Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thảo luận Lịch sử bảo vệ Tổ quốc => Từ thuở mang gươm đi mở cõi... => Tác giả chủ đề:: Bí Bếp trong 26 Tháng Sáu, 2008, 10:46:54 pm



Tiêu đề: Nam Giao/Đại Lý & sự hình thành nước Việt Nam!
Gửi bởi: Bí Bếp trong 26 Tháng Sáu, 2008, 10:46:54 pm
Thưa các bác:

Đã từ lâu tôi muốn viết một bài khảo luận về nước Nam Giao mà lắm bạn đọc mê truyện chưởng Kim Dung biết qua là nước Đại Lý có những nhân vật như Đoàn Nam Đế (Nhứt Đăng Đại Sư) qua bộ Anh Hùng Xạ Điêu, Đoàn Chính Thuần và Đoàn Dự trong bộ Lục Mạch Thần Kiếm & Thiên Long Bát Bộ...; thực tế Nam Giao là một vương quốc có thật, họ lập được nước Nam Giao cả 200 năm trước khi nước Việt Nam giành được độc lập từ nhà Nam Hán (737 vs 939 sau Công Nguyên). Theo tôi nghĩ, nếu không có nước Nam Giao thì dễ gì ông bà chúng ta dành được độc lập từ người Tàu, sau hơn cả 1,000 năm nước mình bị lệ thuộc và xem là một quận/huyện của Trung Hoa! Vì hoàn cảnh nào mà một dân tộc và đất nước kiêu hùng như Nam Giao/Đại Lý đã thành hình rồi mai một vào lịch sử....; Mời các bạn tham khảo và từ từ góp ý... vì Bí Bếp sẽ dán từ từ cho đến khi kết thúc bài viết nầy..!

Nước Nam Giao (có lúc sử/truyện mình còn gọi là Nam Chiếu), đôi khi còn viết là Điền Việt trước khi triều Đại Lý do Đoàn Tư Bình thay thế vào năm 902 sau Công Nguyên. Nước Nam Giao trước kia nằm ở khu vực tỉnh Vân Nam, Quý Châu và Tứ Xuyên của Trung Hoa mà lúc sung mãn nhất vương quốc Nam Giao bắc giáp ranh với nước Thu Bồn, nam chiếm cả Miến Điện và Giao Châu (Bắc Việt) vào thế kỹ thứ 9 (năm 858), phía đông họ chiếm cả Ung Châu và Thành Đô (Chengdu) của nhà Đường. Nếu dựa theo huyền sử thì có lẽ chúng ta cũng có thể liên đới đến chuyện Lạc Long Quân dắt 50 người con xuống biển, nếu Âu Cơ dắt 50 người con lên núi (miệt Lĩnh Nam) thì các sắc dân của nước Nam Giao chúng ta có thể nhận là anh em của giống Việt tộc (Bách Việt) chăng?

Như chúng ta đã biết theo lịch sử thì khu Vân Nam và miệt Nam của sông Dương Tử đã có người sống từ nhiều ngàn năm về trước mà người Hán trước đó gọi là những nhóm Tây Di, Nam Man, và Bách Việt. Các dân tộc tập trung ở khu Vân Nam trước kia đông nhất là các bộ tộc người Bạch, người Di, người Thổ, người Hmong (Mèo), người Nùng. Người Bạch thuộc nhóm dân của người Thái mà ở Việt Nam cũng còn một số sắc tộc Thái sinh sống (Thái trắng, Thái Đen, Thái Đỏ... tên gọi khởi nguồn từ màu nhuộm chính của trang phục họ mặc). Trước kia, người Bạch sống rải rác quanh hồ Nhĩ Hải (Erhai lake) một vùng đất màu mỡ ở khu vực Vân Nam.

Từ thời Xuân Thu Chiến Quốc có một vị tướng của nước Sở tên Sung Kiều, mang quân đến khu vực nầy mà lập nước có tên là Điền Việt tuy nhiên sử Trung Hoa không chép nhiều về nước Điền Việt nầy mãi cho đến thời Tam Quốc mà chính Khổng Minh Gia Cát giúp Lưu Bị dựng nước Thục (Hán) cầm quân đánh vào Nam Trung (Vân Nam) để chinh phục quân của Mạnh Hoạch và các sắc tộc mạn Nam Trung cũng chính là các dân tộc tiền thân của nước Nam Giao...; Chính nhờ hậu cứ Nam Trung cung ứng quân lương nồng cốt mà Gia Cát Lượng đã gầy dựng lực lượng để thực hiện việc tiến đánh Bắc Ngụy hầu tái lập nhà Hán có điều "mưu sự tại nhân thành sự tại thiên" nên kết quả mà hầu hết quí anh chị em đã rõ mặc dù quân Tây Thục dưới sự lãnh đạo của Lưu Bị dẫu có đắt nhân tâm nhưng cũng không qua được chướng ngại thiên thời của Bắc Ngụy hoặc địa lợi của Đông Ngô để rồi họ Tư Mã cuối cùng soán ngôi nhà Ngụy, dẹp Đông Ngô và Tây Thục, thống nhất được Trung Hoa để gầy dựng lên nhà Tùy sau đó.

Riêng vùng đất trong Tam Quốc Chí gọi là Nam Trung cũng chính là địa bàn của người Bạch, người Di là hai sắc tộc chính của khu vực Nam Giao quanh hồ Nhĩ Hãi thuộc tỉnh Vân Nam hiện nay. Sau thời Tam Quốc, khu vực nầy vẫn thuộc dạng tự trị, người Nam Giao ít bị sự điều khiển trực tiếp của người Hán. Theo Hán Sử thì người Nam Giao có sáu bộ tộc chính (Mông Huề, Việt Thác, Lãng Khung, Đằng Đạm, Mông Xá, và Thi Lãng). Bộ tộc Mông Xá nằm ở phương Nam của tỉnh Vân Nam nên có lúc bộ tộc nầy còn được gọi là tộc Nam Giao. Riêng ở Trung Nguyên, sau khi nhà Tấn suy sụp vào năm 420 (sau Công Nguyên), nước Trung Hoa lại bị phân chia loạn lạc; Lưu Dự soán ngôi nhà Đông Tấn tập nên nước Tống ở phương nam, mạn bắc thì nhà Ngụy kết hợp các sứ quân thành lập Bắc Triều. Nội loạn ở Trung Hoa kéo dài cả 200 trăm năm cho đến khi Đường Thái Tổ thống nhất lại Trung Hoa để lập nên nhà Đường từ năm 618.

Ở vùng Nam Trung vào năm 649 có một lãnh tụ tên là Tế Nô La của bộ tộc Mông Xá kết hợp được cả 6 bộ tộc mà thành lập nước Nam Giao. Tế Nô La xin triều cống và gửi con trai đến Trường An (thủ đô của nhà Đường) để làm con tin mà xin được phong vương, tuy nhiên Đường Cao Tông chỉ phong Tế Nô La chức Thái Thú của vùng đất Quế Châu (Vân Nam bây giờ). Sau đó con cháu của Tế Nô La vẫn tiếp tục giúp nhà Đường dẹp được loạn lạc ở Vân Nam từ năm 713-719, và nhà Đường hầu như giao hẵn vùng đất nầy cho người Nam Giao tự trị lấy. Đến năm 732, Bì La Cáp xin chiếu chỉ cùng Đường Huyền Tông để chính thức thống nhất các bộ tộc trong vùng mà chính thức lập thành nước Nam Giao. Trong thời gian nầy, nước Thu Bồn (Tây Tạng) đã trở nên cường thịnh và gây khó khăn cho ảnh hưởng của nhà Đường nên Đường Huyền Tông đồng ý phong vương cho Bì La Cáp hầu dùng nước Nam Giao làm bình phong để ngăn chận sự bành trước của nước Thu Bồn ở mạn Tây Bắc của Trung Hoa. Trên thực tế thì mãi đến năm 738 Bì La Cáp mới chính thức thống nhất được tất cả các bộ tộc của người Bạch và người Di ở trong vùng để xưng Vương. Như thế thì người Nam Giao đã thật sự độc lập cả 200 năm trước khi Ngô Quyền thắng trận Bạch Đằng mà dành độc Lập cho nước ta sau năm 938.

Sau 10 năm lập nước Nam Giao, Bì Lô Cáp mất vào năm 748; con của Bì Lô Cáp là Cáp Lỗ Phong kế vì và nuôi mộng bành trướng nước Nam Giao. Trong giai đoạn nầy, mối quan hệ của Nam Giao và triều Đường ở Trường An bị suy thoái cũng do sự gian tham của thái thú Trương Đà người có trách nhiệm giữ quan hệ với Nam Giao ở vùng nầy. Trương Đà liên kết cùng các thái thú trong vùng mà làm nhục quan thần của nước Nam Giao một khi họ phải đi triều cống; một số tài liệu có ghi rằng chính Trương Đà lắm lúc còn hãm hiếp cả vợ của các sứ thần Nam Giao, một đàng Trương Đà gửi báo cáo láo về Trường An rằng vua nước Nam Giao là Cáp Lỗ Phong có ý tạo phảo Đường triều.

Cáp Lỗ Phong nắm được tà ý của Trương Đà, ông cũng gửi thư giải bày cùng Đường Huyền Tông ở Trường An; nhưng bấy giờ Đường Huyền Tông đang đắm say tửu sắc cùng Dương Quí Phi bỏ mặc việc triều chính cho quan Tể Tướng là Dương Quốc Trung coi ngó. Dương Quốc Trung lúc đó đang dùng quyền thế lo vơ vét làm giàu nào xá gì chuyện cỏn con của đám Tây Di nên chiếu thư của Cáp Lỗ Phong không được Trường An giải quyết. Sau đó Cáp Lỗ Phong cất quân tấn công trả thù và giết được Trương Đà và tiến chiếm cả phía nam của vùng đất Tứ Xuyên. Dương Quốc Trung sau đó mới tìm cách chạy tội bằng báo cáo dối cùng Đường Huyền Tông rằng vua nước Nam Giao đã liên kết cùng nước Thu Bồn mà tạo phản mà đề nghị Đường triều nên dấy binh chinh phạt Nam Giao. Đường Huyền Tông cử 60,000 tinh binh chinh phạt Nam Giao. Cáp Lỗ Phong gửi sứ giả xin cầu hòa nhưng tiết chế của quân Đường (Xianyu...) bắt giam sứ giả và tiếp tục cất quân tiến đánh Nam Giao.

Cáp Lỗ Phong xin hòa không được ông mới lập bàn tế trời mà thề rằng "Nếu Trung Nguyên chấp nhận tôi, tôi vẫn sẽ luôn nhận triều đình là Chúa của tôi nhưng triều đình Trung Nguyên không nhìn tôi, từ nay Trung Nguyên sẽ thành kẻ thù của tôi." Sau đó Cáp Lỗ Phong gửi sứ giả đi liên kết cùng nước Thổ Phồn để cầu viện binh, cùng lúc ông cắt con trưởng dắt kỵ binh đánh phục kích chặn kỵ binh của Đường triều; riêng ông cũng thân chinh mà điều quân tổ chức phản công quân Đường. Do sự kết hợp giữa quân Nam Giao và Thổ Phồn, quân Đường bị đại bại; Sau đó tiết chế của nhà Đường là Lý Mỹ lại tập hợp một đạo quân lớn hơn bao gồm 100,000 tinh binh + 100,000 quân tiếp vận mà tấn công Nam Giao bằng đường bộ lẫn đường thuỷ (qua hồ Nhĩ Hãi). Đạo quân của tiết chế Lý Mỹ bại đại bại ở Hạ Quan (Xiaquan); qua hai trận đánh, quân Nam Giao tiêu diệt cả 260,000 lính của quân Đường; xác chết chất thành núi mà đến ngày nay di tích Mồ Tướng ở Hạ Quan và Mã Vạn Binh (trong công viên Thiên Bảo) vẫn là chứng tích cho sự thảm bại của quân Đường ở Nam Giao. Sau khi nhà Đường bị suy yếu do 8 năm loạn dấy nên bởi An Lộc Sơn (sử chép cả 2/3 tổng số dân Trung Hoa bị chết trong thời gian nầy), Cáp Lỗ Phong đã bành trướng lãnh thổ nắm giữ cả vùng Vân Nam, một khoảng của Tứ Xuyên, phía tây của Quí Châu, bắc của Miến Điện, Thái Lan, Lào, và ngay cả miền bắc của Việt Nam thời nay.

Về chuyện quân Nam Giao đã từng chiếm đóng Việt Nam (An Nam thời đó), Đại Việt Sử Ký Toàn Thư có trích theo sử Đường như sau:

Mậu Dần, 858, (Đường Đại Trung, năm thứ 12). Mùa xuân, người Nam Chiếu kéo đến đông, đóng ở bến đò Cẩm Điền. Vương Thức khi đó là Giao Châu kinh lược đô hộ sứ, sai người đến dụ, chỉ một đêm người Nam Giao đếu lại kéo đi. Nguyên nhân do đô hộ Lý Trác tham lam tàn bạo, mua hiếp bò ngựa của người Nùng, mỗi con chỉ trả cho một đấu muối (2 lít muối), giết tù trưởng Nùng là Đỗ Tồn Thành, dân Nùng oán giận, dẫn đường cho người Nam Giao đến lấn cướp biên giới. Tháng 5 năm ấy, người Nam Giao đến cướp, Thức đánh lui được.

Canh Thìn, 860, (Đường Ý Tông, Thôi Hàm Thông, năm thứ 1). Mùa đông, tháng 12, ngày Mậu Thân, người Nùntg dẫn quân Nam Giao hợp lại hơn 30.000 người, đánh chiếm phủ trị.

Tân Tỵ, 861, (Đường Hàm Thông, năm thứ 2). Mùa xuân, tháng giêng, vua Đường phát quân Ung, Quản và các đạo lân cận sang cứu Lý Hộ, đánh lại Nam Chiếu. Mùa hạ, tháng 6, ngày Quý Sửu, vua Đường sai phòng ngự sứ Diêm Châu là Vương Khoan làm Kinh lược sứ An Nam. Bấy giờ Lý Hộ từ Vũ Châu thu nhặt quân người địa phương Giao Châu đánh bọn Nam Giao, lấy lại được phủ thành.

Nhâm Ngọ, 862, (Đường Hàm Thông, năm thứ 3). Mùa xuân, tháng 2, Nam Giao lại vào cướp phá. Vương Khoan mấy lần sai sứ cáo cấp. Vua Đường sai Hồ Nam quan sát sứ là Sái Tập thay thế, đem binh các đạo Hứa, Hoạt, Từ, Biện, Kinh, Tương, Đàm, Ngạc, hợp lại 30.000, giao cho Tập để chống cự. Yếu thế, quân Nam Giao rút lui. Mùa đông, tháng 10, Nam Chiếu đem 50.000 người đến cướp, Tập cáo cấp. Vua Đường sai lấy quân hai đạo Kinh Nam, Hồ Nam 2.000 người và nghĩa chinh ở Quế Quản 3.000 người đến Ung Châu chịu lệnh tiết chế của Trịnh Ngu để sang cứu Sái Tập. Tháng 12, Tập lại xin thêm quân, vua Đường sắc cho Sơn Nam đông đạo đem 1.000 quân cung nỏ sang cứu.

Quý Mùi, 863, (Đường Hàm Thông, năm thứ 4). Mùa xuân, tháng giêng, ngày Canh Ngọ, quân Nam Giao đánh chiếm phủ thành. Nam Giao hai lần chiếm Giao Châu, vừa giết vừa bắt gần 150.000 người. Khi rút lui còn lưu lại 20.000 quân, sai Tư Tấn giữ thành Giao Châu. Người Di Lão ở các khe động đều hàng phục cả. Vua Nam Giao cho thuộc hạ là Đoàn Tù Thiên làm tiết độ sứ phủ Giao Châu.

Giáp Thân, 864, (Đường Hàm Thông, năm thứ 5). Mùa thu, tháng 7, vua Đường cho Cao Biền làm Đô hộ tổng quản kinh lược chiêu thảo sứ.

Ất Dậu, 865, (Đường Hàm Thông, năm thứ 6). Mùa thu, tháng 7, Cao Biền sửa quân ở trấn Hải Môn. Biền đem hơn 5.000 quân vượt biển đi trước. Tháng 9, Biền đến Nam Định, Phong Châu, quân Nùng gần 50.000 đương gặt lúa, Biền ập đến đánh tan, chém được bọn Trương Thuyên, thu lấy số lúa đã gặt để nuôi quân.

Bính Tuất, 866, (Đường Hàm Thông, năm thứ 7). Mùa hạ, tháng 4, Nam Chiếu sai Trương Tập giúp Tù Thiên đánh Giao Châu, cho Phạm Nật Ta làm Đô thống Giao Châu. Giám trận nhà Đường sai Vi Trọng Tể đem hơn 7.000 quân đến Phong Châu. Biền được thêm quân, tiến đánh Nam Chiếu, nhiều lần đánh tan được. Tháng ấy, Biền đánh tan quân Nam Giao, giết và bắt sống rất nhiều. Nam Giao thu quân còn sót chạy vào châu thành cố giữ. Mùa đông, tháng 10, Cao Biền vây châu thành hơn 10 ngày, người Nùng rất khốn quẫn. Biền đến nơi đốc thúc khích lệ tướng sĩ, lấy được thành, giết Tù Thiên và Chu Cổ Đạo là người Nùng dẫn đường cho quân Nam Giao chém hơn 30.000 đầu. Quân Nam Giao trốn đi, Biền lại phá được hai động dân Nùng đã theo Nam Giao, giết tù trưởng. Người Nùng rủ nhau quy phục đến 17.000 người.

Sau đó triều đại Nam Giao bị suy yếu và bị lật đổ vào năm 902; sau ba lần thay ngôi, Đoàn Tư Bình mới thống nhất được các sứ quân Nam Giao vào năm 937 xong đổi tên nước thành Đại Lý. Thời bấy giờ họ Đoàn của nhà Đại Lý đã chịu sự ảnh hưởng sâu đậm của phái Mật Tông của Phật giáo (như triều Lý Trần ở xứ ta); Phật Giáo đã trở thành quốc giáo của xứ nầy. Đoàn Tư Bình đổi tên Đại Lý có ý là lấy giáo lý của Phật làm tên nước. Trước đó đạo Phật đã truyền sang Nam Giao qua ngã Thổ Phồn (Tây Tạng); vị vua cuối cùng của Nam Giao vì quá sùng đạo nên lơ là việc nước dẫn dắt đến sự truất ngôi, phân chia rồi được thống nhất do Đoàn Tư Bình bắt đầu triều Đại Lý.

(http://i181.photobucket.com/albums/x7/mc420dnh/China_11b.jpg)
Bản đồ Trung Hoa vào năm 1142 AD

Nước Đại Lý từ năm 1142

Dòng họ Đoàn của Đại Lý kéo dài được 316 năm, truyền được 22 đời vua trong đó có 10 vị vua bỏ đi tu như Đoàn Chính Minh, Đoàn Chính Thuần, Đoàn Cảnh Hưng, v.v. (nhường ngôi cho con để làm Thái Thượng Hoàng như các vua Trần ở xứ mình).

Nước Đại Lý tuy theo đạo Phật nhưng tinh thần võ sĩ của họ vẫn khá mạnh. Ở mạn bắc quân Mông dưới sự lãnh đạo của Thành Cát Tư Hãn cũng thống nhất được các bộ tộc mà làm mưa làm gió trên các chiến trường từ Âu sang Á. Quân Mông bị quân Đại Lý cầm chân ở khu vực hồ Nhĩ Hãi khá lâu mà vẫn không phá vỡ được sự phòng thủ của quân Đại Lý. Theo sử liệu, thì quân Mông được có sự chỉ dẫn của một người Đại Lý phải bội, giúp kỵ binh của họ vượt qua đèo ở dãy núi Thương Sơn hiểm trở bằng đường bí mật mà đánh tập hậu phá được quân Đại Lý vào năm 1274. Sự kiện nầy đã dẫn đến sự kết thúc của nước Nam Giao - Đại Lý được thiết lập sau 5 thế kỹ (738-1253).

Sau khi quân Mông thôn tính xong nước Đại Lý, họ mới tính chuyện "mượn đường" từ nước ta mà đánh bọc lên nhà Nam Tống để thâu gọn nước Trung Hoa, mới có cuộc chiến đầu tiên của quân Mông cùng quân Đại Việt. Sau khi nước Đại Lý bị quân Mông chiếm và sát nhập vào Trung Hoa từ năm 1274 để lập nên nhà Nguyên. Suốt thời gian nước Đại Lý bị quân Mông chiếm đóng, các hoàng thân quốc thích của dòng dõi họ Đoàn vẫn tiếp tục nỗ lực kháng chiến; một số đã kết hợp cùng người Hoa mà dẹp được nhà Nguyên để thành lập nhà Minh. Tuy nhiên Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương đã nuốt lời mà bắt lãnh tụ người Đại Lý là Đoàn Thế phải đổi tên nước thành phủ Vân Nam và nước nầy đã trở thành một tỉnh của Trung Hoa kể từ năm 1398.

Trong giai đoạn chống lại quân Nguyên, một số quân Đại Lý cũng đã chạy xuống mạn nam, một số hoàng thân Đại Lý từ từ thiết lập hậu cứ thành nước Lana Thái, Miến Điện, và Lào. Cũng do sự bành trướng của những nước mới thành lập nầy mà vương quốc Khmer đã bị suy đồi kể từ đó....

TB: Bí Bếp đã soạn dỡ bài viết nầy, mong có dịp sẽ tu chỉnh rõ ràng hơn nhất là có sự đính kèm những nguồn trích dẫn cụ thể sau. Trong lúc chúng ta góp nhặt một số bài viết mang tính cách tìm hiểu hơn là nghiên cứu ... nên mong có sự thông cảm. Bí Bếp lắm lúc suy nghĩ rằng nếu nhà Đường không bị kiệt quệ và tàn rụi sau loạn An Lộc Sơn và thất bại trong việc đối phó với nước Nam Chiếu thì liệu Việt Nam có thể "dành độc lập" từ sự điều khiển cúa Trung Hoa chăng?


Tiêu đề: Re: Nam Giao/Đại Lý & sự hình thành nước Việt Nam!
Gửi bởi: tuaans trong 27 Tháng Sáu, 2008, 04:37:55 am
Bài này bác Bí Bếp mà đem sang box Lịch sử văn hóa của ttvnnol thì xôm tụ đây. Bên ấy có nhiều cao thủ về lịch sử lắm!
Chắc là được thảo luận kỹ càng mà không sợ lạc đề quá xa bác ạ!

 ;D

PS: mà em thấy trình biên soạn của bác siêu đấy, hay là bác phổ biến nó lên wiki đi, cái mục vương quốc Đại Lý trên ấy còn sơ lược lắm ...


Tiêu đề: Re: Nam Giao/Đại Lý & sự hình thành nước Việt Nam!
Gửi bởi: chiangshan trong 27 Tháng Sáu, 2008, 12:18:57 pm
Bác Bí Bếp có thể nói thêm về quan hệ giữa Đại Việt và Nam Chiếu/Đại Lý không, nhất là những lần xảy ra chiến tranh?

Thanks bác nhiều.


Tiêu đề: Re: Nam Giao/Đại Lý & sự hình thành nước Việt Nam!
Gửi bởi: Bí Bếp trong 28 Tháng Sáu, 2008, 06:34:07 am
Trích dẫn
Bác Bí Bếp có thể nói thêm về quan hệ giữa Đại Việt và Nam Chiếu/Đại Lý không, nhất là những lần xảy ra chiến tranh?

Thanks bác nhiều.

Chào bác Chiangsan:

Dựa theo bối cảnh lịch sử thì nước Nam Chiếu được thành lập cỡ 200 năm trước khi Đại Việt thật sự thành công cắt lìa từ sự điều khiển của Trung Nguyên (739 AD  so với 938 AD.) 

Mặc dù dựa trên khía cạnh địa hình thì nước Nam Chiếu/Đại Lý từ mạn Vân Nam cũng chia sẻ chung biên giới với nước ta (Đại Việt) nhưng dựa theo các văn bản, thư tịch và sử Việt (từ quyển VNSL, cho đến An Nam Chí Lược, Đại Việt Sử Lược, ngay cả tập Thiền Uyển Tập Anh, v.v.) thì những bài ghi chép về sự quan hệ giữa hai nước trong khoảng thời gian ổn định của Đại Việt & nước NamChiếu-Đại Lý (1009 AD - 1257 AD) thì quá ư là... khiêm tốn.

Nhắc lại từ lúc nước Nam Chiếu được thành lập cho đến lúc nước ta tạm ổn định (chỉ sau thời Lý Thánh Tông) thì xứ ta chưa có sử chính thức vì thế mình phải dựa vào các văn bản của nhà Đường và nhà Tống để so lại thí dụ như Phàn Xước, một quan địa phương của triều Đường ở Hà Nội đã soạn một bộ "Man Thư" tổng hợp 10 quyển đã nhắc đến sự giao thương giữa An Nam & nước Nam Chiếu (khu vực tỉnh Vân Nam hiện giờ) như sau:

“Từ An Nam đi đường thuỷ lên Phong Châu 2 ngày, Đăng Châu 2 ngày, đến Trung Thành Châu 3 ngày, đến Đa Lợi Châu 2 ngày, đến Kỳ Phú Châu 2 ngày, đến Cam Đường 2 ngày, đến Hạ Bộ 3 ngày đến sách Lê - Vũ - Bôn 4 ngày, đến Cổ Dũng - Bộ 5 ngày. Trở lên cộng 25 ngày đều là đường thuỷ" (quyễn 1).

Theo văn bản thì dân Nam Chiếu đã trao đổi cùng người An Nam các số mặt hàng như sau; họ mua các loại hải sản, chính yếu là muối biển và vỏ sò (thứ họ dùng như một đơn vị tiền tệ để trao đổi giữa một số dân tộc ở vùng thượng du); còn họ đổi lại cho chúng ta những mặt hàng chính yếu như bò, ngựa, tơ lụa, và khí giới. Thời  nhà Lý đến thời Lê ở Việt Nam chú trọng phát triển các chợ đường biên, đồng thời dành riêng một số khu vực trên sông Hồng xây dựng thành trung tâm thương mại như vùng Bảo Thắng (Lào Cai), Tam Kỳ (vùng Bạch Hạc - Việt Trì), Trúc Hoa (vùng Phú Thọ)... Nước Nam Chiếu còn lập một cơ quan chuyên quản lý mậu dịch là “Hoà Sảng”.   Các chợ đường biên, dân hai nước trao đổi, buôn bán khá mạnh mẽ. Năm 1012, người Nam Chiếu đem hàng vạn ngựa sang buôn bán ở các huyện vùng biên. Các chợ Bảo Thắng (Lào Cai), Mạn Hảo (Mông Tự) chợ Bách Lẫm (Yên Bái)... đều trở thành trung tâm buôn bán khá sầm uất giữa hai nước. (Dựa theo cuốn Văn Hóa Nam Chiếu-Đại Lý, trang 213-214).

Theo ĐVSKTT thì năm 1096 AD (thời vua Lý Nhân Tông), có kẻ dùng lợi dụng một tù binh người Nam Chiếu dùng "phép thuật" để ám sát nhà vua nhưng kết hoạch bất thành(?)  Có văn bản cho rằng nước ta có buôn bán nô lệ cùng nước Nam Chiếu và Chiêm Thành tuy nhiên so với chính sử và nhất là sự ảnh hưởng của đạo Phật (quốc giáo) thời triều Lý thì quan niệm phản đạo đức như vậy khó mờ được pháp luật nhà Lý cho phép!  Theo suy đoán của tôi thì người Chiêm có buôn bán nô lệ nhưng người Việt trước giờ (dựa theo lịch sử) thì dân ta đã không có tập tục như thế.

Còn một số chi tiết có quan hệ đến chiến tranh giữa Nam Chiếu & An Nam (thời nhà Đường) thì chúng ta có thể đọc những khoảng đã chép như sau:
 
(Dựa theo cuốn Tự Trị Thông Giám)
Vào năm 858 nhà Đường dùng Vương Thức làm quan Kinh lược Đô hộ sứ. Đến năm 860 nhà Đường dùng Lý Hộ làm quan Đô hộ và cũng năm này quân Nam Chiếu công hãm thành phủ, Lý Hộ bỏ chạy. Lại theo "Tư trị thông giám" thì sử này chép: Lý Hộ đến phủ liền giết viên tù trưởng Mán là Đỗ Thủ Trừng. Bộ hạ của Đỗ Thủ Trừng xúi giục quân Nam Chiếu vây đánh phủ thành. Lý hộ thua chạy về Vũ Châu. Vua Đường trách Lý Hộ về tội sát hại Thủ Trừng, lại làm mất phủ thành bèn giáng Lý Hộ làm Tư Hộ Đam Châu, sau lại lưu đày dài hạn ở Nhai Châu và Diêm Châu. Đồng thời muốn thu phục lòng dân, cốt cho yên, vua Đường mới truy tặng cho thân phụ của Thủ Trừng là Đỗ Tồn Thành chức kim ngô tướng quân.

"Khâm định Việt sử Thông giám cương mục" chép: Đỗ Tồn Thành bị quan Đô hộ Lý Trác giết. Đám dân Mán oán giận, đem quân Nam Chiếu vào cướp phá. Lý Trác là một viên quan tham lam tàn bạo, hà khắc và tham nhũng. Y thường mua ép bò ngựa của người Mán, mỗi đấu muốn đổi một con bò.

Dựa theo ĐVSKTT thì chúng ta có thể chiết một số dữ kiện có liên hệ đến người Nam Chiếu & dân An Nam như sau:

Cao Biền là người  tướng giỏi nhà Đường, vốn dòng võ tướng môn, tính ham văn học, quân sĩ đều có lòng mến phục.  Năm Ất Dậu (865), Cao Biền cùng với quan Giám Quân là Lý Duy Chu đưa quân sang đóng ở Hải Môn. Nhưng Lý Duy Chu không ưa Cao Biền, muốn tìm mưu làm hại. Hai người bàn định tiến binh. Cao Biền dẫn 5.000 quân đi trước, Lý Duy Chu không phát binh tiếp ứng. Tháng chín năm ấy quân rợ đang gặt lúc ở Phong Châu (huyện Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Yên), Cao Biền đến đánh cất lẻn một trận, giết được nhiều người, rồi lấy thóc gạo nuôi quân lính. Đến tháng 4 năm sau (866), Nam chiếu cho bọn Dương Tập, Phạm Nê Ta, Triệu Nặc Mi sang giúp Đoàn Tù Thiên để giữ Giao Châu. Khi bấy giờ có tướng nhà Đường là Vi Trọng Tể đem 7.000 quân mới sang, Cao Biền
nhân dịp mới phát binh đánh được mấy trận, cho người đưa tin thắng trận về Kinh, nhưng mà đi đến Hải Môn, Lý Duy Chu giữ lại, không cho triều đình biết. Trong triều mãi không thấy tin tức gì, cho ra hỏi, thì Lý Duy Chu tâu dối rằng Cao Biền đóng quân ở Phong Châu không chịu đánh giặc. Vua nghe tin ấy, nổi giận sai Vương Án Quyền ra thay, và đòi Cao Biền về hỏi tội. Ngay tháng ấy Cao Biền phá quân Nam Chiếu và vây La Thành đã hơn 10 ngày rồi, chỉ nay mai thì lấy được, bỗng chốc được tin Vương Án Quyền và Lý Duy Chu sang thay. Cao Biền liền giao binh quyền cho Vi Trọng Tể, rồi cùng với mấy người thủ hạ về Bắc. Nhưng trước Cao Biền đã sai người lẻn về Kinh dâng biểu tâu rõ tình trạng. Vua nhà Đường biết rõ sự tình, mừng lắm, lại cho Cao Biền thăng trật và sai trở sang cầm quân đánh Nam Chiếu.

Bọn Vương Án Quyền và Lý Duy Chu lười biếng không vây đánh gì cả, đến khi Cao Biền trở sang mới đốc quân binh đánh thành, giết được Đoàn Tù Thiên và người thổ làm hướng đạo là Chu Cổ Đạo. Còn những động Mán Thổ ở các nơi xin về hàng rất nhiều. Đất Giao Châu bị Nam Chiếu phá hại vừa 10 năm, đến bấy giờ Cao Biền lấy lại, đem về nội thuộc nhà Đường như cũ.

Công Việc Của Cao Biền. Vua nhà Đường đổi An Nam làm Tĩnh Hải, phong cho Cao Biền làm Tiết Độ Sứ. Cao Biền chỉnh đốn mọi công việc, lập đồn ải ở mạn biên thùy để phòng giữ giặc giã, làm sổ sưu thuế để chi dụng việc công20. Cao Biền trị dân có phép tắc cho nên ai cũng kính phục, bởi vậy mới gọi tôn lên là Cao Vương.Cao Biền đắp lại thành Đại La ở bờ sông Tô Lịch. Thành ấy bốn mặt dài hơn 1982 trượng linh 5 thước, cao hai trượng linh 6 thước, đắp một đường đê bao bọc ở ngoài dài hơn 2125 trượng linh 8 thước, cao 1 trượng rưỡi, dày 2 thượng. Trong thành cho dân sự làm nhà hơn 40 vạn nóc (?). Sử chép rằng Cao Biền dùng phép phù thủy khiến Thiên Lôi phá những thác ghềnh ở các sông để cho thuyền bè đi được. Thiên Lôi ấy có lẽ là Cao Biền dùng thuốc súng chăng?

Tục lại truyền rằng Cao Biền thấy bên Giao Châu ta lắm đất đai đế vương, thường cứ cỡi diều giấy đi yểm đất, phá những chỗ sơn thủy đẹp, và hại mất nhiều long mạch. Những chuyện ấy là chuyện ngoa ngôn, không có lẽ gì mà tin được. Năm Ất Vị (875) vua nhà Đường sai Cao Biền sang làm Tiết Độ Sứ ở Tây Xuyên (Tứ Xuyên). Biền dâng người cháu họ là Cao Tầm làm Tiết Độ Sứ ở giao Châu. Nhà Đường tuy lấy lại được đất Giao Châu nhưng bên Tàu lại sắp loạn, giặc cướp dần dần nổi lên, ngôi nhà vua cũng dần dần sắp đổ, nước Tàu lại chia rẽ làm mấy nước, cho nên ở xứ Giao Châu cũng có sự biến cải.

Đến năm thứ 4 (niên hiệu Hàm Thông năm Quý Vị- 863- ND) mùa xuân, tháng giêng Nam Chiếu lại đốc suất năm vạn Man binh sang đánh. Phủ thành lại bị công hãm mà viện binh thì không đến. Quân tả hửu của Thái Tập ra sức đánh. Thái Tập, mình trúng mười mũi tên, muốn xuống thuyền mà không kịp phải chết chìm dưới nước. Lúc ấy có tướng được phong tước Ngu hầu Kinh Nam là Nguyên Duy Đức bảo binh sĩ rằng: "Bọn chúng ta không có thuyền bè, xuống nước thì chết, chi bằng hãy quay trở lại phủ thành cùng với Man binh đánh nhau, mỗi một thân xác của chúng ta đổi hai mạng quân Man cũng có lợi". Rồi bèn từ phía đông cửa La Thành mà tiến vào. Quân Man không phòng bị.  guyên Duy Đức tung lính vào đánh giết hơn hai chục ngàn người. Ngày hôm sau, tướng của Man binh là Dương Tư Tấn ra đánh. Nguyên Duy Đức tử trận. Man binh nhân đó mà giết địch quân gồm mười lăm vạn. Sau đó, vua ý Tông nhà Đường cho lưu lại hai vạn người2. Các đạo binh còn lại được gọi về. lại bãi bỏ phủ Đô hộ An Nam đặt Hành Giao Châu ở Trấn Hải Môn, dùng Tống Nhung làm Thứ sử Giao Châu. Đến tháng 7 thì đặt phủ Đô hộ trở lại.

Năm thứ 5 niên hiệu Hàm Thông (năm Giáp Thân- tức 864- ND) vua Đường Ý Tông cho Quan Tổng Quản Kinh Lược sứ là Trương Ân đương luôn các việc ở An Nam. Trương Ân dừng lại, chứ không chịu tiến nhiệm. Hạ Hầu tiến cử Cao Biền đến thay Trương Ân.

Cao Biền tự là Thiên Lý cháu của Cao Sùng Văn vậy. Ở trong quân ngũ thì nhún nhường. Thích đọc sách, ưa đàm luận về người xưa. Lúc nhỏ theo giúp ông Châu Thúc Minh. Một hôm có hai con chim (diều hâu) đang bay, Cao Biền trương cung mà khấn rằng: "Nếu tôi được phú quý thì bắn trúng vậy". Rồi bắn một phát mà hai con chim đều xâu vào mũi tên. Dân chúng vô cùng kinh ngạc mới gọi Cao Biền là: "Lạc điêu thi ngự". Sau vì có công, Cao Biền được thăng làm Phòng ngự sứ Tần Châu (thuộc tỉnh Thiểm Tây bây giờ-ND). Lúc bây giờ đất đai Giao Châu đã lọt vào tay quân Nam Chiếu5 Hết cả. Năm thứ 5 niên hiệu Hàm Thông (tức năm Giáp Thân- 864 đời vua Ý Tông nhà Đường) vì Cao Biền là Kiêu vệ tướng quân6 nên được cho lãnh chức Kinh lược chiêu thảo sứ phủ Đô hộ An Nam. Nhà vua lấy hết binh tướng của Trương Ân mà ủy thác cho. Tháng 9 Cao Biền đến châu Nam Phong. Dân Man đông đến năm mươi ngàn người, đang mùa gặt lúa, Cao Biền đánh úp một trận, phá hại dữ dội rồi tiến sang đánh quân Nam Chiếu. Lại phá được quân Nam Chiếu, giết tướng ấy là Đoàn Tù Thiên và chem. binh Mường (thổ Man) hơn vạn cái thủ cấp.
---------------------------------------

Đây chỉ là một số văn kiện liên hệ đến nước Nam Chiếu mà tôi đã sao lược được; hi vọng sẽ có người tìm ra nhiều chi tiết cụ thể hơn về nước Nam Chiếu - Đại Lý, một đất nước đã tồn tại trên 500 năm rồi bị mai một sau khi bị quân Mông Cổ tiến chiếm.

Nghĩ lại, ông bà chúng ta đã hi sinh khá nhiều xương máu nên người Việt ngày nay vẫn còn một dãi đất để gọi là nước Việt Nam mà chúng ta đều có thể lấy làm hãnh diện.  Vài dòng chia sẻ và mong có sự tham luận và góp ý thêm từ các bác  ::)


Tiêu đề: Re: Nam Giao/Đại Lý & sự hình thành nước Việt Nam!
Gửi bởi: caytrevietnam trong 19 Tháng Bảy, 2008, 11:50:54 pm
Bác Bí Bếp tư liệu nhiều, kiến thức rộng khiến mọi người rất phục. Nhân bài về Nam Chiếu của bác, em có vài thắc mắc mong bác chỉ bảo thêm

- - - - - -- - - - -
- Nam Chiếu và Đại Lý là sự kế tục liên tiếp nhau hay là giống kiểu Phù Nam và Chân Lạp ?

- Từ "Chiếu" có nghĩa là gì ạ? và nước Nam Chiếu thực sự bắt đầu xuất hiện từ năm nào?  
+ Nếu theo chú thích trong Lịch sử VN tập 1 của Uỷ ban khoa học xã hội VN xuất bản năm 1971 thì: "Địa bàn cư trú của Nam CHiếu ở miền tây và tây bắc tỉnh Vân Nam, trung tâm là Đại Lý (Côn Minh). Chiếu là tên gọi thủ lĩnh người dân tộc. Cả thảy có 6 chiếu, tức 6 bộ lạc lớn. CHiếu Mông Xá ở phía Nam nên gọi là Nam Chiếu. Nửa đầu TKỷ VIII Nam Chiếu cường thịnh chiếm đất của 5 chiếu kia, dựng thành 1 nước lớn, dần hàng phục được nước Phiếu (Miến Điện), phát triển về phía Tây tới giáp Ấn Độ, tây bắc giáp Thổ Phồn (Tây Tạng), phía nam giáp miền Tây bắc nước ta"

+ Trong lịch sử VN tập 1 của Đại học sư phạm, xuât bản năm 1980 thì viết: "Bấy giờ người Tày sống ở Vân Nam và Tây bắc nước ta rải rác khá đông. Họ tụ tập thành 6 bộ lạc lớn, đứng đầu là quân trưởng thường gọi là chiếu. Sáu chiếu đó là: Mông Tuấn, Việt Tích, Lãng Khung, Đằng Đạm, Phi Lãng và Mông Xá. Chiếu Mông Xá ở phía nam nên còn gọi là Nam Chiếu
Vào cuối đời Khai Nguyên nhà Đuờng (713-741) Nam Chiếu dưới quyền cai trị của quân trưởng Bì La Cáp hùng mạnh lên, trong khi 5 chiếu kia suy yếu đi. Bì La Cáp bèn lấy của cải đút lót cho tiết độ sứ Kiếm Nam là Vương Dực xin hợp các chjiếu khác làm 1. Được sự giúp đỡ của Vương Dực, Nam CHiếu thống nhất 6 chiếu thành 1 nước lớn, được nhà Đường đặt tên là Quy Nghĩa. Bì La Cáp xin thần phục nhà Đường nên được vua Đường phong làm Vân Nam vương. Kinh đô Nam chiếu đóng ở thành Đại Hòa (gần Côn Minh). Khi loạn An Sử bùng nổ, nhà Đường suy yếu, con Bì La Cáp đem quân chinh phục các bộ lạc xung quanh, hùng cứ cả vùng tây nam Trung Quốc"

Thế nhưng nếu theo sách Tân đính Lĩnh Nam chích quái thì có đoạn nói từ thời Ngô Tôn Quyền, Nam Chiếu đã hùng cứ, quân Ngô bất lực ko làm gì được

- Lãnh thổ Nam chiếu cụ thể tương ứng với những khu vực nào hiện nay?, ngoài bản đồ ở trên, bác có bản đồ nào rõ hơn biên giới giữa Đại Việt và Nam Chiếu ko?

Thường thì đa số nói Nam CHiếu ở vùng Vân Nam ngày nay, nhưng sách Tân đính Lĩnh Nam chích quái thì Nam Chiếu chính là hậu duệ của Triệu Đà, cuối đời Tấn có 2 tù trưởng là Triệu Ông và Triệu Dịch dẫn quân chiếm được nước Tây Bà Dạ (nay thuộc vùng Quỳ Châu-Nghệ An), chia làm 2 miền là Qùy Châu và Diễn Châu, đắp thành, dựng miếu ở Bảo Chướng (nay thuộc Cao Xá, Diễn Châu). Tướng nhà Tấn là Tào Nhĩ đánh dẹp nhưng ko được.

Cũng trong sách Tân đính này, ở phần chú thích cho biết: Chiếu nghĩa đen là lệnh của vua ban xuống, ở đây nói bóng là Mật lệnh của Vũ vương Triệu Đà trong di chúc để lại cho con chaú tìm cách khôi phục quyền uy. Như vậy "chiếu" ở đây ngầm được coi là "người kế tục" họ Triệu...Chiếu Mông XÁ đứng đầu 6 chiếu nhưng đóng căn cứ ở cuối, vùng cực nam giáp giới đèo Ngang, còn các chiếu khác rải dài theo miền núi từ Vân Nam đến tây Thanh, Nghệ và theo miền biển trên các hải đảo đến cửa Nhượng, cửa Khẩu (Hà Tinh ngày nay)

- Chính xác tên các chiếu hợp thành Nam chiếu là gì ?  
+ Sáu chiếu là: Mông Tuấn, Việt Tích, Lãng Khung, Đằng Đạm, Phi Lãng và Mông Xá (Nam Chiếu)_ (lịch sử VN tập 1, Đại học sư phạm, xuât bản năm 1980)
+ Sáu chiếu theo sách Tân đính Lĩnh Nam chích quái (Vũ Quỳnh): Mông Xá (Nam Chiếu), Mông Huề, Việt Tích, Lãng Khung, Đặng Anh, Thi Lãng

- Ngoài tên gọi Nam Chiếu, Đại Lý thì quốc gia này còn tên nào khác ko ?
Vì trong sách Tân đính viết: "Trước kia Nam Chiếu còn thịnh, đổi quốc hiệu là Đại Đắc, sau xét ko hay đổi là Lão Qua rồi lại đổi là Đại Lý. Lúc đó, thời Lê Thánh Tông lại đổi là Đại Man".
Còn ở chú thích có đoạn: " Nam Chiếu xuất hiện ngay sau khi quân của Lữ Gia tan rã, lúc đầu có căn cứ mạnh, nhất là ở vùng Vân Nam, Quảng Tây, vùng Lào, tây Thanh, Nghệ...Thời Ngũ Đại, Đoàn Tử Bình chiếm đất cũ, thành cũ của Nam Chiếu ở Vân Nam, mới đổi là Đại Lý, ko rõ có liên quan gì với tên Triệu Ông Lý, vua đầu tiên của Nam CHiếu, vốn dòng dõi Triệu Đà hay ko? Đến đời thời Lê Thánh Tông ở ta, Đại Lý lại đổi là Đại Man, trước đó nhà Tống gọi họ là Hậu Lý quốc, nay vẫn còn di tích thành ở Vân Nam, còn những nơi căn cứ phía nam như Nam Thành (Thành Nam ở Con Cuông, Nghệ An), Đông Thành (Thành Đông ở Diễn Châu, Nghệ An) đã tàn lụi"

- Trong sách Tàu có ghi lại những trận đánh giữa Việt và CHiếu ko bác ?

Nếu tính từ năm 938 thì Đại Việt và Nam Chiếu/Đại Lý ít xảy ra chiến tranh. Theo 1 số sách như ĐVSKTT:  Cuối năm Nhâm Tý (1012) Lý Thái Tổ nghe tin báo người Nam Chiếu xâm nhập châu Vị Long (nay thuộc Cao Bằng) bèn sai quân đi đánh, bắt được rất nhiều người và hơn 1 vạn con ngựa. Tháng giêng năm Giáp Dần (1014) 20 vạn quân Nam Chiếu tràn vào châu Bình Lâm (nay là Cao Bằng), “vua sai Dực Thánh vương đem quân đi đánh, chém được hơn 1 vạn đầu, bắt sống được quân lính và ngựa không kể xiết”. Từ đó Nam CHiếu ko dám quấy nhiễu nữa
Sách Tân Đính thì cho biết thêm là đến đời Lê Thánh Tông, con cháu Nam CHiếu mới lại nổi lên quấy phá vùng Trà Lung (nay thuộc Nghê An) vua sai quân đánh tan, chiếm thêm 1 số đất lập ra phủ Trấn Ninh
=========
Có 1 đoạn này trong bài của bác ko chính xác lắm : " Theo ĐVSKTT thì năm 1096 AD (thời vua Lý Nhân Tông), có kẻ dùng lợi dụng một tù binh người Nam Chiếu dùng "phép thuật" để ám sát nhà vua nhưng kết hoạch bất thành(?) "
Không phải là lợi dụng tù binh Nam CHiếu để định giết vua ma theo sách sử chép, chính Lê Văn Thịnh trực tiếp "hóa hổ". Vấn đề vụ án hồ Dâm Đàm có nhiều tư liệu nói rồi, ở đây em xin ko nhắc lại. Riêng vụ học phép hóa hổ thì có giai thoại dân gian nói gia nô của nhà Lê Văn Thịnh là người Đại Lý có phép hóa hổ, hồi bé ông Thịnh hay nghịch phá hoặc mỗi khi khóc quấy là người gia nô lại hóa hổ để dọa. Sau đó lớn lên, ông Thịnh có nài xin dạy, chính vì thế 1 lần mẹ ông vào phòng ban đêm xem con học thế nào đã ngất xỉu khi thấy trong màn có 1 con hổ trắng đang đọc sách  ::)


Tiêu đề: Re: Nam Giao/Đại Lý & sự hình thành nước Việt Nam!
Gửi bởi: Bí Bếp trong 20 Tháng Bảy, 2008, 12:51:28 am
Chào CTVN:

Bí Bếp rất cám ơn CTVN đã khởi ý thảo luận thêm về đề tài "Nam Chiếu & Đại Lý", xứ mà cũng có vài điều tương đồng cùng sự hình thành của nước Đại Việt chúng ta cùng thời.  Bên Bí Bếp đang là cuối tuần (khoảng thời gian mà Bí Bếp lại bận bịu hơn ngày thường) nên những sự trao đổi chi tiết hơn Bí Bếp sẽ bàn sau ....

Vài dòng chúc bình an trước!


Tiêu đề: Re: Nam Giao/Đại Lý & sự hình thành nước Việt Nam!
Gửi bởi: Bí Bếp trong 22 Tháng Bảy, 2008, 04:15:12 am
Trích dẫn
Nam Chiếu và Đại Lý là sự kế tục liên tiếp nhau hay là giống kiểu Phù Nam và Chân Lạp?

Nam Chiếu & Đại Lý là một nước đã được tiếp nối với nhau (Nam Chiếu đã bị lật đổ từ năm 902... và cả vùng bị sa loạn sứ quân...cũng giống như tình trạng chung ở cả Trung Hoa cùng thời... và sau 25 năm Đoàn Tư Bình đã thống nhất được các sứ quân mà thiết lập nước Đại Lý vào năm 937 AD... cũng tương đương với mốc điểm mà dân ta dành được độc lập từ quân Nam Hán ở miền bắc, VN hiện giờ).


Trích dẫn
- Lãnh thổ Nam chiếu cụ thể tương ứng với những khu vực nào hiện nay?, ngoài bản đồ ở trên, bác có bản đồ nào rõ hơn biên giới giữa Đại Việt và Nam Chiếu ko?
Thường thì đa số nói Nam Chiếu ở vùng Vân Nam ngày nay, nhưng sách Tân đính Lĩnh Nam chích quái thì Nam Chiếu chính là hậu duệ của Triệu Đà, cuối đời Tấn có 2 tù trưởng là Triệu Ông và Triệu Dịch dẫn quân chiếm được nước Tây Bà Dạ (nay thuộc vùng Quỳ Châu-Nghệ An), chia làm 2 miền là Qùy Châu và Diễn Châu, đắp thành, dựng miếu ở Bảo Chướng (nay thuộc Cao Xá, Diễn Châu). Tướng nhà Tấn là Tào Nhĩ đánh dẹp nhưng ko được.

Cũng trong sách Tân đính này, ở phần chú thích cho biết: Chiếu nghĩa đen là lệnh của vua ban xuống, ở đây nói bóng là Mật lệnh của Vũ vương Triệu Đà trong di chúc để lại cho con chaú tìm cách khôi phục quyền uy. Như vậy "chiếu" ở đây ngầm được coi là "người kế tục" họ Triệu...Chiếu Mông XÁ đứng đầu 6 chiếu nhưng đóng căn cứ ở cuối, vùng cực nam giáp giới đèo Ngang, còn các chiếu khác rải dài theo miền núi từ Vân Nam đến tây Thanh, Nghệ và theo miền biển trên các hải đảo đến cửa Nhượng, cửa Khẩu (Hà Tinh ngày nay)
(http://i181.photobucket.com/albums/x7/mc420dnh/tangmap.jpg)
Tấm bản đồ chi tiết của Đại Đường (bao gồm An Nam)

(http://i181.photobucket.com/albums/x7/mc420dnh/tang742AD.jpg)
Đây là một tấm bản đồ khác rõ hơn (nguồn từ University of Washington).

Chúng ta có thể thấy nước Thổ Phồn (Tây Tạng) hùng cứ một phần khá lớn ở mạn Tây Bắc của Đại Đường và vương quốc Nam Chiếu chiếm một khoảng nhỏ hơn bao trùm khu vực Vân Nam chạy xuống đến mạn tây bắc của miền bắc, VN & Lào hiện giờ;  Khoảng thập niên 860 AD, là thời cực thịnh của vương quốc Nam Chiếu cũng là thời suy đồi của Đại Đường sau loạn An Lộc Sơn, nước Nam Chiếu đã chiếm đóng cả một địa bàn rộng lớn ngay cả khu vực Thành Đô của Tứ Xuyên, bao trọn An Nam (miền bắc xứ ta) và một phần của cả nước Miến Điện hiện giờ.


Riêng bộ Lĩnh Nam Chích Quái có viết về Nam Chiếu như sau:

Trích dẫn
Người Nam Chiếu là con cháu vua Vũ Đế Triệu Đà vậy. Thời Hán Vũ Đế, thừa tướng nước Nam Việt là Lữ Gia không phục, giết sứ Hán là bọn An quốc, Thiếu Quý. Hán Vũ Đế sai tướng là bọn Lộ Bác Đức, Dương Phác đem quân chinh phạt, bắt Vệ Dương Vương Kiến Đức và Lữ Gia, thôn tính cả nước, phân đất cho các quan cai trị. Con cháu họ Triệu tản mát bốn phương, sau trở về Thần Phù, Hoành Sơn là những xứ vắng vẻ không có người.

Khi bộ hạ đông đúc, họ bèn đóng tàu thuyền thỉnh thoảng ra bể đột nhập vào nội địa cướp người ven bể, giết các quan lệnh của nhà Hán. Dân đều sợ phục, gọi là Nam Triệu, sau gọi sai là Nam Chiếu, cho nên họ mang danh hiệu ấy. Đến đời Ngô, Tôn Quyền sai Đái Lương, Lữ Đại làm thú mục để đánh dẹp. Quân Nam Chiếu ở cả một vùng từ núi Thiên Cầm tới Hà Hoa, Cao Vọng, Hoành Sơn, ạ Tung, Hải Ngạn, Sử Bộ, Trường Sa, Quế Hải, Vọng Cái, Lỗi Lôi, núi cao bể rộng, sóng gió hiểm trở, không có một vết chân người. Quân Nam Chiếu ở đấy thường lấy việc cướp bóc để sinh sống, đánh giết thú mục, không thể ngăn cản nổi. Đồ đảng của chúng khá nhiều, hay đem hàng hóa châu ngọc đút lót cho nước Tây Bà Dạ cầu làm thân thuộc, cùng giúp đỡ nhau. Cuối đời Tấn thiên hạ rối loạn, có người thổ tù là Triệu ông Lý cũng là con cháu của Triệu Vũ Đế, anh em đông đúc, thảy đều dũng lược hơn người, ai nấy đều phục, cùng với quân Nam Chiếu hợp lại, được hơn hai vạn người, lại đem châu ngọc tiến nước Tây Bà Dạ, xin chỗ đất không ngay cạnh đó để ở. Khi ấy, Tây Bà Dạ quốc chia đều bãi bể và đồng nội ra thành hai lộ. Một lộ trên từ Quý Châu, dưới tới Diễn Châu gọi là lộ Gia Viễn, giết trâu ăn thề rồi giao cho nước Nam Chiếu và Triệu ông Lý thống lĩnh. Sau đó, ông Lý xây thành ở tổng Cao Xá, đất Diễn Châu, đông tới Giáp Hải, tây tới nước Bà Dạ, nam tới Hoành Sơn, tự xưng làm chúa. Nhà Đông Tấn sai tướng quân là Tào Nhĩ đem quân sang đánh, ông Lý phục tượng binh ở chỗ hiểm trở nơi đầu nguồn sông mà đánh, rồi lại tới nấp ở Mê Sơn và Mạt Sơn ngoài bể, địch tụ thì mình tán, địch tán thì mình tụ, sáng ra tối vào, cầm cự trong 4, 5 năm trời. Quân Tấn không chịu nổi khí núi, tử vong quá nửa, bèn rút quân về. Quân Nam Chiếu thường tới cướp các xứ Nam Thành, Đông Thành, Trường An, thú lệnh không thể dẹp nổi. Tới khi nhà Đường thịnh lên, vua ý Tông sai Cao Biền đem quân sang dẹp, không đánh nổi phải bỏ về. Tới đời Ngũ Đại, vua Tấn là Thạch Kinh Đường sai quan tư mã họ Lý đem 20 vạn quân đánh vào Đồ Sơn, quân Nam Chiếu bèn rút về ở nhờ tại biên giới Ai Lao, hiệu là Đầu Hoành Mô Quốc Bồn Mang, thường lấy sự cướp bóc làm nghề, lúc đánh lúc nghỉ, chưa hề bao giờ yên chiến sự. Đất đó nay là phủ Trấn Ninh, muôn đời sát nhập trong bản đồ nước Đại Việt.


Thực tế thì chúng ta khó trích hoặc những cốt truyện từ bộ Lĩnh Nam Chích Quái để làm tài liệu cho sử được vì những cốt truyện bao gồm cả những "huyền thoại" lẫn một số dữ kiện và tên địa danh hoặc tên người có liên quan đến sử lược.  Thế nên Bí Bếp chỉ trích ra để chúng ta đọc lại hầu hiểu rõ hơn chứ thảo sâu xa hơn sẽ gặp rất nhiều khó khăn.

Trích dẫn
Ngoài tên gọi Nam Chiếu, Đại Lý thì quốc gia này còn tên nào khác ko?

Có thêm tên "Ai Lao" nữa (người Lào cũng cho họ là hậu duệ của Nam Chiếu đó).

Trích dẫn
- Trong sách Tàu có ghi lại những trận đánh giữa Việt và Chiếu ko bác ?

Thời có nước Nam Chiếu (739 - 902 AD) thì Đại Việt chưa có thì làm sao đánh đấm nhau được hén.  Nam Chiếu đụng trận với Đại Đường hoặc Thổ Phồn (Tây Tạng) thì có... (những trận đánh giữa Nam Chiếu & Đại Đường ở miền Bắc VN) thì Bí Bếp có trích ở hai bài đầu rồi.


Trích dẫn
Có 1 đoạn này trong bài của bác ko chính xác lắm : " Theo ĐVSKTT thì năm 1096 AD (thời vua Lý Nhân Tông), có kẻ dùng lợi dụng một tù binh người Nam Chiếu dùng "phép thuật" để ám sát nhà vua nhưng kết hoạch bất thành(?) "
Không phải là lợi dụng tù binh Nam CHiếu để định giết vua ma theo sách sử chép, chính Lê Văn Thịnh trực tiếp "hóa hổ". Vấn đề vụ án hồ Dâm Đàm có nhiều tư liệu nói rồi, ở đây em xin ko nhắc lại. Riêng vụ học phép hóa hổ thì có giai thoại dân gian nói gia nô của nhà Lê Văn Thịnh là người Đại Lý có phép hóa hổ, hồi bé ông Thịnh hay nghịch phá hoặc mỗi khi khóc quấy là người gia nô lại hóa hổ để dọa. Sau đó lớn lên, ông Thịnh có nài xin dạy, chính vì thế 1 lần mẹ ông vào phòng ban đêm xem con học thế nào đã ngất xỉu khi thấy trong màn có 1 con hổ trắng đang đọc sách 


Vâng, đó là điều mà Bí Bếp không có ý bàn sâu, tán xa mà cho nó vào "ngoặc kép" vì hình thức "mê tín dị đoan" và "phản khoa học"... khi mình viết về sử.  ;D


Tiêu đề: Re: Nam Giao/Đại Lý & sự hình thành nước Việt Nam!
Gửi bởi: caytrevietnam trong 24 Tháng Bảy, 2008, 12:14:46 am
Trích dẫn
- Trong sách Tàu có ghi lại những trận đánh giữa Việt và Chiếu ko bác ?

Thời có nước Nam Chiếu (739 - 902 AD) thì Đại Việt chưa có thì làm sao đánh đấm nhau được hén.  Nam Chiếu đụng trận với Đại Đường hoặc Thổ Phồn (Tây Tạng) thì có... (những trận đánh giữa Nam Chiếu & Đại Đường ở miền Bắc VN) thì Bí Bếp có trích ở hai bài đầu rồi.
[/quote]

He he...đúng là theo thực tế thì khi Nam Chiếu bị delete thì Đại Việt chưa hình thành, nhưng sử Việt khi nói về mấy trận đánh giữa quân triều Lý vẫn gọi đối thủ của họ là quân Nam Chiếu (chắc đây là quân Đại Lý, nhưng theo thói quen các cụ vẫn gọi là Nam Chiếu chăng? Hay Nam chiếu ở đây là các bộ tộc Ai lao sang xâm nhập lãnh thổ Đại Việt?)
Ngoài mấy trận đó, sử Tàu có nói gì đến đụng độ Đại Việt - Đại Lý ko ạ? (con về những trận đánh diễn ra ở lãnh thổ VN thời bắc thuộc giữa quân bắc với quân Nam Chiếu thì sử ta cũng nói nhiều)


Tiêu đề: Re: Nam Giao/Đại Lý & sự hình thành nước Việt Nam!
Gửi bởi: Bí Bếp trong 25 Tháng Bảy, 2008, 01:29:10 am
He he...đúng là theo thực tế thì khi Nam Chiếu bị delete thì Đại Việt chưa hình thành, nhưng sử Việt khi nói về mấy trận đánh giữa quân triều Lý vẫn gọi đối thủ của họ là quân Nam Chiếu (chắc đây là quân Đại Lý, nhưng theo thói quen các cụ vẫn gọi là Nam Chiếu chăng? Hay Nam chiếu ở đây là các bộ tộc Ai lao sang xâm nhập lãnh thổ Đại Việt?)
Ngoài mấy trận đó, sử Tàu có nói gì đến đụng độ Đại Việt - Đại Lý ko ạ? (con về những trận đánh diễn ra ở lãnh thổ VN thời bắc thuộc giữa quân bắc với quân Nam Chiếu thì sử ta cũng nói nhiều)

Xin nhắc lại thì khi nước Đại Lý được hình thành cũng đúng vào dịp nước Đại Việt được hình thành (năm 939 AD).

Bí Bếp chưa đọc được một văn bản nào từ người Hoa nhắc nhở đến bất kỳ cuộc đụng độ nào giữa Đại Lý vs Đại Việt... mãi đến năm một số quân Đại Lý đã đầu hàng Mông Cổ tiến đánh Đại Việt lần thứ nhất (hầu họ đánh bọc lên Nam Tống) vào năm 1253 AD.


Tiêu đề: Re: Nam Giao/Đại Lý & sự hình thành nước Việt Nam!
Gửi bởi: caytrevietnam trong 25 Tháng Bảy, 2008, 06:54:16 pm

Bí Bếp chưa đọc được một văn bản nào từ người Hoa nhắc nhở đến bất kỳ cuộc đụng độ nào giữa Đại Lý vs Đại Việt... mãi đến năm một số quân Đại Lý đã đầu hàng Mông Cổ tiến đánh Đại Việt lần thứ nhất (hầu họ đánh bọc lên Nam Tống) vào năm 1253 AD.

Vậy lực lượng giao chiến với quân Đại Việt năm Nhâm Tý (1012) ở châu Vị Long và trận đánh tháng giêng năm Giáp Dần (1014) ở châu Bình Lâm do Đoàn Kính Chí và Dương Trường Huệ cầm đầu. Theo bác Bí, lực lượng này là ở Vân Nam sang hay từ Bắc Lào ngày nay sang ?


Tiêu đề: Re: Nam Giao/Đại Lý & sự hình thành nước Việt Nam!
Gửi bởi: Bí Bếp trong 26 Tháng Bảy, 2008, 03:28:37 am
Vậy lực lượng giao chiến với quân Đại Việt năm Nhâm Tý (1012) ở châu Vị Long và trận đánh tháng giêng năm Giáp Dần (1014) ở châu Bình Lâm do Đoàn Kính Chí và Dương Trường Huệ cầm đầu. Theo bác Bí, lực lượng này là ở Vân Nam sang hay từ Bắc Lào ngày nay sang ?

Về hai trận giao chiến cùng Đại Việt và năm 1012 & 1014, dĩ nhiên quân Đại Lý đa số là lính của Đại Lý từ mạn Vân Nam xuống vì lúc đó quân Vạn Tượng (Lan Xang) chưa có thành lập (Bí Bếp có nhắc đến việc nước Lào & Thái chưa thành hình trong giai đoạn nầy, mãi đến sau thế kỹ thứ 13 (sau năm 1252) có nhóm quân của Đại Lý mới chạy xuống mạn nam để thành lập các nước như Sukho Thái, Vạn Tượng, v.v. trước khi họ sát nhập được một phần lớn lãnh thổ của vương quốc Khmer để thống nhất thành nước Thái Lan (Ayutthaya) từ cuối thế kỹ thứ 14 cho đến giờ.

Điều cũng đáng chú ý là người Thái cũng "nam tiến" cùng lúc với triều đại nhà Trần mở cuộc nam tiến lấy đánh Chiêm Thành và Thủy Chân Lạp và giữa hai gọng kèm của người Thái & Việt mà cũng tác động cho sự suy đồi của một vương quốc Khmer giàu có & rộng lớn bắt đầu từ thế kỹ thứ 13 trở về sau.


Tiêu đề: Re: Nam Giao/Đại Lý & sự hình thành nước Việt Nam!
Gửi bởi: huyphuc1981_nb trong 07 Tháng Hai, 2009, 10:44:09 pm
Sách Lĩnh Nam CHính Quái viết có nhiều điều lượm lặt từ hoang đường. Ví như chuyện Nam Chiếu.
Thật ra, Nam CHiếu là vùng các dân tộc Đông Nam Tây Tạng. Đây là vùng mà người Tây Tạng lai với người Việt cổ vốn gốc Nam Đảo tạo ra rất nhiều giống người, ví dụ ngày nay như Thái, Mèo. Đây cũng là vùng đất khá đặc biệt, nơi hai con sông lớn là Trường Giang và Mê Công tiến sát lại với nhau. Ở đây, địa hình rất hiểm trở các biệt nhau, nên tồn tại nhiều tốc người độc lập, bản thân sự cai trị của người Hán cũng dựa vào các thủ lĩnh địa phương tự cai trị. Sự độc lập tương đối này thời Ngũ Đại được phát triển thành Quốc gia.
Vì đặc điểm giao lưu, lai tạo cả về địa lý và chủng tộc như thế, nên các tộc ở đây vừa có ảnh hưởng lớn của dân Tây Tạng trồng lúa mỳ lúa mạch và dân Nam Đảo Việt trồng lúa nước. Có thể coi dây là gút thắt cả các đường giao lưu văn hóa, giao lưu giống nòi. Văn hóa vùng này cực kỳ đa dạng, ngày nay cũng là vùng cố số lượng tộc người, ngôn ngữ đông hàng đầu thế giới.

Từ thời CHiến Quốc, văn hóa-chính trị ở đây đã phát triển, thành lập nhiều quốc gia khác nhau. NHưng hệ văn hóa với chữ viết gốc Ấn Độ bị các đời cai trị TQ triệt diệt nên lịch sử không còn bao nhiêu. Khoảng 500 năm trước CN, Tần diệt Thục, chiếm Thành Đô, bắt đầu xâm lược vùng văn hóa này. Nhưng phải đến thời Hán thì quân TQ mới có ảnh hưởng lớn ở vùng đất ngày sau này là Nam CHiếu. Nam CHiếu có trung tâm là vùng hồ Nhị Hải ngày nay, một vùng đất bằng phẳng thuận lợi cho nông nghiệp.
Đến thời Đường, nhà đường biên đất này thành 6 dơn vị, gọi là Chiếu, thuộc đạo Kiếm Nam, cử tiết độ sứ cái trị, nhưng không thật sự thống trị. Cũng vì đặc tính địa lý phức tạp ở đây, nên 6 chiếu không hoàn toàn là 6 vùng, mà đúng hơn là 6 tộc. 6 tộc người này bao gồm các giống dân Mông gốc Tạng và Việt gốc Nam Đảo. Vì ngôn ngữ chữ viết thất truyền nên nay chỉ còn lại phiên âm tiếng Hán ngày đó tên 6 tộc Mông Huề, Việt Thác, Lãng Khung, Đằng Đạm, Thi Lãng, Mông Xá. Mông Xá ở phía Nam, được gọi là Nam CHiếu. Bì La Cáp của Nam CHiếu xin thống nhất hành chính thành Quy Nghĩa, sau đó độc lập, sử Tầu viết các quốc hiệu là Mông, Lễ... Sự kiện này đầu thế kỷ thứ 8. Nhiều tộc người khác nhau thay nhau cầm quyền ở đây. Ngôn ngữ và văn hóa vùng trung tâm truyền đến ngay nay là La Hủ và các dân tộc anh em gần. Sử Tầu ghi Nam CHiếu lập Quốc Đô ở gần thành Đại Lý ngày nay năm 732, sau khi tách ra khỏi nhà Đường và chiến tranh với Thổ Phồn.
Vào thế kỷ 9, Nam CHiếu đã chiếm cả Thành Đô, nhiều lần đánh chiếm Giao Châu (xem ĐVSKTT và VNLS của Trần Trọng Kim). Một lần thiên đô về điểm mà nay là Côn Minh.

TRái với những hoang đường, họ Đoàn cũng như các tên gọi khác là gi lại tên người dân ở đây theo tiếng Hán. Họ Đoàn là một dòng quý tộc của Nam CHiếu, sau khi nước này loạn lạc, triều đình Nam chiếu đổ năm 902. Họ Đoàn giành được chính quyền năm 93x gì đó không nhớ, đổi quốc hiệu là Đại Lý.

Quân Nam CHiếu/Đại Lý cũng nhiều lần viễn chinh cho tới tận bờ biển Đông, vùng ảnh hưởng hay có thể coi là những bộ phận lãnh thổ có mức độ phụ thuộc khác nhau của Liên bang này kéo dài đến Quảng Đông. Thời kỳ Nam CHiếu/Đại Lý là thời các dân tộc vùng này phát triển mạnh mẽ, cho đến khi bị quân Mông Cổ tàn phá. Nam Chiếu theo nhiều thứ đạo, nhưng phổ biến nhất là đạo Hồi. Đạo Hồi được coi là đạo chủ yếu ở vùng trung tâm. Đạo Phật Mật Tông cũng phát triển mạnh. Người Bạch, Di được giới khoa học TQ cho là con cháu dân Đại Lý còn đến ngày nay, tuy nhiên, điều đó chỉ tương đối. Như vậy, thừa kế truyền thống đa sắc tôc từ thời Hán, các dân tộc ở đây hợp nhau thành một Liên Bang Đại Lý, chứ không phải là một tộc người cụ thể ngày nay. Vùng ảnh hưởng kéo dài từ Vân Nam (Bắc Lạng SƠn-Cao Bằng), cho đến Hà Tĩnh. 

Sau này, các tộc người liên quan đến nước này thành lập nhiều quốc gia phát triển khác nhau. Các quốc gia này rất phát triển cho đến đầu Thế Kỷ 15 và lại bị tàn phá bời quân Minh. Thật ra thì thời Nguyên, phía nam TQ luôn luôn loạn lạc. Các tộc người ở đây tồn tại tương đối độc lập. Theo vùng ảnh hưởng cũ, các tộc người này thành lập các vùng có mức độc lập, to nhỏ khác nhau dọc theo các con sông TRường Giang, Mê Công, Hồng Hà và Đà Giang, Châu Giang ( chảy về Quảng Đông). Họ Đoàn tuy không còn là một vị vua Liên Bang, nhưng vẫn tồn tại trên vùng lãnh thổ gốc của Đại Lý. Các tộc người-lãnh thổ tương đối độc lập lớn có thể kể đến là : Miêu, Choang, Thái. Nhà Nguyên thành lập tỉnh Vân Nam như một bàn đạp để quyết chí tiêu diệt Đại Việt, nhưng sự độc lập tương đối vẫn tồn tại mạnh mẽ. NHà Nguyên giao lại Đại Lý cho họ Đoàn nối nhau chức "Đại Lý Tổng Quản".

Sự loạn lạc của Niềm Nam TQ dẫn đến nhiều cuộc khởi nghĩa khác nhau lập nên nhà Minh. Trong thời CHu Nguyên CHương, quân Minh đánh bắt họ Đoàn và tái thành lập Vân Nam, 1387. Tuy nhiên, các tộc người  vẫn tồn tại tương đối độc lập.
Sau khi đốt phá Nam Kinh, quân Minh của Minh Thành Tổ Cuối 14 đầu 15 xâm lược Đại Việt và các nước nhỏ khác. Cuộc chiến tranh này cực kỳ dã man, tàn phá tận gốc rễ xã hội và tiêu diệt tỷ lệ lớn người dân các tộc này. Tuy nhiên, sau đó, quân Minh rút khỏi chiến tranh với Đại Việt và sự hùng mạnh của nhà Minh chấm dứt ngắn ngủi sau thời Tuyên Đức. Từ đây, nhà Minh lại bị nhà Nguyên lấn át ở phía Bắc.

Từ khi nhà Minh suy yếu, các vùng khác nhau hậu duệ của Đại Lý như Miêu, CHoang, Thái và các vùng nhỏ hơn lại tương đối độc lập. Đến thời Mạc, ta có 6 châu lệ thuộc ở phương Bắc, phần đông trong đó là hậu duệ Đại Lý và một vài châu ở Quảng Đông. NHà Mạc hèn yếu đã tự trói dâng đất cho nhà Thanh. Dân Thái còn tổ chức được một quốc gia độc lập tồn tại lâu hơn  nữa. Chỉ còn một châu trong 6 châu đó được sát nhập vào nước ta, đó là vùng Tây Bắc ngày nay với thủ phủ là Điện Biên.
NGoài ra, giữa thời Minh THái Tổ CHu Nguyên CHương và Minh Thành Tổ Chu Lệ, nhiều tộc người không chịu phục tùng đã nâng mức độ tách biệt với vùng trung tâm, trong đó có Ai Lao, nước này giúp đỡ Lê Lợi to lớn trong chiến tranh. Từ trước thời đó, một số tộc người khác di cư và sát nhập bằng các mức độ khác nhau vào Trung Quốc, MIến ĐIện. Một số tộc thực hiện cuộc viến chinh di cư thống trị các vùng đất ở xa hơn, tạo ra Thái Lan, đến cả  Campuchia, những mảnh còn lại của đế quốc Bồn Man cổ đại. Các tộc người này chủ yếu theo đạo Phật.

Một nhân vật nổi danh Thế Giới của Đại Lý là nhà hàng hải Trịnh Hòa. Ông là một trong những chiến lợi phẩm của chiến tranh, bị thiến, theo đạo Hồi, phục vụ trong nhà Minh. Ông đã chỉ huy hạm đội lớn nhất thế giới và thực hiện những chuyến hải hành vĩ đại nhất thời đó. Cha ông đã từng đến La-Mêch-cơ, chứng tỏ sự giao lưu văn hóa-ngoại giao to lớn của nước này.
 


Tiêu đề: Re: Nam Giao/Đại Lý & sự hình thành nước Việt Nam!
Gửi bởi: caytrevietnam trong 09 Tháng Hai, 2009, 10:56:21 pm
Sách Tân Đính Lĩnh Nam chích quái thì viết hơi khác một chút, theo đó người Nam Chiếu là con cháu Triệu Đà, các thủ lĩnh sau này ở các khu vực nay thuộc vùng Thanh-Nghệ, Trung Lào lãnh đạo tàn dư, phần đông đều mang họ Triệu.

Có sách nói dân Choang chính là hậu duệ "xịn" của Nam Chiếu xưa, và xa hơn nữa là một nhánh của Bách Việt (tộc Âu Việt)


Tiêu đề: Re: Nam Giao/Đại Lý & sự hình thành nước Việt Nam!
Gửi bởi: menthuong trong 28 Tháng Mười, 2009, 11:27:26 am
Nam Chiếu, hay Nàn Cháo, hoặc Điền Việt, (南詔/南诏, Nánzhāo) là vương quốc của người Bạch (Bai) và người Lô Lô đã phát triển rực rỡ ở Đông Nam Á trong các thế kỷ 8 và thế kỷ 9. Nó nằm trong khu vực tỉnh Vân Nam ngày nay của Trung Quốc.Thủ đô của vương quốc này được thành lập năm 738 ở Thái Hòa
Nguyên thủy, ở đây có một vài bộ lạc của người Bạch sinh sống bằng nông nghiệp trong các vùng đất màu mỡ xung quanh hồ Nhĩ Hải. Người Bạch thuộc nhóm dân của người Thái mà ở Việt Nam cũng còn một số sắc tộc Thái sinh sống (Thái trắng, Thái Đen, Thái Đỏ... tên gọi khởi nguồn từ màu nhuộm chính của trang phục họ mặc). Cùng với Bạch còn có người Di, người Thổ, người Hmong (Mèo), người Nùng mà người Hán trước đó gọi là những nhóm Tây Di, Nam Man, và Bách Việt.

1. Sự hình thành Vương quốc Nam Chiếu:

“Người Nguyên Mưu” 元谋人, hóa thạch của người đứng thẳng (Homo erectus) được những người xây dựng đường sắt khai quật trong thập niên 1960, đã được xác định là hóa thạch người cổ nhất đã biết đến ở Trung Quốc. Vào thời kỳ đồ đá mới, ở đây đã có sự định cư của con người trong khu vực hồ Điền Trì (滇池). Những người nguyên thủy này sử dụng các công cụ bằng đá và đã xây dựng được các công trình đơn giản bằng gỗ.

Thời Xuân Thu Chiến Quốc (thế kỷ 3 tCn) có một vị tướng nước Sở tên Sung Kiều (Trang Giao hay Trang Kiệu 庄跤/庄峤), mang quân từ thượng nguồn sông Dương Tử đến khu vực này mà  lập nước có tên là Điền Việt 滇國 và tự xưng là “vua nước Điền” 滇國王. Ông và những người kế nghiệp ông đã mang tới Vân Nam ảnh hưởng của người Hán, sự khởi đầu của một lịch sử lâu đời các cuộc di cư và sự mở rộng ảnh hưởng văn hóa.

Đến thời Tam Quốc Khổng Minh Gia Cát 诸葛亮 giúp Lưu Bị dựng nước Thục (Hán) cầm quân đánh vào Nam Trung  南中(Vân Nam) để chinh phục quân của Mạnh Hoạch và các sắc tộc mạn Nam Trung cũng chính là các dân tộc tiền thân của nước Nam Giao...; Chính nhờ hậu cứ Nam Trung cung ứng quân lương mà Gia Cát Lượng đã gầy dựng lực lượng để thực hiện việc tiến đánh Bắc Ngụy hầu tái lập nhà Hán. Song “mưu sự tại nhân thành sự tại thiên” nên  mặc dù quân Tây Thục dưới sự lãnh đạo của Lưu Bị dẫu có đắt nhân tâm nhưng cũng không qua được chướng ngại thiên thời của Bắc Ngụy hoặc địa lợi của Đông Ngô để rồi họ Tư Mã cuối cùng soán ngôi nhà Ngụy, dẹp Đông Ngô và Tây Thục, thống nhất được Trung Hoa để  dựng lên nhà Tấn sau đó.

Năm 221 tCn, Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc và mở rộng quyền lực xuống phía nam. Các châu và huyện đã được thiết lập tại đông bắc Vân Nam. Đường giao thông đang có tại Tứ Xuyên đã được mở rộng về phía nam tới gần Khúc Tĩnh 曲靖 ngày nay, ở miền đông Vân Nam - được gọi là “Ngũ xích đạo” (đường 5 thước). Năm 109 tCn, Hán Vũ Đế phái tướng Quách Xương 郭昌 đến Vân Nam để thiết lập quận Ích Châu với 24 huyện trực thuộc. Nơi đặt trụ sở của quận này là huyện Điền Trì (ngày nay là Tấn Ninh 晋宁). Một huyện khác được gọi là “Vân Nam”, có lẽ là lần sử dụng đầu tiên của tên gọi này. Để mở rộng quan hệ thương mại mới hình thành với Miến Điện và Ấn Độ, Hán Vũ Đế còn giao cho Đường Mông 唐蒙 nhiệm vụ bảo trì và mở rộng Ngũ xích đạo, đổi tên nó thành “Tây nam Di đạo” 西南夷道.

Vào thời gian đó, kỹ thuật canh tác trong nông nghiệp ở Vân Nam đã được cải thiện rõ rệt. Người dân địa phương sử dụng các công cụ và cày bừa bằng đồng thau cũng như chăn thả nhiều loại gia súc, như trâu, bò, ngựa, cừu, dê, lợn và chó. Các nhà nhân loại học đã xác định là những người này có quan hệ họ hàng gần với những người mà ngày nay gọi là người Thái. Họ sinh sống theo bộ tộc, đôi khi được những người Hán bị lưu đày đứng đầu.

Riêng vùng đất Nam Trung là địa bàn của người Bạch, người Di là hai sắc tộc chính của khu vực Nam Giao quanh hồ Nhĩ Hãi thuộc tỉnh Vân Nam hiện nay vẫn thuộc dạng tự trị, người Nam Giao ít bị sự điều khiển trực tiếp của người Hán. Theo Hán Sử thì người Nam Giao, mỗi một bộ lạc là một 'vương quốc' riêng biệt, được gọi là chiếu. Đã từng có 6 chiếu là Mông Huề, Việt Thác, Lãng Khung, Đằng Đạm, Thi Lãng, Mông Xá. Chiếu Mông Xá 蒙舍詔 ở về phía nam nên được gọi là Nam Chiếu 南詔 hay Nam Giao.

Nhưng sau nhà Hán, nội loạn ở Trung Hoa kéo dài cả 200 trăm năm cho đến khi Đường Thái Tổ thống nhất lại Trung Hoa để lập nên nhà Đường vào năm 618.


Tiêu đề: Re: Nam Giao/Đại Lý & sự hình thành nước Việt Nam!
Gửi bởi: menthuong trong 28 Tháng Mười, 2009, 11:28:22 am
2. Vương quốc Nam Chiếu hay Nam Giao:

Ở vùng Nam Trung vào năm 649 có một lãnh tụ tên là Tế Nô La của bộ tộc Mông Xá kết hợp được cả 6 bộ tộc mà thành lập nước Nam Giao.  Tế Nô La xin triều cống và gửi con trai đến Trường An (thủ đô của nhà Đường) để làm con tin mà xin được phong vương, tuy nhiên Đường Cao Tông chỉ phong Tế Nô La chức Thái Thú của vùng đất Quế Châu (Vân Nam bây giờ).  Sau đó con cháu của Tế Nô La vẫn tiếp tục giúp nhà Đường dẹp được loạn lạc ở Vân Nam từ năm 713-719, và nhà Đường hầu như giao hẵn vùng đất nầy cho người Nam Giao tự trị.

Đến năm 732, Bì La Cáp 皮罗阁 xin chiếu chỉ Đường Huyền Tông để chính thức thống nhất các bộ tộc trong vùng mà chính thức lập thành nước Nam Giao. Trong thời gian đó, nước Thu Bồn (Tây Tạng) đã trở nên cường thịnh và gây khó khăn cho ảnh hưởng của nhà Đường nên Đường Huyền Tông đồng ý phong vương cho Bì La Cáp nhằm dùng nước Nam Giao làm bình phong để ngăn chận sự bành trước của nước Thu Bồn ở mạn Tây Bắc của Trung Hoa.  Bì La Cáp được nhà Đường công nhận là 雲南王 “Vân Nam vương”.

Năm 737 đời vua Huyền Tông nhà Đường ở Trung Quốc, với sự hỗ trợ của quân đội nhà Đường, Bì La Cáp  là vua của Mông Xá đã lần lượt thống nhất 6 chiếu, thành lập ra một vương quốc mới, gọi là Nam Chiếu. Khi hùng mạnh xưng đế và đặt quốc hiệu là Đại Mông rồi lại đổi là Đại Lễ.Trong khoảng vài chục năm hòa bình đầu tiên ở thế kỷ 8, Nam Chiếu thường xuyên cống nộp thông qua người đứng đầu quân sự trong khu vực quân sự này, Kiến Nam tiết độ sứ (劍南節度使 Jiànnán Jiédǔshǐ), tới triều đình của người Hán.

Trên thực tế thì mãi đến năm 738 Bì La Cáp mới chính thức thống nhất được tất cả các bộ tộc của người Bạch và người Di ở trong vùng để xưng Vương.  Như thế thì người Nam Giao đã thật sự độc lập cả 200 năm trước khi Ngô Quyền thắng trận Bạch Đằng mà giành độc Lập cho nước ta sau năm 939.


Tiêu đề: Re: Nam Giao/Đại Lý & sự hình thành nước Việt Nam!
Gửi bởi: menthuong trong 28 Tháng Mười, 2009, 11:28:51 am
Sau 10 năm lập nước Nam Giao, Bì Lô Cáp mất vào năm 748; con của Bì Lô Cáp là Cáp Lỗ Phong kế vì và nuôi mộng bành trướng. Mối quan hệ của Nam Giao và triều Đường ở Trường An bị suy thoái cũng do sự gian tham của thái thú Trương Đà người có trách nhiệm giữ quan hệ với Nam Giao. Trương Đà liên kết cùng các thái thú trong vùng mà làm nhục quan thần của nước Nam Giao một khi họ phải đi triều cống; một số tài liệu có ghi rằng chính Trương Đà lắm lúc còn hãm hiếp cả vợ của các sứ thần Nam Giao, một đàng Trương Đà gửi báo cáo láo về Trường An rằng vua nước Nam Giao là Cáp Lỗ Phong có ý tạo phản Đường triều.

Cáp Lỗ Phong nắm được tà ý của Trương Đà, năm 750 ông gửi thư giải bày cùng Đường Huyền Tông ở Trường An; nhưng bấy giờ Đường Huyền Tông đang đắm say tửu sắc cùng Dương Quí Phi bỏ mặc việc triều chính cho quan Tể Tướng là Dương Quốc Trung coi ngó.  Dương Quốc Trung lúc đó đang dùng quyền thế lo vơ vét làm giàu nào xá gì chuyện cỏn con của đám Tây Di nên chiếu thư của Cáp Lỗ Phong không được Trường An giải quyết.  Sau đó Cáp Lỗ Phong cất quân tấn công trả thù và giết được Trương Đà và tiến chiếm cả phía nam của vùng đất Tứ Xuyên.  Dương Quốc Trung sau đó mới tìm cách chạy tội bằng báo cáo dối cùng Đường Huyền Tông rằng vua nước Nam Giao đã liên kết cùng nước Thu Bồn mà tạo phản mà đề nghị Đường triều nên dấy binh chinh phạt Nam Giao.  Đường Huyền Tông cử 60.000 tinh binh chinh phạt Nam Giao.  Cáp Lỗ Phong gửi sứ giả xin cầu hòa nhưng tiết chế của quân Đường (Xianyu...) bắt giam sứ giả và tiếp tục cất quân tiến đánh Nam Giao.  Cáp Lỗ Phong xin hòa không được ông mới lập bàn tế trời mà thề rằng “Nếu Trung Nguyên chấp nhận tôi, tôi vẫn sẽ luôn nhận triều đình là Chúa của tôi nhưng triều đình Trung Nguyên không nhìn tôi, từ nay Trung Nguyên sẽ thành kẻ thù của tôi.”  Sau đó Cáp Lỗ Phong gửi sứ giả đi liên kết cùng nước Thổ Phồn để cầu viện binh, cùng lúc ông cắt con trưởng dắt kỵ binh đánh phục kích chặn kỵ binh của Đường triều; riêng ông cũng thân chinh mà điều quân tổ chức phản công quân Đường.  Do sự kết hợp giữa quân Nam Giao và Thổ Phồn, quân Đường bị đại bại; Sau đó, năm 751 Tiết chế của nhà Đường là Lý Mỹ lại tập hợp một đạo quân lớn hơn bao gồm 100.000 tinh binh + 100.000 quân tiếp vận mà tấn công Nam Giao bằng đường bộ lẫn đường thuỷ (qua hồ Nhĩ Hãi).  Đạo quân của tiết chế Lý Mỹ bại đại bại ở Hạ Quan (Xiaquan); qua hai trận đánh, quân Nam Giao tiêu diệt cả 260.000 lính của quân Đường; xác chết chất thành núi mà đến ngày nay di tích Mồ Tướng ở Hạ Quan và Mã Vạn Binh (trong công viên Thiên Bảo) vẫn là chứng tích cho sự thảm bại của quân Đường ở Nam Giao.
 
Sau khi nhà Đường bị suy yếu do 8 năm loạn dấy nên bởi An Lộc Sơn (sử chép cả 2/3 tổng số dân Trung Hoa bị chết trong thời gian nầy), Cáp Lỗ Phong đã bành trướng lãnh thổ nắm giữ cả vùng Vân Nam, một khoảng của Tứ Xuyên, phía tây của Quí Châu, bắc của Miến Điện, Thái Lan, Lào, và ngay cả miền bắc của Việt Nam thời  nay. Năm 829, Thành Đô (Chengdu) đã bị quân Nam Chiếu chiếm đóng; nó đã là một phần thưởng lớn, vì nó làm cho Nam Chiếu có khả năng đánh chiếm toàn bộ tỉnh Tứ Xuyên với những cánh đồng màu mỡ. Khi đó quốc hiệu được đổi là Đại Mông 大蒙 rồi Đại Lễ 大禮.Lúc sung mãn nhất vương quốc Nam Giao bắc giáp ranh với nước Thu Bồn, nam chiếm cả Miến Điện và Giao Châu vào thế kỹ thứ 9 (năm 858), phía đông họ chiếm cả Ung Châu và Thành Đô của nhà Đường.


Tiêu đề: Re: Nam Giao/Đại Lý & sự hình thành nước Việt Nam!
Gửi bởi: menthuong trong 28 Tháng Mười, 2009, 11:29:18 am
 Dưới thời Mông Thế Long 蒙世隆, Nam Chiếu cũng đã từng xâm chiếm An Nam từ những năm 858 tới năm 866 bằng việc xâm lấn biên giới (858, 860, 861, 862, 863) và đã 2 lần chiếm được phủ thành (863) cho thuộc hạ vua Nam Chiếu  là Đoàn Tù Thiên làm tiết độ sứ phủ Giao Châu. Năm Giáp Thân, 864 vua Đường Hàm Thông cho Cao Biền 高駢 (864-875) làm Đô hộ tổng quản kinh lược chiêu thảo sứ. Với những quyết tâm và mưu lược của mình, Cao Biền đã dẹp tan được hoạ Nam Chiếu với An Nam (866), góp phần làm suy yếu Nam Chiếu.

Năm 873, người Nam Chiếu bị đuổi khỏi Tứ Xuyên, và bị đẩy lùi về Vân Nam. Việc chiếm đóng Thành Đô là mốc đỉnh cao của nhà Nam Chiếu, từ đó trở đi vương quốc Nam Chiếu bắt đầu suy yếu.

Năm 902, quyền thần của Nam Chiếu là Trịnh Mãi chiếm đoạt quyền hành, đổi tên nước thành Đại Trường Hòa. Năm 929, Triệu Thiện Chính diệt Đại Trường Hòa, lập ra nước Đại Thiên Hưng. Năm 930, tiết độ sứ Đông Xuyên là Dương Càn Hưng diệt Đại Thiên Hưng, đổi tên nước thành Đại Nghĩa Ninh. Đến 937 Đoàn Tư Bình 段思平 (thủ lĩnh bộ tộc người Bạch) nắm quyền, lập ra Vương quốc Đại Lý 大李.


Tiêu đề: Re: Nam Giao/Đại Lý & sự hình thành nước Việt Nam!
Gửi bởi: menthuong trong 28 Tháng Mười, 2009, 11:31:12 am
3. Vương quốc Đại Lý :

Đại Lý (大理, Dàlǐ) là một vương quốc của người Bạch đã từng tồn tại từ năm 937 cho đến năm 1253, nằm trong khu vực của tỉnh Vân Nam, Quý Châu và tây nam tỉnh Tứ Xuyên của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ngày nay.

Vương quốc này do Đoàn Tư Bình 段思平 diệt Đại Nghĩa Ninh và thành lập nên vào năm 937, kéo dài được 316 năm, truyền được 22 đời vua. Đại Lý là một quốc gia theo Phật giáo Mật tông (Acarya), từ vua tới dân đều sùng đạo, vua thường tại vị một thời gian rồi xuất gia làm sư: có 10 vị vua bỏ đi tu như Đoàn Chính Minh, Đoàn Chính Thuần, Đoàn Cảnh Hưng, v.v.  (nhường ngôi cho con để làm Thái Thượng Hoàng như các vua Trần Đại Việt).

Sang thế kỷ XII, ở mạn bắc quân Mông dưới sự lãnh đạo của Thành Cát Tư Hãn đã thống nhất được các bộ tộc, làm mưa làm gió trên các chiến trường từ Âu sang Á.  Quân Mông bị quân Đại Lý cầm chân ở khu vực hồ Nhĩ Hãi khá lâu mà vẫn không phá vỡ được sự phòng thủ của quân Đại Lý.  Theo sử liệu, thì quân Mông được có sự chỉ dẫn của một người Đại Lý phản bội, giúp kỵ binh của họ vượt qua đèo ở dãy núi Thương Sơn hiểm trở bằng đường bí mật mà đánh tập hậu phá được quân Đại Lý vào năm 1274.  Sự kiện nầy đã dẫn đến sự kết thúc của nước Nam Giao - Đại Lý được thiết lập sau 5 thế kỹ (738-1274). Sau khi nước Đại Lý bị quân Mông chiếm để lập nên nhà Nguyên, Đại Lý thành tỉnh Vân Nam và từ đó trở thành một bộ phận của Trung Quốc.
 
Suốt thời gian nước Đại Lý bị quân Mông chiếm đóng, các hoàng thân quốc thích của dòng dõi họ Đoàn vẫn tiếp tục kháng chiến; một số đã kết hợp cùng người Hoa mà dẹp được nhà Nguyên để thành lập nhà Minh. 

Năm 1381, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương phái các tướng là Phó Hữu Đức và Mộc Anh đem quân chiếm Vân Nam, diệt Lương vương của triều Nguyên và cho xây một bức tường bao quanh thành phố Côn Minh ngày nay. Sau đó  Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương (1368-1398) đã nuốt lời mà bắt lãnh tụ người Đại Lý là Đoàn Thế phải đổi tên nước thành phủ Vân Nam và nước nầy đã trở thành một tỉnh của Trung Hoa kể từ năm 1398. Tuy nhiên, sự chống đối của họ Đoàn với nhà Minh chỉ thực sự chấm dứt vào cuối thế kỷ 14, nhà Minh đổi nước của Đoàn Thế làm phủ Đại Lý, đặt vệ quân và chỉ huy sứ ti, cho thuộc vào tỉnh Vân Nam (雲南/云南; pinyin: Yunnan). Cuối thời nhà Minh, hoàng đế Nam Minh (Quế vương) là Chu Do Lang (niên hiệu Vĩnh Lịch, 1646-1662) đã chạy tới Vân Nam. Năm 1659, nhà Thanh sai Bình Tây vương Ngô Tam Quế tấn công Vân Nam và vào năm 1662, tấn công tiếp sang Miến Điện, bắt được Vĩnh Lịch, buộc treo cổ chết.


Tiêu đề: Re: Nam Giao/Đại Lý & sự hình thành nước Việt Nam!
Gửi bởi: menthuong trong 28 Tháng Mười, 2009, 01:27:14 pm
4. Hậu Đại Lý:

Một trong những cư dân Đại Lý là người Thái, trải rộng từ Vân Nam qua bắc Thái Lan, Lào và thượng du bắc Việt Nam. Người Thái gồm nhiều sắc dân như Thái Trắng, Thái Đen, Thái Đỏ, Thổ, Nùng.

Sau khi Đại Lý bị người Mông Cổ thôn tính, người Thái còn trốn tránh trong rừng sâu và di chuyển xuống phía nam và tây nam. Họ là thủy tổ của người Thái Lan ngày nay. Đồng thời, một số quân Đại Lý cũng đã chạy xuống mạn nam, một số hoàng thân Đại Lý từ từ thiết lập hậu cứ thành nước Lana Thái, Miến Điện, và Lào. Cũng do sự bành trướng của những nước mới thành lập nầy mà vương quốc Khmer đã bị suy vong kể từ đó.

Giai đoạn từ 1856 tới 1873, người Hổi vùng Vân Nam nổi dậy dưới sự chỉ huy của Đỗ Văn Tú 杜文秀 lập Đại Lý quốc. Sau khi thất bại thì số lượng người Hồi đã giảm mạnh. Trong thời kỳ này người Anh chiếm đóng Miến Điện còn người Pháp chiếm đóng Việt Nam nên cả hai đều có ảnh hưởng tới Vân Nam. Năm 1910, người Pháp cho xây dựng đường sắt Điền Việt  滇越鐵路 nối Côn Minh 昆明 với Hải Phòng của Việt Nam (qua Lào Cai bằng cầu Hồ Kiều), đoạn trong Vân Nam gọi là Côn Hà thiết lộ 昆河鐵路 (đường sắt Côn Hà). Chính sự kiện này dẫn đến việc hiện nay tại Côn Minh có nhiều người Việt sinh sống.

Ngày 30 tháng 10 năm 1911, nhân dịp tết Trùng dương, Thái Ngạc và Đường Kế Nghiêu nổi dậy thoát ly khỏi nhà Thanh. Ngày 25 tháng 12 năm 1915, hai ông này phát động phong trào phản đối Viên Thế Khải.
Trong thời kỳ Trung Hoa dân quốc 中華民國, tại Vân Nam hình thành một cục diện cát cứ, từ 1928 tới 1945 do Đường Kế Nghiêu và Long Vân thống lĩnh.

Năm 1942, trên 10 vạn quân Trung Quốc tấn công sang Miến Điện, phối hợp cùng quân Anh chống lại quân đội Nhật Bản. Giai đoạn từ 1938 tới 1946, các trường đại học như đại học Bắc Kinh, đại học Thanh Hoa, đại học Nam Khai đã hợp nhất tại Côn Minh để lập ra Đại học Quốc gia Liên hợp Tây Nam.

Từ sau 1949 Vân Nam trở thành một tỉnh của nước CHNDTH (中華共和人民國).

Các vùng đất và dân cư của Vương quốc Nam Chiếu, Đại Lý xưa nay đã nội thuộc Lào, Trung Quốc, Việt Nam là sự thật hiển nhiên không ai đòi phục hồi gì cả.


Tiêu đề: Re: Nam Giao/Đại Lý & sự hình thành nước Việt Nam!
Gửi bởi: menthuong trong 29 Tháng Mười, 2009, 09:58:37 pm
Sự manh nha của nhà nước tự chủ:

Thời kỳ Bắc thuộc 北屬時代 là giai đoạn hơn một nghìn năm từ khi Triệu Đà 趙佗 thôn tính Âu Lạc 甌貉 của An Dương Vương 安陽王(207 tCn) lập ra Nam Việt 南越 cho đến khi Ngô Quyền 吳權 giành lại độc lập từ nhà Nam Hán 南漢 (938). Nhưng sử cũ coi nhà Triệu là một triều đình của Việt Nam nên chỉ tính thời kỳ Bắc thuộc từ khi Hai Bà Trưng thất thủ (43) nên mới có câu:

Nước ta từ thủa thuộc người,
Khởi từ Đông Hán đến thời Ngô vương.

Trong toàn bộ tiến trình lịch sử Việt Nam, đây là một trong những thời kỳ vận mạng dân tộc trải qua một thử thách cực kỳ hiểm nghèo, người Việt phải đóng sưu thuế cho triều đình phía bắc. Ngoài số thuế của nhà nước, một số quan cai trị địa phương vì ở xa nên cũng bòn vét thêm của dân. Đúng là:

Dân ta chịu những chiến trường,
Cấy cày chẳng được, muôn đường khó khăn.

Ngoài ách đô hộ của Bắc triều, dân ta còn nhiều phen bị các nước lân bang quấy nhiễu. Đó là Lâm Ấp. Chân Lạp và đặc biệt là Nam Chiếu. Nước Nam Chiếu (vùng Vân Nam, TQ nay) suốt 20 năm quấy phá có lần tiến tới tận thành Giao Bình (862, 863) giết hại vô số dân Việt.
Trong thời kỳ Bắc thuộc dân Việt vẫn ngoan cường tinh thần độc lập, lợi dụng tình hình loạn lạc bên Tầu mà ta cũng có vài thời gian độc lập ngắn ngủi như thời kỳ Hai Bà Trưng (40-43), thời kỳ Lý Bí với nước Vạn Xuân (541-602). Đó là những anh hùng tạo nên thời thế, bởi:

Nước lã mà vã nên hồ,
Tay không mà nổi cơ đồ mới ngoan.

 Trong các anh hùng làm nên lịch sử thời đó đáng chú ý là các nhân vật sau:

- Hai Bà Trưng  (mất ngày mùng 6 tháng 2 năm Quý Mão 43) là tên gọi chung của Trưng Trắc 徵側 và Trưng Nhị 徵貳, hai chị em (nhiều tài liệu nói là sinh đôi) là con gái của Lạc tướng Mê Linh (đất Mê Linh nay thuộc vùng giáp giới giữa Hà Tây với Vĩnh Phúc và ngoại thành Hà Nội). Bấy giờ, nhân lòng căm phẫn của nhân dân ta đối với chính sách thống trị tàn bạo của nhà Ðông Hán, lại cũng nhân vì Thi Sách (chồng bà và là con trai của Lạc tướng Chu Diên, vùng giáp giới giữa Hà Tây với Hà Nam) bị Thái Thú Tô Ðịnh giết hại, Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị và nhiều bậc hào kết khác, phát động và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa có quy mô rất lớn chống lại quân Hán  (漢朝,Han cháo, 206 tCn. - 220 sCn). Khởi nghĩa bùng nổ vào cuối năm 39 đầu năm 40 và nhanh chóng được nhân dân cả nước nhất tề hưởng ứng. Tô Ðịnh phải hốt hoảng bỏ chạy về nước. Hai Bà Trưng lập ra một quốc gia với kinh đô tại Mê Linh và tự phong là nữ vương.

“Đô kỳ đóng cõi Mê Linh
Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta”.

Sau khi cuộc khởi nghĩa này bị quân Đông Hán (東漢 25–220) dưới sự chỉ huy của Mã Viện (馬援,một lão tướng khét tiếng tàn bạo và dày dạn kinh nghiệm trận mạc) đánh bại, tục truyền rằng vì không muốn chịu khuất phục, hai Bà đã nhảy xuống sông tự tử. Hàng năm dân gian lấy ngày 6.2 Âm lịch làm ngày kỷ niệm hai Bà Trưng . Đại Việt Sử ký Toàn thư coi Trưng Trắc là một vị vua trong lịch sử Việt Nam. Từ sự kiện này mà dân ta có câu: “Giặc đến nhà đàn bà phải đánh”. Phong sử có câu:

Thương chồng nên phải gắng công,
Nào ai xương sắt, da đồng chi đây.

Sau khi đàn áp thành công cuộc khởi nghĩa của hai Bà Trưng, Mã Viện đem đất Giao Chỉ về lệ thuộc lại nhà Đông Hán như cũ đóng phủ trị trại Long Biên. Để đàn áp tinh thần quật khởi của dân Việt, Mã Viện cho dựng một cột đồng ở chỗ phân địa giới. Trên cột đồng có khắc sáu chữ: 銅柱折交趾滅 “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt”, có nghĩa là nếu cây trụ đồng này đổ thì dân Giao Chỉ bị diệt vong. Có thuyết cho rằng, do dân Việt cứ mỗi lần đi ngang qua, đều bỏ vào chân cột một hòn đá, vì thế trụ đồng bị lấp dần đi. Về sau không còn biết vị trí của chiếc trụ đồng nữa là vì vậy

- Bà Triệu còn gọi là Triệu Trinh Nương  趙貞娘 tên thật là Triệu Thị Trinh 趙氏貞 hay Lệ Hải Bà Vương, sinh ngày 2 tháng 10 năm Bính Ngọ (226) là một trong những vị anh hùng dân tộc trong lịch sử Việt Nam, Bà Triệu còn được gọi là Triệu Ẩu 趙嫗 theo cách gọi của người Trung Hoa, là người Quân Yên, quận Cửu Chân, nay thuộc huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa và là em của Triệu Quốc Đạt. Năm 246, bà đã cùng anh trai là Triệu Quốc Đạt dựng cờ khởi nghĩa và sau khi Triệu Quốc Đạt chết (248), bà lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống lại sự xâm lược của quân Đông Ngô, do Lục Dận (cháu của Lục Tốn), thứ sử Giao Châu chỉ huy. Câu thành ngữ “Lệnh Ông không bằng cồng Bà” xuất hiện từ việc tiếng Lệnh của quan huyện Đạt không có hiệu lực tập hợp dân bằng tiếng Cồng của Bà Triệu. Nhiều nghĩa binh đã tử trận vào năm đó. Bà chống đỡ với quân Đông Ngô được 5-6 tháng thì thua chạy đến xã Bồ Điền (nay thuộc khu núi Tùng, xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa) và tự tử. Khi ấy Triệu Thị Trinh mới 23 tuổi. Kể về việc này dân gian có câu:

Ru con con ngủ cho lành,
Để mẹ gánh nước rửa bành con voi.
Muốn coi lên núi mà coi,
Coi bà Triệu Ẩu cỡi voi bành vàng.

- Năm 541, vì chính sự hà khắc của quan lại địa phương, Lý Bí (李畚, 503-548, là người Thái Bình, phủ Long Hưng, Sơn Tây), với sự giúp đỡ của Tinh Thiều, Phạm Tu và Triệu Túc,... nổi lên đánh đuổi quan lại nhà Lương (梁朝, 502 - 549), rồi xưng là Nam Đế (南越帝,542-548), lập nhà Tiền Lý 前李氏, đặt tên nước là Vạn Xuân (萬春, 544-602), đóng đô ở Long Biên. Đây là triều đại Việt Nam đầu tiên đánh dẹp được quân Chiêm Thành khi người Chăm xâm lấn cõi bờ (năm 543 tại Nhật Nam 日南,Cửu Đức 九德). Năm 548, khi Lý Nam Đế mất, Triệu Quang Phục 趙光復 kế tục sự nghiệp xưng Triệu Việt Vương (趙越王,546-571). Nhưng về sau dẫn đến nội chiến và nước phải chia đôi bởi Hậu Lý Nam Đế (Lý Thiên Bảo 李天寶, Lý Phật Tử 李佛子 556-602) và Triệu Việt Vương. Lúc này bên TQ vào năm 581, nhà Tuỳ (隋, 581-618), được dựng lên. Sau khi thống nhất Trung nguyên năm 589, Tùy Văn Đế 隋文帝 bắt đầu dòm ngó đánh Vạn Xuân. Do lực lượng chênh lệch, nội bộ thiếu thống nhất nên quan quân nhà Hậu Lý 後李氏 nhanh chóng đầu hàng và nước Vạn Xuân mất vào năm 602. Sử cũ ghi chép về số phận của Lý Phật Tử sau khi đầu hàng không rõ.Về thời kỳ này Việt sử diễn âm viết:

Dẹp yên giặc Bắc, phá Nam quân,
Dựng nước mong rằng được Vạn Xuân.
Một sơm giữa hồ trời chẳng giúp,
Đánh đem nghiệp lớn cậy hiền thần.
Kết hiếu lơ là khiến Triệu vong,
Hàng Tùy vội vã thật đau lòng.
Ngàn năm miếu mạo bên bờ biển,
Bội ước thẹn cùng miếu Việt vương.

- Đinh Kiến: Sau khi nhà Tùy mất, nhà Đường (唐朝,618 – 907) lên ngôi, tiếp tục giữ quyền cai trị nước ta. Năm 687, quan cai quản An Nam Ðô Hộ Phủ của nhà Ðường là Lưu Diên Hựu thu thuế rất tham tàn, khiến cho nhân dân ta rất căm phẫn. Nhân cơ hội đó, một vị hào trưởng là Lý Tự Tiên (nay vẫn chưa rõ quê quán) đã bí mật tổ chức một cuộc khởi nghĩa lớn. Nhưng cơ mưu bị bại lộ, Lý Tự Tiên bị Lưu Diên Hựu giết chết. Tiếp nối sự nghiệp của Lý Tự Tiên, một vị hào trưởng cũng là một thuộc tướng của Lý Tự Tiên đã lãnh đạo nhân dân vùng dậy. Vị hào trưởng ấy là Ðinh Kiến. Ngay trong năm 687, Ðinh Kiến đã giết chết được Lưu Diên Hựu và chiếm được phủ đô hộ là thành Tống Bình (tức Hà Nội ngày nay), đồng thời, nhanh chóng thiết lập một hệ thống chính quyền do ông đứng đầu. Ðinh Kiến chưa xưng đế hay xưng vương, cũng chưa đặt quốc hiệu hay niên hiệu, nhưng chính quyền do ông đứng đầu thực sự là chính quyền độc lập và tự chủ. Hiện vẫn chưa rõ quê quán cũng như năm sinh và năm mất của Ðinh Kiến.

- Mai Hắc Đế (梅黑帝; ?–722), tên thật là Mai Thúc Loan 梅叔鸞 hoặc Mai Huyền Thành 梅玄成 là vua nước Việt Nam, anh hùng dân tộc, người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa nông dân chống sự chiếm đóng của nhà Đường (唐朝, 618 –907) ở Việt Nam vào đầu thế kỉ thứ 8 thời Đường Huyền Tông. Đây là cuộc khởi nghĩa mà dã sử gắn với chuyến gánh vải An Nam nộp cống sang Đường để Dương Quý Phi  ăn  và lần đầu người Việt liên kết với người Chăm phương Nam để đánh quân Hán. Ông quê ở Mai Phụ, Lộc Hà, Hà Tĩnh nhưng sinh ra ở Nam Đàn, Nghệ An. Năm Nhâm Tuất (722) tức năm Khai Nguyên thứ mười, đời Đường Huyền Tông ở Trung Hoa, Mai Thúc Loan đã khởi nghĩa tại quê nhà, chọn Rú Đụn, còn gọi là Hùng Sơn và dọc theo bờ sông Lam (Nghệ An) là căn cứ chính chống quân chiếm đóng nhà Đường. Ông xưng Đế rồi kéo quân ra chiếm được phủ Tống Bình, tức Hà Nội ngày nay, thái thú nhà Đường lúc đó là Quách Sở Khách bỏ thành chạy về nước. Khi 10 vạn quân Đường do tướng Dương Thừa Húc và Quách Sở Khách kéo sang, sau nhiều trận đánh khốc liệt, từ lưu vực sông Hồng đến lưu vực sông Lam, cuối cùng Mai Hắc Đế thất trận, thành Vạn An thất thủ, nghĩa quân tan vỡ, Mai Hắc Đế rút vào rừng, sau bị ốm rồi mất 722. Nghĩa quân tan vỡ.

- Phùng Hưng (馮興; 761-802) là thủ lĩnh cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại sự thống trị của nhà Đường, đuổi được người phương Bắc và cầm quyền cai trị một thời gian. Ông xuất thân từ dòng dõi cự tộc lâu đời ở đất Đường Lâm nay là xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, tỉnh Hà Tây. Theo truyền thuyết, Phùng Hưng có hai người em cùng sinh ba là Phùng Hải và Phùng Dĩnh. Cả ba anh em đều có sức khỏe hơn người, tay không bắt được hổ. Quan đô hộ nhà đường khi đó là Cao Chính Bình khét tiếng tham lam và tàn bạo, khiến cho nhân dân ta căm phẫn, đồng thời, binh lính của Cao Chính Bình cũng chống đối quyết liệt. Khoảng niên hiệu Đại Lịch (766-779), lợi dụng khi quân lính ở Tống Bình (Hà Nội) nổi loạn, Phùng Hưng đã phát động một cuộc khởi nghĩa lớn chống chính quyền đô hộ (Phùng Hưng xưng là Đô Quân, Phùng Hải xưng là Đô Bảo còn Phùng Dĩnh xưng là Đô Tổng). Tháng 4 năm Tân Mùi (791), Phùng Hưng cùng các tướng lĩnh chiếm thành Tống Bình và vào phủ Đô hộ, coi chính sự đất nước được 7 năm thì mất (789). Sau khi Phùng Hưng mất, nội bộ thân thuộc của ông không giữ được sự đoàn kết. Chẳng bao lâu, nhà Đường sai Triệu Xương đem quân sang, vừa đánh vừa chiêu dụ. Thấy thế không chống được, Phùng An phải đầu hàng. Xứ Giao Châu lại lệ thuộc nhà Đường lần nữa. Ông được truy tôn là Bố Cái Đại Vương 布蓋大王, được dân chúng lập đền thờ ông ở ngay xã Đường Lâm và làng Triều Khúc.

 - Dương Thanh (819-820): là một vị hào trưởng của đất Hoan Châu (đất này nay thuộc Nghệ An) và cũng là người được nhà Ðường cho làm Thứ Sử của châu này. Biết Dương Thanh là người giàu lòng yêu nước, quan đô hộ của nhà Ðường là Lý Tượng Cổ đã dụng mưu kế để làm giảm uy tín của ông, đồng thời, tách ông ra khỏi dân châu Hoan. Năm 819, Dương Thanh đã phát động cuộc khởi nghĩa lớn, giết chết được Lý Tượng Cổ, đồng thời thiết lập được hệ thống chính quyền tự chủ do ông đứng đầu Sau nhiều phen đàn áp nhưng bị thất bại, nhà Ðường đã dùng kế li gián để chia rẽ lực lượng của Dương Thanh. Ông bị cô lập dần, để rồi cuối cùng, bị tru di tam tộc vào năm 820. Hiện chưa rõ năm sinh nên chưa rõ ông thọ bao nhiêu tuổi. Cũng như nhiều vị thủ lĩnh kiệt xuất khác, Dương Thanh không xưng đế hay xưng vương, chưa đặt quốc hiệu và niên hiệu, nhưng chính quyền do ông thiết lập ra thực sự là chính quyền độc lập và tự chủ .
Trên đây là những cuộc khởi nghĩa chống Bắc thuộc, gồm nhiều quy mô và tính chất khác nhau. Hẳn nhiên, đó cũng chưa phải là tất cả, nhưng, dẫu nhìn từ bất cứ góc độ nào thì đó cũng thực sự là tinh hoa của lịch sử chống xâm lăng thời Bắc thuộc.

- Cuối thế kỷ 9, đầu thế kỷ 10, lợi dụng sự suy yếu của chính quyền trung ương nhà Đường, trong thời Ngũ Quý (五代,907-959), Họ Khúc 曲氏 là dòng họ lớn vùng Chu Diên đã nổi lên giành quyền tự chủ. Họ Khúc truyền nối làm chức Tiết độ sứ gồm 3 đời: Khúc Thừa Dụ (承裕,906-907), Khúc Hạo (顥,907-917), Khúc Thừa Mỹ (承美,917-923 hoặc 930), cai trị từ năm 905 tới năm 923 hoặc 930, thực hiện nhiều cải cách hành chính. Sau đó bị nhà Nam Hán xâm lược. Dù không xưng hiệu, họ Khúc vẫn được đời sau tôn như những vị vua. Khúc Thừa Dụ được gọi là Tiên chủ, Khúc Hạo là Trung chủ và Khúc Thừa Mỹ là Hậu chủ. Trong đó, Khúc Hạo là người được nhắc đến nhiều nhất do những đóng góp của ông đối với lịch sử Việt Nam lúc đó. Do Khúc Thừa Mĩ chỉ thừa nhận nhà Lương, không thần phục nhà Nam Hán nên năm Quý Mùi (923) nhà Nam Hán sai Lý Khắc Chính sang đánh và chiếm Giao Châu.

Cha con ba muơi năm dư,
Trị vì thiên hạ được mùa nơi nơi.

Trong thời “Ngũ đại thập quốc” (五代十國, 907-960) đất ta bị nhà Nam Hán (907-971) xâm chiếm và đã nổi lên một số sự kiện báo hiệu nền tự chủ là:

- Dương Đình Nghệ (楊廷藝; có sách chép là Dương Diên Nghệ 楊延藝, ?-937, Ái Châu) từ các lò võ ở làng Giàng, Tư Phố (nay là đất các xã Thiệu Dương, Thiệu Khánh, huyện Thiệu Hoá) đã khởi binh đánh đuổi quân Nam Hán giải phóng thành Đại La, tự lập làm Tiết độ sứ, giành quyền tự chủ cho đất nước Việt được 6 năm. Tháng 4 năm 937, ông bị Kiều Công Tiễn, hào trưởng Phong Châu, một tướng dưới quyền ông, giết hại để cướp quyền.

- Kiều Công Tiễn (矯公羨; ?-938) là người Phong Châu (Phú Thọ, Việt Nam), là Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ cuối cùng cai trị lãnh thổ Việt Nam trong thời kỳ Tự chủ từ năm 937 đến năm 938. Ông là người phù tá họ Dương sau phản lại chủ tướng, sai người sang cầu cứu chúa Nam Hán là Lưu Cung. Nhưng chưa kịp nhận sự bảo trợ của ngoại bang đã bị con rể Đình Nghệ là Ngô Quyền từ Ái Châu kéo ra tiêu diệt (4/ 938).

Như thế, các cuộc khởi nghĩa, những lần quyết tâm tự chủ trên, dù cuối cùng đều thất bại nhưng nó chứng tỏ tinh thần ngoan cường của người Việt, nó đảm bảo cho nước mất, nhà tan nhưng dân tộc ta không mất, tiếng ta vẫn còn và là bước tập dượt để đi vào kỉ nguyên độc lập tự chủ sau này.


Tiêu đề: Phân kỳ lịch sử vùng Tây nam Trung Hoa
Gửi bởi: menthuong trong 29 Tháng Mười Hai, 2011, 03:48:40 pm
Quá trình mở rộng đất đai của người Hán gặp phải sự kháng cự mãnh liệt của dân bản xứ và lịch sử của các tộc người phi Hán này rất hào hùng và cũng nhiều trang đẫm máu và nước mắt. Khi yếu thế những tộc người ở đây đã thiên di xuống phía Nam thành nhiều đợt. Do vậy cư dân vùng Tây Bắc Việt Nam, vùng Bắc Lào, Thái Lan, Miến Điện nhiều nhóm có nguồn gốc từ Vân Nam di cư xuống.
Vùng đất giáp ranh Lào Cai này, từ khi lập quốc đã từng qua nhiều thể chế (tiểu quốc, Vương quốc độc lập, tự trị) và có liên quan mật thiết với vùng đất “nơi con sông Hồng chẩy vào đất Việt” từ thủa các Vua Hùng và xuyên suốt chiều dài lịch sử dựng nước, giữ nước của Đại Việt. Ngược dòng thời gian thấy rõ thời kỳ vùng Vân Nam là nước Nam Chiếu (南诏, 738 – 902) và nước Đại Lý (大理国, 937 – 1253) là có liên quan mật thiết hơn cả đến lịch sử cai trị của chính quyền trung ương với các châu Thủy Vĩ, Chiêu Tấn (tức vùng Lào Cai nay) mà lịch sử còn ghi chép lại.

Tới thế kỷ 13 vùng Tây Nam Trung thổ giáp Lào Cai nay mới trực thuộc chính quyền trung ương, trở thành tỉnh Vân Nam. Cũng từ đó quan hệ giữa Lào Cai (khi đó là đất Đăng Châu 登州 sau là huyện Thủy Vĩthuộc phủ Quy Hoá 歸化) với Vân Nam phụ thuộc nhiều vào mối quan hệ bang giao giữa chính quyền trung ương hai quốc gia.

Lịch sử vùng Vân Nam có thể tóm lược qua các phân kỳ lớn như sau:

1. Đầu tiên, sau sơ sử là Vương quốc Điền Việt (滇国, 278 tCn –115).
2. Trong thời thuộc Hán 汉朝治滇历史 từng mang tên các quận: Ích châu 益州郡, Vĩnh Xương 永昌郡. Có lúc lại hợp với Ai Lao 哀牢 hoặc xưng tiểu quốc Bạch Tử 白子国, Kiến Trữ 建宁国.
3. Thời Tam quốc 三国六朝治滇历史 là đất Châu Trữ 宁州.
4.  Sau đó Thị tộc Thoán 爨氏 làm chủ tới thế kỷ VIII.
5. Khi nhà Tùy, nhà Đường cai trị 隋唐治滇历史 vùng này đặt là châu Nam Ninh 南宁州, châu Diêu 姚州.
6. Gặp lúc nhà Đường yếu đã ly khai tạo Lục chiếu (六诏, 649 –794).
7. Mông Chiếu mạnh, thôn tính các “chiếu” khác lập nước Nam Chiếu (南诏, còn gọi là Nam Giao, 738 – 902).
8. Nam Chiếu suy, hình thành “Hậu tam triều” (后三朝, 902 –937), gồm: Đại Trường Hòa (大长和, 902 – 927), Đại Thiên Hưng (大天兴, 928 – 929), Đại Nghĩa Trữ (大义宁, 929 – 937).
9. Giữa thế kỷ X, thủ lĩnh bộ tộc người Bạch là Đoàn Tư Bình 段思平 nắm quyền, lập ra Vương quốc Đại Lý (大理国, 937 – 1253) có gián đoạn bởi Đại Trung (大中, 1094 - 1095).
10. Đến thế kỷ XIII, Đại lý bị  quân Nguyên đánh bại. Thời Mông Nguyên cai trị (蒙元治滇历史, 1253 – 1382) có lúc cát cứ thành Vương quốc Lương 梁王国 nhưng chủ yếu là hưởng quy chế Đại Lý tổng quản phủ (大理总管府, 1257–1382) sau thành tỉnh Vân Nam 云南等处行中书省. Cái tên Vân Nam có từ đây.
11. Khi nhà Nguyên đổ, dưới thời Minh (明治滇历史, 1382 – 1661) là chế độ Thổ ty 云南土司 hay Thừa tuyên bố chánh sử ti 云南承宣布政使司.
12. Dưới triều Thanh (清治滇历史, 1661 – 1912) cũng hưởng quy chế Thổ ti và có thời gian ly khai bởi Đỗ Văn Tú (杜文秀政权, 1856 – 1873).
13. Thời Trung Hoa Dân quốc (中华民国治滇历史, 1912 – 1949) và thời nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (中华人民共和国治滇历史, 1949 trở đi) thì Vân Nam chính thức là một tỉnh của Trung Quốc 云南省.

Nước Trung Hoa bao la vốn đã lắm chuyện kỳ bí và vùng Vân Nam còn nhiều bí hiểm hơn bởi những lớp mờ sương khói của tư liệu lịch sử. Nhưng đây là vùng đất đặc biệt là hấp dẫn bởi cảnh quan, phong tục và những trang tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung.