dưới tranh thủ phung phí và ăn bớt.
Quân Tây sơn đâu chỉ đi sứ có 1 lần, 1 đoàn ... nhà Thanh không chịu nổi bèn cắt giảm tiêu chuẩn tiếp đón. Thế là các sứ thần đi chung với đoàn Nguyễn Quang Bình không được hưởng đón tiếp rình rang như đoàn của Văn Sở qua chuẩn bị trước.


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 24 Tháng Sáu, 2011, 07:16:27 am
Chuyện Phạm Công Trị đi sang Thanh ... cả sử ta và Tàu đều có bàn tới (bàn chứ không phải chép).
...
Với Nguyễn Quang Bình thì khác. Dù sao thì cũng là 1 tay sừng sỏ dám quất lại quân thiên triều 1 trận tóe lửa. Nhưng cũng phải xét lại bối cảnh lúc đó Càn Long liên tiếp chiến thắng các cuộc chiến tranh nhằm thâu tóm mở rộng lãnh thổ TQ. Ông ta lại sắp làm lễ thọ bát tuần. Tất tần tật các phiên bang đều phải đến mừng.
Chính sử Thanh chép vua Càn Long tra hỏi dai dẳng xem tại sao đón các phái đoàn của Nguyễn Quang Bình lại tốn kém thế, 1 ngày đến 4.000 lượng bạc? Cuối cùng ra thì Càn Long cũng biết là các chú ở dưới tranh thủ phung phí và ăn bớt.
Quân Tây sơn đâu chỉ đi sứ có 1 lần, 1 đoàn ... nhà Thanh không chịu nổi bèn cắt giảm tiêu chuẩn tiếp đón. Thế là các sứ thần đi chung với đoàn Nguyễn Quang Bình không được hưởng đón tiếp rình rang như đoàn của Văn Sở qua chuẩn bị trước.

Thật sự mình mới tiếp xúc lần đầu với thông tin giả Vương Phạm Công Trị, nhưng đúng là có 1 không 2...Tất nhiên trên mặt trận ngoại giao, kẻ mạnh bao giờ cũng có lợi thế và trong bang giao với TQ họ luôn ở thế kể mạnh để hiếp đáp chúng ta. Nhưng việc Vua QT không đi sứ vào sự kiện bát tuần của Càn Long, chúng ta khi đó thực sự đứng trên thế của kẻ mạnh  ;D, Chính tâm phúc của Càn Long là Phúc An Khang khi biết là vua QT từ chối đi sứ (tất nhiên vì lý do này, lý do khác...) đã "đạo diễn" màn Giả Vương này. Sự việc này là một nỗi nhục quốc thể đối vì triều Thanh nếu để lộ ra nên họ ỉm đi chứ "kim trong bọc lâu ngày cũng phải lòi ra" mà. ;D

Riêng đối với Càn Long, với vị thế "thiên tử", công thêm tình thế thuận lợi của nhà Thanh lúc đó ( vừa chiến thắng ĐL) nếu không thực sự vì sốc và phục thiên tài quân sự vua QT một trận thần tốc quét sạch 20 vạn quân Thanh...chắc không thể ưu ái trước nay chưa hề có tiền lệ với Giả Vương cỡ đó ( 1 ngày hơn 4000 lạng bạc)... và quan trọng nhất nước ta khi đó cũng tránh được nạn binh đao kiểu "báo thù, rửa hận" của phong kiến phương Bắc. Thật sướng quá  ;D ;D ;D      


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 24 Tháng Sáu, 2011, 07:35:50 am
Câu chuyện 11:

TRẠNG NGUYÊN MẠC ĐĨNH CHI HAI LẦN ĐI SỨ
   
(Những mẩu chuyện bang giao trong lịch sử Việt Nam- Nhà xuất bản giáo dục. Nguyễn Thế Long sưu tầm và biên soạn)

Mạc Đĩnh Chi tự là Tiết Phu, người làng Lũng Động, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương ; nay là thôn Lũng Động, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Ông là cháu nội của Mạc Hiển Tích, đỗ Trạng nguyên khoa thi Thái học sinh năm Giáp Thìn, niên hiệu Hưng Long 12, đời vua Trần Anh Tông (1304). Sau khi thi đỗ, ông được bổ Thái học sinh hoả dũng thư gia, sau được thăng Đại liêu ban, Tả bộc xạ, làm Nhập nội hành khiển, Tả tư Lang trung. Ông làm quan sống thanh đạm, liêm khiết nổi tiếng, được vua Trần và nhiều người mên phục.

     /)/ăm 1308, sứ nhà Nguyên là Thượng thư An Lỗ Uy sang báo tin vua Nguyên Vũ Tông lên ngôi. Vua Trần Anh Tông đã cử ông đi sứ để đáp lễ năm đố. Năm 1324, vua Nguyên sai Thượng thư Mã Hợp Mưu sang báo việc lên ngôi và ban cho vua Trần một quyển lịch.Vua Trần Minh Tông lại sai ông đi sứ mừng  vua Nguyên. Ông đã đi sứ hai lần nên những chuyện đi sứ của ông cũng khá nhiều. Nội dung các chuyện đều nhằm bộc lộ tài năng hơn người trong khi đi sứ, có chuyện được ghi trong các sách, có chuyện được lưu truyền như những giai thoại văn học.

                                      
Câu đối qua cửa ải
       
 Chuyện kể, trong lần Mạc Đĩnh Chi đi sứ năm 1308, do đường xa, mưa gió nên sứ bộ đến cửa ải Nam Quan chậm mất một ngày. Viên quan giữ cửa ải không cho mở cửa để sứ bộ qua. Mạc Đĩnh Chi nói mãi chúng cũng không chịu cho qua. Sau đó họ ném từ trên cửa ải xuống một vế câu đối, bảo hễ đối được thì sẽ mở cửa cho qua, còn nếu chưa đối được thì hãy ở tạm bên dưới qua đêm, đợi đến sáng hôm sau.. Vế ra đối viết :

         - Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan.

          Nghĩa là :

          - Qua cửa quan chậm, cửa quan đóng, mới khách qua đường qua cửa quan.

          Thật là một câu đối hiểm hóc, nội dung nói lên việc Mạc Đĩnh Chi đang cần qua cửa quan để sang Yên Kinh. Song khó ở chỗ trong 11 chữ của vế đối mà có tới bốn lần nhắc lại chữ quan.

          Mạc Đĩnh Chi nghĩ vế ra quả là rất khó đối lại nhưng nếu im lặng thì mất thể diện. Ông ứng khẩu đọc lại vế đối :

           - Xuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối.

            Vế đối cũng có bốn chứ đối.

            /)/ghĩa là :

            - Ra câu đối dễ, đối câu đối khó, xin tiên sinh đối trước.

            Mọi người đều đang bí thì nghe Mạc Đĩnh Chi đọc vế đối lại. Quân lính nhà Nguyên phải chịu và mở cửa ải để ông đi qua.

                                          
Mạc Đĩnh Chi thắng Trạng cờ Trung Hoa
         
Hồi đi sứ ở Yên Kinh, nhân lúc nhàn rỗi đi dạo phố, Mạc Đĩnh Chi thấy trước cửa nhà một người có treo biển tự xưng là Trạng cờ. Ông bèn vào để thử tài cao thấp. Sau khi biết Mạc Đĩnh Chi muốn thử tài mình, người Tầu nọ bèn đem bàn cờ và bộ quân bằng sừng ra tiếp. Mạc Đĩnh Chi lắc đầu và nói xin đem bộ quân bằng ngà ra để chơi mới được. Trạng cờ Trung Hoa nói :

        - Bộ quân bằng ngà chỉ để tiếp vua mà thôi. Ngoài ra cũng chỉ tiếp những người hơn cờ ta thôi. Nếu mang ra đánh, ngài thua  cờ tôi thì sao ? Mạc Đĩnh Chi bèn nói :

        - Nếu tôi thua thì xin gửi lại ngài cái đầu, còn nếu tôi thắng thì chỉ xin ngài các bảng treo chữ Trạng cờ và bộ quân băng ngà này.

        Hai người chơi ván cờ đã đến ba ngày vẫn chưa phân thắng bại. Đến gần tối ngày thứ ba, thấy nước cờ của mình đã núng thế, Mạc Đĩnh Chi bèn nói xin nghỉ để đên sáng hôm sau. Đêm về, Mạc Đĩnh Chi đã dựng lại các nước cờ trong óc và nghĩ ngay ra phải đánh Tốt mới là nước cờ quyết định.

       Sáng hôm sau gặp lại trạng cờ Trung Hoa, Đĩnh Chi ung dung dí ngón tay đánh ngay con tốt. Trạng cờ giật mình rồi thốt lên :

       - Đúng là nước cờ thần, xin chịu thua ngài.

       Trạng cờ vội gói lại bộ quân cờ bằng ngà và cái biển, xin nộp cho Mạc Đĩnh Chi nhưng ông đã từ chối mà không nhận, chỉ muốn từ nay người chơi cờ nọ nên cất cái bảng Trạng cờ kia đi.

                                                    
Thử tài lần cuối

       Tương truyền trước khi về nước, Mạc Đĩnh Chi và sứ bộ vào triều yết kiến vua nguyên và các quan văn võ lần cuối. Vua Nguyên đã phong cho biển đề : "Lương quốc Trạng nguyên" và thấy Mạc Đĩnh Chi thật là xứng đáng. Tuy vậy, vua và các quan nhà Nguyên vẫn thử tài Mạc Đĩnh Chi một lần nữa. Lần này họ không ra vế đối nữa mà ra một câu hỏi thông thường về đời sống. Vua Nguyên hỏi :

      - Từ khi đến Yên Kinh, ngày nào nhà ngươi cũng cưỡi ngựa đi trên đường thăm phong cảnh, thế ngươi có biết mỗi ngày có bao nhiêu người qua lại trên đường cái không ?

      Câu hỏi thật là bất ngờ, vua không thử tài văn học mà muốn thử tài quan sát. Hằng ngày đi lại trên đường ở Kinh đô thì có biết bao nhiêu người, ai có công để ý mà đếm. Sau một lát suy nghĩ, Mạc Đĩnh Chi đã điềm tĩnh trả lời :

     -Muôn tâu bệ hạ, hàng ngày trên đường kinh đô chỉ có hai người đi lại.

     Vua Nguyên lấy làm lạ bèn hỏi lại :

      - Nhà ngươi nói không đúng, sao lại chỉ có hai người ?

      Mạc Đĩnh Chi bèn thưa :

       - Muôn tâu bệ hạ, thần nói chỉ có hai người là rất đúng ạ. Vì hằng ngày, phàm những người qua lại trên đường thì chẳng vì danh cũng vì lợi mà thôi, như vậy rõ ràng chỉ có hai người là cầu danh và cầu lợi.

       Vua Nguyên phải phục vì tài biện bác của Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi nhưng lại hỏi một câu hỏi nữa :

        Một cái thuyền, trên có chở ba người gồm vua, thầy dạy và cha, khi ra đến giữa sông thì bị sóng to gió lớn  nên đã lật đắm . Khi ấy nhà ngươi ở trên bờ bơi ra cứu, nhưng chỉ có thể cứu được một người thôi, như vậy thì nhà ngươi cứu ai ?

        Câu hỏi này thật là oái oăm và như một cái bẫy để buộc tội Mạc Đĩnh Chi. Nếu Mạc Đĩnh Chi nói chỉ cứu vua thì được chữ Trung nhưng mắc tội bất hiếu với cha mẹ và mắc tội bất nghĩa với thầy. Nếu nói chỉ cứu thầy dậy thì mắc tội với bất trung với vua và tội bất hiếu với cha.Nếu chỉ cứu cha thì mắc tội bất trung và bất nghĩa. Nếu nói không cứu ai cả thì tội bất nhân, bất trung, bất nghĩa, bất hiếu lại càng nặng.

       Đắn đo suy nghĩ một lúc rồi Mạc Đĩnh Chi trả lời :

       - Thần bơi ra giữa sông, chỉ cứu được một người nên gặp ai trước thì cứu ngay người đó, bất kể là vua, thầy hay cha.

       Cả triều đình đều phục trí thông minh và tài ứng đối nhanh trí của Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi.


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 24 Tháng Sáu, 2011, 07:51:10 am
MẠC ĐĨNH CHI ĐI SỨ
(Trích: VIỆT SỬ GIAI THOẠI - tập 3 - 71 GIAI THOẠI ĐỜI TRẦN , Nguyễn Khắc Thuần , NXB Giáo dục 2003 , Tái bản lần thứ tám)

Mạc Đĩnh Chi quê ở Chí Linh (Hải Dương), đỗ Trạng nguyên khoa Giáp Thìn (1304). Ngay sau khi đỗ đạt, ông được sung chức Nội thư gia và bốn năm sau (năm Mậu Thân, 1308), ông được cử cầm đầu phái bộ sứ giả sang nhà Nguyên, mừng việc Nguyên Vũ Tông lên ngôi. Có một mẩu chuyện thú vị đã xẩy ra trong chuyến đi sứ này của ông, được sách Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 6, tờ 24 a và b) ghi lại như sau :

“Đĩnh Chi thấp bé nên người Nguyên khinh ông. Một hôm, viên Tể tướng mời ông vào phủ, cho cùng ngồi. Lúc ấy, đang hồi tháng 5 tháng 6. Trong phủ có treo bức trướng mỏng, trên thêu hình con chim sẻ vàng đậu cành trúc. Đĩnh Chi vờ làm như mình nhầm tưởng là chim sẻ thật rồi chạy đến bắt. Người Nguyên thấy vậy cười ồ, cho là người phương xa bỉ lậu (thô bỉ, quê mùa ). (Bất thình lình), Đĩnh Chi kéo bức trướng xuống, xé đi. Mọi người lấy làm lạ, hỏi tại sao, Đĩnh Chi đáp rằng, tôi nghe người xưa vẽ cành mai và chim sẻ chứ chưa hề thấy vẽ chim sẻ đậu cành trúc bao giờ. Nay bức trướng của Tể tướng lại có hình chim sẻ đậu cành trúc. Trúc là biểu tượng của bậc quân tử, chim sẻ là biểu tượng của kẻ tiểu nhân, Tể tướng làm như vậy là để tiểu nhân trên quân tử, sợ rằng đạo của tiểu nhân sẽ mạnh, đạo của quân tử sẽ suy, tôi vì thánh triều mà trừ giúp bọn tiểu nhân vậy. Mọi người nghe vậy đều phục tài ông".

Lời bàn :

Đĩnh Chi người thấp bé mà tài cao, đi sứ không làm nhục mênh Vua, một lòng canh cánh lo gìn giữ quốc thể, thật đáng kính lắm thay. Những kẻ ngạo mạn cười ồ khi Đĩnh Chi giả vờ bắt chim sẻ sau khi nghe Đĩnh Chi cắt nghĩa việc làm cua mình chẳng hay họ có biết chính họ đã bị Đĩnh Chi mắng xéo là lũ tiểu nhân hay không. Xé bức trướng xong lạị nói vì thánh triều mà trừ giúp bọn tiểu nhân, hẳn Đĩnh Chi muốn ngầm bảo rằng, sao mà thánh triều lắm tiểu nhân đến vậy.


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 24 Tháng Sáu, 2011, 11:19:30 am
Về sứ thần Giang Văn Minh, mời các bác xem chi tiết hơn về ông:

SỨ THẦN GIANG VĂN MINH

Trong triều đại phong kiến nước ta, việc thông thương với các nước lân bang được triều đình phong kiến rất chú trọng. Đặc biệt là người đi sứ, họ phải thể hiện được trí thông minh và tài ứng đối của mình, lịch sử Việt Nam có rất nhiều câu chuyện cảm động về các sứ thần. Trong khuôn khổ bài báo này, chúng tôi sẽ đăng loạt bài tìm hiểu về các sứ thần trong lịch sử Việt Nam. Dĩ nhiên với dung lượng của một bài báo tác giả không có tham vọng trình bày sâu về nhân vật, chúng tôi chỉ mong muốn chuyển tải thông tin để bạn đọc tham khảo. Sau đây là câu chuyện về sứ thần Giang Văn Minh.

Giang Văn Minh (1582 – 1639) ở làng Mông Phụ, Đường Lâm (nay là thị xã Sơn Tây, tỉnh Hà Tây). Ông đỗ Thám Hoa năm Mậu Thìn, đời vua Lê Thần Tông (1628), khoa thi này không có người đỗ Trạng Nguyên nên ông là người đỗ đầu. Năm 1630 ông được bổ nhiệm làm Binh khoa đô cấp tự trung, sau được thăng chức Thái bộc tự khanh (1631).

Năm Dương Hoà thứ 3 đời Lê Thần Tông (1637), ông được cử đi sứ Trung Quốc cùng với Thiêm đô ngự sử Nguyễn Duy Hiểu mang cống phẩm sang tiến cống triều Minh. Lúc này, tình hình chiến sự giữa nhà Lê và nhà Mạc vẫn còn. Triều đình nhà Minh vẫn quan hệ với cả hai bên nên chần chừ không tiếp, ông đã phải nằm chờ ở đất Minh một năm trời, sau mới được tiếp cống.

Như ta đã biết, khi Lê Lợi đánh thắng quân Minh, vua Lê không muốn chiến sự tiếp tục xảy ra nên ông đã chủ động làm tượng Liễu Thăng bằng vàng để tiến cống nhằm ổn định tình hình đất nước.

Đến thời vua Lê Thần Tông, tình hình kinh tế chính trị nước ta không còn cường thịnh như trước nên tiến cống tượng vàng Liễu Thăng là một gánh nặng cho nhân dân ta. Giang Văn Minh quyết tâm làm cho vua Minh phải bỏ tục lệ này.

Hôm đó là ngày khánh giỗ nhà vua, sứ giả các nước đều đã đến đông đủ cả nhưng riêng sứ thần nước Nam thì không thấy. Vua Minh lúc này là Minh Tư Tông (Chu Do Kiểm, tức vua Sùng Trinh) rất tức giận, lập tức sai người sang đòi ông qua để hỏi nguyên do. Khi quân lính đến nơi, họ thấy ông đang ôm mặt khóc và miễn cưỡng đi theo bọn họ đến yết kiến nhà vua. Vua Minh có ý trách ông vô lễ, Giang Văn Minh quỳ xuống mà tâu rằng:

- Thần thấy xót xa trong dạ. Vì vậy mà không thể nào tham dự được cuộc vui. Nói xong, ông lại khóc ầm lên. Vua Minh bỗng bật cười. Ông lại nói tiếp: Chúng tôi tự biết việc dự lễ khánh thọ là hệ trọng, vắng mặt thật là điều trọng tội, kính xin thánh hoàng lượng thứ cho. Nguyên do chỉ vì hôm nay lại đúng vào ngày giỗ tổ của thần. Thần được nhận trọng trách đi sứ xa quê hương lâu ngày, gia đình ở quê thì neo đơn, đến ngày giỗ tổ mà không thắp được cây hương tưởng niệm.

- Tưởng làm sao chứ như thế thì việc gì phải khóc – vua Minh nói. Cũng đáng khen cho nhà ngươi biết giữ hiếu kính với tổ tiên. Nhưng nếu là giỗ cha, giỗ mẹ thì còn có thể được, chứ ông tổ xa xôi như vậy thì có gì đáng phải băn khoăn cho lắm. Người khuất, chuyện xa đã đến mấy đời, thì cũng có thể “miễn nghị”.

Chỉ chờ có thế, ông liền tâu:

- Muôn tâu, lời dạy của thánh hoàng thật là quý báu. Chính thần cũng đã nghĩ như vậy, mà vẫn không an tâm, vì thần vẫn thấy trong đời, lắm chuyện xa xôi mà không được “miễn nghị”. Chẳng hạn như việc thiên triều bắt nước Nam của thần phải cống nạp người vàng để trả nợ Liễu Thăng chết cách đây hàng mấy trăm năm. Mãi đến bây giờ cũng chưa miễn nghị. Nay được lời thánh hoàng ban dạy, thần cũng xin gác lại ngày giỗ tổ để cùng vui với buổi khánh tiết này. Cúi xin thánh hoàng từ đây “miễn nghị” cho cái nợ Liễu Thăng, cho tình giao hảo hai nước khỏi bị những chuyện xa xôi kia làm bận bịu...

Vua Minh lúc này mới biết là mình bị mắc mưu, lời lẽ của sứ thần nhỏ nhẹ nhưng cương quyết, trước mặt bá quan và sứ giả các nước nên vua Minh đành phải gật đầu bãi bỏ lệ triều cống người vàng Liễu Thăng. Tuy vậy, cho đến đời nhà Thanh, vua Quang Trung mới bắt chúng xoá bỏ vĩnh viễn tục lệ này.

Lại nói về vua Minh, sau khi bị Giang Văn Minh làm bẽ mặt trước bá quan, Minh Tư Tông rắp tâm làm nhục vị sứ thần nước Nam. Vào một buổi triều kiến khác, vua Minh lấy lý do “Vì lệ cũ không có những quy định cụ thể cho việc sắc phong, do đó trong khi còn chờ tra cứu chỉ ban sắc thư để tưởng lệ” để ngăn trở việc công nhận sự chính thống của nhà Lê và bãi bỏ công nhận ngoại giao với nhà Mạc. Đồng thời ra vế đối nhằm hạ nhục Giang Văn Minh và nước Nam, vế đối như sau:

“Đồng trụ chí kim đài dĩ lục”"
(Nghĩa là: Cột đồng đến nay rêu đã xanh)

Vế đối này có ý nhắc đến chuyện Mã Viện sau khi đánh thắng cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, Mã Viện đã cho đúc trụ đồng và nói rằng “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” (có nghĩa là cây đồng trụ mà đổ thì người Giao Chỉ cũng bị diệt)

Trước sự ngạo mạn của Sùng Trinh, Giang Văn Minh bình tĩnh trả lời vế đối bằng câu:

"Đằng Giang tự cổ huyết do hồng"
(Nghĩa là: Sông Đằng từ xưa máu còn đỏ)

Vế đối này vừa chỉnh, vừa có ý nhắc lại việc dân tộc ta đã ba lần đánh tan quân xâm lược phương Bắc trên sông Bạch Đằng. Nó được xem là một cú đánh thẳng vào mặt Minh Tư Tông trước mặt bá quan văn võ trong triều cùng tất cả sứ thần của các nước. Sùng Trinh vô cùng tức giận, bất chấp luật lệ bang giao, ông ta đã trút giận lên vị sứ thần bằng cách trả thù hèn hạ: cho lấy đường trám vào miệng và mắt ông, sau đó cho người mổ bụng để xem gan của Giang Văn Minh to đến đâu mà dám đối đáp như vậy. Thi hài của ông được ướp thủy ngân rồi đưa về nước, khi về đến kinh thành ông được vua Thần Tông và chúa Trịnh Tráng bái kiến linh cữu. Sau đó Giang Văn Minh được truy phong chức Công bộ tả thị lang, tước Vinh quận công và được ban tặng câu: “Sứ bất nhục quân mệnh, khả vi thiên cổ anh hùng” (tức là Sứ thần không làm nhục mệnh vua, xứng đáng là anh hùng thiên cổ). Sau khi thi hài được đưa về nước, Giang Văn Minh được chôn cất tại Đồng Dưa, thuộc xứ Gò Đông, thôn Mông Phụ, xã Đường Lâm. Hiện nay, nhà thờ ông được nhà nước ta xếp hạng là Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia.

Đi sứ là một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn và nguy hiểm, người được giao trọng trách phải hết sức thông minh và có đủ bản lĩnh mới không bị người khác lấy làm trò đùa. Giang Văn Minh đã giữ vững khí tiết và không để cho triều đình nhà Minh hạ nhục dân tộc mình dù ông phải trả giá bằng tính mạng của mình. Tinh thần dân tộc và sự hy sinh của ông thật đáng để người đời học tập và trân trọng.

Link: http://tuhaosuviet.forum-viet.net/t23-topic#38


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 25 Tháng Sáu, 2011, 07:47:51 am
Câu chuyện 12:

CHUYỆN TRẦN HƯNG ĐẠO TIẾP SỨ
(Trích: VIỆT SỬ GIAI THOẠI - tập 3 - 71 GIAI THOẠI ĐỜI TRẦN , Nguyễn Khắc Thuần , NXB Giáo dục 2003 , Tái bản lần thứ tám)[/i

Năm 1281, cuộc đấu tranh ngoại giao giữa Đại Việt với nhà Nguyên đang ở trong thời kì rất căng thẳng. Vua Nguyên là Hốt Tất Liệt liên tiếp xuống chiếu bắt vua Trần phải sang chầu. Để kéo dài thời gian hòa hoãn nhằm có đủ cơ hội chuẩn bị thật chu đáo cho cuộc đọ sức bằng lực lượng vũ trang, vua Trần lúc ấy là Trần Nhân Tông (1278 - 1293) đã sai chú họ là Trần Di Ái (còn có tên là Trần Ái) thay mình sang chầu vua Nguyên. Hốt Tất Liệt chớp ngay lấy cơ hội đó, phong Trần Di Ái làm An Nam Quốc Vương, bọn tùy tùng Trần Di Ái cũng đều được nhận quan tước, xong, sai Sài Thung (cũng có người dọc là Sài Xuân) đem một ngàn quân đi hộ tống Trần Di Ái về nước. Tình hình đã căng thẳng lại càng có phần căng thẳng hơn. Phải đối phó với Sài Thung ra sao ? Sách Đại Việt sử kí toàn thư (quyển 5, bản kỉ, tờ 41 a và 41 b) có một đoạn chép như sau :

Thung ngạo mạn vô lễ, cưỡi ngựa đi thẳng vào cửa Dương Minh, quân sĩ Thiên Trường ngăn lại. Thung dùng roi ngựa quất họ bị thương ở đầu. Đến điện Tập Hiền, thấy chăng đầy màn trướng, hắn mới chịu xuống ngựa. Vua sai Quang Khải đến sứ quán khoản tiếp, Thung nằm khểnh không ra. Quang Khải vào hẳn trong phòng, hắn cũng không dậy tiếp. Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn nghe thấy thế, tâu xin đến sứ quán xem Thung làm gì. Lúc ấy Quốc Tuấn đã gọt tóc, mặc áo vải. Đến sứ quán, ông đi thẳng vào phòng. Thung đứng dậy, vái chào và mời ngồi. Mọi người đều kinh ngạc, bởi cứ ngỡ người gọt tóc, mặc áo vải này là nhà sư phương Bắc. Ông ngồi xuống pha trà, cùng uống với hắn. Sau, người hầu của Thung nhận ra ông, cầm cái tên chọc vào đầu Quốc Tuấn đến chảy máu, nhưng sắc mặt Quốc Tuấn vẫn không hề thay đổi. Khi về, Thung ra tận cửa tiễn ông.

Lời bàn:

Sự hèn nhát của Di Ái và sự ngang ngược của Sài Thung, thiết tưởng đã quá rõ. Điều đáng nói là sự nhún nhường của triều Trần. Chiêu Minh Vương Quang Khải đã khéo nhịn mà Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn còn khéo nhịn hơn. Cố nhịn để lo quốc gia đại sự đã là đáng kính, nhịn đến hết mức mà vẫn giữ được quốc thể thì lại còn đáng kính hơn. Hậu thế nói nhiều đến một Hưng Đạo Vương uy nghi trên bành voi trận, đã mấy ai nói đến một Hưng Đạo Vương ung dung mà đầy mưu lược trong tấm áo cà sa !



Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 28 Tháng Sáu, 2011, 08:23:48 am
Câu chuyện 13:

TRÍ VÀ DŨNG CỦA KHẮC CHUNG
(Trích: VIỆT SỬ GIAI THOẠI - tập 3 - 71 GIAI THOẠI ĐỜI TRẦN , Nguyễn Khắc Thuần , NXB Giáo dục 2003 , Tái bản lần thứ tám)

Khắc Chung vốn người họ Đỗ, nhờ có công giúp rập nhà Trần nên được mang quốc tính, đổi gọi là Trần Khắc Chung. Nhà Trần rất ít khi ban quốc tính cho ai, nhất là ở buổi đầu của thời kì dựng nghiệp, vậy ắt hẳn là Khắc Chung trí dũng hơn người ? Xin trích dịch một đoạn sau đây trong Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 5, tờ 45 b và 46 a) và nhường lời phẩm bình về Khắc Chung cho người đọc :

“Giặc đánh vào Gia Lâm, Vũ Ninh, Đông Ngàn (vùng ngoại ô Hà Nội và Bắc Ninh ngày nay - ND), bắt được quân ta, thấy người nào cũng thích hai chữ Sát Thát bằng mực vào cánh tay, chúng tức lắm, giết hại rất nhiều. Sau, chúng tiến đến Đông Bộ Đầu (nay là khu vực dốc Hàng Than, đầu cầu Long Biên, Hà Nội - ND), dựng một lá cờ lớn. Vua muốn sai người đi do thám mà chưa tìm được ai. Chi hậu cục thủ Đỗ Khắc Chung tiến lên tâu rằng : "Thần hèn mọn bất tài, nhưng xin được đi". Vua mừng mà nói : "Ngờ đâu trong đám ngựa kéo xe muối lại có ngựa kì, ngựa kí như thế ". Nói xong liền sai Khắc Chung đem thư xin giảng hòa. Ô Mã Nhi hỏi Khắc Chung rằng : "Quốc vương ngươi vô lễ, sai người thích chữ Sát Thát, khinh nhờn thiên binh, lỗi ấy lớn lắm". Khắc Chung đáp "Chó nhà cắn người lạ không phải tại chủ nó. Vì lòng trung phẫn mà họ tự thích chữ thôi. Quốc vương tôi không biết việc đó. Tôi là cận thần, tại sao lại không khắc". Nói rồi, giơ cánh tay cho xem. Ô Mã Nhi nói : "Đại quân từ xa tới, nước người sao không quay giáo lại hội kiến, còn dám chống lệnh ? Càng bọ ngựa cản bánh xe thì sẽ ra sao ?". Khắc Chung nói: "Hiền tướng sao không theo cách Hàn Tín bình nước Yên, cứ đóng quân ở biên giới, đưa thư báo trước, nếu không thông hiếu thì mới là có lỗi. Giờ bức hại nhau. Người ta nói, thú cùng thì cắn lại, chim cùng thì mổ lại, huống chi là người ?".

Khắc Chung về rồi, Ô Mã Nhi nói với các tướng rằng : "Người này ở vào lúc bị uy hiếp mà lời lẽ vẫn tự nhiên, không hạ chủ nó là chích (tức bọn trộm cướp - ND), không nịnh mà tâng bốc ta là Nghiêu (tức Đường Nghiêu - ND), hắn chỉ nói chó nhà cắn người, thật giỏi ứng đối, quả là không làm nhục mệnh vua. Nước nó còn có người giỏi, chưa dễ gì mưu tính được". (Nói rồi), sai quân đuổi theo để bắt Khắc Chung, nhưng không kịp nữa.



Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 03 Tháng Bảy, 2011, 07:34:24 am
Câu chuyện 14:

Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan - Bỏ lệ cống người vàng cúi mặt

Theo Lịch triều hiến chương loại chí thì trong chuyến đi sứ này ông còn đấu tranh bỏ được lệ cống người vàng cúi mặt của nhà Mạc trước đây. Lịch triều hiến chương loại chí ghi: “Khi đã đến Yên Ninh, Lễ bộ đường trách về việc người vàng ta đem cống không theo mẫu cũ làm cúi đầu, nên ngăn cản không cho sứ vào chầu. Ông cãi lại: “Nhà Mạc cướp ngôi, danh nghĩa là nghịch, nhà Lê khôi phục lại, danh nghĩa là thuận. Nhà Mạc dâng người vàng cúi đầu thay mình đã làm may mắn. Còn như nhà Lê bao đời làm công thần thì kiểu người vàng ngửa mặt, bao đời còn có. Nay lại bắt theo như lệ nhà Mạc thì lấy gì để khuyến khích chiêu an và trừng phạt?”. Việc đến tai vua Minh, cuối cùng lại theo thể thức cũ của nhà Lê.

Khi ông về nước, chúa Trịnh Tùng kính trọng tài năng và khí phách của ông, gọi là Phùng tiên sinh. Dân gian gọi ông là Trạng nguyên, là Trạng Bùng. Một phái đoàn do Đỗ Uông dẫn đầu đã lên tận Nam Quan để đón ông về nước. Vua Lê qua sông Cái đón ông về kinh đô.

Nhận xét chuyến đi sứ năm 1597 của ông, Lê Quý Đôn viết trong Kiến văn tiểu lục: “Phùng Khắc Khoan phụng mệnh đi sứ, tuổi đã ngoài 70, không những biện bạch quang minh chính đại, đạo đạt được mệnh lệnh của vua, làm mạnh mẽ được thể thống trong nước. Đến như 70 vần thơ dâng mừng khánh tiết và hơn 10 vần thơ đáp lại chánh phó sứ Triều Tiên tài tử chứa chan, cách điệu tươi đẹp y như lúc còn trẻ tuổi, như thế chả phải được tinh khí sông núi giúp đỡ đấy ư?”.

Link http://hanoi.ws/van-hoa/danh-nhan/phung-khac-khoan.html?start=2


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 03 Tháng Bảy, 2011, 07:43:33 am
Câu chuyện 15:

Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan - Sách lược ngoại giao “văn chương”

Sau khi nhà Lê Trung Hưng lên, việc bang giao giữa nhà Lê và nhà Minh trở nên căng thẳng và phức tạp. Khi lên ngôi vua, các vua Mạc đã tỏ ra yếu hèn, quỵ lụy, tiến cống, hối lộ quá nhiều để mong được vua quan nhà Minh che chở. Nhà Minh đòi vua Lê phải lên tận Nam Quan để chúng khám duyệt các giấy tờ, xác minh xem Lê Thế Tông có đúng là con cháu nhà Lê hay Trịnh giả danh.

Năm 1596, Phùng Khắc Khoan cùng hai anh của vua Lê là Lê Nganh và Lê Hựu mang các giấy tờ có in mẫu ấn An Nam Đô thống sử ti và mẫu ấn An Nam quốc vương cùng một trăm cân vàng và một nghìn lạng bạc lên Nam Quan để quan nhà Minh công nhận. Sau đó 10 ngày thì vua Lê Thế Tông cũng lên Nam Quan để hội khán, nhưng đã bị quan nhà Minh tìm cách không gặp.

Cuối năm 1596, vua sai Đỗ Uông và Trịnh Vĩnh Lộc đem hai tượng người bằng vàng bạc, lọ hoa, bình hương bằng vàng bạc, lụa lên Nam Quan định hội khán cũng không thành. Tháng hai năm Đinh Mậu (1597), Đỗ Uông và Nguyễn Văn Giai lại lên Nam Quan thăm dò tình hình quân Minh, việc không thành. Tháng ba, Lê Thế Tông phải kéo đại quân sang Bằng Tường hội khán với các quan nhà Minh. Quan hệ ngoại giao giữa Lê và Minh là không bình đẳng. Nhà Minh hống hách, quan nhà Minh thường ăn đút lót của nhà Mạc, gây khó khăn cho việc bình thường hóa quan hệ giữa hai triều đại. Trong hoàn cảnh quan hệ khó khăn như vậy, vua Lê đã cử Phùng Khắc Khoan đi sứ. Đi sứ nhà Minh lúc đó thực sự là một đại họa không lường hết được. Vào thời nhà Mạc, Lê Như Hổ đi sứ bị sơn cả hai mắt, Lê Quang Bí bị chúng lấy mất đồ cống, bị vu cho là giả và bị giam cầm đến 18 năm sau mới được tha về. Phùng Khắc Khoan được cử đi sứ lần này lúc tuổi đã 70. Trong lịch sử ngoại giao Việt Nam thời xưa chưa có một sứ thần nào tuổi già như thế. Ông được cử đi sứ hai lần vào năm 1597 và 1606.

Phùng Khắc Khoan đã nói lên trọng trách của mình trong việc đi sứ và quyết tâm thực hiện trọng trách đó trong bài Đinh Dậu phụng sứ thuật hoài (năm Đinh Dậu, nỗi lòng khi đi sứ):

Bẩy mươi là kế tuổi già nua,
Dáng chẳng bằng ai dám kém thua.
Xe ngựa xôn xao đoàn sứ bộ,
Công khanh trang trọng lớp chào đưa,
Uy vua thế nước nhờ giao thiệp,
Nói khéo, lời hay học chẳng vừa,
Công trạng kết minh đành gắng gỏi,
Bạn bè được mất một mình lo.
(Trần Lê Sáng dịch)

Như vậy là sách lược ngoại giao của Phùng Khắc Khoan đã thể hiện rõ trong cảm tác khi đi sứ, đó là: nói khéo, lời hay (văn hay).

Sứ bộ Phùng Khắc Khoan đến biên giới, quan nhà Minh không cho sứ bộ nhập cảnh với lý do chúng chỉ biết nước Nam có nhà Mạc cai trị, chưa công nhận nhà Lê. Phùng Khắc Khoan đã đấu lý và chắc là có đút lót vàng bạc cho chúng nên cửa ải được mở. Đoàn đi sứ tháng 7 năm Đinh Dậu đến tháng 8 năm sau mới đến Yên Kinh. Lúc đi đường thủy, lúc đi đường bộ qua Nam Ninh, Quảng Châu, Hồng Châu, Nam Kinh, Tế Nam, Thiên Tân, rồi đến Yên Kinh. Hành trình dài như vậy đã làm tiêu hao sức lực con người đã 70 tuổi như Phùng Khắc Khoan.

Sau đây là cảnh sứ bộ Đại Việt do Phùng Khắc Khoan là chánh sứ khi ở Yên Kinh dưới ngòi bút miêu tả của sứ thần Triều Tiên là Lý Chi Phong:

“Sứ thần họ Phùng tên là Khắc Khoan, tự hiệu là Nghị Trai, tuổi ngoại 70, hình dáng lạ lùng, răng nhuộm đen, tóc vận thành búi, áo dài, ống tay rộng. Khăn đội trên đầu thì lấy cả khổ vải đen trùm lên đầu như dáng khăn ông sư, để một nửa rủ về đằng sau xuống quá vai. Ông họ Phùng, người tuy đã già, sức còn khỏe, thường đọc sách, viết sách luôn luôn...” (Trích Hậu chí của Lý Chi Phong, do Trần Văn Giáp dịch).

Sứ bộ Phùng Khắc Khoan đến Yên Kinh, tạm trú ở quán Ngọc Hà trong 5 tháng liền mà không được bàn đến việc chính là sang xin cầu phong cho vua Lê Thế Tông. Chánh sứ Phùng Khắc Khoan phải chịu sự khinh thị của nhà Minh. Sách lược ngoại giao của ông đã được thực hiện: nói khéo và lời hay. Hoàn cảnh của Phùng Khắc Khoan lúc đó có những khó khăn: tuy là sứ giả của nhà Lê, nhưng nhà Minh chưa công nhận vua Lê, chưa đặt quan hệ ngoại giao. Chức sứ giả của Phùng Khắc Khoan chưa phải là “chính danh”, nhà Minh không phải tiếp đón ông như các sứ giả bình thường khác. Có thể các đại thần trong triều chưa biết đến sứ giả nhà Lê sang cầu phong và vua Minh cũng chưa biết là do bọn quan lại trực tiếp làm việc. Cho nên Phùng Khắc Khoan có dâng biểu cũng không thể đến tay các đại thần hoặc vua Minh được.

Bằng sở trường của mình, ông đã có quan hệ văn chương với quan lại nhà Minh. Ông đã nắm được tinh thần cốt yếu của thơ nhà Minh đương thời, đàm đạo văn chương, thù ứng các câu đối, trở thành người bạn văn chương của họ. Thượng thư bộ Lại Trương Vị, một Đại học sĩ dạy thái tử rất kính trọng ông. Ông còn tranh thủ kết bạn văn chương với sứ thần Triều Tiên là Lý Toái Quang, đưa xem thơ, nhờ viết đề tựa. Quan hệ ngoại giao với các quan nhà Minh bắt đầu bằng việc văn chương. Được biết vua Minh Thần Tông sắp tổ chức mừng thọ 80 tuổi nên ông đã chuẩn bị ráo riết, làm xong 31 bài thơ trong tập Vạn thọ thánh tiết để dâng lên vua Minh. Chỉ trong mấy tháng, ông đã hoàn thành một công trình văn học nghiêm túc để phục vụ mục đích ngoại giao. Để Vạn thọ thánh tiết không có một sai sót nhỏ, ông phải tìm hiểu dòng dõi các vua Minh cùng gia tộc, kiêng các điều cấm kỵ và nắm được tình hình phát triển thơ ca đời Minh lúc đó như những vấn đề triết học, nội dung nghệ thuật thơ ca. Ông phải có tứ thơ và nghệ thuật điêu luyện trong những bài thơ dâng vua và có thể còn có nhiều yêu cầu nữa để tranh thủ được cảm tình của vua Minh đối với vua Lê nhằm thực hiện các quan hệ ngoại giao với một nước tự xưng là thiên triều...

Để có tập thơ được hoàn thiện tối đa, ông đã đưa cho sứ thần Triều Tiên xem, nhờ “phủ chính” và có viết lời tựa. Ông cũng đưa cho Thượng thư bộ Lại Trương Vị xem mà xin lời đề tựa. Sau khi hai đại thần đã “phủ chính”, đến khi tập thơ dâng lên vua Minh, nhỡ có điều gì chưa được vừa ý hoặc có vị quan nào đã khích bác ý thơ nào đó thì đã có người đỡ hộ. Trương Vị đã dâng lên vua Minh tập thơ của Phùng Khắc Khoan, vua Minh xem rất lấy làm bằng lòng, vui thích và đã phê: Hiền tài hà địa vô chi. Trẫm lãm thi tập, cụ khiến Phùng Khắc Khoan chi trung khổn, thủ khả thâm gia quốc mĩ, tức mệnh hạ khắc bản ban thần thiên hạ (nghĩa là: Hiền tài đất nào chẳng có. Trẫm xem thi tập, thấy rõ Phùng Khắc Khoan là người trung hậu, thật đáng ngợi khen, mệnh lệnh khắc bản in ngay để ban hành trong thiên hạ).

Trong triều đình nhà Minh lúc đó, có phe ủng hộ sứ giả Phùng Khắc Khoan công nhận vua Lê, có phe ăn tiền của nhà Mạc tìm cách trì hoãn. Được Minh Thần Tông vì nể, ông đã mềm mỏng, ôn hòa và cương quyết buộc quan nhà Minh phải tổ chức để ông được dâng biểu cầu phong của vua Lê lên vua Minh. Yêu cầu cao nhất của chuyến đi sứ của Phùng Khắc Khoan là xin phong vương tuy chưa đạt được (vua Minh chỉ phong cho vua Lê chức Đồng thống), song cũng là một thắng lợi, vua quan nhà Minh phải coi nhà Lê là chính thống, không còn danh nghĩa gì để giúp quân Mạc.

Link: http://hanoi.ws/van-hoa/danh-nhan/phung-khac-khoan.html?start=2


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 03 Tháng Bảy, 2011, 08:06:02 am
( Trích )
NGOẠI GIAO TÂY SƠN − NHỮNG TƯ TƯỞNG ĐẶC SẮC VÀ BÀI HỌC LỊCH SỬ
Trần Ngọc Ánh
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng
Đăng trên: TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 1(30).2009
......
Thành quả và những tư tưởng ngoại giao đặc sắc của vương triều Tây Sơn

Sau khi Quang Trung đại phá quân Thanh, vua nhà Thanh Càn Long đã ra lệnh động binh chín tỉnh, trù tính xâm lược báo thù, nhưng không thể không e ngại sức mạnh của nhà Tây Sơn. Để dập tắt ngọn lửa binh đao, nhà Tây Sơn, trước tiên cần nêu cao sức mạnh chính nghĩa, khẳng định việc Quang Trung đại phá quân Thanh là không có gì đắc tội với “thiên triều”. Bởi Tây Sơn “không lấn sang biên giới để phải tội với thượng quốc”, cho nên, nếu nhà Thanh động binh xâm lược lần nữa, thì quân dân ta kiên quyết chống lại: “Nếu như sự tình trước đây chưa được giãi tỏ mà thiên triều không chút khoan dung cố gây việc chiến tranh, thì đó là làm nước nhỏ này không được hết lòng cung kính thờ nước lớn, tôi cũng đành phải nghe theo mệnh trời mà thôi”(2).

Đặt danh dự quốc gia lên hàng đầu, sau chiến thắng oanh liệt quét sạch 29 vạn quân Thanh, mục tiêu ngoại giao của Tây Sơn là kiên quyết đấu tranh với nhà Thanh để để không chỉ công nhận Tây Sơn về mặt ngoại giao mà còn đòi huỷ bỏ lệ “cống người vàng” do “thiên triều” áp đặt (bắt đầu từ thế kỷ XV) mỗi khi thay đổi triều đại. Trong thư gửi Phúc An Khang, Ngô Thì Nhậm (viết thay Quang Trung) đã nêu rõ: “Nay vâng đại nhân, đem cái lệ đổi cống người vàng, thế thì quốc trưởng nước tôi được nước, bằng một cách rất minh bạch lại phải sánh hàng với bọn ngụy Mạc, mà tấm lòng kính thuận, sợ trời thờ nước lớn không được ích gì?... Cúi mong đại nhân, noi theo mệnh lớn, miễn cho nước tôi về việc đúc dâng người vàng, còn như lễ tuế cống phương vật, dám xin theo y như lệ”(3). Và rồi, trước thực lực cũng như sức mạnh ngoại giao chính nghĩa của Tây Sơn, Càn Long, vị vua kiêu dũng của nhà Thanh, không những phải quyết định đình chỉ việc động binh trả thù, tiếp nhận sứ thần của Việt Nam mà còn buộc phải ra lệnh bãi bỏ lệ cống người vàng, với lời phê rằng, “việc triều trước bắt cống người vàng là đáng khinh bỉ”.

Với “Bang giao hảo thoại”, qua ngọn bút sắc bén, vừa đanh thép, kiên quyết nêu cao chính nghĩa, vừa khéo léo, mềm mỏng, hợp tình hợp lý, Ngô Thì Nhậm đã thể hiện xuất sắc thiên tài chính trị của Quang Trung là “khéo lời lẽ mới dẹp nổi việc binh đao, khi mà nhà Thanh “bị ta đánh thua, nhịn thì thẹn, báo thù thì khó”(4). Vị quân sư số một của Quang Trung, đáng được xếp vào hàng nhân vật đứng ngay sau Nguyễn Trãi trong lịch sử ngoại giao của nước Việt, đáng được liệt vào những người “viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết một thời”. Qua Bang giao hảo thoại của Ngô Thì Nhậm, tư tưởng ngoại giao lỗi lạc của thời Tây Sơn đã được hiển hiện rực rỡ. Có thể khái quát tư tưởng ngoại giao của vương triều Tây Sơn qua “Bang giao hảo thoại” của Ngô Thì Nhậm như sau:

Thứ nhất là tư tưởng chủ động tiến công ngoại giao. Sau chiến thắng đại phá quân Thanh, ở đất Trung Quốc, thấy Tôn Sĩ Nghị thua trận tất cả chạy về, nhân tình, dân chúng đều nhốn nháo sợ hãi. “Từ ải Nam Quan trở về bắc, trai gái già trẻ bồng bế dắt díu nhau chạy trốn, suốt vài trăm dặm, lặng ngắt không còn bóng người”(5). Thấy rõ chỗ yếu của nhà Thanh, nhà Tây Sơn đã chủ động mở mặt trận tấn công ngoại giao nhằm chặn đứng âm mưu gây chiến “báo thù” của nhà Thanh. Phát huy thắng lợi về mặt quân sự, nhà Tây Sơn chủ trương: liên tục tiến công kẻ địch về mặt chính trị bằng vũ khí ngoại giao. Thay vua Quang Trung, Ngô Thì Nhậm đã viết những văn thư bang giao với nhà Thanh với lời lẽ khi thì cứng rắn (trong thái độ kiên quyết bảo vệ độc lập của dân tộc), khi thì mềm dẻo (để giữ thể diện cho nhà Thanh) nhằm mục đích giảng hoà, ngăn chặn ngọn lửa binh đao. Trong “Bang giao hảo thoại”, Ngô Thì Nhậm khẳng định: Nam quốc “không lấn sang biên giới để phải tội với thượng quốc. Sĩ Nghị vì cớ tài sức, muốn phù trì người hèn yếu… Bởi thế gây nên việc binh đao rồi bị thảm hại” và cảnh báo: “Ôi! Đường đường Thiên triều so sự thua được với tiểu di, tất muốn cùng độc binh vũ” để thoả lòng tham. Đó là điều trái với đức hiếu sinh của thượng đế, chắc thánh tâm cũng không nỡ thế. Nhưng “vạn nhất việc binh cứ kéo dài mãi không thôi, thì đến chỗ ấy … không được lấy nước nhỏ mà thờ nước lớn nữa”(6).

Thứ hai là tư tưởng ngoại giao dựa trên cơ sở chính nghĩa và sức mạnh quân sự. Sau chiến thắng quân Thanh, trong bang giao với nhà Thanh, Ngô Thì Nhậm luôn luôn chủ trương tiến công ngoại giao trên cơ sở khẳng định sự nghiệp chính nghĩa của triều Tây Sơn và nền tảng thực lực quân sự hùng mạnh của đất nước: “Nay quân đội cốt ở chỗ đoàn kết một lòng, không cốt ở chỗ đông, binh lính quý ở chỗ tinh nhuệ không quý ở chỗ nhiều. Kẻ khéo thắng ở chỗ vô cùng mềm dẻo, chứ không phải ỷ mạnh lấn yếu, lấy đông hiếp ít đâu”. Mục đích ngoại giao chính nghĩa dựa trên thực lực đất nước của vương triều Tây Sơn là nhằm buộc nhà Thanh phải đáp ứng yêu cầu và mục đích của ta là bãi bỏ chiến tranh và phong vương (công nhận về ngoại giao) cho Quang Trung - Nguyễn Huệ. Nhân danh Quang Trung, Ngô Thì Nhậm chỉ rõ hành động bán nước của vua tôi Lê Chiêu Thống và yêu cầu nhà Thanh trao trả bè lũ bán nước để xét xử: “Còn như mẹ con Duy Kỳ gây nên hiềm hấn, rồi bỏ nước ngầm trốn, hoặc giả lại đến đất biên giới của thượng quốc. Tôi mong Tôn đài điều tra rõ tâu lên rồi đưa cho bản quốc lĩnh về xét xử cho hả lòng dân. Như thế mới là trừ ác trừ tận gốc…”(7). Sau khi Nguyễn Huệ được phong vương, Ngô Thì Nhậm còn chủ trương đưa vua “Quang Trung giả” sang Yên Kinh triều cận vua Càn Long nhà Thanh, một chuyến đi mà “dọc đường người Thanh phải phục dịch chuyển vận rất khó nhọc. Trong ngoài ai cũng biết là giả dối, mà không ai dám nói”(8 ). Đó là một chuyến bang giao chưa từng có trong lịch sử nước nhà mà theo lời Phan Huy Ích, một thành viên trong phái đoàn kể lại, thì “từ trước đến giờ, người mình đi sứ Trung Quốc chưa có lần nào lạ lùng và vẻ vang như thế”.

Thứ ba là tư tưởng chiến lược ngoại giao mang tính chủ động. Qua Bang giao hảo thoại, có thể thấy, trên cơ sở phân tích tình hình thực tế, Ngô Thì Nhậm đã thay mặt vua Quang Trung, tiến hành một đường lối ngoại giao mang tính hoàn toàn chủ động. Bởi thế, trong bang giao Việt - Thanh sau chiến thắng của nhà Tây Sơn, người nắm thế chủ động là nhà Tây Sơn chứ không phải nhà Thanh, cho dù thực tâm nhà Thanh cũng muốn giảng hoà sau thảm bại kinh hoàng, nhục nhã của Tôn Sĩ Nghị. Bấy giờ, người nắm giữ binh quyền của Quảng Tây (Trung Quốc) là Thang Hùng Nghiệp đã nhiều lần bắn tin cho nhà Tây Sơn là triều đình nhà Thanh muốn giảng hòa, nhưng sáng kiến giảng hòa phải do phía Tây Sơn đề xuất trước, có như vậy thì nhà Thanh mới khỏi mất thể diện. Nắm bắt tình thế tiến thoái lưỡng nan của dainhà Thanh (gây chiến báo thù thì sợ thua, chấp nhận giảng hoà thì sợ nhục) với tư tưởng “chiến hoà quyền ở tay mình, mà hoà mục thực ai cũng muốn”(9), Ngô Thì Nhậm đã chủ động tiến công ngoại giao trên tư thế của người chiến thắng, vừa có thế mạnh lại vừa có lực mạnh. Với những lập luận sắc bén và đanh thép, với những lời lẽ khéo léo, hợp tình, hợp lý, Ngô Thì Nhậm đã góp phần đáng kể vào thắng lợi ngoại giao của triều đại Tây Sơn và đứng vào hàng ngũ những nhà ngoại giao lỗi lạc trong lịch sử dân tộc.

Những thắng lợi về ngoại giao của triều đại Tây Sơn mà ngày nay đọc lại chúng ta không thể không cảm thấy tự hào và thích thú, đã làm tươi sáng và vẻ vang thêm lịch sử dân tộc ta. Những thắng lợi đó sở dĩ có được trước hết là nhờ thắng lợi vĩ đại của chiến công “đại phá quân Thanh” vào tháng giêng năm Kỷ Dậu 1789. Những thắng lợi đó còn bắt nguồn từ đường lối ngoại giao đúng đắn, hợp tình, hợp lý của vương triều Tây Sơn với những tư tưởng ngoại giao đặc sắc và đã để lại cho hậu thế những bài học lịch sử quý giá. Những trang sử ngoại giao hào hùng của thời Tây Sơn không chỉ làm chúng ta hôm nay tự hào, ngưỡng mộ mà còn làm chúng ta càng yêu thêm đất nước, thêm tin tưởng ở tương lai và tiền đồ tốt đẹp của dân tộc.

Kết luận

Trên mặt trận ngoại giao thời Tây Sơn, Ngô Thì Nhậm là người “lĩnh ấn tiên phong”, người khởi xướng và đồng thời là người thực hiện những tư tưởng ngoại giao lỗi lạc. Kế thừa xuất sắc tư tưởng “công tâm” của Nguyễn Trãi, Ngô Thì Nhậm đã góp công lớn làm nên những trang sử bang giao vẻ vang bậc nhất của lịch sử dân tộc thời kỳ phong kiến, đồng thời để lại cho hậu thế nhiều tư tưởng ngoại giao độc đáo. Ngày nay, lần giở lại những trang sử vẻ vang của ngoại giao thời Tây Sơn, chúng ta không chỉ cảm thấy tràn đầy lòng tự hào dân tộc mà còn tìm thấy những bài học lịch sử quý báu, có thể vận dụng trong quan hệ quốc tế thời đại toàn cầu hóa hiện nay. Đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hoa quan hệ quốc tế của Đảng và nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới hiện nay là hoàn toàn đúng đắn. Với chủ trương chủ động và tích cực hội nhập quốc tế hiện nay, việc kế thừa và vận dụng sáng tạo những tư tưởng ngoại giao đặc sắc và bài học lịch sử quý báu của vương triều Tây Sơn thời đại Quang Trung vẫn rất cần thiết và bổ ích.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Ngô Gia văn phái (2001), Hoàng Lê nhất thống chí , Dịch: Nguyễn Đức Vân - Kiều Thu Hoạch, Nxb Văn học, Hà Nội, tr.375.
[2] Ngô Thì Nhậm (2001), Tác Phẩm I, Chủ biên: Mai Quốc Liên, Trung tâm nghiên cứu quốc học, Nxb Văn học, tr.312.
[3] Ngô Thì Nhậm (2001), Tác Phẩm I, Chủ biên: Mai Quốc Liên, Trung tâm nghiên cứu quốc học, Nxb Văn học,tr.349.
[4] Ngô Gia văn phái (2001), Hoàng Lê nhất thống chí, Dịch: Nguyễn Đức Vân - Kiều Thu Hoạch, Nxb Văn học, Hà Nội, tr.385.
[5] Ngô Gia văn phái (2001), Hoàng Lê nhất thống chí, Dịch: Nguyễn Đức Vân - Kiều Thu Hoạch, Nxb Văn học, Hà Nội, tr.384.
[6] Ngô Thì Nhậm (2001), Tác Phẩm I, Chủ biên: Mai Quốc Liên, Trung tâm nghiên cứu quốc học, Nxb Văn học, tr.310.
[7] Văn Tân (chủ biên - 1974), Ngô Thì Nhậm - Con người và sự nghiệp, Ty Văn hoá - Thông tin Hà Tây xuất bản, tr.71.TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 1(30).2009 103
[8] Ngô Gia văn phái (2001), Hoàng Lê nhất thống chí, Dịch: Nguyễn Đức Vân - Kiều Thu Hoạch, Nxb Văn học, Hà Nội, tr. 389
[9] Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm (1978), Quyển II, Chủ biên: Cao Xuân Huy - Thạch Can, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 131


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 07 Tháng Bảy, 2011, 08:30:04 am
Hoàng Xuân Hãn
(bài đã đăng Đoàn Kết số Giai Phẩm Xuân 80)

Ông kể chuyện rằng : « Khi ta mới tám chín tuổi, học sách Luận Ngữ (Khổng Tử) với cha, đến câu « Làm việc biết điều đáng thẹn, đi sứ bốn phương mà không làm nhục mệnh Vua, như thế có thể gọi là kẻ Sĩ » cha tôi hỏi : « Mầy có thể làm như vậy không ? » Tôi đáp : « Chỉ biết thẹn là khó mà thôi. Còn đi sứ làm vẻ vang Nước nhà, làm trọng mệnh Vua, thì có khó gì ? »

Lê Quí Đôn đi sứ nước Thanh

(http://i44.servimg.com/u/f44/12/24/00/54/image024.jpg)

Nếu ai xét lịch sử Nam tiến của dân tộc Trung Quốc, thì không thể không ngạc nhiên trước sự ngày nay còn có nước Việt Nam tự chủ trong khi các bộ lạc "Man-di" đã bị thôn tính từ triền sông Dương Tử đến sơn tuyến từ Ấn Độ sang Đông Hải nước ta. Các nước ở phương Nam đã không bị biến thành quận, huyện của Trung Quốc, chính nhờ sơn tuyến ấy, chỉ trừ đất Lạc Việt thì có năm đường thủy lục từ biên giới Bắc, châu vào trung nguyên triền sông Nhị, lớn chỉ bằng một phủ của Trung Quốc mà thôi. Sự tồn tại ấy đã nhờ vào các đức tính thông minh, bền bỉ, tự hào của con cháu Lạc dân; biết học tập văn hóa người mà không để thâu hóa; biết lợi dụng hình thế, thời tiết, khí hậu nước mình; biết thừa cơ thế yếu tạm thời của Trung Quốc mà giải phóng nước mình; biết khống chế Nam thùy không để Trung Quốc lừa gạt liên minh để phân tán thế lực ta; biết thâu hóa những dân tộc hoặc cá nhân dị chủng, kể cả những người đến đô hộ mình; và biết nhún nhường, hòa hảo đối với Trung Quốc khi họ không tỏ ý xâm lăng.

Với ý thức ấy, các triều đại nước ta đã nhận quan điểm Thiên Triều và Phiên Quốc, cũng như Triều Tiên, Lưu Cẫu, Miến Điện, vân vân ; nghĩa là coi đất mình là Hoàng Đế Thiên Triều phong cho, để làm phên giậu ngăn cản ngoại xâm cho Trung thổ. Vậy muốn làm vua "chính thức" ở Phiên Quốc, phải được Thiên Triều thừa nhận bằng cách ban sắc phong và ấn; khi mất thì kẻ quyền nối phải cáo ai và phải cầu phong. Đáng lí mỗi năm phải tới Thiên Triều ra mắt một lần, nhưng cũng có thể sai phái bộ thay mình mang phẩm vật tới cống, ấy là lễ tuế cống. Nước ta ở xa, cho nên lễ ấy được giảm dần: lễ vật ít, thời kì ba năm một lễ và đưa tới sáu năm một lần. Với những điển lễ không phiền hà và tốn kém bao nhiêu, mà Bắc thùy được yên, và khi có nội loạn hoặc ngoại xâm, vua mình có chỗ cầu cứu. Vì vậy, ngày xưa khi chưa có luật lệ ngoại giao quốc tế, những hình thức phụ thuộc này được coi là dĩ nhiên.

Những người cầm đầu sứ bộ đều chọn trong đám Triều quan trong ngoài năm mươi tuổi, đời Lê ít ra cũng đậu tiến sĩ giỏi văn từ, mẫn tiệp, hoạt bát. Người được chọn coi sự ấy là một danh dự rất cao. Ngoài những lợi lộc như thăng thưởng phẩm hàm, cung cấp bổng lộc, còn là dịp độc nhất được du lịch nước ngoài, nhất là nước mà họ đã chịu văn hoá hoàn toàn, viếng những xứ, thăm những chùa đền thờ những vị tên tuổi rất quen qua sử sách; lại có dịp ngâm vịnh những cảnh cũng rất quen qua các thi hào, được tiếp xúc với các văn nhân Trung Quốc hoặc Triều Tiên. Lúc về, cũng có thể đem về một số sách và đồ dùng hiếm lạ. Sự sáu năm chỉ mới có ba người được hân hạnh ấy, làm cho cái danh "phụng sứ" được đề cao hơn hết các phẩm tước của vua ban. Khi về, phần lớn góp những sự kiến văn có ghi chép, những thi văn thù ứng và đề vịnh, thành sách để lại cho con cháu và bạn hữu.
....
(còn tiếp)


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 07 Tháng Bảy, 2011, 11:13:09 am
(tiếp)
Lê Quí Đôn đi sứ nhà Thanh
...
Gần cuối triều Lê, đời Cảnh Hưng, hai lễ tuế cống năm 1756 và 1759 cử hành từ kinh đô Thăng Long vào đầu năm 1760. Vả chăng ở nước ta, trước đó 20 năm, đã có chuyện đổi vua mà giấu Thiên Triều. Nguyên là, năm 1735, khi vua Long Đức (Thuần Tông) mất, chúa Trịnh Giang lập em vua lên ngôi với niên hiệu Vĩnh Hựu. Vua Thanh cũng chịu sắc phong. Nhưng đến năm 1740, có phe đảng lập kế truất Trịnh Giang để lập Trịnh Doanh và nhân đó bỏ vua Vĩnh Hựu mà lập con vua trước, với niên hiệu Cảnh Hưng. Việc này tất nhiên không để vua Thanh biết. Vậy thì vua Cảnh Hưng ở ngôi trong 20 năm mà không có sắc phong của vua Thanh. Đối với Thanh, ta vẫn phải lấy tên vua Vĩnh Hựu để giao thiệp, và đối nội thì vua này được tôn làm Thái Thượng Hoàng. Trong khi đang sửa soạn việc tuế cống này, Thái Thượng Hoàng mất (8-6 Kỉ Mão 1759). Triều đình ta nhân dịp, xin phó thêm sứ vụ: việc cáo ai và cầu phong.

Sứ bộ gồm : chánh sứ Trần Huy Mật 45 tuổi, người huyện Đông Sơn xứ Thanh Hóa, đậu tiến sĩ năm 1736; giáp phó sứ (phó sứ số 1) Lê Quí Đôn 33 tuổi, người huyện Diên Hà xứ Hải Dương, đậu bảng nhãn khoa 1752; và ất phó sứ (phó sứ số 2) là Trịnh Xuân Chú 55 tuổi, người huyện Đông Ngạn xứ Kinh Bắc, đậu tiến sĩ khoa 1748. Công chức phụ tá gọi là hành nhân, có 9 người, 3 thông sự (phiên dịch), 2 trung thư (thư kí), 2 y viện (y sĩ) và 2 người thường vụ. Các sứ lại được chọn một số tùy nhân để giúp việc riêng, số là 11 người; và có thể đem theo một người bà con thân cận gọi là môn tử. Lần này với 2 môn tử, sứ bộ gồm tất cả 25 người.

Ngày 28 tháng giêng năm Canh Thìn 1760, sứ bộ qua sông Nhị, đi đường bộ tiến lên Lạng Sơn, rồi tới Ninh Minh là bến đò đầu tỉnh Quảng Tây. Từ đó xuống thuyền, định theo đường sông đến Bắc Kinh, qua Nam Minh, Ngô Châu, Quế Lâm; vượt các cống Linh Cừ nối sông Quế với sông Tương, rồi xuôi dòng đến hồ Động Đình, xuôi sông Dương Tử đến Nam Kinh; chuyển sang sông đào Vận Hà thẳng lên Bắc, vượt Hoàng Hà rồi tới vùng Bắc Kinh. Đến đây đã mùa đông, sông bị giá đóng, sứ bộ phải lên bộ. Ngày mồng 8 tháng 12 mới tới Bắc Kinh. Sứ bộ lưu ngụ Bắc Kinh gần ba tháng, làm trọn các nhiệm vụ sứ thần: hành các lễ Tiến Biểu (dâng tờ trình tuế cống) và Cáo Ai (10-12), lễ Triều Kiến (chào Vua Càn Long, 15-12), lễ Triều Hạ (mừng năm mới 1-1 năm Tân Tị 1761), lễ Yết Văn Miếu (cốt để điều-tra các lệ nghi và tự-khí, 10-l)

Sứ bộ muốn xin về gấp để đón các sứ thần vua Càn Long sai sang phong vương cho vua Cảnh Hưng. Nhưng phải đợi đến ngày mồng 1 tháng 3 mới xuống thuyền về. Lại bị những kẻ tiễn về, lợi dụng sự hộ tống Nam Sứ để buôn bán lậu muối dọc đường, cho nên ngày 24 tháng 12 mới về đến Thái Bình gần bến đổ bộ để về nước. Lệ xưa, quá ngày 23 tháng chạp, thì các việc quan đều đình. Cho nên sứ bộ phải lưu lại trong những ngày tết, và có lẽ phải đợi đến ngày 28 tháng giêng mới qua cửa Nam Quan về nước.

Trong vụ đi sứ lần này, Lê Quí Đôn đã soạn một sách chép hết sức tường tận mọi sự việc, mọi văn từ và đề là BẮC SỨ THÔNG LỤC gồm 4 quyển: Quyển 1 chép tất cả mọi việc và mọi công văn có liên quan đến sứ vụ trong thời kì trù bị (20-l0 Mậu Dần 1758 - 20-12 Kí Mão 1759). Quyển 2 và quyển 3 chép hành trình đi đến Bắc Kinh, các việc làm dọc đường và lúc ở Bắc Kinh; rồi chép hành trình đi về đến quá Nam Kinh. Chẳng may hai quyển nầy có lẽ đã mất. Quyển 4 kể hành trình khi về, từ Sa Châu, trên sông Dương Tử đến Thái Bình trên sông Tả Giang (từ ngày 26-6 Tân Tị 1761 đến quá 7-1 Nhâm Ngọ 1762). Trong quyển nầy, tác giả chép nhật kí, ghi rõ tên đất, tên người, độ đường, câu chuyện vân vân. Qua đó ta thấy rằng quả thật Lê Quí Đôn là một nhà học giả lỗi lạc, có óc khoa học, thiết thực, cụ thể, đủ mọi tài về văn chương, biết làm thơ, biết kể chuyện, biết kí tải, biết giao thiệp. Không những về lí học, mà cả về sử học, lúc mới hơn 33 tuổi mà đã tinh tường.

Ông có trí nhớ lạ thường. Chính ông kể lại, trong khi tham quan mọi nơi, ông đọc các câu đối các biển, lúc về thuyền nhẩm lại đều nhớ hết. Tục truyền rằng ông đọc sách gì một lần đủ nhớ luôn, kể cả những sổ bạ. Người ta lại kể chuyện rằng có lúc ông đọc một bia bị nước lũ dâng chóng ngập chân, ông đã đọc ngang từ dưới lên trên, mà khi về ông cũng chép lại bài bia được. Ví với ngày nay những kẻ có thể đánh cờ trầm mấy chục ván một lần, hay những người tính nhẩm những phép nhân chia hàng chục con số, thì ta thấy rằng những chuyện kể về trí nhớ của ông không ngoa. Từ thủa nhỏ, ông đã nổi tiếng thần đồng. Thi đậu tam khôi (ba lần đầu: ở tỉnh, ở kinh và ở cung điện) trong khi cha, là Lê Phú (sau đổi ra Viết) Thứ đang làm quan Triều và cũng xuất thân Tiến Sĩ. Tuy vậy, ông cũng không đậu đại khoa sớm như hai thần đồng đời Trần: Nguyễn Hiền (13 tuổi) và Nguyễn Trung Ngạn (16 tuổi). Nhờ vậy, ông đã có thời giờ đọc và viết sách nhiều trước lúc ra làm quan. Khoa Nhâm Dần 1752 chỉ có 6 tên trên bảng ; ông đứng đầu với bực Bảng Nhãn (năm bực là : Trạng Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa, Hoàng Giáp và Tiến Sĩ). Tuy bực rất cao, nhưng ai cũng cầm chắc ông đáng bực Trạng Nguyên, nhưng trong bài thi có câu hỏi một chuyện chính trị đời Đường Thái Tông mà Đường Thư không chép và chỉ có ghi trong sách Trinh Quan Chính Yếu. Riêng ông, ông rất tiếc vì tủ sách nhà vốn có sách ấy nhưng có người mượn mất.
....
(còn tiếp)



Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 08 Tháng Bảy, 2011, 08:26:00 am
(tiếp)
Lê Quí Đôn đi sứ nhà Thanh
...
Chuyện ông được đi sứ, thì cũng lẽ tất nhiên. Trong bài Đề Từ sách Bắc Sứ Thông Lục, ông kể chuyện rằng : « Khi ta mới tám chín tuổi, học sách Luận Ngữ (Khổng Tử) với cha, đến câu « Làm việc biết điều đáng thẹn, đi sứ bốn phương mà không làm nhục mệnh Vua, như thế có thể gọi là kẻ Sĩ » cha tôi hỏi : « Mầy có thể làm như vậy không ? » Tôi đáp : « Chỉ biết thẹn là khó mà thôi. Còn đi sứ làm vẻ vang Nước nhà, làm trọng mệnh Vua, thì có khó gì ? » Cha tôi cười mà bảo: « thằng bé này có hào khí ! » và dạy rằng: « Ý khí thì cố nhiên nên hào, nhưng không nên quá. Nên không nhún, không rời phẩm cách, nhưng phải nhã nhẵn, nhẹ nhàng, đừng để lộ ra một chút thô suất » Tôi thưa : « vâng.»

Trong tựa sách trên, tựa viết năm 1763, ông lại kể rằng:

« Ở nước Nam ta, tiền bối đi sứ có để lại nhiều tập thơ nhưng chưa ai kể lại các sự việc. Năm Vĩnh Hưu Đinh Tị (1737). Tổn Trai tiên sinh họ Lê (Lê Hữu Kiều, người huyện Đường Hào, đậu Tiến Sĩ khoa 1715) được sung phó sứ đi mừng vua Càn Long lên ngôi, có chép việc sử, nhật trình, đường đi, thơ văn thù ứng, vấn đáp và các sự tích, phong tục nghe thấy, viết thành sách đề là Sử Bắc Kí Sự. Khi ta chưa đậu, ông từng đưa cho ta xem và bảo : « Đây là sách ta lược biên để có thể mang theo trong túi áo. Cậu ngày sau chắc sẽ được chọn đi sứ. Cậu nên sẽ tiếp tục chép nhiều thêm để cho được nhiều sự trạng và lời văn vẻ hơn ».

Theo các chuyện trên, nhiều người đoán trước rằng ông sẽ phụng sứ. Năm 1758, ông được triều đình đề cử trong số sáu người đưa chúa Trịnh Doanh lựa chọn. Trong bài Đề Từ, ông kể rằng: " Chúa thật không muốn ta đi xa. Mùa thu năm Kỉ mão (1759) Chúa bảo Cổn quận công rằng muốn lưu ta ở lại để hầu chính sự; rồi hỏi ý ta. Ta quì tâu: « Cám ơn Thánh Thượng muốn tài bồi cho. Tôi, trên luyến Vua, dưới nhớ cha, há lại không muốn xin ở lại. Nhưng tôi nghĩ rằng từ xưa làm quan, ất nên lịch duyệt cho đủ. Ba năm đi về cũng không phải là lâu. Vậy xin vẫn được đi sang xem chính trị của Thượng Quốc ra sao, nhân vật họ ra sao ? » Chúa bằng lòng ".

Vì còn ít tuổi, chức tước chưa cao, cho nên ông chỉ được sung phó sứ số một, nhưng kì thật thì trong các cuộc ứng đối, ông đứng hàng đầu. Trong phần nhỏ sách kí sự của ông còn lại, ta cũng thấy người Trung Quốc để ý đến ông hơn chánh sứ nhiều. Lời ông viết nối trong Đề Từ: " Từ trước đến nay, văn thần được tuyển đi sứ là trên dưới 50 tuổi. Mà tôi vâng mệnh đi lần này, tuổi mới hơn 30, bề ngoài còn hăng hái sỗ sàng. Tự vui thích chơi bời bay nhảy, cảm tình với xưa, tò mò với nay. Đến đâu cũng đề vịnh (xướng họa với chánh sứ đến vài trăm bài). Đến những chỗ công sảnh, nhà quan, hễ thấy đối liễn, thơ đề trên quạt, ta đều nhẩm ghi để khi về thuyền sao lại . Ta lại được các bậc cao sĩ phu Trung Châu đem thi từ thân tặng. Cho nên trong lúc này có ghi nhiều văn từ thấy ở các công thự, ở phong cảnh núi sông, những lời hỏi đáp với các quan liêu ".

Sự thành tựu của sứ vụ, thì ông tự phê bình trong Đề Từ : " Ta vừa qua Nam Quan, liền gặp quan Tuần Kiêm họ Tra đưa thơ thách họa. Dọc đường gặp các quan liêu, bậc cả, sĩ phu đặt những câu hỏi hóc búa, họ bắt bẻ tranh luận như là kẻ địch. Lại có sứ Triều Tiên, quan Khâm Sai bạn tống đều là những bậc văn hào. Họ đã không coi mình là người nước ngoài mà khinh, đã tiếp chuyện nhiều lần. Tôi may nhờ hồng phúc, dùng văn tự nói chuyện, may khỏi bị khinh khi, mà còn được tán khen. Các sách Quần Thư Khảo Biện và Thánh Mô Hiền Phạm Lục là những sách tôi soạn trước 30 tuổi, được các người thích và giữ như của quí. Vậy mới biết lòng người không khác nhau. Lấy lòng thành thật chính trực đãi nhau, lấy văn tự làm quen nhau thì người bốn bể đều là anh em cả ... Vả chăng nếu mình rụt rè, tự coi mình là người nơi xa vắng, ít giao tiếp, ít nói năng thì bị người ta khinh bạc, mà dùng tiếng Di Ngôn Di Sứ (lời mọi, sứ mọi) mà chỉ chúng ta ".

Chính vấn đề các viên chức Thanh ở biên giới vẫn luôn luôn dùng tiếng DI (mọi) để trỏ người mình, kể cả sứ thần, là một điều mỗi lúc sứ ta sang, đều phải tranh biện phản đối và đòi cải cách. Khi đi về đến Quế Lâm, sứ bộ gửi tờ trình cho viên Tuần phủ Quảng Tây xin cho các viên chức sắp gặp sứ bộ, thôi dùng chữ DI. Đại ý tờ trình như sau : Trong các công văn và khi tiếp đón sứ thần mọi nơi đều gọi hai tiếng An Nam . " Thế mà ngày chúng tôi đến cửa Quan, quan đạo Tả Giang tới mở khóa, sứ thần vào lạy Long Đình, thì lễ sinh xướng lễ chỉ hô : Di quan, Di mục, trỏ rõ sự nghiêm ngặt, làm chúng tôi hổ thẹn rất sâu. Đến khi tới Nam Ninh, yết quan Đạo Đài, đến Ngô Châu yết quan Hiệp, giữa đám đông người mà vẫn dùng chữ DI ". Sứ thần xin theo lệ đời Ủng Chính thứ 9 (173l) giới thiệu các sứ thần bằng chức danh. Viên Bố Chánh biện luận một cách khôn khéo rồi nhận lời, như ta sẽ thấy trong tờ trình của sứ bộ gửi về chúa Trịnh Doanh.
....
(còn tiếp)


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 08 Tháng Bảy, 2011, 01:38:45 pm
(tiếp)
Lê Quí Đôn đi sứ nhà Thanh
...
Tờ trình nầy rất quí, vì được làm bằng tiếng Việt, có lẽ để người Thanh không đọc được, nếu chúng tò mò. Tuy cả ba sứ thần cùng kí tờ nầy, nhưng tôi tin rằng chính Lê Quí Đôn đã thảo. Cũng như trong các văn kiện bằng nôm thời xưa, tờ trình nầy thường dùng Hán văn xen vào trong câu Việt ngữ. Tôi sẽ viết những phần ấy bằng chữ nghiêng và kèm lời tôi diễn nôm ở sau trong vòng đơn. Sau đây tôi sẽ trích một vài đoạn (Toàn bài đã được in với chử nôm trong Tập san Sử địa số 6, Sàigòn 1967) :
" Tháng 10 ( năm Tân Mão 1761) ngày mồng 7, chúng tôi đến Quảng Tây tỉnh thành (Quế Lâm) ... Ngày mồng 9, quan phủ Quế Lâm xuống khám thuyền (xét đồ quốc cấm đem về nước). Kì trước, chúng tôi tiến quan (qua cửa Nam Quan) với vào chí kiến (chào) quan Nam Ninh, thì nó cũng chiếu cựu lệ, nó xướng rằng : « Di quan kiến » (quan mọi chào). Kì nầy chúng tôi cũng có đầu văn (nộp thư) nơi quan vũ viện đạo đạt tình diêu xin hành văn đạo, phủ, hễ nghi chú văn thư, đình DI QUAN tự (đến quan Tuần Vũ, kể rõ thắc mắc, xin gửi tờ sức cho các đạo, các phủ, bảo: phàm trong nghi lễ, văn thư, sẽ thôi dùng chữ di quan, nghĩa là Quan mọi). Tối hôm ấy, quan Bố Chánh họ Diệp (tên Tồn Nhân) truyền hai quan bạn tống (quan Thanh đi kèm sứ bộ) với thông sự (phiên dịch) lên Công đường; trước hỏi: « Ủy vấn Cống sứ nhất lộ tân khổ ? » (thăm hỏi các Cống sứ, dọc đường khó nhọc không). Sau lấy trình văn bảo rằng: « Nghiện cá thậm hảo, thuyết đắc hoạt lí. Đoạn cổ ngữ văn : THUẤN sinh ư Gia phùng, đông di chi nhân dã; Văn vương sinh ư Kì chu, tây di chi nhân dã. DI tự nguyên phi khinh mạn Quí quốc. Kim Sứ thần dĩ thử vi ngôn, dĩ mông Vũ đài chuẩn doãn, hành nhất giác công văn, truyền Tả giang đạo cấp các phủ, tự hậu đình hô DI tự xưng AN NAM quốc sứ ...» (Văn này rất hay, nói rất đúng lí. Nhưng lời xưa đã nói : vua Thuận sinh đất Gia phùng, là người mọi phía đông; vua Văn vương sinh đất Kì Chu, là người Mọi phía Tây. Dùng chữ Di vốn không phải để kinh nhờn Quí quốc. Nay sứ thần đã đem sự nầy bày tỏ nên lời thì đã được nhờ ơn quan Tuần vũ bằng lòng nghe. Đã gửi một ống công văn truyền cho đạo Tả giang và các phu, dặn từ rày về sau đừng hô chữ DI nữa, và gọi là Cống sứ nước AN NAM. Sứ có thể về nước thưa với Quốc vương được rõ. . .)

" Vả tiết nầy, chúng tôi trộm xem quan Trung Quốc có lòng kính trọng Bản quốc, dĩ cập kì sứ (vì đó trọng cả sứ ta). Từ ngày chúng tôi tiến Kinh, Hồ Nam, Hồ Bắc, An Huy, Giang Nam, Sơn Đông, ngũ tỉnh ấy, quan Tổng đốc, Tuần vũ đều đặc ủy thuộc liêu, quan viên hộ tống. Khi khởi lục, thì duyên đồ châu huyện bôn tẩu cung ứng, trương mạc kết thể (khi lên bộ thì dọc đường các quan châu huyện chạy cung cấp đồ ăn đồ dùng, trương màn kết vải màu để đón rước). Khi vào triều hạ (chầu mừng vua Càn Long) thì quan Nội các, Lục bộ đại-thần đều tựu vấn, hữu lời tưởng lao (tới hỏi thăm, có lời khen lao). Mấy (với) như cống sứ Cao Li cống sinh nước Lưu Cầu, gặp chúng tôi cũng hỏi han thư từ vãng phục. Kẻ thì rằng lập chí trung hậu, kẻ thì rằng Văn vật chi thịnh. Chúng tôi đều tùy sự đối đáp. Chuyện đối là sứ thần chức phận, chúng tôi không dám ghi lai lịch phiền độc (kể chi tiết làm nhàm tai).

" Chúng tôi bồi thần tam viên, với hành nhân cửu danh, tùy nhân thập tam danh (ba sứ thần, 9 phái viên, 13 tùy phái) muôn nhờ hồng phúc đều được bình ninh. Như môn tử (con em) chúng tôi cũng có đem sang, cũng đều được mạnh khoẻ cả. Chúng tôi gửi dộng (tâu) lạy BỀ TRÊN muôn muôn năm. Tư cẩn khải (nay kính thưa) ".

Tờ khái này có lẽ viết ngày 13 tháng Chạp năm Tân Mão 1761. Sứ bộ tưởng trước Tết sẽ về đến nhà, nhưng phải đợi gần một tháng ở Thái Bình, quan Thanh mới chịu mở cửa Quan. Tiếc rằng bản Bắc Sứ Thông Lục đã bị mất phần cuối, cho nên ta không còn biết hành trình từ Thái Bình về và có quả thật bọn biên lai Trung Quốc có bỏ tiếng DI chăng. Tuy vậy phần còn lại cho ta biết nhiều câu chuyện giữa Lê Quí Đôn với các nhân vật nước Thanh khi phải đợi lâu và ăn Tết ở Thái Bình. Sau đây sẽ kể một vài chuyện. Chuyện khám thuyền - Khi thuyền về đến Quế Lâm, theo lệ, quan Thanh xuống khám thuyền để tịch thu các vật và sách cấm. Đồ cấm có vũ khí và diêm tiêu dùng làm thuốc súng. Các cống sứ phải làm tờ cam kết, trong đó có nói :

" Năm Càn Long thứ 25, chúng tôi vâng mệnh Quốc vương mang tuế cống và tờ biểu và nghi vật tới dâng. May được Thánh ân ban cho quốc vương vải vóc, trong đó có thứ đoạn hoa Đại Mãng, Thổ Qua. Còn như diêm tiêu, quân khí và tất cả những món hàng cấm thì không hề mang về. Đó là điều chúng tôi cam-kết là thật ". Tất cả sứ bộ phải khai các sách đã mua, rồi phải gánh các hòm sách lên Trạm Ân Đình. Quan Thanh giữ lại một số, rồi bảo khai giá tiền mua để được bồi thường. Trong số sách bị thu có bộ UYÊN GIAM LOẠI HÀM là một thứ tự vựng bách khoa về văn học gồm 450 quyển, vua Khang Hi sai soạn. Lê Quí Đôn phải làm đơn xin trả lại, viện lẽ rằng trong sứ vụ Phạm Khiêm Ích (1724) vua Ủng Chính đã ban bộ sách ấy cho vua mình. Quan Thanh bằng lòng, nhưng giữ lại 23 bộ sách khác trị giá chỉ hơn 4 lạng bạc. Đó là những sách có tính cách chính trị, kinh tế, bói toán, địa lí, y khoa, thần tiên. Của riêng Lê Quí Đôn, có 5 sách bị thâu : Phong Thần Diễn Nghĩa, Nam Du Bắc Du, Uyên Hải Tử Bình, Tử Vi Đẩu Số và Mai Hoa Dịch Số. Qua những tên sách nầy ta có thể đoán rằng ông tin bói toán và thích tiểu thuyết phong thần.

Chuyện bút đàm với học giả Trung Quốc - Ngoài những nhịp dọc đường, Lê Quí Đôn tiếp chuyện với những quan địa phương, tặng thơ đáp câu đối, hoặc đàm đạo thường xuyên, Bắc Sứ Thông Lục còn giữ được lời ghi những buổi bút đàm với một Nho gia và sử gia có học uyên thâm, là CHU BỘI LIÊN bấy giờ được phái đến Quảng Tây chấm hương thi. Ý chừng y đang khảo cứu về địa dư vùng Nam qua lịch đại; cho nên y hỏi Lê Quí Đôn về sự biến cải địa danh ở nuớc ta từ đời Tần Hán đến đời Minh. Ông trả lời rất đầy đủ , ghi đến hơn 2000 chữ. Đọc qua, ngày nay chúng ta thấy ông đã thuộc những phần địa chí trong các sử thư Trung Quốc. Không những ông đã dẫn chứng lấy trong Nhị Thập Tứ Sử, mà còn dẫn những ngoại thư như Giao Quảng Xuân Thư của họ Vương và Nhĩ Thu của Trương Tân. Không những ông bàn địa dư Giao Chỉ mà còn so sánh với sử địa Triều Tiên. Trái với nhiều học giả nước ta đời xưa, ông đã để ấn tượng là người uyên bác về quốc sử khi mới hơn 30 tuổi. Ông lại đưa hai quyển sách đã soạn, Thánh Mô Hiền Phạm Lục và Quần Thư Khảo Biện cho Chu xem và xin đề tựa. Chu đã thấy rằng ông có chí, học rộng, cảm thấy nước ta có văn học, và " tiếc rằng Quế Đường (hiệu ông) sinh ở Nam Phiên, không thể ở lâu tại Trung Châu. Nếu được ở Trung Châu vài năm, cùng thầy có tiếng đạo đức văn chương giảng giải và nghiên cứu để tìm tình tứ Chu Công, Khổng Tử, thì ta không thể lường được ông sẽ tiến đến đâu " (Xem tựa sách Thánh Mô Hiền Phạm Lục). Qua câu phê bình đạo mạo của một văn gia đứng tuổi ớ Trung Châu đối với một dân phiên thổ, tuy đậu bảng nhãn, nhưng trẻ vào bậc học trò mình, ta cảm thấy sự ngạc nhiên và kính nể của người cao sĩ Trung Quốc đối với Lê Quí Đôn và đối với nước ta. Nguyên Thủy Chu Bội Liên đã nghe người khác mách rằng sách Thái Tử Tuyên Kí nói rằng An Nam thờ Giải Tấn (một quan nhà Minh sai sang cai trị nước ta sau khi Hồ Quí Li bị bắt. Xem tập-san Khoa-học Xã hội số 4 trang 121) và coi y như bậc Thánh, cho nên khinh thường trình độ văn học nước ta. Y có nói đến sự ấy trong bài tựa dẫn trên. Vì vậy Lê Quí Đôn đã phải biện bác dông dài, kể những người nước ta có văn danh trước khi Giải Tấn tới, Trương Hán Siêu, Nguyễn Bá Quát, Nguyên Trung Ngạn, Phạm Sư mạnh, Chu Văn An đời Trần. Trước nữa đời thuộc Đường, đã có bảy người đậu Tiến Sĩ và Khương Công Phụ lại đậu chế khoa. Cho đến những người Minh sang cai trị An Nam, thì Hoàng Phúc còn để tiếng lại; chứ Giải Tấn thì không ai biết đến.
....
(còn tiếp)


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 12 Tháng Bảy, 2011, 07:00:52 am
...
(tiếp theo và hết)

Lê Quí Đôn đi sứ nhà Thanh

Ông nói tiếp: « Nó là một khách thương qua chơi, sao có thể đến Quốc tử giám (Văn miếu), mà biết rõ điển chương, văn hiến của nước tôi » (trong Thuyết Linh nói An Nam không thờ Khổng Tử, mà thờ Giải Tấn).

Chuyện kiến trúc thành quách - Chu Bội Liên chấp nhận lời biện bác ấy rồi chuyển sang hỏi về cửa thành.

Y hỏi : « Tôi nghe nói rằng thành xứ Phù Nam (Cam-bu-chia) có bốn cửa, cửa Tiền hướng Đông. Thấy chép như vậy trong sách Giang Đông Cựu Sự, nhưng tôi lấy làm nghi, vậy cửa Tiền ở Quí quốc quả như thế không ? »

Ông đáp : « Từ xưa, dựng đô lập ấp, phải xem âm dương, xét trời đất, nhắm trước sau, thẩm cao thấp; kết-quả là chưa có cửa Tiền thành nào không quay về hướng mặt trời. Ngày xưa, đương triều nhà Nguyên trước, có thể cửa Tiền ở thành Phù Nam ngảnh về Đông, nhưng tôi không thể biết (Lê Quí Đôn có lẽ đã đọc sách Chân Lạp Phong Thổ Kí của Chu Đạt Quan đời Nguyên tả thành Angkor). Còn như Đô Thành nước tôi, thì cùng một chế với thành quách xưa nay. Vả chăng, chín cửa thành Kinh sư (Bắc Kinh) và những dinh thự sáu bộ và các Tự, các Viện đều bởi quan thái-giám nước tôi tên Nguyễn An xây nên đời Vĩnh Lạc Việc ấy được chép trong sách Hoàng Minh thông kỉ. Nhân tiện xin trình ».
Chu nói : « Quí quốc có nhiều người tài nghệ như thế, mà tôi nghe rằng hiện nay, các trị sở tại trấn, phủ, huyện đều không có thành quách, là tại sao ? »

Lê Quí Đôn đáp : « Sách Hán chí chép : Giao chỉ có hơn 60 thành. Gần đây, trong khoảng triều Minh cai trị, cũng đắp hơn 20 thành. Không phải rằng nước tôi không biết giữ nếp cũ, nhưng ban đầu, khi quốc triều (Lê) mới lập, đã san bằng hết. Chỉ ở trấn thị, đắp luỹ đất mà thôi . Tôi trộm nghĩ rằng đó bởi có thâm ý...»

Chu hỏi : « Tại sao ? »

Đáp : « Nước nhỏ tôi và nước lớn Ngài, sự thể không giống nhau. Nay may được Thánh triều ôm ấp vỗ về, hai nước thành một nhà, không phải trở lại lo nữa. Nhưng trong buổi đầu triều Nguyên và triều Minh, bị tụi biên thần tham công mà sinh sự với nước tôi. Chúng tôi sợ bị đột nhập. Nếu tụ nhau ở trong một thành, ngồi để chịu vây đánh, thì chẳng là kế hay. Dân chúng là lính, làng mạc là của. Nếu ở linh tinh phân tán, thì muốn đánh cũng không chỗ nào mà đánh, muốn cướp cũng không thấy đâu mà cướp. Trái lại, nhân chỗ họ mà phá rối, đặt phục mà cản đường. Làm như vậy mới có thể giữ nước ».

Những câu trả lời trên thật là lí thú. Một mặt, nhờ Lê Quí Đôn nhắc lại, chúng ta được biết cái cửa Thiên An Môn cùng 8 cửa khác của thành Bắc Kinh là công trình của người nước ta, cũng như doanh thự trong thành. Việc nầy người Trung Quốc đời nay vẫn biết. Một mặt khác, ông đã giải thích một cách chí lí chiến lược " của không nhà trống ", phân tán du kích, để cảnh giác người Thanh. Chu Bội Liên phải khen rằng: « Sứ quân biện cực tài ! Nhưng cuối cùng, tôi cho rằng như thế không bằng xây thành quách làm hiểm trở mà tự thủ ... ! »

Rồi sau khi Lê Quí Đôn lí luận bác thuyết Việt Thường hiến bạch trị cho Chu Vương và Chu Vương cho xe chỉ nam, Bội Liên mừng rỡ mà khen : « Bàn luận thật là khoái, khiến người thán phục và kính trọng ! ».

Và ngày nay, đọc đến đây, cũng phải thán phục một người trẻ tuổi, học tiếng nước ngoài, phải theo đòi cử nghiệp, mà đã kiến thức mông mênh, lí luận chắc chắn, ứng đối mẫn tiệp như Lê Quí Đôn. Thật ông đã làm đúng như lời hứa với cha khi tám chín tuổi: làm vẻ vang Nước nhà.

Mùa đông năm Kỉ mùi
Hoàng Xuân Hãn




Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 15 Tháng Bảy, 2011, 07:41:44 am
Câu chuyện 16:
AN TƯ VÌ NƯỚC QUÊN THÂN
(Trích: VIỆT SỬ GIAI THOẠI - tập 3 - 71 GIAI THOẠI ĐỜI TRẦN , Nguyễn Khắc Thuần , NXB Giáo dục 2003 , Tái bản lần thứ tám)

Tháng chạp năm Ất Dậu (tháng 1 - 1285), hơn nửa triệu quân Nguyên do Thoát Hoan cầm đầu tràn sang xâm lược nước ta lần thứ hai. Lần này, thế giặc rất mạnh, quân ta phải tạm thời rút lui để bảo toàn lực lượng, tìm cơ hội phản công sau. Giặc áp sát kinh thành Thăng Long, tình hình trở nên vô cùng căng thẳng. Đúng lúc ấy, Trần Kiện lại đem toàn bộ gia quyến và liêu thuộc đi đầu hàng, cánh quân một vạn người do y chỉ huy lâm vào thế khủng hoảng nghiêm trọng. Vua Trần Nhân Tông một mặt sai Đỗ Khắc Chung vào thẳng sào huyệt giặc, mượn cớ đi thương thuyết để do thám, mặt khác lại đưa Công chúa An Tư vào hiến cho Thoát Hoan, nhằm khéo léo cản bước tiến của tên tướng hung hãn này. Công chúa An Tư là con gái út của vua Trần Thái Tông ( 1225 - 1258), em của Thượng hoàng Trần Thánh Tông. Người con gái ấy vì nước mà ra đi, đem tấm thân ngàn vàng để góp phần cứu nguy cho xã tắc.

Tháng 3 - 1285, An Tư vào dinh Thoát Hoan (ở bờ Bắc sông Hồng). Cơn đam mê đã khiến Thoát Hoan chậm trễ tấn công vào Thăng Long, và đó là cơ hội quý giá để triều Trần có thể rút lui một cách an toàn khỏi thủ đô. Về sự kiện này, sách Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 5, tờ 47 a) chép một cách gọn gang rằng "sai người đem Công chúa An Tư (em gái út của Thánh Tông) đến cho Thoát Hoan, ấy là muốn làm thư giãn nạn nước vậy".


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 19 Tháng Bảy, 2011, 12:00:02 pm
Câu chuyện 17
SỞ HỌC CỦA TRẦN NHẬT DUẬT
(Trích: VIỆT SỬ GIAI THOẠI - tập 3 - 71 GIAI THOẠI ĐỜI TRẦN , Nguyễn Khắc Thuần , NXB Giáo dục 2003 , Tái bản lần thứ tám)

Không thấy sử chép chuyện quý tộc họ Trần đi thi, nhưng sở học của những nhân vật như Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Nguyên Đán ... v.v.. quả là đáng phục vô cùng. Đây chỉ xin theo Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 7, tờ 2 a-b và tờ 3 a) để kể riêng sở học của Trần Nhật Duật, người được coi là nhà ngôn ngữ học lỗi lạc ở cuối thế kỉ XIII đầu thế kỉ XIV :

"Nhật Duật thích chơi với người nước ngoài, thường cưỡi voi đến chơi ở thôn Bà Già. Thôn này có từ hồi Lý Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành. Vua Lý bắt được người Chiêm rồi cho về ở đấy, theo tiếng Chiêm mà đặt tên thôn là Đa-gia-ly, sau người đời gọi sai thành thôn Bà Già. Nhật Duật đến chơi, có khi đến ba bốn ngày mới về.

Nhật Duật lại hay đến chơi chùa Tường Phù, nói chuyện với nhà sư người Tống, ở lại lâu mới về. Người nước ngoài đến kinh sư, thường kéo đến nhà ông. Nếu là khách Tống thì ông kéo ghế ngồi gần, chuyện trò suốt buổi, nếu là người Chiêm hay người các dân tộc thì theo phong tục của họ mà tiếp đãi.

Đời Nhân Tông ( 1278 - 1293), sứ nước Sách-mã-tích (tức nước Tumasik, thuộc nhóm Mã Lai - Đa Đảo - ND) sang cống, (triều đình) không tìm được người phiên dịch, chỉ có Nhật Duật là dịch được. Có người hỏi ông vì sao biết tiếng nước họ, ông trả lời rằng thời Thái Tông (1225 - 1258), sứ nước ấy sang, nhân có giao du với họ nên hiểu được đôi chút tiếng nước họ. Nhân Tông từng nói: "Chú Chiêu Văn (chỉ Trần Nhật Duật, vai chú ruột của vua Nhân Tông - ND) có lẽ là kiếp sau của người phiên lạc nên mới giỏi tiếng các nước đó". Hồi làm Tể tướng, ông thường qua nhà một người Tống là Trần Đạo Chiêu, nói chuyện với nhau hàng giờ không mỏi. Anh Tông biết chuyện, nói với ông rằng : "Tổ phụ là Tể tướng (Nhật Duật vai ông của Anh Tông nên Anh Tông gọi là tổ phụ - ND), Đạo Chiêu tuy là người Tống, nhưng đã có Hàn lâm phụng chỉ (chức quan lo phiên dịch - ND), há nên ngồi nói chuyện với hắn".

Theo lệ cũ, sứ Nguyên sang phải sai người biết tiếng để phiên dịch. Tể tướng không được nói chuyện trực tiếp với họ, làm thế để lỡ có gì sai sót thì đổ lỗi cho người phiên dịch. Nhật Duật thì không thế. Tiếp sứ Nguyên, ông thường nói chuyện thẳng với họ mà không mượn người phiên dịch. Khi sứ xong việc, về nơi nghỉ ngơi thì dắt tay cùng về, ngồi uống rượu vui vẻ như bạn quen biết. Sứ Nguyên hỏi ông : "Ông là người Chân Định (vùng thuộc tỉnh Hà Bắc cua Trung Quốc ngày nay - ND) tới làm quan ở đây chớ gì?". Nhật Duật ra sức cãi lại nhưng họ vẫn không tin, có lẽ vì hình dáng và tiếng nói của ông giống người Chân Định".



Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 24 Tháng Bảy, 2011, 07:42:45 pm
Trích:
BANG GIAO ĐẠI VIỆT VÀ TRUNG HOA DƯỚI THỜI LÊ - TRỊNH
(1599-1786)

....
4. Chính sách bang giao của Đại Việt đối với Trung Hoa thời Lê - Trịnh

4.1. Chính sách hòa hiếu, chủ động, linh hoạt trong bang giao

Đặt trong bối cảnh cần ổn định để xây dựng và phát triển đất nước và vị thế nước nhỏ trước một đế chế Trung Hoa rộng lớn, chính quyền Lê - Trịnh luôn tỏ thái độ nhún nhường và đặc biệt thực thi chính sách bang giao mềm dẻo, linh hoạt.

Ngay khi kết thúc chiến tranh, chính quyền Lê - Trịnh được thiết lập, Đại Việt đã chủ động sang cầu phong. Mặt khác, trong quan hệ với Trung Hoa, chính quyền Lê - Trịnh luôn tự xác định cho mình vị thế nước nhỏ nên đã chủ động hòa hiếu thông qua việc cầu phong, triều cống... Đánh bại triều Minh, nhà Thanh ra đời trên đất Trung Hoa. Chính quyền Lê - Trịnh một mặt từ chối nhận sách phong của nhà Minh, phần nữa sang cầu phong triều Thanh. Sự linh hoạt trong cách hành xử của chính quyền Lê - Trịnh đối với Trung Hoa đã tạo tiền đề cho quan hệ hai nước sau này. Khi bang giao, Đại Việt phải theo định lệ tiến cống, mỗi lần như vậy rất tốn kém. Hoàn cảnh đó sứ thần chúng ta đã chủ động xin được đổi lệ 3 năm thành 6 năm mới tiến cống, thậm chí nếu trong nước có việc thì có thể nhiều hơn thế. Các nghi lễ bang giao cũng được Đại Việt chủ động bỏ bớt chỉ giữ lại những nghi thức căn bản mà không làm mất đi sự trọng thể của quốc gia trong đón tiếp sứ.

Chú trọng hoạt động bang giao và xác định được tầm quan trọng của bang giao, chính quyền Lê - Trịnh đã có sự chủ động linh hoạt, hòa hiếu trong chính sách bang giao. Nhờ đó, góp phần quan trọng tạo sự ổn định của đất nước dưới thời Lê - Trịnh.

4.2. Kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền lãnh thổ khi bị xâm phạm

Trong bang giao, chính quyền Lê - Trịnh luôn lấy sự hòa hiếu làm đầu. Thế nhưng, khi chủ quyền bị xâm phạm thì sẵn sàng đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền mà thành quả tiêu biểu là thắng lợi trong cuộc đấu tranh giành lại mỏ đồng Tụ Long.

Năm 1724, tổng đốc Vân Nam là Cao Kỳ Trác chiếm và đưa lính vào khai thác mỏ đồng Tụ Long. Hành động của nhà Thanh đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền lãnh thổ của Đại Việt. Để ngăn chặn, chúa Trịnh một mặt ra lệnh cho trấn thủ Tuyên Quang ra sức chống giữ. Mặt khác, chính quyền Lê - Trịnh cử các sứ thần sang tranh biện, vạch định việc biên giới. Trước những bằng chứng và lý lẽ của sứ thần Đại Việt, phía nhà Thanh không thể tự bào chữa cho mình. Do vậy, vua Ung Chính nhà Thanh: “Đã hạ lệnh cho viên tổng đốc rút nhân viên đóng ở các xứ thôn Tà Lộ về, còn việc lập giới mốc sau sẽ bàn riêng, quốc vương nên bình tĩnh đợi sẽ phân xử” [3, tr.341 - 342]. Sau một thời gian, vấn đề mỏ đồng Tụ Long “tranh biện và bẻ lý mãi rồi lập đồng trụ làm mốc. Thế là việc biên giới mới được ổn định. Mỏ đồng Tụ Long lại thuộc về ta” [4, tr.161]. Bên cạnh đó, Đại Việt bằng những chính sách, hành động kiên quyết trong bang giao cũng đã đấu tranh giành lại ba châu Bảo Lạc, Vị Xuyên, Thủy Vĩ và nhiều vùng đất dọc hai bên biên giới.

Thắng lợi trong cuộc đấu tranh giành lại mỏ đồng Tụ Long đã khẳng định chính sách đúng đắn trong bang giao của chính quyền Lê - Trịnh, đồng thời khẳng định những giá trị lớn lao của bang giao Đại Việt trong sự nghiệp bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Chính quyền Lê - Trịnh bằng chính sách kiên quyết trong bang giao đã thể hiện tinh thần tự tôn dân tộc, ý thức trách nhiệm của người cầm quyền đối với việc bảo vệ chủ quyền quốc gia và sự khôn khéo trong đường lối bang giao của dân tộc.
....
Link: http://www.sugia.vn/index.php?mod=news&nid=671&cpid=2&view=detail


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 24 Tháng Bảy, 2011, 08:04:37 pm
Câu chuyện 18:

LƯỠNG QUỐC TRẠNG NGUYÊN NGUYỄN TRỰC
....
( Trích từ bài: Tôn vinh trạng nguyên Nguyễn Trực )

Trạng nguyên Nguyễn Trực tên chữ là Công Dĩnh, hiệu Hu Liêu. Ông sinh năm 1417, trong một dòng họ nối đời khoa bảng. Cụ nội ông là Nguyễn Tử Hữu từng giữ chức Hàn lâm viện thị giảng kiểm Thẩm hình viện sự triều Trần. Ông nội là Nguyễn Bính - Huấn đạo phủ Ứng Thiên, một người nổi tiếng tài ba đức độ. Thân sinh Trạng nguyên là Nguyễn Thời (Thì) Trung, một nhà thơ khá nổi tiếng đầu thời Lê, từng làm quan trong triều, nổi tiếng thanh liêm đạo đức... Phu nhân trạng nguyên Nguyễn Trực là bà Đỗ Thị Chừng - người làng Nghĩa Bang, phủ Quốc Oai.

Tương truyền, Nguyễn Trực từ bé đã nổi tiếng thần đồng. Mười tuổi đã đọc thông viết thạo Hán văn. Mười hai tuổi chỉ ham thích việc học. Mười tám tuổi đi thi Hương đã đỗ đầu. Năm 26 tuổi đỗ đầu thi Đình (Đệ nhất giáp, đệ nhất danh tiến sĩ) đứng đầu 33 tiến sĩ cùng khóa - cuộc thi do đích thân vua ra đề và chấm. Đến nay, bài thi đình của Nguyễn Trực được đánh giá là một trong những bài thi Đình hay nhất.

Làm quan, kinh qua nhiều chức vụ lớn, Nguyễn Trực luôn giữ được phẩm cách nhà Nho. Ông thanh cao đến nỗi vua Lê Nhân Tông sai vẽ hình ông để bên cạnh ngai vàng để tỏ ý không lúc nào quên. Còn vua Lê Thánh Tông thì kính trọng sai văn thần đem bộ sách “Thiên Nam dư hạ” đến tận nơi ở của ông để tiện “biên tập”...

Về danh vị “Lưỡng quốc trạng nguyên”, chuyện kể rằng: Khi đi sứ, bằng tài thơ phú và đối đáp, ông được vua Minh mến mộ và mời dự kỳ thi Đình. Không ngờ, ông lại đỗ đầu. Vì thế nên được vua nhà Minh phong “Lưỡng quốc trạng nguyên”. Lúc được vua giao tiếp sứ thần nhà Minh là Hoàng Gián, Nguyễn Trực đối đáp như thần, lại hạ bút họa ngay một lúc 50 vần thơ lưu biệt khiến sứ thần phương Bắc vô cùng thán phục... Dù làm quan to trong triều nhưng Nguyễn Trực mấy lần cáo quan muốn lui về vui thú điền viên nhưng không được. Đến khi ông mất, vua Lê Thánh Tông điếu rằng: “Đời dõi nho tông phát ấp bang; Trong đạo đức, có từ chương; Nối dòng thi lễ nhà truyền báu; Tranh giải khôi nguyên bảng chói vàng; Nam - Bắc hai triều danh vang; Phong lưu một cửa họ sang; Từ đường ở đấy niềm tây lạnh; Dấu cũ càng thơm xạ có hương“.

Link: http://www.baomoi.com/Ton-vinh-Trang-nguyen-Nguyen-Truc/54/6097563.epi


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 24 Tháng Bảy, 2011, 08:13:05 pm
Câu chuyện 19:

NỮ SĨ ĐOÀN THỊ ĐIỂM

Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm là con gái cụ Đoàn Doãn Nghi, là em Đoàn Doãn Luân, đều là những nhà khoa bảng nổi danh thời Lê - Trịnh. Thấy bà có tài, bố nuôi là Lê Anh Tuấn muốn tiến cho Chúa Trịnh, nhưng bà cự tuyệt, về nhà bố đẻ ở. Từ đó, việc học của bà càng tiến tới và nổi tiếng về đức hạnh cũng như văn chương thơ phú. Năm 25 tuổi, bà dạy học ở Mỹ Hào. Anh ruột mất, bà phải vào làng Chương Dương, huyện Thường Tín (hiện nay) dạy học và bốc thuốc nuôi mẹ, nuôi cháu. Năm bà 39 tuổi, quan Binh bộ tả Thị lang Nguyễn Kiều đến cầu hôn. Bà đồng ý làm vợ lẽ và theo ông về kinh đô. Cuộc sống hạnh phúc đã cho bà cảm xúc làm văn chương, trong đó truyện Truyền Kì Tân Phả bằng chữ Hán và dịch thành công Chinh phụ Ngâm của Đặng Trần Côn bằng quốc âm, rất phù hợp với hoàn cảnh, tình cảm của người phụ nữ Việt Nam, trong đó có bà, khi chồng đi sứ xa nhà.

Không chỉ tài văn chương, bà còn nổi tiếng làm câu đối, trong những trường hợp rất gay cấn… Một lần, có đoàn Sứ thần Bắc quốc sang nước ta. Đoàn Thị Điểm được bố trí ngồi bán nước ở quán gần phủ. Đoàn Sứ thần nghỉ chân vào quán uống nước. Thấy cô hàng nước xinh đẹp, họ liền trêu ghẹo bằng một vế đối hóc búa: “Nam bang nhất thốn thổ, bất tri kỉ nhân canh”. Nghĩa là: Có một tấc đất ở nước Nam, không có người biết cày. Họ vừa đọc xong, Đoàn Thị Điểm ứng khẩu ngay: “Bắc quốc đại trượng phu, giai do thứ đồ xuất”. Nghĩa là: Các bậc quan lớn ở xứ Bắc đều ở chỗ ấy mà ra!. Vế đối rất chỉnh, lại sắc bén, thâm thúy, đoàn sứ thần bị vố cay, mà vẫn thán phục cô bán nước.

Nguyễn Tiến Bình

Link: http://www.baomoi.com/Tai-van-chuong-xuat-chung-cua-nu-si-Doan-Thi-Diem/152/5826604.epi


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 24 Tháng Bảy, 2011, 08:24:17 pm
Câu chuyện 20:

TRẠNG NGUYỆT: VỊ SỨ THẦN NHANH TRÍ

(Trích: Chuyện về ông Trạng Nguyệt đất Thanh Trì )

Năm Đinh Mùi (1667) Nguyễn Quốc Trinh được triều đình phong làm Chánh sứ dẫn đoàn sứ bộ sang nhà Thanh. Biết ông là người giỏi thơ văn, vua Thanh là Khang Hy có lệnh triệu Nguyễn Quốc Trinh vào điện để thử tài. Khi ông đến thì thấy có cả sứ thần Cao Ly ở đấy, vua Thanh sai người mang ra hai chiếc thẻ tre dài chừng hai thước, rộng nửa thước rồi nói: “Hai sứ thần hãy viết tên 100 danh thần của Trung Quốc vào chiếc thẻ, ai viết xong trước sẽ được phong là Lưỡng quốc danh thần (Quan giỏi hai nước), bằng không chỉ là Độn thần (Quan ngu dốt)”.

Thấy sứ Cao Ly chăm chú cầm bút, mài mực viết còn Nguyễn Quốc Trinh vẫn ngồi im lặng tỏ vẻ suy nghĩ nhưng mãi không viết được chữ nào, vua quan nhà Thanh rất ngạc nhiên. Một đại thần sốt ruột hối thúc, ông chỉ cười và nói: “Không có gì phải vội cả, tôi chỉ viết một loáng là xong ngay”. Khi thời hạn nộp thẻ sắp hết, sứ thần Cao Ly cũng sắp hoàn thành phần thi của mình, lúc đó Nguyễn Quốc Trinh mới viết hai dòng chữ lên thẻ tre rồi buông bút. Vua quan nhà Thanh tất thảy đều kinh ngạc không rõ ông trổ tài ra sao, bằng cách nào nên khi hai thẻ tre được dâng lên, vua Thanh cầm ngay chiếc thẻ của Nguyễn Quốc Trinh đọc thấy viết rằng: “Khổng môn thất thập nhị hiền/Vân Đài nhị thập bát tướng”. Nghĩa là: “Cửa Khổng có bảy mươi hai người hiền/Vân Đài ghi hai mươi tám tướng giỏi”.

Ý nghĩa hai câu trên đều dẫn theo tích của Trung Quốc, theo đó vào thời Xuân Thu trong số các học trò của Khổng Tử nổi tiếng tài giỏi nhất có 72 người. Còn Vân Đài là một đài kỷ niệm được xây dựng thời vua Hán Vũ Đế, trên đó có khắc tên 28 danh tướng dũng lược của triều Hán; do đài xây cao vút như chạm đến trời nên mới có tên là Vân Đài (đài mây). Vậy là đã đủ 100 người tài giỏi của nước Tàu.

Đọc xong thẻ tre, vua Thanh tấm tắc khen ngợi tài năng và trí thông minh của Nguyễn Quốc Trinh rồi phán rằng: “Sứ thần nước Nam rất xứng đáng là Lưỡng quốc danh thần”.

Sau khi đi sứ trở về, do có công lớn nên triều đình thăng chức cho Nguyễn Quốc Trinh lên làm Tả thị lang bộ Lại, tước Liên Trì tử.

Link: http://www.baomoi.com/Chuyen-ve-ong-Trang-Nguyet-dat-Thanh-Tri/59/4855281.epi


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 24 Tháng Bảy, 2011, 08:34:15 pm
Truyện tiếp theo về Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi:

VỊ SỨ THẦN DÁM GIƯƠNG CUNG BẮN...MẶT TRỜI

Đó chính là Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi (1272 - 1346) đời nhà Trần. Ông quê ở làng Lũng Động, huyện Chí Linh, Hải Dương (nay là làng Long Động, xã Nam Tân, Nam Sách, Hải Dương), đỗ Trạng nguyên vào năm 1304 triều vua Trần Anh Tông.

Sau khi thi đỗ, Mạc Đĩnh Chi được ban chức Thái học sinh hỏa dũng thủ, sung làm Nội thư gia tức quản lý kho sách của thư viện Hoàng gia. Sau đó thăng dần lên Hàn lâm Đại học sĩ, Nhập nội hành khiển, Hữu ty lang trung, Tả ty lang trung.

Ông làm quan trải bốn triều vua Trần: Anh Tông, Minh Tông, Hiến Tông, Dụ Tông. Ông được cử đi sứ 2 lần sang nhà Nguyên vào các năm 1308 và 1324. Quanh chuyện đi sứ của ông có nhiều điều thú vị.

Một lần, đoàn sứ bộ đi đến cửa quan thì đã muộn, cửa quan đã đóng. Sứ bộ ta gọi cửa mãi mà không được. Một lúc sau thấy từ trên vọng lâu thòng xuống một mảnh giấy, trên đó là một vế đối, thách sứ giả ta đối được thì mới mở cửa quan cho đi. Vế ra như sau: Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan (Tới cửa quan trễ, cửa quan đóng, mời khách qua đường cứ qua).

Đây là một vế đối khó, phải tìm được một câu trong đó một từ phải được lặp lại 4 lần và một từ phải được lặp lại 3 lần tương ứng với hai từ ở vế ra. Mạc Đĩnh Chi đã rất nhanh ý, lấy ngay hoàn cảnh của mình lúc này để đối lại: Tiên đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối (Ra câu đối dễ, đối câu đối khó, xin mời tiên sinh đối trước).

Nói là mời tiên sinh đối trước (ý nhún nhường) nhưng bản thân đây đã là một vế đối hoàn hảo rồi. Câu này cũng có chữ đối được lặp lại 4 lần và chữ tiên được lặp lại 3 lần, ý tứ rất chỉnh. Những người giữ cửa quan đành phải mở cho đoàn sứ bộ của ta đi qua.

Khi Mạc Đĩnh Chi được diện kiến vua Nguyên, vua ra vế đối: "Nhật: hỏa, vân: yên, bạch đán thiêu tàn ngọc thỏ (mặt trời là lửa, mây là khói, ban ngày đốt cháy vầng trăng). Có ý tự phụ ta đây là vua của Thiên triều, là bậc Thiên tử, như mặt trời đỏ có thể thiêu cháy tất cả, còn các nước chư hầu như mặt trăng yếu ớt, chỉ dám sáng vào ban đêm, còn ban ngày sẽ bị mặt trời thiêu cháy.

Với sự thông minh, mẫn tiệp và dũng cảm, Mạc Đĩnh Chi đã khẳng khái đối lại: "Nguyệt: cung, tinh: đạn, hoàng hôn xạ lạc kim ô (Mặt Trăng là cung, sao là đạn, hoàng hôn bắn rơi mặt trời). Vế đối lại của Mạc Đĩnh Chi rất chỉnh, ý tứ rất mạnh mẽ. Câu đối tỏ rõ bản lĩnh của sứ thần, chẳng khác gì nói rằng mình có thể bắn thẳng vào mặt vua Nguyên! Quả thật là táo bạo. Vua Nguyên dù hậm hực nhưng đành chịu tài sứ giả, chẳng bắt bẻ vào đâu được.

Mạc Đĩnh Chi suốt đời sống liêm khiết, vì vậy tuy làm quan mà vẫn nghèo. Có lần đang đêm vua sai người lén bỏ 10 quan tiền trước cửa nhà ông. Sáng ra ông thấy tiền liền đem nộp triều đình, nhưng không ai nhận cả.

Vua nói: Tiền đó không ai nhận thì là của nhà ngươi, ngươi hãy cầm lấy mà dùng. Thật ra đây chỉ là một hình thức trợ cấp mà nhà vua có ý dành cho Mạc Đĩnh Chi. Về sau ông được cháu 7 đời là Mạc Đăng Dung truy tôn là Kiến Thủy Khâm Ninh Văn Hoàng đế.

Phan Duy Kha
Link: http://www.baomoi.com/Vi-su-than-dam-giuong-cung-ban-Mat-Troi/141/4211107.epi


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 24 Tháng Bảy, 2011, 08:56:32 pm
ĐỀN THỜ THÁM HOA GIANG VĂN MINH

(http://newvietart.com/images/duong-lam-3.jpg)


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 24 Tháng Bảy, 2011, 09:06:07 pm
Câu chuyện 21:

Nguyễn Biểu -sứ giả can trường.
   

Nguyễn Biểu (?- 1413) là tướng nhà Hậu Trần trong lịch sử Việt Nam, quê ở quê làng Bình Hồ, huyện La Sơn, trấn Nghệ An (nay thuộc xã Yên Hồ, Đức Thọ, Hà Tĩnh).
     Thân thế của Nguyễn Biểu sử sách chỉ chép là người làng Bà Hồ, huyện Chi La (nay là xã Yên Hồ, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh) không chép ngày tháng năm sinh cha mẹ là ai, làm gì. (Lã Duy Lan trong bài: Từ Nguyễn Du đến Nguyễn Biểu thì cho cho rằng ông quê Thanh Oai, cùng dòng tộc với Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan… ) Ông đỗ Thái học sinh thời Trần, ( có sách nói đậu khoa Nhâm Dần (1400) cùng Nguyễn Trãi) đã từng theo giúp vua Trùng Quang nhà Hậu Trần từ những ngày đầu mới lên ngôi, lấy đất Bà Hồ, huyện Chi La làm căn cứ tổ chức cuộc kháng chiến chống giặc Minh. Lúc bấy giờ lực lượng kháng chiến của Giản Định đế Trần Ngỗi đã suy yếu, Trùng Quang đế đã tìm cách đưa Trần Ngỗi về Bà Hồ tôn làm Thái Thượng hoàng thống nhất lực lượng kháng chiến. Từ đó Bà Hồ chỉ còn lại lực lượng nhỏ, Thượng Hoàng  cùng các tướng đều đưa quân ra trận, thời gian này nghĩa quân lúc tiến ra Bắc, lúc lui về Diễn Châu, Nghệ An, nhưng sau trận thua ở Thần Đầu vào năm 1412 nghĩa quân bị tổn thất nặng. Quân Minh chiếm Thanh Hoa, Diễn Châu và thành Nghệ An, vua Trùng Quang phải rút vào giữ vùng Tân Bình -Thuận Hoá và sai Nguyễn Biểu đi sứ cầu phong ở thành Nghệ An tìm kế hoà hoãn chờ đợi thời cơ.
       Về việc đi sứ và cái chết của ông, Đại Việt sử ký Toàn thư chỉ chép: “Mùa hạ tháng 4 năm Quý Tỵ (1413) bọn Trương Phụ nhà Minh đánh mạnh vào Nghệ An, vua chạy về Châu Hoá sai Đài quan là Nguyễn Biểu làm sứ cầu phong mang sản vật địa phương đến Nghệ An. Trương Phụ giữ lại, Biểu tức giận mắng rằng: “Trong bụng muốn đánh lấy nước người, bên ngoài giả làm quân nhân nghĩa; đã hứa lập con cháu nhà Trần nay lại đặt quận huyện, không những chỉ cướp lấy vàng bạc, châu báu còn giết hại nhân dân, thực là giặc tàn ngược”. Phụ giận lắm đem ông ra giết.
     Còn trong sách “Nghĩa Sĩ truyện” thì chép rằng: “Khi tới trước quân Trương Phụ, bọn giặc bắt ngài lạy. Ngài đứng trơ không nhúc nhích. Nhân thế giặc đặt tiệc thết, nấu một đầu người mà mời, cốt để cho rõ ý ngài. Ngài tức thì lấy đũa khoét hai mắt, hoà với dấm mà nuốt”. Trong bản chép tay kèm ở trong gia phả họ Nguyễn có thêm:     Lúc bày tiệc ra ngài cười mà nói: “Đã mấy lúc người Nam lại được ăn đầu người Bắc”. Trương Phụ cảm phục đối xử tử tế rồi cho ông về. Nhân đó Phụ hỏi viên hàng thần Phan Liêu: “Nguyễn Biểu là người thế nào?” Liêu vốn có hiềm khích với ông bèn nói: “Người ấy là hào kiệt c ủa n ước Nam, Ngài muốn lấy nước Nam mà không có người này thì việc thành sao được”. Phụ sai người đuổi theo bắt ông lại hòng uy hiếp mua chuộc nhưng khi Nguyễn Biểu bị dẫn đến trước dinh, Trương Phụ bắt ông lạy ông vẫn đứng thẳng không hề run sợ. Ông nói: Ta là tôi vua phương Nam, ngươi là tôi vua đất bắc, là bề tôi cả sao lại bắt nhau quỳ được? Phụ mắng ông vô lễ ông bèn vạch âm mưu và tội ác của giặc. Phụ tức giận sai quân đưa ông ra trói dưới cầu Yên Quốc (tức cầu Lam, một nhánh sông Lam chảy giữa hai làn Vệ Chánh và Quang Dụ xưa) cho nước lên dìm chết. Ông lấy móng tay vạch vào cột cầu 8 chữ: “Thất nguyệt, sơ nhất nhật, Nguyễn Biểu tử” (ngày mồng 1 tháng 7 Nguyễn Biểu chết).   Trương Phụ giết ông nhưng phải ngầm kính phục cho đưa thi hài về Bình Hồ an táng. Vua Trùng Quang được tin ông tử tiết hết sức thương xót sai làm văn Dụ tế, nhà sư chùa Yên Quốc cũng soạn bài tụng, làm lễ cầu siêu cho ông. Nguyễn Biểu vị sứ giả can trường của dân tộc đã hy sinh anh dũng trong cuộc kháng chiến chống xâm lược nhà Minh. Tiết tháo của Nguyễn Biểu thật là lẫm liệt, trước giặc giữ lòng chỉ nghĩ đến vua, trước vận suy của nước vẫn làm rạng danh quốc thể.

Link: http://trannhuong.com/news_detail/10112/KHI%CC%81-PHA%CC%81CH-NG%C6%AF%C6%A0%CC%80I-%C4%90I-S%C6%AF%CC%81


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 24 Tháng Bảy, 2011, 09:12:59 pm
Câu chuyện 22:

LÀM THƠ DỞ PHẢI ĐI SỨ

Đương thời, tài thơ văn ứng đáp của Nguyễn Tông Quai lẫy lừng hai nước Việt Nam, Trung Quốc.

Chuyến đi sứ lần thứ nhất, khi xướng họa thơ văn, các nho sĩ nhà Minh đã nghiêng mình thán phục  là tài thơ của sứ thần họ Nguyễn đáng sánh ngang với các bậc đại gia thời Đường, Tống.

Đi sứ về, Nguyễn Tông Quai bị bọn hoạn quan ganh ghét dèm pha nhưng khi bàn đến việc cử người lo nhiệm kì công sứ mới thì triều đình Lê – Trịnh lại thấy khó có thể chọn ai ngoài Nguyễn Tông Quai làm chánh sứ.

Khi đến Yên Kinh (thủ đô nhà Thanh) gặp lại những gương mặt năm xưa, có viên quan nhà Thanh đã hỏi móc rằng:

- An Nam hết nhân tài rồi hay sao mà lần công sứ nào cũng thấy cử ông đến vậy ?

Nguyễn Tông Quai thản nhiên đáp:

- Ở nước tôi thường vẫn quan niệm đi sứ là một sự đầy ải nên mỗi lần cử người đi sứ, triều đình lại tổ chức thi thơ. Khi bình xong, thơ của người nào dở nhất thì buộc phải làm chánh sứ để dẫn đoàn sứ bộ lên đường. Tôi vốn kém sở trường về thơ nên hai lần thi đều bị xếp hạng bét, thành thử phải đi sứ cả hai lần.

Các quan Trung Quốc biết là bị hố, nhưng đành ngậm miệng phục tài biện bác của sứ thần Đại Việt.

(Giai thoại Việt Nam, NXB Kim Đồng)

Link: http://edu.go.vn/e-tap-chi/tin-bai/7/35/147/2064/lam-tho-do-phai-di-su.html


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 25 Tháng Bảy, 2011, 09:32:06 am
Truyện tiếp theo về Trạng Nguyên Mạc Đỉnh Chi:

LƯỠNG QUỐC TRẠNG NGUYÊN

Trong lịch sử Việt Nam, có rất nhiều danh tướng làm cho triều đại phương Bắc khiếp sợ mỗi khi nhắc đến danh tính. Trong hàng quan văn, cũng có nhiều danh nhân làm rạng danh cho các triều đại Việt Nam, nhưng để đạt được sự ngưỡng mộ và và đạt được danh phong của triều đại phong kiến phương Bắc thì rất hiếm. Một trong số đó chính là trạng nguyên Mạc Đỉnh Chi.

(http://enews.agu.edu.vn/uploads/imgposts/u10834_t1256551046_v01e8.jpg)

Đền thờ Mạc Đỉnh Chi ở Hải Dương

Trong những lần đi sứ của mình, Mạc Đỉnh Chi đã được diện kiến vua Nguyên. Biết sứ thần nước ta là người thông minh, tài trí và ứng đối nhanh lẹ, nhiều lần vua Nguyên đã cố tình thử tài ông, nhưng lần nào Mạc Đỉnh Chi cũng khiến cho triều đình nhà Nguyên phải nể phục tài năng của mình, qua đó tạo thêm sự tốt đẹp cho mối bang giao Nguyên – Đại Việt.

Có một lần, Mạc Đỉnh Chi và sứ thần một số nước khác ra mắt vua Nguyên. Nhân lúc đang cầm chiếc quạt của một sứ thần nước khác dâng, vua Nguyên buộc sứ thần nước ta và sứ thần Triều Tiên đề thơ. Trong lúc còn đang suy nghĩ tìm ý thơ thì sứ thần Triều Tiên đã làm được hai câu:

Nóng nực oi ả, thì như Y Doãn, Chu Công (là những người được vua trọng dụng) Rét buốt lạnh lùng, thì như Bá Di, Thúc Tề (là những người bị ruồng bỏ)

Mạc Đỉnh Chi nhìn thấy hai câu thơ của sứ thần Triều Tiên liền nhanh trí phát triển thêm thành một bài thơ hoàn hảo:
Chảy vàng, tan đá, trời đất như lò, ngươi bấy giờ là Y  (Y Doãn) Chu (Chu Công) đại nho.
Gió bấc căm căm, mưa tuyết mịt mù, ngươi bấy giờ là Di (Bá Di) Tề (Thúc Tề) đói xo.
Ôi, được dùng thì làm, bỏ thì nằm co, chỉ ta cùng ngươi là thế ru!

Bài thơ của Mạc Đỉnh Chi làm xong trước, vua Nguyên xem xong rất ngợi khen tài năng của ông. Cảm phục và quý mến tài trí của Mạc Đỉnh Chi, vua Nguyên phong ông làm “Lưỡng quốc trạng nguyên” và hết sức coi trọng.

Link: http://enews.agu.edu.vn/?act=VIEW&a=7438


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 10 Tháng Tám, 2011, 11:26:05 am
Câu chuyện 23:
Trương Trọng

Theo sách Cổ Kim thận ngôn (những lời nói hay xưa nay) của Phạm Thái,Trương Trọng,người quận Nhật nam có học hành ít nhiều và làm Thuộc lại trong quận.
Bấy giờ nước ta đang lệ thuộc phương Bắc,Trương Trọng được viên Thái thú Nhật Nam cử sang kinh đô Lạc Dương (nay thuộc tỉnh Hà nam,Trung Quốc)thay mặt Thái Thú tâu bày công việc trong quận lên vua Hán.
Trương Trọng đến kinh đô vò chầu vua Hán.Hán Minh đế thấy Trương Trọng thấp bé lại là dân "man di"(mọi rơ)ngoài cõi xa tỏ ý khinh thường,hỏi xách mé:
-Viên lại nhỏ kia(tiểu lại)người quận nào?
Trương Trọng khảng khái đáp:
-Thần là Kế Lại,người thay mặt thái thú Nhật Nam vào chầu vua và dâng sớ lên triều đình,chứ không phải là 1 viên lại nhỏ.Bệ hạ muốn dùng người có tài cán hay chỉ muốn đo xương thịt?
Vua Hán nghe câu trả lời cứng cỏi và đúng đắn của Trương Trọng xong thì tức lắm nhưng đành im lặng.
Mấy hôm sau, nhân dịp Tết Nguyên Đán,vua mở tiệc.Trăm quan vào hầu và chúc tết vua trong đó có Trương Trọng.Thấy ông, vua Hán nghĩ ngay tới chuyện hôm trước và muốn rửa hận nên nhân đủ các quan ở đấy,y hỏi kháy:
-"Nhật Nam" có nghĩa là "phía nam mặt trời".ta nghe nói tất cả nhà cửa quận này đều xoay hướng về phương Bắc để trông thấy mặt trời phải không?
Câu hỏi kiêu ngạo trên ý muốn xưng thiên triều phương Bắc là mặt trời còn mọi người thì phải phục tùng.Trương Trọng bình tĩnh đáp:
-Tâu bệ hạ,theo thiển ý của thần thì "Nhật Nam" không phải là ở phía nam mặt trời.Trung nguyên của bệ hạ có quận gọi là "Vân Trung" mà đâu có ở giữa mây, có nơi gọi là "Kim Thành" mà lại không phải là toà thành xây bằng vàng.Tên thế thôi chứ thực có vậy đâu. Nơi nào thì mặt trời cũng ở đằng đông cả.
Lời đối đáp rắn rỏi và sự thông minh nhanh trí của Trương Trọng đã khiến nhà vua thán phục ông 1 lần nữa


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 11 Tháng Tám, 2011, 08:49:37 am
Câu chuyện 24:

Đỗ Thuận

Đỗ Thuận (Đỗ Pháp THuận) là pháp danh nhà sư nổi tiếng dưới triều Lê Đại Hành, không rõ tên thật và quê quán của ông,chỉ bết ông thuộc thế hệ thứ 10,dòng Thiền Nam Phương. Ông học rộng,thơ hay, am hiểu đời, giúp triều đình có công to nhưng không nhận phong thưởng từ vua nên vua kính trọng ông vô cùng. Sử chép ông có nhiều công với triều đình,đặc biệt khi tiếp đón và xướng họa thơ ca với sứ nhà Tống.

Khoảng năm 987, vua Tống sai Lý Giác -1 tay sính thơ sang sứ nước ta. Vua Lê Đại Hành bèn nhờ vị sư Đỗ Thuận giả làm người lái đò để theo dõi hành động của sứ. Khi thuyền đang đi trên sông Kinh Thầy (nay thuộc Hải Dương ), thấy 2 con ngỗng bơi trên mặt nước, Lý Giác bèn ngâm 2 câu thơ (tạm dịch):

"Ngỗng kìa,ngỗng một đôi
Nghển cổ nhìn chân trời"

Bài thơ nguyên tác của Lạc Tân Vương, người đời Đường (thế kỉ VII) làm lúc 10 tuổi.

Sư Đỗ đang chèo thuyền, liền ứng khẩu đọc:

"Nước xanh lông trắng phủ
Sóng biếc chân hồng bơi"

Thấy người lái đò Đại Việt mà cũng giỏi thơ, Lý Giác rất thán phục và làm tặng 1 bài trong đó có 2 câu thơ sau (tạm dịch):

"Ngoài trời lại có trời soi sáng
Sóng lặng khe đầm rọi mảnh thu"

Sư Đỗ chép bài thơ dâng vua Lê Đại Hành. Vua lại đưa bài thơ đó cho sư Khuông Việt - người đứng đầu giới Phật giáo khi ấy và hỏi ý kiến. Sư  cho biết bài thơ có ý tôn trọng vua mình như vua Tống.Thấy vậy vua Lê Đại Hành rất hài lòng, sai sư Khuông Việt làm bài thơ tiễn sứ về nước như sau ( tạm dịch):

"Gió xuân đầm ấm cánh buồm giương
Trông vị thần tiên về đế hương,
Muôn lần non nước vượt trùng giương.
Đường về bao dặm trường,
Nhớ vị sử lang
Xin lưu ý việc biên cương,
Tâu rõ lên thánh hoàng."

Lý Giác lạy tạ vua lên xe về Bắc, lòng khâm phục nhân tài Đại Việt, lần này về triều phải tâu rõ hoàng thượng nên tỏ ra hòa bình chứ không nên đối đầu với họ.


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 25 Tháng Tám, 2011, 08:09:01 am
Những sứ thần Đại Việt ngày xưa như thế đấy

Thực hiện đường lối ngoại giao giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, nêu cao chính nghĩa, hoà hiếu là một nhiệm vụ cực kì khó khăn của một nước nhỏ luôn phải đối phó với những âm mưu bành trướng thôn tính của nước lớn. Các vương triều Đại Việt ngày xưa chưa có cơ quan chuyên trách ngoại giao, chưa có người làm ngoại giao chuyên nghiệp, khi cần người đi sứ hay tiếp sứ thì vua, chúa cử trong số các quan lại triều đình. Trong việc bang giao ngày xưa, ngoài những việc về lễ nghi như triều cống theo lệ, xin phong vương, báo tang, chúc mừng Thiên tử lên ngôi hay chia buồn, thì công việc ngoại giao quan trọng nhất của các sứ thần là giải quyết những tranh chấp về đất đai, đấu tranh giữ gìn toàn vẹn lãnh thổ không để cho các biên thần của Thiên triều lấn chiếm vùng biên giới của nước ta, làm những việc đã rồi, hoặc xin hoãn binh hoặc giải quyết những hậu quả chiến tranh giữa hai nước, duy trì hòa bình là những việc lớn liên quan đến an nguy của đất nước.
 
Vì vậy những quan lại được cử làm ngoại giao, lập sứ hay đi sứ đều là những quan lại giỏi, “trí dũng song toàn”. Những nhà ngoại giao Đại Việt là đại diện cho một quốc gia văn hiến luôn chứng tỏ cho Thiên triều biết nước ta cũng là một nước văn hiến không kém gì thượng quốc. Những người đi sứ ngày xưa đều đã thuộc lòng những câu trong sách Luận ngữ: “Sứ ư tứ phương, bất nhục quân mệnh, khả vi sĩ hỉ”. Nghĩa là: Kẻ sĩ đi sứ bốn phương, không làm nhục mệnh vua, được như thế mới gọi là kẻ sĩ. “Sứ ư tứ phương, bất năng chuyên đối, tuy đã diệc hề dĩ vi”. Nghĩa là: Đi sứ bốn phương, tự mình không có tài ứng đối, thì học nhiều mà làm gì.

Cho đến đời Lê, các nhà ngoại giao hầu hết là những người đã đỗ đại khoa, nhiều người là trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa, có người là những nhà ngoại giao chiến lược như Lý Thường Kiệt, Nguyễn Trãi, Ngô Thì Nhậm với chủ trương đường lối ngoại giao được thi hành trong vài ba chục năm và có rất nhiều nhà ngoại giao đã thực hiện xuất sắc nhiệm vụ của triều đình giao phó, đã “Đem chuông đi đấm nước người”. Không làm nhục mệnh vua, giữ gìn được quốc thể, bảo vệ được lợi ích dân tộc, đòi hỏi sứ thần phải tinh thông địa lí, lịch sử, văn hoá nước mình, nước người, tài năng mẫn tiệp, ứng đối nhanh trí, thông minh, lịch lãm. Lịch sử còn ghi lại lý lẽ đấu tranh của trạng nguyên Lê Văn Thịnh, tài ứng đối của trung nguyên Mạc Đĩnh Chi với quan lại triều Nguyên trong bao nhiêu việc đến mức độ lưu truyền trong nước là ông được phong “Lưỡng quốc trạng nguyên”, tài biện luận của Nguyễn Trung Ngạn, Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Đăng Đạo, Nguyễn Công Hãng, Hồ Phi Tích, Nguyễn Công Nhuận trong việc đòi đất bị lấn chiếm ở vùng biên giới. Lê Quý Đôn đi sứ đã làm cho các quan nhà Thanh phải hết lời khen ngợi, kính phục mà nói rằng nhân tài nước Nam như Lê tiên sinh thì ngay cả Trung Hoa cũng chỉ có đến 1, 2 người. Không những thế, với học vấn uyên bác, lịch lãm Lê Quý Đôn còn làm cho cả sứ thần các nước láng giềng như Lưu Cầu, Triều Tiên phải kính phục, ông lại xây đắp thêm tình hữu nghị giữa hai nước với việc giới thiệu nền văn hiến nước nhà. Dưới triều Tây Sơn, những nhà ngoại giao như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Đoàn Nguyên Tuấn đều là những nhà văn hoá lớn đã làm nên trang sử ngoại giao vẻ vang của triều đại Quang Trung.

Một biểu hiện nữa của chữ “Trí” của các nhà ngoại giao Đại Việt là phải biết làm thơ, làm thơ thù tiếp các quan lại địa phương ra đón, làm thơ thù phụng với các quan sứ trong triều, làm thơ mừng chúc thọ vua, làm thơ khi đón tiếp sứ thần nước ngoài đến kinh đô phong vương, làm thơ tiễn biệt... Việc là thơ tuy không bắt buộc nhưng là một biểu hiện trình độ văn hoá của sứ thần, của thần dân một nước có văn hiến. Chính một sứ thần Trung Hoa là Tiền Phổ sang phong vương cho Lê Thánh Tông năm 1462 đã yêu cầu khi tiếp đón sứ phải biết làm thơ để bộc lộ cái chí cho người khác biết. Về việc làm thơ của các sứ thần thì có lẽ không lấy gì làm khó khăn vì người nào ngày xưa cắp sách đi học mà không biết làm thơ, huống chi những sứ thần đều là những người đã đỗ đạt trung, đại khoa. Làm thơ tưởng như là chuyện thong thả vui chơi, hàn huyên tâm sự, nhưng đối với các sứ thần thì quả thật không chỉ là chuyện giao hảo, phải tuỳ theo quan hệ giữa 2 nước trong từng thời kỳ mà thể hiện tình hòa hiếu, tự cường dân tộc. Trong dân gian ta thường có câu: “Miếng trầu là đầu câu chuyện”, còn trong việc bang giao giữa các sứ thần ngày xưa thì bài thơ cũng có thể coi như mở đầu cho việc giao dịch bàn bạc thuận lợi. Phùng Khắc Khoan sang Yên Kinh cầu phong vương cho vua Lê Thế Tông năm 1597 đã bị để nằm ở công quán 4,5 tháng trời không được dâng biểu. Nhân dịp vua Minh Thần Tông mừng thọ 80 tuổi, ông đã làm 31 bài thơ chúc thọ trong tập Vạn thọ vô cương dâng lên, đến được tay vua Minh xem, được khen là trung hậu và sau đó đã nhận biểu phong cho vua Lê. Đường lối “ngoại giao văn chương” đã do sứ thần Phùng Khắc Khoan sáng tạo sử dụng từ thế kỷ 16.
.....
( còn tiếp )


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 25 Tháng Tám, 2011, 08:12:30 am
Những sứ thần Đại Việt ngày xưa như thế đấy
.....
Tiếp

Cùng với chữ Trí, tài năng văn hoá sâu rộng tiêu biểu cho nền văn hiến của quốc gia, các nhà ngoại giao Đại Việt đã thấm nhuần chữ Dũng, nghìn là có dũng khí, can đảm, bất khuất, không sợ chết trước mặt đối phương, không sợ gian khổ khi đi làm nhiệm vụ vua giao phó: Kiều Văn Ứng vâng lệnh Lý Thường Kiệt sang trại giặc bàn với Quách Quỳ, bao nhiêu sứ thần đời Trần đi sứ quân Nguyên trong 3 lần chiến tranh là coi như đi vào cái chết nhưng tất cả đều vâng mệnh vua. Đỗ Khắc Chung xung phong vào trại Ô Mã Nhi xin hoãn binh... Nhiều sứ thần bị giam giữ như Đào Tử Kỳ bị giam ở Giang Lăng 1 năm, Trịnh Đình Toàn, Nguyễn Nghĩa Toàn và 34 hành nhân đã bị nhà Nguyên giam giữ. Lâu hơn cả là Lê Quang Bí đi sứ năm 1548, bí giam cầm đến 18 năm mà được tha về. Ngô Tử Can đi sứ Chiêm Thành cũng bị giữ lại. Hơn thế nữa, có sứ thần còn bị giết hại như Nguyễn Nhật Tư và Lê Ngân sang cầu phong cho Trần Quý Khoáng vào năm 1411 đã bị vua Minh giết hại, Nguyễn Biểu đã bị tướng Minh thử thách tinh thần bằng cách dọn cho ăn cỗ là đầu một người Việt Nam đã bị chúng bắt giết rồi sau đó đem trói dưới chân cầu cho nước dâng lên dìm chết.

Không những phải có dũng khí trước mặt đối phương, các sứ thần Việt Nam còn phải dũng cảm vượt qua bao nhiêu gian khổ trên đường đi sứ. Phải vượt hàng vạn km bằng đường bộ, đường thuỷ, khi đi xe ngựa, khi đi thuyền trong thời gian cả đi và về kéo dài đến gần hai năm, khi mưa, khi nắng gió, khi tuyết rơi lạnh buốt, khi đắm thuyền, khi mưa dột không chỗ che thân, khi bị mất trộm cả tư trang lẫn đồ triều phục, khi ốm đau bệnh tật phải bỏ xác nơi đất khách quê người trên đoạn đường dài hàng vạn km mà sử sách cũ đã không ghi lại hết. Sứ thần Phạm Mưu chết trên đường đi sứ Nguyên năm 1295, Doãn Bang Hiến chết năm 1322, Phó sứ Phan Ninh, hành nhân Nguyễn Cát Phu cùng 7 nhân viên đi sứ Minh bị bệnh dịch chết năm 1435, Phạm Quang Tiến đời Mạc đi sứ chết trên đường đi năm 1530, Bùi Bỉnh Quân chết năm 1632, Đinh Nho Hoàn đi sứ nhà Thanh chết năm 1821, sứ bộ Phạm Hi Lượng đi sứ nhà Thanh năm 1870 bị chết 3 người, sứ bộ Phan Thanh Giản đi sứ Pháp năm 1863 cũng có 2 người bị chết…

Một chuyện nữa mà chúng ta không thể không nhắc đến là ngoài nhiệm vụ chính là công việc chính trị được giao, các sứ thần Đại Việt đã góp phần quan trọng trong việc tiếp thu và phổ biến những kĩ thuật học tập được trong khi đi sứ. “Đi một ngày đàng học một sàng khôn”, trong nhiều chuyến đi sứ, một số sứ thần đã chú ý học nghề, tìm hiểu các bí mật nghề nghiệp, kĩ thuật cao, để mang về nước, truyền bá cho dân. Trong dân gian vẫn thường kể chuyện về một số sứ thần đã để công học hỏi kĩ thuật các nghề thủ công ở nước ngoài đem về dạy cho dân trong nước. Trần Lư quê làng Bình Vọng, nay thuộc huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây, tinh thông nghề thuốc nên trong lần đi sứ năm 1488 sang Trung Quốc, được cử làm người bốc thuốc cho các sứ thần. Năm 1502 ông thi đỗ Tiến sĩ, đến năm 1505 ông được cử làm Phó sứ sứ bộ sang Trung Quốc. Trong 2 lần đi sứ ông đều có ý tìm tòi học hỏi nghề vẽ sơn trang trí. Khi về nước ông đã dạy cho dân trong làng và xung quanh nghề vẽ sơn trang trí. Phùng Khắc Khoan quê làng Phùng Xá (còn gọi là làng Bùng), huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây, thi đỗ Hoàng Giáp năm 1580, được cử đi sứ 2 lần vào năm 1597 và 1606. Trên đường đi sứ qua các vùng dệt lụa ở Trung Quốc, ông đã để ý xem xét dân địa phương kéo tơ từ kén tằm sao cho nhỏ, kĩ thuật làm cho sợi tơ thêm bóng, mềm và mượt. Ông cũng để ý đến kết cấu của các khung cửi sao cho dệt được nhiều loại lụa, cách dệt lụa sao cho mịn và bóng. Khi về nước ông đã phổ biến kĩ thuật đó cho dân làng, vì thế nên dân làng Bùng đã dệt được một thứ lụa mượt, mềm và bóng, gọi là lượt. Lượt của làng Bùng nổi tiếng trong cả nước từ đó, dần dần nghề dệt lượt được lan truyền đi các vùng khác. Trong nhiều sách cũng đều chép ông là người đã đem các hạt giống đậu đen, đậu nành (đậu tương) và hạt ngô, giấu trong chỗ kín trong người khi qua cửa ải về nước, để phổ biến cho dân trong nước gieo trồng, làm cho ngũ cốc thêm phong phú hơn. Trần Quốc Khái người xã Quất Động, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây, đỗ Tiến sĩ năm 1637 được cử đi sứ nhà Minh, ông đã tìm cách học được nghề thêu và nghề làm lọng. Khi về nước ông truyền dạy cho dân làng và xung quanh. Khi ông mất, dân làng đã lập đền thờ và tôn là tổ nghề thêu. Đặng Huy Thứ người xã Hương Xuân, huyện Hương Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, đỗ Tiến sĩ năm 1847 được vua Tự Đức cử đi sứ 2 lần đến Quảng Châu, Hồng Kông, Ma Cao. Khi về nước, ông đã đề xuất nhiều cải cách về kinh tế, mở mang việc thương mại. Chính ông là người đã mua máy ảnh và phụ tùng về mở hiệu ảnh đầu tiên ở Hà Nội vào năm 1869, lấy tên hiệu là Cảm Hiếu Đường. Mục đích mở hiệu ảnh không phải là kinh doanh kiếm lời mà là để quảng cáo khoa học kĩ thuật mới trên thế giới và giúp cho con cháu có tấm ảnh thờ cha mẹ khi qua đời cho trọn chữ hiếu (nên có tên hiệu là Cảm Hiếu Đường).

Năm 1863, vua Tự Đức cử sứ bộ Phan Thanh Giản sang Pháp để điều đình xin chuộc lại 3 tỉnh miền Đông. Trong thời gian ở Pháp, Chánh sứ Phan Thanh Giản đã mời đại sứ nước Áo và Thổ Nhĩ Kì đến để tìm hiểu về các loại thuế hàng hoá ở hai nước này với hi vọng làm cho nền tài chính đất nước thoát khỏi khó khăn. Cũng chính trong dịp đi sứ này, Phó sứ Phạm Phú Thứ đã học hỏi người dân Ai Cập cách lấy nước tưới ruộng bằng xe trâu và đã phổ biến ở miền Trung khi ông về nước, mọi người đều làm theo vì thấy rất có lợi so với dùng sức người.

Thật đáng kính trọng biết bao những nhà ngoại giao Đại Việt mang trong mình những phẩm chất cao quý, “trí dũng song toàn”, truyền thống anh hùng bất khuất của đất nước Việt Nam. Thiết nghĩ những phẩm chất của họ vẫn là những bài học bổ ích cần thiết cho các nhà ngoại giao ngày nay. Tất nhiên chữ Trí ngày nay cũng bao hàm một nội dung mới phù hợp với thời đại (như tinh thông ngoại ngữ, hiểu biết địa lí, lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hoá, đường lối của đối phương, hiểu biết đến một mức độ nhất định khoa học kĩ thuật... Chữ Dũng thể hiện ở chỗ vượt lên mọi khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ được giao, luôn đặt lợi ích của đất nước lên trên, dám nêu những nhận định chủ quan, những kiến giải phục vụ sự phát triển của dân tộc. Ngày nay vai trò của các nhà ngoại giao trong việc tiếp thu những thành tựu của khoa học xã hội, nhân văn và khoa học kĩ thuật tiến bộ trên thế giới, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội trong nước, đẩy mạnh giao lưu văn hoá, xã hội với các nước là không thể thiếu được...

Nguồn: quehuongonline.vn


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: lonesome trong 26 Tháng Tám, 2011, 11:38:42 am
Bác ơi, Mạc Đĩnh Chi mới đúng chứ nhỉ?


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 26 Tháng Tám, 2011, 12:19:12 pm
Bác ơi, Mạc Đĩnh Chi mới đúng chứ nhỉ?

Ý chú Sồm định nói đến câu chuyện, hay đoạn nào vậy  ???


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 03 Tháng Chín, 2011, 08:36:38 pm
Tiếp chuyện lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi đi sứ nhà Nguyên:

Một hôm Mạc Đĩnh Chi cùng với phái bộ triều Nguyên đi chơi. Tới gần một cái cầu, chẳng may Trạng Việt Nam bị sa hố, phái bộ đều chạy lại để đỡ ông dậy. Để đùa vui, họ ra cho ông một vế câu đối:

Can mộc, hoành cừ, lục giả tương như tự đạo
(Nghĩa là: Gỗ thẳng, cầu ngang, đường đi ngỡ là đất phẳng)

Cái khó của câu này là ở chỗ dùng toàn tên người ghép lại. Theo đó, can mộc là Đoàn Can Mộc - một nhân vật đời Chiến quốc, Hoành Cừ: tên hiệu của Trương Tải - một triết gia đời Bắc Tống, Lục Giả: người nước Sở, giỏi biện luận, theo giúp Hán Cao Tổ, tương như: Lạn Tương Như, một nhân vật nổi tiếng đời Chiến Quốc, tự đạo: Giả Tự Đạo, người đời nhà Tống, một quyền thần chuyên chế.

Mạc Đĩnh Chi nhìn quanh nom thấy ở bên kia sông có cái đình dưới chân núi, nhân thế chỉ tay thẳng đình mà đối:

Đại đình, an thạch, vọng chi nghiễm nhược Thai sơn
(Nghĩa là: Đình to, đá vững, nhác nom như thể Thiên Thai)

Câu này cũng dùng toàn tên người ghép lại như ở câu trên mà lại có ý khoáng đạt hơn nhiều, theo đó Đại Đình là một biệt hiệu của Thần Nông, an thạch tức Vương An Thạch thừa tướng đời Bắc Tống, Vọng Chí là người đời Hán, làm phụ chính cho Hán Nguyên đế (hai từ "nghiễm nhược" và "Thai sơn", các nhà nghiên cứu cho biết chưa tra cứu ra là ai).

Một lần nữa, người Nguyên lại phải khâm phục tài văn học của Mạc Đĩnh Chi.

Link: http://nhantai.vn/nhantai/158/TalentId/137/Nhan_tai_Mac_Dinh_Chi.aspx

 


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 03 Tháng Chín, 2011, 08:42:01 pm
Câu chuyện 25:
Trần Quang Khải

(http://nhantai.vn/nammedia_thumb.ashx?type=talentdetail&file=~/Portals/0/images/Nhantai/TranQuangKhai_NhanTai.vn.jpg)

Trần Quang Khải (chữ Hán: 陳光啓; 1241-1294), con thứ ba của Trần Thái Tông, là đại tướng đời nhà Trần, làm đến chức Tướng quốc đời Trần Thánh Tông, coi cả mọi việc trong nước. Sang đời Trần Nhân Tông, năm Thiệu Bảo tứ tư, khi quân Nguyên xâm lăng bờ cõi nước Nam, ông được phong chức Thượng tướng Thái sư, lãnh binh trấn giữ mặt Nam đất Nghệ An, lập công lớn tại Chương Dương Độ. Khi dẹp tan quân Nguyên, triều đình xét công, ông đứng vào bậc nhất.

Trần Quang Khải còn là một nhà ngoại giao giỏi. Năm 1281, khi nhà Nguyên chuẩn bị xâm lược Việt Nam lần thứ hai, chúng cho Sài Thung đem 1.000 quân đưa bọn Trần Dĩ ái về nước. Khi tới biên giới, quân Nguyên bị nhà Trần phục đánh. Trần Dĩ ái bỏ chạy. Sài Thung được "rước" về Thăng Long để dùng vào kế hoãn binh để có thêm thời gian chuẩn bị đối phó với giặc. Lúc Sài Thung về Trung Quốc, Trần Quang Khải làm bài thơ tiễn tặng rất thân, nhã, đoạn kết có câu viết:

Vị thẩm hà thời trùng đỗ diện,
Ân cần ác thủ tự huyên lương.
(Chưa biết ngày nào lại cùng gặp mặt,
Để ân cần nắm tay nhau hàn huyên).

Đối với viên sứ giả hống hách của một nước sắp tràn quân sang xâm lược, thái độ Trần Quang Khải vẫn ung dung, niềm nở như vậy, đó cũng thể hiện một nghệ thuật ngoại giao khôn khéo của ông và con người Việt Nam thời ấy.

Link: http://nhantai.vn/nhantai/158/TalentId/79/Tran_Quang_Khai.aspx


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 23 Tháng Chín, 2011, 07:19:21 pm
...Sứ thần Giang Văn Minh

...Những ngày ở lại kinh đô nhà Minh, Giang Văn Minh vẫn cứ tỏ thái độ cứng cỏi, đôi lúc cũng ngông cuồng. Có lần sau những ngày mưa gió ẩm ướt, trời nắng to, thiên hạ ai cũng đi dạo chơi, ngắm cảnh, sưởi ấm, riêng ông lại nằm nhà, ra sân, phanh bụng để... phơi nắng! Bọn quan chức Tàu hỏi tại sao, thì ông nói:

- Lâu nay học hành, sách vở thiên hạ có bao nhiêu, đều thu cả vào trong bụng này. Bên nước Nam, thời tiết hanh khô, chứ bên Trung Quốc thì ẩm ướt quá. Hôm nay được trời nắng to phải phơi bụng ra cho chữ trong ấy khỏi mốc!

Câu trả lời nghịch ngợm, hóm hỉnh thôi. Nhưng bọn quan lại hiểu ra là ông có ý khinh bỉ, ngạo đời.

(http://wapedia.mobi/thumb/82ed508/vi/max/470/720/Mo_Tham_Hoa_Giang_Van_Minh.jpg?format=jpg%2Cpng%2Cgif)

Mộ thám hoa Giang Văn Minh

(http://wapedia.mobi/thumb/82ed508/vi/max/1440/1800/Nha_Tho_Tham_Hoa_Giang_Van_Minh.jpg?format=jpg%2Cpng%2Cgif&ctf=0?format=jpg,png,gif&loadexternal=1)

Nhà thờ thám hoa Giang Văn Minh

Link: http://nhantai.vn/nhantai/158/TalentId/139/Nhan_tai_Giang_Van_Minh.aspx


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 23 Tháng Chín, 2011, 07:40:17 pm
Câu chuyện 26:
Trần Nhật Duật - Nhà ngoại giao tài ba

(http://nhantai.vn/nammedia_thumb.ashx?type=talentdetail&file=~/Portals/0/images/Nhantai/TranNhatDuat_NhanTai.vn.jpg)

Trần Nhật Duật nổi tiếng hiểu nhiều biết rộng. Ngoài việc thông thạo nhiều ngoại ngữ, ông còn có sự hiểu biết sâu rộng về các nước láng giềng. Học tiếng Tống và tiếng Chiêm Thành, Nhật Duật chẳng những sử dụng thành thạo các ngôn ngữ ấy mà còn am hiểu nhiều mặt của các nước đó, kể cả phong tục tập quán của họ. Đối với các dân tộc trong nước, Nhật Duật không những hiểu tiếng mà còn hiểu cả tâm tư người khác.

Ngoài 20 tuổi, Trần Nhật Duật đã được triều đình nhà Trần giao đặc trách những công việc về các dân tộc có liên quan.

Khi tiếp xúc với các sứ thần nhà Nguyên, ông vui vẻ, tự nhiên trò chuyện suốt cả một ngày, khiến sứ Nguyên cho rằng Nhật Duật là người Hán ở Chân Định (nước Triệu cũ) (gần Bắc Kinh) sang làm quan bên Đại Việt.

Năm 1280, chúa đạo Đà Giang (thuộc miền Tây Bắc ngày nay) là Trịnh Giác Mật nổi lên nổi lên cự lại triều đình. Cùng lúc đó nhà Nguyên đang sửa soạn đại binh đánh Đại Việt. Với nhu cầu cấp bách phải dẹp ngay mối bất hòa trong nước, vua Trần phái Trần Nhật Duật làm "Trấn thủ Đà Giang" ra quân đi dẹp.

Hay tin, Trịnh Giác Mật họp thủ hạ bàn kế cự chiến. Giác Mật định ám hại ông nên sai người đưa thư dụ Nhật Duật: "Giác Mật không dám trái lệnh triều đình. Nếu ân chủ một mình một ngựa đến, Giác Mật xin ra hàng ngay". Các tướng can ngăn e Giác Mật tráo trở, ông chỉ nói nếu có như vậy triều đình sẽ cử một vương khác tới làm tướng, rồi ông một mình một ngựa đến trại Giác Mật, chỉ mang theo mấy tiểu đồng cắp tráp đi hầu. Thản nhiên đi giữa lớp lớp gươm giáo và đám lính sắc phục kỳ dị cố ý phô trương uy hiếp của Giác Mật, Nhật Duật nói với chúa đạo bằng chính ngôn ngữ và theo đúng phong tục của dân tộc Đà Giang:

"Lũ tiểu đồng của ta khi đi đường thì nóng tai trái, vào đây thì nóng tai phải."

Từ Giác Mật đến các đầu mục đều kinh ngạc trước sự am hiểu tiếng nói và tục lệ của ông. Rồi Giác mật sai bưng mâm rượu lên. Giác Mật mời ông uống. Trần Nhật Duật không chút ngần ngại, cầm thịt ăn rồi vừa nhai vừa ngửa mặt, cầm gáo rượu bầu từ từ dốc vào mũi hết sức thành thạo.

Trịnh Giác Mật kinh ngạc thốt lên: "Chiêu Văn Vương là anh em với ta rồi!".

Nhật Duật nói: "Chúng ta xưa nay vẫn là anh em". Trịnh Giác Mật nhanh chóng chịu quy thuận, khiến nhà Trần yên ổn được biên giới Tây Bắc để tập trung chống quân Mông Nguyên.

Link: http://nhantai.vn/nhantai/158/TalentId/77/Nhan_tai_Tran_Nhat_Duat.aspx



Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 23 Tháng Chín, 2011, 07:50:00 pm
Câu chuyện 27:

Chính sách ngoại giao của Trần Thánh Tông

(http://nhantai.vn/nammedia_thumb.ashx?type=talentdetail&file=~/Portals/0/images/Nhantai/TranThanhTong_NhanTai.vn.jpg)

Quan hệ với Nam Tống

Năm 1258, Trần Thánh Tông sai sứ sang Nam Tống báo việc lên ngôi và được phong làm An Nam quốc vương. Sau đó dù Nam Tống đã suy yếu trước sự uy hiếp của Mông Cổ, ông vẫn giữ quan hệ.

Để giữ tình bang giao với Đại Việt, khi Thánh Tông sai sứ mang đồ cống sang, vua Tống cũng tặng lại các sản vật của Trung Quốc như chè, đồ sứ, tơ lụa; không những gửi cho Thánh Tông mà còn tặng cả sứ giả. Việc duy trì quan hệ với Nam Tống ngoài ý nghĩa giao hảo nước lớn còn nhằm mục đích nắm tình hình phương bắc.

Sau này Nam Tống bị nhà Nguyên đánh bại, phải rút vào nơi hiểm yếu, từ đó mới không còn qua lại với Đại Việt. Nhiều quan lại và binh sĩ Tống không thần phục người Mông đã sang xin nương nhờ Đại Việt. Trần Thánh Tông tiếp nhận họ, ban cho chức tước và cử người quản lý.

Quan hệ với Nguyên Mông

Trần Thánh Tông duy trì lệ cống nhà Nguyên 3 năm 1 lần, mỗi lần đều phải cống nho sĩ, thầy thuốc, thầy bói và thợ thuyền mỗi hạng ba người, cùng với các sản vật như là sừng tê, ngà voi, đồi mồi, châu báu…

Vua Mông Cổ lại đặt quan Đạt-lỗ-hoa-xích (tức là quan Chưởng ấn) để đi lại giám trị các châu quận Đại Việt. Ý Mông Cổ muốn tìm hiểu nhân vật, tài sản Đại Việt để liệu đường mà đánh chiếm.

Thánh Tông bề ngoài tuy vẫn chịu thần phục, nhưng ông biết ý đồ của vua Mông, nên tiếp tục luyện binh dụng võ để phòng chiến tranh. Ông cho tuyển đinh tráng các lộ làm lính, phân quân ngũ ra làm quân và đô, bắt phải luyện tập luôn.

Từ năm 1271, Hốt Tất Liệt đặt quốc hiệu là Nguyên, trong lúc bình định nốt miền nam Trung Quốc muốn dụ vua Đại Việt sang hàng phục, để khỏi cần động binh. Cứ vài năm, Mông Cổ lại cho sứ sang sách nhiễu Đại Việt và dụ vua An Nam sang chầu, nhưng vua Trần lấy cớ thoái thác.

Năm 1272, hoàng đế nhà Nguyên cho sứ sang lấy cớ tìm cột đồng trụ của Mã Viện trồng ngày trước, nhưng Thánh Tông sai quan sang nói rằng: cột ấy lâu ngày mất đi rồi, không biết đâu mà tìm nữa. Vua Nguyên bèn thôi không hỏi nữa.

Năm 1275 Trần Thánh Tông sai sứ sang nói với hoàng đế nhà Nguyên rằng:

Nước Nam không phải là nước Mường mán mà đặt quan giám trị, xin đổi quan Đại-lỗ-hoa-xích làm quan Dẫn tiến sứ.

Vua nhà Nguyên không cho, lại bắt vua Trần sang chầu. Thánh tông cũng không chịu. Từ đấy vua nhà Nguyên thấy dùng ngoại giao để khuất phục nhà Trần không được, quyết ý cử binh sang đánh Đại Việt. Nguyên Thế Tổ cho quan ở biên giới do thám địa thế Đại Việt, Trần Thánh Tông cũng đặt quan quân phòng bị.

Sau khi nhà Nguyên diệt Nam Tống (1279), Đại Việt càng đứng trước nguy cơ bị xâm lăng từ đế quốc khổng lồ này.

Link: http://nhantai.vn/nhantai/158/TalentId/83/Nhan_tai_Tran_Thanh_Tong.aspx


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 23 Tháng Mười, 2011, 07:53:51 am
Câu chuyện 28:

Hà Tông Mục dùng tài ngoại giao buộc quân Thanh rút khỏi châu Bảo Lạc

Hà Tông Mục sinh ngày 25/9 năm Quý Tỵ (1653)  quê xã Tùng Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.

Năm Quý Tỵ đỗ Trường Sinh, năm Ất Mão (1675) đỗ đầu khoa thi Hương, thi Hội đỗ Tam Trường, năm Giáp Tý (1684) đỗ đầu khoa Sỹ Vọng, năm Mậu Thìn (1688) đỗ Tam Giáp đồng tiến sỹ xuất thân. Hiện nay, ở Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội có tấm bia đá tiến sĩ lập năm Vĩnh Thịnh thứ 18 (1717) có tên là Hà Tông Mục đồng tiến sĩ xuất thân. Ông làm quan tại viện Hàn Lâm, đốc đồng hai xứ Tuyên Hưng, tuần phủ tỉnh An Biên (Hà Giang).

Tháng 4/1697, năm Chính Hòa thứ 18 làm phủ Doãn, phủ Phụng Thiên kinh thánh Thăng Long, ông cùng Lê Huy, Nguyễn Quý Đức và 20 tiến sỹ soạn cuốn lịch sử "Đại Việt sử ký tục biên".

Năm Chính Hòa thứ 20, ông Hà Tông Mục được triều đình thời Lê Dụ Tông giao trọng trách đi đàm phán đấu tranh với đại diện nhà Thanh ngăn chặn không cho quân Thanh xâm chiếm châu Bảo Lạc (tỉnh Cao Bằng). Tháng tư năm 1699. Vua Lê Dụ Tông ra lệnh cho Hà Tông Mục cùng Nguyễn Hành đi kinh lược miền tây ở châu Bảo Lạc. Biên giới châu Bảo Lạc giáp với châu Trấn Yên của nhà Thanh.

Quân Thanh vượt biên giới sang Bảo Lạc cướp bóc, nhũng nhiễu nhân dân đói khổ phải bỏ sản xuất, nhà cửa vào rừng sâu lãnh nạn. Quan quân ở địa phương yếu thế không thể chế ngự được chúng. Hà Tông Mục đến Bảo Lạc nắm tình hình rồi gửi thư cho Sầm Sa Phương, đại diện quân Thanh cho biết về lý lẽ và sự việc xảy ra bất ổn cho nền bang giao giữa hai nước. Sầm Sa Phương đáp thư, tỏ ý hổ thẹn và tạ lỗi, xin rút quân về nước. Nhờ đó nhân dân vùng biên ải Bảo Lạc được an cư lạc nghiệp.

Khi về Kinh đô Thăng Long, Hà Tông Mục được chúa Trịnh khen là người có tài ngoại giao và phong làm Tự Khanh hành, đô cấp sự trung. Năm Quý Mùi (1703), triều đình cử ông làm chánh sứ sang triều đình nhà Thanh để tìm cách giải quyết hòa hiếu giữa hai nước. Do đối đáp ứng xử thông minh, Hà Tông Mục được vua Khang Hy rất trọng nể, tự tay viết ba chữ ''Nhược Xung thiên" (nghĩa là khen ngợi tính khiêm nhường, trí tuệ thông minh, trí khí cao cả).

Sự thành công trong công việc giải quyết các vụ xâm lấn biên giới ở Bảo Lạc năm 1699 và trong lần đi sứ năm 1703 của Hà Tông Mục đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng một thời kỳ bang giao hòa bình, hữu hảo, yên bình giữa biên giới hai nước láng giềng trên nửa thế kỷ.

Ngày 16/2 năm Giáp Thân (1704) ông được thăng chức Tả thị lang bộ hình, tước Hoa Linh Nam. Năm Bính Tuất, Vĩnh Thịnh thứ hai (1706) ông giữ chức Tham chính, Thừa chính xứ Sơn Nam. Do bệnh nặng ông mất ngày 7/3/1707.

Vua Lê Dụ Tông thương xót ban đặc sắc phong "Quang Tiến Vĩnh Lộc đại phu" Bồi tụng hình bộ tả thị lang, Hoa Linh Nam có công ngoại giao, làm yên bờ cõi biên cương, đi sứ phương Bắc chăm lo việc nước, nay mất khi tại chức, thật đáng xót thương chuẩn y tặng "Đặc tiến kim từ Vĩnh Lộc đại phu''.

Ở quê ông, nhân dân lập miếu thờ, tôn ông làm ông tổ của làng (Thần hoàng làng). Ngày 24/1/1998, nhà thờ Hà Tông Mục ở quê ông được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là di tích văn hóa cấp Quốc gia.

Theo Báo Cao Bằng

Link: http://caobangpro.com/con-nguoi/94-con-nguoi/533-ha-tong-muc.html

Do những cống hiến đặc biệt xuất sắc của ông, dân làng quê hương ông lập Miếu thờ ông có tên đền Sinh Từ, đặc biệt được lập ngay khi ông còn sống lúc ông 42 tuổi... :o :o :o 


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 10 Tháng Mười Một, 2011, 12:13:36 pm
Câu chuyện 29:

Lưỡng Quốc Thượng Thư Nguyễn Sư Mạnh

Nguyễn Sư Mạnh đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân năm 1484, đời Lê Thánh Tông. Được bổ làm quan, ông luôn là quan thanh liêm, cương trực, được nhà vua tin cậy, phong cho chức Thượng thư Bộ Lễ, tước Sùng Tín hầu.

Thời ấy, giữa hai nước Đại Việt và Trung Hoa có nhiều bất hoà. Nguyễn Sư Mạnh vốn là người biết nhiều, hiểu rộng, được vua Lê cử đi sứ Trung Quốc vào năm 1500. Có nhiều giai thoại về chuyến đi sứ này, được đòng họ Nguyễn truyền.tụng và ghi vào tộc phả. Khi vào yết kiến vua Minh, không biết vô tình hay hữu ý, Nguyễn Sư Mạnh không cài khuy áo, đế hở cả bụng. Vua Minh giận dữ, cho là sứ thần nước Nam thất lễ, hạch tội khi quân, định trục xuất về nước. Nguyễn Sư Mạnh quỳ tâu rằng: ''Vì đường sá xa xôi, bụng thần đầy chữ, nhiều ngày đi đường âm u, ẩm ướt, sợ khú mất chữ thánh hiền, thần xin được phanh áo ra hong, mong nhà vua đại xá''.

Nghe vậy, vua Minh vừa muốn thử tài, vừa muốn hại người nước Nam, ra chiếu: ''Nếu sứ thần nước Nam là người hay chữ thì hãy giúp thiên triều chép lại thiên 'Vi chính' trong sách 'Luận ngữ' mới bị thất lạc". Nguyễn Sự Mạnh nhận lời và hỏi lại: ''Đại vương cần thiên 'Vi chính' trong bao nhiêu ngày?''. ''Trong 30 ngày phải hoàn tất", vua Minh nói và hạ lệnh cho sứ thần nước Nam không được ra khỏi dinh thự trong 30 ngày, đồng thời cho ngươi theo dõi, chắc mẩm Nguyễn Sư Mạnh không làm nổi.

Lạ thay, gần hết thời hạn quy định mà không thấy sứ thần làm gì, chỉ ngồi đánh cờ. Đến ngày thứ 25, vua Minh sai người nhắc nhở, Nguyễn Sư Mạnh trả lời: “Ngày mai thần sẽ viết”. Đến ngày thứ 29, ông đã đưa thiên "Vi chính" cho vua Minh. Nhận sách, vua Minh khen sứ thần có trí nhớ tuyệt vời, sách chép lại y như bản chính, chỉ có chữ "công'' thừa một dấu chấm. Vua Minh hạch tội, Nguyễn Sư Mạnh khảng khái nói: ''Nếu thần viết thừa dấu chấm thì chắc chắn bản gốc của thượng quốc cũng thừa''. Vua Minh cho đem bản gốc ra so sánh thì y như lời Nguyễn Sư Mạnh, chữ ''công'' cũng thừa dấu chấm thật.

Phục tài, vua Minh không lý gì để làm hại sứ thần nước Nam, lại phong cho ông chức thượng thư của Trung Quốc. Bốn chữ ''Lưỡng quốc thượng thư” được khắc tại từ đường họ Nguyễn Cổ Đô nhắc đến công lao của nhà ngoại giao đại tài Nguyễn Sư Mạnh.

Từ đó, Nguyễn Sư Mạnh được nhà Lê tin dùng và được ban quốc tính (họ của vua), được gả công chúa và phong chức Vinh Lộc Đại Phu, trông coi Viện Hàn lâm, kiêm Đông các Đại học sĩ. Tuy vậy, ông vẫn sống giản dị, cửa nhà đơn sơ, tài sản không có gì đáng giá. Ông thọ 82 tuổi.

Link: http://lichsuvn.info/forum/showthread.php?t=19037


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 10 Tháng Mười Một, 2011, 12:33:29 pm
Câu chuyện 30:

Trạng “Lợn” - Nguyễn Nghiêu Trư

Ông hiệu là Tùng Khê người xã Phù Lương, huyện Võ Giàng, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc.

Tương truyền lúc nhỏ theo cha làm nghề thịt lợn, lại đẻ vào tháng 10 tức tháng Hợi nên đặt tên là Nguyễn Văn Trư và thường gọi là cậu Lợn (chữ Hán “Trư” nghĩa là lợn).

Ông bản tính nhanh nhẹn, thông minh, lúc nhỏ có lần cùng bố đi bắt lợn, gặp kiệu ông Nghè vinh quy, Trư hỏi:
- Ông gì thế bố?

Người cha đáp:
- Ông Trạng!

Trư nói:
- Lớn lên con cũng làm ông Trạng!

Từ đó đi chơi với trẻ trong làng, ông đều khoe:
- Tao là quan Trạng!

Có người khách lỡm:
- Trạng dở hay trạng nguyên?

Ông buột miệng:
- Khách quen hóa khách lạ!

Hai câu ứng khẩu hợp thành câu đối khá hay.

Cạnh làng ông là làng Yên Đinh đất học, có cụ đồ sang chơi ra cho trạng vế đối, mang đề tài lợn, nghề sinh sống của nhà này:
- Lợn cấn ăn cám tốn (ý là lợn có chửa ăn hết nhiều cám nhưng Cấn và Tốn là hai quẻ trong bát quái).

Trạng đối ngay:
- Chó khôn chớ cắn càn.

Câu đối xấc xược làm cụ đồ cay đắng, song vế đối chỉnh quá, chó khôn đừng cắn bậy, mà Khôn và Càn cũng là hai quẻ trong bát quái. Cụ đồ khuyên bố mẹ Trư cho Trư đi học.

Chính cụ đồ bị ông đối xược ấy dạy ông năm mới 8 tuổi, ông học rất giỏi, nghe một biết mười, lễ phép, chuyên cần, bạn học có người gấp rưỡi, gấp đôi tuổi đều thương mến. Những ngày trời mưa bạn thường cõng ông qua chỗ lội.

Khi ở nhà lúc nào ông cũng chăm lo đèn sách, khi ra ao rửa bèo, ra vườn hái rau, tay vẫn cầm cái que nhọn vạch xuống đất hoặc vào lá chuối, lá khoai những chữ khó nhớ.

Đến khi “biết chữ”, thầy đồ gửi ông ra học cụ Vũ Mộng Nguyên người xã Đông Sơn, huyện Tiên Du, đỗ Thái học sinh không làm quan nhà Hồ về dạy học.

Ông là học trò tiêu biểu nhất của cụ Vũ Mộng Nguyên, đỗ Trạng nguyên khoa Mậu Thìn (1448) niên hiệu Thái Hòa năm thứ 6 đời vua Lê Nhân Tông.

Tương truyền đêm trước ngày thi đình vua Nhân tông nằm mơ thấy lợn đỗ trạng, vua sai xa giá xem bảng thấy trạng tân khoa là Nguyễn Văn Trư, dân gian coi yết bảng cứ kháo thành vè “Long đầu lợn-Nguyễn Văn Trư”, vua liền đổi tên cho Trạng là Nguyễn Nghiêu Tư.

Ông làm quan đến chức An phủ sứ Hàn lâm Trực học sỹ, đi sứ nhà Minh lại phong Lại bộ thượng thư, về phong Chưởng lục bộ thượng thư.

Khi vinh quy bái tổ, dân làm nghè ở Phù Lương thị (chợ làng Phù Lương), tức làng Giùng, chợ Giùng để đón, nghè còn đến thời kháng chiến chống Pháp dân vẫn gọi là Nghè quan Trạng. Khi về hưu vua phong “Thượng quốc công chí sỹ” và vợ được hàm “nhất phẩm phu nhân”.

Năm 1459 Lê Nghi Dân giết vua tiếm vị, sai ông đi sứ cầu phong, nhà Minh hoạch:
- Sao lại dám giết em mà tranh ngôi vua?

Nghiêu Tư trả lời:
- Đường Thái tông giết cả anh là Kiên Thành, em là Nguyên Cát là việc cũ của thiên triều, thì việc nước tôi ngày nay có gì là lạ?

Thấy sứ thần Đại Việt trả lời rất đúng lý nhà Minh đành nhận phong vương.

Khi đoàn sứ thần ta tới ải Nam Quan, viên coi cửa ải nhà Minh ỷ thế nước lớn, ngạo mạn treo lên cửa quan một chữ thập lớn bằng gỗ mà không mở cửa đón tiếp.

Trạng nói:
- ý các người muốn coi người Minh là “tung hoành vũ trụ”. Đã vậy thì Đại Việt ta đây “bao quát càn khôn”, sai người bện một cái vòng tròn lớn bằng lụa tết mắc lên đầu chữ thập, cả chữ thập lọt trong vòng tròn ấy.

Viên quan coi ải khiếp phục, mở cửa quan nghênh tiếp sứ giả.

Vào đến Yên Kinh, Trạng vào yết kiến vua Minh.Nhà vua muốn thử tài sứ giả, ngầm sai trong hoàng cung quán lịch sự, đề hai chữ Kính Thiên treo ở giữa, bầy đôi sập thất bảo rất cao, xung quanh đặt nghi vệ sang trọng như chỗ giường ngủ của thiên tử, để xem Trạng có dám ngồi đó không.

Khi sắp yến tiệc họ đưa trạng và phó sứ dạo thăm cung điện rồi mới đưa đến đấy. Trạng bèn bảo phó sứ cùng ngồi lên sập thất bảo. Thấy vậy, quan Minh ra hoạch:
- Cớ sao sứ thần lại ngược ngạo, vô lễ đến như vậy? Không trông lên trên kia xem, chỗ này là chỗ gì?

Trạng ta bình thản:
- Dám thưa, ngài lấy cớ gì cho sứ thần tôi là ngạo? Biển đề hai chữ Kính Thiên, chiết tự ra là kính nhị nhân (chữ thiên là giời, tách ra là hai chữ nhị nhân là hai người) thực hẳn là ý bản quốc muốn đem cái ngôi này mà hậu đãi sứ thần xa lại. Ngài dạy thế chúng tôi quyết không chịu. Vả nghe cổ nhân có nói: “Đãi người phương xa cốt lấy bụng thực”. Tôi nghe Thánh triều lấy thành tín đãi người ngoại quốc. Thế mà sứ giả nước xa tới lại đem cái bụng trí thuật làm oai. Tôi sợ người ta nghe tiếng dẫu có lòng thực hướng mộ, cũng sinh nghi mà không lại nữa.

Viên quan nhà Minh thấy trạng nói chẻ hoe như đã rõ gan một từ trước, vội vàng:
- Xin quý ngài xá lỗi. Nghĩ là buổi ban đầu, thử xem ngài có phải là bậc tài giỏi không thôi. Nhưng quý ngài quả là bậc thông minh, đã giỏi mà biết trước được như thế còn hề chi?

Trong thời gian ở Trung Quốc ông lập được nhiều công lớn, nhất là việc dạy hoàng tử học, được vua Minh rất đỗi quý phục phong ông là Lưỡng quốc Trạng nguyên.

Song vì ông sinh ra trong nhà bán thịt lợn, tên là Trư và gọi là Lợn, đã là lợn thì phải học dốt. Dân mới bịa ra chuyện rằng thày dạy “Thiên tích thông minh, thánh phù công dụng”, ông đọc ra “thiên tích thong manh, thánh nằm chỏng gọng”...

Thế mà đỗ Trạng nên mọi chuyện gặp may được bịa ra như bia “hạ mã” ông đọc là “bất yên” thì tự dưng trong làng có đám cháy, con gái Bùi tướng công tên là Phấn ra vế đối “bát đao phân mễ phấn” ông không đối được mới chép vào bảo lúc thi đỗ sẽ đối, vào triều đề thi là “thiên lý trọng kim chung”, ông đem đối vào rồi lại đem vế ấy về đối ở nhà Bùi tướng công, hay tuyệt vừa đỗ Trạng vừa được vợ, rồi chuyện cầu mưa, xử kiện, xem bói, đối chữ ở Trung Quốc... thảy đều gặp những sự may mắn, trùng hợp đến lạ lùng.

Nghệ sỹ dân gian nào đó đã chép thành chuyện Trạng Lợn mà ta thường đọc. Cực đoan hơn nữa, ở Hà Nam có hẳn sách Trạng Lợn dài 18 hồi theo kiểu chương hồi Tam Quốc chí.

Trần Quốc Thịnh
Link: http://www.bacninh.gov.vn/dukhach/Trang/Tin%20chi%20ti%E1%BA%BFt.aspx?newsid=121&cid=13&dt=2011-06-14


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 10 Tháng Mười Một, 2011, 12:45:31 pm
Câu chuyện 31:


Lưỡng quốc Trạng nguyên Nguyễn Đăng Đạo

Lưỡng quốc Trạng nguyên Nguyễn Đăng Đạo sinh năm 1651, mất năm 1719, tục gọi là Trạng Bựu. Ông là con trai Tiến sĩ Nguyễn Đăng Tuân, cháu nội Thám hoa Nguyễn Đăng Cảo. Ông đỗ Trạng nguyên năm 33 tuổi, làm Lại bộ hữu thị lang, sau được phong Quận công, được cử đi sứ sang Trung Quốc năm Đinh Sửu - 1698. Sau khi mất, ông được phong Thượng thư Lại bộ, tước Thọ Quận công. Nguyễn Đăng Đạo để lại tập ký sự Nguyễn Trạng nguyên phụng sứ tập ghi lại tỉ mỉ những điều mắt thấy tai nghe trong chuyến công cán sang Trung Quốc.

Vế đối hay ý đẹp

Đăng Đạo trong thời gian ở Trung Quốc, một hôm, một viên Hàn lâm nước này đến mời sứ thần Đại Việt đi vãn cảnh trong vườn thượng uyển thưởng trăng, ngắm hoa cùng sứ thần các nước.

Thời tiết chuyển sang xuân. Vườn đầy hoa khoe sắc thắm. Tạo vật xanh tươi hớn hở dưới trăng thanh gió mát. Đăng Đạo sánh bước cùng các sứ thần say sưa ngắm cảnh thì bỗng viên Hàn lâm hứng tình tức cảnh ứng tác ngay một vế đối:

- Xuân tiêu phong nguyệt, nguyệt tân hoa sắc, phong tống hoa hương, hương tuỳ sắc, sắc tuỳ h­ương, hương hương sắc sắc mãn xuân tiêu, tương tưkhách tưởng tương tưkhách.

(Trăng gió đêm xuân, trăng nhuộm màu hoa, gió đa hương lạ, hương theo sắc, sắc theo hương, hương hương sắc sắc tràn đầy đêm xuân, khách tương tưnhớ khách tương tư).

Mọi người trầm trồ: vế đối đầy ắp chất thơ, luyến láy bởi những điệu âm bổng trầm giàu nhạc, khiến các sứ thần bối rối không biết đối ra sao.

Sứ thần Cao Ly (Triều Tiên) lên tiếng đối trước:

- Tùng viện trúc mai, mai sinh long diệp, trúc hoá long chi, chi ty diệp, diệp ty chi, diệp diệp chi chi liên trùng viện, hữu tình nhân thức hữu tình nhân.

(Mai trúc lầu tùng, mai trồi lá đẹp, trúc nảy cành xinh, cành liền lá, lá liền cành, lá lá sát lầu tùng, người hữu tình hiểu người hữu tình)

Viên Hàn lâm nghe xong, khen:

- Lá cành san sát, màu xanh bát ngát đầy phòng.

Nói thế nhưng trong thâm tâm, ông ta vẫn không được hài lòng lắm.

Tiếp đó, Đăng Đạo xin đối:

- Hạ nhật cầm thi, thi ngụ ngã tình, cầm thích ngã tính. Tính viện tình, tình viện tính, tính tính tình tình thhạ nhật; tri âm nhân thức tri âm nhân.

(Đàn thơ ngày hạ, thơ ngụ tình ta; đàn hoà tâm tính, tính nương tình, tình nương tính, tính tính tình tình thoả thuê ngày hạ, người tri âm hiểu người tri âm).

Mọi người xuýt xoa. Viên Hàn lâm tấm tắc:

- Đàn thơ giao hoà, chung đúc cả tạo hoá vào trong một con người, từng câu từng chữ chọi nhau chan chát; so với câu của ngài sứ Cao Ly thì câu của ngài sứ Đại Việt có một sắc thái riêng, phong vị riêng rất đặc biệt. Ôi! Quả là lời hay ý đẹp.

Cao hứng, Đăng Đạo múa bút làm thêm bài phú Bái nguyệt trong chớp mắt, làm các sứ thần thêm kính phục.

Sau đó, vua Khang Hy phong tặng Đăng Đạo học vị Trạng nguyên Trung Quốc.

Link: http://chieuxua.com/forums/viewtopic.php?p=3220


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 10 Tháng Mười Một, 2011, 12:59:39 pm
Câu chuyện 32:

Lưỡng quốc Trạng nguyên Đào Sư Tích (1350 - 1396)

...Thời gian này, nhà Minh tăng cường sức ép với vua Trần nhằm tạo cớ thực hiện âm mưu xâm chiếm Đại Việt. Chúng liên tiếp đưa các yêu sách ngày càng nặng nề đối với nước ta :

- Tháng 9 năm Giáp Tý (1384) chúng đòi ta phải nộp lương thực cung cấp cho quân Minh đóng ở Lâm An (Vân Nam, Trung Quốc).

- Tháng 3 năm ất sửu (1385) chúng đòi ta nộp 20 tăng nhân (nhà sư).

- Tháng 2 năm Bính dần (1386) chúng đòi ta nộp những loài cây ăn quả quý, lại đòi cấp cho chúng 50 con voi và cho chúng mượn đường đi đánh Chiêm Thành.

- Tháng 6 năm ất hợi (1395) quân Minh đánh các man làm phản ở Long Châu và Phụng Nghĩa (Quảng Tây, Trung Quốc), đòi ta phải cấp cho chúng 5 vạn quân, 50 thớt voi, 50 vạn thạch lương... Ta chỉ nộp một ít gạo, chúng lại đòi ta phải nộp tăng nhân, thanh niên bị thiến, phụ nữ xoa bóp...

Trước tình thế đó, vua Trần rất cần người tài giỏi, có đủ khả năng xoay chuyển tình thế đi sứ để thực hiện chủ trương hoà hoãn. Trong triều có người nói chỉ có Đào Sư Tích mới có đủ khả năng để thực hiện nhiệm vụ này. Mặc dù không ưa gì Đào Sư Tích, Hồ Quý Ly vẫn phải xin vua Trần giao cho ông nhiệm vụ đi sứ. Khi Hồ Quý Ly về Cổ Lễ để triệu Đào Sư Tích vào triều thì ông đã ở Tam Đảo. Tưởng ông bỏ trốn, Hồ Quý Ly ra lệnh nếu Đào Sư Tích không hồi triều đi sứ thì sẽ bị chu di tam tộc. Đề phòng họ Đào sau này bị Hồ Quý Ly tàn sát, Đào Sư Tích đã cho con cháuđổi ra họ Phạm và hồi triều nhận trách nhiệm đi sứ nhà Minh. Sau này con cháu ông lại có người đổi thành họ Dương, do đó từ đường họ Đào ở Cổ Lễ hiện nay có bức đại tự ghi là Đào - Phạm - Dương.

Đào Sư Tích đã đi sứ nhà Minh vì quyền lợi của trăm họ, vì yêu cầu của đất nước. Bằng tài năng hơn người, ông đã thuyết phục được vua Minh giảm nhẹ yêu sách, đặc biệt đã bãi bỏ việc đòi cống nạp tăng nhân, kéo dài thời gian hoà hoãn cho Đại Việt. Tương truyền, thời đó nhà Minh cho người vơ vét sách thuốc bằng chữ Nôm của nước ta, đem về nước xếp cao đến nóc nhà, nhưng không có ai đọc thạo. Nhân có Đào Sư Tích sang sứ, vua Minh nhờ ông đọc và tóm tắt giúp để Lý Sỹ Tài ghi lại bằng chữ Hán thành bộ Y tông tất đọc, ông chỉ đọc trong ít ngày là hết kho sách. Vua Minh vô cùng kinh ngạc và khâm phục, đã tặng ông bốn chữLưỡng quốc Trạng nguyên (Trạng nguyên hai nước). Hiện bốn chữ này còn được khắc trong lăng Trạng nguyên Đào Sư Tích ở Cổ Lễ.

Việc đi sứ của Đào Sư Tích không thấy ghi trong lịch sử. Do thời gian đã quá lâu, việc biên soạn lịch sử có nhiều sự kiện bị bỏ sót là điều dễ hiểu. Nhiều tài liệu của những tác gia nghiên cứu về Đào Sư Tích hiện nay đều thừa nhận việc đi sứ cuả ông nhưng không nói rõ là ông đi sứ vào thời gian nào. Lý lịch di tích lịch sử văn hoá nhà thờ Trạng nguyên Đào Sư Tích của Bảo tàng Nam Hà chép rằng:

- "Theo truyền thuyết và tư liệu lịch sử thì khi ông mất tại đất Trung Quốc có 23 người, ngựa của nhà Minh đã hộ tống thi hài Trạng nguyên Đào Sư Tích về an táng tại quê hương xứ Hạ Đồng (Cổ Lễ) theo lời di chúc của ông..."

Nếu đúng như vậy thì Đào Sư Tích đi sứ nhà Minh vào năm 1395 - 1396 và mất trong khi đi sứ ở Trung Quốc chăng? Có một ý kiến khác cho biết Đào Sư Tích mất tại quê (Thời Trần và Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn trên quê hương Nam Hà, Sở Văn hoá và Thông tin Nam Hà xuất bản 1996, trang 119). Tuy nhiên, về cái chết của Đào Sư Tích, trong dân gian còn lưu truyền một giai thoại như sau:

Thời hạn đi sứ của Đào Sư Tích sắp hết, vua Minh hỏi rằng:
- Nếu Bắc (chỉ Trung Quốc) đánh Nam (chỉ Đại Việt) thì ai thắng?

Đào Sư Tích trả lời bằng hai câu thơ:
- Bắc thắng, Nam thua, thua thua thắng
Nam thua, Bắc thắng, thắng thắng thua.

Nghe câu trả lời của sứ thần Đại Việt, các quan võ nhà Minh cười vang khoái trá. Nhưng vua Minh lại không thể cười được vì hiểu ý câu trả lời của Đào Sư Tích. Trong câu trả lời có 5 chữ thắng, 5 chữ thua, nghĩa là đánh Đại Việt thì chưa chắc đã thắng đâu, chi bằng hoà là hơn. Câu trả lời của Đào Sư Tích không làm phật lòng vua Minh mà lại duy trì được mục đích kéo dài thời gian hoà hoãn cho Đại Việt.

Vua Minh lại hỏi:
- Nhà Trần suy vong, Hồ Quý Ly chuyên quyền, lòng dân ly tán, tại sao ta không thắng?

Đào Sư Tích trả lời cũng bằng hai câu thơ:
- Trần thực, Hồ hư, hư hư thực
Cổ lai chinh chiến thực thực hư hư
(Nhà Trần là thực, Hồ chỉ là hư, hư là hư thực
Xưa nay chinh chiến thực thực hư hư)

Vua Minh biết Đào Sư Tích là người tài giỏi, không thể khuất phục được bèn nghĩ cách giết đi. Vua Minh sai một quan đại thần tiễn Đào Sư Tích về nơi nghỉ và đưa cho vị này 4 phong thư, dặn mở theo thứ tự như thế như thế... Khi mở phong thư thứ nhất thấy có dòng chữ: Thượng văn vấn, hạ tri vương.

Vị đại thần nhà Minh không hiểu ra làm sao. Đào Sư Tích liền bảo:
- Vua Minh quá khen, cho ta là bậc thánh hiền. Ta đâu giám nhận lời khen đó.

Và ông giải thích cho vị đại thần nhà Minh rõ:
- Văn là nghe, nghe là tri, tri là nhĩ. Vấn là hỏi, hỏi là mồm, mồm là khẩu. Bên dưới có chữ vương. Hợp ba chữ: nhĩ, khẩu, vương thành chữthánh. Vua Minh có ý bảo ta là thánh nhân đó mà.
Trong phong thư thứ hai có câu trả lời cho phong thư thứ nhất. Câu trả lời của Đào Sư Tích hoàn toàn đúng với đáp án trong phong thư thứ hai.

Phong thư thứ ba là sắc phong Đào Sư Tích làm Lưỡng quốc Trạng nguyên.

Phong thư thứ tư có hai dòng chữ:
               Hậu hoạ
               Nhất dược nhị đao

Vị đại thần hiểu rằng vua Minh lệnh cho ông phải giết Đào Sư Tích nên ông rất hoang mang, buồn bã. Đào Sư Tích bình thản đón nhận cái chết, vì ông đã đoán biết trước việc này. Ông an ủi vị đại thần nọ:
- Thánh thì thoát tục. Ông chẳng nên quá buồn rầu. Chỉ xin chođược chết bằng thuốc độc để ông khỏi phải khổ tâm khi phải trực tiếp giết ta.

Trước khi uống thuốc độc, ông dặn dò người nhà đi theo rằng:
- Sau khi ta chết hãy đưa thi hài về chôn ở xứ Hạ Đồng (Cổ Lễ quê ông). ở chỗ giáp ranh ba thôn Đông (Đông Trung nay thuộc Trung Lao, Đông Thượng nay thuộc Đông Thượng, Đông Hạ nay thuộc Trực Đông) có một ngôi mộ, hãy trồng một cây đa ở ngôi mộ đó cho ta.

Ngôi mộ đó chính là mộ bà Lê Thị Đông, người bạn thân thiết thời thơ ấu của Đào quan trạng.

Sau khi Đào Sư Tích mất, Vua Minh đã cho đưa thi hài ông về quê theo lời di chúc của ông. Dân gian còn lưu truyền câu: "Nhị thập tam kỵ mã Ngô Minh quân hồi hương linh cữu Lưỡng quốc Trạng nguyên".

Trong di cảo của Trạng nguyên Đào Sư Tích cũng nói rõ việc đi sứ nhà Minh và nhiều khả năng ông mất trên đường về. Bài Bắc khứ (Đi lên phương Bắc) và bài Dữ tiểu thiếp Giang thị (Nói với tiểu thiếp là Giang thị) ghi lại việc ông đi sứ, dọc đường lấy cô gái miền núi làm thiếp, phần chú thích của Hoàng giáp Phạm Văn Nghị nói rõ Đào Sư Tích đi sứ là do bị Hồ Quý Ly bắt buộc. Hồ Quý Ly còn làm thơ tiễn Đào trạng nguyên. Rồi bài Hồi thời bệnh ngộ đại vũ (Lúc trở về, đang bị bệnh gặp mưa lớn) gợi cho chúng tôi nhận định: Trạng vốn sức khoẻ kém, bệnh nặng, trên đường đi đầy gian khổ, có thể Trạng đã mất trên đường đi sứ về chăng.
....

Link: http://baiviet.vietnamgiapha.com/2011/04/trang-nguyen-ao-su-tich.html


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 29 Tháng Mười Một, 2011, 11:45:44 am
Câu chuyện 33:

Trung trinh tiết tháo

Không hiểu sao cả chính sử lẫn dã sử xứ mình ít hoặc chưa đề cập đến một sự kiện có thể nói là hi hữu (mà gọi là độc nhất vô nhị cũng chẳng phải là ngoa) trong nền ngoại giao Đại Việt? Ấy là sự kiện sứ thần Lê Quang Bí. Lê Quang Bí sinh năm Bính Dần (1506), hiệu là Hối Trai, không rõ mất năm nào.

Ông là con của Trạng nguyên Lê Nại, cháu bốn đời Lê Cảnh Tuân, đỗ tiến sĩ năm thứ 5, niên hiệu Tống Nguyên đời Lê Cung Hoàng (1526) một năm trước khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi vua Lê. Nguyên quán ở Thuận Hựu (Hậu Lộc)  xứ Thanh nhưng ông là người thuộc xã Mỗ Trạch, huyện Đường An, nay là thôn Mỗ Trạch, xã Tân Hồng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương.

Năm 27 tuổi, cha của Lê Quang Bí đã đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ - đệ nhất danh Trạng nguyên trong khoa thi lấy đỗ 55 tiến sĩ ở khoa thi Ất Sửu (1505) đời Lê Uy Mục. Đặc biệt là cha ông thi cả năm trường đều đỗ thủ khoa, làm đến chức Hữu thị lang Bộ Hộ. Khi cha ông mất còn được truy tặng tước Đạo Trạch Bá.

Cũng như cha, Lê Quang Bí là người rất thông minh và học giỏi. Mặc dù các sử thần Đại Việt từng gọi triều Mạc là ngụy triều nhưng việc học hành thi cử có nhiều thành tựu.  Đến năm 20 tuổi, Lê Quang Bí dự khoa thi Đình năm Bính Tuất (1526).  Đề bài thi Đình là một bài văn sách hỏi về các bậc thánh nhân trị thiên hạ. Khoa thi này lấy đỗ 20 người. Lê Quang Bí đã đỗ Hoàng giáp, đứng thứ tư.

Năm Mậu Thân (1548), Mạc Phúc Nguyên là con cả của Mạc Phúc Hải, cử Lê Tiến Quy làm Chánh sứ và Lê Quang Bí làm Phó sứ, sang sứ nhà Minh lo việc triều cống hàng năm. Đi sứ nhà Minh là việc bình thường.

Nhưng sự bình lặng của việc giao hảo đã thành sự cố với thói cư xử trịch thượng bất bình đẳng của nước lớn cộng với sự nhiễu thông tin nhà Mạc tiếm ngôi vua Lê. Sự cố đầu tiên là Lê Quang Bí cùng đoàn sứ thần bị ách lại ở Nam Ninh. Người nhà Minh ngờ là giả mạo bắt phải chờ để tra xét thực hư.

Đằng đẵng 15 năm trời liên tằng những tra với xét, đoàn sứ bộ của Lê Quang Bí vẫn phải kiên nhẫn chờ và chờ... Tra mãi xét mãi nhưng Lê Quang Bí cứ bình thản chịu đựng... Tuân mệnh vua, quyết không làm nhục quốc thể nên nhục đấy khổ đấy cũng chẳng thể tùy tiện cáu bẳn nổi đóa!

Với lại có tự tiện bỏ về cũng chả được nào vì thân phận giam lỏng. Cái đích là Yên Kinh chứ không phải dịch quán Nam Ninh. Ròng rã năm này qua năm khác, có thể nhà Minh hạch tội Mạc Phúc Nguyên mấy năm bỏ bẵng việc tiến cống nên hành đoàn sứ bộ?

Có thể qua thông tin có được từ quân do thám tâu rằng nhân tình hình nước Nam nội bộ rối ren nên mở ngay một cuộc chinh phạt nhưng vua Minh dùng dằng chưa quyết?  Mãi đến năm Quý Mùi (1563) viên quan trị nhậm Lưỡng Quảng vừa thương tình và cảm phục mới sai người đưa 25 lạng bạc và cho đoàn sứ bộ tiếp tục về Kim Lăng (Yên Kinh, Bắc Kinh).

Gối đất nằm sương ngày đi đêm nghỉ dằng dặc qua hàng trăm dịch quán, tưởng đến Bắc Kinh là suôn sẻ xong việc, nhưng oái oăm, đoàn sứ bộ của Lê Quang Bí lại bị ách tiếp ở quán dịch để chờ tra xét (?!) Những tờ sớ tâu bẩm của đoàn sứ bộ cứ lần lượt rơi vào quên lãng...

Mặc dù dằng dặc thời gian đợi chờ nhưng Lê Quang Bí vẫn chịu đựng kiên nhẫn kính cẩn giữ mệnh chúa không tỏ ra bực tức, thần thái lúc nào cũng ung dung tự tại. Ba năm ở Yên Kinh, có những viên quan nhà Minh luôn tới dịch quán, tiếng là thù tạc giao thiệp nhưng thực chất là coi xét thái độ cùng nắm động cơ của đoàn sứ bộ.

Nhưng trực tiếp chứng kiến việc làm cùng thái độ của sứ thần của Lê Quang Bí, có một viên quan nhà Minh tên là Lý Xuân Phương chức Đại học sĩ đã tỏ ra kính phục trước tiết tháo của vị sứ thần nước Nam. Lý Xuân Phương đã tâu lên vua Minh. Sau đó đoàn sứ bộ đã được gặp vua Minh cùng nộp lễ phẩm và chuẩn cho về nước.

Vậy là kỷ lục 18 năm đi sứ của Lê Quang Bí chưa có ai và thời nào ở nước ta phá nổi! Lúc ra đi tóc mây xanh mướt, khi trở về râu tuyết bạc phơ. Người nhà Minh đã ví ông như Tô Vũ xưa đi sứ sang Hung Nô vậy.

Tô Vũ năm 100 trước CN, vâng mệnh Hán Vũ Đế đi sứ Hung Nô bị quý quốc láng giềng đày đọa bắt chăn dê đằng đẵng 19 năm ở ven hồ Bai Can quanh năm không một bóng người, phải đào hang bắt chuột, bới rễ cây để ăn với lời đe của Thiền Vu Hung Nô: “Bao giờ dê đực đẻ con thì nhà ngươi mới được về Hán!”.

Vậy mà Tô Vũ vẫn chẳng hề lung lay tiết tháo, quyết không làm nhục mệnh vua, trung trinh với cố quốc. 19 năm của Tô Vũ và 18 năm của Lê Quang Bí, phỏng các sứ thần thời nay có được mấy người? Nhờ có quốc sỉ mà Lê Quang Bí lẫn Tô Vũ tránh được nỗi quốc nhục.

Năm Bính Dần, mùa xuân niên hiệu Sùng Khang thứ nhất (1566) đời Mạc Hậu Hợp, Lê Quang Bí về nước. Đón Lê Quang Bí tại ải Nam Quan có hai ông thượng thư đầu triều trong đó có Lại Bộ thượng thư kiêm Đông Các đại học sĩ Giáp Hải, thời ấy người ta vẫn quen gọi là ông Trạng Kế.

Trong Đại Nam quốc sử diễn ca có những câu:
“Thuần Phúc sai Thượng thư Giáp Hải
Đi lên miền biên giới Lạng Sơn
Đón Lê Quang Bí sứ thần
Phải đi mười tám năm tròn tới nay”.

Chẳng hay trong cuộc đón, ông Thượng thư Giáp Hải và ông Tiến sĩ kiêm sứ thần Lê Quang Bí có vồn vã ôm siết lấy nhau nhưng tấm gương trung trinh tiết tháo của Lê Quang Bí dường như đã để lại nhiều dấu ấn sâu đậm cho vị Thượng thư triều Mạc? Năm 1573, ông được cử giữ chức Tuyên Phủ đồng tri, lên ải Nam Quan cùng quan lại nhà Minh thương nghị giám sát biên giới.

Với những lý lẽ sắc bén, giải pháp thông minh, khiến người Minh phải nể phục, kính trọng, thường chỉ gọi ông là Giáp Tuyên phủ chứ không gọi tên. Ông là người giỏi bang giao từ mệnh đã năm lần được triều đình giao cho trọng trách đi sứ, ba lần nắm ấn quan to. Ngoài việc bang giao, mỗi lần tiếp sứ hay mỗi lần đi sứ ông thường có thói quen làm thơ ghi lại.

Bây giờ xin trở lại với những vần thơ của sứ thần tiết tháo Lê Quang Bí. Về đến Tổ quốc, Lê Quang Bí được Mạc Hậu Hợp phong cho chức Thượng thư, lại phong  tước Tô Xuyên hầu, ví ông với vị trung thần nhà Hán là Tô Vũ.

Trong thời gian đày đọa ở đất khách quê người hết Nam Ninh, rồi Yên Kinh, Lê Quang Bí với sự thông tuệ vốn có lại cẩn trọng siêng năng có lẽ đã lưu lại nhiều trước tác? Nhưng tiếc thay chỉ còn ít bài trong tập thơ mà ông gom lại khi về nước. Đó là tập Tô Công Phụng sứ mà đáng kể có hai bài. Xin được biên ra đây để bạn đọc thưởng lãm. Bài thứ nhất ông vịnh Tô Vũ:

Cờ sứ vững cầm một cán không
Mười thu nghìn dặm tiết cô trung
Đất Hồ sương tuyết gầy mình hạc
Đền Hán ngày đêm nhớ  mặt rồng
Bể Bắc ngày chầy dê chửa đẻ
Trời Nam nẻo viễn nhạn khôn không
Khăng khăng chẳng chuyển lời vàng đá
Bia tạc muôn đời tượng tướng công.
...

Link: http://antgct.cand.com.vn/News/PrintView.aspx?ID=55416




Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 29 Tháng Mười Một, 2011, 12:03:22 pm
Thêm 1 câu chuyện về Lưỡng Quốc Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi:


Dòng Họ Mạc Đĩnh Chi Ở Cao Ly       

Hà Nhân Văn

Cao Ly còn có tên Câu Cao Ly, Triều Tiên, Đại Hàn và Hàn Quốc, một nước văn hiến văn hóa lâu đời, theo Tam giáo (Nho, Lão, Phật) nhưng Nho giáo từ thế kỷ đầu Tây lịch ở Cao Ly là chủ thể. Nho học là quốc học. Từ triều Nguyễn trở về trước Lê, Trần, Lý, VN không có quan hệ  ngoại giao với Cao Ly nhưng các Sứ thần Cao Ly và Đại Việt thường gặp nhau định kỳ ở Bắc Kinh vì cùng triều cống Trung Hoa, hay vào các dịp lễ vạn thọ (sinh nhật) hoặc quốc tang của các hoàng đế con Trời.

Mạc Đĩnh Chi đậu Trạng nguyên khoa Giáp Thìn (1304) đời Trần Anh Tông (1293-1324) được cử đi Sứ Trung Hoa, lưu lại Bắc Kinh một thời gian, ông gặp Trạng nguyên Cao Ly, Chánh sứ. Hai Trạng Việt-Hàn trở thành đôi bạn tâm đắc, thường cùng nhau xướng họa. Trạng nguyên Chánh sứ Cao Ly, cảm kích ngưỡng mộ Trạng Mạc Đĩnh Chi, mời ông qua thăm Hàn Quốc. Trạng Việt ở lại kinh đô Hán Thành (Seoul) một thời gian. Trạng Cao Ly làm mối cháu gái cho Trạng Việt, bà sinh được một con trai và một con gái. Đây là thủy tổ của họ Mạc ở Cao Ly. Sử không ghi rõ năm nào Trạng Mạc Đỉnh Chi sang thăm Cao Ly. Khâm định Việt sử thông giám Cương mục chép sơ giản: “Tháng 11 năm Mậu Thân (1308), vua Trần anh Tông sai sứ  sang nhà Nguyên (Mông Cổ cai trị Trung Hoa). Vũ Tông nhà Nguyên mới lên ngôi vua, sai Thượng thư An Lỗ Uy sang báo. Vua sai Mạc Đĩnh Chi sang chúc mừng” (sđd, Cương mục, chB Q. IX, t.2). Mạc Đỉnh Chi còn đi sứ lần thứ hai vào năm Nhâm Tuất (1322) nhân vua Nguyên Anh Tông lên ngôi, vua Trần Anh Tông cử sứ sang chúc mừng (Cương mục, ChB. Q.IX,tr. 19). Các triều đình Trung Hoa rất trọng vọng Sứ thần Đại Việt và sứ thần Cao Ly. Sau lễ đăng quang Nguyên đế, Bà công chúa Trưởng mất, sứ các nước đều vào điếu tang dự tế, sứ Cao Ly thì vào hiến hương (dâng hương), Sứ ta thì vào đọc chúc (điếu văn) (Xem: Nguyễn Hữu Tiến “Nói về truyện các cụ ta đi Sứ Tàu”. Nam Phong Tạp chí, số 92, tháng 2-1925, trang 113-123).

Theo nghi lễ triều đường, người được chọn đọc chúc là một vinh dự đặc biệt chỉ sau vị đại thần Chánh tế và Phó tế. Mạc Đĩnh Chi được vinh dự này. Nhưng có lẽ Đình thần Bắc Kinh mượn dịp thử tài Sứ thần Đại Việt và cũng có thể làm cho Sứ thần ta mất mặt nếu không đủ tài ứng phó. Quan lễ nghi trao bản chúc (văn tế) cho Trạng Việt lúc Trạng mở ra thì chỉ có 4 chữ nhất viết trên tờ  giấy trắng. Biết làm thế nào bây giờ? Mạc Đĩnh Chi liền ứng khẩu ngay:

Vu sơn NHẤT đóa vân

Hồng lô NHẤT điểm tuyết

Thượng uyển NHẤT chi hoa

Dao trì NHẤT phiến nguyệt

Y! Vân tán tuyết tiêu!

Hoa tàn, nguyệt khuyết!


Dịch nghĩa “Một đám mây trên đỉnh Vu Sơn (có tài liệu chép là thanh thiên), một giọt tuyết trong lò đỏ; một cành hoa ở vườn thượng uyển; một vầng trăng ở dưới ao tiên. Than ôi! Mây tản, tuyết tan, hoa tàn, trăng lặn!) Nguyên đế khen là người tài. Chắc sứ thần Cao Ly cảm phục tài ba của Trạng Việt, bèn mời ông qua thăm Hán Thành, chốn đô hội nghìn năm văn vật.
Tượng Mạc Đĩnh Chi – Chùa Dâu – Bắc Ninh

Cháu 20 Đời Trạng Mạc Về Việt Nam Nhận Họ

Mùa hè năm 1926, trên 600 năm sau kể từ năm người vợ Cao Ly của Mạc Đĩnh Chi sinh được một con trai đầu lòng và một gái, hậu duệ 20 đời của Trạng Mạc Đĩnh Chi là một thương gia Cao Ly, bán sâm ở Bắc Việt, ông về Hải Dương để tìm tông tích họ hàng. Năm 1966 lại có một hậu duệ họ Mạc Cao Ly qua Sàigòn tìm nguồn gốc tông tộc. Họ Mạc Cao Ly từ thế hệ đầu đến thế kỷ 20 đều thành công, nhưng phần đông kinh doanh, “chaú út của Trạng và bà bé Cao Ly năm 19 tuổi thi đậu Cử nhân chỉ ở nhà làm thuốc dạy học. Ông này sinh được 4 con trai đều học hành khá giả. Người con thứ 3 của ông (tức chắt của Trạng Mạc) sinh được một người con văn võ toàn tài, đã từng chống đuổi quân Tàu áp chế bạo tàn. Ông đánh Đông dẹp Bắc một thời. Học giả kiêm nhà báo Lê Khắc Hòe tình cờ gặp hậu duệ của Trạng Mạc, ông đã bút đàm (Hán văn) với cụ Hòe và lược thuật gia phả họ Mạc Cao Ly.

Với tác giả bài báo “Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi có hậu duệ ở Cao Ly từ thế kỷ 14 đến nay” (xem: Lê Khắc Hòe, tài liệu đã dẫn. An Nam tạp chí số 4, tháng 8 – 1926, trang 14-17 do Vũ Hiệp (Sàigòn) sưu tầm, đăng lại toàn văn trong Nghiên cứu Lịch sử số 2 (285)- 1996, tr. 76-81). Hậu duệ Trạng Mạc bút đàm với cụ Lê Khắc Hòe như sau: “Tiên sinh xem tôi kể giai đoạn lịch sử liên lạc giữa tệ quốc và quí quốc sau đây sẽ không lấy người nước Hàn mà coi tôi như giống Hồng cháu Lạc vậy” (trích dẫn, dịch qua quốc ngữ từ bản bút đàm Hán văn). Hậu duệ Mạc Đĩnh Chi ở Cao Ly, hơn 600 năm sau trải qua 20 đời vẫn còn bảo trọng được cội nguồn Việt…

Link: http://www.thegioi-song.com/tuconchau.htm




Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 03 Tháng Mười Hai, 2011, 04:04:43 pm
Câu chuyện 34:

Ngoại giao để giữ đất dưới thời vua Lý Nhân Tông

Năm 1076, theo lệnh vua Tống Thần tông, Quách Quỳ cùng Triệt Tiết đem quân sang đánh nước ta. Sau khi bị Lý Thường Kiệt đánh bại trên sông Như Nguyệt, quân Tống rút về nước. Mặc dù rút quân về nước nhưng nhà Tống vẫn còn cho quân chiếm giữ phần đất của nước ta sát biên giới Việt – Tống là châu Quảng Nguyên (1) cùng một số đất đai, hang động, trong đó có hai động Vật Dương và Vật Ác do thổ dân Đại Việt vì sợ sệt nên khi chiến tranh xảy ra đã đem nộp cho nhà Tống.
  
Năm 1078, vua Lý Nhân tông sai Đào Tống Nguyên đem tặng 5 con voi cho vua Tống với mục đích đòi nhà Tống trả lại đất đai cho Đại Việt mà họ đang chiếm giữ. Vua Tống đồng ý trả lại châu Quảng Nguyên nhưng vẫn không chịu trả những vùng đất khác, viện cớ do thổ dân Đại Việt đã tự ý dâng nộp đất chứ không phải nhà Tống chiếm giữ trái phép. Vua Lý Nhân tông đã viết tờ biểu đòi lại hai hang động này, trong đó có đoạn:
 
“Nước tôi có đất Vật Dương, Vật Ác, gồm hai động và tám huyện, vẫn tiếp liền với phần đất tỉnh [Quảng Tây]. [Những đất ấy] trước sau đều bị bọn đầu mục thổ dân làm phản, bỏ đi, đem theo về với Trung Quốc. Đất Vật Dương thì năm Bính thìn (1076) bị sát nhập vầo đất quý tỉnh; đất Vật Ác thì năm Nhâm tuất (1082) cũng bị sát nhập và đặt thành ải Thông Khang.
 
Mặc dầu đấy chỉ là mảnh đất nhỏ nhưng vẫn khiến lòng tôi đau xót, luôn luôn nghĩ đến cả trong giấc mộng. Quả thực tổ tiên tôi xưa kia đã phải đánh dẹp phường tiếm nghịch, xông pha gian nguy, không tiếc tính mạng mới có được đất ấy. Nay tôi phận con cháu, đã không kế tục được cơ nghiệp được [cha ông] thì dám đâu dự vào hàng mộ nước phên dậu, cầu lấy cái sống tạm bợ trong chốc lát”. (2)

                    
THỈNH HOÀN VẬT DƯƠNG, VẬT ÁC NHỊ ĐỘNG BIỂU

(http://www.hungsuviet.us/images/image0013.gif)

Vua Lý Nhân tông mặc dù tỏ ra nhún nhường qua cách sử dụng từ ngữ khi tự nhận nước mình là một nước “phên dậu”, tức là nước nhỏ so với nước Tống, thế nhưng ông đã dùng lý lẽ cứng rắn khi đòi đất. Ông đã chỉ ra rằng vùng đất ấy là do “thổ dân làm phản” nên đã lấy đất của Đại Việt đem nộp cho nhà Tống chứ không phải là đất mà những thổ dân kia làm chủ sở hữu, vì vậy họ không có quyền dâng nộp cho nước Tống. Thêm một điểm khéo léo nữa là Vua Lý Nhân tông đã nói với nhà Tống rằng, đất đai của tổ tiên để lại, phận làm vua của một nước mà không giữ được thì đâu còn xứng đáng làm nước “phên dậu” của Tống.
 
Năm 1084, vua Lý Nhân tông phái Lê Văn Thịnh sang bàn chuyện với sứ giả nhà Tống để đòi lại vùng đất cương vực mà nhà Tống chiếm giữ. Cũng với lý do thổ dân nước ta tự ý nộp đất cho Tống nên sứ giả nhà Tống không chịu trả lại những vùng đất này. Lê Văn Thịnh đã trả lời sứ giả như sau:
 
“ Đất thì có chủ; bọn thuộc lại giữ đất đem dâng nộp và trốn đi, thì đất ấy thành vật ăn trộm của chủ. Coi giữ đất cho chủ lại tự ý lấy trộm tất không tha thứ được, mà ăn hối lộ và tàng trữ (của ăn trộm) pháp luật cũng không dung. Huống chi, (bọn chúng) lại có thể làm nhơ bẩn cả sổ sách của quý tỉnh hay sao”? (3)

DỮ TỐNG SỨ TRANH BIỆN

(http://www.hungsuviet.us/images/image00217.gif)

Lê Văn Thịnh đã đại diện cho một quốc gia đưa ra lý lẽ rành mạch khi trả lời sứ nhà Tống. Khi các thổ dân được vua giao canh giữ đất đai vùng biên giới thì họ không có quyền sở hữu để đem bán hay dâng nộp cho một nước khác. Nếu một vật được giao giữ hộ mà người giữ vật ấy đem bán hoặc đem cho người khác thì người giữ hộ trở thành kẻ ăn cắp và người nhận vật ấy cũng trở thành người giữ đồ gian. Lê Văn Thịnh đã khôn khéo gài sứ thần nhà Tống rằng, với một nước lớn như nước Tống mà giữ những mảnh đất ấy, tức giữ đồ ăn trộm thì sẽ bị mang tiếng nhơ khó rửa!
 
Nhờ ý thức giữ gìn từng tấc đất do tổ tiên để lại của triều đình nhà Lý, đứng đầu là vua Lý Nhân tông, cộng với tài ngoại giao khéo léo của của Lê Văn Thịnh, cuối cùng nhà Tống đành phải trả lại châu Quảng Nguyên cùng với 6 huyện và 3 động cho nước ta (4). Người Tống có thơ rằng:
 
Nhân tham Giao Chỉ tượng
 
Khướt thất Quảng Nguyên kim
 
Nghĩa là:
 
Vì tham voi Giao Chỉ
 
Bỏ mất vàng Quảng Nguyên
 
Qua việc đòi đất dưới thời vua Lý Nhân tông, chúng ta thấy rằng triều đình thời bấy giờ nhận thức rất rõ trách nhiệm giữ gìn từng tấc đất của tổ tiên để lại. Cha ông ta ngày xưa mặc dù mềm dẻo trong vấn đề ngoại giao nhưng đã không tỏ ra nhu nhược và nhất là không để nước láng giềng phương Bắc lấn ép đất đai. Một khi đã xác định chủ quyền những vùng đất bị nhà Tống chiếm giữ là của mình, thì vua tôi nhà Lý quyết đòi lại cho bằng được bởi vì hơn ai hết, triều đình nhà Lý hiểu được rằng họ đang sống trên mảnh đất có chủ quyền, họ là người làm chủ và họ có trách nhiệm phải giữ gìn những mảnh đất thiêng liêng ấy.
 
....
Ngọc Thu
11-01-10
(1)        Châu Quảng Nguyên: vùng đất thuộc tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơng ngày nay.
(2)        Bản dịch của Thanh Băng – Hoàng Lê.
(3)        Bản dịch của GS Hoàng Xuân Hãn.
(4)        Xem Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, phần Nhân Tông Hoàng Đế.

Link:http://baotangnhanhoc.org/vi/index.php?option=com_content&view=article&id=402:ngoi-giao--gi-t-di-thi-vua-ly-nhan-tong-&catid=29:bai-nghien-cu-lch-s&Itemid=37


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 30 Tháng Mười Hai, 2011, 07:55:31 pm
Thêm 1 câu chuyện về Lưỡng quốc trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi:

Giải oan

Trên đường đi đến kinh đô nhà Nguyên, trong một chiều hè nóng bức, Mạc Đĩnh Chi và tùy tùng lúc ấy thấy một quán nước ven đường thì dừng lại nghỉ chân. Chủ quán là một bà cụ già tóc bạc phơ, đến chào khách.

Gần quán có một giếng nước. Trên thành giếng có viết 5 chữ:

銀缾腱上鼻
"Ngân bình, kiên thượng tị."

Thấy lạ, Mạc Đĩnh Chi hỏi duyên do. Bà cụ chủ quán chậm rãi kể:

Xưa có một cô gái bán hàng nước ở đây rất thông minh, học giỏi, chữ nghĩa tốt. Có một anh học trò thầm yêu cô hàng nước, muốn ngấp nghé. Ngày ngày đi học về, thường ghé vào quán uống nước; và tìm lời trêu ghẹo.

Một hôm cô hàng nước nói thực với anh:

- Thiếp là con nhà lương dân, có theo đòi bút nghiên, mà chàng cũng con nhà thi lễ, nếu như phải duyên trời, thực cũng xứng đôi vừa lứa, Nhưng mà thiếp chưa được biết tài học của chàng ra sao, vậy thiếp xin ra một câu đối, nếu chàng đối được, thiếp tình nguyện xin nâng khăn sửa túi, bằng không, thì xin chàng chớ qua đây quấy rầy làm gì nữa.

Anh học trò bằng lòng. Cô hàng nhân nhìn thấy cái ấm tích bằng bạc trên bàn, mới ra câu đối rằng:

銀缾腱上鼻
“Ngân bình, kiên thượng tị."
(Nghĩa là “Bình bạc, mũi trên vai.” Ý nói cái vòi trên cổ ấm nước).

Anh học trò nghĩ mãi mà không đối được, xấu hổ quá, đành đâm đầu xuống cái giếng gần đó chết. Ít lâu sau, người ta cho viết vế xuất câu đối ấy lên thành giếng để thách thức cả thiên hạ, nhưng xưa nay chưa ai đối được.

Nghe đến đây, Mạc Đĩnh Chi cười:

- Câu ấy dễ thế sao không đối được mà phải ngậm oan nơi đáy giếng! Thôi để ta đối giùm giải oan cho hồn kẻ thư sinh.

Mạc Đĩnh Chi bèn đọc:

金鎖腹中鬚
"Kim tỏa, phúc trung tu."
(Nghĩa là “Khóa vàng, râu trong bụng.” Ý nói cái tua khóa ở trong ruột khóa).

Sau đó, Mạc Đĩnh Chi sai người viết câu ấy lên thành giếng, bên cạnh câu đối của cô hàng nước năm xưa.

Mọi người đều chịu ông đối giỏi.

Link: http://macdinhchireunion.net/board/index.php?action=vthread&forum=3&topic=4139


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 30 Tháng Mười Hai, 2011, 08:19:20 pm
Câu chuyện 35:

Lưỡng quốc Khôi nguyên Nguyễn Đăng Cảo

Nguyễn Ðăng Cảo còn có tên gọi là Ðăng Hạo, người xã Hoài Bão, huyện Tiên Du (nay là thôn Hoài Bão, xã Liên Bão, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh). Nguyễn Ðăng Cảo thật xứng đáng là "Lưỡng quốc Khôi nguyên". Ông được phong là "Phúc thần", hiện có đền thờ ông tại thôn Hoài Bão, xã Liên Bão, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.

Ông là anh của Nguyễn Ðăng Minh (Tiến sĩ khoa Bính Tuất 1646), bác của Nguyễn Ðăng Tuân (Tiến sĩ khoa Quý Sửu 1673) và Nguyễn Ðăng Ðạo (Trạng nguyên khoa Quý Hợi 1683).

Năm 28 tuổi, ông đỗ Hội nguyên, Ðình nguyên, Ðệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ tam danh (Thám hoa) khoa Bính Tuất, niên hiệu Phúc Thái 4 (1646) đời Lê Chân Tông. Cùng khoa thi này, em ruột ông là Nguyễn Ðăng Minh cũng đỗ Tiến sĩ. Sau đó ông lại đỗ đầu khoa Ðông các, được bổ chức Ðông các đại học sĩ năm 1659.

Bắc Ninh địa chí của Ðỗ Trọng Vĩ ghi: Nguyễn Ðăng Cảo hồi trẻ có tài lạ, truyện đọc một lần là nhớ, người đương thời gọi là thần đồng. Thi Hương, thi Hội, thi Ðình, thi Ðông các, ông đều đỗ đầu. Ði sứ sang nhà Thanh nổi tiếng, được triều đình Thanh rất khen ngợi và phê tặng danh hiệu Khôi nguyên.

Năm Kỷ Mùi triều Phúc Thái, ông hộ tống đoàn đi sứ biểu nhà Thanh đến Lạng Sơn, sứ nhà Thanh ra đối rằng:

Ðiểu nhập phong, thực tận trùng nhi hóa phượng.

(Chim vào gió ăn hết sâu mà hóa phượng)

(Chữ phượng gồm chữ điểu viết trong chữ phong)

Ông đáp rằng:

Nhân cư nhân trắc, đả phi thạch dĩ thạch tiên.

(Người ở cạnh núi, đẽo đá để thành tiên)

(Chữ nhân đứng bên cạnh chữ nham bỏ chữ thạch, thành chữ tiên)

Ðến cửa ải sau một tuần mưa dầm dề, bỗng nhiên trời hửng nắng, sứ Tàu đem sách ra phơi, ông cũng kê ghế, rải chiếu nằm phơi bụng ra, sứ Thanh hỏi: "Sao ông lại làm như vậy?". Ông đáp: "Sứ thần thượng quốc phơi sách, tôi phơi bụng". Sứ Thanh thử tài nói: "Sách Ðại học bản chính bị đốt mất rồi, phiền ngài viết lại cho". Ông viết lại từ chính văn đến chú giải lớn, nhỏ như bản gốc, sứ Thanh kinh ngạc nói: "Năm trước quan Thái sư (Trung Hoa) tâu vua rằng: "Sao Văn Khúc giáng ở An Nam!" quả đúng như vậy.

Tiếng đồn đến vua nhà Thanh, vua Thanh thử tài, bảo ông làm bài phú giải thích cho chư hầu về việc róc tóc. Ông làm xong ngay và đệ trình. Vua nhà Thanh hết lời khen ngợi và phê rằng: "Lời gọn, ý tận và sâu sắc, phong thêm là Khôi nguyên Bắc Triều" (như vậy ông là "Lưỡng quốc Khôi nguyên").

Sau nhà Thanh lại đưa thư bắt ta nộp giường đồng một cái, 100 ông già đầu bạc, 100 người con gái tóc dài. Các quan không biết xử trí ra sao, ông nói: "Bắc Triều loạn đã lâu, chi dùng không đủ nên đòi ta".

"Tôi xin 100 gốc lúa, 100 thúng muối, 100 con dê cái, để nộp". Người nhà Thanh thấy vậy kính phục. Họ lại đưa mười vuông gấm, đòi may thành các loại áo, xiêm, khăn, chăn, màn. Các quan không biết làm thế nào. Ông xin may một áo cổ dài, ống tay to và một cái quạt trong đề mấy câu rằng: "Mặc trên là áo, trang điểm ở dưới là xiêm, có dòng là khăn, có ống là túi, khoanh đầu là mũ (miện), buông xuống có thể là màn, cho mình là chăn, vải xấu có thể trải giường". Tất cả cùng với tờ biểu đưa nộp cho họ. Người nhà Thanh bấy giờ kính phục và than rằng: "Ðịa linh, nhân kiệt đời nào cũng có, nhưng vượt trội hơn cả từ nay về sau chỉ có một Ðăng Hạo".

Link: http://quehuongonline.vn/VietNam/Home/Dat-nuoc-Con-nguoi/Con-nguoi-Viet-Nam/2006/09/244CB5AC/


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 11 Tháng Hai, 2012, 09:18:35 am
Câu chuyện 36:

Nguyễn  Đại Pháp “Ta nay là sứ thần của một nước”

Sau 3 lần bị thua to tại Đại Việt, vua Nguyên vẫn nuôi ý định mang quân sang trả thù. Để tránh một cuộc chiến tranh mới có thể xẩy ra vua Trần đã cử Nguyễn Đại Pháp sang sứ với ý định làm dịu quan hệ hai nước. Nguyền Đại Pháp đã hoàn thành sứ mạng, chuyến đi của ông là một trong mấy nguyên nhân quan trọng khiến nhà Nguyên không dám cất quân sang xâm lăng nước ta một lần nữa.

Trước khi về nước Nguyễn Đại Pháp đã tới chào từ biệt mấy quan chức nhà Nguyên. Không ngờ thấy Trần Ích Tắc  cũng ngồi ở đó. Trần Ích Tắc là con vua Trần Thái Tông, em vua Trần Thánh Tông và anh ruột tướng Trần Nhật Duật nổi tiếng. Trần Ích Tắc là ngưòi thông minh học giỏi nhưng ngầm có ý tranh ngôi vua từ lâu, nên khi quân Nguyên sang đánh nước ta lần thứ hai, Trần Ích Tắc đã mang cả gia quyến ra hàng và khi quân Nguyên bại trận đã theo chúng về Trung Quốc, được chúng phong cho chức “An Nam quốc vương” hờ. Thấy Nguyễn Đại Pháp không chào mình, Trấn Ích Tắc lên giọng hỏi :”Ngươi có phải là kẻ ghi chép ở nhà Chiêu Đại Vưong không?( Chiêu đại vưong là anh em cùng mẹ với Trần Ích Tắc).

Nguyễn Đại Pháp khoan thai trả lời: Thời thế đã đổi thay. Đại Pháp này trước đây đúng là kẻ ghi chép tại nhà Chiêu Đại vương, nhưng nay là sứ thần của nước Đại Việt, còn ông trước đây đúng là con vua một nước nhưng nay đã là kẻ đầu hàng giặc!

Ích Tắc nghe xong vô cùng hổ thẹn!
Link: http://vanhoanghean.vn/nhung-goc-nhin-van-hoa/goc-nhin-van-hoa/3962--may-mau-chuyen-di-su-trung-quoc-thoi-da-doc-lap.html


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 13 Tháng Hai, 2012, 12:47:37 pm
Câu chuyện 37:

Những vế đối trí tuệ và khí phách hào hùng của người Đại Việt

Chuyện thứ nhất:

Ngồi trên chiếc thuyền xuôi về Thăng Long, đoàn sứ thần Trung Quốc nói cười hể hả. Trong lúc quá vui, viên chánh sứ đã vô ý văng ra một phát trung tiền u... út, cả đoàn bò lăn ra cười. Để chữa thẹn, tên chánh sứ đọc:

LÔI ĐỘNG NAM BANG

(Sấm dậy nước Nam), rồi nhìn bác lái đò cười ngạo nghễ. Danh dự Tổ quốc bị xúc phạm, bác lái đò vội tụt quần, vắt “cu” đái một vòng trên mui thuyền sứ thần, rồi đọc rành mạch từng chữ:

VŨ QUÁ BẮC HẢI

(Mưa qua biển Bắc), rồi nhìn tên chánh sứ mỉm cười. Một câu đối tài hoa và tràn đầy khí phách khiến cho cả đoàn sứ thần nhìn nhau, rồi cúi gằm mặt im lặng để suy ngẫm câu ngạn ngữ: “Gieo gió thì gặt bão”(1).

-------------
(1) Một số nơi cho rằng bác lái đò là nhà sư Đỗ Pháp Thuận cải trang để tìm hiểu Lý Giác - sứ thần Trung Quốc

Link:http://tapchinhatle.vnweblogs.com/print/26168/347119


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 22 Tháng Hai, 2012, 09:05:03 pm
Những vế đối trí tuệ và khí phách hào hùng của người Đại Việt

Chuyện thứ hai:

Hôm đó đoàn sứ Tàu đi dạo chơi trong thành Thăng Long. Cô Đoàn Thị Điểm bày trầu thuốc để tiếp đãi khách. Thấy cô đẹp, ăn nói dịu dàng lịch thiệp, cả đoàn nhí nhố đua nhau tán tỉnh. Bỗng một tên trong bọn đọc to câu:

NAM BANG NHẤT THỐN THỔ, BẤT TRI KỶ NHÂN CANH

(Một tấc đất An Nam không biết mấy người cày cấy).

Cả đoàn cười ồ rồi dỡ thói trêu hoa ghẹo nguyệt. Hành động bỉ ổi của bọn vô liêm sỉ khiến cô rất căm giận. Vì danh dự của bản thân và Tổ quốc bị xúc phạm, cô quyết định: “Ăn miếng trả miếng” để dạy cho chúng một bài học. Lấy lại bình tĩnh, nhìn vào mặt họ và nói: “Xin các ngài hãy nghe đây”:

BẮC QUỐC CHƯ ĐẠI PHU, GIAI DO THỬ ĐỒ XUẤT

(Các đại phu phương Bắc đều chui ra từ chỗ đó).

Quá đau và xấu hổ trước câu đối tài hoa và sâu cay của người con gái Đại Việt nên họ chỉ còn cách: “Tẩu vi thượng sách” (chuồn là tốt nhất).

-------------

Chuyện thứ ba:

Thượng thư Hoàng Phúc được vua Minh cử sang Đại Việt để cai trị và truyền bá văn hóa Trung Hoa. Y mở trường để dạy cho các nho sinh Đại Việt. Nhân một hôm mưa bão nổi lên, nhà sập đổ, tường xiêu vẹo điêu tàn. Trước đám học trò, Hoàng Phúc đọc:

TAI CHIÊU PHONG VŨ GIA GIA ĐỒI HOẠI CỰU VIÊN TƯỜNG

(Hôm qua mưa gió nhà nhà sập đổ vách tường xiêu) và bắt học trò đối lại. Câu này có ý gì sâu xa không? Lẽ nào chỉ là câu tả thực? Trong lúc mọi người đang suy ngẫm thì một nho sinh xin đọc:

KIM NHẬT CÀN KHÔN XỨ XỨ PHÁT SINH TÂN THẢO MỘC

(Nay đất trời quang chốn chốn mọc lên cây cỏ mới).

Câu đối thật tài tình bởi quang cảnh đổ nát ở đây do mưa bão gây nên cũng như kẻ thù đã làm cho nước Nam điêu đứng. Cây cỏ mới mới mọc lên cũng như nhân tài Đại Việt sẽ sớm xuất hiện để khôi phục lại đất nước. Tác giả câu đối này là Lê Thúc Hiến, con trai của Lê Cảnh Tuân, từng viết bài VẠN NGÔN THƯ nổi tiếng chấn động đất trời, dậy lòng trung nghĩa. Ông bị quân Minh bắt giam ở Kim Lăng cùng với con trai Lê Thái Diêu đều chết ở trong ngục. Sau vụ này, Lê Thúc Hiến cùng với anh là Lê Thiếu Đính vào Lam Sơn chiến đấu dưới lá cờ Lê Lợi và đã lập nhiều chiến công hiển hách.

Link:http://tapchinhatle.vnweblogs.com/print/26168/347119


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 22 Tháng Hai, 2012, 09:08:45 pm
Những vế đối trí tuệ và khí phách hào hùng của người Đại Việt

Chuyện thứ tư:

Tại làng Phan Xá, Nghi Xuân, Hà Tĩnh có chàng hàn sĩ  Phan Nhân bị quân Minh bắt về hầu hạ tên học quan Trung Quốc sang Đại Việt mở trường để truyền bá văn hóa Trung Hoa và ca ngợi công đức nhà Minh. Một hôm y ra một vế đối và bắt nho sinh Đại Việt đối lại:

HỒNG LỰU TỰ HỎA PHI CẦM LAI VÃNG BẤT THIÊU THÂN

(Hoa lựu đỏ như lửa, chim bay qua lại thân chẳng bị thiêu). Phan Nhân ứng khẩu đọc:

LỤC TẢO NHƯ TI DU LÍ PHÙ TRẦM NAN TƯỚC VĨ

(Đám rêu xanh như tơ, cá lội nổi chìm đuôi chẳng bị vướng).

Vế ra tên quan nhà Minh muốn nói: Đạo quân của chúng tuy bề ngoài có vẻ hung dữ nhưng thực chất là đạo quân nhân nghĩa chẳng làm hại ai. Còn vế đối của Phan Nhân khẳng định rằng: Dù bị bủa vây nhưng không ngăn nổi ý chí tung hoành của người Đại Việt.

Sau cuộc đấu trí này biết kẻ thù đang theo dõi mình, Phan Nhân đã trốn vào Lam Sơn theo Lê Lợi và đã lập được nhiều chiến công trong sự nghiệp giải phóng dân tộc.


Link:http://tapchinhatle.vnweblogs.com/print/26168/347119


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: MUCTAU trong 23 Tháng Hai, 2012, 03:03:50 am
Câu chuyện 30:

Trạng “Lợn” - Nguyễn Nghiêu Trư

Ông hiệu là Tùng Khê người xã Phù Lương, huyện Võ Giàng, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc.

Tương truyền lúc nhỏ theo cha làm nghề thịt lợn, lại đẻ vào tháng 10 tức tháng Hợi nên đặt tên là Nguyễn Văn Trư và thường gọi là cậu Lợn (chữ Hán “Trư” nghĩa là lợn).

........
Cạnh làng ông là làng Yên Đinh đất học, có cụ đồ sang chơi ra cho trạng vế đối, mang đề tài lợn, nghề sinh sống của nhà này:
- Lợn cấn ăn cám tốn ([font=Verdana]ý là lợn có chửa ăn hết nhiều cám [/font]nhưng Cấn và Tốn là hai quẻ trong bát quái).

Trạng đối ngay:
- Chó khôn chớ cắn càn.

Câu đối xấc xược làm cụ đồ cay đắng, song vế đối chỉnh quá, chó khôn đừng cắn bậy, mà Khôn và Càn cũng là hai quẻ trong bát quái. Cụ đồ khuyên bố mẹ Trư cho Trư đi học.

.......
Nghiêu Tư trả lời:
- Đường Thái tông giết cả anh là Kiên Thành, em là Nguyên Cát là việc cũ của thiên triều, thì việc nước tôi ngày nay có gì là lạ?

Thấy sứ thần Đại Việt trả lời rất đúng lý nhà Minh đành nhận phong vương.

........
Nghệ sỹ dân gian nào đó đã chép thành chuyện Trạng Lợn mà ta thường đọc. Cực đoan hơn nữa, ở Hà Nam có hẳn sách Trạng Lợn dài 18 hồi theo kiểu chương hồi Tam Quốc chí.

Trần Quốc Thịnh
Link: http://www.bacninh.gov.vn/dukhach/Trang/Tin%20chi%20ti%E1%BA%BFt.aspx?newsid=121&cid=13&dt=2011-06-14
Nông dân Bắc bộ gọi lợn cấn là lợn choai sắp trưởng thành. Giai đoạn này lợn sinh trưởng nhanh nên cần nhiều dinh dưỡng . Cho nên mới '' ăn cám tốn''. Từ chuyên ngành chăn nuôi gọi là '' lợn hậu bị''. Còn lợn chửa(lợn nái, lợn sề) thì cho ăn hạn chế. Chủ yếu là rau, bèo. Lợn nái không được ăn nhiều chất dinh dưỡng (cám ) vì lợn sẽ béo mất khả năng sinh sản ( lợn xổi ).'' Cám ngon đâu đến lợn sề ''là câu ca dao nói về kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp. Nông dân mấy ai không biết.


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 05 Tháng Năm, 2012, 05:49:40 pm
Câu chuyện 38:
Thực hư chuyện vua Quang Trung 'cầu hôn' công chúa nhà Thanh

(ĐVO) Một số tài liệu lịch sử xác nhận rằng, vua Quang Trung đã sai sứ thần tới Đại Thanh cầu hôn công chúa - con gái được cưng chiều nhất của hoàng đế Càn Long. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu hiện nay lại phủ nhận điều này.

    Thực hư cuộc cầu hôn giữa nhà Tây Sơn với nhà Thanh là như thế nào? Sách Hoàng Lê nhất thông chí chép rằng: “Vua Quang Trung sau khi quyết định đánh Trung Quốc, bèn sai bầy tôi là Chiêu Viễn Vũ Văn Dũng sang nhà Thanh dâng biểu cầu hôn và đòi lại đất hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây".

    Sách Đại Nam chính biên liệt truyện cũng ghi: “Năm Nhâm Tý (1792), vua Quang Trung sai làm biểu văn sang nhà Thanh cầu hôn để dò ý vua Thanh và cũng để mượn cớ gây mối binh đao, nhưng vua bị bệnh không đi được”.

    Theo hai tài liệu trên, việc Quang Trung xin cưới một công chúa của Càn Long mới chỉ trong dự định của một ý đồ liên quan đến vận nước của hai bên. Vua mong muốn bành trướng lãnh thổ Đại Nam về phương Bắc và bằng mọi cách đòi lại cho được 2 tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây - vốn thuộc nước Nam Việt thời Triệu Đà (năm 207 trước Tây lịch), mà nhà Hán đã thôn tính.

    Sắc mệnh sai sứ thần sang nhà Thanh cầu hôn

    Vào tháng 4 âm lịch năm 1791, vua Quang Trung gửi một sắc mệnh cho Chiêu Viễn Vũ Văn Dũng, có nội dung như sau:

    “Sắc Hải Dương Chiêu Viễn Đại đô đốc Đại tướng quân Dực vận công thần Vũ Quốc Công tiên gia lĩnh Bắc sứ kiêm toàn ứng tấu thỉnh Đông, Tây lưỡng Quảng dĩ khuy kỳ tâm, công chúa nhất vị dĩ kích kỳ nộ.

    Thận chi! Thận chi!

    Kỳ dụng binh hình thế tận tại thử hành.

    Tha nhất tiền phong, Khanh kỳ nhân dã, khâm tai sắc mệnh.

    Quang Trung tứ niên, tứ nguyệt, thập ngũ nhật”.

    Tạm dịch:

    "Sắc sai Hải Dương, Chiêu Viễn Đại đô đốc Đại tướng quân Dực vận công thần Vũ Quốc Công được tiên phong làm Chánh sứ đi sứ nhà Thanh, kiêm lãnh toàn quyền trong việc tâu thưa để xin lại đất hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây để dò ý và cầu hôn công chúa để khiêu khích tự ái vua Thanh.

    Cẩn thận! Cẩn thận!

    Hình thế dụng binh là ở chuyến này cả. Ngày kia làm tiên phong chính là khanh.

    Sắc mệnh nhà vua.

    Ngày rằm tháng 4 năm Quang Trung thứ 4 (1791).

    Như vậy, đoàn sứ của Vũ Văn Dũng lên đường sang Đại Thanh để bệ kiến vua Càn Long hai việc: xin cầu hôn và xin đất đóng đô. Thực chất, theo một số nhà nghiên cứu hiện nay, đó chỉ là cái cớ vì thực tâm, vua Quang Trung muốn dụng binh đánh Trung Quốc và Vũ Văn Dũng chính là vị tướng tiền phong trong tương lai.

    Càn Long chuẩn thỉnh cầu... Quang Trung băng hà

    Sau khi sứ thần Vũ Văn Dũng dâng tấu xin Càn Long ban cho hai yêu cầu nói trên, vua nhà Thanh đã chuẩn y lời cầu hôn của hoàng đế Quang Trung, sai bộ Lễ sửa soạn nghi thức cho việc cưới gả, định ngày cho công chúa sang nước Nam. Còn việc xin lại hai tỉnh, Càn Long ngoài mặt đồng ý, nhưng thực tế chỉ muốn trao cho Quảng Tây làm đất đóng đô, coi như "của hồi môn" cho con gái diệu.

    Tuy nhiên, ở đời mấy ai học được chữ ngờ! Chỉ sau đó mấy hôm, Vũ Văn Dũng nhận được tin chẳng lành là vua Quang Trung đột ngột băng hà. Mọi việc trở nên dang dở... Lúc đó, Vũ Văn Dũng đã làm bài thơ viếng:

    Năm năm dấy nghiệp tự thân nông

    Thời trước thời sau khó sánh cùng

    Trời để vua ta thêm chục tuổi

    Anh hùng Đường, Tống hết khoe hùng.

    Vua Càn Long cũng thảo một bài thơ viếng hoàng đế Quang Trung. Sứ nhà Thanh đã đến tận mộ ông ở Linh Đường (mộ giả) thuộc huyện Thanh Trì (Hà Nội) để viếng.

    Cho đến nay, thời điểm mất của vua Quang Trung vẫn được các tài liệu cổ ghi khác nhau. Sách Đại Nam thực lục của nhà Nguyễn ghi ông mất tháng 7 âm lịch năm 1792. Hoàng Lê nhất thống chí chép ông mất tháng 8 âm lịch năm 1792. Theo lý giải của Hoàng Xuân Hãn trong La Sơn phu tử, cả hai sách ghi đều không sai. Quang Trung mất vào khoảng 11 h đêm ngày 29 tháng 7 âm lịch, khoảng đó là giờ tý, nghĩa là bắt đầu được tính sang hôm sau; mà tháng 7 năm đó là tháng thiếu, ngày 29 là ngày cuối tháng, nên sau 11h đêm đã chuyển sang tháng 8. Theo Hoàng Xuân Hãn: "Ghi tháng 7 hay tháng 8 thực ra chỉ chênh nhau khoảng nửa giờ".

Link: http://www.baomoi.com/Thuc-hu-chuyen-vua-Quang-Trung-cau-hon-cong-chua-nha-Thanh/54/6969600.epi


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: hoangphi trong 19 Tháng Năm, 2012, 10:15:03 am
Xin nói về lễ "ôm gối" mà Vua nhà thanh tặng cho Hoàng Đế Nguyễn Huệ........
Nó có thực không ?
trong sách 'Hoàng Lê nhất thống chí' có đoạn viết về việc Càn Long cho Quang Trung (giả) làm lễ này như sau: 'Khi “quốc vương' tới Yên Kinh, vua Thanh mừng lắm, không hề biết đó là Quang Trung giả.

Lúc 'quốc vương' vào yết kiến, vua Thanh cho cùng ăn yến với các vị thân vương, lại ban ơn đặc biệt cho làm lễ ôm gối hệt như tình cha con trong nhà...'; hoặc như trong 'Đại Nam liệt truyện' cũng có đoạn:

'Tổng đốc Lưỡng Quảng là Phúc Khang An, tuần phủ Quảng Tây là Tôn Vĩnh Thanh cùng đưa đi đến Yên Kinh. Vua nước Thanh muốn nêu khen khác mọi người thưởng cho rất hậu. Đến hành cung Nhiệt Hà, vào chầu ra mắt, làm lễ bảo tất (ôm lấy đầu gối vua)'.
Thực ra ở đây có sự nhầm lẫn, 'bảo tất' viết đúng phải là 'bão tất' dùng để chỉ hành động chính mình ôm gối mình, tức là ngồi bó gối và nó không phải là một lễ trong nghi thức, điển chế cung đình triều Mãn Thanh.

Theo sách 'Hàn các anh hoa' của Ngô Thì Nhậm, một triều thần Tây Sơn thì lễ đó gọi là 'bão kiến, thỉnh an', đây là lễ cực kỳ đặc biệt rất hiếm khi thực hiện, nó được hoàng đế dành cho những người lập nhiều quân công lớn.

Việc vua Càn Long tiếp vua Quang Trung (giả) bằng lễ “bão kiến, thỉnh an” để tỏ ý ưu đãi khác thường là trường hợp không chỉ hiếm thấy tại nước Thanh mà cũng chưa bao giờ dành cho các quốc vương nước ngoài khi đến Trung Quốc.

Trong bức thư mà Tổng đốc Lưỡng Quảng là Phúc Khang An trong thư gửi vua Quang Trung trước khi sang thăm có đoạn cho biết: 'Quốc vương ở đất Giao (Chỉ) xa xôi nóng nực, chắc không thông hiểu cách thức của thiên triều.

Phàm các bầy tôi vào triều cận, thường là nghi lễ bình thời, (còn như) bão kiến thỉnh an, ấy là vượt hẳn điển lệ, trước đây chỉ có tướng quân Triệu Công khi bình định Hồi bộ trở về và tướng quân A Công, khi bình định hai Kim Xuyên xong, ca khúc khải hoàn vào triều kiến hoàng đế, hoàng thượng muốn tướng sĩ ra sức, khi đó mới cho thi hành đại lễ này'.

Theo 'Đại Việt quốc thư', trong bài dụ mà Càn Long gửi cho Quang Trung cũng nói rằng 'bão kiến, thỉnh an' là lễ mà 'đại hoàng đế tiết thứ ban cho rất là ưu hậu, các nước phiên ở ngoài, từ thiên cổ cho đến bây giờ, chưa từng được như thế'.

Vậy 'bão kiến, thỉnh an' là lễ gì? Các nhà nghiên cứu cho hay lễ này vốn là một tục đón khách quý trong trường hợp đặc biệt của các sắc dân du mục phía bắc Trung Quốc như Mông Cổ, Mãn Châu…; sau đó nó được cải biến để thành một trọng lễ.

Khi tiến hành, hoàng đế sẽ từ trên ngai vàng bước xuống, đi ra cửa cung điện ôm lấy người được chào đón (bão kiến) để chứng tỏ sự ưu ái, đồng thời có lời thăm hỏi (thỉnh an) trong một bầu không khí cực êm đềm, thân mật.
,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,

còn lễ "Ôm gối" thực sự là do Hoàng Đế minh mạng nhà nguyễn "nghĩ ra".....chuyện như thế này...
Do Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên là Lê Văn Đức, Tổng đốc An Tĩnh là Tạ Quang Cự và Đề đốc Phạm Văn Điển có công lớn dẹp "Phỉ" ở phía bắc. Để ban thưởng, Minh Mạng đã ban một bản dụ trong đó nói rằng vua nghĩ ra một nghi lễ mới dành cho những người có công, qua đó tỏ tình yêu mến trọng vọng.

Bản dụ có đoạn viết: 'Trẫm nghĩ Đề đốc Phạm Văn Điển, Tổng đốc Tạ Quang Cự, Lê Văn Đức hai lần đi đánh giặc, 3 năm mới thành công. Trải qua mọi gian hiểm mới nên được công to. Tuy là bổn phận của đạo tôi con phải làm nhưng vì nước khó nhọc, làm ta bớt mối lo ở phương Bắc.

Trẫm lẽ nào quên đi mà không hậu đãi, ngoài việc ban công ban thưởng, phong tước đền công đã có dụ thi hành rồi, nay cho bộ Lễ bày nghi lễ, chọn ngày tốt, trẫm ngự ở cửa Đại Cung, cho các quan đại thần lui quân về vào chầu và cho Phạm Văn Điển, Tạ Quang Cự, Lê Văn Đức làm lễ ôm gối để tỏ ý trẫm coi như Hoàng tử vui đùa dưới gối.

Đây là cái lễ trẫm mới nghĩ ra, mà vì tình thì rất thân yêu, ở chỗ tình lễ vua tôi, không còn gì hơn nữa. Vậy nên đem ý đó truyền bảo cho bọn ấy biết. Lại hôm làm lễ ôm gối xong, cùng cho Tham tán là Nguyễn Công Trứ, Lê Văn Phụng, Nguyễn Tiến Lâm, Hồ Bảo Định đến bên cạnh, trẫm tự tay rót rượu ban cho để báo đáp sự khó nhọc' (Khâm định Đại Nam Hội điển sự lệ).

Trong bản dụ này, vua Minh Mạng cho biết lễ ôm gối do ông nghĩ ra, nhưng một số ý kiến cho rằng khi đặt ra lễ đó có thể vua có học hỏi về lễ ôm gối mà trước đó vua Mãn Thanh là Càn Long đã từng thực hiện và được một số tư liệu của nước ta nhắc đến. Nhưng thực tế không phải vậy.

Lễ 'ôm gối', sáng kiến lạ của vua Minh Mạng được coi là dịp bày tỏ lòng vua thương dân như con, thể hiện cảnh vua tôi hoà mục, thân ái chỉ diễn ra 3 lần với 6 người 'vinh dự' được nhận ân sủng này là Lê Văn Đức, Tạ Quang Cự,  Phạm Văn Điển, Nguyễn Xuân, Phạm Hữu Tâm và Trương Minh Giảng.

Có gì sai sót xin thứ lỗi
 


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 17 Tháng Sáu, 2012, 07:57:51 am
Câu chuyện 39:

Danh nhân Bùi Cầm Hổ ( 1390 - 1483 )
.....
Bùi Cầm Hổ cũng có nhiều công lao trong hoạt động ngoại giao, trong hai lần sang sứ nhà Minh và những năm trấn thủ ở Lạng Sơn. Năm Quý Sửu, 1433 Lê Thái Tổ sai Ông cùng Trình Thuấn Du và Nguyễn Khả Chi đi sứ sang nhà Minh với trọng trách giữ mối hòa hoãn dài lâu giữa hai nước, cho dân sự hưởng thái bình, nhà Lê được yên vị. Với tài ứng phó và vóc tướng uy nghiêm của Ông, vua nhà Minh phải tôn trọng đoàn sứ bộ của nước Nam, và cũng nể vì khi Ông khảng khái cự tuyệt lời mua chuộc của nhà Minh. Thời gian 2 năm 7 tháng làm An phủ sứ Lạng Sơn, Bùi Cầm Hổ đã góp phần quan trọng vào việc giữ hòa hiếu giữa hai nước, vùng biên giới được yên ổn. Năm Mậu Ngọ - 1438, sứ nhà Minh sang báo tin địa phương Thái Bình (thuộc tỉnh Quảng Tây ngày nay) nổi loạn, Bùi Cầm Hổ được vua Lê tin cậy cử cùng Lê Bá Kỳ sang sứ nhà Minh, Ông đã thẳng thắn tố cáo trước vua Minh về việc thổ quan châu Tư Lãng phủ Thái Bình đã vượt biên lấn chiếm đất Việt Nam. Rồi năm Kỷ Tỵ - 1449, có tin báo từ biên giới, hai ty Khâm sai và Tổng Liêu (Quảng Tây) đem binh mã cát cứ, kiểm soát bờ cõi biên giới. Bùi Cầm Hổ và Tư khấu Nguyễn Khắc Phục được cử đi thị sát làm rõ tin giả, giải quyết ổn định vùng biên.
.....
Link: http://hobuivietnam.com.vn/index.php?nv=News&at=article&sid=862


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: Trần Anh trong 20 Tháng Bảy, 2012, 01:53:42 pm
                          Chiêu 'độc' khiến sứ thần Tống triều... run sợ của Lê Đại Hành

 Không chỉ "phô" sức mạnh quân sự của Đại Cồ Việt, Vua Lê Đại Hành còn có tuyệt chiêu dùng thú dữ... uy hiếp tinh thần của sứ Thiên triều thật độc đáo.

Là vị vua đầu tiên của nhà Tiền Lê, trị vì từ năm 980 đến 1005, Lê Đại Hành, tên húy là Lê Hoàn, không chỉ là một vị hoàng đế có những đóng góp lớn trong chống quân Tống phương Bắc, quân Chiêm phương Nam, giữ gìn và củng cố nền độc lập dân tộc, mà còn có nhiều công lao trong sự nghiệp ngoại giao, xây dựng và kiến tạo đất nước Đại Cồ Việt.

Bí ẩn về thân thế đế vương

Thần tích Lê Hoàn tại lăng Vua Lê, làng Ứng Liêm (Hà Nam) kể rằng, Lê Hoàn sinh ra ở xã Trường Yên, Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. Ông nội là Lê Lộc và bà nội là Cao Thị Phương; cha là Lê Hiền, mẹ là Đặng Thị Khiết. Nhà nghèo nên cha mẹ ông đã về xã Ninh Thái, Thanh Liêm, Hà Nam làm nghề chài lưới, đơm đó bắt cá. Ngày mùng 10 tháng Giêng năm Nhâm Tuất (942), ông ra đời và năm lên 7 tuổi, thì mồ côi cả cha lẫn mẹ.

Tuy nhiên, xung quanh thân thế của vua Lê Đại Hành còn được kể với nhiều tình tiết ly kỳ. Chẳng hạn, thân mẫu Lê Hoàn, khi đang mang thai ông, bỗng nằm mơ thấy bụng mình nở ra hoa sen và kết thành hạt sen ngay. Bà lấy hạt sen ấy đem chia cho mọi người nhưng phần mình lại không ăn. Tỉnh dậy, bà lấy làm lạ lắm. Đến khi sinh ông, vừa thoáng thấy mặt mũi đến hình dáng đều khác thường, bà nói với mọi người: “Thằng bé này về sau ắt sẽ được sang giàu hơn người, chỉ tiếc là tôi không kịp được hưởng lộc mà thôi”.

Thế rồi được độ vài năm, bà mất. Bấy giờ, có viên quan người họ Lê, người Ái Châu (nay thuộc Thanh Hóa) thấy vua có dung mạo khác thường, bèn nuôi làm con. Một hôm, mùa đông giá rét, Lê Hoàn phải nằm phục xuống như hình cái cối úp cho đỡ buốt, chẳng dè đêm ấy, nhà sáng rực cả lên vì có con rồng vàng nằm che lên…

Lớn lên, Lê Hoàng đi theo Nam Việt Vương Đinh Liễn và đã lập được nhiều chiến công. Đinh Bộ Lĩnh giao cho ông chỉ huy 2.000 binh sĩ. Đến năm 968, Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp xong loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước, lập nên nhà Đinh. Lê Hoàn có công lao trong cuộc đánh dẹp và được giao chức vụ Thập đạo tướng quân (tướng chỉ huy mười đạo quân), Điện tiền đô chỉ huy sứ - tức chức vụ tổng chỉ huy quân đội cả nước Đại Cồ Việt, trực tiếp chỉ huy đội quân cấm vệ của triều đình Hoa Lư. Lúc đó, ông mới 27 tuổi.

Khi Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị sát hại vào tháng 10 năm 979, Vệ vương Đinh Toàn mới 6 tuổi lên ngôi vua. Lê Hoàn trở thành Nhiếp chính. Tuy nhiên, vì triều đình Hoa Lư rối ren, nhà Tống bên Trung Quốc có ý định cho quân tiến vào đánh chiếm Đại Cồ Việt, Thái hậu Dương Vân Nga cùng tướng Phạm Cự Lạng và các triều thần tôn Lê Hoàn lên làm vua.

Tuyệt chiêu ngoại giao độc đáo

Sử sách chép rằng, vào năm Canh Dần (990), Vua Tống sai Tống Cảo dẫn đầu đoàn sứ mang chiếu thư sang phong cho Lê Hoàn hai chữ "Đặc Tiến". Vốn biết nhà Tống hống hách, ngạo mạn, Lê Hoàn thay đổi cách đón tiếp. Ông muốn nhân lúc này tỏ rõ sức mạnh quân sự của Đại Cồ Việt, đã sai Đinh Thừa Chính mang 9 chiến thuyền và 300 quân sang tận Liên Châu (Quảng Đông, Trung Quốc), để đón sứ rồi bảo vệ đoàn sứ đến Đại cồ Việt... Và tháng 10 năm đó, đoàn sứ Tông tới kinh đô Hoa Lư trong cảnh tưng bừng khác lạ: dưới sông, chiến thuyền tinh kỳ san sát; bên các sườn núi, quân lính võ phục chỉnh tề, gươm giáo sánh lòa; trên các cánh đồng, hàng trăm hàng ngàn trâu bò rong ruổi đen đặc, bụi bay mù mịt. Sứ Tống không thể không thấy sự hùng mạnh, giàu mạnh của nước Việt.

Theo nghi lễ của Tống triều, khi nhận chiếu thư của "Thiên Triều", vua các nước chư hầu phải "lạy". Nhưng Lê Hoàn giải thích vừa đi đánh giặc Mán, ngã ngựa, chân đau, không lạy được. Chánh sứ Tống Cảo cũng đành chịu. Đây là lần đầu tiên, vua nước ta nhận chiếu thư không lạy.

Không chỉ mở đại yến tiệc ngoài bãi biển để chào mừng sứ thần, Vua Lê còn mời sứ giả xem những người lính Đại Cồ Việt tay không đánh nhau với hổ trong sân nhà vua. Hổ dữ gầm thét lồng lộn để vồ lấy người, nhưng đã bị những người lính “tặng” quả đấm như trời giáng vào hai thái dương và bị đạp vào chỗ hiểm nên chỉ còn điên cuồng giãy giụa. Sứ thần Tống Cảo đã bị một phen sợ toát mồ hôi.

Sau trận đấu hổ là trò trăn dữ biểu diễn. Trăn có thể nuốt người ăn thịt hoặc vặn mình cho đến nát, song đã bị người lính bé nhỏ điều khiển, cho quấn lên cổ mà không khiếp sợ. Lê Hoàn cũng cho người khiêng một con trăn lớn, dài vài trượng đến quán dịch nói với sứ Tống: "Nếu sứ thần ăn được thịt trăn thì vua tôi sẽ cho người làm cỗ để mời". Sứ Tống khiếp đảm từ chối.

Trước khi đoàn Tống Cảo về nước, Lê Hoàn thẳng thắn bảo họ: "Sau này, nếu có quốc thư thì nên giao nhận ngay đầu địa giới, không phiền sứ thần đến đây nữa". Vua Tống đã đồng ý. Năm Ất Tị (1005), Vua Lê Đại Hành mất, thọ 65 tuổi, làm vua được 24 năm.

Người tình 'từ cái nhìn đầu tiên' của vua Lê Đại Hành

Bàn về chính sách ngoại giao thời Vua Lê Đại Hành, theo Bách khoa toàn thư mở, Lê Hoàn là người mở đầu và xác lập những nguyên tắc cơ bản của nền ngoại giao Đại Việt. Nhà Tống là triều đại phong kiến hùng mạnh nhất châu Á đương thời mang nặng tư tưởng bành trướng đã phải từng bước thừa nhận sức mạnh, thế lực của quốc gia độc lập Đại Cồ Việt, đã phong cho Lê Hoàn các tước vị cao như Giao Chỉ quận vương, Nam Bình vương, sứ thần Tống còn làm thơ tôn Lê Hoàn tài ba không khác gì vua Tống.

“Nhà Tiền Lê tiếp đãi sứ nhà Tống, tình ý và văn thư rất là chu đáo. Khúc hát hay cũng đủ khoe có nhân tài mà quốc thể được thêm tôn trọng làm cho người Bắc phải khuất phục”, nhà sử học Phan Huy Chú đánh giá.

Nguồn:http://baodatviet.vn/Home/congdongviet/Chieu-doc-khien-su-than-Tong-trieu-run-so-cua-Le-Dai-Hanh/20127/223481.datviet (http://baodatviet.vn/Home/congdongviet/Chieu-doc-khien-su-than-Tong-trieu-run-so-cua-Le-Dai-Hanh/20127/223481.datviet)


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 05 Tháng Tám, 2012, 06:40:36 am
Câu chuyện 40:

Nguyễn Duy Thì - "Sứ thần thông minh"

....
 Vị sứ thần 35 tuổi đi triều cống Trung Quốc theo thường lệ. Hoàng đế nhà Minh muốn làm cho bẽ mặt bằng cách thử tài ông, nên đã ra câu đố: đi cùng vua, thầy học và cha trên một chuyến đò, nếu có bão đắm đò thì cứu ai trước? Câu hỏi hóc búa vì theo đạo lý Khổng học quân-sư-phụ, cứu ai trước thì cũng bị tội bất nghĩa, bất trung hoặc bất hiếu. Sứ thần trả lời khôn ngoan: “Gặp người nào thì cứu người ấy trước và sẽ cứu cả ba”.

Hoàng đế lại hỏi: “Thức ăn gì ngon nhất? Vật gì quý nhất trên đời?”. Sứ thần trả lời: “Muối ngon nhất, thiếu muối thì nhạt nhẽo; vật quý nhất là sĩ phu (trí thức) khiến đất nước thanh bình phồn thịnh”.

Hoàng đế Minh hết cách hạch sách, rất cảm phục và đã ưu đãi sứ thần (theo Quỳnh Cư - Danh nhân đất Việt).

Sứ thần đó là cụ Nguyễn Duy Thì đỗ Hoàng Giáp Tiến sĩ năm Mậu Tuất (1598) và đã đi sứ hai lần.

Ngoài 80 tuổi liên tiếp đứng thứ nhất Triều đình

Tôi không ngờ có dịp được viếng hương hồn Cụ ở Văn Miếu - Hà Nội và ở đền thờ Cụ tại quê hương: Thanh Lãng - Bình Xuyên - Vĩnh Phúc.

Tên Cụ còn ghi ở Văn Miếu, bia số 23 đằng sau bên phải nhà bia bên phải, bia thứ 6. Đọc bài ký văn bia khắc tên các Tiến sĩ khoa Mậu Tuất 1598 mà sửng sốt!

Ngày nay không ít người vẫn còn lên án chế độ phong kiến lạc hậu, ngu dân! Nhưng văn bia toát lên hai điều không thể chối cãi được: Thứ nhất nhà vua cầu và chuộng người tài, trí thức thực sự để trị quốc. Văn bia kể lại quá trình các vua đời Lê nối tiếp nhau tìm người tài: Lê Lợi “lấy võ công dẹp yên thiên hạ”. Xong, liền “dùng văn hóa xây dựng thái bình. Đầu tiên mở nhà học, cho nên việc học có từ đấy”. Tiếp sau “Thái Tông Văn hoàng đế mở khoa thi Nho, phong hóa từ đó hưng thịnh”.

Về sau, Lê Thánh Tông cho khắc tên của các Tiến sĩ vào bia đá (đỗ từ năm 1484 cho đến 1788, khoảng 1.300 vị có tên trong số đó 2.300 tiến sĩ).

Thế kỷ XVI nhà Mạc chiếm ngôi. Sau Nam Bắc Triều, thời nhà Lê Trung Hưng (có chế độ chúa Trịnh) mở lại kỳ thi ở Bắc Hà; Nguyễn Duy Thì đỗ Hoàng giáp Tiến sĩ khoa thi thứ 2, khi 27 tuổi (Mậu Tuất, 1598).

Văn bia có lời răn đe: “Hãy lấy một khoa làm thí dụ, điểm xem sự nghiệp họ ra sao? Ta sẽ thấy người ấy có lấy việc can gián làm trách nhiệm của mình để tạo phúc được cho nước, cho dân. Hay người lấy sự đưa đón chiều đời để bảo toàn địa vị? Có người nào trái đạo, thậm chí tham quyền, không biết giúp vua, giúp nước? Công luận sẽ còn mãi mãi ai trung ai nịnh, ai hiền ai gian?” Bia lập năm 1653 này đáng để chúng ta ở thế kỷ 21 suy nghĩ!

Về các bia Tiến sĩ, ta còn thấy điểm nữa: Xưa kia tôn trọng người tài là người tài thực sự, vì phải qua thi hương, thi hội, thi đình rất nghiêm, rất khó! Hàng nghìn vạn người đi thi, chỉ được vài Tiến sĩ. 100% trong số các vị Tiến sĩ có tên ghi trên bia Văn Miếu không thể có Tiến sĩ giấy, mua Bằng cấp như giờ đây!

Cụ Nguyễn Duy Thì (1572 - 1652) quê ở làng Hợp Lễ, xã An Lãng (còn gọi là Láng tên y như làng Láng - ngoại ô Hà Nội - có trồng rau húng, cùng tên Yên Lãng), nay là Thanh Lãng, huyện Bình Xuyên, Vĩnh Phúc. Tên thật sự của Cụ là Nguyễn Duy Thời, sau này,đến đời vua Tự Đức, do kỵ Tên Húy trong Cung, đã phải đổi thành Nguyễn Duy Thì .

Cụ là Thượng thư bộ Lại - Chưởng lục bộ sự, chức Thái Tể (Tể tướng), Tế Tửu (Hiệu trưởng) Quốc Tử Giám, công thần thời Lê Trung Hưng suốt 40 năm .

Thời đó các quan được cấp đất và đặt phủ đường ngay tại Thăng Long. Cụ được Vua Lê - Chúa Trịnh tôn trọng đặc biệt, đặc cách, phong đất và đặt phủ đường ngay tại quê nhà (nay là đền thờ), một tháng chỉ lên kinh đô Thăng Long một lần.

Tai đây hiện nay là đền thờ Cụ. Đền Tướng Công (Tướng công từ) cũng khiêm tốn. Nhà tiền tế có 5 gian, 24 cột gỗ lim, với bức hoành phi “Thượng trụ quốc”, qua một khoảng sân hẹp là vào từ đường. Gian giữa từ đường đặt ngai thờ với bức hoành phi “Tướng công Từ” và các câu đối ca ngợi công đức Cụ, đặc biệt có 2 câu :

"Bát cổn ngoại xuân thu lũy triều Nguyên Lão

Tứ thập niên Tể phụ vạn cổ danh gia"

(lược dich: Áo mũ làm quan ngoài 80 tuổi, liên tiếp đứng thứ nhất Triều đình - 40 năm làm chủ giúp nhà vua, muôn xưa vẫn là một gia đình danh tiếng).

Link: http://www.baomoi.com/Su-than-thong-minh/59/3143167.epi


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 14 Tháng Tám, 2012, 02:57:14 pm
Câu chuyện 41:

Tài ngoại giao của Thái sư Trần Quang Khải

Trần Quang Khải (1241-1294), danh tướng nhà Trần. Thời chiến, ông chỉ huy quân đánh giặc. Khi cần, ông trở thành nhà ngoại giao.

(ĐVO) Từ Nghệ An đến bến Chương Dương

Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần 2 (1285) quân dân nhà Trần đã có nhiều chiến thắng lẫy lừng. Trận Chương Dương (tháng 6/1285) là một trong những chiến công đó. Trận diễn ra sau khi giai đoạn 1 (ta rút lui, bảo toàn lực lượng) và nằm trong giai đoạn 2 phản công chiến lược.

Từ tháng 5/1285 bắt đầu giai đoạn này, sau hàng loạt trận đập tan tuyến phòng thủ của địch và đánh thắng ở Tây Kết, Hàm Tử, ta tiến hành trận Chương Dương. Ngày nay Chương Dương thuộc huyện Thường Tín, Hà Nội.

Phát huy chiến quả từ A Lỗ, Giang Khẩu, Tây Kết, Hàm Tử, nhà Trần tập trung binh lực tiến đánh Chương Dương, căn cứ quan trọng của quân Nguyên Mông trên tuyến phòng thủ dọc sông Hồng bao quanh Thăng Long. Người chỉ huy chính của trận này là Trần Quang Khải, khi ông ở tuổi 44.

Trước đó, đích thân Trần Quốc Tuấn đã chỉ huy quân ta đánh thắng lớn ở A Lỗ rồi Trần Nhật Duật nối tiếp mạch thắng ở cửa Hàm Tử (nay ở huyện Khoái Châu, Hưng Yên). Cùng với Trần Quang Khải, các tướng Trần Thông, Nguyễn Khả Lạp, Nguyễn Truyền đã chỉ huy dân binh từ nhiều địa phương đánh phối hợp.

Ở trận Chương Dương đã thể hiện tài thao lược của Trần Quang Khải. Trận Chương Dương, quân ta thu được nhiều vũ khí, trang bị, góp phần lớn cho ta giải phóng Thăng Long.

Bài thơ của Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải khi quân ta trở lại Thăng Long đã dâng lên niềm tự hào vô bờ bến:

Đoạt sáo Chương Dương độ
Cầm hồ Hàm Tử quan
Thái Bình tu nỗ lực
Vạn cổ thử giang san


Nghĩa là:

Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù
Thái bình nên gắng sức
Non nước ấy ngàn thu


Để có được ngày cướp giáo giặc ở Chương Dương, Tướng quân Trần Quang Khải đã có quá trình không ngừng học tập, làm việc hơn 40 năm.

Trần Quang Khải sinh tháng 10 năm Tân Sửu (1241), quê làng Tức Mạc, phủ Thiên Trường (nay là xã Lộc Vương, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định), là con thứ ba của vua Trần Thái Tông và Công chúa Thuận Thiên.

Ông là chú ruột của vua Trần Nhân Tông. Trước trận Chương Dương tháng 6/1285, ngày 7/5/1285, ông cùng tướng Phạm Ngũ Lão đã chặn đường tiến của Toa Đô ở Nghệ An. Chặn cả đường tiến của Ô Mã Nhi.

Nghệ An chính là đất Trần Quang Khải rời Thăng Long năm 1265, khi ông mới 24 tuổi để thể hiện bản lĩnh.

Khi quân ta vừa đánh thắng cuộc xâm lăng lần 1 của quân Nguyên Mông, vua Trần Thái Tông nhường ngôi cho con, hoàng tử Trần Hoảng lên ngôi, hiệu là Thánh Tông, Trần Quang Khải được phong tước Chiêu minh đại vương và ba năm sau (1261) ông được phong Thái úy, gánh vác công việc của triều đình.

Bốn năm sau, ông trấn thủ ở đất Hoa Diễm, Nghệ An. Ở đây, ông vừa lo kinh tế xã hội, an dân, vừa tìm kiếm nhân tài cho đất nước. Ông học tiếng dân tộc, tiếp xúc nhiều bộ tộc, biết rằng họ là phên dậu của dất nước, nhất là khi có biến.

Sáu năm ở Nghệ An là 6 năm không ngừng làm và học trong thực tế. Tròn 30 tuổi, ông trở lại Thăng Long, đem kinh nghiệm ở Nghệ An, giúp vua ổn định tình hình châu Bố Chính (Quảng Bình, Quang Trị). Sau này, ông còn có dịp cùng vua trở lại đất Nghệ An để giữ yên bờ cõi.

Nhà ngoại giao lịch duyệt

Thất bại xâm lăng 1258, nhà Nguyên ráo riết chuẩn bị cho lần sau. Năm 1278, 20 năm sau thất bại 1258, nhà Nguyên cử phái đoàn do người đứng đầu bộ Lễ là Sài Thung sang “răn đe” quân dân ta.

Trần Quang Khải được vua Trần Nhân Tông giao nhiệm vụ đón đoàn sứ Nguyên ở bờ sông Hồng. Trần Quang Khải đã quán triệt tinh thần khôn khéo, mềm dẻo. Trước sau giặc cũng đem quân sang, song ta cần thời gian, thời gian cũng là lực lượng.

Ở nước ta, vua Trần Nhân Tông mới lên ngôi, cần phải củng cố, tích lũy lực và tạo thế. Trên mặt trận ngoại giao, Trần Quang Khải khi đó 37 tuổi đã ứng xử sáng suốt. Tuy lắm thủ đoạn nhưng Sài Thung trong lần đi sứ này chưa thể lấy cớ nào cho biện pháp dùng vũ lực.

Đoàn sứ nhà Nguyên có 4 người, được Trần Quang Khải gọi là “mang bốn ông bạn hiền mở lòng yêu mến, che chở sinh linh dân Việt”, còn với người đứng đầu Sài Thung, Trần Quang Khải tặng hẳn bài thơ.  (*)

Ba năm sau (1281), Sài Thung đi sứ lần hai và triển khai nhiều biện pháp thâm độc, láo xược hơn, điển hình là đem hàng nghìn quân để gọi là “hộ tống cho An Nam Quốc vương Trần Di Ái về nhận chức”.

Một mặt, Trần Quang Khải cho lực lượng ban đêm bất ngờ tập kích toán quân bảo vệ kẻ phản quốc Trần Di Ái, mặt khác khi Sài Thung đến Thăng Long, ông đã tiếp đãi không cho sứ giả này có cớ vu cáo.

Từ 1281-1283, ông đứng đầu triều đình, cùng vua Trần Nhân Tông, Trần Quốc Tuấn chống giặc.

Những vần thơ sảng khoái

Như nhiều danh tướng nhà Trần, Trần Quang Khải vừa đánh giặc vừa làm thơ.

Những ngày đánh giặc, những tháng năm đứng đầu Hoan Diễm, những lần tiếp sứ giặc... đều được phản ánh trong thơ ông.

(*) Tiễn sứ giả Sài Thung khi đến nước ta lần đầu, ông viết:

Ông về, tôi tiễn dạ không yên
Hướng cũ, xăm xăm ngựa ruổi liền
Nam, Bắc tìm theo cờ sứ cuốn
Khách-nhà ly biệt rượu đầy thâm
Nói cười chốc đã chia đôi ngả
Xướng họa giường kê trống một bên
Chẳng biết bao giờ còn gặp lại
Cầm tay trao đổi chuyện hàn huyên.


Đến chiến trường xưa trên đất Thanh Hóa, nơi quân dân ta cầm chân Toa Đô, ông bồi hồi:

Phúc Hương ngòi nước chảy xanh xanh
Vườn rộng phẳng phiu mấy mẫu hành
Tan tuyết, chòm mai hoa lấp lánh
Cuốn mây, bụi trúc ngọc biếc xanh
Nắng đến, mời khách pha trà nhấp
Mưa tạnh, sai đồng dỡ thuốc nhanh
Trông vọng về nam yên khói lửa
Nằm khểnh trên giường ngủ giấc lành.


“Tòng giá hoàn kinh” của ông đã trở thành âm điệu hùng tráng mấy trăm năm nay. Ở phần trên đã giới thiệu bản dịch của nhà sử học Trần Trọng Kim. Dưới đây là bản dịch của nhà văn Ngô Tất Tố:

Bến Chương Dương cướp giáo giặc
Ải Hàm bắt quân Hồ
Thì bình nên gắng sức
Non nước vẫn muôn thuở.


Lời thơ ông chính là lời nhắn nhủ của tổ tiên, mà sau này, hậu thế như nhà thơ Nguyễn Đình Thi viết trong bài thơ “Đất nước”:

Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về.


Ông dặn thời bình phải canh tân, phát triển, yên dân thì nước non sẽ vững bền. Cả cuộc đời Trần Quang Khải 53 năm là sống theo lẽ cao đẹp ấy.

Các Thái sư nhà Trần đều là những nhân vật xuất chúng, tài năng, quyết đoán. Theo thứ tự thời gian có:

1. Trần Thủ Độ (1194-1264), tấn phong Tướng quốc Thái sư năm 1227.
2. Trần Quang Khải (1241-1294), tấn phong Thượng tướng Thái sư năm 1282.
3. Trần Quốc Tuấn (?-1300), truy phong Thượng phu Thượng quốc Thái sư năm 1300.
4. Trần Đức Việp (1265-1306)
5. Trần Nhật Duật (1255-1330), tấn phong Tả thánh Thái sư năm 1324.
6. Hồ Qúy Ly (1336-?), tấn phong Phụ chính Thái sư năm 1395.

Văn Tuấn

Link: http://quocphong.baodatviet.vn/Home/QPCN/Tai-ngoai-giao-cua-Thai-su-Tran-Quang-Khai/20128/228270.datviet


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: Trần Anh trong 11 Tháng Chín, 2012, 12:35:01 am
Nghệ thuật ngoại giao tôn giáo trong lịch sử Việt Nam

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta từng có hai cuộc bang giao tôn giáo nổi tiếng: Lần thứ nhất vào thời vua Lê Đại Hành, lần thứ hai vào thời vua Trần Nhân Tông.

Cuộc bang giao thứ nhất vào cuối thế kỷ X, hai vị Thiền sưpháp Thuận và Khuông Việt với tư cách ngoại giao quan, thay vua Lê Đại Hành đã tiếp sứ giả nhà Tống tại cố đô Hoa Lư (Ninh Bình). Sau khi tham gia vào chiến thắng năm 981, tiêu diệt toàn bộ đội quân xâm lược Tống do Hầu Nhân Bảo chỉ huy, Khuông Việt lại tham gia vào mặt trận đấu tranh ngoại giao ngày càng trở nên xung yếu trong sự nghiệp bảo vệ đất nước.

Nổi bật nhất là sự kiện Khuông Việt tiếp đónphái bộ ngoại giao của Lý Giác đến nước ta vào năm Thiênphúc thứ 8 (987). Trước khi Lý Giác ra về, vua Lê Đại Hành đã sai Khuông Việt viết một khúc nhạc để tiễn đưaphái bộ. Và bài Vương Lang quy - một từ khúc ngoại giao nổi tiếng với lời lẽ hết sức mềm mỏng, khéo léo nhưng lại hết sức cương nghị, đã được Đại sư ứng tác trong dịp này để đưa tiễn Lý Giác trở về: "Tường quangphong hảo cẩmphàm trương/Dao vọng thần tiênphục đế hương/Vạn trùng sơn thuỷ thiệp thương lương/Cửu thiên qui lộ trường/Tình thảm thiết/Đối ly thương/Phan luyến sứ tinh lang/Nguyện tương thâm ý vị biên cương/Phân minh tấu ngã hoàng. Tạm dịch: "Gió Xuân đầm ấm cánh buồm giương,/ Ngóng vị thần tiên lại đế vương./ Non nước nghìn trùng vượt đại dương/ Trời xa bao dặm trường/Tình thắm thiết/ Chén đưa đường/Vin xe sứ giả vấn vương/Dám xin tâu rõ cùng thánh thượng: Lưu ý chốn biến cương”.(Trần Thanh Mại dịch).

Sau khi Lý Giác đươc 2 vị Quốc sư đón tiếp và đàmphán các vấn đề quốc gia đại sự, khi trở về Trung Quốc, Lý Giác đã để lại bài thơ tặng vua Lê Đại Hành, trong đó có câu: " Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu”. Nghĩa là: "Ngoài trời lại có trời soi rọi”. Vua Lê Đại Hành đưa bài thơ ấy hỏi các vị thiền sư, bài thơ ấy ngụ ý nói gì, Thiền sư Khuông Việt đáp: Sứ giả nhà Tống muốn nói vua Việt Nam ngang hàng vua Trung Quốc.

Được sứ giả nhà Tống kínhphục, tôn trọng vua Việt như vua Trung Quốc, từ đó biên cươngphía Bắc được vững bền.

Cuộc bang giao thứ hai, vào thời Trần. Trần Nhân Tông là vị vua có đối sách ngoại giao mềm dẻo nhưng cương quyết, biết hoạch định những chiến lược đúng đắn làm nền tảng vững chắc cho chính sách đối ngoại của nước Đại Việt.

Theo vua Trần Nhân Tông, trước áp lực thường xuyên của thế lựcphương Bắc, con đường sinh tồn của nước Đại Việt còn là ổn định biên giớiphía Nam để có thêm hậu thuẫn mạnh. Đối sách của vua Trần Nhân Tông theo hai chiều Nam - Bắc được lịch sử khẳng định làphù hợp, và đã được các triều đại kế tiếp noi theo, tạo nên một quốc gia hùng mạnh, vững vàng, hòa hiếu, đất đai rộng mở suốt tiến trình lịch sử 700 năm sau đó.

Trong 14 năm gắn bó với chính sự, vua Trần Nhân Tông đã để lại dấu ấn chính sự trong chính sách đối ngoại của nhà Trần thể hiện trên 3 nội dung lớn. Đó là cương quyết tập trung toàn lực đốiphó với quân Nguyên Mông ởphía Bắc vàphía Đông để bảo vệ đến cùng nền độc lập dân tộc; tăng cường hoạt động ở Ai Lao để ổn định bền vững ranh giới bờ cõiphía Tây; nỗ lực kết giao với Chămpa nhằm giữ gìn lãnh thổphía Nam. Đặc biệt, cuối thế kỷ XIII sau hai lần đại thắng Nguyên Mông, trở thành vị Minh quân - Anh hùng giảiphóng dân tộc, ở vào tuổi 35, vua Trần Nhân Tông từ bỏ ngai vàng, lên núi Yên Tử tuphật, đắc đạo trở thànhphật Hoàng.phật Hoàng Trần Nhân Tông đi vào Chiêm Thành, đàmphán với vua Chiêm Thành gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm, thống nhất với vua Chiêm cắt 2 châu Ô và châu Lý về cho nước Đại Việt. Thế là, nước ta được mở rộng biên cương tới Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế.

Đây là cuộc bang giao tôn giáo để mở mang bờ cõi đầu tiên vềphía Nam là do một vịphật Hoàng mở cõi. Cũng trong lịch sử, thời Trần, các vua nhà Trần đã cử Trần Hưng Đạo, Trần Khánh Dư, Trần Quốc Tảng,… đều là những tướng giỏi của triều đình, là nhữngphật tử thuần thành về huyện đảo Cô Tô, Vân Đồn - Quảng Ninh để làm kinh tế biển và trấn giữ giang sơn.

Lòng tự hào dân tộc và ý thức bảo vệ chủ quyền biên cương hải đảo, được Bác Hồ thể hiện rõ nhất khi Người ra thăm huyện đảo Cô Tô vào năm 1961. Và, gần đây Giáo hộiphật giáo Việt Nam được sự ủng hộ của TP Hà Nội xây dựng tượng đài Thánh Gióng; xây dựng Đền Xã Tắc tại Móng Cái, Quảng Ninh...Mới đây đã có 6 vị sư đến Trường Sa để tu niệm, cùng chia sẻ, gánh vác trách nhiệm với cácphật tử đang làm nhiệm vụ bảo vệ đất nước và cầu nguyện cho những người con của dân tộc đã hy sinh để bảo vệ Tổ quốc, cầu mưa thuận, gió hòa cho ngư dân. Sắp tới, Giáo hộiphật giáo Việt Nam sẽ xây dựng các ngôi chùa tại huyện đảo Cô Tô, Vân Đồn (Quảng Ninh)...

Có thể nói, những tư tưởng tôn giáo gắn với lòng yêu nước, thương dân, trách nhiệm trước Tổ quốc, nhân dân, nhân loại, thông qua việc thực hiện những đối sách ngoại giao uyển chuyển, kiên quyết, kế sách giữ nước, yên dân sáng suốt trong các thời kỳ lịch sử của dân tộc đã gópphần bảo vệ đất nước vượt qua bao sóng gió, giữ vững bờ cõi, biên cương và xây dựng đất nước ta xứng tầm thời đại từ xưa đến nay.

Theo Đại Đoàn Kết http://www.ddk.vn/ (http://www.ddk.vn/)


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 01 Tháng Mười Một, 2012, 07:52:23 pm
Câu chuyện 42:

Buộc nhà Thanh phải trả đất

Năm 1719, sứ thần nhà Thanh là Đặng Đình Triết và Thành Văn sang phong vương cho vua Lê, đòi vua Lê phải làm lễ ba lần quỳ, 9 lần vái khi nhận sắc phong. Trịnh Cương không chấp nhận, đã nhiều lần cho người tranh luận, buộc bọn sứ thần phải chấp nhận theo lệ cũ của ta.
Tin tưởng vào lực lượng của mình, Trịnh Cương nhiều lần cho người đưa thư sang vua nhà Thanh đề nghị trả lại các vùng đất Vị Xuyên, Bảo Lạc, Thủy Vĩ (thuộc Tây Bắc) nguyên các vùng đất này bị nhà Thanh chiếm vào năm 1668, nhà nước Lê - Trịnh nhiều lần đòi mà không được đành bỏ qua.
Trước sự kiên quyết của chúa Trịnh Cương lần này, năm 1726, nhà Thanh buộc phải trao trả lại 80 dặm đất vùng Thủy Vĩ và sau đó năm 1728, triều đình nhà Thanh phải trả nốt 40 dặm còn lại, bao gồm cả mỏ đồng Tụ Long, một nguồn nguyên liệu lớn của đất nước. Đây là một thắng lợi to lớn trong chính sách ngoại giao của nhà nước Lê - Trịnh mà Trịnh Cương là người chủ trì.
...

Link: http://www.baomoi.com/3-chinh-sach-quan-trong-cua-Chua-Trinh-Cuong/144/9545478.epi



Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 04 Tháng Mười Một, 2012, 10:21:45 am
Câu chuyện 43:

Lý Thường Kiệt với việc khắc phục hậu quả chiến tranh và xây dựng lại đất nước

Sau khi đuổi được quân Tống về nước, Lý Thường Kiệt tâu vua Lý làm lễ mừng chiến thắng. Vua Lý Nhân Tông liền làm lễ tâu tiên đế ở Thái miếu và tháng 5 Đđinh Tỵ cho mở hội Nhân Vương ở điện Thiên An(1).
 
Lý Thường Kiệt cũng kịp thời khen thưởng những người có công, an ủi gia đình các tướng sĩ đã anh dũng hy sinh trong chiến đấu chống giặc. đặc biệt đối với hai hoàng tử Hoằng Chân và Chiêu Văn đã anh dũng hy sinh sau khi đã chỉ huy quân ta gây cho địch những tổn thất nặng nề, ông sai lập đền thờ để nhớ ơn hai hoàng tử.
 
Đối với những người mắc mưu ly gián của địch mà theo địch, ông thực hiện chính sách khoan hồng, chiêu dụ họ trở về với đất nước.
 
Đối với những nơi địch tàn phá khi chúng hành quân đi qua, ông giao cho các tù trưởng và các quan coi địa phương kịp thời giúp đỡ khôi phục nhà cửa để nhân dân nhanh chóng trở về sản xuất, ổn định đời sống. đặc biệt đối với sông Như Nguyệt, ông cho “đắp đê dài 67.380 bước” khoảng 35km vào tháng 9 năm Đinh Tỵ (10/1077) (Việt sử lược trang 112).
 
Ông cũng ra lệnh cho các lộ, các châu sửa chữa, củng cố lại các thành trì để tăng cường việc bảo vệ đất nước nhất là những thành trì ở các châu biên giới. đầu năm Mậu Ngọ (1078), ông cho sửa thành đại La” cho vững chắc hơn (Việt sử lược trang 112).
 
Để động viên nhân dân đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và ngư nghiệp, ông tổ chức cho vua Lý Nhân Tông, lúc đó đã 12 tuổi đi xem gặt ở Lý Nhân và thăm cửa biển Long Thụy vào tháng 10 Đinh Tỵ (11/1077) (Việt sử lược trang 112).
 
Đối với những đất Tống đã chiếm trước đây như động Vật ác(1), động Vật Dương(2) và những đất Tống mới chiếm khi phát động chiến tranh xâm lược đại Việt, ông chủ trương kiên quyết và khôn khéo đòi lại cho bằng được.
 
Đòi châu Quảng Nguyên

Cuối năm 1076, quân Tống do Yên đạt và Khúc Chẩn chỉ huy tấn công Quảng Nguyên. Nhưng Lưu Kỷ kịch liệt chống lại nên Tống không chiếm được bèn dùng kế ly gián để cô lập Lưu Kỷ, cuối cùng Lưu Kỷ phải theo Tống, nhưng Tống không tin, liền dùng kế điệu hổ ly sơn, đưa Lưu Kỷ về Biện Kinh và chiếm châu Quảng Nguyên, đổi tên châu này thành “Thuận Châu”. Sau khi quân Tống thất bại phải rút khỏi các nơi thì vua Tống liền cho tướng Đào Bật đến coi châu này, trước mắt nhằm khai thác vàng đưa về Tống, lâu dài nhằm biến châu này thành một bàn đạp để sau này khi có thời cơ sẽ lại phát động chiến tranh thôn tính đại Việt. Với ý đồ đó, vua Tống ra sức tổ chức cai trị châu đó cho chặt chẽ. Ngoài đào Bật, vua Tống còn cử đủ các thứ quan cai trị sang từ thông phán, thiểm thư, phán quan kiểm hạt, đô giám đến đô áp. để động viên các viên quan lại đến nơi khí hậu lam chướng này, vua Tống quy định mỗi năm sẽ thay một quan và ai ở hết hạn thì được thăng một chức và được điều về làm quan ở Biện Kinh. để bảo vệ “Thuận Châu” vua Tống còn cử 17 viên chỉ huy quân sự đến làm nhiệm vụ. để khai thác “Thuận Châu”, vua Tống ra lệnh phải đưa phạm nhân bị tội đi đày đến đây lao động. để khai mỏ vàng, ngay trong chiến tranh, Quách Quỳ đã xin vua Tống cho lập lò luyện quặng vàng bạc ở Quảng Nguyên.
 
Để thu phục nhân tâm ở Quảng Nguyên, Tống còn đặt các chức quan lại người địa phương coi các việc hành chính và ra sức mua chuộc các tù trưởng đã theo Tống như Huệ đàm, cháu Nùng Thiện Mỹ, Tống còn định cấp ấn son cho các động trưởng để tỏ ra Tống rất quan tâm giao quyền cho các tù trưởng địa phương.
 
Tuy nhiên những thủ đoạn mị dân đó vẫn không lừa bịp được nhân dân các dân tộc địa phương vì hàng ngày, họ vẫn thấy rất rõ các hành động áp bức, bóc lột của quan quân Tống. Hơn nữa thủ lĩnh Lưu Kỷ vẫn bị bắt giữ ở Biện Kinh. Do vậy nhân dân các địa phương vẫn hướng về nhà Lý.
 
Về phía Lý Thường Kiệt, sau khi đã khôi phục được các châu Quang Lạng, Tô Mậu và Môn, ông liền tập trung sức vào việc khôi phục châu Quảng Nguyên. Ông chuẩn bị sẵn sàng lực lượng quân sự ở châu Quang Lạng để có thể triển khai vào giải phóng Quảng Nguyên. Tuy vậy ông cũng chưa quyết định dùng biện pháp quân sự mà trước hết dùng biện pháp chính trị, vừa động viên nhân dân địa phương chuẩn bị nổi dậy, vừa đưa tin sẽ đánh Quảng Nguyên để lung lạc tinh thần quân Tống, làm cho quan quân Tống luôn luôn nơm nớp lo sợ ông cho quân vào đánh Thuận Châu.
 
Trước tình hình đó, bản thân đào Bật, một viên tướng có kinh nghiệm chiến trận, cũng rất lo. Y khuyên các binh sĩ phải hết sức giữ gìn, cố thủ, chớ có khiêu khích quân Lý, khiến Lý có cớ cất quân đánh Tống.
 
Nắm được tâm trạng đó, một mặt Lý Thường Kiệt vẫn gây sức ép về quân sự, mặt khác ông xin vua Lý cho cử sứ sang Tống để bàn về cương giới nhằm đòi lại những đất mà Tống đã chiếm của ta. Thấy tình hình quan quân Tống ở “Thuận Châu” không được yên tâm lắm, phần thì lo quân của Lý Thường Kiệt đánh vào, phần thì thuỷ thổ không thuộc, nhiều người ốm đau, thậm chí chết ngay trên đất Quảng Nguyên, vua Tống đồng ý tiếp nhận sứ giả sang Tống để bàn về cương giới.
 
Lý Thường Kiệt liền xin vua Lý Nhân Tông cho cử Lý Kế Nguyên là người rất thông thạo tình hình đất đai ở biên giới, đồng thời là viên tướng đã cầm quân đánh Tống ở đông Kênh dẫn đầu một phái đoàn sang Biện Kinh để đàm phán.
 
Tuy đồng ý nhận sứ giả ta sang đàm phán, nhưng vì vẫn sợ quân ta sang đánh Ung Châu như trước nên vua Tống hỏi ý kiến Triệu Tiết xem liệu ta có đánh sang nữa không? Triệu Tiết trả lời là Giao Chỉ chưa thể động binh ngay được vì họ cũng cần nghỉ ngơi sau chiến tranh.
 
Nhưng tháng 10 đinh Tỵ (11/1077), khi ta cử Lý Kế Nguyên sang Tống thì Triệu Tiết lại ngại viên tướng này sẽ lợi dụng đi sứ để nắm tình hình, thu thập tình báo chuẩn bị cho việc đánh Tống. Vì vậy, lấy cớ là trong thư của vua Lý gửi vua Tống có chỗ phạm huý của triều Tống, Triệu Tiết không chịu nhận và yêu cầu ta về sửa lại thư đó.
 
Biết Tống có ý ngại Lý Kế Nguyên nên kiếm cớ trì hoãn việc đàm phán với ta, Lý Thường Kiệt liền bàn với Lý Đạo Thành xin vua cho Đào Tông Nguyên đi sứ thay cho Lý Kế Nguyên và cũng chiều lòng Tống cho sửa thư của vua Lý để không có chữ phạm huý triều Tống. Tuy Lý Thường Kiệt đã cho quân đánh chiếm lại châu Quang Lạng rồi, nhưng để giữ thể diện cho Tống, trong thư vua Lý vẫn yêu cầu vua Tống trả lại châu Quảng Nguyên và châu Quang Lạng cho ta.
 
Nhận được thư của vua Lý, vua Tống trả lời là đồng ý nhận sứ giả sang nhưng cương giới thì đến Biện Kinh sẽ “phân xử”.
 
Thế là đầu năm Mậu Ngọ (1078), vua Lý cử Đào Tông Nguyên mang 5 con voi sang biếu vua Tống và xin trả lại châu Quảng Nguyên và châu Quang Lạng.
 
Lần này thì vua Tống và Triệu Tiết phải chấp nhận cho đoàn sứ giả của ta tới Biện Kinh. Tuy nhiên vì Tống vẫn muốn chiếm giữ châu Quảng Nguyên của ta nên vẫn sợ ta đem quân sang đánh Tống để đòi lại châu đó. Vì vậy, để đề phòng bất trắc. Triệu Tiết phải xin tăng thêm 5.000 quân đóng ở Quế Châu, tăng binh sĩ luyện tập chiến đấu; mặt khác Triệu Tiết cũng tăng cường các hoạt động tình báo và phản gián để đề phòng hoạt động do thám của ta. Vua Tống còn ra lệnh cho các địa phương có đoàn sứ giả của ta đi qua phải theo dõi và giám sát chặt chẽ các hoạt động của đoàn này.
 
Khi đoàn sứ giả của ta tới Biện Kinh, vua Tống cho tiếp đãi rất tử tế. Nhưng khi sứ giả của ta đưa ra yêu cầu trả lại châu Quảng Nguyên thì vua Tống nghe theo lời tâu của Triệu Tiết, tìm cách thoái thác không trả và đặt ra điều kiện là ta phải trả các tù binh ta đã bắt trong các trận đánh Ung, Khâm, Liêm. Đào Tông Nguyên đồng ý sẽ trả 1.000 quan lại Tống mà ta đã bắt làm tù binh trước đây. Nhưng vua Tống lại đưa ra một điều kiện khác là ta phải đưa các thủ lĩnh đã gây loạn đến biên giới xử (ám chỉ Lý Thường Kiệt). Vua Lý Nhân Tông đã có thư trả lời vua Tống theo tinh thần Lý Thường Kiệt đã chỉ đạo sứ giả Kiều Văn Ưng khi gặp Quách Quỳ ở bờ bắc sông Như Nguyệt và kiên quyết khước từ việc đưa “những thủ lĩnh gây loạn” ra biên giới xử như vua Tống yêu cầu.
 
Vì Tống cố tình muốn chiếm châu Quảng Nguyên của ta nên sau khi nhận được thư trả lời của vua Lý, vua Tống lại khước từ việc trả lại châu đó cho ta. Vì thế phái đoàn đào Tông Nguyên không đạt được mục đích đề ra.
 
Trước tình hình đó, Lý Thường Kiệt chủ trương vẫn kiên trì dùng biện pháp ngoại giao nhưng đồng thời đẩy mạnh sức ép về quân sự để lung lạc tinh thần vua tôi nhà Tống. Thực hiện chủ trương đó, ông cho Nùng Trí Xuân coi động Cung Khuyết cùng với Ma Thuận Phúc coi động Vũ Lăng (thuộc Bắc Cạn) và Hoàng Phu đem quân địa phương tới đánh châu Quảng Nguyên và động viên nhân dân châu Quảng Nguyên nổi dậy chống Tống. Tình hình đó làm cho quan quân Tống ở Quảng Nguyên ăn ngủ không yên. Giữa lúc đó thì Đào Bật, viên tướng coi “Thuận Châu” cáo ốm và xin về Biện Kinh, vua Tống nghĩ rằng đào Bật giả ốm để thoát khỏi Thuận Châu liền cho người thẩm tra thực hư rồi mới quyết định. Sau khi biết rõ Đào Bật ốm thật, vua Tống mới cử Trương Chí Gián thay đào Bật - coi Thuận Châu (28 tháng 10 Mậu Ngọ 05/12/1078). Nhưng Đào Bật chưa kịp về Biện Kinh thì đã chết (11/1078). Ngoài Đào Bật ra, một số quan cai trị của Tống ở Quảng Nguyên tuy chưa hết nhiệm kỳ một năm cũng lần lượt ốm, chết. Còn quân lính Tống mỗi năm cắt 3.000 tên đến chiếm giữ Quảng Nguyên cũng bị ốm đến năm sáu phần.
 
Trước nguy cơ quan quân Tống bị quân Lý tiêu diệt, các quan lại nhà Tống coi Quế Châu như Triệu Tiết và Miêu Thì Trung thấy không thể giữ được Thuận Châu nữa nhưng phải tìm cách trả sao cho vẫn giữ được thể diện của Tống.
 
Biết được tình hình đó, Lý Thường Kiệt liền sai đem trả Tống một ít tù binh gồm đủ già trẻ, gái trai mà quân ta đã bắt ở Ung, Khâm, Liêm. để giữ được bí mật nơi giam giữ tù binh và con đường dẫn giải, ông sai cho tù binh vào thuyền trát mui kín, trong thuyền ngày đêm thắp đèn để tù binh không biết ngày đêm ra sao, rồi chở đi. Mỗi ngày thuyền chỉ đi 10 - 12 dặm rồi đậu và lính giả đánh trống cầm canh, khiến cho tù binh Tống tưởng phải đi đến vài tháng mới tới nơi.
 
Ngày 13 tháng 10 Kỷ Mùi (11/1079), ta trả cho Tống 221 tù binh. Tuy không đủ số 1.000 tù binh mà Đào Tông Nguyên đã hứa và tuy ta đã xăm vào trán vào cánh tay tù binh những chữ “đầu Nam triều” “Thiên Tử binh” và “quan khách”, nhưng Tống vẫn phải nhận và trả lại châu Quảng Nguyên cho ta. Nhưng trước khi trả Tống đã di dân Quảng Nguyên vào đất Tống để dễ dàng áp bức và bóc lột sức lao động. Lưu Sở, viên quan coi Ung Châu đã tâu với vua Tống là: “đã dời 9.929 người đã theo ta vào ở các động gần trong để dễ đàn áp. Dân dời tới Tả Giang thì giao cho các viên tuần kiểm Nùng Bảo Phúc và viên coi Giang Châu Hoàng Thiện Hưng quản. Dân dời vào Hữu Giang thì giao cho các viên coi Điền Châu Hoàng Tiên Sánh, viên coi Đồng Châu Hoàng An Định quan sát” (Trường biên Q.309 tờ 4a).
 
Trả được châu Quảng Nguyên cho ta, vua Tống như đã trút được gánh nặng, không phải ngày đêm lo cách đối phó nữa.
 
Dân Tống vì không biết được tình thế mà Tống không thể giữ nổi châu Quảng Nguyên đành phải trả nên đã chế nhạo vua quan Tống bằng hai câu thơ:
 
  Nhân tham Giao Chỉ tượng
Khước thất Quảng Nguyên kim

 
Nghĩa là:
 
     Vì tham voi Giao Chỉ
Nên mất vàng Quảng Nguyên.


Đến đây, Lý Thường Kiệt đã hoàn thành việc khôi phục các đất mà Tống đã chiếm trong chiến tranh Tống - Việt. Đòi lại được châu Quảng Nguyên, triều đình ta rất vui vẻ, mọi việc trong nước diễn ra đều tốt lành. đặc biệt đúng năm ta đòi lại được châu Quảng Nguyên, dân lại được mùa to nên mọi người đều rất phấn khởi.
...
(còn tiếp)


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 04 Tháng Mười Một, 2012, 10:24:20 am
...
(tiếp theo)

Lý Thường Kiệt với việc khắc phục hậu quả chiến tranh và xây dựng lại đất nước

Bình thường hoá quan hệ bang giao Lý - Tống

Để củng cố bang giao Lý - Tống, xây dựng tốt quan hệ với bên ngoài, tạo điều kiện thuận lợi để xây dựng bên trong cho vững chắc, giữa năm Tân Dậu (1081) Lý Thường Kiệt xin vua Lý Nhân Tông cho cử một phái bộ ngoại giao sang Tống để giao hiếu. Vua Lý đồng ý và một phái bộ ngoại giao gồm 156 người do viên Chánh sứ Lương Dũng Luật và viên phó sứ Nguyễn Văn Bội cầm đầu được cử sang Tống. Ngoài việc giao hiếu, phái bộ này còn có nhiệm vụ xin kinh đại tạng để về phổ biến trong nước. để đề phòng quan chức địa phương của Tống gây khó dễ trong việc đi lại như đối với phái bộ của đào Tông Nguyên trước đây, vua Lý Nhân Tông viết thư cho vua Tống rằng: “Trước đây, tôi có sai bọn đào Tông Nguyên vào triều cống. Nhưng bị quan Quảng Châu cầm chế, ngăn cản nên thú vật đem cống không cùng tới một lần được. Nay tôi lại sai Lương Dũng Luật và Nguyễn Văn Bội đi thuyền tới cống. Xin giáng chỉ cho phép theo lệ cũ mà vào kinh”.
 
Để làm vừa lòng vua Lý, để tránh cả những việc nhỏ nhất có thể ảnh hưởng đến quan hệ với ta, sau khi nhận được thư của vua Lý, vua Tống liền ra lệnh cho viên coi Quảng Châu không được ngăn cản phái bộ của ta, hơn nữa phải cử một viên quan nhập nội sứ thần đi hộ tống phái bộ ta tới kinh cho chu đáo. Khi Trương Hiệt, viên Kinh lược sứ Quảng Tây tâu về triều là: “Giao Chỉ vào cống có 156 người. So lệ cũ thì thừa 56 người”, vua Tống liền phê: “Ai đã đến đó thì cứ cho vào kinh. Về sau sẽ theo lệ cũ”.
 
Để giảm bớt phiền phức trong việc trao nhận công văn giữa Tống và nước ta, vua Tống ra lệnh cho ti kinh lược Quảng Tây là: “Từ nay, hễ có công văn cho An Nam thì sai Khâm Châu báo tin cho họ, đợi họ sai người đến biên giới thì giao cho họ. Dọc biên giới Tống - Lý, Tống đã giao cho các quan địa phương tổ chức cho việc giao dịch giữa 2 bên trở lại bình thường. Tăng Bố, viên Kinh lược Sứ Quảng Tây còn giao cho châu Khâm, châu Liêm lập lại các trạm, các bến đò để người nước ta sang buôn bán được dễ dàng.
 
Đối với những quan lại có hiềm khích với nước ta như Ôn Cảo coi Khâm Châu, Long đại coi trại Vĩnh Bình, vua Tống cũng cho điều đi nơi khác và thay vào đó những quan chức có thái độ đúng đắn đối với nước ta.
 
Sở dĩ Tống đối xử với ta như vậy, một phần do thái độ mềm mỏng của ta, một phần do Tống đang gặp khó khăn trong đối nội và đối ngoại. đối nội thì có vụ nổi loạn kéo dài ở châu An Hóa. đối ngoại thì Hạ đang đánh Tống thua.
...

(còn tiếp)


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 04 Tháng Mười Một, 2012, 10:38:58 am
...
(tiếp theo và hết)

Lý Thường Kiệt với việc khắc phục hậu quả chiến tranh và xây dựng lại đất nước

Đòi động Vật Dương, Vật ác

Đi đôi với việc xây dựng và củng cố bang giao Lý - Tống, Lý Thường Kiệt tiếp tục thực hiện chủ trương xây dựng và củng cố đất nước cho vững mạnh về mọi mặt.
 
Về chính trị, để củng cố và tăng cường chính quyền, ông cho “cất nhắc những người hiền lương có tài văn võ cho quản quân dân” và cho “thi lại viên bằng phép viết chữ, phép tính và hình luật” để chọn người có trình độ, có kiến thức đưa vào bộ máy nhà nước.
 
Về kinh tế, nhờ tạo điều kiện cho nhân dân làm ăn yên ổn, ông đã làm cho nông nghiệp, công nghiệp và thương nghiệp của đất nước được phát triển mạnh mẽ.
 
Về văn hoá, ông cho chọn những người giỏi văn hoá đưa vào Quốc Tử Giám để dạy học.
 
Để củng cố miền núi và biên giới, ngoài việc chăm lo cải thiện đời sống nhân dân các dân tộc, ông vẫn chú ý liên kết các tù trưởng miền núi, biên giới với triều đình bằng chính sách hôn nhân. Chính vì vậy mà tháng 2 năm Nhâm Tuất (1082) vua Lý gả công chúa Khâm Thành cho châu mục châu Vị Long Chiêm Hoá là Hà Di Khánh (Việt sử lược trang 114).
 
Trong quan hệ với Tống, ông tiếp tục xúc tiến giải quyết những vấn đề tồn tại là đòi dân, đòi đất mà Tống đã chiếm của nước ta trước đây. Về đòi dân, tháng 5 Nhâm Tuất (9/1082), ông đề nghị vua Lý cử một phái bộ sang Tống thương thuyết. Phái bộ mang 50 sừng tê giác và 50 ngà voi sang cống vua Tống mục đích là để đòi dân mà Tống đã di vào đất Tống. Trong thư của vua Lý gửi vua Tống có câu: “Thủ lĩnh động Cát Đán thuộc châu Quảng Nguyên (ở tây nam Cao Bằng ngày nay) là Nùng Dũng cùng dân động đã làm loạn và chạy vào Ung Châu. Tôi đã viết thư nhiều lần vào đòi. Nhưng Ung Châu không chịu trả”.
 
Nhận được thư này, vua Tống trả lời là không trả và cho đó là dân Tống. Ngược lại quan coi Quảng Tây lại đòi phải trả thêm tù binh ta bắt ở Ung, Khâm, Liêm.
 
Sứ ta trả lời là không có nữa. Như vậy thái độ của ta đã găng. Theo nhận định của viên Chuyển vận Phó sứ Quảng Tây thì trước thái độ của vua Tống, nước ta không hài lòng và chỉ “trong dăm ba năm nữa là Giao Chỉ sẽ mang quân vào đòi đất đòi dân”. Vì vậy y xin vua Tống cho huấn luyện thổ đinh để đề phòng. Trước thái độ từ chối của vua Tống, tháng 9 Nhâm Tuất (1082), Lý Thường Kiệt sai châu mục châu Thượng Nguyên (vùng Bắc Cạn) là Dương Thọ Văn mang quân đuổi bắt Nùng Trí Hội đã chạy theo Tống và nộp cho Tống động Vật Dương năm Giáp Thìn (1064) và định đuổi bắt cả Nùng Tông Đán đã chạy theo Tống và nộp cho Tống động Vật Ác năm Đinh Dậu (1057). Nùng Trí Hội thua phải chạy vào Hữu Giang cầu cứu.
 
Trước tình hình đó, viên quan coi Quế Châu lúc đó là Hùng Bản tấu về triều Tống đúng là 2 châu Quý Hoá tức động Vật Dương và Thuận An (Vật Ác) là do Nùng Trí Hội và Nùng Tông đán nộp cho Tống thật nhưng hai châu đó rất quan trọng vì nó là đất chẹn cổ họng của Hữu Giang, khống chế các con đường quan trọng đi Giao Chỉ, Đại Lý, Cửu Đạo Bạch Y. Vì vậy phải cố gắng giữ coi là đất thuộc Tống, không thể trả được và phải làm già, viết thư cho vua Lý trách là tại sao lại dám cho quân xâm phạm đến đất của “Thiên Triều”.
 
Vua Lý Nhân Tông lúc bấy giờ đã bắt đầu đến tuổi trưởng thành 17 tuổi và tự cầm quyền, Thái hậu ỷ Lan cũng không muốn dùng quân sự đánh Tống để đòi đất, đòi dân mà muốn dùng biện pháp ngoại giao để đòi đất, đòi dân mà Tống còn chiếm giữ của ta. Chính vì vậy mà nghe theo lời Thái hậu, vua Lý Nhân Tông đã nói với Lý Thường Kiệt ra lệnh cho Dương Thọ Văn rút quân để Tống không có lý do gì trách cứ ta được, đồng thời vua Lý vẫn gửi thư yêu cầu vua Tống trả lại đất Vật Dương, Vật Ác cho ta. Thời gian này, có thể vì sợ để Lý Thường Kiệt trực tiếp điều khiển quan hệ bang giao Lý Tống thì e lại xẩy ra chiến tranh nên vua Lý Nhân Tông đã lập ra một quận ở Thanh Hoá và giao cho Lý Thường Kiệt làm phong ấp để trông coi trấn Thanh Hoá, từ đó công việc bang giao Lý - Tống do vua Lý Nhân Tông trực tiếp điều khiển với sự giúp đỡ của Thái hậu Linh Nhân. Có thể vì thế mà không được kiên quyết như trước.
 
Về phía Tống tuy có trách ta mang quân đánh châu Quy Hoá nhưng Hùng Bản, viên quan coi Quế Châu thấy ta đòi đất găng là đúng nên vẫn xin vua Tống Thần Tông trả cho ta 8 động đất hoang rồi hẹn ta phái người tới Vĩnh Bình bàn cương sự (việc biên giới). Tháng 6 năm Quý Hợi (1083), Tống cử Thành Trạc, viên đô tuần kiểm(1) Tả Giang và Đặng Khuyết viên coi lò vàng Điền Nại đến Vĩnh Bình để đàm phán. Phía ta vua Lý cử Đào Tông Nguyên sang thương nghị. Sứ ta đòi Tống phải trả lại hai động Vật Dương, Vật Ác. Nhưng Tống lại chỉ muốn trả một giải đất ở phía nam dãy núi Hoả Diễm. Đào Tông Nguyên không đồng ý và nói với Thành Trạc rằng:
 
“đất thuộc Quảng Nguyên này chỉ là đất nhỏ, khó lòng mà bàn chia được. Tôi muốn tự viết thư lên vua Tống để triều đình xem xét có bằng lòng hay không?”
 
Thành Trạc không đồng ý yêu cầu này. Đào Tông Nguyên liền bỏ Hội nghị ra về.
 
Ngày mồng 2 tháng 9 năm Quý Hợi (10/1083), ty Kinh lược Quảng Tây tâu về kinh tình hình này. Khi được tin đó, vua Tống không hài lòng và trách Hùng Bản là chỉ đạo hội nghị không khéo, đáng lẽ phải cho sứ ta xem văn bản của triều đình Tống thì lại dùng lý lẽ bắt bẻ, cãi nhau, làm cho sứ ta coi thường đại Tống.
 
Hội nghị Vĩnh Bình thất bại làm cho quan hệ Lý - Tống lại trở nên căng thẳng. Vua Lý Nhân Tông lại sai tập trung quân ở gần châu Qui Hoá (động Vật Dương) nên quan quân nhà Tống ở Quảng Tây rất lo. đặc biệt Ty Kinh lược Quảng Tây(1) lo rằng nếu để Trí Hội ở lại châu Quy Hoá thì không giữ nổi vì Trí Hội không kiên quyết chống lại ta. Do vậy vua Tống hạ chiếu bảo phải dời Trí Hội vào nội địa và tổ chức phòng thủ châu Quy Hoá cho thật tốt. Về phía ta tuy vẫn gắng nhưng cũng không muốn cắt đứt quan hệ thương thuyết với Tống. Vì vậy tháng 6 Giáp Tý (1084), vua Lý lại cử một phái bộ do viên Binh bộ lang trung(2) Lê Văn Thịnh làm Chánh sứ và Nguyễn Bội làm phó sứ sang Vĩnh Bình để tiếp tục bàn về biên giới.
 
Tháng 7 năm đó (1084), Hội nghị bắt đầu. Sứ ta vẫn đòi Tống phải trả động Vật Dương, Vật Ác. Nhưng Thành Trạc người cầm đầu phái đoàn Tống vẫn không chịu trả với lý do: “Những đất mà quân nhà vua (Tống) đã đánh lấy thì đáng trả cho Giao Chỉ. Còn những đất mà các người coi giữ lại mang nộp để theo ta thì khó mà trả lại”.
 
Lê Văn Thịnh liền đáp lại. “đất thì có chủ, các viên coi giữ mang nộp (cho Tống) và trốn đi thì đất ấy thành vật ăn trộm của chủ. Việc chủ giao đất cho mà tự ý lấy trộm đã không tha thứ được thì kẻ ăn trộm hay người tàng trữ vật ăn trộm, pháp luật cũng không dung. Huống chi nay chúng lại mang đất ăn trộm để dâng thì chỉ làm nhơ bẩn sổ sách nhà vua” (Tống).
 
Trước lý lẽ đanh thép và thái độ găng của Lê Văn Thịnh, vua Tống phải ra lệnh cho Quảng Tây tăng cường phòng thủ biên thuỳ. Thành Trạc bèn đưa ra đề nghị: “Sẽ vạch địa giới ở phía nam 18 xứ trong đó có Vật Dương, Vật Ác và coi những đất đó thuộc Tống”. Nhưng Lê Văn Thịnh không đồng ý. Biết rằng cãi nhau với Trạc cũng vô ích nên Lê Văn Thịnh liền viết thư cho Hùng Bản để tâu về Biện Kinh, khẳng định rằng Vật Dương, Vật Ác đều thuộc châu Quảng Nguyên của ta chớ không thuộc Tống. Trong thư có đoạn nói: “Thành Trạc đã nói sẽ vạch địa giới ở phía nam 18 xứ sau đây: Thượng Điện, Hạ Lôi, Ôn Nhuận, Anh, Dao, Vật Dương, Vật Ác, Kế Thành, Cống, Lực, Tần, Nhâm, Động, Cảnh, Tư, Kỳ, Kỷ, Huyện và nói những xứ ấy đều thuộc Tống. Bồi thần tiểu tử này chỉ biết nghe mệnh, không dám cãi lại. Nhưng những đất ấy mà họ Nùng đã nộp đều thuộc Quảng Nguyên. Nay may gặp thánh triều ban bố hàng vạn chính lệnh khoan hồng, sao lại chuộng miếng đất đầy đá sỏi, lam chướng này mà không cho lại nước tôi, để giúp kẻ ngoại thần. (Trường biên Q.349 tờ 7b).
 
Nhưng Thành Trạc đã không chuyển ngay bức thư ấy về kinh mà đã xuyên tạc ý của Lê Văn Thịnh và trình với Hùng Bản là: “Theo công điệp của Lê Văn Thịnh thì bằng lòng vạch địa giới ở phía nam các châu Vật Dương và Thuận An. Căn cứ vào lời trình đó, Hùng Bản xin vua Tống “Ban chiếu thư cấp cho Giao Chỉ 8 xứ ở ngoài ải có nghĩa là Tống vẫn giữ 2 động Vật Dương và Vật ác và chỉ trả ta “8 động đất hoang”. Cụ thể là Tống lấy 8 ải sau đây làm giới hạn: Canh Liệm, Khâu Cự, Khiếu Nhạc, Thông Khoáng, Canh Nham, Đốn Ly, Đa Nhân và Câu Nan. Đất ngoài 8 ải đó có 6 huyện và 2 động trả lại ta. 6 huyện là: Bảo Lạc, Luyện, Miêu, Đinh, Phóng và Can. Hai động là Túc và Tang.
 
Nhận được trả lời của vua Tống như trên, vua Lý rất không hài lòng nên cũng không trả lời vua Tống ngay, khiến vua Tống yên trí là vua Lý đã bằng lòng cách giải quyết đó.
 
Đến khi vua Tống Thần Tông mất ngày 5 tháng 3 năm ất Sửu (1/4/1085) vua Tống Triết Tông lên nối ngôi mới có 10 tuổi, mọi việc nước đều trong tay Thái hoàng, Thái hậu họ Cao là người rất ghét phái Vương An Thạch nên muốn xoá bỏ những hậu quả do chính sách của Tống Thần Tông và Vương An Thạch để lại, cho nên khi vua Lý gửi thư sang cho vua Tống nhắc lại việc đòi Vật Dương, Vật ác thì theo lời tâu của Viện Khu mật (Bộ Quốc phòng), vua Tống trả lời một cách kiên quyết không trả 2 động đó và cứ theo quyết định như trước đây của vua Tống Thần Tông mà làm. Như vậy dưới thời vua Tống Triết Tông 4 lần vua Lý dùng ngoại giao để đòi Tống trả đất Tống chiếm của ta đều không có kết quả. đó là những năm ất Sửu (1085), Bính Dần (1086), Đinh Mão (1087), Mậu Thìn (1088).
 
Đặc biệt mỗi khi ta dùng ngoại giao mềm mỏng để đòi đất Vật Dương, Vật ác thì Tống vừa kiên quyết từ chối vừa ra sức đề phòng ta mang quân sang đánh bằng cách tăng cường phòng thủ biên giới. Thấy ta không động tĩnh gì về mặt quân sự nên Tống càng kiên quyết giữ không trả lại đất của ta. Không những thế sau này có nhiều dịp thuận lợi để ta đòi đất Vật Dương, Vật ác nhưng vua Lý Nhân Tông cũng không làm. đó là năm Quý Hợi (1083) khi Thái hoàng Thái hậu nhà Tống mất, vua Tống Triết Tông trực tiếp cầm quyền nhưng nhu nhược, nội bộ triều đình Tống lại xẩy ra mâu thuẫn kịch liệt giữa phái Tân và phái Cựu: còn ở bên ngoài thì nước Hạ đe doạ Tống ở biên thuỳ phía Bắc. Hoặc khi nước Tống bị nước Kim xâm lấn, bắt vua và phá kinh đô Tống, buộc Tống phải xuống phía nam sông Dương Tử để lập nước Nam Tống, thế mà vua Lý không biết nhân thời cơ đó mà đòi đất của nước ta bị Tống chiếm. Thậm chí có lần như năm Kỷ Tỵ (1089) Tống cho quân đánh phá châu Thạch Tê(1) mà vua Lý Nhân Tông cũng không chống lại kịch liệt, khác hẳn với thời Lý Thường Kiệt còn làm Thái uý ở kinh đô. Chính vì vậy mà Tống không chịu trả lại 2 động Vật Dương, Vật ác cho nước ta.

Link: http://thanglonghanoi.gov.vn/channel/67/2010/11/7669/#V26CWKueafNN


Tiêu đề: Re: "Đòn ngoại giao" của cha ông ta khiến ngoại bang nể sợ
Gửi bởi: thanhh63 trong 05 Tháng Hai, 2014, 10:14:26 am
Sáng mùng 6 tết, trên chương trình "người đương thời" mình nghe từ 1 Giáo sư tham gia chương trình kể 1 câu truyện khi vị GS này tiếp xúc với 1 GS Nhật Bản, đại loại:
Trong lịch sử Nhật Bản cổ đại, vốn dĩ sao chép gần như y chang sử Đại Hán luôn coi các nước trong khu vực Đông Nam Á là man di nên khi nói về các nước này, họ luôn gắn chữ "man" phía trước như Man Mã ( Malaysia ) Man Thái ... nhưng vị GS Nhật này không thể tìm thấy chữ "man" khi nói về nước Việt Nam mà là dưới tên " An Nam Dị quốc " : Một nước An Nam xa lạ, ngang hàng cả với các nước châu âu như Hoa Lan Dị quốc : nước Hà Lan xa lạ!. Vị GS Nhật giải thích: ngoài việc gần gũi trong quan hệ Nhật - Việt, điều quan trọng nhất khiến người Nhật vị nể đất nước ta do sự xuất sắc của các sứ thần nước Việt mà các sứ thần Nhật Bản thường gặp trong các lần đi sứ Trung Hoa!  :o